Cập nhật mới

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
[Diendantruyen.Com] 1Q84 (Tập 3)

1Q84 (Tập 3)
Tác giả: Haruki Murakami
Tình trạng: Đã hoàn thành

--- oOo ---


Đây là tập 3 thuộc series 3 tập của bộ tiểu thuyết 1Q84.

Đừng chỉ đọc các trích đoạn nho nhỏ đăng trên những trang báo, tin tức, giới thiệu sách. Hãy mang một quyển về nhà và tự chiêm nghiệm, để thấy được tài năng của Murakami, cũng như để không bỏ lỡ một câu chuyện được kể một cách rất xuất sắc.

Bất chấp thể loại bạn yêu thích là lãng mạn, kỳ bí hay điều tra vụ án, 1Q84 đều sẽ đáp ứng được. Nói cách khác, quyển sách có đầy đủ các yếu tố hấp dẫn mọi thể loại độc giả.

Bên trong quyển sách, có một câu chuyện tình. Đó là chuyện tình từ khi còn rất nhỏ giữa Aomame và Tengo. Một khoảnh khắc nắm tay để rồi mãi hàng chục năm sau, cả hai vẫn mang trong lòng nỗi mong mỏi được gặp lại, được bộc bạch nỗi lòng với người kia.

Có một câu chuyện huyền bí về giáo phái Sakikage, về Người Tí Hon dệt nên Nhộng Không Khí, về thế giới có hai mặt trăng cùng tồn tại, nơi khiến người ta nghi ngờ về logic trong chính đầu óc của mình - đến mức Aomame không còn tin rằng mình đang sống ở năm 1984, rằng cô đang tồn tại ở một không gian gọi là năm 1Q84 (Q nghĩa là Question).

Rồi lại có những tội lỗi đan xen. Một Bà chủ muốn đưa những gã đàn ông đốn mạt sang thế giới khác trong yên lặng, và Aomame là cánh tay đắc lực của bà với ngón nghề điêu luyện. Một Lãnh tụ tà giáo cưỡng bức trẻ em mà không ai hay biết. Một quyển tiểu thuyết được chỉnh sửa để thắng giải Tác giả mới và trở thành Best-sellers đình đám. Vẫn chưa hết...

Còn có cả một câu chuyện nhân văn về cuộc đời. Tengo, Aomame, và cả những nhân vật ngỡ-là-phụ khác đều cảm nhận cuộc sống theo cách riêng của họ, với những trải nghiệm và suy tư rất "người," đầy trăn trở, đầy day dứt về lẽ sống, cách sống của bản thân. Họ khao khát một đối tượng để yêu thương, dù đó là người khác giới – như Aomame, Tengo; một con vật – như Tamaru yêu quý con chó giữ nhà; hay một đứa con – như Bà chủ. Cuộc sống của họ ngỡ vô cùng phức tạp, phóng túng, nhưng xét đến cùng, đều được xây dựng trên những triết lý đơn giản về cuộc sống.

Với rất nhiều nguyên liệu chọn lọc, Murakami đã kể một câu chuyện hấp dẫn, pha trộn giữa huyền bí, siêu thực với cuộc sống nội tâm của con người và những biến cố kì lạ trong cuộc sống.

Nếu bạn chưa từng đọc tác phẩm nào của Murakami, đây sẽ là thiên truyện khiến bạn phải ngưỡng mộ và lùng sục để được đọc thêm nhiều tác phẩm khác. Còn nếu bạn đã biết đến ông, thì càng dứt khoát nên sở hữu đủ bộ 1Q84, vì phải nói, cho đến nay, đây thực sự là tiểu thuyết thể hiện tài năng kể chuyện của Murakami tới mức cao nhất, tinh tuý nhất.

Sách được Nhã Nam thực hiện với công tác biên dịch – biên tập rất tốt. Đọc từ đầu đến cuối, bạn sẽ không tìm thấy một lỗi sai nào về từ vựng (thậm chí không có cả lỗi type hay chính tả), chất lượng văn phong cũng rất cao, truyền tải được tốt ý đồ của câu chuyện. Nhìn toàn cục, đây xứng đáng là quyển tiểu thuyết cần-phải-có dành cho bạn.

***

Cuốn 1Q84 kể về quá trình một tổ chức cánh tả biến đổi thành một giáo phái của những kẻ điên rồ và những tên sát nhân, ám chỉ giáo phái Aum – giáo phái đã gây nên vụ đầu độc kinh hoàng trong hệ thống xe điện ngầm ở Tokyo năm 1995 khiến 12 người thiệt mạng và hàng trăm người chịu những di chứng nặng nề về thể chất và tinh thần.

Khi giải thích ý đồ cuốn tiểu thuyết, Haruki Murakami cho biết ông muốn cảnh báo mọi người về nguy cơ của chủ nghĩa chính thống và khuynh hướng xuất hiện các giáo phái trong bối cảnh khủng hoảng toàn cầu của thế giới hiện đại.

Cho tới nay, chỉ trong vòng nửa năm, số lượng bản in 1Q84 đã lên tới con số kỷ lục là 3,23 triệu bản. Ngay sau khi ra mắt bạn đọc hồi cuối tháng 5 năm nay, cuốn 1Q84 đã ngay lập tức được người dân Nhật tranh nhau tìm mua và mau chóng biến mất khỏi các quầy sách, bởi vậy đã phải liên tục tái bản nhiều lần.

Kỷ lục của cuốn tiểu thuyết 1Q84 còn có ý nghĩa hơn nữa bởi vì đây là tác phẩm văn học đầu tiên kể từ năm 1990 giành được danh hiệu “cuốn sách bán chạy nhất trong năm” ở Nhật.

Trước đó, danh hiệu này thường chỉ thuộc về các loại sách tra cứu mang tính giải trí, các cuốn hồi ký chính trị hoặc tư liệu. Ngay cả năm nay cũng vậy, tuy được thừa nhận là bestseller nhưng 1Q84 vẫn thua kém chút ít cuốn sách tra cứu những từ tượng hình khó đọc.

Theo lời nhà văn Haruki Murakami, cuốn 1Q84 có thể coi là câu trả lời độc đáo đối với cuốn 1984, cuốn tiểu thuyết được coi là kinh điển của văn hào Anh George Orwell. (Cũng nên biết thêm trong tiếng Nhật, chữ Q phát âm gần giống cách phát âm số 9 trong tiếng Anh).

Haruki Murakami năm nay đã 60 tuổi. Ông là nhà văn Nhật được biết đến nhiều nhất ở nước ngoài. Tất cả các cuốn tiểu thuyết của ông đều bán rất chạy, chẳng hạn như các cuốn Biên niên ký chim vặn dây cót, Rừng Na Uy, Kafka bên bờ biển.

Ông cũng được coi là một trong những ứng cử viên nặng ký cho giải Nobel văn học trong tương lai mặc dù ông đã có lần tuyên bố không coi trọng các giải thưởng văn học. Theo lời ông, phần thưởng lớn nhất đối với nhà văn là được độc giả yêu mến.
 
Sửa lần cuối:

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 1: Ushikawa


Tấn công rìa xa xôi của ý thức

“Có thể phiền ông đừng hút thuốc không, ông Ushikawa?” gã đàn ông thấp lùn nói.

Ushikawa nhìn chằm chằm vào người đàn ông ngồi cách y một bàn, đoạn ánh mắt chuyển xuống điếu Seven Stars kẹp giữa hai ngón tay. Điếu thuốc vẫn chưa châm.

“Thật ngại quá,” gã đàn ông lịch sự bổ sung.

Ushikawa lộ vẻ nghi hoặc không hiểu sao thứ này lại ở trên tay mình.

“Chết thật, xin lỗi ông nhé. Thật chẳng ra sao. Tất nhiên rồi, tôi sẽ không châm thuốc đâu. Tôi còn chưa kịp nhận ra, cái tay này đã tự động cầm lên rồi.”

Cằm của gã đàn ông khẽ nâng lên hạ xuống, khoảng chừng một xăngtimét, song ánh mắt không hề nhích chuyển, điểm nhìn khóa chặt vào đôi mắt Ushikawa. Ushikawa cất điếu thuốc vào trong bao, cất vào ngăn kéo.

Gã cao to hơn, tóc buộc đuôi ngựa, đứng ở lối ra vào, lung tựa hờ vào khung cửa, khó mà nói được gã đó có thực sự chạm vào nó hay không. Gã nhìn Ushikawa bằng ánh mắt như thể đang nhìn một vết bẩn trên tường. Một cặp đôi đáng sợ, Ushikawa nghĩ. Đã là lần thứ ba gặp mặt hai gã này rồi, nhưng lần nào bọn gã cũng đều khiến y nơm nớp lo sợ.

Phòng làm việc của Ushikawa không rộng rãi cho lắm, chỉ kê một chiếc bàn. Gã thấp người, Đầu Trọc ngồi đối diện với Ushikawa. Việc của gã là nói chuyện. Tóc Đuôi Ngựa thì từ đầu chí cuối không nói không rằng, im lìm bất động như con sư tử đá ở lối vào một đền thờ Thần đạo, chỉ đứng nhìn chòng chọc vào Ushikawa.

“Ba tuần rồi,” Đầu Trọc nói.

Ushikawa cầm quyển lịch bàn lên, kiểm tra lại trên đó viết gì, gật gật đầu. “Đúng thế. Từ lần gặp trước đến hôm nay vừa khéo ba tuần lễ.”

“Và trong khoảng thời gian này chúng tôi không nhận được báo cáo của ông, dù chỉ một lần. Lần trước tôi đã nói với ông, đây là việc phải tranh thủ từng phút từng giây. Chúng ta không thừa thời gian đâu, ông Ushikawa.”

“Chuyện này tôi hiểu chứ.” Ushikawa vừa mân mê chiếc bật lửa màu vàng giữa các ngón tay thay vì điếu thuốc vừa nói. “Chúng ta không có thời gian để lần khan. Chuyện này tôi rất rõ.”

Đầu Trọc đợi Ushikawa tiếp lời.

Ushikawa lại nói: “Nhưng mà, con người tôi đây không thích nói chuyện hay làm việc vụn vặt, cũng không thích cái này một chút cái kia một tẹo. Tôi chỉ muốn nhìn rõ chỉnh thể, xâu chuỗi các sự việc lại với nhau, sao cho điều tra được ngọn nguồn ẩn phía sau. Những thông tin dở sống dở chín thì chỉ tổ chuốc phiền phức. Nói thế này có vẻ hơi tự cho mình là phải, nhưng đây là phong cách làm việc của tôi, ông Onden ạ.”

Gã Đầu Trọc tên Onden lạnh lùng nhìn Ushikawa. Ushikawa biết gã này không có ấn tượng tốt với mình, nhưng y chẳng buồn để ý. Trong ký ức của y, trước nay chưa một người nào có ấn tượng tốt về y cả. Chuyện này y quen rồi. Cha mẹ anh em không yêu quý y, thầy cô bạn học chẳng ưa y, thậm chí vợ con cũng chẳng thương mến y. Nếu có ai thích y, y sẽ lấy làm nghĩ ngợi, còn không thì y cũng chẳng để tâm cho lắm.

“Ông Ushikawa, nếu có thể được, chúng tôi cũng sẵn lòng tôn trọng phong cách của ông. Trên thực tế, trước nay chúng tôi vẫn luôn tôn trọng ông. Nhưng lần này thì khác. Vô cùng đáng tiếc, chúng tôi không có thừa thời gian để ngồi đợi cho mọi việc rõ ràng.”

“Nói thì nói như vậy nhưng hẳn đâu phải các ông chẳng làm gì mà chỉ ngồi đợi tôi liên lạc, phải không ông Onden?” Ushikawa nói. “Trong khi tôi đang hành động thì phía các ông cũng đang tiến hành điều tra, chẳng phải thế sao?”

Onden không trả lời. Cặp môi y vẫn mím thành một đường thẳng tắp, nét mặt không hề thay đổi. Nhưng Ushikawa có cảm giác lời chỉ trích của mình chẳng phải chệch đích cho lắm. Ba tuần nay, tổ chức của bọn họ đã huy động toàn bộ lực lượng, tuy là theo những kênh khác với y, để tìm kiếm tung tích người phụ nữ đó, chỉ có điều không thu được kết quả gì; vậy nên hai gã khiến người ta khó chịu này mới lại đến chỗ y lần nữa.

“Đường của rắn chỉ có rắn biết.” Ushikawa nói, xòe hai bàn tay ra tựa như tiết lộ một bí mật thú bị. “Chẳng có gì che đậy được tôi. Tôi chính là rắn. Ông nhìn tôi mà xem, bề ngoài tôi chẳng có gì đáng nhìn, nhưng được cái mũi rất thính, chỉ cần chút mùi thoang thoảng thôi là tôi có thể lần tìm đến tận cùng. Bởi vốn là rắn nên tôi chỉ có thể làm theo cách của mình, theo nhịp điệu của mình. Đương nhiên, tôi hiểu thời gian đang rất gấp, nhưng vẫn phiền các ông đợi theêm mấy ngày nữa. Nếu không nhẫn nại chờ đợi, chỉ e các ông mất cả vốn lẫn lời thôi.”

Onden nhẫn nại nhìn Ushikawa hí hoáy cái bật lửa, sau đó ngẩng mặt lên.

“Có thể cho tôi biết những gì ông đang nắm được dù chỉ một phần không? Tôi biết ông có cách làm riêng của mình, nhưng trở về mà không có chút kết quả cụ thể nào thì thật không tiện ăn nói với cấp trên. Chúng tôi mất hết mặt mũi thì đã đành, mà ngay cả ông Ushikawa sợ rằng cũng sẽ rơi vào hoàn cảnh khó khăn đấy.”

Mấy gã này cũng bị ép đến đường cùng rồi, Ushikawa nghĩ. Hai gã này đều thuộc hạng võ nghệ cao cường, vậy nên mới được trọng dụng, trở thành vệ sĩ cho Lãnh Tụ. Thế mà Lãnh Tụ lại bị giết ngay dưới mũi bọn gã. Chúng chẳng có chứng cớ trực tiếp cho thấy Lãnh Tụ bị người khác giết. Mấy bác sĩ trong giáo đoàn khám nghiệm thi thể đều không phát hiện ra vết thương nào. Có điều, cơ sở y tế trong giáo đoàn chỉ có những dụng cụ đơn giản; thời gian cũng không đủ. Nếu tiến hành giải phẫu hợp pháp, để pháp y kiểm tra cặn kẽ thì họa chăng sẽ phát hiện được gì đó bất thường. Nhưng giờ đã quá muộn. Cái xác đã sớm bị xử lý bí mật trong cơ ngơi của giáo đoàn mất rồi.

Nói tóm lại, do không thể bảo vệ Lãnh Tụ, hoàn cảnh của hai người này hết sức hiểm nghèo. Hiện giờ nhiệm vụ của họ là truy tìm người phụ nữ như đã bốc hơi kia. Lệnh của cấp trên là phải dốc hết toàn bộ khả năng mà truy tìm bằng được cô ta, nhưng cho đến giờ, hai gã tay trắng vẫn hoàn tay trắng. Làm vệ sĩ thì hai gã thừa năng lực, song lại không biết làm thế nào để truy tìm một người không rõ tung tích.

“Tôi hiểu,” Ushikawa nói. “Tôi sẽ cho các ông biết mấy việc đã điều tra được rõ ràng. Nói hết thì không thể, nhưng đôi phần nhỏ thì có thể nói cho ông biết được.”

Onden ngồi nheo nheo mắt một hồi, rồi mới gật đầu: “Vậy cũng được. Bản thân chúng tôi cũng nắm được một chút, có thể ông biết rồi, cũng có thể chưa biết. Chúng ta chia sẻ thông tin.”

Ushikawa buông cái bật lửa xuống, hai bàn tay đặt trên bàn, đầu ngón tay đan vào nhau.

“Người phụ nữ trẻ họ Aomame này được gọi đến phòng suite ở khách sạn Okura, để giúp Lãnh Tụ thư giãn bằng một số bài tập giãn cơ. Chuyện xảy ra vào đầu tháng Chín, hôm đó trung tâm thành phố có sấm sét và mưa to như trút, cô ta thực hiện bài tập giãn cơ cho Lãnh Tụ trong một phòng riêng khoảng một tiếng đồng hồ, sau đó ra khỏi phòng khi Lãnh Tụ ngủ thiếp đi. Cô ta nói, hãy để ông ấy ngủ khoảng hai tiếng, giữ nguyên tư thế ấy. Các ông làm theo. Nhưng Lãnh Tụ không ngủ, khi ấy ông ta đã chết rồi. Không tìm thấy viết thương bên ngoài, thoạt nhìn giống như do bệnh tim. Ngay sau đó, người phụ nữ kia biến mất, căn hộ cô ta thuê cũng đã hủy hợp đồng trước thời hạn. Nhà cửa trống huếch, không để lại bất cứ món đồ nào. Ngày hôm sau, thư thôi việc được gửi tới câu lạc bộ thể thao. Mọi thứ có vẻ như được thực hiện theo một kế hoạch định sẵn. Vì vậy, kết luận không thể tránh khỏi là, cô Aomame này có ý đồ sát hại Lãnh Tụ.”

Onden gật đầu, không có ý kiến khác.

“Mục đích của các ông là tra rõ chân tướng sự việc, vì vậy bằng mọi giá phải bắt được người phụ nữ ấy,” Ushikawa nói thêm.

“Nếu đúng là cô Aomame này đã giết Lãnh Tụ thì chúng tôi cần biết động cơ là gì, kẻ nào ra lệnh cho cô ta.”

Ushikawa nhìn xuống mười ngón tay mình đan vào nhau trên mặt bàn, như đang quan sát một vật thể xa lạ mà y chưa từng thấy. Đoạn y ngước mắt lên nhìn gã đàn ông đối diện.

“Các ông đã điều tra về quan hệ thân thích của Aomame rồi, đúng không? Cả nhà đều là tín đồ nhiệt thành của hội Chứng nhân Jehovah. Cha mẹ cô ta đến nay vẫn đang tích cực đi khắp nơi khuyên người ta gia nhập. Người anh trai ba mươi tư tuổi hiện đang làm việc ở tổng hội tại Odawara, đã kết hôn, có hai đứa con, vợ cũng là tín đồ nhiệt thành của Chứng nhân Jehovah. Cả nhà chỉ có một mình cô Aomame này rời bỏ phái giáo, nói theo cách của họ thì chính là kẻ phản bội, vì vậy họ đã đoạn tuyệt quan hệ với cô ta. Không có dấu vết gì chứng tỏ trong hai mươi năm qua gia đình này và Aomame có tiếp xúc. Tôi nghĩ không thể có chuyện gia đình Aomame che giấu cô ta. Năm mười một tuổi, người phụ nữ này đã tự tay cắt đứt mọi mối ràng buộc giữa mình và người nhà, và từ đấy hầu như chỉ dựa vào chính mình để sinh tồn. Tuy cô ta có ở nhà người cậu một thời gian, nhưng từ khi vào cấp ba thì trên thực tế cô ta đã sống độc lập. Tài ba thật. Một người phụ nữ có ý chí kiên cường.”

Đầu Trọc không nói một lời. Những thông tin này y đại khái cũng nắm được.

“Có thể cho rằng hội Chứng nhân Jehovah và sự kiện này không có liên quan,” Ushikawa nói tiếp. “Hội chứng nhân Jehovah nổi tiếng là theo chủ nghĩa hòa bình triệt để cũng như theo nguyên tắc bất kháng cự, nên không thể có chuyện họ dốc hết lực lượng ra để tước đoạt tính mạng của Lãnh Tụ. Điểm này ông cũng đồng ý với tôi chứ?”

Onden gật đầu. “Hội Chứng nhân Jahovah không can hệ với sự việc lần này. Điều đó tôi biết. Để cho chắc, tôi đã nói chuyện với anh trai cô ta. Có thể nói chúng tôi cẩn trọng hết mức. Nhưng anh ta không biết gì cả.”

“Cẩn trọng hết mức, ý ông là đã bóc hết móng tay của anh ta ra phải không?”

Onden làm như không nghe thấy câu hỏi này.

“Tôi đùa thôi mà,” Ushikawa nói. “Ông không cần phải đanh mặt thế. Tôi biết chắc rằng anh chàng đó không hề biết gì về hành vi và nơi ở của Aomame. Tôi là kẻ sinh ra đã theo chủ nghĩa hòa bình, chẳng bao giờ làm gì thô bạo như thế, nhưng ít ra thì chuyện ấy tôi cũng biết. Aomame hoàn toàn không liên quan gì đến người nhà cô ta và hội Chứng nhân Jehovah. Nhưng dù thế nào thì một kế hoạch phức tạp như thế cô ta không thể một mình làm được. Hẳn có người đã bỏ ra rất nhiều tiền bạc và nhân lực, sắp xếp khéo léo, còn cô ta chỉ tuân theo những bước đã định sẵn và hành động sao cho bình tĩnh mà thôi. Phương pháp che giấu tung tích cũng cực kỳ cao siêu. Phải có ai đó hoặc tổ chức nào đó đứng sau lưng Aomame, vì một lý do nào đó vô cùng mong muốn Lãnh Tụ phải chết. Bọn họ mới là chủ mưu làm chuyện này. Về điểm này, chúng ta có thể thống nhất ý kiến không?”

Onden gật đầu. “Đại để là thế.”

“Có điều, đấy là tổ chức như thế nào thì chúng ta hoàn toàn không biết,” Ushikawa nói. “Hẳn là các ông cũng đã điều tra bạn bè cô ta rồi chứ?”

Onden lặng lẽ gật đầu.

“Nhưng kết quả chắc là cô ta chẳng có bạn bè nào đáng nhắc tới cả, đúng không?” Ushikawa nói. “Không bạn bè, người yêu cũng không. Tuy ở chỗ cô ta làm ít nhiều cũng có vài người quen, nhưng ra khỏi đó thì cô ta không giao lưu với bất kỳ ai. Ít nhất thì tôi không phát hiện ra dấu vết cho thấy Aomame có quan hệ thân mật với người khác. Một người phụ nữ trẻ tuổi khỏe mạnh, nhan sắc cũng không tệ, tại sao lại thế chứ?”

Ushikawa vừa nói vừa liếc nhìn Tóc Đuôi Ngựa đang đứng im ở chỗ cửa. Từ nãy đến giờ gã hoàn toàn không hề thay đổi tư thế và nét mặt. Vốn dĩ gương mặt đã chẳng có cảm xúc gì, cho nên nếu có thay đổi cũng chẳng biết từ đâu mà thay đổi. Gã này có tên không nhỉ? Ushikawa thầm hỏi. Giả như không có, y cũng chẳng lấy làm lạ.

“Chỉ có hai ông từng chính mắt trông thấy tướng mạo Aomame,” Ushikawa nói, “vậy cảm tưởng thế nào? Cô ta có điểm gì đặc biệt không?”

Onden khẽ lắc đầu. “Đúng như ông nói, cô ta là một phụ nữ trẻ rất hấp dẫn. Nhưng chưa thể coi là loại phụ nữ đẹp khiến người ta phải ngoái đầu nhìn. Dịu dàng, điềm tĩnh, có vẻ rất tự tin với kỹ thuật trị liệu của mình. Nhưng bề ngoài không có điểm gì đặc biệt đáng chú ý. Thật lạ, ấn tượng về bề ngoài của cô ta hết sức mờ nhạt, thậm chí tôi còn khó mà nhớ nổi gương mặt cô ta như thế nào.”

Ushikawa lại đưa mắt liếc Tóc Đuôi Ngựa ở cửa. Gã chừng như có lời muốn nói, nhưng không có ý muốn mở miệng.

Ushikawa nhìn lại Đầu Trọc. “Các ông chắc đã điều tra danh sách cuộc gọi của Aomame mấy tháng gần đây rồi phải không?”

Onden lắc đầu. “Vẫn chưa tới bước đó.”

“Tôi khuyên các ông đi tra xem. Đáng lắm.” Trên gương mặt Ushikawa hiện ra nét cười. Y nói: “Con người ta gọi điện đi khắp các nơi và cũng có điện từ khắp nơi gọi tới. Chỉ cần xem xét danh sách cuộc gọi của một người là có thể hình dung cuộc đời người này ra sao. Aomame không phải là ngoại lệ. Đương nhiên chẳng dễ gì lấy được danh sách cuộc gọi của một người, nhưng cũng không phải là không có cách. Ông xem, ông nói gì thì nói, đường của rắn, chỉ có rắn biết mà.”

Onden im lặng đợi y nói tiếp.

“Tôi đã xem xét kỹ càng danh sách cuộc gọi của Aomame, xác minh được vài chuyện. Aomame hình như không thích nói chuyện qua điện thoại cho lắm, đối với phụ nữa thì đây là chuyện rất hiếm gặp. Số cuộc gọi ít, thời gian cũng không thể nói là dài. Thi thoảng cũng xen lẫn cuộc gọi dài một chút, nhưng đều là ngoại lệ. Gần như toàn là các cuộc gọi liên quan đến công việc, có điều, cô ta là người hành nghề bán tự do nên cũng nhận một số cuộc gọi liên quan đến công việc cá nhân, tức là không thông qua quầy lễ tân ở câu lạc bộ thể thao, mà trực tiếp thỏa thuận lịch hẹn với khách hàng. Cũng thường có những cuộc điện thoại như thế. Nhưng xem ra trong số ấy chẳng có cuộc gọi nào khả nghi cả.”

Ushikawa ngừng giây lát, quan sát màu cặn thuốc ám trên ngón tay từ nhiều góc độ khác nhau, bụng nghĩ đến thuốc lá. Y châm một điếu thuốc tưởng tượng trong tâm trí, hít khói vào rồi lại nhả khói ra.

“Tuy nhiên có hai ngoại lệ. Cô ta có gọi điện cho cảnh sát hai lần, nhưng không phải gọi 110 để báo cảnh sát, mà gọi đến đồn Cảnh sát giao thông thuộc đồn cảnh sát Shinjuku, và chỗ ấy cũng gọi cho cô ta vài lần. Cô ta không lái xe, mà cảnh sát thì có bao giờ đủ tiền để mời người của câu lạc bộ thể thao cao cấp đến nhà tập riêng cho mình. Vì vậy, ắt cô ta có quen biết ai đó làm việc ở chỗ ấy. Không rõ là ai. Vẫn còn một chuyện nữa đáng chú ý. Cô ta có mấy lần nói chuyện lâu với một số điện thoại không rõ lai lịch. Đều là phía bên kia gọi tới, cô ta không tự gọi lần nào. Tôi đã tìm đủ mọi cách mà không truy ra được số điện thoại này. Dĩ nhiên, thế nào cũng có một vài số điện thoại mà ta có thể xử lý sao cho che giấu được danh tính. Nhưng dù vậy, chỉ cần động não thì thế nào cũng tra ra được. Trong khi số điện này thì truy thế nào cũng chịu, không tìm được. Tường đồng vách sắt. Người bình thường không thể làm được tới mức này.”

“Nói vậy, đối thủ này có thể làm được những chuyện người bình thường không làm được?”

“Chính xác. Không nghi ngờ gì nữa, có chuyên gia nhúng tay vào việc này.”

“Một con rắn khác,” Onden nói.

Ushikawa đưa lòng bàn tay vuốt nhẹ lên cái đầu hình dáng kỳ dị đã hói phần đỉnh, mình cười. “Đúng thế. Một con rắn khác. Và, tên này tương đối lợi hại.”

“Nhưng ít nhất chúng ta đã dần làm rõ được một điểm, cô ta được chuyên gia chống lưng đằng sau.” Onden nói.

“Đúng vậy, sau lưng Aomame có một tổ chức. Và không phải là một đám nghiệp dư rỗi việc quậy phá chơi.”

Onden khép hờ mắt, nhìn chằm chằm Ushikawa một lúc. Sau đó gã ngoảnh đầu, trao đổi ánh mắt với Tóc Đuôi Ngựa đang đứng ở cửa. Tóc Đuôi Ngựa khẽ gật đầu, tỏ ý đã hiểu. Onden lại hướng ánh mắt về phía Ushikawa.

“Sau đó thì sao?”

“Sau đó thì đến lượt tôi hỏi ông rồi,” Ushikawa nói. “Các ông có đầu mối gì không? Có đoàn thể hay tổ chức nào có khả năng giết hại Lãnh Tụ của các ông không?”

Hai hàng lông mày dài của Onden nhíu lại một chỗ, trên mũi hiện ra ba nếp nhăn.

“Nghe này, ông Ushikawa. Hãy nghĩ cho kỹ, xét cho cùng, chúng tôi là một đoàn thể tôn giáo, theo đuổi sự tĩnh lặng trong tâm hồn và đời sống tinh thần. Chúng tôi sống hòa hợp với thiên nhiên, ngày ngày vùi đầu vào công việc đồng áng và tu hành. Sao lại có người nào đang tâm coi chúng tôi là kẻ thù chứ? Làm chuyện này rốt cuộc có lợi ích gì?”

Khóe miệng Ushikawa hiện ra một nụ cười ám muội. “Trong lĩnh vực nào của đời sống cũng có những tín đồ cuồng nhiệt. Mà những tín đồ cuồng nhiệt thường hay nảy sinh những ý nghĩ quái dị, ai mà biết được. Không phải vậy sao?”

“Những manh mối như vậy chúng tôi không có.” Onden đáp, nét mặt không lộ cảm xúc, không đếm xỉa đến sự châm chọc ngấm ngầm trong lời Ushikawa.

“Akebono thì sao? Liệu có phải tàn dư của bọn họ vẫn đang âm thầm hoạt động trong bóng tối?”

Onden lại lắc đầu lần nữa, lần này rất quả quyết, ý rằng tuyệt đối không có khả năng ấy. Để diệt trừ hậu họa, hẳn là bọn họ đã tiêu diệt Akebono một cách triệt để rồi. E rằng không còn dấu vết gì lưu lại nữa.

“Được rồi, các ông cũng không có manh mối. Có điều, thực tế là có một tổ chức nào đó mưu đồ lấy mạng của Lãnh Tụ, và họ đã làm được điều đó. Hết sức khéo léo, cực kỳ thông minh. Rồi thì biến mất vô tăm tích, giống như làn khói nhẹ.”

“Vì vậy chúng ta cần phải tìm ra kẻ nào đứng sau chuyện này.”

“Không dính dáng gì đến cảnh sát.”

Onden gật đầu nói: “Đây là vấn đề của riêng chúng tôi, không liên quan gì đến luật pháp cả.”

“Rất tốt. Đó là vấn đề riêng của các vị, không liên quan gì đến luật pháp,” Ushikawa nói. “Nhưng tôi còn một vấn đề khác muốn hỏi các ông.”

“Mời,” Onden đáp.

“Trong giáo đoàn có mấy người biết Lãnh Tụ qua đời?”

“Hai người chúng tôi,” Onden nói. “Còn có hai người giúp vận chuyển thi thể, là thuộc cấp của tôi. Trong hàng ngũ cán bộ cấp cao nhất của giáo đoàn có năm người biết. Vậy là có chín người. Vẫn chưa báo cho ba cô đồng, nhưng sớm muộn gì họ cũng biết. Vì họ chăm sóc việc ăn ở đi lại của Lãnh Tụ, nên không thể giấu họ trong thời gian dài được. Còn cả ông Ushikawa đây đương nhiên cũng biết rồi.”

“Tổng cộng mười ba người.”

Onden không nói gì.

Ushikawa thở dài một hơi. “Tôi có thể thẳng thắn bày tỏ ý kiến của mình được không?”

“Mời,” Onden nói.

Ushikawa nói: “Tôi biết giờ nhắc lại chuyện chẳng còn ý nghĩa gì nữa. Khi biết chắc Lãnh Tụ đã chết, lẽ ra các ông nên báo cảnh sát ngay. Dù sao thì, nên công khai tin tức ông ấy đã chết. Một sự việc trọng đại như thế không thể che giấu mãi được. Bí mật có hơn mười người biết thì không thể coi là bí mật được nữa. Làm vậy chỉ e chẳng mấy chốc các ông bị dồn đến đường cùng.”

Nét mặt Đầu Trọc không thay đổi. “Quyết về chuyện này không phải việc của tôi. Tôi chỉ làm theo lệnh.

“Vậy rốt cuộc ai là người quyết?”

Không có câu trả lời.

“Là người thay thế Lãnh Tụ ư?”

Onden vẫn giữ im lặng.

“Được rồi,” Ushikawa nói. “Tóm lại là các ông nhận chỉ thị của người nào đó ở bên trên, đã bí mật xử lý thi thể Lãnh Tụ rồi. Trong nội bộ tổ chức của các ông, mệnh lệnh từ cấp trên là tuyệt đối. Nhưng đứng trên lập trường tư pháp thì đây rõ ràng là tội hủy hoại di thể, là một tội nặng. Đương nhiên là ông hiểu điền đó, phải không?”

Onden gật đầu.

Ushikawa lại thở dài một tiếng. “Vừa nãy tôi đã nói rồi, ngộ nhỡ sự việc tiến triển đến mức cảnh sát phải nhúng tay vào, xin các ông coi như tôi hoàn toàn không hay biết gì về cái chết của Lãnh Tụ. Tôi không muốn bị truy cứu trách nhiệm hình sự.”

Onden nói: “Ông Ushikawa không được cho biết bất cứ chuyện gì liên quan đến cái chết của Lãnh Tụ, ông chỉ là điều tra viên bên ngoài nhận ủy thác của chúng tôi để điều tra tung tích của một người phụ nữ mang họ Aomame. Ông không làm gì trái luật cả.”

“Vậy là được rồi,” Ushikawa nói.

“Nếu có thể, chúng tôi cũng không muốn nói cho người ngoài như ông biết tin Lãnh Tụ bị hại. Nhưng ông lại chính là người điều tra thân thế của Aomame và bật đèn xanh cho cô ta, nên ông đã có dây mơ rễ má với sự việc này rồi. Muốn tra xét chỗ ở của cô ta thì phải nhờ ông giúp đỡ. Vả lại, nghe nói ông là người rất kín miệng.”

“Giữ bí mật là nguyên tắc tối cao của nghề này. Các ông không cần lo chuyện đó. Đảm bảo bí mật không lộ ra từ miệng tôi đâu.”

“Nếu bí mật này bị lộ ra và chúng tôi biết được ông chính là nguồn phát tán thì sẽ có chuyện chẳng lành đó.”

Ushikawa lại nhìn xuống mặt bàn, nhìn mười ngón tay múp míp trên đó thêm lần nữa, nét mặt lộ vẻ kinh ngạc, tuồng như tình cờ phát hiện ra đây là ngón tay mình:

“Sẽ có chuyện chẳng lành,” y lặp lại rồi ngẩng mặt lên.

Onden hơi nheo mắt. “Chuyện Lãnh Tụ qua đời dù thế nào cũng phải che giấu tới cùng. Vì vậy, cũng có lúc phải bất chấp thủ đoạn.”

“Tôi tự biết giữ bí mật, về mặt này ông hoàn toàn có thể yên tâm.” Ushikawa nói. “Cho đến thời điểm này, sự hợp tác giữa chúng ta luôn rất thành công. Tôi đã nhiều lần ngầm trợ giúp điều tra những chuyện các ông không tiện lộ mặt. Có lúc công việc tương đối cực khổ, nhưng tôi cũng nhận được thù lao hậu hĩnh. Miệng tôi đã gắn hai lần phéc mơ tuya rồi. Tuy chẳng có tín ngưỡng gì, nhưng tôi cũng đã nhận được nhiều sự quan tâm giúp đỡ của vị Lãnh Tụ quá cố, vì vậy tôi đang dốc hết khả năng ra tìm nơi ở của Aomame. Trước mắt, tôi đang nỗ lực làm rõ cái gì ẩn sau chuyện này, và sắp có kết quả tốt rồi. Vì vậy, xin các ông nhẫn nại đợi thêm mấy ngày. Không bao lâu nữa chắc chắn tôi sẽ có tin tốt lành cho các ông.”

Onden khẽ đổi tư thế ở trên ghế. Tóc Đuôi Ngựa ở lối ra vào hình như cũng phối hợp chặt chẽ với gã, đổi trọng tâm sang chân còn lại.

“Trước mắt ông chỉ có thể cho chúng tôi biết chừng ấy thông tin thôi sao?” Onden hỏi.

Ushikawa nghĩ ngợi giây lát rồi nói: “Lúc nãy tôi nói rồi, Aomame gọi điện đến phòng Cảnh sát giao thông ở đồn cảnh sát Shinjuku hai lần. Bên đó gọi lại đến mấy lần. Không tra được họ tên người này. Dù gì cũng là đồn cảnh sát, trực tiếp hỏi thì không ổn. Nhưng rồi trong bộ óc đần độn của tôi chợt lóe lên một ý nghĩ: phòng Cảnh sát giao thông đồn cảnh sát Shinjuku, tôi có nhớ gì đó về cái chỗ này! Chậc chậc, tôi vắt óc nghĩ ngợi rõ lâu. Rốt cuộc phòng Cảnh sát giao thông đồn cảnh sát Shinjuku để lại trong tôi ấn tượng gì nhỉ? Rốt cuộc là thứ gì treo lơ lửng ở vùng rìa cái ký ức đáng thương của tôi chứ? Tôi mất khá nhiều thời gian mới nhớ ra được. Tuổi tác tăng lên thật là đáng ghét, có tuổi rồi, những ngăn tủ ký ức trở nên khó mở hẳn. Hồi trước, chuyện gì tôi cũng lập tức nghĩ ra ngay, còn lần này thì phải mất một tuần tôi mới nhớ ra được.”

Ushikawa ngậm miệng lại, cố tình nở ra một nụ cười ra vẻ bí ẩn, nhìn thẳng vào mặt Đầu Trọc một lúc. Đầu Trọc nhẫn nại đợi y nói tiếp.

“Hồi tháng Tám năm nay, một nữ cảnh sát trẻ công tác tại phòng Cảnh sát giao thông thuộc đồn cảnh sát Shinjuku bị sát hại trong một khách sạn tình nhân ở quận Maruyama, khu Shibuya. Hoàn toàn lõa thể, tay bị còng bằng còng của cảnh sát. Chuyện này tự nhiên trở thành một vụ xì căng đan. Mà mấy cuộc điện thoại của Aomame với ai đó ở đồn cảnh sát Shinjuku đều tập trung trong mấy tháng trước khi sự kiện này xảy ra. Lẽ đương nhiên, sau vụ đó không còn cuộc gọi nào nữa. Thế nào? Nếu bảo đấy là ngẫu nhiên thì không phải hơi quá trùng hợp sao?”

Onden im lặng một thoáng, sau đó nói: “Ý ông là, người liên lạc với Aomame có khả năng chính là người cảnh sát bị hại đó?”

“Nakano Ayumi, đây là tên của nữ cảnh sát đó. Hai mươi sáu tuổi, mặt mũi rất đáng yêu. Cô này xuất thân trong gia đình cảnh sát, cha và anh trai đều là cảnh sát. Là một nhân viên xuất sắc. Phía cảnh sát đương nhiên đã gắng sức điều tra phá án, nhưng hung thủ vẫn không thấy tăm hơi. Hỏi thăm ông chuyện này có lẽ hơi quá bất lịch sự: về vụ việc này, phải chăng ông cũng biết chút gì đó?”

Onden dùng ánh mắt băng lạnh cứng rắn như thể mới cắt ra từ dòng sông băng nhìn xoáy vào Ushikawa. “Ông nói gì tôi nghe không hiểu,” gã nói. “Ông cho rằng có thể chúng tôi có liên can đến vụ việc này, ông Ushikawa? Ông nghi ngờ người của chúng tôi đưa nữ cảnh sát kia vào một khách sạn rẻ tiền, còng tay cô ta lại, rồi siết cổ đến chết. Có phải vậy không?”

Ushikawa dẩu môi lên, lắc đầu. “Đâu phải đâu phải, tôi tuyệt đối không có ý đó. Chuyện này tôi chưa bao giờ nghĩ đến. Tôi chẳng qua chỉ muốn hỏi liệu các ông có manh mối gì về vụ việc ấy hay không thôi. Chỉ thế thôi. Đúng rồi, gì cũng được, một chút manh mối nhỏ đối với tôi cũng rất quý giá. Tôi có vắt óc thì cũng không tài nào tìm ra được mối liên hệ giữa vụ sát hại nữ cảnh sát ở Shibuya và chuyện Lãnh Tụ bị hại.”

Onden nhìn chằm chằm Ushikawa một hồi bằng ánh mắt như đang đo đạc kích cỡ, sau đó chầm chậm thở ra hơi ứ đọng trong lồng ngực. “Tôi hiểu rồi. Sẽ báo cáo lại thông tin này lên cấp trên.” Gã nói, rồi lấy ra một cuốn sổ ghi chép nhỏ, “Nakano Ayumi. Hai mươi sáu tuổi. Phòng Cảnh sát giao thông thuộc đồn cảnh sát Shinjuku. Có thể liên quan đến Aomame.”

“Đúng vậy.”

“Còn gì nữa không?”

“Còn một việc nữa, tôi phải hỏi thăm ông chuyện này. Trong giáo đoàn chắc chắn có ai đó nhắc tới tên Aomame trước tiên, nói rằng ở Tokyo có một huấn luyện viên thể dục rất giỏi việc giãn cơ chẳng hạn. Vậy nên, như ông vừa chỉ ra lúc nãy đấy, tôi tiến hành điều tra thân thế của người phụ nữ này. Không phải tôi muốn biện giải cho mình nhưng đích thực là, cũng như mọi lần, tôi đã tận tâm tận lực điều tra kỹ càng lắm rồi. Không phát hiện ra điểm nào khả nghi hay một chút tì vết, hoàn toàn không. Cô ta từ đầu tới chân đều rất chi sạch sẽ. Vì vậy các ông mời cô ta đến phòng suite của khách sạn Okura. Vậy rốt cuộc là ai đã giới thiệu cô ta?”

“Không rõ.”

“Không rõ?” Ushikawa nói, sau đó lộ ra vẻ mặt của một đứa trẻ khi nghe thấy một từ mà nó không hiểu nổi. “Nói thế, hẳn là trong nội bộ giáo đoàn có ai đó nhắc đến tên Aomame, nhưng các ông không nhớ ra người đó là ai. Phải không?”

Onden không đổi sắc mặt, đáp: “Đúng vậy.”

“Thật kỳ lạ,” Ushikawa nói, tựa như cảm thấy không thể tin nổi.

Onden không nói gì.

“Vậy không biết từ đâu, không biết từ lúc nào cái tên của cô ta tự dưng bật ra, và sự việc tự nó phát triển không ngừng. Có phải thế không?”

“Nói thực với ông, người nhiệt tình thúc đầy sự việc này nhất chính là bản thân Lãnh Tụ,” Onden thận trọng cân nhắc từng từ ngữ. “Trong hàng ngũ lãnh đạo, cũng có ý kiến cho rằng ông ấy giao phó mình cho một người không rõ lai lịch thì không khỏi quá nguy hiểm. Xét từ góc độ vệ sĩ, chúng tôi đương nhiên đồng tình với ý kiến đó. Nhưng ông ấy không đếm xỉa, ngược lại còn kiên quyết đòi chúng tôi cứ làm như vậy.”

Ushikawa lại cầm bật lửa lên, mở nắp, quẹt lửa như thể muốn kiểm tra tính năng của nó, sau đó nhanh chóng sập nắp lại.

“Theo như tôi biết, Lãnh Tụ là người vô cùng cẩn trọng,” y nói.

“Chính xác. Ông ấy là người cực kỳ thận trọng, cực kỳ cẩn thận,” Đầu Trọc nói.

Lại một hồi im lặng.

“Còn một chuyện nữa tôi muốn hỏi.” Ushikawa nói, “là về Kawana Tengo. Anh ta có qua lại với một người phụ nữ nhiều tuổi đã có chồng tên là Yasuda Kyoko. Mỗi tuần người đàn bà này đến chỗ anh ta một lần và hai người thân mật với nhau. Ừm, người trẻ tuổi mà, khó tránh khỏi làm những chuyện kiểu vậy. Nhưng có một hôm, chồng chị ta đột nhiên gọi điện tới cho Tengo, nói rằng sau này chị ta không thể đến thăm anh ta nữa. Từ đó, chị ta bặt vô âm tín.”

Onden nhíu mày. “Tôi không hiểu ý ông là sao. Ông muốn nói Kawana Tengo có liên quan đến chuyện này ư?”

“Không. Chuyện này tôi chưa làm rõ được. Chỉ là tôi luôn cảm thấy kỳ lạ. Nói gì thì nói, dù đã xảy ra chuyện gì, ít nhất thì người đàn bà vẫn có thể gọi cho anh ta mà. Xét cho cùng thì quan hệ giữa hai người đâu phải là bình thường. Nhưng chị ta không để lại một lời, thình lình biến mất, không tung tích. Tôi chỉ sợ có uẩn khúc gì đây, nên mới hỏi ông cho chắc thôi. Ông có biết gì về chuyện này không?”

“Ít nhất bản thân tôi không biết chuyện gì về người đàn bà ấy.” Onden trả lời bằng giọng khô khan, “Yasuda Kyoko, người đàn bà có quan hệ với Kawana Tengo.”

“Là người có chồng, hơn anh ta mười tuổi.”

Onden ghi lại cái tên vào cuốn sổ nhỏ. “Chuyện này tôi cũng sẽ báo cáo lên cấp trên.”

“Rất tốt.” Ushikawa nói, “vậy, còn nơi ở của Fukada Eriko thì sao?”

Onden ngẩng mặt lên, nhìn Ushikawa như thể đang quan sát một chiếc khung ảnh cong vẹo. “Tại sao chúng tôi nhất định phải biết Fukada Eriko đang ở đâu?”

“Các ông không quan tâm tìm xem cô ấy đang ở đâu à?”

Onden lắc đầu: “Cô ấy đi đâu, ở đâu không liên can gì tới chúng tôi. Cô ấy đi đâu là quyền tự do của cô ấy.”

“Đối với Kawana Tengo cũng không quan tâm à?”

“Anh ta không có liên quan gì tới chúng tôi.”

“Hình như các vị từng rất quan tâm tới hai người này,” Ushikawa nói.

Onden nheo mắt, một lúc sau mới cất tiếng: “Mối quan tâm của chúng tôi trước mắt tập trung cả vào Aomame.”

“Mối quan tâm của các ông thay đổi hằng ngày phải không?”

Onden khẽ mấp máy môi, không trả lời.

“Ông Onden, ông đọc cuốn tiểu thuyết Nhộng không khí của Fukada Eriko viết chưa?”

“Chưa. Trong giáo đoàn cấm đọc những sách không liên quan đến giáo lý. Đụng vào cũng không được.”

“Ông nghe nói đến cái tên Người Tí Hon bao giờ chưa?”

“Chưa bao giờ,” Onden không ngập ngừng, lập tức đáp lời.

Ushikawa “ừm” một tiếng.

Tới đây, cuộc nói chuyện kết thúc. Onden chầm chậm đứng lên khỏi ghế, chỉnh lại cổ áo. Tóc Đuôi Ngựa rời khỏi bức tường, bước lên một bước.

“Ông Ushikawa, vừa rồi tôi đã nói với ông, thời gian là nhân tố cực kỳ quan trọng.” Onden cúi nhìn Ushikawa vẫn đang ngồi trên ghế, nói: “Nhất thiết phải nhanh chóng tìm ra Aomame. Chúng tôi sẽ dốc hết sức, nhưng vẫn phải nhờ ông triển khai điều tra theo một hướng khác. Nếu không tìm được Aomame, chỉ e cả tôi và ông đều sẽ rơi vào hoàn cảnh không lấy gì làm dễ chịu. Nói gì thì nói, giờ ông cũng trở thành người nắm giữ bí mật trọng đại rồi.”

“Hiểu biết lớn đi kèm với trách nhiệm lớn.”

“Đúng thế,” Onden nói bằng giọng không cảm xúc, sau đó xoay người, đi một mạch không ngoảnh đầu lại. Tóc Đuôi Ngựa đi theo Đầu Trọc ra khỏi phòng, lặng lẽ khép cửa sau lưng.

Sau khi hai người kia đi rồi, Ushikawa mở ngăn kéo bàn làm việc, tắt máy ghi âm. Y mở nắp, lấp cuộn băng ra, dùng bút bi viết ngày tháng và thời gian lên nhãn. Nhìn tướng mạo y, thật không thể ngờ chữ viết y lại rất ngay ngắn, cân đối. Kế đó, y lấy trong ngăn kéo ra một bao Seven Stars, rút một điếu ra ngậm, bật lửa châm thuốc. Ushikawa hít mạnh một hơi, thở hắt lên phía trần nhà. Sau đó y ngửa mặt lên trần nhà nhắm mắt lại, bất động trong một lúc. Không lâu sau, y mở mắt, liếc nhìn đồng hồ treo tường. Kim giờ chỉ hai giờ rưỡi. Đúng là một cặp đôi đáng sợ, Ushikawa lại thầm nhủ.

Nếu không tìm được Aomame, chỉ e cả tôi và ông đều sẽ rơi vào hoàn cảnh không lấy gì làm dễ chịu, Đầu Trọc nói.

Ushikawa từng hai lần đến thăm tổng bộ của Sakigake ở sâu trong vùng núi tỉnh Yamanashi, khi ấy y đã trông thấy cái lò thiêu khổng lồ trong khu rừng gỗ tạp phía sau núi. Thứ này dùng để đốt rác và chất thải, dùng nhiệt độ cực cao, giả dụ có bỏ thi thể vào trong, chắc chẳng còn sót lại dù chỉ là một mẩu xương. Y biết thực ra đã có mấy cái xác bị bỏ vào trong đó rồi. Có lẽ Lãnh Tụ cũng là một trong số đó. Đương nhiên, Ushikawa chẳng hề muốn hưởng kiểu đãi ngộ này. Ngày nào đó rồi y cũng sẽ phải chết, nhưng nếu có thể, y mong mình được chết yên bình một chút.

Nhưng còn mấy chuyện Ushikawa chưa nói với bọn gã. Ngửa hết bài trong tay ra không phải là cách của y. Bài nhỏ, y không ngại chìa cho đối phương liếc một chút, nhưng bài lớn thì phải giấu thật kín. Vả lại, chuyện gì cũng cần có bảo hiểm. Tỉ như cuộc nói chuyện bí mật được ghi âm vào băng cát xét này chẳng hạn. Y rất thành thạo những trò kiểu này; về sự từng trải, mấy gã vệ sĩ trẻ tuổi kia không thể sánh với y được.

Ushikawa đã có được danh sách khách hàng mà Aomame làm huấn luyện viên riêng. Chỉ cần không tiếc sức và nắm được bí quyết nhất định thì hầu hết mọi thông tin đều có thể kiếm được về tay. Aomame phụ trách mười hai người khách, Ushikawa đã lần lượt điều tra từng người một. Tám phụ nữ, bốn đàn ông, vừa có địa vị xã hội, lại có thực lực kinh tế. Gần như không một người nào có khả năng hỗ trợ một sát thủ. Nhưng một trong số đó, một người đàn bà hơn bảy mươi tuổi giàu có, đã cung cấp nơi ở an toàn cho những phụ nữ bị bạo hành gia đình buộc phải bỏ trốn. Bà ta đưa những phụ nữ bất hạnh này về căn nhà hai tầng nhỏ bên cạnh biệt thự rộng lớn của mình, để họ sống ở đó.

Làm như vậy tốt thôi, không có gì đáng nghi cả, nhưng có thứ gì đó cứ tấn công vào rìa xa xôi của ý thức Ushikawa. Mỗi khi có thứ gì đó tấn công vào rìa xa xôi của ý thức, Ushikawa luôn cố tìm xem đó rốt cuộc là thứ gì. Y sở hữu khứu giác của loài vật, và tin tưởng trực giác hơn bất cứ thứ gì. Nhờ nó, y mới nhiều lần gặp họa lớn mà không chết. “Bạo lực” có lẽ chính là từ khóa trong trường hợp này. Bà già này tương đối mẫn cảm với những chuyện dính dấp tới bạo lực, nên mới tích cực bảo vệ những người nạn nhân của bạo lực như thế.

Ushikawa từng tự mình đi tới tận nơi xem xét trung tâm bảo trợ ấy. Ngôi nhà nhỏ tọa lạc trên khu đất thượng hạng trên đồi Azabu. Một tòa nhà kiến trúc tuy cũ kỹ nhưng rất có phong cách. Dòm vào qua ô chấn song nơi cổng, y chỉ thấy trước lối vào có một luống hoa rất đẹp, khoảng sân xanh mướt trải dài, cây sồi lớn tỏa bóng. Trên cửa trước có khảm hoa văn thủy tinh. Gần đây, số lượng những kiến trúc thế này đang giảm mạnh ở Tokyo.

Nhưng tương phản với sự thanh tĩnh đó của tòa kiến trúc, nơi này được cảnh giới hết sức nghiêm ngặt. Tường quây cao ngất, chăng lưới thép gai, cánh cổng sắt kiên cố khóa chặt, bên trong có một con chó béc giê Đức, hễ có người ngoài lại gần là sủa như điên. Mấy chiếc camera giám sát xoay vòng vòng. Con đường phía trước ngôi nhà gỗ gần như không có người qua lại, nên không thể đứng đó quá lâu. Khu vực ấy rất yên tĩnh, gần đó có mấy đại sứ quán. Một người đàn ông ăn mặc khả nghi kiểu như Ushikawa lượn lờ ở nơi như thế lập tức sẽ bị người ta vặn hỏi ngay.

Nơi này canh gác cũng hơi quá chặt chẽ. Tuy nó là một trung tâm bảo trợ chống bạo lực, song đâu nhất thiết phải tường đồng vách sắt như thế. Về cái trung tâm bảo trợ này, điều gì có thể biết, ta cần phải biết hết, Ushikawa nghĩ. Dẫu tường đồng vách sắt thế nào, cũng phải tìm cách nạy ra một khe hở. Không, càng là tường đồng vách sắt, càng phải nạy nó ra. Và để làm thế, y cần phải vắt óc mà nghĩ ra một kế hoạch.

Sau đó, Ushikawa nghĩ đến câu trả lời của Onden về Người Tí Hon.

“Ông nghe nói đến cái tên Người Tí Hon bao giờ chưa?”

“Chưa hề.”

Trả lời hơi nhanh quá. Nếu chưa từng nghe đến cái tên này thì chắc chắn ít nhất cũng phải ngừng một nhịp rồi mới trả lời. Gì hả? Người Tí Hon? Nghe chữ ấy, phải kiểm chứng lại trong óc một chút, sau đó mới trả lời. Đó mới là phản ứng của người bình thường.

Gã kia nhất định đã nghe từ Người Tí Hon này trước đây rồi. Gã có hiểu được ý nghĩa và bản chất của nó là gì hay không, Ushikawa chẳng thể biết được. Nhưng nhất định đây không phải lần đầu tiên gã nghe thấy từ đó.

Ushikawa dập điếu thuốc đã cháy gần hết, chìm vào suy nghĩ. Giây lát sau, y tạm thôi không nghĩ ngợi, lại châm một điếu thuốc mới. Từ lâu, y đã quyết định không lo nghĩ về khả năng bị ung thư phổi nữa. Muốn tập trung tinh thần suy nghĩ, cần phải nhờ đến sự trợ giúp của nicotin. Sau hai ba ngày nữa số phận mình thế nào còn chẳng biết, lại đi lo lắng về sức khỏe những mười lăm năm sau, có cần phải vậy hay không?

Hút đến điếu Seven Stars thứ ba, Ushikawa bỗng nảy ra một ý tưởng. Như vậy có lẽ sẽ thành công, y tự nhủ.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 2: Aomame


Một mình, nhưng không cô độc

Khi trời sẩm tối, nàng đã ngồi trên chiếc ghế kê ở ban công, dõi mắt trông về phía sân chơi nhỏ ở bên kia đường. Việc này trở thành phần quan trọng nhất trong công việc hằng ngày của nàng, trung tâm cuộc sống của nàng. Dù ngày nắng, ngày râm hay ngày mưa, việc canh chừng này chưa bao giờ gián đoạn. Bước vào tháng Mười, không khí thêm phần lạnh lẽo. Vào những buổi tối lạnh, nàng mặc mấy lớp quần áo trên người, chuẩn bị sẵn chăn cuốn, uống ca cao nóng, nhìn chằm chằm vào cầu trượt, canh chừng mãi đến mười rưỡi tối. Sau đó nàng bước vào bồn tắm làm ấm người, rồi lên giường đi ngủ.

Đương nhiên, chẳng phải không có khả năng Tengo đến đây vào ban ngày, nhưng hầu như không có chuyện như thế. Nếu anh đến sân chơi này thì đó phải là lúc trời đã tối, sau khi đèn thủy ngân đã bật lên, trăng đã sáng trên bầu trời. Aomame ăn vội ăn vàng cho xong bữa tối, mặc quần áo để sẵn sàng lao ra cửa bất cứ lúc nào, chải sẵn đầu tóc, ngồi xuống chiếc ghế làm vườn, cố định ánh mắt vào chiếc cầu trượt giữa sân chơi trong màn đêm. Bên tay nàng luôn đặt khẩu súng lục tự động và chiếc ống nhòm đôi cỡ nhỏ hiệu Nikon. Lo rằng Tengo có thể xuất hiện khi mình đi vệ sinh, nên ngoài ca cao ra, nàng không đụng tới một giọt nước.

Aomame kiên trì canh chừng, không gián đoạn dù chỉ một ngày. Nàng không đọc sách cũng không nghe nhạc, vừa dỏng tai chú ý động tĩnh bên ngoài, vừa nhìn sân chơi nhỏ không chớp mắt. Thậm chí, cả tư thế ngồi của nàng gần như cũng không thay đổi. Nàng chỉ thỉnh thoảng ngẩng đầu và, vào những đêm không mây, nhìn lên bầu trời, để xác nhận vẫn đang có hai mặt trăng. Sau đó, nàng lại nhanh chóng hướng cái nhìn về phía sân chơi nhỏ. Aomame canh chừng sân chơi, hai vầng trăng canh chừng Aomame.

Nhưng Tengo không đến.

Không có nhiều người đến sân chơi vào buổi tối. Đôi khi có những cặp tình nhân trẻ xuất hiện. Họ ngồi trên ghế băng dài, nắm tay nhau như đôi chim nhỏ, liên tục hôn nhau một cách vồ vập. Nhưng sân chơi quá nhỏ, ánh đèn lại quá sáng, nên bọn họ thấp thỏm ở đó được một lúc rồi đành chuyển đi nơi khác. Có người định sử dụng nhà vệ sinh công cộng, nhưng phát hiện cửa khóa, đành ủ rũ (hoặc đùng đùng nổi giận) quay đi. Cũng có tay cổ cồn trắng hết giờ làm ngồi trơ trọi trên băng ghế, gục đầu bất động, chắc là để tỉnh rượu. Hoặc có thể anh ta không muốn đi thẳng về nhà. Cũng có ông già cô đơn nửa đêm dắt chó đi dạo. Cả chó lẫn ông già đều trầm mặc, thoạt nhìn tựa hồ như mất hết hy vọng.

Nhưng hầu hết thời gian, sân chơi không một bóng người. Thậm chí chẳng có lấy một con mèo chạy qua. Chỉ có ánh sáng vô danh tính của ngọn đèn hơi thủy ngân chiếu lên xích đu, cầu trượt, hố cát, buồng vệ sinh công cộng khóa cửa. Nhìn mãi một cảnh tượng như vậy, thỉnh thoảng Aomame đâm có cảm tưởng như mình bị bỏ rơi trên một hành tinh không người. Hệt như trong bộ phim miêu tả thế giới hậu chiến tranh hạt nhân. Bộ phim tên là gì ấy nhỉ?

À, Trên bãi biển[1].

[1] Một bộ phim của đạo diễn Stanley Kramer, với sự tham gia diễn xuất của Gregory Peck, Ava Gardner, Fred Astaire và Anthony Perkins.

Mặc dù vậy, Aomame vẫn dồn toàn bộ tâm trí kiên trì canh chừng sân chơi. Giống như người thủy thủ một mình leo lên cột buồm cao ngất canh gác, dùng kính viễn vọng tìm kiếm đàn cá hoặc hình bóng chẳng lành giữa biển cả mênh mang. Đôi mắt thận trọng của nàng chỉ kiếm tìm một thứ duy nhất: bóng dáng Tengo.

Có lẽ Tengo sống ở nơi khác, đêm hôm ấy anh chỉ ngẫu nhiên đi qua chỗ này. Nếu đúng thế thật, khả năng anh trở lại sân chơi này lần nữa gần như bằng không. Nhưng Aomame cảm thấy không phải vậy. Khi Tengo ngồi trên cầu trượt, trong cách ăn mặc hay cử chỉ của anh có gì đó khiến nàng cảm nhận được rằng anh chỉ đang đi tản bộ quanh nơi ở. Trong lúc đi dạo, anh tiện đường ghé vào sân chơi và trèo lên cầu trượt. Có lẽ để ngắm trăng. Nếu vậy, hẳn anh phải ở gần đây, trong tầm có thể đi bộ tới được.

Ở khu Koenji, muốn tìm một nơi có thể ngắm trăng không phải dễ. Nơi này hầu như bằng phẳng, gần như không có kiến trúc nào đủ cao để có thể đứng lên nhìn trời. Thế nên cầu trượt trong sân chơi về đêm là một chỗ không tệ để đứng ngắm trăng. Yên tĩnh, không bị làm phiền. Khi nào lại muốn ngắm trăng, nhất định anh sẽ tới chỗ này. Aomame suy đoán như vậy, nhưng ngay sau đó lại nghĩ: không phải, e rằng sự việc không thuận lợi như thế. Không chừng anh ấy đã tìm được nơi có thể ngắm trăng rõ hơn trên nóc tòa nhà nào khác rồi cũng nên.

Aomame lắc đầu một cái, gọn nhưng kiên định. Mình không nên nghĩ quá nhiều. Cần giữ vững niềm tin rằng rồi sẽ có ngày Tengo trở lại sân chơi này, mình hãy tiếp tục ở đây kiên trì chời đợi. Mình không còn lựa chọn nào khác. Mình không thể rời khỏi nơi đây, sân chơi này hiện giờ là điểm liên kết duy nhất giữa mình và anh ấy.

Aomame đã không kéo cò.

Đó là chuyện hồi đầu tháng Chín. Nàng đứng ở chỗ dừng xe khẩn cấp của tuyến đường cao tốc Thủ Đô số 3, giữa hàng xe cộ đông nghịt, tắm mình trong ánh ban mai chói mắt, họng súng đen ngòm của khẩu súng Heckler & Koch nhét trong miệng. Nàng vận bộ đồ của Junko Shimada, chân đi giày cao gót Charles Jourdan.

Người ta ngồi trong xe dõi mắt quan sát nàng, hoang mang không biết sắp xảy ra chuyện gì. Có người đàn bà trung niên ngồi trong chiếc Mercedes Benz thể thao màu bạc. Có những người đàn ông cháy nắng ngồi trên ghế lái xe tải thật cao nhìn xuống. Trước mặt họ, Aomame định dùng viên đạn chín ly bắn tung óc mình. Ngoại trừ tự sát, không còn cách nào khác để thoát khỏi năm 1Q84. Làm vậy nàng sẽ đổi lấy được tính mạng cho Tengo. Ít nhất, Lãnh Tụ đã hứa với nàng như thế. Ông ta đã thề như thế, để cầu xin một cái chết nhanh chóng.

Aomame không thấy hối tiếc gì về chuyện mình cần phải chết. Có lẽ từ khi nàng bị kéo vào thế giới của năm 1Q84 này, mọi thứ đã được định sẵn. Mình chỉ làm theo đúng những bước đã sắp xếp từ trước mà thôi. Trong cái thế giới hoang đường có hai mặt trăng lớn nhỏ lơ lửng trên bầu trời, và có cái thứ gọi là Người Tí Hon chi phối vận mệnh của mọi người này, tiếp tục sống một thân một mình thì rốt cuộc có ý nghĩa gì?

Thế nhưng, rốt cuộc nàng đã không siết cò. Trong khoảnh khắc cuối cùng, nàng buông lỏng ngón trỏ bàn tay phải rồi rút nòng súng ra khỏi miệng. Kế đó, nàng hít sâu một hơi, sau đó thở ra, giống như một người rốt cuộc cũng từ đáy biển sâu trồi lên mặt nước, tựa hồ muốn thay toàn bộ không khí trong cơ thể mình.

Aomame ngưng tìm đến cái chết là vì nàng nghe thấy một tiếng gọi xa xăm. Khi đó, nàng đang ở trong một thế giới vô thanh. Từ khoảng khắc nàng dồn sức vào ngón tay đặt trên cò súng, mọi âm thanh ồn ã xung quanh hoàn toàn tan biến. Nàng ở giữa một không gian tĩnh lặng thẳm sâu như dưới đáy hồ bơi. Dưới đó, cái chết không đen tối, cũng chẳng làm người ta sợ hãi. Nó tự nhiên như nước ối với thai nhi, tự nó tỏ tường, không cần nói thành lời. Không tệ, Aomame nghĩ, thậm chí gần như nhoẻn miệng cười. Kế đó, nàng nghe thấy tiếng gọi.

Tiếng gọi ấy dường như đến từ nơi xa xăm nào đó, một khoảng thời gian xa xăm nào đó. Nàng chưa bao giờ nghe thấy âm thanh ấy. Quành qua rất nhiều chỗ ngoặt, nó đã đánh mất âm sắc và đặc tính ban đầu. Thứ còn lại chỉ là tiếng vọng trống rỗng đã bị lột đi ý nghĩa. Mặc dù vậy, trong âm hưởng ấy, Aomame vẫn nhận ra cảm giác ấm áp mà đã nhiều năm nay nàng không biết đến. m thanh ấy dường như đang gọi tên nàng.

Aomame thả lỏng ngón tay đặt trên cò súng, nheo mắt lại, dỏng tai lắng nghe, cố sức nghe rõ nội dung của tiếng gọi ấy. Thế nhưng chỉ riêng tên nàng thôi cũng phải khó khăn lắm nàng mới nhận ra, hoặc nghĩ là mình nhận ra. Còn lại, chỉ có tiếng gió rít qua hang trống, Không lâu sau, tiếng gọi xa dần, mất đi mọi nghĩa, rồi bị hút vào trong tĩnh lặng. Hư không bao bọc quanh nàng biết mất như thể có cái nút đã bị lôi ra, những tiếng ồn ào xung quanh thình lình ùa vào. Khi định thần lại, Aomame không còn quyết chết nữa.

Có lẽ mình sẽ gặp lại Tengo lần nữa ở sân chơi nhỏ ấy, Aomame nghĩ. Sau đó chết cũng không muộn. Mình hãy tận dụng cơ hội này đánh cuộc một phen đi. Chỉ cần còn sống… chỉ cần không chết… thì sẽ có khả năng gặp lại Tengo. Mình muốn sống! Nàng nghĩ một cách rõ ràng trong óc. Một tâm trạng kỳ diệu. Trước đây đã lần nào nàng có tâm trạng như thế này chưa nhỉ?

Nàng hạ chốt cò của khẩu súng bán tự động xuống, đóng khóa an toàn lại, nhét vào cái túi đeo chéo qua người. Sau đó, nàng chỉnh lại tư thế, đeo kính râm lên, đi ngược dòng xe cộ trở về chỗ chiếc taxi mình vừa ngồi. Mọi người lặng lẽ dõi theo điệu bộ đi giày cao gót sải bước trên đường cao tốc của nàng. Không cần đi quá xa, chiếc taxi nàng vừa ngồi tuy đã rơi vào dòng xe tắc nghẽn nhưng vẫn chầm chậm nhích lên, lúc này vừa khéo tới gần chỗ nàng.

Aomame gõ gõ lên ô cửa ghế lái, tài xế hạ kính xuống.

“Tôi có thể vào lại trong xe không?”

Tay tài xế do dự. “… thứ cô vừa nhét vào miệng khi nãy hình như là súng lục đúng không?”

“Đúng thế.”

“Hàng thật hả?”

“Sao có thể là thật chứ,” Aomame hơi dẩu môi ra trả lời.

Tài xế mở cửa xe. Aomame ngồi vào trong. Nàng cởi chiếc túi [bad word] chéo khỏi vai, đặt xuống ghế, lấy khăn tay ra lau miệng. Trong miệng nàng vẫn còn tàn lưu mùi kim loại và dầu súng.

“Ừm, có tìm thấy cầu thang thoát hiểm không?” tài xế hỏi.

Aomame lắc đầu.

“Tôi đã nói rồi mà. Chưa bao giờ nghe nói ở chỗ đó có cầu thang thoát hiểm cả,” tay tài xế nói. “Vậy, chúng ta vẫn theo kế hoạch ban đầu, xuống ở lối Ikejiri nhé?”

“Ừm, cứ vậy đi,” Aomame nói.

Tài xế hạ kính xe, giơ tay ra, tấp vào làn đường bên phải phía trước một chiếc xe buýt lớn. Con số trên đồng hồ tính tiền vẫn hệt như lúc nàng xuống xe ban nãy.

Aomame ngồi trên ghế, chậm rãi hít thở, hướng mắt về phía tấm biển quảng cáo Esso quen thuộc. Con hổ nghiêng mặt về phía này, tay cầm ống bơm xăng, miệng cười toe toét. Bên cạnh có hàng chữ: Hãy để chú hổ bơm xăng cho xe của bạn.

“Hãy để chú hổ bơm xăng cho xe của bạn,” Aomame đọc nhẩm.

“Cô nói gì cơ?” tài xế nhìn nàng trong gương chiếu hậu, hỏi.

“Không có gì. Lẩm nhẩm một mình thôi.”

Cứ sống ở đây thêm một thời gian nữa, xem xem rốt cuộc sẽ xảy ra chuyện gì. Còn chết, sau này chết cũng không muộn. Chắc thế.

Ngày thứ hai sau khi nàng từ bỏ ý định tự sát, Tamaru gọi điện tới. Aomame nói với anh ta: kế hoạch thay đổi, tôi quyết định cứ ở lại đây. Không đổi tên, cũng không làm phẫu thuật sửa đổi gương mặt.

Ở đầu dây bên kia, Tamaru im lặng. Mấy giả thuyết khác nhau đang lặng lẽ xếp hàng và tổ hợp trong tâm trí anh ta.

“Tức là cô không muốn chuyển đến nơi khác?”

“Đúng thế,” Aomame trả lời ngắn gọn. “Tôi muốn ở lại đây thêm một thời gian nữa.”

“Chúng tôi không bố trí chỗ đó thành nơi ẩn náu lâu dài.”

“Chỉ cần tôi trốn trong nhà không đi đâu thì hẳn sẽ không bị phát hiện.”

“Tốt nhất chớ nên đánh giá thấp đám người ấy,” Tamaru nói. “Chắc chắn bọn chúng sẽ điều tra đến tận chân tơ kẽ tóc về cô, lần theo hành tung của cô. Mà không chỉ mình cô gặp nguy hiểm đâu, rất có thể còn ảnh hưởng đến người xung quanh nữa. Nếu chuyện đó xảy ra, hoàn cảnh của tôi sẽ khó xử lắm.”

“Tôi lấy làm áy náy vì chuyện này, nhưng giờ tôi vẫn cần một khoảng thời gian nữa.”

“Vẫn cần một khoảng thời gian nữa, nói thế hơi mập mờ,” Tamaru nói.

“Xin lỗi anh, tôi chỉ có thể diễn đạt như thế thôi.”

Tamaru trầm ngâm suy nghĩ. Dường như anh ta nghe được quyết tâm kiên định trong giọng nói của Aomame.

Anh ta nói: “Tôi là người đặt trách nhiệm lên hàng đầu. Gần như ưu tiên hơn bất cứ thứ gì. Cô hiểu không?”

“Tôi nghĩ là tôi hiểu.”

Tamaru im lặng, rồi sau đó nói: “Được rồi. Tôi chỉ muốn bảo đảm cho chắc mình không hiểu lầm thôi. Cô khăng khăng như thế hẳn là có lý do.”

“Tôi có lý do,” Aomame đáp.

Tamaru đằng hắng một tiếng gãy gọn trong ống nghe. “Trước đây tôi nói với cô rồi, chúng tôi đã lập kế hoạch chu đáo chặt chẽ và chuẩn bị đầy đủ. Chúng tôi sẽ đưa cô tới một nơi an toàn và xa xôi, xóa bỏ mọi dấu vết, thay đổi gương mặt cô, tên họ cô. Tuy không thể nói là hoàn mỹ, nhưng ít nhất cũng gần như hoàn mỹ. Về những điểm này, hẳn chúng ta đã thỏa thuận rồi.”

“Đương nhiên tôi hiểu. Không phải tôi bất đồng gì với bản thân kế hoạch ấy. Chỉ là về phía tôi đang xảy ra chuyện ngoài dự tính, nên tôi cần ở nơi này thêm một thời gian nữa.”

“Tôi không có quyền trả lời cô là Có hay Không,” Tamaru nói, sâu trong cổ họng phát ra một âm thanh khe khẽ. “Tôi cần chút thời gian mới trả lời cô được.”

“Tôi lúc nào cũng ở đây,” Aomame nói.

“Vậy thì tốt,” Tamaru nói, đoạn gác máy.

Gần chín giờ sáng hôm sau, chuông điện thoại đổ ba lần rồi ngưng, kế đó lại vang lên. Trừ Tamaru, không còn ai khác nữa.

Tamaru không hỏi han gì, đi thẳng vào vấn đề ngay: “Cô định ở lại đó trong thời gian dài, Bà Chủ cũng lấy làm lo lắng. Nơi đó không bố trí đủ các phương án bảo đảm an toàn, chẳng qua chỉ là trạm trung chuyển thôi. Quan điểm chung của chúng tôi là hy vọng cô có thể nhanh chóng chuyển đến một nơi xa xôi an toàn hơn trong thời gian ngắn nhất. Có gì cô chưa hiểu không?”

“Tôi hiểu.”

“Nhưng cô lại là người bình tĩnh và cẩn trọng. Cô trong phạm những sai lầm ngu xuẩn, mà làm việc cũng rất vững chãi. Về cơ bản, chúng tôi hết sức tín nhiệm cô.”

“Cám ơn.”

“Nếu cô đã kiên trì muốn ở lại đó thêm một thời gian thì nhất định là có lý do. Chúng tôi không biết lý do ấy là gì, nhưng tôi tin chắc chắn đó không phải là ý bốc đồng nhất thời. Vì vậy, Bà Chủ muốn gắng hết sức làm theo mong muốn của cô.”

Aomame không nói một lời.

Tamaru tiếp tục: “Cô có thể ở lại đó đến cuối năm. Nhưng đó là giới hạn cuối cùng.”

“Thế tức là sang năm mới tôi buộc phải dọn khỏi nơi đây?”

“Đúng thế, chúng tôi đã cố gắng hết mức để tôn trọng ý nguyện của cô.”

“Tôi hiểu rồi.” Aomame nói, “Ở đây đến cuối năm, sau đó chuyển đến một nơi khác.”

Nhưng nàng đã không thật lòng. Nàng không có ý định rời khỏi căn hộ này một bước chừng nào chưa gặp được Tengo. Nhưng nếu nàng đưa ra yêu cầu như vậy lúc này thì chỉ gây thêm phiền phức mà thôi. Từ giờ đến cuối năm vẫn còn ba tháng, sau đó nàng sẽ nghĩ xem phải làm gì.

“Rất tốt,” Tamaru nói. “Từ nay, chúng tôi sẽ tiếp tế cho cô thực phẩm và vật dụng hằng ngày mỗi tuần một lần. Người phụ trách tiếp tế sẽ đến vào một giờ chiều thứ Ba hằng tuần. Họ có chìa khóa nên sẽ tự mở cửa vào. Nhưng họ chỉ vào nhà bếp, không đi đâu khác. Trong khi họ đến, cô hãy ở phòng ngủ bên trong, khóa trái cửa lại. Không được lộ mặt, cũng không được lên tiếng. Khi rời đi, họ sẽ đứng ở hành lang ấn chuông cửa một lần. Lúc ấy cô có thể ra khỏi phòng ngủ. Nếu cô cần thứ gì đặc biệt hay mong muốn gì đặc biệt, thì cho tôi biết luôn đi. Tôi sẽ cho vào nhóm hàng tiếp tế lần sau.”

“Nếu có thiết bị rèn luyện cơ bắp trong nhà thì tốt quá,” Aomame nói. “Tập luyện không có thiết bị thì hiệu quả bao giờ cũng có hạn.”

“Hàng chính quy dùng trong phòng tập thì hơi khó kiếm, nhưng máy tập gia dụng không tốn diện tích mấy thì tôi có thể chuẩn bị cho cô.”

“Chỉ cần thứ đơn giản thôi là được,” Aomame nói.

“Xe đạp tại chỗ, với mấy thiết bị phụ trợ tăng cường sức mạnh cơ bắp, thế đã đủ chưa?”

“Đủ rồi. Nếu có thể, thêm một cây gậy đánh bóng mềm bằng kim loại nữa.”

Tamaru im lặng trong mấy giây.

“Gậy đánh bóng mềm có nhiều công dụng,” Aomame giải thích. “Chỉ cần đặt nó bên cạnh thì tôi sẽ thấy yên tâm. Thứ ấy gần như đã lớn lên cùng với tôi mà.”

“Hiểu rồi. Tôi sẽ chuẩn bị cho cô,” Tamaru nói. “Nếu nghĩ ra còn cần thứ gì nữa, cô cứ viết ra giấy, đặt lên mặt quầy bếp. Lần tiếp tế sau tôi sẽ chuẩn bị cho cô.”

“Cám ơn. Bây giờ tôi vẫn chưa nghĩ ra còn thiếu thứ gì.”

“Còn sách và băng video, những thứ kiểu như thế?”

“Tôi chẳng nghĩ ra thứ gì mình đặt biệt muốn cả.”

“Đi tìm thời gian đã mất của Proust thì sao?” Tamaru hỏi, “nếu cô chưa đọc, đây có lẽ là cơ hội tốt để đọc cả bộ đấy.”

“Anh đọc chưa?”

“Chưa. Tôi chưa bao giờ vào tù, cũng chưa từng lẩn trốn ở đâu đó một thời gian dài. Người ta nói không có cơ hội kiểu như vậy thì có lòng đọc hết cả bộ Đi tìm thời gian đã mất lắm.”

“Anh có quen ai đọc hết cả bộ chưa?”

“Tôi có quen một số người từng ngồi tù rất lâu, nhưng họ đều không phải loại đặc biệt hứng thú với Proust.”

Aomame nói: “Để tôi xem thử. Khi nào kiếm được sách thì lần tiếp tế sau mang đến cho tôi nhé.”

“Thực ra tôi đã chuẩn bị rồi,” Tamaru nói.

Một giờ chiều ngày thứ Ba, “nhân viên tiếp tế” đến rất đúng giờ. Theo chỉ dẫn, Aomame lánh vào phòng ngủ trong, khóa chặt cửa, cố không gây ra tiếng động nào. Nàng nghe thấy tiếng mở khóa cửa trước, có hơn một người đẩy cửa đi vào. Aomame không hề biết “nhân viên tiếp tế” mà Tamaru nhắc tới là người thế nào. Xét qua tiếng động và cảm giác, đại khái nàng có thể phán đoán là có hai người, nhưng không nghe thấy họ nói chuyện. Họ chuyển đồ vào, lẳng lặng sắp xếp bày biện. Aomame có thể nghe thấy tiếng họ dùng vòi nước rửa đồ, cho vào tủ lạnh. Chắc họ đã trao đổi từ trước xem ai làm việc gì. Nàng nghe tiếng họ mở bao bì, tiếng họ gấp hộp và giấy gói. Hình như họ còn thu dọn rác trong bếp nữa. Aomame không thể tự mang rác đi xuống bãi đổ rác dưới nhà, nên phải để người khác mang đi hộ.

Họ làm việc nhanh gọn, không phát ra tiếng động thừa nào, bước chân cũng rất nhẽ. Sau khoảng hai mươi phút thì họ xong việc, mở cửa đi ra. Có tiếng khóa cửa từ phía ngoài. Đoạn họ ấn chuông cửa một lần làm ám hiệu. Để cho chắc chắn, Aomame đợi thêm mười lăm phút nữa, sau đó mới đi ra khỏi phòng ngủ. Nàng xác nhận không còn người nào khác, rồi mới chốt cửa ngoài từ bên trong.

Trong cái tủ lạnh cỡ lớn chất đầy thức ăn cho một tuần. Lần này không còn là loại thức ăn đóng gói chỉ cần cho vào lò vi ba làm nóng qua là có thể ăn luôn, mà chủ yếu là các loại thực phẩm tươi: các loại rau và hoa quả, cá và thịt, đậu phụ, tảo quần đới và đậu natto, sữa bò, pho mát và nước cam, một chục trứng gà. Để không tạo rác thải thừa thãi, tất cả mọi thứ đều được lấy khỏi hộp chứa, bọc lại bằng màng bảo vệ thực phẩm. Họ nắm khá chuẩn xác những thứ thực phẩm thường ngày Aomame cần. Sao họ biết được nhỉ? Chiếc xe đạp tập thể dục đã được lắp sẵn cạnh cửa sổ, tuy là loại nhỏ nhưng là hàng cao cấp. Màn hình có thể hiển thị vận tốc, quãng đường đi được và năng lượng tiêu hao, còn có thể theo dõi được số vòng bánh xe quay mỗi phút và nhịp tim. Còn một thiết bị dạng ghế băng dài để tập cơ bụng, cơ lưng là cơ tam giác, có thể dùng công cụ kèm theo để tháo lắp dễ dàng. Aomame hiểu rõ loại thiết bị tập này như lòng bàn tay. Đây là kiểu mới nhất, cấu tạo rất đơn giản, nhưng rất hiệu quả. Có hai thứ này, nàng có thể đảm bảo được lượng vận động cần thiết.

Cây gậy đánh bóng bằng kim loại cũng có đó, đựng trong bao mềm. Aomame rút nó ra khỏi bao, vung vẩy mấy phát. Gậy mới tinh màu ánh bạc rít lên những tiếng sắc nhọn trong không khí. Sức nặng quen thuộc khiến tâm trạng Aomame tĩnh lại. Cảm giác cầm nó trên tay khiến nàng nhớ về thời thiếu nữ nàng đã cùng trải qua với Otsuka Taamaki.

Trên bàn ăn đặt bộ Đi tìm thời gian đã mất của Proust. Không phải sách mới, nhưng có vẻ là chưa ai đọc bao giờ. Tổng cộng bảy tập, nàng cầm một quyển lên, lật giở sột soạt. Ngoài ra còn mấy quyển tạp chí, tuần san và nguyệt san. Còn có năm băng video chưa bóc mác. Không biết ai chọn, đều là những bộ phim mới nàng chưa xem. Aomame không có thói quen tới rạp chiếu phim, nên có nhiều phim mới nàng chưa xem bao giờ.

Trong túi giấy lớn của cửa hàng bách hóa đựng ba chiếc áo len mới tinh, từ dày đến mỏng. Hai áo sơ mi bằng vải nỉ dày, và bốn áo T-shirt dài tay. Tất cả đều màu trắng, kiểu dáng đơn giản. Kích cỡ vừa khít. Họ còn chuẩn bị cả bít tất dày và quần bó. Nếu nàng ở đây đến tháng Mười hai, những thứ này sẽ rất cần. Thật là tỉ mỉ chu đáo hết mức.

Màng mang đống quần áo vào phòng ngủ, cho vào ngăn kéo hoặc treo lên mắc áo trong tủ âm tường. Lúc nàng quay ra bếp uống cà phê, có điện thoại gọi đến. Chuông đổ ba lần, ngưng, sau đó lại reo.

“Đồ đưa tới chưa?” Tamaru hỏi.

“Cám ơn. Tôi thấy những thứ cần thiết đều đủ cả. Thiết bị tập thì còn hơn cả đủ nữa. Tiếp sau tôi chỉ còn việc đọc Proust nữa thôi.”

“Nếu có chỗ nào sơ xuất, cứ nói với tôi, đừng ngại.”

“Có gì tôi sẽ nói,” Aomame nói. “Có điều, muốn tìm ra chỗ sơ xuất của anh e là không dễ.”

Tamaru hắng giọng. “Có lẽ thế này hơi thừa… nhưng tôi có thể chân thành khuyên cô một câu được không?”

“Anh cứ nói thẳng.”

“Không gặp ai, không nói chuyện với ai, một mình bị giam kín ở nơi chật hẹp trong thời gian dài. Chỉ khi tự thân thử qua mới biết chuyện này tuyệt đối không dễ. Dù là người kiên cường đến mấy, lâu rồi cũng sẽ phải kêu lên. Đặc biệt là khi phía sau có người đang truy đuổi.”

“Những nơi tôi sống trước đây đều chẳng rộng rãi cho lắm.”

“Đó có lẽ là một thế mạnh của cô,” Tamaru nói. “Dù vậy, chú ý một chút vẫn hơn. Nếu trạng thái căng thẳng liên tục kéo dài thì trong vô thức thần kinh sẽ giống như sợi dây chun bị kéo quá căng. Một khi đã quá giới hạn, sẽ rất khó hồi phục nguyên trạng.”

“Tôi nhất định sẽ cẩn thận,” Aomame nói.

“Lần trước tôi đã nói, cô là người rất cẩn trọng. Cô thực tế và rất nhẫn nại. Cũng không tự tin quá mức. Nhưng, một khi không tập trung chú ý, người cẩn trọng mấy cũng sẽ phạm phải một hai sai lầm. Sự cô độc sẽ biến thành axit ăn mòn người ta.”

“Tôi không cảm thấy cô độc,” Aomame tuyên bố. Nửa là nói với Tamaru, nửa là nói cho chính nàng nghe. “Một mình, nhưng không cô độc.”

Đầu bên kia điện thoại lặng lẽ trong giây lát. Dường như Tamaru đang ngẫm nghĩ giữa sự khác biệt giữa “một mình” và “cô độc.”

“Dù thế nào chăng nữa, tôi cũng sẽ cẩn trọng hơn. Cám ơn lời khuyên chân thành của anh,” Aomame nói.

“Có một việc, mong cô hiểu cho,” Tamaru nói. “Chúng tôi sẽ làm bất cứ điều gì để bảo vệ cô. Nhưng nếu xảy ra chuyện gì khẩn cấp… chúng tôi không thể biết trước sẽ xảy ra điều gì, có thể cô sẽ phải một mình ứng phó. Dù tôi phản ứng nhanh tới thế nào thì cũng có thể không kịp thời đến nơi. Vả lại, trong một số trường hợp, có lẽ tôi cũng chẳng đến được. Chẳng hạn, khi chúng tôi cho rằng không thể dính dáng gì đến cô nữa.”

“Tôi hoàn toàn hiểu. Tôi ở lại đây là vì lý do cá nhân, đương nhiên sẽ chú ý tự bảo vệ mình… với cây gậy đánh bóng, và cả thứ anh đưa tôi nữa.”

“Thế giới này tàn nhẫn lắm.”

“Nơi nào có hy vọng, nơi ấy có thử thách,” Aomame đáp.

Tamaru lại im lặng một thoáng, sau đó nói: “Cô nghe chuyện về bài thi tốt nghiệp dành cho nhân viên thẩm vấn trong cơ quan cảnh sát mật thời Stalin chưa?”

“Chắc là chưa,”

“Anh ta được đưa vào một căn phòng hình vuông. Bên trong chỉ đặt một cái ghế gỗ nhỏ hết sức bình thường. Sau đó cấp trên ra lệnh: “Bắt cái ghế kia thành thật khai nhận, viết thành biên bản. Trước khi hoàn thành nhiệm vụ, không được bước chân ra khỏi phòng!”

“Nghe có vẻ siêu thực quá nhỉ.”

“Không đúng. Không phải siêu thực, mà là chuyện thực trăm phần trăm. Stalin đã thực sự sáng lập nên một thể chế điên rồ lệch lạc như thế. Trong thời gian ông ta cầm quyền, có khoảng mười triệu người bước lên đường chết, gần như toàn bộ là đồng bào của ông ta. Chúng ta thực sự sống trong một thế giới như thế đấy. Cô phải khắc ghi sự thật này vào trong đầu.”

“Anh biết rất nhiều câu chuyện làm ấm lòng người.”

“Không hẳn. Chỉ là dự trữ một ít để dùng khi cần đến. Tôi không được học hành quy củ, chỉ có thể ghi nhớ dần dần những thứ thoạt trông thấy có vẻ hữu dụng. Nơi nào có hy vọng, nơi ấy có thử thách. Cô nói đúng. Hoàn toàn chính xác. Chỉ là hy vọng quá ít, vả lại quá nửa là trừu tượng, còn thử thách lại nhiều đến khiến người ta phát ngấy, mà đa phần đều cụ thể. Đây là một trong những điều tôi phải trả giá mới học được.”

“Thế những người muốn làm nhân viên thẩm vấn ấy đã bắt cái ghế phải khai nhận chuyện gì?”

“Đây là một vấn đề đáng để đào sâu suy nghĩ,” Tamaru nói. “Kiểu như công án Thiền vậy.”

“Thiền của Stalin,” Aomame nói.

Sau một thoáng, Tamaru gác máy.

Chiều hôm đó, Aomame dùng xe đạp tại chỗ và ghế tập để vận động. Nàng hưởng thụ lượng vận động vừa phải nhờ có các thiết bị ấy, sau một thời gian dài không tập. Tập xong, nàng đi tắm cho hết mồ hôi, rồi vừa nghe FM vừa làm bữa tối đơn giản. Chập tối, nàng xem thời sự trên ti vi (không có tin nào làm nàng chú ý). Mặt trời vừa lặn là nàng đi ra ban công ngồi canh chừng sân chơi, cùng với tấm chăn mỏng, ống nhòm và súng lục. Và cây gậy kim loại mới tinh, sáng bóng.

Nếu Tengo vẫn không xuất hiện ở sân chơi cho đến khi năm 1Q84 đầy những bí ẩn này kết thúc, mình vẫn sẽ tiếp tục cuộc sống đơn điệu ở một góc khu Koenji này. Làm cơm, tập thể dục, xem thời sự, đọc Marcel Proust, đợi Tengo. Đợi anh ấy giờ là nhiệm vụ trung tâm của cuộc đời mình. Ngay bây giờ, sợi dây mong manh ấy khiến mình gắng gượng sống tiếp. Giống như con nhện mình nhìn thấy lúc đi xuống cầu thang thoát hiểm trên đường cao tốc Thủ Đô. Con nhện đen nhỏ đan một mành lưới nhỏ đến đáng thương trong góc giá sắt bẩn thỉu, nín thở tiềm phục ở đó. Mạng nhện bị cơn gió thổi qua trụ cầu làm cho lắc lư không ngớt, rách nát và bám đầy rác rưởi. Lúc nhìn thấy con nhện, mình từng thương xót cho nó, nhưng giờ đây bản thân mình cũng trong cảnh ngộ gần như thế.

Phải kiếm một băng cát xét có thu bài Sinfonietta của Janáček, Aomame nghĩ. Cần khi tập thể dục. Như thể thứ âm nhạc ấy kết nối mình với một nơi nào đó, nơi nào đó không thể xác định, nó đưa mình đến với một sự vật nào đấy. Phải thêm vào danh sách đồ tiếp tế gửi cho Tamaru lần tới mới được.

Giờ là tháng Mười, nàng chỉ còn chưa đầy ba tháng nữa thôi. Chiếc đồng hồ không ngừng nghỉ ghi nhận thời gian trôi. Nàng vùi mình trong chiếc ghế làm vườn, tiếp tục quan sát sân chơi và cầu trượt qua khe hở của tấm lá sách bằng nhựa. Ánh sáng của ngọn đèn hơi thủy ngân khiến sân chơi nhỏ ấy trở nên nhợt nhạt. Cảnh sắc làm nàng nghĩ đến hành lang vắng lặng không người của công viên hải dương về đêm. Những con cá tưởng tượng vô hình đang lặng lẽ bơi qua lại giữa những ngọn cây, không bao giờ ngừng sự chuyển động lặng lẽ ấy. Trên trời có hai mặt trăng, đang chờ đợi nàng chứng thực.

“Tengo,” Aomame thì thầm. “Giờ anh đang ở đâu?”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 3: Tengo


Đều là súc vật mặc áo quần

Chiều nào Tengo cũng tới phòng bệnh của cha, ngồi bên giường giở cuốn sách anh mang đến ra đọc thành tiếng. Đọc được chừng năm trang, anh dừng lại nghỉ một lát, rồi đọc thêm khoảng năm trang nữa. Anh đọc thành tiếng bất cứ quyển sách mình đang đọc dở. Có lúc là tiểu thuyết, có lúc là truyện ký, có lúc là sách về khoa học tự nhiên. Quan trọng nhất là việc đọc từng câu lên thành tiếng, chứ không phải nội dung.

Tengo không rõ cha mình có nghe thấy hay không. Chỉ nhìn gương mặt ông thì không thể nhận ra phản ứng gì. Cặp mắt ông già gầy guộc ốm yếu nhắm nghiền, ông mê man ngủ. Thân hình ông không nhúc nhích, thậm chí còn không nghe thấy tiếng thở. Tất nhiên, ông vẫn đang thở, nhưng nếu không ghé sát tai vào, hoặc dùng chiếc gương nhỏ kề gần mũi miệng kiểm tra xem có hơi sương không thì chẳng thể xác định được. Chất lỏng trong chai dịch truyền đi vào cơ thể, ống dẫn niệu lại đưa một chút chất thải ra ngoài. Duy chỉ có những chuyển động lặng lẽ chậm chạp này chứng tỏ rằng ông vẫn còn sống. Thỉnh thoảng, y tá dùng dau cạo râu điện cạo râu cho ông, dùng chiếc kéo nhỏ đầu tù cắt lông trắng mọc thò ra ngoài lỗ tai và lỗ mũi của ông, tỉa lại lông mày cho gọn gàng. Cho dù ông mất đi ý thức, chúng vẫn cứ mọc dài ra như bình thường. Nhìn con người ở trước mắt, Tengo dần dần không hiểu được người ta sống hay chết có bao nhiêu khác biệt. Rốt cuộc có thứ gì đáng để gọi là sự khác biệt hay không? Có lẽ chỉ vì muốn thuận tiện nên chúng ta một mực cho rằng có sự khác biệt.

Khoảng ba giờ bác sĩ đến, cập nhật về bệnh tình với Tengo. Lời giải thích luôn luôn súc tích, nội dung đại loại lần nào cũng như lần nào. Bệnh tình không có gì thay đổi. Ông già chỉ đang ngủ say. Sức sống từ từ suy giảm. Nói cách khác, ông đang bị đẩy về phía cái chết, một cách chậm rãi nhưng chắc chắn. Xét từ góc độ y học, hiện giờ không còn phương cách nào nữa. Chỉ có thể để ông yên tĩnh ngủ say ở đây. Đó là tất cả những gì bác sĩ có thể nói.

Đến xế chiều, có hai hộ lý nam đưa cha anh tới phòng kiểm tra. Mỗi ngày đều là những gương mặt khác nhau, nhưng người nào cũng đều ít nói. Có lẽ là do chiếc khẩu trang quá lớn, họ không hề nói một lời nào. Một trong số họ trông như người nước ngoài, dáng người thấp nhỏ, da ngăm ngăm đen, luôn mỉm cười với Tengo qua lớp khẩu trang. Nhìn đôi mắt là biết anh ta đang mỉm cười. Tengo cũng mỉm cười gật đầu đáp lại.

Sau khoảng từ nửa tiếng đến một tiếng đồng hồ, cha anh được đưa trở lại phòng bệnh. Rốt cuộc họ kiểm tra những gì, Tengo không biết. Sau khi cha được đưa đi, anh xuống căng tin tầng dưới uống một cốc trà xanh nóng, ở đó chờ khoảng mười lăm phút, rồi mang theo niềm mong đợi trở về phòng bệnh: trên giường bệnh trống không kia, liệu có xuất hiện nhộng không khí một lần nữa không? Bên trong liệu có cô thiếu nữ Aomame đang nằm hay không? Thế nhưng chuyện ấy không xảy ra. Trong căn phòng bệnh hơi u ám ấy, chỉ còn tàn lưu lại mùi của người ốm và chiếc giường trống có vết hõm xuống.

Tengo đứng trước cửa sổ, dõi mắt nhìn phong cảnh bên ngoài. Đối diện khoảng sân cỏ xanh mơn mởn là dải rừng thông chắn gió đen kịt nằm vắt ngang, từ bên kia dải rừng vẳng ra tiếng sóng. Những con sóng cuồng bạo của Thái Bình Dương. Tựa như có nhiều linh hồn tụ tập về, mỗi hồn thì thầm kể chuyện của mình, ở đó vang lên những âm hưởng tăm tối, dày nặng, chừng như đang kêu gọi thêm những linh hồn khác gia nhập, tìm thêm nhiều câu chuyện có thể kể ra.

Trước đây, hồi tháng Mười, Tengo từng đến viện điều dưỡng ở Chikura này hai lần vào ngày nghỉ, đi và về trong ngày. Anh đi chuyến tàu nhanh buổi sớm đến Chikura, ngồi cạnh giường cha, thi thoảng lại nói chuyện với ông. Nhưng không nhận được hồi đáp. Cha anh nằm ngửa đó, chìm sâu vào giấc ngủ. Hầu hết thời gian thăm nom, Tengo chỉ nhìn ra phong cảnh ngoài cửa sổ. Khi hoàng hôn buông xuống, anh chờ đợi chuyện gì đó xảy ra, nhưng chẳng có gì xảy ra. Duy chỉ bầu trời lặng lẽ chuyển tối, căn phòng bao bọc trong một thứ bóng tối mờ nhạt. Rốt cuộc, anh đành đứng dậy, lên chuyến tàu nhanh cuối cùng trở về Tokyo.

Có lẽ mình nên chuyên tâm ở với cha lâu hơn, một hôm Tengo nghĩ vậy. Những chuyến thăm nom đi về trong ngày e rằng không đủ. Có lẽ cần có một sự quan tâm sâu hơn. Tengo không có căn cứ gì cụ thể để nghĩ như vậy; chỉ là anh cảm thấy thế.

Giữa tháng Muời một, anh xin nghỉ dài ngày. Anh giải thích với trường dự bị rằng cha mình bệnh nặng, anh phải đến đó chăm sóc. Đây không phải lời nói dối. Anh nhờ một người bạn học cùng đại học đến dạy thay. Trong mạng lưới giao tế vốn rất nhỏ bé của Tengo, anh ta là một trong những bạn bè hiếm hoi đến nay vẫn còn duy trì quan hệ. Sau khi tốt nghiệp đại học, họ vẫn giữ liên lạc, tuy mỗi năm chỉ một hai lần. Ngay cả trong khoa Toán đầy rẫy quái nhân ấy, người này vẫn nổi tiếng là một kẻ quái dị và cực kỳ thông minh. Tuy nhiên, sau khi tốt nghiệp anh ta không đi làm, cũng không học lên nghiên cứu sinh, lúc nào hứng lên thì đến trường dự bị của người quen mở dạy toán cho học sinh cấp hai, thời gian còn lại anh ta dùng để đọc đủ loại sách linh tinh, hoặc lên núi câu cá, cuộc sống rất ư nhàn tản. Tengo tình cờ biết được anh ta rất có năng khiếu làm thầy giáo, chẳng qua anh ta không còn hứng thú với tài năng của mình nữa mà thôi. Thêm nữa, anh ta sinh trong gia đình giàu có, nên không cần phải gắng sức làm việc. Trước đây Tengo cũng từng nhờ anh ta dạy thay, học sinh đánh giá rất cao. Tengo gọi điện cho anh ta, giải thích tình hình, anh ta liền nhận lời ngay lập tức.

Tiếp theo còn một vấn đề: Fukaeri đang sống chung với anh ta thì tính sao? Tengo khó lòng quyết được, để cô gái vốn đã rời xa thế tục này ở lại căn hộ trong một thời gian dài liệu có thỏa đáng hay không? Vả lại, cô đang ẩn náu để tránh tai mắt người đời. Anh bèn hỏi thẳng Fukaeri: “Em muốn ở lại đây một mình trông nhà, hay là tạm thời chuyển đến một nơi khác?”

“Anh đi đâu,” Fukaeri nghiêm túc nhìn anh, hỏi.

“Đến thành phố mèo,” Tengo trả lời. “Bố anh đã mất ý thức, hôn mê một thời gian dài rồi. Họ nói chắc ông ấy không sống được bao lâu nữa.”

Chuyện trên giường bệnh xuất hiện nhộng không khí vào buổi hoàng hôn ngày nọ, anh không nhắc đến. Cả chuyện bên trong đó có Aomame đang nằm cũng vậy. Cả chuyện chiếc nhộng không khí ấy giống hệt như Fukaeri miêu tả trong tiểu thuyết đến từng chi tiết nhỏ nhất. Cả chuyện anh âm thầm mong đợi nó xuất hiện lần nữa, cũng không.

Fukaeri nheo mắt, cặp môi mím lại thành đường thẳng, nhìn chằm chằm vào mặt Tengo hồi lâu, tuồng như muốn đọc ra thông tin viết trên đó bằng những con chữ nhỏ xíu. Anh gần như vô thức đưa tay rờ lên mặt mình, nhưng anh không có cảm giác rằng trên đó có viết gì.

“Được,” một lúc sau, Fukaeri gật đầu. “Anh không cần lo cho em. Em ở đây trông nhà cho.” Sau đó cô nghĩ ngợi giây lát, rồi bổ sung thêm: “Trước mắt chưa có nguy hiểm.”

“Trước mắt chưa có nghuy hiểm,” Tengo lặp lại.

“Anh không cần lo cho em,” cô nhắc lại lần nữa.

“Ngày nào anh cũng gọi điện cho em.”

“Đừng bị bỏ lại ở thành phố mèo rồi không về được.”

“Anh sẽ cẩn thận,” Tengo nói.

Tengo đi siêu thị, mua về rất nhiều thực phẩm, như thế thì Fukaeri sẽ không cần ra ngoài mua đồ nữa. Toàn những món chỉ cần xứ lý đơn giản là được. Tengo biết cô gần như không có khả năng nấu nướng, mà cũng không có hứng thú. Anh không muốn sau hai tuần nữa trở về lại thấy đống đồ ăn tươi sống trong tủ lạnh rữa ra nhão nhoét.

Anh nhét quần áo và đồ vệ sinh cá nhân cùng mấy quyển sách, bút và giấy viết vào cái túi nhựa. Như mọi khi, anh lên chuyến tàu nhanh ở ga Tokyo, đổi sang tàu điện phổ thông ở Tateyama, và xuống tàu ở ga thứ hai, Chikura. Anh tới quầy thông tin du lịch ở trước ga tàu điện, tìm một khách sạn giá cả vừa phải. Đang là mùa vắng khách nên rất dễ tìm được phòng trống. Anh trọ ở một lữ quán giản dị chủ yếu phục vụ người đến câu cá ngủ lại. Phòng ốc chật hẹp nhưng được cái sạch sẽ, thoang thoảng mùi chiếu tatami mới. Từ cửa sổ lầu hai có thể nhìn thấy cảng cá. Tiền phòng bao gồm bữa sáng còn rẻ hơn so với dự liệu của anh.

Tengo nói mình chưa biết sẽ ở mấy ngày, tạm thời trả trước ba ngày tiền phòng. Bà chủ lữ quán không phản đối. Bà ta nhẹ nhàng nói rõ với Tengo, lữ quán đóng cửa lúc mười một giờ đêm, và không được đưa phụ nữ vào phòng. Tengo không phản đối. Sau khi ổn định trong phòng, anh gọi điện thoại tới viện điều dưỡng, hỏi cô y tá nghe điện (chính là nữ y tá trung niên mọi khi) rằng anh muốn đến thăm cha vào khoảng ba giờ chiều có được không? Cô y tá trả lời là không có vấn đề gì. “Ông Kawana vẫn ngủ suốt,” cô ta nói.

Cứ vậy, những ngày tháng của Tengo ở thành phố mèo bên bờ biển bắt đầu. Buổi sáng, anh dậy sớm ra bờ biển tản bộ, nhìn những con thuyền đánh cá ra ra vào vào ở cảng, sau đó trở về lữ quán dùng bữa sáng. Món ăn đưa lên lần nào cũng giống lần nào, mỗi ngày đều là cá ngừ khô nướng với trứng rán, một quả cà chua cắt làm tư, rong biển tẩm gia vị, xúp miso và cơm tẻ, nhưng không hiểu sao ăn lại rất ngon. Ăn sáng xong, anh ngồi bên chiếc bàn nhỏ viết tiểu thuyết. Đã lâu lắm anh không viết văn bằng bút máy nên cảm thấy viết thế này thật thích. Làm việc ở một nơi xa lạ, tách ra khỏi cuộc sống thường nhật, đổi gió một chút, cũng không hề tệ chút nào. Tiếng động cơ đơn điệu của những con thuyền đánh cá trở về vẳng lại từ phía cảng. Tengo thích âm thanh ấy.

Anh viết về câu chuyện xảy ra trong thế giới có hai mặt trăng cùng lơ lửng trên bầu trời. Đó là thế giới có Người Tí Hon và nhộng không khí. Anh mượn thế giới ấy từ Nhộng không khí của Fukaeri, nhưng giờ đây nó hoàn toàn biến thành của anh. Khi đối diện với tờ giấy viết, ý thức của anh sống trong thế giới ấy. Đôi lúc, sau khi anh đã đặt bút xuống, rời khỏi bàn, ý thức của anh vẫn ở lại nơi đó. Những lúc như thế, anh liền có một cảm giác rất đặc biệt, tuồng như cơ thể và ý thức sắp sửa tách rời nhau. Ranh giới giữa thế giới hiện thực và thế giới hư cấu trở nên mơ hồ, không thể nhận biết. Nhân vật chính lạc vào thành phố mèo trong câu chuyện hẳn cũng nên trải cảm giác ấy. Trọng tâm của thế giới thoắt cái đã chuyển dịch đến nơi khác, vậy là nhân vật chính (có vẻ như) sẽ mãi mãi không bao giờ lên được đoàn tàu rời thành phố nhỏ ấy nữa.

Mười một giờ anh phải rời phòng để nhân viên dọn dẹp. Khi đến giờ, anh liền dừng bút, ra khỏi lữ quán, thả bước đi tới trước cửa ga, vào quán uống cà phê. Đôi khi, anh cũng ăn một chút sandwich, nhưng hầu hết thời gian anh chẳng ăn gì cả. Anh sẽ tiện tay cầm tờ báo sáng ở đó lên, tỉ mỉ xem xét có bài báo nào liên quan đến mình không. Nhưng anh chẳng tìm thấy gì. Nhộng không khí từ lâu đã biến mất khỏi bảng xếp hạng sách bán chạy, đứng đầu bảng là một cuốn sách hướng dẫn giảm béo có nhan đề Muốn ăn cứ việc ăn, thân hình vẫn yểu điệu. Một cái tên thật oách. Cho dù bên trong toàn là giấy trắng có khi cũng vẫn bán chạy như thường.

Uống xong cà phê và lướt qua hết tờ báo, Tengo ngồi xe buýt đến viện điều dưỡng. Thường vào khoảng từ một giờ rưỡi đến hai giờ là anh đến đó. Lần nào anh cũng đứng ở quầy lễ tân nói chuyện phiếm mấy câu với các y tá. Từ khi Tengo ở lại thị trấn nhỏ và đến thăm nom cha hằng ngày, các y tá đối xử với anh mềm mỏng hơn trước, thái độ tiếp đãi thân thiện hơn, giống như người thân trong gia đình chào đón đứa con phiêu bạt nay đã cải tà qui chính.

Một cô y tá trẻ mỗi lần trông thấy Tengo đều mỉm cười ngượng nghịu. Chừng như cô rất thích anh. Thân hình cô nhỏ nhắn, tóc buộc đuôi ngựa, mắt to, hai má đỏ hồng. Chắc cô chỉ hơn hai mươi. Thế nhưng, từ khi thấy Aomame nằm trong nhộng không khí, lòng Tengo chỉ nghĩ đến một mình Aomame. Đối với anh, những người phụ nữ khác chẳng qua chỉ là cái bóng mờ ngẫu nhiên lướt qua bên cạnh mà thôi. Bóng hình Aomame luôn chiếm lấy một góc trong tâm trí anh. Aomame đang sống ở một nơi nào đó trong thế giới này, anh cảm nhận được điều đó. Chẳng những vậy, rất có thể Aomame đang tìm kiếm anh. Chính vì thế, buổi tối hôm ấy cô mới đi qua một đường hầm đặc biệt để tới gặp anh. Cô cũng chưa hề quên anh.

Nếu những gì mắt mình trông thấy không phải là ảo giác.

Thi thoảng có đôi lúc anh nhớ đến người tình hơn tuổi. Giờ cô ra sao? Trong điện thoại, chồng cô nói, cô đã mất rồi, vì vậy sẽ không đến gặp Tengo nữa. Mất rồi. Cách diễn đạt này đến nay vẫn khiến tâm trạng Tengo thấp thỏng không yên. Không nghi ngờ gì, rõ ràng là có âm hưởng chẳng lành trong đó.

Vậy mà rốt cuộc sự tồn tại của cô cũng dần biến thành một ký ức xa xăm. Nay hồi tưởng lại, những buổi trưa ở bên cô chỉ còn là những sự kiện xảy ra trong quá khứ, diễn ra để nhằm đạt tới những mục đích nào đó. Điều này khiến Tengo cảm thấy mình tội lỗi. Nhưng, không biết từ khi nào, trọng lực đã thay đổi, đã bị chuyển hoán, không thể nào hồi phục nguyên dạng được nữa.

Bước vào phòng bệnh của cha, Tengo ngồi xuống ghế cạnh giường, chào hỏi ngắn gọn. Sau đó anh lần lượt kể rõ từ chập tối hôm qua đến giờ đã làm những gì, theo trình tự thời gian. Đương nhiên là chẳng có chuyện gì to tát. Anh ngồi xe buýt về thị trấn, vào nhà hàng ăn bữa tối đơn giản, uống một chai bia, về lữ quán đọc sách. Anh đi ngủ lúc mười giờ. Sáng sớm, anh dậy đi tản bộ trong thị trấn, ăn sáng, viết tiểu thuyết khoảng hai tiếng. Ngày nào cũng lặp lại những việc giống nhau. Mặc dù thế, Tengo vẫn ngày ngày thuật lại mọi hoạt động của mình cho người đàn ông đang hôn mê ấy nghe, gồm cả những chi tiết cụ thể. Ông không có phản ứng gì. Giống như kể chuyện với một bức tường vậy. Tất cả chẳng qua chỉ là một nghi thức theo thói quen. Có điều, đôi khi sự lặp đi lặp lại đơn thuần cũng có ý nghĩa nhất định. Sau đó Tengo đọc to cuốn sách anh mang đến. Không nhất thiết phải là cuốn cụ thể nào, anh đang đọc dở cuốn nào đến đâu thì đọc tiếp thành tiếng từ đó trở đi mà thôi. Nếu vừa khéo vớ phải một quyển sách hướng dẫn sử dụng máy cắt cỏ bằng điện, chắc anh cũng sẽ đọc lên. Tengo cố đọc bằng giọng rõ ràng, chậm rãi, để người nghe hiểu được dễ dàng. Đây là điều duy nhất mà anh lưu ý.

Sấm chớp bên ngoài càng lúc càng dữ dội, trong khoảnh khắc, ánh sáng xanh lam chiếu sáng rực cả con đường, nhưng không nghe thấy tiếng sấm. Hoặc có lẽ sấm đang rền, nhưng vì gã còn đang ngơ ngẩn nên không nghe thấy. Trên đường, nước mưa chảy thành những gợn sóng lăn tăn, chảy mãi không ngừng. Những người khách tựa hồ đạp lên nước mưa, nườm nượp không ngớt đi vào trong tiệm.

Thấy người bạn đi cùng chỉ mãi nhìn chăm chăm vào mặt người khác, trong lòng gã lấy làm lạ lắm, nhưng từ nãy đã không nói gì rồi. Xung quanh lao xao ồn ào, tuồng như những người khách ngồi cùng từ bên cạnh, từ phía đối diện chen qua bên này, khiến nguồi ta không thở nổi.

Không biết có ai đang ho khan, hay là thức ăn nghẹn trong cổ họng, âm thanh nghe thật kỳ quái, nghe khục khà khục khặc như tiếng chó.

Đột nhiên một tia sét mãnh liệt bừng lên, ánh sáng màu lam bắn thẳng vào trong, chiếu lên những người trong căn nhà đất. Rồi một tiếng sấm lớn, tuồng như trần nhà vỡ toác ra. Gã giật mình hốt hoảng đứng bật dậy, và những người khách trong gian nhà đất thảy đều ngoảnh mặt về phía gã. Không biết những gương mặt ấy là chó hay cáo nữa, tóm lại, đều là súc vật mặc quần áo, có vài con thè cái lưỡi dài ra liếm xung quanh miệng[1].

[1] Đoạn này trích từ bài “Nhật ký Đông Kinh” trong Bách Văn Tùy Bút 1.

Đọc tới đây, Tengo nhìn gương mặt cha, nói: “Hết rồi.” Tác phẩm kết thúc ở đây.

Không có phản ứng.

“Bố có cảm tưởng gì không?”

Cha anh vẫn không đáp.

Có khi, Tengo đọc bản thảo tiểu thuyết viết được hồi sáng cho ông nghe, đọc xong anh lấy bút bi ra sửa lại những chỗ không vừa ý, rồi đọc lại phần vừa sửa. Nếu vẫn chưa hài lòng, anh lại bắt tay sửa chữa, rồi đọc thêm một lần nữa.

“Những chỗ sửa hay hơn nhiều rồi,” anh nói, tựa như mong cha đồng ý. Nhưng đương nhiên, cha anh không bày tỏ ý kiến gì. Không nói “đúng là hay hơn nhiều,” cũng chẳng nói “không phải, như lúc đầu vẫn hơn,” hoặc “chẳng có gì khác nhau cả.” Mí mắt ông sụp xuống, che đi đôi mắt hõm sâu, giống như một ngôi nhà bất hạnh, nặng nề kéo cửa cuốn xuống vậy.

Đôi lúc, Tengo đứng lên khỏi ghế, vươn mình vài cái, đi tới trước cửa sổ ngắm nhìn phong cảnh bên ngoài. Sau nhiều ngày liên tục âm u, hôm nay trời mưa. Cơn mưa chiều dai dẳng thấm đẫm cả rừng thông chắn gió, thoạt nhìn chỉ thấy âm u nặng nề. Hôm đó, anh không thể nghe thấy tiếng sóng, cũng không có gió, duy có những hạt mưa từ trên không rơi thẳng xuống. Lũ chim màu đen kết đàn bay qua màn mưa. Trái tim lũ chim cũng tối tăm, và ẩm ướt. Trong phòng bệnh cũng ẩm sì. Gối, sách vở, cái bàn, tất cả đồ đạc đều mang hơi ẩm. Thế nhưng, chẳng liên quan gì đến thời tiết, hơi ẩm, tiếng gió và tiếng sóng, cha anh vẫn chìm sâu trong giấc ngủ say kéo dài không dứt. Sự tê liệt, hồ như chiếc áo cà sa của đấng Đại từ Địa bi, bao bọc lấy thân ông. Tengo nghỉ ngơi một chốc, rồi lại tiếp tục đọc sách. Trong căn phòng chật hẹp ẩm thấp này, ngoài việc đó ra, anh chẳng thể làm được gì nữa.

Đọc đến khi phát chán rồi, Tengo lặng lẽ ngồi đó, nhìn thân hình say ngủ của cha, suy đoán xem trong bộ não ông đang xảy ra chuyện gì. Ở nơi đó… bên trong hộp sọ cứng rắn như chiếc đe sắt ấy… rốt cuộc tiềm tàng một ý thức có hình thái như thế nào? Hay là nơi đó cũng đã trống huếch? Giống như một căn nhà bị bỏ lại, đồ đạc đã chuyển hết đi, những con người từng sống ở đó cũng biến mất không tăm tích, không để lại dấu vết? Nhưng dù là thế, trên tường, trên trần nhà, chắc chắn vẫn còn in dấu những ký ức và cảnh tượng lúc này hay lúc khác. Những thứ được bồi đắp qua năm rộng tháng dài không dễ gì bị hút vào hư không như thế. Có lẽ, khi nằm trên chiếc giường bệnh giản dị trong bệnh việc điều dưỡng bên bờ biển này, ở bóng tối tĩnh lặng của căn phòng trống nơi sâu thẳm nội tâm, cha anh vẫn đang bị bủa vây giữa những cảnh tượng và ký ức mà người khác chẳng thể trông thấy đó.

Không lâu sau, cô y tá trẻ má đỏ hây hây bước vào, nhoẻn miệng cười với Tengo, sau đó cô đo nhiệt độ cho cha anh, kiểm tra lượng dịch truyền còn lại, xác nhận lượng nước tiểu tích tồn. Cô dùng bút bi viết một chuỗi con số vào sổ. Động tác của cô thuần thục và nhanh nhẹn, theo bài bản được huấn luyện. Quan sát loạt động tác liền mạch ấy, Tengo băn khoăn không hiểu tâm thái của cô ra sao khi phải sống ở viện điều dưỡng nhỏ bên bờ biển này, chăm sóc những người già ngây dại không còn chút hy vọng trị liệu nào nữa? Cô trông trẻ trung và khỏe mạnh. Bên dưới bộ đồng phục trắng hồ cứng, bầu ngực và vòng eo nhỏ nhắn nhưng căng tràn, Trên cần cổ mịn màng, những sợi lông tơ ánh lên sắc vàng lóng lánh. Tấm bảng tên bằng nhựa đeo trước ngực có ghi Adachi.

Rốt cuộc cái gì đã đưa cô đến đây, đến nơi xa xôi mà sự quên lãng và cái chết từ từ đến ngự trị trên mọi thứ này? Tengo biết cô là một y tá giỏi giang cần nhẫn, tuổi còn trẻ, lại thạo việc. Nếu muốn, cô hoàn toàn có thể làm việc ở những cơ sở chữa bệnh loại khác, những nơi còn có sức sống hơn, thú vị hơn, Tại sao cô lại chọn cái nơi buồn tẻ thế này? Tengo rất muốn biết nguyên do và quá trình ấy. Nếu anh hỏi, chắc hẳn cô sẽ trả lời thẳng thắn. Anh có cảm giác như thế. Nhưng Tengo nghĩ, tốt nhất là chớ nên dây dưa với những chuyện đó. Dù sao chăng nữa, nơi này xét cho cùng là thành phố mèo. Sẽ có một ngày anh phải lên tàu hỏa để trở lại thế giới của mình.

Sau khi hoàn thành những công việc được quy định, cô y tá gấp sổ lại, bẽn lẽn mỉm cười với Tengo.

“Không có gì thay đổi. Giống như mọi ngày.”

“Tức là tình hình ông ấy ổn định,” Tengo cố ý nói bằng giọng vui vẻ. “Nói theo chiều hướng tích cực.”

Trên mặt cô hiện ra nụ cười nửa như áy náy không yên, cô nghiêng nghiêng đầu, ánh mắt hướng về phía quyển sách gấp lại đặt trên đầu gối anh. “Anh đang đọc quyển sách đó cho ông ấy à?”

Tengo gật đầu. “Củng không biết ông ấy có nghe được không nữa.”

“Dù là thế, tôi thấy cũng là chuyện tốt mà,” cô y tá nói.

“Tốt cũng được mà xấu cũng được, đằng nào tôi cũng không nghĩ ra mình có thể làm gì khác.”

“Nhưng mà, không phải người nào cũng làm được như anh đâu.”

“Đại đa số mọi người không giống tôi, người ta đều bận bịu với cuộc sống của mình,” Tengo nói.

Cô y tá định nói gì đó, nhưng do dự, và rốt cuộc chẳng nói gì. Cô nhìn cha Tengo đang thiêm thiếp, rồi lại nhìn sang Tengo.

“Anh hãy giữ gìn,” cô nói.

“Cám ơn nhiều,” Tengo trả lời.

Sau khi y tá Adachi ra ngoài, Tengo đợi một lúc, rồi bắt đầu đọc tiếp.

Đến sẩm tối, cha anh được đặt lên giường bánh xe đẩy vào phòng kiểm tra, Tengo bèn xuống căng tin uống trà, dùng điện thoại công cộng ở đó gọi về cho Fukaeri.

“Có gì thay đổi không?” Tengo hỏi.

“Chẳng có gì thay đổi cả,” Fukaeri đáp. “Giống như bình thường.”

“Ở chỗ anh cũng chẳng có gì thay đổi. Ngày nào cũng làm những việc giống nhau.”

“Nhưng thời gian vẫn đang tiến về phía trước.”

“Đúng thế,” Tengo nói. “Thời gian mỗi ngày đều tiến về phía trước hai mươi bốn tiếng đồng hồ.”

Mà sự vật hễ đã tiến về phía trước thì không thể trở lại chỗ cũ nữa.

“Vừa nãy mấy con quạ lại đến,” Fukaeri nói, “con quạ đen to lắm.”

“Con quạ đen ấy cứ chập tối là lại bay đến cửa sổ nhà anh.”

“Ngày nào cũng làm những việc giống nhau.”

“Đúng thế,” Tengo trả lời, “giống như chúng ta vậy.”

“Nhưng nó chẳng nghĩ gì về thời gian cả.”

“Quạ chẳng bao giờ nghĩ ngợi chuyện thời gian đâu. Chắc chỉ con người mới có ý niệm thời gian thôi.”

“Tại sao.”

“Con người lý giải thời gian như một đường thẳng, kiểu như khắc dấu lên một cây gậy vừa dài vừa thẳng ấy, phía trước là tương lai, phía sau là quá khứ, hiện tại là điểm mà chúng ta đang đứng đây. Giống vậy đấy. Em hiểu không?”

“Đại khái.”

“Nhưng trên thực tế, thời gian không phải là một đường thẳng. Nó không có hình dạng gì cả. Xét theo mọi trường nghĩa, nó đều không có hình dạng. Có điều, bộ óc của chúng ta không thể tưởng tượng nổi những thứ không có hình dạng, nên chỉ có thể coi nó là một đường thẳng. Trước mắt, chỉ có con người mới có thể thực hiện kiểu hoán đổi quan niệm này thôi.”

“Nhưng cũng có thể chúng ta sai.”

Tengo ngẫm nghĩ giây lát. “Ý em là, việc coi thời gian như một đường thẳng cũng có thể là sai lầm?”

Không có câu trả lời.

“Đương nhiên là có khả năng này. Có lẽ chúng ta sai và con quạ đúng. Thời gian có thể hoàn toàn không phải là đường thẳng. Có lẽ nó có hình dạng xoắn vặn như cái bánh quẩy,” Tengo nói. “Nhưng mà, con người có lẽ đã như vậy từ mấy chục nghìn năm nay rồi. Họ coi thời gian mãi mãi là một đường thẳng và hành động dựa trên nhận thức cơ bản này, và cho đến nay cũng chưa phát hiện ra cách này có điểm gì không ổn hay mâu thuẫn. Vì vậy, là một quy luật dựa trên kinh nghiệm, có lẽ nó chính xác.”

“Quy luật kinh nghiệm,” Fukaeri nhắc lại.

“Tức là, thông qua nhiều ví dụ thực tế, ta chứng thực một suy luận là chính xác.”

Fukaeri thoáng im lặng. Tengo không biết cô có hiểu được những lời vừa rồi hay không.

“Alô,” Tengo lên tiếng, kiểm tra xem cô có còn ở đó hay không.

“Anh ở đó đến bao giờ,” Fukaeri hỏi, không thêm dấu chấm hỏi.

“Em hỏi anh định ở Chikura đến lúc nào à?”

“Đúng.”

“Anh không trả lời chắc được,” Tengo thành thật trả lời. “Giờ anh chỉ có thể nói, phải ở đến lúc nào làm rõ tình hình thì thôi. Có mấy chuyện anh chưa có rõ lắm, muốn xem tình hình rồi tính tiếp.”

Ở đầu dây bên kia, Fukaeri trầm ngâm không nói. Mỗi khi cô im lặng, đến cả hơi thở cũng biến mất luôn.

“A lô,” Tengo lại lên tiếng gọi.

“Đừng để lỡ tàu hỏa,” Fukaeri dặn.

“Anh sẽ để ý,” Tengo trả lời. “Sẽ không lỡ chuyến tàu nào đâu. Chỗ em vẫn ổn chứ?”

“Vừa nãy có một người đến.”

“Ai cơ?”

“Người của NHK.”

“Nhân viên thu phí của đài NHK à?”

“Nhân viên thu phí,” cô hỏi mà không có dấu chấm hỏi.

“Em nói chuyện với anh ta rồi à?” Tengo hỏi.

“Em không hiểu anh ta nói gì.”

Fukaeri hoàn thoàn không biết NHK là gì. Cô gái này không được trang bị một số kỹ năng thường thức về xã hội, dù cơ bản nhất.

Tengo nói: “Kể ra thì dài dòng lắm, trên điện thoại không thể nói rõ được. Giải thích đơn giản thì đó là một tổ chức khổng lồ, có rất nhiều người làm việc ở đó. Bọn họ tháng tháng lại đến các gia đình trên khắp Nhật Bản thu tiền. Có điều, anh và em không cần phải nộp. Vì chúng ta không nhận được bất cứ thứ gì từ họ cả. Dù sao thì, em không mở cửa đấy chứ?”

“Không mở cửa. Như anh nói.”

“Vậy là tốt rồi.”

“Nhưng anh ta bảo chúng ta là kẻ trộm.”

“Em không cần quan tâm đến những lời ấy,” Tengo nói.

“Chúng ta chẳng ăn trộm gì cả.”

“Tất nhiên. Em cũng thế mà anh cũng thế, chúng ta chưa bao giờ làm việc xấu.”

Fukaeri dừng ở đầu dây bên kia.

“A lô,” Tengo gọi.

Fukaeri không trả lời. Có lẽ cô đã gác máy rồi, nhưng anh không nghe thấy âm thanh nào giống như thế.

“A lô,” Tengo lại gọi lần nữa, lần này giọng anh lớn hơn một chút.

Fukaeri khẽ đằng hắng. “Anh ta biết rất nhiều về anh.”

“Người thu phí ấy hả?”

“Đúng. Người của NHK.”

“Và anh ta còn bảo em là kẻ trộm nữa.”

“Không phải bảo em.”

“Vậy tức là anh rồi?”

Fukaeri không trả lời.

Tengo nói: “Nói gì thì nói, nhà anh không có ti vi, anh chẳng ăn trộm thứ gì của NHK cả.”

“Nhưng tại vì không mở cửa nên anh ta nổi giận.”

“Mặc kệ anh ta, cho anh ta đi mà nổi giận. Nhưng bất kể người ta nói gì, tuyệt đối không được ở cửa đâu đấy nhé.”

“Em không mở cửa.”

Dứt lời, Fukaeri đột ngột gác máy. Có lẽ không phải đột ngột. Với cô, đặt ống nghe xuống vào thời điểm này là hết sức tự nhiên, hợp tình hợp lý. Nhưng, trong tai Tengo, gác máy kiểu đó lại là “đột ngột.” Tóm lại, về chuyện Fukaeri đang nghĩ gì, nghĩ như thế nào, cảm nhận ra sao, có cố đoán cũng chỉ uổng công phí sức. Điểm này Tengo hiểu rõ. Dựa trên quy luật kinh nghiệm.

Tengo đặt ống nghe xuống, trở về phòng bệnh của cha.

Cha anh vẫn chưa được đưa về. Trên tấm ga trải giường bệnh vẫn còn lưu lại vệt lõm của ông. Không có nhộng không khí nào cả. Trong gian phòng bị sương chiều nhàn nhạt mà lạnh lẽo làm nhuốm vẻ u ám, chỉ còn sót lại chút dấu vết nhỏ của con người vừa ở trong phòng cách đây không lâu.

Tengo thở dài một tiếng, ngồi xuống ghế. Anh đặt hai tay lên đầu gối, nhìn chằm chằm vào vệt lõm trên ga trải giường thật lâu. Sau đó anh đứng dậy, bước tới cạnh cửa sổ ngó ra ngoài. Mưa đã tạnh, mây thu muộn kéo một đường thẳng tắp phía trên khu rừng chắn gió. Dường như đã lâu lắm rồi không có ráng chiều đẹp như vậy.

Tại sao nhân viên thu phí của đài NHK lại “biết rất nhiều về anh?” Tengo không biết. Lần trước nhân viên thu phí của đài NHK đến thu tiền là vào gần một năm trước. Khi đó, anh đứng ngoài cửa lịch sự nhã nhặn giải thích trong nhà không có tivi, bản thân anh không bao giờ xem truyền hình. Tay nhân viên thu phí nửa tin nửa ngờ, nhưng chỉ cằn nhằn mấy câu móc máy, rồi chẳng nói gì thêm mà bỏ về luôn.

Hôm nay cũng là tay nhân viên thu phí đó chăng? Còn nhớ hình như người đó cũng gọi anh là “kẻ trộm.” Nhưng cùng một nhân viên thu phí cách đây một năm thình lình chạy đến, lại bảo “biết rất nhiều” về Tengo, thì hơi kỳ lạ một chút. Hai người chẳng qua chỉ đứng trước cửa nói chuyện năm phút mà thôi.

Được rồi, mặc xác nó, Tengo nghĩ. Quan trọng là Fukaeri không mở cửa. Nhân viên thu phí chắc sẽ không đến nữa. Hoàn thành được công việc định mức bọn họ đã mệt chết đi rồi, chẳng hơi đâu mà tranh cãi với những người từ chối nộp tiền. Vì vậy, để tiết kiệm sức lực, họ sẽ vòng tránh khu vực phiền phức, chỉ thu phí ở những nơi dễ thu hơn.

Tengo nhìn lại về phía vết lõm cha anh để lại trên giường, nhớ ra ông từng đi hỏng rất nhiều giày. Ngày qua ngày bôn ba trên tuyến đường thu phí, trong bao tháng năm đằng đẵng cha anh đã đi hỏng vô số giày. Đôi nào cũng giống hệt đôi nào. Màu đen, đế dày, loại da rẻ tiền cực kỳ thực dụng. Chúng chịu đủ giày vò, bị làm cho rách rưới tơi tả, bung ra, mòn vẹt, đế sau vẹo đi. Hồi nhỏ, mỗi khi thấy đôi giày biến dạng một cách ghê gớm như thế, Tengo không khỏi đau lòng. Anh không thương cho cha, mà thương cho những chiếc giày. Những chiếc giày ấy làm anh nghĩ đến lũ súc vật lao dịch đáng thương bị lợi dụng một cách vô cảm hết lần này đến lần khác, lúc nào cũng cận kề cái chết.

Nhưng nghĩ kỹ lại, giờ đây cha anh chẳng phải giống như một con vật lao dịch đang cận kề cái chết hay sao? Chẳng phải cũng hệt như đôi giày da bị mài cho mòn vẹt hay sao?

Tengo lại hướng ánh mắt ra ngoài cửa sổ, nhìn ráng mây phía trời Tây từ từ sậm dần. Anh nhớ đến cái nhộng không khí phát ra ánh sáng xanh trắng nhàn nhạt, nhớ đến Aomame thời thiếu nữ đang ngủ say trong đó.

Cái nhộng không khí ấy còn xuất hiện ở đây nữa không?

Hình dạng của thời gian thực sự là đường thẳng ư?

“Có vẻ như hết cách rồi,” Tengo nói với bức tường. “Quá nhiều biến số. Cho dẫu là thần đồng xưa kia thì cũng không sao giải đáp được.”

Đương nhiên, bức tường không đáp, củng không phát biểu ý kiến, chỉ lặng lẽ ánh lên sắc ráng mây chiều.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 4: Ushikawa


Lưỡi dao cạo Occam [1]

[1] Nguyên lý áp dụng trong triết học và khoa học do nhà triết học William xứ Occam (còn gọi là Okham) đề ra, với nội dung là trong các lý thuyết dùng để diễn dịch một thực kiện, lý thuyết càng đơn giản càng có khả năng đúng đắn.

Người phụ nữ lớn tuổi sống trong ngôi biệt thự ở Azabu có thể dính líu đến vụ ám sát lãnh tụ của Sakitage dưới một hình thức nào đó, Ushikawa không sao tiếp nhận được ý nghĩ này. Y đã điều tra hết thảy mọi thứ về người đàn bà ấy. Bà là một nhân vật có địa vị xã hội, tiếng tăm lừng lẫy, nên điều tra cũng không mất mấy công. Ông chồng là nhân vật lớn của giới công thương nghiệp thời hậu chiến, có cả ảnh hưởng trong giới chính trị. Lĩnh cực chủ yếu là bất động sản và đầu tư, đồng thởi cũng đặt chân vào lĩnh vực xung quanh như trung tâm bán lẻ cỡ lớn và ngành vận tải.

Khoảng giữa thập niên năm mươi của thế kỷ 20, sau khi chồng qua đời, bà kế thừa sự nghiệp gia đình. Bà rất có tài kinh doanh, đặc biệt là năng lực dự cảm nguy cơ. Nửa sau thập niên sáu mươi, bà đã nhạy bén phát giác ra lĩnh vực kinh doanh của công ty quá rộng lớn, bèn tranh thủ thời cơ giá cổ phiếu lên cao, lập kế hoạch bán đi cổ phần của mấy ngành nghề, dần dần thu nhỏ quy mô tổ chức, dồn sức củng cố thực lực của các ngành nghề còn lại. Nhờ thế, khi cơn khủng hoảng dầu mỏ xảy đến không lâu sau đó, công ty mới có thể vượt qua giai đoạn khó khăn với tổn thất nhỏ nhất, tích lũy được một khoản vốn lớn. Bà hiểu rõ làm thế nào để chuyển hóa nguy cơ của người khác thành thời cơ vàng cho bản thân mình.

Hiện nay bà đã rút lui khỏi công việc kinh doanh, và sắp qua tuổi bảy mươi lăm. Bà có của cải dư dật, cho phép bà sống nhàn nhã trong toàn biệt thự rộng rãi, không bị bất cứ ai quấy rầy. Bà sinh ra trong gia đình giàu có, kết hôn với một nhà tư bản, sau khi chồng qua đời lại càng thêm giàu có. Một người phụ nữ như vậy sao có thể nào toan tính mưu sát người khác đây?

Nhưng Ushikawa vẫn quyết định điều tra sâu thêm một bước về người phụ nữ quý phái lớn tuổi này. Một mặt vì y không tìm được đầu mối nào khác ra hồn, mặt khác vì “trung tâm bảo trợ” mà bà đang điều hành có vài điểm khiến y chú ý. Cung cấp miễn phí chốn nương thân cho những phụ nữ nạn nhân của bạo hành gia đình, hành vi này thì không có gì là bất bình thường. Đó là một cống hiến có ích và vững chắc cho xã hội. Bà có nguồn lực tài chính dồi dào, những người đàn bà rơi vào cảnh ngộ ấy ắt hẳn biết ơn bà sâu sắc. Vấn đề là khu nhà ấy được canh phòng quá đỗi thâm nghiêm. Cổng và khóa sắt kiên cố, chó béc giê Đức, lại có tới mấy máy quay giám sát. Ushikawa không thể không cảm thấy ở đây có gì đó hơi quá mức.

Trước tiên, y xác minh lại quyền sở hữu tài sản của mảnh đất và căn nhà nơi bà chủ đang ở. Đây là thông tin công khai, chỉ cần đến toàn thị chính là có thể biết rõ. Đất đai và nhà cửa đều đứng tên cá nhân bà. Không dùng để thế chấp. Đơn thuần và rành mạch. Vì là tài sản cá nhân, tiền thuế tài sản cố định hằng năm tương đối cao. Nhưng với bà, mỗi năm phải nộp một khoản tiền như thế xem ra chẳng thấm tháp gì. Sau này, tiền thuế di sản chắc chắn cũng là một khoản lớn, nhưng bà hầu như chẳng quan tâm. Tình huống này rất hiếm gặp ở các gia đình giàu có như vậy. Theo như Ushikawa biết, chẳng ai căm ghét việc nộp thuế hơn những kẻ lắm tiền.

Sau khi chồng chết, bà sống lẻ loi một mình trong tòa biệt thự rộng rãi ấy. Nói là sống một mình, song thật ra cũng có mấy người giúp việc ở đó. Bà có hai đứa con, con trai trưởng kế thừa gia nghiệp, đẻ được ba đứa cháu trai. Con gái lớn đi lấy chồng, đã ốm chết từ mười lăm năm trước, không có con cái.

Thông tin ở mức độ này thì không khó tìm. Nhưng khi tiến thêm một bước, muốn thâm nhập tìm hiểu thân thế cá nhân của bà, Ushikawa đột nhiên đụng phải tường. Mọi con đường đi tới phía trước đều bị bịt kín. Tường cao ngất, cửa lắp mấy lần khóa. Điều duy nhất Ushikawa tìm hiểu được là người phụ nữ này hoàn toàn không có ý định để bí mật riêng tư của mình lộ ra trước con mắt tò mò của công chúng. Có vẻ bà đã bỏ ra tương đối nhiều công của vì chuyện này. Bà không trả lời bất cứ câu hỏi nào, không phát ngôn bất cứ điều gì. Dù đã lùng sục tư liệu đến thế nào chăng nữa, y cùng không sao tìm được ảnh của bà.

Trong niên giám điện thoại của quận Minato có đăng ký tên bà. Ushikawa thử gọi vào số ấy. Tác phong của y làm chuyện gì cũng đều thử tiếp cận chính diện một lần. Chuông vừa đổ một tiếng, liền có một người đàn ông nghe máy. Ushikawa dùng tên giả, xưng tên một công ty chứng khoán nào đấy, rồi nói: “Tôi xin được hỏi ý kiến bà chủ về ngân sách đầu tư hiện tại.”

Bên kia đáp: “Bà chủ không nghe điện thoại. Mọi việc đều do tôi xử lý.” Giọng nói đầy vẻ công vụ, nghe cứ như lắp ráp bằng máy móc. Ushikawa liền nói: “Theo quy định của công ty, những nội dung này chỉ có thể nói với chính khách hàng, không thể cho người khác biết. Nếu đã vậy, chúng tôi xin phép gửi tài liệu tới theo đường bưu điện, có thể mất mấy ngày.” Bên kia trả lời, “Phiền anh vậy.” rồi tắt máy.

Không nói chuyện được với bà chủ, Ushikawa cũng chẳng nản lòng. Vốn dĩ y cũng không trông đợi làm được đến mức ấy. Y chỉ muốn biết, để bảo vệ bí mật riêng tư, rốt cuộc bà cảnh giác đến mức nào. Mức độ cảnh giác cực cao. Biệt thự của bà dường như được những mấy người bảo vệ nghiêm ngặt. Y cảm thấy rõ điều này qua giọng điệu của người đàn ông trả lời điện thoại kia… chắc là thư ký của bà chủ. Danh bạ điện thoại có tên của bà, nhưng số người có thể trực tiếp nói chuyện với bà rất ít ỏi. Tất cả những người khác đều bị đối xử giống như lũ kiến đang kiếm cách chui vào lọ đường, thảy đều bị xua đuổi không hề khách khí.

Ushikawa giả làm người đi tìm nhà cho thuê, ghé vào các công ty môi giới bất động sản ở gần đó, khéo léo hỏi dò tình hình của căn nhà được dùng làm nhà bảo trợ kia. Tuyệt đại đa số các công ty môi giới thậm chí còn không biết ở địa chỉ ấy có một khu nhà như thế. Ở Tokyo, khu vực này được coi là khu nhà ở cao cấp, nên các đại lý này chỉ thụ lý các sản nghiệp giá cao, chẳng ai có hứng thú gì với một căn nhà hai tầng bằng gỗ. Với lại, bọn họ chỉ cần liếc qua tướng mạo và cách ăn mặc của Ushikawa là liền mặc xác y ở đó. Một con chó què chân, bị mắc mưa ướt sũng, toàn thân ghẻ lở, đứt đuôi, cà thọt đi vào qua khe cửa có khi còn được họ đối đãi hòa nhã hơn.

Ushikawa tưởng như đã tuyệt vọng đến nơi thì chợt có một công ty môi giới bất động sản nhỏ xem chừng đã kinh doanh ở khu vực này từ rất lâu thu hút sự chú ý của y. Ông già sắc mặt vàng vọt ở văn phòng ấy thốt lên, “Ồ, chú nói cái chỗ đó đấy à,” rồi chủ động bắt chuyện với y. Người này có vẻ ngoài khô quắt, trông như xác ướt loại hai, nhưng tỏ tường mọi sự ở khu này, và lại đang mong ngóng có người đến để nói chuyện.

“Căn nhà ấy thuộc quyền sở hữu của bà vợ ông Ogata đấy, phải rồi, hồi trước có để cho thuê. Tại sao bà Ogata lại có một căn nhà như thế thì tôi cũng chẳng biết. Họ không phải loại người sống bằng tiền thuê nhà. Chắc để làm chỗ ở cho kẻ ăn người ở trong nhà. Nay thì không hiểu như thế nào nữa, hình như là để cho đám phụ nữ bị bạo hành gia đình tạm trú, kiểu như một dạng chùa Đoạn Duyên[2] ấy. Dù gì thì cũng không phải là chỗ kiếm chác của đám môi giới nhà đất.”

[2] Chỉ Shõkozan Tõkei-ji, còn gọi là Kakekomi-dera hay Enkiri-dera, một ngôi chùa ở thành phố Kamakura, Nhật Bản, thành lập từ năm 1285 và nổi tiếng là nơi trú ẩn cho những người phụ nữ bị chồng bạo hành.

“Chậc chậc, chùa Đoạn Duyên?” Ushikawa nói, đoạn mời ông già một điếu Seven Stars. Ông già nhận điếu thuốc, để Ushikawa bật lửa châm thuốc cho mình, rít một hơi dài ra chiều thơm ngon lắm. Được người hút ngon lành thế này, e là ngay cả điếu thuốc cũng cảm thấy thỏa lòng ấy chứ, Ushikawa thầm nhủ.

“Đúng đó, đám đàn bà con gái bị chồng tẩn, mặt mũi sưng vù phải trốn ra ngoài thảy đều nương áu ở đó. Tất nhiên rồi, không mất một xu thuê phòng.”

“Kiểu như cống hiến cho xã hội?” Ushikawa nói.

“Đúng rồi, chính thế đấy. Có một căn nhà nhỏ để trống không dùng đến, họ mang ra giúp những người gặp khó khăn. Dù gì thì cũng là nhà giàu tiền nhiều như nước cơ mà, hơi đâu mà lo chuyện được mất, muốn làm gì cứ thoải mái mà làm. Đâu có giống đám dân thường như tôi với chú.”

“Nhưng mà sao bà Ogata lại làm mấy chuyện này? Liệu có nguyên nhân gì không nhỉ?”

“Ai mà biết được chứ. Đằng nào thì người ta là nhà giàu cơ mà, chắc là do sở thích thôi.”

“Kể cả sở thích, chủ động giúp đỡ những người gặp khó khăn chẳng phải là việc tốt sao?” Ushikawa cười toe toét nói. “Có những người tiền nhiều quá tiêu chẳng hết, nhưng không phải ai cũng đều chủ động làm như thế cá đâu.”

“Chuyện này bảo là tốt thì đúng là tốt. Có điều, hồi xưa tôi cũng hay tẩn vợ, nên không xứng nói những lời tốt đẹp kiểu ấy.” Ông nói xong liền ngoác cái miệng móm răng ra cười khùng khục, làm như thường xuyên đánh vợ là một niềm vui đáng để ghi lại trong đời vậy.

“Giờ có bao nhiêu người ở trong ấy nhỉ?” Ushikawa hỏi.

“Ngày nào tôi chẳng đi bộ buổi sáng qua trước cổng, nhưng nhìn từ bên ngoài chẳng thấy gì sất. Nhưng mà, hình như lúc nào cũng có mấy người ở trong đó thì phải. Đàn ông đánh vợ trên đời này hình như nhiều lắm.”

“Những kẻ gây hại luôn đông hơn nhiều so với những người có ích cho đời.”

Ông già lại ngoác miệng cười, nói: “Chú nói cấm có sai. Trên đời này, so với những người làm việc tốt, những kẻ làm trò vớ vẩn đông hơn nhiều lắm.”

Ông già này hình như rất ưa thích Ushikawa, khiến y không khỏi thấy bất an trong dạ.

“Bà chủ ấy là người như thế nào nhỉ?” Ushikawa làm bộ hờ hững hỏi.

“Bà Ogata ấy à? Tôi cũng chẳng rõ lắm đâu.” Ông già nhíu hai hàng lông mày lại, trông như hồn cây biến thành tinh, rồi đáp. “Bà chủ này sống lặng lẽ lắm. Tôi làm cái nghề này ở đây bao nhiêu năm mà cũng chỉ thỉnh thoảng mới trông thấy bà ấy một lần từ đằng xa thôi. Mỗi khi ra ngoài đều ngồi trên xe có tài xế riêng, đồ đạc đều do người giúp việc đi mua. Có một tay đàn ông hình như là thư ký của bà ấy, hầu như mọi công việc đều do thằng cha đó phụ trách. Người ta vừa có văn hóa lại vừa nhiều tiền, chẳng hơi đâu đi nói chuyện với mấy thằng thấp kém như bọn mình đâu.” Ông già nhăn mày lại, và từ giữa vùng nếp nhăn hiện ra một cái nháy mắt ra hiệu với Ushikawa.

Cái quần thể “mấy thằng thấp kém như bọn mình” xem ra cấu thành từ bộ phận trung tâm gồm có hai người: ông già mặt mũi vàng vọt này và Ushikawa.

Ushikawa hỏi: “Bà Ogata mở cái ‘Trung tâm bảo trợ cho phụ nữ bị xâm hại bạo hành’ này từ lúc nào thế?”

“Ừm, chuyện này tôi cũng không chắc lắm. Mấy cái chuyện chùa Đoạn Duyên đoạn diếc gì đó tôi cũng chỉ nghe người khác nói lại thôi. À, cách đây bốn năm căn nhà nhỏ ấy mới bắt đầu có người ra vào nhiều. Không phải bốn năm thì năm năm, khoảng ấy.” Ông già cầm ly trà lên, làm một ngụm trà lạnh, “từ hồi đó cổng được lắp mới, bảo vệ cũng được tăng cường. Nói gì thì nói, là chỗ ẩn náu mà, nếu ai cũng vào được thì những người trong ấy chẳng sống yên thân nổi đâu.”

Ngay sau đó, ông già như thể đột nhiên trở về với hiện thực, đánh giá Ushikawa bằng ánh mắt dò xét. “Vậy là, chú muốn tìm một căn nhà giá thuê hợp lý phỏng?”

“Đúng rồi.”

“Chú đi chỗ khác mà tìm đi. Khu này là khu nhà ở đắt đỏ nhất đấy, kể cả có nhà cho thuê thì cũng là nhắm vào đám người nước ngoài làm việc ở Đại sứ quán thôi. Hồi trước, ở đây cũng có khá nhiều người bình thường không giàu có gì cho lắm, thật ra hồi đầu bọn tôi toàn làm ăn với họ. Nhưng giờ thì lấy đâu ra loại nhà như thế nữa. Thế nên tôi đang tính có khi đóng cửa cái văn phòng này luôn cho xong. Giá đất ở Tokyo cứ không ngừng tăng như điên ấy, các công ty môi giới nhỏ lẻ như chúng tôi đây có cố thế nào cũng không len vào được nữa rồi. Nếu cậu không phải loại lắm tiền đếch biết tiêu vào đâu nữa thì tốt nhất nên đi chỗ khác xem.”

“Tôi xin nghe bác,” Ushikawa đáp. “Chẳng giấu gì bác, tôi đây chẳng có đồng tiền rỗi nào đâu. Để đi chỗ khác tìm xem sao.”

Ông già phun ra một hơi khói kèm theo tiếng thở dài. “Có điều, khi nào bà Ogata qua đời, khu nhà ấy sớm muộn gì cũng mất thôi. Con trai bà ta là một tay rất giỏi làm ăn, ở khu vực đất đai vào hạng nhất này, mảnh đất lại lớn như thế, sao có thể bỏ không đó được chứ? Chắc chắn là sẽ phá dở để xây căn hộ siêu cao cấp rồi. Không khéo ngay từ bây giờ đã đang thiết kế rồi ấy chứ.”

“Nếu thế thì không khí im ắng sang trọng ở đây sẽ chẳng còn nữa rồi.”

“Lại còn không à, rồi chú sẽ chẳng nhận ra đâu.”

“À lại nhắc đến con trai bà ấy, anh ta làm gì vậy?”

“Về cơ bản cũng trong ngành bất động sản. Tính ra thì cũng là đồng nghiệp của tôi đó. Nhưng nói thì nói thế thôi, chuyện làm ăn hai bên khác nhau một trời một vực. Một bên là Rolls-Royce, một bên là xe đạp. Bên kia thì vận dụng tư bản, khiến việc làm ăn đã lớn lại càng lớn hơn gấp bội. Thủ đoạn ấy phải nói là cao minh thật, vắt sạch mỡ không còn một giọt. Còn chúng tôi ở đây thì tí cặn dầu cũng chẳng đến lượt. Thói đời kiểu gì vậy chứ!”

“Vừa nãy tôi đi một vòng ngó nghiêng, chao ôi, thật khiến người ta phải thán phục. Đúng là một khu biệt thự hoa lệ nhất hạng.”

“Còn gì nữa, ở khu này cũng là biệt thự đẹp số một số hai đấy. Cứ nghĩ những cây liễu đẹp đẽ ấy bị chặt sạch sẽ là lại thấy sót hết cả ruột.” Ông già vừa nói vừa lắc lắc cái đầu như thể bi thương lắm lắm, “hy vọng bà Ogata có thể sống lâu thêm vài năm.”

“Đúng thế,” Ushikawa tán đồng.

Ushikawa thử liên lạc với Phòng tư vấn nạn nhân bạo hành gia đình kia. Đáng kinh ngạc là, họ dùng đúng cái tên này đăng ký số trên danh bạ điện thoại. Đây là một tổ chức phi lợi nhuận, hoạt động dựa vào vài luật sư tình nguyện. Trung tâm bảo trợ của bà Ogata hợp tác với tổ chức này. Ushikawa dùng danh nghĩa cơ quan của mình - Hội Chấn hưng Văn học Nghệ thuật Tân Nhật Bản - để xin gặp mặt trực tiếp. Y ngầm ám chỉ mình có thể tài trợ kinh phí hoạt động; thế là hẹn được ngày gặp mặt.

Ushikawa đưa ra danh thiếp của mình (giống như cái đưa cho Tengo), giải thích rằng một trong những mục đích của Hội Chấn hưng là hằng năm chọn ra một tổ chức phi lợi nhuận ưu tú có cống hiến nổi bật để cấp tiền tài trợ. “Phòng tư vấn phụ nữ nạn nhân bạo hành gia đình” đã được đưa vào danh sách tuyển chọn. Tuy y không thể công khai tên họ của nhà tài trợ, nhưng việc sử dụng tiền tài trợ là hoàn toàn tự do; họ chỉ cần giao nộp một bản báo cáo đơn giản vào cuối năm.

Vị luật sư trẻ tuổi tiếp chuyện Ushikawa đưa mắt đánh giá y một lượt, dường như không có ấn tượng tốt đẹp cho lắm. Bộ dạng của Ushikawa không thể làm người gặp mặt y lần đầu có thiện cảm và tin cậy. Tuy nhiên, họ thường xuyên thiếu kinh phí hoạt động, bất cứ sự giúp đỡ nào cũng được hoan nghênh. Vì vậy, dẫu có chút ngờ vực, anh ta vẫn chấp nhận đề nghị của Ushikawa.

“Tôi muốn tìm hiểu thêm về nội dung hoạt động của các vị,” Ushikawa nói. Luật sư bèn nói rõ về quá trình thành lập tổ chức của mình. Ushikawa cảm thấy chủ đề này thật nhàm chán, nhưng lại làm bộ như rất hứng thú lắng nghe. Thi thoảng y lại chọn thời điểm phụ họa vào một hai câu, gật mạnh đầu khen hay, bộ dạng rất tập trung. Câu qua câu lại, tay luật sư cũng dần dần cởi mở hơn với Ushikawa, cảm thấy có lẽ y không đến nỗi đáng ngờ như vẻ bề ngoài. Ushikawa vốn là một kẻ lắng nghe được huấn luyện bài bản, cái vẻ vô cùng thành thực của y lúc lắng nghe nói chuyện bao giờ cũng có thể làm giảm bớt sự ngờ vực của người đối diện.

Y nắm bắt cơ hội, khéo léo âm thầm dẫn hướng chủ đề câu chuyện sang phía “trung tâm bảo trợ.” Y hỏi: khi những phụ nữ đáng thương chạy trốn bạo hành gia đình ấy không tìm được chỗ nương thân thì bọn họ đi đâu đây? Vẻ mặt y hiện ra cảm thông tự đáy lòng, chừng như đang lo lắng cho những người phụ nữ tựa như chiếc lá chao đảo giữa cuồng phong bão tố.

“Để đề phòng tình huống đó, chúng tôi đã chuẩn bị mấy trung tâm bảo trợ,” vị luật sư trẻ tuổi đáp.

“Trung tâm bảo trợ mà anh nói là…”

“Nơi ẩn náu tạm thời. Tuy không nhiều, nhưng dẫu sao cũng có mấy chỗ như thế, do các nhà hảo tâm cung cấp. Trong đó, có người còn dành ra nguyên cả một căn nhà nhỏ.”

“Nguyên cả một căn nhà!” Ushikawa nói với giọng khâm phục không thôi. “Trên đời này đúng là có người hảo tâm như thế cơ à!”

“Đúng vậy. Sau khi hoạt động của chúng tôi được đăng báo, liền có người liên lạc với chúng tôi, tỏ ý sẵn sàng hợp tác theo hình thức nào đó. Không có những người ấy giúp đỡ thì tổ chức này không thể tiếp tục hoạt động được, vì chúng tôi hầu như hoàn toàn phải cậy nhờ vào những người hảo tâm mà.”

“Hoạt động của các vị vô cùng có ý nghĩa,” Ushikawa nói.

Trên gương mặt vị luật sự nở một nụ cười hoàn toàn không còn vẻ đề phòng nữa. Ushikawa lại thêm một lần cảm nhận sâu sắc, chẳng ai dễ gạt hơn những người tin rằng mình đang phục vụ cho sự nghiệp chính nghĩa.

“Giờ có mấy phụ nữ đang sống trong căn nhà đó thế?”

“Tùy lúc, nhưng hiện giờ thì chắc khoảng bốn năm người gì đó,” vị luật sư trả lời.

“Nhà hảo tâm cung cấp căn nhà kia, làm thế nào mà vị ấy bước vào tham gia hoạt động này vậy?” Ushikawa nói. “Tôi nghĩ chắc là phải có cơ duyên nào đó.”

Luật sư nghiêng đầu. “Tôi cũng không rõ lắm. Chỉ là trước đó hình như bà ấy đã một mình thực hiện công việc tương tự rồi. Tóm lại, tất nhiên là chúng tôi rất cảm kích mà tiếp nhận lòng tốt của bà ấy. Nếu đối phương không giải thích, chúng tôi cũng không hỏi dò bằng được lý do làm gì.”

“Đương nhiên rồi,” Ushikawa gật gù. “Nói vậy thì, địa chỉ của trung tâm bảo trợ e là cũng phải bảo mật nhỉ?”

“Đúng. Cần phải đảm bảo an toàn cho các phụ nữ ấy, thêm nữa nhiều nhà hảo tâm cũng không muốn công khai danh tính. Dù gì thì chuyện này cũng dính dáng đến hành vi bạo lực mà.”

Sau đó họ nói chuyện thêm một hồi nữa, nhưng Ushikawa không hỏi dò được thêm thông tin gì có ích qua miệng vị luật sư. Y đã làm rõ được những sự thật sau đây: “Phòng tư vấn phụ nữ nạn nhân bạo hành gia đình” chính thức hoạt động từ bốn năm trước, không lâu sau thì có một “nhà hảo tâm” liên lạc với họ, đề nghị cung cấp một căn nhà nhỏ để làm nơi ẩn náu. Báo chí đã giới thiệu hoạt động của bọn họ, “nhà hảo tâm” này đọc trên báo rồi tìm đến bọn họ. Điều kiện hợp tác là tuyệt đối không được công khai danh tính. Tuy nhiên, lần từ ngọn nguồn mà phán đoán, không phải nghi ngờ gì nữa, “nhà hảo tâm” này chính là bà chủ ở Azabu, trung tâm bảo trợ chính là căn nhà nhỏ bằng gỗ thuộc sở hữu của bà.

“Cảm ơn. Xin lỗi vì đã chiếm dụng thời gian của anh.” Ushikawa chân thành cám ơn người luật sư trẻ có đầy đủ khí chất của một nhà lý tưởng ấy, “xem chừng các vị đang làm một công việc thực chất mà có ích. Tôi sẽ thuật lại những gì anh nói trong lần họp ban trị sự tiếp theo. Chắc sẽ nhanh chóng có hồi âm cho anh. Chúc hoạt động của các vị phát triển tốt hơn nữa.”

Tiếp đó, Ushikawa bắt tay điều tra về cái chết của con gái bà chủ nhà. Cô kết hôn với một quan chức thuộc hàng tinh anh trong Bộ Giao thông Vận tải, vào thời điểm qua đời, cô chỉ mới ba mươi sáu tuổi. Nguyên nhân tử vong không rõ ràng. Không lâu sau khi vợ chết, người chồng rời khỏi Bộ Giao thông Vận tải. Những việc có thể xác minh dừng lại ở đó. Không biết lý do tại sao người chồng lại đột nhiên từ chức, cũng không biết từ sau đó trở đi đường đời của anh ta như thế nào. Chuyện anh ta từ chức có lẽ liên quan đến cái chết của người vợ, cũng có thể không. Bộ Giao thông Vận tải chẳng phải là loại cơ quan hào hứng với việc công khai tin nội bộ cho lớp thị dân bình thường. Thế nhưng, Ushikawa lại có một khứu giác nhạy bén. Ở đây có điểm gì đó không được tự nhiên. Người kia vì mất vợ mà quá đỗi buồn đau, bởi vậy mà từ bỏ sự nghiệp, từ chức, lánh đời, nói kiểu ấy thì dù thế nào Ushikawa cũng chẳng tin.

Theo như Ushikawa tìm hiểu, phụ nữ mới ba mươi sáu tuổi đã bệnh chết không hề nhiều. Dĩ nhiên không phải không có. Cho dù bao nhiêu tuổi, môi trường sống tốt đến chừng nào chăng nữa, con người ta vẫn có khả năng đột nhiên mắc bệnh mà chết. Ung thư, u não, viêm phúc mạc, viêm phổi cấp tính. Cơ thể con người yếu nhược, không thể chống đỡ nổi. Song xét về tỷ lệ, với những người phụ nữ có cuộc sống giàu sang qua đời năm ba mươi sáu tuổi, thì khả năng chết vì tai nạn hoặc tự sát cao hơn là tử vong tự nhiên.

Trước tiên hãy đặt ra một giả thiết, Ushikawa ngẫm ngợi. Cứ theo phép “Lưỡi dao cạo của Occam” trứ danh: Hãy cố tìm cách giải thích càng đơn giản càng tốt. Gạt đi mọi nhân tố vô dụng, hợp nhất tất cả các mạch logic thành một mạch duy nhất để quan sát sự vật.

Hãy coi như con gái bà chủ không chết vì bệnh tật, mà là tự sát. Ushikawa xoa hai bàn tay vào nhau, trầm ngâm suy nghĩ. Che giấu một vụ tự sát bằng một cái chết vì bệnh tật, đó không phải chuyện gì khó khăn, đặt biệt là với những người có thực lực tài chính hùng hậu và sức ảnh hưởng lớn. Tiếp tục suy diễn thêm bước nữa, giả thiết cô con gái gặp phải bạo hành gia đình, tuyệt vọng với đời, vì thế nên tự kết liễu tính mạng mình. Không phải là không có khả năng ấy. Ai cũng biết trên đời này, trong cái đám người được gọi là tầng lớp tinh hoa, có một số kẻ có những tính cách thô bỉ không ai chịu nổi hoặc là những xu hướng tối tăm biến thái, tuồng như họ tự gánh lấy phần đen tối của xã hội nhiều hơn sức họ có thể mang.

Giá sử đúng là có chuyện ấy, người làm mẹ như bà chủ nhà sẽ làm gì? Liệu bà có cho rằng đây là số mệnh an bài, không còn cách nào khác, rồi cứ thế để yên? Không, dứt khoát không có chuyện này. Chắc chắn bà sẽ trả thù kẻ gây ra cái chết cho con gái mình. Giờ Ushikawa đã hiểu bà chủ nhà là người như thế nào. Bà là một phụ nữ thông minh, gan dạ, hiểu biết, một khi đã hạ quyết tâm thì sẽ không để lỡ thời cơ thực hiện quyết tâm ấy. Bà sẵn sàng vận dụng tiền của và ảnh hưởng của mình để trả thù kẻ làm tổn thương và hủy hoại, cuối cùng, thậm chí lấy đi sinh mạng của người mà bà yêu thương.

Ushikawa không biết thực tế bà đã trả thù tay chồng của con gái mình như thế nào. Tung tích của người này đã hoàn toàn tan biến vào không khí. Ushikawa không tin rằng bà đã lấy mạng gã đó. Bà là người cẩn trọng, bình tĩnh, nhìn xa trông rộng, hẳn sẽ không làm gì lộ liễu như thế. Song nhất định bà đã áp dụng một phương thức nào đó rất mạnh mẽ. Vả lại, dù bà đã làm gì đi chăng nữa, khó lòng tưởng tượng bà sẽ để lại dấu vết.

Tới đây, các suy luận về đại thể đều hợp tình hợp lý, tuy không có chứng cứ cụ thể, Tất cả chẳng qua chỉ là các giả thiết dựa trên giả thiết. Thế nhưng, nếu áp theo những giả thiết này, đa số nghi vấn về cơ bản đều có thể dễ dàng giải thích. Ushikawa liếm môi, xoa hai tay vào nhau kêu sột soạt. Thế nhưng, những chuyện từ đó trở đi lại có hơi mơ hồ. Bà chủ đã lập ra trung tâm bảo trợ, để cho lòng mong muốn báo thù của bà thăng cấp lên thành một thứ hữu ích hơn, tích cực hơn. Rồi thì, ở câu lạc bộ thể thao bà hay đến tập, bà làm quen với một nữ huấn luyện viên họ Aomame, và không biết vì duyên cớ gì mà giữa hai người nảy sinh một giao ước tâm linh mật thiết. Vậy là, sau khi chuẩn bị hết sức chu đáo, bà đưa Aomame đến phòng suit của khách sạn Okura, để tiễn lãnh tụ của Sakitage về cõi chết. Không rõ dùng cách gì để giết. Có lẽ Aomame sở trường một phương thức giết người đặc biệt nào đó. Kết quả là, mặc dù được bảo vệ nghiêm ngặt bởi hai vệ sĩ trung thành mẫn cán, Lãnh Tụ vẫn bị sát hại.

Đến bước này, tuy không khỏi có phần khiên cưỡng, nhưng mạch giả thiết vẫn có thể duy trì được. Tuy nhiên, giữa Lãnh Tụ của Sakigate và “Phòng tư vấn phụ nữ nạn nhân bạo hành gia đình” có mối liên hệ như thế nào thì Ushikawa mù tịt. Đến điểm này dòng suy nghĩ của y bị chặn đứng, mạch giả thiết bị một lưỡi dao cạo sắt bén cắt lìa.

Trước mắt, giáo đoàn yêu cầu Ushikawa trả lời hai nghi vấn. Một: Người mưu đồ sát hại Lãnh Tụ là ai? Và hai: Hiện nay Aomame đang ở đâu?

Người điều tra Aomae trước khi diễn ra sự việc chính là Ushikawa. Và y đã kết luận cô hoàn toàn trong sạch. Dù nhìn từ góc độ nào cũng không tìm được điểm gì đáng nghi ngờ ở cô. Nhưng sau khi cô đi, Lãnh Tụ tắt thở. Aomame cũng biến mất, như làn khói bị gió thổi tan đi. Ắt hẳn giáo đoàn đã cực kỳ bất mãn với Ushikawa, cho rằng cuộc điều tra của y còn xa mới được gọi là tới nơi tới chốn.

Thực ra, y đã tiến hành điều tra hết sức cẩn thận không khác gì những lần trước. Đúng như lời y nói với Đầu Trọc, về công việc y tuyệt đối không phải loại cẩu thả lười nhác. Không kiểm tra danh sách cuộc gọi trong điện thoại đúng là một sơ hở, nhưng trừ phi trong tình huống cực kỳ đáng ngờ, còn bình thường y không dùng đến biện pháp này. Mà, theo điều tra của y, Aomame không hề có điểm nào khiến người khác nghi ngờ.

Nói tóm lại, Ushikawa không thể để bọn họ cứ khó chịu với mình mãi được. Bọn họ chi tiền rất sộp, nhưng lại là một đám người nguy hiểm. Chỉ riêng việc Ushikawa biết chuyện thi thể của Lãnh Tụ đã được bí mật xử lý cũng đủ để y trở thành nhân vật nguy hiểm đối với bọn họ rồi. Y phải tìm được cách gì đó rõ ràng cụ thể để cho bọn họ biết mình là người hữu dụng, đáng để giữ lại trên đời.

Không có chứng cứ cụ thể nào chứng tỏ bà chủ ở nhà Azabu có dây vào âm mưu sát hại Lãnh Tụ. Trước mắt, đây chỉ là thuần túy suy đoán. Thế nhưng, trong căn biệt thự
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 5: Aomame


Dẫu có nín thở im lặng bao lâu

Đối với Aomame, bị nhốt ở một nơi, sống cô độc và đơn không phải là chuyện gì đau khổ. Buổi sáng nàng dậy lúc sáu rưỡi, ăn bữa sáng đơn giản. Tốn chừng một tiếng để giặt ủi quần áo, quét nhà. Nàng dành ra một tiếng rưỡi buổi sáng sử dụng các thiết bị Tamaru gửi đến để tập trung hoạt động cơ thể với hiệu suất cao. Là huấn luyện viên chuyên nghiệp, nàng biết rõ hằng ngày nên kích thích từng phần cơ bắp ra sao. Nàng cũng hiểu mức độ vận động đạt đến chừng nào thì có ích, vượt qua mức nào thì trở nên quá sức.

Bữa trưa nàng ăn chủ yếu xa lát rau và hoa quả. Buổi chiều, nhìn chung nàng ngồi trên sofa đọc sách, ngủ một giấc ngắn. Lúc chập tối, nàng dành khoảng một tiếng nấu cơm, ăn xong bữa tối trước sáu giờ. Trời vừa sập tối là nàng đi ra ban công, ngồi trên chiếc ghế làm vườn trông chừng sân chơi bên kia đường. Sau đó, nàng đi ngủ lúc mười giờ rưỡi. Cuộc sống cứ lặp đi lặp lại, nhưng nàng không cảm thấy như vậy là nhạt nhẽo.

Tính cách nàng vốn đã không giỏi xã giao. Dù suốt thời gian dài không gặp ai, không nói chuyện với ai, nàng cũng không cảm thấy bất tiện. Hồi học tiểu học, gần như nàng chưa bao giờ nói chuyện với bạn cùng lớp. Nói chính xác hơn, trừ trường hợp bắt buộc, không thì chẳng ai nói chuyện với nàng cả. Trong lớp học ấy, Aomame là một loại khác, “khó hiểu,” là thứ đáng bị bài trừ và coi như không tồn tại. Nàng cảm thấy chuyện này thật bất công. Nếu như bản thân nàng có lỗi lầm, có vấn đề, thì bị xích cũng đành chịu. Nhưng sự thật không như thế. Trẻ con muốn sinh tồn được thì chỉ có cách ngoan ngoãn nghe theo lời bố mẹ. Vì vậy, nàng mới nhất thiết phải lớn tiếng cầu nguyện trước khi ăn, mới theo mẹ đi khắp phố phường khuyên người ta nhập hội vào mỗi Chủ nhật, mới từ chối tham gia những buổi đi bộ đường dài đến chùa chiền hay đền thờ Thần đạo vì lý do tôn giáo, mới ngăn cản tổ chức tiệc Giáng sinh, mới không lời oán thán dẫu bị bắt phải mặc quần áo cũ của người khác. Thế nhưng, lũ trẻ xung quanh nàng không hiểu chuyện ấy, mà cũng chẳng muốn tìm hiểu, chỉ một mực cảm thấy khó chịu. Ngay cả thầy cô giáo cũng cảm nhận được rõ ràng sự tồn tại của nàng khiến những người xung quanh khó xử. Đương nhiên, Aomame cũng có thể nói dối với bố mẹ, bảo trước khi ăn đã cầu nguyện mà thực ra lại không. Nhưng nàng không muốn thế. Thứ nhất là vì, trước mặt Chúa, cho dù Chúa có tồn tại hay không, nàng không muốn nói dối, sau nữa vì nàng cũng thầm oán giận đám bạn học kia. Nếu các người đã ghét tôi như thế thì cứ ghét cho thoải mái đi, Aomame nghĩ. Kiên trì việc cầu nguyện chẳng khác nào sự khiêu chiến với bọn chúng. Lẽ phải nằm ở phía nàng. Buổi sáng thức dậy, mặc quần áo đi học là một sự thống khổ với nàng. Vì quá căng thẳng, nàng thường đau bụng, thỉnh thoảng còn nôn mửa, thậm chí còn phát sốt, thấy đau đầu, tay chân tê liệt. Thế nhưng nàng không bỏ học một ngày nào. Chỉ cần bỏ một ngày, chắc chắn sẽ có lần thứ hai. Cứ như thế hết lần này đến lần khác, sợ rằng nàng sẽ chẳng bao giờ đi học nữa. Thế có nghĩa là nàng đã thua đám bạn học và thầy cô giáo. Trong lớp học không còn nàng nữa, bọn họ chắc chắn sẽ thở phào nhẹ nhõm. Aomame không muốn để đám người ấy được thở phào. Vì vậy, dẫu khó chịu đến mấy, dẫu phải bò lê bò lếch, nàng cũng phải đến trường, sau đó cắn chặt răng âm thầm chịu đựng. So với môi trường khắc nghiệt thuở ấy thì việc ẩn trốn trong căn hộ sạch sẽ, không nói chuyện với bất kỳ ai đối với Aomame thật không nhằm nhò gì. So sánh với nỗi khổ khi những người xung quanh đều nói cười vui vẻ, chỉ mình mình trầm lắng ở nơi chỉ có mỗi mình là thoải mái hơn nhiều, tự nhiên hơn nhiều. Huống hồ, nàng còn có sách để đọc. Nàng đã bắt đầu đọc bộ sách của Proust mà Tamaru gửi đến, nhưng chú ý mỗi ngày đọc không quá hai mươi trang. Nàng dành thời gian nghiền ngẫm từng chữ, cẩn thận đọc đúng hai mươi trang. Sau khi đọc hết số trang quy định, nàng liền cầm quyển khác lên. Và trước khi đi ngủ, nhất định nàng phải đọc mấy trang Nhộng không khí. Vì đó là những gì Tengo viết, nên ở chừng mực ý nghĩa nào đó đây là một bản hướng dẫn để nàng sinh tồn trong năm 1Q84 này.

Nàng cũng nghe cả nhạc nữa. Bà chủ gửi đến một thùng đầy băng cát xét nhạc cổ điển. Nhạc giao hưởng cua Mahler, nhạc thính phòng của Haydn, nhạc cho đàn phím của Bach, đủ thể loại. Có cả Sinfonietta của Janáček mà nàng đã đặc biệt yêu cầu. Nàng nghe Sinfonietta mỗi ngày một lần trong khi yên lặng thực hiện những động tác mạnh mẽ theo tiết tấu nhạc.

Mùa thu ngày một đằm hơn trong lặng lẽ. Trong dòng chảy thời gian, Aomame có cảm giác thân thể mình dường như đang từng chút từng chút trở nên trong suốt. Nàng cố gắng không nghĩ đến chuyện gì, song tất nhiên chẳng thể nào không nghĩ gì được. Chỉ cần có một khoảng chân không là sẽ có thứ lắp đầy nó. Nhưng giờ đây, ít nhất nàng cùng không cảm thấy cần thiết phải căm ghét thứ gì đó. Không cần thiết phải căm ghét bạn học và thầy cô giáo. Nàng đã không còn là đứa nhỏ yếu đuối kia, không ai cưỡng ép nàng tin theo tín ngưỡng gì được nữa. Nàng cũng không cần phải căm ghét những gã đàn ông gây thương tổn cho phụ nữ. Cảm giác phẫn nộ trước kia thỉnh thoảng lại như nước triều trào dâng khắp người nàng, thứ tình cảm kích động mãnh liệt khiến nàng chỉ muốn đấm cho thỏa sức vào bức tường cao trước mặt, không biết từ lúc nào đã tan biến chẳng còn tăm tích. Nàng không biết nguyên do, nhưng thứ cảm xúc ấy đã một đi không trở lại. Đối với Aomame, đây là chuyện hiếm có. Nếu có thể, nàng không muốn làm tổn thương người nào nữa, cũng như không muốn làm tổn thương bản thân nàng nữa.

Trong những đêm dài khó ngủ, nàng nhớ đến Otsuka Tamaki và Nakano Ayumi. Khi nàng nhắm mắt, ký ức về những lần ôm ấp thân thể họ hiện lên sống động tươi mới. Thân thể hai người đều mềm mại, mịn màng, ấm áp nhường ấy. Những tấm thân dịu dàng thăm thẳm, bên trong là dòng máu tươi mới chảy căng tràn, trái tim đập đều đặn, phát ra những thanh âm được ban phước lành. Có thể nghe thấy tiếng thở dài khe khẽ, nghe thấy tiếng cười khúc khích. Đầu ngón tay mảnh khảnh, núm vú trở nên cương cứng, cặp đùi trơn bóng… Nhưng họ đã không còn trên thế gian này nữa.

Tựa như dòng nước u ám mềm mại, nỗi u buồn lấp đầy trái tim Aomame, một cách vô thanh, không báo trước. Những lúc như thế, nàng chỉ còn cách xoay chuyển dòng chảy của ký ức, cố gắng hết sức để nghĩ về Tengo. Tập trung tinh thần, nhớ lại cảm giác về cái nắm tay ngắn ngũi với cậu bé Tengo mười tuổi trong lớp sau giờ tan học. Sau đó, nàng gọi lại trong óc hình ảnh Tengo ba mươi tuổi xuất hiện trên cầu trượt cách đây không lâu. Tưởng tượng ra khi hai cánh tay vạm vỡ của người đàn ông ấy ôm lấy mình.

Anh ấy gần như đã ở trong tầm với.

Lần sau, có thể khi mình với tay ra thì sẽ chạm vào anh ấy thật cũng nên. Aomame nhắm mắt trong bóng tối, đắm chìm trong giả thiết ấy, thả lỏng cho tâm trí nổi trôi về hướng đó.

Thế nhưng giả dụ không bao giờ gặp lại anh ấy nữa thì rốt cuộc mình nên làm gì? Trái tim Aomame run rẩy. Nếu trong hiện thực không có điểm kết nối nào với Tengo, sự việc sẽ đơn giản hơn rất nhiều. Đối với Aomame việc gặp lại Tengo nay đã trưởng thành từng chỉ là một mộng tưởng, một giả thiết trừu tượng. Nhưng giờ khi nàng đã tận mắt nhìn thấy anh bằng xương bằng thịt, sự tồn tại của anh bỗng trở nên chân thực và chắc chắn hơn bao giờ hết. Cho dù sẽ xảy ra chuyện gì chăng nữa, Aomame cũng phải gặp lại anh, muốn được anh ôm vào lòng, muốn anh âu yếm vuốt ve từng ngóc ngách thân thể mình. Chỉ mới nghĩ rằng chuyện này có thể không bao giờ thực hiện được, trái tim và thân thể nàng cơ hồ như bị xé toang thành hai nửa.

Có lẽ lúc ở trước tấm biển quảng cáo hình con hổ của Esso, mình nên bắn viên đạn 9mm ấy vào đầu cho xong. Nếu vậy thì mình đã không phải sống tạm qua ngày để nếm trải cảm giác đau đớn u buồn này. Có điều, nàng không sao bóp cò được. Nàng nghe thấy âm thanh. Có người đang gọi tên nàng từ một nơi xa xăm nào đó. Biết đâu mình còn có thể gặp lại Tengo! Ý nghĩ này vừa hiện lên trong tâm trí, nàng liền cảm thấy không thể không tiếp tục sống. Kể cả cho dù làm vậy thì Tengo sẽ gặp nguy đến tính mạng như lời Lãnh Tụ nói, nàng cũng không có lựa chọn nào khác. Nàng cảm thấy trong mình bùng lên một sức sống mạnh mẽ và nó logic đành bất lực. Kết quả là thế này đây: nàng nôn nao bất an vì ham muốn mãnh liệt Tango, nó là một cơn khát khôn nguôi cùng với dự cảm về tuyệt vọng.

Aomame chợt hiểu ra đây chính là ý nghĩa của việc tiếp tục sinh tồn. Con người được ban cho hy vọng, rồi dùng nó làm nhiên liệu, làm mục đích để vượt qua cõi nhân sinh. Không có hy vọng người ta không sống nổi. Thế nhưng, chuyện này giống như tung đồng xu vậy. Mặt hình hay mặt chữ ngửa lên, chỉ khi nào đồng xu rơi xuống mới biết. Nghĩ như vậy khiến trái tim Aomame đau thắt, hồ như xương cốt khắp mình nàng đột ngột bị giày xéo phải kêu lên đau đớn.

Nàng ngồi trước bàn ăn cầm súng lên. Mở chốt an toàn, cho đạn lên nòng, ngón tay kéo cái kim hỏa, nhét họng súng vào miệng. Chỉ cần dồn một chút sức vào ngón tay trỏ bàn tay phải, cảm giác đau đớn u buồn này sẽ tan biến thành mây khói. Chỉ cần một chút thôi. Thu ngón tay trỏ vào bên trong chừng một xăng ti mét, không, năm milimet, mình sẽ chuyển đến một thế giới tĩnh lặng không còn ưu sầu. Cảm giác đau đớn chỉ trong chớp mắt, sau đó cái hư vô đại từ đại bi sẽ ùa đến với mình. Nàng nắm mắt lại. Trên tấm biển quảng cáo của hãng Esso, con hổ tay cầm ống bơm xăng đang cười với nàng. Hãy để chú hổ bơm xăng cho xe bạn.

Nàng rút nòng súng cứng ngắc ra khỏi miệng, chầm chậm lắc đầu.

Mình không thể chết. Bên phía đối diện ban công có sân chơi, trong sân chơi có cầu trượt. Chỉ cần còn hy vọng Tengo sẽ trở lại nơi này, mình không thể bóp cò súng được. Khả năng điều có có thể xảy ra đã ngăn cản nàng vào khoảnh khắc cuối cùng. Nàng cảm giác như có một cánh cửa đóng lại bên trong nàng và một cánh cửa khác mở ra, lặng lẽ, yên ắng. Aomame kéo chốt, đẩy viên đạn xuống khỏi nòng súng, đóng khóa an toàn lại đặt trên bàn. Cứ hễ nhắm mắt lại, nàng liền phát hiện ra có thứ gì đó nho nhỏ phát ra ánh sáng lập lòe trong bóng tối đang không ngừng biến mất từng giây. Nhưng nàng không biết đó là gì.

Aomame ngồi trên sofa, dồn chú ý vào những trang Bên phía nhà Swann[1]. Nàng hình dung lại cảnh trong câu chuyện, cố gắng không để những ý nghĩ vụn vặt khác len lỏi vào. Bên ngoài, trời đổ cơn mưa lạnh. Dự báo thời tiết trên đài nói mưa nhẹ sẽ kéo dài đến tận sáng hôm sau. Dải chuyển tiếp giữa hai khối khí nóng lạnh chiếm lĩnh bầu trời Thái Bình Dương, không hề có dấu hiệu di chuyển, tựa như một người cô độc đang chìm đắm vào suy tư, quên cả thời gian.

[1] Tập 1 bộ tiểu thuyết Đi tìm thời gian đã mất của M. Proust.

Chắc Tengo sẽ không đến. Bầu trời đâu đâu cũng toàn mây đen giăng mù mịt, không thấy mặt trăng. Nhưng Aomame chắc hẳn vẫn sẽ ra ngoài ban công, vừa uống ca cao nóng vừa trông chừng sân chơi phía đối diện. Bên cạnh nàng là ống nhòm và khẩu súng lục, trên người mặc sẵn quần áo để sẵn sàng lao ra bất cứ lúc nào, hai mắt không ngừng trông về phía chiếc cầu trượt trong màn mưa. Bởi lẽ với nàng đây là hành động duy nhất còn có ý nghĩa.

Ba giờ chiều, chuông ngoài cửa chính của khu căn hộ vang lên. Có người muốn vào tòa nhà này. Aomame mặc kệ họ. Không thể nào có người đến thăm hỏi nàng. Lúc đó nàng đang đun nước pha trà. Để đề phòng, nàng tắt bếp ga đi, lẳng lặng nghe ngóng. Tiếng chuông vang lên ba bốn lượt, rồi im lặng.

Khoảng năm phút sau, tiếng chuông lại vang lên. Lần này là chuông cửa căn hộ. Người kia đã vào trong tòa nhà, đang đứng trước cửa căn hộ của nàng. Có lẽ kẻ này bám đuôi ai đó là dân sống ở tòa nhà này mà lẻn vào đây, cũng có thể y nhấn chuông cửa nhà khác, nói vài lời dối trá để người ta mở cửa chính cho. Aomame vẫn giữ im lặng. Cho dù là ai đến cũng không trả lời, chốt cửa từ bên trong rồi nín thở chờ đợi… Tamaru đã dặn dò nàng như thế.

Chuông cửa vang lên phải đến mười mấy lần. Nếu là nhân viên chào hàng thì kẻ này hình như hơi quá cứng đầu rồi. Thông thường bọn họ chỉ ấn chuông ba lần. Aomame tiếp tục giữ im lặng. Đối phương bắt đầu dùng nắm đấm đập cửa. m thanh không lớn lắm, nhưng bên trong chất chứa sự nôn nóng và phẫn nộ mạnh mẽ. “Ông Takai!” Giọng nói ồm ồm của đàn ông tuổi trung niên, hơi khàn, “Ông Takai, chào ông! Mở cửa cho tôi với nào!”

Takai là tên giả dùng trên hòm thư của căn hộ này.

“Ông Takai, tôi biết tôi đến giờ này thật phiền ông quá, nhưng ông mở cửa được không? Tôi xin ông đấy.”

Người đàn ông dừng một lúc, thăm dò phản ứng. Phát hiện thấy không ai đáp lại, y liền tiếp tục đập cửa, lần này còn mạnh hơn lúc nãy.

“Ông Takai, tôi biết ông ở trong ấy. Chúng ta đừng vòng vo làm gì nữa, xin hãy mở cửa ra đi. Ông đang ở trong nhà, tôi nghe thấy tiếng ông rồi.”

Aomame cầm khẩu súng lục tự động đặt trên bàn ăn lên, mở chốt an toàn, dùng khăn tay bọc kín, nắm chặt báng súng.

Nàng hoàn toàn không biết người kia là ai, muốn làm gì. Không hiểu vì lý do gì mà người này có thái độ thù địch với nàng, cứ ngoan cố ép nàng phải mở cửa. Không cần phải nói, đối với nàng lúc này, việc này thật chẳng đáng hoan nghênh một chút nào.

Tiếng đập cửa rốt cuộc cũng dừng, giọng người đàn ông lại tiếp tục vang lên trong hành lang.

“Ông Takai, tôi đến thu phí nghe nhìn của đài NHK. Phải, chính là đài NHK của tất cả mọi người đấy. Tôi biết ông đang ở trong nhà. Dù ông có giữ im lặng cách mấy tôi cũng biết. Tôi làm công việc này đã nhiều năm nay rồi, tôi có thể phân biệt được khi nào là vắng nhà thật còn khi nào là giả bộ vắng nhà. Người ta có cố gắng giữ im lặng đến chừng nào đi nữa thì vẫn có những dấu hiệu chứng tỏ người ta đang ở đó. Con người ai cũng hít thở, tim đập, dạ dày đang không ngừng tiêu hóa thức ăn. Ông Takai, giờ ông đang ở trong nhà, đang đợi tôi nản lòng mà quay về. Ông không có ý định mở cửa, cũng không định trả lời. Vì ông không muốn trả phí thuê bao.”

Người đàn ông hét lên, giọng to quá mức cần thiết, vang vọng khắp hành lang khu căn hộ. Hắn ta cố ý làm như vậy. Lớn tiếng gọi tên đối phương, châm biếm, nhục mạ, lấy đó để cảnh cáo hàng xóm láng giềng. Aomame vẫn giữ im lặng. Không cần phải bận tâm đến hắn. Nàng đặt khẩu súng trở lại bàn, nhưng để phòng hờ, nàng vẫn mở chốt an toàn. Cũng không phải không có khả năng có kẻ giả mạo nhân viên thu phí của đài NHK. Nàng ngồi bất động trên ghế trong phòng ăn, nhìn chằm chằm vào cửa chính căn hộ.

Nàng muốn nhón tay nhón chân đi lại phía cửa, dòm qua lỗ quan sát thăm dò tình hình bên ngoài. Nàng muốn xem ai đang đứng ngoài kia. Nhưng nàng vẫn ngồi yên trên ghế, không nhúc nhích. Tốt nhất chớ làm gì không nhất thiết phải làm. Đằng nào thì hắn ta cũng sẽ nản lòng mà bỏ về.

Thế nhưng, người kia nhất quyết đọc cả một bài diễn văn trước cửa căn hộ của Aomame.

“Ông Takai, đừng chơi trò trốn tìm với tôi nữa. Tôi cũng chẳng hứng thú gì làm cái chuyện này đâu. Đừng nhìn bộ dạng tôi thế này mà tưởng lầm, tôi cũng bận rộn lắm đấy. Tông Takai, tôi biết ông có xem tivi mà. Chỉ cần có xem tivi thì dù là ai cũng phải trả phí nghe nhìn cho đài NHK. Có lẽ ông không ưa gì chuyện đó, nhưng pháp luật đã quy định thế rồi. Không trả phí nghe nhìn thì cũng giống như ăn trộm tiền của người khác ấy. Ông Takai, ông không muốn bị người ta coi như kẻ trộm chỉ vì mấy đồng tiền vặt này chứ? Ông sống trong khu căn hộ mới cao cấp thế này, chắc không đến nỗi không trả nổi phí nghe nhìn đúng không ông? Chuyện này mà bị khơi ra trước bao nhiêu người thì chắc ông cũng thấy bẽ mặt nhỉ?”

Cho dù nhân viên thu phí cùa đài NHK có hò hét thế nào chăng nữa, giá là lúc bình thường thì hẳn Aomame đã cảm thấy chẳng có vấn đề gì. Nhưng hiện nàng đang trốn tránh tai mắt của kẻ khác. Nàng không muốn căn hộ này thu hút sự chú ý của những người xung quanh dưới bất cứ hình thức nào. Thế nhưng nàng chẳng biết làm gì, đành nín thở im lặng, chờ đợi hắn tự bỏ đi.

“Ông Takai, ông đừng trách tôi cứ lải nhải hoài, một câu cứ nói đi nói lại không biết bao nhiêu lần. Tôi biết ông đang ở trong nhà, còn đang dỏng tai lên nghe nữa. Tôi biết ông đang nghĩ: Tại sao lại cứ đứng trước cửa nhà tôi mà hét hò ầm ĩ thế kia? Đúng vậy, tại sao chứ, ông Takai? Chắc vì tôi không thích người ta giả bộ đi vắng nhà cho lắm. Giả bộ vắng nhà thì chẳng hay ho gì mấy, nhỉ? Ông có thể mở cửa, nói thẳng vào mặt tôi ông không muốn trả phí cho NHK. Dứt khoát vậy có hơn không! Cả tôi cũng thoải mái hơn, ít nhất còn có đất để mà thương lượng. Chứ tôi không thể chấp nhận cái cách giả bộ vắng nhà thế này. Cứ như con chuột nhát gan trốn trong góc tối, đợi người ta đi rồi mới len lét lẻn ra ngoài. Sống như vậy thì vô vị biết mấy.”

Thằng cha này nói dối! Aomame nghĩ. Cái gì mà biết dấu hiệu có người ở trong nhà chứ! Chắc chắn là hắn ta bịa tạc linh tinh. Mình chẳng phát ra bất cứ tiếng động nào. Bất kể kẻ này là ai, đứng trước cửa nhà người khác mà hò hét khoa trương, đe dọa cư dân xung quanh, đó chính là mục đích thực sự của người này. Ý đồ của hắn là khiến người ta tin rằng thay vì bị người ta bới móc ngay trước cửa nhà mình như thế, chẳng thà cứ ngoan ngoãn nộp tiền cho rảnh nợ. Thằng cha này hẳn đã làm trò tương tự ở nhiều nơi khác, mà lần nào cũng rất hiệu quả.

“Ông Takai, chắc là tôi làm ông khó chịu lắm phải không. Ông đang nghĩ gì trong đầu, tôi biết hết. Đúng đấy, tôi chính là cái loại người khiến tâm trạng người ta bực bội, điều này tôi cũng biết. Nhưng mà, ông Takai à, nếu làm người ta thoải mái dễ chịu thì khôn thu được tiền đâu. Tại sao thế? Vì trên đời này những kẻ cố sống cố chết không chịu trả phí cho NHK nhiều lắm lắm. Đã định thu tiền từ tay những kẻ như thế thì không thể cả ngày khiến bọn họ thoải mái dễ chịu được. Tôi cũng muốn nói với ông: ‘Ồ, vậy hả? Ông không muốn trả phí cho NHK à, tôi hiểu rồi. Xin lỗi, đã quấy rầy’ rồi vui vẻ đi. Nhưng thế đâu có được. Đến gõ cửa thu phí là công việc của tôi, vả lại, cái vụ giả vờ vắng nhà này cá nhân tôi chẳng thể nào ưa nổi.”

Người đàn ông ngậm miệng, ngừng nghĩ giây lát. Sau đó lại vang lên mười mấy tiếng gõ cửa.

“Ông Takai, ông bắt đầu thấy không vui rồi đúng không, bắt đầu cảm thấy mình thật sự là một tên trộm rồi đúng không? Ông nghĩ kỹ đi. Số tiền chúng tôi muốn thu của ông có nhiều nhặn gì đâu, chẳng qua chỉ bằng tiền một bữa cơm ở quán ăn gia đình đầu phố thôi. Chỉ cần nộp chút phí là ông sẽ không bị người ta coi như kẻ trộm nữa. Cũng không bị người ta đứng trước cửa cao giọng dạy bảo, bị người ta đập cửa thật lực nữa. Ông Takai, tôi biết ông đang nấp sau cánh cửa này. Ông tưởng cứ nấp ở đó không nhúc nhích thì có thế thoát khỏi vụ này sao. Được thôi, ông cứ nấp đi. Nhưng dù ông có nín thở im lặng cỡ nào, rốt cuộc cũng sẽ đến ngày có người tìm ra ông. Không dối trá mãi được đâu. Ông thử nghĩ mà xem, khắp nước Nhật này đâu đâu cũng có người nghèo khó hơn ông rất nhiều, nhưng bọn họ tháng tháng đều trung thực nộp phí nghe nhìn. Thế này thì bất công quá.”

Tiếng gõ cửa lại vang lên mười lăm lần. Aomame đếm.

“Tôi hiểu rồi ông Takai. Hình như ông khá là cố chấp. Được rồi, hôm nay tôi về vậy. Tôi không thể cứ bám nhẵng lấy một người như ông được. Nhưng mà tôi sẽ còn ghé thăm ông nữa đấy, ông Takai ạ. Tính tôi một khi đã quyết là không dễ nản lòng đâu. Vả lại, tôi không thích những người giả vờ vắng nhà. Lần sau ghé thăm ông tôi sẽ lại gõ cửa, gõ đến khi cả thế giới đều nghe thấy thì thôi. Tôi nói là làm đấy. Hẹn giữa tôi và ông vậy nhé, ông thấy được không? Vậy, mấy hôm nữa chúng ta gặp nhau nhé.”

Không nghe thấy tiếng bước chân. Chắc kẻ kia đi giày đế cao su. Aomame ngồi yên bất động, đợi thêm năm phút nữa. Nàng nín thở, nhìn chằm chằm vào cửa căn hộ. Hành lang lại tĩnh mịch như tờ, không nghe thấy tiếng động nào. Nàng rón rén bước tới sau cửa, thu hết can đảm nhìn qua lỗ quan sát. Ở đó không một bóng người.

Nàng đóng khóa an toàn khẩu súng, hít thở sâu mấy lần cho nhịp tim bình thường trở lại. Sau đó nàng bật bếp ga lên đun nước, pha trà uống. Chẳng qua là nhân viên thu phí của đài NHK mà thôi, nàng tự nhủ. Thế nhưng trong giọng của kẻ ấy ẩn hàm một thứ gì đó tà ác, thậm chí biến thái. Không thể phán đoán được thứ đó là nhằm vào cá nhân nàng hay nhằm vào nhân vật hư cấu tên là Takai kia. Dẫu vậy, giọng nói khàn khàn và tiếng gõ cửa ngang ngược ấy để lại một cảm giác khiến nàng khó chịu, tựa như phần da lộ ra ngoài của nàng dính phải thứ gì đó nhớp nháp.

Aomame cởi quần áo đi tắm. Nàng xối nước nóng, lấy xà phòng thơm cẩn thận chà xát khắp mình mẩy cho thật sạch. Tắm xong, nàng thay quần áo mới, tâm trạng đã thoải mái phần nào. Cảm giác đáng ghét trên da cũng tan đi. Nàng ngồi xuống sofa, uống nốt chỗ trà còn lại. Nàng định tiếp tục đọc sách, nhưng không sao tập trung nổi vào những trang giấy. Giọng nói của người kia tiếp tục văng vẳng bên tai.

“Ông tưởng cứ nấp ở đó không nhúc nhích là có thể thoát khỏi vụ này sao. Được thôi, ông cứ nấp đi. Nhưng dù ông có nín thở im lặng cỡ nào, rốt cuộc cũng sẽ đến ngày có người tìm ra ông.”

Aomame lắc đầu. Không đúng, thằng cha ấy chẳng qua đang nói lung tung. Chẳng qua chỉ là ba hoa khoác lác, cố ý khiến người ta thấy khó chịu. Thằng cha ấy hoàn toàn không biết gì về mình, mình đã làm gì, tại sao mình ở đây. Thế nhưng, tim Aomame vẫn đập tộn không ngừng.

Nhưng dù có nín thở im lặng cỡ nào, rốt cuộc cũng sẽ đến ngày có người tìm ra.

Lời của tay nhân viên thu phí này thoạt nghe tựa hồ như có rất nhiều ẩn ý. Có lẽ chỉ là ngẫu nhiên. Song, thằng cha ấy dường như biết nói những gì thì có thể khiến lòng dạ mình rối bời. Aomame buông sách xuống không đọc nữa, ngồi trên sofa nhắm mắt lại.

Tengo, anh đang ở đâu? Nàng gọi thầm trong đầu, rồi thử thốt lên thành tiếng. “Tengo, anh đang ở đâu?” Mau mau tìm thấy em đi. Trước khi người khác tìm thấy.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 6: Tengo


Lúc ngón cái đau nhói thì sẽ biết

Ở thị trấn nhỏ ven biển này, Tengo sống rất có quy luật. Đã định ra được mô thức của cuộc sống, anh nỗ lực duy trì nó, cố không làm nó nhiễu loạn. Anh không hiểu tại sao, nhưng cảm thấy làm như vậy dường như là điều quan trọng hơn hết thảy. Sáng sáng anh tản bộ, viết tiểu thuyết, sau đó đến viện điều dưỡng đọc to một quyển sách, quyển gì cũng được cho người cha đang say ngủ nghe, sau đó quay về lữ quan ngủ. Những ngày tháng tựa hồ như điệu hát cấy mạ đơn điệu, cứ lặp đi lặp lại.

Được mấy đêm ấm áp liên tục, rồi những đêm lạnh kinh người ùa đến. Mùa thu tiến một bước rồi lùi, nhưng mỗi lúc một dấn sâu. Tuy nhiên, sự thay đổi cùa thời tiết không làm thay đổi chút nào cuộc sống của Tengo; ngày ngày anh vẫn lặp lại những hành động của ngày hôm trước. Anh gắng sức biến thành một người quan sát không màu, trong suốt, lặng lẽ, thu nhỏ sự tồn tại của mình đến tối thiểu, bình tĩnh chờ đợi khoảnh khắc ấy. Sự khác biệt giữa một ngày và ngày hôm sau dần dần trở nên mờ nhạt. Một tuần trôi qua, mười ngày trôi qua. Nhưng nhộng không khí vẫn chẳng thấy xuất hiện. Buổi chiều, sau khi cha anh được đưa đến phòng kiểm tra, trên giường bệnh chỉ còn lại một vệt hõm hình người, nhỏ đến đáng thương.

Lẽ nào chuyện đó chỉ xảy ra một lần duy nhất? Trong buổi hoàng hôn muộn, Tengo ngồi trong gian phòng chật hẹp cắn môi thầm nghĩ. Một mặc khải đặc biệt không thể xuất hiện lần thứ hai chăng? Hay chỉ là một ảo ảnh? Không gì có thể trả lời câu hỏi này. Tiếng sóng biển xa xôi và tiếng gió chốc chốc thổi qua khu rừng chắn gió là tất cả những gì vẳng tới được tai anh.

Tengo không chắc hành vi của anh có đúng hay không. Có lẽ anh chỉ lãng phí thời gian một cách vô nghĩa ở gian phòng của viện điều dưỡng nơi thành phố nhỏ ven biển cách xa Tokyo này. Nhưng dù thế, anh không thể rời khỏi nơi đây được. Ở đây, trong phòng này, anh từng tận mắt chứng kiến nhộng không khí, bên trong nhộng là hình dáng nhỏ nhắn của Aomame đang say ngủ trong làn ánh sáng mờ. Anh đã chạm vào đó bằng bàn tay này. Kể cả đó là chuyện chỉ xảy ra đến một lần, không, kể cả đó chẳng qua là ảo ảnh phù du, anh vẫn muốn lưu lại đây càng lâu càng tốt, mãi mãi vuốt ve cảnh tượng ấy trong tâm tưởng.

Biết được Tengo không về Tokyo mà sẽ ở lại thành phố nhỏ ven biển này một thời gian, các y tá liền tỏ ra thân mật hơn với anh. Họ thường tranh thủ những quãng nghỉ ngắn giữa việc này với việc kia để nói với anh đôi câu chuyện phiếm. Nhưng khi rãnh rỗi, họ chủ động tìm đến phòng bệnh của cha anh để tìm anh trò chuyện, có khi còn mang theo cả trà và đồ điểm tâm. Y tá Omura (khoảng chừng ba lăm ba sáu, thường búi tóc rồi xiên chiếc bút bi vào) và y tá Adachi (có đôi má hồng buộc tóc đuôi ngựa) thay phiên nhau phụ trách cho cha Tengo. Y tá Tamura, tuổi trung niên đeo kính gọng kim loại, trực ban ở quầy tiếp tân chỗ lối ra vào, song những lúc neo người chị ta cũng thay ca chăm sóc cho cha anh. Ba người này dường như rất có hứng thú với Tengo.

Tengo cũng vậy. Ngoài khoảng một giờ đặc biệt vào mỗi lúc hoàng hôn kia, anh cũng nhàn rỗi đến phát ngấy lên, nên cùng họ nói đủ thứ chuyện. Thực ra, toàn là anh trả lời những câu hỏi của họ về chuyện đời, và anh trả lời họ một cách thành thật nhất trong phạm vi có thể.

Bọn họ cũng lần lượt kể chuyện đời mình. Cả ba đều là người vùng này, tốt nghiệp cấp ba xong liền thi vào vào trường dạy nghề, đi làm y tá. Công việc trong viện điều dưỡng đa phần đơn điệu và nhạt nhẽo, thời gian làm việc vừa dài vừa không có quy luật gì, nhưng họ thảy đều vui, vì đâu phải ai cũng có thể làm việc ở mảnh đất nơi mình sinh ra và lớn lên. Thêm vào đó, so với làm việc ở những bệnh viện đa khoa thông thường, ngày ngày đối mặt với những bệnh nhân vật lộn trên làn ranh sống chết thì áp lực tinh thần ở đây nhỏ hơn nhiều. Những người già ở đây chầm chậm mất đi ký ức, không tự hiểu được tình hình của mình, rồi cứ thế lặng lẽ rút hơi thở cuối cùng. Rất hiếm người chảy máu, cái đau được kìm giữ ở mức thấp nhất. Về cơ bản, ở đây không có những bệnh nhân được chở đến bằng xe cấp cứu lúc nửa đêm nửa hôm, cũng không có những người thân trong gia đình túm tụm xung quanh gào khóc ầm ĩ. Phí sinh hoạt rẻ, nên tuy tiền lương không cao song họ có thể sống thoải mái. Y tá Tamura, người đeo kính, đã mất chồng trong một vụ tai nạn năm năm trước, hiện đang sống với mẹ ở thị trấn nhỏ gần đây. Y tá Omura thân hình cao lớn, hay cắm bút bi trên búi tóc có hai đứa con trai, chồng là tài xế taxi. Cô y tá trẻ Adachi đang sống chung với người chị hơn cô ba tuổi làm nghề trang điểm, hai người thuê nhà sống bên ngoài thị trấn.

“Anh Tengo thật tử tế,” y tá Omura vừa thay túi dịch truyền vừa nói. “Hiếm thấy có người nhà bệnh nhân nào ngày ngày đến đây đọc sách cho người thân hôn mê nghe lắm.”

Nghe cô nói vậy, Tengo thấy không được thoải mái cho lắm. “Chỉ là tôi xin được nghỉ ít ngày thôi. E không duy trì được quá lâu.”

“Cho dù thời gian rảnh rỗi cũng chẳng ai tình nguyện đến đây cả đâu,” cô nói. “Nói thế này e không phải, nhưng bệnh này về cơ bản không chữa được. Dần dà rồi mọi người đều sẽ thấy nản lòng.”

“Bố muốn tôi đọc cho ông ấy nghe, bảo là sách gì cũng được. Từ hồi trước ấy, lúc ông ấy ít nhiều vẫn còn tỉnh táo một chút. Đằng nào thì ở đây tôi cũng chẳng có việc gì mà làm.”

“Anh đọc gì cho ông ấy thế?”

“Đủ thứ. Tôi đang đọc dở cuốn nào, đọc tới đâu thì cứ đọc quyển đó từ chỗ đó mà đi thôi.”

“Giờ đang đọc gì vậy?”

“Xa mãi Phi châu của Karen Blixen[1].”

[1] Nhà văn nữ người Đan Mạc đã sống ở Kenya 19 năm và được biết đến chủ yếu nhờ những tác phẩm viết về châu Phi.

Cô y tá lắc đầu. “Chưa nghe bao giờ.”

“Quyển này viết năm 1937. Blixen là một người phụ nữ Đan Mạch, bà lấy một quý tộc Thụy Điển. Trước Thế chiến Thứ nhất họ đến châu Phi, kinh doanh nông trại ở đó. Sau đó bà ly hôn, một mình tiếp quản nông trại. Bà ấy đem trải nghiệm của mình trong thời gian đó viết thành sách.”

Cô đo nhiệt độ cho cha Tengo, điền con số vào bảng ghi chép, rồi lại cắm chiếc bút bi lên búi tóc, tiện tay vuốt vuốt lại chỗ tóc mai. “Tôi có thể ở lại đây nghe anh đọc không?”

“Không biết cô có thích hay không.” Tengo trả lời.

Cô ngồi xuống ghế con, hai chân bắt tréo. Đôi chân đẹp, đầy đặn với khung xương rắn chắc. Người cô đã hơi phát phì một chút. “Anh cứ đọc đi.”

Tengo chầm chậm đọc tiếp. Đây là loại văn chương cần phải đọc lên một cách chậm rãi, tựa hồ như dòng thời gian chảy trên lục địa châu Phi.

Sau bốn tháng nóng bức khô hạn là tháng Ba châu Phi, tháng báo hiệu mùa mưa kéo dài, bốn bề đâu cũng sức sống bừng bừng trải ra vô tận, cùng màu xanh tươi mới và mùi hương thoang thoảng.

Thế mà người chủ nông trại phải kìm lòng, không dám hân hoan trước sự hào phóng của thiên nhiên. Ông lắng nghe, nơm nớp lo sợ rằng cơn mưa như trút kia sẽ ngớt. Lượng nước mặt đất hấp thụ vào lúc này phải đủ cho tất cả thực vật, động vật và con người sinh sống trong nông trại vượt qua bốn tháng không mưa tiếp sau đó.

Mỗi con đường trong nông trại đều biến thành những dòng sông nhỏ nước chảy róc rách, thật là một cảnh tượng đẹp. Chủ nông trại mừng khôn xiết, lòng muốn cất tiếng ca vang, giẫm chân lên bùn đất, bước về phía vườn cà phê đang nở hoa ướt sũng nước mưa. Thế nhưng, đúng vào mùa mưa, chỉ trong một đêm, đột nhiên trời quang mây tạnh, ngàn sao lại lấp lánh. Chủ nông trại bước ra khỏi cửa, ngước nhìn trời. Trông ông tựa như muốn ôm chặt lấy cả bầu trời cao mà vắt ra thêm nước mưa nữa. Chủ nông trại nhìn trời, xót xa than thở: “Mưa thêm chút nữa đi. Xin Người mưa thêm mười phút nữa thôi. Trái tim con giờ đây đang trần trụi trước mặt Người. Nếu Người không ban phước lành, con sẽ không buông thả người ra. Nếu người muốn, xin hãy đánh gục con. Song, xin Người đừng giày vò con. Đừng ngắt quãng giao hợp. Chúa ở trên Trời của con!”

“Ngắt quãng giao hợp?” nữ y tá chau mày, nói.

“Nên nói thế nào nhỉ? Bà tác giả này là người thẳng thắn.”

“Kể cả thế, nhưng đứng trước Thượng đế những lời này e hơi thẳng thắng quá thì phải.”

“Đúng là vậy,” Tengo đồng tình.

Sau mùa mưa, đôi khi có những ngày râm mát mẻ đến lạ thường. Trong những ngày ấy, người ta lại nhớ đến “marka mbaya,” tức những năm mất mùa, hạn hán. Khi đó, người Kikuyu dẫn bò đến cho ăn cỏ ở xung quanh nhà tôi. Một đứa bé chăn bò cầm cây sáo, thỉnh thoảng lại thổi lên một khúc nhạc ngắn. Về sau, mỗi khi nghe thấy điệu nhạc giống thế, trước mắt tôi lại hiện lên rõ một nỗi đau đớn và tuyệt vọng của chúng tôi trong những tháng ngày đã qua ấy. Trong điệu nhạc đó có nước mắt và vị đắng chát. Thế nhưng đồng thời, trong cùng một điệu nhạc, tôi bất ngờ nhận ra sức sống và một sự dịu dàng không thể lý giải được, tôi nghe thấy một bài hát. Thời kỳ gian khổ ấy có thực sự gian khổ như thế không? Lúc đó tôi có tuổi trẻ, tràn đầy khát khao nóng bỏng. Chính những năm tháng khó khăn đằng đẵng ấy đã cho chúng tôi sự đoàn kết vững chắc không gì phá vỡ nổi. Để dẫu có chuyển đến một tinh cầu khác, không nghi ngờ gì nữa chúng tôi vẫn sẽ nhận nhau là đồng bạn. Tiếp đó, chiếc đồng hồ chim cúc cu, những cuốn sách của tôi, lũ bò gầy trơ xương trên thảm cỏ, những ông bà già đau khổ người Kikuyu đều sẽ hô gọi nhau thế này: “Anh cũng ở đây à. Anh cũng là một phần của nông trại Ngong này à.” Cứ thế, thời kỳ gian khổ đó chúc phúc cho chúng ta, sau đó thấm thoát trôi qua.

“Đoạn văn sống động quá,” cô y tá nói, “cảnh tượng tựa hồ như ở trước mắt tôi ấy. Xa mãi Châu Phi của Karen Blixen phải không?”

“Đúng.”

“Giọng anh nghe cũng rất hay. Thâm trầm, lại chan chứa tình cảm. Hình như rất thích hợp để đọc thành tiếng.”

“Cám ơn.”

Cô y tá vẫn ngồi trên ghế, nhắm mắt không nhúc nhích, hít thở khoan thai, tựa hồ như vẫn còn chìm đắm trong dư âm của đoạn văn. Có thể trông thấy bộ ngực gồ lên của cô nhấp nhô theo nhịp thở bên dưới bộ đồng phục trắng. Nhìn cảnh ấy, Tengo chợt nhớ đến người tình hơn tuổi. Nhớ lúc cởi quần áo ra, ngón tay mân mê nụ hoa đã cương cứng, mỗi chiều thứ Sáu. Hơi thở sâu của cô, cơ quan sinh dục ẩm ướt của cô. Bên ngoài khung cửa sổ kéo rèm, mưa bụi êm không tiếng. Bàn tay cô ước chừng trọng lượng tinh hoàn của Tengo. Tuy nhớ lại những chuyện ấy song anh không cảm thấy hứng tình. Dường như toàn bộ cảnh tượng và cảm giác đều bị phủ một lớp màng mỏng, mờ mịt, xa cách nơi này.

Giây lát sau, cô y tá mở mắt ra, nhìn Tengo. Ánh mắt ấy như thể đã nhìn thấu suốt suy nghĩ của anh, nhưng cô không trách móc Tengo, cô nhoẻn miệng cười mơ hồ rồi đứng lên, cụp mí mắt xuống nhìn anh.

“Tôi phải đi đây,” nữ y tá vuốt vuốt tóc, kiểm tra cho chắc chiếc bút bi vẫn còn cắm trên đó rồi nhanh nhẹn xoay người ra khỏi phòng.

Khoảng chập tối, anh gọi điện cho Fukaeri. Hôm nay không xảy ra chuyện gì đặc biệt, lần nào cô cũng nói như thế. Điện thoại đổ chuông mấy lần, nhưng cô nghe lời anh nên đều không bắt máy. Vậy thì tốt, Tengo nói. Cứ mặc cho nó kêu.

Lúc Tengo gọi điện cho cô, trước tiên anh để chuông đổ ba lần rồi gác máy, sau đó lập tức bấm số gọi lại. Giao hẹn này không phải lúc nào cũng được tuân thủ. Thường thì khi tiếng chuông đầu tiên vang lên, Fukaeri đã nhấc ống nghe rồi.

“Không làm theo quy định là không được đâu,” lần nào Tengo cũng cảnh cáo cô.

“Em biết, không sao đâu,” Fukaeri nói.

“Em muốn nói em biết là anh gọi điện?”

“Điện thoại của người khác em không nghe.”

Chắc là có thể như vậy, Tengo thầm nghĩ. Bản thân anh đại để cũng nghe ra được đâu là điện thoại của Komatsu gọi đến. Tiếng chuông đượm vẻ hoảng hốt, vang lên bồn chồn. Tưởng như có ai đang liên tục gõ đầu ngón tay lên mặt bàn kêu “cốc cốc.” Có điều, xét cho cùng thì đó chỉ là ước đoán. Mỗi lần cầm ống nghe lên, anh cũng không hoàn toàn chắc chắn là ai đang gọi.

Cuộc sống của Fukaeri cũng cực kỳ đơn điệu chẳng kém Tengo. Cô tuyệt đối không bước ra khỏi căn hộ nửa bước. Cô không có tivi, không đọc sách, cả cơm cũng không ăn cho tử tế. Vì vậy, trước mắt cô không có nhu cầu ra ngoài mua đồ.

“Không vận động, vì vậy không cần phải ăn gì cả.” Fukaeri nói.

“Ngày ngày một mình em làm những gì?”

“Em nghĩ.”

“Nghĩ chuyện gì?”

Cô không trả lời câu hỏi này. “Con quạ đến rồi.”

“Mỗi ngày quạ đều đến một lần.”

“Không phải một lần, đến mấy lần,” cô gái nói.

“Cùng một con quạ ấy à?”

“Đúng.”

“Ngoài ra không có người đến à?”

“Người của N-H-K lại đến nữa.”

“Có phải cái người của NHK đã đến lần trước không?”

“Anh ta lớn tiếng hò hét bảo anh Kawana là kẻ trộm.”

“Hét lên ở cửa nhà anh thế à?”

“Cố ý hò hét để người khác nghe thấy.”

Tengo thoáng nghĩ qua về chuyện này. “Em không cần quan tâm. Không liên quan gì tới em, cũng chẳng gây hại gì đặc biệt cả.”

“Anh ta bảo ‘biết là anh đang trốn ở trong đó’.”

“Em khỏi cần để ý,” Tengo nói. “Thằng cha ấy không thể nào biết được chuyện này, chẳng qua là nói nhăng nói cuội dọa người ta thôi. Người của đài NHK thường xuyên dùng thủ đoạn này mà.”

Tengo đã nhiều lần thấy cha mình sử dụng thủ đoạn tương tự. Chiều Chủ nhật, tiếng gọi đầy ác ý của ông vang lên khắp hành lang khu nhà tạp cư. Uy hiếp và giễu cợt. Anh dùng đầu ngón tay ấn nhẹ lên chỗ thái dương. Ký ức trỗi dậy mang theo đủ thứ lỉnh kỉnh kèm theo nó.

Dường như cảm nhận được điều gì đó từ sự trầm mặc ấy, Fukaeri hỏi: “Anh ổn không.”

“Không sao cả. Cái người của đài NHK ấy, cứ mặc kệ hắn đi.”

“Quạ cũng bảo thế.”

“Vậy thì tốt quá,” Tengo nói.

Từ lúc nhìn thấy hai mặt trăng trên trời, và nhộng không khí xuất hiện trong phòng bệnh của cha anh, không còn nhiều chuyện có thể làm Tengo kinh ngạc nữa. Fukaeri và quạ mỗi ngày đều trao đổi ý kiến với nhau bên cửa sổ, thế thì có gì mà không chấp nhận được chứ?

“Anh muốn ở lại đây thêm vài ngày nữa, tạm thời vẫn chưa về Tokyo. Không sao chứ?”

“Anh muốn ở đó bao lâu thì cứ ở bấy lâu.”

Nói xong, Fukaeri lập tức dập máy. Cuộc nói chuyện tan biến trong khoảnh khắc, tựa như có ai dùng con dao chặt củi được mài sáng bóng chém một phát đứt lìa đường dây diện thoại vậy.

Sau đó Tengo bấm số điện thoại của nhà xuất bản nơi Komatsu làm việc, nhưng Komatsu không ở đấy. Nghe bảo tầm một giờ chiều anh ta có đến trình diện rồi thoắt cái đã biến đi mất. Người nghe điện thoại không biết giờ anh ta đang ở đâu, cũng không biết anh ta có quay về nhà xuất bản hay không. Chuyện này là bình thường đối với Komatsu. Tengo để lại số điện thoại của viện điều dưỡng, nói rằng ban ngày mình thường ở đây, nếu có thể thì phiền Komatsu liên lạc. Nếu cho số điện thoại của lữ quán, ngộ nhỡ nửa đêm anh ta gọi đến thì phiền phức lắm.

Lần trước anh nói chuyện với Komatsu là lúc tháng Chín sắp sửa kết thúc. Một cuộc điện thoại ngắn gọn. Từ đó đến giờ, anh ta không liên hệ với Tengo lần nào, Tengo cũng không liên lạc với anh ta. Từ hồi cuối tháng Tám, anh ta đột nhiên lặn mất tăm ba tuần liền. Anh ta chỉ gọi đến công ty một cú điện thoại không đầu không đuôi, bảo rằng “vì sức khỏe không tốt nên xin nghỉ mấy ngày,” rồi cắt đứt liên lạc, gần như mất tích. Dĩ nhiên Tengo cũng có nghĩ ngợi, nhưng chưa đến mức quá lo lắng. Về cơ bản Komatsu là kẻ chỉ làm theo ý mình. Chắc hẳn chẳng bao lâu nữa anh ta sẽ lại xuất hiện và trở về văn phòng như chưa hề có chuyện gì xảy ra thôi.

Trong môi trường công ty người ta thường không chấp nhận hành vi tùy tiện kiểu ấy. Thế nhưng, khi có chuyện, bao giờ cũng có đồng nghiệp đứng ra che chắn hộ anh ta, không để anh ta bị phiền lụy. Chẳng phải anh ta được mọi người yêu mến gì, nhưng không hiểu tại sao lúc nào cũng có những nhân vật đặc biệt “chùi đít” hộ anh ta. Phía nhà xuất bản cũng thường nhắm mắt cho qua, không gặng hỏi nhiều. Komatsu tuy luôn tự cho mình là đúng, thiếu tinh thần làm việc nhóm, tính cách cao ngạo không cần biết bên cạnh có ai, nhưng lại rất có năng lực; cuốn sách bán chạy Nhộng không khí là do anh ta một mình phụ trách. Không thể dễ dàng đuổi việc anh ta được.

Quả nhiên đúng như Tengo dự đoán, một hôm Komatsu đột nhiên xuất hiện tại nhà xuất bản mà chẳng hề báo trước, không giải thích gì cả, cũng không xin lỗi mọi người, cứ thế bắt đầu làm việc trở lại luôn. Một biên tập viên quen biết có gọi điện tới, tiện thể báo tin này cho Tengo.

“Vậy, anh Komatsu đã khỏe hẳn chưa?” Tengo hỏi biên tập viên kia.

“Rồi, hình như rất khỏe,” đối phương trả lời, “chỉ có điều hình như ít nói hơn hồi trước.”

“Ít nói hơn?” Tengo hơi ngạc nhiên.

“Ừm, nói thế nào nhỉ, tức là càng không thích giao tiếp hơn trước ấy.”

“Anh ấy đã ốm thật à?”

“Chuyện này tôi không được rõ lắm,” tay biên tập viên trả lời hờ hững, “anh ta nói mình khỏe thì tôi cũng chỉ biết thế thôi. Có điều, cũng may là anh ta lành lặn trở về, một đống việc chất đầy lên như núi nay có anh ta thì mới có thể giải quyết ổn thỏa. Lúc anh ta vắng mặt, đủ thứ việc liên quan đến Nhộng không khí làm chúng tôi cuống hết cả lên.”

“Phải rồi, nhắc đến Nhộng không khí, sự kiện Fukaeri mất tích về sau thế nào rồi?”

“Chẳng thế nào cả. Vẫn vậy thôi. Sự việc không có gì tiến triển, nữ tác giả trẻ biến mất. Các bên liên quan đều vô kế khả thi.”

“Tôi có để ý báo chí. Gần đây hình như không đọc được bài nào về vụ này.”

“Truyền thông đa phần đã rút khỏi sự kiện này rồi, không thì cũng cẩn trọng giữ khoảng cách. Cảnh sát cũng chẳng tích cực theo vụ này nữa. Chi tiết thế nào thì anh đi hỏi Komatsu ấy. Nhưng vừa nãy tôi nói với anh rồi đó, đận này anh ta kiệm lời đi nhiều. Có thể nói cứ như hoàn toàn chẳng giống anh ta nữa. Hoàn toàn không còn cố chấp bảo thủ như trước, mà trở nên hướng nội hơn, có thể nói anh ta khó thân cận hơn trước nhiều. Có lúc, anh ta cứ như quên mất chung quanh còn có người khác nữa ấy. Cứ như thể một mình chui vào trong hang động nào đó.”

“Hướng nội…” Tengo nói.

“Anh nói chuyện với anh ta thì biết.”

Tengo cảm ơn, rồi gác máy.

Mấy ngày sau, buổi tối, Tengo thử gọi điện cho Komatsu. Komatsu đang ở văn phòng. Đúng như lời tay biên tập viên kia nói, kiểu cách nói chuyện của anh ta đã khác trước. Thường thì anh ta thao thao bất tuyệt không ngừng, song giờ đây dường như lại hơi thẽ thọt, gây ấn tượng rằng anh ta vừa nói chuyện với Tengo vừa đang nghĩ ngợi chuyện khác. Có lẽ là gặp phải chuyện phiền phức gì đó, Tengo nghĩ. Nói tóm lại, người này không giống tay Komatsu thong dong thoải mái trước đây.

“Anh khỏe hẳn chưa?” Tengo hỏi.

“Khỏe?”

“Anh vừa xin nghỉ ốm một thời gian dài còn gì?”

“À, phải rồi,” Komatsu dường như vừa sực nhớ ra, liền nói. Một quãng lặng ngắn. “Đã khỏe rồi. Chuyện này vài hôm nữa tôi sẽ nói kỹ với cậu. Giờ vẫn chưa thể nào nói cho rõ ràng được.”

Vài hôm nữa, Tengo ngẫm nghĩ mấy chữ này. Anh nghe được trong giọng điệu của Komatsu một thứ ẩn ý khác lạ. Thiếu cảm giác về sự chừng mực, vừa đủ. Những lời thốt ra nghe có vẻ hơi khô khan nhạt nhẽo, không có chiều sâu.

Tengo lựa lúc thích hợp để kết thúc cuộc nói chuyện, gác máy. Anh cố ý không nhắc đến Nhộng không khí và Fukaeri. Qua cách nói chuyện của Komatsu, anh cảm thấy được rằng bên kia đang cố tránh những chủ đề này. Trước đây đã bao giờ có chuyện gì mà Komatsu không thể nói rõ ràng chưa nhỉ?

Đó là lần gần đây nhất anh nói chuyện với Komatsu. Cuối tháng Chín. Từ đó đến giờ đã hơn hai tháng. Komatsu vốn là một gã thích tán chuyện dông dài qua điện thoại. Đương nhiên anh ta có lựa chọn đối tượng, và có khuynh hướng vừa lần lượt nói ra miệng những ý nghĩ mới hiện lên trong đầu vừa sắp xếp mạch tư duy. Đối với anh ta, Tengo giống như bức tường để anh ta đập tennis vậy. Những lúc hứng lên, dẫu chẳng có việc gì anh ta cũng thường xuyên gọi điện cho Tengo, đa phần là vào những lúc không thể ngờ tới. Những khi không có hứng, cũng rất lâu anh ta không gọi điện, nhưng hơn hai tháng liền bặt vô âm tín thì cực kỳ hiếm thấy. Chắc là giờ anh ta không muốn nói chuyện với ai hết, Tengo nghĩ. Ai cũng có những lúc như thế, kể cả Komatsu. Vả lại, Tengo cũng không có chuyện gì gấp gáp cần bàn với anh ta. Nhộng không khí đã thôi không còn bán chạy như tôm tươi, gần như không còn là chủ đề câu chuyện của công chúng nữa, và Fukaeri đang ở đâu thì anh biết rõ. Nếu phía Komatsu có chuyện cần bàn, anh ta sẽ tự gọi đến. Không gọi điện đến tức là anh ta không có việc gì.

Có điều, cũng đến lúc cần gọi điện cho anh ta rồi, Tengo nghĩ. Bởi lẽ, thật lạ, ở một xó xỉnh trong đầu anh vẫn còn lơ lửng câu nói kia của Komatsu … Chuyện này vài hôm nữa tôi sẽ nói kỹ hơn với cậu.

Tengo gọi điện cho người bạn đang dạy thay anh ở tường dự bị, hỏi han tình hình. “Tình hình thuận lợi, không có vấn đề gì,” người kia nói. “Còn cha cậu thế nào rồi?”

“Không có chuyển biến gì, cứ hôn mê suốt,” Tengo trả lời. “Có thở, nhiệt độ và huyết áp đều rất thấp nhưng vẫn coi như ổn định. Chỉ là không có ý thức. Chắc cũng không cảm thấy đau đớn. Hình như ông ấy đã đi vào thế giới trong giấc mơ, rồi không quay lại nữa.”

“Chết như vậy cũng không tồi,” bạn anh nói, không bộc lộ nhiều xúc cảm. Kỳ thực, anh ta muốn nói: “Có lẽ nói thế này nghe hơi quá bạc tình, nhưng mà cách nhìn của mỗi người mỗi khác nhau, xét trên một góc độ nào đó thì đó có lẽ là một cách không tồi để chết.” Nhưng anh ta đã tỉnh lược đi phần nhập đề. Học với nhau mấy năm ở khoa Toán trường đại học, Tengo đã quen với kiểu đối thoại tỉnh lược ấy.

“Dạo gần đây cậu có ngắm trăng khong?” Tengo ngẫu nhiên nhớ ra, liền hỏi. Người bạn này của anh có lẽ là người duy nhất thình lình bị hỏi về mặt trăng mà không cảm thấy thế là kỳ lạ.

Đối phương ngẫm nghĩ giây lát. “Cậu nhắc đến tôi mới nhớ, dạo này tôi không hề ngắm trăng. Mặt trăng làm sao hả?”

“Lúc nào rãnh rỗi thì ngước nhìn xem. Tôi muốn nghe cảm tưởng của cậu.”

“Cảm tưởng? Từ góc độ nào?”

“Từ góc độ nào cũng được. Tôi muốn nghe cảm tưởng của cậu sau khi ngắm trăng.”

Một thoáng ngập ngừng. “Cảm tưởng thế nào, có lẽ rất khó để biểu đạt.”

“Ừm, biểu đạt thế nào cũng được, quan trọng là những đặc tính nổi bật nhất ấy.”

“Cậu muốn tôi ngắm trăng, rồi phát biểu cảm tưởng về đặc tính nổi bật nhất của nó, phải không?”

“Phải,” Tengo nói. “Nếu không có cảm tưởng gì cũng chẳng sao.”

“Hôm nay trời nhiều mây, tôi đoán là không có trăng đâu. Để lần sau trời quang mây tạnh, nếu tôi vẫn còn nhớ.”

Tengo cảm ơn bạn rồi dập máy. Nếu anh ta vẫn còn nhớ. Đây là một trong những vấn đề của những người học khoa Toán. Với những gì không nằm trong lĩnh vực họ quan tâm thì ký ức của họ có tuổi thọ ngắn đến mức đáng ngạc nhiên.

Hết thời gian thăm bệnh, khi rời khỏi bệnh viện điều dưỡng, Tengo chào hỏi y tá Tamura ngồi ở quầy lễ tân. “Cô vất vả quá. Tạm biệt,” anh nói.

“Anh Tengo còn ở lại đây được mấy ngày nữa?” cô ấn ngón tay lên chỗ giữa gọng kính phía trên mũi, hỏi. Hình như cô đã tan ca, không mặc đồng phục y tá mà đã thay một chiếc váy màu mận chín có nếp gấp, sơ mi trắng và áo khoác len mỏng màu xám.

Tengo dừng lại ngẫm nghĩ giây lát. “Vẫn chưa quyết định. Để xem tình hình thế nào rồi tính.”

“Anh vẫn tiếp tục nghỉ phép được ạ, không phải đi làm sao?”

“Tôi đã nhờ người dạy thay, còn có thể nghỉ thêm mấy hôm nữa.”

“Bình thường anh ăn cơm ở đâu thế?” nữ y tá hỏi.

“Ở quán ăn nhỏ gần đây thôi,” Tengo trả lời. “Lữ quán chỉ cung cấp bữa sáng, vì vậy tôi đi loanh quanh gần đó ăn cơm phần, không thì làm một suất cơm hộp. Kiểu vậy đó.”

“Ngon không?”

“Không ngon lắm. Nhưng đối với tôi thì chẳng quan trọng.”

“Thế đâu có được,” cô y tá nghiêm túc nói, “phải ăn những thứ có dinh dưỡng. Anh nhìn lại mình đi, dạo này trong mặt anh cứ như con ngựa đang ngủ đứng ấy.”

“Con ngựa đang ngủ đứng?” Tengo ngạc nhiên nói.

“Ngựa ngủ đứng, anh chưa từng thấy sao?”

Tengo lắc đầu. “Chưa từng thấy.”

“Giống hệt như bộ mặt anh lúc này này.” Nữ y tá trung niên nói, “Anh vào nhà vệ sinh soi gương xem lại mặt mình đi, thoạt trông thì không biết là đã ngủ, nhưng nhìn kỹ một chút thì rõ là đang ngủ. Mắt mở đấy, nhưng mà chẳng nhìn gì cả.”

“Ngựa mở mắt lúc ngủ à?”

Nữ y tá gật đầu. “Giống anh.”

Trong một khoảnh khắc, Tengo thực sự nghĩ đến việc vào nhà vệ sinh soi gương, nhưng rồi lại đổi ý. “Tôi biết rồi. Tôi sẽ ăn những thứ có dinh dưỡng hơn.”

“Tôi bảo này, đi ăn thịt nướng không?”

“Thịt nướng?” Tengo không ăn nhiều thịt lắm. Không phải anh ghét, mà chỉ là bình thường gần như anh không có ý muốn ăn thịt. Nhưng nghe cô nói vậy, anh lại cảm thấy ăn một bữa thịt để thay đổi cũng không phải ý tồi. Đúng vậy, không chừng cơ thể mình đang cần thêm dinh dưỡng.

“Mọi người đã hẹn nhau tối nay đi ăn thịt nướng. Anh cũng đi nhé.”

“Mọi người?”

“Tôi đang đợi mấy người tan ca lúc sáu giờ, ba người cùng đi. Sao hả?”

Hai người còn lại là y tá Omura và y tá Adachi. Ba người này, ngoài quan hệ đồng nghiệp, hình như cũng là bạn thân của nhau. Tengo nghĩ không biết có nên đi ăn thịt nướng với họ không. Anh cố gắng không làm nhiễu loạn nhịp sinh hoạt đơn giản của mình, nhưng lại không tìm ra cớ để từ chối. Ai cũng biết ở thị trấn nhỏ này, Tengo có rất nhiều thời gian rãnh rỗi.

“Nếu như không quấy rầy các cô,” Tengo nói.

“Tất nhiên là không rồi,” nữ y tá nói, “nếu là người quấy rầy chúng tôi thì chúng tôi đã chẳng mời. Anh đừng khách sáo, đi với chúng tôi đi. Thỉnh thoảng có một anh chàng trẻ trung khỏe mạnh tham gia thì đâu phải là chuyện xấu.”

“Ừm, khỏe mạnh thì chính xác rồi,” Tengo nói với giọng không được chắc chắn cho lắm.

“Đúng, cái đó là quan trọng nhất đấy,” xuất phát từ góc độ nghề nghiệp, nữ y tá khẳng định.

Ba y tá làm ở một chỗ, tan ca cùng một thời điểm không phải là chuyện dễ dàng. Nhưng ba người bọn tìm đủ mọi cách để mỗi tháng một lần có ra một cơ hội như thế. Sau đó ba người sẽ ra thị trấn ăn “những thứ có dinh dưỡng,” uống rượu, hát karaoke, buông thả, phát tiết hết những thứ có lẽ nên gọi là tinh lực dư thừa. Họ nhất định cần có những dịp khuây khỏa như thế. Cuộc sống ở thị trấn nhỏ vùng quê vốn đã đơn điệu, mà ở nơi làm việc, ngoài bác sĩ và y tá ra, họ chỉ gặp mỗi những người già đang mất đi sức sống và ký ức.

Ba cô y tá ăn uống thỏa sức, Tengo không thể theo kịp họ. Nhìn ba người vui vẻ hào hứng hết nói lại cười, anh chỉ ngồi bên cạnh, thi thoảng phụ họa theo, ăn một ít thịt nướng và uống bia tươi, lưu tâm để không uống quá say. Ra khỏi tiệm thịt nướng, cả bọn lại chuyển sang quán rượu nhỏ ở gần đấy gọi một chai whiskey và bắt đầu hát karaoke. Ba cô y tá lần lượt biểu diễn bài tủ của mình, rồi lại cùng nhau múa hát một bài của nhóm Candies. Chắc là bình thường vẫn hay luyện tập nên biểu diễn cũng khá ra dáng. Tengo không hay hát karaoke lắm, nhưng cũng hát một bài của Inoue Yosui mà anh còn loáng thoáng nhớ được nhạc.

Y tá Adachi bình thường không nhiều lời, nhưng có chút hơi men vào bỗng trở nên phấn khích và mạnh dạn. Khi cô ngà ngà say, cặp má hồng hồng ửng lên thành sắc màu rám nắng khỏe mạnh. Cô bật cười khúc khích trước những câu nói đùa vô vị, thoải mái dựa cả người vào vai Tengo. Cô y tá cao kều Omura bao giờ cũng cắm bút trên búi tóc giờ đã thay đổi một chiếc váy liền thân màu xanh nhạt, xõa mái tóc xuống. Sau khi xõa tóc, trông cô trẻ hơn đến ba bốn tuổi, giọng nói cũng hạ xuống một quãng tám. Tác phong nhanh nhẹn, tháo vát khi làm việc cũng biến mất, mọi cử động đều trở nên hơi biếng nhác, như thể đã đổi tính hoàn toàn. Chỉ có y tá Tamura đeo kính gọng kim loại là không có thay đổi gì đặc biệt về ngoại hình hay phong cách.

“Tối nay tôi nhờ hàng xóm trông con hộ,” y tá Omura nói với Tengo, “ông chồng làm ca đêm, không có nhà. Không tranh thủ lúc này vui vẻ một phen thì còn lúc nào nữa? Giải sầu cũng là một chuyện lớn. Anh cũng nghĩ thế nhỉ, đúng không, anh Tengo?”

Giờ họ không gọi “anh Kawana” mà gọi thẳng tên anh. Hầu hết những người xung quanh đều không hiểu vì nguyên do gì đều gọi anh là “Tengo.” Kể cả đám học sinh ở trường phụ đạo cũng gọi anh như vậy ở sau lưng.

“Phải rồi. Đúng là thế,” Tengo đồng ý.

“Đối với chúng tôi, làm như vậy rất cần thiết,” y tá Tamura nhấp một ngụm whiskey Suntory Old pha với nước, nói. “Chúng tôi cũng là con người bằng xương bằng thịt thôi mà.”

“Cởi bỏ đồng phục, chúng tôi chỉ là những phụ nữ bình thường,” y tá Adachi nói. Sau đó cô tự bật cười khúc khích trước câu nói của mình.

“Phải rồi, anh Tengo,” y tá Omura nói. “Có câu này không biết có nên hỏi anh không?”

“Chuyện gì?”

“Anh có đang qua lại với ai không?”

“Đúng đúng, câu này em cũng rất muốn hỏi,” y tá Adachi nhai ngô rôm rốp với hàm răng to và trắng, nói.

“Chuyện này khó mà nói hết trong một hai câu lắm,” Tengo trả lời.

“Chuyện khó mà nói hết trong một hai câu chẳng phải lại càng tốt sao?” y tá dày dặn kinh nghiệm Tamura nói. “Chúng tôi có đầy thời gian, những chuyện thế này chúng tôi hoan nghênh nhiệt liệt. Chuyện khó nói của anh Tengo rốt cuộc là như thế nào?”

“Kể đi, kể đi,” y tá Adachi khẽ vỗ tay, bật cười khúc khích.

“Cũng chẳng phải chuyện hay ho gì,” Tengo nói, “hết sức bình thường, không đầu không đuôi.”

“Vậy thì anh chỉ cần cho chúng tôi biết kết luận là được rồi,” y tá Omura nói. “Có đang qua lại với ai không?”

Tengo không biết làm sao, đành nói: “Hiện giờ thì tôi không qua lại với ai.”

“Ừm,” y tá Tamura nói, khuấy những viên đá trong cốc thủy tinh kêu lách cách, liếm liếm đầu ngón tay, “Thế không tốt đâu. Người vửa trẻ trung vừa khỏe mạnh như anh Tengo đây mà không có đối tượng qua lại thân mật, thật lãng phí quá.”

“Cũng không có lợi cho sức khỏe,” y tá Omura nói, “một thân một mình lâu quá, đầu óc sẽ dần dần trở nên trì độn đấy.”

Cô y tá trẻ Adachi lại cười hích hích. “Đầu óc sẽ trở nên trì độn,” cô nói, dùng đầu ngón tay chọc chọc vào huyệt Thái dương của mình.

“Dạo trước thì cũng có một đối tượng như vậy,” Tengo nói như để biện bạch.

“Nhưng cái dạo trước ấy giờ không còn nữa rồi, đúng không?” y tá Tamura vừa ấn đầu ngón tay lên giữa gọng kính phía trên mũi vừa nói.

Tengo gật đầu.

“Tức là anh bị người ta đá?” y tá Omura hỏi.

“Nói thế nào nhỉ,” Tengo nghiên đầu, “có lẽ là vậy. Đại khái là bị người ta đá.”

“Tôi bảo này, có khi người đó nhiều hơn anh Tengo mấy tuổi cũng nên, đúng không nhỉ?” y tá Tamura nheo mắt hỏi.

“Ừm, đúng vậy.” Tengo nói. Sao cô ta biết chuyện này nhỉ?

“Đấy đấy, tôi đã bảo rồi mà,” y tá Tamura lấy làm đắc ý với hai người còn lại. Cả hai đều gật gù.

“Tôi có nói với hai người họ,” y tá Tamura bảo Tengo, “rằng anh Tengo chắc chắn đang qua lại với một người phụ nữ lớn tuổi hơn anh ấy. Mấy cái chuyện này, phụ nữ chỉ cần ngửi mùi là phát giác được ngay.

“Ừm ừm,” y tá Adachi nói.

“Vả lại còn là phụ nữ có chồng rồi nữa,” y tá Omura nói với giọng uể oải, “đúng không?”

Tengo thoáng do dự, rồi gật đầu. Đã đến nước này, nói dối cũng chẳng phải cách hay.

“Đồ xấu xa,” cô y tá trẻ Adachi lấy ngón tay chọc chọc vào đùi non của Tengo.

“Hơn anh mấy tuổi?”

“Mười tuổi,” Tengo đáp.

“Khụ khụ,” y tá Tamura bật cười.

“Thật sao? Vậy anh Tengo được một phụ nữ có chồng, lớn tuổi và lão luyện mê như điếu đổ rồi,” cô y tá đã có hai con Omura nói, “thật hay quá. Có phải tôi cũng nên hăng hái hơn không nhỉ. An ủi anh Tengo dịu dàng mà cô độc đang ở đây? Đừng nhìn kiểu ấy chứ, người ngợm tôi cũng đâu có tệ.”

Cô cầm tay Tengo ấn vào ngực mình. Hai người kia vội vàng ngăn cô lại. Dường như họ cảm thấy, cho dù là uống say làm loạn lên thì cũng không thể vượt qua ranh giới giữa y tá và người nhà bệnh nhân. Có lẽ họ sợ người khác trông thấy. Phải biết rằng đây là một thị trấn nhỏ, tin đồn kiểu này sẽ lan truyền ngay lập tức. Có thể chồng y tá Omura là người cực kỳ ghen tuông. Tengo không muốn có thêm phiền phức nữa.

“Nhưng mà anh Tengo này, anh cũng khá lắm đấy,” y tá Tamura chuyển chủ đề câu chuyện. “Đi một quãng đường dài đến đây, ngày ngày ngồi bên giường cha đọc sách cho ông nghe mấy tiếng đồng hồ… chẳng có mấy người làm được đâu.”

Cô y tá trẻ Adachi hơi nghiêng nghiêng đầu nói: “Ừm, em cũng cảm thấy anh ấy rất tài giỏi. Em thực sự kính phục anh vì chuyện này.”

“Chúng tôi ấy à, cứ khen Tengo suốt cả ngày đấy,” y tá Tamura nói.

Tengo không khỏi đỏ mặt. Anh ở lại thị trấn nhỏ này không phải vì chăm sóc cho cha, mà để nhìn thấy chiếc nhộng không khí sáng mờ mờ và Aomame đang nằm ngủ ở trong đó. Đây là lý do duy nhất khiến anh dừng chân ở thị trấn nhỏ này. Chăm sóc người cha hôn mê bất tỉnh, xét cho cùng đó chẳng qua là danh nghĩa mà thôi. Nhưng chuyện này anh không thể nói thật được. Bằng không, anh sẽ phải bắt đầu giải thích từ chuyện “nhộng không khí” là gì.

“Vì trước đây tôi chưa từng làm gì cho ông ấy,” Tengo ngồi trên chiếc ghế gỗ chật hẹp, vụng về co tấm thân cao lớn của mình lại, lấy làm khó xử. Nhưng trong mắt các cô y tá, thái độ của anh là biểu hiện của sự khiêm tốn.

Tengo muốn bảo họ rằng anh buồn ngủ quá rồi, chắc phải về lữ quán ngủ, nhưng mãi mà không tìm được cơ hội thích hợp. Xét cho cùng, anh không phải loại người có khả năng áp đặt ý mình.

“Nhưng mà,” y tá Omura nói, đằng hắng một tiếng, “trở lại chuyện hồi nãy. Tại sao anh lại chia tay với người đàn bà có chồng hơn anh mười tuổi kia thế? Hai người ở với nhau chắc là hòa hợp lắm phải không? Hay là bị chồng chị ta phát hiện, phải vậy không?”

“Tôi cũng không biết tại sao,” Tengo đáp, “một hôm đột nhiên cô ấy cắt đứt liên hệ, từ đấy bặt vô âm tín.”

“Ừm,” y tá Adachi nói, “hẳn là chị ta chán anh Tengo rồi.”

Y tá Omura lắc đầu, giơ một ngón trỏ lên, nói với cô y tá trẻ: “Cô em à, em còn non kinh nghiệm lắm, hoàn toàn chẳng hiểu sự đời gì cả. Một phụ nữ có chồng bốn mươi mà bắt được một anh chàng trẻ tuổi mạnh khỏe ngon nghẻ thế này, đã quấn lấy nhau được một bận thì sẽ chẳng bao giờ buông tay rồi nói kiểu như ‘Cám ơn. Chúng ta vui vẻ đủ rồi. Thế nhé, tạm biệt’ đâu. Làm gì có chuyện ấy! Ngược lại thì may ra.”

“Thế ạ?” y tá Adachi hơi nghiêng đầu nói. “Chuyện này em không hiểu lắm.”

“Thì đó,” y tá Omura nói như chém đinh chặt sắt. Cô chăm chú nhìn Tengo như thể lùi lại mấy bước để đọc những dòng văn tự khắc trên một tấm bia đá, sau đó bật đầu. “Khi nào lớn tuổi hơn cô em sẽ hiểu.”

“Hi hi, lâu lắm rồi tôi không được nếm cái mùi ấy,” Tamura dựa sâu người vào ghế, thở dài.

Sau đó, ba người sôi nổi bàn luận về trải nghiệm tình dục của người nào đó mà Tengo không quen biết (chắc là đồng nghiệp y tá cùa bọn họ). Tengo cầm cốc thủy tinh đựng whiskey pha nước, quan sát ba người, trong đầu chợt hiện lên hình ảnh ba phù thủy trong Macbeth. Những mụ phù thủy miệng lầm bầm những tham vọng tà ác. Họ là những người phụ nữ nhiệt tình và thẳng thắn, làm việc chăm chỉ, chăm sóc cha anh rất chu đáo. Bị vắt kiệt sức ở nơi làm việc, sống theo cái lối chẳng lấy gì làm phấn khích ở cái thị trấn nhỏ sống dựa vào nghề cá này, họ chỉ đang giải phóng áp lực tinh thần, mỗi tháng một lần. Thế nhưng, chứng kiến ba người phụ nữ ở ba độ tuổi khác nhau dồn tinh lực vào một chỗ, anh không khỏi tự dưng nghĩ đến cảnh tượng bát ngát ở Scotland. Bầu trời mây đen mù mịt, những cơn gió lạnh kèm theo cơn mưa lướt qua những bụi cây trên cánh đồng hoang.

Hồi đại học anh từng đọc Macbeth trong giờ tiếng Anh, có một đoạn còn lưu giữ lại trong đầu anh.

By the pricking of my thumbs,

Something wicked this way comes

Open, locks,

Whoever knocks.

Ngón cái đau nhói báo với ta,

Có thứ tà ác đang tới đây.

Mở ra đi, ổ khóa,

Dù kẻ gõ cửa kia là ai.

Tại sao đến giờ anh vẫn nhớ kỹ đoạn này đến thế? Thậm chí anh còn không nhớ nổi đây là lời thoại của nhân vật nào trong vở kịch ấy nữa. Thế nhưng, đoạn này làm anh nhớ đến tay nhân viên thu tiền đài NHK cố chấp gõ cửa nhà anh ở Koenji. Tengo nhìn chằm chằm vào ngón tay cái của mình, không có cảm giác đau nhói. Thế nhưng, trong những vần chân khéo léo của Shakespeare quả thực có tiếng vọng chẳng lành.

Something wicked this way comes

Có thứ tà ác đang tới đây.

Fukaeri, chớ có mở khóa cửa ra đấy nhé, Tengo nghĩ.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 7: Ushikawa


Đang đi về phía cô

Trong một thời gian Ushikawa đành phải từ bỏ việc thu thập thông tin liên quan đến bà chủ nhà ở Azabu. Y hiểu rằng tuyến phòng vệ bà lập nên xung quanh mình quá đỗi kiên cố, cho dù tiến tới từ hướng nào, y cũng sẽ lập tức đụng phải một bức tường cao chót vót. Y rất muốn thăm dò thêm tình hình của trung tâm bảo trợ, nhưng quanh quẩn ở gần đó lâu thì quá nguy hiểm. Khu nhà ấy có lắp đặt hệ thống camera giám sát, mà bộ dạng Ushikawa thì lại thu hút sự chú ý của người khác. Một khi đối phương đã đâm ra cảnh giác, sau này mọi sự sẽ khó khăn hơn nhiều. Nên y quyết định tạm thời tránh xa biệt thự Cây Liễu, thử tiếp cận điều tra từ những kênh khác.

“Kênh khác” duy nhất mà y có thể nghĩ ra được là một lượt những gì xung quanh Aomame. Lần trước y đã ủy thác một công ty thám tử từng làm việc với mình thu thập tư liệu, đồng thời đích thân y cũng đi dò hỏi khắp nơi. Y đã dựng nên một hồ sơ chi tiết về Aomame. Sau khi nghiệm chứng kỹ càng từ nhiều góc độ khác nhau, y nhận định người phụ nữ này không nguy hiểm. Hoàn toàn không có khả năng nghi hoặc mờ ám. Ushikawa chau mày, thở dài một tiếng, ném tập hồ sơ đã nghiên cứu đi nghiên cứu lại nhiều lần lên bàn. Chắc chắn mình đã bỏ qua thứ gì đó. Đã bỏ qua thứ gì cực kỳ quan trọng.

Ushikawa lấy quyển sổ trong ngăn kéo bàn ra, bấm một số điện thoại. Mỗi khi cần thông tin nào đó chỉ có thể lấy được một cách bất hợp pháp, y luôn gọi tới chỗ ấy. So với Ushikawa, kẻ ở đầu dây bên kia sống trong một thế giới còn tăm tối hơn nhiều. Chỉ cần được trả tiền, hắn sẽ đào bới được hầu hết bất cứ thông tin nào y cần. Thông tin càng được giữ gìn nghiêm ngặt, phí càng đắt.

Ushikawa cần tìm hiểu hai thông tin. Một là thông tin cá nhân của bố mẹ Aomame, những người đến giờ vẫn còn là hội viên trung thành của Chứng nhân Jehovah, Ushikawa tin rằng hội Chứng nhân Jehovah có một cơ sở dữ liệu chung gồm thông tin của các tín đồ trên khắp toàn quốc. Tín đồ của Chứng nhân Jehovah ở khắp nơi trên đất nước Nhật, số lượng đông đảo, lượng người và hàng hóa qua lại giữa tổng bộ và các phân bộ ở các địa phương luôn luôn tấp nập. Nếu ở tổng bộ không lưu trữ thông tin tập trung thì cả hệ thống không thể vận hành suôn sẻ được. Tổng bộ của Chứng nhân Jehovah đặt ở ngoại ô Odawara, một tòa nhà đồ sộ xây trên mảnh đất thênh thang, họ có công xưởng riêng để in ấn những cuốn sách nhỏ, có hội trường lớn và cả chỗ tá túc cho các tín đồ từ khắp nơi đến sử đụng. Tất cả thông tin chắc chắn đều tập trung cả ở đó, được quản lý rất nghiêm ngặt.

Thông tin thứ hai là sổ sách kinh doanh của câu lạc bộ thể thao nơi Aomame làm việc. Cô ta làm việc gì ở đó, có giờ dạy riêng cho ai vào thời gian nào. Thông tin ở đó chắc không quản lý nghiêm ngặt như ở hội Chứng nhân Jehovah. Thế nhưng, nếu bước thẳng vào mà nói: “Xin lỗi, có thể cho tôi xem hồ sơ công tác của cô Aomame được không?” thì chắc chắn sẽ nhận được lời từ chối.

Ushikawa để lại tên và số điện thoại trong băng ghi âm. Ba mươi phút sau, có điện thoại gọi đến.

“Ông Ushikawa,” một giọng khàn khàn cất lên.

Ushikawa giải thích kỹ lưỡng cho người kia yêu cầu của mình. Y chưa từng gặp mặt người ngày ngoài đời thực, trước nay chỉ nói chuyện qua điện thoại; người này sẽ gửi thông tin thu thập được qua đường chuyển phát nhanh. Giọng người đàn ông hơi khàn, thỉnh thoảng pha lẫn tiếng ho khan khe khẽ, Chắc là cổ họng có vấn đề. Đầu dây bên kia bao giờ cũng ở trạng thái im lặng tuyệt đối, như thể đang nói chuyện điện thoại với một gian phòng được cách âm hoàn hảo. Y chỉ nghe thấy tiếng đối phương nói cùng với tiếng thở chói tai, ngoài ra không còn gì khác. Vả lại, âm thanh vẳng tới tai y bị hơi cường điệu. Đúng là một thằng cha đáng sợ! Lần nào Ushikawa cũng nghĩ thế. Trên đời này hình như đầy rẫy những thằng cha đáng sợ (trong mắt người khác chắc mình cũng là một trong số đó). Y ngấm ngầm đặt cho đối phương một biệt hiệu: “Dơi.”

“Cả hai trường hợp này đều chỉ cần tìm kiếm thông tin liên quan đến Aomame là được phải không?” Dơi hỏi với giọng khản đặc, ho khan một tiếng.

“Đúng. Họ này rất hiếm gặp.”

“Cần bất cứ thông tin nào à?”

“Chỉ cần có dính dáng đến cái họ Aomame này thì thông tin gì cũng được. Nếu có thể, tốt nhất là kiếm được cả ảnh nữa, loại có thể nhìn rõ mặt ấy.”

“Bên phía câu lạc bộ thể thao thì dễ thôi. Chắc chắn bọn họ không ngờ lại có người đến trộm thông tin. Nhưng Chứng nhân Jahovah thì hơi khó nhằn. Bọn họ là một tổ chức khổng lồ, tài chính dư dật, cảnh giới cực kỳ nghiêm ngặt. Đoàn thể tôn giáo là một trong những đối tượng khó tiếp cận nhất. Vì nó liên quan đến vấn đề bảo vệ bí mật cá nhân của thành viên, rồi cả vấn đề thuế má nữa.”

“Có làm được không?”

“Chỉ cần bắt tay làm thì thế nào cũng làm được. Tôi có cách để nạy cửa ra. Việc khó hơn là sau khi nạy được cửa ra phải đóng lại cho cẩn thận. Bằng không, sẽ có tên lửa tìm mục tiêu đuổi theo mình.”

“Nghe như là chiến tranh vậy.”

“Thì đúng là chiến tranh mà. Không khéo còn có thứ gì ghê gớm chui ra nữa cũng nên,” người kia nói khàn khàn. Từ giọng điệu, Ushikawa có thể đoán được rằng kẻ kia dường như rất thú cái trò chiến tranh này.

“Vậy có thể nhờ anh giúp được không?”

Một tiếng ho khan khe khẽ. “Để tôi thử xem. Có điều, giá cả phải tương xứng đấy.”

“Khoảng bao nhiêu?”

Đối phương nói một con số ước chừng. Ushikawa thầm hít vào một hơi khí lạnh, rồi chấp nhận. Dẫu sao thì đó cũng là số tiền y có thể gánh vác được, và nếu có kết quả, số tiền này về sau có thể được thanh toán lại.

“Có tốn nhiều thời gian lắm không?”

“Ông đang cần gấp à?”

“Rất gấp.”

“Không thể dự đoán chuẩn xác, nhưng tôi nghĩ ít nhất cũng phải một tuần đến mười ngày.”

“Được rồi,” Ushikawa nói. Nhanh hay chậm, giờ y đành phải để cho Dơi định đoạt.

“Sau khi có được dữ liện, tôi sẽ gọi điện. Trong vòng mười ngày chắc chắn sẽ liên lạc với ông.”

“Trừ phi có tên lửa đạn đạo truy kích,” Ushikawa nói.

“Đúng vậy,” Dơi hờ hững trả lời.

Ushikawa gác máy, tựa lưng vào ghế nghĩ ngợi một lúc. Y không rõ Dơi thu thập thông tin tình báo qua “cửa sau” bằng cách nào. Y biết, dù có hỏi dò cũng sẽ không nhận được câu trả lời. Điều duy nhất chắc chắn là kẻ kia sử dụng những thủ đoạn không hợp pháp. Ắt hẳn là đầu tiên hắn mua chuộc người trong nội bộ. Nếu cần có thể còn đột nhập nhà riêng. Nếu dính dáng đến máy tính, sự việc sẽ còn phức tạp hơn.

Các cơ quan nhà nước và công ty sử dụng máy tính để quản lý thông tin vẫn còn rất ít. Vừa quá tốn tiền vừa quá tốn công. Nhưng một đoàn thể tôn giáo có quy mô toàn quốc thì chắc chắn có nguồn lực làm việc ấy. Ushikawa gần như không biết gì về máy tính, nhưng y cũng hiểu thứ đó đang dần trở thành công cụ không thể thiếu được khi thu thập thông tin. Cái thời mà người ta phải chạy đến Thư viện Quốc hội, chất lên bàn cả đống báo cũ hoặc niên giám in khổ nhỏ đóng thành tập rồi bỏ cả ngày lục lọi thông tin trong đó, cái thời ấy sắp qua rồi. Thế giới này ắt rồi sẽ quy giản lại thành một chiến trường tanh mùi máu giữa một bên là nhân viên quản lý máy tính còn bên kia là kẻ toan xâm nhập. Không đúng, không phải là tanh mùi máu. Đã là chiến tranh, máu chảy là chuyện khó lòng tránh khỏi, thế nhưng sẽ không có mùi gì cả. Một thế giới kỳ dị. Ushikawa thích thế giới thực tại có mùi vị và cảm giác đau đớn đôi lúc khó lòng chịu đựng. Nhưng tựu trung, loại người như Ushikawa nhất định sẽ nhanh chóng trở thành một thứ di vật lạc hậu với thời đại.

Mặc dù thế, y không bi quan. Y biết mình được trang bị một thứ trực giác bản năng, có thể dựa vào khứu giác mà ngửi ra được đủ loại mùi xung quanh, có thể nắm được sự thay đổi của hướng gió dựa theo cảm giác trên da. Việc này máy tính không làm được. Những năng lực ấy là thứ không thể số hóa, không thể hệ thống hóa. Khéo léo tiến vào hệ thống máy tính được bảo vệ nghiêm ngặt để đánh cắp thông tin là việc của hacker. Nhưng phán đoán xem nên đánh cắp loại thông tin nào, lọc ra những gì hữu ích trong lượng lớn thông tin đánh cắp được, việc ấy chỉ có con người bằng xương bằng thịt mới có thể làm.

Có thể mình là một gã trung niên xấu xí lạc hậu với thời đại, Ushikawa thầm nhủ. Không, không phải có thể. Không nghi ngờ gì cả, mình là một gã trung niên xấu xí lạc hậu với thời đại. Nhưng mình sở hữu vài tư chất mà người khác không có. Chỉ cần có những năng lực này, cho dù thế giới có ly kỳ cổ quái mấy đi chăng nữa, chắc chắn mình sẽ sống sót.

Tôi sẽ truy ra cô, Aomame ạ. Đầu óc cô nhanh nhạy. Đầy năng lực, và là người cẩn trọng. Nhưng tôi nhất định sẽ truy được cô. Cứ đợi đấy mà xem, giờ tôi đang đi về phía cô. Cô đã nghe thấy bước chân của tôi chưa? Không, chắc chắn cô không nghe thấy. Tôi giống như con rùa vậy, đi cứ êm ru. Nhưng từng bước, từng bước một, tôi đang không ngừng đến gần cô hơn.

Song ngược lại, cũng có thứ đang thúc vào lưng Ushikawa. Đó là thời gian. Đối với Ushikawa, lần theo dấu vết Aomame đồng thời cũng là vùng thoát khỏi sự đeo đẳng của thời gian. Cần phải nhanh chóng tìm ra Aomame đang ở đâu, điều tra xem ai ở phía sau cô ta, rồi đặt tất tần tật lên khay bưng đến trước mặt đám người ở giáo đoàn kia mà nói, “Đây, xin mời thưởng thức.” Thời gian dành cho y có hạn. Ba tháng nữa, chẳng hạn vậy, mà mới làm rõ được mọi thứ thì sẽ quá muộn. Cho đến thời điểm hiện tại, đối với bọn họ, Ushikawa vẫn là một nhân tài hữu dụng. Thông minh, tháo vát, đầu óc linh hoạt, có tri thức về pháp luật, lại kín miệng như bưng. Một người tách khỏi thể chế, hành động tự do. Thế nhưng, xét cho cùng, y chẳng qua là một kẻ làm thuê đa dụng mà thôi. Y không phải người của bọn họ, hoàn toàn không có tín ngưỡng. Một khi trở nên nguy hiểm với giáo đoàn, y có thể sẽ bị loại trừ một cách không thương tiếc.

Trong lúc đợi điện thoại của Dơi, Ushikawa đến thư viện, tìm đọc lịch sử và tình hình hoạt động của hội Chứng nhân Jehovah. Y ghi chép, sao chụp lại những phần cần thiết. Đối với y, đến thư viện nghiên cứu tài liệu không phải chuyện khổ sai. Y thích cái cảm giác chân thực khi tri thức dần dần tích lũy trong óc mình. Đây là thói quen y có từ nhỏ.

Sau khi xong việc ở thư viện, y lại đến căn hộ của Aomame ở Jiyugaoka, xác nhận lại rằng nơi đó không còn ai ở nữa. Trên hòm thư vẫn dán tên của Aomame, nhưng trong phòng không có dấu vết gì chứng tỏ có người đang ở đấy. Ushikawa ghé vào văn phòng môi giới địa ốc quản lý căn hộ đó. “Nghe nói khu chung cư ấy có căn hộ trống, không biết tôi có thuê được không?” y nói.

“Đúng là để trống, nhưng mà không thể vào ở trước tháng Hai sang năm được,” người môi giới nói. “Hợp đồng cho thuê với người khách hiện tại đến tháng Một sang năm mới hết hạn, cho đến thời điểm ấy, tháng nào người ta cũng trả tiền như thường lệ. Đồ đạc đã chuyển đi hết rồi, nước, điện, khí ga cũng đều cắt xong. Nhưng hợp đồng cho thuê vẫn còn hiệu lực.”

“Tức là từ giờ cho đến hết tháng Một họ vẫn trả tiền thuê cho một căn hộ trống?”

“Đúng đấy,” người môi giới đáp, “họ bảo sẽ trả hết tiền thuê nhà trong thời hạn hợp đồng, hy vọng có thể duy trì trạng thái hiện nay của căn hộ ấy. Tất nhiên, chỉ cần họ trả đủ tiền thuê nhà, bên phía chúng tôi chẳng có lý do gì để thắc mắc cả.”

“Kỳ lạ nhỉ. Rõ ràng chẳng có ai ở, mà không dưng lại trả tiền thuê nhà.”

“Chúng tôi cũng hơi lo, vì vậy đã mời chủ nhà đến để cho họ vào phòng kiểm tra lại một lượt. Ngộ nhỡ trong tủ âm tường có một cái xác đã biến thành xác ướp hay gì đó thì phiền to. Cũng may, không có thứ gì cả, căn hộ được quét dọn sạch sẽ, tinh tươm, chỉ là trống huếch chẳng có thứ gì thôi. Thật chẳng hiểu sao nữa.”

Tất nhiên Aomame đã không ở đó từ lâu rồi. Nhưng vì một nguyên do nào đó bọn họ vẫn muốn duy trì danh nghĩa Aomame đang thuê căn hộ ấy, nên vẫn tiếp tục trả bốn tháng tiền thuê nhà cho một căn hộ trống. Đám người này cực kỳ cẩn thận, tiền nong cũng không hề thiếu.

Đúng mười ngày sau, buổi chiều, Dơi gọi điện đến văn phòng của Ushikawa ở Kojimachi.

“Ông Ushikawa?” giọng khàn khàn cất tiếng hỏi. Bối cảnh như thường lệ, tĩnh lặng không một tiếng động.

“Tôi là Ushikawa đây.”

“Giờ nói chuyện có tiện không?”

Không sao cả, Ushikawa đáp.

“Bên hội Chứng nhân Jehovah đề phòng rất kín kẽ. Nhưng chuyện này cũng không ngoài dự đoán của tôi. Thông tin về Aomame đã có rồi.”

“Còn tên lửa đạn đạo thì sao?”

“Trước mắt vẫn chưa thấy.”

“Tốt quá.”

“Ông Ushikawa,” Dơi nói, kèm theo mấy tiếng ho khan, “xin lỗi, có thể phiền ông dừng hút thuốc không?”

“Thuốc lá?” Ushikawa nhìn điếu thuốc Seven Stars kẹp giữa hai ngón tay. Khói thuốc đang lững lờ bốc lên trần nhà. “À, đúng là tôi đang hút thuốc. Nhưng làm sao anh biết được?”

“Mùi thuốc tất nhiên không thể truyền qua đường dây điện thoại đến đây được. Có điều, dù chỉ nghe thấy tiếng hút thuốc trong ống nghe tôi cũng không thở nổi. Thể chất của tôi thuộc loại cực kỳ mẫn cảm.”

“Ồ. Tại tôi không để ý, xin lỗi nhé.”

Bên kia lại ho khan mấy tiếng. “Không, chuyện này không trách ông Ushikawa được. Không chú ý là chuyện đương nhiên thôi.”

Ushikawa dụi điếu thuốc vào gạt tàn, tưới một ít nước trà uống dở lên, đồng thời đứng dậy mở toang cửa sổ ra.

“Tôi tắt thuốc rồi, mở cửa sổ ra, lưu thông không khí trong phòng. Tất nhiên, không khí bên ngoài không thể nói là sạch sẽ hơn là mấy.”

“Xin lỗi.”

Khoảng lặng kéo dài chừng mười mấy giây. Phía bên kia là tĩnh lặng tuyệt đối.

“Vậy là, đã lấy được thông tin từ phía hội Chứng nhân Jehovah rồi à?” Ushikawa hỏi.

“Ừm. Thật ra là khá nhiều. Cả nhà Aomame là tín đồ nhiệt thành từ nhiều năm nay, tư liệu liên quan đến bọn họ nhiều kinh khủng. Tốt nhất tôi gửi cả tập cho ông, cái nào dùng được cái nào không, ông tự mà lọc lấy.”

Ushikawa đồng ý. Đó chính là điều y mong muốn.

“Bên phía câu lạc bộ thể thao thì không có vấn đề gì lớn. Chẳng qua là chỉ mở cửa đi vào, làm xong mọi chuyện, quay ra đóng cửa lại là xong. Chỉ có điều thời gian có hạn, đành lấy hết tất cả ra, vì vậy lượng tài liệu cũng rất lớn. Nói tóm lại, tôi giao hết cả hai tập hồ sơ cho ông. Cứ theo lệ cũ, một tay giao tiền, một tay giao hàng.”

Ushikawa viết lại số tiền Dơi yêu cầu. So với giá ước tính lúc trước thì còn cao hơn hai mươi phần trăm. Nhưng y đành chấp nhận, không còn lựa chọn nào khác.

“Lần này tôi không muốn gửi qua đường bưu điện. Tôi sẽ sai người trực tiếp đến chỗ ông vào giờ này ngày mai. Hãy chuẩn bị sẵn tiền mặt. Còn nữa, cũng như mọi lần, tôi không xuất hóa đơn.”

“Tôi hiểu,” Ushikawa nói.

“Trước tôi đã nói với ông rồi, giờ nhắc lại cho chắc. Theo yêu cầu của ông, những thông tin có thể thu thập được tôi đều đã có trong tay. Vì vậy, dù ông không hài lòng với nội dung bên trong, tôi cũng không chịu bất cứ trách nhiệm nào hết. Về mặt kỹ thuật, tôi đã làm hết khả năng rồi. Thù lao trả cho công lao động, chứ không phải cho thành quả. Cho nên làm ơn đừng nói ông không tìm thấy thông tin ông cần rồi đòi trả lại tiền. Điểm này mong ông hiểu cho.”

“Tôi hiểu,” Ushikawa trả lời.

“Còn nữa, cố hết sức cũng không kiếm được ảnh của Aomame,” Dơi nói, “tất cả các tài liệu đều được cẩn thận bóc ảnh đi hết rồi.”

“Tôi biết. Không sao cả,” Ushikawa nói.

“Vả lại, gương mặt nói không chừng cũng đã thay đổi,” Dơi tiếp lời.

“Có khả năng ấy,” Ushikawa đáp.

Dơi ho khan mấy tiếng. “Tạm biệt,” hắn nói xong liền dập điện thoại.

Ushikawa đặt ống nghe về chỗ cũ, thở dài một tiếng, lại cho một điếu thuốc lên miệng, bật lửa châm, thổi phù một đám khói về phía cái điện thoại.

Quá trưa hôm sau, một cô gái trẻ đến văn phòng của Ushikawa. Có lẽ còn chưa đầy hai mươi. Cô mặc váy ngắn màu trắng làm lộ hết mọi đường nét cơ thể, chân đi giày cao gót trắng tuyền, đeo hoa tai ngọc trai. Thân hình cô nhỏ nhắn, nhưng thùy tai lại rất lớn. Cô gái cao chừng hơn mét rưỡi, mái tóc thẳng dài, đôi mắt to tròn trong veo. Thoạt nhìn cô giống như một nàng tiên đang trong quá trình thực tập vậy. Cô nhìn thẳng vào Ushikawa, mỉm cười thân thiện và thoải mái, tựa như trông thấy một món đồ quý giá mà cô khó lòng quên nổi, đôi môi xinh xắn để lộ hàm răng trắng tinh đều đặn. Đó có lẽ chỉ là nụ cười nghề nghiệp của cô. Dẫu vậy, người gặp mặt Ushikawa lần đầu mà không nhăn mặt thực sự là rất hiếm có.

“Tài liệu mà ông cần, tôi mang đến đây rồi,” cô gái nói, đoạn lấy trong cái túi vải đeo trên vai ra hai tập hồ sơ dày cộp, dùng cả hai tay cẩn thận đặt lên bàn Ushikawa, tựa như một nữ phù thủy đang di chuyển một bức thạch bàn cổ đại.

Ushikawa lấy phong bì đã chuẩn bị sẵn trong ngăn kéo, đưa cho cô. Cô mở phong bì, lấy xấp mười nghìn yên ra, đứng ngay tại chỗ đếm tiền. Động tác rất thành thục, những ngón tay thon thả nhanh nhẹn lướt. Đếm xong, cô cho tiền vào phong bì, rồi bỏ phong bì vào túi vải. Sau đó, cô nở một nụ cười với Ushikawa, so với lúc nãy thì còn khoa trương và nồng ấm hơn, tựa như cô đang muốn nói: thật không có chuyện gì vui hơn là được gặp ông đây vậy.

Cô gái này và Dơi có quan hệ thế nào? Ushikawa nghĩ ngợi lan man, Cô ta chẳng qua chỉ là một liên lạc viên. Giao tài liệu, nhận tiền thù lao. Có lẽ đó là vai trò duy nhất của cô.

Sau khi cô gái nhỏ nhắn ra khỏi phòng, Ushikawa vẫn nhìn chằm chằm cánh cửa một chập rất lâu. Cô đã đóng cửa lại sau lưng, nhưng trong phòng vẫn còn vương lại mùi hương sực nức của cô. Biết đâu, để đổi lấy việc để lại chút dấu vết của bản thân, cô gái đã lấy đi một phần hồn của Ushikawa. Y cảm nhận được khoảng trống mới xuất hiện trong lòng ngực mình. Sao lại xảy ra chuyện này? Y thấy khó mà tin nổi. Chuyện này rốt cuộc có ý nghĩa như thế nào?

Khoảng mười phút sau, Ushikawa cuối cùng cũng phấn chấn trở lại, mở hai túi hồ sơ ra. Cái túi được quấn mấy lớp băng dính, bên trong lèn chặt cả tài liệu in lẫn tài liệu photo, cả tài liệu gốc. Không biết bọn họ làm thế nào mà chỉ có mấy ngày ngắn ngủi mà kiếm được nhiều tài liệu đến thế. Mặc dù lần nào cũng vậy, nhưng Ushikawa vẫn không thể không khâm phục. Thế nhưng đồng thời, đối mặt với đống tài liệu bó thành bó này, Ushikawa không khỏi có cảm giác bất lực sâu sắc. Cho dù tìm tòi trong đống này đến thế nào, liệu cuối cùng y có thu hoạch được gì không? Mình tiêu phí cả một đống tiền, chẳng lẽ để đổi về một đống giấy vụn? Đó là một thứ cảm giác bất lực kiểu như dẫu có trố mắt ra nhìn bao lâu cũng không thể thấy tận đáy giếng. Những thứ khó khăn lắm mới lọt được vào trong tầm mắt y đều bao bọc trong cảnh nhá nhem buổi chạng vạng, hồ như điểm nét chết chóc. Y nghĩ, không chừng cũng là vì cô gái kia đã để lại thứ gì đó, hoặc giả vì cô ta đã mang thứ gì đó ra đi.

Nhưng rốt cuộc Ushikawa cũng khôi phục sức lực. Y kiên nhẫn ngồi đọc đống tài liệu đến tận chập tối, phần nào y thấy hữu dụng thì y ghi vào sổ, phân ra thành từng loại. Bằng cách tập trung tâm trí tiến hành công việc này, cuối cùng y cũng trục xuất được cảm giác bất lực khó hiểu kia. Và khi trời chuyển tối, bật đèn bàn lên, Ushikawa cảm thấy trả một món tiền lớn để đổi lấy những thông tin này cũng đáng lắm.

Trước tiên, y bắt đầu đọc tư liệu của câu lạc bộ thể thao. Aomame đến làm ở câu lạc bộ này từ bốn năm trước, phụ trách huấn luyện cơ bắp và võ thuật. Đọc tư liệu có thể thấy, cô ta là một huấn luyện viên rất có năng lực, được học viên yêu mến và tin cậy. Ngoài phụ trách các khóa học thông thường, cô còn nhận dạy riêng cho khách. Có thể dựa theo bản sao lịch dạy hằng ngày để truy xem Aomame lên lớp cho các “khách hàng cá nhân” kia như thế nào, ở đâu, vào thời gian nào. Có lúc Aomame huấn luyện riêng cho họ ở câu lạc bộ, đôi khi cô ta đến tận nhà. Trong danh sách khách hàng của cô ta có các nhân sĩ nổi tiếng trong giới giải trí, có cả chính trị gia. Bà chủ của biệt thự Cây Liễu Ogata Shizue là người cao tuổi nhất trong số đó.

Mối quan hệ giữa Aomame và bà chủ Ogata Shizue bắt đầu không lâu sau khi cô đến làm việc tại câu lạc bộ, kéo dài liên tục cho đến khi cô ta biến mất, vừa khéo lại trùng hợp với thời điểm căn nhà hai tầng bên cạnh biệt thự Cây Liễu được chính thức dùng làm trung tâm bảo trợ cho “Phòng tư vấn phụ nữ nạn nhân bạo hành gia đình” kia. Đây có thể là trùng hợp ngẫu nhiên, cũng có thể không. Tóm lại, dựa theo ghi chép, quan hệ của họ dường như càng ngày càng thân thiết.

Có thể giữa Aomame và bà chủ nhà đã sinh ra một mối gắn kết cá nhân nào đó. Trực giác nói cho Ushikawa biết vậy. Bắt đầu là quan hệ giữa huấn luyện viên của câu lạc bộ thể thao với khách hàng, song đến thời điểm nào đó, quan hệ này đã chuyển hóa về chất. Cặp mắt Ushikawa lần theo những ghi chép mang tính sự vụ theo thứ tự ngày tháng, cố gắng xác định thời điểm ấy. Lúc ấy đã xảy ra một chuyện gì đó, hoặc một chuyện gì đó sáng tỏ, và từ thời điểm ấy, quan hệ giữa hai người không chỉ là giữa huấn luyện viên và khách hàng nữa. Họ vượt qua khoảng cách về tuổi tác và địa vị, xây dựng một mối quan hệ thân tình giữa hai con người. Lúc này, giữa họ thậm chí có thể đã hình thành một mối cảm thông tinh thần nào đó, một cảm thông tinh thần bí mật mà cuối củng dẫn đến sự kiện mưu sát Lãnh Tụ ở khách sạn Okura. Khứu giác bén nhạy của Ushikawa nói với y như vậy.

Nhưng dẫn đến như thế nào? Bí mật của họ là gì?

Suy đoán của Ushikawa không thể đến tận đó.

Có điều, trong đây hẳn phải có nhân tố “bạo hành gia đình.” Chuyện này đối với bà chủ hình như là một chủ đề hệ trọng. Theo ghi chép, lần đầu tiên Ogata Shizue tiếp xúc với Aomame là tại lớp huấn luyện kỹ năng tự vệ, chuyện đó khó mà nói là bình thường được. Có thể là nhân tố nào đó dính dáng đến bạo lực đã gắn kết bà chủ và Aomame lại với nhau.

Hay có thể bản thân Aomame là nạn nhân của bạo hành gia đình, còn Lãnh Tụ là kẻ gieo rắc bạo hành gia đình. Bọn họ tìm hiểu được chuyện này liền trừng trị ông ta. Nhưng tất cả nói cho cùng cũng chỉ là giả thiết ở mức độ “có lẽ.” Vả lại, giả thiết này và hình tượng Lãnh Tụ mà Ushikawa biết là cách nhau quá xa. Tất nhiên, bất kể người như thế nào thì nội tâm cũng khó dò, huống hồ Lãnh Tụ là người khó dò hơn hết thảy. Phải biết rằng, đó là nhân vật chúa tể của một đoàn thể tôn giáo. Ông ta thông tuệ, nhìn xa trông rộng, nhưng cũng có những góc tối mà người khác không thể nhìn thấy. Song, kể cả ông ta là một gã lạm dụng bạo hành gia đình chăng nữa, lẽ nào chuyện đó lại có ý nghĩa quan trọng đối với hai phụ nữ kia, đến mức họ lập ra cả một kế hoạch giết người kín kẽ - một người từ bỏ bản lai diện mục của mình, người kia bất chấp nguy hiểm đến địa vị xã hội của mình, miễn sao thực hiện cho bằng được?

Nói tóm lại, viêc ám sát Lãnh Tụ tuyệt đối không phải chỉ là do hứng chí nhất thời hay hành động theo cảm tính. Đằng sau đó có ý chí kiên định, có động cơ rõ ràng và một hệ thống tinh vi phức tạp, một hệ thống phải tốn rất nhiều thời gian, rất nhiều tiền bạc để dày công gây dựng nên.

Thế nhưng, y chẳng có bằng cớ nào để chứng thực những suy đoán ấy. Trên tay Ushikawa chẳng qua hoàn toàn chỉ là những chứng cứ gián tiếp trên cơ sở giả thiết mà thôi. Là những thứ sẽ bị lưỡi dao cạo Occam cắt đi gọn ghẽ một cách dễ dàng. Ở giai đoạn này y vẫn chưa thể báo cáo gì với Sakigake. Dẫu vậy, Ushikawa biết rõ một điều. Trong đây có một mùi, một cảm giác rất rõ. Tất cả yếu tố chỉ về một hướng. Vì một lý do nào đó có liên quan đến bạo hành gia đình, bà chủ đã chỉ thị cho Aomame đưa Lãnh Tụ về cõi chết, sau đó hỗ trợ cô ta trốn đến một nơi an toàn nào đó. Toàn bộ chứng cứ mà Dơi thu thập được đều gián tiếp chứng thực giả thiết này của y.

Việc sắp xếp tư liệu của hội Chứng nhân Jehovah tốn nhiều thời gian hơn. Số lượng lớn đến kinh người, vả lại gần như hầu hết chẳng có ích gì cho Ushikawa. Đa số báo cáo chỉ ra rằng gia đình Aomame đã đóng góp cho các hoạt động của hội Chứng nhân Jehovah như thế nào. Đọc các tài liệu này, y biết được rằng gia đình Aomame đích thực là những tín đồ cuồng nhiệt. Bọn họ đã dâng hiến quá nửa cuộc đời cho sự nghiệp truyền giáo của hội. Cha mẹ Aomame hiện đang ở thành phố Ichikawa, tỉnh Chiba, trong ba mươi lăm năm họ chuyển nhà hai lần, đều ở thành phố Ichikawa. Cha cô ta, Aomame Takayuki (năm mươi tám tuổi), làm việc ở một công ty xây dựng công trình, mẹ cô ta, Aomame Yasuko (năm mươi sáu tuổi), thất nghiệp. Anh trai, Aomame Keiichi (ba mươi tư tuổi) tốt nghiệp trường cấp ba của tỉnh tại thành phố Ichikawa, sau đó làm việc ở một công ty in ấn nhỏ trong nội đô Tokyo, ba năm sau thì nghỉ việc, chuyển đến làm ở tổng bộ hội Chứng nhân Jehovah tại Odawara. Ở đó, anh ta cũng làm nhiệm vụ in ấn các quyển sách nhỏ cho giáo đoàn, giờ đã lên đến cấp quản lý. Năm năm trước, anh ta kết hôn với một nữ tín đồ, sinh được hai con, giờ đang thuê nhà sống trong thành phố Odawara.

Hồ sơ của trưởng nữ Aomame Masami kết thúc vào năm mười một tuổi. Đó là khi cô ta từ bỏ tín ngưỡng. Mà đối với những người từ bỏ tín ngưỡng của mình, hội Chứng nhân Jehovah dường như không còn hứng thú nữa. Trong mắt bọn họ, Aomame Masami coi như đã chết năm cô ta mười một tuổi. Từ đó trở đi, cuộc đời cô ta như thế nào, còn sống hay đã chết, tất cả đều không có lấy một dòng ghi chép.

Trong trường hợp này, chỉ còn cách đi tìm bố mẹ hoặc anh trai cô ta hỏi thăm trực tiếp vậy, Ushikawa nghĩ. Biết đâu lại có được chút manh mối. Nhưng đọc các tư liệu này thì thấy khó mà hình dung rằng bọn họ sẽ vui vẻ trả lời các câu hỏi của Ushikawa. Người nhà Aomame - đương nhiên là theo nhận xét của Ushikawa - là một đám người đầu óc hẹp hòi, sống hẹp hòi, những kẻ có niềm tin không lay chuyển rằng đầu óc càng hẹp hòi họ sẽ càng đến gần với Thiên Quốc. Đối với họ, người nào từ bỏ tín ngưỡng, ngay cả là người thân thiết nhất, thì chẳng khác nào kẻ lạc bước vào con đường ô uế. Không chừng kẻ đó thậm chí chẳng còn được họ coi như người thân thiết nữa.

Phải chăng Aomame thuở nhỏ từng là nạn nhân của bạo hành gia đình?

Có thể, cũng có thể không. Cho dù có đi chăng nữa, cha mẹ cô ta chắc chắn cũng không cho rằng đó là bạo hành gia đình. Ushikawa biết hội Chứng nhân Jehovah quản giáo trẻ con rất nghiêm khắc, nhiều lúc còn kèm theo cả hình phạt đối với thân thể.

Kể cả vậy, những trải nghiện thuở ấu thơ ấy sẽ biến thành những vết thương ăn sâu vào tâm khảm, để đến nỗi sau này lớn lên sẽ đi giết người hay sao? Không phải là không có khả năng này, nhưng Ushikawa cảm thấy đây dường như là một giả thiết tương đối cực đoan. Tự mình lập kế hoạch giết người là chuyện tuyệt đối không dễ dàng. Trước hết là nguy hiểm, và áp lực tinh thần đi theo đó rất nặng nề. Nếu bị bắt, tương lai chờ đợi sẽ là hình phạt nghiêm khắc. Chắc chắn phải có một động cơ mạnh mẽ hơn nữa.

Ushikawa lại cầm đống tư liệu lên, cẩn thận đọc lại từng chi tiết về Aomame Masami cho đến năm mười một tuổi. Vừa biết đi, cô ta liền theo mẹ tham gia hoạt động truyền giáo. Họ gõ cửa từng nhà phân phát các quyển sách nhỏ của giáo đoàn, nói với mọi người rằng ngày Tận thế không thể tránh được đang đến gần, kêu gọi bọn họ tham gia vào giáo hội. Những người gia nhập giáo hội sẽ sống sót qua ngày Tận thế, sau đó Nước Trời sẽ giáng xuống. Ushikawa cũng nhiều lần được khuyến dụ như thế. Người truyền giáo đa số là phụ nữ trung niên, tay cầm mũ hoặc ô. Rất nhiều người đeo kính, nhìn người khác chằm chằm với đôi mắt như mắt một con cá thông minh. Nhiều lúc họ dẫn theo trẻ con. Ushikawa tưởng tượng ra cảnh Aomame còn nhỏ, lon ton chạy theo mẹ đi gõ cửa khắp các nhà.

Cô ta không đi mẫu giáo, hồi nhỏ học ở trường tiểu học công lập ở gần nhà, lên lớp năm thì rời khỏi hội Chứng nhân Jehovah, không rõ vì lý do gì. Hội Chứng nhân Jehovah không ghi rõ lý do từ bỏ tôn giáo của từng người. Những kẻ rơi vào bàn tay ma quỷ thì để mặc cho ma quỷ. Chỉ riêng việc nói về vườn Địa Đàng, về con đường dẫn đến vườn Địa Đàng cũng đủ khiến họ bận tối mắt tối mũi. Người thiện có việc của người thiện, ma quỷ có việc của ma quỷ. Một sự phân công công việc rõ ràng.

Trong đầu Ushikawa, có người đang gõ lên vách tường sơ sài ghép lại từ những mảnh gỗ ván, gọi tên y: “Ông Ushikawa, ông Ushikawa.” Y nhắm mắt lại, dỏng tai lắng nghe tiếng gọi ấy. Tiếng gọi tuy nhỏ nhưng rất cố chấp. Hình như mình đã để sót điều gì đó, y thầm nghĩ. Có một sự kiện hệ trọng được ghi chép ở một ngóc ngách nào đó ngay trong đống tài liệu này, nhưng mình không nhận ra. Tiếng gõ đang nói cho mình biết điều này.

Ushikawa đọc lại đống tài liệu dày cộp ấy. Y không chỉ dùng mắt lần theo từng chữ, mà còn cố hình dung một cách cụ thể từng cảnh tượng trong tâm trí. Aomame ba tuổi, theo mẹ đi khắp nơi truyền giáo, thường bị xua đuổi một cách thô bạo ngay từ ngoài cửa. Cô ta lên tiểu học, vẫn tiếp tục hoạt động truyền giáo. Toàn bộ thời gian cuối tuần đều dành cho giáo hội. Chắc chắn là không có thời gian để chơi đùa cùng chúng bạn. Không chừng cô ta chẳng hề có bạn. Con cái các gia đình thuộc hội Chứng nhân Jehovah bị bắt nạt và bài xích ở trường là chuyện thường. Ushikawa từng đọc một quyển sách về hội Chứng nhân Jehovah, cũng có hiểu biết đôi chút với chuyện này. Vậy là cô ta rời bỏ giáo hội năm mười một tuổi. Điều này chắc hẳn cần một quyết tâm tương đối lớn. Aomame vừa ra đời đã bị truyền bá tín ngưỡng, trưởng thành cùng với tín ngưỡng ấy. Nó đã thấm sâu tận trong bản thể cô ta, nên không thể nào trút bỏ nó đơn giản như thay một bộ quần áo mới được. Huống hồ, điều này còn đồng nghĩa với việc bị cô lập trong chính gia đình mình. Người nhà này cực kỳ ngoan đạo, bọn họ tuyệt đối không sẵn lòng tiếp nhận một đứa con gái đã từ bỏ đạo. Với Aomame, từ bỏ tín ngưỡng cũng là từ bỏ người thân.

Rốt cuộc thì năm mười một tuổi, Aomame đã gặp phải chuyện gì? Điều gì đã khiến cô đưa ra quyết định ấy?

Trường tiểu học X ở thành phố Ichikawa, tỉnh Chiba, Ushikawa thầm nghĩ, đồng thời đọc thử cái tên đó lên thành tiếng. Ở nơi này đã xảy ra chuyện gì đó. Ở đó, không nghi ngờ gì nữa, đã xáả ra… lúc này, Ushikawa khẽ hít vào một hơi. Mình đã nghe tên trường tiểu học này ở đâu đó rồi.

Nghe ở đâu nhỉ? Ushikawa không dính dáng gì đến tỉnh Chiba. Y sinh ra ở thành phố Urawa, tỉnh Saitama, sau khi thi đỗ đại học ở Tokyo thì, ngoài quãng thời gian sống ở Chourinkan, tỉnh Kanagawa, y luôn sống ở khu hai mươi ba quận của Tokyo, gần như chưa từng đặt chân đến tỉnh Chiba nửa bước. Chỉ có một lần y đến Fitts tắm biển. Vậy tại sao y lại cảm thấy tên trường tiểu học ở thành phố Ichikawa nghe quen đến thế?

Mất một lúc sau y mới nhớ ra. Y vày vò cái đầu hình dạng kỳ quái của mình, tập trung suy nghĩ. Tựa như y đang chọc tay sâu vào trong đống bùn, lần mò dưới đáy ký ức. Cái tên này y đã nghe không phải cách đây rất lâu. Chỉ mới gần đây thôi. Tỉnh Chiba… thành phố Ichikawa… trường tiểu học. Lúc này, bàn tay y rốt cuộc đã tóm được đầu sợi dây thừng mỏng mảnh.

Kawana Tengo. Đúng vậy, tay Kawana Tengo đó chính là người thành phố Ichikawa! Hình như anh ta cũng học trường tiểu học công lập trong thành phố. Ushikawa lấp cặp hồ sơ về Kawana Tengo trong tủ hồ sơ của phòng làm việc ra. Đó là tư liệu y thu thập từ mấy tháng trước theo yêu cầu của Sakigake. Ushikawa lật ra một trang, xác nhận lại quá trình học tập của Tengo. Ngón tay tròn lẳn của y tìm thấy tên trường. Quả nhiên, Aomame Masami và Kawana Tengo học cùng một trường tiểu học công lập. Dựa theo ngày tháng năm sinh, hai người này chắc cùng học một khối lớp. Có phải cùng một lớp hay không thì phải điều tra mới làm rõ được. Nhưng khả năng hai người có quen biết nhau là rất lớn.

Ushikawa ngậm một điếu Seven Stars, bật lửa châm thuốc. Y cảm thấy mọi sự bắt đầu xâu chuỗi lại. Giữa các điểm đã nối lại thành đường. Rốt cuộc chúng sẽ phác nên hình ảnh như thế nào, Ushikawa vẫn chưa rõ. Nhưng không lâu sau, hình vẽ sẽ trở nên dần dần rõ nét hơn.

Cô Aomame, có nghe thấy tiếng bước chân của tôi không? Chắc là không nghe thấy nhỉ. Vì khi đi tôi cố gắng không phát ra âm thanh. Nhưng tôi đang đi về phía cô, từng bước từng bước một. Tuy chỉ là một con rùa ngu độn, nhưng tôi đang tiến lên một cách chắc chắn. Chẳng mấy chốc tôi sẽ nhìn thấy bóng dáng con thỏ thôi. Cô cứ đợi đấy.

Ushikawa dựa lưng vào thành ghế, ngửa mặt nhìn trần nhà, chầm chậm phả ra một làn khói lên phía đó.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 8: Aomame


Cánh cửa này cũng được lắm

Trong khoảng hai tuần từ sau đận đó, ngoài những người tiếp tế lặng lẽ đến vào chiều thứ Ba, không ai tới căn hộ của Aomame nữa. Người tự xưng là nhân viên thu tiền của đài NHK buông một câu “tôi sẽ còn đến nữa” rồi đi mất. Qua giọng nói, có thể nghe ra được ý chí kiên định của hắn ta, hay ít nhất trong tai nàng thì nghe ra như vậy. Thế nhưng từ đó trở đi không có tiếng gõ cửa nào nữa. Có thể hắn đang bận đi thu tiền ở nơi khác.

Trên bề mặt, đó là một chuỗi ngày sóng yên gió lặng. Chẳng có gì xảy ra, chẳng ai đến, điện thoại không đổ chuông. Để đảm bảo an toàn, Tamaru có giảm bớt số lần liên lạc bằng điện thoại. Aomame luôn đóng kín rèm cửa sổ, lặng lẽ sống qua ngày, cố không thu hút sự chú ý của người khác. Sau khi trời tối, nàng chỉ bật đèn càng ít càng tốt.

Cố không gây tiếng động, nàng thực hiện các động tác thư giãn cơ bắp. Ngày ngày nàng cọ sàn nhà, dành nhiều thời gian chú tâm nấu cơm. Nàng cao giọng luyện hội thoại theo băng học tiếng Tây Ban Nha (băng này nàng nhờ Tamaru bỏ vào trong đống đồ tiếp tế). Khi ta không nói năng gì suốt một thời gian dài, các cơ quanh miệng sẽ thoái hóa, nên cần chú ý buộc miệng phải hoạt động với cường độ lớn. Học hội thoại tiếng nước ngoài là một cách tốt để làm việc đó. Vả lại, đã từ rất lâu nay Aomame mơ đến Nam Mỹ. Nếu có thể tự do muốn đi đâu cũng được, nàng mong được sống ở một đất nước nhỏ thanh bình nào đấy tại Nam Mỹ, Costa Rica chẳng hạn. Thuê biệt thự nhỏ bên bờ biển, bơi lội, đọc sách. Chỉ cần không quá xa xỉ, số tiền mặt nhét đầy túi du lịch của nàng chắc đủ để sống mười năm ở đó. Bọn họ chắc không đến nổi đuổi theo nàng sang tận Costa Rica đâu.

Trong khi luyện hội thoại tiếng Tây Ban Nha, Aomame tưởng tượng ra cuộc sống yên bình bên bờ biển ở Costa Rica. Cuộc sống ấy cũng bao gồm cả Tengo nữa chứ? Nàng nhắm mắt lại, hình dung cảnh hai người tắm nắng trên bãi biển Caribê. Nàng mặc bộ bikini nhỏ màu đen, đeo kính râm, cầm tay Tengo nằm cạnh. Nhưng cảnh ấy thiếu vắng cái cảm giác hiện thực có thể khiến lòng nàng rung động: nó chỉ giống như một bức ảnh quảng cáo du lịch thường tình.

Không nghĩ ra chuyện gì làm nữa, nàng đi lau súng. Nàng làm theo sách hướng dẫn, dỡ khẩu Heckler & Koch ra thành các bộ phận rời, lau sạch bằng khăn và bàn chải, tra dầu, lập lại, kiểm tra cho chắc là súng lại vận hành hoàn hảo. Nay thì nàng đã thạo lắm rồi, cảm giác như khẩu súng đã trở thành một phần cơ thể mình vậy.

Khoảng mười giờ tối nàng đi nằm, đọc vài trang sách, sau đó ngủ. Từ bé, Aomame chưa bao giờ phải khổ sở vì mất ngủ. Trong khi mắt lần theo những con chữ, cơn buồn ngủ cứ thế ập đến, nàng liền tắt đền đầu giường, úp mặt vào gối, nhắm mắt lại. Trừ phi có gì đặc biệt, còn thì đến khi nàng mở mắt ra thì đã là sáng hôm sau.

Nàng vốn không hay nằm mơ. Kể cả có mơ, mở mắt ra là nàng cũng quên sạch sẽ. Đương nhiên, cũng có một vài mảnh vụn của giấc mơ vẫn còn vương lại trên bức tường ý thức, nhưng các tình tiết của câu chuyện trong mơ không sao gắn kết được với nhau, chỉ còn lại những mẩu ngắn không đầu không đuôi. Nàng ngủ rất sâu, giấc mơ của nàng cũng đến từ một nơi rất sâu. Những giấc mơ kiểu ấy tựa như lũ cá sống nơi đáy biển sâu, không bao giờ nổi lên chỗ sát mặt nước. Mà dẫu cho có nổi lên, chúng cũng sẽ bị sự chênh lệch áp suất nước làm cho mất đi hình dạng vốn có.

Nhưng từ khi sống ở nơi ẩn náu này, đêm nào nàng cũng nằm mơ. Và là những giấc mơ rõ ràng, chân thực. Nàng nằm mơ khi ngủ và tỉnh dậy giữa cơn mơ, nhất thời không sao phân biệt nổi mình rốt cuộc đang ở trong thế giới hiện thực hay trong thế giới của giấc mơ. Aomame chưa từng có trải nghiệm này trước đây. Khi mắt nàng hướng về chiếc đồng hồ điện tử đặt bên cạnh gối, con số hiển thị trên đó có lúc là một giờ mười lăm phút, có lúc là hai giờ ba mươi bảy phút, có lúc là bốn giờ bảy phút. Nàng nhắm mắt lại muốn ngủ tiếp, nhưng giấc ngủ không chịu đến dễ dàng. Hai thế giới hoàn toàn khác nhau đang lẳng lặng tranh đoạt ý thức của nàng, tựa như ở một cửa sông khổng lồ, nước biển ùa vào và nước ngọt chảy ra đanh tranh giành không gian.

Mình chẳng làm gì được, Aomame nghĩ. Thậm chí mình còn không thể chắc cái thế giới có hai mặt trăng trên trời này có đúng là thực tại hay không nữa. Trong một thế giới như thế, nếu mình nằm mơ và không thể phân biệt đấy là mơ hay thực thì có gì đáng ngạc nhiên đâu? Vả lại mình đã dùng đôi tay này giết chết mấy người, bị đám tín đồ cuồng nhiệt truy sát không chút nương tình, đang ẩn náu ở chốn này, sao mình lại có thể không căng thằng, sợ hãi? Trên đôi tay mình đây vẫn còn lưu lại cảm giác khi giết người. Có lẽ từ giờ đến cuối đời mình sẽ không thể nào có những đêm ngủ ngon được nữa. Có lẽ đây chính là trách nhiệm mình phải gánh, là cái giá mà mình phải trả.

Những giấc mơ của nàng chia làm ba loại, có thể quy nạp vào ba loại hình.

Một là giấc mơ có sấm. Nàng đang ở trong căn phòng tối om, tiếng sấm kéo dài mãi không dứt, nhưng không có ánh chớp lóe lên. Giống hệt như đêm nàng ám sát Lãnh Tụ. Trong phòng có thứ gì đó. Aomame nằm lõa lồ trên giường, và có thứ gì đó đang lượn lờ xung quanh nàng, chậm rãi mà cẩn trọng. Lông trên tấm thảm trải sàn rất dày, không khí nặng nề đặc quánh. Cửa sổ kính khe khẽ rung lên trong tiếng sấm. Nàng cảm thấy sợ. Nàng không biết ở đó là thứ gì. Có thể là người, có thể là động vật, cũng có thể không phải cả hai. Nhưng không lâu sau, thứ đó đi ra khỏi phòng. Không đi qua cửa, cũng không phải qua cửa sổ. Nhưng tiếng động đi xa dần, xa dần, cuối cùng hoàn toàn biến mất. Trong phòng chỉ còn lại một mình nàng.

Nàng lần mò bật đèn giường lên. Nàng để mình trần trèo xuống giường, xem xét khắp phòng. Trên bức tường đối diện chiếc giường xuất hiện một cái lỗ, vừa đủ cho một người cố lắm thì chui lọt được. Nhưng hình dạng của cái lỗ lại không cố định, nó không ngừng thay đổi hình dạng, không ngừng dịch chuyển. Nó run rẩy, di động, thoắt lớn thoắt nhỏ, nhìn như là vật sống, Thứ ấy đã chui ra qua cái lỗ ấy. Nàng nhìn vào trong lỗ. Dường như nó thông đến một nơi nào đó, nhưng sâu bên trong chỉ thấy có bóng tối, một thứ bóng tối dày đặc, gần như có thể cắt xuống cầm trên tay. Nàng lấy làm tò mò, nhưng đồng thời cũng sợ hãi. Tim nàng đập nghe khô khốc, xa lạ. Giấc mộng kết thúc ở đây.

Một loại khác là giấc mơ đứng ở vai đường cao tốc. Ở đó nàng cũng hoàn toàn lõa thể. Nàng đang kẹt giữa dòng xe cộ tắc cứng, người ta chẳng chút ngại ngần nhìn chằm chằm vào thân thể lõa lồ của nàng. Cơ hồ đều là đàn ông, nhưng cũng có mấy người đàn bà. Người ta nhìn bộ ngực không đầy đặn lắm, nhìn lông mu mọc một cách kỳ lạ của nàng, tựa hồ như đang rì rầm bình phẩm. Có người chau mày, có người cười gượng gạo, có người ngáp liên hồi. Có người chỉ nhìn chăm chú nhìn nàng với vẻ mặt không cảm xúc. Nàng muốn tìm thứ gì đó che đậy thân thể mình, chỉ bộ ngực và lông mu thôi cũng được. Một mảnh vải rách, hay tờ báo cũng được. Nhưng xung quanh không có bất cứ thứ gì để nàng nhặt lấy. Vả lại, vì nguyên do nào đó (nguyên do nào nàng không biết) mà nàng không thể cử động hai tay. Cơn gió chốc chốc lại ùa tới, kích thích nụ hoa nàng, ve vuốt lông mu nàng.

Vả lại, càng tệ hại hơn nữa là, nàng sắp sửa có kinh nguyệt. Lưng nàng thấy nặng nề và mỏi nhừ, bụng dưới nóng bừng. Ngộ nhỡ nàng bắt đầu chảy máu trước ánh mắt của bao nhiêu người thế này, thì phải làm sao đây?

Ngay lúc ấy, cửa xe bên phía người cầm lái của chiếc xe dáng thể thao màu bạc hiệu Mercedes mở ra, một phụ nữ trung niên trông rất có khí chất bước xuống xe. Chị ta đi giày cao gót sáng màu, mang kính râm, đeo hoa tai bạc. Chị ta vóc người mảnh khảnh, cao ngang tầm Aomame. Chị ta len lỏi qua những khoảng trống giữa dòng xe tắc nghẽn, cởi áo khoác gió đang mặc ra, khoác lên người Aomame. Đó là một chiếc áo khoác mùa xuân màu vàng nhạt dài đến đầu gối, nhẹ và mềm như lông vũ. Kiểu dáng đơn giản nhưng rõ là rất đắt tiền. Kích cỡ như thể được đặt may riêng cho Aomame, nàng mặc hết sức vừa vặn. Người phụ nữ giúp nàng cài đến chiếc cúc áo ở trên cùng.

“Không biết đến lúc nào tôi mới trả lại được cho chị, với lại e rằng còn dính phải máu kinh nguyệt nữa,” Aomame nói.

Người phụ nữ không nói nửa lời, chỉ lắc đầu, sau đó len qua dòng xe chật cứng, đi về phía chiếc xe Mercedes dáng thể thao màu bạc. Có thể trông thấy chị ta khẽ vẫy tay về phía Aomame từ ghế lái. Tuy nhiên, có lẽ đó chỉ là ảo giác. Aomame quấn mình trong chiếc áo khoác mùa xuân mềm mại, có cảm giác mình được bảo vệ. thân thể nàng không còn lột ra trước bất cứ ánh mắt nào khác nữa. Ngay khi đó, tựa như chờ đợi đã lâu, một dòng máu nhỏ giọt chảy xuống men theo đùi. Thứ máu ấm nóng, dinh dính, nặng trịch. Thế nhưng, nhìn kỹ lại, đó không phải máu. Thứ đó không có màu sắc.

Loại giấc mơ thứ ba khó lòng dùng ngôn ngữ miêu tả lại. Một giấc mơ không đầu không cuối, không tình tiết, không bối cảnh. Có chăng chỉ là cảm giác chuyển động. Nàng qua lại không ngừng nghỉ giữa những thời gian khác nhau, những địa điểm khác nhau. Là nơi nào và thời gian nào không quan trọng, bản thân việc qua lại giữa những thời gian và địa điểm ấy mới quan trọng. Mọi thứ đều đang lưu động và có một ý nghĩa nhất định nảy sinh từ sự lưu động ấy. Thế nhưng khi ở giữa dòng chảy đó, cơ thể nàng liền dần trở nên trong suốt. Bàn tay trong suốt, có thể nhìn xuyên qua nó sang phía bên kia. Có thể trông thấy cả xương cốt, nội tạng và tử cung bên trong cơ thể. Cứ như thế này mình sẽ hóa thành hư không, Aomame nghĩ. Và khi mình đã trở nên hoàn toàn vô hình, điều gì sẽ xảy đến? Không có câu trả lời.

Hai giờ chiều, chuông điện thoại reo, làm Aomame đang gà gật trên sofa giật mình tỉnh giấc.

“Có gì thay đổi không?” Tamaru hỏi.

“Không thay đổi gì cả,” Aomame trả lời,

“Nhân viên thu tiền của đài NHK thì sao?”

“Từ bận đó không thấy đến nữa. Hắn ta nói sẽ còn quay lại, có lẽ chỉ là dọa nạt thôi.”

“Có lẽ vậy,” Tamaru nói. “Về chuyện phí nghe nhìn của NHK, chúng tôi đã làm xong thủ tục tự động chuyển khoản qua ngân hàng rồi, trên cửa đã dán nhãn đã đóng tiền. Nếu là nhân viên thu phí thì chắc chắn sẽ trông thấy. Tôi gọi điện đến hỏi NHK, bọn họ cũng trả lời như thế, bảo là chắc đã xảy ra sai sót gì đó.”

“Chỉ cần mặc kệ hắn ta là được.”

“Không phải, chúng tôi không muốn thu hút sự chú ý của hàng xóm, dù dưới hình thức nào đi nữa. Vả lại, bản tính tôi hay để ý đến những chuyện sai sót kiểu ấy.”

“Nhưng mà trên thế gian này đầy rẫy những sai sót lặt vặt.”

“Thế gian là thế gian, tôi là tôi,” Tamaru nói, “dù sự việc nhỏ nhặt chừng nào chăng nữa, chỉ cần cô cảm thấy không ổn, mong cô cứ báo cho tôi một tiếng.”

“Sakigake có động tĩnh gì không?”

“Rất yên ắng. Cứ như chưa từng xảy ra chuyện gì vậy. Hẳn là bên dưới bề mặt đang có động tĩnh gì đó, nhưng từ bên ngoài không thể nhìn ra được.”

“Nghe nói anh có tai mắt của mình bên trong giáo đoàn.”

“Đúng là cũng nhận được vài báo cáo, nhưng toàn những thông tin vụn vặt bên lề thôi. Xem ra nội bộ bọn họ kiểm soát càng lúc càng nghiêm ngặt. Cửa nẻo đóng rất chặt.”

“Nhưng mà nhất định họ vẫn đang truy lùng tung tích của tôi.”

“Sau khi Lãnh Tụ chết, trong giáo đoàn rõ ràng đã xuất hiện một khoảng trống rất lớn. Ai sẽ là người thay thế ông ta, giáo đoàn sẽ vận hành trên phương châm nào, tất cả những điều này hình như họ chưa quyết định. Mặc dù vậy, về việc truy lùng cô thì bọn họ đồng tâm nhất trí không gì lay chuyển nổi. Chỉ một điểm ấy là sự thực mà chúng tôi biết chắc được thôi.”

“Không phải là sự thật khiến người ta ấm lòng gì.”

“Đối với sự thật, điều quan trọng là sức nặng và độ chính xác. Nhiệt độ chỉ là thứ yếu.”

“Dù sao đi nữa,” Aomame nói.” Nếu tôi bị bắt, mọi chuyện bị phơi ra ánh sáng thì các vị cũng sẽ bị liên lụy.”

“Vì vậy chúng tôi dự định tranh thủ thời gian sớm đưa cô đến nơi mà đám người ấy không thể làm gì được.”

“Tôi hoàn toàn hiểu, có điều xin hãy đợi thêm vài ngày nữa.”

“Bà ấy đã nói rồi, đợi đến cuối năm nay. Vì vậy, tất nhiên tôi cũng sẽ đợi.”

“Cám ơn.”

“Không cần phải cám ơn tôi.”

“Chung quy lại,”Aomame nói, “trong danh sách tiếp tế lần sau, có một món đồ tôi muốn nhờ anh thêm vào. Nhưng mà, nói chuyện này với một người đàn ông e hơi bất tiện.”

“Tôi là một bức tường đá,” Tamaru nói, “vả lại còn là một gã đồng tính chính cống nữa.”

“Tôi muốn có que thử thai.”

Một thoáng trầm mặc. Sau đó, Tamaru nói: “Cô cho rằng cần thiết phải thử cái đó.”

Đây không phải câu hỏi, vì vậy Aomame không trả lời.

“Không có chuyện gì dẫn đến mang thai, nhưng lại cần thiết phải kiểm tra.”

“Đúng.”

“Nghe cứ như một câu đố ấy.”

“Xin lỗi, giờ tôi không có cách nào giải thích rõ hơn. Loại đơn giản mua ở các hiệu thuốc bình thường là được. Còn nữa, nếu có loại sổ tay về thân thể giới nữ và công năng sinh lý thì càng tốt.”

Tamaru lại rơi vào trầm mặc. Đó là kiểu trầm mặc bị nén chặt đến cứng đờ.

“Xem ra tôi phải gọi lại cho cô rồi,” anh ta nói, “cô không ngại chứ?”

“Tất nhiên.”

Sâu trong cổ họng anh ta phát ra âm thanh thấp trầm, sau đó anh ta gác máy.

Khoảng mười lăm phút sau, chuông điện thoại reo. Đã lâu Aomame không nghe thấy giọng nói của bà chủ nhà ở Azabu. Nàng có cảm giác như mình trở lại khu nhà kính kia. Cái không gian ấm áp dễ chịu, ở đó những con bướm quý giá bay lượn, thời gian chầm chậm trôi.

“Thế nào rồi? Cô khỏe chứ?”

Sống rất điều độ, Aomame trả lời. Vì bà chủ muốn biết, nàng bèn nói qua về công việc hằng ngày, chuyện vận động và ăn uống của nàng cho bà nghe

Bà chủ nói: “Không thể ra khỏi nhà, hẳn là cô chẳng sung sướng gì. Nhưng cô là người có ý chí kiên cường, nên tôi không lo lắm. Tôi biết cô nhất định sẽ vượt qua được. Tôi mong cô nhanh chóng rời khỏi chỗ đó, chuyển đến nơi an toàn hơn. Nhưng nếu cô kiên trì muốn ở lại, thì tuy không biết lý do song tôi cũng sẽ cố hết sức để tôn trọng ý nguyện của cô.”

“Rất cảm ơn bà.”

“Không, người nên cảm ơn là tôi. Nói gì thì nói, cô đã giúp tôi làm một việc rất lớn.” Một khoảng lặng ngắn. Sau đó, bà chủ tiếp lời, “nghe nói cô cần que thử thai, phải không?”

“Kinh nguyệt đã chậm gần ba tuần rồi.”

“Kinh nguyệt trước giờ vẫn đều đặn à?”

“Từ năm tôi nười tuổi, cứ hai mươi chín ngày một lần, gần như chưa lệch một ngày nào. Chuẩn xác như trăng tròn rồi lại khuyết vậy. Chưa bao giờ rối loạn.”

“Tình trạng hiện tại của cô rất không bình thường. Trong giai đoạn này, sự cân bằng tâm lý và nhịp điệu sinh lý cơ thể đều có khả năng bị rối loạn. Kinh nguyệt ngừng lại, hoặc bị sai lệch thời gian, chuyện đó cũng có thể xảy ra.”

“Chuyện này trước đây chưa hề xảy ra, nhưng tôi hiểu rằng có khả năng ấy.”

“Vả lại, tôi nghe Tamaru nói, cô hoàn toàn không làm chuyện gì có thể dẫn đến mang thai.”

“Lần cuối cùng tôi có quan hệ tình dục với đàn ông là vào trung tuần tháng Sáu. Sau đó thì không có gì nữa.”

“Dù vậy, cô vẫn cảm thấy có thể mình đã có thai. Hẳn là phải có căn cứ nào nữa chứ, ngoài chuyện không thấy kinh nguyệt?”

“Tôi chỉ cảm thấy thế thôi.”

“Chỉ cảm thấy thế thôi.”

“Một cảm giác bên trong cơ thể.”

“Ý cô là, cảm giác rằng mình có thai?”

Aomame nói: “Có một lần bà nhắc đến trứng. Là buổi tối hôm chúng ta đi thăm Tsubasa. Bà nói, phụ nữ sinh ra đã có một số lượng trứng nhất định rồi.”

“Tôi còn nhớ. Mỗi người phụ nữ có khoảng bốn trăm quả trứng, mỗi tháng thải ra một quả. Hình như thế.”

“Tôi có cảm giác rất rõ rệt: một trong số đó đã được thụ tinh. Cảm giác, biểu đạt như vậy không biết có chuẩn xác hay không, tôi cũng không tự tin lắm.”

“Bà chủ ngẫm nghĩ trong giây lát. “Tôi đã sinh hai đứa con, vì vậy ít nhiểu có thể hiểu được cảm giác mà cô nói. Nhưng cô đang nói cô không có quan hệ tình dục với đàn ông mà lại mang thai. Chuyện này thực sự khó chấp nhận.”

“Đối với tôi cũng vậy.”

“Tôi hỏi một câu hơi thất lẽ: cỏ khả năng cô có quan hệ tình dục với người khác trong tình trạng không tỉnh táo về mặt tinh thần không?”

“Không. Trước giờ tôi vẫn luôn tỉnh táo.”

Bà chủ cẩn trọng chọn từ: “Tôi vẫn luôn cho rằng cô là một người có đầu óc bình tĩnh, tư duy mạch lạc.”

“Ít nhất tôi cũng muốn được như thế,” Aomame nói.

“Cho dù là thế, cô vẫn cảm thấy mình có thai trong khi không có quan hệ tình dục.”

“Tôi cảm thấy có khả năng đó… nói chính xác hơn là vậy,” Aomame nói, “tất nhiên, chuyện này thậm chí chỉ nghĩ đến thôi chắc cũng đã là vớ vẩn rồi.”

“Tôi hiểu rồi,” bà chủ nói, “ta đợi kết quả rồi tính sau. Ngày mai sẽ có người mang que thử thai đến. Vẫn như cách làm thông thường lúc tiếp tế đồ đạc. Để chắc chắn, chúng tôi sẽ chuẩn bị vài loại khác nhau.”

“Cám ơn bà,” Aomame nói.

“Nếu đúng là có thai thật, cô cho rằng chuyện đó xảy ra vào lúc nào?”

“Chắc là buổi tối hôm đó. Buổi tối mưa gió mà tôi đến khách sạn Oruka ấy.”

Bả chủ thở ra một hơi ngắn. “Chuyện này cô cũng có thể xác định được sao?”

“Đúng vậy. Tôi đã tính toán, ngày hôm đó… đơn thuần là ngẫu nhiên… vừa khéo đúng là ngày tôi dễ có thai nhất.”

“Nếu vậy là có thai được chừng hai tháng rồi?”

“Chắc thế,”Aomame nói.

“Có buồn nôn không? Thông thường, giờ đang là thời kỳ nghén nặng nhất.”

“Hoàn toàn không thấy gì. Tôi không biết tại sao lại như vậy.”

Bà chủ mất kha khá thời gian thận trọng chọn từ: “Sau khi kiểm tra, ngộ nhỡ biết là có thai thật, suy nghĩ đầu tiền của cô là gì?”

“Chắc là sẽ nghĩ xem ai là cha ruột của đứa trẻ. Lẽ tự nhiên thôi, đối với tôi, đây là một vấn đề có ý nghĩa trọng đại.”

“Nhưng cô hoàn toàn không có đầu mối gì về chuyện người đó là ai.”

“Trước mắt thì không có gì.”

“Tôi hiểu,” bà chủ nói với giọng hiền hòa, “tóm lại, dù xảy ra chuyện gì chăng nữa, tôi luôn đứng về phía cô. Để bảo vệ cô, tôi sẽ dốc hết sức lực. Về điểm này, mong cô hãy nhớ thật kỹ.”

“Tôi rất xin lỗi vì gây ra chuyện phiền phức như vậy trong thời điểm này.” Aomame nói.

“Đâu có. Hoàn toàn không phải chuyện phiền phức gì. Với phụ nữ, đây là vấn đề trọng đại nhất. Sau khi có kết quả xét nghiệm, chúng ta sẽ cùng nghĩ xem sau này nên làm thế nào nhé,” bà chủ nói.

Sau đó, bà lặng lẽ gác máy.

Có người rõ cửa. Aomame đang tập yoga trong phòng ngủ liền dừng động tác lại, dỏng tai nghe. Tiếng gõ cửa mạnh mẽ mà cố chấp. m thanh này nàng đã nghe ở đâu đó rồi.

Aomame lấy súng lục tự động trong ngăn kéo tủ ra, mở chốt an toàn. Nàng kéo chốt, nhanh chóng đưa đạn lên nòng, đoạn nhét súng vào sau lưng quần thể thao, nhón chân bước ra phòng ăn, hai tay nắm chặt cây gậy bóng mềm bằng kim loại, chằm chằm nhìn vào cánh cửa.

“Ông Takai,” giọng nói khàn khàn thô lỗ cất lên, “Ông Takai, ông có nhà không? Đây là đài NHK của mọi nhà. Tôi đến thu phí nghe nhìn.”

Chỗ cầm tay của gậy đánh bóng có quấn băng cao su chống trơn.

“Tôi đã nói rồi mà, ông Takai. Tôi lại phải lặp lại rồi… tôi biết ông đang ở trong nhà. Vì vậy đừng chơi cái trò trốn tìm chán phèo ấy nữa. Ông Takai, ông đang ở trong đó, đang nghe tôi nói.”

Thằng cha này gần như đang lặp lại những gì hắn nói lần trước, hệt như bật băng.

“Tôi đã bảo với ông là sẽ còn quay lại, ông tưởng tôi chỉ dọa suông thôi phải không? Không đâu, tôi đã nói thì nhất định sẽ làm. Vả lại, chỉ cần có khoản phí phải thu, tôi nhất định sẽ thu bằng được. Ông Takai, ông đang ở trong đó dỏng tai nghe. Mà ông còn đang nghĩ: Cứ ở yên một chỗ, thằng cha thu tiền này sẽ chán rồi đi chỗ khác thôi.”

Lại một tràng gõ cửa dồn dập. Hai mươi lần, có thể hai mươi lăm lần. Bàn tay của thằng cha này trông như thế nào nhỉ? Aomame thầm nghĩ. Vả lại, sao hắn ta không ấn chuông cửa?

“Ông đang nghĩ,” tay nhân viên thu tiền tựa hồ như đọc được suy nghĩ của nàng, nói tiếp: “tay thằng cha này rắn chắc thật, gõ cửa thục mạng như vậy chẳng lẽ không đau tay? Vả lại, ông còn nghĩ: sao thằng cha này phải gõ cửa nhỉ? Không phải là đã lắp chuông cửa, chỉ cần ấn chuông là được hay sao?”

Aomame không khỏi nhíu mày.

Tay nhân viên thu tiền tiếp tục nói: “Không không. Tôi chẳng muốn ấn chuông đâu. Thứ đó ấn xong chỉ phát ra một tiếng ‘đính đong’ mà thôi. Bất kể người nào ấn, âm thanh cũng nghìn lần như một, hoàn toàn chẳng gây hại gì, nhưng gõ cửa thì rất có cá tính. Vì có người sử dụng thân thể của mình để gõ lên đó nên đương nhiên tiếng gõ hàm chứa cả tình cảm bằng xương bằng thịt bên trong. Tất nhiên, ít nhiều gì cũng đau tay. Tôi cũng không phải Tetsujin 28[1]. Nhưng mà hết cách rồi. Đây là nghề nghiệp của tôi. Mà nghề nghiệp thì không phân biệt sang hèn, đều nên được tôn trọng. Không phải vậy sao, ông Takai?”

[1] Người máy khổng lồ trong bộ truyện tranh cùng tên của tác giả Yokoyama Mitsuteru.

Tiếng gõ cửa lại vang lên. Tổng cộng hai mươi bảy lần, thời gian ngắt quãng giữa hai tiếng gõ đều chằn chặn. Lòng bản tay của Aomame nắm chặt gậy đánh bóng rịn mồ hôi.

“Ông Takai này. Người thu tín hiệu cần phải trả phí cho đài NHK, điều này đã được pháp luật quy định. Không còn cách nào khác. Đây chính là quy tắc của thế giới này. Xin ông hãy vui vẻ trả tiền có được không? Tôi không muốn đập cửa nhà ông chút nào đâu, ông Takai, chắc ông cũng không muốn cứ phải nuốt cục tức này mãi chứ? Chắc chắn ông sẽ nghĩ, sao chỉ có mình mình phải chịu đựng điều này? Vì vậy, giờ ông hãy vui lòng trả phí nghe nhìn đi. Chỉ cần thế, cuộc sống yên bình trước đây sẽ quay lại thôi.”

Giọng người đàn ông vang vọng trong hành lang. Aomame có cảm giác thằng cha này đang hưởng thụ sự lắm lời của chính hắn, đang hưởng thụ sự chế giễu dành cho những kẻ không trả tiền, châm chọc và chửi bới. Qua giọng điệu của hắn có thể cảm nhận được niềm hân hoan biến thái ấy.

“Ông Takai này, ông đúng là kẻ cố chấp. Tôi lấy làm khâm phục. Ông cứ như con ốc biển ẩn mình sâu dưới nước, sống chết cũng không chịu lên tiếng. Nhưng tôi biết ông đang ở trong ấy. Giờ ông đang đứng sau cửa, nhìn chằm chằm ra phía này. Căng thẳng đến nổi dưới nách rịn mồ hôi. Thế nào? Tôi nói cấm có sai chứ?”

Tiếng gõ cửa vang lên mười ba lần, sau đó dừng, Aomame nhận ra nách mình rịn mồ hôi.

“Được rồi. Hôm nay tới đây thôi. Nhưng mấy hôm nữa tôi lại đến. Hình như tôi hơi thích cánh cửa này rồi đấy. Cửa cũng có nhiều loại mà. Cánh cửa này cũng được lắm, gõ lên thấy rất dễ chịu. Cứ tình hình này, tôi phải định kỳ đến đây gõ mấy cái mới đã nghiền. Tốt thôi, ông Takai, hai hôm nữa gặp nhé.”

Tĩnh lặng bao trùm. Dường như tay nhân viên thu phí đã đi rồi. Nhưng không nghe tiếng bước chân. Cũng có thể hắn giả bộ đi, nhưng vẫn đứng trước cửa. Hai tay Aomame nắm chặt hơn vào cán gậy, đợi thêm khoảng hai phút nữa.

“Tôi vẫn còn ở đây đây này,” tay nhân viên cất tiếng nói, “haha, ông tưởng tôi đã đi rồi chắc? Nhưng mà tôi vẫn đang ở đây. Tôi gạt ông đấy. Xin lỗi nhé, ông Takai. Tôi là thế đấy.”

Có tiếng ho khan vang lên. Tiếng ho chói tai mà kệch cỡm.

“Tôi làm việc này lâu rồi. Năm tháng trôi đi, tôi dần dần có thể nhìn thấy người ở sau cánh cửa. Không phải là khoác lác đâu. Không hiếm người trốn sau cánh cửa, tìm đủ mọi cách cù nhầy không trả phí nghe nhìn cho đài NHK. Tôi đã qua lại với hạng người ấy mười mấy năm rồi. Tôi bảo này, ông Takai…”

Hắn ta gõ cửa liên tiếp ba lần, mạnh chưa từng thấy.

“Tôi bảo này, ông Takai, ông cứ như là con cá thờn bơn vùi cát lên mình ở dưới đáy biển ấy, trốn giỏi ra phết. Cách làm này người ta gọi là màu sắc tự vệ. Nhưng mà, kể cả ông có làm thế thì cũng đừng hòng thoát được. Chắc chắn sẽ có người đến mở cánh cửa này ra. Thật đấy. Có tôi… nhân viên thu phí đài NHK của mọi nhà… đảm bảo. Dù ông có ẩn nấp khéo thế nào chăng nữa, xét cho cùng thì màu sắc tự vệ chẳng qua chỉ là thứ kỹ xảo lường gạt mà thôi, chẳng giải quyết được gì đâu. Tôi nói thật đấy, ông Takai ạ. Giờ tôi phải đi rồi. Yên tâm nhé, lần này không gạt ông nữa đâu. Tôi đi thật đây. Nhưng mà mấy hôm nữa tôi lại đến. Nếu có người gõ cửa thì đó là tôi đấy. Được rồi, ông Takai, giữ gìn sức khỏe nhé.”

Vẫn không nghe thấy tiếng bước chân. Nàng đợi chừng năm phút, sau đó đi ra phía sau cửa, áp tai lắng nghe, rồi nhìn qua lỗ quan sát ra bên ngoài. Không thấy bóng người nào trên hành lang. Tay nhân viên thu tiền hình như đã đi thật rồi.

Aomame đặt cây gậy đánh bóng bằng kim loại dựa vào tủ bếp, tháo đạn ra khỏi nòng súng, đóng chốt bảo hiểm, dùng chiếc quần bó dày quấn khẩu súng lại rồi cho vào ngăn kéo. Sau đó, nàng nằm xuống sofa, nhắm mắt lại. Giọng nói của thằng cha kia vẫn còn văng vẳng bên tai.

Nhưng mà, kể cả ông có làm thế thì cũng đừng hòng thoát được. Chắc chắn sẽ có người đến mở cánh cửa này ra. Thật đấy.

Ít nhất thằng cha này không phải là người của Sakigake. Bọn họ hành động lặng lẽ hơn, kín đáo hơn. Họ tuyệt đối không đứng ngoài hành lang khu căn hộ mà hò hét ỏm tỏi, nói những lời kệch cỡm, chỉ tổ làm đối phương cảnh giác. Đây không phải cách làm của bọn họ. Aomame nhớ đến Đầu Trọc và Tóc Đuôi Ngựa. Nếu là bọn họ thì sẽ lẳng lặng lẻn vào êm ru, đến khi nàng phát hiện ra thì họ đã ngay sau lưng nàng rồi.

Aomame lắc đầu, chậm rãi hít thở.

Cõ lẽ đúng là nhân viên thu phí của đài NHK thật. Nhưng hắn lại không chú ý đến tấm nhãn ghi rõ “Trả phí nghe nhìn qua chuyển khoản tự động hằng tháng.” Điều này rất đáng nghi. Aomame đã kiểm tra, tấm nhãn đó dán ngay cạnh cửa. Cõ lẽ tay này có vấn đề về thần kinh. Thế nhưng lời hắn nói lại có vẻ chân thực đến khó tin. Khiến mình có cảm tưởng hình như y quả thật cảm nhận được sự có mặt của mình bên kia cửa, dường như khứu giác tinh nhạy của y ngửi được bí mặt của mình hay một phần của bí mật ấy. Nhưng y không có sức mạnh để mở cửa xông thẳng vào. Cửa phải mở từ bên trong, mà dù có xảy ra chuyện gì mình cũng không định mở.

Không, mình không thể nói chắc thế được. Có thể một ngày kia mình sẽ mở cửa. Nếu Tengo xuất hiện ở sân chơi thiếu nhi kia lần nữa, có lẽ mình sẽ không do dự mở cửa, chạy như điên ra đó. Cho dù có thứ gì đợi mình ở đó đi chăng nữa.

Aomame thả mình xuống ghế làm vườn ngoài ban công, lại quan sát sân chơi qua khe hở của tấm chăn như mọi lần. Trên băng ghế dài dưới gốc cây sồi có một cặp tình nhân học cấp ba mặc nguyên đồng phục đang ngồi. Hai người đang bàn bạc chuyện gì đó, nét mặt rất nghiêm túc. Hai bà mẹ trẻ dẫn theo lũ trẻ con chưa đến tuổi đi mẫu giáo ngồi nghịch trên đống cát. Ánh mắt hai người hầu như không rời khỏi lũ trẻ con, nhưng vẫn hào hứng trò chuyện. Một quang cảnh sân chơi cuối chiều có thể gặp ở bất cứ đâu, Aomame nhìn chăm chăm vào đỉnh chiếc cầu trượt không người trong ánh nắng.

Aomame đặt tay lên bụng dưới, nhắm mắt, nghiêng tai, cố lắng nghe âm thanh. Bên trong nàng rõ ràng có cái gì đó đang tồn tại, có gì đó sống. Nàng biết nó là gì.

Tử thể, nàng khẽ nói.

Mẫu thể, cái gì đó trả lời.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 9: Tengo


Nhân lúc lối ra còn chưa bị bít kín

Ăn xong thịt nướng, bốn người chuyển sang quán bar có karaoke, uống sạch một chai whiskey. Khi bữa tiệc nhỏ nhưng tương đối tưng bừng này đi đến hồi kết thì đã gần mười giờ tối. Ra khỏi quán rượu, Tengo đưa cô y tá trẻ Adachi về nhà. Trạm xe buýt để đến ga tàu hỏa ngay gần đấy, song hai cô kia giả bộ như chẳng thắc mắc gì về cách sắp xếp này. Tengo cùng Adachi men theo đường cái không người, sánh vai đi bộ khoảng chừng mười lăm phút.

“Tengo, Tengo, Tengo,” cô ngân lên như hát, “tên hay quá. Tengo, rất là thuận miệng.”

Y tá Adachi đã uống khá nhiều rượu nhưng hai má cô bình thường vốn đã ửng hồng nên chỉ nhìn sắc mặt thì khó mà đoán được thật ra cô say đến mức nào. Cô nói năng vẫn rành rọt, bước đi vững vàng, không có vẻ gì là đang say, tuy rằng mỗi người có một kiểu say khác nhau.

“Tôi thì cứ cảm thấy cái tên này kỳ cục thế nào ấy,” Tengo nói.

“Chẳng hề kỳ cục chút nào. Tengo, rất dễ nghe dễ nhớ. Thật là một cái tên tuyệt vời.”

“À mà nói ra mới nhớ, tôi còn chưa biết tên cô đâu. Chỉ nghe mọi người đều gọi cô là Ku.”

“Đấy là tên gọi thân mật. Tên thật của em là Adachi Kumi. Một cái tên chẳng lấy gì làm nổi bật, đúng không?”

“Adachi Kumi,” Tengo đọc lên thành tiếng, “hay lắm. Đơn giản ngắn gọn, không rườm rà.”

“Cám ơn anh,” Adachi Kumi nói. “Nghe anh nói thế, sao em cứ có cảm giác mình biến thành Honda Civic hay gì đó tương tự ấy.”

“Tôi nói thế là đang khen cô mà.”

“Em biết. Vả lại còn tiết kiệm xăng nữa,” cô nói, sau đó nắm tay Tengo, “em nắm tay anh được không? Đi bên nhau thế này hình như vui hơn, cũng yên tâm hơn nữa.”

“Đương nhiên,” Tengo trả lời. Được Adachi Kumi nắm tay, anh chợt nhớ đến Aomame và phòng học hồi cấp một. Cảm giác không giống nhau, song cũng có một điểm chung nào đó.

“Hình như em say rồi,” Adachi Kumi nói.

“Thật không?”

“Thật mà.”

Tengo lại đưa mắt nhìn gương mặt nghiêng của cô y tá. “Trông không có vẻ gì là say cả.”

“Không thể hiện ra ngoài mà, thể chất của em là thế đấy. Có điều em thấy mình say ghê lắm rồi.”

“Đúng thôi, cô uống nhiều quá mà.”

“Ưm, đúng là đã uống rất nhiều. Lâu lắm rồi em không uống nhiều thế.”

“Thỉnh thoảng cũng cần như vậy,” Tengo lặp lại lời của y tá Tamura.

“Tất nhiên rồi,” Adachi Kumi nói, gật mạnh đầu, “thỉnh thoảng làm một trận thế này cũng là chuyện cần thiết. Ăn thỏa thuê một bữa ngon, uống rượu, hát hò, nói chuyện trên trời dưới biển. Nhưng mà anh Tengo này, chắc là anh không thế đâu nhỉ? Hoàn toàn buông lỏng mình như thế này ấy. Trong anh hình như lúc nào cũng rất bình ổn và trầm tĩnh.”

Nghe cô nói, Tengo thoáng nghĩ về điều đó. Khoảng thời gian gần đây mình có bao giờ đi xả hơi thế này không nhỉ? Không nhớ nổi. Nếu đã không nhớ nổi thì chắc là không có rồi. Bản thân là cái quan niệm hoàn toàn buông thả mình ấy có lẽ chính là thứ mà mình đang thiếu.

“Có lẽ là không.” Tengo thừa nhận.

“Mỗi người mỗi khác mà.”

“Mỗi người có phương thức tư duy và phương thức cảm nhận khác nhau.”

“Giống kiểu mỗi người có một kiểu say rượu khác nhau ấy,” cô y tá trẻ nói, bật cười khúc khích, “nhưng chuyện này là cần thiết đấy, kể cả với anh Tengo.”

“Có lẽ vậy,” Tengo nói.

Trong một thoáng hai người không nói một lời, tay nắm tay đi trên con phố về đêm. Sự thay đổi trong cách nói năng của cô làm Tengo hơi lo lắng. Lúc mặc đồng phục y tá, cô nói năng rất nhã nhặn nhưng vừa thay thường phục vào, hoặc có lẽ do tác dụng của men rượu, cách nói chuyện của cô liền trở nên không còn chút dè dặt nào nữa. Giọng điệu buông thả ấy khiến Tengo nhớ đến một người nào đó. Giọng cô nghe giống một người nào đó. Một người mà anh vừa gặp cách đây không lâu.

“Anh Tengo à, anh hút cần sa bao giờ chưa?”

“Cần sa?”

“Cây gai dầu ấy.”

Tengo hút một luồng không khí đêm vào phổi, sau đó thở hắt ra. “Chưa, tôi chưa hút bao giờ.”

“Vậy anh có muốn thử không?” Adachi Kumi nói, “chúng ta đi hút đi. Ở nhà em có đấy.”

“Cô có cần sa?”

“Ưm, sao vậy? Anh không ngờ?”

“Đúng là không ngờ thật.” Tengo nói, giọng hờ hững. Một cô y tá có đôi má hồng hồng trông rất lành mạnh sống ở thị trấn nhỏ ven biển Bosco không ngờ lại tàng trữ cần sa trong nhà, vả lại còn mời anh cùng hút!

“Cô kiếm thứ đó ở đâu ra vậy?” Tengo hỏi.

“Quà sinh nhật một người bạn cấp ba tặng em hồi tháng trước. Nghe bảo là quà cô ấy mang về sau chuyến đi chơi ở Ấn Độ,” Adachi Kumi nói, vung mạnh cánh tay đang nắm tay Tengo, tựa như đang chơi xích đu.

“Mang lậu cần sa mà bị phát hiện là trọng tội đấy. Cảnh sát Nhật kiểm tra thứ này gắt gao lắm. Lũ chó nghiệp vụ chuyên phát hiện ma túy lượn lờ khắp sân bay, hết ngửi chỗ này lại ngửi chỗ kia.”

“Con bé ấy là loại người không câu nệ tiểu tiết,” Adachi Kumi nói, “nhưng bằng cách nào đó, rốt cuộc nó cũng qua được cửa hải quan. Chậc, thử với em nhé. Độ tinh khiết cao, hiệu quả tốt lắm. Em kiểm tra rồi, xét trên góc độ y học gần như không có gì nguy hiểm cả. Tuy không thể nói chắc chắn không bị nghiện, nhưng so với mấy thứ kiểu như thuốc lá, rượu, cocain thì yếu hơn nhiều. Các nhà làm luật bảo sẽ nghiện, nhưng nói thế chỉ là khiên cưỡng thôi. Nói thế thì máy pachinko còn nguy hiểm hơn nhiều. Sáng hôm sau không bị nhức đầu, mà còn có thể khiến anh dịu đi cảm giác căng thẳng nữa.”

“Cô thử rồi à?”

“Tất nhiên. Vui lắm.”

“Vui?” Tengo nói.

“Anh cứ thử là sẽ hiểu,” Adachi Kumi nói, bật cười khúc khích, “Chậc, anh biết không, khi nữ hoàng Anh Victoria bị đau bụng kinh dữ quá, bà ấy không uống thuốc giảm đau mà cứ hút cần sa thôi. Mà là do bác sĩ hoàng gia kê đơn cho bà ấy đấy nhé.”

“Thật không?”

“Không phải em nói bừa đâu. Trong sách viết thế mà.”

Sách gì vậy? Tengo suýt nữa đã hỏi, nhưng sợ phiền phức nên lại thôi. Anh không muốn lằng nhằng với chuyện nữ hoàng Victoria bị đau bụng kinh thêm nữa.

“Sau sinh nhật tháng trước cô được bao nhiêu tuổi rồi?” Tengo đổi chủ đề câu chuyện, hỏi Adachi Kumi.

“Hai mươi hai. Đã là người lớn rồi.”

“Tất nhiên,” Tengo nói. “Anh đã ba mươi, nhưng chưa từng cảm thấy mình là người lớn, mà chẳng qua chỉ sống trên thế giới này hơn ba chục năm mà thôi.”

“Chị gái em hôm nay ngủ ở chỗ bạn trai chị ấy, nhà chỉ có mình em thôi. Vì vậy anh khỏi cần khách khí, đến nhà em đi. Ngày mai em lại không có ca trực, thời gian thoải mái.”

Tengo không biết phải trả lời thế nào. Anh thích cô y tá trẻ này. Xem chừng cô cũng thích anh. Vả lại, lúc này cô đang mời anh đến nhà mình. Tengo ngửa mặt nhìn lên trời. Nhưng cả bầu trời bị che phủ trong màn mây dày xám xịt, không thấy mặt trăng đâu.

“Lần trước em hút cần sa với cô bạn, đó là lần đầu tiên em hút cần sa, cảm giác thân thể hình như thình lình bay lên không trung,” Adachi Kumi nói,” Cũng không cao quá, chắc khoảng năm sáu xăngtimét gì đó thôi. Cứ vậy, trôi bồng bềnh ở độ cao ấy, cảm giác thích lắm. Kiểu như là vừa đúng độ ấy.”

“Độ cao như thế, có rơi xuống cũng không đến nỗi đau.”

“Ưm, độ cao ấy vừa thích hợp, có thể yên tâm. Có cảm giác như mình được bảo vệ, như thể được nhộng không khí bao bọc xung quanh mình ấy. Em chính là tử thế, hoàn toàn được bọc kín bên trong nhộng không khí, bên ngoài còn lờ mờ trông thấy mẫu thế nữa cơ.”

“Tử thể?” Tengo nói. Giọng anh đột nhiên đanh lại hẳn.”Mẫu thể?”

Cô y tá trẻ đang ngâm nga bài gì đó trong miệng, lắc mạnh cánh tay đang nắm tay Tengo, bước đi trên con đường không một bóng người. Chiều cao của hai người chênh lệch khá nhiều, nhưng Adachi Kumi dường như không hề để tâm chuyện đó. Thỉnh thoảng có chiếc ô tô chạy lướt qua bên cạnh.

“Mẫu thể và tử thể. Chúng xuất hiện trong một cuốn sách tên là Nhộng không khí. Anh không biết à?”cô hỏi.

“Tôi biết.”

“Anh đọc quyển đó chưa?”

Tengo lẳng lặng gật đầu.

“Hay quá đi mất. Thế thì dễ nói chuyện rồi. Em ấy à, cực cực thích quyển sách đó nhé. Từ khi mua về hồi mùa hè, em đọc đi đọc lại ba lần rồi. Một quyển sách mà lại khiến em đọc những ba lần, chuyện này là có một không hai đấy. Sau đó ấy à, lần đầu tiên hút cần sa em liền có cảm giác sao lại giống như chui vào trong nhộng không khí thế. Mình như được thứ gì đó bao bọc lấy, đang chờ để được sinh ra, còn mẫu thể thì ở bên cạnh bào vệ.”

“Cô có thể nhìn thấy mẫu thể?” Tengo hỏi.

“Ưm, có. Từ bên trong nhộng không khí có thể thấy được bên ngoài. Hình như nó được thiết kế như vậy. Nhưng mặt mũi mẫu thể thì em nhìn không rõ, chỉ có thể nhận ra những đường nét mơ hồ. Nhưng em hiểu đó chính là mẫu thế của mình. Trong lòng em hiểu rất rõ, người này chính là mẫu thể của mình.”

“Tóm lại là nhộng không khí giống kiểu như tử cung vậy?”

“Chắc có thể nói như vậy. Em cũng không nhớ lúc mình ở trong tử cung thì cảm giác thế nào nên không thể so sánh chính xác được.” Adachi Kumi nói, rồi lại bật cười khúc khích.

Đây là loại căn hộ tầng giá thành xây dựng thấp thường thấy ở ngoại ô các phố thị tỉnh lẻ. Thoạt trông dường như mới xây, nhưng đã xuất hiện nhiều vết tích cho thấy lâu năm không được bảo trì. Cầu thang bên ngoài kêu cót két, cửa thì mở ra đóng vào rất mệt. Hễ có xe tải hạng nặng chạy qua con đường trước mặt, cửa số kính liền rung lên bần bật. Vách tường trông rất mỏng manh, nếu có người tập ghi ta bass trong căn hộ của mình thì e cả khu nhà sẽ biến thành một cái hộp âm khổng lồ.

Tengo chẳng hứng thú gì với cần sa. Anh có một đầu óc tỉnh táo, nhưng anh đang sống trong thế giới có hai mặt trăng. Cần gì phải làm cho thế giới ấy thêm vặn vọ nữa chứ? Huống hồ, anh không thấy có hứng thú tình dục với Adachi Kumi. Đúng là anh có thiện cảm với cô y tá hai mươi ba tuổi này, nhưng thiện cảm và dục vọng xác thịt là hai thứ khác nhau. Ít nhất với Tengo thì như vậy. Cho nên, giá cô không nhắc đến mẫu thể và tử thể thì hẳn anh đã chọn bừa cớ gì đó để từ chối lời mời đến nhà cô rồi. Chắc giữa đường anh đã lên xe buýt, không có xe buýt thì gọi taxi đi thẳng về lữ quán. Xét cho cùng, đây dẫu sao cũng là thành phố mèo, tốt nhất hãy tránh tiếp cận những nơi nguy hiềm. Nhưng khi nghe thấy hai từ mẫu thể và tử thể, Tengo không thể từ chối cô được nữa. Biết đâu Adachi Kumi có thể cho anh một ám gợi về chuyện tại sao cô thiếu nữ Aomame lại nằm trong nhộng không khí xuất hiện ở gian phòng bệnh đó.

Đây là một căn hộ điển hình dành cho hai chị em chừng hai mấy tuổi sống chung. Có hai phòng ngủ nhỏ, phòng ăn và bếp là một, nối liền với phòng khách nhỏ xinh. Đồ đạc trong nhà đều chấp chấp vá vá, không theo một sở thích và cá tính thống nhất. Trên chiếc bàn phủ một lớp ván trang trí trong phòng ăn có đặt một chiếc đèn Tiffany hàng nhái rất không hợp chỗ. Rèm cửa sổ chấm hoa nhỏ, kéo sang hai bên có thể nhìn ra ruộng đồng bên ngoài, không biết trồng thứ gì, xa xa là một đám dày, đen tựa như là rừng cây gỗ tạp. Tầm nhìn thoáng rộng, không bị che chắn, nhưng phong cảnh nhìn từ đây chẳng làm người ta ấm lòng cho lắm.

Adachi Kumi mời Tengo ngồi xuống chiếc ghế dành cho hai người trong phòng khách. Đó là một chiếc ghế dành cho tình nhân màu đỏ rực rỡ, đối diện với tivi. Sau đó, cô lấy bia Sapporo trong tủ lạnh ra, đặt trước mặt anh cùng với một cái cốc.

“Em đi thay bộ đồ thoải mái hơn, anh đợi một lát nhé. Em ra ngay đây.”

Nhưng mãi cô không quay lại. Bên kia đoạn hành lang hẹp, phía sau cánh cửa chốc chốc lại vẳng ra tiếng động. Tiếng ngăn kéo tủ bị kẹp rít mở ra đóng vào, cả tiếng vật nặng đổ ra đất. Mỗi lần, Tengo đều không kìm được mà ngoảnh đầu lại. Không khéo đúng là cô say hơn vẻ bề ngoài rất nhiều. Tiếng chương trình ti vi ở nhà bên vọng sang qua bức tường mỏng. Anh không nghe rõ người ta đang nói gì, hình như là một tiết mục hài hước, cứ chừng mười đến mười lăm phút lại nghe tiếng khán giả cười. Tengo lấy làm hối hận vì đã không kiên quyết từ chối lời mời của cô. Đồng thời, ở một ngóc ngách nào đó trong tâm trí, anh lại cảm thấy việc mình bị dẫn đến đây là không thể tránh được.

Chiếc ghế anh đang ngồi là loại hàng rẻ tiền, mặt vải chạm vào da nghe hơi ngâm ngấm đau. Hình dạng của nó dường như cũng có vấn đề, Tengo nhúc nhích người thế nào cũng không tìm được vị trí thấy thoải mái, khiến tâm trạng anh càng thêm khó chịu. Tengo nhấp một ngụm bia, cầm điều khiển tivi đặt trên bàn lên, nhìn một hồi lâu như thể đang quan sát món đồ quý gì đó, sau đó ấn nút bật. Anh chuyển qua chuyển lại mấy kênh, rồi quyết định xem chương trình du lịch giới thiệu đường sắt của Úc trên đài NHK. Anh chọn chương trình này đơn giản vì nó yên tĩnh hơn các chương trình khác. Trên tiếng nhạc nền băng kèn ôboa, với chất giọng điềm tĩnh, nữ phát thanh viên giới thiệu về khoang tàu có giường nằm thanh lịch trên tuyến đường sắt chạy xuyên lục địa Úc.

Tengo ngồi trên chiếc ghế không lấy gì làm dễ chịu, mắt dõi theo những hình ảnh trên màn hình một cách hờ hững, nhưng lòng nghĩ về Nhộng không khí. Adachi Kumi không hề biết người viết cuốn tiểu thuyết ấy chính là anh. Nhưng cũng chẳng quan trọng gì. Vấn đề ở chỗ, mặc dù đã miêu tả nhộng không khí một cách kỹ càng và tinh tế, nhưng Tengo hầu như không biết gì về nó. Nhộng không khí rốt cuộc là thứ gì? Mẫu thể và tử thể đại diện cho điều gì? Lúc viết Nhộng không khí anh đã không biết, giờ anh vẫn hoàn không biết. Dù vậy, Adachi Kumi lại thích quyển sách, đã đọc những ba lần. Sao có thể thế được?

Lúc tivi đang giới thiệu về thực đơn bữa sáng trên toa ăn. Adachi Kumi trở ra, ngồi cạnh Tengo trên chiếc ghế tình nhân. Chiếc ghế khá chật, vì vậy vai hai người cọ sát vào nhau. Cô đã thay một chiếc áo phông dài tay thùng thình, quần vải nhạt màu. Trên áo in một hình mặt cười to tướng. Lần cuối cùng Tengo trông thấy hình mặt cười này là vào khoảng đầu những năm bảy mươi. Cái thời mà thứ âm nhạc chát chúa đinh tai của Great Funk Railroad làm những chiếc máy hát tự động loại bỏ tiền xu rung lên bần bật. Nhưng cái áo phông của cô nhìn không cũ lắm. Chắc ở đâu đó người ta vẫn tiếp tục sản xuất loại áo phông có in hình mặt cười này.

Adachi Kumi lấy một lon bia mới trong tủ lạnh, bật nắp đánh tách, rót vào cốc của mình, uống một hơi hết một phần ba. Sau đó, cô nheo mắt chỉ vào màn hình tivi, tựa như một chú mèo nhỏ đang thỏa mãn: đoàn tàu đang chạy trên đường ray dài ngút mắt giữa núi non trùng điệp màu đỏ.

“Đây là đâu thế?”

“Úc.” Tengo trả lời.

“Úc,” Adachi Kumi nói bằng giọng như đang lục tìm ở sâu bên trong ký ức, “là Úc ở Nam bán cầu đúng không?”

“Đúng. Chính là nước Úc có lũ chuột túi ấy.”

“Em có đứa bạn đã đi Úc rồi,” Adachi Kumi đưa ngón tay lên gãi gãi khóe mắt, nói, “nó đi đúng vào mùa giao phối của bọn chuột túi, đến một thành phố nọ, đâu đâu cũng là lũ chuột túi đang làm chuyện ấy. Trong công viên, trên đường, khắp mọi nơi.”

Tengo cảm thấy mình nên phát biểu ý kiến về chuyện này, nhưng anh chẳng nghĩ ra được gì để nói, bèn cầm điều khiển tắt tivi đi. Căn phòng đột nhiên trở nên tĩnh lặng. Không biết từ lúc nào, tiếng tivi ở căn hộ bên cạnh cũng không còn nữa. Xe cộ thỉnh thoảng phóng qua con đường phía trước khu căn hộ, ngoài ra thì đây là một đêm yên tĩnh. Nhưng nếu lắng tai nghe, sẽ nhận thấy có một thứ âm thanh rì rầm mơ hồ từ xa xôi vọng tới. Không biết là tiếng gì, nhưng có tiết điệu đều đặn, thi thoảng ngừng, không lâu sau lại tiếp tục vọng tới.

“Cú mèo đấy. Chúng sống ở khu rừng gần đây, cứ đêm là kêu.”

“Cú mèo,” Tengo lặp lại bằng giọng mơ hồ.

Adachi Kumi nghiêng đầu dựa lên vai Tengo, lẳng lặng cầm bàn tay anh lên, nắm chặt. Tóc cô chọc vào cổ anh. Chiếc ghế tình nhân vẫn không hề thoải mái. Cú trong rừng tiếp tục kêu, dường như có thâm ý gì đó. Tiếng kêu ấy như thể đang cổ vũ Tengo, cũng lại như đang cảnh cáo anh, hoặc là một lời cảnh cáo bao hàm sự cổ vũ. Một thứ âm thanh có nhiều hàm nghĩa.

“Này, có phải em chủ động quá không?” Adachi Kumi hỏi.

Tengo không trả lời, “Cô không có bạn trai à?”

“Chuyện này khó nói,”Adachi Kumi nói, nét mặt trở nên bối rối, “Anh chàng nào đường được một chút thì cứ tốt nghiệp cấp ba xong là lên Tokyo luôn. Vùng này không có trường tốt, cũng chẳng có công việc gì tử tế. Họ chẳng có lựa chọn nào khác.”

“Nhưng cô đã chọn ở lại đây.”

“Vâng. Lương không cao, làm việc rất vất vả. Nhưng em khá thích cuộc sống nơi này. Chỉ có mỗi vấn đề khó kiếm bạn trai thôi. Em sẵn lòng giao du kết bạn, nhưng khó gặp được người phù hợp lắm.”

Đồng hồ treo tường sắp chỉ mười một giờ. Quá mười một giờ là lữ quán đóng cửa, không về được nữa. Nhưng Tengo khó lòng đứng lên khỏi chiếc ghế tình nhân ngồi chẳng lấy gì làm dễ chịu này. Cơ thể anh không còn chút sức lực. Có lẽ do hình dạng của chiếc ghế, hoặc anh đã say hơn mình nghĩ. Anh nghe tiếng cú kêu mà đầu óc để đâu đâu, chăm chú nhìn chiếc đèn Tiffany nhái trên bàn, cảm giác mái tóc Adachi Kumi cọ vào cổ mình ngưa ngứa.

Adachi Kumi vừa vui vẻ ngâm nga một bài hát vừa chuẩn bị cần sa. Cô lấy dao cạo dùng một lần cạo miếng nhựa cây gai dầu màu đen thành những phiến mỏng như phiến cá bào, cho vào chiếc tẩu dèn dẹt chuyên dụng cỡ nhỏ, sau đó bật một que diêm với ánh mắt nghiêm túc. Làn khói ngòn ngọt đặt hữu tản ra trong gian phòng. Adachi Kumi hút trước. Cô rít vào một hơi sâu, giữ khói lại trong phổi một lúc lâu, rồi chầm chậm phả ra. Sau đó, cô dùng tay ra hiệu cho Tengo làm theo. Tengo nhận lấy tẩu thuốc rồi bắt chước theo. Anh cố giữ khói trong phổi lâu hết mức có thể, sau đó chầm chậm thở ra.

Anh một hơi, cô một hơi, cứ thế hút một lúc lâu. Trong khoảng thời gian đó, hai người không nói không rằng. Nhà bên lại bật tivi, âm thanh của tiết mục hài hước lại vẳng đến qua bức tường mỏng còn lớn hơn lúc đầu. Tiếng cười vui vẻ của người xem trong khán phòng vang lên bất tận, chỉ lúc nào phát quảng cáo mời dừng lại.

Hai người lần lượt hút chừng năm phút, nhưng không xảy ra chuyện gì. Thế giới xung quanh không có bất cứ thay đổi nào. Màu sắc, hình dạng, mùi, tất cả đều hệt như vốn có. Cú mèo tiếp tục kêu không ngớt trong rừng cây gỗ tạp, mái tóc Adachi Kumi vẫn cọ vào làm cổ anh hơi đau đau. Chiếc ghế tình nhân vẫn ngồi rất không thoải mái. Kim giây đồng hồ vẫn chuyển động với tốc độ ấy. Đám người trong tivi vẫn không ngừng phá lên cười trước câu ai đó nói, kiểu cười mà dù có cười đến mấy cũng chẳng thể nào hạnh phúc được.

“Chẳng xảy ra chuyện gì cả,” Tengo nói, “có lẽ là không hiệu quả với tôi.”

Adachi Kumi gõ nhẹ lên đầu gối Tengo hai lần. “Đừng lo, anh cứ đợi một lát.”

Đúng như cô nói, không lâu sau liền có phản ứng. Tựa hồ như một công tắc bí mật vừa bật lên, bên tai Tengo nghe tách một tiếng, sau đó trong đầu anh có thứ gì đó đặc và dính đang chao đảo, giống như bát cháo bị nghiêng đi. Dịch não của mình đang lắc lư, Tengo nghĩ. Đây là lần đầu anh có trải nghiệm này… cảm giác dịch não của mình tồn tại như một thứ vật thể độc lập với mình, cảm nhận được độ dính của nó. Tiếng kêu sâu hút của cú mèo xuyên qua tai chui vào trong, trộn lẫn với thứ cháo đặc ấy, hòa trộn làm một, không thể tách rời ra nữa.

“Con cú mèo đang ở trong tôi,” Tengo nói. Cú mèo giờ đã biến thành một phần ý thức của anh, một phần quan trọng không thể tách rời.

“Cú mèo là thần bảo vệ rừng, biết mọi thứ trên đời, nó truyền thụ cho chúng ta trí tuệ của đêm,” Adachi Kumi đáp.

Nhưng đi đâu và làm thế nào mới tìm được trí tuệ này? Cú mèo ở khắp mọi nơi, lại không ở đâu cả. “Tôi không nghĩ ra nên hỏi gì,” Tengo nói.

Adachi Kumi nắm tay Tengo. “Không cần phải hỏi. Chỉ cần tự mình đi vào rừng là được rồi. Như vậy đơn giản hơn.”

Từ bên kia bức tường lại vọng sang tiếng cười trong chương trình tivi. Cả tiếng vỗ tay. Chắc là trợ lý trường quay, trong một góc mà máy quay không lia tới được, đang giơ mấy tấm bảng ra hiệu “Cười” và “Vỗ tay” về phía khán giả. Tengo nhắm mắt lại, tưởng tượng ra khu rừng. Anh đi vào rừng, sâu bên trong khu rừng tăm tối là lãnh địa của Người Tí Hon. Nhưng nơi đó cũng có cú mèo. Cú mèo biết mọi thứ trên đời, và sẽ truyền thụ cho chúng ta trí tuệ của đêm.

Tất cả âm thanh đột nhiên im bặt, tựa như có ai đó lẳng lặng vòng ra sau lưng. Dùng nút bấc bịt kín hai tai Tengo lại. Có người ở đâu đó đậy một cái nắp, đồng thời một người khác ở một nơi khác mở một cái nắp. Lối ra và lối vào đã đổi chỗ cho nhau.

Lúc định thần lại, Tengo thấy mình đang ở trong phòng học trường cấp một.

Cửa sổ mở toang, tiếng lũ trẻ ngoài sân thể dục vọng vào. Hồ như sực nhớ ra, gió lùa vào, rèm cửa màu trắng bay theo gió. Bên cạnh anh là Aomame, cô đang nắm chặt tay anh. Quang cảnh giống hệt mọi khi… Nhưng có gì đó khác. Những thứ đập vào mắt anh đều rõ nét đến độ gần như không nhận ra nổi nữa, rõ nét đến từng chi tiết. Hình dáng, kiểu cách của các vật thể, thậm chí cả những chỗ nhỏ nhặt nhất cũng hiện lên rành rành trước mắt, cơ hồ anh chỉ cần vươn tay là chạm tới. Đồng thởi cái mùi của buổi chiều đầu đông cũng mạnh bạo xộc thẳng vào lỗ mũi, như thể cái nắp trước nay luôn đậy kín bên trên nó đột nhiên được giật bung ra. Những mùi thật sự. Những mùi cố hữu của mùa: mùi tấm giẻ lau bảng, mùi thuốc tẩy rửa dùng đề quét dọn, mùi lá khô cháy trong lò đốt ở một góc sân trường, mọi mùi quyện nhau không thể tách rời. Hít sâu các mùi này vào phổi, trong Tengo trào dâng cảm giác như tim mình mở ra vửa rộng vừa sâu. Kết cấu cơ thể anh đang được sắp xếp lại, nhịp tim anh không còn chỉ là nhịp tim.

Trong khoảnh khắc, anh có thể mở cánh cửa thời gian vào phía trong. Áhh sáng xưa cũ và ánh sáng mới mẻ hợp lại làm một. Không khí xưa cũ và không khí mới mẻ hợp lại làm một. Chính là thứ ánh sáng này, và thứ không khí này! Tengo nghĩ. Cứ vậy, tất cả mọi thứ đều trở nên sáng rõ. Hầu như tất cả. Tại sao mình mãi không nhớ nỗi cái mùi này, cho đến tận bây giờ? Rõ ràng là một chuyện hết sức đơn giản. Rõ ràng đó là một thế giới chân thực và bất biến.

“Anh rất muốn gặp em,” Tengo nói với Aomame. m thanh ấy xa xôi, trúc tắc. Nhưng không thể nghi ngờ gì, đó là giọng của Tengo.

“Em cũng rất muốn gặp anh,” cô gái nói. Đây hình như là giọng của Adachi Kumi. Ranh giới giữa thực tại và tưởng tượng đã biến mất. Khi anh cố nhìn rõ đường biên ấy, cái bát nghiêng đi, dịch não dính nhơm nhớp liền dập dềnh dập dềnh.

Tengo nói: “Lẽ ra anh nên bắt đầu đi tìm em sớm hơn, nhưng anh không làm được.”

“Giờ bắt đầu cũng chưa muộn. Anh có thể tìm được em mà,” cô gái nói.

“Làm thế nào mới tìm được em?”

Không có câu trả lời. Câu trả lời không thể chuyển hóa thành lời nói.

“Nhưng anh có thể tìm được em,” Tengo nói.

Cô gái trả lời: “Vì em đã phát hiện ra anh.”

“Em phát hiện ra anh.”

“Mau tìm thấy em đi,” cô gái nói, “trong khi vẫn còn thởi gian.”

Rèm cửa sổ màu trắng lặng lẽ bay nhè nhẹ, như một vong linh không kịp trốn đi. Đây là cảnh tượng cuối cùng Tengo trông thấy.

Lúc tỉnh lại, Tengo nằm trên chiếc giường chật hẹp. Đèn trong phòng đã tắt hết, ánh đèn đường hắt vào qua khe hở trên rèm cửa sổ sáng nhờ nhờ. Anh mặc áo phông và quần lót. Adachi Kumi chỉ mặc độc chiếc áo phông dài tay in hình mặt cười. Bên dưới chiếc áo phông dài thượt, cô không mặc đồ lót. Bầu vú mềm mại đè lên cánh tay anh. Trong đầu Tengo, cú mèo vẫn tiếp tục rúc lên. Lúc này, cả khu rừng gỗ tạp cũng đang ở trong thân thể anh. Anh đã thu nạp cả khu rừng về đêm vào trong cơ thể mình.

Tuy cùng nằm với cô y tá trên một chiếc giường, nhưng Tengo không hề cảm thấy ham muốn tình dục. Adachi Kumi có vẻ cũng không có cảm giác ấy. Cô vươn tay ôm lấy Tengo, chỉ mãi cười hinh hích. Có gì mà tức cười đền vậy, Tengo không hiểu nổi. Không khéo có người đang ở đâu đó giơ cao tấm bảng có viết chữ “Cười” cũng nên.

Mấy giờ rồi? Anh ngẩng mặt lên định xem đồng hồ, nhưng chẳng thấy đâu nữa Adachi Kumi đột nhiên ngừng cười, dùng cả hai cánh tay quấn lấy cổ Tengo.

“Em được tái sinh rồi,” hơi thở ấm áp của Adachi Kumi phả vào vành tai anh.

“Cô được tái sinh rồi,” Tengo nói.

“Vì em đã chết một lần.”

“Cô đã chết một lần,” Tengo lặp lại.

“Trong đêm mưa lạnh,” cô nói.

“Tại sao cô chết?”

“Để được tái sinh thế này.”

“Cô tái sinh,” Tengo nói.

“Nhiều hoặc ít,” cô bình tĩnh rủ rỉ, “trong đủ các hình thức.”

Tengo ngẫm nghĩ về câu này một lúc. Tái sinh nhiều hoặc ít trong đủ các hình thức, thế là thế nào? Não tương của anh trở nên nặng nề, tựa như đại dương nguyên thủy, tràn đầy mầm của sự sống. Thế nhưng, điều này chẳng dẫn anh đi tới đâu.

“Nhộng không khí từ đâu đến?”

“Câu hỏi sai,” Adachi Kumi nói, rồi bật cười rúc rích.

Cô quấn lấy người Tengo. Tengo như cảm thấy được lông mu của cô cọ vào đùi. Dày và rậm rạp. Tựa hồ như lông mu là một phần tư duy của cô vậy.

“Cần gì để tái sinh?” Tengo hỏi.

“Về việc tái sinh, vấn đề quan trọng nhất là con người ta không tái sinh vì bản thân mình, mà chỉ có thể tái sinh vì người khác,” cô y tá nhỏ nhắn nói. Như đang tiết lộ một bí mật nào đó.

“Đây chính là ý nghĩa của nhiều hoặc ít trong đủ các hình thức hả?”

“Khi trời sáng, anh Tengo phải rời khỏi nơi này. Nhân lúc lối ra vẫn còn chưa bị bít kín.”

“Khi trời sáng, tôi phải rời khỏi nơi này,” Tengo lặp lại lời cô y tá.

Cô lại cọ chỗ lông mu rậm rạp lên đùi Tengo, như thể muốn lưu lại một dấu hiệu gì đó, “Nhộng không khí không đến từ một nơi nào đó. Dù đợi bao lâu chăng nữa, nó cũng sẽ không đến.”

“Cô biết điều đó.”

“Vì em đã chết một lần,” cô nói, “chết rất đau đớn. Đau đớn hơn anh Tengo có thể tưởng tượng nhiều. Còn vô cùng cô độc nữa. Cô độc đến nỗi người ta phải khâm phục: thì ra con người có thể cô độc đến nhường ấy. Tốt nhất anh nên nhớ kỹ điều này. Nhưng mà anh Tengo này, xét cho cùng, không chết một lần thì sẽ không thể tái sinh.”

“Không chết đi thì sẽ không tái sinh,” Tengo xác nhận.

“Có điều, con người ta vừa sống cũng vừa không ngừng đến gần cái chết.”

“Vừa sống vừa không ngừng đến gần cái chết,” Tengo không hiểu ý cô, chỉ biết nhắc lại.

Rèm cửa sổ trắng vẫn bay bay trong gió. Bầu không khí trong lớp học pha lẫn mũi giẻ lau bảng và mùi thuốc tẩy rửa. Có cả mùi khói đốt lá khô. Có người đang tập thổi sáo dọc. Cô bé nắm chặt bàn tay anh. Anh cảm thấy nửa thân dưới có cảm giác đau đớn ngọt ngào. Nhưng anh không cương cứng. Điều đó sẽ đến sau. Cụm từ sẽ đến sau ấy ước hẹn với anh sự vĩnh hằng. Sự vĩnh hằng là một cây gậy dài vươn ra tít tắp. Cái bát lại nghiêng đi, dịch não dinh dính chao đảo.

Lúc thức dậy, mất một hồi lâu Tengo mới nhớ ra mình đang ở đâu. Anh tốn khá nhiều thời gian để sắp xếp lại những chuyện xày ra tối hôm trước. Ánh ban mai rực rỡ chiếu vào qua khe hở tấm rèm cửa hình chấm hoa, lũ chim dậy sớm đang ríu rít ồn ào. Trên chiếc giường chật hẹp, anh ngủ trong tư thế hết sức không thoải mái. Tengo không ngờ mình có thể ngủ cả đêm trong tư thế ấy. Bên cạnh anh có một phụ nữ. Cô áp mặt vào gối, vẫn đang say giấc. Mai tóc cô dính bết lên má, tựa như ngọn cỏ mùa hè đầy sức sống ướt đẫm sương sớm. Adachi Kumi, Tengo nghĩ. Cô y tá trẻ vừa đón sinh nhật lần thứ hai mươi ba. Đồng hồ chỉ bảy giờ hai mươi phút. Bảy giờ hai mươi phút sáng.

Tengo nhẹ nhàng trèo xuống giường, chú ý không làm cô y tá trẻ thức giấc, nhìn ra ngoài qua khe hở trên rèm cửa. Bên ngoài là ruộng rau bắp cải. Trên nền đất đen, rau bắp cải xếp thành hàng lối rất quy củ. Phía sau đó là rừng cây gỗ tạp. Tengo nhớ lại tiếng cú mèo kêu. Đêm qua, cú mèo kêu ở trong khu rừng đó. Trí tuệ của đêm. Tengo và cô y tá đã vừa nghe tiếng kêu ấy vừa hút cần sa. Trên đùi anh vẫn còn vương lại cảm giác lông mu cưng cứng của cô cọ vào.

Tengo xuống bếp, hứng nước ở vòi uống nước mấy ngụm. Cổ họng anh khô khốc, uống bao nhiêu cũng không đã khát. Nhưng ngoài chuyện đó ra thì không có thay đổi gì đặc biệt. Đầu không đau, người không mỏi mệt, ý thức cũng tỉnh táo. Chỉ là, bên trong cơ thể anh, có cảm giác mọi thứ đều quá trôi chảy, như hệ thống ống dẫn được các chuyên gia làm sạch một cách tỉ mỉ vậy. Anh mặc áo phông và quần lót đi vào nhà vệ sinh, tiểu một lúc lâu. Gương mặt hiện lên trong tấm gương xa lạ thoạt nhìn không giống anh lắm. Tóc bù xù từng túm chĩa đây chĩa đó, râu đến lúc phải cạo rồi.

Anh quay lại phòng ngủ thu dọn quần áo. Quần áo của anh và Adachi Kumi trộn lẫn với nhau, vương vãi trên sàn nhà. Tengo không nhớ mình cởi quần áo ra lúc nào hay như thế nào. Anh tìm thấy hai chiếc bít tất, xỏ quần bò vào, mặc áo sơ mi. Trong khi mặc đồ, anh giẫm phải một chiếc nhẫn rẻ tiền to tướng. Anh nhặt nó lên đặt trên tủ đầu giường. Anh chui đầu qua áo len cổ tròn, cầm áo khoác lên, kiểm tra lại cho chắc ví tiền và chìa khóa đều ở trong túi. Cô y tá trẻ kéo chăn lên tận tai, đang ngủ say sưa, không ngáy. Có nên đánh thức cô dậy không nhỉ? Cho dù chắc hẳn đêm qua không làm gì cả nhưng dù họ cũng đã ngủ với nhau một đêm, chẳng nói chẳng rằng mà lẳng lặng bỏ đi hình như không được lịch sự lắm. Nhưng cô đang ngủ say như thế, còn nói hôm nay không có ca trực nữa. Vả lại, sau khi gọi cô dậy, hai người sẽ làm gì đây?

Anh thấy đằng trước máy điện thoại có giấy và bút bi, bèn viết: “Cám ơn cô về chuyện tối qua, tôi vui lắm. Tôi về chỗ trọ đây. Tengo.” Phía dưới anh ghi ngày giờ. Anh đặt mảnh giấy lên tủ đầu giường, để cái nhẫn nhặt được lúc nãy lên trên, coi như cái chặn giấy. Sau đó, anh xỏ chân vào đôi giày thể thao cũ kĩ, đi ra ngoài.

Đi dọc theo con đường một lúc thì gặp trạm xe buýt, anh đợi chừng năm phút thì có xe chạy về phía ga tàu. Anh lên xe cùng một đám học sinh cấp ba ồn ào cả trai lẫn gái, đi đến tận điểm cuối, Tengo mặt mũi đầy râu ria mãi tận tám giờ sáng mới quay về, song người ở lữ quán chẳng nói gì. Với họ, dường như đây không phải chuyện bất bình thường. Không nói không rằng, họ nhanh nhẹn chuẩn bị bữa sáng cho anh.

Tengo vừa ăn bữa sáng nóng hổi, uống trà vừa hồi tưởng lại những gì xảy ra tối qua. Ba cô y tá mời anh đi ăn thịt nướng, rồi vào quán rượu nhỏ gần đó hát karaoke. Đoạn anh đến nhà Adachi Kumi, nghe tiếng cú kêu và hút cần sa sản xuất ở Ấn Độ. Kế đó, anh cảm thấy dịch não của mình biến thành một thứ cháo đặc âm ấm, dinh dính. Khi định thần lại, anh đã thấy mình ở trong căn phòng học ở trường cấp một vào mùa đông, ngửi thấy mùi không khí ở đó, nói chuyện với Aomame. Sau đó, anh lại cùng Adachi Kumi nằm trên giường bàn luận về cái chết và sự tái sinh. Có những câu hỏi đặt sai, có những câu trả lời đa nghĩa. Cú mèo trong rừng cây gỗ tạp không ngừng rúc, tiếng cười trên chương trình tivi vang lên không ngớt.

Ký ức của anh chấp vá, rõ ràng đã mất đi vài chỗ nối kết. Nhưng những phần không bị mất thì hết sức rõ ràng và sống động. Anh có thể lần ngược lại từng câu đã nói ra. Tengo còn nhớ rõ như in câu nói cuối cùng của Adachi Kumi. Đó là một lời khuyên chân thành, lại cũng là lời cảnh cáo.

“Khi trời sáng, anh Tengo phải rời khỏi nơi này. Nhân lúc lối ra vẫn còn chưa bị bít kín.”

Có lẽ nên quay về rồi. Tengo xin nghỉ đến thị trấn nhỏ này để gặp lại Aomame mười tuổi bên trong nhộng không khí. Hơn nữa, gần hai tuần nay ngày nào anh cũng đến viện điều dưởng, đọc sách thành tiếng cho cha nghe. Thế nhưng, nhộng không khí không xuất hiện. Có điều, khi anh cơ hồ sắp bỏ cuộc đến nơi, Adachi Kumi lại chuẩn bị cho anh một thị kiến dưới hình thái khác. Trong thị kiến ấy, Tengo được gặp lại cô bé Aomame mười tuổi, nói chuyện với cô. Aomame nói, hãy mau tìm thấy em đi. Nhân lúc vẫn còn thời gian. Không, có lẽ thực ra là Adachi Kumi nói câu đó. Không thể phân biệt, nhưng là ai cũng được. Adachi Kumi đã chết một lần rồi tái sinh. Không phải vì bản thân, mà vì một người khác. Tengo quyết định tạm thời tin vào những gì cô nói. Chuyện này hết sức quan trọng. Có lẽ thế.

Nơi đây là thành phố mèo. Có một số thứ chỉ có thể tìm được ở đây. Chính vì vậy anh mới lặn lội đổi mấy chuyến tàu lần mò đến chỗ này. Nhưng mọi thứ anh tìm được ở đây đều kèm theo cả sự nguy hiềm. Nếu tin vào chỉ dẫn của Adachi Kumi, đó có thể là những nguy hiểm chí mạng. Ngón cái đau nhói bảo với ta, thứ tà ác đang tới đây.

Nên trở về Tokyo thôi. Nhân lúc lối ra còn chưa bị bít kín, nhân lúc tàu hỏa còn dừng lại ở ga này. Nhưng trước đó anh cần phải đến viện điều dưỡng một lần, để chào tạm biệt cha. Có một chuyện anh còn phải làm cho rõ.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 10: Ushikawa


Thu thập những chứng cứ chính xác

Ushikawa đi đến Ichikawa. Y có cảm giác đây là một chuyến đi dài, nhưng kỳ thực chỉ cần qua sông, đến địa hạt tỉnh Chiba là đã tới Ichikawa rồi, đi từ Tokyo chẳng mất thời gian mấy. Y bắt taxi trước ga tàu hỏa, đọc địa chỉ trường tiểu học kia. Y đến đó lúc khoảng hơn một giờ chiều. Giờ nghỉ trưa đã kết thúc, buổi học chiều đã bắt đầu. Trong phòng học nhạc vẳng ra tiếng hét của dàn hợp xướng. Trên sân trường có lớp đang học thể dục, thi đấu bóng đá, lũ trẻ hò hét ầm ĩ, chạy hùng hục đuổi theo trái bóng.

Ushikawa không có ký ức đẹp về quãng thời gian tiểu học của mình. Y không giỏi thể dục thể thao, đặc biệt là các môn bóng. Người y thấp lùn, chạy chậm, mắt bị lòa, thêm nữa bẩm sinh đã kém phát triển thần kinh vận động, nên giờ thể dục gần như là ác mộng. Nhưng thành tích các môn khác thì đều ưu tú. Y vốn dĩ thông minh, lại ham học (vì vậy năm hai mươi lăm tuổi y vượt qua được kỳ thi luật). Song người xung quanh không ai ưa y, cũng không ai tôn trọng y. Tất nhiên, tướng mạo là một vấn đề. Tử nhỏ bộ mặt y đã to tướng xấu xí, ánh mắt cay độc, hình dạng cái đầu quái dị. Hai mép cặp môi dày bịch chùng xuống, tựa như sắp có nước miếng từ chỗ khóe miệng chảy ra đến nơi (chỉ là tựa như thôi, thực tế chưa từng chảy bao giờ). Đầu tóc y lúc nào cũng xoăn tít rối bù. Cái vẻ ngoài ấy tuyệt không thể khiến người ta có hảo cảm được.

Hổi học tiểu học, y rất ít khi mở miệng. Y biết rằng gặp tình huống cần thiết mình cũng khá giỏi ăn nói, nhưng y không có người bạn nào thân thiết đến mức không chuyện gì là không nói được, cũng chẳng có lấy cơ hội nào đứng trước mặt người khác mà nói cho thỏa thích. Vì vậy y luôn giữ mồm giữ miệng. Đồng thời, y cũng luyện thành thói quen cẩn thận lắng nghe người khác nói: bất kể họ nói gì, y cũng để ý xem có thể học được gì trong đó. Cuối cùng, thói quen này trở thành công cụ đắc lực. Nhờ nó, y phát hiện được nhiều sự thật quan trong. Một trong số đó là: quá nửa người trên thế gian này không dùng đầu mình để suy nghĩ. Và, càng không suy nghĩ thì lại càng không chịu lắng nghe người khác nói.

Tóm lại, đối với Ushikawa, thời tiểu học không phải một quãng đời mà y thường vui sướng hồi tưởng lại. Thậm chí, cứ nghĩ đến việc sắp phải ghé thăm một trường tiểu học, y lại thấy buồn bực trong lòng. Mặc dù hai tỉnh Saitama và Chiba có nhiều sự khác biệt, nhưng trường tiểu học trên cả nước Nhật đều gần như giống hệt nhau. Bề ngoài tương đồng, nguyên lý hoạt động cũng tương đồng. Thế nhưng, Ushikawa vẫn cất công đi cả quãng đường xa đến thăm ngôi trường tiểu học ở thành phố Ichikawa này. Chuyện này quan trọng, không thể nhờ người khác làm thay được. Y gọi điện đến phòng hành chính của trường, hẹn gặp người phụ trách ở đó lúc một rưỡi chiều.

Hiệu phó trường này là một phụ nữ nhỏ nhắn, chừng bốn lăm bốn sáu tuổi. Chị ta có thân hình mảnh mai, hấp dẫn, ăn mặc khá khéo. Hiệu phó? Ushikawa lấy làm bối rối. Y chưa từng nghe đến chức danh này. Nhưng y đã tốt nghiệp tiểu học từ rất lâu rồi, chắc hẳn có nhiều thứ đã thay đồi. Có lẽ người phụ nữ này qua nhiều năm tháng đã làm việc với đủ hạng người khác nhau, nên trông thấy tướng mạo bất bình thường của Ushikawa chị ta không tỏ ra quá kinh ngạc. Nhưng cũng có thể chỉ vì chị ta là người lịch thiệp và chu đáo. Chị ta dẫn Ushikawa vào phòng tiếp khách ngăn nắp sạch sẽ, mời y ngồi, rồi bản thân ngồi xuống ghế đối diện, nhoẻn miệng tươi cười, như thể đang hỏi: tiếp sau đây chúng ta sẽ nói chuyện gì thú vị đây?

Chị ta làm Ushikawa nhớ đến một cô bạn cùng lớp thời tiểu học. Xinh xắn, học giỏi, nhiệt tình, có trách nhiệm. Cô rất được thầy cô giáo yêu quý. Trong lớp học, Ushikawa thường xuyên nhìn trộm cô bé đó, chủ yếu là nhìn lưng cô. Có điều y không nói chuyện với cô lần nào.

“Nghe nói ông đang tiến hành điều tra các học sinh tốt nghiệp từ trường chúng tôi?” hiệu phó hỏi.

“Xin lỗi, tôi chưa kịp tự giới thiệu.” Ushikawa đưa danh thiếp ra. Tấm danh thiếp giống như tấm y đưa cho Tengo, bên trên in chức danh Quản lý chuyên trách, Quỹ tài chính Hội chấn hưng Văn học Nghệ thuật Tân Nhật Bản.” Ushikawa nói với bà hiệu phó đúng những lời tán nhảm mà khi đó y đã nói cho Tengo nghe: Anh Kawana Tengo tốt nghiệp quý trường giờ đã trở thành nhà văn và nằm trong danh sách ứng cử viên vòng trong có khả năng nhận được tài trợ của quỹ chúng tôi, tôi đang tiến hành thẩm tra lại theo thủ tục, vân vân…

“Đúng là một tin mừng!” hiệu phó cười rạng rỡ. “Một niềm vinh hạnh lớn cho trường chúng tôi. Nếu có điều gì có thể làm được, chúng tôi nhất định sẽ cố hết sức.”

“Nếu có thể, chúng tôi mong có thể trực tiếp nói chuyện với giáo viên dạy anh Kawana hồi đó,” Ushikawa nói.

“Để tôi kiểm tra lại một chút, dù sao cũng hơn hai mươi năm rồi, không khéo người đó đã về hưu.”

“Cám ơn chị nhiều lắm,” Ushikawa nói.” Nếu như có thể, còn một chuyện nữa tôi muốn phiền chị kiểm tra giúp.”

“Chuyện gì vậy?”

“Cùng niên cấp với anh Kawana hẳn là có một nữ sinh tên là Aomame Masami. Chị có thể kiểm tra giúp xem anh Kawana và cô Aomame này có từng học cùng lớp không?”

Hiệu phó thoáng ngạc nhiên. “Cô Aomame này có quan hệ gì đến việc tài trợ cho anh Kawana lần này không?”

“À không, tôi không có ý ấy. Trong tác phẩm của anh Kawana có một nhân vật dường như lấy cô Aomame làm nguyên mẫu, chúng tôi chỉ cảm thấy về điểm này có mấy vấn đề cần làm rõ. Không phải chuyện gì phức tạp đâu, chỉ là chuyện hình thức thôi mà.”

“Ra là vậy,” khóe miệng cân đối của bà hiệu phó hơi nhếch lên một chút, “chỉ có điều, thiết nghĩ ông cũng hiểu, có một số thông tin riêng tư của cá nhân chúng tôi không thể cung cấp cho ông được, ví dụ như thành tích học tập, hoàn cảnh gia đình chẳng hạn.”

“Chuyện này tôi hiểu. Chúng tôi chỉ muốn tìm hiểu xem cô ấy và anh Kawana có phải đã từng học cùng lớp hay không thôi. Ngoài ra, trong trường hợp đúng là cùng lớp, nếu chị có thể cho chúng tôi biết tên họ và phương thức liên lạc với giáo viên chủ nhiệm của họ hồi đó, tôi sẽ rất lấy làm cảm kích.

“Tôi hiểu rồi. Nếu chỉ cần thông tin đến thế thôi thì chắc không có vấn đề gì. Cô ấy họ Aomame phải không?”

“Đúng, Aomame, tức đậu xanh ấy. Một cái họ tương đối hiếm gặp.”

Ushikawa viết bốn chữ “Thanh Đậu Nhã Mỹ”[1] vào sổ rồi xé trang ấy ra đưa cho hiệu phó. Chị ta đón lấy mảnh giấy, xem trong vài giây rồi cho vào một túi nhỏ trong kẹp hồ sơ để trên bàn.

[1] Tên Aomame viết bằng chữ Kenji.

“Phiền ông đợi đây một lát. Tôi đi kiểm tra lại hồ sơ hành chính. Tôi sẽ bảo họ sao lại những thông tin có thể công khai cho ông.”

“Chị đang bận rộn mà tôi lại chiếm dụng thời gian của chị thế này, tôi thực tình xin lỗi,” Ushikawa cám ơn hiệu phó.

Hiệu phó ra khỏi phòng tiếp khách, chiếc váy xòe nhẹ nhàng phấp phới. Dáng người đẹp, dáng đi thanh nhã, kiểu tóc cũng hấp dẫn. Chị ta có tuổi tác theo một kiểu khiến người ta dễ chịu. Ushikawa chỉnh lại tư thế ngồi, đọc quyển sách bìa mềm mà y mang theo để giết thời gian.

Khoảng mười lăm phút sau, hiệu phó quay lại, trước ngực ôm một phong bì màu trà.

“Anh Kawana hồi đó là một học sinh rất xuất sắc. Kết quả học tập luôn xếp hàng đầu, lại còn là vận động viên có thành tích ưu hạng nữa. Anh ấy đặc biệt giỏi tính toán, hoặc có thể nói là môn toán, học cấp một đã giải được đề toán cấp ba rồi. Anh ấy từng giảnh giải nhất trong một kỳ thi toán, còn được báo chí gọi là thần đồng nữa.”

“Thật phi thường,” Ushikawa nói.

Hiệu phó nói: “Nhưng cũng thật lạ, thần đồng toán học nổi tiếng hồi đó sau khi trưởng thành lại thể hiện tài năng trong văn giới.”

“Tài năng dồi dào thì cũng như nước ngầm cuồn cuộn, hẳn có thể tìm được lối ra ở nhiều nơi khác nhau. Giờ anh ấy vừa làm thầy giáo dạy toán vừa viết tiểu thuyết.”

“Chẳng trách,” hiệu phó nhướng hai hàng lông mày thành một đường cong đẹp đẽ, nói.” So ra thì tôi không tìm được nhiều thông tin về cô Aomame Masami. Cô ấy chuyển trường năm lớp năm. Nghe nói là được một người họ hàng lập nghiệp ở Tokyo nhận nuôi, nên chuyển đến học tiểu học ở đó. Cô ấy học cùng lớp với anh Kawana năm học lớp ba và lớp bốn.”

Đúng như mình đã nghi ngờ, Ushikawa thầm nhủ. Hai người này quả nhiên có một mối liên hệ.

“Chủ nhiệm lớp họ khi đó là một cô giáo họ Ota. Ota Toshie. Giờ bà ấy dạy ở một trường tiểu học công lập ở thành phố Narashino.”

“Nếu tôi liên lạc với trường đó thì chắc có thể gặp bà ấy chứ?”

“Tôi đã liên lạc rồi,” hiệu phó mỉm cười, “bà ấy nói, trong trường hợp này bà ấy rất vui lòng gặp ông Ushikawa.”

“Tôi vô cùng biết ơn,” Ushikawa nói. Chị ta không chỉ xinh đẹp mà làm việc cũng rất nhanh nhẹn dứt khoát.

Hiệu phó viết vào mặt sau tấm danh thiếp họ tên của cô giáo kia và số điện thoại của trường tiểu học Tsudanuma nơi bà làm việc, đưa cho Ushikawa. Ushikawa trân trọng nhận lấy, cất vào trong ví da.

“Nghe nói cô Aomame có xuất thân trong một gia đình ngoan đạo.” Ushikawa nói, “về chuyện này, chúng tôi có hơi lo một chút.”

Hiệu phó chau mày, khóe mắt tụ lại những nếp nhăn nhỏ li ti. Chỉ những phụ nữ trung niên hết sức chú trọng tự rèn luyện bản thân trong một thời gian dài mới có thể sở hữu kiểu nếp nhăn thông minh, quyến rũ. Có nhiều hàm nghĩa tinh tế như vậy.

“Xin lỗi, đây là một trong những vấn đề mà chúng ta không thể thảo luận ở đây được,” chị ta nói.

“Liên quan đến quyền riêng tư của cá nhân phải không?” Ushikawa hỏi.

“Đúng vậy. Đặc biệt là những vấn đề chạm đến lĩnh vực tôn giáo.”

“Có điều, nếu gặp mặt cô giáo Ota, chắc là tôi có thể hỏi về chuyện này chứ?”

Chiếc cằm nhỏ nhắn của hiệu phó hơi nghiêng sang trái, khóe miệng nở ra một nụ cười nhiều ẩn ý. “Nếu cô Ota nói chuyện này từ góc độ cá nhân, chúng tôi không cần thiết phải can thiệp.”

Ushikawa đứng dậy, lễ độ cám ơn hiệu phó. Hiệu phó giao chiếc phong bì giấy đựng hồ sơ cho y. “Những tư liệu có thể cung cấp cho ông, chúng tôi đều đã sao lại trong này. Đây là tư liệu về anh Kawana. Cũng có một ít tư liệu về cô Aomame. Hy vọng có ich cho ông.”

“Chắc chắn là có ích. Phiền chị quá, tôi thật hết sức biết ơn.”

“Chuyện tài trợ ấy, nếu như có kết quả gì, xin thông báo với chúng tôi một tiếng. Đối với nhà trường, đây là một niềm vinh dự.”

“Tôi tin rằng nhất định sẽ có kết quả tốt,” Ushikawa nói, “chúng tôi đã gặp nhau vài lần, anh ấy là người trẻ tuổi tài hoa, có tương lai rộng mở.”

Ushikawa vào một nhà hàng trước cửa ga Ichikawa, ăn qua quýt cho xong bữa trưa, vừa ăn vừa lấy tư liệu trong phong bì ra xem xét. Đây là những ghi chép vắn tắt về quá trình học tập của Tengo và Aomame tại trường. Các văn bản khen thưởng Tengo vì kết quả học tập tốt và hoạt động thể thao cũng nằm ở trong này. Đích thực anh ta là một học sinh ưu tú khác thường. Hẳn anh ta chẳng bao giờ nghĩ trường học là ác mộng. Còn có bản sao của một bài cắt từ báo ra, biểu dương anh ta giành được giải nhất trong kỳ thi toán học nào đó. Ảnh thời niên thiếu của Tengo cũng được đăng trong bài báo, tuy không rõ nét lắm vì đã quá cũ.

Ăn xong bữa trưa, y gọi điện thoại đến trường tiểu học Tsudanuma, nói chuyện với cô giáo tên là Ota Toshie kia, hẹn gặp nhau ở đó lúc bốn giờ chiều. Bốn giờ trở đi thì có thể nói chuyện thoải mái được, cô giáo Ota đáp.

Đã đành là vì công việc, nhưng một ngày mà liên tiếp ghé thăm hai trường tiểu học quả có hơi nhiều! Ushikawa thở dài. Nghĩ đến thôi là y đã thấy nặng nề rồi. Nhưng cho đến thời điểm hiện tại, đích thân đến tận nơi thật chẳng uổng công. Y đã xác nhận được Tengo và Aomame từng có hai năm học chung lớp thời tiểu học. Đây là một tiến triển quan trọng.

Tengo giúp Fukada Eriko làm cho Nhộng không khí trở thành tác phẩm văn chương, biến nó thành sách bán chạy. Còn Aomame thì đã bí mật ám sát cha của Fukada Eriko, Fukada Tamotsu, trong một gian phòng suite ở khách sạn Oruka. Hai người này dường như có chung mục đích, đó là tấn công giáo đoàn Sakigake, mỗi người theo cách của mình. Có khả năng họ còn phối hợp với nhau. Người bình thường hầu hết sẽ cho là thế.

Thế nhưng, tốt nhất là tạm thời không nói chuyện này cho bộ đôi kia của Sakigake biết. Ushikawa không thích đưa ra thông tin một cách vụn vặt. Cách làm y thích là vơ vét mọi thông tin vơ vét được, cẩn thận kiểm chứng mọi tình huống, đợi khi chứng cứ đã rành rành, y mới chỉ rõ ràng “thực ra là như thế đấy.” Hồi còn làm luật sư đã mê mệt cái kiểu mang sắc thái phường tuồng này, đến tận bây giờ vẫn thế. Hạ mình xuống thấp làm đối phương lơ là cảnh giác, đến khi sự việc gần như kết thúc thì y đột nhiên tung ra bằng chứng vững như bàn thạch, khiến tình thế hoàn toàn đảo ngược.

Trên tàu đi Tsudanuma, Ushikawa thử xây dựng trong đầu vài giả thiết khác nhau.

Tengo và Aomame có thể có quan hệ nam nữ. Tuy không đến nỗi từ năm mười tuổi đã bắt đầu yêu nhau, nhưng có khả năng là, sau khi tốt nghiệp tiểu học, hai người gặp lại nhau ở đâu đó, rồi dần dần qua lại thân mật. Sau đó, vì nguyên nhân nào đó chưa rõ, hai người đã đồng tâm hiệp lực tìm cách hủy diệt Sakigake. Đây là một giả thiết.

Nhưng theo Ushikawa thấy, không có dấu hiệu cho thấy Tengo có qua lại với Aomame. Anh ta vẫn duy trì quan hệ thể xác định kỳ với người phụ nữ hơn anh ta mười tuổi, có chồng. Với tính cách của Tengo, nếu anh ta và Aomame gắn kết sâu xa đến thế thì chắc chắn anh ta sẽ không duy trì mối quan hệ xác thịt vụng trộm với một phụ nữ khác. Anh ta không phải loại người có khả năng lừa dối trơn tru kiểu ấy. Ushikawa từng dành ra hai tuần liên tục điều tra mô thức hành vi của Tengo. Mỗi tuần anh ta dạy ở trường dự bị ba ngày, còn thì hầu hết thời gian là một mình ở nhà, chắc là viết tiểu thuyết. Ngoài những lúc thỉnh thoảng đi mua thức ăn, tản bộ, anh ta hầu như không ra ngoài. Một cuộc sống rất giản dị, đơn điệu, rõ ràng và dễ hiểu, không có điểm nào khó giải thích. Chẳng hiểu vì sao, Ushikawa không thể hình dung được Tengo lại tham gia vào một âm mưu giết người.

Về mặt cá nhân, Ushikawa có thiện cảm với Tengo. Tengo là một người trẻ tuổi chân chất, tính cách thẳng thắn, có ý chí tự lập, không dựa dẫm vào người khác. Giống như trường hợp thường thấy ở những người cao lớn, anh ta có khuynh hướng không được linh hoạt lắm, nhưng không hề nhỏ mọn và láu cá. Anh ta là kiểu người hễ đã quyết việc gì là sẽ thực hiện đến cùng. Người như vậy mà làm luật sư hay nhân viên giao dịch chứng khoán thì đừng hòng có tiền đồ, chắc chắn sẽ bị người ta chơi điểu để rồi thất bại ở thời điểm mấu chốt nhất. Nhưng nếu làm thầy dạy toán hay tiểu thuyết gia thì sẽ khá. Anh ta không giỏi giao thiệp, cũng không giỏi nói năng, nhưng lại có thể khiến một típ phụ nữ nào đó mê mẩn. Nói gọn một câu, anh ta là dạng người đối lập rõ ràng với Ushikawa về mặt tính cách.

So ra, Ushikawa hầu như không biết gì về Aomame. Y chỉ biết cô ta sinh ra trong một gia đình tín đồ cuồng nhiệt của hội Chứng nhân Jehovah, vừa mới hiểu chuyện là đã bị dắt đi truyền giáo… những chuyện kiểu như vậy. Nhưng còn tính cách của Aomame như thế nào - thói quen tư duy của cô ra sao, có ưu điểm và nhược điểm gì, cuộc sống riêng tư có gì đặc biệt - y hoàn toàn không rõ. Thứ y có trong tay lúc này chẳng hơn gì những điều người ta có thể tìm được trong một bản sơ yếu lý lịch.

Nhưng khi đặt lý lịch của Aomame và Tengo cạnh nhau trong đầu, y phát hiện ra có mấy điểm chung. Trước tiên, thời thơ ấu của hai người chắc chắn đều không hạnh phúc. Aomame bị buộc phải theo mẹ đi khắp hang cùng ngõ hẻm, ấn chuông từng nhà để truyền giáo. Con cái của hội Chứng nhân Jehovah thảy đều buộc phải làm việc đó. Còn cha Tengo là nhân viên thu phí của đài NHK, công việc này cũng phải đi đến từng nhà gõ cửa. Liệu ông ta có dẫn con trai đi thu tiền giống như các bà mẹ trong hội Chứng nhân Jehovah dẫn con theo không? Chắc có. Nếu mình là cha Tengo, nhất định mình sẽ làm thế. Dắt con theo thì thành tích thu tiền sẽ tốt hơn, lại không phải trả tiền bảo mẫu theo giờ. Một công đôi việc. Nhưng đối với Tengo điều này chắc chắn chẳng vui vẻ gì. Không khéo, hai đứa trẻ từng gặp nhau ở đâu đó trên đường phố Ichikawa cũng nên.

Thứ đến, cả Tengo lẫn Aomame kể từ khi hiểu chuyện đều đã bắt đầu phấn đấu, lần lượt giành được học bổng thể thao, cố tách khỏi cha mẹ mình càng sớm càng tốt. Trên thực tế, hai người đều là tuyển thủ thể thao xuất sắc. Hẳn là có thiên phú bẩm sinh. Nhưng đồng thời, bọn họ đều có lý do để buộc phải trở nên xuất sắc. Đối với bọn họ, trở thành tuyển thủ thể thao được mọi người công nhận, lập nên thành tích ưu tú, đó gần như là cách duy nhất để có thể tự lập, là chiếc vé quý giá họ cần để tự mình có thể sinh tốn. Họ suy nghĩ khác với những cô bé cậu bé thông thường, họ phải trực tiếp đối mặt với thế giới theo một cách khác.

Nghĩ lại, trường hợp của Ushikawa cũng có nhiều nét tương tự với hai người.

Ở trường hợp của y, vì gia cảnh khá giả nên y không thiết phải giành được học bổng, cũng chưa bao giờ thiếu tiền tiêu vặt. Nhưng để thi vào trường đại học hạng nhất, để vượt qua kỳ thi tư pháp, y không thể không cố sống cố chết vùi đầu học. Cũng như Tengo và Aomame, y không có thời gian chơi nhởn như các bạn khác. Y phải từ bỏ mọi lạc thú của cõi đời - mà thực ra, kể cả y có dồn hết tâm trí theo đuổi lạc thú ở đời thì cũng chẳng dễ dàng có được - mà một lòng dùi mài học tập. Tinh thần y luôn luôn dao động mãnh liệt nơi khe hẹp giữa cảm giác tự ti và cảm giác tự thấy mình ưu việt. Chẳng phải mình giống như Raskolnikov[2] chỉ có điều không gặp được Sonia đấy sao? Từng có một độ y thường nghĩ như thế.

[2] Nhân vật chàng cựu sinh viên luật trong tiểu thuyết Tội ác và hình phạt của F. Dostoyevsky.

Thôi đi, chuyện của mình vậy là đủ rồi. Nghĩ mấy cũng chẳng ích lợi gì. Tốt hơn là quay lại chuyện của Tengo và Aomame.

Giả sử Tengo và Aomame tình cờ gặp nhau vào một thời điểm nào đó sau hai mươi tuổi. Trong khi nói chuyện, họ lấy làm kinh ngạc biết rằng hóa ra mình và người kia có nhiều điểm chung như vậy. Chắc chắn có rất nhiều điều họ muốn giãi bày. Hai người có thể sẽ hấp dẫn nhau một cách mạnh mẽ, như một người đàn ông và một người đàn bà. Ushikawa có thể tưởng tượng rõ nét cảnh ấy. Cuộc gặp gỡ định mệnh. Khoảnh khắc lãng mạn tột cùng.

Cuộc gặp gỡ ấy có diễn ra trong hiện thực không? Một cuộc tình lãng mạn phải chăng đã nở hoa? Ushikawa không biết. Nhưng giả thiết hai người đã gặp nhau dường như hợp tình hợp lý hơn. Vì vậy, bọn họ mới bắt tay với nhau để triệt hạ Sakigake. Tengo dùng ngòi bút, còn Aomame sử dụng kỹ thuật đặc thù nào đó của mình, mỗi người tấn công từ một hướng. Song Ushikawa cảm thấy khó mà chấp nhận giả thiết này. Suy luận tuy hợp tình hợp lý đấy, nhưng thiếu sức thuyết phục.

Nếu Tengo và Aomame đã có mối quan hệ sâu sắc đến vậy thì không thể không có chút dấu vết gì đó được. Cuộc gặp gỡ định mệnh ắt hẳn sẽ làm nảy sinh kết quả định mệnh, và điều đó thì không thể nào thoát khỏi đôi mắt sắc bén của Ushikawa, Aomame họa may có thể khéo léo che giấu, nhưng Tengo thì tuyệt đối không.

Về cơ bản, Ushikawa là người sống nhờ vào việc xây dựng logic. Không tìm được bằng chứng, y không thể tiến lên được. Nhưng đồng thời, y cũng tin vào trực giác của mình. Đối với giả thiết rằng Tengo và Aomame là đồng bọn, trực giác của y lắc đầu phủ định. Nhẹ nhàng, nhưng rất kiên định. Có khi hai người này chẳng ai ý thức được sự tồn tại của người kia cũng nên. Hai người đồng thời có vướng mắc với Sakigake, rất có thể đó chỉ là trùng hợp ngẫu nhiên.

Kể cả sự trùng hợp này là thật khó tin, nhưng so với giả thiết đồng bọn, giả thiết này được trực giác của Ushikawa chấp nhận hơn. Hai người này, vì những động cơ và mục đích khác nhau, đã cùng lúc làm lung lay sự tồn tại của Sakigake từ những hướng khác nhau, đây thuần túy chỉ do ngẫu nhiên. Hai mạch truyện không chung một điểm khởi đầu, song lại cùng song song tiến lên.

Thế nhưng, cái bộ đôi Sakigake kia liệu có thật thà chấp nhận một giả thiết giản tiện như thế hay không? E là khó, Ushikawa nghĩ. Chắc chắn họ sẽ vồ ngay lấy giả thiết hai người kia là đồng bọn, bởi bọn người này vốn bản tính thích những chuyện có âm mưu thâm hiểm. Trước khi giao ra bất cứ thông tin gì, cần phải nắm được chứng cứ vững hơn. Bằng không, y sẽ làm bọn họ lạc hướng, thậm chí còn gây nguy hiểm cho bản thân y nữa.

Suốt quãng thời gian ngồi tàu hỏa từ Ichikawa đến Tsudamona, Ushikawa ngẫm nghĩ về những vấn đề này. Chắc là y đã thoắt chau mày thoắt thở dài, thoắt lại nhìn trừng trừng ra trước mặt tự mình không biết, bởi cô bé học sinh cấp một ngồi đối diện cứ nhìn mặt y chăm chăm với vẻ mặt lạ lùng. Để che đậy sự ngượng ngùng, y cười toe toét, đưa tay lên xoa xoa cái đầu hói hình dáng kỳ quặc của mình, nhưng động tác ấy hình như càng khiến cô bé thêm sợ hãi, lúc tàu sắp đến Nishi-Funabashi cô vội vã đứng dậy bỏ đi mất.

Ushikawa nói chuyện với cô giáo Ota Toshie trong phòng học sau giờ tan lớp. Bà ta khoảng hơn năm lăm tuổi, ngoại hình là cực đối lập rõ rệt với cô hiệu phó giỏi giang của trường tiểu học ở Ichikawa. Bà ta lùn, béo, dáng đi nhìn từ phía sau trông rất kỳ quặc, tựa như một loài động vật vỏ cứng. Bà ta đeo kính gọng kim loại nhỏ, khoảng giữa hai hàng lông mày vừa rộng vừa phẳng, có thể thấy rõ những sợi lông măng li ti mọc ra ở đó. Bộ đồ công sở bằng len trên người bà ta thoang thoảng mùi thuốc đuổi côn trùng, không biết may từ bao giờ, nhưng khiến người ta có cảm giác vừa may xong là đã lỗi mốt luôn. Bộ đồ màu hồng phấn, nhưng là một thứ sắc màu kỳ quái như thể pha lẫn thêm màu tạp vào. Có lẽ bà ta muốn một sắc điệu trang nhã và đứng đắn, nhưng lại tính một đằng ra một nẻo, màu hồng phấn ấy nặng nề chìm sâu xuống thành sự thiếu tự tin, ẩn nhẫn và chán chường. Kết quả là, chiếc sơ mi trắng mới tinh ló ra chỗ cổ áo thoạt trông giống như một khách viếng xông vào linh đường nói năng lảm nhảm trong đêm canh xác. Mái tóc lốm đốm sợi bạc của bà ta được cặp bằng một chiếc cặp nhựa, rõ ràng là thứ tiện tay với lấy dùng tạm. Tay chân bà ta đẫy đà, những ngón tay ngắn và thô không đeo chiếc nhẫn nào. Trên cổ hằn lên ba nếp nhăn rõ rệt, như thể những vết tích của cuộc đời. Hay có lẽ là dấu hiệu được vạch sau khi ba nguyện vọng được thành hiện thực. Nhưng chắc là không phải vậy, Ushikawa thầm suy đoán trong đầu.

Bà ta làm giáo viên chủ nhiệm lớp của Kawana Tengo từ năm lớp ba cho đến khi tốt nghiệp. Theo quy định, cứ mỗi hai năm nhà trường lại xáo trộn các lớp rồi sắp xếp lại một lần, nhưng trùng hợp thế nào mà bà ta dạy Tengo liền bốn năm. Còn Aomame thì chỉ ở trong lớp do bà chủ nhiệm năm lớp ba và lớp bốn.

“Tôi nhớ rất rõ về cậu Kawana ấy,” bà ta nói.

So với bề ngoài có vẻ hiền lành chân chất, giọng bà ta trong trẻo và trẻ trung đến đáng ngạc nhiên. Đó là giọng nói có thể vang đến tận từng ngóc ngách của lớp học ồn ào. Đúng là nghề nghiệp thay đổi con người, Ushikawa nghĩ, đầy cảm khái. Người phụ nữ này chắc chắn là một giáo viên xuất sắc.

“Cậu Kawana là một học sinh xuất sắc về mọi phương diện. Tôi đã dạy vô số học sinh ở mấy trường tiểu học khác nhau suốt hơn hai mươi lăm năm, nhưng thiên phú xuất chúng như cậu ấy thì không có người thứ hai. Dù làm gì cậu ây cũng vượt trội hơn chúng bạn, nhân phẩm lại tốt, còn có tài lãnh đạo nữa. Lúc đó tôi có cảm giác, cậu ấy có tham gia lĩnh vực nào cũng sẽ có thành tựu không tầm thường. Hồi tiểu học, khả năng nổi bật nhất của cậu Kawana là môn toán, nhưng nếu cậu ấy thành công trong văn học, tôi cũng hoàn toàn không lấy làm kinh ngạc.”

“Cha anh Kawana hình như làm nhân viên thu phí cho đài NHK đúng không ạ?”

“Đúng.” Cô giáo trả lời.

“Nghe anh Kawana nói, cha anh ấy khá là nghiêm khắc,” Ushikawa nói. Đây hoàn toàn là một lời bịa đặt nói bừa.

“Đúng thế,” bà ta không ngần ngừ nói ngay, “đó là một người cha cực kỳ nghiêm khắc, lại tự hào với công việc của mình. Chuyện này đương nhiên rất tốt, nhưng đối với Tengo thì có vẻ như đã trở thành một gánh nặng.

Ushikawa khéo léo xâu chuỗi câu chuyện lại với nhau, moi từ miệng bà ta những câu trả lời tường tận. Mánh lới mà y sành sỏi nhất là để người đối diện nói thỏa thích, càng nhiều càng tốt. Bà ta kể chuyện Tengo không muốn cuối tuần nào cũng bị bắt theo cha đi thu tiền, nên năm lớp năm đã bỏ nhà ra đi, “Bảo là bỏ nhà ra đi, nhưng kỳ thực giống như bị tống cổ khỏi cửa hơn,” cô giáo nói. Tengo quả nhiên phải theo cha anh ta đi thu tiền, Ushikawa thầm nghĩ. Và chuyện này đối với cậu thiếu niên Tengo là một gánh nặng tinh thần không nhỏ. Không ngoài dự đoán.

Cô giáo Ota hồi ấy cho Tengo ở trong nhà mình một đêm vì cậu bé không biết đi đâu. Cô trải giường cho cậu bé, chuẩn bị bữa sáng cho cậu. Chập tối hôm sau cô đi tìm cha Tengo, hết lời thuyết phục ông ta đón con trai về. Cô giáo Ota giờ đây kể lại chuyển hồi đó như thể đang nhắc lại một khoảnh khắc huy hoàng nhất trong cuộc đời mình vậy. Bà còn kể chuyện tình cờ gặp lại Tengo hồi anh ta học cấp ba trong một buổi diễn âm nhạc, không tiếc lời khen ngợi kỹ thuật đánh trống định âm sao siêu của anh ta.

“Sinfornietta của Janáček. Bản này không hề đơn giản đâu, thế mà Tengo mãi đến mấy tuần trước đó còn chưa chạm đến thứ nhạc cụ ấy bao giờ. Nhưng cậu ấy đã hoàn thành sứ mệnh của mình một cách viên mãn. Quả là một kỳ tích.”

Người phụ nữ này yêu mến Tengo từ tận đáy lòng, Ushikawa nghĩ, đầy cảm khái. Gần như là yêu mến vô điều kiện. Cảm giác được người khác yêu mến sâu đậm như vậy, nó như thế nào nhỉ?

“Bà còn nhớ cô Aomame Masami không?” Ushikawa hỏi.

“Cô ấy tôi cũng nhớ rất rõ,” cô giáo Ota trả lời. Nhưng giọng bà khác hẳn lúc nói về Tengo, Ushikawa không còn nhận ra niềm vui trong đó nữa. Thanh điệu thoắt cái trầm xuống khoảng hai nốt.

“Cái họ này rất hiếm gặp,” Ushikawa nói.

“Ừm, họ này tương đối hiếm. Có điều tôi nhớ rõ cô Aomame này không phải chỉ vì họ của cô ấy.”

Một khoảng lặng ngắn.

“Nghe nói cả nhà cô Aomame là tín đồ nhiệt thành của hội Chứng nhân Jehovah,” Ushikawa thử thăm dò.

“Chuyện này có thể phiền ông nghe ở đây thôi, không truyền ra ngoài được không?” cô giáo Ota hỏi.

“Xin bà yên tâm. Tôi tuyệt đối không nói với ai khác.”

Bà ta gật đầu. “Thành phố Ichikawa có một chi hội lớn của hội Chứng nhân Jehovah, nên tôi từng dạy mấy đứa trẻ con thuộc hội ấy. Từ góc độ giáo viên, điều này dẫn đến những vấn đề tế nhị mà tôi phải đặc biệt chú ý để giải quyết. Có điều, tín đồ trung kiên như cha mẹ cô Aomame thì cực kỳ hiếm thấy.”

“Nói vậy, bọn họ là những người nhất quyết không chịu thỏa hiệp?”

Cô giáo như đang gợi lại những ký ức đã ngủ yên, khẽ cắn môi. “Đúng. Bọn họ cực kỳ nghiêm cẩn với các nguyên tắc của mình, còn yêu cầu lũ trẻ cũng phải tuân thủ theo như vậy. Vì nguyên nhân này mà Aomame bị cô lập trong lớp.”

“Nói như vậy, ở chừng mực nào đó, cô Aomame là một trường hợp cá biệt?”

“Là một trường hợp cá biệt,” cô giáo thừa nhận, “tất nhiên, trách nhiệm không ở đứa trẻ. Nếu muốn truy cứu trách nhiệm thì phải trách sự hẹp hòi chi phối tâm trí con người ta ấy.”

Cô giáo Ota nói rõ hơn về Aomame. Những đứa trẻ khác đa phần đều phớt lờ sự tồn tại của Aomame, cố gắng coi cô như không khí. Cô là loại khác, là kẻ tuyên truyền những nguyên tắc kỳ cục, kẻ mang đến phiền phức cho mọi người. Đây là suy nghĩ được đồng thuận trong cả lớp. Vì vậy, Aomame cũng cố làm sao cho hình ảnh của mình mờ nhạt hết mức, hòng tự bảo vệ mình.

“Tôi đã nỗ lực hết sức. Nhưng sự đoàn kết của lũ trẻ vượt quá sức tưởng tượng của tôi, mà Aomame dường như cũng tự biến mình thành một bóng ma. Nếu là bây giờ thì có thể nhờ chuyên gia tâm lý hỗ trợ thêm, nhưng hồi ấy chưa có chế độ này. Tôi lại còn quá trẻ, chỉ riêng việc chăm lo tốt cho một lớp học thôi cũng đã hết cả hơi sức rồi. Mặc dù tôi biết là nói vậy nghe cứ như đang tự biện hộ cho bản thân mình vậy.”

Ushikawa hiểu được ý của bà. Công việc của giáo viên tiểu học rất nặng nề. Những chuyện xảy ra giữa lũ trẻ, ở một mức độ nào đó, họ chỉ có thể mặc cho chúng tự giải quyết.

“Lòng sùng tín và sự hẹp hòi xưa nay luôn đi liền với nhau. Chuyện này thì chúng ta chẳng thể làm gì được,” Ushikawa nói.

“Ông nói rất đúng,” cô giáo Ota nói, “nhưng ở một tầng diện khác, chắc chắn vẫn còn thứ lẽ ra tôi có thể làm được. Đã mấy lần tôi định nói chuyện với Aomame, nhưng lần nào cô ấy cũng chẳng nói chẳng rằng. Cô ấy là người có ý chí kiên định, một khi đã quyết điều gì thì sẽ kiên trì đến cùng. Aomame vốn thông minh, trí óc nhanh nhạy hơn người, tính tích cực trong học tập rất cao. Nhưng cô ấy lại cố hết sức tự kiềm chế mình, không để điều ấy biểu hiện ra ngoài. Có lẽ cách duy nhất để Aomame tự bảo vệ mình là cố gắng không thu hút sự chú ý của người khác. Giá sinh ra trong một gia đình bình thường thì chắc hẳn cô ấy đã thành một học sinh vượt trội. Giờ nghĩ lại, tôi vẫn cảm thấy vô cùng tiếc nuối.”

“Bà có từng nói chuyện với cha mẹ cô ấy không?”

Cô giáo gật đầu. “Nhiều lần. Bố mẹ cô ấy thường đến trường phàn nàn, kêu rằng tôn giáo của họ bị bức hại. Khi đó tôi đã nhờ họ giúp đỡ, mong rằng họ có thể thay đổi nguyên tắc đi một chút, để Aomame có thể hòa nhập hơn với lớp. Nhưng vô ích, đối với cha mẹ cô ấy, nghiêm khắc tuân thủ nguyên tắc của tôn giáo quan trọng hơn hết thảy mọi thứ trên đời. Trong suy nghĩ của họ, hạnh phúc là được vào Nước Trời, còn cuộc sống nơi thế giới thực tại này chẳng qua chỉ là giả tượng hư ảo. Kỳ thực, đây chỉ là thế giới quan của người lớn, còn đối với những đứa trẻ đang trong tuổi dậy thì, bị thờ ơ, bị tẩy chay ở trường lớp là đau khổ biết chừng nào? Nó sẽ để lại trong tâm hồn chúng vết thương chí mạng! Đáng tiếc, tôi không làm sao khiến được bọn họ hiểu được điều ấy.”

Ushikawa cho bà ta biết, Aomame cả hồi học đại học lẫn đi làm ở công ty đều là tuyển thủ nòng cốt của đội tuyển bóng mềm và hiện tại cô là huấn luyện viên xuất sắc của câu lạc bộ thể thao cao cấp. Nói chính xác hơn thì không phải hiện tại mà là cho đến không lâu trước đây, nhưng không cần thiết phải làm rõ ra đến mức ấy.

“Vậy thì tốt quá,” cô giáo Ota nói. Hai má bà thoáng ửng đỏ. “Biết được cô ấy đã trưởng thành, có thể sống tự lập và khỏe mạnh tôi cũng thấy yên tâm.”

“Có điều, tôi muốn mạo muội hỏi bà một chuyện này.” Ushikawa nở một nụ cười thuần phác, hỏi: “Hồi học chung, có khả năng nào rằng anh Kawana và cô Aomame có mối quan hệ cá nhân tương đối thân thiết không?”

Cô giáo đan mấy ngón tay vào nhau, ngẫm nghĩ trong giây lát: “Có thể có. Nhưng tôi chưa từng chứng kiến hoặc nghe tin đồn nào như thế. Tôi khó mà tưởng tượng được trong lớp ấy có đứa trẻ nào lại thân thiết với Aomame. Có thể Tengo từng giúp đỡ Aomame lần nào đó, vì cậu ấy là đứa trẻ có tấm lòng tử tế, có tinh thần trách nhiệm. Nhưng cho dù có xảy ra như thế, sợ rằng Aomame cũng không dễ dàng mở cánh cửa trái tim mình. Cô ấy giống như con hàu bám trên vách đá, không dễ dàng mở cái vỏ của mình ra.”

Cô giáo trầm mặc một lát, sau đó bổ sung thêm: “Tôi rất tiếc phải nói rằng hồi ấy thực sự tôi không thể làm gì được cả. Vừa rồi tôi đã nói với ông, hồi đó tôi không có kinh nghiệm, năng lực cũng không đủ.”

“Ý của bà là, giả dụ anh Kawana và cô Aomame có thân thiết với nhau thì nhất định sẽ gây xáo động lớn trong lớp, không thể nào bà không biết được, đúng vậy không?”

Cô giáo Ota gật đầu: “Cả hai bên đều không chấp nhận đối phương.”

Ushikawa cảm ơn: “Cuộc nói chuyện với bà đã giúp ích cho tôi rất nhiều.”

“Chuyện của Aomame không gây bất lợi gì cho việc nhận tài trợ lần này là tốt rồi,” bà ta lo lắng nói, “trong lớp xảy ra vấn đề như thế thì trách nhiệm hoàn toàn thuộc về cô giáo chủ nhiệm là tôi. Không thể trách Tengo, cũng không thể trách Aomame được.”

Ushikawa lắc đầu: “Bà không cần lo lắng. Tôi chẳng qua chỉ đang kiểm chứng những sự thật liên quan đằng sau một tác phẩm văn học thôi. Bà biết đấy, những vấn đề dính dáng đến tôn giáo bao giờ cũng tương đối phức tạp. Anh Kawana là người tài hoa xuất chúng, chẳng bao lâu nữa chắc chắn sẽ có danh tiếng lẫy lừng.”

Nghe y nói vậy, cô giáo Ota nở nụ cười thỏa mãn. Trong đôi mắt nhỏ híp của bà có thứ gì đó phản xạ lại ánh mặt trời, như dòng sông băng trên đỉnh núi xa xa, sáng lấp lóa. Bà ta đang nhớ lại Tengo thuở thiếu niên, Ushikawa thầm nhủ. Đã là chuyện từ hai mươi năm trước, nhưng hẳn bà ta cảm thấy như vừa mới hôm qua thôi.

Lúc đứng đợi xe buýt ra ga Tsudanuma, Ushikawa nhớ lại những thầy cô giáo dạy mình hồi tiểu học. Họ có còn nhớ y không nhỉ? Dẫu còn nhớ chăng nữa, lúc nghĩ về y, trong mắt bọn họ hẳn cũng sẽ không bừng lên ánh thân thiết nào cả.

Những gì đã kiểm chứng được rất gần với giả thiết của Ushikawa. Tengo là học sinh xuất sắc nhất lớp, lại được mọi người yêu mến. Còn Aomame thì bị cô lập, bị cả lớp coi như không khí. Cảnh ngộ hai người cách nhau quá xa, nên Tengo và Aomame gần như không có khả năng thân thiết với nhau. Vả lại, năm lớp năm Aomame đã rời khỏi Ichikawa, chuyển sang trường khác. Mối liên hệ của hai người đã cắt đứt từ thời điểm đó.

Nếu buộc phải tìm ra điểm chung của hai người thời tiểu học, thì chỉ có chuyện bọn họ đều buộc phải nghe theo cha mẹ dù không muốn. Tuy rằng một người đi truyền giáo, một người đi thu tiền, mục đích hoàn toàn khác nhau, nhưng có lẽ cả hai đều cùng cô độc, đều cùng khao khát mạnh mẽ một thứ gì đó. Khao khát thứ gì đó có thể chấp nhận mình, ôm lấy mình một cách vô điều kiện. Ushikawa có thể tưởng tượng ra tâm trạng của họ. Ở chừng mực nào đó, đây cũng là tâm trạng của chính bản thân y.

Được rồi, Ushikawa thầm nghĩ. Y ngồi trên chuyến tàu nhanh từ Tsudanuma về Tokyo, hai tay khoanh lại. Được rồi, tiếp sau đây mình nên làm thế nào? Đã phát hiện ra mấy điểm liên hệ giữa Tengo và Aomame. Những mối liên quan hết sức thú vị. Đáng tiếc là, trước mắt những thứ ấy không thể chứng minh được điều gì cụ thể.

Trước mắt mình đang dựng lên một bức tường cao bằng đá, trên đó có ba cánh cửa, cần phải chọn một trong số đó. Mỗi cửa đều treo một tấm biển tên, một là “Tengo,” một là “Aomame,” một là “Bà chủ nhà ở Azabu.” Aomame đã biến mất tăm tích, tựa làn khói mỏng như người ta nói, không để lại dấu vết nào. Biệt thư Cây Liễu ở Azabu thì đề phòng nghiêm ngặt như két bảo hiểm trong ngân hàng. Phía đó cũng chẳng làm gì được. Vậy, chỉ còn lại một cửa duy nhất.

Chắc là sau đây mình phải dính chặt với Tengo rồi, Ushikawa nghĩ. Chẳng còn lựa chọn nào khác. Quả là một ví dụ hoàn hảo của phép loại suy. Hoàn hảo đến mức thậm chí y còn muốn in ra thành một tập sách nhỏ đẹp đẽ phát cho người đi đường. Làm ơn chú ý, các ông các bà, đây chính là phép loại suy đấy!

Tengo, chàng trẻ tuổi tốt bụng. Nhà toán học kiêm nhà tiểu thuyết. Quán quân Judo kiêm học trò cưng của cô giáo tiểu học. Tạm thời, nhân vật này chính là lối thoát duy nhất để tháo gỡ mớ bòng bong này. Càng nghĩ về nó, lại càng thấy không hiểu gì. Y có cảm giác não mình như thể được làm từ đậu phụ đã quá hạn sử dụng vậy.

Vậy Tengo thì sao? Anh ta phải chăng đã nhìn rõ được bức tranh tổng thể? Không, có lẽ vẫn chưa. Theo Ushikawa, Tengo đang không ngừng thử nghiệm hết lần sai này đến lần hỏng khác, đi vòng vòng quanh đi quẩn lại. Hẳn anh ta cũng đang bối rối không biết phải làm sao, đang xây dựng trong đầu đủ kiểu giả thiết. Nói thì nói vậy, nhưng dẫu sao Tengo cũng là nhà toán học bẩm sinh, anh ta biết cách tập hợp những mảnh ghép nhỏ lại để hoàn thành bức tranh ghép. Vả lại, là người trong cuộc, trong tay anh ta chắc chắn có nhiều mảnh ghép hơn mình.

Tạm thời cứ theo sát động tĩnh của Kawana Tengo mấy ngày. Chắc chắn anh ta sẽ dẫn mình đến đâu đó. Nếu mình may mắn thì không chừng đó chính là nơi ẩn náu của Aomame. Môt trong những mánh lới sở trường của Ushikawa là bám dính vào thứ gì đó, như con cá ép bám vào cá mập. Một khi y đã hạ quyết tâm, dù là ai cũng đừng hòng thoát khỏi y.

Đã quyết định rồi, Ushikawa nhắm mắt lại, tắt công tắc suy nghĩ. Ngủ một lát. Hôm nay y đã liên tiếp ghé thăm hai trường tiểu học chán phèo và gặp hai cô giáo trung niên ở tỉnh Chiba này rồi. Cô hiệu phó xinh đẹp và cô giáo già dáng đi như con cua. Phải thư giãn tinh thần một chút. Không lâu sau, cái đầu to tướng hình dáng kỳ dị của y bắt đầu gục lên gục xuống theo nhịp rung của tàu hỏa, tựa như con búp bê to bằng người thật phun ra những lá thăm chẳng lành trong tiết mục tạp kỹ.

Tàu đông, nhưng chẳng hành khách nào có ý định ngồi xuống cạnh Ushikawa.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 11: Aomame


Đã không chịu nói lý lẽ, lại thiếu cả lòng nhân từ

Sáng sớm ngày thứ Ba, Aomame viết lời nhắn cho Tamaru. Nàng báo cho anh ta biết chuyện thằng cha tự xưng là nhân viên thu tiền của đài NHK lại đến nữa. Hắn ta vẫn cố chấp gõ cửa, liên tục lớn tiếng trách móc và chế giễu Aomame (hoặc là một người họ Takai nào đó sống ở đây). Chuyện này rõ ràng có những chỗ quá đỗi bất bình thường. Nàng cần phải đề phòng.

Aomame bỏ mảnh giấy vào phong bì, để trên bàn trong bếp. Ngoài phong bì viết tắt một chữ T. Nó sẽ được những người vận chuyển đó tiếp tế trao đến tay Tamaru.

Sắp đến một giờ chiều, Aomame nấp vào phòng ngủ, khóa cửa lại, leo lên giường tiếp tục đọc Marcel Proust. Đúng một giờ, chuông cửa vang lên một tiếng. Một thoáng sau đó, có người dùng chìa khóa mở cửa, nhóm tiếp tế đã đến. Như mọi lần, họ nhanh nhẹn bổ sung các thứ vào tủ lạnh, thu dọn rác, kiểm tra xem các thứ lặt vặt trên chạn có còn không. Họ hoàn thành công việc được giao trong khoảng mười lăm phút, rồi ra khỏi căn hộ, đóng cửa, khóa từ phía bên ngoài. Sau đó, họ lại ấn chuông cửa thêm lần nữa làm ám hiệu. Vẫn vậy, không khác gì những lần trước.

Để đảm bảo an toàn, Aomame đợi đến khi kim đồng hồ chỉ một giờ rưỡi mới ra khỏi phòng ngủ vào trong bếp. Lá thư được gửi Tamaru không còn ở đó nữa, trên bàn có một túi giấy có in tên hiệu thuốc, cùng với một quyển Bách khoa giải phẫu thân thể nữ giới dày cộp mà Tamaru chuẩn bị cho nàng. Trong túi giấy có ba loại que thử thai khác nhau đang được bày bán trên thị trường. Nàng mở hộp ra, lần lượt đọc hướng dẫn sử dụng, rồi so sánh chúng với nhau. Nội dung hoàn toàn tương đồng. Kinh nguyệt chậm một tuần là có thể sử dụng. Mức độ chính xác lên đến chín mười lăm phần trăm, nhưng giả sử có kết quả dương tính, tức là cho thấy bạn có thai, xin nhanh chóng đến gặp bác sĩ chuyên khoa để kiểm tra. Không nên chỉ dựa vào kết quả kiểm tra của sản phẩm mà kết luận. Kết quả kiểm tra chẳng qua chỉ cho thấy người sử dụng “có thể đã mang thai” mà thôi.

Cách sử dụng rất đơn giản. Dùng vật chứa sạch hứng nước tiểu, rồi nhúng que thử thai vào, hoặc trực tiếp nhỏ nước tiểu lên trên mặt que, sau đó đợi chừng vài phút. Nếu que chuyển sang màu xanh lam thì tức là đã có thai. Không đổi màu thì không có thai. Hoặc trên ô nhỏ hình tròn xuất hiện hai vạch tức là có thai, một vạch là không có thai. Tuy chỉ có chút khác biệt. nhưng nguyên lý giống nhau. Kiểm tra xem trong nước có hoóc môn màng đệm kích thích tuyến sinh dục ở người hay không để phán đoán người sử dụng đã có thai chưa.

Hoóc môn màng đệm kích thích tuyến sinh dục ở người? Aomame nhíu mày. Nàng là một phụ nữ hơn ba mươi tuổi đầu, vậy mà chưa bao giờ nghe đến cụm từ đó. Chẳng lẽ tuyến sinh dục của mình bị cái thứ quái đản ấy kích thích từ bấy lâu nay hay sao?

Aomame giở Bách khoa giải phẫu thân thể nữ giới ra.

“Hoóc môn màng đệm kích thích tuyến sinh dục ở người (hCG) tiết ra trong giai đoạn đầu của thai kỳ, hỗ trợ duy trì thể vàng.” Trong sách viết, “thể vàng tiết ra progestogen và estrogen, duy trì nội mạc tử cung, ngăn kinh nguyệt. Như vậy, nhau thai sẽ dẫn đến hình thành bên trong tử cung. Sau từ bảy đến chín tuần, khi nhau thai hình thành, thể vàng hoàn thành sứ mệnh, sau đó thì sứ mệnh của hoóc môn hCG cũng kết thúc.”

Tức là, hoóc môn này được tiết ra trong khoảng từ tuần thứ bảy đến tuần thứ chín kể từ lúc thụ thai. Trong trường hợp của nàng thì khoảng thời gian có hơi sít sao, nhưng nói chung là vẫn kịp. Có thể khẳng định một điều, nếu kết quả dương tính thì chắc chắc nàng đã có thai, không nghi ngờ gì nữa. Nếu âm tính thì không thể kết luận rõ ràng như vậy. Cũng có khả năng là thời kỳ tiết hoóc môn của nàng đã kết thúc.

Aomame không thấy muốn tiểu. Nàng lấy chai nước khoáng trong tủ lạnh, rót ra cốc thủy tinh uống hai cốc. Nhưng nàng vẫn chưa thấy muốn đi tiểu. Thôi, cũng không cần gấp, nàng nghĩ. Nàng tạm gác chuyện thử thai sang một bên, nằm trên sofa tập trung tinh thần tiếp tục đọc Proust.

Hơn ba giờ chiều, nàng cảm thấy muốn tiểu, bèn cầm một vật dựng thích hợp để lấy nước tiểu, rồi nhúng que thử thai vào. Có thể thấy que thử đang chầm chậm đổi màu, cuối cùng biến thành màu xanh lam mát mắt. Một màu lam thanh nhã, có thể dùng làm màu sơn xe ô tô. Xe cỡ nhỏ sơn màu xanh lam, rất hợp với mui xếp màu nâu vàng. Đầu mùa hè mà phóng chiếc xe như vậy đi hóng gió trên con đường bờ biển, cảm giác hẳn là thoải mái lắm. Thế nhưng, trong buồng tắm của căn hộ nằm giữa trung tâm thành phố, vào một buổi chiều cuối thu, màu xanh này lại cho nàng biết sự thật rằng nàng đã có thai… hoặc ít nhất là chín mươi lăm phần trăm khả năng nàng đã có thai. Aomame đứng trước tấm gương trong buồng tắm, ngây người nhìn chăm chăm dải giấy dài mảnh giờ đã chuyển sang màu xanh. Nàng có nhìn bao lâu chăng nữa, màu ấy cũng không thay đổi.

Để cho chắc, nàng dùng loại que khác kiểm tra thêm một lần. Tờ hướng dẫn sử dụng viết “Hãy trực tiếp nhỏ nước tiểu lên đoạn trước que thử thai.” Nhưng vì không thể tiểu thêm được nữa, nàng bèn nhúng luôn que vào nước tiểu trong lọ chứa. Màu nước tiểu vừa mới lấy xong, nhỏ lên hay nhúng vào thì cũng thế, chắc không khác gì nhau. Kết quả y hệt. Trong ô nhỏ bằng nhựa hiện lên hai vạch đứng rõ rệt. Nó cũng cho Aomame biết nàng “có khả năng” đã mang thai.

Aomame đổ nước tiểu trong lọ vào bồn cầu, kéo cần giật nước. Nàng gói que thử thai đã đổi màu trong khăn giấy rồi ném vào thùng rác, xối rửa lọ chứa trong khoang tắm. Sau đó, nàng vào bếp, lại uống thêm hai cốc nước nữa. Ngày mai, đợi cho qua một ngày, mình sẽ dùng loại que thứ ba thử thêm một lần nữa. Ba, là một con số dứt khoát. Một cú vụt bóng tốt! Hai cú vụt bóng tốt! Nên thử đợi quả bóng cuối cùng.

Aomame đun nước sôi, pha một hồng trà nóng, ngồi xuống sofa tiếp tục đọc Proust. Nàng để năm cái bánh bích quy pho mát lên đĩa, vừa uống trà vừa nhấm nháp bánh quy. Một buổi chiều yên tĩnh. Rất thích hợp để đọc sách. Mắt nàng lướt theo những con chữ in, nhưng nội dung không lọt vào đầu chút nào. Nàng phải đọc đi đọc lại một chỗ đến mấy lần. Aomame bất lực nhắm mặt lại. và thấy nàng đang lái chiếc xe mui xếp màu xanh lam đã hạ mui, phóng dọc theo con đường ven bờ biển. Cơn gió nhẹ thoảng mùi biển thổi tung mái tóc nàng. Tấm biển báo ven đường vẽ hai vạch thẳng đứng. Nó cho người ta biết: “Chú ý, có thể bạn đã mang thai.”

Aomame thở dài một tiếng, ném quyển sách lên sofa.

Thực ra nàng hiểu rõ không cần phải dùng đến loại que thử thứ ba. Cho dù có thử một trăm lần, kết quả cũng chỉ có một. Chỉ tốn thời gian mà thôi. Hoóc môn hCG chắc hẳn vẫn giữ thái độ trước sau như một với tử cung của mình. Chúng chi phối thể vàng, ngăn không cho kinh nguyệt đến, giúp nhau thai dần dần hình thành. Mình có thai rồi. Hoóc môn hCG hiểu được điều này, mình cũng hiểu. Mình có thể cảm nhận được chính xác sự tồn tại của nó ở bụng dưới. Giờ vẫn còn rất nhỏ, chẳng qua chỉ như ký hiệu. Nhưng rồi nó sẽ nhanh chóng có nhau thai, càng ngày càng lớn dần. Nó sẽ hút dưỡng chất từ cơ thể mình, trưởng thành một cách chậm rãi, nhưng chắc chắn và không ngừng nghỉ trong bọc nước ối tối tăm, nặng nề.

Đây là lần đầu tiên Aomame mang thai. Tính nàng vốn thận trọng, xưa nay chỉ tin những thứ mình chính mắt nhìn thấy. Lúc làm tình, nhất định nàng phải tận mắt xác nhận đối phương đã đeo bao cao su. Kể cả những lần say khướt, nàng cũng không bao giờ bỏ qua bước này. Như nàng từng nói với bà chủ nhà ở Azabu, từ khi có kinh đầu tiên năm mười tuổi, kinh nguyệt của nàng chưa hề gián đoạn. Kể cả khi bị rối loạn, thời gian sai lệch cũng không bao giờ quá hai ngày. Cơn đau bụng kinh của nàng cũng rất nhẹ, chỉ xuất huyết liên tục mấy ngày là hết. Thậm chí nàng chưa bao giờ cảm thấy nó gây trở ngại gì cho hoạt động thể thao của mình.

Nàng có kinh lần đầu sau khi nắm tay Tengo trong lớp học chừng vài tháng. Nàng cảm thấy giữa hai sự việc này có một mối liên hệ xác thực nào đó. Có lẽ, cảm giác chạm vào tay Tengo đã khuấy trộn thứ gì đó bên trong cơ thể nàng. Khi nàng nói với mẹ rằng mình có kinh nguyệt, mẹ nàng liền lộ vẻ mặt chán ghét, tựa như bực bội vì lại thêm một mối phiền phức vô vị. Có hơi sớm đấy, mẹ nàng nói. Nhưng Aomame nghe xong cũng chẳng để tâm lắm. Đây là vấn đề của riêng nàng, không phải vấn đề của mẹ hay người nào khác. Nàng đã đặt chân vào một thế giới hoàn toàn mới mẻ.

Và giờ đây, Aomame đã có thai.

Nàng nghĩ về trứng của mình. Một trong số bốn trăm quả trứng chuẩn bị cho mình (chắc là một quả có số hiệu ở khoảng giữa) đã thực sự được thụ tinh. Có lẽ chính vào cái đêm tháng Chín đầy mưa gió sấm sét ấy. Lúc đó, mình đã giết một người đàn ông trong căn phòng tối tăm. Dùng mũi dùi sắc nhọn đâm qua gáy vào trong phần dưới của não bộ ông ta. Nhưng người đàn ông đó hoàn toàn khác mấy gã nàng từng giết trước đó. Ông ta biết được mình sẽ bị sát hại, hơn nữa còn chủ động muốn chết. Xét cho cùng, mình chỉ cho ông ta thứ ông ta muốn. Không phải sự trừng phạt, nên nói là từ bi thì đúng hơn. Để đổi lại, ông ta cho Aomame như nàng muốn. Đây là một cuộc giao dịch ở nơi bóng tối sâu thẳm. Trong đêm hôm ấy, quá trình thụ thai đã lặng lẽ hoàn thành. Mình biết như thế.

Mình đã dùng đôi tay này để tước đoạt đi tính mạng của người đàn ông, và gần như cùng lúc đó, một sinh mạng mới lại bắt đầu bên trong mình. Chẳng lẽ đây cũng là một phần của giao dịch?

Aomame nhắm mắt lại, ngừng suy nghĩ. Khi đầu óc nàng trống rỗng, liền có thứ gì đó âm thầm chảy vào trong. Và, trước khi kịp nhận ra, nàng đã bắt đầu cầu nguyện.

Lạy Chúa của chúng con ở trên trời, xin cho danh Người cả sáng, xin cho nước Người trị đến. Xin Người thứ tội chúng con. Xin Người ban phúc cho những tiến bộ nhỏ nhoi của chúng con. Amen.

Tại sao vào một thời điểm thế này, lời cầu nguyện lại tự động buột ra khỏi miệng như thế? Rõ ràng mình không tin vào những thứ như Thiên quốc, vườn Địa Đàng hay Chúa trời cơ mà. Mặc dù vậy, những lời này khắc sâu trong óc nàng. Hồi ba bốn tuổi, Aomame hãy còn chưa thể hiểu được ý nghĩa lời cầu nguyện này, nhưng nàng đã bị ép phải học thuộc lòng. Chỉ cần đọc sai một chữ là lập tức bị ăn thước kẻ vào mu bàn tay. Bình thường ra mình không thấy được nó, nhưng hễ có chuyện là nó nổi lên bề mặt, giống như một hình xăm bí mật.

Nếu mình kể với mẹ, bảo rằng mình không quan hệ tình dục nhưng lại có thai rồi, mẹ sẽ nói gì nhỉ? Không khéo lại cho rằng đây là sự báng bổ nghiêm trọng đối với tín ngưỡng của bà. Dù sao chăng nữa thì đây cũng là một dạng xử nữ mang thai? Tất nhiên Aomame không còn là gái trinh nữa, nhưng dù thế… có thể mẹ nàng sẽ chẳng buồn để tâm đến chuyện này. Bởi vì đã từ lâu lắm rồi mình là một thứ phế thải thoát ly khỏi thế giới của bà ấy.

Thử nghĩ theo lối khác xem, Aomame thầm nghĩ. Chẳng việc gì phải gượng ép giải thích một sự vật không thể giải thích, tạm thời hãy cứ coi câu đố là câu đố, và thứ quan sát hiện tượng này từ một góc độ khác xem sao.

Mình nên coi chuyện mang thai lần này là chuyện tốt, đáng để ăn mừng, hay coi nó là một chuyện xấu và không đích đáng đây?

Nghĩ nát óc cũng không đưa ra được kết luận nào. Giờ mình vẫn đang ở trong giai đoạn bị choáng. Tâm trí rối bời, không biết phải làm gì. Thậm chí mình có cảm giác như bị xẻ làm đôi. Và đương nhiên là chưa thể tiêu hóa tình thế mới mình đang phải đối mặt.

Nhưng đồng thời nàng cũng không thể không nhận ra mình hồi hộp và mong chờ theo dõi cái nguồn nhiệt nhỏ bé ấy, đó là một cảm xúc tích cực. Aomame mong chờ được xem đó là thứ gì, nhìn rõ cái thứ đang manh nha bên trong mình rồi sẽ đi về đâu. Tất nhiên, nàng cũng sợ hãi và bất an. Có thể nó là một thứ dị vật thù địch đang tham lam cắn nuốt nàng từ bên trong. Nàng tưởng tượng ra đủ thứ giả định tiêu cực. Dẫu vậy, sự tò mò lành mạnh vẫn khuất phục được nàng. Kế đó, một ý nghĩ thình lình trỗi lên trong tâm trí Aomame, tựa như tia chớp chợt lóe lên trên màn trời tăm tối.

Trong bụng mình có thể là con của Tengo.

Aomame khẽ nhíu mày, ngẫm nghĩ về khả năng này hồi lâu. Tại sao mình buộc phải có thai với Tengo nhỉ?

Có thể nghĩ thế này được không? Trong cái đêm nhiễu nhương đầy hỗn loạn ấy, một sức mạnh nào đó đã ảnh hưởng đến thế giới này, khiến Tengo đưa tinh dịch của anh ấy vào tử cung của mình. Nó đã xuyên qua khe hở giữa sấm và mưa, bóng tối và vụ giết người, tạo ra một đường hầm đặc biệt, bằng một thứ nguyên lý mà mình không biết được. Có lẽ chỉ trong chớp mắt rồi biến mất, nhưng bọn mình đã lợi dụng được nó một cách hiệu quả. Có thể mình đã nắm bắt lấy cơ hội ấy, tham lam đón nhận Tengo, và hoài thai. Mình không biết là trứng nào, số hiệu 201 hay 202, đã bắt được một trong mấy triệu t*ng trùng của anh. Một chú t*ng trùng khỏe mạnh, thông minh và thân thiện y như người sở hữu nó.

Một ý tường kì quái, hão huyền. Xét cả tình cả lý đều chẳng hợp lẽ. Dẫu mình có giải thích cạn khô nước bọt, e rằng cả thế giới chẳng ai tin là thật. Bản thân việc mình đã có thai này cũng không hợp tình hợp lý rồi. Nhưng, nói gì thì nói, nơi này là năm 1Q84. Một thế giới mà mọi điều kỳ lạ có thể xảy ra.

Ngộ nhỡ đây đúng là con của Tengo thì sao? Aomame nghĩ.

Ở chỗ thoát hiểm tạm thời trên đường cao tốc Thủ Đô số 3, buổi sáng hôm ấy mình đã không kéo cò súng. Mình vốn đã một lòng tìm đến cái chết, nên mới tới đó nhét nòng súng vào miệng. Mình chẳng hề sợ cái chết, vì mình tìm đến cái chết để cứu Tengo. Nhưng một sức mạnh nào đó cao hơn mình đã ảnh hưởng lên mình, nên mình đã quyết định không chết nữa. Ở một nơi xa xăm, một giọng nói gọi tên mình. Chẳng lẽ vì mình đã mang thai? Phải chăng có thứ gì đó đang cố báo cho mình biết về sự ra đời của cái sinh mệnh này ở bên trong mình?

Rồi Aomame nhớ lại giấc mơ có người phụ nữ trung niên cao nhã khoác áo lên người nàng khi ấy đang trần truồng. Chị ta bước xuống khỏi chiếc Mercedes màu bạc, cho mình chiếc áo khoác gió màu vàng nhạt vừa nhẹ vừa mềm. Chị ta đã biết. Đã biết mình mang thai rồi. Thế nên chị ta dịu dàng bảo vệ mình trước ánh mắt thô bạo của mọi người, trước cơn gió lạnh buốt cùng với vô vàn thứ tà ác khác.

Đó là dấu hiệu tốt.

Aomame thả lỏng cơ bắp trên mặt, để nét mặt trở về trạng thái ban đầu. Có người đang dõi theo mình, bảo vệ mình, Aomame nghĩ. Kể cả trong thế giới của năm 1Q84 này, mình cũng không cô độc. Có lẽ thế.

Aomame cầm cốc hồng trà đã nguội đi tới trước cửa số, ra ngoài ban công, chú ý không để người khác trông thấy, rồi rúc người ngồi xuống chiếc ghế vườn, trông về phía sân chơi trẻ em bên đường qua khe hở tấm mành mành. Nàng định nghĩ về Tengo. Nhưng không hiểu sao, hôm nay nàng không sao tập trung nghĩ về anh được. Trong đầu nàng hiện lên gương mặt của Nakano Ayumi. Ayumi mỉm cười tươi tắn. Một nụ cười hết sức tự nhiên, không có bất cứ rào chắn nào. Hai người ngồi trong tiệm ăn, đối diện nhau cách một chiếc bàn, uống rượu vang. Cả hai đều đã ngà ngà say, rượu Burgundy hảo hạng hòa trộn trong máu họ, dịu dàng tuần hoàn bên trong cơ thể, nhuộm thế giới xung quanh thành một màu rượu nho nhàn nhạt.

“Nhưng mà, Aomame này,” Ayumi lấy ngón tay mân mê ly rượu vang, nói. “Cái thế giới này ấy, đã không chịu nói lý lẽ, lại hơi thiếu cả lòng nhân từ nữa.”

“Có lẽ thế. Nhưng cũng chẳng sao. Thế giới kiểu này đằng nào thì chớp mắt cũng sẽ tiêu tan,” Aomame nói, “sau đó Nước Trời sẽ giáng xuống.”

“Không đời được nữa rồi,” Ayumi nói.

Sau lúc ấy mình lại nhắc đến Nước Trời nhỉ? Aomame lấy làm lạ. Sao lại đột nhiên nhắc đến Nước Trời mà mình vốn chẳng hề tin vào ấy? Ayumi chết sau đó không lâu.

Lúc mình nói lời này, chắc là Nước Trời mà mình hình dung trong đầu khác với Nước Trời mà tín đồ của hội Chứng nhân Jehovah hằng tin. Đó có lẽ là một Nước Trời có tính riêng tư. Chính vì vậy mình mới tự nhiên buột miệng thốt ra từ này như thế. Nhưng mà, mình tin vào một Nước Trời như thế nào nhỉ? Mình nghĩ rằng sẽ có một Nước Trời thế nào giáng xuống sau khi thế gian này bị hủy diệt?

Nàng nhẹ nhàng đặt tay lên bụng, chú ý lắng nghe. Song, dù có chăm chú mấy, nàng cũng không nghe được bất cứ âm thanh gì.

Nakano Ayumi đã rơi ra khỏi thế giới này. Cô bị người ra dùng còng tay vừa cứng vừa lạnh khóa chặt hai tay, lấy thắt lưng thít cổ sát hại trong một khách sạn ở Shibuya. (Theo Aomame được biết thì vẫn chưa bắt được hung thủ.) Sau khi người ta tiến hành giải phẫu pháp y, cô được may lại và đưa đến nhà hỏa táng, cho một mồi lửa. Trên thế giới này, Nakano Ayumi không còn tồn tại. Máu và thịt cô đều biến mất. Cô chỉ còn tồn tại trong thế giới của hồ sơ giấy tờ và ký ức.

Không đúng, có lẽ không phải vậy. Biết đâu cô vẫn còn đang sống khỏe mạnh trong thế giới của năm 1984. Vẫn vừa làu bàu cằn nhằn chuyện mình không được phép mang súng, vừa kẹp vé phạt vào dưới cần gạt nước của những chiếc xe đậu sai quy định. Vẫn đến các trường cấp ba ở Tokyo nói chuyện, hướng dẫn học sinh nữ phương pháp tránh thai. Các em, nếu hắn không đeo bao cao su thì không được cho hắn vào!

Aomame muốn gặp Ayumi quá. Nếu leo lên lại cầu thang thoát hiểm của đường cao tốc Thủ Đô, trở lại thế giới của năm 1984, có thể nàng sẽ gặp lại cô. Ở đó, Ayumi có thể vẫn đang sống khỏe mạnh mà mình cũng không bị đám người của Sakigake truy sát. Nói không chừng, bọn mình sẽ lại đến quán ăn nhỏ ở Nokizaka kia, lại uống rượu vang Burgundy. Hoặc là…

Leo lên cầu thang thoát hiểm của đường cao tốc Thủ Đô?

Aomame lần ngược lại mạch suy nghĩ của mình, tựa như tua ngược cuộn băng cát xét. Tại sao trước đó mình lại không làm vậy? Mình định trèo xuống cầu thang thoát hiểm trên đường cao tốc một lần nữa, nhưng không tìm thấy lối vào. Cái cầu thang lẽ ra phải ở đối diện tấm biển quảng cáo Esso đã biến mất. Nhưng mà, nếu đi ngược chiều biết đâu lại đươc! Không phải xuống cầu thang mà là leo lên. Chui vào bãi để vật liệu bên dưới đường cao tốc, từ đó leo ngược lên tuyến đường số 3. Đi ngược lại đường hầm. Có lẽ đây mới là việc mình phải làm lúc này.

Nghĩ vậy, Aomame rất muốn lập tức chạy thẳng đến Sangenjaya thử một lần xem sao. Có thể sẽ thành công, có thể không. Nhưng đáng thử một phen. Mặc quần áo giống lần đó, đi đôi giầy cao gót đó, leo lên chiếc cầu thang vương đầy mạng nhện ấy.

Nhưng nàng nén cái xung động đó xuống.

Không, không được, không thể làm thế được. Chính vì đến năm 1Q84 này nên mình mới gặp được Tengo, có khi còn mang trong mình đứa con của anh ấy nữa. Dù xảy ra chuyện gì, mình cũng phải thấy anh ấy lần nữa trong cái thế giới mới này. Cần phải gặp anh ấy, mặt đối mặt. Chừng nào chuyện đó chưa xảy ra, mình không thể rời khỏi thế giới này.

Chiều hôm sau, Tamaru gọi điện đến.

“Đầu tiên là chuyện tay nhân viên thu phí của đài NHK,” Tamaru nói. “Tôi đã gọi điện xác nhận với phòng kinh doanh của đài NHK rồi. Nhân viên thu phí phụ trách khu vực Koenji nói anh ta không nhớ đã từng gõ cửa phòng số 303. Anh ta đã xem kỹ, trên cửa có dán nhãn ghi rõ là nhà này tự động trả phí nghe nhìn qua tài khoản ngân hàng. Anh ta còn nói, nếu đã thấy là có chuông thì anh ta sẽ không dùng tay gõ cửa. Làm thế chỉ tổ đau tay. Vả lại, cái hôm tay nhân viên thu phí kia xuất hiện ở chỗ cô thì anh ta đang đi thu ở khu vực khác. Nghe giọng thì không có vẻ anh ta đang nói dối. Người này làm việc đã mười lăm năm nay, được tiếng là đôn hậu và kiên nhẫn.”

“Thế tức là…” Aomame nói.

“Thế tức là, kẻ đến chỗ cô rất có khả năng không phải là nhân viên thu tiền thật sự. Xem chừng có người đã giả mạo nhân viên thu phí của đài NHK đến gõ cửa căn hộ của cô. Người tiếp điện thoại của tôi cũng tỏ ra lo lắng. Nếu xuất hiện nhân viên thu phí giả thì với đài NHK cũng là một chuyện đau đầu. Người phụ trách tỏ ý muốn nói chuyện trực tiếp để tìm hiểu tình hình. Đương nhiên tôi đã từ chối. Dẫu sao thì chúng ta cũng không có tổn thất trực tiếp, lại càng không muốn làm chuyện này thêm ầm ĩ.”

“Người đàn ông đó liệu có bị bệnh thần kinh không? Nếu không thì là người đang truy tìm tôi?”

“Người truy tìm cô chắc không làm chuyện đó đâu. Không có tác dụng gì cả, ngược lại còn khiến cô thêm cảnh giác.”

“Nhưng nếu hắn ta bị bệnh thần kinh thì sao cứ chọn căn hộ này mà gõ cửa chứ? Không phải có rất nhiều cửa hay sao? Tôi luôn hết sức cẩn thận, không để ánh sáng lọt ra ngoài, cũng không gây tiếng động gì lớn, lúc nào cũng kéo rèm cửa,không bao giờ phơi quần áo bên ngoài. Nhưng thằng cha ấy lại cứ chọn căn hộ này mà gõ cửa. Hắn ta biết tôi nấp bên trong, hoặc ít nhất là hắn khăng khăng rằng mình biết, rồi cứ ra sức tìm đủ mọi cách để mở cửa này ra.”

“Cô cảm thấy thằng cha đó liệu có còn quay lại không?”

“Không biết. Có điều, nếu hắn thực sự muốn ép tôi phải mở cửa thì e là sẽ còn quay lại nữa, cho đến khi nào tôi mở cửa mới thôi.”

“Chuyện này làm cô thấy không yên lòng.”

“Không phải không yên lòng,” Aomame nói, “chỉ là không thích.”

“Đương nhiên tôi cũng không thích. Rất không thích là đằng khác, nhưng kể cả thằng cha nhân viên thu tiền rởm ấy có quay lại nữa, chúng ta cũng không thể nhờ cảnh sát hoặc bên đài NHK hỗ trợ được. Kể cả nếu tôi nhận được điện thoại của cô là lập tức xuất phát thì lúc đến được chỗ đấy e rằng hắn ta đã đi mất rồi.”

“Tôi nghĩ một mình tôi có thể đối phó được.” Aomame nói, “dù hắn khiêu khích thế nào, chỉ cần tôi không mở cửa ra là được.”

“Đối phương chắc sẽ không từ một thủ đoạn nào, tìm đủ mọi cách để khiêu khích cô đấy.”

“Chắc là thế.” Aomame nói.

Tamaru đằng hắng một tiếng ngắn gọn, rồi đổi chủ đề: “Thuốc dùng để kiểm tra đã đưa tới chưa?”

“Dương tính.” Aomame trả lời gọn ghẽ.

“Tức là trúng rồi?”

“Đúng vậy. Đã thử hai loại, kết quả giống nhau.”

Một khoảng lặng. Trầm mặc như tấm bia đá còn chưa khắc chữ lên.

“Không nghi ngờ gì nữa hả?” Tamaru hỏi.

“Ngay từ đầu tôi đã biết kết quả rồi. Chẳng qua chỉ là chứng thực lại thôi.”

Tamaru mân mê tấm bia đá ấy bằng bụng ngón tay.

“Ngay từ đầu tôi không thể không hỏi thẳng cô một vấn đề,” anh ta nói, “cô định sinh nó ra, hay là xử lý đi?”

“Tôi không xử lý.”

“Vậy là cô định sinh đứa bé ra?”

“Nếu thuận lợi thì dự kiến sinh vào khoảng tháng Sáu đến tháng Bảy sang năm.”

Tamaru tính nhẩm trong đầu. “Nếu vậy, chúng ta cần thay đổi vài điểm trong kế hoạch.”

“Tôi cảm thấy rất áy náy.”

“Cô không cần xin lỗi,” Tamaru nói, “dù trong trường hợp nào, tất cả phụ nữ đều có quyền sinh nở. Quyền này cần phải được ưu tiên bảo vệ.”

“Cứ như tuyên ngôn nhân quyền ấy nhỉ.” Aomame nói.

“Tôi hỏi lại lần nữa, cô hoàn toàn không có đầu mối gì về việc cha đứa bé là ai à?”

“Sáu tháng nay, tôi không quan hệ tình dục với bất kì người nào.”

“Vậy là kiểu như xử nữ mang thai ấy hả?”

“Nói kiểu đó e sẽ chọc giận người theo đạo đấy.”

“Hễ đã làm những chuyện không tầm thường thì thể nào chẳng chọc giận một ai đó,” Tamaru nói, “Nhưng đã có thai rồi thì cô phải đến gặp bác sĩ chuyên khoa kiểm tra càng sớm càng tốt. Không thể trốn trong căn hộ đó suốt cả thai kỳ được đâu.”

Aomame thờ dài nói: “Để tôi ở đây đến cuối năm đã. Tôi sẽ không gây thêm phiền phức gì cho các vị đâu.”

Tamaru lặng giây lát, rồi mới cất tiếng: “Cô có thể ở đó đến cuối năm nay, chuyện này chúng ta đã thỏa thuận từ trước rồi. Nhưng sang năm cần phải lập tức chuyển đến một nơi an toàn hơn để được chăm sóc y tế hơn. Điều này cô có thể thông cảm cho tôi chứ?”

“Tôi hiểu.” Aomame nói. Nhưng nàng không có lòng tin. Nếu không gặp được Tengo, mình có sẵn sàng rời khỏi nơi này không?

“Tôi từng làm một phụ nữ có thai,” Tamaru nói.

Aomame kinh ngạc đến nỗi không thốt nổi nên lời. “Anh? Nhưng mà anh…”

“Cô nói đúng, tôi đồng tính, đồng tính một trăm phần trăm. Trước đây là thế, bây giờ vẫn thế, e rằng sau này cũng luôn là thế.”

“Nhưng anh lại khiến một phụ nữ có thai.”

“Ai cũng phạm sai lầm,” Tamaru nói, nhưng giọng điệu không nghe hài hước chút nào, “chi tiết thế nào thì cho tôi lược đi nhé, đó là một chuyện ngu xuẩn tôi làm thời trẻ. Tóm lại chỉ có lần đó thôi, bùm một tiếng, trúng luôn hồng tâm.”

“Người phụ nữ ấy sau đó thế nào?”

“Tôi không biết,” Tamaru trả lời.

“Không biết?”

“Tôi chỉ biết cô ấy mang thai sáu tháng, những chuyện sau đó thì không biết gì cả.”

“Đến tháng thứ sáu thì không thể phá thai được nữa rồi.”

“Tôi cũng hiểu điều ấy.”

“Khả năng đứa trẻ đã được sinh ra rất lớn,” Aomame nói.

“Đại khái vậy.”

“Nếu đứa trẻ ấy được sinh ra rồi, anh có muốn gặp nó không?”

“Không hứng thú cho lắm,” Tamaru không hề do dự trả lời, “tôi xưa nay chưa bao giờ thử kiểu sống ấy cả. Cô thì sao? Có muốn gặp đứa con của mình không?”

Aomame thoáng trầm ngâm. “Tôi là người bị cha mẹ bỏ rơi từ hồi nhỏ xíu, không thể tưởng tượng nổi chuyện tự mình dưỡng dục một đứa trẻ là như thế nào. Vì tôi không có một tấm gương để noi theo.”

“Mặc dù vậy, cô vẫn định đưa đứa trẻ ấy đến với thế giới này. Đưa nó đến một thế giới tràn ngập những mâu thuẫn và bạo lực.”

“Tôi đang tìm kiếm tình yêu,” Aomame nói, “nhưng không phải là tình yêu giữa mình và đứa bé. Tôi còn chưa đến giai đoạn ấy.”

“Nhưng đứa bé và tình yêu của cô có liên quan mật thiết.”

“Có lẽ thế. Bằng một phương thức nào đó.”

“Nhưng, nếu suy nghĩ này của cô là sai lầm, nếu đứa bé và tình yêu mà cô đang tìm kiếm kia hóa ra không có quan hệ gì nhau thì e nó sẽ bị tổn thương. Giống như cô vậy.”

“Có khả năng ấy. Nhưng tôi cảm thấy sẽ không như thế đâu. Bằng trực giác.”

“Tôi tôn trọng trực giác,” Tamaru nói, “nhưng một khi tự ngã được sinh ra trên thế giới này, nó sẽ chỉ có thể sinh tồn như một kẻ gánh vác luân lý trên vai. Chuyện này xin cô hãy nhớ kỹ cho.”

“Câu này ai nói vậy?”

“Wittgenstein[1].”

[1] Ludwig Wittgenstein (1899-1951): triết gia người Anh gốc Áo, là người đã có công đóng góp quan trọng trong logic, triết học về toán, triết học tinh thần và triết học ngôn ngữ. Ông được coi là một trong những nhà triết học quan trọng nhất của thế kỷ 20.

“Tôi sẽ nhớ,” Aomame nói. “Giả sử con anh được sinh ra, năm nay nó bao nhiêu tuổi rồi?”

Tamaru tính toán trong óc. “Mười bảy tuổi.”

“Mười bảy tuổi.” Aomame mường tượng ra một cậu bé hoặc một cô bé, đang phải gánh vác luân lý trên vai.

“Tôi sẽ báo cáo lại chuyện này,” Tamaru nói, “bà ấy rất muốn nói chuyện trực tiếp với cô. Nhưng tôi đã nói rất nhiều lần, vì lý do đảm bảo an toàn, tôi không hoan nghênh hành động ấy. Tuy chúng tôi đã áp dụng biện pháp kỹ thuật ở mức độ cao nhất nhưng điện thoại vẫn là một phương thức liên lạc tương đối nguy hiểm.”

“Tôi hiểu rồi.”

“Nhưng bà ấy rất quan tâm đến kết quả chuyện này, và rất lo lắng cho cô.”

“Chuyện này tôi cũng hiểu. Tôi rất cảm kích.”

“Tin tưởng bà ấy, nghe theo lời khuyên của bà ấy chắc hẳn là một lựa chọn sáng suốt. Bà ấy là người rất thông thái.”

“Đương nhiên,” Aomame đáp.

Nhưng ngoài ra, mình cũng cần phải rèn luyện ý chí của bản thân nữa. Bảo vệ chính mình. Bà chủ biệt thự Cây Liễu ở Azabu đúng là người rất thông thái, và sở hữu một sức mạnh lớn lao. Nhưng có những chuyện cả bà ấy cũng không thể hiểu được. Chắc bà ấy không thể biết 1Q84 vận hành theo nguyên lý nào. Thậm chí, cả chuyện trên bầu trời có hai mặt trăng, có khi bà ấy cũng còn chưa phát giác ra.

Sau khi gác máy, Aomame nằm trên sofa ngủ khoảng nửa tiếng. Một giấc ngủ ngắn nhưng sâu. Tuy nàng có nằm mơ, nhưng đó là một giấc mơ tựa hồ như khoảng không gian trống rỗng. Trong không gian ấy, nàng suy nghĩ. Và nàng đang biết trên quyển vở màu trắng như tuyết bằng một thứ mực vô hình. Lúc tỉnh lại, mặc dù vẫn còn mơ màng, nàng đã có một hình ảnh rõ nét đến dị thường trong tâm trí. Mình chắc sẽ sinh đứa trẻ này ra. Sinh mệnh nhỏ bé ấy sẽ bình yên đến với thế giới này. Như Tamaru đã định nghĩa, đến với thế giới này để làm một kẻ gánh vác luân lý trên vai, điều này không thể tránh được.

Nàng áp lòng bàn tay vào bụng dưới, nghiêng tai lắng nghe. Vẫn chưa nghe thấy gì cả. Cho đến lúc này.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 12: Tengo


Các quy tắc của thế giới trở nên lỏng lẻo

Ăn xong bữa sáng, Tengo đi tắm. Anh gội đầu, cạo râu ở bồn rửa mặt, rồi thay quần áo khô ráo sạch sẽ. Xong xuôi đâu đấy, anh ra khỏi lữ quán, mua tờ báo sáng ở ki-ốt chỗ nhà ga, đoạn đi vào quán cà phê bên cạnh gọi một tách cà phê đen nóng.

Trên báo không có sự kiện nào đáng chú ý. Ít nhất là, theo báo ngày hôm nay, thế giới này là một nơi nhạt nhẽo, buồn tẻ. Rõ ràng là báo ngày hôm nay, mà anh lại có cảm giác như đang đọc lại báo của một tuần trước vậy. Tengo gấp tờ báo lại, nhìn đồng hồ đeo tay. Lúc này là chín giờ rưỡi, thời gian thăm bệnh nhân ở viện điều dưỡng bắt đầu từ mười giờ.

Chuẩn bị cho chuyến trở về rất đơn giản. Hành lý của anh vốn đã không nhiều. Một ít quần áo để thay, đồ vệ sinh cá nhân, vài quyển sách, một tập giấy viết, chỉ có vậy. Chỉ cần một chiếc túi đeo chéo bằng vải buồm là có thể đựng gọn gàng. Tengo quảy túi lên vai, trả tiền trọ, rồi bắt xe buýt ở trước ga tàu đến viện điều dưỡng. Giờ đã là đầu đông, gần như không có ai mới sáng sớm đã ra bờ biển làm gì. Tengo là người duy nhất xuống xe ở bến xe trước cửa viện điều dưỡng.

Ở bàn tiếp tân, anh điền họ tên và thời gian vào sổ đăng ký thăm nom như thường lệ. Ngồi ở bàn là một cô y tá trẻ thi thoảng anh mới gặp một lần, tay và chân cô gái mảnh và dài một cách khác thường, nơi khóe miệng nở một nụ cười, trông như một chú nhện lương thiện dẫn đường cho người ta trong rừng sâu. Bình thường chỉ có y tá trung niên đeo kính Tamura ngồi ở đó, nhưng sáng nay chẳng thấy cô đâu. Tengo thở phào một hơi. Anh đang ngại sẽ bị cô ơ hờ châm chọc cho vài câu về chuyện đi tới nhà Adachi Kumi đêm hôm trước. Cũng không thấy bóng cô y tá Omura vẫn hay dùng bút bi gài búi tóc trên đầu. Có lẽ bọn họ đã bị đất hút xuống chẳng để lại dấu vết gì rồi, giống như ba mụ phù thủy trong Macbeth vậy.

Đương nhiên không thể có chuyện đó. Adachi Kumi hôm nay không có ca trực, hai người còn lại đều nói hôm nay họ đi làm bình thường. Chắc chỉ đang làm việc ở nơi khác thôi.

Tengo lên cầu thang, đi vào phòng bệnh của cha anh ở tầng hai. Anh khẽ gõ nhẹ mấy tiếng, rồi đẩy cửa ra. Cha anh đang nằm trên giường ngủ say, tư thế giống hệt như mọi lần. Trên cánh tay ông cầm ống truyền dịch, trong niệu đạo có ống dẫn nước tiểu, không có thay đổi gì so với ngày hôm qua. Cửa sổ đang đóng, rèm cửa cũng vậy. Không khí trong phòng nặng trịch và ngưng trệ. Mùi thuốc, mùi hoa cắm trong lọ, mùi hơi thở, mùi chất bài tiết của người bệnh, cùng với vô số mùi của các hoạt động sống, tất cả hòa làm một, không thể nào phân biệt. Dù cho sức sống đã suy nhược, dù cho ý thức đã tiêu biến từ lâu, song nguyên lý trao đổi chất vẫn không thay đổi. Cha anh vẫn đang ở phía bên này của đường ranh giới vĩ đại kia. Nói cách khác, sống tức là tỏa ra đủ thứ mùi khác nhau.

Việc đầu tiên Tengo làm sau khi đi vào phòng bệnh là bước thẳng tới trước cửa sổ kéo rèm cửa, mở toang cửa sổ ra. Một buổi sáng dễ chịu. Căn phòng này cần có không khí mới, rất cần. Bên ngoài tuy khá mát mẻ nhưng vẫn chưa đến mức lạnh. Ánh mặt trời tuôn vào, gió biển đung đưa rèm cửa. Một con hải âu cưỡi gió, hai chân nép thẳng dưới thân mình, chao liệng giữa không trung phía trên rừng thông chăn gió. Đàn chim sẻ đậu rải rác trên dây điện, không ngừng đổi vị trí như những nốt nhạc đang được viết lại. Một con quạ có cái mỏ to tướng đậu trên ngọn đèn hơi thủy ngân, thận trọng đảo mắt quan sát xung quanh, âm thầm tính toán xem tiếp theo nên làm gì. Vài dải mây trôi trên bầu trời cao xa tít tắp, quá cao xa đến nỗi thoạt nhìn chúng tựa như những khái niệm trừu tượng hoàn toàn không liên quan gì đến những sự vụ của con người.

Tengo quay lưng về phía người bệnh, ngắm nhìn phong cảnh ấy trong chốc lát. Thứ có sự sống, thứ không có sự sống. Thứ chuyển động, thứ không chuyển động. Những gì anh thấy ngoài cửa sổ là phong cảnh như mọi lần, không có gì thay đổi, chẳng có chỗ nào mới lạ. Thế giới này không thể không nhích lên. Giống như chiếc đồng hồ báo thức rẻ tiền, chỉ yên ổn hoàn thành sứ mệnh nó được giao phó. Vì muốn trì hoãn cái thời điểm mặt đối mặt với cha nên Tengo mới dõi mắt ngắm cảnh một cách không mục đích như vậy. Song tình trạng này không thể kéo dài mãi.

Rốt cuộc, Tengo cũng hạ được quyết tâm, anh ngồi xuống chiếc ghế bằng ống sắt cạnh giường. Cha anh nằm ngửa, mặt hướng lên trần nhà, hai mắt nhắm nghiền. Cái chăn luôn đắp đến tận cổ hết sức phẳng phiu. Hốc mắt ông sâu hoắm, tựa như có một phần nào đó đã bị dỡ bỏ đi nên hốc mắt không còn giữ nổi nhãn cầu nữa, toàn bộ nhãn cầu lún hẳn xuống. Thậm chí nếu bây giờ ông mở mắt ra thì những gì ông thấy chắc cũng giống như ta nhìn thế giới từ dưới đáy một hố sâu.

“Bố,” Tengo gọi ông.

Cha anh không đáp. Cơn gió luồn vào phòng đột nhiên dừng lại, rèm cửa sổ rũ xuống như một người đang dở tay làm việc chợt nhớ ra chuyện gì đó quan trọng. Thoáng sau đó, cơn gió dường như đã lấy lại tinh thần, lại bắt đầu nhè nhẹ thổi.

“Con phải về Tokyo ngay,” Tengo nói, “không thể ở đây mãi được. Con không thể tiếp tục xin nghỉ làm được nữa. Mặc dù cuộc sống ấy không ra gì, nhưng dẫu sao con cũng có một cuộc sống để quay về.”

Gò má cha anh lún phún râu, khoảng hai ba ngày chưa cạo. Y tá vẫn hay dùng dao cạo điện cạo giúp ông, nhưng không phải ngày nào cũng làm. Râu của ông màu muối tiêu. Cha Tengo mới sáu mươi tư tuổi nhưng trông già yếu hơn nhiều. Tựa như có người bất cẩn ấn nhầm vào nút tua nhanh về phía trước khiến cuốn phim cuộc đời ông chạy quá lên, chiếu phần của tương lai lên màn ảnh.

“Suốt thời gian con ở đây bố không hề mở mắt lần nào. Nhưng nghe bác sĩ nói, tình trạng của bố không xấu đi là mấy. Điều đáng kinh ngạc là, bố hầu như vẫn khỏe mạnh như trước.”

Tengo ngừng giây lát, đợi cho những lời vừa nói ngấm vào bên trong cha anh.

“Không biết bố có nghe thấy con nói không. Cho dù âm thanh có làm chấn động màng nhĩ bố nhưng đường dây phía sau có thể đã đứt rồi. Hoặc có thể những gì con nói truyền được đến ý thức của bố, song bố không thể phản ứng lại. Con không biết. Có điều, cho đến thời điểm này, con vẫn luôn giả thiết là bố có thể nghe thấy, nên mới nói chuyện và đọc sách thành tiếng cho bố nghe. Nếu không giả thiết như thế thì việc con nói chuyện với bố chẳng còn ý nghĩa gì. Còn nữa, con không thể giải thích được, nhưng hình như có thứ gì đó giống như phản ứng. Ý của con là, cho dù không phải toàn bộ nhưng ít nhất thì những điểm quan trọng đã được truyền đạt đến bố rồi.”

Không có phản ứng.

“Những lời con sắp nói đây có thể là cực kỳ ngu xuẩn. Nhưng con sắp phải về Tokyo rồi, con không biết đến lúc nào mới trở lại đây được, vì vậy con cần phải nói hết những điều đang nghĩ trong đầu ra. Nếu cảm thấy hoang đường quá, bố cứ thoải mái mà cười thành tiếng, đừng khách khí. Tất nhiên, ý con là giả dụ bố có thể cười được lên thành tiếng”

Tengo thở dài, quan sát gương mặt cha. Vẫn không có phản ứng gì.

“Thân thể bố nằm ngủ ở nơi này, đã mất đi cả ý thức lẫn cảm giác, chỉ còn sống dựa vào hệ thống máy móc duy trì sinh mệnh. Xác sống, các bác sĩ gọi như vậy, chỉ là họ dùng cách biểu đạt uyển chuyển hơn thôi. Nhưng trên góc độ y học thì đại khái là như vậy. Có điều, liệu có khi nào đây chỉ là một biểu hiện giả tạo? Có khi nào ý thức của bố không thực sự mất đi? Có khi nào bố để lại thân thể ở đây say ngủ, còn ý thức đã chuyển dịch đến một nơi khác và tiếp tục sống? Con luôn có cảm giác này, luôn cảm thấy kiểu như vậy.”

Im lặng.

“Con biết đây là ý nghĩ kỳ quặc. Chuyện này có kể cho ai nghe, chắc họ sẽ đều cho rằng con đang nghĩ vớ nghĩ vẩn. Nhưng con không thể không tưởng tượng như vậy được. Đại để là bố đã hết hứng thú với cái thế giới này rồi. Thất vọng, chán nản, mất hết mọi hào hứng. Vì vậy bố mới từ bỏ thân xác trong hiện thực, chuyển dịch đến một nơi khác, sống cuộc sống khác. Có lẽ là một thế giới ở bên trong bố.”

Càng thêm im lặng.

“Con xin nghĩ để đến thị trấn nhỏ này, ở trọ trong lữ quán, ngày ngày đến đây thăm bố, nói chuyện với bố, đến giờ sắp được hai tuần rồi. Nhưng mục đích con làm điều này không chỉ là đến thăm bố, chăm sóc bố. Con còn muốn làm rõ rốt cuộc mình sinh ra như thế nào, dòng máu mình có mối tương liên với cái gì. Có điều, giờ thì những chuyện này không quan trọng nữa. Cho dù có hay không có liên hệ máu mủ với ai hay cái gì, con vẫn là con. Mà bố là người được coi là bố của con. Như vậy chẳng phải rất tốt rồi sao? Con không biết như thế này có thể gọi là hòa giải hay không. Hoặc là con tự hòa giải với chính mình. Không khéo chính là như vậy đấy”

Tengo hít thở sâu, hạ thấp âm điệu xuống.

“Hồi mùa hè, bố vẫn còn tỉnh táo. Trí não bố tuy đã đờ đẫn, nhưng ý thức vẫn còn hoạt động. Lúc đó, chính trong gian phòng này, con đã gặp lại một cô gái. Sau khi bố được đưa đến phòng kiểm tra, cô ấy đã xuất hiện. Đó chắc là phân thân hay gì đó tương tự của cô ấy. Con đến thành phố nhỏ này suốt một thời gian dài như vậy là vì nghĩ có thể gặp lại cô ấy thêm lần nữa. Thật tình thì đó chính là lý do khiến con đến đây.”

Tengo thở dài, hai bàn tay chập lại phía trên đầu gối.

“Nhưng cô ấy không xuất hiện. Thứ đưa cô ấy đến đây, gọi là nhộng không khí, đó là vật chứa cô ấy. Giải thích ra thì dài dòng lắm. Nhộng không khí là một sản phẩm tưởng tượng, một vật thể hư cấu, nhưng giờ đây nó không còn là vật thể hư cấu nữa. Ranh giới đã trở nên mờ mịt, không còn biết đâu là thế giới hiện thực còn bắt đầu từ đâu là sản phẩm của trí tưởng tượng. Trên trời có hai mặt trăng. Hai mặt trăng ấy cũng được mang đến từ thế giới hư cấu.”

Tengo quan sát gương mặt cha. Ông ấy có theo kịp những gì mình nói không nhỉ?

“Trong hoàn cảnh như thế, nếu bố có tách rời ý thức ra khỏi thân xác, chuyển dịch đến một thế giới khác, hành động một cách tự do thoải mái ở đó thì cũng không có gì là lạ. Kể ra, ở xung quanh bố con mình, các quy tắc của thế giới cũng đã trở nên lỏng lẻo. Như con vừa nói đấy, con có một cảm trạng kỳ lạ rằng liệu có phải bố đang thực sự làm như thế không. Chẳng hạn như đến nhà con ở Koenji gõ cửa. Chắc là bố hiểu nhỉ? Tự xưng là nhân viên thu phí của đài NHK, rồi ra sức gõ cửa, hét ầm lên trong hành lang, lớn tiếng dọa nạt. Giống như hồi trước bố thường làm khi bố con ta đi thu tiền ở Ichikawa ấy.”

Anh cảm thấy áp suất không khí trong phòng dường như có thay đổi. Cửa sổ mở rộng, nhưng hầu như không có âm thanh nào lọt vào, chỉ có lũ chim sẻ thi thoảng lại kêu một hai tiếng.

“Trong căn hộ của con ở Tokyo giờ có một cô gái. Không phải bạn gái, chỉ vì một số chuyện xảy ra nên cô ấy tạm thời phải nấp trong nhà con lánh nạn. Cô ấy kể với con trên điện thoại là mấy hôm trước có một nhân viên thu phí đài NHK đến, cô ấy kể ông ta đã gõ cửa như thế nào, đã nói váng cả hành lang ra sao. Đến là giống cách làm của bố trước đây. Những lời cô ấy nghe được giống hệt như những lời con vẫn nhớ. Đó là những lời con đã gắng sức quên đi. Con đang nghĩ, người nhân viên thu phí ấy liệu có thể nào chính là bố hay không. Có phải con đã sai không?”

Tengo im lặng khoảng ba mươi giây. Nhưng cha anh thậm chí không động đậy lấy một sợi lông mi.

“Con chỉ có một yêu cầu: xin bố đừng đến gõ cửa nữa. Nhà không có ti vi. Vả lại, những ngày chúng ta cùng đi thu tiền phí nghe nhìn đã kết thúc từ lâu lắm rồi. Chuyện này chúng ta đã nói rõ với nhau, trước mặt cô giáo... con không nhớ nổi tên cô ấy nữa, cô giáo vóc người nhỏ nhắn đeo kính, chủ nhiệm lớp con ấy. Bố vẫn còn nhớ chứ? Vì vậy xin bố đừng gõ cửa nữa. Không chỉ nhà con mà nhà ai cũng thế, xin bố đừng đi gõ cửa nhà người ta nữa. Bố không còn là nhân viên thu phí của đài NHK nữa rồi, bố không có quyền làm chuyện đó để dọa nạt người khác nữa.”

Tengo đứng dậy khỏi ghế, đi tới bên cửa sổ nhìn ra phong cảnh bên ngoài. Một ông già mặc áo len dày chống gậy đi qua phía trước khu rừng chắn gió. Chắc là đi tản bộ. Tóc trắng, dáng người cao dỏng, điệu bộ ngay ngắn, nhưng dáng đi hơi loạng choạng, tựa như ông đã quên mất phải đi như thế nào, đang vừa cố gắng hồi tưởng lại cách đi vừa nhích từng bước một. Tengo nhìn cảnh tượng đó một lúc. Ông già tốn khá nhiều thời gian đi qua khu vườn, vòng qua chỗ góc tòa nhà rồi biến mất, tựa như đến cuối cùng ông vẫn không nhớ ra phải đi bộ như thế nào. Tengo quay đâu lại nhìn cha.

“Không phải con trách móc gì bố. Bố có quyền để ý thức của mình đi đến nơi nào bố muốn. Đó là cuộc đời của bố, ý thức của bố. Có một số chuyện, nếu bố cho là đúng đắn, chắc hẳn bố sẽ làm. Có lẽ con không có quyền chuyện gì cũng chõ miệng can thiệp vào. Có điều, bố không còn là nhân viên thu phí của đài NHK nữa, vì vậy không thể tiếp tục mạo xưng được nữa. Làm như vậy chẳng có ích lợi gì cho bố cả.”

Tengo ngồi xuống bệ cửa sổ, tìm kiếm câu chữ trong không gian của phòng bệnh chật hẹp.

“Con không hiểu cuộc đời bố như thế nào, không hiểu trong cuộc đời ấy có bao nhiêu hỉ nộ ai lạc. Nhưng, kể cả là có nhiều điều không làm bố thõa mãn, thì bố cũng không nên chạy đến trước cửa nhà người khác để tìm kiếm sự thỏa mãn ấy. Cho dù nơi đó là nơi bố quen thuộc nhất, và chuyện đó là chuyện mà bố làm giỏi nhất đi chăng nữa.”

Tengo lặng lẽ nhìn chăm chú vào mặt cha.

“Xin bố đừng đi gõ cửa nhà người khác nữa. Con chỉ yêu cầu bố có một chuyện ấy thôi. Giờ con phải đi rồi. Con đã đến đây mỗi ngày, nói chuyện với bố dù bố đang hôn mê, đọc sách cho bố nghe. Vả lại, ít nhất chúng ta cũng đã phần nào hòa giải. Đây là thực tế xảy ra trong thế giới hiện thực này. Có lẽ chuyện này không thể làm bố thỏa mãn, song tốt nhất bố vẫn nên quay trở lại đây. Vì nơi đây mới là chốn về của bố.”

Tengo nhấc chiếc túi, khoác vai lên. “Con đi đây.”

Cha anh không nói một lời, thân thể không hề nhúc nhích, hai mắt nhắm nghiền. Vẫn như mọi khi. Nhưng dường như ông đang nghĩ ngợi. Tengo nín thở, chăm chú quan sát. Anh có cảm giác cha mình có thể sẽ thình lình mở bừng mắt, nhổm người ngồi dậy. Thế nhưng không xảy ra chuyện đó.

Cô y tá chân tay mảnh khảnh như con nhện vẫn ngồi ở bàn tiếp tân, ngực đeo tấm biển tên bằng nhựa đề chữ “Tamaki.”

“Giờ tôi phải về Tokyo rồi,” Tengo nói với y tá Tamaki.

“Suốt thời gian anh ở đây, cha anh không thể tỉnh lại lần nào, thật là đáng tiếc,” cô nói như thể an ủi, “có điều, anh ở bên ông ấy lâu như vậy, chắc hẳn ông ấy vui lắm.”

Tengo không nghĩ ra nên trả lời thế nào cho phải. “Phiền cô cho tôi gửi lời hỏi thăm mấy y tá khác. Cha con tôi làm phiền các cô quá.”

Cuối cùng, anh không gặp y tá Tamura đeo kính. Cũng không gặp y tá Omura có bộ ngực đồ sộ hay cắm bút bi trên búi tóc. Hơi buồn một chút. Bọn họ là những y tá xuất sắc, cũng thân thiết với Tengo. Nhưng không gặp mặt có lẽ tốt hơn. Vì xét cho cùng, anh có ý định một mình trốn thoát khỏi thành phố mèo này.

Lúc tàu hỏa rời khỏi ga Chikura, anh nhớ lại đêm mình ở lại căn hộ của Adachi Kumi. Kỳ thực, chỉ mới đêm hôm qua. Chiếc đèn bàn Tiffany nhái và chiếc ghế tình nhân ngồi rất không thoải mái, tiếng tiết mục hài hước trên ti vi từ nhà bên cạnh vẳng sang, tiếng cú mèo rúc trong khu rừng gỗ tạp, khói cần sa, chiếc áo phông in hình mặt cười, lông mu rậm rạp ép chặt lên đùi anh. Những thứ ấy, mới chưa hết một ngày mà đã như chuyện quá khứ xa xôi rồi vậy. Cảm giác gần xa của ý thức khó mà nắm bắt nổi. Tựa như một chiếc cân đang không ngừng đung đưa bất định, điểm cốt lõi của chuyện này không thể ổn định một chỗ.

Tengo chợt cảm thấy bất an, liền đưa mắt nhìn quanh quất. Đây có thật là hiện thực không? Liệu có khi nào anh đã chạy đến một hiện thực khác rồi? Anh hỏi thăm hành khách ngồi bên cạnh, xác nhận đây đúng là tàu đến Tateyama. Đừng lo lắng, không lầm đâu. Ở Tateyama mình có thể chuyển sang tàu nhanh trở về Tokyo. Anh đang rời khỏi thành phố mèo bên bờ biển, mỗi lúc một xa dần.

Sau khi anh đổi tàu và ổn định chỗ ngồi, cơn buồn ngủ ập đến như đã chờ sẵn từ lâu. Một giấc ngủ sâu, tựa hồ anh bước hụt một bước để rồi rơi xuống vực sâu không đáy. Mí mắt tự dưng khép lại, chỉ nháy mắt sau, ý thức đã biến mất không còn tăm tích. Lúc anh tỉnh giấc, đoàn tàu đã đến Makuhari. Trong toa tàu không nóng lắm, nhưng dưới nách và sau lưng anh đẫm mồ hôi, trong miệng có mùi rất khó chịu. Cái mùi giống như thứ không khí tù đọng mà anh hít vào trong phòng bệnh của cha. Anh lấy kẹo cao su trong túi ra, bỏ vào miệng nhai.

Tengo tin chắc mình sẽ không đến thị trấn nhỏ ấy nữa. Ít nhất là trong thời gian cha anh còn sống. Đương nhiên, trên đời này không thể khẳng định một trăm phần trăm về việc gì được, nhưng anh không còn việc gì để làm ở cái thị trấn nhỏ ven biển ấy nữa rồi.

Lúc anh về đến nhà, Fukaeri không có ở đó. Anh gõ cửa ba lần, dừng một thoáng, rồi gõ thêm hai lần nữa, sau đó mở khóa. Trong nhà tĩnh mịch như tờ, ngăn nắp đến đáng kinh ngạc. Tất cả bát đũa đều được cất gọn trong tủ chạn, bàn ăn và bàn viết đều được thu dọn gọn gàng, thùng rác trống không, còn có cả vết tích vừa sử dụng máy hút bụi. Ga giường trải phẳng phiu, chẳng có sách vở và đĩa hát nào vứt lung tung. Quần áo đã giặt sạch phơi khô được gấp lại cẩn thận để trên giường.

Cái túi đeo chéo to tướng của Fukaeri cũng biến mất. Xem chừng không phải cô nhất thời hứng lên, không phải vì có chuyện đột xuất mà vội vã rời khỏi căn hộ này. Cũng không phải vì cô tạm thời có việc phải ra ngoài. Mọi dấu hiệu đều cho thấy cô đã quyết tâm ra đi, đã bỏ thời gian cẩn thận quét dọn cả căn hộ rồi ra đi. Tengo tưởng tượng ra hình ảnh Fukaeri một mình đẩy máy hút bụi đi loanh quanh, cầm giẻ lau kỳ cọ đồ đạc. Hoàn toàn không hợp với hình tượng về cô.

Anh mở thùng thư ngoài cửa, bên trong có chìa khóa căn hộ. Nhìn số lượng thư trong hòm có thể đoán cô đi khỏi đây từ hôm qua hoặc hôm kia. Lần cuối cùng anh gọi điện cho cô là buổi sáng ngày hôm kia, lúc đó cô vẫn còn ở trong nhà. Đêm qua, anh ăn cơm với mấy cô y tá, rồi được mời đến nhà Adachi Kumi, hết chuyện này đến chuyện nọ nên không gọi được điện thoại.

Trong trường hợp thế này, thông thường cô đều dùng kiểu chữ độc đáo giống như văn tự hình nêm của mình để viết lại lời nhắn. Nhưng không thấy thứ gì tương tự như thế. Cô đã lẳng lặng bỏ đi. Nhưng Tengo không cảm thấy kinh ngạc hay thất vọng. Không ai đoán được Fukaeri đang nghĩ gì trong đầu hay cô sẽ làm gì. Lúc cô muốn đến, cô thình lình xuất hiện, khi cô muốn đi, thoắt cái cô đã biến mất. Kỳ thực, bản thân chuyện cô ở lại một nơi trong thời gian dài như vậy đã khó mà tin nổi rồi.

Trong tủ lạnh có rất nhiều thực phẩm, nhiều hơn anh nghĩ. Xem ra, mấy hôm trước cô có ra ngoài mua đồ. Cô còn luộc rất nhiều súp lơ để trong đó nữa, nhìn có vẻ như mới được nấu cách đây không lâu. Cô biết rằng Tengo trong một hai ngày tới sẽ quay về Tokyo? Tengo thấy đói, liền rán trứng, ăn với súp lơ. Anh nướng vài miếng bánh mì, đun cà phê, rồi uống hai ca lớn.

Sau đó, anh gọi điện cho người bạn dạy thay mình trong thời gian đi vắng, báo cho anh ta biết tuần sau mình có thể đi làm được. Người bạn nói lại với Tengo anh ta đã dạy đến trang thứ bao nhiêu trong giáo trình.

“May có cậu giúp tôi việc này. Cảm ơn nhiều lắm.”

“Tôi cũng không ghét việc dạy học, có lúc thậm chí còn cảm thấy khá là thú vị nữa. Nhưng suốt một thời gian dài cứ dạy dỗ người khác, tôi thấy mình dần dần trở nên xa lạ, cứ như người qua đường với chính mình ấy.”

Thường ngày, Tengo cũng lờ mờ có cảm giác tương tự như thế.

“Có chuyện gì lúc tôi đi vắng không?”

“Chẳng có gì cả. À, phải rồi, ở đây tôi có một lá thư gửi cho cậu, tôi để trong ngăn kéo nhé.”

“Thư?” Tengo hỏi. “Của ai vậy?”

“Một cô gái nhỏ nhắn, tóc thẳng xõa ngang vai. Cô ấy đến tìm tôi, nhờ tôi đưa thư cho cậu. Giọng nghe cứ quai quái thế nào ấy. Không khéo là người nước ngoài cũng nên.”

“Có phải cô ấy đeo một cái túi to không?”

“Đúng rồi. Màu xanh lá cây, nhét căng phồng cả lên.”

Chắc Fukaeri không yên tâm để thư trong nhà, có thể sẽ bị người khác nhìn thấy hay cầm đi mất, nên mới đến trường dự bị trực tiếp giao cho bạn anh.

Tengo lại cảm ơn lần nữa rồi gác máy. Giờ đã sẩm tối rồi, anh không muốn ngồi xe điện đến Yoyogi lấy thư ngay lúc này. Để mai rồi tính.

Sau đó, anh nhớ ra mình đã quên không hỏi người bạn về mặt trăng. Anh định gọi điện lại, nhưng rồi đổi ý. Chuyện này chắc chắn bạn anh chẳng hề để tâm. Nói gì thì nói, anh chỉ có thể một mình đối mặt với vấn đề này.

Tengo ra khỏi cửa, lang thang không mục đích trên con phố dưới ánh hoàng hôn. Không có Fukaeri, căn hộ trở nên vắng lặng lạ thường, gây cho anh cảm giác đứng ngồi không yên. Lúc sống chung với cô, Tengo không thực sự cảm thấy sự tồn tại của cô nhiều lắm.

Anh vẫn sống theo cách của riêng mình xưa nay, Fukaeri cũng vậy. Nhưng cô vừa đi khỏi, Tengo liền chợt nhận ra cô đã để lại sau lưng một khoảng trống hình người.

Không phải vì anh bị xiêu lòng trước Fukaeri. Tất nhiên, cô là một thiếu nữ xinh đẹp vô cùng quyến rũ, nhưng kể từ lần đầu gặp mặt, Tengo không nhớ mình từng có chút gì gọi là ham muốn tình dục với cô. Hai người sống chung dưới một mái nhà, nhưng trong lòng anh chưa từng một lần rung động. Tại sao vậy nhỉ? Chẳng lẽ mình có lý do để không thể nảy sinh dục vọng với Fukaeri? Đúng thế, trong đêm mưa gió bão bùng ấy, Fukaeri đã giao hợp với Tengo một lần. Nhưng lần đó không phải anh yêu cầu, mà cô mới là người chủ động.

Hành vi ấy dùng từ “giao hợp” để mô tả là đúng. Cô trườn lên người Tengo lúc tứ chi anh tê liệt, không thể hành động, rồi điều khiển dương v*t cứng đờ vươn thẳng của anh đâm vào cơ thể cô. Lúc đó, Fukaeri dường như đang trong trạng thái vô thức, như một nàng tiên bị khát khao dục vọng chi phối vậy.

Sau lần đó, hai người sống chung trong căn hộ chật hẹp này, như chưa từng xảy ra chuyện gì. Khi mưa bão đã dứt, đêm đã qua, Fukaeri tựa hồ đã quên mất chuyện đó. Tengo cũng không có ý nhắc lại. Anh cảm thấy, nếu cô đã quên chuyện này thì để cô quên hẳn đi chắc sẽ tốt hơn. Nhưng trong anh vẫn còn lại một nghi vấn: tại sao Fukaeri lại đột nhiên làm chuyện đó? Phải chăng có mục đích gì? Hay chỉ là cô nhất thời bị thứ gì đó tà ác ám lên?

Tengo chỉ biết một điều: Đó là tuyệt đối không phải hành vi xuất phát từ tình yêu. Fukaeri có thiện cảm với Tengo một cách tự nhiên, chuyện này thì chắc chắn. Nhưng khó mà cho rằng cô có tình yêu hay khát khao tình dục hoặc cảm xúc tương tự như vậy với anh. Cô không có ham muốn tình dục với bất cứ ai. Tengo không tự tin lắm về năng lực quan sát của mình về người khác, song dù vậy anh vẫn không sao tưởng tượng ra được cảnh Fukaeri thở hổn hển làm tình điên dại với một người đàn ông. Không, thậm chí cả cảnh cô làm tình quấy quá lấy lệ, anh cũng không sao tưởng tượng nổi. Ở cô, anh hoàn toàn không cảm nhận được điều đó.

Tengo nghĩ ngợi lung tung những chuyện này trong lúc đi lang thang trên đường phố Koenji. Mặt trời đã lặn, gió lạnh nổi, nhưng anh không để tâm.Vừa đi vừa nghĩ ngợi, sau đó ngồi xuống bàn viết lại những suy nghĩ ấy, thói quen của anh là thế. Vì vậy, anh thường hay đi bộ, trời nổi gió hay đổ mưa cũng chẳng ngại gì. Anh đi mãi, đi mãi, đến trước cửa một quán rượu tên là Barleyhead. Không nghĩ ra việc gì khác để làm, Tengo bèn đi vào trong, gọi một cốc bia tươi Carlsberg. Quán vừa mở cửa, không có vị khách nào khác. Anh tạm thời dừng suy nghĩ, để đầu óc trống rỗng, chầm chậm nhấp từng ngụm bia một.

Thế nhưng, cũng như trong thế giới tự nhiên không tồn tại chân không, Tengo không thể hưởng thụ cái thú xa xỉ để cho đầu óc mình trống rỗng một lúc lâu. Anh chẳng thể nào không nghĩ đến Fukaeri. Cô tựa như một giấc mơ ngắn mà nhỏ vụn, chôn sâu vào trong ý thức của anh.

Có lẽ cô ấy ở ngay gần đây thôi. Ở nơi có thể đi bộ từ đây đến.

Fukaeri đã nói như thế. Vì vậy anh đi ra phố tìm kiếm cô, và vào quán rượu này. Fukaeri còn nói gì nữa nhỉ?

Anh không cần lo lắng. Dù anh không tìm thấy cô, cô cũng sẽ tìm thấy anh.

Giống như Tengo đang tìm Aomame, Aomame cũng đang tìm Tengo. Tengo không thể lý giải được điểm này. Anh đang mê mải với việc bản thân anh tìm kiếm cô, và chưa bao giờ có ý nghĩ rằng Aomame có thể cũng đang tìm anh.

Em cảm tri, anh tiếp thụ.

Đây cũng là lời Fukaeri từng nói khi đó. Cô cảm tri. Tengo tiếp thụ. Chỉ có điều, chỉ những lúc nào Fukaeri muốn, cô mới thể hiện ra những thứ cô cảm tri được. Tengo không thể đoán biết cô làm vậy theo một nguyên tắc hay định luật nhất định, hay đơn thuần chỉ do nhất thời hứng khởi.

Một lần nữa, anh hồi tưởng lại cảnh mình giao hợp với Fukaeri. Thiếu nữ xinh đẹp mười bảy tuổi ấy cưỡi lên người anh, tiếp nhận dương v*t của anh vào sâu trong mình. Cặp vú to như hai trái cây đã chín tới, đung đưa mềm mại trong không trung. Cô ngây ngất nhắm nghiền mắt lại, lỗ mũi phồng lên vì hưng phấn, cặp môi tuôn ra những từ ngữ không thành hình. Cô thoáng để lộ hàm răng trắng ngà, chốc chốc lại thè đầu lưỡi màu hồng phấn ra khỏi kẽ môi. Cảnh tượng ấy hiện lên rõ mồn một trước mắt Tengo. Cơ thể anh tê liệt nhưng ý thức hoàn toàn tỉnh táo, và anh cương cứng một cách hoàn hảo.

Nhưng dù trong đầu có tái hiện rõ nét tình cảnh lúc đó chừng nào chăng nữa, Tengo cũng không cảm thấy một gợn hưng phấn nào, anh cũng không muốn giao hợp với Fukaeri thêm lần nữa. Từ đó đến giờ, đã gần ba tháng anh không làm tình. Chẳng những vậy, anh thậm chí còn chẳng xuất tinh lần nào. Đối với Tengo, đây là chuyện cực kỳ hiếm thấy. Là một người đàn ông độc thân khỏe manh ngoài ba mươi tuổi, anh có ham muốn tình dục bình thường, thứ ham muốn cần phải được giải quyết bằng cách này hay cách khác.

Thế nhưng lúc ở nhà Adachi Kumi, lúc cùng nằm với cô trên giường, lúc lông mu của cô cọ sát vào đùi anh, Tengo cũng không hề có ham muốn. dương v*t anh từ đầu chí cuối mềm nhũn. Có lẽ do hút cần sa, nhưng anh cảm thấy đó có lẽ không phải là lý do. Trong đêm mưa gió sấm chớp ấy, thông qua việc giao hợp với Tengo, Fukaeri đã lấy đi khỏi anh một thứ gì đó quan trọng, giống như dọn đồ đạc ra khỏi nhà vậy. Anh cảm thấy thế.

Ví dụ là gì nhỉ?

Tengo lắc đầu.

Uống hết bia, anh gọi một cốc Four Roses với đá và bát hạt cứng hỗn hợp. Giống như lần trước.

Sợ rằng trong đêm mưa bão ấy anh đã cương cứng quá đỗi hoàn mỹ. Lần đó, dương v*t của anh cương lên cứng và lớn hơn xa mọi lần khác. Anh cảm thấy dường như đó không còn là cái sinh thực khí của chính mình. Trơn nhẫy và sáng bóng, nó không giống như dương v*t trong hiện thực, mà giống với một thứ tượng trưng cho ý niệm nào đó hơn. Và cú phóng tinh sau đó rất mạnh mẽ, tinh dịch nồng đậm, chắc chắn là vào sâu bên trong tử cung, thậm chí còn sâu hơn. Một cú phóng tinh không thể chê trách được gì.

Thế nhưng, nếu sự vật quá đỗi hoàn mỹ, chắc chắn sẽ có tác động ngược lại. Đây là lẽ thường ở đời. Từ sau lần đó, rốt cuộc mình đã cương lên như thế nào ấy nhỉ? Không nhớ nữa. Hình như là không cương lên lần nào. Kể cả nếu có thì chắc chắn cũng chỉ loại hai. Nói theo ngôn ngữ điện ảnh thì giống như là loại phim kinh phí thấp, không chiếu rạp mà ra thẳng hiệu video. Một kiểu cương cứng thậm chí không đáng nhắc đến. Chắc vậy.

Liệu mình có sẽ vật vờ sống nốt quãng đời còn lại với chỉ mỗi cái cương cứng loại hai này hay không? Hay thậm chí cả cương cứng loại hai cũng chẳng thể mơ đến nổi? Tengo tự hỏi. Chắc chắn đó sẽ là cuộc đời cô độc mà thê lương, như buổi hoàng hôn dài lê thê. Nhưng tùy cách nhìn của mỗi người, đây có lẽ là điều không tránh khỏi. Ít nhất trong đời anh từng cương cứng một lần hoàn mỹ, phóng tinh một cú hoàn mỹ. Giống như tác giả viết Cuốn theo chiều gió vậy. Dẫu sao mình cũng đã làm nên một chuyện vĩ đại, coi như sống kiếp này không uổng.

Tengo uống hết cốc whiskey với đá rồi trả tiền, sau đó lại lang thang không mục đích ngoài phố. Gió nổi lớn, không khí lạnh. Trước khi các quy tắc của thế giới này lỏng lẻo đến cực độ, trước khi mọi logic đều biến mất, bất kể ra sao, mình phải tìm được Aomame. Giờ đây, hy vọng duy nhất của Tengo là tình cờ gặp lại Aomame. Nếu không tìm được cô ấy, cuộc đời mình rốt cuộc còn bao nhiêu giá trị? Cô từng ở nơi nào đó trong khu Koenji này. Đó là chuyện từ tháng Chín. Nếu mình may mắn, có lẽ cô vẫn còn ở đó. Tất nhiên điều này anh không thể chứng minh, nhưng giờ đây Tengo chỉ có thể bám víu vào khả năng ấy. Aomame ở nơi nào đó trong khu vực này. Vả lại, cô cũng đang tìm kiếm anh, giống như hai nửa bị tách làm đôi của đồng xu đang tìm kiếm nhau.

Anh ngửa mặt lên nhìn trời, nhưng không thấy trăng. Phải đi tìm nơi nào có thể ngắm trăng, Tengo nghĩ.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 13: Ushikawa


Thế này là quay lại điểm khởi đầu à?

Tướng mạo của Ushikawa khiến y nổi bật. Y không thích hợp với việc giám thị hay theo dõi người khác. Dù cố trà trộn vào đám đông đến đâu, y vẫn lồ lộ ra trước mắt mọi người, giống như con rết to tướng rơi vào cốc sữa chua vậy.

Người nhà của y chẳng có ai như vậy cả. Ushikawa có cha mẹ, hai anh em trai và một cô em gái. Cha y mở phòng khám tư, mẹ y quản lý tài vụ cho phòng khám, anh trai và em trai thì lần lượt vào đại học y với kết quả xuất sắc, trở thành bác sĩ. Anh trai y hiện đang làm tại một bệnh viện ở Tokyo, còn em trai hiện đang ở trường đại học làm công tác nghiên cứu. Sau khi cha y về hưu, anh trai y là người thừa kế phòng khám của gia đình ở Urawa. Cả anh trai lẫn em trai đều đã kết hôn và có một đứa con. Em gái y từng đi Mỹ học đại học, giờ đã trở về Nhật Bản làm thông dịch viên. Cô đã ngoài ba lăm nhưng vẫn độc thân. Bọn họ người nào người nấy đều có dáng người cao dỏng, mặt trái xoan, dung mạo cân đối.

Trong cái nhà ấy, Ushikawa gần như là một ngoại lệ ở mọi phương diện, đặc biệt là về hình dáng. Dáng y lùn tịt, cái đầu to tướng một cách kì quặc, mái tóc bù xù xoăn tít. Chân y ngắn ngủn, cong như quả dưa chuột. Mắt y lồi hẳn ra ngoài như bị khiếp hãi gì đó, xung quanh cần cổ y có nhiều thịt một cách kì dị, tròn lăn lẳn. Lông mày vừa dài vừa rậm, gắn như nối liền thành một đường, thoạt nhìn như hai con sâu róm to tướng đang đuổi nhau. Kết quả học tập của y đa phần có thể coi là xuất sắc, nhưng thành tích các môn không đồng đều, đặc biệt là không giỏi các môn thể dục thể thao.

Trong cái gia đình giàu có mĩ mãn toàn tinh anh ấy, y mãi mãi là “loại khác,” là một nốt nhạc phô làm rối loạn sự nhịp nhàng của giai điệu. Xem ảnh chụp cả gia đình, chỉ có mình y là thứ duy nhất không thích hợp, trông như một gã xa lạ thô kệch nào đó đã đi nhầm nhà, hoặc ngẫu nhiên bị chụp nhầm vào trong ảnh vậy.

Cả nhà y chẳng ai hiểu nổi vì cớ gì mà cái kẻ tướng mạo hoàn toàn không có gì giống họ lại xuất hiện trong gia đình như thế. Nhưng y rõ ràng là do cha mẹ y sinh ra (bà ấy vẫn nhớ rõ cơn đau đẻ vô cùng dữ dội), chứ không phải có người bỏ vào cái giỏ đem để trước cửa nhà. Sau này có người nhớ ra, trong các họ hàng của cha y cũng có người sở hữu hình dạng to tướng với cái đầu kì quặc, đó là anh họ của ông nội Ushikawa. Thời chiến tranh, người này làm việc trong một xưởng kim loại ở khu Koto, nhưng ông ta qua đời vào mùa xuân năm 1945 trong trận không kích Tokyo. Cha y chưa từng gặp người này, nhưng trong tập album cũ có ảnh của ông ta. Nhìn tấm ảnh ấy, cả nhà sực hiểu: Quả nhiên là giống. Tướng mạo người chú ấy của cha y chang Ushikawa đến đáng ngạc nhiên, khiến mọi người có cảm tưởng y là ông chú kia đầu thai. Chắc là, vì một nguyên cớ nào đó, nhân tố di truyền ở ông chú kia lại xuất hiện một lần nữa.

Giá không có y thì nhà Ushikawa ở Urawa, tỉnh Saitama đã là một gia đình hoàn hảo không chê vào đâu được, bất kể tướng mạo hay thành tích trong học tập và sự nghiệp. Đó sẽ là một gia đình hoàn hảo về mọi mặt mà ai nấy đều ngưỡng mộ. Nhưng hễ thêm Ushikawa là người khác thảy chau mày, lắc đầu. Mọi người đều sẽ nghĩ, trong cái gia tộc này có lẫn vào một con quỷ gây chuyện chuyên môn ngáng chân nữ thần sắc đẹp hay không nữa. Không, cha mẹ y cho rằng người khác chắc chắn sẽ nghĩ thế. Chính vì vậy họ cố hết sức không để Ushikawa xuất hiện trước mặt người khác; những lúc vạn bất đắc dĩ thì họ cố gắng không để y trở nên quá nổi bật. (Đương nhiên những nỗ lực ấy chỉ uổng công.)

Nhưng, dù ở trong hoàn cảnh đó, Ushikawa không bao giờ cảm thấy bất mãn, cô độc hay buồn phiền gì cả. Bản thân y không thích xuất đầu lộ diện, cha mẹ muốn y không quá nổi bật âu cũng hợp ý y. Anh em trai và em gái gần như coi y không tồn tại, nhưng y chẳng để tâm. Vì y không yêu quý gì bọn họ. Bọn họ không chỉ có vẻ ngoài đẹp đẽ mà kết quả học tập cũng xuất sắc, thể dục thể thao môn nào cũng giỏi, lại có rất nhiều bạn bè. Nhưng trong mắt Ushikawa, con người bọn họ nông cạn hết thuốc chữa, tư tưởng tầm thường, tầm nhìn hạn hẹp, thiếu trí tưởng tượng, lúc nào cũng nghĩ đến ánh mắt của người đời. Tệ hại hơn nữa, bọn họ hoàn toàn không biết hoài nghi, sự hoài nghi lành mạnh tối cần thiết ngõ hầu đạt tới sự thông tuệ.

Cha y là bác sĩ nội khoa ở vùng nông thôn, có thể coi là một bác sĩ giỏi, nhưng lại là một nhân vật buồn tẻ đến phát ngấy. Giống như vị vua trong truyền thuyết cầm cái gì là cái đó biến thành vàng, ông ta biến mọi thứ mình nói ra thành những hạt cát nhạt nhẽo. Nhưng nhờ ít nói, ông ta khéo léo che dgiấu được sự ngu muội và tẻ nhạt của mình trước mặt người đời, tuy có lẽ ông ta không cố ý làm thế. Mẹ y thì ngược lại, lắm lời và nhiều chuyện, một người đàn bà dung tục hết thuốc chữa. Bà ta rất chi li chuyện tiền bạc, lại tự hay cho mình là đúng, làm xằng làm bậy, thích khoe khoang sự giàu có, hơi tí là lớn tiếng nói xấu người khác. Anh trai y thừa hưởng tính cách của ông bố, thằng em thì tính giống hệt bà mẹ. Cô em gái y tuy có tính tự lập mạnh mẽ song lại thiếu trách nhiệm, không biết thông cảm cho ai bao giờ. Là cô con út trong nhà, cô ta được cha mẹ y nuông chiều nhất mực, đâm sinh hư.

Điều đó giải thích tại sao Ushikawa cô độc cả quãng đời thiếu niên. Tan học về nhà là y chui tót vào phòng mình đóng cửa lại, vùi đầu đọc sách. Ngoài con chó nuôi trong nhà, y không có người bạn nào khác. Mặc dù không có cơ hội cùng người khác bàn luận về những tri thức mình học được, nhưng Ushikawa hiểu rõ mình là một nhà hùng biện có tư duy logic mạnh mẽ, sở hữu năng lực suy xét sáng suốt và y kiên nhẫn một mình rèn luyện khả năng này. Chẳng hạn y giả định ra một mệnh đề, rồi một mình tự đóng hai vai, triển khai thảo luận xung quanh nó. Một người nhiệt tình ủng hộ mệnh đề, người kia phê phán mệnh đề ấy cũng nhiệt tình y như thế. Y có thể đồng hóa bản thân vào cả hai lập trường đối chọi gay gắt ấy, mê mải và chân thành với bất cứ luận trường nào mà y đang ủng hộ. Cứ thế, y bất giác mà nắm được năng lực hoài nghi bản thân. Đồng thời y nhận ra, những thứ thông thường được người đời cho là chân lý, trong rất nhiều trường hợp chẳng qua chỉ là tương đối mà thôi. Y còn hiểu được rằng, chủ quan và khách quan không phải có thể phân biệt một cách rõ ràng như người ta vẫn nghĩ. Nếu ranh giới ấy vốn đã không rõ ràng thì dịch chuyển nó qua lại một cách có mục đích cũng không phải là chuyện khó khăn gì.

Để phép logic và hùng biện thêm rõ ràng, hiệu quả, y nhồi nhét tất cả tri thức tìm thấy được vào đầu. Dù là thứ hữu dụng hay không hữu dụng cho lắm. Dù là thứ y đồng thuận hay là thứ mà nhất thời y chưa thể gật đầu. Cái mà y theo đuổi không phải là sự giáo dưỡng theo ý nghĩa thông thường, mà là những thông tin cụ thể có thể thật sự cầm trên tay mà xác nhận hình dạng và trọng lượng.

Cái đầu to tướng hình dáng kỳ quặc ấy đã trở thành vật chứa hoàn hảo thu nạp những thông tin quý giá. Nhờ vậy, y trở nên uyên bác hơn tất cả những người cùng độ tuổi. Chỉ cần muốn, Ushikawa có thể dễ dàng dùng lời lẽ đánh gục tất cả người xung quanh, không chỉ anh em hay bạn cùng lớp, mà thậm chí cả thầy cô giáo hay bố mẹ. Nhưng Ushikawa luôn chú ý không thể hiện tài năng ấy trước mặt người khác. Y không thích mình nổi bật dù dưới hình thức nào đi nữa. Tri thức và tài năng xét cho cùng chỉ là công cụ, không đáng để đem ra khoe khoang.

Ushikawa cảm thấy như mình là loài thú ăn đêm mai phục ở chỗ tăm tối nào đó trong rừng sâu đợi con mồi xuất hiện. Y kiên nhẫn đợi chờ thời cơ thích hợp, chỉ cần thời khắc đó đến, y sẽ quyết đoán bổ nhào tới. Trước lúc ấy, y không thể để đối phương phát giác ra sự tồn tại của mình. Mấu chốt là phải ẩn dấu hơi thở, làm đối phương lơi là cảnh giác. Từ khi còn là học sinh tiểu học y đã nghĩ như vậy rồi. Y không bao giờ dựa dẫm vào người khác, cũng không tùy tiện biểu lộ tình cảm.

Đôi khi y tưởng tượng, giả sử vẻ ngoài của mình dễ coi hơn một chút thì sẽ thế nào. Không nhất thiết phải tuấn tú phong độ, không cần đến mức khiến người ta thoạt nhìn đã xiêu lòng. Chỉ cần bình thường là được rồi, chỉ cần không xấu đến mức khiến người đi ngang qua thảy đều không kìm được mà ngoảnh đầu nhìn là được rồi. Giả sử có tướng mạo như thế, cuộc đời mình rốt cuộc sẽ như thế nào nhỉ? Nhưng đó là cái “giả sử” vượt quá sức tưởng tượng của Ushikawa. Ushikawa đã quá Ushikawa rồi, không có chỗ cho giả thiết nào nữa. Sở hữu cái đầu to tướng hình dáng kỳ quái cùng cặp mắt lồi, hai chân ngắn ngủn cong queo, đó mới là con người Ushikawa, gã thiếu niên trầm mặc song giỏi hùng biện, luôn hoài nghi và tràn trề khát khao tri thức.

Theo thời gian, đứa trẻ xấu xí lớn lên trở thành gã thanh niên xấu xí, rồi không biết từ lúc nào đã biến thành gã trung niên xấu xi. Dù ở giai đoạn nào của cuộc đời Ushikawa, người qua đường thấy đều ngoảnh lại nhìn y. Ushikawa thường nghĩ, khi nào mình trở thành ông già xấu xí thì chắc sẽ không khiến người ta chú ý như vậy nữa. Vì người già đa phần đều xấu xí, nên sự xấu xí khác thường của một cá thể có thể sẽ không dễ nhận thấy như thời trẻ con nữa. Nhưng chuyện đó thì phải đợi đến khi thành người già mới biết được. Không khéo y lại biến thành một ông già xấu xí xưa nay chưa từng có cũng nên.

Nói tóm lại, cái việc tinh tế kiểu như hòa mình vào khung cảnh xung quanh ấy, y không làm được. Vả lại, Tengo có biết Ushikawa, thành ra nếu y cứ lảng vảng quanh nhà anh ta mà chẳng may bị phát hiện thì mọi chuyện sẽ tan thành bọt nước.

Gặp phải tình huống này, thường thì y thuê thám tử chuyên nghiệp. Từ hồi còn làm luật sư, do đòi hỏi của công việc, Ushikawa đã duy trì liên hệ với văn phòng thám tử tư kiểu này. Rất nhiều người trong số họ là cựu cảnh sát, rất lão luyện kỹ năng điều tra, theo dõi và giám sát. Nhưng lần này y phải cố hết sức không để người ngoài dây vào. Vấn đề quá tế nhị, lại còn dính dáng đến trọng tội giết người. Thêm vào đó, bản thân Ushikawa cũng không thể chắc giám sát Tengo thì y sẽ được cái gì.

Ushikawa cần điều tra rõ mối “liên hệ” giữa Tengo và Aomame, nhưng y thậm chí còn chẳng rõ Aomame trông như thế nào. Y đã tìm đủ mọi cách, nhưng chẳng thể nào tìm được một tấm ảnh cho ra hồn. Kể cả tên Dơi kia cũng không kiếm được. Y từng xem qua tập ảnh tốt nghiệp cấp ba của Aomame, nhưng gương mặt cô ta trong ảnh chụp chung với cả lớp quá nhỏ, và có một vẻ thiếu tự nhiên khó tả, giống như đeo mặt nạ vậy. Trong ảnh câu lạc bộ bóng mềm của công ty thì cô lại đội chiếc mũ có vành rất rộng phủ bóng che hết mặt. Vì vậy, cho dù Aomame có đi qua trước mặt Ushikawa, y cũng không có cách nào xác định đó chính là cô ta. Y chỉ biết cô ta cao khoảng gần mét bảy, vóc dáng xinh đẹp. Mắt và xương gò má của cô ta rất đặc trưng, tóc dài đến vai, thân hình khỏe mạnh. Nhưng phụ nữ như thế thì đâu đâu cũng có.

Nhiệm vụ giám sát này xem ra chỉ có thể do Ushikawa tự mình đảm nhiệm. Kiên nhẫn và chuyên chú canh chừng, âm thầm chờ đợi tình thế thay đổi. Một khi có biến, phải lập tức nhận định tình hình, phán đoán trong chớp mắt xem cần hành động thế nào. Việc tinh tế như vậy, y không thể giao cho người khác được.

Tengo ở trong một căn hộ tầng ba của một khu chung cư ba tầng cũ kỹ kết cấu bê tông cốt thép. Ngoài cổng có gắn hộp thư của các hộ gia đình trong tòa nhà, trong đó có một hộp dán biển tên “Kawana.” Hòm thư hoen gỉ đã tróc hết sơn. Nắp hòm thư tuy có gắn khóa, nhưng hầu như tất cả cư dân đều không khóa. Cổng tòa nhà không khóa, ai cũng có thể ra vào tự do.

Hành lang tăm tối tỏa ra mùi đặc trưng của những khu chung cư lâu năm không được duy tu. Chỗ dột nước không bao giờ được sửa, ga trải giường cũ giặt bằng thuốc tẩy rẻ tiền, dầu ăn đục ngầu đã dùng để rán tempua, cây trạng nguyên khô héo, mùi nước đái mèo bốc ra từ chỗ cỏ mọc rậm rạp ở sân trước, cùng vô số mùi khác không rõ nguồn gốc hòa làm một, hình thành nên một bầu không khí đặc biệt. Sống ở đây lâu năm, có lẽ người ta quen với thứ mùi này. Nhưng đây tuyệt đối không phải thứ mùi khiến người ta thoải mái tinh thần. cho dù đã quen đi chăng nữa.

Cửa căn hộ của Tengo hướng ra đường. Tuy không đến nỗi ồn ào, nhưng người qua kẻ lại không phải ít. Gần đó có một trường tiểu học, vào một khoảng thời gian nhất định trong ngày sẽ có rất nhiều trẻ con đi qua. Đối diện với tòa nhà, mấy căn nhà dân nhỏ nằm san sát cạnh nhau, đều là loại nhà nhỏ hai tầng không có sân vườn. Phía trước con đường có một quán nhỏ bán rượu, một cửa hàng văn phòng phẩm bán cho học sinh. Cách đó hai khu phố có một đồn công an nhỏ. Gần đây không có nơi nào có thể ẩn mình, nếu y cứ đứng bên đường ngẩng đầu lên nhìn chằm chằm vào căn hộ của Tengo thì kể cả dù may mắn không bị anh ta phát hiện, xóm giềng chắc chắn cũng sẽ ném về phía y ánh mắt nghi ngờ. Huống hồ, với một nhân vật có tướng mạo “không tấm thường” như y, mức cảnh giác của cư dân hẳn sẽ tăng lên hai bậc. Không khéo, họ còn coi y là một tên biến thái có ý đồ với lũ trẻ con tan học về nhà mà gọi cảnh sát cũng nên.

Muốn giám sát người khác, trước tiên cần tìm được nơi thích hợp. Đó phải là một nơi không bắt mắt, có thể quan sát đối phương hành động, đảm bảo được việc bổ sung thức ăn nước uống. Lý tưởng nhất là một phòng đơn mà từ đó có thể nhìn trọn căn hộ của Tengo. Ở đó lắp giá ba chân, gần máy ảnh có ống kính tele, giám sát động tĩnh trong căn hộ, ai đi ra đi vào đấy. Y làm việc một mình nên không thể giám sát liên tục hai tư tiếng một ngày, nhưng mỗi ngày chừng mười tiếng thì y có thể xoay sở. Nhưng khỏi phải nói, nơi lý tưởng như vậy chẳng dễ gì tìm được.

Mặc dù vậy, Ushikawa vẫn chạy đôn chạy đáo quanh khu đó, tìm một nơi như thế. Y không phải loại người dễ bỏ cuộc. Sự ương bướng chính là điểm mạnh của y. Nhưng sau khi tốn cả nửa ngày trời sục sạo mọi ngóc ngách ở khu lân cận, Ushikawa đành bỏ cuộc, Koenji là nhu vực nhà dân đông đúc, địa thế bằng phẳng, không có nhà cao tầng, những nơi có thể thấy được căn hộ của Tengo trong tầm mắt cực kỳ ít ỏi. Vả lại, ở góc này, không có nơi nào y có thể ẩn nấp được cả.

Những khi trong đầu không có ý tưởng nào hay ho, Ushikawa luôn ngâm mình trong chiếc bồn bằng acrylic, nghe hòa tấu cho violon của Sibelius[1] trên radio. Không phải y muốn nghe Sibelius cho lắm, vả lại các bản hòa tấu của ông khó mà gọi là thứ âm nhạc thích hợp để nghe trong lúc ngâm mình trong bồn tắm sau khi kết thúc một ngày dài làm việc. Có lẽ người Phần Lan thích vừa tắm bồn sục vừa nghe Sibelius trong những đêm dài đằng đẵng ở xứ họ. Nhưng trong một buồng tắm chật hẹp gộp chung cả nhà vệ sinh của một căn hộ hai phòng ngủ ở Koninata, khu Bunkyo này, âm nhạc của Sibelius quá đỗi nồng nhiệt, chất chứa quá nhiều cảm giác bức bối. Nhưng Ushikawa chẳng để tâm. Y chỉ cần có nhạc nền là được. Nếu là nhạc của Rameau[2], hẳn y cũng không phàn nàn, nếu là bản Carnaval của Schumann cũng thế. Đài phát thanh chỉ tình cờ đang phát bản hòa tấu cho violon của Sibelius đúng vào lúc này. Chỉ có vậy.

[1] Jean Sibelius (1865-1957): nhà soạn nhạc Phần Lan cuối thời kỳ lãng mạn, được coi là một trong những nhà soạn nhạc nổi tiếng nhất giai đoạn cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20. m nhạc của ông góp phần quan trọng trong việc xác định Phần Lan trên bản đồ âm nhạc thế giói.

[2] Jean-Philippe Rameau(1683-1764): nhà soạn nhạc, nghệ sĩ đàn organ, đàn clavecin, đàn violon, nhà nghiên cứu lý thuyết âm nhạc, nhà sư phạm người Pháp. Ông là nhà soạn nhạc thuộc thời kỳ Baroque.

Như mọi lần, Ushikawa để một nửa ý thức của mình trống rỗng cho nó nghỉ ngơi, dùng nửa còn lại để suy nghĩ. Vậy là, âm nhạc của Sibelius do Davad Oistrakh[3] diễn tấu chủ yếu đi qua phần trống rỗng kia, như cơn gió nhẹ tràn qua lối vào mở rộng, rồi lại đi ra qua lối ra cũng rộng mở. Đây có lẽ không phải là phương pháp thưởng thức âm nhạc đáng được khen ngợi. Nếu biết được âm nhạc của mình bị người ta đối đãi như thế, Sibelius hẳn sẽ nhíu cặp lông mày rậm rạp, trên cái cổ thô kệch của ông hẳn sẽ hằn thêm vài nếp nhăn. Nhưng Sibelius đã qua đời từ lâu lắm roi, Davis Oistrakh cũng đã xuống mồ, vì vậy Ushikawa không cần kiêng nể ai trong số họ cả, cứ việc để âm nhạc lọt từ tai trái sang tai phải, dùng nửa ý thức vẫn chưa trống rỗng kia để lan man suy nghĩ.

[3] David Oistrakh (1908-1974): nghệ sĩ violon nổi tiếng của Liên Xô cũ.

Những lúc thế này, Ushikawa thích suy nghĩ không giới hạn đối tượng. Y để cho ý nghĩ mặc tình tự do chạy nhảy, kiểu như thả một đàn chó ra giữa cánh đồng mênh mông. Bảo chúng rằng thích đi đâu thì đi, muốn làm gì thì làm, sau đó thì thả chúng. Còn y thì ngâm mình ngập trong nước ấm đến tận cổ, khép hờ hai mắt, hờ hững nghe nhạc, thả hồn bay bổng. Lũ chó chạy cung quãng khắp nơi, lăn lộn trên triền dốc, đuổi nhau không biết chán, lúc phát hiện ra lũ sóc thì hùng hục đuổi theo, khắp người đầy bùn đất lá cây, chơi chán rồi chúng quay về bên cạnh y, Chừng đó Ushikawa xoa đầu lũ chó, rồi đeo vòng cổ cho chúng. Lúc này, âm nhạc kết thúc. Bản hòa tấu của Sibelius dài ba mươi phút, vừa vặn đủ dài. Phát thanh viên giới thiệu, bản nhạc tiếp theo là Sinfornietta của Janáček. Sinfonietta của Janáček, hình như Ushikawa đã nghe tên khúc nhạc này ở đâu đó, nhưng y không thể nhớ ra là ở đâu. Y cố gắng lục tìm trong ký ức, nhưng tầm nhìn không hiểu sao lại trở nên mơ hồ, như thể mắt bị phủ một tầng sương mù màu vàng nhạt. Nhất định là do ngâm mình trong bồn tắm quá lâu. Ushikawa đành bỏ cuộc, tắt đài radio rồi leo ra khỏi bồn tắm, chỉ quấn khăn tắm ngang hông, rồi lấy bia trong tủ lạnh ra uống.

Ushikawa sống một mình. Hồi trước, y từng có vợ và hai con gái. Bọn họ mua một căn nhà nhỏ ở khu Chuorinkan, thành phố Yamaro tỉnh Kanagawa. Nhà tuy nhỏ nhưng có một khu vườn phủ cỏ xanh, và nuôi một con chó. Vợ y mặt mũi cũng được, lũ con có thể coi là xinh xắn. Hai đứa con gái hoàn toàn không kế thừa tướng mạo của Ushikawa. Y thở phào nhẹ nhõm vì điều ấy.

Nhưng rồi họa phúc khôn lường, giờ đây y còn lại một mình. Thậm chí ngay cả cái sự thật rằng mình từng có vợ con, từng có một căn nhà ở ngoại ô. Ushikawa cũng thấy khó tin. Y thậm chí còn nghi ngờ không biết đó có phải ảo giác hay không. Nhưng chuyện đó đã xảy ra trong hiện thực. Y từng có một người vợ chung chăn gối, có hai đứa con máu mủ ruột rà. Trong ngăn kéo có một bức ảnh cả nhà, bốn người. Trong tấm ảnh đó, cả nhà y mỉm cười hạnh phúc, đến cả con chó hình như cũng đang cười.

Không thể có chuyện gia đình y trở lại như xưa. Vợ và con y sống ở Nagoya. Hai đứa con đã có người cha mới. Một người cha tướng mạo bình thường, khi ông ta xuất hiện trong buổi họp mặt phụ huynh ở trường, bọn chúng không cảm thấy xấu hỗ. Đã bốn năm nay, hai đứa con gái không gặp Ushikawa lần nào, nhưng dường như chúng không hề thấy tiếc vì chuyện đó, thậm chí còn không gửi lấy một bức thư. Không gặp con gái, bản thân Ushikawa dường như cũng chẳng bận tâm. Như vậy không có nghĩa là y không yêu thương chúng. Chỉ là, đối với y, điều quan trọng nhất là phải đảm bảo sự tồn tại của mình đã, vì điều này, y cần phải tạm thời tắt hết những mạch cảm xúc không cần thiết mà tập trung vào việc đang làm.

Vả lại, y cũng hiểu, dù xa cách chừng nào, trong cơ thể hai đứa con gái vẫn đang chảy dòng máu của y. Cho dù chúng hoàn toàn quên mất người cha này, dòng máu ấy vẫn sẽ không lạc lối. Máu có trí nhớ đến kinh ngạc. Rồi một ngày kia, dấu hiệu của một cái đầu to biết đâu sẽ lại xuất hiện, ở một nơi nào đó, một thời điểm nào đó không ai trông đợi. Lúc ấy, cùng với tiếng thở dài, người ta nhất định sẽ nhớ đến sự tồn tại của Ushikawa.

Có lẽ Ushikawa vẫn còn sống để chứng kiến cảnh bùng nổ ấy Có thể không. Sao cũng được. Chỉ cần nghĩ rằng có thể chuyện đó sẽ xảy ra, thế là y thỏa mãn trong lòng. Không phải y muốn trả thù. Chỉ là y hài lòng vì nhận thức được rằng bản thân y là một phần cố hữu, không thể ngăn chặn được trong cấu trúc của thế giới này.

Ushikawa ngồi xuống sofa, gác hai cẳng chân ngắn lên bàn. Trong khi uống bia, đột nhiên y nảy ra một ý. Có thể sẽ không được gì, nhưng cũng đáng thử một phen. Đơn giản như vậy mà tại sao mãi không nghĩ ra nhỉ? Ushikawa cảm thấy không thể tin nổi. Có lẽ là càng đơn giản thì lại càng không nghĩ đến. Không phải người ta vẫn nói “chỗ tối nhất là ở dưới chân ngọn đèn” hay sao?

Sáng hôm sau Ushikawa lại đến khu Koenji, bước vào văn phòng mô giới nhà đất đầu tiên trông thấy, hỏi xem có còn căn hộ nào trống trong tòa nhà của Tengo hay không. Chúng tôi không quản lý tòa nhà ấy, người ta bảo y vậy, tất cả căn hộ trong tòa nhà đó đều do một văn phòng môi giới nhà đất ở trước cửa nhà ga phụ trách.

“Nhưng mà ở đó chắc chắn là hết phòng trống rồi. Tiền thuê rẻ, địa điểm lại thuận tiện, người sống ở đó không chịu dọn đi đâu.”

“Dù gì thì gì, tôi cũng đi thử xem sao,” Ushikawa đáp.

Y ghé qua văn phòng môi giới ở trước cửa nhà ga. Một anh chàng trẻ tuổi chừng chưa đến hai lăm đến tiếp đón y. Tóc anh ta đen nhánh, trông cứng quèo vì keo xịt tóc, trông như một cái tổ chim kỳ lạ. Anh ta mặc áo sơ mi trắng, cà vạt mới tinh. Chắc là làm nghề này chưa lâu lắm. Trên mặt anh ta cẫn còn vài vết sẹo do mụn trứng cá. Anh ta hơi rụt rè khi thấy vẻ ngoài của Ushikawa lúc y bước vào.

“Quý khách, ông đúng là may mắn thật đấy!” anh chàng trẻ tuổi nói. “Hai vợ chồng ở tầng một mới đột nhiên quyết định dọn nhà vì chuyện gia đình, vừa khéo có căn hộ trống từ một tuần trước. Hôm qua vừa quét dọn xong xuôi, chúng tôi còn chưa kịp đăng quảng cáo nữa kìa. Vì ở tầng một nên âm thanh bên ngoài có thể hơi ồn, ánh sáng có lẽ cũng không được tốt cho lắm. Nhưng khu vực này thì cực kỳ thuận tiện. Chỉ có điều, chủ nhà dự định trong khoảng năm đến sáu năm nữa sẽ phá đi xây lại, đến lúc ấy chúng tôi sẽ báo cho ông trước nửa năm. Nhận được thông báo, xin hãy nhanh chóng dọn đi, không thể kéo dài. Đây là điều kiện tiên quyết để ký hợp đồng. Còn nữa, ở đó không có bãi đỗ xe đâu.”

Không thành vấn đề, Ushikawa đáp. Tôi không định vào ở quá lâu, mà cũng không lái xe.

“Vậy thì tốt quá. Chỉ cần ông chấp nhận những điều kiện này thì mai có thể dọn vào luôn. Tất nhiên, chắc hẳn ông muốn xem nhà trước đã chứ?”

Rất muốn xem trước, Ushikawa trả lời. Anh chàng trẻ tuổi lấy chìa khóa trong ngắn kéo ra, đưa cho Ushikawa.

“Tôi còn có chút việc, xin lỗi, phiền ông tự đi xem được không ạ? Trong nhà trống không, lúc quay lại đây ông trả tôi chìa khóa là được.”

“Được,” Ushikawa nói, “nhưng nếu tôi là người xấu, không trả chìa khóa hay là đi đánh một bộ khác, sau này đến trộm đồ thì sao?”

Anh chàng kia dường như lấy làm kinh ngạc, nhìn chằm chằm vào Ushikawa một hồi. “Ừm, cũng phải. Ông nói có lý. Vậy để cho đảm bảo, có thể phiền ông để lại một tấm danh thiếp không?”

Ushikawa lấy tấm danh thiếp “Hội Chấn hưng Văn học Nghệ thuật Tân Nhật Bản” trong ví, đưa cho anh ta.

“Ông Ushikawa,” Đối phương nghiêm túc đọc cái tên in trên danh thiếp, ngay sau đó nở một nụ cười, “Trông ông cũng không giống người làm chuyện xấu cho lắm.”

“Cám ơn anh,” Ushikawa trả lời, khóe miệng hiện lên một nụ cười trống rỗng hệt như cái chức danh in trên tấm danh thiếp kia.

Đây là lần đầu tiên y nghe người khác nói vậy. Chắc anh ta muốn nói, bộ dạng của Ushikawa quá ư nổi bật, không thích hợp làm chuyện xấu. Tướng mạo của y, người ta có thể miêu tả lại quá dễ dàng, ký họa gương mặt cũng rất đơn giản. Nếu y mà bị truy nã thì chắc chắn trong ba ngày là bị tóm gọn.

Căn hộ không tệ như trong tưởng tượng của Ushikawa. Phòng của Tengo ở ngay trên đất, tất nhiên không thể giám sát được bên trong, nhưng qua cửa sổ có thể nhìn thấy cổng chính của tòa nhà nên mỗi khi Tengo ra vào tòa nhà hay có ai đến thăm anh ta là y đều có thể biết. Nếu bố trí máy ảnh có ống tele, hẳn y còn chụp được cả ảnh đặc tả từng người nữa.

Muốn vào ở trong căn hộ này, cần phải trả hai tháng tiền đặt cọc, trả trước một tháng tiền thuê nhà, và tiền môi giới tương đương hai tháng thuê nhà. Tuy bản thân giá thuê không cao lắm, vả lại tiền cọc có thể nhận lại khi sau này thanh lý hợp đồng, nhưng dù sao cũng là một khoản chi tương đối lớn. Vì vừa trả cho Dơi một khoản không nhỏ, tài khoản của y chẳng còn bao nhiêu. Nhưng Ushikawa biết y cần phải thuê căn hộ này. Không còn lựa chọn nào khác, Ushikawa quay lại chỗ văn phòng môi giới, lấy số tiền mặt đã chuẩn bị trước trong phong bì ra, ký hợp đồng thuê nhà. Hợp đồng được ký với Hội Chấn hưng Văn học Nghệ thuật Tân Nhật Bản. Y nói sẽ gửi bản sao giấy phép đăng ký của công ty đến sau. Anh chàng phụ trách dường như không hề để tâm. Hợp đồng ký xong xuôi, anh ta liền chính thức giao chìa khóa căn hộ cho Ushikawa.

“Ông Ushikawa, từ bây giờ ông có thể dọn vào ở được rồi. Điện và nước đều có sẵn, nhưng lúc mở van ga cần sự có mặt của ông, vì vậy phiền không chủ động liên hệ với công ty khí ga Tokyo. Còn điện thoại thì ông tính sao ạ?”

“Điện thoại tôi sẽ tự tìm cách giải quyết,” Ushikawa trả lời. Ký hợp đồng với công ty điện thoại khá là mất thời gian, người thi công còn phải vào trong nhà, thà dùng điện thoại công cộng gần đó còn tiện hơn.

Ushikawa trở lại căn hộ, kể ra một danh sách những thứ nhu yếu phẩm. Đáng mừng là người chủ trước đã để lại rèm cửa. Tuy tấm rèm cửa sổ có in hoa đó vừa cũ vừa bẩn, nhưng dù sao chăng nữa, chỉ cần có là may rồi. Đối với công việc giám sát và theo dõi, rèm cửa sổ là vật không thể thiếu.

Danh sách không dài lắm. Có thực phẩm và nước uống là đủ các nhu cầu cơ bản rồi. Máy ảnh có ống kính tele và giá ba chân, sau đó là giấy vệ sinh và túi ngủ dùng khi leo núi, chất đốt và bếp lò xách tay dùng trong dã ngoại, dao cắt hoa quả, cái mở đồ hộp, túi đựng rác, dầu gội, sữa tắm, dạo cạo râu điện, vài chiếc khăn bông, đèn pin, đài bán dẫn. Số lượng quần áo tối thiểu để thay đổi, một túi thuốc lá. Chỉ có thế. Các thứ như tủ lạnh, bàn ăn, chăn bông, y không cần. Tìm được nơi che mưa chân gió là may mắn lắm rồi. Ushikawa về nhà, cho chiếc máy ảnh thấu kính đơn và ống kính tele vào túi, chuẩn bị nhiều phim. Sau đó, y nhét những thứ vật phẩm ghi trên danh sách vào túi du lịch. Thứ nào không có thì mua ở phố buôn bán phía trước ga Koenji cho đủ.

Y để giá ba chân trước cửa sổ trong gian phòng rộng chừng sáu chiếu tatami, gắn lên đó chiếc máy ảnh tự động hiệu Minolta đời mới nhất, rồi lắp ống kính tele lên, ngắm chuẩn độ cao ngang mặt người ra vào cổng chính tòa nhà, điều chỉnh tiêu cự. Y chuyển sang chế độ chụp bằng điều khiển từ xa, và bật chức năng chụp liên tục. Y dùng giấy dày cuộn xung quanh phần trước của ống kính, để ngăn chặn không cho ánh sáng lọt vào gây ra phản quang. Nếu rèm khẽ vén, nhìn từ bên ngoài có thể thấy một phần cuộn giấy, nhưng chắc chẳng ai hơi đâu mà để ý làm gì. Không ai có thể ngờ lại có người chụp ảnh trộm ở lối ra vào của khu nhà cho thuê chẳng lấy gì làm nổi bật này.

Ushikawa thử chụp mấy người ra vào cửa chính bằng chiếc máy ảnh này. May là có chức năng tự động chụp liên tục, nên với mỗi người đều có thể liên tiếp đóng mở cửa trập ba lần. Y còn dùng khăn bông bọc kín máy ảnh lại để làm nhỏ bớt tiếng cửa trập. Chụp hết một cuộn phim, Ushikawa cầm ra cửa tiệm in ảnh ở cạnh nhà ga. Ở đó có một hệ thống tự động in tráng bằng máy, chỉ cần đưa cuộn phim cho nhân viên cửa tiệm là được. Họ xử lý một lượng lớn ảnh chụp trong thời gian ngắn, chẳng ai hơi đâu để ý xem trên đó chụp cái gì.

Không có gì để chê trách những tấm ảnh ấy. Tất nhiên khó mà đòi hỏi tính nghệ thuật, nhưng thế là đủ. Hình ảnh rõ ràng, đủ để phân biệt gương mặt của những người ra vào cổng chính của tòa nhà. Trên đường từ tiệm in ảnh quay về, Ushikawa mua rất nhiều nước khoáng và đồ hộp, thêm một túi Seven Stars trong tiệm thuốc lá. Ushikawa ôm gói đồ trước ngực để nó che kín mặt mình, đi vào căn hộ mới thuê, lại ngồi xuống trước máy ảnh. Sau đó, y vừa giám sát cổng chính vừa uống nước khoáng và ăn đào đóng hộp, rồi hút vài điếu thuốc. Đường điện đã thông, nhưng không hiểu sao chưa có nước. Trong ống nước phát ra những tiếng ọc ọc, nhưng đầu vòi chẳng có gì chảy ra cả. Chắc vì nguyên nhân gì đó mà phải đợi thêm mấy ngày nữa. Ushikawa đã định liên hệ với văn phòng môi giới, nhưng lại không muốn ra ra vào vào quá nhiều, bèn quyết định xem tình hình thế nào đã rồi tính sau. Y không thể sử dụng bồn cầu, đành phải đi tiểu vào cái xô nhỏ cũ kỹ mà hình như công ty quét dọn quên không mang đi.

Hoàng hôn vội vã của ngày đầu đông đến nhanh, căn phòng trở nên tối mù tối mịt, nhưng Ushikawa không bật đèn. Bóng tối chính là thứ y muốn. Đèn ngoài cổng chính đã bật sáng, Ushikawa tiếp tục giám sát những người đi qua dưới ánh đèn vàng vọt.

Đến chập tối, người ra người vào cửa chính tấp nập hơn, nhưng không thể nói là nhiều. Đây vốn dĩ là một tòa nhà nhỏ. Trong số đó không có Tengo, cũng không thấy người phụ nữ nào có vẻ giống Aomame. Hôm nay là ngày Tengo dạy ở trường dự bị, đến tối anh ta sẽ quay về. Tengo thường không ghé đâu khác sau giờ làm. Anh ta thích tự nấu ăn hơn là dùng bữa bên ngoài, vừa ăn vừa đọc sách một mình. Ushikawa biết những điều này. Nhưng hôm nay đã rất muộn rồi mà vẫn chưa thấy Tengo về, chắc là sau giờ làm anh ta có hẹn với ai đó.

Có đủ loại người sống trong khu căn hộ này. Từ người độc thân trẻ tuổi đi làm, sinh viên đại học, vợ chồng có con nhỏ cho đến người già sống một mình, mỗi người mỗi cảnh. Mọi người đi qua trước ống kính tele mà không hề cảnh giác. Tuy có chút ít khác biệt do tuổi tác và cảnh ngộ bất đồng, nhưng họ thảy đều tỏ ra mệt mỏi và chán chường với cuộc sống. Hy vọng đã phai màu, tham vọng từ lâu đã chìm vào quên lãng, cảm xúc hư hao, chỉ còn lại những khoảng trống bị chiếm cứ bởi sự nản lòng và tê dại. Sắc mặt họ ảm đạm, bước chân họ nặng nề, trông như mới vừa nhổ răng hai tiếng đồng hồ trước vậy.

Nhưng có thể là Ushikawa hiểu lầm. Có lẽ có người thực ra đang tận tình hưởng thụ cuộc đời này. Có lẽ nếu mở cửa nhà họ ra sẽ thấy bên trong là một thiên đường nhỏ dành riêng cho họ. Có lẽ có người chỉ giả bộ sống tằn tiện để tránh né điều tra của cục thuế vụ. Không phải là không có khả năng ấy, nhưng nhìn qua ống kính tele, bọn họ đều chỉ là những cư dân thành phố chỉ biết bám víu vào tòa nhà cho thuê giá rẻ sắp sửa bị dỡ bỏ này, mãi mãi chẳng bao giờ vươn lên được.

Đêm ấy Tengo rốt cuộc vẫn không lộ mặt, và Ushikawa cũng không thấy ai có vẻ như có quan hệ với anh ta. Lúc kim đồng hồ chỉ mười giờ ba mươi phút, Ushikawa dừng công việc lại. Hôm nay là ngày đầu tiên, y vẫn chưa lập được nếp quen và cũng không muốn cố. Ngày tháng còn dài, hôm nay tạm đến đây thôi. Y vươn người ra các hướng khác nhau, thả lỏng cơ bắp cứng đờ. Sau đó y ăn một cái bánh mì nhân đậu đỏ, rót cà phê đựng trong bình giữ nhiệt ra nắp bình để uống. Y vào trong bếp vặn vòi nước, giờ thì có nước rồi. Y rửa mặt bằng xà phòng, đánh răng, đứng đái một lúc lâu. Rồi y dựa lưng vào tường hút một điếu thuốc. Ushikawa đã định uống chút whiskey, nhưng lại quyết định rằng trong lúc ở đây sẽ không dính đến một giọt rượu nào.

Sau đó y chỉ mặc đồ lót chui vào trong túi ngủ. Trời lạnh làm y run lên một lúc. Đêm về khuya, căn hộ trống huếch lạnh đến không ngờ. Có lẽ mình cần một cái lò sưởi điện nhỏ, y nghĩ.

Nằm một mình không ngừng run rẩy trong túi ngủ, Ushikawa không khỏi nhớ đến những ngày tháng hạnh phúc khi cả gia đình còn ở bên nhau. Chẳng phải y hoài niệm gì; cảnh tượng ấy chỉ hiện lên trong tâm trí y như một ví dụ đối lập quá rõ ràng với tình trạng hiện tại mà thôi. Kể cả khi sống chung với người nhà, Ushikawa cũng vẫn cô độc. Y chưa từng thực sự mở lòng với bất cứ ai, trong thâm tâm y tin rằng cuộc sống tầm thường ấy chẳng qua chỉ là phù vân hư ảo, rồi sẽ có ngày tan biến đi như khói - tất cả: cuộc sống bận rộn của luật sư, thu nhập cao, căn nhà ở Chuorinkan, người vợ mặt mũi không đến nỗi nào, hai đưa con gái đáng yêu học trường tư thục, con chó có giấy chứng minh huyết thống. Bởi thế, khi vận rủi liên tiếp ập đến, cuộc sống tan vỡ, cuối cùng chỉ còn lại một thân một mình, y lại còn thở phào nhẹ nhõm. Ha ha, thế này là khỏi phải lo lắng gì nữa! Quay lại điểm khởi đầu rồi!

Thế này là quay lại điểm khởi đầu à?

Ushikawa co quắp như ấu trùng ve trong túi ngủ, ngửa mặt lên nhìn trần nhà đen như mực. Vì giữ nguyên một tư thế trong thời gian dài, các khớp xương khắp người y đau nhức. Rét run lên bần bật, cả bữa tối chỉ gặm có một cái bánh mì nhân đậu đỏ lạnh ngắt, cả ngày ngồi giám sát cổng chính của khu căn hộ cho thuê giá rẻ sắp bị dỡ bỏ, chụp trộm gương mặt những người qua kẻ lại không đáng chú ý, đi tiểu vào cái xô lau nhà. Đây chính là ý nghĩa của “quay lại điểm khởi đầu” sao? Y lại tự hỏi. Y chợt nhớ ra một chuyện quên mất chưa làm, bèn bò ra khỏi túi ngủ, đổ nước tiểu trong xô vào bồn cầu, kéo cái cần gạt lỏng lẻo xả nước xối đi. Y vốn không muốn chui ra khỏi chiếc túi ngủ khó khăn lắm mới ấm lên được một chút ấy, rất muốn để mặc cái xô đầy. Nhưng ngộ nhỡ trong bóng tối vấp phải một cái thì chết toi. Sau đó y lại chui vào túi ngủ, lại lạnh run lên một chập nữa.

Chẳng lẽ thế này chính là quay lại điểm khởi đầu?

Có lẽ là thế. Y chẳng còn thứ gì để mất, ngoài tính mạng của chính y. Một điều hết sức rõ ràng. Trong bóng tối, Ushikawa nở nụ cười mỏng như lưỡi dao cạo.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 14: Aomame


Thứ bé nhỏ của mình

Hầu hết thời gian, Aomame sống trong hoang mang dò dẫm. Ở thế giới của năm 1Q84 này, thế giới mà logic và trí thức thông thường gần như không có tác dụng, nàng không thể dự đoán chuyện gì tiếp theo sẽ xảy đến với mình. Nhưng nàng cảm thấy ít nhất mình sẽ sống thêm mấy tháng nữa để sinh ra đứa trẻ này. Đó chẳng qua chỉ là dự cảm. Nhưng là một dự cảm mạnh mẽ gần như xác tín. Vì nàng cảm thấy tất thảy mọi việc cơ hồ đều sẽ triển khai dựa trên tiền đề là nàng sẽ sinh đứa trẻ này ra. Nàng cảm nhận được điều đó.

Nàng nhớ những lời cuối cùng của Lãnh Tụ Sakigake. Ông ta nói: “Cô cần phải vượt qua những khảo nghiệm khắc nghiệt. Khi đã hoàn thành những khảo nghiệm ấy, cô sẽ thấy được hình thái đích thực của sự vật.”

Ông ta biết gì đó. Một điều cực kỳ quan trọng. Và, ông ta đã cố truyền đạt đến mình nhiều tầng hàm nghĩa bằng một thứ ngôn ngữ mơ hồ. Cái mà ông ta gọi là khảo nghiệm ấy có lẽ chính là việc mình tự đưa mình đến làn ranh giữa sống và chết. Mình đã cầm súng đi tới trước tấm biển quảng cáo của hãng Esso, định tự kết liễu tính mạng, nhưng lại không chết mà quay trở lại đây, sau đó thì biết được mình đã mang thai. Cả chuyện này có lẽ cũng đã định sẵn từ trước.

Bước vào tháng Mười hai, có mấy đêm gió lớn nổi lên. Lá cây sồi rụng xuống đập vào tấm chắn bằng nhựa ngoài ban công, phát ra những âm thanh khô khốc. Gió lạnh phát lời cảnh cáo, lướt qua những cành cây trơ trụi. Tiếng kêu của lũ quạ cũng bị mài cho nhọn hoắt lanh lảnh. Mùa đông đã đến.

Trong tử cung mình đang mang đứa con của Tengo, ý nghĩ ấy một ngày một thêm mạnh mẽ trong nàng, cuối cùng chuyển từ giả thiết thành sự thật chắc chắn. Nó không đủ logic để thuyết phục người khác, nhưng với chính mình thì đủ. Chuyện rõ rành rành.

Giả sử mình có thai mà không có hành vi tình dục, vậy thì kẻ đó còn có thể là ai được ngoài Tengo ra?

Từ tháng Mười một, trọng lượng cơ thể nàng bắt đầu tăng. Tuy không ra khỏi cửa, nhưng mỗi ngày Aomame đều duy trì lượng vận động đầy đủ, đồng thời nghiêm khắc khống chế bữa ăn. Từ năm hai mươi tuổi, cân nặng của nàng chưa bao giờ vượt qua năm mươi hai. Nhưng một hôm chiếc cân đã chỉ con số năm mươi tư và từ đó đến nay thể trọng nàng không giảm nữa. Nàng cảm thấy mặt mình cũng hơi tròn hơn. Chắc chắn là cái thứ bé nhỏ này đang yêu cầu cơ thể mẹ phải phát phì.

Nàng và cái thứ bé nhỏ này ở bên nhau, kiên trì trông chừng sân chơi trong đêm tối, kiên trì tìm kiếm bóng dáng cao lớn của người đàn ông trẻ tuổi một mình leo lên đỉnh cầu trượt. Aomame ngước nhìn hai vầng trăng đầu đông cùng lơ lửng trên trời, dịu dàng vuốt ve bụng dưới qua tấm chăn len. Thi thoảng, nàng lại vô cớ chảy nước mắt. Đến khi nàng kịp nhận ra, nước mắt đã chảy xuống dọc theo gò má, nhỏ xuống tấm chăn len đắp ngang bụng. Có lẽ vì nàng cô độc, cũng có thể do bất an, hoặc cũng có khả năng vì mang thai nên nàng trở nên đa sầu đa cảm, còn không thì chính là gió lạnh làm kích thích tuyến lệ, khiến nàng chảy nước mắt. Nhưng dù nguyên do là gì, Aomame cũng không lau nước mắt, để mặc cho nó tuôn.

Khóc đến mức độ nào đó, nước mắt sẽ cạn, còn nàng vẫn tiếp tục trông chừng trong cô độc. À không, không còn cô độc nữa rồi, nàng nghĩ. Mình có thứ bé nhỏ này. Bọn mình có hai người. Hai chúng mình cùng ngước nhìn hai mặt trăng, chờ Tengo xuất hiện ở nơi này. Chốc chốc nàng lại cầm ống nhòm lên, hướng tiêu điểm vào cái cầu trượt không một bóng người. Sau đó, nàng lại cầm khẩu súng lục, xác nhận trọng lượng và cảm giác khi chạm vào nó. Tự bảo vệ mình, tìm kiếm Tengo, truyền dưỡng chất cho cái thứ bé nhỏ này, đó là chức phận của nàng hiện giờ.

Có một lần khi đang trông chừng sân chơi trong cơn gió lạnh, Aomame phát giác ra rằng mình tin vào Thượng đế. Nàng đột ngột phát hiện ra sự thật này, giống như lòng bàn chân tìm được mặt đất rắn bên dưới lớp bùn nhão nhoẹt. Đó là một thứ cảm giác không thể lý giải nổi, một sự tri nhận mà nàng chưa bao giờ nghĩ đến. Từ khi hiểu chuyện, nàng luôn căm hận cái gọi là Thượng đế. Nói chính xác hơn nàng luôn cự tuyệt những con người mà hệ thống xen vào giữa nàng và Thượng đế. Bao nhiêu năm nay, đối với nàng những con người và hệ thống đó về cơ bản là đồng nghĩa với Thượng đế. Căm hận bọn họ tức là căm hận Thượng đế.

Từ khi Aomame có mặt trên đời, bọn họ vây quanh nàng, dùng danh nghĩa Thượng đế chi phối nàng, ra lệnh cho nàng, dồn nàng vào bước đường cùng. Bọn họ lấy danh nghĩa Thượng đế tước đoạt của nàng toàn bộ thời gian và sự tự do, đeo lên tâm hồn nàng những gông xiềng nặng nề. Bọn họ tuyên truyền về sự nhân từ của Thượng đế, song đồng thời hăng hái gấp đôi khi tuyên truyền về cơn phẫn nộ và sự không khoan dung của Ngài. Năm mười một tuổi Aomame dứt khoát hạ quyết tâm, rốt cuộc cũng thoát khỏi cái thế giới ấy, dẫu nàng buộc phải chấp nhận một sự hy sinh to lớn.

Nếu thế giới này không có Thượng đế, cuộc đời mình nhất định sẽ tươi sáng hơn, phong phú hơn bội phần. Aomame thường nghĩ như vậy. Chắc chắn mình sẽ không bị cơn phẫn nộ và nỗi sợ không ngừng giày vò tâm trí, mình sẽ có nhiểu hồi ức đẹp đẽ như bao đứa trẻ bình thường. Nếu mà được vậy, cuộc sống mình sẽ tràn trề hi vọng, bình yên và đầy đủ hơn bao nhiêu so với hiện tai.

Mặc dù thế, khi áp lòng bàn tay lên bụng, quan sát sân chơi không một bóng người bên kia đường qua khe hở của những tấm lá sách bằng nhựa, Aomame không thể không ý thức được rằng, tận trong thâm tâm, kỳ thực nàng tin vào Thượng đế. Khi nàng đọc lời cầu nguyện một cách máy móc, khi hai tay nâng chắp lại, nàng đã tin ở một Thượng đế ở bên ngoài cảnh giới của ý thức. Đó là một cảm giác thấm sâu vào cốt tủy nàng, là thứ mà nếu chỉ dựa vào logic hay cảm xúc thì không thể xua đuổi được, ngay cả căm hận và phẫn nộ cũng không thể loại bỏ được

Nhưng đó không phải là Thượng đế của bọn họ. Đó là Thượng đế của mình. Đó là Thượng Đế mà mình đã hy sinh cả cuộc đời, bị lột da, bị rút gân, bị hút máu, bị ăn thịt, bị cướp cả thời gian, hy vọng và hồi ức mới có được. Đó không phải vị Thượng đế hữu hình. Ngài không mặc áo choàng trắng, không có bộ râu dài thườn thượt. Thượng đế của nàng không có giáo lý, không có kinh điển, cũng không có khuôn phép gì cả. Thượng đế của nàng không ban thưởng cũng không xử phạt, không ban phát mà cũng không cướp đoạt. Không có Nước Trời để bay lên đó, cũng không có Địa Ngục để đọa lạc vào. Dù hè nóng bức hay đông giá lạnh, Thượng đế luôn ở đó.

Thỉnh thoảng, Aomame hồi tưởng lại những lời Lãnh Tụ của Sakigake nói trước khi chết. Nàng không sao quên được giọng nam trung trầm trầm mộc mạc ấy, cũng như không thể quên được cảm giác lúc đâm đầu mũi kim vào gáy ông ta.

Nơi nào có ánh sáng tất phải có bóng tối, nơi nào có bóng tối tất phải có ánh sáng. Không tồn tại ánh sáng không có bóng tối, cũng không tồn tại bóng tối mà không có ánh sáng. Người Tí Hon rốt cuộc là thiện hay ác, tôi không biết. Thứ ấy, xét theo nghĩ nào đó, là một sự vật vượt quá tâm lý giải và khả năng định nghĩa của chúng ta. Từ thời viên cổ, chúng ta đã luôn sống chung với họ rồi, từ thuở thiện và ác vẫn còn chưa tồn tại, từ thuở ý thức của con người vẫn còn nằm trong bóng tối.

Thượng đế và Người Tí Hon chẳng lẽ là hai dạng tồn tại đối lập lẫn nhau? Hay là hai mặt của cùng một sự vật?

Aomame không biết. Nàng chỉ biết rằng, bất kể ra sao, nàng cũng phải bảo vệ cái thứ bé nhỏ bên trong mình và để được vậy nàng cần phải tin vào Thượng đế, hoặc cần phải thừa nhận sự thật rằng nàng tin vào Thượng đế.

Aomame miên man nghĩ về Thượng đế. Thượng đế không có hình thái cụ thể, đồng thời có thể hóa thân thành bất cứ hình thái nào. Nàng mường tượng trong đầu hình ảnh một chiếc xe dáng thể thao hiệu Mercedes mới tinh vừa được người bán đưa đến. Một phụ nữ trung niên khí chất cao nhã bước từ trên xe xuống. Trên đường cao tốc Thủ Đô, chị ta trao chiếc áo khoác gió mùa xuân đẹp đẽ mặc trên người cho nàng lúc ấy đang trần như nhộng, bảo vệ nàng trước gió lạnh và ánh mắt thô lỗ của người đời, sau đó không nói không rằng trở về chiếc xe kiểu thể thao màu bạc. Chị ta đã biết - biết rằng Aomame đã mang thai, rằng nàng cần phải được bảo vệ.

Nàng bắt đầu có giấc mơ mới. Trong mơ, nàng bị giam trong một gian phòng màu trắng. Đó là một gian phòng nhỏ hình lập phương, không cửa sổ, chỉ có một cửa ra vào. Có một cái giường giản dị, không trang trí gì, nàng nằm ngửa trên đó. Phía trên giường có một ngọn đèn treo, soi vào phần bụng gồ lên như ngọn đồi nhỏ của nàng. Nhìn không giống cơ thể nàng lắm, nhưng không nghi ngờ gì, nó là một phần máu thịt của Aomame. Nàng đang sắp sửa sinh.

Căn phòng do Đầu Trọc và Tóc Đuôi Ngựa canh giữ. Hai kẻ này quyết tâm không bước vào vết xe đổ thêm lần nữa. Bọn họ đã sơ sẩy một lần nên giờ cần lấy lại thanh danh. Nhiệm vụ giao cho bọn họ là không để Aomame ra khỏi phòng này, cũng không để bất cứ ai vào. Bọn họ đang chờ cái thứ bé nhỏ kia sinh hạ, dường như định rằng nó vừa sinh ra là lập tức đoạt khỏi Aomame.

Aomame cố gào thét, cố lớn tiếng cầu cứu. Nhưng đó là gian phòng được xây dựng bằng vật liệu đặc biệt, vách tường, sàn nhà và trần nhà sẽ hấp thu toàn bộ âm thanh phát ra chỉ trong nháy mắt. Tiếng kêu thậm chí còn không vang đến tai nàng. Aomame cầu khẩn người phụ nữ ngồi trong chiếc Mercedes đến cứu giúp nàng, cứu giúp nàng và cái thứ bé nhỏ kia. Nhưng mọi âm thanh của nàng đều bị hút vào vách tường của gian phòng trắng toát.

Cái thứ bé nhỏ kia đang hấp thụ dưỡng chất qua cuốn rốn, không ngừng lớn lên từng giờ từng phút. Để thoát khỏi nơi tăm tối, ẩm ướt ấy, nó đạp mạnh vào thành tử cung của nàng. Nó đang mong đợi ánh sáng và tự do.

Tóc Đuôi Ngựa cao lớn ngồi cạnh cửa. Hai tay gã đặt trên đầu gối, chăm chú nhìn vào một điểm nào đó trong không gian. Ở đó, có lẽ đang dập dềnh trôi dạt một đám mây nhỏ nhưng cứng đặc. Đầu Trọc đứng cạnh giường. Cả hai đều mặc vest mầu sẫm giống lần trước. Đầu Trọc chốc chốc giơ tay nhìn đồng hồ, như một người đang đứng trên sân ga chờ chuyến tàu quan trọng.

Tứ chi Aomame không thể nhúc nhích. Dường như nàng không bị trói, nhưng chân tay không sao cử động được. Đầu ngón tay hoàn toàn không có cảm giác. Nàng có dự cảm rằng cơn đau đẻ sắp ập đến. Tựa như đoàn tàu đã được số mệnh định sẵn đang đến gần nhà ga tuyệt đối không chậm giờ. Nàng nghe thấy tiếng đường ray đang rung lên nhè nhẹ.

Đúng lúc này, nàng tỉnh dậy.

Aomame đi tắm, xối đi thứ mồ hôi đáng ghét bám trên người, thay quần áo sạch. Nàng bỏ quần áo sũng mồ hôi vào máy giặt. Nàng không hề muốn gặp những giấc mơ như thế, nhưng cơn mơ cứ thế ập đến. Các chi tiết trong giấc mơ mỗi lần hơi khác nhau, nhưng địa điểm và kết cục luôn như nhau. Căn phòng màu trắng hình khối lập phương. Cơn đau đẻ đang đến gần. Hai gã đàn ông trong bộ vest sẫm màu thiếu cá tính.

Bọn họ biết trong bụng Aomame đang mang một thứ bé nhỏ hoặc không lâu nữa họ sẽ biết. Aomame đã chuẩn bị sẵn sàng. Nếu cần thiết, nàng sẽ không do dự bắn hết số đạn 9 ly vào Tóc Đuôi Ngựa và Đầu Trọc. Vị Thượng đế đang bảo vệ nàng, có lúc Ngài cũng khát máu. Tiếng gõ cửa vang lên. Aomame ngồi xuống ghế trong bếp, tay phải cầm khẩu súng lục tự động đã mở khóa an toàn. Bên ngoài, trời đổ mưa lạnh từ sáng sớm. Mùi mưa mùa đông bao trùm lấy thế giới.

“Ông Takai, chào ông.” ngoài cửa căn hộ, người đàn ông ngừng gõ cửa, cất tiếng nói, “Tôi là bạn cũ của ông đây, tôi ở đài NHK đây. Lại phải làm phiền ông rồi, tôi đến thu phí. Ông Takai, ông có nhà không?”

Aomame hướng về phía cửa, thầm nói: chúng tôi đã xác nhận với đài NHK rồi, ông chẳng qua là một tên mạo danh nhân viên thu phí của NHK mà thôi. Rốt cuộc ông là ai? Ông đến đây muốn làm gì?

“Người ta phải trả giá cho thứ mình nhận được. Đây là quy tắc của xã hội này. Ông bắt sóng vô tuyến, vậy thì ông phải trả tiền. Thứ nào nhận được cứ nhận bằng hết, nhưng trả thì một cắc cũng không chịu trả, thế thì không công bằng chút nào. Thế chẳng phải giống như ăn trộm sao.”

Giọng ông ta vang khắp hành lang, khàn khàn nhưng xuyên thấu.

“Tôi làm việc hoàn toàn không vì tình cảm cá nhân. Tôi không ghét ông, cũng không muốn khiến ông phải khó xử. Chẳng qua chỉ là từ bé thấy cái gì bất công là tôi ngứa mắt. Người ta phải trả giá cho những thứ mình nhận được. Ông Takai à, chừng nào ông còn chưa mở thì tôi còn đến gõ cửa, dù có phải đến đây bao nhiêu lần chăng nữa. Chắc ông cũng không muốn thế phải không? Tôi ấy à, tôi không phải một lão già vớ vẩn không biết điều đâu. Chúng ta cứ nói chuyện, thế nào cũng tìm được giải pháp ổn thỏa. Ông Takai, ông thoải mái chút đi, mở cửa ra có được không?”

Tiếng gõ cửa lại vang lên một chập nữa.

Hai tay Aomame nắm chặt khẩu súng lục tự động. Có khi thằng cha này biết mình đã mang thai. Dưới nách và chóp mũi nàng rịn một lớp mồ hôi mỏng. Dù thế nào cũng không mở cửa. Nếu đối phương định dùng chìa khóa hay cách gì khác buộc cửa này phải mở thì dù hắn là nhân viên thu tiền của đài NHK hay gì đi chăng nữa, mình cũng sẽ găm hêt số đạn trong băng vào bụng hắn.

Không, chắc sẽ không xảy ra chuyện như vậy. Nàng hiểu. Hắn không thể nào mở được cửa này. Chỉ cần nàng không mở từ bên trong thì sẽ không thể mở ra được. Vì vậy, hắn mới bực tức như thế, mới nói nhiều như thế, mới dùng đủ mọi lời lẽ hòng ép nàng đến ngưỡng sụp đổ tinh thần.

Mười phút sau, người đàn ông đi khỏi, sau khi dùng giọng nói vang rền khắp hành lang dọa dẫm và chế nhạo, ranh mãnh lung lạc, rồi lại chửi rủa dữ dội, đồng thời hẹn lần sau còn tiếp tục ghé thăm.

“Đừng tưởng ông có thể thoát được, ông Takai à. Chỉ cần ông còn bắt sóng vô tuyến của đài NHK, tôi nhất định sẽ còn trở lại đây. Tôi không phải hạng người dễ bỏ cuộc đâu. Đây là tính cách của tôi mà. Được rồi, mấy hôm nữa chúng ta gặp lại nhé.”

Không nghe thấy tiếng bước chân của người đàn ông đó, nhưng hắn ta không còn ở trước cửa nữa. Aomame nhìn qua lỗ quan sát trên cửa kiểm tra cho chắc điều này, sau đó nàng khóa chốt bảo hiểm lại, đi vào buồng vệ sinh rửa mặt. Phần nách áo sơ mi đã bị mồ hôi thấm ướt. Lúc thay áo sạch, nàng để mình trần đứng trước gương. Bụng nàng vẫn chưa gồ lên đến mức khiến người ta chú ý nhưng sâu bên trong đó ẩn chứa một bí mật quan trọng.

Nàng đã nói chuyện với bà chủ qua điện thoại. Hôm đó, sau khi bàn bạc mấy việc với Aomamem, Tamaru không nói không rằng đưa ống nghe cho bà chủ. Trong cuộc nói chuyện, hai người cố tránh nói thẳng mà dùng cách biểu đạt mập mờ đa nghĩa. Ít nhất, mới đầu là như vậy.

“Chúng tôi đã chuẩn bị cho cô một chỗ mới,” bà chủ nói. “Ở đó cô có thể hoàn thành công việc dự kiến. Nơi đó rất an toàn, còn có thể được chuyên gia kiểm tra định kỳ nữa. Chỉ cần cho muốn, bây giờ cô có thể dọn qua đó ngay.”

Cô nên nói thẳng với bà ấy rằng có người đang để ý đến thứ bé nhỏ của mình không? Nói với bà rằng, trong mơ, đám người ở Sakigake có mưu đồ cướp đi đứa con của nàng? Nói với bà rằng tên giả danh nhân viên thu phí của đài NHK kia đang tìm trăm phương nghìn kế muốn nàng mở cánh cửa này có lẽ cũng vì mục đích tương tự? Nhưng Aomame lại thôi. Aomame tin tưởng bà chủ, yêu kính bà hết mực, nhưng vấn đề không ở chỗ đó. Rốt cuộc nàng đang sống ở thế giới nào, đó mới là vấn đề quan trọng trước mắt.

“Dạo này sức khỏe cô thế nào?” bà chủ hỏi.

“Hiện giờ thì mọi thứ đều thuận lợi, không có vấn đề gì.” Aomame trả lời.

“Vậy thì tốt quá,” bà chủ hỏi, “chỉ là giọng cô hình như hơi khác mọi khi. Chắc do tâm lý, tôi cảm thấy giọng cô nghe có vẻ cứng nhắc, như đang đề phòng người khác vậy. Nếu có chuyện gì làm cô lo lắng, kể cả là chuyện nhỏ nhặt không đáng nhắc đến, mong cô cứ nói với chúng tôi, không cần phải ngại. Biết đâu chúng tôi lại giúp được cô.”

Aomame vừa lưu tâm để ý giọng mình vừa trả lời bà: “Chắc là ở mãi một nơi lâu quá, thần kinh trở nên căng thẳng thôi ạ. Tôi rất chú ý giữ sức khỏe của mình. Xét cho cùng, đây là nghề của tôi mà.”

“Đương nhiên rồi,” bà chủ nói, sau đó thoáng ngập ngừng giây lát, “đợt trước có một người trông rất khả nghi lởn vởn quanh nhà tôi mấy ngày liền, hình như chủ yếu muốn thăm dò tình hình trong trung tâm bảo trợ. Chúng tôi đã nhờ ba người phụ nữ sống trong đó xem băng ghi hình giám sát, nhưng không ai nhận ra hắn ta. Không chừng đó là người đang truy lùng cô.”

Aomame hơi chau mày. “Có phải quan hệ giữa chúng ta đã bị lộ rồi không ạ?”

“Chuyện này thì chưa chắc. Giờ chỉ có thể nói là không phải không có khả năng này. Tướng mạo người này tương đối đặc biệt. Đầu rất lớn, hình dạng lại kỳ quái, đỉnh đầu bẹt, gần như trọc lóc. Dáng người hắn ta lùn nhỏ, tay chân đều ngắn, tròn ung ủng. Nghe tả vật cô có thấy quen không?”

Cái Đầu Trọc hình dáng kỳ quái? “Tôi thường ngồi ở ban công của căn hộ này quan sát những người qua lại trên con đường phía trước, nhưng không thấy người nào như vậy cả. Bộ dạng của hắn ta như vậy thì rất dễ chú ý mà.”

“Chính xác. Hắn giống như một tên hề rực rỡ trong đoàn xiếc vậy. Nếu họ mà lại chọn kẻ này để phái đi thăm dò tình hình thì phải nói họ lựa chọn đến là kỳ quặc.”

Aomame đồng ý với bà chủ. Sakigake chắc hẳn sẽ không cố tình sái phái loại người dễ gây chú ý như vậy đi điều tra. Bọn họ không thể nào thiếu thốn nhân tài đến mức đó. Tức là, có lẽ người này không liên quan gì đến giáo đoàn, mối quan hệ giữa Aomame và bà chủ vẫn chưa bị bọn họ phát giác. Nhưng nếu vậy, người này là ai? Hắn thăm dò trung tâm bảo trợ phụ nữ với mục đích gì? Liệu có phải hắn chính là tên giả mạo nhân viên thu phí của đài NHK cố chấp đến gõ cửa kia hay không? Tất nhiên Aomame không có bằng chứng, chỉ là nàng cảm thấy lối ăn nói cổ quái của tên nhân viên thu phí rởm với tướng mạo dị dạng của người đàn ông mà bà chủ nhắc đến rất xứng với nhau mà thôi.

“Nếu cô trông thấy người đàn ông này, xin hãy liên lạc với chúng tôi. Có lẽ cần phải áp dụng hành động nào đó.”

“Đương nhiên tôi sẽ lập tức liên lạc với bà.” Aomame đáp.

Bà chủ lại im lặng. Đây là chuyện hiếm thấy. Lúc gọi điện thoại, bao giờ bà cũng nói năng đâu ra đấy, không bao giờ lãng phí thời gian, thậm chí còn đến mức chặt chẽ nữa.

“Bà khỏe chứ ạ?” Aomame hỏi như không có chuyện gì.

“Như thường, không có gì đáng để phàn nàn,” bà chủ nói. Nhưng trong giọng bà, nàng loáng thoáng nghe ra được một tia do dự. Đây cũng là chuyện hiếm thấy.

Aomame đợi bà chủ nói tiếp.

Giây lát sau, bà chủ tựa như cũng thôi không kiên trì nữa, liền nói: “Chỉ là dạo gần đây tôi thường có cảm giác mình đã già rồi. Đặc biệt là từ khi cô đi.”

Aomame cố ra vẻ thoải mái, nói: “Tôi đã đi đâu chứ. Tôi vẫn ở đây mà.”

“Tất nhiên rồi. Cô vẫn ở đó, chúng ta thỉnh thoảng vẫn có thể nói chuyện với nhau thế này. Nhưng trước đây tôi còn có thể gặp mặt cô định kỳ, hai người cùng luyện tập, ít nhiều tôi cũng thu được chút sức sống từ cô.”

“Bản thân bà vốn đã sở hữu sức sống tự nhiên. Tôi chẳng qua chỉ giúp điều động sức sống ấy của bà sao cho có lớp lang thôi. Kể cả tôi không ở đó, bà cũng hoàn toàn có thể tự làm được.”

“Nói thực lòng không lâu trước đây tôi cũng nghĩ như thế,” bà chủ khẽ cười một tiếng, tiếng cười của bà khô khốc thiếu sự mượt mà. “Thậm chí còn tự phụ cho rằng mình là người đặc biệt. Nhưng năm tháng từ từ cướp đi sự sống của người ta, không ai thoát được. Con người ta không phải đến số chết thì đột nhiên ngã xuống, mà chầm chậm chết từ bên trong trước, rồi cuối cùng mới tới ngày kết toán. Không ai thoát được. Người ta phải trả giá cho những thứ mình nhận được. Chẳng qua đến giờ phút này tôi mới học được chân lý đó mà thôi.”

Người ta phải trả giá cho những thứ mình nhận được. Giống hệt cách nói của gã nhân viên thu phí đài NHK kia.

“Trong cái đêm mưa lớn hồi tháng Chín, chính là cái đêm sấm đánh không ngừng ấy, tôi đột nhiên nghĩ đến điều này,” bà chủ nói. “Tôi đang ở nhà, một mình trong phòng khách, vừa lo cho cô vừa nhìn tia sét xẹt qua bầu trời. Lúc ấy, tôi đã tận mắt nhìn thấy sự thật được ánh chớp lóe lên chiếu sáng. Đêm đó tôi mất đi một người bạn là cô, đồng thời cũng mất đi thứ gì đó sâu trong nội tâm mình. Hoặc có lẽ là những thứ đã tích lũy nhiều năm, những thứ vẫn luôn ở trung tâm sự tồn tại của tôi, mạnh mẽ chống đỡ cho tôi.”

Aomame dứt khoát hỏi: “Trong đó có phải bao gồm cả sự phẫn nộ không?”

Một thoáng trầm mặc như thể đáy hồ khô cạn. Sau đó bà chủ cất tiếng: “Trong những thứ mà tôi mất đi lúc đó, phải chăng bao gồm cả sự phẫn nộ của tôi? Ý cô muốn hỏi vậy phải không.”

“Đúng vậy.”

Bà chủ chầm chậm thở dài một tiếng. “Câu trả lời cho câu hỏi này là Có. Đúng thế không hiểu tại sao, cảm giác phẫn nộ bừng bừng trong lòng tôi dường như đã biến mất trong tiếng sấm ầm ầm đó, hay ít nhất là đã lùi về một nơi xa xăm nào đó. Giờ đây thứ tồn tại trong tôi không phải là cảm giác phẫn nộ hừng hực như trước kia nữa, mà biến thành một thứ giống như là nỗi bi thương có sắc điệu nhàn nhạt. Thế mà tôi vẫn thường nghĩ sự phẫn nộ hừng hực ấy sẽ mãi mãi không bao giờ giảm nhiệt… nhưng mà, làm sao cô biết được điều đó?”

Aomame nói: “Vì chuyện đó cũng xảy đến với tôi. Chính vào cái đêm sấm đánh ì ùng đó.”

“Cô muốn nói đến sự phẫn nộ của cô?”

“Đúng vậy. Cảm giác phẫn nộ đậm đặc và thuần khiết trong tâm trí tôi giờ đây không còn nữa. Tuy rằng vẫn chưa tan biến hoàn toàn, nhưng giống như bà nói, nó đã lùa về một nơi xa xăm nào đó rồi. Cảm giác phẫn nộ ấy từng chiếm cứ một mảnh lớn trong tâm trí của tôi suốt thời gian dài. Nó là động lực thúc đẩy tôi tiến lên phía trước.”

“Giống như một người đánh xe không biết mệt mỏi, không biết xót thương,” bà chủ nói, “nhưng giờ đây nó đã mất đi sức mạnh, còn cô thì đã mang thai. Có nên nói là một sự thay thế không?”

Aomame điều chỉnh lại nhịp thở. “Đúng vậy. Một sự thay thế, bên trong tôi đã có một thứ bé nhỏ. Nó không liên quan gì đến phẫn nộ nữa. Và nó đang lớn lên trong tôi từng ngày.”

“Tôi biết tôi nói thế này là thừa… cô phải bảo vệ nó cho tốt,” bà chủ nói, “vì vậy cô càng phải nhanh chóng dọn đến một nơi không cần phải nơm nớp lo âu càng sớm càng tốt.”

“Vâng. Có điều, trước đó tôi còn một chuyện không thể không hoàn thành.”

Sau khi gác máy, Aomame đi ra ban công, dòm qua khe hở tấm lá sách bằng nhựa nhìn xuống con phố chiều, đôi mắt quan sát sân chơi. Hoàng hôn đang buông xuống. Trước khi năm 1Q84 kết thúc, trước khi bọn họ đuổi kịp mình, dù thế nào mình cũng phải tìm thấy Tengo.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 15: Tengo


Không được phép bàn luận về nó

Tengo ra khỏi quán Barleyhead, vừa nghĩ ngợi miên man vừa lang thang không mục đích trên đường. Sau đó anh quyết định, rảo chân về phía sân chơi trẻ em kia. Đó là nơi đầu tiên anh phát hiện trên trời có hai vầng trăng. Giống như lần ấy, mình sẽ leo lên đỉnh cầu trượt, ngửa mặt lên nhìn trời đêm. Có thể anh sẽ thấy mặt trăng thêm lần nữa, có thể hai vầng trăng ấy sẽ nói với anh một điều gì đó.

Lần trước mình đến sân chơi này là lúc nào nhỉ? Tengo vừa đi vừa lục tìm trong ký ức. Anh không nhớ nổi. Dòng chảy thời gian trở nên mất cân bằng, cảm giác về khoảng cách không còn ổn định nữa. Nhưng chắc là hồi đầu thu, anh vẫn còn nhớ khi đó mình mặc áo phông dài tay. Còn giờ đã là tháng Mười hai.

Gió lạnh thổi qua những cụm mây bay về phía vịnh Tokyo. Mây trông cưng cứng tựa như hồ được làm từ vữa ma tít, hình dạng mỗi cụm mỗi khác. Phía sau những cụm mây ấy, có thể loáng thoáng thấy hai mặt trăng lúc ẩn lúc hiện. Mặt trăng màu vàng quen thuộc và mặt trăng nhỏ màu xanh lục mới tham gia. Cả hai đều đã qua kỳ trăng tròn, giờ kích cỡ còn lại khoảng hai phần ba. Mặt trăng nhỏ kia trông thể đứa bé nấp sau váy mẹ. Vị trí hai mặt trăng về đại thể giống như lần trước, cơ hồ chúng vẫn luôn kiên nhẫn đợi ở đó, đợi Tengo quay lại.

Sân chơi buổi tối không một bóng người. Ngọn đèn thủy ngân còn sáng hơn trăng, lạnh lẽo hơn lần trước. Cành cây sồi trụi lá khiến anh tưởng tượng ra những khúc xương trắng cổ xưa nằm phơi mình trong mưa gió. Một đêm tựa hồ như sẽ có tiếng cú mèo rúc. Nhưng sân chơi trong thành phố thì không có cú mèo. Tengo kéo mũ trùm của áo jacket lên che đầu, xỏ hai tay vào túi áo, sau đó leo lên đỉnh cầu trượt, dựa vào tay vịn, ngước nhìn hai vầng trăng thoát ẩn thoắt hiện giữa tầng mây. Phía sau chúng, những vì sao âm thầm nhấp nháy. Khí thải ô nhiễm mờ mịt tích tụ trên bầu trời thành phố bị gió thổi tan, không khí trong lành, không lẫn tạp chất.

Lúc này đây, có bao nhiêu người đã để ý đến hai vầng trăng này giống như mình nhỉ? Tengo nghĩ. Fukaeri đương nhiên đã biết chuyện này rồi. Chuyện này vốn bắt nguồn từ cô. Hẳn là thế. Nhưng ngoài cô ra, không một ai quanh Tengo đề cập đến số lượng mặt trăng đã tăng lên. Mọi người vẫn chưa phát giác ra chuyện này? Họ không dám nhắc tới nó? Hay nó là một sự thật mọi người đã biết từ lâu, chẳng ai coi là chuyện đáng nói nữa? Dù thế nào, ngoài người bạn giúp anh dạy thay ở trường dự bị kia, Tengo chưa hỏi dò bất kì ai khác về chuyện mặt trăng. Nói chính xác hơn, anh cẩn thận không nhắc đến chuyện này trước mặt người khác, tựa như đây là một chủ đề không thích hợp về mặt đạo đức vậy.

Tại sao nhỉ?

Tengo nghĩ, có lẽ là hai mặt trăng muốn thế. Hoặc giả, hai mặt trăng xét cho cùng chỉ là thông điệp gởi riêng đến cá nhân Tengo, còn anh thì chưa được chấp thuận chia sẻ thông tin này với người khác.

Nhưng suy nghĩ như thế thì thật kỳ quặc. Số lượng mặt trăng sao lại có thể trở thành thông điệp gửi đến cá nhân được cơ chứ? Rốt cuộc nó muốn truyền đạt điều gì? Tengo có cảm giác nó không giống như thông điệp, mà giống như một câu đố phức tạp hơn. Nếu vậy, kẻ đặt ra câu đố ấy là ai? Kẻ không chấp thuận kia lại là ai nữa?

Gió xuyên qua những cành sồi phát ra tiếng rít chói tai, tựa như tiếng thở lạnh lùng rít ra từ kẽ răng của những người nếm trải nỗi tuyệt vọng. Tengo ngước nhìn mặt trăng, không để ý lắm đến tiếng gió, anh cứ ngồi đến khi cả người lạnh thấu xương. Cứ vậy chắc khoảng mười lăm phút. Không, có lẽ lâu hơn một chút. Không biết từ bao giờ, Tengo đã mất luôn cả cảm giác về thời gian. Cơ thể anh vốn được rượu whiskey làm ấm lên vừa đủ độ, giờ lại vừa cứng vừa lạnh, như một tảng đá cô độc dưới đáy biển.

Mây liên tiếp bị dồn về phía Nam. Dù bị dồn đi khỏi bao nhiêu, mây vẫn ùn ùn kéo tới không ngớt. Ở phương Bắc xa xôi kia nhất định là có một nguồn cung cấp mây vô tận. Những con người lòng dạ kiên cường, khoác trên mình bộ đồng phục dày nặng màu xám, từ sáng sớm đến tối mịt lẳng lặng chế tạo ra những cụm mây, giống như con ong làm mật, con nhện giăng tơ, như chiến tranh tạo ra những bà quả phụ vậy.

Tengo nhìn đồng hồ đeo tay. Sắp tám giờ tối. Sân chơi vẫn không một bóng người. Thi thoảng có người bước vội vã qua con đường phía trước. Dáng đi của những người tan sở về nhà đều giống hệt nhau. Bên kia đường, khu chung cư sáu tầng mới xây có nửa số nhà cửa sổ sáng đèn. Trong một tối mùa đông gió lạnh căm căm, cửa sổ sáng đèn có thể mang đến cảm giác cấm áp đặc biệt dịu dàng, Tengo đưa mắt lần lượt dò theo từng ô cửa sổ sáng, như thể ngồi trên con thuyền câu nhỏ bập bềnh trên mặt biển đêm ngước nhìn một chiếc du thuyền xa hoa. Ô cửa sổ nào cũng kéo rèm, như đã thông đồng với nhau từ trước. Từ trong chiếc cầu trượt lạnh lẽo trong sân chơi trẻ em về đêm nhìn sang, nơi đó giống như một thế giới khác. Một thế giới được xây dựng dựa trên những nguyên lý khác, vận hành theo những quy tắc khác. Phía sau những tấm rèm cửa kia, mọi người chắc hẳn sống cuộc sống hết sức bình thường của họ, yên bình và thoải mái.

Cuộc sống hết sức bình thường?

Hình ảnh duy nhất là Tengo có thể tưởng tượng ra về “cuộc sống hết sức bình thường” chỉ là thứ cuộc sống được công thức hóa, không có chiều sâu và sắc thái. Hai vợ chồng, có thể có hai đứa con. Mẹ đeo tạp dề. Cái nồi bốc hơi nghi ngút, cuộc nói chuyện bên bàn ăn… trí tưởng tượng của Tengo đến đây thì đụng phải bức tường. Một gia đình bình thường rốt cuộc sẽ nói chuyện gì bên bàn ăn tối nhỉ? Anh không có ký ức về cuộc nói chuyện bên bàn ăn nào với cha mình. Hai người cứ lẳng lặng nhét thức ăn vào dạ dày vào bất cứ lúc nào thấy tiện cho mình. Những thứ họ cho vào miệng ấy cũng khó mà gọi là thức ăn được.

Quan sát những ô cửa sổ sáng đèn của tòa nhà chung cư một lúc, anh lại nhìn lên hai mặt trăng lớn nhỏ. Nhưng dẫu anh đợi bao lâu, cũng chẳng có trăng nào thổ lộ với anh điều gì. Bộ mặt không xúc cảm của chúng hướng về phía này tựa như một đôi câu đối chưa chỉnh, cần phải nhuận sắc thêm treo lơ lửng trên bầu trời. Hôm nay không có thông điệp gì. Đây chính là thông điệp duy nhất mà chúng truyền đạt đến Tengo.

Những cụm mây không biết mệt mỏi bay ngang bầu trời trôi về phía Nam. Những đám mây hình dạng, kích cỡ khác nhau đến rồi lại đi. Trong số đó, có những đám mây hình dạng rất thú vị, tựa như chúng có suy nghĩ độc đáo của riêng mình. Những suy nghĩ nhỏ, nhưng cứng rắn, có đường nét rõ ràng. Thế nhưng, điều Tengo muốn biết không phải cách nghĩ của mây, mà là của mặt trăng.

Cuối cùng Tengo đành bỏ cuộc, đứng dậy vươn người, duỗi tay duỗi chân, sau đó leo xuống cầu trượt. Chẳng còn cách nào khác. Hôm nay làm rõ được rằng số lượng mặt trăng không thay đổi, coi như cũng đáng công rồi. Hai tay thọc vào túi áo jacket, anh đi khỏi sân chơi, chầm chậm sải từng bước chân dài đi về nhà. Đi được một lúc, anh chợt nghĩ đến Komatsu. Đã đến lúc cần nói chuyện với anh ta rồi. Ít nhiều gì cũng cần sắp xếp lại một số chuyện giữa anh và anh ta. Komatsu cũng từng nói có chuyện đợi mấy hôm nữa sẽ nói với Tengo. Anh đã cho Komatsu số điện thoại của viện điều dưỡng ở Chikura, nhưng anh ta không gọi. Ngày mai anh sẽ gọi cho Komatsu. Có điều trước đó anh phải đến trường dự bị một chuyến, đọc lá thư Fukaeri giao cho người bạn anh giữ, xem trong đó viết những gì.

Lá thư của Fukaeri vẫn được để trong ngăn kéo bàn làm việc, không ai đụng tới. Phong bì dán rất chặt, nhưng thư rất ngắn. Trên nửa tờ giấy vở là hàng chữ trông như văn tự hình nêm quen thuộc viết bằng bút bi màu xanh. Kiểu chữ ấy viết lên mảng đất sét thì thích hợp hơn là giấy vở. Tengo biết, viết chữ kiểu này tốn rất nhiều thời gian của Fukaeri.

Tengo đọc lá thư mấy lần. Trong thư viết cô không thể không đi khỏi nhà Tengo. Ngay bây giờ, cô viết. Vì có người đang quan sát chúng ta, đây là lý do của cô. Cô dùng bút chì mềm nét lớn gạch đi gạch lại bên dưới mấy chữ ấy. Những nét gạch chân có sức thuyết phục đến kinh người.

Kẻ nào đang quan sát “chúng ta”? Sao cô biết chuyện này? Không lời giải thích. Trong thế giới mà Fukaeri đang sống, có vẻ như không thể nói thẳng ra về sự thật được. Kiểu như tấm bản đồ đánh dấu kho tàng của bọn hải tặc, mọi thứ cần được biểu hiện thông qua ám hiệu, câu đố, hoặc phải bị làm cho khuyết thiếu hay biến dạng đi. Giống như bản thảo ban đầu của Nhộng không khí vậy. Nhưng Fukaeri chắc là không có ý đưa ra một ám hiệu hay câu đố nào. Đối với cô, đây mới là phương thức biểu đạt tự nhiên nhất. Chỉ thông qua những từ vựng ngữ pháp ấy, cô mới có thể truyền đạt được những hình ảnh và tư tưởng trong đầu mình cho người khác. Muốn trao đổi với Fukaeri thì buộc phải quen với phương thức biểu đạt này. Người nào tiếp nhận thông tin từ chỗ cô đều cần phải vận dụng năng lực và trí lực của mình, để sắp xếp lại trình tự và bổ sung những chỗ còn khuyết thiếu. Nhưng dù thế nào, Tengo cũng tạm thời chấp nhận những tuyên bố của Fukaeri. Nếu cô cảm thấy “có người đang quan sát chúng ta” thì chắc hẳn đúng là có người đang quan sát họ thật. Khi cô cảm thấy “không thể không đi khỏi,” thì đó là thời điểm thích hợp nhất để cô đi khỏi. Cứ hãy coi những điều này là một sự thật tổng thể và tiếp nhận nó đã. Còn về bối cảnh, chi tiết và căn nguyên, sau này anh sẽ tự mình tìm kiếm, suy đoán. Nếu không thì ngay từ đầu anh phải từ bỏ việc chạy theo những tuyên bố ấy đi.

Có người đang quan sát chúng ta.

Lẽ nào là người của Sakigake đã tìm được Fukaeri rồi? Bọn họ biết về mối quan hệ giữa Tengo và Fukaeri, nắm được rằng anh được Komatsu ủy thác viết lại Nhộng không khí, vì vậy mà Ushikawa mới tìm cách tiếp cận anh. Bọn họ không từ thủ đoạn nào để đưa anh vào tầm ảnh hưởng của mình (đến giờ Tengo vẫn chưa biết tại sao). Nếu là vậy, rất có thể bọn họ giờ này đang giám sát nhà anh.

Nhưng nếu vậy thì bọn họ dường như quá lãng phí thời gian. Fukaeri đã ở nhà Tengo được ba tháng. Đó lại là một đám người có tổ chức và sức mạnh thật sự. Họ muốn bắt Fukaeri đi thì dễ như trở bàn tay, chẳng việc gì phải tốn công tốn sức giám sát chỗ ở của Tengo. Vả lại, nếu bọn họ thực sự đang giám sát Fukaeri thì chắc chắn đã không để cô thoải mái muốn đi là đi như thế.

Càng suy luận theo logic, đầu óc Tengo càng bấn loạn. Chỉ có thể cho rằng bọn họ không có ý bắt Fukaeri. Cũng có khả năng, ở một thời điểm nào đó, bọn họ đã chuyển mục tiêu hành động từ Fukaeri sang đối tượng khác. Một nhân vật có liên quan với cô, nhưng không phải là bản thân cô. Có lẽ, vì một lý do nào đó, Fukaeri đã không còn là mối đe dọa đối với Sakigake nữa. Nhưng nếu giả định như vậy, tại sao giờ bọn họ lại cất công giám sát chỗ ở của anh?

Tengo dùng điện thoại công cộng của trường dự bị gọi đến nhà xuất bản của Komatsu. Tuy hôm nay Chủ nhật nhưng Tengo biết Komatsu thích đến công ty làm việc vào ngày nghỉ. Chỉ cần không có người khác ở đó, công ty cũng là một chỗ không tệ, anh ta ưa nói thế. Nhưng không ai nghe máy. Tengo nhìn đồng hồ, mới mười một giờ trưa. Komatsu sẽ không đi làm sớm như vậy. Bất kể thứ mấy thì cũng phải sau khi mặt trời lên quá đỉnh đầu anh ta mới bắt đầu công việc của một ngày. Tengo ngồi trên ghế trong nhà ăn tự phục vụ, uống cà phê loãng, đọc bức thư của Fukaeri một lần nữa. Như mọi lần, cô dùng cực kỳ ít chữ kanji, không có dấu câu mà cũng không ngắt đoạn.

Tengo anh đọc bức thư này sau khi trở về từ thành phố mèo đây là chuyện tốt nhưng có người đang quan sát chúng ta vì vậy em không thể không rời khỏi căn phòng này mà còn phải ngay bây giờ chuyện của em anh không cần lo em không thể ở lại đây được nữa lần trước đã bảo anh người anh muốn tìm đang ở nơi có thể đi bộ từ đây tới nhưng phải đề phòng có người đang quan sát.

Tengo đọc đi đọc lại bức thư ngắn ngủn như điện báo này ba lần liền, sau đó gấp lại cho vào túi. Lần nào cũng thế, càng đọc đi đọc lại, những gì cô viết lại càng khả tín hơn. Anh đã bị giám sát. Tengo giờ coi điều này như một sự thật đã được xác minh. Anh ngẩng đầu lên, đảo mắt nhìn quanh nhà ăn tự phục vụ của trường dự bị. Đang trong giờ học, trong nhà ăn không có mấy người. Chỉ có mấy học sinh đang đọc sách giáo khoa, viết gì đó vào vở. Không thấy ai giống người đang âm thầm giám sát anh trong bóng tối.

Có một vấn đề cơ bản: giả dụ mục tiêu không phải là Fukaeri, vậy thì rốt cuộc bọn họ giám sát ai đây? Là bản thân anh, hay là nơi ở của anh? Tengo nghĩ về điều này. Tất nhiên, tất cả chẳng qua đều chỉ là suy đoán. Nhưng anh cảm thấy có lẽ đối tượng chú ý của bọn họ không phải là mình. Tengo chỉ là tay thợ viết được ủy thác sửa lại Nhộng không khí. Quyển sách đã xuất bản, đã trở thành chủ đề trong câu chuyện của mọi người, không lâu sau thì chủ đề ấy cũng biến mất. Sứ mệnh của Tengo đã kết thúc từ lâu, giờ không còn lý do gì để anh được ai chú ý nữa.

Fukaeri hẳn là gần như không ra khỏi cửa. Nhưng cô cảm nhận được ánh nhìn, có nghĩa là căn hộ của anh đã bị giám sát. Thế nhưng, đối phương ngồi ở đâu giám sát mới được chứ? Đây là khu vực dân cư tập trung rất đông đúc của thành phố, nhưng đáng ngạc nhiên là căn hộ trên tầng ba của Tengo lại nằm ở vị trí gần như không bị quấy nhiễu bởi ánh mắt của người ngoài. Đây cũng là một trong các lý do Tengo thích căn hộ này ở mãi không dọn đi. Người tình hơn tuổi anh cũng thích nó vì thế. “Không nói đến vẻ bề ngoài,” cô thường nói, “căn hộ này khiến người ta yên lòng một cách kỳ lạ, cũng như người sống ở đây vậy.”

Mỗi lần hoàng hôn buông xuống, một con quạ lớn bay đến bên cửa sổ. Fukaeri thường hay nhắc đến con quạ này trong điện thoại. Con quạ đậu trên cái bệ chật hẹp xây bên ngoài cửa xổ để đặt chậu hoa, cọ đôi cánh đen như mực lên cửa kính lạch phạch. Đậu lại một lúc bên ngoài căn hộ này trước khi về tổ đã trở thành thói quen của nó. Vả lại, nó dường như cũng rất chú ý đến bên trong căn hộ. Hai con mắt vừa to vừa đen ở hai bên má chuyển động thoăn thoắt, thu thập thông tin qua kẽ hở của tấm rèm. Quạ là loài động vật thông minh, hơn nữa còn rất tò mò. Fukaeri nói cô có thể nói chuyện với con quạ này. Nhưng nói gì thì nói, khó có thể nào cho rằng con quạ ấy là công cụ của người nào đó dùng để thăm dò tình hình trong nhà Tengo.

Vậy thì, bọn họ ở đâu để giám sát tình hình trong nhà anh?

Trên đường từ ga tàu về nhà, Tengo tiện thể ghé vào siêu thị mua rau, sữa bò và trứng. Anh ôm túi giấy đứng trước cửa kính của tòa nhà, đảo mắt một vòng xung quanh cho chắc ăn. Không thấy gì khả nghi cả. Vẫn là những cảnh tượng như mọi khi. Nhưng sợi dây điện võng xuống giữa không trung tựa như lòng ruột của đêm; bãi cỏ mùa đông khô héo vì lạnh trong khoảng sân chật hẹp phía trước; hòm thư hoen gỉ. Anh dỏng tai lên lắng nghe một lúc. Nhưng ngoài tiếng tạp âm đặc hữu của đô thị, nghe như tiếng đập cánh bất tận, anh không nghe thấy bất cứ gì khác.

Anh vào nhà sắp xếp lại thực phẩm, rồi bước tới trước cửa sổ kéo rèm ra, kiểm tra khung cảnh bên ngoài. Bên kia đường, phía đối diện, có ba ngôi nhà cũ kiểu nhà hai tầng nhỏ xây trên mảnh đất hẹp. Chủ mấy ngôi nhà đó đều là người già, những cư dân có thâm niên, người nào người nấy mặt mũi khó đăm đăm không thân thiện, ghét mọi sự thay đổi. Dù gì đi nữa cũng không thể có chuyện họ vui vẻ hoan nghênh một người lạ mặt leo lên tầng hai nhà mình. Hơn nữa, từ chỗ đó dù có vươn ra mấy thì cùng lắm cũng chỉ nhìn thấy một phần trần nhà của Tengo mà thôi.

Tengo đóng cửa sổ lại, đun nước, pha cà phê, ngồi uống bên bàn ăn, nghiền ngẫm mọi giả thuyết mình có thể nghĩ ra. Có người ở gần đây giám sát mình. Và Aomame đang ẩn náu (hoặc từng ẩn náu) ở một nơi có thể đi bộ từ đây đến. Giữa hai chuyện này phải chăng có quan hệ gì? Hay là trùng hợp ngẫu nhiên? Nhưng anh nghĩ mãi vẫn không thể rút ra được kết luận nào. Dòng suy nghĩ của anh như con chuột đáng thương đang ở trong một mê cung mà mọi lối thoát đều bị bịt kín, chỉ biết ngửi mùi hương pho mát, rồi cứ thế vòng đi vòng lại trên cùng một tuyến đường.

Anh thôi không suy nghĩ nữa, chuyển sang đọc lướt tờ báo mới mua ở cửa hàng tạp hóa trong nhà ga. Ronald Regan vừa tái đắc cử tổng thống Mỹ vào mùa thu năm nay đã gọi thủ tướng Nakasone Yasuhiro là “Yasu,” còn thủ tướng Nakasone thì gọi ông ta là “Ron.” Tất nhiên, một phần nguyên nhân là do cách tấm ảnh đó được chụp, hai người bọn họ trông giống như hai tay làm trong ngành xây dựng đang bàn xem làm thế nào tráo đổi vật liệu xây dựng thành loại chất lượng kém giá thành thấp vậy. Ở Ấn Độ, bạo loạn dấy lên do vụ ám sát thủ tướng Indira Gandhi vẫn tiếp diễn, khắp đất nước có rất nhiều người theo đạo Sikh bị thảm sát. Nhật Bản được mùa táo lớn chưa từng có. Nhưng không có tin tức nào khiến anh hứng thú.

Đến khi kim đồng hồ chỉ hai giờ, anh lại gọi điện đến công ty của Komatsu.

Chuông đổ liên tiếp mười hai hồi thì Komatsu mới cầm máy. Giống như mọi lần. Không hiểu vì sao anh ta không bao giờ cầm điện thoại lên một cách dễ dàng.

“Tengo à, lâu lắm không gặp,” Komatsu nói. Giọng nói của anh ta đã hoàn toàn trở lại như cũ. Trôi chảy, hơi giống như đang diễn kịch, không thể nắm bắt.

“Hai tuần vừa rồi tôi đi Chikura. Vừa mới về chiều tối hôm qua.”

“Nghe nói tình trạng bố cậu không được ổn cho lắm. Cậu vất vả nhỉ.”

“Cũng không có gì vất vả. Bố tôi bị hôn mê sâu, tôi chẳng qua chỉ ngồi bên cạnh, nhìn gương mặt ông ấy lúc ngủ thôi. Thời gian còn lại thì ở trong lữ quán viết tiểu thuyết.”

“Nhưng dù sao thì cũng liên quan đến sự sống chết của một con người, xét cho cùng cũng không phải dễ dàng gì cho cậu.”

Tengo đổi chủ đề câu chuyện: “Anh chẳng đã nói mấy hôm nữa có chuyện muốn nói với tôi còn gì? Lần gọi điện thoại trước ấy. Cũng lâu lắm rồi.”

“Chính là chuyện đó đấy,” Komatsu nói, “tôi muốn gặp mặt cậu nói cho tiện. Cậu rảnh không?”

“Nếu là việc quan trọng, gặp sớm một chút tốt hơn nhỉ?”

“Đúng vậy, có lẽ sớm một chút tốt hơn.”

“Tối nay thì tôi có thể đi được.”

“Tối nay được đấy. Vừa khéo tôi cũng có thời gian. Bảy giờ nhé?”

“Không thành vần đề,” Tengo trả lời.

Komatsu nói tên một quán rượu gần công ty anh ta. Tengo từng đến đó mấy lần. “Quán này mở cả ngày Chủ nhật, mà Chủ nhật hầu như không có khách khứa gì, có thể nói chuyện lâu được.”

“Sẽ lâu à?”

Komatsu thoáng trầm ngâm. “Nói thế nào nhỉ? Lâu hay chóng, phải nói chuyện thì mới biết được.”

“Được rồi. Tùy anh muốn nói bao lâu thì nói, tôi sẽ tiếp chuyện đến cùng. Chúng ta ngồi chung một con thuyền mà, đúng không nhỉ? Hay anh đã ngồi lên con thuyền khác rồi?”

“Làm gì có chuyện đó,” hiếm khi nào giọng Kmatsu thành thực đến như vậy. “Hiện giờ chúng ta vẫn đang ngồi trên một con thuyền. Tóm lại là bảy giờ gặp. Đến lúc ấy tôi sẽ nói rõ với cậu.”

Sau khi dập máy. Tengo ngồi xuống trước bàn làm việc, bật máy xử lý văn bản lên, nhập vào máy những gì anh viết bằng bút bi trên giấy trong lữ quán ở Chikura. Đọc lại những dòng viết ấy, trong đầu anh hiện ra hình ảnh của thị trấn nhỏ ven biển: cảnh viện điều dưỡng, gương mặt ba cô y tá, ngọn gió biển lay động khu rừng thông chắn gió, lũ hải âu trắng như tuyết bay lượn giữa tầng không. Tengo đứng dậy, kéo rèm cửa sổ, hít không khí mát lạnh bên ngoài vào lồng ngực.

Tengo anh đọc bức thư này sau khi từ thành phố mèo trở về đây là chuyện tốt.

Fukaeri viết như vậy trong thư. Nhưng căn hộ mà anh trở về này bị người ta giám sát. Không biết kẻ nào đang ẩn trốn ở đâu để tiến hành việc đó. Nói không chừng trong căn phòng còn gắn cả máy quay nữa cũng nên. Tengo bắt đầu lo lắng, liền kiểm tra mọi ngóc ngách trong nhà. Nhưng anh không phát hiện ra máy quay, cũng không tìm thấy thiết bị nghe lén. Nói cho cùng thì đây là một căn hộ một phòng vừa nhỏ vừa cũ, nếu gắn mấy thứ đó thì không thể nào che giấu được.

Tengo ngồi trước bàn nhập bản thảo tiểu thuyết vào máy cho đến tận khi trời sẩm tối. Không phải sao chép lại y nguyên những chữ đã viết mà liên tục sửa chữa, nên tốn nhiều thời gian hơn anh tưởng. Lúc dừng tay để bật đèn, Tengo mới nhớ ra hôm nay con quạ không đến. Chỉ cần nghe tiếng là biết nó đến hay chưa, vì nó sẽ đập đôi cánh lớn vào cửa kính. Cũng vì vậy, khắp mặt tấm kính đều bám một lớp dầu mòng, tựa như một đoạn mật mã đang chờ người giải.

Năm giờ rưỡi, anh nấu một bữa tối đơn giản. Tengo không có cảm giác thèm ăn, nhưng lúc bữa trưa anh đã không ăn cho tử tế rồi nên bây giờ nhét chút gì vào bụng thì hơn. Anh làm xa lát cà chua với tảo quấn đới, ăn một miếng bánh mỳ nướng. Sáu giờ mười lăm phút, anh khoác áo khoác màu xanh nhung ô liu ra ngoài chiếc áo len cao cổ màu đen rồi đi ra ngoài. Lúc ra khỏi cổng chính tòa nhà, anh dừng bước đưa mắt nhìn xung quanh. Vẫn không phát hiện thứ gì đáng để mắt. Không có người đàn ông nào nấp sau cột điện, không có chiếc xe nào đáng nghi đậu ở ven đường, cả con quạ cũng không đến. Nhưng Tengo càng bất an hơn. Anh có cảm giác mọi thứ nhìn tưởng như không có liên can gì ở xung quanh đều đang âm thầm giám sát mình. Người phụ nữ xách làn đi ngang, ông già lặng lẽ dắt chó ra ngoài đi dạo, cậu học sinh cấp ba lưng đeo vợt tennis thậm chí chẳng buồn nhìn qua phía này đã đạp xe phóng qua, nói không chừng tất cả đều là những kẻ theo dõi giỏi ngụy trang được Sakigake phái đến.

Chắc nghi ngờ quá mà sinh hoang tưởng rồi. Tengo nghĩ. Cần phải đề cao cảnh giác. Nhưng mẫn cảm quá cũng không tốt. Tengo rảo chân đi về phía nhà ga, thi thoảng quay ngoắt đầu lại nhìn xem có ai theo dõi mình không. Nếu có người bám đuôi, chắc là anh sẽ nhận ra được. Tầm nhìn của anh bẩm sinh đã rộng hơn người thường, thị lực của anh cũng rất tốt. Sau ba lần quay đầu lại như thế, Tengo đã tin chắc mình không bị ai bám đuôi.

Tengo đến quán rượu hẹn với Komatsu lúc bảy giờ kém năm. Komatsu vẫn chưa đến, Tengo hình như là vị khách đầu tiên của ngày hôm nay. Bình hoa lớn trên quầy bar cắm đầy hoa tươi, mùi ở vết cắt chỗ cành hoa ấy hãy còn vương vấn ở xung quanh. Tengo ngồi ở khoang riêng phía bên trong, gọi một cốc bia tươi, rồi móc cuốn sách bìa mềm trong túi áo khoác ra đọc.

Bảy giờ mười lăm phút Komatsu mới đến. Anh ta mặc áo khoác vải tuýt với áo len cashmere mỏng, khăn quàng cũng bằng len cashmere, quần len lông cừu, đi giày da lộn. Kiểu ăn mặc thường ngày của anh ta. Món nào cũng là hàng cao cấp, có gu, cũ vừa đúng độ. Những thứ quần áo này mặc lên người anh ta gây cảm giác như là một phần của cơ thể anh ta vậy. Tengo chưa bao giờ thấy Komatsu mặc thứ gì mà thoạt nhìn đã biết là mới mua về. Có lẽ anh ta mặc quần áo mới mua mà đi ngủ, lăn lê bò toài dưới sàn nhà, hoặc đã giặt qua nhiều lần, hong khô trong bóng râm, sau đó, khi quần áo bạc màu vừa đúng độ, anh ta mới mặc để đi gặp người khác, làm bộ dạng như ta đây xưa nay không bao giờ để ý đến chuyện áo quần. Kiểu cách ăn mặc ấy khiến anh ta thoạt nhìn đã thấy giống một biên tập viên lâu năm dạn dày kinh nghiệm. Thực ra mà nói, ngoài giống một biên tập viên lâu năm dạn dày kinh nghiệm, anh ta chẳng giống gì khác cả. Anh ta ngồi xuống trước mặt Tengo, cũng gọi bia tươi.

“Trông cậu hình như không có thay đổi gì,” Komatsu nói. “Cuốn tiểu thuyết mới vẫn thuận lợi chứ?”

“Tiến triển chậm lắm, nhưng đang không ngừng tiến triển.”

“Vậy thì tốt quá. Tác giả chỉ có cách tiếp tục không ngừng viết thì mới tiến bộ được. Giống như lũ sâu vĩnh viễn không bao giờ ngừng gặm lá cây vậy. Tôi nói không sai chứ? Việc viết lại Nhộng không khí đã có ảnh hưởng tốt đến công việc của cậu mà, đúng không?”

Tengo gật đầu. “Đúng thế. Sau khi làm công việc ấy, hình như tôi đã học được một số thứ quan trọng về tiểu thuyết. Nhìn thấy một số thứ mà trước đây mình không thấy.”

“Không phải mèo khen mèo dài đuôi đâu, nhưng chuyện này thì tôi rõ như lòng bàn tay. Tengo, cậu chính xác là cần một bước ngoặc như thế đấy.”

“Nhưng mà tôi cũng đến khổ vì vụ này rồi. Anh biết đó.”

Miệng Komatsu vểnh lên như trăng mới nhú giữa đêm đông, nở một nụ cười. Một nụ cười khó lòng đo được độ nông sâu.

“Người ta muốn có được thứ gì quan trọng thì phải trả cái giá tương ứng. Đây là quy tắc của thế giới mà.”

“Có lẽ vậy. Nhưng rất khó phân biệt đâu là thứ quan trọng, đâu là cái giá phải trả. Vì tất cả đã bị khuấy loạn lên với nhau cả rồi.”

“Có rất nhiều chuyện đúng là đã bị khuấy loạn cả lên với nhau, giống như nói chuyện trên điên thoại khi đường dây bị chập vậy. Cậu nói không sai đâu.” Komatsu nói, chau mày lại. “À phải, Fukaeri giờ đang ở đâu, cậu biết không?”

“Giờ ấy à, tôi không biết,” Tengo lựa lời rồi mới nói.

“Giờ ấy à,” Komatsu nhắc lại đầy ẩn ý.

Tengo trầm ngâm không đáp.

“Có điều, cho đến trước đây không lâu cô ấy còn ở nhà cậu,” Komatsu nói, “tôi nghe nói thế.”

Tengo gật đầu: “Đúng vậy. Cô ấy ở chỗ tôi gần ba tháng.”

“Ba tháng không phải là thời gian ngắn,” Komatsu nói, “nhưng cậu không nói với ai.”

“Vì cô ấy không muốn tôi nói cho bất cứ người nào, nên tôi không nói với ai, kể cả anh Komatsu.”

“Nhưng giờ cô ấy không ở chỗ cậu nữa.”

“Đúng. Trong thời gian tôi đi Chikura, cô ấy để lại một bức thư, rồi rời khỏi nhà tôi. Chuyện sau đó thế nào thì tôi không biết.”

Komatsu lấy một điếu thuốc, ngậm trên miệng rồi đánh diêm, nheo mắt nhìn Tengo.

“Sau đó Fukaeri trở về nhà của thầy giáo Ebisuno. Căn nhà trên núi Futamatao ấy,” anh ta nói, “thầy giáo Ebisuno đã liên hệ với cảnh sát, rút lại yêu cầu tìm người mất tích. Ông ấy bảo họ là Fukaeri chỉ ra ngoài một thời gian, không phải bị bắt cóc. Chắc chắn cảnh sát đã đến gặp cô ấy hỏi han một lượt xem chuyện gì đã xảy ra. Tại sao lại đột nhiên biến mất? Đã đi đâu? Làm chuyện gì? Dẫu sao thì cô ấy vẫn đang ở tuổi vị thành niên mà. Mấy hôm nữa có lẽ báo chí sẽ đăng bài, tác giả nữ trẻ mất tích nhiều này đã bình yên trở về, kiểu thế. Ừm, mà có bài đăng thì chắc cũng không quá dài đâu. Có dính dáng gì đến sự kiện phạm tội đâu mà.”

“Chuyện cô ấy từng trốn ở nhà tôi cũng sẽ lộ ra chứ?”

Komatsu lắc đầu. “Không. Fukaeri sẽ không nói tên cậu ra đâu. Tính cách của cô ấy là thế, dù đối phương là cảnh sát hay đội hiến binh lục quân, là hội đồng cách mạng hay mẹ Teresa, một khi cô ấy đã quyết không nói thì dẫu chết cũng không chịu mở miệng đâu. Vì vậy, chuyện này cậu không cần lo.”

“Tôi không lo, chỉ là muốn tìm hiểu xem tình thế có thay đổi gì hay không thôi.”

“Tóm lại, tên cậu sẽ không bị công khai. Đừng lo,” Komatsu nói, sau đó gương mặt trở nên nghiêm túc, “Chuyện này tạm thời không nói nữa, tôi có việc cần hỏi cậu đây. Nhưng cũng hơi khó mở miệng một chút.”

“Chuyện khó mở miệng?”

“Nên nói thế nào nhỉ, việc này hơi riêng tư…”

Tengo uống một ngụm bia, đặt cốc lên bàn. “Không sao cả. Nếu có thể trả lời, tôi sẽ trả lời.”

“Cậu có quan hệ tình dục với Fukaeri không? Ý tôi là trong khoảng thời gian cô ấy ở nhà cậu ấy. Cậu chỉ cần trả lời. Có hay Không là được.”

Tengo ngập ngừng giây lát, sau đó chầm chậm lắc đầu. “Câu trả lời của tôi là Không. Giữa tôi và cô ấy không có quan hệ kiểu đó.”

Chuyện xảy ra giữa anh và Fukaeri vào đêm mưa gió ấy, dù thế nào cũng không thể nói ra được. Tengo quyết định theo trực giác như vậy. Đây là một bí mật không thể công khai, anh không được phép nói về nó. Vả lại, đó không thể gọi là hành vi quan hệ tình dục được. Ở cả hai phía.

“Vậy tức là không có quan hệ tình dục à?”

“Không có,” Tengo trả lời bằng giọng khô khốc.

Hai cánh mũi Komatsu chun lại. “Nhưng cậu Tengo này, không phải tôi nghi ngờ cậu, có điều trước khi cậu trả lời Không, cậu đã ngừng khoảng từ một đến hai nhịp. Theo tôi thấy thì có vẻ cậu đang trù trừ do dự. Liệu có phải giữa hai người đã có quan hệ gần giống như vậy hay không? Tôi không có ý trách móc gì cậu đâu. Chẳng qua chỉ muốn tìm hiểu sự thật một chút.”

Tengo nhìn thẳng vào mắt Komatsu. “Tôi không trù trừ, chỉ là cảm thấy hơi kỳ lạ. Sao anh Komatsu lại hứng thú với việc tôi có quan hệ tình dục với Fukaeri hay không như thế. Vì tính anh không phải cái loại thích soi mói cuộc sống riêng tư của người khác, ngược lại anh còn có xu hướng né tránh chuyện đó nữa.”

“Ừm,” Komatsu nói.

“Vậy thì, giờ tại sao chuyện này lại trở thành vấn đề?”

“Tất nhiên, cậu Tengo ạ, cậu ngủ với ai, Fukaeri làm gì với người nào về cơ bản chẳng liên quan gì đến tôi hết,” Komatsu lấy ngón tay ngoáy mũi, “như cậu vừa nói đấy. Nhưng cậu cũng biết mà, Fukaeri không giống những cô gái bình thường. Tôi phải nói thế nào bây giờ nhỉ? Tức là, mỗi hành động của cô ấy đều có ý nghĩa.”

“Có ý nghĩa,” Tengo đáp lại.

“Dĩ nhiên, về logic, xét trên kết quả thì hành vi nào của bất cứ người nào cũng đều có ý nghĩa,” Komatsu nói, “nhưng trong trường hợp của Fukaeri, chúng có ý nghĩa sâu sắc hơn. Ở cô ấy có những yếu tố không tầm thường. Vì vậy, chúng tôi cần cố gắng ở mức cao nhất để nắm được mọi sự việc liên quan đến cô ấy.”

“Chúng tôi ở đây cụ thể là những ai vậy?” Tengo hỏi.

Komatsu lộ vẻ khó xử, đây cũng là chuyện hiếm gặp. “Nói thực lòng, người muốn biết cậu và Fukaeri có phải đã quan hệ tình dục thực ra không phải tôi, mà là thầy giáo Ebisuno.”

“Thầy giáo Ebisuno cũng biết Fukaeri từng ở chỗ tôi?”

“Tất nhiên. Từ ngày đầu tiên cô ấy sống nhờ ở nhà cậu, Thầy giáo đã biết rồi. Fukaeri luôn luôn báo với ông ấy rằng cô ấy ở đâu.”

“Tôi không biết chuyện đó,” Tengo kinh ngạc nói. Fukaeri hình như đã nói cô không nói chỗ ở của mình cho bất cứ ai. Nhưng chuyện đã đến nước này thì cũng chẳng quan trọng nữa. “Tôi không hiểu lắm. Trên thực tế, Thầy giáo Ebisuno là phụ huynh của cô ấy, người giám hộ của cô ấy, nên ông ấy quan tâm đến chuyện này ở một mức độ nào đó thì cũng thường thôi. Nhưng trong tình cảnh điên rồ như hiện nay, Thầy giáo lo nhất về chuyện Fukaeri có bị thương hay không, có được an toàn hay không thì mới phải, chứ không phải vấn đề trinh tiết của cô ấy. Chuyện này làm tôi thấy hơi bất ngờ.”

Komatsu hơi vểnh một góc môi lên. “Tình hình cụ thể thế nào tôi không rõ. Tôi chỉ nhận lời ủy thác của Thầy giáo đến gặp và hỏi cậu, xác nhận xem cậu và Fukaeri có quan hệ xác thịt với nhau hay chưa. Vì vậy tôi mới hỏi như thế, và câu trả lời tôi nhận được là Không.”

“Đúng, tôi và Fukaeri không có quan hệ xác thịt,” Tengo nhìn chằm chằm vào mắt đối phương, nói một cách dứt khoát. Trong lòng, Tengo cũng có cảm giác mình đang nói dối.

“Vậy thì tốt,” Komatsu ngậm điếu Marlboro trên miệng, nheo mắt quẹt diêm, “tôi biết vậy là được rồi.”

“Fukaeri thực sự là cô gái hấp dẫn. Nhưng anh cũng biết đấy, tôi chỉ là bất đắc dĩ mà bị cuốn vào chuyện phiền phức này. Tôi không muốn mọi chuyện phức tạp hơn nữa. Mà tôi cũng có bạn gái rồi.”

“Tôi hiểu,” Komatsu nói, “về mặt này cậu là người thông minh, suy nghĩ chín chắn. Tôi sẽ chuyển lời lại cho Thầy giáo. Xin lỗi vì đã hỏi cậu vấn đề kì cục này. Cậu đừng để bụng nhé.”

“Tôi không để bụng, chỉ là cảm thấy lạ. Không hiểu tại sao một chuyện như thế này lại xảy ra ở thời điểm này chứ,” Tengo nói, hơi ngập ngừng một chút, “vậy, chuyện mà anh muốn nói với tôi là gì thế?”

Komatsu uống hết cốc bia, rồi gọi một cốc whiskey pha với soda.

“Cậu Tengo uống gì nhỉ?” anh ta hỏi

“Giống anh là được rồi,” Tengo trả lời.

Hai cốc thủy tinh cao được đăt lên bàn.

“Đầu tiên,” Komatsu trầm ngâm hồi lâu rồi mới cất tiếng, “cần thiết phải tháo gỡ hết mức có thể cái cục diện rối ren mà chúng ta đang vướng phải. Vì dẫu sao thì chúng ta cũng ngồi chung một con thuyển. Chúng ta mà tôi nói ở đây là bốn người: cậu, tôi, Fukaeri và Thầy giáo Ebisuno.”

“Đúng là một tổ hợp thú vị,” Tengo nói. Nhưng Komatsu dường như không nhận ra ý tứ châm biếm trong câu nói của anh. Anh ta dường như đang tập trung nghĩ về những gì mình cần phải nói.

Komatsu tiếp lời: “Khi tham gia kế hoạch này mỗi người có tâm tư khác nhau, mục tiêu và phương hướng không đồng nhất. Nói cách khác, mọi người không khua mái chèo với cùng một tiết tấu, cùng một góc độ.”

“Vả lại, còn là một tổ hợp không hề thích hợp làm việc theo nhóm.”

“Chắc có thể nói vậy.”

“Và con thuyền thì bị dòng nước xiết cuốn đến chỗ thác nước.”

“Thuyền bị dòng nước xiết cuốn đến chỗ thác nước,” Komatsu thừa nhận. “Có điều, không phải tôi muốn biện bạch gì đâu, nhưng ban đầu đây chỉ là một kế hoạch cực đơn giàn. Cuốn tiểu thuyết Nhộng không khí của Fukaeri để cậu chấp bút viết lại vèo một cái là xong, giành lấy giải thưởng Tác giả mới của Tạp chí Văn nghệ, in thành sách kiếm bộn tiền. Chúng ta trêu cợt thế gian một phen, còn kiếm được khoản kha khá nữa. Nửa để cho vui, nửa để kiếm tiền. Đây là mục đích của chúng ta. Nhưng từ khi người giám hộ của Fukaeri là Thầy giáo Ebisuno nhúng tay vào, tình tiết đột nhiên trở nên phức tạp. Bên dưới mặt nước có đến mấy kế hoạch rắm rối đan vào nhau, dòng nước càng lúc càng chảy xiết. Cậu viết lại quá tốt, vượt xa dự kiến của tôi. Vậy là quyển sách được đánh rất giá cao, bán chạy đến đáng ngạc nhiên. Kết quả là con thuyền của chúng ta bị đưa đến một nơi không ai ngờ đến, vả lại còn hơi nguy hiểm nữa.”

Tengo hơi gật đầu. “Đâu chỉ là một nơi hơi nguy hiểm, mà là cực kỳ nguy hiểm.”

“Có thể cậu nói đúng.”

“Đừng làm ra vẻ như chuyện này không liên quan gì đến anh. Tất cả không phải đều do anh trù tính hay sao?”

“Cậu nói hoàn toàn chính xác. Tôi là người đột nhiên nảy ra ý tưởng kỳ cục ấy, và ấn nút khởi động. Thoạt tiên rất thuận lợi, tiếc là giữa chừng thì bắt đầu không khống chế được nữa. Tất nhiên tôi cảm thấy mình có trách nhiệm, đặc biệt là đã kéo cả cậu vào mớ bòng bong này. Chính tôi đã nằng nặc khuyên cậu nhập bọn. Nhưng tóm lại, chúng ta cần phải dừng lại ở đây, chấn chỉnh lại mới được. Xử lý những thứ dư thừa, cố đơn giản hóa kế hoạch đi. Chúng ta phải biết rõ hiện giờ mình đang đứng ở đâu, tiếp theo sau đây nên hành động thế nào.”

Nói tới đây Komatsu nghỉ lấy hơi, uống một ngụm whiskey pha soda. Sau đó, anh ta cầm cái gạt tàn bằng thủy tinh lên, dùng những ngón tay thon dài cẩn thận rờ ở bề mặt, tựa như người mù đang tỉ mỉ xác nhận hình dáng vật thể.

“Nói thực với cậu, tôi bị người ta giam mười bảy mười tám ngày ở một nơi nào đó,” Komatsu nói tiếp, “từ cuối tháng Tám đến qua giữa tháng Chín. Hôm ấy tôi đang định đi làm. Lúc đầu giờ chiều, tôi đi bộ trên con đường gần nhà, đó là đường tới ga Gotokuji. Bỗng đâu một chiếc xe lớn màu đen đậu ở ven đường nhanh chóng hạ cửa kính xe xuống, có người gọi tên tôi: ‘Có phải anh là Komatsu không?’ Tôi thầm nghĩ không biết là ai, bèn lại gần xem thử, thì hai gã đàn ông nhảy xuống, thoắt cái đã xốc nách tôi kéo vào trong xe. Cả hai tên đều khỏe khủng khiếp. Một tên bẻ gập hai tay tôi ra phía sau, tên còn lại gí thuốc mê bắt tôi ngửi. Ừm, cứ như trong phim ấy. Nhưng mà thứ đó hiệu nghiệm thật. Lúc tôi tỉnh lại thì thấy mình bị nhốt trong một gian phòng nhỏ không có cửa sổ. Tường trắng toát, trông như một hình lập phương. Trong phòng có một cái giường nhỏ, một cái bàn nhỏ bằng gỗ, nhưng không có ghế. Tôi nằm trên cái giường ấy.”

“Anh bị bắt cóc à?” Tengo hỏi.

Komatsu đặt chiếc gạt tàn đã xem xét chán chê lên mặt bàn, ngẩng lên nhìn Tengo. “Đúng, là một vụ bắt cóc thật sự. Hồi xưa có bộ phim tên là Kẻ sưu tầm[1], giống hệt như trong phim ấy vậy. Tôi nghĩ, tuyệt đại thiên hạ trên thế gian này không bao giờ nghĩ sẽ có ngày mình bị bắt cóc. Thậm chí ý nghĩ ấy còn chẳng lóe lên trong óc họ nữa. Đúng không? Nhưng mà đến lúc bị bắt cóc thì vẫn bị bắt cóc như thường. Tôi biết nói thế nào nhỉ? Có một thứ cảm giác phi thực. Không ngờ mình lại bị bắt cóc thật! Làm sao tin nổi đây chứ?”

[1] The Collector, bộ phim phát hành năm 1965 của đạo diễn William Wyler, chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của nhà văn John Fowles.

Komatsu nhìn vào mặt Tengo như tìm kiếm câu trả lời, nhưng đây hoàn toàn là câu hỏi mang tính tu từ. Tengo trầm ngâm không nói, đợi câu chuyện ẩn phía sau. Nước ấm rịn ra bên ngoài cốc rượu whiskey pha soda anh vẫn chưa đụng đến, thấm ướt miếng lót cốc bên dưới.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 16: Ushikawa


Một cỗ máy giỏi giang, kiên nhẫn, không cảm xúc

Sáng sớm hôm sau, Ushikawa lại ngồi trước cửa sổ, tiếp tục giám sát qua khe hở của tấm rèm. Những người đi ra khỏi tòa nhà lúc này hầu như cũng chính là những kẻ về nhà lúc chập tối hôm qua, hay ít nhất là có vẻ như vậy. Mặt mũi họ vẫn ủ rũ, lưng họ còng xuống. Có vẻ như một ngày mới chỉ vừa mới bắt đầu mà bọn họ đã chán ghét và mệt mỏi đến cùng cực cả rồi. Không thấy Tengo trong số đó. Nhưng Ushikawa vẫn bấm máy ảnh, ghi lại từng gương mặt đi qua trước mắt mình. Y có nhiều phim, vả lại, đã chụp lén mà lại muốn được ảnh đẹp thì nhất định phải tập luyện trong thực tế.

Thấy giờ đi làm buổi sáng đã kết thúc, những người cần phải ra ngoài đều đã đi cả rổi, Ushikawa ra khỏi căn hộ, chui vào buồng điện thoại công cộng gần đó, gọi đến số điện thoại của trường dự bị ở Yoyogi, tìm gặp Tengo. Cô gái nghe máy trả lời: “Thầy Kawana xin phép nghỉ hơn mười ngày nay rồi ạ.”

“Anh ấy bị bệnh sao?”

“Không. Ai đó trong gia đình bị ốm, nên anh ấy đi Chiba thăm bệnh rồi ạ.”

“Cô có biết bao giờ anh ấy quay lại không?”

“Chúng tôi chưa hỏi,” cô gái trả lời.

Ushikawa cảm ơn, rồi gác máy.

Tengo chỉ còn cha là người nhà. Người cha từng làm nhân viên thu phí cho đài NHK. Tengo không biết gì về mẹ mình. Và như Ushikawa tìm hiểu được, quan hệ giữa anh ta và cha trước giờ vẫn không được tốt lắm. Mặc dù vậy, Tengo nghỉ làm hơn chục ngày nay để chăm sóc người cha bị bệnh đó. Chuyện này Ushikawa khó mà tưởng tượng được. Tại sao sự bất mãn của Tengo với cha anh ta lại xẹp đi nhanh đến thế? Cha anh ta mắc bệnh gì? Đang nằm trong bệnh viện nào ở Chikura? Chuyện này không phải không thể điều tra được, chỉ là ít ra cũng tốn nữa ngày. Trong lúc đó, y sẽ phải tạm ngừng việc giám sát lại.

Ushikawa do dự. Nếu Tengo đã rời khỏi Tokyo thì giám sát cửa chính tòa nhà này chẳng còn ý nghĩa gì nữa. Tạm thời ngừng việc giám sát ấy lại, điều tra theo hướng khác có lẽ là sáng suốt hơn. Y có thể điều tra xem cha Tengo ở bệnh viện nào, hay đi sâu điều tra chuyện của Aomame. Y có thể tìm bạn học thời đại học và đồng nghiệp hồi cô ta còn làm ở công ty để dò hỏi thêm thông tin cá nhân. Biết đâu lại kiếm thêm được vài đầu mối mới cũng nên.

Nhưng nghĩ ngợi một hồi, Ushikawa lại quyết tâm tiếp tục giám sát tòa nhà. Trước tiên, dừng việc giám sát lại thì ắt sẽ phá vỡ tiết tấu cuộc sống mà y không dễ gì mới hình thành được, mọi thứ đều phải bắt đầu lại từ đầu. Thứ hai, thời điểm này mà đi điều tra về nơi cha Tengo đang nằm viện và quan hệ thân hữu của Aomame thì chỉ e thêm vất vả mà thu hoạch rất ít. Tự mình đi tận nơi tận chốn điều tra thì có thể đạt được hiệu quả ở mức độ nào đó, nhưng sau khi đạt tới điểm đó rồi thì sẽ giậm chân tại chỗ. Kinh nghiệm đã cho Ushikawa biết điều này. Thứ ba, trực giác của Ushikawa mạnh mẽ yêu cầu y đừng rời khỏi đây. Cứ ở đây đợi, không làm gì cả, chỉ quan sát những người đi qua trước mắt, không bỏ qua bất cứ dấu vết nhỏ nhặt nào.

Nên y quyết định rằng dù Tengo có nhà hay vắng nhà thì đằng nào y cũng sẽ tiếp tục giám sát tòa nhà này. Y sẽ ở lại đây, nhân lúc Tengo chưa quay về để ghi nhớ từng gương mặt khách thuê nhà ra vào cánh cửa này hằng ngày. Chỉ cần nhớ được ai là người ở đây, đương nhiên sẽ có thể nhìn lướt qua là nhận ngay ra ai không thuộc những người ấy. Mình là kẻ săn mồi, Ushikawa nghĩ. Kẻ săn mồi cần phải cực kỳ kiên nhẫn. Cần phải hòa lẫn vào môi trường xung quanh, và nắm được mọi thứ liên quan đến con mồi của nó.

Trước mười hai giờ, khi vắng người ra vào nhất, Ushikawa ra ngoài. Để phần nào che đi khuôn mặt, y đội một cái mũ len, kéo khăn quàng cổ lên tới tận dưới mũi. Mặc dù thế, bộ dạng này của y vẫn rất nổi bật. Cái mũ len màu vàng nhạt đội trên cái đầu to tướng xòe ra như nấm. Khăn quàng cổ màu xanh ở dưới tựa như con rắn lớn quấn lại. Nói chung không có chút hiệu quả ngụy trang nào. Vả lại, cái mũ và chiếc khăn quàng cổ còn hoàn toàn không hợp nhau nữa.

Ushikawa đến tiệm ảnh trước cửa ga, rửa hai cuộn phim. Sau đó, y vào tiệm mì soba, gọi một bát mì với tempura. Đã lâu lắm rồi y mới được ăn một bữa nóng hổi như thế này. Ushikawa thưởng thức mì soba với tempura một cách trân trọng, húp sạch không còn một giọt nước xúp. Ăn xong bát mì, người y ấm sực lên, cơ hồ muốn toát mồ hôi. Y đội mũ, quấn khăn quàng quanh cổ, rồi quay về căn hộ, sau đó vừa hút thuốc vừa trải những tấm ảnh vừa in ra xuống sàn nhà, bắt đầu sắp xếp. Y đối chiếu những ảnh chụp người về nhà sau giờ làm và những người ra khỏi nhà buổi sáng, nếu gương mặt giống nhau thì đặt cạnh nhau. Để tiện ghi nhớ, y còn tùy tiện đặt cho mỗi người một cái tên, dùng bút dạ viết luôn lên tấm ảnh.

Qua giờ đi làm buổi sáng thì gần như không còn khách thuê nhà ra vào cửa chính khu chung cư nữa. Khoảng mười giờ sáng, một anh chàng trông như sinh viên đại học, vai đeo túi vội vội vàng vàng chạy ra cửa. Một bà già chừng bảy mươi và một phụ nữ khoảng ba mươi lăm ba sáu ra ngoài một lát, rồi mỗi người xách một túi mua hàng ở siêu thị quay về. Ushikawa cũng chụp ảnh bọn họ. Nhân viên đưa thư đến lúc trước giờ trưa, lần lượt chia thư tín vào các hòm thư cạnh cửa rồi đi luôn. Một nhân viên chuyển phát nhanh ôm thùng các tông đi vào khu chung cư, năm phút sau lại trở ra, tay không.

Một tiếng đồng hồ một lần, Ushikawa lại rời khỏi máy ảnh, vận động chừng năm phút cho đỡ mỏi. Trong lúc ấy y đành phải ngừng việc giám sát. Dẫu sao thì ngay từ đầu y đã biết, một mình y thì không thể nắm được tất cả các hoạt động ra vào của mọi người trong khu nhà này. Không để cơ thể bị tê cứng còn quan trọng hơn. Giữ nguyên một tư thế trong thời gian dài, cơ bắp sẽ bị thoái hóa, gặp tình huống khẩn cấp sẽ không thể phản ứng nhanh nhạy. Giống như Gregor Samsa lúc anh ta biến thành con bọ, Ushikawa khéo léo giãn tấm thân tròn lăn lẳn hình dáng kỳ quái của mình trên sàn nhà, cố làm các cơ bắp thả lỏng ra.

Để giải buồn, y nghe đài AM qua tai nghe. Tiết mục radio ban ngày chủ yếu là dành cho các bà nội trợ và người cao tuổi, phát thanh viên kể những câu chuyện cười nhạt nhẽo và khô khan, phá lên cười một cách ngu ngốc, đưa ra những ý kiến sáo rỗng và ngu xuẩn, phát những thứ nhạc chỉ khiến người ta muốn bịt tai, lại còn quảng cáo tràn lan các loại sản phẩm chẳng ai cần. Ít nhất Ushikawa cho là như vậy. Mặc dù thế, y vẫn muốn nghe tiếng người nói chuyện, nói gì cũng được, vì vậy y nhẫn nại nghe những tiết mục đó. Tại sao người ta lại phải sản xuất ra những tiết mục ngu xuẩn như vậy, lại còn dùng sóng truyền thanh phát đi khắp các hộ gia đình nữa chứ?

Cũng chẳng phải công việc của Ushikawa là một nghề cao quý mang tính xây dựng gì cho cam. Chẳng qua chỉ là trốn trong một căn hộ rẻ tiền, rúc sau rèm cửa sổ chụp trộm mặt người khác. Y không có tư cách gì để ăn trên ngồi trốc phê phán hành vi của thiên hạ.

Không chỉ hiện giờ như vậy. Hồi trước y làm luật sư cũng thế, Ushikawa không nhớ mình đã làm chuyện gì có lợi cho cộng đồng xã hội. Khách hàng lớn nhất của y là những kẻ kinh doanh công ty tài chính cỡ vừa và nhỏ có quan hệ chặt chẽ với lũ tội phạm có tổ chức. Ushikawa giúp họ nghĩ cách phân tán tiền kiếm được sao cho hiệu quả nhất, đồng thời bố trí thực hiện luôn. Nói gọn là rửa tiền. Y cũng tham gia những vụ thổi giá bất động sản. Một khi nhà đầu tư đã để mắt đến một khu nào đó rồi, y bèn giúp họ xua đuổi các cư dân đã định cư ở đó mấy đời đi nơi khác, giành được những mảnh đất lớn rồi sang tay cho các công ty khai thác bất động sản, nói chung chỉ cần ngồi không mà hưởng. Tất nhiên, cũng có một số người giống y nhúng tay vào. Y còn sở trường biện hộ cho những người bị khởi tố vì trốn thuế. Thân chủ của y đa phần là những nhân vật đáng ngờ mà các luật sư bình thường không muốn dính dáng tới. Nhưng Ushikawa thì chỉ cần có người tìm đến y (và có một số tiền nhất định trao tay) là y nhất không từ chối ai. Y có nhiều mánh khóe, bảng thành tích không hề tệ, cho nên y có rất nhiều việc, làm không xuể. Quan hệ của y với giáo đoàn Sakigake cũng bắt đầu bằng cách đó. Không hiểu sao, Lãnh Tụ rất thích y.

Nếu làm như các luật sư bình thường khác, có lẽ Ushikawa khó lòng duy trì được cuộc sống. Mặc dù sau khi tốt nghiệp đại học không lâu y đã vượt qua kỳ thi tư pháp, lấy được giấy phép hành nghề luật sư, nhưng y không có quan hệ, cũng chẳng có hậu thuẫn nào. Với tướng mạo ấy, không thể được các phòng luật sư danh tiếng thu nhận. Kể cả có tự mở phòng luật sư riêng, làm ăn đường đường chính chính, chắc cũng chẳng có thân chủ nào tìm đến. Trên đời này, chẳng mấy ai lại vui vẻ trả khoản thù lao kếch xù để thuê về một tay luật sư có bộ dạng khó coi như y. Có trách chăng là phải trách những bộ phim truyền hình về tòa án, khiến dân chúng bình thường đều cho rằng các luật sư xuất sắc nhất định phải có bộ dạng sáng sủa và đoan chính.

Vì vậy, dần dà, như lẽ tự nhiên, y bắt đầu đi lại với đám xã hội đen. Những người trong giới đó không hề để ý đến vẻ bề ngoài của y. Ngược lại, chính vẻ bề ngoài đặc dị này là một trong những yếu tố khiến y được họ tin tưởng và chấp nhận, vì bản thân họ cũng như Ushikawa, không được thế giới bình thường ưa thích. Bọn họ nhận ra được đầu óc linh hoạt, năng lực xuất sắc, khả năng giữ bí mật và tài hùng biện của Ushikawa, nên giao cho y nhiệm vụ lưu chuyển những khoản tiền lớn (nhưng không thể công khai), và trả thù lao hào phóng cho y. Ushikawa nhanh chóng nắm vững luật chơi, hiểu rõ bí quyết tránh né chính quyền trong khi vẫn làm những gì trong ranh giới luật pháp cho phép. Trực giác và ý chí mạnh mẽ của y rất có ích trong việc này. Nhưng có một lần, không hiểu ma xui quỷ khiến thế nào, y bị lợi ích làm cho mờ mắt mà vượt qua ranh giới. Tuy rốt cuộc cũng thoát tội hình sự, nhưng y bị Hội Luật sư Tokyo khai trừ.

Ushikawa tắt radio, hút một điếu Seven Stars. Y hít khói thuốc vào sâu trong phổi, chầm chậm thở ra. Y dùng cái hộp đào đã ăn hết làm gạt tàn. Nếu tiếp tục sống thế này, chắc chắn y sẽ không được chết cho tử tế. Mà có lẽ chẳng mấy nữa không chừng y sẽ bước hụt một bước mà rơi xuống vực sâu tăm tối. Kể cả khi mình biến mất trên thế giới này chắc cũng không ai để ý. Dẫu mình có gào hét thảm thiết trong bóng tối thế nào, tiếng hét cũng không lọt đến tai ai cả. Nhưng dù vậy mình cũng chỉ có thể tiếp tục sống cho đến khi nào chết, mà muốn sống tiếp thì cũng chỉ có thể sống theo cách của mình. Tuy không thể coi là một cách sống đáng ca ngợi, nhưng ngoài cách ấy ra mình không có phương thức sinh tồn nào khác. Mà nói đến cách sống không đáng được ca ngợi ấy, Ushikawa giỏi hơn gần như bất cứ ai trên đời này.

Lúc hai rưỡi, một thiếu nữ đội mũ bóng chày đi ra khỏi cửa chính của khu căn hộ. Trên tay cô không có đồ đạc gì, bước chân rảo nhanh lướt qua tầm nhìn của Ushikawa. Y vội vàng ấn vào công tắc chụp liên tục trong tay, cửa trập tự động đóng mở ba lần. Đây là lần đầu tiên y thấy cô gái này. Một thiếu nữ xinh đẹp, hơi gầy, tay chân thon dài, vóc dáng thanh tú, thoạt trông như diễn viên múa ballet. Cô gái khoảng mười sáu mười bảy tuổi, mặc quần bó đã bạc màu, đi giày thể thao trắng, áo jacket kiểu đàn ông, tóc dém vào trong cổ áo. Cô ra khỏi cửa được vài bước thì dừng lại, nheo mắt nhìn chằm chằm lên đỉnh cột điện ở trước mặt một lúc. Sau đó, cô hạ ánh mắt xuống mặt đất, lại cất bước đi dọc con đường rồi rẽ trái, biến mất khỏi tầm mắt Ushikawa.

Cô gái này rất giống một người, một người mà Ushikawa biết, gần đây y đã gặp. Nhìn bề ngoài, có thể cô là ngôi sao truyền hình nào đó không chừng. Nói thì nói vậy, nhưng ngoài chương trình thời sự ra thì Ushikawa hầu như không xem ti vi, y cũng không nhớ mình từng sinh lòng hứng thú với nữ minh tinh trẻ đẹp nào.

Ushikawa đạp cần ga của ký ức lún xuống tận sàn, để bộ não chuyển động hết tốc lực. Y nheo mắt, cật lực vắt óc như vắt tấm giẻ lau. Dây thần kinh y đau như bị kim chích. Thình lình, y nhớ ra người đó chính là Fukada Eriko. Y chưa từng gặp Fukada Eriko ngoài đời, chỉ xem ảnh đăng trong chuyên mục văn nghệ trên báo. Mặc dù vậy, sự trong suốt siêu nhiên bao bọc xung quanh cô gái ấy chính là ấn tượng của y khi nhìn tấm ảnh đen trắng nhỏ xíu kia. Do việc viết lại Nhộng không khí, tất nhiên cô gái này và Tengo đã gặp nhau, và cũng không phải không có khả năng cô và Tengo trở nên thân thiết và giờ thì cô đang ẩn nấp trong căn hộ của Tengo.

Nghĩ tới đây, Ushikawa liền lập tức đội mũ len, khoác chiếc áo chẽn hai hàng cúc màu xanh sẫm, quấn khăn quàng lên cổ mấy vòng, đoạn ra khỏi tòa nhà, đuổi theo hướng cô gái vừa đi. Gần như một phản xạ có điều kiện.

Con bé đi rất nhanh, e mình không đuổi kịp mất. Có điều nó đi tay không, chứng tỏ không định đi xa lắm. Bám theo thế này nếu không may sẽ dễ bị phát hiện, chi bằng quay trở về tiếp tục đợi thì hơn. Tuy nghĩ vậy nhưng Ushikawa vẫn không thể ngừng đuổi theo cô gái. Ở cô có thứ gì đó nằm ngoài logic thông thường khiến y rung động. Tựa như một khoảnh khắc nào đó của buổi hoàng hôn, một quầng sáng mang sắc thái thần bí đánh thức một ký ức đặc thù trong tâm trí vậy.

Đi được một lúc, bóng dáng cô gái lại một lần nữa hiện lên trong tầm mắt Ushikawa. Fukaeri đứng ở ven đường, chăm chú nhìn vào một cửa hàng văn phòng phẩm nhỏ. Có lẽ bên trong có thứ gì đó làm cô hứng thú. Ushikawa giả bộ như không có chuyện gì, đi vòng qua sau lưng cô gái, đứng trước máy bán hàng tự động, móc tiền lẻ trong túi ra mua một lon cà phê nóng.

Không lâu sau, cô gái lại tiếp tục cất bước. Ushikawa đặt lon cà phê uống dở một nửa xuống dưới chân, giữ khoảng cách vừa đủ bám theo sau. Cô gái có vẻ rất chuyên tâm vào việc bước đi, như thể đang lướt trên mặt hồ mênh mông phẳng lặng. Bước theo cách đó thì nhất định có thể đi trên mặt nước mà không bị chìm, thậm chí còn chẳng ướt giày. Dường như Fukaeri đã nắm được yếu quyết của kỹ năng đặc biệt này.

Cô gái này sở hữu một thứ gì đó. Một thứ gì đó đặc biệt mà người bình thường không có. Ushikawa có cảm tưởng như vậy. Y biết không nhiều về Fukada Eriko. Từ những thông tin y nắm được, cô là con gái duy nhất của Lãnh Tụ, năm mười tuổi đã một mình trốn khỏi Sakigake, sống nhờ nhà một học giả nổi tiếng tên là Ebisuno. Cô ta lớn lên ở đó, về sau viết một quyển tiểu thuyết có nhan đề Nhộng không khí, nhờ Kawana Tengo viết lại mà trở thành sách bán chạy. Tất cả chỉ có thế. Hiện giờ không ai biết cô ở đâu, phía ông Ebisuno đã đệ đơn yêu cầu tìm kiếm lên cảnh sát, chính vì chuyện này mà không lâu trước đây trụ sở của Sakigake đã bị lục soát.

Có vẻ như nội dung của Nhộng không khí gây bất lợi cho giáo đoàn Sakigake. Ushikawa đã mua một quyển về đọc kỹ, nhưng rồi phần nào bất lợi cho giáo đoàn, vì sao mà bất lợi, y vẫn không sao hiểu được. Tiểu thuyết rất thú vị, viết cao tay. Nhưng xét cho cùng đây chẳng qua chỉ là một tiểu thuyết giả tưởng lãng mạn vô hại. Đây chắc chắn cũng là cảm tưởng của hầu hết những người khác. Người Tí Hon chui ra từ miệng con dê núi đã chết, làm ra nhộng không khí, nhân vật chính phân ly thành mẫu thể và tử thể, và có hai mặt trăng. Rốt cuộc, trong câu chuyện giả tưởng này có ẩn giấu thứ bí mật nào mà nếu người ngoài biết thì có hại cho Sakigake kia chứ?

Mặc dù vậy, khi Fukada Eriko đang được công chúng chú ý thì ra tay với cô bằng phương thức nào cũng đều quá nguy hiểm, nên họ mới chuyển sang ủy thác y đi làm đại diện của giáo đoàn đi tiếp xúc với Tengo (Ushikawa đoán vậy), lệnh cho y nói chuyện với tay thầy giáo trường dự bị cao lớn ấy. Trong mắt Ushikawa, Tengo chẳng qua chỉ là một vai phụ trong toàn bộ cái cơ đồ này. Y không hiểu nổi tại sao giáo đoàn lại quan tân tới Tengo như thế. Nói vậy nhưng bản thân y chẳng qua cũng chỉ là một tên chạy vặt, đã nhận lệnh thì cứ thế thi hành. Nhưng rồi cái đề nghị phải nói là rất chi hào phóng mà Ushikawa vắt óc mới soạn ra được ấy lại bị Tengo từ chối ngay lập tức. Kế hoạch móc nối với Tengo bị thất bại. Giữa khi y đang nghĩ phương án hành động tiếp theo thì ông bố của Fukada Eriko, vị LãnhTụ kia, lăn ra chết, nên chuyện này tạm thời bị đình lại.

Giờ phương hướng của Sakigake thế nào, họ đang theo đuổi điều gì, Ushikawa không biết. Thậm chí y còn không biết sau khi Lãnh Tụ qua đời ai là người nắm quyền lãnh đạo giáo đoàn. Nhưng dù gì đi nữa họ cũng muốn tìm ra Aomame, làm rõ tại sao cô ta sát hại Lãnh Tụ, tìm ra kẻ đứng đằng sau âm mưu ấy. Chắc chắn họ sẽ nghiêm khắc trừng trị cô ta. Và họ quyết tâm không để luật pháp dính vào vụ này.

Còn Fukada Eriko thì sao? Hiện giờ giáo đoàn có dự định gì với tiểu thuyết Nhộng không khí? Quyển sách ấy phải chăng vẫn còn là mối đe dọa với bọn họ?

Fukada Eriko không bước chậm lại, cũng không ngoảnh đầu, đi một mạch đến nơi nào đó, tựa như bồ câu bay về tổ. Y nhanh chóng xác định được đó là một siêu thị cỡ vừa tên là Marusho. Tay cầm giỏ, Fukaeri đi qua hết giá này đến giá khác, lựa chọn đồ hộp và thực phẩm tươi sống. Mua một cây xà lách, cô ta cũng phải cầm lên xem xét từ đủ mọi góc độ. Thế này thì sẽ tốn nhiều thời gian đây, Ushikawa nghĩ. Vậy là y quyết định ra trước, sang trạm xe buýt bên kia đường giả bộ như đang đợi xe, giám sát lối vào siêu thị.

Nhưng đợi một hồi lâu không thấy cô gái đi ra, Ushikawa bắt đầu lo lắng. Không khéo cô ta đã ra theo lối khác rồi. Nhưng theo quan sát của y, siêu thị này chỉ có một cửa hướng ra mặt đường lớn. Có lẽ là cô ta mua sắm bao giờ cũng lâu. Ushikawa nhớ lại ánh mắt nghiêm trang nhưng lại thiếu chiều sâu một cách kỳ lạ của cô gái trẻ khi cầm cây xà lách lên trầm ngâm do dự. Y quyết định kiên nhẫn chờ đợi. Ba chuyến xe buýt đến rồi đi. Lần nào cũng chỉ có Ushikawa ngồi lại. Y thấy hối hận vì không mang theo tờ báo nào. Mở báo ra có thể che mặt. Lúc ta theo dõi ai đó, báo hay tạp chí là vật không thể thiếu. Nhưng y đã chẳng thể làm gì được, y chẳng kịp cầm theo thứ gì đã vội vàng chạy ra ngoài theo Fukaeri rồi.

Khi Fukaeri rốt cuộc cũng ra khỏi siêu thị, kim đồng hồ đeo tay của y chỉ ba giờ mười lăm phút. Cô gái chẳng buồn liếc nhìn trạm xe buýt chỗ Ushikawa đang ngồi, men theo đường cũ rảo bước. Ushikawa đợi thêm một lát rồi đuổi theo. Hai túi đựng đồ có vẻ khá nặng, nhưng cô gái ôm bằng hai tay hồ như không tốn chút sức lực gì. Cô nhẹ nhàng bước trên đường, như con nhện di chuyển trên mặt nước.

Một cô gái thật kỳ lạ, Ushikawa nhìn theo bóng lưng Fukada Eriko, tự nhủ lần nữa. Giống như đang quan sát một con bướm hiếm của xứ lạ vậy. Chỉ ngắm nhìn thì không sao, nhưng không thể vươn tay ra chạm. Một khi chạm tay vào, nó sẽ mất đi sự sống, mất đi vẻ đẹp vốn có, vậy là tan một giấc mơ xứ lạ.

Có nên báo lại với đám người ở Sakigake biết chuyện y phát hiện ra chỗ ở của Fukaeri không? Ushikawa thầm tính toán nhanh trong đầu. Rất khó quyết định. Nếu cho họ biết đã tìm thấy cô, hẳn y sẽ ghi được một điểm số nhất định. Ít nhất thì cũng không mất điểm. Có thể chứng tỏ với giáo đoàn rằng công việc của y đang có tiến triển thực sự. Nhưng nếu như bị cuốn vào chuyện nên xử lý Fukaeri như thế nào, rất có thể y sẽ mất cơ hội tìm Aomame, mà đó mới là mục đích chính của y. Như vậy thì sẽ xôi hỏng bỏng không hết cả. Làm sao cho ổn đây? Y thọc sâu hai tay vào túi áo khoác, khăn quàng quấn tận chót mũi, giữa khoảng cách xa hơn lúc đi, bám theo sau Fukaeri.

Mình bám theo cô gái này có lẽ chỉ vì muốn ngắm cô ta, ý nghĩ ấy đột nhiên nảy ra trong đầu Ushikawa. Chỉ muốn ngắm nhìn cô gái ấy ôm túi mua hàng đi trên phố, y cảm thấy tim mình thắt lại, tựa như người bị kẹt cứng giữa hai bức tường, không nhích lên mà cũng chẳng thể lùi lại được. Nhịp co giãn của phổi trở nên cứng nhắc, không theo quy tắc nào nữa, tựa như y bị ném vào giữa một cơn bão đầy hơi ẩm, không sao thở nổi. Một cảm giác kỳ lạ mà y chưa từng trải qua trước đây.

Ushikawa quyết định rằng ít nhất là trong giai đoạn hiện tại y sẽ không nghĩ đến cô gái này nữa. Y sẽ vẫn theo kế hoạch ban đầu, tập trung vào Aomame. Aomame là kẻ giết người. Cho dù vì lý do gì, cô ta cũng đã làm một việc đáng bị trừng phạt. Bắt cô ta giao cho Sakigake, Ushikawa không cảm thấy đau lòng. Nhưng cô gái này thì khác. Cô là một sinh vật lặng lẽ và mềm mại sống trong rừng sâu, với đôi cánh màu nhàn nhạt tựa như cái bóng của linh hồn. Mình chỉ nên quan sát từ xa thì hơn.

Fukaeri ôm hai cái túi biến mất vào bên trong cửa chính của tòa nhà. Một lúc sau, Ushikawa cũng đi qua cánh cửa đó. Sau khi về căn hộ của mình, y cởi khăn quàng và mũ ra, lại ngồi xuống trước máy ảnh. Gió làm má y lạnh buốt. Y hút một điếu thuốc, uống chút nước khoáng. Cổ họng y vừa khô vừa rát, như thể đã ăn rất nhiều đồ cay nóng vậy.

Hoàng hôn buông xuống, đèn đường bật sáng, đã sắp đến giờ người ta trở về nhà. Vẫn mặc chiếc áo khoác ngắn có hai hàng cúc, Ushikawa cầm điều khiển máy ảnh, tập trung ánh mắt vào cửa chính tòa nhà. Khi ký ức về ánh sáng chiếu nhạt dần, căn phòng trống trải nhanh chóng trở nên lạnh lẽo. Có điều đêm nay còn lạnh hơn cả đêm trước. Ushikawa định ra cửa hàng điện khí giảm giá trước cửa ga mua lò sưởi điện hoặc một cái chăn điện.

Lúc Fukada Eriko ra khỏi cửa chính tòa nhà lần nữa, kim đồng hồ chỉ bốn giờ bốn mươi lăm phút. Cô mặc áo len cao cổ màu đen và quần bò màu xanh lam giống như lúc nãy, nhưng không mặc jacket. Áo len bó sát làm lộ rõ hình dáng bộ ngực. Thân hình cô nhỏ nhắn nhưng bộ ngực lại rất lớn. Trong khi chăm chú nhìn bộ ngực xinh đẹp ấy qua ống kính, Ushikawa lại cảm thấy tim mình thắt lại, không sao thở nổi.

Cô không mặc áo khoác nên có lẽ không định đi đâu quá xa. Cô gái đứng lại trước cửa chính, nheo mắt ngước nhìn lên cột điện như lần trước. Trời đang tối dần, nhưng nếu nhìn chăm chú thì vẫn có thể thấy rõ được hình dáng của vật thể. Cô đứng một lúc, như đang tìm kiếm thứ gì đó, nhưng có vẻ không tìm thấy thứ muốn tìm. Sau đó cô không nhìn lên cột điện nữa, mà ngoảnh đầu nhìn bốn phía xung quanh như chú chim nhỏ. Ushikawa ấn nút điều khiển, chụp ảnh cô gái.

Dường như nghe thấy tiếng cửa trập, Fukaeri quay ngoắt đầu nhìn về phía máy ảnh. Qua ống kính máy ảnh, Ushikawa mặt đối mặt với Fukaeri. Ushikawa có thể nhìn rõ khuôn mặt cô, vì y đang nhìn vào ống kính tele. Nhưng đồng thời, ở phía bên kia, Fukaeri cũng đang nhìn chằm chằm vào mặt y. Đôi mắt cô đã bắt được bóng dáng Ushikawa phía sau ống kính. Trong đôi mắt đen láy mềm mại ấy, gương mặt y hiện rõ mồn một. Ushikawa có cảm giác hai bên đang gặp nhau trực tiếp một cách dị thường như thế. Y nuốt nước bọt. Không, không thể nào. Từ vị trí của cô ta chắc chắn không thể nhìn thấy gì. Ống kính tele đã được ngụy trang, tiếng cửa trập quấn trong khăn bông để giảm âm lượng cũng không thể nào vang xa đến vậy. Nhưng cô gái vẫn đứng trước cửa kính chung cư, nhìn chằm chằm vào nơi Ushikawa ẩn nấp. Ánh mắt không cảm xúc của cô không hề dao động, hướng thẳng vào Ushikawa, tựa như ánh sao chiếu lên một tảng nham thạch vô danh.

Một lúc lâu, Ushikawa không rõ là bao lâu, hai người cứ nhìn chằm chằm vào nhau như thế. Sau đó, cô gái đột nhiên xoay người, rảo chân bước nhanh ra cửa. Tựa như muốn nói, tôi đã nhìn thấy thứ cần nhìn rồi. Sau khi cô biến mất, Ushikawa đẩy hết không khí ra khỏi hai lá phổi, đợi một nhịp, rồi mới hít không khí mới vào. Không khí lạnh buốt biến thành vô số mũi gai nhọn, đâm vào lồng ngực y từ bên trong.

Mọi người lần lượt trở về, lục tục đi qua dưới ánh đèn trước cửa như tối hôm trước, nhưng Ushikawa không còn nhìn vào ống ngắm máy ảnh nữa. Tay y cũng không còn cầm công tắc điều khiển. Ánh mắt thẳng thắn và không chút kiên dè của cô gái kia dường như đã hút sạch mọi sức lực trong cơ thể y. Đó là ánh mắt kiểu gì vậy! Giống như mũi kim thép dài được mài cho nhọn hoắt, đâm thẳng vào ngực y, cơ hồ xuyên qua tận sau lưng.

Cô gái ấy biết. Cô biết mình bị Ushikawa nhìn lén. Cô cũng biết mình đang bị chụp trộm. Y không biết bằng cách nào, nhưng Fukaeri biết. Có lẽ là nhờ một giác quan đặc biệt, khiến cô có thể cảm nhận được điều đó.

Y thèm rượu khủng khiếp. Nếu có thể, y rất muốn rót một cốc whiskey đầy hự, nốc một hơi cạn sạch. Thậm chí y còn muốn ra ngoài mua rượu. Ngay gần đây có một cửa hàng bán rượu. Nhưng cuối cùng y dẹp bỏ ý định đó. Kể cả có uống rượu, tình hình cũng không thay đổi gì. Cô ta đã thấy mình từ phía bên kia ống kính. Cái linh hồn nhơ bẩn và cái đầu méo mó của kẻ trốn ở đây chụp trộm người khác, là mình đây, nó đã bị cô gái xinh đẹp ấy nhìn thẳng vào. Sự thật này không thể nào thay đổi được.

Ushikawa rời máy ảnh, dựa lưng vào tường, ngước mặt lên nhìn trần nhà đầy vết bẩn. Dần dần, mọi thứ đều trở nên hư vô. Y cũng chưa bao giờ cảm thấy mình cô độc đến thế, cũng như chưa bao giờ cảm thấy bóng tối sao mà dày đặc đến thế. Y nhớ ngôi nhà ở Chuorinkan, nhớ sân vườn với thảm cỏ xanh và con chó, nhớ người vợ và hai đứa con, nhớ ánh mặt trời ở nơi đó. Đồng thời y nghĩ về gien di truyền mà mình đã đưa vào cơ thể hai con gái. Thứ gien quy định một cái đầu vẹo vọ và một linh hồn biến dạng.

Y cảm thấy mình có làm gì cũng vô ích. Y đã đánh hết mọi lá bài được chia đến tay rồi. Vốn dĩ không phải bài đẹp cho lắm, nhưng y đã nỗ lực hết lần này đến lần khác, sử dụng những lá bài không được hoàn mỹ ấy sao cho hiệu quả nhất. Đã có độ y nghĩ rằng có thể thuận buồm xui gió. Nhưng trên tay y giờ không còn quân bài nào nữa. Đèn nơi bàn đánh bạc đã tắt, các con bạc ai đã về nhà nấy rồi.

Tối hôm nay Ushikawa không chụp tấm ảnh nào. Y dựa lưng vào tường, nhắm nghiền mắt, hút liền mấy điếu Seven Stars, rồi lại mở đào đóng hộp ra ăn. Lúc kim đồng hồ chỉ chín giờ, y vào buồng vệ sinh đánh răng, cởi quần áo chui vào túi ngủ, run lẩy bẩy cố dỗ mình vào giấc ngủ. Đêm lạnh. Nhưng y run rẩy không chỉ vì cái lạnh của đêm, y còn cảm thấy hơi lạnh đến từ bên trong cơ thể mình. Rốt cuộc mình chuẩn bị đi tới đâu đây? Ushikawa thầm tự hỏi trong bóng đêm. Mình rồi sẽ đi vào đâu nữa?

Cảm giác đau đớn khi bị ánh mắt cô gái đâm xuyên qua vẫn còn lưu lại trên lồng ngực. Có lẽ nó sẽ không bao giờ biến mất. Có lẽ nó có ở đó từ lâu lắm rồi, chỉ là mình không nhận ra thôi.

Sáng hôm sau, Ushikawa ăn bữa sáng gồm pho mát, bánh quy giòn và cà phê hòa tan, rồi lại lấy tinh thần ngồi xuống trước máy ảnh, tiếp tục quan sát những người đi ra khỏi chung cư, chụp vài tấm ảnh. Nhưng trong số những người này không có Tengo, cũng không có Fukaeri. Y chỉ thấy những con người đang còng lưng bước vào một ngày mới, dưới sự thúc đẩy của lực quán tính. Trời trong nhưng gió lớn. Màn khói trắng mờ phả ra từ miệng mọi người bị gió thổi tan.

Đừng nghĩ ngợi lung tung nữa, Ushikawa thầm nhủ. Mặt dày mày dạn, lòng dạ sắt đá, chỉ việc lặp đi lặp lại một cách trật tự, ngày qua ngày. Mình chẳng qua chỉ là một cỗ máy. Một cỗ máy giỏi giang, kiên nhẫn, không có cảm xúc. Một cỗ máy hít vào thời gian mới từ đầu này, biến đổi thành thời gian cũ, rồi phun ra đầu bên kia. Tóm lại, đó là lý do tồn tại của cỗ máy này. Cần phải trở lại cái vòng lặp thuần túy không nhiểm tạp chất ấy - cái vận động vĩnh hằng đó rồi sẽ có ngày kết thúc. Ushikawa cố gắng kiên định ý chí, làm tê liệt cảm xúc, xua hình ảnh của Fukaeri ra khỏi tâm trí. Cảm giác đau đớn mà ánh mắt sắt bén của cô gái để lại trên ngực y đã bớt đi phần nào, giờ trở thành cơn đau ngâm ngẩm thi thoảng mới nhói lên một lần. Thế này là được rồi, Ushikawa nghĩ. Thế này là được rồi, tốt quá rồi. Mình là một hệ thống đơn thuần, với những chi tiết phức tạp.

Trước giờ trưa, Ushikawa đến cửa hàng điện khí giảm giá trước cửa ga mua một cái lò sưởi điện nhỏ, sau đó đi vào quán mì soba lần trước, trải tờ báo ra, ăn một bát mì soba với tempura nóng. Trước khi về căn hộ, y đứng ở lối vào tòa nhà, nhìn lên đỉnh cây cột điện mà tối qua Fukaeri đã chăm chú ngước nhìn, nhưng không phát hiện ra thứ gì đáng chú ý. Chỉ có những bó dây điện dày cộp đen đúa xù xì quấn vào nhau trên không trung như lũ rắn, và một cái biến áp ở bên trên. Cô gái ấy nhìn gì ở đó? Hay cô ta đang tìm kiếm thứ gì?

Trở về căn hộ, y bật lò sưởi điện. Ánh sáng màu vàng cam bừng lên, Ushikawa cảm thấy một sự ấm áp thân thuộc trên làn da mình. Tuy không thể khiến căn phòng hoàn toàn ấm hẳn lên, nhưng sự khác biệt giữa có và không có lò sưởi là rất lớn. Ushikawa dựa lưng vào tường, khoanh hai tay lại, ngủ một giấc trên khoảng sàn nhà nhỏ được ánh sáng chiếu tới. Y không mơ thấy gì, hoàn toàn không. Một giấc ngủ khiến người ta nghĩ đến khoảng không thuần túy.

Tiếng gõ cửa kéo y ra khỏi giấc ngủ hạnh phúc ấy. Có người đang gõ cửa. Y mở mắt ra đảo mắt nhìn quanh quất, nhất thời cũng không rõ mình đang ở đâu. Ngay sau đó, y trông thấy chiếc máy ảnh Minolta thấu kính đơn giản trên giá ba chân, bấy giờ mới nhớ ra đây là một căn hộ trong khu chung cư ở Koenji. Có người đấm lên cánh cửa. Sao phải gõ cửa chứ? Ushikawa vừa vội vàng điều động ý thức vừa lấy làm ngạc nhiên tự nhủ. Bên ngoài có lắp chuông mà. Chỉ cần ấn ngón tay một cái là được, đơn giản vô cùng. Nhưng người này lại cố tình đập cửa, còn đập rất mạnh nữa. Y chau mày, nhìn đồng hồ. Một giờ bốn mươi lăm phút. Tất nhiên là một giờ bốn mươi lăm phút chiều. Bên ngoài trời vẫn sáng bạch.

Ushikawa không đáp lại tiếng gõ cửa ấy. Không ai biết y đang ở đây, cũng không có người nào hẹn sẽ ghé thăm. Chắc là nhân viên chào hàng, hoặc không phải thì đến mời đặt báo, chắc vậy. Đối phương có lẽ cần Ushikawa, nhưng Ushikawa không cần bọn họ. Y dựa lưng vào tường không nhúc nhích, nhìn chằm chằm vào cánh cửa, im lặng. Chắc một lúc là tay kia sẽ đi thôi.

Nhưng tay ngoài kia không chịu bỏ cuộc, cách một lúc lại gõ vài tiếng. Đối phương liên tiếp đập cửa, ngừng lại chừng mười lăm giây, rồi lại tiếp tục. Tiếng gõ cửa quả quyết, hoàn toàn không có vẻ gì là trù trừ hay do dự, tiếng nào tiếng nấy hệt nhau đến độ thiếu tự nhiên. Từ đầu chí cuối, những tiếng đập cửa này đòi hỏi phản ứng từ phía Ushikawa. Ushikawa dần trở nên bất an. Nói không chừng, người đứng ngoài kia là Fukada Eriko, có thể cô đến để trách móc và chất vấn hành vi chụp ảnh trộm hèn mọn của y. Ý nghĩ ấy vừa nảy ra trong đầu, tim Ushikawa chợt đập nhanh hẳn lên. Y thè cái lưỡi to dày ra liếm môi. Nhưng tiếng đập cửa ấy rõ ràng là tiếng nắm đấm của một người đàn ông trưởng thành đập lên cửa sắt, không thể nào là bàn tay thiếu nữ được.

Hay là Fukada Eriko đã tố cáo hành vi của y với ai đó, và người này liền tìm đến tận cửa? Văn phòng môi giới bất động sản chẳng hạn, nếu không thì cảnh sát. Vậy thì phiền phức rồi. Nhưng người ở văn phòng môi giới có chìa khóa, còn cảnh sát thì sẽ nói rõ mình là ai ngay từ đầu. Hơn nữa, bọn họ không bao giờ đập cửa thế này, ấn chuông một cái là xong.

“Ông Kozu,” một người đàn ông cất lên. “Ông Kozu.”

Ushikawa nhớ ra, Kozu là tên của người trước đây ở căn hộ này. Biển tên trên hòm thư vẫn chưa thay đổi, vì như thế tiện hơn cho y. Kẻ bên ngoài kia cho rằng người tên Kozu kia vẫn đang ở đây.

“Ông Kozu,” người kia tiếp tục nói, “tôi biết ông đang ở trong đó. Tự nhốt mình trong nhà như thế không có lợi cho sức khỏe của ông đâu.”

Giọng của người đàn ông trung niên. Không vang lắm, còn hơi khàn. Nhưng giọng nói ấy có phần lõi rất cứng rắn, sự cứng rắn của một viên gạch được nung một cách công phu, rồi cẩn thận để cho khô lại. Có lẽ vì lý do này, giọng ông ta có sức xuyên thấu rất mạnh, vang khắp cả khu nhà.

“Ông Kozu, tôi là người của NHK, đến thu phí nghe nhìn hằng tháng của ông đây. Vì vậy xin ông hãy mở cửa ra.”

Ushikawa tất nhiên là không có ý định trả phí nghe nhìn cho đài NHK. Đơn giản nhất là mời đối phương vào nhà xem thử. Xem đi, làm gì có ti vi chứ? Nhưng một gã trung niên tướng mạo quái dị như Ushikawa, ban ngày ban mặc ở trong căn hộ không đồ đạc gì thế này, sẽ chẳng thể nào không bị người khác nghi ngờ.

“Ông Kozu này, luật pháp có quy định, chỉ cần trong nhà có ti vi là phải trả phí nghe nhìn. Thường có người nói ‘Tôi không xem NHK nên không việc gì phải nộp tiền.’ Nhưng lý lẽ đó không được. Dù có xem đài NHK hay không, chỉ cần có ti vi là tôi phải thu phí nghe nhìn của nhà ông.”

Chẳng qua chỉ là nhân viên thu phí của NHK thôi, Ushikawa nghĩ. Cứ mặc ông ta nói. Chỉ cần mình không trả lời, lát nữa là ông ta sẽ tự bỏ đi. Nhưng tại sao ông ta lại chắc chắn trong nhà này có người như vậy nhỉ? Từ sau khi về đây chừng một tiếng trước, Ushikawa không hề bước ra ngoài. Y hầu như không phát ra tiếng động nào, rèm cửa cũng kéo kín mít.

“Ông Kozu, tôi biết chắc ông đang ở trong nhà,” người đàn ông dường như đọc được ý nghĩ của Ushikawa, lại tiếp tục nói: “Hẳn ông thấy lạ lắm, làm sao tôi biết được chuyện này chứ? Nhưng tôi biết đấy. Ông đang trốn trong nhà, không muốn trả phí nghe nhìn cho đài NHK, vì vậy mới không nói không rằng. Đối với tôi, chuyện này rõ như lòng bàn tay ấy.”

Tiếng gõ cửa đều đặn kéo dài một lúc. Sau đó, ngưng một quãng ngắn như người chơi nhạc cụ ống dừng lại để lấy hơi, rồi lại tiếp tục vang lên với tiết tấu không đổi.

“Được rồi, ông Kozu. Xem chừng ông quyết tâm giả điếc đến cùng rồi. Được thôi, hôm nay tôi sẽ đi. Tôi cũng có nhiều việc khác phải làm lắm. Nhưng tôi sẽ còn quay lại hỏi thăm ông nữa. Tôi không gạt ông đâu. Tôi bảo đến thì chắc chắn sẽ đến. Tôi không giống như mấy tay thu tiền vớ vẩn kia đâu, tiền nào phải thu được tôi sẽ nhất quyết thu cho bằng được, tuyệt đối không bao giờ bỏ cuộc. Đây là quy tắc đã định ra từ trước, giống như mặt trăng tròn rồi lại khuyết, hay chuyện sinh tử của con người vậy. Ông không thể trốn được đâu.”

Một khoảng lặng kéo dài. Ushikawa tưởng ông ta đã đi rồi, nhưng tay nhân viên thu phí ấy lại cất tiếng.

“Mấy hôm nữa tôi lại ghé qua hỏi thăm ông nhé, ông Kozu. Ông cứ đợi đấy. Khi ông không ngờ đến, sẽ có người gõ cửa, cốc cốc cốc. Người đó chính là tôi đấy.”

Không còn tiếng gõ cửa nữa. Ushikawa vểnh tai lắng nghe, dường như nghe thấy tiếng bước chân đi qua hành lang. Y tức tốc di chuyển đến trước máy ảnh, chăm chú quan sát khu vực cửa chính tòa nhà qua kẽ hở trên rèm cửa. Tay nhân viên thu phí kia làm xong việc trong tòa chung cư này sẽ nhanh chóng đi ra từ chỗ đó. Y cần phải xem đó là thằng cha như thế nào. Nhân viên thu phí của NHK đều mặc đồng phục, thoạt nhìn là biết ngay. Cũng có khả năng có người giả mạo nhân viên thu phí hòng gạt y mở cửa. Nói tóm lại, đối phương chắc là một gã trước đây y chưa từng gặp. Y cầm điều khiển máy ảnh trên tay phải, lặng lẽ đợi một người trông giống nhân viên thu phí của NHK xuất hiện ở cửa chính tòa nhà.

Nhưng sau đó ba mươi phút, vẫn không có ai ra vào cửa chính tòa nhà. Rốt cuộc, một người phụ nữ trước đây y đã thấy nhiều lần xuất hiện, phóng xe đạp đi ra. Ushikawa gọi bà ta là Bà Cằm, vì thịt ở cằm bà ta chảy xệ xuống. Khoảng nửa tiếng sau Bà Cằm quay lại, trong giỏ xe là túi đồ vừa mua về. Bà ta dựng xe đạp vào chỗ cũ, ôm cái túi đi vào. Sau đó, có một học sinh tiểu học tan học về nhà. Ushikawa đặt tên thằng bé này là “Cáo” vì cặp mắt nó xếch như mắt cáo. Nhưng nhân vật trông giống nhân viên thu phí rốt cuộc vẫn không lộ mặt. Ushikawa lấy làm khó hiểu. Tòa chung cư này chỉ có một lối ra duy nhất, mà cặp mắt y thì chưa từng rời khỏi chỗ cửa chính dù chỉ một giây. Tay nhân viên thu phí chưa đi ra, chứng tỏ ông ta vẫn còn ở trong tòa nhà này.

Ushikawa tiếp tục giám sát cửa chính, không gián đoạn giây phút nào, thậm chí còn không đi vệ sinh. Mặt trời lặn, trời tối dần, đèn ngoài cửa đã sáng lên. Nhưng tay nhân viên thu phí vẫn không đi ra. Đã hơn sáu giờ, Ushikawa đành bỏ cuộc, vào buồng vệ sinh, giải quyết cơn buồn tiểu đã nhịn suốt bấy giờ. Không nghi ngờ gì, thằng cha kia vẫn còn trong tòa nhà này. Y không hiểu ra sao nữa. Chuyện này chẳng tuân theo logic nào cả. Thằng cha nhân viên thu phí kỳ quái kia đã quyết định ở lại trong tòa nhà này.

Gió lạnh dần, rít qua khoảng trống giữa những sợi dây điện lạnh lẽo. Ushikawa bật lò sưởi điện lên, hút một điếu thuốc, bắt đầu suy luận về tay nhân viên thu phí bí ẩn kia. Tại sao ông ta lại nói bằng cái giọng đầy khiêu khích như thế? Tại sao lại kiên định tin rằng trong nhà có người như thế? Tại sao ông ta không ra khỏi tòa nhà này? Nếu không ra khỏi đây thì giờ ông ta đang ở đâu?

Ushikawa rời chiếc máy ảnh, dựa lưng vào tường, chăm chú nhìn những sợi mayxo màu vàng cam của chiếc lò sưởi điện một hồi thật lâu.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 17: Aomame


Chỉ có một đôi mắt

Vào một ngày thứ bảy nhiều gió, chuông điện thoại reo. Lúc ấy khoảng gần tám giờ tối. Aomame đang mặc áo lông vũ, đùi đắp chăn len, ngồi trên ghế ngoài ban công, nhìn qua khe hở trên tấm mành, trông chừng chiếc cầu trượt dưới ánh sáng ngọn đèn thủy ngân. Hai tay nàng nhét trong chăn cho khỏi bị lạnh cứng. Chiếc cầu trượt không người trông như bộ xương của một động vật khổng lồ đã tuyệt chủng từ kỷ Băng hà.

Ngồi lâu bên ngoài trong đêm lạnh giá có lẽ không tốt cho thai nhi. Nhưng lạnh thế này chắc chưa phải là vấn đề lớn lắm, Aomame nghĩ. Dù bề mặt cơ thể có lạnh đến mấy, nước ối cũng luôn duy trì nhiệt độ tương đương với nhiệt độ máu. Trên thế giới này có rất nhiều nơi lạnh lẽo mà chỗ này không thể sánh nổi, nhưng phụ nữ ở đó vẫn cứ không ngừng sinh con đẻ cái đấy thôi. Còn hơn thế, đây là cái lạnh mình cần phải trải qua để gặp lại Tengo.

Trăng lớn màu vàng và trăng nhỏ màu xanh vẫn cùng sánh đôi trên bầu trời đêm đông như mọi khi. Những đám mây lớn nhỏ hình dạng khác nhau bị gió thổi lướt nhanh qua bầu trời. Mây trắng và dày đặc, đường nét rõ ràng, thoạt trông giống như những khối băng cứng đang trôi dọc theo dòng sông băng đang tan chảy ra biển lớn. Nhìn những đám mây đêm không biết từ đâu đến lại cũng không biết sẽ đi tới đâu, Aomame cảm thấy như thể mình bị đưa đến một nơi nào đó gần chốn tận cùng thế giới. Nơi đây là cực điểm của lý tính rồi, Aomame thầm nhủ. Từ chỗ này tiếp tục tiến lên thì chẳng có gì tồn tại nữa. Trải dài phía trước kia chỉ có hỗn độn hư vô.

Cửa kính đã được kéo lại, chỉ chừa một khe nhỏ xíu, vì vậy tiếng chuông điện thoại nghe rất xa xôi, mà Aomame thì đang chìm đắm trong suy tư. Nhưng tai nàng không bỏ lỡ tiếng chuông ấy. Điện thoại đổ chuông ba lần rồi dừng, hai mươi giây sau lại vang lên. Là điện thoại của Tamaru. Nàng gạt tấm chăn len đắp trên đùi sang một bên, kéo cánh cửa kính bám đầy hơi sương trắng mờ, đi vào nhà. Bên trong tối tăm u ám, lò sưởi bật vừa đúng độ. Nàng cầm ống nghe lên bằng bàn tay vẫn còn vương cảm giác lành lạnh.

“Vẫn đang đọc Proust à?”

“Chậm lắm,” Aomame trả lời. Như thể hai người đang nói chuyện bằng ám hiệu vậy.

“Không hợp khẩu vị sao?”

“Cũng không phải. Tôi nên nói sao nhỉ, câu chuyện đó viết về một thế giới hoàn toàn khác, không giống như ở đây.”

Tamaru im lặng chờ nàng nói tiếp. Anh ta không vội.

“Nói là một thế giới khác... thực ra ý tôi là tôi có cảm giác như đang đọc báo cáo chi tiết về một tinh cầu nhỏ cách thế giới mình đang sống tới mấy chục nghìn năm ánh sáng ấy. Tôi có thể hình dung và hiểu được từng cảnh tượng miêu tả trong đó, hết sức rõ ràng và tỉ mỉ. Song cảnh tượng trong sách đó và cảnh tượng ở đây không có cách nào kết nối với nhau được... khoảng cách vật lý xa quá. Thế nên cứ đọc được một đoạn lại phải quay lại, đọc từ đầu thêm một lần nữa.”

Aomame lục trong đầu xem sau đó phải nói gì. Tamaru vẫn chờ nàng.

“Nhưng không cảm thấy chán. Ông ấy viết rất công phu, rất đẹp. Tôi có thể lĩnh hội được cấu trúc của cái tinh cầu nhỏ cô độc ấy. Chỉ là tôi tiến triển rất chậm, kiểu như chèo một con thuyền nhỏ đi ngược dòng nước. Cầm mái chèo khua một lúc, sau đó dừng lại nghĩ ngợi, đến khi định thần lại thì con thuyền đã trở về vị trí ban đầu rồi,” Aomame nói. “Nhưng đối với tôi lúc này có lẽ cách đọc như vậy thành ra lại hợp, nếu so sánh với đọc một lèo để theo đuổi tình tiết câu chuyện. Nên nói thế nào nhỉ? Có cảm giác thời gian cứ đong đưa chẳng theo quy tắc nào cả. Dù là đoạn trước biến thành đoạn sau, đoạn sau biến thành đoạn trước cũng chẳng lấy gì làm quan trọng.”

Aomame tìm một cách biểu đạt chính xác hơn nữa.

“Tôi cảm thấy như đang nằm mơ giấc mơ của người khác. Tôi và người ấy đồng thời chia sẻ cảm giác như nhau, nhưng lại không nắm bắt được cái đồng thời ấy rốt cuộc là như thế nào. Cảm giác của chúng tôi rất gần nhau, nhưng thực tế lại có một khoảng cách xa xôi giữa chúng tôi.”

“Cảm giác này có phải là điều Proust theo đuổi hay không?”

Tất nhiên Aomame không biết.

“Dù sao chăng nữa, mặt khác, trong thế giới hiện thực này, thời gian thực sự đang nhích về phía trước,” Tamaru nói. “Không dừng lại, cũng không lùi về phía sau.”

“Tất nhiên, trong thế giới hiện thực, thời gian đang không ngừng tiến lên phía trước.”

Trong khi nói, Aomame hướng ánh mắt về phía cánh cửa kính. Quả đúng như vậy sao? Thời gian đang không ngừng tiến về phía trước sao?

“Đang lúc giao mùa, năm 1984 cũng sắp kết thúc rồi,” Tamaru nói.

“Trong năm nay chắc tôi không đọc hết Đi tìm thời gian đã mất rồi.”

“Không sao cả,” Tamaru nói, “cô muốn đọc bao lâu cũng được. Nó là một bộ tiểu thuyết viết từ năm chục năm trước, không có nhiều thông tin nóng hổi cần phải tranh thủ từng giây từng phút đâu.”

Có lẽ thế, Aomame thầm nhủ. Nhưng có lẽ không phải vậy. Nàng đã không tin lắm vào cái thứ gọi là thời gian này nữa rồi.

Tamaru hỏi: “Cái thứ trong cơ thể cô vẫn ổn chứ?”

“Trước mắt thì không có vấn đề gì.”

“Vậy thì tốt,” Tamaru nói, “phải rồi, chuyện cái tên lùn Đầu Trọc lai lịch bất minh lượn lờ quanh nhà chúng tôi đó, cô nghe nói chưa?”

“Có nghe nói rồi. Thằng cha ấy vẫn quanh quẩn ở đó hả?”

“Không, gần đây không thấy bóng dáng hắn nữa. Hắn lởn vởn ở khu này khoảng hai ngày, sau đó thì biến mất luôn. Nhưng hắn đã đi khắp các công ty môi giới bất động sản gần đây nghe ngóng, lấy cớ tìm thuê nhà để thu thập thông tin về trung tâm bảo trợ. Tên này tướng mạo quá nổi bật, lại còn ăn mặc rất kinh, vì vậy những người nói chuyện với hắn đều nhớ được các bước đi của hắn.”

“Không thích hợp làm công tác điều tra và trinh sát.”

“Đúng thế. Bộ dạng ấy của hắn rất không thích hợp làm loại công việc đó. Cái đầu to tướng, trông như con búp bê đầu to vậy. Nhưng có vẻ hắn là một tên bản lĩnh rất khá, giỏi đi khắp nơi thu thập thông tin, hắn biết rõ nên thực hiện những bước nào, nên đi đâu nghe ngóng những chuyện gì. Đầu óc tên này dường như cũng khá linh hoạt. Hắn không để sót chi tiết nào quan trọng, cũng không uổng công làm những việc không cần thiết.”

“Hơn nữa, hắn đã thu thập được một lượng thông tin nhất định về trung tâm bảo trợ rồi.”

“Hắn điều tra được đó là nơi lập ra dành cho các phụ nữ là nạn nhân của bạo hành gia đình lánh nạn, do bà chủ cung cấp miễn phí. Sợ rằng hắn còn tra được bà chủ là hội viên của câu lạc bộ thể thao nơi cô làm việc, và cả chuyện cô thường xuyên đến đây hướng dẫn riêng cho bà ấy nữa. Giả dụ tôi là thằng cha đó, chắc chắn tôi sẽ tra ra được những chuyện này.”

“Thằng cha ấy cũng xuất sắc như anh à?”

“Chỉ cần không ngại bỏ công ra tìm hiểu các bí quyết thu thập thông tin, rèn luyện tư duy logic trong thời gian dài, ai cũng có thể làm được đến mức độ này.”

“Loại người như vậy chắc trên đời không nhiều lắm đâu.”

“Có một số. Thường được gọi là chuyên gia.”

Aomame ngồi xuống ghế, để một ngón tay lên chóp mũi. Ở đó vẫn còn lưu lại cái lạnh ngoài kia.

“Vậy là thằng cha đó không còn xuất hiện ở quanh biệt thự Cây Liễu nữa?” nàng hỏi.

“Hắn biết mình đã lộ mặt quá nhiều, cũng biết máy quay giám sát đang hoạt động. Vì vậy, hắn thu thập tất cả những thông tin có thể thu thập được trong thời gian rất ngắn, sau đó thì chuyển sang một bãi săn khác rồi.”

“Nói vậy thì tên đó giờ đã tìm ra mối liên hệ giữa tôi và bà chủ, còn phát hiện mối quan hệ ấy đã vượt quá quan hệ bình thường giữa huấn luyện viên của câu lạc bộ thể thao và một vị khách giàu có, đồng thời còn dính dáng cả đến trung tâm bảo trợ nữa. Hắn cũng phát giác ra một vài chuyện mà chúng ta từng thực hiện rồi.”

“Sợ rằng là vậy,” Tamaru nói. “Theo tôi thấy, hắn đã đến gần được cốt lõi vấn đề. Từng bước từng bước một.”

“Nhưng qua lời anh, tôi có ấn tượng hắn dường như không phải thành viên của một tổ chức lớn mạnh nào đó, mà giống như đang đơn độc hành động hơn.”

“Đúng, tôi cũng nghĩ vậy. Trừ phi có ý đồ đặc biệt gì đó, bằng không một tổ chức lớn mạnh không thể nào dùng một kẻ tướng mạo nổi bật như thế để thực hiện việc điều tra bí mật được.”

“Vậy thì tên đó thực hiện việc điều tra này vì nguyên nhân gì, cho ai?”

“Không biết,” Tamaru trả lời, “giờ chúng tôi chỉ biết hắn rất giỏi và rất nguy hiểm. Ngoài ra thì hiện tại chỉ có thể suy đoán mà thôi. Theo đánh giá dè dặt của tôi, Sakigake rất có khả năng dính líu đến chuyện này bằng một phương thức nào đó.”

Aomame ngẫm nghĩ một lát về đánh giá dè dặt của Tamaru. “Và tên kia đã đổi bãi săn rồi.”

“Đúng. Hắn đi đâu thì tôi không biết. Nhưng theo logic mà suy thì nơi hắn sẽ đi tiếp sau đó, hoặc nơi hắn nhắm đến, chính là chỗ cô đang ẩn nấp hiện giờ.”

“Anh đã nói với tôi, gần như không thể nào tìm được chỗ này.”

“Đúng thế. Dù thế nào cũng không thể tra ra được mối liên quan giữa bà chủ và căn hộ chung cư ấy. Mọi đầu mối đều đã bị xóa sạch triệt để rồi. Nhưng đấy chỉ là nhà an toàn ngắn hạn. Nếu cô ở đó quá lâu thì cũng khó tránh khỏi lộ ra sơ hở. Vào lúc cô không ngờ tới nhất. Chẳng hạn, biết đâu cô lại chạy ra ngoài, tình cờ bị người ta nhận ra. Đấy là một khả năng.”

“Tôi chưa hề bước chân ra khỏi cửa,” Aomame nói một cách dứt khoát. Tất nhiên nàng không nói thật. Nàng từng ra khỏi căn hộ này hai lần. Một lần chạy sang sân chơi nhỏ ở bên kia đường tìm kiếm Tengo. Còn một lần là để tìm kiếm lối ra, nàng đã bắt taxi đến chỗ dừng xe khẩn cấp gần khu Sangenjaya trên tuyến số 3 của đường cao tốc Thủ đô. Những chuyện này đương nhiên không thể nói với Tamaru.

“Giả dụ như thế, thằng cha kia làm sao mà tìm được nơi này?”

“Nếu tôi là hắn ta, tôi sẽ điều tra lại một lượt về thông tin cá nhân của cô. Cô là người như thế nào? Cô từ đâu đến? Trước đây từng làm gì, đã sống ra sao? Giờ cô đang nghĩ gì? Cô mong muốn gì? Không mong muốn gì? Thu thập mọi thông tin có thể tìm được, rồi sắp xếp tất cả lên bàn, tiến hành nghiệm chứng và phân tích triệt để.”

“Nói cách khác là bóc trần tôi ra?”

“Đúng thế. Bóc trần cô ra dưới ánh đèn sáng rõ và lạnh lẽo. Dùng nhíp và kính lúp kiểm tra từng ngóc ngách nhỏ, tìm ra khuôn mẫu tư duy và hành động của cô.”

“Tôi không hiểu lắm. Tiến hành phân tích khuôn mẫu của cá nhân như thế là có thể tìm ra chỗ tôi đang ẩn náu hay sao?”

“Chuyện này rất khó nói.” Tamaru đáp, “Có thể được, cũng có thể không. Còn tùy. Tôi chẳng qua chỉ nói, nếu như là tôi thì sẽ làm như vậy, vì tôi không nghĩ ra phương pháp nào khác. Bất kể là ai chăng nữa thì cũng đều có khuôn mẫu suy nghĩ và mô thức hành vi cố định, mà chỉ cần có khuôn mẫu cố định thì sẽ có được nhược điểm.”

“Sao nghe giống điều tra học thuật vậy?”

“Không có khuôn mẫu có định, con người không sống được. Cũng như chủ đề trong âm nhạc ấy. Nhưng nó đồng thời cũng hạn chế suy nghĩ và hành vi của cô, kìm hãm sự tự do, sắp xếp lại trật tự các ưu tiên về cô, có lúc còn bẻ cong cả logic của cô nữa. Ở tình huống trước mắt, cô nói cô không muốn rời khỏi chỗ ở hiện tại. Ít nhất là cho đến cuối năm nay, cô từ chối chuyển đến nơi khác an toàn hơn, vì cô đang tìm kiếm thứ gì đó ở chỗ ấy. Chừng nào chưa tìm thấy thứ muốn tìm, cô không thể đi khỏi đó được, hoặc là cô không muốn đi khỏi đó.”

Aomame không nói gì.

“Đó là thứ gì, cô muốn tìm nó đến mức nào, tôi không biết, mà cũng không có ý định cật vấn cô. Có điều theo tôi thấy, hiện tại, cái đó chính là nhược điểm cá nhân của cô.”

“Có lẽ thế,” Aomame trả lời.

“Tên búp bê đầu to ấy có thể sẽ nhắm vào đây để tấn công. Hắn sẽ không nhân nhượng lần theo cái nhân tố cá nhân kìm hãm ấy. Thằng cha đó hẳn cho rằng đây là một điểm đột phá. Giả dụ hắn ta thực sự xuất sắc như tôi tưởng tượng, tức là có thể dựa vào những manh mối vụn vặt mà lần hồi tìm được đến chỗ đó.”

“Tôi chắc chắn không tìm được đâu,” Aomame nói. “Chắc là hắn không thể phát hiện ra mối dây nối liền giữa tôi và thứ đó với nhau. Vì đó là thứ được tôi gìn giữ ở sâu trong lòng mình.”

“Cô có tự tin trăm phần trăm không?”

Aomame trầm ngâm. “Không được một trăm phần trăm, khoảng chín mươi tám phần trăm thôi.”

“Nếu vậy, cô cần phải nghiêm túc lo lắng vì hai phần trăm kia rồi. Vừa nãy tôi nói đó, thằng cha kia là một chuyên gia. Xuất sắc, và còn chịu khó chịu khổ nữa.”

Aomame không nói gì.

Tamaru nói tiếp: “Chuyên gia cũng giống như chó săn, có thể ngửi thấy những mùi mà người thường không thể ngửi được, nghe thấy những âm thanh người thường không nghe thấy. Nếu cô làm những việc người thường vẫn làm theo cách của người thường thì cô không thể trở thành chuyên gia, mà kể có trờ thành chăng nữa cũng chẳng sống sót được. Vì vậy, cô nên cảnh giác thì hơn. Cô là người cẩn trọng, về điểm này tôi biết, nhưng cô phải cẩn thận nhiều hơn nữa. Người ta không quyết định những chuyện quan trọng nhất dựa vào tỷ lệ phần trăm đâu.”

“Tôi có chuyện này muốn hỏi,” Aomame nói.

“Gì vậy?”

“Nếu tên búp bê đầu to kia lộ mặt ở chỗ anh, anh định thế nào?”

Tamaru thoáng trầm ngâm. Đây có lẽ là một câu hỏi bất ngờ đối với anh ta. “Có thể là không làm gì cả. Cứ để mặc hắn thôi. Ở khu này, thằng cha ấy gần như không thể làm được gì.”

“Nhưng giả sử thằng cha ấy bắt đầu làm chuyện gì đó khiến anh khó chịu thì sao?”

“Ví dụ như chuyện gì?”

“Tôi không biết. Chuyện gì đó khiến anh thấy phiền phức.”

Sâu trong cổ họng Tamaru phát ra một âm thanh ngắn ngủn. “Lúc đó, chắc là tôi sẽ gửi cho hắn một tín hiệu.”

“Là tín hiệu giữa các chuyên gia với nhau hả?”

“Chắc vậy,” Tamaru nói. “Có điều, trước khi hành động cụ thể, tôi cần phải tìm xem thằng cha này là đồng bọn với ai. Nếu hắn có chỗ dựa, có thể tôi mới là người gặp nguy hiểm chứ không phải hắn. Chỉ khi chắc chắn điều này thì mới có thể hành động được.”

“Trước khi nhảy xuống hồ bơi, phải xác nhận độ sâu của nước trước đã.”

“Có thể nói như thế.”

“Nhưng anh phỏng đoán hắn ta hoạt động một mình, có lẽ không có hậu thuẫn gì.”

“À, đúng là tôi phỏng đoán như thế. Nhưng kinh nghiệm cho thấy, trực giác của tôi thỉnh thoảng không chính xác lắm. Hơn nữa, rất tiếc là sau gáy tôi không có mắt,” Tamaru nói. “Tóm lại, cô hãy đề cao cảnh giác, được không? Nhìn kỹ xung quanh, để ý xem có ai khả nghi không, cảnh vật có thay đổi gì không, có gì bất thường không. Hễ phát hiện ra có gì bất thường, dù nhỏ nhặt đến đâu, cô hãy lập tức báo với tôi.”

“Tôi hiểu rồi. Tôi sẽ đề cao cảnh giác,” Aomame trả lời. Nàng không cần ai nhắc nhở. Để tìm thấy Tengo, mình lúc nào chẳng chú ý không bỏ sót bất cứ sự vật nhỏ nhặt nào. Nói thì nói vậy, nhưng mình chỉ có một đôi mắt mà thôi, đúng như Tamaru nói.

“Những gì tôi muốn nói chỉ có thế thôi.”

“Bà chủ khỏe không?” Aomame hỏi.

“Rất khỏe,” Tamaru trả lời, sau đó hỏi thêm, “nhưng bà ấy dường như ít nói hơn.”

“Bà ấy vốn xưa nay không phải người nhiều lời.”

Cổ họng Tamaru phát ra một âm thanh gầm gừ trầm đục. Trong cổ họng anh dường như có lắp một thứ khí quan dùng để biểu đạt những cảm xúc đặt biệt. “Ý tôi là, còn ít hơn.”

Aomame hình dung ra cảnh tượng bà chủ ngồi một mình trên chiếc ghế vải buồm trong nhà kính, dưới chân bà là chiếc bình tưới to, nhìn không dứt lũ bướm lặng lẽ bay lượn. Nàng biết rõ hơi thở của bà chủ tĩnh lặng đến nhường nào.

“Trong gói hàng lần tới, tôi để vào một hộp bánh madeleine nhé,” Tamaru noi, “biết đâu thứ ấy lại có ảnh hưởng tốt với dòng chảy thời gian.”

“Cám ơn anh,” Aomame nói.

Aomame đứng trong bếp pha ca cao. Trước khi ra ngoài ban công canh chừng, cần phải làm ấm thân thể lên một chút. Nàng đun sữa trong cái nồi có cán cầm dài, đổ bột ca cao vào cho tan rồi đổ vào cốc lớn, sau đó đổ kem tươi đã làm sẵn lên trên mặt. Nàng ngồi xuống trước bàn ăn, vừa nghĩ về cuộc nói chuyện với Tamaru vừa chầm chậm nhấp từng ngụm. Dưới ánh đèn sáng trưng lạnh lẽo, mình bị cái tên búp bê đầu to với bộ dạng kỳ quái kia lột trần. Hắn là một chuyên gia giỏi, và nguy hiểm nữa.

Aomame khoác áo lông vũ, choàng khăn, cầm cốc ca cao đã uống một nửa quay lại ban công. Nàng ngồi xuống chiếc ghế làm vườn, đắp chăn lên đùi. Trên cầu trượt vẫn không có người, nhưng đúng lúc này, một cái bóng trẻ con đang bước ra khỏi sân chơi đập vào mắt nàng. Giờ này không ngờ vẫn có trẻ con đến sân chơi chơi một mình, thật kỳ lạ. Một đứa trẻ béo lùn đầu đội mũ len. Nhưng Aomame chỉ có thể nhìn xuống qua khe hở của tấm mành mành, mà đứa trẻ đi rất nhanh nên thoắt cái đã qua khỏi tầm mắt của nàng, biến mất vào trong bóng tối của tòa nhà. Đầu nó dường như to qua mức đối với một đứa trẻ, nhưng có lẽ đấy chỉ là nàng tưởng tượng ra.

Nhất định đó không phải là Tengo. Vì vậy Aomame không để ý lắm, lại hướng mắt về phía cầu trượt, về phía những đám mây đang lục tục kéo nhau chạy ngang bầu trời. Nàng uống ca cao, ấp hai tay quanh cốc cho ấm.

Đương nhiên, người Aomame trông thấy không phải đứa trẻ nào mà chính là Ushikawa. Nếu trời sáng hơn chút nữa, hoặc thời gian quan sát dài thêm một chút, hẳn nàng sẽ phát giác ra cái đầu to tướng ấy chính là người đàn ông mà Tamaru nhắc đến. Nhưng thời gian Aomame nhìn thấy bóng dáng y chỉ có mấy giây, góc độ quan sát lại không được toàn diện. May thay, cũng vì lý do đó, Ushikawa cũng không trông thấy Aomame đang ngồi trên ban công.

Ở đây, có mấy cái “nếu như” hiện lên trong tâm trí chúng ta. Nếu như Tamaru rút ngắn câu chuyện lại một chút, nếu như sau đó Aomame không vừa trầm tư vừa pha ca cao nóng, nhất định nàng đã trông thấy Tengo đang ngồi trên đỉnh cầu trượt ngửa đầu nhìn trời, và nàng sẽ lập tức lao ra khỏi nhà, hai người sẽ có thể trùng phùng sau hai mươi năm xa cách.

Nhưng đồng thời, nếu như vậy, Ushikawa vốn đang theo dõi Tengo sẽ lập tức hiểu ra đây chính là Aomame, sau đó tra được nơi ở của nàng, rồi tức khắc thông báo cho hai gã ở Sakigake.

Vì lẽ đó, khó mà nói được Aomame không trông thấy Tengo lúc này là chuyện không may mắn hay may mắn. Dù thế nào thì, Tengo lại trèo lên đỉnh cầu trượt, ngẩng đầu nhìn hai mặt trăng lớn nhỏ đang lơ lửng trên trời và những đám mây bay ngang qua chúng giống như lần trước. Ushikawa thì ẩn mình trong chỗ tối cách đó không xa để giám sát Tengo. Trong khoảng thời gian đó, Aomame đã rời khỏi ban công, nói chuyện với Tamaru qua điện thoại, sau đó nàng pha ca cao để uống. Cứ vậy, hai mươi lăm phút trôi đi. Hai mươi lăm phút quyết định vận mệnh của họ. Lúc Aomame mặc áo lông, bưng cốc ca cao trở lại ban công, Tengo đã rời khỏi sân chơi bên kia đường. Ushikawa không bám theo ngay, vì y phải nán lại xác nhận chuyện gì đó. Làm xong chuyện ấy, y liền rảo bước ra khỏi sân chơi. Còn Aomame thì mục kích mấy giây cuối cùng này từ trên ban công căn hộ nàng đang ở.

Giống như hồi nãy, những cụm mây vẫn đang lướt nhanh qua bầu trời, bị gió thổi về phương Nam, ra phía vịnh Tokyo, rồi bị dồn ra Thái Bình Dương rộng lớn. Sau đó, vận mệnh của những đám mấy ấy thế nào không ai biết được, cũng như chẳng ai biết sau khi chết linh hồn sẽ đi đâu.

Tựu trung, vòng tròn đang thu hẹp lại. Nhưng cả Aomame lẫn Tengo đều không hay biết vòng tròn đang nhanh chóng thắt lại bên cạnh mình. Ushikawa ít nhiều cảm giác được sự thay đổi này, vì chính y là người đang tích cực hành động để thu hẹp cái vòng tròn ấy. Nhưng kể cả y cũng không thấy được toàn thể cục diện, và không nắm được điểm quan trọng nhất. Y không biết khoảng cách giữa mình và Aomame đã rút ngắn lại chỉ còn mấy chục mét. Và, đối với Ushikawa, đây là chuyện hiếm: lúc rời khỏi sân chơi, đầu óc y vô cùng hỗn loạn, không sao suy nghĩ có lớp có lang được.

Đến mười giờ, cái lạnh càng lúc càng vượt quá sức chịu đựng. Aomame đành bỏ cuộc, đứng dậy đi vào trong nhà có máy sưởi. Nàng cởi quần áo chui vào bồn tắm ấm áp. Trong lúc ngâm mình trong nước nóng để xua đi cái lạnh ngấm vào bên trong cơ thể, nàng áp bàn tay lên bụng dưới. Có thể thấy được chỗ đó đã hơi gồ lên. Nàng nhắm mắt lại, cố gắng cảm nhận thứ bé nhỏ ở bên trong. Nàng không còn nhiều thời gian nữa. Dù thế nào, Aomame cũng phải nói với Tengo. Nói với anh rằng nàng đang mang trong mình đứa con của anh. Nói với anh rằng nàng sẽ dốc sức lực ra bảo vệ đứa bé này.

Nàng thay quần áo leo lên giường, nghiêng mình nằm ngủ trong bóng tối. Trước khi chìm vào giấc ngủ sâu, nàng mơ thấy mình gặp bà chủ.

Aomame thấy mình đang ở trong nhà kính của Biệt thự Cây Liễu, cùng bà chủ ngắm bướm. Nhà kính hơi tối mà ấm áp, như bên trong tử cung vậy. Cây cao su Ấn Độ nàng bỏ lại nhà cũ cũng để ở đây. Nó được chăm sóc chu đáo, xanh tươi mơn mởn đến nỗi nàng gần như không thể nhận ra. Một con bướm miền Nam nàng chưa từng thấy bao giờ đậu trên một chiếc lá dày của nó. Con bướm thu đôi cánh màu sắc rực rỡ ấy, lặng lẽ ngủ say. Aomame cảm thấy rất vui.

Trong giấc mơ, bụng Aomame gồ cao hẳn lên, có vẻ như đã sắp đến ngày sinh. Nàng nghe thấy được tiếng tim đập của thứ bé nhỏ ấy. Nhịp tim của nàng và của nó hòa trộn vào nhau, tạo nên một tiết tấu phức hợp khiến người ta khoan khoái.

Bà chủ ngồi bên Aomame, ưỡn lưng thẳng tắp như xưa nay vẫn thế. Bà mím chặt môi, lặng lẽ hít thở. Hai người không nói gì, để không làm con bướm ngủ say kia giật mình tỉnh giấc. Nét mặt bà chủ hờ hững, như thể bà không nhận ra Aomame đang ở ngay bên. Tất nhiên, Aomame hiểu mình được bà chủ bảo vệ chặt chẽ đến nhường nào. Mặc dù thế, cảm giác bất an vẫn không chịu rút lui khỏi tâm trí nàng. Hai bàn tay bà chủ đặt trên đầu gối trông quá dỗi mỏng manh yếu đuối. Bàn tay Aomame lần tìm khẩu súng lục một cách vô thức, nhưng nàng không thấy nó đâu.

Nàng bị hút sâu vào giấc mơ đó, mặt khác cũng hiểu rằng đó là giấc mơ. Thỉnh thoảng, Aomame lại gặp một giấc mơ như thế. Nàng thấy mình ở trong một hiện thực rõ ràng, sáng sủa, nhưng đồng thời cũng hiểu đó không phải hiện thực. Đó chỉ là cảnh tưởng tượng miêu tả chi tiết xảy ra trên một hành tinh khác.

Lúc này, có người mở cửa nhà kính. Gió mang theo khí lạnh chẳng lành ùa vào. Con bướm lớn thức dậy, nhẹ nhàng xòe cánh bay khỏi cây cao su Ấn Độ. Ai vậy nhỉ? Nàng định ngoảnh đầu lại nhìn. Nhưng trước khi nàng kịp nhìn thấy bóng dáng người đó, giấc mơ đã kết thúc.

Lúc thức dậy, cả người Aomame đầm đìa mồ hôi. Thứ mồ hôi dính dấp, khó chịu. Nàng cởi bộ đồ ngủ ướt đẫm, lấy khăn bông lau khô mình, mặc áo phông sạch vào rồi ngồi một lúc trên giường. Có thể sắp xảy ra chuyện gì đó chẳng lành. Có thể có người đang nhằm vào thứ bé nhỏ này. Có thể người kia đã ở rất gần nàng. Cần phải tìm thấy Tengo càng sớm càng tốt. Thế nhưng, ngoài việc trông chừng sân chơi mỗi tối như hiện nay, nàng không còn cách nào khác. Chăm chú nhìn một cách cẩn thận, ngoan cường và bền bỉ. Chăm chú nhìn cái góc nhỏ nhoi này của thế giới, cái điểm duy nhất trên đỉnh cầu trượt kia. Chỉ có vậy mà thôi. Cho dù vậy, người ta vẫn có thể bỏ sót thứ gì đó. Vì nàng chỉ có một đôi mắt.

Aomame muốn khóc, nhưng nước mắt không xuất hiện. Nàng lại nằm xuống giường, tay đặt lên bụng, lặng lẽ chờ giấc ngủ quay trở lại.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 18: Tengo


Nơi đâm kim xuống liền thấy máu chảy ra

“Ba ngày sau đó chẳng có chuyện gì xảy ra cả,” Komatsu nói. “Tôi ăn cơm bọn họ đưa đến, tối ngủ trên cái giường chật hẹp ấy, sáng sớm tỉnh dậy thì giải quyết nỗi buồn trong toa lét nhỏ ở góc phòng. Toa lét có lắp một cánh cửa che chắn cho riêng tư, nhưng không lắp khóa. Mấy hôm đó trời đang nắng gắt cuối thu, nhưng cửa thông gió của gian phòng hình như gắn với máy điều hòa nhiệt độ thành ra cũng không nóng bức.”

Tengo không nói tiếng nào, lắng nghe câu chuyện của Komatsu.

“Một ngày họ đưa tới ba bữa cơm. Lúc mấy giờ thì tôi chịu không biết. Đồng hồ đeo tay bị tịch thu, phòng ấy lại không có cửa sổ, chẳng rõ ban ngày hay ban đêm nữa. Tôi dỏng tai lên chăm chú lắng nghe, nhưng không nghe thấy bất cứ âm thanh nào. Tôi ngờ rằng ngay cả tiếng động mình gây ra trong này cũng không vọng ra đến bên ngoài được. Tôi hoàn toàn không biết bọn họ đã đưa mình đến đâu, chỉ lờ mờ cảm giác đây là một chỗ xa khu dân cư. Tựu trung là tôi ở đó ba ngày, không có chuyện gì xảy ra cả. Kỳ thực, tôi cũng không chắc có phải ba ngày hay không nữa. Có chín lần đưa cơm đến, tôi lần lượt ăn hết. Đèn trong phòng tắt bật ba lần, tôi ngủ được ba giấc. Tôi xưa nay vốn rất thích ngủ, mà ngủ cũng chẳng có giờ giấc cố định gì cả, nhưng mấy hôm đó chẳng hiểu tại sao cứ ngủ say tít. Đúng thật kỳ quặc. Mà này, cậu hiểu tôi nói gì chứ?”

Tengo im lặng gật đầu.

“Suốt ba ngày đó tôi không nói một câu nào. Người đưa cơm là một gã trẻ tuổi, gầy gò, đội mũ bóng chày, mặt đeo khẩu trang. Cu cậu mặc bộ đồ thể thao dệt kim, chân đi giày đá bóng bẩn thỉu. Thằng nhãi dùng khay bê cơm và thức ăn đến, đợi tôi ăn xong rồi thu dọn. Toàn là bát đĩa giấy dùng một lần, dao nĩa và thìa múc canh bằng nhựa mềm nhũn. Thức ăn mang đến đều là các món nấu sẵn hết sức phổ biến, đựng trong túi giấy bạc, không thể nói là ngon, nhưng cũng không đến mức chẳng thể nuốt nổi. Thức ăn không nhiều lắm. Đói bụng nên lần nào tôi cũng ăn hết sạch sẽ. Đây lại là một chuyện lạ nữa. Bình thường tôi cũng không hay có cảm giác thèm ăn cho lắm, nhiều lúc còn quên cả ăn cơm nữa. Tôi được cho uống sữa và nước khoáng, cà phê với trà thì không có, whiskey mạch nha đơn và bia tươi thì thôi càng không nhắc làm gì. Thuốc là cũng không. Xét cho cùng thì đây có phải khách sạn ở khu du lịch nào đâu.”

Nói tới đây, Komatsu dường như đột nhiên lên cơn thèm thuốc lá, liền móc bao Marlboro đỏ ra, cho một điếu lên miệng, dùng diêm quẹt lửa, chầm chậm rít khói vào sâu trong phổi, rồi thở hắt ra một hơi, sau đó khẽ chau mày.

“Gã đưa cơm từ đầu chí cuối không nói một lời nào, chắc là cấp trên cấm không được nói chuyện với tôi. Thằng nhãi con chắc chỉ là hạng lâu la chuyên lo việc vặt. Nhưng có lẽ gã giỏi võ, mỗi động tác giơ tay giơ chân đều khiến người ta có cảm giác gã rất tập trung.”

“Anh có hỏi gã gì không?”

“Tôi biết là kể cả khi tôi có bắt chuyện gã đó cũng không trả lời. Nên tôi chỉ im lặng, trời bảo sao thì biết vậy thôi. Tôi ăn cơm, uống sữa người ta đưa đến, tắt đèn thì leo lên giường đi ngủ, đèn trong phòng sáng lên thì tỉnh dậy. Mỗi sáng gã thanh niên kia lại tới, đặt dao cạo râu và bàn chải đáng răng xuống rồi đi. Tôi dùng các thứ ấy để cạo râu, đánh răng, dùng xong liền bị thu đi mất. Ngoài giấy vệ sinh, trong phòng không có thứ gì có thể gọi là nhu yếu phẩm. Bọn họ không cho tôi tắm, cũng không cho thay quần áo, nhưng tôi cũng chẳng muốn tắm và thay quần áo làm gì. Trong phòng không có gương, nhưng cũng không có gì đặc biệt bất tiện.

Khó chịu nhất là sự buồn tẻ. Cậu phải biết, từ lúc thức dậy đến lúc đi ngủ, cả một ngày trời ở trong gian phòng trắng toát vuông vức như viên xúc xắc, một thân một mình không nói câu nào như thế, tất nhiên là buồn tẻ cực kỳ rồi. Tôi vốn là kẻ nghiện chữ, bên cạnh không có cái gì có chữ, dù chỉ một tờ thực đơn, khiến tôi cứ đứng ngồi không yên. Nhưng ở đó không có sách báo, không cáo tạp chí. Không có ti vi và radio, cũng không có trò chơi điện tử. Một người để nói chuyện cũng không có. Ngoài việc ngồi yên một chỗ nhìn chằm chằm sàn nhà, tường với trần nhà, tôi chẳng còn biết làm gì nữa. Cảm giác ấy thật kỳ quặc. Cậu thử nghĩ xem có phải không? Đang yên đang lành đi trên đường, không dưng bị một đám người chẳng rõ lai lịch tóm lấy, cho ngửi thuốc mê, trói mang đi, nhốt vào một gian phòng cổ quái không cửa sổ. Dù thế nào thì cũng rất kỳ dị đúng không? Nhưng tiếp đó là một sự buồn tẻ đến mức khiến cậu gần như phát điên lên.”

Komatsu dạt dào cảm khái nhìn đăm đăm vào điếu thuốc đang nghi ngút khói giữa mấy ngón tay, rồi gẩy tàn thuốc vào trong gạt tàn.

“Chắc bọn họ muốn khiến cho tinh thần tôi gục ngã, nên mới không làm gì trong ba ngày liền, chỉ nhốt trong gian phòng chật hẹp đó. Điểm này thì hẳn là có tính toán từ trước rồi, bọn họ biết làm thế nào để khiến người ta suy sụp thần kinh. Đến ngày thứ tư, tức là sau bữa sáng thứ tư, có hai người đàn ông tới. Tôi nghĩ chắc là hai tên đã bắt cóc tôi. Lúc bị tấn công tôi bất ngờ quá, chẳng rõ đầu cua tai nheo thế nào, nên không nhìn rõ mặt chúng. Có điều, vừa trông thấy hai tên đó, tôi liền dần dần nhớ lại tình hình lúc ấy. Tôi bị lôi vào trong xe, hai tay bị bẻ mạnh ra phía sau, như muốn gãy lìa ra vậy, đối phương còn dùng khăn vải có tẩm thuốc bịt chặt mũi tôi nữa. Suốt quá trình đó cả hai bên không nói một lời. Chuyện chỉ xảy ra trong chớp mắt.”

Komatsu nhớ lại tình cảnh lúc ấy, liền hơi chau mày lại.

“Một tên không cao lắm, vóc người cường tráng, đầu cạo trọc. Da hắn ngăm ngăm đen, sương gò má gồ cao. Tên còn lại thì cao, tay chân dài thượt, má gầy hóp lại, tóc buộc ra sau đầu. Hai tên đứng cạnh nhau trông cứ như hai tay diễn viên tấu hài, một gầy nhẳng, một béo lùn, cằm để râu dê. Có điều, thoạt nhìn là có thể đoán được ngay chúng là những gã nguy hiểm, cái loại một khi cần thiết thì chuyện gì cũng dám ra tay không hề do dự. Mà chúng không hề vênh váo, phong thái rất trầm tĩnh, vì vậy mới càng đáng sợ. Cặp mắt hai tên này lạnh lẽo đến rợn cả mình. Cả hai đều mặc quần vải cotton màu đen với áo sơ mi cộc tay màu trắng, có lẽ đều trên hai lăm tuổi, Đầu Trọc trông có vẻ lớn tuổi hơn một chút. Không tên nào đeo đồng hồ.”

Tengo không nói gì, đợi phần tiếp theo của câu chuyện.

“Người nói chuyện là Đầu Trọc. Tên gầy buộc tóc đuôi ngựa không nói không rằng, cũng không nhúc nhích, chỉ đứng thẳng như cây cột nơi cửa. Trông gã như đang chăm chú nghe Đầu Trọc nói chuyện với tôi, mà cũng có thể chẳng nghe. Đầu Trọc ngồi trên cái ghế xếp bằng kim loại do gã mang đến, nhìn thẳng vào mặt tôi nói chuyện. Không có cái ghế nào khác, tôi ngồi trên giường. Thằng cha mặt lạnh như tiền. Lúc nói chuyện thì mồm gã nhúc nhích, nhưng ngoài ra thì những chỗ khác trên mặt gã không hề chuyển động. Chẳng khác nào con rối gỗ nói chuyện nhờ thuật nói bằng bụng vậy.”

Đầu Trọc vừa vào chuyện đã đặt vấn đề ngay với Komatsu: “Tại sao anh bị đưa đến đây, chúng tôi là ai, đây là nơi nào, chắc anh cũng đoán được phần nào rồi chứ?”

Không, Komatsu trả lời.

Đầu Trọc dùng cặp mắt thiếu chiều sâu của gã nhìn chằm chằm vào mặt Komatsu một lúc. “Nhưng, giả dụ yêu cầu anh đoán thử, anh sẽ suy đoán thế nào?” Lời lẽ của gã lịch thiệp, nhưng toát lên giọng điệu không chấp nhận bất cứ sự biện bạch nào. Giọng nói cứng và lạnh, như chiếc thước kẻ kim loại bị bỏ quên một thời gian dài trong tủ đá.

Komatsu do dự một chút, rồi thành thực trả lời: giả dụ bảo tôi suy đoán, tôi trộm nghĩ không biết có liên quan đến sự kiện Nhộng không khí hay không. Vì không thể nghĩ ra chuyện gì khác. Nếu vậy, thì các anh chắc là người của Sakigake, nơi này hẳn là ở đâu đó trên đất của giáo đoàn rồi.

Nghe câu trả lời của Komatsu, Đầu Trọc không khẳng định cũng không phủ định, lặng lẽ nhìn chằm chằm vào mặt anh ta. Komatsu cũng không nói gì thêm.

“Được rồi, ta sẽ nói chuyện dựa trên giả thuyết này nhé.” Đầu Trọc bình thản nói. “Những gì chúng ta nói tiếp sau đây chẳng qua chỉ là sự triển khai cái giả thiết anh vừa nói thôi. Dựa trên cái giả định rằng chuyện đúng là như vậy. Được chứ?”

“Được.” Komatsu nói. Đối phương định vòng vo hết mức có thể. Đây là một dấu hiệu không tồi. Nếu không định thả anh ta về, bọn họ cũng chẳng cần phải rườm rà phức tạp như vậy làm gì.

“Anh là biên tập viên làm việc tại nhà xuất bản, phụ trách dự án xuất bản tiểu thuyết Nhộng không khí của Fukada Eriko. Đúng vậy không?”

Đúng vậy. Komatsu thừa nhận. Đây là sự thật mọi người đều biết.

“Theo như chúng tôi tìm hiểu, đã có thủ đoạn không chính đáng được sử dụng để cho Nhộng không khí giành được giải thưởng Tác giả mới của Tạp chí Văn nghệ. Trước khi giao bản thảo dự thi cho hội đồng giám khảo thẩm định, anh đã mượn tay một người thứ ba viết lại hầu như toàn bộ. Tác phẩm được lén lút viết lại này đã giành được giải thưởng, trở thành chủ đề xã hội, rồi được xuất bản, trờ thành sách bán chạy. Tôi không hiểu lầm gì chứ?”

“Còn phải xem anh lý giải dưới góc độ nào nữa.” Komatsu nói. “Sửa chữa bản dự thi dựa trên kiến nghị của biên tập viên, đó không phải là cách làm tuyệt đối không được chấp nhận...”

Đầu Trọc giơ tay lên ngắt lời Komatsu. “Tác giả nghe theo lời khuyên của biên tập viên, tự mình sửa chữa bản thảo gốc thì không thể gọi là thủ đoạn không chính đáng. Anh nói đúng. Nhưng vì để giành giải thưởng mà kéo người thứ ba vào viết lại văn bản, thì dù xét từ góc độ nào cũng không phải là một hành vi hợp đạo nghĩa. Huống hồ, các anh còn lập ra một công ty ma để chia sẻ tiền bản quyền của cuốn sách này. Tôi không rõ về mặt pháp luật thì giải thích thế nào, nhưng ít nhất, xét trên bình diện đạo đức, chắc chắn các anh sẽ bị lên án nghiêm khắc. Không có gì để biện bạch cả. Báo chí sẽ thỏa sức xào xáo, danh tiếng của nhà xuất bản sẽ mất sạch. Anh Komatsu, chuyện này chắc chắn anh hiểu rõ hơn ai hết. Chúng tôi đã nắm được nhiều chi tiết của sự thật, hoàn toàn có thể trưng ra bằng chứng cụ thể trước công chúng. Vì vậy anh đừng có thanh mình làm gì. Chỉ lãng phí thời gian của cả hai bên mà thôi.”

Komatsu gật đầu.

“Nếu để đến nước ấy, tất nhiên anh chỉ có cách xin thôi việc, chẳng những vậy còn bị trục xuất khỏi ngành luôn. Anh sẽ không còn chỗ dung thân. Ít nhất là công việc đường đường chính chính thì không.”

“E rằng là như thế,” Komatsu thừa nhận.

“Nhưng, trước mắt, những người biết được sự thật này vẫn còn rất ít,” Đầu Trọc nói. “Anh, Fukada Eriko và Thầy giáo Ebisuno, và Kawana Tengo người trực tiếp viết lại kia, cùng với vài người khác nữa.”

Komatsu cẩn thận lựa lời, hỏi: “Suy luận dựa trên giả thuyết đó, ‘vài người khác’ mà anh nói chính là người của giáo đoàn Sakigake?”

Đầu Trọc gật đầu một cách hết sức mập mờ. “Nếu suy luận dựa trên giả thuyết đó thì chuyện đại khái là vậy.”

Đầu Trọc ngừng một chút, để cho cái giả thiết này thấm vào tâm trí Komatsu, sau đó tiếp tục nói:

“Và, nếu giả thiết này chính xác, họ có thể xử lý anh như thế nào cũng được. Có thể giữ anh lại làm khách, muốn giữ bao lâu thì giữ. Chẳng mất gì. Nếu muốn tiết kiệm thời gian thì còn mấy lựa chọn khác nữa, trong đó bao gồm cả những lựa chọn không lấy gì làm vui vè cho cả hai bên. Nói tóm lại, họ hoàn toàn có đủ sức mạnh và thủ đoạn. Những điều này, chắc anh hiểu hết cả chứ?”

“Tôi nghĩ là có,” Komatsu trả lời.

“Tốt lắm,” Đầu Trọc nói.

Đầu Trọc giơ một ngón tay lên, Tóc Đuôi Ngựa liền đi ra ngoài. Một lúc sau, gã cầm một chiếc điện thoại quay lại, cắm dây vào lỗ trên sàn nhà, rồi đưa ống nghe cho Komatsu. Đầu Trọc bảo Komatsu bấm số của nhà xuất bản.

“Cứ nói là bị cảm nặng, sốt cao liên tục, nằm bẹp mấy ngày rồi. Chắc là thời gian tới không đi làm được. Bảo với họ thế, sau đó gác máy.”

Komatsu gọi cho đồng nghiệp, nói vắn tắt những điều cần nói, rồi chẳng buồn trả lời câu hỏi của người ở đầu dây bên kia, gác máy luôn. Đầu Trọc gật đầu, Tóc Đuôi Ngựa liền rút dây, cầm điện thoại đi ra ngoài. Đầu Trọc chăm chú nhìn mu bàn tay mình một lúc như kiểm tra gì đó, rồi quay sang nói với Komatsu. Trong giọng y lúc này nghe ra được một chút dịu dàng, dù mờ nhạt.

“Hôm nay kết thúc ở đây,” Đầu Trọc nói, “hôm khác sẽ nói chuyện tiếp. Cho tới lúc đó, anh hãy nghĩ cho kỹ về những gì chúng ta đã nói ngày hôm nay.”

Sau đó cả hai tên đi khỏi. Komatsu lặng lẽ trải qua mười ngày nữa trong gian phòng chật hẹp. Một ngày ba lần, gã thanh niên trẻ tuổi đeo khẩu trang mang những bữa cơm không thể nói là ngon lành gì đến. Từ ngày thứ tư, họ cho anh ta thêm một bộ áo vải bông, chắc đó là đồ ngủ, coi như có thay đổi. Nhưng mãi đến ngày cuối họ cũng không cho Komatsu tắm. Anh chỉ có thể rửa mặt nơi cái bồn nhỏ trong toa lét. Cảm giác về ngày tháng càng lúc càng thêm mờ mịt.

Komatsu đoán anh ta có lẽ đã bị đưa đến tổng bộ của giáo đoàn ở Yamanashi. Anh ta đã nhìn thấy nơi đó trong chương trình thời sự trên ti vi. Tổng bộ nằm sâu trong núi, xung quang có tường cao bao bọc, gần như là một vùng bất khả xâm phạm. Không mong gì trốn thoát hay cầu cứu. Kể cả có bị giết ở đây (đây chính là “lựa chọn không lấy gì làm vui vẻ cho cả hai bên”) thì sợ rằng thi thể anh ta cũng chằng bao giờ được phát hiện. Đối với Komatsu đây là lần đầu tiên cái chết hiện hữu một cách thật và gần đến thế.

Ngày thứ mười sau khi Komatsu bị ép gọi điện cho nhà xuất bản (có lẽ ngày thứ mười, anh ta không dám chắc), hai gã kia xuất hiện trở lại. Đầu Trọc hình như gầy hơn so với lần trước, xương gò má gồ hẳn lên một cách chướng mắt. Đôi mắt lạnh lẽo giờ hằn những đường tơ máu li ti. Giống như lần trước, gã ngồi trên cái ghế gấp bằng sắt tự mình mang đến, đối mặt với Komatsu qua chiếc bàn. Hồi lâu. Đầu Trọc không lên tiếng, chỉ trợn đôi mắt đỏ ngầu nhìn chằm chằm vào Komatsu.

Ngoại hình của Tóc Đuôi ngựa không thay đổi gì. Cũng như lần trước, gã đứng thẳng đơ cạnh cửa, dùng ánh mắt vô cảm nhìn chằm chằm một điểm nào đó trên không trung. Hai gã vẫn mặc quần cotton đen, sơ mi trắng. Chắc là đồng phục của bọn gã.

“Tiếp tục cuộc nói chuyện lần trước,” cuối cùng Đầu Trọc cũng lên tiếng. “Lần trước đang nói đến đoạn chúng tôi có thể muốn xử lý anh như thế nào tùy thích.”

Komatsu gật đầu. “Trong đó gồm cả những lựa chọn không lấy gì làm vui vẻ cho cả hai bên.”

“Trí nhớ của anh quả nhiên rất tốt,” Đầu Trọc nói. “Đúng vậy. Kết cục không vui vẻ gì cũng nằm trong dự kiến.”

Komatsu không nói một lời. Đầu Trọc lại tiếp tục.

“Có điều, xét cho cùng đó chỉ là lý thuyết. Còn trên thực tế, họ cũng cố gắng không chọn giải pháp cực đoan. Nếu anh Komatsu bây giờ đột nhiên mất tích, chỉ sợ sẽ sinh ra phiền phức. Cũng giống như khi Fukada Eriko mất tích vậy. Anh mà mất tích, hẳn cũng không quá nhiều người cảm thấy buồn. Nhưng anh là một biên tập viên được đánh giá năng lực rất tốt, trong giới là một nhân vật tương đối nổi bật. Rồi cả cô vợ đã chia tay kia của anh nữa, nếu tiền cấp dưỡng hằng tháng mà khất lần mãi, chỉ e cô ta cũng sẽ cằn nhằn anh vài câu. Đối với họ, những chuyện này khó có thể coi là tình thế vui vẻ được.”

Komatsu ho khan một tiếng, nuốt nước bọt.

“Họ không trách móc gì cá nhân anh, càng không có ý định xử phạt anh. Họ biết rằng lúc xuất bản quyển tiểu thuyết Nhộng không khí các anh không hề có ý đồ công kích một đoàn thể tôn giáo riêng biệt nào. Thoạt đầu, các anh còn không biết cả mối liên quan giữa Nhộng không khí và đoàn thể tôn giáo này nữa kia. Anh đề ra kế hoạch lừa đảo này vốn chỉ để cho vui và thỏa mãn tham vọng. Nhưng giữa chừng lại có một số tiền không nhỏ dính vào. Đối với một người làm công ăn lương, trả tiền cấp dưỡng và tiền nuôi con trong một thời gian dài không phải chuyện dễ. Vì vậy, anh liền kéo theo một thầy giáo trường dự bị đang mơ làm tiểu thuyết gia tên là Kawana Tengo xuống nước, người này thì hoàn toàn không biết gì cả. Bản thân kế hoạch khá thông minh, chỉ là anh không chọn đúng đối tượng và tác phẩm mà thôi. Chẳng những vậy, so với dự tính ban đầu, sự việc đã phình ra quá mức. Các anh giống như đám thường dân lớ nga lớ ngớ xông lên giữa chiến tuyến, lọt vào bãi mìn vậy, tiến không được mà lùi cũng chẳng xong. Phải thế không, anh Komatsu?”

“Có lẽ vậy,” Komatsu trả lời một cách mập mờ.

“Hình như anh còn nhiều chuyện chưa hiểu hoàn toàn,” Đầu Trọc nhìn Komatsu, mắt hơi nheo lại. “Nếu hiểu rồi, anh sẽ không nói bằng cái giọng kiểu như chuyện chẳng liên quan gì đến tôi ấy nữa. Để tôi nói thẳng nhé: thực tế là anh đang đứng ở giữa bãi mìn đấy!”

Komatsu lặng lẽ gật đầu.

Đầu Trọc nhắm mắt lại, khoảng mười giây sau gã mở mắt ra. “Rơi vào tình thế không lối thoát này, hẳn các anh không biết ứng phó thế nào, nhưng anh phải hiểu là, họ cũng đang phải đối mặt với khó khăn.”

Komatsu hỏi với giọng dứt khoát: “Tôi đặt một câu hỏi có được không?”

“Miễn là tôi có thể trả lời.”

“Vì việc xuất bản Nhộng không khí, chúng tôi đã gây ra cho đoàn thể tôn giáo này một chút phiền phức, phải không?’

“Không phải một chút phiền phức,” Đầu Trọc nói. Gương mặt gã hơi vặn vọ. “Giọng nói đã ngừng cất lên với bọn họ rồi. Anh hiểu thế nghĩa là gì không?”

“Không hiểu,” Komatsu trả lời, giọng khô khốc.

“Được rồi. Tôi không thể giải thích quá cụ thể, mà anh cũng không biết thì hơn. Giọng nói đã ngừng cất lên với bọn họ rồi. Hiện giờ, tôi chỉ có thể nói với anh một câu ấy thôi.” Đầu Trọc ngừng một chút. “Mà cái tình thế bất hạnh này là do quyển tiểu thuyết Nhộng không khí được in thành sách xuất bản công khai gây ra.”

Komatsu hỏi: “Fukada Eriko và Thầy giáo Ebisuno chắc không thể biết nhiều đến mức ấy. Còn ý đồ của Fukada Eriko thì không rõ. Nhưng theo suy đoán của chúng tôi, có lẽ đó không phải hành vi được mưu tính từ trước. Kể cả đúng là có ý trong vụ việc này chăng nữa, thì chắc chắn cũng không phải ý đồ của cô ấy.”

“Người ta chỉ coi Nhộng không khí là một tiểu thuyết kỳ ảo đơn thuần,” Komatsu nói, “một câu chuyện huyền ảo mơ mộng vô hại do một nữ sinh cấp ba viết ra. Trên thực tế, còn có khá nhiều người phê phán câu chuyện này quá siêu thực nữa cơ. Không ai cho rằng bên trong những trang sách ấy lại có thể tiết lộ những bí mật lớn lao hay những thông tin cụ thể gì cả.”

“Có thể đúng như anh nói,” Đầu Trọc nói. “Hầu hết người ta không chú ý đến chuyện này. Nhưng vấn đề không phải ở đây, mà nẳm ở chỗ dù là dưới hình thái nào chăng nữa, bí mật này cũng không được đưa ra trước con mắt người đời.”

Tóc Đuôi Ngựa vẫn đứng ở cửa, nhìn chằm chằm vào bức tường đối diện, gã đang quan sát cảnh quan mà người khác không thể nhìn thấy ở phía sau bức tường.

“Họ hy vọng lại nghe thấy giọng nói,” Đầu Trọc cân nhắc từ ngữ một cách cẩn trọng. “Mạch nước không cạn khô, chỉ là chìm xuống độ sâu mắt thường không nhìn thấy được thôi. Khôi phục nó cực kỳ khó khăn, nhưng không phải là không thể.”

Đầu Trọc nhìn sâu vào mắt Komatsu, chừng như đang đo đạc độ sâu của thứ gì đó bên trong đôi mắt ấy. Kiểu như dùng mắt áng chừng xem không gian trong phòng có kê vừa một thứ đồ nội thất nào đó hay không vậy.

“Tôi vừa nói với anh đấy, các anh lớ ngớ thế nào đã xông vào giữa bãi mìn mất rồi. Không thể tiến lên cũng chẳng thể lùi lại. Vì vậy, họ chỉ còn cách chỉ đường cho các anh, nói cho các anh biết làm thế nào có thể thoát thân an toàn. Như vậy các anh giữ được mạng mình, còn họ cũng có thể loại trừ những kẻ xâm nhập sinh sự sao cho êm thấm nhât.”

Đầu Trọc vắt hai chân lên nhau.

“Mong các anh hãy thành thực rút lui khỏi chuyện này. Thực ra, dù có giẫm phải mìn nổ tan xương nát thịt thì cũng chẳng liên quan gì đến họ cả. Chỉ có điều giờ mà phát nổ sẽ gây thêm rắc rối. Vì vậy, anh Komatsu này, tôi sẽ chỉ đường rút lui cho các anh, dẫn các anh đến nơi an toàn. Đổi lại, yêu cầu đưa ra với các anh là ngừng xuất bản Nhộng không khí. Không in thêm nữa, cũng không tái bản dưới dạng bìa mềm. Tất nhiên là không tuyên truyền quảng cáo gì thêm nữa. Từ nay trở đi, các anh không còn bất cứ liên hệ gì với Fukada Eriko. Thế nào? Với năng lực của anh, chuyện nhỏ nhặt này hẳn là làm được chứ?”

“Không dễ, nhưng tôi nghĩ chắc có thể làm được.” Komatsu nói.

“Anh Komatsu, chúng tôi cất công đưa anh đến tận đây không phải để nói chuyện chắc có thể.” Cặp mắt Đầu Trọc trở nên đỏ hơn, sắc bén hơn. “Chúng tôi không yêu cầu anh thu hồi toàn bộ số sách đang lưu hành trên thị trường. Làm vậy, giới truyền thông nhất định sẽ làm ầm lên. Mà chúng tôi biết anh không có tầm ảnh hưởng đến thế. Tôi chỉ mong sự việc có thể âm thầm lắng xuống. Chuyện đã xảy ra rồi thì không thể vãn hồi được nữa. Sự vật đã tổn hại thì không thể nào hoàn toàn hồi phục nguyên trạng được. Họ chỉ hy vọng là sau đây người ta sẽ không còn chú ý đến chuyện này nữa. Anh hiểu tôi nói gì không?”

Komatsu gật đầu.

“Anh Komatsu, như tôi đã nói với anh, bên các anh có vài chuyện không tiện công khai ra ánh sáng. Nếu bị vạch ra, đương sự sẽ bị xã hội lên án. Bởi vậy, vì lợi ích của cả đôi bên, chúng tôi muốn ký một hiệp nghị đình chiến. Họ sẽ không truy cứu trách nhiệm của các anh và đảm bào cho các anh an toàn. Còn các anh thì cắt đứt quan hệ với Nhộng không khí. Đây là một đề nghị không tồi, phải không?”

Komatsu trầm ngâm giây lát. “Được rồi. Tôi sẽ phụ trách việc định hướng để Nhộng không khí ngưng xuất bản một cách thực chất. Có thể cần một chút thời gian, nhưng thế nào cũng tìm được biện pháp thôi. Còn về cá nhân tôi, chuyện lần này tôi có thể quên sạch sẽ. Kawana Tengo cũng vậy thôi. Ngay từ đầu anh ta đã không nhiệt tình lắm, tôi phải khuyên bảo hết lời mới kéo được anh ta nhập bọn. Huống hồ, sứ mệnh của anh ta đã kết thúc từ lâu rồi. Phía Fukada Eriko chắc cũng không có vấn đề gì. Cô ấy đã nói sẽ không viết tiểu thuyết nữa. Chỉ là không biết chắc Thầy giáo Ebisuno sẽ thế nào. Rốt ráo ra thì ông ấy chỉ muốn xác định xem người bạn của mình là ông Fukada Tamotsu có vẫn khỏe mạnh không, giờ ở đâu, đang làm gì. Chỉ sợ dù tôi nói gì đi nữa, chừng nào chưa biết ông Fukada đang ở nơi nào, ông ấy sẽ không bỏ cuộc đâu.”

“Ông Fukada đã qua đời rồi,” Đầu Trọc nói. Giọng gã bình tĩnh, không có ngữ điệu, nhưng bên trong lại chất chứa thứ gì đó nặng nề ghê gớm.

“Qua đời rồi?”

“Mới gần đây thôi,” Đầu Trọc nói. Sau đó gã hít sâu một hồi rồi chầm chậm thở ra. “Chết vì bệnh tim tái phát. Chỉ trong nháy mắt, có lẽ không đau đớn gì. Vì hoàn cảnh đặc biệt, chúng tôi không trình báo cái chết cho nhà chức trách, mà bí mật tổ chức tang lễ trong nội bộ giáo đoàn. Chiếu theo giáo lý, thi thể đã được hỏa táng, tro cốt rải ở trên núi. Xét về luật pháp đó có thể coi là tội xâm phạm thi thể, nhưng chính thức lập án buộc tội chúng tôi cũng không phải dễ. Có điều, đây là sự thật. Chuyện sống chết của con người, chúng tôi không bao giờ nói dối cả. Phiền anh chuyển lời lại cho Thầy giáo Ebisuno.”

“Một cái chết tự nhiên?”

“Đầu Trọc gật mạnh đầu. “Đối với chúng tôi, ông Fukada là một nhân vật cực kỳ quan trọng. Không, ông ấy là một con người vĩ đại, từ ngữ tầm thường như ‘quan trọng’ không thể nào biểu đạt được dù chỉ một phần vạn. Tin ông ấy qua đời chỉ được báo cho vài người, ai cũng đều hết sức thương tiếc ông ấy. Vợ ông ấy... cũng tức là mẹ của Fukada Eriko... đã mất vì bệnh ung thư cách đây mấy năm. Bà ấy từ chối điều trị bằng hóa chất và qua đời tại cơ sở trị liệu thuộc giáo đoàn. Chồng bà ấy, ông Fukada đã luôn ở bên cạnh chăm sóc bà ấy đến phút cuối cùng.”

“Cũng không trình báo?” Komatsu hỏi.

Đối phương không phủ định.

“Và ông Fukada thì mới qua đời gần đây?”

“Đúng vậy,” Đầu Trọc nói.

“Đó là chuyện sau khi quyển tiểu thuyết Nhộng không khí xuất bản à?”

Đầu Trọc nhìn xuống bàn, sau đó ngẩng lên nhìn lại Komatsu. “Đúng thế. ông Fukada qua đời sau khi Nhộng không khí xuất bản.”

“Hai chuyện này có quan hệ nhân quả không?” Komatsu hỏi không chút do dự.

Nên trả lời thế nào? Đầu Trọc trầm ngâm giây lát. Gã sắp xếp lại suy nghĩ trong đầu, sau đó tựa như đã quyết định, liền nói: “Được rồi. Để ông Ebisuno tiếp thu, có lẽ nên nói rõ sự thật thì tốt hơn. Nói thực với anh, ông Fukada là Lãnh Tụ của giáo đoàn, là người lắng nghe giọng nói. Sau khi con gái ông ấy là Fukada Eriko xuất bản Nhộng không khí, giọng nói đã ngừng cất lên với ông ấy. Vậy là, ông Fukada liền kết thúc sự tồn tại của mình. Chết tự nhiên. Nói chính xác hơn là ông ấy đã kết thúc sự tồn tại của mình một cách tự nhiên.

“Fukada Eriko là con gái của Lãnh Tụ,” Komatsu lẩm bẩm.

Đầu Trọc gật đầu gọn ghẽ, cộc lốc.

“Vậy thì kết quả là Fukada Eriko đã dồn cha mình đến đường chết,” Komatsu tiếp tục nói.

Đầu Trọc lại gật đầu. “Đúng.”

“Nhưng giáo đoàn hiện giờ vẫn tiếp tục tồn tại.”

“Giáo đoàn vẫn tiếp tục tồn tại,” Đầu Trọc trả lời, cặp mắt như viên đá từ thuở viễn cổ bị phong kín dưới đáy sông băng nhìn xoáy vào Komatsu. “Anh Komatsu, việc xuất bản Nhộng không khí đã gây ra cho giáo đoàn tai họa không nhỏ. Nhưng họ không có ý định trừng phạt các anh vì chuyện đó. Đã đến nước này rồi trừng phạt cũng chẳng ích lợi gì. Họ đang gánh vác trên vai sứ mệnh cần phải hoàn thành, và để làm được điều đó, họ cần được cách ly yên ổn.”

“Vì vậy, mỗi bên lùi một bước, quên chuyện lần này đi.”

“Nói ngắn gọn là vậy.”

“Để truyền đạt thông điệp này, các anh buộc phải bắt cóc tôi?”

Gương mặt Đầu Trọc lần đầu tiên lộ ra thứ gần giống như là biểu cảm. Có thể nhận ra một thứ cảm xúc cực kỳ mờ nhạt nằm đâu đó giữa tức cười và thương hại. “Mất công mời anh đến đây là vì họ muốn nói với anh: chuyện này nghiêm túc đấy. Tuy không muốn có hành động cực đoan, nhưng nếu cần thiết, chúng tôi tuyệt đối không nương tay. Họ muốn anh đặt mình vào địa vị của người khác mà cảm nhận được điều này. Nếu các anh hủy giao ước thì kết quả sẽ không lấy gì làm vui vẻ đâu. Về điều này anh hiểu, phải không?”

“Tôi hiểu,” Komatsu trả lời.

“Anh Komatsu, nói thực lòng, các anh may mắn đấy. Có lẽ vì sương mù dày đặc quá, tầm nhìn không tốt, chứ kỳ thực các anh đã đi đến sát mép vực rồi, mấy xăngtimét nữa thôi là tới vực xâu thăm thẳm. Chuyện này mong anh nhớ kỹ cho. Trước mắt họ không có thời gian hỏi đến chuyện của các anh, mà đang phải đối mặt với những vấn đề quan trọng hơn. Theo nghĩa ấy, các anh cũng rất may mắn. Vì vậy, tranh thủ lúc vận may hẵng còn...”

Gã vừa nói vừa lật nhanh hai tay, lòng bàn tay hướng lên trên. Giống như người đang kiểm tra xem trời có mưa hay không. Komatsu đợi gã nói tiếp, nhưng không có gì nữa. Nói đến đây, gương mặt Đầu Trọc bất ngờ lộ thần sắc mệt mỏi. Gã chầm chậm đứng lên khỏi chiếc ghế xếp, gấp ghế lại kẹp dưới nách, đi thẳng ra khỏi gian phòng hình khối lập phương. Cửa nặng nề đóng sập lại, vang lên tiếng chìa khóa lách cách. Trong phòng còn lại mình Komatsu.

“Sau đó, tôi bị nhốt trong căn phòng vuông vức ấy thêm chừng bốn ngày nữa. Những lời quan trọng đã nói hết. Ý tứ đã được truyền đạt rõ ràng, và chúng tôi đã đạt được một thỏa thuận, tại sao vẫn phải tiếp tục giam cầm? Tôi không rõ. Hai gã kia không xuất hiện nữa, gã thanh niên làm tạp vụ vẫn không nói không rằng. Tôi lại ăn những bữa cơm đơn điệu, cạo râu bằng máy cạo điện, nhìn trần nhà và các bức tường để giết thời gian. Đèn tắt thì đi ngủ, đèn sáng thì dậy. Đồng thời, tôi cũng nghiền ngẫm lại những lời Đầu Trọc nói. Bấy giờ, cảm xúc sâu sắc nhất là, chúng ta thực sự rất may mắn. Đầu Trọc nói đúng. Đám người này có thể làm tất cả những gì bọn họ muốn. Bọn họ có thể trở nên máu lạnh đến chừng mực nào tùy thích. Khi bị giam ở đó, cậu có thể cảm nhận được điều này một cách sâu sắc. Có lẽ vì mục đích này mà sau khi xong việc rồi họ vẫn nhốt tôi thêm bốn ngày nữa. Đám người này cực kỳ tinh tế.”

Komatsu cầm cốc lên nốc một ngụm wishkey pha soda.

“Bọn họ lại cho tôi ngửi thuốc mê hay thứ gì đó tương tự. Lúc tôi tỉnh lại thì đã tờ mờ sáng, tôi nằm trên cái ghế băng dài ở Jingu Gaien. Tuy vẫn là tháng Chín nhưng đã gần cuối tháng rồi, thời tiết buổi sáng khá lạnh. Kết quả là tôi bị cảm thật. Chắc bọn họ không cố ý, nhưng sau đó tôi sốt cao, ba ngày liền nẳm bẹp không dậy nổi. Nhưng rồi cũng chỉ vậy thôi, chắc cũng có thể coi là trong họa âu có phúc.”

Câu chuyện của Komatsu có vẻ như kết thúc tại đây. Tengo hỏi: “Anh báo chuyện này cho Thầy giáo Ebisuno chưa?”

“Có. Sau khi được thả ra và hết sốt được mấy ngày, tôi đã đến nhà ông Ebisuno ở trên núi một chuyến, nói với ông ấy đại khái những gì tôi nói với cậu.”

“Phản ứng của ông ấy thế nào?”

Komatsu uống nốt ngụm whiskey cuối cùng, lại gọi thêm một cốc mới, còn mời Tengo làm thêm một cốc nữa. Tengo lắc đầu.

“Ông Ebisuno bắt tôi kể đi kể lại câu chuyện ấy mấy lần liền, đặt ra rất nhiều câu hỏi chi tiết. Những gì có thể trả lời được tôi đều trả lời hết. Miễn là ông ấy hỏi, dù bao nhiêu lần tôi cũng đều lặp đi lặp lại được những câu trả lời giống nhau. Trong bốn ngày sau khi nói chuyện với Đầu Trọc, tôi bị nhốt một mình trong gian phòng ấy, không có ai để nói chuyện, chỉ có mỗi thời gian là dư dật. Vì vậy tôi đã nhai đi nhai lại những lời gã nói trong đầu, cả những chi tiết nhỏ nhặt nhất cũng nhớ rõ như in. Cứ như cái máy ghi âm có hình người vậy.”

“Có điều, chuyện bố Fukaeri qua đời xét cho cùng chỉ là họ nói thôi. Đúng không?” Tengo hỏi.

“Đúng thế. Đó là bọn họ nói như thế, nhưng không thể xác minh được. Thậm chí họ còn không trình báo cho nhà chức trách. Nhưng nghe khẩu khí của tên Đầu Trọc, tôi cảm thấy gã không nói dối. Như chính gã từng nói, sự sống chết của con người đối với bọn họ rất thiêng liêng. Sau khi tôi kể xong, Thầy giáo Ebisuno trầm tư rất lâu. Ông ấy chìm sâu vào suy nghĩ. Sau đó, ông ấy chẳng nói câu nào đã đứng dậy đi ra, một lúc sau mới quay về phòng. Xem ra, ông ấy phải cố chấp nhận sự thật rằng hai người bạn của mình đã chết. Có lẽ ông ấy đã đoán được từ trước, đã chuẩn bị tâm lý rằng họ không còn ở trên đời này nữa. Mặc dù thế, biết người thân thiết với mình thực sự đã qua đời thì vẫn sẽ gây ra vết thương lòng rất lớn.”

Tengo nhớ lại gian phòng khách trống trải, bài trí giản dị của thầy giáo Ebisuno, sự yên tĩnh lạnh lẽo, và tiếng chim hót lanh lảnh thi thoảng lại vẳng từ ngoài cửa sổ vào.

“Tóm lại, chúng ta đã rút lui và ra khỏi bãi mìn rồi?” anh hỏi.

Cốc whiskey pha soda mới được mang lên. Komatsu nhấp một ngụm.

“Chưa có kết luận. Thầy giáo Ebisuno nói cần thời gian suy nghĩ. Nhưng ngoài làm theo những gì đám người kia nói, chúng ta có lựa chọn nào khác đâu? Đương nhiên là tôi lập tức bắt tay hành động rồi. Tôi đã tìm cách để nhà xuất bản ngừng in thêm Nhộng không khí, thực ra thì cũng sắp bán hết rồi, cũng không ra bản bìa mềm nữa. Đằng nào thì cũng bán ra hàng bao nhiêu quyển, nhà xuất bản kiếm cũng kiếm được bộn tiền, chẳng thiệt thòi gì. Tất nhiên, dù gì cũng là công ty nên còn phải họp nghiên cứu, rồi lại phải chờ giám đốc phê duyệt nữa, làm gì có chuyện suôn sẻ thuận lợi, nhưng sau khi tôi ngầm ám chỉ vụ này có thể thành ra một xì căng đan viết hộ thì đám người bên trên đều hồn vía lên mây, cuối cùng đành mặc cho tôi sắp xếp. Có vẻ như từ giờ tôi sẽ bị lạnh nhạt một thời gian ờ nhà xuất bản, nhưng tôi cũng đã quá quen mấy chuyện kiểu này rồi.”

“Thầy giáo Ebisuno hoàn toàn chấp nhận những gì họ nói về cái chết của cha mẹ Fukaeri à?”

“Có lẽ thế,” Komatsu nói, “nhưng muốn ông ấy chấp nhận nó như hiện thực khách quan, để nó ngấm vào thì chắc phải một thời gian nữa. Theo tôi thấy, mấy gã này nghiêm túc đấy. Có vẻ bọn họ thực lòng hy vọng tránh chuốc thêm phiền phức, sẵn sàng nhân nhượng ở mức độ nhất định, thành ra mới bắt cóc tôi như vậy. Bọn họ muốn truyền đạt thông điệp một cách rõ ràng và chính xác. Vả lại, nếu muốn, bọn họ hoàn toàn không cần nói với tôi chuyện thi thể của vợ chồng Fukada đã được bí mật hỏa thiêu. Tuy bây giờ rất khó kiểm chứng, nhưng phá hoại thi thể dẫu sao cũng là một tội nặng. Vậy mà họ vẫn nói ra. Chứng tỏ họ đã lật hết bài tẩy trong tay rồi. Đó là lý do tại sao tôi phán đoán phần lớn những gì Đầu Trọc nói là sự thật. Tạm thời không luận đến chi tiết, tôi chỉ nói về đại thể thôi.”

Tengo sắp xếp lại những gì Komatsu vừa nói. “Cha của Fukaeri là Người lắng nghe giọng nói, một nhà tiên tri. Nhưng con gái ông ta đã viết quyển tiểu thuyết Nhộng không khí, tác phẩm trờ thành sách bán chạy, vậy là giọng nói ngừng cất lên với ông ta. Kết quả là cha Fukaeri chết tự nhiên.”

“Hoặc là ông ấy đã kết thúc tính mạng của mình một cách tự nhiên.”

“Vì vậy đối với giáo đoàn, sứ mệnh tối cao là tìm cho được nhà tiên tri mới. Một khi giọng nói ngừng cất lên, cộng đồng ấy liền mất đi cơ sở để tồn tại, vì vậy họ không rảnh mà chú ý đến chúng ta. Khái quát lại là như vậy phải không?”

“Đại để là thế.”

“Câu chuyện Nhộng không khí này hàm chứa những thông tin có ý nghĩa lớn lao với bọn họ. Nó được in thành sách và được đọc rộng rãi trong xã hội, dẫn đến việc giọng nói im tiếng, mạch nước chìm sâu xuống lòng đất. Thông tin quan trọng này cụ thể là gì nhỉ?”

“Trong bốn ngày cuối cùng bị giam ở đó, tôi đã nghĩ một cách thấu triệt vấn đề này,” Komatsu nói. “Nhộng không khí không dài lắm, trong đó miêu tả thế giới có Người Tí Hon xuất hiện. Nhân vật chính là cô bé mười tuổi đang sống trong một cộng đồng cô lập với xã hội. Nửa đêm, Người Tí Hon âm thầm chạy ra chế tạo nhộng không khí. Bên trong nhộng không khí chứa phân thân của thiếu nữ, vì vậy mới nảy sinh quan hệ mẫu thể và tử thể. Trong thế giới đó có hai mặt trăng, một lớn một nhỏ, đây đại khái là tượng trưng của mẫu thể và tử thể. Trong tiểu thuyết, nhân vật chính... mà nguyên mẫu chắc chính là bản thân Fukaeri... từ chối trở thành mẫu thể nên đã trốn khỏi cộng đồng của cô, để lại tử thể sau lưng. Sau này số phận tử thể thế nào thì sách không nhắc đến.”

Tengo chăm chú nhìn viên nước đá đang từ từ tan chảy trong cốc thủy tinh.

“Phải chăng Người lắng nghe giọng nói cần có tử thể làm trung gian?” Tengo nói. “Chỉ có cách thông qua tử thể ông ta mới nghe thấy giọng nói, hoặc là dịch được giọng nói thành ngôn ngữ của loài người. Để thông điệp của giọng nói được truyền đạt trong dạng thức thích hợp thì không thể thiếu một trong hai được. Diễn đạt theo cách của Fukaeri thì có người tiếp thụ và người cảm tri. Song để làm được điều này, trước tiên cần tạo ra nhộng không khí. Phải có thứ này thì mới tạo ra tử thể được. Mà muốn tạo ra tử thể thì còn cẫn một mẫu thể thích hợp ở đấy nữa.”

“Đây là kiến giải của cậu.”

Tengo lắc đầu: “Không hẳn là kiến giải gì. Chẳng qua là sau khi nghe anh quy nạp lại những nét chính của cuốn tiểu thuyết, tôi cảm thấy sự việc rất có thể là như thế thôi.”

Trong quá trình viết lại và cả sau đó, Tengo vẫn luôn suy nghĩ về ý nghĩa của tử thể và mẫu thể, nhưng không sao nắm bắt được bức tranh toàn cảnh. Nhưng trong lúc nói chuyện với Komatsu, những mảnh rời rạc dần kết nối với nhau. Nhưng vẫn còn nghi vấn: Tại sao trên giường bệnh của cha anh trong viện điều dưỡng lại xuất hiện nhộng không khí, bên trong có Aomame dưới hình dạng một cô bé?

“Một hệ thống rất thú vị.” Komatsu nói. “Nhưng mẫu thể mà tách rời khỏi tử thể thì có vấn đề gì không?”

“Nếu không có tử thể, mẫu thể không thể coi là một thực thể hoàn chỉnh được. Giống như Fukaeri mà chúng ta thấy vậy, ở cô ấy thiếu một yếu tố gì đó, tuy khó mà nói được là gì. Có lẽ giống như người mất đi cái bóng của mình vậy. Tử thể không có mẫu thể thì như thế nào, tôi không rõ. E rằng cả hai đều không hoàn chỉnh, vì xét cho cùng tử thể chẳng qua chỉ là phân thân. Nhưng trong trường hợp của Fukaeri, tuy mẫu thể không ở bên cạnh song tử thể có lẽ vẫn hoàn thành được nhiệm vụ của mình là làm trung gian.”

Trong một thoáng, Komatsu mím môi tôi thành một vệt hơi xệch xẹo. Sau đó anh ta cất tiếng: “Cậu Tengo này, chắc cậu không cho rằng chuyện viết Nhộng không khí là thật đấy chứ?”

“Tôi không nói vậy. Tôi chỉ tạm đặt ra giả thuyết như thế thôi. Giả định rằng tất cả đều là sự thật, sau đó triển khai suy luận.”

“Được rồi.” Komatsu nói, “tức là ngay cả khi rời xa bản thể, phân thân của Fukaeri vẫn hoàn thành nhiệm vụ như một trung gian.”

“Chính vì vậy, giáo đoàn mới không có ý định bắt Fukaeri trở về thậm chí dù họ đã biết rõ cô ấy trốn đi đâu. Vì trong trường hợp của cô ấy, tuy mẫu thể không ở bên cạnh song tử thể cũng có thể hoàn thành nhiệm vụ của nó. Có lẽ mối liên hệ giữa cô ấy và phân thân bền chặt như vậy đấy, kể cả khi cách xa nhau.”

“Đúng vậy.”

Tengo tiếp tục nói: “Trong tưởng tượng của tôi, có lẽ bọn họ sở hữu nhiều tử thể. Người Tí Hon chắc chắn đã nắm bắt cơ hội, tạo ra nhiều nhộng không khí. Vì họ cảm thấy bất an khi chỉ có một người cảm tri duy nhất. Hay cũng có khả năng là, số lượng tử thể có thể hoàn thành nhiệm vụ một cách chẩn xác là rất nhỏ. Có thể có một tử thể mạnh mẽ giữ vai trò trung tâm, cộng với một số tử thể yếu hơn đóng vai trò bổ trợ, cùng thực hiện nhiệm vụ.”

“Ý cậu là, tử thể mà Fukaeri để lại chính là cái đóng vai trò trung tâm, có thể hoàn thành nhiệm vụ một cách chuẩn xác?”

“Khả năng này rất lớn. Trong toàn bộ chuyện này, Fukaeri luôn ở trung tâm của sự kiện, kiểu như mắt bão ấy.”

Komatsu nheo mắt lại, hai tay đan vào nhau trên mặt bàn. Nếu thực sự muốn, anh ta có thể tập trung suy nghĩ một cách hiệu quả trong thời gian rất ngắn.

“Cậu Tengo này, tôi chỉ nghĩ bừa thế này thôi nhé, cậu xem giả thiết này có ổn không: Fukaeri mà chúng ta gặp thực ra là tử thể còn Fukaeri ở lại giáo đoàn mới là mẫu thể?”

Câu nói của Komatsu làm Tengo giật nảy mình. Anh chưa từng nghĩ đến điều này. Đối với Tengo, Fukaeri là một thực thể trăm phần trăm. Nhưng khả năng mà Komatsu nói đến không phải là không có. Em không có kinh nguyệt, vì vậy không phải lo em có thai. Đêm hôm ấy, Fukaeri đã tuyên bố như thế sau cuộc giao hợp kỳ lạ của họ. Nếu cô chỉ là một phân thân thì điều này hẳn hết sức tự nhiên. Phân thân không thể tự tái sinh, chỉ có mẫu thể mới làm được vậy. Nhưng Tengo không thể nào chấp nhận giả thiết này, không thể nào chấp nhận sự thật rằng người giao hợp với anh không phải Fukaeri mà chỉ là phân thân của cô.

Tengo nói: “Fukaeri có nhân cách rõ ràng, có cả quy tắc ứng xử độc lập. Đây là những thứ mà phân thân không thể có được.”

“Cũng phải,” Komatsu đồng ý với anh, “Fukaeri dù không có thứ gì khác thì cũng có nhân cách và quy tắc ứng xử của riêng cô ấy. Điểm này thì tôi không thể không đồng ý.”

Nhưng, Fukaeri vẫn giấu một số bí mật. Bên trong cô gái xinh đẹp này cất giấu một mật mã quan trọng mà anh cần phá giải. Tengo có cảm giác như thế. Ai là thực thể? Ai là phân thân? Hay bản thân cái việc phân biệt phân thân và thực thể này vốn đã là một sai lầm? Hay Fukaeri có thể tùy theo tình hình mà lần lượt sử dụng thực thể và phân thân của cô?

“Còn một số chuyện chưa làm rõ được,” Komatsu nói, xòe hai bàn tay đặt trên mặt bàn rồi chăm chú nhìn vào chúng. Đối với một người đàn ông ở tuổi trung niên như anh ta, những ngón tay ấy quá mức thon thả. “Giọng nói không cất lên nữa, mạch nước ngầm cạn khô, tiên tri qua đời. Sau này tử thể sẽ như thế nào? Chắc là không tuẫn tử theo như các bà quả phụ ở Ấn Độ ngày xưa chứ?”

“Nếu chúng ta đưa giả thiết của cậu xa thêm một bước nữa.” Komatsu nói, “thì có thể nào khi viết Nhộng không khí Fukaeri đã biết nó sẽ mang lại kết quả như vậy rồi? Gã nói với tôi, tất cả những chuyện này chắc chắn không phải hành vi cố ý. Ít nhất thì không thể nào là ý đồ của cô ấy. Nhưng làm sao gã biết được?”

“Chân tướng vẫn chưa hoàn toàn lộ ra,” Tengo nói. “Nhưng dù là vì lý do gì chăng nữa, tôi cũng không thể tưởng tượng Fukaeri lại cố ý dồn ép cha mình vào chỗ chết. Cha cô ấy hẳn đã tìm đến cái chết vì một lý do nào đó không liên quan đến Fukaeri. Hoặc giả là ngược lại, những điều cô ấy làm có lẽ là để đối kháng lại điều đó. Có thể cô ấy hy vọng giải phóng được cha mình khỏi giọng nói. Tất nhiên, xét cho cùng đây chỉ là suy đoán không có căn cứ.”

Hai bên cánh mũi Komatsu đùn lên những nếp nhăn, anh ta trầm tư một lúc lâu, đưa mắt nhìn quanh quất. “Đúng là một thế giới kỳ quặc. Đâu là ranh giới giữa giả thiết và hiện thực đây? Càng ngày đường biên giới ấy càng thêm mơ hồ. Cậu Tengo này, với tư cách người viết tiểu thuyết, cậu định nghĩa hiện thực như thế nào?”

“Nơi nào mà khi anh đâm kim vào ai đó thì máu đỏ chảy ra, nơi ấy là thế giới hiện thực,” Tengo trả lời.

“Vậy thì không nghi ngờ gì nữa, đây là thế giới hiện thực.” Komatsu nói, cọ lòng bàn tay vào mé trong cổ tay kêu soàn soạt, làm những đường tĩnh mạch màu xanh trông chẳng lấy gì làm khỏe mạnh hiện rõ lên. Những mạch máu đã bao năm tháng bị hủy hoại bởi chất cồn, thuốc lá, cuộc sống không điều độ và những âm mưu của chốn salon văn nghệ. Komatsu uống nốt chỗ rượu còn lại, lắc chỗ nước đá trong cốc kêu lanh canh.

“Tiện thể, có thể tiếp tục nói về giả thiết kia của cậu không? Càng lúc càng thấy thú vị rồi đấy.”

Tengo nói: “Họ đang tìm kiếm người thừa kế của Người lắng nghe giọng nói. Nhưng chắc chắn là không chỉ có vậy, họ còn phải tìm được tử thể mới có thể hoàn thành nhiệm vụ một cách chuẩn xác nữa. Vì người tiếp thụ mới cần phải có người cảm tri mới.”

“Nói vậy là họ còn phải tìm được mẫu thể thích hợp. Có nghĩa là, nhộng không khí cũng phải chế tạo lại từ đầu. Có vẻ là một công trình lớn và phức tạp đây.”

“Chính vì thế, bọn họ mới hết sức nghiêm túc.”

“Chính xác.”

“Có điều, chắc là họ không dám cắm đầu cắm cổ một cách mù quáng,” Tengo nói, “có lẽ họ đã xác định được mục tiêu rồi.”

Komatsu gật đầu. “Tôi cũng có ấn tượng như vậy. Vì thế họ mới nôn nóng xua chúng ta đi càng nhanh càng tốt… tóm lại là đừng làm phiền bọn họ nữa. Xem ra, chúng ta đã khiến họ thấy rất chướng mắt rồi.”

“Làm gì đến mức ấy?”

Komatsu lắc đầu. Anh ta cũng không biết.

Tengo nói: “Trước đây giọng nói truyền đạt đến họ những thông điệp gì? Còn nữa, giọng nói và Người Tí Hon có quan hệ như thế nào?”

Komatsu lại bất lực lắc đầu. Đây là những thứ nằm ngoài tầm tưởng tượng của hai người.

“Cậu xem phim Chuyến du hành không gian[1] chưa?”

[1] 2001: A Space Odyssey: một bộ phim khoa học viễn tưởng sản xuất năm 1968 của đạo diễn Stanley Kubrick.

“Xem rồi.” Tengo trả lời.

“Chúng ta giống như lũ vượn trong bộ phim ấy,” Komatsu nói. “Mấy con vật mọc đầy lông đen sì dài thượt, miệng gào lên những âm thanh vô nghĩa, không ngừng nhảy nhót vòng quanh cột đá ấy.”

Có hai khách mới cùng đi vào quán, trông có vẻ là khách quen, họ ngồi trên ghế ở trước quầy bar, gọi cocktail.

“Tóm lại có một chuyện đã rõ năm rõ mười,” Komatsu nói, như muốn tổng kết lại. “Giả thiết của cậu rất có sức thuyết phục, cũng đối hợp tình hợp lý. Tôi luôn cảm thấy thoải mái khi nói chuyện với cậu. Có điều, chuyện gì ra chuyện đó, chúng ta cần phải rút ra khỏi bãi mìn đáng sợ này. Sau này e là không có cơ hội gặp lại Fukaeri và thầy giáo Ebisuno nữa. Nhộng không khí chỉ là một tiểu thuyết huyền ảo vô hại, trong đó không có bất cứ thông tin cụ thể nào. Dù giọng nói kia là cái gì, nó truyền đạt thông điệp gì thì cũng chẳng liên quan gì đến chúng ta. Cứ vậy đi.”

“Xuống thuyền, trở lại cuộc sống trên đất liền.”

Komatsu gật đầu. “Đúng thế. Hằng ngày tôi tới nhà xuất bản làm việc, chạy đôn chạy đáo kiếm về mấy bản thảo có cũng được mà không có cũng chẳng sao cho tạp chí Văn nghệ. Còn cậu thì dạy toán cho các thanh niên tương lai rạng ngời ở trưởng dự bị, rảnh rỗi thì viết tiểu thuyết. Chúng ta quay về với cuộc sống thường nhật thanh bình trước đây. Không có dòng nước xiết, không thác đổ. Thời gian trôi, hai chúng ta dần dần già đi trong sự bình yên. Cậu có ý kiến gì khác không?”

“Chúng ta đâu còn lựa chọn nào khác, phải không?”

Komatsu lấy đầu ngón tay miết phẳng các nếp nhăn ở hai bên cánh mũi. “Đúng thế, ngoài ra không còn lựa chọn nào khác. Tôi không muốn bị người ta bắt cóc lần nữa. Bị nhốt ở gian phòng vuông vức ấy một lần là đủ lắm rồi. Hơn nữa, nếu có lần sau thì chỉ sợ bọn họ không cho tôi thấy ánh mặt trời đâu. Chỉ nghĩ đến phải gặp lại hai gã kia là tim tôi đã nảy lên thình thịch. Đó là những kẻ chỉ cần dùng ánh mắt thôi cũng đủ khiến người ta chết một cách tự nhiên rồi.”

Komatsu giơ cốc rượu về phía quầy bar, gọi ly whiskey pha soda thứ ba, rồi lại ngậm một điếu thuốc trên miệng.

“Anh Komatsu này, chuyện này tạm thời chấm dứt ở đây. Nhưng tại sao anh không kể với tôi từ trước? Vụ bắt cóc đã xảy ra từ rất lâu rồi. Hơn hai tháng. Anh có thể nói với tôi sớm hơn mà.”

“Đúng vậy, tại sao nhỉ?” Komatsu hơi nghiêng đầu, nói. “Đúng vậy thật. Tôi vẫn luôn muốn kể chuyện này với cậu, nhưng chẳng hiểu sao cứ lần lữa mãi. Tại sao? Có lẽ vì cảm giác có tội chăng?”

“Cảm giác có tội?” Tengo kinh ngạc thốt lên. Anh không bao giờ nghĩ Komatsu lại nói ra một từ như thế.

“Kể cả là tôi thì cũng có cảm giác có tội mà,” Komatsu nói.

“Vì điều gì chứ?”

Komatsu không trả lời. Anh ta nheo mắt, rút điếu thuốc chưa châm lửa ra khỏi môi.

“Fukaeri đã biết chuyện cha mẹ mình đều đã qua đời chưa?” Tengo hỏi.

“Chắc là biết rồi. Tôi không rõ cô ấy biết tin lúc nào, nhưng hẳn là vào một lúc nào đó Thầy giáo Ebisuno đã báo với cô ấy.”

Tengo gật đầu. Fukaeri chắc chắn đã biết tin từ lâu rồi, anh cảm thấy vậy. Chỉ mình anh là không biết mà thôi.

“Vậy là chúng ta xuống khỏi con thuyền, trở về với cuộc sống trên mặt đất,” Tengo nói.

“Đúng vậy. Rút lui khỏi bãi mìn.”

“Nhưng anh Komatsu này, cứ cho là chúng ta sắp làm thế đi, anh cảm thấy có thể quay lại cuộc sống trước đây một cách thuận lợi không?”

“E rằng chỉ có thể cố gắng hết sức thôi,” Komatsu vừa nói vừa quẹt diêm, châm thuốc. “Cậu có chuyện gì không yên tâm à?”

“Xung quanh chúng ta, rất nhiều sự vật và hiện tượng bắt đầu thay đổi một cách kỳ lạ. Cảm nhận của tôi là như thế. Một số thứ đã biến hình, có lẽ không thể nào dễ dàng khôi phục được trạng thái ban đầu.”

“Kể cả khi liên quan đến tính mạng vô cùng quý giá của chúng ta?”

Tengo lắc đầu một cách mập mờ. Anh có cảm giác, không biết tự bao giờ mình đã bị cuốn vào một dòng chảy mạnh mẽ và bất biến. Dòng chảy ấy đang đưa anh đến một nơi xa lạ nào đó. Nhưng anh không thể giải thích chuyện này với Komatsu được.

Tengo cũng không thổ lộ với Komatsu cuốn tiểu thuyết anh đang viết kế thừa y nguyên thế giới được miêu tả trong Nhộng không khí. Chắc chắn Komatsu sẽ không ủng hộ anh làm như vậy. Các nhân vật ở Sakigake chắc chắn lại càng không thích thú gì. Chỉ cần bất cẩn chút thôi, anh sẽ lại đặt chân vào một bãi mìn khác, không khéo còn làm những người xung quanh bị liên lụy. Thế nhưng, câu chuyện có sự sống và mục đích của chính mình, nó tiếp diễn gần như tự động. Dù thích hay không, Tengo cũng đã bị bủa vây trong thế giới đó rồi. Đối với anh, đó không còn là thế giới hư cấu nữa. Nó là thế giới hiện thực, nơi mà khi lưỡi dao cắt xuống da, máu đỏ sẽ tuôn ra. Trên bầu trời của thế giới ấy, có hai mặt trăng một lớn một nhỏ.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 19: Ushikawa


Chuyện y có thể làm mà người bình thường thì không

Đó là một buổi sáng thứ Năm tĩnh lặng, không có gió. Như mọi ngày, Ushikawa dậy trước sáu giờ sáng, rửa mặt bằng nước lạnh. Y vừa nghe chương trình phát thanh của NHK vừa đánh răng, cạo râu bằng dao cạo điện. Y đun nước sôi trong nồi, làm mì ăn liền, ăn xong lại uống một cốc cà phê hòa tan. Xong xuôi đâu đấy, y gấp túi ngủ nhét vào tủ âm tường, ngồi xuống trước cái máy ảnh bên cửa sổ. Bầu trời phương Đông bắt đầu sáng dần lên, có vẻ hôm nay là một ngày ấm áp.

Gương mặt những người đi làm lúc sáng sớm giờ đã in sâu vào trong tâm trí y, không cần phải nhất nhất chụp ảnh lại nữa. Trong khoảng từ bảy giờ đến tám giờ rưỡi, bọn họ vội vã rảo chân ra khỏi khu nhà, chạy về phía ga tàu. Những gương mặt quen thuộc. Trên con phố phía trước khu chung cư, tiếng lũ học sinh tiểu học tụm năm tụm ba vui vẻ đến trường vọng vào tai Ushikawa. Tiếng cười của lũ trẻ làm y nhớ lại hồi hai đứa con gái y còn nhỏ. Hai đứa con gái y hưởng thụ một thời tiểu học sung sướng, được học đàn piano, học múa ballet, có nhiều bạn bè. Đến tận cuối cùng, Ushikawa cũng không sao chấp nhận sự thật rằng mình có hai đứa con gái bình thường như thế. Một kẻ như y sao có thể làm cha của hai đứa trẻ này được chứ?

Sau thời gian cao điểm buổi sáng, gần như không còn ai ra vào khu nhà nữa, tiếng cười đùa của lũ trẻ con cũng đã biến mất. Ushikawa đặt điều khiển máy ảnh sang một bên, dựa lưng vào tường hút một điếu Seven Stars, quan sát cửa chính qua khe hở trên rèm cửa sổ. Như mọi khi, hơn mười giờ một nhân viên bưu điện cưỡi xe máy màu đỏ đến, nhanh nhẹn phân phát thư từ vào các hòm thư ở cửa. Theo Ushikawa thấy, quá nửa số đó là thư rác, không khéo người ta còn chẳng buồn bóc phong bì đã quẳng luôn vào thùng rác rồi. Khi mặt trời lên đến đỉnh đầu, nhiệt độ nhanh chóng tăng lên, người đi trên đường đa phần đều cởi bỏ áo khoác ngoài.

Vào khoảng hơn mười một giờ, Fukaeri xuất hiện trước cửa chính khu chung cư. Cô mặc áo len cao cổ màu đen giống hôm trước, cùng với áo gió ngắn màu xám, quần bò, giày thể thao, đeo cặp kính râm sẫm màu. Cô đeo vắt qua vai một cái túi lớn màu xanh lục. Trong túi hình như chất đầy các thứ linh tinh, căng phồng cả lên. Ushikawa rời khỏi bức tường đang dựa lưng, nhao đến trước máy ảnh gần trên giá đỡ, nhìn vào ô ngắm.

Cô gái này hình như đang định rời khỏi đây, Ushikawa hiểu ra. Cô nhét đồ tùy thân vào túi, chuẩn bị chuyển đến nơi khác, không định quay lại chỗ này nữa… ở cô toát lên cảm giác đó. Cô ta quyết định rời đi, rất có thể vì đã phát giác ra mình đang ẩn nấp ở đây. Ý nghĩ ấy vừa hiện lên trong đầu, tim y đột nhiên liền đập nhanh hẳn lên.

Cô gái bước ra khỏi cửa liền dừng lại, ngước mắt lên nhìn trời như những lần trước, cô tìm kiếm bóng dáng của thứ gì đó giữa đống dây điện chằng chịt và máy biến áp. Mắt kính râm hứng lấy ánh mặt trời, lóe lên lấp lánh. Cô đã tìm thấy thứ đó rồi, hay vẫn chưa? Vì có cặp kính râm, Ushikawa không thể đọc được nét mặt cô. Trong khoảng ba mươi giây, cô đứng bất động ngước lên nhìn trời, sau đó chợt ngoảnh mặt lại như vừa sực nhớ ra chuyện gì đó, ném ánh mắt về phía ô cửa sổ nơi Ushikawa đang ẩn nấp.

Cô tháo kính râm cho vào túi áo khoác, sau đó nhíu chặt hai hàng lông mày, ánh mắt tập trung vào ống kính máy ảnh đã được ngụy trang cẩn thận ở góc bệ cửa sổ. Cô ta biết, Ushikawa lại thầm nhủ. Cô gái này biết hết, cô ta biết mình đang nấp ở đây, cô ta biết có người đang lén lút quan sát. Và cô ta đang quan sát lại Ushikawa ngồi phía sau ô ngắm qua ống kính máy ảnh, kiểu như dòng nước chảy ngược trong đường ống ngoằn nghèo gấp khúc vậy. Y lập tức nhận ra hai cánh tay mình nổi hết da gà.

Fukaeri chớp chớp mắt. Hai mí mắt cô tựa như hai thể sống trầm tĩnh, độc lập, chầm chậm đưa lên hạ xuống theo một cách thức đã được nghiên cứu kỹ càng, trong khi những bộ phận khác không hề nhúc nhíc. Cô đứng đó, như một ả chim kiêu sa với dáng hình thon thả, nghiêng mặt nhìn chằm chằm vào Ushikawa. Ushikawa không thể dịch chuyển ánh mắt khỏi cô gái. Mọi vận động trên thế gian cơ hồ đều khựng lại. Cả gió cũng không thổi nữa, âm thanh cũng không còn khiến không khí rung lên.

Một lúc sau, rốt cuộc Fukaeri cũng thôi không còn nhìn vào Ushikawa nữa, cô lại ngẩng mặt lên nhìn trời như lúc nãy. Nhưng lần này cô chỉ nhìn mấy giây là thôi, nét mặt không có gì thay đổi. Cô lấy cặp kính râm sẫm màu trong túi ra, đeo lên mắt, đi ra phố. Bước chân cô nhẹ nhàng, không do dự.

Mình có nên chạy ra bám theo cô ta không? Đằng nào Tengo vẫn chưa về, còn đủ thời gian để xem cô ta đi đâu. Biết được cô ta chuyển đến nơi nào cũng không tệ. Nhưng chẳng hiểu vì lý do gì Ushikawa không sao nhấc mình lên được, cả người như bị liệt. Ánh nhìn sắc bén mà cô gái bắn xuyên qua ô ngắm máy ảnh dường như đã tước đoạt của y toàn bộ năng lượng cần thiết để hành động.

Thôi vậy, Ushikawa ngồi bệt xuống sàn nhà, tự nhủ. Xét cho cùng người mình cần tìm là Aomame. Dĩ nhiên Fukaeri rất hấp dẫn, nhưng dẫu sao cũng không phải đối tượng ưu tiên của mình, chẳng qua chỉ là vai phụ thôi. Cô ta đã muốn đi khỏi đây thì cứ mặc cô ta muốn đi đâu thì đi.

Fukaeri ra đường, rảo nhanh bước chân đi về phía ga tàu, không ngoảnh đầu nhìn lại lần nào. Ushikawa nấp sau tấm rèm cửa đã bị phơi nắng bạc phếch, nhìn theo cô. Đến khi không còn trông thấy cái túi đeo to tướng màu xanh lục hất qua hất lại sau lưng Fukaeri nữa, y gần như bò ra khỏi chỗ chiếc máy ảnh, dựa lưng vào tường, đợi cho sức lực trở lại với cơ thể. Y ngậm một điếu Seven Stars trên miệng, châm lửa, hít sâu một hơi. Nhưng thuốc lá chẳng có mùi vị gì cả.

Sức lực y không sao hồi phục nổi, cảm giác tê liệt ở tay chân kéo dài mãi không dứt. Đến khi định thần lại, Ushikawa chợt nhận ra rằng trong cơ thể mình đã sinh ra một khoảng trống kỳ dị. Một lỗ hổng thuần túy. Khoảng trống ấy chỉ có một ý nghĩa là sự thiếu khuyết, một khoảng hư vô. Ushikawa ngồi giữa cái lỗ hổng xa lạ sinh ra bên trong mình ấy, không sao dậy được. Y có cảm giác lồng ngực mình ngâm ngẩm đau, nói chính xác ra, đó không phải đau đớn mà là sự chênh lệch áp lực không khí nơi tiếp điểm giữa hiện hữu và hư vô.

Y ngồi tê liệt nơi đáy lỗ hổng ấy một hồi lâu, lưng dựa vào tường, hút những điếu thuốc hoàn toàn không mùi vị. Khoảng trống này là do cô gái vừa đi khỏi kia để lại. Không, có lẽ không phải thế, Ushikawa nghĩ. Có lẽ nó vốn đã ở bên trong mình, cô ta chỉ nhắc nhở mình sự tồn tại của nó mà thôi.

Ushikawa biết, cô gái tên là Fukada Eriko này đã làm y rúng động toàn thân đúng theo nghĩa đen của từ này. Ánh mắt kiên định sâu thẳm và sắc bén của cô đã làm y rúng động không chỉ về thể xác, mà đến tận cốt lõi của bản thể y, như một người đắm chìm trong tình yêu cuồng nhiệt. Đây là lần đầu tiên trong đời Ushikawa có cảm giác như thế.

Không, tuyệt đối không thể nào, y nghĩ. Sao mình lại phải lòng cô gái đó cơ chứ? Trên đời này chẳng lẽ còn hai người nào không xứng đôi nhau hơn mình và Fukaeri hay sao? Thậm chí y không cần vào nhà vệ sinh soi gương để xác nhận điều ấy. Không, không chỉ bề ngoài. Từ trong ra ngoài từ trên chí dưới, về bất cứ phương diện nào, trên đời này không ai khác xa cô gái ấy cả trăm nghìn cây số như mình. Y cũng không bị cô gái này thu hút ở góc độ giới tính. Về nhu cầu tình dục, mỗi tháng Ushikawa chỉ cần một hai lần, tìm đến cô gái điếm y quen là xong. Y gọi điện bảo cô ta lấy phòng khách sạn, rồi giao hợp, như vào tiệm cắt tóc vậy.

Chuyện này ắt phải là vấn đề tâm linh. Sau khi ngẫm nghĩ, Ushikawa kết luận như vậy. Khó mà tin được điều này, nhưng giữa Fukaeri và y đã nảy sinh một sự trao đổi tâm linh. Cô gái xinh đẹp này và Ushikawa, từ hai đầu ống kính máy ảnh được ngụy trang, đã chăm chú nhìn nhau mà thấu hiểu nhau, một sự thấu hiểu nảy sinh từ chốn xa tăm tối nhất của bản thể. Tuy chỉ trong khoảnh khắc ngắn ngủi, nhưng y và cô gái đã phơi bày linh hồn mình ra cho nhau. Rồi, khi cô gái bỏ đi, Ushikawa còn lại một mình trong chốn rỗng không này.

Cô gái này biết mình đang lén lút quan sát cô ta bằng ống kính tele từ khe hở của rèm cửa. Chắc chắn cô ta cũng biết mình từng theo dõi cô ta đến siêu thị gần trạm xe buýt. Khi đó cô ta không ngoảnh đầu lại lần nào, nhưng hiển nhiên cô ta biết đến sự tồn tại của mình. Mặc dù vậy, Ushikawa không phát hiện ra sự trách móc trong ánh mắt cô. Y có cảm giác, bằng cách nào đó, ở một nơi sâu thẳm, xa côi, cô gái này thấu hiểu y.

Cô gái xuất hiện, rồi đi. Mình và cô ta đi tới từ những hướng khác nhau, tuyến đường tình cờ giao cắt, mắt tiếp xúc với nhau trong khoảnh khắc, rồi lại tiếp tục đi theo những hướng khác nhau. Chắc mình sẽ không bao giờ gặp lại Fukada Eriko này nữa. Đây là cuộc gặp gỡ chỉ một lần duy nhất, không thể gặp lại. Cho dù gặp lại được cô gái ấy, mình còn có thể đòi hỏi cô ta thứ gì hơn thế này? Mình và cô ta giờ đây lại một lần nữa đứng ở hai phía xa xôi của thế giới, và chẳng còn đâu ngôn ngữ để nối kết hai bên với nhau nữa.

Ushikawa dựa lưng vào tường, xem xét những người ra vào khu nhà qua khe hở trên rèm cửa. Có thể Fukaeri sẽ đổi ý, lại quay trở về. Nói không chừng, cô chợt nhớ ra có thứ gì quan trọng bỏ quên trong căn hộ. Nhưng cô không quay lại. Cô đã quyết định đi đến một nơi khác. Dù xảy ra chuyện gì, cô cũng không quay lại đây nữa.

Suốt chiều hôm đó, Ushikawa cứ mãi chìm trong cảm giác bất lực sâu sắc. Thứ cảm giác này không hình dạng, không trọng lượng. Dòng chảy của máu trong cơ thể trở nên ì trệ. Tầm nhìn của y như bị phủ một lớp sương mù mỏng, khớp tay khớp chân mệt mỏi kêu răng rắc. Hễ y nhắm mắt, vết đau do ánh mắt Fukaeri để lại liền nhói lên ở mé trong xương sườn, tựa như cơn sóng dịu không ngừng ập vào bờ, rút đi, sau đó lại ập đến. Thỉnh thoảng, cơn đau lại nhói lên dữ đội đến mức y phải nhíu mày lại. Nhưng đồng thời, nó cũng mang đến cho Ushikawa cảm giác ấm áp mà từ trước đến giờ y chưa từng được nếm trải. Ushikawa nhận ra điều đó.

Vợ y, hai đứa con gái, cả căn nhà nhỏ có bãi cỏ trong vườn ở Chuorinkan, thảy đều chưa từng mang lại cho y cảm giác ấm áp đến thế. Trong lòng y luôn có một khoảnh đất lạnh cứng chưa được khai hóa, bao lâu nay y vẫn sống với cái lõi băng lạnh cứng đờ ấy, thậm chí y còn không cảm thấy nó băng lạnh, vì đối với y mà nói đó là nhiệt độ bình thường. Nhưng ánh mắt của Fukaeri dường như đã làm (dù chỉ là nhất thời) tan chảy cái lõi như khối băng cứng ấy. Đồng thời, nó khiến trong lồng ngực y ngâm ngẩm đau. Ấm áp và đau đớn đi kèm với nhau. Không chấp nhận đau đớn thì cảm giác ấm áp không thể đến với y được. Giống như hàng đổi hàng vậy.

Trong khoảng không gian nhỏ có nắng chiếu vào, Ushikawa đồng thời trải nghiệm cả cảm giác đau đớn lẫn ấm áp. Lặng lẽ, không nhúc nhích. Hôm nay là một ngày đông yên tĩnh, không có gió. Người đi đường qua lại trong ánh mặt trời dịu nhẹ. Nhưng mặt trời từ từ ngả về Tây, nấp vào bóng râm của những tòa nhà lớn, vùng ánh nắng nhỏ Ushikawa đang ngồi nhạt dần. Sự ấm áp của buổi chiều không còn nữa, đêm lạnh lẽo chẳng bao lâu sẽ buông xuống quanh y.

Ushikawa thở dài một tiếng, kéo người ra khỏi bức tường nãy giờ y vẫn tựa vào. Cảm giác tê bại tuy vẫn còn vương lại song không ngăn được y đi lại trong phòng. Y chầm chậm đứng lên, vươn tay vươn chân, hai tay nắm chặt vào rồi lại xòe rộng các ngón ra hết lần này đến lần khác. Sau đó y nằm xuống chiếu tatami, thực hiện bài tập co giãn cơ bắp quen thuộc. Các khớp xương khắp người phát ra tiếng kêu khe khẽ, cơ bắp cứng dần dần khôi phục lại sự mềm mại vốn có.

Đây là thời gian người ta hết giờ làm và tan học trở về nhà. Cần phải trở lại công việc, tiếp tục giám sát, Ushikawa tự nói với mình. Đây không phải vấn đề thích hay không thích, cũng không phải vấn đề đúng hay sai. Một khi đã bắt đầu làm, phải kiên trì đến cùng. Huống hồ, chuyện này can hệ đến vận mệnh của chính mình. Không thể nào cứ ở trong cái lỗ trống đó, đắm chìm trong những suy nghĩ viển vông không căn cứ mãi như thế.

Ushikawa lại ngồi xuống trước máy ảnh. Xung quanh giờ đã tối om như mực, đèn ở cổng chính cũng đã sáng lên. Có lẽ nó được gắn với thiết bị hẹn giờ. Mọi người, giống như lũ chim vô danh đang trở về cái tổ đơn sơ của chúng, rảo chân bước vào cửa chính của khu căn hộ. Trong số đó vẫn không thấy Kawana Tengo. Nhưng không lâu nữa chắn chắn anh ta sẽ quay về đây. Nói gì thì nói, anh ta không thể nào chăm sóc cha mãi mãi được, không chừng chỉ nội tuần này là phải trở về Tokyo để tiếp tục đi làm. Mấy hôm nữa, không, không khéo chỉ trong hôm nay hoặc ngày mai là cùng. Trực giác của Ushikawa nói với y điều đó.

Có thể mình là một thứ ủ dột, bẩn thỉu, như con sâu bò ở chỗ ẩm ướt bên dưới tảng đá. Được thôi, mình sẵn sàng thừa nhận điều này. Nhưng đồng thời mình cũng là một con sâu có năng lực, có khả năng chịu đựng cực khổ, một con sâu ngoan cố, tuyệt đối không dễ dàng bỏ cuộc. Chỉ cần có đầu mối là mình sẽ truy đến tận cùng, dù gặp phải tường cao cũng quyết leo lên tận đỉnh. Cần phải giành cái lõi băng lạnh kia về lại trong lồng ngực mình. Hiện giờ mình cần thứ ấy.

Ushikawa ngồi trước máy ảnh xoa hai bàn tay vào nhau kêu sột soạt, để cho chắc rằng cả mười ngón tay vẫn hoạt động thoải mái.

Trên đời có rất nhiều chuyện mà người bình thường có thể làm mà mình thì không. Điểm này thì chắc chắn. Chơi tennis và trượt tuyết chẳng hạn. Làm việc ở công ty, có một gia đình hạnh phúc, cũng thế. Nhưng mặt khác, có một vài chuyện mình có thể làm mà người bình thường thì không. Hơn thế, mình có thể làm những chuyện đó cực tốt. Mình không mong được tiếng vỗ tay và tiền thưởng của khán giả. Nhưng bộc lộ khả năng ra cho người đời trố mắt nhìn thì cũng đâu có gì là xấu.

Đến chín rưỡi, Ushikawa kết thúc công việc giám sát trong ngày. Y đổ súp gà đóng hộp vào cái nồi con, đun nóng bằng bếp du lịch, cầm thìa trân trọng múc lên húp từng ngụm một, ăn kèm với hai cái bánh mì, sau đó là gặm một quả táo cả vỏ. Ăn xong, y đi tiểu, đánh răng, trải túi ngủ ra sàn nhà, chỉ mặc đồ lót chui vào trong, kéo phéc mơ tuya lên tận cổ, cuộn người lại như con sâu.

Cứ vậy, một ngày của Ushikawa kết thúc. Không có thứ gì đáng gọi là thu hoạch. Có chăng chỉ là y xác nhận được Fukaeri đã mang theo hành lý rời khỏi nơi này. Không biết cô đi đâu. Đến một nơi nào đó, nhưng đi đâu? Ushikawa nằm trong túi ngủ lắc đầu. Đi đâu thì cũng không liên quan gì đến mình. Cơ thể lạnh cứng bên trong túi ngủ nhanh chóng trở nên ấm áp, đồng thời ý thức của y cũng dần dần mông lung, giấc ngủ sâu ập đến. Không lâu sau, cái lõi nhỏ nhưng băng lạnh kia lại khảm chặt vào linh hồn Ushikawa.

Ngày hôm sau không có chuyện gì đáng để ghi lại. Ngày tiếp theo là ngày thứ Bảy, cũng là một ngày ấm áp và tĩnh lặng. Rất nhiều người ngủ đến tận trưa. Ushikawa ngồi trước cửa sổ, giảm âm lượng radio xuống mức thấp nhất, nghe chương trình thời sự, tin tức giao thông, dự báo thời tiết.

Gần mười giờ, một con quạ lớn bay đến, đứng một lúc trên bậc cấp ra vào không một bóng người. Con quạ chăm chú đảo mắt quan sát xung quanh, nhúc nhích cái đầu mấy lần như thể gật gù. Cái mỏ to tướng của nó đung đưa lên xuống, bộ lông vũ đen tuyền trơn bóng hứng ánh mặt trời, sáng lên lấp lóa. Sau đó, chiếc xe máy màu đỏ của tay bưu tá kia chạy đến, con quạ liền xòe đôi cánh lớn bay đi với vẻ miễn cưỡng. Lúc bay đi, nó kêu lên một tiếng ngắn ngủn. Tay nhân viên bưu điện chia thư vào các hòm thư rồi vội đi luôn. Sau đấy một đàn chim sẻ lích chích bay đến. Bọn chúng lăng xăng tìm kiếm nơi cổng chính, thấy không có gì, bèn bay đi nơi khác. Kế đó, một con mèo mướp đi tới, hình như là mèo nhà ai đó gần đây, trên cổ đeo vòng chống rận. Ushikawa chưa từng thấy con mèo này lần nào. Nó chui vào giữa đám hoa cỏ khô héo trên luống hoa mà tiểu tiện, rồi ngửi ngửi hít hít, hình như thấy khó chịu, liền đung đưa bộ râu với vẻ bực bội, đoạn dựng đuôi biến mất phía sau tòa nhà.

Trước giờ trưa, có mấy cư dân đi ra ngoài. Nom cách ăn mặc, hình như họ đi chơi, hoặc chỉ loanh quanh mua đồ, hoặc thế này thế kia. Giờ thì Ushikawa gần như đã có thể nhớ rõ mặt từng người, nhưng y hoàn toàn không hứng thú gì với việc tìm hiểu tính cách và cuộc sống của những người này, thậm chí còn chưa từng động não tưởng tượng đến chuyện đó.

Với các người, cuộc đời của các người hẳn là có ý nghĩa lớn lao lắm, không thể thay thế được. Điều này tôi hiểu. Nhưng với tôi, đó là những thứ chẳng quan trọng gì, có cũng được, không có cũng chẳng sao. Trong mắt tôi, các người chẳng qua chỉ là những cái bóng từ phía sau phông nền lướt ra rồi biến mất. Tôi yêu cầu các người mỗi một điều thôi: cứ tiếp tục làm cái bóng, đừng quấy rầy công việc của tôi.

“Phải thế không, bà Lê?” Ushikawa gọi người phụ nữ trung niên có cặp mông vểnh lên như quả lê đi qua trước mặt mình bằng cái tên y tự đặt. “Bà chẳng qua chỉ là một cái bóng, không có thực thể. Bà có biết không? Nhưng mà, một cái bóng như bà hình như hơi nhiều mỡ thì phải.”

Nhưng cứ nghĩ đi nghĩ lại như vậy, dần dần y cảm thấy tất cả sự vật trong khung cảnh này đều trở thành “không có ý nghĩa,” “có cũng được mà không cũng chẳng sao.” Khung cảnh trước mắt y có lẽ vốn cũng không phải là thực tại. Mà có thể y chính là kẻ bị những những cái bóng không phải là thực tế ấy che mắt. Ý nghĩ ấy vừa xuất hiện trong đầu, Ushikawa liền đứng ngồi không yên. Cứ giam mình trong một căn phòng không có đồ đạc gì, ngày lại ngày bí mật giám sát người khác thì thần kinh rồi cũng trở nên bất bình thường. Y chú ý cố gắng phát ra những suy nghĩ của mình thành tiếng để dứt mình ra khỏi cơn bứt rứt.

“Chào buổi sáng, ông Tai Dài,” y chào hỏi ông già gầy gò xuất hiện trong ô ngắm. Phần chóp đôi tai người này lòi lên giữa đám tóc bạc, trông như hai chiếc sừng. “Ông đi tản bộ đấy à? Đi bộ tốt cho sức khỏe. Hôm nay thời tiết lại đẹp nữa, ông hưởng thụ cho thỏa vào nhé. Cả tôi cũng muốn thoải mái đi dạo bộ một chuyến lắm, nhưng thật là tiếc, tôi chỉ có thể ngồi đây, từ sáng đến tối giám thị cửa ra vào của cái khu chung cư tiêu điều xơ xác này thôi.”

Ông già mặc áo len cardigan và quần len, sống lương ưỡn thẳng, trông bộ dạng rất thích hợp để dắt theo một con chó trắng trung thành, nhưng tiếc là khu nhà này cấm nuôi chó. Sau khi ông già đi khuất, Ushikawa lại bị cảm giác bất lực xâm chiếm. Cuộc giám sát này chung quy chỉ lãng phí thời gian. Cái trực giác kia của mình có lẽ chẳng đáng một xu, rốt cuộc mình chỉ hao tâm tổn sức trong gian phòng trống hoác này mà chẳng thu được gì. Chỉ tổ làm cho thần kinh của mình mòn rạc cả ra, giống như cái Đầu Trọc của tượng Địa Tạng Bồ tát bị bọn trẻ đi ngang qua sờ hết lần này đến lần khác để cầu may vậy.

Quá trưa, Ushikawa ăn một quả táo, rồi bánh quy giòn với pho mát. Sau đó, y ăn thêm một nắm cơm có quả mơ khô bên trong. Xong bữa, y dựa lưng vào tường ngủ trưa giây lát. Một giấc ngủ ngắn không mộng mị, nhưng lúc tỉnh giấc y chẳng thể nào nhớ nổi mình đang ở đâu. Ký ức của y là một cái hộp trống không hoàn toàn vuông vức, bên trong chỉ có khoảng trống. Ushikawa lật qua lật lại khoảng trống ấy nhìn khắp lượt. Nhưng nhìn kỹ lại thì đó không phải khoảng trống, mà là một căn phòng mờ mờ tối, lạnh lẽo, trống rỗng, không có món nội thất nào. Một nơi xa lạ. Trên tờ báo cũ mở ra bên cạnh có một lõi táo. Tâm trí Ushikawa hỗn loạn: Sao mình lại ở cái nơi kỳ lạ thế này?

Sau đó, y nhớ ra mình đang giám sát cổng chính khu chung cư Tengo đang ở. Phải rồi, ở đây có một chiếc máy ảnh thấu kính đơn có gắn ống kinh tele. Ushikawa còn nhớ ra ông lão tóc bạc có đôi tai dài một mình ra ngoài dạo bộ. Ký ức từ từ bay về cái hộp trống rỗng, tựa như lũ chim bay về lại rừng sau khi tắt nắng. Hai việc đã được xác thực hiện lên trong tâm trí y.

Thứ nhất, Fukada Eriko đã rời khỏi nơi này.

Thứ hai, Kawana Tengo vẫn chưa quay lại.

Căn hộ của Kawana Tengo trên tầng ba giờ không một bóng người. Cửa sổ kéo rèm kín mít, tĩnh lặng bao trùm lấy không gian vắng lặng. Ngoài thiết bị ổn định nhiệt độ của tủ lạnh thi thoảng mới khởi động, không còn thứ gì phá vỡ sự tĩnh lặng đó. Ushikawa lan man tưởng tượng ra khung cảnh ấy. Tưởng tượng về căn phòng không người ít nhiều cũng giống như tưởng tượng về thế giới sau khi chết. Liền sau đó, y chợt nhớ đến tay nhân viên thu phí nghe nhìn cứ một mực đòi gõ cửa kia. Tuy vẫn luôn giám sát nghiêm mật, nhưng y không hề tóm được giấu vết gì chứng tỏ tay nhân viên thu phí bí ẩn kia đã rời khỏi khu chung cư này. Lẽ nào hắn ta lại là người ở đây? Hay là người nào đó sống ở đây thích giả làm nhân viên của NHK để quấy rối nhà khác? Giả sử thế, rốt cuộc hắn ta muốn gì? Đây là một giả thiết đáng sợ, bệnh hoạn. Nhưng ngoài cách đó ra, thì nên giải thích sự việc này như thế nào đây? Ushikawa hoàn toàn không biết.

Kawana Tengo xuất hiện ở cửa chính khu nhà lúc khoảng bốn giờ chiều hôm ấy. Anh ta mặc áo jacket cũ kỹ cổ dựng cao, đội mũ bóng chày màu xanh sẫm, vai đeo túi du lịch. Tengo không dừng nơi cửa, cũng không đảo mắt nhìn quanh quất mà đi thẳng một mạch về căn hộ của mình. Ý thức của Ushikawa khi ấy vẫn còn hơi mông lung, nhưng y không bỏ sót thân hình cao lớn đi ngang qua trước tầm mắt mình kia.

“A ha, anh quay về rồi, anh Kawana,” Ushikawa lẩm bẩm, dùng điều khiền ấn chụp ba lần liên tiếp. “Bệnh tình của cha anh thế nào? Chắc anh mệt lắm rồi phải không? Anh nghỉ ngơi cho tốt đi nhé. Về nhà mình thật là thoải mái biết mấy, kể cả đó có là một căn hộ tồi tàn đi chăng nữa. À, phải rồi, cô Fukada Eriko kia ấy, lúc anh vắng nhà, cô ấy dọn hành lý đi rồi.”

Tiếng nói này không thể lọt vào tai Tengo. Y chỉ lẩm bẩm với chính mình thôi. Ushikawa liếc đồng hồ đeo tay, ghi giờ vào cuốn sổ để bên cạnh. Ba giờ năm mươi sáu phút chiều, Kawana Tengo trở về nhà.

Cùng lúc Kawana Tengo xuất hiện ở cửa khu chung cư, một cánh cửa lớn ở nơi nào đó cũng mở ra đánh “rầm” một tiếng, cảm giác hiện thực liền trở lại với Ushikawa. Như không khí ùa vào lấp đầy khoảng chân không, hệ thần kinh của y trong nháy mắt căng ra như dây đàn, sức sống mới chảy khắp toàn thân. Một lần nữa, y lại là một phần hữu dụng của thế giới bên ngoài. Đập vào tai y cái tiếng cách khoan khoái khi mọi thứ được lắp ráp đâu vào đấy. Máu y tuần hoàn nhanh hơn, lượng adrenalin vừa đủ được đưa đi khắp cơ thể. Vậy là tốt rồi, phải như vậy chứ, Ushikawa nhủ thầm. Đây mới là diện mạo thật của mình, đây mới là diện mạo thật của thế giới.

Hơn bảy giờ, Tengo lại xuất hiện ở cửa ra vào khu nhà. Trời vừa tối liền bắt đầu nổi gió, nhiệt độ tụt thấp. Anh ta mặc thêm áo khoác da bên ngoài áo gió, cùng quần bò đã bạc màu. Sau khi ra khỏi cửa, Tengo dừng lạ nhìn xung quanh. Nhưng anh ta không phát hiện gì. Anh ta cũng hướng mắt về chỗ Ushikawa đang nấp, nhưng không nhận ra có người đang giám sát mình. Không giống Fukada Eriko, Ushikawa thầm nghĩ. Fukaeri là người đặc biệt, có thể thấy những thứ người khác không thấy được. Nhưng còn Tengo, tốt xấu thế nào thì anh cũng chỉ là người bình thường thôi. Anh không trông thấy tôi đâu.

Sau khi thấy quang cảnh xung quanh không có gì khác lạ. Tengo kéo phéc mơ tuya áo khoác lên đến tận cổ, thọc hai tay vào túi áo, đi ra đường. Ushikawa lập tức đội mũ len lên đầu, quấn khăn quàng vào cổ, xỏ giày chạy đuổi theo.

Y vốn đã lập kế hoạch chỉ cần Tengo ra ngoài là sẽ bám theo, vì vậy không tốn quá nhiều thời gian chuẩn bị. Theo dõi cố nhiên là một lựa chọn nguy hiểm. Với thể hình và tướng mạo đặc sắc của Ushikawa, Tengo chỉ cần liếc nhìn là sẽ lập tức nhận ra ngay. Nhưng xung quanh đã tối đen như mực, chỉ cần giữ khoảng cách đúng độ thì có lẽ không dễ bị phát hiện.

Tengo chầm chậm bước trên đường, ngoảnh đầu lại nhìn xung quanh vài lần, song Ushikawa khá là cẩn thận nên không bị phát giác. Bóng dáng cao lớn của anh ta trông như đang trầm tư điều gì đó. Chắc anh ta nghĩ về chuyện Fukaeri bỏ đi. Có vẻ Tengo đang đi về phía nhà ga. Lẽ nào anh ta định lên tàu đi đâu? Nếu vậy thì việc theo dõi sẽ trở nên khó khăn. Trong nhà ga đèn đuốc sáng trưng, hành khách lên xuống tàu tối thứ Bảy không nhiều. Hình dáng Ushikawa ắt hẳn sẽ cực kỳ nổi bật. Trong trường hợp này, tốt nhất là từ bỏ thì hơn.

Nhưng Tengo không vào nhà ga. Đi bộ một quãng, anh ta rẽ sang hướng khác, men theo con phố nhỏ không một bóng người một lúc rồi dừng bước ở một quán nhỏ tên là Barleyhead. Đây xem ra là quán rượu nhỏ dành cho người trẻ tuổi. Tengo nhìn đồng hồ để xác nhận thời gian, ngẫm nghĩ vài giây rồi bước vào trong. “Barleyhead.” Ushikawa thầm nghĩ, rồi khẽ lắc đầu. Chỗ này là chỗ nào? Sao lại đặt tên quái dị như vậy!

Ushikawa đứng trong bóng tối dưới cây cột điện, đảo mắt nhìn quanh. Tengo có lẽ định uống vài ly ở đây rồi tiện thể ăn cơm luôn. Như vậy ít nhất cũng tốn ba mươi phút, không khéo còn phải hơn một tiếng. Ushikawa đưa mắt tìm kiếm một nơi có thể giết thời gian trong lúc y giám sát những người ra vào quán rượu Barleyhead. Nhưng quanh đó chỉ có một cửa hàng bán sữa, một hội trường của giáo phái Tenrikyo[1] và một cửa hàng gạo, tất cả đều đã đóng cửa. Đấy, nhìn đi, đen đủi thật. Ushikawa nghĩ. Gió Tây Bắc phần phật thổi bay mây giăng khắp trời, cảm giác ấm áp thanh bình buổi ban ngày tựa như một giấc mơ xa xôi. Đứng suông ngoài đường trong gió lạnh thế này cả nửa tiếng, thậm chí một tiếng đồng hồ, đương nhiên đó không phải là điều Ushikawa muốn.

[1] Tức Thiên Lý giáo, một tôn giáo độc thần được sáng lập hồi thế kỷ 19 ở Nhật Bản bởi một phụ nữ tên là Nakayama Miki.

Thôi dứt khoát nghỉ đi vậy, Ushikawa thầm nghĩ. Đằng nào thì Tengo cũng chỉ ăn tối ở đây thôi, không cần phải khổ sở theo dõi anh ta rìn rịt làm gì. Mình cũng chui vào quán nào ăn một bữa cơm nóng hổi rồi về là xong. Chỉ một chốc nữa Tengo sẽ về nhà thôi. Đối với Ushikawa, đây là một lựa chọn rất hấp dẫn. Y hình dung trong đầu cảnh mình bước vào quán ăn mở máy sưởi ấm áp, bưng bát cơm thịt gà và trứng ăn ngốn ngấu. Mấy ngày nay y chưa được ăn một bữa cơm tử tế ra hồn. Y còn thèm vài ly rượu đặc hâm nóng nữa. Thời tiết lạnh thế này, chỉ cần bước ra khỏi cửa quán là hơi men sẽ tan đi hết ngay.

Nhưng rồi một kịch bản khác hiện lên trong óc y. Biết đâu Tengo lại hẹn gặp ai đó trong quán rượu Barleyhead. Không thể xem nhẹ giả thiết này được. Sau khi rời căn hộ, Tengo không hề do dự đi thẳng đến quán rượu này, trước khi bước vào còn xem đồng hồ. Có lẽ có người đang ở đó đợi anh ta, nếu không thì người đó một lúc nữa sẽ đến. Nếu đúng vậy, Ushikawa không nên bỏ qua người kia. Cho dù hai tai đông cứng thành nước đá, y cũng phải đứng bên đường giám sát những người ra vào quán. Ushikawa đành chấp nhận đầu hàng, xua món cơm trộn thịt gà trứng và rượu sake nóng ra khỏi tâm trí mình.

Người đến gặp Tengo có thể là Fukaeri. Hoặc Aomame. Nghĩ tới đây, tinh thần Ushkawa liền phấn chấn hẳn lên. Nói gì thì nói, chịu khó chịu khổ là sở trường của mình. Chỉ cần có chút hy vọng mong manh, mình sẽ nắm chặt không buông. Gió thổi, mưa vùi, nắng chói, gậy đánh, mình cũng tuyệt không buông. Một khi đã buông, ai biết được đến lúc nào mới lại nắm được cơ hội nữa! Ushikawa có thể chịu được chuyện khó khăn trước mắt, bởi từ trải nghiệm của bản thân, y hiểu rằng trên đời có những chuyện còn đau đớn hơn nhiều.

Ushikawa dựa lưng vào tường, nấp vào bóng tối của cột điện và tấm biển quảng cáo cho đảng Cộng sản Nhật Bản, quan sát cửa ra vào quán Barleyhead. Chiếc khăn quàng màu xanh lục quấn lên tận dưới mũi, hai tay nhét vào túi áo khoác nỉ dày kiểu thủy thủ. Trừ những lúc phải móc khăn giấy ở trong túi ra lau nước mũi, người y gần như không nhúc nhích. Tiếng loa thông báo ở ga Koenji chốc chốc lại cưỡi gió bay đến. Vài người qua đường có vẻ căng thẳng khi thấy Ushikawa đứng trong chỗ tối, liền rảo bước nhanh chân đi qua. Y đứng trong chỗ tối, nên họ không nhìn rõ được gương mặt. Chỉ có thân hình lùn béo tựa như một món đồ bài trí chẳng lành lù lù hiện lên trong bóng tối khiến ai nhìn cũng hãi.

Ở trong đó Tengo uống gì, ăn gì? Càng nghĩ, Ushikawa càng thấy đói thấy lạnh. Nhưng y không thể thôi tưởng tượng. Gì cũng được, không cần thiết phải là rượu sake nóng hay cơm trộn thịt gà với trứng, mình chỉ muốn chui vào nơi nào đó ấm áp, ăn một bữa cơm người bình thường vẫn ăn. Nhưng nếu cứ đứng trong chỗ tối cho gió lạnh quật vào và chịu đựng ánh mắt hồ nghi của người qua đường mà mình đã chịu được thì mọi chuyện khác đều chịu được.

Ushikawa không còn lựa chọn nào khác. Ngoài việc đứng trong gió lạnh cắt da đợi Tengo cơm no rượu say đi ra, y không còn lựa chọn nào nữa. Ushikawa nhớ đến căn nhà ở Chuorinkan và bàn ăn ở đó. Trên bàn ấy mỗi tối đều bày những món bốc hơi nghi ngút, nhưng y không nhớ nỗi là những món gì. Hồi đó mình ăn những gì vậy nhỉ? Cứ như thể chuyện từ kiếp trước. Ngày xửa ngày xưa, cách nhà ga Chuorinkan trên tuyến Odakyu mười lăm phút đi bộ có một căn nhà nhỏ mới xây, bên trong có một bàn ăn ấm áp ngon lành. Hai đứa bé gái đang chơi piano, khoảng sân nhỏ mọc đầy cỏ xanh, một con chó nhỏ thuần chủng loăng quăng chạy.

Tengo ra khỏi quán rượu sau ba mươi lăm phút. Không tồi. Tình hình còn có thể tệ hơn nữa mà, Ushikawa tự nhủ. Tuy đó là ba mươi lăm phút khủng khiếp, nhưng dầu sao cũng còn tốt hơn một tiếng rưỡi khủng khiếp nhiều. Cơ thể đã lạnh cóng, nhưng ít nhất hai tay y vẫn chưa đông thành nước đá. Trong khoảng thời gian Tengo ở trong đó, không có người nào ra vào quán Barleyhead khiến Ushikawa chú ý. Chỉ có một cặp thanh niên nam nữ đi vào, không ai đi ra. Tengo chắc chỉ uống rượu một mình, ăn qua loa bữa tối. Ushikawa bám theo Tengo, giữ khoảng cách như lúc nãy. Tengo đi ngược lại đường cũ. Chắc anh ta định đi thẳng về căn hộ.

Nhưng được nửa đường Tengo lại rẽ vào một con phố mà Ushikawa chưa hề đi qua. Có vẻ anh ta không định về thẳng nhà. Nhìn từ phía sau, anh ta dường như vẫn đang chìm trong suy tư, có lẽ còn sâu hơn lúc nãy. Anh ta không ngoảnh đầu lại nhìn quanh quất nữa. Ushikawa quan sát phong cảnh xung quanh, đọc các biển tên và số nhà, cố gắng nhớ kỹ tuyến đường để sau này có đi một mình cũng nhận ra được. Y không quen với khu này, nhưng tiếng ồn của dòng xe hơi cuồn cuộn không ngừng càng lúc càng ầm ĩ, có thể đoán nơi này ở gần đường vành đai số 7. Dần dần, Tengo rảo nhanh bước chân. Dường như anh ta đã tới gần nơi mình muốn đến.

Không tệ, Ushikawa nghĩ. Anh ta đang đến một nơi nào đó. Phải vậy mới được. Vậy mới bỏ công mình theo dõi chứ.

Tengo bước nhanh qua khu dân cư. Hôm đó là một buổi tối thứ Bảy gió lạnh buốt da. Người ta thảy đều rút trong những căn phòng ấm áp, tay bưng món đồ uống nóng hổi ngồi trước ti vi. Gần như không ai đi trên đường. Ushikawa giữ khoảng cách vừa đủ bám theo Tengo. Nói cho cùng, Tengo là một người dễ theo dõi. Anh ta cao lớn, to xương, dù có trà trộn giữa đám người cũng không bị lạc mất. Lúc đi trên đường, anh ta luôn tập trung, không làm gì khác. Anh ta luôn hơi cúi đầu nghĩ ngợi điều gì. Về cơ bản, Tengo là một người đàn ông thẳng thắn và thành thực, không phải loại giỏi che giấu. Hoàn toàn trái ngược với mình, Ushikawa nghĩ.

Vợ Ushikawa trước đây cũng là loại người thích giấu giếm mọi thứ. Không phải, không phải thích, mà nghiện giấu giếm mới đúng. Hỏi cô ta bây giờ là mấy giờ, chắc cô ta cũng chẳng trả lời thật. Điểm này thì cô ta khác với Ushikawa. Y chỉ che giấu sự việc khi cần thiết, khi đó là một phần công việc. Nếu ai đó hỏi y bây giờ là mấy giờ và không có lý do gì để y phải nói dối thì y sẽ nói thật, với thái độ tử tế nhiệt tình là khác. Vợ y thì không. Trong bất cứ tình huống nào, với bất cứ chuyện gì, cô ta cũng nói dối. Kể cả tuổi tác, cô ta cũng nói chệch đi bốn năm. Lúc đăng ký kết hôn, nhìn thấy giấy tờ Ushikawa mới vỡ ra, nhưng y chẳng nói gì, coi như không biết. Ushikawa không thể hiểu tại sao cô ta phải nói dối những điều mà bản thân biết rõ sớm muộn cũng có ngày sẽ lộ ra ánh sáng như thế. Thêm nữa, y không phải người để tâm đến chuyện tuổi tác. Kể cả vợ y có hơn y bảy tuổi thì có vấn đề gì đâu chứ?

Càng đi xa khỏi nhà ga, bóng người càng thưa. Cuối cùng, Tengo đi vào một sân chơi nhỏ. Một cái sân chơi dành cho trẻ con tầm thường nằm ở góc khu dân cư, bên trong không có ai. Tất nhiên rồi, Ushikawa thầm nghĩ. Mấy ai lại thích ra sân chơi của trẻ con mà hứng ngọn gió lạnh cắt da cắt thịt trong đêm tháng Mười hai? Tengo đi qua vùng ánh sáng lạnh lẽo của ngọn đèn thủy ngân, thẳng đến chỗ cầu trượt, leo lên trên đỉnh.

Ushikawa nấp trong bóng tối của bốt điện thoại công cộng, chăn chú quan sát từng cử động của Tengo. Cầu trượt? Y chau mày. Đêm đông lạnh giá thế này, một người đàn ông trưởng thành leo lên cầu trượt trong sân chơi của trẻ con làm gì? Nơi này cũng không gần nhà Tengo. Phải có lý do nào đó để anh ta cất công đi đến tận đây. Khó mà nói sân chơi này có sức hấp dẫn gì đặc biệt. Nó chật hẹp, tồi tàn. Có cầu trượt, thêm hai cái đu quay, khung leo trèo bằng kim loại nhỏ và hố cát. Một ngọn đèn thủy ngân duy nhất trông như đã chiếu sáng ngày tận thế vô số lần, một cây sồi to tướng đã trụi hết lá. Nhà vệ sinh công cộng khóa cửa biến thành tấm bảng hoàn hảo cho nghệ sĩ graffiti đường phố. Nơi này không có thứ gì khiến người ta ấm lòng, cũng chẳng có sự vật nào kích thích trí tưởng tượng. Có lẽ vào một buổi chiều mát mẻ tháng Năm may ra có vài thứ như thế, nhưng trong đêm tháng Mười hai gió rít thế này thì quyết là không.

Tengo muốn gặp ai trong cái sân chơi này? Hay anh ta đang đợi ai đó đến đây? Có lẽ không phải¸ Ushikawa nghĩ. Tengo không tỏ dấu hiệu nào cho thấy anh ta đang đợi ai. Sau khi vào sân chơi, anh ta không hề liếc mắt tới những món đồ chơi khác mà đi thẳng đến chỗ cầu trượt. Dường như ngoài cầu trượt ra, anh ta không để tâm đến thứ gì khác. Tengo đến đây là để leo lên cái cầu trượt đó, Ushikawa chỉ có thể phán đoán như vậy.

Có lẽ anh ta từ nhỏ đã thích leo lên đỉnh cầu trượt để trầm tư. Đỉnh cầu trượt trong sân chơi về đêm có lẽ là nơi thích hợp nhất để nghĩ về tiểu thuyết đang viết, hay công thức toán học. Có lẽ ánh sáng xung quanh càng yếu ớt, gió thổi càng lạnh, sân chơi càng xập xệ, đầu óc anh ta càng linh hoạt. Các nhà tiểu thuyết (hay nhà toán học) suy nghĩ thế nào, họ suy tư những gì, điều đó không nằm trong tầm tưởng tượng của Ushikawa. Bộ não thực dụng của Ushikawa nói cho y biết: giờ y phải kiên nhẫn theo sát nhất cử nhất động của Tengo. Đồng hồ y chỉ đúng tám giờ.

Tengo ngồi xuống đỉnh cầu trượt, như thể gập thân hình cao lớn lại, sau đó nhìn lên trời. Đầu anh ta ngoảnh qua ngoảnh lại một hồi, ánh mắt nhắm chuẩn một chỗ, liền tập trung nhìn vào đó. Đầu anh không nhúc nhích nữa.

Ushikawa nhớ lại một bài hát sầu não từng làm mưa làm gió một thời thiếu niên nhiều năm về trước của Sakamoto Kyu. Câu đầu tiên là “ngẩng đầu ngước nhìn sao trên bầu trời đêm, ngôi sao bé nhỏ ấy.” Phần sau thế nào thì y không biết, mà cũng không muốn biết. Sầu não và cảm thức về chính nghĩa là những lĩnh vực mà Ushikawa kém cỏi nhất. Phải chăng Tengo đang ôm trong lòng mối sầu nào đó, ngồi trên đỉnh cầu trượt ngước nhìn sao trời?

Ushikawa cũng thử ngước nhìn trời, nhưng không thấy ngôi sao nào. Khu Koenji ở quận Suginami, Tokyo này không thể coi là nơi thích hợp để quan sát sao trời. Đèn neon và đèn đường nhuộm cả bầu trời thành một thứ màu kỳ quái. Có thể có người ngước lên thấy được vài ngôi sao cũng không chừng. Nhưng chắc chắn phải có thị lực và khả năng tập trung phi thường mới được. Huống hồ, đêm nay trời đầy mây trôi ùn ùn dày đặc. Mặc dù vậy, Tengo vẫn ngồi yên như tượng trên đỉnh cầu trượt, ngước nhìn một góc nào đó nhất định trên bầu trời.

Đúng là một gã phiền nhiễu, Ushikawa nghĩ. Tại sao lại ngồi trên đỉnh cầu trượt ngẩng đầu nhìn trời trầm tư suy nghĩ trong một đêm đông gió lạnh cắt da thế này chứ? Nghĩ thì nghĩ vậy, nhưng y không có tư cách gì để chê trách Tengo. Xét cho cùng, là tự y muốn bí mật giám sát và theo dõi Tengo. Dù có gặp phải cảnh ngộ thê thảm nhường nào thì y cũng chẳng trách móc được Tengo. Tengo là một công dân tự do, dù là mùa nào trong năm, anh ta cũng có quyền đến bất cứ nơi nào mà mình thích để ngước nhìn bầu trời, muốn nhìn bao lâu thì nhìn.

Đành là thế, nhưng dẫu sao cũng lạnh quá, Ushikawa nghĩ. Y buồn đi tiểu từ nãy, nhưng lúc này chỉ có thể nín nhịn. Nhà vệ sinh công cộng hình như đã khóa chặt, và dù không có ai đi qua đây, y cũng không thể tiểu tiện ngay cạnh buồng điện thoại được. Muốn gì thì gì, mau mau về đi thôi, Ushikawa vừa giẫm chân vừa rủa thầm trong bụng. Anh Tengo này, anh trầm tư gì cũng được, chìm vào trong mối sầu thương nào cũng được, hay quan sát thiên thể cũng xong, chắc là anh cũng lạnh phải không? Mau về nhà cho ấm đi nào. Mặc dù ở mấy chốn về ấy chẳng có ai đợi chúng ta cả, nhưng dù thế nào cũng hơn nơi này nhiều chứ.

Nhưng Tengo dường như không hề có ý định đứng dậy ra về. Cuối cùng anh ta cũng không nhìn trời đêm nữa, xong lại dịch ánh mắt về phía khu chung cư cách sân chơi một con phố hẹp. Đó là một tòa nhà sáu tầng mới xây, có khoảng một nửa số cửa sổ sáng đèn. Tengo nhìn tòa nhà ấy với vẻ thiết tha. Ushikawa cũng nhìn theo, nhưng không phát hiện ra thứ gì đặc biệt đáng chú ý. Một tòa nhà chung cư bình thường có thể thấy ở bất cứ đâu, không thể nói là cao cấp, nhưng cũng không phải loại làng nhàng. Thiết kế của tòa nhà tương đối thanh nhã, gạch men sứ ốp tường ngoài thuộc loại đắt tiền. Cửa chính của tòa nhà trông sáng sủa và rất có khí thế. Khu chung cư giá rẻ sắp bị dỡ bỏ nơi Tengo đang ở hoàn toàn không thể so sánh được.

Lúc Tengo đang nhìn khu chung cư đó, liệu anh ta có thầm nhủ giá mình cũng được trong một nơi như thế không? Không, tuyệt đối không. Theo Ushikawa biết, Tengo không phải loại người kén cá chọn canh về chỗ ở, cũng như anh ta chưa từng kén chọn quần áo vậy. Chắc chắn anh ta không bất mãn gì với căn hộ giá rẻ mình đang ở. Chỉ cần có một mái nhà che mưa che gió là đủ rồi. Cái anh ta nghĩ khi ngồi trên đỉnh cầu trượt nhất định là thứ gì đó khác.

Nhìn các cửa sổ của khu chung cư một lúc, Tengo lại ngẩng lên nhìn trời. Ushikawa cũng ngước nhìn lên theo. Cành cây sồi, dây điện và các nhà cửa khác che mất tầm nhìn; từ chỗ nấp của Ushikawa chỉ có thể thấy một khoảng bầu trời, nên y không thể đoán chắc Tengo đang ngóng nhìn điểm đặc biệt nào trên cả bầu trời. Vô số đám mây không ngừng ùn ùn kéo đến, như những binh đoàn dồn dập đổ bộ.

Cuối cùng, Tengo đứng dậy, tựa như một phi công vừa đơn độc hoàn thành chuyến bay đêm khó nhọc, lẳng lặng bước xuống cầu trượt, sau đó đi qua quầng sáng của ngọn đèn thủy ngân, ra khỏi sân chơi. Ushikawa do dự giây lát, rồi quyết định không theo dõi anh ta nữa. Tengo chắc chắn là đi thẳng về nhà, mà y cũng không nhịn tiểu được nữa. Sau khi bóng Tengo đã khuất hẳn, Ushikawa liền chạy vào sân chơi, đứng ở chỗ khất phía sau nhà vệ sinh công cộng xả một bãi vào bụi cây. Bọng đái của y cơ hồ sắp vỡ tung ra đến nơi.

Phải mất quãng thời gian ngang với con tàu chở hàng dài dằng dặc đi qua một cây cầu sắt thì y mới giải quyết xong cơn buồn. Ushikawa kéo khóa quần, nhắm mắt lại thở hắt ra một hơi dài. Kim đồng hồ chỉ tám giờ mười bảy phút. Sau khi chắc chắn anh ta đã đi hẳn, Ushikawa đi về phía cầu trượt, nhấc đôi chân ngắn ngủn cong queo leo lên bậc thang, ngồi xuống đỉnh cầu trượt lạnh buốt, ngẩng đầu về phía Tengo chăm chú nhìn khi nãy. Rốt cuộc anh ta ngóng nhìn cái gì mà chăm chú thế?

Thực lực của Ushikawa không phải kém. Y bị loạn thị nhẹ, vì vậy ánh mắt không được cân bằng, nhưng không đeo kính thì cũng không ảnh hưởng đến cuộc sống. Nhưng dù tập trung tinh thần thế nào, y cũng không thấy dù chỉ một ngôi sao. Nhưng mặt trăng tròn cỡ hai phần ba đang lơ lửng giữa bầu trời lại thu hút sự chú ý của y. Dáng hình mờ tối của nó như một cái mụt ruồi hiện rõ giữa những đám mây. Vầng trăng đêm đông như xưa nay vẫn thế. Lạnh lẽo, nhợt nhạt, đầy những bí ẩn và ám thị từ thời Thái cổ. Nó lặng lẽ lơ lửng giữa không trung, như mắt của người chết chẳng bao giờ chớp.

Ngay sau đó Ushikawa hít vào một hơi khí lạnh, đờ người ra hồi lâu, thậm chí quên cả thở. Khi dải mây tách ra, y phát hiện ra, ở cách mặt trăng kia không xa, còn có một mặt trăng nữa. Trăng này nhỏ hơn trăng đầu tiên nhiều, màu xanh lục, như phủ một lớp rêu trên bề mặt, hình dạng hơi méo. Có điều, đây rành rành là mặt trăng. Chẳng thể nào có ngôi sao lớn như vậy được. Cũng không thể là vệ tinh nhân tạo. Nó đứng yên một chỗ trên trời, hoàn toàn không chuyển động.

Ushikawa nhắm mắt lại, chừng vài giây sau lại mở ra. Chắc chắn không phải là ảo giác. Thứ này tuyệt đối không thể nào tồn tại. Nhưng rồi dù y có nhắm mắt mở mắt bao nhiêu lần, mặt trăng nhỏ vẫn ở đó. Khi mây bay đến, nó liền nấp sau đám mây, khi mây bay đi, nó lại xuất hiện đúng chỗ đó.

Đây là thứ mà Tengo nhìn, Ushikawa nghĩ. Kawana Tengo đến cái sân chơi dành cho trẻ con này là để quan sát cảnh này, hoặc để xác nhận xem nó vẫn còn tồn tại hay không. Trước đó anh ta đã biết trên trời có hai mặt trăng rồi. Điều này không còn gì phải nghi ngờ. Bởi, thấy cảnh này, anh ta không lộ vẻ kinh ngạc. Ushikawa ngồi trên đỉnh cầu trượt thở dài. Đây rốt cuộc là thế giới gì vậy? Y tự hỏi. Mình đã lọt vào thế giới quái quỷ nào vậy? Chẳng có đáp án nào. Vô số đám mây bị gió xua tan, chỉ có hai mặt trăng một lớn một nhỏ còn lại trên bầu trời như một câu đó.

Điều duy nhất có thể chắc chắn: Nơi này không phải thế giới của mình. Địa cầu mà mình biết chỉ có một vệ tinh, đây là sự thật không thể chối cãi. Nhưng giờ đây, số lượng đã tăng lên thành hai.

Nhưng rất nhanh sau đó, Ushikawa phát hiện ra cảnh tượng này dường như rất quen thuộc. Trước đây mình tường thấy cảnh tượng này ở đâu rồi. Ushikawa tập trung hết tinh thần, lồng lộn lục tìm trong ký ức. Mặt vặn vẹo, răng nghiến kèn kẹt, hai tay lần mò trong làn nước đen của ý thức. Rốt cuộc y cũng nhớ ra. Nhộng không khí.

Ushikawa bất giác nhìn quanh. Nhưng dập vào mắt y vẫn là thế giới trước đây. Cách một con đường, rèm ren trắng buông xuống những ô cửa sổ tòa nhà sáu tầng đối diện, phía sau sáng lên ánh đèn êm đềm. Không có gì khác thường cả. Chỉ khác ở số lượng mặt trăng mà thôi.

Y cẩn thận leo xuống cầu trượt, rồi vội vã rảo chân ra khỏi sân chơi như đang né tránh ánh nhìn của mặt trăng. Đầu óc mình có vấn đề chăng? Không, không thể nào. Đầu óc mình hoàn toàn bình thường. Tâm trí mình cứng rắn, vững vàng, thẳng tắp như chiếc đinh thép mới tinh được đóng thẳng vào cốt lõi của hiện thực với góc độ chuẩn xác nhất. Bản thân mình không có vấn đề gì. Mình hoàn toàn sáng suốt.

Chỉ là thế giới xung quanh đang hỗn loạn.

Và mình phải tìm ra nguyên nhân của sự hỗn loạn này.

Dù với giá nào.
 
CHÚ Ý !!!
Các đạo hữu nhớ thêm TÊN CHƯƠNG và THỨ TỰ CHƯƠNG ở ô phía trên phần trả lời nhanh. Như vậy hệ thống mới tạo được DANH SÁCH CHƯƠNG.
Cập nhật chức năng ĐĂNG TRUYỆN và THÊM CHƯƠNG MỚI trên web Diễn Đàn Truyện tại https://truyen.diendantruyen.com
Top Bottom