Cập nhật mới

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 20: Aomame


Một khâu trong quá trình thay đổi diện mạo của mình

Ngày Chủ nhật, gió đã ngừng thổi. Trái với đêm hôm trước, đó là một ngày ấm áp thanh bình. Mọi người cởi bỏ áo khoác ngoài nặng nề, thoải mái hưởng thụ ánh nắng. Tuy vậy, Aomame không hưởng thụ thời tiết bên ngoài, nàng ở cả ngày trong căn phòng kéo rèm kín mít, như thường lệ.

Nàng nghe bản Sinfonietta của Janáček với âm lượng nhỏ trong khi làm các động tác co giãn cơ bắp, rồi dùng máy tập thực hiện các bài tập sức bền. Để hoàn thành các bài tập mà mỗi ngày lại được bổ sung thêm, nàng mất gần hai tiếng đồng hồ. Sau đó nàng nấu ăn, quét dọn nhà cửa, ngồi rên sofa đọc Đi tìm thời gian đã mất. Rốt cuộc, nàng cũng đọc đến Bên phía nhà Guermantes[1]. Nàng cố gắng để mình không lúc nào ngơi tay. Khi xem ti vi, nàng chỉ xem chương trình thời sự lúc giữa trưa và bảy giờ tối của đài NHK. Như mọi khi, không có tin tức gì quan trọng. Không, cũng có. Khắp nơi trên thế giới đều có người chết, đa phần là những cái chết bi thảm. Tàu hỏa đâm nhau, đắm tàu, tai nạn máy bay. Có những cuộc nội chiến kéo dài không dứt, có ám sát, có những cuộc thảm sát khủng khiếp giữa các dân tộc. Có cả hạn hán, lũ lụt, mất mùa do biến đổi khí hậu gây nên. Tự đáy lòng, Aomame cảm thông sâu sắc với những con người bị cuốn vào bi kịch và thảm họa ấy. Nhưng chuyện gì ra chuyện đó, trước mắt vẫn chưa xảy ra chuyện gì có khả năng ảnh hưởng trực tiếp đến nàng.

[1] Tập thứ ba của bộ Đi tìm thời gian đã mất.

Trong sân chơi bên kia đường, lũ trẻ con gần đấy đang chơi đùa, hò hét gì đó. Lũ quạ đen đậu trên nóc nhà như đang gọi nhau, kêu những tiếng lanh lảnh vọng vào qua cửa sổ. Trong không khí có mùi của thành phố những ngày chớm đông.

Ngay sau đó nàng chợt nhận ra, từ khi vào ở trong căn hộ này, nàng chưa một lần cảm thấy ham muốn tình dục. Nàng không muốn làm tình với người khác, cũng không tự thủ dâm lần nào. Có lẽ vì nàng mang thai nên hoóc môn trong cơ thể thay đổi. Dẫu sao, với Aomame, đây là chuyện đáng mừng. Ở hoàn cảnh của nàng bây giờ nếu có ham muốn cũng không thể tìm được đâu ra. Nàng cũng mừng rằng đã hàng tháng nay nàng không có kinh nữa. Kỳ kinh nguyệt của nàng chưa bao giờ nặng nề, nhưng dù sao nàng cũng có cảm giác như thể trút được gánh nặng đã mang trên mình suốt bao năm tháng. Ít nhất cũng bớt đi một chuyện cần phải nghĩ.

Trong ba tháng, tóc nàng đã dài ra nhiều. Hồi tháng Chín tóc mới chạm vai, giờ đã xuống đến xương bả vai rồi. Hồi nhỏ, mẹ nàng luôn cắt cho nàng kiểu tóc búp bê ngắn củn, còn từ hồi lên trung học, cuộc sống của nàng lại luôn xoay quanh thể dục thể thao, nên Aomame cũng chưa bao giờ để tóc dài. Tuy nàng thấy tóc mình cũng hơi dài thật, nhưng tự cắt thì rất khó, nên đành để mặc thế, chỉ dùng kéo tỉa chỗ tóc lòa xòa trước trán cho gọn lại. Ban ngày nàng búi tóc lên, tối thì buông xõa, sau đó vừa nghe nhạc vừa cầm lược chải tóc một trăm lần. Nếu không dư dả thời gian, nàng không thể nào làm được việc ấy.

Aomame vốn đã không hay trang điểm, nay cả ngày nhốt mình trong phòng thế này, chuyện đó lại càng không cần thiết. Mặc dù vậy, để cuộc sống ít nhiều vẫn duy trì một trình tự nhất định, nàng chăm sóc da rất cẩn thận. Nàng mát xa da với kem và lotion, luôn đắp mặt nạ trước khi đi ngủ. Aomame vốn đã rất khỏe mạnh, chỉ cần để tâm chăm sóc một chút là làn da sẽ trở nên mịn màng trơn bóng. Không, có lẽ là do mang thai. Hồi trước nàng có nghe nói, khi mang thai, da sẽ trở nên đẹp hơn. Tóm lại, khi xõa tóc ngồi ngắm gương mặt mình trước gương, nàng cảm thấy mình đẹp hơn trước. Ít nhất là đã toát lên vẻ trầm tĩnh tự nhiên của người phụ nữ trưởng thành. Đại khái là vậy.

Aomamae chưa bao giờ cảm thấy mình xinh đẹp. Từ nhỏ, nàng chưa một lần được người khác khen là xinh đẹp. Mẹ thì rõ là luôn coi nàng như một đứa bé xấu xí. “Nếu mà con xinh đẹp hơn…” là câu cửa miệng của bà. Ý bà là, giá Aomame xinh hơn một chút, đáng yêu hơn một chút thì chắc chắn đã khuyên dụ được nhiều người gia nhập hội Chứng nhân Jehovah hơn. Vì vậy, từ bé tí, Aomame đã cố tránh không soi gương. Những lúc bắt buộc, nàng mới quáng quàng đứng trước gương, nhanh chóng kiểm tra một lượt cho xong, vậy thôi.

Otsuka Tamaki nói cô thích dung mạo của Aomame. Không xấu chút nào, được lắm mà, cô thường nói như thế. Chẳng sao hết, chỉ cần tự tin là được. Nghe bạn mình nói thế, Aomame rất vui. Aomame khi đó vừa bước vào tuổi dậy thì, những lời nói ấm áp của bạn khiến nàng ổn định và yên tâm hơn nhiều. Nàng thậm chí còn nghĩ, có lẽ mình không xấu như mẹ vẫn phàn nàn cả ngày. Nhưng kể cả Otsuka Tamaki cũng chưa một lần khen nàng xinh đẹp.

Thế nhưng, lần đầu tiên từ cha xinh mẹ đẻ đến giờ, Aomame cảm thấy gương mặt mình không chừng cũng có nét đẹp. Nàng ngồi trước gương lâu hơn mọi lần, quan sát kỹ lưỡng gương mặt mình. Không có chút gì là tự yêu bản thân trong hành động đó. Aomame chỉ như đang quan sát một người khác, xem xét gương mặt phản chiếu trong gương từ các góc độ khác nhau. Nàng trở nên đẹp thật, hay dung mạo không thay đổi gì, chỉ là cảm giác của nàng lúc nhìn nó đã thay đổi thôi? Aomame không xác định được.

Thỉnh thoảng, Aomame lại nhăn mặt trước gương. Gương mặt khi nhăn lại của nàng không khác gì trước đây. Các cơ trên mặt giãn ra theo mọi hướng, gương mặt nàng như thể bị chia năm xẻ bảy. Mọi cảm xúc trên thế gian này đều phun trào ra từ đó. Nó không còn xấu hay đẹp nữa. Từ góc độ này mặt nàng trông như quỷ dạ xoa, từ góc khác thì giống như tên hề, từ một góc khác nữa lại giống như một góc hỗn độn. Khi nàng ngừng nhăn mặt, tựa hồ như gợn sóng trên mặt nước dần dần lắng xuống, các cơ từ từ thả lỏng, khôi phục lại trạng thái ban đầu. Và sau đó, Aomame phát hiện ra một phiên bản mới hơi khác với chính nàng trước đây.

Cậu mỉm cười tự nhiên hơn một chút thì tốt, Otsuka Tamaki thường nói với Aomame như thế. Lúc mỉm cười, nét mặt cậu dịu dàng thế cơ mà, thật tiếc quá. Nhưng trước mặt người khác, Aomame không thể nào cười tự nhiên được. Nếu nàng cố gượng cười thì lại trở thành nụ cười lạnh lùng cứng ngắc, khiến người đối diện thêm căng thẳng và bất an. Ngược lại với nàng, Otsuka Tamaki có thể nở nụ cười tươi tắn một cách hoàn toàn tự nhiên. Ai gặp cô lần đầu đều cảm thấy thân thiết và có thiện cảm với cô ngay. Nhưng cuối cùng, cô lại không thể không tự kết liễu sinh mạng mình trong chán nản và tuyệt vọng, bỏ lại sau lưng Aomame không có khả năng mỉm cười một cách tự nhiên.

Ngày Chủ nhật yên bình. Trước sự mê hoặc của ánh mặt trời ấm áp, rất nhiều người đến sân chơi dành cho trẻ con ở bên kia đường. Bố mẹ cho lũ trẻ chơi đùa trong hố cát hay ngồi bập bênh. Có cả những đứa chơi cầu trượt. Những người cao tuổi ngồi trên ghế băng, ngắm lũ trẻ con chơi đùa không biết chán. Aomame đi ra ban công, ngồi xuống ghế, hờ hững quan sát khung cảnh ấy qua khe hở của tấm mành mành bằng nhựa. Một cảnh tượng thanh bình. Thế giới đang tiến về phía trước một cách thông thuận. Không ai bị uy hiếp tính mạng, không ai đi truy bắt kẻ giết người. Không ai nhét súng lục tự động nạp đầy đạn 9 ly trong quần bò hay giấu trong ngăn kéo tủ quần áo.

Một ngày nào đó mình cũng sẽ trở thành một phần của thế giới tĩnh lặng, bình thường ấy? Aomame tự hỏi. Một ngày nào đó mình cũng có thể dắt thứ bé nhỏ này vào sân chơi, chơi bập bênh, trượt cầu trượt? Có thể sống cuộc đời an nhàn thoải mái, không cần nghĩ đến chuyện giết người khác và bị người khác truy giết? Điều này có thể xảy ra trong những năm 1Q84 này hay không? Hay nó chỉ tồn tại trong một thế giới nào đó khác? Quan trọng nhất là, lúc đó Tengo có ở bên cạnh mình hay không?

Aomame không quan sát công viên nữa, nàng quay vào, đóng cửa kính lại, kéo rèm cửa xuống. Không nghe thấy tiếng cười đùa của lũ trẻ con nữa. Một nỗi buồn thoang thoảng phủ lấy trái tim nàng. Nàng chỉ có một mình lẻ loi, bị nhốt ở một nơi khóa chặt từ bên trong. Từ nay không quan sát sân chơi vào ban ngày nữa, Aomame nghĩ. Tengo sẽ không đến công viên vào ban ngày. Thứ anh muốn tìm là hình ảnh rõ nét của hai mặt trăng.

Sau khi ăn bữa tối và rửa bát, Aomame mặc áo ấm đi ra ban công. Nàng đắp chăn lên đùi, ngả người xuống ghế. Tối nay không có gió. Những đám mây thuộc kiểu mà các họa sĩ màu nước hẳn sẽ thích lững lờ trôi trên bầu trời, tựa như nét mẫu để kiểm tra độ tinh tế nơi nét cọ của người họa sĩ. Mặt trăng lớn tròn chừng hai phần ba không bị mây che khuất, tuôn ánh sáng xuống mặt đất. Lúc này, từ vị trí đang ngồi Aomame không nhìn thấy mặt trăng thứ hai, nó bị chắn phía sau một tòa nhà. Nhưng Aomame biết, nó ở đó. Nàng cảm nhận được sự tồn tại của nó. Không bao lâu nữa, nó sẽ lại xuất hiện trước mắt nàng.

Từ lúc ẩn trốn trong căn hộ này, Aomame đã tập được cách đẩy suy nghĩ ra khỏi đầu mình nếu muốn. Đặc biệt là những lúc ngồi ngoài ban công ngóng nhìn sân chơi đối diện, nàng có thể dễ dàng khiến tâm trí mình trống rỗng. Mắt nàng chăm chú không ngơi nghỉ giám sát sân chơi, đặc biệt là chỗ cầu trượt, nhưng trong đầu không nghĩ ngợi gì. Không, có lẽ là ý thức đang nghĩ gì đó, nhưng đã bị dìm xuống bên dưới mặt nước rồi. Nàng không biết ý thức của mình đang làm gì bên dưới ấy. Nhưng rồi có cái gì đó định kỳ trồi lên. Giống như rùa biển và cá heo, cứ đến giờ là phải trồi lên mặt nước để thở. Những lúc như thế, nàng sẽ biết trước đó mình nghĩ gì. Không lâu sau, ý thức của nàng, với hai buồng phổi đầy ắp dưỡng khí tươi mới, lại chìm xuống nước mất tăm, và Aomame lại không nghĩ ngợi gì. Nàng biến thành một thiết bị giám sát bọc trong kén tằm mềm mại, hướng ánh mắt không gợn chút tạp niệm về phía cái cầu trượt.

Nàng nhìn sân chơi, nhưng đồng thời cũng không nhìn gì cả. Chỉ cần có sự vật mới xuất hiện trong tầm quan sát, ý thức của nàng sẽ lập tức phản ứng. Nhưng lúc này không có gì xảy ra hết. Không có gió. Những nhánh cây sồi đen sì như đầu kim thăm dò vươn khắp bầu trời cũng không nhúc nhích. Thế giới đã hoàn toàn dừng lại. Nàng nhìn đồng hồ. Mới hơn tám giờ. Hôm nay rất có thể lại không thu được kết quả gì, cũng như mọi ngày. Một tối cuối tuần tĩnh mịch tột cùng.

Thế giới kết thúc trạng thái đứng yên ấy vào lúc tám giờ hai mươi ba phút.

Nàng chợt nhận ra trên cầu trượt có một người đàn ông. Người ấy ngồi đó, ngước nhìn một góc bầu trời. Tim Aomame chợt thắt lại, thu nhỏ chỉ còn bằng nắm đấm của đứa trẻ con. Nó giữ nguyên trạng thái thu nhỏ ấy một hồi lâu, khiến nàng lo không biết liệu nó có vĩnh viễn ngừng đập không. Sau đó mới lại phình lên, trở về kích cỡ bình thường, bắt đầu đập trở lại. Phát ra một tiếng động khô khốc, nó bơm luồng máu mới đi khắp cơ thể với một lực điên cuồng. Ý thức của Aomame cũng cấp tốc trồi lên mặt nước, rũ mình, vươn thẳng, sẵn sàng hành động.

Tengo! Aomame nghĩ theo bản năng.

Nhưng khi tầm nhìn ổn định lại, nàng hiểu ra đó không phải Tengo. Người kia lùn như một đứa trẻ, với cái đầu to tướng vuông vức, đội mũ len. Cái mũ cũng theo hình dạng cái đầu mà trở nên quái đản. Y quấn một chiếc khăn màu xanh lục quanh cổ, mặc áo khoác xanh sẫm. Chiếc khăn quá dài, phần bụng áo khoác gồ lên, cúc áo cơ hồ sắp bật tung ra. Aomame biết đây chính là “đứa trẻ” mà tối qua nàng thấy đang đi ra khỏi sân chơi. Thực ra y không phải trẻ con, mà là người đàn ông trưởng thành, có lẽ gần đến tuổi trung niên. Dáng y vừa lùn vừa béo, tay chân ngắn ngủn, cái đầu to đến dị thường, hình thù kỳ quặc.

Aomame đột nhiên nhớ đến gã “búp bê đầu to” mà Tamaru nói đến trong điện thoại. Cái kẻ đã lởn vởn quanh biệt thự ở Azabu, hỏi dò tình hình của trung tâm bảo trợ. Người đàn ông trên cầu trượt kia có vẻ ngoài vừa hay giống hệt như Tamaru miêu tả trong điện thoại tối hôm trước. Thằng cha đáng sợ này sau đó vẫn tiếp tục kiên trì điều tra, và đã mon men đến gần nàng. Phải đi lấy súng! Sao lại thế được? Đúng tối hôm nay thì lại để súng trong phòng ngủ quên không mang theo. Nhưng nàng hít thở thật sâu, để cho sự hỗn loạn trong lòng lắng xuống, thần kinh bình tĩnh trở lại. Không, không cần phải cuống lên. Vẫn chưa đến lúc cần đến súng.

Xét cho cùng, không phải y đang quan sát khu chung cư Aomame đang ở. Y ngồi trên đỉnh cầu trượt, tư thế giống hệt như Tengo, ngẩng nhìn một góc trời, như đang chìm dần trong suy tư. Y ngồi bất động một lúc lâu, dường như đã quên mất phải làm sao để cử động cơ thể, hoàn toàn không hề chú ý đến căn hộ của Aomame. Aomame lấy làm nghi hoặc. Rốt cuộc là sao vậy? Thằng cha này đến đây để truy lùng mình. Có lẽ hắn là người của giáo đoàn, rõ ràng là một kẻ truy lùng rất cừ khôi. Hắn có thể truy từ biệt thự Cây Liễu ở Azabu đến tận đây mà. Nhưng lúc này hắn lại ngồi ngước nhìn bầu trời đêm tựa như quên hết mọi thứ khác, không cảnh giác, không ẩn giấu.

Aomame rón rén đứng lên, hé cửa kính ra một chút, lách vào trong nhà, ngồi xuống trước điện thoại. Sau đó, nàng giơ ngón tay run run bắt đầu bấm nút. Nàng cần báo chuyện này với Tamaru. Búp bê đầu to lúc này đang ở một nơi có thể nhìn thấy từ căn hộ của nàng, ở trên cái cầu trượt trong sân chơi dành cho trẻ con ở bên kia đường. Tamaru sẽ quyết định cần phải làm gì, và nhất định sẽ xử lý một cách thỏa đáng. Nhưng sau khi bấm bốn số đầu tiên, ngón tay Aomame ngừng lại. Ống nghe nắm chặt trên tay, nàng cắn môi.

Vẫn còn quá sớm, Aomame nghĩ. Vẫn còn quá nhiều điều chưa biết về gã đàn ông này. Nếu Tamaru coi hắn là một nhân tố nguy hiểm rồi xử lý gọn ghẽ, thì những điều chưa biết sẽ mãi mãi là những điều chưa biết. Nghĩ kỹ lại, thằng cha này lập lại y hệt hành động của Tengo hôm trước. Cùng một cầu trượt, cùng một tư thế, cùng một góc độ trên bầu trời. Giống như hắn đang tái hiện hành vi của Tengo vậy. Hắn ta chắc chắn cũng đã trông thấy hai mặt trăng kia rồi. Aomame hiểu ra. Nếu vậy, thằng cha này chắc chắn có quan hệ gì đó với Tengo.

Và có thể hắn còn chưa phát hiện ra mình đang lẩn trốn trong khu chung cư này, nên mới không đề phòng gì mà xây lưng lại phía này. Càng nghĩ, Aomame càng thấy giả định này có sức thuyết phục. Nếu là thế, chỉ cần biết được hành tung của y, có lẽ mình sẽ tìm được Tengo. Vì thằng cha này sẽ dẫn đường cho mình. Nghĩ tới đây, nhịp tim nàng liền trở nên kiên định hơn, nhanh hơn. Nàng đặt ống nghe xuống.

Sau này hẵng báo cho Tamaru¸ nàng hạ quyết tâm. Trước đó nàng còn việc phải làm. Tất nhiên là nguy hiểm - dẫu sao cũng là kẻ bị truy lùng bám đuôi theo kẻ truy lùng. Huống hồ đối phương chắc chắn là chuyên gia về những món này. Dẫu vậy, Aomame không thể bỏ qua đầu mối quan trọng như vậy được. Có lẽ đây là cơ hội cuối cùng của mình. Mà thằng cha kia trông vẻ như đang rơi vào trạng thái ngơ ngẩn, ít nhất là trong lúc này.

Nàng rảo nhanh chân vào phòng ngủ, kéo ngăn kéo tủ quần áo, lấy khẩu Heckler & Koch ra, mở chốt an toàn, đẩy đạn lên nòng làm phát ra âm thanh khô khốc, rồi khóa chốt lại. Nàng nhét khẩu súng vào sau lưng quần bò, quay lại ban công. Búp bê đầu to vẫn giữ nguyên tư thế ấy ngước nhìn bầu trời. Cái đầu to tướng quái dị này của y không nhúc nhích. Dường như y đã hoàn toàn bị thứ ở góc bầu trời kia hút mất hồn phách. Aomame hiểu được tâm trạng ấy. Đó đích thực là một quang cảnh hút hồn người nhìn thấy nó.

Aomame quay vào trong nhà, mặc áo khoác lông vũ, đội mũ bóng chày, đeo chiếc kính không độ viền đen kiểu dáng đơn giản lên. Chỉ như vậy thôi, ấn tượng về gương mặt nàng đã khác hẳn. Nàng quấn chiếc khăn màu xám quanh cổ, nhét ví tiền và chìa khóa vào túi áo, đi xuống cầu thang, bước ra cửa chung cư. Đế giày thể thao của Aomame lặng lẽ giẫm lên mặt đường rải nhựa. Đã lâu lắm rồi nàng không thấy dưới chân mình vững chãi và chắc chắn như thế, cảm giác ấy cổ vũ nàng dấn bước.

Aomame vừa đi vừa kiểm tra cho chắc Búp bê đầu to vẫn đang ở chỗ đó. Sau khi mặt trời lặn, nhiệt độ đã giảm hẳn xuống nhưng vẫn không có gió. Có thể nói trời lạnh một cách dễ chịu. Aomame thở ra một làn hơi trắng, rón rén bước nhẹ, giả bộ như không có chuyện gì, đi ngang qua phía trước sân chơi. Búp bê đầu to không hề chú ý đến nàng. Ánh mắt y kéo thẳng một đường từ đỉnh cầu trượt lên bầu trời. Từ vị trí của Aomame thì không thể nhìn thấy, nhưng nơi đầu mút ánh mắt của y chắc chắn có hai mặt trăng một lớn một nhỏ. Chắc chắn chúng đang cùng rúc vào gần nhau trên bầu trời lạnh cóng, không một gợn mây kia.

Aomame đi qua sân chơi, đến góc phố đầu tiên thì rẽ phải, vòng ngược trở lại. Sau đó, nàng nấp trong bóng tối, quan sát người đàn ông trên cầu trượt. Khẩu súng lục áp sau lưng nàng nghe lạnh và cứng như cái chết. Nó làm cơn hưng phấn thần kinh của nàng dịu xuống.

Nàng đợi khoảng năm phút. Búp bê đầu to chầm chậm đứng lên, vỗ vỗ bụi bám trên áo khoác, lại ngầng đầu nhìn trời, sau đó chừng như đã hạ quyết tâm, y trèo xuống cầu trượt, đi ra khỏi sân chơi, bước về phía nhà ga. Theo dõi y không phải là việc khó. Buổi tối cuối tuần, trong khu dân cư rất thưa người đi lại, nên dù cách một quãng xa cũng không dễ lạc mất y. Hơn nữa, đối phương không hề nghi ngờ có thể có người đang bám theo mình, nên không hề ngoảnh đầu quan sát phía sau mà cứ đều bước thẳng tiến. Đó là tốc độ bước của người đang mải mê nghĩ ngợi chuyện gì. Đúng là mỉa mai, Aomame nghĩ. Nhược điểm chết người của kẻ theo dõi là ở chỗ hắn không bao giờ nghĩ rằng mình bị theo dõi.

Chỉ thoáng sau, nàng biết Búp bê đầu to không đi về phía ga. Suốt thời gian ở trong căn hộ, Aomame đã xem đi xem lại bản đồ đường phố hai mươi ba quận của Tokyo, ghi nhớ kỹ trong đầu địa hình khu vực quanh nơi nàng ở, để còn biết phương hướng mà xoay xở khi gặp tình thế khẩn cấp. Vì vậy, nàng biết Búp bê đầu to ban đầu đi về phía ga, nhưng giữa đường lại ngoặc sang hướng khác. Nàng còn nhận ra y không quen thuộc khu này lắm. Y dừng lại hai lần ở góc phố, đảo mắt nhìn quanh với vẻ thiếu tự tin, xem lại biển tên phố gắn trên cột điện. Rõ ràng y là người từ nơi khác đến.

Không lâu sau, Búp bê đầu to rảo bước. Aomame đoán y đã quay về khu vực quen thuộc. Quả không sai. Y đi qua trường tiểu học của quận, men theo một con phố không rộng lắm, rồi đi vào một tòa chung cư ba tầng cũ kỹ.

Aomame đợi thêm năm phút sau khi người đàn ông biến mất sau cửa chính tòa nhà. Nàng không muốn đụng đầu gã ở ngay cửa. Phía trên có mái chìa bằng bê tông, một ngọn đèn tròn nhuộm khoảng không gian trước cửa trong ánh sáng vàng vọt. Nàng nhìn khắp nơi nhưng chẳng thấy biển tên của khu chung cư này đâu. Đây có lẽ là một khu nhà vô danh. Đằng nào thì nó xây đã lâu lắm rồi. Nàng ghi nhớ địa chỉ trên cột điện gần đó.

Năm phút trôi qua, Aomame đi về phía cửa chính tòa nhà. Nàng rảo bước đi qua ánh đèn vàng, đẩy cửa. Trong gian sảnh nhỏ không có ai, một không gian trống rỗng, thiếu hơi ấm. Chiếc đén tuýp sắp rụng xuống phát ra những tiếng lẹt xẹt yếu ớt. Không biết từ đâu vẳng ra tiếng ti vi, cả tiếng trẻ con đang nài nỉ mẹ diều gì đó.

Aomame lấy chìa khóa căn hộ của mình trong túi áo lông vũ ra, cầm trên tay đung đưa, để nếu có người bắt gặp thì trông nàng có vẻ là người sống ở đây. Nàng đọc biển tên trên các hòm thư. Có lẽ một trong số đó là tên của Búp bê đầu to. Không thể mong đợi gì nhiều, nhưng cũng đáng để thử một phen. Đây là một tòa nhà nhỏ, người ở không nhiều. Thoáng sau, nàng nhìn thấy trên một hòm thư có đề “Kawana,” thế là trong khoảnh khắc mọi âm thanh tan biến.

Aomame đứng lặng trước hòm thư. Không khí xung quanh trở nên loãng dị thường, nàng không sao hít thở bình thường được nữa. Môi nàng khẽ hé ra, hơi run rẩy. Thời gian cứ vậy trôi. Nàng hiểu rõ đây là hành vi nguy hiểm và ngu xuẩn. Búp bê đầu to ở ngay gần đây, y có thể xuất hiện bất cứ lúc nào. Nhưng nàng không còn sức lực rứt mình khỏi chỗ hòm thư ấy nữa. Tấm biển tên nhỏ xíu đề “Kawana” ấy đã làm tê liệt não nàng, làm đông cứng thân thể nàng.

Tất nhiên không thể nói chắc chắn người họ Kawana này chính là Kawana Tengo. Kawana không phải là một họ phổ biến ở đâu cũng có, nhưng cũng không đến mức hiếm như Aomame. Thế nhưng, nếu đúng như nàng suy đoán, Búp bê đầu to có mối liên hệ nào đấy với Tengo, thì khả năng Kawana này chính là Kawana Tengo rất lớn. Số nhà là 303, vừa khéo lại trùng với số căn hộ nàng đang ở.

Mình nên làm gì bây giờ? Aomame cắn môi. Tâm trí nàng chạy vòng vòng không dứt, không tìm thấy lối thoát. Mình nên làm gì bây giờ? Không thể đứng mãi trước cái hòm thư này được. Định thần lại, Aomame men theo cầu thang xi măng lạnh lẽo lên tầng ba. Mặt sàn tối tăm chi chít những vết nứt li ti ghi dấu những năm tháng đã trôi qua. Đế đôi giày thể thao của nàng phát ra âm thanh kèn kẹt.

Sau đó, Aomame đứng trước cửa căn hộ số 303. Cửa sắt không có gì đặc biệt, nơi ô gắn biển tên có tấm thẻ in chữ “Kawana.” Cũng chỉ có họ. Hai chữ Kanji đó toát lên một vẻ lạnh nhạt và vô cơ lạ lùng. Nhưng đồng thời, chúng cũng hàm chứa một bí ẩn sâu xa. Aomame đứng đó, nghiêng tai lắng nghe, vận dụng mọi giác quan. Nhưng không có âm thanh nào vọng ra từ bên trong cửa, cũng không thể biết trong nhà có sáng đèn hay không. Cạnh cửa có một cái chuông điện.

Aomame hoang mang. Nàng cắn môi ngẫm nghĩ, mình có nên ấn chuông không?

Không khéo đây lại là một cái bẫy được thiết kế công phu. Có lẽ tên Búp bê đầu to kia đang nấp đằng sau cánh cửa, nở nụ cười tàn độc tựa như tên quỷ lùn tà ác trong khu rừng tăm tối, đợi nàng đến. Hắn cố tình lộ mặt trên cầu trượt, dụ mình đến đây hòng tóm gọn. Hắn biết là mình đang tìm Tengo, nên lấy anh ấy ra làm mồi nhử. Một tên bỉ ổi và giảo quyệt, lại nắm được nhược điểm của mình. Đích thị đây là cách duy nhất hắn có thể khiến mình mở cửa từ bên trong.

Aomame kiểm tra xem xung quanh có ai không, rồi rút khẩu súng giắt lưng quần ra, mở chốt an toàn, nhét vào túi áo lông vũ để tiện rút ra bất cứ lúc nào. Tay phải nàng cầm chắc báng súng, ngón trỏ đặt trên cò. Ngón cái của tay trái nàng ấn lên chuông cửa.

Tiếng chuông cửa vang lên trong nhà. Một tiếng kính cong chầm chậm, hoàn toàn không hợp với tiết tấu nhanh gấp của quả tim nàng. Aomame nắm chặt báng súng, đợi cửa mở. Nhưng cửa không mở. Nàng cũng không cảm thấy có người đang nhìn qua lỗ quan sát. Nàng đợi thêm giây lát, rồi ấn chuông lần nữa. Tiếng kính cong lại vang lên. m thanh lớn đến mức gần như khiến tất cả dân cư trong khu Suginami này phải dỏng tai lắng nghe. Tay phải cầm báng súng của Aomame rịn ra một lớp mồ hôi mỏng. Nhưng vẫn không có phản ứng gì.

Giờ tạm thời lánh đi thì hơn, Aomame quyết định. Dù người họ Kawana sống trong căn hộ số 303 này là ai thì anh ta cũng không có nhà. Và trong tòa nhà này có tên Búp bê đầu to bộ dạng chẳng lành kia đang lẩn quất đâu đây. Nấn ná ở đây quá nguy hiểm. Nàng bước nhanh xuống cầu thang, liếc nhìn hòm thư lần nữa, rồi ra khỏi tòa nhà, cúi đầu đi nhanh qua ánh đèn vàng vọt. Ra đến ngoài đường, nàng ngoảnh lại quan sát sau lưng để chắc chắn không có ai theo dõi.

Có nhiều chuyện nàng cần phải nghĩ, và gần như cũng từng ấy chuyện nàng phải đưa ra quyết định. Aomame lần tay vào túi đóng chốt an toàn khẩu súng lại, rồi lách vào một góc khuất, nhét súng vào túi sau quần bò. Không thể hy vọng quá nhiều, Aomame tự cảnh cáo mình. Không thể hy vọng quá nhiều. Người họ Kawana không chừng chính là Tengo, nhưng cũng có thể là không. Một khi đã sinh ra mong đợi, con tim sẽ bắt đầu tự hành động theo ý nó. Ngộ nhỡ hy vọng tan tành, người ta sẽ thất vọng, thất vọng sẽ dẫn đến cảm giác bất lực. Từ đó sẽ xuất hiện kẽ hở, buông lỏng cảnh giác. Đối với mình lúc này, đó là điều tối kỵ.

Không biết Búp bê đầu to kia nắm được bao nhiêu thông tin rồi. Nhưng thực tế là hắn ta đang tiến từng bước một về phía mình, gần đến mức vươn tay là chạm tới. Mình phải cảnh giác cao độ, tuyệt đối không thể buông lỏng. Đối thủ là một tên cực kỳ nguy hiểm, chút sai sót nhỏ cũng có thể phải trả giá bằng tính mạng. Đầu tiên, nhất thiết không được tùy tiện lại gần tòa chung cư cũ kỹ ấy. Chắc chắn hắn ta đang ẩn nấp ở một ngóc ngách trong đó, âm thầm lên kế hoạch tróc nã mình, như con nhện hút máu độc ác đang chăng tơ nơi góc tối.

Về đến nhà, Aomame đã hạ quyết tâm. Con đường nàng nên lựa chọn chỉ có một.

Lúc này nàng ấn số điện thoại của Tamaru một mạch đến số cuối cùng, đợi chuông đổ mười hai lần, rồi gác máy. Sau đó nàng cởi áo ngoài và mũ, cất súng vào ngăn kéo tủ quần áo, uống hai cốc nước. Nàng đổ đầy nước vào ấm, chuẩn bị pha hồng trà, rồi ghé mắt qua khe hở của rèm cửa nhìn sang sân chơi bên kia đường, xác nhận nơi đó không có ai. Aomame quay vào đứng trước gương treo trên bồn rửa mặt, chải đầu. Mười ngón tay nàng vẫn chưa thể hoạt động một cách tự nhiên. Nàng vẫn quá căng thẳng. Lúc nàng đang rót nước sôi vào ấm trà, chuông điện thoại vang lên. Là Tamaru gọi tới.

“Vừa nãy tôi trông thấy Búp bê đầu to,” Aomame nói.

Im lặng.

“Vừa nãy trông thấy, tức là giờ hắn ta không còn ở đó nữa?”

“Đúng,” Aomame nói, “vừa nãy hắn ở trong sân chơi đối diện với khu nhà tôi ở. Giờ thì đã đi rồi.”

“Cô nói vừa nãy là bao lâu rồi?”

“Khoảng bốn mươi phút trước.”

“Tại sao bốn mươi phút trước cô không gọi cho tôi?”

“Tôi phải lập tức bám theo hắn. Thời gian không được dư dật cho lắm.”

Tamaru thở ra như thể đang rít lên. “Cô theo dõi hắn?”

“Tôi không muốn bỏ qua cơ hội này.”

“Tôi đã bảo cô, dù xảy ra chuyện gì cũng không được bước ra khỏi cửa dù chỉ một bước.”

Aomame cẩn thận lựa từ: “Nhưng nguy hiểm đã cận kề, tôi cũng không thể ngồi đó nhìn được. Kể cả có liên lạc với anh, anh cũng không thể lập tức đến nơi. Anh thấy có đúng không?”

Sâu trong cổ họng Tamaru phát ra một âm thanh thấp trầm. “Vì vậy cô đã theo dõi Búp bê đầu to.”

“Hắn ta hình như không hề nghĩ đến chuyện mình sẽ bị người khác theo dõi.”

“Nghề của chuyên gia là giả bộ như thế đấy,” Tamamru nói.

Đúng như Tamaru nói, đó có lẽ là một cái bẫy được sắp xếp khéo léo. Nhưng Aomame không thể thừa nhận điều này với anh ta. “Tất nhiên anh có thể làm được điều đó, nhưng theo tôi thấy, Búp bê đầu to vẫn chưa đạt đến trình độ như anh. Có lẽ hắn khá giỏi, nhưng vẫn còn kém xa anh.”

“Nói không chừng hắn còn có người chi viện.”

“Không đâu. Tên này chắc chắn hoạt động một mình.”

Tamaru ngừng một khoảng ngắn. “Thôi được rồi. Vậy cô đã theo hắn đi đâu?”

Aomame đọc địa chỉ của tòa nhà ấy và tả lại hình dáng bên ngoài cho Tamaru. Nàng không biết tên kia ở phòng nào. Tamaru ghi lại rồi hỏi thêm mấy câu. Aomame cố trả lời càng chính xác càng tốt.

“Lúc cô phát hiện, thằng cha đó đang ở trong sân chơi đối diện với nơi cô ở hả?” Tamaru hỏi.

“Đúng thế.”

“Hắn làm gì ở đó?”

Aomame giải thích, hắn ngồi trên đỉnh cầu trượt, ngước nhìn trời đêm một lúc lâu. Nhưng nàng không đề cập đến chuyện hai mặt trăng.

“Nhìn lên trời?” Tamaru hỏi. m thanh truyền qua ống nghe chứng tỏ tốc độ suy nghĩ của anh ta đã nâng lên một nấc.

“Không phải bầu trời thì là trăng và sao. Tóm lại là những thứ kiểu như vậy.”

“Tự lộ mình trên đỉnh cầu trượt không đề phòng gì.”

“Đúng thế.”

“Cô không cảm thấy kỳ lạ sao?” Tamaru nói, giọng anh ta khô và cứng. Giọng nói ấy khiến nàng nghĩ đến những loài thực vật nhờ vào nước mưa mỗi năm chỉ đổ một ngày mà sống được suốt những ngày còn lại trên sa mạc. “Tên đó muốn dồn cô vào đường cùng, và chỉ còn một bước nữa thôi. Hắn rất lợi hại đấy. Vậy mà hắn lại ngồi trên đỉnh cầu trượt an nhàn nhìn bầu trời đêm đông, không buồn liếc sang phía căn hộ cô ở lấy một lần. Nghe lạ quá.”

“Thì đúng là lạ, tôi cũng nghĩ thế. Nhưng dù thế nào tôi cũng không thể để mặc hắn được.”

Tamaru thở dài. “Nhưng tôi vẫn cảm thấy như thế rất nguy hiểm.”

Aomame không nói gì.

“Cô đi theo dõi hắn rồi có vén ra được chút chân tướng nào hay không?”

“Không.” Aomame trả lời. “Nhưng có một số chuyện khiến tôi lo lắng.”

“Ví dụ như là?”

“Tôi đã kiểm tra các hòm thư ở cửa chính khu nhà ấy, trên tầng ba có một người họ Kawana.”

“Thế thì sao chứ?”

“Anh có biết quyển tiểu thuyết bán chạy tên là Nhộng không khí xuất bản mùa hè năm nay không?”

“Tôi có đọc trên báo. Tác giả Fukada Eriko hình như là con của tín đồ Sakigake, về sau cô ấy biến mất, có người nghi ngờ cô ấy bị giáo đoàn bắt cóc, cảnh sát đã triển khai điều tra. Nhưng sách thì tôi chưa đọc.”

“Fukada Eriko không phải là con của tín đồ bình thường. Cha cô ấy là Lãnh Tụ của Sakigake. Có nghĩa là, cô ấy là con gái của người đàn ông mà chính tay tôi đưa sang thế giới kia. Kawana Tengo là người được tay biên tập thuê viết lại toàn bộ Nhộng không khí. Quyển sách đó thật ra là hai người cùng sáng tác.”

Một khoảng lặng kéo dài, tương đương thời gian để đi tới đầu bên kia gian phòng chật hẹp, cầm từ điển lên tìm kiếm gì đó rồi quay trở lại. Kế đó, Tamaru cất tiếng phá vỡ sự im lặng.

“Cô không có chứng cứ chắc chắn chứng minh người họ Kawana ở trong tòa nhà ấy chính là Kawana Tengo.”

“Hiện giờ thì chưa,” Aomame thừa nhận, “nhưng đặt giả thiết là cùng một người thì toàn bộ câu chuyện sẽ trở nên hợp lý hơn.”

“Những mẫu vụn đúng là khớp nhau thật,” Tamaru nói. “Có điều, làm sao cô biết chuyện Kawana Tengo chính là người viết lại Nhộng không khí? Chuyện này chắc chưa từng được công khai. Nếu bị người đời biết được thì hẳn đã thành một vụ xì căng đan lớn rồi.”

“Tôi nghe Lãnh Tụ chính miệng nói ra. Trước khi chết, ông ta đã nói chuyện này với tôi.”

Giọng Tamaru trở nên lạnh hơn một chút. “Những chuyện này lẽ ra cô nên nói cho tôi biết sớm hơn một chút. Cô không cho là thế sao?”

“Lúc đó tôi không cảm thấy những chuyện này có ý nghĩa gì quan trọng.”

Trầm mặc trong giây lát. Aomame không biết Tamaru đang nghĩ gì. Nhưng nàng hiểu, Tamaru không thích người khác đưa ra những lời biện giải vô vị.

“Thôi bỏ đi.” Một lúc sau Tamaru lại cất tiếng. “Không nói chuyện này nữa. Tóm lại là, cô muốn nói với tôi rằng rất có thể Búp bê đầu to biết chuyện này, vì vậy mới đi giám sát người tên là Kawana Tengo kia, và y muốn từ anh ta mà truy ra nơi cô đang lẩn trốn.”

“Tôi nghĩ là như vậy.”

“Tôi không hiểu,” Tamaru nói, “tại sao Kawana Tengo lại trở thành đầu mối để tìm được cô? Cô và Kawana Tengo không có quan hệ gì cả, trừ chuyện cô đã xử lý cha của Fukada Eriko, còn anh ta là người viết hộ tiểu thuyết của cô ấy.”

“Có quan hệ,” Aomame nói với giọng đều đều.

“Ý cô muốn nói, cô và Kawana Tengo có quan hệ trực tiếp?”

“Tôi và Kawana Tengo trước đây học cùng lớp ở trường tiểu học. Vả lại, cha của đứa bé tôi sắp sinh ra đây có lẽ chính là anh ấy. Nhưng tôi không thể giải thích thêm được. Nói như thế nào nhỉ, đây là chuyện hết sức riêng tư.”

Tiếng bút bi gõ lên mặt bàn vẳng đến qua ống nghe. Ngoài ra, Aomame không nghe thấy âm thanh nào khác.

“Chuyện riêng tư,” Tamaru nói. Giọng anh ta nghe như anh ta đang phát hiện ra một thứ sinh vật lạ kỳ trên đỉnh hòn núi giả sơn trong vườn.

“Tôi rất xin lỗi,” Aomame nói.

“Tôi biết rồi. Đây là chuyện hết sức riêng tư. Tôi cũng không căn vặn thêm nữa,” Tamaru nói. “Vậy thì, cô muốn tôi làm gì đây?”

“Điều đầu tiên tôi muốn biết, người họ Kawana kia có đúng là Kawana Tengo hay không? Giá mà được, tôi rất muốn tự mình xác minh, nhưng tôi mà đến gần khu nhà ấy thì quá nguy hiểm.”

“Còn phải nói,” Tamaru đáp.

“Hắn đã nắm được một phần mối quan hệ giữa cô và bà chủ rồi. Hắn đang cần mẫn kéo những đầu mối cùng loại vào với nhau, bện lại thành một. Đương nhiên chúng ta không thể bỏ qua hắn.”

“Còn một việc tôi muốn nhờ anh,” Aomame nói.

“Cô cứ nói.”

“Nếu người sống trong tòa nhà đó đúng là Kawana Tengo, tôi muốn nhờ anh đừng để anh ấy chịu bất cứ tổn thương nào. Nếu nhất định phải có người bị tổn thương, tôi tình nguyện thay thế cho anh ấy.”

Tamaru trầm mặc giây lát. Lần này nàng không nghe tiếng bút bi gõ xuống mặt bàn nữa. Không nghe thấy gì cả. Anh ta đang suy tư trong một thế giới không có thanh âm.

“Hai việc đầu tiên, đại khái tôi có thể gắng sức thực hiện,” Tamaru nói. “Đó vốn là một phần trong công việc của tôi. Nhưng việc thứ ba thì không thể nói trước. Dính dáng đến nhiều chuyện quá riêng tư, và có quá nhiều thứ tôi không hiểu nổi. Hơn nữa, theo kinh nghiệm của tôi, cùng một lúc xử lý tốt ba việc không phải dễ. Dù thích hay không thích thì cũng phải có thứ tự ưu tiên.”

“Không sao cả. Anh cứ theo thứ tự ưu tiên của mình mà làm. Tôi chỉ hy vọng anh để tâm một điều: chừng nào tôi còn sống, dù xảy ra chuyện gì tôi cũng phải gặp Tengo. Tôi có chuyện cần nói với anh ấy.”

“Tôi sẽ để tâm,” Tamaru nói. “Ý tôi là, chừng nào tâm trí tôi vẫn còn không gian trống.”

“Cám ơn anh,” Aomame nói.

“Những gì cô nói với tôi vừa nãy, tôi cần phải báo cáo lại toàn bộ với bà chủ. Vấn đề quá tế nhị, một mình tôi không quyết định được. Giờ gác máy đã. Cô đừng ra ngoài nữa, khóa chặt cửa lại. Đợi trong phòng. Cô mà ra ngoài thì có thể sẽ phiền phức đấy. Nói không chừng là đã chuốc lấy phiền phức rồi cũng nên.”

“Nhưng tôi cũng nắm được một số thông tin của đối phương.”

“Được rồi,” Tamaru nói như thể nhận thua. “Từ những gì cô nói, có vẻ như cô đã làm rất hoàn mỹ. Điểm này thì tôi thừa nhận. Có điều đừng lơ là cảnh giác. Chúng ta vẫn chưa rõ đối phương đang muốn làm gì. Hơn nữa, dựa trên tình hình mà phán đoán, e rằng hắn vẫn có một tổ chức ở sau lưng. Thứ tôi đưa cô lần trước vẫn còn đấy chứ?”

“Tất nhiên.”

“Thời gian này tốt nhất luôn để nó bên cạnh.”

“Tôi sẽ làm thế.”

Một khoảng lặng ngắn, rồi hai bên gác máy.

Aomame ngâm mình vào bồn tắm màu trắng xả đầy nước nóng, vừa thong thả làm ấm thân thể vừa nghĩ đến Tengo. Có thể chính là Tengo sống trong căn hộ của tòa chung cư ba tầng cũ kỹ ấy, mà cũng có thể không. Nàng nhớ lại cánh cửa sắt lạnh lẽo, cùng với tấm biển tên trên đó, để hai chữ Kanji “Kawana.” Phía sau cánh cửa ấy là một căn nhà như thế nào? Cuộc sống bên trong đó ra sao?

Nàng đặt tay lên hai bầu vú trong làn nước, chầm chậm xoa bóp. đầu v* không giống như mọi ngày, trở nên to và cứng hơn, và mẫn cảm hơn. Đôi tay này mà là của Tengo thì tốt biết mấy, Aomame nghĩ. Nàng hình dung ra đôi bàn tay anh, to lớn, ấm áp. Nhất định vừa mạnh mẽ vừa dịu dàng. Hai bầu vú của nàng được bao bọc trong đôi bàn tay anh hẳn sẽ tìm thấy niềm vui và sự bình yên sâu sắc. Sau đó, Aomame nhận ra bầu vú của mình đã lớn hơn lúc trước một chút. Đây không phải là ảo giác. Đích thực là đã phình ra, đường nét mềm mại hơn hẳn. Có lẽ do mang thai. Không, có lẽ liên quan đến cái thai. Vú mình chỉ trở nên to hơn mà thôi. Một khâu trong quá trình thay đổi diện mạo của mình.

Nàng đặt tay lên bụng. Chỗ gồ lên vẫn chưa nhìn rõ lắm. Và không hiểu tại sao, nàng vẫn không bị nghén. Nhưng trong này có một thứ bé nhỏ. Nàng biết điều đó. Aomame nghĩ, có thể nào thứ mà bọn họ sống chết theo đuổi kia không phải là tính mạng của mình mà là thứ bé nhỏ này? Có thể nào để trả thù cho Lãnh Tụ, bọn họ muốn cả mình lẫn nó? Ý nghĩ này khiến toàn thân Aomame run lên. Dù thế nào mình cũng phải gặp được Tengo. Quyết tâm của Aomame trở nên kiên định gấp đôi. Nàng và anh phải đồng tâm hiệp lực bảo vệ thứ bé nhỏ này. Trong cuộc đời, nàng đã bị cướp đoạt quá nhiều thứ quý giá rồi, nhưng thứ bé nhỏ này thì nàng không thể để mất vào tay ai. Tuyệt đối không.

Sau khi lên giường, nàng đọc sách một lúc. Nhưng cơn buồn ngủ mãi không chịu đến. Nàng gập sách lại, hơi cong người lại để bảo vệ phần bụng, mặt áp lên gối, nghĩ về vầng trăng mùa đông lơ lửng giữa bầu trời phía trên sân chơi, và mặt trăng nhỏ màu xanh ở bên cạnh nó. Mẫu thể và tử thể. Ánh sáng của hai mặt trăng hòa trộn vào nhau, vuốt ve những cành trụi lá của cây sồi. Lúc này Tamaru chắc chắn đang nghĩ đối sách để giải quyết vụ việc. Bộ óc anh ta đang chuyển động với tốc độ cao. Aomame hình dung ra anh ta đang nhíu chặt mày, gõ gõ bút bi lên mặt bàn lách ca lách cách. Không lâu sau, tựa như được tiết tấu đơn điệu kéo dài vô tận ấy dẫn lối, giấc ngủ mềm mại dịu dàng bao bọc lấy nàng,
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 21: Tengo


Nơi nào đó trong đầu

Chuông điện thoại reo. Đồng hồ báo thức chỉ hai giờ bốn phút. Hai giờ bốn phút sáng sớm ngày thứ Hai. Xung quanh tối đen như mực, Tengo đang chìm trong giấc ngủ say. Một giấc ngủ yên bình, không mộng mị.

Thoạt nhiên anh nghĩ đến Fukaeri. Ngoài cô ra, chắc không ai lại gọi điện đến vào giờ này. Hoặc có thể của Komatsu. Anh ta khó mà được coi là người tuân thủ quy tắc thông thường về mặt giờ giấc. Nhưng cách chuông điện thoại reo này không giống như của Komatsu, mà là tiếng chuông dồn dập bức bách, mang tính sự vụ. Huống hồ, anh ta vừa mới gặp Komatsu chỉ vài tiếng đồng hồ trước đó.

Có một cách là cứ vùi đầu ngủ tiếp, mặc kệ cuộc gọi. Thật ra Tengo muốn làm vậy hơn. Nhưng tiếng chuông điện thoại tựa như muốn nghiền nát mọi lựa chọn trên thế gian này. Dường như nó sẽ có thể đổ đến khi trời sáng. Anh leo xuống giường, vấp ống chân vào cái gì đó, lần dò tới chỗ điện thoại, cầm ống nghe lên.

“A lô,” Tengo nói bằng giọng lè nhè ngái ngủ. Thứ đang ở trong đầu anh dường như không phải não mà là rau xà lách đông lạnh. Một số người không biết là không được để rau xà lách đông lạnh. Một khi đã đông lại rồi, khi rã đông sẽ mất đi cảm giác giòn rụm trong miệng. Mà cảm giác này lại chính là thứ tuyệt vời nhất của món rau xà lách.

Khi áp ống nghe vào tai, anh nghe thấy tiếng gió thổi. Một cơn gió mát lùa qua khe núi hẹp, khiến đàn hưu xinh đẹp đang cúi mình uống dòng nước trong veo hơi dựng lông lên. Nhưng thực ra đó không phải tiếng gió, mà chỉ là tiếng thở của người bị máy móc khuếch đại lên.

“A lô,” Tengo lặp lại. Có thể là một trò đùa, cũng có thể đường dây điện thoại có vấn đề.

“A lô,” một giọng nói cất lên. Một giọng nữ không quen thuộc với anh. Không phải Fukaeri, cũng không phải người tình hơn tuổi.

“A lô,” Tengo nói, “tôi là Kawana.”

“Anh Tengo,” người kia nói. Rốt cuộc cũng bắt đầu đối thoại rồi, nhưng Tengo vẫn chưa biết đối phương là ai.

“Cho hỏi ai đấy ạ?”

“Adachi Kumi,” đối phương trả lời.

“À, là cô à,” Tengo nói. Là cô y tá trẻ Adachi Kumi ở trong căn hộ có thể nghe thấy tiếng cú mèo kêu. “Có chuyện gì vậy?”

“Anh đang ngủ?”

“Ừm,” Tengo trả lời, “còn cô?”

Một câu hỏi vô nghĩa. Người đang ngủ đương nhiên không thể nào gọi điện thoại. Sao lại hỏi một câu ngu xuẩn như vậy nhỉ? Nhất định là mớ rau xà lách đông lạnh trong đầu mình đang giở trò rồi, Tengo thầm nghĩ.

“Em đang trực,” cô trả lời, sau đó đằng hắng một tiếng, “ông Kawana vừa qua đời rồi.”

“Ông Kawana qua đời rồi,” Tengo không hiểu gì, lặp lại một cách máy móc. Chẳng lẽ có người đang báo với anh rằng anh đã chết?

“Cha anh Tengo vừa mới trút hơi thở cuối cùng,” Adachi Kumi đổi cách diễn đạt khác.

Tengo chuyển ống nghe từ tay phải sang tay trái chẳng để làm gì cả. “Trút hơi thở cuối cùng,” anh lặp lại.

“Lúc hơn một giờ, em đang ngủ lơ mơ trong phòng ngủ thì tiếng chuông gọi vang lên. Đấy là chuông trong phòng cha anh. Cha anh vẫn luôn ở trong trạng thái hôn mê, không thể nào tự ấn chuông được. Em lấy làm lạ, nhưng vẫn lập tức chạy sang. Nhưng lúc em sang đến nơi thì ông ấy đã ngừng thở rồi, cũng không còn mạch đập nữa. Em vội đánh thức bác sĩ trực, bọn em đã cố gắng cấp cứu, nhưng không có tác dụng.”

“Nói vậy là bố tôi đã ấn chuông?”

“Chắc vậy. Vì làm gì có người nào khác ấn chuông đâu.”

“Nguyên nhân cái chết là gì?” Tengo hỏi.

“Em không nói chắc được. Nhưng hình như là không đau đớn. Thần thái ông ấy bình thản lắm. Biết nói thế nào nhỉ, giống như mùa thu sắp qua, rõ ràng không có cơn gió nào, nhưng một chiếc lá lại rơi xuống, cảm giác của em là như thế đấy. Nói vậy có lẽ không được thích đáng lắm.”

“Không có gì là không thích đáng cả,” Tengo nói, “tôi thấy nói vậy cũng được.”

“Anh Tengo, hôm nay anh có đến được không?”

“Tôi nghĩ là được.” Thứ Hai này lớp của anh ở trường dự bị sẽ bắt đầu lại, nhưng so với việc cha anh qua đời, chuyện này không còn quan trọng nữa.

“Tôi lên chuyến tàu nhanh đầu tiên tới đó. Chắc sẽ đến nơi trước mười giờ.”

“Vâng, sẽ phải thực hiện rất nhiều thủ tục đấy.”

“Thủ tục,” Tengo lặp lại, “có cần chuẩn bị trước thứ gì không?”

“Anh là người thân duy nhất của ông Kawana phải không ạ?”

“Đại khái là vậy.”

“Vậy, anh mang theo con dấu chính thức của anh nhé, có khi phải dùng đến. Ngoài ra, anh còn giữ bản đăng kí con dấu không?”

“Hình như có một bản sao.”

“Vậy anh cũng mang luôn đi, phòng khi cần đến. Ngoài ra, em nghĩ không cần gì nữa đâu. Cha anh hình như đã chuẩn bị cả rồi.”

“Chuẩn bị cả rồi?”

“Vâng. Lúc hãy còn tỉnh táo ông ấy đã chuẩn bị sẵn mọi thứ, chi phí cho tang lễ này, quần áo lúc mặc niệm này, thậm chí cả nơi để di cốt nữa. Ông ấy sắp xếp đâu ra đấy, chắc có thể nói là dũng cảm nhìn thẳng vào thực tại.”

“Ông ấy là người như vậy đó,” Tengo dùng đầu ngón tay day day huyệt Thái dương, nói.

“Bảy giờ sáng em tan ca, về nhà đi ngủ. Chị Tamura và chị Omura sáng sớm sẽ đi làm, hai chị ấy sẽ giải thích đầu đuôi với anh.”

Tamura là cô y tá trung niên đeo kính, Omura là cô gài bút bi lên búi tóc.

“Cảm ơn cô đã chăm sóc bố tôi,” Tengo nói.

“Anh khách khí quá,” Adachi Kumi nói. Đoạn, như sực nhớ ra điều gì đó, cô trang trọng bổ sung thêm một câu: “Xin hãy kìm nén đau thương.”

“Cảm ơn cô đã gọi điện thông báo,” Tengo trả lời.

Tengo biết mình không thể ngủ lại nữa, bèn đun nước pha cà phê uống. Sau đó, đầu óc anh ít nhiều cũng tỉnh táo phần nào. Thấy hơi đói, anh liền lấy cà chua và pho mát sẵn có làm bánh sandwhich ăn. Như là ăn trong bóng tối, dĩ nhiên có cảm giác cho thức ăn vào miệng, nhưng vị thì nhạt như nhai sáp nến. Sau đó, anh lấy bảng giờ tàu ra, kiểm tra lại thời gian xuất phát của chuyến tàu nhanh đi Tateyama. Hai ngày trước, trưa hôm thứ Bảy anh vừa từ thành phố mèo trở về, giờ phải quay trở lại đó nữa rồi. Nhưng lần này có lẽ anh chỉ ở lại một hai ngày là xong việc.

Lúc kim đồng hồ chỉ sang bốn giờ, Tengo rửa mặt, cạo râu trong nhà tắm. Anh định dùng lược chải cho phẳng mái tóc rối bù dựng đứng, nhưng không thành công lắm, cũng như mọi lần. Mặc xác nó vậy, đến nơi là sẽ tự xẹp xuống thôi.

Tin cha qua đời không làm Tengo quá xúc động. Anh đã ở bên người cha hôn mê bất tỉnh ấy hai tuần. Lúc đó cha anh dường như đã chấp nhận sự thật rằng ông đang đi về phía cái chết. Đến giờ các bác sĩ vẫn chưa thể xác định được nguyên nhân khiến ông hôn mê. Nhưng Tengo thì hiểu. Cha anh đã tự quyết định ông cần phải chết, hoặc có thể nói ông đã buông bỏ ý chí để tiếp tục sống. Mượn cách biểu đạt của Adachi Kumi, ông đã tắt đi ngọn đèn ý thức, đóng cửa mọi giác quan, chỉ chờ đợi giây phút giao mùa sắp đến, “như một chiếc lá.”

Tengo bắt taxi ở ga Chikura, mười rưỡi sáng thì đến viện điều dưỡng hai bên bờ biển. Giống như ngày Chủ nhật, hôm nay là một ngày đầu đông bình lặng. Ánh mặt trời mang theo hơi ấm tựa như đang ủy lạo bãi cỏ sắp sửa khô héo trong sân vườn, một con mèo hoa mà anh chưa từng nhìn thấy lần nào nằm ở đó vừa sưởi nắng vừa thong thả chăm chút liếm đuôi. Y tá Tamura và y tá Omura đón anh ở cổng. Hai người lần lượt nhẹ nhàng an ủi Tengo, và anh cảm ơn họ.

Thi thể cha anh được đặt trong một gian phòng không lấy gì làm nổi bật ở một góc không lấy gì làm nổi bật của viện điều dưỡng. Y tá Tamura đi trước dẫn đường. Cha anh nằm ngửa trên chiếc giường có bánh xe, đắp tấm vải trắng. Đây là một gian phòng hình vuông không có cửa sổ, ánh đèn sáng trắng trên trần nhà hắt xuống làm bức tường trắng lại càng trắng hơn. Trên chiếc tủ cao ngang hông người đặt một bình hoa bằng thủy tinh, cắm ba bông cúc, chắc là mới cắm sáng nay. Trên tường treo một chiếc đồng hồ hình tròn, một chiếc đồng hồ cũ kỹ bụi bặm, nhưng chỉ đúng giờ. Có lẽ, sứ mệnh của nó là làm chứng hay gì đó tương tự. Ngoài ra, trong phòng không có đồ đạc hay vật trang trí nào khác. Hẳn là có rất nhiều người chết già từng đi qua gian phòng giản dị này. Lẳng lặng đi vào, rồi lại âm thầm đi ra. Gian phòng này tuy là một nơi chỉ mang tính thủ tục nhưng thấp thoáng bầu không khí trang nghiêm, tựa như đang truyền đạt một sự việc trọng đại nào đó.

Gương mặt cha anh không thay đổi nhiều so với lúc còn sống. Kể cả khi mặt đối mặt với ông ở khoảng cách gần như vậy, anh cũng gần như không có cảm giác rằng người này đã qua đời. Sắc mặt không tệ lắm, chắc đã có người trang điểm cho ông cẩn thận, dưới cằm và trên miệng trơn láng khác thường. Không có nhiều sự khác biệt giữa lúc ông mất đi ý thức nằm hôn mê và lúc ông đã qua đời.

Chỉ là không còn phải nối ống bổ sung dinh dưỡng và xử lý việc bài tiết mà thôi. Có điều, nếu cứ để mặc ông như vậy, nội trong vài ngày xác sẽ thối rữa ra, và rồi sẽ có sự khác biệt to lớn giữa sống và chết. Tất nhiên, trước lúc đó, thi thể sẽ được đưa đi hỏa táng.

Vị bác sĩ mà trước đây Tengo từng trao đổi mấy lần đi tới, trước tỏ ý chia buồn, sau đó giải thích từ đầu đến cuối cha anh đã qua đời ra sao. Tuy ông ta rất tử tế, và tốn khá nhiều thời gian để giải thích, nhưng tóm lại có thể nói là “nguyên nhân cái chết không rõ ràng.” Họ đã kiểm tra đi kiểm tra lại song không tìm ra được vấn đề cụ thể nằm ở đâu. Ngược lại, kết quả còn cho thấy sức khỏe của cha Tengo rất tốt, chẳng qua chỉ mắc bệnh đãng trí của người già. Chết già có vẻ như là định nghĩa gần đúng nhất, nhưng cha anh mới hơn sáu mươi, bảo là chết già thì lại hơi trẻ quá.

“Tôi sẽ khai giấy chứng tử cho cha anh với tư cách bác sĩ điều trị chính,” vị bác sĩ tần ngần nói. “Về nguyên nhân cái chết, tôi định viết ‘hôn mê thời gian dài dẫn đến suy tim’, anh xem thế có được không?”

“Ý ông là, nguyên nhân cái chết của cha tôi thực ra không phải là ‘hôn mê thời gian dài dẫn đến suy tim’, phải vậy không?” Tengo hỏi.

Vị bác sĩ thoáng lộ vẻ lúng túng, “Đúng vậy. Đến phút cuối cùng cũng không phát hiện ra tim ông ấy có vấn đề đặc biệt gì.”

“Nhưng các cơ quan khác cũng không có vấn đề gì cả, phải vậy không?”

“Chính xác,” bác sĩ ngập ngừng nói.

“Nhưng trên giấy tờ cần phải viết rõ nguyên nhân chết, đúng vậy chứ?”

“Đúng thế.”

“Tôi không hiểu biết về chuyên môn, nhưng hiện giờ tim ông ấy đã ngừng đập rồi đúng không?”

“Đương nhiên. Tim ngừng đập rồi.”

“Vậy có thể coi là một dạng suy tim không?”

Vị bác sĩ nghĩ ngợi giây lát. “Nếu tim còn đập mới được coi là bình thường, vậy thì đây đích thực là trạng thái suy tim. Anh nói không sai.”

“Vậy thì cứ viết như anh nói là được rồi. Như thế nào ấy nhỉ? ‘hôn mê thời gian dài dẫn đến suy tim’. Không sao cả, tôi không có ý kiến khác.”

Vị bác sĩ như trút được gánh nặng, nói ba mươi phút nữa sẽ chuẩn bị xong giấy chứng tử. Tengo cảm ơn ông ta. Sau khi bác sĩ ra ngoài, cô y tá đeo kính Tamura ở lại với anh.

“Có cần để cha con anh ở riêng với nhau một lúc không?” y tá Tamura hỏi Tengo. Giọng cô nghe rất thủ tục, dường như đang nói cô chỉ theo trình tự công việc, vì vậy mới hỏi như thế.

“Không. Không cần. Cám ơn cô,” Tengo đáp. Dù ở lại đây một mình với người cha đã chết, anh cũng không có chuyện gì đặc biệt để nói với ông. Lúc ông còn sống hai cha con chưa từng nói chuyện với nhau cho tử tế một lần, nên không thể nào sau khi ông qua đời lại đột nhiên nảy ra chuyện muốn nói được.

“Vậy tôi muốn ra chỗ khác để bàn với anh về một số chuyện tiếp sau đây, không có vấn đề gì chứ?” y tá Tamura hỏi.

Không sao cả, Tengo trả lời.

Trước khi ra khỏi phòng, y tá Tamura quay sang phía cái xác chắp tay khấn khứa gì đó. Tengo cũng làm theo. Con người thường thể hiện một sự tôn kính tự nhiên đối với người chết. Dẫu sao, người đó cũng vừa mới hoàn thành cái công trình cá nhân lớn lao của mỗi người, ấy là việc chết. Sau đó, hai người ra khỏi gian phòng nhỏ không có cửa sổ ấy, đi vào căn tin. Ở đó không có ai, ánh mặt trời rực rỡ chiếu qua ô cửa sổ lớn mở ra khu vườn đối diện. Tengo bước vào trong ánh nắng, thở hắt một hơi dài. Nơi này không còn mùi của người chết nữa. Đây là thế giới của người sống, dù nó không đáng tin cậy và không hoàn mỹ đến đâu.

Y tá Tamura rót trà Hoji[1] nóng hổi vào chén bưng tới. Hai người ngồi đối diện nhau, cách một chiếc bàn, hồi lâu không nói gì.

[1] Một loại trà khô của Nhật Bản, lá trà xanh được sao khô cho thành màu nâu đất.

“Đêm nay anh ở đâu?” y tá Tamura hỏi.

“Tôi định ở lại đây, nhưng vẫn chưa đặt nhà trọ.”

“Hay là anh ở lại căn phòng cha anh vẫn nằm? Đằng nào thì giờ cũng chưa có ai ở đó, lại tiết kiệm được tiền nhà trọ nữa. Nếu anh không thấy ngại.”

“Tôi thì không ngại gì,” Tengo thoáng kinh ngạc, “nhưng mà, làm vậy có ổn không?”

“Không sao đâu. Chỉ cần anh cảm thấy được thì chúng tôi không ai có ý kiến gì. Lát nữa tôi bảo họ dọn giường cho anh.”

“Ừm,” Tengo cất tiếng, “tiếp sau đây tôi cần làm những gì?”

“Sau khi nhận giấy chứng tử ở chỗ bác sĩ điều trị chính, anh đến cơ quan hành chính của thành phố lấy giấy phép hỏa táng, sau đó làm thủ tục xóa hộ tịch. Đây là những việc quan trọng nhất trước mắt. Ngoài ra còn thủ tục cắt lương hưu, chuyển tên tài khoản ngân hàng, những chuyện lặt vặt chắc cũng khá nhiều. Mấy chuyện này anh cứ nói chuyện với luật sư.”

“Luật sư?” Tengo kinh ngạc hỏi.

“Ông Kawana, tức là cha anh, đã bàn với luật sư về các thủ tục sau khi ông ấy qua đời. Nói là luật sư cũng chẳng có gì to tát đâu. Viện điều dưỡng của chúng tôi có lắm bệnh nhân cao tuổi, nhiều người trong số đó không đủ tỉnh táo để đứng ra làm các thủ tục pháp lý, cho nên để tránh gặp rắc rối với pháp luật trong các sự vụ như phân chia tài sản, chúng tôi hợp tác với văn phòng luật sư trong vùng để họ cung cấp dịch vụ tư vấn pháp luật. Kiểu như tìm công chứng viên, viết hộ di chúc ấy. Chi phí cũng không tốn là bao.”

“Cha tôi có để lại di chúc à?”

“Chuyện này anh phải nói chuyện với luật sư. Tôi không tiện nói nhiều.”

“Tôi hiểu rồi. Tôi có thể gặp ông ấy sớm không?”

“Đã liên lạc rồi, chúng tôi mời ông ta ba giờ chiều mai đến đây. Anh thấy thế có được không? Nghe có vẻ như chúng tôi đang thúc anh vậy. Nhưng mà chắc anh cũng rất bận rộn, nên tôi đành tự quyết vậy.”

“Cám ơn cô,” Tengo tỏ ý cám ơn sức làm việc hiệu quả của cô. Không hiểu tại sao, những phụ nữ trung niên mà anh biết người nào cũng đều rất giỏi giang.

“Tóm lại là anh đến ủy ban thành phố trước, làm thủ tục xóa hộ tịch rồi lấy giấy phép hỏa táng mang về đây. Không có thứ ấy thì chẳng làm gì được cả,” y tá Tamura nói.

“Vậy bây giờ tôi phải đến Ichikawa à? Hộ tịch của cha tôi chắc vẫn ở Ichikawa. Nhưng thế thì tôi không thể quay trở lại đây trước ba giờ chiều rồi.”

Cô y tá lắc đầu: “Sau khi chuyển vào sống trong viện điều dưỡng, cha anh đã lập tức chuyển chứng minh thư và hộ tịch đến Chikura rồi. Ông ấy bảo làm thế để ngộ nhỡ gặp chuyện gì khẩn cấp thì sẽ tiện hơn.”

“Chu đáo quá,” Tengo thở dài. Cứ như thể ngay từ đầu ông đã biết mình sẽ chết ở đây vậy.

“Đúng thật,” y tá Tamura đồng tình, “Người như vậy không nhiều. Mọi người đều cho rằng nơi này chỉ là chốn tạm thời. Nhưng kỳ thực...” Cô nói nửa chừng rồi im bặt, lặng lẽ đưa hai tay ra đằng trước, như đang ám chỉ nửa câu nói còn lại. “Tóm lại là anh không phải đến Ichikawa.”

Tengo đươc dẫn vào phòng bệnh của cha. Đây là căn phòng đơn mà cha anh đã trải qua mấy tháng cuối đời. Ga giường đã bị lột đi, chăn và gối không còn đó nữa, chỉ còn lại một tấm nệm có hoa văn. Một chiếc đèn kiểu dáng đơn giản đặt trên bàn, trong tủ âm tường chật hẹp treo năm cái mắc áo không. Trên kệ không còn quyển sách nào, mọi vật phẩm cá nhân của ông đều đã được dọn đi. Nói thì nói vậy, nhưng Tengo không nhớ nổi nơi này từng có vật phẩm cá nhân gì. Anh thả túi xách xuống sàn, đảo mắt nhìn quanh.

Trong phòng vẫn còn mùi dược phẩm, thậm chí cả mùi hơi thở của người bệnh vương vấn trong không khí. Tengo mở cửa sổ cho khí trời tươi mới ùa vào. Tấm rèm cửa bệch nắng đung đưa phơ phất trong gió, như vạt váy dài của nàng thiếu nữ đang nô đùa. Nhìn nó Tengo chợt nghĩ, giá mà Aomame ở đây, nắm chặt tay anh và không nói gì cả, thì thật tốt biết mấy.

Anh đi xe buýt đến ủy ban thị trấn Chikura, chìa giấy chứng tử qua ô cửa sổ, nhận lại giấy phép hỏa táng. Sau hai tư tiếng đồng hồ tính từ thời điểm tử vong là có thể hỏa táng. Anh còn nộp đơn xin xóa hộ tịch, rồi cũng nhận được giấy chứng nhận. Làm thủ tục hành chính tuy mất thời gian nhưng nguyên lý thì đơn giản đến khó tin, không phải nghĩ ngợi gì cả. Chẳng khác gì làm thủ tục báo mất xe. Y tá Tamura dùng máy photocopy trong văn phòng sao các giấy tờ Tengo mang từ ủy ban về, mỗi thứ ba bản.

“Hai rưỡi, trước khi luật sư đến, người của một công ty dịch vụ mai táng tên là Zenkosha (Thiện Quang Xã) sẽ đến,” y tá Tamura nói. “Anh hãy giao cho người đó một bản sao giấy phép hỏa táng. Những việc còn lại Zenkosha sẽ lo liệu tất. Lúc còn sống, cha anh đã bàn bạc xong xuôi với họ rồi, công xá cũng gửi họ cả rồi. Anh không cần phải làm bất cứ chuyện gì. Tất nhiên, trừ phi anh Tengo có ý kiến khác.”

“Không có ý kiến,” Tengo trả lời.

Cha anh gần như không để lại vật phẩm cá nhân nào, chỉ có vài bộ quần áo cũ, vài quyển sách.

“Anh có muốn giữ một món gì làm kỷ niệm không? Nói vậy thôi, chứ thật ra chỉ có một cái máy thu âm có chức năng báo thức, một chiếc đồng hồ đeo tay cũ loại hoàn toàn tự động, một cặp kính lão, có mấy món đó thôi,” y tá Tamura hỏi.

“Tôi không cần gì cả, tùy các cô xử lý,” Tengo trả lời.

Đúng hai rưỡi, người của công ty dịch vụ tang lễ mặc vest màu đen lặng lẽ bước vào. Một người đàn ông gầy gò khoảng ngoài năm mươi tuổi. Mười ngón tay ông ta thon dài, cặp mắt rất lớn, cánh mũi có một mụn cơm màu đen. Dường như ông ta ở ngoài nắng quá nhiều nên khắp cả người, từ trên xuống dưới, thậm chí cả vành tai trên cũng cháy nắng đen sì. Không hiểu vì duyên cớ gì, Tengo chưa từng gặp nhân viên công ty dịch vụ tang lễ nào mà béo mập. Người đàn ông giải thích sơ qua với Tengo về trình tự tang lễ. Ông ta nói năng rất lễ độ, chậm rề rề, như đang ám chỉ: chuyện lần này hoàn toàn không cần gấp gáp.

“Lúc sinh tiền cụ nhà có bày tỏ rằng cụ hy vọng làm một tang lễ đơn giản hết mức có thể. Ông ấy nói chỉ cần liệm xác vào một quan tài đơn giản, dùng được là được, sau đó đưa thẳng đi hỏa táng. Những kiểu như dàn tế, tụng kinh, pháp hiệu, hoa tang, điếu văn... đều miễn hết. Ông ấy cũng không cần một ngôi mộ, chỉ cần đưa di cốt vào nơi đặt tro cốt công cộng nào đó gần đây là được. Vì vậy, nếu anh không phản đối...”

Nói tới đây, người đàn ông dừng lại, đôi mắt to và đen nhìn Tengo như đang trút bầu tâm sự.

“Nếu cha tôi đã mong muốn như vậy, dĩ nhiên tôi không có ý kiến gì khác,” Tengo nhìn thẳng vào đôi mắt đó, nói.

Người đàn ông khẽ gật đầu, hơi cụp mắt xuống. “Nếu vậy, hôm nay coi như đêm thủ linh, di thể sẽ đặt ở công ty chúng tôi một đêm. Vì vậy, giờ xin anh cho phép chúng tôi chuyển di thể về công ty. Một giờ chiều ngày mai, chúng tôi sẽ cử hành lễ hỏa táng ở đài hóa thân gần đây, anh xem thế có được không?”

“Tôi không có ý kiến gì.”

“Lúc cử hành nghi thức hỏa táng, anh cũng có mặt chứ?”

“Tôi sẽ có mặt,” Tengo trả lời.

“Cũng có người không muốn đến, về mặt này anh hoàn toàn tự do.”

“Tôi sẽ đến,” Tengo trả lời.

“Tốt lắm,” người kia như thở phào một tiếng khe khẽ, nói: “Thực sự rất xin lỗi khi đề cập đến chuyện này, nhưng văn bản này về nội dung giống hệt như cái tôi đã cho cụ nhà xem lúc cụ còn khỏe. Nếu anh có thể đồng ý...”

Người đàn ông nói đoạn, liền dùng mười ngón tay dài ngoẵng như chân loài côn trùng nào đấy lấy trong tập tài liệu ra một tờ danh mục đưa cho Tengo. Ngay cả người hoàn toàn không biết gì về nghi thức tang lễ như Tengo cũng có thể nhận ra đây là một lễ tang tương đối rẻ tiền. Tất nhiên, anh không có ý kiến gì khác. Anh mượn chiết bút bi, ký tên lên văn bản đó.

Luật sư đến trước ba giờ một chút, ông ta nói chuyện phiếm với người của công ty tổ chức tang lễ một chút. Một cuộc đối thoại dùng toàn các câu từ ngắn gọn giữa chuyên gia với nhau. Tengo không hiểu mấy họ đang nói gì. Hai người hình như có quen biết. Một thành phố nhỏ. Mọi người chắc hẳn đều biết nhau cả.

Gần nhà để xác có một cánh cửa sau không nổi bật, chiếc xe hòm của công ty tang lễ đậu bên ngoài. Ngoài ghế lái, các cửa kính khác toàn bộ đều sơn đen, trên thân xe đen kịt không có chữ hay ký hiệu gì. Người đàn ông gầy gò ở công ty tang lễ và một trợ thủ kiêm lái xe tóc bạc khiêng cha Tengo lên giường có bánh xe, đẩy tới cạnh ô tô. Chiếc xe được thiết kế đặc biệt, nóc cao hơn bình thường, có một đoạn đường ray để có thể đẩy giường vào trong khoang xe. Cửa sau xe sập lại với một âm thanh đầy vẻ hết lòng vì công việc. Người kia lễ độ khom mình chào Tengo, sau đó xe nổ máy chạy đi. Tango và luật sư, cùng y tá Tamura, y tá Omura thảy đều hướng về phía cửa sau chiếc Toyota ấy, chắp tay tỏ lòng thành kính.

Tengo và luật sư ngồi đối diện nhau trong một góc căn tin nói chuyện. Ông ta khoảng trên dưới bốn lăm. Trái ngược hoàn toàn với người ở công ty tổ chức tang lễ, ông ta béo tròn trùng trục, gần như không có cằm. Giờ rõ ràng đang mùa đông, nhưng trán ông ta rịn ra một lớp mồ hôi mỏng. Mùa hè chắc hẳn còn kinh khủng hơn nữa. Bộ vest bằng chất len màu xám bốc ra mùi thuốc diệt gián sặc sụa. Trán ông ta hẹp, bên trên là mái tóc màu đen, dày đến mức quá đáng. Thân thể béo tròn và mái tóc dày lùm xùm hoàn toàn không hợp nhau. Mí mắt ông ta nặng nề phình to, mắt lại rất nhỏ, nhưng nếu nhìn kỹ, có thể thấy sâu bên trong ánh lên vẻ thân thiện.

“Ông cụ đã giao di chúc cho tôi bảo quản. Bảo là di chúc nhưng thật ra không có gì đâu. Hoàn toàn không giống các bản di chúc trong tiểu thuyết trinh thám,” luật sư nói, đằng hắng một tiếng. “So ra thì giống một mảnh giấy nhớ hơn. Tôi sẽ nói miệng nội dung đại khái cho anh trước. Đầu tiên, ông cụ yêu cầu trình tự tổ chức tang lễ của mình. Cụ thể thế nào, tôi nghĩ người của Zenkosha vừa ngồi đây lúc nãy đã nói với anh rồi nhỉ?”

“Tôi đã nghe ông ấy nói sơ qua. Một tang lễ giản tiện.”

“Tốt lắm,” luật sư nói, “đó chính là mong muốn của ông cụ. Cố làm mọi thứ sao cho giản tiện. Chi phí dành cho tang lễ được rút từ các khoản tiết kiệm, chi phí chữa bệnh và các thứ khác thì dùng tiền ký quỹ mà ông cụ đóng một lần từ lúc vào ở trong cơ sở này. Anh không phải trả thêm bất cứ khoản tiền nào nữa.”

“Cha tôi không muốn nợ bất cứ ai, phải vậy không?”

“Đúng vậy. Mọi thứ đều được thanh toán trước rồi. Ngoài ra, tài khoản của ông cụ ở bưu cục Chikura vẫn còn số dư, sẽ do con trai ông ấy tức là anh thừa kế. Cần thực hiện thủ tục đổi tên chủ tài khoản. Lúc đó cần giấy chứng nhận đã xóa hộ tịch của ông cụ, hộ tịch của anh cùng với giấy tờ xác nhận con dấu. Anh hãy mang những thứ ấy trực tiếp đến bưu cục Chikura, có một số giấy tờ liên quan cần anh đích thân điền và ký tên. Những thủ tục này khá tốn thời gian. Anh cũng biết mà, ngân hàng với bưu điện của Nhật Bản đặc biệt bị ám ảnh về quy cách của các loại công văn.”

Luật sư lấy trên túi áo ra một chiếc khăn tay to tướng, lau mồ hôi trên trán.

“Về vấn đề thừa kế tài sản, những gì tôi cần truyền đạt chỉ có vậy thôi. Gọi là tài sản nhưng ngoài món tiền tiết kiệm này ra, những thứ kiểu như bảo hiểm nhân thọ, cổ phiếu, nhà cửa, kim cương, tranh pháo, đồ cổ đều không có. Rất chi là dễ hiểu, hay có thể nói rất chi là tiện lợi.”

Tengo gật đầu. Đây một trăm phần trăm là phong cách của cha anh. Nhưng việc phải thừa kế số tiền dành dụm của cha khiến Tengo cảm thấy buồn bực. Cảm giác giống như phải đón lấy mấy tấm thảm len vừa dày nặng vừa ẩm chất chồng lên nhau vậy. Nếu có thể, anh không muốn nhận. Nhưng trước mặt vị luật sư béo ung ủng đầu tóc rậm rạp trông có vẻ là người tốt này, anh không tiện nói ra.

“Ngoài ra, ông cụ còn trao cho tôi bảo quản một phong bì. Hôm nay tôi mang đến đây, muốn giao lại cho anh.”

Cái phong bì căn phồng màu nâu được dán chặt bằng băng dính. Vị luật sư béo lấy nó từ trong chiếc cặp táp đen ra, đặt lên bàn.

“Ông Kawana giao cho tôi bảo quản khi nói chuyện với tôi lần đầu, từ hồi ông ấy mới chuyển vào chỗ này. Lúc đó, ông Kawana, ừm, còn tỉnh táo. Đôi khi cũng rối loạn, nhưng nhìn chung là không gặp khó khăn gì trong sinh hoạt. Ông ấy bảo tôi, nếu ông ấy qua đời thì hãy giao phong bì này cho người thừa kế theo quy định của pháp luật.”

“Người thừa kế theo quy định của pháp luật?” Tengo hơi ngạc nhiên lặp lại.

“Đúng vậy, người thừa kế theo quy định của pháp luật. Ông cụ không nhắc đến cái tên cụ thể nào. Nhưng người thừa kế theo quy định của pháp luật thì chỉ có mình anh Tengo đây thôi.”

“Theo tôi biết thì chắc là như vậy.”

“Vậy, cái này,” nói đoạn, luật sư chỉ vào phong bì trên mặt bàn, “nên giao lại cho anh là đúng rồi. Có thể phiền anh ký tên vào tờ biên nhận này được không?”

Tengo ký tên vào giấy tờ. Cái phong bì hồ sơ màu nâu để trên mặt bàn kia trông quá thiếu cá tính, hoàn toàn mang tính chất công vụ. Mặt trước và mặt sau đều không viết gì.

“Tôi muốn hỏi chuyện này,” Tengo nói với vị luật sư, “lúc ấy cha tôi không hề nhắc đến tên tôi, tức là Kawana Tengo, lần nào sao? Cũng không nhắc đến từ ‘con trai’?”

Trong lúc ngẫm nghĩ, luật sư lại lấy khăn tay ra lau mồ hôi trên trán, sau đó khẽ lắc đầu. “Không, ông Kawana luôn chỉ dùng từ người thừa kế theo quy định của pháp luật. Ông ấy không dùng bất cứ cách biểu đạt nào khác. Tôi thấy hơi lạ, nên nhớ rất kỹ.”

Tengo trầm ngâm không nói. Luật sư thấy vậy liền an ủi anh:

“Nhưng nói đến người thừa kế theo quy định của pháp luật thì chỉ có mình anh thôi, về điểm này, ừm, bản thân ông Kawana cũng rất rõ. Chỉ có điều, trong quá trình bàn bạc về di chúc ông ấy không nhắc đến tên anh mà thôi. Hay anh còn lo lắng điều gì?”

“Lo lắng thì không,” Tengo nói. “Cha tôi vốn hơi khác người một chút.”

Luật sư dường như đã yên tâm, mỉm cười khe khẽ gật đầu, sau đó đặt bản sao hộ tịch mới xuống trước mặt Tengo. “Vì ông ấy mắc phải chứng bệnh này, nên để đề phòng sai sót trong thủ tục pháp luật, tôi đã mạo muội kiểm tra hộ tịch. Theo như ghi chép, anh Tengo là con một của ông Kawana. Mẹ anh qua đời năm anh một tuổi rưỡi. Sau đó, cha anh không tái hôn, một mình nuôi anh lớn. Cha mẹ và anh chị em của ông cụ đều đã qua đời, vì vậy, anh là người thừa kế được pháp luật quy định duy nhất của ông Kawana.”

Luật sư đứng dậy, nói vài lời chia buồn rồi ra về. Tengo ngồi lại một mình, không nhúc nhích, chăm chú nhìn hồ sơ trên mặt bàn. Cha anh chính là người cha ruột cùng dóng máu với anh, mẹ anh thực sự đã qua đời. Luật sư đã nói vậy. Có lẽ đây chính là sự thật, ít nhất là sự thật theo nghĩa pháp luật. Nhưng anh có cảm giác, chuyện gì càng minh bạch thì lại càng xa rời sự thật. Tại sao vậy?

Tengo trở về phòng của cha mình, ngồi xuống trước bàn, thử tìm cách bóc lớp niêm phong dán rất chắc trên phong bì ra. Bên trong phong bì này có lẽ có chìa khóa để giải đáp bí mật. Nhưng đây không phải việc đơn giản, trong phòng không có kéo, dao hay vật gì khác nên anh đành dùng móng tay bóc từng mẫu băng dính một. Sau một phen vất vả mở được phong bì ra, bên trong lại có mấy phong bì khác nhỏ hơn, cái nào cũng dán kín mít. Một trăm phần trăm là tác phong của cha anh.

Một phong bì đựng năm trăm nghìn yên tiền mặt, đúng năm mươi tờ mười nghìn yên mới cứng, bọc trong mấy lớp giấy mỏng kèm một mảnh giấy ghi chữ “tiền mặt dùng khi khẩn cấp.” Đúng là chữ của cha anh. Chữ rất nhỏ, nét nào nét đó đều rất cẩn thận. Chắc ông muốn nói ngộ nhỡ cần chi trả những khoản ngoài dự kiến thì dùng số tiền này. Ông sợ rằng người thừa kế theo quy định của pháp luật của ông có thể không đủ tiền mặt.

Phong bì dày nhất nhét đầy bài cắt ra từ báo cũ và bằng khen các loại, đều là những thứ liên quan đến Tengo. Giấy khen anh giành được trong cuộc thi toán hồi tiểu học, bài đăng trên báo địa phương. Ảnh những chiếc cúp xếp thành một hàng. Một bảng thành tích ưu tú của Tengo, trông như tác phẩm nghệ thuật, để khen thưởng rằng tất cả các môn anh đều đạt điểm tối đa. Ngoài ra, còn có đủ cả các kỷ lục chứng tỏ anh là một thần đồng. Trong tấm ảnh Tengo mặc đồ judo hồi trung học, anh đang cầm lá cờ thưởng mỉm cười. Nhìn những thứ này, Tengo lấy làm kinh ngạc. Sau khi nghỉ ở đài NHK, cha anh đã dọn ra khỏi căn hộ nhà tập thể của công ty ông vẫn ở bấy lâu, chuyển sang một căn hộ cho thuê trong thành phố Ichikawa, cuối cùng dọn đến viện điều dưỡng ở Chikura này. Ông nhiều lần chuyển nhà một mình, đồ đạc cá nhân hầu như không giữ lại món nào. Hơn nữa, quan hệ cha con họ suốt một thời gian dài rất lạnh nhạt. Dù thế, cha anh lại vô cùng trân quý những di vật huy hoàng từ “thời kỳ thần đồng” của Tengo, đi đâu cũng mang theo.

Một phong bì khác đựng các loại giấy tờ từ thời làm nhân viên thu phí cho đài NHK của cha anh. Một bản ghi về việc ông được biểu dương là người thu tiền đạt thành tích ưu tú của năm. Mấy tấm bằng khen giản dị. Ảnh chụp, hẳn là chụp với đồng nghiệp khi đi du lịch với công ty. Chứng minh thư cũ. Giấy tờ chứng nhận đã chi trả tiền dưỡng lão và bảo hiểm y tế. Ngoài ra còn mấy bảng kê chi tiết thu nhập không hiểu giữ lại để làm gì. Các giấy tờ liên quan về việc trả tiền bồi thường thôi việc... Xét đến chuyện cha anh đã có đến ba mươi mấy năm liên tiếp nhẫn nhục làm việc cho NHK, số tiền ấy quả ít đến giật mình. Gần như không là gì so với thành tựu rực rỡ của Tengo thời tiểu học. Có thể, nhìn từ góc độ xã hội, cuộc đời của cha Tengo đích thực gần như không là gì cả. Nhưng trong mắt anh, nó không phải gần như không là gì cả. Cùng với một quyển sổ tiết kiệm bưu chính, cha Tengo đã để lại một cái bóng nặng nề dày đặc.

Trong các phong bì không có gì về quãng đời của cha anh trước khi gia nhập NHK. Như thể chỉ sau khi trở thành nhân viên thu phí của NHK cuộc đời của ông mới bắt đầu vậy.

Bên trong cái phong bì vừa nhỏ vừa mỏng là một tấm ảnh đen trắng. Chỉ có vậy. Ngoài ra không còn gì khác. Đó là một tấm ảnh cũ chưa phai màu nhưng bị một lớp màng mỏng phủ lên, trông như thể bị ngấm nước. Đây là ảnh chụp cả nhà. Cha, mẹ và đứa con nhỏ, chắc chưa đầy một tuổi. Bà mẹ mặc kimono truyền thống trìu mến ôm đứa con trong lòng, phía sau có thể trông thấy tấm biển của đền thờ Thần Đạo. Nhìn cách ăn mặc, có thể thấy bức ảnh chụp vào mùa đông. Cả nhà đi viếng đền thờ Thần Đạo, có lẽ vào dịp năm mới. Bà mẹ nheo nheo mắt như bị chói, miệng mỉm cười. Người cha mặc áo khoác ngắn màu xám, có vẻ hơi rộng, giữa chân mày hằn hai nếp nhăn khá sâu. Nét mặt ấy dường như đang nói, còn lâu tôi mới tin những lời đường mật đấy nhé. Đứa bé được mẹ ôm trong lòng, dường như đang lấy làm tò mò trước thế giới rộng lớn và lạnh lẽo.

Người cha trẻ tuổi kia nhìn cách nào đi nữa thì cũng chỉ có thể là cha Tengo. Nét mặt hẳn còn rất trẻ, nhưng từ hồi ấy trông ông đã toát lên vẻ già dặn, gầy gò, hõm mắt sâu. Gương mặt của một nông phu nghèo khổ trong một thôn làng nghèo khổ, cố chấp và đa nghi khác thường. Tóc ông cắt rất ngắn, lưng hơi gù. Người này chỉ có thể là cha anh. Mặc dù vậy, đứa bé trong ảnh có lẽ chính là Tengo, và bà mẹ đang ôm nó trong lòng chính là mẹ của anh. Bà cao hơn cha anh một chút, vóc người cân đối. Thoạt nhìn, cha anh khoảng ba lăm tuổi, còn mẹ chỉ khoảng hơn hai lăm.

Đây là lần đầu tiên anh thấy tấm ảnh kiểu này. Tengo chưa từng thấy thứ gì có thể gọi là ảnh gia đình, cũng chưa từng xem ảnh thời bé của chính mình. Cha anh giải thích, vì nhà nghèo nên không mua được máy ảnh, cũng không có cơ hội đi chụp ảnh cả nhà. Tengo tin điều đó. Nhưng cha anh đã nói dối. Cả nhà đã từng chụp ảnh, còn lưu lại nữa. Quần áo của họ không hẳn diêm dúa nhưng cũng không đến nỗi phải xấu hổ trước mặt người khác. Trông cũng không nghèo đến mức không mua được cái máy ảnh. Ảnh này có lẽ được chụp sau khi Tengo ra đời không lâu, tức khoảng từ năm 1954 đến 1955. Anh lật mặt sau ảnh lên xem, nhưng không thấy ghi ngày tháng và nơi chụp.

Tengo tỉ mỉ quan sát gương mặt người phụ nữ có thể là mẹ mình kia. Gương mặt trong ảnh rất nhỏ, hơn nữa còn mờ mờ. Giá có kính lúp thì may ra nhìn rõ hơn một chút. Dù vậy, anh vẫn nhận ra được những nét tổng thể. Gương mặt trái xoan, mũi nhỏ nhắn, cặp môi đầy đặn. Tuy không thể coi là xinh đẹp nhưng khả ái, gây thiện cảm. Ít nhất, so với tướng mạo thô lỗ của cha anh, trông bà cao nhã và thông minh hơn nhiều. Tengo lấy làm vui vì điều này. Tóc người phụ nữ được búi cao gọn ghẽ. Vì bà đang mặc kimono, nên anh không nhìn rõ được vóc dáng thế nào.

Ít nhất, nhìn ngoại hình trong tấm ảnh, hai người xem chừng khó mà được gọi là một cặp vợ chồng xứng đôi. Tuổi tác chênh lệch rất lớn. Anh cố thử tưởng tượng trong đầu quá trình hai người gặp gỡ nhau, phải lòng nhau, kết làm vợ chồng, sinh ra một đứa con, nhưng không tưởng tượng được. Từ bức ảnh này, anh không cảm nhận được điều đó. Vậy, nếu không có sự gắn bó nào về tình cảm đã đưa hai người lại với nhau thì ắt phải có một duyên do nào đấy kết làm chồng vợ. Không, có lẽ thậm chí không có cả duyên do nữa. Cuộc đời chẳng qua chỉ là sự tổng hòa của hàng loạt sự kiện phi lý, thậm chí trong một số trường hợp còn thô bạo nữa.

Sau đó Tengo cố hình dung gương mặt của người phụ nữ bí ẩn xuất hiện trong những cơn mơ hay trong đám sương mù ký ức thuở ấu thơ của mình, xem đó có phải chính là người trong ảnh hay không. Bấy giờ anh mới nhận ra, mình không hề nhớ gương mặt của người đó. Người phụ nữ ấy cởi áo khoác, tháo dây vai váy lót, để một ngưởi đàn ông xa lạ mút nụ hoa, và phát ra những tiếng thở dốc như đang rên rỉ. Anh chỉ nhớ được có thế. Một người đàn ông anh không hề quen biết đang mút vú của mẹ anh. đầu v* lẽ ra phải do anh độc chiếm đã bị kẻ khác cướp đi mất. Đối với một đứa bé, đây có lẽ là một sự uy hiếp vô cùng cấp bách. Mắt anh không sao dịch chuyển lên gương mặt người đàn bà ấy được.

Tengo tạm cất tấm ảnh vào phong bì, ngẫm nghĩ về ý nghĩa của nó. Cha anh đã trân trọng giữ gìn tấm ảnh này đến lúc chết, nhất định là ông rất yêu mẹ. Khi Tengo hiểu chuyện, mẹ anh đã qua đời vì bệnh tật từ lâu. Theo như luật sư điều tra được, Tengo là đứa con duy nhất của người mẹ đã qua đời và người cha làm nhân viên thu phí của đài NHK. Đây là thông tin ghi trong hộ tịch. Nhưng giấy tờ của chính quyền không thể đảm bảo rằng người đàn ông chính là cha đẻ của Tengo.

“Tôi không có con trai,” trước khi rơi vào trạng thái ngủ say, cha Tengo đã nói với anh như thế.

“Vậy thì, con rốt cuộc là gì?” Tengo hỏi.

“Anh chẳng là gì cả.” Đây là câu trả lời ngắn gọn nhưng không còn gì để bàn cãi của cha anh.

Nghe vậy, Tengo đã tin chắc rằng mình và người đàn ông này không có mối quan hệ máu mủ. Anh cảm thấy rốt cuộc mình cũng được giải phóng khỏi gông xiềng nặng nề. Nhưng cùng với thời gian, tính chân thực của những gì cha anh nói khó mà trở nên xác định nổi.

Mình chẳng là gì cả, Tengo thử nói lên thành tiếng.

Sau đấy, anh đột nhiên nhớ ra gương mặt người phụ nữ trẻ trong tấm ảnh cũ có đôi phần tương tự với người tình hơn tuổi của mình. Tên cô là Yasuda Kyoko. Để tự trấn định, Tengo lấy đầu ngón tay ấn lên trán mình một lúc, sau đó lấy tấm ảnh trong phong bì ra lần nữa. Cái mũi nhỏ nhắn, cặp môi đầy đặn, cằm hơi vểnh lên. Kiểu tóc không giống, vì vậy vừa nãy anh mới không để ý nhận ra gương mặt này hơi giống với Yasuda Kyoko. Nhưng mà, điều này có ý nghĩa gì?

Hơn nữa, tại sao cha anh lại giao tấm ảnh này cho anh sau khi chết? Lúc còn sống, ông chưa bao giờ cho Tengo biết thông tin nào dù là nhỏ nhặt nhất về mẹ anh. Thậm chí, ông còn giấu biệt cả sự tồn tại của tấm ảnh này. Cuối cùng, không một lời giải thích, ông lại dúi vào tay Tengo tấm ảnh cũ mờ mịt này. Mục đích của ông là gì? Để cứu đứa con trai này, hay để dẫn đến sự hỗn loạn còn sâu sắc hơn? Tengo chỉ hiểu một điều: cha anh hoàn toàn không có ý định nói rõ nguyên do sâu xa cho anh biết. Lúc sống ông chưa từng, sau khi chết cũng vậy. Nhìn đi, đây có tấm ảnh, giao lại cho anh này. Anh tự mà suy đoán đi. Chắc cha muốn nói với anh như thế.

Tengo nằm ngửa mặt trên tấm đệm trần, nhìn lên trần nhà. Một tấm gỗ dán sơn màu trắng. Phẳng phiu không có vân gỗ cũng không có mẫu gỗ nào, chỉ có mấy đường rãnh nối thẳng như kẻ chỉ. Quang cảnh này chắc là giống với những gì cha anh nhìn thấy từ trong đáy hốc mắt hõm sâu suốt mấy tháng cuối đời. Có lẽ đôi mắt đó không thấy gì cả, nhưng dù sao thì ánh mắt cha anh cũng hướng về chỗ đó, nhìn hay không cũng vậy.

Tengo nhắm mắt lại, tưởng tượng mình nằm đây từ từ trôi về phía cái chết. Nhưng đối với một người đàn ông khỏe mạnh, cái chết hãy còn quá xa ngoài khu vực mà trí tưởng tượng có thể vươn tới. Anh lặng lẽ hít thở, quan sát những bóng nắng hoàng hôn dịch chuyển trên tường. Không nghĩ gì nữa, anh thầm nhủ. Đối với Tengo, để đầu óc trống rỗng không phải chuyện khó. Anh đã quá mệt mỏi, không thể trầm tư gì được nữa. Nếu có thể, anh rất muốn ngủ một lát, nhưng có lẽ vì quá mệt, anh không ngủ được.

Gần sáu giờ, y tá Omura đến, báo với Tengo bữa tối ở căn tin đã sẵn sàng. Tengo không thấy đói. Dù anh đã nói vậy, nhưng cô y tá cao kều ngực to vẫn không nhượng bộ. Ăn một chút thôi cũng được, dù gì anh cũng phải bỏ thứ gì đó vào bụng, cô nói. Gần như là mệnh lệnh. Không cần nói nhiều, cô vốn là chuyên gia trong việc ra lệnh cho người khác giữ gìn sức khỏe. Còn Tengo bản tính vốn không thể kháng cự những mệnh lệnh đầy lý lẽ của người khác, đặc biệt khi đối phương là phụ nữ lớn tuổi hơn mình.

Họ xuống cầu thang đi vào căng tin ở tầng một. Chỉ có Adachi Kumi ngồi đó, không có y tá Tamura. Tengo và Adachi Kumi, y tá Omura ngồi ăn chung một bàn. Anh ăn chút xa lát với rau củ luộc, xúp miso với ngao và hành hoa, sau đó uống trà Hoji nóng.

“Bao giờ thì hỏa táng?” Adachi Kumi hỏi Tengo.

“Một giờ chiều mai,” Tengo trả lời. “Sau khi kết thúc nghi lễ, chắc tôi sẽ về Tokyo luôn. Còn công việc phải làm.”

“Ngoài anh Tengo, lúc hỏa táng còn có ai nữa không?”

“Không có người nào khác. Chắc chỉ có mình tôi thôi.”

“Ưm, vậy em có thể đến không?” Adachi Kumi hỏi.

“Đến tham dự nghi thức hỏa táng bố tôi?” Tengo ngạc nhiên hỏi.

“Đúng. Nói thực lòng, em rất quý bố anh.”

Tengo bất giác đặt đũa xuống, tròn mắt nhìn Adachi Kumi. Cô ấy đang nói về bố mình sao?

“Chẳng hạn ở điểm nào?” Anh hỏi.

“Chính trực, không càm ràm những lời thừa thãi,” cô đáp, “rất giống ông bố đã qua đời của em.”

“Ồ,” Tengo nói.

“Bố em là ngư dân, chưa được năm mươi tuổi đã qua đời rồi.”

“Trên biển à?”

“Không. Chết vì ung thư phổi. Hút thuốc nhiều quá. Chẳng hiểu sao, đám ngư dân người nào cũng hút thuốc như cái ống bể. Khắp người toàn mùi thuốc nồng nặc.”

Tengo ngẫm nghĩ giây lát. “Giả sử bố tôi là ngư dân thì tốt.”

“Tại sao anh nghĩ thế?”

“Tại sao ấy à?” Tengo nói, “chẳng qua là bất chợt nghĩ vậy thôi. So với làm nhân viên thu phí của đài NHK, làm ngư dân không khéo tốt hơn.”

“Với anh Tengo, nếu bố anh là ngư dân thì có lẽ anh sẽ chấp nhận ông hơn, phải không?”

“Chắc là do tôi cảm thấy vậy thì nhiều chuyện có thể sẽ đơn giản hơn một chút.”

Tengo tưởng tượng ra cảnh tượng anh là một đứa nhỏ, ngày nghỉ phải theo cha lên thuyền từ sáng sớm. Gió biển ù ù thổi, bọt sóng Thái Bình Dương bắn tung lên mặt. Tiếng nổ đơn điệu của động cơ chạy dầu. Mùi nồng nặc của lưới đánh cá. Công việc gian khổ kèm với hiểm nguy. Chỉ một sai sót nhỏ thôi là có thể mất mạng. Nhưng so với đi khắp hang cùng ngõ hẻm Ichikawa thu phí nghe nhìn cho đài NHK, cuộc sống như vậy tự nhiên hơn, đầy đủ hơn gấp bội.

“Nghề thu phí cho đài NHK nhất định là vất vả lắm nhỉ?” y tá Omura vừa ăn cá khô vừa hỏi.

“Chắc thế,” Tengo trả lời. Ít nhất đó không phải là công việc anh có thể làm được.

“Nhưng thành tích công việc của cha anh rất xuất sắc đúng không?” Adachi Kumi hỏi.

“Tôi đoán là tương đối xuất sắc,” Tengo nói.

“Anh xem các bằng khen của ông ấy chưa?” Adachi Kumi hỏi.

“À, phải rồi, suýt nữa thì quên việc chính,” y tá Omura đột nhiên đặt đũa xuống, nói. “Tôi quên tiệt mất. Chết thật. Chuyện quan trọng như vậy mà sao tôi lại không nhớ ra chứ. Ừm, hai người ở đây đợi tôi. Có vật này hôm nay dù thế nào cũng phải giao cho anh Tengo.”

Y tá Omura lấy khăn tay lau miệng, đứng dậy khỏi ghế, bỏ lại bữa cơm đang ăn dở, luống cuống đi ra khỏi căng tin.

“Chuyện quan trọng? Rốt cuộc là gì vậy?” Adachi Kumi lấy làm lạ.

Tengo cũng không hiểu gì.

Tengo vừa đợi y tá Omura quay lại vừa tống nốt chỗ xa lát vào miệng như để hoàn thành nghĩa vụ. Không nhiều người đang dùng bữa trong căng tin lắm. Một bàn có ba người già ngồi, ai cũng im lặng. Một bàn khác, một người đàn ông mặc áo trắng, tóc cũng trắng như cước, vừa dùng bữa một mình vừa nghiêm túc đọc tờ báo trải ra trước mặt.

Thoáng sau, y tá Omura tất tả chạy lại, trên tay cầm một túi giấy của cửa hàng tạp hóa. Cô lấy trong đó ra một bộ đồ gấp rất gọn gàng.

“Cách đây khoảng một năm, ông Kawana giao lại cho tôi lúc ông ấy còn tỉnh táo,” cô y tá cao lớn ấy nói, “bảo lúc nhập liệm thì mặc cho ông ấy bộ này. Vì vậy tôi đã mang đến tiệm giặt là giặt sạch sẽ, rồi còn phun thuốc đuổi gián nữa.”

Không thể nào lầm, đây là đồng phục của nhân viên thu phí cho NHK. Trên chiếc quần đồng bộ, li quần được là thẳng tắp. Mùi thuốc đuổi gián xộc vào mũi. Tengo nhất thời không nói được lời nào.

“Ông Kawana nói với tôi, ông ấy muốn mặc bộ này đi hỏa táng,” y tá Omura nói, sau đó gấp bộ đồng phục lại cẩn thận, cho vào túi giấy, “nên giờ tôi trả lại cho anh, anh Tengo. Ngày mai anh cầm đến công ty tổ chức tang lễ, nhờ bọn họ thay cho ông ấy nhé.”

“Nhưng mà, mặc thứ này có vẻ không được hợp cho lắm. Đồng phục là của công ty cho mượn, khi nghỉ hưu cần phải trả lại cho NHK,” Tengo yếu ớt nói.

“Anh không cần lo,” Adachi Kumi nói, “chỉ cần chúng ta không nói ra thì không ai biết cả đâu. Thiếu mất một bộ đồng phục cũ, đài NHK cũng chẳng gặp khó khăn gì đâu mà.”

Y tá Omura cũng đồng ý. “Ông Kawana đã chạy đôn chạy đáo, đi sớm về khuya cho đài NHK hơn ba mươi năm. Phải chịu không ít khổ cực, nào định mức công việc rồi đủ thứ bà rằn khác, chắc chắn là không dễ dàng gì. Một bộ đồng phục thì có gì to tát nào. Mà có phải ông ấy mặc nó đi làm chuyện xấu xa gì đâu chứ.”

“Thì đấy. Em vẫn còn giữ bộ đồng phục kiểu thủy thủ từ thời cấp ba đây này,” Adachi Kumi nói.

“Đồng phục của nhân viên thu phí cho NHK với đồng phục kiểu thủy thủ của học sinh cấp ba khác nhau chứ,” Tengo chen vào. Nhưng không ai để ý đến anh.

“Ừm. Đồng phục thủy thủ của tôi vẫn để trong tủ đấy,” y tá Omura nói.

“Vậy chắc thỉnh thoảng chị cũng mặc cho chồng xem chứ? Hay là còn đi cả tất cao cổ màu trắng nữa?” Adachi Kumi nói đùa.

“Chà, trò này hay đấy,” Omura tì tay lên mặt bàn, chống cằm, nói với vẻ nghiêm túc, “Biết đâu lại khiến anh ta hưng phấn lên.”

“Nói gì thì nói,” Adachi kết thúc cuộc thảo luận về đồng phục thủy thủ, nói với Tengo, “ông Kawana đã bày tỏ muốn mặc bộ đồng phục NHK này đi hỏa táng. Dù sao cũng phải hoàn thành di nguyện nhỏ này của ông ấy chứ. Anh nói xem có phải không?”

Tengo mang túi giấy đựng bộ đồng phục thêu logo NHK trở về phòng. Adachi Kumi đi theo, giúp anh trải ga giường. Ga giường mới vẫn còn mùi hồ, chăn len mới, vỏ chăn mới, gối mới. Sau khi thay toàn bộ chăn ga gối mới tinh, giường bệnh của cha anh dường như đã thay đổi hẳn diện mạo. Tengo chợt nghĩ vẩn vơ đến chỗ lông mu rậm rạp của Adachi Kumi.

“Khoảng thời gian cuối, cha anh vẫn luôn hôn mê bất tỉnh,” Adachi vừa đưa tay vuốt những nếp nhăn trên ga giường vừa nói, “nhưng em đoán ông ấy chưa hoàn toàn mất đi ý thức đâu.”

“Sao cô lại nghĩ thế?” Tengo hỏi.

“Bởi vì, có đôi lúc, cha anh như thể đang phát tín hiệu cho một ai đấy.”

Tengo đang đứng bên cửa sổ ngó nghiêng ra ngoài, liền ngoảnh đầu lại nhìn Adachi Kumi. “Phát tín hiệu?”

“Ưm. Ông ấy thường đập vào khung giường. Cánh tay gõ vào mép giường, kiểu như đánh mã morse ấy, cốc cốc, cốc cốc cốc, như vậy này.”

Adachi Kumi dùng nắm tay khe khẽ gõ vào khung giường gỗ.

“Anh xem, thế này chẳng như đang phát tín hiệu à?’

“Tôi thấy đó không phải phát tín hiệu đâu.”

“Thế thì là gì?”

“Đang gõ cửa,” Tengo nói bằng giọng khô khốc, “đang gõ cửa nhà người khác.”

“Ưm, cũng phải. Cũng có khả năng là thế. Nghe cũng giống tiếng gõ cửa thật.” Sau đó, Adachi Kumi nghiêm nghị nheo nheo mắt lại, “em bảo này, thế có phải là sau khi mất ý thức, ông Kawana vẫn đi khắp nơi thu tiền phí nghe nhìn không nhỉ?”

“Chắc thế đấy,” Tengo nói, “ở nơi nào đó trong đầu.”

“Giống như chuyện người lính chết rồi vẫn không buông cây kèn hiệu của mình ấy nhỉ,” Adachi Kumi cảm thán.

Tengo không biết trả lời cô thế nào, đành in lặng.

“Cha anh chắc yêu thích công việc ấy lắm nhỉ. Đi khắp nơi thu phí nghe nhìn cho đài NHK.”

“Tôi nghĩ, đó không phải là vấn đề thích hay không thích,” Tengo nói.

“Vậy thì là vấn đề gì?”

“Đó là công việc mà bố tôi giỏi nhất.”

“Ồ, vậy sao?” Adachi Kumi nói đoạn trầm ngâm giây lát, “có điều, ở chừng mực nào đó, sống như vậy có lẽ là cách tốt nhất.”

“Có lẽ vậy,” Tengo nhìn ra khu rừng chắn gió mà nói. Có lẽ đúng là như vậy.

“À, thế anh thì giỏi nhất thứ gì?” cô hỏi.

“Tôi không biết.” Tengo nhìn thẳng vào mặt Adachi Kumi, trả lời, “Tôi thực sự không biết."
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 22: Ushikawa


Không bằng nói đôi mắt ấy tràn đầy lòng thương hại

Sáu giờ mười lăm phút chiều Chủ nhật, Tengo xuất hiện ở cửa chính khu nhà. Anh ta bước mấy bước rồi dừng chân, đảo mắt nhìn quanh quất như tìm kiếm thứ gì, ánh mắt dịch từ phải sáng trái, rồi lại chuyển từ trái sang phải, ngửa mặt lên trời, cúi xuống nhìn dưới chân. Nhưng hình như không thấy có gì khác với mọi ngày, nên anh ta lại đi tiếp ra đường.

Lần này Ushikawa không bám theo Tengo. Tengo không mang theo hành lý. Hai bàn tay to bè của anh ta đút trong túi quần kaki đã không còn đường li. Áo len cao cổ, cùng áo khoác màu xanh ô liu đã cũ, đầu tóc bù xù. Trong túi áo khoác màu xanh ô liu đã cũ, đầu tóc bù xù. Trong túi áo khoác có nhét một quyển bìa mềm. Chắc anh ta định đến quán ăn gần đây ăn tối. Ushikawa quyết định mặc cho Tengo muốn đi đâu thì đi.

Ngày thứ Hai Tengo có mấy tiết dạy. Trước đó, Ushikawa đã gọi điện đến trường dự bị xác nhận chắc chắn. Cô nhân viên nữ nói với y: đúng, lớp của thầy Kawana bắt đầu học bình thường theo kế hoạch giảng dạy từ thứ Hai tuần sau. Tốt rồi, ngày mai, rốt cuộc Tengo cũng trở lại với nhịp sống bình thường của anh ta. Với tính cách của anh ta, tối nay chắc anh ta sẽ không đi đâu xa. (Nếu theo dõi Tengo, Ushikawa sẽ biết anh đến quán rượu ở Yotsuya nói chuyện với Komatsu).

Gần tám giờ, Ushikawa mặc áo khoác ngắn, quấn khăn lên cổ, kéo sụp mũ len xuống, dòm chừng xung quanh rồi rảo chân ra khỏi tòa nhà. Lúc này Tengo vẫn chưa về. Nếu chỉ ăn tối ở quanh khu này thì xem ra anh ta đã đi hơi lâu một chút. Lúc ra khỏi cửa, y có thể không may chạm trán với Tengo vừa mới về. Nhưng dù phải mạo hiểm như vậy, tối nay Ushikawa cũng buộc phải ra khỏi nhà vào lúc này, y có chuyện không thể không làm.

Y dựa vào trí nhớ vòng qua mấy chỗ rẽ, đi qua mấy tòa nhà đã đánh dấu, thỉnh thoảng lại chần chừ một lúc, nhưng rốt cuộc cũng đến được cái sân chơi dành cho trẻ con ấy. Gió Bắc lạnh buốt hôm qua đã hoàn toàn ngừng thổi, giữa tháng Mười hai này, đây có thể coi là một buổi tối ấm áp. Sân chơi buổi tối vẫn tịnh không bóng người. Ushikawa lại đưa mắt nhìn quanh. Sau khi chắc chắn không có ai chú ý đến mình, y leo lên bậc thang của cầu trượt. Y ngồi trên đỉnh cầu trượt, dựa lưng vào lan can ngước nhìn trời. Ở vị trí gần giống như đêm qua, có một mặt trăng lơ lửng. Trăng tròn chừng hai phần ba, sáng vằng vặc. Xung quanh không có một cụm mây. Bên cạnh trăng này, còn lơ lửng một trăng nhỏ màu xanh lục, hình dáng méo mó.

Không phải mình nhìn lầm, Ushikawa nghĩ. Y thở dài một tiếng, lắc đầu. Không phải y đang nằm mơ, cũng không phải cặp mắt sinh ảo giác. Rành rành hai mặt trăng một lớn một nhỏ đang lơ lửng giữa bầu trời bên trên cây sồi trụi lá. Hai mặt trắng ấy tựa như đã đứng yên ở đó từ đêm qua, chờ Ushikawa trở lại trên đỉnh cầu trượt. Bọn chúng biết Ushikawa trở lại đây. Xung quanh chúng, như đã sắp đặt từ trước, là một sự im lặng đầy ám dụ. Và hai mặt trăng đang yêu cầu Ushikawa chia sẻ sự im lặng này với chúng. Chuyện này không được nói với bất kỳ ai. Đặt ngón tay trỏ phủ một lớp bụi mỏng lên môi, chúng bảo Ushikawa như thế.

Ushikawa ngồi đó, thử nhéo cơ mặt ra các hướng khác nhau. Đồng thời, để cho chắc ăn, y lần lượt nghiệm xem những cảm giác đó có gì không tự nhiên, không giống thường ngày hay không. Nhưng y không phát hiện ra điểm nào không tự nhiên. Tốt xấu thế nào, đây vẫn là gương mặt thường ngày của y.

Ushikawa luôn tự coi mình là người theo chủ nghĩa hiện thực, và đúng là như vậy. Tư duy siêu hình không phải là thứ y theo đuổi. Nếu có thứ nào đó quả thật tồn tại thì ta buộc phải chấp nhận nó là hiện thực, dù nó có hợp tình hợp lý và hợp logic hay không. Đây là lối suy nghĩ cơ bản của y. Không phải nguyên tắc và logic có trước rồi từ đó sinh ra hiện thực; mà là hiện thực có trước, sau đó mới sinh ra nguyên tắc là logic. Vì vậy, Ushikawa quyết định rằng trước mắt y phải chấp nhận chuyện trên trời có hai mặt trăng là sự thật, không còn lựa chọn nào khác.

Những chuyện còn lại để sau hẵng tính. Ushikawa cố gắng không nghĩ gì khác, chuyên tâm quan sát hai mặt trăng kia. Y tự buộc mình quen với cảnh tượng đó. Phải chấp nhận điều này một cách nguyên vẹn, y tự cảnh cáo bản thân. Không thể giải thích được làm sao lại có chuyện như vậy, nhưng trước mắt đây không phải là vấn đề cần đào sâu nghiên cứu. Xét cho cùng, nên ứng phó với trạng thái này như thế nào, đó mới là vấn đề mấu chốt. Vì vậy, y cần chấp nhận trọn vẹn những gì mình thấy, chứ không thắc mắc chuyện phải trái đúng sai.

Ushikawa ngồi đó khoảng mười lăm phút. Y dựa vào tay vịn cầu trượt, gần như không nhúc nhích, để bản thân thích ứng với cảnh tượng trên trời. Giống như thợ lặn dành thời gian để cơ thể mình dần dần thích ứng với sự thay đổi của áp suất nước, Ushikawa tắm mình trong ánh sáng của hai mặt trăng, để chúng thấm vào da thịt. Bản năng của Ushikawa nói với y, làm như vậy rất quan trọng.

Sau đó, người đàn ông thấp bé có cái đầu kỳ dị ấy đứng lên, bước xuống cầu trượt, trong lòng chất chứa đầy những suy tư không thể gọi tên, đi về khu chung cư. Y cảm thấy cảnh trí hai bên đường có vẻ như đã thay đổi, không còn giống lúc nãy nữa. Y thầm nghĩ, là do ánh trăng, ánh trăng đã làm cho hình dáng bên ngoài của sự vật sai chệch đi một chút. Kết quả là y mấy lần suýt rẽ nhầm đường. Trước khi vào cửa tòa nhà, y ngẩng đầu nhìn lên tầng ba, xác nhận lại rằng cửa sổ nhà Tengo vẫn không có ánh đèn. Anh ta vẫn chưa về nhà. Xem chừng anh ta không phải chỉ đến quán gần đây ăn tối. Anh ta có hẹn gặp ai đó chăng? Người kia không chừng chính là Aomame, hay có thể Fukaeri. Không chừng y đã để lỡ một cơ hội quan trọng. Nhưng lỡ mất rồi, có nghĩ nhiều cũng vô ích. Lần nào Tengo ra ngoài cũng bám đuôi theo thì không khỏi quá nguy hiểm. Chỉ cần y bị Tengo phát hiện một lần thì coi như mất cả vốn lẫn lời.

Ushikawa về phòng, cởi áo khoác, khăn quàng và mũ. Y vào bếp mở thịt bò kho đóng hộp, kẹp thịt bò vào trong bánh mì, đứng đó ăn luôn. Y uống thêm một lon cà phê không lạnh cũng không nóng. Cả hai đều nhạt như nước ốc. Có cảm giác ăn vào bụng, nhưng không có mùi vị gì. Ushikawa không đoán được nguyên nhân là do thức ăn hay do vị giác của mình. Cũng có thể là do hai mặt trăng đã hằn sâu vào đáy mắt y. Chuông cửa nhà ai reo khẽ, dừng một chút rồi reo lần nữa, nhưng y không để tâm. Không phải chuông nhà y mà xa hơn, chắc là cửa nhà nào ở một tầng khác.

Ăn hết bánh mì, uống hết cà phê, để kéo tâm trí mình trở về không gian hiện thực, Ushikawa chầm chậm hút một điếu thuốc, xác định lại một lần nữa trong đầu rằng hiện mình cần phải làm gì. Sau đó, y bước tới cạnh cửa sổ, ngồi xuống trước máy ảnh. Ushikawa bật nguồn điện lò sưởi lên, hai bàn tay xòe ra chỗ ánh sáng màu vàng cam ấy để sưởi ấm. Gần chín giờ tối Chủ nhật, gần như không có ai ra vào tòa nhà. Nhưng Ushikawa rất muốn biết Tengo trở về vào lúc nào.

Không bao lâu sau, một phụ nữ mặc áo lông vũ màu đen đi ra khỏi cửa chính. Y chưa từng thấy người phụ nữ này. Cô ta quấn khăn quàng cổ màu xám che đi nửa dưới khuôn mặt, đeo kính gọng đen, đầu đội mũ bóng chày. Ăn mặc kiểu ấy rõ ràng là để giấu mình khỏi những ánh mắt dòm ngó. Cô ta đi hai tay không, vội vã, sải những bước dài. Ushikawa ấn nút như một phản xạ có điều kiện, thiết bị điều khiển đóng mở cửa trập ba lần. Phải xem cô ta đi đâu, Ushikawa thầm nhủ. Nhưng y chưa kịp đứng lên thì đối phương đã ra đến ngoài phố, biến mất trong đêm. Ushikawa chau mày, đành chịu thua. Cô ta đi nhanh thế kia, dù bây giờ y có xỏ giày chạy ra thì cũng không thể đuổi kịp.

Ushikawa tái hiện lại trong đầu hình ảnh người phụ nữ vừa trông thấy. Cô ta cao khoảng một mét bảy, quần bò bó sát, giày đế mềm màu trắng, mỗi món quần áo trên người đều mới đến bất thường. Cô ta khoảng từ hai lăm hai sáu đến ba mươi. Tóc nhét trong cổ áo, không rõ dài ngắn thế nào. Chiếc áo lông vũ phồng phềnh khiến y không thể xác định được vóc dáng cô ta gầy béo ra sao, nhưng qua hình dáng đôi chân thì có thể thấy cô ta mảnh dẻ. Dáng vẻ cân đối cùng bước đi nhanh nhẹn chứng tỏ cô ta là người khỏe mạnh, đầy sức sống, hẳn là ngày ngày tập thể dục thể thao. Mỗi nét đặc trưng này đều khớp với Aomame theo y tìm hiểu được. Tất nhiên, không thể khẳng định ngay đây chính là Aomame. Cô ta dường như rất cảnh giác đề phòng bị người khác thấy, nhìn qua là biết cơ thể cô ta căng thẳng thế nào, giống như một nữ minh tinh sợ bị đám săn ảnh bám đuôi vậy.

Tạm thời giả định cô ta chính là Aomame.

Cô ta đến đây là để gặp Tengo. Nhưng Tengo đã ra ngoài. Trong nhà tắt đèn tối om. Aomame đến gặp anh ta, nhưng gọi cửa mãi không ai thưa, đành phải ra về. Không khéo cô ta chính là người đã ấn chuông hai lần lúc nãy. Nhưng theo Ushikawa, suy luận này có chút không hợp lý. Aomame đang bị người ta đuổi giết. Để tránh nguy hiểm, lý ra cô ta phải cố gắng tránh tai mắt của người khác. Nếu muốn gặp Tengo thì lẽ ra cô ta cần gọi điện thoại trước xem anh ta có nhà không. Như vậy thì có thể tránh được những nguy hiểm không cần thiết.

Ushikawa ngồi trước máy ảnh trầm ngâm suy nghĩ, nhưng không nảy ra được suy luận nào có vẻ hợp lý hợp tình. Hành vi của người phụ nữ đó… kiểu hóa trang đầy rẫy sơ hở, rời nơi ẩn náu mà mạo hiểm xông vào tòa nhà này… rất không phù hợp với tính cách của Aomame mà Ushikawa biết. Cô ta là người thận trọng và cảnh giác hơn nhiều. Điều này khiến Ushikawa bối rối. Nhưng y hoàn toàn không nghĩ tới cái khả năng chính y đã dẫn đối phương đến nơi này.

Dù sao đi nữa, y quyết định ngày mai đến tiệm in ảnh ở trước cửa ga, rửa hết đống phim đã chụp, trong ấy thế nào cũng có bóng dáng người phụ nữ bí ẩn này.

Y ngồi canh trước máy ảnh đến tận mười giờ hơn, nhưng từ sau khi người phụ nữ kia đi khỏi, không ai ra vào tòa nhà nữa. Giống như sân khấu bị bỏ lại sau buổi biểu diễn lác đác khán giả, chỗ cửa ra vào tòa nhà không một bóng người, tĩnh lặng như tờ. Tengo sao vậy nhỉ? Ushikawa lấy làm khó hiểu. Theo y biết, Tengo rất hiếm khi ra ngoài đến khuya muộn thế này. Huống hồ, ngày mai anh ta phải trở lại đứng lớp ở trường. Liệu có phải đúng lúc Ushikawa ra ngoài thì anh ta đã trở về nhà đi ngủ từ lâu rồi không?

Hơn mười giờ tối, Ushikawa nhận ra mình đã mệt mỏi cực độ, buồn ngủ đến gần như không mở nổi mắt nữa. Đối với loại cú đêm như y, đây là chuyện vô cùng hiếm gặp. Bình thường, nếu cần thiết y có thể thức trắng cả đêm. Nhưng duy có đêm nay, cơn buồn ngủ lại như cái nắp bằng đá của cổ quan tài cổ đại đè nặng trĩu trên đỉnh đầu y.

Nói không chừng tại mình nhìn hai mặt trăng kia lâu quá, Ushikawa nghĩ. Có lẽ vì ánh sáng kia đã thấm vào da thịt quá nhiều. Hai mặt trăng một lớn một nhỏ ấy hóa thành những cái bóng mông lung lưu trên võng mạc của y. Đường viền mờ tối của chúng làm tê liệt phần mềm não bộ y, giống như loài ong nào đó làm con sâu bướm to bị tê liệt, sau đó đẻ trứng lên bề mặt cơ thể nó vậy. Trứng nở thành ấu trùng sẽ dùng con sâu tội nghiệp không thể nhúc nhích đó làm nguồn dinh dưỡng ở ngay kề, ăn sống nuốt tươi nó. Ushikawa nhíu mày, xua đuổi ý nghĩa chẳng lành ấy ra khỏi tâm trí.

Hừm, mặc kệ, Ushikawa tự nhủ. Không nhất thiết phải đợi Tengo về. Dù anh ta về mấy giờ thì chắc hắn vào nhà là cũng vùi đầu đi ngủ luôn. Vả lại, ngoài căn hộ này ra anh ta không còn nơi nào khác để đi nữa. Có lẽ vậy.

Ushikawa mệt mỏi cởi quần và áo len, chỉ mặc áo lót dài tay và quần vải bông, chui vào trong túi ngủ, sau đó cuộn tròn người, lập tức ngủ thiếp đi luôn. Giấc ngủ này rất sâu, hầu như đến độ hôn mê. Lúc sắp thiếp đi, Ushikawa dường như nghe thấy tiếng gõ cửa. Nhưng ý thức của y lúc đó đã dịch chuyển sang một thế giới khác, y không thể phân biệt sự vật hiện tượng một cách chuẩn xác nữa. Nếu y gắng gượng làm việc đó, toàn thân liền kêu lên răng rắc. Vậy nên y không mở mắt, không buồn truy xem âm thanh ấy có ý nghĩa gì, lại chìm vào đầm lầy của giấc ngủ.

Chừng nửa tiếng sau khi Ushikawa ngủ say, Tengo từ biệt Komatsu về đến nhà. Anh đánh răng, treo chiếc áo ám mùi khói thuốc lên mắc, thay đồ ngủ rồi lên giường. Anh ngủ một mạch đến hai giờ sáng thì chuông điện thoại reo, báo rằng cha anh đã qua đời.

Lúc Ushikawa tỉnh giấc thì đã hơn tám giờ sáng thứ Hai, lúc này Tengo đang ngồi trên chuyến tàu nhanh đi Tateyama, thiu thiu ngủ để bù đắp lại giấc ngủ hồi đêm bị mất. Ushikawa ngồi trước máy ảnh, đợi Tengo ra khỏi tòa nhà đến trường dự bị. Nhưng đương nhiên Tengo không xuất hiện. Lúc đồng hồ chỉ một giờ chiều, Ushikawa bỏ cuộc, dùng điện thoại công cộng ở gần đó gọi đến trường dự bị, hỏi xem lớp của thầy Kawana có phải vẫn diễn ra bình thường không.

“Lớp của thầy Kawana hôm nay tạm nghỉ. Nghe nói là đêm qua thân nhân anh ấy đột nhiên qua đời,” cô gái nghe điện thoại trả lời. Ushikawa cảm ơn rồi gác máy.

Thân nhân qua đời? Thân nhân của Tengo thì chỉ có người cha từng làm nhân viên thu phí cho đài NHK thôi. Ông ta đang ở trong một viện điều dưỡng nào đó khá xa Tokyo. Tengo từng xin nghỉ một thời gian để đến đó chăm sóc ông ta, vừa mới quay về hai hôm trước. Ông ta đã chết. Vậy là Tengo sẽ phải rời khỏi Tokyo lần nữa. E rằng anh ta đã đi giữa lúc y đang ngủ. Thật đúng là! Sao mình lại ngủ say như chết thế chứ?

Dù thế nào thì giờ đây Tengo cũng thực sự thành kẻ cô độc trên cõi đời này rồi, Ushikawa thầm nhủ. Vốn anh ta đã cô độc, nay lại càng cô độc. Đơn côi lẻ bóng. Mẹ anh ta bị người ta siết cổ chết trong một nhà nghỉ suối nước nóng ở Nagano. Hung thủ đến nay vẫn ngoài vòng pháp luật. Bà ta bỏ chồng, dẫn theo Tengo khi ấy vẫn còn là một đứa trẻ ẵm ngửa theo người đàn ông trẻ ấy đào tẩu. Từ “đào tẩu” này cổ quá rồi, giờ không ai dùng những từ như vậy nữa. Nhưng nó là từ thích hợp nhất để đặc tả một hành vi nhất định. Không rõ tại sao lại có người giết bà ta. Thậm chí có phải chính người đàn ông đó là hung thủ hay không cũng chẳng ai biết. Trong một quán trọ, người đàn bà ấy bị người ta dùng thắt lưng áo choàng ngủ siết cổ đến chết trong đêm, còn người đàn ông đồng hành thì biến mất. Khó mà không tình nghi anh ta. Nhưng chỉ thế thôi. Sau khi được thông báo, người cha liền từ Ichikawa chạy đến đón đứa con nhỏ về.

Có lẽ nên nói chuyện này cho Kawana Tengo, Ushikawa nghĩ. Anh ta có quyền biết sự thật. Nhưng anh ta đã nói rồi, anh ta không muốn nghe những chuyện về mẹ từ một kẻ như mình. Vì vậy mình không nói với anh ta nữa. Chẳng còn cách nào khác. Đây không phải là vấn đề của mình, mà là của anh ta.

Dù sao đi nữa, Tengo có nhà hay không cũng vậy, việc giám thị tòa nhà này phải tiếp tục duy trì, Ushikawa tự nhắc mình. Tối qua mình đã thấy một phụ nữ bí ẩn nghi là Aomame. Cái đầu kỳ dị này đang nói với mình đó chính là Aomame, tuy không có bằng chứng nhưng khả năng là rất lớn. Giả sử người phụ nữ ấy chính là Aomame, không lâu nữa chắc chắn cô ta sẽ trở lại tìm Tengo. Cô ta vẫn chưa biết cha Tengo vừa chết. Đây là suy đoán của Ushikawa. Tengo chắc đã nhận được tin lúc nửa đêm, sáng sớm liền đi luôn. Vả lại, xem ra hai người này vì một nguyên nhân nào đó mà không thể dùng điện thoại để liên lạc. Nếu vậy, chắc chắn cô ta còn trở lại đây. Hẳn cô ta có chuyện gì đó rất quan trọng, dù mạo hiểm cũng phải đích thân đến tận nơi. Lần sau, dù thế nào, Ushikawa cũng phải xem cô ta đi đâu. Y cần phải chuẩn bị chu đáo cho chuyện này.

Làm vậy có lẽ cũng giải đáp được phần nào cái bí mật tại sao thế giới này có hai mặt trăng, Ushikawa rất muốn biết đáp án đó. Không, xét cho cùng, đây chỉ là vấn đề thứ yếu. Việc trước mắt của mình là tìm ra nơi ẩn trốn của Aomame, sau đó dán cô ta lên một tấm thiệp đẹp đẽ, giao nộp cho hai thằng cha đáng sợ kia. Trước lúc ấy thì, mặc xác mặt trăng có một hay hai, mình phải tập trung làm việc. Vì đây chính là việc mình làm giỏi nhất.

Ushikawa đi tới tiệm in ảnh ở trước cửa nhà ga, đưa cho nhân viên ở đó năm cuộn phim ba mươi sáu kiểu. Sau đó, y mang ảnh đã rửa vào quán ăn gia đình gần đó, vừa ăn cơm cà ri vừa xem xét lần lượt theo thứ tự ngày tháng. Gần như tất cả đều là gương mặt những người mà y đã quen thuộc. Chỉ có ảnh của ba người là y xem ít nhiều hứng thú. Fukaeri và Tengo, cũng với người phụ nữ bí ẩn đi ra khỏi tòa nhà lúc tối hôm qua.

Cặp mắt Fukaeri khiến Ushikawa căng thẳng. Trong ảnh, cô gái này đang nhìn thẳng vào mặt y. Không thể lầm được, Ushikawa nghĩ. Cô biết Ushikawa đang trốn ở chỗ đó, giám sát cô. E rằng cô còn biết y đang dùng ống kính được ngụy trang để chụp ảnh. Đôi mắt trong veo ấy của cô chỉ ra điều này. Đôi mắt thông tuệ nhìn thấu mọi sự, tuyệt đối không dung thứ cho hành vi của Ushikawa. Ánh mắt chính trực ấy không hề nương tình đâm thẳng vào trái tim Ushikawa, xuyên sang tận phía bên kia. Mọi hành vi của y đều không có chỗ để biện giải. Nhưng đồng thời, cô cũng không định tội cho Ushikawa, cũng không khinh bỉ y. Theo một nghĩa nào đó, đôi mắt đẹp ấy của cô đã khoan thứ cho Ushikawa. Không, không hẳn là khoan thứ, Ushikawa nghĩ lại. Không, đôi mắt ấy tràn đầy lòng cảm thương. Cô biết hành vi của Ushikawa là không sạch sẽ, nhưng cô trao cho y lòng cảm thương.

Nhìn vào đôi mắt cô, y cảm thấy chỗ xương sườn đau nhói lên, như thể bị que đan dày chọc vào. Y cảm thấy mình là một kẻ xấu xa biến thái ghê tởm. Nhưng đâu thể khác được, Ushikawa nghĩ. Trên thực tế mình chính là một kẻ xấu xa biến thái ghê tởm. Sắc thái cảm thương tự nhiên, trong veo nơi đôi mắt Fukaeri thấm sâu vào tim Ushikawa. Chẳng thà bị vạch trần, bị khinh miệt, bị mắng chửi, bị định tội, y còn thấy dễ chịu hơn. Hay chẳng thà cô dùng gậy bóng chày đập y một trận. Nhưng thế này thì y không thể chịu nổi.

So ra, Tengo dễ đối phó hơn nhiều. Trong ảnh, anh ta đứng trước cửa, cũng hướng ánh mắt về phía này, chăm chú quan sát xung quanh, giống như Fukaeri. Nhưng đôi mắt ấy không nhìn thấy gì. Đôi mắt trong sáng, vô tri của anh ta không tìm thấy chiếc máy ảnh được giấu sau rèm cửa, cũng không phát hiện ra bóng dáng Ushikawa ngồi phía sau.

Sau đó, Ushikawa nhìn sang “người phụ nữ bí ẩn.” Tổng cộng có ba bức ảnh. Đầu đội mũ bóng chày, gọng kính viền đen, khăn quàng cổ màu xám quấn chặt che kín tận dưới mũi. Không nhìn rõ mặt. Các tấm ảnh đều chụp trong ánh sáng yếu, cộng với bóng của vành mũ lưỡi trai phủ xuống. Nhưng người phụ nữ này và hình tượng Aomame do Ushikawa phác ra trong đầu trùng nhau một cách hoàn mỹ. Ushikawa cầm ba tấm ảnh ấy lên, tựa như đang xác nhận lại những lá bài pocker trong tay, lật qua lật lại. Càng nhìn y càng cảm thấy người này chỉ có thể Aomame chứ không ai khác.

Y gọi nhân viên phục vụ đến, hỏi xem hôm nay có điểm tâm ngọt gì. Cô phục vụ trả lời có bánh đào. Ushikawa liền gọi một phần, và một cốc cà phê.

Trong lúc chờ bánh đào được mang lên, Ushikawa tự nhủ, nếu đây không phải Aomame thì có lẽ mình sẽ không bao giờ có cơ hội gặp người tên là Aomame đó nữa rồi.

Bánh đào ngon hơn nhiều hơn so với tưởng tượng của Ushikawa. Vỏ bánh giòn rụm bọc bên ngoài lớp thịt đào mọng mước. Tất nhiên, có lẽ chỉ là đào đóng hộp, nhưng điểm tâm của quán ăn gia đình như thế là khá lắm rồi. Ushikawa ăn sạch miếng bánh đào, uống hết cà phê, hài lòng bước ra khỏi quán ăn. Trên đường, y rẽ vào siêu thị mua thực phẩm cho ba ngày, rồi về căn hộ thuê, tiếp tục ngồi lỳ trước máy ảnh.

Y vừa giám sát cửa ra vào của tòa nhà qua khe rèm cửa, vừa dựa lưng vào tường, chợp mắt một chút trong chỗ nắng. Ushikawa không lo chuyện này lắm. Thiu thiu một giấc ngắn thì chắc cũng không đến nỗi bỏ qua chuyện gì quan trọng. Tengo rời khỏi Tokyo vì bận tang lễ cha, Fukaeri chắc cũng không quay lại đây nữa. Cô biết Ushikawa vẫn tiếp tục giám sát tòa nhà này. Còn khả năng “người phụ nữ bí ẩn” kia đến đây giữa ban ngày ban mặt là rất thấp. Cô ta cẩn trọng và cảnh giác, chắc là phải đợi trời tối mới bắt đầu hành động.

Sắc trời đã tối, nhưng người phụ nữ bí ẩn ấy không xuất hiện. Chỉ có những gương mặt quen thuộc như mọi ngày đi ra ngoài giống như mọi ngày, kẻ đi chợ chiều, người ra ngoài tản bộ buổi hoàng hôn, những người đi làm vác bộ mặt bơ phờ mệt mỏi hơn lúc sáng thất thểu về nhà. Ushikawa chỉ đưa mắt nhìn theo những bóng người ra vào, thậm chí chẳng buồn chụp ảnh. Không cần thiết nữa, hứng thú của y giờ chỉ tập trung vào ba người. Ngoài ba người ấy ra, tất cả chỉ là những kẻ qua đường vô danh mà thôi. Để cho bớt nhàm chán, Ushikawa dùng những cái tên mình đặt bừa ra gọi bọn họ.

“Ông Mao ơi (người này có kiểu tóc rất giống Mao Trạch Đông), ông rất vất vả cả ngày rồi.”

“Ông Tai Dài, hôm nay ấm áp, đi bộ là hợp nhất ấy nhỉ?”

“Chị Không Cằm, chị lại đi chợ đấy à? Tối nay nhà ăn gì thế?”

Ushikawa ngồi canh đến mười một giờ, sau đó ngáp dài một cái, quyết định kết thúc công việc của ngày hôm nay. Y uống trà xanh đóng chai, ăn vài miếng bánh quy mặn, hút một điếu thuốc. Lúc đánh răng trong buồng vệ sinh, y tiện thể thè lưỡi thật dài, soi trong gương. Lâu rồi Ushikawa không quan sát lưỡi của mình, chỉ thấy bên trên đã mọc ra một lớp bựa lưỡi dày. Trông giống hệt như rêu, có màu xanh lục nhàn nhạt. Y cẩn thận kiểm tra bựa lưỡi dưới ánh đèn. Thật tởm lợm. Vả lại, nó còn bám chặt khắp trên mặt lưỡi, dường như không sao cạo đi được. Cứ thế này mãi rồi mình cũng biến thành một người rêu, Ushikawa thầm nghĩ. Bắt đầu từ lưỡi, rêu sẽ mọc khắp toàn thân. Có lẽ giống như mai con rùa sống trong đầm lầy. Chuyện này chỉ mới nghĩ thôi là đã khiến y nản cả người.

Ushikawa lặng lẽ thở dài, không nghĩ chuyện cái lưỡi của y nữa, tắt đèn buồng vệ sinh, uốn éo cơ thể trong bóng tối để cởi bỏ quần áo rồi chui vào túi ngủ. Y kéo phéc mơ tuya lên hết cỡ, cuộn mình lại như con sâu.

Lúc Ushikawa tỉnh lại, xung quanh tối om như mực. Y muốn xem giờ, bèn ngoảnh đầu lại, nhưng đồng hồ báo thức lại không ở chỗ thường lệ. Trong khoảnh khắc, Ushikawa đâm hoang mang. Trước khi đi ngủ, bao giờ y cũng kiểm tra vị trí của đồng hồ báo thức. Đây là thói quen từ nhiều năm nay. Sao không có đồng hồ? Khe hở trên rèm cửa sổ để lọt vào một vệt sáng mờ nhạt, chiếu lên độc một góc phòng. Xung quanh bao trùm trong màn đêm tối đen như mực.

Ushikawa nghe tim mình đập dữ dội để đưa adrenalin đi khắp toàn thân. Lỗ mũi y nở to, hơi thở gấp gáp. Giống như đang mơ một giấc mơ sống động như thật khiến người ta hưng phấn, nhưng giữa chừng thì giật mình sực tỉnh vậy.

Nhưng không phải mơ. Thật sự đã xảy ra chuyện gì đó. Bên cạnh y có người. Ushikawa cảm nhận được sự tồn tại của đối phương. Một cái bóng đen hơn cả bóng tối lù lù đứng đó, đang cúi nhìn mặt y. Sống lưng Ushikawa cứng đờ. Trong một phần giây, ý thức của y được xốc lại cho ngay, y toan kéo phéc mơ tuya túi ngủ ra theo phản xạ.

Trong chớp mắt, người kia vươn tay chẹn lên cổ Ushikawa, không để y kịp kêu lên một tiếng. Cổ họng Ushikawa cảm nhận được cơ bắp cuồn cuộn của người đàn ông ấy. Cánh tay siết chặt cổ y như hai gọng kìm cộng lực, không hề nương tình. Người đàn ông không nói không rằng, Ushikawa thậm chí không nghe thấy tiếng hắn thở. Y vặn vẹo vùng vẫy bên trong túi ngủ. Hai tay y níu chặt vào túi, hai chân đạp loạn. Y cố kêu lên thành tiếng, nhưng chỉ phí sức uổng công. Đối phương một khi đã vào tư thế trên tấm chiếu tatami là không nhúc nhích một phân, chỉ chầm chậm dồn thêm sức lên cánh tay. Hắn hành động hiệu quả, không một động tác thừa. Cùng với động tác của đối phương, khí quản Ushikawa càng lúc càng bị đè chặt, hơi thở mỗi lúc thêm mỏng manh.

Trong trạng thái tuyệt vọng ấy, nghi vấn lóe lên trong đầu Ushikawa… Người này làm sao mà vào được? Cửa căn hộ được chốt then và khóa cẩn thận, lại còn móc thêm dây xích bên trong. Cửa sổ cũng đóng kín mít. Làm sao hắn vào được gian phòng này? Nếu phá khóa, nhất định sẽ phát ra tiếng động, Ushikawa nghe thấy chắc chắn sẽ tỉnh dậy.

Tên này là một chuyên gia, Ushikawa nghĩ. Khi cần, hắn sẽ không do dự lấy mạng người khác. Hắn được huấn luyện để làm điều đó. Có phải người của Sakigake phái đến không? Đám người ấy cuối cùng cũng quyết định xử lý mình rồi sao? Đã nhận định mình là phế thải vừa vô dụng lại vừa có hại cho họ rồi sao? Nếu vậy, bọn họ đã quá sai lầm. Chỉ một bước nữa thôi là mình dồn được Aomame vào đường cùng rồi. Ushikawa cố hét lên thành tiếng với người đàn ông kia: Anh nghe tôi giải thích đã. Nhưng y không phát ra được tiếng nào. Không còn đủ không khí để chấn động dây thanh đới, đầu lưỡi y kẹt cứng trong cổ họng như khối đá.

Khí quản y lúc này đã chẹn cứng, không khí không thể lọt vào được. Hai lá phổi giãy giụa đòi thêm dưỡng khí mới, nhưng không biết tìm ở đâu. Y cảm thấy cơ thể và ý thức của mình dần dần tách lìa nhau. Cơ thể vẫn đang tiếp tục vùng vẫy bên trong túi ngủ, nhưng ý thức thì đã bị kéo vào một tầng không khí nặng nề dính nhơm nhớp. Hai tay hai chân y nhanh chóng mất cảm giác. Tại sao? Y đặt câu hỏi trong khi ý thức dần mờ đi. Tại sao mình phải chết trong bộ dạng mất mặt như vậy, ở một nơi mất mặt như vậy? Không có câu trả lời. Rất nhanh, bóng tối vô tận từ trần nhà rơi ập xuống, bao trùm hết thảy.

Khi tỉnh lại, Ushikawa không còn nằm trong túi ngủ nữa. Y không cảm thấy được tay chân mình. Y chỉ biết mình đang bị bịt mắt và má y đang áp xuống chiếu tatami. Cổ họng y không bị siết chặt nữa. Hai lá phổi y co vào nở ra hào hển nghe như ống bễ, hít đầy không khí tươi mới vào trong. Không khí mùa đông lành lạnh. Nhận được dưỡng khí, dòng máu mới được sản sinh, tim đập hết tốc lực, đưa thứ dịch thể màu đỏ ấm áp ấy đến từng đầu dây thần kinh. Y ho sặc sụa, tập trung tinh thần vào việc hít thở. Sau đó, y dần dần tri giác lại được hai tay chân mình. Trong hai tai y nghe rõ tiếng tim đập thình thịch. Mình vẫn còn sống, Ushikawa tự nói với mình trong bóng tối.

Ushikawa đang nằm sắp mặt xuống chiếu titami. Hai tay bị quặt ra phía sau, bị trói chặt bằng thứ gì đó mềm mềm như vải bông. Hai chân y cũng bị trói. Tuy không chặt lắm, nhưng đây là cách trói rất hiệu quả. Y hầu như không thể nhúc nhích, trừ lăn từ bên này đến bên kia. Mình vẫn còn sống, vẫn còn thở, Ushikawa cảm thấy không thể tin nổi. Đó không phải cái chết. Đã đến ranh giới của tử vong, nhưng vẫn chưa phải là chết. Hai bên cổ họng vẫn còn cảm giác đau nhói như thể mọc mụn nhọt. Nước tiểu rịn ra trong quần lót bắt đầu lạnh dần. Nhưng đó không phải là cảm giác khó chịu, ngược lại còn đáng mừng với Ushikawa. Vì cảm giác đau đớn và lạnh chính là dấu hiệu rằng y vẫn còn sống.

“Không chết đơn giản như vậy được đâu,” giọng người đàn ông vang lên. Cơ hồ như đọc được ý nghĩ của Ushikawa.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 23: Aomame


Ánh sáng rõ ràng là ở đó

Đã quá nửa đêm, ngày đã chuyển từ Chủ nhật sang thứ Hai, nhưng giấc ngủ mãi vẫn chưa đến với Aomame.

Aomame tắm rửa xong, thay quần áo, trèo lên giường tắt đèn. Thức muộn nữa thì cũng không có việc gì làm. Tạm thời nàng đã phó thác mọi chuyện vào tay Tamaru. Muốn nghĩ gì thì nghĩ, nàng cần ngủ một giấc trước đã, để sáng mai dùng đầu óc tươi mới mà suy nghĩ thì tốt hơn. Nói thì nói vậy, nhưng ý thức Aomame lại hoàn toàn tỉnh táo, cơ thể nàng khao khát được hoạt động. Xem ra nàng khó mà ngủ được.

Aomame đành đầu hàng, trèo xuống giường, khoác áo choàng ngủ ra ngoài bộ pyjama đang mặc. Nàng vào bếp đun nước pha trà thảo dược, ngồi trước bàn ăn nhấp từng ngụm nhỏ. Trong đầu nàng có nảy ra ý nghĩ, nhưng cụ thể là nghĩ gì, Aomame không rõ. Giống như đám mây dông có thể thấy được từ đằng xa, hình dạng này, đậm đặc. Hình dạng của nó nàng biết, nhưng đường nét thì không. Giữa hình dạng và đường nét bên ngoài dường như có sự sai lệch. Aomame cầm ca nước trà đi tới cạnh cửa sổ, ngó sang sân chơi bên kia đường qua khe hở rèm cửa.

Dĩ nhiên, bên đó không một bóng người. Đã hơn một giờ sáng, hố cát, xích đu hay cầu trượt thảy vắng tanh. Đêm tĩnh mịch khác thường. Không có gió, không một gợn mây. Hai mặt trăng một lớn một nhỏ vẫn song song lơ lửng phía trên đám cành cây đông cứng. So với lần trước, vị trí của mặt trăng đã thay đổi tương ứng với vòng quay của trái đất, nhưng vẫn trong tầm mắt của nàng.

Aomame đứng đó, nhớ lại tòa chung cư cũ mà Búp bê đầu to đi vào, cùng với tấm biển tên gắn trên cửa phòng 303. Tấm biển màu trắng in chữ “Kawana.” Trông không mới lắm, các mép quăn tít, lờ mờ những vệt ố do hơi ẩm. Tấm biển ấy chắc đã được gắn từ lâu lắm rồi.

Tamaru chắc chắn đã đi điều tra xem người trong căn hộ ấy rốt cuộc có phải Kawana Tengo hay là một người họ Kawana khác. Không lâu nữa, có thể ngày mai sẽ có tin. Anh ta là người làm việc gì cũng không để lãng phí thời gian. Đến lúc ấy sẽ rõ mọi sự. Có thể nàng sẽ nhanh chóng gặp được Tengo. Triển vọng ấy khiến Aomame gần như không thở nổi. Không khí xung quanh dường như đột nhiên loãng đi.

Nhưng sự việc có thể không được thuận lợi như thế. Dù người ở trong căn hộ số 303 chính là Kawana Tengo, cái tên Búp bê đầu to tướng mạo chẳng lành kia e rằng cũng đang lẩn trốn trong ngóc ngách nào đó của tòa nhà cũ ấy, âm thầm lên kế hoạch làm chuyện xấu xa gì đó… nàng không biết là chuyện gì, nhưng không thể là chuyện tử tế. Thằng cha này rõ là đang bám chặt sau nàng và Tengo, khéo léo bày mưu tính kế, với ý đồ ngăn không cho hai người gặp lại nhau.

Không, không cần lo lắng, Aomame tự nhắc nhở mình, Tamaru là người có thể tin cậy được. Anh ta chu đáo, giỏi giang, giàu kinh nghiệm hơn bất cứ người nào mình quen biết. Chỉ cần giao cho anh ta, anh ta nhất định sẽ đuổi tên Búp bê đầu to kia đi cho mình. Không chỉ với mình, kể cả Tamaru, Búp bê đầu to cũng là một nhân tố nguy hiểm không thể không loại trừ.

Nhưng nếu Tamaru nhận định mình và Tengo gặp lại nhau sẽ dẫn đến những biến cố không mong muốn thì sẽ sao đây? Ngộ nhỡ như vậy thật, anh ta nhất định sẽ triệt để loại trừ mọi khả năng mình và Tengo gặp lại được nhau. Mình và Tamaru gần như quý mến nhau, điểm này thì chắc chắn. Dù vậy, trong bất cứ trường hợp nào, anh ta cũng sẽ luôn luôn đặt lợi ích và an toàn của bà chủ lên hàng đầu. Đây là công việc của anh ta, anh ta hành động không chỉ để bảo vệ mình.

Ý nghĩ ấy khiến Aomame bất an. Nàng không biết việc mình và Tengo gặp lại và ở bên nhau rốt cuộc nằm ở vị trí nào trong bảng thứ tự ưu tiên của Tamaru. Thẳng thắn bộc bạch chuyện về Kawana Tengo với Tamaru rất có thể là một sai lầm chí mạng. Chẳng phải vấn đề giữa mình và Tengo nên do một mình mình giải quyết từ đầu đến cuối hay sao?

Nhưng giờ thì không thay đổi được nữa rồi. Mình đã nói hết mọi chuyện với Tamaru. Trong thời điểm đó, mình không thể không làm như vậy. Búp bê đầu to ắt đang mai phục đợi mình tự chui đầu vào rọ, một thân một mình xông vào nơi ấy chẳng khác nào tự sát. Thời gian đang trôi đi từng giây từng phút, mình không có nhiều thời gian để tạm thời không làm gì và xem xét tình hình. Nói hết cho Tamaru, đẩy vấn đề cho anh ta xử lý, đó là lựa chọn tốt nhất vào lúc đó.

Aomame quyết định không nghĩ tiếp về Tengo nữa, càng nghĩ ngợi nhiều, những dòng suy nghĩ càng rối như tơ vò, khiến nàng không sao nhúc nhích nổi. Nàng không nghĩ gì nữa. Càng không nhìn mặt trăng nữa. Ánh trăng khuấy loạn tâm trí nàng lên. Nó thay đổi mực nước trong vịnh, lay động những sinh mệnh ở chốn rừng sâu. Aomame uống nốt ngụm trà thảo dược cuối cùng, đi ra khỏi cửa sổ, đứng bên bồn nước rửa sạch cái ca. Nàng rất muốn uống một ngụm brandy nhỏ, nhưng nàng biết đang mang thai thì không nên sử dụng chất có cồn.

Aomame ngồi xuống sofa, bật ngọn đèn đọc sách nhỏ bên cạnh lên, đọc lại Nhộng không khí từ đầu. Tính đến thời điểm này, ít nhất nàng đã đọc quyển sách này mười lần. Câu chuyện không dài lắm, nàng đã gần như thuộc lòng từng chi tiết nhỏ. Thế nhưng, nàng vẫn định đọc lại kỹ thêm một nữa. Đằng nào thì cũng không ngủ được, vả lại, biết đâu trong đó còn điều gì mà nàng vẫn bỏ sót.

Nhộng không khí giống như là một cuốn sách ám hiệu. Có lẽ Fukaeri kể câu chuyện này với mục đích truyền đi thông điệp nào đó. Tengo đã biến câu văn của cô thành một thứ mạch lạc, lưu loát, tái kết cấu câu chuyện một cách hiệu quả. Hai người hợp lại tạo nên một quyển tiểu thuyết thu hút đông đảo đọc giả. Nói như Lãnh Tụ, “hai người họ có tố chất bổ trợ cho nhau. Bổ sung lẫn nhau, đồng tâm hợp lực hoàn thành một công việc.” Nếu điều ông ta nói là đáng tin cậy, thì chính vì Nhộng không khí trở thành sách bán chạy mà một bí mật nào đó bị vạch ra, Người Tí Hon mất đi sức sống, ngừng truyền đạt giọng nói. Kết quả là giếng nước cạn khô, mạch bị đứt. Đây chính là ảnh hưởng lớn lao của quyển sách này.

Nàng tập trung ý thức vào những dòng chữ trong sách.

Lúc kim đồng hồ trên tường chỉ hai giờ rưỡi, Aomame đã đọc hết hai phần ba quyển sách. Nàng tạm gập sách lại, cố gắng chuyển hoán điều mình đang cảm nhận sâu sắc trong lòng sang hình thức ngôn ngữ. Tại thời điểm này nàng đã có được một hình ảnh mạnh mẽ, tuy không đến mức có thể nói là một mặc khải, song cũng gần như xác tín.

Mình không ngẫu nhiên mà bị đưa tới nơi này.

Hình ảnh đó nói với nàng như thế.

Mình ở đây là một lẽ tất yếu.

Trước đây mình luôn cho rằng mình bị kéo vào “năm 1Q84” này một cách thụ động, chứ không phải do ý chí của mình. Vì một ý đồ nào đó, ghi đường đã bị người khác bẻ chệch, kết quả là con tàu mình đang ngồi rời khỏi đường chính, lạc vào thế giới mới kỳ lạ này. Khi định thần lại thì mình đã ở đây rồi. Thế giới có hai mặt trăng, có Người Tí Hon này. Nơi này chỉ có lối vào, không có lối ra.

Trước khi chết, Lãnh Tụ đã giải thích với mình. “Con tàu” chính là câu chuyện mà Tengo viết, còn mình thì bị buộc ở trong câu chuyện đó. Chính vì vậy lúc này mình mới ở đây. Mình chỉ là một vai diễn bị động, một vai phụ vô tri và hoảng loạn quanh quẩn giữa màn sương mù mờ mịt.

Nhưng không chỉ có vậy, Aomame thầm nghĩ. Không chỉ có vậy.

Mình không chỉ bị cuốn vào do ý chí của người khác một cách thụ động. Mình không chỉ là một tồn tại thụ động bị đưa vào đây vì ý chí của người khác. Điều đó có thể đúng phần nào. Nhưng đồng thời, mình cũng lựa chọn nơi này.

Mình lựa chọn ở lại nơi này bằng ý chí của chính mình.

Nàng tin chắc như thế.

Hơn nữa, lý do mình ở đây hết sức rõ ràng. Chỉ có một lý do. Gặp lại và ở bên Tengo. Đây là lý do mình tồn tại ở thế giới này. Không, nếu như nhìn theo chiều ngược lại, đây chính là lý do duy nhất thế giới này tồn tại bên trong mình. Có thể nói đây như là hình ảnh trong hai tấm gương quay mặt vào nhau, hai phản đề lập đi lập lại đến vô hạn. Mình là một phần của thế giới này, thế giới này là một phần của mình.

Câu chuyện mà Tengo đang viết như thế nào, Aomame không thể biết được. Hẳn là trong thế giới đó trên trời cũng có hai mặt trăng. Hẳn là ở đó cũng có Người Tí Hon xuất hiện. Nàng chỉ có thể suy đoán được đến mức đó. Đó hẳn là câu chuyện của Tengo, nhưng đồng thời đó cũng là câu chuyện của mình. Điều này Aomame hiểu.

Aomame biết được điều này lúc đang đọc đi đọc lại cảnh thiếu nữ nhân vật chính và Người Tí Hon ở cạnh nhau, hằng đêm chế tạo nhộng không khí trong nhà kho đất. Dõi mắt lần theo những dòng miêu tả rõ ràng chi tiết ấy, nàng dần dần cảm thấy sâu trong bụng dưới của mình có một thứ âm ấm. Một thứ gì ấm áp rất sâu, vừa dễ chịu vừa kỳ diệu. Nguồn nhiệt đó là gì? Nó có ý nghĩa gì? Không cần phải nói, chính là thứ bé nhỏ kia. Nó cảm ứng với cảnh tượng nhân vật chính và Người Tí Hon cùng chế tác nhộng không khí, vì vậy mà phát ra nhiệt lượng.

Aomame đặt quyển sách lên bàn uống trà bên cạnh, cởi cúc áo ngủ, đặt tay lên bụng. Bàn tay nàng cảm nhận được nơi đó đang nóng lên, thậm chí dường như còn thấp thoáng cả ánh sáng màu cam nhà nhạt. Nàng tắt đèn đọc sách đi, nhìn chằm chằm vào chỗ đó trong bóng tối của phòng ngủ. Một quầng sáng mờ mờ u ám lúc ẩn lúc hiện. Nhưng ánh sáng đó rõ ràng là có đó. Mình không cô độc, Aomame nghĩ. Bọn mình đã hòa làm một. Có lẽ là bởi cùng trải nghiệm một câu chuyện trong cùng một thời điểm.

Và nếu như đó là câu chuyện của Tengo đồng thời cũng là câu chuyện của mình, có lẽ mình cũng có thể viết ra các tình tiết, Aomame nghĩ. Mình có thể thêm vào thậm chí viết lại tình tiết nào đó. Quan trọng nhất là mình hẳn có thể quyết định đoạn kết theo ý chí của chính mình. Đúng không?

Nàng nghĩ về khả năng này.

Nhưng phải làm như thế nào?

Aomame không biết. Nàng chỉ hiểu rằng khả năng ấy chắc chắn có. Tạm thời đấy chỉ là một lý thuyết hãy còn thiếu tính cụ thể. Nàng mím chặt môi trong bóng đêm tĩnh lặng, trầm tư suy ngẫm. Chuyện này vô cùng quan trọng. Cần phải nghĩ cho thật chín.

Hai chúng mình hợp thành một cặp. Giống như Tengo và Fukaeri đã hợp thành một cặp đôi mạnh mẽ khi viết Nhộng không khí, mình và Tengo sẽ hợp thành một cặp cho câu chuyện mới này. Ý chí của bọn mình… hoặc thứ gì đó như dòng chảy ngầm của ý chí… hợp lại thành một để tạo ra câu chuyện phức tạp này và đẩy nó tiến lên. Đây có lẽ là hoạt động được triển khai ở tầng sâu, không thể nhìn thấy trên bề mặt. Vì vậy, dù không thực sự gặp mặt được nhau, bọn mình vẫn có thể hòa làm một. Bọn mình tạo ra câu chuyện, đồng thời câu chuyện cũng đang khiến bọn mình chuyển động. Chẳng lẽ là vậy?

Nhưng có một câu hỏi. Một câu hỏi rất quan trọng.

Trong câu chuyện mà bọn mình viết ấy, thứ bé nhỏ này mang ý nghĩa gì? Nó sẽ đảm nhiệm sứ mệnh nào?

Thứ bé nhỏ này trong tử cung mình phát ra nhiệt lượng ít ỏi nhưng có thể cảm nhận được, tỏa ra ánh sáng mờ màu vàng cam, hệt như nhộng không khí. Có phải tử cung của mình đang đóng vai trò như một cái nhộng không khí. Mình là mẫu thể, còn thứ nhỏ bé này là tử thể của mình? Mình hoài thai đứa con của Tengo tuy không quan hệ tình dục, có phải chuyện ấy thảy là do ý chí của Người Tí Hon không? Hay bọn họ đã tài tình chiếm đoạt tử cung của mình để làm nhộng không khí rồi? Họ sử dụng mình làm thiết bị để chiết xuất ra tử thể mới chăng?

Không, không phải như vậy. Nàng phủ nhận mạnh mẽ. Không thể nào có chuyện đó được.

Hiện Người Tí Hon đã mất đi năng lực hành động. Lãnh Tụ đã nói thế. Vì cuốn tiểu thuyết Nhộng không khí được phổ biến rộng khắp nên hành động của bọn họ bị ngăn trở. Cho nên họ không thể biết được về lần hoài thai này. Vậy thì ai, hay sức mạnh nào đã khiến lần thụ thai này trở thành có thể? Và mục đích là gì?

Aomame không biết.

Nàng chỉ biết một điều: Thứ bé nhỏ này là sinh mệnh quý báu, vô giá mà nàng cùng Tengo thai nghén. Nàng đặt tay lên bụng, dịu dàng ấn lên quầng sáng màu vàng cam nhàn nhạt ấy, như bao bọc lấy nó, sau đó để bàn tay cảm nhận hơi ấm chầm chậm lan tỏa đi khắp toàn thân. Cho dù xảy ra chuyện gì, mình cũng phải bảo vệ thứ bé nhỏ này. Không để bất cứ ai cướp nó đi. Không để bất cứ ai làm tổn thương nó. Bọn mình sẽ bảo vệ nó, dưỡng dục nó. Nàng thầm hạ quyết tâm như vậy trong bóng tối đêm thâu.

Aomame vào phòng ngủ, cởi bỏ áo choàng, leo lên giường. Nàng nằm ngửa, tay đặt lên bụng, lại dùng bàn tay cảm nhận cảm giác ấm áp đó. Nỗi bất an đã tan biến, Aomame cũng không còn do dự nữa. Mình cần phải kiên cường hơn. Tâm trí và thân thể mình cần phải hòa làm một. Không lâu sau, cơn buồn ngủ tựa như màn khói mờ ảo lặng lẽ buông xuống bao bọc lấy nàng. Trên trời vẫn lơ lửng hai mặt trăng một lớn một nhỏ.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 24: Tengo


Rời khỏi thành phố mèo

Thi thể cha Tengo trong bộ đồng phục của nhân viên thu phí NHK là ủi phẳng phiu được đặt vào cỗ quan tài gỗ mộc mạc. Có lẽ đây là loại quan tài gỗ rẻ nhất, một món đồ hết sức hời hợt, trông chỉ chắc chắn hơn cái hộp gỗ đựng bánh ga tô một chút mà thôi. Người chết vốn người thấp nhỏ, vậy mà không gian bên trong gần như không thừa ra một chút nào. Quan tài được làm bằng gỗ dán, không có chút trang trí gì. Dùng cỗ quan tài này không sao chứ? Người ở công ty tổ chức tang lễ hỏi cho chắc. Không sao cả, Tengo trả lời. Đây là cỗ quan tài cha anh đã tự chọn ra trong mục sản phẩm và đã trả tiền rồi. Nếu bản thân người chết đã không có ý kiến thì Tengo đương nhiên không có.

Mặc đồng phục của nhân viên thu phí NHK nằm trong cỗ quan tài đơn sơ, cha anh trông không giống đã qua đời. Trông ông như thể đang tranh thủ lúc rảnh chợp mắt giây lát giữa bọn bề công việc, bất cứ lúc nào ông cũng có thể ngồi dậy, đội mũ lên tiếp tục đi thu tiền. Bộ đồng phục có thêu logo của NHK này giống như một phần da thịt của ông. Người này ra đời trong bộ đồng phục, rồi mặc cũng bộ đồng phục ấy đi vào lò hỏa thiêu. Khi nhìn thấy nó trong thực tế, Tengo không tưởng tượng nổi ngoài bộ đồng phục NHK ra thì còn bộ y phục nào thích hợp hơn với ông trong giờ khắc cuối cùng. Giống như các chiến binh trong ca kịch của Wagner khi được đưa đi hỏa táng thì nhất thiết phải mặc áo giáp vậy.

Sáng sớm ngày thứ Hai, trước mặt Tengo và Adachi Kumi, người ta đậy nắp quan tài, đóng đinh, sau đó cho lên xe tang. Gọi là xe tang nhưng thực ra nó giống hệt chiếc xe đã đưa thi thể ông từ bệnh viện đến công ty tổ chức tang lễ, loại xe van Toyota chú trọng công năng, chỉ là thay cỗ quan tài vào chỗ giường gắn dưới bánh xe. Đây chắc cũng là loại xe tang rẻ nhất. Hoàn toàn không có vẻ gì là trang nghiêm. Cũng không có tiếng nhạc Götterdämmerung[1] đưa tiễn. Mặc dù vậy Tengo dường như cũng không tìm ra được lý do gì để phàn nàn. Adachi Kumi dường như cũng không để tâm cho lắm. Quan trọng là một con người đã biến mất khỏi thế gian, những người còn sống nên khắc ghi sự thật này vào lòng. Hai người ngồi lên taxi, đi theo chiếc xe van màu đen ấy.

[1] Hoàng hôn của các vị thần, tên một vở nhạc kịch của Richard Wagner, nhạc sĩ Đức.

Rời khỏi đường quốc lộ ven bờ biển, đi thêm một đoạn về phía vùng đồi núi, họ đến khu hỏa táng. Nơi này tương đối mới, nhưng lại là một kiến trúc cực kỳ thiếu cá tính. Tiếng là nhà hỏa táng, nhưng nhìn nó giống như công xưởng hay cơ quan của chính phủ hơn. Có điều khu vườn rất đẹp, được cắt tỉa cẩn thận. Ống khói sừng sững vươn cao, chĩa thẳng lên trời. Nhìn ống khói này có thể nhận ra đây là một kiến trúc được sử dụng vào mục đích đặc biệt. Hôm ấy có lẽ nhà hỏa táng không nhiều việc lắm, họ không phải chờ, quan tài được nhận vào ngay. Cỗ quan tài chậm chậm đi vào lò đốt nhiệt độ cao, cánh cửa sắt nặng nề tựa như nắp tàu ngầm đóng lại. Người đàn ông trung niên ở nhà hỏa táng đeo găng trắng chắp tay thi lễ với Tengo, sau đó ấn nút châm lửa. Adachi Kumi hướng về phía cánh cửa sắt đóng kín chắp hai tay lại, Tengo làm theo.

Cuộc hỏa táng kéo dài khoảng một tiếng, Tengo và Adachi Kumi đợi ở phòng nghỉ trong tòa nhà. Adachi Kumi mua hai lon cà phê nóng ở máy bán hàng tự động, hai người họ ngồi cạnh nhau lặng lẽ uống trên băng ghế dài đối diện với ô cửa sổ kiểu Pháp. Ngoài cửa sổ là một thảm cỏ mùa đông khô héo, và những cây trụi lá. Hai con chim màu đen đậu trên cành cây. Tengo không biết chúng là loài chim gì. Đuôi dài, thân nhỏ, giọng hót lớn, sắc lanh lảnh. Lúc kêu, đuôi chúng dựng đứng lên. Bên trên rừng cây nhỏ ấy là bầu trời mùa đông xanh ngắt không một gợn mây. Bên trong áo khoác nỉ màu kem có cúc bằng sừng trâu, Adachi Kumi mặc váy đen ngắn, Tengo mặc áo len cao cổ màu đen, áo khoác dạ màu xám sẫm. Anh đi giày đế bằng màu cà phê đậm. Trong đống quần áo của anh, đây đã là bộ nghiêm chỉnh nhất rồi.

“Bố em cũng hỏa táng ở đây,” Adachi Kumi nói, “những người cùng đến ai cũng hút thuốc liên tục không ngừng. Kết quả là cả một quầng khói lơ lửng trên trần nhà. Cũng chả trách được, họ đều là bạn đánh cá với bố em mà.”

Tengo tưởng tượng ra cảnh ấy. Một đám người da ngăm đen vì cháy nắng, khoác trên mìn bộ vest đen không quen mặc, người nào người nấy không ngừng hút thuốc, ai điếu cho người đàn ông chết vì ung thư phổi. Nhưng lúc này trong phòng nghỉ chỉ có Tengo và Adachi Kumi. Bầu trời khí xung quanh tĩnh lặng. Tiếng hót lanh lảnh của lũ chim chốc chốc vẳng từ khu rừng nhỏ đến, ngoài ra không có bất cứ âm thanh nào phá vỡ sự tĩnh lặng ấy. Không âm nhạc, không tiếng người. Mặt trời trút ánh sáng dịu dàng ấm áp xuống mặt đất. Ánh sáng xuyên qua cửa kính lọt vào phòng, tụ thành một mảng sáng trầm mặc dưới chân hai người. Thời gian tựa như dòng nước gần cửa sông, trôi đi chầm chậm.

“Cảm ơn cô đã đi với tôi,” Tengo nói sau một hồi im lặng.

Adachi Kumi vươn tay ra, đặt lên bàn tay Tengo. “Đi một mình sẽ không chịu đựng nổi đâu. Tốt nhất là bên cạnh có một người. Giống như thế này này.”

“Có lẽ thế thật,” Tengo thừa nhận.

“Một người chết đi, dù hoàn cảnh thế nào thì cũng là chuyện khủng khiếp. Vì thế giới này đột nhiên vỡ ra một lỗ thủng. Chúng ta cần phải bày tỏ lòng thành kính. Bằng không, lỗ thủng ấy sẽ không bao giờ bịt lại được.”

Tengo gật đầu.

“Không thể bỏ mặc nó được,” Adachi Kumi nói tiếp, “không khéo có người rơi xuống khỏi lỗ thủng ấy.”

“Nhưng cũng có lúc người chết mang theo bí mật,” Tengo nói, “trường hợp đó mà bít lỗ thủng thì những bí mật ấy sẽ trở thành bí mật vĩnh viễn.”

“Nhưng em cảm thấy thế cũng là cần thiết.”

“Tại sao?”

“Nếu người chết đã mang bí mật ấy đi theo thì chắc chắn nó là thứ không thể để lại phía sau.”

“Tại sao không thể để lại phía sau?”

Adachi Kumi buông tay Tengo ra, nhìn chằm chằm vào mặt anh. “Hẳn là trong những bí mật ấy có một số việc chỉ người chết mới hiểu được. Có tốn bao nhiêu thời gian, nói bao nhiêu lời cũng không thể lý giải cho cùng những sự việc ấy. Thứ ấy người chết chỉ có thể mang theo xuống mồ, như một món hành lý tùy thân quan trọng vậy.”

Tengo không nói gì, nhìn vạt nắng dưới chân. Sàn nhà lót vải sơn sáng lên mờ mờ. Trước mắt Tengo là đôi giày đế bằng đã cũ của anh, và đôi giày gót thấp kiểu dáng đơn giản màu đen của Adachi Kumi. Cảnh ấy ngay trước mắt anh, nhưng lại dường như xa hàng dặm.

“Anh Tengo chắc cũng có những điều khó lòng nói rõ với người khác, phải không?”

“Có lẽ,” Tengo đáp.

Adachi Kumi không nói gì, đan chéo đôi chân thanh mảnh trong chiếc tất liền quần vào với nhau.

“Lần trước cô nói, cô đã chết một lần,” Tengo hỏi Adachi Kumi.

“Ưm. Hồi trước em từng chết một lần. Trong một đêm mưa lạnh cô đơn.”

“Cô còn nhớ tình cảnh lúc đó không?”

“Có chứ, em nghĩ thế. Từ lâu lắm rồi em đã thường xuyên nằm mơ, thấy tình cảnh lúc đó. Giấc mơ rất rõ ràng, lần nào cũng như lần nào, nên em buộc phải tin chuyện đó thực sự đã xảy ra.”

“Có giống như reincarnation không?”

“Reincarnation?”

“Chuyển thế. Luân hồi.”

Adachi Kumi ngẫm nghĩ giây lát. “Em biết nói thế nào nhỉ? Có lẽ phải. Cũng có lẽ là không.”

“Sau khi chết, cô cũng được hỏa thiêu thế này à?”

Adachi Kumi lắc đầu. “Em không nhớ nữa. Vì đó là chuyện sau khi chết. Em chỉ nhớ khoảnh khắc lúc mình chết thôi. Có người siết cổ em. Một người đàn ông xa lạ.”

“Cô còn nhớ mặt hắn ta không?”

“Tất nhiên. Em đã nhìn thấy vô số lần trong các giấc mơ. Nếu gặp ở trên đường, thoạt nhìn cái là em có thể nhận ra ngay.”

“Nếu thật sự gặp lại hắn trên đường, cô sẽ làm gì?”

Adachi Kumi lấy đầu ngón tay day day mũi, như kiểm tra xem mũi mình có còn ở đó không. “Chuyện này à, em nghĩ đi nghĩ lại nhiều rồi. Nếu thực sự gặp hắn trên đường thì tính sao? Có thể em sẽ co giò chạy, cũng có thể sẽ lẳng lặng bám theo sau hắn. Mà không, phải đến lúc ấy thì em mới biết được mình sẽ làm gì chứ.”

“Theo dõi hắn, sau đó thì thế nào?”

“Em làm sao mà biết được. Nhưng có lẽ người đàn ông ấy nắm được bí mật quan trọng gì đó về em chăng. Nếu thuận lợi, biết đâu em sẽ làm rõ được chân tướng cái bí mật ấy.”

“Bí mật gì?”

“Ví dụ như ý nghĩa của việc em ở nơi này chẳng hạn.”

“Nhưng người đàn ông ấy có thể sẽ giết cô thêm một lần nữa.”

“Cũng không chừng,” Adachi Kumi hơi dẩu môi lên. “Hắn ta nguy hiểm. Chuyện này thì tất nhiên em biết. Có lẽ bỏ chạy mới là cách hay nhất. Nhưng em vẫn bị cái bí mật chắc chắn là có tồn tại ấy thu hút. Kiểu như chỉ cần có hang hốc tối tăm là lũ mèo phải vào do thám cho bằng được ấy.”

Sau khi hỏa táng xong, Tengo và Adachi Kumi cùng thu nhặt di cốt của cha anh, cho vào hũ nhỏ. Hũ tro cốt được trao lại cho Tengo. Nhận thì nhận, song Tengo không biết phải xử lý ra sao cho ổn, lại không thể tùy tiện bỏ đâu thì bỏ. Anh lúng túng ôm lọ tro, cùng Adachi Kumi bắt taxi chạy về phía nhà ga.

“Những chuyện lặt vặt còn lại, em sẽ xử lý ổn thỏa.” Adachi Kumi nói trên taxi. Sau đó, thoáng trầm ngâm, cô nói thêm: “Nếu anh không ngại, việc đặt hũ di cốt này cũng để em làm hộ cho, được không?”

Tengo nghe cô nói thế, lấy làm kinh ngạc. “Như vậy được không?”

“Có gì mà không được,” Kumi nói, “còn có những tang lễ mà không người thân nào có mặt cơ mà.”

“Nếu cô có thể làm vậy thì đã giúp được tôi một việc lớn rồi,” Tengo nói, ít nhiều thấy áy náy, nhưng thật ra anh có cảm giác vừa trút đi được một gánh nặng. Anh đưa hũ tro cốt cho Adachi Kumi. Chắc mình sẽ không bao giờ trông thấy hũ di cốt này nữa, anh nghĩ. Giờ chỉ còn lại ký ức. Và ký ức này đến một ngày cũng sẽ hóa thành tro bụi, tan vào thinh không.

“Em là người ở đây, chuyện gì cũng có thể lo liệu được. Cho nên anh cứ về Tokyo đi. Tất nhiên bọn em đều rất quý anh, nhưng đây không phải là nơi anh nên ở lại lâu.”

Rời khỏi thành phố mèo, Tengo nghĩ.

“Cám ơn cô đã giúp tôi rất nhiều,” anh cảm ơn thêm lần nữa.

“Ừm, anh Tengo này, em có thể chân thành khuyên anh một điều không? Tất nhiên, em chẳng xứng để chân thành khuyên ai cái gì cả.”

“Tất nhiên là được rồi.”

“Có lẽ cha anh đúng là đã mang theo bí mật gì đó sang thế giới kia rồi. Em thấy hình như anh hơi hoang mang vì chuyện này. Tâm trạng ấy của anh em có thể hiểu được. Nhưng mà, anh Tengo này, tốt nhất anh đừng nên thám thính cái hố đen sâu tối ấy làm gì. Chuyện ấy cứ giao cho lũ mèo ấy. Anh cứ cố làm cũng chẳng đi tới đâu cả. Chi bằng hãy nghĩ đến tương lai thì hơn.”

“Lỗ hổng càn phải bịt lại,” Tengo nói.

“Đúng thế,” Adachi Kumi đáp, “cú mèo cũng nói thế. Anh còn nhớ cú mèo không?”

“Tất nhiên.”

Cú mèo là thần bảo vệ rừng sâu, biết hết mọi thứ trên đời, nó sẽ truyền thụ trí tuệ của màn đêm cho chúng ta.

“Cú mèo vẫn kêu trong khu rừng gỗ tạp ấy hả?”

“Nó chẳng đi đâu hết,” cô y tá trẻ nói, “vẫn luôn luôn ở đó.”

Tengo lên tàu hỏa đi Tateyama, Adachi Kumi tiễn anh. Tựa như cô phải tận mắt xác nhận anh đã lên tàu rời khỏi thành phố nhỏ này. Cô đứng trên sân ga vẫy vẫy tay, cho đến khi đoàn tàu khuất hẳn.

Bảy giờ tối thứ Hai, Tengo về đến nhà ở Koenji. Anh bật đèn, ngồi xuống ghế cạnh bàn ăn, đảo mắt nhìn một vòng quanh nhà. Chẳng có gì thay đổi so với hôm qua lúc anh đi. Rèm cửa kéo kín mít, không một khe hở. Trên bàn chất chồng những bản thảo in ra. Sáu chiếc bút chì gọt nhọn hoắc cắm trong ống bút. Bát đũa rửa sạch xếp thành đống trong bồn rửa. Kim đồng hồ lẳng lặng ghi lại sự chuyển dịch của thời gian, lịch treo tường tuyên cáo năm nay đã đi đến tháng cuối cùng. Căn phòng cơ hồ còn tĩnh mịch hơn ngày thường. Hơi tĩnh mịch quá, khiến anh có cảm giác trong đây có gì đó quá độ. Nhưng có lẽ là do ảnh hưởng tâm lý. Có lẽ vì mới đây không lâu anh vừa tận mắt nhìn thấy một người tiêu vong. Có lẽ vì lỗ hỏng của thế giới vẫn chưa hoàn toàn được bịt kín.

Tengo uống một cốc nước rồi đi tắm nước nóng. Anh gội đầu ngoáy tai, cắt móng tay kỹ càng, đoạn lấy quần áo lót mới trong ngăn kéo tủ ra mặc vào. Cần phải loại bỏ các loại mùi trên cơ thể. Mùi của thành phố mèo. Tất nhiên bọn em đều rất quý anh, nhưng đây không phải là nơi anh nên ở lại lâu. Adachi Kumi đã nói vậy.

Tengo không có cảm giác đói. Anh không có tâm trạng làm việc, cũng không muốn mở sách ra đọc. Cũng không muốn nghe nhạc. Cơ thể mệt mỏi rã rời nhưng thần kinh anh lại hưng phấn lạ thường, xem ra không thể nằm xuống dỗ mình ngủ được. Ngay cả bầu không khí yên ắng bao trùm xung quanh cũng toát lên một vẻ giả tạo nào đó.

Nếu Fukaeri ở đây thì tốt biết mấy, Tengo nghĩ. Cô ấy nói chuyện nhạt nhẽo cũng được. Vô nghĩa cũng được. Kể cả giọng nói thiếu thanh điệu và dấu chấm hỏi ở cuối câu của cô ấy nữa. Đã lâu rồi anh không nghe thấy giọng cô, và anh nhớ nó. Nhưng Tengo cũng biết, Fukaeri sẽ không quay lại căn hộ này nữa. Tengo không thể nói rõ tại sao anh biết. Nhưng cô sẽ không quay lại đây nữa. Đại khái là vậy.

Dù là ai cũng được, anh muốn tìm người để nói chuyện. Nếu có thể, anh muốn chuyện phiếm với người tình hơn tuổi của mình. Nhưng không thể liên lạc được với cô. Anh không biết địa chỉ của cô, hơn nữa, từ những gì người khác nói với anh, cô đã mất rồi.

Anh thử bấm số điện thoại công ty của Komatsu. Đây là số gọi trực tiếp đến bàn làm việc của anh ta. Nhưng không ai bắt máy. Sau khi để chuông đổ mười lăm lần, Tengo bỏ cuộc, gác ống nghe lên.

Còn ai có thể gọi điện thoại nữa đây nhỉ? Tengo thầm tính toán trong đầu, nhưng không nghĩ ra người nào thích hợp. Anh cũng nghĩ đến Adachi Kumi, nhưng rồi nghĩ lại, kỳ thực anh không biết số điện thoại của cô.

Sau đó, anh nghĩ đến một nơi nào đó trên thế giới vẫn còn lỗ hổng đen ngòm chưa được bít lại. Lỗ hổng không lớn lắm, nhưng sâu vô cùng. Nếu mình lớn tiếng hét vào trong đó, liệu có thể nói chuyện với cha được không nhỉ? Liệu người chết có nói sự thật với mình hay không?

“Anh cứ cố làm thì cũng chẳng đi tới đâu cả,” Adachi Kumi nói, “chi bằng hãy nghĩ đến tương lai thì hơn.”

Nói vậy không đúng, Tengo nghĩ. Không phải chỉ như vậy, Đúng là biết được bí mật cũng chưa chắc đã đưa mình tới đâu. Nhưng dù là thế, mình vẫn phải tìm hiểu tại sao nó không thể chỉ dẫn cho mình. Biết được lý do chính xác, có lẽ mình sẽ có thể đi tới một nơi nào đó.

Bố có là bố thật của con hay không cũng được, chuyện này không quan trọng nữa. Tengo hét vào cái hố đen tối om ấy. Sao cũng được. Tựu trung, bố đã mang theo một phần của con chết đi, còn con thì tiếp tục sống với một phần của bố. Dù chúng ta có phải máu mủ ruột rà hay không, sự thật này không bao giờ thay đổi. Thời gian đã qua lâu đến vậy rồi, mà thế giới này thì phải tiến lên phía trước.

Anh như nghe thấy ngoài cửa sổ vẳng lại tiếng cú mèo kêu. Đương nhiên, đó là ảo giác của đôi tai.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 25: Ushikawa


Lạnh hay không, Thượng đế đều ở đây

“Không chết đơn giản vậy được đâu,” giọng người đàn ông vang lên sau lưng y. Hồ như hắn đọc được ý nghĩ của Ushikawa, “anh chỉ vừa tạm thời mất đi ý thức. Tất nhiên, anh đã đến sát rìa ranh giới đó rồi.”

Y chưa từng nghe thấy giọng nói này. Một chất giọng trung lập, thiếu sắc thái tình cảm. Không cao cũng không thấp, không quá cứng cũng không quá mềm. Là kiểu giọng nói thông báo thời gian cất cánh hạ cánh của máy bay và tình hình thị trường cổ phiếu.

Hôm nay thứ mấy rồi? Ushikawa chợt nghĩ. Chắc là đêm ngày thứ Hai. Không, nói chính xác thì có lẽ đã sang ngày thứ Ba rồi.

“Anh Ushikawa,” người đàn ông kia nói, “gọi anh là anh Ushikawa có được không?”

Ushikawa im lặng chừng hai mươi giây. Sau đó, không hề cảnh báo, người đàn ông bất ngờ thúc một cú vào chỗ thận trái y. Không thành tiếng, nhưng là một đòn cực mạnh. Cơn đau khủng khiếp lan tỏa khắp toàn thân Ushikawa. Tất cả cơ quan nội tạng đều gấp rút co giật, mãi đến khi cơn đau dịu xuống y mới thở lại nổi. Cuối cùng, Ushikawa thở hắt ra một hơi khô khốc.

“Tôi đã rất lịch sự hỏi anh, hy vọng anh có thể trả lời. Nếu vẫn không thể nói chuyện cho tử tế, thì chỉ cần gật đầu hoặc lắc đầu cũng được. Đây là phép lịch sự tối thiểu,” người đàn ông nói, “Gọi anh là anh Ushikawa có được không?”

Ushikawa gật đầu lia lịa.

“Anh Ushikawa. Tên này rất dễ nhớ. Tôi đã kiểm tra ví trong túi quần anh. Trong đấy có bằng lái xe và danh thiếp. ‘Quản lý chuyên trách của Hội Chấn hưng Văn học Nghệ thuật Tân Nhật Bản’. Chức danh nghe oách quá, anh Ushikawa ạ. Nhưng ông Quản lý chuyên trách của Hội Chấn hưng Văn học Nghệ thuật Tân Nhật Bản không ngờ lại ôm máy ảnh bí mật rúc vào nơi như thế này, rốt cuộc là đang làm trò gì vậy?”

Ushikawa im lặng, nhất thời không nói được lời nào.

“Tốt nhất anh nên trả lời thì hơn,” người đàn ông nói. “Đây là lời khuyên chân thành. Thận mà vỡ, thì sẽ đau đớn cả đời đó.”

“Tôi đang giám sát một người sống ở đây,” rốt cuộc Ushikawa cũng trả lời. Giọng y trầm, không ổn định, lắp ba lắp bắp. Đang bị bịt mắt, y thậm chí không thể nhận ra đó là giọng của mình.

“Kawana Tengo phải không?”

Ushikawa gật đầu.

“Kawana Tengo, người chấp bút cho tiểu thuyết Nhộng không khí?”

Ushikawa lại gật đầu, sau đó phát ra mấy tiếng ho khan. Đối phương đã biết chuyện này.

“Ai phái anh đến?”

“Sakigake.”

“Chuyện này tôi cũng đoán ra được, anh Ushikawa ạ,” người đàn ông nói, “nhưng tại sao cớ sự đến nước này rồi mà giáo đoàn vẫn muốn giám sát Kawana Tengo? Đối với bọn họ, Kawana Tengo có phải nhân vật quan trọng gì đâu.”

Thằng cha này ở phe nào đây? Hắn đã biết được những gì rồi? Đầu óc Ushikawa nhanh chóng xoay chuyển. Tuy y không biết thằng cha này lai lịch thế nào, nhưng ít nhất hắn không phải là người của giáo đoàn phái đến. Nhưng Ushikawa không rõ đây là chuyện đáng mừng hay ngược lại.

“Đang hỏi anh đấy,” người đàn ông nói, đồng thời lấy ngón tay chọc chọc vào thận trái y. Lực rất mạnh.

“Anh ta có liên quan đến một phụ nữ,” Ushikawa rên rỉ trả lời.

“Người phụ nữ đó tên là gì?”

“Aomame.”

“Tại sao anh muốn truy lùng Aomame?”

“Vì cô ta đã hại Lãnh Tụ của giáo đoàn.”

“Hại?” người đàn ông như thể muốn kiểm nghiệm lại những gì vừa nghe được, “ý anh là cô ta đã giết ông ta? Nói đơn giản là vậy.”

“Đúng vậy,” Ushikawa trả lời. Y nghĩ, Mình không thể giấu gì với tên này được, sớm muộn gì hắn cũng sẽ ép mình nói ra sự thật.

“Nhưng chuyện này vẫn chưa được công bố.”

“Đây là bí mật nội bộ.”

“Bên trong giáo đoàn có mấy người biết được bí mật này?”

“Chỉ một nhóm nhỏ.”

“Trong đó bao gồm cả anh.”

Ushikawa gật đầu.

Người đàn ông nói: “Vậy tức là, ở giáo đoàn, anh có địa vị tương đối quan trọng.”

“Không,” nói đoạn, Ushikawa lắc đầu. Vừa lắc đầu, chỗ thận bị ăn đòn khi nãy lại nhói lên. “Tôi chỉ là chân chạy vặt, tình cờ biết được thông tin này mà thôi.”

“Xuất hiện không đúng lúc ở một nơi không nên xuất hiện. Đúng vậy không?”

“Tôi nghĩ là thế.”

“Nhưng anh Ushikawa này, lần này anh hành động một mình à?”

Ushikawa gật đầu.

“Vậy thì lạ thật. Những chuyện giám sát và theo dõi kiểu thế này theo lẽ thường đều do một nhóm cùng làm. Tinh vi hơn một chút thì còn có cả người tiếp tế, ít nhất cũng phải có ba người. Huống hồ xưa nay các anh đều hành động theo nhóm. Hành động một mình quá là không tự nhiên. Vì vậy, câu trả lời của anh khiến tôi không được hài lòng cho lắm.”

“Tôi không phải là người của giáo đoàn,” Ushikawa nói. Hơi thở dần ổn định trở lại, rốt cuộc y cũng có thể nói năng tử tế. “Tôi chỉ là một cá nhân được họ thuê thôi. Khi nào họ cảm thấy lợi dụng người bên ngoài tiện hơn thì họ gọi tôi đến.”

“Với thân phận Quản lý chuyên trách Hội Chấn hưng Văn học Nghệ thuật Tân Nhật Bản?”

“Đó chỉ là một công ty ma, hữu danh vô thực. Tôi lập ra chủ yếu để xử lý vấn đề thuế má cho giáo đoàn. Tôi là một nhân viên hợp đồng không có liên quan gì đến giáo đoàn. Tôi chỉ làm việc cho họ thôi.”

“Kiểu như lính đánh thuê?”

“Không, không giống như lính đánh thuê. Tôi làm một số công việc thu thập thông tin theo yêu cầu của họ. Nếu cần thiết phải động tay động chân, giáo đoàn có người khác đảm trách rồi.”

“Giáo đoàn chỉ thị cho anh ở đây giám sát Kawana Tengo, thăm dò quan hệ giữa anh và Aomame phải không, anh Ushikawa?”

“Đúng vậy.”

“Không đúng,” người đàn ông nói, “câu trả lời này anh không nói thật rồi. Nếu giáo đoàn đã biết được chuyện này, tức là đã biết mối quan hệ giữa Aomame và Kawana Tengo, thì không thể nào để anh giám sát một mình được. Chắc chắn họ sẽ dùng người của mình, lập thành một nhóm. Như vậy sẽ giảm thiểu sai lầm, ngoài ra còn có thể sử dụng vũ lực khi cần thiết.”

“Nhưng đúng là vậy mà. Tôi chỉ hành động theo lệnh mà thôi, còn tại sao họ để tôi làm một mình, tôi cũng không hiểu nữa.” Giọng nói của Ushikawa lại bắt đầu không ổn định, lắp ba lắp bắp.

Giả dụ hắn biết được Sakigake vẫn chưa biết gì về mối quan hệ giữa Aomame và Kawana Tengo, không khéo mình sẽ bị thủ tiêu ở đây mất, Ushikawa nghĩ. Chỉ cần mình biến mất, sẽ chẳng còn ai biết chuyện này nữa.

“Tôi không thích những câu trả lời dối trá,” người đàn ông lạnh lùng nói. “Anh Ushikawa này, chắc anh cũng tự biết rồi. Cho quả thận của anh thêm cú nữa với tôi chẳng hề gì. Nhưng nếu phải dồn sức để đánh thì tay tôi cũng đau, với lại làm thận anh bị thương nặng không phải là mục đích của tôi. Tôi với anh không có thù hận gì cả. Tôi chỉ có một mục đích thôi, là nghe anh nói thật. Vì vậy lần này ta đổi phương pháp mới nhé. Để tôi mời anh tham quan đáy biển một chuyến.”

Đáy biển? Ushikawa nghĩ. Thằng cha này muốn nói gì vậy?

Người đàn ông hình như lấy trong túi áo ra một món đồ. Tiếng nylon sột soạt lọt vào tai Ushikawa. Sau đó, đầu Ushikawa bị thứ gì đó chụp lên. Một cái túi nylon. Có vẻ là loại túi dày để đựng đồ đông lạnh. Sau đó, một sợi dây cao su to tướng quấn quanh cổ y. Ushikawa đã hiểu, đối phương muốn y chết ngạt. Y vừa toan hít thở vào thì trong miệng đã đầy nylon, lỗ mũi cũng bị bít lại. Hai lá phổi ra sức tìm kiếm không khí mới, nhưng chẳng thấy thứ đó đâu. Nylon dính chặt lên mặt y, trở thành một chiếc mặt nạ chết chóc. Chỉ thoáng sau, cơ bắp toàn thân Ushikawa bắt đầu co giật dữ dội. Y cố giật cái túi ra, nhưng cánh tay không thể động cựa vẫn đang bị trói quặt ra sau lưng. Não tương trong đầu y phình to lên như quả bóng, cơ hồ bùng nổ đến nơi. Ushikawa muốn hét lên. Y phải có thêm dưỡng khí. Y không phát ra được tiếng nào. Lưỡi y đầy cả khoang miệng, trong khi ý thức trượt ra khỏi bộ não y.

Cuối cùng, sợi dây cao su trên cổ cũng được tháo ta, túi nylon được nhấc khỏi đầu. Ushikawa ra sức hớp không khí mới đưa vào buồng phổi. Trong vòng mấy phút y vươn người ra trước, há miệng hít vào thở ra hồng hộc, như một con vật đang cố đớp con mồi ngoài tầm với vậy.

“Đáy biển thế nào?” người đàn ông đợi nhịp thở của Ushikawa bình thường trở lại mới hỏi. Giọng nói vẫn không bộc lộ chút xúc cảm nào. “Anh đã xuống rất sâu rồi. Chắc là đã thấy khá nhiều thứ chưa từng thấy. Một trải nghiệm quý báu lắm đó.”

Ushikawa không nói một lời. Y không cất tiếng được.

“Anh Ushikawa, tôi đã nói với anh mấy lần rồi, tôi cần anh trả lời thật. Vì vậy, tôi hỏi anh lần cuối cùng. Có phải giáo đoàn chỉ thị cho anh ở đây giám sát động tĩnh của Kawana Tengo, tìm hiểu quan hệ giữa anh ta và Aomame hay không? Chuyện này rất quan trọng. Liên quan đến mạng người đấy. Anh nghĩ cho kỹ đi, thành thực trả lời tôi. Anh mà nói dối thì không qua mắt được tôi đâu.”

“Giáo đoàn không biết chuyện này,” khó khăn lắm Ushikawa mới thốt được một câu.

“Đúng rồi, đây mới là nói thật chứ. Giáo đoàn vẫn chưa biết về quan hệ giữa Kawana Tengo và Aomame. Anh vẫn chưa báo cáo chuyện này với bọn họ. Phải không?”

Ushikawa gật đầu.

“Nếu anh nói thật ngay từ đầu thì đã không phải đi thăm thú đáy biển gì đó rồi. Khó chịu lắm đúng không?”

Ushikawa gật đầu.

“Chuyện này tôi biết chứ. Hồi trước tôi cũng bị thế rồi.” Người đàn ông như thể đang chuyện phiếm với Ushikawa. “Khổ sở thế nào, ai chưa từng trải qua thì không biết được đâu. Nỗi đau là thứ không thể nói chung chung một cách đơn giản được. Mỗi loại đau đớn đều có cá tính riêng. Cần sửa lại câu nói nổi tiếng của Tolstoy một chút: mọi niềm vui đều giống nhau, nhưng nỗi đau thì không đau nào giống đau nào. Anh nghĩ thế không?”

Ushikawa gật đầu. Y vẫn đang thở dốc.

Người đàn ông lại tiếp tục: “Vì vậy chúng ta đừng giấu giếm nhau làm gì nữa, sao không giãi bày tâm sự, trải lòng ra với nhau? Anh thấy thế có được không, anh Ushikawa?”

Ushikawa gật đầu.

“Nếu anh vẫn không chịu nói thật thì đành phải mời anh đi thăm thú đáy biển thêm chuyến nữa. Lần này tôi để anh đi chậm hơn một chút, thời gian dài hơn một chút, đến gần giới hạn thêm một chút. Ngộ nhỡ lỡ tay, có khi không trở về được nữa. Chắc anh cũng không muốn thế đâu nhỉ? Anh thấy thế nào, hả anh Ushikawa?”

Ushikawa lắc đầu.

“Xem ra chúng ta có nhiều điểm chung ra phết,” người đàn ông nói, “vừa nhìn đã biết nhau đều là một loại sói cô độc, hay là chó hoang bị lạc đàn nhỉ? Nói chung đều là loại không được xã hội chấp nhận, bản tính không hợp với các loại tổ chức, mà cũng không bao giờ được tổ chức tiếp nạp. Việc gì cũng chỉ tự mình làm. Đơn độc quyết định, đơn độc hành động, đơn độc chịu trách nhiệm. Tuy nhận lệnh từ cấp trên, nhưng không có đồng bọn, cũng chẳng có thuộc hạ. Thứ duy nhất chúng ta có thể dựa vào chỉ có cái đầu và cánh tay trời cho mà thôi. Phải không?”

Ushikawa gật đầu.

Người đàn ông nói: “Đây là điểm mạnh của tôi với anh, nhưng có lúc cũng lại là điểm yếu. Chẳng hạn như lần này, anh hơi nôn nóng và tham công quá. Không báo cáo lại với giáo đoàn mà định tự mình giải quyết vấn đề, muốn làm vụ này cho thật đẹp, một mình giành hết công lao. Kết quả là lơ là đề phòng. Tôi nói đúng không nhỉ?”

Ushikawa lại gật đầu.

“Tại sao anh phải dốc sức như vậy, có lý do gì chăng?”

“Tôi đã mắc sai lầm, dẫn đến cái chết của Lãnh Tụ.”

“Sai lầm như thế nào?”

“Tôi là người điều tra thân thế Aomame. Trước khi cô ta đến gặp Lãnh Tụ, tôi đã thẩm tra nghiêm ngặt, nhưng không phát hiện ra điểm nào bất ổn.”

“Nhưng cô ta lại âm mưu giết Lãnh Tụ, không chỉ vậy mà còn thực sự lấy mạng ông ta. Anh không hoàn thành nhiệm vụ được giao, và anh biết rồi sẽ có ngày phải gánh chịu trách nhiệm. Xét cho cùng anh chẳng qua chỉ là người ngoài, họ dùng xong là bỏ, huống hồ giờ anh lại còn biết quá nhiều nội tình của bọn họ. Muốn sống, anh chỉ còn cách nộp đầu Aomame cho họ thôi. Tôi nói đúng không?”

Ushikawa gật đầu.

“Xin lỗi nhé.”

Xin lỗi? Cái đầu hình dạng kỳ quái của Ushikawa ngẫm nghĩ về câu nói này. Rồi sao đó sực hiểu ra.

“Kế hoạch sát hại Lãnh Tụ ấy là do anh vạch ra?” Ushikawa hỏi.

Người đàn ông không trả lời. Nhưng Ushikawa hiểu, câu trả lời bằng im lặng tuyệt đối không phải là sự phủ định.

“Anh định làm gì tôi?” Ushikawa lại hỏi.

“Làm gì bây giờ nhỉ? Nói thật, tôi vẫn còn chưa nghĩ xong. Tiếp sau đây sẽ từ từ nghĩ tiếp. Tất cả còn phải xem thái độ của anh thế nào,” Tamaru nói. “Tôi còn có vài chuyện muốn hỏi anh.”

Ushikawa gật đầu.

“Cho tôi biết số điện thoại của người liên lạc với anh ở Sakigake. Chắc chắn là anh có một liên lạc trực tiếp.”

Ushikawa thoáng trù trừ, nhưng rồi vẫn đọc số điện thoại ấy. Đã đến nước này rồi, đây chẳng phải chuyện đáng để ý phải liều mạng che giấu nữa.

“Tên.”

“Tôi không biết,” Ushikawa nói dối. Nhưng người kia không để tâm lắm.

“Bọn chúng giỏi không?”

“Tương đối.”

“Nhưng chưa thể coi là chuyên gia.”

“Rất có năng lực. Tuyệt đối không do dự khi chấp hành mệnh lệnh. Nhưng không phải là chuyên gia.”

“Về cô Aomame, anh đã điều tra đến đâu rồi?” Tamaru hỏi. “Tìm được chỗ cô ta đang ẩn trốn chưa?”

Ushikawa lắc đầu. “Vẫn chưa tìm được, vì vậy mới ở đây tiếp tục giám sát Kawana Tengo. Nếu biết Aomame ở đâu, tôi đã sớm chuyển hướng sang phía cô ta rồi.”

“Có lý,” Tamaru nói, “nhưng, làm sao anh phát hiện ra cô Aomame và Kawana Tengo có liên quan?”

“Đến tận nơi hỏi dò.”

“Đến tận nơi hỏi dò như thế nào?”

“Tôi lần lượt điều tra hồ sơ lý lịch của Aomame, tra đến tận hồi cô ta còn nhỏ. Cô ta từng học tiểu học ở một trường công lập tại Ichikawa. Kawana Tegon cũng xuất thân từ thành phố Ichikawa. Tôi nghĩ, không khéo hai người này đã quen biết từ lúc ấy, bèn chạy đến trường tiểu học đó điều tra, quả nhiên, họ đã học cùng lớp trong hai năm.”

Tamaru phát ra từ sâu trong cổ họng một tiếng gầm gừ trầm đục như tiếng mèo. “Thì ra là thế. Anh điều tra bền bỉ thật đấy, anh Ushikawa. Hẳn là phải tốn nhiều thời gian và phải tinh lắm. Tôi rất khâm phục.”

Ushikawa im lặng. Giờ không phải lúc hỏi chuyện đối phương.

“Tôi hỏi anh lại một lần nữa,” Tamaru nói, “hiện nay chỉ có mình anh biết về mối quan hệ giữa Aomame và Kawana Tengo thôi, đúng không?”

“Còn anh nữa.”

“Tôi không tính. Ý tôi là ở phía anh ấy.”

Ushikawa gật đầu. “Ở phía tôi, chỉ có mình tôi biết chuyện này thôi.”

“Không nói dối chứ?”

“Không.”

“Vậy thì tốt, anh có biết chuyện Aomame mang thai không?”

“Mang thai?” Ushikawa nói. Có thể nhận thấy sự ngạc nhiên rõ rệt trong giọng y. “Con của ai?”

Tamaru không trả lời. “Anh thật sự không biết chuyện này?”

“Tôi không biết. Thật đấy.”

Tamaru thoáng im lặng, quan sát phản ứng của Ushikawa xem là thật hay giả, sau đó nói:

“Được rồi. Xem ra anh không biết thật. Tôi tin anh. Có điều, anh từng có một khoảng thời gian lượn lờ xung quanh biệt thự Cây Liễu ở Azabu. Tôi nói không sai chứ?”

Ushikawa gật đầu.

“Tại sao?”

Bà chủ của biệt thự ấy là hội viên của một câu lạc bộ thể thao cao cấp gần đó, huấn luyện viên riêng của bà ta chính là Aomame. Quan hệ cá nhân giữa hai người hình như rất thân mật. Người phụ nữ ấy mở một trung tâm bảo trợ chuyên thu nhận và bảo vệ các phụ nữ bị bạo hành gia đình ở ngay cạnh nhà mình, cảnh giới hết sức thâm nghiêm. Theo quan điểm của tôi thì hình như hơi quá mức cần thiết, vì vậy tôi mới suy luận xa hơn, rất có thể Aomame đang trốn trong trung tâm đó.”

“Vậy thì sao?”

“Nhưng nghĩ kỹ lại, tôi cảm thấy không đúng lắm. Người phụ nữ ấy có đủ tiền bạc và sức ảnh hưởng. Người như bà ta mà muốn che giấu Aomame thì chắc chắn sẽ không để cô ta ở cạnh mình mà giấu ở nơi nào đó thật xa. Vì vậy, tôi không tiếp tục điều tra sâu ở khu Azabu nữa, mà chuyển hướng sang điều tra Kawana Tengo này.”

Tamaru lại phát ra tiếng gầm gừ khe khẽ. “Anh rất thông minh, tư duy logic cũng rất tốt, lại chịu khó và kiên nhẫn nữa. Chỉ làm một chân chạy thì thật đáng tiếc. Trước giờ anh vẫn làm công việc này sao?”

“Hồi trước tôi từng làm luật sư,” Ushikawa nói.

“Chẳng trách. Chắc hồi đó anh cũng là kẻ nhiều mánh lới. Nhưng hơi vênh váo, đi quá giới hạn, giữa đường vấp chân ngã lộn nhào một cú. Giờ thì tuột dốc không phanh, phải làm chân chạy cho một tôn giáo mới để kiếm một hai đồng tiền. Đại khái là vậy đúng không?”

Ushikawa gật đầu. “Đúng thế.”

“Đúng là hết cách mà,” Tamaru nói. “Loài sói cô độc như chúng ta chỉ biết dựa vào hai bàn tay mình, muốn lăn lộn trong xã hội không phải dễ dàng. Nhìn bề ngoài tưởng chuyện gì cũng như ý, nhưng bất cẩn một chút thôi là ngã lộn cổ ngay. Đời là thế đấy.” Anh ta nắm chặt tay lại, đốt ngón tay kêu răng rắc. Một thứ âm thanh sắc nhọn, chẳng lành. “Vậy thì, anh đã báo cáo chuyện về biệt thự Cây Liễu với giáo đoàn chưa?”

“Tôi chưa nói với ai cả,” Ushikawa thành thực trả lời. “Nghi ngờ của tôi đối với biệt thự Cây Liễu, xét cho cùng cũng chỉ là suy đoán cá nhân. Vì ở đó đề phòng quá nghiêm ngặt, nên cũng chưa tìm được chứng cứ xác thực nào cả.”

“Tốt lắm,” Tamaru nói.

“Chỗ đó hẳn do anh phụ trách?”

Tamaru không trả lời. Anh ta là người đặt ra câu hỏi, không cần thiết phải trả lời câu hỏi của đối phương.

“Cho đến giờ anh chưa nói dối khi trả lời câu hỏi,” Tamaru nói. “Ít nhất là về đại thể. Chỉ cần xuống đáy biển thăm thú một lần là sẽ chẳng còn hơi sức mà nói dối nữa. Nếu cố gượng, sẽ lập tức biểu hiện ra giọng nói ngay. Nỗi sợ hãi gây ra điều đó.”

“Tôi không nói dối,” Ushikawa nói.

“Vậy thì tốt,” Tamaru tiếp tục, “chẳng ai muốn nếm nhiều đau khổ hơn cả. Tiện thể hỏi một câu, anh có biết Carl Jung không?”

Ushikawa không khỏi chau mày lại dưới tấm vải bịt mắt. Carl Jung? Thằng cha này muốn nói gì vậy? “Có phải ông nhà tâm lý học không?”

“Đúng vậy.”

“Coi như là biết,” Ushikawa dè dặt trả lời. “Ông ta sinh ra ở Thụy Sĩ hồi cuối thế kỷ thứ mười chín. Từng là học trò của Freud, nhưng về sau thì mỗi người một ngả. Ông ấy đưa ra thuật ngữ ‘vô thức tập thể’. Tôi chỉ biết từng đó thôi.”

“Tốt lắm.”

Ushikawa đợi anh ta nói tiếp.

Tamaru nói: “Carl Jung có một căn nhà trang nhã trong khu dân cư cao cấp bên bờ Zurich, Thụy Sĩ, sống sung túc bên gia đình. Nhưng ông ấy cần một nơi có thể ở một mình, để trầm tư về những vấn đề sâu sắc. Ông đã tìm được một mảnh đất hướng ra mặt hồ ở khu vực tên là Bollingen và xây ở đó một căn nhà nhỏ. Không thể gọi là biệt thự, chưa đến mức ấy. Tự tay Jung chất từng khối đá, xây một căn nhà mái cao hình trong. Đã được mua ở khu khai thác đá ngay gần đó. Ở Thụy Sĩ thời bấy giờ, muốn xây cái gì bằng đá cũng phải có giấy phép hành nghề thợ đá. Vì chuyện này, Jung phải đi thi lấy giấy phép, ông còn gia nhập cả công hội nghề nghiệp nữa. Xây dựng căn nhà này, và tự tay mình làm, đối với ông có ý nghĩa cực kỳ quan trọng. Bà mẹ qua đời cũng trở thành một nguyên nhân quan trọng khiến ông bắt tay vào xây dựng căn nhà.”

Tamaru ngưng một thoáng.

“Kiến trúc ấy được gọi là “Tháp”. Ông tự thiết kế nó dựa theo những căn nhà nhỏ của dân bộ lạc mà ông gặp hồi đi du lịch châu Phi. Không gian không một cách ngăn ấy có thể dung nạp mọi thứ của cuộc sống. Một nơi ở hết sức giản dị. Ông cho rằng như vậy là đủ để sống rồi. Không có điện, khí ga và nước máy. Nước được dẫn từ trên núi ở gần đó xuống. Nhưng sau này ông mới hiểu, đây chẳng qua chỉ là một nguyên mẫu mà thôi. Không lâu sau, để phù hợp với nhu cầu, ông dựng những vách trong, chia “Tháp” ra thành nhiều ngăn, xây tầng hai, sau đó lại xây thêm mấy gian nữa. Trên tường, ông tự mình vẽ tranh. Những bức tranh ám chỉ sự phân tách và triển khai của ý thức cá nhân. Toàn bộ toàn kiến trúc có thể nói có công dụng như một mạn-đà-la[1] lập thể. Kiến trúc này ông mất mười hai năm mới hoàn thành. Đối với giới nghiên cứu Jung, nó là một kiến trúc gây rất nhiều hứng thú. Anh đã từng nghe chuyện này chưa?”

[1] Mạn-đà-la (gốc tiếng Phạn madala): một hình vẽ biểu thị vũ trụ trong cái nhìn một bậc giác ngộ. Trong tiếng Phạn, mandala có nghĩa là một trung tâm (la) đã được tách riêng ra hay được trang điểm (mand). Có thể coi Mạn-đà-la là một đồ hình vũ trụ thu nhỏ. “Mandala” dịch nghĩa theo chữ Hán là “luân viên cự túc” (輪圓具足), nghĩa là vòng tròn đầy đủ. Theo ý nghĩa thực tiễn, Mạn-đà-la là đàn tràng để hành giả bày các lễ vật hay pháp khí cho nghi thức hành lễ, cầu nguyện, tu luyện,… Các tín đồ Ấn giáo, Phật giáo sử dụng Mạn-đà-la như một pháp khí tạo linh ảnh, còn đối với các tín đồ Đại thừa, Kim cương thừa thì Mạn-đà-la là một mô hình về vũ trụ hoàn hảo, trong đó có một hay nhiều vị thần ngự trị. (Theo wikipedia tiếng Việt)

Ushikawa lắc đầu.

“Tòa kiến trúc ấy đến nay vẫn còn đứng sừng sững bên bờ hồ Zurich, do cháu của Jung quản lý. Tiếc là nó không mở cửa cho công chúng bình thường, vì vậy không thể vào xem các phòng ốc bên trong. Nghe nói ở lối vào của ngôi “Tháp” ban đầu đến giờ vẫn còn gắn khối đá do Jung tự tay khắc chữ lên. ‘Lạnh hay không, Thượng đế đều ở đây’. Đây là những chữ Carl Jung đích thân khắc lên đá.”

Tamaru lại ngừng một chốc.

“Lạnh hay không, thượng đế đều ở đây.” Anh ta lặp lại bằng chất giọng bình thản, “anh hiểu câu này nghĩa là gì không?”

Ushikawa lắc đầu. “Không, tôi không hiểu.”

“Đúng vậy. Nghĩa là gì, tôi cũng không hiểu. Trong câu này có một ám gợi sâu sắc gì đó. Quá khó giải thích. Nhưng mà, ở lối vào của căn nhà do chính mình thiết kế, tự tay khiêng từng khối đá xây nên ấy, Carl Jung lại cũng tự tay vung đục khắc lên đá một câu như thế. Không hiểu tại sao tôi luôn bị câu này thu hút. Ý nghĩa thì không hiểu, nhưng cho dù không hiểu, câu này vẫn làm lòng tôi chấn động sâu sắc. Tôi không biết rõ lắm về Thượng đế. Tôi lớn lên trong trại trẻ mồ côi của Thiên Chúa giáo, đã nếm lắm mùi đau khổ, vì vậy ấn tượng của tôi về Thượng đế không được tốt cho lắm. Ở đấy lại rất lạnh, ngay cả giữa mùa hè cũng lạnh. Không phải tương đối lạnh thì cực lạnh, chỉ thế này hoặc thế kia thôi. Kể cả có Thượng đế thật thì cũng khó mà nói là ông ta đã nhân từ với tôi. Mặc dù vậy, câu nói này của Jung lại lặng lẽ thấm vào từng nếp gấp trong linh hồn tôi. Tôi bình thường nhắm mắt, thầm lặp đi lập lại nó, vậy là, thật lạ, tôi liền bình tĩnh lại. ‘Lạnh hay không, Thượng đế đều ở đây’. Xin lỗi, phiền anh nhắc lại câu này được không?”

“Lạnh hay không, Thượng đế đều ở đây,” Ushikawa không hiểu gì, lí nhí nhắc lại.

“Nghe không rõ lắm.”

“Lạnh hay không, Thượng đế đều ở đây,” Lần này Ushikawa cố nói cho tròn vành rõ chữ.

Tamaru nhắm mắt lại, nghiền ngẫm dư vị của câu nói này trong giây lát. Sau đó, tựa như cuối cùng cũng hạ được quyết tâm, anh ta hít sâu một hơi, rồi nhanh chóng thở ra. Anh ta mở bừng hai mắt, nhìn đôi bàn tay mình. Để đề phòng lưu lại dấu vân tay, anh ta đeo loại găng tay mỏng dùng một lần trong phẫu thuật.

“Xin lỗi,” Tamaru thấp giọng nói nhỏ. Có thể nhận thấy vẻ nghiêm túc trong giọng anh ta. Anh ta cầm cái túi nylon chụp kín mít lên đầu Ushikawa, sau đó dùng dây cao su bản to quấn chặt quanh cổ y. Động tác nhanh nhẹn và quyết đoán lạ thường. Ushikawa toan mở miệng phản đối nhưng lời không thốt nổi, càng không thể lọt vào tai bất cứ ai. Tại sao? Ushikawa thầm nghĩ bên trong cái túi. Mình đã thành thực nói hết những gì mình biết rồi, tại sao giờ lại muốn giết mình?

Cái đầu dường như sắp vỡ tung ra của y nghĩ đến ngôi nhà nhỏ ở Chuorinkan và hai đứa con gái còn bé dại. Nghĩ đến con chó y nuôi hồi còn ở đó. Y chưa bao giờ thích con chó nhỏ thân dài ấy, mà con chó cũng chưa bao giờ ưa thích y. Đó là một con chó ngốc, chỉ thích sủa nhặng xị, hay cắn xé thảm trải sàn, đi tè lung tung trong hành lang mới tinh. Hoàn toàn khác hẳn với con chó tạp chủng y nuôi hồi nhỏ. Mặc dù vậy, vào khoảng khắc cuối cùng của cuộc đời, trong đầu Ushikawa không ngờ lại hiện lên hình ảnh con chó nhỏ ngu ngốc ấy chạy qua chạy lại trên bãi cỏ trong vườn nhà.

Tấm thân tròn lẫn bị trói gô lại của Ushikawa tựa như con cá khổng lồ bị ném trên đất liền, giãy đành đạch trên tấm chiếu tatami, Tamaru nhìn cảnh tượng ấy. Một khi đã bị trói giật cánh khuỷu thế này, nạn nhân có vùng vẫy cách mấy cũng không phải lo âm thanh vọng sang đến nhà bên cạnh. Anh ta hiểu rất rõ chết theo cách này đau đớn đến thế nào. Nhưng đó là phương thức giết người sạch sẽ và gọn gàng nhất. Không có tiếng kêu gào, lại không có máu chảy. Ánh mắt anh ta theo dõi kim giây của chiếc đồng hồ thợ lặn hiệu Tag Heuer. Ba phút trôi qua, tứ chi Ushikawa đã ngừng giãy giụa, tựa như cộng hưởng với thứ gì đó, chỉ co giật nhè nhẹ, cuối cùng xoãi ra, bất động. Sau đó, Tamaru nhìn chằm chằm vào kim giây, chờ thêm ba phút nữa. Rồi anh ta dùng ngón tay kiểm tra mạch của sự sống. Có mùi nước tiểu thoang thoảng, Ushikawa lại không kiềm chế được mà vãi ra lần nữa. Bàng quang lúc này đã hoàn toàn mở bung ra. Không thể trách Ushikawa được, xét những gì y phải chịu đựng.

Anh ta cởi sợi dây cao su ra khỏi cổ Ushikawa, tháo túi nylon. Cái túi bị hít chặt vào khoang miệng. Ushikawa trợn trừng hai mắt, miệng há ra méo xệch rồi cứ vậy chết đi. Hàm răng khấp khểnh bẩn tưởi hoàn toàn lộ rõ. Tamaru còn trông thấy cả đầu lưỡi mọc đầy bựa màu xanh lục. Đó là bộ mặt mà Munch[2] hẳn là sẽ đưa vào tác phẩm của mình. Cái đầu hình dáng vốn đã kỳ dị giờ lại càng quái gở thêm. Chắc là y phải đau đớn lắm.

[2] Edvard Munch (1863-1944), họa sẽ và nhà điêu khắc người Na Uy. Tác giả của bức họa nổi tiếng Tiếng thét (1893).

“Xin lỗi,” Tamaru nói. “Thực ra tôi không muốn làm vậy đâu.”

Tamaru dùng mười đầu ngón tay mát xa cho cơ mặt Ushikawa lỏng ra, điều chỉnh lại khớp hàm, khiến gương mặt ấy trông dễ nhìn hơn một chút. Đoạn anh ta vào bếp lấy khăn bông lau sạch các chất bẩn bên khóe miệng Ushikawa. Phải mất một lúc, nhưng rốt cuộc trông Ushikawa cũng tử tế hơn phần nào, ít nhất là không đến nỗi làm người ta phải buộc lòng quay đi hướng khác. Chỉ có mí mắt của Ushikawa là anh ta không làm sao khép lại được.

“Giống như Shakespeare từng viết,” Tamaru nhìn cái đầu kỳ dị và nặng nề ấy, nói bằng giọng bình thản. “Hôm nay chết rồi, ngày mai sẽ không phải chết nữa. Vì vậy, hãy nhìn vào mặt tốt đẹp của đối phương.”

Là trong Henry đệ tứ hay Richard đệ tam nhỉ? Anh ta không nhớ xuất xứ của câu thoại này nữa. Nhưng với Tamaru đây không phải vấn đề quan trọng; giá là Ushikawa thì chắc y cũng chẳng muốn tìm cho ra nguồn trích dẫn chính xác. Anh ta cởi dây trói tay chân Ushikawa. Để không lưu lại dấu vết trên da, anh ta đã dùng loại dây vải bông mềm và cách trói đặc biệt. Anh ta lần lượt thu dọn dây trói, cái túi nylon chụp đầu và sợi dây cao su thít cổ, cho vào túi nhựa chuẩn bị sẵn. Kế đó, anh ta nhanh chóng kiểm tra đồ đạc của Ushikawa, thu hồi toàn bộ các ảnh y chụp được, cả máy ảnh và giá ba chân cũng cho vào túi. Ngộ nhỡ có người biết được y đang giám sát tòa nhà này thì khó tránh khỏi gây thêm phiền phức. Bọn họ sẽ suy đoán xem y đang giám sát ai. Cái tên Kawana Tengo rất có thể sẽ vì vậy mà trồi lên mặt nước. Tamaru cũng lấy cả quyển sổ ghi chép chi chít chữ. Ngoài ra, anh ta không để lại thứ gì quan trọng, chỉ còn lại túi ngủ, thức ăn, quần áo, ví da, chìa khóa, cùng với cái xác ghê rợn kia của Ushikawa. Cuối cùng, anh ta rút một tấm danh thiếp “Quản lý chuyên trách Hội Chấn hưng Văn học Nghệ thuật Tân Nhật Bản” trong ví Ushikawa ra, bỏ vào túi áo khoác của mình.

“Xin lỗi nhé,” trước khi đi, Tamaru lại nói với Ushikawa.

Tamaru vào buồng điện thoại công cộng gần nhà ga, cắm thẻ gọi điện, quay số điện thoại Ushikawa vừa cho mình. Đó là số điện thoại nội đô Tokyo. Có vẻ là khu Shibuya. Sau sáu tiếng chuông, đối phương bắt máy.

Tamaru cắt bỏ phần dạo đầu, đọc cho bên kia nghe địa chỉ khu chung cư ở Koenji và số phòng.

“Viết lại chưa?” anh ta hỏi.

“Có thể nhắc lại lần nữa được không?”

Tamaru lập lại một lần. Bên kia ghi lại, rồi đọc lại lần nữa xác nhận.

“Ở đó có một ông Ushikawa,” Tamaru nói. “Biết ông Ushikawa chứ?”

“Ushikawa?” bên kia nói.

Tamaru tảng lờ câu của bên kia, tiếp tục nói: “Ông Ushikawa đang ở đó, tiếc là ông ta không còn thở nữa rồi. Có vẻ không giống chết vì nguyên nhân tự nhiên. Trong ví có mấy tấm danh thiếp ‘Quản lý chuyên trách Hội Chấn hưng Văn học Nghệ thuật Tân Nhật Bản’. Nếu cảnh sát phát hiện ra thứ đó thì e sớm muộn gì cũng sẽ điều tra ra và liên hệ với các vị. Xét tình thế hiện nay, để xảy ra chuyện đó hẳn là sẽ phiền phức lắm. Nên xử lý sớm thì hơn. Nghiệp vụ này là sở trường của các vị còn gì, nhỉ?”

“Anh là ai?” bên kia hỏi.

“Một người báo tin nhiệt tình,” Tamaru nói. “Tôi đây cũng thích cảnh sát lắm. Như các vị thôi.”

“Chết không phải vì nguyên nhân tự nhiên?”

“Ít nhất cũng không phải là chết già, cũng không phải yên ổn mà sang thế giới bên kia.”

Bên kia trầm mặc giây lát. “Vậy, ông Ushikawa ấy làm gì ở chỗ đó?”

“Chuyện ấy thì tôi chịu. Cụ thể thế nào thì phải đi hỏi ông Ushiwaka, nhưng tôi vừa nói với anh rồi, giờ ông ấy đang trong tình trạng không thể trả lời được.”

Bên kia im lặng một thoáng. “Chắc anh và người phụ nữ trẻ ở khách sạn Oruka có liên quan đến nhau đúng không?”

“Đây là loại câu hỏi mà anh không thể mong đợi câu trả lời.”

“Tôi đã gặp cô ta. Anh cứ nói vậy là cô ta sẽ hiểu. Có lời này muốn nhờ anh chuyển giúp.”

“Tôi đang nghe đây.”

“Chúng tôi không có ý định gây thương tổn cho cô ta,” bên kia nói.

“Nhưng theo như tôi hiểu, các anh đang dốc hết sức lực tìm kiếm cô ấy.”

“Hoàn toàn chính xác, chúng tôi vẫn luôn tìm kiếm cô ta.”

“Nhưng anh nói không định gây thương tổn cho cô ấy,” Tamaru nói. “Tại sao lại thế?”

Trước khi bên kia trả lời, có một khoảng lặng ngắn.

“Nói đơn giản thì, tại một thời gian nào đó, tình thế đã thay đổi. Tất nhiên, sự ra đi của Lãnh Tụ đã khiến những người xung quanh vô cùng tiếc thương, nhưng dù thế chuyện này đã kết thúc rồi, đã thành quá khứ rồi. Lãnh Tụ mang bệnh trên người, nên theo nghĩa nào đó thực ra là ông ấy tự tìm đến sự giải thoát. Vì vậy, đối với chuyện này, chúng tôi không có ý định tiếp tục truy cứu trách nhiệm của cô Aomame. Hiện giờ, chúng tôi hy vọng có thể gặp mặt cô ấy để nói chuyện.”

“Nói chuyện gì?”

“Nói về lợi ích của hai bên.”

“Nhưng đây xét cho cùng chỉ là suy nghĩ của các vị, các vị cảm thấy cần thiết phải nói chuyện, nhưng có khi cô ấy lại không mong muốn điều này.”

“Chắc chắn là còn chỗ để đàm phán được. Chúng tôi có thể cho các vị một số thứ. Tự do và an toàn chẳng hạn. Cả kiến thức và thông tin nữa. Có thể tìm nơi nào trung lập để nói chuyện không? Ở đâu cũng được, địa điểm tùy các vị chỉ định, chúng tôi nhất định sẽ đến. Đảm bảo an toàn cho các vị một trăm phần trăm. Không chỉ cô Aomame mà tất cả mọi người liên quan đến vụ việc này đều được đảm bảo an toàn. Không ai phải trốn tránh đi đâu nữa. Đề nghị này chẳng có gì là xấu cho cả đôi bên.”

“Là anh nói thế,” Tamaru đáp, “nhưng không có gì để chứng minh đề nghị này của anh đáng tin cậy cả.”

“Tóm lại, có thể nhờ anh chuyển lời đến cô Aomame không?” bên kia kiên nhẫn nói. “Việc vô cùng khẩn cấp, chúng tôi còn có thể tiếp tục nhượng bộ thêm nữa. Nếu anh cần căn cứ cụ thể để chứng minh thành ý, chúng tôi có thể cho anh. Chỉ cần gọi đến số này, bất cứ lúc nào cũng có thể liên hệ được với chúng tôi.”

“Anh có thể nói rõ hơn một chút nữa không? Tại sao các vị cần cô ấy đến vậy? Rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì khiến tình thế biến chuyển lớn như vậy?”

Bên kia thở ra nhè nhẹ, nói: “Chúng tôi cần phải tiếp tục nghe giọng. Thứ đó với chúng tôi giống như một nguồn nước dồi dào vậy, chúng tôi không thể để mất nó. Trước mắt, tôi chỉ có thể nói với anh như vậy.”

“Để duy trì cái giếng nước đó, các vị cần có Aomame.”

“Chuyện này không thể nói rõ trong một hai câu được. Tôi chỉ có thể nói, cô Aomame có liên quan đến chuyện này.”

“Fukada Eriko sao rồi? Các vị không cần cô ấy nữa à?”

“Giai đoạn hiện nay chúng tôi không cần Fukada Eriko nữa. Dù cô ấy ở đâu, đang làm gì cũng đều không liên quan. Sứ mệnh của cô ấy đã kết thúc.”

“Sứ mệnh gì?”

“Đây là thông tin nhạy cảm.” Bên kia ngừng lại một thoáng, “rất xin lỗi, giờ tôi không thể nói cụ thể hơn được nữa.”

“Sao anh không thử nghĩ về hoàn cảnh của mình trước đi.” Tamaru nói. “Hiện tại, quyền phát bóng đang ở phía chúng tôi. Tôi có thể tự do liên lạc với các vị, nhưng các vị thì không thể làm ngược lại. Anh thậm chí còn chưa biết tôi là ai. Chẳng phải thế sao?”

“Hoàn toàn chính xác. Quyền chủ động hiện giờ đang ở phía các vị, chúng tôi thậm chí còn không biết anh là ai. Mặc dù vậy, chuyện này không thể nói qua điện thoại được. Tôi đã nói quá nhiều, nhiều hơn những gì tôi được phép.”

Tamaru trầm ngâm giây lát. “Được rồi. Chúng tôi sẽ suy nghĩ về đề nghị của anh. Chúng tôi cần phải thương lượng. Sau đó, có thể tôi sẽ liên lạc với các vị.”

“Tôi sẽ đợi,” bên kia nói. “Cho phép tôi nhắc lại một lần nữa: Đề nghị này chẳng có gì là xấu cho cả đôi bên.”

“Giả sử chúng tôi không đếm xỉa hoặc từ chối đề nghị của anh thì sao?”

“Nếu vậy chúng tôi chỉ còn nước làm theo cách của mình. Chúng tôi có đôi chút sức mạnh. Sự thể có lẽ sẽ hơi tàn khốc một chút, không chừng còn liên lụy đến người xung quanh nữa dù chúng tôi không muốn thế. Các vị có là ai thì cũng đừng hòng yên ổn thoát thân, Hẳn không phải là viễn cảnh vui vẻ gì với cả hai phía chúng ta đâu.”

“Có lẽ vậy. Nhưng xem chừng phải thêm chút thời gian nữa thì tình thế mới phát triển đến mức đó. Mà như anh nói thì sự việc đã khẩn cấp lắm rồi.”

Người ở đầu dây bên kia khẽ ho khan một tiếng. “Có lẽ cần thời gian, nhưng cũng có thể không cần mấy.”

“Có xảy ra rồi thì mới biết được.”

“Chính xác,” bên kia nói. “Ngoài ra, còn một điểm quan trọng tôi cần nói. Mượn cách nói của anh, đúng là các vị đang có quyền phát bóng, nhưng hình như các vị vẫn chưa hiểu rõ quy tắc cơ bản của cuộc chơi này thì phải.”

“Cái đó cũng phải xảy ra rồi thì mới biết được.”

“Đến lúc xảy ra rồi, ngộ nhỡ không như ý thì mất mặt lắm đó.”

“Cho cả hai phía,” Tamaru nói.

Một quãng im lặng mang nhiều ám chỉ.

“À, còn chuyện ông Ushikawa, các vị tính sao nhỉ?” Tamaru hỏi.

“Chúng tôi sẽ nhanh chóng nhận về. Ngay trong đêm nay.”

“Cửa không khóa đâu.”

“Tốt quá rồi,” bên kia nói.

“Tiện thể hỏi một câu, các vị có thương tiếc cho cái chết của ông Ushikawa không?”

“Dù ai qua đời, chúng tôi cũng đều thương tiếc sâu sắc.”

“Cũng nên thương tiếc anh ta một chút. Một tay tương đối khá.”

“Nhưng không phải mười phân vẹn toàn. Có phải ý anh là thế không?”

“Chẳng ở đâu có người giỏi đến mức không bao giờ chết cả.”

“Anh nghĩ vậy,” bên kia nói.

“Tất nhiên,” Tamaru đáp, “tôi nghĩ vậy, anh thì không à?”

“Tôi đợi anh liên lạc,” bên kia không trả lời câu hỏi này, lạnh lùng nói.

Tamaru lẳng lặng dập máy. Không cần tiếp tục nói chuyện nữa. Lúc nào muốn, anh ta đều có thể gọi lại cho bọn người kia. Anh ta ra khỏi buồng điện thoại, đi về phía bãi đậu xe. Một chiếc Toyota Corrola cũ, màu xanh sẫm ảm đạm, không bắt mắt. Anh ta lái xe khoảng mười lăm phút, rồi dừng lại trước một công viên vắng vẻ. Sau khi chắc chắn không có ai nhìn, anh ta liền vứt túi nylon và dây cao su vào thùng rác. Cả đôi găng tay phẫu thuật cũng vứt nốt.

“Dù ai qua đời, họ cũng đều thương tiếc sâu sắc,” Tamaru nổ máy xe, thắt dây an toàn, lẩm bẩm một mình. Vậy thì tốt quá rồi, anh ta nghĩ. Ai chết thì cũng đều xứng đáng được thương tiếc. Dù chỉ là trong một thời gian ngắn ngủi.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 26: Aomame


Lãng mạn quá

Quá trưa ngày thứ Ba, chuông điện thoại reo. Aomame đang ngồi trên thảm tập yoga, hai chân choãi rộng, thực hiện động tác giãn cơ hông. Động tác này nhìn tưởng chừng đơn giản nhưng đòi hỏi rất nhiều cố gắng. Một lớp mồ hôi mỏng thấm ra chiếc áo thun nàng đang mặc. Aomame ngừng lại, một tay với khăn bông lau mồ hôi, một tay cầm ống nghe lên.

“Búp bê đầu to không còn ở khu chung cư ấy nữa rồi,” Tamaru vẫn như mọi lần, cắt bớt lời dạo đầu, nói ngay vào chuyện chính. Chào một tiếng cũng không.

“Không còn ở đó nữa?”

“Đi rồi. Sau khi được thuyết phục.”

“Sau khi được thuyết phục,” Aomame lặp lại. Búp bê đầu to chắc đã bị Tamaru dùng phương pháp nào đó cưỡng chế ra đi rồi.

“Và người họ Kawana ở trong tòa nhà đó chính là Kawana Tengo mà cô muốn tìm.”

Xung quanh Aomame, thế giới phình to rồi co rút lại, như thể nó là trái tim nàng vậy.

“Cô vẫn đang nghe chứ?” Tamaru hỏi.

“Tôi đang nghe.”

“Nhưng Kawana Tengo hiện tại không ở nhà. Anh ta phải đi vắng vài ngày.”

“Anh ấy không sao chứ?”

“Giờ anh ta không có mặt ở Tokyo, nhưng chắc chắn là không có chuyện gì. Búp bê đầu to thuê một căn hộ ở tầng một khu chung cư của Kawana Tengo, đợi cô đi tìm anh ta. Hắn còn lắp đặt một máy ảnh bí mật, giám sát khu vực cửa chính của tòa nhà.”

“Hắn chụp được ảnh tôi rồi à?”

“Chụp ba tấm. Vì trời tối, cô lại kéo sụp mũ xuống và đeo kính, còn che cả mặt bằng khăn quàng cổ nên không nhìn rõ mặt. Nhưng đó là cô, không nghi ngờ gì cả. Nếu cô còn đến nữa thì e sẽ phiền phức đấy.”

“Vậy ra giao cho anh xử lý là lựa chọn chính xác à?”

“Nếu có cái gọi là lựa chọn chính xác ở đây.”

Aomame nói: “Nhưng tựu trung hắn ta không còn là nhân tố đáng ngại nữa rồi.”

“Thằng cha đó sẽ không gây hại cho cô được nữa.”

“Vì đã bị anh thuyết phục rồi.”

“Tôi đã phải điều chỉnh một số thứ, nhưng cuối cùng ảnh chụp bị tịch thu cả rồi,” Tamaru nói. “Mục đích của Búp bê đầu to là đợi cô lộ mặt, Kawana Tengo chẳng qua chỉ là mồi nhử sống để đạt được mục đích này. Vì vậy, hiện tại không thấy có lý do gì để hắn muốn gây hại cho Kawana Tengo. Đảm bảo là anh ta sẽ không gặp chuyện gì đâu.”

“Nhẹ cả người,” Aomame nói.

“Kawana Tengo dạy toán tại một trường dự bị ở khu Yoyogi. Hình như là một thầy giáo rất tài hoa, nhưng mỗi tuần anh ta chỉ dạy mấy ngày, thu nhập xem ra không cao lắm. Hiện giờ anh ta vẫn độc thân, một mình sống tằn tiện trong khu chung cư trông có vẻ xập xệ ấy.”

Aomame vừa nhắm mắt lại, bên tai liền nghe thấy tiếng tim mình đập rộn điên cuồng. Lằn ranh phân cách giữa thế giới và bản thân nàng nhòa dần đi.

“Anh ta vừa làm thầy giáo dạy toán ở trường dự bị vừa viết tiểu thuyết của riêng mình. Một trường thiên tiểu thuyết rất dài. Chấp bút Nhộng không khí chẳng qua chỉ là việc làm thêm, chứ bản thân anh ta có tham vọng văn chương. Đây là chuyện tốt. Tham vọng đúng mức sẽ khiến con người ta trưởng thành.”

“Làm sao anh điều tra ra được những chuyện này?”

“Nhà không có người nên tôi bèn tự tiện vào xem xét một chút. Cửa có khóa, nhưng thứ đó không thể gọi là khóa được. Tôi cũng biết xâm phạm quyền riêng tư là không tốt, nhưng tôi cần phải tiến hành những bước điều tra cơ bản nhất. Nhà của đàn ông độc thân nhưng phải nói là thu dọn rất tinh tươm. Bếp ga lau sạch bong. Tủ lạnh sắp xếp gọn gàng ngăn nắp, không có bắp cải thối hay mấy thứ kiểu ấy. Tôi còn thấy dấu hiệu chứng tỏ anh ta có là quần áo. Nếu để làm bạn đời thì anh ta là một đối tượng khá ổn đấy. Miễn sao anh ta không đồng tính.”

“Còn tìm hiểu được gì nữa?”

“Tôi đã gọi điện đến trường dự bị Yoyogi, hỏi lịch dạy của anh ta. Nghe cô tiếp điện thoại nói là đêm Chủ nhật vừa rồi cha của Kawana Tengo qua đời trong một bệnh viện ở tỉnh Chiba, anh ta buộc phải rời khỏi Tokyo đến đó dự tang lễ, nên buổi học ngày thứ Hai bị hủy. Tang lễ cử hành ở đâu, lúc nào thì cô ta không biết. Nói tóm lại, buổi học tiếp theo là ngày thứ Năm, hình như trước đó anh ta sẽ trở về Tokyo.”

Chuyện cha Tengo là nhân viên thu phí của đài NHK, đương nhiên Aomame vẫn còn nhớ. Mỗi Chủ nhật, Tengo lại theo cha đi gõ cửa thu tiền. Nàng từng chạm mặt anh mấy lần trên đường hồi còn ở Ichikawa. Aomame không nhớ nổi gương mặt cha Tengo trông thế nào. Chỉ nhớ vóc người ông thấp nhỏ, mặc đồng phục của đài NHK, và hoàn toàn không giống Tengo chút nào.

“Nếu Búp bê đầu to không còn ở đó nữa thì tôi có thể đi gặp anh Tengo được không?”

“Đừng đi vẫn hơn,” Tamaru lập tức nói. “Đã thuyết phục được Búp bê đầu to, nhưng nói thật với cô, để thu dọn, tôi buộc lòng phải liên hệ với phía giáo đoàn. Vì có một món mà tốt nhất không nên để lọt vào tay chính quyền. Nếu bị phát hiện, e rằng các hộ gia đình trong khu chung cư sẽ bị thẩm tra, không ai tránh được. Bạn của cô có thể cũng bị liên lụy, mà chuyện ấy bảo tôi một mình xử lý thì thật tình là hơi quá sức. Nửa đêm một mình hì hục khiêng cái thứ ấy đi trên đường, ngộ nhỡ bị nhân viên thi hành luật pháp tra hỏi thì chẳng thể nào giải thích cho qua được. Giáo đoàn vừa đông người vừa cơ động, với lại mấy chuyện kiểu thế này họ cũng quen rồi, cũng như lúc họ vận chuyển một thứ khác ra khỏi khách sạn Okura ấy thôi. Cô hiểu ý tôi không?”

Aomame thầm phiên dịch cách dùng từ của Tamaru thành ngôn ngữ thông thường. “Có vẻ như anh đã dùng cách thức tương đối thô bạo để thuyết phục hắn ta nhỉ?”

Tamaru ậm ừ một tiếng trầm đục. “Thật đáng tiếc. Nhưng thực sự là thằng cha đó biết quá nhiều.”

Aomame hỏi: “Giáo đoàn có biết Búp bê đầu to làm gì trong khu chung cư ấy không?”

“Búp bê đầu to đang làm việc cho giáo đoàn, nhưng đến thời điểm hiện tại hắn vẫn đơn độc hành động, vẫn chưa báo cáo mình đang làm những gì. Đối với chúng ta, đây đương nhiên là chuyện tốt.”

“Nhưng hắn có việc cần làm ở đó, hiện giờ chắc bọn họ đã biết điều này rồi.”

“Đúng vậy. Tốt nhất cô tạm thời không nên tiếp cận chỗ đó. Kawana Tengo là người chấp bút cho Nhộng không khí, họ tên và địa chỉ chắc chắn ở trong danh sách đen của bọn họ cả rồi. Đám người kia có lẽ vẫn chưa nắm được quan hệ giữa Kawana Tengo và cô. Nhưng chỉ cần bọn họ truy được lý do Búp bê đầu to tiềm phục ở tòa nhà ấy thì sự tồn tại của Kawana Tengo chắc chắn sẽ nổi lên bề mặt. Chỉ là sớm hơn hay muộn hơn thôi.”

“Nhưng may mắn ra thì còn lâu nữa họ mới làm sáng tỏ được chuyện ấy. Có lẽ họ sẽ không lập tức nhận định cái chết của Búp bê đầu to có liên hệ đến Tengo đâu.”

“Nếu may mắn,” Tamaru nói, “nếu bọn họ không cẩn trọng như tôi tưởng tượng. Có điều tôi chưa bao giờ đặt tiền để ‘nếu may mắn’ hay gì đó cả, thế nên mới không phạm phải sai lầm lớn nào mà sống được đến ngày hôm nay.”

“Vì vậy tôi không nên đến gần tòa nhà đó thì hơn.”

“Tất nhiên,” Tamaru nói, “chúng ta vừa mới thoát hiểm trong đường tơ kẽ tóc. Cẩn thận mấy cũng không thừa.”

“Búp bê đầu to vẫn chưa điều tra được căn hộ tôi đang ẩn náu?”

“Nếu hắn điều tra được thì e lúc này cô đã ở nơi mà tôi không thể với tới rồi.”

“Nhưng hắn đã xuất hiện ngay trước mắt tôi.”

“Đúng vậy. Nhưng tôi đoán có lẽ chỉ do ngẫu nhiên nào đó dẫn hắn đến đây thôi.”

“Vì vậy hắn mới không hề cảnh giác, để lộ mình trên đỉnh cầu trượt.”

“Đúng vậy. Hắn hoàn toàn không biết mình bị cô trông thấy cũng không dự kiến được. Và sai lầm này khiến hắn mất mạng,” Tamaru nói, “Không phải tôi đã nói rồi sao. Sự sống và cái chết của mỗi người chỉ cách nhau một làn giấy mỏng thôi.”

Trầm mặc kéo dài khoảng vài giây. Sự trầm mặc nặng nề mà cái chết của con người, bất kể là ai, mang đến.

“Tuy Búp bê đầu to không còn nữa nhưng giáo đoàn vẫn tiếp tục truy tìm tôi.”

“Điểm này tôi thấy hơi khó hiểu,” Tamaru nói, “đám người ấy thoạt tiên muốn bắt cô để làm sáng tỏ xem tổ chức nào chủ mưu sát hại Lãnh Tụ. Một mình cô thì không thể vạch ra một kế hoạch kín kẽ đến như vậy. Chắc chắn có thế lực nào đó sau lưng cô, chuyện ấy bất cứ ai cũng có thể nhìn ra. Bọn họ mà bắt được thì thể nào cũng sẽ tra tấn bức cung cô.”

“Chính vì vậy tôi mới cần súng lục,” Aomame nói.

“Búp bê đầu to cũng nghĩ đây là chuyện đương nhiên,” Tamaru tiếp tục nói, “hắn tin rằng giáo đoàn lùng cô để thẩm vấn và trừng phạt. Nhưng giữa chừng, tình thế hình như đã có biến chuyển rất lớn. Sau khi Búp bê đầu to rút khỏi sân khấu, tôi đã nói chuyện điện thoại với một trong đám người ấy. Đối phương nói với tôi họ không còn ý định gây thương tổn cho cô nữa. Hắn nhờ tôi chuyển lời đến cô. Dĩ nhiên đây có thể là một cái bẫy. Nhưng theo tôi, có lẽ hắn ta nói thật lòng. Tên đó giải thích với tôi rằng cái chết của Lãnh Tụ xét theo nghĩa nào đó là do chính ông ta muốn chết. Có thể nói là một hành vi tự sát, vì vậy hiện giờ họ không cần phải trừng phạt cô vì chuyện này nữa.”

“Hắn nói đúng đấy,” Amomame đáp bằng giọng khô khan. “Ngay từ đầu Lãnh Tụ đã biết tôi đến để ám sát ông ta, hơn nữa ông ta còn mong muốn được chết trong tay tôi. Đêm hôm đó, ở trong phòng suite sang trọng của khách sạn Oruka.”

“Mấy tên phụ trách cảnh giới không nhìn ra được chân tướng của cô, nhưng Lãnh Tụ thì biết rõ.”

“Đúng. Tôi không biết tại sao, nhưng trước đó ông ta đã nhìn thấu suốt mọi sự rồi,” Aomame nói, “ông ta ở đó đợi tôi đến.”

Tamaru im lặng một chốc, đoạn hỏi: “Vậy, đã xảy ra chuyện gì?”

“Chúng tôi thực hiện một giao dịch.”

“Chuyện này tôi chưa từng nghe cô nói,” giọng Tamaru nghe cứng ngắc.

“Tôi chưa có cơ hội nói với anh.”

“Giao dịch như thế nào, giờ cô nói cho tôi biết đi.”

“Tôi mát xa co giãn cơ bắp cho ông ta khoảng một tiếng, trong lúc đó ông ta nói một số chuyện. Ông ta biết chuyện giữa tôi và anh Tengo. Sau đó, ông ta bảo tôi là mong tôi giết ông ta, ông ta mong được giải thoát khỏi cảm giác đau đớn khủng khiếp không bao giờ chấm dứt này càng sớm càng tốt. Ông ta còn nói, nếu tôi ban cho ông ta cái chết thì để đền đáp ông ta sẽ cứu mạng Tengo một lần. Vì vậy tôi mới hạ quyết tâm, ra tay tước đoạt tính mạng ông ta. Kỳ thực, kể cả nếu tôi không ra tay thì ông ta cũng đang gần kề cái chết. Nghĩ đến những chuyện xấu xa mà ông ta đã làm, tôi thà bỏ mặc cho ông ta quằn quại trong đau đớn còn hơn.”

“Cô không hề báo với bà chủ về cuộc giao dịch này.”

“Tôi đến đó là để giết Lãnh Tụ và đã hoàn thành sứ mệnh rồi,” Aomame nói. “Chuyện anh Tengo, theo lý mà nói, là vấn đề cá nhân.”

“Được rồi,” Tamaru nói, nửa như nhận thua, “Đúng vậy, cô đã hoàn thành sứ mệnh một cách trọn vẹn. Điều này thì tôi thừa nhận. Và vấn đề của Kawana Tengo đúng là chuyện cá nhân của cô. Có điều, trước hoặc sau vụ việc này, cô đã có thai mà không hiểu tại sao. Đây không phải là vấn đề nên tùy tiện bỏ qua.”

“Không phải ‘trước hoặc sau’. Mà chính là trong cái đêm sấm nổ ì ùng, trung tâm thành phố đột nhiên đổ mưa to ấy, tôi đã mang thai. Chính cái đêm mà tôi xử lý Lãnh Tụ ấy. Lúc trước tôi nói với anh rồi, tôi không có bất cứ quan hệ tình dục nào trong thời gian đó.”

Tamaru thở dài một tiếng: “Xét tính chất của vấn đề, tôi chỉ có thể chọn một trong hai: một là hoàn toàn tin những gì cô nói, hai là hoàn toàn không tin. Trước đây tôi luôn cho rằng cô là người đáng tin cậy, hiện tại tôi vẫn sẵn sàng tin cô. Có điều, riêng chuyện này, tôi không sao nhìn thấy logic đâu cả. Cô hiểu chứ, tôi là người chỉ có thể suy luận theo logic mà thôi.”

Aomame tiếp tục giữ im lặng.

Tamaru hỏi: “Việc Lãnh Tụ bị sát hại và cái thai huyền bí này có quan hệ nhân quả gì với nhau không?”

“Tôi cũng không rõ.”

“Có thể nghĩ đến khả năng cái thai trong bụng cô là con của Lãnh Tụ hay không? Không biết ông ta đã dùng cách gì, nói tóm lại là cách gì đó khiến cô mang thai. Giả định như vậy thì có thể lý giải tại sao bọn họ dốc toàn lực để giành giật cô. Bọn họ cần người thừa kế Lãnh Tụ.”

Aomame nắm chặt ống nghe, lắc đầu. “Không thể nào. Đây là con của Tengo. Chuyện ấy tôi biết rõ.”

“Chuyện này tôi cũng chỉ có thể chọn một trong hai: hoàn toàn tin cô; hoặc hoàn toàn không tin.”

“Tôi không có cách nào nói cho rõ hơn được nữa.”

Tamaru lại thở dài: “Được rồi. Tạm thời tôi cứ hãy chấp nhận toàn bộ những gì cô nói. Đó là con của cô và Kawana Tengo, điều này cô biết rõ. Nhưng kể cả là thế chăng nữa, quả tình tôi vẫn không thấy logic ở đâu cả. Thoạt đầu bọn họ muốn bắt cô để trừng phạt. Nhưng rồi một hôm đột nhiên xảy ra chuyện gì đó, hoặc là đột nhiên họ làm sáng tỏ được chuyện gì đó, vậy là bây giờ bọn họ lại cần cô. Bọn họ tuyên bố đảm bảo an toàn cho cô, còn có thể cho cô thứ gì đó nữa, và hy vọng có thể gặp cô để bàn bạc chuyện này. Rốt cuộc xảy ra chuyện gì?”

“Bọn họ không cần tôi,” Aomame nói, “tôi nghĩ bọn họ cần thứ ở trong bụng tôi thì đúng hơn. Ở một thời điểm nào đó, họ đã biết chuyện này.”

“Hô hô,” Người Tí Hon phụ trách bè ở nơi nào đó cất lên tiếng kêu.

“Tình thế phát triển hơi quá nhanh với tôi rồi,” Tamaru chưa nhìn thấy logic ở đâu

Không logic, là vì trên trời có hai mặt trăng, Aomame nghĩ. Chúng đã đánh cướp logic đi khỏi hết thảy sự vật rồi. Nhưng nàng không nói ra.

“Hô hô,” sáu người Tí Hon còn lại ở nơi nào đó đồng thanh phụ họa.

Tamaru nói: “Bọn họ cần người lắng nghe giọng nói. Tên kia nói với tôi trong điện thoại như thế. Hắn bảo, nếu mất đi giọng nói, giáo đoàn có thể sẽ tiêu vong từ đây. Lắng nghe giọng nói, thế là thế nào? Tôi không hiểu. Là hắn ta nói vậy. Có khi nào đứa bé trong bụng cô chính là người lắng nghe giọng nói?”

Aomame đặt tay lên bụng mình. Mẫu thể và tử thể, nàng nghĩ. Nhưng nàng không nói ra. Không thể để hai mặt trăng nghe thấy chuyện này.

“Tôi không biết,” Aomame cẩn trọng chọn từ, “có điều, tôi không nghĩ ra bọn họ còn lý do gì khác nữa.”

“Nhưng con của cô và Kawana Tengo tại sao lại có năng lực đặc biệt ấy?”

“Không biết,” Aomame trả lời.

Không chừng Lãnh Tụ đã dùng tính mạng để trao đổi, giao phó người thừa kế của ông ta cho mình. Ý nghĩa ấy chợt hiện lên trong đầu Aomame. Không chừng trong đêm mưa gió sấm sét ấy Lãnh Tụ đã tạm thời mở ra một con đường để các thế giới khác nhau có thể giao cắt, kết hợp mình và Tengo làm một.

Tamaru nói: “Dù nó là con ai, dù nó ra đời với năng lực gì, cô cũng không có ý định tiến hành giao dịch với giáo đoàn. Có phải vậy không? Dù cô có thể giành được thứ gì trong cuộc giao dịch ấy. Kể cả dù bọn họ chủ động nói cho cô biết những bí mật ẩn giấu ở sâu bên trong.”

“Dù xảy ra chuyện gì đi chăng nữa,” Aomame nói.

“Nhưng tôi e bọn họ không thèm để tâm đến ý kiến của cô đâu, họ sẽ giành đứa bé về tay dù có phải dùng thủ đoạn gì,” Tamaru nói. “Mà cô có một nhược điểm: là Kawana Tengo. Có lẽ nhược điểm duy nhất, song là nhược điểm lớn. Nếu biết được điều này, chắc chắn bọn họ sẽ tập trung tấn công mạnh mẽ vào đó.”

Tamaru nói đúng. Đối với Aomame, Kawana Tengo chính là lẽ sống của nàng, đồng thời cũng là nhược điểm chí mạng của nàng.

Tamaru nói: “Tiếp tục ở lại nơi đó quá nguy hiểm. Cô cần phải chuyển đến một nơi khác an toàn hơn, trước khi đám người ấy làm sáng tỏ được quan hệ giữa cô và Kawana Tengo.”

“Đã như vậy rồi, thế giới này không còn chỗ nào an toàn nữa,” Aomame nói.

Tamaru nghiền ngẫm ý kiến của nàng, đoạn bình tĩnh cất tiếng: “Cho tôi nghe suy nghĩ của cô.”

“Trước tiên, nhất định tôi phải gặp được anh Tengo. Trước khi đó, tôi không thể rời khỏi nơi này. Cho dù như vậy nguy hiểm chừng nào đi nữa.”

“Cô gặp anh ta rồi định làm gì?”

“Tôi biết mình cần làm gì.”

Tamaru thoáng trầm mặc. “Cô hoàn toàn chắc chắn chứ?”

“Tôi không biết có thành công hay không. Nhưng tôi biết mình cần làm gì. Hoàn toàn chắc chắn.”

“Nhưng cô không có ý định cho tôi biết tường tận.”

“Xin lỗi, không thể nói với anh được. Không chỉ mình anh mà bất cứ ai cũng vậy. Nếu tôi nói với bất cứ ai, nó sẽ lập tức trần trụi lộ ra trước cả thế giới.”

Hai mặt trăng đang dỏng tai nghe. Người Tí Hon đang dỏng tai nghe. Căn phòng đang dỏng tai nghe. Không thể để nó ra khỏi tâm trí nàng dù chỉ một phân. Cần phải xây tường thật dày, vây kín xung quanh nó.

Ở đầu dây bên kia, Tamaru đang lấy đầu bút bi gõ xuống mặt bàn. Lách cách lách cách, âm thanh khô khan đều đặn lọt vào tai Aomame. Những âm điệu cô độc, không có tiếng vang.

“Được rồi, tôi sẽ liên lạc với Kawana Tengo, nhưng trước đó phải được bà chủ đồng ý đã. Mệnh lệnh tôi nhận được là tranh thủ từng giây từng phút đưa cô đến nơi khác. Nhưng cô vẫn kiên trì nói không gặp Tengo thì tuyệt đối không đi khỏi chỗ đó. Giải thích rõ ràng với bà chủ xem ra không dễ. Chuyện này cô hiểu chứ?”

“Muốn giải thích chuyện không hợp logic một cách logic là cực kỳ khó.”

“Đúng thế, khó ngang với gặp được một viên ngọc trai thật trong quán hào ở Roppongi ấy chứ. Nhưng tôi sẽ cố hết sức.”

“Cảm ơn anh,” Aomame nói.

“Tôi cảm thấy những chuyện cô đang khăng khăng đó, chẳng hợp tình hợp lý tí nào cả. Giữa nguyên nhân và kết quả không thấy có quan hệ logic nào. Nhưng càng nói chuyện với cô, tôi lại càng cảm thấy mình có thể chấp nhận được. Thế là thế nào nhỉ?”

Aomame không nói gì.

“Bà chủ rất xem trọng và tín nhiệm cô,” Tamaru nói, “nếu cô đã kiên trì như vậy, tôi đoán bà ấy cũng chẳng nghĩ ra lý do nào để không cho cô gặp Kawana Tengo đâu. Xem ra chuyện cô và Kawana Tengo ở bên nhau là không thể lay chuyển được rồi.”

“Hơn hết thảy mọi thứ trên thế giới,” Aomame nói.

Hơn hết thảy mọi thứ trên mọi thế giới, nàng thầm tự sửa lại.

“Dù tôi có bảo làm thế quá nguy hiểm và từ chối liên hệ với Kawana Tengo, chắc chắn cô sẽ tự mình đến tòa nhà đó để gặp anh ta, đúng vậy không?

“Chắc chắn tôi sẽ làm như thế.”

“Không ai có thể ngăn cản cô.”

“Tôi nghĩ là rất khó.”

Tamaru ngừng trong giây lát. “Vậy tôi nên truyền đạt điều gì đến Kawana Tengo đây?”

“Mời anh ấy ra chỗ cầu trượt sau khi trời tối. Chỉ cần sau khi trời tối, bất cứ lúc nào cũng được. Tôi đợi anh ấy. Anh chỉ cần bảo anh ấy là Aomame nói, anh ấy sẽ hiểu.”

“Tôi biết rồi. Tôi sẽ chuyển lời đến anh ta như thế. Sau khi trời tối ra chỗ cầu trượt.”

“Còn nữa, nhờ anh nói với anh ấy, nếu có thứ gì quan trọng không thể vứt bỏ thì hãy mang theo bên mình. Đừng đi hai tay không.”

“Mang theo hành lý đi đâu hả?”

“Một nơi rất xa,” Aomame trả lời.

“Bao xa?”

“Không biết,” Aomame nói.

“Được rồi. Nếu bà chủ đồng ý, tôi sẽ chuyển lời cho Kawana Tengo. Tôi sẽ cố hết sức để đảm bảo an toàn cho cô. Mặc dù vậy vẫn khó tránh khỏi nguy hiểm. Đám người ấy xem ra sẽ liều mạng đến cùng. An toàn của bản thân chỉ có thể dựa vào chính mình thôi.”

“Tôi hiểu,” Aomame bình tĩnh nói. Lòng bàn tay nàng khe khẽ đặt lên bụng. Không chỉ an toàn của bản thân, nàng tự nhủ.

Sau khi gác điện thoại, Aomame đổ vật xuống sofa, sau đó nhắm mắt lại nghĩ về Tengo. Ngoài anh ra, nàng không thể nghĩ về bất cứ gì khác. Trên ngực nàng dường như có tảng đá lớn đè nặng, đau đớn vô cùng. Nhưng đó là nỗi đau khiến tinh thần nàng khoan khoái, nỗi đau mà nàng có thể chịu được. Anh ấy quả nhiên ở gần trong gang tấc, cách mình chưa đến mười phút đi bộ. Ý nghĩ này vừa đến, hơi ấm liền tự sâu trong lòng tỏa khắp thân thể Aomame. Anh ấy độc thân, đang dạy toán ở trường dự bị, ở trong căn hộ giản dị nhưng ngăn nắp sạch sẽ. Anh ấy nấu ăn, là quần áo, viết tiểu thuyết. Aomame ghen tị với Tamaru. Nếu có thể, nàng cũng muốn vào nhà Tengo, chạm vào từng món đồ ở đó trong thinh lặng. Nàng muốn kiểm tra xem bút chì anh dùng nhọn đến mức nào, muốn cầm chiếc cốc anh vẫn dùng để uống cà phê, muốn ngửi mùi còn vương lại trên quần áo anh. Nàng muốn được trải nghiệm trọn vẹn cái giai đoạn ấy trước khi gặp anh trong thực tế.

Nếu không có giai đoạn khởi động đó mà đột nhiên một mình ở bên anh, mình nên nói cái gì bây giờ nhỉ? Aomame không biết. Cứ tưởng tượng ra chuyện đó, hơi thở của nàng liền trở nên nặng nề gấp gáp, còn đầu óc thì trống rỗng. Có quá nhiều điều nàng muốn nói. Nhưng đồng thời, nghĩ kỹ, có khi nàng lại chẳng cần nói gì cả. Những gì nàng muốn nói với anh nhất sẽ mất đi ý nghĩa ngay khi nàng chuyển chúng thành lời.

Lúc này Aomame chỉ có thể chờ đợi. Bình tĩnh và cẩn trọng chờ đợi. Nàng thu dọn hàn lý, một khi phát hiện ra bóng dáng của Tengo là có thể lập tức lao ra cửa ngay. Để nhanh chóng lên đường, không cần quay lại căn hộ này làm gì nữa, nàng nhồi nhét hết những thứ không thể thiếu vào chiếc túi đeo lớn bằng da màu đen. Đồ đạc không nhiều. Ít tiền mặt, mấy bộ quần áo để thay đổi, khẩu Heckler & Koch nạp đầy đạn. Chỉ có thế. Cái túi này đặt ở nơi nàng có thể vươn tay ra xách lên bất cứ lúc nào. Náng lấy bộ đồ Junko Shimada treo trong tủ quần áo ra, xem lại cho chắc rằng nó không có nếp nhăn nào, rồi treo lên tường phòng khách. Sơ mi trắng, quần tất, và đôi giày cao gót hiệu Charles Jourdan, nàng cũng chuẩn bị sẵn sàng. Cả chiếc áo khoác gió màu vàng nhạt nữa. Trang phục giống hệt như lúc nàng trèo xuống cầu thang thoát hiểm trên đường cao tốc Thủ Đô. Mặc áo khoác gió trong đêm tháng Mười hai thì hơi mỏng quá, nhưng nàng không có lựa chọn nào khác.

Chuẩn bị xong, nàng ra ngoài ban công ngồi xuống, chăm chú nhìn cầu trượt trong sân chơi qua khe hở của tấm chắn. Đêm hôm Chủ nhật, cha Tengo qua đời. Từ khi làm thủ tục chứng tử đến lúc hỏa táng hình như phải mất ít nhất hai mươi bốn tiếng. Chắc là có một điều luật như vậy. Từ đây suy ra, lễ hỏa táng sớm nhất cũng là vào thứ Ba. Hôm nay chính là thứ Ba. Tang lễ xong, Tengo sẽ từ nơi đó quay lại Tokyo, sớm nhất cũng chập tối hôm nay mới về tới. Rồi sau đó Tamaru còn phải chuyển lời của nàng cho anh nữa. Tengo không thể đến chơi sân chơi này trước lúc đó được. Huống hồ, hiện giờ trời vẫn còn chưa sáng.

Trước lúc chết, Lãnh Tụ đã đặt thứ bé nhỏ này vào bụng mình. Đây là suy đoán của mình, hoặc nên nói là trực giác. Giả định đúng là như vậy, thế chẳng phải mình bị cái ý chí mà ông ta để lại thao túng, bị dẫn đến nơi mà ông ta đã định sẵn hay sao?

Aomame nhăn mặt. Mình không thể tự quyết được gì. Theo suy luận của Tamaru, có lẽ vì âm mưu của Lãnh Tụ nên mình đã mang thai người lắng nghe giọng nói. Có thể mình đóng vai trò như một nhộng không khí. Nhưng tại sao cứ phải là mình? Hơn nữa, tại sao người phối ngẫu nhất định phải là Kawana Tengo? Đây là một trong những chuyện không thể giải thích được.

Dù thế nào đi nữa, khi nhân quả còn chưa rõ ràng, mọi việc vẫn diễn ra xung quanh mình, cho dẫu nguyên lý của chúng thế nào, phương hướng của chúng ra sao, mình vẫn chưa xác định được. Mình rốt cuộc chỉ là người bị cuốn vào trong đó. Cho đến lúc này thì thế, Aomame tự nói với mình.

Nàng lại vặn vẹo môi, tiếp tục nhăn mặt thêm nữa.

Từ nay trở đi và cho đến lúc này khác nhau rất nhiều. Mình sẽ không bị ý chí của người khác thao túng nữa. Từ nay trở đi, mình chỉ hành động theo một nguyên tắc duy nhất… là ý chí của chính mình. Dù xảy ra chuyện gì chăng nữa, mình nhất định phải bảo vệ thứ bé nhỏ này. Bất kể là ai, vì mục đích gì mà sắp đặt chuyện này, thì đây cũng là con của mình và Tengo, chắc chắn như thế. Mình quyết không giao nó cho bất cứ ai. Bất luận thiện là gì, ác là gì, từ nay trở đi, mình chính là nguyên lý, mình chính là phương hướng. Và dù ai chăng nữa thì tốt nhất cũng nên nhớ kỹ lấy điều này.

Ngày hôm sau, hai giờ chiều thứ Tư, chuông điện thoại reo.

“Đã chuyển lời nhắn của cô rồi,” Tamaru vẫn cắt luôn câu mở đầu, nói ngay vào chuyện chính. “Anh ta đang ở căn hộ của mình. Sáng nay tôi đã điện thoại cho anh ta. Anh ta nói, đúng bảy giờ tối nay sẽ đến chỗ cầu trượt ấy.”

“Anh ấy còn nhớ tôi không?”

“Tất nhiên, nhớ rất rõ. Hình như anh ta cũng đang tìm kiếm cô bấy lâu nay.”

Lãnh Tụ nói quả không sai. Tengo cũng đang tìm kiếm mình. Chỉ cần biết vậy là đủ rồi. Lòng Aomame tràn ngập niềm vui khôn tả. Mọi lời nói khác trên thế gian này đều không còn ý nghĩa gì với nàng nữa.

“Lúc đó anh ta sẽ mang theo các thứ quan trọng. Như cô đã nói. Tôi đoán chắc chắn có cả bản thảo cuốn tiểu thuyết mới viết được một nửa.”

“Chắc chắn rồi,” Aomame nói.

“Tôi đã kiểm tra xung quanh tòa chung cư xập xệ đó. Có vẻ rất sạch sẽ. Không phát hiện có nhân vật khả nghi nào lởn vởn gần đấy. Căn hộ của Búp bê đầu to không một bóng người. Rất yên tĩnh, nhưng không phải là yên tĩnh quá mức. Đám người kia đã vận chuyển đồ ngay trong đêm rồi lập tức đi ngay. Chắc là cảm thấy không tiện ở lâu. Tôi quan sát tỉ mỉ rồi, chắc không để sót gì đâu.”

“Tốt quá rồi.”

“Nhưng xét cho cùng cũng chỉ có lẽ là vậy, trước mắt là vậy. Sự thể đang thay đổi từng giây từng phút. Tôi dĩ nhiên cũng không hoàn hảo, biết đâu lại bỏ sót điều gì quan trọng cũng nên. Đương nhiên là khả năng bọn họ cao hơn hẳn chúng ta một bậc.”

“Vì vậy, tóm lại một câu, an toàn của bản thân chỉ có thể dựa vào chính mình.”

“Như tôi nói đó.”

“Cảm ơn anh đã giúp đỡ tôi rất nhiều. Vô cùng cảm ơn.”

“Tôi không biết sau này cô định đi đâu, làm gì,” Tamaru nói, “có điều nếu cô đi đâu đó thật xa, nếu từ nay chúng ta không bao giờ gặp lại nữa, chắc tôi sẽ thấy hơi buồn. Dù có kiệm lời đến mấy, tôi cũng phải nói cô là người hiếm gặp.”

Aomame mỉm cười vào ống nghe. “Tôi cũng muốn để lại cho anh ấn tượng gần như thế.”

“Bà chủ cần cô, như một người bạn thân thiết, chứ không phải chỉ vì công việc. Buộc lòng phải chia tay cô theo cách thế này, bà ấy rất đau lòng. Nhưng lúc này bà ấy không thể nói chuyện với cô được, hy vọng cô thông cảm.”

“Tôi hiểu,” Aomame nói, “có thể tôi cũng không biết nên nói gì với bà ấy.”

“Cô nói sẽ đi xa,” Tamaru hỏi, “rốt cuộc là xa chừng nào?”

“Đây là khoảng cách không thể dùng con số để đo đếm.”

“Giống như khoảng cách giữa lòng người với nhau vậy.”

Aomame nhắm mắt, hít sâu một hơi. Nước mắt gần như đã trào ra, nhưng rốt cuộc nàng cũng kìm lại được.

Tamaru nói bằng giọng bình tĩnh: “Chúc cô mọi sự thuận lợi.”

“Xin lỗi, có lẽ không thể trả lại cho anh khẩu Heckler & Koch rồi,” Aomame nói.

“Không sao cả. Đó là món quà tôi tặng riêng cô. Nếu mang theo không tiện thì cứ ném xuống vịnh Tokyo là được. Hành động ấy mặc dù rất nhỏ, nhưng thế giới sẽ tiến thêm một bước về phía giảm trừ quân bị đấy.”

“Khẩu súng có lẽ đến phút cuối cũng không nhả đạn. Hình như là trái ngược với nguyên tắc của Chekhov.”

“Vậy cũng không sao. Không nhả đạn là tốt nhất. Thế kỷ hai mươi gần kết thúc rồi. So với thời đại Chekhov sống, tình hình ít nhiều cũng có khác biệt. Không có xe ngựa nữa, cũng không còn các bà các cô mặt áo ngực bó sát. Thế giới mặc dù đã trải qua chủ nghĩa phát xít, bom nguyên tử và âm nhạc hiện đại, song tốt xấu gì cũng vẫn tiếp diễn. Nên cô chẳng phải lo,” Tamaru nói. “Nhưng tôi có câu muốn hỏi. Tối nay bảy giờ, cô sẽ gặp Kawana Tengo ở chỗ cầu trượt.”

“Nếu thuận lợi,” Aomame nói.

“Nếu gặp được anh ta, hai người sẽ làm gì ở chỗ cầu trượt ấy?”

“Cùng ngắm trăng.”

“Lãng mạn quá,” Tamaru nói đầy cảm khái.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 27: Tengo


Chỉ thế giới này thôi thì có lẽ không đủ

Sáng sớm ngày thứ Tư, lúc chuông điện thoại reo, Tengo vẫn đang ngủ. Trời gần sáng anh mới ngủ được, và lượng whiskey uống vào vẫn còn tích tồn trong cơ thể. Anh bò dậy khỏi giường, lấy làm ngạc nhiên thấy bên ngoài đã sáng bảnh.

“Anh Kawana Tengo?” một người đàn ông nói. Đây là lần đầu tiên Tengo nghe thấy giọng này.

“Tôi đây,” Tengo đáp. Chắc lại là vấn đề thủ tục liên quan đến việc hậu sự của cha anh, vì Tengo nghe ra được vẻ nghiêm nghị và rành mạch trong giọng của người kia. Nhưng đồng hồ vẫn chưa chỉ quá tám giờ sáng. Đây không phải thời gian mà cơ quan nhà nước hoặc công ty tổ chức tang lễ gọi điện thoại tới.

“Mới sáng sớm đã quấy rầy anh, thật vô cùng xin lỗi. Nhưng tôi cần phải tranh thủ thời gian.”

Chuyện gì đó khẩn cấp. “Có chuyện gì vậy?” Đầu anh vẫn đang hơi biêng biêng.

“Anh có ấn tượng gì với cái tên Aomame không?” người kia hỏi.

Aomame? Hơi men và cơn buồn ngủ tan biến tức thì. Tựa như trên sân khấu tắt đèn chuyển cảnh, ý thức của Tengo cấp tốc xoay chuyển. Anh nắm chặt ống nghe.

“Tôi nhớ,” Tengo trả lời.

“Một cái họ hiếm gặp.”

“Cùng lớp với tôi hồi tiểu học.” Khó khăn lắm Tengo mới điều chỉnh được giọng nói.

Người kia ngừng lại một chút. “Anh Kawana này, giờ nói về Aomame, anh hứng thú chứ?”

Cách nói chuyện của người đàn ông này hết sức kỳ quặc, Tengo nghĩ. Ngữ pháp rất độc đáo, nghe cứ như đài từ kịch nói theo trường phái tiền phong được dịch ra vậy.

“Nếu anh không hứng thú thì cả hai bên đều lãng phí thời gian. Tôi sẽ lập tức gác máy.”

“Tôi có hứng thú,” Tengo hốt hoảng trả lời, “nhưng xin lỗi, xin hỏi anh là ai vậy?”

“Aomame nhờ tôi chuyển lời cho anh,” người đàn ông không đếm xỉa đến câu hỏi của Tengo. “Aomame hy vọng được gặp anh. Anh Kawana thì thế nào? Có muốn gặp mặt cô ấy không?”

“Có,” Tengo trả lời. Anh đằng hắng một tiếng để thông cổ họng. “Từ rất lâu rồi tôi luôn muốn gặp cô ấy.”

“Tốt lắm. Cô ấy rất muốn gặp anh. Anh cũng mong được gặp cô ấy.”

Tengo đột nhiên cảm thấy không khí trong phòng lạnh buốt xương, bèn vươn tay với chiếc áo len cardigan lông cừu bên cạnh, khoác ra ngoài áo ngủ.

“Vậy tôi cần phải làm thế nào?”

“Có thể phiền anh sau khi trời tối đến chỗ cầu trượt không?” người đàn ông nói.

“Cầu trượt.” Tengo lặp lại. Người này đang nói gì vậy?

“Cô ấy bảo chỉ cần nói vậy là anh sẽ hiểu. Mời anh ra chỗ cầu trượt. Tôi chỉ đang truyền đạt nguyên văn lời nhắn của Aomame.”

Tengo đặt tay lên tóc một cách vô thức. Tóc khi vừa ngủ dậy vừa cứng vừa rối bù, bết lại thành từng búi. Cầu trượt. Mình đã thấy hai mặt trăng ở đó. Đương nhiên là cái cầu trượt ấy rồi.

“Tôi nghĩ là tôi hiểu,” anh trả lời bằng giọng khô khan.

“Tốt lắm. Còn nữa, cô ấy nói anh hãy đem theo những thứ quan trọng mà anh muốn mang theo, để có thể lập tức lên đường đi xa.”

“Những thứ quan trọng mà tôi muốn mang theo?” Tengo hỏi ngược lại.

“Là những thứ mà anh không nỡ vứt bỏ ấy.”

Tengo thầm nghĩ một hồi. “Tôi không hiểu cho lắm. Lên đường đi xa, tức là không bao giờ quay lại nơi này nữa sao?”

“Tôi cũng không hiểu,” người kia trả lời, “vừa nãy tôi đã nói, tôi chỉ truyền đạt nguyên văn lời nhắn của Aomame mà thôi.”

Tengo vừa lấy ngón tay tách những mớ tóc bết vào nhau vừa ngẫm nghĩ. Đi xa? Sau đó anh nói: “Có thể là tôi phải mang theo một số giấy tờ nhất định.”

“Chắc không có vấn đề gì đâu,” người đàn ông nói, “lựa chọn mang theo cái gì là quyền tự do của anh. Chỉ có điều, về vật đựng đồ, cô ấy mong anh dùng thứ gì mà hai tay vẫn có thể rảnh rang thoải mái.”

“Dùng thứ gì mà hai tay có thể rảnh rang thoải mái,” Tengo nói, “nói vậy thì các thứ kiểu như va li du lịch là không được nhỉ?”

“Chắc thế.”

Rất khó suy đoán về tuổi tác, phong thái và vóc dáng người đàn ông qua giọng anh ta. Đó là chất giọng thiếu những đầu mối cụ thể. Chỉ cần dập máy, rất có thể Tengo sẽ không sao nhớ nổi giọng nói đó nữa. Cá tính và cảm xúc - giả định rằng những thứ đó có tồn tại - đã bị ẩn giấu rất sâu.

“Những gì tôi cần truyền đạt đến anh chỉ có vậy,” người đàn ông nói.

“Aomame khỏe không?” Tengo hỏi.

“Sức khỏe thì không có vấn đề gì,” đối phương cẩn trọng trả lời, “có điều, bây giờ cô ấy đang trong tình trạng tương đối cấp bách. Mỗi hành động đều hết sức cẩn trọng. Bất cẩn một chút là có thể bị tổn thương ngay.”

“Bị tổn thương,” Tengo máy móc lập lại.

“Và không tiện kéo dài quá lâu,” người đàn ông nói, “ở đây, thời gian là nhân tố quan trọng.”

Thời gian là nhân tố quan trọng, Tengo lập lại trong đầu. Người đàn ông này gặp khó khăn trong việc dùng từ, hay là mình trở nên nhạy cảm quá rồi?

“Tôi nghĩ mình có thể đến chỗ cầu trượt ấy lúc bảy giờ tối nay.” Tengo nói, “tối nay nếu vì lý do nào đó mà không thể gặp mặt thì cùng thời điểm đó ngày mai tôi sẽ đến.”

“Được rồi. Anh đã biết chúng ta đang nói đến cái cầu trượt nào chưa?”

“Tôi nghĩ là rồi.”

Tengo liếc nhìn đồng hồ. Anh còn hơn mười tiếng đồng hồ nữa.

“Tiện thể, nghe nói cha anh mới qua đời hôm Chủ nhật. Xin được bày tỏ lòng thương tiếc.”

Tengo nhận cảm ơn theo phản xạ. Sau đó anh mới sực nhớ ra, sao người này lại biết?

“Có thể cho tôi biết thêm một số chuyện về Aomame được không?” Tengo nói. “Chẳng hạn như cô ấy đang ở đâu, đang làm gì.”

“Cô ấy độc thân, làm huấn luyện viên trong một câu lạc bộ thể thao ở Hiroo. Một huấn luyện viên ưu tú, nhưng hiện đang tạm nghỉ vì một vài lý do cá nhân. Vả lại, cách đây không lâu, hoàn toàn do ngẫu nhiên, cô ấy đến ở gần nhà anh. Những chuyện cụ thể, anh cứ trực tiếp hỏi cô ấy là hơn.”

“Bao gồm cả chuyện hiện nay cô ấy đang trong tình trạng cấp bách như thế nào?”

Người đàn ông không trả lời. Xem ra, xung quanh Tengo toàn loại người như vậy: gặp câu hỏi không muốn trả lời hoặc cho rằng không cần thiết phải trả lời thì không trả lời, hết sức tự nhiên.

“Bảy giờ tối nay, ở chỗ cầu trượt,” người đàn ông nói.

“Xin đợi một chút,” Tengo vội vàng nói. “Tôi có câu muốn hỏi. Tôi từng được một người cảnh báo, nói có người đang giám sát tôi, bảo tôi cẩn thận. Cho hỏi một câu thất lễ, người đó có phải chính là anh không?”

“Không, không phải tôi,” người đàn ông lập tức trả lời, “chắc người khác. Nhưng tóm lại, cẩn thận không bao giờ thừa. Người bạn kia của anh nói đúng đấy.”

“Chuyện tôi có thể bị giám sát và chuyện cô ấy đang trong một tình trạng bất thường có quan hệ gì không?”

“Tình trạng tương đối cấp bách,” người đàn ông chữa lại, “đúng, tôi nghĩ là có quan hệ. Ở một điểm nào đó.”

“Có nguy hiểm không?”

Người đàn ông im lặng giây lát, cẩn trọng chọn từ, như thể đang phân loại một đống các thứ đậu khác nhau trộn lẫn: “Nếu đối với anh không thể gặp Aomame nữa thì có thể gọi là nguy hiểm thì ở đây đích thực có nguy hiểm.”

Tengo chuyển câu nói biểu đạt vòng vèo này thành một câu dễ hiểu hơn. Tuy không hiểu đầu đuôi và bối cảnh thế nào, nhưng anh cảm nhận được không khí căng thẳng trong câu nói của anh ta.

“Ngộ nhỡ xảy ra sai sót, có lẽ chúng tôi sẽ không bao giờ gặp lại nữa?”

“Đúng thế.”

“Tôi hiểu rồi, tôi sẽ cẩn thận,” Tengo nói.

“Sáng sớm đã quấy rầy anh, thực sự xin lỗi.”

Người đàn ông vừa nói xong liền gác máy. Tengo nhìn chằm chằm cái ống nghe màu đen trên tay một lúc. Quả nhiên, đúng như anh đoán lúc nãy, vừa gác điện thoại xong anh liền không thể nhớ nổi giọng nói đó như thế nào. Tengo lại liếc nhìn đồng hồ. Tám giờ mười phút. Nên làm gì cho hết thời gian từ giờ đến bảy giờ tối đây?

Tengo đi tắm, gội đầu, làm cho mái tóc rối bù kìa trông ít nhiều cũng đẹp hơn phần nào. Sau đó anh đứng trước gương cạo râu, đánh răng kỹ đến từng ngóc ngách, dùng cả chỉ nha khoa. Anh lấy nước ép cà chua trong tủ lạnh ra uống, đun nước sôi, xay hạt cà phê để pha, nướng một lát bánh mì. Anh đặt hẹn giờ, luộc một quả trứng lòng đào. Khi tập trung tinh thần vào mỗi động tác, anh tốn nhiều thời gian hơn bình thường. Nhưng cũng chỉ đến chín rưỡi là xong hết.

Tối nay gặp Aomame trên cầu trượt.

Chỉ cần nghĩ đến chuyện này, cảm giác đó liền ập đến… cơ năng của cơ thể tưởng chừng như vỡ tung ra. Tay chân và mặt lần lượt xoay về các hướng khác nhau. Anh không thể dồn cảm xúc của mình về một mối, làm gì cũng không thể tập trung nổi. Anh không thể đọc sách, đương nhiên càng không thể viết. Anh cũng không thể ngồi yên một chỗ. Chuyện duy nhất anh có thể làm được là rửa bát đĩa trong bếp, rồi đi giặt quần áo, sắp dọn ngăn kéo tủ, trải lại giường. Nhưng bất kể làm việc gì, cứ cách năm phút là anh lại dừng tay, nhìn lên đồng hồ trên tường. Càng nghĩ đến thời gian, thời gian dường như càng chậm lại.

Aomame biết.

Tengo đứng ở chỗ bồn rửa vừa mài một con dao hoàn toàn không cần mài nghĩ ngợi. Cô ấy biết mình đã đến chỗ cầu trượt ở sân chơi dành cho trẻ con ấy không chỉ một lần. Nhất định cô ấy đã thấy mình ngồi một mình trên cầu trượt ngước nhìn trời. Ngoài điều này, Tengo không nghĩ ra khả năng nào khác nữa. Anh hình dung ra hình dáng của mình trên chiếc cầu trượt dưới ánh sáng ngọn đèn thủy ngân. Lúc đó, Tengo hoàn toàn không có cảm giác có người đang nhìn mình. Rốt cuộc cô ấy quan sát mình từ chỗ nào nhỉ?

Ở đâu không quan trọng, Tengo nghĩ. Đó không phải vấn đề gì to tát. Dù Aomame quan sát từ đâu chăng nữa thì cô ấy chỉ nhìn thoáng đã nhận ra mình ngay lập tức. Ý nghĩ ấy làm lòng anh ngập tràn sung sướng. Từ bấy đến giờ cô ấy luôn nghĩ về mình, giống như mình luôn nghĩ về cô ấy. Tengo cảm thấy chuyện này thật khó tin: trong cái thế giới biến động dữ dội rối tinh tựa mê cung này, hai mươi năm dài không gặp nhau một lần nào, nhưng tâm linh của hai người - tâm linh của cậu bé và cô bé, thật không ngờ, vẫn luôn kết nối với nhau chặt chẽ không rời.

Nhưng tại sao Aomame không gọi mình ngay lúc đó? Nếu làm vậy, sự việc chắc chắn sẽ đơn giản hơn nhiều. Đầu tiên, sao cô ấy biết được mình ở đây? Cô ấy, hoặc người đàn ông kia làm sao biết được số điện thoại này? Mình không thích người khác gọi điện tới, nên không đăng ký số trong niên giám điện thoại. Thậm chí cả tổng đài tra số cũng không thể biết được.

Những yếu tố không thể lý giải quá nhiều. Đầu dây mối nhợ của câu chuyện này quá phức tạp và chằng chịt. Không thể phân biệt là đầu dây nào nối với đầu dây nào, giữa chúng có quan hệ nhân quả như thế nào. Nhưng nghĩ kỹ lại, từ lúc Fukaeri xuất hiện, anh đã luôn sống trong một môi trường như thế. Nghi vấn quá nhiều, đầu mối quá ít, trạng thái bình thường của môi trường ấy là như vậy. Nhưng sự hỗn độn này cũng đang từ từ lắng xuống… anh lờ mờ có cảm giác ấy.

Dù gì chăng nữa, đến bảy giờ tối nay, ít nhất cũng có vài nghi vấn tìm được lời giải đáp. Bọn mình sẽ gặp nhau trên cầu trượt. Không còn là hai đứa bé yếu ớt nữa, mà là hai người đàn ông và đàn bà trưởng thành, độc lập. Giáo viên toán của trường dự bị và huấn luyện viên của câu lạc bộ thể thao. Bọn mình sẽ nói gì khi gặp nhau ở đó nhỉ? Không biết, nhưng thế nào cũng sẽ nói chuyện. Bọn mình cần bù đắp lại khoảng trống, chia sẻ thông tin về nhau. Nói theo cách diễn đạt kỳ lạ của người vừa gọi điện thoại đến, có lẽ bọn mình sẽ từ đó lên đường đi xa. Vì vậy, cần phải chọn những thứ quan trọng không thể bỏ lại, cho sẵn vào túi, chọn loại túi sao cho hai tay vẫn có thể rảnh rang hành động.

Sắp từ biệt nơi này, song Tengo không có cảm giác lưu luyến. Anh đã sống ở căn hộ này bảy năm, mỗi tuần đến dạy ở trường dự bị ba ngày, nhưng anh chưa một lần cảm thấy đây là nhà mình. Tựa như hòn đảo nổi lên giữa dòng chảy, đây chẳng qua chỉ là chốn cư trú tạm thời. Người tình hơn tuổi mỗi tuần hẹn hò với anh một lần nay không rõ tung tích. Fukaeri từng trú ở đây một thời gian cũng đã đi rồi. Tengo hoàn toàn không biết hai người họ giờ đang ở đâu, đang làm gì. Họ đã lặng lẽ biến mất khỏi cuộc sống của anh. Ngay cả công việc ở trường dự bị kia, không có anh thì tự khắc có người khác bổ sung vào. Không có Tengo, thế giới này có lẽ vẫn hoạt động như thường. Nếu Aomame nói cô muốn cùng anh lên đường đi xa, anh có thể lập tức đồng hành với cô, không do dự.

Thứ quan trọng mà anh muốn mang theo có thể là gì? Năm mươi nghìn yên tiền mặt và một tấm thẻ ngân hàng bằng nhựa. Đó là những gì gọi là tài sản của anh. Trong tài khoản tiếp kiệm không kỳ hạn còn lại gần một triệu yên. Không, không chỉ có vậy. Còn cả một phần tiền bản quyền của Nhộng không khí mà anh được chia sẻ nữa. Anh định trả lại cho Komatsu, nhưng giờ vẫn chưa trả được. Ngoài ra, còn bản thảo in ra của tiểu thuyết đang viết dở. Thứ này không thể bỏ lại. Trong mắt người đời nó không đáng một xu, nhưng với Tengo nó là một báu vật. Anh cho bản thảo vào túi giấy, rồi cho vào cái túi đeo vai bằng nylon cứng màu đỏ sậm vẫn dùng khi đi dạy ở trường dự bị. Cái túi trở nên nặng trình trịch. Đĩa mềm anh nhét cả vào túi áo khoác. Máy xử lý văn bản không tiện mang đi, nhưng anh cho thêm vào hành lý mấy quyển sổ và cây bút máy. Được rồi, còn gì nữa?

Tengo nhớ ra cái phong bì văn phòng mình nhận từ chỗ luật sư ở Chikura. Bên trong có sổ tiết kiệm và con dấu riêng của cha anh, bản sao hộ tịch, cùng với tấm ảnh gia đình bí ẩn (nếu nó đúng là như thế). Những thứ này chắc nên mang theo thì hơn. Bảng điểm thời tiểu học và bằng khen của NHK thì có thể bỏ lại. Cái túi đeo đi làm không còn chứa được nhiều đồ thế, và lại mấy thứ này anh có thể mua được khi cần thiết.

Sau khi nhét hết đồ vào túi, anh chẳng còn việc gì làm nữa. Không còn bát đĩa phải rửa, cũng không có cái sơ mi nào cần là. Anh lại nhìn đồng hồ treo tường. Mười rưỡi. Tengo nghĩ nên gọi điện cho bạn, nhờ anh ta dạy thay ở lớp trường dự bị, nhưng lại nhớ ra mỗi lần gọi điện tới vào buổi sáng thì người kia đều chẳng lấy gì làm vui vẻ.

Tengo mặc nguyên quần áo nằm trên giường, ngẫm nghĩ về các giả thuyết. Anh gặp Aomame lần cuối năm mười tuổi, còn nay cả hai đều đã ba mươi. Trong suốt thời gian đó, hai người đều trải qua rất nhiều chuyện. Có chuyện vừa ý, có chuyện khó mà nói là hợp với sở nguyện (loại sau thì có lẽ nhiều hơn một chút). Ngoại hình, nhân cách, môi trường sống của bọn mình chắc chắn cũng đã có những thay đổi. Bọn mình không còn là những cậu bé cô bé hồi ấy nữa. Aomame ở đó có đúng là Aomame mà mình vẫn tìm kiếm bấy lâu nay không? Còn mình đây, có đúng là Kawana Tengo mà Aomame vẫn hằng tìm kiếm? Trong óc Tengo hiện lên quang cảnh tối nay hai người gặp nhau chỗ cầu trượt, chăm chú nhìn vào mặt người kia ở khoảng cách gần, rồi cùng thất vọng. Không khéo còn chẳng tìm được chủ đề nào mà nói chuyện. Tình huống này hoàn toàn có thể xảy ra. Không, thậm chí không xảy ra mới là lạ.

Kỳ thực, có lẽ bọn mình không nên gặp lại. Tengo nhìn lên trần nhà. Họ cứ giấu nỗi nhớ ấy vào sâu trong tim, cứ để mỗi người một ngả chẳng phải tốt hơn sao? Như vậy hẳn là có thể vĩnh viễn sống với một niềm hy vọng. Niềm hy vọng ấy sẽ là nguồn nhiệt nhỏ bé nhưng quý báu sưởi ấm họ đến tận trong cội rễ, ngọn lửa nhỏ xíu mà họ khum hai bàn tay che chở không để nó bị gió thổi tắt, ngọn lửa mà một khi cơn cuồng phong của hiện thực ùa tới thì có thể dễ dàng lụi tắt.

Tengo nhìn chăm chăm lên trần nhà suốt hơn một tiếng, dật dờ giữa hai xúc cảm hoàn toàn trái ngược. Anh vô cùng mong được gặp lại Aomame. Đồng thời, cuộc gặp gỡ với cô lại trở nên đáng sợ. Nỗi thất vọng tàn khốc cùng sự im lặng gượng gạo có thể sẽ nảy sinh trong cuộc gặp khiến tim anh thắt lại. Cơ thể anh dường như bị xé toang thành hai nửa. Nhưng anh không thể không đi gặp Aomame. Đó là điều mà trái tim anh hai mươi năm nay không ngừng khát khao mãnh liệt. Cho dù kết quả có thể là thất vọng đến thế nào chăng nữa, anh cũng không thể quay người trốn chạy được.

Nhìn trần nhà chán rồi, anh nằm ngửa trên giường ngủ một lúc. Khoảng bốn mươi hoặc bốn lăm phút, một giấc ngủ yên ổn, không mơ mộng. Kiểu giấc ngủ sâu và dễ chịu sau khi vắt óc suy nghĩ kiệt lực. Nghĩ lại mới thấy, mấy ngày nay anh chỉ ngủ những giấc ngắn và rải rác, hoàn toàn chẳng theo quy luật gì. Trước khi trời tối, anh cần loại trừ hết sự mệt mỏi trầm tích trong cơ thể. Anh cần bước ra ngoài, đi tới sân chơi kia trong trạng thái mạnh mẽ và tươi mới. Cơ thể anh biết điều đó một cách bản năng.

Trước khi bị lôi vào giấc ngủ. Tengo nghe thấy - hoặc là cảm giác mình nghe thấy - giọng nói của Adachi Kumi. Khi trời sáng, anh Tengo phải rời khỏi nơi này. Nhân lúc lối ra vẫn còn chưa bị bịt kín.

Đây là giọng của Adachi Kumi, đồng thời cũng là giọng của cú mèo. Trong ký ức của anh, hai giọng đó hòa làm một, không thể tách rời. Lúc đó, Tengo cần trí tuệ hơn bất cứ điều gì khác. Trí tuệ của đêm bám rễ sâu vào đất. Có lẽ chỉ có thể tìm thấy thứ đó trong một giấc ngủ sâu.

Lúc sáu rưỡi, Tengo quảy túi lên vai, đi ra khỏi căn hộ. Anh ăn mặc hoàn toàn giống lúc đi ra chỗ cầu trượt lần trước. Áo gió màu xám và áo khoác da, quần bò màu xanh với giày công sở màu nâu. Món nào cũng cũ kỹ, nhưng rất vừa người, đã trở thành một phần của cơ thể anh. Có lẽ mình sẽ không bao giờ trở lại đây nữa. Để đề phòng, anh gỡ tấm biển đề tên mình gắn trên cửa và hòm thư xuống. Sau này rồi sẽ ra sao? Anh quyết định tạm thời không lo nghĩ về chuyện đó.

Anh đứng trước cửa tòa nhà, tỉ mỉ quan sát xung quanh. Nếu tin lời Fukaeri, chắc chắn anh đang bị ai đó ngấm ngầm giám sát. Nhưng cũng như lần trước, xung quanh không có gì gây cảm giác ấy. Khung cảnh vẫn không khác gì thường ngày. Trời đã tối, con đường trước mặt vắng tanh. Anh chầm chậm bước về phía nhà ga, thỉnh thoảng ngoảnh đầu nhìn quanh quất để chắc chắn không ai bám đuôi. Hết lần này đến lần khác anh rẽ ở những lối nhỏ không cần phải rẽ, lại dừng để kiểm tra xem có người bám đuôi hay không. Cần phải cẩn thận, người gọi điện thoại tới đã nói như vậy. Vì bản thân anh, và vì cả Aomame đang trong tình trạng cấp bách.

Nhưng người gọi điện thoại đến ấy có thật là người quen của Aomame không? Tengo chợt nảy ra ý nghĩ này. Có thể đây là một cái bẫy được chăng khéo léo? Vừa nghĩ đến khả năng này, Tengo liền đâm bất an. Ngộ nhỡ là cạm bẫy, chắc chắn là cạm bẫy của Sakigake. Tengo là người chấp bút cho Nhộng không khí, e rằng (không, chẳng nghi ngờ gì nữa mới đúng) anh đã lọt vào danh sách đen của họ rồi. Chính vì vậy thằng cha kỳ quặc họ Ushikawa kia mới mò đến gặp anh, tuyên bố muốn cấp cho anh một món tài trợ đáng ngờ. Huống hồ Tengo, dù chẳng có mưu tính gì, lại đã giấu Fukaeri trong nhà mình ba tháng. Giáo đoàn có thừa đủ lý do để bất mãn với anh.

Nhưng dù là vậy, tại sao bọn họ phải cất công dùng Aomame làm mồi nhử dụ cho mình mắc câu chứ? Tengo ngẫm nghĩ. Bọn họ đã biết anh ở đâu. Anh không lẩn trốn, cũng không bỏ chạy. Nếu có việc muốn tìm Tengo, họ hoàn toàn có thể trực tiếp đến gõ cửa, không cần phải vẽ rắn thêm chân, dụ anh đến chỗ cầu trượt ở sân chơi dành cho trẻ con kia làm gì. Nhưng nếu ngược lại, bọn họ muốn lấy Tengo làm mồi nhử dụ Aomame mắc câu thì lại là chuyện khác.

Nhưng tại sao họ phải dụ Aomame mắc câu?

Không tìm được bất cứ lý do nào. Chẳng lẽ Sakigake và Aomame có dính dáng gì với nhau? Nhưng Tengo không thể tiếp tục suy luận. Đành trực tiếp hỏi Aomame vậy. Tengo đi vòng vèo mấy lượt, xác nhận không có ai theo dõi, sau đó rảo bước về phía sân chơi.

Lúc anh đến nơi, vẫn còn bảy phút nữa mới đến bảy giờ. Xung quanh đã tối om, ngọn đèn thủy ngân đổ thứ ánh sáng nhân tạo đều đều của nó đến từng ngóc ngách của sân chơi nhỏ. Thời tiết buổi chiều quang đãng ấm áp. Nhưng mặt trời vừa lặn, nhiệt độ liền nhanh chóng tụt xuống, gió lạnh bắt đầu nổi lên. Tiết tháng Mười dễ chịu kéo dài mấy ngày vừa qua đã biến mất, những ngày đông lạnh giá thực sự sẽ lại chiếm lấy đất trời. Cành cây sồi trụi lá tựa như ngón tay của ông già đang đưa ra lời cảnh cáo, phát ra những âm thanh khô khốc, không ngừng run rẩy.

Các tòa nhà xung quanh có mấy căn sáng đèn, nhưng trong sân chơi không có bóng người nào. Bên dưới áo khoác, tim anh đập từng nhịp chậm rãi mà nặng nề. Anh liên tục xoa hai tay vào nhau, để kiểm tra xem nó vẫn còn cảm giác bình thường hay không. Đừng lo lắng, mình đã chuẩn bị sẵn sàng. Mình không sợ gì cả. Tengo hạ quyết tâm, bắt đầu trèo lên bậc thang cầu trượt.

Sau khi leo lên đỉnh cầu trượt, anh ngồi đúng tư thế như lần trước. Bề mặt cầu trượt lạnh buốt xương, lại hơi ẩm ướt. Tengo nhét hai tay vào túi áo khoác, dựa lưng vào tay vịn, nhìn lên trời. Những đám mây lớn nhỏ đủ cỡ tụ lại một chỗ, lơ lửng trên không. Tengo nheo mắt, tìm hai mặt trăng. Nhưng trăng dường như đã lần khuất phía sau mây. Mây hôm nay không nặng nề, không dày đặc, có thể nói là trắng và nhẹ, nhưng vẫn đủ dày và đặc để che khuất mặt trăng không cho người đời nhìn thấy. Mây trôi chầm chậm từ Bắc sang Nam. Gió trên kia dường như không mạnh lắm. Hay có lẽ vì mây cao hơn anh tưởng nhiều. Dù thế nào đi nữa, mây không hề vội vã.

Tengo nhìn đồng hồ. Bảy giờ kém ba phút. Kim đồng hồ vẫn đang tiếp tục đánh dấu thời gian một cách chuẩn xác. Aomame vẫn chưa xuất hiện. Trong mấy phút liên tiếp, anh chăm chú nhìn kim đồng hồ chuyển động như thể đang quan sát sự vật gì rất hiếm gặp. Sau đó, Tengo nhắm mắt lại. Anh cũng như đám mây bị gió đưa đẩy trên cao kia, chẳng hề vội vã. Tốn thời gian cũng không sao. Tengo ngừng suy nghĩ, để mình trôi theo dòng chảy của thời gian. Hiện giờ, để thời gian trôi đi một cách tự nhiên, đều đặn thế này là điều quan trọng nhất.

Tengo nhắm mắt, ngồi bất động, chăm chú lắng nghe những âm thanh xung quanh mình, như thể điều chỉnh núm vặn của radio để dò đài. Đầu tiên là tiếng xe chạy không ngừng trên tuyến đường vành đai số 7. m thanh ấy có gì đó tương tự như tiếng sóng Thái Bình Dương anh nghe thấy lúc ở viện điều dưỡng tại Chikura. Hình như loáng thoáng lẫn vào cả tiếng hải ấu kêu lanh lãnh. Anh nghe tiếng còi cảnh báo ngắn, dồn dập của chiếc xe tải hạng nặng đang lùi. Một con chó lớn sủa oăng oẳng gấp gáp, hình như đang cảnh cáo. Đằng xa có người cao giọng gọi í ới. Đủ mọi âm thanh không biết đến từ đâu. Khi nhắm mắt lâu như thế này, các âm thanh lọt vào tai đều mất đi cảm giác về phương vị và khoảng cách. Cơn gió buốt da buốt thịt thi thoảng lại nổi lên, nhưng anh không cảm thấy lạnh. Trong khoảnh khắc, Tengo đã quên bẵng mất cách cảm thụ và phản ứng với cái lạnh trong hiện thực, với cảm giác về cái lạnh và sự kích thích của cái lạnh.

Định thần lại, Tengo chợt phát giác có người ở bên cạnh nắm lấy tay phải anh. Bàn tay ấy như con vật nhỏ đang tìm hơi ấm, rút vào túi áo khoác của anh, nắm chặt bàn tay to bè của Tengo ở bên trong đó. Thời gian dường như đã tung mình nhảy vọt lên ở một nơi nào đó, đến khi ý thức của anh quay trở lại thì tất cả đã xảy ra rồi. Thậm chí không cả lời mào đầu, sự thể đã hoàn toàn nhảy sang giai đoạn tiếp theo. Kỳ lạ thật, Tengo nghĩ, vẫn nhắm mắt. Sao lại thế này? Có lúc thời gian trôi thật chậm, chậm đến mức khó mà chấp nhận nổi, lại có lúc nó nhảy cóc một mạch qua mấy giai đoạn của quá trình.

Người kia dồn sức nắm chặt thêm bàn tay to bè của anh, như để chứng thực rằng anh thực sự ở đó. Những ngón tay dài, mảnh, mượt, song đầy sức mạnh bên trong.

Aomame, Tengo nghĩ. Nhưng anh không thốt lên thành tiếng, cũng không mở mắt ra, chỉ nắm lại bàn tay nàng. Anh vẫn nhớ bàn tay này. Hai mươi năm nay anh chưa từng quên cảm giác ấy. Đây đương nhiên không còn là bàn tay nhỏ của cô bé mười tuổi nữa. Hai mươi năm nay, bàn tay này đã chạm vào nhiều thứ. Nó đã cầm nắm không biết bao nhiêu thứ muôn hình muôn vẻ. Và sức lực bên trong nó ngày một mạnh hơn. Nhưng chỉ trong khoảnh khắc Tengo biết, chính là bàn tay ấy. Cách nó siết tay anh cũng y như vậy, tình cảm mà nó cố truyền đạt cũng y như vậy.

Hai mươi năm trong khoảnh khắc tan chảy ra trong tim Tengo, hòa trộn làm một, cuộn lên vòng xoáy. Bao nhiêu cảnh tượng, bao nhiêu lời nói, bao nhiêu ý nghĩa tích tụ suốt bao năm tháng dài thảy đều tụ lại một chỗ, hình thành nên một cây cột khổng lồ trong tim anh, xoay chuyển xung quanh lõi cây cột tựa như chiếc bàn xoay của người làm gốm. Tengo lẳng lặng nhìn vào quang cảnh ấy, như đang mục kích một tinh cầu sụp đổ rồi hồi sinh.

Aomame cũng trầm mặc. Hai người nắm chặt tay nhau trên chiếc cầu trượt lạnh giá. Họ lại trở thành cậu bé mười tuổi và cô bé mười tuổi. Một cậu bé cô độc và một cô bé cô độc. Vào đầu mùa đông, trong lớp sau giờ tan học. Nên trao gì cho nhau? Nên tìm gì ở nhau? Hai người không có sức mạnh cũng như tri thức để có thể biết điều đó. Từ khi sinh ra, hai người chưa từng được người khác thực sự yêu thương, cũng chưa bao giờ thực sự yêu thương người khác. Họ chưa bao giờ ôm ai, cũng chưa bao giờ được ai ôm. Họ không biết chuyện này sẽ đưa mình đến đâu. Lúc đó họ đã vào một căn phòng không có cửa, họ không thể đi ra, người khác cũng không thể vào. Lúc đó họ không hay rằng, đó kỳ thực là chốn hoàn thiện duy nhất trên thế giới này. Một nơi hoàn toàn cô lập, nhưng cũng không bị nhuốm nỗi cô đơn.

Bao nhiêu thời gian đã trôi qua? Có thể năm phút, cũng có thể một tiếng. Có thể cả một ngày. Cũng có khả năng thời gian đã dừng lại. Tengo biết gì về thời gian? Anh chỉ biết mình có thể như thế này mãi mãi, hai người ngồi trên cầu trượt trong sân chơi, lặng lẽ nắm tay nhau. Năm mười tuổi là như thế, giờ đây sau hai mươi năm, cũng là như thế.

Hơn nữa, anh cần thời gian để tự đồng hóa mình với thế giới mới mẻ này. Điều chỉnh tâm trạng thế nào, ngắm nhìn phong cảnh thế nào, chọn từ dùng chữ thế nào, hít thở thế nào, cử động thế nào,… từ nay trở đi thảy đều phải điều chỉnh lại, học lại. Vì vậy, cần phải tập trung về một chỗ toàn bộ thời gian có trong thế giới này. Không, chỉ thế giới này thôi thì có lẽ không đủ.

“Anh Tengo,” Aomame khẽ gọi bên tai. Giọng nàng không cao cũng không thấp, giọng nói hứa hẹn với anh điều gì đó. “Mở mắt ra đi.”

Tengo mở mắt. Dòng thời gian lại chảy trên thế giới.

“Trăng kìa,” Aomame nói.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 28: Ushikawa


Và một phần linh hồn y

Đèn huỳnh quang trên trần rọi sáng trưng thân thể Ushikawa. Lò sưởi đã bị tắt, cửa sổ mở một cánh, căn phòng lạnh như hầm băng. Chính giữa phòng, mấy chiếc bàn họp được ghép vào nhau, Ushikawa nằm ngửa trên đó, mặc đồ lót mùa đông, đắp tấm chăn len cũ. Phần bụng y tròn căng gồ hẳn lên trông như tổ kiến ngoài ruộng. Một mảnh vải nhỏ đắp trên đôi mắt mở trừng trừng như đang chất vấn (không ai có thể vuốt cho đôi mắt ấy khép lại được). Miệng y hơi hé, nhưng không còn tuôn ra hơi thở hay lời nào nữa. Chỏm đầu y trông bèn bẹt, còn đầy bí ẩn hơn cả khi sống. Xơ xác quây quanh cái chỏm đầu ấy là mớ tóc xoăn vừa đen vừa thô trông giống lông mu.

Đầu Trọc mặc áo lông vũ màu lam sẫm, Tóc Đuôi Ngựa mặc áo khoác ngắn bằng da lộn có cổ lông màu nâu. Cả hai đều mặc đồ không được vừa người mấy, tưởng như họ đã chọn vội ra hai thứ mặc tạm trong đống quần áo chẳng có bao nhiêu. Tuy đang ở trong phòng, nhưng hơi họ thở ra trắng toát vì lạnh. Trong phòng chỉ có ba người. Đầu Trọc, Tóc Đuôi Ngựa cùng với Ushikawa. Trên tường, sát trần nhà có ba ô cửa sổ bằng hợp kim nhôm xếp thành hàng, một trong ba ô mở rộng để đảm bảo nhiệt độ trong phòng luôn thấp. Ngoài cái bàn đặt xác chết, trong phòng không có đồ nội thất nào. Một căn phòng chỉ có giá trị sử dụng thực tế, hoàn toàn vô cá tính. Đã để trong phòng này thì xác chết, kể cả là xác của Ushikawa, cũng mất đi cá tính, chỉ còn lại giá trị thực dụng mà thôi.

Không ai nói năng gì. Căn phòng hoàn toàn trong trạng thái vô thanh. Đầu Trọc có quá nhiều việc cần phải suy nghĩ, Tóc Đuôi Ngựa xưa nay vốn không khi nào mở miệng, Ushikawa lẽ ra là một gã lắm mồm, nhưng đã toi mạng từ hai hôm trước. Đầu Trọc chầm chậm đi đi lại lại trước cái bàn đặt xác Ushikawa, trầm ngâm nghĩ ngợi. Trừ những lúc phải đổi hướng khi chạm tường, bước chân gã không hề lỡ nhịp. Đôi giày da của gã giẫm lên tấm thảm rẻ tiền màu vàng chanh nhàn nhạt không phát ra bất cứ tiếng nào. Tóc Đuôi Ngựa chọn vị trí cạnh cửa như thường lệ, người im như tượng, hai chân hơi dạng ra, lưng thẳng, mắt nhìn chằm chằm điểm nào đó trong không trung. Cơ hồ gã không hề mệt mỏi, cũng không thấy lạnh. Chỉ có những cái chớp mắt rất nhanh thi thoảng xuất hiện, cùng làn hơi sương trắng phả ra đều đều nơi miệng, mới cho thấy gã vẫn đang còn sống.

Trưa hôm đó, trong căn phòng lạnh lẽo này, có mấy người tập hợp lại cùng bàn bạc, Một trong các thành viên cao cấp của Sakigake đang đi công tác nên phải mất một ngày mọi người mới tề tựu được đông đủ. Cuộc họp này là mật, tất cả đều nói nhỏ để ở ngoài không nghe thấy. Trong khoảng thời gian nào đó, xác của Ushikawa luôn nằm trên bàn, như món hàng mẫu trong buổi giới thiệu sản phẩm máy móc công nghiệp. Lúc này cái xác đã ở trạng thái cứng đờ, cần ít nhất ba ngày nữa thì nó mới ra khỏi trạng thái này và mềm trở lại. Mọi người thỉnh thoảng lại liếc thi thể Ushikawa một cái trong khi thảo luận mấy vấn đề thực tiễn họ đang gặp phải.

Trong suốt buổi thảo luận, kể cả khi đề cập đến chính người chết, trong căn phòng này cũng không hề tồn tại một gợn cảm xúc kính trọng hay tiếc thương nào. Cái xác cứng đờ, ngắn ngủn nằm trên bàn kia chẳng qua chỉ gợi cho những người có mặt về một bài học nào đó, hoặc tái xác nhận một vài phần tỉnh táo nào đó về cuộc đời. Dù đã xảy ra chuyện gì, thời gian đã qua thì không thể quay ngược lại. Cho dù cái chết sẽ dẫn đến giải pháp nào đi nữa, đó cũng chỉ là giải pháp dành cho người đã chết ấy thôi. Đại khái là kiểu bài học hoặc phần tình như thế.

Nên xử lý cái xác của Ushikawa như thế nào? Ngay từ đầu họ đã có kết luận rồi. Ngộ nhỡ việc Ushikawa chết vì nguyên nhân không tự nhiên bị phát hiện, e rằng cảnh sát sẽ triển khai điều tra kỹ lưỡng, quan hệ giữa y và giáo đoàn ắt hẳn sẽ bị lộ. Tuyệt đối không thể mạo hiểm như vậy. Một khi trạng thái cứng đờ của thi thể đã qua, bọn họ sẽ lập tức bí mật vận chuyển nó đến chỗ lò thiêu cỡ lớn bên trong cơ ngơi của giáo đoàn, nhanh chóng xử lý, biến nó thành khói đen tro trắng. Khói bị hút vào bầu trời, còn tro thì rải ra ruộng thành phân bón cho rau cải. Đây là công việc đã được tiến hành nhiều lần dưới sự chỉ huy của Đầu Trọc. Thân hình Lãnh Tụ quá to lớn, bọn họ phải xử lý dùng cưa xích “xử lý” thành mấy phần. Nhưng người đàn ông thấp bé này thì không cần phiền phức như vậy. Đối với Đầu Trọc, thế là đã đủ nhẹ người. Gã vốn không thích những công việc máu me lắm. Cho dù đối tượng là người chết hay người sống, gã không ưa thấy máu đổ ra.

Một nhân vật cấp trên đặt câu hỏi cho Đầu Trọc: Rốt cuộc ai giết Ushikawa? Tại sao phải giết y? Ushikawa trốn trong căn hộ Koenji với mục đích gì? Đầu Trọc là người đứng đầu nhóm bảo vệ, gã phải trả lời những câu hỏi này. Nhưng trên thực tế, gã không biết câu trả lời.

Sáng sớm hôm thứ Ba, gã nhận được cuộc điện thoại từ một người đàn ông bí ẩn không rõ là ai (tức là Tamaru), báo rằng thi thể của Ushikawa nằm trong một căn hộ thuộc tòa nhà ấy. Hai bên nói chuyện vừa cụ thể vừa vòng vo. Sau khi gác máy, Đầu Trọc lập tức triệu tập tất cả thuộc hạ ở khu vực Tokyo. Họ có bốn người, mặc đồng phục, ngụy trang làm người của công ty dọn nhà, lái chiếc Toyota Hiace chạy đến hiện trường. Trước khi vào, họ dành chút thời gian kiểm tra cho chắc đây không phải cạm bẫy của đối phương. Họ đỗ xe cách đó khá xa, đầu tiên cho một người đi ngang qua trinh sát xung quanh tòa nhà. Cần phải đề cao cảnh giác. Biết đâu cảnh sát đã bày trận sẵn sàng, chỉ đợi họ bước qua cửa là lập tức ùa ra bắt quả tang… dù thế nào họ cũng phải tránh xảy ra cơ sự ấy.

Sau khi nhét cái xác đã cứng của Ushikawa vào thùng các tông mang theo, họ khiêng qua cửa chính tòa nhà, cho vào khoang để hàng của chiếc Hiace. Cũng may, khi ấy đang đêm khuya lạnh giá, xung quanh không có ai đi qua. Họ cũng mất khá nhiều thời gian xem xét liệu trong phòng có sót lại đầu mối gì không. Dùng đèn pin, họ lục soát toàn bộ mọi ngóc ngách trong căn hộ, nhưng không tìm được thứ gì đáng chú ý. Ngoài thức ăn, cái lò sưởi điện nhỏ và túi ngủ, chỉ có những dụng cụ để duy trì cuộc sống ở mức thấp nhất. Trong thùng rác hầu như toàn vỏ đồ hộp với chai nước rỗng. Có lẽ Ushikawa đang ẩn náu trong căn hộ này để giám sát ai đó. Cặp mắt cảnh giác cao độ của Đầu Trọc không bỏ qua dấu hằn mờ mờ của chiếc giá ba chân đỡ máy ảnh để lại trên chiếu tatami, nhưng không thấy máy ảnh đâu, cũng không có bức ảnh nào. Chắc là kẻ lấy mạng Ushikawa đã mang đi rồi, tất nhiên là cả phim nữa. Ushikawa lúc chết đang mặc đồ ngủ, suy ra hình như y bị đối phương tập kích lúc đang ngủ. Hẳn người kia đã lẳng lặng lẻn vào nhà mà y không biết. Lúc chết dường như y phải chịu đựng đau đớn khủng khiếp: quần lót y thấm đầy nước tiểu són ra.

Chỉ có Đầu Trọc và Tóc Đuôi Ngựa lái xe về Yamanashi. Hai người kia ở lại Tokyo để khắc phục hậu quả. Tóc Đuôi Ngựa lái xe cả chặng đường cao tốc Chuo, đi về hướng Tây. Đường cao tốc buổi sáng sớm vắng tanh, nhưng họ tuân thủ giới hạn tốc độ một cách nghiêm ngặt. Không may bị cảnh sát chặn lại kiểm tra thì mọi chuyện coi như xong. Đằng trước đằng sau chiếc xe đều gắn biển số ăn cắp, trong khoang xe là thùng bìa các tông nhét tử thi. Không có gì để giải thích cả. Dọc đường, hai người không nói với nhau câu nào.

Gần sáng thì họ về đến giáo đoàn, bác sĩ ở đó kiểm tra thi thể của Ushikawa, xác nhận chết do nghẹt thở. Nhưng trên cổ không có dấu vết bị thắt hay siết. Theo suy đoán, chắc là đối phương đã dùng thứ gì như kiểu chiếc túi chụp trên đầu xuống để không lưu lại dấu vết. Hai tay hai chân Ushikawa cũng không có vết tích bị trói bằng dây thừng. Cũng không có dấu vết chứng tỏ y từng bị đánh đập hoặc tra khảo. Về mặt y không có vẻ gì là đau đớn. Nếu buộc phải mô tả về mặt ấy, ta hẳn sẽ nói rằng trông như y đang bị hỏi một câu mà y không mong gì có lời đáp. Trăm phần trăm là y bị sát hại, nhưng cái xác lại sạch sẽ lạ thường. Bác sĩ lấy làm ngạc nhiên. Có lẽ sau khi y chết đã có người mát xa mặt cho y, thì vẻ mặt mới bình tĩnh và tự nhiên được như thế này.

“Là một tên chuyên gia hành động cực kỳ kín kẽ,” Đầu Trọc giải thích với cấp trên. “Không để lại bất kỳ dấu vết nào. E rằng còn không để y thốt lên thành tiếng nữa. Vì sự việc xảy ra lúc nửa đêm, nếu Ushikawa hét lên vì đau đớn thì chắc cả tòa nhà đều nghe thấy. Bọn nghiệp dư không thể làm được chuyện này.”

Tại sao lại có chuyên gia ra tay loại trừ Ushikawa?

Đầu Trọc cẩn trọng cân nhắc câu từ: “Hẳn là Ushikawa đã giẫm phải đuôi kẻ nào đó. Đuôi một con hổ chẳng hạn. Khi mà chính bản thân y cũng còn chưa rõ đã xảy ra chuyện gì.”

Đó liệu có phải là người đã xử lý Lãnh Tụ không?

“Không có chứng cứ, nhưng khả năng này rất lớn,” Đầu Trọc nói. “Còn nữa, chắc hẳn Ushikawa đã được nếm trải một quá trình gần như là tra tấn. Tôi vẫn chưa biết y phải chịu đựng gì, nhưng rõ ràng là y đã bị thẩm vấn rất nghiêm khắc.”

Ushikawa đã nói những gì?

“Chắc chắn đã nói những gì y biết rồi,” Đầu Trọc nói, “cái đó có gì để nghi ngờ. Chỉ là trong chuyện này Ushikawa chỉ biết một số thông tin giới hạn. Dù y có nói gì thì chắc cũng không gây tổn hại cho chúng ta.”

Thực ra, bản thân Đầu Trọc cũng chỉ biết được một số thông tin giới hạn, nhưng đương nhiên gã biết nhiều hơn người ngoài như Ushikawa.

Cái tên chuyên gia kia chẳng lẽ là bọn xã hội đen? cấp trên hỏi.

“Đây không phải là thủ pháp của bọn lưu manh hoặc xã hội đen,” Đầu Trọc lắc đầu nói. “Bọn ấy mà làm thì làm đẫm máu hơn, thô bạo hơn nhiều, không tinh tế như vậy đâu. Người giết Ushikawa đang phát thông điệp với chúng ta: hắn có cả một hệ thống phía sau, bất cứ ai gây chuyện là bọn hắn sẽ phản kích không kiêng nể gì, và chúng ta không được nhúng mũi vào chuyện này nữa.”

Chuyện này?

Đầu Trọc lắc đầu. “Tôi cũng không rõ cụ thể là chuyện gì. Ushikawa luôn hành động một mình. Tôi đã nhiều lần yêu cầu y báo cáo tiến triển điều tra, nhưng y luôn kiên trì nói vẫn chưa thu thập được đủ tư liệu, không thể báo cáo đầy đủ được. Có lẽ y muốn dựa vào chính mình để điều tra toàn bộ sự việc trước đã. Vì vậy y mới giấu rịt mọi thông tin cho riêng mình, rồi bị người ta sát hại. Ushikawa vốn là người do chính Lãnh Tụ đưa về đây, từ trước y đã luôn hành động đơn độc kiểu như đội biệt động, hoàn toàn không phối hợp với tổ chức. Xét theo hệ thống mệnh lệnh từ trên xuống dưới, tôi cũng không có tư cách gì để ra lệnh cho y.”

Đầu Trọc không thể không vạch rõ phạm vi trách nhiệm ra như thế. Giáo đoàn được xây dựng như một tổ chức. Mọi tổ chức đều có quy tắc riêng, và có quy tắc là có các điều lệ xử phạt. Gã không muốn mình phải gánh hết trách nhiệm trong vụ việc này.

Ushikawa ở trong căn hộ ấy để giám sát người nào?

“Chuyện này vẫn chưa rõ. Nếu suy đoán hợp lý thì hẳn là người ở trong tòa nhà ấy, không thì là ai đó ở đấy. Người ở Tokyo đang tiến hành điều tra, có điều đến giờ vẫn chưa nhận được báo cáo của họ. Có vẻ như việc này tốn thời gian. E rằng tôi phải đi Tokyo một chuyến, đích thân xác minh mới được.”

Đầu Trọc không hề coi trọng năng lực làm việc của đám thuộc hạ ở Tokyo. Mấy tên này rất trung thành, nhưng không nắm được cách làm việc. Gã cũng không giải thích tỉ mỉ tình hình với chúng. Bất kể làm việc gì, tự mình động tay động chân thì hiệu suất cao hơn nhiều. Có lẽ cũng nên lục soát lại một lượt văn phòng của Ushikawa. Có lẽ tên gọi điện kia đã đi trước một bước, lục soát nơi đó rồi cũng nên. Nhưng cấp trên không phê chuẩn cho gã đi Tokyo. Chừng nào tình hình chưa rõ ràng hơn, gã và Tóc Đuôi Ngựa phải ở lại tổng bộ. Đây là lệnh.

Người Ushikawa giám sát liệu có thể là Aomame không? cấp trên hỏi.

“Không thể. Chắc chắn không phải là Aomame,” Đầu Trọc nói. “Nếu Aomame sống ở đó, chắc chắn y sẽ báo lại với chúng ta ngay. Như vậy coi như y đã hoàn thành nhiệm vụ. Người mà Ushikawa giám sát có lẽ là một ai đó liên quan hoặc có khả năng liên quan đến chỗ Aomame đang ẩn nấp. Ngoài giả thiết này ra, không còn giả thuyết nào khác hợp logic cả.”

Và y đang giám sát người kia thì bị đối phương phát giác và xử lý luôn?

“E là như vậy,” Đầu Trọc nói. “Một thân một mình, lại đến quá gần khu vực nguy hiểm. Có lẽ y quá nôn nóng tham công, muốn nhanh chóng có được những đầu mối rõ ràng hơn. Nếu có mấy người cùng thực hiện giám sát, có thể yểm hộ lẫn nhau thì không đến nỗi gặp phải kết cục như vậy.”

Anh và tên kia đã nói chuyện trực tiếp qua điện thoại. Theo anh, chúng ta có hy vọng thương lượng với Aomame không?

“Tôi không thể đoán được. Chỉ có điều, nếu bản thân Aomame không có ý định đàm phán với chúng ta thì chắc không có mấy hy vọng thương lượng đâu. Xét cho cùng, tất cả là tuy cô ta muốn thế nào.”

Không truy cứu chuyện của Lãnh Tụ nữa, đảm bảo an toàn cho cô ta, điều kiện như vậy đối với cô ta là tốt lắm rồi mà.

“Đối phương yêu cầu thông tin chi tiết hơn nữa. Tại sao chúng ta muốn gặp mặt Aomame? Tại sao lại muốn hòa bình với bọn họ? Cụ thể chúng ta muốn thương lượng cái gì?”

Yêu cầu cung cấp thông tin, vậy nghĩa là đối phương không nắm được thông tin chuẩn xác.

“Đúng. Nhưng đồng thời, chúng ta cũng không nắm được thông tin chuẩn xác về đối phương. Tại sao bọn họ phải vạch ra kế hoạch chu đáo như vậy, tìm đủ trăm phương nghìn kế sát hại Lãnh Tụ?”

Tóm lại, trong khi đợi đối phương trả lời, chúng ta phải tiếp tục tìm Aomame. Kể cả có giẫm phải đuôi của kẻ nào chăng nữa.

Đầu Trọc thoáng ngập ngừng, đoạn nói: “Chúng ta có tổ chức chặt chẽ, có thể tập trung nhân lực, hành động nhanh chóng và hiệu quả. Mọi người có mục tiêu rõ ràng, tinh thần cũng rất cao, nếu cần, họ sẵn sàng hy sinh bản thân. Nhưng xét trên phương diện thuần túy kỹ thuật, chúng ta chẳng qua chỉ là một đám nghiệp dư chắp vá, chưa hề được huấn luyện chuyên môn. So ra, đối thủ của chúng ta là dân chuyên nghiệp. Bọn họ giỏi kỹ thuật, hành động bình tĩnh, làm gì cũng không hề trù trừ do dự. Xem ra họ lão luyện, kinh nghiệm đầy mình. Ông cũng biết đó, Ushikawa tuyệt đối không phải loại người bất cẩn.”

Vậy nói cụ thể ra, bây giờ anh định triển khai tìm kiếm thế nào?

“Có vẻ như cách hiệu quả nhất lúc này là tiếp lấy những manh mối giá trị mà Ushikawa đã tìm được, tiếp tục truy theo hướng ấy. Bất kể nó là gì chăng nữa.”

Tức là ngoài ra, chúng ta không nắm được manh mối giá trị nào khác?

“Đúng là như vậy,” Đầu Trọc thẳng thắn thừa nhận.

Bất kể gặp phải nguy hiểm gì, bất kể là phải hy sinh lớn chừng nào, chúng ta cũng phải tìm được Aomame. Khống chế cô ta. Phải tranh thủ từng giây từng phút.

“Đây là những gì giọng nói chỉ thị cho chúng ta?” Đầu Trọc hỏi. “Bất cứ hy sinh lớn chừng nào, bằng bất cứ cách nào, phải tranh thủ từng giây từng phút khống chế Aomame?”

Cấp trên không trả lời. Thông tin cụ thể hơn nữa sẽ không được cung cấp cho người ở cấp bậc như Đầu Trọc. Gã không phải thành viên cốt cán của giáo đoàn; gã chỉ là thủ lĩnh đám lính lác mà thôi. Nhưng Đầu Trọc tự hiểu: đây chính là thông điệp cuối cùng gửi đến cho bọn họ, có lẽ chính giọng nói cuối cùng mà các cô đồng nghe thấy.

Trong căn phòng lạnh thấu xương, Đầu Trọc đi đi lại lại trước cái xác của Ushikawa. Một thứ gì đó chợt lướt qua ý thức gã. Gã đứng lại, nhăn mặt, chau mày, cố xác định xem thứ vừa lướt qua trong đầu mình là cái gì. Lúc gã dừng bước, Tóc Đuôi Ngựa đứng ở cửa hơi thay đổi tư thế một chút, thở ra một hơi dài, chuyển trọng tâm sang chân bên kia.

Koenji, Đầu Trọc thầm nhẩm lại trong đầu. Gã hơi chau mày, bắt đầu lục tìm trong các tầng sâu của ký ức. Gã cẩn thận và chậm rãi kéo dần đầu mối về phía mình. Một người có liên quan đến sự kiện này đang ở khu Koenji. Là ai?

Gã mò trong túi áo lấy ra một quyển sổ nhăn nhúm, lật giở, kiểm chứng xem trí nhớ của mình có bị nhầm không. Kawana Tengo. Anh ta ở quận Suginami, khhu Koenji, hoàn toàn trùng khớp với địa chỉ tòa nhà nơi Ushikawa chết. Cùng một tòa nhà, chỉ khác số phòng. Một người ở tầng ba, một người ở tầng một. Ushikawa ở đó để giám sát động tĩnh của Tengo sao? Không nghi ngờ gì nữa. Địa chỉ trùng nhau thì không thể nào chỉ là trùng hợp thuần túy.

Nhưng, trong tình trạng cấp bách này, tại sao Ushikawa lại phải theo dõi hành động của Kawana Tengo? Đầu Trọc mãi không nhớ ra địa chỉ của Kawana Tengo, đấy là vì gã hoàn toàn không còn chút bận tâm tới anh ta nữa. Kawana Tengo đã chấp bút viết lại Nhộng không khí của Fukaeri. Hiện tại, sứ mệnh của anh ta đã kết thúc. Tại thời điểm này, giáo đoàn tập trung toàn bộ tinh lực vào việc xác định vị trí của Aomame. Nhưng Ushikawa lại hướng tiêu điểm hành động vào tay giáo viên trường dự bị này, thậm chí còn cất công giám sát toàn diện anh ta, kết quả là phải trả giá bằng tính mạng. Tại sao?

Đầu Trọc nghĩ mãi vẫn không tìm được lời đáp. Không nghi ngờ gì nữa, Ushikawa đã tìm được đầu mối gì đó, dường như y còn cho rằng chỉ cần bám chặt lấy Kawana Tengo là sẽ tìm được hành tung của Aomame. Chính vì vậy y mới thuê căn hộ ấy, bố trí máy ảnh cạnh cửa sổ, có lẽ là đã giám sát Kawana Tengo từ rất lâu rồi. Lẽ nào Kawana Tengo và Aomame có quan hệ gì? Giả sử là có, vậy đó là mối quan hệ như thế nào?

Đầu Trọc không nói không rằng đi ra khỏi phòng, sang căn phòng có bật máy sưởi sát vách, gọi điện thoại đến Tokyo. Đó là một căn hộ trong khu chung cư cao cấp ở khu Sakuragaoka thuộc quận Shibuya. Gã lệnh cho tay thuộc cấp trực ở đó lập tức trở lại căn hộ ở Koenji kia, đợi ở đó để giám sát Kawana Tengo. Đối phương là một người đàn ông cao lớn tóc ngắn, hẳn là mày sẽ không nhầm được. Nếu Kawana Tengo rời khỏi tòa nhà, mày phải lập tức bám theo, chú ý không được để đối phương phát hiện. Tuyệt đối không được để bị cắt đuôi. Xem thằng cha đó đi đâu. Bằng mọi giá, mày phải theo sát hắn. Bọn tao sẽ nhanh chóng đến nhập bọn.

Đầu Trọc quay lại gian phòng để cái xác của Ushikawa, bảo Tóc Đuôi Ngựa lập tức lên đường đi Tokyo. Tóc Đuôi Ngựa gật đầu ngắn gọn. Gã chưa bao giờ yêu cầu giải thích, chỉ nhận lệnh và nhanh chóng hành động. Đầu Trọc ra khỏi phòng, khóa trái cửa để phòng người ngoài ra vào. Sau đó, gã ra khỏi tòa nhà, chọn trong số mười mấy chiếc xe ở bãi đỗ một chiếc Nissan Gloria màu đen. Hai người ngồi lên xe, xoay chìa khóa cầm sẵn trong ổ, khởi động máy. Theo quy định, xăng lúc nào cũng phải đầy bình. Lần này vẫn Tóc Đuôi Ngựa cầm lái. Biển số chiếc Nissan Gloria này là biển hợp pháp, nguồn gốc xe cũng minh bạch, nên thi thoảng có vượt tốc độ cũng không vấn đề gì.

Lên đường cao tốc không lâu, Đầu Trọc chợt nhớ ra chuyện trở lại Tokyo này vẫn chưa được cấp trên phê chuẩn. Sau này có lẽ sẽ gặp phiền phức. Nhưng gã không thể làm gì hơn được, đây là chuyện khẩn cấp cần tranh thủ từng giây từng phút. Đến Tokyo rồi giải thích sau vậy. Gã hơi chau mày. Những hạn chế của tổ chức đôi lúc khiến gã bực mình, số lượng quy tắc chỉ có tăng lên chứ tuyệt chẳng bao giờ giảm. Nhưng gã cũng biết, mình mà rời khỏi tổ chức này thì sẽ không sống nổi. Gã không phải loại sói cô độc, mà là một đinh ốc trong vô số đinh ốc chỉ biết chấp hành mệnh lệnh của trên mà thôi.

Gã mở radio, lắng nghe tin tức lúc tám giờ. Hết chương trình tin tức, gã tắt đài, ngả ghế lái phụ ra phía sau, ngủ một giấc ngắn. Lúc tỉnh dậy, gã hơi đói bụng (gã không nhớ lần cuối cùng mình được ăn một bữa tử tế là lúc nào), nhưng không có thời gian dừng xe ở khu phục vụ. Bọn gã phải tranh thủ từng giây từng phút.

Nhưng lúc này, Tengo đã gặp Aomame trên cầu trượt trong sân chơi. Bọn gã không hề biết Tengo đang ở đâu. Trên đầu Tengo và Aomame, hai mặt trăng đang lơ lửng.

Xác của Ushikawa lặng lẽ nằm trong bóng tối lạnh thấu xương. Trong phòng, ngoài y ra, không còn ai khác nữa. Đèn đã tắt hết, cửa sổ sát trần nhà. Vì góc độ, Ushikawa không nhìn thấy mặt trăng, vì vậy không rõ là có một hay hai mặt trăng đang chiếu sáng.

Trong phòng không có đồng hồ, nên không biết thời gian chuẩn xác. Đầu Trọc và Tóc Đuôi Ngựa đã đi được khoảng một tiếng. Giả sử có người ở đây, chứng kiến cái miệng của Ushikawa đột nhiên nhúc nhích thì hẳn là hồn vía lên mây. Đó là một chuyện kinh dị, hoàn toàn không thể tưởng tượng nổi. Lúc này, không cần phải nói cũng biết Ushikawa đã chết, cơ thể đã hoàn toàn cứng đờ. Nhưng cái miệng y lại không ngừng chuyển động, hồ như đang khẽ rung rẩy, sau đó phát ra một âm thanh khô khốc, thình lình hé ra.

Nếu có người ở đây thì ắt sẽ cho rằng Ushikawa sắp cất tiếng nói. Đó có lẽ là một tin tức quan trọng mà chỉ người chết mới biết. Người đó hẳn sẽ sợ đến không thở nổi, căng thẳng chờ đợi. Y chuẩn bị hé lộ điều bí mật gì?

Nhưng cái miệng mở to của Ushikawa không phát ra âm thanh. Thứ tuôn ra từ đó không phải lời nói, cũng không phải hơi thở, mà là sáu Người Tí Họn vóc dáng rất nhỏ. Họ cao cùng lắm là năm xăngtimét. Cơ thể nhỏ bé của họ mặc những bộ đồ nhỏ bé. Họ giẫm lên đầu lưỡi đã mọc rêu của Ushikawa, bước qua hàm răng bẩn tưởi xiêu vẹo, đi ra ngoài từng người một nghiêm hàng thẳng lối, giống như đoàn thợ mỏ trở lên mặt đất vào buổi hoàng hôn sau khi đã hoàn thành công việc. Nhưng quần áo mặt mũi của họ cực kỳ sạch sẽ, không một vết bẩn. Họ là những người hoàn toàn không liên quan gì đến sự bẩn thỉu và rách rưới.

Sáu Người Tí Hon chui ra từ miệng Ushikawa, trèo xuống chiếc bàn họp đặt cái xác, ở đấy họ bắt đầu lắc mình, cơ thể họ liền lớn dần lên. Bọn họ có thể tùy theo nhu cầu mà thay đổi kích cỡ cơ thể cho thích hợp, nhưng chiều cao của họ không bao giờ quá một mét cũng không thấp hơn ba xăngtimét. Khi đã cao lên khoảng sáu bảy mươi xăngtimét, cả đám liền ngừng lắc lư, lần lượt leo xuống khỏi bàn. Nét mặt Người Tí Hon không có cảm xúc, nhưng cũng không phải gương mặt kiểu như đeo mặt nạ. Gương mặt bọn hộ hoàn toàn bình thường. Nhỏ hơn, song về cơ bản không khác với mặt của bạn hay tôi. Chỉ là hiện tại họ không thấy cần thể hiện cảm xúc ra mặt.

Bọn họ có vẻ không vội vã lắm, nhưng cũng chẳng thong dong cho lắm. Thời gian của họ vừa đủ để hoàn thành công việc cần làm. Thời gian đó không dài quá, cũng không ngắn quá. Sáu người không hẹn mà cùng lúc lặng lẽ ngồi xuống sàn nhà, quây thành một vòng tròn. Một vòng tròn hoàn mỹ, đường kính khoảng hai mét.

Rất nhanh, một người không nói không rằng vươn tay ra, kéo một sợi tơ mỏng mảnh từ trong không khí. Sợi tơ dài khoảng mười lăm xăngtimét, gần như trong suốt, màu bơ ngà trắng. Người đó đặt sợi tơ xuống sàn. Người tiếp theo cũng làm y như vậy. Một sợi tơ khác cùng độ dài, và cùng màu sắc. Ba người còn lại cũng lặp lại động tác tương đồng. Duy chỉ có người cuối cùng là hành động khác. Anh ta đứng dậy rời khỏi vòng tròn, leo lên bàn họp, thò tay giật một sợi tóc xoăn tít trên cái đầu hình dáng kỳ cục của Ushikawa. Một tiếng “bựt” khe khẽ vang lên. Đối với anh ta, thứ ấy thay thế cho sợi tơ. Người Tí Hon đầu tiên bắt đầu đan kết một cách thành thạo, dùng năm sợi tơ rút ra từ không khí và một sợi tóc của Ushikawa.

Cứ như vậy, sáu Người Tí Hon chế tác một nhộng không khí mới. Lần này không ai nói chuyện, thậm chí còn không hô hô. Họ cứ lẳng lặng rút tơ từ trong không khí, bứt tóc trên đầu Ushikawa xuống, duy trì tiết tấu ổn định và trôi chảy, nhanh nhẹn đan kết nhộng không khí. Tuy đang ở trong căn phòng lạnh buốt thấu xương nhưng hơi thở của họ không biến thành màu trắng. Giả sử ai đó tình cờ có mặt tại đây thì hẳn sẽ thấy thật kỳ lạ. Nhưng cũng có thể người đó sẽ chẳng nhận thấy, vì những chuyện kỳ lạ khác xảy ra là cũng đủ nhiều rồi.

Dù Người Tí Hon có nhiệt tình làm việc tới đâu (thực tế họ không hề nghỉ ngơi), cũng không thể hoàn thành nhộng không khí chỉ trong một đêm được. E rằng ít nhất cũng phải tốn ba ngày. Nhưng sáu Người Tí Hon không nôn nóng. Ít nhất phải hai ngày nữa xác Ushikawa mới hết cứng đờ và bị đưa vào lò thiêu. Họ biết điều này. Trong hai đêm nữa mà kết ra được hình thái đại thể là cũng ổn rồi. Họ có đủ thời gian, hơn nữa họ không biết mệt mỏi là gì.

Ushikawa nằm trên bàn, tắm mình trong ánh trăng tái nhợt. Miệng y mở to, trên cặp mắt trợn trừng đắp một tấm vải dày. Trong khoảnh khắc cuối cùng, đôi mắt ấy đã thấy căn nhà nhỏ ở Chuorinkan, thấy con chó nhỏ chạy loăng quăng trong khoảnh sân phủ cỏ xanh mướt.

Và một phần linh hồn y giờ đang sắp sửa hóa thành nhộng không khí.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 29: Aomame


Không bao giờ buông bàn tay này ra nữa

“Anh Tengo, mở mắt ra đi,” Aomame thì thầm. Tengo mở mắt. Dòng thời gian lại chảy trên thế giới.

“Trăng kìa,” Aomame nói.

Tengo ngẩng lên nhìn trời. Tầng mây vừa đúng lúc tẽ ra, phía trên những cành sồi khẳng khiu có thể nhìn thấy mặt trăng đang lơ lửng. Hai mặt trăng một lớn một nhỏ. Trăng lớn màu vàng và trăng hình dạng méo mó màu xanh lục. Mẫu thể và tử thể. Lúc này, phần rìa của tầng mây vừa tản ra kia đã nhuốm sắc điệu hòa trộn từ ánh sáng của hai mặt trang, trông như vạt váy dài bất cẩn bị dính phải thuốc nhuộm.

Sau đó, Tengo nhìn Aomame bên cạnh anh. Nàng không còn là cô bé mười tuổi gầy trơ xương thoạt nhìn đã biết là thiếu dinh dưỡng, mái tóc bị bà mẹ cắt qua loa quấy quá, mặc thứ quần áo cũ không vừa người. Diện mạo ngày xưa không còn sót lại chút gì. Dù vậy, anh vẫn lập tức nhận ra đó chính là Aomame. Trong mắt Tengo, nàng không giống bất kỳ ai khác mà chỉ là Aomame. Thần thái hiện lên trong đôi mắt ấy, trải qua hai mươi năm vật đổi sao dời, vẫn không hề biến đổi. Kiên định, mạnh mẽ, trong vắt hơn hết thảy. Đó là đôi mắt tin chắc vào những gì mình mong cầu, đôi mắt không ai ngăn cản nổi, đôi mắt biết rõ mình nên thấy cái gì. Đôi mắt ấy đang nhìn thẳng vào anh, nhìn thấu đến tận sâu thẳm con tim.

Aomame đã sống hai mươi năm đó ở một nơi anh hoàn toàn không biết, trở thành một phụ nữ trưởng thành xinh đẹp. Nhưng chỉ trong chớp mắt, Tengo đã hấp nạp tất cả các tháng năm ấy và các nơi chốn ấy vào trong mình, chuyển hóa chúng thành máu thịt mình. Lúc này, tất cả đã trở thành nơi chốn của anh, năm tháng của anh.

Mình nên nói gì đó, Tengo nghĩ, nhưng không thốt nên lời. Miệng anh khẽ mấp máy, tìm kiếm những lời thích hợp trong không trung, nhưng không tìm thấy thứ đó ở đâu hết. Đôi môi anh không để thoát ra được gì khác ngoài những làn hơi trắng gợi nên hình ảnh những hòn đảo cô độc trôi dạt. Aomame nhìn vào mắt anh, khẽ lắc đầu. Tengo hiểu ý nàng. Nàng đang nói với anh: Không cần nói gì cả. Nàng vẫn nắm chặt tay Tengo trong túi áo khoác, không buông dù chỉ một giây.

Chúng ta đang thấy cùng một thứ, Aomame nhìn sâu vào mắt Tengo, nhẹ nhàng nói. Đó là câu hỏi, đồng thời không phải là câu hỏi. Nàng đã biết chuyện này, nhưng vẫn cần một sự xác nhận.

“Có hai mặt trăng,” Aomame nói.

Tengo gật đầu. Có hai mặt trăng. Anh không nói thành lời. Không hiểu vì sao, anh không thể phát ra lời, chỉ thầm nhủ như vậy.

Aomame nhắm mắt, vươn người về phía trước, áp mặt lên ngực Tengo, tai nàng áp vào chỗ trái tim anh. Nàng lắng nghe suy nghĩ của anh. “Em muốn biết chuyện này,” Aomame nói. “Muốn biết rằng chúng ta đang ở cùng một thế giới, thấy cùng một sự vật.”

Tengo chợt nhận ra rằng cây cột xoáy khổng lồ trong tim anh đã tan biến. Chỉ còn đêm đông tĩnh lặng xung quanh hai người. Tòa chung cư bên kia đường có mấy cửa sổ sáng đèn, ngầm ám chỉ rằng ngoài họ ra vẫn còn người khác sống trong thế giới này. Đối với hai người, điều này gần như không thể tin nổi. Thậm chí đây dường như là một lối logic: Ngoài hai người họ ra còn có những người khác tồn tại và sống cuộc đời của họ cũng trong cái thế giới này sao?

Tengo khẽ cúi mình, ngửi mùi hương trên mái tóc Aomame. Mái tóc thẳng tắp, thật đẹp. Đôi tai nhỏ màu hồng phấn tựa như một sinh vật thẹn thùng, chỉ ló mặt ra khỏi suối tóc.

“Lâu quá rồi,” Aomame nói.

Lâu quá rồi, Tengo nghĩ. Nhưng đồng thời, anh chợt nhận ra hai mươi năm ấy không còn là thực chất nữa.Thời gian ấy đã trôi qua trong chớp mắt, mà bởi thế nó cũng chỉ cần một cái chớp mắt để được lắp đầy.

Tengo rút tay ra khỏi túi áo, ôm lấy bờ vai nàng. Lòng bàn tay anh cảm nhận được sự đầy đủ của cơ thể nàng. Anh lại ngẩng lên nhìn mặt trăng. Hai mặt trăng vẫn ở giữa tầng mây, rải thứ ánh sáng hòa trộn thành một sắc điệu kỳ lạ ấy xuống mặt đất. Mây chầm chậm trôi. Dưới ánh trăng, Tengo thấm thía khả năng của trái tim trong việc cải biến thời gian thành một thứ tương đối nhường ấy. Hai mươi năm dài đằng đẵng. Trong khoảng thời gian đó, mọi sự đều có thể xảy ra. Vô số sự vật được sinh ra, và gần như cũng từng ấy sự vật tiêu vong. Những thứ may mắn còn sót lại cũng biến hình biến chất. Những năm tháng đằng đẵng. Nhưng đối với những trái tim kiên định, thời gian ấy không phải là dài. Cho dù hai người gặp lại nhau muộn hai mươi năm nữa, tâm trạng của anh chắc hẳn vẫn giống như lúc này. Tengo hiểu điều ấy. Kể cả khi hai người đều đã năm mươi thì khi đối diện Aomame anh cũng vẫn sẽ vừa phấn khích vừa rối bời giống như lúc này. Tim anh cũng sẽ ngập tràn trong niềm vui và niềm tin vững chải giống như lúc này.

Tengo nghĩ vậy chứ không nói ra. Nhưng anh hiểu, Aomame đang lắng nghe từng câu từng chữ của những lời chưa thành hình ấy. Vành tai nhỏ màu hồng phấn của nàng áp vào ngực anh, lắng nghe những gì đang diễn ra trong trái tim ở đó, như một người chỉ cần dùng ngón tay dò trên bản đồ là có thể hình dung ra những phong cảnh sống động vậy.

“Em muốn được như thế này mãi quá, quên đi hết thảy thời gian,” Aomame thì thầm. “Nhưng hai chúng ta còn có việc phải làm.”

Chúng ta phải lên đường đi xa, Tengo nghĩ.

“Đúng vậy, chúng ta phải lên đường đi xa,” Aomame nói. “Càng sớm càng tốt. Vì thời gian chúng ta không còn nhiều, mặc dù em vẫn chưa thể nói thành lời chúng ta sẽ đi đến đâu.”

Không cần phải nói, Tengo nghĩ.

“Anh không muốn biết chúng ta sẽ đi đâu sao?” Aomame hỏi.

Tengo lắc đầu. Ngọn lửa trong tim chưa từng bị cuồng phong của hiện thực dập tắt. Không còn gì ý nghĩa hơn điều này nữa.

“Chúng ta không bao giờ chia lìa nữa,” Aomame nói. “Điều này chắc chắn hơn hết thảy mọi thứ. Em sẽ không bao giờ buông bàn tay này ra nữa.”

Một đám mây mới ùa đến, chầm chậm nuốt hai mặt trăng. Bóng tối bao trùm lên thế giới dày thêm, như tấm màn lớn trên sân khấu vừa lặng lẽ buông xuống.

“Mình phải nhanh lên,” Aomame khẽ nói. Và họ đứng dậy trên chiếc cầu trượt, bóng hai người lại hợp làm một. Tựa như hai đứa trẻ đang lần mò tìm cách băng qua rừng thẩm tối tăm, bàn tay họ nắm chặt lấy nhau.

“Chúng ta sẽ rời khỏi thành phố mèo ngay bây giờ,” lần đầu tiên Tengo cất tiếng. Aomame trân trọng tiếp nhận giọng nói mới tinh khôi vừa tuôn ra ấy.

“Thành phố mèo?”

“Là thành phố nhỏ ban ngày bị chi phối bởi nỗi cô độc hằn sâu, ban đêm bị chi phối bởi lũ mèo to tướng. Nơi ấy có con sông nhỏ xinh đẹp chảy qua, có cây cầu đá cổ bắc ngang sông. Nhưng đó không phải là nơi chúng ta nên dừng chân.”

Bọn mình dùng những tên khác nhau để gọi thế giới này, Aomame nghĩ. Mình gọi nó là năm 1Q84, còn anh thì gọi là thành phố mèo. Nhưng cả hai đều cùng chỉ một thứ. Aomame nắm tay anh chặt hơn nữa.

“Đúng, chúng ta sẽ rời khỏi thành phố mèo ngay bây giờ. Hai chúng ta,” nàng nói. “Chỉ cần rời khỏi thành phố này thì dù ngày hay đêm chúng ta sẽ vĩnh viễn không bao giờ xa nhau.”

Lúc hai người rảo bước ra khỏi sân chơi, hai mặt trăng một lớn một nhỏ vẫn đang nấp sau đám mây trôi chầm chậm. Mắt của mặt trăng đã bị che lại. Đôi thiếu niên nam nữ nắm chặt tay băng qua rừng thẳm.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 30: Tengo


Nếu em không lầm

Rời khỏi sân chơi, hai người đi ra đường lớn, bắt một chiếc taxi. Aomame bảo lái xe đi đường số 246 đến Sangenjaya.

Đến lúc này Tengo mới để ý tới trang phục của Aomame. Nàng mặc chiếc áo gió nhạt màu, quá mỏng manh trong thời tiết này, hàng khuy trước ngực cài kín mít. Bên trong nàng mặc một bộ vest đường nét đơn giản màu xanh lục. Váy ngắn và bó sát. Nàng mặc tất liền quần, đi giày cao gót rất lộng lẫy, vai đeo một chiếc túi da màu đen. Cái túi căng phồng, dường như rất nặng. Aomame không đeo găng tay, cũng không quấn khăn. Không nhẫn, không vòng đeo cổ, không hoa tai, nước hoa lại càng không. Với Tengo, nàng có mang gì trên người còn thứ gì bỏ lại thì cũng đều hết sức tự nhiên. Anh không nghĩ ra được thứ nào nên bỏ đi hay thêm vào cả.

Chiếc taxi lên đường vành đai số 7 rồi chạy về phía đường 246. Dòng xe không hề gặp trở ngại, khác hẳn thường ngày. Sau khi xe chạy, hai người im lặng một hồi lâu. Radio trên xe cũng tắt, tay lái xe trẻ tuổi ngồi im phăng phắc. Tiếng bánh xe đơn điệu không ngừng lọt vào tai hai người. Aomame dựa vào người Tengo, từ đầu chí cuối vẫn nắm chặt bàn tay to bè của anh. Nàng sợ hãi chỉ buông tay ra là sẽ không bao giờ tìm lại được nữa. Xung quanh hai người, thành phố về đêm tựa như dòng côn trùng phát quang cuồn cuộn chảy.

“Có nhiều chuyện cần cho anh biết,” hồi lâu sau Aomame nói, “nhưng sợ rằng không thể nói hết được trước khi đến đó. Vì không có nhiều thời gian. Nhưng dù có thêm bao nhiêu thời gian nữa thì chắc cũng không giải thích rõ ràng tất cả được.”

Tengo khẽ lắc đầu. Không cần giải thích tất cả ngay bây giờ. Sau này họ có thể từ từ lấp đầy từng khoảng trống một, giả sử như có khoảng trống cần phải lắp đầy. Nhưng đối với Tengo lúc này, chỉ cần đó là thứ hai người có thể chia sẻ thì kể cả nó là một khoảng trống họ buộc phải bỏ qua hay một câu đố vĩnh viễn không có lời giải, anh cũng đều có thể phát hiện ra niềm vui trong đó, một thứ gần gũi với tình yêu.

“Trước tiên anh cần biết gì về em?” anh hỏi.

“Anh đã biết gì rồi, về em của hiện tại ấy?” Aomame hỏi lại Tengo.

“Gần như không gì cả,” Tengo trả lời, “trừ chuyện em là huấn luyện viên ở câu lạc bộ thể thao, độc thân, hiện tại đang ở Koenji.”

Aomame nói: “Em cũng gần như không biết gì về anh của hiện tại, nhưng vẫn biết được một số điều. Anh là thầy giáo dạy toán tại một trường dự bị ở Yoyogi, sống một mình, và quyển tiểu thuyết Nhộng không khí trên thực tế là do anh viết.”

Tengo nhìn mặt Aomame, hai cánh môi khẽ mở ra vì kinh ngạc. Người biết được chuyện này rất ít. Lẽ nào cô ấy có liên quan gì đến giáo đoàn?

“Đừng lo. Chúng ta ở cùng một phía,” nàng nói, “còn làm sao em biết được thì chuyện dài lắm. Nhưng em biết, Nhộng không khí là tác phẩm chung của anh và Fukada Eriko. Hơn nữa, cả em và anh đều đã bước vào thế giới có hai mặt trăng trên bầu trời này một cách vô thức. Còn một chuyện nữa, em mang thai rồi. Chắc là con của anh. Em nghĩ đây là chuyện quan trọng mà anh nên biết đầu tiên.”

“Em mang thai con của anh?” Có lẽ lái xe đang nghe trộm, nhưng Tengo không rảnh trí để quan tâm chuyện này.

“Trong hai mươi năm qua chúng ta không gặp nhau một lần nào,” Aomame nói, “nhưng em đã mang thai đứa con của anh. Em còn định sinh nó ra nữa. Chuyện này thoạt nghe đương nhiên là không hợp tình hợp lý chút nào.”

Tengo im lặng nghe nàng nói tiếp.

“Hồi đầu tháng Chín từng có trận mưa và sấm sét rất lớn, anh còn nhớ không?”

“Nhớ rất rõ,” Tengo trả lời, “ban ngày trời rất đẹp, nhưng vừa tối thì đột nhiên nổi sấm đùng đùng, rồi mưa gió ập đến. Nước ngập cả ga tàu điện ngầm Akasaka-Mitsuke, tàu điện ngầm phải ngừng hoạt động một thời gian dài.” Fukaeri nói, Người Tí Hon đang làm náo loạn.

“Em thụ thai trong đêm mưa gió ấy,” Aomame nói, “có điều, trong ngày hôm đó, thậm chí cả mấy tháng trước và sau đó, em đều không quan hệ với bất cứ người nào.”

Nàng chờ cho những gì mình nói thấm vào ý thức của Tengo, rồi tiếp tục:

“Nhưng không nghi ngờ gì nữa, chuyện đó chắc chắn xảy ra vào cái đêm ấy. Vả lại, em tin chắc rằng mình đang mang thai con của anh. Em không thể giải thích rõ ràng, nhưng em hiểu là như thế.”

Ký ức về cuộc làm tình chóng vánh kỳ dị với Fukaeri đêm hôm đó lướt qua trong đầu Tengo. Bên ngoài sấm sét ì ùng, những hạt mưa lớn đập vào cửa sổ. Nói theo cách của Fukaeri, chính là Người Tí Hon đang làm náo loạn. Anh nằm ngửa trên giường, hoàn toàn tê liệt, Fukaeri cưỡi trên người anh, đâm dương v*t căng cứng của anh vào cơ thể cô, vắt kiệt tinh dịch. Lúc đó, cô trông như hoàn toàn trong trạng thái nhập đồng. Hai mắt cô nhắm nghiền, tựa như đang đắm chìm vào suy tưởng. Bầu vú cô căng tròn, và cô không có lông mu. Một cảnh tượng không giống như hiện thực. Nhưng không thể nghi ngờ, đó là chuyện đã xảy ra trong thực tế.

Sáng hôm sau, Fukaeri có vẻ hoàn toàn không nhớ những chuyện xảy ra đêm hôm trước. Hoặc cô cố không thể hiện ra rằng mình có nhớ. Vậy nên Tengo cảm thấy chuyện đó không giống như hành vi quan hệ tình dục, mà giống với hoàn thành một tác nghiệp chuyên môn hơn. Trong đêm mưa bão ấy, Fukaeri đã nhân lúc thân thể Tengo rơi vào trạng thái tê liệt để thu thập tinh dịch của anh, vắt đến giọt cuối cùng. Đến giờ Tengo vẫn còn nhớ cảm giác kỳ dị lúc ấy. Tại thời điểm đó, Fukaeri tựa như mang theo một nhân cách hoàn toàn khác.

“Anh nhớ đến một chuyện,” Tengo nói bằng giọng khô khốc, “cũng không thể giải thích theo logic thông thường, xảy ra với anh đêm hôm đó.”

Aomame nhìn chăm chú vào mắt anh.

Tengo nói: “Khi đó anh chưa hiểu nó có ý nghĩa gì. Kể cả lúc này cũng không. Nhưng nếu hôm đó em đã thụ thai, và không nghĩ ra được cách giải thích khác nữa, vậy thì đứa bé trong bụng em chắc chắn là con anh.”

Fukaeri khi ấy có lẽ là một vật thể trung gian. Đây là sứ mệnh cô gái ấy được giao phó. Dùng cơ thể cô làm thông đạo để kết hợp Tengo và Aomame làm một. Trong một thời gian có hạn, cô đã kết nối hai người với nhau theo nghĩa vật lý. Tengo hiểu điều đó.

“Sau này anh sẽ kể tường tận với em khi đó đã xảy ra chuyện gì,” Tengo nói, “còn hiện giờ lời lẽ của anh không đủ để giải thích.”

“Nhưng anh thực sự tin chứ? Tin rằng thứ bé nhỏ trong bụng em chính là con anh?”

“Hoàn toàn tin,” Tengo nói.

“Tốt quá,” Aomame nói, “em chỉ muốn biết chuyện đó thôi. Chỉ cần anh tin, những chuyện khác em không quan tâm. Không cần phải giải thích gì hết.”

“Em có thai rồi,” Tengo xác nhận lại lần nữa.

“Đã bốn tháng,” Aomame cầm bàn tay Tengo đặt lên bụng mình, cách một lớp áo gió.

Tengo nín thở, tập trung tinh thần, tìm dấu hiệu của sự sống. Nó hãy còn là một thứ rất nhỏ, nhưng bàn tay anh cảm nhận được hơi ấm của nó.

“Giờ chúng ta sẽ đi đâu, anh và em, cả thứ nhỏ bé này nữa?”

“Một nơi không phải nơi này,” Aomame trả lời, “thế giới mà trên trời chỉ có một mặt trăng. Nơi mà chúng ta lẽ ra nên sống. Nơi mà Người Tí Hon không có sức mạnh gì cả.”

“Người Tí Hon,” Tengo hơi nhăn mặt.

“Anh đã miêu tả rất kỹ lưỡng về Người Tí Hon trong Nhộng không khí. Hình dạng họ trông thế nào, họ làm những chuyện gì.”

Tengo gật đầu.

Aomame nói: “Bọn họ thực sự tồn tại trên thế giới này. Giống hệt như miêu tả của anh vậy.”

Trong lúc anh viết lại Nhộng không khí, Người Tí Hon chẳng qua chỉ là sản phẩm hư cấu của một thiếu nữ mười bảy tuổi giàu trí tưởng tượng. Cùng lắm chỉ là một ẩn dụ hoặc tượng trưng nào đó. Nhưng ở thế giới này, Người Tí Hon đích thực tồn tại, và họ có sức mạnh thực sự. Giờ đây Tengo đã có thể tin chuyện này.

“Không chỉ Người Tí Hon. Còn cả nhộng không khí nữa, mẫu thể và tử thể, hai mặt trăng, đều tồn tại trong thế giới này,” Aomame nói.

“Em biết lối ra khỏi thế giới này?”

“Chúng ta sẽ men theo con đường em đã đi vào thế giới này, để rời khỏi đây. Ngoài lối đó, em không nghĩ ra còn lối thoát nào khác.” Đột nhiên Aomame hỏi thêm một câu: “Anh có mang theo tiểu thuyết viết được một nửa kia không?”

“Ở đây này.” Tengo lấy tay vỗ nhẹ lên chiếc túi đeo màu đỏ sậm khoác trên vai, sau đó, anh mới lấy làm lạ: Sao mà cô ấy biết được?

Aomame mỉm cười do dự: “Nói chung là em biết.”

“Hình như em biết rất nhiều,” Tengo nói. Lần đầu tiên anh thấy Aomame mỉm cười. Đó chỉ là một nụ cười thoáng qua rất nhẹ, nhưng xung quanh anh mực thủy triều trên khắp thế giới bắt đầu biến đổi. Tengo hiểu điều đó đang xảy ra.

“Đừng bỏ nó,” Aomame nói, “đối với chúng ta nó có ý nghĩa rất quan trọng.”

“Yên tâm. Anh sẽ không bỏ nó đâu.”

“Chúng ta mới đến thế giới này là để gặp lại nhau. Tuy bản thân chúng ta không biết, nhưng đây chính là mục đích chúng ta đến đây. Chúng ta đã trải qua vô số khó khăn. Những điều vô nghĩa, những điều không thể giải thích, những điều kỳ dị, những điều tanh máu, những điều đau buồn. Có lúc cả những điều tươi đẹp nữa. Chúng ta được yêu cầu phải thế, và chúng ta đã thế. Chúng ta bị buộc phải qua sát hạch, chúng ta đã vượt qua. Mục đích để chúng ta đến đây, chúng ta thực hiện được rồi. Nhưng nguy hiểm giờ đang cận kề. Chúng muốn giành tử thể trong bụng em. Tử thể nghĩa là gì, anh Tengo chắc biết.”

Tengo hít sâu một hơi, đoạn nói: “Em muốn cùng anh sinh ra một tử thể.”

“Đúng vậy. Nguyên lý cụ thể là gì thì em không hiểu, nhưng thông qua nhộng không khí, hoặc chính em đóng vai trò như nhộng không khí, em sẽ sinh ra tử thể. Và bọn chúng đang toan tính bắt cả ba chúng ta, để hình thành một hệ thống người lắng nghe giọng nói mới.”

“Ở đó anh có vai trò gì, giả sử anh được trao một sứ mệnh khác ngoài việc làm cha của tử thể?”

“Anh…” Aomame ngập ngừng định nói rồi lại thôi, những lời sau đó không thốt lên được nữa. Xung quanh hai người vẫn còn một vài khoảng trống. Sau này họ cần phải đồng tâm hiệp lực, dành thời gian từ từ lấp đầy những khoảng trống đó.

“Anh quyết tâm tìm được em,” Tengo nói, “nhưng không tìm được. Là em đã tìm được anh. Trên thực tế, anh gần như chẳng làm gì cả. Biết nói thế nào nhỉ, anh cảm thấy như vậy là không công bằng.”

“Không công bằng?”

“Anh nợ em quá nhiều. Xét cho cùng, anh chẳng có vai trò gì cả.”

“Anh chẳng nợ nần gì em hết,” Aomame dứt khoát nói. “Là anh đã dẫn đường cho em tới nơi này. Bằng hình thức mà mắt thường không thấy được. Hai chúng ta vốn là một.”

“Anh nghĩ, mình từng tận mắt nhìn thấy tử thể này,” Tengo nói. “Hoặc ít ra là thứ mà tử thể ám chỉ. Cô bé ấy giống hệt như em lúc mười tuổi, đang nằm ngủ trong ánh sáng nhàn nhạt của nhộng không khí. Anh còn chạm vào ngón tay cô bé ấy nữa. Tuy rằng chỉ có một lần.”

Aomame gục đầu vào vai Tengo. “Anh Tengo, chúng ta chưa từng nợ nhau, chưa bao giờ cả. Điều chúng ta cần suy nghĩ lúc này là làm sao bảo vệ thứ bé nhỏ này. Bọn chúng đang đuổi sát sau lưng, nguy hiểm đã cận kề. Em nghe thấy tiếng bước chân của chúng.”

“Dù xảy ra chuyện gì, anh cũng tuyệt không trao hai người cho bất cứ kẻ nào. Em và nó, Hôm nay chúng ta đã gặp lại, mục đích chúng ta đến thế giới này đã được thực hiện. Đây là chốn nguy hiểm đầy rẫy, và em biết lối ra ở đâu.”

“Em nghĩ là em biết,” Aomame nói. “Nếu em không lầm.”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 31: Tengo và Aomame


Như là hạt đậu bọc trong quả đậu

Sau khi xuống taxi, Aomame đứng giữa ngã tư đường đảo mắt nhìn quanh quất, tìm bãi chứa vật liệu xây dựng quây bằng những tấm kim loại kia. Sau đó, nàng dắt tay Tengo băng qua đường dành cho người đi bộ, bước về hướng ấy.

Aomame không nhớ nổi tấm kim loại bị bung ốc vít ở chỗ nào, nhưng sau khi kiên nhẫn lần lượt thử từng tấm một, rốt cuộc nàng cũng tìm ra một khe hở chui lọt được người. Aomame khom người xuống, cẩn thận không để bị móc rách quần áo, chui vào trong. Tengo cúi tạp hết cỡ thân hình cao lớn, theo sau nàng. Bên trong tường bao bằng tấm kim loại, quang cảnh giống hệt như lúc Aomame trông thấy hồi đầu tháng Tư. Những bao xi măng bạc màu chồng chất, những ống thép han gỉ, cỏ dại mọc đầy, giấy vụn phế thải vung vãi khắp nơi, từng bãi phân bồ câu trắng phớ. Lần nàng đến hồi tháng Tám, chỗ này không thay đổi gì. Từ bấy đến giờ hẳn cũng chẳng ai đặt chân đến đây. Nơi này tuy ở trung tâm thành phố, trên tuyến đường chính, nhưng lại bị bỏ hoang chẳng ai ngó ngàng, như một bãi đất bồi giữa lòng sông.

“Đúng ở đây không?” Tengo đưa mắt nhìn xung quanh, hỏi.

Aomame gật đầu. “Nếu ở đây không có lối ra thì chúng ta sẽ chẳng đi đâu được nữa.”

Trong bóng tối, Aomame tìm cầu thang thoát hiểm mà nàng từng leo xuống, cái cầu thang hẹp nối giữa đường cao tốc Thủ Đô và mặt đất. Cái cầu thang ấy hẳn phải ở đây, nàng tự nhủ. Mình phải tin điều này.

Và nàng tìm được nó. Trên thực tế nó xập xệ hơn, chông chênh đáng sợ hơn Aomame nhớ rất nhiều. Mình đã leo thứ này từ trên kia xuống dưới đây? Aomame bồi hồi nhớ lại. Dù thế nào thì cầu thang đã ở đây rồi, giờ chỉ cần leo theo hướng ngược lại là được. Nàng cởi đôi giày cao gót Charles Jourdan, nhét vào túi, quảy túi lên vai. Nàng đặt bàn chân chỉ đi tất liền quần lên bậc thang đầu tiên.

“Theo em,” Aomame ngoảnh đầu lại nói với Tengo.

“Để anh đi trước thì hơn,” Tengo lo lắng.

“Không. Em đi trước.” Đây là con đường đi vào thế giới này của nàng, nàng phải là người leo lên trước.

So với lần leo xuống, cầu thang lạnh hơn hẳn. Lúc nàng chạm vào tay vịn, bàn tay liền lạnh cứng lại, gần như mất hết cảm giác. Gió lùa qua các trụ đỡ của đường cao tốc Thủ Đô cũng sắc và dữ dội hơn nhiều. Cầu thang này xa lạ, đầy thách thức, không hứa hẹn với nàng bất cứ điều gì.

Hồi đầu tháng Chín khi nàng tìm nó trên đường cao tốc, cái cầu thang thoát hiểm này đã biến mất. Đường hầm đã bị bịt kín. Nhưng lối thông từ bãi để vật liệu xây dựng dưới mặt đất dẫn lên trên thì lúc này vẫn còn nguyên vẹn, đúng như Aomame suy đoán. Nàng từng có dự cảm, nếu tìm kiếm từ hướng này thì biết đâu cầu thang vẫn còn ở đó. Nếu thứ bé nhỏ trong bụng mình đây có sức mạnh đặc biệt nào đó thì nhất định nó sẽ bảo vệ mình, chỉ cho mình đi đúng hướng.

Cầu thang vẫn còn ở đây. Nhưng liệu nó có thực sự nối với đường cao tốc Thủ Đô hay không? Điều này thì Aomame vẫn chưa biết chắc. Có thể nửa bên trên đã bị phong tỏa, biến thành ngõ cụt. Đúng vậy, trong thế giới này có thể xảy ra bất cứ chuyện gì. Chỉ có một cách duy nhất, là dựa vào hai tay hai chân mình mà leo đến cùng, tận mắt xác nhận xem ở đó rốt cuộc có gì… hoặc không có gì.

Aomame leo từng bậc thang một, hết sức cẩn thận. Lúc cúi đầu xuống, nàng thấy Tengo đang leo sát phía sau. Gió chốc chốc lại lùa qua rú rít, làm chiếc áo gió mỏng manh của nàng bay lật phật. Gió sắc như dao. Vạt áo ngắn cũn của nàng trật lên tận đùi, tóc tai bị gió làm xổ ra rối bời, dính bết vào mặt che cả tầm nhìn, đến độ Aomame cơ hồ không thở nổi. Giá mà sớm biết vậy mình đã buộc tóc ra sau đầu rồi, Aomame thầm hối hận. Lẽ ra phải chuẩn bị cả găng tay từ trước, sao nàng lại không nghĩ đến chuyện này nhỉ? Nhưng giờ có hối hận cũng đã quá muộn. Khi ấy, trong đầu nàng chỉ muốn ăn mặc giống hệt như lúc leo xuống mà thôi. Mặc kệ, giờ mình chỉ có thể bám chặt từng bậc thang, leo một mạch lên trên đó.

Aomame lạnh đến nỗi toàn thân run bần bật, nhưng vẫn vừa kiên cường nhích dần lên, vừa hướng mắt về phía ban công của tòa chung cư đối diện bên kia tường. Một tòa nhà năm tầng xây bằng gạch màu nâu. Lần trước leo xuống nàng cũng thấy đúng tòa nhà ấy. Khoảng một nửa số cửa sổ sáng đèn. Khu chung cư ấy ở gần đến nỗi chừng như giơ tay là chạm tới. Giữa đêm hôm từ dưới cầu thang thoát hiểm đường cao tốc Thủ Đô leo lên thế này, lỡ có người trông thấy thì không khỏi chuốc phiền. Lúc này, dưới ánh đèn trên đường số 246, bóng dáng hai người hiện rõ mồn một.

May thay, không thấy có ai ở cửa sổ nào cả. Mọi rèm cửa đều kéo kín mít. u cũng đương nhiên. Đêm đông cắt da cắt thịt thế này, chắc chẳng mấy ai lại ra ban công ngắm cầu thang thoát hiểm trên đường cao tốc Thủ Đô.

Trên một ban công có bày chậu cây cao su Ấn Độ. Nó nằm co ro bên chiếc ghế bẩn thỉu. Lúc leo xuống cầu thang này hồi tháng Tư, Aomame cũng trông thấy cây cao su Ấn Độ này ở chỗ đó. So với cái cây nàng bỏ lại ở Jiyugaoka, trông nó còn sa sút và thảm hại hơn nhiều. E rằng suốt tám tháng nay cây cao su vẫn luôn đứng một vị trí đó. Nó đã bạc màu, bị tổn thương, bị dúi vào cái xó chẳng ai ngó ngàng nhất trên thế giới này, bị tất cả mọi người quên lãng, thậm chí rất hiếm khi được tưới nước. Dẫu vậy, cây cao su Ấn Độ ấy lại truyền dũng khí và sự cổ vũ nhỏ bé cho Aomame lúc này đang ngập trong bất an, hoang mang, tay chân lạnh cứng nhưng vẫn kiên trì leo lên chiếc thang chênh vênh này. Đừng lo lắng, không sai đâu. Ít nhất mình cũng đang đi ngược lại con đường lần trước đến đây. Cây cao su Ấn Độ này đang chỉ hướng cho mình. Một cách cô đơn, lặng lẽ.

Lần trước khi trèo xuống cầu thang này, mình đã trông thấy mấy tấm mạng nhện lơ thơ. Sau đó là nhớ lại Otsuka Tamaki. Nhớ lại thời cấp ba, mùa hè, mình cùng người bạn thân nhất đi du lịch, trong đêm sờ mó thân thể trần truồng của nhau. Tại sao sớm nhớ, muộn không nhớ, lại đúng lúc leo xuống cầu thang thoát hiểm của đường cao tốc Thủ Đô, lại đột nhiên nhớ ra chuyện này nhỉ? Lúc này, leo lên cùng một cầu thang ấy theo hướng ngược lại, Aomame lại nhớ đến Otsuka Tamaki, nhớ về bầu vú đẹp đẽ trơn láng của cô. Bao lâu nay nàng vẫn luôn ngưỡng mộ bầu vú ấy. Khác hẳn bầu vú suy dinh dưỡng đáng thương của mình. Thế nhưng, bầu vú ấy giờ đây không còn nữa.

Sau đó Aomame lại nhớ đến Nakano Ayumi. Người nữ cảnh sát cô đơn đã bị người ta dùng còng tay khóa hai tay lại trong khách sạn ở Shibuya, dùng thắt lưng áo choàng tắm siết cổ đến chết trong một đêm tháng Tám. Một phụ nữ trẻ mang theo vô số vấn đề nội tâm, bước dần đến vực sâu của sự hủy diệt. Cô cũng có bộ ngực đầy đặn. Aomame tự đáy lòng thương tiếc cho cái chết của hai người bạn. Nàng cảm thấy buồn vì họ mãi mãi không còn ở thế giới này nữa. Nàng tiếc cho hai cặp vú đẹp tuyệt trần ấy, nay đã biến mất khỏi cõi đời này.

Nhất định phải bảo vệ mình, Aomame thầm cầu khấn trong lòng. Xin các cậu, mình cần sự giúp đỡ của các cậu. Nàng tin rằng ha người bạn bất hạnh nhất định sẽ nghe thấy lời khẩn cầu lặng lẽ của nàng. Họ nhất định sẽ bảo vệ mình.

Khi rốt cuộc cũng leo lên hết cầu thang, nàng gặp một hành lang hẹp thông sang mé ngoài của đường cao tốc. Hành lang này có một hàng lan can thấp, Aomame phải khom người mới luồn qua được. Ở cuối hành lang là một cầu thang hình chữ chi. Không thể gọi là thứ cầu thang tử tế, nhưng ít nhất cũng đỡ hơn cái thang chênh vênh bên dưới. Theo Aomame nhớ, lên hết các bậc thang là sẽ đến chỗ dừng xe khẩn cấp trên đường cao tốc Thủ Đô. Hàng đoàn xe tải hạng nặng chạy qua chạy lại khiến hành lang rung lên, tựa như con thuyền nhỏ bị sóng hất tròng trành. Tiếng ồn của xe cộ lúc này đã trở nên khá lớn.

Nàng kiểm tra lại xem Tengo có ở sau lưng không, đoạn vươn tay ra nắm lấy tay anh. Tay Tengo rất ấm. Trong đêm lạnh lẽo thế này, tay không bám vào cầu thang lạnh buốt leo lên, làm sao tay anh vẫn có thể ấm áp nhường ấy? Aomame cảm thấy khó thể nào tin nổi.

“Còn một chút nữa thôi,” Aomame ghé miệng sát bên tai Tengo, nói. Để cưỡng lại tiếng ồn ào của xe cộ và tiếng gió, nàng phải nói lớn tiếng: “Leo lên cầu thang kia là đến mặt đường cao tốc rồi.”

Nếu cầu thang ấy không bị bịt kín, nàng nghĩ, song không nói ra thành lời.

“Ngay từ đầu em đã định leo lên cầu thang này rồi à?” Tengo hỏi.

“Đúng. Nếu có thể tìm thấy cầu thang.”

“Nhưng em lại cố ý ăn mặc thế này. Váy bó sát, đi giày cao gót. Bộ đồ này có vẻ như không thích hợp để leo cầu thang dốc thế này.”

Aomame lại mỉm cười. “Em cần phải mặc bộ này. Em sẽ cho anh biết lý do sau.”

“Chân em đẹp lắm.”

“Anh thích không?”

“Rất thích”

“Cảm ơn,” Aomame nói, rồi rướn thẳng người lên trên hành lang chật hẹp, khẽ hôn tai Tengo. Tai anh nhăn nheo như cái súp lơ, lạnh cứng như băng.

Aomame đi trước dẫn đường, bắt đầu leo lên cầu thang dốc đứng ở cuối hành lanh. Chân nàng lạnh cứng, các ngón tay tê bại. Aomame chú ý không để bước hụt chân. Nàng vừa tiếp tục leo lên thang vừa gạt mái tóc bị gió thổi bay tán loạn. Cơn gió lạnh buốt tận xương khiến nàng chảy cả nước mắt. Để không bị gió mạnh làm mất thăng bằng, nàng bám chặt hai tay vào tay vịn, cẩn thận nhích từng bước một, trong lòng nghĩ về Tengo đang ở phía sau. Nàng nghĩ về đôi bàn tay to lớn, về cái tai nhăn nheo như bông súp lơ lạnh cứng của anh. Nàng nghĩ về thứ bé nhỏ đang say ngủ trong bụng mình. Nàng nghĩ đến khẩu súng tự động màu đen trong túi đeo chéo. Nàng nghĩ về bảy viên đạn 9mm lắp trong băng đạn.

Dù xảy ra chuyện gì cũng phải thoát khỏi thế giới này. Vì vậy, phải tin tưởng tự sâu thẳm trong lòng rằng cầu thang này chắc chắn sẽ dẫn lên đường cao tốc Thủ Đô. Phải tin tưởng, Aomame tự nhắc mình. Aomame nhớ lại lời Lãnh Tụ đã nói trước khi chết trong cái đêm mưa gió ấy. Đó là lời của một bài hát. Đến giờ nàng vẫn nhớ rõ mồn một.

Đây là thế giới của Barnum và Bailey

Tất thảy đều tột cùng giả dối

Nhưng giả dối cũng sẽ thành sự thật

Nếu như em tin vào anh

Dù xảy ra chuyện gì, dù phải làm gì, cũng phải dùng hết sức của mình để biến nó thành sự thật. Không, phải dùng sức của hai người, mình và Tengo, để biến nó thành sự thật. Bọn mình, hai người đồng lòng, cần tập trung toàn bộ sức mạnh. Vì hai bọn mình, đồng thời cũng vì cả thứ bé nhỏ này nữa.

Aomame dừng lại trên chiếc chiếu nghỉ ở chỗ ngoặt cầu thang, xoay mặt lại. Tengo vẫn ở đó. Nàng vươn tay ra, Tengo nắm lấy. Aomame cảm nhận được sự ấm áp hệt như vừa nãy. Điều này truyền cho nàng thêm sức mạnh. Nàng lại vươn người ra, ghé miệng gần vành tai nhăn nheo ấy của anh.

“Vì anh, em đã có lần định từ bỏ sự sống,” Aomame thành thật nói, “suýt chút nữa là chết thật rồi. Chỉ cách có vài milimét thôi. Anh có tin không?”

“Đương nhiên.”

“Anh có thể nói với em rằng anh tin tự đáy lòng không?”

“Anh tin tự đáy lòng mình,” Tengo đáp.

Aomame gật đầu, buông bàn tay đang nắm chặt ra. Sau đó, tiếp tục leo lên cầu thang.

Một phút sau, Aomame đã leo đến cuối cầu thang, lên mặt đường của tuyến số 3 của đường cao tốc Thủ Đô. Cầu thang thoát hiểm không bị bịt kín. Dự cảm của nàng là chính xác, nỗ lực của hai người đã được đáp đền. Trước khi bước qua hàng rào sắt, Aomame lấy mu bàn tay lau giọt lệ nơi khóe mắt.

“Tuyến số 3 đường cao tốc Thủ Đô.” Tengo nhất thời không nói gì, đưa mắt nhìn xung quanh, sau đó nói như thể cảm khái: “Nơi này chính là lối ra của thế giới.”

“Đúng thế,” Aomame trả lời. “Nơi này là lối vào của thế giới, cũng là lối ra.”

Aomame trèo qua lan can sắt, vạt váy bó trật lên tận thắt lưng. Tengo ở phía sau đỡ giúp nàng. Bên kia lan can là chỗ dừng xe khẩn cấp có thể đỗ được hai xe. Đây là lần thứ ba Aomame đến nơi này. Trước mặt nàng vẫn là tấm bảng quảng cáo cỡ lớn của hãng Esso. Hãy để chú hổ bơm xăng cho xe của bạn. Cùng một câu ấy. Cùng một con hổ. Nàng lẳng lặng đứng đó, chân không giày. Nàng hít sâu làn không khí ban đêm đầy hơi xăng vào lồng ngực. Suốt đời nàng, chưa có thứ không khí nào khiến nàng sảng khoái đến thế. Trở về rồi, Aomame nghĩ. Bọn mình trở về rồi.

Đường cao tốc tắc nghẽn y như lần trước. Dòng xe chạy hướng Shibuya gần như không nhúc nhích. Aomame thấy vậy không khỏi giật mình kinh ngạc. Chuyện gì thế này? Lần nào mình tới đây cũng đều tắc đường. Bình thường, vào giờ này tuyến số 3 rất hiếm khi tắc đường. Hẳn là đằng trước có tai nạn giao thông. Những làn xe chạy ngược lại rất thông suốt, nhưng đường về thành phố lại tắc khủng khiếp.

Phía sau nàng, Tengo cũng trèo qua lan can. Anh giơ cao chân, nhẹ nhàng nhảy sang phía bên này, rồi đứng cạnh Aomame. Tựa như lần đầu tiên trong đời nhìn thấy tấm biển, đứng trên bờ trố mắt nhìn những con sóng cuồn cuộn vô bờ, hai người ngây ngẩn nhìn dòng xe tắc nghẹt, nhất thời không nói năng gì.

Những người ngồi trên xe cũng nhìn họ chằm chằm. Mọi người lấy làm khó hiểu trước cảnh tượng mình nhìn thấy, không biết nên tỏ thái độ thế nào. Sắc thái trong mắt họ không giống tò mò, mà nghiêng về nghi hoặc nhiều hơn. Hai người trẻ tuổi này làm gì ở đây vậy? Hai người đột nhiên lù lù hiện ra từ bóng tối, đứng ngẩn ra ở chỗ dừng xe khẩn cấp trên đường cao tốc. Cô gái mặc bộ vest bó sát người làm lộ rõ các đường nét thon thả, nhưng áo khoác thì mỏng dính, chỉ đi tất liền quần, không mang giày. Người đàn ông vóc dáng cao lớn, mặc áo khoác da cũ kỹ. Cả hai đều khoác túi trên vai. Chẳng lẽ xe của họ gặp sự cố ở gần đây? Hay là bị tai nạn? Nhưng không ai thấy chiếc xe hỏng. Vả lại, trông bộ dạng của họ không giống như đang xin giúp đỡ.

Rốt cuộc Aomame cũng định thần lại, nàng lấy giày cao gót trong túi ra xỏ chân vào, kéo vạt váy xuống, đeo lại túi lên vai, cài lại mấy cúc áo khoác. Sau đó nàng liếm đôi môi khô rát, vuốt lại cho thẳng chỗ tóc mái, lấy khăn tay lau nước mắt ứa ra, rồi lại dựa người vào Tengo.

Giống như hai mươi năm trước, cũng vào tháng Mười hai, trong phòng học sau giờ tan lớp, hai người đứng sánh vai nhau, lặng lẽ tay nắm chặt tay. Trong thế giới đó, ngoài họ ra không còn ai khác nữa. Hai người nhìn dòng xe chầm chậm trôi trước mắt, nhưng thực tế là không thấy gì. Với họ, chuyện mình đang nhìn thấy gì, đang nghe thấy gì không quan trọng nữa. Những dấu hiệu xung quanh họ - quang cảnh, âm thanh, mùi vị - đã hoàn toàn mất đi ý nghĩa vốn có của chúng.

“Vậy là chúng ta đã đến một thế giới khác rồi?” Tengo rốt cuộc cất tiếng hỏi.

“Đại khái là vậy,” Aomame nói.

“Tốt nhất là nên kiểm chứng lại.”

Chỉ có một cách để kiểm chứng, và họ không cần phải nói ra thành lời. Aomame lặng lẽ ngẩng lên nhìn trời. Gần như cùng lúc, Tengo cũng làm y như nàng. Hai người đang tìm kiếm mặt trăng trên bầu trời đêm. Dựa theo góc nhìn, mặt trăng có lẽ ở phía trên tấm biển quảng cáo Esso. Nhưng không thấy bóng dáng mặt trăng đâu. Lúc này có lẽ trăng đã nấp vào sau tầng mây dày đặc đang được gió đưa chầm chậm về phía Nam. Hai người đứng đó đợi. Họ không gấp. Họ có rất nhiều thời gian. Đủ thời gian để thu thập lại thời gian đã mất. Thời gian hai người đã cùng chia sẻ. Không cần hoảng hốt. Chú hổ trên tấm biển quảng cáo của hãng Esso, tay cầm vòi bơm xăng, nở nụ cười như đã biết hết thảy, nhìn hai con người đang nắm chặt tay nhau.

Aomame đột nhiên phát hiện, có thứ gì đó khác với lần trước. Là gì nhỉ? Và khác như thế nào? Nhất thời nàng không thể nhận ra. Nàng nheo mắt lại, tập trung tinh thần. Sau đó, sực nhớ ra. Chú hổ trên biển quảng cáo đang xoay bên mặt trái về phía họ. Nhưng theo nàng nhớ, chú hổ xoay bên mặt phải ra thế giới thì mới đúng. Tư thế của chú hổ giờ đã xoay ngược lại. Mặt nàng tự nhiên chau lại, nhịp tim rối loạn. Nàng cảm thấy trong cơ thể mình có thứ gì đó chảy ngược. Nhưng mà, có thể khẳng định được hay không? Trí nhớ của mình chuẩn xác đến mức nào? Có lúc trí nhớ cũng trêu cợt người ta.

Aomame giấu nghi vấn này trong lòng. Vẫn chưa thể nói ra được. Nàng nhắm mắt lại, điều chỉnh hơi thở, để nhịp tim trở lại bình thường, đợi đám mây trôi đi.

Những người ngồi trong xe nhìn chằm chằm hai người qua ô cửa kính. Hai người này ngẩng lên nhìn chăm chú như thế, rốt cuộc là đang quan sát gì? Tại sao phải nắm tay nhau chặt thế kia? Có mấy người nghển cổ hướng mắt về phía hai người kia đang nhìn. Nhưng ở đó chỉ thấy mấy trắng, cùng tấm biển quảng cáo lớn của hãng Esso. Hãy để chú hổ bơm xăng cho xe của bạn. Chú hổ hướng mặt bên trái về phía người đi qua trên đường, cười hì hì khuyên dụ người ta tiêu tốn xăng thêm nữa. Cái đuôi vằn vện màu da cam của chú vểnh lên trời dương dương tự đắc.

Không lâu sau, mây rẽ ra, trăng ló dạng trên bầu trời đêm.

Chỉ có một mặt trăng. Mặt trăng cao ngạo màu vàng mà thường ngày họ đã quen thuộc. Mặt trăng xưa nay vẫn lặng lẽ treo mình trên chốn đồng nội um tùm cỏ, mọc lên cao thành cái mâm màu trắng bạc nổi trôi trên mặt hồ tĩnh lặng, âm thầm chiếu rọi xuống ngàn vạn mái nhà đang say ngủ. Chính là mặt trăng vẫn chuyên cần hút nước triều lên bãi cát, khiến lông thú mềm mại sáng bóng lên, bao trùm và bảo vệ kẻ lữ hành trong đêm tối. Có lúc nó hóa thành trăng mày ngài sắc lẹm cắt rời từng mảnh linh hồn, có lúc biến thành trăng non, rải xuống mặt đất những vạt sáng mờ… Chính là mặt trăng đã có từ ngàn xưa ấy. Mặt trăng treo cố định ngay phía trên tấm biển Esso, bên cạnh không có mặt trăng nhỏ méo mó màu xanh xanh nào cả. Mặt trăng không dẫn dắt ai, chỉ lặng lẽ treo ở đó. Cùng một lúc, hai người thấy cùng một cảnh. Aomame lặng lẽ nắm chặt tay Tengo. Cảm giác có gì chảy ngược bên trong mình đã biến mất.

Bọn mình trở về năm 1984 rồi, Aomame tự nhủ. Nơi này không còn là năm 1Q84 nữa, mà là thế giới của năm 1984 trước kia.

Nhưng có thật vậy không? Thế giới lại trở về trạng thái ban đầu một cách đơn giản vậy thôi sao? Con đường trở về thế giới cũ không còn tồn tại nữa, trước khi chết, Lãnh Tụ đã nói như vậy kia mà.

Nơi này liệu có phải lại là một thế giới khác nữa? Liệu có khi nào, bọn mình chỉ từ một thế giới khác nhau đi vào một thế giới thứ ba nữa? Thế giới nơi con hổ không ngoảnh mặt bên phải mà ngoảnh mặt bên trái nhìn bọn mình? Ở nơi này, phải chăng những bí ẩn mới và những quy tắc mới đang chờ đợi bọn mình?

Có thể lắm, Aomame nghĩ. Ít nhất là lúc này mình chưa thể tuyệt nhiên phủ nhận. Dẫu vậy, tối thiểu có một chuyện mình có thể chắc chắn: dù thế nào, nơi này không phải thế giới có hai mặt trăng cùng lúc trên bầu trời. Hơn nữa, mình đang nắm chặt tay Tengo. Bọn mình đã phải bước vào một nơi nguy hiểm, nơi không thể dùng logic để lý giải, trải qua bao thử thách khắc nghiệt mới tìm được nhau và thoát ra khỏi đó. Nơi bọn mình đang đến dù là thế giới trước đây hay là một thế giới hoàn toàn mới thì cũng có gì đáng sợ? Nếu nơi này có những thử thách mới thì ta lại vượt qua, thế là được. Chỉ có vậy. Ít nhất, bọn mình không còn cô độc nữa.

Tin vào chuyện mình cần tin, Aomame thả lỏng toàn thân, ngả mình dựa vào lòng ngực rộng của Tengo. Nàng áp tai lên đó, lắng nghe nhịp đập của tim anh, giao cả thân thể mình cho cánh tay anh. Như hạt đậu bọc bên trong vỏ đậu.

“Sau đây chúng ta nên đi đâu?” lát sau Tengo hỏi Aomame. Không thể ở đây mãi được. Đúng vậy. Nhưng đường cao tốc Thủ Đô không có vai đường, lối ra ở Ikejiri tuy cách đây không xa lắm nhưng dẫu có tắc đường nghiêm trọng đến mấy thì việc đi bộ giữa làn xe chạy trên đường cao tốc cũng quá nguy hiểm. Mà ở trên đường cao tốc Thủ Đô này, khó mà tưởng tượng nổi lại có tài xế nào sẵn lòng cho họ đi nhờ xe. Tất nhiên, có thể gọi điện thoại khẩn cấp cho Công ty Quản lý Đường bộ xin người ta giúp. Nhưng làm vậy thì buộc phải giải thích lý do hai người rơi vào hoàn cảnh này sao cho người ta tin được. Kể cả họ có thể cuốc bộ đến lối ra ở Ikejiri đi chăng nữa, nhân viên ở trạm thu phí cũng sẽ căn vặn. Đương nhiên, leo xuống cái cầu thang mà lúc nãy họ vừa trèo lên thì lại càng không thể.

“Em không biết,” Aomame nói.

Tiếp sau đây nên làm gì cho phải? Nên đi đâu? Quả thật nàng không biết. Sau khi leo lên cầu thang thoát hiểm, sứ mệnh của Aomame đã hoàn thành. Nàng đã vắt óc suy nghĩ, sau đó phải lựa chọn và phán đoán. Năng lượng của nàng đã dùng cạn kiệt, không còn giọt nào nữa. Những chuyện sau đó, nàng chỉ còn cách cậy nhờ một lực lượng nào khác vậy.

Lạy Chúa của chúng con ở trên trời, xin cho danh Người cả sáng, xin cho nước Người trị đến. Xin Người thứ tội chúng con. Xin Người ban phúc cho những tiến bộ nhỏ nhoi của chúng con, Amen.

Lời cầu nguyện buột ra hết sức tự nhiên, gần như một phản xạ có điều kiện, nàng không phải nghĩ ngợi gì. Mỗi từ riêng biệt không có bất cứ ý nghĩa gì. Những từ ấy chỉ là âm thanh, là chuỗi ký hiệu mà thôi. Nhưng trong khi Aomame niệm thành tiếng một cách máy móc lời cầu nguyện ấy, trong nàng lại dâng lên một cảm giác hết sức kỳ lạ, thậm chí có thể gọi là thành kính. Ở sâu thẳm bên trong, có chút thứ gì đó đang làm rung động trái tim nàng. May mà dù xảy ra chuyện gì mình vẫn không đánh mất mình, nàng nghĩ. May mà mình có thể ở đây, là chính mình… dù đây là nơi nào chăng nữa.

Xin cho nước Người trị đến, Aomame lại lặp lại thành tiếng. Giống như nàng đã làm trước khi ăn suất cơm được phát cho hồi tiểu học. Dù điều đó nghĩa là gì, nàng vẫn mong mỏi tự đáy lòng mình như thế. Xin cho nước Người trị đến.

Tengo đưa tay lên chạm vào tóc Aomame, như chải tóc cho nàng.

Mười phút sau, Tengo bắt được một chiếc taxi đi ngang qua. Hai người nhất thời không thể nào tin nổi mắt mình. Trên đường cao tốc tắc nghẽn, một chiếc taxi không có khách lại chầm chậm nhích qua. Tengo nửa tin nửa ngờ vẫy vẫy tay, vậy là cửa sau mở ra, hai người vội vàng ngồi lên. Họ vội vàng, hoảng hốt, như thể sợ rằng ảo ảnh sẽ lập tức biến mất. Tay tài xế đeo kính quay đầu lại.

“Tắc đường kinh quá, tôi định xuống ở lối ra Ikejiri đằng trước, không ngại chứ?” tài xế hỏi. So với đàn ông thì giọng y như thể hơi cao, nhưng vẫn chưa đến mức chói tai.

“Không sao cả,” Aomame trả lời.

“Thực ra dừng xe đón khách trên đường cao tốc Thủ Đô là phạm luật?”

“Phạm luật gì vậy?” Aomame hỏi. Trong gương chiếu hậu phía trên ghế lái hiện lên gương mặt hơi nhăn lại của nàng.

Nhất thời tay tài xế cũng không nhớ nổi điều luật cấm dừng xe đón khách trên đường cao tốc gọi là gì. Đồng thời, gương mặt của Aomame trong gương chiếu hậu làm anh ta hơi hãi.

“Thôi bỏ đi,” tài xế chuyển sang chủ đề khác. “Vậy là, chúng ta đi đâu đây nhỉ?”

“Cho chúng tôi xuống ở gần ga Shibuya là được rồi,” Aomame nói.

“Đoạn này tôi không bật đồng hồ tính tiền,” tài xế nói, “chỉ tính tiền từ đoạn sau khi xuống khỏi đường cao tốc thôi.”

“Nhưng mà tại sao anh lại chạy xe không ở đây vậy?” Tengo hỏi tài xế.

“Chuyện này kể ra phức tạp lắm,” tay tài xế nói với giọng mệt mỏi, “anh muốn nghe không?”

“Muốn nghe,” Aomame nói. Dài dòng, nhạt nhẽo đến mấy cũng chẳng sao, nàng muốn nghe chuyện của người ở thế giới mới này. Biết đâu trong đó lại ẩn chứa những bí mật mới, những ám thị mới.

“Có một ông trung niên lên xe ở gần công viên Kinuta, ông ta muốn tôi lên đường cao tốc để đến chỗ đại học Ayaoma Gakuin. Nếu đi đường bên dưới, đoạn Shibuya sợ là rất tắc. Lúc đó, tôi còn chưa nhận được tin đường cao tốc Thủ Đô bị tắc, họ vẫn nói đường thông thoáng lắm. Vì vậy tôi bèn theo lời ông ta, lên đường cao tốc ở Yoga. Nhưng hình như có tai nạn giao thông ở gần Tani, vậy là thành như thế này đây. Một khi đã lên đường cao tốc thì trước khi đến được Ikejiri muốn xuống cũng chẳng xuống được. Ai mà ngờ sau đó ông khách kia lại gặp người quen. Lúc xe kẹt cứng không nhúc nhích gì được ở Komazawa, làn xe bên cạnh có một chiếc Mercesdes hai cửa màu bạc, cái bà lái xe ấy vừa khéo là người quen của ông ta. Vậy là bọn họ mở cửa xe nói chuyện một lúc, kết quả bà kia mời ông khách của tôi sang đấy luôn. Thế đấy, ông khách liền nói với tôi, xin lỗi, tôi có thể thanh toán ở đây rồi sang ngồi xe bên kia ngồi không? Khách xuống xe giữa đường cao tốc Thủ Đô, chuyện này xưa nay chưa từng có, cũng may, thực tế là xe chẳng di chuyển gì cả nên tôi không tiện từ chối. Vậy là ông khách liền chuyển sang chiếc Mercesdes kia. Ông ta xin lỗi, rồi trả thêm một ít tiền nữa. Nhưng tôi thì khó xử rồi. Anh xem đấy, đường kẹt cứng, nhích lên một phân cũng còn khó. Tôi lết mãi mới đến được đây, còn một đoạn nữa là đến lối ra ở Ikejiri rồi. Vừa khéo lại trông thấy hai vị đang vẫy tay. Thật đúng là khó tin hết sức, anh chị nói có phải không?”

“Tôi tin,” Aomame đáp ngắn gọn.

Đêm hôm ấy, hai người thuê phòng trong một khách sạn cao tầng ở Akasaka. Họ tắt đèn, cởi hết quần áo, lên giường nằm ôm nhau. Cả hai đều có nhiều điều muốn nói với nhau, nhưng chuyện đó có thể đợi đến khi trời sáng. Còn chuyện khác cần phải hoàn thành trước. Tengo và Aomame không nói một lời, tỉ mỉ khám phá thân thể nhau trong bóng tối. Họ dùng mười đầu ngón tay và lòng bàn tay lần lượt xác nhận xem thứ gì nằm ở đâu, hình dạng thế nào. Họ háo hức, như hai đứa trẻ đang tìm kho báu trong một gian phòng bí mật. Mỗi lần xác nhận được một món, họ lại ghé môi vào hôn, đóng dấu xác nhận chủ quyền.

Sau khi hoàn thành công việc này, Aomame nắm dương v*t cứng ngắc của Tengo trong tay một lúc lâu, giống như năm xưa nàng nắm bàn tay anh trong lớp sau giờ tan học. Nàng cảm thấy thứ này cứng hơn mọi thứ mà nàng biết, cứng đến độ gần như kỳ tích. Sau đó, Aomame giạng hai chân, áp người lại gần, để cho nó chầm chậm đâm vào cơ thể mình, cho đến tận nơi sâu nhất. Trong bóng tối, nàng nhắm mắt lại, hít vào một hơi sâu, tối, rồi thở ra thật chậm. Lồng ngực Tengo cảm nhận được luồng hơi thở ấm áp này.

“Em vẫn luôn tưởng tượng ra cảnh được anh ôm như thế này,” Aomame dừng động tác lại, ghé sát môi bên tai Tengo, thì thầm nói.

“Làm tình với anh à?”

“Đúng thế.”

“Từ hồi mười tuổi đã luôn tưởng tượng ra chuyện này rồi?”

Aomame bật cười. “Sao mà thế được chứ? Sau khi em lớn hơn cơ.”

“Anh cũng luôn tưởng tượng ra chuyện như thế.”

“Đi vào cơ thể em á?”

“Ừ,” Tengo nói.

“Thế nào? Có giống như tưởng tượng của anh không?”

“Anh vẫn chưa thể tin đây là sự thật,” Tengo thành thực trả lời, “cảm thấy như mình vẫn đang tưởng tượng vậy.”

“Nhưng đây là thật.”

“Anh cảm thấy nếu đây là sự thật thì nó tuyệt vời hơi quá mức rồi.”

Aomame mỉm cười trong bóng tối, sau đó áp môi lên môi Tengo. Đầu lưỡi hai người quấn vào nhau một lúc lâu.

“À, có phải ngực em hơi bé không?” Aomame hỏi.

“Thế này vừa chuẩn,” Tengo đặt tay lên ngực nàng, nói.

“Anh nghĩ thế thật à?”

“Tất nhiên,” anh nói, “to nữa thì không phải là em rồi.”

“Cảm ơn anh,” Aomame nói. Sau đó nàng lại bồi thêm một câu: “Nhưng không chỉ có vậy, kích cỡ hai bầu ngực cũng chênh nhau đáng kể.”

“Như bây giờ là đẹp lắm rồi,” Tengo nói. “Bên phải là bên phải, bên trái là bên trái. Không cần thiết phải thay đổi.”

Aomame áp tai lên ngực Tengo. “Bao nhiêu lâu nay em luôn rất cô đơn, mà còn bị chút tổn thương vì rất nhiều chuyện nữa. Giá mà gặp lại anh sớm hơn chút nữa có phải tốt biết bao không. Như vậy thì không cần phải vòng một vòng lớn như vậy.”

Tengo lắc đầu. “Không đúng, anh không nghĩ vậy. Thế này là rất tốt rồi. Giờ là đúng lúc. Cho cả anh và em.”

Aomame bật khóc. Nước mắt nín nhịn bấy lâu trào xuống hai má nàng. Không thể kiềm chế được nữa. Từng giọt từng giọt nước mắt lớn, lã chã rơi xuống ga trải giường như mưa nghe thành tiếng. Nàng để Tengo vào sâu bên trong mình, thân thể rung lên nhè nhẹ, vẫn không ngừng khóc. Tengo vòng tay ra sau lưng nàng, ôm chặt lấy nàng. Đây là thân thể mà từ nay Tengo sẽ luôn ôm chặt. Anh cảm thấy không niềm vui nào có thể sánh nổi điều này.

Anh nói: “Chúng ta cần chừng ấy thời gian để biết mình đã từng cô độc đến chừng nào.”

“Chuyển động đi,” Aomame thì thào bên tai anh, “chầm chậm thôi, dành nhiều thời gian vào.”

Tengo làm theo lời nàng. Anh chuyển động thân thể một cách chậm chạp, lặng lẽ hít thở, lắng nghe tim mình đập. Trong lúc đó, Aomame ôm chặt lấy thân thể cao lớn của Tengo, tựa như người chết đuối. Nàng đã ngừng khóc, ngừng suy nghĩ, hoàn toàn tách mình ra khỏi quá khứ và hiện tại, đồng hóa mình với từng động tác của thân thể Tengo.

Lúc gần sáng, hai người mặc áo choàng tắm của khách sạn, đứng kề vai trước ô cửa sổ lớn, uống rượu vang đỏ mà họ gọi dịch vụ phòng mang tới. Aomame chỉ nhấp một ngụm nhỏ. Họ vẫn chưa cần ngủ. Qua cửa sổ của phòng khách sạn ở tầng mười bảy, hai người có thể thỏa sức ngắm trăng. Mặt trăng trrước buổi bình minh đã chuyển đi khá xa, nhưng vẫn còn lơ lửng ở cuối bầu trời thành phố. Mặt trăng trắng xám như tro, dường như sắp sửa rời khỏi trái đất bởi đã hoàn thành sứ mệnh.

Lúc ở quầy tiếp tân, Aomame đã yêu cầu phòng ở tầng cao có thể ngắm trăng, nói tiền phòng đắt cũng không sao. “Đây là điều kiện quan trọng nhất. Phải nhìn thấy được trăng,” Aomame nói.

Nữ nhân viên ở quầy tiếp tân hết sức lễ độ với hai người khách trẻ tuổi bất ngờ đi vào. Khách sạn buổi tối tương đối ít việc, vả lại cô vừa nhìn đã có thiện cảm tự nhiên với cả hai người. Cô chắc chắn có thể ngắm được trăng ngoài cửa sổ, cô mới đưa chìa khóa phòng suite nhỏ cho Aomame. Cô còn chiết khấu riêng cho hai người nữa.

“Hôm nay là ngày trăng tròn à?” cô nhân viên lễ tân tò mò hỏi Aomame. Trước giờ cô đã nhận được vô số yêu cầu, hy vọng, nài nỉ đủ kiểu từ vô số vị khách, nhưng cô chưa từng gặp vị khách nào yêu cầu phải ở trong phòng có thể ngắm trăng thật đẹp ngoài cửa sổ.

“Không,” Aomame nói, “ngày trăng tròn qua lâu rồi. Hôm nay chắc khoảng hai phần ba thôi. Nhưng không quan trọng, chỉ cần có thể ngắm trăng là được rồi.”

“Cô thích ngắm trăng à?”

“Đó là chuyện quan trọng,” Aomame mỉm cười nói, “vô cùng quan trọng.”

Đến tận bình minh, số mặt trăng vẫn không tăng lên. Chỉ có một… một mặt trăng quen thuộc thường ngày. Vệ tinh độc nhất vô nhị đã luôn trung thành xoay quanh trái đất với vận tốc không đổi từ thuở không ai còn nhớ nổi. Aomame nhìn mặt trăng, khẽ đặt tay lên bụng, xác nhận lại rằng thứ bé nhỏ vẫn đang nằm trong ấy. Nàng có cảm giác, dường như chỗ gồ lên có vẻ lớn hơn lúc nãy một chút.

Mình vẫn chưa thể chắc chắn nơi này là thế giới nào. Nhưng dù cho kết cấu của thế giới này ra sao chăng nữa, có lẽ mình cũng sẽ ở lại đây, Aomame nghĩ. Bọn mình sẽ ở lại đây. Thế giới này ắt hẳn cũng có những nguy hiểm tiềm tàng của riêng nó. Cả vô số bí ẩn và mâu thuẫn của riêng nó. E rằng sau này bọn mình sẽ còn phải đi qua rất nhiều con đường tăm tối không biết dẫn đến nơi nào. Nhưng dù vậy cũng không sợ. Không sao cả. Hãy chủ động đón nhận. Mình quyết định không rời khỏi đây đi bất cứ đâu nữa. Dù xảy ra chuyện gì, bọn mình cũng phải kiên trì ở lại thế giới chỉ có một mặt trăng này. Tengo, mình, cùng với thứ bé nhỏ này, ba người bọn mình.

Hãy để chú hổ bơm xăng cho xe của bạn, chú hổ Esso nói. Nó ngoảnh mặt bên trái về phía này. Nhưng bên nào cũng vậy. Nụ cười rạng rỡ đó vừa tự nhiên vừa ấm áp, và lại hướng về phía Aomame. Mình sẽ tạm tin vào nụ cười ấy. Điều này rất quan trọng. Nàng cũng nhoẻn miệng mỉm cười như chú hổ. Rất tự nhiên, rất ấm áp.

Nàng lặng lẽ vươn tay lên không trung. Tengo nắm lấy bàn tay đó. Hai người đứng sánh vai nhau, hòa làm một, im lặng ngước nhìn mặt trăng lơ lửng phía trên các tòa nhà. Dần dần, nó bị ánh sáng của vầng dương mới mọc chiếu vào, nhanh chóng mất đi hào quang đã có hồi đêm, cho đến khi chỉ còn lại một cái bóng xám mờ in trên bầu trời rộng lớn.

HẾT
 
CHÚ Ý !!!
Các đạo hữu nhớ thêm TÊN CHƯƠNG và THỨ TỰ CHƯƠNG ở ô phía trên phần trả lời nhanh. Như vậy hệ thống mới tạo được DANH SÁCH CHƯƠNG.
Cập nhật chức năng ĐĂNG TRUYỆN và THÊM CHƯƠNG MỚI trên web Diễn Đàn Truyện tại https://truyen.diendantruyen.com
Top Bottom