Cập nhật mới

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,854
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
[Diendantruyen.Com] Đồng Đạo

Đồng Đạo
Tác giả: John Grisham
Tình trạng: Đã hoàn thành




Người dịch: Nguyễn Bá Long

Chiếc xe lao xuống vực và bốc cháy dữ dội. Nạn nhân chỉ còn sót lại mảnh xương chậu nham nhở song vẫn nhanh chóng được xác định là luật sư Patrick Lanigan.

Bốn năm sau, người ta tìm ra viên luật sư được coi là đã chết đó - kẻ đã tận mắt chứng kiến lễ mai táng chính mình - nhưng không thu hồi được 90 triệu đô là mà hắn, bằng những mưu mẹo thần sầu, đã nẫng tay trên của đám đồng nghiệp tham lam, ti tiện.

Họ đâu biết rằng, chính hắn, do quá mỏi mệt với sự lẩn trốn, đã lấy thêm được tiền của họ, và chỉ cho họ cách tìm ra mình.

Bốn năm trước, hắn "giúp" họ mai táng mình. Bây giờ, hắn "giúp" họ bắt mình.

Mọi sự đều đã được tính toán kỹ lưỡng. Tưởng không còn gì có thể làm hắn ngạc nhiên nữa.

Song Lanigan không lường được một bất ngờ khủng khiếp đang chờ đợi hắn. Khủng khiếp hơn mọi bất ngờ mà hắn gây ra cho mọi người.

Hắn vẫn không thể tính hết.
 
Sửa lần cuối:

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,854
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 1


Họ tìm ra hắn ở Ponta Porã, một thị trấn nhỏ êm đềm của Braxin, giáp biên giới với Paragoay, nơi miền đất mà người ta vẫn gọi là vùng biên.

Họ thấy hắn sống trong một biệt thự nhỏ ẩn mình trên phố Tiradentes, một đường phố rộng với một hàng cây xanh chạy ở giữa và những cậu bé để chân đất đá bóng trên mặt hè nóng bỏng.

Theo như những gì họ biết thì hắn sống một mình, không kể một người giúp việc đến và đi vào những giờ rảnh rang trong suốt tám ngày mà họ theo dõi.

Có thể thấy rằng hắn đang sống một cuộc sống dễ chịu nhưng chắc chắn là không thừa thãi gì. Ngôi biệt thự khá là khiêm nhường mà bất kỳ một thương nhân địa phương nào cũng có thể có. Ô tô hắn xài là một chiếc VoJkswagen Beetle đời 1983, được sản xuất ở São Paulo cùng với cả triệu chiếc khác. Chiếc xe màu đỏ và đuợc lau chùi bóng lộn. Tấm ảnh đầu tiên của hắn mà họ chụp dược là lúc hắn đang lau xe ngay bên trong cổng.

Họ thấy hắn giảm cân một cách đáng kể so với cái thân hình chừng hơn một tạ mà lần cuối cùng người ta nhìn thấy. Da và cả tóc hắn sẫm màu hơn, cái cằm gọn ghẽ và cái mũi hơi nhọn. Những thay đổi tinh tế. Họ đã phải chi tiền kha khá cho một tay bác sĩ phẫu thuật ở Rio, người đã thực hiện những thay đổi này cách đây hai năm rưỡi.

Vậy là sau bốn năm săn lùng khổ ải, bốn năm với những ngõ cụt, những dấu vết mất hút và những tin tức sai lạc, bốn năm đổ tiền như trút vào cái túi thủng, cuối cùng thì họ cũng đã tìm thấy hắn.

Nhưng rồi họ vẫn chờ đợi. Thoạt đầu thì họ muốn tóm hắn ngay lập tức, gây mê và đưa hắn tới một ngôi nhà an toàn ở Paragoay, trước khi hắn phát hiện ra họ hay một người hàng xóm nào đó trở nên nghi ngờ. Cơn bốc đồng khi tìm ra hắn khiến họ nghĩ tới một hành động nhanh chóng, thế nhưng sau hai ngày thì họ quyết định ẩn mình và chờ đợi. Họ lảng vảng trên phố Tiradentes, ăn mặc như những người địa phương, uống trà dưới bóng cây, tránh nắng, ăn kem, tán gẫu với bọn trẻ, tất cả chỉ để trông chừng ngôi nhà của hắn. Họ bám theo khi hắn chạy xe vào trong phố để mua hàng, và họ đã từ bên kia đường chụp ảnh hắn khi hắn bước ra khỏi tiệm thuốc. Họ đã áp sát hắn ở một cửa hàng rau quả và nghe hắn nói với người bán hàng bằng thứ tiếng Bồ Đào Nha tuyệt hảo, với hơi một chút giọng của một người Mỹ hay một người Đức chịu học gì đó. Hắn mau mau chóng chóng mua hàng và trở về nhà, với cánh cổng đóng kín lại ngay. Chuyến đi chóng vánh này của hắn dã để lại nhiều tấm ảnh cho họ.

Xưa kia hắn cũng đã từng tập chạy, mặc dù trong những tháng trước khi biến mất thì quãng đường chạy của hắn đã rút ngắn lại khi mà thân hình của hắn mập ú lên. Giò đây, hắn đã xuống cân nhiều như vậy thì họ chẳng ngạc nhiên gì khi thấy hắn chạy trở lại. Hắn khóa cổng khi ra khỏi nhà và bắt đầu chạy từ từ trên hè phố Tiradentes. Chín phút cho dặm đưòng đầu tiên, với đoạn đường thẳng tắp và nhà cửa mỗi lúc một cách xa nhau hơn. Ra tới rìa thị trấn thì mặt đường không còn được trải nhựa nữa mà chỉ là đưòng đất và khi vào dặm dưòng thứ hai với-tốc độ tám phút một dặm thì Đanilo bắt đầu túa mồ hôi. Đã chừng giữa buổi sáng và thời tiết tháng Mười lúc này vào khoảng hai mươi tư độ. Hắn tăng tốc độ khi ra khỏi thị trấn, chạy qua một bệnh viện nhỏ với đầy các bà mẹ trẻ và một nhà thờ nhỏ do những người Báptixt dựng lên. Đoạn đường trở nên bụi bặm hơn khi hắn hướng ra ngoại ô với tốc độ bảy phút một dặm.

Việc chạy của hắn là hoàn toàn nghiêm túc và điều đó làm cho họ hết sức hài lòng. Đơn giản là Danilo sẽ chạy thẳng vào tay họ.

Ngay sau hôm tìm ra hắn, một ngôi nhà nhỏ tồi tàn ở ngoại ô Ponta Porã đã được một người Braxin có tên là Osmar đứng ra thuê, và chẳng mấy chốc toàn bộ nhóm truy lùng đã dọn đến. Số lượng ngưòi Mỹ và người Braxin trong nhóm là bằng nhau, với Osmar ra lệnh bằng tiếng Bồ Đào Nha và Guy ra lệnh bằng tiếng Anh. Osmar có thể nói cả hai thứ tiếng này, và đã trở thành người phiên dịch chính thức cho cả nhóm.

Guy, đến từ Washington, là một cựu nhân viên chính phủ được thuê để tìm kiếm Danny Boy, biệt danh mà ngưòi ta đặt cho Danilo Sinva. Với một số cấp, Guy được coi là ngưòi có thực tài, và ở những cấp khác anh ta được đánh giá là một thiên tài, còn quá khứ của anh ta thì hoàn toàn là một lỗ đen. Anh ta đã tốn khá nhiều thời gian của bản hợp đồng thứ năm cho việc tìm kiếm Danny Boy, và khoản tiền chi cho việc tìm kiếm con mồi là khá lớn. Mặc dù không để lộ ra, nhưng Guy đã đang dần dần mệt mỏi dưới áp lực của việc tìm kiếm này.

Bốn năm và ba triệu rưỡi đô la, mà chẳng có kết quả gì.

Nhưng giờ đây, họ đã tìm ra hắn.

Osmar và nhóm Braxin của anh ta không hề biết gì về những hành vi tội phạm của Danny Boy, thế nhưng một kẻ ngu ngốc cũng biết rằng hắn đã biến mất cùng với một lượng tiền có thể chất đầy cả một đoàn tàu và, dẫu có tò mò về Danny Boy, Osmar vẫn nhanh chóng hiểu là không nên hỏi gì. Guy và những người Mỹ kia không hề mở miệng về chuyện này.

Những tấm ảnh của Danny Boy được phóng lên cỡ 18/24 và gắn lên dọc trên bức tường trong căn bếp của ngôi nhà nhỏ bẩn thỉu, nơi mà những người đàn ông đầy vẻ kiên nhẫn kia, với những điếu thuốc lá loại nặng luôn trên môi, xem xét chúng một cách cẩn trọng và rồi lắc đầu. Họ thì thào với nhau và so sánh những tấm ảnh mới này với những tấm cũ, từng được chụp trước đây. Một người nhỏ con hơn, chiếc cằm gọn ghẽ và một cái mũi khác. Tóc hắn ngắn hơn và da dẻ sẫm màu hơn. Có thực sự là hắn không?

Họ đã nhầm một lần, ở Recife, vùng bờ biển miền đông bắc, cách đây mười chín tháng, khi họ thuê một căn hộ và xem xét những tấm ảnh gắn trên tường cho tới khi họ quyết định tóm một người Mỹ và kiểm tra dấu vân tay của anh ta. Dấu vân tay không đúng. Nhầm người. Họ tiêm thêm cho anh ta một liều thuốc gây mê và bỏ anh ta lại một cái rãnh bên đường.

Họ đã e ngại không dám tìm hiểu quá sâu vào đời sống hiện nay của Danilo Silva. Nếu hắn thực sự là kẻ mà họ muốn tìm kiếm thì đương nhiên hắn phải có rất nhiều tiền. Và tiền thì luôn luôn làm ra được những điều kỳ diệu vối các nhà chức trách sở tại. Từ hàng chục năm nay, tiền bạc đã mua được sự an toàn cho những tên Quốc xã và những người Đức khác tìm đường tới ẩn náu ở Ponta Porã.

Osmar muốn tóm hắn. Guy nói phải đợi. Hắn đã mất hút bốn ngày liền và cái ngôi nhà nhỏ tồi tàn đó đã cuống cuồng cả lên trong suốt ba mươi sáu tiếng đồng hồ.

Họ đã nhìn thấy hắn rời khỏi nhà trên chiếc Beetle màu đỏ. Tin báo lại rằng hắn có vẻ vội vã. Hắn lái xe băng ngang qua thị trấn tới sân bay, nhảy lên một chiếc máy bay chở khách cỡ nhỏ vào phút chót, và biến mất. Xe của hắn được để trong cái bãi gửi xe duy nhất, và họ đã không hề rời mắt khỏi nó cho dù là một giây. Chiếc máy bay đó hay đi hướng São Paulo, với bốn chặng dừng dọc đường.

Ngay lập tức có một kế hoạch đột nhập ngôi nhà của hắn và rà soát mọi thứ. Hẳn phải có các hồ sơ giấy tờ liên quan tới tiền bạc. Guy đã mường tượng tới việc tìm thấy những thông báo của nhà băng, những giấy tờ liên quan tới việc chuyển tiền, các thông báo về tài khoản; tất cả các loại giấy tờ được xếp gọn gàng trong một chiếc cặp và dẫn họ thẳng tới chỗ tiền kia.

Thế nhưng, anh ta khôn ngoan hơn thế. Nếu Danny Boy đã chạy trốn họ thì hắn sẽ không để lại đằng sau một chứng cớ nào hết. Và nếu thực sự hắn là kẻ mà họ muốn tìm kiếm thì ngôi nhà của hắn phải được bảo vệ rất kỹ lưỡng. Cho dù là đang ở đâu thì Danny Boy có thể cũng sẽ biết ngay khi họ mở cửa ra vào hoặc cửa sổ của ngôi nhà.

Họ đã chờ đợi, chửi thề, cãi cọ và mỗi lúc trở nên căng thẳng hơn. Guy vẫn hàng ngày gọi điện về Oasinhtơn, một việc chẳng thú vị gì. Họ tiếp tục dán mắt vào chiếc Beetle. Mỗi chuyến bay hạ cánh là ống nhòm và điện thoại di động lại nháo nhào cả lên. Ngày thứ nhất có sáu chuyến và ngày thứ hai năm chuyến. Ngôi nhà nhỏ trở nên nóng bức hơn và họ tỏa cả ra bên ngoài - những người Mỹ thì ngủ gà ngủ gật dưới tán cây ở vườn sau còn những người Braxin thì chơi bài bên hàng rào ở phía trước.

Guy và Osmar sau cùng quyết định sẽ tóm hắn nếu như hắn quav lại- Osmar tin tưởng là hắn sẽ quay lại. Có thể là hắn đi khỏi chỉ vì công chuyện gì đó. Họ sẽ tóm hắn, nhận dạng và nếu chẳng may lại nhầm ngưòi thì đơn giản là lại ném hắn xuống một cái rãnh nào đó và rút êm. Đó là chuyện đã từng xảy ra mà.

Hắn trở về vào ngày thứ năm. Họ bám thep hắn tới phố Tiradentes, và tất cả đều thở phào.

Vào ngày thứ tám, ngôi nhà nhỏ bẩn thỉu trở nên trống rỗng vì cả nhóm đã chiếm lĩnh các vị trí.

Tuyến đường của hắn dài sáu dặm. Từ hôm về, ngày nào hắn cũng chạy, rời nhà vẫn cùng giờ đó, vẫn bộ đồ màu xanh da trời và da cam cùng đôi giày Nike cũ mèm.

Địa điểm thuận tiện nhất cách nhà hắn hai dặm rưỡi, lưng chừng một ngọn đồi nhỏ, không xa điểm vòng trở về của hắn cho lắm. Sau hai mươi phút chạy, Danilo lên tới đỉnh đồi, sớm hơn bình thường ít giây. Hắn chạy nhanh hơn, vì một lý do nào đó. Có thể là do những đám mây.

Một chiếc xe nhỏ bị xẹp lốp dừng chắn ngang đường, cốp sau xe mở toang, đuôi xe đang được kích nâng lên. Lái xe là một gã đàn ông to con, có vẻ như giật mình vì sự xuất hiện của cái người vừa chạy vừa thở hồng hộc kia. Danilo chậm bước lại trong một giây. Phía bên phải có lối rộng hơn.

“Xin chào,” gã đàn ông to con kia vừa nói vừa bước lại phía Danilo.

“Xin chào” Danilo đáp, vẫn tiến lại phía chiếc xe.

Gã lái xe bất chợt rút một khẩu súng to tướng ra khỏi cốp xe và chĩa vào mặt Danilo. Hắn sững lại, mắt dán vào khẩu súng, miệng vẫn há ra để thở. Đôi tay lực lưỡng của gã lái xe tóm lấy cổ hắn và đẩy hắn dúi dụi về phía chiếc xe rồi ghì hắn xuống cái bađờxốc. Gã nhét súng vào túi và dùng hai tay gập người Danilo lại, ấn vào trong cốp xe. Danny Boy giẫy giụa nhưng không ăn thua gì.

Gã lái xe sập nắp cốp, quay kích hạ chiếc xe xuống, ném cái kích ra bên đưòng rồi cho xe vọt đi. Được một dặm, gã rẽ vào con đường nhỏ đầy bụi bặm, nơi các đồng sự của gã đang sốt ruột chò đợi.

Họ trói hai tay Danny Boy bằng dây nilông, dùng một mảnh vải đen bịt mắt và rồi đẩy hắn lên đằng sau một chiếc xe van. Osmar ngồi bên phải hắn, một người Braxin ngồi bên trái. Một người khác lấy ra chùm chìa khóa đeo ở cạp quần hắn. Danilo không hề mở miệng khi chiếc xe bắt đầu lăn bánh. Mồ hôi hắn vẫn đang túa ra và hắn thở còn mạnh hơn lúc chạy.

Khi chiếc xe dừng lại trên con đường đất gần một cánh đồng, Danilo mới lần đầu tiên cất tiếng. “Các anh muốn gì?” Hắn hỏi bằng tiếng Bồ Đào Nha.

“Im đi,” Osmar đáp bằng tiếng Anh. Anh chàng người Braxin ngồi bên trái Danilo lấy ra một chiếc xilanh từ một cái hộp nhỏ bằng kim loại và hút đầy vào đó một thứ chất lỏng. Osmar kéo hai cổ tay hắn về phía mình trong khi anh chàng kia chọc kim tiêm vào phía trên cánh tay của hắn Danilo cứng người lên, cố vùng vẫy nhưng rồi hiểu ra là không có hy vọng gì. Người hắn lỏng ra khi giọt thuốc cuối cùng được bơm vào thân thể. Nhịp thở của hắn chậm lại và cái đầu bắt đầu chúi xuống. Khi cằm hắn chạm vào ngực, Osmar nhẹ nhàng dùng ngón tay trỏ kéo gấu quần soóc của hắn lên một chút và thấy rõ điều mà anh ta chờ đợi. Nước da hắn trắng nhợt.

Việc tập chạy đã làm cho hắn gầy bớt đi và cũng làm cho hắn có nước da màu nâu.

Những vụ bắt cóc là quá quen thuộc ở cái vùng biên này. Người Mỹ thường dễ là những mục tiêu. Nhưng vì sao lại là hắn ? Danilo tự hỏi trong khi đầu trĩu xuống và mắt khép lại, trước khi hoàn toàn lịm đi.

Họ nhét hắn xuống phía dưới những chiếc thùng cáctông đựng đầy dưa và quả dâu. Đám lính biên phòng gật đầu mà không thèm cả rời khỏi ghế, và lúc này Danny Boy đã ở trên đất Paragoay, tất nhiên, hắn vẫn không hề biết gì cả. Người hắn chao đi chao lại trên sàn xe trong khi đường mỗi lúc một trở nên xấu hơn và nhiều dốc hơn. Osmar liên tục đốt thuốc và thỉnh thoảng lại chỉ trỏ này nọ. Sau một giờ kể từ lúc tóm hắn, họ đã đến được chỗ rẽ cuối cùng. Đó là một căn nhà nhỏ trong một hẻm núi khó mà có thể nhìn thấy được từ ngoài con đường bụi bặm kia. Họ mang hắn xuống như một cái bao thịt và đặt hắn lên một chiếc bàn ở trong nhà, và Guy cùng một chuyên gia vân tay bắt đầu vào việc.

Danny Boy vẫn ngáy như sấm trong khi người ta lấy dấu tay hắn. Những người Mỹ và người Braxin quây lại xung quanh nhìn chằm chặp từng động tác. Trong cái thùng đặt bên cửa có một chai uytxki chưa mở, để uống mừng, nếu đây đúng là Danny Boy.

Tay chuyên gia vân tay đột ngột bỏ sang căn phòng ở phía sau, chốt cửa lại và trải những dấu vân tay mới ra trước mặt. Ông ta chỉnh lại ánh sáng và rồi lôi ra bộ vân tay mẫu của Danny Boy được lấy từ hồi hắn còn trẻ hơn nhiều và đang xin vào Hội luật gia tiểu bang Louisiana.

Cả hai bộ đều ở trong tình trạng tốt và ngay lập tức có thể thấy rõ là chúng hoàn toàn trùng khớp với nhau. Tuy nhiên, ông ta vẫn cẩn thận kiểm tra lại cả mười ngón. Không vội vã gì. Cứ để bọn họ đợi ngoài đó, ông ta cảm thấy khoan khoái cái giây phút này. Sau cùng, ông ta mở cửa và nghiêm nghị nhìn vào cả hơn một chục gương mặt đang nhìn mình chờ đợi. Thế rồi, ông ta mỉm cười. “Đúng là hắn,” ông ta nói bằng tiếng Anh, và cả bọn vỗ tay ầm lên.

Guy cho phép uống rượu, nhưng chỉ ở mức vừa phải. Còn có việc phải làm. Danny Boy, vẫn còn hôn mê, được tiêm cho một mũi nữa và bỏ vào trong căn phòng ngủ không hề có cửa rả gì ngoài cánh cửa ra vào nặng trịch được khóa từ bên ngoài. Ngay tại đó, hắn sẽ bị thẩm vấn, và tra tấn, nếu cần thiết.

Những đứa trẻ để chân đất đá bóng trên hè phố quá mải mê với trận đấu của chúng và chẳng thèm để ý gì đến ai. Chùm chìa khóa của Danny Boy chỉ có bốn chiếc và bởi vậy cánh cổng dược mở ra một cách nhanh chóng và để ngỏ ở đó. Một gã trong bọn chờ sẵn trong chiếc xe đi thuê đậu dưới bóng cây lớn cách đó bốn ngôi nhà. Một gã khác, trên một chiếc môtô, chờ ở cuối phố và luôn ở tư thế sẵn sàng.

Nếu một hệ thống bảo vệ báo động về vụ đột nhập, kẻ đột nhập sẽ dễ dàng biến mất, còn nếu không gã sẽ tha hồ ở trong đó mà lục lọi.

Cánh cửa vào nhà được mở ra mà không gây nên sự báo động nào. Bảng điều khiển của hệ thống bảo vệ gắn ngay trên tường cho thấy hệ thống đã bị ngắt. Gã thở nhẹ và đứng im một phút trước khi bắt đầu di quanh. Gã tháo cái ổ cứng khỏi chiếc máy tính cá nhân của Danny Boy, và lượm lặt tất cả những cái đĩa. Gã lục lọi đống hồ sơ trên bàn nhưng không thấy gì ngoài những hóa đơn thông thường, cái đã được thanh toán, cái thì chưa. Chiếc máy facx là loại rẻ tiền và quá thường, thoáng trông cũng biết ngay là đã hỏng. Gã chụp ảnh đám quần áo, thức ăn, đồ đạc, tủ sách và cả cái giá để tạp chí.

Năm phút sau lúc cánh cửa vào nhà bị mở ra, một tín hiệu câm đã được kích hoạt từ căn phòng áp mái của Danilo và một cú điện thoại đã được tự động gọi đến một hãng bảo vệ tư nhân nằm cách dó mười một khúc phố, ở khu trung tâm Ponta Porã. Cú điện thoại này không được đáp lại bỏi lẽ tay trực ban của hãng lại đang nằm đu đưa trên chiếc võng mắc ở sân sau. Mẩu thông tin xuất phát từ ngôi nhà của Danilo được tự động ghi lại và sẽ báo cho ngưòi nghe nó biết rằng đã có một vụ đột nhập. Mười lăm phút sau đó mới có người nghe được thông tin này và cho đến khi tay trực ban lao đến nhà Danilo thì kẻ đột nhập đã biến mất. Không thấy ông Silva đâu. Mọi thứ vẫn có vẻ như đâu vào đấy, kể cả chiếc Beetle trong nhà xe, cửa nhà lẫn cánh cổng đều được khóa.

Các chỉ dẫn trong hồ sơ là rất cụ thể. Với những cú báo động như vậy, không gọi cảnh sát. Trước tiên là tìm cách liên lạc với ông Silva, và trong trường hợp không thể tìm ngay được thì gọi một số điện thoại ở Rio - Xin gặp Eva Miranda.

Với một sự phấn khích khó dằn xuống nổi, Guy gọi cú điện thoại thường ngày của anh ta về Oasinhtơn. Thực sự là anh ta đã nhắm mắt và mỉm cười khi thốt lên, “Đúng là hắn.”

Đầu kia ngừng lại đôi chút và một câu hỏi, “Anh chắc chứ ?”

“Vâng. Vân tay hoàn toàn khớp.”

Một thoáng ngừng nữa trong khi Stephano sắp xếp các ý nghĩ của lão, điều thường chỉ diễn ra trong một vài phần triệu giây. “Còn tiền ?”

“Chúng tôi chưa bắt tay vào việc đó. Hắn còn chưa tỉnh.”

“Khi nào ?”

“Đêm nay.”

“Tôi chờ.” Stephano gác máy, mặc dù lão có thể nói cả vài tiếng đồng hồ.

Guy ngồi xuống một gốc cây to ở phía sau căn nhà. Cây cối xung quanh rậm rạp, bầu không khí thoáng đãng và mát mẻ. Những giọng nói hồ hởi của những con người đang vui vẻ vang tới tai anh ta. Phần lớn công việc đã kết thúc.

Guy đã kiếm dược thêm năm mươi nghìn đôla. Tìm ra chỗ tiền sẽ có nghĩa là thêm một khoản nữa, và anh ta tin chắc là sẽ tìm thấy.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,854
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 2


Người dịch: Nguyễn Bá Long

Nhà xuất bản: NXB Văn học

Shared by: AshuraYasha -

Trung tâm Rio.

Trong một văn phòng nhỏ gọn trên tầng mười của ngôi nhà cao tầng, Eva Miranda nắm chặt chiếc điện thoại bằng cả hai tay và chậm rãi nhắc lại những lời mà nàng vừa được nghe. Cú báo động bí mật đã dẫn tới sự hiện diện của nhân viên bảo vệ. Danilo Silva không có nhà, nhưng xe của hắn vẫn ở đó và cửa nhà vẫn khóa.

Có ai đó đã vào nhà, và đó không thể là một cú báo động nhầm bởi vì hệ thống bảo vệ vẫn đang hoạt động khi người của hãng bảo vệ tới.

Còn Danilo vẫn bặt vô âm tín.

Có lẽ là hắn ta đi chạy và quên mất cái việc phải làm thường lệ. Theo báo cáo của nhân viên bảo vệ thì cú báo động bí mật kia đã được kích hoạt cách đó một giờ mười phút. Nhưng Danilo chỉ chạy chưa đầy một giờ - sáu dặm với tốc độ bảy đến tám phút một dặm, thì tối đa là năm mươi phút. Không có ngoại lệ. Nàng biết hắn lắm.

Nàng gọi về nhà hắn ở phố Tiradentes, không có ai trả lời. Nàng gọi vào chiếc máy di dộng mà đôi khi hắn giữ ở bên mình,cũng không có ai nhận.

Cách đây ba tháng, hắn đã vô tình ngắt hệ thống bảo vệ và vụ đó đã làm cho cả hai bị một phen sợ hãi. Thế nhưng một cú điện thoại ngắn gọn là đủ dể làm sáng tỏ vấn đề.

Hắn rất thận trọng với hệ thống bảo vệ và không thể nào cẩu thả được. Bỏi nó quá quan trọng.

Nàng lại phôn cú nữa, và kết quả vẫn thế. Nàng tự nhủ chắc phải có một lý do nào đó cho chuyện này.

Nàng quay số máy của cái căn hộ ở Curitiba, một thành phố có một triệu rưỡi dân cư, và là thủ phủ của bang Paraná. Theo hai người thì chỉ có họ biết với nhau về căn hộ này. Nó được thuê dưới một cái tên khác, được dùng làm nhà kho và cho những cuộc gặp lúc này lúc khác. Đôi khi họ nghỉ cuối tuần ở đó, nhưng không đủ thường xuyên để làm vừa lòng Eva.

Nàng không chờ đợi một câu trả lời từ căn hộ này, và quả nhiên là thế. Danilo sẽ không tới đó mà lại không báo cho nàng biết trước.

Sau khi đã gọi tất cả những số máy có thể, nàng bước ra khóa cửa phòng, đứng dựa vào cánh cửa, mắt nhắm lại, vẫn có thể nghe thấy tiếng các cộng sự và các thư ký ở bên ngoài. Hãng luật này hiện có ba mươi ba luật sư, là hãng lớn thứ hai ở Rio, với một chi nhánh ở São Panlo và một chi nhánh ở New York. Tiếng điện thoại, tiếng máy fax, máy photocopy hòa quyện vào nhau như thể một dàn đồng ca.

Ở tuổi ba mươi mốt, nàng là một cộng sự đầy kinh nghiệm của hãng; quá quen thuộc với những giờ làm việc kéo dài và cả vào những ngày thứ bảy. Hãng thuộc về mười bốn cổ đông nhưng chỉ có hai trong số đó là phụ nữ, và nàng đã có những kế hoạch để thay đổi tỉ lệ đó. Mười trong số mười chín người cộng sự là phụ nữ, điều cho thấy là ở Braxin, cũng như ở Mỹ, phụ nữ đang thích thú đi vào nghề này. Nàng đã học luật tại Đại học Thiên chúa giáo ở Rio, một trong những trường khá tốt, theo ý nàng. Cha nàng vẫn đang giảng dạy triết học ở đó.

Ông kiên quyết đòi nàng theo học luật ở Đại học Georgetown sau khi học xong luật ở Rio. Ông rất mê tín trường này. Uy tín của ông, cùng với những bài viết đầy ấn tượng, vẻ đẹp choáng váng và thứ tiếng Anh thuần thục của nàng khiến cho việc tìm một chỗ làm tốt nhất ở một hãng hàng đầu trở nên khá dễ dàng.

Nàng dừng lại bên cửa sổ và tự nhủ mình bình tĩnh. Thời giờ đột nhiên trở nên cấp bách. Hàng loạt bước đi sắp tới đòi hỏi một bộ óc vững vàng. Rồi thì nàng cũng sẽ phải biến đi. Có một cuộc hẹn sau ba mươi phút nữa, nhưng nó sẽ phải được hoãn lại.

Tập hồ sơ đó được khóa chặt trong một cái ngăn chống cháy nhỏ. Nàng lấy nó ra và đọc lại bản chỉ dẫn; những chỉ dẫn mà nàng và Danilo đã rà đi rà lại nhiều lần.

Hắn biết là họ sẽ tìm ra hắn.

Eva đã cố tình không nghĩ tới khả năng này.

Đầu óc nàng nghĩ lan man trong nỗi lo lắng cho sự an toàn của hắn. Chuông điện thoại vang lên làm nàng giật mình.

Không phải Danilo. Thư ký của nàng báo là có một khách hàng đang đợi. Vị khách này đến hơi sớm.

Nàng yêu cầu xin lỗi khách, khất một cái hẹn khác và đề nghị không làm phiền nàng nữa.

Số tiền đó hiện đang được để ở hai nơi: một nhà băng ở Panama, và một công ty tài chính hải ngoại ở Bermuda. Bản fax đầu tiên của nàng yêu cầu chuyển ngay tiền ra khỏi Panama, tới một nhà băng ở Antigua. Bản fax thứ hai chia số tiền này vào ba nhà băng ỏ Grand Cayman. Bản thứ ba chuyển tiền từ Bermuda tới Bahamas.

Lúc này là gần hai giờ ở Rio. Các nhà băng châu Âu đã đóng cửa, bởi vậy nàng sẽ buộc phải chuyển tiền loanh quanh ở vùng Caribê trong ít giờ tới cho đến khi các nhà băng khác trên thế giới mở cửa.

Những chỉ dẫn của Danilo khá rõ ràng nhưng cũng rất chung chung. Các chi tiết được để tùy ý nàng. Những vụ chuyển tiền đầu tiên là do Eva quyết định. Nàng đã tính để nhà băng nào được nhận bao nhiêu tiền. Nàng đã lập một danh sách các công ty ma để giấu tiền dưới những cái tên đó; một danh sách mà Danilo chưa bao giờ nhìn thấy. Nàng chia ra, nhập vào, tính toán các ngả chuyển tiền. Đó là một bài tập mà họ đã nhiều lần ôn lại, nhưng chưa bao giờ có tình huống cụ thể.

Danilo không thể biết tiền đã được chuyển đi đâu. Chỉ nàng biết. Nàng là người có đầu óc mê say trong lĩnh vực này và vào lúc này, trong hoàn cảnh này, nàng quyết định chuyển tiền vì thấy đó là việc thích hợp. Chuyên môn của nàng là luật thương mại. Hầu hết các thân chủ của nàng đều là các nhà doanh nghiệp Braxin. những người muốn đẩy mạnh xuất khẩu sang Mỹ và Canada. Nàng hiểu biết về thị trường, tiền tệ và hoạt động ngân hàng của nước ngoài. Cái mà nàng không biết là việc chuyển tiền lòng vòng quanh thế giới thì lại do Danilo đã dạy nàng.

Nàng liên tục nhìn đồng hồ. Hơn một giờ đã qua đi kể từ lúc có cú điện thoại từ Ponta Porã.

Trong khi một bản fax đang từ trong máy trườn ra thì chuông điện thoại lại vang lên. Sau cùng thì chắc chắn đó phải là Danilo, với một câu chuyện điên rồ nào đó và tất cả chuyện này đều là vớ vẩn cả. Có lẽ chỉ là một cuộc tập dượt để kiểm tra khả năng xử lý của nàng trong điều kiện phải chịu sức ép. Thế nhưng, hắn đâu phải thứ người đùa cợt.

Hóa ra là một trong số các cổ đông của hãng, phiền lòng về việc nàng lại chậm trễ với một cuộc gặp nữa. Nàng xin lỗi với những lời lẽ ngắn gọn và trở lại bên chiếc máy fax.

Sức ép tăng lên với từng phút trôi qua, vẫn không hề có tin tức gì từ Danilo. Các cú phôn liên tục của nàng đều không được trả lời. Nếu thực sự là họ đã tìm được hắn thì họ sẽ chẳng chịu chờ lâu để bắt hắn phải mở miệng. Đó là điều mà hắn sợ nhất. Đó cũng là lý do vì sao nàng phải cao bay xa chạy.

Một giờ rưỡi trôi qua. Sự thật đè nặng lên đôi vai nàng. Danilo mất tích, và hắn sẽ không bao giờ đi đâu mà không gọi báo cho nàng trước. Hắn đã tính toán những di chuyển rất thận trọng, luôn luôn sợ bị bám theo. Giờ đây thì cơn ác mộng khủng khiếp nhất của họ đang trở thành sự thật.

Tại một buồng điện thoại công cộng dưới gian đại sảnh của tòa nhà, Eva gọi hai cú. Cú thứ nhất là cho người quản lý nhà để xem có ai tới căn hộ của nàng ở Leblon, khu Nam Rio, nơi mà những ngưòi giàu có sinh sống và những người đẹp lui tới chơi bời. Câu trả lời là không, nhưng người quản lý nói sẽ để mắt tới mọi chuyện. Cú thứ hai là tới văn phòng của Cục điều tra Liên bang Mỹ (FBI) ỏ Biloxi, Mississippi. Bằng một giọng bình thản nhất có thể được cùng với sự cố gắng nhất để nói thứ tiếng Anh của người Mỹ, nàng giải thích rằng có chuyện khẩn cấp. Nàng chờ đợi, biết rõ rằng từ giây phút này trở đi là không thể nào còn quay lại được nữa.

“Xin chào,” một tiếng nói vang lên như thể chỉ cách có một góc phố vậy.

“Nhân viên dặc biệt Joshua Cutter phải không?”

“Phải"

Nàng thoáng dừng lại. “Có phải ông phụ trách vụ Patrick Lanigan không?” Nàng biết rõ là đúng như vậy.

Phía đầu dây kia ngập ngừng. “Phải. Ai vậy ?"

Họ sẽ lần theo cú điện thoại này tới Rio, và điều đó phải mất chừng ba phút. Rồi việc tìm kiếm của họ sẽ chìm ngập trong cái thành phố mười triệu dân này. Thế nhưng, nàng vẫn nhìn quanh sợ hãi.

“Tôi gọi từ Braxin,” nàng nói theo kịch bản có sẵn. “Họ đã bắt Patrick.”

“Ai hả ?” Cutter hỏi.

“Tôi sẽ cho ông một cái tên.”

“Tôi nghe đây,” Cutter nói, giọng ông ta đột nhiên trở nên khẩn trương.

“Jack Stephano. Ông có biết không ?”

Một thoáng dừng trong khi Cutter cố ghi lại cái tên. “Không. Ông ta là ai thế ?.”

“Một thám tử tư ở Oasinhtơn. ông ta đã săn lùng Patrick suốt bốn năm qua.”

“Và bà nói là ông ta đã tìm ra hắn phải không?”

"Đúng vậy. Người của ông ta đã tìm thấy hắn.”

“Ở đâu?”

“Ở đây. Braxin.”

“Khi nào?”

“Hôm nay. Và tôi nghĩ là họ sẽ giết hắn mất.”

Cutter cân nhắc điều này trong một giây, rồi hỏi tiếp, “Bà có thể cho tôi biết thêm gì nữa không?”

Nàng cho ông ta số điện thoại của Stephano ở Oasinhtơn D.C, rồi gác máy và rời khỏi tòa nhà.

Guy thận trọng lật từng trang giấy tờ thu được từ nhà của Danny Boy, và kinh ngạc vì chẳng hề thấy một dấu vết gì. Một thông báo hàng tháng của một nhà băng địa phương liệt kê bảng thanh toán chừng ba nghìn đôla, không hề mảy may là điều họ trông đợi. Khoản tiền gửi duy nhất là một nghìn tám trăm đôla, các khoản vào bên có trong tháng thì chưa đầy một nghìn. Danny Boy sống hoàn toàn thanh đạm. Các hóa đơn tiền điện và điện thoại của hắn chưa trả nhưng chưa quá hạn. Chừng một chục hóa đơn các khoản nhỏ khác được đánh dấu đã trả.

Một trong số những người của Guy đã kiểm tra tất cả các số điện thoại trong danh sách của Danny Boy nhưng không tìm được điều gì hấp dẫn cả. Một người khác rà soát lại cái ổ cứng của chiếc máy tính của hắn và nhanh chóng thấy rằng Danny Boy không phải là một tay trộm điện tử cao siêu gì. Có một bài viết dài về những cuộc phiêu lưu của hắn ở vùng rừng rậm Braxin.

Câu chuyện mới nhất đã cách đây gần một năm.

Nhưng chính việc có rất ít giấy tờ thế này lại là điều rất đáng ngờ. Chỉ có một thông báo của nhà băng thôi ư ? Trên đời này làm gì có ai lại giữ có mỗi bản thông báo mới nhất của nhà băng ở trong nhà? Tháng trước thì sao? Danny Boy phải có một cái kho đâu đó, cách xa nơi ở của hắn. Điều đó hoàn toàn phù hợp với một kẻ đang phải trốn tránh.

Vào lúc chập tối Danny Boy, vẫn còn đang bất tỉnh, đã bị lột hết quần áo, chỉ trừ lại có đồ lót. Đôi giày chạy bẩn thỉu cùng đôi tất đẫm mồ hôi được lột ra, làm lộ rõ đôi chân hoàn toàn trắng trẻo. Nước da màu sẫm mới của hắn chỉ là thứ của rởm. Hắn được đặt nằm lên trên một tấm ván mỏng chừng ba phân ngay cạnh chiếc giường. Trên tấm ván khoét sẵn những cái lỗ, và cổ tay, cổ chân hắn bị trói ghì xuống tấm ván bằng những sợi dây nilông. Một dải băng keo đen sì giữ chặt ngang trán hắn. Một cái túi kiểu để tiếp nước được treo lủng lẳng ngay phía trên mặt hắn, với cái ống dẫn ngoằn nghèo được trích vào ven ở cổ tay trái.

Hắn giật nảy người vì một mũi tiêm nữa; mũi tiêm này là để đánh thức hắn dậy. Tiếng thở nặng nhọc của hắn trở nên nhanh hơn và rồi hắn mở cặp mắt đỏ lừ, thất thần, nhìn hồi lâu vào cái túi. Tay bác sĩ người Braxin vào cuộc, và không hề nói một lời, chọc kim vào cánh tay trái của Danny Boy. Đó là một thứ chất kích thích đôi khi được dùng để buộc người ta phải nói. Nó rất có hiệu quả khi mà đối tượng có điều gì đó phải thú nhận.

Mười phút trôi qua. Hắn cố ngoái đầu, nhưng không được. Hắn chỉ nhìn được sang mỗi bên một chút ít. Căn phòng tối om trừ một ngọn đèn nhỏ đâu đó ở phía sau hắn.

Cánh cửa mở ra rồi khép lại. Guy một mình bước vào. Anh ta đi thẳng tới chỗ Danny Boy, đặt tay lên mép tấm ván và lên tiếng, “Xin chào, Patrick.”

Patrick nhắm mắt lại. Giờ đây không còn Danilo Silva nữa, mãi mãi không còn. Một người bạn cũ thân thiết đã không còn nữa, vậy đó. Cuộc sống đơn giản trên phố Tiradentes đã nhạt nhòa đi cùng với Danilo; sự mai danh ẩn tích của hắn cũng đã biến mất cùng với cái lời chào kia.

Trong bốn năm qua, hắn đã thường mường tượng cái cảm giác khi họ tóm được hắn. Liệu đó sẽ là một cảm giác được giải thoát ? Hay công lý ? Liệu có chút cảm giác hồi hộp như sắp được trở về nhà ngồi nghe nhạc không?

Dứt khoát là không. Lúc này, Patrick hoàn toàn khiếp sợ. Gần như trần truồng và bị trói ghì xuống như một con vật. Hắn biết mình sẽ không thể nào chịu nổi mấy giờ đồng hồ sắp tới.

"Anh có nghe thấy tôi nói không, Patrick ?” Guy cúi xuông hỏi. và Patrick mỉm cười, không phải là vì hắn muốn cười mà là bởi vì cái cảm giác buồn cười nào đó mà hắn không thể nào kiềm chế được.

Guy nhận thấy rằng liều thuốc đã bắt đầu có công hiệu. Đó là một thứ chất kích thích phải được dùng rất đúng liều lượng. Cực kỳ khó khăn để xác định mức tỉnh táo thích hợp cho một cuộc thẩm vấn. Một liều quá nhỏ thì sức kháng cự của đối tượng sẽ không bị bẻ gãy. Hơi quá một chút thì đối tượng lập tức ngất đi.

Cánh cửa mở ra rồi lại khép vào. Một người Mỹ nữa bước vào phòng để nghe, nhưng Patrick không thể nhìn thấy người đó

“Anh đã ngủ ba ngày rồi, Patrick,” Guy nói. Thực ra mới chỉ gần năm giờ, nhưng làm sao mà Patrick có thể biết được điều đó. “Anh có đói hay khát không đấy?”

“Khát,” Patrick đáp.

Guy mở nắp một chai nước khoáng và cẩn thận kê vào miệng Patrick.

“Cảm ơn,” hắn nói, rồi mỉm cười.

“Anh có đói không?” Guy hỏi lại.

“Không. Anh muốn gì?”

Guy chậm rãi để chai nước khoáng lên mặt bàn và kề gần lại khuôn mặt Patrick. “Hãy giải quyết chuyện này trước đã, Patrick. Trong khi anh ngủ, chúng tôi đã lấy dấu vân tay của anh. Chúng tôi biết chính xác anh là ai. bởi vậy chúng ta có thể bỏ qua chuyện loanh quanh ban đầu được chứ?”

“Tôi là ai?” Patrick hỏi với một nụ cười ngơ ngẩn.

“Patrick Lanigan.”

“Từ đâu tới?”

“Biloxi, Mississippi. Sinh ra ở New Orleans. Học luật ở Tulane. Có vợ, một con gái sáu tuổi. Mất tích bốn năm nay.”

“Tuyệt vời. Đúng là tôi.”

“Nói đi, Patrick, anh đã chứng kiến tang lễ của chính mình phải không?”

“Đó là một tội ư?”

“Không. Người ta đồn vậy.”

“Phải. Tôi đã chứng kiến. Tôi đã xúc động với buổi tang lễ đó. Không biết rằng mình có nhiều bạn đến thế.”

“Hay lắm. Anh lánh mặt ở đâu sau đó.”

“Chỗ này chỗ khác.”

Một cái bóng xuất hiện từ phía bên trái và một bàn tay đưa ra điều chỉnh chiếc van ở đáy cái túi. “Gì thế?” Patrick hỏi.

“Một thằng cha vớ vẩn,” Guy đáp, hất hàm về phía người đàn ông lại đang đứng lùi về phía góc phòng.

“Chỗ tiền đó đâu, Patrick?” Guy hỏi với một nụ cười.

“Tiền nào ?”

“Chỗ tiền mà anh cuỗm đi ấy.”

“Ồ, chỗ tiền đó,” Patrick nói và thở dài. Mắt hắn đột nhiên nhắm lại và thân thể mềm ra. Vài giây trôi qua và lồng ngực hắn phập phồng chậm lại.

“Patrick,” Guy gọi, nhẹ nhàng lay cánh tay hắn. Không có phản ứng, chỉ có tiếng thở của một giấc ngủ sâu.

Liều lượng thuốc được giảm xuống ngay lập tức, và họ chờ đợi.

Hồ sơ của FBI về Jack Stephano khá ngắn gọn; cựu thám tử ở Chicago với hai bằng về lĩnh vực tội phạm học, một tay cao giá trong nghề săn lùng những kẻ tội phạm để lĩnh thưởng, một tay súng nhà nghề, một bậc thầy trong lĩnh vực tìm kiếm và gián điệp, và hiện là chủ một hãng có vẻ mờ ám ở Oasinhtơn D.c chuyên tìm kiếm những người mất tích và tiến hành các hoạt động theo dõi với giá rất cao.

Hồ sơ của FBI về Patrick Lanigan được chứa đầy trong tám cái thùng. Chuyện nọ liên quan tới chuyện kia. Không thiếu gì người muốn moi ra Patrick và điệu hắn trở về. Stephano đã được thuê làm công việc đó.

Hãng của Stephano, mang tên Edmund Associates, nằm trên tầng thượng của một tòa nhà không có gì nổi bật ở phố K, cách Nhà Trắng sáu khúc phố. Hai nhân viên đặc biệt đứng chờ dưới đại sảnh, bên cửa thang máy trong khi hai người khác ập vào văn phòng của lão. Họ đã suýt phải ẩu đả với tay thư ký lực lưỡng, kẻ khăng khăng nói rằng Stephano đang rất bận. Họ thấy lão đang ở bàn làm việc riêng, một mình, và đang chuyện trò vui vẻ trên điện thoại. Nụ cười của lão vụt tắt khi họ ập vào với những tấm thẻ chìa ra.

“Chuyện quái gì vậy !” Stephano quát lên. Bức tường sau bàn làm việc của lão là cả một tấm bản đồ thế giới rất chi tiết, với những chấm đỏ bé xíu nhấp nháy trên những lục địa màu xanh lá cây. Cái chấm nào là Patrick?

“Ai mướn ông tìm Patrick Lanigan hả?” Một trong hai nhân viên đặc biệt lên tiếng hỏi.

“Đó là điều phải được giữ kín,” Stephano cười khẩy. Lão đã từng là một cảnh sát kỳ cựu và không dễ bị dọa nạt.

“Chiều nay chúng tôi nhận được một cú diện thoại từ Braxin,” người thứ hai nói.

Ta cũng vậy, Stephano nghĩ, hơi giật mình nhưng cố giữ vẻ bình thản. Đầu lão lướt nhanh qua các giả thuyết có thể về sự hiện diện của hai tay cớm này. Lão dã nói chuyện với Guy, ngoài ra không có ai khác. Guy hoàn toàn tin cậy. Guy sẽ không bao giờ hé chuyện với ai, nhất là với FBI. Không thể là Guy dược.

Guy sử dụng điện thoại di động để gọi từ vùng núi miền đông Paragoay. Không thể nào có chuyện cú điện thoại đó bị nghe lén.

“Ông vẫn nghe đấy chứ ?” Tay nhân viên thứ hai hỏi một cách tinh quái.

"Hừm, lão đáp, nghe mà không nghe."

“Patrick đang ở đâu?” Tay nhân viên đầu tiên hỏi.

“Có lẽ là hắn đang ở Braxin.”

“Chỗ nào ở Braxin ?”

Stephano nhún vai một cách thẳng thừng. “Tôi không biết. Đó là một đất nước rộng lớn.”

“Chúng tôi đang có lệnh bắt hắn,” tay nhân viên đầu tiên nói. “Hắn thuộc về chúng tôi.”

Stephano lại nhún vai, lần này thì với vẻ bình thường hơn, như thể lão muốn nói, “Quan trọng nhỉ?”

“Chúng tôi muốn có hắn,” tay nhân viên thứ hai quát lên. “Và ngay bây giờ.”

“Tôi không thể giúp các ông được.”

“Ông nói dối,” tay nhân viên đầu tiên gầm lên, và cả hai người bọn họ áp sát tới trước mặt bàn, cùng nhìn chằm chặp vào lão. Tay nhân viên thứ hai nói tiếp. “Chúng tôi có người ở dưới nhà, ở bên ngoài, ở góc phố, ở quanh nhà ông tại Falls Church. Chúng tôi sẽ để mắt tới mọi bước đi của ông từ lúc này trở đi cho đến khi tóm được Lanigan.”

“Được thôi. Giờ thì các ông có thể đi.”

“Và đừng có làm hắn đau đớn, hả? Chúng tôi sẽ sẵn lòng kiếm chuyện với ông nếu có bất kỳ điều gì xảy ra với hắn đấy.”

Họ từ tốn đi ra và Stephano khóa ngay cửa lại. Phòng làm việc của lão không có cửa sổ. Lão đứng trước tấm bản đồ thế giới. Braxin có ba chấm đèn đỏ, điều không mấy có ý nghĩa. Lão chậm rãi lắc đầu, với vẻ hoàn toàn bối rối.

Lão đã tiêu tốn bao nhiêu thời gian và tiền bạc cho việc che giấu hành tung của mình.

Trong một số giới nhất định, hãng của lão đứng vào hàng đầu trong việc nhận tiền và biến mất vào bóng tối. Chưa bao giờ lão bị bắt. Chưa bao giờ có ai biết Stephano đang giở trò với ai.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,854
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 3


Người dịch: Nguyễn Bá Long

Nhà xuất bản: NXB Văn học

Shared by: Thụy An An -

Một mũi tiêm nữa để đánh thức hắn. Rồi một mũi khác để tăng độ nhạy cảm cho hệ thần kinh.

Cánh cửa được mở toang ra và căn phòng đột ngột bừng sáng, ồn ào tiếng người nói này nói nọ. Guy đang đưa ra những mệnh lệnh và một ai đó lầu bầu bằng tiếng Bồ Đào Nha.

Patrick mở mắt, rồi nhắm lại ngay. Rồi hắn mở hẳn mắt ra khi những liều thuốc kia bắt đầu có công hiệu. Họ ào đến bên hắn, sục sạo trên ngưòi hắn. Chiếc quần lót của hắn bị xé toang và hắn nằm đó, trần trụi. Một lưõi dao cạo điện bắt đầu chạy xè xè, nhoi nhói trên da thịt hắn. Hắn cắn chặt môi và nhăn mặt, tim hắn đập thình thịch, mặc dù sự đau đớn chưa bắt đầu.

Guy cúi xuống, tay vẫn để yên nhưng mắt anh ta đang quan sát tất cả.

Patrick không hề cố mở miệng, nhưng để bảo đảm an toàn, thêm những bàn tay nữa xuất hiện và một dải băng keo lớn được dán kín lên trên miệng hắn. Những cực điện lạnh lẽo dược gắn vào những phần thân thể đã dược cạo nhẵn nhụi, và hắn nghe ai đó to tiếng hỏi về “cường độ dòng điện”. Băng keo được dán đè lên những cực điện. Hắn nghĩ là hắn đếm được tám cái áp lên da thịt hắn. Có thể là chín. Thần kinh hắn căng thẳng. Trong bóng tối, hắn có thể cảm thấy những bàn tay đang sờ lần trên người mình. Những mảnh băng keo dán rất chặt.

Hai hoặc ba người đàn ông đang bận rộn trong một góc phòng, điều chỉnh một thiết bị mà Patrick không nhìn thấy được. Những sợi dây điện chạy ngoằn nghèo trên thân thể hắn như thể người ta trang trí cây thông Nôen vậy.

Họ sẽ không giết hắn, hắn cố tự nhủ, mặc dù cái chết có thể ập tới vào bất cứ lúc nào trong mấy giờ đồng hồ tới. Hắn đã mường tượng cơn ác mộng này cả nghìn lần trong bốn năm qua. Hắn đã cầu nguyện để điều này đừng bao giờ xảy ra, nhưng luôn biết rằng nó sẽ tới. Hắn luôn biết rằng họ đang ở đâu đó trong bóng tối, lần theo các dấu vết, bỏ tiền ra để mua chuộc, tìm kiếm từng ngóc ngách.

Patrick đã luôn biết. Eva thì quá ngây thơ.

Hắn nhắm mắt, cố thở đều và kiểm soát các suy nghĩ của mình. Những liều thuốc kia làm cho nhịp tim của hắn tăng nhanh và da thịt hắn ngứa ngáy.

Tôi không biết chỗ tiền đó ở đâu. Tôi không biết chỗ tiền đó ở đâu. Hắn gần như hét to lên. Nhưng dải băng keo đang bịt kín miệng hắn.

Hắn thường gọi Eva trong khoảng từ 4 dến 6 giờ chiều. Hàng ngày, cả bảy ngày trong tuần. Không có ngoại lệ, trừ trường hợp đã được dự liệu trước. Trong thâm tâm mình, hắn biết rầng lúc này nàng đã chuyển tiền đi, rằng nó đã được cất giấu an toàn ở hàng chục nơi lòng vòng trên thế giới. Và hắn không biết cụ thể là ở đâu.

Nhưng liệu họ có tin hắn không ?

Cánh cửa cọt kẹt, và hai hay ba bóng người gì đó rời khỏi căn phòng. Các hoạt động xung quanh tấm ván mà hắn đang nằm giảm xuống. Rồi tất cả trở nên yên lặng. Hắn mở mắt ra và cái túi treo kia đã biến mất.

Guv đang nhìn hắn. Anh ta nhẹ nhàng gỡ dải băng keo trên miệng để hắn có thể nói, nếu như hắn muốn.

“Cảm ơn,” Patrick nói.

Tay bác sĩ người Braxin lại xuất hiện từ phía bên trái và chọc một mũi kim vào cánh tay hắn. Cái xilanh khá dài và không chứa gì cả ngoài một thứ nước có màu, nhưng làm sao mà Patrick có thể biết điều đó?

“Chỗ tiền đó đâu, Patrick ?” Guy hỏi.

“Tôi không có tiền nào cả,” Patrick đáp. Đầu hắn đau vì bị ghì sát lên tấm ván. Mảnh băng keo tì lên trán hắn nóng rực. Hắn đã không cựa quậy mấy tiếng đồng hồ.

“Anh sẽ phải nói, Patrick. Tôi cam đoan là như vậy. Anh vó thể nói ngay bây giờ, hoặc là sau mười tiếng nữa khi mà anh đã nửa sống nửa chết. Tùy ý anh thôi.”

“Tôi không muốn chết, được chứ ?” Patrick nói, cặp mát đầy vẻ sự hãi. Họ sẽ không giết mình, hắn tự nhủ.

Guy cầm một cái thiết bị nhỏ, đơn giản, đặt sẵn bên cạnh Patrick và giơ lên trước mặt hắn. Đó là một thanh kim loại với một đầu được bọc cao su gá trên một cái hộp vuông nhỏ có hai sợi dây điện chạy ra.

“Thấy không,” Guy nói, như thể là Patrick được quyền lựa chọn. “Khi cái thanh này nằm ở phía trên, mạch điện hở.”

Guy thận trọng cầm lấy cái đầu bọc cao su bằng hai ngón tay, rồi từ từ hạ nó xuống.

“Nhưng khi nó di chuyển xuống cái tiếp điểm nhỏ xíu ỏ đây thì mạch sẽ đóng lại và dòng điện sẽ chạy qua dây dẫn tới những cực điện được gắn trên người anh.”

Anh ta dừng thanh kim loại chỉ cách cái tiếp điểm kia có vài xăngtimét. Patrick nín thở. Căn phòng vẫn yên tĩnh.

“Anh có muốn biết điều gì sẽ xảv ra khi bị điện giật không đây ?” Guy hỏi.

“Không.”

“Vậy thì tiền ở đâu?”

“Tôi không biết. Tôi xin thề đấy.”

Cúi xuống gần sát mặt Patrick, Guy ấn cái thanh kim loại kia xuống tới tiếp điểm. Cú điện giật xảy ra ngay lập tức và khủng khiếp - da thịt hắn đau xé. Patrick giật nảy người và những sợi dây trói siết chặt thêm. Hắn nhắm nghiền mắt, nghiến chặt răng để cố không phải hét lên, nhưng chỉ sau một vài giây, một tiếng thét rùng rợn đã vang khắp cả ngôi nhà.

Guy nâng thanh kim loại lên, chờ chốc lát để Patrick lấy lại nhịp thở và mở mắt ra, rồi nói, “Đó là mức độ đầu tiên, dòng điện có cường độ thấp nhất. Tôi có năm mức và sẽ dùng tới cả năm, nếu cần thiết. Tám giây ở mức độ thứ năm sẽ giết chết anh, và tôi sẵn sàng làm điều đó, như một biện pháp cuối cùng. Anh đang nghe đấy chứ, Patrick?”

Da thịt hắn vẫn còn như bị thiêu đốt suốt từ chân lên tới ngực. Tim còn đang đập dồn dập và hắn đang thở dốc.

“Anh đang nghe đấy chứ?” Guy nhắc lại.

“Có.”

“Tình thế của anh hoàn toàn đơn giản. Cho tôi biết chỗ tiền kia ở đâu và anh sẽ sống để ra khỏi căn phòng này. Cuối cùng, chúng tôi sẽ đưa anh trở lại Ponta Porã, và anh có thể tiếp tục cuộc sống mà anh thấy thích hợp với mình. Chúng tôi không có ý định báo cho FBI.” Guy ngừng lời và nhứ nhứ cái cần gạt. “Tuy nhiên, nếu anh từ chối trả lời câu hỏi duy nhất này, thì anh sẽ chết. Anh hiểu chứ, Patrick?”

“Hiểu.”

"Tốt. Tiền ở đâu ?”

“Tôi thề là tôi không biết. Nếu biết thì tôi đã nói."

Guy lạnh lùng ấn thẳng thanh kim loại kia xuống, và dòng diện cứa vào da thịt hắn như một dòng axít nóng bỏng. “Tôi không biết!” Patvick hét lên đau đớn. "Tôi thề là tôi không biết.”

Guy nâng cái thanh kim loại lên, và chờ đợi để Patrick tỉnh lại. Rồi anh ta bình thản hỏi, "Tiền đâu?"

“Tôi thề là tôi không biết mà.”

Một tiếng kêu thét nữa vang lên, lọt qua các cửa sổ để ngỏ của ngôi nhà, vọng vào mãi trong hẻm núi trước khi chìm vào đám cây rừng.

Cái căn hộ ở Curitiba nằm ở gần sân bay. Eva bảo người lái taxi chờ dưới đường. Nàng để chiếc túi to đựng đồ lại trong cốp xe nhưng mang theo chiếc cặp da cỡ lớn.

Nàng đi bằng thang máy lên tầng chín. Lúc này đang là mười một giờ đêm, dãy hành lang tối và im ắng. Nàng đi từ từ, quan sát tất cả các phía. Nàng mở cửa và nhanh chóng ngắt hệ thống bảo vệ với một chiếc chìa khóa khác.

Danilo không có trong phòng, và mặc dù không ngạc nhiên nhưng đó vẫn là một điều thất vọng. Không có tin nhắn nào ở máy ghi của điện thoại. Không hề có một dấu hiệu nào về hắn. Sự lo lắng của nàng đã tăng lên một mức độ nữa.

Nàng không thể ở lại lâu, bởi lẽ những người đã tóm Danilo có thể đang trên đường đến đây. Nhưng nàng vẫn rất từ tốn. Căn hộ có cả thảy ba phòng và nàng lần lượt kiểm tra lại từng phòng.

Các giấy tờ mà nàng cần nằm trong một tủ hồ sơ ở phòng làm việc. Nàng mở ba cái ngăn kéo nặng trịch và xếp gọn đám giấy tờ vào trong một cái cặp. Số giấy tờ này bao gồm các hồ sơ tài chính, tuy nhiên không phải là nhiều so với số tiền người ta đang truy tìm. Lượng giấy tờ của hắn là tối thiểu. Mỗi tháng, hắn đến đây một lần để cất giấu hồ sơ và ít nhất cũng mỗi tháng một lần thiêu hủy những giấy tờ cũ.

Nàng cài lại hệ thống bảo vệ và nhanh chóng đi ra ngoài. Không ai chú ý tới nàng cả. Nàng mướn phòng tại một khách sạn nhỏ trong thành phố, gần Bảo tàng Nghệ thuật đương đại. Các nhà băng châu Á đã mở cửa và lúc này là gần bốn giờ sáng ở Zurich. Nàng lôi ra chiếc máy fax nhỏ và nối nó vào ổ cắm điện thoại trong phòng. Chiếc giường nhỏ lập tức bừa bộn những bản chỉ dẫn và những điện chuyển tiền.

Nàng mệt bã người, nhưng không thể nghĩ tới chuyện ngủ. Danilo nói là họ sẽ tới tìm nàng. Nàng không thể trở về nhà. Những ý nghĩ của nàng không phải là về tiền, mà là về hắn. Hắn có còn sống không ? Nếu còn thì hắn đang phải chịu đựng những gì ? Hắn đã nói với họ đến đâu, và với cái giá thế nào?

Nàng lau mắt và bắt đầu thu xếp giấy tờ. Không có thời gian cho những giọt nước mắt.

Với trò tra tấn, cái kết quả tốt nhất sẽ tới sau ba ngày. Những ý chí bướng bỉnh sẽ bị bẻ gãy một cách chậm chạp. Sự đau đớn ám ảnh và sẽ còn lớn hơn trong khi nạn nhân chờ đợi cuộc hành hạ tiếp theo. Ba ngày, hầu hết các nạn nhân đều suy sụp hoàn toàn.

Guy không có được ba ngày. Tù nhân của anh ta không phải là một tù binh chiến tranh mà là một công dân Mỹ đang bị FBI truy nã.

Vào khoảng nửa đêm, họ để Patrick lại một mình trong ít phút để chịu đựng đau đớn và nghĩ về vòng hành hạ sắp tới. Thân thể hắn đầm đìa mồ hôi; người ngợm đỏ lựng vì nóng và vì những cú sốc điện. Máu rỉ ra dưói lớp băng keo trên ngực hắn, nơi những điện cực được gắn quá chặt và đang đốt cháy da thịt. Hắn ngáp ngáp không khí và liếm cặp môi khô nứt. Những sợi dây nilông vẫn đang siết vào cổ tay và cổ chân.

Guy quay lại một mình và ngồi xuống cái ghế đặt cạnh tấm ván. Trong một phút, cả căn phòng yên lặng với âm thanh duy nhất là tiếng thở của Patrick. Mắt hắn vẫn nhắm nghiền.

“Anh rất bướng bỉnh,” sau cùng, Guy lên tiếng.

Không có phản ứng gì.

Hai giờ đồng hồ đầu tiên đã không mang lại kết quả nào. Tất cả các câu hỏi đều nhằm vào chỗ tiền kia. Hắn không biết tiền ở đâu, hắn đã nói cả trăm lần. Còn chỗ tiền đó không ? Không, hắn lặp đi lặp lại. Chuyện gì dã xảy ra với chỗ tiền đó ? Hắn không biết.

Kinh nghiệm tra tấn của Guy là rất hạn chế. Anh ta đã tham khảo ý kiến một chuyên gia, một tay đốn mạt thực sự thích thú với cái trò này, và đã đọc một bản hướng dẫn khái quát, nhưng thấy rằng việc thực hành khó hơn nhiều.

Giờ đây, khi mà Patrick đã biết những trò hành hạ man rợ kia là thế nào thì điều quan trọng là phải làm cho hắn mở miệng.

“Anh ở đâu khi diễn ra cái lễ tang của chính anh, hả ?” Guy hỏi.

Những cơ bắp của Patrick có vẻ hơi được thả lỏng ra một chút. Sau cùng đã có một câu hỏi không về chỗ tiền kia. Hắn lưỡng lự và suy nghĩ về điều đó. Có gì hại nào? Hắn đã bị tóm. Câu chuyện của hắn sẽ phải được nói ra. Có lẽ là nếu hắn hợp tác thì họ sẽ thôi tra điện.

“Ở Biloxi,” hắn nói.

“Trốn à ?”

“Tất nhiên.”

“Và anh đã chứng kiến lễ an táng mình chứ ?" “Phải.”

“Từ đâu thế?"

“Tôi ngồi trên một cái cây, với một chiếc ống nhòm.” Mắt hắn vẫn nhắm nghiền và hai tay nắm chặt.

“Sau đó anh đi đâu ?”

“Mobile.”

“Đó là nơi anh lẩn trốn à ?”

“Phải, đó là một nơi.”

“Anh trốn ở đó trong bao lâu ?”

“Không liên tục trong chừng vài tháng.”

“Lâu thế cơ à ? Anh sống tại đâu ở Mobile?"

“Những nhà trọ rẻ tiền. Tôi thường xuyên di chuyển. Lên lên xuống xuống vùng Vịnh. Destin. Bãi Panama City. Trở lại Mobile.”

“Anh đã thay đổi diện mạo của mình.’'

“Có. Tôi cạo râu, nhuộm tóc, và giảm chừng hơn hai chục cân.”

“Anh có học một thứ tiếng nào không ?”

“Tiếng Bồ Đào Nha.”

“Vậy anh biết là anh sẽ đến đây ?”

“Đây là đâu ?”

“Cứ cho là Braxin đi.”

“Phải. Tôi cho rằng đây là một nơi tốt để ẩn náu.”

“Sau Mobile thì anh đi đâu ?”

“Toronto.”

“Vì sao lại là Toronto?”

“Sau Mobile thì anh đi đâu ?”

“Toronto.”

“Vì sao lại là Toronto?”

“Thì phải đi đâu đó. Đó là một nơi đẹp.”

“Anh kiếm giấy tờ tùy thân mới ở Toronto phải không?”

“Phải.”

“Anh đã trở thành Danilo Silva ở Toronto ?”

“Phải.”

“Anh theo học một khóa ngôn ngữ nữa phải không?"

“Phải.”

“Làm giảm cân một chút nữa chứ ?”

“Phải. Thêm hơn chục cân nữa.” Hắn vẫn nhắm nghiền mắt và cố quên đi sự đau đớn, hay ít nhất là cố gượng chịu đựng nó. Những cực điện vẫn đang nóng âm ỉ và cứa sâu hơn vào da thịt hắn.

“Ba tháng."

"Nghĩa là anh rời khỏi đó vào khoảng tháng Bảy năm 92 phải không?”

"Khoảng thế.”

“Tiếp đó anh đi đâu ?”

“Bồ Đào Nha.”

“Vì sao lại là Bồ Đào Nha?”

“Thì vẫn phải đi đâu đó. Một đất nước đẹp. Chưa bao giờ tới đó cả.”

“Anh ở đó bao lâu?”

“Vài tháng”

“Rồi đi đâu?"

“São Paulo.”

"Vì sao lại là São Paulo ?”

“Hai mươi triệu dân. Một nơi ẩn náu tuyệt vời.”

“Anh ở đó trong bao lâu ?”

“Một năm.”

“Nói xem anh đã làm gì ở đó.”

Patrick hít một hơi sâu và nhăn mặt khi hắn cựa quậy cổ chân. Hắn thả lỏng ngưòi ra.

“Tôi ẩn mình trong thành phố đó. Thuê một ông thầy và học tiếng cho đến nơi đến chốn. Giảm cân thêm môt ít nữa. Chuyển từ một căn hộ nhỏ bé này sang một căn hộ nhỏ bé khác.”

“Anh đã làm gì với chỗ tiền đó ?“

Một thoáng ngập ngừng. Một chút căng thẳng. Lại trò tra điện ư ? Tại sao họ không thê tiếp tục nói về cuộc chạy trốn và dẹp chuyện tiền kia đi nhỉ?

“Tiền nào ?” Hắn hỏi với vẻ tuyệt vọng.

“Thôi đi, Patrick. Khoản chín mươi triệu dôla mà anh đã đánh cắp từ hãng luật của anh và các khách hàng của nó.”

“Tôi nói rồi. Các anh đã nhầm người.”

Guy đột nhiên quát lớn ra phía cánh cửa. Nó lập tức mở ra và số người Mỹ còn ở ngoài đó ập vào. Tay bác sĩ người Braxin tiêm thêm hai ống thuốc nữa vào tĩnh mạch của Patrick rồi đi ra. Hai ngưòi đàn ông sẵn sàng bên cái thiết bị ở góc phòng. Chiếc máy ghi âm được bật lên. Guy đứng bên Patrick vói cái cần gạt trong tay, cáu kỉnh và càng quyết tâm hơn trong việc giết chết nạn nhân nếu hắn không chịu nói.

“Số tiền được chuyển vào tài khoản hải ngoại của hãng luật của anh ở Nassau. Chính xác là lúc mười giờ mưòi lăm, giờ miền Đông, ngày 26 tháng Ba năm 1992 — 45 ngày sau cái chết của anh. Anh đã ỏ đó, Patrick, trông khỏe mạnh, da rám nắng và giả bộ làm một người khác. Chúng tôi có những bức ảnh do hệ thống camera bảo vệ của nhà băng ghi lại. Anh đã có những giấy tờ giả mạo hoàn hảo. Ngay sau khi được chuyển đến, số tiền này lại được chuyển đi một nhà băng ở Manta. Anh đã đánh cắp nó, Patrick. Nào, bây giờ nó ở đâu ? Nói ra và anh sẽ được sống.”

Patrick nhìn Guy lần cuối cùng, và nhìn cái thanh kim loại kia một lần nữa, thế rồi hắn nhắm chặt mắt lại, thu hết can đảm, và nói. “Tôi thề là tôi không biết anh đang nói chuyện gì.”

“Patrick, Pattrick...“

“Xin đừng làm thế!” Hắn nài nỉ. “Xin đừng!"

“Đây mới chỉ là mức độ thứ hai, Patrick. Anh đã đi được nửa đường rồi đấy.” Guy đẩy cần gạt xuống, và nhìn cái thân thể đang quằn quại.

Patrick kêu thét lên, không còn kiềm chế dược nữa. Một tiếng kêu khốc liệt và kinh hoàng đến mức Osmar và đám người Braxin đang ở bên ngoài cũng phải chết sững giây lâu. Họ im bặt trong bóng tối. Một người trong số họ lầm rầm cầu nguyện.

Phía ngoài đường, cách đó chừng ba chục mét, một người Braxin với một khẩu súng trong tay đang ngồi bên lề đường trông chừng xe cộ qua lại mặc dù khó lòng mà xảy ra chuyện ấy. Nơi có nhà ở gần nhất cũng cách đây vài dặm. Anh ta cũng lầm rầm cầu nguyện khi tiếng kêu thét lại vang lên.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,854
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 4


Người dịch: Nguyễn Bá Long

Nhà xuất bản: NXB Văn học

Shared by: CCG -

Cú điện thoại thứ tư hay thứ năm gì đó của những người hàng xóm đã làm cho bà Stephano phải chú ý, và nó cũng buộc Jack phải nói thật với vợ. Ba người đàn ông mặc đồ màu sẫm lảng vảng bên chiếc xe đậu ngoài phố ngay trước cửa nhà họ là các nhân viên FBI. Lão giải thích vì sao họ lại có mặt ở đó. Lão nói với vợ phần lớn câu chuyện về Patrick, một vi phạm nghiêm trọng nghề nghiệp. Bà Stephano không bao giờ hỏi han gì.

Bà không quan tâm tới chuyện chồng bà làm gì ở văn phòng. Tuy nhiên, bà có cảm giác khá rõ về điều mà những người hàng xóm có thể nghĩ. Sau cùng thì đây là Falls Church, và người ta hẳn sẽ dị nghị.

Bà lên giường vào lúc nửa đêm. Jack ngủ ở chiếc xôpha trong căn phòng làm việc, cứ nửa tiếng lại dậy một lần để nhìn qua rèm cửa xem họ đang làm gì ngoài đó. Lão thiếp đi vào lúc ba giờ sáng, khi chuông cửa réo lên.

Lão ra mở cửa trong bộ đồ ngủ. Bốn người bọn họ đang đứng đợi và lão nhận ra ngay một trong số đó là Hamilton Jaynes, Phó giám đốc FBI. Nhân vật số hai này ở FBI tình cờ sống ở cách nhà lão có bốn đoạn phố và cùng ở trong một câu lạc bộ gôn với lão, mặc dù cả hai chưa bao giờ chạm mặt.

Lão để họ vào trong căn phòng làm việc rộng thênh thang của mình. Tiếp đó là những lời giới thiệu cứng nhắc. Họ ngồi đó trong lúc bà Stephano đi xuống trong chiếc áo choàng ngủ, rồi vội vã trở lên khi nhác thấy những người đàn ông trong các bộ đồ màu sẫm.

Jaynes nói, thay mặt cho FBI. “Chúng tôi đang làm việc ngày đêm về vụ Lanigan này. Tin tức tình báo của chúng tôi cho biết hắn đang ở trong tay ông. Ông có thể xác nhận hoặc phủ nhận chăng ?”

“Không,” Stephano đáp, mặt lạnh như tiền.

“Tôi có trát bắt giữ ông."

Vẻ mặt hơi thay đổi, Stephano liếc nhìn một nhân viên có vẻ mặt dữ dằn khác. “Về tội gì?"

“Chứa chấp một kẻ bị Liên bang truy nã. Cản trở công vụ. Tùy ông gọi thế nào cũng được. Có gì khác nhau đâu ? Tôi không quan tâm tới việc buộc tội ông. Tất cả những gì tôi muốn là tống giam ông, rồi sau đó sẽ dọn dẹp cả cái hãng lẫn đám thân chủ của ông. Hai mươi tư giờ đồng hồ để tóm gọn tất cả. Chúng tôi sẽ lo việc truy tố sau, tùy thuộc vào việc chúng tôi có tóm được gã Lanigan hay không. Ông hiểu chứ ?"

"Hiểu. Tôi nghĩ thế."

"Lanigan đang ở đâu?"

"Braxin.”

“Tôi muốn tóm gã. Và ngay bây giờ.”

Stephano nheo mày một đôi lần, và mọi quân bài đều đã rõ. Trong hoàn cảnh này, giao nộp Lanigan không phải là một bước đi tồi. Đám Liên bang này có cách để buộc hắn phải mở miệng. Trước một cái án chung thân, Patrick có thể sẽ phải bật mí và khai khoản tiền kia ra. Có những áp lực to lớn từ đủ các phía đòi phải có điều đó.

"Thôi được, thỏa thuận thế này vậy,” Stephano nói. “Cho tôi bốn mươi tám giờ, tôi sẽ trao cho ông Lanigan. Còn ông thì xé cái trát bắt tôi đi và từ bỏ những đe dọa truy tố trong tương lai."

“Đồng ý."

Một khoảnh khắc im lặng trong khi cả hai phía đang nhấm nháp thắng lợi. Jaynes nói, “Tôi cần biết sẽ phải nhận hắn ở đâu.”

“Phái một chiếc máy bay tới Asunción."

“Paragoay ư ? Thế Braxin thì sao ?"

“Hắn có bạn bè ở Braxin.”

“Thôi được.” 'Jaynes thầm thì vào tai một đồng sự, người kia lập tức đứng dậy đi ra. “Hắn ta vẫn nguyên vẹn đấy chứ ?" Ông ta hỏi Stephano.

“Phải.”

“Tốt nhất là nên như thế. Nếu có một vết bầm tím nào trên người hắn thì tôi sẽ quăng ông xuống địa ngục đấy.”

“Tôi cần phải gọi một cú điện thoại."

Jaynes thực sự phải cố mỉm cười. Ông ta nhìn quanh các bức tường và nói. "Đây là nhà của ông mà.”

“Máy của tôi có bị nghe trộm không ?”

“Không đâu.”

“Ông thề chứ ?”

“Tôi nói là không mà.”

“Xin lỗi.” Stephano bước qua gian bếp, rồi vào trong phòng kho nơi lão để một cái điện thoại di động. Lão bước ra sân sau, đứng trong đám cỏ ướt và gọi Guy.

Tiếng kêu thét đã ngừng vào lúc mà gã người Braxin ngồi gác cái xe tải nghe thấy tiếng chuông điện thoại. Chiếc máy được để ở khoang lái, với cái cần ăngten cao gần năm mét nhô ra từ nóc xe. Anh ta trả lời máy bằng tiếng Anh, rồi chạy đi kiếm một người Mỹ.

Guy từ trong nhà chạy ra và chộp lấy máy.

“Hắn có mở miệng không ?” Stephano hỏi.

“Một chút xíu. Hắn đã gục cách đây chừng một giờ.”

“Cậu đã biết những gì ?”

“Khoản tiền đó vẫn còn. Hắn không biết nó nằm ở đâu. Nó do một ngưòi đàn bà ở Rio, một luật sư, kiểm soát.”

“Có tên cô ta không ?"

“Dạ. Chúng tôi đang liên hệ. Osmar có người ở Rio.”

“Cậu có thể moi được ở hắn thêm gì nữa không ?”

"Tôi không nghĩ vậy. Hắn nửa sống nửa chết rồi, Jack.”

“Ngừng ngay mọi chuyện mà cậu đang làm. Có bác sĩ ở đó không ?"

“Tất nhiên.”

“Chữa trị ngay cho hắn. Đưa hắn tới Asunción càng nhanh càng tốt,”

“Nhưng sao...“

“Không hỏi. Không có thời gian. Đám Liên bang (1) vây chúng ta kín rồi. Hãy làm theo lời tôi, và đừng có để hắn bị tổn thương gì đấy.”

“Đừng bị tổn thương ? Tôi đã suýt giết chết hắn trong suốt năm giờ đồng hồ qua.”

“Làm theo lời tôi. Chữa trị cho hắn. Gây mê. Đi Asunción ngay. Cứ mỗi tiếng lại gọi cho tôi, vào đầu giờ.”

“Tùy ý sếp thôi.”

“Và kiếm người đàn bà kia.”

Đầu Patrick được nhẹ nhàng nâng lên và nước mát được rót vào miệng hắn. Những sợi dây trói được cắt ra, và họ nhẹ nhàng gỡ những dải băng keo, đám dây điện và các điện cực. Hắn co quắp, vặn vẹo và rên rỉ những lời mà chẳng ai hiểu gì cả. Một mũi moócphin được tiêm vào tĩnh mạch hắn và rồi Patrick lại chìm vào cơn hôn mê.

Vào lúc tảng sáng, Osmar có mặt ở sân bay Ponta Porã để chờ chuyến bay sẽ đưa anh ta tới Rio vào lúc cuối ngày. Anh ta đã liên lạc với người ở Rio, kéo họ ra khỏi giường với lời hứa hẹn về những khoản tiền lớn. Họ sẽ phải sục sạo trên các đường phố.

Nàng gọi cho cha trước tiên, ngay sau lúc mặt trời mọc, thời điểm trong ngày mà ông luôn luôn ở ngoài hiên với mấy tờ báo và một ly cà phê. Ông sống trong một căn hộ nhỏ ở Ipanema, cách bờ biển ba khúc phố, không xa Eva yêu quý của ông cho lắm. Khu nhà nơi ông ở đã được xây dựng cách đây ba chục năm và là một trong những tòa nhà cổ nhất trong khu phố giàu của Rio. Ông sống có một mình.

Nghe giọng nàng, ông biết ngay là có chuyện. Nàng bảo đảm với ông là nàng an toàn và sẽ vẫn như vậy, rằng một khách hàng ở châu Âu đột nhiên cần đến nàng trong hai tuần, và rằng nàng sẽ gọi cho ông hàng ngày. Nàng giải thích tiếp là vị khách hàng đặc biệt này có lẽ có gì đó mờ ám và rất cẩn trọng, và do đó có lẽ ông ta sẽ cho người ngó ngàng tới quá khứ của nàng. Đừng có lo ngại gì. Trong thương mại quốc tế thì điều đó không có gì là bất thường cả.

Ông những muốn có vài câu hỏi, nhưng hiểu rằng sẽ không có những câu trả lời.

Cú điện thoại cho vị cổ đông giám sát công việc của nàng thì khó khăn hơn nhiều. Câu chuyện mà nàng chuẩn bị trước được nói ra rành mạch, thế nhưng vẫn có những chỗ trống lớn trong đó. Một khách hàng mới đã gọi điện đêm hôm trước và nàng cần phải có mặt ngay ở Hamburg. Nàng sẽ bay một chuyến bay sớm. Vị khách này hoạt động trong ngành viễn thông, với những kế hoạch mở rộng thị trường lớn lao ở Braxin.

Vị cổ đông kia còn đang ngái ngủ. Ông ta bảo nàng gọi lại nói chi tiết sau.

Nàng gọi cho người thư ký vẫn với câu chuyện đó, và yêu cầu cô ta hoãn tất cả các cuộc hẹn và các cuộc gặp lại cho tới khi nàng trở về.

Từ Curitiba, nàng bay tới São Paulo và từ đó lên một chuyến bay của hãng Hàng không Achentina bay thẳng đi Buênốt Airét. Lần đầu tiên, nàng dùng tấm hộ chiếu mới của nàng, do Danilo “sắm” giúp từ cách đây một năm. Nàng đã cất giữ nó ở căn hộ kia, cùng với hai chiếc thẻ tín dụng mới và tám nghìn đôla Mỹ tiền mặt.

Giờ đây, nàng là Leah Pires, cùng tuổi nhưng khác ngày sinh. Danilo không biết những chi tiết này; hắn không thể nào biết.

Nàng hoàn toàn cảm thấy mình là một người khác.

Có nhiều khả năng. Hắn có thể đã bị một băng cướp bắn chết trong một vụ cướp đường thông thường trên một ngả đường nông thôn hoang dã. Chuyện vẫn xảy ra ở vùng biên. Hắn cũng có thể đã lọt vào tay một băng nhóm ngầm nào đó biết rõ quá khứ của hắn, bị tra tấn, bị giết và vùi xác trong rừng rậm. Có thể là hắn đã phải mở miệng, và nếu như vậy thì chắc hẳn là tên nàng đã được nhắc tới. Nàng sẽ có thể phải sống chui lủi cả phần đời còn lại của mình. Chí ít thì hắn cũng đã cảnh cáo nàng về điều này ngay từ đầu. Nhưng cũng có thể là hắn đã không khai gì hết và nàng vẫn được là Eva.

Có thể Danilo vẫn còn sống ở đâu đó. Hắn đã hứa với nàng là họ sẽ không giết hắn. Họ có thể hành hạ khiến cho hắn phải cầu xin được chết, nhưng họ không dám giết hắn. Nếu các nhà chức trách Mỹ tìm ra hắn trước thì sẽ đòi giải hắn về Mỹ. Hắn đã chọn Nam Mỹ bởi vì xứ sở này có truyền thống chống lại việc dẫn độ.

Nếu những kẻ thuộc thế giới ngầm tìm ra hắn trước, họ sẽ đánh đập hắn cho tới khi hắn phải nói ra số tiền đó đang ở đâu. Đó là điều mà hắn sợ nhất - việc bị cưỡng ép.

Nàng cố gắng chợp mắt một lúc ở sân bay Buênốt Airét nhưng không tài nào ngủ được. Nàng lại gọi về nhà hắn ở Ponta Porã, gọi vào máy di động và gọi về căn hộ ở Curitiba. Vô ích.

Tại Buênôt Airét, nàng lên một chuyến bay đi New York, nơi nàng sẽ chờ ba tiếng đồng hồ rồi lên chuyến bay đi Zurich của hãng Hàng không Thụy Sĩ.

Họ đặt hắn nằm trên ghế sau của chiếc van Volkswagen, và chằng qua người chiếc dây an toàn để hắn khỏi lăn xuống. Những đoạn đường phía trước rất gồ ghề. Trên người hắn chỉ có độc chiếc quần cộc mặc khi tập chạy. Tay bác sĩ đã kiểm tra lại những chỗ băng bó - tám chỗ tất cả , bôi dầu lên những vết bỏng và tiêm kháng sinh cho hắn. Anh ta ngồi ở chiếc ghế phía trước bệnh nhân, và cặp cái túi đen nhỏ của mình ở giữa hai chân. Patrick đã phải chịu đựng đủ rồi. Giờ thì đến lúc anh ta phải lo cho hắn.

Một hoặc hai ngày nghỉ ngơi và thêm chút thuốc giảm đau thì Patrick sẽ bắt đầu hồi phục. Những vết bỏng sẽ để lại những cái sẹo nhỏ, và với thời gian thì sẽ mờ đi.

Tay bác sĩ ngoái lại và vỗ nhẹ trên vai hắn. Anh ta rất mừng là hắn đã không bị chết. “Hắn đã sẵn sàng,” anh ta nói với Guy ngồi ở ghế trước. Tay tài xế người Braxin bắt đầu cho xe chuyển bánh.

Họ dừng lại sau mỗi giờ, chính xác là sau sáu mươi phút, để có thể liên lạc bằng điện thoại di động ở vùng núi này, với chiếc ăngten được dựng lên trên nóc xe. Guy gọi cho Stephano, đang ngồi tại văn phòng của lão ở Oasinhtơn D.C. cùng với Hamilton Jaynes và một quan chức cấp cao khác của Bộ Ngoại giao Mỹ. Lầu Năm Góc cũng đang được tham khảo ý kiến.

Chuyện quái quỷ gì đang diễn ra thế nhỉ, Guy những muốn hỏi. Cái đám Liên bang này từ đâu đến vậy?

Trong sáu giờ đồng hồ đầu tiên, họ chạy được một trăm dặm. Thỉnh thoảng đường xấu đến mức gần như không thể đi được. Họ còn liên tiếp phải dừng lại để gọi cho Oasinhtơn. Vào lúc hai giờ chiều, đường xá đã khá hơn khi họ bắt đầu rời khỏi vùng núi.

Vấn đề dẫn độ rất rắc rối, và Hamilton Jaynes không muốn chuyện đó tí nào. Những kênh ngoại giao quan trọng được sử dụng đến. Giám đốc FBI gọi điện cho Chánh văn phòng Nhà Trắng. Đại sứ Mỹ tại Paragoay cũng bị lôi vào cuộc. Những lời hứa hẹn và những lời dọa nạt được đưa ra.

Một đổi tượng tình nghi về tiền bạc có thể cưỡng lại chuyện bị dẫn độ từ Paragoay trong nhiều năm, nếu không nói là vĩnh viễn. Nhưng đối tượng này không có tiền trong tay và thậm chí không biết là hắn đang ở trên lãnh thổ nước nào.

Ngưòi Paragoay đã miễn cưõng đồng ý lờ đi chuyện thủ tục dẫn độ.

Vào lúc bốn giờ, Stephano lệnh cho Guy tìm đến cái sân bay ở Concepción, một thị trấn nhỏ cách Asunción chừng ba giờ xe chạy. Tay tài xế người Braxin đã chửi thề bằng tiếng Bồ Đào Nha khi được yêu cầu quay đầu xe lại để đi về phía bắc.

Họ đến Concepción lúc tảng sáng và trời vẫn còn tối khi sau cùng họ cũng tới được sân bay, một tòa nhà nhỏ xây bằng gạch bên cạnh một dải đường băng hẹp trải nhựa. Guy gọi cho Stephano, và được chỉ thị để lại Patrick trong xe, với chìa khóa xe trong ổ cắm, rồi rời khỏi đó. Guy, tay bác sĩ, tay tài xế và một người Mỹ nữa từ từ bước ra xa khỏi xe, thỉnh thoảng ngoái đầu nhìn lại trông chừng. Họ tìm một điểm cách xa chừng ba bốn chục mét, dưới một tán cây lớn, nơi họ không thể bị nhìn thấy. Một giờ đồng hồ trôi qua.

Sau cùng, một chiếc King Air mang số hiệu đăng ký của Mỹ hạ cánh và chạy tới bên cái nhà ga nhỏ. Hai viên phi công bước ra và đi vào bên trong nhà ga. Một thoáng sau, họ đi tới chỗ chiếc xe, mở cửa, chui vào và lái nó chạy lại bên chiếc máy bay.

Patrick được đỡ ra khỏi xe để đưa lên máy bay. Một tay bác sĩ không quân đã chờ sẵn và ngay lập tức chăm sóc cho gã tù nhân. Viên phi công trả chiếc xe trở lại vị trí cũ của nó. Vài phút sau đó, chiếc máy bay cất cánh.

Chiếc King Air lấy thêm nhiên liệu ở Asunción, và trong lúc nó còn đang đỗ ở đó thì Patrick đã bắt đầu cựa quậy được. Hắn quá yếu và quá đau đớn đến mức không thể tự ngồi dậy. Tay bác sĩ cho hắn một chút nước mát và vài cái bánh ngọt.

Họ lại lấy thêm nhiên liệu ở La Paz và ở Lima. Đến Bôgôta, họ chuyển hắn sang một chiếc Lear loại nhỏ, có tốc độ gấp hai lần chiếc King Air. Nó lấy thêm nhiên liệu ở Aruba, ngoài khơi Vênêxuêla, rồi bay thẳng tới một căn cứ của Hải quân Mỹ bên ngoài San Juan, Puéctô Ricô. Một chiếc xe cứu thương đưa hắn tới bệnh viện của căn cứ này.

Sau gần bốn năm rưỡi, Patrick lại trở về lãnh thổ Mỹ.

(1)" Ý nói FBI
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,854
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 5


Người dịch: Nguyễn Bá Long

Nhà xuất bản: NXB Văn học

Shared by: CCG -

Hãng Luật nơi Patrick làm việc trước đây, một năm sau tang lễ của hắn, đã đệ đơn phá sản theo luật. Sau cái chết của hắn, tiêu đề giấy tờ chính thức của Hãng vẫn bao gồm cả tên hắn một cách trịnh trọng ở góc trên bên phải: Patrick S. Lanigan, 1954-1992. Song rồi những lời đồn đại cứ lan truyền mãi. Chẳng bao lâu sau, mọi người đều tin rằng hắn đã cuỗm khoản tiền kia và biến mất. Sau ba tháng, không còn ai ở vùng Vịnh lại tin rằng hắn đã chết. Tên hắn không còn ở trên tiêu đề nữa khi những món nợ cứ chồng chất lên.

Bốn cổ đông còn lại vẫn sát cánh bên nhau, bị ràng buộc bởi món nợ phá sản. Tên của họ đã cùng có trên các văn tự cầm cố và các khế ước ngân hàng, thuở họ còn đang nổi như cồn và sắp tới đỉnh cao của sự giàu có. Họ đã từng là các đồng bị cáo trong một vài vụ kiện tụng không thể nào gỡ nổi; cho tới vụ phá sản này. Kể từ sự ra đi của Patrick, họ đã cố gắng, bằng mọi cách có thể được, để chia tay nhau mà không nổi. Hai người trong số họ đã trở thành những kẻ nghiện rượu, thường uống ngay tại nơi làm việc sau những cánh cửa khóa chặt, nhưng không bao giờ uống cùng với nhau. Hai người kia còn đang trong giai đoạn phục hồi, vẫn còn chuếnh choáng chứ chưa hẳn tỉnh táo.

Hắn đã lấy tiền của họ. Ngót trăm triệu. Những khoản tiền mà họ đã tiêu pha từ lâu trước khi có trong túi, như kiểu các luật sư vẫn làm. Những khoản tiền được chi cho việc tân trang một cách xa xỉ tòa nhà làm việc của họ ở trung tâm Biloxi. Những khoản tiền chi cho các ngôi nhà mới, những du thuyền, những ngôi nhà nghỉ ở vùng Caribê. Chỗ tiền đó đã đang trên đường đến với họ, đã được chấp thuận, giấy tờ đã được ký, lệnh chuyển tiền đã được đưa ra; họ đã có thể nhìn thấy nó, ngửi thấy nó, hầu như sờ được vào nó thì người cộng sự đã chết kia của họ lại cuỗm mất ở giây phút cuối cùng.

Hắn đã chết. Họ chôn cất hắn hôm 11 tháng hai năm 1992. Họ đã chia buồn với người vợ góa và ghi tên hắn lên tiêu đề của Hãng. Vậy mà sáu tuần lễ sau, bằng cách nào đó, hắn đã đánh cắp được tiền của họ.

Họ đã cãi vã về chuyện nên trách cứ ai. Charles Bogan, cổ đông hàng đầu và là bàn tay sắt của Hãng, đã khăng khăng đòi chuyển số tiền đó tới một tài khoản mới ở nước ngoài, và sau một số thảo luận, ý kiến đó được cho là hay. Không thể nào cất giấu nổi số tiền chín mươi triệu đôla, trong đó Hãng được giữ lại một phần ba, ở Biloxi, một thành phố nhỏ chỉ có năm mươi nghìn dân. Ai đó ở nhà băng sẽ tiết lộ. Rồi thì tất cả mọi người sẽ biết. Cả bốn người đã thề giữ bí mật, thậm chí ngay trong khi mỗi người đều có kế hoạch phô trương sự giàu sang của mình. Họ còn đã bàn tới cả việc mua một chiếc máy bay phản lực, loại sáu chỗ ngồi, cho Hãng.

Vậv là Bogan đã nhận phần trách nhiệm của mình. Với tuổi bốn mươi chín, ông ta lớn nhất trong số bốn người, và vào lúc này, là người điềm tĩnh nhất. Ông ta cũng phải chịu trách nhiệm về việc đã tuyển dụng Patrick chín năm về trước, và ông ta hối tiếc về nó không phải là ít.

Doug Vitrano, luật sư chính của Hãng, đã có một quyết định oan nghiệt là đề nghị nhận Patrick làm cổ đông thứ năm. Ba người kia đã đồng ý và khi cái tên Lanigan được bổ sung vào tên của Hãng, trên thực tế là hắn đã tiếp cận được với mọi hồ sơ trong văn phòng. Bogan, Rapley, Vitrano, Havarac và Lanigan, Luật sư và Tư vấn pháp lý. Một quảng cáo lớn trên những trang vàng tuyên bố họ là “Những chuyên gia về các tổn thất ở nước ngoài." Chuyên gia hay không thì cũng giống như hầu hết các hãng khác, họ đều sẵn sàng nhận mọi việc nếu các khoản thù lao là béo bở.

Tất cả bọn họ đều trong độ tuổi giữa đến cuối bốn mươi. Havarac được người cha của ông ta nuôi dưỡng nhờ một chiếc tàu đánh bắt tôm. Ông ta hãnh diện với đôi bàn tay vẫn đầy chai của mình, và ước ao được tự tay bẻ gãy cổ Patrick. Rapley bị trầm uất một cách nghiêm trọng và hiếm khi rời khỏi nhà, nơi ông ta vẫn viết lách gì đó trong một căn phòng áp mái tối tăm.

Khoảng hơn chín giờ sáng, Bogan và Vitnino đang ở bàn làm việc của họ thì nhân viên đặc biệt Cutter bước vào tòa nhà trên phố Vieux Marche, trong khu phố cổ của Biloxi. Ông ta mỉm cười với cô nhân viên lễ tân và hỏi có luật sư nào trong văn phòng không. Đó là một câu hỏi bình thường. Họ đã có tiếng là mấy kẻ nghiện ngập thỉnh thoảng mới đến nơi làm việc.

Cô dẫn ông ta vào một phòng họp nhỏ và mang cà phê đến. Vitrano bước vào trước, trông có vẻ gọn gàng, mặt mũi tỉnh táo. Bogan theo sát ngay đằng sau. Họ khuấy đường trong cà phê và nói chuyện về thời tiết.

Trong những tháng ngay sau sự biến mất của Patrick và số tiền kia, Cutter thỉnh thoảng có ghé vào và thông báo đôi điều mới nhất về cuộc điều tra của FBI. Họ đã trở nên chỗ quen biết thân tình, dù rằng những cuộc gặp này luôn gây buồn bã. Khi thời gian không còn được tính bằng tháng mà bằng năm, những buổi thông báo tình hình này cũng trở nên thưa hơn, và bao giờ cũng có cùng một kết thúc: chưa thấy dấu tích của Patrick. Đã gần một năm kể từ khi Cutter nói chuyện với hai người bọn họ.

Bởi vậy, họ đồ chừng đơn giản là ông ta vẫn tử tế, ngẫu nhiên có chuyện gì đó ở trung tâm thành phố, hay có thể là muốn uống chút cà phê, và cuộc gặp này sẽ là bình thường và nhanh chóng.

Cutter nói, “Chúng tôi hiện đang giam giữ Patrick.”

Charlie Bogan nhắm mắt lại và há hốc mồm kêu lớn, “ Ôi, lạy Chúa,” rồi úp mặt vào hai lòng bàn tay. “ Ôi, lạy Chúa.”

Đầu Vitrano ngửa ra đằng sau, mồm cũng há hốc ra. Ông ta nhìn lên trần nhà với vẻ không thể nào tin nổi. “Hắn ở đâu rồi ?” Ông ta cố lắm mới hỏi được.

‘‘Hắn đang ở trong một căn cứ quân sự ở Puéctô Ricô. Hắn bị tóm ở Braxin."

Bogan đứng dậy và đi tới một góc phòng, cạnh mấy giá sách, giấu mặt vào đó và cố kìm lại những giọt nước mắt. “Ôi, lạy Chúa,” ông ta lặp đi lặp lại.

“ Ông có chắc đúng hắn không ?” Vitrano hỏi vẻ thiếu tin tưởng.

“Chắc."

“Nói thêm đi nào,” Vitrano giục.

“Về chuyện gì cơ chứ ?”

“Chẳng hạn như làm thế nào mà các anh tìm ra hắn? Và ở đâu ? Và hắn lúc đó đang làm gì ? Trông hắn thế nào ?”

“Chúng tôi không tìm thấy hắn. Hắn được trao cho chúng tôi.”

Bogan ngồi xuống bàn, chiếc khăn tay áp vào mũi. “Tôi xin lỗi,” ông ta lúng túng nói.

“Các ông có biết một người đàn ông tên là Jack Stephano không ?” Cutter hỏi.

Cả hai đều gật đầu với vẻ hơi miễn cưỡng.

“ Các ông có nằm trong cái tổ hợp nhỏ của lão ta không?”

Cả hai đều lắc đầu phủ nhận.

“May cho các ông đấy. Stephano tìm ra hắn, tra tấn hắn, thiếu chút nữa thì đã giết chết hắn, nhưng lão đã phải trao hắn lại cho chúng tôi.”

“Chuyện tra tấn nghe hay đấy,” Vitrano nói. “Kể lại cho chúng tôi nghe xem nào.”

“Bỏ qua chuyện đó đi. Chúng tôi nhận lại hắn đêm qua ở Paragoay, chở hắn về Puéctô Ricô. Hắn đang nằm trong bệnh viện ở đó. Hắn sẽ được ra viện và đưa về đây trong ít ngày tới.”

“Còn tiền thì sao ?" Bogan gắng gượng hỏi, giọng khản đi.

“Không có dấu hiệu gì. Nhưng mà chúng tôi chưa rõ Stephano biết những gì. ”

Vitrano nhìn chằm chằm xuống mặt bàn, mắt long sòng sọc. Patrick đã cuỗm theo chín mươi triệu đôla khi hắn biến đi bốn năm về trước. Không thể nào tiêu hết được chỗ tiền đó. Có thể là hắn đã tậu các biệt thự và máy bay lên thẳng, cùng cả đống đàn bà nhưng vẫn phải còn hàng chục triệu đôla. Chắc chắn là họ có thể tìm ra. Phần của Hãng là một phần ba.

Có thể, chỉ là có thể.

Bogan chớp chớp mắt và nghĩ tới người vợ cũ của ông ta, một người đàn bà tâm đầu ý hợp bỗng trở nên độc ác khi chuyện động trời này xảy ra. Cô ta cảm thấy nhục nhã vì vụ phá sản, và do vậy đã mang đứa con nhỏ nhứt của họ đi Pensarola, đệ đơn xin ly hôn và đưa ra những lời buộc tội xấu xa. Bogan đã uống rượu và dùng chất kích thích. Cô ta biết điều đó và dùng nó để chơi ông ta. Bogan không thể phản bác được gì nhiều. Sau cùng, ông ta cũng làm sáng tỏ được danh dự của mình nhưng vẫn bị từ chối quyền đến thăm đứa trẻ.

Thật trớ trêu. Bogan vẫn còn yêu người vợ cũ của mình, vẫn nghĩ tới việc đưa được cô ta trở về. Có thể là tiền bạc sẽ thu hút được sự chú ý của cô ta. Có thể có hy vọng. Chắc chắn là họ sẽ tìm ra.

Cutter phá vỡ sự im lặng. “Stephano đang gặp rắc rối to. Trên mình Patrick đầy những vết bỏng vì họ đã tra tấn hắn.”

“Được đấy,” Vitrano nói với một nụ cười.

“ Ông chờ đợi sự thông cảm từ chúng tôi ư ?" Bogan hỏi.

“Dù sao thì Stephano cũng là một vấn đề. Chúng tôi sẽ theo dõi lão, có thể lão sẽ dẫn chúng ta tới chỗ tiền kia."

“Sẽ dễ dàng tìm ra chỗ tiền kia thôi,” Vitrano nói. “Một cái xác chết nào đó. Ai đó đã bị Patrick giết. Một vụ phải chịu án tử hình, dứt khoát. Giết người vì tiền. Dưới sức ép đó thì Patrick sẽ phải khai ra.”

“Hay tốt hơn là giao hắn cho chúng tôi,” Bogan nói không hề cười. “Mười phút, và chúng ta sẽ biết mọi thứ.”

Cutter nhìn đồng hồ. " Tôi đi đây. Phải đến Point Clear báo tin này cho Trudy.”

Bogan và Vitrano không ai bảo ai cùng khịt khịt mũi, rồi cười phá lên. “Cô ả đó chưa biết ư?” Bogan hỏi.

“Chưa.”

“Hãy quay video lại,” Vitrano nói, cố nén cơn cười. “Tôi muốn được nhìn thấy mặt ả.”

" Tôi thực sự cũng đang muốn gặp chị ta.”

"Con chó cái ấy,” Bogan hằn học.

Cutter đứng lên và nói, “Hãy nói với các cổ đông khác, nhưng chờ đến trưa đã. Chúng tôi đã dự kiến tổ chức một cuộc họp báo vào lúc đó. Tôi sẽ liên lạc sau.”

Mãi lâu sau khi Cutter đã đi khỏi, họ vẫn không hề nói nửa lời. Có quá nhiều câu hỏi, quá nhiều điều để nói. Cả căn phòng như quay cuồng với bao nhiêu khả năng và bao nhiêu kịch bản khác nhau.

Là nạn nhân của một vụ tai nạn xe nghiệt ngã, trên một con đường vùng nông thôn chẳng có ai chứng kiến, Patrick đã được người vợ yêu quý của hắn, Trudy, an táng hôm 11 tháng Hai năm 1992. Chị ta là một góa phụ đầy hấp dẫn trong bộ đồ Armani màu đen, và trong khi người ta còn đang lấp đất lên trên quan tài hắn thì chị ta đã bắt đầu tiêu tiền.

Chúc thư của hắn, đơn giản và mới được sửa lại, đã để tất cả lại cho chị ta. Vài giờ trước đám tang, Trudy và Doug Vitrano đã thận trọng mở chiếc két trong phòng làm việc của Patrick và kiểm lại các thứ bên trong. Họ tìm thấy trong đó cái chúc thư, hai giấy chứng nhận sở hữu xe hơi, bản khế ước trả góp hàng năm cho ngôi nhà của gia đình Lanigan, một chứng nhận bảo hiểm sinh mạng với giá nửa triệu đôla mà Trudy có được biết, cùng một chứng nhận bảo hiểm khác với giá hai triệu đôla mà chị ta chưa bao giờ nghe nói đến.

Vitrano nhanh chóng xem xét tờ chứng nhận bảo hiểm bất ngờ này. Nó được Patrick mua từ tám tháng trước đó và Trudy là người được hưởng duy nhất. Cả hai khoản bảo hiểm này đều do cùng một hãng lớn, có khả năng thanh toán, bán ra. Chị ta thề là không hề biết gì về nó, và nụ cười trên gương mặt chị ta đã làm cho Vitrano tin rằng chị ta thực sự bị bất ngờ. Có đám tang hay không thì Trudy cũng hoàn toàn choáng váng trước khoản tiền kếch sù này. Và với nỗi đau giảm đi đáng kể, chị ta đã chịu đựng được suốt cả đám tang mà không đến nỗi suy sụp gì.

Hãng bảo hiểm kia gây khó dễ, như họ vẫn thường làm lúc thoạt đầu, thế nhưng Vitrano đã có những đe dọa đủ sức để buộc họ phải thanh toán. Bốn tuần sau lễ tang, Trudy đã lấy về được hai triệu rưỡi đôla cho mình.

Một tuần sau đó, chị ta lái một chiếc Rolls-Royce màu đỏ rực chạy quanh Biloxi và bắt đầu làm cho mọi người thấy ghét. Thế rồi khoản chín mươi triệu đôla kia biến mất tăm mất tích, và những lời đồn đại loan ra.

Có lẽ chị ta không phải là một góa phụ.

Patrick là đối tượng bị tình nghi đầu tiên, và sau cùng, duy nhất. Những lời đồn đại trở nên độc ác hơn, và bởi vậy, Trudy chất cả cô con gái nhỏ lẫn Lance, nguời bạn tình từ thời trung học của chị ta, lên chiếc Rolls-Royce và bỏ đi tới Mobile, cách Biloxi một giờ xe chạy về phía đông. Chị ta kiếm được một tay luật sư tinh quái và nhận được nhiều lời khuyên về việc bảo vệ đồng tiền của mình như thế nào. Chị ta mua một ngôi nhà cổ khá đẹp ở Point Clear, nhìn ra vịnh Mobile, và để Lance đứng tên.

Lance là một gã đàn ông hư hỏng nhưng đẹp trai và khỏe mạnh, người mà Truđy đã lên giường cùng từ hồi mười bốn tuổi. Gã đã bị kết tội buôn lậu ma túy ở tuổi mười chín và phải ngồi tù ba năm trong khi Trudy được hưởng một thời gian tuyệt vời ở trường cao đẳng, cầm đầu đám nữ sinh, quyến rũ các nam sinh trong đội bóng củạ nhà trường, tưng bừng trong các cuộc liên hoan và cuối cùng, vẫn tốt nghiệp với các phần thưởng. Chị ta cưới một người bạn học giàu có và ly dị hai năm sau đó. Chị ta đã hưởng thụ cuộc sống độc thân trong ít năm, cho tới khi gặp và cưới Patrick, một luật sư trẻ đầy triển vọng mới đến lập thân ở vùng bờ biển này. Cuộc tình của họ thừa đam mê nhưng thiếu chín chắn.

Suốt thời gian học cao đẳng, trong cả hai cuộc hôn nhân và với một loạt những chỗ làm việc ngắn ngủi khác nhau, Trudy vẫn luôn luôn giữ Lance kề bên. Gã là cả một sự đam mê, một gã đàn ông vạm vỡ, khỏe mạnh mà chị ta không bao giờ biết chán. Chị ta biết ngay từ cái lần đầu hồi mới mười bốn tuổi ấy rằng chị ta sẽ không bao giờ thiếu được gã.

Lance mở toang cánh cửa, ngực để trần, mớ tóc đen của gã được buộc túm lại đằng sau như một cái đuôi ngựa, và trên dái tai bên trái của gã là một cái hoa tai kim cương to tướng. Gã khinh bỉ nhìn Cutter cũng như vẫn khinh bỉ cả thế giới này, và không nói một lời.

“Trudy có nhà không ?" Cutter hỏi.

“Có lẽ có.”

Tấm thẻ được chìa ra, và trong tích tắc vẻ khinh bỉ kia biến mất. “Nhân viên đặc biệt Cutter, FBI. Trước đây tôi đã có nói chuyện với chị ta.”

Lance thường mua ma túy từ Mêhicô và đưa về bằng chiếc xuồng cao tốc loại lớn mà Trudy đã mua tặng. Gã bán lại số ma túy này cho một băng nhóm tội phạm ở Mobile. Công việc làm ăn chậm chạp bởi lẽ các nhà chức trách đang nghi vấn.

“Cô ấy đang ở phòng tập,” Lance vừa nói vừa hất hàm. “ Ông muốn gì ?”

Cutter phớt lờ gã và bước ngang qua lối đi tới một căn nhà để xe đã được sửa lại, nơi đang phát ra tiếng nhạc ầm ĩ. Lance lầm lì bước theo sau.

Trudy đang ở giữa một bài tập thể hình trước một siêu người mẫu trên cái màn hình TV cỡ lớn đặt ở cuối phòng. Chị ta nhảy nhót, xoay người và lẩm nhẩm lời của một bài hát trời ơi nào đó, và trông thật tuyệt vời. Không một chút mỡ thừa nào trên cái thân hình kia. Cutter có thể đứng thế này mà ngắm hàng giờ. Ngay cả những giọt mồ hôi của chị ta cũng thật long lanh.

Tập như vậy hai giờ một ngày và ở tuổi ba mươi lăm, Trudy trông vẫn giống như một cô nữ sinh trung học.

Lance nhấn một cái công tắc và đoạn băng video ngừng phát. Trudy quay lại, thấy Cutter, bèn ném cho ông ta một cái nhìn có lẽ sẽ làm một miếng phomát phải chảy ra. “ Ông có chuyện gì không ?" Chị ta gắt lên, rõ ràng là không muốn bài tập của mình bị ngắt quãng.

‘Tôi là nhân viên đặc biệt Cutter, FBI." ông ta nói, chìa thẻ ra và bước lại gần chị ta. “Chúng ta đã gặp nhau một lần cách đây vài năm."

“Tôi có thể làm gì cho ông ?”

“Tôi có tin tức tốt lành cho bà,” Cutter nói với một nụ cười thoải mái.

“Gì vậy ?"

“Chúng tôi đã tìm thấy chồng bà, thưa bà Lanigan, và ông ta còn sống.”

Một thoáng ngừng để thông tin này có thể được tiếp nhận. “Patrick ư?” Chị ta nói.

“Đúng là ông ta.”

“ Ông nói dối,” Lance nhếch mép.

“E là không phải như vậy. Ông ta đang bị tạm giữ ở Puéctô Ricô. Sẽ được đưa về đây trong khoảng một tuần nữa gì đó. Đơn thuần là chúng tôi cho rằng bà cần được biết tin vui này trước khi chúng tôi cho báo chí biết.”

Sững sờ và kinh ngạc, chị ta lùi lại và ngồi xuống một chiếc ghế băng đặt cạnh chiếc máy nâng. Làn da màu đồng tươi tắn của chị ta nhợt đi. Tấm thân mềm mại như rúm ró lại. Lance bước đến bên chị ta. “ Ôi, lạy Chúa,” chị ta lẩm bẩm.

Cutter ném tấm danh thiếp ra trước mặt họ. “Gọi cho tôi, nếu tôi có thể giúp gì được.” Họ không nói gì khi ông ta bỏ đi.

Cutter thấy rõ là chị ta không có chút giận dữ gì vì bị lừa dối bởi cái chết giả kia. Cũng không có dấu hiệu vui mừng nhỏ nhất nào đối với sự trở về của người chồng. Không một chút nhẹ nhõm thường thấy nào ở cuối một nỗi thống khổ.

Không gì cả ngoài sự sợ hãi: nỗi sợ phải mất tiền. Cái hãng bảo hiểm sinh mạng kia sẽ kiện ngay lập tức.

Trong lúc Cutter đang ở Mobile, một nhân viên đặc biệt khác từ văn phòng FBI ở Biloxi cũng đi tới nhà bà mẹ của Patrick ở New Orleans để thông báo tin này. Bà Lanigan quá xúc động, và nài nỉ khách ngồi lại cho bà hỏi han. Anh ta ở lại chừng một giờ nhưng không có gì nhiều để trả lời cho bà. Bà đã khóc vì vui mừng, và sau khi khách ra về, bà đã dành cả thời gian còn lại trong ngày để gọi điện báo cho bạn bè cái tin tuyệt vời là sau cùng thì con trai bà vẫn còn sống.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,854
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 6


Người dịch: Nguyễn Bá Long

Nhà xuất bản: NXB Văn học

Shared by: CCG -

Jack Stephano bị FBI bắt tại văn phòng của lão ở Oasinhtơn D.C. Lão bị giữ ba mươi phút trong phòng giam và rồi bị đưa đến một phòng xét xử nhỏ tại Tòa án Liên bang, nơi lão phải đối mặt với một thẩm phán Liên bang trong một cuộc thẩm vấn kín. Lão được thông báo rằng sẽ được thả ra ngay nếu tự nguyện chấp thuận là sẽ không rời khỏi địa phương và sẽ bị FBI theo dõi 24/24 giờ. Trong khi lão đang ở tòa án thì một nhóm các nhân viên đặc biệt đã ập vào văn phòng, tịch thu mọi hồ sơ, và cho những người làm của lão ra về.

Sau khi ra khỏi tòa án, Stephano được chở đến trụ sở FBI ở đại lộ Pennsylvania, nơi Hamilton Jaynes đang đợi lão. Khi còn lại hai người trong văn phòng của Jaynes, vị phó giám đốc đưa ra một lời xin lỗi tử tế về vụ bắt bớ này, nhưng nói rằng ông ta không còn lựa chọn nào khác. Nguời ta không thể không bắt giữ một kẻ bị Liên bang truy nã, đầu độc đối tượng, tra tấn, làm đối tượng suýt chết mà lại không bị kết vào tội gì.

Vấn đề là chỗ tiền kia. Vụ bắt giữ chỉ là đòn gây sức ép. Stephano thề là Patrick không hề khai ra điều gì.

Trong lúc họ trao đổi, cửa ra vào văn phòng của Stephano đã bị niêm phong lại và các thông báo của Liên bang được dán lên trên đó. Điện thoại tại nhà lão bị gắn thiết bị nghe trộm, trong khi bà Stephano đang còn mải chơi bài.

Sau cuộc gặp ngắn ngủi và không mang lại kết quả gì với Jaynes, lão được thả xuống gần Tòa án Tối cao. Do đã được lệnh không được lảng vảng đến văn phòng của mình, lão vẫy một chiếc tăcxi và bảo chở tới khách sạn Hay-Adams, góc phố H và phố 16. Lão ngồi trong xe, nhẫn nại đọc một tờ báo, thỉnh thoảng lại sờ sờ cái thiết bị theo dõi mà họ đã khâu vào nẹp chiếc áo khoác của lão. Đó là một cái máy phát nhỏ xíu nhưng cực mạnh được dùng để giám sát di chuyển của người, hàng hóa, thậm chí là cả xe cộ. Lão đã sờ lần trong lúc nói chuyện với Jaynes và lúc đó đã muốn dứt tung cái thiết bị này ra và quăng trả nó lên mặt bàn của ông ta.

Nhưng lão là một chuyên gia trong lĩnh vực theo dõi này. Lão nhét cái áo khoác xuống bên dưới ghế xe, rồi nhanh chóng đi vào khách sạn Hay-Adams, đối diện với công viên Lafayette. Được thông báo là không còn phòng, lão yêu cầu được gặp tay quản lý, một khách hàng cũ, và chỉ trong vòng vài phút lão đã được hộ tống lên một căn hộ ở tầng bốn, nơi mà từ đó có thể thấy toàn bộ quang cảnh Nhà Trắng. Lão cởi tuốt quần áo ra và cẩn thận đặt ngay ngắn từng thứ lên trên giường, kiểm tra kỹ càng từng phân vải một. Rồi lão gọi bữa trưa. Lão cũng gọi điện cho vợ nhưng không có ai trả lời.

Thế rồi lão gọi Benny Aricia, khách hàng của lão, người có chín mươi triệu đôla bị biến mất chỉ vài phút sau khi số tiền này được chuyển vào cái nhà băng ở Nassau. Phần của Benny là sáu mươi triệu, và ba mươi triệu còn lại thuộc về các luật sư của ông ta, Bogan, Vitrano và cái đám lừa đảo bẩn thỉu còn lại ở Biloxi. Thế nhưng, số tiền đã biến mất trước khi nó tới được tay Benny.

Ông ta đang náu mình ở khách sạn Willard, cũng gần với Nhà Trắng, chờ nghe tin tức từ Stephano.

Họ gặp nhau một giờ sau tại khách sạn Four Seasons ở Georgetown, trong một căn hộ mà Benny mới đặt trước đó một tuần.

Benny đã gần sáu mươi, nhưng trông trẻ hơn đến chục tuổi. Ông ta có một thân hình gọn gàng và nước da rám nắng của một tay nghỉ hưu giàu có ở Nam Florida do chơi gôn hàng ngày. Benny sống trong một căn nhà bên một con kênh đào ở Boca, cùng với một cô gái Thụy Điển trẻ trung chỉ bằng cỡ tuổi con gái mình.

Khi khoản tiền kia bị đánh cắp, hãng luật đó đang có một khoản bảo hiểm về các vụ lừa đảo và đánh cắp gây ra bởi các cổ đông và nhân viên của nó. Trò biển thủ là phổ biến trong các hãng luật. Khoản bảo hiểm đó, do công ty bảo hiểm Monarch-Sierra bán ra, có giới hạn tối đa là bốn triệu đôla và sẽ phải được trả cho hãng luật. Benny đã khởi kiện hãng luật với một nỗ lực rất lớn. Đơn kiện đòi sáu mươi triệu đôla; tất cả là thuộc về ông ta.

Do không còn mấy để mà thu hồi, và do hãng luật kia sắp phải ra tòa về vụ phá sản, Benny đành bằng lòng với khoản bốn triệu mà Monarch-Sierra trả. Ông ta đã tiêu gần một nửa số tiền đó vào việc tìm kiếm Patrick. Căn nhà mộng mơ ở Boca ngốn mất nửa triệu. Còn những chi tiêu khác ở chỗ này chỗ nọ, và Benny chỉ còn một triệu cuối cùng.

Ông ta đứng bên cửa sổ và nhấm nháp ly cà phê loại đã tách caphêin. “Liệu tôi có sắp sửa bị bắt không đấy ?" Benny hỏi.

“Có lẽ là không. Nhưng dù sao thì tôi vẫn khuyên ông thận trọng.”

Benny đặt ly cà phê xuống bàn và ngồi đối diện với Stephano. “Ông đã nói chuyện với các công ty bảo hiểm chưa?”

“Chưa. Tôi sẽ gọi sau. Đám các ông thì không sao đâu.”

Northern Case Mutual, cái hãng bảo hiểm làm cho Trudy trở nên giàu có kia, đã âm thầm bỏ ra nửa triệu đôla cho cuộc tìm kiếm. Monarch-Sierra bỏ ra một triệu. Tổng cộng, cái tổ hợp nhỏ bé của Stephano đã cam kết và thực chi hơn ba triệu đôla vào cuộc săn lùng Patrick.

“Có may mắn gì với con bé kia không ?” Benny hỏi.

“Chưa. Người của chúng tôi đang ở Rio. Họ đã tìm thấy bố con bé, nhưng lão ta không chịu nói. Với hãng luật của con ranh con cũng vậy. Họ nói nó vắng mặt ở thành phố vì công chuyện.”

Benny khoanh tay và ôn tồn nói, “Giờ thì cho tôi biết chính xác là hắn đã nói gì ?”

“Tôi còn chưa nghe cuốn băng. Theo dự kiến thì nó sẽ được chuyển đến văn phòng của tôi vào chiều nay, nhưng lúc này mọi chuyện đã trở nên phức tạp. Cũng xin nói thêm là nó được gửi đi từ vùng rừng rậm Paragoay đấy.”

“Điều đó thì tôi biết.”

"Theo Guy, hắn đã gục sau năm giờ bị tra điện. Hắn nói là số tiền vẫn chưa bị động đến, được cất giấu trong nhiều nhà băng khác nhau, nhưng hắn không thể nói ra được tên một nhà băng nào. Guy đã suýt giết chết hắn khi hắn không thể, hoặc giả là không chịu, nói tên các nhà băng kia. Nhưng lúc đó thì Guy đã cân nhắc, một cách đứng đắn, rằng có ai khác đó kiểm soát khoản tiền kia. Vài cú đòn nữa và cái tên con bé kia bật ra. Người của Guy lập tức liên lạc với Rio, và xác nhận được về nhân thân con bé. Có điều là nó đã biến mất.”

“Tôi muốn nghe cuốn băng đó.”

“Tàn bạo lắm, Benny. Da thịt của hắn bị thiêu đốt và hắn kêu váng lên.”

Benny không thể nào nén cười. “Tôi biết. Đó chính là thứ mà tôi muốn nghe.”

Họ đưa Patrick tới cuối một dãy nhà trong cái bệnh viện của căn cứ. Phòng của hắn là căn phòng duy nhất ở nơi đây mà người ta có thể khóa từ bên ngoài và cửa sổ thì không mở ra được. Những tấm rèm cửa được che kín. Hai lính gác ngồi ngay ngoài hành lang.

Các vết thương của Patrick là nghiêm trọng và đau khủng khiếp, và bởi vậy các bác sĩ của hắn, bốn người tất cả, đã có một quyết định đơn giản là liên tục tiêm thuốc ngủ cho hắn trong lúc này. Không việc gì phải vội vã đưa hắn đi đâu cả. Hắn là một kẻ bị truy nã, nhưng sẽ phải mất ít ngày để quyết định xem ai có quyền nhận hắn trước.

Họ giữ cho căn phòng tối, với một chút âm nhạc, túi truyền lúc nào cũng căng đầy và Patrick ngủ yên với một giấc ngủ không mộng mị, quên hẳn đi cơn bão tố đang gào thét chờ đợi mình.

Vào tháng Tám năm 1992, năm tháng sau khi khoản tiền kia biến mất, một Thẩm phán Liên bang ở Biloxi đã truy tố Patrick về tội ăn cắp. Có bằng chứng đủ cho thấy rằng hắn đã làm vụ này và không hề có một dấu hiệu, dù là nhỏ nhất nào rằng, còn có ai khác nữa đáng bị tình nghi. Vụ việc diễn ra vượt qua các đường biên giới quốc tế, bởi vậy quyền tài phán thuộc về Liên bang.

Văn phòng cảnh sát trưởng quận Harrison và văn phòng công tố viên địa phương đã tiến hành một cuộc điều tra chung về vụ giết người này, nhưng đã từ lâu chuyển sang các vấn đề khác cấp bách hơn. Nay đột nhiên, vụ việc đó lại trở lại với họ.

Cuộc họp báo vào buổi trưa bị hoãn lại trong khi các nhà chức trách họp tại văn phòng của Cutter ở trung tâm Biloxi. Đó là một cuộc họp căng thẳng, mà những người dự họp có các lợi ích xung đột với nhau. Ngồi bên này bàn là Cutter và FBI, những người nhận lệnh từ Maurice Mast, công tố viên Liên bang phụ trách khu vực miền tây Mississippi vừa từ Jackson đến. Bên kia bàn là Raymond Sweeney, cảnh sát trưởng quận Harrison và phụ tá của ông ta là Grimshaw, cả hai đều ghét cay ghét đắng FBI. Người đại diện cho họ là T.L.Parrish, công tố viên phụ trách quận Harrison và các quận xung quanh.

Đó là chuyện xung đột giữa Liên bang và bang, giữa ngân sách lớn và nhỏ, với những con người đầy cá tính ngồi quanh phòng và ai cũng muốn được phần lớn nhất trong vụ Patrick này.

“Điều quan trọng ở đây là phải dùng án tử hình,” Parrish nói.

“Chúng ta có thể dùng án tử hình của Liên bang,” Mast nói một cách rụt rè.

Parrish mỉm cười và hạ ánh mắt xuống. Án tử hình mới được thông qua gần đây bởi một cái Quốc hội không biết làm thế nào để thực hiện nó. Tất nhiên, cũng là điều tốt khi Tổng thống ký nó thành luật, thế nhưng còn quá nhiều trở ngại.

Mặt khác, bang lại có một truyền thống phong phú và đã được kiểm nghiệm trong việc thực thi các án tử hình. “Luật của chúng tôi tốt hơn,” Parrish nói. “Và tất cả chúng ta đều biết điều đó.” Parrish đã đưa tám phạm nhân vào danh sách tử tù. Mast thì còn chưa có cơ hội truy tố một ai về tội giết người.

“Và còn vấn đề nhà tù,” Parish tiếp tục. “Chúng tôi sẽ đưa hắn tới Parchman, nơi mà hắn sẽ bị giam hai mươi ba giờ mỗi ngày, trong một căn phòng ẩm ướt với hai bữa ăn tồi tệ, hai lần tắm một tuần, đầy gián muỗi và những kẻ hiếp dâm đồng tính. Nếu hắn vào tay quý vị, hắn sẽ có cả một câu lạc bộ ngoại ô cho quãng đời còn lại trong khi các tòa án Liên bang sẽ nuông chiều hắn và tìm ra cả nghìn cách để cho hắn được sống.”

“Sẽ không phải là một cuộc dã ngoại đâu,” Mast nói một cách đầy lúng túng và bị động.

“Thì có lẽ cũng là một ngày đi biển. Nào thôi, Maurice. Vấn đề là sức ép. Chúng ta có hai điều bí ẩn, hai vấn đề phải được giải đáp trước khi Lanigan nằm xuống. Vấn đề lớn là tiền. Nó ở đâu ? Hắn đã làm gì với số tiền đó ? Có thể thu hồi và trả lại được cho những người chủ của nó hay không ? Vấn đề thứ hai thì chính là chuyện ai đã được đem chôn ở đó. Tôi có linh cảm rằng chỉ có Lanigan mới có thể cho chúng ta biết, và hắn sẽ không nói trừ khi buộc phải nói. Phải làm cho hắn khiếp sợ, Maurice. Parchman thì kinh hoàng lắm. Tôi cam đoan với ngài rằng hắn đang cầu nguyện để được Liên bang truy tố đấy.”

Mast bị thuyết phục nhưng lại khó lòng mà đồng ý. Đơn giản là vụ này quá lớn, không thể trao cho tòa án địa phương được. Đám báo chí lúc này đang đổ xô đến đây.

“ Ông biết đấy, còn có những tội danh khác,” ông ta nói. “Vụ trộm cắp xảy ra ở bên ngoài lãnh thổ, cách đây rất xa.”

“Phải, nhưng nạn nhân là một cư dân của quận này vào thời điểm đó,” Parrish nói.

“Vụ này không đơn giản.”

“Ông muốn nói gì ?"

“Có lẽ là chúng ta nên làm chung, " Mast nói, và sự căng thẳng giảm đi đáng kể. Liên bang có thể ra đòn trước bất kỳ lúc nào, và việc vị công tố Liên bang đề nghị chia xẻ trách nhiệm là điều cao nhất mà Parrish có thể hy vọng.

Parchman là vấn đề cốt lõi và ai trong căn phòng này cũng biết điều này. Tay luật sư Lanigan kia hẳn phải biết điều gì đang đợi hắn ở đó, và khả năng sống mười năm ở cái địa ngục đó trước khi chết có thể làm cho hắn phải mở miệng.

Một kế hoạch được thảo ra để chia cái bánh và cả Parrish lẫn Mast đều ngầm thỏa thuận về việc chia xẻ sự phô trương. FBI sẽ tiếp tục cuộc tìm kiếm khoản tiền kia. Giới chức địa phương sẽ tập trung vào vụ giết người. Parrish sẽ nhanh chóng nhóm họp cái hội thẩm đoàn của ông ta. Một mặt trận thống nhất sẽ được ra mắt công chúng. Những vấn đề rắc rối như việc xét xử và những kháng cáo sau đó được bỏ qua với một lời hứa vội vã là sẽ đề cập sau. Điều quan trọng lúc này là tìm ra được một cuộc ngừng bắn để bên này khỏi phải lo ngại về bên kia.

Do một phiên xét xử đang diễn ra trong tòa nhà Tòa án Liên bang, đám báo chí được lùa ngang phố sang Tòa án Biloxi, nơi có thể sử dụng phòng xét xử chính nằm trên tầng hai. Có vài chục phóng viên. Hầu hết là đám địa phương, nhưng cũng có những người khác đến từ Jackson, New Orleans và Mobile. Họ chen lấn và túm tụm ở đằng trước giống như đám trẻ con trong một cuộc diễu hành.

Mast và Parrish nghiêm trang bước tới một bục gỗ trên có để sẵn các micrô, loằng ngoằng dây rợ. Cutter và nhóm cảnh sát còn lại đứng thành một hàng ngang sau lưng họ. Đèn bật sáng và các máy ảnh chụp lia lịa.

Mast hắng giọng và nói, “Chúng tôi hài lòng được thông báo việc đã bắt giữ ông Patrick S.Lanigan, một cựu công dân của Biloxi. Ông ta vẫn còn sống, và khỏe mạnh, và hiện đang ở trong tay chúng tôi.” Ông ta ngừng lời nhằm gây ấn tượng, thưởng thức khoảnh khắc tắm trong luồng hào quang của mình, lắng nghe những tiếng kêu đầy kích động và hồi hộp như của một bầy kền kền. Tiếp đó, ông ta nói thêm về một số chi tiết của vụ bắt giữ đó - Braxin, hai ngày trước, những giấy tờ tùy thân giả mạo - mà không để lộ bất kỳ một dấu hiệu nhỏ nhất nào rằng cả ông ta lẫn FBI đều không làm được trò vè gì trong việc thực sự tìm ra Patrick. Tiếp đó là vài chi tiết vô dụng về việc đưa tù nhân đến, những tội danh có thể có, bàn tay kiên quyết và nhanh chóng của pháp luật Liên bang.

Parrish không diễn giải nhiều như vậy. Ông ta đã hứa hẹn việc nhanh chóng khởi tố tội giết người, và về bất kỳ tội danh nào khác mà ông ta có thể tính đến.

Các câu hỏi dồn dập được đưa ra. Mast và Parrish từ chối bình luận về gần như mọi thứ, và liên tiếp từ chối như vậy trong khoảng một tiếng rưỡi đồng hồ.

*

**

Ả kiên quyết đòi cho Lance được có mặt trong suốt buổi gặp. Ả nói là cần gã. Trông gã rất chơi bời trong bộ đồ cộc bó chẽn. Đôi chân cuồn cuộn những bắp thịt của gã đầy lông lá và rám nắng. Viên luật sư cảm thấy kinh tởm, nhưng mà ông ta đã quá từng trải.

Trudy ăn mặc rất mốt — váy cộc bó chặt, chiếc áo blu màu đỏ khêu gợi, trang điểm kỹ càng và mang đầy đồ nữ trang. Ả bắt chéo cặp chân thon thả để thu hút sự chú ý của viên luật sư, và đặt tay trên vai Lance trong khi gã xoa nắn đầu gối ả.

Viên luật sư phớt lờ cả cặp chân đẹp lẫn cái trò vuốt ve kia.

Ả tuyên bố là cần phải đệ đơn xin ly hôn, điều mà ả đã nói vắn tắt trên điện thoại. Ả điên cuồng và chua chát. Làm sao hắn lại có thể làm điều này đối với ả ? Và đối với Ashley Nicole, đứa con gái yêu quý của họ nữa ? Ả đã yêu hắn say đắm. Cuộc sống của họ bên nhau đã từng tốt đẹp. Còn bây giờ thì chuyện như vậy.

“Việc ly hôn không phải là vấn đề,” viên luật sư nói, và không phải là lần đầu. Tên ông ta là J. Murray Riddleton, một chuyên gia về các vụ ly hôn với rất nhiều khách hàng. “Việc đó thật dễ dàng. Theo luật pháp bang Alabama, bà sẽ được ly hôn, có toàn quyền nuôi con, hưởng toàn bộ tài sản, tất cả.”

“Tôi muốn đệ đơn càng nhanh càng tốt,” ả nói.

“Tôi sẽ làm nó ngay vào buổi sáng mai.”

“Sẽ phải mất bao nhiêu thời gian ?”

“Chín mươi ngày. Một giấc ngủ trưa dài thôi.”

Điều này không làm giảm nhẹ được mối lo âu của ả. "Tôi không hiểu tại sao người ta lại có thể làm như vậy đối với người mà mình yêu quý. Tôi cảm thấy bị lừa dối.” Bàn tay của Lance xoa bóp nhè nhẹ ngược lên phía trên.

Chuyện ly hôn là chuyện nhỏ nhất trong những mối lo ngại của ả. Viên luật sư biết điều đó. Ả có thể đã cố tỏ ra đau đớn, nhưng điều đó không lừa được ai.

“Bà đã có được bao nhiêu tiền bảo hiểm sinh mạng ” Ông ta hỏi, tay lật lật đám hồ sơ.

Ả giật nảy mình và gắt lên, “Chuyện đó thì có liên quan gì ?”

“Bởi vì họ sắp sửa kiện bà để lấy lại số tiền đó. Ông ấy không có chết, thưa bà Trudy. Không chết, không có tiền bảo hiểm sinh mạng.”

“Ông đùa đấy à.”

“Không.”

“Họ không thể làm vậy. Đúng không ? Không thể nào.”

“Nào, nào. Thực sự là họ sẽ làm việc đó rất nhanh chóng đấy.”

Lance rụt tay lại và co mình trong chiếc ghế của gã. Trudy thì há hốc miệng với hai mắt ngân ngấn. “Họ không thể.”

Viên luật sư lấy ra một tập giấy tờ mới và mở nắp bút. “Chúng ta hãy lập một danh mục.”

Ả đã trả một trăm ba mươi nghìn đôla cho chiếc Rolls-Royce và vẫn còn đang sở hữu nó. Lance dùng một chiếc Porsche mà ả mua cho với giá tám mươi lăm nghìn. Ngôi nhà được mua với giá chín trăm nghìn, tiền mặt, không thế chấp gì, và đang đứng tên Lance. Sáu mươi nghìn cho chiếc xuồng để gã buôn lậu ma túy. Một trăm nghìn cho những đồ trang sức của ả. Họ tính toán với các con số. Sau cùng thì bản danh mục này dừng lại ở con số khoảng một triệu rưỡi. Viên luật sư không nỡ lòng nào mà nói rằng những tài sản quý giá này của họ sẽ phải ra đi đầu tiên.

Giống như trò nhổ răng mà không dùng tới thuốc giảm đau, ông ta buộc Trudy phải ước tính tới các khoản chi tiêu hàng tháng của họ. Ả tính rằng nó vào chừng mười nghìn một tháng, trong suốt bốn năm qua. Họ đã có những chuyến đi hoang phí và tiêu tiền như rác đến mức không hãng bảo hiểm nào còn có gì hòng thu hồi lại được.

Ả thất nghiệp, điều mà ả ưa gọi là nghỉ hưu. Lance thì hẳn sẽ không đề cập tới nghề buôn lậu ma túy của gã. Họ cũng chẳng dám lộ ra, cho dù là với luật sư của mình, rằng họ đã cất giấu ba trăm nghìn đôla trong một nhà băng ở Florida.

“Ông nghĩ là khi nào thì họ sẽ khởi kiện ?”

“Chỉ nội nhật tuần này,” viên luật sư đáp.

Trên thực tế thì việc khởi kiện đó xảy đến nhanh hơn nhiều. Vào giữa buổi họp báo, khi mà tin tức về sự sống lại của Patrick được công bố, các luật sư của công ty Northern Case Mutal đã lặng lẽ bước vào phòng tiếp nhận đơn khiếu kiện ở ngay tầng dưới và khởi kiện Trudy Lanigan để đòi lại toàn bộ hai triệu rưỡi đôla, cộng với lãi suất và tiền chi phí cho các luật sư. Đơn kiện này cũng bao gồm cả một yêu cầu xin tạm thời cấm Trudy di chuyển tài sản khi mà giờ đây ả đã không còn là một góa phụ nữa.

Các luật sư này mang yêu cầu đó của họ tới phòng của một thẩm phán, người mà họ đã có trao đổi trước đó vài giờ, và trong một cuộc điều trần kín khẩn cấp hoàn toàn thích đáng, vị thẩm phán này đã ban lệnh cấm di chuyển tài sản đối với Trudy. Là một thành viên có uy tín của cộng đồng pháp lý ở đây, vị thẩm phán này rất biết về vụ Patrick Lanigan. Vợ ông ta đã bị Trudy làm cho mất mặt ngay sau khi ả mua chiếc Rolls-Royce đỏ rực kia.

Trong lúc Trudy và Lance vừa sờ soạng nhau vừa bàn tính với viên luật sư của họ, một bản sao của cái lệnh cấm di chuyển tài sản kia được chuyển tới Mobile và trao cho viên thư ký tòa án quận. Hai giờ sau, trong lúc họ đang ngồi trước hiên nhà nhìn ra vịnh Mobile và nhấm nháp ly rượu đầu tiên thì một người chạy giấy đã vào đưa tận tay Trudy bản sao cái đơn kiện của công ty Northern Case Mutual, một trát gọi ra hầu tòa ở Biloxi, và một bản sao lệnh cấm di chuyển tài sản. Trong số những điều cấm của lệnh này, có điều cấm ả không được viết một tấm séc nào nữa cho đến khi tòa cho phép.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,854
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 7


Người dịch: Nguyễn Bá Long

Nhà xuất bản: NXB Văn học

Shared by: CCG -

Luật sư Ethan Rapley rời khỏi căn phòng áp mái tối tăm của mình, tắm rửa, cạo râu, nhỏ chút thuốc mắt vào hai con mắt đỏ mọng và vừa uống một ly cà phê đặc vừa tìm chiếc áo khoác màu xanh nước biển còn tạm sạch để mặc đi vào khu trung tâm thành phố.

Đã mười sáu ngày nay ông ta không đến văn phòng. Không ai nhớ đến ông ta và ông ta cũng chẳng nhớ đến bất kỳ ai ở đó. Họ gửi fax đến khi cần, và ông ta cũng trả lời bằng fax. Ông ta viết những báo cáo tóm tắt, những bản ghi nhớ và những khuyến nghị mà Hãng cần phải có để tồn tại, và ông ta làm việc này cho những người mà mình khinh bỉ. Đôi khi, ông ta cũng buộc phải thắt cavát để tiếp một khách hàng hay dự một cuộc hội họp ghê tởm nào đó với các đồng cổ đông. Ông ta căm ghét cái phòng làm việc của mình; căm ghét mọi người, thậm chí là cả những người mà ông ta không mấy quen biết; căm ghét các cuốn sách và mọi thứ hồ sơ trên bàn làm việc. Ông ta căm ghét những tấm ảnh treo trên tường phòng làm việc, ghét mọi thứ mùi - mùi cà phê ở hành lang, mùi mực gần cái máy photocopy, mùi nước hoa của các cô thư ký. Mọi thứ.

Vậy mà ông ta đã thấy mình gần như mỉm cười trên quãng đường chạy dọc theo bờ biển cuối chiều hôm đó, và gật đầu với một người quen cũ trong khi bước đi khá nhanh trên phố Vieux Marche, và cũng đã thực sự nói đôi câu với ngưòi nhân viên lễ tân, một cô gái mà một phần tiền lương là do ông ta trả nhưng lại không thể nào nhớ nổi tên họ của cô ta.

Trong phòng họp là một đám đông lộn xộn; hầu hết là các luật sư từ các văn phòng ở gần đó, một hay hai thẩm phán và một vài nhân viên tòa án. Lúc này đã là sau năm giờ chiều, và bầu không khí là thoải mái và vui vẻ. Khói xìgà ngập trong phòng.

Rapley tìm thấy rượu để trên một cái bàn ở cuối phòng, và vừa nói chuyện với Vitrano vừa rót một ly Scotch, cố tỏ ra vẻ thoải mái. Đầu phòng đằng kia, cả đống nước khoáng và nước giải khát có ga chẳng được ai màng tới.

“Cứ thế này suốt cả buổi chiều đấy,” Vitrano nói trong khi họ nhìn vào đám người và lắng nghe những lời trao đổi ồn ào. “Ngay sau khi có tin là cứ nhộn cả lên.”

Tin về Patrick đã loang trong cộng đồng pháp lý ở dọc bờ biển này trong một khoảng thời gian chỉ tính bằng phút. Đám luật sư thường ưa bàn tán, thêm thắt, và chuyện đi chuyện lại với một tốc độ kinh hoàng. Người ta nghe thấy những lời đồn đại, thu thập, và rồi thêm bớt. Hắn nặng chừng sáu mươi cân, nói được năm thứ tiếng. Tiền đã thấy. Tiền đã biệt tăm. Hắn sống trong cảnh nghèo túng. Hay là trong một biệt thự gì đó? Hắn sống có một mình. Hắn có một người vợ mới và ba đứa con. Họ biết tiền đang ở đâu. Họ không hề có một dấu vết gì. Thôi thì đủ cả.

Sau cùng thì tất cả những lời đồn đại đều nhắm vào khoản tiền kia. Khi đám bạn bè và những người tò mò tụ tập trong căn phòng họp bàn tán chuyện này chuyện nọ, tất cả rồi đều trở lại chuyện chỗ tiền kia. Trong đám đông này thì không có gì có thể được coi là bí mật. Từ cả mấy năm nay, mọi người đều biết là Hãng này có một phần ba trong số chín mươi triệu đôla bị mất. Và chỉ một cơ hội mỏng manh nhất của việc thu lại được số tiền đó cũng đủ đưa lại một đám bạn bè và những người tò mò đến uống với nhau một vài ly, cùng một câu chuyện, một lời đồn, một tin tức mới nhất và một câu nói muôn thuở, “Mẹ kiếp, tôi hy vọng là họ tìm ra chỗ tiền.”

Rapley mất hút vào trong đám đông với ly rượu thứ ba. Bogan nhấm nháp chút nước khoáng và nói chuyện với một vị thẩm phán. Vitrano đi vòng quanh, ra sức xác nhận hay phủ nhận chuyện này chuyện nọ. Havarac đứng trong một góc phòng với một tay phóng viên tòa án có tuổi, người đột nhiên cảm thấy ông ta là một kẻ không đến nỗi khờ khạo.

Rượu vẫn tràn trề khi màn đêm buông xuống. Những hy vọng tăng lên mãi và cùng với đó là cả những lời tầm phào được nhai đi nhai lại.

Patrick thật sự là tất cả tin tức trên truyền hình tối hôm đó của vùng bờ biển này. Không có mấy tin gì khác được đề cập đến. Đó là hình ảnh Mast và Parrish ngồi cứng người trước một loạt micrô, như thể là họ bị lôi tới đó trái với ý muốn của mình. Hình ảnh cận cảnh khung cửa ra vào phía trước của hãng luật kia, mà không có bình luận của bất kỳ ai trong đó. Một chút tư liệu về ngôi mộ của Patrick, cùng với những khả năng ảm đạm về điều gì đã có thể xảy ra đối với cái người xấu số đang nằm trong đó. Một chút hình ảnh thoáng qua về vụ tai nạn bốn năm về trước, quang cảnh hiện trường và xác chiếc Chevy Blazer cháy nham nhở của Patrick Lanigan. Không có bình luận nào của người vợ, của FBI, của cảnh sát trưởng hay của những người trong cuộc, nhưng lại quá nhiều những phỏng đoán phóng túng của các phóng viên.

Tin này cũng được đưa đậm ở New Orleans, Mobile, Jackson và thậm chí là Memphis. CNN đã nhặt được tin này vào khoảng giữa buổi tối và phát trên toàn quốc trong khoảng một giờ trước khi phát ra nước ngoài. Một câu chuyện thật ly kỳ tới mức không thể cưỡng lại được.

Lúc đó là gần bảy giờ sáng, giờ Thụy Sĩ, khi Eva thấy những hình ảnh này trong phòng khách sạn. Nàng đã ngủ thiếp đi sau lúc nửa đêm mà không tắt TV, và gà gà gật gật suốt đêm để chờ đợi tin tức về Patrick. Nàng mệt mỏi và sợ hãi. Nàng những muốn trở về nhà nhưng biết là không thể được.

Patrick còn sống. Hắn đã hứa với nàng cả trăm lần là họ sẽ không giết hắn nếu như họ có tìm được hắn. Và đó là lần đầu tiên nàng tin hắn.

Hắn đã nói với họ đến đâu ? Đó là vấn đề.

Hắn bị đánh đập đến thế nào ?

Nàng thầm thì một lời cầu nguyện và tạ ơn Chúa rằng Patrick vẫn còn sống.

Thế rồi, nàng lập một danh mục những việc phải làm.

*

**

Dưới cái nhìn hờ hững của hai người lính gác và sự giúp đỡ chút đỉnh của Luis, một anh chàng hộ lý người Puéctô Ricô, Patrick lê từng bước dọc theo hành lang với cặp chân để trần, mình mặc độc một chiếc quần cộc màu trắng của lính. Những vết thương của hắn cần tiếp xúc với không khí - chứ không phải là quần áo hay những lớp băng lúc này. Chỉ dầu xoa và ôxy. Hai bắp chân và đùi vẫn đau, còn đầu gối và cổ chân thì như muốn rụng sau mỗi bước đi.

Mẹ kiếp, hắn muốn cái đầu được tỉnh táo. Hắn sẵn sàng với nỗi đau đớn của các vết bỏng bởi vì nó làm cho đầu óc hắn tỉnh ra. Chỉ có Chúa mới biết những thứ hóa chất tệ hại gì đã được tiêm vào trong máu hắn suốt ba ngày qua.

Cuộc tra tấn kia là cả một đám sương mù dày đặc, khủng khiếp, nhưng giờ đây đang bắt đầu tan đi. Khi các hóa chất được phân giải và bị thải ra ngoài, hắn bắt đầu nhớ lại những tiếng kêu đau đớn đó. Hắn đã nói với họ những gì về chỗ tiền kia nhỉ ?

Hắn dựa vào bậu cửa sổ trong căngtin để trống chờ người hộ lý đi lấy ly nước mát. Biển ở cách xa chừng một dặm, và trong khoảng giữa từ nơi hắn đang đứng tới mép biển là những dãy trại lính. Hắn đang ở trong một thứ căn cứ quân sự gì đó.

Đúng, hắn đã thú nhận là chỗ tiền kia vẫn còn, hắn nhớ bởi vì những cú điện giật đã ngừng lại khoảnh khắc khi những lời này bật ra. Thế rồi, bây giờ nhớ lại thì dường như hắn đã ngất đi bởi vì rất lâu sau đó hắn mới tỉnh lại khi bị dội nước lạnh vào mặt. Hắn nhớ là dòng nước đó dễ chịu như thế nào, nhưng bọn họ không để cho hắn được uống.

Các nhà băng. Hắn suýt nữa đã mất mạng vì những cái tên của mấy cái nhà băng trời đánh nào đó. Với dòng điện khốc nghiệt quấn quanh người, hắn đã phải lần lại dấu vết của đống tiền đó, từ lúc đánh cắp nó khỏi Ngân hàng liên hiệp xứ Wales ở Bahama, tới một nhà băng ở Manta, rồi tới Panama, nơi mà không ai có thể tìm ra nó.

Một khi họ đã tóm hắn rồi thì hắn không còn biết tiền đang ở đâu nữa. Nó vẫn còn đó, tất cả, cộng với các khoản lãi suất, chắc chắn là hắn đã nói với bọn họ như vậy, giờ thì hắn nhớ, nhớ rất rõ bởi vì hắn đã tính, mẹ kiếp — họ biết là mình đánh cắp, biết là mình không thể nào tiêu tán hết được chín mươi triệu đôla trong vòng bốn năm - thế nhưng thật sự là hắn không biết chính xác số tiền đó ở đâu trong lúc da thịt hắn đang bị thiêu đốt.

Ngưòi hộ lý đưa cho hắn một lon xôđa và hắn nói cảm ơn bằng tiếng Bồ Đào Nha. Tại sao hắn lại nói bằng thứ tiếng này nhỉ?

Thế rồi, tất cả tối sầm lại, sau khi dấu vết của khoản tiền ngừng ở đó. “Ngừng ngay!” Ai đó từ góc phòng quát lên, một người mà hắn không hề nhìn thấy. Họ nghĩ là họ đã giết chết hắn với dòng điện kia.

Hắn không biết là đã bất tỉnh trong bao lâu. Rồi hắn tỉnh lại nhưng không nhìn thấy gì cả; mồ hôi, các thứ thuốc và những tiếng gào thét đã làm cho hắn trở nên mù lòa. Hay là do tấm vải bịt mắt ? Bây giờ thì hắn nhớ rằng đó có thể là một tấm vải bịt mắt, bởi vì bọn họ hình như sắp sửa dùng một trò tra tấn ác độc mới. Có thể là chặt đứt một phần thân thể. Và hắn đang nằm đó, trần truồng.

Một mũi tiêm nữa vào cánh tay. Đột nhiên tim hắn đập rộn lên và da thịt nhoi nhói. Kẻ tra tấn đã trở lại với cái đồ chơi nhỏ bé trên tay hắn. Patrick lại nhìn được. Nào, ai giữ tiền? Anh ta hỏi.

Patrick uống một ngụm xôđa. Ngưòi hộ lý tha thẩn gần đó, mỉm cười vẻ dễ chịu theo lối mà anh ta vẫn đối xử với mọi bệnh nhân. Hắn đột nhiên thấy muốn ói, mặc dù đã ăn rất ít. Đầu hắn nhẹ bẫng và quay cuồng, nhưng hắn vẫn cố đứng vững để máu có thể lưu thông và hắn có thể vẫn còn suy nghĩ được. Hắn tập trung nhìn vào một chiếc tàu đánh cá xa xa phía chân trời.

Họ đã làm cho hắn ngất đi mấy lần, muốn được biết những cái tên. Hắn đã gào lên. Họ đã gắn một cực điện vào bìu hắn và nỗi đau tăng lên một cách khủng khiếp, Thế rồi, hắn lại ngất đi.

Patrick không thể nhớ nổi. Hắn tuyệt nhiên không nhớ nổi giai đoạn cuối cùng của cuộc tra tấn. Thân thể hắn nóng như thiêu. Hắn đã cận kề bên cái chết. Hắn đã gọi tên nàng, nhưng có phải chỉ là gọi thầm hay không ? Giờ đây nàng đang ở đâu ?

Hắn buông rơi lon xôđa và vội đưa tay ôm choàng lấy người hộ lý.

*

**

Stephano đợi cho đến một giờ sáng trước khi rời khỏi nhà. Lão lái chiếc xe của vợ chạy dọc đoạn phố tối trước nhà, giơ tay vẫy chào hai tay nhân viên đặc biệt đang ngồi trong một chiếc xe van đậu ở ngã tư. Lão lái chậm lại để họ có thể quay xe và bám theo. Cho tới lúc lão vượt qua cầu Arlington Memorial thì ít nhất cũng có hai chiếc xe “hộ tống” phía sau.

Đoàn xe nhỏ này băng qua những phố vắng ngắt tới Georgetown. Stephano có cái lợi thế là biết bản thân mình đang đi đâu. Lão quặt phải đột ngột từ phố K vào phố Wisconsin và rẽ vào phố M. Lão đậu xe bất hợp lệ một cách nhanh nhẹn, và đi bộ nửa khúc phố tới khách sạn Holiday Inn.

Lão dùng thang máy đi lên tầng ba, nơi Guy đang đợi trong một căn hộ sang trọng. Lần đầu tiên trở về Mỹ sau nhiều tháng trời nhưng anh ta đã ngủ rất ít trong ba ngày qua. Stephano cũng nôn nóng không kém.

Có sáu cuộn băng, tất cả đều được dán tên và đặt gọn gàng trên bàn, cạnh một cái máy ghi âm chạy bằng pin. "Các phòng kế bên đều trống không,” Guy vừa nói vừa chỉ tay về cả hai phía. “Bởi vậy, ông có thể nghe với âm lượng đủ lớn.”

“Tôi nghĩ chắc là ghê sợ lắm,” Stephano nói, mắt liếc nhìn đống băng.

“Khủng khiếp. Tôi sẽ không bao giờ làm trò này nữa.”

“Bây giờ thì anh có thể đi.”

“Tốt quá. Tôi sẽ ở bên dưới trong trường hợp ông cần đến.”

Guy ra khỏi phòng. Stephano gọi một cú điện thoại, và một phút sau đó, Benny Aricia gõ cửa. Họ gọi cà phê đen, và dành cả phần còn lại của đêm hôm đó để nghe những tiếng gào thét của Patrick trong cánh rừng ở Paragoay.

Đó là giờ phút thư thái nhất của Benny.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,854
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 8


Người dịch: Nguyễn Bá Long

Nhà xuất bản: NXB Văn học

Shared by: CCG -

Nếu nói ngày hôm đó là ngày của Patrick trên báo chí thì cũng là chưa hết lời. Tờ nhật báo Bờ biển không đăng gì trên trang nhất, ngoài những tin về Patrick.

LANIGAN TỪ CÕI CHẾT TRỞ VỀ

Đó là dòng tít lớn với những chữ in đậm. Bốn bài với không dưới sáu tấm ảnh choán hết trang nhất tờ báo và còn tiếp tục ở các trang trong. Hắn cũng chiếm phần quan trọng trên trang nhất các báo ở New Orleans, thành phố quê hương hắn, và ở Jackson, Mobile, Memphis, Birmingham, Baton Rouge, còn báo chí Atlanta cũng đăng những tấm ảnh của Patrick trước đây cùng với những bài nhỏ trên trang nhất.

Suốt cả buổi sáng, hai chiếc xe truyền hình luôn túc trực bên ngoài ngôi nhà của bà mẹ hắn ở Gretna, một vùng ngoại ô của New Orleans. Bà không có gì để nói, và được bảo vệ bởi hai người đàn bà hăng hái ở cuối phố, thay phiên nhau canh chừng đám kền kền.

Đám báo chí cũng tụ tập gần cửa trước ngôi nhà của Trudy ở Point Clear, nhưng bị Lance, ngồi dưới bóng cây với một khẩu súng ngắn, buộc phải giữ một khoảng cách nhất định. Trong chiếc áo đen bó chặt, quần đen và đôi giày cao cổ cũng đen, hắn trông rất giống với một tên lính đánh thuê. Thế nhưng, hắn chỉ giữ bộ mặt cau có. Trudy trốn biệt trong nhà với Ashley Nicole, cô bé sáu tuổi này không được mẹ đưa đi học ở trường.

Họ kéo tới trước văn phòng hãng luật ở trung tâm thành phố và chờ đợi bên hè đường. Hai nhân viên bảo vệ lực lưỡng, mới được đưa tới đây, từ chối không cho họ vào bên trong.

Họ lảng vảng xung quanh văn phòng cảnh sát trưởng, và văn phòng của Cutter, cũng như bất kỳ chỗ nào khác mà họ thoáng đánh hơi thấy điều gì đó. Một người trong bọn họ nhận được tin báo và họ kéo lại phòng làm việc của viên thư ký tòa án kịp lúc để thấy Vitrano, trong bộ complê màu xám bảnh bao nhất, trao cho viên thư ký một văn kiện mà ông ta nói là đơn kiện của Hãng đối với Patrick S.Lanigan. Đơn giản là Hãng muốn lấy lại phần tiền của mình, và Vitrano hoàn toàn sẵn sàng thảo luận vấn đề này với báo chí chừng nào mà ông ta còn thấy có người nghe mình.

Đó quả là một buổi sáng của những kiện tụng. Viên luật sư của Trudy đã tiết lộ cái tin giật gân là vào lúc mười giờ sáng, ông ta sẽ đến văn phòng thư ký tòa án ở Mobile để nộp một lá đơn xin ly hôn. Ông ta đã làm công việc của mình một cách đáng khâm phục. Dẫu rằng đã cả nghìn lần nộp những lá đơn xin ly hôn, nhưng đây là lần đầu tiên ông ta làm việc này trước một nhóm phóng viên truyền hình. Cuối cùng, ông ta cũng miễn cưỡng đồng ý trả lời phỏng vấn. Lý do của vụ ly hôn là việc bị bỏ rơi, và lá đơn tố cáo mọi loại tội lỗi ghê tởm.

Tin đồn lan nhanh về vụ kiện ngày hôm trước, trong đó công ty Northern Case Mutual kiện Trudy Lanigan để đòi lại hai triệu rưỡi đôla. Hồ sơ của tòa án bị soi mói để tìm kiếm các chi tiết. Các luật sư có liên quan bị dò hỏi. Một tiết lộ chỗ này, một lời nói vô tình chỗ kia, và chẳng mấy chốc, cả chục phóng viên đã biết rằng Trudy không được viết một tấm séc nào nữa, dù chỉ là để trả tiền chợ, nếu không được phép của tòa án.

Hãng Monarch-Sierra muốn đòi lại bốn triệu đôla và tất nhiên là cả tiền lãi cùng chi phí cho các luật sư nữa. Các luật sư của hãng ở Biloxi vội vã cùng nhau khởi kiện hãng luật để đòi lại số tiền bảo hiểm đã phải chi ra và kiện Patrick về tội lừa đảo. Và như đã trở thành thông lệ, báo chí được rỉ tai, và hàng chục bản sao đơn kiện này đã được tung ra chỉ ít phút sau khi nó được nộp lên tòa án.

Không có gì ngạc nhiên là Benny Aricia muốn lấy lại được chín mươi triệu đôla của ông ta từ tay Patrick. Luật sư mới của ông ta, một tay rất khoa trương, lại có một lập trường khác trong việc đối xử với báo chí. Tay luật sư này tổ chức một cuộc họp báo vào lúc mười giờ sáng, và mời tất cả mọi người vào căn phòng họp rộng thênh thang của y để thảo luận về mọi khía cạnh tầm thường có liên quan tới yêu sách của thân chủ của y trước khi y đệ đơn kiện. Thế rồi, y mời đám bạn bè mới trong giới báo chí cùng đi bộ tới tòa án để nộp đơn, vừa đi vừa nói liên hồi.

Vụ bắt giữ Patrick Lanigan đã gây ra một mớ công việc pháp lý ở vùng bờ biển này nhiều hơn bất kỳ một vụ việc nào khác trong lịch sử gần đây.

*

**

Trong lúc công việc ở Tòa án quận Harrison quay cuồng gần như phát rồ, mười bảy thành viên của hội thẩm đoàn lặng lẽ đi vào một căn phòng không có biển đề gì cả trên tầng hai của tòa nhà. Họ đã nhận được những cú điện thoại khẩn cấp trong đêm của chính ông ủy viên công tố quận T.L.Parrish. Họ biết nội dung của cuộc họp này. Họ uống cà phê và ngồi vào những chiếc ghế đã được dành riêng cho mình quanh chiếc bàn dài. Họ sốt ruột, thậm chí là nôn nóng muốn được lọt ngay vào giữa cơn bão.

Parrish chào hỏi và xin lỗi về cuộc họp khẩn cấp này, rồi quay ra hoan nghênh cảnh sát trưởng Sweeney và tay điều tra viên chính của ông ta, Ted Grimshaw, cùng nhân viên đặc biệt Joshua Cutter. “Có vẻ là chúng ta đột nhiên đứng trước một vụ giết người mới tinh,” ông ta vừa nói vừa mở một tờ báo buổi sáng. “Tôi tin rằng tất cả quý vị đều đã đọc bài này.” Tất cả cùng gật đầu.

Đi lại chậm rãi dọc theo bức tường, với một cặp hồ sơ trong tay, Parrish thuật lại những điểm chính: Lai lịch Patrick; việc hãng luật của hắn đại diện cho Benny Aricia; cái chết giờ đã được biết là giả mạo của Patrick; đám tang của hắn; hầu hết các chi tiết mà họ đã đọc thấy trong tờ báo mà Parrish ném trên bàn.

Ông ta để mọi người chuyền nhau xem những bức ảnh chụp chiếc Blazer cháy rụi của Patrick, cảnh hiện trường sáng hôm sau khi không còn chiếc xe ở đó nữa, cảnh đám cây cỏ cháy nham nhở. Và hoàn toàn đột ngột, Parrish chìa ra những tấm ảnh màu cỡ 18/24 chụp thi thể của nạn nhân duy nhất trong chiếc Blazer.

"Tất nhiên, chúng ta đã từng nghĩ đó là Patrick Lanigan,” ông ta nói với một nụ cười. “Giờ đây, chúng ta biết là mình đã nhầm.”

Không có cái gì ở cái khối đen thui đó có thể gợi ý rằng đó là thi hài của một con người. Không phân biệt được một phần thân thể nào, ngoại trừ một mẩu xương nhợt nhạt nhô ra mà Parrish trịnh trọng giải thích là một phần khung xương chậu. “Xương chậu của con người,” ông ta nhấn mạnh để ngừa trường hợp các hội thẩm của ông ta nhầm lẫn và tưởng rằng có lẽ Patrick đã giết chết một con lợn hay một con gì đó.

Các hội thẩm đều hiểu rõ, chủ yếu là vì không thấy gì mấy từ những tấm ảnh kia. Không có máu me be bét gì cả. Không có gì để phải cảm thấy ghê sợ. Tất cả đều đã bị thiêu rụi.

“Tất nhiên, đây là một vụ cháy xăng,” Parrish giải thích. “Chúng ta biết là Patrick đã đổ đầy bình xăng ở cách đó tám dặm, vậy là hai mươi galông xăng đã bùng nổ. Nói tóm lại, nhân viên điều tra của chúng ta đã lưu ý rằng ngọn lửa có vẻ nóng và dữ dội một cách khác thường.”

“Có tìm thấy mảnh của bất kỳ thứ bao đựng gì đó trong xe không ?” Một hội thẩm hỏi.

“Không. Những bao nilông luôn được dùng trong những đám cháy như thế này. Những bao đựng sữa hoặc những bao chống đóng băng có vẻ được đám thủ phạm loại này ưa chuộng. Chúng không để lại một dấu vết nào. Chúng ta luôn thấy điều đó, dù rằng là hiếm hoi trong một vụ cháy xe.”

“Các thi thể cũng luôn luôn ở tình trạng tồi tệ như thế này ư ?” Một hội thẩm khác hỏi.

Parrish đáp nhanh, “Không, thực sự là không. Nói thẳng là tôi chưa bao giờ nhìn thấy một cái xác bị đốt cháy đến thế này. Chúng tôi hẳn sẽ cố gắng khai quật, nhưng, như quý vị có thể đã biết, thi hài này đã bị hỏa thiêu.”

“Có mong manh biết đó là ai không ?” Ronny Burker, một công nhân ở bến tàu, hỏi.

“Chúng tôi có nghĩ đến một người, nhưng mới chỉ là phỏng đoán.”

Còn những câu hỏi về điều này điều khác, không có ý nghĩa gì mà chỉ là những tò mò với hy vọng được biết thêm điều gì đó từ cuộc họp này mà báo chí đã không nói tới. Họ nhất trí biểu quyết truy tố Patrick về tội giết người, hành vi phạm tội xảy ra trong khi thực hiện một hành vi tội phạm khác, cụ thể là tội đánh cắp. Có thể trừng phạt với án tử hình, bằng cách tiêm thuốc độc, tại nhà tù bang ở Parchman.

Chỉ trong vòng chưa đầy hai mươi tư giờ, Patrick đã bị truy tố với án tử hình, bị đưa ra tòa đòi ly hôn, bị kiện về chín mươi triệu đôla bởi Aricia, bị kiện về ba mươi triệu đôla bởi chính các cổ đông trong hãng luật của hắn và bị kiện về bốn triệu đôla cùng mười triệu đôla tiền phạt bởi hãng bảo hiểm Monarch-Sierra.

Hắn biết tất cả, nhờ CNN.

Các công tố viên, T.L.Parrish và Maurice Mast, lại một lần nữa đứng trước các ống kính máy thu hình và cùng nhau tuyên bố, mặc dù Liên bang không có liên quan gì tới vụ truy tố này, rằng các công dân lương thiện của quận Harrison, qua hội thẩm đoàn của mình, đã nhanh chóng đưa ra những lời buộc tội đối với Patrick Lanigan, một kẻ giết người. Họ lảng tránh những câu hỏi mà họ không thể trả lời, chộp lấy những câu mà họ có thể, và ngụ ý một cách rõ ràng rằng sẽ còn có thêm những lời buộc tội khác.

Khi đám truyền hình đã bỏ đi, hai người lặng lẽ có một cuộc gặp với Karl Huskey, một trong ba vị thẩm phán của quận Harrison, và cũng là một người bạn gần gũi của Patrick, trước khi hắn “biến đi”. Các vụ kiện tụng thường phải được phân bổ một cách ngẫu nhiên, thế nhưng Huskey, cũng như các thẩm phán khác, biết cách phải thao túng tay thư ký tiếp nhận khiếu kiện như thế nào để có thể thụ lý hoặc không thụ lý một vụ án cụ thể. Lúc này, Huskey muốn thụ lý vụ Patrick.

*

**

Trong lúc một mình đang ăn miếng xanđuých ở trong bếp, Lance chợt thấy cái gì đó vụt qua ở đằng sân sau, gần bể bơi. Gã chộp lấy khẩu súng ngắn, nhẹ nhàng ra khỏi nhà, quành sau đám bụi cây trước hiên, và phát hiện ra một tay săn ảnh đang ngồi chồm hỗm bên căn phòng thay quần áo với ba cái máy ảnh to tướng lủng lẳng trước ngực. Lance, hờm sẵn súng trong tay, rón rén tiến lại cách sau lưng người kia chừng chưa đầy một mét. Hắn áp tới, kề khẩu súng vào gần đầu anh chàng với cái nòng súng chĩa lên trời và bóp cò.

Tay săn ảnh ngã sấp mặt về đằng trước, kêu váng, và đè nghiến lên mấy cái máy ảnh. Lance đá túi bụi vào chỗ giữa hai đùi nạn nhân của gã, và vẫn tiếp tục đá khi tay kia xoay ngửa người lên và sau cùng cũng nhận ra được kẻ tấn công.

Lance giật lấy ba cái máy ảnh và quẳng chúng xuống nước. Trudy đứng ở trong nhà nhìn ra, sợ hãi. Lance quát ả gọi cho cảnh sát.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,854
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 9


Người dịch: Nguyễn Bá Long

Nhà xuất bản: NXB Văn học

Shared by: CCG -

“Bây giờ tôi sẽ nạo bỏ lớp da chết,” ngưòi bác sĩ nói và nhẹ nhàng thăm dò vết thương trên ngực Patrick với một dụng cụ có đầu nhọn. “Tôi thật sự nghĩ rằng anh nên cần tới một chút thuốc giảm đau.”

“Không, xin cảm ơn,” Patrick nói. Hắn đang ngồi trên giường, trần truồng, trong lúc một bác sĩ, hai y tá và Luis, anh chàng hộ lý người Puéctô Ricô, bận rộn xung quanh.

“Sẽ đau đấy, Patrick,” người bác sĩ nói.

“Tôi đã trải qua những thứ khủng khiếp hơn. Vả lại, ông sẽ còn làm tôi đau vào đâu được ?” Hắn vừa hỏi vừa nâng cánh tay trái lên. Đầy những vết tím bầm do tay bác sĩ người Braxin kia đã hành hạ hắn. Toàn thân hắn đầy những vết bầm và những vết sẹo. “Còn thuốc thì thôi ”

“Cũng được. Tùy ý anh.”

Patrick ngả người ra và nắm chặt lấy hai bên thành giường. Các cô y tá và Luis giữ hai cổ chân hắn trong khi người bác sĩ bắt đầu nạo lớp da bị bỏng độ ba trên ngực hắn. Với lưỡi dao mổ, ông ta tách lớp da chết ra khỏi vết thương và cắt bỏ nó đi.

Patrick nghiến răng và nhắm mắt lại.

“Một mũi tiêm chứ hả, Patrick ?” Người bác sĩ hỏi.

“Không,” hắn gằn giọng.

Thêm những đường dao. Thêm những lớp da chết.

“Những vết thương này đang lành lại rất tốt, Patrick. Tôi có ý nghĩ rằng rốt cuộc thì có lẽ anh cũng không cần đến việc ghép da đâu.”

“Tốt quá,” hắn nói và lại nghiến chặt hai hàm răng.

Bốn vết bỏng là khá nghiêm trọng đủ để xếp vào độ ba; hai ở ngực, một bên đùi trái và một ở bắp chân phải. Những vết dây trói nghiến trên các cổ tay, khuỷu tay và cổ chân vẫn còn tấy và được bôi kín bằng thuốc mỡ.

Người bác sĩ kết thúc công việc sau khoảng nửa giờ, và có lời khuyên rằng tốt nhất là hắn nên nằm bất động, không quần áo hay băng bó gì, ít nhất là trong lúc này. Ông ta bôi lên một chút mỡ kháng sinh, và một lần nữa đưa ra đề nghị dùng thuốc giảm đau. Patrick cũng lại một lần nữa từ chối.

Người bác sĩ cùng hai cô y tá đi ra, và Luis cũng bước theo vài bước đủ để tiễn họ. Sau đó, anh ta đóng cửa lại và kéo những tấm rèm xuống. Từ bên dưới vạt áo choàng trắng, anh ta lấy ra một chiếc máy ảnh hiệu Kodak có đèn chớp, loại dùng một lần.

“Bắt đầu ở đó,” Patrick nói, tay chỉ về phía cuối giường. “Chụp lấy toàn thân, kể cả mặt tôi nhé.” Luis giơ chiếc máy ảnh lên trên đầu, loay hoay, lùi vào sát tường, rồi nhấn nút. Đèn nhoáng lên.

“Lại đi, vẫn từ đó,” Patrick chỉ đạo.

Luis làm theo. Thoạt đầu, anh ta không muốn dính vào việc này, nói rằng phải xin ý kiến sếp của mình. Tuy nhiên, sống trên vùng biên giới Paragoay, Patrick không chỉ đã hoàn thiện được vốn tiếng Bồ Đào Nha, mà còn cũng đã học được tương đối khá tiếng Tây Ban Nha. Hắn có thể hiểu gần như mọi điều mà Luis nói còn Luis thì khó khăn hơn trong việc hiểu Patrick.

Ngôn ngữ của đồng tiền đã thắng thế, với việc sau cùng Luis hiểu ra rằng anh ta được đề nghị làm công việc của một người thợ ảnh để đổi lấy năm trăm đôla. Anh ta đồng ý đi mua ba chiếc máy ảnh loại dùng một lần, chụp gần một trăm kiểu, mang phim đi rửa hôm sau lấy, giấu chúng ở xa bệnh viện cho tới khi có yêu cầu tiếp theo.

Patrick không có năm trăm đôla trong người, nhưng hắn đã thuyết phục được Luis rằng hắn là một người lương thiện, bất chấp những gì mà anh ta có thể đã nghe được về hắn, và rằng hắn sẽ gửi trả số tiền đó ngay khi nào hắn về được tới nhà.

Luis không phải là một thợ ảnh, nhưng cái trong tay anh ta cũng lại chẳng phải là một chiếc máy ảnh ghê gớm gì. Patrick điều khiển từng kiểu chụp. Có những kiểu cận cảnh chụp các vết bỏng nghiêm trọng trên ngực và đùi hắn, có những kiểu toàn cảnh lấy từ mọi góc độ. Họ làm việc rất nhanh chóng để khỏi bị bắt gặp. Đã gần tới giờ đi thăm bệnh của các nữ y tá với những biểu theo dõi và những tiếng líu lo không ngớt.

Luis rời bệnh viện vào giờ nghỉ ăn trưa và quẳng những cuốn phim vào một hiệu ảnh.

Tại Rio, Osmar đã thuyết phục được một nữ thư ký lương thấp tại hãng luật của Eva nhận một nghìn đôla tiền mặt để đổi lấy tất cả những lời bàn tán hiện có trong nội bộ hãng. Không có gì nhiều. Các cổ đông dường như hoàn toàn im lặng. Tuy nhiên, các lưu trữ về liên lạc điện thoại cho thấy có hai cú điện thoại gọi từ một số máy ở Zurich tới Hãng. Đó là một khách sạn, Guy xác định từ Oasinhtơn, nhưng không có thêm được thông tin gì khác. Những người Thụy Sĩ rất kín đáo.

Các cổ đông của Hãng không còn kiên nhẫn được với sự mất tăm mất tích của nàng. Sự bàn tán thầm thì của họ nhanh chóng biến thành các cuộc họp hàng ngày về việc phải làm gì. Nàng có gọi một lần trong ngày đầu tiên, một lần trong ngày thứ hai, thế rồi im bặt. Không thể nào kiểm chứng được về người khách hàng bí ẩn mà nàng đã bay đi để gặp. Trong khi đó, các khách hàng đàng hoàng của nàng đang đưa ra những đòi hỏi và những đe dọa. Nàng đã lỡ hẹn, lỡ các cuộc gặp và lỡ các thời hạn.

Sau cùng, họ quyết định tạm thời đưa nàng ra khỏi danh sách nhân viên của Hãng và sẽ xử trí sau khi nàng trở về.

Osmar và người của anh ta đã hù dọa cha của Eva đến mức ông già tội nghiệp không thể nào ngủ được. Họ giám sát ngay ngoài hành lang căn hộ của ông, bám theo ông trên đường và dọc theo hè phố đông đúc của Ipanema. Đã có những ý định bắt cóc ông, hành hạ ông một chút và bắt ông phải nói, thế nhưng ông đã cảnh giác và không bao giờ để mình bị dồn vào chỗ vắng vẻ.

Cho tới lần thứ ba mò tới phòng ngủ của Trudy, sau cùng Lance thấy là cửa không chốt. Gã nhẹ nhàng bước vào với một viên Valium nữa và chai nước khoáng ưa thích của ả ta, loại nhập khẩu từ Ailen, giá bốn đôla một chai, ngồi xuống bên giường và không nói một lời, chìa viên thuốc ra. Ả ta bỏ nó vào miệng, lần thứ hai trong vòng một giờ, và uống nước.

Chiếc xe cảnh sát chở theo tay săn ảnh khốn khổ đã rời đi cách đó một giờ. Hai viên cảnh sát còn ở lại thêm chừng hai mươi phút, hỏi han vài câu, chẳng sốt sắng muốn buộc tội gì bởi vì vụ việc liên quan đến tài sản tư nhân, báo chí đã được yêu cầu tránh xa, và dù sao chăng nữa thì tạp chí của tay kia lại là một tờ báo không đứng đắn ở tuốt luốt trên mạn miền Bắc. Đám cảnh sát này có vẻ như thông cảm, thậm chí còn kính trọng cái cách mà Lance đã xử lý. Họ được cho biết tên viên luật sư của Trudy trong thành phố, ngừa trường hợp có những tố cáo. Lance đe dọa sẽ đưa ra những tố cáo của chính gã nếu gã bị lôi ra tòa.

Trudy cáu cẳn sau khi họ bỏ đi. Ả ta ném những cái gối từ trên chiếc xôpha vào lò sưởi trong khi người vú em ôm đứa nhỏ chạy ra ngoài. Ả buông ra những lời tục tằn với Lance bởi vì gã là đối tượng ở gần nhất. Tất cả chẳng qua chỉ là vì quá nhiều chuyện - tin tức về Patrick, vụ kiện của hãng bảo hiểm, lệnh cấm của tòa án, đám chim ăn xác thối chầu chực ngoài kia, và rồi vụ Lance hành hung tay săn ảnh ngoài bể bơi.

Nhưng lúc này thì Trudy đã yên lặng. Lance cũng uống một viên Valium, và thở phào nhẹ nhõm khi thấy ả bình tĩnh lại. Gã muốn động vào ả, vuốt ve cái đầu gốỉ và nói một lời âu yếm gì đó, thế nhưng gã biết kiểu đó không bao giờ có tác dụng trong những trường hợp như thế này. Một cử chỉ không đúng là ả sẽ lại gắt lên. Rồi sẽ nguôi đi, nhưng là theo cái cách của chính ả mà thôi.

Trudy ngả người trên giường, mắt nhắm lại, vắt tay ngang trán. Căn phòng mờ tối, cũng giống như cả phần còn lại của ngôi nhà do những rèm cửa được kéo kín. Có cả trăm người đang lảng vảng ngoài kia, chụp ảnh và quay những thước phim để sử dụng cùng những câu chuyện đáng ghét về Patrick. Vào tầm trưa, ả nhìn thấy ngôi nhà của mình trên chương trình thời sự truyền hình của địa phương, với một mụ đàn bà ngu ngốc mặt nom như quả cam và những cái răng to tướng đang nói về Patrick thế này, Patrick thế kia và về lá đơn ly hôn mà vợ của Patrick đưa ra tòa ngay trong buổi sáng hôm đó.

Vợ của Patrick! Cái ý nghĩ đó làm cho Trudy không thể chịu nổi. Ả đã không còn là vợ của hắn gần bốn năm rưỡi nay. Ả đã chôn cất chồng đâu vào đấy, rồi cố quên hắn đi trong lúc chờ đợi khoản tiền bảo hiểm. Nhận xong tiền thì hắn chỉ còn là một ký ức mờ nhạt.

Khoảnh khắc đau đớn duy nhất đã đến khi ả ngồi xuống với Ashley Nicole để thông báo với đứa trẻ mới có hai tuổi đầu rằng cha nó không còn nữa, rằng cha nó đã đi tới chốn thiên đường, nơi mà nhất định là cha nó có được hạnh phúc hơn. Đứa trẻ sững ra một lúc và rồi lập tức quên khuấy. Không ai được phép nhắc đến tên Patrick trước mặt Ashley. Mẹ nó giải thích là để bảo vệ cho nó. Con bé không nhớ tới cha, vậy thì xin đừng buộc nó phải nhớ.

Ngoài chuyện đó ra, Trucỉy đã mang cái gánh nặng góa phụ với một lòng kiên cường đáng kể. Ả đi mua sắm ở New Orleans, đặt mua những thực phẩm tốt từ California, đổ mồ hôi hai giờ một ngày trong phòng tập thể dục, lui tới những thẩm mỹ viện đắt giá để chăm sóc cho gương mặt và thân thể mình. Trudy cũng thuê một vú em cho đứa trẻ để có thể cùng Lance đi đây đi đó. Họ yêu thích vùng Caribê, nhất là hòn đảo St.Barts với những bãi tắm truồng của nó, nơi họ có thể cởi hết ra và vênh váo với đám người Pháp.

Nôen ở New York, tại khách sạn Plaza. Tháng Giêng lại ở Vail với đám người đẹp và giàu có. Tháng Năm có thể là Paris và Viên. Họ thèm muốn một chiếc máy bay phản lực riêng giống như một số con người tuyệt vời mà họ đã gặp trong cái giới ăn chơi này. Một chiếc Lear cũ có thể mua được với giá một triệu đôla, nhưng giờ thì không còn thể nào tính đến chuyện đó.

Lance nói là gã đang nghĩ về điều này, và bất kỳ khi nào gã trở nên nghiêm túc về chuyện làm ăn là Trudy lại lo ngại. Ả biết gã buôn lậu ma túy, nhưng chỉ là mấy thứ nhảm nhí từ Mêhicô và không nguy hiểm cho lắm. Họ cần phải có tiền, và thỉnh thoảng ả cũng muốn hắn ra khỏi nhà.

Trudy không ghét Patrick, lẫn cả cái người chết kia. Ả chỉ ghét cái sự thật là hắn ta không chết, rằng hắn đã sống lại và trở về làm đảo lộn mọi thứ. Ả gặp hắn lần đầu tiên trong một bữa tiệc ở New Orleans, đúng vào thời gian mà ả đang hờn giận Lance và muốn tìm một người chồng, nhất là một người có tiền và có triển vọng. Lúc đó, ả hai mươi bảy, đã trải qua bốn năm hôn nhân tồi tệ và muốn có sự ổn định. Hắn ta ba mươi ba, còn độc thân và sẵn sàng cho đời sống gia đình. Hắn vừa mới nhận một chỗ làm việc tại một hãng tử tế ở Biloxi, nơi ả sống lúc đó. Sau bốn tháng tình ái liên miên, họ cưới nhau ở Giamaica. Ba tuần sau tuần trăng mật, Lance đã lẻn vào căn hộ mới của họ và qua đêm ở đó trong khi Patrick đi công chuyện vắng.

Trudy không thể để mất chỗ tiền đó, chắc chắn là thế. Viên luật sư của ả cần phải làm một việc gì đó, tìm ra một kẽ hở pháp lý nào đó để ả có thể giữ lại được tiền. Đó chính là việc mà ông ta được trả công để làm. Tất nhiên là cái hãng bảo hiểm kia không thể lấy đi ngôi nhà, đồ đạc, xe cộ và quần áo, các tài khoản nhà băng, cái xuồng và những thứ xa xỉ mà ả đã mua bằng đồng tiền ấy. Đơn giản là điều đó không công bằng. Patrick đã chết. Ả đã chôn cất hắn và đã là một góa phụ từ hơn bốn năm nay. Điều đó phải có giá của nó.

Việc hắn còn sống không phải là lỗi của ả.

“Em biết không, chúng ta phải giết hắn,” Lance nói trong khung cảnh nửa sáng nửa tối. Gã chuyển sang ngồi trên cái ghế đệm đặt giữa giường và cửa sổ, chân duỗi dài ra.

Trudy không nhúc nhích, không hề có vẻ ngần ngại gì, nhưng suy tính trong một giây trước khi lên tiếng, “Đừng có ngu ngốc.” Ả nói với vẻ không mấy quả quyết.

“Không còn lựa chọn nào khác, em biết đấy.”

“Chúng ta đang đủ rắc rối rồi.”

Ngoài hơi thở đều đều, tay ả vẫn để nguyên trên trán, mắt nhắm, hoàn toàn bất động, và lòng vui mừng rằng Lance đã nêu vấn đề. Tất nhiên, chính ả cũng đã nghĩ tới điều này ngay chỉ ít phút sau khi được biết rằng Patrick đang trở về. Ả đã dượt đi dượt lại nhiều kịch bản khác nhau, tất cả đều chỉ dẫn đến cùng một kết luận không thể nào khác: để giữ lại được tiền, Patrick phải chết một lần nữa. Rốt cuộc thì đó là tiền bảo hiểm cho sinh mạng của hắn.

Ả không thể giết hắn; đó là điều trớ trêu. Thế nhưng Lance thì khác. Hắn có nhiều mốỉ quen biết ám muội với thế giới ngầm.

“Em muốn giữ lại được tiền, phải không nào?" Gã hỏi.

“Lúc này em không thể nghĩ tới chuyện đó, Lance. Có thể là một lúc nào khác.” Ả không thể tỏ ra sốt sắng, nếu không Lance sẽ lập tức bị kích động. Như thường lệ, ả sẽ thao túng gã, từ từ đưa gã vào một âm mưu ma quỷ để khi gã nhận ra thì đã quá muộn.

“Không thể chờ đợi quá lâu đâu em. Mẹ kiếp, cái hãng bảo hiểm kia đã bắt đầu siết cổ chúng ta rồi.”

“Nào, Lance.”

“Không còn cách nào khác. Em muốn giữ được ngôi nhà này, tiền bạc, mọi thứ chúng ta có, vậy thì hắn ta phải chết.”

Ả im lặng hồi lâu, khoan khoái với những lời nghe được. Cho dù chỉ có một nửa cái đầu và nhiều khiếm khuyết khác, Lance là gã đàn ông duy nhất mà ả thực sự đem lòng yêu. Gã đủ tàn bạo để lo chuyện Patrick, thế nhưng liệu gã có đủ thông minh để khỏi bị tóm không?

Tên của tay nhân viên đặc biệt đó là Brent Myers, từ văn phòng Biloxi, do Cutter phái đến để tiếp xúc với đối tượng của họ. Anh ta tự giới thiệu và chìa tấm thẻ ra trước mặt Patrick, người khó mà kịp nhìn gì trên đó trong khi tay còn đang với cái điều khiển TV. “Rất hân hạnh,” hắn vừa nói vừa kéo mền phủ lên trên chiếc quần cộc.

“Tôi từ văn phòng ở Biloxi tới,” Myers nói, cố tỏ ra dễ chịu.

“Chỗ đó ở đâu nhỉ ?” Patrick hỏi, mặt lạnh như tiền.

“Chà, tôi nghĩ là chúng ta cần làm quen. Chúng ta sẽ còn phải gặp nhau nhiều trong vài tháng tới.”

“Đừng có chắc như vậy.”

“ Ông có luật sư riêng không ?”

“Chưa.”

“Ông có ý định thuê không ?”

“Đó tuyệt nhiên không phải là việc của ông.”

Myers hiển nhiên không thể đối đáp lại được với một luật sư từng trải như Lanigan. Anh ta tì tay xuống đầu giường và nhìn chằm chặp vào hắn, vẻ hăm dọa. “Bác sĩ nói là ông có thể sẵn sàng cho việc di chuyển trong hai ngày nữa.”

“Ra vậy. Tôi đã sẵn sàng rồi.”

“Sẽ có cả một cuộc liên hoan đang đợi ông ở Biloxi đấy.”

“Tôi có thấy,” Patrick nói và hất hàm về phía chiếc TV.

“Tôi không cho là ông muốn trả lời một vài câu hỏi.”

Patrick xì mũi khinh bỉ trước cái gợi ý lố bịch đó.

“Tôi nghĩ là vậy,” Myers nói, và bước một bước về phía cửa. “Dù sao chăng nữa thì tôi cũng sẽ hộ tống ông trở về.” Anh ta ném lại một tấm danh thiếp lên mặt giường. “Đây là số máy ở khách sạn của tôi, nếu như ông có muốn nói chuyện."

“Đừng có chờ máy.”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,854
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 10


Người dịch: Nguyễn Bá Long

Nhà xuất bản: NXB Văn học

Shared by: CCG -

Sandy McDermott đọc rất chăm chú những bài viết về vụ tìm ra người bạn cũ từ hồi ở trường luật của mình. Sandy và Patrick đã học và chơi với nhau suốt ba năm ở Tulane. Họ giúp việc cho cùng một viên thẩm phán, sau khi tốt nghiệp, và đã có nhiều giờ ngồi với nhau trong cái quán ưa thích của họ ở phố Charles để bàn tính kế hoạch tiến sâu vào thế giới pháp lý. Họ sẽ cùng nhau xây dựng một hãng luật — một hãng nhỏ nhưng hùng mạnh của những luật sư đắt giá với phẩm hạnh hoàn hảo. Họ sẽ trở nên giàu có, và sẽ hiến mười giờ một tháng cho những khách hàng không thể có tiền để trả. Tất cả đều đã được tính toán.

Cuộc đời đã can thiệp vào kế hoạch của họ. Sandy nhận một chân phụ tá công tố viên Liên bang, chủ yếu là bởi đồng lương cao và anh lại mới cưới vợ. Patrick thì mất tăm mất tích trong một cái hãng có tới hai trăm luật sư ở trung tâm New Orleans. Hôn nhân cũng không đến với hắn bởi hắn làm việc tới tám mươi giờ một tuần.

Kế hoạch về một hãng nhỏ hoàn hảo ấy kéo dài cho đến khi họ bước vào tuổi ba mươi. Bất kỳ khi nào có thể, họ lại cố gắng gặp nhau - trong bữa ăn trưa vội vàng hay cùng uống một chút gì đó, dù rằng các cuộc gặp mặt và các cú điện thoại ngày một thưa đi theo năm tháng. Thế rồi, Patrick bỏ đi kiếm một cuộc sống yên ổn hơn ở Biloxi, và họ đã không nói chuyện được với nhau nổi một lần, từ lâu rồi.

Một vụ vớ bở lớn của Sandy trong nghề thày cãi diễn ra khi bạn của một người anh em họ bị thương trên một dàn khoan dầu ở ngoài khơi vùng Vịnh, và trở nên tàn tật. Sandy vay mười nghìn đôla, tiến hành một vụ làm ăn riêng, kiện Exxon và thu được gần ba triệu đôla, trong đó giữ lại một phần ba cho mình. Vậy là anh đã vào cuộc. Không có Patrick, anh gây dựng một hãng luật nhỏ với ba luật sư, chuyên về những thương tật và chết chóc ngoài khơi.

Khi Patrick chết, Sandy đã ngồi xuống bên cuốn lịch và nhận ra rằng đã chín tháng qua mình không hề trò chuyện với bạn. Tất nhiên là Sandy thấy áy náy về chuyện đó, thế nhưng anh lại cũng là người có đầu óc thực tế. Giống như hầu hết những người bạn học khác, đơn giản là họ đã đi theo những con đường riêng của mình.

Anh đã có mặt bên Trudy suốt lễ tang, và chung tay khiêng quan tài ra mộ.

Khi khoản tiền kia biến mất sáu tuần lễ sau đó, và những lời xầm xì bắt đầu, Sandy đã cười phá lên với mình và cầu mong cho bạn may mắn. Chạy đi, Patrick, chạy đi, anh đã nghĩ vậy bao lần trong bốn năm qua, và luôn luôn với một nụ cười.

Văn phòng của Sandy ở ngay phố Poydras, trong một tòa nhà đẹp thời thế kỷ XIX mà anh mua được sau một vụ khiếu kiện. Sandy cho thuê tầng hai và tầng ba, giữ tầng trệt cho bản thân mình và hai cộng sự, ba người giúp việc cùng dăm bảy cô thư ký.

Sandy đang rất bận khi cô thư ký bước vào với bộ mặt bực dọc và nói, “Có một quý cô đến để gặp ông.”

“Cô ta có hẹn không ?” Sandy hỏi và đưa mắt nhìn tấm lịch công việc trong ngày, trong tuần và trong tháng đặt ở mép bàn.

“Không. Cô ta nói là chuyện gấp. Cô ta không chịu đi. Chuỵện về Patrick Lanigan.”

Anh nhìn cô thư ký với vẻ dò hỏi. “Cô ta tự giới thiệu là một luật sư,” cô thư ký nói tiếp.

“Cô ta từ đâu tới ?”

“Braxin.”

“Braxin à ?”

“Vâng.”

“Trông có giống người Braxin không ?"

“Tôi đoán là đúng.”

“Đưa cô ta vào.”

Sandy đón nàng ở cửa và chào hỏi nồng nhiệt. Eva nói tên nàng là Leah, và không gì thêm.

“Tôi không nghe được tên họ của cô,” Sandy nói, mặt vẫn tươi cười.

‘Tôi không dùng họ,” nàng đáp. “Chưa thì đúng hơn.”

Hẳn là một điều riêng có ở Braxin, Sandy nghĩ. Giống như Pelé, tay cầu thủ bóng đá. Chỉ có độc tên mà không có họ.

Sandy đưa nàng tới chiếc ghế ở góc phòng và gọi cà phê. Nàng hơi cúi người, từ từ ngồi xuống. Anh liếc nhanh cặp chân nàng. Nàng ăn mặc bình thường, không có gì gây chú ý. Anh ngồi đối diện nàng, ngang qua chiếc bàn dùng uống cà phê, và chú ý tới cặp mắt nàng - một cặp mắt đẹp, phớt nâu, nhưng đầy vẻ mệt mỏi. Mái tóc đen dài của nàng buông xuống quá vai.

Patrick luôn có con mắt sành sỏi. Trudy thì không xứng đôi, nhưng cô nàng này thì chắc hẳn có thể làm người đi đường phải dừng lại.

“Tôi tới đây thay mặt cho Patrick,” nàng nói, thoáng chút ngập ngừng.

“Anh ta bảo cô đến ư ?" Sandy hỏi.

“Vâng, đúng thế.”

Nàng nói chậm rãi, lời lẽ mềm mại và giọng rất nhẹ.

“Cô đã học ở Mỹ à ?” Anh hỏi.

“Vâng. Tôi có bằng luật của trường Georgetown. "

Điều đó giải thích cho thứ tiếng Anh kiểu Mỹ gần như hoàn hảo của nàng.

“Và cô hành nghề ở đây chứ ?”

“Trong một hãng luật ở Rio. Công việc của tôi là thương mại quốc tế.”

Nàng vẫn chưa nở nụ cười nào và điều đó làm cho Sandy phiền lòng. Một người khách từ xa đến. Mà khách lại là một cô gái xinh đẹp, có đầu óc, và một cặp chân tuyệt vời. Anh muốn nàng được thư giãn với bầu không khí nồng ấm trong văn phòng của mình. Dù sao chăng nữa thì đây cũng là New Orleans.

“Đó là nơi cô đã gặp Patrick à ?”

“Vâng, ở Rio.”

“Cô có liên lạc với anh ta kể từ... ”

“Không. Kể từ khi anh ấy bị người ta bắt ” Thiếu chút nữa thì nàng đã nói thêm rằng nàng lo lắng đến tuyệt vọng về hắn, nhưng có lẽ nói vậy không phải là thích hợp. Nàng không muốn bộc lộ nhiều ở đây; không bộc lộ gì về mối quan hệ của nàng với Patrick. Sandy McDermott có thể là đáng tin cậy, nhưng phải chuyển thông tin cho anh ta với nhũng liều lượng thích hợp.

Một thoáng tạm ngừng trong khi cả hai người đều nhìn đi chỗ khác, và linh tính mách bảo Sandy rằng còn nhiều chương nữa mà anh ta sẽ không bao giờ đọc dược trong câu chuyện này. Thế nhưng, à phải, những câu hỏi ! Hắn ta đã đánh cắp số tiền đó bằng cách nào? Làm sao hắn tới được Braxin ? Hắn đã quen biết với cô nàng như thế nào ? Và cái câu hỏi lớn: Chỗ tiền đó đang ở đâu ?

“Vậy tôi được giúp gì cô đây?” Sandy hỏi.

“Tôi muốn thuê ông, cho Patrick.”

“Sẵn sàng.”

“Lòng tin là điều cần thiết.”

“Luôn là thế.”

“Chuyện này khác.”

Đúng thế. Khác ở chỗ nó liên quan tới chín mưdi triệu đôla.

" Tôi bảo đảm với cô rằng bất kỳ điều gì cô và Patrick nói với tôi sẽ được giữ kín tuyệt đối,” Sandy nói với cái cười trấn an và nàng cũng cố đáp lại bằng một nụ cười rất nhẹ.

“Có thể ông sẽ bị bức bách để tiết lộ những bí mật của khách hàng,” nàng nói.

“Tôi không lo ngại về điều đó. Tôi có thể tự bảo vệ mình.”

“Ông có thể bị đe dọa.”

“Trước đây tôi đã từng bị đe dọa.”

“Ông có thể bị theo dõi.”

“Bởi ai vậy ?”

“Những kẻ rất tàn bạo.”

“Ai cơ ?”

“Những kẻ săn lùng Patrick.”

“Tôi nghĩ là họ đã bắt được anh ấy rồi."

“Đúng, nhưng tiền thì chưa.”

‘Tôi hiểu.” Vậy là tiền vẫn ở đâu đó: không có gì đáng ngạc nhiên, về điều này thì Sandy, cũng như bất kỳ ai khác, đều hiểu rằng Patrick không thể nào tiêu hết số tiền đó trong vẻn vẹn có bốn năm trời. Nhưng mà còn lại bao nhiêu ?

“Tiền đang ở đâu ?” Sandy uớm hỏi, không hề chờ đợi một câu trả lời.

“Ông không thể hỏi câu hỏi đó được ?”

“Thì tôi đã vừa hỏi.”

Leah mỉm cười, và nhanh chóng tiếp tục. “Chúng ta hãy dàn xếp một số chi tiết. Tiền phải trả cho ông là bao nhiêu ?”

“Định thuê tôi vào việc gì ?”

“Biện hộ cho Patrick.”

“Về những tội gì ? Theo như báo chí, sẽ phải mất cả một sư đoàn các luật sư để làm việc đó”.

“Một trăm nghìn đôla ?”

“Đủ cho những bước khởi đầu. Tôi sẽ phải làm cả về mảng dân sự lẫn hình sự phải không?”

“Tất cả.”

“Chỉ mình tôi sao ?”

“Phải. Anh ấy không muốn một luật sư nào khác.”

“Tôi rất xúc động,” Sandy nói một cách thật lòng. Có đến hàng tá luật sư mà lúc này Patrick có thể nghĩ đến, những luật sư có tiếng tăm hơn và nhiều kinh nghiệm về các án tử hình hơn, những luật sư quen biết lớn ở vùng bờ biển, những luật sư trong các hãng lớn hơn với nguồn tài lực hùng hậu hơn, và hẳn là không nghi ngờ gì, còn cả những luật sư từng là bạn bè gần gũi hơn so với Sandy trong tám năm qua.

“Được, tôi nhận lời,” Sandy quả quyết. “Patrick là bạn cũ, cô biết đấy.”

“Tôi biết.”

Cô ta biết đến mức nào ? Sandy thầm nghĩ. Phải chăng nàng không chỉ là một luật sư?

“Tôi muốn chuyển tiền đến trong ngày hôm nay,” nàng nói. “Nếu như ông có thể cho tôi những chỉ dẫn về việc này.”

‘Tất nhiên. Tôi sẽ chuẩn bị một hợp đồng cho các dịch vụ pháp lý.”

“Còn một vài vấn đề khác mà Patrick lo ngại. Một là về dư luận. Anh ấy muốn ông không nói gì với báo chí hết. Không bao giờ. Không một lời. Không họp báo gì cả trừ phi chính anh ấy tán thành. Thậm chí không cả cái câu không bình luận nữa.”

“Không có vấn đề gì.”

“Ông không được viết sách về chuyện này sau khi vụ việc chấm dứt.”

Sandy thực sự cười phá lên, nhưng nàng không thấy có gì đáng cười. “Tôi không nghĩ đến chuyện đó.”

“Anh ấy muốn điều đó được ghi vào hợp đồng.”

Sandy bặt tiếng cười và ghi lại vào sổ. “Còn gì nữa không ?”

“Còn, ông có thể tính tới việc văn phòng và nhà ở của ông bị nghe trộm. Ông cần thuê một chuyên gia về theo dõi để bảo vệ cho ông. Patrick sẵn sàng trả tiền cho việc này.”

“Xong."

“Và tốt nhất là chúng ta sẽ không gặp lại nhau ở đây nữa. Có những người đang muốn tìm kiếm tôi, bởi vì họ nghĩ là tôi có thể dẫn họ tới chỗ tiền kia. Do vậy, chúng ta sẽ gặp nhau ở những nơi khác.”

Không có gì để Sandy có thể nói về chuyện này. Anh muốn giúp đỡ, muốn che chở, muốn hỏi nàng xem nàng sẽ đi đâu và ẩn trốn thế nào, thế nhưng có vẻ như mọi việc đều hoàn toàn nằm dưới sự kiểm soát của Leah.

Nàng nhìn đồng hồ. “Có một chuyến bay đi Miami sau ba giờ nữa. Tôi có hai vé hạng nhất. Chúng ta có thể nói chuyện trên máy bay.”

“Chà, tôi phải đi đâu vậy ?”

“Ông sẽ bay tiếp đi San Juan, để gặp Patrick. Tôi đã dàn xếp.”

“Còn cô ?”

“Tôi sẽ đi một hướng khác.”

Sandy gọi thêm cà phê và bánh ngọt trong khi họ chờ đợi hoàn tất những chỉ dẫn chuyển tiền. Thư ký đã hủy mọi cuộc hẹn và mọi sự xuất hiện trước tòa của Sandy trong ba ngày tới. Vợ anh đã mang túi hành lý của anh đến văn phòng.

Một phụ tá chở họ ra sân bay, và trên đường Sandy chợt nhận ra rằng nàng không hề có hành lý gì ngoài một chiếc túi da màu nâu đã cũ nhưng còn rất đẹp.

“Cô đang ngụ tại đâu ?” Sandy hỏi trong lúc họ uống côca trong phòng ăn ở sân bay.

“Chỗ này chỗ kia,” nàng đáp, mắt nhìn ra cửa sổ.

"Tôi sẽ liên hệ với cô như thế nào ?”

“Chúng ta sẽ tính chuyện đó sau.”

Họ ngồi cạnh nhau ở hàng ghế thứ ba trong khoang hạng nhất, và trong hai mươi phút đầu tiên sau khi cất cánh, nàng không hề nói gì, mắt dán vào một tờ tạp chí thời trang còn Sandy thì cố gắng đọc một tập lời khai dày cộp. Anh muốn nói chuyện, muốn xổ ra hàng chuỗi câu hỏi, những câu hỏi mà tất cả những người khác đều sẽ thốt ra.

Thế nhưng, như có cả một bức tường chắn giữa họ, một bức tường khá dày và không hề liên quan tới giới tính hay sự quen biết. Nàng có những câu trả lời, nhưng hoàn toàn muốn giữ kín và Sandy phải cố hết sức để có được sự lạnh lùng như của nàng.

Lạc rang muối và bánh quy mặn được đưa tới. Họ từ chối ly sâmbanh kèm theo mà chỉ lấy mấy chai nước.

" Vậy cô đã biết Patrick bao lâu rồi ?” Sandy dè dặt lên tiếng.

“Ông hỏi làm gì vậy ?”

“Xin lỗi. Nhưng mà cô có thể nói chút gì với tôi về những chuyện đã xảy ra với Patrick trong bốn năm qua không ? Dù sao thì tôi cũng là một người bạn cũ. Và hiện là luật sư của anh ấy. Cô không thể cho tôi là tò mò được.”

“Ông sẽ phải hỏi anh ấy thôi,” nàng nói, với một chút ngọt ngào, và quay trở lại với tờ tạp chí. Sandy thì cố ngồi nhấm nháp mấy hạt lạc.

Nàng chờ cho đến khi họ sắp hạ cánh xuống Miami mới lên tiếng. Nàng nói nhanh, và rõ ràng là đã có sự chuẩn bị chu đáo. “Tôi sẽ không gặp lại ông trong ít ngày tới. Tôi phải liên tục di chuyển vì có những người muốn bám theo tôi. Patrick sẽ đưa ra cho ông những yêu cầu và trong lúc này anh ấy và tôi sẽ liên hệ với nhau thông qua ông. Hãy để ý đến những gì bất thường. Một người lạ trên điện thoại. Một chiếc xe ở phía sau. Ai đó lảng vảng quanh văn phòng ông. Một khi ông được xác nhận là luật sư của anh ấy, ông sẽ thu hút những người đang tìm kiếm tôi.”

“Họ là ai ?”

“Patrick sẽ cho ông biết.”

“Cô giữ tiền phải không ?”

“Tôi không thể trả lời câu hỏi đó.”

Sandy nhìn những đám mây đang đến gần hơn dưới cánh máy bay. Tất nhiên là khoản tiền đó đã sinh sôi. Patrick không phải là một thằng ngốc. Hắn ta hẳn đã cất tiền trong một nhà băng ngoại quốc nào đó, nơi mà những bàn tay chuyên nghiệp sẽ xử lý nó. Có khả năng phải có lời ít ra là mười hai phần trăm một năm.

Không còn trao đổi gì nữa cho tới lúc máy bay hạ cánh. Họ nhanh chóng đi vào để Sandy còn kịp chuyến bay San Juan. Nàng bắt chặt tay anh và nói, “Bảo với Patrick là tôi khỏe.”

“Anh ấy sẽ hỏi cô đang ở đâu.”

“Châu Âu.”

Anh nhìn theo bóng nàng mất hút vào trong đám đông hành khách và thầm ghen với người bạn cũ. Ngần ấy tiền. Và một cô gái đẹp, đầy quyến rũ, lại có học.

Tiếng loa gọi lên máy bay làm Sandy bừng tỉnh. Anh ta lắc lắc cái đầu và tự hỏi làm sao mà mình lại đâm ghen ti với một người hiện đang đứng trước cái khả năng phải nằm tù trong mười năm tới để đợi đến lượt bị hành quyết và cả trăm luật sư đói khát đang nôn nóng muốn lột da hắn để tìm kiếm số tiền kia.

Ghen mới chả tị ! Anh ngồi vào ghế, lại hạng nhất, và bắt đầu cảm thấy mức độ nghiêm trọng của việc đại diện cho Patrick.

Eva ngồi tăcxi quay lại cái khách sạn sang trọng ở South Beach, nơi nàng đã ngủ đêm qua. Nàng sẽ ở đó trong vài ngày, tùy thuộc vào chuyện xảy ra ở Biloxi. Patrick đã bảo nàng phải luôn di chuyển, và không ở lại một nơi nào quá bốn ngày. Nàng đã thuê phòng dưới cái tên Leah Pires, và lúc này đã có một thẻ tín dụng loại sang được cấp cho nàng với cái tên đó. Địa chỉ của nàng là ở São Paulơ.

Nàng nhanh chóng thay đồ và đi ra bãi biển. Đã là tầm giữa chiều, bãi đông nghịt và điều đó rất phù hợp với nàng. Những bãi biển của nàng ở Rio cũng đông, nhưng luôn luôn có bạn bè ở đâu đó. Giờ đây, nàng là một ngưòi lạ, một cô gái đẹp vô danh trong bộ đồ tắm nhỏ xíu đang tắm nắng. Nàng những muốn trở về nhà.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,854
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 11


Người dịch: Nguyễn Bá Long

Nhà xuất bản: NXB Văn học

Shared by: CCG -

Sandy phải mất một tiếng đồng hồ mới vượt được qua những bức tường rào của cái căn cứ hải quân kia. Tay khách hàng mới này của anh đã làm cho mọi chuyện thành khó khăn. Dường như không có ai biết là anh sẽ đến. Sandy buộc phải dựa vào cái trò quen thuộc của đám luật sư: đe dọa về những khiếu kiện ngay lập tức, đe dọa về những cú điện thoại đáng ngại gọi tới các Thượng nghị sĩ và những người khác ở các cương vị cao, và những phàn nàn to tiếng, cáu giận về tất cả những kiểu vi phạm quyền công dân... Anh đến được văn phòng bệnh viện vào lúc chập tối, và lo ngại gặp một tuyến phòng thủ khác. Thế nhưng, lần này thì cô y tá đó chỉ ngay cho phòng Patrick.

Phòng tối mò, chỉ có ánh sáng của cái TV treo cao ở một góc phòng và đã bị tắt phần tiếng - một trận bóng đá đang diễn ra ở Braxin. Hai người bạn học cũ bắt tay thân ái. Họ đã không nhìn thấy nhau trong sáu năm qua. Patrick vẫn để tấm mền kéo tới tận cằm, che đi những vết thương. Trong một khoảnh khắc, trận bóng đá kia dường như còn quan trọng hơn cả việc chuyện trò của họ.

Nếu như Sandy hy vọng về một cuộc tái ngộ nồng nhiệt thì anh đã phải nhanh chóng làm quen với một cái gì đó bình thản hơn. Trong khi cố không săm soi quá đáng, anh vẫn quan sát kỹ gương mặt Patrick. Một gương mặt gầy, gần như là hốc hác, với một cái cằm mới, vuông vắn, cùng một cái mũi nhọn hơn. Đã có thể cho là một ai khác đấy, nhưng trừ cặp mắt. Và giọng nói thì không thể nào nhầm được.

“Cảm ơn anh đã đến đây,” Patrick nói. Giọng hắn rất nhẹ, như thể là việc nói năng đòi hỏi rất nhiều nỗ lực và tư duy vậy.

“Có gì đâu. Anh biết đấy, tôi không được có mấy lựa chọn. Cô bạn của anh đầy sức thuyết phục.”

Patrick nhắm mắt và mím môi lại. Hắn ngầm tạ ơn Chúa. Nàng vẫn ở ngoài đó và chưa sao cả.

“Cô ấy trả anh bao nhiêu ?” Hắn hỏi.

“Một trăm nghìn.”

“Tốt,” Patrick nói cộc lốc, và không thêm gì nữa. Một phút im lặng kéo dài, và Sandy dần dần nhận ra rằng cuộc trao đổi của họ sẽ còn bị ngắt quãng bởi những khoảng im lặng như thế.

“Cô ấy ổn cả,” anh nói. “Cô ấy là một phụ nữ xinh đẹp, rất khôn ngoan và luôn làm chủ mọi tình thế. Nếu như anh muốn biết."

"Cảm ơn."

"Lần cuối anh gặp cô ấy là khi nào ?"

" Vài tuần rồi. Tôi không còn biết thời gian ra sao nữa."

" Cô ấy là vợ, bạn gái, nhân tình, điếm... ”

"Luật sư."

“Luật sư à ?” *

"Phải, luật sư.” Sandy cảm thấy buồn cười. Patrick lại ngừng bặt, không một lời, không một cử động. Vài phút trôi qua, Sandy ngồi xuống cái ghế duy nhất trong phòng, chấp nhận chờ đợi. Patrick lại trôi vào một thế giới khủng khiếp, nơi những con sói đang rình rập, và nếu hắn muốn nằm đó và nhìn lên trần nhà thì cũng chẳng sao đối với Sandy. Họ sẽ còn nhiều thời gian để nói chuyện. Và không thiếu gì chủ đề.

Hắn vẫn còn sống, và ngay lúc này thì không chuyện gì quan trọng hơn thế. Sandy buồn cười khi nhớ lại những hình ảnh về buổi tang lễ và mai táng kia, về cái quan tài được hạ xuống trong một ngày lạnh giá và u ám, về lời cầu nguyện của vị linh mục cùng những tiếng sụt sùi được kìm lại của Trudy. Thật là buồn cười khi nghĩ tới chuyện thằng cha Patrick này đã ẩn mình trên một ngọn cây cách đó không xa để nhìn họ khóc thương hắn, như báo chí nói ra rả suốt ba ngày nay.

Chừng mực nào đó thì đúng là hắn đã nằm yên một chỗ, rồi cuỗm chỗ tiền kia. Có người gục ngã khi họ tới tuổi bốn mươi. Cuộc khủng hoảng ở đoạn giữa này đưa họ tới một người vợ mới, hoặc trở lại ghế nhà trường. Thế nhưng không phải là với thằng bạn Patrick này.

Hắn đã chào đón thời điểm đó bằng việc tự giết mình, thó chín mươi triệu đôla, rồi biến.

Cái xác chết thật trong xe đột nhiên làm cho câu chuyện không còn cười được nữa, và Sandy muốn bắt đầu. “Có cả một ủy ban tiếp đón đang chờ anh đấy. Patrick”.

“Ai là chủ tịch vậy ?”

“Không biết. Trudy đệ đơn xin ly hôn hai ngày trước đây, nhưng đó chỉ là chuyện nhỏ nhất trong những rắc rối của anh thôi.”

“Anh nói đúng đấy. Để tôi đoán xem nào, chắc là cô ta muốn được một nửa số tiền.”

“Cô ta muốn nhiều thứ. Hội thẩm đoàn đã truy tố anh về tội giết người. Bang chứ không phải là Liên bang.”

“Tôi có biết qua TV.”

“Tốt. Nghĩa là anh biết về tất cả các khiếu kiện.”

“Phải. CNN rất mẫn cán trong việc cập nhật tin tức cho tôi."

“Anh không thể trách cứ họ được, Patrick. Đó là một câu chuyện lạ lùng.”

“Cảm ơn.”

“Khi nào thì anh muốn nói chuyện ?"

Patrick xoay người và ngó ngang qua Sandy. Không có gì để nhìn ngoài bức tường trắng toát, thế nhưng không phải là hắn đang nhìn vào đó. “Họ đã tra tấn tôi, Sandy." hắn nói, giọng thật trầm, và như muốn tắc nghẹn.

“Ai ?"

“Họ đã gắn dây trên khắp người tôi và tra điện cho tới khi tôi phải mở miệng.”

Sandy đứng dậy và bước đến bên giường, đặt tay lên vai Patrick. “Anh nói với họ những gì?”

“Tôi không biết. Tôi không thể nào nhớ được tất cả. Họ tiêm các loại thuốc. Đây, xem này.” Hắn nâng cánh tay trái lên để Sandy có thể kiểm tra các vết tím bầm.

Sandy tìm thấy công tắc và bật ngọn đèn bàn để có thể nhìn được rõ. “Lạy Chúa,” anh kêu lên.

“Họ đeo riết về chỗ tiền kia,” Patrick nói. “Tôi ngất đi rồi tỉnh lại, để họ lại tra điện nhiều lần nữa. Sandy, tôi sợ rằng tôi đã nói với họ về cô ấy.”

“Cô luật sư ấy ư ?”

“Phải, cô luật sư. Cô ấy nói tên với anh thế nào ?”

“Leah.”

“Được, tốt. Vậy thì tên cô ấy là Leah. Có thể là tôi đã nói với họ về Leah. Thực ra, tôi gần như chắc chắn rằng tôi đã nói.”

“Nói với ai, Patrick ?”

Hắn nhắm mắt lại và nhăn mặt với một cơn đau ở chân. Hắn từ từ xoay người nằm ngửa ra và kéo tấm mền xuống ngang hông. “Nhìn này, Sandy,” hắn vừa nói vừa huơ tay trên hai vết bỏng trên ngực. “Đây là bằng chứng.”

Sandy nhích gần lại một chút và xem xét - những vết tấy đỏ, bao quanh là phần da được gọt đi. " Ai đã làm chuyện này ?”

"Tôi không biết. Một nhóm người. Họ đứng chật cả căn phòng.”

“Ở đâu ?"

Patrick cảm thấy buồn cho bạn. Anh ta nôn nóng muốn biết chuyện gì đã xảy ra, chứ không phải là chỉ về cuộc tra tấn. Sandy, cũng như tất cả, nóng lòng muốn biết những chi tiết. Quả thực là một câu chuyện ly kỳ, thế nhưng hắn không dám chắc là hắn có thể kể được bao nhiêu. Không ai biết các chi tiết của vụ đâm xe và cái xác bị thiêu cháy trong đó. Thế nhưng, hắn chỉ có thể kể với người luật sư, và là bạn của hắn, về việc hắn bị bắt và bị tra tấn. Hai ngày nay không dùng tới thuốc, hắn đang phải vật lộn với sự đau đớn và đang rất cố để tránh phải chịu thêm những mũi tiêm khác nữa. “Kéo ghế gần lại và ngồi xuống, Sandy. Và tắt đèn đi. ánh sáng làm tôi khó chịu.”

Sandy lập tức làm theo. Anh ngồi thật sát bên giường. “Đây là những chuyện mà họ đã làm đối với tôi, Sandy.” Patrick nói trong bóng tối lờ mờ. Hắn bắt đầu từ Ponta Porã, với việc tập chạy và chiếc xe nhỏ bị xẹp lốp, và kể lại toàn bộ việc họ đã bắt được hắn như thế nào.

*

**

Ashley Nicole được hai mươi lăm tháng tuổi khi ngươi ta chôn cất cha cô bé. Nó còn quá nhỏ để có thể nhớ được Patrick. Lance là người đàn ông duy nhất sống trong nhà, người đàn ông duy nhất mà con bé thấy ở gần gũi bên mẹ. Thỉnh thoảng, gã đưa con bé tới trường. Thỉnh thoảng, họ cùng ăn tối với nhau như một gia đình.

Sau tang lễ, Trudy cất biệt tất cả những tấm ảnh và những bằng chứng khác về sự liên quan của con bé với Patrick. Ashley Nicole không còn bao giờ nghe thấy tên cha nữa.

Thế nhưng ba ngày nay, khi các phóng viên chầu chực ở phố nhà họ, việc đứa con gái có những câu hỏi cũng là điều tự nhiên. Mẹ nó có vẻ là lạ. Sự căng thẳng bao quanh ngôi nhà lên tới mức một con bé sáu tuổi cũng cảm thấy là không bình thường. Trudy chờ lúc Lance đi gặp luật sư rồi mới mang con bé vào trong giường nói chuyện.

Người mẹ bắt đầu bằng việc thú nhận rằng đã qua một đời chồng. Thực ra là ả đã từng có hai đám cưới nhưng cho rằng Ashley Nicole không cần phải biết về người chồng đầu tiên, ít ra cho tới khi nó lớn hơn đã. Người chồng thứ hai chính là vấn đề hiện tại.

“Patrick và mẹ sống với nhau được bốn năm, thế rồi ông ấy làm một việc rất xấu.”

“Việc gì ?” Ashley Nicole hỏi, mắt mở to, tỏ ra lắng nghe hơn là Trudy mong muốn.

“Ông ấy đã giết chết một người, rồi làm cho có vẻ như một vụ đâm xe, con biết đấy, một vụ cháy lớn. Và lại cháy đúng chiếc xe của Patrick. Cảnh sát đã tìm thấy một cái xác ở trong xe, và họ cho rằng đó là ông ấy. Mọi người đều tin như vậy. Patrick đã chết, bị cháy trong xe, và mẹ rất đau buồn. Ông ấy là chồng của mẹ. Mẹ rất yêu ông ấy, thế mà đột nhiên ông ấy lại ra đi. Mẹ cùng mọi người chôn cất ông ấy ở nghĩa địa. Giờ đây, sau bốn năm trời, người ta tìm thấy Patrick trốn ở tận một nơi chân trời góc bể. Hóa ra là ông ấy đã chạy trốn.”

“Nhưng vì sao cơ chứ ?”

“Bởi vì ông ấy đã đánh cắp một khoản tiền của bạn bè, và bởi vì ông ấy là một người rất xấu nên muốn giữ tất cả khoản tiền ấy cho riêng mình.”

“ Ông ấy giết người và ăn cắp tiền.”

“Đúng thế, con bé bỏng. Patrick không phải là một người tốt.”

“Con lấy làm tiếc là mẹ đã cưới ông ấy.”

“Phải. Nhưng này, con ạ, có một điều con cần phải hiểu. Con đựợc sinh ra trong lúc Patrick và mẹ đang là vợ chồng.” Ả bỏ lửng câu nói và quan sát cặp mắt thơ ngây kia xem con bé có hiểu ý không. Rõ ràng là không. Ả nắm chặt tay Ashley Nicole và nói, “Patrick là cha con đấy.”

Con bé nhìn chằm chằm vào mẹ, bối rối. “Nhưng con không muốn ông ấy là...”

“Mẹ xin lỗi, con yêu. Mẹ sẽ nói khi nào con lớn hơn, nhưng giờ đây Patrick đang sắp trở về, và điều quan trọng là con phải được biết.”

“Còn Lance thì sao ? ông ấy có phải là cha con không ?”

“Không. Lance và mẹ chỉ sống với nhau, thế thôi.” Trudy chưa bao giờ cho phép con bé coi Lance như cha nó. Và Lance, về phần gã, cũng chưa bao giờ tỏ ra có chút lưu tâm nào trong việc trở thành một người cha. Trudy là một người mẹ đơn độc. Ashley Nicole không có cha. Đó là điều bình thường và có thể chấp nhận được.

“Lance và mẹ là bạn với nhau từ lâu,” Trudy nói, giành phần chủ động và ngăn chặn hàng nghìn câu hỏi có thể có. “Bạn rất thân. Ông ấy rất yêu con, nhưng không phải là cha con. Mẹ lấy làm tiếc rằng Patrick mới thật sự là người sinh ra con, nhưng mẹ không muốn con phải nghĩ đến ông ấy.”

“Ông ấy có muốn gặp con không ?”

“Mẹ không biết, nhưng mẹ sẽ đấu tranh để không cho ông ấy đến gần con. Ông ấy là một người xấu, con yêu ạ. Ông ấy bỏ đi khi con mới có hai tuổi đầu. Ông ấy bỏ mẹ. Ông ấy ăn cắp một khoản tiền và biến mất. Khi đó ông ấy đã không lo cho mẹ con mình và bây giờ cũng sẽ không lo cho mẹ con mình đâu. Ông ấy sẽ không trở về nếu như không bị họ bắt được. Bởi vậy đừng có nghĩ tới Patrick và việc ông ấy có thể làm gì.”

Ashley Nicole bò tới cuối giường và thu mình trong lòng mẹ. Trudy ôm chặt và nựng con bé. “Rồi mọi chuyện sẽ ổn, con bé bỏng. Mẹ hứa như vậy đấy. Mẹ không muốn nói với con chuyện này, nhưng với những người phóng viên ngoài kia và những thứ trên TV nữa, phải, mẹ nghĩ nói ra là tốt nhất.”

“Vì sao mọi người lại kéo đến ngoài kia thế ?” Con bé hỏi, tụm chặt lấy hai cánh tay mẹ.

“Mẹ không biết. Mẹ muốn họ đi đi.”

“Họ muốn gì hả ?”

“Những tấm ảnh của con. Những tấm ảnh của mẹ. Những tấm ảnh mà họ có thể đưa lên trên mặt báo khi họ viết về Patrick và tất cả những chuyện xấu xa mà ông ấy đã làm.”

“Nghĩa là vì Patrick mà họ kéo đến đây ?”

“Phải, con ạ.”

Con bé ngoảnh lại và nhìn thẳng vào mắt Trudy, rồi nói, “Con ghét Patrick lắm.”

Trudy lắc lắc đầu như thể đó chỉ là những lời nói vớ vẩn của trẻ con, thế rồi chị ta ôm chặt con gái vào lòng, và mỉm cười.

Lance sinh ra và lớn lên ở Point Cadet, một cộng đồng ngư dân lâu đời nằm trên một bán đảo nhỏ chìa ra vịnh Biloxi. Đó là một khu lao động, nơi mà những người nhập cư cặp bờ và những người đánh bắt tôm sinh sống. Gã lớn lên trên những đường phố của Point Cadet, và vẫn còn nhiều bạn bè ở đó, mà Cap là một. Chính Cap là ngưòi cầm lái chiếc van chở đầy cần sa khi cảnh sát chống ma túy chặn xe lại. Họ đã đánh thức Lance, đang ngủ vùi giữa đống gai dầu với một khẩu súng trong tay. Cap và Lance đã thuê chung một luật sư và cùng chịu một án tù như nhau ở tuổi mười chín.

Cap mở một quán rượu và cho những người thợ ở xưởng đóng đồ hộp vay nặng lãi. Lance ngồi uống với hắn ở phía sau quán, ít ra là mỗi tháng một lần, mặc dù Cap càng ngày càng ít gặp Lance, khi mà giờ đây Trudy đã trở nên giàu có và họ đã chuyển tới Mobile. Bạn hắn đang gặp rắc rối. Cap đã đọc thấy trên báo, và thật sự là đã chờ đợi Lance tới với bộ mặt ủ ê, tìm kiếm một sự thông cảm.

Chúng vừa uống bia vừa nói tới những chuyện đồn đại - ai được bao nhiêu ở các sòng bạc, nguồn ma túy mới nhất hiện là chỗ nào, ai đang bị cơ quan phòng chống ma túy để ý - những chuyện tầm phào tẻ ngắt của những kẻ vô công rồi nghề nhưng vẫn mơ làm giàu ở vùng bờ biển này.

Cap khinh bỉ Trudy, và trước đây hắn thường nhạo báng Lance về việc cứ bám theo ả tới những nơi mà ả có thể đến. “Sao, con điếm ấy thế nào ?” Hắn hỏi.

“Khỏe. Nhưng mày biết đấy, ả lo ngại từ khi người ta tóm được tay kia.”

“Cô ả lo là đúng. Ả kiếm được bao nhiêu tiền bảo hiểm hả ?”

“Một vài triệu.”

“Báo chí nói là hai triệu rưỡi. Tuy nhiên, với cái cách mà ả tiêu tiền thì tao nghĩ cũng chẳng còn lại được bao nhiêu.”

“Cũng ổn.”

“ Ổn cái đít tao đây này. Báo chí nói là ả đang bị công ty bảo hiểm kia khởi kiện.”

" Thì bọn này cũng có luật sư.”

“Phải, mày không tới đây vì mày có các luật sư đâu, phải không nào ? Mày mò tới đây là vì mày cần giúp đỡ. Các luật sư không thể làm được cái điều mà ả cần.”

Lance cười và nhấp một ngụm bia. Gã đốt điếu thuốc, việc mà gã không dám làm khi có mặt Trudy. "Zeke đâu ?"

"Tao đoán đúng mà,” Cap bực tức nói. “Cô ả gặp rắc rối, tiền của ả bị đe dọa, và do vậy ả bảo mày tới đây tìm Zeke hoặc một tay đao búa nào khác mà chúng mày có thể mồi chài để làm một chuyện ngu ngốc gì đó. Nó bị tóm. Mày bị tóm. Mày chịu đòn còn ả sẽ quên mày đi. Mày là một thằng ngu, Lance, mày biết chứ.”

“Phải, tao biết. Zeke đâu ?”

"Trong tù.”

“Ở đâu ?"

"Texas. Bọn Liên bang túm được nó đang buôn lậu súng. Mày ngu lắm. Đừng làm chuyện này. Khi họ mang tay kia về thì đám cảnh sát sẽ bu xung quanh hắn. Họ sẽ giam biệt hắn ở đâu đó, ngay cả bà mẹ của hắn cũng đừng hòng được gặp. Chuyện này dính đến tiền bạc lớn, Lance. Mày biết là họ sẽ phải bảo vệ hắn cho đến khi hắn gục và khai ra nơi giấu tiền. Mày toan chơi hắn thì mày sẽ phải hạ nửa tá cảnh sát, và chết trước.”

“Không đâu, nếu biết cách chơi.”

“Và tao cho rằng mày đã biết cách. Phải chăng nó là có thể, bởi vì mày chưa từng làm cái gì tương tự thế này hả ? Mày đã trở nên ngon lành từ bao giờ vậy ?”

“Tao có thể tìm đúng người.”

“Với giá bao nhiêu ?”

“Bất chấp.”

“Mày có năm chục nghìn không ?"

“Được.”

Cap hít một hơi sâu và liếc quanh quán. Thế rồi hắn chồm tới trên hai khuỷu tay và nhìn thẳng vào mặt thằng bạn. “Để tao nói cho mày biết vì sao chuyện này là không thể được, Lance. Mày biết là chưa bao giờ mày là thằng thông minh cả. Bọn đàn bà con gái luôn thích mày chỉ bởi cái vẻ duyên dáng bề ngoài, còn mày thì chưa bao giờ là người có đầu óc cả.”

“Cảm ơn, ông bạn.”

“Mọi người đều muốn tay kia phải sống. Nghĩ kỹ xem. Mọi người. Đám Liên bang. Đám luật sư. Đám cảnh sát. Thằng cha bị mất tiền nữa. Tất cả. Duy chỉ trừ cái con điếm đang cho mày sống cùng trong nhà. Cô ả muốn hắn phải chết. Nếu mày làm chuyện này, và cứ cho là mày hạ được hắn, cảnh sát sẽ xộc thẳng tới chỗ ả. Dĩ nhiên, ả sẽ hoàn toàn vô tội bởi vì đã có mày hứng hết. Đó là trò cho những con rối. Hắn chết. Cô ả giữ được tiền, thứ mà mày và tao đều biết, là mối quan tâm duy nhất của ả, và mày sẽ trở lại Parchman bởi vì mày đã có tiền án, nhớ chứ ? Cho cả phần còn lại của cuộc đời. Thậm chí, ả sẽ chẳng cả viết thư cho mày đâu.”

“Với năm chục chúng ta có thể lo được chuyện này không ?"

“Chúng ta ?”

“Phải. Tao và mày.”

“Tao có thể cho mày một cái tên nào, vậy thôi. Tao không dây vào chuyện này. Không được đâu, và tao cũng chẳng được gì.”

“Ai vậy ?”

“Một thằng cha từ New Orleans. Đôi lúc loanh quanh ở đây.”

“Mày có thể làm một cú phôn được không ?”

“Được, nhưng chỉ thế thôi đấy. Và nhớ là tao đã bảo mày đừng có dây vào chuyện này.”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,854
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 12


Người dịch: Nguyễn Bá Long

Nhà xuất bản: NXB Văn học

Shared by: CCG -

Eva rời Miami trên chuyến bay đi New York, và từ đó nàng lên tiếp chiếc Concorde bay đi Paris. Bay bằng Concorde quả là một sự hoang phí, nhưng biết làm sao khi mà giờ đây nàng phải tự coi mình là một phụ nữ giàu có. Từ Paris đi Nice, rồi từ đó chạy xe băng ngang qua các vùng nông thôn tới thị trấn Aix ở Provence - một hành trình mà nàng và Patrick đã đi gần một năm về trước. Đó là lần duy nhất hắn rời khỏi Braxin. Hắn sợ phải đi qua các biên giới, cho dù là với một cuốn hộ chiếu giả hoàn hảo.

Người Braxin yêu thích mọi sự thuộc về nước Pháp, và hầu như tất cả những người có học đều biết tiếng Pháp và biết về văn hóa Pháp. Họ đã thuê phòng ở Villa Gallici, một khách sạn xinh xắn ở ngoại ô thị trấn, và dành cả một tuần lễ dạo chơi trên các đường phố, mua sắm, ăn uống và đôi lần mò tới tận những ngôi làng nằm giữa Aix và Avignon. Họ cũng dành nhiều thời gian với nhau ở trong phòng, giống như những đôi tân hôn. Đã có lần sau khi uống khá nhiều rượu vang, Patrick đã gọi đó là tuần trăng mật của họ.

Nàng tìm được một căn phòng nhỏ hơn ở cùng khách sạn đó, và sau một giấc ngủ ngắn, nàng ra ngồi uống trà ngoài hiên trong chiếc áo tắm. Thế rồi, nàng khoác lên người bộ đồ jeans và đi vào trong phố, tới đường Cours Mirabeau, đại lộ chính của Aix. Nàng nhấm nháp ly vang đỏ trong một quán cà phê đông nguời ngay trên hè phố và ngắm nhìn đám học sinh trung học qua lại từng đàn. Nàng phát ghen với những đôi tình nhân trẻ, đi dạo lang thang, tay trong tay, và không có gì để phải lo ngại. Nàng và Patrick cũng đã từng di dạo như vậy, tay trong tay, vẫn cười nói, như thể là không còn ai nhớ tới hắn nữa vậy.

Chính là ở Aix, trong cái tuần lễ duy nhất ấy khi họ được ở bên nhau mà không bị ai quấy rầy, lần đầu tiên nàng nhận ra rằng hắn ít ngủ đến thế nào. Bất kỳ lúc nào nàng tỉnh giấc, hắn đều cũng đã thức, đang nằm im và nhìn nàng chằm chặp như thể nàng đang bị nguy hiểm rình rập. Một ngọn đèn bàn để sáng. Phòng sẽ tối khi nàng ngủ, thế nhưng sẽ có một ngọn đèn khi nàng tỉnh giấc. Hắn thường tắt đèn, dịu dàng ve vuốt nàng cho đến lúc nàng ngủ thiếp đi, rồi bản thân cũng ngủ chừng nửa tiếng trước khi lại bật đèn lên. Hắn dậy từ lâu trước lúc bình minh, và cho đến lúc nàng nhẹ nhàng bước ra để thấy hắn ngoài hiên thì hắn đã đọc xong vài tờ báo hoặc dăm chương của một cuốn tiểu thuyết trinh thám.

"Không bao giờ quá hai tiếng,” hắn trả lời khi nàng hỏi về thời gian ngủ của hắn. Hiếm khi hắn ngủ trưa còn buổi tối, không bao giờ lên giường sớm cả.

Hắn không mang vũ khí trong người và cũng không nhòm ngó xung quanh. Hắn không nghi ngờ quá mức đối với những người lạ. Hắn hiếm khi nói về cuộc sống trốn tránh của mình và ngoại trừ thói quen ngủ nghê ra thì dường như hắn hoàn toàn bình thường dến mức nàng thường quên mất rằng hắn là một trong những đối tượng bị truy nã ráo riết nhất trên thế giới.

Mặc dù hắn không muốn nói về quá khứ, nhưng cũng có những khi không còn cách nào tránh khỏi trong câu chuyện của họ. Dù sao thì việc họ đang ở bên nhau chỉ là do hắn đã chạy trốn và sống một cuộc đời khác. Đề tài ưa thích của hắn là tuổi thơ ấu ở New Orleans; chứ không phải là cuộc sống ở tuổi trưởng thành mà hắn đã phải trốn tránh. Hắn duờng như không bao giờ nhắc đến vợ, nhưng Eva biết đó là một người phụ nữ mà Patrick rất khinh bỉ. Cuộc hôn nhân đã trở nên khốn nạn, và khi nó ngày một xấu đi hơn thì hắn không còn cách nào chịu đựng nổi nữa, ngoài việc bỏ đi.

Hắn đã cố nói chuyện về Ashley Nicole, thế nhưng ý nghĩ về con bé làm mắt hắn đẫm lệ. Giọng hắn khản lại, và hắn nói lời xin lỗi. Nỗi đau quá lớn.

Bởi vì quá khứ chưa khép hẳn lại nên cũng khó mà tính trước được tương lai. Không thể có những kế hoạch khi mà đâu đó phía sau vẫn có những kẻ rình rập. Hắn không cho phép mình nghĩ tới tương lai khi mà quá khứ chưa được giải quyết.

Nàng biết rằng những kẻ rình rập kia đã làm cho hắn không ngủ. Những kẻ rình rập hắn không thể nhìn thấy mà chỉ có thể cảm thấy.

Hai năm về trước, họ đã gặp nhau trong phòng làm việc của nàng ở Rio, khi hắn tự giới thiệu mình là một nhà doanh nghiệp Canađa hiện sống ở Braxin. Hắn nói là cần một luật sư giỏi để cố vấn các vấn đề nhập khẩu và thuế. Trong vai đó, hắn mặc bộ complê may rất đẹp, với chiếc sơmi trắng bong. Trông hắn gọn ghẽ, nước da rám nắng và điệu bộ dễ mến. Tiếng Bồ Đào Nha của hắn rất khá, dù rằng không được như tiếng Anh của nàng. Hắn muốn được nói chuyện bằng ngôn ngữ của nàng; nàng thì lại đòi nói bằng ngôn ngữ của hắn, họ đã có một bữa ăn trưa để trao đổi công việc kéo dài trong ba giờ, lúc thì bằng thứ tiếng này lúc thì với thứ tiếng kia, và cả hai nhận ra rằng sẽ còn những bữa ăn chung khác nữa. Thế rồi đã có một bữa tối kéo dài, và một cuộc đi dạo trên bãi biển ở Ipanema với cả hai cùng để chân trần.

Chồng nàng là một người đàn ông lớn tuổi, đã chết trong một tai nạn máy bay ở Chilê. Không con cái. Patrick, hay Danilo, như hắn tự gọi lúc ban đầu, tuyên bố sẽ rất vui mừng được ly hôn với ngưòi vợ đầu tiên của hắn, người mà hắn nói là vẫn đang sống ở Toronto, trong ngôi nhà của họ.

Eva và Danilo gặp nhau vài lần một tuần trong hai tháng đầu tiên, ở cái lúc cuộc tình bắt đầu chớm nở. Sau cùng, hắn kể với nàng sự thật. Tất cả.

Sau một bữa ăn tối muộn trong căn hộ của nàng, và một chai vang Pháp tuyệt hảo, Danilo đã đối mặt với quá khứ của hắn và bộc bạch hết. Hắn nói liên tục cho tới tận tảng sáng và từ một nhà doanh nghiệp đầy tự tin trở thành một người đàn ông đang bị săn đuổi. Một người đàn ông đang sợ hãi, lo lắng, nhưng cực kỳ giàu có.

Hắn suýt phát khóc vì đã nói ra được tất cả, nhưng cố kìm lại. Dù sao thì đây cũng là đất Braxin và đơn giản là những người đàn ông không khóc. Đặc biệt là trước mặt những người phụ nữ xinh đẹp.

Nàng yêu hắn vì thế. Nàng ôm lấy hắn, hôn hắn và khóc trong khi hắn không thể khóc, và hứa sẽ làm mọi việc có thể được để che giấu cho hắn. Hắn đã nói với nàng điều bí mật thầm kín nhất, nguy hiểm nhất của hắn, và nàng hứa sẽ luôn luôn giữ kín.

Trong những tuần tiếp theo đó, hắn cho nàng biết chỗ tiền kia đang ở đâu và dạy nàng cách di chuyển nó nhanh chóng trên khắp thế giới. Cùng nhau, họ tìm hiểu những thiên đường về thuế ở nước ngoài và tìm ra những khoản đầu tư an toàn.

Cho đến khi họ gặp nhau thì hắn đã ở Braxin được chừng hai năm. Hắn đã sống ở São Paulo, ngôi nhà đầu tiên của hắn là ở đó, rồi Recife, Minas Gerais và dăm bảy nơi khác. Hắn đã từng làm việc hai tháng ở vùng sông Amazon, ngủ trên một cái phà trong một chiếc màn dày và đám muỗi bu đặc kín đến mức hắn không nhìn thấy được cả vầng trăng. Hắn đã làm công việc dọn dẹp những loài thú hoang dã bị giết chết bởi những người Achentina giàu có ở vùng Pantanal, một khu bảo tồn thiên nhiên lớn cỡ bằng nước Anh, thuộc các bang Mato Grosso và Mato Grosso de Sol. Hắn đã được thấy đất nước nàng nhiều hơn cả chính nàng; hắn đã đi tới những nơi nàng chưa bao giờ được nghe nói tới. Hắn đã thận trọng chọn Ponta Porã làm nơi trú thân. Đó là một thị trấn nhỏ hẻo lánh, và trên cái đất nước có cả triệu nơi ẩn náu tuyệt vời này, Danilo đã xác định Ponta Porã là nơi an toàn nhất. Thêm vào đó, nó có một lợi thế chiến thuật là nằm ngay trên biên giới với Paragoay, và có thể dễ dàng chạy sang bên đó nếu xuất hiện một mối đe dọa.

Nàng không tranh cãi về điều này. Nàng những muốn hắn ở lại Rio, gần gũi bên nàng, thế nhưng nàng không biết gì, về cuộc sống trốn tránh và miễn cưỡng chấp nhận quyết định của hắn. Hắn hứa với nàng nhiều lần rằng một ngày nào đó họ sẽ sống bên nhau. Thỉnh thoảng, họ gặp nhau tại căn hộ ở Curitiba; những tuần trăng mật ngắn ngủi không bao giờ kéo dài quá một vài ngày. Nàng thèm muốn hơn thế, nhưng hắn không chịu.

Với tháng ngày trôi đi. Danilo - nàng chưa bao giờ gọi hắn là Patrick - càng trở nên tin rằng hắn sẽ bị tìm ra. Nàng không tin như hắn, nhất là với những biện pháp chu đáo mà hắn thực hiện để né tránh quá khứ. Hắn lo lắng nhiều hơn; thậm chí ngủ ít hơn nữa; nói chuyện nhiều hơn về việc nàng nên làm gì trong tình huống này, hay tình huống khác. Hắn thôi không nói về tiền bạc. Những gì xảy ra trong quá khứ luôn ám ảnh hắn.

Nàng dự tính sẽ ở lại Aix trong vài ngày, theo dõi chương trình quốc tế của CNN và đọc những gì nàng có thể tìm được trên những tờ báo Mỹ. Họ sắp chuyển Patrick đi, đưa hắn trở về, tống giam hắn và đệ lên tòa án mọi lời tố cáo độc địa chống lại hắn. Hắn biết là hắn sẽ bị bắt, thế nhưng hắn bảo đảm với nàng là mọi việc ổn thỏa. Hắn sẽ đối phó; hắn có thể xử lý được mọi chuyện chừng nào mà nàng hứa là sẽ đợi chờ hắn.

Có thể là nàng sẽ trở lại Zurich và thu xếp các công chuyện của nàng. Ngoài chuyện đó ra, nàng chưa biết làm gì cả. Không thể về nhà và điều này làm đầu óc nàng nặng trĩu. Nàng đã nói chuyện với cha ba lần, luôn luôn là gọi từ những buồng điện thoại trả tiền ngoài sân bay và luôn luôn cam đoan với ông là nàng không sao. Nàng giải thích rằng lúc này, đơn thuần là nàng chưa thể về nhà.

Nàng và Patrick sẽ liên lạc thông qua Sandy, nhưng còn phải nhiều tuần lễ nữa trôi qua trước khi nàng có thể thật sự nhìn thấy hắn.

*

**

Hắn gọi viên thuốc đầu tiên vào trước hai giờ sáng, sau khi tỉnh ngủ vì một cơn đau như xé. Giống như lúc bị tra điện. Và những tiếng nói tàn nhẫn của những kẻ kia vẫn đang ám ảnh hắn. “Chỗ tiền đó ở đâu, Patrick?” Những câu hỏi vang lên như một dàn đồng ca của quỷ dữ. “Chỗ tiền đó ở đâu ?"

Viên thuốc được một hộ lý trực đêm mang đến nhưng anh ta lại quên mang theo nước lạnh. Hắn xin một cái cốc, rồi nuốt chửng viên thuốc cùng với chỗ xôđa âm ấm còn thừa lại trong lon.

Mười phút sau, không có công hiệu gì. Người hắn đầm đìa mồ hôi. Tấm vải trải giường ướt sũng. Mồ hôi mặn làm những vết thương nhói buốt. Mười phút nữa. Hắn bật TV lên.

Những người đã bắt trói hắn, hành hạ hắn vẫn đang ở bên ngoài kia, tìm kiếm chỗ tiền đó, và không nghi ngờ gì hoàn toàn biết rõ hắn đang ở đâu lúc này. Hắn cảm thấy an toàn hơn về ban ngày. Màn đêm và những cơn mê đưa họ trở lại. Ba mươi phút. Hắn gọi y tá, nhưng không có ai trả lời.

Hắn thiếp đi.

Vào lúc sáu giờ, hắn tỉnh giấc khi người bác sĩ đi vào, hôm nay không có một nụ cười nào, và hoàn toàn với thái độ công việc khi kiểm tra những vết thương một cách nhanh chóng, rồi tuyên bố “Anh đã sẵn sàng cho việc di chuyển. Họ có những bác sĩ giỏi đang đợi ở nơi anh sắp đến." Ông ta nguệch ngoạc vào biểu theo dõi và bỏ đi, không nói thêm lời nào nữa.

Ba mươi phút sau, nhân viên đặc biệt Brent Myers bước vào với một nụ cười đanh ác và chìa tấm thẻ ra, như thể là anh ta cần phải tập dượt cái động tác đó vậy. “Xin chào." anh ta nói. Không thèm nhìn, Patrick hỏi, " Ông không thể gõ cửa trước à ?"

“Rồi, xin lỗi. Này, Patrick, tôi vừa mới nói chuyện với bác sĩ của ông. Tin vui đó, ông bạn, ông được ra viện rồi. Tôi được lệnh đưa ông trở về. Chúng ta sẽ lên đường vào sáng mai. Chính phủ dành cho ông một chuyến bay đặc biệt đáp xuống Biloxi, trên một chiếc máy bay quân sự. Chẳng nhẽ điều đó không thú vị sao? Và tôi sẽ đi cùng ông.”

“ Ông có thể đi ra được không ?”

“Tất nhiên. Hẹn gặp vào sáng sớm mai.”

“Đi đi.”

Hắn vụt ra khỏi phòng và đóng cửa lại. Tiếp đó là Luis, lặng lẽ đến với một khay cà phê, nước quả và những miếng xoài. Anh ta tuồn một cái gói xuống dưới đệm của Patrick, và hỏi hắn có cần gì nữa không. Không, Patrick đáp, và nhẹ nhàng cảm ơn anh ta.

Một giờ sau, Sandy đến với hy vọng là sẽ có cả một ngày dài để tìm hiểu về bốn năm qua cùng những câu trả lời cho vô số các câu hỏi sẽ được nêu ra. TV được tắt đi, những tấm rèm được cuộn lên, và căn phòng sáng dần khi một ngày mới bắt đầu.

"Tôi muốn anh trở về ngay lập tức,” Patrick nói. “Và mang theo những thứ này ” Hắn trao cái gói. Sandy ngồi trên cái ghế duy nhất trong phòng, lật xem những tấm ảnh chụp bạn mình đang trần trụi, hơi trầm ngâm.

" Những tấm ảnh này được chụp khi nào vậy?" Anh ta hỏi.

“Ngày hôm qua." Sandy ghi điều này vào một tập giấy màu vàng.

“Ai chụp ?"

“Louis, người hộ lý.”

“Ai đã gây ra những thương tích này ?"

“Ai đang giam giữ tôi, Sandy ?"

“FBI.”

“Vậy, tôi nghĩ chính là họ. Cái chính phủ của tôi đã săn lùng tôi, bắt giữ tôi, tra tấn tôi, và giờ đây sẽ lôi tôi trở về. Chính phủ, Sandy. FBI, Bộ Tư pháp, các giới chức địa phương — công tố viên và toàn bộ cái ủy ban đón tiếp tôi. Hãy nhìn xem họ đã làm gì tôi.”

“Họ phải bị kiện về chuyện này,” Sandy nói.

“Đòi bồi thường nhiều triệu. Và nhanh chóng. Kế hoạch là thế này: Tôi sẽ lên đường vào sáng mai trên một chiếc máy bay quân sự nào đó, tới Biloxi. Anh có thể hình dung ra cuộc đón tiếp mà tôi sẽ được nhận. Chúng ta phải lợi dụng điều đó.”

“Lợi dụng ?”

“Chính xác. Chúng ta phải đưa đơn kiện vào cuối chiều nay để câu chuyện này sẽ lên mặt báo vào sáng mai. Tiết lộ tin này cho báo chí. Cho họ xem hai trong số các tấm ảnh, hai tấm mà tôi đã đánh dấu ở mặt sau. "

Sandy lúng túng nhặt ra hai tấm ảnh đó. Một là hình chụp cận cảnh các vết bỏng trên ngực Patrick, trong khi vẫn có thể thấy rõ mặt hắn. Tấm kia là một vết bỏng độ ba trên đùi trái của hắn. “Anh muốn tôi chuyển hai tấm này cho báo chí à ?"

“Chỉ cho tờ Bờ biển. Đó là tờ tôi nghĩ tới nhiều nhất. Tám mươi phần trăm dân chúng ở quận Harrison, nơi mà tôi tin sẽ là xuất xứ của đoàn hội thẩm, đọc tờ đó."

Sandy mỉm cười, rồi chặc lưỡi. “Đêm qua anh đã không ngủ nhiều, phải không ?"

"Tôi đã không ngủ bốn năm nay.”

"Tuyệt vời.”

“Không đến mức, nhưng đó là một trong số ít những lợi thế chiến thuật mà chúng ta có thể có đối với cái đám linh cẩu đang bâu quanh tôi. Chúng ta tung những thứ này ra, và có thể làm dịu tình hình đi một chút. Hãy nghĩ xem, Sandy. FBl tra tấn một đốỉ tượng tình nghi, một công dân Mỹ.”

“Tuyệt, đúng là tuyệt vời. Chúng ta chỉ kiện FBI có phải không ?"

“Phải, để cho vấn đề đơn giản. Tôi kiện FBI, kiện chính phủ, về những tổn thương thể xác và tinh thần vĩnh viễn do cuộc thẩm vấn và tra tấn dã man ở một nơi trong rừng rậm Braxin."

“Nghe có vẻ được lắm.”

“Thậm chí sẽ còn được hơn nếu báo chí quay lưng lại phía chính phủ.”

“Bao nhiêu ?"

"Tôi không quan tâm. Mười triệu cho những tổn hại thực sự, một trăm triệu để trừng phạt.”

Sandy vội vã ghi chép và lật tiếp sang trang bên. Thế rồi anh ta ngừng lại và nhìn đăm đăm vào mặt Patrick. "Thật ra thì không phải là FBI phải không ?"

“Đúng thế," Patrick nói. "Tôi bị trao cho FBI bởi một lũ đồ tể nào đó không rõ, những kẻ đã từ lâu truy lùng tôi. Và chúng vẫn rình rập đâu đó.”

“FBI có biết về họ không ?”

“Có.”

Căn phòng trở nên yên lặng trong khi Sandy chờ đợi thêm nữa còn Patrick thì ngừng bặt. Có thể nghe thấy cả tiếng những cô y tá nói chuyện ngoài hành lang.

Patrick chuvển tư thế nằm. Ba ngày nằm liệt, và giờ đây hắn đã sẵn sàng để thay đổi tình thế. “Anh cần phải trở về ngay, Sandy. Chúng ta sẽ còn nhiều thời gian để nói chuyện sau. Tôi biết là anh có những điều muốn hỏi, hãy dành cho tôi chút thời gian.”

“Được thôi.”

“Khởi kiện càng ầm ĩ càng tốt. Sau này, chúng ta luôn luôn có thể sửa đổi đơn kiện để lôi những bị cáo thật sự vào đó."

“Không có vấn đề gì. Đây không phải là lần đầu tiên tôi kiện không đúng đối tượng.”

“Đó là chuyện chiến lược. Một chút thông cảm thì có sao đâu.”

Sandy cất xấp giấy ghi chép và những tấm ảnh vào trong cặp.

“Cẩn thận đấy,” Patrick nói. “Ngay khi anh được xác nhận là luật sư của tôi thì đủ mọi hạng người lạ lùng và bẩn thỉu sẽ bu lấy anh đấy.”

“Báo chí ư ?”

“Không hẳn thế. Tôi đã cất giấu rất nhiều tiền, Sandy. Có những người sẵn sàng bất chấp mọi thủ đoạn để tìm ra chỗ tiền đó.”

“Còn lại được bao nhiêu ?"

“Tất cả. Và thêm một ít nữa.”

“Có khi phải mất hết chỗ đó để cứu lấy anh.”

“Tôi có kế hoạch rồi.”

"Tôi tin là như vậy. Hẹn gặp ở Biloxi nhé.”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,854
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 13


Người dịch: Nguyễn Bá Long

Nhà xuất bản: NXB Văn học

Shared by: CCG -

Thông qua một mạng lưới rộng lớn những nguồn tin và những rò rỉ, tin tức được loan ra rằng còn có một vụ khiếu kiện khác sẽ được trình tòa vào cuối ngày, trước khi bà thư ký tòa án đóng cửa phòng làm việc. Mạng lưới này còn nhanh chóng xác nhận rằng chính bản thân Patrick sẽ trở về vào khoảng trưa hôm sau.

Sandy đã yêu cầu các phóng viên chờ tại hành lang tòa án trong khi mình nộp đơn. Sau đó, anh ta phân phát các bản sao đơn kiện cho hàng chục những kẻ chết khát đang chen lấn xô đẩy nhau kia. Hầu hết là phóng viên của các báo. Có hai phóng viên truyền hình với các camêra nhỏ. Một là phóng viên của đài phát thanh.

Thoạt đầu, nó có vẻ cũng chỉ lại là một vụ kiện nữa, được đệ lên tòa bởi một luật sư khác cũng đang nôn nóng muốn thấy hình ảnh mình trên mặt báo. Thế nhưng, tất cả đã thay đổi nhanh chóng khi Sandy loan báo rằng anh đại diện cho Patrick Lanigan. Đám người ngày càng trở nên đông hơn và cứ túm tụm lại - các nhân viên tòa án hiếu kỳ, các luật sư địa phương, thậm chí cả một mục sư cũng dừng lại để lắng nghe. Với vẻ bình thản, Sandy thông báo với họ rằng thân chủ của mình đang đệ đơn kiện FBI về những hành hạ và tra tấn về thể xác.

Sandy từ tốn đề cập tới những tố cáo, rồi trả lời một loạt những câu hỏi một cách có cân nhắc, đầy đủ, mắt nhìn thẳng vào các ống kính máy thu hình. Anh để phần hấp dẫn nhất lại sau cùng. Thọc tay vào cặp và lấy ra hai tấm ảnh màu, lúc này đã được phóng lên cỡ 24/30, anh đứng lên một cái bàn. “Đây là điều mà họ đã làm đối với Patrick,” anh nói một cách đầy kịch tính.

Các camêra lập tức thu lấy những hình ảnh cận cảnh. Đám đông rồ lên huyên náo.

“Họ đã gây mê Patrick, rồi gắn các dây điện vào người. Họ đã tra tấn cho đến khi da thịt anh ta bị đốt cháy bởi vì anh ta đã không, và không thể, trả lời được các câu hỏi của họ. Thưa các quý bà quý ông, đây là hành động của cái chính phủ đại diện cho nước Mỹ, đã tra tấn đánh đập một công dân Mỹ. Những kẻ tội phạm tự xưng danh là các nhân viên FBI."

Ngay cả những phóng viên hăng hái nhất cũng chết sững người. Mục trình diễn thật ngoạn mục.

Truyền hình Biloxi đưa tin này lúc sáu giờ, sau khi mở đầu một cách giật gân. Gần như nửa bản tin là hình ảnh Sandy và những tấm ảnh. Nửa còn lại là tin Patrick sẽ trở về vào hôm sau.

Vào đầu buổi tối, CNN bắt đầu đưa tin này, cứ nửa tiếng một lần, và Sandy là vị luật sư lừng lẫy nhất của thời điểm đó. Những tố cáo là hiển nhiên đến mức không thể xem nhẹ.

*

**

Hamilton Jaynes đang ngồi nhâm nhi với đám bạn bè trong phòng nghỉ của một câu lạc bộ ở ngoại ô gần Alexandria khi ông ta xem thấy bản tin này trên chiếc TV đặt ở góc phòng. Ông ta vừa chơi xong trận gôn mười tám lỗ, và trong thời gian đó đã cấm mình được nghĩ tới FBI và vô số những việc đau đầu ở đó.

Một chuyện đau đầu khác đã lại tìm đến với Hamilton. FBI bị Patrick Lanigan kiện ư ? Ông ta xin lỗi mọi người rồi đi tới một quầy bar vắng và rút chiếc điện thoại cầm tay ra bấm số.

Nằm sâu trong Tòa nhà Hoover, trụ sở của FBI, trên đại lộ Pennsylvania là một hành lang mà hai bên là những căn phòng không có cửa sổ, trong đó các kỹ thuật viên giám sát các bản tin truyền hình trên khắp thế giới. Trong một loạt phòng khác, họ theo dõi và ghi lại các bản tin phát thanh. Trong một loạt phòng khác nữa, họ đọc các báo và tạp chí. Trong cơ quan, toàn bộ hoạt động này được biết một cách đơn giản là tích lũy thông tin.

Jaynes gọi cho viên sĩ quan trực ban ở bộ phận này và chỉ trong vài phút đã biết toàn bộ câu chuyện. Ông ta rời câu lạc bộ và lái xe về văn phòng, nằm trên tầng ba của Tòa nhà Hoover, rồi gọi điện cho Bộ trưởng Tư pháp, người mà không có gì đáng ngạc nhiên khi cũng đang cố gắng liên lạc với Jaynes. Một cuộc đay nghiến dữ dội diễn ra, với Jaynes, phía phải tiếp nhận và không được nói gì nhiều. Ông ta cố trấn an ông bộ trưởng rằng FBI tuyệt nhiên không có liên quan gì tới sự vu cáo kia của Patrick Lanigan.

“Vu cáo ư ?” Ông bộ trưởng hỏi. "Tôi đã nhìn thấy những vết bỏng, lại còn không phải sao? Mẹ kiếp, cả thế giới đã nhìn thấy những vết bỏng đó.”

“Chúng tôi không làm chuyện đó, thưa ngài,” Jaynes bình tĩnh nói, yên tâm rằng mình đang nói đúng sự thật.

“Vậy thì ai ?" Ông bộ trưởng quát lên. “ Ông có biết ai làm không ?"

“Có, thưa ngài.”

“Tốt lắm. Tôi muốn có một báo cáo ba trang nằm trên bàn tôi vào lúc chín giờ sáng.”

“Bản báo cáo sẽ được đặt ở đó.”

Tiếng dập máy cộc cằn ở đầu đằng kia, và Jaynes văng tục, tung chân đá vào cái bàn làm việc. Thế rồi, ông ta gọi một cú điện khác, và do cú phôn này, hai nhân viên đặc biệt đã từ bóng tối xuất hiện trước cửa nhà Jack Stephano.

Jack đã xem các bản tin suốt đêm, và không ngạc nhiên gì trước phản ứng của các giới chức Liên bang. Khi đã rõ chuyện, lão ngồi ở ngoài hiên nói chuyện điện thoại với luật sư của mình. Lão cho là thật sự tức cười với chuyện FBI bị đổ tội vì những chuyện mà người của lão đã gây ra. Và đó là một nước cờ thật cao của Patrick Lanigan và luật sư của hắn.

“Xin chào,” lão đứng trước cửa lịch sự nói. “Để tôi đoán xem nào. Các anh bán bánh rán chứ gì.”

“FBI, thưa ông,” một người đáp và lần tay vào túi.

“Khỏi cần, anh bạn. Giờ thì tôi nhận ra các anh rồi. Lần trước tôi đã thấy các anh đậu xe ở góc phố đọc một tờ báo nhảm nhí gì đó và cố giấu mặt sau tay lái. Hồi còn đi học, các anh có bao giờ thực sự nghĩ rằng một ngày nào đó mình sẽ đi làm cái công việc thú vị này hay không hả ?”

“Ông Jaynes muốn gặp ông,” người thứ hai nói.

“Về chuyện gì vậy ?”

“Không rõ. Ông ấy bảo chúng tôi tới kiếm ông, và mời ông đi cùng xe với chúng tôi tới văn phòng của ông ấy ”

“Hamilton làm việc khuya đấy nhỉ ?"

“Vâng, thưa ông. Ông sẽ đi cùng chúng tôi chứ?”

“Các anh lại bắt tôi ư ?"

“ Ồ, không.”

“Vậy thì chính xác là các anh đang làm gì đây hả ? Các anh biết là tôi có cả đống luật sư. Bắt giữ sai trái, và các anh có thể bị kiện đấy.”

Họ nhìn nhau lúng túng.

Stephano không ngại gặp Jaynes, hay bất kỳ ai khác về chuyện này. Chắc chắn là lão có thể đối phó với mọi trò mà Jaynes sẽ giở ra. Thế nhưng, lão chợt nhớ rằng vẫn đang có những tố cáo hình sự treo lơ lửng trên đầu, và một chút hợp tác cũng có thể là có ích.

“Xin chờ tôi năm phút." lão nói, rồi biến vào trong nhà.

*

**

Jaynes đang đứng sau bàn làm việc lật xem một tập báo cáo dày cộm thì Stephano bước vào. “Mời ngồi,” ông ta nói cộc lốc, khoát tay chỉ vào chiếc ghế kê đối diện với chiếc bàn. Đã gần nửa đêm.

“Chúc ông một buổi tối dễ chịu, ông Hamilton,” Stephano nói với một nụ cười.

Jaynes buông tập báo cáo xuống. “Ông đã làm gì với thằng đó đấy ?"

“Tôi không biết. Tôi cho rằng một tay Braxin nào đó đã hơi quá tay. Hắn sẽ ổn thôi."

“Ai đã làm chuyện đó ?"

"Tôi có cần luật sư của mình ở đây không, thưa ông Hamilton ? Phải chăng đây là một cuộc thẩm vấn ?"

“Tôi không chắc có phải vậy không? Ngài giám đốc đang ở nhà, đang điện thoại trao đổi với Bộ trưởng Tư pháp, và nhân tiện cũng nói cho ông biết rằng ngài Bộ trưởng không dễ chịu gì lắm với chuyện này. Cứ hai mươi phút họ lại gọi tôi một lần, mỗi lần mỗi gay gắt thêm. Có đáng gọi là nghiêm trọng không, Jack ? Những vu cáo đó là ghê tởm, và hiện nay, cả nuớc đang nhìn vào những tấm ảnh chết tiệt đó và cật vấn vì sao chúng tôi lại đã tra tấn một công dân Mỹ."

“Tôi thật sự lấy làm tiếc.”

“Tôi biết. Nào, ai đã làm chuyện đó ?"

“Mấy thằng bản xứ. Một băng nhóm Braxin mà chúng tôi đã thuê khi được tin là hắn ở đó. Thậm chí tôi cũng không biết tên chúng.”

“Ai chỉ điểm cho các ông ?"

“Ông muốn biết ư ?"

“Đúng thế,” Jaynes nới lỏng cavát và ngồi nhích ra sát mép ghế, nhìn chăm chăm vào mặt Stephano, người chưa hề tỏ ra lo ngại gì. Lão tính sẽ mặc cả để có một lối thoát ra khỏi những rắc rối mà FBI có thể gây ra cho lão. Và lão có những luật sư rất giỏi.

“Tôi có một thỏa thuận với ông,” Jaynes nói. “Và ý kiến này là của ngài giám đốc.”

“Tôi đang rất muốn nghe.”

“Chúng tôi sẽ bắt Benny Aricia vào ngày mai. Chúng tôi sẽ làm to chuyện này lên, tung tin cho báo chí biết chuyện người mất chín mươi triệu đôla đó đã thuê ông truy lùng Lanigan. Và khi tóm được hắn, ông đã giở đủ trò với hắn nhưng vẫn không tìm được ra tiền.”

Stephano chăm chú nghe, nhưng vẫn chưa thấy gì.

" Thế rồi chúng tôi sẽ bắt hai tổng giám đốc - Atterson ở công ty Monarch-Sierra và Jill ở Northern Case Mutual. Theo chỗ chúng tôi biết, đó là hai thành viên khác trong cái tổ hợp nhỏ của ông. Chúng tôi sẽ cho các nhân viên vũ trang kéo đến chỗ mấy cái văn phòng đẹp đẽ của họ, các camêra truyền hình sẽ ở không xa đằng sau lắm, và sẽ cho lôi cổ họ ra trong những chiếc còng tay và quẳng họ lên những chiếc xe chở tù. Báo chí sẽ rộn lên, ông biết đấy. Và chúng tôi sẽ lo để người ta nói nhiều tới chuyện hai người này đã góp phần với Aricia để tài trợ cho cái sứ mệnh tìm kiếm Patrick của ông ở Braxin. Hãy nghĩ xem, ông Stephano, tất cả các khách hàng của ông đều bị tóm và bị tống giam.”

Stephano muốn hỏi chính xác vì sao mà FBI lại dò ra được các thành viên trong cái tổ hợp của lão, thế nhưng rồi lão hiểu ra rằng cũng chẳng có gì là quá khó. Họ đã nhằm vào những kẻ mất mát nhiều nhất.

“ Ông biết đấy, chuyện đó sẽ làm ông mất nghiệp,” Jaynes nói, ra vẻ thông cảm.

"Vậy ông muốn gì ?"

“Rồi, thỏa thuận là thế này. Hoàn toàn đơn giản. Ông nói với chúng tôi mọi chuyện - tìm ra hắn như thế nào, hắn đã nói ra những gì, vân vân, tất tần tật. Chúng tôi có rất nhiều câu hỏi - và chúng tôi sẽ từ bỏ những tố cáo chống lại ông cũng như không động đến các khách hàng của ông."

"Vậy là không có gì ngoài chuyện dọa dẫm."

"Chính xác. Chúng tôi là người quyết định. Rắc rối là ở chỗ chúng tôi có thể gây chuyện đối với các khách hàng của ông và làm cho ông sập tiệm."

“Hết cả chưa ? "

“Chưa. Với một chút may mắn cho phía chúng tôi, bản thân ông cũng có thể phải vào tù.”

Có cả đống lý do để chấp nhận thỏa thuận này, trong đó lý do về bà Stephano cũng không phải là nhỏ. Bà ta cảm thấy nhục nhã bởi những lời xầm xì rằng FBI đang giám sát ngôi nhà của bà ta suốt đêm ngày. Điện thoại cũng bị nghe trộm; bà ta biết nó là có thật bởi vì đã nhìn thấy chồng ra gọi điện ở ngoài sân sau, gần mấy khóm hồng. Bà ta hết sức đau lòng. Họ là những người đáng kính, bà ta vẫn luôn nhắc chồng như vậy.

Bằng việc vờ tỏ ra rằng mình còn biết nhiều chuyện hơn, Stephano đã đẩy FBI vào đúng chỗ mà lão muốn. Lão có thể làm cho người ta chấm dứt những cáo buộc đối với lão. Lão có thể bảo vệ được các khách hàng của lão. Và, quan trọng nhất là lão có thể tận dụng được một lực lượng Liên bang đáng kể để tìm kiếm chỗ tiền kia.

“Tôi cần phải nói chuyện với luật sư của tôi.”

“Ông có thời gian đến năm giờ chiều mai.”

*

**

Patrick nhìn thấy những vết thương rùng rợn của hắn trên một bản tin đêm của CNN, với màu sắc hoàn toàn rõ ràng, và Sandy đang khua những tấm ảnh như kiểu một võ sĩ đấm bốc đang khoe với thế giới chiếc đai vô địch mới giành được của anh ta. Lúc đó là vào khoảng giữa của phần tóm lược các tin tức trong ngày. “Không có phản ứng chính thức nào của FBI”, một phóng viên đứng ngoài Tòa nhà Hoover ở Oasinhtơn nói vậy.

Luis cũng tình cờ có mặt trong phòng khi TV đang truyền đi tin này. Anh ta đứng sững nghe, hết nhìn TV lại nhìn Patrick đang nằm trên giường với nụ cười đắc chí. Mọi điều được liên hệ lại một cách nhanh chóng. “Những tấm ảnh tôi chụp phải không ?" Anh ta hỏi với cái giọng đặc Anh.

"Phải." Patrick đáp, suýt bật cười.

*

**

Câu chuyện về một luật sư Mỹ giả chết, chứng kiến tang lễ của mình, đánh cắp chín mươi triệu đôla và rồi bị bắt bốn năm sau đó trong khi đang âm thầm sống ở Braxin đã lan truyền hầu như khắp thế giới phương Tây. Eva đã đọc những tin tức mới nhất trên một tờ báo Mỹ trong khi đang ngồi uống cà phê dưới cái vòm của tiệm Les Deux Garcon, cái tiệm ngay trên hè phố mà nàng rất ưa thích ở Aix. Trời đang mưa, làm ướt sũng cả những bộ bàn ghế trống đặt ngoài sân không cách xa nàng là mấy.

Nội dung câu chuyện được đăng ở trang trong của tờ báo. Nó đề cập đến những vết bỏng độ ba nhưng không đăng ảnh kèm theo. Tim nàng nghẹt lại và nàng đeo vội cặp kính râm lên để che đi đôi mắt.

Patrick sắp trở về. Bị thương và bị trói như một con thú, hắn sẽ phải trải qua cái hành trình mà hắn đã luôn biết là sẽ không thể tránh được. Và nàng cũng sẽ đi. Nàng sẽ quanh quẩn đâu đó và sẽ làm những gì hắn muốn, và cầu nguyện cho sự an toàn của cả hai. Cũng giống như Patrick, tối tối, nàng sẽ đi đi lại lại trong phòng để tự hỏi mình rằng tương lai của họ sẽ ra sao.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,854
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 14


Người dịch: Nguyễn Bá Long

Nhà xuất bản: NXB Văn học

Shared by: CCG -

Để chuẩn bị cho việc trở về, Patrick đã chọn một bộ đồ rộng thùng thình, bởi không muốn những vết thương của hắn bị đau đớn thêm. Đó sẽ là một chuyến bay thẳng, kéo dài hơn hai tiếng đồng hồ, và hắn cần phải được càng thoải mái càng tốt. Bác sĩ đã trao cho hắn một lọ thuốc giảm đau để ngừa sẵn, cùng một cặp hồ sơ bệnh án. Patrick cảm ơn ông ta. Hắn bắt tay Luis và nói lời tạm biệt với cô y tá.

Nhân viên đặc biệt Myers đã chờ ngoài cửa phòng với bốn tay quân cảnh lực lưỡng. “Tôi sẽ cố một thỏa thuận với ông, Patrick,” anh ta nói. “Nếu ông cư xử đúng mực thì bây giờ sẽ không cần phải khóa tay và xích chân gì. Tuy nhiên, khi hạ cánh thì tôi không có lựa chọn nào khác.”

“Cảm ơn.” Patrick nói và thận trọng bước đi dọc hành lang. Chân hắn đau từ suốt các đầu ngón lên tới ngang hông, và hai đầu gối hắn run lẩy bẩy. Hắn vẫn ngẩng cao đầu, ngực ưỡn ra, và gật đầu lịch sự chào những cô y tá mà hắn đi ngang qua. Nơi cửa thang máy dưới tầng hầm, một chiếc xe van màu xanh nước biển đang đợi sẵn với hai quân cảnh vũ trang khác. Một bàn tay đưa ra đỡ Patrick ngồi vào chiếc ghế ở khoảng giữa xe. Một quân cảnh khác đưa cho hắn cặp kính râm loại rẻ tiền. “Ông sẽ cần cái này,” anh ta nói. “Ngoài kia nắng khiếp lắm.”

Chiếc xe không hề ra khỏi căn cứ. Nó chạy chậm trên mặt đường nhựa phẳng lỳ, qua các trạm gác không đến nỗi nghiêm ngặt, và không vượt quá tốc độ ba mươi dặm một giờ. Không ai nói một lời nào trong xe. Nhìn qua những tấm rèm cửa dày và lớp kính màu, Patrick thấy những dãy trại lính, những dãy phòng làm việc, rồi một cái nhà để máy bay. Hắn đã ở căn cứ này bốn ngày, hắn nghĩ. Có thể là ba. Hắn không thể dám chắc bởi vì những mũi thuốc mê đã làm hắn lẫn lộn thời gian. Chiếc máy lạnh chạy rì rì ở phía trước làm cho không khí trong xe lạnh mát. Hắn cầm chặt cái cặp hồ sơ bệnh án, thứ vật chất duy nhất mà hắn sở hữu lúc này.

Hắn nghĩ về Ponta Porã, mà giờ hắn đã coi nơi đó là nhà của mình, và không biết người ta có nhớ dến hắn không. Người ta đã làm gì với ngôi nhà của hắn ? Cô người hầu có tiếp tục dọn dẹp không? Có thể là không. Còn chiếc xe của hắn thì sao, chiếc Beetle nhỏ bé màu đỏ mà hắn yêu thích ? Hắn chỉ biết có một vài người trong thị trấn. Họ đang nói gì về hắn ? Có thể là không gì cả.

Thì cũng có gì khác đâu ? Bất kể ở Ponta Porã thế nào, mọi người tại Biloxi thì chắc hẳn là phải nhớ đến hắn. Đứa con hoang tàng đang trở về. Cái gã người Biloxi nổi tiếng nhất hành tinh này đang trở về, và họ sẽ chào đón hắn ra sao ? Với những cái xích chân và trát gọi của tòa án. Tại sao lại không phải là một cuộc diễu hành trên xa lộ 90, dọc theo bờ biển, để chào mừng cái người đã làm nên điều kỳ diệu này nhỉ ? Hắn đã cho họ được có tên trên bản đồ; hắn đã làm cho thành phố của họ trở nên có tiếng tăm. Bao nhiêu người trong số họ đủ ranh mãnh để có được trong tay chín mươi triệu đôla cơ chứ?

Hắn đã suýt phải chặc lưỡi về cái suy nghĩ vớ vẩn đó.

Họ sẽ tống hắn vào nhà tù nào ? Là một luật sư, hắn đã có nhiều dịp thấy tất cả các nhà tù ở địa phương — nhà tù Biloxi, nhà tù quận Harrison, thậm chí cả một trung tâm giam giữ của Liên bang ở căn cứ không quân Keesler, nằm trên đất Biloxi. Hắn sẽ không còn được may mắn nữa.

Hắn sẽ được ở phòng giam riêng hay phải ở chung với đám trộm cắp và đầu gấu ? Một ý nghĩ lóe lên. Hắn mở cái cặp ra và nhanh chóng nhìn lướt những lưu ý của bác sĩ trong tờ giấy xuất viện. Đây rồi, những chữ viết đậm :

BỆNH NHÂN PHẢI ĐƯỢC TIẾP TỤC NẰM VIỆN TRONG ÍT NHẤT LÀ MỘT TUẦN NỮA

Cầu Chúa phù hộ cho ông ta! Tại sao hắn lại không nghĩ tới điều này nhỉ ? Những mũi tiêm. Trong một tuần lễ qua, cơ thể hắn đã phải chịu một lượng thuốc mê nhiều hơn lượng mà hắn có thể phải dùng trong cả một đời. Những sai sót trong trí nhớ và tư duy của hắn có thể là do những thứ thuốc đó.

Hắn cần phải chuyển được bản sao tờ giấy xuất viện này cho Sandy để có thể kiếm được một cái giường tử tế, trong một phòng riêng thì càng tốt, với những cô y tá lăng xăng đi lại. Đó là điều hắn mong muốn. Mười cảnh sát gác ở cửa hắn cũng không quan tâm. Hắn chỉ cần có một cái giường và một cái điều khiển TV từ xa, và bằng mọi cách giữ đừng để bọn tội phạm thông thường đến gần hắn.

“Tôi cần gọi một cú điện thoại,” hắn nói to nhưng không nhằm vào ai. Không có tiếng đáp.

Chiếc xe dừng lại bên nhà để máy bay lớn, có chiếc máy bay vận tải đậu ở đằng trước. Đám quân cảnh đứng chờ ở ngoài nắng trong lúc Patrick và nhân viên đặc biệt Myers đi vào một phòng làm việc nhỏ và tranh cãi về việc liệu có tồn tại một quyền hiến pháp cho một đối tượng bị tình nghi không chỉ là gọi điện thoại cho luật sư của anh ta mà còn fax kèm theo môt tài liệu hay không.

Patrick đã giành phần thắng sau khi dọa đủ kiểu kiện tụng đối với Brent Myers, và những chỉ dẫn trong giấy xuất viện của bác sĩ đã được fax đến văn phòng luật của Sandy McDermott ở New Orleans.

Sau khi vào trong phòng vệ sinh nam một lúc lâu, Patrick quay trở ra và từ tốn trèo lên những bậc thang dẫn lên máy bay.

*

**

Chiếc máy bay hạ cánh xuống căn cứ không quân Keesler vào lúc trưa, khoảng mười hai giờ kém hai mươi. Patrick rất ngạc nhiên, và hơi giật mình, khi không thấy có những hoạt động tấp nập gì để chào đón sự trở về của hắn. Không có đám camêra truyền hình và các phóng viên. Không có đám bạn bè cũ ào đến để sẵn sàng giúp đỡ vào cái lúc hắn cần có sự giúp đỡ này.

Khu sân bay này đã bị tạm thời đóng cửa theo mệnh lệnh từ những cấp cao. Báo chí bị loại ra. Một đám đông tụ tập ở cổng vào phía trước, cách xa cả hơn một dặm, và đã chụp ảnh, ghi hình chiếc máy bay khi nó bay qua đầu. Họ cũng đang rất thất vọng.

Thật lòng, Patrick muốn đám báo chí nhìn thấy hắn khi hắn ra khỏi máy bay trong bộ đồ bệnh viện đã được lựa chọn cẩn thận, khập khiễng bước xuống từng bậc thang và rồi lê lết như một con chó tập tễnh với chiếc còng tay và sợi xích ở chân. Đó có thể sẽ là một hình ảnh đầy sức mạnh, hình ảnh đầu tiên mà tất cả những người hoàn toàn có khả năng trở thành hội thẩm nhân dân ở ngoài kia nhìn thấy.

Đúng như được chờ đợi, tờ Bờ biển buổi sáng đã đăng tải vụ kiện FBI của hắn trên đầu trang nhất, với những tấm ảnh màu lớn. Chỉ có những kẻ bần tiện nhất mới không có một chút thương cảm với Patrick, ít nhất là vào lúc này.

Phía bên kia - chính phủ, các công tố viên, các điều tra viên - cùng lặng đi trước cú đánh này. Lẽ ra đã phải là một ngày tưng bừng của các cơ quan luật pháp; ngày người ta mang về một tên ăn cắp cỡ bự, một tay luật sư tội phạm. Thay vì đó, văn phòng FBI địa phương đã tạm phải ngắt điện thoại và các cánh cửa đều được đóng chặt để ngăn các phóng viên. Chỉ có Cutter đi ra ngoài, song phải đi ra một cách lén lút. Ông ta có bổn phận gặp Patrick ngay khi hắn đặt chân xuống mặt đất.

Cutter đang đợi cùng với cảnh sát trưởng Sweeney, hai sĩ quan không quân của căn cứ, và Sandy.

“Xin chào Patrick. Chúc mừng đã trở về,” viên cảnh sát trưởng nói.

Patrick chìa tay ra bắt với đôi tay vẫn đang bị còng. “Chào Raymond,” hắn đáp lại với một nụ cười. Họ đã quá biết nhau trong mối quen biết cũ giữa các cảnh sát và luật sư ở địa phương. Raymond Sweeney là phó cảnh sát trưởng của quận Harrison cách đây chín năm khi Patrick dọn đến thị trấn.

Cutter bước lên phía trước và tự giới thiệu mình, thế nhưng ngay khi Patrick nghe đến nhóm từ “FBI", hắn quay mặt đi và gật đầu chào Sandy. Một chiếc xe van màu xanh nước biển rất giống với chiếc xe đã đưa hắn ra máy bay ở Puéctô Ricô đang chờ ở gần đó. Họ lên xe, với Patrick ngồi ở phía sau, bên cạnh luật sư của hắn.

“Chúng ta đi đâu đây ?” Patrick thầm thì.

"Tới bệnh viện của căn cứ,” Sandy thầm thì đáp lại “Vì những lý do y tế.”

“Anh giỏi lắm.”

Chiếc xe chạy với một tốc độ như rùa bò, ngang qua một trạm gác nơi mà người lính gác chỉ rời mắt khỏi trang báo thể thao ngước lên trong một giây, rồi chạy dọc theo một con đường yên tĩnh giữa hai khu gia đình sĩ quan.

Cuộc sống trốn tránh luôn đầy những giấc mơ, có những giấc mơ về đêm trong khi ngủ, những giấc mơ thật sự, và còn có cả những giấc mơ khi thức nhưng đầu óc thì lơ mơ. Chúng hầu hết đều là những giấc mơ kinh hoàng, những cơn ác mộng với những cái bóng đen mỗi lúc lại trở nên to lớn hơn và hung bạo hơn. Cũng có những giấc mơ dễ chịu về một tương lai tươi sáng, không liên quan gì nữa với quá khứ. Những giấc mơ này quả là hiếm hoi, đó là điều mà Patrick rút ra. Cuộc sống chạy trốn là cuộc sống của quá khứ. Không có sự khép lại nào.

Lại còn những phút trầm ngâm về cái thời khắc trở về nữa. Ai sẽ có mặt ở đó để đón hắn ? Cái cảm giác và mùi vị của bầu không khí vùng Vịnh này vẫn thế chăng ? Khi nào thì hắn trở về và vào mùa nào ? Bao nhiêu người bạn sẽ kiếm tìm và bao nhiêu sẽ lảng tránh ? Hắn có thể nghĩ tới được một số người mà hắn muốn gặp, thế nhưng hắn không dám chắc là họ có muốn gặp hắn hay không ? Giờ đây hắn như một người hủi ư ? Hay sẽ có cả một buổi lễ tưng bừng ? Có thể là chẳng có gì sất.

Thế nhưng, ở vào khoảng cuối của cái cuộc rượt đuổi này có một sự dễ chịu nhỏ nhoi nhưng khá rõ ràng. Những rắc rối khủng khiếp còn đang ở phía trước, nhưng vào lúc này hắn đã có thể không cần để ý tới những gì đã qua. Sự thật là Patrick chưa bao giờ có thể cảm thấy hoàn toàn thư thái để hưởng thụ cuộc sống mới. Ngay cả tiền bạc cũng không thể làm nguôi ngoai những lo sợ của hắn. Cái ngày hôm nay đây là không thể tránh khỏi; hắn đã biết vậy từ lâu. Hắn đã đánh cắp quá nhiều tiền. Nếu không nhiều như vậy thì các nạn nhân có lẽ cũng đã không cố công đến thế.

Hắn lưu ý tới những điều nho nhỏ trong khi xe chạy. Các lối đi được trải nhựa, điều hoàn toàn hiếm hoi ở Braxin, hay ít ra là ở Ponta Porã. Và những đứa trẻ đi giày thể thao trong lúc chúng chơi đùa. Ở Braxin, chúng luôn đi chân đất, lòng bàn chân chúng đanh lại như cao su vậy. Đột nhiên, hắn thấy nhớ cái đường phố yên tĩnh của hắn, phố Tiradentes, với những đám trẻ chẳng còn trò chơi gì ngoài đá bóng.

“Anh không sao chứ ?" Sandy hỏi.

Hắn gật đầu, mắt vẫn mang cặp kính râm.

Sandy đưa tay vào cặp và lấy ra một tờ Bờ biển. Dòng tít lớn đập vào mắt,

LANIGAN KIỆN FBI VÌ SỰ TRA TẤN VÀ HÀNH HẠ

Hai tấm ảnh kia choán nửa trang báo.

Patrick ngắm nghía một lúc. " Tôi sẽ đọc sau.”

Cutter ngồi đốì diện với Patrick, và lẽ dĩ nhiên ông ta đang lắng nghe từng hơi thở của gã tù nhân của mình. Không thể nào trò chuyện được, và điều này hoàn toàn phù hợp với tâm trạng Patrick. Chiếc xe chạy vào khu đỗ xe của bệnh viện rồi dừng lại trước cửa cấp cứu. Họ đưa Patrick vào qua một cái cửa dành cho nhân viên, rồi theo dọc một hành lang tới nơi những cô y tá đang đợi sẵn để kiểm tra qua bệnh nhân sẽ nhập viện. Hai nhân viên kỹ thuật phòng xét nghiệm dừng lại trước mặt họ và một trong hai người cất tiếng. “Chúc mừng đã trở về, Patrick.” Đúng là một thằng cha tinh quái.

Không có các thủ tục. Không có giấy tờ nhập viện. Không có những câu hỏi về bảo hiểm hay ai sẽ trả tiền cho việc này việc nọ. Hắn được đưa thẳng lên tầng ba và vào một căn phòng ở cuối hành lang. Cutter đưa ra một vài lời khuyên trống rỗng cùng những chỉ dẫn, và viên cảnh sát trưởng cũng làm vậy. Sử dụng điện thoại hạn chế, có ngưòi gác ở cửa, ăn tại phòng. Còn gì khác để mà nói với một tù nhân ? Họ bỏ đi, và chỉ còn Sandy ở lại.

Patrick ngồi trên mép giường, chân đung đưa. “Tôi muốn gặp mẹ tôi,” hắn nói.

“Bà cụ đang trên đường đến. Bà sẽ có mặt ở đây lúc một giờ.”

“Cảm ơn.”

“Còn vợ và con gái anh thì sao ?”

“Tôi muốn gặp Ashley Nicole, nhưng không phải là bây giờ. Tôi chắc là con bé không còn nhớ tôi. Giờ đây, nó nghĩ tôi là một con quái vật. Vì những lý do dễ hiểu, tôi không muốn gặp Trudy.”

Có tiếng gõ cửa, rồi cảnh sát trưởng Sweeney trở lại, với một xấp giấy má dày cộp trên tay. “Xin lỗi đã làm phiền, Patrick, nhưng đây là công việc. Tôi nghĩ tốt nhất là giải quyết cho xong chuyện này đã.”

"Tất nhiên, thưa ông cảnh sát trưởng,” Patrick đáp, vẻ sẵn sàng.

"Tôi cần phải trao cho anh những thứ này. Trước tiên, đây là bản cáo trạng về tội giết người do hội thẩm đoàn quận Harrison đưa ra,"

Patrick cầm lấy, không xem, và trao cho Sandy.

“Đây là một trát đòi hầu tòa và một đơn xin ly hôn do Trudy Lanigan nộp ra tòa ở Mobile.”

“Thật là ngạc nhiên,” Patrick nói trong khi đưa tay cầm. "Vì lý do gì vậy ?"

"Tôi chưa đọc. Đây là một trát đòi hầu tòa và đơn kiện của một ông tên là Benjamin Aricia."

“Ai cơ ?" Patrick hỏi, vẻ khôi hài. Viên cảnh sát trưởng không hề nhếch mép.

“Đây là một trát đòi hầu tòa và đơn kiện của Hãng luật cũ của anh.”

“Họ muốn bao nhiêu thế ?" Patrick hỏi, giơ tay cầm tất.

"Tôi chưa đọc. Đây là một trát đòi hầu tòa và đơn kiện của Hãng Monarch-Sierra.”

“Chà, phải. Tôi nhớ mấy người ở đó." Hắn chuyển lại cho Sandy, người giờ đây đang cầm toàn bộ chỗ giấy má kia từ tay viên cảnh sát trưởng.

“Xin lỗi nhé, Patrick,” Sweeney nói.

“Hết cả chưa ?”

“Bây giờ thì hết. Tôi sẽ ghé lại chỗ phòng thư ký tòa án trong thành phố xem có còn đơn kiện tụng nào được nộp ở đó nữa không.”

“Cứ chuyển đến đây. Sandy làm việc nhanh chóng lắm.”

Họ bắt tay nhau, lần này thì không còn sự vướng víu của những chiếc còng, rồi viên cảnh sát trưởng bước ra.

"Tôi luôn luôn thấy thích Raymond,” Patrick nói, tay chống hai bên hông, từ từ chùng hai đầu gối xuống. Hắn hạ người xuống được một nửa trước khi ngừng lại rồi đứng thẳng lên. “Còn phải lâu đấy, Sandy. Tôi đau thấu đến tận xương.”

“Không sao. Sẽ hữu ích cho vụ kiện của chúng ta.” Sandy lật lật đám giấy tờ. “Có vẻ như Trudy thật sự phiền lòng về anh. Cô ấy muốn gạt anh ra khỏi cuộc đời mình.”

“Tôi đã hết sức cố gắng. Những lý do gì vậy ?”

“Bỏ rơi và ruồng rẫy. Tàn nhẫn về mặt tinh thần.”

“Thật tệ.”

“Anh có định tranh cãi gì không ?”

“Còn tùy thuộc vào việc cô ta muốn gì.”

Sandy lật một trang khác. “Chỉ nhìn lướt ở đây thì có vẻ cô ta muốn ly hôn, giành quyền nuôi con và tước bỏ mọi quyền làm cha của anh, kể cả quyền thăm nom, tất cả bất động sản và tài sản cá nhân đồng sở hữu tính tới lúc anh biệt tăm biệt tích - đó là cách gọi của cô ấy - cộng với, xem nào, đây rồi, một tỉ lệ công bằng và hợp lý của những tài sản mà anh có thể có được kể từ khi mất tích.”

“Lạ thật, lạ thật.”

“Đó là tất cả những gì cô ấy muốn, tất nhiên là vào lúc này.”

“Tôi sẽ đồng ý để cô ta ly hôn, Sandy, và hoàn toàn vui mừng với chuyện đó. Nhưng sẽ không dễ dàng như cô ta tưởng.”

“Anh tính sao ?”

“Chúng ta sẽ nói về chuyện này sau. Tôi hơi mệt.’’

“Được. Với thời gian chạy xe của tôi, cùng chuyện giao thông trên đường ở New Orleans, đậu xe, cùng với quãng đi bộ, phải mất chừng hai giờ để từ đây về được tới văn phòng. Chính xác là khi nào thì anh muốn chúng ta gặp lại ?”

“Tôi xin lỗi, Sandy. Tôi mệt. Sáng mai có được không ? Tôi sẽ nghỉ ngơi đầy đủ và chúng ta sẽ làm việc suốt ngày.”

Sandy vươn vai rồi bỏ giấy tờ vào trong cặp. “Tất nhiên là được, anh bạn. Tôi sẽ đến đây lúc mười giờ.”

“Cảm ơn, Sandy.”

Song Patrick mới nằm nghỉ thoải mái được chừng tám phút thì căn phòng của hắn lại đầy nhóc các nhân viên y tế, toàn phụ nữ. “Xin chào, tôi là Rose, y tá trưởng của anh. Chúng tôi cần kiểm tra sức khỏe anh xem thế nào. Chúng tôi có thể cởi áo anh được không ?" Đó không phải là một lời yêu cầu. Rose đã mó tay vào cái vạt áo của hắn. Hai y tá khác, cũng đậm người như Rose, đứng hai bên và bắt đầu cởi áo Patrick. Họ có vẻ thích thú với công việc này. Một y tá khác đã sẵn sàng với một chiếc cặp nhiệt độ và một hộp đầy những dụng cụ nom mà phát kinh. Một kỹ thuật viên đứng nhìn chòng chọc từ cuối giường. Một hộ lý mặc áo choàng màu da cam thì đang loanh quanh ở gần cửa.

Suốt trong mười lăm phút, họ làm đủ chuyện với thân thể Patrick. Hắn chỉ còn biết nhắm mắt và chấp nhận. Rồi họ cũng nhanh chóng bỏ đi như khi kéo đến.

*

**

Mẹ con Patrick đã gặp mặt nhau với những giọt nước mắt tuôn rơi. Hắn chỉ xin lỗi có một lần, về tất cả mọi điều. Bà âu yếm chấp nhận và tha thứ cho hắn, điều mà chỉ một bà mẹ mới có thể làm được. Niềm vui của bà khi nhìn thấy hắn đã xua tan mọi ý nghĩ khác trong lòng bà từ bốn hôm nay.

Joyce Lanigan năm nay sáu mươi tám tuổi và sức khỏe vẫn khá tốt, ngoại trừ chứng huyết áp cao. Chồng bà, cha của Lanigan, đã bỏ bà để chạy theo một phụ nữ trẻ từ hai mươi năm trước và rồi chết vì một cơn đau tim. Cả bà lẫn Patrick đều không dự tang lễ của ông ta ở Texas. Người vợ thứ hai lúc đó đang có chửa. Con của bà này, đứa em cùng cha khác mẹ với Patrick, đã giết chết hai nhân viên chống ma túy khi nó mới mười bảy tuổi và giờ thì đang ngồi chờ để thực thi bản án tử hình ở Huntsville, Texas. Không ai ở New Orleans và Biloxi biết đến nỗi đau này. Patrick chưa bao giờ nói chuyện đó với Trudy, người vợ trong bốn năm của hắn. Cũng chưa bao giờ hắn nói chuyện với Eva. Làm sao hắn lại phải nói ra cơ chứ ?

Một nỗi cay đắng, cả hai đứa con trai của ông Lanigan đều bị khép vào tội giết người. Một đứa đã bị kết án. Còn một đứa thì đang rất có khả năng.

Patrick đang học đại học khi cha hắn bỏ đi, rồi chết. Mẹ hắn đã phải vất vả lắm để tiếp tục ổn định với cuộc sống của một người phụ nữ ly hôn ở tuổi trung niên, không có nghề nghiệp chuyên môn và chưa bao giờ đi làm. Phán quyết ly hôn cho phép bà giữ lại ngôi nhà và được cung cấp một khoản tiền chỉ vừa đủ sống mà không phải đi tìm việc làm. Thỉnh thoảng, bà có đi làm trợ giáo ở một trường tiểu học địa phuơng, thế nhưng bà thích được ở nhà, làm lụng gì đó ngoài vườn, xem những bộ phim truyền hình dài lê thê, và uống trà với mấy bà luống tuổi bên hàng xóm.

Patrirk đã luôn luôn thấy mẹ hắn là một người đàn bà bị ức chế, đặc biệt là sau khi cha hắn bỏ đi, một sự kiện không làm cho hắn phiền muộn gì nhiều bởi dù sao thì ông ta cũng chẳng ra một người cha. Và cũng chẳng ra một ngưòi chồng nữa. Patrick đã khuyến khích mẹ hắn ra khỏi nhà, kiếm một việc làm, tìm kiếm một lý do gì đó để mà sống. Bà hoàn toàn có thể có một cuộc sống mới.

Thế nhưng, bà đã quá quen với những điều khốn khổ. Qua năm tháng, khi mà Patrick ngày càng bận rộn hơn với nghề luật sư, hắn cũng ít có thời gian với mẹ hơn. Hắn chuyển đến Biloxi, cưới một người vợ mà mẹ hắn không thể nào chấp nhận được...

Hắn hỏi chuyện về những bà dì, những ông chú, đám anh em họ, những người mà hắn đã không có liên hệ từ rất lâu trước cái chết giả của hắn; những người mà hắn đã không mấy nghĩ tới trong bốn năm qua. Hán hỏi chỉ để mà hỏi. Phần lớn là họ đều ổn.

Không, hắn không muốn gặp bất kỳ ai.

Họ rất muốn gặp hắn.

Vớ vẩn. Trước đây họ chưa bao giờ muốn gặp hắn cả.

Họ rất quan tâm tới hắn.

Cũng vớ vẩn nốt.

Hai mẹ con nói chuyện thân tình trong hai giờ đồng hồ, và thời gian trôi đi thật nhanh. Bà cằn nhằn về cân nặng của hắn; “ ốm quá " là từ hay dùng của bà. Bà hỏi về cái cằm và cái mũi mới của hắn, cùng mái tóc sẫm màu. Bà nói tất cả những loại chuyện của các bà mẹ, thế rồi bà lên đường trở về New Orleans. Hắn hứa là sẽ giữ liên lạc với bà.

Hắn lúc nào mà chẳng hứa như vậy, bà thầm nghĩ trong lúc lái xe. Thế nhưng nào đã mấy khi hắn liên lạc.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,854
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 15


Người dịch: Nguyễn Bá Long

Nhà xuất bản: NXB Văn học

Shared by: CCG -

Trong một căn hộ ở khách sạn Hay-Adams, Stephano dành cả buổi sáng cho các cuộc diễn thuyết trên điện thoại. Lão dễ dàng thuyết phục được Benny Aricia rằng ông ta có thể sẽ bị FBI bắt, chụp ảnh, lấy dấu tay, và còn những trò xúc phạm khác nữa. Nhưng thuyết phục những kẻ như Paul Atterson ở Monarch-Sierra và Frank Jill ở Northern Case Mutual thì lại là việc khác, cả hai đều là những nhà quản trị kinh doanh mẫu mực, những người sang trọng với đồng lương khổng lồ và cả một bộ máy nhân viên hùng hậu để làm cho những chuyện không dễ chịu phải dừng lại ở đâu đó. Bắt bớ và truy tố là thứ để dành cho những tầng lớp thấp hơn.

FBI đã tỏ ra rất có tác dụng. Hamilton Jaynes phái nhân viên tới cả hai trụ sở - Monarch ở Palo Alto và Northern Case Mutual ở St. Paul - với chỉ thị là phải ghé thăm cả hai người với một loạt câu hỏi về vụ tìm kiếm và bắt giữ một người tên là Patrick Lanigan.

Đến tầm trưa thì cả hai đều chịu khuất phục. Gọi cái bọn chó ấy về đi, họ nói với Stephano. Vụ tìm kiếm đã chấm dứt. Hợp tác đầy đủ với FBI, và lạy Chúa, hãy làm điều gì đó để lôi cái đám nhân viên FBI khỏi trụ sở của họ. Thật không còn ra thể thống gì.

Vậy là cái tổ hợp nhỏ của họ chấm dứt tồn tại. Stephano đã duy trì được nó trong bốn năm, và trong khi làm cái việc đó, đã kiếm cho mình được gần một triệu đôla. Lão cũng đã chi tiêu hai triệu rưỡi khác của các khách hàng của lão, và lão có thể tuyên bố là đã thành công. Họ đã tìm thấy Lanigan. Họ chưa tìm thấy chín mươi triệu đôla kia, nhưng mà nó vẫn còn đang ở đâu đó. Nó chưa bị tiêu hết. Còn có cơ hội thu hồi lại được.

Benny Aricia đã ở trong căn hộ này với Stephano suốt cả buổi sáng, đọc báo, gọi những cú phôn, lắng nghe Stephano làm việc trên điện thoại. Vào lúc một giờ, ông ta gọi cho luật sư của mình ở Biloxi và nhận được tin là Patrick đã trở về, gần như không có gì ồn ào cả. Truyền hình địa phương đưa tin này vào buổi trưa, cùng với ảnh chụp chiếc máy bay vận tải của không quân đang bay qua đầu lúc nó hạ cánh xuống Keesler. Đó là mức tiếp cận gần nhất mà họ được phép. Viên cảnh sát trưởng địa phương đã xác nhận tin này.

Ông ta đã nghe cái băng ghi lại vụ tra tấn kia đến ba lần và thường phải tua lại những đoạn mà ông ta thích. Trong đó có lần, trên một chuyến bay đi Florida hai ngày trước đó, ông ta vừa nghe nó bằng cáp nghe, trong lúc nhấm nháp chút rượu trên khoang hạng nhất, vừa mỉm cười. Thế nhưng, đó là những nụ cười hiếm hoi của Benny trong những ngày này. Ông ta tin chắc là Patrick đã nói ra những gì hắn biết, song điều đó là không đủ. Patrick biết là hắn sẽ bị tóm một ngày nào đó; do vậy hắn đã ranh mãnh chuyển tiền cho cô gái kia, và cô ta đã giấu biệt nó đi, kể cả với Patrick. Được lắm. Chưa thấy bao giờ.

“Làm thế nào để tìm được cô ta ?” Ông ta hỏi Stephano, trong khi hai người ăn trưa với món xúp mà bộ phận dịch vụ tại phòng mang lên. Câu hỏi này đã được đưa ra nhiều lần.

“Phải thế nào, hay bao nhiêu ?”

“Chắc là bao nhiêu.”

“Không thể trả lời. Chúng ta không hề biết con bé đang ở đâu mà chỉ biết xuất xứ của nó. Và chúng ta biết rằng có khả năng nó sẽ xuất hiện ở đâu đó quanh Biloxi, khi mà giờ đây người đàn ông của nó đang ở đó. Chuyện này có thể làm được.”

“Bao nhiêu ?”

“Để xem xem, tôi muốn nói là một trăm nghìn, mà không có bảo đảm gì được hết. Chuyển tiền đến, khi nào hết là chúng tôi thôi.”

“Liệu có khả năng tụi Liên bang sẽ biết là chúng ta vẫn đang nhòm ngó không ?”

“Không.”

Benny khuấy bát xúp của ông ta - cà chua và mì. Đã bỏ ra một triệu chín rồi, có vẻ sẽ là ngớ ngẩn nếu không cố nốt lần cuối cùng. Bấp bênh, nhưng cái được có thể là rất lớn, vẫn là cái cuộc chơi mà ông ta đã theo đuổi bốn năm qua.

“Và nếu như ông tìm thấy cô ta ?" Benny hỏi.

“Chúng tôi sẽ buộc nó phải nói,” Stephano đáp, và họ cùng ra vẻ nhăn mặt với cái ý nghĩ về những việc phải làm với một phụ nữ, như họ đã làm với Patrick.

“Còn thằng cha luật sư của hắn thì sao?" Sau cùng Benny hỏi. “Chúng ta không thể nghe trộm ở văn phòng, nghe trộm điện thoại, để lén biết được những cuộc nói chuyện giữa hắn ta với thân chủ của hắn ư ? Chắc chắn là chúng sẽ nói chuyện về chỗ tiền của tôi.”

“Đó là một khả năng. Ông nói nghiêm túc đấy chứ ”

“Nghiêm túc ? cả chín mươi triệu đôla của tôi, Jack. Chỉ trừ có một phần ba cho cái đám luật sư hút máu kia thôi. Lẽ dĩ nhiên là tôi nghiêm túc.”

“Có thể hơi phức tạp đấy. Ông biết là cái thằng cha luật sư đó chẳng ngu gì. Và thân chủ của hắn ta cũng rất thận trọng.”

“Nào, Jack. Ông được coi là tay cừ nhất cơ mà. Chắc chắn là người ta cũng phải trả tiền cho ông cao nhất.”

“Chúng ta sẽ thử theo dõi hắn ta trong vài ba ngày, xem quy luật của hắn thế nào. Không vội vàng gì. Trước mắt, thân chủ của hắn sẽ không di chuyển đi đâu cả. Lúc này đây thì tôi quan tâm nhiều hơn tới việc rũ sạch cái đám chấy rận Liên bang kia khỏi đầu tóc mình đã. Tôi cần phải làm một vài việc lẻ tẻ chẳng hạn như mở lại văn phòng và dọn dẹp những thiết bị nghe trộm ra khỏi các điện thoại của tôi.”

Benny Aricia xua tay ngắt lời lão. “Tôi sẽ phải trả bao nhiêu ?”

“Chưa biết. Chúng ta sẽ nói về chuyện này sau. Ông ăn cho xong đi đã. Luật sư họ đang đợi.”

Stephano đi ra trước, bước trên hè phố, và lịch sự vẫy tay chào hai anh chàng nhân viên đặc biệt đang đậu xe trái phép trên phố I, gần kề khách sạn. Lão rảo bước tới văn phòng tay luật sư của mình, cách đó bảy dãy phố.

Benny đợi mười phút sau rồi gọi tắcxi.

Họ mất cả buổi chiều trong phòng họp, với các luật sư và các phụ tá. Các thỏa thuận được trao đổi qua các luật sư của Stephano và của FBI. Sau cùng thì cả hai phía đã đạt được những điều họ muốn. Những tố cáo hình sự đối với Stephano được từ bỏ và cũng sẽ không được dùng để tiếp tục tra cứu đối với các khách hàng của lão. Phía FBI nhận được một lời hứa bằng văn bản rằng Stephano sẽ nói ra tất cả những gì lão biết về vụ tìm kiếm và bắt giữ Patrick Lanigan.

Thực ra thì Stephano đã dự tính sẽ nói hầu hết những gì lão biết. Vụ tìm kiếm này đã chấm dứt; bởi vậy cũng chẳng còn gì để che giấu. Cuộc thẩm vấn kia cũng không mang lại mấy kết quả ngoài cái tên của con bé luật sư người Braxin, kẻ đang giữ chỗ tiền. Giờ đây thì cô ta đã biến mất, và lão thực sự nghi ngờ FBI sẽ không có thời gian hay ý muốn tìm kiếm cô ta. Vì sao mà họ lại phải làm điều đó nhỉ ? Chỗ tiền kia đâu có phải là của họ.

Và trong thâm tâm lão rất muốn FBI thôi dòm ngó gì đến cuộc sống của lão. Bà vợ lão rất phiền muộn, và sức ép ngay ở nhà lão là khủng khiếp. Nếu lão không mau chóng mở lại được văn phòng thì hẳn lão sẽ mất nghiệp.

Bởi vậy, lão đã dự tính nói với họ những gì họ muốn nghe, tất nhiên chỉ là hầu hết chứ không là toàn bộ câu chuyện. Lão sẽ nhận tiền của Benny, và truy lùng con bé kia thêm một thời gian nữa, nhỡ đâu lại gặp may. Và lão sẽ phái một nhóm tới New Orleans để giám sát tay luật sư của Lanigan. FBI đâu cần phải biết những chi tiết nhỏ bé này.

Do không còn chỗ trong Tòa nhà Liên bang ở Biloxi, Cutter đề nghị cảnh sát trưởng Sweeney kiếm cho một chỗ ở nhà tù của quận. Sweeney miễn cưỡng đồng ý, dù rằng cái ý nghĩ về việc FBI sử dụng các phòng làm việc của ông ta không phải là dễ chịu gì. Ông ta cho dọn dẹp một phòng kho và đặt vào đó một cái bàn và mấy cái ghế. Nó được đặt tên là Phòng Lanigan.

Chẳng có gì mấy để mà lưu giữ ở đó. Không có ai bị tình nghi giết người khi Patrick giả chết, và bởi vậy không có cố gắng nào trong việc thu thập các dấu vết, ít nhất là trong sáu tuần lễ đầu tiên. Khi chỗ tiền kia biến mất, những nghi ngờ tăng lên, nhưng tới lúc đó thì các dấu vết lại đã mờ nhạt.

Cutter và Ted Grimshaw, phụ trách điều tra của quận Harrison, thận trọng xem xét và kiểm kê những chứng cớ rất nghèo nàn của họ. Có mười tấm ảnh màu lớn chụp chiếc Chevy Blazer cháy rụi, và họ gắn chúng lên trên tường. Những tấm ảnh này là do Grimshaw chụp.

Vụ cháy lúc đó cực kỳ khủng khiếp; bây giờ thì họ đã biết là vì sao: Rõ ràng là Patrick đã nhồi vào trong xe những thùng nhựa đựng đầy xăng. Điều đó giải thích cho việc những khung ghế bằng nhôm đã bị nóng chảy, các cửa kính bị nổ tung, phần bảng điều khiển cũng rã hết ra và phần còn lại của cái thi hài kia là rất ít. Sáu tấm ảnh chụp cái thi thể mà nguyên trạng chỉ là một đống tro than nhỏ với một nửa mẩu xương chậu nhô ra. Chiếc Blazer đã lật vài vòng sau khi rời khỏi mặt đường và rớt xuống một hẻm núi.

Cảnh sát trưởng Sweeney giữ nó trong một tháng, rồi thì mang bán sắt vụn cùng với ba cái xác xe khác, về sau, ông ta đã hối tiếc về việc đó.

Dăm bảy tấm ảnh chụp hiện trường quanh chiếc xe, những đám cây cỏ cháy đen. Những người tình nguyện đã phải mất một tiếng đồng hồ để dập tắt đám cháy đó.

Thật tiện làm sao khi mà chính Patrick cũng muốn được hỏa thiêu. Theo Trudy, và họ có một tuyên bố bằng văn bản của chị ta một tháng sau đám tang, Patrick đã đột ngột cho rằng hắn muốn được hỏa thiêu và tro hài cốt được chôn ở Locust Grove, cái nghĩa địa xinh xắn nhất trong quận. Quyết định của hắn được đưa ra suýt soát mười một tháng trước khi hắn biến mất. Thậm chí hắn còn sửa lại di chúc và đưa vào đó yêu cầu người lo việc mai táng hắn, Trudy, hoặc trong trường hợp chị ta chết cùng với hắn thì là Karl Huskey, tiến hành việc hỏa táng này. Hắn cũng đã đề cập tới các chi tiết cụ thể cho đám tang của mình

Lý do của hắn về sự chuẩn bị này là cái chết không được chuẩn bị trước của một thân chủ. Gia đình đã phải tranh cãi gay gắt về việc chôn cất như thế nào, và Patrick đã bị lôi cuốn vào cuộc cãi cọ này. Hắn thậm chí còn buộc Trudy chọn mộ phần sẵn. Chị ta đã chọn lô đất kế ngay bên lô đất của hắn, nhưng cả hai đều biết rằng chị ta sẽ nhanh chóng di chuyển nó nếu như có điều gì xảy ra với hắn trước.

Người lo dịch vụ lễ tang sau này nói với Grimshaw rằng chín mươi phần trăm công việc hỏa táng đã diễn ra ngay trong chiếc Blazer rồi. Khi ông ta cân lại lượng tro sau khi thiêu những gì còn lại trong một tiếng đồng hồ ở nhiệt độ hai nghìn độ, chỉ số là một cân tám, một lượng nhỏ nhất mà ông ta từng biết đến. Ông ta không thể nói gì về cái thi thể đó — nam, nữ, da đen, da trắng, già, trẻ, sống hay chết trước khi chiếc xe bốc cháy. Đơn giản là không thể. Mà thật lòng thì ông ta cũng chẳng cố gắng làm điều đó làm gì.

Họ không có xác, không có báo cáo khám nghiệm tử thi, không hề biết người chết kia là ai. Ngọn lửa là cách chắc chắn nhất để thủ tiêu các bằng chứng, và Patrick đã làm một công việc tuyệt vời trong cái việc che giấu các vết tích của hắn.

Cuối tuần đó, hắn đã ở trong ngôi nhà đi săn cũ gần thị trấn Leaf nhỏ bé, thuộc quận Greene, nằm ngay bìa rừng quốc gia De Soto. Hắn và một người bạn ở Jackson, học cùng nhau thời ở trường luật, đã mua ngôi nhà này hai năm về trước với những kế hoạch nhằm thay đổi không khí. Nó hoàn toàn thô sơ. Họ săn hươu về mùa thu và mùa đông, và săn gà tây rừng vào mùa xuân. Với những chuyện cơm không lành canh chẳng ngọt trong đời sống vợ chồng, hắn ngày càng dành nhiều dịp nghỉ cuối tuần ở ngôi nhà đi săn này hơn. Nó chỉ cách xa có một giờ ruỡi chạy xe. Hắn nói là hắn có thể làm việc được ở đó. Rất vắng lặng và yên tĩnh. Người bạn đồng sở hữu của hắn thì gần như đã quên hẳn ngôi nhà này.

Trudy làm bộ khó chịu về những vắng mặt cuối tuần của hắn, thế nhưng Lance thường lẩn quất đâu đó, chỉ đợi lúc Patrick rời khỏi thị trấn.

Đêm chủ nhật, ngày 9 tháng Hai năm 1992, Patrick gọi báo cho vợ biết là hắn đang bắt đầu rời khỏi ngôi nhà đi săn kia. Hắn đã hoàn tất một hồ sơ phức tạp cho một vụ kháng cáo, và hắn mỏi mệt. Lance còn nán lại chừng một giờ nữa trước khi biến mất vào trong bóng đêm.

Patrick dừng lại ở cửa hiệu Verhall’s Country bên xa lộ 15, trên ranh giới giữa hai quận Stone và Harrison. Hắn mua mười hai galông xăng và trả mười bốn đôla hai mươi mốt xu bằng thẻ tín dụng. Hắn nói chuyện với bà Verhall, một người phụ nữ lớn tuổi mà hắn đã trở nên quen biết. Bà ta biết nhiều tay súng săn đi ngang qua đó, đặc biệt là những người hay khoe khoang về những thứ kiếm được trong rừng, giống như Patrick. Sau này, bà ta nói rằng hắn ở tâm trạng vui vẻ, mặc dù là hắn kêu mệt bởi vì đã phải làm việc suốt dịp nghỉ cuối tuần. Bà ta nhớ lại là đã nghĩ rằng đó chỉ là chuyện vớ vẩn. Một giờ sau, bà ta nghe thấy tiếng xe cảnh sát và xe cứu hỏa chạy ngang qua.

Cách đó tám dặm, người ta thấy chiếc Blazer của Patrick đang ngập trong ngọn lửa điên cuồng dưới một khe núi, cách mặt đường chừng bảy chục mét. Một người lái xe tải đã nhìn thấy ngọn lửa đầu tiên, và đã cố đến sát được chừng hơn chục mét thì xém cả lông mày. Anh ta gọi vô tuyến điện cầu cứu, và rồi ngồi trên một gốc cây, bất lực nhìn ngọn lửa. Chiếc Blazer nằm lật nghiêng về bên phải với phần nóc quay về phía xa, bởi vậy không thể nào nhìn thấy có ai đó ở trong xe hay không. Dù sao thì cũng vậy cả. Dứt khoát là không thể nào cứu được.

Cho đến khi viên cảnh sát quận đầu tiên đến nơi, đám lửa đã dữ dội đến mức gần như không còn nhìn được hình dáng chiếc xe đâu nữa. Đám cây cỏ xung quanh cũng đã bắt đầu bốc cháy. Một chiếc bơm nhỏ của một người tình nguyện được đưa đến, thế nhưng lại không đủ nước. Xe cộ trên đường dừng lại nhiều hơn, và rồi là cả một đám đông đứng lặng, chỉ còn biết giương mắt nhìn đám lửa hừng hực ở phía bên dưới. Bởi vì người lái chiếc Blazer kia không thấy đâu, mọi nguời đều tin rằng ông ta hoặc bà ta đang được hỏa táng ở trong đó cùng với mọi thứ khác.

Hai chiếc xe tải lớn hơn tới, và sau cùng ngọn lửa cũng được dập tắt. Hàng giờ đồng hồ trôi qua trong khi cảnh sát trưởng Sweeney chờ đợi để mọi thứ nguội bớt đi. Gần nửa đêm ông ta mới phát hiện thấy cái đống đen đen mà ông ta nghĩ có thể là một cái xác. Người phụ trách khám nghiệm tử thi cũng có mặt ở đó. Mẩu xương chậu đã chấm dứt mọi sự suy đoán. Grimshaw bấm máy ảnh. Họ đợi cho cái xác kia nguội đi hơn nữa, rồi lượm bỏ vào trong chiếc thùng cáctông.

Dưới ánh đèn pin, người ta lần ra được số biển kiểm soát của chiếc xe, và vào lúc ba giờ sáng, Trudy nhận được cú điện thoại biến ả thành một góa phụ. Cho dù chỉ là trong bốn năm rưỡi.

Viên cảnh sát trưởng đã quyết định không di chuyển chiếc xe trong đêm. Rạng sáng, ông ta trở lại với năm nhân viên để rà soát lại toàn bộ hiện trường. Họ tìm thấy vết lốp xe trượt dài tới gần ba chục mét trên mặt đường, và cho rằng có lẽ một con hươu đã chạy ngang trước mặt tay Patrick tội nghiệp kia, làm cho hắn mất lái. Do ngọn lửa lan ra mọi phía, mọi dấu vết có thể có về chuyện gì có thể đã xảy ra đều đã bị hủy hoại. Điều bất ngờ duy nhất là việc phát hiện được một chiếc giày nằm cách xa chiếc Blazer khoảng bốn chục mét. Đó là một chiếc giày thể thao hiệu Nike Air Max hơi cũ, cỡ số mười, và Trudy nhanh chóng xác định đó là giày của Patrick. Ả ta đã khóc bổi khóc dải khi họ đưa nó cho xem.

Viên cảnh sát trưởng suy đoán rằng chiếc xe đã lộn vài vòng trước khi đâm xuống khe núi và thi thể nạn nhân cũng bị quăng quật ở trong đó. Chiếc giày tuột ra, và bị văng ra ngoài theo một đường vòng cung... Nghe cũng có lý như bất kỳ điều gì khác.

Họ chất chiếc Blazer lên một chiếc xe tải và mang đi. Vào lúc chiều tối, những gì còn lại của Patrick được hỏa thiêu. Lễ tang hắn diễn ra vào ngày hôm sau, tiếp đó là lễ an táng ở nghĩa địa, mà hắn đã chứng kiến qua cặp ống nhòm.

Cutter và Grimshaw nhìn chiếc giầy trơ trọi nằm ở giữa mặt bàn. Cùng với nó là nhiều lời khẳng định của các nhân chứng — Trudy, bà Verhall, người phụ trách việc khám nghiệm tử thi, người làm dịch vụ lễ tang, thậm chí cả Grimshaw và viên cảnh sát trưởng - tất cả đều nói đúng những gì mà người ta cho là họ sẽ nói. Chỉ có một nhân chứng bất ngờ xuất hiện trong thời gian sau khi khoản tiền kia đã biến mất. Một phụ nữ trẻ, sống gần cửa hiệu nhà Verhall, nói trong một lời khai có tuyên thệ rằng cô ta đã nhìn thấy một chiếc Chevy Blazer đời 1991 màu đỏ đậu bên cạnh đường, ngay chỗ xảy ra vụ cháy. Cô ta đã nhìn thấy nó hai lần. Một lần vào đêm thứ bảy, và rồi chừng hai mươi tư giờ sau, vào khoảng thời gian xảy ra vụ cháy.

Lời khai này do Grimshaw ghi lại nhà cô ta ở quận Harrison, bảy tuần sau lễ tang của Patrick. Vào lúc đó, cái chết của hắn đã bị nghi ngờ bởi vì khoản tiền kia đã biến mất.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,854
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 16


Người dịch: Nguyễn Bá Long

Nhà xuất bản: NXB Văn học

Shared by: CCG -

Đó là một bác sĩ nội trú trẻ người Pakistan có tên là Hayani, một người có bản chất tự nhiên giàu tình cảm và chu đáo. Tiếng Anh của anh ta nặng thổ âm, và anh ta có vẻ hài lòng được ngồi nói chuyện gẫu với Patrick chừng nào mà bệnh nhân còn muốn. Các vết thương đang lành lại nhanh chóng.

Thế nhưng bệnh nhân lại vẫn rất phiền muộn. “Cuộc tra tấn đó là thứ mà tôi không thể nào mô tả lại một cách chính xác," Patrick kết luận, sau khi họ đã nói chuyện với nhau gần cả tiếng đồng hồ. Hayani đã đưa đẩy câu chuyện tới chủ đề này. Nó đầy rẫy trên mặt báo, kể từ vụ kiện FBI được đưa ra tòa, và từ quan điểm y tế, việc được khám và điều trị cho một người bị thương trong một tình huống kinh khủng như vậy là một cơ hội hiếm hoi. Bất kỳ một bác sĩ trẻ nào cũng thích được gần gũi đến thế này với cái vùng mắt bão.

Hayani gật đầu với thái độ trịnh trọng. Cứ nói tiếp đi, cặp mắt của anh ta như nài nỉ bệnh nhân.

Hôm nay thì Patrick chắc chắn sẽ sẵn sàng nói. “Không thể nào ngủ nổi,” hắn nói. “Có lẽ chừng một tiếng là nhiều nhất trước khi tôi lại nghe thấy những tiếng nói, lại ngửi thấy mùi da thịt mình khét lẹt, rồi lại tỉnh dậy người đẫm mồ hôi. Và chắc sẽ không khá hơn được. Giờ thì tôi đã ở đây, an toàn, tôi nghĩ vậy, thế nhưng họ vẫn ở bên ngoài kia, săn đuổi tôi. Tôi không thể nào ngủ được. Tôi không muốn ngủ, bác sĩ ạ.”

"Tôi có thể cho anh uống vài viên thuốc.”

“Không. Đại khái là chưa được. Tôi đã phải chịu quá nhiều thứ hóa chất rồi.”

“Máu của anh có vẻ đã ổn. Có một chút cặn, nhưng không đáng kể gì.”

“Không thuốc nữa, thưa bác sĩ. Chí ít là lúc này.”

“Anh cần phải ngủ một chút, Patrick ”

“Tôi biết, nhưng mà tôi không muốn ngủ. Tôi sẽ lại như bị tra tấn."

Hayani viết gì đó lên cái bảng theo dõi mà anh ta cầm trên tay. Một khoảng im lặng kéo dài, trong đó hai người đều mải nghĩ tới những lời phải nói tiếp theo. Hayani thấy khó mà có thể tin nổi người đàn ông có vẻ tử tế này lại đã giết một ngưòi khác và nhất là theo một cái cách ghê gớm như vậy.

Căn phòng chỉ hơi mờ sáng nhờ chút ánh nắng lọt vào qua khe của sổ. “Tôi có thể nói thật lòng với ông về một chuyện được không, bác sĩ ?” Patrick hỏi, giọng trầm xuống hơn nữa.

“Tất nhiên.”

"Tôi cần phải được ở đây càng lâu càng tốt. Ngay trong căn phòng này. Vài ngày tới, họ sẽ bắt đầu rộn lên về việc chuyển tôi tới nhà tù quận Harrison, nơi mà tôi sẽ bị tống vào trong một phòng giam chật hẹp với một hay hai kẻ côn đồ hung hãn, và làm sao mà tôi còn có thể sống được cơ chứ ?”

“Nhưng sao họ lại muốn đưa anh đi ?"

“Đó là chuyện sức ép, thưa bác sĩ. Họ sẽ dần dần tăng sức ép đối với tôi cho đến khi tôi phải nói với họ những gì họ muốn. Họ ném tôi vào trong một phòng giam tồi tệ với bọn cưỡng dâm và buôn bán ma túy, với lời nhắn nhủ kèm theo sẽ là tôi nên mở miệng, bởi nếu không, đó sẽ là thứ mà tôi sẽ phải chịu đựng suốt phần còn lại của cuộc đời. Nhà tù ở Parchman là nơi tồi tệ nhất trên thế giới này. Ông đã bao giờ đến Parchman chưa, bác sĩ ?"

“Chưa”

“Tôi thì đã đến. Tôi từng có một thân chủ ở đó. Thực sự là cả một địa ngục. Thế nhưng ông lại có thể giữ tôi ở đây được, bác sĩ. Tất cả việc ông phải làm là cứ nói với ông chánh án rằng tôi cần phải được tiếp tục chăm sóc, vậy là tôi sẽ ở đây. Tôi xin ông đấy, bác sĩ.”

“Tất nhiên rồi, Patrick,” anh ta nói, rồi một lần nữa ghi vài dòng vào biểu theo dõi. Một phút im lặng kéo dài, Patrick nhắm nghiền hai mắt và thở gấp gáp. Chỉ cái ý nghĩ về tù ngục đã làm cho hắn khiếp đảm.

"Tôi sẽ khuyến nghị về một trắc nghiệm tâm lý,” Hayani nói, và Patrick phải cắn môi để giấu một nụ cười.

“Sao cơ ?" Hắn hỏi, vẻ hoảng hốt.

“Bởi vì tôi tò mò. Anh có phản đối không đấy ?”

"Tôi nghĩ là không. Bao giờ ?”

“Có lẽ là trong một vài ngày tới.”

“Tôi không chắc là nhanh như vậy thì tôi có chịu được không ?”

"Thì cũng không vội gì.”

“Như thế thì hơn. Chúng ta không nên vội về bất cứ chuyện gì ở đây cả, thưa bác sĩ.”

"Tôi hiểu. Tất nhiên rồi. Có lẽ là tuần sau.”

“Vâng. Hoặc là tuần sau nữa.”

oOo

Mẹ của thằng bé là Neldene Crouch. Chị ta giờ đây sống trong một cái bãi đỗ của những ngôi nhà lưu động bên ngoài Hattiesburg, nhưng khi con trai chị ta mất tích thì chị ta sống, với thằng bé, ở một cái bãi khác bên ngoài Lucedale, một thị trấn nhỏ cách Leaf ba mươi dặm. Theo chỗ chị ta nhớ lại, con trai mình mất tích từ ngày chủ nhật, mùng 9 tháng Hai năm 1992, đúng ngày mà Patrick Lanigan chết trên xa lộ 15.

Nhưng theo hồ sơ của cảnh sát trưởng Sweeney, Neldene Prewitt, tên lấy theo chồng lúc đó của chị ta, lần đầu tiên gọi đến văn phòng của ông ta là ngày 13 tháng Hai năm 1992, báo tin con trai mất tích. Chị ta cũng gọi cho các cảnh sát trưởng của các quận lân cận, và cho cả FBI cùng CIA. Chị ta rất lo lắng và có lúc gần như phát rồ lên.

Tên nó là Pepper Scarboro. Nó mang họ Scarboro, là của ngưòi chồng thứ nhất của mẹ nó, người được cho là cha của nó, mặc dù mẹ nó chưa bao giờ dám chắc ai là cha đẻ của con mình. Còn cái tên Pepper thì không ai có thể nhớ được là có xuất xứ từ đâu. Chị ta đã đặt tên cho con lúc còn ở bệnh viện là LaVelle, một cái tên mà thằng bé luôn căm ghét. Và nó đã nhặt lấy cái tên Pepper từ lúc còn nhỏ tuổi, đòi lấy đó làm tên chính thức của mình. Gì cũng được, trừ LaVelle.

Lúc mất tích, Pepper Scarboro vừa mười bảy tuổi. Sau khi học hết lớp 5, và sau ba lần cố gắng, cậu ta bỏ học để đứng bơm xăng tại một cây xăng ở Lucedale. Là một đứa trẻ cô độc và nói lắp nặng, ở tuổi thiếu niên Pepper khoái những trò chơi ngoài trời, và không gì bằng những cuộc đi dã ngoại và đi săn trong nhiều ngày liền, thường là một mình.

Pepper không có mấy bạn bè, và người mẹ thường quở mắng con về những khuyết điểm này nọ. Chị ta còn hai đứa con nhỏ hơn, và nhiều bạn trai. Chị ta sống cùng các con trong một ngôi nhà lưu động bẩn thỉu, không có máy điều hòa không khí. Pepper thích ngủ trong một cái lều tạm ở sâu tít trong rừng. Cậu ta để dành tiền và tự mua một khẩu súng săn cùng bộ đồ cắm trại. Do vậy mà Pepper dành phần lớn thời gian có thể được lang thang trong khu rừng quốc gia De Soto, cách xa chỗ bà mẹ chỉ hai mươi phút thôi nhưng với cậu thì là cả nghìn dặm.

Không có bằng chứng rõ rệt là Pepper và Patrick có từng gặp nhau không ? Hoàn toàn ngẫu nhiên là ngôi nhà đi săn của Patrick nằm trong vùng rừng mà Pepper thường thích tới săn. Patrick và Pepper cùng là người da trắng, cao suýt soát bằng nhau, mặc dù Patrick nặng cân hơn nhiều. Điều đáng quan tâm hơn cả là việc khẩu súng săn, chiếc lều và cái túi ngủ của Pepper đã được tìm thấy trong ngôi nhà đi săn của Patrick vào cuối tháng Hai năm 1992.

Cả hai mất tích vào cùng một khoảng thời gian, tại cùng một khu vực. Trong những tháng tiếp sau, Sweeney và Cutter đã xác định rằng không còn có ai ở bang Mississippi mất tích vào khoảng trước và sau ngày 9 tháng Hai và cả hơn mười tuần tiếp theo đó. Có một vài vụ, hầu hết là những đứa trẻ có vấn đề, được báo là mất tích trong cùng tháng Hai năm 1992, nhưng vào cuối mùa xuân thì tất cả đều đã được kiểm kê đầy đủ. Vào tháng Ba, có một người phụ nữ ở Corinth chạy trốn khỏi một cuộc sống vợ chồng bạo lực và rồi chưa ai nhìn thấy chị ta ở đâu.

Về mặt số liệu, có một điều rõ ràng là sự mất tích của Pepper và Patrick có liên quan đến nhau. Nếu như, với một cơ may nào đó, Patrick đã không bỏ mạng trong chiếc Blazer của hắn, thì giờ đây Cutter và Sweeney gần như chắc chắn rằng Pepper phải là người chết thế trong đó. Tất nhiên, điều này mang nặng tính suy đoán và không thể nào được chấp nhận trước một tòa án. Patrick có thể đã cho một người nào đó từ Australia đến đi nhờ xe, một kẻ lêu lổng ở một nơi trời đánh nào đó, một người đi bộ từ một bến xe buýt... rồi giết người đó. Nhiều suy đoán và có thể lắm...

Họ còn một danh sách tám người nữa, từ một người đứng đắn có tuổi ở Mobile mà lần cuối cùng được nhìn thấy là đang lái xe loạng quạng ra khỏi thành phố về hướng Mississippi, tới một cô gái điếm trẻ tuổi ở Houston, người đã nói với bạn là sẽ chuyển đi Atlanta để bắt đầu một cuộc sống mới. Cả tám đều được tuyên bố là mất tích vài tháng, thậm chí là vài năm trước tháng Hai năm 1992. Cutter và viên cảnh sát trưởng từ lâu đã cho rằng danh sách nàv là vô giá trị.

Pepper vẫn là khả năng lớn nhất, có điều họ không thể chứng minh được mà thôi.

Tuy nhiên, Neldene lại nghĩ rằng chị ta có thể, và nóng lòng muốn được chia sẻ cách nghĩ của mình với báo chí. Hai ngày sau khi Patrick bị bắt, chị ta đến gặp một luật sư, một gã rẻ tiền từng lo vụ ly hôn gần đây nhất của Neldene để kiếm ba trăm đôla, và đề nghị gã “cò mồi” với đám báo chí hỗn độn. Gã nhanh chóng nhận lời, nói rằng sẽ làm chuyện này mà không lấy một xu nào cả, rồi tiến hành cái việc mà hầu hết các luật sư tồi đều làm khi đại diện cho một thân chủ với một câu chuyện ly kỳ nào đó - gã tổ chức một cuộc họp báo tại văn phòng của gã ở Hattiesburg, cách Biloxi chín mươi dặm về phía bắc.

Gã lôi thân chủ nước mắt ngắn nước mắt dài của mình ra trước các phương tiện thông tin đại chúng và nói về sự vô dụng của viên cảnh sát trưởng ở dưới Biloxi, của FBI cùng những nỗ lực không ra đâu vào đâu của họ trong việc tìm kiếm Pepper. Họ thật đáng xấu hổ vì đã giậm chân tại chỗ hơn bốn năm qua trong khi thân chủ tội nghiệp của gã phải sống trong tâm trạng đau khổ và bất an. Gã đã nguyền rủa và tận dụng kỳ hết mười lăm phút trước báo chí của gã. Gã bóng gió về một hành động pháp lý đối với Patrick Lanigan, người rõ ràng là đã giết Pepper rồi đốt xác cậu ta để phi tang và biến đi với chín mươi triệu đôla, thế nhưng gã mập mờ về những điều cụ thể.

Báo chí, bất chấp mọi sự thận trọng cần có, đã bập vào câu chuyện này. Họ được nhận những tấm ảnh của Pepper, một cậu bé trông hồn nhiên với mái tóc bù xù và gương mặt còn đầy lông tơ. Một gương mặt như vậy được gắn với cái thi thể của nạn nhân không còn nhận diện được kia, và trở thành một con người. Đó là cậu bé mà Patrick đã sát hại.

Câu chuyện về Pepper được đăng tải ầm ĩ trên báo chí, và được nhắc đến một cách thích hợp bằng nhóm từ “người được cho là nạn nhân," thế nhưng phần “người được cho là" thì luôn luôn bị chìm đi. Patrick đã một mình theo dõi tin này trong căn phòng tối của hắn.

Chỉ ít lâu sau khi biến đi, Patrick được biết có tin đồn rằng Pepper Scarboro đã bị thiêu trong đống lửa. Hắn và Pepper đã đi săn hươu cùng nhau vào tháng Giêng năm 1992, và đã cùng ăn món thịt bò hầm bên bếp lửa vào cuối một chiều đông lạnh giá ở trong rừng. Hắn đã ngạc nhiên khi biết rằng Pepper thực sự thích sống ở rừng, chứ không thích ở nhà, điều mà cậu ta hiếm khi nói tới. Tài nghệ dựng lều và sinh tồn của cậu ta thật là kỳ lạ. Patrick đã bảo Pepper cứ việc sử dụng cái mái hiên của hắn trong trường hợp mưa gió hoặc thời tiết xấu, thế nhưng theo chỗ hắn biết thì cậu ta chưa bao giờ đụng tới.

Họ đã gặp nhau vài lần trong rừng. Pepper có thể nhìn thấy mái của ngôi nhà đi săn kia từ đỉnh một ngọn đồi rậm rạp cách xa chừng một dặm, và nếu như chiếc xe của Patrick xuất hiện thì cậu ta sẽ nấp quanh đâu đó. Cậu ta khoái bám theo sau Patrick trong lúc hắn đi dạo trên những quãng đường dài hay lần vào rừng săn thú. Cậu ta thường ném theo hắn những viên sỏi nhỏ hay những quả dại cho tới lúc hắn phải quát lác và văng tục. Rồi họ lại ngồi nói chuyện với nhau chốc lát. Chuyện trò không phải là thứ mà Pepper hứng thú gì, nhưng cậu ta cũng khoái cái khoảnh khắc tạm chia tay với sự cô độc. Patrick thường mang cho cậu ta bánh và kẹo.

Hắn không ngạc nhiên với điều người ta, khi đó và bây giờ, cho rằng hắn đã giết thằng bé.

oOo

Bác sĩ Hayani theo dõi bản tin tối với sự quan tâm đặc biệt. Anh ta đọc báo và nói chuyện rất chi tiết với người vợ mới cưới về tay bệnh nhân đầy tai tiếng của mình. Họ ngồi trên giường và lại theo dõi lại từ đầu câu chuyện này trong bản tin khuya.

Điện thoại réo lên đúng lúc họ vừa tắt đèn và chuẩn bị ngủ. Đó là Patrick, với tất cả những lời xin lỗi, một cách đau đớn và khiếp sợ, và chỉ cần có ngưòi để nói chuyện. Bởi vì về mặt nội quy, hắn là một tù nhân, hắn chỉ được phép gọi điện cho luật sư và bác sĩ của hắn, và chỉ hai lần một ngày cho mỗi người. Xin bác sĩ một phút có được không ?

Tất nhiên. Một lời xin lỗi nữa vì đã gọi muộn thế này, thế nhưng lúc này hắn không thể nào ngủ được, và hắn rất phiền lòng bởi tất cả những tin tức kia và đặc biệt là về điều nhận định rằng hắn đã giết thằng bé. Bác sĩ có thấy trên TV không ?

Có, tất nhiên. Patrick đang ở trong phòng của hắn, đèn đóm tắt hết, co mình trên giường. Hắn phải thú nhận là hắn cảm thấy biết ơn Chúa về những viên cảnh sát đang đứng ngoài hành lang, bởi vì hắn sợ hãi. Tai hắn như đang nghe thấy những tiếng nói và những tiếng động không đâu vào đâu. Những tiếng nói không phải vọng tới từ ngoài hành lang mà là xuất phát từ ngay bên trong căn phòng. Phải chăng là do những thứ thuốc, có thể là một loạt thứ, Patrick. Thuốc này, sự mệt mỏi này, những chấn thương mà hắn vừa phải trải qua, sự tổn thương cả về thể chất lẫn tinh thần.

Cứ như thế, họ nói chuyện trong chừng một giờ.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,854
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 17


Người dịch: Nguyễn Bá Long

Nhà xuất bản: NXB Văn học

Shared by: CCG -

Hắn đã không gội đầu suốt ba ngày liên tiếp. Hắn muốn mái tóc có vẻ bóng dầu. Hắn cũng không cạo râu ria gì cả. Còn quần áo bên ngoài, hắn chuyển từ bộ đồ ngủ nhẹ bằng vải bông trở lại với bộ đồ rộng thùng thình cũ màu nước biển, nay đã nhàu nát. Hayani hứa kiếm cho hắn một bộ mới. Thế nhưng hôm nay, hắn cần bộ nhàu nát này. Hắn đi một chiếc tất màu trắng vào chân bên phải, nhưng mà có một vết bỏng nặng ngay phía trên mắt cá, và hắn muốn mọi người nhìn thấy. Bởi vậy hắn lại cởi ra. Chỉ một đôi dép bằng cao su màu đen dùng đi trong phòng tắm mà thôi.

Ngày hôm nay người ta sẽ trưng hắn ra. Cả thế giới đang chờ đợi.

Sandy đến vào lúc mười giờ với một cặp kính râm rẻ tiền, thể theo yêu cầu của hắn, cùng một cái mũ đen có mang dòng chữ Các vị thánh New Orleans. “Cảm ơn," Patrick nói trong khi hắn đứng trước gương trong phòng tắm ngắm nghía cặp kính và sửa sang cái mũ.

Bác sĩ Hayani đến sau đó vài phút, và Patrick giới thiệu hai người với nhau. Patrick đột nhiên cảm thấy bồn chồn và váng đầu. Hắn ngồi xuống mép giường, đưa tay vuốt tóc và cố gắng thở chầm chậm. “Tao không bao giờ nghĩ lại có ngày hôm nay cả, mày biết không,” hắn lầm bầm với cái sàn nhà. “Không bao giờ.” Tay bác sĩ và người luật sư của hắn nhìn nhau không còn biết nói gì.

Hayani ra lệnh mang tới một liều thuốc làm dịu thần kinh khá mạnh, và Patrick uống liền cả hai viên. “Có thể là tôi sẽ ngủ qua mọi chuyện,” hắn nói.

"Tôi sẽ lo phần trình bày,” Sandy nói. “Cứ cố gắng và nghỉ ngơi đi.”

“Hẳn là phải thế rồi,” Hayani nói.

Một tiếng gõ cửa, và cảnh sát trưởng Sweeney bước vào với đám phụ tá đông đảo đủ để đàn áp một cuộc nổi loạn. Những lời chào hỏi cứng nhắc. Patrick đội chiếc mũ Các thánh kia lên, đeo cặp kính râm mới, đen thui và to tướng, rồi chìa hai cổ tay ra cho người ta khóa.

“Cái gì kia ?” Sandy lên tiếng, tay chỉ vào cặp khóa chân mà một cảnh sát đang cầm.

“Khóa chân,” Sweeney đáp.

"Tôi không nghĩ vậy,” Sandy nói gay gắt. “Anh ta còn có những vết bỏng ở trên mắt cá.”

“Đúng thế,” bác sĩ Hayani mạnh bạo nói, sốt ruột muốn được vào cuộc. “Đây,” anh ta khẳng định, chỉ vào mắt cá bên trái của Patrick.

Sweeney cân nhắc trong một khoảnh khắc, và sự lưỡng lự này làm cho ông ta phải trả giá. Sandy lấn tới: “Nào, thưa ông cảnh sát trưởng, hắn có khả năng chạy trốn không đấy ? Hắn bị thương, bị khóa tay, với tất cả những người này ở xung quanh. Hắn sẽ làm chuyện quái gì được hả ? Vùng chạy ư ? Các ông không đến nỗi quá chậm chạp, phải không nào ?”

“Tôi sẽ gọi cho ông chánh án, nếu cần,” bác sĩ Hayani bực dọc nói.

“Nhưng mà hắn đến đây với chiếc khóa chân,” viên cảnh sát trưởng nói.

“Đó là FBI, Raymond,” Patrick lên tiếng. “Và đó là cái cùm chứ không phải là khóa chân nữa. Thứ đó làm đau lắm.”

Chuyện khóa chân cho qua, và Patrick được dẫn ra hành lang, nơi những người mặc đồng phục màu nâu sẫm im bặt khi thấy bóng hắn. Họ tập hợp lại xung quanh hắn và cả đám từ từ đi ra thang máy. Sandy đi ở bên trái hắn, nhẹ nhàng đỡ một bên khuỷu tay.

Chiếc thang máy quá chật cho cả đám tùy tùng của hắn. Những người không vào được vội vã chạy xuống bằng cầu thang bộ và gặp lại nhau ở bên dưới nhà, rồi cùng đi qua khu tiếp đón, qua những cánh cửa lớn bằng kính, bước ra ngoài trời trong bầu không khí ấm áp của mùa thu. Họ đưa hắn ngồi vào trong một chiếc Suburban đen mới tinh với phù hiệu của cảnh sát quận nổi bật hai bên thân xe, và chiếc xe lập tức chuyển bánh, theo sau là một chiếc Suburban trắng chở đám bảo vệ. Tiếp theo sau là ba chiếc xe tuần tiễu mới được cọ rửa bóng nhoáng. Phía đằng trước là hai chiếc xe tuần tiễu, dẫn đầu đoàn xe vượt qua các trạm kiểm soát quân sự để tiến ra thế giới dân sự ở bên ngoài.

Qua cặp kính râm to tướng, Patrick nhìn ngắm tất cả. Những đường phố mà hắn đã qua lại cả ngàn lần. Những ngôi nhà quen thuộc. Họ rẽ lên xa lộ 90 và kia là Vịnh, mặt nước yên bình của nó dường như không thay đổi gì kể từ khi hắn ra đi. Kia là bãi biển, một doi cát hẹp nằm sát từ con đường ra tới mép nước, tách xa hẳn những khách sạn và những khu nhà nằm ở phía bên trong này.

Vùng bờ biển này đã trở nên thịnh vượng trong thời gian hắn biệt tích, chủ yếu là nhờ vào sự xuất hiện đáng ngạc nhiên của những sòng bạc. Hồi hắn bỏ đi thì cũng đã có tin đồn về việc các sòng bạc sẽ được mở, và giờ đây hắn đang ngồi xe chạy ngang qua những sòng bạc lớn kiểu Las Vegas với những nét hào nhoáng và ánh đèn nêông. Các khu đỗ xe chật ních, và lúc này mới là chín rưỡi sáng.

“Có bao nhiêu sòng bạc ?" Hắn hỏi viên cảnh sát trưởng đang ngồi kế bên phải.

“Mười ba hiện tại. Sắp còn thêm nữa.”

“Khó mà tin nổi.”

Liều thuốc làm dịu thần kinh đã bắt đầu có công hiệu. Hơi thở của hắn trở nên nặng nề và thân thể hắn chùng xuống. Hắn cảm thấy như đã ngủ gà ngủ gật trong một chốc lát, thế rồi họ rẽ vào phố Main và hắn lại cảm thấy bồn chồn. Chỉ còn vài dãy phố nữa. Vài phút nữa, và cả cái quá khứ của hắn sẽ lại ập tới. Qua tòa thị chính, phía bên trái, mọi thứ lúc này cứ loang loáng, rồi khu Vieux Marche và ở giữa dãy phố cổ với đầy những cửa hàng cửa hiệu này là một tòa nhà trắng lớn đẹp đẽ mà hắn từng sở hữu một phần với tư cách là một cổ đông của Hãng luật Bogan, Rapley, Vitrano, Havarac, và Lanigan.

Nó vẫn còn đó nhưng nhóm cổ đông thì đang rúm ró ở bên trong.

Phía trước là Tòa án quận Harrison, chỉ cách văn phòng cũ của hắn có ba khúc phố. Đó là một ngôi nhà gạch xây hai tầng đơn giản, với một sân cỏ nhỏ ở đằng trước, cạnh phố Howard. Trên sân đầy nhóc người. Xe cộ đậu nối dài hai bên các dãy phố. Những người đi bộ cũng đang vội vã đi dọc trên các hè phố, có vẻ như tất cả đều đang hướng về tòa án. Những chiếc xe chạy phía trước dạt sang một bên khi đoàn xe của Patrick lao tới.

Đám người ở phía trước tòa án sôi động hẳn lên ở cả hai bên, nhưng bị các rào chắn của cảnh sát cản lại. Patrick đã chứng kiến một vài kẻ giết người tai tiếng bị đưa đến và đưa đi khỏi tòa án qua lối cửa sau và bởi vậy hắn biết chính xác là chuyện gì dang diễn ra. Đoàn xe dừng lại. Những cánh cửa bật mở và hơn một chục cảnh sát tỏa ra. Họ vây lấy xung quanh chiếc Suburban đen. Cánh cửa xe được từ từ mở ra. Sau cùng thì Patrick xuất hiện, bộ đồ thùng thình màu nước biển của hắn tương phản hoàn toàn với những bộ đồng phục màu nâu sẫm vây kín xung quanh.

Một đám đông các phóng viên báo nói, báo ảnh và báo hình đã nín thở chờ đợi dọc cái rào chắn gần nhất. Những người phía xa cũng đang chạy ùa lại. Patrick lập tức hiểu ngay hắn đang là tâm điểm của sự chú ý, và hắn cúi đầu thấp xuống, nép mình giữa đám cảnh sát. Họ dẫn hắn đi nhanh về phía cửa sau, trong khi một chuỗi những câu hỏi ngớ ngẩn vang lên hướng về phía hắn.

“Patrick, cảm giác trở về thế nào ?"

"Tiền ở đâu, Patrick ?”

“Ai cháy trong xe, Patrick ?”

Cánh cửa và những bậc cầu thang ở phía sau này là lối mà Patrick đã đôi lần dùng tới khi phải vội vã tìm xin chữ ký của một vị thẩm phán nào đó. Đột nhiên, cái hơi hướng nơi đây trở nên quen thuộc. Những bậc thang bằng bêtông đã bốn năm nay không được sơn lại. Rồi qua một cánh cửa nữa, một đoạn hành lang ngắn với một đám đông các nhân viên tòa án đang tụ tập ở một đầu để trố mắt ra mà nhìn hắn. Họ đưa hắn vào trong phòng hội thẩm, kề bên phòng xét xử, và hắn ngồi xuống chiếc ghế có một bình cà phê đặt bên.

Sandy xáp lại, lo lắng không biết hắn có làm sao không. Cảnh sát trưởng Sweeney cho đám cảnh sát ra đợi ở bên ngoài.

“Cà phê nhé ?” Sandy hỏi.

“Xin cho một ly đen.”

“Không sao chứ, Patrick ?" Sweeney hỏi.

“Không sao, Raymond. Cảm ơn.” Hắn có vẻ nhu mì và khiếp sợ . Tay chân hắn run lật bật, không thể ngừng lại được. Hắn không để ý đến ly cà phê, và với cả hai tay vẫn bị khóa, hắn chỉnh lại cặp kính râm và kéo cái mũ sụp xuống thấp nữa. Đôi vai hắn xệ xuống.

Có tiếng gõ cửa, và một cô gái xinh đẹp có tên là Belinda ngó cổ vào nói, “Ngài thẩm phán Huskey muốn gặp Patrick.” Giọng nói thật là quen thuộc. Patrick ngẩng đầu lên, nhìn ra cửa và khẽ khàng nói, “Xin chào, Belinda.”

“Chào Patrick. Chúc mừng đã trở về.”

Hắn ngoảnh đi. Cô ta là thư ký trong văn phòng hành chính của tòa án, và tất cả các luật sư đều tán tỉnh cô ta. Một cô gái dịu dàng với một giọng nói dịu dàng. Thật là đã bốn năm rồi ư ?

“Tại đâu ?” Viên cảnh sát trưởng hỏi.

“Ngay đây,” cô ta đáp. “Trong vài phút nữa.”

“Anh có muốn gặp ông Thẩm phán không, Patrick?” Sandy hỏi. Đó không phải là điều bắt buộc. Trong hoàn cảnh bình thường thì đó là việc hoàn toàn bất thường.

“Tất nhiên.” Patrick rất muốn gặp Karl Huskey.

Cô ta quay đi và khép cửa lại.

"Tôi ra ngoài một chút,” Sweeney nói. “Tôi muốn hút điếu thuốc.”

Sau cùng, chỉ còn lại Patrick và luật sư của hắn. Patrick đột nhiên ngẩng phắt lên. “Có vài chuyện thế này. Anh có nghe tin tức gì của Leah Pires không ?”

“Không,” Sandy đáp.

“Cô ấy sẽ liên lạc ngay đấy, hãy sẵn sàng. Tôi đã viết cho cô ấy một bức thư dài, và tôi muốn nhờ anh chuyển giúp”.

“Được.”

“Thứ hai. Có một thiết bị chống nghe trộm gọi là DX-130, do Hãng điện tử Hàn Quốc Lo Kim sản xuất. Giá chừng sáu trăm đôla; kích cỡ bằng độ một chiếc máy ghi âm cầm tay. Kiếm một cái, và mang nó theo bất kỳ lúc nào chúng ta gặp nhau. Chúng ta sẽ phải dọn sạch phòng và điện thoại trước mỗi cuộc nói chuyện. Còn nữa, hãy thuê một hãng thám tử có tên tuổi ở New Orleans để kiểm tra văn phòng của anh hai lần một tuần. Rất đắt đấy, nhưng tôi sẽ trả tiền. Có câu hỏi gì không ?”

“Không.”

Một tiếng gõ cửa khác, và Patrick lại rũ xuống. Thẩm phán Karl Huskey một mình bước vào, không áo choàng, với chiếc kính trắng trễ xuống tới tận ngang mũi. Mái tóc hoa râm cùng đôi mắt nhăn nheo làm cho ông có vẻ già hơn và thông thái hơn nhiều so với cái tuổi bốn mươi tám, và ông thích thế.

Patrick ngước nhìn và đã mỉm cười khi Huskey chìa tay ra. “Rất mừng được thấy anh, Patrick,” ông nói vẻ cởi mở trong khi hai người bắt tay, với cái khóa tay kêu lanh canh. Huskey muốn ôm hôn, thế nhưng với sự kiềm chế nghề nghiệp, ông chỉ dừng lại ở một cái bắt tay nhẹ nhàng.

“Khỏe không, Karl ?” Patrick hỏi và vẫn ngồi nguyên trên ghế.

“Bình thường. Còn anh thì sao ?”

“Cũng đỡ hơn, và thật mừng là được gặp anh. Ngay cả trong hoàn cảnh này.”

“Cảm ơn. Tôi không thể hình dung dược... ”

“Chắc là trông tôi khác lắm phải không ?"

“Đúng thế. Tôi không dám chắc là tôi sẽ nhận ra được anh ở ngoài phố ?"

Patrick chỉ mỉm cười.

Cũng giống như một vài người khác còn có chút tình bạn bè dành cho Patrick, Huskey cảm thấy bị phản bội, thế nhưng lại thấy mừng nhiều hơn khi biết người bạn mình chưa chết. Ông rất lo ngại về cái tội danh giết người. Vụ ly hôn và những kiện tụng dân sự kia có thể chống đỡ được, nhưng giết người thì...

Do quan hệ bạn bè của họ, Huskey sẽ không chủ trì phiên tòa xét xử. Ông dự định xử lý những vấn đề sơ bộ, rồi sẽ đứng sang một bên trước khi phải có những phán quyết quan trọng. Người ta vốn đã lắm xì xầm về chuyện này.

"Tôi cho rằng anh sẽ tuyên bố mình vô tội,” ông ta nói.

“Phải, đúng là thế.”

“Vậy thì sẽ có phiên xuất hiện trước tòa thường lệ đầu tiên. Tôi sẽ bác bỏ việc đóng tiền thế chân bởi vì đây là một vụ giết người.”

“Tôi hiểu. Karl."

"Tất cả sẽ diễn ra trong không đầy mười phút.”

"Tôi đã từng ở đây. Mỗi cái ghế ngồi là khác thôi mà.”

Mười hai năm ngồi ghế quan tòa, Thẩm phán Huskey thường phải lấy làm ngạc nhiên về mức độ thông cảm mà ông dành cho những người bình thường đã phạm phải các tội ác. Ông nhìn thấy cái vẻ mặt con người trong nỗi chịu đựng của họ. Ông thấy tội lỗi đang nhai tươi nuốt sống họ. Ông đã đưa vào tù hàng trăm người, những người mà nếu như có cơ hội thì họ hẳn sẽ rời khỏi tòa án của ông và không bao giờ tái phạm nữa. Ông muốn được giúp đỡ, muốn chìa tay ra, muốn dung thứ. Nhưng đây lại là Patrick. Ông xúc động đến suýt phát khóc lúc này. Người bạn cũ - tay bị xích, áo quần như hề, thay hình đổi dạng, lo lắng, và sợ hãi khôn xiết. Ông muốn được mang hắn về nhà, cho hắn một bữa ăn ngon lành, để hắn nghỉ ngơi và giúp hắn làm lại cuộc đời.

Ông quỳ một chân xuống cạnh hắn, và nói, “Patrick, vì những lý do rõ ràng, tôi không thể nào xử vụ này được. Ngay lúc này, tôi sẽ lo một số việc ban đầu để bảo đảm rằng anh được bảo vệ. Tôi vẫn là bạn của anh. Đừng ngần ngại gì nếu muốn gọi tôi.” Ông vỗ vỗ thật nhẹ trên đầu gối hắn, chỉ sợ nhỡ chạm vào một chỗ còn đau nào đó.

“Cảm ơn Karl,” Patrick nói và cắn chặt môi.

Karl muốn được nhìn tận mắt hắn, nhưng điều đó là không thể được vì cặp kính đen kia. Ông dứng dậy và đi ra cửa. “Mọi chuyện hôm nay dều như thường lệ, ông luật sư,” ông nói với Sandy.

“Ngoài đó có nhiều người lắm hả ?” Patrick hỏi.

“Đúng vậy, Patrick. Cả bạn bè lẫn kẻ thù. Tất cả đều đang ở ngoài đó.” Ông ta rời khỏi căn phòng.

Vùng bờ biển này vốn từ lâu đầy rẫy những vụ giết người giật gân và những tên tội phạm tai tiếng, bởi vậy những phòng xét xử đông nghịt người không phải là chuyện lạ lùng gì. Tuy vậy, không ai có thể nhớ nổi đã bao giờ có một đám đông đến như thế cho một phiên xuất hiện trước tòa lần đầu tiên hay chưa. Báo chí đã đến từ sớm và chiếm những chỗ tốt. Bởi lẽ Mississippi là một trong số ít bang còn lại vẫn khôn ngoan duy trì lệnh cấm đưa các máy thu hình vào phòng xử án nên các phóng viên sẽ buộc phải ngồi đó, xem và nghe, rồi dùng lời lẽ của mình để mô tả lại những gì họ được chứng kiến. Họ sẽ buộc phải làm các phóng viên thật sự, một nhiệm vụ mà hầu hết bọn họ không đủ khả năng làm nổi.

Mọi phiên tòa lớn đều thu hút một đám người thông thường - nào là các nhân viên, các thư ký từ các ban bệ của tòa án, nào là những trợ lý uể oải, những cảnh sát mệt mỏi và những luật sư ở địa phương, những người quanh quẩn suốt ngày, uống cà phê miễn phí trong phòng làm việc của các nhân viên tòa án, bàn tán, kiểm tra lại các chứng thư về bất động sản, chờ một thẩm phán ký lệnh của tòa, nói chung là làm bất kỳ điều gì để không phải trở về văn phòng của họ - và Patrick đã thu hút tất cả những người này và còn hơn thế.

Rất nhiều luật sư có mặt chỉ để được nhìn thấy Patrick. Báo chí đăng đầy những câu chuyện về hắn suốt bốn ngày nay, nhưng không ai thấy một tấm ảnh mới nào của hắn. Có vô vàn những đồn đại quanh vẻ bên ngoài của hắn. Câu chuyện về vụ tra tấn lại càng làm tăng thêm sự tò mò.

Charles Bogan và Doug Vitrano ngồi cùng nhau ở khoảng giữa phòng, cố áp sát được gần nhất về phía trước. Đám phóng viên chết tiệt kia đã tới trước họ. Họ muốn được ngồi ở hàng đầu, gần cái bàn mà bị cáo thường ngồi. Họ muốn trông thấy hắn, muốn nhìn vào tận mắt hắn, muốn văng ra những lời đe dọa và tục tĩu nếu như có thể được, và muốn nhổ cả nước bọt nữa, ở ngay cái nơi biểu hiện của nền văn minh này. Thế nhưng, họ đang phải ngồi ở tận hàng ghế thứ năm, nóng lòng chờ đợi cái giây phút mà họ đã tưởng là không bao giờ xảy ra này.

Tay cổ đông thứ ba, Jimmy Havarac, đứng ở bức tường phía sau, thầm thì trò chuyện với một viên cảnh sát. Ông ta phớt lờ ánh mắt của những người quen biết, mà nhiều người trong số đó cũng là những luật sư và từng ngầm sung sướng khi chỗ tiền kia biến mất và hãng của Havarac mất cả một khoản khổng lồ. Lẽ ra thì đó đã là khoản thù lao lớn nhất mà một hãng luật từng vớ được ở bang này. Sự ghen tị là một khuynh hướng tự nhiên. Ông ta căm ghét họ, và thực sự là ông ta căm ghét tất cả mọi người trong cái phòng xử án này. Một đám kền kền chầu chực một cái xác chết. Havarac, con trai của một người đánh tôm, vẫn to khỏe, cục cằn, vẫn chưa vượt qua được cái tầm của một cuộc ẩu đả trong quán rượu. Năm phút với riêng Patrick ở trong một căn phòng khóa trái, và ông ta hẳn sẽ lấy lại được khoản tiền kia.

Ethan Rapley, người cổ đông thứ tư, như thường lệ vẫn đang ở nhà, trên căn phòng áp mái, bận rộn với một bản trình bày vắn tắt về một khuyến nghị vô vị. Ông ta sẽ đọc mọi chuyện về phiên tòa này vào ngày mai.

Một nhóm nhỏ luật sư là các bạn bè cũ, tới đây để động viên cho Patrick. Chạy trốn là một giấc mơ phổ biến, thường không được nói ra, của nhiều luật sư ở các thành phố nhỏ, ngập đầu trong đống công việc mệt mỏi và bị đòi hỏi quá cao. Chí ít thì Patrick cũng đã dám theo đuổi giấc mơ đó, và họ tin chắc rằng sẽ có một giải thích nào đó về cái xác chết kia.

Đến muộn và bị đẩy vào một góc là Lance. Gã đã lảng vảng ở phía sau với đám phóng viên, dò xét mức độ bảo vệ. Khá chặt chẽ, ít ra cũng là lúc này. Thế nhưng liệu cảnh sát có thể duy trì mãi thế này, hàng ngày, trong một vụ xét xử kéo dài không ? Đó là vấn đề.

Nhiều người khác nữa cũng có mặt, những người mà Patrick chỉ tình cờ quen biết nhưng nay bỗng nhiên quả quyết rằng họ đã từng là chỗ thân thiết nhất của hắn. Thực ra còn có người chưa bao giờ gặp Patrick, nhưng điều đó không ngăn được những câu chuyện không đâu vào đâu của họ về Patrick thế này, Patrick thế khác. Cũng giống như vậy, Trudy đột nhiên có những người bạn mới, ghé tới để nguyền rủa cái người đàn ông đã làm cho trái tim ả tan nát và bỏ rơi cả con bé Ashley Nicole bé bỏng, vàng ngọc.

Họ đọc truyện và xem báo, cố làm ra vẻ chán chường, như thể là họ thực sự không muốn có mặt ở đó. Có sự chuyển động chỗ các phụ tá và mõ tòa ở phía trên và căn phòng lập tức trở nên yên lặng. Những tờ báo nhất tề được hạ xuống. Cánh cửa gần chỗ ngồi của hội thẩm đoàn mở ra và những bộ đồng phục màu nâu bước vào. Cảnh sát trưởng Sweeney xuất hiện, giữ Patrick ở nơi khuỷu tay, rồi hai cảnh sát nữa, và sau cùng là Sandy.

Hắn kia rồi ! Những cái cổ vươn cao lên, những cái đầu ngả sang bên này, bên kia. Các họa sĩ vẽ tranh trong phòng xử án bắt tay vào việc.

Patrick bước chầm chậm tới bàn bị cáo, đầu cúi xuống, mặc dù sau cặp kính đen hắn vẫn đang quan sát đám khán giả kia. Hắn thoáng nhìn thấy Havarac ở sát bức tường đằng sau, bộ mặt giận dữ của ông ta nói lên tất cả. Và ngay trước khi ngồi xuống, hắn nhìn thấy Cha Phillip, người lo phần hồn của hắn, trông già hơn nhiều nhưng vẫn tử tế như trước.

Hắn ngồi thu mình, vai chùng xuống, mặt cúi gằm, ở đây không có chỗ cho sự kiêu hãnh. Hắn không nhìn ra xung quanh bởi vì hắn có thể cảm thấy những ánh mắt từ mọi hướng. Sandy đặt tay lên vai hắn và thầm thì vớ vẩn gì đó.

Cánh cửa lại mở ra, và T.L. Parrish, công tố viên quận, một mình đi thẳng tới bàn của ông ta, cạnh bàn Patrick. Đó là con mọt sách với một cái tôi nhỏ bé, bức bối. Không có một cương vị cao hơn nào chờ đợi ông ta. Công việc truy tố của ông ta hoàn toàn đơn điệu, lạnh lùng và không hề có chút tình cảm nào. Hiện tại ông ta có tỉ lệ kết án cao thứ hai trong bang. Ông ta ngồi xuống cạnh viên cảnh sát trưởng, người vừa chuyển từ bàn Patrick về chỗ của mình. Đằng sau ông ta là các nhân viên đặc biệt Joshua Cutter, Brent Myers và hai nhân viên FBI nữa mà Parrish thậm chí không biết tên.

Tất cả đã được chuẩn bị cho một phiên tòa ngoạn mục, thế nhưng ít nhất cũng còn phải sáu tháng nữa vụ án này mới có thể bắt đầu được xét xử. Viên mõ tòa nhắc mọi người chú ý và đứng dậy khi Thẩm phán Huskey bước vào và ngồi xuống ghế quan tòa. “Xin mời ngồi,” đó là những lời đầu tiên của ông, và mọi người ngồi xuống.

“Vụ án số 96-1140, Bang truy tố Patrick S. Lanigan. Bị cáo có mặt không ?”

“Có, thưa ngài,” Sandy nói, hơi nhỏm người lên.

“Ông đứng lên được chứ, ông Lanigan ?" Huskey yêu cầu. Patrick, tay vẫn bị khóa, từ từ đẩy chiếc ghế lại phía sau và đứng lên. Lưng hắn hơi gập lại, đầu cúi và đôi vai trễ xuống. Hắn không đóng kịch. Liều thuốc làm dịu thần kinh kia đã làm tê liệt phần lớn các bộ phận trên thân thể hắn, kể cả bộ não.

Người hắn hơi cứng.

“Ông Lanigan, tôi đang có trong tay bản cáo trạng chống lại ông do hội thẩm đoàn quận Harrison chuyển đến, trong đó ông bị cho rằng đã giết người, và vì hành động đó ông bị buộc tội cố sát. Ông đã đọc cáo trạng này chưa ?”'

“Rồi, thưa ngài,” hắn đáp, đầu ngẩng lên, với giọng nói mạnh mẽ nhất mà hắn có thể có được.

“Ông đã thảo luận với luật sư của ông chưa ?"

“Rồi, thưa ngài.”

“Ông muốn biện hộ thế nào ?”

“Không có tội.”

“Lời tuyên bố không có tội của ông được ghi nhận. Ông có thể ngồi xuống.”

Huskey sắp xếp lại mấy tờ giấy, rồi nói tiếp: “Tại đây, tòa ban bố một lệnh cấm phát ngôn đối với bị cáo, các luật sư, cảnh sát cùng các nhân viên điều tra, và tất cả các nhân chứng nếu có, cũng như đối với tất cả các nhân viên của tòa án, có hiệu lực tức thời và kéo dài cho đến khi vụ xét xử này kết thúc. Tôi có các bản sao lệnh này cho mọi người để đọc. Bất kỳ sự vi phạm nào đối với lệnh này cũng dẫn tới tội coi thường tòa án, và tôi sẽ có biện pháp nghiêm khắc đối với bất kỳ người vi phạm nào. Không một lời nào với bất kỳ một phóng viên hay nhà báo nào nếu không có sự chấp thuận của tôi. Các luật sư có câu hỏi nào không ?”

Giọng ông ta không để ai phải nghi ngờ rằng đây là chuyện hoàn toàn nghiêm túc, và còn làm cho người ta hiểu rằng những kẻ vi phạm hẳn sẽ bị trừng phạt. Các luật sư im lặng.

“Tốt. Tôi đã chuẩn bị một lịch trình về những thẩm vấn, khuyến nghị, xét xử sơ bộ và xét xử. Có thể nhận được ở văn phòng thư ký tòa án. Còn gì nữa không ?"

Parrish đứng dậy và nói, “Có một vấn đề nhỏ, thưa ngài. Chúng tôi muốn được đưa bị cáo về trung tâm giam giữ của chúng tôi ngay khi có thể được. Như ngài biết, bị cáo hiện ở trong bệnh viện của căn cứ, và, chúng tôi...”

“Ông Parrish, tôi vừa mới nói chuyện với bác sĩ của bị cáo. Bị cáo đang được điều trị y tế. Tôi bảo đảm với ông rằng ngay khi bị cáo được bác sĩ cho xuất viện, chúng ta sẽ chuyển bị cáo tới nhà tù quận Harrison.”

“Xin cảm ơn, ngài chánh án.”

“Nếu không còn gì nữa thì chúng ta ngừng ở đây.”

Hắn được đưa ra khỏi phòng xét xử, trở xuống cái cầu thang ở phía sau, và được đẩy vào chiếc Suburban đen trong khi các ống kính máy thu hình xâu vào. Patrick ngủ gà ngủ gật trên đường trở về bệnh viện.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,854
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 18


Người dịch: Nguyễn Bá Long

Nhà xuất bản: NXB Văn học

Shared by: CCG -

Cái tội duy nhất mà Stephano có thể đã phạm phải chỉ là tội bắt cóc và hành hung Patrick, xem ra khó mà có thể kết án được lão. Việc đó xảy ra ở Nam Mỹ, xa ngoài vùng tài phán của Mỹ. Việc hành hung đó lại do những người khác, trong đó có những công dân Braxin, thực hiện. Luật sư của Stephano tin tưởng rằng họ sẽ thắng nếu buộc phải ra trước tòa.

Thế nhưng nó còn có liên quan tới các khách hàng, cùng chuyện tiếng tăm nữa. Tay luật sư biết quá rõ khả năng của FBI trong chuyện gây mất mặt mà không thực sự phải mang ra truy tố. Ông ta đã có lời khuyên Stephano là đi tới một thỏa thuận - đồng ý tiết lộ thông tin để đổi lấy lời hứa của chính phủ là miễn truy tố lão và các khách hàng của lão. Bởi vì không còn tội trạng nào khác thì một thỏa thuận như vậy đâu có hại gì cho ai ?

Tay luật sư đã đòi được ngồi cùng Stephano trong khi những lời khai của lão được ghi lại. Những cuộc thẩm vấn sẽ diễn ra nhiều giờ trong vài ngày, và sẽ được tiến hành trong Tòa nhà Hoover với người của Jaynes. Có cà phê và bánh ngọt. Hai chiếc máy thu hình được chĩa về phía cuối chiếc bàn, nơi Stephano bình thản ngồi, với luật sư của lão bên cạnh.

“Ông cho biết tên ?” Underhill, một người trong nhóm chuyên gia thẩm vấn nắm rõ hồ sơ về vụ Lanigan, lên tiếng.

“Jonathan Edmund Stephano. Jack.”

“Và công ty của ông là...?”

“Edmund Associates.”

“Công ty của ông làm gì ?"

“Nhiều thứ. Tư vấn an ninh. Theo dõi. Tìm kiếm nhân sự. Tìm người mất tích.”

“Ai là chủ công ty ?”

“Tôi. Toàn bộ.”

“Ông có bao nhiêu người làm công ?”

“Có nhiều loại. Hiện nay có mười một chính thức. Khoảng ba mươi gì đó là cộng tác viên.”

“Ông có được thuê để tìm kiếm Patrick Lanigan không ?"

“Có”

“Khi nào ?"

“Ngày 28 tháng Ba năm 1992.” Stephano có các hồ sơ kẹp đầy những ghi chú, nhưng lão không cần đến chúng.

“Ai thuê ông ?”

“Benny Aricia, người bị mất tiền.”

“Ông đòi giá bao nhiêu ?"

“Phần trả trước ban đầu là hai trăm nghìn.”

“Cho đến nay ông ta đã trả ông bao nhiêu ?”

“Một triệu chín.”

“Ông đã làm gì sau khi ông được Benny Aricia thuê?”

“Một số việc. Tôi lập tức bay đến Nassau ở Bahama để gặp cái nhà băng mà tại đó vụ trộm cắp đã xảy ra. Đó là một chi nhánh của Ngân hàng liên hiệp xứ Wales. Khách hàng của tôi, ông Aricia, và Hãng luật lo về vụ tố giác của ông ta, đã mở một tài khoản mới ở đó để nhận tiền, và, như giờ đây chúng ta biết, có kẻ đã đợi sẵn khoản tiền đó.”

“Ông Aricia có phải là công dân Mỹ không ?”

“Phải.”

“Tại sao ông ta lại mở tài khoản ở nước ngoài ? “

“Đó là chín mươi triệu đôla, sáu mươi cho ông ta, ba mươi cho các luật sư, và không ai muốn khoản tiền đó xuất hiện trong một nhà băng ở Biloxi. Ông Aricia sống ở đó lúc bấy giờ và tất cả đều đồng ý rằng để cho bất kỳ ai ở địa phương thấy khoản tiền này đều là không hay.”

“Phải chăng là ông Aricia muốn né tránh Cơ quan thuế Liên bang ?"

“Tôi không biết. Ông sẽ phải hỏi ông ấy. Đó không phải là việc của tôi.”

“Ông nói chuyện với ai ở Ngân hàng liên hiệp xứ Wales ?”

Tay luật sư khịt mũi vẻ không tán thành, nhưng cũng không nói gì.

“Graham Dunlap, một người Anh. Phó chủ tịch gì đó của ngân hàng.”

“Ông ta nói gì với ông ?”

“Vẫn chuyện mà ông ta đã nói với FBI. Rằng chỗ tiền đó đã biến mất.”

“Nó được chuyển từ đâu đến ?”

“Từ Oasinhtơn. Điện chuyển tiền bắt đầu lúc chín giờ ba mươi sáng ngày 26 tháng Ba năm 1992, xuất phát từ Ngân hàng quốc gia D.C. Đó là một điện ưu tiên, nghĩa là sẽ không đầy một giờ sau là tiền được chuyển đến Nassau. Vào lúc mười giờ mười lăm, tiền đuợc chuyển đến Ngân hàng liên hiệp xứ Wales, nó nằm lại đó có chín phút trước khi bị chuyển tới một nhà băng ở Manta. Từ đó, nó lại được chuyển đi Panama.”

“Chỗ tiền đó đã được chuyển khỏi tài khoản như thế nào ?”

Tay luật sư cảm thấy khó chịu. “Đây là sự lãng phí thời giờ,” ông ta cắt ngang. “Các ông đã có thông tin này từ bốn năm nay. Các ông đã gặp gỡ các chủ nhà băng còn nhiều hơn cả thân chủ của tôi nữa.”

Underhill không thay đổi nét mặt. “Chúng tôi có quyền đưa ra các câu hỏi này. Đơn giản là chúng tôi muốn kiểm chứng lại những gì chúng tôi biết. Chỗ tiền đó đã được chuyển khỏi tài khoản như thế nào, ông Stephano ?”

“Khách hàng của tôi và các luật sư của ông ấy không hề biết rằng có người, Patrick Lanigan, chúng tôi cho là vậy, đã tiếp cận được với cái tài khoản mới mở ở nước ngoài này và đã chuẩn bị sẵn những chỉ thị chuyển nó đi Manta. Những chỉ thị chuyển tiền của các luật sư của khách hàng tôi, Hãng luật của chính Lanigan, là do hắn giả mạo, và khoản tiền đó bị chuyển đi chỉ chín phút sau khi nó tới đó. Tất nhiên, họ tưởng là hắn đã chết và không có lý do để nghi ngờ bất kỳ ai về khoản tiền đó. Vụ dàn xếp đã mang lại chín mươi triệu đôla này, ngay từ đầu là cực kỳ bí mật, và không ai, ngoại trừ khách hàng của tôi, các luật sư của ông ta, và một vài người ở Bộ Tư pháp, biết chính xác là khi nào và từ đâu số tiền đó được điện chuyển đi.”

“Như tôi hiểu, có kẻ nào đó đã thật sự có mặt tại ngân hàng đó khi chỗ tiền được chuyển đến.”

“Đúng. Chúng tôi gần như chắc chắn đó là Patrick Lanigan. Vào buổi sáng cái hôm chuyển tiền, hắn đã giả danh Doug Vitrano, một trong những cổ đông của Hãng luật, hiện diện trước Graham Dunlap. Hắn có giấy tờ tùy thân hoàn hảo - hộ chiếu, bằng lái xe, vân vân — cùng với bộ quần áo sang trọng và biết rất rõ về khoản tiền sắp được chuyển từ Oasinhtơn đến. Hắn có trong tay một nghị quyết, được công chứng, của hội đồng cổ đông cho phép hắn thay mặt Hãng nhận số tiền đó, và chuyển nó tới một nhà băng ở Manta”

“Tôi biết quá rõ là các ông có các bản sao của cả cái nghị quyết đó lẫn giấy phép chuyển tiền,” tay luật sư lên tiếng.

“Chúng tôi có,” Underhill nói, lật lật đám giấy tờ và không mấy để ý đến tay luật sư. FBI đã lần theo dấu vết của số tiền đó tới Manta, rồi từ đó tới Panama, nơi tất cả các dấu vết đều biến mất. Có một bức hình nhòe nhoẹt được chụp lại từ hệ thống camêra bảo vệ của nhà băng về cái người đàn ông đã tự nhận là Doug Vitrano. FBI và các cổ đông của Hãng tin chắc rằng đó là Patrick, mặc dù hắn đã cải trang tuyệt vời. Trông hắn gầy hơn nhiều, tóc cắt ngắn và rất sẫm màu, để ria và mang một cặp kính gọng sừng rất mốt. Hắn giải thích với Graham Dunlap là tới đây để đích thân giám sát việc nhận và chuyển tiền bởi vì Hãng của hắn và khách hàng rất lo lắng về vụ giao dịch này. Điều đó chắc chắn là không có gì bất thường trong con mắt của Dunlap, và ông ta vui vẻ phục tùng. Ông ta đã bị cách chức một tuần sau đó và đã trở về Luân Đôn.

“Bởi vậy, chúng tôi đã tới Biloxi và ở đó cả tháng để tìm kiếm các dấu vết," Stephano nói tiếp.

“Và các ông phát hiện việc hãng luật bị nghe trộm?”

“Đúng vậy. Vì những lý do dễ hiểu, chúng tôi lập tức nghi ngờ Lanigan, và vạch ra hai nhiệm vụ: thứ nhất là tìm kiếm hắn cùng chỗ tiền, thứ hai là xác định xem hắn làm vụ này như thế nào. Các cổ đông còn cho chúng tôi toàn quyền với các phòng làm việc của họ trong mấy ngày nghỉ cuối tuần, và các nhân viên kỹ thuật của chúng tôi đã lục tung tất cả. Đầy rệp, như các ông vẫn nói. Chúng tôi tìm thấy các thiết bị nghe trộm ở tất cả các máy điện thoại, tất cả các phòng làm việc, dưới mọi gầm bàn, ngoài hành lang, thậm chí cả trong phòng vệ sinh nam ở tầng trệt. Chỉ có một ngoại lệ. Phòng làm việc của Charles Bogan hoàn toàn sạch bong. Ông ta rất kỹ tính và luôn khóa cửa. Hai mươi hai thiết bị nghe trộm; đều là loại chất lượng cao. Các tín hiệu của chúng được thu lại nhờ một ăngten giấu trong một thùng đựng hồ sơ cũ để ở trên căn phòng áp mái, một nơi mà đã nhiều năm chẳng có ai động đến.”

Underhiỉl nghe mà không nghe. Dù sao thì tất cả đều đang được ghi âm lại, và các cấp trên của anh ta có thể nghiên cứu sau. Đã quá quen thuộc với những trò vấn đáp sơ bộ này, anh ta rút ra một báo cáo kỹ thuật tóm tắt về mạng nghe trộm mà Patrick đã tạo dựng. Các micrô hiện đại - nhỏ xíu, cực mạnh, đắt giá, và được sản xuất bởi một công ty đầy tai tiếng ở Malaixia. Mua bán và tàng trữ chúng là bất hợp pháp ở Mỹ, thế nhưng người ta lại có thể dễ dàng mua được những micrô này ở bất kỳ một thành phố châu Âu nào. Patrick và Trudy đã đón năm mới ở Rôm, năm tuần trước cái chết của hắn.

Bộ ăngten tìm thấy trong cái thùng trên căn phòng áp mái làm cho các chuyên gia của FBI cũng phải sửng sốt. Nó được sản xuất ra chưa đầy ba tháng khi Stephano tìm thấy nó, và FBI đã phải miễn cưỡng thừa nhận rằng nó vượt trước những kỹ thuật mới nhất của họ ít nhất là một năm. Được sản xuất tại Hungari, nó có thể nhận được tín hiệu của tất cả hai mươi con rệp giấu trong các phòng làm việc ở phía dưới, giữ chúng riêng biệt, rồi phát đi lần lượt hay tất cả một lúc, tới một chảo thu đặt ở gần đó.

“Ông có xác định được các tín hiệu đó được truyền tới đâu không ?” Underhill hỏi. Đó là một câu hỏi thành thực bởi lẽ đúng là FBI không biết.

“Không. Nó có tầm hoạt động ba dặm, về tất cả mọi hướng, bởi vậy không thể nào nói được chính xác.”

“Có nghi ngờ nào không ?”

“Có, một nghi ngờ có lý lắm. Tôi cho rằng Lanigan không ngu gì lại dựng cái chảo thu kia ở bất kỳ đâu trong vòng ba dặm tại trung tâm Biloxi. Hắn sẽ phải thuê nhà, ngụy trang cái chảo, tốn nhiều thời gian ở đó để theo dõi hàng tiếng đồng hồ các cuộc trao đổi. Hắn đã tỏ ra rất có bài bản. Tôi luôn luôn cho rằng hắn đã sử dụng một chiếc thuyền. Đơn giản và an toàn hơn nhiều. Cái văn phòng đó chỉ cách bờ biển có hơn năm trăm mét. Ngoài Vịnh có rất nhiều tàu thuyền. Người ta có thể buông neo cách bờ hai dặm và cả ngày chẳng phải nói chuyện với một ma nào cả.”

“Ông ta có sở hữu một cái thuyền nào không ?"

“Chúng tôi không tìm được.”

“Có bằng chứng nào về việc ông ta sử dụng thuyền không ?”

“Có lẽ.” Stephano ngừng lại bởi vì lão đang đi vào địa hạt mà FBI không hề biết.

Sự ngập ngừng này làm cho Underhill khó chịu ngay. “Đây không phải là một cuộc thẩm vấn thông thường đâu, ông Stephano.”

“Tôi biết. Chúng tôi đã nói chuyện với tất cả các hãng cho thuê tàu dọc bờ biển, từ Destin tới New Orleans, và chỉ thấy có một đối tượng có thể là đáng tình nghi. Một công ty nhỏ ở Orange Beach, Alabama, đã cho một người đàn ông thuê một chiếc thuyền buồm có chiều dài chừng mười hai mét vào ngày 11 tháng Hai năm 1992, cái ngày mà Lanigan được mai táng. Giá thuê là một nghìn đôla một tháng. Người đàn ông đó trả giá gấp đôi với điều kiện vụ giao dịch đó được thanh toán bằng tiền mặt và không hóa đơn chứng từ gì. Họ ngờ rằng đó là một thằng khùng, và đã từ chối. Thế rồi người kia đề nghị được đặt trước năm nghìn đôla, cùng với hai nghìn một tháng trong hai tháng. Công việc kinh doanh đang chậm. Chiếc thuyền lại đã được bảo hiểm chống trộm cắp. Vậy là họ đánh liều.”

Underhill nghe không chớp mắt. Anh ta cúi xuống ghi chép. “Họ có cho ông xem tấm ảnh nào không ?”

“Có. Nói đó có thể là Patrick. Nhưng mà không có râu, tóc sẫm, mũ bóng chày, kính trắng, to béo. Đó là trước khi hắn biết về chương trình giảm cân nhanh. Dù sao chăng nữa thì tay kia cũng không thể khẳng định về nhân dạng.”

“Người đàn ông đó dùng tên gì ?”

“Randy Austin. Có bằng lái xe của bang Georgia. Và hắn từ chốỉ cung cấp các giấy tờ khác. Hắn trả bằng tiền mặt, và xin nhớ là năm nghìn đôla. Trong khi chiếc thuyền đó có thể được bán cho hắn với giá hai mươi nghìn.”

“Chuyện gì đã xảy ra với chiếc thuyền ?”

“Sau cùng thì họ lấy lại được. Ông ta nói đã thực sự ngạc nhiên bởi lẽ Randy có vẻ không biết gì lắm về thuyền buồm. Ông ta hỏi một số câu, cũng lòng vòng thôi. Randy nói hắn đang tính chuyển xuống ở dưới miền Nam sau một cuộc hôn nhân tồi tệ ở Atlanta, chán chường với những tranh giành, có nhiều tiền bạc, đại loại cũng là thói thường. Cũng từng đã chạy thuyền buồm nhiều, và nay muốn có một chuyến đi xuống vùng Keys kết hợp luyện lại tay nghề trên đường đi. Và sẽ luôn giữ khoảng cách không thật xa bờ. Nghe cũng lọt tai và tay chủ thuyền cảm thấy dễ chịu hơn nhưng vẫn nghi ngờ. Ngày hôm sau, Randy đột nhiên xuất hiện, không xe hơi, không tăcxi gì hết cứ như thể là hắn đã cuốc bộ hay đi nhờ xe gì đó ra bến, và rồi sau một loạt những giao hẹn này khác, hắn đã ra đi với chiếc thuyền. Nó có một động cơ đi-den lớn và có thể chạy đều đều với tốc độ tám hải lý một giờ bất chấp gió máy thế nào. Hắn đi về phía đông, và thằng cha chủ tàu thì không còn gì để làm nữa, bởi vậy mới chạy tà tà dọc theo bờ biển, thỉnh thoảng ghé vào một vài cái quán quen, và vẫn để mắt được đến Randy, người đang điều khiển chiếc thuyền một cách đâu vào đấy cách bờ có chừng một phần tư hải lý. Hắn đậu thuyền vào một bến ở vịnh Perdido, và rời khỏi đó trong một chiếc Taurus thuê với biển số Alabama. Sự việc cứ thế trong vòng vài ngày. Tay kia vẫn để mắt tới chiếc thuyền. Randy rất từ tốn, thoạt đầu là một hải lý, sau thì hắn ra xa hơn. Vào ngày thứ ba hay thứ tư gì đó, Randy lái thuyền đi về phía tây, hướng tới Mobile và Biloxi, rồi mất tăm trong ba ngày.

Hắn trở về, rồi lại đi, vẫn về phía tây. Chưa bao giờ về phía đông hay nam, tức là hướng về vùng Keys cả. Tay kia thôi không còn lo ngại về chiếc thuyền nữa bởi vì Randy vẫn quanh quẩn ở đó. Hắn thường đi mỗi lần chừng một tuần, và luôn luôn trở về.”

“Và ông nghĩ đó là Patrick ?”

“Đúng. Tôi tin là thế. Với tôi thì hoàn toàn có lý. Một mình hắn trên con thuyền. Hắn có thể đi cả mấy ngày mà không hề phải nói chuyện với một ai. Hắn có thể thu thập tin tức từ mấy trăm điểm khác nhau dọc theo bờ biển từ Biloxi đến cảng Vịnh. Ngoài ra, con thuyền là nơi tuyệt vời để hắn nhịn ăn nữa.”

“Rồi chuyện diễn ra thế nào ?”

“Randy bỏ nó lại bến, và đơn giản là biến mất, không một lời. Tay chủ kia lấy lại thuyền, cùng với năm nghìn.”

“Ông có kiểm tra lại chiếc thuyền không ?”

“Bằng kính hiển vi. Không có gì cả. Tay kia nói chiếc thuyền chưa bao giờ lại sạch sẽ như vậy?”

“Người thuê thuyền biến mất khi nào ?”

“Gã chủ thuyền không chắc bởi vì ông ta đã ngừng cái việc theo dõi hàng tuần rồi. Ông ta thấy thuyền ở trong bến vào ngày 30 tháng Ba, bốn ngày sau khi chỗ tiền kia bị đánh cắp. Chúng tôi đã nói chuyện với một thằng lỏi trực ở bến, và, theo chỗ nó nhớ được thì Randy đã cập bến hôm 24 hoặc 25 tháng Ba, và không thấy hắn quay lại nữa. Bởi vậy, thời gian là khá trùng hợp.”

“Còn cái xe thuê thì sao ?”

“Chúng tôi kiểm tra sau đó. Nó được thuê của hãng Avis tại Sân bay Cơ động Khu vực vào sáng thứ hai, ngày 10 tháng Ba, khoảng mười tiếng đồng hồ sau khi đám cháy được dập tắt. Nó đã được thuê bởi một ngưòi đàn ông không để râu, mặt mũi nhẵn nhụi, tóc sẫm cắt ngắn, kính trắng, mặc áo choàng, cổ mang cavát, và nói rằng hắn mới xuống khỏi một chuyến bay từ Atlanta. Chúng tôi cho người phụ nữ trực xem ảnh và cô ta rất ngập ngừng trong việc xác định nhân dạng của Patrick Lanigan. Hiển nhiên là hắn vẫn dùng cái bằng lái xe Georgia. Hắn sử dụng một thẻ tín dụng Visa giả, với tên Randy Austin và một mã số đánh cắp từ một tài khoản hợp pháp ở Decatur, Georgia. Hắn nói hắn là một nhà kinh doanh bất động sản độc lập đến đó để tìm kiếm đất đai cho một sòng bạc. Bởi vậy hắn không có một tên công ty nào để điền vào hợp đồng thuê xe. Hắn muốn dùng chiếc xe trong một tuần. Avis không bao giờ gặp lại hắn nữa. Cũng không nhìn thấy chiếc xe đó trong suốt mười bốn tháng trời.”

“Sao ông ta không trả lại chiếc xe ?” Underhill hỏi với vẻ trầm ngâm.

“Đơn giản. Khi hắn thuê xe, cái chết kia của hắn vừa xảy ra, và còn chưa được đưa tin. Nhưng ngày hôm sau, gương mặt hắn xuất hiện trên các trang nhất của báo chí ở Biloxi và Mobile. Có thể hắn tính rằng sẽ là quá mạo hiểm để mang chiếc xe trở lại. Sau này họ tìm thấy nó ở Montgomery, bị đánh cắp và đã hoàn toàn hư hỏng.”

“Patrick đã đi đâu ?”

"Tôi đoán là hắn đã rời khu vực Orange Beach vào ngày 24 hoặc 25 tháng Ba. Hắn mạo danh Doug Vitrano, một cổ đông của hãng luật kia. Chúng tôi được biết rằng vào ngày 25 hắn bay từ Montgomery đi Atlanta, rồi từ đó bay vé hạng nhất đi Miami, rồi lại vé hạng nhất đi Nassau. Tất cả các vé này đều mang tên Doug Vitrano, và hắn đã dùng cái hộ chiếu đó khi hắn rời Miami cũng như khi vào Bahama. Chuyến bay đến Nassau lúc tám giờ ba mươi sáng ngày 26, và hắn có mặt ở nhà băng khi nó mở cửa lúc chín giờ. Hắn chìa hộ chiếu và những giấy tờ khác ra cho Graham Dunlap. Hắn chuyển tiền, chào tạm biệt, lên một chuyến bay đi New York và hạ cánh xuống La Guardia lúc hai giờ ba mươi chiều. Đến lúc đó, hắn vứt bỏ các giấy tờ mang tên Vitrano và kiếm các giấy tờ khác. Chúng tôi mất dấu vết hắn.”

oOo

Khi vụ mặc cả lên tới năm mươi nghìn đôla thì Trudy đồng ý. Đó là chương trình “Đằng sau những biên bản," một chương trình nhảm nhí nhưng có tỉ lệ người xem khá cao và có vẻ có nhiều tiền. Họ chăng đèn đóm, bít các cửa sổ, và chăng dây rợ khắp nhà. “Nhà báo” Nancy de Angelo bay thẳng từ Los Angeles tới với cả một nhóm làm đầu và trang điểm riêng. Không chịu thua kém, Trudy cũng ngồi hai tiếng trước gương, và trông rất lộng lẫy khi bước ra. Nancy khen ả rất tuyệt. Vậy mà người ta đã nghĩ rằng ả phải cảm thấy đau đớn, tổn thương, hoảng sợ, bất lực, bị tòa còng tay, tức giận trước những gì mà người chồng đã gây ra cho mình và con gái mình. Ả đã quay vào với những giọt nước mắt và Lance đã phải an ủi ả trong nửa giờ. Khi trở ra trong chiếc quần jeans và chiếc áo cổ chui, trông ả lại đã hơn hớn như thường.

Ashley Nicole được sử dụng như một chỗ dựa. Con bé ngồi sát bên mẹ trên chiếc xôpha. “Bây giờ trông phải thật buồn vào,” Nancy bảo con bé trong khi các kỹ thuật viên điều chỉnh ánh sáng. “Chúng tôi cần những giọt nước mắt của chị,” cô ta nói với Trudy. “Những giọt nước mắt thật sự.”

Họ nói chuyện chừng một tiếng về tất cả những "điều kinh khủng" mà Patrick đã gây ra cho hai mẹ con. Trudy nức nở khi ả nhớ lại đám tang. Họ có một bức ảnh chụp chiẽc giầy tìm thấy ở hiện trường. Ả đã chịu đựng những tháng ngày sau đó. Không, ả đã không tái giá. Không, chồng ả đã không liên lạc gì kể từ khi hắn trở về. Cũng không chắc là ả có muốn hay không nữa. Không, hắn đã không hề có cố gắng nào để gặp lại con gái, và ả lại nức nở. Ả không chịu nổi cái ý nghĩ về chuyện ly hôn, nhưng biết làm gì ? Và vụ kiện tụng này, thật khủng khiếp làm sao ! Cái hãng bảo hiểm đê tiện kia đã săn đuổi ả như một con vật.

Patrick là một con người tồi tệ đến thế. Nếu như họ tìm thấy chỗ tiền kia, ả ta có hy vọng được chút nào không ? Tất nhiên là không ! Ả hoàn toàn bị bất ngờ trước gợi ý này.

Tất cả được biên tập lại còn hai mươi phút, và Patrick đã xem cuộc trò chuyện này trong căn phòng bệnh viện tối mò của hắn. Nó làm cho hắn buồn cười.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,854
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 19


Người dịch: Nguyễn Bá Long

Nhà xuất bản: NXB Văn học

Shared by: CCG -

Cô thư ký của Sandy đang cắt tấm ảnh của Patrick cùng bài viết về cuộc xuất hiện ngắn ngủi trước tòa trong ngày hôm trước trên tờ New Orleans thì có điện thoại. Cô ta lập tức báo ngay cho Sandy, đang vùi đầu trong một đống hồ sơ.

Leah Pires đã trở lại. Sau câu chào, nàng lập tức hỏi Sandy đã cho kiểm tra chống nghe trộm trong văn phòng của mình chưa. Sandy đáp rồi, mới vừa hôm trước. Nàng đang trú trong một khách sạn ỏ phố Canal, cách chừng vài phố, và đề nghị gặp nhau tại đó. Mỗi gợi ý của nàng có sức nặng hơn cả một chỉ thị của một thẩm phán Liên bang. Cho dù nàng muốn gì, chỉ nghe tiếng nàng cũng đủ để anh trở nên hồi hộp.

Nàng không vội gì, và bởi vậy Sandy thong thả đi bộ dọc theo phố Poydras, tiếp đến Magazine và rồi tới Canal. Anh không chịu nhìn lại phía sau. Sự đa nghi của Patrick là có thể hiểu được - con người tội nghiệp đó đã phải trốn chui trốn lủi cho tới khi những bóng ma kia vồ được hắn. Thế nhưng không ai có thể thuyết phục được Sandy tin rằng vẫn những người đó sẽ theo dõi mình. Anh là luật sư của một vụ án lớn. Những kẻ xấu xa kia họa có là điên mới nghe trộm và dọa dẫm anh. Một hành động cẩu thả có thể gây tổn hại lớn cho vụ án nhằm vào Patrick. Tuy nhiên, anh cũng đã liên hệ với một hãng thám tử ở địa phương về việc quét sạch rệp khỏi cái văn phòng của mình. Đó là mong muốn của thân chủ của anh, chứ không phải của chính anh.

Leah chào Sandy với một cái bắt tay thật chặt và một nụ cười thoáng qua, thế nhưng ngay lập tức anh có thể đoán là nàng đang có rất nhiều tính toán gì đó trong đầu. Nàng để chân trần, mặc quần jeans và áo phông trắng, rất bình thường, anh nghĩ, có thể là giống như hầu hết những người Braxin khác. Cánh cửa tủ quần áo mở toang; không có nhiều thứ treo bên trong. Nàng chuyển chỗ ở liên tục, với một chiếc vali, có thể là cũng đang phải chạy trốn giống như Patrick từng chạy trốn cho tới tuần lễ trước đó. Nàng rót cà phê cho cả hai và mời Sandy ngồi vào bàn.

“Anh ấy thế nào rồi ?”

“Đang bình phục. Bác sĩ nói là sẽ ổn thôi.”

“Các vết thương tệ lắm phải không ?” Nàng khẽ hỏi. Sandy thích cái giọng của nàng, nó mới nhẹ làm sao.

“Cũng nặng đấy.” Anh lấy ra một cái cặp và chuyển nó cho nàng. “Đây này.”

Nàng cau mày khi nhìn tấm ảnh đầu tiên, rồi lẩm bẩm gì đó bằng tiếng Bồ Đào Nha. Cặp mắt nàng rưng rưng khi nhìn sang tấm thứ hai. “Tội nghiệp Patrick,” nàng thầm nói với mình. “Tội nghiệp anh yêu.”

Nàng xem kỹ các tấm ảnh, nhẹ lau những giọt nước mắt bằng mu bàn tay cho đến khi Sandy tĩnh trí lại và đưa cho nàng một cái khăn giấy. Nàng không hề xấu hổ khi khóc với những tấm ảnh, và sau khi xem xong, nàng sắp chúng lại ngăn nắp rồi đặt chúng trở lại vào chiếc cặp.

“Tôi xin lỗi,” Sandy không còn biết nói gì với nàng. “Đây là thư của Patrick,” sau cùng anh nói.

Nàng thôi khóc và rót thêm cà phê. “Có vết thương nào sẽ là vĩnh viễn không ?” Nàng hỏi.

“Bác sĩ bảo có khả năng là không. Sẽ có sẹo, nhưng với thời gian thì tất cả sẽ lành lại thôi.”

“Về tinh thần thì sao ?”

“Cũng tạm. Có điều, anh ấy ít ngủ hơn. Liên tục có những cơn ác mộng, cả ngày lẫn đêm. Nhưng với thuốc men, anh ấy đang khá dần lên. Tôi thực sự không thể hình dung nổi những gì anh ấy đã phải trải qua.” Anh nhấp một ngụm cà phê và nói, "Tôi nghĩ anh ấy còn sống được là may lắm rồi.”

“Patrick luôn luôn nói là họ sẽ không giết anh ấy.”

Có bao nhiêu điều muốn hỏi nàng. Con người luật sư trong Sandy những muốn gào lên với hàng loạt câu hỏi: Patrick có biết họ đã áp sát sau lưng mình không ? Có biết là cuộc đuổi bắt sắp kết thúc không ? Cô ở đâu khi họ bắt anh ta ? Cô có sống cùng anh ta không ? Hai người đã cất giấu chỗ tiền đó như thế nào ? Hiện chỗ tiền đó ở đâu ? Có an toàn không ? Nào, xin hãy nói đi. Tôi là luật sư. Có thể tin cậy ở tôi.

“Hãy nói về vụ ly hôn của anh ấy đi,” nàng đột ngột chuyển đề tài. Nàng có thể cảm nhận thấy sự sốt ruột của Sandy. Nàng đứng dậy và đi về phía một cái ngăn kéo, lấy từ đó ra một tập hồ sơ dày cộm và đặt nó xuống trước mặt anh. “Ông có thấy Trudy trên TV tối qua không ?" Nàng hỏi.

“Có. Lâm ly đấy chứ ?"

“Chị ta rất đẹp,” Leah nói.

“Đúng thế. Tôi e rằng Patrick đã sai lầm khi cưới chị ta vì cái vẻ bề ngoài đó.”

“Anh ấy không phải là người đầu tiên.’'

“Đúng vậy.”

“Patrick coi thường vợ. Đó là một người xấu, và chị ta không trung thàrih với anh ấy trong suốt cuộc hôn nhân của họ.”

“Không trung thành ư ?”

“Phải. Tất cả nằm ở trong hồ sơ này. Năm cuối cùng mà họ chung sống, Patrick đã thuê một thám tử để mắt tới chị ta. Tình nhân của chị ta là một người đàn ông có tên là Lance Maxa, và họ liên tục gặp nhau. Thậm chí có cả một vài tấm ảnh chụp Lance đến và đi khỏi ngôi nhà của Patrick lúc anh ấy đi vắng. Có những tấm ảnh chụp Lance và Trudy trần truồng tắm nắng bên cái bể bơi của Patrick.”

Sandy cầm tập hồ sơ lên và lật lật tìm những tấm ảnh kia. Trần như nhộng. Anh ta mỉm cười tinh quái. “Cái này sẽ có giá cho vụ ly hôn đây.”

“Patrick muốn ly hôn, ông hiểu chứ. Anh ấy sẽ không phản đối. Nhưng cần phải bịt miệng chị ta lại. Chị ta đã được quá thoải mái để nói tất cả những điều bẩn thỉu về Patrick rồi."

“Cái này sẽ làm cho chị ta câm họng. Còn đứa trẻ thì sao ?"

Leah ngồi xuống ghế và nhìn thẳng vào mắt anh ta. “Patrick yêu quý Ashley Nicole, thế nhưng có một vấn đề. Anh ấy không phải là cha của con bé.”

Sandy nhún vai như thể là ngày nào cũng nghe thấy một điều như vậy. “Vậy là ai ?"

“Patrick không biết. Có thể là Lance. Có vẻ như là Lance và Trudy đã từng gian díu với nhau từ trước đó. Thậm chí từ thời trung học.”

“Làm sao anh ấy biết mình không phải là cha ?”

“Khi con bé được mười bốn tháng, Patrick lấy một chút máu từ ngón tay nó rồi gửi mẫu máu đó, cùng với mẫu máu của anh ấy, đến một phòng xét nghiệm để kiểm tra ADN. Sự nghi ngờ là chính xác. Anh ấy dứt khoát không phải là cha của con bé. Báo cáo xét nghiệm này cũng có trong cặp hồ sơ kia.”

Sandy đứng dậy đi lại loanh quanh để sắp xếp câu chuyện. Anh dừng bên cửa sổ và nhìn xuống dòng xe cộ trên phố Canal. Lại thêm một thông số nữa trong bài toán Patrick. Câu hỏi đặt ra lúc này là: Patrick đã tính toán việc rời bỏ người vợ cũ từ bao lâu ? Người vợ xấu xa, đứa con hoang, vụ tai nạn kinh hoàng, không có thi thể, vụ đánh cắp tinh vi, cuộc chạy trốn... Cái kế hoạch đó thật đáng kinh ngạc. Mọi thứ đều hoàn toàn đâu vào đấy, cho đến lúc này, tất nhiên.

“Vậy thì còn gì với vụ ly hôn nữa đâu ?” Anh hỏi, mắt vẫn nhìn xuống dưới đường. “Nếú anh ấy không muốn đứa trẻ thì còn bới ra làm gì ?”

Sandy biết câu trả lời, “Thế nhưng anh ta muốn”, nàng giải thích, và trong khi giải thích, hẳn nàng sẽ cho thấy loáng thoáng phần còn lại của cả cái kế hoạch chung.

“Ông mang đám rác này đến cho luật sư của chị ta,” nàng nói. “Ông cho hắn xem hồ sơ này, tất cả. Đến khi đó thì họ sẽ lại muốn đươc dàn xếp cho mà xem.”

“Dàn xếp, về tiền bạc ư ?”

“Đúng thế.”

“Dàn xếp thế nào ?”

“Chị ta không được gì cả.”

“Nhưng anh ấy có bao nhiêu mà được với không chứ ?”

“Cũng còn tùy. Đó có thể là một khoản nhỏ, cũng có khi lại là một khoản lớn.”

Sandy ngoảnh lại và nhìn nàng cáu kỉnh. “Tôi không thể thương lượng một dàn xếp về tài sản nếu như tôi không biết thân chủ của tôi có bao nhiêu. Vào lúc nào đó, các người phải nói cho tôi biết chứ.”

“Hãy kiên nhẫn,” nàng nói và vẫn hoàn toàn trấn tĩnh. “Với thời gian, ông sẽ biết nhiều hơn. Tôi hứa mà. Nhưng trước tiên, chúng ta phải lo vụ ly hôn này đã. Trudy phải từ bỏ mọi đòi hỏi đối với tài sản của anh ấy.”

“Chuyện đó thì dễ.”

“Vậy thì làm đi, và chúng ta sẽ nói chuyện lại vào tuần tới.”

Đột nhiên đã đến giờ Sandy phải đi. Nàng đứng dậy thu xếp giấy tờ. Anh cầm lấy các hồ sơ và cho vào trong cặp. “Cô sẽ còn ở đây bao lâu ?" Anh hỏi.

“Không lâu,” nàng đáp và trao cho anh cái phong bì. “Đây là thư gửi Patrick. Nói với anh ấy là tôi không sao, tôi vẫn di chuyển liên tục, và cho đến nay vẫn chưa phát hiện có ai bám theo.”

Sandy nhận chiếc phong bì và cố nhìn vào mắt nàng. Nàng lo sợ và sốt ruột muốn anh đi ngay. Sandy muốn giúp đỡ nàng, hay ít ra thì cũng có một lời, thế nhưng anh biết rằng vào lúc này, dù mình có nói gì thì cũng bị nàng gạt đi. Nàng gượng một nụ cười, và nói, “Ông còn có việc phải làm. Vậy thì làm đi. Patrick và tôi sẽ lo phần còn lại.”

oOo

Trong lúc Stephano kể lại câu chuyện của lão ở Oasinhtơn thì Benny Aricia và Guy đặt bản doanh ở Biloxi. Họ thuê một căn hộ ba phòng ngủ trên phố Back Bay, cho đặt điện thoại và máy fax. Giả thuyết được đặt ra là cô gái kia sẽ phải xuất hiện ở đây. Patrick đang bị quản thúc và trong thời gian trước mắt thì phần hắn là tương đối ổn định. Hắn sẽ không đi đâu được cả. Cô ta sẽ phải đến với hắn. Và họ sẽ tóm khi cô ta xuất hiện.

Aricia đã bỏ ra một trăm nghìn đôla nữa cho chiến dịch cuối cùng này, và ông ta thề đó là lần cuối cùng. Đã tốn phí gần hai triệu, đơn giản là ông ta phải kịp ngừng tiêu tiền trong khi vẫn đang còn lại được một ít. Northern Case Mutual và Monarch-Sierra, hai thành viên kia trong cái tổ hợp lỏng lẻo của ông ta, đã chịu bỏ cuộc. Stephano sẽ làm cho FBI hài lòng với câu chuyện của lão, trong khi hy vọng là Guy và những người còn lại có thể tìm được cô gái. Đó là một cuộc chơi không ai dám chắc ăn.

Osmar và người của anh ta vẫn lảng vảng trên các đường phố Rio, vẫn giám sát các địa điểm đó mỗi ngày. Nếu như cô ta trở về, họ sẽ thấy ngay. Osmar dùng rất nhiều người, nhưng mà giá nhân công ở đó rẻ mạt.

Việc trở lại vùng bờ biển này làm cho Benny Aricia nhớ lại những cảm giác cay đắng. Ông ta đã đến đây vào năm 1985 với tư cách là giám đốc của Platt & Rockland Industries, một công ty khổng lồ đã từng phái ông ta đi vòng quanh thế giới để giải quyết những trục trặc. Một trong những chi nhánh làm ăn phát đạt của công ty là Xưởng đóng tàu New Coastal ở Pascagoula, nằm giữa Biloxi và Mobile. Năm 1985, New Coastal nhận được một hợp đồng của Hải quân trị giá mười hai tỉ đôla đặt đóng bốn tàu ngầm hạt nhân lớp Expedition, và một cấp trên nào đó đã quyết định rằng Benny cần có một nơi ở ổn định.

Lớn lên ở New Jersey, ăn học ở Boston và khi đó đang là chồng của một phụ nữ giao thiệp rộng, Benny khốn khổ với việc phải sống ở vùng bờ biển vùng Vịnh của Mississipi, và coi đó là một bước xa rời nghiêm trọng những bậc thang danh vọng mà ông ta thèm muốn. Người vợ đã bỏ ông ta mà đi sau hai năm sống ở Biloxi.

Platt & Rockland là một công ty cổ phần, với vốn góp của các cổ đông là hai mươi mốt tỉ đôla, tám mươi nghìn nhân viên trong ba mươi sáu chi nhánh tại một trăm lẻ ba nước. Nó bán lẻ các trang thiết bị văn phòng, khai thác gỗ, sản xuất hàng nghìn mặt hàng tiêu dùng, bán bảo hiểm, khoan thăm dò hơi đốt, vận tải hàng côngtenơ, khai thác đồng và còn nhiều lĩnh vực khác, kể cả đóng tàu ngầm hạt nhân. Đó là một tập hợp các công ty hết sức tách biệt, và như một quy luật, cánh tay trái hiếm khi biết cánh tay phải đang làm gì. Thế nhưng nó lại vẫn thu về những khoản lợi nhuận khổng lồ.

Benny mơ tưởng tới việc tinh giảm công ty, bán đi những thứ vớ vẩn và đầu tư vào các chi nhánh làm ăn phát đạt. Tham vọng của ông ta là không hề giấu giếm, và trong toàn bộ giới chức quản lý cấp cao ai cũng biết là ông ta thèm muốn vị trí cao nhất.

Đối với ông ta, cuộc sống ở Biloxi là một trò đùa độc ác, một cú đá do những kẻ thù của ông ta trong công ty sắp xếp. Ông ta không ưa làm hợp đồng với chính phủ, ghét cay ghét đắng thói quan liêu cửa quyền và sự ngạo mạn của Lầu Năm Góc. Ông ta không chịu nổi cái tốc độ chậm như sên mà những chiếc tàu ngầm hạt nhân kia được đóng.

Năm 1988, Benny yêu cầu được thuyên chuyển, và bị khước từ. Một năm sau đó, bỗng dưng xuất hiện các tin đồn về những bội chi nghiêm trọng trong đề án Expedition. Công việc đóng tàu bị dừng lại trong khi các nhân viên kiểm toán của chính phủ và giới quan chức Lầu Năm Góc đổ đến Xưởng đóng tàu New Coastal. Benny là đối tượng chính, và cái dấu chấm hết đang đến gần.

Là một nhà thầu quân sự, Platt & Rockland vốn có truyền thống về những chi phí quá mức, tính quá giá, và những xác nhận man trá. Đó là một lối làm ăn, và khi bị phát hiện, công ty thường sa thải tất cả những nhân vật đứng gần vụ tranh chấp và rồi thương lượng với Lầu Năm Góc về một khoản bồi thường nhỏ nhoi.

Benny đến gặp một luật sư ở địa phương, Charles Bogan, cổ đông hàng đầu của một hãng luật nhỏ, mà Patrick Lanigan là một thành viên. Anh họ của Bogan là một Thượng nghị sĩ, đại diện cho bang Mississipppi. Ông Thượng nghị sĩ này là một nhân vật diều hâu điên cuồng và là chủ tịch Tiểu ban chuẩn chi quốc phòng, được giới quân sự rất trọng vọng.

Ông thầy của luật sư Bogan lúc bấy giờ là một thẩm phán Liên bang, và bởi vậy cái hãng luật nhỏ bé đó cũng có những mối quan hệ chính trị như bất kỳ một hãng nào khác ở Mississippi. Benny biết điều này, và thận trọng lựa Bogan.

Đạo luật chống những xác nhận man trá, cũng còn được gọi là Luật thổi còi, được Quốc hội Mỹ đưa ra nhằm khuyến khích những ai biết về việc tính quá giá trong các hợp đồng với chính phủ có thể lên tiếng. Benny nghiên cứu đạo luật này kỹ lưỡng, và thậm chí còn dùng một tay luật sư mổ xẻ phân tích nó cho ông ta nghe trước khi đi gặp Bogan.

Ông ta cho rằng Bogan có thể làm rõ về âm mưu của Platt & Rockland nhằm ăn gian tiền của chính phủ, chừng sáu trăm triệu đôla, trong đề án Expedition, và có thể cảm thấy lưỡi rìu đang được bổ xuống. Song ông ta không muốn mình là kẻ hứng đòn. Với việc tiết lộ này, ông ta sẽ không bao giờ có cơ hội kiếm được một chỗ làm việc tương đương nữa. Platt & Rockland sẽ rêu rao khắp nơi về việc làm này của ông ta. Ông ta sẽ bị cho vào sổ đen. Đó sẽ dấu chấm hết tất cả. Ông ta hiểu rất rõ ván bài này sẽ phải được chơi như thế nào.

Theo đạo luật đó, kẻ thổi còi có thể được nhận mười lăm phần trăm tổng số tiền mà công ty sai phạm phải thanh toán lại cho chính phủ. Benny có các tài liệu để chứng minh được về âm mưu của Platt & Rockland. Ông ta cần tới chuyên môn và thế lực của Bogan để thu được khoản mười lăm phần trăm kia.

Bogan thuê các kỹ sư và chuyên gia tư vấn để xem xét và đánh giá hàng nghìn tài liệu mà Benny chuyển từ Xưởng đóng tàu New Coastal đến. Cái âm mưu đó được dựng lại đâu vào đấy và hóa ra nó cũng không đến nỗi phức tạp gì cho lắm. Công ty này đang làm cái việc mà họ vẫn luôn luôn làm - tính giá nhiều lần cho cùng một thứ nguyên vật liệu, và bịa ra các chứng từ. Việc làm này tại Platt & Rockland được che đậy kín đến mức chỉ có hai giám đốc cấp cao ở xưởng đóng tàu được biết mà thôi. Benny nói là ông ta đã ngẫu nhiên mà tìm ra. Các luật sư đã chuẩn bị một vụ kiện đầy sức thuyết phục và sáng tỏ, và họ đã đệ dơn lên Tòa án Liên bang vào tháng Chín năm 1990. Đơn kiện tố cáo công ty Platt & Rockland đã tính gian của chính phủ sáu trăm triệu đôla. Benny xin thôi việc ngay hôm đơn kiện được đưa ra tòa.

Vụ kiện này đã được chuẩn bị rất chi tiết, và Bogan gây sức ép mạnh. Người anh họ của ông ta cũng vậy. Ông Thượng nghị sĩ đã được thông báo tường tận từ lâu trước khi vụ kiện thật sự bắt đầu, và đã theo dõi với một mối quan tâm lớn khi nó được chuyển đến Oasinhtơn. Bogan không chịu giá rẻ; ông Thượng nghị sĩ cũng thế. Khoản thù lao của hãng luật sẽ là mức một phần ba như thông thường. Một phần ba của mười lăm phần trăm của sáu trăm triệu đôla. Phần cho ông Thượng nghị sĩ chưa bao giờ được xác định dứt khoát.

Bogan tiết lộ đủ tin tức cho báo chí địa phương để duy trì sức ép ở Mississippi, và ông Thượng nghị sĩ cũng làm như vậy ở Oasinhtơn. Platt & Rockland lập tức thấy mình bị bao vây bởi búa rìu dư luận. Công ty đã bị dồn vào chân tường, nguồn tiền cung cấp cho nó bị cắt, các cổ đông tức giận. Hơn một chục giám đốc ở Xưởng đóng tàu New Coastal bị cho thôi việc. Và còn nhiều vụ sa thải nữa.

Như thường lệ, Platt & Rocklancl thương lượng ráo riết với Bộ Tư pháp, thế nhưng lần này thì không ăn thua gì. Sau một năm, công ty buộc phải đồng ý trả lại sáu trăm triệu đôla, và hứa không phạm pháp nữa. Do hai trong số tàu ngầm đó đã được đóng dở dang, Lầu Năm Góc đồng ý không hủy hợp đồng. Nhờ vậy, Platt & Rockland có thể được tiếp tục hoàn thành cái đề án kia.

Benny thì cầm chắc sẽ được cái khoản kếch xù của ông ta. Bogan và các cổ đông khác trong hãng thì cầm chắc được phần thù lao của mình. Thế rồi Patrick biến mất, tiếp theo đó là số tiền của họ.
 
CHÚ Ý !!!
Các đạo hữu nhớ thêm TÊN CHƯƠNG và THỨ TỰ CHƯƠNG ở ô phía trên phần trả lời nhanh. Như vậy hệ thống mới tạo được DANH SÁCH CHƯƠNG.
Cập nhật chức năng ĐĂNG TRUYỆN và THÊM CHƯƠNG MỚI trên web Diễn Đàn Truyện tại https://truyen.diendantruyen.com
Top Bottom