Cập nhật mới

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,467
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
[Diendantruyen.Com] Việc Máu

Việc Máu
Tác giả: Michael Connelly
Tình trạng: Đã hoàn thành




Người dịch: Trần Tiễn Cao Đăng

Terry MacCaleb không ở đỉnh cao phong độ của một đặc vụ FBI dày dạn kinh nghiệm. Ông mới ngoài bốn mươi thuổi, lẽ ra vẫn còn có thể tiếp tục cày xới thế giới tội ác tại Los Angeles, nhưng trái tim của ông đã đầu hàng, ông phải thay tim và thấy trước mặt mình một cuộc sống khác hẳn.

Rồi người phụ nữ đó xuất hiện, không hề báo trước, ngay tại nơi trú ẩn tuổi già của ông. Và MacCaleb buộc phải gắng gượng tìm lại phong độ tưởng chừng đã vĩnh viễn mất đi, lần mò theo những lối đi gian nan nhất của sa mạc và của trí tuệ, với một trái tim của người khác đập trong lòng ngực. Terry MacCaleb và Graciela Torres bỗng chốc khám phá ra rất nhiều điều bí ẩn của tội ác, cũng như bí ẩn trong quan hệ tình cảm con người.

Tác giả Michael Connelly



Michael Connelly sinh ngày 21.7.1956. Ông là một nhà văn, nhà báo Mỹ. Văn đàn thế giới coi M. Connelly là "ông hoàng trinh thám Mỹ", có lẽ bởi nhiều tác phẩm thuộc thể tài này của ông đã được dịch ra hơn 40 thứ tiếng và bản thân M. Connelly đã đoạt nhiều giải thưởng văn học quan trọng nhờ số truyện trinh thám mà ông đã viết.

Người biết M. Connelly nói ông viết truyện trinh thám không phải do tình cờ, cũng chẳng phải do sự bồng bột, một "tình yêu sét đánh nào đó", mà là do ông có vốn sống giàu có về lĩnh vực điều tra tội phạm. Tất cả bắt đầu từ khi M. Connelly tốt nghiệp Đại học Florida năm 1980 và khởi đầu sự nghiệp bằng những bài viết trên tờ Daytona Beach News Journal về vấn đề tội phạm Mỹ, sau đó là viết cho tờ Fort Lauderdale News and Sun-Sentinel, cũng về lĩnh vực này.

Những giải thưởng đầu tiên đến với M . Connelly vào năm 1985, khi bài phỏng vấn những nạn nhân còn sống sót sau vụ rớt máy bay Delta Flight 191 của ông lọt vào danh sách đề cử giải Pulitzer - giải thưởng báo chí danh giá bậc nhất dành cho một nhà báo. Hai năm sau, chuyển đến sống tại California, M. Connelly cho ra đời tác phẩm trinh thám đầu tay của mình và gần như ngay sau đó, cuốn The Black Echo được xuất bản và đoạt giải Edgar Award năm 1992.
 
Sửa lần cuối:

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,467
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 1


McCaleb thấy nàng trước khi nàng thấy ông. Ông đang bước xuống ụ tàu chính, băng qua dãy thuyền của cánh nhà binh thì nhìn thấy người đàn bà đứng trên mũi chiếc Biển Theo Ta. Lúc đó là mười rưỡi sáng một ngày thứ Bảy, tiếng thì thầm ấm áp của mùa xuân khiến nhiều người rời khỏi nhà kéo đến các ụ tàu ở San Pedro. McCaleb đang sắp hoàn tất cuộc đi dạo vào mỗi sáng - đi trọn một vòng quanh Cabrillo Marina, dọc theo đê chắn sóng xây bằng đá rồi quay về. Đến đoạn này thì ông đã mệt bở hơi tai, nhưng ông bước còn chậm rì hơn khi tiến lại gần thuyền. Ý nghĩ đầu tiên của ông là bực bội - người phụ nữ đó đã lên thuyền ông mà không đợi ai mời. Nhưng khi đến gần hơn, ông gạt ý nghĩ đó qua bên mà tự hỏi nàng ta là ai, nàng muốn cái gì.

Nàng không mặc quần áo dùng để đi thuyền. Nàng mặc bộ đầm mùa hè suông nhẹ dài tới giữa đùi. Làn gió nổi lên từ mặt nước cứ chực tốc váy nàng khiến nàng phải ép một tay vào hông để giữ yên. McCaleb không thấy hai bàn chân nàng, nhưng qua đường nét cơ bắp săn chắc ông nhìn thấy nơi đôi chân rám nắng của nàng, ông đoán nàng không mang giày dùng để đi thuyền. Nàng nhón gót lên. McCaleb lập tức hiểu ra, nàng đứng đây nhằm để gây ấn tượng với ai đó.

McCaleb thì ăn mặc sao cho chẳng gây ấn tượng gì. Ông mang chiếc quần jeans cũ rách te tua vì mặc quá lâu chứ không phải để làm dáng, áo phông mặc từ hồi dự giải Catalina Gold Cup tận mấy mùa hè trước. Quần áo lấm bê lấm bết, chủ yếu là máu cá, đôi phần là máu của chính ông, axit hydrochloric, nhựa poliuretan và dầu máy. Bộ đồ này ông thường mặc để đánh cá nhưng cũng mặc cả khi sửa máy. Cuối tuần này ông định sẽ sửa máy trên thuyền nên ông đang mặc bộ đồ phù hợp.

Ông bắt đầu có ý thức hơn về ngoại hình mình trong khi lại gần thuyền và thấy người đàn bà rõ hơn. Ông rút hai miếng mút của máy nghe nhạc ra khỏi tai rồi tắt CD giữa lúc bài “I Ain’t Superstitious” qua giọng Howlin’ Wolf đang phát nửa chừng.

“Tôi giúp gì được cho cô?” ông hỏi trước khi bước xuống thuyền của mình.

Giọng ông dường như khiến nàng giật mình, đang đứng nơi cánh cửa trượt dẫn vào buồng khách của thuyền nàng liền quay phắt lại. McCaleb đồ rằng nàng gõ lên mặt kính vì cứ nghĩ ông đang ở trong đó.

“Tôi tìm Terrell McCaleb.”

Nàng là một phụ nữ hấp dẫn ngoài ba mươi đôi chút, trẻ hơn McCaleb tròn chục tuổi hay hơn. Trông nàng quen quen, nhưng ông không nhớ ra ai. Chỉ là ngờ ngợ như quen, thật ra chưa chắc đã phải. Đồng thời ông lại thấy dường như ký ức mình bị đánh động khiến cho ông nhận ra, nhưng rồi điều đó qua nhanh và ông biết mình lầm, ông không quen biết người đàn bà này. Ông thường nhớ được mặt người ta. Mà cô nàng này thì mặt đủ xinh để ông không quên được.

Nàng phát âm sai tên ông, đáng lẽ Mác-cây-lép thì nàng nói Mác-ca-lớp, rồi thì nàng lại dùng tên ghi trên giấy tờ của ông, cái tên chẳng ai dùng trừ cánh báo chí. Chính khi đó ông bắt đầu hiểu. Giờ thì ông biết điều gì đã đưa nàng tới con thuyền. Lại một linh hồn lạc lõng đến nhầm nơi phải đến.

“McCaleb,” ông chữa lại. “Terry McCaleb.”

“Xin lỗi.

Tôi, ờ, tôi cứ nghĩ ông đang ở trong thuyền. Tôi không biết nếu bước lên thuyền mà gõ cửa thì có được không.”

“Thì cô vẫn làm đó thôi.”

Nàng lờ đi lời trách mà nói tiếp. Cứ như thể những điều nàng đang làm và những gì nàng phải nói, nàng đã phải tập đi tập lại nhiều lần.

“Tôi cần nói chuyện với ông.”

“Ồ, hiện giờ tôi hơi bận.”

Ông chỉ tay về phía cánh cửa dẫn xuống hầm thuyền vẫn đang mở toang, may phước là cô nàng chưa lọt xuống, chỉ tay vào đống đồ nghề ông đã trút ra trên một tấm vải màn cạnh cửa sổ đuôi tàu.

“Tôi đi loanh quanh tìm cái thuyền này gần cả tiếng rồi,” nàng nói. “Không lâu đâu mà. Tên tôi là Graciela Rivers, tôi chỉ muốn...”

“Này, cô Rivers,” ông nói, giơ hai tay lên ngăn lại. “Thực sự là tôi... Cô đọc được về tôi trên báo có đúng không?”

Nàng gật.

“Thôi được, trước khi cô bắt đầu chuyện của cô, tôi phải nói với cô rằng cô không phải người đầu tiên tới đây tìm tôi hay kiếm số phôn của tôi mà gọi tôi. Và với tất cả những người khác tôi nói gì thì với cô tôi cũng nói thế thôi. Tôi không phải đang tìm việc. Thành thử nếu chuyện là cô muốn thuê tôi hay nhờ tôi giúp cách này cách nọ thì rất tiếc, tôi không làm được. Tôi không phải đang tìm loại việc ấy.”

Nàng chẳng nói gì và ông cảm thấy lòng xốn xang cảm thông với nàng, cũng như ông từng cảm thấy với những người khác tới tìm ông trước nàng.

“Này, tôi có biết vài ba điều tra viên tư, tôi có thể giới thiệu họ với cô. Hội này giỏi đấy, làm ăn chăm chỉ, họ không lừa cô đâu.”

Ông bước lên mép đuôi thuyền, nhặt chiếc kính râm ông quên mang theo khi đi bộ, đeo vào, ra hiệu rằng cuộc nói chuyện thế là dứt. Nhưng cử chỉ và lời lẽ của ông cứ như nước đổ lá khoai đối với nàng ta.

“Bài báo nói ông tốt bụng. Nói rằng bất cứ khi nào có kẻ chuồn được là ông ghét cay ghét đắng.”

Ông thọc tay vào túi quần, nhún vai.

“Cô phải nhớ một điều. Không bao giờ chỉ mình tôi cả. Tôi có người cộng tác, tôi có đội xét nghiệm, tôi có cả Cục ở sau lưng hỗ trợ tôi. Khác xa cái kiểu anh chàng đơn thân độc mã làm gì cũng lầm lũi một mình. Khác nhiều lắm. Dù có muốn, e tôi cũng không giúp cô được.”

Nàng gật đầu nên ông đinh ninh đã làm nàng ta thấu hiểu rồi, và với cô này tới đây là hết chuyện. Ông bắt đầu nghĩ tới cái van trên một trong các động cơ thuyền mà ông đang thao tác dở, ông định sẽ làm cho xong nội cuối tuần này.

Nhưng ông đã lầm về nàng.

“Tôi nghĩ ông có thể giúp tôi,” nàng nói. “Có khi còn giúp chính ông nữa.”

“Tôi không cần tiền. Tôi kiếm đủ.”

“Tôi không nói chuyện tiền nong.”

Ông nhìn nàng trong khoảng một nhịp tim trước khi đáp.

“Tôi không biết cô nói thế là ý gì,” ông nói, cố tình tỏ ra cáu kỉnh. “Nhưng tôi không giúp cô được. Tôi không còn phù hiệu, mà cũng chả phải là điều tra viên tư. Tôi mà làm việc như điều tra viên tư hoặc nhận tiền mà không có giấy phép của nhà nước thì sẽ là bất hợp pháp đấy. Nếu đã đọc bài báo thì ắt cô biết chuyện gì đã xảy ra với tôi. Thậm chí tôi còn không được lái xe nữa kìa.”

Ông trỏ xuống bãi đỗ xe bên ngoài dãy ụ tàu và cầu tàu.

“Cô thấy cái xe trùm kín mít như quà Giáng sinh kia không? Xe tôi đó. Nó sẽ còn nằm đó chừng nào tôi chưa được bác sĩ chuẩn y cho lái xe lại. Đến nước này thì tôi còn là cái thứ điều tra viên nào nữa chứ? Đến mà phải đi xe buýt suốt.”

Nàng lờ đi lời phản đối của ông, chỉ nhìn ông với vẻ kiên quyết khiến ông lúng túng. Ông chẳng biết làm cách nào điệu nàng ta đi khỏi thuyền ông được đây.

“Để tôi đi lấy tên mấy người kia cho cô.”

Ông đi vòng qua nàng rồi đẩy cánh cửa trượt của phòng khách ra. Vào trong rồi, ông đóng chặt cửa sau lưng mình. Ông cần sự ngăn cách. Ông đi tới chỗ mấy ngăn kéo dưới bàn vẽ hải đồ, bắt tay tìm cuốn danh bạ điện thoại. Đã quá lâu không cần tới nên bây giờ ông chẳng biết nó nằm ở đâu nữa. Ông liếc ra ngoài qua cánh cửa, quan sát cô nàng bước tới chỗ đuôi tàu, tựa hông vào ô cửa sổ nhỏ trong khi chờ đợi.

Trên mặt kính cửa có lớp màng phản chiếu. Nàng không thể thấy ông đang quan sát nàng. Cảm giác quen quen lại xâm chiếm tâm trí ông và ông cố nhớ ra xem mình đã gặp khuôn mặt này ở đâu. Ông thấy nàng thật nổi bật. Đôi mắt hình quả hạnh sẫm màu vừa có vẻ u sầu lại vừa có vẻ thấu hiểu điều bí mật nào đấy. Ông biết giá như ông từng gặp nàng hay thậm chí chỉ từng quan sát nàng trước đây thì hẳn ông sẽ dễ dàng nhớ ra nàng. Nhưng ông chẳng nhớ được gì cả. Mắt ông bất giác chuyển sang hai bàn tay nàng, tìm xem có chiếc nhẫn nào không. Không có. Về chuyện giày dép của nàng thì ông đoán đúng. Nàng mang xăng đan có gót làm bằng bần, cao năm phân. Móng chân nàng sơn màu hồng, nổi bật trên làn da màu nâu mềm mại. Ông tự hỏi có phải lúc nào nàng cũng trông thế này không, hay nàng ăn mặc thế chỉ để nhử ông nhận làm cho nàng.

Ông tìm ra cuốn danh bạ điện thoại trong ngăn kéo thứ hai, liền nhanh chóng tìm mấy cái tên Jack Lavelle và Tom Kimball. Ông ghi lại tên và số điện thoại của họ vào một tờ rơi quảng cáo cũ của hãng dịch vụ tàu biển rồi mở cánh cửa trượt. Nàng đang mở ví trong khi ông ra khỏi buồng khách. Ông chìa tờ giấy cho nàng.

“Đây là tên hai người. Lavelle là thám tử Los Angeles đã nghỉ hưu còn Kimball hồi trước làm ở FBI. Tôi từng làm việc với cả hai, người nào cũng có thể làm việc tốt cho cô. Chọn một người mà gọi. Nhớ bảo anh ta rằng cô có được tên anh ta là nhờ tôi. Anh ta sẽ lo cho cô.”

Nàng không nhận mấy cái tên từ tay ông. Thay vì vậy nàng rút một tấm ảnh ra khỏi ví chìa cho ông. McCaleb cầm lấy không nghĩ ngợi gì. Ông nhận ra ngay đó là một sai lầm. Trong tay ông là bức ảnh một phụ nữ mỉm cười ngắm một đứa bé trai đang thổi tắt nến trên cái bánh sinh nhật. McCaleb đếm được bảy ngọn nến. Đầu tiên ông nghĩ đó là ảnh của Graciela hồi trẻ hơn bây giờ vài tuổi. Nhưng rồi ông nhận ra không phải là nàng. Người phụ nữ trong ảnh mặt tròn hơn, môi mỏng hơn. Cô ta không đẹp như Graciela Rivers. Tuy cả hai đều có mắt màu nâu sẫm, nhưng mắt người phụ nữ trong ảnh không có cái vẻ mãnh liệt như mắt người đàn bà đang quan sát ông lúc này.

“Em gái cô à?”

“Phải. Và con của nó.”

“Người nào?”

“Sao cơ?”

“Người nào chết?”

Câu hỏi đó là sai lầm thứ hai của ông, làm trầm trọng thêm sai lầm thứ nhất bởi nó lôi ông dấn vào sâu hơn nữa. Ngay lúc hỏi, ông đã biết rằng đáng lẽ ra ông nên khăng khăng đòi nàng ta nhận lấy họ tên hai thám tử tư kia rồi chấm dứt mọi chuyện ở đây.

“Em tôi. Gloria Torres. Cả nhà tôi gọi nó là Glory. Đây là Raymond, con của nó.”

Ông gật đầu rồi đưa trả bức hình nhưng nàng không nhận. Ông biết nàng muốn ông hỏi chuyện gì đã xảy ra, nhưng cuối cùng ông kịp kìm lại.

“Nào, thế này chả ích gì đâu,” rốt cuộc ông nói. “Tôi biết cô đang làm gì rồi. Chả ích với tôi đâu.”

“Ý ông là ông không hề có lòng thông cảm phải không?”

Ông ngần ngừ trong khi cơn giận sôi lên trong họng.

“Tôi có lòng thông cảm. Cô đã đọc bài báo, cô biết chuyện gì đã xảy ra với tôi. Xưa nay tôi gặp rắc rối gì cũng đều do thông cảm mà ra cả.”

Ông nuốt khan và cố gột sạch mọi cảm xúc khó chịu. Ông biết cô nàng này đang bị nỗi thất vọng khủng khiếp làm cho héo hon tiều tụy. McCaleb từng biết hàng trăm người như nàng. Những người thân yêu bị tước đi khỏi họ chẳng vì lý do nào hết. Không bắt bớ, không buộc tội, không phá án. Một vài người trong số đó chỉ còn như cái thây sống, đời họ bị thay đổi vô phương cứu chữa. Những linh hồn lạc lõng. Graciela Rivers giờ đây là một người như thế. Chắc chắn nàng là thế, không thì nàng đã chẳng tìm mọi cách lùng ra tung tích của ông. Ông biết, dù nàng nói gì với ông hoặc dù ông có tức giận đến mấy, nàng cũng không đáng phải hứng chịu thêm những cơn thất vọng của chính ông.

“Thôi nào,” ông nói. “Tôi không làm được đâu mà. Tôi rất tiếc.”

Ông đặt một tay lên tay nàng để đưa nàng trở lại bậc lên xuống thuyền. Da nàng ấm. Ông cảm nhận được bắp cơ khỏe mạnh dưới sự mềm mại đó. Ông lại đưa nàng tấm ảnh, nhưng nàng vẫn từ chối không chịu cầm.

“Xem lại đi. Xin ông làm ơn. Chỉ thêm một lần thôi, rồi tôi sẽ để ông yên. Nói cho tôi biết liệu ông có cảm thấy gì khác không?”

Ông vừa lắc đầu vừa phác một cử chỉ yếu ớt bằng bàn tay như muốn nói đằng nào thì cũng vậy thôi.

“Tôi là cựu nhân viên FBI chứ không phải nhà ngoại cảm.”

Nhưng ông vẫn làm ra vẻ giơ tấm ảnh lên nhìn. Người phụ nữ và chú bé xem chừng hạnh phúc. Là tiệc sinh nhật mà. Bảy ngọn nến. McCaleb nhớ rằng hồi ông bảy tuổi cha mẹ ông còn ở với nhau. Nhưng sau đấy thì không ở với nhau lâu nữa. Mắt ông bị hút vào đứa bé nhiều hơn vào người phụ nữ. Ông tự hỏi bây giờ không có mẹ thì thằng nhỏ sống ra sao.

“Tôi xin lỗi, cô Rivers ạ. Thực sự là tôi rất tiếc. Nhưng tôi chẳng làm gì được cho cô hết. Cô có muốn lấy ảnh này lại không?”

“Tôi có hai cái. Ông biết đấy, rửa một tặng một mà. Tôi tưởng ông sẽ giữ lại một cái.”

Lần đầu tiên ông cảm thấy có cái gì đó ngầm ẩn trong dòng cảm xúc. Có cái gì đó hệ trọng nữa đây, nhưng ông không biết là gì. Ông nhìn kỹ cô Graciela Rivers và có cảm tưởng rằng nếu dấn thêm một bước, hỏi cái câu hỏi thật hiển nhiên, ông sẽ bị cuốn hẳn vào.

Ông không kìm được.

“Sao tôi lại muốn giữ tấm ảnh dù tôi sẽ không thể giúp cô được?”

Nàng mỉm cười một cách buồn bã thế nào đó.

“Bởi nó là người đàn bà đã cứu mạng ông. Thỉnh thoảng tôi lại nghĩ, hẳn ông cần tự nhắc mình nhớ cô ta trông thế nào, cô ta là ai.”

Ông nhìn nàng chằm chằm một hồi lâu nhưng thật ra ông không nhìn Graciela Rivers. Ông đang nhìn vào bên trong mình, lục lọi trong ký ức và hiểu biết của mình điều nàng vừa nói, nhưng vẫn không hiểu được ý nghĩa của nó.

“Cô nói cái gì vậy?”

Ông chỉ hỏi được có thế. Ông có cảm giác quyền kiểm soát cuộc nói chuyện và mọi thứ khác đều đang tuột khỏi ông mà trượt qua boong tàu về phía nàng. Cái dòng chảy ngầm kia đã tóm được ông. Nó đang đưa ông đi.

Nàng giơ tay lên, nhưng rướn tay qua bức ảnh ông vẫn đang chìa ra cho nàng. Nàng đặt lòng bàn tay lên ngực ông, miết tay dọc xuống ngực áo ông, mấy ngón tay nàng lần theo vết sẹo giống như đoạn thừng dày cộm sau lần áo. Ông để yên cho nàng làm vậy. Ông đứng như hóa đá mà để nàng làm vậy.

“Trái tim ông,” nàng nói. “Nó từng là của em tôi. Nó là người đã cứu mạng ông.”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,467
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 2


Từ khóe mắt ông chỉ vừa vặn thấy màn hình. Màn hình màu bạc đen lẹt xẹt, trái tim trông giống như một bóng ma gờn gợn, những cái đinh và kẹp dùng để nút các mạch máu nổi rõ lên như những cái vỏ đạn đen sì trong ngực ông.

“Gần xong rồi,” một giọng nói.

Giọng đó thốt lên từ sau tai phải ông. Bonnie Fox. Lúc nào cũng điềm tĩnh, chuyên nghiệp, khiến người ta yên lòng. Chẳng mấy chốc ông nhìn thấy nét lượn ngoằn ngoèo như rắn của kính nội soi di động vào trong trường tia X của màn hình, men theo tĩnh mạch vào trong tim. Ông nhắm mắt lại. Ông ghét cái cảm giác bị giật thốc đó, cảm giác mà họ nói ta sẽ không cảm thấy nhưng rồi ta luôn luôn cảm thấy.

“Được rồi, anh không nên cảm thấy thế này,” chị ta nói.

“Phải.”

“Đừng nói chuyện.”

Rồi thì, nó đấy. Giống như cái giật rất nhẹ nơi đầu mút sợi dây câu, một con cá nhép đang nẫng nhẹ mồi câu của ta. Ông mở mắt thì thấy đường viền ống kính nội soi, mảnh như sợi dây câu, vẫn nằm sâu trong trái tim.

“OK, được rồi,” chị nói. “Sắp xong rồi. Anh cừ lắm, Terry.”

Ông cảm thấy chị vỗ vai ông, mặc dù ông không thể ngoái đầu lại nhìn chị. Người ta rút kính nội soi ra, và chị dán miếng gạc lên chỗ rạch trên cổ ông. Cái ngàm nãy giờ giữ chặt đầu ông ở một góc độ đến là khó chịu giờ được gỡ ra, và ông chầm chậm vươn thẳng cổ, giơ bàn tay lên để co duỗi những cơ bắp cứng đờ. Khuôn mặt tươi cười của bác sĩ Bonnie Fox lại treo lơ lửng trên đầu ông.

“Anh thấy thế nào?”

“Không thể kêu ca gì. Giờ mọi chuyện xong rồi.”

“Tí nữa tôi sẽ đến khám cho anh. Tôi cần kiểm tra kết quả xét nhiệm máu và đem mô tới phòng thí nghiệm.”

“Tôi có chuyện muốn nói với chị.”

“Được rồi. Hẹn anh lát nữa.”

Vài phút sau hai cô y tá đẩy giường của McCaleb ra khỏi phòng chụp mạch máu, đưa vào thang máy. Ông không ưa bị người ta đối xử như một kẻ tàn phế. Lẽ ra ông có thể tự đi được, nhưng làm thế là trái nội quy. Sau một ca sinh thiết tim, bệnh nhân phải luôn được giữ ở thế nằm ngang. Các bệnh viện luôn luôn có nội quy này nọ. Cedars-Sinai xem ra có nhiều nội quy hơn bất cứ bệnh viện nào.

Người ta đưa ông xuống khoa tim mạch ở tầng sáu. Trong khi được hai cô y tá đẩy trên giường có bánh xe dọc theo hành lang phía Đông, ông tiến ngang qua phòng của những người may mắn và những người đang đợi - các bệnh nhân đã nhận được tim mới hoặc vẫn đang phải đợi. Họ băng qua một phòng nọ, McCaleb liếc vào qua cửa mở thì thấy một cậu bé nằm trên giường, toàn thân được nối bằng ống vào máy tim-phổi nhân tạo. Một người đàn ông vận com lê ngồi trên ghế phía bên kia giường, mắt nhìn đăm đăm vào cậu bé nhưng lại đang thấy một cái gì khác. McCaleb ngoảnh đi. Ông biết sự tình. Cậu bé không còn sống bao lâu nữa. Cái máy sẽ chỉ giúp cậu trụ được đến thế thôi. Rồi thì người đàn ông mặc com lê - là cha cậu, McCaleb đoán thế - sẽ nhìn đăm đăm một cái quan tài cũng với cái nhìn ấy.

Giờ thì họ đã tới chỗ phòng ông. Người ta chuyển ông từ băng ca lên giường rồi để ông lại một mình. Ông chuẩn bị tinh thần chờ đợi. Qua kinh nghiệm ông biết rằng có thể phải sáu tiếng nữa Fox mới tới, tùy theo ở phòng thí nghiệm người ta xét nghiệm mẫu máu lâu hay chóng và bao lâu nữa thì chị mới ghé chỗ đó để lấy kết quả.

Ông đã sẵn sàng. Cái túi da cũ ông từng dùng để đựng máy vi tính và vô số hồ sơ các vụ ông từng xử lý giờ đây ních cứng những số tạp chí cũ mà ông dành sẵn cho những ngày làm sinh thiết.

Hai tiếng rưỡi sau, Bonnie Fox bước qua ngưỡng cửa. McCaleb đặt cuốn Sửa chữa tàu thuyền đang đọc dở xuống.

“Chà, nhanh thế.”

“Hôm nay ở phòng thí nghiệm có ít ca. Anh thấy thế nào?”

“Cổ tôi nghe như bị chân ai giẫm lên suốt hai ba giờ liền ấy. Chị đến phòng thí nghiệm rồi à?”

“Ừ.”

“Kết quả ra sao?”

“Xem ra thì ổn cả. Không bị thải, mọi cấp độ đều có vẻ ổn. Tôi hài lòng lắm. Một tuần nữa chúng tôi có thể hạ mức prednisone xuống cho anh.”

Chị vừa nói vừa trải kết quả xét nghiệm lên bàn để đồ ăn của cái giường rồi xem lại lần nữa các kết quả tốt. Chị đang nói tới những hỗn hợp gồm nhiều thứ thuốc được trù liệu kỹ lưỡng mà McCaleb uống mỗi sáng và mỗi tối. Lần cuối đếm, ông đã nuốt mười tám viên thuốc vào buổi sáng, tối lại thêm mười sáu viên. Cái tủ thuốc trên thuyền chẳng đủ to để đựng hết đống hộp thuốc. Ông phải dùng một trong mấy hộc trữ đồ ở khoang phía trước.

“Tốt,” ông nói. “Tôi chán phải cạo râu ba lần một ngày lắm rồi.”

Fox gấp kết quả xét nghiệm lại rồi nhấc cái kẹp hồ sơ ra khỏi chiếc bàn con gắn vào giường. Mắt chị nhanh chóng lướt qua phần đánh dấu các câu hỏi mà ông phải trả lời mỗi lần khám.

“Hoàn toàn không sốt à?”

“Hoàn toàn không.”

“Cũng không tiêu chảy.”

“Chả tí nào.”

Qua sự soi đi soi lại hỏi tới hỏi lui không ngừng của chị, ông biết rằng sốt và tiêu chảy là hai triệu chứng báo hiệu cơ quan mới ghép bị đào thải. Ông cặp nhiệt độ ít nhất hai lần một ngày, cùng với đo huyết áp và nhịp tim.

“Các chỉ số chủ chốt xem chừng tốt lắm. Anh cúi tới trước một chút đi nào.”

Chị đặt tấm bảng xuống. Cầm cái ống nghe, trước tiên chị thổi phù phù cho nó ấm lên, đoạn chị nghe tim ở ba điểm khác nhau sau lưng ông. Rồi ông nằm xuống lại và chị nghe qua ngực ông. Chị tự đo mạch của ông bằng cách vừa đặt hai ngón tay lên cổ ông vừa nhìn đồng hồ. Trong khi làm vậy chị ở sát cạnh ông. Chị xức nước hoa mùi hoa cam, mùi mà McCaleb vẫn luôn cho rằng chỉ có ở các bà trọng tuổi. Thế nhưng Bonnie Fox không phải là một bà trọng tuổi. Ông nhìn lên chị, dò xét khuôn mặt chị trong khi chị nhìn đồng hồ.

“Có khi nào chị tự hỏi liệu chúng ta có nên làm thế này không?” ông hỏi.

“Đừng nói chuyện.”

Cuối cùng, chị dịch mấy ngón tay sang cổ tay ông để đo mạch ở đó.

Rồi thì chị rút vòng đo huyết áp ra khỏi tường, đặt lên tay ông để lấy số đo huyết áp, trong khi làm ngần ấy việc chị cứ im lặng suốt. “Tốt,” chị nói khi đã xong xuôi.

“Tốt,” ông nói.

“Liệu chúng ta có nên làm cái gì nào?”

Chị vẫn có cái lối bất thần nối lại một mẩu chuyện trò bị ngắt nửa chừng hoặc bỏ quên. Chị hiếm khi quên bất cứ điều gì McCaleb nói với chị. Bonnie Fox là một phụ nữ nhỏ nhắn trạc tuổi McCaleb, tóc cắt ngắn sớm bị chớm bạc. Áo khoác trắng của chị dài gần như chấm mắt cá chân vì nó vốn được may dành cho người cao hơn. Thêu trên túi ngực là đường viền một hệ tuần hoàn-hô hấp, chuyên ngành phẫu thuật của chị. Mỗi lần họ gặp nhau là chị luôn có vẻ bận rộn, sự vụ. Chị có dáng vẻ tự tin và ân cần, một thể kết hợp mà McCaleb luôn luôn thấy thật hiếm gặp ở đám bác sĩ - mà trong những năm gần đây thì có lắm bác sĩ. Ông đáp lại sự tự tin và ân cần đó. Ông thích chị và tin cậy ở chị. Trong suy nghĩ thầm kín nhất của mình từng có một lúc ông phân vân tự hỏi liệu một ngày kia ông có nên đặt tính mạng vào tay người đàn bà này hay không. Nhưng sự phân vân đó nhanh chóng qua đi và chỉ khiến ông thấy mình có lỗi. Khi đến lúc thay tim, chính khuôn mặt tươi cười của chị là thứ cuối cùng ông thấy khi người ta cho ông ngủ khi chuẩn bị mổ. Đến lúc đó thì trong ông chẳng còn chút phân vân nào nữa. Và chính khuôn mặt tươi cười của chị đã đón ông về lại thế giới, với một trái tim mới và cuộc đời mới.

McCaleb chấp nhận cái thực tế rằng trong suốt tám tuần kể từ khi thay tim đến giờ chưa hề có một trở ngại nào trong quá trình hồi phục của ông, ấy là minh chứng cho thấy lòng tin cậy của ông đặt vào chị là chính đáng. Trong suốt ba năm từ khi ông bước vào phòng làm việc của chị lần đầu tiên, một sự gắn bó đã hình thành giữa hai người, sự gắn bó vượt xa quan hệ chuyên môn đơn thuần. Giờ đây họ là bạn tốt của nhau, hoặc giả McCaleb tin như vậy. Họ đã đi ăn cùng nhau hàng chục lần, đã sôi nổi thảo luận với nhau vô số lần về mọi thứ, từ việc nhân bản di truyền vô tính cho tới phiên tòa xử O. J. Simpson - McCaleb đã thắng của chị hàng trăm đô khi tòa ra phán quyết đầu tiên, ông dễ dàng nhận thấy rằng niềm tin không thể lung lay của chị vào hệ thống tư pháp đã khiến chị mù quáng không thấy được cái thực tế rằng vụ này đậm mùi phân biệt chủng tộc. Chị không còn dám cá với ông về phán quyết thứ hai.

Dù chủ đề có là gì đi nữa thì, đôi khi, McCaleb thấy mình khăng khăng giữ ý kiến trái ngược với chị chỉ vì ông thích giao đấu với chị. Giờ thì, tiếp theo câu hỏi đó, Fox nhìn ông như muốn nói chị đã sẵn sàng cho một cuộc thư hùng tay đôi nữa.

“Liệu ta có nên làm chuyện này không,” ông vừa nói vừa vung một tay lên như muốn bao quát toàn bệnh viện. “Lấy phủ tạng ra, thay phủ tạng mới vào. Đôi khi tôi thấy mình như quái vật Frankenstein thời hiện đại ấy, mang phủ tạng của người khác ở trong người mình.”

“Một người khác, một bộ phận khác. Ta đừng trầm trọng hóa thế đi nào.”

“Nhưng đấy chính là bộ phận quan trọng, chả phải sao? Chị biết đó, hồi tôi còn làm ở Cục, chúng tôi năm nào cũng phải sát hạch bắn súng. Bắn bia ấy mà. Và cách tốt nhất để qua kỳ sát hạch là bắn vào tim. Bắn trúng vòng tròn bao quanh hồng tâm trên mấy tấm bia đó thì được nhiều điểm hơn là bắn vào đầu. Nó gọi là vòng mười. Điểm cao nhất.”

“Thôi nào, nếu lại bàn cãi theo cái kiểu ‘phải chăng chúng ta đang hành động như Chúa trời’ thì tôi nghĩ chúng ta đã qua khỏi cái thời đó lâu rồi.”

Chị lắc đầu, mỉm cười nhìn ông trong mấy giây. Cuối cùng nụ cười tan biến.

“Có gì không ổn vậy?”

“Tôi không biết. Chắc là tôi cảm thấy mình có lỗi.”

“Gì cơ, có lỗi vì mình còn sống sao?”

“Tôi chẳng biết nữa.”

“Đừng lố bịch đi. Chuyện đó ta cũng giải quyết xong rồi. Tôi không có thời gian cho ba cái vụ tội với lỗi của người sống sót. Nhìn xem, ở đây ta có những lựa chọn nào. Đơn giản lắm. Một đằng anh được sống, bằng không anh chết. Quyết định trọng đại đấy. Có tội lỗi gì nào?”

Ông giơ hai tay lên đầu hàng. Chị luôn nêu ra mọi vật trong ngữ cảnh sáng rõ nhất.

“Điển hình thôi,” chị nói, không chịu để ông rút lui. “Anh phải chầu chực hầu suốt hai năm ròng để chờ có tim, chờ dài cổ đến gần như không còn kiên nhẫn thêm được nữa, thế mà bây giờ anh tự hỏi liệu chúng tôi lẽ ra có nên cho anh trái tim đó không. Thật ra điều gì khiến anh day dứt vậy hở, Terry? Tôi không có thời gian nói chuyện nhảm với anh đâu.”

Ông nhìn lại chị. Chị dần dần có được kỹ năng đọc vị được ông. Đó là cái mà tất cả đặc vụ và cảnh sát giỏi nhất ông từng biết đều có. Ông do dự, rồi quyết định nói ra điều ông nghĩ trong tâm trí.

“Chắc là tôi muốn biết vì sao chị không cho tôi hay người đàn bà cho tôi quả tim đã bị ám sát.” Rõ là chị giật thót người. Cú sốc do câu nói của ông gây ra lộ rõ trên mặt chị.

“Ám sát? Anh nói gì vậy hả?”

“Cô ấy bị ám sát.”

“Ra làm sao?”

“Tôi không biết chắc. Cô ấy tình cờ có mặt trong vụ cướp ở cửa hàng bách hóa nào đó ở khu Valley. Bị bắn vào đầu. Cô ấy chết, rồi thì tôi được quả tim cô ấy.”

“Đáng ra anh không được biết bất cứ điều gì về người cho tim. Làm sao anh biết chuyện đó?”

“Vì hôm thứ Bảy vừa rồi chị gái cô ấy đến gặp tôi. Cô ấy kể tôi nghe tất cả... Điều ấy có phần làm thay đổi mọi chuyện, chị hiểu chứ?”

Fox ngồi xuống giường bệnh, tựa người vào ông. Một vẻ nghiêm khắc hiện lên trên mặt chị.

“Trước hết, tôi hoàn toàn không biết tim của anh từ đâu ra. Chúng tôi chẳng bao giờ biết. Nó đến là qua CMN. Chúng tôi chỉ được người ta cho biết có một quả tim mang nhóm máu khớp với người nhận mà chúng tôi đã báo trước và đứng đầu trong danh sách của chúng tôi. Đó là anh. Anh biết cách làm việc của CMN rồi mà. Anh đã xem phim trong quá trình hướng dẫn còn gì. Chúng tôi không biết nhiều thông tin lắm, nhưng cứ vậy là hơn. Chúng tôi biết gì thì tôi nói tất với anh rồi. Phụ nữ, hai mươi sáu tuổi, tôi còn nhớ. Sức khỏe hoàn hảo, nhóm máu hoàn toàn khớp, một người hiến hoàn hảo. Vậy thôi.”

“Thế thì tôi xin lỗi. Tôi cứ ngỡ chị biết nhưng chỉ là không chịu nói.”

“Tôi không biết. Chúng tôi không biết. Thành thử nếu chúng tôi không biết nó là của ai và từ đâu tới thì làm sao bà chị kia biết trái tim được chuyển cho ai, ở đâu? Làm sao cô ấy tìm ra anh được? Đây có thể là cô ta đang giở trò gì đây...”

“Không. Chính là cô ta. Tôi biết.”

“Làm sao anh biết?”

“Bài báo hôm Chủ nhật rồi, chuyên mục ‘Chuyện gì đang xảy ra với...’ ở phần Metro của tờ Thời báo ấy. Nó nói là tôi nhận tim vào ngày chín tháng Hai và tôi đã phải chờ một thời gian dài vì nhóm máu của tôi hiếm. Cô chị đọc được bài ấy và chắp nối mọi chuyện với nhau. Cô ấy rõ ràng là biết em gái mình chết khi nào, biết rằng tim cô em được mang hiến, và cũng biết cô em có nhóm máu hiếm. Cô ấy là y tá phòng cấp cứu ở bệnh viện Holy Cross nên nghĩ ra ngay rằng đó là tôi.”

“Thế vẫn chưa có nghĩa là anh đang mang tim của cô...”

“Cô ta còn có lá thư tôi viết nữa.”

“Thư nào?”

“Lá thư mà sau đó ai cũng viết ấy. Lá thư không ký tên, để cảm ơn gia đình người hiến. Lá thư mà bệnh viện gửi đi ấy. Cô ta có lá thư của tôi. Tôi nhìn qua là nhận ra ngay thư của tôi. Tôi nhớ mình đã viết gì mà.”

“Chuyện này không thể xảy ra được, Terry. Cô ta muốn gì? Tiền à?”

“Không, không phải tiền. Chị không hiểu ư? Cô ấy muốn tôi tìm cho ra ai làm chuyện đó. Ai giết em cô ấy. Cảnh sát chưa hề kết thúc được vụ ấy. Đã hai tháng rồi mà chẳng thấy bắt ai. Cô ấy biết là họ chịu thua rồi. Thế rồi cô ấy đọc được bài viết về tôi ở trên báo, về chuyện hồi trước tôi hay làm gì ở Cục Điều tra Liên bang. Cô ấy đoán ra tôi đã được ghép tim của em cô ấy và cho rằng biết đâu tôi làm được điều cảnh sát không làm được. Phá vụ án này. Hôm thứ Bảy cô ấy loanh quanh suốt một tiếng đồng hồ ở vũng neo thuyền để tìm thuyền của tôi. Cô ấy chỉ biết mỗi cái tên chiếc thuyền nhờ đọc trong bài báo. Cô ấy đến để tìm tôi.”

“Thật điên rồ. Cho tôi tên của cô ta đi, rồi tôi sẽ...”

“Không. Tôi không muốn chị làm gì cô ấy hết. Cứ thử hình dung nếu chị là cô ấy và chị rất yêu em gái chị. Chị cũng sẽ làm như cô ấy thôi.”

Fox đứng dậy khỏi giường, chăm chăm nhìn ông.

“Anh không thực sự định làm chuyện này đâu.”

Chị nói như thể một lời phán, một mệnh lệnh của bác sĩ. Ông không đáp, và bản thân việc đó là một lời đáp. Ông có thể thấy một lần nữa nỗi tức giận trào lên mặt Fox.

“Nghe tôi đây. Với tình trạng anh hiện giờ thì anh không thể làm việc gì như thế được. Anh đang trong thời kỳ sáu mươi ngày sau thay tim, thế mà anh lại muốn chạy lông nhông chơi trò thám tử à?”

“Tôi chỉ đang nghĩ tới chuyện đó thôi, được chưa? Tôi bảo cô ấy là tôi sẽ cân nhắc. Tôi biết những rủi ro có thể xảy ra mà. Tôi cũng biết tôi không còn là nhân viên FBI. Đó là chuyện hoàn toàn khác nữa.”

Fox giận dữ khoanh đôi tay mảnh khảnh trước ngực.

“Ngay cả nghĩ tới anh cũng không nên nghĩ. Với tư cách bác sĩ của anh, tôi bảo anh không được nghĩ. Lệnh bác sĩ đấy.”

Sau đó giọng chị thay đổi âm sắc, dịu hẳn đi.

“Anh phải trân trọng món quà anh được tặng, Terry ạ. Cơ hội thứ hai này.”

“Nhưng sự trân trọng đó có đi có lại. Nếu tôi không nhận được tim cô ấy thì lúc này tôi đã chết rồi. Tôi mắc nợ cô ấy. Chính đó...”

“Anh không nợ cô ta hay gia đình cô ta cái gì khác ngoài bức thư anh đã gửi cho họ. Thế đấy. Đằng nào thì cô ta cũng chết, dù anh hay ai khác nhận tim cô ta. Về điểm này thì anh sai rồi.”

Ông gật đầu tỏ ra hiểu ý chị, nhưng chừng đó chưa đủ với ông. Ông biết, nào phải chỉ vì một điều gì đó là hợp lẽ ở cấp độ tri thức mà người ta cảm thấy dễ chịu hơn với những cơn quặn thắt trong cật ruột mình. Chị đọc được ý nghĩ ông.

“Nhưng sao?”

“Tôi không biết. Chỉ là tôi nghĩ, nếu tôi đi tìm mà biết được chuyện gì đã xảy ra thì hẳn tôi sẽ biết được đó chỉ là tai nạn. Tôi chuẩn bị bản thân mình là để cho điều đó. Khi tiến hành hướng dẫn sơ bộ người ta bảo chị thế, và ngay cả chị cũng bảo tôi thế khi chúng ta bắt tay vào việc. Rằng trăm phần thì có tới chín mươi chín phần đấy là một tai nạn dẫn tới thương tích ở đầu gây tử vong. Tai nạn ô tô, hoặc ai đó ngã cầu thang, ngã xe máy. Nhưng vụ này thì khác. Nó làm thay đổi mọi chuyện.”

“Anh cứ nói thế. Làm sao mà khác kia chứ? Trái tim chỉ là một cơ quan nội tạng, một cái bơm sinh học. Dù chủ nhân ban đầu của nó là ai thì cũng thế thôi.”

“Nếu là tai nạn thì tôi có thể yên tâm. Suốt thời gian tôi chờ đợi, biết rằng ai đó phải chết để tôi được sống, tôi đã dần dần chuẩn bị để chấp nhận việc ấy như một tai nạn. Nếu đúng là tai nạn thì nó giống như số trời đã định hay gì đó. Nhưng còn án mạng... chừng đó thì lại có mưu đồ thủ ác kèm theo. Đó không phải là tình cờ nữa. Thế có nghĩa rằng tôi là kẻ hưởng lợi từ một hành vi ác, bác sĩ ạ, chính vì vậy mà bây giờ chuyện đã khác.”

Fox im lặng một hồi. Chị thọc hai bàn tay vào hai túi bên chiếc áo bác sĩ. McCaleb nghĩ rằng rốt cuộc chị đang bắt đầu thấu hiểu điều ông muốn nói.

“Lâu nay cuộc đời tôi là như vậy,” ông nhẹ nhàng nói thêm. “Tôi luôn truy lùng cái ác. Đó là việc tôi làm. Và tôi từng làm việc đó cừ, nhưng về lâu dài thì nó đã thắng tôi. Nó đã đoạt mất phần tốt nhất của tôi. Tôi nghĩ - không, tôi biết - đó chính là cái đã cướp mất tim tôi. Song giờ đây dường như điều đó chẳng còn ý nghĩa gì bởi tôi đang sống đây, tôi có trái tim mới này, một cuộc đời mới, cái cơ hội thứ hai này mà chị vẫn hay nhắc tới, và lý do duy nhất khiến tôi có nó là bởi cái hành vi tàn ác, ghê tởm này mà ai đó đã làm.”

Ông thở ra một hơi dài trước khi nói tiếp.

“Cô ấy vào cửa hàng ấy để mua một phong kẹo cho thằng nhỏ, thế là cô ấy xong đời - ấy, khác thế thôi. Tôi không thể giải thích được.”

“Anh nói năng chẳng ra nghĩa lý gì sất.”

“Thật khó cho tôi nói hết thành lời như tôi muốn. Tôi chỉ biết tôi đang cảm thấy gì thôi. Với tôi thì có nghĩa lý đấy.”

Khuôn mặt Fox lộ vẻ nhẫn nhục.

“Được rồi, tôi biết rồi anh sẽ muốn làm gì. Anh sẽ muốn giúp cô này. Nhưng anh chưa sẵn sàng. Về mặt thể chất thì hoàn toàn chưa. Còn về mặt cảm xúc, sau khi nghe những gì anh vừa nói, tôi cho rằng để điều tra ngay cả một vụ tai nạn ô tô anh cũng còn chưa sẵn sàng nữa kìa. Có nhớ tôi đã nói gì với anh về sự cân bằng giữa sức khỏe thể chất với sức khỏe tâm thần không? Cái này bổ trợ cái kia. Mà tôi e những gì anh đang nghĩ lui nghĩ tới trong đầu rồi sẽ ảnh hưởng tới sự phục hồi về thể chất của anh thôi.”

“Tôi hiểu.”

“Không, tôi cho rằng anh không hiểu. Anh đang đánh bạc bằng chính sinh mạng anh đó. Nếu mọi chuyện xấu đi, nếu anh bắt đầu bị nhiễm độc hay cơ thể đào thải thì chúng tôi không cứu được anh đâu, Terry ạ. Chúng tôi đã phải chờ suốt hai mươi bốn tháng mới có được trái tim mà anh đang mang. Anh nghĩ rằng nếu anh làm hỏng trái tim này thì đùng một cái từ đâu đó sẽ tòi ra một trái tim khác khớp nhóm máu hay sao? Không đâu. Hiện tôi đang có một bệnh nhân dưới kia phải chạy tim nhân tạo. Ông ta đang chờ tim nhưng chẳng biết bao giờ mới có. Rồi anh có thể cũng thành ra như thế, Terry. Đây là cơ hội duy nhất của anh. Đừng làm nó tiêu tán mất!”

Chị rướn người qua giường, đặt tay lên ngực ông. Nó khiến ông nhớ lại hành động Graciela Rivers đã làm. Ông cảm thấy hơi ấm của nó ở đó.

“Bảo cô ta là không. Hãy tự cứu mình và bảo cô ấy là không.”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,467
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 3


Vầng trăng trông như quả bóng bị lũ trẻ con dùng gậy chọc vào giương lên không. Cột buồm của hàng chục thuyền buồm dựng tua tủa bên dưới vầng trăng đó, sẵn sàng giữ cho nó không rơi xuống đất. McCaleb ngắm nhìn trăng treo lơ lửng trên bầu trời đen, cho đến khi rốt cuộc nó vuột thoát bằng cách chuồi vào sau những đám mây đâu đó bên trên đảo Catalina. Một chỗ ẩn nấp tốt như bất cứ chỗ nào, ông nghĩ trong khi nhìn xuống cốc cà phê rỗng trên tay. Ông nuối tiếc cái dạo còn có thể ngồi ở đuôi tàu lúc xế chiều, một tay cầm lon bia lạnh như đá, tay kia là điếu thuốc. Nhưng điếu thuốc là một phần nguyên nhân căn bệnh nên giờ đây vĩnh viễn thôi rồi. Mà cũng phải vài tháng nữa phác đồ chữa trị mới nới lỏng đủ để cho phép đưa thêm ít chất cồn vào hỗn hợp thuốc. Còn hiện giờ chỉ cần uống một cốc thôi là đủ để ông phải chịu cái mà Bonnie Fox gọi là hậu quả chết người do dùng cồn quá liều.

McCaleb đứng dậy đi vào phòng khách của thuyền. Đầu tiên ông thử ngồi nơi bàn bếp nhưng chẳng mấy chốc đã đứng dậy, bật tivi rồi bắt đầu chuyển xoành xoạch từ kênh này sang kênh khác mà chẳng hề thực sự nhìn xem có gì ở đó. Ông tắt tivi rồi kiểm tra đống hổ lốn trên bàn vẽ hải đồ, nhưng rồi cũng chẳng thấy có gì dành cho mình cả. Ông đi tới đi lui trong cabin, tìm cái gì đó khả dĩ đánh lạc hướng suy nghĩ của ông. Nhưng chẳng có gì.

Ông xuống cầu thang, bước vào hành lang đằng trước rồi ra phía mũi thuyền. Ông lấy nhiệt kế ra khỏi tủ thuốc, lắc lắc rồi nhét vào dưới lưỡi. Đó là một dụng cụ hình ống bằng thủy tinh theo kiểu xưa. Cái nhiệt kế điện tử hiển thị bằng kỹ thuật số mà bệnh viện đưa cho vẫn còn nằm nguyên trong hộp để trên giá tủ. Vì lý do nào đó ông không tin tưởng nó.

Nhìn chính mình trong gương, ông cởi tung cổ áo sơ mi rồi săm soi vết thương nhỏ do cuộc sinh thiết hồi sáng để lại. Nó chưa bao giờ có được cơ hội để lành. Ông đã phải chịu quá nhiều lần sinh thiết đến nỗi vết rạch bao giờ cũng chỉ vừa kịp lên da non là người ta đã lại rạch ra và thọc đầu dò vào động mạch thêm lần nữa. Ông biết rồi đây nó sẽ là một dấu vết còn mãi, giống như vết sẹo dài hơn ba mươi phân chạy dọc xuống ngực ông. Trong khi ngắm chính mình, ông lan man nghĩ đến cha ông. Ông nhớ những dấu vết còn mãi, những vết xăm còn lại trên cổ ông già. Tọa độ của một trận chiến phóng xạ chỉ làm được mỗi một việc là kéo dài điều không thể tránh.

Nhiệt độ đo vẫn bình thường. Ông rửa nhiệt kế rồi đặt về chỗ cũ, đoạn nhấc tấm bảng kẹp tờ ghi nhiệt độ ra khỏi giá mắc khăn, ghi ngày tháng vào đó. Ở cột cuối, dưới tiêu đề NHIỆT ĐỘ, ông vạch thêm một dấu gạch ngang hàm ý không có gì thay đổi.

Treo bảng vào chỗ cũ xong, ông cúi lại gần gương để nhìn kỹ mắt mình. Màu xanh lá cây lốm đốm xám, giác mạc lộ ra những đường nẻ đỏ quạch mảnh như sợi tóc. Ông lùi lại, cởi áo sơ mi. Tấm gương hơi nhỏ nhưng ông vẫn thấy được vết sẹo, hồng trăng trắng, dày cui, xấu xí. Ông rất hay làm vậy, tự đánh giá chính mình. Đó là vì ông vẫn chưa quen nổi với hình hài của thân thể ông hiện nay, với cái kiểu thân thể đó đã hoàn toàn phản bội ông. Bệnh cơ tim. Fox nói với ông đó là một con vi rút có thể đã chực chờ trong thành tim của ông suốt nhiều năm, chỉ đợi một tình huống ngẫu nhiên là bùng ra phát tác và lấy dưỡng chất từ tình trạng stress. Lời giải thích đó chẳng có ý nghĩa gì mấy đối với ông. Nó chẳng làm nguôi ngoai cảm giác rằng con người ông xưa kia vĩnh viễn không còn nữa. Đôi lúc, ngắm chính mình, ông có cảm giác mình đang nhìn một kẻ xa lạ, bị cuộc đời vùi dập ê chề và giờ đây gãy vỡ dễ như chơi.

Mặc áo vào xong, ông vào buồng ngủ ở phía trước. Đó là một phòng hình tam giác rập theo hình cánh cung. Có một giường đôi ở phía giáp bến thuyền, và một bệ gồm những ngăn chứa đồ về phía mạn phải thuyền. Ông đã biến giường tầng dưới thành bàn làm việc, còn tầng trên thì để chất những thùng các tông đựng đầy các tập hồ sơ cũ của Cục Điều tra Liên bang. Trên thành mấy thùng này có ghi tên các vụ điều tra. Ghi NHÀ THƠ, MÃ, HOÀNG ĐẠO, TRĂNG TRÒN và BREMMER. Hai thùng thì ghi NGHI PHẠM KHÁC. McCaleb đã sao chụp hầu hết các hồ sơ của mình trước khi rời khỏi Cục. Làm thế là trái quy định, nhưng chẳng ai cản được ông. Các hồ sơ đựng trong mấy thùng này là của nhiều vụ án, đã phá xong cũng có mà chưa phá xong cũng có. Vài hồ sơ dày đến độ chất kín cả thùng, vài vụ thì đủ mỏng để có thể nằm chung trong một thùng. Ông không biết chắc tại sao mình đã không sao chụp tất tật mọi thứ. Từ khi nghỉ việc đến giờ ông chưa bao giờ mở thùng nào. Nhưng thi thoảng ông cũng có nghĩ mình sẽ viết một cuốn sách hoặc thậm chí tiếp tục tham gia điều tra các vụ công khai. Tuy nhiên, nhìn chung đấy chỉ là vì ông thích luôn có những hồ sơ đó bên cạnh mình, như là bản tường thuật hay minh chứng cho những gì ông đã làm trong phần đời đó của ông.

McCaleb ngồi xuống bàn làn việc, bật ngọn đèn gắn trên tường. Trong thoáng chốc, mắt ông đập vào cái huy hiệu FBI ông từng mang suốt mười sáu năm. Giờ đây nó được gắn vào một cái khung nhựa trong suốt treo tường, phía trên bàn. Đóng đinh trên tường bên cạnh nó là ảnh một cô bé mang niềng răng đang cười với ống kính. Ảnh được sao từ một cuốn niên giám nhiều năm về trước. McCaleb cau mày khi nhớ lại chuyện đó, liền quay đi, mắt ông chạm vào đống đồ tạp nham ở trên bàn.

Có một mớ chi phiếu và biên nhận rải rác trên bàn, một kẹp hồ sơ nhiều ngăn đựng đầy kết quả xét nghiệm y khoa, một chồng kẹp hồ sơ bằng giấy thô hầu như trống rỗng, ba tờ rơi của mấy hãng dịch vụ xưởng tàu cạn cạnh tranh nhau, và cuốn sách về quy định sử dụng Vũng Cabrillo. Cuốn sổ séc của ông để mở, sẵn sàng để được dùng, nhưng ông không có bụng dạ nào bắt tay vào cái nhiệm vụ của cõi đời thường là thanh toán các chi phiếu.

Lúc này thì không. Ông đang bứt rứt, nhưng đấy không phải vì sự trống rỗng trong tâm trí ông. Ông không sao thôi nghĩ về cuộc viếng thăm của Graciela Rivers và sự thay đổi bất ngờ mà nó đã khiến ông phải trải qua.

Ông sắp xếp đống hổ lốn trên bàn đâu vào đấy cho đến khi tìm ra mẩu cắt từ báo đã đưa người đàn bà kia đến thuyền ông. Bài đó thì ngay hôm báo ra ông đã đọc, cắt nó ra rồi thì cố quên đi. Nhưng quên đi là không thể. Bài báo đã kéo theo cả một chuỗi dài nạn nhân tìm đến thuyền của ông. Người mẹ có đứa con gái tuổi vị thành niên được tìm thấy xác trên bờ biển ở Redondo, cái xác bị cắt, bị rạch; cha mẹ của đứa con trai bị treo cổ chết trong một căn hộ ở Tây Hollywood. Người chồng trẻ có cô vợ đi họp câu lạc bộ ở Sunset Strip rồi không bao giờ trở về. Tất cả những người đó đều sống mà như chết, hầu như bị tâm thần phân liệt bởi đau buồn và thất vọng ê chề trước niềm tin vào một đấng Chúa Trời vốn lẽ ra phải không để những điều như vậy xảy ra. McCaleb không sao an ủi họ được, ông không thể giúp họ. Ông bảo họ từ đâu tới thì cứ đường ấy mà về.

Ông đã đồng ý cho tờ báo phỏng vấn chỉ vì ông nợ cô nhà báo. Hồi ông còn làm ở Cục, Keisha Russell vẫn luôn tốt với ông. Cô là loại nhà báo thi thoảng biết cho chứ không phải lúc nào cũng chỉ biết nhận. Cô đã gọi đến chỗ thuyền ông để gặp ông sớm hơn một tháng hầu thu khoản nợ đó. Cô được giao nhiệm vụ viết bài cho mục “Chuyện gì đã xảy ra với...” của tờ Thời báo. Từ năm ngoái cô đã viết một bài về chuyện McCaleb chờ có tim để ghép, nay cô muốn cập nhật thông tin một khi ông đã được ghép xong. McCaleb muốn khước từ lời mời, biết rằng bài phỏng vấn sẽ làm tiêu ma cuộc sống mai danh ẩn tích của ông hiện nay, nhưng Russell liền nhắc lại tất cả những lần cô đã giúp đỡ ông - không tiết lộ các chi tiết về một vụ điều tra hoặc có đưa chúng vào bài báo tùy theo McCaleb thấy thế nào là có ích. McCaleb cảm thấy ông không còn cách nào khác. Ông luôn sòng phẳng về chuyện nợ nần.

Vào hôm bài báo được đăng, McCaleb đã coi nó như là huy hiệu chính thức cho vị thế xưa kia ông từng có. Thường thì chuyên mục đó được dành để đăng những thông tin sốt dẻo nhất về các chính trị gia diều hâu đã biến mất khỏi chính trường địa phương hoặc những người mà sự nổi tiếng trong vòng mười lăm phút đã qua tự đời nào. Thi thoảng nó kể chuyện một ngôi sao truyền hình đã hết thời nay chuyển sang bán nhà đất hoặc trở thành họa sĩ bởi đó mới là thiên hướng sáng tạo đích thực của ông ta.

Giờ ông lại mở bài báo ra đọc lại.

Tim mới, khởi đầu mới cho cựu đặc vụ FBI

Keisha Russell

Phóng viên THỜI BÁO

Khuôn mặt Terrell McCaleb từng là một thứ hầu như bất di bất dịch trên chương trình tin tức hàng đêm của Los Angeles, lời ông nói luôn được báo chí địa phương dành sẵn chỗ. Nhẵn mặt như thế chẳng phải là điều thú vị gì cho cả ông lẫn cho dân thành phố.

Là nhân viên FBI, McCaleb là nhân vật chủ chốt của Cục trong việc điều tra một số vụ giết người hàng loạt đã hoành hành Los Angeles và miền Tây trong suốt thập kỷ qua.

Là thành viên của Đơn vị hỗ trợ điều tra, McCaleb đã giúp tập trung các cuộc điều tra của cảnh sát địa phương. Là người am hiểu giới truyền thông và luôn cho phép báo chí trích lời mình, ông thường xuất hiện trước ống kính - một động thái đôi khi làm cho cảnh sát địa phương cũng như cấp điều hành ở Quantico hiểu lầm mà nóng ruột.

Nhưng đã hơn hai năm qua ông không còn xuất đầu lộ diện trên màn hình trước công chúng nữa. Giờ đây McCaleb không còn mang huy hiệu hay súng nữa. Ông nói, ngay cả một bộ sắc phục FBI chuẩn màu xanh lính thủy ông cũng chẳng còn giữ được.

Nay thì ông thường xuyên mặc quần jeans cũ màu xanh, áo phông sờn rách, và ta có thể thấy ông đang cặm cụi phục hồi con thuyền đánh cá dài hơn 12 mét của mình, chiếc Biển Theo Ta. McCaleb, sinh quán ở Los Angeles và lớn lên ở Avalon trên đảo Catalina gần đó, hiện đang sống trên con thuyền tại một vũng neo thuyền ở San Pedro nhưng ông dự định sau này sẽ neo thuyền tại Bến Avalon.

Hiện đang phục hồi sau ca giải phẫu thay tim, McCaleb cho biết, tầm nã những tên giết người và hiếp dâm hàng loạt là điều xa xôi nhất trong tâm trí ông hiện giờ.

McCaleb, nay 46 tuổi, nói ông đã dâng trái tim mình cho Cục - các bác sĩ cho biết tình trạng stress trầm trọng đã kích hoạt một con vi rút khiến cho trái tim từ cha sinh mẹ đẻ của ông bị suy yếu đến mức suýt nữa làm ông mất mạng - nhưng ông không hề hối tiếc.

“Một khi ta đã trải qua một điều như vậy, nó khiến ta thay đổi không chỉ về mặt thể chất,” ông nói trong một cuộc phỏng vấn hồi tuần trước. “Nó khiến ta nhìn mọi việc từ một khoảng cách xa hơn. Những ngày làm ở FBI dường như là một thời nào đó xa lắm rồi. Nay tôi đã có khởi đầu mới. Tôi không biết chắc mình sẽ làm gì với khởi đầu mới này đây, nhưng tôi chẳng lo lắng cho lắm. Tôi sẽ tìm ra điều gì đó.”

McCaleb suýt nữa đã không có được sự khởi đầu mới. Bởi vì ông có nhóm máu hiếm, trăm người thì chưa tới một người có, nên để có trái tim thích hợp ông đã phải chờ gần hai năm.

“Thật sự là anh ấy chịu hết nổi rồi,” Bác sĩ Bonnie Fox, người đã giải phẫu thay tạng cho McCaleb, nói. “Nếu phải đợi lâu thêm nữa thì có khi chúng tôi đã mất anh ấy rồi, không thì anh ấy cũng đã đâm ra yếu quá không chịu nổi phẫu thuật nữa.”

Chỉ sau tám tuần McCaleb đã được ra viện và khỏe khoắn bình thường. Ông cho biết chỉ thỉnh thoảng ông mới nghĩ tới những cuộc điều tra khiến adrenaline tăng vọt vốn đã có một dạo cứ khiến ông bận tâm mãi.

Bản danh mục các vụ án mà cựu đặc vụ FBI này từng phá đọc lên nghe như danh sách những ngôi sao lừng tiếng nhưng là một kiểu lừng tiếng rùng rợn, hắc ám. Trong số các vụ mà ông từng điều tra ở Los Angeles có các vụ Kẻ rình đêm và Nhà thơ, rồi thì ông cũng đóng vai trò chủ chốt trong các vụ săn lùng Sát thủ Mật mã, Tên Thắt cổ Đại lộ Hoàng hôn và Luther Hatch, tên Hatch này sau khi bị bắt liền được dân chúng biết tới dưới cái tên Người Nghĩa địa vì hắn vào trong nghĩa địa để viếng mồ các nạn nhân của hắn.

McCaleb từng là chuyên viên lập chân dung tội phạm tại trụ sở FBI tại Quantico trong vòng mấy năm. Ông chuyên trách các vụ ở vùng Bờ Tây và thường xuyên được cử đến Los Angeles hỗ trợ cảnh sát địa phương trong các cuộc điều tra. Cuối cùng, các cấp lãnh đạo của đơn vị quyết định lập ra một vị trí vệ tinh ở thành phố này, thế là McCaleb được quay về quê nhà Los Angeles để làm việc cho phòng tác chiến FBI tại Westwood. Nhờ sự thuyên chuyển này mà trong nhiều cuộc điều tra, nếu FBI được yêu cầu hỗ trợ thì McCaleb đã có mặt sẵn gần như tại chỗ.

Không phải cuộc điều tra nào cũng thành công và cuối cùng sức ép tâm lý cũng buộc McCaleb trả giá. Ông trúng một cơn đau tim giữa lúc đang làm việc đến khuya tại phòng tác chiến địa phương. Người phát hiện ra ông bị đau là nhân viên trực đêm, người này được ghi nhận là đã có công cứu mạng McCaleb. Bác sĩ xác định McCaleb bị chứng đau cơ tim thời kỳ muộn và ghi tên ông vào danh sách thay tim. Trong khi chờ đợi, ông bị Cục cho nghỉ việc vì bệnh.

Ông đổi máy nhắn tin của Cục để lấy máy nhắn tin của bệnh viện và vào ngày 9 tháng Hai nó reo vang; đã có trái tim của một người hiến cùng nhóm máu. Sau sáu giờ phẫu thuật tại Trung tâm Y tế Cedars-Sinai, tim của người hiến đã đập trong lồng ngực McCaleb.

McCaleb không biết chắc mình sẽ làm gì với cuộc đời mình - trừ mỗi chuyện đi câu là ông biết chắc. Nhiều cựu đặc vụ và thanh tra cảnh sát đã ngỏ lời mời ông nhập hội với tư cách điều tra viên tư hoặc cố vấn cao cấp. Nhưng cho đến giờ ông chỉ tập trung vào việc phục hồi Biển Theo Ta, một con thuyền câu cá thể thao đã hai mươi năm tuổi mà ông thừa kế của cha. Con thuyền đã bị bỏ mặc cho xuống cấp suốt sáu năm trời nhưng giờ đây McCaleb có thể dành toàn bộ thời gian chăm sóc nó.

“Hiện thời tôi bằng lòng với việc chuyện gì cũng vậy, cứ thủng thẳng, tới đâu hay đó,” ông nói. “Tôi chẳng quá bận tâm về chuyện mai kia sẽ thế nào.”

Ông chẳng hối tiếc gì nhiều, nhưng cũng như mọi điều tra viên và ngư phủ về hưu, McCaleb than thở về những người đã ra đi mãi mãi.

“Tôi ước gì mình đã phá được tất cả các vụ án,” ông nói. “Tôi căm ghét những khi có ai đó ra đi mãi mãi. Đến giờ tôi vẫn vậy.”

McCaleb săm soi một hồi bức ảnh người ta dùng trong bài báo. Đó là ảnh chụp riêng phần đầu, đã được người ta sử dụng nhiều lần hồi trước, khi ông còn làm việc ở Cục. Mắt ông nhìn chăm chắm vào máy ảnh.

Khi Keisha Russell đến gặp để viết bài về ông, cô ta đi cùng với một tay nhiếp ảnh. Nhưng McCaleb không cho họ chụp ảnh mới. Ông bảo họ dùng một trong các ảnh cũ. Ông không muốn ai nhìn thấy bộ dạng ông lúc này.

Cũng chẳng phải ai nhìn cũng biết, chừng nào ông chưa cởi áo ra. Bây giờ ông nhẹ hơn chừng hơn chục kí lô, nhưng đó không phải cái ông muốn giấu. Mà là cặp mắt. Ông đã đánh mất cái nhìn đó - cặp mắt rắn đanh, xuyên thấu như hai viên đạn. Ông không muốn bất cứ ai biết ông đã đánh mất cái nhìn đó.

Ông gập bài báo lại để sang bên. Ông gõ gõ mấy ngón tay lên mặt bàn suốt vài giây trong khi nghiền ngẫm mọi chuyện, rồi nhìn cái đinh sắt dùng để ghim giấy ghi nhớ đặt cạnh máy điện thoại. Số điện thoại Graciela Rivers đưa cho ông được ghi nguệch ngoạc bằng bút chì nơi mẩu giấy nằm ở trên cùng xấp giấy ghi nhớ ghim xuyên qua cây đinh.

Hồi còn làm nhân viên FBI, ông thường mang trong mình một nguồn căm giận mênh mông không đáy đối với những kẻ mà ông săn đuổi. Ông là người đầu tiên chứng kiến những gì chúng đã làm và ông muốn chúng phải trả giá cho sự hiện thực hóa rùng rợn những điều hoang tưởng chúng nghĩ ra. Nợ máu phải trả bằng máu. Chính vì vậy mà ở đơn vị chống bọn giết người hàng loạt ở Cục, các đặc vụ gọi công việc của họ là “việc máu”. Chẳng còn cách nào khác khả dĩ mô tả nó. Thế nên mỗi khi có kẻ nào không trả nợ, ông luôn dằn vặt, luôn đau đớn. Mỗi lần có kẻ nào đó thoát thân trót lọt.

Những gì xảy ra với Gloria Rivers giờ đây khiến ông đau đớn. Ông còn sống bởi vì cô đã bị cái ác cướp đi. Graciela đã kể cho ông nghe chuyện đó. Gloria đã chết chẳng vì lý do nào khác ngoài lý do cô đang chắn đường giữa kẻ nào đó với một người thu ngân. Chết vì lý do đó thì thật đơn giản, thật ngu xuẩn và thật đáng sợ. Dù thế nào đi chăng nữa, nó khiến cho McCaleb mắc nợ. Với cô và đứa con cô, với Graciela, với chính mình.

Ông nhấc điện thoại lên, quay dãy số ghi nguệch ngoạc trên mảnh giấy. Đã khuya, nhưng ông không muốn đợi và cũng không cho rằng nàng ta muốn ông đợi. Nàng ta trả lời trong vòng một hơi thở chỉ sau một hồi chuông.

“Cô Rivers?”

“Vâng.”

“Terry McCaleb đây. Cô có ghé chỗ...”

“Vâng.”

“Gọi giờ này có muộn quá không?”

“Không.”

“Được, nghe đây, tôi muốn nói với cô là, ờ, tôi cứ nghĩ mãi về mọi chuyện và đã hứa với cô là sẽ gọi lại cho cô dù tôi quyết định thế nào.”

“Phải.”

Có âm sắc hy vọng dù chỉ trong một từ ấy của nàng. Nó làm tim ông rúng động.

“Ừ, thì tôi nghĩ thế này. Kỹ, ừm, kỹ năng của tôi, chắc là cô sẽ gọi thế, nó không thực sự phù hợp với loại tội phạm này. Từ những gì cô mô tả cho tôi về em gái cô, chúng ta đang nói tới một tình huống ngẫu nhiên có động cơ về tài chính. Một vụ cướp. Thành thử nó khác với, ừ, cô biết đấy, với những vụ thuộc loại như tôi từng làm hồi còn ở Cục, là những vụ giết hàng loạt ấy.”

“Tôi hiểu.”

Vẻ hy vọng kia tan biến.

“Không, tôi không nói là tôi sẽ... ờ, là tôi không quan tâm. Tôi gọi là vì ngày mai tôi sẽ đến chỗ cảnh sát để hỏi về vụ này. Nhưng...”

“Cám ơn.”

“... Tôi không biết tôi sẽ làm được đến đâu. Tôi muốn nói là nói thế. Tôi không muốn làm cô quá hy vọng, tôi muốn nói vậy. Những chuyện này... Tôi không biết.”

“Tôi hiểu. Cám ơn ông dù chỉ vì ông muốn làm việc này. Không ai...”

“Được rồi, tôi sẽ xem xét mọi chuyện,” ông nói, cắt lời nàng. Ông không muốn nàng cảm ơn ông quá nhiều. “Tôi không biết bên cảnh sát Los Angeles sẽ giúp tôi theo kiểu gì, nhưng tôi làm được gì thì sẽ làm. Ít nhất là tôi nợ em cô ngần đó. Phải cố thử xem.”

Nàng im lặng, và ông cho nàng biết ông cần thêm ít thông tin về em gái nàng cũng như tên của các thám tử bên cảnh sát Los Angeles phụ trách vụ này. Họ trò chuyện trong khoảng mười phút, và khi ông đã ghi toàn bộ thông tin mình cần vào một cuốn sổ nhỏ, một chút im lặng lúng túng diễn ra từ đầu này đến đầu kia đường dây điện thoại.

“Được rồi,” cuối cùng ông nói. “Chắc vậy đủ rồi. Tôi sẽ gọi cho cô nếu có câu hỏi nào khác hoặc nảy ra điều gì khác.”

“Cám ơn ông lần nữa.”

“Có gì đó bảo tôi rằng tôi phải cám ơn cô mới đúng. Tôi rất vui nếu như tôi làm được việc này. Tôi chỉ mong là có ích phần nào thôi.”

“Ồ, sẽ có ích chứ. Ông đã được trái tim của nó. Nó sẽ dẫn dắt ông.”

“Phải,” ông ngập ngừng nói, không thực sự hiểu ý nàng muốn nói gì hoặc tại sao ông lại tán đồng. “Khi được tôi sẽ gọi cho cô.”

Ông gác máy và nhìn chăm chăm vào cái điện thoại suốt mấy giây mà ngẫm nghĩ về câu nói cuối cùng của nàng. Rồi một lần nữa ông giở bài báo có ảnh chụp mình. Ông săm soi cặp mắt một hồi lâu.

Cuối cùng, ông gấp bài báo lại giấu dưới một số giấy tờ trên bàn. Ông tìm cô gái đeo niềng răng và sau một chốc liền gật gật đầu. Rồi ông tắt đèn.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,467
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 4


Hồi McCaleb còn làm ở FBI, các nhân viên cùng làm việc với ông gọi vùng Los Angeles này là “điệu tango khó nhảy”. Khó ở chỗ họ cứ luôn phải đi những bước thật tế nhị với cảnh sát địa phương. Đó vừa là chuyện cái tôi lại vừa là chuyện rừng nào cọp nấy. Chó này không đái ở sân nhà chó khác. Nếu không được phép thì không.

Chẳng có tay cớm chuyên phá án giết người nào mà không có một cái tôi thật mạnh. Đó là một yêu cầu công việc ngặt nghèo. Để làm được việc, anh phải biết tự trong thâm tâm rằng mình phù hợp với nhiệm vụ, rằng anh giỏi hơn, khôn hơn, khỏe hơn, cừ hơn, tuyệt kỹ hơn và kiên nhẫn hơn đối thủ của anh. Anh phải biết rõ mười mươi rằng anh sẽ thắng. Và nếu có chút hoài nghi gì về chuyện đó thì anh phải rút lui, đi mà phá mấy vụ trộm hoặc tuần tra theo phiên hay làm việc gì đó khác. Vấn đề là ở chỗ, cái tôi của kẻ phá án giết người thường không được kiểm soát, cho đến độ một số thám tử đem cái quan điểm vốn có của mình về đối thủ mà áp luôn những người muốn giúp họ - các điều tra viên cộng sự, nhất là đặc vụ FBI. Không một cảnh sát chuyên án giết người nào đương khi gặp một vụ giậm chân tại chỗ mà lại muốn người ta bảo họ rằng chắc chắn hẳn một người khác - nhất là một đặc vụ liên bang từ Quantico tới - sẽ giúp được họ hoặc làm tốt hơn họ. Kinh nghiệm bản thân cho McCaleb biết rằng khi một cảnh sát chịu thua và cất một vụ án vào kho lạnh, anh ta âm thầm chẳng muốn có ai khác lại lôi ra và phá được vụ đó, qua đấy họ chứng minh rằng anh ta sai. Với tư cách nhân viên FBI, McCaleb hầu như chưa bao giờ được một cảnh sát hàng đầu nào đề nghị tham gia một vụ hay gọi điện xin lời khuyên nhủ. Có chăng thì đó luôn luôn là ý của cấp trên. Cấp trên không quan tâm tới những cái tôi hay tới chuyện tình cảm của ai đó bị tổn thương. Cấp trên quan tâm là quan tâm tới việc phá án và làm sao cho báo cáo thống kê tốt hơn lên. Thế cho nên người ta gọi Cục, rồi thì McCaleb sẽ nhập cuộc và phải tham gia điệu nhảy với tay thám tử chính. Đôi khi đó là một điệu nhảy hài hòa suôn sẻ giữa hai bên đối tác hợp ý nhau. Nhưng thường đó là điệu tango khó nhảy. Người ta giẫm lên ngón chân nhau, những cái tôi bị bầm dập. Đã hơn một lần McCaleb ngờ rằng một tay thám tử mà ông cộng tác đang giấu không tiết lộ thông tin hoặc ngấm ngầm đắc ý khi McCaleb không giúp nhận diện được nghi phạm hay phá được một vụ án. Đó là một phần của lối hành xử nhỏ nhen theo kiểu cát cứ mỗi người một cõi trong giới hành pháp. Đôi khi sự quan tâm đến nạn nhân hay gia đình nạn nhân thậm chí còn không được họ coi là món chính. Nó chỉ là món tráng miệng. Và đôi khi cũng chẳng hề có cả món tráng miệng nào.

McCaleb biết khá rõ rằng lần này ông đối mặt với một bản tango khó nhảy với Cảnh sát Los Angeles. Ừ hình như họ đã kẹt cứng trong việc điều tra vụ Gloria Torres và có thể cần ông giúp đỡ, nhưng điều đó cũng chẳng có nghĩa lý gì. Cái chính là chuyện cát cứ. Đã vậy thậm chí ông không còn làm ở FBI nữa. Ông sẽ vào đấy với người trơn, ngay cả huy hiệu cũng không. Tất cả những gì ông có khi bước vào Cảnh sát Phân khu West Valley vào lúc bảy rưỡi sáng thứ Ba chỉ là cái túi xách bằng da và một gói bánh rán. Ông sẽ phải nhảy một bản tango khó nhảy mà không có nhạc.

McCaleb chọn tới vào giờ đó là vì ông biết hầu hết thám tử bắt đầu làm việc sớm để có thể xong việc sớm. Đó là lúc ông có nhiều cơ hội nhất để gặp được hai người đảm nhiệm vụ Gloria Torres ở cơ quan họ. Graciela đã cho ông họ tên hai người này. Arrango và Walters. McCaleb không biết hai người này, nhưng ông từng gặp viên sĩ quan chỉ huy họ là Trung úy Dan Buskirk từ vài năm trước nhân vụ Sát thủ Mật mã. Nhưng đó là một mối quan hệ hời hợt. McCaleb không biết Buskirk nghĩ gì về ông. Tuy nhiên, ông quyết định rằng tốt nhất sẽ theo đúng quy tắc, đầu tiên là gặp Buskirk đã, sau đó thì may ra sẽ gặp Arrango và Walters.

Phân khu West Valley nằm trên Phố Owensmouth ở Reseda. Sở cảnh sát mà đặt ở chỗ này thì xem ra hơi lạ. Hầu hết các sở cảnh sát Los Angeles đều đặt ở những khu nóng nhất, nơi cần cảnh sát để mắt tới nhiều nhất. Chúng đều có tường bê tông quây kín cổng vào để ngăn những vụ lái xe vào trong sân mà xả đạn. Nhưng West Valley thì khác. Không có thanh chắn. Sở này thì lại là khung cảnh điền viên, trung lưu, kiểu khu dân cư. Một bên có một thư viện còn bên kia là công viên, lề đường phía trước rất nhiều chỗ đậu xe. Phía bên kia đường là một dãy nhà trệt có mái thoai thoải đúng điệu Thung lũng San Pemando.

Sau khi taxi thả McCaleb xuống ở đằng trước, ông bước vào qua hành lang chính, thản nhiên chào một trong các sĩ quan mặc đồng phục ở sau quầy rồi đi về phía hành lang trái. Ông không hề tỏ chút do dự. Ông biết hành lang này dẫn tới văn phòng thám tử bởi hầu hết các phân khu cảnh sát đều được bố trí theo cách đó.

Người mặc đồng phục không ngăn McCaleb lại, điều đó khích lệ ông. Có lẽ là vì gói bánh rán ông cầm theo, nhưng ông lại cho điều đó có nghĩa là ông vẫn giữ được ít nhất một phần cái vẻ đó - dáng đi tự tin của một người đeo súng và huy hiệu. Mà cả hai thứ đó ông đều không có.

Sau khi vào văn phòng thám tử, ông đến chỗ một quầy khác. Bằng cách tì người vào quầy và cúi về phía trước, ông có thể nhìn về bên trái, dòm qua ô cửa kính gian phòng làm việc nhỏ mà ông biết là của viên trung úy đội trưởng. Phòng trống không.

“Tôi giúp gì được ông?”

Ông thẳng người dậy nhìn viên cảnh sát trẻ vừa từ một cái bàn gần đó tiến lại quầy tiếp tân. Có lẽ là một học viên được giao nhiệm vụ đứng quầy. Thường thì người ta dùng những người lớn tuổi trong khu dân cư quanh đây tình nguyện dành thời gian làm việc này, hoặc những cảnh sát được giao việc nhẹ vì đang chấn thương hoặc chịu án phạt.

“Tôi mong gặp Trung úy Buskirk. Ông ấy có đây không?”

“Ông ấy đang họp ở văn phòng Valley. Tôi có thể giúp gì ông không?”

Thế nghĩa là Buskirk đang ở chỗ Van Nuys tại văn phòng chỉ huy toàn vùng Valley. Kế hoạch của McCaleb muốn gặp ông ta trước thế là vứt xuống sông xuống bể. Giờ ông có thể đợi Buskirk hoặc ra về, sau quay lại. Nhưng đi đâu? Thư viện ư? Thậm chí gần đây không có cả một quán cà phê nào có thể đi bộ tới. Ông quyết định thử vận may với Arrango và Walters. Ông muốn mọi việc tiếp tục tiến triển.

“Thế còn Arrango hay Walters bên ban chuyên án giết người?”

Tay cảnh sát liếc nhìn một cái bảng nhựa gắn trên tường, bên trái từ trên xuống có ghi những cái tên, ứng với những hàng ô để đánh dấu với ghi chú CÓ MẶT, VẮNG, cũng như NGHỈ PHÉP và Ở TÒA.

Nhưng ứng với mấy cái tên Arrango và Walters không có một ô nào đánh dấu cả.

“Để tôi xem,” người tiếp tân nói. “Tên ông là gì?”

“Tên tôi là McCaleb, nhưng tên tôi chẳng có nghĩa gì đối với họ đâu. Bảo họ là tôi đến về vụ Gloria Torres.”

Nhân viên tiếp tân quay lại bàn mình, bấm ba con số trên điện thoại. Anh ta nói thầm thì. Khi đó McCaleb biết rằng đối với tay nhân viên tiếp tân này, ông không có cái vẻ đó. Trong khoảng nửa phút cuộc gọi chấm dứt và tay tiếp tân chẳng buồn đứng dậy khỏi bàn.

“Quay lại, cuối hành lang, cửa đầu tiên bên phải.”

McCaleb gật, cầm lấy gói bánh rán để trên bàn rồi làm theo chỉ dẫn. Khi đến gần, ông kẹp cái túi da ở một bên nách để có thể mở cửa. Song giữa lúc ông đang vươn tay ra thì cửa mở. Một người đàn ông mặc sơ mi trắng, thắt cà vạt đứng đó. Súng lục của anh ta giắt trong giáp đeo vai buộc chéo dưới tay phải. Đây là một dấu hiệu xấu. Dân thám tử hiếm khi dùng vũ khí, thám tử chuyên án giết người thì lại càng hiếm. Bất cứ khi nào McCaleb thấy một thám tử chuyên án giết người mang giáp đeo vai thay vì một cái thắt lưng tiện lợi hơn thì ông biết mình đang đối mặt với một cái tôi cực đại. Ông hầu như thở dài thành tiếng.

“Ông McCaleb?”

“Tôi đây.”

“Tôi là Eddie Arrango, tôi có thể làm gì cho anh? Tay ngoài kia nói anh tới đây là về vụ Gloria Torres?”

Họ bắt tay nhau sau khi McCaleb vụng về chuyển gói bánh rán sang tay trái.

“Đúng vậy.”

Gã là người to lớn dềnh dàng, to bề ngang hơn chiều đứng. Người gốc Mỹ La tinh, đầu tròn xoay, tóc đen nhánh lốm đốm bạc. Trạc bốn tư, bốn lăm tuổi, người rắn chắc, không có bụng thòi ra khỏi thắt lung. Rất hợp với cái giáp đeo vai. Gã đứng chắn toàn bộ cửa và chẳng làm cử chỉ nào tỏ ý mời khách vào phòng.

“Có nơi nào chúng ta có thể nói về chuyện này không?”

“Nói về chuyện gì?”

“Tôi muốn xem xét vụ ám sát cô ấy.”

Chà, nói thế này mới khéo chửa. McCaleb nghĩ.

“Ồ, cục cứt, ra là vậy đó,” Arrango nói.

Gã lắc đầu bực tức, liếc nhìn sau lưng rồi lại nhìn McCaleb.

“Được rồi,” gã nói, “làm cho xong đi. Anh có mười phút, lâu hơn thế thì tôi tống cổ anh khỏi đây.”

Gã xoay người lại, và McCateb theo gã vào một căn phòng đầy chật những bàn giấy và thám tử. Vài người đang làm việc dở ngẩng lên nhìn McCaleb, kẻ không mời mà đến, song hầu hết chẳng buồn để ý. Arrango búng ngón tay để một thám tử ngồi nơi bàn dọc bức tường phía xa phải chú ý. Anh ta đang gọi điện thoại nhưng ngẩng lên thì thấy Arrango ra hiệu với anh ta. Người này gật đầu và giơ một ngón tay lên. Arrango dẫn đường vào một phòng dùng để thẩm vấn, có một cái bàn nhỏ đẩy sát vào một bức tường và ba cái ghế. Nó còn nhỏ hơn một xà lim tù. Gã đóng cửa lại.

“Ngồi đi. Một phút nữa cộng sự tôi sẽ đến.”

McCaleb ngồi vào ghế đối diện với bàn. Thế nghĩa là Arrango hẳn sẽ ngồi vào ghế bên phải McCaleb hoặc buộc phải lên sau lưng ông để đến ngồi ở ghế bên trái ông. McCaleb muốn gã ngồi bên phải. Đó chỉ là chuyện nhỏ, nhưng là một thủ tục mà ông luôn tuân thủ hồi còn làm nhân viên FBI. Hãy cho người mà ta cùng trò chuyện ngồi ở bên phải. Thế nghĩa là họ nhìn ta từ bên trái và sử dụng phía bên não kém khả năng phân định và phán đoán hơn.

Một nhà tâm lý học ở Quantico từng cho cái mẹo này trong khi đứng lớp về kỹ thuật thôi miên và thẩm vấn. McCaleb không chắc liệu lần này có hiệu quả không, nhưng ông muốn giành được bất cứ lợi thế nào có thể giành. Và ông nghĩ với tay Arrango này thì ông cần có một lợi thế.

“Anh ăn cái bánh rán nhé?” ông hỏi trong khi Arrango ngồi vào ghế bên phải.

“Không, tôi không muốn ăn cái bánh nào của anh hết. Tôi chỉ muốn anh cứ đi đường anh và cút khỏi đường của tôi. Là do bà chị gái phải không? Anh đang làm việc cho mụ chị gái chết tiệt. Đưa tôi xem giấy của anh. Tôi không thể tin rằng mụ ta phí tiền vào…”

“Nếu ý anh muốn nói giấy phép hành nghề thì tôi không có.”

Arrango gõ gõ mấy ngón tay lên mặt bàn sứt sẹo trong khi ngẫm nghĩ.

“Trời ạ, anh biết là ở đây ngột ngạt quá. Lẽ ra không nên để phòng kín mít thế này.”

Arrango là một kịch sĩ tồi. Gã thốt ra câu đó như thể đọc lên từ một cái biểu đồ in trên tường. Gã đứng dậy, chỉnh sửa bộ điều nhiệt trên tường cạnh cửa ra vào rồi lại ngồi xuống. McCaleb biết rằng gã vừa mới mở máy thu âm cũng như máy quay phim giấu sau lưới dẫn khí phía trên cửa ra vào.

“Trước hết, anh nói anh đang tiến hành điều tra vụ ám sát Gloria Torres, điều đó đúng không?”

“Thật ra thì tôi chưa bắt đầu. Tôi phải nói chuyện với anh trước, rồi thì khỏi đi từ đó.”

“Nhưng anh đang làm việc cho chị của nạn nhân?”

“Graciela Rivers có yêu cầu tôi xem xét vụ này, có thế thật.”

“Và anh không có giấy phép của bang California để hành nghề điều tra viên tư, đúng không?”

“Đúng.”

Cửa mở và người mà Arrango ra hiệu ban nãy bước vào phòng. Không quay lại nhìn cộng sự, Arrango giơ một tay lên, các ngón xòe ra, ý bảo tay kia đừng ngắt ngang. Kẻ mà McCaleb đồ chừng là Walters đứng khoanh tay, tựa vào bức tường cạnh cửa.

“Này anh, anh có hiểu rằng hành nghề điều tra viên tư ở bang này mà không có giấy phép là có tội không? Tôi có thể bắt anh vì tội vi phạm pháp luật ngay bây giờ.”

“Lấy tiền thiên hạ để hành nghề điều tra viên tư mà không có giấy phép hợp lệ là phạm pháp, ấy là chưa nói vô đạo đức. Phải, điều đó tôi biết.”

“Khoan đã. Anh bảo tôi là anh làm việc này không lấy tiền?”

“Đúng vậy. Như một người bạn của gia đình.”

McCaleb nhanh chóng mệt mỏi với cái kiểu trò chuyện nhảm nhí này, ông chỉ muốn nói nhanh vào sự vụ chính, vì nó ông mới có mặt ở đây.

“Thôi nào, liệu chúng ta có thể bỏ qua cái trò nói năng bá láp và tắt quách máy ghi âm với camera đi mà chỉ nói chuyện trong vài phút được không? Ngoài ra, cộng sự của anh đang đè vào máy ghi âm đó. Anh sẽ chẳng ghi được gì hết đâu.”

Walters nhảy dựng ra khỏi cái máy điều nhiệt ngay khi Arrango quay lại thì thấy McCaleb nói đúng. “Sao cậu không bảo tớ?” Walters nói với cộng sự.

“Im đi.”

“Này, ăn bánh rán đi, các anh,” McCaleb nói. “Tôi đến để giúp mà.”

Arrango quay lại McCaleb, vẫn hơi bối rối.

“Làm thế quái nào anh biết là có ghi âm?”

“Bởi vì ở bất cứ văn phòng thám tử nào trong thành phố các anh cũng có cùng một cách bố trí như nhau hết. Mà tôi thì đã tới hầu hết các văn phòng đó rồi. Trước kia tôi vẫn làm ở Cục. Thành thử tôi mới biết.”

“FBI á?” Walters hỏi.

“Nhân viên FBI về hưu. Graciela Rivers là chỗ quen biết với tôi. Cô ấy nhờ tôi xem xét vụ này, và tôi nói tôi sẽ xem. Tôi muốn giúp.”

“Tên anh là gì?” Walters hỏi.

Hiển nhiên là Walters hiểu ra mọi việc chậm hơn vì ban nãy anh ta bận nghe điện thoại. McCaleb đứng dậy chìa tay ra. Walters bắt tay McCaleb trong khi ông tự giới thiệu. Walters trẻ hơn Arrango. Da trắng bệch bạc, dáng thanh mảnh. Quần áo anh ta rộng thùng thình, cho thấy tủ quần áo anh ta không hề được bổ sung cho phù hợp từ khi anh ta bị giảm cân nghiêm trọng. Theo chỗ McCaleb thấy thì anh ta không hề mang bao súng. Có lẽ anh ta luôn để súng trong ngăn tủ, chừng nào ra phố mới mang theo. Là loại cớm như McCaleb. Walters biết rằng khẩu súng không làm nên con người. Cộng sự anh ta thì không.

“Tôi biết anh,” anh ta nói, trỏ một ngón tay vào McCaleb. “Anh là người đó. Tay chuyên án hàng loạt.”

“Cậu nói cái gì vậy hả?” Arrango hỏi.

“Thì mấy tay chuyên lập chân dung tội phạm ấy mà. Đội chuyên án giết người hàng loạt. Anh là người mà họ hay cử tới đây, bởi hầu hết các vụ xương nhất toàn là ở đây hết. Anh ấy làm vụ Tên Thắt cổ Đại lộ Hoàng hôn, gì nữa nhỉ, vụ Sát thủ Mật mã, thằng cha đào xác ngoài nghĩa địa, rồi còn một lô vụ ở đây nữa.”

Rồi anh ta chú ý trở lại vào McCaleb.

“Đúng không?”

McCaleb gật. Walters búng mấy ngón tay.

“Chả phải mới đây tôi vừa đọc được về ông sao? Đâu như tờ Thời láo thì phải?”

McCaleb lại gật.

“Mục ‘Chuyện gì đã xảy ra với…’ Cách đây hai Chủ nhật.”

“Đúng rồi. Anh được thay tim, đúng không?”

McCaleb gật. Ông biết rằng nhờ có biết nhau mà hai bên sẽ thoải mái hơn. Cuối cùng thì họ sẽ vào việc được.

Walters vẫn đứng sau lưng Arrango nhưng McCaleb thấy cái nhìn của anh ta hạ xuống cái gói đặt trên bàn.

“Anh có muốn ăn cái bánh rán không, Thám tử? Tôi không muốn thấy chỗ bánh này bị bỏ phí. Tôi chưa ăn sáng nhưng tôi sẽ không ăn nếu các anh không ăn.”

“Tôi ăn đây nhé,” Walters nói.

Trong khi tiến lại gần mở gói bánh ra, anh ta cứ lo ngay ngáy nhìn cộng sự. Khuôn mặt Arrango trơ như đá, Walters lấy ra một cái bánh phết xi rô. McCaleb lấy một cái bánh đường hương quế, rồi thì Arrango cũng dịu đi và miễn cưỡng lấy một cái phủ đường tán. Họ lặng lẽ ăn một hồi, rồi thì McCaleb thò tay vào trong cái áo khoác thể thao đang mặc, rút ra một xấp giấy ăn ông thó được ở cửa hàng Winchell. Ông ném xấp giấy lên bàn và mỗi người lấy một tờ.

“Vậy là lương hưu của bên cục ít quá nên anh phải điều tra tư để kiếm tiền, hử?” Walters hỏi, mồm đầy bánh rán.

“Tôi không phải đang điều tra tư. Người chị kia là chỗ quen biết. Như tôi đã nói, tôi làm không lấy tiền.”

“Chỗ quen biết á?” Arrango nói. “Anh nói thế là lần thứ hai rồi đấy. Anh biết cô ta rõ đến đâu nào?”

“Tôi sống trên một chiếc thuyền dưới bến tàu. Một hôm tôi gặp cô ấy nơi vũng du thuyền. Cô ấy thích tàu thuyền. Chúng tôi gặp nhau. Cô ấy phát hiện hồi xưa tôi làm gì cho FBI nên liền bảo tôi thử xem xét vụ này xem. Có vấn đề gì à?”

Ông không biết chắc tại sao ông đang che giấu sự thực đến mức gần như nói dối. Ngoài chuyện chưa gì ông đã thấy không ưa Arrango, ông không cảm thấy muốn tiết lộ mối liên hệ thực giữa ông với Gloria Torres và Graciela Rivers.

“Thôi được,” Arrango nói. “Tôi không biết cô ta bảo anh những gì về chuyện này, nhưng đây là một vụ cướp cửa hàng bách hóa thường tình, anh bạn FBI ạ. Đây không phải như mấy vụ Charlie Manson hay Ted Bundy hay Jeffrey Fucking Dahmer. Đây không phải là khoa học tên lửa. Vụ này chỉ là một thằng vô công rồi nghề nào đeo mặt nạ xách súng và một tỉ lệ thích hợp kẹo đồng nã vào đầu đặng kiếm dăm đô. Đây chả phải kiểu như mấy vụ anh thường thấy, tôi muốn nói là nói thế.”

“Cái đó tôi biết,” McCaleb nói. “Nhưng tôi đã nói với cô ấy là tôi sẽ xem xem. Vụ ấy sao rồi, dẳng dai đã hai tháng nay phải không? Tôi nghĩ các anh chắc sẽ không phiền nếu có một đôi mắt khác với cái nhìn mới mẻ ghé vào xem xét một vụ mà các anh không thể dành nhiều thời gian thêm nữa.”

Walters cắn câu.

“Đội của chúng tôi từ đó tới giờ đã rút bốn vụ, còn Eddie hai tuần qua đang dự phiên tòa ở chỗ Van Nuys,” anh nói. “Còn về vụ Rivers thì...”

“Vẫn đang tiến hành,” Arrango nói, cắt ngang lời cộng sự.

McCaleb nhìn từ Walters sang Arrango.

“Phải... Hẳn rồi.”

“Và chúng tôi có quy tắc là không mời mấy tay nghiệp dư vào những vụ đang tiến hành.”

“Nghiệp dư?”

“Anh không có huy hiệu, không có giấy phép hành nghề tư, với tôi thế là nghiệp dư.”

McCaleb lờ đi lời sỉ nhục đó. Ông đoán rằng Arrango chỉ là đang tìm cách hạ thấp ông. Ông dấn tới.

“Đó là một trong những quy tắc các anh thường đưa ra khi nào có lợi,” ông nói. “Nhưng tất cả chúng ta ở đây đều biết tôi có thể giúp các anh. Điều các anh cần biết là tôi có mặt ở đây không phải để làm các anh bẽ mặt. Hoàn toàn không. Nếu tôi tìm được bất cứ cái gì, các anh sẽ là người đầu tiên được biết. Nghi phạm, manh mối, tất tật. Sẽ về chỗ các anh hết cả. Tôi chỉ muốn cộng tác một chút với các anh, thế thôi.”

“Cộng tác chính xác là với hình thức nào chớ?” Arrango hỏi. “Giống như tay cộng sự lắm lời của tôi thường nói, chúng tôi ở đây rất bận.”

“Cho tôi bản sao hồ sơ vụ án đi. Bất cứ băng video nào các anh có nữa. Tôi rất giỏi về hiện trường vụ án. Đó là chuyên môn của tôi mà. Tôi có thể giúp các anh ở mặt đó. Chỉ cần sao cho tôi những gì các anh có, rồi thì tôi sẽ không ngáng đường các anh nữa.”

“Thật ra là anh muốn nói rằng theo anh tụi tôi làm ăn đếch ra gì. Rằng câu trả lời nằm chềnh ềnh đó trong sổ, chỉ cần anh giở sổ là nó tòi ngay ra cho anh thấy bởi vì anh là thám tử liên bang mà thám tử liên bang thì khôn hơn tụi tôi nhiều.”

McCaleb phá lên cười, lắc đầu. Ông đã bắt đầu nghĩ hay mình nên chấp nhận thất bại và bỏ về thôi, song lại nhìn thấy bao súng của gã đàn ông anh hùng mã thượng. Ông cố thử thêm lần nữa.

“Không, tôi không định nói thế. Tôi không biết liệu các anh có bỏ sót gì không. Tôi từng làm việc với Cảnh sát Los Angeles nhiều lần. Nếu được cá thì tôi sẽ cá các anh chẳng bỏ sót gì hết. Tôi chỉ muốn nói rằng tôi đã bảo với Graciela Rivers tôi sẽ kiểm tra mọi chuyện. Cho tôi hỏi các anh điều này, cô ấy có gọi cho các anh nhiều không?”

“Bà chị á? Quá nhiều là khác. Hết tuần này đến tuần khác, lần nào tôi cũng nói với cô ta cùng một câu. Chả nghi phạm nào, chả manh mối nào.”

“Các anh đang chờ một cái gì đó xảy ra, phải không? Thử đưa nhân tố nào đó mới vào xem nào.”

“Có thể.”

“Thì thế, ít ra đây có thể là cách để các anh thoát nợ với cô ta. Nếu tôi được xem các anh đã tìm ra những gì rồi quay về gặp cô ta nói là các anh đã làm hết sức, thì có thể cô ta sẽ thôi không mè nheo các anh nữa. Tôi nói thì cô ta sẽ tin vì cô ta biết tôi.”

Cả hai người chẳng nói gì.

“Các anh có mất gì đâu nào?” McCaleb dồn thêm.

“Dù hợp tác kiểu gì đi nữa thì tụi tôi cũng phải xin phép trung úy trước,” Arrango nói. “Tụi tôi đâu thể nào cứ thế đưa bản sao hồ sơ điều tra cho thiên hạ khi chưa được ông ấy phán, dù đúng nội quy hay trái nội quy. Thực ra thì anh đang làm rối tung lên đấy anh bạn ạ. Lẽ ra anh nên tới gặp trung úy trước rồi mới gặp tụi tôi. Anh biết luật chơi cơ mà. Anh không theo đúng trình tự rồi.”

“Tôi hiểu chứ. Mới tới đây là tôi xin gặp ông ấy ngay, nhưng họ nói ông ấy sang bên văn phòng Valley rồi.”

“Ừ, rồi, ông ấy về ngay thôi,” Arrango vừa nói vừa xem đồng hồ. “Này tôi bảo, anh nói là anh rất giỏi về hiện trường vụ án đúng không?”

“Ừ. Nếu các anh có băng thì tôi muốn xem qua.” Arrango nhìn Walters nháy mắt, rồi nhìn lại McCaleb.

“Tụi tôi không phải chỉ có băng quay hiện trường vụ án. Tụi tôi có chính vụ án.”

Gã đá cái ghế về phía sau rồi đứng dậy.

“Đi nào,” gã nói. “Đem mớ bánh đó theo.”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,467
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 5


Arrango mở ngăn kéo ở một trong mấy bàn giấy lèn chật ních trong phòng đội chuyên án giết người, lấy ra một cuốn băng video. Đoạn gã dẫn đường ra khỏi phòng, đi dọc hành lang rồi bước qua cánh cửa lửng của quầy tiếp tân khu văn phòng thám tử chính. McCaleb thấy họ đang tiến về phía phòng làm việc của Buskirk lúc này vẫn vắng tanh. McCaleb đặt gói bánh lên quầy tiếp tân đằng trước rồi theo hai người kia vào phòng.

Bị đẩy sát vào một góc phòng là một cái tủ hồ sơ làm bằng thép có bánh xe. Nó là loại trang bị thường dùng ở các lớp học và phòng giảng huấn, Arrango mở hai cửa tủ ra, bên trong có một cái tivi và đầu chiếu video. Gã mở máy rồi nhét cuốn băng vào.

“Xem cái này đi, rồi cho tụi tôi biết điều tụi tôi chưa biết,” gã nói với McCaleb mà không nhìn ông. “Chừng đó có thể tụi tôi sẽ bênh cho anh trước ông trung úy.”

McCaleb chuyển chỗ cho đến khi đứng ngay trước mặt tivi. Arrango bấm nút play, hình ảnh đen trắng liền hiện lên trên màn hình. McCaleb trông thấy khung cảnh trong tầm nhìn của một máy camera giám sát gắn trên trần ở trong một cửa hàng bách hóa nhỏ. Khung hình gói gọn xung quanh khu vực quầy trước. Mặt quầy phủ kính, đầy những hộp thuốc lá, máy ảnh dùng một lần, pin, cùng những món hàng kỹ thuật cao khác. Một dòng chữ và số cho biết ngày giờ chạy ngang mép dưới màn hình.

Khung hình trống trong một thoáng, rồi thì đỉnh mái đầu tóc bạc của người trông quầy xuất hiện ở góc dưới bên trái khung hình, trong khi ông ta cúi người trên cuốn sổ chi thu tiền mặt.

“Đó là Chan Ho Kang, chủ tiệm,” Arrango vừa nói vừa lấy một ngón tay gõ gõ lên màn hình, để lại một vết ố do mỡ bánh rán. “Ông ta đang sống những giây phút cuối cùng trên thế gian ở cái xó này.”

Kang đang mở ngăn kéo đựng tiền mặt. Ông ta đập một chồng đồng hai lăm xu vào góc quầy rồi ném đồng xu vào góc dành sẵn trong ngăn kéo. Ngay khi ông ta sập ngăn kéo lại, một phụ nữ tiến vào khung hình. Một khách hàng. McCaleb nhận ra cô ta ngay lập tức nhờ bức ảnh mà Graciela Rivers đã cho ông xem lúc ở trên thuyền.

Gloria Torres vừa lại gần quầy vừa mỉm cười rồi đặt hai phong kẹo Hershey lên mặt kính. Đoạn cô lấy túi xách, mở túi, rút ví tiền ra trong khi ông Kang gõ gõ các phím trên máy tính tiền.

Gloria nhìn lên, tiền cầm tay, thì vừa khi đó bất ngờ một dáng người khác bước vào khung hình. Đó là một gã đàn ông đeo mặt nạ trượt tuyết màu đen trùm kín mặt và vận cái gì đó nom như bộ áo liền quần màu đen. Hắn tiến tới sau lưng Gloria mà cô không hề hay biết. Cô vẫn đang mỉm cười. McCaleb nhìn dãy số đếm giờ trên màn hình thấy lúc đó là 22:41:39, rồi quay lại nhìn những gì đang xảy ra trong cửa hàng. Ông có cảm giác lạ lẫm khi nhìn những hành động đó xảy ra trong chốn câm lặng màu đen trắng đầy siêu thực này. Từ đằng sau, gã đàn ông đeo mặt nạ trượt tuyết đặt bàn tay phải lên vai phải Gloria, rồi bằng một động tác chậm rãi của tay trái hắn kề họng một khẩu súng ngắn vào màng tang trái của cô. Không hề do dự, hắn bóp cò.

“Bòm-bòm!” Arrango nói.

McCaleb cảm thấy ngực ông siết lại như nắm đấm trong khi quan sát viên đạn xé toang sọ Gloria, một đám sương mù rùng rợn toàn máu bùng ra từ vết thương chỗ đạn chui vào và vết thương nơi đạn chui ra ở hai bên đầu cô.

“Chả bao giờ biết mình bị cái gì nện,” Walters nói khẽ.

Gloria giật nảy người về phía trước, rụm xuống quầy rồi ngật ra đằng sau, đổ vật vào hung thủ trong khi hắn vòng tay phải quàng quanh người cô, ngang qua ngực cô. Lùi lại một bước, giữ Gloria đằng trước như tấm khiên chắn, hắn giơ tay trái lên nã đạn vào ông Kang, trúng vào chỗ nào đó trên người ông. Chủ hiệu bật ngửa vào tường rồi lại chúi ra đằng trước, nửa trên người ông đổ ụp lên quầy khiến kính nứt rạn.

Hai tay ông chới với rướn qua quầy, hai bàn tay ông quờ quạng tìm chỗ bám như một người đang trèo lên vách đá. Cuối cùng ông buông xuôi, người ông rơi phịch xuống sàn phía sau quầy.

Hung thủ để cho xác Gloria chuội xuống sàn, nửa trên người cô rơi ra ngoài khung hình. Chỉ còn bàn tay cô, như thể vươn ra trên sàn nhà, và hai chân cô là vẫn còn trên màn hình. Hung thủ tiến lại gần quầy, nhanh chóng cúi người qua quầy nhìn xuống ông Kang nằm trên sàn. Kang đang với tay vào một ngăn kệ phía dưới quầy, cuống cuồng kéo mấy chồng túi màu nâu ra. Hung thủ chỉ quan sát ông, cho tới khi cánh tay ông Kang thòi ra, một khẩu súng lục đen nắm trong bàn tay. Gã đàn ông đeo mặt nạ trượt tuyết lạnh lùng bắn vào giữa mặt Kang ngay trước khi ông kịp giương súng lên.

Khom người hơn nữa qua quầy, hai bàn chân nhấc hẳn lên không, hung thủ túm lấy một trong các vỏ đạn bị tống ra rơi cạnh cánh tay Kang. Đoạn hắn thẳng người dậy, vươn tay lấy những tờ giấy bạc từ trong ngăn kéo tiền mặt để mở. Hắn nhìn lên máy quay. Dù có mặt nạ, vẫn thấy rõ gã đàn ông nháy mắt và nói gì đó với máy quay, rồi vội vã rời khỏi khung hình về bên trái.

“Hắn đang nhặt hai vỏ đạn khác,” Walters nói.

“Trên camera không có âm thanh phải không?” McCaleb hỏi.

“Phải,” Walters nói. “Hắn có nói gì đi nữa cũng chỉ là với chính hắn thôi.”

“Chỉ có một camera trong cửa hàng?”

“Có một thôi. Kang bủn xỉn lắm. Người ta bảo chúng tôi thế.”

Trong khi họ tiếp tục quan sát, hung thủ lại bước ngang qua góc màn hình một lần nữa khi hắn bỏ đi.

McCaleb nhìn ngây dại vào màn hình tivi, sững sờ trước sự tàn nhẫn của hành vi bạo lực, mặc dù ông là người giàu kinh nghiệm đến mấy. Lấy đi hai mạng người chỉ vì mớ tiền trong một cái ngăn kéo.

“Anh chả bao giờ xem được cảnh này trên chương trình America’s Favorite Home Videos đâu,” Arrango nói.

McCaleb từng gặp những tay cớm kiểu như Arrango suốt bao nhiêu năm. Họ cư xử như thể chẳng gì có thể khiến họ động lòng được. Họ có thể nhìn những cảnh tội ác kinh khiếp nhất mà vẫn cười đùa được. Đó là một phần của bản năng sinh tồn. Hành động, nói năng như thể mấy chuyện đó chả có nghĩa gì với ta, nhờ vậy mà ta có một tấm khiên an toàn. Ta sẽ không bị tổn thương.

“Tôi xem lại được không,” McCaleb nói. “Lần này các anh chạy chậm lại được không?”

“Chờ chút,” Walters nói. “Chưa hết đâu.”

“Sao kia?”

“Người Tốt bụng xuất hiện ngay bây giờ đây.”

“Người tốt bụng?”

“Anh chàng bác ái. Một tay người Mễ vào cửa hiệu, tìm thấy hai người và ra sức cứu họ. Anh ta cố giúp người đàn bà, nhưng Kang thì anh ta chịu không làm gì được. Rồi anh ta ra chỗ điện thoại công cộng đằng trước mà gọi - kìa anh ta kìa.”

McCaleb nhìn lại màn hình. Dãy số chỉ giờ hiện là 22:42:55 và một người đàn ông tóc sẫm, da sẫm mặc quần jeans, áo phông đã bước vào khung hình. Đầu tiên anh ta ngập ngừng ở bên phải màn hình, xem ra đang nhìn Gloria Torres, rồi thì tiến lại quầy và nhìn ngang qua quầy. Xác Kang nằm trên sàn trong vũng máu. Có những vết thương rộng hoác, xấu xí trên ngực và mặt ông. Mắt ông mở thao láo bất động. Rõ là ông đã chết. Người Tốt bụng quay lại với Gloria. Anh ta quỳ xuống sàn và hình như khom xuống phần thân trên cô đang ở ngoài màn hình. Nhưng hầu như lập tức anh ta lại đứng dậy và rời khỏi màn hình.

“Anh ta sang chỗ gian bên tìm bông băng,” Arrango nói. “Thậm chí anh ta còn băng đầu cô ta bằng băng dính và một miếng Kotex nữa. Một miếng cỡ siêu bự.”

Người Tốt bụng quay lại chăm sóc Gloria, thế nhưng toàn bộ chuyện đó diễn ra ngoài màn hình.

“Màn hình chả lần nào lấy được trọn hình ảnh thằng cha,” Arrango nói. “Mà thằng cha cũng không nấn ná lâu. Ra đằng trước gọi chín một một, gọi xong là gã phắn.”

“Sau đó anh ta chẳng bao giờ ló mặt nữa à?”

“Không. Chúng tôi có đăng lên tivi. Anh biết đó, yêu cầu anh ta xuất đầu lộ diện vì có thể anh ta đã nhìn thấy gì đó khả dĩ giúp cho việc điều tra. Nhưng không. Anh chàng như tan thành khói.”

“Lạ.”

Trên màn hình người đàn ông đứng dậy, lưng vẫn quay về phía camera. Trong khi rời khỏi khung hình, anh ta liếc về bên trái nên có thể thoáng thấy nét nhìn nghiêng khuôn mặt anh ta. Anh ta có râu mép màu sẫm. Rồi anh ta biến khỏi tầm nhìn.

“Giờ anh ta gọi cảnh sát chứ?” McCaleb hỏi.

“Chín một một,” Walters nói. “Anh ta nói ‘xe cấp cứu’, thế là họ chuyển luôn anh ta sang bên Phòng cháy chữa cháy.”

“Sao anh chàng này không xuất hiện?”

“Về chuyện đó tụi tôi có một giả thuyết,” Arrango nói.

“Cho tôi biết được không?”

“Giọng nói trên tổng đài chín một một có âm sắc Mỹ La-tinh,” Walters nói. “Chúng tôi đồ rằng anh chàng này là dân nhập cư bất hợp pháp. Anh ta không ló mặt vì sợ nếu chúng tôi nói chuyện với anh ta, chúng tôi sẽ phát hiện và tống anh ta về nước.”

McCaleb gật. Nghe hợp lý, nhất là ở Los Angeles, nơi có hàng chục vạn người nhập cư bất hợp pháp trốn tránh chính quyền.

“Chúng tôi đã rải tờ rơi ở các khu của dân Mễ và đến khu Kênh Ba mươi tư,” Walters tiếp. “Hứa là anh ta sẽ không bị trục xuất, chỉ cần anh ta tới kể cho chúng tôi nghe anh ta nhìn thấy gì, nhưng công cốc. Ở mấy khu đó chuyện này xảy ra luôn. Chết tiệt, đã từ mấy cái xứ kia mò tới đây thì họ hãi cảnh sát còn hơn cả hãi tụi đầu gấu ấy chứ.”

“Tệ quá,” McCaleb nói. “Anh ta có mặt ở đó sớm thế, hẳn anh ta nhìn thấy xe của hung thủ, có khi cả biển số không chừng.”

“Có lẽ,” Walters nói. Nhưng nếu có thấy biển số, anh ta cũng không buồn cho biết trên đoạn băng. Anh ta có mô tả sơ sài về cái xe - ‘Ô tô đen, giống xe tải’, anh ta tả thế đấy. Nhưng cô thường trực chưa kịp hỏi anh ta có thấy biển số không thì anh ta đã cúp máy mất.”

“Chúng ta xem lại được không?” McCaleb hỏi.

“Được chứ, sao không?” Arrango nói.

Gã tua lại băng và họ im lặng xem lần nữa, lần này Arrango giữ nút quay chậm suốt thời gian chiếu. Mắt McCaleb dán vào hung thủ ở mỗi khung hình hắn xuất hiện. Mặc dù cái mặt nạ che giấu vẻ mặt hắn, nhưng có những lúc có thể thấy rõ mắt hắn. Hai con mắt hung bạo chẳng biểu lộ gì trong khi hắn bắn hạ hai con người. Không xác định được màu mắt vì băng này là phim đen trắng.

“Lạy Chúa,” McCaleb nói khi băng hết.

Arrango lấy cuốn băng ra rồi tắt máy. Gã quay lại nhìn McCaleb.

“Nào, nói gì với tụi tôi đi,” gã nói. “Anh là chuyên gia mà. Giúp tụi tôi thoát vụ này đi.”

Sự thách thức quá lộ liễu trong giọng gã. Chứng tỏ đi, không thì câm họng. Họ đã lại quay về cái chỗ rừng nào cọp nấy.

“Tôi phải nghĩ đã, có khi cần xem thêm cuốn băng tí nữa.”

“Mấy lần đây,” Arrango đáp thô bạo.

“Để tôi bảo anh cái này,” McCaleb nói, chỉ nhìn Arrango. “Đây không phải lần đầu tiên.”

Ông chỉ vào cái tivi đã tắt.

“Không do dự, không hoảng hốt, đến nhanh mà đi cũng nhanh… cách dùng vũ khí rất điềm tĩnh, rồi thì cú bắn, và rất tỉnh táo cuỗm hết xiền. Thằng cha đã làm việc này từ trước rồi. Đây không phải lần đầu. Và có lẽ không phải lần cuối. Thêm nữa, hắn đã từng tới đó rồi. Hắn biết có camera, chính vì vậy hắn mới đeo mặt nạ. Ý tôi là ừ thì đúng, rất nhiều nơi như thế có camera, nhưng hắn ngước lên nhìn thẳng vào cái này. Hắn biết máy đặt ở đâu. Nghĩa là hắn từng tới đó trước kia rồi. Hoặc hắn là hàng xóm hoặc hắn đã tới từ trước để điều nghiên địa điểm.”

Arrango cười độc địa, còn Walters liếc nhanh từ McCaleb sang cộng sự. Anh ta toan nói gì đó nhưng Arrango giơ một tay lên ra hiệu bảo im. Khi đó McCaleb biết điều ông vừa nói là chính xác và bọn họ cũng đã biết.

“Sao nào?” ông hỏi. “Còn bao nhiêu lần nữa?”

Giờ thì Arrango giơ cả hai tay lên trời làm cử chỉ đầu hàng.

“Tạm thế đã,” gã nói. “Tụi tôi bàn với trung úy rồi sẽ cho ông biết.”

“Thế là thế nào?” McCaleb phản đối, rốt cuộc cũng mất bình tĩnh. “Sao cho tôi xem băng rồi lại ngưng ngang thế? Để cho tôi thử đi. Tôi có thể giúp các anh. Các anh có mất gì đâu nào?”

“Ồ, tôi tin chắc là anh có thể giúp mà. Nhưng tụi tôi bị trói tay rồi. Để tụi tôi nói chuyện với trung úy rồi sẽ nói lại với anh.”

Gã ra hiệu cho mọi người ra khỏi phòng. McCaleb thoáng nghĩ đến việc từ chối không chịu đi, nhưng rồi ông gạt bỏ vì thấy ý đó không hay. Ông bước qua cửa, theo sau là Arrango và Walters.

“Bao giờ thì tôi có tin của các anh?”

“Ngay khi tụi tôi biết có thể làm gì cho anh,” Arrango nói. “Cho tôi số để tụi tôi liên lạc.”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,467
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 6


McCaleb đứng ngoài sảnh chờ của sở cảnh sát đợi taxi xuất hiện. Ông vẫn còn đang sôi máu vì đã để cho Arrango chơi ông. Những gã như Arrango luôn khoái trá với trò cầm cái gì đó nhử người ta rồi thì giật đi mất. McCaleb luôn biết rõ những người như Arrango - ở cả bên này lẫn bên kia pháp luật.

Nhưng ông chẳng làm gì được cả. Tạm thời thì đây là màn diễn của Arrango. McCaleb không thực sự mong sẽ còn nghe được tin gì từ gã. Ông biết ông phải tự gọi cho gã thì may ra mới biết câu trả lời. Luật chơi là thế. McCaleb quyết định đợi tới sáng mai mới gọi lại.

Khi xe tới, McCaleb chui vào băng sau, ngay sau tài xế. Đó là một cách để ngăn đừng trò chuyện. Ông kiểm tra bằng lái xe đặt trên bảng đồng hồ thì thấy đó là một cái tên Nga không thể phát âm. Ông rút cuốn sổ nhỏ ra khỏi túi xách rồi đưa cho tài xế địa chỉ Siêu thị Sherman ở Công viên Canoga. Họ đi về phía Bắc trên Đại lộ Reseda rồi rẽ hướng Tây trên phố Sherman cho tới khi đến một chợ nhỏ gần giao lộ Đại lộ Winnetka.

Xe tạt vào bãi đậu đằng trước cái cửa hàng nhỏ. Chỗ này trông xoàng xĩnh, chẳng có gì nổi bật, những ô cửa sổ bọc kính dày dán chi chít biển quảng cáo hàng màu sắc lòe loẹt. Nó giống hệt như hàng ngàn cái siêu thị mini khác trong thành phố. Ngoại trừ khi có ai đó quyết định rằng chỗ này đáng cướp và để đạt được mục đích thì giết hai mạng người cũng đáng. Trước khi ra khỏi xe, McCaleb xem xét kỹ mấy biển quảng cáo phủ kín các ô cửa sổ. Chúng che kín mất bên trong. Ông biết có lẽ đó là lý do để hung thủ chọn chính cửa hàng này. Thậm chí dù có ai đó đi xe ngang qua, họ cũng sẽ không thấy chuyện gì đang xảy ra trong kia.

Cuối cùng, ông mở cửa, chui ra khỏi xe. Ông tiến lại chỗ cửa sổ tài xế, bảo anh ta đợi ông. Trong khi đi về phía cửa hiệu, ông nghe thấy tiếng một quả chuông kêu lanh canh từ phía trên cửa ra vào. Cái máy tính tiền mà ông thấy trong cuốn băng được gắn gần bức tường phía trong, đối diện cửa ra vào. Một phụ nữ luống tuổi đứng phía sau quầy. Bà ta nhìn đăm đăm vào McCaleb, có vẻ e sợ. Bà ta người châu Á. McCaleb nhận ra bà ta có thể là ai.

Nhìn quanh như thể ông đến là có mục đích chứ không phải để trố mắt nhìn như thằng ngốc, ông thấy các giá bày hàng đầy chật những kẹo, liền nhón lấy một phong Hershey. Ông lại chỗ quầy đặt phong kẹo xuống, để ý thấy mặt kính trên quầy vẫn nguyên vết nứt. Chính khi đó ông choáng váng nhận ra rằng ông đang đứng chính ngay chỗ Gloria Torres đã đứng mỉm cười với ông Kang. Ông ngẩng lên nhìn bà già với vẻ mặt đau khổ mà gật đầu.

“Gì nữa không?”

“Không, thế này thôi.”

Bà tính tiền và ông trả cho bà. Ông quan sát kỹ những động tác ngập ngừng của bà. Bà biết ông không phải là hàng xóm hay khách hàng quen. Bà vẫn không thấy thoải mái. Có lẽ bà sẽ chẳng bao giờ thoải mái được.

Khi bà thối lại tiền thừa, McCaleb nhận thấy cái đồng hồ bà đeo trên cổ tay có dây đeo rộng bản bằng cao su màu đen, mặt đồng hồ lớn. Nó là đồng hồ nam giới, khiến cho cổ tay nhỏ xíu, dường như dễ gãy của bà trông càng nhỏ. Ông thấy cái đồng hồ này rồi. Nó đã ở trên cổ tay Chan Ho Kang trong đoạn băng giám sát. McCaleb nhớ mình đã tập trung chú ý vào cái đồng hồ trong khi đoạn phim mô tả Kang lúc đó đã bị thương đang mò mẫm tìm chỗ víu trên mặt quầy rồi cuối cùng gục xuống sàn.

“Bà là bà Kang?” McCaleb hỏi.

Bà ngừng tính tiền mà nhìn ông.

“Phải. Tôi có quen ông không?”

“Không. Chỉ là tôi... Tôi có nghe nói chuyện xảy ra ở đây. Với chồng bà. Tôi rất tiếc.”

Bà gật.

“Vâng, cám ơn ông.” Rồi, như thể cần một lời giải thích hoặc để xoa dịu vết thương của mình, bà nói thêm, “Cách tốt nhất để không cho cái ác vào nhà là đừng mở cửa. Chúng tôi không làm vậy được. Chúng tôi phải làm ăn.”

Giờ thì McCaleb gật. Có lẽ đó là điều chồng bà đã nói với bà khi bà lo ngại bởi thấy chồng làm ăn có thu chi bằng tiền mặt ở một thành phố đầy rẫy tội ác.

Ông cảm ơn bà rồi bỏ đi, cái chuông trên đầu lại kệ leng keng khi ông bước qua cửa. Ông chui vào trong taxi rồi đánh giá mặt tiền cửa hàng thêm lần nữa. Ông thấy chẳng hợp lý chút nào. Sao lại chỗ này cơ chứ? Ông nghĩ đến cuốn băng video. Bàn tay hung thủ vớ lấy đống tiền. Hắn đâu kiếm được là bao. McCaleb ước gì ông biết được nhiều hơn về tội ác này, nhiều chi tiết hơn.

Chiếc điện thoại trên bức tường về bên phải dãy cửa sổ của cửa hàng đập vào mắt ông. Đó là điện thoại mà Người Tốt bụng chưa thể định danh chắc hẳn đã dùng. Ông tự hỏi liệu người ta đã in dữ liệu lưu trong máy ra chưa sau khi nhận ra rằng anh chàng đó sẽ không xuất hiện. Chắc là không. Đến khi đó thì quá muộn rồi.

Đằng nào thì cũng lâu rồi.

“Đi đâu?” tài xế hỏi, âm sắc giọng anh ta nghe rất rõ dù chỉ trong hai âm tiết.

McCaleb cúi về phía trước để đưa địa chỉ cho anh ta nhưng rồi lại ngần ngừ. Ông vừa gõ gõ mấy ngón tay lên lưng bọc nhựa của ghế trước vừa nghĩ một thoáng.

“Cứ để đồng hồ nhảy số. Tôi phải gọi vài cuộc điện cái đã.”

Ông lại chui ra khỏi xe, tiến về phía cái điện thoại trả tiền trước, một lần nữa lại rút sổ tay. Ông tìm một số điện thoại rồi quẹt thẻ để trả tiền. Có tiếng trả lời ngay lập tức.

“Thời báo, Russell nghe đây.”

“Cô nói là Thời báo hay Thời láo?”

“Buồn cười nhỉ, ai đấy?”

“Này Keisha, tôi Terry McCaleb đây mà.”

“Chào, thế nào rồi ông bạn?”

“Tôi ổn. Tôi muốn cám ơn cô về bài báo đó. Lẽ ra tôi gọi sớm hơn mới phải. Nhưng bài hay lắm.”

“Ối, ông này hay thật đấy. Chưa hề có ai gọi điện để cảm ơn tôi về cái gì sất.”

“Ồ, tôi chả hay đến thế đâu. Tôi gọi còn là vì tôi cần cô giúp một chút. Cô có đang mở máy không đấy?”

“Ông thật là biết cách làm hỏng một chuyện đang hay. Ừ có, tôi đang bật máy. Chuyện gì nào?”

“À, tôi đang tìm một thứ nhưng không biết chắc làm sao tìm được. Cô xem liệu có thể làm một cuộc truy tìm theo từ khóa cho tôi không? Tôi muốn tìm những bài báo nói về một tên cướp chuyên bắn chết người.”

Cô phá lên cười.

“Thế á?” Cô nói. “Ông có biết người ta hay bị dính đạn trong các vụ cướp như thế nào không? Đây là Los Angeles, ông cũng biết còn gì.”

“Ừ, tôi biết, nếu chỉ thế thì xuẩn thật. OK, nếu thêm vào đó là đeo mặt nạ trượt tuyết thì sao. Và có thể chỉ là cách đây chừng mười tám tháng. Vậy đã đủ thu hẹp lại chưa?”

“Chắc đủ.”

Ông nghe tiếng bàn phím của cô bắt đầu kêu lách cách trong khi cô kết nối vào thư viện điện tử của tòa báo, nơi lưu tài liệu bài vở. Bằng cách dùng các từ khóa “cướp”, “mặt nạ trượt tuyết” và “bắn”, cô sẽ truy xuất được tất cả các bài có bao hàm những chữ đó.

“Mọi việc thế nào, Terry? Tôi cứ nghĩ ông về hưu rồi.”

“Tôi nghỉ hưu mà.”

“Nghe thì đâu phải thế. Vụ này cứ như là hồi xưa ấy. Ông đang điều tra đó à.”

“Kiểu vậy. Tôi đang kiểm tra vài thứ cho một người bạn, mà cảnh sát Los Angeles thì vẫn cứ là cảnh sát Los Angeles. Đã vậy không có huy hiệu thì lại càng tệ nữa.”

“Chuyện là gì vậy?”

“Chưa đáng đăng báo đâu, Keisha à. Đến khi nào đáng đăng thì cô là người tôi cho biết đầu tiên.”

Cô thở hắt ra vì cáu tiết.

“Cứ hễ bọn các ông làm thế là tôi ghét cay ghét đắng,” cô phản đối. “Ý tôi là tại sao tôi phải giúp ông nếu ông không cho tôi quyết liệu đó có phải chuyện đáng đưa tin hay không? Tôi mới là nhà báo chứ không phải ông.”

“Tôi biết, tôi biết. Chắc là ý tôi định nói, tôi muốn chỉ mình tôi biết chuyện này chừng nào tôi vẫn chưa thấy rõ đâu vào đâu. Sau đó tôi sẽ kể với cô. Tôi hứa đấy, cô sẽ được bật mí đầu tiên. Có thể cũng chẳng được gì đâu, nhưng dù gì tôi cũng sẽ cho cô biết. Cô đã truy được gì chưa?”

“Có,” cô nói, trề môi nhạo báng. “Sáu mục trong mười tám tháng qua.”

“Sáu? Là những gì vậy?”

“Sáu bài. Tôi sẽ đọc đầu đề cho ông, còn ông, thấy cần lấy các bài ấy ra thì cho tôi hay.”

“Được.”

“Rồi. Đây nhé. ‘Hai người bị bắn trong vụ cướp không thành’, rồi thì ‘Một người bị bắn và cướp bên máy ATM’. Sau đó ta có ‘Quan chức cầu cứu vì bị bắn ở ATM.’ Xem nào, ba bài kế xem chừng liên quan tới cùng một vụ. Đầu đề là ‘Chủ hiệu, khách hàng bị bắn trong vụ cướp,’ theo sau là ‘Nạn nhân thứ hai chết, là nhân viên của Thời báo’, - ồ, quỷ thật, cái này tôi chưa nghe bao giờ. Chính tôi sẽ phải đọc - còn bài cuối là ‘Cảnh sát truy tìm Người Tốt bụng’. Ấy, sáu bài đấy.”

McCaleb nghĩ một thoáng. Sáu bài, ba vụ khác nhau.

“Cô làm ơn lấy ba bài đầu rồi đọc xem có dài không, nhé.”

“Được.”

Ông lắng nghe trong khi bàn phím của cô kêu lách cách. Mắt ông lơ đãng nhìn ngang qua chiếc taxi về phía Phố Sherman. Đó là một phố bốn làn xe, đêm rồi mà vẫn nhộn nhip. Ông tự hỏi liệu Arrango và Walters có đã tìm được nhân chứng nào nhìn thấy hung thủ chuồn đi không, có ai chăng ngoài Người Tốt bụng ra.

Mắt McCaleb nhìn sang bên kia đường, và nơi bãi đỗ xe của một khu phức hợp siêu thị, ông nhìn thấy một người đàn ông ngồi trong ô tô. Người đó giơ một tờ báo lên ngay khi McCaleb nhận thấy điều đó, và khuôn mặt y biến mất. McCaleb xem xét kỹ chiếc xe. Đó là một chiếc ô tô cũ rích bệ rạc, xuất xứ nước ngoài, nên ông loại bỏ khả năng có thể là Arrango cho người bám đuôi ông. Ông loại bỏ khả năng đó khi Keisha bắt đầu đọc bài báo trên màn hình của cô.

“OK, bài đầu tiên đăng ngày mồng tám tháng Mười năm ngoái. Bài ngắn thôi. ‘Theo cảnh sát IngleWood hôm thứ Năm, một cặp vợ chồng bị bắn bị thương hôm thứ Năm bởi một tên toan cướp của, tên này sau đó bị một nhóm người qua đường quật xuống đất tóm gọn. Cặp vợ chồng đang đi dọc Đại lộ Manchester lúc 11 giờ thì một người đàn ông đeo mặt nạ trượt tuyết đến gần và...”

“Gã đó bị bắt à?”

“Bài báo nói thế.”

“Được rồi, bỏ qua đi. Tôi đang tìm những vụ chưa phá được kia.”

“Rồi, bài kế là ngày thứ Sáu, hai mươi tư tháng Giêng. Đầu đề là ‘Một người bị bắn và cướp nơi máy ATM.’ Không có tít phụ. Cũng là bài ngắn. ‘Đêm thứ Tư, một người vùng Lancaster đang rút tiền từ một máy ATM thì bị bắn chết, theo phó cảnh sát trưởng hạt Los Angeles thì đây là một vụ giết người nhạy cảm. James Cordell, ba mươi tuổi, bị bắn một phát vào đầu bởi một kẻ tấn công lạ mặt, kẻ này sau đó cướp ba trăm đô mà ông Cordell vừa rút ra khỏi máy. Vụ nã súng xảy ra vào khoảng mười giờ đêm tại chi nhánh khu vực của Ngân hàng Nhà nước, tại lô sô 1800 Phố Lancaster. Thám tử Jaye Winston dưới quyền quận trưởng cảnh sát cho hay một phần vụ nã súng đã bị ghi lại trên camera an ninh của máy ATM, nhưng không đủ để nhận diện hung thủ. Khung hình duy nhất có hung thủ trên camera cho thấy hắn đeo mặt nạ trượt tuyết đan len màu sẫm trùm kín đầu. Tuy nhiên, Winston nói cuốn băng tiết lộ rằng về phần Cordell, ông ta không hề chống cự hay từ chối đưa tiền.’ Đó là một hành động hoàn toàn máu lạnh,” Winston nói, “Gã này chỉ bước tới, bắn nạn nhân rồi lấy tiền. Rất lạnh lùng và tàn bạo. Gã này không quan tâm, hắn chỉ muốn tiền. ‘Cordell gục ngã phía trước máy rút tiền đèn thắp sáng choang, nhưng chỉ khi một người khách khác đến sau đó khoảng mười lăm phút thì xác ông ta mới được phát hiện. Nhân viên cấp cứu tuyên bố ông ta đã chết ngay tại hiện trường’. Rồi, bài có thế thôi. Ông sẵn sàng nghe bài kế chứ?”

“Sẵn sàng.”

McCaleb đang mải ghi nhanh vài chi tiết trong bài báo vào sổ tay. Ông gạch dưới cái tên Winston ba lần. Ông biết Jaye Winston. Ông nghĩ Winston chắc sẽ sẵn lòng giúp ông, sẵn lòng hơn Arrango và Walters. Jaye Winston thì không phải một tay khó nhảy cùng. McCaleb cảm thấy rốt cuộc ông đã gặp vận may.

Keisha Russell bắt đầu đọc bài báo kế tiếp.

“OK, cũng chuyện ấy. Không có tít phụ. Cũng ngắn, đăng sau đó hai ngày. ‘Phụ tá cảnh sát trưởng cho biết không có nghi can trong vụ nã súng trong tuần này làm chết một người đang rút tiền từ máy ATM ở phố Lancaster. Thám tử Jaye Winston nói sở cảnh sát muốn nói chuyện với bất cứ người nào, lái xe hoặc đi bộ, có mặt trong khu vực lô số 1800 phố Lancaster vào đêm hôm thứ Tư và có thể đã thấy hung thủ trước hoặc sau vụ nã súng lúc mười giờ hai mươi. James Cordell, ba mươi tuổi, bị một tên cướp đeo mặt nạ bắn một phát vào đầu. Ông chết ngay tại hiện trường vụ cướp. Ba trăm đô bị lấy mất trong vụ cướp. Mặc dù một phần vụ việc đã được ghi lại trong camera an ninh của Chi nhánh khu vực Ngân hàng Nhà nước, song các điều tra viên không nhận diện được nghi phạm vì hắn đeo mặt nạ’. Phải có lúc nào đó hắn gỡ mặt nạ ra,” Winston nói. “ ‘Hắn không thể đi bộ hay lái xe dọc phố mà vẫn đeo mặt nạ. Người ta ắt phải có thấy gã này, và chúng tôi muốn nói chuyện với những người đó’. OK, thế thôi.”

McCaleb không ghi chép gì từ bài thứ hai. Nhưng ông đang mải nghĩ về những gì Keisha vừa đọc nên không nói gì.

“Terry, ông vẫn còn đó chứ?”

“Ừ. Xin lỗi.”

“Có ích gì không?”

“Tôi cho là có. Có lẽ.”

“Rồi thì ông vẫn không cho tôi biết là chuyện gì sao?”

“Chưa được, Keisha ạ, nhưng cám ơn. Cô sẽ là người đầu tiên biết.”

Ông gác máy rồi rút tấm danh thiếp mà Arrango đưa cho ra khỏi túi áo. Ông quyết định không chờ đến mai mới gọi Arrango hay Walters. Giờ thì ông có một manh mối cần bám sát, dù cho cảnh sát Los Angeles có hợp tác với ông hay không. Trong khi chờ đầu bên kia trả lời, ông nhìn sang bên kia đường. Chiếc xe có gã đàn ông đọc báo đã đi khỏi.

Điện thoại được nhấc lên sau sáu hồi chuông và cuối cùng người ta chuyển ông đến gặp Arrango. McCaleb hỏi Buskirk đã về chưa.

“Tin xấu, ông bạn à,” Arrango nói. “Trung úy về rồi, an toàn vô sự. Nhưng ông ấy không muốn chuyển hồ sơ cho anh.”

“Chà, sao lại thế được?” McCaleb hỏi, cố vờ tỏ ra bực dọc.

“Ừ thì, thực ra tôi không hỏi, nhưng tôi nghĩ ông ấy cáu vì anh không đến gặp ông ấy trước. Tôi đã bảo anh mà. Lẽ ra anh phải theo đúng trình tự trên dưới.”

“Cái đó hơi khó, vì sáng nay ông ta không có mặt mà. Với lại tôi có nói với anh tôi đã xin gặp ông ấy đầu tiên. Anh có bảo ông ta vậy không?”

“Có chớ, tôi có nói. Tôi nghĩ chắc ông ấy đang cơn cáu tiết, vừa từ văn phòng Valley về mà. Chắc ông ấy vừa bị xạc một mẻ nên về tới là ông ấy xạc luôn tôi. Thỉnh thoảng vẫn vậy mà. Trên xạc dưới, dưới lại xạc dưới nữa, cả dây chuyền. Dù sao thì, xem đấy, anh vẫn gặp may. Tụi tôi đã cho anh xem hết cuốn băng còn gì. Anh có thể khởi đầu từ đấy rồi. Đáng ra chúng tôi không nên làm thế cho anh.”

“Cũng đại khái là khởi đầu. Anh biết đó, cứ kiểu quan liêu vớ vẩn thế này mà giải quyết được chuyện gì thì cũng thật là lạ. Tôi nghĩ FBI chẳng giống ai. Chúng tôi thường gọi nó là Pederal Bureau of Inertia, Cục Trì trệ Liên bang. Nhưng chắc là ở đâu cũng thế thôi.”

“Này, tụi tôi cóc cần anh ba hoa thiên địa. Tụi này có khối việc làm ở đây rồi. Sếp tôi hình như nghĩ là tôi mời anh tới nên giờ ông ấy sùng tôi lắm. Tôi đếch cần. Nếu anh muốn khùng lên mà cuốn xéo thì tùy anh. Nhưng làm ơn cuốn xéo đi cho.”

“Tôi đi đây, Arrango. Anh sẽ không nghe tin gì của tôi đâu chừng nào tôi chưa tóm được hung thủ của anh. Tôi sẽ dẫn hắn vào sở cho anh.”

Ngay khi vừa nói xong McCaleb đã biết nói thế chỉ là huênh hoang vô tích sự. Nhưng từ ngày mồng chín tháng Hai ấy đến giờ, ông càng lúc càng nhận ra mình hết còn khoan dung nổi với những thằng đần.

Arrango phá lên cười chế nhạo để đáp lại, rồi nói: “Ừ, được rồi. Tôi sẽ đợi anh.”

Gã gác máy.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,467
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 7


McCaleb giơ một ngón tay ra hiệu với tài xế taxi rồi gọi một cuộc nữa. Ban đầu ông nghĩ tới Jaye Winston nhưng rồi lại quyết định là hẵng khoan. Thay vào đó ông gọi Graciela Rivers ở số điện thoại nàng cho, trực ban y tá của phòng cấp cứu Trung tâm Y tế Holy Cross. Nàng đồng ý gặp ông để ăn trưa sớm, mặc dù ông giải thích rằng ông chưa làm được gì mấy. Ông bảo nàng tìm ông ở sảnh đợi của phòng cấp cứu lúc mười một rưỡi.

Bệnh viện nằm ở một phần của khu Thung lũng (Valley) gọi là Đồi Sứ mệnh. Trên đường tới đó, McCaleb nhìn ra ngoài cửa sổ ngắm phong cảnh lướt qua. Hầu hết là những siêu thị mua sắm dọc đường và trạm xăng. Tay tài xế chuyển sang đường 405 để ông có thể tiến về phía Bắc.

Những gì McCaleb biết về khu Thung lũng chỉ là qua các vụ án. Những vụ ấy thì nhiều, hầu hết chỉ được ông xem xét qua giấy tờ, ảnh chụp và băng video quay mấy cái xác bị vứt dọc lề xa lộ hoặc trên những triền đồi ven các trảng đất thập phía Bắc. Tên Sát thủ Mật mã đã thủ ác bốn lần ở vùng Thung lũng trước khi biến mất như làn sương buổi sáng trên vũng neo thuyền.

“Ông là gì, cảnh sát à?”

McCaleb rời mắt khỏi cửa sổ, nhìn vào kính chiếu hậu nơi băng ghế trước. Mắt tay tài xế đang dán vào ông. “Gì kia?”

“Ông là cảnh sát hay là gì?”

McCaleb lắc đầu.

“Không, tôi không phải cảnh sát.”

Ông lại nhìn ra ngoài cửa sổ trong khi xe lặc lè leo một đoạn dốc trên đường xa lộ. Họ đi ngang qua một phụ nữ tay cầm biển hiệu xin tiền. Lại một nạn nhân nữa sắp phải làm vật hy sinh.

Ông ngồi trong sảnh đợi, trên một cái ghế nhựa đối diện một phụ nữ bị chấn thương và chồng bà ta. Người phụ nữ bị đau nội tạng, hai tay cứ ôm chặt quanh mình chỗ cơ hoành. Bà ta cúi gập người xuống để bảo vệ chỗ đau. Chồng bà rất chu đáo, cứ hỏi đi hỏi lại xem bà có sao không, chốc chốc lại đứng dậy đi tới chỗ cửa nhận bệnh để hỏi khi nào vợ ông mới được cho vào khám lại. Nhưng hai lần McCaleb nghe thấy ông ta khẽ khàng hỏi vợ: “Em sẽ nói gì với họ đây?”

Và lần nào người đàn bà cũng quay mặt đi.

Lúc mười hai giờ kém mười lăm Graciela Rivers bước vào qua cánh cửa kép của khu cấp cứu. Nàng đề nghị họ xuống ăn ngay ở căng tin bệnh viện bởi nàng chỉ rảnh một giờ thôi. McCaleb thấy cũng không sao vì từ khi thay tim đến giờ ông vẫn chưa ăn ngon miệng trở lại. Với ông thì ăn ở bệnh viện cũng chẳng khác gì ăn ở Jozu hay Melrose. Hầu như ngày nào ông cũng chẳng bận tâm mình ăn gì, đôi khi thậm chí quên cả ăn nếu như cơn nhức đầu không nhắc ông rằng ông cần nạp thêm năng lượng.

Căng tin hầu như vắng ngắt. Họ ngồi vào một bàn cạnh cửa sổ nhìn ra bãi cỏ xanh mướt rộng mênh mông bao quanh một chữ thập lớn màu trắng.

“Đây là cơ hội duy nhất của tôi để nhìn ánh nắng,” Graciela nói. “Trong phòng cấp cứu chả có cửa sổ nào cả. Cho nên tôi luôn cố tìm chỗ gần cửa sổ.”

McCaleb gật đầu tỏ rõ rằng ông hiểu.

“Hồi tôi còn làm ở Quantico, văn phòng chúng tôi ở dưới lòng đất. Tầng hầm ấy. Không cửa sổ, lúc nào cũng ẩm thấp, mùa đông thì dù bật máy sưởi vẫn cứ lạnh cóng. Tôi chẳng bao giờ thấy mặt trời. Chả mấy chốc mà mình mòn mỏi đi.”

“Có phải vì vậy mà ông chuyển tới đây không?”

“Không. Vì lý do khác. Nhưng tôi cứ nghĩ mình sẽ có được cửa sổ. Tôi đã lầm. Họ nhét tôi vào một phòng để đồ ở PTC. Cao những mười bảy tầng nhưng không cửa sổ. Chắc vì vậy mà giờ tôi sống trên thuyền. Tôi thích có bầu trời ngay bên cạnh.”

“PTC là cái gì vậy?”

“Xin lỗi. Là Phòng Tác chiến. Ở Westwood. Là tòa nhà liên bang lớn, cạnh nghĩa trang cựu chiến binh.”

Nàng gật.

“Vậy có thực là ông lớn lên ở Catalina như bài báo nói không?”

“Tới khi tôi mười sáu tuổi,” ông nói. “Rồi tôi sống với mẹ ở Chicago… Cũng buồn cười, suốt thời gian tôi lớn lên trên hòn đảo đó tôi chỉ muốn thoát khỏi nó thôi. Giờ thì tôi lại chỉ cố tìm cách quay lại đó.”

“Ông định sẽ làm gì ở đó?”

“Tôi không biết. Tôi có một chỗ neo thuyền ở đó cha tôi để lại cho tôi. Có lẽ tôi sẽ chả làm gì hết. Có lẽ tôi chỉ thả câu rồi ngồi dưới nắng, tay cầm cốc bia.”

Ông mỉm cười và nàng cười đáp lại.

“Nếu ông đã có bến đậu rồi thì tại sao không đi ngay bây giờ được?”

“Thuyền chưa sẵn sàng. Cả tôi cũng chưa.”

Nàng gật.

“Thuyền của cha ông phải không?”

Lại một chi tiết khác trong bài báo. Rõ là ông đã nói quá nhiều về mình với Keisha Russell. Ông không thích người ta biết quá nhiều về ông một cách quá dễ dàng như thế.

“Hồi trước cha tôi sống trên thuyền. Khi ông mất, thuyền chuyển sang tôi. Tôi cứ để nó nằm trong ụ khô suốt nhiều năm. Giờ nó phải sửa chữa nhiều.”

“Cha ông đặt tên cho nó hay là ông?”

“Cha tôi.”

Nàng cau mày và nheo mắt như thể ăn phải cái gì chua.

“Sao ông ấy lại gọi là Biển Theo Ta chứ không phải Ta Theo Biển? Ta Theo Biển nghe hợp lý hơn chứ.”

“Không, thế là đúng chứ. Đây không phải ta đi theo biển. Biển ở đây là chủ thể, nó theo ta.”

“Ồ, nghĩa là sao?”

“Mỗi biển là một ngọn sóng, cô biết đấy, cô vẫn hay nghe các báo cáo dành cho dân lướt sóng nói là biển sâu từ sáu mươi phân đến một mét hai hay gì đó, đúng không?”

“Đúng.”

“Rồi, biển theo ta là thứ biển mà cô phải dè chừng.

Nó là thứ biển đi theo sau một con thuyền. Mình không nhìn thấy nó tới đâu. Nó ập lên mình từ đằng sau và nuốt chửng mình. Nhấn chìm mình. Quy tắc là nếu mình đang tiến vào giữa ‘biển theo ta’ mình chỉ cần phải di chuyển nhanh hơn nó. Luôn ở đằng trước nó. Cha tôi đặt tên thuyền như vậy vì nó giống như một lời nhắc nhở. Cô hiểu đấy, hãy luôn canh chừng nó sau lưng mình. Cha luôn miệng nói với tôi như thế hồi tôi còn nhỏ. Ngay cả khi tôi đã sang bên phố.”

“Sang bên phố?”

“Là khi tôi rời đảo. Cha bảo tôi hãy luôn luôn dè chừng biển theo sau, kể cả khi đang ở đất liền.”

Nàng mỉm cười.

“Giờ tôi biết chuyện rồi, tôi thích cái tên ấy. Ông có nhớ bố không?”

Ông gật đầu nhưng không nói gì thêm. Cuộc trò chuyện nhạt đi và họ bắt đầu ăn xăng uých. McCaleb không định trước rằng ở cuộc gặp gỡ này hai bên sẽ nói về ông. Sau khi cắn vài miếng, ông bắt đầu cho nàng biết chuyện sáng nay ông đã chẳng làm được gì nhiều, ông không kể với nàng ông đã xem cảnh em gái nàng bị giết trên băng video, nhưng ông kể rằng ông có linh cảm vụ ám sát Torres-Kang có liên quan tới ít nhất một vụ khác nữa. Ông nói với nàng rằng theo ông suy đoán, vụ kia có thể là vụ cướp và bắn người ở máy ATM được kể trong các bài báo mà Keisha Russell đọc cho ông nghe.

“Tiếp theo ông sẽ làm gì?” nàng hỏi khi ông đã kể xong.

“Chợp mắt một chút.”

Nàng nhìn ông với vẻ tò mò.

“Tôi mệt lử rồi,” ông nói. “Đã lâu rồi tôi không chạy loanh quanh và suy nghĩ nhiều thế này. Tôi về lại thuyền nghỉ thôi. Mai tôi sẽ bắt đầu lại.”

“Tôi xin lỗi.”

“Không, cô có lỗi gì đâu,” ông mỉm cười nói. “Cô đang tìm một người có lý do để dính vào vụ này. Tôi có cái lý do ấy nên tôi dính, nhưng ban đầu tôi phải làm chậm chậm thôi. Cô là y tá, tôi mong cô hiểu.”

“Tôi hiểu. Tôi không muốn ông tự hại mình. Làm thế chỉ khiến cho Glory càng chết hơn thôi...”

“Tôi hiểu.”

Họ ngồi im lặng một lát, rồi ông nối lại cuộc trò chuyện.

“Đánh giá của cô về cảnh sát Los Angeles là đúng. Tôi nghĩ họ đang theo kiểu đợi xem, đợi điều gì đó xảy - có thể là đợi thằng đó ra tay lần nữa. Chắc chắn là họ đang chẳng làm gì hết. Đây là một vụ bị xếp vào kho chừng nào chưa có gì đột ngột hâm nóng nó.”

Nàng lắc đầu.

“Họ không tiến hành gì cả, nhưng họ không muốn ông thử một phen xem sao. Điều đó quan trọng chứ.”

“Là chuyện rừng nào cọp nấy mà thôi. Luật chơi xưa nay vẫn vậy mà.”

“Đây không phải cuộc chơi.”

“Tôi biết.”

Ông ước gì mình đã chọn một từ hay hơn.

“Thế ông có thể làm gì?”

“Ừ thì sáng mai, khi đã khỏe lại, tôi sẽ thử gặp Văn phòng Cảnh sát trưởng về cái vụ kia, vụ mà tôi nghĩ là có liên quan ấy. Tôi biết manh mối vụ đó. Jaye Winston. Tôi với cô ấy cùng phá một vụ cách đây lâu rồi. Lần ấy suôn sẻ nên tôi hy vọng lần này họ sẽ cho tôi dấn sâu vào. Ít nhất là sâu hơn so với mấy tay ở cảnh sát Los Angeles.”

Nàng gật đầu, nhưng nàng không giỏi lắm trong việc che giấu nỗi thất vọng.

“Graciela này,” ông nói. “Tôi không biết liệu cô có trông chờ ai đó tự dưng xuất hiện mà giải quyết vụ này như xoay chìa khóa trong ổ khóa hay không, nhưng nếu cô tin tưởng vậy thì thật không thực tế. Chuyện đó chỉ có trong phim thôi. Còn đây là thực tại. Suốt ngần ấy năm tôi làm ở FBI, hầu hết các vụ đều xoay quanh vài chi tiết nhỏ, một cái gì đó thật nhỏ bị người ta bỏ qua hoặc thoạt đầu không có vẻ quan trọng gì. Nhưng rồi hóa ra chính nó là mấu chốt cho toàn bộ sự việc. Đôi khi phải rất lâu người ta mới tới được chỗ đó, mới tìm được cái chi tiết nhỏ ấy.”

“Tôi biết. Tôi biết. Tôi chỉ thất vọng rằng mọi chuyện không được làm sáng tỏ sớm hơn.”

“Phải, khi mà...

Ông đang định nói rằng khi mà máu còn tươi.

“Gì cơ?”

“Không gì cả. Chỉ là với hầu hết các vụ, thời gian trôi qua càng lâu thì càng khó.”

Ông biết dẫu có nói cho nàng rõ về hoàn cảnh thực tế thì cũng chẳng giúp gì được cho nàng. Nhưng ông muốn nàng chuẩn bị cho thất bại rành rành của ông về sau. Hồi xưa thì ông cừ đấy, nhưng nay không cừ vậy nữa rồi. Giờ đây ông nhận ra rằng khi đồng ý nhận vụ này, ông đã chỉ chuẩn bị sẵn để làm Graciela Rivers thất vọng. Ước mơ ích kỷ của ông là đền đáp với nàng rốt lại sẽ chỉ là thêm một liều thực tại đau đớn cho nàng.

“Mấy người đó chỉ là chẳng quan tâm thôi,” nàng nói.

Ông nhìn kỹ đôi mắt nàng đang nhìn xuống. Ông biết nàng đang nói về Arrango và Walters.

“Tôi thì tôi quan tâm.”

Họ kết thúc bữa ăn trong lặng lẽ. Sau khi McCaleb đẩy đĩa sang một bên, ông quan sát nàng trong khi nàng nhìn ra ngoài cửa sổ. Ngay cả khi mặc bộ đồng phục y tá màu trắng bằng polyester, tóc buộc ra sau, Graciela Rivers vẫn khuấy động cái gì đó ở trong ông. Nàng có một nỗi buồn nào đó khiến ông những muốn làm dịu bớt. Ông tự hỏi có phải nỗi buồn ấy đã có đó từ trước khi em nàng chết hay không. Với hầu hết thiên hạ thì có. McCaleb thậm chí còn nhìn thấy điều đó trên gương mặt trẻ sơ sinh nữa - nỗi buồn đã có sẵn đấy rồi. Những sự kiện trong đời họ dường như chỉ xác nhận cái nỗi buồn họ mang sẵn mà thôi.

“Có phải đây là nơi cô ấy chết không?” ông hỏi.

Nàng gật đầu rồi nhìn lại ông.

“Đầu tiên người ta đưa nó tới Northridge, cầm máu rồi chuyển tới đây. Tôi có ở đây khi người ta đã thôi không hỗ trợ sự sống nữa. Tôi đã ở bên nó.”

Ông lắc đầu.

“Chắc là cô đau đớn lắm.”

“Ở khu cấp cứu ngày nào tôi cũng thấy người chết. Chúng tôi cười đùa về chuyện đó để giảm stress, bảo họ là ‘3H’. Hết Hơi Hẳn. Nhưng khi đó là người thân của mình... Tôi không còn đùa như thế nữa.”

Ông quan sát khuôn mặt nàng khi nàng lắc đầu quầy quậy, cài sang số khác rồi tiến tới, thoát khỏi đoạn khó đi. Một vài người có cái số thứ năm ấy nơi hộp số bên trong mình, họ có thể quay xuống đó, để thoát những khi cần thoát.

“Kể tôi nghe về cô ấy đi,” ông nói.

“Ý ông là sao?”

“Thật ra tôi đến đây là vì thế. Kể tôi nghe về cô ấy đi. Sẽ ích cho tôi đấy. Càng cảm thấy rõ hơn về cô ấy thì tôi sẽ càng làm được việc này tốt hơn.”

Nàng im lặng một thoáng, miệng bặm lại trong khi ngẫm nghĩ làm thế nào có thể tóm tắt về em nàng trong một vài lời.

“Trên thuyền của ông có bếp không?” Cuối cùng nàng hỏi.

Câu hỏi của nàng khiến ông bối rối.

“Gì cơ?”

“Bếp. Trên thuyền ông ấy.”

“Ừ, có.”

“Có đủ to để nấu cho ra nấu không?”

“Có chứ. Sao cô lại hỏi tôi về thuyền của tôi?”

“Ông muốn biết về em tôi không?”

“Có.”

“Thế thì ông phải gặp thằng con của nó. Tất cả những gì tốt đẹp ở em tôi đều nằm ở Raymond cả. Nó là tất cả những gì ông cần biết.”

McCaleb chầm chậm gật đầu, ông đã hiểu.

“Vậy thì tối nay tôi đem Raymond xuống thuyền ông rồi hai dì cháu tôi nấu bữa tối cho ông, được không? Tôi có kể cho nó nghe về ông và về con thuyền. Thằng bé muốn thấy con thuyền.”

Ông nghĩ một thoáng rồi nói, “Thế này nhé. Hay ta đợi đến mai đi. Nếu vậy tôi có thể kể cho cô nghe tôi đến chỗ văn phòng Cảnh sát quận thì kết quả thế nào. Có thể tôi sẽ có được gì đó khả quan hơn để báo cáo.”

“Mai cũng được.”

“Với lại đừng bận tâm chuyện nấu nướng. Nấu ăn là việc của tôi.”

“Ông đảo ngược mọi thứ cả rồi đấy. Tôi chỉ muốn là...”

“Tôi biết, tôi biết. Nhưng cô có thể dành lại cho một buổi tối ở nhà cô. Mai cô đến nhà tôi thì tôi sẽ đảm nhiệm phần nấu nướng, OK?”

“OK,” nàng nói, vẫn cau mày nhưng nhận ra rằng không thể làm ông lay chuyển được. Đoạn nàng mỉm cười. “Chúng tôi sẽ đến.”

Đường về phía Nam theo Xa lộ 405 ken dày xe cộ nên mãi sau hai giờ chiều taxi mới thả ông xuống chỗ vũng neo thuyền. Taxi không có điều hòa nhiệt độ nên ông thấy đầu hơi váng vất do khí thải trên xa lộ trộn lẫn với mùi mình mẩy tay tài xế.

Sau khi vào trong thuyền, ông kiểm tra điện thoại thì thấy tin nhắn duy nhất ông nhận được là một cuộc gọi bị ngắt ngang. Ông cảm thấy mình bị chệch với nhịp thường ngày bởi đã lâu rồi ông không hề đi lại, vận động tay chân nhiều như ngày hôm đó. Cơ bắp hai chân ông nhức nhối, lưng thì đau. Ông đi xuống phía mũi thuyền kiểm tra nhiệt độ, nhưng không sốt. Huyết áp và nhịp tim vẫn bình thường. Ông ghi lại hết vào bảng, rồi đi vào phòng ngủ, cởi quần áo ra rồi chui vào giường hãy còn chưa dọn chăn mền.

Mặc dù kiệt sức về thể xác, ông không ngủ được, cứ thức chong chong trên gối. Tâm trí ông cứ nhộn nhạo những ý nghĩ trong ngày và các hình ảnh trong cuốn băng. Sau khoảng một giờ tự lừa mình, ông trở dậy lên phòng khách. Ông lôi cuốn sổ ra khỏi chiếc áo khoác hồi nãy vắt lên lưng ghế, đọc qua những gì đã ghi chép trước đó. Không có gì nổi bật, nhưng vì sao đó ông thấy vững dạ rằng mình đã khởi đầu ghi chép về cuộc điều tra của mình.

Trên một trang trắng ông ghi vội thêm vài ý nghĩ vừa nảy ra về cuốn băng và đôi câu hỏi mà ông muốn bảo đảm sẽ làm rõ được với Jaye Winston ngày hôm sau. Giả định rằng các điều tra viên đã nối kết các vụ lại với nhau, ông muốn biết mối liên hệ đó chắc chắn đến đâu và liệu ba trăm đô bị lấy của James Cordell trong vụ thứ nhất thật ra là bị tước từ người nạn nhân hay là từ khay đựng tiền của ATM.

Ông đặt sổ sang một bên khi nhận ra là mình đói.

Ông đứng dậy, đánh lòng trắng ba quả trứng trong một cái xoong, trộn vào ít xốt Tabasco và rau diếp củ rồi làm một cái xăng uých bằng bánh mì trắng, cắn được hai miếng, ông cho thêm Tabasco vào.

Khi đã dọn dẹp bếp xong, ông thấy cơn mệt mỏi trở lại và cuối cùng cũng khiến ông buồn ngủ rũ. Ông biết giờ thì ông ngủ được. Ông tắm nhanh bằng vòi hoa sen, đo nhiệt độ thêm lần nữa rồi uống cữ thuốc buổi chiều. Trong gương, ông thấy mình trông như thể đã hai ngày không cạo râu mặc dù ông vừa mới cạo sáng hôm đó. Đó là một hiệu ứng phụ của một trong các thứ thuốc ông đang uống. Prednisone giúp chống lại tình trạng cơ thể đào thải vật lạ, nhưng cũng kích thích râu tóc mọc. Ông mỉm cười trước hình phản chiếu của mình trong gương, nghĩ rằng hôm trước lẽ ra ông nên bảo Bonnie Fox rằng ông thấy mình giống như ma sói chứ không phải Frankenstein. Ông lẫn lộn hết mấy con quái vật đó rồi. Ông đi nằm.

Giấc mơ của ông có hai màu đen trắng. Giờ thì chúng ở cả đây, nhưng trước cuộc giải phẫu thì chưa có. Ông không biết thế nghĩa là gì. Ông có kể với bác sĩ Fox chuyện ấy nhưng chị chỉ nhún vai.

Trong giấc mơ này ông đang ở trong chợ. Ông là một người trong cuộc ở cuốn băng video mà Arrango và Walters cho ông xem. Ông đang đứng nơi quầy mỉm cười với Chan Ho Kang. Chủ hiệu mỉm cười đáp lại ông vẻ rất không thân thiện và nói gì đó.

“Gì cơ?” McCaleb hỏi.

“Ông không xứng đáng,” ông Kang nói.

McCaleb nhìn xuống quầy nơi món hàng mình mua nhưng chưa kịp thấy mình mua gì thì đã cảm thấy cái vòng thép lạnh gí vào thái dương ông. Ông quay nhanh lại thì thấy gã đàn ông đeo mặt nạ cầm súng. McCaleb biết - theo cung cách mà kiến thức và lôgic thường đi kèm với giấc mơ - rằng gã đàn ông đang mỉm cười sau lần mặt nạ. Tên cướp hạ thấp súng xuống rồi bắn vào ngực McCaleb, viên đạn của hắn trúng vào vòng số mười, ngay hồng tâm. Viên đạn xuyên qua McCaleb như thể ông là một cái đích bằng giấy. Nhưng tác động của phát súng khiến ông lùi lại một bước rồi từ từ ngã xuống như trong phim quay chậm. Ông không thấy đau, chỉ thấy nhẹ nhõm. Ông nhìn kẻ sát nhân trong khi khuỵu xuống và nhận ra cặp mắt đang nhìn qua mặt nạ. Đó là mắt của chính ông. Rồi thì cái nháy mắt.

Còn ông thì cứ ngã xuống, ngã xuống mãi.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,467
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 8


Tiếng ầm ầm xa xa của những côngtenơ rỗng đang được dỡ từ trên tàu xuống cảng Los Angeles gần đó đánh thức McCaleb dậy trước khi rạng sáng. Nằm trên giường, mắt nhắm nhưng đã hoàn toàn tỉnh, ông hình dung ra khung cảnh ấy. Cần cẩu khéo léo nhấc bổng cái côngtenơ to bằng toa móc xe tải từ dưới boong tàu lên, chuyển lên trên bến, sau đó người coi bãi ra hiệu thả xuống, thế là cái hộp khổng lồ bằng thép hạ xuống nốt một mét cuối cùng, tạo ra chấn động nghe như tiếng ầm ì vang vọng suốt những vũng neo thuyền gần đó. Trong mường tượng của McCaleb, mỗi lần như vậy là người coi bãi lại phá lên cười.

“Chó chết thật,” McCaleb nói, cuối cùng cũng thôi không cố ngủ nướng nữa mà ngồi dậy. Chuyện này xảy ra thế là đã lần thứ ba trong vòng một tháng.

Ông xem đồng hồ mới nhận ra mình đã ngủ hơn mười tiếng đồng hồ. Ông chậm chạp đi ra phía mũi thuyền, tắm một cái. Sau khi lau người, ông lấy các số đo cần thiết cho đợt sáng rồi uống cơ số thuốc viên và thuốc nước do bác sĩ chỉ định. Ông ghi lại tất cả vào biểu đồ tiến triển tình hình rồi lấy dao cạo râu ra. Ông đã toan thoa kem cạo râu lên khắp mặt thì lại nhìn mình trong gương mà nói, “Mẹ kiếp.”

Ông cạo sạch lông cổ để trông mình thật tươm nhưng tới đó thì thôi, quyết định rằng phải cạo râu hai ba lần một ngày từ giờ cho đến khi chết hoặc chừng nào còn uống Prednisone, đấy không phải là một lựa chọn hay ho gì. Trước đây ông chưa bao giờ để râu hàm cả. Cục không cho phép để râu.

Mặc quần áo xong, ông cầm một cốc cao đựng đầy nước cam, cuốn danh bạ điện thoại và điện thoại cầm tay, mang cả ra phía sau thuyền, ngồi vào ghế câu cá trong khi mặt trời ló dạng. Giữa hai ngụm nước cam ông thường xuyên xem đồng hồ, chờ cho đến bảy giờ mười lăm, thời điểm mà ông tin gọi cho Jaye Winston là tốt nhất.

Văn phòng chuyên trách án giết người của Sở Cảnh sát trưởng nằm ở Whittier, phía bên kia hạt. Từ địa điểm đó, các thám tử của đội xử lý tất cả các vụ giết người xảy ra ở các hạt không thuộc quyền quản lý của Los Angeles cũng như nhiều thành phố mà Cục có ký hợp đồng cung cấp dịch vụ thực thi pháp luật. Một trong các thành phố đó là Palmdale, nơi James Cordell bị ám sát.

Do văn phòng của đội chuyên án giết người ở xa đến thế, nên McCaleb quyết định rằng thật xuẩn ngốc nếu bỏ một giờ đi taxi mà không biết liệu tới nơi thì Winston có mặt ở đó hay không. Cho nên ông quyết định gọi điện lúc bảy giờ mười lăm thay vì đường đột đến mang theo gói bánh rán.

“Đồ chó chết.”

McCaleb nhìn quanh thì thấy một trong các láng giềng của mình là Buddy Lockridge đang đứng nơi buồng lái chiếc thuyền buồm của anh ta, một chiếc Hunter dài gần mười ba mét có tên là Xuống Đáy Hai Lần. Anh ta cầm cốc vại cà phê bốc khói trong tay. Anh ta vận đồ tắm, tóc một bên dựng ngược cả lên. McCaleb không cần phải hỏi Buddy anh ta vừa gọi ai là đồ chó chết.

“Ừ,” ông nói. “Mới sáng sớm mà đã thế này thì chán mớ đời.”

“Vấn đề là tụi nó đáng lẽ không được phép làm vậy suốt cả đêm,” Buddy nói. “Ồn quá thể. Từ đây cho tới tuốt trên Long Beach cũng nghe thấy còn gì.”

McCaleb chỉ gật đầu.

“Tôi có nói chuyện với bọn họ, chủ bến tàu ấy. Tôi bảo họ gửi đơn kiện lên Ban Quản lý Cảng nhưng họ đếch quan tâm. Tôi đang nghĩ hay là gửi thư kháng nghị thử xem. Tôi làm rồi anh ký vào nhé?”

“Ừ, tôi sẽ ký.”

McCaleb nhìn đồng hồ.

“Tôi biết là anh nghĩ làm thế chỉ mất thì giờ thôi.

Không. Chỉ là tôi không biết liệu có ăn thua gì không. Cảng là nơi hoạt động hai tư trên hai tư giờ. Họ đời nào mà chịu ngưng dỡ hàng các tàu vào ban đêm chỉ vì có một dúm người sống trên thuyền ở vũng neo rủ nhau ký vào một cái đơn kiện.”

“Ừ, tôi cũng biết thế. Lũ chó chết… Tôi ước gì sẽ có ngày một trong mấy cái công-te-nơ ấy rơi lên đầu chúng nó. Chừng đó thì tụi nó mới sáng mắt ra.”

Lockridge là một tay ma xó chuyên sống ở cầu tàu. Là một tay lướt sóng đã luống tuổi, một kẻ thối thây chết dấp bên bờ biển, anh ta sống cuộc sống xoàng xĩnh, tằn tiện trên thuyền, đắp đổi qua ngày chủ yếu nhờ tiền công được trả để làm mấy việc vặt loanh quanh vũng như canh giữ thuyền và cạo thân thuyền. Hai người gặp nhau hồi năm ngoái, ít lâu sau khi Lockridge chuyển thuyền của mình vào vũng. Nửa đêm đang ngủ thì McCaleb bị một bản nhạc bằng kèn harmonica đánh thức. Khi trở dậy ra khỏi thuyền để kiểm tra, ông lần theo tiếng nhạc thì gặp Lockridge say khướt nằm trong buồng lái chiếc Xuống Đáy Hai Lần. Anh ta đang thổi harmonica theo một điệu nhạc chỉ mình anh ta nghe được qua tai nghe. Mặc dù đêm đó McCaleb có than phiền, nhưng dần dà hai người trở thành bầu bạn. Phần lớn là do ở khu này của vũng đậu chẳng còn ai khác sống trên thuyền cả. Người này là láng giềng duy nhất suốt ngày đêm của người kia. Dạo McCaleb nằm viện, Buddy là người để mắt trông coi chiếc Biển Theo Ta. Anh ta cũng hay mời McCaleb đi cùng xe đến cửa hàng thực phẩm hay siêu thị gần đó bởi anh biết Terry không được phép lái xe. Đổi lại, McCaleb mời Lockridge sang ăn tối đại để mỗi tuần một lần. Họ thường hàn huyên về sở thích chung là nhạc blue, tranh cãi chuyện thuyền buồm thế này còn thuyền máy thế kia, đôi khi còn lôi vài thùng hồ sơ cũ của McCaleb ra mà giải một vài vụ về mặt lý thuyết. Lockridge luôn luôn thích thú trước những chi tiết của các câu chuyện McCaleb kể về Cục và các cuộc điều tra của ông hồi xưa.

“Tôi phải đi gọi một cú điện cái đã Bud à,” giờ thì McCaleb gọi với sang. “Tôi sẽ chuyện vãn với anh sau,”

“Ừ. Anh đi gọi đi. Bận việc gì thì hẵng làm cái đã.”

Anh ta vẫy tay rồi biến mất nơi cửa xuống hầm dẫn vào buồng lái thuyền của mình. McCaleb nhún vai rồi quay số sau khi nhìn số điện thoại của Jaye Winston mà ông đã ghi vào sổ. Sau vài giây, ông được nối.

“Chào Jaye, tôi Terry McCaleb đây. Nhớ tôi chứ?”

Sau một nhịp, chị đáp. “Dĩ nhiên là có. Anh thế nào, Terry? Tôi nghe nói anh vừa có tim mới.”

“Ừ, nhưng tôi khỏe. Còn chị?”

“Già thì vẫn già thế.”

“Này, nếu tôi tạt qua sáng nay thì liệu chị có rảnh được vài phút không? Chị có nhận một vụ mà tôi muốn nói tới.”

“Hiện anh đang làm tư à, Terry?”

“Không. Chỉ là giúp một người bạn thôi.”

“Vụ nào vậy?”

“James Cordell. Vụ giết người cạnh máy ATM, hôm hăm hai tháng Giêng.”

Winston kêu một tiếng hừm nhưng không nói gì.

“Sao kia?” McCaleb hỏi.

“Chà, ngộ thật. Vụ đó đang đóng băng ở chỗ tôi, nhưng anh là người thứ hai gọi điện cho tôi hỏi về nó trong vòng hai hôm nay.”

Cứt thật, McCaleb nghĩ. Ông biết ai đã gọi.

“Keisha Russell ở báo Thời báo?”

“Ừ.”

“Cũng là do tôi đấy. Tôi có hỏi mượn cô ta các bài lưu trữ về vụ Cordell. Nhưng tôi không chịu bảo cô ta là vì sao. Thành thử cô ta mới hỏi chị. Câu tin ấy mà.”

“Tôi cũng nghĩ thế. Tôi vờ chẳng hiểu gì. Vậy ai là người bạn đã thuyết phục được anh dấn vào vụ này?”

McCaleb kể lại ông đã được người ta yêu cầu điều tra vụ ám sát Gloria Torres như thế nào, và việc đó rốt cuộc lại dẫn ông tới vụ Cordell ra sao. Ông thừa nhận rằng ông không được Cảnh sát Los Angeles hỗ trợ gì hết, rằng Winston là kênh duy nhất còn lại để ông có thể thâm nhập vụ này. Ông tránh không nhắc chuyện trái tim mới của ông vốn là trái tim của Gloria Torres.

“Vậy tôi đoán có đúng không?” cuối cùng ông hỏi. “Hai vụ có liên quan không?”

Winston ngần ngừ nhưng rồi thừa nhận là có. Chị cũng nói vụ của chị hiện đang tạm treo lại, chờ đến khi có những tiến triển mới.

“Nghe này, Jaye, tôi nói thẳng với chị ngay đây. Tôi mong là mong có thể tới chỗ chị, may ra liếc một cái vào hồ sơ và bất cứ cái gì chị vui lòng cho tôi xem, rồi thì sau đó quay lại gặp Graciela Rivers đặng kể rằng có thể làm được gì thì tôi đã hoặc đang làm hết cả rồi. Tôi không cố làm người hùng hay làm ai bẽ mặt hết.”

Winston chẳng nói gì.

“Chị nghĩ sao?” Cuối cùng McCaleb hỏi. “Hôm nay chị có chút thì giờ không?”

“Không nhiều đâu. Anh giữ máy được không?”

“Được chứ.”

McCaleb phải đợi trong một phút. Ông đi tới đi lui quanh boong thuyền, nhìn mặt nước sẫm tối nơi thuyền của ông đang nổi bập bềnh.

“Terry?”

“Ừ.”

“Này, mười một giờ tôi có phiên tòa ở dưới phố. Nghĩa là tôi phải đi khỏi đây trước mười giờ. Anh tới trước khi đó được không?”

“Được. Chín giờ hay chín giờ mười lăm nhé?”

“Được.”

“OK. Cám ơn nhé.”

“Này Terry, tôi nợ anh một thứ, cho nên tôi mới làm thế này. Nhưng vụ này chả có gì đâu. Chỉ là một thằng khốn nạn xách súng thôi. Chỉ là một vụ vớ vẩn giết người đến lần thứ ba, thế thôi.”

“Chị nói thế là sao?”

“Tôi đang có người khác chờ điện thoại. Khi nào anh đến ta sẽ nói chuyện.”

Trước khi chuẩn bị đi, McCaleb bước lên bến tàu, đi về phía chiếc Xuống Đáy Hai Lần. Con thuyền này là thứ chướng tai gai mắt trong vũng neo thuyền. Lockridge có lắm đồ đạc trong khi con thuyền không phải được làm ra để chứa ngần ấy thứ. Ba cái ván trượt nước, hai chiếc xe đạp và chiếc thuyền cao su của anh ta chất đầy trên boong, làm cho con thuyền trông như cửa hàng nổi trên mặt nước.

Cửa hầm vẫn mở nhưng McCaleb chẳng thấy cũng chẳng nghe động tĩnh gì. Ông gọi to rồi đợi. Ở vũng neo thuyền này, bước lên thuyền người khác mà không được mời là khiếm nhã.

Cuối cùng, cái đầu và hai vai Buddy Lockridge ló lên qua cửa hầm. Anh ta đã chải đầu và mặc quần áo tươm tất.

“Buddy này, hôm nay anh phải đi đâu vậy?”

“Hỏi gì lạ! Thì như ngày nào tôi cũng đi chớ sao nữa. Một cái trứng ngỗng to. Chứ anh nghĩ sao, tôi tới chỗ Kinko để cập nhật sơ yếu lý lịch chắc?”

“Này bạn, tôi cần một người lái xe trong vài ngày tới, có khi còn hơn. Nếu anh muốn thì việc đó là của anh. Tôi sẽ trả mười đô một giờ cộng bao ăn. Anh phải đem theo sách hay gì đó vì sẽ phải ngồi đợi tôi nhiều đấy.”

Buddy trèo hẳn lên buồng lái.

“Anh muốn lái xe đi đâu nào?”

“Tôi phải đến Whittier. Tôi cần đi trong mười lăm phút nữa. Sau đó thì tôi không biết.”

“Gì vậy, kiểu như điều tra gì gì phải không?”

McCaleb có thể thấy nỗi háo hức dậy lên trong mắt Buddy. Anh ta đã dành lắm thì giờ đọc sách vụ án và thường kể lại cốt truyện cho McCaleb nghe. Lần này thì ắt là vụ án thật hẳn hoi.

“Ừ, tôi phải điều tra một vụ cho một người. Nhưng tôi không cần tìm cộng sự, Buddy à, chỉ cần lái xe thôi.”

“Cũng được. Tôi nhận. Xe ai?”

“Nếu xe của anh thì tiền xăng tôi trả. Nếu con Cherokee của tôi thì tôi ngồi ghế sau. Nó có túi khí bên phía dành cho khách. Tùy anh. Với tôi đằng nào cũng được.”

McCaleb bị Bonnie Fox cấm lái xe cho tới ít nhất là tháng thứ chín. Ngực của ông vẫn đang khép miệng. Da đã liền lại, nhưng bên dưới lớp ngoài đóng sẹo xương ức vẫn còn hở. Chỉ cần một cú va đập vào bánh lái hoặc từ một túi khí là có thể gây mất mạng, cho dù chỉ là trong một tai nạn với tốc độ chậm.

“Ừm, tôi thích con Cherokee, nhưng thôi, lấy xe tôi vậy.” Buddy nói. “Tôi rất khoái làm tài xế mà băng sau có anh làm khách.”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,467
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 9


Vào mùa hè năm 1993 người ta phát hiện xác một người đàn bà tại một vỉa sa thạch lớn trồi lên gọi là Vasquez Rocks ở Thung lũng Linh dương phía Bắc hạt Los Angeles. Cái xác nằm đó đã mấy ngày. Xác đã phân hủy nên không xác định được nạn nhân có bị tấn công tình dục hay không, nhưng người ta giả định là có. Xác có mặc quần áo, nhưng quần bị mặc trái còn áo blouse thì cài lộn khuy, dấu hiệu cho thấy rõ người đàn bà đã không tự mặc quần áo hoặc chỉ mặc do bị cưỡng ép thô bạo. Nguyên nhân tử vong là bóp cổ bằng tay, biện pháp giết người thường gặp trong hầu hết các vụ giết người kèm theo xâm phạm tình dục.

Thám tử Jaye Winston dưới quyền Cảnh sát trưởng đảm nhiệm vụ án Vasquez Rocks với tư cách điều tra viên trưởng. Khi vụ án không được phá nhanh bằng một vụ bắt giữ, Winston lâm vào thế khó. Vốn là người nhiều tham vọng nhưng không mang nặng một cái tôi quá quắt, chị bèn liên lạc với FBI nhờ giúp đỡ, ấy là một trong những động thái đầu tiên của chị. Yêu cầu của chị được chuyển tới ban chuyên án giết người hàng loạt, và cuối cùng chị soạn một bản câu hỏi nhờ điều tra vụ án rồi gửi cho Chương trình Bắt Tội phạm Bạo lực (CBTB).

Bản câu hỏi gửi cho CBTB đã là phương tiện để McCaleb làm quen lần đầu với Winston. Hồ sơ vụ án mà chị gửi đến Quantico được chuyển tiếp sang phòng lưu trữ của McCaleb ở Phòng tác chiến Los Angeles. Theo đúng kiểu quan liêu thường thấy, bộ hồ sơ phải chu du qua cả nước để rồi bị gửi ngược lại gần như về điểm xuất phát chừng đó nó mới được tiếp nhận và xúc tiến.

Thông qua máy tính chứa cơ sở dữ liệu của CBTB - nó tiến hành so sánh một bản tóm lược gồm tám mươi câu hỏi về một vụ án nào đấy với các vụ lưu trong file - và nghiên cứu hiện trường vụ án cũng như ảnh chụp pháp y, McCaleb so sánh vụ Vasquez Rocks với một vụ giết người trước đó một năm ở khu vực Đèo Sepulveda của Los Angeles. Cũng một phương pháp giết người tương tự, vứt xác có mặc quần áo trên một bờ đê, các chi tiết và sắc thái nhỏ nhặt khác, tất cả đều khớp. McCaleb tin rằng họ lại có thêm một tên giết người hàng loạt đang thủ ác trong vùng lòng chảo Los Angeles. Ở cả hai vụ, mãi hai ba ngày sau khi người ta xác định rằng người đàn bà mất tích thì cô ta mới chết. Thế nghĩa là kẻ giết người đã bắt cóc cô ta và giữ cô ta sống trong suốt thời gian đó, có lẽ là để dùng cô ta phục vụ cho những cuồng tưởng tính dục rùng rợn của hắn.

Nối kết hai vụ lại với nhau chỉ là một bước. Nhận diện và tóm kẻ giết người hiển nhiên là những bước tiếp theo. Thế nhưng, không có gì để đi tiếp cả. McCaleb tò mò muốn biết khoảng cách thời gian giữa hai vụ giết người. Nghi phạm Chưa biết, như hồ sơ chính thức của FBI thường gọi kẻ giết người, đã không gây hại gì trong vòng mười một tháng, cho đến khi nỗi thôi thúc lại xâm chiếm hắn và hắn hành động theo cuồng tưởng của mình bằng cách bắt cóc người đàn bà thứ hai. Với McCaleb, điều này có nghĩa là, sự việc đó hằn sâu trong tâm trí kẻ giết người một cách mạnh mẽ đến nỗi cuộc sống cuồng tưởng của hắn về cơ bản có thể tồn tại mà không phải lặp lại nó, hoặc hắn chỉ cần nạp thứ ấy một lần là đủ trong gần một năm. Chương trình lập chân dung kẻ giết người hàng loạt của Cục cho thấy khoảng cách giữa hai vụ sẽ ngày càng ngắn đi và tên giết người rồi sẽ phải tìm con mồi mới sớm hơn.

McCaleb lập một chân dung hung thủ cho Winston nhưng cũng chẳng giúp gì được mấy và cả hai đều biết thế. Nam giới da trắng, hai mươi đến ba mươi tuổi, công việc thấp kém, cuộc sống hạ tiện, Nghi phạm Chưa biết cũng có tiền sử phạm tội liên quan đến tình dục hoặc hành vi quấy rối. Nếu tiền sử này bao gồm cả từng bị tống giam trong thời gian dài, hẳn nó có thể làm chệch độ tuổi phỏng đoán của nghi phạm.

Chuyện đó chẳng có gì mới. Các chân dung CBTB thường cực kỳ chính xác nhưng thật hiếm khi dẫn tới bắt được một nghi phạm. Chân dung gửi cho Winston có thể khớp với hàng trăm, có khi hàng ngàn người trong khu vực Los Angeles. Thế nên sau khi đã rà soát tất cả các manh mối điều tra rồi thì chẳng còn gì để làm ngoài đợi.

McCaleb ghi chú về vụ này trong lịch của mình rồi chuyển sang những vụ khác.

Vào tháng Ba năm tiếp theo - tám tháng sau vụ thứ hai - McCaleb bắt gặp lại mẩu ghi chú đó, đọc lại hồ sơ rồi gọi cho Winston. Không có gì thay đổi cho lắm. Vẫn chẳng thêm manh mối hay nghi phạm nào. McCaleb thúc giục điều tra viên của Cảnh sát trưởng bắt tay khảo sát hiện trường thủ tiêu hai cái xác và mộ hai nạn nhân. Ông giải thích rằng tên giết người đang ở vào đoạn cuối chu kỳ của hắn. Các cuồng tưởng của hắn sắp sửa khô cạn. Nỗi thôi thúc tái tạo lại cho tươi mới cảm giác quyền lực và làm chủ một con người khác, rồi nó sẽ lớn dậy và càng lúc càng khó kiểm soát. Việc Nghi phạm Chưa biết hình như đã mặc áo quần cho mấy cái xác sau khi thủ ác trong hai vụ giết người đầu tiên là dấu hiệu cho thấy rõ cuộc đấu tranh dữ dội diễn ra trong óc hắn. Một phần của hắn xấu hổ vì việc hắn đã làm - một cách vô thức, hắn tìm cách che đậy nó bằng cách trả quần áo của từng nạn nhân về chỗ cũ. Điều này gọi ý rằng sau chu kỳ tám tháng, tên giết người rồi sẽ rơi vào một cơn bấn loạn tâm lý khủng khiếp. Nỗi thôi thúc hành động theo cuồng tưởng một lần nữa, và nỗi xấu hổ mà hành động đó sẽ mang lại, đó là hai mặt của cuộc đấu tranh giành quyền làm chủ. Một cách để tạm thời đè nén thôi thúc giết người là trở lại thăm hiện trường các tội ác trước đó của hắn, nhằm nạp thêm sinh lực mới cho cơn cuồng tưởng. Trực giác của McCaleb là tên giết người sẽ quay lại những nơi vứt xác hoặc thăm các phần mộ. Việc này sẽ đưa hắn đến gần các nạn nhân của hắn hơn và giúp hắn kiềm chế cái nhu cầu lại giết người.

Winston miễn cưỡng chủ trì một chiến dịch khảo sát nhiều điểm trên cơ sở linh cảm của một nhân viên FBI. Nhưng McCaleb đã được phê chuẩn để bản thân ông cùng hai đặc vụ khác tiến hành giám sát liên tục. Ông cũng khích dậy tính chuyên nghiệp của Winston, ông bảo chị rằng nếu không làm vậy, chị sẽ luôn phải tự hỏi nếu như mình giám sát liên tục thì liệu có thu được thành công hay không, nhất là nếu Nghi phạm Chưa biết lại gây án nữa. Lương tâm cứ bị giày vò như thế, Winston đến gặp trung úy chỉ huy mình và các đối tác trong cảnh sát Los Angeles, thế là một đội giám sát được tập hợp từ cả ba cơ quan.

Trong khi hoạch định cuộc điều tra, Winston biết được rằng chỉ do ngẫu nhiên, cả hai nạn nhân đều được chôn cất tại cùng nghĩa trang Glendale, cách nhau chừng trăm mét. Nghe vậy, McCaleb liền tiên đoán rằng nếu Nghi phạm Chưa biết sắp xuất đầu lộ diện thì ắt là sẽ trong nghĩa trang.

Ông đoán đúng. Vào đêm giám sát thứ năm, McCaleb, Winston và hai thám tử khác đang nấp sau một lăng mộ nơi có thể nhìn rõ cả hai ngôi mộ kia thì họ thấy một người đàn ông lái xe tải nhỏ vào nghĩa trang, ra khỏi xe rồi trèo lên chỗ cổng mộ bị khóa, cắp theo cái gì đó dưới nách, hắn tiến về phía mộ nạn nhân thứ nhất, đứng bất động trước mộ trong khoảng mười phút rồi lại bước về phía mộ nạn nhân thứ hai. Hành vi của hắn cho thấy hắn đã biết trước vị trí các ngôi mộ. Ở mộ thứ hai, hắn tháo vật cắp dưới nách, thì ra đó là một cái túi ngủ, hắn trải túi lên trên mộ, ngồi xuống đó rồi tựa lưng vào bia đá. Các thám tử không quấy rầy gã đàn ông. Họ đang bận ghi lại chuyến thăm mộ của hắn bằng máy quay video nhìn được ban đêm. Chẳng mấy chốc hắn vạch quần ra và bắt đầu thủ dâm.

Trước khi trở lại xe, gã đàn ông đã được nhận diện qua bảng đăng ký số xe là Luther Hatch, một người làm vườn ba mươi tám tuổi quê ở Bắc Hollywood, ra tù cách đó bốn năm sau khi ngồi khám chín năm tại ngục Folsom vì tội hiếp dâm.

Nghi phạm không còn là kẻ chưa biết nữa. Hatch trở thành nghi phạm thực tế. Khi trừ bớt khỏi tuổi hắn mấy năm ngồi tù thì hắn hoàn toàn khớp với bản chân dung do CBTB đã lập. Hắn bị theo dõi ngày đêm trong ba tuần liền, kể cả suốt hai lần viếng nghĩa trang Glendale nữa - cho đến một đêm kia các thám tử vào cuộc đúng lúc hắn toan buộc một phụ nữ trẻ rời khỏi Sherman Oaks Galleria để vào xe hắn. Trong xe, các sĩ quan bắt giữ hắn tìm thấy băng dính và dải vải cắt thành từng đoạn dài hơn một mét. Sau khi nhận lệnh khám nhà, các điều tra viên tháo tan tành phần bên trong xe cũng như căn hộ của Hatch. Họ phát hiện được tóc, vải và dịch khô, những thứ này, sau khi người ta tiến hành phân tích DNA và các xét nghiệm khoa học khác thì đều được chứng minh là thuộc về hai nạn nhân bị giết. Hatch nhanh chóng được báo chí địa phương đặt biệt danh “Người trong nghĩa trang” và giành một chỗ trong lâu đài danh dự dành cho những tên giết người hàng loạt làm mê hoặc đám đông công chúng.

Năng lực chuyên môn và trực giác của McCaleb đã giúp Winston phá vụ đó. Ấy là một trong các thành tích người ta vẫn còn nhắc tới ở Los Angeles và Quantico. Vào đêm người ta bắt Hatch, nhóm giám sát đi ăn mừng. Trong một quãng tạm lắng giữa cơn ầm ĩ, Jaye Winston quay sang McCaleb nơi quầy bar mà nói: “Tôi nợ anh một. Tất cả chúng tôi.”

Buddy Lockridge đã đóng bộ xong để làm tài xế cho Terry như thể anh ta sắp đi dự hộp đêm ở Sunset Strip. Từ đầu tới chân anh ta vận toàn đen. Anh lại còn xách cặp da đen bóng. Đứng trên bến tàu cạnh chiếc Xuống Đáy Hai Lần, McCaleb nhìn chằm chặp cái lề bộ đó một hồi, chẳng nói gì.

“Chuyện gì vậy?”

“Chả có gì. Đi thôi.”

“Thế này ổn chứ?”

“Thì ổn, nhưng tôi không nghĩ là anh diện bảnh thế kia để chỉ ngồi trong xe suốt ngày. Liệu anh có sẽ thấy thoải mái không?”

“Có chứ.”

“Vậy thì đi.”

Xe của Lockridge là một chiếc Ford Taurus màu bạc đã bảy năm tuổi được bảo trì tốt. Trên đường tới Whittier, anh ta thử đến ba lần để dò la xem McCaleb đang điều tra cái gì nhưng lần nào câu hỏi cũng không được trả lời. Cuối cùng, McCaleb cũng đánh lạc hướng được sự tra vấn kia bằng cách khơi lại cuộc tranh luận tự hồi nào giữa họ về chuyện thuyền buồm trội hơn thuyền máy ở những chỗ nào. Họ đến chỗ Trung tâm Sao của Sở Cảnh sát trưởng trong vòng hơn một giờ một chút. Lockridge đánh xe vào một ô đỗ trong bãi xe khách rồi tắt máy.

“Tôi không biết sẽ ở đây bao lâu,” McCaleb nói. “Mong là anh có mang theo gì đó để đọc hoặc là cầm theo một trong mấy cây harmonica của anh.”

“Anh chắc là không cần tôi đi cùng chứ?”

“Này, Bud, chắc là anh vẫn cứ đang lầm đấy. Tôi tìm không phải là tìm cộng sự. Tôi chỉ cần ai đó lái xe cho tôi thôi. Hôm qua tôi đã phải trả hơn trăm đô đi taxi. Tôi cho rằng tiền ấy hẳn là anh có thể dùng, nhưng nếu anh cứ hỏi tôi hết chuyện này chuyện nọ rồi lại...”

“Được rồi, được rồi,” Lockridge cắt ngang. Anh ta giơ hai tay lên đầu hàng. “Tôi chỉ ngồi đây đọc sách thôi. Chẳng hỏi han gì nữa.”

“Tốt. Gặp anh sau.”

McCaleb bước vào văn phòng ban chuyên án giết người vừa đúng giờ đã hẹn và Jaye Winston đang quanh quẩn đợi ông ở khu quầy tiếp tân. Chị là một phụ nữ hấp dẫn trẻ hơn McCaleb vài tuổi. Chị có mái tóc vàng óng suôn thẳng, dài vừa phải. Thân hình chị thon thả, mặc bộ váy liền áo màu xanh dương, phía trong là áo blouse trắng. Gần năm năm rồi McCaleb không gặp lại chị, từ cái đêm họ ăn mừng vụ bắt được Luther Hatch. Họ bắt tay nhau, rồi Winston dẫn McCaleb đến một phòng họp có cái bàn hình bầu dục bao quanh là sáu ghế. Có một bàn nhỏ hơn kê sát vào một bức tường, trên bàn có một máy pha cà phê bình kép. Phòng không có ai. Một đống dày tài liệu và bốn cuộn băng video nằm trên bàn.

“Anh uống cà phê không?” Winston hỏi.

“Không, không cần đâu.”

“Thế thì bắt đầu đi. Tôi có đúng hai mươi phút.”

Họ kéo ghế ngồi hai bên bàn đối diện nhau. Winston chỉ vào đống giấy tờ và băng video.

“Của anh cả đấy. Tôi đã sao lại tất sau khi anh gọi sáng nay.”

“Chà-à, chị đùa đấy à? Cám ơn nhé.”

McCaleb dùng cả hai tay kéo cả đống về phía ngực mình như một người vét hết mớ tiền cuộc nơi bàn chơi poker.

“Tôi có gọi Arrango bên Los Angeles,” Winston nói. “Anh ta bảo tôi chớ làm việc với anh, nhưng tôi bảo anh ta rằng anh là thám tử giỏi nhất tôi từng cộng tác và tôi có nợ anh. Anh ta cáu lắm nhưng rồi sẽ hết thôi.”

“Trong này có cả hồ sơ bên Los Angeles chứ?”

“Có, bọn tôi có bản sao hồ sơ của nhau mà. Đã hai ba tuần nay tôi không nhận được gì của Arrango, nhưng chắc là bởi không có gì mới hết. Chắc đều toàn thông tin cập nhật mới nhất cả. Vấn đề là lắm giấy tờ với băng video như thế mà rốt cuộc tới giờ cũng chưa lần ra gì sất.”

McCaleb tách đống hồ sơ ra làm hai rồi bắt đầu xem qua từng thứ. Bắt đầu thấy rõ rằng khoảng hai phần ba hồ sơ là do các điều tra viên của Cảnh sát trưởng lập, còn lại là của cảnh sát Los Angeles. Ông ra hiệu về phía mấy cuốn băng.

“Gì đây?”

“Anh có cả hai hiện trường vụ án và hai vụ bắn người. Arrango bảo tôi anh ta đã cho anh xem vụ cướp ở cửa hàng bách hóa.”

“Ừ.”

“Rồi, ở chỗ chúng tôi còn ít hơn thế nữa kia. Hung thủ lọt vào khung hình trong vòng có mấy giây. Vừa đủ để chúng ta thấy hắn đeo mặt nạ. Nhưng dù gì thì, đấy, nếu muốn anh cứ xem.”

“Trong mấy vụ bên chị, gã đó lấy tiền từ máy hay từ tay nạn nhân?”

“Từ máy, nhưng sao?”

“Có thể tôi cần chi tiết đó để nhờ bên Cục giúp nếu cần. Về mặt kỹ thuật, thế nghĩa là tiền bị cướp khỏi ngân hàng chứ không phải khỏi tay nạn nhân. Vậy là tội phạm ở cấp liên bang.”

Winston gật đầu tỏ ý hiểu.

“Thế về chuyện đạn đạo thì bên chị thấy giữa các vụ có mối liên hệ nào?” McCaleb hỏi, vẫn nhớ rằng thời gian của chị có hạn mà ông thì muốn có thông tin từ chị càng nhiều càng tốt.

Chị gật đầu.

“Tôi đang điều tra dở vụ này thì sau đó mấy tuần tôi đọc báo thấy có bài về vụ kia. Nghe ra đều cùng một kiểu. Tôi liền gọi bên Los Angeles và hai bên gặp nhau. Khi xem mấy cuốn băng anh sẽ thấy Terry ạ. Không nghi ngờ gì nữa. Cũng một động cơ đó, một khẩu súng đó, cũng một gã đó. Đạn đạo chỉ nhấn mạnh thêm những gì ta đã biết.”

McCaleb gật.

“Tôi tự hỏi tại sao gã đó lại nhặt vỏ đạn nếu như hắn biết manh mối sẽ là ở đó. Hắn dùng đạn gì?”

“Đạn đầu cứng chín ly. Hãng Federal. Có vỏ bọc bằng kim loại. Nhặt vỏ đạn là một thói quen tốt. Trong vụ của tôi, phát súng xuyên từ bên này sang bên kia, chúng tôi phải đào tường bê tông để moi viên đạn ra. Chắc là hắn đoán - cũng có thể hắn hy vọng - rằng viên đạn vỡ nát quá rồi nên không thể dùng để so sánh đạn đạo được nữa. Cho nên, giống như một xạ thủ con nít mẫu mực, hắn mới nhặt vỏ đạn.”

McCaleb gật, lưu ý nét khinh thị đối với con mồi của mình trong giọng của chị.

“Dù sao thì cái đó cũng không thực sự quan trọng,” chị nói. “Như tôi vừa bảo, xem mấy cuốn băng đi. Ở đây chúng ta đang phải xử trí với một thằng độc nhất. Chẳng cần phân tích đạn đạo cũng biết.”

“Bên chị hay bên cảnh sát Los Angeles có đi xa hơn chút nào so với thế này không?”

“Ý anh muốn nói gì, bên ban Súng và Đạn đạo hả?”

“Ừ. Ai có bằng chứng?”

“Chúng tôi có. Số vụ bên Los Angeles hơi nặng hơn bên đây. Chúng tôi đồng ý giữ toàn bộ chứng cứ, bởi vụ bên chúng tôi là vụ đầu tiên. Tôi đã bảo bên Súng và Đạn đạo làm đúng thủ tục, anh biết đó, tìm những nét tương đồng, vân vân, nhưng họ chịu. Xem ra chỉ có hai vụ này thôi. Tạm thời thì vậy.”

McCaleb ngẫm nghĩ xem có nên kể cho chị nghe về cái máy tính DRUG-FIRE của Cục không, nhưng rồi quyết định rằng chưa phải lúc. Ông nên đợi cho đến khi đã xem các cuốn băng và hồ sơ vụ án, rồi thì mới có thể đề nghị chị nên làm gì.

Ông nhận thấy Winston xem đồng hồ.

“Chị đang làm vụ này một mình thôi à?” ông hỏi.

“Giờ thì một mình. Trước thì tôi lãnh đạo, Dan Sistrunk làm cộng sự. Anh biết anh ta chứ?”

“Ừ, có phải là một trong số những người trực mộ đêm đó không?”

“Đúng đấy, vụ giám sát Hatch. Anh ta có đấy. Dù sao thì, hai chúng tôi đã cùng làm vụ này, rồi thì những chuyện khác xảy ra. Các vụ khác. Nay chỉ toàn là tôi thôi. Tôi may mắn gớm.”

McCaleb vừa gật vừa mỉm cười. Ông hiểu chuyện diễn ra thế nào. Nếu một vụ không được nhóm điều tra phá sớm thì rồi sẽ có một người phải kẹt cứng vào nó.

“Liệu cho tôi mấy thứ này rồi thì chị có bị xạc một mẻ không?”

“Không. Đội trưởng biết anh đã làm gì cho chúng tôi trong vụ Lisa Mondrian mà.”

Lisa Mondrian là người đàn bà được phát hiện ở Vasquez Rocks. McCaleb nghĩ Winston nhắc đến cô ta bằng họ tên thì thật không bình thường. Không bình thường là bởi hầu hết cớm mà ông biết đều cố gắng tránh nhắc tên nạn nhân, làm như các nạn nhân không phải là những cá nhân. Làm thế thì họ dễ sống hơn.

“Đội trưởng hiện giờ hồi đó là trung úy,” Winston nói. “Ông ấy biết tôi nợ anh. Chúng tôi có nói chuyện, ông ấy bảo cứ cho anh hết các thứ đi. Tôi chỉ muốn chúng tôi có thể đền đáp cho anh gì đó nhiều hơn chứ không chỉ ngần này. Tôi không biết anh sẽ làm được gì với mấy thứ này Terry ạ. Chúng tôi thì chỉ biết chờ thôi.”

Nghĩa là chờ cho hung thủ lại ra tay và hy vọng lần này hắn phạm sai lầm. Thật không may, thường thì phải có thêm máu tươi đổ ra mới mong phá được những vụ giết người cũ.

“Thôi được, tôi sẽ xem làm được gì với nó đây. Ít nhất nó cũng là thứ gì đó khiến cho tôi bận rộn. Còn lúc nãy chị nói gì trên điện thoại về luật ba vụ gì gì đó nhỉ?”

Winston chau mày.

“Chúng tôi ngày càng có nhiều những thứ như vậy. Từ khi người ta đưa vào thực thi luật ba vụ trọng án ở Sacramento. Tôi không biết từ khi ra khỏi ngành liệu anh có theo dõi không. Luật nói rằng nếu anh phạm ba vụ trọng án là thôi, xong. Tự động vào tù, không cam kết tạm tha gì hết.”

“Ừ. Tôi có biết.”

“Rồi, đối với vài đứa trong lũ khốn đó, luật đó chỉ tổ làm chúng cẩn thận hơn thôi. Giờ thì chúng khử hết nhân chứng nơi chúng vừa mới cướp. Luật ba vụ được cho là sẽ làm chúng nhụt chí. Nếu anh hỏi thì tôi nói rằng nó đã khiến cho nhiều người bị giết như James Cordell và hai người ở siêu thị đó rồi.”

“Thế theo chị gã này sẽ làm gì?”

“Thì như tôi nói đấy. Anh đã xem một trong mấy cuốn băng rồi. Chả đắn chả đo gì hết. Thằng chó chết này biết hắn sẽ làm gì từ trước khi hắn tiến lại chỗ máy ATM nọ hay vào cửa hàng kia. Hắn không muốn có nhân chứng. Tôi linh cảm thế, và tôi lần theo. Rảnh là tôi xem lại hồ sơ, tìm những tên cướp có súng từng hạ sát hai mạng người hay nhiều hơn. Tôi nghĩ gã đeo mặt nạ là một trong số đó. Hắn trước đây vẫn là cướp. Giờ thì hắn vừa cướp vừa giết. Tiến hóa tự nhiên.”

“Vẫn chưa tìm được gì?”

“Bằng hồ sơ thì chưa. Nhưng hoặc tôi tìm ra hắn hoặc hắn sẽ tìm ra tôi. Hắn không phải loại đột nhiên giở giời giết người. Và xét theo chỗ hắn bắn người chỉ vì mấy trăm đô thì có thể thấy hắn cho rằng dù trong hoàn cảnh nào đi nữa hắn cũng sẽ không quay trở lại chuồng. Điều đó chắc chắn. Hắn sẽ còn làm chuyện này nữa. Tôi lấy làm lạ là vẫn chưa xảy ra, từ vụ gần nhất tới giờ đã hai tháng còn gì. Nhưng khi ra tay, có thể hắn sẽ làm hư bột hư đường một chút và ta sẽ tóm được hắn. Sớm muộn gì ta cũng sẽ tóm. Tôi bảo đảm. Nạn nhân của tôi có vợ và hai đứa con gái. Tôi sẽ tóm được cái đồ cứt đái đã làm chuyện đó.”

McCaleb gật đầu. Ông thích sự tận tụy của chị, nó được khích động bằng nỗi phẫn nộ. Thật khác một trăm tám mươi độ so với cách nhìn sự vật của Arrango. Ông bắt đầu thu nhặt hồ sơ cùng các cuốn băng rồi bảo Winston ông sẽ gọi cho chị sau khi xem xét tất cả hồ sơ. Ông nói có thể sẽ mất mấy ngày.

“Không sao,” chị nói. “Anh làm được gì đi nữa chúng tôi cũng dùng hết.”

Khi McCaleb quay lại chiếc Taurus, ông thấy Buddy Lockridge đang ngồi tựa lưng vào cửa xe bên tài xế, hai chân duỗi dài sang ghế bên kia. Anh ta đang vừa uể oải thổi một khúc blue ngẫu hứng bằng kèn harmonica vừa đọc một cuốn sách mở rộng đặt trên lòng mình. McCaleb mở cửa xe bên phía khách rồi đợi anh ta cất chân đi. Khi rốt cuộc cũng chui vào lọt, ông để ý thấy Buddy đang đọc một cuốn có nhan đề Thám tử Imanishi điều tra.

“Cũng khá nhanh đấy chứ,” Buddy nói.

“Ừ, không có gì nhiều để nói.”

Ông đặt chồng hồ sơ và băng video lên sàn xe giữa hai chân.

“Mấy thứ này là gì vậy?”

“Vài thứ tôi cần nghiên cứu thôi mà.”

Lockridge cúi xuống nhìn tờ trên cùng. Đó là một bản tường trình vụ án.

“James Cordell,” anh ta đọc to lên. “Là ai vậy?”

“Này Buddy, tôi đang bắt đầu nghĩ là...”

“Tôi biết, tôi biết.”

Anh ta hiểu ý ngầm của McCaleb, liền thẳng người dậy rồi khởi động máy. Anh ta không hỏi gì thêm về mớ tài liệu nữa.

“Giờ đi đâu đây?”

“Chỉ quay về thôi. San Pedro.”

“Tôi cứ tưởng anh sẽ cần tôi trong vài ngày, anh nói thế mà. Tôi sẽ thôi không hỏi nữa, hứa đấy.”

Có chút phản kháng trong giọng anh ta.

“Không phải vậy. Tôi vẫn cần anh. Nhưng ngay bây giờ tôi cần quay về để nghiên cứu vài cái trong đống này.”

Buddy ném cuốn sách lên bảng đồng hồ với vẻ ngán ngẩm, đút kèn harmonica vào túi bên hông cửa rồi cài số xe.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,467
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 10


Trong phòng khách có nhiều ánh sáng trời hơn là dưới cabin. McCaleb quyết định làm việc ở đó. Trên này ông cũng có một cái tivi và đầu video gắn vào trong tủ. Ông dọn quang bàn bếp, dùng bọt biển và khăn giấy lau sạch rồi đặt lên đó đống hồ sơ Winston đưa cho. Ông cũng lấy một tệp giấy ghi chú và bút chì vót nhọn từ trong ngăn kéo bàn vẽ hải đồ, đem sang bàn bếp.

Ông quyết định rằng cách làm hay nhất là đọc hồ sơ theo trình tự thời gian. Nghĩa là bắt đầu bằng vụ Cordell. Ông duyệt qua đống hồ sơ, tách riêng các báo cáo về vụ Gloria Torres đặt qua một bên. Chỗ còn lại, ông lại tách ra thành từng chồng nhỏ liên quan đến cuộc điều tra sơ khỏi và các chứng cứ, các cuộc thẩm vấn theo sau, những manh mối tắc tị, các báo cáo linh tinh, những tờ tóm tắt vụ việc và báo cáo tóm lược hàng tuần.

Hồi còn làm việc ở FBI, ông có thói quen dọn quang bàn làm việc rồi bày lên khắp mặt bàn tất cả tài liệu trong một tập hồ sơ vụ án được đệ trình. Hồ sơ các vụ án được gửi tới từ mọi cơ quan cảnh sát khắp miền Tây. Vài nơi gửi chồng hồ sơ dày cộp, vài nơi khác thì chỉ một xấp mỏng. Ông luôn yêu cầu cung cấp băng video quay hiện trường tội ác. Dù to dù nhỏ, các tập hồ sơ luôn nói về cùng một điều. McCaleb cùng một lúc vừa phấn khích vừa ghê tởm. Càng đọc ông càng đâm giận dữ và căm hận, trước sau đều đơn độc một mình trong căn phòng làm việc nhỏ, áo choàng treo trên móc, súng lục trong ngăn kéo. Ông có thể thôi không bận tâm đến bất cứ gì khác ngoại trừ những cái nằm trước mặt ông. Ông làm việc hiệu quả nhất những khi ngồi nơi bàn giấy. Ngoài hiện trường, giỏi lắm ông cũng chỉ thuộc loại thường thường bậc trung. Nhưng hễ đã ngồi vào bàn giấy là ông cừ hơn hầu hết thiên hạ. Và ông cảm thấy một cơn rần rần bí ẩn ở nơi sâu kín trong tâm trí mỗi khi mở một trong các tập hồ sơ đó và trực cảm về một cái ác mới lại bắt đầu trỗi dậy. Giờ đây, khi bắt đầu đọc, ông lại cảm nhận được cái rần rần đó.

James Cordell là người khá thành đạt. Có gia đình, nhà đẹp xe ngon, sức khỏe tốt, có việc làm được trả lương đủ hậu để vợ anh ta có thể dành trọn thời gian chăm sóc hai đứa con gái. Anh ta là kỹ sư làm cho một hãng tư được nhà nước giao thầu việc duy trì sự nguyên vẹn về cấu trúc của hệ thống ống dẫn đưa nước tuyết tan từ các đỉnh núi ở miền Bắc xuống bể chứa cấp nước cho vùng dân cư mở rộng xô bồ ở phía Nam bang California. Anh ta sống ở Lancaster mạn Đông Bắc hạt Los Angeles, nghĩa là cách đều mọi điểm của đường dẫn nước một giờ rưỡi chạy xe. Vào đêm ngày hai mươi hai tháng Giêng anh ta đang về nhà sau khi dành suốt một ngày khảo sát phân đoạn Lone Pine của ống dẫn nước. Hôm ấy là ngày làm việc, nên anh ta dừng ở Chi nhánh Ngân hàng Nhà nước Khu vực cách nhà anh ta hơn cây số rưỡi. Tiền lương của anh ta được chuyển tự động vào tài khoản nên anh ta cần tiền mặt. Nhưng anh ta bị bắn vào đầu rồi để mặc nằm chết nơi máy ATM trong khi máy chưa kịp trún tiền ra cho anh ta. Kẻ giết anh ta là kẻ đã vơ những tờ hai mươi đô mới cứng ngay khi chúng chui ra khỏi máy.

Điều đầu tiên McCaleb nhận ra trong khi đọc các báo cáo về vụ án khởi đầu là: cái người ta công bố với báo chí chỉ là một dị bản đã được gọt giũa cho bớt sốc. Những tình tiết được mô tả trong bài báo trên tờ Thời báo mà Keisha Russell đọc cho ông nghe hôm trước không trùng khớp hẳn với các sự kiện nêu trong báo cáo. Bài báo cô ta đọc nói rằng xác của Cordell được phát hiện mười lăm phút sau vụ nổ súng. Còn theo tường trình vụ án, xác Cordell được phát hiện hầu như ngay lập tức bởi một khách hàng ATM vừa mới tạt ô tô vào bãi đỗ xe của ngân hàng ngay lúc một xe khác - rất có thể là của hung thủ - đang rồ ga phóng đi. Nhân chứng này, được nhận diện là James Noone, nhanh chóng gọi cấp cứu bằng điện thoại di động gắn trên ô tô.

Do cuộc gọi được chuyển tiếp qua hệ thống tiếp sóng di động nên nhân viên trực tổng đài 911 không có được địa chỉ đọc tự động để truy ra chính xác vị trí nơi cuộc gọi được thực hiện. Cô ta phải tìm thông tin đó theo lối xưa - tức là bằng tay - và khi gọi cho một đơn vị cấp cứu, cô tìm cách chuyển tiếp hai con số trong địa chỉ mà Noone đã cho. Trong bản tường trình, Noone nói anh ta đã quan sát trong nỗi bất lực cảnh một chiếc xe cấp cứu hú còi ầm ĩ chạy qua trước mặt anh ta để rồi dừng lại ở một nơi cách đó bảy khối nhà. Anh ta đã phải gọi lại, giải thích lại mọi chuyện từ đầu cho một nhân viên trực tổng đài khác.

Xe cấp cứu được hướng dẫn quành trở lại đúng chỗ, nhưng khi họ tới nơi thì Cordell đã chết.

Trong khi đọc các báo cáo sơ khởi, McCaleb thật khó lòng phán đoán liệu việc xe cấp cứu đến muộn có đã gây ra hậu quả nào chăng. Cordell đã bị một vết thương chí tử vào đầu. Thậm chí dù xe cấp cứu đến sớm hơn mười phút đi nữa thì hẳn cũng không có gì khác cả. Đằng nào thì cũng khó có khả năng tránh được cái chết.

Dù sao thì, sự yếu kém của tổng đài 911 đúng là loại chuyện mà báo chí ưa làm rùm beng lên. Vì thế nên ai đó ở Sở Cảnh sát trưởng - chắc là cấp trên của Jaye Winston - đã quyết định giữ kín thông tin này.

Cách làm ăn kém cỏi này là một vấn đề nhỏ chẳng mấy đáng quan tâm với McCaleb. Cái làm ông chú ý là có ít nhất một nhân chứng đã chứng kiến một phần vụ việc cũng như lời mô tả về chiếc xe. Theo tường trình của Noone, khi anh ta đánh xe vào bãi đỗ của ngân hàng thì suýt nữa đã bị một cái bóng mờ màu đen chẹt phải. Anh ta tả chiếc xe từ trong lao ra đó là một chiếc Jeep Cherokee màu đen, phong cách mới hơn, nuột hơn. Anh ta chỉ thoáng thấy người lái trong khoảng chưa tới một giây, anh ta tả người đó là dân da trắng, hoặc có tóc màu bạc hoặc đội mũ màu xám bạc.

Không còn nhân chứng nào khác được kể tên trong các báo cáo sơ bộ. Trước khi chuyển sang các báo cáo bổ sung và biên bản khám nghiệm pháp y, McCaleb quyết định xem mấy cuốn băng. Ông bật tivi và đầu video lên rồi nhét vào đó đầu tiên là cuốn băng quay bằng camera giám sát nơi đặt máy ATM.

Cũng như với cuộn băng ở chỗ Siêu thị Sherman, có một dòng đếm giờ chạy ngang mép dưới màn hình. Băng được thu qua một thấu kính mắt cá khiến cho hình ảnh bị bóp méo. Người đàn ông mà McCaleb cho là James Cordell bước vào khung hình, nhét thẻ ngân hàng vào máy. Mặt anh ta ở rất gần camera, che khuất không cho thấy gì khác. Đó là một khiếm khuyết trong thiết kế kỹ thuật - trừ phi camera này có đó không phải để quay những vụ cướp mà thật ra là để tóm được bộ mặt mấy tay gian trá dùng thẻ ngân hàng ăn cắp hoặc thẻ giả.

Trong khi Cordell bấm dãy số mã PIN, anh ta do dự rồi ngoái nhìn qua vai phải, đầu anh ta dõi theo cái gì đó vừa thoáng qua sau lưng mình - chiếc Cherokee vừa tấp vào bãi đỗ xe. Cordell vừa bấm xong mấy cái nút và mặt anh lộ vẻ bồn chồn. Chẳng ai thích đi rút tiền máy ATM vào ban đêm, cho dù là một máy ở nơi sáng đèn và ít tội phạm đi chăng nữa. Máy ATM duy nhất mà McCaleb từng dùng nằm trong một siêu thị mở cửa hai mươi tư giờ một ngày, lúc nào cũng đông người nên khá an toàn và khiến tội phạm phải chùn tay. Cordell bồn chồn liếc ra sau vai trái, gật đầu với ai đó ở ngoài màn hình rồi lại quay về phía máy rút tiền. Từ sau lúc đó, không có gì nơi kẻ mà anh vừa ngoái nhìn làm cho anh cảnh giác nữa. Hung thủ lúc đó hẳn chưa đeo mặt nạ. Mặc dù bên ngoài Cordell có vẻ bình tâm, song mắt anh dán xuống khe đựng tiền, tâm trí anh hẳn đang nhắc đi nhắc lại câu thần chú thầm lặng Nhanh lên! Nhanh lên!

Thế rồi hầu như ngay tức thì khẩu súng xộc vào trong khung hình, vươn qua vai Cordell và vừa mới gí vào thái dương bên trái của anh thì cò đã siết và James Cordell mất mạng. Luồng máu phụt che mờ thấu kính camera và Cordell tiến về phía trước, sang bên phải, hình như chúi vào bức tường cạnh máy ATM rồi thì bật ngửa ra sau, ngã xuống đất.

Thế rồi hung thủ tiến vào khung hình và vớ lấy chỗ tiền mặt vừa được đẩy qua khe. Đúng lúc ấy McCaleb ngừng hình lại. Trên màn hình là toàn bộ cảnh tên hung thủ đeo mặt nạ. Hắn cũng mặc bộ áo liền quần và mặt nạ màu thẫm như tên hung thủ trong cuốn băng vụ Gloria Torres. Như Winston đã nói, phân tích đạn đạo là không cần thiết. Đó sẽ chỉ là sự xác nhận mang tính khoa học đối với điều Winston đã biết và giờ đây McCaleb biết từ trong cật ruột. Cùng một kẻ đó. Cùng áo quần đó, cùng một phương thức hành động đó, cùng cặp mắt chết đằng sau mặt nạ đó.

Ông lại bấm nút và băng tiếp tục chạy. Hung thủ giằng mớ tiền ra khỏi máy. Trong khi làm vậy, hắn dường như nói gì đó, nhưng mặt hắn không hướng thẳng vào camera như trong vụ xả súng ở Siêu thị Sherman. Lần này như thể hắn tự nói với mình hơn là nói với máy quay.

Hung thủ nhanh chóng chuyển sang bên trái màn hình rồi dừng lại để nhặt cái gì đó không thấy rõ. Vỏ đạn. Rồi hắn lao nhanh về bên phải và biến khỏi màn hình. McCaleb chờ một thoáng. Dáng người duy nhất trong khung hình là thân thể bất động của Cordell trên vỉa hè bên cạnh cái máy. Động tĩnh duy nhất là vũng máu ngày càng loang rộng quanh đầu anh. Trong khi tìm chỗ thấp hơn, máu trượt vào một khe nứt trên vỉa hè và bắt đầu di chuyển thành một đường kẻ chỉ về phía lề đường.

Một phút trôi qua, rồi thì một người đàn ông tiến vào màn hình video, cúi xuống xác Cordell. James Noone. Anh ta hói ngang đỉnh đầu, đeo kính gọng mảnh. Anh ta sờ cổ người bị thương, rồi nhìn quanh, chắc là để xem liệu bản thân mình có an toàn không. Đoạn anh ta bật dậy bỏ đi, chắc là để gọi điện bằng máy di động. Nửa phút nữa trôi qua, Noone mới quay lại khung hình chờ người ta tới cứu. Trong khi thời gian trôi, Noone cứ xoay đầu hết đằng trước lại đằng sau, rõ là anh sợ rằng nếu không phải chính hung thủ ngồi trong chiếc xe mà anh đã thấy rồ ga phóng đi thì có thể hắn vẫn đang lảng vảng quanh đây. Cuối cùng, anh chú ý về hướng con phố. Miệng anh há ra trong một tiếng thét câm lặng và anh giơ tay lên khỏi đầu mà vẫy, chắc là lúc đó anh thấy chiếc xe cấp cứu chạy ngang qua không dừng lại. Rồi anh lại bật dậy và rời khỏi màn hình.

Một thoáng sau màn hình nhảy dựng lên. McCaleb xem giờ thì thấy đã bảy phút trôi qua. Hai nhân viên cấp cứu nhanh chóng tiến vào khu vực quanh Cordell. Họ xem mạch và phản ứng của con ngươi. Họ rạch áo sơ mi ra, rồi một trong những người cấp cứu nghe ngực bằng ống nghe. Một người khác nhanh chóng đẩy băng ca có bánh xe đến. Nhưng một trong hai người có mặt đầu tiên nhìn anh ta mà lắc đầu. Cordell đã chết.

Một lát sau màn hình chuyển trắng.

Sau khi tần ngần một thoáng, hầu như với niềm kính trọng, McCaleb nhét cuốn băng thứ hai quay hiện trường vụ án vào đầu video. Đây rõ là băng quay bằng video cầm tay. Khởi đầu là một số cảnh quay khung cảnh ngân hàng và con phố. Trong bãi đỗ xe có hai chiếc ô tô: một chiếc Chevy Suburban màu trắng lấm bụi và một chiếc nhỏ hơn thấp thoáng ở phía bên kia. McCaleb đồ rằng chiếc Suburban là của Cordell. Chiếc xe to kềnh, thô kệch, đầy bụi bặm vì phải chạy trên những con đường băng qua núi non sa mạc dọc theo ống dẫn nước. Còn xe kia, ông cho là của nhân chứng, James Noone.

Thế rồi băng chuyển sang chiếc máy ATM và lia xuống vỉa hè nhuộm máu đằng trước máy. Xác Cordell nằm thẳng cẳng ngay chỗ các nhân viên cấp cứu tìm thấy rồi bỏ lại đó. Xác chưa được che phủ, áo sơ mi của người chết phanh ra, khuôn ngực tai tái bày lồ lộ.

Trong vài phút sau đó cuốn video lia nhanh qua vài giai đoạn của công tác hiện trường tội ác. Đầu tiên một chuyên gia tội phạm đo đạc và chụp ảnh hiện trường, sau đó điều tra viên chuyên án giết người chăm lo cho xác chết, gói vào túi nhựa rồi chở đi bằng băng ca có bánh xe. Cuối cùng, chuyên viên tội phạm cùng một chuyên viên dấu tay tiến vào khảo sát hiện trường tỉ mỉ hơn để tìm bằng chứng và dấu tay. Có một đoạn băng cho thấy chuyên gia tội phạm dùng một cái que nhỏ bằng kim loại để khều đầu đạn ra khỏi bức tường bên cạnh máy ATM.

Cuối cùng, có một đoạn phụ thêm mà McCaleb không chờ đợi. Người quay phim ghi nhận lời tường thuật đầu tiên của James Noone về những gì anh ta thấy. Nhân chứng đã được người ta đưa đến bên mép khuôn viên ngân hàng, giờ đang đứng cạnh máy điện thoại công cộng mà nói chuyện với một cảnh sát mặc đồng phục trong khi người quay phim thơ thẩn lại gần. Noone là một người trạc ba lăm tuổi. So với viên cảnh sát, anh ta có vẻ thấp nhỏ, rắn rỏi. Giờ thì anh ta đội mũ bóng chày. Anh đang khích động, vẫn đang bị thẩm vấn về những gì anh đã chứng kiến và rõ là thất vọng vì nỗi do tổng đài làm ăn lôm côm nên xe cấp cứu tới quá muộn. Camera bắt đầu chạy ở nửa chừng câu chuyện.

“Tôi chỉ muốn nói rằng lẽ ra anh ta có cơ hội sống sót.”

“Vâng, thưa ông, tôi hiểu. Tôi tin chắc đó sẽ là một trong những điều người ta sẽ xem xét.”

“Tôi muốn nói là theo tôi ai đó ắt sẽ phải điều tra xem làm sao lại có thể... trong khi thật ra là chúng ta, thì đấy, cách bệnh viện vỏn vẹn chưa tới một cây số.”

“Điều đó chúng tôi biết, ông Noone ạ,” viên cảnh sát kiên nhẫn nói. “Giờ liệu chúng ta có thể nói tiếp một chút không. Xin ông cho biết ông có nhìn thấy gì không trước khi phát hiện cái xác? Cái gì đó bất thường.”

“Có, tôi thấy gã đó. Ít nhất là tôi nghĩ mình thấy.”

“Là gã nào?”

“Tên cướp. Tôi thấy cái xe chuồn đi.”

“Ông tả cái xe ấy được không, thưa ông?”

“Được chứ, Cherokee màu đen. Đời mới. Không phải kiểu mấy chiếc trông cứ như hộp đựng giày đâu.”

Viên cảnh sát có vẻ hơi bối rối nhưng McCaleb hiểu rằng Noone đang tả một chiếc thuộc model Grand Cherokee. Chính ông cũng có một chiếc.

“Tôi đang đánh xe vào thì nó phóng như điên ra khỏi đây, suýt nữa va phải tôi.” Noone nói. “Đúng là thằng chó đẻ. Tôi bóp còi inh ỏi vào nó, rồi thì tôi đánh xe vào và gặp người này nằm đây. Tôi gọi bằng di động nhưng rồi người ta làm ăn như cứt ấy.”

“Vâng, thưa ông. Ông làm ơn thôi dùng thứ lời lẽ đó được không? Đoạn thẩm vấn này hôm nào đó có thể sẽ được phát ở tòa đấy.”

“Ồ. Xin lỗi.”

“Ta trở lại chuyện cái xe nhé? Ông liệu có nhìn thấy biển số đăng ký không?”

“Thậm chí tôi không nhìn nữa là.”

“Trong xe có bao nhiêu người?”

“Chắc chỉ một thôi, người lái.”

“Nam hay nữ?”

“Nam.”

“Ông mô tả người đó cho tôi nghe được không?”

“Tôi không nhìn kỹ lắm. Nói gì thì nói, tôi đâu có muốn dây vào đâu.”

“Da trắng? Da đen? Châu Á?”

“Ồ, hắn da trắng. Cái đó thì tôi khá là chắc. Nhưng tôi không thể nhận diện hắn hay gì đó kiểu thế đâu.”

“Màu tóc thì sao?”

“Tóc bạc.”

“Bạc?”

Viên cảnh sát nói với vẻ kinh ngạc. Một tên cướp già. Nghe có vẻ khác thường đối với anh ta.

“Chắc thế,” Noone nói. “Nhanh quá mà. Tôi không thể chắc được.”

“Còn mũ thì sao?”

“Ừ, có thể là một cái mũ.”

“Ý ông là sao, cái gì bạc?”

“Ừm, mũ màu bạc, tóc bạc. Tôi không chắc được.”

“OK, còn gì khác không? Hắn có đeo kính không?”

“Ơ, tôi hoặc là không nhớ hoặc là không biết. Thật ra tôi không nhìn thằng cha đó mà. Thêm nữa, cái xe ấy cửa sổ toàn kính màu sẫm. Lần duy nhất tôi có thể thực sự nhìn thấy thằng đó là qua kính chắn gió, nhưng mà chỉ thấy khoảng một giây thôi. Khi hắn đi qua sát sạt tôi ấy.”

“OK, ông Noone. Chi tiết này có ích đấy. Chúng tôi sẽ cần ông làm một tường trình chính thức, và các thám tử sẽ cần nói chuyện với ông. Liệu có bất tiện cho ông không?”

“Có, nhưng các ông sẽ làm gì? Tôi muốn giúp. Tôi đã cố giúp. Không hề gì cả.”

“Cám ơn ông. Tôi sẽ cho một cảnh sát đưa ông đến sở cảnh sát Palmdale. Các thám tử sẽ nói chuyện với ông ở đó. Họ sẽ đến gặp ông sớm được chừng nào hay chừng đó và tôi sẽ lo liệu để họ biết là ông đang chờ.”

“Thôi được. Còn xe tôi thì sao?”

“Sẽ có người đưa ông về lại đây khi mọi việc xong xuôi.”

Băng chấm dứt ở đây. McCaleb lấy băng ra rồi ngẫm nghĩ về những gì mình đã xem, đã nghe, đã đọc cho tới giờ. Việc Sở Cảnh sát trưởng không tiết lộ chi tiết chiếc Cherokee màu đen cho báo giới khá là kỳ quặc. Chuyện này hẳn ông cần phải hỏi Jaye Winston xem sao. Ông ghi chú về chuyện đó lên tờ giấy nhớ đã dùng để ghi các câu hỏi, kế đó ông bắt đầu đọc các báo cáo còn lại về vụ Cordell.

Bản liệt kê bằng chứng tìm được tại hiện trường là một tờ giấy duy nhất hầu như để trắng. Bằng chứng thu được rốt lại chỉ có cái vỏ đạn moi trong tường ra, nửa tá dấu tay lấy được từ máy ATM và ảnh chụp một vết lốp xe có lẽ là do xe của hung thủ để lại. Cuốn băng video lấy từ camera chỗ máy ATM cũng được liệt vào.

Đính kèm báo cáo là bản sao ảnh chụp dấu xe và một khung hình trích từ cuốn băng video chỗ ATM được cho ngừng lại để đặc tả khẩu súng trong tay hung thủ. Một báo cáo phụ của phòng xét nghiệm tội phạm trình bày ý kiến của chuyên viên kỹ thuật là, dấu xe đó đã nằm trên mặt đường từ ít nhất mấy ngày trước nên không có ích gì cho việc điều tra.

Báo cáo phân tích đạn đạo xác định viên đạn là loại chín ly hơi dẹt, của hãng Federal, vỏ bằng kim loại. Kẹp vào báo cáo là ảnh chụp một trang trong báo cáo Khám nghiệm pháp y vẽ sọ nạn nhân nhìn từ trên xuống. Trên bức vẽ có vạch rõ đường đạn xuyên qua não Cordell. Đạn xuyên vào đầu hơi chếch về phía trước ngay chỗ thái dương trái, rồi thì lộn tròn theo một đường thẳng ngang qua thùy não trước và ra khỏi đầu nơi vùng thái dương phải. Viên đạn lộn tròn để lại một cái rãnh rộng hai phân rưỡi. Trong khi đọc, McCaleb nhận ra rằng xe cấp cứu đến muộn có khi lại là điều tốt. Nếu như họ cứu sống được Cordell thì chắc hẳn rồi anh ta sẽ phải sống suốt đời nhờ máy móc ở một trung tâm y tế nào đó, sống đời thực vật, không hơn.

Báo cáo đạn đạo cũng bao gồm ảnh chụp khẩu súng được phóng to và làm rõ. Tuy hầu hết khẩu súng bị che khuất trong bàn tay nắm chặt đeo găng của hung thủ, song các chuyên gia về súng của Sở cảnh sát cũng nhận dạng được nó là một khẩu súng lục chín ly hiệu Heckler & Koch P7, nòng mười phân, có mạ kền.

Lai lịch khẩu súng khiến McCaleb thấy tò mò. Súng HK P7 là một thứ vũ khí khá đắt tiền, chừng hơn ngàn đô trên thị trường hợp pháp, chứ không phải loại vũ khí thường thấy trong các vụ tội phạm đường phố. Ông đoán Jaye Winston chắc hẳn đã giả định rằng chính khẩu súng này cũng đã bị cướp từ trước đó, trong một vụ cướp hoặc trộm. McCaleb đọc qua các báo cáo bổ sung còn lại thì thấy đúng là Winston đã thu thập báo cáo vụ án từ khắp cả hạt, những vụ trong đó người ta trình báo có một khẩu HK P7 có mô tả trùng hợp đã bị lấy cắp. Không có vẻ gì là chị đã đi xa hơn cho lắm với manh mối này. Đúng là có nhiều vụ trộm súng đã xảy ra song người ta không trình báo bởi vì trước hết bản thân họ lẽ ra không có quyền giữ súng. Song, cũng như Winston chắc chắn đã làm trước đó, McCaleb lướt qua danh sách các vụ trộm súng được trình báo - chỉ có năm vụ trong hai năm trở lại đây - để xem liệu có cái tên hay địa chỉ nào tỏ ra đáng chú ý không. Không có. Cả năm vụ trộm Winston thu thập được đều là những vụ đang để ngỏ, không có nghi phạm. Là ngõ cụt.

Sau danh sách các vụ trộm là một bản báo cáo chi tiết tất cả các vụ ăn cắp xe Grand Cherokee màu đen trong phạm vi hạt trong năm qua. Winston hình như đã đinh ninh rằng xe của hung thủ cũng là xe ăn cắp - nếu không thì cũng lạ, một tên cướp chỉ toàn lấy số tiền còm như vậy mà lại có chiếc xe đắt tiền đến thế. McCaleb nghĩ, quả thật là một cú nhảy dài khi cho rằng chiếc xe đó có lẽ cũng bị ăn cắp.

Có hai mươi bốn chiếc Cherokee trên danh sách, nhưng không có báo cáo nào khác cho thấy người ta tiếp tục điều tra. Có lẽ chỉ là do Winston đã đổi ý sau khi nối kết vụ bắn người của cô với vụ Torres, McCaleb nghĩ. Người Tốt bụng đã mô tả chiếc xe phóng đi khỏi hiện trường vụ án ở cửa hàng rằng đó có thể là một chiếc Cherokee. Bởi điều đó cho thấy hung thủ đã không vứt bỏ chiếc xe, nên có thể nó hoàn toàn chẳng phải là xe ăn trộm.

Kế đó là biên bản giám định pháp y và McCaleb lật nhanh các trang. Kinh nghiệm cho ông biết chín mươi phần trăm báo cáo pháp y chỉ là để theo đúng chi li trình tự điều tra, xác định những đặc trưng của các cơ quan nội tạng cùng tình trạng sức khỏe của nạn nhân vào thời điểm tử vong. Hầu như bao giờ cũng vậy, chỉ có phần tóm lược là quan trọng đối với McCaleb. Nhưng trong vụ Cordell thì ngay cả phần tóm lược của biên bản pháp y cũng chẳng mấy có ý nghĩa bởi vì đã quá rõ ràng. Tuy nhiên ông vẫn tìm phần tóm lược và vừa gật gù vừa đọc những gì mình đã biết. Tổn thương não nghiêm trọng đã khiến Cordell tử vong chỉ trong vài phút sau khi bị bắn.

Ông đặt báo cáo pháp y sang một bên. Chồng hồ sơ kế tiếp liên quan đến giả thuyết ba vụ án của Winston. Tin rằng hung thủ là một kẻ từng phạm tội và chịu án tù không được tạm tha vì một vụ phạm tội khác, Winston đã đến các văn phòng thử thách tội phạm ở Van Nuys và Lancaster, lục tìm tất cả hồ sơ về những kẻ cướp có vũ khí được tha trước khi mãn hạn tù song phải chịu thời hạn thử thách, là người da trắng và từng có hai lần phạm trọng án trong hồ sơ. Đó là những kẻ mà nếu bị bắt vì phạm tội lần nữa thì sẽ chịu án phạt vì ba lần phạm tội theo luật mới. Số này có bảy mươi mốt người, họ được phân về hai văn phòng thử thách tội phạm gần nhất về mặt địa lý so với hiện trường hai vụ nổ súng.

Winston và các nhân viên khác đã từ từ rà soát danh sách này suốt nhiều tuần sau các vụ cướp của giết người đó. Theo các báo cáo, họ đã đến gặp hầu như từng người một trong danh sách. Trong số bảy mươi mốt người, chỉ có bảy người là họ không tìm được. Điều đó cho thấy bảy người này đã vi phạm quy định về thời hạn thử thách, có lẽ đã rời khỏi khu vực hoặc vẫn ở trong khu vực nhưng là đang lẩn trốn, và rất có thể là đang phạm tội cướp, thậm chí cả giết người. Họ đã gửi thông tin về các phạm nhân đang thời hạn thử thách trong cả nước cho tất cả những ai trên mạng máy tính của cảnh sát. Trong số những người được cảnh sát đến gặp, các cuộc thẩm vấn và điều tra sơ bộ đã loại ra gần chín mươi phần trăm do có chứng cứ ngoại phạm. Tám người còn lại thì được loại thông qua những biện pháp điều tra khác, chủ yếu là bởi kích cỡ về thể chất của họ không khớp với phần thân trên của hung thủ ở trên băng video. Ngoài chuyện bảy người mất tích trong danh sách, hướng điều tra theo luật ba lần phạm tội rơi vào bế tắc. Rõ là Winston hy vọng một trong bảy kẻ đó rốt cuộc sẽ xuất đầu lộ diện và có thể bị quy là có dính líu đến vụ nổ súng.

McCaleb chuyển sang các báo cáo còn lại về vụ Cordell. Có hai lần thẩm vấn tiếp theo với James Noone ở Trung tâm Sao (Star Center). Những điều anh ta khai không hề khác nhau trong hai báo cáo đó, những gì anh ta nhớ về kẻ lái chiếc Cherokee cũng chẳng tiến triển gì hơn.

Cũng có bản vẽ phác hiện trường tội ác và bốn cuộc thẩm vấn tại hiện trường đối với những người lái xe Cherokee màu đen bị giữ lại dọc đường. Những người này bị cảnh sát giữ lại ở Lancaster và Palmdale trong vòng một giờ sau vụ nổ súng ở ATM sau khi đài phát thanh của Cảnh sát trưởng cho biết hung thủ đã dùng xe Cherokee khi phạm tội. Mỗi tài xế bị giữ lại đều được kiểm tra nhân thân bằng máy tính, sau khi được xác minh là trong sạch thì mới được cho đi. Các báo cáo này được chuyển tiếp đến Winston.

Thứ sau cùng McCaleb đọc là báo cáo tóm lược mới nhất được Winston lập. Báo cáo này ngắn gọn và đi ngay vào đề.

“Hiện không có manh mối hay nghi phạm nào mới. Tại thời điểm này điều tra viên đang chờ thông tin bổ sung khả dĩ dẫn tới xác định nhân thân của một nghi phạm.”

Winston đang lâm vào ngõ cụt. Chị đang đợi. Chị cần dòng máu mới.

McCaleb vừa gõ ngón tay lên bàn vừa ngẫm nghĩ về tất cả những gì ông vừa đọc. Ông đồng ý với những động thái mà Winston đã tiến hành, nhưng ông cố nghĩ xem chị đã bỏ sót những gì và còn có thể làm gì nữa. Ông thích giả thuyết ba lần phạm tội của chị và cùng chung nỗi thất vọng với chị vì không thể truy ra được một nghi phạm từ danh sách bảy mươi mốt người này. Việc hầu hết những người đó được chứng minh vô can nhờ có chứng cứ ngoại phạm khiến ông bứt rứt. Tại sao có lắm thằng chó dái từng phạm tội hai lần lại có thể tường trình tuyệt đối chính xác chúng đang ở đâu trong hai đêm khác nhau như vậy được? Xưa nay, hồi còn xử lý các vụ án, ông vẫn luôn luôn nghi ngờ những chứng cứ ngoại phạm. Ông biết, chỉ cần một kẻ dối trá thôi là đủ để có bằng chứng ngoại phạm rồi.

McCaleb thôi không gõ ngón tay trên bàn nữa khi nghĩ tới một chuyện. Ông rải chồng báo cáo xung quanh vụ Cordell ra khắp bàn. Ông không cần phải xem qua tất cả vì ông biết cái ông đang nghĩ tới không nằm trong chồng đó. Ông đã nhận ra rằng Winston chưa bao giờ tham chiếu chéo những giả thuyết của mình về mặt địa lý.

Ông đứng dậy rời khỏi thuyền. Buddy Lockridge đang ngồi trong buồng lái thuyền của mình mà khâu chỗ rách trên một bộ đồ ướt sũng thì McCaleb bước lại gần.

“Này, kiếm được việc làm rồi đấy à?”

“Thằng cha trên cái dãy thuyền triệu phú kia muốn tôi cạo chiếc Bertram của thằng chả. Là chiếc số sáu mươi đằng ấy. Nhưng nếu anh cần người lái thì tôi có thể làm cho thằng chả khi nào tôi muốn. Thằng chả thuộc cái ngữ mỗi tháng mới nghỉ cuối tuần một lần ấy mà.”

“Không. Tôi chỉ muốn hỏi anh có cuốn Thomas Brothers nào cho tôi mượn không. Cuốn của tôi đang nằm trong ô tô mà tôi thì không muốn phải giở tấm bạt ra đặng chui vào lấy.”

“Được chớ. Trong xế ấy.”

Lockridge thọc tay vào túi rút chùm chìa khóa ô tô ném cho McCaleb. Trên đường đi đến chỗ chiếc Taurus, McCaleb liếc qua dãy thuyền của dân triệu phú. Đấy là một xưởng chữa tàu thuyền với những bến rộng gấp đôi, dài, để có thể xử lý những du thuyền lớn thả neo ở Cabrilio Marina. Ông nhìn ra chiếc Bertram 60. Thuyền thật đẹp. Và ông biết là để có được nó, chủ nhân đã phải trả dễ đến triệu rưởi đô chỉ để dùng không quá một lần mỗi tháng.

Sau khi lấy cuốn bản đồ ra khỏi xe của Lockridge, trả chìa khóa rồi quay lại thuyền mình, McCaleb bắt tay làm việc với hồ sơ của Cordell. Đầu tiên ông xem xét các báo cáo về những vụ cướp xe Cherokee và súng lục HK P7. Ông đánh dấu từng vụ trộm được trình báo, xong thì vẽ biểu đồ vụ đó theo đúng địa chỉ lên trang thích hợp trong cuốn bản đồ. Sau đó ông chuyển sang danh sách các nghi phạm đang trong thời hạn thử thách phạm tội lần thứ ba, cũng sử dụng quy trình đó để vạch rõ vị trí nhà ở và nơi làm việc của từng người. Cuối cùng, ông vạch ra địa điểm các vụ nổ súng.

Làm ngần ấy việc mất gần một tiếng đồng hồ. Song khi đã xong, ông cảm thấy phấn chấn một cách dè dặt. Một cái tên từ trong danh sách bảy mươi mốt người nổi bật lên hẳn vì có liên hệ về mặt địa lý với vụ nã súng ở Siêu thị Sherman và vụ trộm một khẩu HK P7.

Tên người đó là Mikail Bolotov, một người Nga nhập cư ba mươi tuổi từng ngồi tù hai lần ở nhà giam California vì tội cướp có vũ khí. Bolotov sống và làm việc trong công viên Canoga. Nhà hắn ở ngoài DeSoto gần Phố Sherman, cách Siêu thị Sherman nơi Gloria Torres và Chan Ho Kang bị giết khoảng một cây số rưỡi. Chỗ làm của hắn là ở một nhà máy sản xuất đồng hồ nằm ở Winnetka chỉ cách cửa hàng tám khối nhà về phía Nam và hai khối nhà về phía Đông. Cuối cùng, và đây là điều khiến McCaleb phấn chấn, gã người Nga này cũng làm việc chỉ cách bốn khối nhà so với một căn nhà ở công viên Canoga nơi một khẩu HK P7 đã bị trộm trong một vụ đột nhập vào nhà hồi tháng Mười hai. Đọc bản báo cáo về vụ trộm, McCaleb lưu ý thấy kẻ đột nhập đã lấy một số món quà treo nơi cây Giáng sinh, trong đó có một khẩu HK P7 mới, là quà của chủ nhà tặng vợ - một món quà Giáng sinh tuyệt hảo đối với công dân Los Angeles. Tên trộm không để lại dấu tay hay chứng cứ nào.

McCaleb đọc qua toàn bộ hồ sơ về việc thử thách những người ra tù và báo cáo của điều tra viên. Bolotov có tiền sử dài về hành vi bạo lực, mặc dù không bị tình nghi gì về tội giết người, cũng không gặp rắc rối gì với luật pháp từ khi y được thả khỏi tù lần cuối cách đây ba năm. Hắn thường xuyên trình diện đúng hẹn theo quy định thử thách và nhìn bề ngoài thì có vẻ đang thành tâm cải tà quy chính.

Bolotov đã bị hai điều tra viên của cảnh sát trưởng tên là Ritenbaugh và Aguilar thẩm vấn về vụ Cordell ngay tại nơi y làm việc. Cuộc thẩm vấn diễn ra hai tuần sau vụ Cordell nhưng gần ba tuần trước hai vụ giết người ở Siêu thị Sherman. Và nữa, cuộc thẩm vấn hình như diễn ra trước khi Winston thu thập báo cáo về các vụ trộm súng HK P7. Ông đồ rằng đây chính là lý do khiến Winston đã bỏ qua tầm quan trọng của việc Bolotov ở khá gần cả hai nơi xảy ra án mạng về mặt địa lý.

Trong cuộc thẩm vấn, các câu trả lời của Bolotov hình như đủ để tránh bị nghi ngờ, người chủ thuê y làm cũng cung cấp bằng chứng ngoại phạm, ông ta trình báo rằng vào đêm Cordell bị giết, Bolotov đang làm việc theo ca từ hai giờ đến mười giờ như thường lệ. Ông ta cho các thám tử xem bản chấm công và thẻ bấm giờ phản ánh số giờ làm việc. Chừng đó là đủ cho Ritenbaugh và Aguilar. Cordell chết vào khoảng 10 giờ 10 phút. Bolotov hẳn không thể có khả năng thực tế để đi từ Công viên Canoga đến Lancaster trong vòng mười phút dù có đáp trực thăng đi nữa. Thế là Ritenbaugh và Aguilar chuyển sang cái tên kế tiếp trong danh sách các ứng viên thử thách phạm tội lần ba.

“Chó chết,” McCaleb nói to.

Ông cảm thấy phấn chấn. Bolotov là một manh mối cần phải kiểm tra lại cho dù ông sếp của hắn hay bảng chấm công có nói gì đi nữa. Gã đó là một tên cướp chuyên nghiệp có vũ khí chứ nào phải thợ làm đồng hồ. Việc hắn ở ngay gần hai địa điểm chủ chốt liên quan đến cuộc điều tra khiến ta phải xem xét lại một lần nữa. McCaleb cảm thấy ít nhất mình cũng đã làm được gì đó đặng có cái mà quay lại gặp Winston.

Ông ghi nhanh mấy dòng ghi chú lên mảnh giấy nhớ rồi đặt sang bên. Ông kiệt sức vì làm việc nãy giờ nên lúc này ông cảm thấy tiếng đập thình thình trầm đục của cơn nhức đầu đang đến. Ông nhìn đồng hồ thì thấy thời gian qua như chớp mà ông không hề hay biết. Đã hai giờ rồi. Ông biết mình nên ăn gì đó, nhưng ông không thấy thèm loại thức ăn nào cụ thể cả. Thay vì vậy ông quyết định chợp mắt một chút, thế nên ông đi xuống phòng ngủ.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,467
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 11


Tươi tỉnh trở lại sau khi chợp mắt một tiếng đồng hồ, có nằm mơ gì hay không cũng chẳng nhớ, McCaleb làm một cái bánh xăng uých bằng bánh mì trắng và phó mát chế biến sẵn. Ông mở một lon Coke để chiêu bánh rồi đi lên bàn bếp xem xét vụ Gloria Torres.

Ông khởi sự bằng cuốn băng giám sát lấy từ Siêu thị Sherman. Băng này ông đã xem hai lần cùng với Arrango và Walters, nhưng vẫn quyết định cần phải xem lại. Ông cho băng vào rồi xem với tốc độ bình thường, đoạn cho phần bánh ăn dở vào bồn rửa. Ông không ăn thêm được nữa. Nội tạng ông siết lại quá chặt.

Ông tua lại băng rồi lại cho chạy từ đầu, lần này quay chậm. Các động tác của Gloria trông có vẻ uể oải và thư giãn. McCaleb thấy mình hầu như sẵn sàng cười đáp lại nụ cười của cô. Ông tự hỏi cô đang nghĩ gì. Có phải nụ cười đó dành cho ông Kang không? Ông ngờ không phải. Đó là một nụ cười bí ẩn. Nụ cười cho cái gì đó ở bên trong, ông đoán rằng cô đang nghĩ tới thằng con, và chừng đó ông nhận ra rằng ít nhất cô cũng đã sung sướng vào khoảnh khắc cuối cùng có ý thức đó.

Cuốn băng không mang lại ý tưởng nào mới, mà chỉ nhen nhóm lại nỗi căm giận tên hung thủ. Sau đó ông cho cuốn băng quay hiện trường tội ác và quan sát phần lập hồ sơ, công việc đo đạc và định lượng số người chết. Xác của Gloria dĩ nhiên không còn ở đó và chỗ máu cô đổ trên sàn rất ít - nhờ có Người Tốt bụng. Nhưng cái xác của chủ hiệu thì nằm rúm ró trên sàn phía sau quầy, bị quây kín giữa bốn bề toàn máu. Nó khiến McCaleb nghĩ tới bà già ông đã gặp trong cửa hàng ngày hôm trước. Bà đứng ngay tại nơi chồng bà đã gục xuống. Phải có sự can trường nào đó mới có thể làm vậy, thứ can trường mà McCaleb nghĩ chắc mình không có được.

Tắt băng xong, ông bắt đầu đọc kỹ chồng báo cáo. Arrango và Walters đã không sản xuất ra nhiều giấy tờ như Winston. McCaleb cố gắng không coi điều này có ý nghĩa gì hệ trọng, nhưng vẫn không thể nào không coi là vậy được. Theo kinh nghiệm của ông, kích thước của một bộ hồ sơ án mạng phản ánh không những chỉ sự thấu đáo của công cuộc điều tra mà cả mức độ tận tụy của điều tra viên nữa. McCaleb tin rằng có một mối gắn bó thiêng liêng giữa nạn nhân và điều tra viên. Mọi cảnh sát chuyên án giết người đều hiểu điều này. Một số người thấu hiểu điều này tận trong tâm khảm. Số khác thì ít hơn, với họ tất cả chẳng qua chỉ là để trụ vững về mặt tâm lý. Nhưng nó vẫn có đó, bên trong tất cả họ. Không quan trọng anh có theo đạo gì không, một khi anh đã tin rằng linh hồn người đã khuất đang theo dõi anh. Thậm chí dù anh cứ đinh ninh tất thảy mọi chuyện rồi sẽ kết thúc khi anh thở hơi cuối cùng, anh vẫn lên tiếng cho người đã chết. Tên anh được thốt ra trong hơi thở cuối cùng. Nhưng chỉ mình anh nghe thấy nó. Mình anh thôi. Không một tội ác nào khác còn xảy ra một khi đã có cái giao ước như thế.

McCaleb đặt sang một bên chồng hồ sơ dày cộp về khám nghiệm pháp y xác Gloria và Kang, để đọc sau cùng. Ông biết rằng, cũng như với hồ sơ vụ Cordell, khám nghiệm pháp y sẽ chẳng cho được mấy chi tiết đáng kể ngoài những gì đã rõ. Ông nhanh chóng lướt qua các báo cáo sơ khởi về tội ác, rồi chuyển sang một tờ mỏng ghi tường trình của các nhân chứng. Đó là lời khai của những người mỗi kẻ đóng một vai nhỏ trong toàn cảnh: một nhân viên trạm xăng, một người lái xe đi ngang qua, một nhân viên tòa soạn Thời báo làm việc cùng Gloria. Rồi có cả những báo cáo tóm lược điều tra, báo cáo bổ sung, tờ trình sự việc, sơ đồ hiện trường tội ác, báo cáo phân tích đạn đạo và một bản kê theo trình tự thời gian những chuyến đi cùng các cuộc gọi mà nhóm thám tử điều tra vụ này đã thực hiện. Nằm dưới cùng chồng này là bản chép lại cuộc gọi của Người Tốt bụng chưa bao giờ được nhận diện, khi anh này gọi cho đài 911 sau khi tình cờ có mặt tại hiện trường vụ nã súng và cố gắng cứu mạng Gloria. Những lời được ghi lại này là của một kẻ nói tiếng Anh trọ trẹ, giữa khi đang hấp tấp muốn trình báo một vụ bắn người. Nhưng khi nhân viên trực tổng đài đề nghị chuyển anh ta sang cho một người biết tiếng Tây Ban Nha thì anh ta từ chối.

NGƯỜI GỌI: Tôi phải đi. Tôi đi ngay đây. Cô gái bị bắn nặng lắm. Thằng đó chạy rồi. Nó lái xe đi rồi. Xe màu đen, giống xe tải.

ĐIỆN THOẠI VIÊN: Ông ơi, xin hãy giữ máy... Này ông? Ông ơi?

Thế thôi. Anh ta đi rồi. Anh ta có nhắc tới chiếc xe nhưng chẳng mô tả gì về nghi phạm.

Theo sau bản ghi này là một báo cáo đạn đạo nhận định rằng các viên đạn lấy được tại hiện trường và trong quá trình khám nghiệm tử thi Chan Ho Kang là đạn chín ly bọc kim loại của hãng Federal. Anh chụp lấy từ băng video trong cửa hàng được phân tích, và người ta một lần nữa nhận định khẩu súng là loại HK P7.

Sau khi sơ bộ đọc xong phần còn lại của các báo cáo, McCaleb mới chợt vỡ lẽ rằng cái còn thiếu trong bộ hồ sơ án mạng là một trình tự thời gian. Không như vụ Cordell vốn chỉ có một nhân chứng, vụ Torres có nhiều nhân chứng và mốc thời gian nhỏ. Rõ ràng là các điều tra viên, sau khi có được ngần ấy thứ, đã không ngồi xuống mà lắp ghép cả lại thành một chuỗi trình tự trước sau. Họ đã không tái tạo thứ tự diễn ra các tình tiết mà nếu ghép lại thì sẽ thành tổng thể sự kiện.

McCaleb tựa lưng vào ghế, nghiền ngẫm điều đó một lát. Sao lại không có? Liệu một trình tự thời gian chính xác các sự kiện như thế có ích gì không? Có lẽ ban đầu thì không, ông nghĩ. Nếu nói về chuyện nhận diện kẻ sát nhân thì không ích gì lắm. Và ít nhất là ở giai đoạn đầu, duy chỉ việc nhận diện đó là quan trọng thôi. Nhưng phân tích các sự kiện theo trình tự thời gian thì cần phải làm sau đó, sau khi bụi đã lắng xuống, có thể nói vậy. McCaleb vẫn thường khuyên các điều tra viên chuyển vụ án của họ lên cho ông rằng họ nên lập trình tự các sự việc. Việc này sẽ giúp họ lật đổ chứng cứ ngoại phạm, tìm ra lỗ hổng trong lời khai của nhân chứng, đơn giản là bởi nó cho điều tra viên nắm chắc hơn và biết rõ hơn chính xác điều gì đã xảy ra.

McCaleb biết rõ mình đang phán xét chê bôi người ta khi sự đã rồi. Arrango và Walters không có dư thì giờ để bắt tay làm một vụ đã xảy ra từ hai tháng trước. Hẳn là họ nghĩ trình tự thời gian đã qua mất rồi. Họ còn những chuyện khác phải lo, những vụ khác phải bận tâm.

Ông đứng dậy đi vào bếp bật máy pha cà phê. Ông lại thấy mệt, thế mà ông chỉ vừa thức được có chín mươi phút. Từ hồi thay tim tới giờ McCaleb không uống nhiều cà phê lắm. Bác sĩ Fox đã bảo ông tránh chất cafêin, và khi thỉnh thoảng ông phớt lờ lời khuyên đó mà làm một tách, đôi khi nó khiến ông nghe thình thình trong ngực. Nhưng ông muốn mình tỉnh táo để làm cho xong việc. Ông chấp nhận rủi ro.

Khi cà phê xong, ông rót cho mình một cốc vại, cho thêm sữa và đường. Ông lại ngả vào lưng ghế, lặng lẽ tự trừng phạt mình vì đã tìm cớ bào chữa cho Arrango và Walters. Đáng ra họ phải dùng thì giờ để lo vụ này tới nơi tới chốn mới phải.

McCaleb tự giận mình vì đã nghĩ tới một điều khác.

Ông cầm giấy nhớ lên rồi bắt đầu vừa đọc lần nữa các lời khai của nhân chứng vừa ghi lại những thời điểm đáng lưu ý và một tóm lược ngắn những gì mỗi nhân chứng cung cấp cho vụ án. Đoạn ông ghi thêm lên đó một số ghi chú lấy từ các báo cáo khác liên quan đến vụ việc. Làm ngần ấy việc mất một tiếng đồng hồ, suốt thời gian đó ông rót thêm cà phê vào cốc ba lần mà không thực sự nghĩ mình đang làm gì. Khi xong xuôi, ông đã tạo ra được một chuỗi trình tự các tình tiết trên hai trang giấy nhớ. Trong khi săm soi công trình của mình, ông nhận ra rằng vấn đề là cái trình tự đó không mấy chính xác, chỉ có tác dụng tham chiếu ở vài điểm, và bao hàm những mâu thuẫn rành rành, nếu không nói là những điều không thể xảy ra.

10:01 tối - Hết ca B, phòng in báo Los Angeles Thời báo, cơ sở Chatsworth. Gloria nạp thẻ để ra về.

10:10 tối - (khoảng chừng) - Gloria rời cơ quan cùng đồng nghiệp Annette Stapleton. Họ trò chuyện nơi bãi đỗ xe chừng năm phút. Gloria ra về bằng chiếc Honda Civic màu xanh dương.

10:29 tối - Gloria ghé trạm xăng Chevron tại Winnetka, Roscoe. Mua bằng thẻ tín dụng tự phục vụ: 14,40 đô. Nhân viên Connor Davis nhớ rằng Gloria là một khách quen thường ghé trạm vào ban đêm và hay hỏi về tỉ số thi đấu thể thao vì anh ta thường nghe tường thuật qua radio. Thời điểm dựa theo số liệu trên thẻ tín dụng.

10:40 đến 10:43 tối - khoảng chừng - Ellen Taaffe lái ô tô về phía Đông trên Phố Sherman, hạ kính xe nghe có tiếng bụp khi đi ngang qua Siêu thị Sherman. Nhìn xem, không thấy có chuyện gì. Có hai xe trong bãi. Các bảng hiệu trên cửa sổ chợ ngăn không cho nhìn vào trong cửa hàng. Trong khi nhìn, cô lại nghe thấy tiếng bụp nữa nhưng cũng không thấy gì bất thường. Thời điểm nghe tiếng bụp được Taaffe xác định dựa theo bản tin mới của đài phát thanh thường bắt đầu lúc 10:40.

10:41:03 tối - Một nam giới chưa thể xác định nói giọng Tây Ban Nha gọi 911, nói một người đàn bà bị bắn ở Siêu thị Sherman, cần được cứu. Không ở lại chờ cảnh sát. Người lạ cư trú bất hợp pháp?

10:41:37 tối - Gloria Torres bị bắn chết, theo đồng hồ trong đoạn băng video an ninh đặt trong cửa hàng.

10:42:55 tối - Người Tốt bụng vào cửa hàng và cứu Gloria, theo đồng hồ trong đoạn băng video an ninh đặt trong cửa hàng.

10:43:21 tối - Ellen Taaffe dùng điện thoại trong xe để gọi 911 trình báo đã nghe thấy âm thanh có thể là tiếng súng. Người ta cho cô biết đã có người trình báo về vụ nổ súng. Tên và số của cô được chuyển tiếp cho các thám tử.

10:47 tối - Cấp cứu đến, đưa Gloria đến Trung tâm y tế Northridge. Chan Ho Kang được tuyên bố là đã chết.

10:49 tối - Cảnh sát đầu tiên đến hiện trường.

Ông đọc lại tất cả một lần nữa. Ông biết rằng giết người không phải là một khoa học chính xác, song trình tự các sự kiện khiến ông băn khoăn. Theo báo cáo điều tra án mạng đầu tiên, vụ nổ súng thực sự được các thám tử xác định là đã xảy ra trong vòng sáu mươi giây từ 10:40 đến 10:41 đêm. Khi xác định vậy, các thám tử đã dùng một nguồn thời gian mà họ biết là chính xác, đúng phăm phắp không thể nghi ngờ được: thời gian được ghi lại ở trung tâm điều phối hỏa tốc của Sở cảnh sát. Cuộc gọi đầu tiên - của Người tốt bụng - đến tổng đài 911 trình báo về vụ nổ súng diền ra vào lúc 10:41:03. Dựa vào thời điểm đó, cùng với lời trình báo của người lái ô tô tên là Ellen Taaffe rằng cô ta nghe thấy tiếng súng vào một thời điểm nào đó sau khi bản tin đài phát thanh bắt đầu, người ta kết luận rằng vụ nổ súng ắt phải xảy ra sau 10:40 nhưng trước 10:41:03, khi Người Tốt bụng gọi điện.

Cái khung thời gian này, dĩ nhiên, mâu thuẫn với thời điểm 10:41:37 hiển thị trên cuốn băng quay ở cửa hàng khi vụ nổ súng bắt đầu.

McCaleb đọc lại các báo cáo lần nữa, hy vọng mình đã bỏ sót vài trang trong đó có lời giải thích sự khác biệt này. Chẳng có gì hết. Ông gõ gõ mấy ngón tay lên bàn một lát trong khi ngẫm nghĩ về những điều này. Ông xem đồng hồ thì thấy đã gần năm giờ. Chắc hẳn không còn điều tra viên nào còn ở cơ quan nữa.

Một lần nữa ông nghiên cứu cái trình tự thời gian mình đã dựng lên, tìm lời giải thích cho sự bất thường này. Mắt ông dừng lại nơi cú gọi điện thứ hai đến trung tâm điều phối. Ellen Taaffe, người lái ô tô nghe thấy tiếng súng, đã gọi bằng điện thoại di động lúc 10:43:21 để trình báo về vụ nổ súng nhưng rồi được cho biết đã có người trình báo rồi.

Ông ngẫm nghĩ về chuyện đó. Các thám tử đã dùng chi tiết cô ta nghe tiếng súng để xác định rằng mấy vụ giết người xảy ra vào phút 10:40, ngay lúc bắt đầu chương trình tin tức. Thế nhưng khi cô ta gọi 911, người ta đã biết về vụ nổ súng rồi. Tại sao cô ta chần chừ hơn hai phút mới gọi? Và thậm chí có khi nào người ta đã hỏi liệu cô ta có nhìn thấy Người Tốt bụng hay không?

McCaleb lật nhanh chồng báo cáo cho tới khi tìm được bản lời khai của nhân chứng Ellen Taaffe. Vỏn vẹn một trang, có chữ ký cô ta dưới lời khai được ghi vào bên dưới một ô dài năm phân dùng để điền thông tin về nhân chứng. Bản lời khai chẳng nói gì về việc cô ta đã đợi bao lâu từ khi nghe tiếng súng cho đến khi gọi trung tâm điều phối 911. Lời khai nói cô ta tin rằng có hai chiếc ô tô đỗ phía trước cửa hiệu nhưng cô không thể xác định đó là loại xe gì, cũng không nhớ được trong xe có người không.

Ông nhìn vào ô thông tin về nhân chứng. Taaffe ba mươi lăm tuổi, có chồng. Cô ta sống ở Northridge, là nhân viên điều hành trong một công ty săn đầu người. Cô vừa xem phim ở Topanga Plaza xong, đang lái xe về nhà thì nghe tiếng súng, số điện thoại nhà và điện thoại văn phòng cô có ghi trong ô thông tin. McCaleb lại chỗ điện thoại quay số ở chỗ làm. Một thư ký trả lời, chữa cách phát âm từ Taaffe cho ông rồi bảo rằng ông gọi vừa kịp lúc cô đang ra khỏi cửa.

“Tôi là Ellen Taaffe đây,” một giọng nói.

“Vâng, xin chào cô Taaffe. Cô không biết tôi. Tên tôi là McCaleb. Tôi là một điều tra viên đang làm việc về vụ bắn người cách đây chừng hai tháng trên Phố Sherman. Vụ mà cô có nghe tiếng súng và báo cảnh sát ấy mà.”

Ông nghe rõ hơi thở ra của cô ta, cho thấy cuộc gọi khiến cô ta lúng túng.

“Tôi không hiểu, tôi đã nói với các thám tử hết rồi. Ông ở bên cảnh sát à?”

“Không, tôi... Tôi làm việc cho gia đình của người phụ nữ bị giết trong vụ đó. Tôi gọi không đúng lúc phải không?”

“Phải, tôi đang ra khỏi cửa mà. Tôi muốn đi cho kịp giờ kẻo bị tắc đường và... với lại, nói thật, tôi chả biết có thể nói gì với ông đây. Tôi kể hết cho cảnh sát rồi.”

“Chỉ mất một phút thôi. Tôi chỉ có dăm câu muốn hỏi nhanh. Người phụ nữ này có một thằng con nhỏ. Tôi chỉ đang cố tóm cho được cái tên đã cướp mạng cô ấy.”

Ông lại nghe hơi thở đó bật ra.

“Thôi được, tôi sẽ cố giúp. Ông cần hỏi gì?”

“OK, một, sau khi nghe thấy mấy tiếng nổ thì cô đợi bao lâu mới gọi cho 911 bằng điện thoại trên xe cô?”

“Tôi đâu có đợi. Tôi gọi ngay khi ấy. Tôi lớn lên giữa bốn bề toàn súng ống. Cha tôi là sĩ quan cảnh sát, thỉnh thoảng tôi đi cùng ông ấy tới trường tập bắn. Tôi biết rằng tiếng tôi nghe thấy đó là tiếng súng. Tôi gọi ngay.”

“Ừm, tôi đọc trong hồ sơ cảnh sát thì họ nói cô cho rằng mình nghe tiếng súng vào khoảng mười giờ bốn mươi nhưng mãi đến mười giờ bốn mươi ba phút mới gọi. Tôi không…”

“Điều họ không cho ông biết trong mấy báo cáo đó là tôi đã phải chờ. Tôi gọi ngay nhưng chỉ nghe băng ghi âm. Lúc đó mọi đường dây 911 đều bận nên tôi phải chờ. Tôi không biết bao lâu. Bực mình hết sức. Nhưng khi rốt cuộc tôi được nối với họ thì họ nói là đằng nào họ cũng đã biết về vụ nổ súng rồi.”

“Theo cô thì cô đã phải đợi bao lâu?”

“Tôi vừa nói tôi không chắc mà lại. Có thể một phút. Có thể hơn mà cũng có thể kém. Tôi không biết.”

“OK. Báo cáo nói cô vừa nghe tiếng súng thì liền nhìn ra ngoài cửa sổ về phía cửa hàng. Rồi cô nghe một tiếng nổ nữa. Cô thấy có hai ô tô trong bãi đậu. Câu hỏi kế là, cô có thấy ai trong xe không?”

“Không. Chẳng có ai trong xe. Chuyện này tôi kể cho cảnh sát rồi.”

“Hình như là nếu trong cửa hàng có bật sáng thì hẳn cô có thể thấy liệu trong xe có người nào hay không.”

“Nếu có ai đó trong xe này hoặc xe kia thì tôi không nhớ có thấy họ không.”

“Có phải một trong hai xe là một xe kiểu thể thao, như là một chiếc Cherokee?”

“Tôi không biết. Chuyện đó cảnh sát có hỏi rồi. Nhưng tôi chú ý là chú ý đến cửa hàng. Tôi nhìn ngang qua mấy chiếc xe.”

“Liệu cô sẽ bảo xe màu sẫm hay màu sáng?”

“Thực tình tôi không biết. Tôi đã bảo ông là tôi kể hết với cảnh sát rồi. Họ có tất...”

“Cô có nghe tiếng nổ thứ ba không?”

“Thứ ba? Không, chỉ hai thôi.”

“Nhưng có những ba phát súng. Vậy cô không biết mình nghe hai tiếng đầu hay hai tiếng cuối.”

“Đúng vậy.”

Ông nghĩ về chuyện đó trong một thoáng, kết luận rằng hẳn sẽ không thể nào biết chắc cô ta nghe hai thấy hai phát súng đầu hay hai phát súng sau.

“Thế thôi, thưa cô Taaffe. Cám ơn cô. Cô đã giúp tôi rất nhiều, và tôi xin lỗi đã làm phiền cô.”

Cuộc thẩm vấn ngắn chỉ giúp trả lời câu hỏi về việc cô ta mất một lúc mới gọi được cho 911, nhưng vẫn còn đó sự khác biệt giữa thời điểm Người Tốt bụng gọi điện với thời điểm trên băng video giám sát của cửa hàng. McCaleb lại xem đồng hồ. Lúc này đã hơn năm giờ. Tất cả thám tử chắc hẳn đã về rồi, nhưng ông quyết định vẫn gọi điện.

Thật ngạc nhiên, khi ông gọi tới Phân khu Thung lũng Tây thì người ta cho ông biết cả Arrango lẫn Walters đều có mặt và hỏi ông muốn gặp ai. Ông quyết định thử gặp Walters, vì anh ta hình như tỏ ra thông cảm với tình thế của ông hôm trước. Walters cầm máy sau ba hồi chuông.

“Terry McCaleb đây... về vụ Gloria Torres.”

“Phải, phải.”

“Chắc là anh có nghe chuyện tôi được Winston đưa hồ sơ bên Cảnh sát trưởng.”

“Có, tụi tôi chả mấy vui về chuyện đó đâu. Chúng tôi nhận được cả điện từ bên Thời láo về vụ đó. Vài tay nhà báo. Cừ lắm. Tôi không biết anh đã nói chuyện với ai về…”

“Này, cộng sự của anh đặt tôi vào cái thế buộc tôi phải tự đi mà tìm xem có thể lấy thông tin từ đâu. Đừng có lo về tờ Thời báo. Bọn họ sẽ thôi bám riết chuyện này vì chả có chuyện gì sất. Hiện giờ thì không.”

“Mà tốt nhất là cứ như thế hoài. Dù sao thì tôi cũng đang bận. Anh có chuyện gì?”

“Anh đang vướng một vụ à?”

“Ừ. Ở Thung lũng Lớn này xác của người ta chúng nó cứ vứt hoài vứt mãi như là xác ruồi ấy.”

“Khoan đã, này, tôi không giữ anh lâu đâu. Tôi chỉ có một câu hỏi may ra anh có thể giúp tôi được.”

McCaleb đợi. Walters chẳng nói gì. Dường như anh ta khác với ngày hôm trước. McCaleb tự hỏi có phải Arrango đang ngồi ngay cạnh lắng nghe không. Ông quyết định dấn tới.

“Tôi chỉ muốn biết về diễn tiến sự việc.” Ông nói. “Cuốn video trong cửa hàng cho thấy vụ nổ súng xảy ra lúc,” ông lướt mắt nhanh qua bảng thời gian của mình, “xem nào, mười giờ bốn mươi mốt phút ba mươi bảy giây. Rồi ta có cuộc gọi 911, và người ta nói cuộc gọi của Người Tốt bụng đến đúng vào mười giờ bốn mươi mốt phút không ba giây. Xem ta có gì nhé? Làm thế nào anh ta gọi điện về chuyện đó ba mươi bốn giây trước khi vụ nổ súng thực sự xảy ra được?”

“Đơn giản thôi, giờ trên băng video không đúng. Chạy nhanh.”

“À, ờ,” McCaleb nói, như thể ông chưa bao giờ nghĩ ra là cũng có thể như vậy. “Người của các anh đã kiểm tra chưa?”

“Cộng sự của tôi có.”

“Thật không? Tôi đâu có thấy báo cáo nào về chuyện đó trong hồ sơ.”

“Này, cậu ta đã gọi điện cho công ty bảo vệ, đã kiểm tra, không báo cáo, được chưa? Thằng cha chuyên lắp đặt hệ thống đã lắp camera vào đó cách đây hơn một năm - ngay sau khi ông Kang bị cướp lần đầu. Eddie có nói chuyện với hắn. Hắn canh giờ đồng hồ trong camera theo đồng hồ của chính hắn lúc đó, rồi từ bấy tới giờ không quay lại. Hắn có chỉ cho ông Kang cách sửa đồng hồ trong camera phòng khi mất điện hay sao đó.”

“OK,” McCaleb nói, không rõ cứ thế này rồi sẽ đi đến đâu.

“Thành thử, anh đoán thì cũng chả hơn gì tôi đoán. Ấy là giờ phút ngay từ hồi đầu, khi thằng cha lắp đặt canh theo đồng hồ hắn, hay là ông già đã có tự chỉnh giờ vài lần? Đằng nào thì cũng chả quan trọng. Ta đâu thể tin ở giờ giấc lấy từ đồng hồ của ai đó. Có thể đồng hồ nhanh, có thể đồng hồ trong camera cứ mỗi một hai tuần lại nhanh thêm vài giây. Ai biết? Ta không thể cậy vào đó được, tôi nói là nói thế. Nhưng ta có thể tin ở đồng hồ của bên chín một một. Đó là giờ giấc mà ta biết là đúng, nên chúng tôi dựa là dựa vào giờ đó.”

McCaleb làm thinh, và Walters hình như cho đó là một cách phê phán.

“Này, đằng nào thì đồng hồ camera chẳng qua là một chi tiết chả có ý nghĩa gì,” anh ta nói. “Nếu ta cứ bận tâm về mỗi một chi tiết không khớp thì chắc cho tới giờ ta cũng còn loay hoay chưa xong ngay cả vụ đầu tiên. Tôi bận lắm anh à, còn gì nữa không?”

“Chắc chỉ thế thôi. Người của các anh chưa bao giờ kiểm tra đồng hồ giám sát, đúng không? Là kiểm tra giờ trên đó so với giờ bên tổng đài ấy mà?”

“Không. Hai ba hôm sau chúng tôi có quay lại nhưng đã có sự cố mất điện - Santa Ana bị nổ đường dây. Vậy nên giờ ghi trên đồng hồ là vô dụng với chúng tôi.”

“Tệ quá.”

“Ừ, quá tệ. Tôi phải đi. Giữ liên lạc nhé. Anh biết được gì thì gọi chúng tôi trước khi gọi cho Winston, không thì chúng tôi chẳng vui vẻ với anh đâu. Được chớ?”

“Tôi sẽ gọi cho anh.”

Walters gác máy. McCaleb đặt điện thoại xuống rồi chăm chăm nhìn nó một hồi, tự hỏi bước kế tiếp của mình nên là hay sẽ là gì. Ông chẳng nghĩ được gì sất. Nhưng xưa nay ông vẫn quen trở lại chỗ khởi đầu mỗi khi đụng phải ngõ cụt. Mà điểm khởi đầu thường khi chính là hiện trường vụ án. Nhưng vụ này thì khác. Ông có thể quay lại bản thân vụ án trong thực tế.

Ông đút lại cuốn băng hai vụ giết người ở Siêu thị Sherman vào đầu video rồi xem lại, cho quay chậm. Ông ngồi siết chặt mép bàn đến độ mấy lóng tay và khớp tay bắt đầu đau. Mãi đến khi xem lại lần thứ ba ông mới chợt nhận thấy một điều từ trước đến giờ vẫn sờ sờ ra đó song ông đã bỏ sót.

Đồng hồ của Chan Ho Kang. Cái đồng hồ mà hiện vợ ông ta đeo. Trên cuốn video, có thể nhìn thấy rõ cái đồng hồ khi Kang cố sống cố chết tìm chỗ bấu víu ở trên quầy.

McCaleb xem đi xem lại cuốn băng suốt mấy phút, tua tới tua lui cho tới khi dừng được khung hình mà ông cho là ghi nhận rõ nhất mặt đồng hồ. Ông chẳng làm được gì hơn là ráng nhìn cho rõ, nhưng số trên mặt đồng hồ thì lại không thu được do máy quay video nằm ở bức tường mãi phía trên. Các con số trên đồng hồ - giờ giấc - không đọc được.

Ông ngồi nhìn chăm chăm vào hình ảnh đã dừng, tự hỏi liệu mình có sẽ theo đuổi đến cùng không. Nếu đọc được giờ trên chiếc đồng hồ, ông sẽ có thể khoanh lại thời điểm vụ nổ súng bằng cách sử dụng đồng hồ camera và đồng hồ của tổng đài. Nó sẽ có thể làm sáng tỏ một chỗ còn nghi hoặc. Nhưng liệu rồi có ý nghĩa gì không? Walters nói đúng một điểm. Luôn luôn có những chi tiết còn uẩn khúc. Luôn luôn có những chỗ còn nghi hoặc. Và McCaleb không chắc liệu chi tiết này có đáng mất thời gian để làm sáng tỏ không.

Cuộc tranh luận riêng tư của ông bị ngắt ngang. Lâu nay sống trên thuyền, ông đã học được cách nghe những dềnh lên hạ xuống tinh tế của căn nhà mình ở mà biết được khi nào ấy là do đường rẽ nước của một con thuyền khác chạy trên kênh đào gây ra còn khi nào là do sức nặng của một người nào đó bước lên thuyền. McCaleb cảm thấy con thuyền khẽ đầm xuống một chút, ông liền lập tức nhìn qua vai về phía cánh cửa trượt. Graciela Rivers vừa mới bước lên thuyền và đang quay lại để giúp một chú bé bước lên theo. Raymond. Ăn tối. Ông đã hoàn toàn quên béng mất.

“Của khỉ,” ông vừa nói vừa nhanh tay tắt video rồi đứng dậy ra đón họ.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,467
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 12


“Ông quên rồi phải không?”

Có một nụ cười ung dung thoải mái trên môi nàng.

“Không… à, ý tôi là trong năm tiếng vừa qua thì tôi hơi quên. Tôi mải mê với đống giấy tờ đang phải nghiên cứu. Tôi đã định đi ra chợ đặng mà...”

“Ồ, không sao cả. Ta có thể để lần...”

“Không, không, cô đùa hay sao? Chúng ta sẽ ăn tối. Raymond đây phải không?”

“Ồ phải.”

Graciela quay về phía chú bé đang bẽn lẽn đứng nép sau lưng nàng. Chú trông nhỏ bé so với tuổi, tóc và mắt màu sẫm, da nâu. Chú mặc quần soóc và sơ mi kẻ sọc. Chú cầm một cái áo len tay dài bằng cả hai tay.

“Này Raymond, đây là chú McCaleb. Người mà dì có kể cho cháu ấy. Đây là thuyền của chú ấy. Chú ấy sống trên thuyền.”

McCaleb tiến lên phía trước, cúi xuống, chìa tay ra. Chú bé cầm một cái xe cảnh sát đồ chơi trong tay mặt nên phải chuyển nó sang tay kia. Đoạn chú ngập ngừng nắm tay McCaleb và họ bắt tay nhau. McCaleb cảm thấy một nỗi buồn không lý giải được khi gặp chú bé.

“Chú là Terry đây,” ông nói. “Rất vui gặp cháu, Raymond. Chú nghe nói nhiều về cháu.”

“Chú có ra khơi câu bằng thuyền này được không?”

“Được chứ. Hôm nào chú đưa cháu đi cùng, nếu cháu muốn.”

“Thế thì hay quá.”

McCaleb thẳng người dậy cười với Graciela. Nàng trông thật đáng yêu. Nàng mặc áo váy nhẹ mùa hè giống như bộ nàng đã mặc khi đến thuyền lần đầu. Đó là loại đầm mà làn gió nhẹ từ mặt nước thổi lên dễ dàng ép chặt vào thân thể nàng. Cả nàng cũng mang áo len dài tay. McCaleb thì mặc quần soóc, mang xăng đan và cái áo phông trên đó có mấy chữ Robicheaux’s Dock & Baitshop. Ông thấy hơi lúng túng.

“Tôi bảo này,” ông nói. “Đằng kia có một cái nhà hàng được lắm, phía trên cửa hàng của bến thuyền này. Ở đó đồ ăn ngon, hơn nữa ngắm hoàng hôn thì tuyệt. Sao ta không ăn tối ở đó nhỉ?”

“Nghe được đấy,” Graciela nói.

“Tôi chỉ cần thay đồ nhoáng cái là xong thôi, với lại, Raymond này, chú có một ý. Hay là ta thả một dây câu từ chỗ đuôi tàu xuống, rồi cháu xem liệu có câu được gì không trong khi chú vào trong chỉ cho dì Graciela xem mấy thứ chú đang làm dở?”

Mặt chú bé sáng lên.

“OK.”

“OK, vậy chú sẽ lo dây cho cháu.”

McCaleb để hai người lại đó mà vào trong. Ở phòng khách, ông lấy cái cần câu và cuộn dây nhẹ nhất nơi chỗ giá để đồ phía trên đầu, đi lại chỗ hộp dụng cụ để dưới bàn vẽ hải đồ, lấy ra một cái thẻo câu bằng thép trên đó đã lắp sẵn một lưỡi câu số tám và một cục chì câu. Ông lắp thẻo câu vào dây câu trong cuộn rồi đi lại chỗ tủ lạnh trong bếp, ở đó ông biết mình có trữ ít mực đông lạnh. Dùng một con dao sắc, ông xẻo một mẩu cánh mực rồi xiên lưỡi câu qua.

Ông cầm cần câu và cuộn dây quay lại chỗ đuôi tàu rồi đưa cả bộ đồ lề cho Raymond. Khom khom sau lưng chú bé, vòng hai tay quanh chú, ông dạy cho chú một bài nhanh gọn về việc làm cách nào ném mồi vào chính giữa dòng kênh. Đoạn ông chỉ cho chú cách giữ ngón tay trên dây và làm sao nhìn dây mà biết cá cắn câu.

“Giờ cháu hiểu chưa?” ông hỏi khi bài học đã hoàn tất.

“Ừ-hử. Cạnh thuyền có cá không ạ?”

“Có chứ, chú vừa thấy một đàn cá tráp vằn cừu bơi qua chỗ dây của cháu mà.”

“Cá tráp vằn ạ?”

“Là con cá có mấy cái vằn màu vàng. Thỉnh thoảng cháu thấy nó bơi dưới nước ấy mà. Cháu canh chừng tụi nó nhá.”

“Vâng ạ.”

“Bây giờ chú với mẹ cháu vào trong uống gì đó thì cháu không sao chứ?”

“Dì ấy không phải mẹ cháu.”

“À phải, chú... chú xin lỗi, Raymond. Ý chú là dì Graciela. Cháu không sao chứ?”

“Không sao ạ.”

“Rồi, dính được con nào thì hú lên nhá. Rồi thì quay dây!”

Ông trỏ ngón tay vào bên cạnh sườn chú bé rồi rê ngón tay lên khung xương sườn nhỏ xíu của chú. Cha của McCaleb cũng làm y như vậy với ông trong khi ông cầm cần câu, mạng sườn hở không che chắn. Raymond cười khúc khích cố vặn vẹo người để tránh, mắt không rời nơi sợi dây câu của chú biến mất vào lòng nước sẫm.

Graciela theo McCaleb vào phòng khách, đoạn ông đóng cánh cửa trượt để chú bé không nghe thấy họ. Mặt ông chắc hẳn đỏ bừng do sơ suất với thằng bé. Nàng đọc được tâm can ông trước khi ông kịp xin lỗi.

“Được rồi. Chuyện ấy vẫn thường xảy ra luôn mà.”

Ông gật đầu.

“Sau này nó có ở luôn với cô không?”

“Có. Tôi là người thân duy nhất, nhưng chuyện đó không quan trọng. Từ khi nó còn bé tôi đã luôn ở bên nó rồi. Đã mất mẹ mà rồi lại mất cả tôi thì với nó là quá nhiều, tôi nghĩ vậy. Tôi muốn nó ở với tôi.”

“Bố nó đâu?”

“Ai mà biết.”

McCaleb gật và quyết định thôi không gặng hỏi về chuyện đó.

“Cô rồi sẽ rất tốt đối với nó đấy,” ông nói. “Cô uống cốc rượu vang nhé?”

“Thế thì tốt quá.”

“Đỏ hay trắng?”

“Có gì uống nấy.”

“Hiện giờ thì tôi không được uống gì cả. Phải đôi ba tháng nữa.”

“Ồ, thế thì tôi không muốn ông mở một chai vang chỉ vì tôi đâu. Tôi có thể...”

“Thôi mà, tôi thì muốn. Vang đỏ nhé? Tôi có ít vang đỏ ngon, nếu mở thì ít nhất tôi cũng ngửi được tí.”

Nàng mỉm cười.

“Tôi nhớ hồi Glory có thai nó cũng vậy đó. Nó hay ngồi bên cạnh tôi mà nói nó chỉ muốn ngửi mùi rượu trong khi tôi uống.”

Nụ cười trở nên buồn bã.

“Cô ấy là người tốt,” McCaleb nói. “Nhìn thằng bé tôi biết. Cô muốn tôi thấy là thấy điều đó.”

Nàng gật đầu. Ông vào bếp lấy một chai vang đỏ nơi giá để rượu. Đó là một chai Sanfort làm bằng nho Pinot đen, một trong những loại ông thích. Trong khi ông mở, nàng lại gần quầy. Ông nghe thấy mùi hương nhè nhẹ. Chắc là mùi vani, ông nghĩ. Nó khiến ông rúng động. Không hẳn vì quá gần nàng mà bởi cảm thấy cái gì đó đang thức dậy trong ông sau một thời gian ngủ yên.

“Ông có con cái không?” khi đó nàng hỏi.

“Tôi à, không.”

“Ông đã bao giờ lấy vợ chưa?”

“Có, một lần.”

Ông rót cho nàng một cốc rồi nhìn nàng nếm. Nàng mỉm cười gật đầu.

“Ngon. Chuyện đó đã lâu chưa?”

“Gì cơ, hồi tôi còn có vợ ấy à? Xem nhé, tôi cưới vợ khoảng mười năm trước. Ở với nhau ba năm. Cô ấy cũng là đặc vụ cảnh sát, chúng tôi cùng làm việc ở Quantico. Thế rồi khi hai bên không hòa thuận và chúng tôi ly dị chúng tôi vẫn phải làm việc với nhau cho nên... Tôi không biết, chúng tôi vẫn dễ chịu với nhau thôi, nhưng mà chuyện đó không hay, cô hiểu không? Cũng vào khoảng thời gian đó bố tôi đang lâm bệnh ở đây.

Thành thử tôi gợi ý với họ hãy cử một người trong đơn vị đến đây thường trực. Tôi mách cho họ ý đó như là một cách để cắt giảm chi phí. Đằng nào thì tôi cũng bay về đây suốt mà. Nhiều người trong chúng tôi cũng vậy. Tôi bảo rằng họ chắc hẳn nên có một tiền đồn nho nhỏ hay gì đấy ở đây để tiết kiệm phần nào khoản chi phí đó. Họ đồng ý và rồi tôi được giao vị trí ấy.”

Graciela gật đầu, quay lại nhìn ra ngoài cửa trượt để xem Raymond thế nào. Chú đang nhìn chăm chú xuống mặt nước chỗ chú hy vọng là có cá.

“Còn cô thì sao?” McCaleb hỏi. “Cô cũng từng lập gia đình chứ?”

“Có, một lần.”

“Con cái?”

Nàng vẫn đang nhìn ra Raymond ngoài kia. Nụ cười của nàng vẫn ở nguyên đó nhưng đang căng lên vì những điều họ chưa nói ra. McCaleb tò mò về nàng nhưng quyết định bỏ qua chuyện ấy.

“Nhân thể, ông cũng tử tế với nó,” nàng vừa nói vừa gật đầu về phía Raymond. “Thế là cân bằng. Ông phải chỉ bảo chúng rồi thì để chúng tự mình tìm lấy. Thế là tốt với nó rồi.”

Nàng nhìn ông và ông nhún vai ý bảo đó là may mắn. Ông lấy cốc của nàng ghé lại gần mũi để thưởng thức mùi thơm, rồi trả cốc lại cho nàng. Đoạn ông rót cho mình chỗ cà phê còn lại trong ấm, pha thêm ít sữa và đường. Họ chạm cốc với ca rồi uống. Nàng nói nàng thích cốc rượu của mình. Ông thì bảo cà phê của ông uống cứ như hắc ín.

“Xin lỗi,” nàng nói. “Tôi cảm thấy uống cái này trước mặt ông nó cứ thế nào ấy.”

“Đừng. Thấy cô thích là tôi vui.”

Im lặng tràn ngập phòng khách. Mắt nàng dừng lại ở chồng báo cáo và băng video trên bàn bếp.

“Ông muốn cho tôi xem gì đây?”

“Ừm, chả có gì đặc biệt. Chỉ là tôi không muốn nói trước mặt Raymond.”

Ông nhìn qua cửa kính trông chừng chú bé. Chú đang câu rất cừ. Chú đang tập trung chú ý vào sợi dây câu cắt ngang qua làn thủy triều đang dâng. McCaleb vẫn mong chú sẽ câu được gì đó, nhưng cho rằng chuyện đó cũng khó. Bên dưới bề mặt đẹp đẽ của bến neo thuyền, nước đầy rẫy chất gây ô nhiễm. Nếu còn sót lại con cá nào dưới đó thì may ra chỉ là loài sống dưới đáy với kỹ năng sinh tồn của loài gián.

Ông nhìn lại Graciela.

“Nhưng tôi muốn cho cô biết là sáng nay tôi đã gặp thám tử của Cảnh sát trưởng. Cô ấy dễ chịu hơn nhiều so với mấy thằng cha bên cảnh sát Los Angeles.”

“Cô ấy?”

“Là Jaye Winston. Cô ấy tốt lắm, hồi trước chúng tôi có làm việc chung. Dù sao thì, cô ấy có cho tôi bản sao mọi thứ về cả hai vụ. Tôi dành cả ngày nghiên cứu là nghiên cứu từng ấy thứ. Nhiều lắm.”

Ông tóm tắt mọi chuyện càng ngắn gọn càng hay, cố nói nhẹ đi khi gặp các chi tiết liên quan đến em gái nàng. Ông không bảo nàng rằng ông có cuốn băng quay vụ giết em gái nàng ở đây, trên thuyền, bền cạnh họ.

“Ở Cục chúng tôi người ta hay nói là ‘cày xới tới cùng’,” ông nói khi kết thúc phần tóm tắt. “Nghĩa là không để lại bất cứ cái gì không được chạm tới, không một điều gì bị tình cờ bỏ sót. Ý chính tôi muốn nói là, cuộc điều tra vụ giết em gái cô không phải là một ca đã được cày xới tới cùng, nhưng đồng thời trong những gì người ta đã làm tôi cũng chả thấy có lỗ hổng nào lộ ra cả. Cũng có vài nhầm lẫn, có thể họ đã vội giả định đôi điều mà không chờ tới khi có đầy đủ sự kiện, nhưng dù sao thì các giả định đó không nhất thiết là sai. Người ta cũng đã điều tra khá thấu đáo.”

“Khá thấu đáo rồi,” nàng nhắc lại, mắt nhìn xuống đất. McCaleb hiểu ra rằng ông đã chọn dùng từ quá tồi.

“Vậy là gã đó rồi sẽ thoát thân thôi,” nàng nói như một lời tuyên bố. “Hẳn là lẽ ra tôi nên biết trước điều ông muốn nói với tôi là thế này đây.”

“Ồ, tôi không nói thế với cô đâu. Winston, thám tử chỗ Cảnh sát trưởng ấy, ít nhất là cô ấy đang tích cực theo vụ này. Mà cả tôi cũng đã xuôi tay đâu, Graciela. Tôi có nói thế đâu. Cả tôi cũng có phần liên quan ở vụ này.”

“Tôi biết. Tôi không định nói là tôi không hài lòng với ông. Với ông thì hoàn toàn không. Nhưng tôi thất vọng.”

“Điều đó tôi hiểu. Tôi không muốn cô thất vọng. Ta đi ăn một bữa tối ngon lành đi, sau sẽ nói chuyện nhiều hơn.”

“Vâng.”

“Cô ra ngoài với Raymond trước đi. Tôi phải thay đồ.”

Sau khi thay một cái quần Dockers sạch và một chiếc sơ mi Hawaii màu vàng có vẽ những lát dứa bay, McCaleb dẫn họ xuống bến tàu đi đến chỗ nhà hàng. Ông không buồn quấn lại dây cần câu của Raymond. Ông tựa cần câu lên một trong mấy giá mắc cần câu nơi mép thuyền rồi bảo chú bé là khi đi ăn về họ sẽ kiểm tra.

Họ ngồi ăn nơi bàn, Graciela và Raymond ngồi bên phía có thể ngắm cảnh mặt trời vừa bắt đầu lặn trên cả một rừng cột buồm của các tàu thuyền. Graciela và McCaleb gọi món cá kiếm nướng đặc biệt, còn Raymond thì ăn cá với khoai tây rán. McCaleb nhiều lần cố kéo Raymond vào cuộc trò chuyện song phần lớn là thất bại. Ông và Graciela chủ yếu nói về những khác biệt giữa sống trên thuyền với sống trong nhà ở trên bờ. McCaleb cho Graciela biết sống trên mặt nước thì yên bình và làm cho mình khỏe khoắn ra sao.

“Ra đến ngoài kia còn tuyệt hơn nữa kia,” ông vừa nói vừa chỉ ra phía Thái Bình Dương.

“Bao lâu nữa thuyền của ông mới sẵn sàng?” Graciela hỏi.

“Không lâu đâu. Ngay khi tôi chữa xong động cơ thứ hai là thuyền chạy được ngay thôi. Còn lại chỉ là mông má thôi mà. Cái ấy làm khi nào chả được.”

Trên đường đi ăn về, Raymond rảo bước đằng trước họ dọc theo đê chắn sóng, một tay cầm que kem ốc quế, tay kia cầm đèn pin, giờ thì chú đã mặc cái áo len màu xanh dương, đầu chú nhấp nhô hết phía này lại đến phía kia trong khi chú soi đèn đuổi theo những con cua kéo đàn lổm ngổm bò lên chân đê. Giờ thì ánh sáng hầu như đã tắt hẳn trên bầu trời, về đến thuyền thì đã đến lúc Graciela và Raymond phải về. McCaleb thấy dường như ông đã bắt đầu nhớ họ rồi.

Khi chú bé đã đi đủ xa đằng trước họ, Graciela lại nhắc về vụ án.

“Giờ thì ông có thể làm gì khác?”

“Về vụ án ấy à? Một là, tôi có một manh mối phải lần theo, một điều mà họ đã bỏ sót.”

“Cái gì kia?”

Ông giải thích về việc ông đã tiến hành kiểm tra chéo về nơi chốn, và bằng cách nào ông đã lần ra được Mikail Bolotov. Khi thấy nàng tỏ ra phấn chấn, ông nhanh chóng cảnh báo nàng đừng vội mừng.

“Gã này có chứng cứ ngoại phạm. Đúng là có manh mối đấy, nhưng nó có thể chả dẫn đến đâu hết.”

Ông nói tiếp.

“Tôi cũng đang nghĩ đến chuyện tới chỗ Cục yêu cầu họ tham gia chuyện đạn đạo.”

“Là thế nào?”

“Gã này có thể đã làm chuyện đó ở nơi khác. Hắn dùng một khẩu súng rất đắt tiền. Khẩu súng ấy hắn đã không vứt bỏ trong thời gian giữa hai vụ ấy, thế nghĩa là hắn thích giữ nó luôn và do vậy có thể hắn đã dùng nó trước kia rồi, ở đâu đó. Họ có vài chứng cứ đạn đạo - tức là mấy viên đạn ấy. Ở chỗ Cục họ có thể làm gì đó nếu tôi đưa vật chứng cho họ.”

Nàng không nhận xét gì và ông tự hỏi có phải lý lẽ thông thường của nàng bảo rằng chuyện này sẽ không phải ngày một ngày hai. Ông nói tiếp.

“Tôi cũng đang nghĩ tới chuyện quay lại gặp vài nhân chứng để thẩm vấn họ theo cách hơi khác đi một chút. Nhất là người đã nhìn thấy một phần vụ nổ súng, cái tay sống trong sa mạc ấy. Mà muốn làm vậy thì phải tinh tế một chút. Ý tôi là tôi không muốn giẫm lên chân Winston hoặc làm cô ấy cảm thấy tôi cho rằng cô ấy đã để lọt điều gì. Nhưng tôi muốn tự mình nói chuyện với anh chàng đó. Anh ta là nhân chứng tốt nhất. Tôi muốn nói chuyện với anh ta, rồi thì có hai ba nhân chứng về chuyện em cô đã... cô biết rồi đó.”

“Tôi không biết là có nhân chứng cơ đấy. Trong cửa hàng lúc ấy có người à?”

“Không, tôi không nói nhân chứng trực tiếp. Nhưng có một người đàn bà lái xe đi ngang nghe thấy tiếng súng. Rồi cũng có hai ba người chỗ tòa soạn Thời báo cùng ca với em cô đêm hôm ấy. Tôi muốn tự mình nói chuyện với hết thảy mấy người đó, để xem liệu có gì thay đổi trong ký ức họ về đêm đó hay không.”

“Chắc là tôi có thể giúp ông thu xếp chuyện này. Tôi biết hầu hết bạn bè của nó.”

“Tốt.”

Họ lặng thinh bước thêm một chốc. Raymond vẫn còn đi đằng trước một quãng xa. Cuối cùng Graciela nói.

“Tôi không biết ông có thể làm giúp tôi một chuyện không.”

“Được chứ.”

“Hồi trước Glory vẫn hay đến gặp một bà ở khu phố chúng tôi. Là bà Otero. Nếu không có tôi thì chắc nó cũng để Raymond ở với bà ấy. Nhưng thỉnh thoảng Glory cũng một mình tới gặp bà ấy để nói về những khó khăn mà nó gặp phải. Tôi đang tự hỏi không biết ông có muốn gặp bà ấy không.”

“Ừm... tôi không... ý cô là, cô nghĩ bà ta có thể biết đôi điều về chuyện này hay là, đại khái là để an ủi bà ta?”

“Có thể bà ấy sẽ giúp được gì chăng.”

“Làm thế nào bà ta có...”

Thế rồi đột nhiên ông nghĩ ra.

“Ý cô muốn nói bà ta là nhà ngoại cảm à?”

“Là bà đồng. Glory tin cậy bà Otero. Bà ấy nói bà ấy liên lạc được với các thiên thần và Glory tin chuyện ấy. Mà bà ấy thì cứ gọi điện suốt, bảo là muốn nói chuyện với tôi, và, tôi cũng chả biết nữa, tôi chỉ nghĩ là có thể ông sẽ đi cùng tôi.”

“Tôi không biết. Tôi không thực sự tin mấy chuyện đó Graciela ạ. Tôi không biết sẽ nói gì với bà ta cả.”

Nàng chỉ nhìn ông, và ông cảm thấy đau lòng khi nghĩ mình nhìn thấy sự chê trách trong mắt nàng.

“Graciela này... Tôi đã gặp quá nhiều điều xấu và quá nhiều người xấu đến nỗi chẳng còn tin nổi mấy chuyện kiểu đó nữa. Làm sao lại có thiên với thần cho được một khi thiên hạ vẫn cứ làm những việc như họ đang làm ở đây?”

Nàng vẫn chẳng nói gì và ông biết sự im lặng của nàng là một lời phê phán.

“Hay để tôi nghĩ đã rồi cho cô biết sau?”

“Được,” cuối cùng nàng nói.

“Đừng bực nhé.”

“Thôi được, tôi xin lỗi. Tôi đã kéo ông vào vụ này và tôi biết thế đã là xâm phạm quá lắm. Tôi chẳng biết mình nghĩ gì nữa. Chắc là tôi chỉ nghĩ ông nên...”

“Thôi nào, đừng bận tâm nữa. Tôi làm chuyện này vì tôi chẳng kém vì cô. Được chứ? Miễn là đừng từ bỏ hy vọng. Như tôi nói, có đôi điều tôi sẽ làm và cả Winston cũng sẽ không cho qua chuyện này đâu. Cho tôi ít ngày nữa. Nếu tôi không tìm được lối ra thì có thể chúng ta sẽ đi gặp bà Otero. Thế nhé?”

Nàng gật đầu nhưng ông có thể thấy là nàng thất vọng. “Hồi xưa nó là đứa ngoan lắm,” sau một lát nàng nói. “Từ hồi có Raymond mọi cái đối với nó đều thay đổi. Nó đàng hoàng chững chạc hẳn lên, chuyển đến ở cùng tôi rồi thì đâm ra biết cái gì là quan trọng cần làm trước. Nó đi học ở Cal State vào buổi sáng. Thành ra nó mới đi làm buổi tối ở tòa báo kia. Nó vốn thông minh. Nó vẫn muốn tiến sâu hơn vào nghiệp báo. Làm nhà báo.”

Ông gật đầu, giữ im lặng. Ông biết, nói ra được những điều như thế là tốt cho nàng.

“Giá mà được làm nhà báo thì nó sẽ giỏi lắm. Tôi nghĩ thế. Nó quan tâm đến mọi người. Ý tôi là, cứ nhìn nó mà xem. Nó từng là tình nguyện viên. Sau mấy vụ bạo loạn, nó đi xuống miền Trung-Nam để giúp dọn dẹp. Sau trận động đất, nó vào bệnh viện để tham gia nhóm cấp cứu và trấn an mọi người rằng mọi chuyện đều ổn. Nó từng hiến tạng. Nó vẫn thường hiến máu, bất cứ khi nào có bệnh viện nào gọi bảo họ cần máu là nó đến. Máu hiếm thế kia... ồ, nó còn hiếm hơn thế nữa. Đôi khi tôi thực lòng ao ước giá như tôi có thể đổi chỗ để chính tôi là người bước vào cửa hiệu đó.”

Ông quàng tay ôm lấy vai nàng như để vỗ về. “Thôi nào,” ông nói. “Hãy nhìn những người cô vẫn hằng giúp đỡ ở bệnh viện. Nhìn Raymond nữa. Cô sẽ rất tốt với nó cho mà xem. Cô không được nghĩ đến chuyện ai xứng đáng hơn ai hay là đổi chỗ này nọ. Điều đã xảy ra với cô ấy lẽ ra không được xảy ra với bất cứ ai.”

“Nhưng tôi chỉ biết rằng Raymond có người mẹ của riêng nó, mà giá là người đó thì sẽ tốt hơn tôi.”

Chẳng cách nào tranh luận với nàng được. Ông rút tay lại rồi đặt bàn tay lên cổ nàng. Nàng không khóc nhưng trông cứ như nàng sắp khóc. Ông muốn an ủi nàng nhưng biết rằng chỉ có một cách để ông làm được điều đó.

Họ gần như đã về tới vũng neo thuyền của ông. Raymond đang đợi nơi cổng an ninh mở hé chừng mươi xăng ti mét như thường lệ. Lò xo đã gỉ sét nên cổng chẳng bao giờ đóng khít được.

“Mình phải về thôi,” Graciela nói khi họ bắt kịp chú bé. “Muộn rồi mà cháu còn phải đi học.”

“Còn cần câu thì sao ạ?” Raymond phản đối.

“Chú McCaleb có thể lo chuyện đó. Giờ thì cám ơn chú ấy đã cho mình câu cá, ăn tối rồi lại còn ăn kem nữa, nào.”

Raymond chìa bàn tay nhỏ xíu ra và McCaleb lại bắt. Bàn tay lạnh và nhớp nháp.

“Chú Terry đây. Và này, mai mốt chú cháu mình sẽ đi câu thật, câu ra trò. Ngay khi thuyền chú chữa xong. Chừng đó chú cháu mình sẽ giong thuyền ra xa và mình sẽ tóm được cho cháu một con rõ to. Chú biết một chỗ ở phía bên kia đảo Catalina. Mùa này trong năm mình sẽ câu được cá hanh. Nhiều lắm. Mình sẽ tới đó, OK?”

Raymond làm thinh gật đầu như thể chú đoán rằng chuyện đó sẽ chẳng bao giờ xảy ra. Điều này khiến McCaleb rùng mình buồn bã. Ông nhìn Graciela.

“Thứ Bảy này được không? Thuyền thì chưa xong đâu nhưng hai dì cháu cứ tới vào buổi sáng, cả hội mình có thể câu ngoài đê chắn sóng. Nếu muốn thì ở qua đêm cũng được. Có khối chỗ, tha hồ.”

“Ồ thích quá!” Raymond la lên.

“Được,” Graciela nói, “để xem từ giờ đến cuối tuần thế nào đã.”

McCaleb gật đầu, nhận ra sai lầm mình vừa phạm phải. Graciela mở cửa sau chiếc Rabbit chuyển đổi công năng của nàng và chú bé chui vào. Nàng lại gần McCaleb sau khi đóng cửa xe.

“Cho tôi xin lỗi,” ông nói giọng trầm đi. “Chắc là tôi lẽ ra không nên đề nghị như vậy trước mặt nó.”

“Không sao đâu,” nàng nói. “Tôi thích vậy nhưng có thể tôi còn phải thu xếp vài việc, nên phải đợi xem đã. Trừ phi ông muốn biết chắc ngay bây giờ.”

“Không, thế cũng được. Chỉ cần cho tôi biết thôi.”

Nàng lại gần một bước và chìa tay ra bắt.

“Cám ơn ông rất nhiều về tối nay,” nàng nói. “Trước giờ nó rất hay trầm lặng nhưng tôi nghĩ là nó thích, còn tôi thì nhất định là tôi thích.”

McCaleb nắm tay nàng mà bắt nhưng rồi nàng cúi người về phía ông, ngước mặt lên hôn vào má ông. Khi lùi lại, nàng đưa tay lên miệng.

“Lởm chởm quá,” nàng mỉm cười nói. “Ông để râu đấy à?”

“Đang nghĩ đến chuyện đó đây.”

Nghe thế nàng bật cười vì lý do nào đó. Nàng đi vòng quanh xe và ông theo sau để giữ cho cửa mở. Khi đã ngồi vào ghế, nàng nhìn lên ông.

“Ông biết không, ông nên tin vào các ngài,” nàng nói.

Ông nhìn xuống nàng.

“Ý cô là tin thần thánh?”

Nàng gật. Ông gật đầu đáp lại. Nàng nổ máy rồi lái xe đi.

Về lại thuyền, ông đi tới góc phía mạn sau. Cái cần câu vẫn ở nguyên nơi mép thuyền, dây câu vẫn nằm trên mặt nước nơi Raymond bỏ lại. Nhưng khi thu dây vào, McCaleb biết là chẳng có cá nào dính câu. Khi cuối cùng toàn bộ dây đã lên khỏi nước, ông thấy lưỡi câu và chì câu nhưng mồi thì không. Có gì đó dưới kia đã tước mất của ông.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,467
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 13


Sáng thứ Năm McCaleb thức dậy trước khi đám công nhân khuân vác ngoài cảng kịp dính dáng gì tới chuyện ngủ hay thức của ông. Chỗ cafêin ngày hôm trước ào ạt trào lên không ngớt trong huyết quản khiến ông không ngủ được. Nó làm day dứt thêm những suy nghĩ đầy phấp phỏng của ông về cuộc điều tra, về sự khác biệt giữa các khía cạnh của thực tế với niềm tin vào các thiên thần, về Graciela và về chú bé. Cuối cùng, ông chịu thua không cố ru ngủ nữa mà mở chong chong mắt chờ cho ánh sáng đầu tiên lọc vào qua mấy tấm rèm.

Chưa tới sáu giờ sáng ông đã tắm rửa, đo tim mạch và các thứ cần thiết khác rồi nuốt mấy viên thuốc. Ông mang chồng hồ sơ điều tra về lại bàn phòng khách, đặt ấm cà phê khác rồi ăn một bát ngũ cốc. Chốc chốc ông lại xem đồng hồ mà nghĩ liệu có nên gọi cho Vernon Carruthers mà không nói chuyện với Winston trước hay không.

Winston giờ này chắc chưa đến sở. Nhưng sớm hơn ba tiếng đồng hồ, tại đại bản doanh FBI ở Washington D.C., bạn của McCaleb là Vernon Carruthers ắt đã có mặt tại nhiệm sở, đơn vị Súng và Dấu vết Hung khí (SDH) chuyên trách phòng xét nghiệm tội phạm. McCaleb biết ông không nên nói chuyện với Carruthers trước khi được Winston bật đèn xanh. Đây là vụ của Winston. Nhưng khoảng cách ba tiếng đồng hồ giữa Los Angeles với Washington làm ông bồn chồn. Tận trong gan ruột McCaleb là người nôn nóng. Nỗi thôi thúc phải làm ngay cái gì đó chứ đừng để ngày trôi qua uổng phí, nó đang bức bách ông.

Xối sạch bát và để vào bồn rửa xong, ông xem đồng hồ thêm lần nữa rồi quyết định không đợi. Ông rút sổ điện thoại ra rồi gọi Carruthers đến thẳng số riêng. Anh ta nhấc máy sau một hồi chuông.

“Chào Vernon, Terry đây.”

“Terrell McCaleb! Cậu đang ở đây à?”

“Có đâu, vẫn ở Los Angeles. Cậu thế nào?”

“Cậu thì thế nào? Lâu lắm có nghe gì về cậu đâu.”

“Tớ biết, tớ biết. Nhưng tớ ổn mà. Nhờ mấy cái thẻ cậu gửi tới bệnh viện đấy. Bảo Marie là tớ cám ơn cả cô ấy nữa nhé. Có ích lắm. Tớ biết đáng lẽ tớ phải gọi hay viết thư mới phải. Tớ xin lỗi.”

“Ừ, chúng tớ đã cố gọi cậu nhưng cậu đã rời khỏi đội mà ở PTC hình như chả ai biết số mới hết. Nói chuyện với Kate thì cô ấy cũng chả biết nốt. Cô ấy chỉ biết mỗi chuyện cậu đã trả lại căn hộ ở Westwood thôi. Ai đó nữa ở PTC thì nói giờ cậu sống trên một cái thuyền. Đúng là cậu đã cắt đứt với mọi người rồi.”

“Tớ chỉ nghĩ tạm thời như vậy là tốt nhất. Ý là cho tới khi nào tớ đi lại được các thứ. Nhưng mọi chuyện hiện vẫn tốt. Cậu thì sao?”

“Không thể than phiền gì. Sắp tới cậu có khi nào tới đây không? Cậu biết là cậu vẫn còn chỗ mà. Tụi tớ chưa cho người nào của Quantico thuê hết. Cấm có dám.”

McCaleb bật cười, bảo anh ta rằng chẳng may, trước mắt ông không có kế hoạch nào là sẽ đi về miền Đông. Ông quen biết Carruthers đã gần mười hai năm nay. McCaleb làm việc bên Quantico còn Carruthers thì làm bên bộ phận Súng và Dấu vết Hung khí thuộc phòng xét nghiệm tội phạm ở Washington D.C., nhưng hình như hai người thường hay làm cùng một số vụ như nhau. Mỗi lần Carruthers đến Quantico để họp hành, McCaleb và vợ ông hồi đó là Kate lại cho anh ngủ nhờ trong căn phòng ngủ còn thừa. Phòng ấy ăn đứt so với chỗ còn trống của một căn phòng ký túc xá học viện. Đổi lại, mỗi lần McCaleb đến D.C. thì Carruthers cùng vợ là Marie lại cho ông trọ ở căn phòng vốn là của con trai họ. Cậu qua đời nhiều năm trước vì bệnh bạch cầu khi mới mười hai tuổi. Carruthers cứ nằng nặc đòi hai bên phải trao qua đổi lại như thế, mặc dù làm vậy nghĩa là McCaleb phải bỏ không dùng căn phòng rất tươm do FBI trả tiền ở khách sạn Hilton gần Dupont Circle. Đầu tiên McCaleb cảm thấy mình như kẻ xâm phạm khi ngủ trong phòng của cậu bé. Nhưng Vernon và Marie làm cho ông thấy mình như ở nhà. Lại nữa, nếu nói về cách nấu nướng kiểu miền Nam và không khí bầu bạn thì căn phòng ở Hilton không thể nào sánh được.

“Ừ, khi nào cũng được,” Carruthers cũng cười lớn mà đáp lại. “Khi nào cũng được.”

“Cám ơn bồ.”

“Theo dự tính của tớ thì ở đó chỉ mới tang tảng tinh mơ thôi. Có gì mà cậu gọi sớm thế hả?”

“Ờ, tớ gọi là có tí việc.”

“Cậu? Việc á? Tớ đang toan hỏi cậu cái thế giới về hưu tuyệt đẹp đang đãi đằng cậu ra sao kia mà. Có thật cậu đang sống trên cái thuyền chết dẫm nào đó không?”

“Có, tớ ở trên thuyền. Nhưng tớ chưa hẳn đã về vườn đâu.”

“Thôi được, việc gì nào?”

McCaleb thuật chuyện cho anh ta nghe, kể cả việc ông đã được ghép tim của Gloria Torres. McCaleb muốn Carruthers biết tất cả, không như những người có liên quan khác. Ông biết ông có thể tin cậy anh về chuyện đó, rằng anh sẽ hiểu mối dây gắn bó McCaleb với nạn nhân. Carruthers thường vẫn có mối cảm thông mạnh mẽ với các nạn nhân, nhất là nạn nhân trẻ. Nỗi đau khi phải nhìn con mình chết dần chết mòn trước mặt mình đã chuyển hóa thành sự tận tụy hết lòng với công việc, vượt xa cả các đặc vụ hiện trường giỏi nhất McCaleb từng biết.

Nửa chừng cuộc trò chuyện, tiếng ầm ầm của một chiếc tàu đang được dỡ hàng bắt đầu vang động khắp vũng neo thuyền. Carruthers hỏi cái quái gì vậy và McCaleb vừa nói cho anh rõ vừa mang điện thoại vào cabin đằng trước, đóng cửa lại để tránh tiếng ồn được bao nhiêu tốt bấy nhiêu.

“Vậy là cậu muốn tớ xem thử một viên đạn trong vụ này?” Carruthers hỏi khi McCaleb nói xong. “Tớ chả biết nữa. Sở Cảnh sát trưởng ở chỗ cậu, họ cũng có người giỏi mà.”

“Tớ biết chứ. Tớ chả nghi ngờ chuyện đó. Tớ chỉ muốn có một người khác hẳn nhìn với cái nhìn khác hẳn, và hơn hết tớ muốn cậu xem thật kỹ bằng máy vi tính nếu được. Mình chả bao giờ biết được đâu. Có khi mình gặp được cái gì đó không chừng. Tớ có linh cảm về cái đó.”

“Cậu với ba cái linh cảm của cậu. Tớ nhớ lắm. Thôi được, vậy tớ sẽ nhận gói hồ sơ từ đâu? Họ hay là cậu?”

“Tớ sẽ cố dùng mẹo gì đó. Nói sao để Sở Cảnh sát trưởng ở đây gửi bộ hồ sơ đi. Để cậu làm vụ này mà không danh chính ngôn thuận thì tớ không muốn. Nhưng nếu cậu có thể, tớ muốn bôi trơn cho vụ này nhanh lên chút đỉnh. Tên giết người này sẽ còn giết nhiều nữa. Chúng ta có thể cứu mạng được ai đó nếu như lần ra được hắn.”

Carruthers làm thinh một lát, McCaleb đoán rằng anh đang bận trù tính lịch trình làm việc ở trong đầu.

“Thế này nhá. Hôm nay thứ Năm. Tớ cần nhận được cái đó muộn nhất là sáng thứ Ba tuần sau, tốt nhất là thứ Hai để tớ có thể làm đâu ra đó. Thứ Tư tuần sau tớ bay tới Kansas City để làm chứng. Vụ bọn băng đảng. Họ nghĩ là tớ sẽ ở đó tới hết tuần. Thành thử nếu cậu muốn gửi nó đi thì chính cậu phải gửi cho tớ. Nếu cậu gửi, tớ sẽ chú ý làm ngay lập tức.”

“Sẽ không gây khó khăn gì cho cậu chứ?”

“Dĩ nhiên là có. Tớ bị bó giò ở đây đã hai tháng rồi, còn gì mới nữa nào? Nhưng cứ gửi bộ hồ sơ đi, tớ lo cho.”

“Tớ sẽ gửi cậu. Cách này hay cách khác, muộn nhất là thứ Hai.”

“OK, bồ.”

“Ồ, còn một chuyện nữa. Ghi số tớ đi. Như tớ nói, hiện tớ không làm việc cho cơ quan chính thức nào về vụ này cả. Đúng ra thì cậu phải liên lạc với Sở Cảnh sát trưởng mới phải, nhưng nếu cậu tìm được gì đó khác thường mà tớ được biết đầu tiên thì tớ rất cảm kích đấy.”

“Được rồi,” anh nói không chút ngần ngừ.

“Cho tớ số đi. Cả địa chỉ nữa. Marie sẽ cần đó, để gửi thiệp Giáng sinh.”

Sau khi McCaleb cho số và địa chỉ, Carruthers hắng giọng.

“Vậy gần đây cậu nói chuyện với Kate chứ?”

“Cô ấy có gọi tới bệnh viện ít hôm sau khi thay tim. Nhung lúc ấy tớ vẫn đang còn choáng. Bọn tớ không nói chuyện lâu.”

“Hừmmm. Thôi được, cậu nên gọi cô ấy dù chỉ để cô ấy biết là cậu ổn.”

“Tớ chả biết nữa. Cô ấy ra sao rồi?”

“Khỏe, chắc thế. Chưa nghe tin gì bảo là không khỏe. Cậu nên gọi cô ấy.”

“Tốt hơn là cứ để thế thôi, tớ nghĩ vậy. Bọn tớ ly dị rồi, nhớ không?”

“Thì thôi vậy. Cậu là sếp mà. Tớ sẽ gửi cô ấy một e-mail chỉ là để cô ấy biết cậu vẫn còn thở ở đó.”

Sau ít phút hàn huyên nữa, McCaleb gác máy rồi trở lên phòng khách lấy thêm cà phê. Ông đã hết sữa nên đành uống đen. Ấy chỉ là kiểu như dĩ độc trị độc, nhưng ông cần phải giữ vững đà tiến. Nếu mọi chuyện diễn ra đúng như ông mong đợi thì hôm nay hầu như ông sẽ rong ruổi trên đường suốt ngày.

Giờ đã gần bảy giờ, hầu như đã đến lúc gọi cho Winston. Ông đi ra ngoài boong nhìn trời sáng. Khối không khí bên trên mặt nước vũng đậu thuyền đã dâng lên dày đặc và những thuyền khác trông thật ma quái dưới làn sương. Phải vài tiếng nữa sương mới tan đi hết và người ta mới thấy được mặt trời. Ông nhìn sang thuyền của Buddy Lockridge thì thấy chưa có động tĩnh gì.

Lúc 7 giờ 10 phút ông cầm tập giấy nhớ ngồi vào bàn phòng khách, bấm số của Jaye Winston vào điện thoại không dây. Ông tóm được chị ngay lúc chị vừa ngồi vào bàn làm việc.

“Tôi vừa mới vào,” chị nói. “Mà tôi cứ nghĩ trong vòng hai ba hôm anh sẽ không gọi cho tôi kia chứ. Tôi đưa cho anh nhiều hồ sơ thế kia mà.”

“Ừ, chỉ là hễ đã bập vào rồi thì tôi không sao bỏ xuống được.”

“Anh nghĩ sao?”

McCaleb biết chị hỏi là hỏi ông nghĩ gì về cuộc điều tra chị đã tiến hành, đề nghị ông đánh giá.

“Tôi nghĩ chị đã làm rất chặt, nhưng điều này tôi đã biết trước rồi. Tôi thích tất cả các bước chị đã tiến hành trong vụ này Jaye ạ. Tôi không than phiền gì cả.”

“Nhưng?”

“Nhưng tôi có dăm câu hỏi ghi ra đây, nếu chị có vài phút rảnh. Có thể là đôi ba gợi ý nếu chị muốn. Một manh mối, có thể là hai.”

Winston bật cười hồn hậu.

“Các gã bên liên bang các anh luôn luôn có câu hỏi, luôn luôn có gợi ý, luôn luôn có manh mối mới.”

“Này, tôi có còn làm bên liên bang nữa đâu.”

“Ờ thì chắc cũng ăn sâu trong máu rồi. Nào thì nói đi.”

McCaleb nhìn lại mấy ghi chú đã viết ngày hôm trước và bắt đầu ngay từ góc độ Mikail Bolotov.

“Trước hết, Ritenbaugh và Aguilar, chị có gần họ không?”

“Thậm chí còn không biết nữa là. Họ không ở bên chuyên án giết người. Đội trưởng lôi họ ra khỏi ban chống trộm đặng cho tôi mượn trong một tuần. Đó là khi chúng tôi phải rà soát danh sách những kẻ đang bị thử thách theo luật ba lần phạm tội. Nhưng mà sao?”

“Ừm, tôi nghĩ trong những cái tên mà họ loại ra có một cái cần phải xem kỹ lại.”

“Tên nào?”

“Mikail Bolotov.”

McCaleb nghe tiếng giấy tờ sột soạt khi Winston tìm bản báo cáo của Ritenbaugh và Aguilar.

“OK, có rồi. Anh thấy gì ở đây mới được? Xem chừng hắn có bằng chứng ngoại phạm vững mà.”

“Chị đã bao giờ nghe nói tới tham chiếu chéo về địa điểm chưa?”

“Gì cơ?”

Ông giải thích khái niệm đó cho chị và bảo cho chị biết ông đã làm gì, việc đó dẫn đến Bolotov như thế nào. Ông giải thích thêm rằng Bolotov đã được thẩm vấn trước vụ cướp kèm nã súng ở Siêu thị Sherman và do đó, đối với hai vụ giết người ở cửa hàng và một trong các vụ cướp có dùng khẩu HK P7 thì tầm quan trọng của vị trí nhà riêng cũng như chỗ làm của Bolotov là không rõ bằng so với vụ kia. Khi ông nói xong, Winston đồng ý rằng cần phải kiểm tra lại gã người Nga, nhưng chị không hào hứng trước viễn cảnh này như McCaleb.

“Này, như tôi nói, tôi không biết hai anh chàng kia nên tôi không bảo đảm cho họ được, nhưng tôi phải giả định rằng họ không phải là bọn mới chân ướt chân ráo vào nghề. Tôi phải giả định rằng họ có thể đảm đương một vụ thẩm vấn như thế này và kiểm tra bằng chứng ngoại phạm.”

McCaleb không nói gì.

“Này, tuần này tôi phải tới tòa án. Tôi không thể lại đi kiểm tra gã này lần nữa được.”

“Tôi thì được.”

Giờ thì chị không nói gì.

“Tôi sẽ làm khéo mà,” McCaleb nói. “Cứ tùy cơ ứng biến thôi.”

“Tôi không biết, Terry ạ. Giờ thì anh là dân thường. Chuyện này có thể đang đi quá xa.”

“Thôi nào, nghĩ kỹ đi. Tôi còn vài chuyện cần nói nữa đây.”

“Rồi. Gì nữa?”

McCaleb biết rằng nếu chị không khơi lại chuyện Bolotov lần nữa trong cuộc trò chuyện, thế có nghĩa là chị đang cho phép ông - tuy một cách không chính thức - kiểm tra lại gã người Nga. Chỉ là chị không muốn chuẩn y những gì ông đang làm.

Ông lại liếc nhìn xuống tập giấy nhớ. Ông muốn cẩn thận cân nhắc nên hỏi gì kế tiếp. Ông cần phải hình thành tới nơi tới chốn những câu hỏi hệ trọng cần hỏi, phải cho Winston cùng nắm được với ông, chứ đừng để chị nghĩ rằng ông đang phê phán mọi chuyện khi sự đã rồi.

“Ừm, trước hết, ở đây chả thấy nói gì về tấm thẻ nhà băng trong vụ Cordell. Tôi biết tên đó đã lấy tiền. Hắn có lấy luôn cái thẻ không?”

“Không. Thẻ vẫn nằm trong máy. Máy đã nhả thẻ ra nhưng khi hắn không lấy thì máy lại tự động nuốt vào. Đó là một biện pháp an ninh cài sẵn để người ta nếu lỡ có để quên thẻ thì cũng không bị kẻ khác lấy mất.”

McCaleb gật đầu và đánh dấu vào câu hỏi đó trên tờ giấy nhớ.

“OK. Kế đó tôi muốn hỏi về chiếc Cherokee. Tại sao bên chị không hở ra về chuyện đó với báo chí?”

“À, chúng tôi có cho báo chí biết nhưng không phải ngay lập tức. Hôm đầu tiên chúng tôi đang còn bận đánh giá tình hình nên chưa đưa chi tiết ấy vào thông cáo báo chí đầu tiên. Sở dĩ tôi không chắc có nên đưa vào hay không là vì nếu thằng cha đó thấy được trên báo, có thể hắn sẽ vứt xe đi. Vài ngày sau, khi chẳng có gì xảy ra mà chúng tôi thì vẫn giẫm chân tại chỗ, tôi liền ra một thông cáo báo chí khác trong đó có nói tới chiếc Cherokee. Phiền một cái là đến lúc đó thì vụ Cordell nguội mất rồi nên chẳng ai lưu ý nữa. Chỉ có mỗi một tờ tuần báo tép riu ở mãi trong sa mạc là đưa tin ấy thôi. Tôi biết, thế là làm ăn lôm côm. Hẳn là đáng lẽ ra tôi phải đưa ngay vào thông cáo báo chí đầu tiên mới phải.”

“Không nhất thiết,” McCaleb vừa nói vừa đánh dấu thêm một cái vào giấy nhớ. “Tôi hiểu cách lập luận của chị.”

Ông đọc lại lần nữa các ghi chú trên tờ giấy.

“Vài chuyện nữa... Trong cả hai cuốn băng hung thủ đều nói gì đó sau khi bắn. Hắn nói hoặc với chính mình hoặc với camera. Không thấy có tường trình gì về chuyện đó cả. Liệu bên chị có làm...”

“Có một người ở văn phòng bên đây có ông anh bị điếc. Anh ta bèn đem mấy cuốn băng đến chỗ ông anh để xem liệu ông ta có nhìn môi mà đọc được không. Ông ta không chắc lắm, nhưng ở cuốn đầu - quay ở máy rút tiền - ông ta nghĩ thằng cha đó nói, ‘Đừng quên cái cashola’ ngay khi hắn lấy tiền ra khỏi máy. Còn ở cuốn băng kia thì ông ta không đoán chắc bằng. Ông ta nghĩ hẳn là hung thủ hoặc cũng nói như vậy hoặc có thể nói gì đó kiểu như ‘Đừng có mà xía vào’ cái gì gì đó. Từ cuối cùng là khó luận ra nhất với ông ta trên cả hai cuốn băng. Hình như tôi chưa khi nào bổ sung cái đó vào báo cáo. Anh thì không bỏ sót gì phải không?”

“Bao giờ chả vậy,” McCaleb nói. “Liệu người đọc môi đó có biết tiếng Nga không nếu tên đó nói tiếng Nga?”

“Gì kia? À, ý anh muốn nói nếu tên đó là Bolotov. Không, tôi ngờ ông anh kia chả biết tiếng Nga đâu.”

McCaleb ghi lại vào giấy mấy cách dịch khác nhau về những câu hung thủ đã nói. Đoạn ông vừa gõ gõ bút chì vào tập giấy vừa tự hỏi liệu bây giờ mình có nên thử một phen không.

“Anh còn gì nữa không?” cuối cùng Winston hỏi.

Ông quyết định đây đúng là lúc nên nhắc tới Carruthers. Ít nhất thì cũng không nhắc thẳng.

“Khẩu súng,” ông nói.

“Tôi biết. Tôi cũng chả yên tâm về chuyện khẩu súng. Đồ xịn như HK P7 đâu phải là loại súng mà cái ngữ cướp quèn vẫn hay dùng. Hẳn là súng ăn trộm thôi. Anh cũng thấy tôi đã tập hợp các báo cáo về súng ăn trộm còn gì. Nhưng cũng như với mọi chuyện khác, tôi lâm vào ngõ cụt. Chả dẫn tới đâu.”

“Tôi nghĩ đó là một giả thuyết hay,” McCaleb nói. “Đến chừng mực nào đó. Tôi không ưa cái kiểu hắn vẫn giữ nó sau vụ bắn người đầu tiên. Nếu súng ăn trộm thì theo tôi, ngay sau khi bắn gục Cordell chừng mười phút là hắn đã vứt súng trong sa mạc càng xa càng tốt mới phải. Rồi thì lần sau hắn sẽ đi ăn trộm khẩu khác.”

“Không, anh không nói thế được.” Winston nói, và McCaleb hình dung chị đang lắc đầu. “Chẳng có mô hình cố định nào ở đây hết. Rất có thể hắn giữ khẩu súng chỉ vì hắn biết nó rất có giá. Với lại anh cần phải nhớ, Cordell bị bắn từ bên này xuyên thấu bên kia. Chắc hung thủ nghĩ rằng người ta sẽ không tìm ra viên đạn hoặc nếu đạn có đập vào lề đường - mà đúng thế thật - thì cũng biến dạng quá rồi không đối chiếu được nữa. Nhớ là vỏ đạn thì hắn có nhặt. Hẳn là hắn tin khẩu súng còn có thể dùng thêm ít nhất một lần nữa.”

“Chắc là chị có lý.”

Họ ngừng một thoáng, chẳng ai nói gì. McCaleb còn thêm hai điều nữa trên trang giấy.

“Kế nữa là,” ông mào đầu một cách thận trọng. “Mấy viên đạn.”

“Có gì nào?”

“Hôm qua chị nói chị đang giữ báo cáo phân tích đạn đạo về cả hai vụ.”

“Thì đúng. Nằm cả trong két đựng bằng chứng ấy. Cụ thể là anh muốn gì?”

“Chị đã bao giờ nghe nói tới máy tính DRUGFIRE của Cục chưa?”

“Chưa.”

“Nó có thể giúp ích cho ta. Cho chị. Sẽ lâu đấy, nhưng thử một lần cũng đáng.”

“Nó là gì vậy?”

McCaleb nói cho chị biết. DRUGFIRE là một chương trình máy tính của FBI được thiết kế cùng với các dòng phần mềm tương tự nhằm lưu dữ liệu về dấu tay. Nó là dự án tập thể của phòng xét nghiệm tội phạm hồi đầu thập niên 1980, khi những cuộc chiến tranh cocain bùng nổ ở hầu hết các thành phố, nhất là Miami, nguyên nhân chính khiến số vụ giết người tăng vọt trên toàn quốc. Hầu hết các vụ giết chóc đều bằng súng. Cục Điều tra Liên bang nỗ lực tìm một biện pháp ngõ hầu truy cho được những tên sát thủ và giết người liên đới trên cả nước, và rồi họ tạo ra chương trình DRUGFIRE. Những đặc trưng có một không hai của dấu vết đường rạch khía trên nòng súng, mà người ta phát hiện ở các viên đạn bắn ra trong các vụ ám sát liên quan đến ma túy, được đưa vào phân tích bằng laser, sau đó được mã hóa để lưu trong máy tính và nhập vào ngân hàng dữ liệu. Chương trình máy tính này hoạt động hầu hết là theo cùng một cách như các hệ thống máy tính chuyên về vân tay mà các cơ quan hành pháp trên cả nước vẫn dùng. Hệ thống này cho phép đối chiếu nhanh lai lịch các viên đạn đã được mã hóa.

Cuối cùng, khi các đề mục về đạn đạo được thêm vào thì cơ sở dữ liệu càng lớn. Chương trình cũng được mở rộng, từ nay bao gồm tất cả các vụ được chuyển cho FBI, mặc dù cái tên DRUGFIRE thì vẫn giữ. Dù đó là một vụ xả súng vào đám đông ở Las Vegas hay một vụ thanh toán băng đảng ở Nam Los Angeles, một án giết người hàng loạt ở Fort Lauderdale, mọi vụ nổ súng mà người ta gửi tới FBI để phân tích đều được nhập vào cơ sở dữ liệu. Và sau hơn một thập niên, có tới hàng ngàn viên đạn được lưu trong hồ sơ trên máy tính.

“Tôi nghĩ mãi về cái gã này,” McCaleb nói. “Hắn cứ dính với khẩu súng đó. Dù nguyên do là gì đi nữa, dù nhờ ăn trộm hắn mới có nó hay là không phải thế, nhưng quả thực cứ mãi dính với khẩu súng đó là sai lầm duy nhất hắn phạm phải. Nó khiến tôi nghĩ may ra chúng ta sẽ tìm được dữ liệu khớp. Xét theo động cơ hành động trên mấy cuốn băng đó, rất có thể không phải bắt đầu từ vụ của chị hắn mới bắt đầu đòm đòm người ta đâu. Hắn đã dùng súng từ trước đó rồi, thậm chí là chính khẩu ấy cũng nên.”

“Nhưng tôi đã bảo anh, chúng tôi có kiểm tra những khẩu tương tự rồi. Về đằng đạn đạo thì chẳng có gì sất. Bọn tôi cũng đã gửi điện yêu cầu truy tìm trên máy vi tính Thống kê Tội phạm Quốc gia. Bọn tôi chịu, thử hết đường rồi.”

“Tôi hiểu. Nhưng phương thức hành động của tên này có thể biến hóa, thay đổi. Có lẽ điều hắn làm bằng khẩu súng đó lúc ở Phoenix không phải như điều hắn làm ở đây. Tôi chỉ muốn nói là vẫn có khả năng tên này từ một nơi nào đó khác vào thành phố. Nếu đúng vậy thì có lẽ hắn từng dùng khẩu súng đó ở chỗ khác. Và nếu ta gặp may thì dữ liệu hiện đang có sẵn trong máy tính của Cục.”

“Có thể,” Winston nói.

Chị lặng thinh nghiền ngẫm về đề nghị của ông. McCaleb biết chị đang suy tính những gì. DRUGFIRE là một khả năng rất đáng để thử xem, và Winston đủ thông minh để biết như thế. Nhưng nếu quyết định thử, chị sẽ phải lôi bên liên bang vào cuộc, ấy là chưa kể phải thừa nhận rằng chị đang nhận chỉ dẫn từ McCaleb, một người ngoài không thực sự có quyền dính tới vụ này.

“Chị nghĩ sao?” Cuối cùng McCaleb hỏi. “Chị chỉ cần gửi cho họ một viên đạn thôi. Chị có bao nhiêu, bốn viên từ hai vụ phải không?”

“Tôi cũng không biết nữa,” chị nói. “Phải gửi bằng chứng của bọn tôi đến Washington thì tôi không thích lắm. Mà chắc hẳn bên Los Angeles cũng không.”

“Los Angeles không cần biết vụ này. Chị là người giữ bằng chứng. Chị có thể gửi một viên đạn đi nếu chị muốn. Rồi thì nó có thể đến Washington và quay lại trong vòng một tuần. Arrango chẳng việc gì phải biết là nó đã được gửi đi. Tôi đã nói chuyện với một người tôi quen ở ban Súng và Dấu vết Hung khí. Anh ấy nói sẽ lo vụ này êm xuôi nếu ta gửi gói hàng cho anh ấy.”

McCaleb nhắm mắt. Nếu như có một lúc nào đó chị ta có thể nổi giận đùng đùng thì chính là lúc này.

“Anh đã kể với anh chàng ấy là chúng tôi đang làm vụ này?” chị hỏi, giọng bực tức.

“Không, tôi không kể. Tôi chỉ bảo anh ta tôi đang làm việc với một thám tử ở đây, là người rất chu đáo tận tâm, bà ta hẳn sẽ muốn điều tra đến tận cùng, một hòn sỏi cũng không bỏ sót.”

“Chà, tôi đã nghe thấy điều này ở đâu ấy nhỉ?”

McCaleb mỉm cười.

“Còn chuyện này nữa,” ông nói. “Cho dù ta không gặp may ở vụ này thì ít nhất ta cũng có được khẩu súng lưu trong máy. Một lúc nào đó nó có thể sẽ khớp với cái gì đấy.”

Chị ngẫm nghĩ về điều này một lát. McCaleb biết khá rõ mình đã đi guốc vào bụng chị. Chả khác gì ngồi canh trong nghĩa địa đợi Luther Hatch. Chị sẽ phải làm như thế, nếu không thì sẽ băn khoăn về nó hoài hoài.

“OK, OK,” cuối cùng Winston nói. “Tôi sẽ nói chuyện này với đội trưởng. Tôi sẽ nói tôi muốn làm thế. Nếu ông ấy bật đèn xanh, tôi sẽ gửi bưu kiện đi. Một viên đạn, thế thôi.”

“Chỉ cần thế thôi.”

McCaleb kể thêm rằng Carruthers cần nhận được bưu kiện trước sáng thứ Ba và thúc giục chị nói với đội trưởng càng sớm càng tốt. Điều này khiến chị lặng thinh lần nữa.

“Tôi chỉ muốn nói là việc này đáng thử, Jaye ạ,” ông nói cho chắc ăn hơn.

“Tôi biết. Chỉ là... thôi được, không sao. Cho tôi tên và số điện thoại bạn của anh đi.”

McCaleb siết chặt nắm tay đấm vào không trung trước mặt mình. Cú thử này đi xa được đến đâu không quan trọng. Họ đang tung xúc xắc. Ông thấy khoan khoái vì đã thúc đẩy được một cái gì đó tiến triển.

Sau khi McCaleb cho Winston số trực tiếp và địa chỉ để liên lạc với Carruthers, chị hỏi liệu ông còn muốn nói gì nữa không. Ông nhìn xuống tập giấy nhớ song điều ông muốn nói không được ghi ra trên đó.

“Tôi còn một điều cuối chắc sẽ khiến chị chú ý ngay lập tức,” ông nói.

“Ồ, không,” Winston vừa nói vừa rên rỉ. “Nếu quả vậy thực thì bắt tôi trả lời điện thoại đúng vào hôm phải lên tòa cũng đáng. Nói cho tôi đi, McCaleb. Gì vậy?”

“James Noone.”

“Nhân chứng á? Thì sao?”

“Anh ta có nhìn thấy hung thủ. Anh ta thấy xe của hung thủ.”

“Ừ, điều đó giúp bọn tôi nhiều chứ đâu có ít. Có chừng một trăm ngàn chiếc Cherokee như vậy ở Nam California, còn mô tả của anh ta về hung thủ thì mơ hồ đến nỗi thậm chí thằng kia có đội mũ hay không anh ta cũng chả biết. Anh ta là nhân chứng nhưng chỉ một tí thôi.”

“Nhưng anh ta có thấy. Nhưng là thấy trong tình thế căng thẳng. Càng căng thẳng thì ấn tượng càng sâu. Noone có thể là nhân chứng hoàn hảo đấy.”

“Hoàn hảo cách nào được đây?”

“Thôi miên anh ta.”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,467
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 14


Buddy Lockridge tấp chiếc Taurus vào một ô trống ở bãi đậu xe của Video GraFX Consultants trên Đại lộ La Brea, Hollywood. Ngày thứ hai lái xe cho McCaleb, Lockridge không mặc bộ đồ bảnh chọe kiểu Hollywood nữa. Lần này anh mặc quần soóc dùng để đi thuyền và áo sơ mi Hawaii lòe loẹt vẽ những cây hạ uy cầm với mấy cô thiếu nữ uốn éo hông trôi bồng bềnh trên nền đại dương xanh. McCaleb bảo anh ta rằng chắc ông sẽ đi không lâu rồi chui ra khỏi xe.

VGC là một cơ sở được dùng chủ yếu bởi ngành giải trí. Nó cho thuê thiết bị video chuyên nghiệp cũng như studio biên tập và lồng tiếng video. Các nhà làm phim cấp ba, vốn dĩ sản phẩm làm ra hầu hết đều quay bằng video, là khách hàng chủ yếu của VGC, nhưng nơi này cũng cung cấp một trong các phòng lab hiệu ứng âm thanh và cải thiện chất lượng hình ảnh tốt nhất ở Hollywood.

Trước đây McCaleb đã vào VGC một lần, dạo đó ông làm biệt phái cho đơn vị chuyên án nhà băng của phòng tác chiến. Đó là mặt tiêu cực của việc ông được chuyển từ trụ sở ở Quantico sang nhóm tiền tiêu của phòng tác chiến; về mặt tổ chức, ông nằm dưới sự chỉ huy của thám tử đặc nhiệm PTC phụ trách chỉ huy. Và bất cứ khi nào cấp trên cho rằng công việc ở đơn vị chuyên án giết người hàng loạt đang tiến triển ì ạch - nếu như có chuyện đó thật - thì y như rằng ông ta sẽ lôi McCaleb ra đặng ấn vào chỗ khác, thường là chỗ mà McCaleb xem như dưới tầm mình.

Khi vào VGC lần trước, ông cầm trong tay cuốn băng video quay bằng camera trên trần của Nhà băng Wells Cargo tại Beverly Hills. Nhà băng này bị vài tên cướp đeo mặt nạ xông vào cướp lấy đi 363.000 đô tiền mặt. Đó là vụ cướp nhà băng thứ tư của bọn này trong vòng mười hai ngày. Manh mối duy nhất các thám tử có được là cuốn băng video. Khi một trong các tên cướp vươn tay qua quầy thu ngân để chộp túi tiền mà cô thu ngân vừa nhét tiền vào, tay áo hắn vướng vào mép quầy bằng đá hoa cương và bị cuốn về phía sau. Tên cướp nhanh chóng cuộn tay áo ra đằng trước trở lại, nhưng trong một khoảnh khắc ngắn hơn giây người ta có thể thấy một hình xăm ở mặt trong cánh tay trước của hắn. Hình bị nhiễu, lại quay bằng camera cách xa tới chín mét. Sau khi kỹ thuật viên ở phòng lab của phòng tác chiến bảo anh ta chịu không làm gì được, người ta quyết định không gửi cuốn băng tới tổng hành dinh ở Washington bởi nếu để người ở đó phân tích cho xong thì phải đợi hơn một tháng. Bọn cướp thì cứ ba ngày lại làm ăn một lần. Trong cuốn băng chúng có vẻ kích động, gần như hung bạo. Cần phải làm thật nhanh.

McCaleb mang cuốn băng đến Video GraFX. Một kỹ thuật viên của VGC trích khung hình ra khỏi cuốn băng và, chỉ trong một ngày, bằng biện pháp tăng độ phân giải và phóng đại, đã cải thiện được hình ảnh đến mức nhìn thấy rõ hình xăm. Đó là một con đại bàng bay, một bên móng cắp khẩu súng trường, móng kia quặp một lưỡi hái.

Nhờ hình xăm đó mà họ phá được vụ án. Bản mô tả hình xăm được gửi bằng telex, ảnh chụp thì gửi bằng fax đến sáu mươi phòng tác chiến trên toàn quốc. Rồi thì một nhân viên giám sát ở Văn phòng Butte chuyển tiếp thông tin đến Phòng Thường trú nhỏ hơn tại Coeur d’TAlene, Idaho, ở đây có một đặc vụ nhận ra hình xăm này là biểu hiệu mà anh ta từng thấy trên lá cờ treo bên ngoài tư gia một thành viên của một nhóm cực đoan chống chính phủ tại địa phương. Nhóm này có những lúc từng bị Cục Điều tra Liên bang giám sát và tình nghi bởi gần đây họ mua những thửa đất nông thôn rộng thênh thang bên ngoài thành phố. Chừng đó giám sát viên bên chính phủ có thể cung cấp cho phòng tác chiến LA danh sách họ tên và số bảo hiểm xã hội của các thành viên nhóm này. Các đặc vụ liền bắt đầu kiểm tra các khách sạn và chẳng bao lâu phát hiện bảy thành viên của nhóm đang lưu lại Khách sạn Airport Hilton. Họ bắt đầu tiến hành giám sát nhóm này và ngày hôm sau theo dõi bọn chúng cướp một nhà băng ở Willowbrook. Ba mươi đặc vụ được triển khai ở các vị trí canh chừng, sẵn sàng xông vào ngay khi có dấu hiệu bọn cướp dùng vũ lực. Nhưng không có dấu hiệu gì. Họ lại theo dõi bọn cướp quay về khách sạn, và rồi các cảnh sát ăn mặc giả làm bồi bàn và nhân viên dọn phòng tóm gọn chúng một cách có hệ thống ngay tại phòng chúng trọ.

Cuối cùng một trong các tên cướp hợp tác với cảnh sát và thú nhận rằng băng của chúng đi cướp nhà băng để kiếm tiền mua thêm đất ở Idaho. Nhóm này muốn mua đất để các thành viên có thể an toàn trú ẩn cho qua Trận chiến Cuối cùng mà lãnh tụ của họ hứa hẹn sắp xảy đến với nước Mỹ.

Giờ McCaleb lại đến. Khi bước tới quầy lễ tân, ông để ý thấy bức thư cảm tạ có đóng dấu của Cục mà ông đã gửi cho họ sau vụ điều tra băng cướp kia, nay được đóng khung gắn trên tường sau lưng người tiếp tân. Ông tựa sát vào quầy cho đến khi đọc được tên của người mà ông đề gửi thư này.

“Tôi giúp gì được cho ông?” cô tiếp tân hỏi.

McCaleb chỉ lá thư mà nói: “Tôi muốn nói chuyện với ông Tony Banks.”

Cô hỏi tên McCaleb, dường như không nhận ra mặc dù nó nằm sờ sờ trên bức thư treo tường đằng sau cô, rồi thì cô gọi điện thoại. Không lâu sau, một người mà McCaleb nhận ra là Tony Banks bước ra chào ông. Anh ta không nhận ra McCaleb, mãi đến khi ông kể lại câu chuyện cuốn video ở nhà băng thì anh ta mới nhớ.

“Đúng rồi, đúng rồi, tôi nhớ. Chính ông gửi lá thư ấy.”

Anh ta chỉ lá thư lồng khung.

“Là tôi đấy.”

“Vậy tôi làm gì được cho ông đây? Lại một vụ nhà băng nữa à?”

Anh ta đang nhìn cuốn băng McCaleb cầm trên tay.

“Ờ, tôi có một vụ khác đây. Tôi đang tự hỏi liệu anh có xem qua cái này được không. Ở đây có mấy cái tôi muốn xem liệu có thể nhìn rõ hơn được không.”

“Rồi, ta sẽ xem. Tôi luôn sẵn lòng giúp mà.”

Anh ta dẫn McCaleb đi dọc một hành lang phủ thảm màu xám, qua mấy cánh cửa mà lần trước đến đây ông đã biết là phòng biên tập. Họ đang ăn nên làm ra. Cửa nào cũng có biển đề Đang bận. Từ sau một trong các cửa ấy McCaleb nghe thấy những tiếng hổn hển thống khoái bị ỉm cho nghẹt lại. Banks ngoái lại nhìn ông mà đảo tròn mắt.

“Không phải thực đâu,” anh ta nói. “Người ta biên tập băng đó mà.”

McCaleb gật đầu. Lần trước ông đến đây anh ta cũng giải thích với ông y như thế.

Banks mở cánh cửa cuối hành lang. Anh ta thò đầu vào để đoán chắc là phòng trống, đoạn lùi lại ra dấu bảo McCaleb vào. Có hai chiếc ghế đặt trước một máy biên tập video, bên trên máy là một màn hình ba mươi inch. Banks mở máy, bấm một cái nút, ổ băng bên trái liền mở ra.

“Cái này sẽ hơi kinh đấy,” McCaleb nói. “Có người bị bắn chết. Nếu muốn, anh có thể ra ngoài, rồi tôi sẽ tua ngay tới khung hình anh cần xem.”

Banks nghĩ một thoáng về đề nghị của ông. Anh ta là người mảnh khảnh trạc ba mươi, mái tóc ẻo lả nhuộm vàng đến mức hầu như trắng xóa. Trên đỉnh thì dài còn bốn phía lại tỉa ngắn. Kiểu đầu Hollywood.

“Tôi thấy máu me chết chóc nhiều rồi,” anh ta nói. “Cho vào đi.”

“Giống cái này thì không, tôi nghĩ vậy. Giữa máu me chết chóc trong đời thật với trong phim ảnh có sự khác nhau đấy.”

“Cho vào đi.”

McCaleb cho cuốn băng vào rãnh và Banks bắt đầu cho chiếu. McCaleb nghe được tiếng thở của anh chàng trẻ tuổi khi anh ta quan sát cảnh Gloria Torres bị túm lấy từ đằng sau rồi thì khẩu súng gí vào đầu cô mà bắn. McCaleb rướn về phía trước đặt tay lên núm Dừng. Khi đến đúng khoảnh khắc đó, sau khi Chan Ho Kang bị bắn và xác ông già gục ngã vắt ngang qua quầy rồi trượt lui, ông nhấn nút để dừng hình lại. Rồi, dùng một cái nút, ông chuyển hình tới lui chầm chậm cho tới khi dừng được đúng khung hình ông muốn. Ông nhìn Banks. Nom anh chàng như thể toàn bộ sự ác của thế nhân vừa mới được phơi bày cho anh ta thấy.

“Anh không sao chứ?”

“Rùng rợn quá.”

“Phải. Rùng rợn thật.”

“Tôi giúp gì được cho ông?”

McCaleb lấy bút chì ra khỏi túi áo mà trỏ vào màn hình, gõ gõ nơi cái đồng hồ trên cổ tay Kang.

“Cái đồng hồ á?”

“Ừ. Tôi muốn biết liệu có thể phóng to khung hình này lên hoặc làm sao đó để tôi đọc được giờ trên đồng hồ hay không? Tôi muốn biết tại thời điểm này trên cuốn băng thì cái đồng hồ chỉ mấy giờ.”

“Giờ ư? Thế còn cái này?”

Anh ta trỏ vào dòng giờ phút chạy qua mép dưới màn hình.

“Giờ đó tôi không tin được. Thành thử tôi mới cần cái đồng hồ.”

Banks cúi người tới phía trước, bắt đầu chỉnh tới chỉnh lui các phím trên bảng điều khiển tiêu cự và cỡ ảnh.

“Cái này không phải bản gốc,” anh ta nói.

“Cuốn băng ấy hả? Không, nhưng sao?”

“Không phóng to được nhiều đâu. Ông lấy bản gốc được không?”

“Tôi e là không.”

McCaleb nhìn màn hình. Banks đã làm cho ảnh rõ và lớn hơn. Choán toàn bộ màn hình là phần thân trên và cánh tay dang thẳng của Kang. Nhưng mặt đồng hồ vẫn là một mảng xám mờ.

“Thôi thì, nếu ông để cuốn băng lại đây cho tôi, tôi làm được gì chăng là thế này thôi: tôi sẽ mầy mò chút đỉnh, đem tới một trong mấy tay ở lab. Có thể phóng lên một chút, làm rõ hơn một chút bằng cách tăng độ phân giải. Nhưng với thiết bị này thì tôi chỉ làm được đến thế thôi.”

“Theo anh liệu có đáng làm không, dù không có bản gốc? Liệu có được gì không?”

“Tôi không biết, nhưng cũng đáng thử xem. Người ta có thể làm mấy chuyện điên rồ ngoài kia. Ông đang truy tìm hắn phải không? Thằng cha trong cuốn băng ấy?”

Anh ta ra hiệu về phía màn hình, dù lúc này hung thủ không có đó.

“Ừ, tôi truy hắn.”

“Vậy thì sẽ xem mình làm được gì. Ông để cái này lại được không?”

“Ừ. Tôi muốn nói là... ừ, anh sao một bản cho tôi để tôi lúc nào cũng có bên mình, được chứ? Tôi có thể còn cần để cho người khác xem nữa.”

“Được chứ. Để tôi đi sao.”

Banks đứng dậy rời phòng. McCaleb ngồi nhìn chăm chăm vào màn hình. Ông đã quan sát cách Banks dùng cái máy. Ông tua lại băng rồi phóng to một khung hình cho thấy hung thủ bịt mặt. Chẳng ích gì mấy. Ông tua tới trước một chút rồi dừng ở một khung cận cảnh khuôn mặt Gloria. Ông cảm thấy mình thật sỗ sàng khi ở gần đến vậy vào lúc đó, nhìn chăm chăm một người đàn bà vừa mới bị lấy mạng. Mặt cô đang nghiêng bên trái và con mắt duy nhất ông thấy được vẫn còn đang mở.

McCaleb nhận thấy có ba cái hoa tai trên tai trái cô. Một cái là một khuy nhỏ hình trăng lưỡi liềm bằng bạc. Kế đó, xuôi xuống khúc lượn cong của tai, là một cái vòng nhỏ mà ông đoán là bằng bạc, rồi cuối cùng, lủng lẳng dưới dái tai là một hoa tai hình chữ thập. Ông biết các phụ nữ trẻ hiện nay có cái kiểu đeo nhiều hoa tai trên ít nhất là một tai.

Trong khi tiếp tục chờ Banks, ông nghịch lần nữa mấy cái nút tua tới tua lui, cho băng quay lại cho tới khi nhìn thấy được phía bên phải của Gloria, ngay khi cô bước vào khung hình. Ông thấy chỉ có một hoa tai trên tai phải cô, một vầng trăng lưỡi liềm khác.

Banks quay lại mang theo một cuốn băng và mau mắn nhét vào ổ băng thứ hai trong khi tua nốt cuốn đầu tiên. Anh ta chỉ mất chừng ba mươi giây để làm bản sao cấp tốc. Anh ta lấy bản sao ra, đút vào một cái hộp rồi đưa cho McCaleb.

“Cám ơn,” McCaleb nói. “Theo anh thì phải bao lâu nữa mới có người thu xếp được để làm việc với nó?”

“Chúng tôi cũng khá bận. Nhưng tôi sẽ sang bên phòng nhân sự xem liệu có phân được ai càng sớm càng tốt không. Có lẽ là ngày mai hoặc thứ Bảy. Được không?”

“Được. Cám ơn nhé, Tony, tôi rất cảm kích.”

“Có gì đâu. Tôi không biết liệu có còn giữ danh thiếp của ông không. Ông cần tôi gọi điện không?”

Ngay lúc đó McCaleb quyết định tiếp tục lừa. Ông đã không bảo Banks ông không còn là thám tử FBI nữa. Ông nghĩ Banks hẳn sẽ làm việc này nghiêm túc hơn nếu anh ta đinh ninh ông đang làm cho Cục Điều tra Liên bang.

“Tôi bảo này, để tôi cho anh số máy riêng nhé. Nếu anh gọi mà tôi không nhấc máy thì để tin nhắn lại, khi nào gọi lại được là tôi sẽ gọi ngay.”

“Cũng được. Hy vọng chúng tôi giúp được.”

“Tôi cũng thế. À Tony này, anh làm ơn đừng cho ai xem cuốn băng nếu không cần thiết phải xem, nhé.”

“Tôi không cho ai xem đâu,” Banks nói, hơi đỏ mặt. McCaleb nhận ra rằng, hoặc là ông vừa làm Banks bối rối bằng một yêu cầu không nhất thiết phải nói ra, hoặc ông đã yêu cầu như vậy đúng lúc Banks đang nghĩ xem có thể cho ai xem cuốn băng. McCaleb nghĩ có lẽ cái sau thì đúng hơn.

McCaleb cho anh ta số điện thoại, họ bắt tay, rồi McCaleb một mình đi ngược trở lại hành lang. Khi đi ngang qua cánh cửa mà ban nãy ông nghe những tiếng ồ à vờ vịt ấy, ông nhận thấy giờ thì nó im lìm.

Khi mở cửa chiếc Taurus, McCaleb nghe tiếng radio đang bật và nhận thấy Lockridge đang để một chiếc harmonica trên đùi, sẵn sàng nhấc lên chơi nếu gặp đúng bài nào đó cất lên. Buddy gấp một cuốn sách có nhan đề Cái chết của người giọng nam cao lại. Anh ta đã đánh dấu một chỗ ở nửa chừng sách.

“Chuyện gì xảy ra với Thám tử Fujigama?”

“Sao cơ?”

“Cuốn sách anh đọc hôm qua ấy.”

“Thám tử Imanishi điều tra. Tôi đọc xong rồi.”

“Ừ thì Imanishi. Anh đọc nhanh thật.”

“Sách hay thì đọc nhanh. Anh cũng đọc tiểu thuyết vụ án à?”

“Sao tôi lại phải đọc những thứ người ta bịa ra khi mà tôi đã thấy toàn thứ thiệt và không sao chịu nổi?”

Buddy khởi động xe. Anh phải xoay bộ phận đánh lửa hai lần nó mới chịu nổ.

“Nó là một thế giới rất khác. Cái gì cũng có thứ tự rạch ròi, thiện ác phân minh, kẻ ác luôn lãnh phần đích đáng, người hùng thì luôn ngời ngời chói lọi, không chuyện gì không được giải quyết tới nơi tới chốn. Nó là một liều giải dược giúp cho mình vui thú giữa cõi đời thực.”

“Nghe chán ngắt.”

“Không, nghe vững lòng. Giờ đi đâu đây?”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,467
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 15


Sau khi ăn trưa ở Musso và Frank’s, một nơi McCaleb thích nhưng đã hai năm nay không trở lại, họ giong xe lên đồi, từ Hollywood đến Thung lũng rồi đến chỗ tòa nhà nơi tọa lạc Deltona Clocks lúc một giờ bốn lăm. McCaleb đã gọi cho doanh nghiệp này trước khi họ khởi hành từ chỗ vũng neo thuyền và biết được rằng Mikail Bolotov vẫn đang làm việc theo ca từ hai giờ chiều đến mười giờ đêm.

Deltona Clocks là một công trình lớn kiểu nhà kho nằm sau một showroom và hiệu bán lẻ nhỏ nằm ở mặt tiền. Sau khi Lockridge đỗ chiếc Taurus phía trước hiệu bán lẻ, McCaleb thò tay vào cái túi da đặt trên sàn xe trước mặt để lấy khẩu súng. Nó đã nằm sẵn trong bao súng bằng vải bạt, ông cứ thế giắt vào thắt lưng.

“Này, anh chờ gặp gì ở đó thế?” Lockridge nói khi nhìn thấy khẩu súng.

“Chẳng gì cả. Chỉ là cho vững tinh thần thôi.”

Đoạn McCaleb rút ra một chồng dày hai phân rưỡi các hồ sơ điều tra của Sở Cảnh sát trưởng để xem cho chắc có phải nằm trên cùng chồng đó là bản báo cáo về cuộc thẩm vấn Bolotov và chủ của y, một người được nhận diện là Arnold Toliver. Ông đã sẵn sàng. Ông nhìn sang Lockridge.

“OK, ngồi cho chắc.”

Khi chui ra khỏi xe, ông để ý rằng lần này Buddy không đề nghị đi theo ông. Ông nghĩ có khi ông nên thường xuyên mang súng theo hơn.

Trong hiệu bán lẻ chẳng có vị khách nào. Những cái đồng hồ rẻ tiền hầu như đủ cỡ bày nhan nhản. Hầu hết trông có vẻ công nghiệp, như thể người ta chỉ có thể gặp chúng trong một lớp học hay cửa hàng phụ kiện ô tô chứ không phải ở nhà riêng ai đó. Trên tường sau quầy, nơi phần hậu của cửa hiệu, có treo một bộ tám cái đồng hồ giống nhau chỉ giờ ở tám thành phố trên khắp thế giới. Có một phụ nữ trẻ ngồi trên chiếc ghế gấp phía sau quầy. McCaleb thoáng nghĩ, cứ phải ngồi giữa đống đồng hồ thế kia mà khách khứa không một mống thì chắc hẳn đối với cô nàng thời gian trôi chậm lắm.

“Làm sao tôi gặp được ông Toliver?” ông hỏi khi đã tiến đến sát quầy.

“Arnold hay Randy?”

“Arnold.”

“Tôi phải gọi điện đã. Ông ở bên nào tới?”

“Tôi đến đây không phải để mua đồng hồ. Tôi đang theo dõi cuộc thẩm vấn của Sở Cảnh sát trưởng hôm mồng ba tháng Hai.”

Ông buông chồng giấy tờ xuống quầy để cô ta thấy toàn là hồ sơ tài liệu của nhà nước cả. Đoạn ông nhấc hai tay lên đặt hai bên hông, cẩn thận làm sao cho cái áo khoác thể thao phanh ra để lộ khẩu súng. Ông quan sát mắt cô ta khi cô ta nhận ra khẩu súng. Cô ta nhấc điện thoại trên quầy rồi bấm ba số.

“Arnie này, Wendy đây. Có một ông ở Sở Cảnh sát trưởng tới về vụ điều tra hay gì gì ấy.”

McCaleb không cải chính cô ta. Ông đã không nói dối cô ta mà cũng sẽ không nói dối về chuyện ông là ai và làm việc cho ai. Nhưng nếu cô ta muốn đoán già đoán non không chính xác thì ông cũng chẳng cải chính. Sau khi nghe điện thoại một lát, Wendy nhìn lên McCaleb.

“Điều tra gì vậy?”

McCaleb gật đầu về phía điện thoại rồi giơ tay lên. Cô gái ngần ngừ nhưng rồi cũng chìa ống nghe cho ông.

“Ông Toliver à?” ông nói vào điện thoại. “Terry McCaleb đây. Cách đây chừng hai tháng ông có nói chuyện với hai thám tử của cảnh sát trưởng tên là Ritenbaugh và Aguilar về một nhân viên tên Mikail Bolotov. Ông nhớ không?”

Sau một hồi do dự Toliver thừa nhận là có.

“Rồi, giờ thì tôi điều tra vụ đó. Ritenbaugh và Aguilar bận làm việc khác. Tôi cần hỏi ông thêm vài câu về chuyện đó. Tôi quay lại được không?”

Lại do dự.

“Ừm… ở đây chúng tôi bận kinh khủng. Tôi...”

“Không lâu đâu ông à. Nên nhớ, đây là điều tra án mạng, nên tôi hy vọng ông sẽ tiếp tục giúp chúng tôi làm rõ ngọn ngành.”

“Ông cho là sao?”

“Ừ, cứ đến đi. Cô ấy sẽ cho ông hay khi nào tôi rảnh.”

Ba phút sau McCaleb đi khắp chiều dài tòa nhà, ngang qua mấy dãy bàn thợ dùng để lắp ráp và đóng gói, để đến một văn phòng nằm ở đoạn hậu bên cạnh một bến bốc dỡ hàng. Có một đoạn cầu thang ngắn dẫn lên văn phòng. Cạnh cửa ra vào là một cửa sổ cho phép Toliver nhìn ra khắp các bàn thợ cũng như bến giao nhận hàng. Trong khi đi ngang qua mấy dãy bàn thợ để đến văn phòng, McCaleb nghe lỏm được những mẩu trò chuyện giữa các công nhân với nhau. Có đến ba lần ông nghe thấy một thứ tiếng mà ông tin là tiếng Nga.

Khi McCaleb mở cửa văn phòng, người mà ông đồ là Toliver gác điện thoại rồi vẫy tay bảo ông vào. Ông ta là một người xương xẩu độ tuổi sáu mươi, có làn da nâu thô ráp và mớ tóc bạc lơ thơ viền quanh mép đầu. Ông ta có một miếng đệm bằng nhựa nơi túi áo sơ mi, nhét đầy một lố bút đủ loại.

“Chuyện này cần phải xong sớm,” ông ta nói. “Tôi còn phải kiểm tra chúng nó chất hàng lên xe để xuất đi nữa.”

“Được.” McCaleb nhìn xuống bản báo cáo nằm trên cùng chồng giấy mang theo. “Hai tháng trước ông có nói với các thám tử Ritenbaugh và Aguilar rằng hôm hai mươi hai tháng Giêng Mikail Bolotov làm ca đêm.”

“Đúng thế. Tôi nhớ mà. Có thay đổi đâu.”

“Ông có chắc không, ông Toliver?”

“Ý ông là thế nào, tôi có chắc không à? Có, tôi chắc. Tôi đã kiểm tra lại cho hai người kia mà. Có ghi trong sổ hẳn hoi. Tôi có lấy bảng chấm công ra.”

“Ông nói là ông dựa trên cơ sở những gì ông thấy trong bảng chấm công, hay là ông thực sự thấy Bolotov làm việc đêm đó?”

“Anh ta có đây. Tôi nhớ mà. Mikail chả bao giờ nghỉ ngày nào cả.”

“Và ông nhớ là anh ta làm việc suốt đến mười giờ.”

“Thẻ bấm giờ của anh ta cho thấy là...”

“Tôi không nói về thẻ bấm giờ. Tôi đang nói chuyện ông có nhớ anh ta đã ở lại làm đến mười giờ hay không.”

Toliver không đáp. McCaleb liếc ra cửa sổ nhìn các dãy bàn thợ.

“Ông có khá nhiều người làm việc cho ông, ông Toliver. Bao nhiêu người làm ca từ hai đến mười giờ?”

“Hiện là tám mươi tám.”

“Còn khi đó?”

“Cũng khoảng thế. Nhưng có gì quan trọng?”

“Quan trọng là ở chỗ ông đã cho anh ta bằng chứng ngoại phạm dựa trên một tấm thẻ bấm giờ. Ông có nghĩ rằng cũng có thể Bolotov đã ra về sớm hơn mà không ai nhận thấy, rồi nhờ một người bạn bấm lỗ hộ khi đến giờ không?”

Toliver không đáp.

“Quên chuyện Bolotov đi một chút, trước nay ông đã có khi nào gặp chuyện đó chưa? Có người bấm lỗ hộ ai đó, là một cách để lừa gạt công ty, ông biết mà?”

“Chúng tôi làm ăn ở đây đã mười sáu năm rồi, chuyện đó có.”

“OK,” McCaleb gật đầu.

“Vậy thì chuyện đó có thể xảy ra với Bolotov không? Hay là đêm nào ông cũng đứng suốt ở chỗ đồng hồ bấm giờ để bảo đảm là không ai bấm hai thẻ.”

“Chuyện gì cũng có thể. Chúng tôi không đứng ở chỗ đồng hồ. Hầu như đêm nào con tôi cũng đến công ty để đóng cửa. Tôi thì đã về nhà rồi. Nó để mắt trông coi mọi việc.”

McCaleb nín thở một nhịp, cảm thấy nỗi phấn khích ông vẫn mang trong lòng đang tăng lên. Câu trả lời của Toliver, nếu được đưa ra trước tòa, sẽ là đủ để xé toang bằng chứng ngoại phạm của Bolotov.

“Con ông là Randy phải không?”

“Ừ, Randy.”

“Tôi nói chuyện với anh ấy được không?”

“Nó đang ở Mexico. Chúng tôi có một nhà máy khác ở Mexicali. Mỗi tháng nó ở đó một tuần. Tuần sau nó về.”

“Chúng ta gọi anh ta được không?”

“Tôi có thể thử xem, nhưng có lẽ nó xuống xưởng rồi. Vì thế mà nó mới xuống đấy. Để bảo đảm là dây chuyền hoạt động. Với lại, làm sao nó nhớ được một đêm nào đó cách đây ba tháng cơ chứ? Chúng tôi làm đồng hồ kia mà, ông thám tử. Đêm nào chúng tôi cũng làm những cái đồng hồ y như nhau. Ngày nào chúng tôi cũng xuất hàng đi. Đêm này chả có gì khác đêm kia hết.”

McCaleb quay mặt khỏi ông ta, lại nhìn ra cửa sổ.

Ông nhận thấy vài công nhân đang rời khỏi chỗ khi có các công nhân mới bước vào thay. Ông quan sát cảnh thay ca cho đến khi nhìn thấy người mà ông tin là Bolotov. Không hề có bức ảnh nào trong hồ sơ mà chỉ có một mô tả sơ sài. Nhưng người mà McCaleb đang quan sát đang mặc áo phông đen, tay áo duỗi thẳng quanh hai cánh tay đầy sức lực và ken chặt hình xăm. Các hình xăm chỉ có một màu - màu xanh dương của nhà tù. Đó ắt là Bolotov.

“Hắn kia phải không?”

Ông hất đầu về phía người vừa ngồi vào chỗ nơi một bàn thợ. McCaleb chợt nghĩ: việc của Bolotov chính là lắp mấy cái vỏ nhựa quanh bộ máy đồng hồ hoàn chỉnh rồi xếp cả lên một chiếc xe đẩy bốn bánh.

“Người nào?”

Toliver phải lại gần McCaleb cạnh cửa sổ.

“Có hình xăm ấy.”

“Đúng.”

McCaleb gật đầu rồi nghĩ một thoáng.

“Ông có nói với Ritenbaugh và Aguilar rằng bằng chứng ngoại phạm ông đưa ra cho người đó là dựa trên những gì ông thấy nơi thẻ chấm công và bảng bấm giờ, chứ không phải những gì con ông thực sự nhìn thấy đêm đó?”

“Phải, tôi nói với họ thế. Họ bảo: tốt. Họ bỏ đi, rồi thì thôi. Giờ lại tới lượt ông đến đây hỏi mấy câu hỏi mới này. Tại sao mấy người không biết phối hợp với nhau cho ra hồn? Nếu như chỉ sau hai ba tuần chứ không phải ba tháng thì có phải thằng con tôi dễ nhớ ra hơn bao nhiêu không.”

McCaleb im lặng ngẫm nghĩ về Ritenbaugh và Aguilar. Có lẽ họ có danh sách hai mươi lăm cái tên mà họ phải thẩm vấn trong vòng một tuần lễ họ được giao làm vụ này. Đúng là làm ăn lôi thôi thật, nhưng ông hiểu chuyện đó có thể xảy ra.

“Này, tôi phải ra ngoài bến đây,” Toliver nói. “Ông muốn đợi đến khi tôi quay về hay thế nào?”

“Tôi bảo này, sao ông không bảo Bolotov vào đây trên đường đi ra. Tôi cần nói chuyện với hắn.”

“Ở đây á?”

“Nếu ông không phiền, ông Toliver. Tôi tin chắc ông muốn giúp chúng tôi và tiếp tục cộng tác, đúng không nào?”

Ông nhìn chòng chọc vào Toliver như là biện pháp cuối cùng để chấm dứt sự phản đối không nói ra của ông ta.

“Sao cũng được,” Toliver vừa nói vừa vung hai tay lên tỏ vẻ bực bội rồi quày quả đi ra cửa. “Có điều đừng hết cả ngày đấy.”

“Ô này, ông Toliver.”

Toliver dừng lại nơi cửa ngoái lại nhìn ông.

“Tôi nghe nhiều người nói tiếng Nga ngoài kia. Ông kiếm đâu ra mấy người Nga ấy thế?”

“Họ là công nhân giỏi, mà lại chẳng phàn nàn kêu ca gì. Có trả lương bèo bọt họ cũng chả nề hà. Mỗi khi quảng cáo tìm người, chúng tôi đều đăng ở tờ báo tiếng Nga ở vùng này.”

Đoạn ông ta đi ra ngoài, để ngỏ cửa sau lưng mình. McCaleb kéo hai chiếc ghế phía trước bàn ra, xoay lại, sao cho hai ghế đối diện nhau cách chừng một mét rưỡi. Ông ngồi xuống ghế gần cửa nhất rồi đợi. Ông thoáng nghĩ xem mình sẽ tiến hành cuộc thẩm vấn như thế nào, và quyết định sẽ mạnh tay với Bolotov. Ông muốn khơi dậy một sự đáp trả, một thứ phản ứng nào đó để ông có thể nhận rõ cảm giác của chính mình đối với con người này.

Ông cảm thấy có người ở trong phòng, liền nhìn ra cửa. Người mà ông đoán là Bolotov đứng đó. Y cao chừng 1,78 mét, tóc đen, da tai tái. Nhưng hai cánh tay cuồn cuộn bắp và các hình xăm - một con rắn cuộn quanh tay này, một mạng nhện phủ kín tay kia - khiến cho hai cánh tay y là tâm điểm của hình dong y. McCaleb chỉ chiếc ghế trống.

“Ngồi đi.”

Bolotov tiến lại chiếc ghế, ngồi xuống ngay không ngần ngừ. McCaleb thấy rõ là cái mạng nhện vẫn kéo dài xuống bên dưới áo sơ mi, rồi bò lên cả hai bên cổ gã người Nga. Một con nhện đen nằm trong mạng nhện ngay dưới tai phải y.

“Thế này là thế nào?”

“Như trước thôi, Bolotov. Tên tôi là McCaleb. Đêm hai mươi hai tháng Giêng. Nói cho tôi nghe về cái đêm đó.”

“Tôi kể với họ rồi. Đêm đó tôi làm việc ở đây. Ông tìm sai người rồi.”

“Là anh nói đấy nhé. Nhưng lần này khác. Giờ thì chúng tôi đã biết những gì lần trước chưa biết.”

McCaleb đứng dậy khóa cửa rồi lại ngồi vào chỗ. Chỉ là một màn diễn nhỏ, để nhấn mạnh rằng ở đây ông là người cầm trịch. Đôi điều để Bolotov suy nghĩ.

“Gì nào?” y hỏi lại.

“Như là vụ trộm căn nhà trên mạn Mason, cách đây chỉ vài khối nhà. Anh nhớ chứ, vụ cây thông Giáng sinh với tất tật các món quà ấy. Anh lấy được khẩu súng là từ chỗ đó, đúng không nào, Bolotov?”

“Không, về mấy chuyện đó tôi vô can.”

“Nhảm nhí. Chính anh đột nhập vào đó và chính anh chôm khẩu súng mới toanh láng coóng ấy. Rồi thì anh quyết định dùng nó. Anh dùng nó trong vụ ở Lancaster rồi lại dùng ở dưới chợ, chỗ từ đây rẽ sang. Anh là tên giết người, Bolotov. Giết người.”

Tay người Nga vẫn ngồi yên nhưng McCaleb có thể thấy hai bắp tay y căng lên, làm những hình vẽ trên tay y nổi rõ hơn. Ông dấn tới.

“Còn ngày mồng bảy tháng Hai, đêm đó anh cũng có bằng chứng ngoại phạm chứ?”

“Đêm đó tôi không biết. Tôi phải...”

“Đêm đó anh đã bước vào Siêu thị Sherman và giết hai người. Anh phải biết chứ.”

Bolotov bất thần đứng dậy.

“Ông là ai? Ông không phải cớm.”

McCaleb nhìn lên y, vẫn ngồi, hy vọng không để lộ rằng mình đang ngạc nhiên.

“Cớm bao giờ cũng đi hai người. Ông là ai?”

“Tôi là người sẽ quật ngã anh. Anh đã làm chuyện đó, Bolotov, và tôi sẽ chứng minh được.”

“Cá…”

Có một cú đấm đầy giận dữ nện vào cửa, và theo bản năng McCaleb quay lại nhìn. Đó là một sai lầm nhỏ nhưng Bolotov chỉ cần có thế. McCaleb thấy đám mờ màu đen không rõ nét tiến lại gần, trong tầm nhìn ngoại biên của ông. Theo bản năng ông dợm nhấc tay lên để bảo vệ ngực. Ông không đủ nhanh. Đột ngột ông lãnh trọn tác động của trọng lượng gã đàn ông kia và rồi ghế ông ngồi bị lật nhào trong khi ông vẫn ngồi trên đó.

Bolotov quật ông xuống sàn, giữa lúc Toliver hay ai đó ngoài kia vẫn tiếp tục giận dữ nện thình thình lên cửa. Gã đàn ông to hơn, khỏe hơn vừa ghì chặt McCaleb xuống vừa thọc tay vào các túi của ông. Tay y chạm phải khẩu súng, liền dứt nó ra khỏi thắt lưng ném sang bên kia phòng. Cuối cùng y tìm thấy ví của McCaleb nơi túi trong áo khoác thể thao. Y giật cái ví ra làm túi rách toạc, rồi mở ví.

“Không có thẻ. Thấy chưa, đếch phải cớm.”

Y đọc to cái tên ghi trên tấm bằng lái xe nằm sau một ô cửa sổ bằng nhựa bên trong ví.

“Terr-ell-Mack-Cow-leeb.”

Đoạn Bolotov đọc to địa chỉ lên. McCaleb thấy nhẹ nhõm bởi vì đó thực ra là địa chỉ của văn phòng chủ bến tàu, ông có hộp thư ở đó.

“Hôm nào đấy tôi đến thăm ông được chứ, hả?”

McCaleb không đáp cũng không động cựa. Ông biết mình chẳng mong gì chọi lại được gã này. Trong khi ông nghiền ngẫm tình thế của mình, Bolotov buông cái ví xuống ngực ông rồi nhảy bật dậy. Y giật chiếc ghế từ dưới hông McCaleb, nhấc cao lên quá đầu. McCaleb giơ hai tay lên để bảo vệ mặt và đầu, ngay lúc đó ông nhận ra rằng ngực mình bị phô ra không có gì che chở.

Ông nghe thấy tiếng kính vỡ, liền nhìn qua giữa hai tay mình thì thấy chiếc ghế đập vỡ toang cửa sổ văn phòng. Rồi ông thấy Bolotov theo sau chiếc ghế, phóng qua khoảng vỡ dễ dàng như không rồi buông mình xuống sàn xưởng thợ. Đoạn y biến mất.

McCaleb lăn qua một bên, xếp hai tay ngang ngực rồi co hai đầu gối lên. Ông xòe một bàn tay đặt lên ngực, cố nghe ra nhịp tim. Ông hít hai hơi sâu rồi chầm chậm quỳ lên, gượng ngồi dậy. Tiếng nện cửa rầm rầm vẫn tiếp diễn, lần này kèm theo giọng Toliver cuống cuồng đòi McCaleb mở ra.

McCaleb rướn người tới mở khóa cửa. Ngay khi đó ông cảm thấy chóng mặt. Như thể ông đang trượt xuống vùng lõm gần bốn mét của một con sóng để rơi tõm vào chỗ sâu nhất của nó. Toliver xông vào phòng mà la lối om sòm nhưng McCaleb không hiểu ông ta nói gì. McCaleb xòe hai tay chống xuống sàn, nhắm mắt, cố định thần lại.

“Chó chết,” ông chỉ thì thầm được có thế.

Buddy Lockridge nhảy ra khỏi chiếc Taurus khi thấy McCaleb lại gần. Anh ta chạy vòng quanh đầu xe, đến cạnh McCaleb.

“Chúa ơi, chuyện gì vậy?”

“Chả có gì. Tôi phạm sai lầm, thế thôi.”

“Trông anh chả ra làm sao cả.”

“Tôi không sao. Đi thôi.”

Lockridge mở cửa cho ông rồi đi vòng qua phía người lái để chui vào xe.

“Anh chắc là không sao chứ?”

“Thôi nào, đi thôi.”

“Đi đâu?”

“Tìm điện thoại.”

“Ngay kia có một cái.”

Anh ta trỏ về phía nhà hàng Jack in the Box ngay bên cạnh. Có một điện thoại công cộng trên bức tường gần một trong mấy cánh cửa. McCaleb ra khỏi xe rồi chầm chậm đi về phía điện thoại. Ông cẩn thận để mắt đến nền đường trước mặt, ông không muốn lại bị trượt vào một cơn chóng mặt nữa.

Ông gọi đường dây trực tiếp của Jaye Winston, cứ đinh ninh sẽ phải để lại tin nhắn, nhưng chị nhấc máy ngay tức thì.

“Terry đây. Chắc là hôm nay ở tòa căng lắm.”

“Đang căng đây, nhưng hiện giờ nghỉ ăn trưa. Hai giờ tôi phải quay lại. Tôi cũng đang định gọi anh đây.”

“Tại sao?”

“Vì chúng tôi sắp làm chuyện ấy rồi.”

“Làm gì?”

“Thôi miên ông Noone. Đội trưởng ký giấy rồi và tôi gọi cho ông Noone rồi. Ông ta nói là được. Ông ta chỉ muốn chúng ta làm tối nay vì ông ta sắp ra khỏi thành phố, quay lại Vegas, chắc vậy. Ông ta sẽ tới đây lúc sáu giờ. Anh đến được chứ?”

“Tôi sẽ đến.”

“Vậy là thu xếp xong nhé. Sao anh lại gọi?”

McCaleb ngần ngừ. Điều ông phải nói với chị có thể làm thay đổi kế hoạch tối nay, nhưng ông biết mình không thể trì hoãn.

“Chị có thể lấy một bức ảnh Bolotov trước tối nay không?”

“Tôi có đây rồi. Anh muốn cho Noone xem á?”

“Ừ. Tôi vừa mới thăm Bolotov một tí và phản ứng của hắn chả hay ho lắm.”

“Chuyện gì xảy ra vậy?”

“Tôi chưa kịp hỏi hắn ba câu thì hắn đã quăng tôi xuống đất rồi chạy.”

“Anh đùa tôi đấy à?”

“Giá mà tôi đùa được.”

“Còn bằng chứng ngoại phạm của hắn?”

“Chắc như ổ bánh mì là cùng.”

McCaleb thuật ngắn gọn cuộc thẩm vấn Toliver rồi sau đó Bolotov. Ông bảo Winston chị nên phát thông báo truy nã Bolotov.

“Vì cái gì, anh hay Toliver đã trình báo cảnh sát chưa?”

“Tôi thì chưa nhưng Toliver nói ông ta sẽ trình báo về vụ cái cửa sổ.”

“Được rồi, tôi sẽ phát lệnh bắt. Anh có sao không? Giọng anh nghe như sắp gục tới nơi ấy.”

“Tôi không sao. Chuyện này có làm thay đổi vụ việc không? Hay tối nay ta vẫn tiến hành?”

“Về phần tôi thì vẫn.”

“OK. Hẹn gặp chị khi đó.”

“Này Terry, đừng đặt cược quá nhiều vào Bolotov được chứ?”

“Tôi nghĩ dám chắc là gã này lắm.”

“Tôi không biết. Lancaster cách khá xa chỗ Bolotov ở. Anh phải nhớ gã đó là kẻ từng bị kết án. Hắn có thể và chắc hẳn sẽ làm những gì như đã làm với anh cho dù hắn có dính vào vụ này hay không. Bởi nếu không làm vụ này thì hắn cũng đã làm một chuyện gì khác.”

“Có thể. Nhưng tôi vẫn không ưa thằng này.”

“Ừ thì có thể Noone sẽ cho chúng ta vui khi chỉ vào chính hắn trong một nhóm sáu người.”

“Lần này là chị nói đấy nhé.”

Gác máy xong, McCaleb quay lại chiếc Taurus không khó khăn gì. Vào xe rồi, ông lục tìm bộ đồ lữ hành mà ông luôn mang theo trong cái cặp da để trên sàn. Trong đó có lượng thuốc đủ cho một ngày và chừng một tá nhiệt kế dùng một lần rồi vứt gọi là Temp-Strip. Ông lột bỏ giấy gói một cái rồi cho vào miệng. Trong khi đợi, ông ra dấu bảo Lockridge khởi động xe. Khi động cơ đã nổ, McCaleb vươn tay về phía bộ nút điều khiển máy điều hòa, bật lên.

“Anh muốn không khí không?” Lockridge hỏi.

McCaleb gật, Lockridge liền bật cho quạt quay mạnh hơn.

Sau ba phút McCaleb lấy nhiệt kế ra kiểm tra. Ông cảm thấy một nỗi sợ sâu hoắm xuyên vào mình trong khi nhìn cái vạch mảnh màu đỏ trải dài vượt quá điểm một trăm độ.

“Về nhà thôi.”

“Chắc không?”

“Chắc, về vũng thuyền.”

Trong khi Lockridge lái xe về phía Nam trực chỉ xa lộ 101, McCaleb bật quạt gió bên phía mình để dòng khí mát phả ngay vào mặt ông. Ông bóc thêm một cái Temp-Strip rồi kẹp vào dưới lưỡi. Ông cố trấn tĩnh bằng cách bật kênh KFWB trên radio và nhìn cảnh đường phố lướt qua hai bên. Hai phút sau số đo nhiệt độ thứ nhì có đỡ hơn số đầu tiên, nhưng ông vẫn đang hâm hấp sốt. Nỗi sợ của ông dịu đi một chút, họng cũng đỡ nghẹn. Ông đập hai lòng bàn tay vào bảng đồng hồ mà lắc đầu, cứ tự thuyết phục mình rằng cơn sốt này chỉ là đột xuất thôi. Cho đến giờ ông vẫn hoàn toàn khỏe kia mà. Chẳng có lý do gì để ông bị thế này ngoại trừ chuyện ông đã bị nóng người lên quá mức trong khi giằng co với Bolotov.

Ông quyết định quay về thuyền uống một viên aspirin và ngủ một giấc dài trước khi chuẩn bị buổi làm việc tối với James Noone. Có một cách khác là gọi cho Bonnie Fox. Và ông biết nếu gọi như vậy thì rồi ông sẽ phải nằm viện vài hôm để xét nghiệm và theo dõi. Fox luôn thấu đáo trong việc chị làm cũng như McCaleb thích nghĩ mình luôn thấu đáo trong việc mình làm. Chị sẽ chẳng ngần ngại gì bắt ông vào viện. Ông sẽ mất đứt một tuần nằm giường ở Cedars. Chắc chắn là ông sẽ mất cơ hội với Noone và rồi cũng mất nốt cái động lực vốn là thứ duy nhất khác mà ông có bên mình khi dấn vào cuộc điều tra này.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,467
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 16


Đối với người không biết - trong đó có nhiều cảnh sát và đặc vụ mà McCaleb từng cộng tác suốt bao năm qua - thôi miên thường bị coi là một dạng ngón nghề cảnh sát mang tính tà thuật, giải pháp gần như sau hết, chỉ đứng sau mỗi chuyện đi xin ý kiến thầy đồng cốt trong vùng. Người ta coi như nó tượng trưng cho một cuộc điều tra giẫm chân tại chỗ hoặc là thất bại rồi. McCaleb thì tin chắc là không. Ông tin đó là một biện pháp đáng tin cậy để dò thấu đến những chiều sâu trong tâm trí. Ở những trường hợp ông chứng kiến hoặc nghe nói rằng thôi miên cho kết quả sai, thường đó là lỗi của người thôi miên chứ không phải của khoa thôi miên.

McCaleb đã ngạc nhiên khi Winston nói chị đồng ý thẩm vấn lại Noone trong điều kiện thôi miên. Chị nói với ông rằng người ta đã đôi ba lần đề xuất dùng thôi miên trong cuộc họp hàng tuần của ban chuyên án giết người, khi ai đó lại nêu ra chủ đề cuộc điều tra vụ giết Cordell rơi vào ngõ cụt. Nhưng đề xuất đó chưa bao giờ được thực hiện vì hai lý do. Lý do đầu là lý do quan trọng. Thôi miên vốn là một công cụ cảnh sát vẫn được dùng cho đến đầu thập niên tám mươi, nhưng rồi tòa thượng thẩm California ra phán quyết rằng nhân chứng nào đã bị người ta dùng thôi miên để xới lại ký ức thì không thể làm chứng trong các phiên tòa hình sự. Thế có nghĩa là, mỗi khi các điều tra viên quyết định có dùng thôi miên với một nhân chứng hay không, họ phải cân nhắc xem liệu cái được nhờ dùng thôi miên có bù lại được cái mất vì không thể đưa người đó ra làm chứng tại tòa hay không. Cuộc tranh cãi đó đã khiến người ta ngần ngại không dùng thôi miên trong vụ Cordell, bởi Winston và đội trưởng của chị không sẵn lòng để mất nhân chứng duy nhất của mình.

Lý do thứ hai là sau khi có phán quyết của tòa thượng thẩm, Sở Cảnh sát trưởng liền ngừng huấn luyện các thám tử sử dụng thuật thôi miên. Hệ quả là, sau hơn mười lăm năm kể từ khi phán quyết có hiệu lực, khả năng thôi miên của các thám tử từng làm được việc đó cứ tự nhiên cùn mòn đi. Chẳng còn lại ai trong ban có thể thôi miên Noone, nghĩa là họ sẽ phải đi thuê chuyên gia trị liệu thôi miên ở ngoài. Điều đó chỉ càng làm mọi chuyện thêm phức tạp và lại tốn tiền.

Khi McCaleb bảo Winston rằng ông từng dùng thuật thôi miên trong các vụ ở FBI trong hơn mười năm và rất sẵn lòng làm việc đó, chị còn rạng rỡ hơn cả ông trước đề xuất này. Mấy giờ sau chị đã được cấp trên duyệt tiến hành ca thôi miên và đã thu xếp xong xuôi đâu đó rồi.

McCaleb đến văn phòng ban chuyên án giết người của Trung tâm Sao thuộc Sở Cảnh sát trưởng sớm đến nửa tiếng. Ông bảo Lockridge rằng ông sẽ mất nhiều thời gian và khuyến khích anh ta đi ăn tối.

Cơn sốt của ông đã giảm sau giấc ngủ chiều, ông cảm thấy sảng khoái, sẵn sàng. Ông phấn khích trước viễn cảnh đào ra được một manh mối vững chắc từ trong tâm trí James Noone và làm được điều gì đó khả dĩ đẩy vụ án tiến lên phía trước.

Jaye Winston gặp ông nơi quầy trước và đi cùng ông tới phòng đội trưởng, vừa đi vừa nói nhanh.

“Tôi vừa ra lệnh truy nã Bolotov. Cho xe đi qua căn hộ của hắn nhưng hắn đi rồi. Hắn biến rồi. Rõ là anh đã chạm nọc hắn.”

“Ừ, chắc khi tôi gọi hắn là tên giết người.”

“Tôi vẫn chưa tin chắc, nhưng hiện tại ta có được tiến triển thế là điều tốt lắm rồi. Trước giờ Arrango vẫn chẳng vui vẻ gì về những việc anh làm. Tôi phải thú nhận rằng tôi đã không nói chúng ta đã bàn về chuyện này trước rồi. Anh ta nghĩ anh đang chơi trội.”

“Đừng lo. Tôi không quan tâm anh ta nghĩ gì.”

“Anh có lo về Bolotov không? Anh bảo hắn có địa chỉ của anh mà.”

“Không. Hắn biết là vũng neo thuyền nhưng đâu có biết thuyền nào. Chỗ đó rộng lắm.”

Chị mở cửa rồi để McCaleb vào trước. Có ba đàn ông và một phụ nữ trong căn phòng chật chội. McCaleb nhận ra Arrango và Walters bên Cảnh sát Los Angeles. Winston giới thiệu ông với Đội trưởng Al Hitchens và người phụ nữ, một nghệ sĩ tên là Donna de Groot. Bà ta có mặt để nếu cần thì sẽ làm ra chân dung nghi phạm bằng vật liệu tổng hợp, trong trường hợp Noone không nhận diện được Bolotov ngay lập tức.

“Tôi mừng là các vị đến sớm,” Hitchens nói. “Ông Noone đến đây rồi. Có lẽ ta bắt đầu được rồi đó.”

McCaleb gật đầu rồi nhìn những người khác trong phòng. Arrango có cái vẻ khinh khỉnh của kẻ không tin. Một cây tăm thòi ra khỏi cặp môi mím chặt của gã một đoạn chừng một xăng ti mét.

“Thế này là nhiều người quá,” McCaleb nói. “Khó tập trung lắm. Cần làm thế nào cho người này cảm thấy thư thái. Ngần này khán giả thì thư thái làm sao được.”

“Không phải tất cả đều vào đâu,” Hitchens nói. “Tôi muốn anh và Jaye vào trong phòng. Khi nào thích hợp thì anh đưa Donna vào. Chúng tôi sẽ quay video và có màn hình đặt ngay ở đây. Những người còn lại sẽ quan sát từ đây. Thế được chứ?”

Anh ta chỉ một cái màn hình đặt trên xe trong một góc. McCaleb nhìn màn hình thì thấy một người ngồi nơi bàn, hai tay khoanh lại để trước mặt. Đó là Noone. Dù anh ta không đội mũ bóng chày, McCaleb vẫn nhận ra người có mặt trong cuốn băng quay hiện trường tội phạm và băng giám sát đặt ở máy rút tiền.

“Thế là tốt.”

McCaleb nhìn Winston.

“Chị có chuẩn bị bộ ảnh sáu người trong đó có Bolotov chưa?”

“Có. Trên bàn tôi. Ta sẽ cho anh ta xem đầu tiên, nếu như ta gặp may. Nếu anh ta nhận diện được ngay thì chẳng cần thôi miên, nếu vậy ta có thể để dành anh ta ra làm chứng ở tòa.”

McCaleb gật đầu.

“Giá ta cho Noone xem mấy bức ảnh trước khi con chim bị xua mà bay mất thì có phải hay hơn không,” Arrango nói.

Gã nhìn McCaleb. McCaleb đã toan đáp trả nhưng rồi quyết định giữ trong lòng.

“Anh có gì đặc biệt muốn tôi hỏi anh ta không?” thay vì vậy ông hỏi.

Arrango nhìn cộng sự mà nháy mắt.

“Ừ, truy cho ra biển số của cái xe chạy trốn ấy. Được vậy thì tốt.”

Gã cười rạng rỡ, cây tăm từ môi dưới lòi lên trên. McCaleb cười đáp lại.

“Chuyện ấy hồi trước người ta làm rồi. Nạn nhân của một tên hiếp dâm có lần đã tả cho tôi trọn vẹn hình xăm trên tay kẻ tấn công cô ta. Trước khi thôi miên thậm chí cô ta còn không nhớ tới hình xăm ấy nữa là.”

“Tốt, vậy làm lần nữa đi. Cố cho bọn tôi cái biển số đi. Cố cho bọn tôi cái hình xăm đi. Mấy thứ ấy anh bạn Bolotov của anh thiếu khối gì.”

Rõ là có sự thách thức trong giọng gã. Arrango dường như khăng khăng muốn đặt mọi chuyện trên bình diện cá nhân, như thể việc McCaleb có nguyện vọng đưa một kẻ giết người hàng loạt vào vụ án theo nghĩa nào đó là tỏ ra coi thường gã. Thật lố bịch, nhưng thực ra bản thân việc McCaleb dấn vào vụ này đã là sự thách thức đối với gã rồi.

“OK, các cậu,” Hitchens ngắt lời, cố phân tán bớt sự căng thẳng.

“Chúng ta làm thế này là để thử xem sao, thế thôi. Thử một lần cũng đáng. Có thể sẽ được gì đó mà cũng có thể không.”

“Nhưng rồi chúng ta lại mất thằng cha này không cho ra làm chứng ở tòa được,” Arrango nói.

“Tòa nào?” McCaleb nói. “Với những gì các anh đang có thì các anh chẳng thể nói chuyện tòa tiếc gì hết. Đây là cơ hội cuối cùng của anh, Arrango. Tôi là cơ hội cuối của anh.”

Arrango đứng phắt dậy. Không phải để thách thức McCaleb bằng sức mạnh, mà là để nhấn mạnh thêm những lời kế tiếp của gã.

“Coi chừng, đồ khốn kiếp, đây không cần thằng cớm liên bang hết thời nào dạy cho đây biết...”

“Được rồi, được rồi,” Hitchens nói, cũng đứng dậy. “Chúng ta sẽ làm chuyện này, ngay bây giờ. Jaye, đưa Terry vào phòng thẩm vấn và bắt đầu ngay đi. Bọn tôi ngồi đợi ở đây.”

Winston dẫn McCaleb ra khỏi cửa. Ông ngoái lại nhìn Arrango, bộ mặt gã sạm lại vì tức giận. Sau lưng gã McCaleb nhận thấy nụ cười giễu cợt trên mặt Donna de Groot. Rõ là chị ta khoái cái màn phô diễn đàn ông tính vừa rồi.

Khi họ đi qua phòng họp và ngang qua mấy dãy bàn làm việc trống, McCaleb lắc đầu ngượng nghịu.

“Xin lỗi,” ông nói. “Tôi không tin nổi mình lại để cho hắn khiến tôi ra cái nỗi này.”

“Không sao. Thằng cha đó ưa cà khịa lắm. Sớm muộn gì cũng xảy ra thế này thôi.”

Sau khi ghé qua bàn của Winston để lấy tập hồ sơ đựng bộ ảnh đã chuẩn bị sẵn, họ đi xuống một hành lang rồi thì Winston dừng lại trước một cánh cửa đóng. Chị đặt tay lên quả đấm cửa nhưng ngoái lại nhìn McCaleb trước khi mở.

“Nào, anh có muốn tiến hành theo cách đặc biệt nào không?”

“Cái chính là việc này sẽ có hiệu quả nhất nếu như chỉ một mình tôi nói khi buổi thôi miên bắt đầu, và tôi giao tiếp bằng lời chỉ với anh ta thôi. Làm thế thì anh ta mới không bị rối trí về chuyện tôi đang nói với ai. Thành thử nếu chị và tôi cần trao đổi với nhau thì ta có thể hoặc viết giấy hoặc trỏ ra cửa, chừng đó ta có thể ra ngoài này.”

“Được. Anh khỏe chứ? Anh trông chả ra làm sao cả.”

“Tôi khỏe.”

Chị mở cửa và James Noone đang cúi xuống bàn liền ngẩng lên nhìn.

“Ông Noone, đây là Terry McCaleb, chuyên gia thôi miên mà tôi có nói với ông,” Winston nói. “Trước đây anh ấy công tác ở FBI. Anh ấy sẽ xem liệu anh ấy có chăng làm được gì với ông về vụ này không.”

McCaleb mỉm cười chìa tay qua bàn. Họ bắt tay nhau.

“Rất vui được gặp ông, ông Noone. Việc này không nên mất nhiều thời gian và cũng nên nhẹ nhõm thoải mái thôi. Tôi gọi ông là James được không?”

“Được chứ, James cũng được.”

McCaleb nhìn quanh phòng, nhìn cái bàn và mấy cái ghế. Ghế đều đúng chuẩn của chính phủ, các mép có độn mút dày hơn một xăng ti mét. Ông nhìn Winston.

“Jaye này, chị xem liệu ta có thể tìm cái ghế nào tiện nghi hơn cho James không? Có chỗ để tay chẳng hạn? Giống như cái đội trưởng Hitchens vẫn ngồi ấy.”

“Được chứ. Đợi chút nhé.”

“À, nhân thể, tôi cũng sẽ cần một cái kéo nữa.”

Winston nhìn ông vẻ dò hỏi nhưng bỏ đi ra mà không nói gì. McCaleb lướt cái nhìn lượng giá quanh phòng. Có một dãy đèn huỳnh quang ở trên trần. Không có nguồn sáng nào khác. Ánh sáng chói chang trên đầu càng được phóng đại bởi cửa sổ có kính trên bức tường trái. Ông biết máy quay video được lắp ở phía bên kia lớp kính, nên ông cần giữ cho Noone ngồi ở thế đối diện máy quay.

“Xem nào,” ông nói với Noone. “Tôi cần leo lên bàn để với tới mấy cái đèn kia.”

“Không sao.”

Lấy một cái ghế để làm thang, McCaleb leo lên bàn rồi với lên khung treo đèn. Ông di chuyển chậm rãi, cố tránh bị thêm một cơn chóng mặt nữa. Ông tháo khung ra rồi bắt đầu gỡ các bóng đèn dài, vừa chuyền xuống cho Noone vừa trò chuyện tự nhiên với anh ta, hy vọng rằng nhân chứng cảm thấy thoải mái với ông.

“Tôi nghe nói từ đây ông sẽ đi Vegas? Đi làm hay đi chơi vậy?”

“Ừm, hầu hết là làm việc.”

“Ông làm gì?”

“Phần mềm máy tính. Tôi đang thiết kế một hệ thống kế toán và bảo mật mới cho El Rio. Vẫn đang cố luận ra mấy chỗ lỗi. Tuần tới hay gì đó chúng tôi sẽ chạy thử.”

“Một tuần ở Las Vegas á? Úi chà, nếu là tôi thì trong một tuần tôi có thể mất khối tiền ở đó.”

“Tôi không đánh bạc.”

“Trò đó không tốt.”

Ông đã gỡ ba trong bốn bóng đèn, khiến cho không khí trong phòng mờ dịu hẳn đi. Ông mong rằng vẫn còn đủ sáng cho máy quay. Khi ông xuống khỏi bàn, Winston quay lại mang theo một cái ghế quả thật giống như cái Hitchens ngồi lúc nãy.

“Chị lấy ở chỗ đội trưởng à?”

“Cái tốt nhất ở đấy.”

“Tốt.”

Ông nhìn tấm kính mà nháy mắt với máy quay đằng sau nó. Khi làm vậy, ông để ý thấy những vòng tròn màu tối bắt đầu hình thành bên dưới mắt ông, liền nhanh chóng ngoảnh đi.

Winston thọc tay vào túi chiếc áo khoác cộc tay chị mặc, cẩn thận rút ra một cây kéo. McCaleb cầm lấy kéo để lên bàn rồi đẩy nó sát vào tường bên dưới tấm kính. Rồi ông cầm cái ghế của đội trưởng kê sát vào bức tường đối diện. Ông lấy hai cái ghế cạnh bàn, đặt chúng đối diện với ghế đội trưởng nhưng cách nhau vừa đủ để không che khuất Noone khỏi tầm nhìn của máy quay. Ông bảo Noone sang ngồi ở ghế đội trưởng, rồi thì Winston và ông ngồi vào hai ghế còn lại. McCaleb xem đồng hồ thì thấy lúc này là sáu giờ kém mười.

“Được rồi,” ông nói. “Chúng tôi sẽ cố làm nhanh để ông còn đi, James ạ. Trước hết, ông có muốn hỏi gì về chuyện chúng tôi đang thử làm gì ở đây không?”

Noone ngẫm nghĩ một chút rồi nói.

“Ừm, chắc là tôi không biết gì nhiều đâu. Chuyện gì sẽ xảy ra với tôi đây?”

“Sẽ chẳng có gì xảy ra với ông hết. Thôi miên chỉ là một trạng thái ý thức được đổi khác mà thôi. Chúng tôi muốn là muốn ông trải qua một số giai đoạn thư giãn càng lúc càng tăng, cho đến khi ông đạt tới một điểm nơi ông có thể dễ dàng bước xuyên qua những chỗ sâu kín của tâm trí mình hòng truy lại được một vài thông tin lưu trữ ở đó. Kiểu như quay cái hộp hồ sơ Rolodex để lấy ra tấm thẻ mà ông cần vậy.”

McCaleb đợi nhưng Noone không hỏi gì thêm.

“Ta thử bắt đầu bằng một bài tập nhé. Tôi muốn ông ngả đầu về phía sau một tí rồi nhìn lên trên, cố xoay mắt về phía trên càng xa càng tốt. Có lẽ ông cần gỡ kính ra.”

Noone gỡ kính, xếp lại cho vào túi. Anh ta ngả đầu về phía sau, đảo mắt nhìn lên trên. McCaleb quan sát kỹ anh ta. Anh ta có thể đảo mắt về phía trên đủ để ta nhìn thấy gần một xăng ti mét giác mạc trắng bên dưới mỗi tròng đen. Đây là dấu hiệu tốt cho thấy anh ta có khả năng tiếp nhận thôi miên.

“OK, tốt. Giờ tôi muốn anh thư giãn được chừng nào hay chừng ấy, thở dài, sâu, rồi thì cho chúng tôi hay anh có thể nhớ lại gì về sự việc xảy ra vào đêm hai mươi hai tháng Giêng. Chỉ cần nhớ lại những gì mà hiện giờ anh nhớ mình đã thấy.”

Trong mười phút sau đó Noone thuật lại chuyện anh ta đã đến đúng lúc vụ nổ súng và cướp của nơi máy rút tiền tại Lancaster vừa kết thúc. Chuyện anh ta kể không khác gì với những phiên bản anh ta đã kể trong nhiều lần thẩm vấn từ đêm chuyện đó xảy ra. Anh ta không bổ sung chi tiết nào để McCaleb chộp lấy, và dường như chẳng bỏ sót điểm nào đã kể những lần trước. Điều này thật khác thường và khiến McCaleb phấn chấn. Ký ức của hầu hết nhân chứng cứ hễ sau hai tháng là bắt đầu mờ nhạt đi. Họ quên các chi tiết. Việc Noone dường như nhớ rõ mọi chi tiết khiến McCaleb hy vọng trí nhớ ẩn sâu của tay chuyên gia lập trình máy tính này hẳn cũng sắc bén như vậy. Khi Noone kể xong vụ việc, McCaleb gật đầu với Winston, chị liền cúi về phía Noone đưa cho anh ta tập hồ sơ gồm sáu bức ảnh.

“Này James, tôi muốn anh mở tập hồ sơ rồi nhìn các tấm ảnh. Bảo chúng tôi xem có ai trong số những người này là kẻ anh đã thấy trong chiếc xe rồ ga chạy không.”

Noone đeo kính lên rồi cầm lấy tập hồ sơ nhưng lại nói, “Tôi không biết. Thực sự là tôi không nhìn...”

“Tôi biết,” Winston nói. “Nhưng cứ nhìn xem.”

Noone mở tập hồ sơ. Bên trong có một mảnh bìa các tông bị đục thủng sáu ô vuông xếp thành hai hàng, mỗi hàng ba ô. Trong các ô đó là ảnh chụp sáu người đàn ông. Ảnh Bolotov là ảnh thứ ba hàng trên. Noone nhìn bộ sáu ảnh, mắt anh lướt từ ảnh này sang ảnh khác, đoạn anh lắc đầu.

“Tôi rất tiếc. Tôi không thấy hắn.”

“Được,” McCaleb nói nhanh trước khi Winston kịp nói gì có thể khiến Noone hiểu là hàm ý tiêu cực. “Vậy tôi nghĩ chúng ta sẵn sàng tiến tới rồi.”

Ông đỡ lấy tập hồ sơ từ tay Noone mà ném lên bàn.

“Vậy sao anh không bắt đầu bằng cách cho chúng tôi hay anh thường làm gì để thư giãn hở James?” McCaleb hỏi.

Noone ngây ra nhìn lại ông.

“Chẳng hạn như là, khi nào anh hạnh phúc nhất? Khi nào anh thư thả và bình an nhất? Tôi thì tôi thích làm việc trên thuyền của tôi và đi câu. Có câu được gì hay không tôi cũng chẳng cần. Chỉ là tôi thích có một cái cần câu nằm dưới nước. Còn anh thì sao hở James? Anh có thích bắn giỏ không, thích vụt bóng gôn không? Sao nào?”

“Ừm, tôi không biết. Chắc là tôi thích ngồi máy tính.”

“Nhưng thế đâu phải là thư giãn về tâm trí, phải không James? Tôi không nói đến chuyện gì đó buộc anh phải suy nghĩ nhiều. Ý tôi là những khi anh muốn để mọi chuyện tự nó đến đâu thì đến thì anh làm gì. Khi anh phát mệt vì nghĩ nhiều quá và chỉ muốn đầu mình trống rỗng trong chốc lát ấy.”

“Ừm... Tôi không biết. Tôi thích ra bãi biển. Có một chỗ tôi biết. Tôi ra đó.”

“Chỗ đó thế nào?”

“Cát dưới đó trắng muốt, lại rộng mênh mông nữa. Mình có thể thuê ngựa mà cưỡi dọc theo bờ nước dưới mấy vách đá. Nước đào vào dưới mấy vách đá nên cứ như là một mép vực treo lơ lửng. Người ta hay ngồi ở đó trong bóng râm.”

“OK, tốt. Tốt thật đó James à. Giờ tôi muốn anh nhắm mắt lại, đặt hai tay thoải mái lên lòng mình, và trong tâm trí anh tôi muốn anh nghĩ đến chỗ đó. Hình dung trong tâm trí mình rằng anh đang bước trên bãi biển đó. Chỉ là thư thái bước dọc theo bãi biển.”

McCaleb ngừng nói trong nửa phút, chỉ quan sát khuôn mặt Noone. Làn da quanh hai khóe mắt bắt đầu giãn ra, rồi thì McCaleb để anh ta làm một số bài tập cảm giác trong đó ông bảo anh ta tập trung vào cảm giác về đôi tất dưới chân, hai bàn tay anh ta trên lớp vải quần, cặp kính trên sống mũi anh ta, thậm chí mái tóc - phần còn lại của tóc - trên đầu anh ta.

Sau năm phút như vậy, McCaleb chuyển sang các bài tập cơ, ông bảo Noone gập các ngón chân vào càng mạnh càng tốt, giữ nguyên vậy rồi thả lỏng.

Từ từ, tiêu điểm của các bài tập được chuyển lên phần trên cơ thể anh ta, cuối cùng lên tới từng nhóm cơ một. Rồi McCaleb lại bắt đầu bằng các ngón chân và chuyển dần lên trên. Đó là một phương pháp nhằm vắt kiệt các cơ và buộc tâm trí dễ buông xuôi hơn theo lời đề nghị thả lỏng nghỉ ngơi. McCaleb nhận thấy hơi thở của Noone trở nên sâu và dài. Mọi chuyện tiến triển tốt. Ông nhìn đồng hồ thì thấy đã sáu giờ rưỡi.

“OK, James, giờ thì đừng mở mắt, tôi muốn anh chìa tay trái ra giơ lên phía trước mặt. Giữ bàn tay trái cách mặt chừng ba mươi phân.”

Noone làm theo và McCaleb để anh ta giơ tay lên hẳn một phút, suốt thời gian đó ông khuyên anh ta thả lỏng và tiếp tục nghĩ đến bãi biển nơi anh ta đang tản bộ.

“Được rồi, giờ tôi muốn anh đưa tay lại gần mặt, thật chậm. Thật chậm.”

Bàn tay Noone bắt đầu dịch lại gần mũi anh ta.

“Được rồi, chậm hơn nữa,” McCaleb nói, lời ông bây giờ chậm hơn, nhẹ hơn. “Thế đấy, James. Khi tay anh chạm vào mặt thì anh cũng hoàn toàn thả lỏng, đến khi đó anh sẽ rơi vào trạng thái thôi miên sâu.”

Đoạn ông im lặng quan sát bàn tay Noone chầm chậm di chuyển cho đến khi lòng bàn tay dừng lại ngay mũi. Ngay thời điểm tiếp xúc, đầu anh ta khẽ cúi về phía trước và hai vai rũ xuống. Bàn tay anh ta rơi thõng xuống giữa hai đùi. McCaleb nhìn sang Winston. Chị nhướng mày gật đầu với ông. McCaleb biết họ chỉ mới đi được nửa đường song mọi việc có vẻ tốt đẹp. Ông quyết định tiến hành một thử nghiệm nhỏ.

“Này James, giờ anh đã hoàn toàn thả lỏng, hoàn toàn nghỉ ngơi. Anh thả lỏng đến nỗi hai tay anh nhẹ tựa lông hồng. Chẳng hề có tí trọng lượng nào.”

Ông quan sát anh ta nhưng anh ta không cựa quậy.

“OK, giờ tôi sẽ lấy một quả bóng chứa đầy hêli rồi buộc dây vào tay trái anh. Tôi đang buộc đây. Rồi, quả bóng buộc vào cổ tay anh rồi James ạ, giờ tôi buông ra đây.”

Lập tức, tay trái Noone bắt đầu nhấc lên cho đến khi vươn thẳng lên không, bàn tay cao hơn đầu. McCaleb chỉ quan sát. Và sau nửa phút cánh tay Noone không hề tỏ dấu hiệu bị mỏi.

“Được rồi, James, tôi có một cây kéo, tôi sẽ cắt dây.”

McCaleb với tay lại bàn nhấc kéo lên. Ông xòe kéo ra rồi chập mạnh vào sợi dây tưởng tượng. Cánh tay Noone lại rơi thõng xuống giữa hai đùi. McCaleb nhìn sang Winston mà gật đầu.

“Được rồi, James, anh đang rất thư giãn, không gì có thể quấy rầy anh. Tôi muốn anh hình dung trong tâm trí rằng anh đang thả bộ trên bãi biển rồi thì đến một khu vườn. Vườn xanh ngắt sum suê, thật đẹp, có hoa thơm chim hót. Thật đẹp, thật yên bình. Anh chưa bao giờ đến nơi nào yên bình như thế. Giờ… anh đi qua khu vườn thì đến một tòa nhà nhỏ có một loạt cửa. Ấy là cửa thang máy, James ạ. Cửa làm bằng gỗ mép bịt vàng, thật đẹp. Nơi đây gì cũng đẹp.”

“Cửa mở, James ạ, thế là anh bước vào thang máy vì anh biết nó đưa anh xuống căn phòng đặc biệt của anh. Căn phòng không ai khác đến được. Chỉ mình anh có thể xuống đó, và khi đã đến đó rồi thì anh sẽ hoàn toàn bình an.”

McCaleb đứng dậy tiến tới ngay trước mặt Noone, dừng cách anh ta chỉ chừng một mét. Noone không tỏ dấu hiệu bề ngoài nào là nhận thấy sự hiện diện cận kề của một người khác.

“Các nút thang máy cho thấy anh đang ở số mười mà anh thì phải đi xuống vì phòng anh ở số một. Anh nhấn nút, James ạ, và thang máy bắt đầu đi xuống. Cứ mỗi tầng lướt qua, anh lại càng thấy thư thái dễ chịu hơn.”

McCaleb nhấc tay lên giữ song song với mặt đất, trước mặt Noone chừng ba mươi phân. Rồi ông bắt đầu nâng tay lên, kéo lùi tay lại rồi lại nâng lên. Ông biết rằng sự nhiễu loạn mà động tác này gây ra cho ánh sáng đập vào mí mắt Noone sẽ khiến anh ta càng có cảm giác rõ rệt là mình đang đi xuống.

“Anh đang đi xuống, James ạ. Càng lúc càng sâu. Tầng thứ chín rồi... giờ là tầng tám, rồi bảy... Anh đang xuống càng lúc càng sâu, càng lúc càng thư giãn... Tầng sáu vừa qua rồi... giờ là tầng năm... bốn... ba... hai... rồi thì một... Giờ thì cửa mở và anh bước vào căn phòng đặc biệt của anh. Anh đến đó rồi, James ạ, và bình an tuyệt đối.”

McCaleb trở lại ghế. Đoạn ông bảo Noone bước vào phòng của mình, rằng cái ghế tiện nghi nhất trên thế giới đang chờ anh ở đó. Ông bảo anh ngồi xuống và rồi tan chảy vào cái ghế. Ông bảo anh hãy hình dung tới một lát bơ tan chảy trên một cái chảo chiên ở nhiệt độ rất thấp.

“Không kêu xèo xèo, chỉ là tan ra chậm, thật chậm. Đó là anh đấy, James. Anh đang tan vào cái ghế của anh.”

Ông chờ một lát rồi bảo Noone về cái tivi đang ở ngay trước mặt anh. “Anh có chiếc điều khiển từ xa trong tay. Và đây là một cái tivi đặc biệt với một chiếc điều khiển đặc biệt. Anh có thể xem bất cứ cái gì anh muốn trên tivi này. Anh có thể tua hình trở lại, tua về trước, phóng to hay thu nhỏ. Anh muốn làm gì với nó là làm được hết. Giờ bật lên đi, James. Và cái mà chúng ta sẽ xem trên tivi đặc biệt đó ngay bây giờ là những gì anh đã thấy vào đêm hai mươi hai tháng Giêng khi anh đến ngân hàng ở Lancaster để rút ít tiền.”

Ông chờ một nhịp.

“Bật tivi lên, James. Đã bật chưa?”

“Rồi,” Noone nói, lời đầu tiên của anh ta suốt nửa giờ qua.

“OK, tốt. Giờ chúng ta sẽ quay lại đêm đó, James. Cho chúng tôi biết anh thấy gì.”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,467
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 17


James Noone thuật lại câu chuyện như thể McCaleb và Winston đang ngồi cùng trong xe với anh, nếu không phải là trong đầu anh.

“Tôi bật đèn xi nhan lên rồi rẽ vào. Kìa hắn kìa! Đạp phanh! Hắn đang sắp sửa - suýt nữa là va vào tôi rồi, thằng chó đẻ! Lẽ ra tôi đã...”

Noone nhấc tay trái lên, nắm lại thành quả đấm mà ngón giữa chọc lên trên, một cử chỉ tục tĩu nhắm vào người lái chiếc xe vừa mới ào ào phóng sượt qua anh. Trong khi anh làm vậy, McCaleb nhìn kỹ vào mặt anh, nhận thấy chuyển động nhanh của mắt sau cặp mí nhắm kín. Đó là một trong những chỉ báo ông luôn tìm kiếm, dấu hiệu cho thấy chủ thể đang đắm sâu trong cơn thôi miên.

“Hắn biến rồi còn tôi thì đang tấp xe vào. Tôi thấy, tôi thấy người đó. Có một người nằm giữa đất dưới ánh đèn. Cạnh máy rút tiền. Anh ta nằm thẳng cẳng - tôi ra khỏi xe lại gần xem… có máu. Anh ta bị bắn - có người bắn anh ta. Ôi ôi, tôi phải tìm ai đó - tôi liền quay về xe tìm điện thoại. Tôi có thể gọi nhờ người đến cứu. Anh ta bị bắn. Có máu trên... đâu đâu cũng máu.”

“OK, James, được rồi,” McCaleb nói, lần đầu tiên ngắt lời anh. “Thế là tốt rồi. Giờ tôi muốn anh cầm lấy cái điều khiển đặc biệt và tua lại hình trên tivi cho đến chỗ anh lần đầu tiên thấy chiếc xe phóng ra khỏi bãi đỗ của ngân hàng. Anh làm thế nhé?”

“Được.”

“Rồi, anh đến đó chưa?”

“Rồi.”

“Tốt, giờ bắt đầu lại, chỉ có điều lần này quay chậm. Thật chậm, để anh có thể thấy mọi thứ. Anh đang quay đấy chứ?”

“Có.”

“Rồi, tôi muốn khi nào anh thấy rõ nhất chiếc xe đang lại gần mình thì hãy dừng hình lại.”

McCaleb đợi.

“Được rồi, tôi dừng rồi.”

“OK, tốt. Anh cho chúng tôi biết xe loại gì được không?”

“Được. Cherokee đen. Khá là bụi.”

“Năm nào, anh biết không?”

“Không, là đời mới hơn. Grand Cherokee.”

“Anh có thấy mặt bên chiếc Cherokee không?”

“Có.”

“Mấy cửa.”

Đây là một trắc nghiệm nhỏ để bảo đảm rằng Noone đang thuật lại những gì anh thấy chứ không phải những gì nghe người ta nói. McCaleb nhớ rằng trong cuốn băng quay hiện trường vụ án, viên thám tử thẩm vấn Noone lần đầu tiên đã nói với anh rằng kiểu dáng mới của chiếc Cherokee cho thấy nó thuộc model Grand Cherokee. McCaleb phải xác nhận đặc điểm nhận dạng của chiếc xe, mà ông thì biết Grand Cherokee toàn là bốn cửa.

“Ừm, hai cửa bên hông,” Noone nói. “Là xe bốn cửa.”

“Tốt. Giờ vòng ra phía trước. Anh có thấy xe bị hư hại gì không. Có vết mẻ hay trầy xước nào thấy được không?”

“Không.”

“Có phù hiệu nào trên xe không?”

“Ừmmm, không.”

“Còn cái hãm xung thì sao? Anh có thấy cái hãm xung đằng trước không?”

“Có.”

“OK, tôi muốn anh cầm điều khiển mà phóng to cái hãm xung đó lên. Anh có thấy biển số không?”

“Không.”

“Sao lại không hở James?”

“Nó bị che lại.”

“Cái gì che?”

“Ừ, có một cái áo phông che lên. Nó quấn quanh cái hãm xung nên che kín biển số. Trông như là áo phông.”

McCaleb liếc qua Winston thì thấy nỗi thất vọng trên mặt chị. Ông dấn tới.

“OK, James, cầm điều khiển mà phóng to chiếc xe, được chứ?”

“Rồi.”

“Có mấy người trong chiếc Cherokee đó?”

“Một. Người lái.”

“Được rồi, phóng to hắn lên. Nói tôi nghe anh thấy gì.”

“Thực ra thì không thấy.”

“Sao lại không? Có gì không ổn?”

“Đèn. Hắn bật đèn sáng. Đèn chói quá, tôi không...”

“OK, James này, tôi muốn anh cầm điều khiển mà tua hình. Tua tới tua lui cho đến khi nhìn được rõ nhất người lái xe. Khi nào được thì cho tôi biết.”

McCaleb ngoái lại nhìn Winston và chị nhướng mày nhìn lại ông. Cả hai đều biết chẳng mấy chốc nữa họ sẽ thấy liệu làm thế này có đáng hay không.

“Được rồi,” James nói.

“Rồi, anh đang thấy người lái.”

“Thấy.”

“Cho chúng tôi biết hắn trông thế nào. Da hắn màu gì?”

“Hắn da trắng nhưng đội mũ kéo sụp vành xuống. Hắn nhìn xuống và vành mũ che kín mặt hắn.”

“Toàn bộ mặt?”

“Không. Tôi thấy mồm hắn.”

“Hắn có râu hàm hay ria mép không?”

“Không.”

“Anh có thấy răng hắn không?”

“Không, mồm hắn ngậm.”

“Có thấy mắt hắn không?”

“Không. Cái mũ che mất rồi.”

McCaleb dựa lưng vào ghế, thở ra vì thất vọng. Ông không sao tin được. Noone là một chủ thể thôi miên hoàn hảo. Anh đang trong cơn thôi miên sâu, thế mà họ không moi được từ anh cái họ cần, một cái nhìn trực diện vào hung thủ.

“OK, anh có chắc nhìn hắn thế này là rõ nhất không?”

“Chắc.”

“Anh có thấy tóc hắn không?”

“Có.”

“Tóc màu gì?”

“Màu sẫm, như là nâu thẫm hoặc có khi đen.”

“Dài hay ngắn, anh nói được không?”

“Trông như ngắn.”

“Cái mũ thì sao? Mô tả cái mũ xem.”

“Mũ bóng chày, màu xám. Xám vì bạc màu.”

“OK, có chữ hay logo đội nào trên mũ không?”

“Có một hình, giống như là biểu tượng.”

“Anh mô tả nó được không?”

“Như là mấy chữ cái chồng lên nhau.”

“Chữ gì với chữ gì?”

“Như là chữ C có một vạch cắt ngang. Một chữ I hoa rồi một chữ L thường. Và rồi có một vòng tròn - ý tôi là hình ô van - bao quanh tất cả mấy chữ đó.”

McCaleb im lặng một thoáng mà ngẫm nghĩ.

“Này James,” đoạn ông nói, “nếu tôi cho anh gì đó để vẽ, liệu anh có thể mở mắt ra mà vẽ cái hình đó cho chúng tôi không?”

“Có.”

“OK, tôi muốn anh mở mắt ra.”

McCaleb đứng dậy.

Winston đã giở sẵn tập giấy kẹp vào bìa hồ sơ, lật đến một trang trắng. McCaleb cầm lấy giấy cùng bút của chị, đưa cả cho Noone.

Mắt Noone mở to nhìn đờ đẫn vào tờ giấy trong khi vẽ. Đoạn anh đưa trả lại. Bức vẽ giống như anh vừa tả, một đường thẳng đứng xẻ đôi qua một chữ C to. Rồi thì hình vẽ bị khoanh trong một hình ô van. McCaleb đưa trả tập giấy cho Winston, chị giơ nhanh nó về phía cửa sổ lắp kính để những người quan sát qua video có thể nhìn thấy.

“Được rồi, James, tốt lắm. Giờ nhắm mắt lại và nhìn khung hình người lái xe một lần nữa. Anh đã thấy chưa?”

“Rồi.”

“Anh có thấy bên tai nào của hắn không?”

“Một bên. Tai phải.”

“Có gì bất thường không?”

“Không.”

“Không hoa tai?”

“Không.”

“Dưới tai thì sao? Cổ hắn, anh thấy cổ hắn không?”

“Có.”

“Có gì khác thường không? Anh thấy gì?”

“Ừm, chả gì cả. Ừm, cổ hắn. Chỉ cổ hắn thôi.”

“Đây là bên phải hắn?”

“Ừ, phải.”

“Không có hình xăm trên cổ hắn?”

“Không. Không hình xăm.”

McCaleb lại thở ra lần nữa. Ông vừa mới loại xong Bolotov khỏi danh sách nghi phạm sau khi mất cả một ngày tìm chứng cứ buộc hắn làm nghi phạm.

“OK,” ông nói bằng giọng nhẫn nhục, “còn tay thì sao, anh có thấy tay hắn không?”

“Để trên vô lăng. Hai bàn tay nắm vô lăng.”

“Thấy gì khác thường không? Trên các ngón tay hắn có gì không?”

“Không.”

“Không có nhẫn?”

“Không.”

“Hắn có đeo đồng hồ không?”

“Đồng hồ thì có.”

“Loại gì?”

“Tôi không thấy. Chỉ thấy dây đeo thôi.”

“Dây loại gì? Màu gì?”

“Màu đen.”

“Đeo bên tay nào, trái hay phải?”

“Bên... phải. Tay phải.”

“OK, anh có thấy và mô tả được hắn mặc quần áo gì không?”

“Chỉ cái sơ mi thôi. Màu sẫm. Áo lạnh cộc tay màu xanh dương sẫm.”

McCaleb cố nghĩ xem hỏi gì khác nữa. Nỗi thất vọng vì không thể gặp được một manh mối trọng yếu nào cho đến giờ khiến ông không thể tập trung được. Cuối cùng, ông nghĩ đến một điều gì đó mà ông đã bỏ qua.

“Kính xe, James. Có cái nhãn dính hay gì đó kiểu vậy trên kính xe không?”

“Ừm, không. Tôi không thấy.”

“OK, giờ nhìn kính chiếu hậu xem. Có gì trên đó không? Kiểu như treo hay là móc vào đó ấy?”

“Không thấy gì cả.”

Giờ thì McCaleb ngồi lọt thỏm vào trong ghế. Thật là tai họa. Họ không thể đưa người này ra tòa làm nhân chứng nữa, họ vừa loại bỏ một nghi phạm tiềm năng, thế mà tất cả những gì họ thu được chỉ là mô tả chi tiết một cái mũ bóng chày và một chiếc Cherokee không trầy không mẻ. Ông biết bước kế tiếp để đưa Noone tiến tới là bảo anh ta mô tả hình ảnh cuối cùng khi anh ta thấy chiếc Cherokee vọt đi, nhưng chắc hẳn nếu biển số đằng trước đã bị che lại thì biển đằng sau cũng vậy.

“Được rồi, James, giờ ta tua nhanh đến thời điểm chiếc Cherokee vụt ngang qua anh và anh giơ tay lên chửi thằng cha đó.”

“OK.”

“Phóng to biển số xe, được chứ?”

“Nó bị che lại mà.”

“Bằng gì?”

“Một tấm khăn hay cái áo phông. Tôi không biết. Cũng như đằng trước.”

“Lùi lại. Anh có thấy gì khác thường ở phần đuôi xe không?”

“Ừmmm, không.”

“Nhãn dính trên cái hãm xung? Hay có thể là tên của đại lý bán xe ở đằng sau?”

“Không, chẳng có gì như thế cả.”

“Trên cửa sổ có gì không? Có nhãn dính nào không?”

McCaleb nhận thấy nỗi tuyệt vọng trong giọng của chính mình.

“Không, chả có gì.”

McCaleb nhìn Winston mà lắc đầu.

“Còn gì nữa không?”

Winston lắc đầu.

“Chị có muốn bảo họa sĩ vào không?”

Chị lại lắc đầu.

“Chị chắc không?”

Chị lắc đầu lần nữa. McCaleb lại chuyển sự chú ý về Noone mặc dù ông không ngăn được ý nghĩ đây là một canh bạc mất nhiều mà chưa thu lại được gì.

“James này, trong vài hôm nữa tôi muốn anh suy nghĩ về những gì anh đã thấy vào đêm hai mươi hai tháng Giêng và nếu có gì mới nảy ra trong đầu, nếu anh nhớ lại bất kỳ chi tiết nào khác thì hãy gọi cho Thám tử Winston, thế nhé?”

“Được.”

“Tốt. Giờ tôi sẽ đếm ngược từ năm và trong khi tôi làm vậy, anh sẽ cảm thấy cơ thể mình sung sức trở lại và anh sẽ càng lúc càng trở nên tỉnh thức, cho đến khi tôi nói ‘Một’ thì anh hoàn toàn tỉnh thức. Anh sẽ có một mức năng lượng rất cao và cảm thấy như anh vừa ngủ tám tiếng đồng hồ. Anh sẽ tỉnh như sáo suốt đường đến Las Vegas nhưng khi anh đi ngủ đêm nay, anh sẽ ngủ ngon lành không trằn trọc gì cả. Thế được chứ?”

“Được.”

McCaleb đưa anh ta ra khỏi thôi miên, và rồi Noone nhìn Winston với ánh mắt dò hỏi.

“Mừng anh trở lại,” McCaleb hỏi. “Anh cảm thấy thế nào?”

“Chắc là rất ổn. Kết quả tôi làm thế nào?”

“Anh làm tốt. Anh có nhớ chúng ta đã nói về gì không?”

“Có, chắc là có.”

“Tốt. Anh nên vậy. Nhớ rằng nếu anh lại chợt nhớ ra bất cứ điều gì, hãy gọi cho Thám tử Winston.”

“Phải.”

“Vậy thôi, chúng tôi không muốn giữ anh lâu hơn nữa. Anh còn phải lái xe một chặng dài.”

“Không sao, tôi đã lường trước là sẽ không thể rời khỏi đây trước bảy giờ mà. Các vị cho tôi về thế là sớm đấy.”

McCaleb nhìn đồng hồ rồi nhìn lại Noone.

“Bây giờ gần bảy rưỡi rồi.”

“Cái gì?”

Anh ta nhìn đồng hồ của mình, mặt lộ rõ vẻ ngạc nhiên.

“Những người trong trạng thái thôi miên thường mất ý niệm về thời gian,” McCaleb nói.

“Tôi cứ ngỡ nãy giờ chỉ khoảng mười phút thôi chứ.”

“Bình thường thôi mà. Người ta gọi đó là thời gian bị rối.”

McCaleb đứng dậy, họ bắt tay nhau, rồi Winston tiễn anh ta ra cửa. McCaleb lại ngồi xuống chắp hai tay vào nhau trên đỉnh đầu. Ông mệt lử và ước gì chính mình đang cảm thấy thoải mái như vừa ngủ đẫy một giấc tám tiếng đồng hồ.

Cửa vào phòng thẩm vấn mở ra, Đội trưởng Hitchens bước vào. Mặt anh ta có cái vẻ khó đăm đăm dễ dàng nhận ra ngay.

“Nào, anh nghĩ sao?” anh ta vừa hỏi vừa ngồi xuống bàn cạnh cây kéo.

“Như anh thôi. Thất bại. Chúng ta có một mô tả tốt hơn về chiếc xe, nhưng thế thì vẫn chỉ thu hẹp diện tình nghi xuống còn chục ngàn gì đó. Rồi ta có cái mũ, nhưng mũ kiểu ấy thì còn nhiều hơn thế nhiều.”

“Đội Cleveland Indians?”

“Gì kia? À, hai chữ CI phải không? Có thể, nhưng tôi nghĩ nếu là đội ấy thì trên mũ họ còn có một tay da đỏ nhỏ xíu nữa kia.”

“Đúng, đúng. Nào... thế còn Molotov thì sao?”

“Bolotov.”

“Thế nào cũng được. Giờ thì hẳn chúng ta loại hắn ra được rồi.”

“Chắc thế.”

Hitchens chắp tay vào nhau, rồi thì sau một hồi im lặng ngượng ngập, Winston bước vào đứng đó, hai tay thọc trong túi áo khoác ngắn tay.

“Arrango với Walters đâu?” McCaleb hỏi.

“Đi rồi,” chị nói. “Mấy người đó tâm không phục.”

McCaleb đứng lùi lại, bảo Hitchens rằng nếu anh ta tụt khỏi bàn thì hãy kê bàn về chỗ cũ rồi lắp lại mấy bóng đèn lên trần. Hitchens bảo cứ yên tâm. Anh ta bảo McCaleb rằng ông làm thế đủ rồi, và McCaleb hiểu anh ta nói thế là có nhiều nghĩa chứ không chỉ một.

“Vậy thì chắc tôi đi thôi,” ông nói. Chỉ vào tấm kính, ông nói thêm: “Anh xem liệu đến lúc nào đó tôi có thể lấy một bản copy cuốn băng video hay bản ghi lại không? Đến lúc nào đấy tôi sẽ cần xem. May ra nảy được ý gì đó để mà tiếp tục.”

“Ờ, Jaye có thể sang cho ông một cuốn. Chúng tôi có máy sang băng. Nhưng còn về chuyện tiếp tục, tôi thấy vụ này chẳng mấy cần thiết phải tiếp tục. Rõ là tay này không thấy mặt hung thủ còn biển số thì bị che kín. Còn gì để nói nữa chứ?”

McCaleb không đáp. Sau đó tất cả rời phòng, Hitchens đẩy ghế của mình về phòng mình còn Winston dẫn McCaleb vào phòng video. Chị nhặt một cuốn băng trống trên giá rồi đút vào một máy thu gắn sẵn vào cái máy vừa ghi hình buổi thôi miên.

“Này, tôi vẫn nghĩ rằng thử thế này cũng đáng,” McCaleb nói khi chị ấn nút để bắt đầu sang từ cuốn này sang cuốn nọ.

“Đừng lo, làm cũng đáng mà. Tôi thất vọng chỉ là bởi kết quả ít ỏi quá, rồi cũng còn bởi chúng ta đã mất gã người Nga, chứ không phải vì chúng ta đã làm việc này. Tôi biết đội trưởng nghĩ gì, còn mấy gã bên cảnh sát Los Angeles tôi không thèm quan tâm, tôi thì tôi thấy vậy đó.”

McCaleb gật đầu. Chị thật tử tế khi nói ra như vậy và làm ông nhẹ nhõm. Nói gì thì nói, chính ông đã nằng nặc bảo hãy dùng thôi miên và rồi kết quả thật quá ít ỏi. Lẽ ra chị đã có thể đổ hết trách nhiệm lên đầu ông.

“Này, nếu Hitchens trách móc chị thì cứ đổ hết sang cho tôi. Bảo anh ta rằng tại tôi cả.”

Winston không đáp. Chị rút cuốn băng vừa sao ra khỏi máy, nhét vào vỏ đựng rồi đưa cho McCaleb.

“Để tôi tiễn anh ra,” chị nói.

“Không, không sao. Tôi biết đường.”

“OK, Terry, giữ liên lạc nhé.”

“Dĩ nhiên rồi.” Họ đang ra khỏi hành lang thì Terry chợt nhớ một chuyện. “Này, chị đã nói với đội trưởng về vụ DRUGFIRE chưa?”

“Ồ phải, chúng tôi sẽ làm chuyện đó. Mai sẽ có một bưu kiện gửi đi bằng FedEx. Tôi đã gọi cho anh bạn anh ở D.C. bảo là nó sẽ tới chỗ anh ta.”

“Tuyệt. Chị nói với Arrango không?”

Winston nhíu mày lắc đầu.

“Về cơ bản, tôi hiểu rằng bất cứ ý tưởng gì từ anh ra, Arrango đều không quan tâm. Tôi không nói với anh ta.”

McCaleb gật đầu, chào với theo chị rồi đi về phía cửa ra. Ông đi bộ qua bãi đỗ xe, mắt dò tìm chiếc Taurus của Buddy Lockridge. Ông chưa kịp tìm ra xe thì một chiếc xe khác trờ tới bên cạnh ông. McCaleb nhìn qua thì thấy Arrango ngồi ở băng ghế khách đang nhìn lên ông.

McCaleb chuẩn bị tinh thần đối phó với cơn khoái trá hả hê của tay thám tử này trước chuyện buổi thôi miên chẳng mấy thành công.

“Gì đây?” ông nói.

Ông tiếp tục đi và chiếc xe cứ chạy rề rề song song với ông.

“Chả gì sất,” Arrango nói. “Đây chỉ muốn bảo ấy rằng màn diễn của ấy khá lắm. Bốn sao. Sáng mai việc đầu tiên tụi này làm sẽ là phát điện tín về vụ cái dây đồng hồ.”

“Hay đấy, Arrango.”

“Chỉ cần nhớ rằng cái buổi thôi miên nho nhỏ của ấy đã làm tụi này mất một nhân chứng, mất một nghi phạm mà có lẽ chả bao giờ là nghi phạm, thế mà chả đem lại cho tụi này được cái đếch gì.”

“Chúng ta đã có được nhiều hơn trước… Tôi không hề nói rằng anh ta sẽ cho chúng ta biết cái địa chỉ trời đánh của hung thủ.”

“Ừ, được, tụi này đoán ra hai chữ CI trên cái mũ có nghĩa gì rồi. Complete Idiot, tức là Ngu Như Bò ấy, chắc hung thủ nó nghĩ về tụi này như vậy đấy.”

“Nếu nghĩ vậy thì hắn đã nghĩ từ lâu rồi chứ không phải đợi đến tối nay.”

Arrango chẳng biết trả lời thế nào.

“Này,” McCaleb nói, “các anh cần nghĩ tới nhân chứng của các anh. Ellen Taaffe.”

“Thôi miên như vầy á?”

“Đúng thế.”

Arrango quát lên ra lệnh cho Walters dừng xe. Gã mở toang cửa rồi nhảy ra. Gã tiến lại sát sạt McCaleb, mặt hai người cách nhau chỉ mươi phân. Đủ gần để McCaleb nghe được mùi hơi thở gã. Ông đoán tay thám tử này có cất một chai bourbon trong ngăn để găng tay.

“Nghe đây, đồ cớm trung ương kia, đằng ấy tránh khỏi nhân chứng của đây cho xa đi nhớ, mẹ kiếp. Ấy tránh cho xa khỏi vụ của đây đi nhớ, mẹ kiếp.”

Nói xong gã không quay lưng đi. Gã vẫn đứng đó, hơi thở sặc mùi whisky làm bỏng rát mũi McCaleb. McCaleb vừa mỉm cười vừa chầm chậm gật đầu như thể ông vừa mới nắm quyền sở hữu một bí mật lớn.

“Anh quả thực lo, phải không?” ông nói. “Anh lo rằng tôi sẽ làm hỏng bét vụ này. Anh lo không phải là lo cho vụ án thực sự, về những người mất mạng hay bị tổn thương vì vụ này. Anh chỉ không muốn để tôi làm những gì anh không làm được thôi.”

McCaleb đợi lời đáp lại nhưng Arrango không nói gì.

“Vậy thì cứ lo đi, Arrango.”

“Gì? Bởi vì ấy sẽ làm nát bét vụ này chắc?”

Gã phá lên cười một cách giả tạo ẩn chứa nhiều hiểm độc hơn là hài hước.

“Bởi vì tôi sẽ cho anh biết một bí mật nho nhỏ,” McCaleb nói. “Anh biết Gloria Torres chứ? Nạn nhân mà anh đếch thèm quan tâm ấy? Tôi được người ta trao trái tim cô ấy.”

McCaleb vừa vỗ vỗ vào ngực vừa nhìn lại gã.

“Tôi được trái tim cô ấy. Tôi sống vì cô ấy chết. Điều đó khiến tôi dấn vào vụ này bằng toàn bộ tâm trí và sức lực tôi. Cho nên tôi không quan tâm anh cảm thấy thế nào, Arrango à. Có giẫm lên chân anh hay gì gì tôi cũng đếch quan tâm. Anh là một tay cà khịa khó chơi, tốt thôi, cứ cà khịa khó chơi đi. Chuyện đó tôi chịu được, không sao cả. Nhưng tôi sẽ không lùi bước khỏi chuyện này chừng nào chúng ta chưa tóm được thằng đó. Anh hay tôi hay ai bắt được cũng vậy thôi. Nhưng tôi sẽ làm vụ này cho đến cùng.”

Họ trừng trừng nhìn nhau một lát, rồi McCaleb nhấc tay phải lên bình thản đẩy Arrango ra.

“Tôi phải đi, Arrango. Gặp anh sau.”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,467
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 18


Ông nằm mơ thấy bóng tối. Một bóng tối di động, giống như máu loang trong nước, với những hình bóng lao vun vút ở vùng rìa mà ông chỉ nắm bắt được bằng mắt sau khi chúng đã đi qua.

Có đến ba lần trong đêm ông sực tỉnh bởi sự báo thức bên trong nào đó. Ngồi dậy quá nhanh nên bị chóng mặt, ông phải đợi và lắng nghe nhưng rồi chẳng có gì, trừ tiếng gió len qua hàng chục cột buồm trong vũng neo thuyền. Lần nào ông cũng trở dậy xem xét cả thuyền, nhìn khắp vũng tìm Bolotov mặc dù ông nghĩ chắc gì hắn sẽ xuất hiện. Rồi ông vào buồng tắm đo nhiệt độ, nhịp tim, huyết áp. Lần nào tình trạng cũng không thay đổi, thế là ông lại quay về vùng nước tối đen của cùng một giấc mơ vô phương giải mã đó.

Đúng chín giờ sáng thứ Sáu chuông điện thoại thức ông dậy. Đó là Jaye Winston.

“Anh dậy chưa?”

“Rồi. Chỉ là hôm nay bắt đầu muộn thôi. Có gì vậy?”

“Có chuyện gì vậy, tôi mới vừa nghe Arrango nói, anh ta bảo tôi một chuyện làm cho tôi rất không yên tâm.”

“Ồ thế à? Gì vậy?”

“Anh ta kể cho tôi nghe anh lấy tim từ đâu.”

McCaleb xoa tay lên mặt. Ông quên béng mất mình đã nói cho Arrango biết.

“Chị không yên tâm điều gì hở Jaye?”

“Vì tôi muốn giá như anh kể cho tôi mọi chuyện. Tôi không ưa bí mật này nọ, Terry ạ. Cái gã chả ra gì đó gọi cho tôi khiến cho tôi cảm thấy mình là đứa chả ra gì bởi tôi là người cuối cùng biết chuyện này.”

“Chị biết hay không thì có gì khác nhau nào?”

“Đây là một thứ xung đột lợi ích, phải không nào?”

“Không. Không phải xung đột. Chị hỏi tôi thì đây, nó chỉ thúc đẩy mạnh hơn thôi. Nó làm tôi muốn bắt được thằng này còn hơn cả người của chị. Có gì khác làm chị không yên tâm nữa không nào? Có phải là về Noone không?”

“Không, không phải. Tối qua tôi bảo anh rồi, tôi ủng hộ chuyện đó mà. Hôm qua đội trưởng có chì chiết tôi chút đỉnh nhưng tôi vẫn nghĩ chuyện đó mình phải làm.”

“Tốt. Tôi cũng nghĩ thế.”

Sau đó có một thoáng im lặng ngập ngừng. McCaleb vẫn nghĩ còn có gì đó chị muốn nói nên ông đợi chị nói.

“Này, đừng có tự động làm gì về vụ này đấy nhé, được không?” Winston nói.

“Ý chị là sao?”

“Tôi không rõ nữa. Chỉ là tôi không biết anh dự định làm gì. Mà tôi thì không muốn cứ phải lo ngay ngáy về chuyện anh toan tính làm gì vì cái sự ‘thúc đẩy mạnh hơn’ như anh nói.”

“Tôi hiểu. Thậm chí đây không phải là điểm để tranh cãi nữa kia, Jaye ạ. Như tôi vẫn nói, nếu tôi tìm được gì, tôi sẽ báo ngay cho người của chị. Kế hoạch vẫn là thế mà.”

“OK, được rồi.”

“Tốt lắm.”

Ông đã định đặt máy xuống thì lại nghe giọng chị. “Nhân thể, hôm nay viên đạn được gửi tới bạn anh rồi. Mai anh ta sẽ nhận được nếu có làm việc vào thứ Bảy. Nếu không thì thứ Hai.”

“Tốt.”

“Nếu anh ta tìm được gì thì anh sẽ cho tôi biết chứ?”

“Anh ấy sẽ cho chị biết đầu tiên. Là chị gửi mà.”

“Đừng nói chuyện vớ vẩn nữa đi, Terry à. Anh ta là người của anh, anh ta sẽ gọi anh. Mong là sau đó anh ta sẽ mau mau gọi cho tôi.”

“Tôi sẽ bảo đảm là anh ấy gọi.”

Một lần nữa ông đã toan gác máy thì lại nghe tiếng chị.

“Thế hôm nay anh định sẽ làm gì?”

Thật ra chuyện đó ông chưa nghĩ tới.

“Chà... Tôi chả biết nữa. Tôi chưa rõ sẽ đi đâu. Tôi muốn thẩm vấn lại các nhân chứng về Gloria Torres nhưng Arrango đã đe tôi ra trò nếu tôi lân la lại gần họ.”

“Chỉ thế thôi à?”

“Tôi không biết. Tôi đang nghĩ hay là hôm nay chỉ loanh quanh trên thuyền, có thể rà lại lần nữa đống hồ sơ với băng, xem liệu có nảy ra gì không. Xưa nay tôi vẫn luận ra khá nhanh ngay khi đọc lần đầu, nhưng thấu đáo thì không.”

“Chà, thế thì nghe chừng chán lắm. Hầu như cũng chán chả khác gì tôi ngày hôm nay.”

“Lại lên tòa à?”

“Giá mà được vậy. Thứ Sáu tòa nghỉ. Thế nghĩa là tôi sẽ phải dành cả ngày lo việc giấy tờ. Chạy cho kịp. Tốt nhất là tôi bắt tay làm luôn. Gặp anh sau, Terry. Nhớ điều anh nói đấy nhé. Có tin gì thì gọi tôi đầu tiên.”

“Chị sẽ được tin,” ông đồng ý.

Cuối cùng chị gác máy và ông ngã phịch lại xuống giường, ôm điện thoại vào bụng. Sau vài phút cố nhớ lại những giấc mơ hồi đêm, ông nhấc điện thoại lên rồi gọi dịch vụ thông tin để lấy số phòng cấp cứu của bệnh viện Holy Cross.

Gọi và xin gặp Graciela Rivers xong, ông đợi gần một phút thì cô nhấc máy. Giọng nàng có vẻ hấp tấp hối hả. Rõ là ông gọi không đúng lúc. Suýt nữa thì ông gác máy, nhưng lại đoán có thể nàng đã đồ chừng đấy là ông gọi. “Alô?”

“Tôi xin lỗi. Chắc tôi gọi nhằm lúc cô đang bận làm gì đó.”

“Ai đấy?”

“Terry đây.”

“Ồ, Terry, chào. Không, chả phải không đúng lúc đâu. Tôi vừa nghĩ chắc là chuyện gì về Raymond đây. Ở đây tôi không hay có người gọi điện lắm.”

“Thế thì tôi xin lỗi đã làm cô lo.”

“Không sao. Ông ốm à? Nghe như chả phải giọng ông. Thậm chí tôi còn không nhận ra nữa là.”

Nàng bật cười gượng trong điện thoại. Ông nghĩ nàng bối rối vì đã không nhận ra giọng ông.

“Tôi đang nằm ngửa đây,” ông nói. “Cô đã bao giờ làm thế khi gọi điện lên cơ quan cáo ốm chưa? Làm thế thì nghe như mình đang ốm thật ấy.”

Lần này tiếng cười của nàng nghe mới thật.

“Không, tôi chưa thử thế bao giờ. Tôi phải nhớ mới được.”

“Phải thế chứ. Mẹo hay đấy. Cô có thể dùng.”

“Nào có gì đây? Công việc thế nào?”

“Về vụ ấy thì không tốt lắm. Hôm qua tôi cứ đinh ninh chúng tôi đã nắm được gì rồi nhưng rồi lại đâm vào ngõ cụt. Hôm nay tôi sẽ phải nghiền ngẫm lại mọi thứ.”

“Được rồi.”

“Tôi gọi là vì tôi đang tự hỏi ngày mai thì sao. Liệu cô có nghĩ đến chuyện đưa Raymond xuống đây để tôi đưa cháu nó ra chỗ mấy tảng đá không.”

“Đá á?”

“Đê chắn sóng ấy mà. Ở đó câu cá hay lắm. Hầu như sáng nào tôi cũng ra đó, lúc nào cũng đông người, xếp hàng dài kia nhé.”

“Vâng, từ khi hai dì cháu rời khỏi chỗ ông tối hôm nọ Raymond cứ nói mãi không thôi về chuyện ấy. Nên tôi cũng đang định thế đây. Miễn là đối với ông không có vấn đề gì.”

McCaleb đắn đo, nghĩ về Bolotov mà tự hỏi liệu hắn có thể là một mối đe dọa không. Nhưng ông muốn gặp Graciela và chú bé. Ông cảm thấy mình cần gặp họ.

“Nghe như là việc này nên để lần khác thì hơn,” khi đó nàng nói.

“Không,” ông nói, bóng ma Bolotov biến mất khỏi tâm trí ông. “Chỉ là tôi đang nghĩ thôi. Tôi muốn hai dì cháu xuống đây. Sẽ vui lắm đấy. Với lại tôi có thể nấu bữa tối mà đêm hôm nọ lẽ ra tôi phải nấu.”

“Vậy thì tốt.”

“Rồi thì hai dì cháu nên ở lại đêm. Tôi có nhiều phòng lắm. Hai phòng ngủ này, rồi bàn nơi phòng khách có thể gập lại thành giường thứ ba nữa này.”

“Rồi, ta sẽ xem. Tôi muốn giữ một số thứ luôn không thay đổi trong cuộc sống của Raymond. Giường của nó chẳng hạn.”

“Tôi hiểu.”

Họ trò chuyện thêm một chút về việc thu xếp chuyến đi, và nàng đồng ý xuống chỗ vũng neo thuyền vào sáng hôm sau. Gác máy xong, ông vẫn nằm trên giường, điện thoại để trên bụng.

Ý nghĩ của ông vương vấn nơi Graciela. Ông thích ở bên nàng và ý nghĩ được cùng nàng suốt ngày thứ Bảy làm ông mỉm cười. Nhưng rồi ý nghĩ về Bolotov lại xộc vào. McCaleb cẩn thận cân nhắc tình hình rồi thì quyết rằng Bolotov chẳng thể là mối đe dọa nào cả. Hầu hết các mối đe dọa được nói ra lời đều chẳng bao giờ được thực hiện. Cho dù Bolotov có muốn đi nữa, hắn cũng khó mà tìm được Biển Theo Ta. Và cuối cùng, gã người Nga không còn là một nghi phạm trong các vụ giết người này nữa.

Những ý nghĩ này dẫn tới câu hỏi kế tiếp. Nếu hắn không phải là nghi phạm thì tại sao hắn chạy trốn? McCaleb nghĩ đến lời giải thích của Winston đêm qua. Bolotov không phải là hung thủ nhưng có lẽ hắn đã phạm tội gì khác. Hắn chạy trốn.

McCaleb dẹp chuyện đó sang một bên, bò ra khỏi giường và rốt cuộc cũng dậy.

Sau khi nuốt trôi một cốc cà phê, McCaleb đi xuống phòng làm việc thu thập đống báo cáo và mấy cuốn băng rồi đem lên phòng khách. Ông mở cửa trượt cho thuyền thoáng khí rồi ngồi xuống, bắt tay rà soát có phương pháp tất cả các cuốn băng kèm theo từng vụ án.

Hai mươi phút sau, ông đang xem vụ bắn Gloria Torres đến lần thứ ba liên tiếp thì nghe tiếng Buddy Lockridge đằng sau lưng.

“Cái quái gì thế?”

McCaleb quay lại thì thấy Lockridge đứng nơi cửa phòng khách để ngỏ. Ông đã không cảm thấy anh ta lên thuyền. Ông chộp cái điều khiển từ xa tắt phụp màn hình đi.

“Là cuốn băng thôi mà. Anh làm gì ở đây?”

“Trình diện để làm nhiệm vụ.”

McCaleb ngớ ra nhìn anh ta.

“Hôm qua anh bảo sáng nay cần tôi mà.”

“Ồ, phải. Ờ, chắc là tôi... hôm nay tôi chỉ làm việc ở đây thôi. Nếu có chuyện gì thì chắc anh cũng chỉ loanh quanh gần đây thôi chứ?”

“Chắc vậy.”

“OK, cám ơn.”

McCaleb đợi anh ta đi nhưng Lockridge vẫn đứng đấy.

“Gì vậy?”

“Anh đang làm là làm vụ này đây phải không?” Lockridge chỉ cái tivi mà hỏi.

“Ừ, Buddy ạ, nó đấy. Nhưng tôi không kể với anh được đâu. Là chuyện riêng.”

“Thì thôi vậy.”

“Còn gì nữa nào?”

“Ừm, này, hôm nào là ngày trả công?”

“Trả công á? Anh nói là nói... ồ, ý là trả cho anh hả? Ồ, khi nào cũng được. Anh cần ít tiền à?”

“Kiểu thế. Hôm nay có thể tôi dùng ít tiền.”

McCaleb đi lại chỗ quầy phòng khách nơi ông để ví tiền và chìa khóa. Khi mở ví, ông tính rằng mình đã sử dụng Buddy trong không quá tám giờ. Ông lấy ra sáu tờ hai mươi đô đưa cho Buddy. Anh ta vừa xòe mấy tờ bạc ra trên hai tay vừa bảo thế là nhiều quá.

“Một phần là tiền xăng,” McCaleb giải thích. “Còn chỗ thêm vào là trả công anh ngồi đợi và luôn túc trực chờ tôi gọi. Thế được chứ?”

“Với tôi thế là tốt quá. Cám ơn, Terror.”

McCaleb mỉm cười. Ngay từ đêm đầu tiên gặp nhau, khi mà McCaleb nổi khùng vì tiếng kèn harmonica, Lockridge đã gọi ông như thế rồi.

Cuối cùng Lockridge cũng về và McCaleb trở lại làm việc. Trong khi xem lại mấy cuốn băng, ông chẳng thấy nảy ra được điều gì quan trọng, thế là ông chuyển sang mớ giấy tờ. Khi đọc lại lần này ông không bị thúc ép về thời gian nên cố gắng hấp thụ kỹ từng chi tiết một trên từng trang một.

Ông khởi sự xem xét theo chiều ngược lại, trước hết là vụ Kang-Torres. Nhưng càng đọc các báo cáo vụ án và tóm lược điều tra, ông càng chẳng tìm thấy gì khác ngoài sự mâu thuẫn giữa các mốc thời gian mà ông đã xây dựng trước đây, điều đã khiến ông nhận ra có gì không ổn và cần điều tra thêm cho rõ. Mặc dù không ưa tính cách của Arrango và thói tự mãn của Walters, ông không tìm được chỗ nào sai hay có điều gì bị hai người này bỏ sót.

Cuối cùng, ông cầm tới báo cáo giám định pháp y và các bức ảnh bị nhiễu chụp xác Gloria Torres. Từ trước đến giờ mấy bức ảnh này ông không xem. Có lý do hẳn hoi. Ảnh chụp xác chết xưa nay luôn luôn là cách để ông nhớ các nạn nhân. Ông thấy họ khi họ đã chết chứ không phải khi họ sống. Ông thấy kẻ khác đã làm gì với họ. Trong lần đọc đầu tiên hồ sơ án mạng, ông đã quyết định rằng ông không cần thấy các ảnh chụp Gloria. Đó không phải là những gì ông muốn hay cần biết về cô.

Nhưng lúc này, hễ có cái gì là ông cố nắm lấy cái đó, cho nên ông xem mấy bức ảnh thật kỹ. Máy photo sao chụp bằng chất lượng tồi làm các chi tiết bị mờ, khiến cho tác động gây ra cũng nhẹ đi. Ông lật nhanh mấy bức ảnh rồi trở lại bức đầu. Đó là thân thể lõa lồ của Gloria đặt trên bàn thép, chụp trước khi tiến hành khám nghiệm pháp y. Một vết cắt dài, do bác sĩ giải phẫu rạch ra để lấy nội tạng, chạy dài giữa bầu ngực rồi xuống xương ức. McCaleb cầm bức ảnh bằng cả hai tay mà nhìn mãi một hồi thân thể bị xâm phạm của cô, lòng tràn ngập cảm xúc lẫn lộn giữa buồn bã và nóng bừng vì thấy mình có lỗi.

Điện thoại reo làm ông giật mình. Ông chộp điện thoại trước khi nó reo lần nữa.

“Vâng?”

“Terry? Là bác sĩ Fox đây.”

McCaleb lật úp mấy bức ảnh trên bàn xuống, chẳng hiểu vì sao.

“Anh có đó không?”

“Có, chào chị. Chị khỏe không?”

“Tôi khỏe. Còn anh?”

“Tôi cũng khỏe, bác sĩ ạ.”

“Anh đang làm gì vậy?”

“Làm gì á? Tôi chỉ ngồi suông thôi mà.”

“Terry này, anh hiểu tôi muốn nói gì mà. Anh quyết định thế nào về yêu cầu của cô kia? Của bà chị ấy.”

“Tôi, ờ...” Ông lật ngửa lại bức ảnh rồi nhìn. “Tôi quyết định là tôi cần phải xem xét kỹ vụ này.”

Chị chẳng nói gì nhưng ông mường tượng chị ngồi nơi bàn, nhắm mắt lắc đầu.

“Tôi xin lỗi,” ông nói.

“Tôi cũng xin lỗi,” chị nói. “Này Terry, thật tình tôi không nghĩ là anh hiểu những rủi ro của việc anh đang làm.”

“Tôi nghĩ là tôi hiểu, bác sĩ ạ. Tuy nhiên, e là tôi không có cách nào khác.”

“Tôi cũng vậy, e là chẳng có cách nào.”

“Chị muốn nói gì?”

“Ý tôi là tôi e không thể tiếp tục làm bác sĩ cho anh nếu đúng là anh định làm việc đó. Rõ ràng anh chẳng coi trọng lời khuyên của tôi hoặc không cảm thấy mình nên làm theo chỉ thị của tôi. Anh đang chọn theo đuổi việc của mình thay vì chọn sức khỏe. Tôi không thể cứ ở bên anh trong khi anh làm việc đó được.”

“Chị sa thải tôi đấy à, Bác sĩ?”

Ông bật cười một cách áy náy.

“Không đùa đâu. Có thể đó là việc của anh. Anh thì cho đó là đùa, rằng anh là kẻ bất khả chiến bại.”

“Không, tôi không cảm thấy mình bất khả chiến bại.”

“Hà, lời nói và việc làm của anh không đi với nhau. Thứ Hai này tôi sẽ bảo một trong mấy trợ lý thu thập hết hồ sơ của anh rồi tập trung hai ba bác sĩ tim mạch mà tôi có thể giới thiệu anh tới.”

McCaleb nhắm mắt lại.

“Này bác sĩ... Tôi chả biết nói sao bây giờ. Chúng ta đã ở bên nhau bao lâu nay. Chị không cảm thấy mình có nghĩa vụ làm việc này tới cùng sao?”

“Nghĩa vụ phải từ cả hai phía. Nếu trước thứ Hai này anh không gọi cho tôi thì tôi buộc phải cho rằng anh sẽ tiếp tục làm vụ này. Tôi sẽ chuẩn bị sẵn hồ sơ ở văn phòng đây cho anh.”

Chị gác máy. McCaleb ngồi lặng thinh, điện thoại vẫn kẹp vào tai cho đến khi tiếng tút tút bắt đầu vang lên báo hiệu máy bên kia đã gác rồi.

McCaleb đứng dậy đi ra ngoài. Từ buồng lái ông nhìn khắp vũng neo thuyền và bãi đỗ xe. Chẳng thấy dấu hiệu nào của Buddy Lockridge hay bất kỳ ai khác. Không khí thật tĩnh lặng. Ông tựa người lên phía sau thuyền nhìn xuống nước. Nước sẫm quá không nhìn thấy đáy. Ông nhổ nước bọt xuống nước và cùng với nó cũng theo luôn nỗi e ngại trong lòng ông đối với mệnh lệnh của Fox. Ông quyết rằng mình sẽ không lay chuyển.

Tấm ảnh nằm đó trên bàn đợi ông khi ông quay lại. Ông lại nhặt ảnh lên săm soi kỹ một lần nữa, lần này mắt ông lần ngược theo cơ thể từ dưới lên đến mặt. Có một thứ chất mỡ màu tối nào đó ở trên cặp mắt, và rồi ông nhớ ra rằng có lẽ người ta đã lấy cặp mắt đi cùng với các cơ quan nội tạng.

Ông lưu ý thấy có ba lỗ thủng nhỏ dọc theo gờ tai trái kéo dài xuống dái tai. Bên tai phải thì chỉ có một lỗ.

Ông đã toan đặt bức ảnh sang một bên thì chợt nhớ rằng trước đây ông có đọc qua một bản báo cáo tài sản, nó liệt kê các vật mà ở bệnh viện người ta đã lấy ra khỏi người bệnh nhân rồi giao nộp cho cảnh sát.

Tò mò muốn đoán chắc rằng mọi chi tiết đều được kiểm tra, ông trở lại chồng hồ sơ lục tìm bản liệt kê tài sản. Ngón tay ông dò từ trên xuống dưới danh mục quần áo cho đến khi gặp đầu đề nhỏ liệt kê phụ kiện và nữ trang.

PHỤ KIỆN VÀ NỮ TRANG

1. Đồng hồ Timex

2. Ba hoa tai (2 trăng lưỡi liềm, một vòng bạc)

3. Hai nhẫn (đá quý, bạc)

Ông ngẫm nghĩ một hồi, nhớ lại rằng trên cuốn video quay vụ nổ súng rõ ràng là Gloria Torres đeo tổng cộng bốn hoa tai. Vòng bạc, trăng lưỡi liềm và chữ thập treo toòng teng bên tai trái. Tai phải thì chỉ có một trăng lưỡi liềm. Số đếm này không khớp với bản liệt kê tài sản, trong đó chỉ ghi ba hoa tai. Nó cũng chẳng ăn nhập với số lỗ bấm thấy rõ trên hai tai Gloria trong bức ảnh làm bằng chứng.

Ông bật ti vi, nghĩ mình nên xem lại cuốn băng, nhưng lại thôi. Ông tin chắc. Ông đã không tưởng tượng là có gì đó giống như một chữ thập. Bằng cách nào đó nó đã không được người ta tính tới.

Một câu hỏi chưa giải được. Ông gõ gõ ngón tay lên bản báo cáo tài sản, cố nghĩ xem đây có phải là một chi tiết đáng chú ý hay không. Chuyện gì đã xảy ra cho cái hoa tai chữ thập? Tại sao nó không có trong danh mục?

Ông xem đồng hồ thì thấy đã mười hai giờ mười. Giờ này Graciela chắc đang ăn trưa. Ông gọi tới bệnh viện xin được chuyển tới nhà ăn chính. Khi một phụ nữ trả lời, ông hỏi liệu bà ta có thể đến chỗ cô nữ y tá ngồi nơi bàn cạnh một trong mấy cửa sổ và nhắn tin cho cô ấy không. Khi người phụ nữ ngần ngừ, McCaleb liền mô tả Graciela và cho biết tên nàng. Người đàn bà bên kia đầu dây miễn cưỡng hỏi ông muốn nhắn gì.

“Chỉ cần nhắn cô ấy là ngay khi nào có thể thì gọi cho bác sĩ McCaleb.”

Năm phút sau ông có người gọi lại.

“Bác sĩ McCaleb?”

“Xin lỗi, tôi phải nói vậy để cho chắc là bà ấy nhắn cho cô.”

“Có gì vậy?”

“Tôi đang rà lại hồ sơ vụ án thì thấy có một chỗ mắc mứu chưa tường. Báo cáo liệt kê tài sản nói là ở bệnh viện người ta đã tháo hai hoa tai hình trăng lưỡi liềm và một hoa tai dạng vòng ra khỏi tai em cô sau khi người ta đưa cô ấy vào.”

“Đúng, người ta phải tháo ra để chụp cắt lớp mà. Họ muốn nhìn cho rõ đường đi của vết thương.”

“OK, thế còn cái hoa tai chữ thập cô ấy đeo nơi tai trái thì sao? Trong báo cáo tài sản chẳng nói gì tới...”

“Đêm đó nó không đeo hình chữ thập. Tôi luôn nghĩ chuyện ấy thật lạ. Cứ như vận rủi ấy, bởi đó là cái con bé rất thích. Con bé thường đeo nó hàng ngày kia mà.”

“Như là một dấu hiệu cá nhân,” McCaleb nói. “Ý cô là vào đêm đó cô ấy không đeo cái chữ thập?”

“Bởi vì khi cảnh sát đưa lại cho tôi các thứ - đồng hồ này, nhẫn này, hoa tai này - thì không có cái chữ thập. Con bé không đeo mà.”

“Cô chắc không? Trên băng video cô ấy có đeo.”

“Video nào?”

“Chỗ cửa hàng.”

Nàng nín thinh một lát.

“Không, không thể có chuyện đó. Tôi tìm thấy cái đó trong hộp nữ trang của con bé. Tôi đưa cho bên mai táng để họ đặt lên người con bé khi đem chôn, đúng là thế mà.”

Giờ đến lượt McCaleb lặng thinh, rồi thì ông luận ra.

“Nhưng cũng có thể cô ấy có hai cái chứ nhỉ? Tôi chả biết gì về hoa tai chữ thập, nhưng không phải các cô vẫn thường mua hoa tai thành cặp hay sao?”

“Ồ, ông nói phải. Tôi không nghĩ tới chuyện đó.”

“Vậy thì cái mà cô tìm thấy là cái thứ hai?”

Ông cảm thấy bên trong mình một sự khuấy động mà ông nhận ra ngay lập tức song đã bao lâu nay không hề cảm thấy.

“Tôi đoán...” Graciela nói. “Vậy nếu quả thật con bé có đeo một cái lúc vào cửa hàng ấy thì chuyện gì xảy ra với nó rồi?”

“Đó là chuyện tôi phải tìm cho ra đây.”

“Nhưng dù sao thì nó có liên quan gì?”

Ông im lặng một thoáng, nghĩ xem nên trả lời ra sao. Ông quyết định rằng điều mình đang nghĩ hiện thời chỉ đang là quá suy đoán, chưa thể chia sẻ với nàng được.

“Chỉ là một điểm chưa rõ mà tôi phải lần cho rõ. Cho tôi hỏi điều này, đó có phải loại hoa tai mà mình cứ thế đeo vào, hay là loại có một cái khóa móc để bảo đảm là không dễ rơi ra? Cô hiểu ý tôi chứ? Nhìn trên băng video thì không biết được.”

“Có. Ừm, tôi nghĩ chắc là có một cái móc, đeo vào rồi thì kiểu như mình bấm một cái. Chắc không phải nó bị rơi ra đâu.”

Trong khi nàng nói, McCaleb nhìn suốt chồng hồ sơ để tìm bản báo cáo cấp cứu. Ông lần ngón tay dọc theo các dòng của ô thông tin cho đến khi tìm thấy số hiệu đội cấp cứu và tên hai nhân viên cấp cứu đã cứu chữa và đưa Gloria đi.

“OK, tôi phải đi đây,” ông nói. “Mai mình vẫn giữ đúng hẹn chứ?”

“Có chứ. Ừm, Terry này.”

“Sao?”

“Ông đã xem cuốn băng nơi cửa hàng rồi à? Ý tôi là xem hết cả? Ông đã thấy Glory...”

“Phải,” ông nói khẽ. “Tôi cần phải xem.”

“Con bé... nó có sợ lắm không?”

“Không, Graciela ạ. Nhanh lắm. Cô ấy chẳng bao giờ biết điều gì đang xảy tới với mình đâu.”

“Có lẽ vậy thì tốt.”

“Tôi nghĩ vậy... Nghe này, cô rồi sẽ ổn chứ?”

“Tôi ổn mà.”

“Vậy thôi nhé. Mai sẽ gặp cô.”

Hai nhân viên y tế đã đưa Gloria đi hôm đó làm việc ở Trạm Cứu hỏa số 76. McCaleb gọi nhưng phân đội trực đêm hôm 22 tháng Giêng đang nghỉ cho tới Chủ nhật. Tuy nhiên, trạm trưởng cho biết rằng theo chính sách của ban về cái gọi là “chuyên chở nạn nhân tội ác” thì bất cứ tài sản cá nhân nào rơi rớt trên băng ca hoặc tìm thấy ở bất cứ đâu trong xe cứu thương đều phải được giao nộp cho cảnh sát quản lý. Thế nghĩa là nếu chuyện này đã xảy ra sau lần chuyên chở Gloria Torres thì hẳn sẽ có một báo cáo giao nhận tài sản trong hồ sơ án mạng. Thế mà lại không có. Chiếc hoa tai chữ thập vậy là đã không được tường trình.

Sự mỉa mai mà McCaleb mang trong lòng, bên cạnh trái tim của một người xa lạ, là niềm tin thầm kín rằng người được cứu sống đáng ra không phải ông. Lẽ ra phải là ai khác mới phải. Suốt nhiều ngày nhiều tuần trước khi nhận được tim của Gloria, ông đã sẵn sàng cho chung cục đời mình. Ông đã chấp nhận nó như là đương nhiên phải thế, không khác được. Từ lâu ông không còn tin vào Chúa trời nữa - những điều rùng rợn ông từng tận mắt thấy và tìm cho ra chứng cứ đã từng tí từng tí một xói mòn trữ lượng đức tin của ông, cho đến khi điều tuyệt đối độc nhất ông vẫn còn tin là những hành vi ác của con người thật không có giới hạn. Và trong những ngày có vẻ như là cuối cùng đó của đời ông, khi trái tim của chính ông cứ kiệt quệ dần và đập nốt những nhịp cuối cùng, ông đã không tuyệt vọng bám víu lấy đức tin đã mất của mình như một tấm khiên hay một phương tiện hầu giúp vơi đi nỗi sợ trước điều chưa biết. Thay vì vậy, ông chấp nhận chung cục của mình, sự hư vô của chính mình. Ông đã sẵn sàng.

Đó đâu phải là việc khó. Hồi còn làm ở FBI, ông bị thôi thúc và chiếm lĩnh hoàn toàn bởi một sứ mệnh, một thiên chức. Rồi khi ông đã thực hiện được sứ mệnh hay thiên chức đó, thực hiện thành công, ông biết mình đang làm nên sự khác biệt. Hơn bất cứ ca giải phẫu tim nào, ông đang cứu nhiều mạng người thoát khỏi những kết cục thảm khốc. Ông vẫn hằng đối mặt với những loại cái ác tồi tệ nhất, những chứng ung thư hiểm độc nhất, và cuộc chiến đó, dẫu luôn luôn vắt kiệt sức và đau đớn, nó đem lại ý nghĩa cho cuộc đời ông.

Điều đó đã qua đi từ khi trái tim ông từ bỏ ông và ông gục xuống sàn phòng tác chiến, trong đầu cứ tin chắc mình bị ai đó đâm vào ngực. Điều đó vẫn đã qua đi khi mãi hai năm sau đó điện thoại reo và người ta cho biết đã tìm được tim cho ông.

Ông đã được thay tim mới nhưng không cảm thấy mình có một cuộc đời mới. Ông là người sống trên một con thuyền không bao giờ rời cảng. Dù ông có dùng bao nhiêu trích dẫn cũ xì về cơ hội thứ hai này nọ khi nói với một nhà báo thì rồi cũng vậy thôi, sống kiểu đó là không đủ đối với McCaleb. Ông đang đương đầu với cuộc chiến đấu ấy thì Graciela Rivers từ trên bến bước xuống thuyền và bước vào cuộc đời ông.

Cuộc tìm kiếm nàng trao cho ông là một cách để tránh né cuộc đấu tranh ở bên trong ông. Nhưng giờ đây mọi chuyện đột ngột đổi khác. Chiếc hoa tai chữ thập bị thất lạc đánh động cái gì đó sâu thẳm đang ngủ yên trong ông. Kinh nghiệm lâu năm đã cho ông tri giác và trực cảm đích thực về cái ác. Ông biết các dấu hiệu của nó.

Đây là một trong số đó.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,467
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 19


Suốt tuần qua McCaleb đến văn phòng chuyên án giết người của cảnh sát trưởng thường xuyên đến nỗi cô tiếp tân chỉ ngoắc ông vào mà không gọi điện thoại hay bảo người theo hộ tống. Jaye Winston ngồi nơi bàn, đang dùng một cái dập ba lỗ để chọc lỗ một xấp hồ sơ mỏng, đoạn luồn xấp hồ sơ qua mấy cái ngạnh chĩa lên của một kẹp hồ sơ để mở. Chị gập kẹp hồ sơ lại rồi nhìn lên vị khách mới đến.

“Anh tiến được thêm bước nào không?”

“Thấy như là có. Chị có chạy kịp việc giấy tờ không?”

“Thay vì có bốn tháng tôi chỉ có hai tháng thôi. Có gì không? Hôm nay tôi có hẹn gặp anh đâu nhỉ.”

“Chị vẫn còn giận vì tôi giấu chị chuyện đó à?”

“Chuyện gì qua rồi thì cho qua.”

Chị ngả người vào lưng ghế, nhìn ông, đợi ông giải thích tại sao ông đến.

“Hình như tôi đã tìm được gì đó mà tôi cho là đáng xem xét kỹ,” ông nói.

“Lại là Bolotov à?”

“Không, cái này mới.”

“Này, đừng có làm thằng nhóc chơi trò ú tim với tôi đấy nhé, McCaleb.”

Chị mỉm cười.

“Không đâu.”

“Vậy nói tôi nghe.”

Ông đặt hai lòng bàn tay lên bàn rồi tựa mình vào đó để có thể nói với chị bằng giọng tâm tình, vẫn còn nhiều đồng nghiệp của Winston đây đó trong phòng, họ ngồi làm việc nơi bàn, cố làm cho xong việc trước cuối tuần.

“Arrango và Walters đã bỏ sót một thứ,” McCaleb nói. “Tôi cũng bỏ sót như thế khi nghiên cứu hồ sơ lần đầu. Nhưng sáng nay khi xem lại băng video và các báo cáo tôi đã khám phá được điều đó. Gì chứ điều này thì cần phải xem xét khá nghiêm túc. Tôi nghĩ nó làm mọi chuyện thay đổi đấy.”

Winston nhíu mày nhìn ông nghiêm nghị.

“Thôi đừng nói vòng vo nữa. Họ bỏ sót gì nào?”

“Có lẽ tôi nên cho chị xem hơn là nói với chị,” ông với tay xuống sàn mở túi xách da của mình ra. Ông rút ra bản sao cuốn băng giám sát của cửa hàng, chìa lên cho chị thấy. “Ta đi xem cái này được chứ?”

“Chắc là được.”

Winston đứng dậy đi trước dẫn đường tới phòng video. Chị bật máy rồi đút cuốn băng vào sau khi nhìn và nhận thấy đó không phải một trong mấy cuốn băng chị đã đưa McCaleb hôm thứ Tư.

“Gì đây?”

“Băng giám sát nơi cửa hàng.”

“Không phải cái tôi đưa anh.”

“Là bản sao mà. Cuốn kia tôi đang cho người khác xem.”

“Anh bảo thế là sao? Ai kia?”

“Một kỹ thuật viên tôi quen biết hồi còn làm ở Cục. Chỉ là tôi đang muốn người ta làm sao cho hình rõ hơn thôi. Đâu phải chuyện gì ghê gớm.”

“Vậy anh cho tôi xem gì đây?”

Chị cho quay cuốn băng.

“Muốn dừng hình thì ở đâu?”

Winston chỉ một nút trên bảng điều khiển, thế là McCaleb liền để hờ một ngón tay lên đó, chờ đúng thời điểm. Trên băng Gloria Torres lại gần quầy và mỉm cười với Kang. Thế rồi hung thủ đến và phát súng quật người cô ngã dúi dụi xuống quầy. McCaleb dừng hình rồi móc túi lấy một cây bút trỏ vào tai trái Gloria.

“Ở đây hơi mờ nhưng nếu phóng to lên chị có thể thấy cô ấy đeo bên tai này ba cái hoa tai tất cả,” ông nói. Đoạn ông vừa gõ bút vào từng điểm một trên cái tai vừa nói thêm, “Một cái hình trăng lưỡi liềm đính trên khuy, một cái dạng vòng, rồi thì một cái hình chữ thập treo toòng teng nơi dái tai.”

“OK. Tôi không thấy rõ lắm nhưng tôi tin rằng đúng như anh nói.”

McCaleb lại nhấn nút dừng hình và băng tiếp tục chạy. Ông dừng hình đúng lúc xác Gloria bật về phía sau, đầu cô xoay sang trái.

“Tai phải,” ông nói, lại trỏ bút vào điểm đó. “Chỉ có một trăng lưỡi liềm khớp với bên kia.”

“OK, thế nghĩa là gì?”

Ông phớt lờ câu hỏi mà chỉ lại nhấn nút. Súng nổ. Gloria gục xuống quầy rồi lại bật ngửa ra sau dúi dụi vào người hung thủ. Hắn vừa giữ cô trước ngực vừa nã súng vào ông Kang đồng thời lùi lại cho đến khi ra khỏi tầm nhìn của ống kính và hạ Gloria xuống sàn nhà.

“Sau đó nạn nhân được hạ xuống sàn, thoát khỏi khung hình.”

“Gì cơ, anh bảo hắn làm thế là có chủ ý?”

“Chính xác.”

“Tại sao?”

Ông lại mở túi xách, rút ra bản báo cáo liệt kê tài sản đưa cho Winston.

“Đây là báo cáo cảnh sát liệt kê tài sản của nạn nhân. Điền ở bệnh viện. Nhớ là lúc đó cô ấy còn sống. Họ thu đồ đạc của cô ấy ở đấy, giao cho một cảnh sát tuần tra. Ấy là báo cáo của anh ta. Chị không thấy gì trong đó nào?” Winston nhìn qua trang giấy.

“Tôi không biết. Chỉ là danh mục gồm... cái hoa tai chữ thập à?”

“Đúng vậy. Nó không có đó. Hắn lấy rồi.”

“Tay tuần tra á?”

“Không. Là hung thủ. Hung thủ lấy hoa tai của cô ấy.”

Một vẻ bối rối hiện lên trên mặt Winston. Chị không theo được lôgic câu chuyện. Chị không có cùng những trải nghiệm hoặc thấy cùng những điều mà McCaleb đã thấy và trải nghiệm. Chị không hiểu ra ngay thế có nghĩa là gì.

“Đợi chút đã,” chị nói. “Làm sao anh biết là hắn lấy? Cũng có thể nó rơi ra rồi thất lạc thôi.”

“Không. Tôi có nói chuyện với chị của nạn nhân, rồi nói chuyện với cả bệnh viện và mấy nhân viên cấp cứu nữa.”

Ông biết nói thế là phóng đại những gì ông đã điều tra về khía cạnh này, nhưng ông cần phải thuyết phục Winston bằng được. Ông không thể cho chị một lối thoát nào, một cách nào để đi đến kết luận khác ngoài kết luận của ông.

“Cô chị nói cái hoa tai ấy có một cái móc an toàn. Khó mà rơi ra được. Mà dù nó có rơi thì nhân viên cấp cứu cũng không tìm thấy trên cáng hoặc trong xe cứu thương, mà ở bệnh viện cũng không tìm thấy. Hắn lấy rồi Jaye ạ. Hung thủ lấy. Ngoài ra, nếu như nó rơi ra dù đã có móc an toàn đi nữa thì chắc hẳn là khi hung thủ nã đạn. Chị thấy tác động lên đầu nạn nhân rồi đó. Nếu cái hoa tai có bị lỏng ra thì ắt là lúc đó. Chỉ có điều không phải vậy. Nó bị tháo ra.”

“Được rồi, được rồi, nếu hắn lấy thì sao nào? Tôi không nói là tôi đã tin, nhưng anh bảo nếu đúng vậy thì có nghĩa là gì nào?”

“Nó có nghĩa là mọi chuyện thay đổi hết. Nghĩa là đây không phải một vụ cướp. Cô ấy không phải là một người hoàn toàn vô tội vô can bước vào không đúng chỗ và không đúng lúc. Nó có nghĩa cô ấy chính là đích ngắm.

Cô ấy là con mồi.”

“Ồ, thôi nào. Cô ta... Anh đang định làm gì đây, biến vụ này thành một kẻ giết người hàng loạt hay gì đó sao?”

“Tôi không định biến nó thành gì hết. Nó là thế, có vậy thôi. Mà ngay từ đầu nó đã luôn luôn vậy. Chỉ là người của chị - ý tôi là chúng ta - không thấy được thực chất nó là gì.”

Winston quay đi khỏi ông, vừa tiến về góc phòng vừa lắc đầu. Rồi chị quay lại chỗ ông.

“Thôi được, nói tôi nghe xem anh thấy gì ở đây. Bởi tôi thì tôi không thấy. Tôi rất muốn qua bên Sở cảnh sát Los Angeles đặng bảo hai thằng xuẩn đó rằng chúng làm ăn như mèo mửa, nhưng thực tình là tôi không thấy những gì anh đang thấy.”

“Được rồi, ta hãy bắt đầu từ chính cái hoa tai. Như tôi nói, tôi có nói chuyện với cô chị. Cô ta bảo Glory Torres ngày nào cũng đeo cái ấy. Những cái khác thì cô ấy nghịch tùy thích, thay cái này đổi cái nọ, kết hợp kiểu này kiểu khác, nhưng cái chữ thập thì không bao giờ. Nó luôn luôn có đó. Ngày nào cũng đeo. Rõ là nó có những hàm ý tôn giáo nếu như không có mô tả nào hay hơn, nó còn là bùa may của cô ấy nữa. Được chứ? Chị theo kịp tôi đấy chứ?”

“Tới đây thì kịp.”

“Tốt, giờ ta giả sử hung thủ lấy nó. Như tôi nói, tôi đã nói chuyện với bệnh viện và bên trạm cứu hỏa, nó chẳng hề xuất hiện cả chỗ này lẫn chỗ kia. Thành thử hãy đặt giả thiết là hắn lấy.”

Ông xòe hai tay ra giơ lên, chờ đợi. Winston miễn cưỡng gật đầu tán thành.

“Vậy ta hãy nhìn chuyện đó từ hai góc độ. Như thế nào? Và tại sao? Cái đầu thì dễ. Nhớ lại cuốn băng xem. Hắn bắn cô ấy rồi để cô ấy bật ra khỏi quầy mà ngã về phía sau, đổ vào người hắn rồi gục xuống sàn, ra khỏi khung hình camera. Hắn có thể lấy cái hoa tai mà không bị người ta thấy.”

“Anh quên một điều.”

“Là gì?”

“Người Tốt bụng. Anh ta đã băng bó đầu cô ấy. Có thể anh ta lấy.”

“Chuyện đó tôi cũng có nghĩ tới. Không phải là không có khả năng. Nhưng khó xảy ra hơn là hung thủ. Người Tốt bụng chỉ là nhân vật tình cờ xuất hiện thôi. Tại sao anh ta lấy, để làm gì chứ?”

“Tôi không biết. Vậy sao lại là hung thủ?”

“Thì như tôi nói, vấn đề là ở đó. Nhưng hãy nhìn xem hắn lấy cái gì. Một biểu tượng tôn giáo, một cái bùa may mắn. Ngày nào cô ấy cũng đeo. Đó là một dấu hiệu cá nhân, tầm quan trọng có tính cá nhân của nó lớn hơn bất cứ giá trị bằng tiền nào.”

Ông dừng lại đợi một nhịp. Ông chỉ vừa bày ra phông cảnh, giờ mới là lúc tung ra khúc cao trào. Winston đang ra sức cưỡng lại không tin, nhưng McCaleb vẫn thấy rõ rằng với tư cách thám tử chị có những kỹ năng gì. Rồi chị sẽ thấy rõ điều ông đang nói. Ông tự tin mình sẽ thuyết phục được chị.

“Kẻ nào quen biết Gloria thì ắt biết tầm quan trọng của cái hoa tai. Tương tự, kẻ nào theo cạnh cô ấy, quan sát kỹ cô ấy suốt nhiều ngày hay còn lâu hơn thì cũng có thể hiểu được điều đó.”

“Anh muốn nói một kẻ bí mật rình mò cô ấy.”

McCaleb gật đầu.

“Trong giai đoạn thu thập thông tin. Hắn quan sát cô ấy. Tìm hiểu thói quen của cô ấy, lên kế hoạch. Hắn cũng sẽ tìm kiếm một cái gì đó. Một dấu hiệu. Cái gì đó để chiếm đoạt lấy và qua đó mà nhớ đến cô ấy.”

“Cái hoa tai.”

Ông lại gật. Winston bắt đầu đi tới đi lui trong căn phòng nhỏ, không nhìn McCaleb.

“Chuyện này tôi phải suy nghĩ đã. Tôi phải... Ta đến chỗ nào có thể ngồi được đi.”

Chị không chờ trả lời. Chị mở cửa rồi ra khỏi phòng. McCaleb nhanh chóng lấy băng ra, túm lấy túi xách rồi theo sau. Winston dẫn ông vào phòng họp nơi họ đã trò chuyện vào hôm đầu tiên McCaleb đến gặp chị về vụ này. Phòng không có người nhưng nghe mùi như một nhà hàng McDonald’s. Winston đi lùng quanh, tìm thấy cái giỏ rác vốn là thủ phạm của mùi đó ở dưới bàn, liền điệu nó ra ngoài hành lang.

“Lý ra trong phòng này người ta không được phép ăn,” chị vừa nói vừa đóng cửa rồi ngồi xuống.

McCaleb ngồi vào ghế đối diện với chị.

“Thôi được, nếu thế còn anh chàng của tôi thì sao? James Cordell thì ăn nhập gì vào đây? Trước hết, anh ta là đàn ông. Cô kia thì là nữ. Lại nữa, không có sex. Cô ấy không hề bị đụng tới.”

“Mấy chuyện đó chả quan trọng gì hết,” McCaleb nói nhanh. Ông vốn vẫn chờ câu hỏi này. Trong suốt thời gian ngồi xe cùng Buddy Lockridge từ vũng neo thuyền đến đây, ông đã chẳng làm gì khác ngoài nghĩ đến các câu hỏi cùng những câu trả lời ông có thể trả lời. “Nếu tôi đoán đúng thì vụ này nằm trong cái mà chúng ta từng gọi là mô hình giết người vì quyền lực. Về cơ bản, ai đó làm việc này là bởi hắn có thể làm mà không ai phát hiện ra. Hắn có thể làm mà vẫn nhơn nhơn ngoài vòng pháp luật. Đó là cách của hắn để cười vào mũi chính quyền và gây sốc cho xã hội. Hắn chuyển những vấn nạn của hắn trong một hoàn cảnh cụ thể - dù đó là việc làm, giá trị bản thân, đàn bà nói chung hay mẹ hắn nói riêng hay gì đi nữa - sang cho cảnh sát. Các điều tra viên. Từ chỗ đùa giỡn với họ, hắn bàng hoàng nhận ra cái giá trị bản thân mà hắn đang cần. Hắn lấy từ đó ra một dạng quyền lực. Đó có thể là quyền lực tính dục, cho dù không có một biểu hiện tính dục hiển nhiên hay bằng thể xác nào trong tội ác mà hắn thực sự gây ra. Chị còn nhớ vụ Sát thủ Mật mã cách đây chưa lâu chứ? Hay vụ Berkowitz, tên giết người Con của Sam ở New York?”

“Dĩ nhiên.”

“Cả hai tên ấy đều như thế cả. Cả vụ này lẫn vụ kia đều chẳng có gì là sex nhưng kỳ thực toàn bộ đều là sex đấy. Nhìn Berkowitz mà xem. Hắn bắn người ta - nam cũng như nữ - rồi chạy trốn. Nhưng vài hôm sau hắn quay lại hiện trường mà thủ dâm. Chúng ta đã giả định là Sát thủ Mật mã cũng làm hệt vậy, nhưng nếu hắn có làm thật thì các nhóm giám sát của ta đã bỏ qua. Điều tôi muốn nói là, nó không nhất thiết phải lộ rõ ra là sex, có thế thôi Jaye ạ. Không phải lúc nào cũng là cái hạng điên khùng đi khắc tên mình lên da người khác đâu.”

McCaleb quan sát kỹ Winston, dè chừng để sẵn sàng tranh luận với chị. Song dường như chị hiểu giả thuyết của ông.

“Nhưng không chỉ vậy,” McCaleb nói tiếp. “Ở đây còn có một phần nữa. Hắn còn chường mặt ra trước khung hình máy quay nữa.”

“Hắn muốn chúng ta thấy hắn làm chuyện đó?”

McCaleb gật đầu.

“Đó là chước mới. Tôi nghĩ hắn khoái cái máy quay. Hắn muốn công trình và chiến tích của hắn được người ta ghi lại, chứng kiến, ngưỡng mộ. Nó làm tăng thêm nguy hiểm cho hắn và do vậy cũng làm tăng lên biểu hiện của quyền lực nơi hắn. Phần thưởng cho hắn. Thành thử để đạt được tình huống đó, hắn làm gì? Tôi nghĩ hắn chọn một cái đích - hắn chọn con mồi - rồi thì theo dõi họ cho đến khi nắm được thói quen hàng ngày của họ, biết được khi nào thì họ đến những nơi kinh doanh mua sắm có lắp camera. Máy rút tiền, chợ búa. Hắn muốn có camera. Hắn nói chuyện vào camera. Hắn nháy mắt với nó. Camera chính là chị đấy - kẻ điều tra vụ án. Hắn nói chuyện với chị rồi thì hắn chuồn êm.”

“Vậy thì có thể hắn không chọn nạn nhân,” Winston nói. “Có thể hắn chả bận tâm chuyện đó. Chỉ cần camera thôi. Như Berkowitz ấy. Hắn thì bắn ai cũng vậy thôi. Hắn cứ ra khỏi nhà gặp ai bắn nấy.”

“Nhưng Berkowitz không lấy đồ lưu niệm.”

“Cái hoa tai á?”

McCaleb gật.

“Chị thấy không, lấy của nạn nhân một cái gì đó để lưu niệm thì đã là có tính cá nhân rồi. Tôi nghĩ các nạn nhân đó đều bị chọn. Chứ không phải là ngược lại.”

“Chuyện này anh đã suy ngẫm từ đầu tới cuối rồi phải không?”

“Chưa phải thế đâu. Tôi còn chưa biết hắn chọn họ như thế nào hay vì sao. Nhưng đúng là tôi cứ nghĩ về chuyện đó mãi. Nghĩ suốt một tiếng rưỡi ngồi xe từ chỗ bọn tôi đến đây. Đường sá đông quá sức.”

“Bọn tôi?”

“Tôi có người lái xe. Tôi chưa được lái mà.”

Chị không nói gì. McCaleb ước giá như mình đừng nhắc tới người lái xe. Nói thế là để lộ ra điểm yếu của mình.

“Chúng ta cần phải bắt đầu lại,” McCaleb nói. “Bởi chúng ta cứ nghĩ những người đó được chọn ngẫu nhiên. Chúng ta cứ nghĩ hung thủ chọn là chọn địa điểm chứ không chọn nạn nhân. Nhưng tôi thì cho rằng ngược lại mới đúng. Hắn chọn là chọn nạn nhân. Họ là con mồi. Là những cái đích cụ thể mà hắn kiếm được, theo sát, rình mò. Chúng ta cần phải tìm hiểu sâu về nhân thân họ. Ắt phải có một điểm giao cắt nào đó. Một cái gì đó chung. Một người, một nơi chốn... một điểm trong thời gian... một cái gì đó nối liền hoặc họ với nhau hoặc họ với nghi phạm chưa biết của chúng ta. Chúng ta tìm…”

“Đợi đã, đợi đã.”

McCaleb ngừng nói, nhận ra rằng giọng mình đã cất cao lên vì cuồng nhiệt.

“Thế trường hợp James Cordell thì sao, hung thủ lấy gì làm kỷ niệm? Anh bảo hắn lấy tiền khỏi máy ATM để làm kỷ niệm hay sao?”

“Tôi không biết hắn lấy gì nhưng tiền thì không phải. Tiền chỉ là một phần của cái màn diễn cướp của thôi. Tiền không phải là một món sở hữu có tính biểu tượng. Hơn nữa, hắn lấy tiền là từ máy chứ không phải từ Cordell.”

“Vậy thì sao, anh cầm đèn chạy trước ô tô phỏng?”

“Không. Tôi tin chắc hắn đã lấy cái gì đó.”

“Nếu có thì lẽ ra chúng ta phải thấy chứ. Chúng ta xem hết trên băng rồi còn gì.”

“Chẳng ai phát hiện ra trong vụ Gloria Torres mà vụ ấy thì cũng trên băng video đấy thôi.”

Winston xoay người trên ghế.

“Tôi không biết. Vụ này tôi vẫn thấy như là... Để tôi hỏi anh điều này nhé. Có điều anh cố đừng coi hỏi thế này là hơi có tính cá nhân quá. Liệu đây chẳng phải là anh đang tìm kiếm cái mà trước đây anh vẫn luôn luôn tìm hay sao, hồi anh còn làm ở Cục ấy?”

“Ý chị là tôi toàn phóng đại lên chứ gì? Kiểu như tôi quay lại những gì vẫn làm hồi trước rồi thì tôi làm là làm cái kiểu này đây chứ gì?”

Winston nhún vai. Chị không muốn nói ra như thế.

“Chẳng phải tôi muốn tìm cho bằng được chuyện này đâu, Jaye ạ. Chuyện nó đã thế rồi. Nó thực sự là thế đấy. Ừ thì cái hoa tai cũng có thể có nghĩa gì đó khác. Mà cũng có thể chả có ý nghĩa gì sất. Nhưng nếu như có một điều mà tôi biết ở cái thế giới này thì nó là thế này. Những kẻ đó. Tôi biết chúng. Tôi biết chúng nghĩ gì và chúng hành động ra sao. Tôi cảm thấy nó ở đây Jaye ạ. Cái ác. Nó ở chính ngay đây.”

Winston nhìn ông với vẻ lạ lùng và McCaleb đoán có lẽ ông không nên quá thống thiết đến thế khi phản ứng lại những ngờ vực của chị.

“Xe của Cordell, chiếc Chevy Suburban ấy, nó không có trên băng. Chị có xử lý chiếc xe của anh ta không? Tôi chả thấy gì trong chồng hồ sơ chị đưa nói về...”

“Không, nó không bị đụng tới. Anh ta để cái ví mở ra trên ghế ngồi, chỉ lấy thẻ ATM mà đi lại chỗ máy rút tiền. Nếu hung thủ có chui vào xe thì hắn phải lấy cái ví chứ. Khi thấy cái ví vẫn còn đó thì chúng tôi cũng chẳng bận tâm nữa.”

McCaleb lắc đầu mà nói, “Bọn các chị vẫn nhìn chuyện đó dưới góc độ một vụ cướp. Quyết định không kiểm tra chiếc xe cũng có thể đúng - nếu như đó quả thực là vụ cướp. Nhưng nếu không phải thì sao? Hẳn là hắn sẽ không vào xe để lấy một cái gì hiển nhiên ai cũng thấy như cái ví.”

“Nếu vậy thì cái gì?”

“Tôi không biết. Một cái gì khác. Cordell dùng cái xe ấy suốt. Lái cả ngày dọc theo đường ống nước. Nó như cái nhà thứ hai của anh ta vậy. Có thể có hàng đống vật dụng mang tính cá nhân mà hung thủ có thể đã lấy. Ảnh chụp này, những thứ treo nơi kính băng sau này, có thể nhật ký hành trình này, hay gì gì nữa. Chiếc xe đâu rồi? Nói cho tôi vui đi nào, có phải nó vẫn đang bị cảnh sát giữ hay không?”

“Làm gì có chuyện. Hai ba hôm sau vụ đó là chúng tôi giao lại cho vợ anh ta.”

“Chắc giờ chị ta đã lau chùi nó sạch sẽ mà đem bán rồi.”

“Không đâu. Lần cuối tôi nói chuyện với vợ Cordell, cách đây hai ba tuần gì đấy, cô ta nói gì đó kiểu như là cô ta chẳng biết làm gì với chiếc Suburban cả. Nó to quá đối với cô ta, với lại nó cứ khiến cô ta bấn loạn tinh thần. Cô ta không dùng mấy từ ấy, nhưng tôi nói vậy là anh hiểu rồi đó.”

Một cơn phấn khích dâng lên trong lòng McCaleb.

“Vậy chúng ta lại đó kiểm tra chiếc Suburban đi, rồi nói chuyện với cô ta và hình dung xem cái gì đã bị lấy mất.”

“Nếu có gì đó bị lấy mất...”

Winston cau mày. McCaleb biết chị đang đối mặt với điều gì. Chị đang phải đối mặt với một vị đội trưởng mà vốn dĩ, sau vụ thôi miên và vụ Bolotov hoàn toàn đại bại, chắc hẳn đang nghĩ rằng chị bị một người ngoài điều khiển quá dễ dàng. Chị không muốn quay lại gặp ông ta với một giả thuyết mới của McCaleb chừng nào chị chưa chắc chắn rằng nó trăm phần trăm hoàn hảo. Mà McCaleb thì biết giả thuyết của ông chẳng bao giờ hoàn hảo cả. Chưa bao giờ.

“Chị định sẽ làm gì đây?” ông hỏi. “Như là tôi đã lên xe và sẵn sàng đi vậy. Chị có lên xe cùng tôi không hay vẫn đứng trên vỉa hè?”

Ông chợt nghĩ rằng ông không còn bị trói buộc bởi những mối lo kiểu đó cũng như bởi một công việc, một vai trò, một sức ì hay gì đó nữa. Hoặc Winston sẽ lên xe hoặc McCaleb có thể cứ thế đi mà không có chị. Rõ là chị cũng hiểu thế.

“Không,” chị nói. “Vấn đề là anh, anh thì định sẽ làm gì. Anh là người không phải đương đầu với những thứ chó chết ở đây như tôi. Sau cái vụ thôi miên ấy, Hitchens đã...”

“Tôi bảo này, Jaye. Mấy chuyện ấy tôi không quan tâm. Tôi chỉ quan tâm mỗi một điều: tìm cho ra thằng đó. Thành thử như vầy nhé. Chị cứ ngồi yên đi, cho tôi vài ngày. Tôi sẽ tìm ra gì đó. Tôi sẽ đến chỗ sa mạc ấy nói chuyện với vợ Cordell với lại nhìn qua cái xe. Tôi sẽ tìm ra gì đó để chị có cái mà đi gặp đội trưởng. Còn nếu không thì tôi nuốt lại giả thuyết của tôi. Chị có thể đá đít tôi và tôi sẽ không làm phiền chị nữa.”

“Này, chẳng phải là anh vừa…”

“Chị hiểu tôi muốn nói gì đấy. Chị còn phải đến tòa, còn những vụ khác nữa. Chị đâu cần phải nhọc công xới lại một vụ đã lâu rồi. Tôi hiểu nó là thế nào mà. Có lẽ tôi đến đây hôm nay là hơi sớm. Lẽ ra tôi cứ đến thẳng đó mà gặp chị vợ góa kia. Nhưng vì đây là vụ của chị và chị đã cư xử với tôi như với một con người nên tôi muốn gặp chị cho chắc ăn trước đã. Giờ thì chị chúc phúc tôi và cho tôi ít thời gian đi, rồi thì tôi tự đi một mình. Tìm được gì tôi cho chị biết ngay.”

Winston im lặng hồi lâu, cuối cùng chị gật đầu. “Thôi được, anh cứ làm đi.”
 
CHÚ Ý !!!
Các đạo hữu nhớ thêm TÊN CHƯƠNG và THỨ TỰ CHƯƠNG ở ô phía trên phần trả lời nhanh. Như vậy hệ thống mới tạo được DANH SÁCH CHƯƠNG.
Cập nhật chức năng ĐĂNG TRUYỆN và THÊM CHƯƠNG MỚI trên web Diễn Đàn Truyện tại https://truyen.diendantruyen.com
Top Bottom