Chào mừng bạn đến với Diễn Đàn Truyện !

Xin vui lòng Đăng ký hoặc Đăng nhập mới có thể sử dụng đầy đủ chức năng diễn đàn. Việc Đăng ký hoàn toàn miễn phí!

Đăng ký ngay!

Cầm Nương - Đồng An An

  • Tác giả Tác giả admin
  • Ngày gửi Ngày gửi
Cầm Nương - Đồng An An

admin

Thánh Ngự Hư Không
Đại Thần
Tham gia
11/6/23
Bài viết
915,343
VNĐ
900,499
[Diendantruyen.Com] Cầm Nương - Đồng An An

Cầm Nương - Đồng An An
Tác giả: Đồng An An
Tình trạng: Đã hoàn thành




Chín năm trước, phụ thân ta từng cứu giúp một kỹ nữ tuyệt sắc.

Nào ngờ, kỹ nữ ấy lại âm thầm lén đưa ta đi mất.

Ta vốn là tiểu thư con nhà quan, lại lớn lên trong chốn kỹ viện.

Thế nhưng, khi ta trưởng thành, ta lại nhận nàng kỹ nữ ấy làm mẫu thân.

Trích đoạn:

Vào mùa thu năm Thừa Khánh thứ mười chín, phụ thân ta dẫn cả gia đình đến nhậm chức tại huyện Lăng Thủy.

Trên đường đi ngang qua sông Lăng Hoa, ông cứu được một nữ tử có dung mạo kiều diễm.

Nữ tử ấy tên là Lý Cầm Nương.

Nghe nói, nàng vốn là một kỹ nữ ở huyện Nguyệt Lăng, sau đó được một phú thương vừa mắt chuộc thân, nhận nàng làm thiếp.

Song, cảnh ấm êm chẳng kéo dài được bao lâu, phú thương bất ngờ phát bệnh hiểm nghèo, chỉ trong chốc lát đã qua đời.
 
Chương 1


Vào mùa thu năm Thừa Khánh thứ mười chín, phụ thân ta dẫn cả gia đình đến nhậm chức tại huyện Lăng Thủy.

Trên đường đi ngang qua sông Lăng Hoa, ông cứu được một nữ tử có dung mạo kiều diễm.

Nữ tử ấy tên là Lý Cầm Nương.

Nghe nói, nàng vốn là một kỹ nữ ở huyện Nguyệt Lăng, sau đó được một phú thương vừa mắt chuộc thân, nhận nàng làm thiếp.

Song, cảnh ấm êm chẳng kéo dài được bao lâu, phú thương bất ngờ phát bệnh hiểm nghèo, chỉ trong chốc lát đã qua đời.

Chính thất trong nhà vốn xem nàng như cái gai trong mắt từ lâu, liền nhân cơ hội tang sự chưa mãn bốn mươi chín ngày mà mua chuộc vài tên côn đồ, đem nàng vứt xuống sông Lăng Hoa.

Phụ thân ta cứu nàng lên từ dòng nước, khi ấy đầu tóc nàng bù xù, y phục ướt đẫm, gương mặt kiều diễm như hoa như nguyệt vốn có nay lại trắng bệch, tựa hồn ma nơi sông nước.

Mẫu thân ta xuất thân từ danh môn Thôi thị ở đất Thanh Hà, từ xưa đến nay vốn khinh thường những kẻ xuất thân chốn kỹ viện.

Thế nhưng, Cầm Nương vừa run rẩy vừa quỳ sụp trước mặt, dập đầu cầu xin thảm thiết, cuối cùng khiến mẫu thân mủi lòng.

Vì vậy, bà mềm lòng mà đưa nàng về huyện Lăng Thủy.

Cầm Nương rất khéo tay, đặc biệt là món bánh ngọt nàng làm ra, tinh xảo đến mức khiến người ta không thể không trầm trồ.

Sau khi vào phủ, nàng ngày ngày ăn mặc giản dị, vẻ mặt mộc mạc, chỉ ru rú trong gian bếp nhỏ, chưa từng có hành vi vượt quá khuôn phép.

Mẫu thân ta âm thầm quan sát nàng suốt mấy tháng, cuối cùng cũng phải thở dài mà nói: "Đúng là ta đã nghĩ nhiều rồi."

Nhưng không ngờ, vừa qua Tết Nguyên Đán năm thứ hai, nàng lại lén lút qua lại với phu xe trong phủ tên Lai Vượng.



Hai người đã mấy lần hẹn hò sau giả sơn trong hoa viên, bị người khác bắt quả tang, cả hai đều thần sắc hoảng loạn, y phục xộc xệch.

Mẫu thân ta nổi trận lôi đình, lập tức sai người trói họ lại, giam vào phòng củi, sau đó cho người lục soát phòng của cả hai.

Quả nhiên, bọn người hầu tìm được trong chăn của Lai Vượng một chiếc khăn tay thêu hoa phù dung.

Mà chiếc khăn tay đó, chính là của Cầm Nương.

Cầm Nương bị hạ nhân trói chặt hai tay, lại một lần nữa quỳ sụp trước mặt mẫu thân ta.

"Thưa Đại nương tử, người và chủ quân đối với nô tì ân trọng như núi, dù nô tì xuất thân hèn mọn, cũng không phải loại người bội bạc vô liêm sỉ. Nếu có, nguyện kiếp sau cũng không được c.h.ế.t tử tế! Thực ra là Lai Vượng nhiều lần quấy rối nô tì, còn cướp chiếc khăn tay của nô tì. Nô tì tự biết thanh danh không tốt, không dám làm lớn chuyện, chỉ có thể lén lút đi tìm hắn đòi lại. Nô tì xin thề không tái phạm! Khăn tay đó, nô tì không cần nữa, Đại nương tử xin hãy tin nô tì lần này! Nô tì còn chưa báo đáp đại ân cứu mạng, dù c.h.ế.t cũng quyết không rời khỏi phủ!"

Vừa khóc nàng vừa trình bày, trán nàng dập xuống nền gạch xanh đến mức m.á.u loang lổ, nhưng cơn giận của mẫu thân ta lại vì những vết m.á.u đỏ ấy mà càng thêm dữ dội.

Mẫu thân giận đến run rẩy, chỉ vào mặt nàng mà quát:

"Đồ đê tiện vẫn là đồ đê tiện! Dù có cải tà quy chính cũng không thể sửa được cái bản chất hèn hạ trong xương tủy! Ngươi nói láo, còn lấy cái c.h.ế.t ra ép buộc ta, ta há có thể dung túng cho loại miệng lưỡi trơn tuột như ngươi ở lại phủ làm loạn?"

"Đại nương tử, nô tì là người của nhà họ Chu, nô tì không đi!"

"Hôm nay ta sẽ xóa tên ngươi khỏi gia tịch, đuổi ngươi ra khỏi phủ!"

"Đại nương tử, nô——"

Trong chốn đại viện thâm sau, các ma ma trong phủ đã quen với việc trấn áp kẻ khác.



Họ hung hăng túm lấy búi tóc của Cầm Nương, bóp mở hàm nàng, nhét mạnh một chiếc giẻ rách vào miệng, khiến nàng không thể hét lên được nữa.

Cầm Nương nghẹn thở, đôi mắt hạnh mở to đầy tuyệt vọng, lệ trào từng giọt như ngọc vỡ, rơi xuống nền gạch xanh trong sân. Nàng bị kéo lê, tiếng nấc nghẹn ngào yếu ớt không cách nào vọng đến tai người khác.

Bởi đang trong tháng Giêng, hơn nữa ngày hôm sau lại là lễ Thượng Nguyên.

Mẫu thân ta vì vậy mà nương tay, chỉ sai người đánh Cầm Nương năm hèo rồi đuổi ra khỏi phủ.

Thế nhưng, Cầm Nương không chịu rời đi, mà lén lút trốn trong thành.

Lễ Thượng Nguyên là ngày náo nhiệt nhất ở huyện Lăng Thủy.

Đêm đó, gió đông thổi rực cả ngàn cây hoa, ánh đèn ngọc lưu chuyển, cá rồng tung bay, toàn bộ người dân trong thành đều ăn mặc chỉnh tề ra đường vui hội.

Năm ấy, ta vừa tròn sáu tuổi, vốn là một tiểu cô nương chưa từng bước chân ra khỏi cổng lớn.

Thế nhưng, hai nhũ mẫu trẻ tuổi của ta lại ham chơi, thèm khát cảnh đèn hoa bên ngoài tường, liền lén lút dẫn ta ra ngoài.

Không những đưa ta ra ngoài, họ còn để ta——

Ngoài cổng miếu Thành Hoàng, ta ngồi co ro một mình.

Bỗng có hai nam nhân dáng vẻ hòa nhã bảo sẽ đưa ta đi tìm hai nhũ mẫu bị dòng người chen lấn tách ra.

Ta sợ hãi đến mức chỉ muốn bật khóc, nước mắt lưng tròng. Đúng lúc ấy, hai người kia đột nhiên thay đổi sắc mặt, một người dang tay ôm lấy ta, định chạy đi.

"Đồ trời đánh, mau thả tiểu thư nhà ta xuống!"
 
Chương 2


Trong cơn kinh hoàng, ta không biết Cầm Nương làm cách nào lao ra, đoạt lại ta từ tay hai gã đàn ông.

Chỉ là sau khi ra ngoài thành, ta mới nhìn thấy mái tóc nàng rối bù, hai má sưng đỏ, dường như đã chịu một trận đòn rất đau.

Nàng ôm ta đến Thập Lý Pha ngoài thành, nơi Lai Vượng đã dụ nàng đến.

Lai Vượng cũng bị đánh vài hèo và bị đuổi khỏi phủ.

Nhưng sau khi bị đuổi, hắn vẫn bám riết lấy Cầm Nương không buông.

"Giờ mà nàng mang con bé này trả lại thì sẽ ra sao? Chủ mẫu liệu có tin nàng không? Không chừng bà ấy lại cho rằng nàng vì oán hận mà bắt cóc con gái của bà ta! Đến lúc đó, không chỉ bị đánh mà còn phải ngồi tù, thậm chí mất mạng cũng không biết chừng!"

"Chẳng phải nàng một lòng muốn quay lại phủ sao? Theo ta thấy, chúng ta cứ chăm sóc con bé vài ngày rồi hãy trả về. Một là qua mấy ngày, chủ mẫu cũng nguôi giận; hai là để họ nếm mùi lo lắng một phen. Đợi khi họ hết hy vọng, lúc ấy ta và nàng sẽ ôm đứa trẻ quay lại, chắc chắn chủ quân và chủ mẫu sẽ vui mừng đến phát điên, việc trở lại phủ sẽ dễ dàng hơn."

"Nàng nghĩ làm vậy là lấy oán báo ân sao? Nàng đúng là ngây thơ đến đáng thương! Lúc họ trói nàng, nhốt nàng, đánh nàng rồi đuổi nàng ra ngoài, họ có chút nào coi trọng nàng không? Nàng quên nàng xuất thân thế nào rồi sao? Trong mắt họ, nàng chẳng qua chỉ là thứ cỏ rác. Nói cho cùng, ta và nàng đều là những kẻ bị số phận đày đọa."

"..."

Tên Lai Vượng thật là kẻ lắm mồm, chỉ bằng vài lời đường mật, hắn đã khiến Cầm Nương, vốn đã bước lên bậc thềm trước cửa phủ Chu gia, phải chùn chân quay ngược trở lại.



Tại Thập Lý Pha, Lai Vượng có một người đường thúc bị mù và chúng ta tạm thời trú nhờ ở nhà của ông ta.

Đêm đó, Lai Vượng cùng đường thúc ở gian đông, còn ta và Cầm Nương ở gian tây.

Thế nhưng, nửa đêm, Lai Vượng mò mẫm trong bóng tối, lẻn lên giường của gian tây.

Ta ngủ say lơ mơ, chỉ nghe loáng thoáng tiếng Cầm Nương đè thấp giọng mà mắng hắn: "Chỉ với cái mặt chuột mỏ nhọn, lòng dạ đen tối của ngươi cũng muốn động vào ta sao? Phì! Ngươi cũng xứng sao? Tốt nhất là sớm bỏ cái ý nghĩ đó đi!"

Tên Lai Vượng có lẽ bị nàng cào cho xước mặt, nhảy xuống giường, quay phắt lại tát mạnh một cái: "Đã bị đuổi ra ngoài rồi mà còn mơ mộng hão huyền! Nghe lời ta sớm một chút chẳng phải là điều đúng đắn hay sao!"

Tuy chửi bới, lại thêm một cái tát, nhưng cuối cùng hắn vẫn sợ cái tính cương liệt của Cầm Nương, không dám dây dưa thêm.

Bên ngoài, tuyết lớn rơi dày, ánh tuyết xuyên qua lớp giấy cửa rách nát, phủ lên người Cầm Nương.

Tóc nàng rối bời, bờ vai run rẩy, khuôn mặt vùi sâu trong lòng bàn tay, tiếng nức nở kéo dài suốt cả đêm không dứt.

Ngày hôm sau, quả nhiên có người từ nha môn tìm đến Thập Lý Pha.

Nhưng Lai Vượng giấu ta và Cầm Nương vào hầm chứa cải thảo mùa đông, cuối cùng thoát nạn.

Cố chịu đựng đến ngày thứ tư, Cầm Nương không thể ngồi yên thêm được nữa.



Nhân lúc Lai Vượng đi đánh bạc, nàng lén bế ta đến cổng thành huyện Lăng Thủy, định đưa ta trở về Chu gia.

Nhưng chẳng bao lâu sau, nàng quay lại, mắt đỏ hoe sưng húp, loạng choạng ôm ta vào lòng.

Bởi vì trên cổng thành dán một tờ cáo thị, dân chúng xúm lại bàn tán xôn xao: "Nghe nói cả nhà Chu huyện lệnh vì phạm tội nên đã bị tống giam từ ngày hôm qua rồi!"

Đêm khuya, Lai Vượng trở về với vẻ mặt mang chút sợ hãi pha lẫn may mắn.

Cầm Nương trong phòng đã sốt ruột đến mức đi vòng vòng. Thấy hắn bước vào, nàng lập tức túm lấy cánh tay hắn, vội vàng hỏi: "Chủ quân rốt cuộc đã gây ra chuyện gì?"

Lai Vượng tháo chiếc nón dạ xuống, thở dài rồi nói với giọng run rẩy: "Nghe nói bị liên lụy bởi Thôi thị ở kinh thành. Cả nhà họ Chu đều bị bắt giam, ngay cả đám hạ nhân có tên trong gia phả cũng không tránh khỏi. A Di Đà Phật, may mà chúng ta có phúc, sớm bị đuổi ra ngoài."

Cầm Nương giật mình kinh hãi, hỏi lại: "Có tin tức gì rõ ràng hơn không?"

Lai Vượng lắc đầu, vẻ mặt nặng nề: "Vụ án vẫn đang được thẩm tra, kết quả ra sao còn phải xem thế lực ở kinh thành sâu cạn thế nào."

Nghe vậy, Cầm Nương ngồi bệt xuống giường, lẩm bẩm: "Thần tiên đánh nhau, phàm nhân chịu khổ. Chủ quân thanh bạch như bông sen trắng trong nước, sao có thể chịu được cảnh thế này—"

Chưa dứt lời, nàng bỗng ôm mặt, kéo ta vào lòng rồi bật khóc nức nở.
 
Chương 3


Tiếng khóc của nàng khiến Lai Vượng bực bội, hắn gắt lên: "Khóc cái gì? Ban đầu định dựa vào con bé trong tay ngươi để tìm đường quay lại phủ, giờ thì hay rồi, không những chẳng còn đường quay lại, mà con bé này còn trở thành cục nợ nóng phỏng tay. Nói thử xem, ai tin nổi chuyện đi xem hội đèn mà lại để lạc mất tiểu thư? Hai ả nhũ mẫu làm cái gì không biết? Không chừng bọn họ sớm biết tin, cố ý bỏ rơi con bé!"

"Ngậm m.á.u phun người!" Cầm Nương lau nước mắt, tức giận nhảy dựng lên, mắng: "Nói năng xằng bậy! Chủ quân ngay thẳng, nào phải hạng tâm địa xấu xa như ngươi!"

Lai Vượng cười lạnh: "Ngươi gấp cái gì? Hay ta nói trúng tim đen của ngươi rồi?"

"Phì! Có phải ngươi đang tính chạy đến quan phủ tố cáo để kiếm vài đồng bạc không?"

Lai Vượng không cam chịu, cất giọng phản bác: "Ngươi khinh thường ai chứ? Ta cũng là kẻ sống bằng sức mạnh của đôi tay, dựa vào bản lĩnh mà đứng vững, sao có thể làm loại chuyện thất đức như vậy?"

Dù hắn nói thế, Cầm Nương vẫn không tin tưởng.

Đêm ấy, nàng ôm ta không dám ngủ, mãi đến lúc trời gần sáng. Nghe thấy tiếng then cửa kêu "két", nàng lập tức tỉnh dậy. Là Lai Vượng lén lút rời khỏi nhà.

Hắn vừa bước chân ra khỏi cửa, Cầm Nương đã vội vã gọi ta dậy: "Hà nhi, đừng ngủ nữa, chúng ta phải mau trốn đi."

Tuyết phủ dày trên con đường làng, bước đi vô cùng khó nhọc. Cầm Nương lo sợ để lại dấu vết, suốt dọc đường nàng đều cõng ta leo lên núi.

Vài ngày trước, nàng vừa bị đánh, thân thể vốn đã yếu.

Giờ lại phải cõng ta trên lưng, mỗi bước đi đều chao đảo, gian nan khôn xiết.

Ta nằm trên lưng nàng, nhỏ giọng hỏi: "Cầm Nương, vì sao chúng ta phải trốn?"

Nàng thở hổn hển, đáp: "Tên khốn đó định hại chúng ta."

Dù còn nhỏ tuổi, ta vốn không ưa tên phu xe Lai Vượng.



Hắn thường hay cúi người cười với ta, nhưng mỗi lần cười, mắt hắn nheo lại, nếp nhăn nơi khóe mắt giống y chang những con rết trong vườn sau, trông thật đáng ghét.

Nhưng ta lại rất thích Cầm Nương.

Ở trong phủ, ta mê nhất món bánh sữa nàng làm.

Những ngày qua, nàng luôn dỗ ta ăn cơm, ru ta ngủ, ngay cả khi ta đi vệ sinh, nàng cũng không rời nửa bước.

Ta nằm yên trên lưng nàng, cảm nhận hơi ấm từ tóc mai của nàng truyền đến. Dẫu trời lạnh thấu xương, ta cũng không thấy lạnh chút nào.

Không rõ đã đi bao lâu, Cầm Nương kiệt sức, cuối cùng dừng lại dưới một cây cổ thụ nơi lưng chừng núi.

Từ xa, nàng ngoái lại nhìn xuống chân núi, quả nhiên thấy một toán nha dịch đang vội vã chạy đến nhà đường thúc mù của Lai Vượng.

"Đồ Lai Vượng khốn kiếp! Quả nhiên là tên vô lương tâm!"

Hôm ấy, Cầm Nương vừa đi vừa khóc, vừa khóc vừa mắng. Mãi đến khi giọng khản đặc, nàng mới bế ta đến huyện Nguyệt Lăng lúc trời tối.

Huyện Lăng Thủy và huyện Nguyệt Lăng chỉ cách nhau một con sông.

Nguyệt Lăng vốn là quê hương của nàng, nay để tránh nạn, nàng lại ôm ta trốn về nơi này.

Dưới ánh trăng mỏng manh, nàng dừng lại trước một tòa nhà lớn, rồi kiệt sức mà gõ cánh cửa đỏ trước mặt.

Trong căn phòng thoảng hương thơm ấm áp, Cầm Nương quỳ xuống trước một phụ nhân đã có tuổi, cúi đầu lạy như giã gạo:

"Ma ma, xin người rủ lòng thương, cho con ở lại."



Phụ nhân vuốt những chuỗi châu ngọc trên đầu, vẻ mặt khó xử: "Con ơi, không phải ta không muốn giữ con lại, nhưng con cũng biết tính tình của Phượng Nương, nàng ấy—"

Cầm Nương vội đáp: "Ma ma, ngày trước ở trong viện, con và Phượng Nương tình như tỷ muội. Xin người nói giúp con vài lời."

Nghe vậy, phụ nhân bật cười "phì" một tiếng: "Thật sự tình như tỷ muội? Chẳng lẽ ma ma ta đây mù sao?"

Cầm Nương nén nước mắt, nói tiếp: "Ma ma, người sáng suốt lại nhân từ, xin nể tình con từng giúp người kiếm được chút bạc mà rộng lòng thương xót. Con biết làm bánh, đánh đàn, rót trà hầu nước. Nếu vẫn không đủ—"

Nói đến đây, nàng ngẩng đầu, cố nuốt ngược nước mắt vào trong.

Sau đó, nàng với vẻ mặt cương quyết, đưa tay cởi bỏ áo ngoài, để lộ làn da trắng ngần trước ngực: "Phượng Nương giờ đây cao quý, tính tình khó tránh khỏi kiêu ngạo. Nhưng những công tử nhà quan kia nào dễ đắc tội? Nếu người thu nhận con, sau này nếu có vị khách nào Phượng Nương thực sự không muốn tiếp, con nguyện thay nàng hầu hạ."

Cầm Nương vốn là một kỹ nữ đã hoàn lương.

Nhưng nay, nàng lại phải quỳ xuống trước mặt ma ma, bán rẻ chính thân thể mình.

Dĩ nhiên, ma ma không từ chối. Bởi hoa khôi trong nhà – Đỗ Phượng Ngô, hay được gọi là "Phượng Nương" – là một người vô cùng cao ngạo.

Những kẻ không có học thức, nàng không muốn tiếp.

Những kẻ tướng mạo xấu xí, nàng cũng không muốn tiếp.

Những kẻ ăn nói thô thiển, nàng càng không muốn tiếp.

Ngay cả những người mọi thứ đều tốt nhưng lại không vừa mắt nàng, nàng cũng nhất quyết không tiếp.

Vì vậy, Trần ma ma đã đắc tội không ít với các công tử quý tộc.
 
Chương 4


Còn Cầm Nương với nhan sắc nghiêng nước nghiêng thành, từng khiến không ít các công tử quyền quý như "ngũ lăng thiếu niên" tranh nhau ném tiền thưởng để lấy lòng nàng. Giữ lại nàng, dù phải chấp nhận thêm một đứa trẻ như ta, Trần ma ma vẫn cảm thấy đó là món hời lớn.

Đêm ấy, Phượng Nương không có ở kỹ viện, nghe nói nàng được vị quan lớn họ Ngô đón đi nghe hát.

Ba ngày sau, khi Phượng Nương về nhà, nhìn thấy ta và Cầm Nương, chúng ta đã sớm an ổn chỗ ở.

Ta dám chắc, Cầm Nương là một người nói dối giỏi nhất.

Nàng dỗ ta rằng: "Đến đây coi như là về nhà rồi! Có ta ở đây, con cứ yên tâm mà sống."

Nhưng vừa quay đi, nàng đã lập tức chạy đến trước mặt Phượng Nương, cúi mình lấy lòng.

Phượng Nương thấy lạnh, nàng tự tay ủ ấm chân cho nàng ấy.

Phượng Nương say, nàng đích thân lau sạch những vết bẩn trên người nàng ta.

Phượng Nương thèm ăn, nàng chẳng màng ngủ, thức cả đêm làm bánh cho nàng ấy.

Dẫu vậy, Phượng Nương vẫn không mấy vừa mắt nàng.

Nằm nghiêng trên chiếc trường kỷ bọc gấm, Phượng Nương cười nhạt với nàng: "Ồ, cái vẻ ngông cuồng ngày xưa của ngươi đâu rồi?"

Cầm Nương khom lưng, dùng chiếc xiên bạc cắm lấy quả nho đưa đến bên môi nàng ấy, nhỏ giọng đáp: "Cô nương là cành vàng lá ngọc, sao phải so đo với kẻ xuất thân hèn mọn như ta?"

Phượng Nương khẽ hé đôi môi đỏ, nhẹ nhàng ngậm quả nho: "Ta cũng không phải không thể dung ngươi."

Cầm Nương đón lấy vỏ nho nàng ấy nhả ra, bỏ vào miệng ăn, vừa nhai vừa nở nụ cười lấy lòng: "Cô nương tài sắc vẹn toàn, xứng đáng với danh hiệu đệ nhất hoa khôi, tất nhiên là người khoan dung độ lượng."

Phượng Nương khẽ cau mày, ánh mắt dời sang ta, khi ấy đang ngồi yên tĩnh trên chiếc ghế nhỏ bên cạnh.

"Nhưng con bé bên cạnh ngươi—"



Cầm Nương sững người, đôi tay ngọc ngà khựng lại, giọng nàng chợt mang theo chút oán trách đầy bi thương: "Phượng Nương, cô muốn làm gì với ta cũng được, nhưng với con bé này, tuyệt đối không được động vào."

Đang chìm trong sự nịnh nọt, Phượng Nương nghe vậy cũng ngẩn người.

Nàng nhìn ta một lúc, rồi lại nhìn Cầm Nương.

Hồi lâu, nàng khẽ cười, đôi mắt cong lên, trách yêu: "Ngươi xem, ta có nói gì đâu chứ."

Nửa tháng sau, Lý Cầm Nương phải bắt đầu tiếp khách trở lại.

Lần này là một vị khách đặc biệt – Lưu Thiên Hộ ở huyện Nguyệt Lăng, không chỉ giàu có mà còn nắm giữ một chức quan nhàn rỗi.

Tuy nhiên trước đây, dù nhiều lần muốn gặp hoa khôi Phượng Nương, nhưng nàng đều bướng bỉnh từ chối.

Nguyên do là vì Lưu Thiên Hộ nổi tiếng là kẻ thích hành hạ phụ nữ trên giường. Ngay cả chính thê lẫn thiếp thất trong nhà hắn cũng đều tránh né, không dám tiếp xúc.

Nhớ lời Cầm Nương từng nói với Trần ma ma: "Nếu có vị khách nào Phượng Nương thực sự không muốn tiếp, con nguyện thay nàng hầu hạ."

Vì thế, lần này, Trần ma ma yêu cầu nàng giữ đúng lời hứa.

Để có chỗ nương thân, Cầm Nương đành phải tô son điểm phấn, bước lên "pháp trường."

"Pháp trường" – chính là từ mà nàng tự lẩm bẩm khi vừa bôi phấn.

Dù còn nhỏ, nhìn biểu cảm của nàng, ta cũng hiểu chuyện này không phải điều tốt đẹp.

Ta rưng rưng nước mắt, gục lên đầu gối nàng, nghẹn ngào nói: "Cầm Nương, đừng đi mà."

Cầm Nương nâng mặt ta lên, hôn thật mạnh lên đôi má nhỏ hồng hào của ta.

Nàng cười, nhưng nụ cười ấy quá mức gượng gạo, đến mức trông còn thảm hơn cả khi khóc: "Ha ha, ta đi ăn tiệc mà! Con ngoan ngoãn chờ ở phòng, nếu sợ thì qua phòng Phượng Nương, lát nữa ta sẽ về."



Cầm Nương rời khỏi, đi đến tiền viện.

Ở một mình chán quá, ta bèn chạy đến tìm Phượng Nương.

Phượng Nương có gương mặt trắng mịn như ly sữa bò mà ta từng uống.

Nàng rất đẹp, nhưng vẻ đẹp của nàng khác hẳn Cầm Nương.

Cầm Nương đẹp như hoa đào rực rỡ trên cành vào mùa xuân – náo nhiệt, sống động. Nàng vừa đáng yêu vừa đáng ghét, lúc vui thì cười đùa lăn lộn, lúc giận thì không ngại mắng người và đào cả mồ mả tổ tiên họ lên.

Còn Phượng Nương, vẻ đẹp của nàng tựa như nhành lan trong cốc vắng – thanh khiết, thoang thoảng, khiến người ta chỉ dám ngắm từ xa chứ không dám đến gần. Nói đùa với nàng một câu cũng cảm thấy mình bất kính, chẳng ra thể thống gì.

Thế nhưng, lạ một điều, khi có mặt Cầm Nương, Phượng Nương đối với ta rất lạnh nhạt.

Nhưng khi Cầm Nương không có mặt, nàng như biến thành một người khác.

Nàng dùng những ngón tay thanh mảnh như hành non bẻ bánh nướng cho ta ăn, cho ta uống nước đường quýt ngọt ngào. Có khi nàng còn dạy ta viết chữ từng nét một.

Tay ta nhỏ xíu, cầm không nổi cây bút to, nàng liền bảo tỳ nữ ra phố mua cho ta một cây bút lông nhỏ.

Có một lần, khi ta cúi trên ghế nhỏ tập viết, Phượng Nương vuốt tóc ta, thở dài: "Thật tội nghiệp, đứa trẻ còn nhỏ thế này, còn nhỏ hơn ta ngày xưa."

Học theo dáng vẻ của nàng, ta cũng cau mày, thở dài: "Haiz!"

Nàng lập tức bật cười, đưa ngón tay ngọc điểm nhẹ lên mũi ta: "Con thở dài làm gì vậy?"

Ta mím môi, mắt rưng rưng: "Con nhớ phụ mẫu."

Phượng Nương giật mình, khựng lại: "Hà nhi, con—con biết chuyện gia đình mình sao?"

Ta gật đầu, khẽ đáp: "Con biết."
 
Chương 5


Ta mơ hồ biết rằng phụ mẫu ta đã xảy ra chuyện, và căn nhà ở huyện Lăng Thủy với hậu hoa viên cũng không thể quay lại được nữa.

Nhưng ta không dám nói, cũng không dám hỏi.

Ta sợ nếu hỏi, Cầm Nương lại ôm ta mà khóc. Nàng rất hay khóc.

Và giờ đây, ta chỉ còn mỗi nàng để dựa vào.

Trong phòng, không hiểu sao, bỗng yên ắng đến đáng sợ.

Chẳng bao lâu, Phượng Nương quay người, dùng khăn tay không ngừng lau mắt, lau xong mắt lại lau mặt, đôi vai run rẩy không thôi.

Trong phòng tĩnh lặng, nhưng tiền viện đột nhiên náo loạn như chảo dầu sôi.

Tiếng khóc thét, tiếng mắng chửi, tiếng xô xát, tiếng khuyên nhủ hòa lẫn vào nhau, xen lẫn cả âm thanh đồ đạc bị đập vỡ loảng xoảng.

Phượng Nương giật mình đứng phắt dậy, ta cũng hoảng sợ, cây bút nhỏ trên tay run lên, nét cuối của chữ "nhân" liền bị viết lệch.

Rất nhanh sau đó, một tỳ nữ dìu Cầm Nương bước vào phòng Phượng Nương.

Tóc tai nàng rối bù, y phục tả tơi, nhưng tiếng khóc xé lòng đã vang đến trước khi người kịp bước qua cửa.

Âm thanh bi thương ấy, dù không có vết thương cũng khiến người ta đau lòng, dù là người vô tình cũng phải chảy nước mắt.

"Phượng Nương, hắn không coi chúng ta là người! Ta không làm nổi nữa, Phượng Nương ơi—"

Cầm Nương vừa vào phòng đã gục xuống giường gấm, vừa khóc vừa kể, nước mắt nước mũi đều thấm ướt trước n.g.ự.c áo.

"Hắn xé rách váy và tất của ta, còn dùng chiếc giày thối của hắn để nhét đầy hoa quả vào rồi ép ta ăn. Hắn đổ rượu lên mặt ta, còn định trói hai chân ta vào cột giường. Ta, ta kêu gào hết sức, ta cào hắn—"

"Những kẻ giàu có không chỉ chơi đùa thân xác chúng ta mà còn giẫm đạp lên cả danh dự của chúng ta. Chẳng lẽ chúng ta sinh ra đã hèn mọn như vậy sao?!"



"Phượng Nương, cầu xin cô tha cho ta lần này, chỉ lần này thôi—"

Cảnh tượng trước mắt làm ta hoảng sợ, bật khóc nức nở.

Phượng Nương quát tỳ nữ bằng giọng lạnh lùng: "Đám hầu hạ vô dụng, mau đưa Hà nhi ra ngoài!"

Sau đó, nàng bước tới đỡ lấy Cầm Nương đang nước mắt tuôn rơi không ngớt.

Tỳ nữ dắt ta ra sân chơi, nhưng qua khung cửa sổ, ta nghe thấy Phượng Nương thở dài: "Ta sớm đã nhận ra ngươi không còn như trước. Ngày trước, chỉ cần có vàng bạc, dù là cóc ghẻ ngươi cũng tiếp, dù là kẻ đê tiện nhất ngươi cũng không từ. Nhưng bây giờ, haiz, ngươi thật ngốc nghếch, ngươi đã rơi vào biển khổ của tình cảm rồi."

Lưu Thiên Hộ đâu phải kẻ dễ động vào?

Huống hồ, trên mặt hắn còn bị Cầm Nương cào mấy vết đầy máu.

Trần ma ma phải hạ mình, nói hết lời ngon ngọt mới nguôi được đôi phần giận dữ của hắn.

Phần giận còn lại, Trần ma ma mời một trung gian có tiếng trong huyện ra dàn xếp, Phượng Nương cũng nhận lời bồi hắn uống ba ngày rượu hoa mới miễn cưỡng dàn xếp xong.

Nhưng vì phải bồi thường quá nhiều vàng bạc, Trần ma ma nổi giận, đòi đuổi ta và Cầm Nương ra khỏi kỹ viện.

"Đến từ đâu thì về đó đi. Chỗ ta nhỏ, không giữ nổi những vị Phật lớn như thế này!"

Ta đứng bên cạnh Cầm Nương, còn nàng quỳ trên đất, nước mắt ròng ròng, cầu xin: "Ma ma, xin người rủ lòng thương, xin người—"

Trần ma ma lật ngược mắt, vung tay ra lệnh cho người đến kéo hai người chúng ta đi.

Đúng lúc đang giằng co, Phượng Nương mặc áo lụa trắng, váy hồng nhạt, với vẻ mặt kiêu ngạo đẩy cửa bước vào.

Nàng khẽ hé đôi môi đỏ, cười nhạt, nói với Trần ma ma bằng giọng thờ ơ: "Ma ma, ở viện này, ai đi ai ở, là do ai quyết định?"

Phượng Nương là cây hái ra tiền của Trần ma ma, là chiếc rương châu báu mà bà không đời nào dám đắc tội.

Hơn nữa, căn biệt viện nằm bên dòng Lăng Hoa này, vốn là do quan lớn họ Ngô cho Phượng Nương mượn ở.



Vì vậy, ta và Cầm Nương được giữ lại.

Nhưng dù được ở lại, đãi ngộ thì khác trước rất nhiều.

Không còn phấn son, không còn bánh trái hoa quả, cũng chẳng còn y phục và trang sức.

Cầm Nương trở thành một đầu bếp thô lậu trong viện, mỗi ngày lo việc đun nước pha trà, hấp bánh điểm tâm, bữa ăn chỉ có bánh bao nguội mà gặm.

Nhưng Cầm Nương lại tỏ ra mãn nguyện: "Bánh bao ngon thế này, ha ha ha, vừa nguội vừa thơm."

Quan hệ giữa Phượng Nương và Cầm Nương cũng dần trở nên hòa hoãn hơn.

Đôi lúc, có những đêm dài buồn tẻ, Cầm Nương còn dẫn ta đến phòng Phượng Nương chơi.

Phượng Nương vốn ít lời, chỉ thích nằm tựa trên giường đọc thơ văn.

Mỗi lần như vậy, Cầm Nương ngồi bên giường làm việc khâu vá, còn ta nằm bò trên chiếc ghế nhỏ tập viết chữ.

Cuối xuân tháng tư, ngày đêm dịu dàng, cây cỏ tươi tốt, hoa lá vừa chớm nở.

Dưới ánh trăng ngoài cửa sổ, Phượng Nương ngồi đọc: "Thượng cổ có Đại Xuân, lấy tám nghìn năm làm xuân, tám nghìn năm làm thu."

Cầm Nương đang se dây đỏ, bỗng khựng lại, không kìm được mà ngẩng đầu hỏi: "Là ‘xuân’ nào thế?"

Phượng Nương mím môi cười: "Từ ‘Xuân’ thứ hai, là chữ 'xuân' trong 'tư xuân'."

"Thế còn ‘xuân’ thứ nhất?"

"'Xuân' thứ nhất, là chữ 'Xuân' trong 'Chu Xuân Đường'."

Cầm Nương lập tức đỏ bừng hai má, tiện tay cầm một chiếc khăn ném thẳng vào mặt Phượng Nương, phì một tiếng: "Con ranh lẻo mép, hư hỏng!"
 
Chương 6


Nói xong, nàng lại quay đầu, lo lắng liếc nhìn ta. Lúc ấy, ta đang tập trung toàn bộ tâm trí vào việc viết chữ, không để ý gì đến xung quanh.

Thấy ta không có phản ứng gì, nét mặt Cầm Nương mới dịu đi, quay sang lườm Phượng Nương một cái: "Trước mặt Hà nhi, bớt nói năng bậy bạ lại."

Cuộc đấu tranh phe phái trong triều đình kéo dài đến tháng sáu.

Vào tháng sáu, triều đình đưa ra phán quyết.

Gia sản nhà họ Chu bị tịch thu, gia nhân bị đem bán, phụ mẫu ta cùng huynh trưởng và tiểu đệ bị áp giải đến Đại Danh phủ để giam giữ.

Trong nửa năm phụ thân ta làm quan tại huyện Lăng Thủy, ông liêm chính, công bằng, luôn tiết kiệm, được dân chúng ca ngợi không ngớt lời.

Thế nhưng sau khi phụ thân ta bị bắt giam, lời đồn đại của người đời dần thay đổi.

Họ bĩu môi nói: "Nếu thực sự là quan thanh liêm thì triều đình có bắt ông ta không? Hừ, e rằng cũng chỉ là vẻ ngoài hào nhoáng mà bên trong mục nát!"

"Ta khinh!"

"Rõ ràng là chủ quân vô tội, chỉ vì bị liên lụy mới phải chịu cảnh ngục tù này. Vậy mà lũ người nông cạn kia lại cố ý bôi nhọ danh tiếng của ngài. Thật sự trên đời này không còn người tốt nữa sao!"

Nghe những lời đồn thổi, Cầm Nương tức đến mức nhảy dựng lên, chỉ muốn xé nát miệng của bọn người đó.

Phượng Nương nhấp một ngụm trà, thản nhiên nói: "Trên đời này, người tốt thuần túy thì cực hiếm, kẻ xấu tột cùng cũng chẳng nhiều, phần lớn chỉ là những kẻ lòng dạ thay đổi như nước. Đã là nước thì tâm tư tất nhiên biến đổi, có thể thành mưa, thành sương, thành băng, thành tuyết, thành sương mù, thành mưa đá. Ngươi cản đường họ, họ là kẻ xấu; ngươi không cản đường họ, họ lại thành người tốt. Thế nên mới có câu: 'Chúng sinh dễ độ, nhân tâm khó dò.' Đạo lý là như vậy."

Cầm Nương vỗ trán, như bừng tỉnh: "Ý ngươi nói nước – giống bản tính lăng nhăng, dễ thay đổi sao?"

Phượng Nương liếc nàng một cái, đặt chén trà xuống, xoay người bước đi: "Đúng là đàn gảy tai trâu."



Đôi mắt Cầm Nương bỗng sáng lên, như ngộ ra điều gì: "Đúng thế! Đàn gảy tai trâu! Lũ lòng dạ đen tối kia làm sao hiểu được sự trong sạch của chủ quân. Ngài ấy thật sự đã đặt lòng tin nhầm người rồi!"

Từ khi phụ mẫu ta bị áp giải đến Đại Danh phủ, Cầm Nương cứ quấn lấy Phượng Nương, tìm đủ mọi cách để xoay sở tìm lối thoát.

Không ngờ, cuối cùng các nàng thật sự tìm được lối thoát.

Hóa ra, nhân tình cũ của Phượng Nương – vị quan lớn họ Ngô – có một người em vợ làm nghề buôn lụa tại Đại Danh phủ.

Mà biểu đệ của người em vợ ấy lại là quản ngục trong nha môn.

Cầm Nương tuy nghèo đến mức không còn gì, nhưng được cái mặt dày.

Cầm Nương bám lấy Phượng Nương, dáng vẻ nịnh nọt mà nói: "Tỷ tỷ tốt của ta, ta ký khế ước bán thân cho tỷ, tỷ cho ta vay chút bạc để cứu người đi mà."

Phượng Nương nhướn mày, "phì" một tiếng: "Ta cần tấm thân rách nát của ngươi để làm gì?"

Cầm Nương cười đáp: "Sao lại không có tác dụng? Tỷ còn sống, ta sẽ hầu trà châm nước; tỷ khuất bóng, ta hóa thành rùa để cõng bia mộ cho tỷ."

Phượng Nương ngoài lạnh trong nóng, không chịu nổi sự nài nỉ dây dưa của Cầm Nương, cuối cùng cũng cho nàng vay một trăm lượng bạc.

Trong nhà Ngô đại nhân, Phượng Nương có ký gửi mấy rương vàng bạc.

Để tránh Trần ma ma lục lọi, nàng giấu vàng bạc, châu báu trong đó, tính ra cũng đến ngàn lượng.

Cầm Nương nhận được bạc, vui mừng hớn hở, lập tức sắm sửa đủ thứ.



Y phục, đồ ăn, thuốc thang, bút mực, đồ vệ sinh cho nam nhân – nàng mua tất cả những gì nàng nghĩ ra.

Nàng quyết định đích thân đến Đại Danh phủ.

Từ Đại Danh phủ đến huyện Nguyệt Lăng cách nhau hơn trăm dặm, ngồi xe ngựa mất nửa ngày.

Thế nhưng, gần ngày đi, Cầm Nương đột nhiên chùn bước: "Chuyện của Hà nhi, ta biết nói sao với chủ quân và chủ mẫu đây? Trong lòng ta áy náy quá!"

Phượng Nương nhét gói đồ vào tay nàng, đẩy mạnh nàng lên xe ngựa, vừa đẩy vừa nói: "Đừng lải nhải nữa, nếu còn chần chừ trời sẽ tối mất!"

Cầm Nương hứa sẽ về ngay ngày hôm sau, nhưng đến ngày thứ ba vẫn chưa thấy trở lại.

Đến ngày thứ tư, nàng mới quay về, mắt sưng đỏ, vừa bước vào phòng đã ôm lấy ta bật khóc nức nở.

Phượng Nương nghe tiếng, vội chạy đến, lo lắng hỏi: "Ngươi chỉ biết khóc thôi à? Rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì?"

Cầm Nương lau nước mắt, ngừng khóc, nghẹn ngào nói: "Cả nhà chủ quân thật đáng thương, bị nhốt trong một phòng giam nhỏ, uống nước lạnh, ăn cơm nguội. Hai thiếu gia gầy đến trơ xương, chủ quân thì râu ria xồm xoàm, còn chủ mẫu – vốn mạnh mẽ – nay đã bị hành hạ đến mức không còn chút sức sống."

"Vậy chuyện của Hà nhi, ngươi có nói không?"

"Nói rồi. Chủ quân và chủ mẫu không trách ta, còn cảm ơn ta. Nhưng chủ quân bảo, Lai Vượng vốn là mối họa, e rằng một ngày nào đó sẽ gây hại cho Hà nhi."

"Chuyện tên súc sinh đó để sau hãy tính. Nhưng còn ngươi, sao hôm nay mới về?"

Cầm Nương đỏ mặt, lúng túng đáp: "Ta… ta không yên lòng, nên ngồi thừ ngoài nhà lao hai ngày."

Nghe vậy, Phượng Nương thở phào, rồi mạnh tay véo má Cầm Nương, mắng: "Đồ ngốc, muốn làm người ta lo c.h.ế.t à!"
 
Chương 7


Ngục tốt ở Đại Danh phủ nhận của Cầm Nương tám mươi lượng bạc, hứa sẽ chăm sóc cho gia đình nhà họ Chu trong ngục.

Tuy nhiên, Cầm Nương vẫn không yên tâm, quyết định cứ ba tháng sẽ đến thăm ngục một lần.

"Người ngục tốt kia trông có vẻ thật thà, nhưng ta không dám tin tưởng hoàn toàn."

Từ khi có chút hy vọng, lòng dạ Cầm Nương càng trở nên nhiệt thành hơn.

Những ngày nàng vui nhất chính là trước mỗi chuyến đi xa ba tháng một lần.

"Chủ quân thích ăn bánh sen, chủ mẫu thích bánh nếp, hai thiếu gia thích bánh sữa ngọt ngào."

Nàng thắt tạp dề đi vào bếp, vừa làm bánh vừa vui vẻ lẩm bẩm, cả người toát ra vẻ rạng rỡ đầy hứng khởi.

Phượng Nương vẫn luôn nhờ người ở huyện Lăng Thủy theo dõi tung tích của Lai Vượng.

Đến mùa đông, có tin tức truyền về rằng Lai Vượng đã chết.

Hóa ra, sau khi Cầm Nương dẫn ta bỏ trốn, Lai Vượng cưới một góa phụ trẻ. Vì kế sinh nhai, hắn còn đến làm việc tại tiệm thuốc của một thương nhân họ Lý.

Nhưng không ngờ, vị thương nhânnày lại lén lút qua lại với góa phụ kia. Hai người họ như gặp phải tiếng sét ái tình, quấn quýt không rời, cuối cùng bày mưu hãm hại Lai Vượng.

Tên họ Lý vu oan rằng Lai Vượng biển thủ tiền mua thuốc của tiệm, rồi tố cáo hắn lên quan phủ.

Quan lại và thương nhân cấu kết, nào có chỗ cho Lai Vượng phân bua?

Thế là hắn bị đánh hai mươi trượng đến mức thổ huyết, hơi thở thoi thóp. Vào tù chưa được bao lâu, hắn đã bỏ mạng.

Khi nghe tin này, đầu tiên Cầm Nương thở phào nhẹ nhõm, sau đó nghiến răng, thốt lên một câu:

"Thế gian này, thật sự chẳng còn người tốt!"



Bước vào tháng Chạp, số ngày Phượng Nương ở nhà càng lúc càng ít.

Hôm nay, Ngô đại nhân mời đi nghe hát, ngày mai, Triệu chưởng quầy mời đi uống rượu.

Mỗi lần trở về, Phượng Nương đều say khướt, ngã xuống giường ngủ, thỉnh thoảng nửa đêm còn phải dậy nôn hai lần.

Thế nhưng, vào ngày sinh thần của ta, ngày mồng chín tháng Chạp, nàng hiếm hoi không đi ra ngoài.

Không chỉ vậy, nàng còn tặng ta một chiếc váy lụa màu vàng nhạt, tự tay nàng khâu lấy.

Vì sợ Trần ma ma trách phạt, Cầm Nương đóng kín cửa phòng, lặng lẽ tổ chức sinh thần cho ta.

Nàng nấu cho ta một bát mì trường thọ, bên trong có một quả trứng gà vàng ươm.

Khi thấy chiếc váy lụa, Cầm Nương giả vờ trách: "Đường đường là hoa khôi mà keo kiệt quá, tặng lễ vật lại nghèo nàn như thế."

Phượng Nương nhướn mày, "phì" một tiếng: "Đồ không có mắt, là do ta tự tay làm đấy. Hà nhi thích là được, liên quan gì đến ngươi?"

Chiếc váy ấy thật đẹp, ta đương nhiên rất thích, liền ngọt ngào nói: "Đa tạ Phượng di!"

Đêm hôm đó, Phượng Nương uống cạn một vò rượu lớn, Cầm Nương khuyên thế nào cũng không được.

Cuối cùng, nàng đành mặc kệ, để Phượng Nương quậy cả đêm.

Trăng lưỡi liềm treo cao, đêm đông lạnh giá như sương.

Phượng Nương, người vốn thanh cao như hoa lan, nay lại say mèm, tựa vào người Cầm Nương, không ngừng ngâm thơ: "Bàn tay mẹ hiền khâu áo tiễn con đi xa, đường kim mũi chỉ từng chút cẩn thận, chỉ sợ con về muộn mà rét lạnh..."

Cầm Nương nghe không hiểu, liền bông đùa: "Đúng vậy, là rùa. Đợi ta c.h.ế.t rồi, ta nhất định hóa thành một con rùa lớn để cõng bia mộ cho ngươi."



"Ọe—"

Phượng Nương bị lời nói ấy làm buồn nôn, ói thẳng lên váy của Cầm Nương, khiến nàng tức giận, giơ tay định đánh Phượng Nương.

Nhưng sau khi tỳ nữ thay quần áo và đỡ Phượng Nương đi nghỉ, Cầm Nương ngẩng đầu nhìn vầng trăng lưỡi liềm trên trời, đôi mắt đỏ hoe.

Nàng vuốt đầu ta, lặng lẽ nói: "Mồng chín tháng Chạp, tám năm trước, chính là ngày mà gia đình Phượng di của con tan nát."

Phượng Nương vốn xuất thân từ một gia đình khuê các danh giá.

Mẫu thân nàng là người thuộc thế gia, phụ thân giữ chức quan ngũ phẩm trong triều.

Nhưng trong một lần triều đình xảy ra tranh chấp, cả gia đình nàng bị liên lụy, phụ thân c.h.ế.t trên đường lưu đày, mẫu thân gieo mình xuống sông tự vẫn, còn nàng thì trở thành cô nhi, cô đơn lẻ loi.

Nàng bị bọn buôn người mua đi bán lại nhiều lần, cuối cùng rơi vào tay Trần ma ma.

Khi ấy, Phượng Nương chỉ mới mười hai tuổi.

Trong viện của Trần ma ma lúc đó nuôi rất nhiều nha hoàn, nhưng nổi bật nhất chính là Phượng Nương và Cầm Nương.

Hai người này không vừa mắt nhau, thường xuyên cãi cọ, nhưng đến cuối cùng, chẳng ai thoát khỏi móng vuốt số phận.

Phượng Nương một lòng muốn bán nghệ không bán thân, nhưng năm mười lăm tuổi vẫn bị Trần ma ma bày kế ép buộc.

Còn Cầm Nương, may mắn được một phú thương để mắt, nhưng lại bị chính thất trong nhà nhẫn tâm dìm xuống sông.

Nếu không nhờ phụ thân ta cứu giúp, có lẽ nàng đã trở thành mồi cho rùa cá dưới sông, làm gì còn cơ hội mà nói đến chuyện hóa rùa để cõng bia mộ.

Suy cho cùng, họ đều là những kẻ đáng thương, thân bất do kỷ.

Và giờ đây, trong hàng ngũ những kẻ đáng thương ấy, lại có thêm ta.
 
Chương 8


Phụ thân ta xuất thân từ gia đình nghèo khó, dòng họ cũng chẳng khá giả gì.

Còn mẫu thân ta, gia tộc bị cuốn vào vòng xoáy tranh chấp, thân mình còn khó bảo toàn, nói chi đến việc lo lắng cho ta.

Vì vậy, ta sống nương nhờ bên cạnh Cầm Nương, phụ thuộc hoàn toàn vào nàng.

Cầm Nương không cho phép ta ra khỏi hậu viện, mà trong hậu viện, mọi người đối với ta khá tốt, ngoại trừ Trần ma ma.

Trần ma ma là kẻ tham lam, thô tục. Bà ta thường nhân lúc Phượng Nương không có nhà, lén lút lục lọi hòm đồ của nàng.

Có vài lần, ta vô tình bắt gặp, bà ta lập tức túm lấy búi tóc của ta, nghiến răng đe dọa: "Nếu dám bép xép, ta bóp c.h.ế.t ngươi."

Nhưng mỗi khi Phượng Nương trở về, ta liền mách ngay với nàng.

Hừ, Phượng di đối xử với ta tốt như vậy, ta nào có sợ một bà già độc ác.

Ngày tháng cứ thế trôi qua, đến tháng sáu năm Thừa Khánh thứ hai mươi ba.

Tháng sáu nóng bức oi ả, lòng Cầm Nương cũng nóng như lửa đốt, bởi hạn tù của phụ mẫu ta sắp mãn.

Khi ấy, triều đình chỉ phán họ ba năm tù, theo tính toán, cuối tháng sáu sẽ được thả.

Ba năm qua, Cầm Nương ngày ngày khâu vá se dây, Phượng Nương cũng có lòng nâng đỡ, thường giao cho nàng làm vài đĩa bánh ngọt mời khách.

Khách vừa lòng, thỉnh thoảng thưởng nàng ít trang sức, gấm vóc hoặc túi thơm. Những thứ nhỏ nhặt ấy gom góp lại, ba năm trời nàng cũng tiết kiệm được hơn tám mươi lượng bạc.

Không hổ danh hồng trần là nơi tiêu tốn vàng bạc.

Cầm Nương tính toán: "Với tám mươi lượng này, bốn mươi lượng thuê một căn nhà nhỏ, hai mươi lượng sắm sửa vật dụng, mười lượng mua y phục, giày dép, còn lại mười lượng đưa cho chủ mẫu, để bà tùy ý dùng vào việc gì cũng được."



Cầm Nương đếm từng ngón tay, vừa đắc ý vừa vui vẻ kể từng kế hoạch sử dụng số bạc, đôi mày mắt cong cong còn xinh đẹp hơn cả vầng trăng lưỡi liềm trên trời.

Phượng Nương không nhịn được, chen lời phá hỏng hứng thú của nàng: "Đừng quên, ngươi còn nợ ta một trăm lượng đấy."

Cầm Nương vênh váo phẩy tay: "Không thiếu ngươi lâu đâu! Chủ quân nhà chúng ta từng làm tri huyện, ngài ấy tài giỏi lắm!"

Phượng Nương mím môi cười nhạt, phe phẩy quạt lụa trắng, để mặc nàng khoe khoang.

Ba năm qua, Cầm Nương đã một mình đi đi về về Đại Danh phủ tám chín lần. Nhưng lần này, nàng quyết định dẫn ta theo.

Lúc ấy, ta đã chín tuổi, dáng người dong dỏng, tính cách bắt đầu hình thành, làm việc cũng đã có chút chủ kiến.

Cầm Nương thường nói: "Tính khí của con không giống phụ thân con, mà giống mẫu thân của con hơn."

Thật ra, dáng vẻ và tính cách của mẫu thân, ta đã quên gần hết.

Ký ức thời thơ ấu thường rất ngắn ngủi và những gì ta nhớ được rõ ràng nhất chỉ bắt đầu từ ngày lễ Thượng Nguyên ba năm trước.

Cuối tháng sáu, ta cùng Cầm Nương ngồi lên xe ngựa đến Đại Danh phủ.

Ta nghĩ rằng, quãng đường hơn một trăm dặm này hẳn sẽ rất dễ dàng.

Nhưng khi lên đường mới hay, dọc đường núi non hiểm trở, sông suối nguy nan, va vấp liên tục, phải luôn cẩn thận, chú ý từng bước.

Ấy vậy mà Cầm Nương, một nữ tử yếu đuối, đã một mình đi qua con đường này suốt ba năm ròng.

Chúng ta khởi hành từ sáng sớm, mãi đến chiều mới đến Đại Danh phủ.



Cầm Nương đưa ta vào một khách điếm nhỏ trong thành để nghỉ ngơi, sau đó nàng tự mình đi tìm Trương ngục tốt để dò hỏi tin tức.

Ở lại khách điếm, ta đợi mãi không thấy nàng quay về, hết ngóng bên này lại trông bên kia, lòng như lửa đốt, bồn chồn không yên.

Đến giờ thắp đèn, Cầm Nương cuối cùng cũng trở về. Đôi mắt nàng sưng đỏ, dáng vẻ thất thần như một con rối thiếu đi hơi thở sống động.

"Thế gian bất nhân này, thật sự muốn dồn người ta vào chỗ c.h.ế.t mà!"

Ngoài trời, sấm chớp đùng đoàng, mưa lớn trút xuống ào ào.

Trong phòng, nàng ôm ta khóc òa, khóc cho cái thế gian không chừa đường sống, khóc cho ông trời cố tình trêu ngươi.

Hạn tù của gia đình họ Chu đã mãn, nhưng triều đình lại có kẻ cản trở, khiến án tù của họ bị phán là vô thời hạn

Án tù được phán là vô thời hạn!

Cầm Nương không chịu nổi cú sét đánh ngang tai này, đêm ấy nàng phát sốt.

Ta quỳ gối van xin chưởng quầy của khách điếm gọi đại phu, sắc thuốc, suốt đêm quỳ bên giường nàng, trông nom không rời.

Sáng hôm sau, nàng cố gượng dậy, cắn răng nói với ta: "Hà nhi, ta dẫn con đi gặp phụ mẫu con."

Trước cửa nhà ngục Đại Danh phủ, hai tên lính canh ngục vừa thấy Cầm Nương liền cười đùa cợt nhả: "Chà, Tiểu Bạc Quả lại đến thăm ngục đấy à! Trời nắng thế này mà da ngươi vẫn trắng như tuyết, không cháy nắng chút nào."

"Hừ, tiểu Bạch Quả gì chứ, rõ ràng là Tiểu Hương Ngọc! Tiểu Hương Ngọc, lần này lại mang thứ gì ngon cho cố chủ của ngươi đây?"

Cầm Nương đặt ta đứng sau lưng mình, ôm túi đồ, cố nhịn cảm giác ghê tởm, gắng gượng sức lực yếu ớt của cơ thể, cúi chào hai tên lính canh ngục.

"Hai vị đại gia, xin làm ơn giúp đỡ."
 
Chương 9


Hai tên lính cố ý trêu chọc nàng: "Được thôi, lần nào chúng ta chẳng giúp. Nhưng lần này ít nhất cũng phải thơm một cái mới được."

"Đúng vậy, lần này không thể để ngươi dễ dàng qua mặt như những lần trước nữa."

Đúng lúc họ còn đang dây dưa, Trương ngục tốt từ bên trong bước ra.

Ông cau mày, quát mắng hai tên lính ngục: "Cô ấy là người đáng thương, các ngươi hà cớ gì phải trêu chọc cô ấy?"

Trương ngục tốt có tính tình ngay thẳng, nhờ có ông mà những năm qua gia đình họ Chu không phải chịu quá nhiều khổ sở.

Nhưng dù vậy, khi ta vào trong gặp phụ mẫu, huynh trưởng và tiểu đệ, ta đã không còn nhận ra họ nữa.

Cầm Nương thường nói rằng phụ thân ta là một nam tử phong nhã, tuấn tú như lan ngọc.

Nhưng người mà ta nhìn thấy trước mắt chỉ là một thân hình gầy gò, gầy đến mức chỉ còn lại bộ xương.

Còn người phụ nữ với làn da thô ráp ấy là mẫu thân ta, Thôi thị – tóc mai đã bạc, sắc mặt tàn tạ, nếp nhăn chằng chịt, còn không bằng cả những phụ nữ thôn quê.

Trưởng huynh mười ba tuổi và tiểu đệ bảy tuổi của ta dù má phúng phính, nhưng vì quanh năm không thấy ánh mặt trời nên nước da tái nhợt, trắng bệch đến đáng sợ.

Năm người của Chu gia, bốn người bị giam cầm, một người phải sinh tồn nơi kỹ viện.

Giờ đây, cả nhà được đoàn tụ, đương nhiên ai nấy đều rơi lệ.

Vì lo sợ tai vách mạch rừng, Cầm Nương kéo ta quỳ xuống, nước mắt lưng tròng mà thưa: "Nô tỳ chịu đại ân của chủ quân và chủ mẫu, hôm nay dẫn con gái của nô tỳ đến dập đầu tạ ơn hai người."

Qua song sắt, ta quỳ xuống, dập đầu thật mạnh trước phụ mẫu.

Mẫu thân không kiềm được, lao tới nắm chặt lấy tay ta, trong khi phụ thân lại quay mặt đi, âm thầm lau đi giọt nước nơi khóe mắt.



Bị vu oan vào ngục, người không khóc; nghe tin bị kéo dài án tù vô thời hạn, người không khóc.

Nhưng khi nhìn thấy ta đã lớn lên, trở thành một thiếu nữ duyên dáng, vị Thám hoa năm nào đầy khí chất phong nhã nay lại không thể ngăn được những giọt lệ.

Cốt nhục thân tình, gặp lại mà không nhận ra.

Há chẳng khiến lòng người bi thương?

Sau khi trở về từ Đại Danh phủ, Cầm Nương suốt ngày ủ rũ, không còn vui vẻ như trước.

Bất chợt một ngày, nàng tìm đến Phượng Nương, nói rằng muốn chuyển đi.

"Trước đây, mỗi ngày ta đều sống dựa vào hy vọng, đếm từng ngày trôi qua. Nhưng nay thì khác. Nơi đây người nhiều, lắm lời thị phi, ta không thể để sau này Hà nhi bị người đời chỉ trỏ, bảo rằng 'con bé này lớn lên từ kỹ viện.' Ta và ngươi đã là kẻ không còn hy vọng, nhưng Hà nhi thì vẫn còn tương lai."

Phượng Nương nghe vậy, lòng không đành: "Nếu ngươi đã quyết ý đi, ta không cản. Nhưng nếu đã đi, cũng phải tính toán cho ổn thỏa trước đã?"

Ta tính cả rồi. Tám mươi lượng bạc ta chưa động đến. Ta dự định thuê một căn nhà bên sông Lăng Hoa, mở quán bán trà nước và điểm tâm."

"Được thôi."

Phượng Nương nắm c.h.ặ.t t.a.y ta, không chịu buông: "Nhưng đã chọn được chỗ ở chưa? Đồ đạc sắm sửa đủ chưa? Nếu chưa, thì cứ ở lại đây đã, sắp xếp ổn thỏa rồi hãy đi cũng chưa muộn."

Ta bật cười: "Phượng di à, người sợ chúng ta đi rồi, không ai dám cùng người đùa cợt nữa đúng không?"

Phượng Nương nghe thế cười rung cả người, trong khi Cầm Nương chỉ biết lắc đầu ngao ngán, chỉ tay về phía ta nói với Phượng Nương: "Xem kìa, vốn là một tiểu thư con nhà quan, giờ thì học được cái thói lẻo mép rồi. Không được, nhất định phải đi thôi!"

Miệng nói muốn đi, nhưng việc chuyển đi đâu phải dễ dàng.

Chỉ riêng tìm một nơi phù hợp, Cầm Nương cũng mất hơn một tháng.

Đúng vào đêm lễ Bái Nguyệt, chuyện không hay đã xảy ra.



Tại tiền viện, Phượng Nương đang tiếp đãi Vương Đề Hạt, một vị khách quyền thế trong thành.

Giữa buổi tiệc, Phượng Nương ra ngoài thay y phục, nhưng vì đi lâu quá, Vương Đề Hạt say rượu chờ không nổi, liền xách bình rượu loạng choạng đi tìm.

Và rồi, hắn bước vào hậu viện.

Lúc đó, ta đang mặc váy lụa trắng, ngồi dưới giàn nho ăn bánh ngọt.

Bất ngờ, một gã đàn ông bụng phệ lảo đảo bước đến, rồi bất thình lình ôm lấy eo ta.

Ta hoảng hốt, miếng bánh rơi xuống đất. Quay đầu lại, ta đụng ngay khuôn mặt đầy mùi rượu của hắn.

Cầm Nương nói không sai, tính cách của ta giống hệt mẫu thân, mạnh mẽ và quyết liệt.

Nếu là con gái nhà bình thường, gặp chuyện này chắc đã sợ đến mềm nhũn.

Nhưng ta lập tức vung tay, giáng cho tên kia một cái tát trời giáng.

Vương Đề Hạt vốn là kẻ nổi danh hay đánh đập thê tử, bắt nạt phụ nữ.

Dù là nhận nhầm người trong lúc say rượu, nhưng bị đánh bất ngờ, làm sao hắn chịu để yên?

Mắt hắn trợn tròn, lớn tiếng mắng: "Con kỹ nữ thấp hèn này, ngươi dám động vào đại gia ta à?”

Hắn không chỉ mắng chửi mà còn giơ bình rượu lên định đập vào đầu ta.

Chỉ nghe một tiếng "choang", chiếc bình rượu tráng men vỡ tan thành từng mảnh, và ngay lập tức, một dòng m.á.u từ trán Cầm Nương chảy xuống má.

Trong khoảnh khắc nguy cấp, Cầm Nương không biết từ đâu lao ra, đỡ thay ta cú đánh ấy.
 
Chương 10


Tên say rượu nhìn thấy m.á.u thì càng hưng phấn.

Hắn đè chặt Cầm Nương xuống, "xoẹt" một tiếng, xé toạc vạt áo nàng.

Ta biết sức mình không thể kéo nổi tên ác quỷ kia ra, liền nhấc chiếc ghế lên, đập mạnh vào đầu hắn.

Trong chớp mắt, tiếng mắng chửi, tiếng khóc thét, tiếng hét chói tai vang lên khắp cả viện.

Phượng Nương, Trần ma ma, cùng đám tỳ nữ vội vã chạy đến.

"Trời ơi, đúng là đồ gây họa! Ta đã biết trước các ngươi sớm muộn gì cũng rước tai họa mà!" Trần ma ma vừa vào viện đã lớn tiếng mắng Cầm Nương và ta.

Phượng Nương thì chẳng bận tâm đến lời nào, lập tức xông lên kéo tay Vương Đề Hạt.

Không ngờ tên họ Vương điên cuồng, dùng sức hất mạnh, khiến Phượng Nương ngã nhào xuống đất.

Sau đó, hắn đứng dậy, giơ chân lên, đạp mạnh xuống mặt nàng.

"Con kỹ nữ thối tha, dám động tay với đại gia ta! Bình thường giả vờ đoan trang cao quý, tưởng mình là tiểu thư khuê các sao? Ta thấy chính là bị chiều chuộng quá mức, nên không biết mình là thứ gì nữa!"

Phượng Nương từ nhỏ đã được nuông chiều, mười hai tuổi lâm vào cảnh phong trần, nhưng nhờ tài sắc vẹn toàn mà được mệnh danh là "hoa khôi danh giá."

Những công tử quyền quý, con cái nhà quan đều hết lòng tâng bốc, đối xử như tiên nữ, nào có ai dám đụng đến nàng.

Nàng từng chịu nỗi nhục nhã như vậy bao giờ?



Ta chưa từng thấy ánh mắt của Phượng Nương lại lạnh lẽo và tuyệt vọng như lúc ấy.

Khoảnh khắc bị chiếc chân bốc mùi đạp xuống mặt, ta cảm giác nàng đã nghĩ đến cái chết.

Đêm hôm đó, ta trằn trọc mãi không ngủ được.

Dưới ánh trăng lạnh như sương, ta lặng lẽ khoác áo, rón rén đến trước phòng của Phượng Nương.

Trong phòng, ánh nến leo lét, không gian im lặng đến đáng sợ.

Không biết đã bao lâu trôi qua, ánh nến phụt tắt, và rồi một tiếng "rầm" vang lên, như thể chiếc ghế ngã xuống đất.

Phượng Nương –

Thật sự đã treo cổ tự vẫn.

"Ngươi đọc bao nhiêu sách rồi mà ngay cả đạo lý ‘còn sống là còn hy vọng’ cũng không hiểu hay sao?!"

Trên giường gấm, Cầm Nương đầu quấn băng trắng, vừa giận vừa thương mà mắng Phượng Nương, người vừa được cứu sống kịp thời.

Phượng Nương với vẻ mặt không còn thiết sống, nhàn nhạt nói: "Sĩ khả sát, bất khả nhục." (Kẻ sĩ có thể chết, không thể chịu nhục.)

"Cái thứ đạo lý chó má gì thế? Nếu ta giống ngươi, chắc đã c.h.ế.t tám trăm lần rồi! Thật là nguy hiểm, lần này nếu không phải Hà nhi nhanh trí, ngươi đã không còn mạng nữa rồi!"

Phượng Nương nhắm chặt mắt, giọng thản nhiên: "Sống thì có gì vui, c.h.ế.t cũng chẳng có gì là khổ."



"Khổ? Ở đây có ai không khổ? Ta mồ côi từ nhỏ, bị họ hàng độc ác bán vào kỹ viện. Ráng nhẫn nhục lớn lên, nhờ có chút nhan sắc mà nghĩ có thể ngẩng đầu, lại gặp phải ngươi còn tài sắc hơn ta. Khó khăn lắm mới có người chuộc thân, tưởng đã có hy vọng, ai ngờ chưa qua ba tháng, hy vọng tan biến, lại bị quăng xuống sông, suýt nữa làm mồi cho rùa cá.”

May mà chủ quân nhảy xuống cứu ta, ta nghĩ từ đó sẽ có nơi an thân, sống yên ổn được nửa năm, cuối cùng lại bị tên khốn Lai Vượng phá hoại.

Số phận của ta cứ lật đi lật lại, hết lên lại xuống, mà toàn xuống thôi – xuống mãi, chẳng bao giờ ngừng!"

"Còn Hà nhi thì không khổ sao? Mới sáu tuổi đã phải cùng ta trốn ở chốn hậu viện này, rõ ràng người thân ở ngay trước mắt mà không thể nhận, ngay cả một tiếng ‘phụ mẫu’ cũng không dám gọi."

"Ngươi ấy, đừng đặt lòng tự ái quá cao. Ta thấy Ngô đại nhân đối với ngươi không tệ, ngươi cũng có chút tích lũy, chẳng bằng sớm chuộc thân, hoàn lương, rồi gả làm thiếp cho ông ta."

Nghe vậy, Phượng Nương cười thê lương, nhận chén trà ta đưa, yếu ớt nhấp một ngụm: "Làm thiếp sao? Nhưng Ngô phu nhân đã nói rồi, bà ta tuyệt đối không chấp nhận làm tỷ muội một nhà với kỹ nữ."

Cầm Nương ngẩn người: "Không chấp nhận làm tỷ muội với kỹ nữ?"

"Có nhà danh môn chính phái nào lại cho phép kỹ nữ bước qua cửa? Há chẳng phải sẽ trở thành trò cười cho thiên hạ sao?"

"Trò cười? Thật sự phải trở thành trò cười sao?" Cầm Nương lẩm bẩm, giọng đầy ngỡ ngàng.

Phượng Nương gật đầu, nhẹ nhàng vuốt má ta, khẽ nói: "Ngày trước là ta hồ đồ suy nghĩ nông cạn. Cầm Nương, ngươi hãy sớm đưa Hà nhi rời khỏi nơi này. Người đời thường ca tụng sen mọc trong bùn mà chẳng nhiễm mùi bùn, nhưng thực sự mấy ai được như sen? Nơi nhơ nhuốc này, từ nay chớ quay lại nữa."

Sau biến cố lần đó, Cầm Nương nhanh chóng sắp xếp cho hai chúng ta chuyển đến tiệm trà bánh mới thuê.

Cửa tiệm tọa lạc ngay bên bờ sông Lăng Hoa, là một ngôi nhà nhỏ với cửa hàng phía trước và sân vườn phía sau.

Mặt tiền không lớn, sân sau chỉ có hai gian phòng, nhưng như vậy đã đủ để chúng ta sống.
 
Chương 11


Bánh ngọt do Cầm Nương làm, hương vị đương nhiên không cần bàn, nhưng điểm hấp dẫn nằm ở cách trình bày cầu kỳ.

Chẳng hạn, một đĩa bánh hạt dẻ thông thường, nếu dùng khuôn hoa sen để tạo hình, sẽ trở thành bánh sen hạt dẻ.

Hay như một ấm trà xanh, chỉ cần thả vào vài cánh hoa thơm ngát, giá cả liền từ mười lăm văn tăng lên hai mươi lăm văn.

Bờ sông Lăng Hoa cảnh sắc nên thơ, là nơi mà các văn nhân, thi sĩ, công tử, tiểu thư thường xuyên lui tới.

Phượng Nương từng nói: "Những kẻ này luôn tự xưng là thanh cao, lúc nào cũng tỏ vẻ kiểu cách. Nhưng đã quen giả bộ rồi thì khó mà giữ được thể diện để rút lui. Chỉ cần ngươi làm tốt vẻ bề ngoài, tiệm này chắc chắn sẽ kiếm được lời."

Cầm Nương nghe lời Phượng Nương, bày trí cửa tiệm đơn giản mà thanh nhã.

Bản thân nàng mỗi ngày đều để mặt mộc, không son phấn, chỉ mặc chiếc áo trắng lụa, váy lụa xanh, thắt thêm dải lụa vàng ở eo.

Từ xa nhìn lại, trông nàng như một nhành hoa lê ngày xuân, thanh thoát mà tinh tế, kiều diễm nhưng không tầm thường.

Quả nhiên, đến cuối tháng Chín, khi tính toán sổ sách, cửa tiệm đã kiếm được hơn ba mươi lượng bạc.

Cầm Nương mừng đến mức chân mềm nhũn, nhưng tay lại không hề lơ là.

Sáng hôm sau, nàng vẫn làm điểm tâm cầu kỳ như trước, giá cả đề cao chót vót, cao đến mức khiến người ta phải trố mắt.

Ấy vậy mà lạ thay, giá cao đến đâu cũng vẫn có khách quý đến mua.

Quả nhiên Phượng Nương đã nói không sai.

Phượng Nương lấy cớ quen ăn bánh do Cầm Nương làm, mỗi ngày đều sai tỳ nữ đến mua. Có khi tiếp khách tại viện, nàng lại vô tình tán thưởng tiệm trà bánh bên bờ sông Lăng Hoa trước mặt họ.

Lâu dần, cửa tiệm bắt đầu có chút danh tiếng.



Cầm Nương thuê thêm một tiểu nhị lanh lợi, mỗi ngày phụ trách giao bánh mới ra lò đến các gia đình giàu có.

Tuy nhiên, kinh doanh vốn không thể mãi thuận buồm xuôi gió.

Cầm Nương từng nói, số mệnh của nàng là "Lên rồi lại xuống, đã xuống thì xuống mãi không thôi."

Sang năm thứ hai kể từ khi mở tiệm, lão Hoàng đế ở kinh thành – già nua, bệnh hoạn, hồ đồ, cuối cùng ông đã băng hà.

Triều đình ban lệnh cấm dân gian tổ chức nhạc hội trong vòng trăm ngày để tỏ lòng thương tiếc.

Bờ sông Lăng Hoa, nơi vốn nổi tiếng với thuyền hoa và hí viện, nay vì lệnh cấm mà trở nên im ắng như tờ, số người qua lại giảm đi hơn phân nửa.

Bất đắc dĩ, Cầm Nương đành tạm đóng cửa tiệm.

"Một lão già chỉ biết ăn chơi sa đọa, sống thì chẳng làm được việc gì tốt, c.h.ế.t rồi cũng không buông tha dân lành. Đúng là tai họa tận kiếp!"

Đêm dài vô tận, nàng xót số bạc trắng phau, miệng không ngừng lẩm bẩm chửi rủa.

Ta dịu giọng an ủi nàng: "Cầm di, cứ xem như người nghỉ ngơi ba tháng đi."

"Ta không mệt! Ta không muốn nghỉ! Ta chỉ muốn kiếm bạc thôi!"

"Chẳng phải đã trả hết nợ cho Phượng di rồi sao?"

Cầm Nương khẽ thở dài: "Đã hơn hai tháng rồi ta chưa gửi bạc qua Đại Danh phủ."

Từ khi mở tiệm trà bánh, Cầm Nương ít đến Đại Danh phủ hơn.

Nhưng cứ hai tháng một lần, nàng đều nhờ người mang bạc gửi cho Trương ngục tốt, nhờ ông mua đồ ăn, vật dụng hằng ngày và sách vở cho phụ thân, mẫu thân và hai huynh đệ của ta.

Thật ra, việc một mình nàng chống đỡ cả cửa tiệm đã rất vất vả, nhưng nàng lại nhất quyết không cho ta giúp đỡ.



"Con phải nhớ, con là thiên kim tiểu thư nhà họ Chu, đôi tay của con là để lật sách, viết chữ, không phải làm việc nặng."

Ta không chịu, thường lén giúp nàng, còn cãi lại: "Thiên kim tiểu thư gì chứ? Chu gia đâu còn nữa?"

Phủ đệ nhà họ Chu ở huyện Lăng Thủy đã sớm bị tịch biên, còn đâu Chu gia?

Không ngờ câu nói này như đ.â.m trúng tim Cầm Nương, nàng đột nhiên nổi giận.

Đôi mắt đỏ ngầu, nàng gằn giọng quát lớn: "Người của Chu gia vẫn còn sống thì Chu gia vẫn còn đó! Chu gia còn đó, thì ta, Lý Cầm Nương, vẫn có nơi quay về!"

Cầm Nương vốn dĩ luôn vui vẻ cười đùa, chưa từng nổi giận với ta.

Đây là lần đầu tiên, cũng là duy nhất.

Nhưng vừa quát ta xong, nàng lập tức ôm lấy ta bật khóc: "Khi nào phụ mẫu con mới được thả ra đây? Ta sắp không gắng nổi nữa rồi..."

Đến khi bờ sông Lăng Hoa nhộn nhịp trở lại, đã là tháng Ba năm Hiển Xuân thứ hai.

Mùa đông dài, dân chúng ai cũng ngột ngạt, nên khi xuân vừa đến, mọi người liền kéo nhau ra sông dạo xuân.

Một ngày đầu xuân, nóng nảy bức bối, có vị quan lớn nào đó không biết vì cớ gì lại gây sự với Cầm Nương.

Ông ta nhất mực bảo bánh sữa hạt sen của tiệm có vị đắng nồng.

Cầm Nương giải thích đủ điều, còn hứa sẽ làm một đĩa mới mà không lấy tiền.

Thế nhưng, ông ta kiên quyết không chịu, một mực đòi phải "có lời giải thích."

Thấy Cầm Nương sắp bối rối đến mức không biết phải làm gì, ta liền đội mũ che mặt, chậm rãi bước từ hậu viện ra trước tiệm.
 
Chương 12


Ta nhẹ nhàng cúi người, hành lễ với vị quan lớn, giọng ôn tồn nói: "Vị quan nhân đây lông mày ảm đạm, có phải thường xuyên mất ngủ không?"

Ông ta thoáng sững sờ: "Đúng là như vậy."

"Quan nhân có hay bị hồi hộp, khó thở không?"

"Quả đúng."

Ta ra hiệu cho ông ấy ngồi xuống, lấy khăn tay phủ lên cổ tay ông, rồi nhẹ nhàng đặt ngón tay lên bắt mạch.

"Mạch của ngài thẳng đứng như dây cung căng, đây là dấu hiệu của can uất khí trệ. Người có mạch này, mười phần thì chín phần hay khó ngủ nửa đêm, cảm thấy tức n.g.ự.c khó thở, dễ thay đổi tâm trạng và thường có cảm giác đắng miệng."

Nghe xong, vị quan lớn tỏ ra lo lắng: "Vậy có chữa được không?"

Ta mỉm cười: "Ngài mang tướng đại phú đại quý, trường thọ, bệnh này đương nhiên có thể chữa được. Chỉ là, ta còn trẻ, đơn thuốc ta kê có lẽ ngài sẽ không tin. Nhưng nếu ngài ra khỏi cửa, xin rẽ trái, đi qua ba căn nhà, sẽ thấy hiệu thuốc Hồi Xuân Đường. Ngài có thể đến đó tìm đại phu xin phương thuốc. Chắc chắn chỉ trong vài tháng, ngài sẽ cảm thấy tinh thần sảng khoái, bệnh tình tiêu tan."

Quan nhân vui mừng khôn xiết, chỉ tay về phía Cầm Nương, hỏi: “Vị cô nương này có quan hệ gì với ngươi?”

Ta nhanh nhảu đáp trước cả Cầm Nương: "Nàng ấy là mẫu thân ta."

"Ha ha ha, quả không sai. Chủ quán đã là người tài giỏi, con gái của nàng cũng chẳng kém cạnh. Cáo từ!"

Ông ta lấy tiền bánh đặt lên bàn, chắp tay hành lễ, rồi từ tốn rời đi về hướng bên trái.

Chờ ông ấy đi xa, Cầm Nương vẫn ngẩn người nhìn ta.

Nàng hỏi: "Vừa nãy con gọi ta là gì?"

Ta vén mũ che mặt lên, đáp: "Người không nghe rõ sao?"



Mặt Cầm Nương lập tức đỏ ửng. Nàng vừa vui vẻ vừa hơi giận, trách yêu: "Ta không phải mẫu thân con. Con có mẫu thân của mình, sau này đừng gọi ta như thế nữa."

Ta hừ nhẹ: "Vậy gọi là gì?"

"Gọi 'di' như trước."

Ta nhún vai, quay đầu bỏ lại một câu: "Được thôi, mẫu thân."

Rồi xoay người bước về hậu viện.

Thực ra ta nào biết xem mạch, những lời đó chỉ là ta đọc trong sách rồi bịa bừa ra.

Không ngờ lại thật sự giúp Cầm Nương thoát khỏi rắc rối.

Điều này càng củng cố quyết tâm của nàng. Nàng bảo rằng, những gì mình thiệt thòi đều do không biết chữ, nên dặn ta hằng ngày phải ở hậu viện đọc sách.

Một đêm, dưới ánh đèn cầy, khi đang khâu vá áo váy cho ta, nàng đột nhiên ngẩng lên hỏi: "Năm ấy sinh thần con, Phượng Nương đọc câu thơ gì nhỉ?"

Ta nghĩ một lát, rồi đọc lại cho nàng nghe: "Bàn tay mẹ hiền khâu áo tiễn con đi xa, đường kim mũi chỉ từng chút cẩn thận, chỉ sợ con về muộn mà rét lạnh..."

"Chỉ sợ con về muộn…"

Cầm Nương lặng lẽ lẩm bẩm câu thơ ấy, không biết vì cớ gì, bỗng nhiên dưới ánh nến mắt nàng đỏ hoe.

Nàng vốn là người hay nói, nhưng đêm đó, bất kể ta hỏi thế nào, nàng cũng không chịu nói vì sao mình lại rơi lệ.

Là vì chính bản thân, vì ta, hay là vì người mà nàng luôn giấu kín trong lòng?



Đến mùa thu năm Hiển Xuân thứ ba, vận mệnh của Cầm Nương lại tiếp tục "xuống, xuống, xuống mãi."

Bởi vì Hoàng đế vừa mới lên ngôi được ba năm đã băng hà.

Sinh tử vốn là chuyện thường tình, nhưng lần này kỳ lạ ở chỗ Hoàng đế bị một nhóm cung nữ tuổi mười sáu, mười bảy siết cổ đến chết.

Hoàng đế là người dâm loạn, thân thể vốn đã suy nhược từ thời còn là Hoàng tử.

Sau khi lên ngôi, nghe lời gian thần thái giám Lưu Kỳ, ông triệu một đạo sĩ biết luyện đan vào cung.

Đạo sĩ nói rằng dùng kinh huyết của nữ tử đồng trinh để luyện đan có thể giúp Hoàng đế cường tráng, long uy đại thịnh.

Hoàng đế mừng rỡ, lập tức hạ lệnh tìm kiếm kinh huyết của người đồng trinh khắp hậu cung.

Để bảo đảm sự "thuần khiết" của kinh huyết, ông còn ra lệnh cấm cung nữ ăn uống trong kỳ kinh nguyệt, nếu phát hiện kẻ nào lén ăn, kẻ đó sẽ bị trừng phạt nặng.

Hậu cung lập tức rơi vào cảnh náo loạn, cung nữ trong cung sợ hãi, dẫn đến hơn trăm người c.h.ế.t hoặc bị thương.

Lùi một bước cũng chết, tiến một bước cũng chết.

Cuối cùng, khi không còn đường lui, các cung nữ đã chọn cách tiến lên.

Phụ nữ như nước, vốn dĩ mềm mại yếu ớt, nhưng điều mà đám đàn ông kia quên mất chính là nước cũng có thể hóa thành lũ dữ, mà khi bị dồn đến đường cùng, nó có thể nhấn chìm cả cung điện, hủy diệt tất cả mọi ô uế.

Ngày Hoàng đế băng hà, đại thần Nội các Dương Tụng đã dùng tội danh "Mười tội ác tày trời" để diệt trừ toàn bộ phe phái của Lưu Kỳ, đồng thời phò trợ Thái tử mới mười lăm tuổi lên ngôi.

Ai làm Hoàng đế, kỳ thực chẳng mấy liên quan đến Cầm Nương ở huyện Nguyệt Lăng xa xôi này.

Điều nàng bận tâm chính là: lại phải đóng cửa tiệm trà bánh!
 
Chương 13


Vào đầu đông năm ấy, từ nhà lao Đại Danh phủ truyền đến một tin tốt lành: Người nhà họ Chu cuối cùng cũng được thả ra.

Nghe được tin này, Cầm Nương vui mừng như thể vừa được ban sắc phong, lập tức thuê xe ngựa, mang theo ta lên đường đến Đại Danh phủ.

Nhưng sau khi phụ mẫu và huynh đệ ta được thả, họ lại không thể cùng chúng ta trở về huyện Nguyệt Lăng.

Bởi triều đình đã có chỉ, yêu cầu phụ thân ta cùng cả gia đình lập tức đến nhậm chức tại Diêm Châu.

Diêm Châu là nơi núi non hiểm trở, dịch bệnh hoành hành, từ lâu đã trở thành vùng đất lưu đày phạm nhân của triều đình, đây cũng là nơi mà các thương nhân thà đi đường vòng xa thêm trăm dặm cũng chẳng dám đặt chân tới.

Lúc chia tay, Cầm Nương quỳ xuống đất, lấy tay che mặt mà khóc nức nở: "Chủ quân, đại nương tử, xin hãy mang theo ta và Hà nhi đến Diêm Châu, đừng bỏ mặc hai chúng ta bơ vơ nữa!"

Mẫu thân ta với mái tóc điểm sương, nhẹ nhàng đỡ nàng dậy, siết chặt đôi tay nàng, rưng rưng nói: "Cầm Nương, chuyến đi Diêm Châu này sống c.h.ế.t khó lường. Nếu chúng ta gặp bất trắc, Hà nhi chính là huyết mạch duy nhất còn lại của Chu gia. Thật ra, nếu không phải thánh chỉ yêu cầu bốn người của Chu gia cùng đi, ngay cả Việt nhi và Huyền nhi, ta cũng muốn gửi gắm cho ngươi. Đại ân của ngươi, Chu gia khắc ghi trong lòng."

"Đại nương tử—"

Những lời mẫu thân nói đã dập tắt hoàn toàn ý niệm của Cầm Nương.

Nàng níu c.h.ặ.t t.a.y áo mẫu thân, nước mắt như suối, ngửa mặt lên trời mà than khóc, lòng đau như cắt, giậm chân liên hồi.

Nhưng giậm chân cũng chẳng ích gì, bởi mẫu thân nói đúng.

Chuyến đi này, sống c.h.ế.t khó lường, chẳng lẽ biết rõ là tử lộ mà vẫn cứ liều lĩnh đi cả nhà sao?

Giữa những giọt lệ chia xa, gia đình họ Chu ngồi trên xe ngựa rời đi.

Ngoài thành Đại Danh, Cầm Nương chạy theo xe, tóc tai rối bù, váy áo rách nát, thậm chí giày cũng rơi mất.



Cuối cùng, xe ngựa càng chạy càng xa, càng lúc càng nhỏ, cho đến khi chỉ còn lại một chấm đen, biến mất trong đám mây vàng phủ kín phía trời đông.

Cầm Nương gục xuống nền đất lạnh giá, mặc cho nỗi đau lấp kín cả thanh âm.

"Ngàn dặm mây vàng, ánh mặt trời mờ ảo, gió bấc thổi đàn nhạn, tuyết trắng bay ngập trời."

Nhớ lại ngày ấy bên sông Lăng Hoa, Thám hoa lang vì nghĩa mà cứu người, một nữ tử chốn lầu xanh thoát khỏi cõi chết.

Ai ngờ, sáu năm trôi qua, vòng luân hồi của số phận lại toàn là sinh ly tử biệt.

Sau khi trở về huyện Nguyệt Lăng, Cầm Nương và ta mở lại tiệm trà bánh, còn Phượng Nương cũng chuyển đến sống cùng.

Từ sau lần thoát c.h.ế.t ba năm trước, Phượng Nương dần trở nên lạnh nhạt với thế sự, chẳng còn lưu luyến cuộc đời này nữa.

Trong năm qua, Phượng Nương đã hoàn toàn rửa tay gác kiếm, khép cửa từ chối tiếp khách, mỗi ngày chỉ để mặt mộc đọc sách trong phòng.

Trần ma ma lo đến phát cuồng, không ngừng cúi mình nịnh nọt, nói đủ lời hay ý đẹp trước mặt nàng.

Nhưng Phượng Nương vẫn không động lòng, quyết tâm không tiếp khách nữa.

Sau bao năm lăn lộn chốn phong trần, nàng đã âm thầm tích lũy được nghìn lượng bạc.

Nhân lúc Trần ma ma bực bội, nàng đề nghị tự chuộc thân bằng số bạc ấy.

Trần ma ma thấy nàng đã quyết ý, cũng không muốn làm to chuyện. Cuối cùng, bà nhận lấy bạc, vừa miễn cưỡng vừa thuận theo mà gật đầu đồng ý.



Nghe tin Phượng Nương đã hoàn lương, Cầm Nương mừng rỡ đón nàng về tiệm trà bánh.

Cặp oan gia vui nhộn này cuối cùng cũng được tái hợp, lại bên nhau đấu khẩu như xưa.

Cầm Nương thích bắt chước Phượng Nương: "Sống thì có gì vui, c.h.ế.t cũng chẳng có gì là khổ."

Phượng Nương lại thích nhại giọng Cầm Nương: "Lên rồi lại xuống, đã xuống thì xuống mãi không ngừng!"

Khi đã vạch trần hết điểm yếu của nhau, hai người lại ôm bụng cười lăn lộn trên giường, miệng không ngừng kêu đau bụng.

Những lúc ấy, ta thường cầm sách lên, thở dài mà bảo: "Haizz, cả hai người đều điên rồi."

Mùa xuân năm Vạn Huy thứ hai, ta nhận được thư của phụ thân, ông nói rằng cả nhà đã ổn định ở Diêm Châu, may mắn vượt qua hành trình đầy hiểm nguy.

Ông còn kể, ở đó ông đã mở hai ngôi trường dạy học. Nhiều học sinh từ các châu huyện lân cận đều tìm đến, điều này khiến ông rất mãn nguyện.

Ta đọc thư cho Cầm Nương nghe, nàng vui đến mức ngân nga một khúc hát ngay tại chỗ.

Hát xong, nàng phấn khích nói: "Chủ quân quả nhiên là người có tài, không hổ danh Thám hoa lang năm ấy."

Phượng Nương ngồi bên cạnh làm túi thơm, mỉm cười không nói gì.

Cầm Nương trừng mắt nhìn nàng: "Ngươi cười cái gì?"

Phượng Nương đáp: "Ta cười vì có người nào đó, chả biết làm sao mà ngày ngày sáng tối đều quỳ trước Phật Tổ mà khấn vái, giờ Phật Tổ đã linh ứng rồi."

"Ha ha, ta khuyên ngươi cũng đừng thờ Tam Thanh nữa, sau này cùng ta quỳ trước Phật Tổ nhé."
 
Chương 14


Sau khi trêu đùa nhau chán chê, Cầm Nương giục ta viết thư hồi đáp cho phụ thân.

Ta viết được nét chữ nhỏ tinh tế đẹp đẽ, đó là do Phượng Nương dạy ta ngày trước.

Dưới ánh nến, ta trải giấy, chau mày cầm bút viết từng nét, còn hai nàng thì ngồi bên quạt mát, im lặng nhìn ta.

Không biết bao lâu trôi qua, Phượng Nương bỗng thở dài: "Mới chớp mắt, Hà nhi đã mười ba tuổi, trở thành thiếu nữ rồi."

Cầm Nương nghe thế cũng thoáng bùi ngùi: "Chúng ta cũng già rồi."

"Chúng ta làm sao mà không già được? Cả ngươi và ta đều đã hai mươi bảy tuổi rồi. Nếu là nữ tử trong gia đình gia giáo, ở tuổi này đã có con cái đầy nhà rồi đấy."

"Hừ, làm mẹ thì có gì tốt? Sinh con chính là bước qua quỷ môn quan, ta sợ c.h.ế.t lắm."

"Nhưng nếu không con không cái, sau này đến mộ phần cũng chẳng có ai khóc than, đốt giấy."

"Vậy thì ngươi đi mà sinh."

"Phì, ta không sinh đấy. Ta còn phải tu đạo thành tiên, sau này đến sống ở cung Tử Phủ."

Ta viết xong bức thư, nghe thấy lời đối đáp của các nàng, không nhịn được mà bật cười khúc khích.

"Yên tâm đi, sau này Hà nhi nhất định sẽ dẫn con cháu đến mộ phần hai người, khóc than, đốt giấy thật nhiều."

Nghe vậy, Cầm Nương và Phượng Nương đồng loạt nhướng mày giận dữ, cùng đứng lên véo má ta: "Con nhóc không biết xấu hổ, dám mở miệng trù chúng ta c.h.ế.t hả!"



Tiệm trà bánh kinh doanh lúc được lúc mất.

Lúc đông khách, mỗi ngày có thể kiếm đến mười lượng bạc; lúc ế ẩm, muốn kiếm được mười văn cũng khó, thậm chí còn phải bán chịu, một thời gian sau họ mới quay lại trả tiền.

Chỉ tại hoàng gia mấy năm nay như bị trúng tà, năm ngoái Thái hậu băng hà, năm nay thân vương qua đời, năm sau không chừng lại đến lượt vị Hoàng tử nào đó.

Cầm Nương bực đến mức than trời: "Đúng là cứ nhằm vào lúc người ta đang gặp chuyện mà gây thêm rắc rối!"

Nhưng may thay, dưới sự lãnh đạo của Dương Tụng và Nội các, gian thần bị diệt trừ, triều chính được chỉnh đốn. Vị Hoàng đế trẻ tuổi cũng một lòng trị quốc, khiến triều đình dần ổn định, dân chúng cũng nhìn thấy hy vọng cho ngày mai.

Mùa xuân năm Vạn Huy thứ tư, Nội các Dương Tụng qua đời vì bệnh, Trần Các lão – người bạn tri kỷ của ông – trở thành tân Thủ Phụ.

Trần Các lão yêu tài trọng sĩ, việc đầu tiên sau khi nhậm chức là điều chuyển môn sinh của mình - Chu Xuân Đường, từ Diêm Châu về kinh thành giữ chức Hình Bộ Thị Lang.

Phụ thân ta, Chu Xuân Đường, là người chính trực, phong thái tựa sương tuyết, tài hoa như sao sáng, hiếm có ai sánh bằng.

Suốt trăm năm, Diêm Châu chưa từng có người đỗ Tiến sĩ, nhưng chỉ trong ba năm phụ thân ta tại chức, nơi này đã xuất hiện hai người thi đỗ.

Một người được ban danh "Tiến sĩ xuất thân," một người được ban danh "Đồng Tiến sĩ xuất thân."

Người dân Diêm Châu cảm kích ân đức của phụ thân, dựng nên các cây cầu, con đường, giếng nước mang tên Xuân Đường.

Khi gia đình ta rời Diêm Châu, dân chúng rơi lệ tiễn đưa, tiễn suốt ba mươi dặm.

Nhận được tin mừng, Cầm Nương vui đến mức ba ngày ba đêm không ngủ.



Nàng lập tức quyết định đóng cửa tiệm trà bánh, nhanh chóng thu dọn hành lý, chuẩn bị đưa ta về kinh thành.

Phượng Nương nhìn nàng với ánh mắt khinh khỉnh: "Ngươi gấp gáp cái gì? Chu Thị lang vẫn còn đang trên đường về kinh mà."

Cầm Nương vừa cười vừa tất bật thu dọn: "Ta có gấp đâu? Ta có gấp đâu? Ta có gấp đâu?"

Phụ thân ta về đến kinh thành vào giữa tháng Bảy. Đầu tháng Tám, huynh trưởng Chu Việt đã đến Nguyệt Lăng.

Huynh trưởng ta không chỉ đích thân đến, mà còn mang theo một tờ chiếu thư xóa án.

Tờ chiếu thư ấy được gửi đến cho Phượng Nương.

Sau khi nhận được chiếu thư, Phượng Nương đã khóc ba ngày ba đêm không dứt.

Đó là những giọt nước mắt của khổ tận cam lai.

Phụ thân ta, người tuy ít nói nhưng trọng tình nghĩa, việc đầu tiên khi đến Hình Bộ là xem xét lại án cũ, rửa sạch oan khuất cho phụ thân của Phượng Nương – Đỗ đại nhân.

Từ nay, Phượng Nương không còn là con gái của tội thần nữa.

Mẫu thân ta dặn dò huynh trưởng trăm lần ngàn lần, rằng nhất định phải đón cả Cầm Nương và Phượng Nương về kinh thành.

Nhưng Phượng Nương lại chần chừ: "Giờ tâm nguyện của ta đã trọn, lòng cũng không còn vướng bận gì. Nửa đời còn lại, ta chỉ muốn uống trà đạm bạc, đọc kinh luận đạo mà thôi."

Cầm Nương nghe vậy liền không chịu, níu c.h.ặ.t t.a.y áo Phượng Nương, nhất quyết không buông: "Ngươi muốn làm đạo cô? Được thôi! Kinh thành có Ngọc Tuyền Quán, ngươi muốn làm đạo cô thì đến đó mà làm. Nhưng nhất định không được cách ta quá xa. Dù sao ta sống là người của Chu gia, c.h.ế.t cũng là ma của Chu gia, ta nhất định phải về kinh thành!"
 
Chương 15


Phượng Nương cố gắng vùng vẫy: "Tại sao ngươi cứ phải bám lấy ta không buông?"

Cầm Nương bật cười: "Ngươi nói thừa! Không có ngươi, ta biết chọc ghẹo ai đây? Sống thì có gì vui, c.h.ế.t cũng chẳng có gì là khổ."

Phượng Nương không chịu thua: "Còn ngươi thì sao? Lên rồi lại xuống, xuống thì xuống mãi không thôi—"

Cầm Nương ôm bụng cười nghiêng ngả, không thở nổi: "Lần này về kinh, ta – Lý Cầm Nương – đã thực sự trở mình. Từ nay sẽ không còn xuống, xuống, xuống mãi nữa!"

Huynh trưởng ta là người lễ nghi, ngồi một bên nghe hai người đối đáp mà ngẩn người, không nhịn được liền kéo tay áo ta, khẽ hỏi: "Hai tỷ ấy thường xuyên như vậy sao?"

Ta vỗ vai huynh ấy, điềm nhiên đáp: "Huynh phải sớm quen đi."

Huynh trưởng sững sờ, rồi lập tức cảm thán từ tận đáy lòng: "Quả thật là những nữ tử tài tình hiếm có trên đời."

Cuối cùng, Phượng Nương cũng không cãi lại được Cầm Nương, bị nàng kéo tay lôi lên xe ngựa trở về kinh thành.

Trước cổng phủ Thị lang ở kinh thành, mẫu thân ta đã dẫn theo một nhóm gia nhân đứng chờ từ lâu.

Đã xa cách nhiều năm, vừa nhìn thấy Cầm Nương và Phượng Nương, mẫu thân ta lập tức nắm c.h.ặ.t t.a.y hai người, xúc động nói: "Hai vị hiền muội, hai vị ân nhân, nhà họ Chu cuối cùng cũng trông đợi được ngày đón hai người trở về."

Tiếng gọi "hiền muội" ấy khiến cả Cầm Nương và Phượng Nương ngây người trong giây lát, rồi lập tức đỏ hoe cả hai mắt.

Cả đời Lý Cầm Nương chỉ có một chấp niệm, đó là trở về Chu phủ.

Bởi vì khoảng thời gian nửa năm làm đầu bếp trong Chu phủ, đối với nàng, đó chính là tia sáng duy nhất trong nửa đời đầu tăm tối.



Một cuộc sống bình yên, an ổn và niềm vui thầm lặng, nơi nàng không phải là kỹ nữ, không phải là thiếp, mà chỉ đơn giản là một con người thực sự.

Và giờ đây, sau gần mười năm, nàng lại được sống những ngày như thế.

Mẫu thân ta coi các nàng như tỷ muội ruột thịt, sắp xếp viện của các nàng ở gần bà nhất.

Mọi thứ từ ăn uống đến đồ dùng đều là tốt nhất, còn phái thêm vài tỳ nữ hầu hạ bên cạnh.

Mẫu thân nhiều lần xúc động nói với Cầm Nương: "Nhiều năm trước là ta hồ đồ, không chỉ oan uổng muội mà còn đuổi muội ra khỏi Chu phủ. Nhưng muội lại chẳng oán hận, còn nuôi dạy Hà nhi trưởng thành. Muội chính là đại ân nhân của Chu gia. Những năm qua muội vất vả rồi, giờ hãy ở lại phủ hưởng phúc đi."

Bề ngoài, Cầm Nương luôn miệng "Vâng, vâng, phải, phải," nhưng chỉ cần quay lưng đi là nàng lại lén chạy vào tiểu trù phòng làm bánh.

"Chủ quân thích bánh sen, đại nương tử thích bánh gạo nếp, hai vị công tử thích bánh sữa ngọt, còn Hà nhi thì không kén chọn, cái gì con bé cũng thích, ngọt, mặn, đắng, cay. Ôi chao, bánh mà ăn vào miệng, ta chẳng yên tâm để người khác làm đâu."

Lúc nào nàng cũng nói vậy.

Đầu đông, huynh trưởng ta – Chu Việt – thành hôn với đích tôn nữ của Trần Các lão, còn tiểu đệ ta – Chu Huyền – nhập cung làm đồng học bên cạnh Hoàng thượng.

Từ đó, ta bỗng trở thành một trong những tiểu thư được săn đón nhất kinh thành.

Bỗng nhiên ta trở nên bận rộn.

Hôm nay tiểu thư nhà Thượng thư hẹn ta đi thưởng mai, ngày mai thiên kim nhà Tế tửu mời ta đi uống trà. Vì tính cách thẳng thắn mà lại khéo xử sự, ta nhanh chóng được các quý nữ yêu thích, nguyện ý kết giao.

Mà kết giao rồi, tự nhiên sẽ có người hỏi ta về những năm tháng đã qua.

Mỗi lần như vậy, ta đều thoải mái đáp: "Ta được nuôi lớn bởi hai nữ tử xuất thân dân dã. Các nàng sống hết lòng hết dạ, một người tính cách lạnh lùng nhưng tâm can ấm áp, một người thì cứ động tí là khóc, nhưng luôn che gió chắn mưa cho ta."



Các quý nữ nghe nói ta lớn lên nơi dân gian, đều cúi đầu cảm thán: "Chắc hẳn nàng đã chịu không ít khổ cực rồi, đúng không?"

Thực ra, mẫu thân ta cũng từng hỏi như vậy.

Ta rời xa bà khi lên sáu, đến mười lăm tuổi mới trở lại Chu phủ. Khoảng cách chín năm thiếu tình thương của mẫu thân, bà luôn muốn bù đắp cho ta.

Mẫu thân một mực cho rằng, một đứa trẻ sáu tuổi phải rời xa gia đình, đó nhất định là chuyện rất bi thảm.

Nhưng chín năm ấy, ta thực sự sống rất tốt.

Mỗi ngày ba bữa đều no bụng, quần áo tươm tất, chân tay không chịu lạnh. Tuy là sống nơi dân gian, nương nhờ vào người khác, nhưng ta vẫn lớn lên như một tiểu thư thực thụ, chẳng bao giờ phải đụng tay vào việc nặng nhọc.

Gặp được Cầm Nương và Phượng Nương là phúc phận của ta.

Nhưng mẫu thân lại cho rằng, phúc phận của ta không nên chỉ dừng lại ở đó.

Vậy nên, bà hợp sức với đại tẩu của ta – Trần thị – vô cùng tích cực giúp ta tìm một mối hôn sự tốt.

Thế nhưng sau ba, bốn lần gặp gỡ, ta vẫn chưa tìm được một lang quân như ý.

Mẫu thân nóng ruột, Cầm Nương cũng sốt sắng không kém.

Cầm Nương gấp gáp hỏi: "Con có chắc mình không bị Phượng Nương mê hoặc đấy chứ? Ngàn vạn lần con không được học theo nàng!"

Từ khi đến kinh thành, Phượng Nương cứ cách vài ngày lại ghé Ngọc Tuyền Quán. Lần nào cũng ở lại đó vài ba ngày.
 
Chương 16


Bị các đạo cô ảnh hưởng, tính tình nàng giờ đây càng thêm thanh thoát, thoát tục hơn xưa.

Cầm Nương thực sự lo lắng rằng sau này trước mộ phần của Phượng Nương sẽ không có ai đốt hương giấy, nên nàng khuyên Phượng Nương tìm một lang quân mà gả đi.

Nhưng Phượng Nương lại lạnh nhạt đáp: "Hừ, đàn ông. Giờ chỉ cần nhìn thấy một nam nhân, ta liền cảm thấy mùi tanh hôi xộc vào mũi. Chuyện này về sau đừng nhắc lại nữa."

Cầm Nương ngượng ngùng nói: "Thế gian vẫn có nam nhân tốt mà."

Phượng Nương liếc mắt: "Ai?"

Cầm Nương lập tức im bặt.

Phượng Nương liền "phì" một tiếng, mắng thẳng: "Yêu mà không dám nói, đúng là kẻ nhát gan!"

Trong Chu phủ, cặp đôi ngọt ngào như mật ong chính là huynh trưởng ta và đại tẩu.

Huynh trưởng có vẻ ngoài và tính cách rất giống phụ thân, nhưng với thân phận một thư sinh, vốn không thể xứng đôi với đại tẩu xuất thân danh môn.

Thế nhưng Chu gia ta lại có một điểm mà các gia đình khác không thể sánh được, đó là: nam nhân họ Chu không nạp thiếp.

Nghe nói đây là quy định truyền từ thời cụ tổ.

Một đời một kiếp một đôi người. Cụ tổ đã làm được, tổ phụ đã làm được và có vẻ như phụ thân ta cũng vậy.

Phụ thân và mẫu thân ta đã cùng nhau vượt qua bao mưa gió, tình nghĩa không phai.

Mẫu thân tuy tính tình mạnh mẽ, nhưng quả thực rất đảm đang, quản lý Chu phủ đâu vào đấy. Ngay cả khi ở trong ngục, bà vẫn dạy dỗ hai huynh trưởng và tiểu đệ ta rất tốt.



Phụ thân là bậc quân tử trong sáng như ngọc, cả đời giữ thân trong sạch, không chỉ không nạp thiếp hay thông phòng, mà ngay cả thanh lâu cũng chưa từng bước vào.

Có phụ thân làm gương, huynh trưởng đối với đại tẩu cũng hết mực dịu dàng chu đáo.

Hai người thường cùng nhau đọc sách, thưởng trà, tương kính như tân, đúng là một cặp thần tiên quyến lữ.

Đại tẩu thương yêu ta như ruột thịt, vì vậy cũng rất quan tâm đến hôn sự của ta.

Nàng lục lọi khắp nơi, tìm hiểu hết gia thế của các công tử ở kinh thành, cuối cùng dừng mắt ở Vệ Cửu Lang – cháu đích tôn của Bình Dương Công chúa.

Ta đã từng gặp Vệ Cửu Lang.

Hắn mang phong thái thanh thoát như tùng xanh vươn tuyết, tính tình cao nhã, hào sảng. Lại thêm thời thơ ấu từng sống nơi dân dã, nên hắn luôn có lòng trắc ẩn với những người nghèo khổ.

Mà một lang quân như thế, chính là người ta mong đợi.

Sau khi ta và Cửu Lang thành thân, Phượng Nương xuất gia làm đạo cô tại Ngọc Tuyền Quán.

Việc này khiến Cầm Nương cô quạnh vô cùng.

Để giải tỏa nỗi cô đơn, nàng nuôi một con mèo trắng đặt tên là "Đại Khởi." Đại Khởi rất nghịch ngợm, suốt ngày chạy khắp Chu phủ, len lén trộm cá ăn.

Một ngày nọ, Đại Khởi không biết làm thế nào mà chạy vào thư phòng của phụ thân ta, còn lật đổ một chiếc nghiên mực quý mà ông vừa mới mua.

Khi phụ thân mang Đại Khởi trả lại cho nàng, Cầm Nương xấu hổ đỏ mặt tía tai, chỉ muốn lập tức vứt con mèo này đi.



Nhưng phụ thân ta lại mỉm cười, ngăn nàng: "Chỉ là một chiếc nghiên mực, đâu cần làm lớn chuyện."

Không biết Cầm Nương hôm đó bị ma quỷ gì nhập vào, mà chỉ một nụ cười của phụ thân cũng khiến nàng đứng đờ người ra. Qua một nén nhang, nàng đột nhiên nín thở, đảo mắt rồi ngất lăn ra đất.

Chuyện này khiến cả phủ được một trận cười to.

Cầm Nương lại làm trò cười, vì nàng ngất xỉu do say nắng ngay trước mặt phụ thân ta!

Sau đó, nàng xấu hổ đến nỗi suốt mấy tháng liền, hễ gặp phụ thân trong phủ là mặt đỏ bừng, vội tránh đi đường khác.

Khi trở về Chu phủ nghe chuyện, ta cười đến lăn lộn trên giường: "Ha ha ha, lần này Cầm di thật mất mặt quá rồi!"

Cầm Nương lập tức giơ tay dọa đánh ta: "Con tiểu quỷ mồm mép trơn tru này, chỉ biết cười nhạo ta!"

Ta muốn đón nàng về ở tại Vệ phủ, nhưng lần nào nàng cũng kiên quyết từ chối: "Ta khó khăn lắm mới được quay lại Chu phủ, quyết không rời đi nữa."

Mẫu thân ta mấy năm nay vì chuyện của Cầm Nương mà không ít lần đau đầu.

"Bấy lâu nay, Cầm Nương vẫn còn trẻ, lại có ân với nhà ta, không thể để nàng lỡ dở cả đời như vậy được. Hay là... ta thử bàn với phụ thân con xem sao?"

Mẫu thân cũng rất bối rối, nhưng bà thật lòng muốn thành toàn cho Cầm Nương.

Thế là một hôm, mẫu thân ta tươi cười bước vào phòng của Cầm Nương, dịu dàng nói: "Hiền muội à, ta biết tâm ý của muội. Hay là—"

Ai ngờ, chưa đợi bà nói hết, Cầm Nương đã "phịch" một tiếng quỳ xuống trước mặt bà, khẩn thiết:

"Đại nương tử, Cầm Nương chỉ mong được sống đến cuối đời ở Chu phủ, những chuyện khác không cầu gì cả. Xin người... đừng nói nữa."
 
Chương 17: Hết!


Mẫu thân sững người: "Muội biết ta định nói gì sao?"

Cầm Nương gật đầu, nước mắt lưng tròng: "Cầm Nương biết."

"Nhưng—"

"Cầm Nương cam tâm tình nguyện."

Mẫu thân ta khóc, khóc như một người hóa thành lệ. Bà nắm lấy tay Cầm Nương, lặp đi lặp lại: "Cầm Nương, Cầm Nương, sao muội lại dại khờ đến vậy!"

Phượng Nương khoác đạo bào màu nâu đến Chu phủ thăm Cầm Nương, nghe vậy, Cầm Nương liền hớn hở nói với nàng: "Đại nương tử nói ta ngốc, nhưng thực ra ta đâu có ngốc. Một người từ chốn kỹ viện như ta, giờ có thể sống sung sướng trong phủ Thị lang, ăn ngon mặc đẹp, có người hầu kẻ hạ, mà chủ mẫu còn xem ta như tỷ muội ruột. Ngươi nghĩ ta là kẻ ngốc sao?"

Phượng Nương cười nhạt: "Ngươi gian, ngươi khéo, ngươi là người biết tính toán nhất."

"Ha ha, đúng không?"

Phượng Nương ở lại hai ngày rồi phải đi, Cầm Nương quyến luyến không nỡ, dặn dò nàng hãy thường xuyên đến chơi.

Phượng Nương nghiêm mặt nói: "Có gia đình gia giáo nào lại để một đạo cô ba ngày hai bận ra vào thế này chứ?"

Cầm Nương lập tức ỉu xìu: "Ôi, ngươi đi rồi, Hà nhi cũng đi rồi, giờ chỉ còn Đại Khởi ngày đêm bầu bạn với ta thôi."

Lời là vậy, nhưng Phượng Nương vẫn không đành lòng. Mỗi tháng nàng đều ghé Chu phủ ở lại hai ngày.

Mãi cho đến mùa xuân năm Vạn Huy thứ 24.

Mùa xuân ấy, Cầm Nương chờ mãi không thấy Phượng Nương đến, liền phái người đến Ngọc Tuyền Quán hỏi thăm. Người ở đó nói rằng đạo nhân Phượng Ngô đã rời đạo quán đi du ngoạn từ tháng trước, đến nay vẫn chưa trở về.

Cầm Nương hoảng hốt, ngày đêm sống trong nỗi bất an, quyết định chờ đợi thêm mấy tháng.



Nhưng Phượng Nương không bao giờ trở lại nữa.

Phượng hoàng ca vang, ngự trên đỉnh cao; Ngô đồng vươn mình, đón ánh ban mai.

Nàng – một nữ nhân kiêu sa như phượng hoàng, thanh cao như cây ngô đồng – hẳn đã chán ghét chốn trần tục, rời xa bụi trần để đến chốn thần tiên.

Sau khi Phượng Nương rời đi, Cầm Nương đổ bệnh không dậy nổi.

Nàng nằm trên giường, hốc mắt trũng sâu, tóc mai đã điểm sương, đến cả trà cũng không nuốt nổi.

Ta ngồi bên cạnh, nắm c.h.ặ.t t.a.y nàng, rưng rưng nói: "Phụ thân con sắp bãi triều rồi, người nhất định phải đợi thêm một chút nữa."

Nhắc đến phụ thân ta, trên má Cầm Nương hiện lên chút e thẹn như thiếu nữ vừa biết yêu.

Nàng khẽ thì thầm: "Ta chỉ... muốn nhìn thấy chủ quân thêm một lần nữa."

Nàng thấy năm ấy bên bờ sông Lăng Hoa, Thám hoa lang khoác trường sam màu trắng ngà, đã bất chấp nguy hiểm mà nhảy xuống cứu nàng từ dòng nước lên.

Nàng thấy trong nhà ngục Đại Danh phủ, tóc tai của người ấy bù xù, râu ria xồm xoàm, nhưng vẫn ngồi thẳng như cây tùng, trên tay cầm quyển sách cũ đã ngả màu.

Nàng thấy ngoài thư phòng Chu phủ, người ấy đụng phải chú mèo trắng tinh nghịch, sau đó mỉm cười ôm nó trao lại cho nàng.

Nàng còn thấy, nàng đã chờ đợi rất lâu, rất lâu, cuối cùng người ấy cũng vội vàng xuất hiện. Vội đến mức ngay cả quan phục màu xanh trên người cũng chưa kịp thay.

Lần này, người ấy rốt cuộc cũng vì nàng mà đến, nhưng cuộc đời nàng đã đến hồi kết.

Tình yêu không biết khởi nguồn từ đâu, nhưng một khi đã đến thì khắc sâu mãi mãi. Yêu đến mức đó, người sống có thể chết, người c.h.ế.t có thể sống lại.

Cả đời này, nàng chưa từng thốt ra nửa lời yêu, nhưng nàng yêu người ấy, yêu đến tận xương tủy.



Yêu đến tận xương tủy!

Chấp niệm cả đời của Cầm Nương chính là Chu phủ. Sau khi nàng qua đời, bài vị của nàng được phụ mẫu ta đặt trong từ đường Chu gia, để con cháu Chu gia thờ cúng đời đời.

Y phục của Phượng Nương được an trí tại Ngọc Tuyền Quán, còn ta thì an táng Cầm Nương tại núi Ngọc Tuyền.

Ta nghĩ, nếu làm như thế, hai người họ dưới suối vàng chắc chắn sẽ lại tiếp tục cãi vã trêu chọc nhau như ngày nào.

Nếu ở nơi hoàng tuyền gặp lại, Cầm Nương nhất định sẽ trêu Phượng Nương: "Sống thì có gì vui, c.h.ế.t cũng chẳng có gì là khổ."

Phượng Nương nhất định sẽ không chịu thua: "Lên rồi lại xuống, đã xuống thì xuống mãi không thôi."

Nghĩ đến đây, ta vừa cười vừa khóc. Từng giọt nước mắt lớn rơi xuống, thấm ướt những tờ giấy vàng nơi trước mộ.

Con trai út của ta và Cửu Lang – Trinh nhi – nay đã mười tuổi.

Thấy ta vừa khóc vừa cười, nó không khỏi tò mò hỏi: "Mẫu thân, người trong mộ này là ai vậy?"

Ta đáp: "Là ngoại tổ mẫu của con."

Trinh nhi ngơ ngác: "Nhưng ngoại tổ mẫu của con ở Chu phủ cơ mà."

Khu rừng Ngọc Tuyền núi xanh rợp bóng, trăm hoa đua nở, hương sắc ngào ngạt.

Cơn gió nhẹ thoảng qua, trăm loài chim rộn ràng hót vang, ríu rít như những ngày tháng cũ xưa.

Ta nắm tay Trinh nhi, mỉm cười đón gió, nói: "Bà ấy cũng là ngoại tổ mẫu của con."

Hết.
 
CHÚ Ý !!!
Các đạo hữu nhớ thêm TÊN CHƯƠNG và THỨ TỰ CHƯƠNG ở ô phía trên phần trả lời nhanh. Như vậy hệ thống mới tạo được DANH SÁCH CHƯƠNG.
Cập nhật chức năng ĐĂNG TRUYỆN và THÊM CHƯƠNG MỚI trên web Diễn Đàn Truyện tại: https://hoinhieuchu.com
Back
Top