Cập nhật mới

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 40


Người dịch: Nguyễn Bá Long

Nhà xuất bản: NXB Văn học

Shared by: CCG -

Patrick ngồi ở cuối bàn. Trước mặt bàn chỗ hắn ngồi chẳng có gì, chứ không như chỗ người luật sư của hắn, ở bên phải, với hai chồng hồ sơ và một xấp những giấy tờ được bày biện sẵn giống như người ta dàn sẵn các loại vũ khí trước giờ lâm trận. Phía bên trái hắn là T.L. Parrish, chỉ có một cuốn ghi chép nhưng lại cũng được trang bị một chiếc máy ghi âm to tướng, được đặt ở đó với sự chấp thuận của Patrick. Không có phụ tá hay người giúp việc nào khác để khỏi thêm phức tạp, nhưng bởi lẽ các luật sư thật sự đều cần có gì đó để kiểm chứng nên họ đã thỏa thuận ghi âm lại.

Giờ đây, khi mà những cáo buộc của Liên bang đã được từ bỏ, sức ép lại đang dồn lên các giới chức tiểu bang trong việc đưa Patrick ra trước công lý. Parrish cảm nhận được điều đó. Đám Liên bang đã quăng bị cáo này cho ông ta để họ có thể bám theo một ông Thượng nghị sĩ và những vấn đề lớn hơn. Thế nhưng, bị cáo này lại sắp có những lời khai mới, và số phận của Parrish đang phụ thuộc vào lòng khoan dung của hắn.

“Ông có thể quên chuyện cố sát đi, Terry,” Patrick nói. Mặc dù gần như ai cũng gọi ông ta là Terry, nhưng một bị cáo mà ông ta không quen biết bao nhiêu gọi vậy thì quả là cũng hơi khó chịu. “Tôi không hề giết ai.”

“Ai bị thiêu trong cái xe đó ?”

“Một người đã chết trước đó bốn ngày.”

“Chúng tôi có biết người đó không ?”

“Không. Đó là một ông già không ai biết đến cả.”

“Ông già đó đã chết như thế nào ?”

“Chết già thôi.”

“Chết ở đâu ?”

“Ngay ở Mississippi này.”

Parrish ghi mấy dòng và đánh dấu trong cuốn sổ. Cánh cửa đã mở ra khi các giới chức Liên bang rút khỏi cuộc. Patrick đang bước qua cánh cửa đó, không xiềng xích, và dường như không gì có thể chặn hắn lại.

“Vậy là anh đã đốt một cái xác ?”

“Đúng vậy.”

“Chúng ta không có luật về hành vi đó phải không?”

Sandy đẩy một tờ giấy ngang qua mặt bàn. Parrish liếc nhanh, và nói, “Xin thứ lỗi. Đó không phải là loại tội phạm mà chúng tôi phải truy tố hàng ngày.”

“Đó là tất cả những gì ông có, Terry,” Patrick nói, với tất cả vẻ tự tin lạnh lùng của người đã chuẩn bị hàng năm trời cho cuộc đối chất này.

Parrish bị thuyết phục, thế nhưng, không có công tố viên nào lại chịu bó tay dễ dàng như vậy. “Có vẻ là một năm tù,” ông ta nói. “Một năm tù ở Parchman sẽ làm cho anh trở nên biết phải trái.”

"Chắc chắn rồi, có điều là tôi sẽ không tới Parchman đâu.”

“Vậy anh tính đi đâu hả ?”

“Đâu đó. Và tôi sẽ dùng vé hạng nhất.”

“Không dễ vậy đâu. Chúng tôi còn cái xác kia mà.”

“Không, Terry. Ông không có cái xác nào hết. Ông không hề biết ai là người đã bị hỏa thiêu, và tôi sẽ không nói ra cho tới khi chúng ta có một thỏa thuận.”

“Là...?”

“Từ bỏ các cáo buộc. Chấm dứt vụ này. Cả hai bên thu dọn và trở về nhà.”

“Ha, nghe được đấy. Chúng tôi tóm được kẻ cướp nhà băng, anh ta trả lại tiền, chúng tôi thôi việc truy tố và giơ tay chào tạm biệt anh ta. Điều đó sẽ phát đi một thông điệp đứng đắn cho bốn trăm bị cáo khác mà tôi sẽ phải truy tố. Tôi tin chắc là luật sư của họ sẽ hiểu. Một cái tát vào mặt pháp luật và công lý.”

“Tôi cóc quan tâm tới bốn trăm người kia, và đương nhiên là họ cũng chẳng buồn quan tâm tới tôi. Chuyện vẫn vậy mà, Terry. Ai cũng nghĩ đến bản thân mình.”

“Nhưng không phải là ai cũng ở trên đầu các trang nhất.”

“Ra vậy, tôi hiểu rồi. Ông quan ngại về báo chí. Khi nào có vụ bầu lại vậy. Sang năm phải không ?”

“Tôi không phải tranh giành với ai. Tôi cũng không quá quan ngại về giới báo chí.”

“Đương nhiên là ông phải quan ngại. Ông là một công chức. Ông có lo ngại về báo chí thì cũng là chuyện thường, và đó chính là lý do ông nên bãi bỏ những cáo buộc chống lại tôi. Ông không thể nào thắng được. Ông lo ngại về những trang nhất ư ? Hãy thử nghĩ đến hình ảnh của ông trên đó sau khi ông thất bại.”

“Gia đình nạn nhân không muốn khiếu kiện gì,” Sandy nói. “Và gia đình đó sẵn sàng công khai với dư luận.” Anh giơ một mảnh giấy lên. Thông điệp được đưa ra là: Chúng tôi có bằng chứng, chúng tôi có gia đình kia, chúng tôi biết họ là ai, còn ông thì không.

“Chuyện trên trang nhất như vậy thì có vẻ là được đấy,” Patrick nói. “Gia đình nạn nhân khẩn khoản xin ông thôi truy tố.”

Anh đã dấm dúi cho họ bao nhiêu, ông ta đã toan mở miệng nhưng lại thôi. Chuyện cũng chẳng liên quan gì. Thêm vài dòng nguệch ngoạc. Thêm cân nhắc về những lựa chọn đang mờ nhạt đi của ông ta trong lúc chiếc máy ghi âm chỉ ghi lại được sự im lặng.

Với đối thủ đã bị dồn vào chân tường, Patrick áp tới để đánh cú đo ván. “Nào, Terry,” hắn nói vẻ chân tình. “Ông không thể truy tố tôi về tội cố sát. Chuyện đó qua rồi. Ông cũng không thể truy tố tôi về hành vi làm tổn thương tới một thi hài, bởi lẽ ông không biết thi hài của ai đã bị làm tổn thương. Ông không có gì trong tay cả. Tôi hiểu đó là một viên thuốc đắng khó nuốt, nhưng ông không thể nào làm thay đổi được thực tế đó. Ông sẽ bị điều này tiếng nọ chút đỉnh, nhưng biết làm sao, đó cũng là một phần công việc của ông thôi.”

“Cảm ơn. Nhưng này, tôi có thể khép tội anh về hành vi làm tổn thương thi hài kia. Chúng tôi sẽ gọi người đó là ông X.”

“Sao lại không là bà X hả ?” Sandy hỏi.

“Thế nào chẳng được. Chúng tôi sẽ xem lại hồ sơ về tất cả những người già đã chết vào đầu tháng Hai năm 1992. Chúng tôi sẽ tới các gia đình, xem họ có nói chuyện với các anh bao giờ không. Thậm chí chúng tôi có thể xin lệnh của tòa án, khai quật một vài ngôi mộ. Chúng tôi sẽ cứ từ từ làm việc. Trong khi đó, anh sẽ bị chuyển tới nhà tù của quận Harrison, nơi tôi tin chắc rằng ông cảnh sát trưởng Sweeney sẽ thấy được sự cần thiết là phải lo cho anh một vài tay bạn tù cho ra trò. Chúng tôi sẽ chống lại việc bảo lãnh, và không thẩm phán nào sẽ cho phép điều đó, xét tới khả năng chạy trốn của anh. Ngày tháng sẽ trôi qua. Mùa hè rồi sẽ tới. Trong nhà tù không có máy điều hòa không khí. Anh hẳn sẽ còn sút cân thêm nữa. Chúng tôi sẽ tiếp tục tìm kiếm, và may ra chúng tôi sẽ tìm được ngôi mộ rỗng. Và chính xác là sau chín tháng, hai trăm bảy mươi ngày sau khi có cáo trạng, chúng ta sẽ ra tòa.”

“Ông sẽ làm sao để chứng minh được rằng tôi đã làm điều đó ? Không có nhân chứng nào, không gì hết ngoài vài chứng cứ gián tiếp.”

“Cũng gần đúng. Nhưng anh không hiểu ý tôi rồi. Nếu tôi kéo dài công việc chuẩn bị cho sự buộc tội này, tôi có thể bổ sung thêm hai tháng vào cái thời gian phải ngồi tù của anh. Nghĩa là gần trọn một năm trong nhà tù của quận trước khi ra tòa. Đó là một thời gian dài đối với một người có rất nhiều tiền.”

“Tôi có thể chịu được,” Patrick nói, nhìn thẳng vào mắt Parrish, lòng thầm mong rằng hắn không chớp mắt trước ông ta.

“Có thể, nhưng anh không thể mạo hiểm với khả năng bị kết án.”

“Vậy yêu cầu sau rốt của ông là gì ?” Sandy hỏi.

“Các anh phải nhìn vào bức tranh toàn thể,” Parrish nói, khoát tay lên bên trên đầu. “Các anh không thể biến chúng tôi thành trò cười, Patrick. Đám Liên bang đã rút êm. Tiểu bang thì không còn lại gì nhiều. Phải để cho chúng tôi cái gì đó chứ.”

“Tôi sẽ để cho ông được kết án. Tôi sẽ ra tòa, đứng trước vị chánh án, nghe ông đọc cáo trạng như thường, và tôi sẽ nhận tội làm tổn thương thi hài. Nhưng tôi sẽ không phải vào tù. Ông có thể giải thích với ông chánh án rằng gia đình nạn nhân không muốn truy tố. Ông có thể khuyến nghị một bản án treo, thời gian thử thách, tiền phạt, tiền bồi thường, và về thái độ tốt trong thời gian bị giam giữ. Ông có thể nói về cuộc tra tấn và những gì tôi đã phải trải qua. Ông có thể làm tất cả những điều đó, Parrish, và tiếng tăm của ông sẽ là tốt. Yêu cầu cốt lõi là: Không có chuyện phải vào tù.”

Parrish gõ gõ ngón tay lên bàn, trầm ngâm. “Và anh sẽ cho biết tên của nạn nhân ?”

“Tôi sẽ, nhưng chỉ sau khi chúng ta đã có một thỏa thuận.”

“Chúng tôi có sự cho phép của gia đình để mở quan tài đây,” Sandy nói, tay giơ nhanh một mảnh giấy khác lên và lại cất ngay vào trong hồ sơ. “Tôi đang vội mà, Terry. Tôi còn phải đi nhiều nơi.”

“Tôi cần phải nói chuyện với Trussel. Các anh biết là chuyện này phải được ông ấy chấp thuận.”

“Ông ấy sẽ chấp thuận,” Patrick nói.

“Chúng ta thỏa thuận phải không nhỉ ?” Sandy hỏi.

“Với tôi thì đúng vậy,” Parrish đáp, rồi tắt cái máy ghi âm. Ông ta thu dọn giấy tờ bỏ vào cặp. Patrick nháy mắt với Sandy.

“Mà này, nhân tiện,” Parrish nói khi đứng lên. “Suýt nữa thì quên mất. Anh có thể nói gì với chúng tôi về Pepper Scarboro hả ?”

“Tôi có thể cho ông tên mới cùng số thẻ bảo hiểm xã hội của cậu ta.”

“Vậy là thằng bé vẫn còn sống ư ?”

“Phải, ông có thể tìm được Pepper, nhưng không thể làm phiền gì cậu ta được. Cậu ta sạch sẽ hoàn toàn.”

Ngài công tố viên đi ra khỏi phòng mà không nói thêm một lời nào.

oOo

Nàng có một cuộc hẹn vào lúc hai giờ chiều với một vị phó chủ tịch của Ngân hàng Đức, chi nhánh tại Luân Đôn. Ông ta là một người Đức nói tiếng Anh hoàn hảo, với một bộ complê kiểu hai hàng khuy màu xanh đen được may không chê vào đâu được, và một nụ cười luôn thường trực trên môi. Ông ta chỉ thoáng nhìn trong tích tắc cặp chân của nàng, rồi bắt tay vào việc ngay. Điện chuyển tiền từ chi nhánh ngân hàng của ông ta ở Zurich yêu cầu chuyển ngay lập tức một trăm mười ba triệu đôla tới Ngân hàng Mỹ, chi nhánh tại Oasinhtơn. Nàng có số tài khoản cùng những chỉ thị chuyển tiền. Nước trà và bánh quy được đưa tới trong lúc ông ta xin phép ra ngoài để trao đổi riêng với Zurich.

“Không có vấn đề gì cả, thưa cô Pires,” ông ta nói với nụ cười nồng nhiệt khi trở lại và cũng cầm một miếng bánh lên. Tất nhiên là nàng cũng chẳng mong có trục trặc gì.

Chiếc máy tính của ông ta chạy ro ro, và một bản in được đẩy ra. Ông ta trao nó cho nàng. Sau khoản chuyển tiền này, tài khoản của nàng trong Ngân hàng Đức còn lại hơn một triệu chín trăm nghìn đôla. Nàng gấp mảnh giấy lại và bỏ nó vào trong ví, một cái ví hiệu Chanel mới tinh.

Một tài khoản khác trong một ngân hàng Thụy Sĩ còn ba triệu đôla. Một tài khoản khác nữa trong một ngân hàng Canda ở Grand Cayman còn sáu triệu rưỡi. Một nhà kinh doanh tiền tệ ở Bermuda đang đầu tư hơn bốn triệu đôla cho họ, và bảy triệu hai trăm nghìn đôla hiện đang được để ở Lúcxembua, nhưng số này sắp được chuyển đi nơi khác.

Sau khi xong việc, nàng rời khỏi nhà băng và thấy chiếc xe cùng người tài xế của nàng đang chờ gần đấy. Nàng sẽ gọi cho Sandy, và thông báo hành trình tiếp theo của nàng.

oOo

Cuộc trốn chạy của Benny, một kẻ bị Liên bang truy nã, thật ngắn ngủi. Cô bạn gái của ông ta nghỉ đêm lại Frankfurt, rồi bay đến Luân Đôn, xuống Heathrow vào tầm trưa. Bởi lẽ họ biết trước là cô ta sẽ đến nên nhân viên hải quan đã kiểm tra rất kỹ lưỡng tấm hộ chiếu và buộc cô ta phải chờ đợi. Cô ta đeo một cặp kính đen và hai bàn tay cứ run lên. Tất cả đều được ghi lại vào băng video.

Tại nơi chờ tăcxi, cô ta đã bị cầm chân mà không biết bởi một sĩ quan cảnh sát có vẻ như đang làm nhiệm vụ sắp xếp tăcxi cho hành khách. Anh ta yêu cầu cô ta đứng vào bên cạnh hai người phụ nữ khác, trong khi anh ta điều khiển đám xe cộ. Người lái xe cho cô ta là một tài xế tăcxi thực thụ, nhưng ít giây trước đó đã được thông báo vắn tắt và được trang bị một cái bộ đàm nhỏ.

“Khách sạn Athenaeum trên phố Piccadilly,” cô ta bảo người lái xe. Anh ta nhẹ nhàng cho xe nhập vào dòng xe cộ đông đúc, và hờ hững thông báo địa điểm đang tới qua bộ đàm. Một tiếng rưỡi sau, chiếc xe dừng lại trước cửa khách sạn. Cô ta lại phải chờ tại quầy tiếp tân. Tay trợ lý giám đốc khách sạn xin lỗi về sự chậm trễ với lý do là máy tính có trục trặc.

Sau khi nhận được tin báo rằng điện thoại trong phòng của cô ta đã được cài đặt máy nghe trộm xong xuôi, họ trao cho cô ta chìa khóa phòng và một người phục vụ dẫn cô ta đi. Cô ta bỏ ra chút tiền thưởng, sau đó khóa trái cửa phòng lại và đi thẳng tới bên chiếc điện thoại.

Những từ đầu tiên mà họ nghe thấy cô ta nói là: “Benny, em đây. Em đang ở đây.”

“Tạ ơn Chúa,” Benny nói. “Em có sao không ?”

“Không sao cả. Chỉ sợ thôi.”

“Có ai bám theo em không hả ?”

“Không. Em không nghĩ là có ai. Em đã rất cẩn thận.”

“Tốt lắm. Nghe này, có một quán cà phê nhỏ trên phố Brick, cách khách sạn của em hai khúc phố. Gặp anh ở đó sau một tiếng nữa nhé.”

“Được. Em sợ lắm, Benny.”

“Mọi chuyện đều ổn, em yêu. Anh mong được gặp em quá đi mất.”

Benny không có ở quán cà phê đó khi cô ta đến. Cô ta đợi một tiếng đồng hồ, rồi hoảng sợ chạy ngược trở về khách sạn. Ông ta đã không gọi lại, và cô ta không tài nào ngủ được.

Sáng hôm sau, cô ta cầm mấy tờ báo ở dưới tiền sảnh và vừa xem vừa uống cà phê trong phòng ăn. Trên một trang trong của tờ Điện tín hàng ngày, cô ta đọc thấy mẩu tin ngắn về vụ bắt giữ một công dân Mỹ đang bị truy nã, một người đàn ông có tên là Benny Aricia.

Rất nhanh chóng, cô ta thu xếp hành lý và đặt mua vé trên chuyến bay một chiều trở về Thụy Điển.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 41


Người dịch: Nguyễn Bá Long

Nhà xuất bản: NXB Văn học

Shared by: CCG -

Với những lời thầm thì của Thẩm phán Karl Huskey vào tai đồng sự của ông ta là Thẩm phán Henry Trussel, vụ Lanigan đã được quyết định là một vụ án ưu tiên cho đến khi mọi chuyện đâu vào đấy. Những tin đồn về một thỏa thuận lan ra khắp trong giới tòa án và luật sư ở Biloxi, và luôn gắn liền với những lời đàm tiếu về cái Hãng Bogan kia. Kỳ thực là ở tòa án người ta chẳng còn nói với nhau chuyện gì nữa ngoài những chuyện này.

Trussel bắt đầu ngày làm việc bằng việc triệu T.L.Parrish và Sandy McDermott tới để tìm hiểu về những diễn biến mới nhất, và cuộc gặp đã kéo dài hàng tiếng đồng hồ. Ba lần Patrick được lôi vào cuộc thảo luận này qua cái điện thoại di động của bác sĩ Hayani. Hai người, bệnh nhân và bác sĩ, đang ngồi chơi cờ trong căngtin của bệnh viện.

“Tôi không nghĩ rằng anh ta sẽ phải vào tù,” Trussel lầm bầm sau cú điện thoại thứ hai gọi cho Patrick. Cả vẻ mặt lẫn lời nói của ông ta đều cho thấy là ông ta không muốn để Patrick thoát được một cách dễ dàng như vậy, thế nhưng việc kết tội lại là một khả năng xa vời. Còn bao nhiêu vụ buôn bán ma túy và quấy nhiễu tình dục đối với trẻ em nữa, chẳng nên phung phí thời giờ với cái kẻ làm tổn thương thi hài đang được dư luận chú ý này. Tất cả các bằng chứng chỉ là gián tiếp, và với việc Patrick có tiếng là kẻ luôn lập ra những kế hoạch chu đáo, Trussel không dám tin là có thể kết án được hắn.

Các điều kiện cho một thỏa thuận nhận tội được thảo ra. Mọi việc bắt đầu bằng một khuyến nghị chung, hạ thấp cáo buộc đối với Patrick. Rồi một án lệnh được soạn thảo để đưa vào một cáo buộc mới, tiếp theo là một án lệnh chấp nhận lời nhận tội. Trong tiến trình của cuộc gặp lần thứ nhất này, Trussel đã nói chuyện qua điện thoại với cảnh sát trưởng Sweeney, Maurice Mast, Joshua Cutter, và Hamilton Jaynes ở Oasinhtơn. Để chắc ăn, ông ta cũng đã nói chuyện hai lần với Karl Huskey, người ngồi ngay phòng bên cạnh.

Hai vị thẩm phán, cùng với Parrish, là các đối tượng phải được bầu lại bốn năm một lần, cùng với kỳ bầu cử chung. Trussel chưa bao giờ có đối thủ và tự cho mình là hoàn toàn có thể yên tâm trên chính trường. Huskey đang rũ áo ra đi. Trường hợp của Parrish thì nhạy cảm, bởi lẽ mặc dù là một chính khách giỏi, ông ta vẫn tiêu biểu cho một trường phái truyền thống thường đưa ra những quyết định cứng rắn mà không cần quan tâm tới phản ứng của công chúng. Cả ba đều đã ở trên chính trường nhiều năm, và mỗi người đều đã học được một bài học cơ bản: Khi dự liệu trước về một hành động có thể không được lòng người, hãy hành động cho nhanh. Dứt điểm. Lưỡng lự chỉ tổ sinh thêm chuyện. Báo chí sẽ vồ lấy, gây tranh cãi trước khi hành động được thực hiện, và chắc chắn là sẽ đổ thêm dầu vào đám lửa sau đó.

Vấn đề Clovis là đơn giản, một khi Patrick đã giải thích lại với tất cả mọi người. Hắn sẽ phải trình ra được tên của nạn nhân, cùng với sự cho phép từ phía gia đình về việc khai quật, mở quan tài và nhìn vào bên trong. Nếu thật sự là cái quan tài đó trống rỗng, thì thỏa thuận nhận tội này là hoàn tất. Bởi lẽ vẫn luôn còn sự nghi ngờ cho đến khi họ đã khai quật nấm mộ kia lên, nếu chẳng may mà cái quan tài kia không phải là trống rỗng thì thỏa thuận nhận tội này sẽ bị xé bỏ và Patrick vẫn sẽ phải đối mặt với những cáo buộc về tội cố sát. Patrick hoàn toàn tự tin khi hắn nói về nạn nhân, và mọi người đều không mảy may nghi ngờ rằng ngôi mộ đó sẽ trống rỗng.

Sandy lái xe chạy tới bệnh viện, thấy thân chủ của mình đang nằm trên giường, vây xung quanh là các y tá trong khi bác sĩ Hayani lau rửa và băng lại các vết thương cho hắn. Sandy giải thích là có việc khẩn cấp. Patrick xin lỗi và yêu cầu họ ra ngoài. Còn lại hai người với nhau, họ xem lại từng thứ văn bản, đọc to từng câu từng chữ, và rồi Patrick ký xác nhận sự chấp thuận của hắn.

Sandy để ý thấy một cái thùng cáctông trên sàn, cạnh bàn làm việc tạm thời của Patrick. Trong đó là những cuốn sách mà anh đã cho hắn mượn. Rõ ràng là hắn đã bắt dầu thu xếp hành lý.

Sandy quay về căn hộ ở khách sạn, ăn trưa bằng một chiếc bánh xăng uých, vừa đứng ăn vừa nhìn cô thư ký đang đánh máy lại một văn bản. Cả hai người phụ tá và cô thư ký thứ hai đã trở về văn phòng ở New Orleans.

Có tiếng chuông điện thoại và Sandy nhấc máy lên. Nguời gọi tự xưng danh là Jack Stephano, ở D.C., và nói có lẽ anh đã từng nghe tên lão ta. Đúng là vậy. Stephano đang ở dưới tiền sảnh khách sạn và muốn nói chuyện vài phút. Được. Trussel yêu cầu Parrish và Sandy trở lại vào mãi khoảng hai giờ chiều cơ mà.

Họ ngồi trong một căn phòng nhỏ, đối diện nhau ngang một cái bàn dùng để uống cà phê. “Tôi tới đây vì tò mò,” Stephano nói, và Sandy không hề tin lão.

“Chẳng lẽ ông không nên bắt đầu với một lời xin lỗi ư ?” Sandy nói.

“Phải, anh nói phải. Người của tôi ở bên đó đã hơi quá tay một chút và quả thật là lẽ ra họ đã không nên thô bạo như vậy với anh chàng kia của anh.”

“Ông nghĩ thế là một lời xin lỗi hả ?” Sandy nói.

“Tôi xin lỗi. Chúng tôi đã sai.” Một lời xin lỗi không có chút chân thành nào.

“Tôi sẽ chuyển lại cho thân chủ của tôi. Tôi tin rằng nó sẽ có nhiều ý nghĩa đối với anh ấy.”

“Tôi không còn ăn chung gì trong vụ đấu đá này nữa. Vợ tôi và tôi đang trên đường đi nghỉ ở Florida, và tôi muốn ghé vào đây một chút. Chỉ một phút thôi.”

"Họ đã tóm được Aricia chưa ?” Sandy hỏi.

“Rồi. Cách đây có vài giờ. Tại Luân Đôn.”

“Tốt.”

“Tôi không còn đại diện cho ông ta, và tôi không có liên quan gì tới mọi việc ở Hãng Platt & Rockland cả. Người ta thuê tôi sau khi chỗ tiền kia biến mất. Công việc của tôi là tìm kiếm nó. Tôi đã cố gắng, đã được trả tiền, và đã kết thúc mọi chuyện.”

“Vậy cuộc viếng thăm này là thế nào ?”

“Tôi rất đỗi tò mò về một chuyện. Chúng tôi đã chỉ tìm ra Lanigan ở Braxin sau khi có người chỉ điểm. Một người biết rất rõ về anh ta. Hai năm về trước, một Hãng thám tử tư ở Atlanta có tên là Nhóm Pluto đã liên hệ với chúng tôi. Họ có một khách hàng ở châu Âu biết đôi điều về Lanigan, và người khách hàng đó cần tiền. Khi đó chúng tôi cũng có chút tiền, bởi vậy một mối quan hệ đã phát triển. Người khách hàng kia đề nghị trao cho chúng tôi một dấu vết, chúng tôi đồng ý trả một khoản tiền thưởng, tiền trao cháo múc, và thông tin luôn chính xác. Người đó biết rất nhiều về Lanigan - những di chuyển, các thói quen và cả những cái tên giả của anh ta. Nhưng tất cả đều chỉ là những chuyện được tính toán trước — có một cái đầu ở đằng sau mọi chuyện. Chúng tôi biết điều gì sẽ đến và thật tình là khi đó chúng tôi rất nóng lòng. Sau cùng, họ đưa ra một miếng mồi lớn. Với một triệu đôla, ngưòi khách kia sẽ cho chúng tôi biết anh ta đang sống ở đâu. Họ đã cung cấp vài tấm ảnh rất đẹp chụp Lanigan, trong đó có một tấm chụp anh ta đang cọ rửa cái xe, một chiếc Volkswagen Beetle. Chúng tôi trả tiền và rồi tóm được Lanigan.”

“Vậy ai là người khách hàng kia hả ?" Sandy hỏi.

“Đó chính là câu hỏi của tôi. Hẳn phải là cô gái kia, có phải không ?”

Sandy không đưa ra ngay được một phản ứng. Anh hơi gằn giọng như cười, nhưng mà không phải là cười. Câu chuyện của nàng về việc dùng Nhóm Pluto để giám sát Stephano, kẻ đang tìm kiếm Patrick, từ từ trở lại trong tâm trí anh.

“Cô ta hiện giờ ở đâu ?” Stephano hỏi.

“Tôi không biết,” Sandy nói. Nàng đang ở Luân Đôn, nhưng tất nhiên đó chẳng phải là việc của anh.

“Chúng tôi đã trả tổng cộng là một triệu và một trăm năm mươi nghìn đôla cho người khách hàng bí ẩn này, và cô ta, hay anh ta, đã bán đứng tất cả. Giống như là Judas đã bán Chúa vậy.”

“Chuyện đã qua rồi. Ông muốn gì ở tôi ?”

“Như tôi đã nói, tôi chỉ tò mò thôi mà. Một ngày nào đó, nếu anh biết được sự thật, tôi sẽ rất đánh giá cao một cú điện thoại của anh đấy. Tôi không có gì được thua nữa, nhưng tôi sẽ không chịu yên cho tới khi tôi biết rõ là cô ta có lấy tiền của chúng tôi hay không.”

Sandy đưa ra một lời hứa mơ hồ là có thể một ngày nào đó sẽ gọi lại cho lão, và Stephano rời khỏi khách sạn.

oOo

Cảnh sát trưởng Raymond Sweeney được biết về thỏa thuận đó trong lúc đang ăn trưa, và thấy không thích một chút nào. Ông ta gọi điện cho Parrish và Thẩm phán Trussel, nhưng cả hai đều đang quá bận, không thể tiếp chuyện ông ta được. Cutter thì không có ở văn phòng.

Sweeney cố tình chường mặt tới tòa án. Ông ta quanh quẩn ngay ở khúc hành lang nằm giữa các phòng làm việc của các thẩm phán, để nếu như có một thỏa thuận thì có thể can thiệp vào giữa chừng. Ông ta thầm thì với đám chạy giấy và cảnh sát. Có vẻ là đang có chuyện thật.

Các luật sư đến vào lúc hai giờ, mặt mũi trịnh trọng và không hề hé môi. Họ tập hợp trong phòng làm việc của Trussel sau cánh cửa đóng kín. Mười phút sau, Sweeney gõ cửa. Ông ta cắt ngang cuộc họp với yêu cầu được biết đang có chuyện gì diễn ra đối với tay tù nhân của ông ta. Thẩm phán Trussel nhẫn nại giải thích rằng sắp có một lời nhận tội, kết quả của một cuộc mặc cả, mà theo ý ông ta cũng như ý kiến của tất cả những người có mặt, là phù hợp với lợi ích cao nhất của công lý.

Sweeney cũng có ý kiến riêng để sẵn sàng chia sẻ, “Điều đó sẽ biến chúng ta thành một lũ ngốc. Người ta đang ầm ầm lên về chuyện này ở ngoài kia. Các vị tóm được một tên tội phạm giàu sụ và hắn đã bỏ tiền ra mua được cái lối thoát khỏi nhà tù. Chúng ta là cái gì hả, một đám hề chắc ?”

“Ông có kiến nghị gì, Raymond ?” Parrish hỏi.

“Tôi mừng là ông đã hỏi. Trước tiên, tôi sẽ tống hắn vào nhà tù của quận để hắn ngồi trong đó ít lâu, giống như mọi tù nhân khác. Rồi tôi sẽ truy tố hắn ở mức độ cao nhất.”

“Về tội gì hả ?”

“Hắn đã đánh cắp chỗ tiền chết tiệt kia, phải vậy không ? Hắn đã thiêu hủy một cái xác chết. Cứ để cho hắn nằm mười năm trong Parchman. Đó là công lý.”

“Hắn không có đánh cắp tiền ở đây,” Trussel giải thích. “Chúng ta không có thẩm quyền. Đó là một vấn đề thuộc thẩm quyền của Liên bang, và các giới chức Liên bang đã từ bỏ các cáo buộc đối với hắn.”

Sandy ngồi trong một góc, mắt dán vào một văn bản.

“Vậy là có ai đó đã làm hỏng bét cả, phải không ?”

“Không phải là chúng tôi,” Parrish nói nhanh.

“Tuyệt lắm. Hãy giải thích như vậy với những người đã bỏ phiếu cho ông. Đổ lỗi cho đám Liên bang, bởi vì họ đâu có phải tranh cử gì. Còn vụ đốt xác thì sao hả ? Hắn vẫn được ra sau khi đã thú tội ư ?"

“Ông nghĩ là cần phải truy tố hắn về tội đó à ?” Trussel hỏi.

“Quá đi chứ.”

“Tốt. Ông nghĩ là chúng ta sẽ phải lập luận thế nào cho vụ này ?” Parrish hỏi.

“Ông là công tố viên. Đó là việc của ông.”

“Phải, nhưng có vẻ như là việc gì ông cũng thạo. Hãy cho tôi biết xem ông sẽ lập luận như thế nào ?

“Hắn nói là hắn đã làm, có phải không ??"

"Phải, và ông nghĩ rằng Patrick Lanigan sẽ làm nhân chứng luôn trong vụ xét xử chính hắn và thừa nhận với hội thẩm đoàn rằng hắn đã đốt một cái xác ư ? Có phải đó là suy nghĩ của ông không ?”

“Ông ấy không nghĩ vậy đâu,” Sandy đỡ lời.

Cổ và mặt Sweeney đỏ gắt lên, tay chân khua loạn. Ông ta nhìn Parrish, rồi lại nhìn Sandy.

Và khi ông ta nhận ra rằng các luật sư này đã có tất cả các câu trả lời thì ông ta cố tự kiềm chế. “Chuyện này sẽ diễn ra vào lúc nào ?” Ông ta hỏi.

“Cuối buổi chiều nay,” Trussel nói.

Sweeney cũng không thích cả cái thời điểm này. Ông ta thọc cả hai tay vào túi rồi cắm đầu đi ra cửa. “Các vị hãy tự lo lấy thân,” ông ta nói, đủ to để mọi người đều nghe được.

“Một gia đình lớn thật hạnh phúc,” Parrish nói, đầy vẻ mỉa mai.

Sweeney đóng sầm cửa và sồng sộc bỏ đi. Ông ta rời khỏi tòa án trên chiếc xe tuần tiễu không có phù hiệu cảnh sát, và dùng điện thoại trên xe gọi cho một nguồn tin riêng của ông ta, một phóng viên của tờ Bờ biển.

oOo

Do phía gia đình đã cho phép, và Patrick, người quản lý phần mộ theo di chúc, việc đào cái mộ đó lên là chuyện đơn giản. Thẩm phán Trussel và cả Parrish cùng Sandy không phải là không thấy điều mỉa mai trong việc buộc phải để Patrick, người bạn duy nhất của Clovis, ký vào bản tuyên thệ cho phép mở quan tài để làm rõ về chính hành vi của mình. Mọi quyết định đều có vẻ như bị một sự mỉa mai nào đó phủ lên.

Việc đào mộ này khác xa với một cuộc khai quật, một tiến trình sẽ phải có lệnh của tòa án, sau một kiến nghị thích hợp và đôi khi là cả một cuộc điều trần. Đây đơn giản chỉ là việc ngó xem, một tiến trình không được bao hàm trong luật pháp của bang Mississippi, và do vậy Thẩm phán Trussel có quyền hạn khá rộng rãi. Ai có thể phải chịu tổn hại ? Tất nhiên không phải là phía gia đình rồi. Cũng không phải là cái quan tài; bởi vì rõ ràng là chính nó cũng chẳng còn có mấy ý nghĩa.

Rolland vẫn là chủ của ngôi nhà tang lễ trên vùng Wiggins. Ông ta còn nhớ rất rõ về ông Clovis Goodman và người luật sư của ông ấy, cùng cái đêm thức canh quan tài kỳ cục ở đó, trong ngôi nhà của ông Goodman, ngoài tay luật sư ra thì chẳng còn ma nào khác. Phải, ông ta còn rất nhớ, ông ta nói vậy với ông Thẩm phán trên điện thoại. Đúng là ông ta có đọc tin về ông Lanigan, nhưng ông không nghĩ là có mối liên hệ gì.

Thẩm phán Trussel nói tóm tắt lại cho ông ta nghe câu chuyện về sự liên quan trực tiếp tới Clovis. Không, ông ta đã không mở quan tài ra sau đêm đó, không cần phải làm như vậy, chưa bao giờ làm như thế. Trong khi ông Thẩm phán nói chuyện, Parrish gửi tới cho Rolland các bản sao về sự thỏa thuận có chữ ký của Deena Postell và Patrick Lanigan, người thực hiện di chúc.

Rolland đột nhiên trở nên sốt sắng. Trước đây, ông ta chưa hề từng gặp chuyện đánh cắp thi hài, chỉ bởi lẽ là người ở vùng Wiggins không làm những chuyện như vậy, và phải rồi, tất nhiên là ông ta có thể cho đào ngôi mộ ấy lên ngay lập tức. Ông ta cũng chính là chủ sở hữu của cái nghĩa địa đó. Thẩm phán Trussel phái tay thư ký và hai cảnh sát viên tới nghĩa địa, dừng lại trước tấm bia mang dòng chữ:

CLOVIS F. GOODMAN

23/1/1907-06/2/1992

Đã lên thiên đường

Họ thận trọng xới lớp đất mùn lên trong khi Rolland đứng chỉ đạo và chờ sẵn với một cái xẻng trong tay. Chẳng mất tới mười lăm phút thì đã thấy nắp ván thiên. Rolland và một người giúp việc bước xuống và hớt đất lên. Cái quan tài làm bằng gỗ dương đã bắt đầu mục ở các mép. Rolland ngồi ở phía đằng chân và đưa cái kìm xuống, ông ta vặn và giật mạnh cho tới khi nghe một tiếng gãy răng rắc, rồi từ từ mở cái nắp lên.

Không có gì ngạc nhiên, cái quan tài trống rỗng.

Tất nhiên là ngoại trừ bốn cục bêtông vỡ.

oOo

Theo kế hoạch thì một phiên tòa công khai sẽ được mở, nhưng phải đợi đến gần năm giờ chiều, khi mà tòa án sắp đóng cửa và nhiều công chức trong quận đã bắt đầu ra về. Năm giờ là thời điểm nghe được đối với tất cả mọi người, nhất là với ông Thẩm phán và ông Công tố viên, những người tin rằng họ đang làm một việc chính đáng, nhưng mà lại cứ vẫn thấy lo ngại. Suốt cả ngày, Sandy hối thúc việc giải quyết cho nhanh một khi đã có thỏa thuận giữa các bên và cái quan tài kia đã được mở ra. Không còn lý do gì phải chờ đợi. Thân chủ của anh ta đang bị giam cầm, mặc dù rằng điều đó không nhận được mấy sự thông cảm. Công việc đã đâu vào dấy. Thời điểm là hoàn toàn thích hợp. Vậy chờ đợi để mà làm gì ?

Chẳng để làm gì cả, sau cùng ngài Thẩm phán đã quyết định như vậy. Parrish không phản đối. Ông ta còn tám vụ án đã được lên lịch trong ba tuần tới, và dẹp xong vụ Lanigan này cũng là một điều nhẹ nhõm.

Bên bị cáo thì năm giờ chiều là thời điểm đáng hài lòng. Với một chút may mắn, họ có thể vào và ra khỏi phòng xét xử trong vòng không đầy mười phút. Với một chút may mắn nữa, sẽ không ai nhìn thấy họ cả. Với Patrick, năm giờ là tuyệt rồi. Hắn còn phải làm gì nữa nhỉ?

Hắn mặc lên người chiếc quần kaki rộng thùng thình và chiếc sơmi vải bông màu trắng cũng khá rộng. Hắn đi một đôi giày mới, nhưng không mang tất, do vết bỏng nơi mắt cá chân. Hắn ôm hôn bác sĩ Hayani và cảm ơn về tình cảm mà anh ta đã dành cho hắn. Hắn ôm hôn các cô y tá và cảm ơn những người hộ lý, và hứa rằng hắn sẽ sớm trở lại thăm họ. Đời nào hắn còn quay lại, mọi người đều biết thế.

Sau hơn hai tuần là một bệnh nhân và một tù nhân, Patrick rời khỏi bệnh viện, bên cạnh là luật sư của hắn, còn những người áp giải có vũ trang thì đi theo đàng sau.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 42


Người dịch: Nguyễn Bá Long

Nhà xuất bản: NXB Văn học

Shared by: CCG -

Rõ ràng thời điểm năm giờ chiều là tuyệt vời cho tất cả mọi người. Không một nhân viên tòa án nào ra về sau khi tin loan ra khắp các phòng làm việc, khắp xó xỉnh - trong khoảng chỉ vài phút đồng hồ.

Một thư ký phụ trách về mảng bất động sản cho một Hãng luật lớn đang bận rộn kiểm tra lại một giấy chứng nhận sở hữu đất đai tại tòa án đã nghe lỏm được cái tin mới nhất này về Patrick. Cô ta chạy ra chỗ đặt điện thoại và gọi về văn phòng Hãng. Chỉ trong khoảng thời gian tính bằng phút, toàn bộ giới luật pháp ở vùng bờ biển này đã biết tin Lanigan sắp sửa nhận tội trong một thỏa thuận lạ lùng nào đó, và toan tính bí mật làm việc này vào lúc năm giờ chiều tại phòng xét xử chính của tòa án.

Điểm nhấn mạnh về một phiên tòa bí mật, cùng với một thỏa thuận dấm dúi nào đó, đã dẫn tới hàng loạt cú điện thoại; gọi cho các luật sư, cho các bà vợ, cho các phóng viên được ưa thích, cho bạn bè không có mặt trong thành phố. Trong vòng chưa đầy ba mươi phút, nửa thành phố đã biết chuyện Patrick sắp ra hầu tòa với một thỏa thuận và rất có thể sẽ được trả lại tự do.

Họ tụ tập thành từng nhóm tại phòng xét xử với những lời bàn tán thầm thì, vừa nhìn dòng người kéo vào vừa trông chừng những chỗ ngồi của họ. Đám đông tăng lên lại càng như chứng thực cho những gì đã được đồn đại. Ngần này người thì không thể nào sai được. Và cho đến khi các phóng viên kéo tới, thì những lời đồn đại ngay lập tức được coi là có thật.

“Anh ta đến rồi,” một nhân viên tòa án đứng gần phía bên trên kêu lên và đám đông bắt đầu vội vàng ngồi vào chỗ.

Patrick mỉm cười với hai phóng viên truyền hình đang chạy vội tới để gặp hắn ở cửa sau. Hắn được dẫn đến vẫn cái phòng hội thẩm đó ở trên tầng hai, nơi cái khóa tay được mở ra. Cái quần kaki của hắn hơi dài một chút, bởi vậy hắn đã xắn lên một gấu. Kảl bước vào và bảo đám cảnh sát ra chờ ngoài hành lang.

“Một phiên tòa lặng lẽ mà đông người quá,” Patrick nói.

“Khó mà giữ kín chuyện gì ở quanh đây được. Quần áo đẹp đấy.”

“Cảm ơn.”

“Có một phóng viên mà tôi biết của một tờ báo ở Jackson đề nghị tôi nói với anh...”

“Dứt khoát không. Không một lời nào với bất kỳ ai.”

“Tôi cũng đoán vậy. Khi nào thì anh đi hả ?”

“Tôi chưa biết. Cũng ngay thôi.”

“Cô gái kia đang ở đâu vậy ?”

“Châu Âu.”

“Tôi có thể đi với anh được không ?"

“Vì sao ?”

“Muốn xem, vậy thôi.”

“Tôi sẽ gửi cho ông một cuộn băng video.”

“Cảm ơn nhiều.”

“Ông có thực sự muốn đi không ? Nếu như ông có cơ hội ra đi, ngay bây giờ, ông có đi không vậy ?”

“Cùng với chín mươi triệu đôla hay không hả ?”

“Cho dù là có hay không.”

“Dĩ nhiên là không. Không cùng một tình huống. Tôi yêu vợ tôi, còn anh thì không. Tôi có ba đứa con tuyệt vời, hoàn cảnh của anh thì khác. Không, tôi sẽ không bỏ đi. Nhưng tôi cũng không trách cứ gì anh.”

“Ai cũng muốn chạy trốn, Karl ạ. Vào một lúc nào đó trong cuộc đời, ai cũng đã từng có lần tính tới chuyện chạy trốn. Cuộc sống ở vùng biển hay vùng núi luôn luôn dễ chịu hơn. Những rắc rối có thể được bỏ lại đằng sau. Cái đó nằm sẵn trong mỗi con người chúng ta. Chúng ta là con cháu của những người nhập cư, những người đã bỏ lại đằng sau những hoàn cảnh khốn khổ và tới mảnh đất này để tìm kiếm một cuộc sống tốt đẹp hơn. Và họ đã tiếp tục đi sang miền Tây, lại lên đường, luôn luôn chỉ để tìm kiếm cái giấc mộng vàng. Giờ đây thì chẳng còn chỗ nào mà đi cả.”

“Trời đất. Tôi đã không nhìn vấn đề từ một góc độ lịch sử.”

“Đó là một chuỗi liên tục.”

“Giá mà ông bà tôi cũng đã cuỗm được của ai đó chín mươi triệu trước khi họ rời Ba Lan.”

“Tôi đã trả lại rồi mà.”

“Tôi nghe nói có thể còn có một ổ trứng nhỏ được để lại đâu đó.”

“Một trong những tin đồn không có cơ sở.”

“Vậy theo anh có phải là sắp tới sẽ có cả một trào lưu những vụ ăn cướp tiền của khách hàng, những vụ đốt các thi hài, rồi những chuyến bay xuống Nam Mỹ, nơi tất nhiên là có những cô gái xinh đẹp đang chờ đợi để được vuốt ve phải không ?”

“Cho tới nay thì mọi chuyện là ổn.”

"Tội nghiệp cho những người dân Braxin. Tất cả những gã luật sư xảo quyệt đều đang tìm đường đến chỗ họ cả.”

Sandy bước vào với một văn bản nữa để lấy chữ ký. “Trussel đang bực bội lắm,” anh nói với Karl. “Sức ép đang đổ lên đầu ông ta. Điện thoại réo liên tục.”

“Còn Parrish thì sao ?”

“Lo lắng như một cô gái làm tiền ở nơi nhà thờ vậy.”

“Chúng ta hãy làm ngay đi trước khi họ trở nên quá sợ hãi,” Patrick nói trong khi ký vào cái văn bản mà Sandy mang tới.

Một viên mõ tòa bước ra loan báo phiên tòa sắp bắt đầu, và xin mời tất cả ngồi xuống. Mọi người vội vã tìm vào những chỗ còn trống. Một viên mõ tòa khác đóng các cánh cửa lớn lại. Những người đến xem đứng thành hàng dọc theo các bức tường. Mọi nhân viên tòa án đều làm ra vẻ đang có một việc gì đó ở phía bên trên, gần chỗ ngồi của chánh án. Đã gần năm giờ rưỡi.

Thẩm phán Trussel bước vào với dáng vẻ cứng nhắc thường thấy ở ông ta, và tất cả mọi người đều đứng dậy. Ông ta chào họ, cảm ơn sự quan tâm của họ đối với công lý, nhất là vào giờ muộn như thế này trong ngày. Ông ta và ông Công tố viên đã cho rằng một phiên tòa quá nhanh chóng sẽ sặc mùi của một thỏa thuận không đàng hoàng, bởi vậy mọi chuyện sẽ được để cho diễn ra không vội vàng gì. Họ thậm chí đã bàn tới việc hoãn phiên tòa lại, nhưng sau đó cho rằng một sự trì hoãn sẽ gây ấn tượng rằng họ đã bị bắt quả tang khi đang toan tính lén lút làm chuyện gì đó.

Patrick được dẫn vào qua cánh cửa bên khu hội thẩm đoàn, và đến đứng bên cạnh Sandy ngay trước tòa. Hắn không nhìn ai cả. Parrish đứng gần đó, rất sốt ruột được bắt đầu. Thẩm phán Trussel lật từng trang hồ sơ, kiểm tra lại từng chữ trên từng trang.

“ Ông Lanigan,” sau cùng ông ta cất tiếng, mạnh mẽ và chậm rãi. Trong ba mươi phút tiếp theo đó, mọi điều đều được trình bày một cách chậm rãi cả. “Ông đã trình tòa một số kiến nghị.”

“Đúng vậy, thưa ngài Chánh án,” Sandy nói. “Kiến nghị đầu tiên của chúng tôi là hạ các cáo buộc từ tội cố sát xuống tội làm tổn thương tới một thi hài.”

Những lời này vang vọng trong cả căn phòng đang lặng như tờ. Làm tổn thương tới một thi hài ư?

“Ông Parrish,” ông Chánh án nhắc. Việc Parrish sẽ phải lo phần trình bày là điều đã được thỏa thuận. Gánh nặng của ông ta sẽ là việc giải thích được với tòa, một cách chính thức, và quan trọng hơn là với báo chí và các công dân đang dõi theo ở ngoài kia.

Ông ta đã trình bày một cách tuyệt vời về những diễn biến mới nhất một cách chi tiết. Không phải một vụ giết người, đó là điều rốt cuộc, mà là một tội nhẹ hơn rất nhiều. Viện công tố bang không phản đối việc hạ thấp các cáo buộc, bởi vì cơ quan này không còn tin rằng Lanigan đã giết chết bất kỳ ai. Ông ta đi lại với dáng vẻ thoải mái nhất có thể có được, không còn bị câu thúc bởi những quy ước nghi lễ hay thủ tục gì nữa, và đã giành được sự tán thưởng của tất cả các phía.

“Tiếp theo, chúng ta còn có một kiến nghị của bị cáo đề nghị tòa chấp thuận lời nhận tội đối với lời cáo buộc về hành vi làm tổn thương tới một thi hài, có phải không ông Parrish?”

Màn kịch thứ hai này cũng giống với màn đầu, với Parrish thêm mắm thêm muối vào câu chuyện về ông già Clovis đáng thương.

“Ông nhận là có tội hay không có tội, ông Lanigan?” Ông Chánh án hỏi.

“Có tội,” Patrick nói, giọng cứng rắn nhưng không còn kiêu hãnh gì.

“Viện công tố có khuyến nghị gì không ?” ông Chánh án hỏi vị Công tố viên.

Parrish đi đến bên cái bàn của ông ta, lật lật đám giấy tờ, bước trở lại trước tòa, và sau cùng cất tiếng, “Có, thưa ngài Chánh án. Tôi có một bức thư của bà Deena Postell ở Meridian, Mississippi. Bà ta là người cháu còn sống duy nhất của Clovis Goodman.” Ông ta trao một bản sao cho Trussel như thể bức thư đó là chuyện hoàn toàn mới vậy. “Trong bức thư này, bà Postell khẩn khoản xin tòa không truy tố ông Lanigan về hành vi đốt xác người ông của bà ta. Ông cụ đã chết hơn bốn năm nay, và gia đình không thể chịu đựng được thêm bất kỳ sự thống khổ và đau đớn nào nữa. Rõ ràng là bà Postell rất gần gũi với người ông của bà ta, và đã rất nặng nề với cái chết của ông cụ.”

Patrick liếc nhìn Sandy. Nhưng Sandy thì không muốn nhìn hắn.

“Ông đã nói chuyện với bà ta chưa ?’ ông Chánh án hỏi,

“Rồi. Mới cách đây khoảng một tiếng. Bà ta rất xúc động trên điện thoại, và xin chúng ta không dấy lại vụ việc đau buồn này. Bà ta nói một cách kiên quyết rằng sẽ không ra làm chứng trước bất kỳ phiên tòa nào và cũng không hợp tác với bên công tố dưới bất kỳ hình thức nào.” Parrish lại bước đến bên cái bàn của ông ta và xem thêm một vài giấy tờ khác. “Với tình cảm đó của gia đình, viện công tố bang khuyến nghị rằng bị cáo bị phạt mười hai tháng tù treo do có thái độ tốt, rằng ông ta phải nộp một khoản tiền phạt là năm nghìn đôla và trả tiền án phí, và phải có một thời gian thử thách.”

“Ông Lanigan, ông có đồng ý với án phạt này không?” Trussel hỏi.

“Có, thưa ngài Chánh án,” Patrick nói, không ngẩng đầu lên.

“Tòa quyết định như vậy. Còn gì nữa không ?” Trussel nhấc cái búa của ông ta lên và chờ đợi. Cả vị luật sư bào chữa và ông Công tố viên đều lắc đầu.

“Phiên tòa của chúng ta kết thúc,” ông ta tuyên bố và gõ mạnh cái búa xuống.

Patrick quay người đi và nhanh chóng ra khỏi phòng xét xử. Một lần nữa, hắn lại biến mất ngay trước mắt họ.

Hắn cùng với Sandy đợi một tiếng đồng hồ trong phòng làm việc của Karl Huskey trong khi bóng tối trùm xuống và những kẻ dai nhất còn đeo bám ở tòa án cũng đành bỏ cuộc ra về. Vào lúc bảy giờ tối, hắn nói lời chào từ biệt thân yêu với Karl. Hắn cảm ơn ông ta về việc đã có mặt ở đó, đã ở bên cạnh hắn, về tất cả, và hắn hứa sẽ giữ liên lạc. Trong lúc bước ra cửa, hắn cũng một lần nữa cảm ơn ông ta đã làm một người hộ tang cho hắn.

“Thôi nào,” Karl nói. “Thôi nào.”

oOo

Họ rời Biloxi trên chiếc Lexus của Sandy, Patrick ngồi ngả người trên chiếc ghế bên cạnh Sandy lái xe, lặng ngắm lần cuối cùng những tia nắng chiều của vùng Vịnh. Họ chạy ngang qua những sòng bạc bên bờ biển ở Biloxi và Gulfport, ngang qua cái bến tàu ở Pass Christian, và rồi những vầng sáng trải rộng ra khi họ vượt qua Vịnh St.Louis.

Sandy trao cho hắn cái số điện thoại, và hắn gọi tới khách sạn của nàng. Lúc đó là ba giờ sáng ở Luân Đôn, thế mà nàng cũng chộp ngay lấy máy giống như là nàng đang ngồi nhìn chăm chăm vào nó mà chờ đợi vậy. “Eva, anh đây,” hắn nói với cả một sự kiềm chế lớn. Sandy gần như là dừng xe lại ngay lập tức để hắn có thể ra ngoài nói chuyện với nàng. Anh đã cố để không nghe thấy gì.

“Hiện bọn anh đang rời Biloxi, trên đường đi New Orleans. Anh không sao. Chưa bao giờ anh lại cảm thấy khỏe hơn lúc này. Còn em ?”

Hắn lắng nghe một lúc lâu, mắt nhắm lại, đầu hơi ngả ra sau.

“Hôm nay là ngày bao nhiêu hả ?” Hắn hỏi.

“Thứ sáu, ngày 6 tháng Mười một,” Sandy đáp.

“Anh sẽ gặp em ở Aix, chỗ Villa Gallici, vào Chủ nhật. Đúng. Rồi. Anh ổn cả. Anh yêu em. Thôi đi ngủ đi, anh sẽ gọi em sau vài tiếng nữa.”

Họ chay vào Louisiana trong im lặng, và đâu đó ngang Hồ Pontchartan, chợt Sandy nói, “Tôi có một người khách rất thú vị hồi chiều nay.”

“Thật à, ai vậy ?”

“Jack Stephano.”

“Ngay ở Biloxi à ?”

“Phải. Lão tìm tôi ở khách sạn, nói rằng lão đã kết thúc với vụ Aricia và đang trên đường đi nghỉ ở Florida.”

“Sao anh không giết lão đi ?”

“Lão nói là lão xin lỗi. Nói rằng đám tay chân của lão ở dưới đó đã quá tay một chút khi chúng tóm được anh, và muốn tôi chuyển lời xin lỗi.”

“Cái thằng cha đó. Tôi tin rằng lão đến không chỉ để nói lời xin lỗi.”

“Đúng là thế. Lão đã kể với tôi về một kẻ phản bội ở Braxin, về Nhóm Pluto và những khoản tiền thưởng, và hỏi thẳng thừng rằng có phải cô gái kia, Eva, là kẻ đã phản bội anh không. Tôi nói là tôi không biết gì.”

“Sao lão lại quan tâm tới chuyện đó nhỉ ?”

“Hỏi được đấy. Lão nói là không cưỡng lại được sự tò mò. Lão đã trả hơn một triệu đôla tiền thưởng, tóm được đối tượng mà lão săn đuổi, nhưng lại không lấy được tiền, và lão nói là lão sẽ không thể nào ngủ được cho đến khi lão biết rõ chuyện. Phần nào tôi cũng tin lời lão.”

“Nghe có vẻ có lý.”

“Lão không còn ăn chung gì trong cuộc đấu đá này hay cái gì khác đại loại thế. Đó là lời của lão, không phải của tôi.”

Patrick gác chân trái lên đầu gối bên phải, và sờ nhẹ vào chỗ vết bỏng. “Trông lão ta thế nào?” Hắn hỏi.

“Khoảng năm mươi lăm, rất Italia, nhiều tóc bạc, mắt đen, một người đàn ông có diện mạo đẹp. Nhưng sao ?"

“Bởi vì ở đâu tôi cũng nhìn thấy lão. Trong ba năm qua, một nửa số những người lạ mà tôi nhìn thấy ở Braxin đều là Jack Stephano. Tôi bị cả trăm kẻ truy đuổi trong những giấc ngủ của mình, và tất cả bọn chúng hóa ra đều là Jack Stephano. Lão ẩn mình trong những ngõ hẻm, nấp sau những cái cây, cuốc bộ theo sau trên những khúc phố ở São Paulo, bám theo bằng môtô, rượt đuổi bằng ôtô. Tôi đã nghĩ về Stephano còn nhiều hơn cả là nghĩ về mẹ tôi.”

“Cuộc đuổi bắt đó đã kết thúc.”

“Sau cùng thì tôi đã quá mệt mỏi, Sandy ạ. Tôi đã bỏ cuộc. Cuộc sống trốn tránh hoàn toàn là một cuộc phiêu lưu, hồi hộp và lãng mạn, cho tới khi anh biết rằng có kẻ nào đó đang rình rập. Trong khi đang ngủ, anh cũng thấy có người sục tìm. Trong khi anh đang ăn tối với một người phụ nữ xinh đẹp trong cái thành phố có cả chục triệu dân kia, cũng có ai đó gõ cửa, chìa tấm ảnh của anh ra cho một người phục vụ và hứa hẹn một khoản tiền thưởng để đổi lấy thông tin. Tôi đã đánh cắp quá nhiều tiền, Sandy. Họ buộc phải truy đuổi tôi, và khi tôi biết rằng họ đã có mặt ở Braxin thì tôi hiểu rằng cuối cùng thì cũng sẽ đến lúc phải chấm dứt.”

“Anh nói bỏ cuộc nghĩa là thế nào ?”

Patrick thở dài và cựa mình trên ghế. Hắn nhìn qua cửa sổ xuống mặt nước phía dưới, và cố sắp xếp lại những suy nghĩ của mình. “Tôi đã bỏ cuộc, Sandy. Tôi đã mệt mỏi với cuộc chạy trốn, và tôi đã bỏ cuộc.”

“Câu đó thì tôi đã nghe.”

“Tôi biết là họ sẽ tìm ra tôi, bởi vậy tôi quyết định sẽ để điều đó xảy ra theo cách của tôi chứ không phải cách của họ.”

"Tôi đang nghe đây.”

“Những khoản tiền thưởng nhận được từ Stephano kia là ý kiến của tôi, Sandy. Eva phải bay tới Madrít, rồi tới Atlanta, nơi cô ấy phải gặp những người của Pluto. Họ được trả tiền để liên hệ với Stephano và lo về luồng thông tin cùng tiền bạc. Chúng tôi vắt cạn tiền của Stephano, và sau cùng để cho lão kiếm tìm được đến chỗ tôi, đến ngôi nhà nhỏ ở Ponta Porã.”

Sandy ngoảnh sang, mặt anh ngớ ra, miệng há hốc, mắt đờ đẫn.

“Nhìn đường kìa,” Patrick nói, tay chỉ lên mặt đường.

Sandy chỉnh lại tay lái, đưa chiếc xe trở về làn bên phải. “Anh nói láo.” anh ta nói không ra hơi. “Tôi biết là anh lại nói láo.”

“Không. Chúng tôi đã thu được một triệu một trăm năm mươi nghìn đôla từ Stephano, và lúc này thì chỗ tiền đó đang được cất giấu, chắc là ở Thụy Sĩ, cùng với chỗ còn lại.”

“Anh không biết ở đâu ư ?”

“Cô ấy lo chuyện đó. Tôi sẽ biết khi nào gặp cô ấy.”

Sandy choáng cả người đến mức không còn nói gì được nữa. Patrick nói tiếp. “Tôi biết là họ sẽ tìm ra tôi và tôi cũng biết là họ sẽ cố để buộc tôi khai ra. Nhưng tôi không biết chuyện xảy ra đến như thế này.” Hắn chỉ vào vết bỏng phía bên trên cổ chân trái. “Tôi cũng nghĩ là phải kinh khủng, Sandy, nhưng đâu có nghĩ tới chuyện họ suýt đã giết chết tôi rồi. Sau cùng thì họ cũng buộc tôi phải khuất phục, và tôi đã nói với họ về Eva. Nhưng lúc đó thì cô ấy đã biến đi rồi, và tiền cũng vậy.”

“Anh có thể đã phải uổng mạng như bỡn,” Sandy gượng nói được một câu. Anh đang chỉ cầm lái bằng một tay, còn tay kia thì gãi đầu.

“Đúng thế. Hoàn toàn đúng. Nhưng hai giờ sau khi tôi bị tóm thì FBI ở Oasinhtơn đã biết tôi đang ở trong tay Stephano. Điều đó đã cứu mạng tôi. Stephano không dám giết tôi bởi vì đám Liên bang đã biết chuyện.”

“Nhưng làm sao...”

“Eva đã gọi cho Cutter ở Biloxi. Ông ta lại gọi cho Oasinhtơn.”

“Anh thật ngu ngốc khi để cho bọn họ tóm được anh.”

“Không đâu. Chẳng nhẽ không phải tôi vừa mới bước ra khỏi tòa án và là một người tự do đó sao ? Chẳng nhẽ không phải tôi vừa mới nói chuyện với người đàn bà mà tôi yêu xiết bao đó sao ? Và người đàn bà đó lại đang giữ cho tôi một cái gia tài nho nhỏ. Sau cùng thì quá khứ đã chấm dứt, Sandy. Anh không thấy vậy à? Không còn ai truy đuổi tôi nữa.”

“Bao nhiêu trục trặc đã có thể xảy ra.”

“Phải, nhưng chúng đã không xảy ra. Tôi có tiền, có những cuộn băng kia, câu chuyện về Clovis. Tôi đã có bốn năm để lên kế hoạch về mọi thứ.”

“Cuộc tra tấn kia thì đâu có nằm trong kế hoạch.”

“Phải, nhưng những vết thương rồi sẽ lành lại. Thôi, đừng làm mất vui nữa, Sandy. Tôi đang cảm thấy tuyệt vời lắm.”

Sandy thả hắn xuống chỗ ngôi nhà của mẹ hắn, ngôi nhà mà hắn đã lớn lên trong thời thơ ấu. Bà Lanigan mời Sandy ở lại, nhưng anh biết là họ cần có thời giờ bên nhau, vả lại, cũng đã bốn ngày liền anh chưa gặp mặt vợ con.

Sandy lái xe đi, đầu óc vẫn còn chao đảo.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 43


Hắn tỉnh dậy trước lúc mặt trời mọc trên cái giường mà hắn đã không dùng tới trong gần hai mươi năm, trong căn phòng mà hắn đã không bước chân vào trong gần mười năm. Đó là những năm tháng đã qua, một cuộc sống khác nào đó. Những bức tường giờ đây như xích lại làm cho căn phòng trở nên nhỏ hẹp hơn, cái trần cũng thấp hơn. Qua năm tháng, những thứ đồ của hắn - những kỷ niệm của thời thơ ấu và cả những tấm áp phích với các cô người mẫu tóc vàng mặc đồ tắm bó chật - đã được bỏ đi.

Là con của một cặp bố mẹ hiếm khi nói chuyện với nhau, hắn đã biến căn phòng của mình thành một cấm địa. Chưa đến tuổi lên mười, hắn đã biết khóa cửa phòng lại. Bố mẹ hắn chỉ bước vào khi được hắn cho phép.

Mẹ hắn đang nấu nướng; mùi thịt xông khói tỏa khắp nhà. Hai mẹ con đã thức rất khuya; vậy mà bà vẫn dậy sớm, chỉ sốt ruột muốn lại được chuyện trò nữa. Ai mà có thể trách bà được ?

Hắn thận trọng duỗi người một cách chậm rãi. Lớp da quanh những vết bỏng của hắn vẫn còn căng ra. Quá một chút là sẽ bị rách, và vết thương sẽ lại rớm máu. Hắn sờ lên vết bỏng trên ngực, chỉ muốn cào cho đã cơn ngứa. Hắn gập chân và khoanh cả hai tay ra sau gáy. Hắn mỉm cười với cái trần nhà, một nụ cười đắc thắng bởi lẽ cuộc sống chui lủi giờ đây đã chấm dứt. Không còn cả Patrick lẫn Danilo, và những cái bóng rình rập phía sau cũng đã bị nghiền nát. Stephano, cùng Aricia và đám Bogan, cùng các nhà chức trách Liên bang và Parrish, tất cả đều không còn ý nghĩa gì. Không còn ai săn lùng hắn nữa.

Nắng đã tràn vào cửa sổ. Hắn nhanh chóng tắm táp, xoa một lớp thuốc mỡ lên các vết thương và băng chúng lại.

Hắn đã hứa với mẹ hắn về những đứa cháu mới, cả một lũ, để thế chỗ cho Ashley Nicole, con bé mà bà vẫn muốn được gặp lại. Hắn đã kể với bà những điều tuyệt vời về Eva, và hứa sẽ mang nàng tới New Orleans trong một ngày không xa. Chưa có bàn tính gì tởi hôn lễ, nhưng đó là điều chắc chắn.

Hai người cùng ăn bánh quế với thịt xông khói, rồi uống cà phê trước hiên nhà trong khi những đường phố cổ kính đã bắt đầu thức giấc. Trước khi những người hàng xóm có thể ghé vào để chúc tụng, họ đã ra xe đi. Patrick muốn ngắm lại cái thành phố của hắn một lần nữa, cho dù chỉ là thoáng qua.

Vào lúc chín giờ, hắn cùng mẹ đi vào tiệm Anh em nhà Robilio trên phố Canal để hắn mua vài chiếc quần kaki và áo sơmi mới, cùng một chiếc túi da du lịch rất đẹp. Họ ghé vào tiệm Café du Monde trên phố Decatur, và rồi ăn trưa ở một quán ăn gần đó.

Hai mẹ con ngồi bên nhau trong một giờ trước cửa ra máy bay của hắn, tay cầm tay và phần nhiều là im lặng. Khi tiếng loa gọi khách lên máy bay vang vang, Patrick ôm chặt lấy mẹ và hứa ngày nào cũng sẽ gọi điện thoại. Bà muốn được chóng thấy những đứa cháu mới, bà nói, và cố gượng cười.

Hắn bay đi Atlanta. Từ đó, với cuốn hộ chiếu hợp pháp mang tên Patrick Lanigan, mà Eva đã trao cho Sandy, hắn lên một chuyến bay khác đi Nice.

oOo

Lần cuối cùng mà hắn gặp Eva đã cách đó cả một tháng, ở Rio, trong một kỳ nghỉ cuối tuần dài, lúc nào cũng quấn quýt bên nhau. Khi đó, cuộc truy đuổi kia đã bắt đầu bước sang đoạn cuối, và Patrick biết điều đó.

Họ đã ôm chặt lấy nhau trong lúc bước đi trên những bãi biển đông người của Ipanema và Leblon, phớt lờ những tiếng kêu vui vẻ xung quanh họ. Họ ăn tối thật muộn trong những tiệm ăn ưa thích - Anti-quarius và Antonio’s - nhưng chẳng mấy thiết ăn. Họ nói với nhau những lời dịu dàng và ngắn ngủi, và những cuộc trò chuyện ấy của họ lúc nào cũng kết thúc trong nước mắt.

Đã có lúc, nàng khuyên hắn tiếp tục chạy trốn, cùng với nàng, khi mà hắn còn có thể làm được, để ẩn mình trong một lâu đài nào đó ở Xcốtlen hay một căn hộ nhỏ xíu ở Rôm, nơi mà không ai có thể tìm ra họ. Thế nhưng, lời khuyên đó đã bị bỏ qua. Đơn giản là vì hắn đã quá mệt mỏi.

Vào cuối chiều, họ thường đi xe cáp treo lên đỉnh ngọn núi Sugarloaf để ngắm cảnh hoàng hôn buông xuống Rio. Quang cảnh thành phố buổi tối thật là ngoạn mục, nhưng với hoàn cảnh lúc bấy giờ thì họ cũng chẳng có bụng dạ nào để mà thưởng thức. Hắn ôm chặt lấy nàng trước làn gió lạnh, và hắn đã hứa rằng một ngày nào đó, khi mọi chuyện đã qua đi, họ sẽ lại cùng đứng ở chính chỗ đó, để ngắm hoàng hôn và bàn chuyện tương lai. Nàng đã gắng gượng để tin lời hắn.

Họ tạm biệt nhau trên một góc phố, gần căn hộ của nàng. Hắn đã hôn lên trán nàng và lầm lũi bước đi, hòa mình vào đám đông. Hắn đã để nàng đứng đó khóc ròng bởi vì thà vậy còn hơn cái cảnh bối rối ở một sân bay đông đúc. Hắn rời khỏi thành phố, bay về phía tây, liên tục thay đổi các chuvến bay. Hắn đến Ponta Porã sau khi màn đêm đã buông xuống, tìm lại chiếc Beetle mà hắn để lại tại sân bay, và lái xe chạy qua những con phố vắng tới phố Tiradentes, về lại ngôi nhà khiêm nhường của hắn, sắp xếp mọi thứ và bắt đầu chờ đợi.

Hắn gọi cho nàng hàng ngày trong khoảng từ bốn đến sáu giờ chiều, với tên người gọi cùng nội dung trao đổi đã được quy ước trước.

Và rồi, những cú điện thoại đó đã ngừng bặt: Họ đã tìm ra được hắn.

Chuyến tàu từ Nice đến Aix rất đúng giờ, vài phút sau lúc mười hai giờ trưa ngày chủ nhật. Hắn bước xuống sân ga, và đưa mắt tìm nàng trong đám đông. Hắn thật sự không dám nghĩ đến việc được thấy nàng. Hắn chỉ dám hy vọng, gần như là cầu nguyện mà thôi. Mang theo cái túi mới và những bộ quần áo mới, hắn gọi xe tăcxi đi ngang qua thị trấn để tới Villa Gallici ở ngoại ô.

Nàng đã đặt sẵn một phòng với cả hai cái tên, Eva Miranda và Patrick Lanigan. Thật dễ chịu sau tất cả những căng thẳng, sau một chuyến đi không còn phải đội lốt bằng những cái tên giả và những tấm hộ chiếu giả. Nàng chưa tới, nguời nhân viên tiếp tân thông báo, và hắn cảm thấy hẫng hụt. Hắn đã ao ước được thấy nàng ở sẵn trong phòng, với một cái váy lót mỏng trên người, chỉ chờ để quấn lấy nhau. Hắn dường như đã có thể cảm thấy được hơi hướng của da thịt nàng.

“Phòng được đặt từ khi nào vậy ?” Hắn cáu kỉnh hỏi.

“Ngày hôm qua. Bà ấy gọi từ Luân Đôn, và nói sẽ đến vào sáng nay, nhưng chúng tôi chưa thấy.”

Hắn đi về phòng và tắm táp. Hắn bỏ các thứ đồ dùng trong túi ra, rồi gọi nước trà và bánh ngọt. Hắn ngủ thiếp đi với giấc mơ nghe thấy tiếng gõ cửa của nàng, lôi nàng vào trong phòng.

Hắn để lại một lời nhắn cho nàng ở quầy tiếp tân, và ra ngoài đi dạo quanh cái thị trấn xinh đẹp có từ thời Phục Hưng này. Ngoài trời mát mẻ và thoáng đãng. Provence vào đầu tháng Mười một thật là dễ chịu. Có lẽ là họ sẽ sống ở đây. Hắn ngước nhìn những căn hộ trông ngồ ngộ bên trên những đường phố chật hẹp, cổ kính và nghĩ, phải, đây sẽ là một nơi dễ chịu. Thị trấn này là của những trường đại học, nơi mà nghệ thuật được tôn sùng. Tiếng Pháp của nàng rất khá và hắn cũng muốn nói thạo được thứ tiếng này. Phải rồi, tiếng Pháp sẽ là thứ ngôn ngữ tiếp theo của hắn. Họ sẽ ở đây chừng một tuần gì đó, rồi lại trở về Rio một thời gian, nhưng có lẽ Rio sẽ không phải là nhà của họ. Đắm mình trong tự do, Patrick chỉ muốn được sống ở mọi nơi, để được hưởng những nền văn hóa khác nhau và để được học các thứ ngôn ngữ.

Hắn bị hai nhà truyền giáo trẻ của dòng Mormon quấy rầy, nhưng đã xua họ đi và rồi đi dọc theo đường Cours Mirabeau. Hắn uống cà phê ở một cái quán ngay trên cái hè phố mà họ đã từng dắt tay nhau vừa đi vừa nhìn đám sinh viên cách đó một năm.

Hắn cố bình thản. Đó chỉ là một chuyến bay nối bị muộn mà thôi. Hắn cố chờ cho đến khi trời tối, mới làm ra vẻ bình thản đi về khách sạn. Nàng vẫn không có ở đó, cũng không có tin nhắn gì. Không gì cả. Hắn gọi lại chỗ khách sạn ở Luân Đôn, và được biết là nàng đã rời khỏi từ hôm trước, hôm thứ bảy, tầm giữa buổi sáng.

Hắn đi ra mảnh vườn bên ngoài khu phòng ăn, và tìm một cái ghế trong một góc mà từ đó hắn có thể nhìn được tới chỗ quầy tiếp tân qua một cửa sổ. Hắn gọi một ly cônhắc đúp để nhâm nhi cho khỏi lạnh. Hắn sẽ thấy nàng khi nàng đến. Nếu như nàng lỡ một chuyến bay thì lúc này nàng đã phải gọi điện. Nếu như nàng lại bị đám hải quan chặn lại thì lúc này nàng cũng đã phải gọi điện. Cho dù là có trục trặc gì về hộ chiếu, thị thực, hay vé thì nàng cũng đã phải gọi.

Không còn ai săn đuổi nàng cả.

Lại thêm cônhắc đổ vào cái bụng rỗng tuếch, và chẳng bao lâu, hắn đã ngất ngư và đổi sang uống cà phê đen để cố tỉnh táo.

Khi quầy rượu đóng cửa, Patrick trở về phòng. Lúc này là tám giờ sáng ở Rio, và hắn đành miễn cưỡng gọi điện cho cha nàng, người mà hắn có gặp mặt hai lần. Nàng đã giới thiệu hắn là một người bạn và là một thân chủ của nàng, người Canađa. Ông già tội nghiệp cũng đã phải chịu đựng nhiều, nhưng Patrick không còn cách nào khác. Hắn nói là hắn đang ở Pháp và cần bàn một công việc pháp lý với cô luật sư Braxin của hắn. Hắn đã nói những lời xin lỗi về việc đã làm phiền ông vào lúc sáng sớm như thế này ở nhà, thế nhưng, ông có vẻ như không muốn nói nàng ở đâu. Đó là một việc quan trọng và khẩn cấp, hắn giải thích. Paulo thực lòng không muốn nói, nhưng người đàn ông trên điện thoại này có vẻ biết rất nhiều về cô con gái của ông.

Nàng đang ở Luân Đôn, Paulo cho biết. Ông đã nói chuyện với nàng hôm thứ bảy. Và không chịu nói thêm gì nữa.

Patrick khắc khoải đợi thêm hai giờ nữa, rồi gọi cho Sandy. “Cô ấy biến mất rồi,” hắn nói, giờ đây đã thật sự hoảng loạn. Sandy cũng không có tin gì về nàng.

oOo

Patrick lang thang hai ngày trên các đường phố ở Aix, không biết đi đâu, ngủ nghê vớ vẩn, không thiết ăn, chỉ có uống cônhắc và cà phê, gọi cho Sandy và làm cho ông già Paulo tội nghiệp hoảng sợ với những cú điện thoại liên tiếp. Cái thị trấn xinh đẹp này đã mất đi sự lãng mạn của nó. Một mình trong phòng, hắn khóc thầm với một trái tim tan vỡ, và một mình trên phố, hắn thầm nguyền rủa người đàn bà mà hắn vẫn còn yêu đến phát cuồng.

Các nhân viên khách sạn nhìn hắn ra vào. Thoạt đầu thì hắn còn sốt ruột hỏi có tin nhắn gì cho hắn không, nhưng với ngày giờ trôi qua, hắn chỉ còn gật gật đầu chào họ. Hắn không cả cạo mặt và trông bơ phờ. Hắn đã uống quá nhiều.

Sau ngày thứ ba thì hắn làm thủ tục rời khỏi khách sạn, nói rằng muốn trở về Mỹ. Hắn yêu cầu người nhân viên tiếp tân mà hắn thấy là dễ chịu nhất giữ một phong bì dán kín ở quầy ngừa trường hợp bà Miranda có đến.

Patrick bay đi Rio. Vì sao, hắn không biết nữa. Nàng yêu Rio đến vậy thì đó sẽ là nơi khó lòng mà gặp được nàng. Nàng quá khôn ngoan để không trở lại Rio. Nàng biết phải ẩn mình ở đâu, làm thế nào để biệt tăm biệt tích, làm thế nào để thay hình đổi dạng, và làm thế nào để chuyển tiền được ngay lập tức và tiêu pha nó thế nào mà không gây sự chú ý.

Nàng đã học được từ một kẻ bậc thầy. Patrick đã dạy cho nàng quá nhiều về nghệ thuật lẩn trốn. Không ai có thể tìm được Eva, tất nhiên là trừ phi chính nàng muốn vậy.

Hắn có một cuộc gặp đau đớn với Paulo, trong đó hắn đã kể toàn bộ câu chuyện, toàn bộ các chi tiết. Ông già tội nghiệp kia đã sụm xuống ngay trước mắt hắn, khóc than và nguyền rủa hắn đã làm hư hỏng cô con gái yêu quý của ông. Cuộc gặp đó chỉ là một hành vi tuyệt vọng, và tuyệt nhiên không mang lại kết quả gì.

Hắn ngụ lại trong những khách sạn nhỏ ở gần chỗ căn hộ cũ của nàng, lang thang trên các đường phố, và một lần nữa lại để ý tới mọi khuôn mặt, nhưng lần này là vì một lý do khác. Không còn là con mồi nữa, giờ đây hắn là kẻ đi săn, một kẻ đi săn tuyệt vọng.

Không thể nào thấy mặt nàng được, bởi lẽ chính hắn dã dạy nàng cách giấu nó đi như thế nào.

Tiền bạc của hắn cạn dần, và sau cùng hắn đành phải gọi cho Sandy và hạ mình hỏi vay năm nghìn đôla. Sandy đã nhanh chóng đồng ý và thậm chí còn đề nghị cho vay thêm. Hắn bỏ cuộc sau một tháng, và đi bằng xe buýt ngang qua cả một chặng đường dài để tới Ponta Porã.

Hắn có thể bán ngôi nhà của hắn ở đó, có thể là cả chiếc xe nữa. Hai thứ gộp lại cũng sẽ được khoảng ba mươi nghìn đôla Mỹ. Hoặc giả hắn cũng có thể giữ những thứ đó lại và kiếm một việc làm. Hắn có thể sẽ sống ở cái đất nước mà hắn yêu quý, trong cái thị trấn nông thôn bé nhỏ mà hắn rất ưa đó. Có lẽ hắn có thể làm một giáo viên dạy tiếng Anh, và sống yên ổn trên phố Tiradentes, nơi giờ đây không còn kẻ nào rình rập nữa mà chỉ còn những đứa trẻ chân đất chơi bóng trên mặt đường nóng bỏng.

Hắn còn có thể đi đâu được nữa ? Hành trình của hắn đã kết thúc. Sau cùng thì quá khứ của hắn đã khép lại hoàn toàn. Nhất định rồi, một ngày nào đó, nàng sẽ tìm lại hắn.
 
CHÚ Ý !!!
Các đạo hữu nhớ thêm TÊN CHƯƠNG và THỨ TỰ CHƯƠNG ở ô phía trên phần trả lời nhanh. Như vậy hệ thống mới tạo được DANH SÁCH CHƯƠNG.
Cập nhật chức năng ĐĂNG TRUYỆN và THÊM CHƯƠNG MỚI trên web Diễn Đàn Truyện tại https://truyen.diendantruyen.com
Top Bottom