Cập nhật mới

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
623,263
Điểm cảm xúc
35
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 20


- Nikki, mở cửa cho anh!

Santos đập liên tục lên cánh cửa kim loại án ngữ lối vào căn hộ áp mái.

- Anh biết là em đang ở trong đó!

Bực tức, anh đấm một cú thật mạnh lên mặt cửa bằng thép, nhưng chỉ khiến tay anh thêm đau điếng.

Mẹ kiếp!

Sau sáu tháng qua lại, Nikki chưa bao giờ đồng ý cho anh một chiếc chìa khóa.

Để mở được bức tường thành này, chắc phải cần đến máy ủi.

Anh xuống tầng trệt rồi đi một vòng quanh tòa nhà. Đúng như anh đoán, hai tầng trên cùng vẫn còn sáng đèn. Anh leo cầu thang thoát hiểm tới cửa sổ thì thấy một trong số chúng vẫn để mở. Anh lách vào phòng Jeremy.

- Nikki?

Anh ra hành lang, lướt nhanh qua từng phòng một. Căn hộ chẳng có ai, nhưng đã bị phá hoại. Tên khốn Larabee đã dắt mũi anh khi nói chỉ là một vụ cãi cọ!

Anh cố hiểu xem đã có thể xảy ra chuyện gì ở đây. Một vụ trộm, chắc chắn, nhưng tại sao Nikki lại tìm cách giấu anh chuyện đó?

Điện thoại di động của anh rung lên trong túi. Mazzantini đang sốt ruột. Santos ý thức được rằng thời gian đang gấp gáp và rằng anh nên khẩn trương tới hiện trường vụ trọng án ở quận Boomerang, nhưng anh vẫn quyết định không nghe cuộc gọi của viên thuộc cấp.

Cũng không hẳn đã biết mình đi tìm cái gì, Santos bắt đầu bằng việc lục lọi trong phòng của Jeremy, để bản năng của một cảnh sát điều tra chỉ đường. Rõ ràng đã có người lục soát kỹ càng căn phòng này. Chuyện đó liệu có liên quan gì tới vụ mất tích giả định của thằng bé? Anh xem xét chiếc hộp để bài poker nằm trên giường, chẳng mấy chốc cũng tìm ra hai thẻ bài bằng gốm và không chút nghi ngờ gì về công dụng của thật sự của chúng, anh hiểu ra rằng đây chính là một hướng điều tra cần chú trọng. Khi vào đến phòng tắm, anh không mấy ngạc nhiên về tình trạng lộn xộn nhưng rất kinh ngạc với các dấu chân và nước bắn lên quanh bồn cầu. Anh nghiêng người về phía trước thì phát hiện thứ cặn bột trắng còn vương lại trên bệ bồn cầu.

Anh gần như chắc chắn đây không phải là bột thông cống.

Cocain...

Để biết chắc, aanh dùng tăm bông thấm một ít cặn rồi cho vào một trong số túi ni lông anh luôn mang theo người.

Mặc cho chuyện này có vẻ khó tin, anh vẫn đoan chắc rằng kết quả phân tích sẽ khẳng định linh cảm của mình.

Bị thời gian thôi thúc, anh vẫn cho mình thêm năm phút nữa để tiếp tục cuộc “khám nhà”. Anh xuống tầng dưới, kiểm tra phòng khác, mở một vài ngăn kéo và dò xét các tầng giá. Đang chuẩn bị rời khỏi nhà, anh bỗng phát hiện thấy máy tính xách tay của Nikki đặt trên quầy bar. Anh lại gần và dựng màn hình notebook lên, màn hình bật sáng hiện lên giao diện trang web của Delta Airlines. Anh dò qua từng ứng dụng một, phát hiện một tệp tài liệu định dạng PDF chứa thông tinh về hai vé máy bay.

Anh bật ra một câu chửi thề rồi ném chiếc máy tính vào tường

Nikki và tên chồng cũ đã dự định bay tới Paris vào đêm nay...
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
623,263
Điểm cảm xúc
35
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 21


Màn đêm đã buông.

Chiếc Jaguar rời đường cao tốc đi vào nhà ga số 3 của sân bay JFK. Nó chạy qua cổng vào bãi đỗ “dài ngày” rồi men theo con dốc hình xoáy ốc xuống sâu lòng đất, nơi có sáu tầng hầm đỗ xe.

- Cô nhất định phải đi thay đồ, Sebastian vừa lùi xe vào chỗ đỗ vừa khẳng định.

Họ vội vã rời nhà mà không kịp tắm rửa hay thay đồ. Nikki nhìn lại quần áo trên người mình: từ đầu đến chân đều rách tả tơi và nhem nhuốc máu. Cô nhìn hình ảnh phản chiếu của mình trong gương chiếu hậu. Khuôn mặt cô vẫn in hằn các cú đánh, môi nứt nẻ, tóc vẫn bết.

- Nếu cô cứ để nguyên thế này mà vào ga thì chưa đầy ba phút là cảnh sát sẽ ập tới tóm chúng ta.

Cô với chiếc túi xách thể thao đặt ở băng ghế sau, nhanh chóng thay đồ, oằn người chui vào chiếc quần thể thao, mặc áo khoác nỉ có mũ, xỏ đôi giày thể thao rồi cột tóc lên. Họ đi thang máy đến tận khu vực khởi hành mà không gặp trở ngại gì ở cửa kiểm soát căn cước lẫn các cổng kiểm tra an ninh dẫn thẳng ra cửa lên máy bay.

Trong khi họ đang bước lên máy bay, điện thoại của Sebastian rung lên. Là Camille. Cô bé vẫn đang trên chuyến tàu đi đến Long Island để về nhà bà nội. Như thường lệ, chuyến tàu đi Long Island lại bị trễ giờ, nhưng con bé có vẻ phấn khích và nhất là dường như không còn tức tối anh nữa.

- Con nóng lòng được nếm món hạt dẻ bỏ lò của bà nội quá! Con bé hào hứng.

Mừng rỡ khi nghe thấy con gái có vẻ đang rất vui, Sebastian khẽ mỉm cười. Trong khoảnh khắc, anh nhớ lại những ngày hạnh phúc, khi hai đứa con sinh đôi của anh còn nhỏ và khi anh cùng Nikki dẫn chúng đi nhặt hạt dẻ trong rừng Maine: những cuộc dã ngoại, tiếng tí tách của vỏ hạt dẻ khi nứt vỡ, hơi ấm của than cháy trong lò sưởi, tiếng kim loại lanh canh từ chiếc chảo thủng, mùi thơm ngào ngạt khắp căn phòng, những ngón tay đen muội than, cảm giác sợ bị bỏng xen lẫn thích thú trong lúc tách vỏ những hạt đã chín...

- Bố mẹ có tin tức của Jeremy chưa?

Câu hỏi của Camille kéo anh về với thực tại.

- Bố mẹ sẽ tím lại được anh, con yêu, con đừng lo.

- Bố có đi cùng mẹ không?

- Có, bố chuyển máy cho mẹ đây.

Sebastian chìa điện thoại cho vợ cũ rồi tiến vào lối đi chính của chiếc Airbus. Đến chỗ của họ, anh xếp đồ vào ngăn để hành lý rồi ngồi xuống.

- Con nhớ phải báo tin cho bố mẹ nếu nhận được bất cứ tin tức gì từ anh con nhé, Nikki dặn dò con gái.

- Nhưng chính xác thì bố mẹ đang ở đâu? Camille hỏi.

- Ờ... trong máy bay, cô lúng búng.

- Cả hai ư? Để đi đâu ạ?

Cảm thấy khó xử, Nikki vội vã chấm dứt cuộc nói chuyện.

- Mẹ phải tạm biệt con rồi, con yêu. Máy bay sắp cất cánh. Yêu con.

- Nhưng mẹ ơi...

Nikki ngắt máy rồi trả lại điện thoại cho chồng cũ trước khi lách vào chỗ của mình ngay sát cửa sổ.

Sebastian nhìn cô ngồi lún sâu trong ghế, bám chặt lấy hai tay vịn. Từ hồi họ cưới nhau, cô vẫn luôn lo lắng mỗi khi phải đi máy bay. Theo thời gian, mọi chuyện rõ ràng cũng vẫn chưa có gì thay đổi.

Co ro trong ghế, cơ bắp thì cứng đờ, Nikki chăm chú quan sát các tiếp viên và săm soi các hành khách khác. Qua cửa sổ, cô dõi mắt với vẻ ngờ vực tới các xe chở nhiên liệu, xe chở hành lý và hàng trăm ngọn đèn làm dấu mốc cho đường cất cánh của máy bay. Một tiếng ồn nhỏ nhất, một hành vi đáng ngờ nhỏ nhất cũng khiến trí tưởng tượng của cô phác họa ra cả nghìn lẻ một kịch bản thảm họa.

Sebastian cố gắng nói lý với cô:

- Máy bay là phương tiện giao thông an toàn nhất...

- Anh bớt lời đi! Cô vừa quát lên với anh vừa co rúm lại trên ghế.

Cô thở dài rồi nhắm mắt lại. Cô đầu hàng dưới sức nặng của cơn mệt mỏi tích tụ, của tình trạng căng thẳng, của nỗi sợ hãi khi biết con trai gặp nguy hiểm, của tất cả những gì họ đã chịu đựng những giờ qua. Lẽ ra cô cần chạy bộ hai chục cây số hoặc đấm vào một bao cát để giải tỏa. Chứ không phải đối đầu với một trong những nỗi sợ hãi lớn nhất của cô thế này.

Cô thở gấp, họng thì khô khốc. Dĩ nhiên là cô đã không kịp mang theo ống thuốc an thần. Để quên đi hiện thực, cô chụp tai nghe chiếc máy nghe nhạc của con trai vào rồi để mặc âm nhạc cuốn đi, dần dần lấy lại được khả năng kiểm soát hơi thở.

Cô vừa mới cảm thấy thư giãn thì tiếp viên hàng không đã yêu cầu cô tắt iPod đi.

Nikki làm theo yêu cầu với vẻ khó chịu.

To kếch sù, kích cỡ quá khổ, chiếc A380 khổng lồ rốt cuộc cũng đi đến đầu đường băng và dừng lại một chút trước khi lấy đà cất cánh.

- Máy bay sắp cất cánh, cơ trưởng thông báo.

Viên phi công nhấn ga và chiếc máy bay đường dài nghiến lên mặt bê tông, khiến đường băng rung lên dưới sức nặng của nó.

Nikki cảm thấy chao đảo, rung lắc, cảm tưởng như đứt mạch máu não đến nơi.

Làm cho một cỗ máy nặng năm trăm tấn bay lên dường như chưa bao giờ là điều đương nhiên đối với cô. Không phải cô mắc chứng sợ không gian kín, mà thực ra cô không chịu nổi cảnh gò bó trên một chiếc ghế, không thể cử động gì trong suốt bảy đến tám tiếng đồng hồ. Một nỗi lo âu có thể nhanh chóng chuyển thành hoang mang, thậm chí hoảng loạn.

Trên tất cả, ngay khi vừa bước chân vào một chiếc máy bay, cô đã có cảm giác bị tước bỏ hoàn toàn tự do, không còn khả năng kiểm soát tình hình. Trong khi đó, cuộc đời lại chỉ cho cô rằng chỉ nên tin vào chính bản thân mình, cô không chịu đựng nổi việc bị phó thác cho một tay phi công xa lạ không nhìn thấy ở đâu cả.

Đến hết đường băng, con quái vật bằng thép khó nhọc nhấc thân hình nặng nề khỏi mặt đất. Cảm giác tức thở, bồn chồn, Nikki ngọ nguậy liên hồi trên ghế cho đến khi máy bay đạt được độ cao hơn bốn nghìn năm trăm mét. Ngay khi được cho phép, cô bật lại máy nghe nhạc rồi cuộn người vào chiếc chăn. Mười phút sau, trái với mọi sự chờ đợi, cô chìm vào giấc ngủ mà hai tay vẫn nắm chặt.

Khi chắc chắn Nikki đã ngủ say, Sebastian quay sang cô, tắt đèn ở khoang của cô, đắp chăn lại cho kín rồi tăng nhiệt độ điều hòa để cô không bị lạnh.

Dù không muốn anh vẫn ngồi ngắm cô ngủ trong nhiều phút. Giờ đây, trông cô như quá mỏng manh, trong khi đó, mới buổi chiều thôi, cô đã kiên cường bảo vệ mạng sống cho họ. Một tiếp viên nam hỏi anh có muốn uống gì không. Anh uống một hơi ly vodka on the rocks rồi xin thêm một ly nữa. Mắt anh cay xè vì mệt mỏi, một cơn đau âm ỉ và dai dẳng lan ra phía trên gáy khiến anh có cảm giác phía sau đầu mình đang bị kẹp trong một gọng kìm.

Anh day day thái dương để xoa dịu cơn đau. Giữa mớ lộn xộn rối tung trong đầu, anh cố tìm ra một ý nghĩa nào đấy cho sự phi lý của hoàn cảnh lúc này.

Họ đang bay đến những mối nguy hiểm quái quỷ gì chứ? Họ đang chiến đấu chống lại loại kẻ thù nào? Chúng căm hận Jeremy vì lý do gì? Tại sao họ lại điên cuồng đến mức không nhờ đến sự trợ giúp của cảnh sát? Làm sao chuyện này có thể kết thúc được theo cách nào khác ngoài cánh cửa nhà giam?

Mười hai giờ vừa qua là những thời khác nhiều thử thách nhất đời anh. Và cũng bất ngờ nhất. Anh vốn là người luôn lên kế hoạch cho cuộc đời mình đến từng chi tiết nhỏ nhất, không ngừng chiến đấu để loại bỏ mọi yếu tố bất ngờ và ra sức, với nỗi ám ảnh đến gàn dở, duy trì trong phạm vi một cuộc đời yên ổn, giờ đây lại bị nhấn chìm trong những điều lạ lẫm.

Chiều nay, anh phát hiện ra một xác chết đã bị phanh thây, vật lộn trong một vũng máu, cắt đứt họng một tên hộ pháp to cao gấp đôi anh... Và tối nay, anh lên đường sang châu Âu với người phụ nữ mà anh từng thề vĩnh viễn loại bỏ khỏi cuộc đời mình.

Anh cởi giày, nhắm mắt, nhưng tâm trí quá xáo trộn khiến anh không thể thiếp đi. Trong đầu anh, những hình ảnh về cuộc chém giết cứ dội về, chen lẫn với những hình ảnh từ đoạn phim về vụ tấn công Jeremy. Tuy nhiên, dần dàn, do tác động của cơn mệt mỏi và tiếng ro ro phát ra từ máy bay, một cảm giác uể oải bắt đầu khiến anh mê man, buộc anh thôi cảnh giác. Vì cố sức hiểu cho được ý nghĩa của ngày hôm nay, dòng suy tưởng đưa anh trở lại ngày anh gặp Nikki lần đầu tiên.

Một cuộc gặp gỡ-đụng độ như định mệnh.

Chuyện xảy ra cách đây mười bảy năm.

Vào ngày 24 tháng Chạp.

Tại New York.

Vài giờ trước Giáng sinh...

Sebastian

Mười bảy năm trước...

Tại sao mình lại không xoay sở từ trước nhỉ?

Từ đường Broadway đến đại lộ số 7, hiệu Macy’s chiếm trọn cả một dãy phố. Vào ngày 24 tháng Chạp như hôm nay, “cửa hàng lớn nhất thế giới” nhung nhúc người. Tuyết rơi dày suốt cả đầu giờ chiều đến giờ cũng không làm nản chí ngưới dân New York cũng như khác du lịch tới đây sắm sửa lần chót trước đêm Giáng sinh. Trong đại sảnh, trước một cây thông rất to, một dàn hợp xướng đang hát lại những ca khúc Giáng sinh, trong khi đám khách hàng và những kẻ hiếu kỳ chen chúc trên thang cuốn để rồi lại tản mát khắp mười tầng của trung tâm mua sắm uy tín này. Quần áo, mỹ phẩm, đồng hồ, đồ trang sức, sách, đồ chơi: trong thiên đường mua sắm này, mỗi người đều có một mục tiêu riêng.

Mình tìm cái gì ở đây cơ chứ?

Một cậu nhóc quá phấn khích xô đẩy tôi, một bà già giẫm lên chân tôi, đám đông khiến tôi quay cuồng. Lẽ ra tôi không nên liều mạng xông vào chốn thù địch này. Tôi đã toan quay bước, nhưng có vẻ như tôi khó lòng mà về dự bữa tiệc Giáng sinh với gia đình nếu chưa kiếm được món quà gì cho mẹ. Tôi chần chừ. Một chiếc khăn lụa vuông chăng? Nhưng chẳng phải mình đi tặng mẹ thứ đó vào năm ngoái sao? Một chiếc xắc cầm tay? Giá quá cao. Vậy thì một lọ nước hoa? Nhưng biết chọn loại nào?

Quà cho bố thì bớt phức tạp hơn. Hai bố con tôi có một thỏa thuận ngầm hai bên cùng có lợi: vào năm chẵn tôi sẽ tặng bố một hộp xì gà, năm lẻ thì bố sẽ được tặng một chai cognac.

Tôi thở dài nhìn ngó xung quanh, hơi lạc lõng giữa tất cả những người đã có sẵn quyết định ở đây. Tôi kìm lại một câu rủa: một cô bán hàng vụng về vừa vảy nhầm một loại nước hoa phụ nữ vào tôi! Lần này, lòng khoan dung của tôi đã đến ngưỡng. Tôi lấy lọ nước hoa đầu tiên vừa tầm với rồi đi về quầy thu ngân gần nhất.

Đứng vào hàng người chờ thanh toán, tôi vừa lau mặt vừa nguyền rủa ả bán hàng khiến tôi bốc mùi một cô ả lẳng lơ.

- 53 đô la, thưa ngài.

Trong khi rút ví ra để thanh toán tiền, tôi thoáng thấy một dáng người dong dỏng đứng cách tôi vài mét. Một cô gái xinh đẹp với dáng đi khoan thai đang chuẩn bị rời khỏi khu mỹ phẩm. Khoác hờ một chiếc áo choàng len, từ cô toát ra một vẻ thật nữ tính và gợi cảm: mũ bê rê màu xám, minjupe ngắn bó sát, bốt quá đùi cao gót, túi xách cầm tay sành điệu.

- Thưa ông?

Trong khi tôi đang lục tìm cặp kính cận trong túi áo vest thì cô thu ngân đã lôi tôi trở lại mặt đất. Tôi đang chìa thẻ tín dụng cho cô thu ngân mà vẫn không rời mắt khỏi người đẹp không quen biết thì thấy cô nàng... bị bảo vệ cửa hàng tóm! Bộ đàm trong tay, gã đàn ông mặc đồ đen kiên quyết yêu cầu cô phải cởi chiếc áo choàng len ra. Cô nàng chống đối, khoa chân múa tay, nhưng một túi đựng đồ trang điểm giấu bên dưới áo khoác vô tình rơi xuống sàn, tố cáo hành vi trộm cắp của cô nàng.

Nhân viên bảo vệ tóm chặt lấy cánh tay cô rồi gọi tiếp viện qua bộ đàm.

Tôi lấy món đồ mình mua rồi tiến lại gần người đẹp. Tôi nhận thấy những vết tàn nhang, đôi mắt xanh, đôi găng tay dài bằng da. Thường thì tôi sẽ chẳng để mắt tới phụ nữ đâu: Manhattan này đầy rẫy những cô nàng cao quý, với lại tôi cũng không tin vào tình yêu sét đánh. Nhưng lần này lại khác. Đó là khoảnh khắc kỳ lạ mà ai trong chúng ta cũng đều từng gặp một lần. Cảm giác bối rối như đã hẹn mà gặp. Giây phút hiếm hoi.

Tôi mất ba giây để đi đến quyết định và không chịu để cơ hội vuột mất. Bây giờ hoặc không bao giờ. Tôi mở miệng mà cũng chưa biết mình sẽ nói gì. Các từ ngữ cứ thế tuôn ra, như được điều khiển từ xa:

- Này Madison, em vẫn nghĩ mình đang ở quê đấy à! Tôi vừa nói vừa thúc cùi chỏ vào mạng sườn cô gái.

Cô gái nhìn tôi như thể tôi vừa từ trên trời rơi xuống.

Tôi quay sang tay bảo vệ.

- Đây là em họ tôi, tên là Madison. Cô ấy từ Kentucky lên đây.

Tôi nhìn túi đựng đồ trang điểm.

- Đây là tất cả những gì em tìm thấy để làm quà cho dì Beth sao? Em chả chịu khó gì cả, đồ ngốc!

Rồi nói với tay bảo vệ bằng giọng đồng lõa:

- Ngoài Walmart ra, cô ấy chẳng biết đến đâu cả. Cô ấy cứ nghĩ quầy thu ngân ở đâu cũng nằm dưới tầng trệt.

Anh ta chẳng tin lời tôi lấy một giây, nhưng không khí lễ hội đang tràn ngập trong cửa hàng và giờ rõ ràng anh ta cũng chẳng thích bực mình. Tôi đề nghị sẽ thanh toàn túi đựng mỹ phẩm này và quên vụ này đi. Rồi tôi nói với sang cô gái:

- Em sẽ trả anh sau, Madison!

- Thôi được, thôi được, nhân viên bảo vệ lẩm bẩm với vẻ uể oải.

Tôi mỉm cười vì đã được thông cảm rồi theo anh ta tới tận quầy thu ngân. Tôi thanh toán nhanh chóng, nhưng khi quay lại, người đẹp không quen biết đã biến mất.

*

Tôi đi thang cuốn theo chiều ngược lại, bước bốn bước một xuống dưới, băng qua quầy đồ chơi rồi xô mấy cậu nhóc để lao ra phố 34. Trời đang có tuyết rơi nặng hạt.

Cô ấy đi lối nào được nhỉ? Bên phải? Bên trái?

Năm mươi năm mươi. Tôi quyết định đi về bên trái. Tôi không kịp đeo kính, vốn cận lòi mắt ra, tôi sẽ không bao giờ tìm thấy cô ấy đâu, chắc chắn thế.

Trơn không khác gì sân patin, mặt đường rải nhựa đã bắt đầu bị phủ giá. Đang mặc áo măng tô và cầm mấy cái gói lỉnh kỉnh, tôi khó mà chạy cho được. Bất chấp dòng xe qua lại, tôi lao xuống lòng đường để tránh đám đông, nhưng dòng xe cộ nhanh chóng khiến tôi hối tiếc vì đã làm thế. Tôi nhảy một bước để cố lên vỉa hè, nhưng bị mất đà, tôi trượt dài xuống nền đường. Cú trượt chỉ kết thúc khi tôi va phải một phụ nữ qua đường.

- Tôi xin lỗi, tôi vừa nói vừa đứng dậy.

Khi đã đứng thẳng dậy, tôi lục tìm kính trong túi áo khoác. Tôi đeo kính vào và...

Chính là cô ấy!

- Lại là anh à? Cô càu nhàu khi đứng dậy. Anh đúng là đồ điên khi lao như thế vào người khác!

- Ê! Ơ! Dù sao cô cũng nên cảm ơn tôi chứ! Tôi đã cứu cô khỏi vụ rắc rối!.

- Tôi có nhờ anh đâu. Với lại, tôi có vẻ là người đến từ Kentucky à?

Thật táo tợn! Tôi kinh ngạc. Cô gái rùng mình. Tôi nhìn cô lấy tay xoa vai.

- Được rồi, lạnh quá. Hẹn không biết khi nào gặp lại nhé, cô vừa nói vừa đi xa dần.

- Chờ đã! Chúng ta có thể đi uống một cốc chứ?

- Tôi phải bắt xe điện ngầm, cô nhăn nhó hất đầu về phía lối vào bên Herald Square ở bên kia đường.

- Thôi nào! Một cốc rượu ngon ở Bryant Park Cafe nhé. Ngay đây thôi và nó sẽ giúp cô ấm người lên.

Một cái bĩu môi lượng lự hiện trên mặt cô.

- Thôi được, đồng ý. Nhưng anh đừng có nhiệt tình quá, anh không phải loại tôi thích đâu...

*

Quán Bryant Park Cafe nằm ở phía sau toàn nhà Mỹ thuật của thư viện New York. Vào mùa hè, khu vườn trở thành một ốc đảo nhỏ xanh tươi giữa những toàn nhà chọc trời khu Midtown. Một nhóm sinh viên và người lao động trong khu phố thường đến đó nghỉ ngơi nghe nhạc hoặc đọc sách, chơi cờ hoặc ăn xúc xích. Nhưng vào một buổi chiều muộn mùa đông như hôm nay, khu vườn trông chẳng khác gì một khu trượt tuyết. Qua cửa kính, có thể nhìn thấy người đi đường, kín mít trong những chiếc áo khoác lông dày cộp, khó nhọc bước đi trong tuyết chẳng khác gì những người Eskimo ở vùng địa cực.

- Trước khi anh định hỏi tôi, tôi tên là Nikki.

- Sebastian Larabee. Hân hạnh.

Quán cà phê chật ních khách. May sao chúng tôi được thừa hưởng từ vị khách trước một bàn nhỏ hướng ra sân patin.

- Loại rượu vang này hơi cay nhỉ, phải không? Cô gái vừa đặt cốc xuống vừa hỏi.

- Cay á? Là loại Gruaud-larose 1982 đấy!

- Rất ngon! Đừng tự ái thế chứ...

- Cô có biết nó giá bao nhiêu không? Và nó được chấm bao nhiêu điểm trong quyển Guide Parker không?

- Không và tôi cũng cóc cần quan tâm. Chẳng lẽ tôi phải thấy nó ngon chỉ bởi vì nó đắt sao?

Tôi lắc đầu rồi đổi chủ đề:

- Cô làm gì vào đêm Giáng sinh?

Cô gái trả lời tôi bằng giọng dửng dưng:

- Ở cùng đám bạn, chúng tôi chiếm cứ một tòa nhà cũ gần khu kho cảng. Chúng tôi sẽ chè chén, hít vài điếu, vui chơi hết mình. Nếu anh muốn ghé qua...

- Chè chén say sưa với những kẻ chiếm nhà ư? Không, cảm ơn.

- Mặc xác anh. Không được hút thuốc ở đây, đúng không?

- Không, tôi nghĩ là không...

- Tiếc thật...

- Cô làm nghề gì? Cô là sinh viên à?

- Tôi theo học kịch và tôi chụp ảnh cho một công ty người mẫu. Còn anh?

- Tôi là thợ làm đàn

- Thật á?

- Tôi chế tạo và sửa violon.

- Vâng, cảm ơn! Tôi biết thợ làm đàn làm gì mà, anh nên nhớ! Anh xem tôi là ai chứ? Một đứa lạc hậu đến từ Kentucky à?

Cô lại nốc một ngụm rượu Saint-julien.

- Nói cho cùng loại rượu này không tồi đấy chứ. Nước hoa này là cho ai? Bạn gái anh à?

- Cho mẹ tôi.

- Tội nghiệp bà cụ! Lần sau anh nên nhờ tôi tư vấn. Anh sẽ tránh được các lỗi liên quan đến thị hiếu đấy.

- Thế đấy, tôi sẽ xin lời khuyên của một kẻ trộm cắp.

- Anh nặng lời ngay được!

- Nói nghiêm túc nhé, cô thường ăn cắp vặt thế này à?

- Anh biết giá của một thỏi son không? Tin tôi đi: bọn trộm cắp không phải những kẻ như người ta nghĩ đâu, cô nàng khẳng định không chút nao núng.

- Cô có thể gặp rắc rối to đấy.

- Nhưng như thế mới hay chứ! Cô nàng vừa nói vừa chỉ vào túi xách.

Tôi trợn tròn mắt: chiếc túi big size đầy ắp các loại mỹ phẩm mà cô nàng đã cố tình cắt mã vạch.

Tôi lắc đầu.

- Tôi không hiểu. Cô không kiếm đủ tiền sinh sống sao?

- Thực ra, chuyện này chẳng liên quan gì đến việc có tiền hay không. Chuyện là thế này: khao khát lấy trộm không thể kìm nén, một xung năng ngoài tầm kiểm soát.

- Cô bị bệnh rồi.

- Bệnh thích ăn cắp vặt, tên đầy đủ nhất rồi đó.

Cô gái nhún vai rồi tiếp tục:

- Anh nên thử. Cảm giác mạo hiểm, chất ađrênalin. Rất phấn khích.

- Tôi có đọc ở đâu đó rằng các nhà tâm lý học coi bệnh này chính là một cách khắc phục tạm thời đời sống tình dục không được thỏa mãn.

Cô ta vui vẻ bác bỏ lý lẽ đó:

- Tâm lý học rẻ tiền. Theo quan điểm này thì anh đang nhầm đường rồi đấy, lão già ạ.

Trong túi xách của cô nàng, giữa các hộp mỹ phẩm, tôi nhận ra cuốn truyện bỏ túi đã quăn mép có nhan đề: “Tình yêu thời thổ tả” của Gabriel Carcía Márquez.

- Đó là cuốn tiểu thuyết tôi yêu thích, tôi thành thực nói.

- Tôi cũng vậy, tôi rất thích quyển này!

Trong vài phút, rốt cuộc cô gái lạnh lùng này và tôi, chúng tôi đã tìm ra một sở thích chung. Nhưng cô nàng không để không khí thân thiện này được yên.

- Thế còn anh, chương trình đêm nay thế nào?

- Giáng sinh là dịp lễ dành cho gia đình. Một tiếng nữa tôi sẽ bắt tàu về đoàn tụ với bố mẹ và đón Giáng sinh cùng họ tại ngôi nhà ở Hamptons.

- Chao ôi, hay thật! Cô nàng phì cười. Anh sẽ treo tất trước cây thông rồi pha một cốc sữa nóng cho ông giá Noel sao?

Cô nàng nhìn tôi vẻ láu cá và nụ cười tinh nghịch, sau đó lại tung thêm một chiêu hài hước nữa:

- Anh không muốn cởi cúc áo sơ mi ra à? Điều đó khiến tôi thấy sợ, những kẻ cứ cài kín cái cúc trên cùng ấy.

Tôi thở dài rồi ngước mắt lên nhìn trời.

- Và tóc anh nữa, kiểu đó chả hợp chút nào! Cô nàng tiếp tục. Quá lành, quá cũ kỹ. Chán lắm!

Cô nàng luồn tay vào tóc tôi rồi bới tung lên.

Tôi lùi lại, nhưng cô nàng vẫn không dừng:

- Còn áo gi lê nữa! Không ai bảo anh bây giờ hết thời những năm 1930 rồi à? Đã đến nước này rồi sao không đeo một cái đồng hồ quả quýt luôn đi?

Lần này thì hơi quá rồi đấy:

- Cô nghe đây, nếu cô thấy chán ngán đến thế thì không có gì buộc cô phải ở lại đâu!

Cô nàng uống nốt một cốc rượu rồi đứng dậy.

- Anh nói đúng. Tôi đã báo trước với anh đây không phải ý hay rồi mà.

- Đúng đấy, cô mặc lại cái áo choàng Batman rồi cuốn xéo đi! Tôi ghét nhất những kẻ như cô.

- Ồ, anh vẫn chưa nhận ra gì sao, cô ta nói với vẻ bí hiểm.

Cô ta cài cúc áo choàng rồi ra khỏi quán cà phê.

Qua cửa kính, tôi thấy cô ta châm một điếu thuốc, rít một hơi thuốc, gửi tới tôi một cái nháy mắt cuối cùng rồi đi khỏi.

*

Tôi vẫn còn ngồi ở bàn thêm một lúc, vừa chậm rãi uống nốt cốc vang vừa nghĩ lại những gì vừa diễn ra. Tôi cởi cúc áo trên cùng, bới tung tóc lên, phanh chiếc áo gi lê đang bó cứng lấy người tôi. Đúng là tôi thấy dễ thở hơn.

Tôi gọi thanh toán, lục trong áo vest tìm thứ có thể thanh toán hóa đơn. Rôi lục trong áo khoác.

Lạ thật...

Lo lắng, tôi lộn trái tất cả túi áo túi quần ra rồi mới nhận ra một điều hiển nhiên.

Cô ả tai quái kia đã lấy trộm ví của tôi!

*

Thượng đông Manhattan

3 giờ sáng

Một âm thanh chói tai kéo tôi ra khỏi giấc ngủ. Tôi mở mắt, nhìn đồng hồ. Có người đang trút giận lên chuông cửa nhà tôi. Tôi vớ lấy cặp kính trên bàn đầu giường rồi ra khỏi phòng. Căn nhà vắng ngắt và lạnh lẽo. Tôi đi khai báo về vụ mất ví nên chậm mất chuyến tàu đến Long Island và thế là phải qua đêm một mình ở Manhattan.

Ai có thể đến đây vào lúc nửa đêm thế này được chứ? Tôi mở cửa. Cô ả ăn cắp vật đang đứng dưới mái che, tay cầm một chai rượu.

- Anh chàng mới quyến rũ làm sao trong bộ pyjama bé tí này! Cô nàng giễu tôi.

Hơi thở của cô ta nồng nặc mùi vodka.

- Cô làm cái quái gì ở đây vậy? Cô quả là to gan khi dám đến đây sau khi đã chôm mất ví của tôi đấy!

Với cái khoát tay đầy tự tin, cô nàng tự mở đường đi rồi bước vào căn hộ, hơi loạng choạng. Vài bông tuyết vương trên tóc cô. Cô đã lang thang ở đâu dưới cái lạnh thế này cơ chứ?

Cô nàng băng qua phòng khách, trả ví cho tôi rồi ngã gục xuống tràng kỷ.

- Tôi muốn mua rượu vang cho anh, loại lâu đài “gì gì đó”, nhưng tôi chỉ tìm được thứ này thôi, cô ta vừa nói vừa khua khoắng chai vodka đã mở.

Tôi lên gác một lát rồi trở lại với khăn tắm và một chiếc chăn. Trong lúc tôi đang cố nhóm lửa, cô nàng lau khô tóc và choàng khăn quanh người rồi đi đến chỗ tôi trước lò sưởi.

Đứng bên cạnh tôi, cô nàng chìa tay về phía mặt tôi rồi vuốt ve má tôi. Tôi từ từ đứng dậy. Đôi mắt nàng ánh lên một ngọn lửa kỳ lạ và mê hoặc. Nàng vòng tay ôm lấy tôi.

- Dừng lại, cô đang say đấy!

- Chính xác, anh nên tranh thủ đi, nàng khiêu khích tôi.

Nàng kiễng chân lên rồi áp môi nàng vào môi tôi. Căn phòng vẫn chìm trong bóng tối.

Ngọn lửa bắt đầu bập bùng trong lò sưởi, tỏa ra làn ánh sáng mỏng manh và chập chờn. Tôi ngửi thấp mùi da nàng. Nàng đã cởi bỏ áo khoác và tôi nhìn thấy ngực nàng lấp ló dưới làn áo sơ mi. Bất chấp cảm giác hưng phấn, tôi vẫn cảm thấy không thoải mái và tôi thể hiện chút kháng cự cuối cùng.

- Cô không biết cô đang làm gì đâu.

- Anh khiến em bực mình với kiểu do dự của anh đấy! Nàng vừa trách móc vừa điên cuồng hôn tôi rồi đẩy tôi ngã xuống tràng kỷ.

In bóng trên trần như những hình rối bóng, hình dáng hai chúng tôi hòa vào làm một.

Sáng hôm sau khi mở mắt ra, đầu tôi đau như búa bổ, hai mi mắt nặng trĩu và có vị tanh tanh trong miệng. Nikki đã biến mất mà không để lại địa chỉ. Tôi đứng dậy rồi uể oải đi ra cửa kính. Tuyết vẫn đang rơi, dần dần biến New York thành một thành phố ma. Tôi mở cửa sổ. Trời rét cắt da cắt thịt. Làn gió lùa vào thổi tung đám tro tàn trong lò sưởi. Cảm giác trống vắng khó lòng chịu đựng quặn thắt trong dạ dày. Tôi ngây người nhặt lấy chai vodka.

Rỗng không.

Khi đã tỉnh ngủ hẳn, tôi phát hiện một dòng chữ viết bằng son môi trên chiếc gương Louis-Phillippe trong phòng khách. Một món đồ cổ thếp vàng lá mà mẹ tôi đã bỏ cả đống tiền ra để khuân về từ một buổi bán đấu giá. Tôi đi tìm kính, nhưng chẳng thấy đâu. Tôi tiến lại gần tấm gương và đọc được lời nhắn:

“Những giây phút quan trọng duy nhất trong đời là những giây phút mà chúng ta luôn nhớ đến[1].”

[1] Theo Jean Renoir.

Phần hai: Đơn độc chống lại tất cả

“Phụ nữ sẽ yêu khi họ bắt đầu làm quen với bạn.

Với đàn ông thì hoàn toàn ngược lại:

Khi rốt cuộc họ cũng quen với bạn, học sẵn sàng rời bỏ bạn.”

James SALTER, American Express
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
623,263
Điểm cảm xúc
35
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 22


HIỆN TRƯỜNG VỤ ÁN – CẤM VÀO

Phân định phạm vi an toàn, dải băng dài màu vàng bay phần phật trước gió trong ánh đèn hiệu loang loáng. Huy hiệu cảnh sát cầm ở tay, Santos mở một lối đi giữa đám người hiếu kỳ và cảnh sát để tới chỗ thuộc cấp.

- Anh tới xem đi, trung úy, một cuộc tàn sát thật sự! Mazzantini vừa cảnh báo vừa nhấc dải băng nhựa bảo vệ hiện trường vụ án.

Ngay khi bước vào quán bar, Santos đã bị tác động mạnh bởi cảnh tượng hiện ra trước mắt anh.

Hai mắt trợn ngược, miệng há hốc vì kinh hãi, Drake Decker nằm phơi ruột trên bàn bi a. Cách đó chưa đầy một mét, một xác người nữa nằm sóng soài dưới sàn nhà: một gã đàn ông cao lớn mặt rám nắng và xăm trổ bị cắt họng bằng một mảnh kính dài.

- Gã này là ai? Anh vửa hỏi vừa nhún gối phía trên xác chết.

- Tôi không biết, Mazzantini đáp. Tôi đã khám người hắn nhưng không tìm thấy gì, cả ví lẫn giấy tờ. Ngược lại, hắn mang thao con dao này găm trong một cái bao có chốt.

Santos kiểm tra chiếc túi bóng mà viên thuộc cấp chìa ra cho anh. Bên trong đựng một con dao nhỏ chuôi bằng gỗ mun và lưỡi sắc bén.

- Nó không được sử dụng, Mazzantini khẳng định, nhưng chúng tôi còn phát hiện ra một thứ khác.

Santos quan sát vật chứng tiếp theo: một chiếc KA-BAR, loại dao găm của quân đội Mỹ, có chuôi to được trang trí thêm các vòng da. Lưỡi dao bằng thép dài hơn mười lăm centimét hẳn đã được dùng để phanh thây Drake Decker.

Santos nhíu mày. Nhìn tư thế các xác chết, có lẽ phải có ít nhất một kẻ thứ ba ở cùng hai gã này trong phòng.

- Cậu bảo tôi là có ai đó đã gọi 911 đúng không?

- Đúng. Tôi đang chờ phần ghi âm cuộc gọi. Cuộc gọi xuất phát từ một máy di động. Người ta đang lần lại cuộc gọi đó. Sẽ không lâu đâu.

- OK, anh vừa đứng dậy vừa nói. Bảo Cruz đến chụp ảnh cho tôi, chụp càng rõ càng tốt hình xăm trên mặt gã kia nhé. Bảo cậu ta chụp lại cả con dao găm nhỏ nữa. Khi nào nhận được ảnh thì cậu gửi ngay lại cho tôi qua email nhé. Tôi sẽ gửi chúng cho Reynolds của precinct 3. Bên đó có một chuyên gia nhân chủng học có thể giúp được chúng ta.

- Rõ, thưa trung úy, tôi sẽ lo việc đó.

Trước khi ra khỏi quán bar, Santos đưa mắt liếc nhìn lần cuối toàn bộ căn phòng. Những bộ đồ màu trắng, găng tay latex, những khuôn mặt đeo khẩu trang, các kỹ thuật viên Khoa học hình sự làm việc trong im lặng. Được trang bị đèn huỳnh quang, chổi và bột, họ đang thu thập tất cả các dấu hiệu tìm được rồi niêm phong chúng lại.

- Có dấu vân tay ở khắp nơi thưa trung úy, Cruz, người phụ trách nhóm này, nói với sang anh.

- Cả trên miếng kính này à?

- Vâng, và cả trên bình cứu hỏa nữa. Các dấu vân tay đều rất mới và rõ nét. Một hành động nghiệp dư. Nếu gã này đã có hồ sơ lưu thì chúng ta sẽ biết danh tính hắn sau vài giờ thôi mà.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
623,263
Điểm cảm xúc
35
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 23


Chuyến bay của hãng Delta Airlines đến sân bay Charles-de-Gaulle vào lúc mười một giờ sáng dưới ánh nắng chói chang. Vì quá kiệt sức, Sebastian và Nikki đã ngủ li bì hầu hết hành trình. Vài tiếng ngủ nghỉ kịp thời giúp họ bước sang ngày mới với đầu óc sáng suốt hơn ngày trước đó.

Họ rời máy bay qua cầu thang ống rồi kiên nhẫn xếp hàng chờ làm thủ tục nhập cảnh.

- Chúng ta bắt đầu bằng việc gì bây giờ? Nikki vừa bật lại điện thoại vừa hỏi.

- Chắc là phải đến ga Barbès. Hỏi nhân viên ở đó, cố gắng tìm hiểu xem đoạn phim của chiếc camere giám sát ấy từ đâu ra... Đó là hướng đi duy nhất của chúng ta mà, không phải sao?

Cô im lặng gật đầu rồi trình hộ chiếu cho cảnh sát.

Rồi họ đi qua băng chuyền hành lý và tìm đến cửa ra. Một đám đông chen chúc nhau sau hàng rào chắn: các gia đình háo hức muốn gặp lại người thân, các tình nhân nôn nóng gặp lại một nửa của họ, các tài xế vẫy vẫy tấm biển tìm người. Trong khi Sebastian đi về phía đoàn taxi đang đứng xếp hàng, Nikki túm tay áo anh kéo lại.

- Anh nhìn kìa!

Giữa đám đông, mặc bộ com lê ba mảnh không chê vào đâu được, một tài xế có dáng vẻ nghiêm nghị giương một tấm biển:

Mr & Mrs LARABEE

Họ nhìn nhau, ngẩn mặt ra. Không ai biết họ đang ở Paris... Trừ những kẻ bắt cóc Jeremy.

Gật đầu đồng ý với nhau, cả hai quyết định ra mặt. Có thể đấy là một khả năng giúp họ tìm lại được con trai?

Viên tài xế chào đón họ bằng một giọng ấm áp âm sắc vùng Oxford.

- Chào ông, chào bà, chào mừng đến Paris, tôi tên là Spencer. Mời ông bà đi theo tôi.

- Chờ đã, màn xiếc này là gì vậy? Chúng ta sẽ đi đâu? Sebastian lo âu hỏi.

Vẻ kiên quyết, nhưng có chút kiêu kỳ, Spencer rút ra một tờ giấy từ túi áo trong. Ông ta mở tờ giấy rồi đeo cặp kính đồi mồi vào.

- Tôi được lệnh đi đón Ông và Bà Sebastian Larabbe. Chuyến bay Delta lúc mười một giờ khởi hành từ New York. Đúng là ông bà chứ?

Cả hai gật đầu, sững sờ.

- Ai đã đặt chiếc xe này? Nikki hỏi.

- Chuyện đó thì tôi không biết, thưa bà. Có lẽ nên hỏi ban thư ký của LuxuryCab. Tất cả những gì tôi có thể nói thì đây là một vụ đặt hàng đã được xác nhận lại vào ngay sáng nay với công ty chúng tôi.

- Vậy thì ông được yêu cầu đưa chúng tôi tới đâu?

- Đến Montmartre, thưa ông. Khách sạn Grand Hôtel de la Butte, chính là, nếu ông cho phép nói, sự lựa chọn tuyệt vời cho một kỳ nghỉ lãng mạn.

Sebastian nhìn chằm chằm ông ta, cơn tức giận trào dâng trong lòng.

Tôi không đến đó để hưởng một kỳ nghỉ lãng mạn. Tôi tới đây là để tìm con trai!

Nikki giơ tay trấn an anh. Viên tài xế có thể chỉ là con tốt trong một kế hoạch vượt quá tầm ông ta và ông ta cũng chẳng biết là có kế hoạch đó. Tốt hơn là nên liều mạng đi theo ông ta mà không gây sự và xem chuyện này sẽ dẫn họ tới đâu.

Chính vì vậy họ theo sát gót ông ta với vẻ cam chịu và ngờ vực.

Chiếc Mercedes phóng nhanh trên đường cao tốc phía Bắc.

Spencer đã chỉnh radio sang tần số nhạc cổ điển và lắc lư đầu theo nhịp bản Bốn mùa của Vivaldi.

Ngồi hàng ghế sau, Sebastian và Nikki nhìn các tấm biển lần lượt chỉ ra hành trình dẫn tới thủ đô nước Pháp: Tremblay-en-France, Garges-lès-Gonesse, Le Blanc-Mesnil, sân vận động nước Pháp...

Mười bảy năm nay, họ chưa quay trở lại Paris. Các kỷ niệm về kỳ nghỉ năm đó ùa về tâm trí họ, nhưng mối lo lắng khiến họ không thể chìm đắm trong đó được.

Chiếc xe vượt qua đại lộ vành đai rồi rẽ phải đi vào đại lộ các Thống chế trước khi đến khu phố cổ Montmartre. Phố Caulaincourt và đại lộ Junot, các hàng cây đã khoác lên mình bộ áo mùa thu, trải thảm lên vỉa hè những chiếc lá màu lửa.

Spencer đi vào một ngõ cụt toàn các ngôi nhà rợp bóng cây. Sau khi đi qua chiếc cổng cao bằng sắt rèn, chiếc xe tiến vào một khu vườn hoang sơ và um tùm, một chốn quê thực sự giữa trung tâm thủ đô. Chiếc xe đỗ trước khách sạn: một tòa nhà lớn màu trắng với những đường nét giản dị và thanh nhã.

- Chào bà, chào ông, chúc ông bà một kỳ nghỉ tuyệt vời, viên tài xế nói với họ trong lúc đặt hành lý của họ lên bậc thềm.

Vẫn cảnh giác cao độ, Nikki và Sebastian đi vào sảnh của toà nhà rộng thênh thang. Điệu swing rétro của nhóm tam tấu nhạc jazz chào đón họ. Không gian cởi mở và ấm cúng, với hình ảnh về một khách sạn gia đình được trang trí trau chuốt. Những hình dạng thuần khiết và góc cạnh của nội thất Art déco gợi nhớ tới những năm 1920 và 1930: ghế bành da, tủ buýp phê bằng gỗ thích trắng, đèn Le Corbusier, đồng hồ bằng gỗ sơn mài, các bức tranh ghép khảm trai và ngà voi.

Không có ai ở quầy tiếp tân. Bên trái lối vào, có thể nhận ra một phòng khách kín đáo ngăn cách bằng tủ sách mời gọi người ta đến đọc sách. Bên phải, quầy bar dài bằng gỗ gụ có vẻ như để phục vụ cho việc pha chế cocktail.

Tiếng giày cao gót gõ xuống sàn nhà lát gạch vuông. Họ đồng thời quay người lại thì thấy dáng vẻ thanh lịch của bà chủ khách sạn hiện ra trên khuôn cửa phòng ăn.

- Ông và bà Larabbe, tôi nói đúng chứ? Chúng tôi đang chờ ông bà. Chào mừng đến với Grand Hôtel de la Butte, bà ta nói bằng tiếng Anh với trọng âm nhấn rất chuẩn.

Tóc cắt ngắn như con trai, ngực phẳng, dáng người nam tính, váy ống dệt kinh tuyến dài đến đầu gối: trông bà ta như bước ra từ một cuốn tiểu thuyết của Francis Scott Fitzgerald.

Bà ta đi ra sau quầy tiếp tân rồi bắt đầu làm thủ tục nhập phòng.

- Khoan đã, Sebastian nói. Xin lỗi bà, nhưng sao bà lại biết chúng tôi?

- Chúng tôi chỉ có năm phòng, thưa ông, và khách sạn hiện đã kín chỗ. Ông bà là những người tới cuối cùng đấy.

- Bà có biết ai đã đặt phòng cho chúng tôi không?

Người phụ nữ đưa lên miệng chiếc đầu lọc hút thuốc màu hổ phách được bà ta cầm bằng ngón giữa và ngón trỏ. Bà ta rít một hơi rồi trả lời bằng giọng chắc chắn:

- Nhưng chính ông đã đặt mà, ông Larabee!

- Chính tôi ư?

Bà ta tra sổ lưu trên máy tính.

- Việc đặt phóng được thực hiện cách đây một tuần trên trang mạng của khách sạn chúng tôi.

- Tiền phòng đã được thanh toán chưa?

- Toàn bộ. Được thanh toán ngay khi đặt phòng bằng thẻ Mastercard mang tên ông Senastian Larabee.

Không tin nổi, Sebastian cúi xuống nhìn vào màn hình máy tính. Những thông số tham chiếu của giao dịch hé lộ một phần dãy số của thẻ thanh toán. Hoàn toàn chắc chắn: tài khoản của anh đã bị đánh cắp.

Anh nhìn vợ cũ với vẻ bực bội. Những kẻ lôi họ tới tận đây đang chơi trò quái quỷ gì thế này?

- Có vấn đề gì sao?

- Không sao, Sebastian trả lời.

- Vậy thì mời ông bà lên phòng, phòng số 5 tầng trên cùng.

Trong chiếc thang máy chật chội dẫn lên các phòng, Nikki ấn vào nút chỉ tầng trên cùng.

- Nếu vụ đặt phòng từ cách đây một tuần, điều đó có nghĩa là vụ bắt cóc Jeremy đã được lên kế hoạch từ lâu rồi.

Sebastian đồng tình:

- Rõ ràng là thế. Nhưng tại sao chúng lại liều lĩnh đánh cắp tài khoản của tôi để đặt căn phòng này?

- Có thể để yêu cầu chúng ta trả một khoản tiền chuộc, Nikki nói liều. Khi xâm nhập vào tài khoản của anh, chúng đã biết chính xác tài sản của anh có bao nhiêu và chúng có thể đòi bao nhiêu.

Khi đến nơi, họ đẩy cánh cửa thì thấy một căn phòng nghỉ tiêu chuẩn cao rộng thênh thang, trần cao áp mái.

- Lẽ ra họ nên chọn phòng xấu nhất chứ nhỉ! Nikki nhận xét để xoa dịu nỗi hoang mang của mình.

Giường rộng rãi, bồn tằm có chân trong phòng tắm, tường sơn tông màu phấn. Được trang trí rất có gu, căn phòng toát lên vẻ quyến rũ của chốn điền viên, tái hiện cách bài trì của một xưởng nghệ sĩ phóng khoáng: sàn mộc, gác lửng, tấm gương lớn hình ô van, sân thượng nhỏ trong xuống vườn.

Anh sáng đặc biệt kỳ lạ. Lọt qua đám thường xuân và các cành cây, ánh sáng rọi vào sưởi ấm căn phòng. Ta khó mà tin được mình đang ở khách sạn. Đúng hơn là ta sẽ có cảm giác được những người bạn có gu tinh tế cho mượn một nơi trú ẩn bí mật của họ vào kì nghỉ.

Cả hai đều bước ra sân hiên nhô ra phía trên khu vườn và đem lại tầm nhìn tuyệt hảo tới các công trình nổi tiếng của Paris. Ta nghe thấy tiếng chim hót và tiếng xào xạc của giò thổi qua các tán cây.

Nhưng cả Sebastian lẫn Nikki đều không để cho cái thành phố xinh đẹp đang trải dài dưới chân họ chinh phục. Thật ngạc nhiên, không khí dịu nhẹ mùa thu này không khiến nỗi lo âu của họ dịu đi chút nào.

- Thế bây giờ thì sao? Sebastian hỏi.

- Tôi không biết. Nếu họ đưa chúng ta tới đây, thì chính họ phải có ý định liên hệ với chúng ta, không phải sao?

Thử xem có tin nhắn nào không, họ cùng kiểm tra di động, gọi lễ tân rồi lục soát căn phòng. Không ăn thua.

Sau khoảng nửa giờ, sự chờ đợi trở nên không thể chịu đựng nổi.

- Tôi sẽ đến Barbès, Sebastian quyết định đồng thời với lấy áo vest.

- Tôi đi cùng anh. Không có chuyện tôi chôn chân trong căn phòng này đâu!

- Không. Chính cô đã nói rồi mà: chắc chắn chúng sẽ tìm cách liên lạc với chúng ta tại đây.

- Chúng ta đã thỏa thuận sẽ không rời nhau nữa cơ mà! Cô biện hộ.

Nhưng Sebastian đã ra khỏi cửa.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
623,263
Điểm cảm xúc
35
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 24


New York

Đồn cảnh sát đội 87

Santos lấy chiếc cốc trong máy nước tự động. Mặt trời vẫn chưa mọc ở Brooklyn nhưng viên trung úy đã uống tới cốc cà phê thứ ba. Lại một lần nữa, màn đêm bị khuấy động: trộm cắp, bạo hành gia đình, các cửa hàng bị vơ vét sạch, gái điếm bị chất vấn... Mười năm nay, các phương tiện truyền thông luôn quảng bá về New York bằng hình ảnh một thành phố yên bình và đảm bảo an ninh. Điều đó chắc chắn là đúng ở trung tâm Manhattan nhưng vùng ven thành phố thì không hẳn vậy.

Vì thiếu chỗ trong phòng giam, hành lang nơi đặt máy nước tự động trông không khác gì trại tị nạn: can phạm bị còng tay ngồi trên các băng ghế kim loại, nhân chứng ngồi chen chúc nhau như đám cá ngừ trên các băng ghế đã bị bục nệm, những người đi khiếu kiện cuộn tròn trong chăn. Hành lang được chiếu sáng bằng ánh đèn nê ông nhợt nhạt kêu lách cách. Một thứ mùi tởm lợm bốc lên, tiếng chửi rủa không ngớt. Ai cũng căng thẳng, khó chịu.

Santos rời chốn tạp nham này về văn phòng. Anh căm ghét cái đồn cảnh sát bẩn thỉu, ồn ào này và không hề có ý định chôn thân ở đây cho đến hết sự nghiệp. Không gian làm việc của anh cũng tương xứng: một căn phòng chật chội, chẳng mấy tiện nghi và không lấy làm biệt lập cho lắm trông ra một cái sân con nhớp nhúa. Anh uống ngụm cà phê loãng toẹt rồi cắn một miếng bánh vòng đã cứng lại khiến anh cố mãi mới nuốt được.

Sau khi ném cái bánh vào sọt rác, anh mở điện thoại gọi cho phòng thí nghiệm đảm nhiệm các phân tích độc học. Viên phụ tá phòng thí nghiệm khẳng định linh cảm của anh: thứ bột trắng tìm được ở nhà Nikki chắc chắn là cocain. Anh đặt tập hồ sơ sang một bên rồi tranh thủ đường dây yêu cầu nói chuyện với Hans Tinker.

Sau nhiều năm, Santos đã biết cách tự thiết lập cho mình một mạng lưới rộng lớn. Giữa bao nhiêu phòng ban rối rắm và phân tán khắp nơi của Sở Cảnh sát New York, rất nhiều người trong số họ còn nợ anh một lần giúp đỡ. Ở anh, đó gần như là bản tính: mỗi khi có thể giúp được đồng nghiệp là anh làm ngay. Ngay lúc đó thì có vẻ việc này chẳng lấy làm thú vị nhưng rồi sẽ đến lúc anh được hái trái chín từ cái cây đã trông bao lâu nay.

- Tôi Tinker nghe máy.

Hans Tinker, phó phòng khoa học hình sự, có lẽ là một liên hệ thú vị nhất. Hai năm trước, tình cờ trong một vụ kiểm tra, mấy tay cấp dưới của Santos tóm cổ được cậu cả nhà Tinker, khi đó đang giữa tuổi thiếu niên thích nổi loại, mang trong người một lượng “đá” không nhỏ. Rõ ràng, cậu quý tử không cam lòng hút hít một mình trong phòng mà hắn còn tuồn cho lũ bạn nữa. Santos đã nhắm mắt làm ngơ và cho hồ sơ xếp xó. Từ đó, Tinker luôn thể hiện lòng biết ơn vô tận với anh.

- Chào anh, Hans. Anh có tin gì mới về vụ án kép của tôi chưa?

- Chúng tôi đang tiến hành, nhưng sẽ lâu đấy. Có đến cả triệu dấu vân tay tại hiện trường vụ án mạng này và cần phải làm phân tích gen.

- Tôi hiểu, nhưng tôi cần gấp mấy dấu vân tay trên con dao KA-BAR, mẩu kính vỡ và cây gậy bi a.

- Mấy cái đó thì tôi đã có rồi. Tôi sẽ chuyển báo cáo cho cậu trong vòng hai giờ nữa.

- Không, không phải mất công đâu! Anh chuyển cho tôi các thông số cơ bản qua email nhé. Tôi muốn đưa chúng vào Hệ thống nhận diện vân tay tự động càng nhanh càng tốt.

Máy tính xách tay kẹp dưới nách, Mazzantini gõ lên ô kính rồi thò đầu qua khuôn cửa. Santos ra hiệu cho cậu ta tiến lại gần. Viên thuộc cấp chờ cho cấp trên gác máy rồi mới thông báo:

- Có tin mới, thưa trung úy. Tôi đã nhận được đoạn ghi âm cuộc gọi cho 911. Anh nghe nhé.

Cậu ta mở máy tính rồi bật tệp tin. Đoạn ghi âm rất ngắn. Có thể nghe thấy tiếng một người đàn ông, rõ ràng là đang hoảng loạn, từ chối nêu danh tính, nhưng khẩn thiết yêu cầu xe cấp cứu đến quán bar Boomerang.

“Có một người đàn ông đang hấp hối! Ông ta bị đâm nhiều nhát bằng dao! Các vị đến nhanh lên! Đến nhanh lên!”

Điều kỳ quặc là anh ta lại nói chỉ có một xác chết, không phải sao? Mazzantini hỏi.

Santos không trả lời. Anh đã nghe giọng nói này ở đâu rồi nhỉ?

- Họ đã tìm tung tích cuộc gọi, viên thuộc cấp của anh nói tiếp. Số điện thoại thuộc về Sebastian Larabee. Một nghệ nhân làm đàn giàu có sống ở Thượng Đông Manhattan. Tôi đã kiểm tra lý lịch của anh ta. Không một tì vết. Thực ra thì có chút: một cáo buộc duy nhất về tội chống đối người thi hành công vụ sau một lần kiểm tra của cảnh sát khi anh ta đi qua tốc độ cho phép thời còn học đại học. Theo tôi, anh ta thậm chí còn không biết mình bị lưu hồ sơ.

Gương mặt Santos rụng rời.

- Tôi cho một đội đến bắt anh ta nhé, sếp?

Santos im lặng gật đầu. Anh biết Sebastian đang ở Paris, nhưng anh cần thời gian suy nghĩ.

- OK, cậu đi đi, anh ra lệnh rồi sập cửa lại ngay khi Mazzantini quay gót.

Mắt lơ đãng, anh đừng trước cửa sổ. Tiết lộ vừa rồi khiến anh bàng hoàng. Sebastian Larabee mò đến chốn làm ăn của Drake Decker làm gì cơ chứ?

Tín hiệu ngắn gọn báo có email mới lôi anh khỏi dòng suy nghĩ. Anh đến ngồi trước màn hình rồi kiểm tra hòm thư. Đó là email của Tinker về việc xác nhận dấu vân tay.

Các kỹ thuật viên của Phòng Khoa học hình sự đã làm việc rất tốt. Với mỗi mẩu vật chứng, các vân tay để lại trên chúng hiện lên rất rõ, đáp ứng đủ yêu cầu sử dụng. Santos sao lại chúng vào ổ cứng máy tính rồi kết nối với dữ liệu tích hợp sẵn và kích hoạt chế độ tự động dò vân tay. Các điều tra viên của Sở Cảnh sát New York đều được đăng nhập trực tiếp vào cơ sở dữ liệu của FBI, đặc biệt là hệ thống IAFIS[1] trứ danh: một mỏ vàng chứa tổng cộng bảy mươi triệu đối tượng có tiền án tiền sự, đã từng bị bắt hoặc bị kết án trên lãnh thổ Mỹ. Anh bắt đầu bằng dấu tay tìm thấy trên con dao găm. Phần mềm bắt đầu chạy, quét cơ sở dữ liệu với tốc độ chóng mặt

[1] Tên viết tắt của Hệ thống tự động xác nhận vân tay. (ND)

MATCH NOT FOUND[2]

[2] Không tìm thấy.

Một dấu vô dụng.

Anh tiếp tục với dấu vân tay trên miếng kính dài vấy máu, vũ khí mà theo suy luận lô gic thì chính là thứ dùng để giết gã “xăm mặt”. Lần này, Santos may mắn hơn. Chưa đầy một giây sau, chương trình cho ra một kết quả. Các dấu vân tay là của Sebastian Larabee. Theo đà, anh tiến hành so sánh dấu vân tay trên cây gậy bi a. Gần như đồng thời, màn hình hiện ra bức ảnh của một cô gái trẻ. Hai tay run rẩy, Santos cho in tệp thông tin

Họ: Nikovski

Tên: Nikki

Sinh ngày 24 tháng Tám năm 1976 tại Detroit (Michigan)

Đã ly hôn với Sebastian Larabee.

Vào những năm 1990, Nikki từng bị bắt nhiều lần vì tội trộm cắp, say rượu nơi cộng cộng và tội tàng trữ ma túy. Tuy chưa từng bị giam lần nào, nhưng cô đã phải nhiều lần nộp phạt và phải lao động công ích nhiều giờ. Lần phạm tội gần đây nhất của cô là vào năm 1999. Từ đó, cô có vẻ im ắng.

Santos cảm thấy tim mình đập thình thịch.

Nikki đang dính líu vào chuyện gì thế này?

Nhìn hồ sơ của cô, toàn bộ tội lỗi có thể bị đổ cho cô. May mà anh giữ các con bài trong tay. Nếu khéo làm, thậm chí anh còn có thể giành lại người phụ nữ mình yêu và vĩnh viễn loại bỏ tên Larabee.

Để sang một bên những thứ có thể buộc tội Nikki, anh cẩn thận thu thập các bằng chứng hữu ích chống lại Sebastian: cuộc gọi 991, các dấu vân tay trên vũ khí gây án, vé máy bay đi Paris chứng tỏ tội bỏ trốn.

Hồ sơ rất chắc chắn. Có lẽ đủ để thuyết phục một thẩm phán nào đó khẩn cấp ký lệnh ủy thác xét xử quốc tế. Để đổ thêm dầu vào lửa, anh sẽ để rò rỉ một vài thông tin cho một số cơ quan báo chí thân thiết. Một người có danh vọng chạy trốn tới Paris sau vụ án mạng trong quán rượu: giới truyền thông rất thích những tin kiểu này. Nhà Larabee là một gia đình danh gia vọng tộc lâu đời ở New York, nhưng vào cái thời buổi khủng hoảng này, những người nắm quyền lực kinh tế không còn vị thế bất khả xâm phạm nữa. Mà ngược lại. Từ hơn một năm trở lại đây, phong trào của Những kẻ phẫn nộ đang thể hiện nỗi tức giận của họ đối với phố Wall. Đã bao lần, hàng trăm người biểu tình đã phong tỏa cầu Brooklyn. Sự phẫn nộ của tầng lớp trung lưu đang lớn dần và lan rộng khắp cả nước.

Thời thế đang thay đổi.

Những kẻ mạnh của quá khứ sẽ không còn mạnh trong tương lai.

Hơn nữa, Sebastian Larabee không phải một kẻ quen trốn chạy.

Ngay khi lệnh bắt giữ hắn ta được ban ra, hắn có thể sẽ bị tóm như một tên ngốc…
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
623,263
Điểm cảm xúc
35
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 25


Paris

Quận XVIII

Sebastian rời khỏi khách sạn rồi đi bộ xuống đại lộ Junor theo hướng quảng trường Pecqueur. Những ngày cuối tháng Mười, mùa hè được kéo dài thêm. Trong sân hiên các quán cà phê, khách du lịch và cư dân Montmartre phơi mặt cùng những cánh tay trần của họ dưới nắng mặt trời.

Vô cảm trước cảnh yên bình này, Sebastian chỉ nghĩ đến con trai. Vụ sắp xếp không gian điền viên và lãng mạn ở khách sạn càng khiến anh thấy bất ổn. Càng dấn sâu vào chuyện lạ lùng này, anh càng tin chắc rằng một mối nguy hiểm nào đó đang rình rập anh và Nikki. Một mối đe dọa đè nặng mà anh vẫn chưa tìm ra được giải pháp. Nhiều lần anh quay người lại để xem có bị theo dõi không. Có vẻ là không, nhưng làm sao mà chắc chắn được?

Đến quảng trường, anh dừng lại trước một cây rút tiền. Chiếc thẻ Black Card cho phép anh rút 2000 euro, mức tối đa mà cây ATM chấp nhận. Anh nhét tiền vào ví rồi tiếp tục đi đến tận bến Lamarck-Caulaincourt, anh đã nhìn thấy chỗ này khi trên xe từ sân bay về.

Được gắn hai bên hai chiếc cầu thang điển hình của khu Montmartre, lối vào bến tàu điện ngầm này khiến anh nhớ lại bộ phim Số phận kỳ lạ của Amélie Poulain mà anh đã xem trên đĩa DVD cùng Camille. Anh mua một tệp vé rồi tìm bến Barbès-Rocherchouart trên bản đồ. Nằm ở khu vực giáp ranh giữa các quận IX, X, XVIII, bến đó chỉ cách đây vài điểm dừng. Cuống cuồng, anh bỏ qua thang máy mà lao xuống cầu thang bộ xoáy ốc dẫn xuống bến tàu nằm dưới độ sâu hơn hai mươi lăm mét. Anh bắt chuyến tàu đầu tiên đến Mairie-d’Issy, bỏ qua hai trạm dừng rồi, tại Pigalle, anh bắt tàu số 2 và xuống tại Barbès-Rochechouart.

Bến tàu nơi con trai anh bị bắt cóc...

Trên bến, Sebastien đi theo dòng hành khách đến quầy bán vé. Sau khi kiên nhẫn đứng xếp hàng nhiều phút, anh hỏi cô bán vé qua tấm vách ngăn trong suốt, đầu tiên chỉ cho cô ta bức ảnh của Jeremy rồi đoạn phim về vụ tấn công thằng bé mà anh đã sao chép vào điện thoại di động.

- Tôi không thể giúp ông được gì đâu, ông hãy liên hệ với cảnh sát.

Anh năn nỉ, nhưng không gian quá ồn ào và cũng có nhiều người trong hàng đang chờ đợi. Cô bán vé không phải là thiếu thiện chí mà chẳng qua cô ta nói tiếng Anh rất kém, lại không thật sự hiểu điều mà Sebastian muốn ở mình cộng với sự căng thẳng của những người đang nôn nóng đứng kia đã lây sang cô ta. ́p a ấp úng, rốt cuộc cô ta cũng nói được cho Sebastian hiểu ra rằng mấy ngày gần đây, không có dấu hiệu về một cuộc tấn công nào ngoài mấy vụ trộm cướp thường ngày:

- No agression, sir! No agression! Cô nhắc lại.

Nhận ra rằng mình sẽ chẳng biết được gì thêm nữa, Sebastian cảm ơn cô ta rồi rời bến tàu bằng thang cuốn.

Barbès...

Vừa bước lên phố, Sebastian nhận ra một Paris không giống như Paris trong các bức ảnh. Nơi đây, không có người qua đường nào đội mũ bê rê kẹp chiếc bánh mì baguette dưới cánh tay, không có hiệu pho mát hay bánh mì truyền thống ở mỗi góc phố. Đây cũng không còn là Paris của tháp Eiffel hay của Khải Hoàn Môn, mà là một Paris đa sắc tộc, thô ráp và màu mè khiến anh nhớ tới “nồi lẩu văn hóa” ở New York.

Trên vỉa hè, một gã vượt lên trước anh có vẻ hơi sát quá, một gã khác đẩy anh và anh cảm giác có một bàn tay vừa sượt qua mình.

Một tên móc túi!

Trong lúc anh lùi lại để tránh không cho hai gã kia chạm vào túi mình thì một ông lão bán hàng rong tiến lại mời mọc anh mua thuốc lá.

“Marlboro! Marlboro! Ba euro! Ba euro!”

Anh tiến lên vài bước để thoát thân rồi băng qua phố, nhưng màn xiếc y hệt lại tái diễn ở bên này. Khu phố này đầy rẫy những kẻ bán thuốc lá lậu.

“Legend! Marlboro! Ba euro! Ba euro!”

Và không thấy một bóng cảnh sát nào cả...

Anh nhìn thấy một sạp báo bên dưới trụ sắt của đường tàu điện trên không. Lại một lần nữa, anh rút tấm ảnh con trai mình đưa cho người bán báo.

- Tôi tên là Sebastian Larabee. Tôi là người Mỹ. Đây là ảnh con trai tôi, Jeremy. Nó bị bắt cóc tại đây hai hôm trước. Ông có nghe được tin tức gì về thằng bé không?[1]

[1]. Trong nguyên bản, Sebastian nói bằng tiếng Anh. (ND)

Là người gốc Bắc Phi, ông chủ sạp báo đã kinh doan ở ngã tư Barbès-Rochechouart này được hơn ba mươi năm. Là cuốn từ điển sống của khu phố, ông đã học tiếng Anh qua những lần tiếp xúc với khách du lịch và có thể giao tiếp dễ dàng.

- Chưa, tôi chưa từng nghe nói về chuyện này.

- Ông chắc chứ? Ông xem đoạn phim này đi, anh vừa nài nỉ vừa chìa điện thoại ra, trong đó có lưu lại đoạn phim về vụ tấn công Jeremy.

Ông chủ sạp báo chùi cặp kính mắt bằng vạt áo sơ mi rồi chỉnh nó lại ngay ngắn trên mũi.

- Tôi nhìn không rõ lắm, ông than vãn. Màn hình bé quá.

- Ông xem lại lần nữa nhé, làm ơn.

Đám đông dày đặc. Không khí náo nhiệt và ồn ã, Sebastian bị xô đẩy nhiều lần. Chen chúc trên đoạn vỉa hè trước lối ra trạm tàu điện, đám đông những kẻ bán hàng rong lợi dụng chiếm lĩnh luôn mặt đường lát đá giăm nện phía trước quầy báo. “Marlboro! Marlboro! Ba euro! Ba euro!” Điệp khúc rao hàng của họ khiến người ta ong cả đầu.

- Xin lỗi, chuyện này chẳng gợi cho tôi điều gì cả, ông chủ sạp báo vừa nói vừa trả lại điện thoại. Nhưng anh cứ để lại số điện thoại cho tôi. Tôi sẽ hỏi Karim, người làm của tôi, xem liệu cậu ra có nghe được điều gì đó không. Chính cậu ta là người đóng ki ốt vào các thứ Hai mà.

Để cảm ơn ông giá, Sebastian rút ra tập tiền rồi đưa cho ông 50 euro, nhưng ông già cũng có tự trọng chứ.

- Anh cất tiền đi. Và đừng có đi lang thang ở đây nữa, ông già vừa khuyên nhủ anh vừa hất cằm về phía đám ngưới mờ ám đang lượn lờ quanh ki ốt.

Sebastian chìa cho ông danh thiếp trên đó đã gạch chân số di động của anh rồi viết thêm tên và tuổi con trai anh.

- Nếu vụ tấn công đã được ghi hình lại, ông chủ sạp báo nói tiếp, đội an ninh ngành đường sắt sẽ có mặt ngay tức khắc.

- Có đồn cảnh sát nào ở gần đây không?

Ông chủ sạp báo bĩu môi.

- Có đồn Giọt Vàng cách đây hai trăm mét, nhưng đó không phải là nơi hiếu khách nhất thủ đô đâu...

Sebastian gật gật đầu cảm ơn ông ta một lần nữa.

Giờ chưa phải là lúc đến đồn cảnh sát ngay. Anh định quay lại khách sạn thì nảy ra một ý khác.

“Legend! Legend! Ba euro!”

Ở cuối cầu thang của bến tàu điện, những kẻ bán hàng rong hẳn là ngày nào cũng phải đứng chầu chực hàng tiếng đồng hồ. Còn vị trí quan sát nào tốt hơn để có thể biết được hết các động tĩnh trong bến? Có lẽ chính họ chứ không phải cảnh sát mới có nhiều thông tin đáng tìm hiểu hơn!

Bước đi quyết đoán, Sebastian hòa lẫn vào đám đông ồn ào giữa những khác quen và vài khách du lịch đi lạc trên đường tới Montmartre.

“Marlboro! Ba euro!”

Vẫn di chuyển không ngừng, đám bán thuốc lá rong phanh chiếc áo bu dông trên người thật nhanh để trưng ra những túi thuốc lá rẻ tiền. Không phải là những kẻ hung hăng, họ biết cách tạo ra sức ép. Nhất là khi số lượng đông đảo cũng như những điệp khúc liên hồi của họ khiến ai cũng muốn thoát khỏi nơi hỗn độn này càng nhanh càng tốt, nhưng Sebastian vẫn kiên trì đi theo trực giác.

“Marlboro! Ba euro!”

Anh rút ra từ túi bức ảnh của Jeremy rồi giơ ra. Việc đó đã trở thành thói quen!

- Ông nhìn thấy cậu bé này chưa? Ông nhìn thấy cậu bé này chưa?

- Xéo ngay, gã này. Để cho bọn tao làm ăn!

Không nản chí, Sebastian đi lần lượt hết các vỉa hè ở ngã tư Barbès-Rochechouart, chìa ảnh con trai cho từng người bán hàng. Anh đã sắp từ bỏ thì bất chợt nghe thấy một giọng nói rì rầm phía sau lưng:

- Đây là Jeremy, phải không?
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
623,263
Điểm cảm xúc
35
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 26


Sebastian quay người về phía giọng nói vừa hỏi anh.

- Đây là Jeremy, phải không?

- Đúng! Đó là con trai tôi! Anh nhìn thấy thằng bé rồi à? anh hỏi, lòng tràn trề hy vọng.

Người đàn ông này có vẻ không giống những kẻ bán hàng rong kia. Sơ mi sạch sẽ, áo com lê, tóc tai gọn gàng, giày cũ nhưng đánh xi tươm tất. Bất chấp tính chất cực khổ của công việc, gã vẫn chăm chút giữ gìn một vẻ ngoài không chê vào đâu được.

- Tôi tên Youssef, gã giới thiệu. Tôi đến từ Tunisia.

- Anh nhìn thấy con trai tôi rồi à?

- Rồi. Tôi nghĩ thế. Hai ngày trước…

- Ở đâu?

Gã đàn ông người Tunisia liếc ánh mắt ngờ vực quanh anh.

- Tôi không thể nói với ông lúc này, gã nói tiếp vẫn bằng tiếng Anh.

- Xin anh làm ơn! Chuyện này rất hệ trọng.

Youssef tuôn một tràng chửi rủa bằng tiếng Ả Rập với hai gã “Đồng nghiệp” mon men tới gần nhìn gã.

- Ông nghe đây… gã do dự. Ông hãy đến chờ tôi tại quán Móng ngựa. Đó là một quán cà phê nhỏ trên phố Belhomme, cách đây một trăm mét, ngay phía sau tòa nhà Tati. Nửa tiếng nữa tôi sẽ đến gặp ông ở đó.

- Đồng ý, cảm ơn anh! Cảm ơn anh!

Sebastian rốt cuộc cảm thấy hy vọng trở lại. Anh đã đúng khi cứ cố làm như vậy! Lần này, anh đã tóm được cái gì đó. Một hướng đi thực sự.

Anh băng đường sang đại lộ Barbès rồi đi dọc theo mặt tiền một cửa hàng lớn có logo kẻ ô vuông màu hồng: Tati. Cơ sở tiên phong trong việc giảm giả mạnh khiến khu phố này luôn náo nhiệt từ hơn năm mươi năm nay. Truy tìm các món hời, đám khách hàng lục lọi trong các thùng nhựa to đặt san sát trên vỉa hè. Đầm, quần, áo sơ mi, túi xách, đồ lót, đồ ngủ, bóng, đồ chơi… Các thùng đồ đầy ắp mọi thứ và mọi chủng loại: hàng lẻ size, xả hàng, hàng ế hay “Đợt giảm giá thế kỷ”.

Phía trên vỉa hè, những gã bán hàng rong khác đã kiếm được chỗ bày hàng, những người này thì bán túi Vuilton hay nước hoa giả.

Sebastian tiếp tục đi vào phố Bervic để sang phố Belhomme. Barbès thật mạnh mẽ và sống động. Đám đông chen chúc, những cuộc trao đổi ồn ào, nhưng khiến người ta ngạc nhiên. Các hình ảnh, sự năng động, sự sôi động không ngừng của khu phố khiến một người Mỹ như anh thấy hoang mang. Thậm chí các phong cách kiến trúc cũng tồn tại song hành cùng nhau: chỉ trong một khối nhà, các mặt tiền phong cách Haussmann liền kề với các ngôi nhà bằng đá vôi và những khu nhà ở xã hội.

Cuối cùng anh cũng đến trước quán cà phê mà Youssef đã nói. Một quán rượu mặt tiền khá hẹp, khép mình giữa một hiệu áo cưới hạng xoàng và một tiệm làm tóc của người châu Phi. Quán vắng tanh. Một thứ mùi nồng của gừng, quế và rau luộc bao trùm căn phòng.

Sebastian ngồi xuống một cái bàn gần cửa sổ rồi gọi một tách cà phê. Anh chần chừ không biết có nên gọi cho Nikki không. Anh rất muốn báo cho cô biết phát hiện của mình, nhưng lại quyết định chờ xem sau đây có biết thêm được gì không để tránh làm cô mừng hụt. Anh uống một hơi hết tách espresso, nhìn đồng hồ đeo tay rồi căng thẳng gặm móng tay, cảm thấy thời gian dài lê thê. Trên cửa sổ dán một tờ quảng cáo mời chào dịch vụ bùa ngải.

Tiến sĩ Jean-Claude

Làm phép giải bùa

Hàng phục những kẻ hai lòng

Vĩnh viễn trở lại là người yêu thương trong gia đình.

Thứ đó có lẽ rất hữu ích cho mình, anh mỉa mai nghĩ trong khi Youssef tiến vào quán rượu.

- Tôi không có nhiều thời gian, gã đàn ông người Tunisia cảnh báo trong lúc ngồi xuống trước mặt anh.

- Cảm ơn vì anh đã đến. Sebastian vừa nói vừa đặt tấm ảnh của Jeremy lên bàn. Anh chắc là đã gặp con trai tôi chứ?

Youssef chăm chú nhìn bức ảnh.

- Tôi chắc chắn. Đó là một cậu bé người Mỹ tầm mười lăm hay mười sáu tuổi tự xưng là Jeremy. Tôi đã gặp nó vào tối hôm kia ở chỗ Mounir, một trong những “chủ ngân hàng” của chúng tôi.

- Chủ ngân hàng ư?

Youssef nhấp một ngụm trong tách cà phê mà gã đã gọi.

- Mỗi ngày có hàng trăm bao thuốc lậu được bán ở ngã tư Barbès-Rochechouart, gã giải thích. Việc bán thuốc lá lậu cũng có hệ thống y như buôn ma túy. Những người bán buôn mua hàng từ các chủ cung cấp người Tàu. Sáng sáng, họ mang hàng đến địa điểm rồi giấu vào một chỗ bất kỳ: các thùng rác, xó xỉnh, khe các sạp hàng, cốp xe đỗ tại các địa điểm xung yếu. Sau đó đến lượt chúng tôi đi bán thuốc lá trên phố.

- Thế còn các “chủ ngân hàng”?

- Họ là những kẻ đi thu tiền.

- Nhưng Jeremy làm gì ở chỗ gã Mounir đó?

- Tôi không biết, nhưng thằng bé không có vẻ gì là bị giữ lại một cách miễn cưỡng cả.

- Gã đó sống ở đâu?

- Phố Caplat.

- Có cách đây xa lắm không?

- Không xa lắm.

- Có thể đi bộ tới đó chứ?

- Có thể, nhưng tôi phải ngăn ông ngay. Mounir không phải một kẻ dễ tính và…

- Tôi xin anh, làm ơn hãy dẫn tôi tới nhà gã đó! Tôi sẽ đi nói chuyện một mình với hắn.

- Không phải là ý hay đâu, tôi can ông đấy!

Rõ ràng là gã người Tunisia đang khiếp hãi. Sợ bị mất “việc”? Sợ khiến đám người không mấy dễ chịu kia quay lưng lại với mình?

Sebastian cố lấy lòng tin từ gã.

- Anh là một người tốt, Youssef. Hãy dẫn tôi tới chỗ Mounir. Tôi phải tìm lại con trai mình.

- OK, gã nhượng bộ.

Họ ra khỏi quán cà phê để sang khu Barbès theo phố Sophia. Đang là hai giờ chiều và mặt trời đã lên đến đỉnh. Vẫn là cảnh náo nhiệt, đại lộ nhung nhúc người. Trẻ, già, thị dân… Một số phụ nữ đầu trùm khăn, số khác lại diện mini-jupe.

- Anh học tiếng Anh ở đâu thế, Youssef?

- Ở đại học Tunis. Tôi vừa mới học xong khóa thạc sĩ văn học và văn minh Anh ở đó thì phải trốn chạy khỏi đất nước, cách đây sáu tháng.

- Tôi tưởng mọi thứ ở Tunisia đã khá hơn rồi…

Youssef lắc đầu.

- Chế độ Ben Ali sụp đổ và cuộc cách mạng Hoa nhài không tạo ra được việc làm bằng phép màu được, gã cay đắng giải thích. Tình hình vẫn hết sức khó khăn. Ngay cả có bằng cấp rồi thì thanh niên cũng chẳng có mấy tương lai. Tôi muốn thử vận may của mình ở đây hơn, tại nước Pháp.

- Anh có giấy tờ không?

Gã lắc đầu.

- Chẳng ai trong chúng tôi có giấy tờ cả. Tất cả chúng tôi đều đến đây qua đường Lampedusa vào mùa xuân năm ngoái. Tôi đi tìm một công việc tử tế, nhưng thật không dễ dàng gì khi chẳng có giấy tờ trong tay. Tôi không hãnh diện về công việc này, nhưng bán lẻ hàng lậu như thế này, đó là tất cả những gì tôi tìm được. Ở đây, mọi thứ đều phải tự xoay xở lấy, mỗi người vì chính bản thân mình. Anh phải tìm được vị trí của mình giữa các việc móc túi, bán ma túy, chứa chấp đồ ăn cắp, giấy tờ giả, bán thuốc lá…

- Còn cảnh sát thì sao?

Gã người Tunisia cười khẩy:

- Để tỏ ra mình làm việc mẫn cán, bọn cớm tổ chức truy quét mười ngày một lần. Anh sẽ bị tạm giam một đêm, trả tiền phạt và hôm sau, anh lại có mặt ở vỉa hè.

Youssef rảo bước, vội vã hoàn thành nhiệm vụ của mình.

Sebastian khó khăn lắm mới bắt kịp gã. Càng đi, anh càng cảm thấy bất an. Toàn bộ chuyện này chẳng phải có vẻ quá thuận lợi đến mức khó tin hay sao? Tại sao con trai anh lại có thể lạc vào lãnh thổ của một tên buôn lậu thuốc lá mờ ám cách New York đến sáu nghìn cây số chứ?

Lúc hai người đến một quảng trường nhỏ rực rỡ ánh nắng, người đồng hành với Sebastian giữ khoảng cách với anh khi đi vào một con ngõ chật chội và tối tăm dẫn đến đại lộ Chapelle.

- Tôi xin lỗi, Youssef vừa xin lỗi vừa rút từ trong túi ra một con dao.

- Nhưng…

Gã Tunisia huýt một tiếng qua kẽ răng. Tức thì, hai gã đàn ông xuất hiện phía sau Sebastian.

- Lúc nãy tôi đã cảnh báo anh rồi mà: ở đây, mỗi người đều vì chính bản thân mình.

Sebastian há miệng định nói, nhưng một cú đấm thô bạo giáng thẳng vào bụng anh. Anh cố gắng đánh trả; Youssef nhanh hơn anh: một cú đấm móc trúng giữa mặt khiến anh ngã gục xuống đất.

Đồng bọn của gã đàn ông người Bắc Phi dựng anh dậy rồi giữ ngang lưng anh. Khi ấy màn tra tấn thực sự mới bắt đầu: những cú thúc cùi chỏ vào bụng, những cú đá rồi tát, những lời thóa mạ. Không thể tự vệ được, Sebastian nhắm mắt chịu những cơn mưa đòn không dứt. Anh đã chịu một trận đòn như sự chuộc tội, như con đường sám hối cực nhọc. Trận đòn này, đó là Via Dolorosa của anh…

Anh đã tự chuốc khổ vào thân như một tên ngốc. Khi moi nắm tiền của mình ra với vẻ ngạo nghễ như thế, anh đã nhận về mình hình phạt đích đáng. Lẽ đương nhiên là gã Tunisia chưa bao giờ gặp Jeremy. Có lẽ gã đã nghe thấy tên thằng bé khi Sebastian nhắc đến nó trong cuộc nói chuyện với ông chủ sạp báo. Khi đó anh còn bất cẩn lôi ví ra nữa… Youssef đã lợi dụng tính cả tin của anh, còn anh, Sebastian, anh không đáng được tha thứ. Anh chẳng hề chứng tỏ được chút bình tĩnh nào, cũng chẳng thèm suy nghĩ. Anh cứ cun cút lao đầu vào miệng sói! Với tập tiền trong tay, trang phục và cái vẻ khờ khạo của người Mỹ, làm gì còn con mồi nào trên đời ngon ăn hơn anh.

Sau khi đã đánh đập và trấn lột của anh, Youssef ra hiệu cho hai tên đồng bọn. Hai tên thuộc hạ nhất loạt buông con mồi rồi chạy biến.

Cung lông mày toạc máu, hai môi phồng tướng, mí mắt sưng húp, Sebastian khó khăn lắm mới lấy lại được thần trí. Anh cố mở một mắt ra. Anh lờ mờ phân biệt được tiếng ồn ào của đám đông ở phía xa hơn, dòng xe cộ nối đuôi nhau không dứt chạy trên đại lộ. Anh khó nhọc đứng dậy.

Anh lấy tay áo vest chùi những vết máu chảy ra từ miệng và mũi.

Chúng đã cướp đi của anh tất cả. Ví, tiền, điện thoại, thắt lưng, giày. Thậm chí cả chiếc đồng hồ phiên bản hạn chế mà anh được thừa kế của ông nội.

Những giọt nước mắt tủi nhục và bực bội ngân ngấn trong mắt anh. Anh sẽ nói sao với Nikki bây giờ? Sao anh lại có thể cả tin đến thế? Và bất chấp ý chí của mình, liệu anh đã thật sự có đủ năng lực cần thiết để tìm lại được con trai?
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
623,263
Điểm cảm xúc
35
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 27


Sân hiên nhô cao phía trên khu vườn khách sạn.

Tì người vào lan can, Nikki cố làm dịu nỗi lo lắng bằng cách buông mình theo tiếng róc rách êm ái của đài phun nước cẩm thạch cũ kỹ. Một quần thể thực vật, rậm rạp và xanh rờn bao quanh dinh thự. Hai hàng bách chạy ngang khu vườn khiến nơi này hao hao cảnh vật vùng Toscane. Những gốc Trinh đằng có màu vàng của mùa thu leo dọc bức tường, tranh giành không gian với những cành nhài điểm xuyết những bông hoa trắng tỏa mùi hương quá nồng xông lên tận phòng cô.

Bị cảm giác bất lực đè nặng, Nikki cứ quay mòng mòng từ lúc Sebastian đi khỏi. Trong những hoàn cảnh khác, có lẽ cô đã tận hưởng cảnh thơ mộng và tĩnh mịch nơi này, nhưng nỗi bất an cứ giày vò, khiến các cơ của cô căng cứng và co lại, tim cô bị bóp nghẹt trong lồng ngực.

Không tài nào thư giãn nổi, cô quay vào bên trong và đi chuẩn bị nước tắm.

Trong khi nước đang dâng đầy bồn, tỏa làn hơi nhè nhẹ bao kín phòng tắm, Nikki tiến lại gần cái máy hát cổ đặt giữa một kệ gỗ màu trắng. Đó là một chiếc máy quay đĩa dạng hộp, kiểu dáng những năm 1960, nắp có thể tháo rời làm loa. Xếp trên các kệ nhỏ là một bộ sưu tập đĩa than cũ khoảng năm chục đĩa 33 vòng. Nikki lật nhanh những bao nhỏ đựng toàn album đỉnh: Highway 61 của Dylan, Ziggy Stardust của Bowie, The Dark Side of the Moon của nhóm Pink Floyd, The Velvet Underground & Nico…

Cô dừng lại ở lựa chọn Aftermath, một trong những album hay nhất mọi thời đại khi mà nhóm Stones vẫn là Stones. Cô đặt chiếc đĩa lên khay rồi đặt đầu đọc lên rãnh. Ngay từ những giây phút đầu tiên, những tiếng riff của mộc cầm và đoạn base của bản Under my thumb đã khiến căn phòng rung chuyển. Người ta nói rằng Mick Jagger đã viết bài này để trả thù cô người mẫu Chrissie Shrimpton, người tình khi ấy của ông. Thời ấy, những người ủng hộ nữ quyến không thích thú gì lời bài hát cứ lần lượt đem người phụ nữ trong bài hát ra so sánh với một “con chó vẫy đuôi rối rít” rồi lại một “con mèo Xiêm”.

Với Nikki, cô lại thấy bản nhạc này phức tạp hơn. Nó nói về sự tìm cách áp đặt giữa đôi lứa, về khoái lạc phục thù khi tình yêu đã biến thành thù hận.

Cô đứng trước tấm gương hình bầu dục có khung sắt rèn rồi trút bỏ hết quần áo. Cô săm soi hình ảnh phản chiếu trên gương với vẻ không hài lòng.

Một tia nắng lọt vào phòng vờn trên gáy cô. Cô nhắm mắt lại vài giây rồi phơi mặt ra trước ánh sáng, cảm nhận làn da nóng dần lên dưới tác động của hơi nóng. Theo năm tháng, dáng vóc cô đã trở nên tròn trĩnh, nhưng nhờ tập luyện thể thao cường độ cao, cơ thể cô vẫn rất săn chắc. Bầu ngực cô vẫn cao, dáng người thanh thoát và rắn rỏi, cặp đùi khỏe mạnh, bắp chân rắn chắc.

Trong khoái lạc hiện tại, cô tìm lại được niềm tin vào bản thân.

Ở vòng tuyển chọn Miss Cougar, bà vẫn còn cơ hội, Mrs Robinson…

Cô khóa vòi nước rồi run rẩy trườn mình xuống bồn tắm nước nóng. Như ngày xưa cô vẫn làm thế, cô nín thở rồi ngụp đầu trong làn nước. Ngày xưa, cô có thể nín thở gần hai phút. Khoảng thời gian tạm ngưng mà cô dùng để sắp xếp lại suy nghĩ cho rõ ràng.

Mười giây…

Khao khát mình trẻ mãi làm hỏng cuộc đời cô. Bao năm rồi cô mệt mỏi rã rời vì cứ muốn yên trí về khả năng quyến rũ của mình. Sự thật là cô vẫn cứ tưởng chỉ có thể làm điều đó bằng vẻ ngoài của mình. Cô khiến đàn ông thích cô vì cô “gợi tình”. Chính cơ thể cô là điều họ luôn để ý trước, chưa bao giờ là nét duyên của cô, chưa bao giờ là trí thông minh của cô, tính hài hước hay học vấn của cô…

Hai mươi giây…

Nhưng tuổi trẻ của cô đã trôi xa. Các tờ tạp chí cho phụ nữ vẫn cứ ra rả giật tít: “Bốn mươi tuổi, chỉ là thêm một lần ba mươi!”, tất cả những thứ đó, chỉ là mấy lời đùa cợt. Thời đại này muốn sức sống, muốn tuổi trẻ, muốn da thịt luôn tươi tắn. Trên phố, cô đã cảm thấy không phải gã đàn ông nào cũng ngoảnh mặt lại mỗi khi cô đi qua. Tháng trước, trong một cửa hiệu ở Greenwich, cô đã thấy vui vì sự chú ý mà anh chàng bán hàng dành cho mình, đó là một gã hấp dẫn và đẹp mã, nhưng sau đó cô nhận ra rằng cô không phải là người mà gã đó tán tỉnh, mà là… Camille.

Ba mươi giây…

Cô cảm thấy khó khăn khi thú nhận điều này, nhưng cô đã rất xúc động khi gặp lại Sebastian. Anh vẫn luôn khó gần, cứng đầu, không công bằng, khăng khăng với những điều mình tin chắc, nhưng cô cảm thấy an tâm khi có anh ở bên để vượt qua thử thách này.

Bốn mươi giây…

Khi họ cưới nhau, cô chưa từng cảm thấy mình tương xứng. Vì nghĩ rằng tình yêu của họ là một sự hiểu lầm – sớm hay muộn Sebastian cũng sẽ nhận ra sai lầm của mình và sẽ nhìn cô đúng như con người thật của cô -, cô đã sống trong nỗi sợ hãi bị bỏ rơi.

Năm mươi giây…

Thậm chí, đối với cô, sự rạn nứt giữa họ là dường như không thể tránh khỏi, đến mức cô đã ra tay hành động trước, liên tục cặp bồ, lao mình vào vòng xoáy hủy hoại và phi lý rốt cuộc đã khiến vợ chồng cô tan vỡ, chứng thực cho nỗi sợ hãi lớn nhất của cô, nhưng cũng đem đến cho cô cảm giác nhẹ nhõm đầy mâu thuẫn: giờ đây khi đã để mất anh, cô không còn thấy sợ sẽ để mất anh nữa.

Một phút…

Bắt đầu đếm ngược. Cuộc đời đang tuột dần khỏi tay cô… Hai hoặc ba năm nữa, có thể Jeremy sẽ đi học ở California. Có thể cô sẽ vẫn một mình. Một mình. Một mình. Một mình. Vẫn là nỗi sợ hãi bị bỏ rơi. Từ đâu mà có vết thương lòng này? Từ thời thơ ấu ư? Hay trước đó? Cô không muốn nghĩ đến điều đó nữa.

Một phút mười giây…

Cô rùng mình và cảm thấy cơn run rẩy đó xuất phát từ dưới bụng cô. Bây giờ, cô đang thiếu ôxy. Đoạn điệp khúc bài hát của nhóm Stones vọng đến tai cô bập bõm, điểm thêm tiếng… riff của Jimi Hendrix!

Điện thoại của mình!

Cô đột ngột ngẩng đầu khỏi mặt nước rồi chộp lấy điện thoại. Là Santos. Từ hôm qua tới giờ, anh đã gửi rất nhiều tin nhắn cho cô, cả giận dữ lẫn yêu thương. Vẫn trong trạng thái hốt hoảng bởi những sự kiện vừa qua, cô chưa muốn trả lời anh ngay.

Cô lưỡng lự. Thời gian gần đây, Santos lộ ra là một người tình ngày càng khiến cô cảm thấy ngột ngạt, nhưng anh là một cảnh sát giỏi. Và nếu anh đã phát hiện ra hướng điều tra liên quan đến vụ mất tích của Jeremy thì sao?

- Vâng? Cô hổn hển nói.

- Nikki à? Tốt rồi! Anh đã tìm cách liên lạc với em suốt. Em đang chơi trò gì đấy, mẹ kiếp!

- Em đang bận, Lorenzo.

- Em đang làm cái quái gì ở Paris vậy?

- Làm sao anh biết em đang ở đâu?

- Anh đã ghé qua nhà em. Anh đã nhìn thấy vé máy bay.

- Nhưng anh đang tự cho mình cái quyền gì vậy?

- May mà là anh chứ không phải một tay cớm khác đấy nhé, anh nổi cáu. Vì anh đã tìm thấy cocain trong phòng tắm!

Chết lặng người, cô cẩn trọng không nói gì. Anh đã dồn cô vào đường cùng.

- Tỉnh lại đi, em thân mến! Có dấu vân tay của em và gã chồng cũ của em ở một hiện trường án mạng bẩn thỉu. Em đang trong tình cảnh vô cùng rắc rối đấy!

- Chúng tôi đến đó chẳng để làm gì cả! Cô tự vệ. Drake Decker đã chết khi chúng tôi đến. Còn gã kia, đó là phòng vệ chính đáng.

- Nhưng em làm cái quái gì ở xó xỉnh đó?

- Em thử tìm con trai em! Anh nghe đây, em sẽ giải thích hết cho anh ngay khi em có thể làm việc đó. Anh không có tin tức gì về Jeremy sao?

- Không, nhưng anh là người duy nhất có thể giúp em.

- Sao cơ?

- Anh có thể cố trì hoãn cuộc điều tra về cái chết của Decker, với điều kiện em trở về New York càng sớm càng tốt.

-…

- Được chứ, Nikki?

- Được, Lorenzo.

- Và đừng để Sebastian tác động đến em, anh đe dọa.

Cô nhận thấy một khoảng ngừng. Anh đang cố gắng bình tĩnh lại.

- Anh… anh nhớ em, em yêu. Anh sẽ làm tất cả để bảo vệ em. Anh yêu em.

Suốt một lúc lâu, Santos chờ đợi một câu “Em cũng yêu anh” mà Nikki không thể nói ra thành lời.

Một tín hiệu vang lên báo cho cô biết có một cuộc gọi nữa. Cô tranh thủ cơ hội để chẩm dứt cuộc nói chuyện.

- Em phải ngắt máy đây. Có một cuộc gọi khác đang chờ. Em sẽ nhắn tin sớm cho anh.

Cô kết nối với người gọi mới mà không để cho Santos kịp phản kháng gì hết.

- Alô?

- Bà Larabee phải không?

- Speaking.

- Chúng tôi là Công ty du thuyền Paris, một giọng thông báo bằng tiếng Anh. Tôi gọi cho bà để xác nhận bữa tối của bà.

- Bữa tối nào?

- Bà đã đặt một bữa tối “Hạng sang” vào 20h30 tối nay trên tàu Amiral của chúng tôi.

- Ờ… ông chắc chắn là không có nhầm lần gì chứ?

- Chúng tôi đã nhận đặt trên danh nghĩa Ông và Bà Larabee cách đây một tuần, nhân viên lễ tân nói rõ. Vậy tôi nên hiểu là bà hủy đặt?

- Không, chúng tôi sẽ tới, Nikki đảm bảo. 20h30, ông đã nói thế phải không? Chúng tôi sẽ lên tàu ở đâu?

- Tại cầu Alma, quận VIII. Mong bà nhớ mặc trang phục dạ tiệc.

- Được rồi, Nikki vừa xác nhận vừa nhẩm lại các chỉ dẫn.

Cô ngắt máy. Đầu óc cô hoàn toàn bấn loạn. Lộn xộn. Hoang mang. Cuộc hẹn hò lần này nghĩa là thế nào? Liệu có phải ở đó, cầu Alma, sẽ là nơi rốt cuộc người ta liên hệ với họ? Và có thể là sẽ trả Jeremy cho họ…

Cô nhắm mắt lại rồi lại ngụp đầu vào làn nước.

Để suy xét mọi chuyện rõ ràng hơn, cô những mong có thể cài đặt lại đầu óc mình theo kiểu như một chiếc máy vi tính. Nhấn nút Reset.

Ctrl-Alt-Del

Đầu óc cô đang dồn dập những ý nghĩ tiêu cực, những hình ảnh khủng khiếp đi thẳng từ một cơn ác mộng ra. Cô chậm rãi làm dịu nỗi sợ hãi bằng cách tập trung đầu óc như đã được học trong các buổi học thiền. Dần dần, cơ bắp cô thả lỏng hơn. Việc nín thở khiến cô cảm thấy ổn. Sự tiếp xúc với làn nước ấm trên da cô như một chiếc kén bảo vệ. Tình trạng thiếu ôxy giữ vai trò như bộ lọc, xóa sạch khỏi thâm tâm tất cả những gì làm ô uế cô.

Cuối cùng, chỉ còn lại một hình ảnh. Một kỷ niệm xưa cũ đã bị kiềm nén bấy lâu. Một chiếc bao giam hãm thời gian, một bộ phim nghiệp dư phai màu đưa cô trở lại mười bảy năm trước.

Vào cuộc gặp gỡ thứ hai của cô với Sebastian.

Mùa xuân năm 1996.

Tại Paris…

Nikki

Mười bảy năm trước…

Vườn hoa Tuileries

Paris

Mùa xuân năm 1996

- Chụp lần cuối cùng nhé, các cô gái! Vào vị trí! Chú ý… Bắt đầu!

Trước cung điện Louvre, một tốp người mẫu đang thực hiện lần thứ mười cảnh diễn cầu kỳ. Để phục vụ cho lần quảng cáo này, thương hiệu may mặc cao cấp đã huy động mọi phương tiện: đạo diễn tiếng tăm, trang phục lộng lẫy, bối cảnh hoành tráng, thừa mứa diễn viên quần chúng làm nền cho ngôi sao được chọn làm đại sứ thương hiệu.

Tôi tên là Nikki Nikovski, tôi hai mươi lăm tuổi và tôi là một trong số những cô người mẫu ấy. Không phải siêu mẫu được xuất hiện chính, không phải như vậy. Chỉ là một trong những cô gái vô danh không thứ hạng đang đứng ở hàng thứ tư kia. Đang là giữa thập niên 1990. Một vài siêu mẫu hàng đầu – Claudia, Cindy hay Naomi – đã vụt sáng thành ngôi sao và cần mẫn tích cóp làm giàu. Nhưng tôi không sống cùng cái hành tinh đó. Vả lại, Joyce Cooper, quản lý của tôi, đã không nể nang gì mà nói thẳng điều đó với tôi: “Cô nên cảm thấy hạnh phúc vì được du hành ở Paris.”

Cuộc đời tôi chẳng có gì giống với câu chuyện cổ tích hấp dẫn mà những người mẫu hạng sao vẫn thường thổ lộ trên các tạp chí. Tôi không hề lọt vào tầm ngắm của nhiếp ảnh gia công ty Elite trên một bãi biển hay trong một trung tâm thương mại nào đó nhân dịp ông ta “Tình cờ” ghé qua chốn khỉ ho cò gáy quê tôi ở Michigan. Không, tôi bắt đầu nghề người mẫu rất muộn, năm hai mươi ba tuổi khi đến New York. Các bạn không bao giờ nhìn thấy tôi trên bìa tạp chí Elle hay Vogue đâu, và nếu đôi khi tôi được biểu diễn trên sàn catwalk thì đó cũng chỉ là những buổi trình diễn cho những nhà tạo mẫu hạng hai.

Cơ thể tôi trụ được đến bao giờ?

Tôi đau chân và lưng. Tôi có cảm giác xương như gãy đến nơi rồi, nhưng tôi tập trung hết sức để tạo được dáng đẹp. Tôi đã tập cười, tập cách làm nổi bật đôi chân thon và khuôn ngực, tập bước những bước thật nhẹ nhàng uyển chuyển, tập luyện sao cho mỗi cử chỉ của tôi đều toát lên nét duyên dáng, yểu điệu.

Nhưng tối nay, cô gái yểu điệu ấy đã mệt bã người. Tôi mới bay tới đây sáng nay và ngày mai tôi sẽ về. Không hẳn là một kỳ nghỉ! Những tháng vừa qua thật khó khăn. Tay cầm hồ sơ báo chí, suốt cả mùa đông tôi chỉ có đi casting. Lên tàu từ ngoại ô vào Manhattan từ sáu giờ sáng, chụp hình trong những studio lạnh giá, diễn giá rẻ trong các quảng cáo hạng xoàng. Mỗi ngày tôi lại phải đối mặt với hiện thực phũ phàng nhiều hơn: tôi không còn đủ trẻ. Tôi cũng không sở hữu cái vẻ lóe sáng giúp tôi có thể trở thành Christy Turlington hay Kate Moss. Và nhất là, tôi đang già đi. Đã già.

- Cắt! đạo diễn hô. OK, tốt lắm, các cô gái! Các bạn có thể đi ăn mừng được rồi. Paris là của các bạn!

Thật khó tin!

Nhà sản xuất đã dựng một số lều làm nơi nghỉ tạm. Ánh nắng cuối chiều thật đẹp, nhưng trời thì lạnh cắt da cắt thịt. Lúc tôi đang tẩy trang trong gió rét thì một cô nhân viên tập sự của Joyce Cooper gọi tôi:

- Xin lỗi cô, Nikki, không còn phòng ở Royal Opéra. Chúng tôi đã phải đổi khách sạn cho cô.

Cô ta chìa cho tôi một mảnh giấy trên đó có in địa chỉ một quán trọ ở quận XIII.

- Cô giễu tôi đấy à? Tại sao các người không tìm xa hơn? Đã đến nước này thì tại sao không phải là ở ngoại ô luôn đi!

Cô ta dang tay tỏ vẻ bất lực.

- Xin lỗi cô. Đang kỳ nghỉ đông. Tất cả đều đã kín chỗ.

Tôi thở dài, thay giày và quần áo. Không khí thật náo nhiệt. Các cô gái đều vô cùng phấn khích: có một bữa tiệc được tổ chức ở vườn hoa khách sạn Ritz. Lagerfeld[1] và Galliano[2] sẽ xuất hiện tại đó.

[1]. Tức Karl Lagerfeld, nhà thiết kế huyền thoại, giám đốc sáng tạo của nhãn hiệu thời trang Chanel. (ND)

[2]. Tức John Galliano, nhà thiết kế, giám đốc sáng tạo của nhãn hiệu thời trang Christian Dior giai đoạn 1997 – 3/2011. (ND)

Khi tôi đến nơi, tên tôi không có trong danh sách khách mời thần kỳ.

- Em đi uống một ly với bọn anh chứ, Nikki? Một tay chụp ảnh trường quay rủ rê tôi.

Anh ta đi cùng một anh bạn, một tay quay phim đã ngấp nghé tôi từ buổi sáng.

Chưa có mảy may một giây phút nào tôi muốn đi cùng hai gã tầm thường này, nhưng tôi cũng không từ chối họ. Quá sợ hãi phải ở một mình. Quá cần cảm giác được người khác thèm muốn, dù chỉ là những kẻ tôi coi thường.

Tôi theo họ đến một quán ba trên phố Alger. Chúng tôi uống liền mấy ly “Chiến binh cảm tử”, một loại cocktail lừa miệng pha từ vodka, rượu cam Cointreau và chanh. Rượu giúp tôi ấm người, khiến tôi thư giãn và mau chóng bốc lên đầu tôi.

Tôi cười, tôi đùa, tôi ra vẻ tươi tỉnh. Thế nhưng tôi vẫn ghét mấy tên chụp ảnh đồi bại này, những kẻ thích săn hàng mới. Tôi thừa biết chiến thuật của họ: chuốc say các cô gái, cho họ một ít ma túy, miệt mài theo sát mục tiêu, lợi dụng cơn mệt mỏi của họ, nỗi cô đơn của họ, phút hoang mang của họ. You’re so awesome! So sexy! So glamourous[3]… Họ nhìn tôi như một con mồi dễ dãi và tôi cũng chẳng làm gì để khiến họ phải hiểu khác đi. Tôi sống bằng điều đó: bằng ngọn lửa bùng lên trong ánh mắt tôi khơi gợi ở đàn ông, thậm chí ở những tên khốn như hai gã này. Như một thứ ma cà rồng, tôi sống bằng khao khát của họ.

[3]. Tiếng Anh trong nguyên bản: Em thật tuyệt! Rất gợi cảm! Rất quyến rũ…

Về thế giới thời trang, tôi không còn nhìn thấy sự quyến rũ, cũng không còn thấy những điều lấp lánh. Từ giờ trở đi, sẽ chỉ còn là sự rệu rã, chán nản, đua tranh. Tôi hiểu rằng mình chỉ là một hình ảnh, một phụ nữ có thể vứt bỏ, một sản phẩm sắp quá đát.

Hai gã kia ghé sát lại, vởn quanh tôi, những cử chỉ của họ đã táo bạo hơn. Trong một lúc, họ tưởng rằng tôi sẽ theo họ thực hiện một cuộc chơi tay ba.

Màn đêm buông xuống. Tôi ngắm từng ngọn đèn dần bật sáng cho đến khi hai gã kia tỏ ra thực sự quá thúc bách. Tôi đứng phắt dậy, khi cảm thấy mình vẫn còn chút tỉnh táo. Tôi kéo va li rời khỏi quán. Tôi nghe thấy những tiếng chửi rủa sau lưng mình: đồ lẳng lơ, đồ đỏng đảnh… Business as usual[4]­.

[4]. Tiếng Anh trong nguyên bản: Thói đời là thế.

Trên phố Rivoli, không thể bắt được taxi. Tôi rẽ sang trạm tàu điện. Trạm dừng Palais – Royal. Sau khi liếc qua sơ đồ dán trên bến, tôi lên một chuyến tàu rồi mặc nó mang tôi đi dọc tuyến số 7: Pont – Neuf, Châtelet… Jussieu… Les Gobelins…

Khi tôi đến quảng trường Italia, trời đã tối hẳn. Tôi nghĩ khách sạn tôi ở cũng gần thôi, nhưng thực ra tôi đã mất nhiều phút đi bộ. Trời bắt đầu mưa. Tôi hỏi đường, nhưng người ta xua đuổi tôi vì tôi không nói được tiếng Pháp. Đất nước lạ lùng… Tôi đi ngược lên phố Bobillot kéo theo va li, bánh xe của nó đã bị kẹt. Trời mưa càng lúc càng to.

Đêm nay tôi cảm thấy mình thật tả tơi và mỏng manh. Cô đơn hơn bao giờ hết. Nước mưa chảy dọc cơ thể tôi và tất cả vỡ vụn trong tôi. Tôi nghĩ đến tương lai. Tôi sẽ chỉ có một tương lai đó sao? Tôi không một xu dính túi. Sau năm năm làm nghề, tôi chẳng dành dụm được đồng nào. Lỗi là ở một hệ thống được tổ chức để duy trì cho bạn trạng thái phụ thuộc. Các công ty người mẫu rất giỏi chơi trò vặt vãnh này và thường thì tôi làm việc chỉ đủ hoàn lại tiền hoa hồng và chi phí đi lại.

Đang bước lên vỉa hè thì một gót giày của tôi bị gãy và thế là trong cảnh bước thấp bước cao, giày cầm trên tay còn thể diện tụt thê thảm, rốt cuộc tôi cũng tới được Butte – aux – Cailles.

Tôi chưa từng nghe nói đến khu phố trên cao này ở Paris. Hồi đó, nơi này tựa như một ngôi làng nhỏ cách biệt với thời gian. Ở đây không có những con phố lớn, không có những ngôi nhà cao tầng san sát nhau, mà chỉ toàn những con phố nhỏ lát đá và những ngôi nhà như ở miền quê nào đó. Tôi cảm giác như biến thành Alice, bị rơi vào “Thế giới bên kia tấm gương”.

Nằm trên phố Năm Viên Kim Cương, khách sạn tôi ở là một tòa nhà cũ kỹ chật hẹp có mặt tiền hơi đổ nát. Người mệt nhoài, run lẩy bẩy, tôi bước vào gian sảnh tồi tàn rồi chìa cho bả chủ tờ giấy xác nhận việc đặt phòng của tôi.

- Phòng 21, thưa cô. Anh họ của cô đã tới đây cách đây một tiếng, bà ta thông báo với tôi mà không đưa chìa khóa phòng.

- Anh họ của tôi á? Bà đang nói về chuyện gì vậy?

Tôi chỉ biết một vài từ tiếng Pháp, bà ta thì không nói được tiếng Anh, dù tấm biển chỉ dẫn nhỏ khẳng định điều ngược lại. Sau năm phút lúng búng nói chuyện, tôi lờ mờ hiểu ra rằng có một anh chàng người Mỹ đã chiếm lĩnh phòng của tôi cách đây một tiếng bằng cách xưng là anh họ tôi. Tôi đòi bà ta một phòng khác, bà ta nói khách sạn đã kín chỗ. Tôi yêu cầu bà ta gọi cảnh sát, bà ta đáp gã kia đã thanh toán tiền phòng.

Câu chuyện điên rồ này là thế quái nào đây?

Tôi hùng hục leo cầu thang bộ và bỏ lại hành lý giữa chừng rồi lên tầng đập cửa phòng 21.

Không có tiếng trả lời.

Không do dự, tôi lao ngay ra phố rồi đi vòng quanh khách sạn theo một ngõ nhỏ lát đá. Tôi tìm ra cửa sổ căn phòng của kẻ chiếm đoạt rồi ném thẳng một chiếc giày lên đó. Tôi ném trượt, nhưng vẫn còn cơ hội thứ hai. Lần này, chiếc giày của tôi bẹp gí trên ô cửa kính. Vài giây sau, rút cuộc một gã đàn ông cũng mở cửa kính rồi thò đầu ra ngoài.

- Chính cô đã làm trò ầm ĩ vừa rồi à? Anh ta càu nhàu.

Tôi không thể tin nổi điều đó. Là… Sebastian Larabee, tay làm đàn tôi đã gặp ở Manhattan. Tôi khó lòng kiềm chế được cơn giận dữ.

- Anh làm cái quái gì trong phòng tôi vậy?

- Tôi đang cố gắng chợp mắt, cô biết đấy. Đấy là… trước khi cô làm mấy trò ầm ĩ này.

- Anh xéo ngay cho tôi nhờ!

- Không đâu, tôi không nghĩ thế, anh ta điềm tĩnh đáp lời.

- Nghiêm túc nhé, tại sao anh lại có mặt ở Paris?

- Tôi đến đây để gặp cô.

- Gặp tôi á? Với vinh hạnh nào đây? Mà làm sao anh tìm được tôi?

- Tôi đã làm một cuộc điều tra nho nhỏ.

Tôi thở dài. Thôi, gã này đúng là đồ khùng. Anh ta cứ phải dính lấy tôi là làm sao. Đây không phải là lần đầu tiên tôi gặp một kẻ loạn thần. Thế nhưng, anh chàng này có vẻ bình thường, tốt bụng, dịu dàng…

Tôi cố làm ra vẻ hờ hững:

- Chính xác thì anh chờ đợi gì ở tôi?

- Mấy lời xin lỗi.

- Thế ư? Nhưng tại sao?

- Trước tiên vì đã móc ví của tôi, cách đây ba tháng.

- Nhưng tôi đã trả nó lại cho anh rồi! Một trò vui thôi ấy mà. Một cách để biết địa chỉ của anh.

- Lẽ ra cô chỉ cần hỏi tôi là được, thậm chí có khi tôi còn mời cô ấy chứ!

- Phải, nhưng làm như thế sẽ bớt phần thú vị.

Một ngọn đèn đường rọi sáng mặt đường lát đá ẩm ướt của con ngõ cụt. Sebastian Larabee khinh khỉnh nhìn tôi với nụ cười tuyệt đẹp.

- Tiếp nữa, tôi trách cô vì đã trốn mất tích, không để lại địa chỉ cho tôi.

Tôi lắc đầu.

- Phức tạp nhỉ!

- Dù sao chúng ta cũng đã ngủ với nhau, hình như là thế.

- Thế thì sao? Tôi ngủ với cả cái thế giới này ấy chứ, tôi khiêu khích anh ta.

- Vậy sao, thế thì tối nay cô ngủ ngoài đường nhé, anh ta nói dứt khoát đồng thời đóng sầm cửa sổ lại.

Đã khuya mà lại còn lạnh nữa. Tôi mệt lả cả người, nhưng cũng bị bất ngờ. Dù sao tôi không hề có ý định để mình bị cái gã thô lỗ này đối xử như thế.

- Được lắm, anh muốn thế đấy nhé!

Có một thùng rác bằng nhựa ở góc ngõ. Bất chấp mệt mỏi, tôi leo lên thùng rác rồi leo dọc theo đường ống nước. Đứng thăng bằng trên một bồn hoa, tôi tạm ngưng trên tầng hai rồi tiếp tục công cuộc leo trèo. Ngước mặt lên trời, tôi nhìn thấy Sebastian đang bàng hoàng nhìn qua cửa kính. Mắt trợn tròn, anh ta nhìn tôi với vẻ hoảng hốt.

- Cô sẽ bị gãy cổ đấy! Anh ta vừa mở cửa sổ vừa gào lên.

Bị bất ngờ, tôi lùi lại và bị mất thăng bằng. Trong khi bị hụt mất điểm tựa, rốt cuộc tôi cũng kịp tóm lấy bàn tay anh ta chìa ra cho mình.

- Cô bị điên rồi! Anh ta vừa mắng mỏ vừa kéo tôi lên gờ cửa sổ.

Vừa thoát khỏi mối nguy hiểm tôi liền xông vào túm lấy cổ áo anh ta, rồi đấm như thụi vào người anh ta.

- Tôi mà bị điên á, đồ khùng? Suýt nữa thì anh giết tôi rồi đấy!

Bất ngờ trước cơn hung hăng của tôi, anh ta cứ thừ người ra. Điên tiết, tôi tóm lấy va li đang mở của anh ta dưới chân giường rồi lấy đà quăng nó qua cửa sổ. Anh ta ngăn tôi lại, vòng tay ôm tôi.

- Cô bình tĩnh lại đi! Anh ta hét lên.

Khuôn mặt anh ta chỉ cách mặt tôi vài cen ti mét. Ánh mắt anh ta thẳng thắn và chân thật. Từ anh ta thoát ra vẻ nhân từ khiến anh ta trở nên đáng tin cậy. Người anh ta rất thơm. Mùi nước hoa hẳn đám đàn ông cùng thời với Cary Grant thường dùng.

Đột nhiên tôi cảm thấy vô cùng phấn khích. Tôi cắn môi anh ta, xô anh ta ngã xuống đệm rồi giật tung các cúc áo sơ mi anh ta.

*

Sáng hôm sau.

Tiếng chuông điện thoại đột nhiên đánh thức tôi dậy. Đêm qua thật ngắn ngủi. Mắt vẫn díp lại vì buồn ngủ, tôi với lấy điện thoại rồi ngồi tựa vào gối.

Đầu dây bên kia, bà chủ khách sạn lí nhí vài câu bằng tiếng Anh.

Tôi nheo mắt lại. Một làn ánh sáng dịu nhẹ lọt qua tấm ri đô bằng đăng ten của căn phòng bé tí này. Vừa cố lấy lại thần trí tôi vừa thò chân đẩy cửa phòng tắm mở hé.

Không có ai…

Chẳng lẽ Sebastian Larabee đã bỏ tôi lại sao?

Tôi yêu cầu bà chủ khách sạn lặp lại từng từ.

- Your cousin is waiting for you at the coffee shop just around the corner.

“Anh họ” của tôi đang đợi tôi trong quán cà phê ở góc phố.

Ra thế, anh ta cứ việc đợi.

Tôi bật dậy, tắm táp qua loa rồi thu lượm đồ đạc. Tôi xuống cầu thang, lấy lại va li của tôi vẫn đang ở sảnh. Tôi gặp bà chủ quán trọ đứng ở sau quầy rồi thò mặt ra phố. Quán cà phê cách chỗ này khoảng một trăm mét về phía bên trái. Tôi rẽ phải theo hướng bến tàu điện ngầm. Tôi đi được khoảng hai chục mét thì bà chủ quán trọ đuổi kịp tôi.

- Tôi nghĩ anh họ cô đã lấy hộ chiếu của cô… bà ta nói với tôi, vẻ thờ ơ.

*

Lạc lõng giữa không gian hiện đại, quán cà phê Đèn xanh tạo cảm giác như được gửi đến từ thập niên 1950: quầy rượu bằng kẽm, khăn trải bàn bằng vải kẻ ô vuông, ghế dài bọc vải giả da, bàn formica. Tấm bảng đen treo trên tường ghi những món ăn phục vụ ngày hôm trước: xúc xích nhân đào lạc, chân giò heo, dồi Troyes nhỏ.

Khi giận dữ xông vào quán cà phê, tôi nhận ra Sebastian đang ngồi ở một bàn cuối phòng. Tôi đến đứng trước mặt anh ta rồi đe dọa:

- Anh trả hộ chiếu cho tôi đi!

- Chào buổi sáng, Nikki. Anh cũng thế, anh hy vọng là em ngủ ngon, anh ta nói với tôi đồng thời chìa hộ chiếu của tôi ra. Em ngồi xuống đi, xin em đấy. Anh đã tự ý gọi đồ cho em rồi.

Đang đói nẫu ruột, tôi đầu hàng trước bữa sáng thịnh soạn: cà phê sữa, bánh sừng bò, bánh mì lát, mứt. Tôi nhấp một ngụm cà phê rồi giở khăn ăn ra thì nhìn thấy một gói thắt ruy băng.

- Cái gì đây?

- Một món quà.

Tôi ngước mắt lên trời.

- Anh không cần phải tặng quà cho tôi chỉ vì chúng ta đã hai lần ngủ với nhau… Tên anh là gì đã nhỉ?

- Em cứ mở nó đi. Anh hy vọng em sẽ thích. Đừng lo, không phải nhẫn đính hôn đâu.

Tôi vừa xé lớp giấy bọc vừa thở dài. Đó là một cuốn sách. Một bản in đặc biệt cuốn Tình yêu thời thổ tả. Có minh họa, được đóng rất đẹp và có chữ ký của chính Gabriel Garcia Márquez.

Tôi lắc đầu, nhưng tôi thấy xúc động trước ý định này. Tôi nổi cả da gà. Đây là lần đầu tiên một gã đàn ông tặng sách cho tôi. Tôi cảm thấy nước mắt chực trào ra, nhưng cố kìm nén. Cử chỉ này khiến tôi thấy xúc động nhiều hơn là tôi muốn.

- Chính xác thì anh đang chơi trò gì vậy? Tôi vừa nói vừa đẩy cuốn tiểu thuyết ra. Bản này phải đáng giá cả gia tài. Tôi không thể nhận nó được.

- Tại sao?

- Chúng ta không quen nhau.

- Chúng ta có thể tập quen nhau.

Tôi quay mặt đi. Một cặp vợ chồng già nhỏ bé đang đi sang đường, không biết người nào mới là nạng chống của người kia.

- Anh đang nghĩ gì vậy?

Với vẻ nồng nhiệt và liều lĩnh, Sebastian chân thành thổ lộ:

- Bốn tháng nay, sáng nào anh cũng thức giấc với hình ảnh em trong tâm trí. Lúc nào anh cũng nghĩ đến em. Chẳng còn điều gì khác đáng kể hơn…

Tôi nhìn anh ta, rụng rời. Tôi hiểu đó không phải là lời tán tỉnh và rằng anh ta thực sự nghĩ như vậy. Tại sao anh chàng này lại ngây thơ đến vậy? Quyến rũ đến vậy?

Tôi đứng dậy đi khỏi, nhưng anh ta giữ cánh tay tôi lại.

- Em hãy cho anh hai mươi tư tiếng để thuyết phục em.

- Thuyết phục tôi về cái gì?

- Rằng chúng ta sinh ra là để cho nhau.

Tôi lại ngồi xuống rồi nắm lấy tay anh ta.

- Anh nghe này, Sebastian, anh rất tốt và anh làm tình rất cừ. Tôi cảm thấy thích thú khi anh yêu tôi và tôi thấy chuyện anh thực hiện hẳn một chuyến đi như thế này để tìm tôi thực sự cứ như trong tiểu thuyết ấy…

- Nhưng?

- Nhưng chúng ta phải thực tế, chúng ta chẳng có lấy một cơ hội để có thể cùng nhau xây dựng được điều gì đó. Tôi không tin câu chuyện cổ tích lọ lem lấy được hoàng tử và…

- Em sẽ là một lọ lem quyến rũ.

- Anh nghiêm túc đi, tôi xin anh! Chúng ta chẳng có điểm gì chung: anh là một người thượng lưu có học thức, bố mẹ anh là triệu phú, anh sống trong một ngôi nhà ba trăm mét vuông và anh giao du với những người giàu có ở Thượng Đông Manhattan…

- Thế thì sao? Anh ta ngắt lời tôi.

- Thế thì sao ư? Tôi không biết điều gì khiến anh nảy sinh tình cảm với tôi, nhưng tôi không phải cô gái anh hình dung đâu. Chẳng có điều gì ở tôi khiến anh có thể thực sự yêu đâu.

- Em có quá lời không đấy?

- Không. Tính tôi thất thường, không chung thủy và ích kỷ. Anh không thể biến tôi thành cô gái tốt bụng đáng yêu, ân cần và chăm chút được đâu. Và tôi sẽ không bao giờ xiêu lòng vì anh.

- Cứ cho anh hai mươi tư tiếng, anh ta yêu cầu. Hai mươi tư tiếng chỉ có anh, em và Paris.

Tôi gật đầu.

- Lẽ ra tôi nên ngăn anh lại.

Anh ta cười sung sướng như một đứa trẻ. Tôi tin là anh ta sẽ chóng chán thôi.

Tôi vẫn chưa biết là mình vừa gặp được tình yêu. Tình yêu duy nhất, tình yêu thật sự, tình yêu nồng cháy. Thứ tình yêu sẽ trao cho bạn tất cả rồi cũng đòi lại tất cả. Thứ tình yêu sẽ soi sáng một cuộc đời rồi cũng phá hủy cuộc đời ấy vĩnh viễn.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
623,263
Điểm cảm xúc
35
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 28


Thở không ra hơi và mồ hôi nhỏ tong tong, Sebastian bước vào sảnh Gran Hôtel dưới ánh mắt sững sờ của cô nhân viên lễ tân. Với cái mũi bê bết máu, chân đi đất và áo khoác rách tơi tả, anh lạc lõng giữa sảnh khách sạn sang trọng.

- Xảy ra chuyện gì với ông vậy, ông Larabee?

- Tôi… gặp tại nạn.

Vẻ lo lắng, cô ta nhấc điện thoại.

- Tôi sẽ gọi bác sĩ.

- Không cần đâu.

- Thật sao?

- Tôi ổn mà, đảm bảo với cô đấy, anh nói thêm với vẻ kiên quyết.

- Tùy ông vậy. Tôi sẽ tìm bông băng và cồn sát trùng giúp ông. Nếu ông cần thêm thứ gì, cứ cho tôi biết.

- Cảm ơn cô.

Cho dù đang mệt đứt hơi còn cơ bụng thì đau xé, anh vẫn muốn leo cầu thang bộ hơn là đợi thang máy.

Khi anh bước vào, căn phòng không một bóng người. Nhạc chuông Rolling Stones đang réo rắt ở âm lượng rất lớn, nhưng Nikki vẫn mất tăm. Anh ghé vào phòng tắm thì thấy người vợ cũ đang nằm dài trong bồn, mặt chìm dưới nước, mắt nhắm nghiền.

Hoảng hốt, anh túm tóc cô lôi ra khỏi đó. Bị bất ngờ, cô hét lên một tiếng.

- Này! Làm sao thế hả đồ điên! Anh suýt lột cả da đầu tôi ra rồi đấy! Cô vừa nói vừa che ngực.

- Tôi tưởng cô bị chết đuối. Chết tiệt thật, cô đang chơi trò gì thế? Trò nàng tiên cá không còn hợp với tuổi cô nữa đâu!

Trong khi nhìn anh bằng ánh mắt tối sẩm, cô nhận ra những vết thương trên mặt anh.

- Anh đánh nhau à? Cô lo lắng hỏi.

- Người ta đánh tôi thì hợp lý hơn đấy, anh bực bội đáp trả.

- Anh quay lại đi, tôi ra khỏi bồn tắm đây. Mà đừng có lợi dụng nhìn trộm đấy nhé!

- Tôi từng thấy cô khỏa thân rồi, cô nên nhớ thế.

- Phải, trong một cuộc đời khác.

Anh ngoảnh đi rồi chìa cho cô chiếc áo choàng tắm. Cô mặc nó vào khi bước ra khỏi bồn tắm và quấn một chiếc khăn tắm quanh đầu.

- Anh ngồi xuống đi, tôi sẽ kiểm tra giúp anh.

Trong khi cô lau rửa các vết thương bằng nước xà phòng, anh kể lại cho cô nghe chuyện đen đủi ở Barbès. Đến lượt mình, cô cũng cho anh biết về hai cú điện thoại cô đã nhận được: một của Santos và một cuộc gọi bí ẩn từ Công ty du thuyền Paris.

- Ái! Anh kêu lên đau đớn khi cô bôi thuốc sát trùng lên vết thương.

- Anh thôi õng ẹo đi! Tôi ghét kiểu đó!

- Nhưng rát lắm!

- Phải, nó hơi rát khi người ta ba hay bốn tuổi, còn anh thì tôi nghĩ đã lớn rồi.

Anh đang tìm kiếm lời đáp trả thật chua cay thì nghe thấy tiếng gõ cửa.

- Phục vụ tầng đây, một giọng nói vọng vào từ phía cửa.

Nikki định bước ra khỏi phòng tắm, nhưng anh kéo tay áo choàng tắm của cô lại.

- Cô sẽ không ra mở cửa trong bộ dạng này chứ?

- Bộ dạng này làm sao?

- Cô gần như đang khỏa thân đấy!

Cô ngước mắt lên trời ngao ngán.

- Đúng là cô vẫn chẳng thay đổi gì hết, anh trách móc cô rồi ra mở cửa.

- Anh cũng thế thôi! Cô vừa hét vừa sập cánh cửa phòng tắm lại.

Một người phục vụ diện chiếc mũ ca lô màu đỏ và bộ com lê đính khuy vàng xuất hiện. Dáng người mảnh khảnh, ông ta gần như bị khuất sau đám hộp dán mác những thương hiệu sang trọng: Yves Saint Laurent, Christian Dior, Zegna, Jimmy Choo…

- Chúng tôi đến giao những hộp này theo yêu cầu của ông, thưa ông.

- Chắc là có nhầm lẫn gì đó, chúng tôi không đặt hàng gì cả.

- Tôi xin phép được nhấn mạnh, thưa ông: đơn hàng này chính xác là theo tên ông.

Vẻ nghi hoặc, Sebastian tránh đường để ông ta mang các hộp, gói kia vào phòng. Khi người phục vụ trở ra, Sebastian lục tìm trong túi xem có tiền để boa cho ông ta không thì mới nhớ ra anh vừa bị trấn lột. Nikki đã đến ứng cứu kịp thời bằng cách đưa cho người phục vụ tờ năm đô la, rồi đóng cửa lại.

- Anh đi buôn đấy à, anh yêu? Cô vừa mở các gói hàng vừa giễu cợt.

Vô cùng hiếu kỳ, anh cũng phụ giúp cô bóc các món hàng trên giường. Có tất cả sáu túi giấy đựng các trang phục dạ hội: một bộ com lê, một chiếc đầm, một đôi giày cao gót…

- Giờ thì tôi chẳng hiểu thông điệp là gì nữa.

- Một bộ trang phục nữ, một bộ trang phục nam, Nikki nhận xét trong khi nhớ lại điều mà nhân viên lễ tân của Công ty du thuyền Paris đã nói với cô về chuyện nhất thiết phải mặc đồ dạ hội.

- Nhưng tại sao chúng lại muốn chúng ta mặc chính xác loại quần áo này?

- Có thể chúng được gắn thiết bị theo dõi? Một thiết bị phát tín hiệu có thể giúp định vị chúng ta…

Anh suy ngẫm về lý lẽ đó. Nghe có vẻ lô gic. Thậm chí còn là lẽ hiển nhiên. Anh vơ đại chiếc áo vest rồi bắt đầu sờ nắn một lượt, nhưng chỉ mất công thôi: thời nay, loại máy móc đó hẳn là phải siêu nhỏ. Với lại, tại sao phải cố gỡ bỏ nó nếu nó có thể giúp hai người liên lạc được với những kẻ bắt cóc con trai họ?

- Tôi nghĩ chúng ta chỉ còn cách thay đồ thôi, Nikki nói.

Sebastian đồng ý.

Anh đi tắm trước, vẫn còn đủ thời gian cho anh đứng dưới những tia nước nóng bỏng, xoa xà phòng từ đầu đến chân như để tẩy rửa cơ thể khỏi kinh nghiệm nhục nhã ở Barbès.

Rồi anh thay bộ đồ mới. Ngay lập tức anh cảm thấy thật thoải mái. Chiếc áo sơ mi trắng vừa khít người anh và được may rất khéo, bộ com lê theo kiểu cổ điển mà vẫn sang trọng, chiếc cà vạt bản nhỏ, đôi giày loại cao cấp, nhưng không phải quá lố. Những trang phục mà anh hẳn sẽ chọn cho chính mình.

Khi anh quay trở ra, bóng tối đã buông xuống. Trong ánh ngày tàn, anh nhận ra dáng người Nikki trong chiếc đầm dạ hội màu đỏ khoét sâu ở lưng với phần cổ rất trễ viền ngọc trai.

- Anh giúp tôi được không?

Anh im lặng đi ra phía sau cô và, như anh đã từng làm việc này trong bao nhiêu năm, khéo léo cài những khuy bằng ngọc trai tinh tế. Những ngón tay của Sebastian lướt trên vai khiến Nikki thấy nổi da gà. Như bị thôi miên, Sebastian cố hết sức rời mắt khỏi làn da mềm mượt trắng nhợt của vợ cũ. Đột nhiên, anh đặt tay lên bả vai cô, bắt đầu ve vuốt. Anh ngước mắt nhìn lên phía tấm gương hình bầu dục phản chiếu tới anh bức ảnh trên bìa một tạp chí. Trong hình phản chiếu là vợ chồng anh đang tán tỉnh nhau.

Nikki mở miệng định nói gì đó thì một cơn gió thổi đến sập mạnh cánh cửa sổ. Phép bùa chú bị gián đoạn.

Để xua đi cơn bối rối, cô vùng thoát ra rồi xỏ chân vào đôi giày cao gót, hoàn thiện phục trang của mình. Để lấy lại vẻ điềm đạm, Sebastian đút tay vào túi quần. Có một miếng mác nhỏ để trong túi quần bên phải. Anh rút ra định ném vào sọt rác nhưng đến khoảnh khắc cuối cùng lại dừng phắt lại.

- Nhìn này!

Đó không phải là mác quần áo.

Mà là một mảnh giấy được gấp tư.

Một mã mở tủ gửi đồ.

Ở Ga Bắc.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
623,263
Điểm cảm xúc
35
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 29


Quận XIX.

Không được dân Paris để ý lắm, khu phố người Mỹ xưa kia là nơi trú ngụ của dân làm nghề khai thác thạch cao và đá silic. Khu phố đó mang tên một tín ngưỡng theo đó chữ “Đá thạch cao” mà người ta khai thác từ công trường này dường như được dùng để chế tác ra bức tượng Nữ thần Tự do và xây dựng Nhà trắng. Điều đó hoàn toàn không đúng, nhưng truyền thuyết lúc nào cũng đẹp.

Trong suốt Ba Mươi Năm Vàng Son, phần lớn các khu ngoại ô đã bị san bằng để nhường đường cho công cuộc “Hiện đại hóa”. Những khối nhà cao tầng buồn thảm và những ngọn tháp gớm guốc đang bóp méo khung cảnh phía Bắc ngôi làng Belleville trước đây. Nằm giữa công viên Buttes – Chaumont và đại lộ vành đai, phố Mouzaïa chính là tàn tích cuối cùng của một thời đại đã qua. Dài hơn ba trăm mét, con đường này chạy qua các ngõ cụt lát gạch với hai bên là hai hàng đèn cùng những ngôi nhà có vườn nhỏ xinh.

Tại số nhà 23 bis trên phố này, trong một ngôi nhà gạch nhỏ có mặt tiền màu đỏ, tiếng chuông điện thoại reo vào hư không đến lần thứ ba trong vòng chưa đến mười phút.

Tuy nhiên Constance Lagrange đang ở đó, nằm dài trên chiếc phô tơi tròn trong phòng khách. Nhưng nửa chai whisky đã nốc hồi đêm vẫn khiến cô say sưa không biết trời đất gì nữa.

Ba tháng trước, vào ngày sinh nhật ba mươi bảy tuổi, Constance nhận được ba tin: hai tin tốt, một tin xấu.

Khi đến chỗ làm, vào sáng 25 tháng Bảy đó, cấp trên của cô, thiếu tá Sorbier đã thông báo rằng cô được thăng hàm đại úy ở Đội cảnh sát truy nã quốc gia đầy danh giá.

Đến trưa, cô nhận được một cú điện thoại từ ông chủ ngân hàng cho cô biết rằng khoản vay của cô vừa được chấp nhận, giúp cô rút cuộc cũng có thể thực hiện dự án bất động sản của mình: mua một ngôi nhà theo đúng mơ ước, trên phố Mouzaïa, trong khu phố mà cô vô cùng yêu thích.

Khi ấy Constance tự nhủ đó là ngày may mắn của mình. Nhưng đến cuối buổi chiều, bác sĩ của cô đã báo tin rằng kết quả chiếu chụp của cô vừa thực hiện cho thấy cô có một khối u trong não. Một khối u ác tính giai đoạn bốn. Loại nặng nhất trong các loại ung thư. Ác tính, tốc độ phát triển nhanh và không thể phẫu thuật. Người ta cho biết cô còn bốn tháng.

Lại một lần nữa, điện thoại rung trên sàn nhà.

Lần này, tiếng chuông mở được một con đường xuyên vào giấc ngủ mê man của cô vốn đang chồng chất những hình ảnh tối tăm về các tế bào ung thư. Constance mở mắt rồi lau những giọt mồ hôi rịn ra trên trán. Cô vẫn lịm đi một lúc lâu nữa, người nôn nao, chờ đợi tiếng chuông tiếp theo để với tay xuống sàn nhà. Cô nhìn số điện thoại hiện trên màn hình. Là số của Sorbier, sếp cũ của cô. Constance nghe máy, nhưng để mặc ông ta nói.

- Cô đang làm cái quái gì thế, Lagrange? Ông ta quát nạt cô. Tôi gọi cho cô suốt nửa tiếng rồi đấy!

- Tôi nhắc lại với ông là tôi đã nộp đơn thôi việc, thưa sếp, cô vừa dụi mắt vừa trả lời.

- Xảy ra chuyện gì vậy? Cô uống rượu à? Nghe giọng cô nồng nặc mùi rượu đấy!

- Ông đừng nói vớ vẩn nữa. Chúng ta đang nói chuyện điện thoại cơ mà…

- Thì sao chứ. Cô đã say mèm ra rồi và mùi rượu còn bay cả đến đây!

- Được rồi, ông muốn gì nào? Cô vừa hỏi vừa khó nhọc đứng dậy.

- Chúng ta phải tiến hành một vụ ủy thác xét xử từ giới chức New York. Tôi cần bắt ngay hai người Mỹ. Một người đàn ông và vợ cũ của hắn. Vụ này nặng đấy: buôn lậu ma túy, giết hai người, tội danh bỏ trốn…

- Tại sao cảnh sát không yêu cầu cảnh sát tư pháp Paris làm vụ này?

- Tôi hoàn toàn chẳng biết gì hết và tôi cũng cóc cần. Tất cả những gì tôi biết đó là chúng ta phải làm vụ này.

Constance lắc đầu.

- Là các vị thôi. Tôi giờ không còn trong đội nữa.

- Thôi, đủ rồi đấy, Lagrange, viên thiếu tá nổi giận. Cô làm tôi cáu với cái chuyện thôi việc của cô rồi đấy. Cô có vài vấn đề riêng tư đúng không? Được lắm: tôi để cô được yên trong hai tuần, nhưng giờ thì thôi mấy trò ngu ngốc kia đi.

Constance thở dài. Cô thoáng do dự định thổ lộ mọi chuyện với sếp: căn bệnh ung thư đang ăn mòn não cô, việc cô chỉ còn lại vài tuần để sống, việc xích lại gần cái chết khiến cô sợ hãi. Nhưng cô từ bỏ ý định. Sorbier là quân sư của cô, một trong những cảnh sát vĩ đại “kiểu cũ” cuối cùng còn sót lại, một trong những người rất được ngưỡng mộ. Cô không chấp nhận nổi ý nghĩ lôi kéo lòng thương hại của ông hoặc khiến ông rơi vào tình huống khó xử. Vả lại, cô cũng không hề muốn khóc lóc trong vòng tay ông.

- Ông điều người khác đi. Tại sao ông không cử trung úy Botsaris ấy?

- Không có chuyện đó đâu! Cô thừa biết là dính đến người Mỹ thì luôn phải khéo léo. Tôi không muốn gặp vấn đề gì với bên đại sứ quán. Cô sẽ tìm ra hai kẻ đó và bắt giam trước ngày mai cho tôi, đồng ý nhé?

- Tôi đã nói với ông là không rồi cơ mà!

Sorbier làm như không nghe thấy gì.

- Tôi đã chuyển hồ sơ cho Botsaris, nhưng tôi muốn chính cô là người giám sát quá trình điều tra. Tôi đang gửi một bản sao tới máy của cô đây.

- Ông cút đi! Constance gào lên rồi tắt máy.

Cô lê lết tới tận phòng tắm để nôn vào trong bồn cầu một tia mật. Cô không ăn gì từ bao giờ rồi? Dù thế nào đi nữa cũng phải hơn một ngày. Tối hôm trước, cô dìm nỗi sợ hãi của mình trong men rượu, cô tính không ăn gì để cảm nhận được cơn say ngay từ những ly rượu đầu tiên. Một cơn “say nhanh” đưa cô vào cõi mơ mộng trong suốt mười lăm giờ tiếp đó.

Phòng khách chìm trong làn ánh sáng cuối chiều thu tuyệt đẹp. Constance đã chuyển đến ngôi nhà này được ba tuần, nhưng cô chưa hề gỡ bất cứ thùng đồ đạc nào. Vẫn còn nguyên băng dính, các thùng các tông chuyển nhà vẫn chất chồng rải rác khắp căn nhà trống.

Giờ thì còn để làm gì chứ?

Trong một ngăn tủ, cô tìm thấy gói bích quy Granola bóc dở. Cô vớ lấy gói bánh, ngồi xuống chiếc ghế đầu ở quầy bar bé xíu trong bếp rồi cố nhấm nháp vài chiếc.

Giết thời gian như thế nào đây trong khi chờ đợi thời gian giết chết chúng ta?

Câu này đã được ai nói ra nhỉ? Sartre? Beauvoir? Aragon? Trí nhớ của cô có vấn đề. Vả lại, đó chính là điều thúc đẩy cô đi khám bệnh. Đầu tiên, cô thấy một vài dấu hiệu báo trước: buồn nôn, nôn, đau đầu, nhưng có ai chưa từng gặp phải những triệu chứng này chứ? Lối sống của cô không phải không có gì đáng chê trách nên cô không lấy thế làm lo. Dần dần, cô thấy mình hay quên, giảm trí nhớ, điều đó xảy ra thường xuyên đến mức gây khó khăn cho cô trong công việc. Cô trở nên bốc đồng, dần dần cũng mất khả năng kiểm soát cảm xúc. Rồi những cơn chóng mặt xuất hiện, khiến cô quyết định đi khám bác sĩ.

Chẩn đoán đưa ra vừa nhanh mà cũng vừa phũ phàng.

Trên mặt quầy bar bằng gỗ chình ình một tập hồ sơ y học rất dày. Những góp nhặt sống động về căn bệnh cô mắc phải. Constance đã mở nó đến lần thứ n và hoảng sợ nhìn hình ảnh bộ não của mình được chụp X-quang. Trên phim chụp, cô thấy rõ rành rành một khối u to tướng và các vùng di căn của tế bào ung thư, chúng đã xâm chiếm sang phần trái của thùy trước. Nguyên nhân căn bệnh này vẫn còn chưa được xác định rõ và không ai có thể nói được tại sao cơ chế phân chia tế bào lại đột nhiên trở nên hỗn loạn và sinh sôi vô số tổ chức trong não cô.

Mặt mũi tái nhợt, cô đặt phim chụp vào tập hồ sơ, khoác chiếc áo da lên người rồi bước ra vườn.

Trời vẫn dễ chịu. Một làn gió mát nhẹ xào xạc trong đám lá cây. Cô kéo khóa áo khoác da lên, ngồi xuống một chiếc ghế tựa, rồi vắt tréo hai bàn chân lên chiếc bàn cũ kỹ bằng gỗ tếch đã bạt màu. Cô vừa hút thuốc lá vừa ngắm nhìn mặt tiền sặc sỡ của ngôi nhà. Với mái che bằng sắt rèn vươn cao phía trên bậc thềm, ngôi nhà có nét giống với những ngôi nhà búp bê.

Constance cảm thấy nước mắt dâng trào. Cô yêu xiết bao khu vườn này với cây vả, cây mận, hàng rào đinh hương, những cây liên kiều và những cành đậu tía. Ngay từ những giây phút đầu tiên của chuyến đi xem nhà cùng nhân viên môi giới nhà đất, thậm chí trước cả khi bước vào trong, cô đã biết rằng đây chính là nơi cô muốn sống… và có thể một ngày nào đó sẽ là nơi cô nuôi dạy một đứa con. Cô sẽ biến nó thành nơi trú ngụ của mình, một chốn tránh khỏi ô nhiễm, bê tông và cơn điên cuồng của con người.

Bị hoàn cảnh trớ trêu dày vò, cô bật khóc nức nở. Cô hoài công tự nhủ rằng cái chết là điều không thể tránh được và rằng đó là một phần của cuộc đời, không được buông xuôi trong sợ hãi.

Đừng sớm như vậy chứ, khốn nạn thật!

Không phải là lúc này…

Cô bị sặc khói thuốc.

Cô sẽ chết trong cô độc. Như một con chó đi hoang. Không có ai nắm lấy bàn tay cô.

Hoàn cảnh lúc này với cô dường như không có thật. Người ta thậm chí còn chưa cho cô nhập viện. Người ta chỉ nói với cô: “Hết cách rồi. Không thể làm gì được nữa. Không hóa trị cũng không xạ trị.” Chỉ các loại thuốc giảm đau và lời đề nghị nhập viện. Cô đã đáp lại rằng mình sẵn sàng chiến đấu, nhưng người ta lại khiến cô hiểu ra rằng cuộc chiến này sẽ sớm thất bại thôi. “Giờ chỉ còn là vấn đề bao nhiêu tuần thôi, thưa cô.”

Lời chẩn đoán dứt khoát.

Không một viễn cảnh thuyên giảm bệnh tình.

Một buổi sáng, hai tuần trước, cô thức dậy mà thấy tê cứng đến nửa người. Thị lực giảm kèm hoa mắt, cổ họng nghẹn lại. Cô hiểu ra rằng mình sẽ không thể dối mình trong công việc được nữa và đã đệ đơn thôi việc.

Ngày hôm đó, cô đã thật sự biết thế nào là sợ hãi. Từ đó, thể trạng cô thay đổi liên tục. Có lúc cả người tê cứng hoàn toàn và cô không thể phối hợp các cử động được nữa; có lúc chứng tê liệt bớt hành hạ giúp cô được nghỉ ngơi đôi chút mà cô biết chắc rằng đó chỉ là ảo tưởng.

Điện thoại rung lên báo một loạt email vừa tới hòm thư của cô. Sorbier quyết không để cô yên. Ông khăng khăng muốn gửi cho cô hồ sơ về hai người Mỹ kia. Gần như vô thức, Constance mở các tập tin đính kèm rồi bắt đầu đọc tài liệu. Kẻ trốn chạy tên là Sebastian Larabee. Vợ cũ của hắn là Nikki Nikovski. Cô mất mười lăm phút chìm đắm trong bảng tường thuật vắn tắt về hai kẻ trốn chạy rồi ngẩng phắt lên nhìn điện thoại. Như thể bị bắt quả tang. Chẳng lẽ cô không có việc gì quan trọng hơn để làm ư? Chẳng lẽ cô không thể tranh thủ chút thời gian ít ỏi còn lại với cô để sắp xếp đồ đạc, thăm nom lần cuối cùng những người thân thích hoặc xem xét lại ý nghĩa cuộc đời cô ư?

Nhảm nhí!

Cũng như nhiều cảnh sát khác, cô rất gắn bó với nghề. Về cơ bản, căn bệnh này chẳng ảnh hưởng gì mấy tới công việc của cô. Cô cần một liều adrênalin cuối cùng. Nhất là cô đang tìm kiếm lối thoát khỏi nỗi sợ hãi đang bủa vây cô tứ phía.

Cô dụi điếu thuốc rồi bước vào nhà đầy cả quyết. Mở ngăn kéo, cô cầm lấy khẩu súng công vụ vẫn chưa trả lại, một khẩu Sig-Sauer theo đúng quy chế của Cảnh sát quốc gia. Trong khi vuốt phần báng bằng polymer của khẩu súng lục bán tự động, cô tìm lại được cảm giác thân thuộc và an tâm. Cô đút súng vào bao đeo, nhét thêm một băng đạn dự phòng rồi bước ra phố.

Tuy đã trả lại xe công vụ, nhưng cô vẫn còn chiếc xe thể thao RCZ. Chiếc siêu xe với những đường cong sắc nét và mui hai múi cong cong đã ngốn phần lớn gia tài thừa kế từ bà cô. Khi ngồi trước tay lại, Constance cảm thấy vô cùng do dự. Liệu cô có thể thực hiện được một cuộc điều tra cuối cùng này không? Cô sẽ trụ vững hay sẽ suy sụp khi còn cách đích một trăm mét, bị nỗi mệt mỏi và chứng tê liệt đánh gục? Cô nhắm mắt lại một lúc, hít thật sâu. Rồi cô khởi động chiếc xe 200 mã lực và những nghi ngờ của cô tan biến dần.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
623,263
Điểm cảm xúc
35
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 30


Giao thông thuận lợi.

Ngồi trước vô lăng chiếc xe thể thao, Constance Lagrange lao về phía Montmartre.

Cô vừa nói chuyện với Botsaris qua điện thoại. Viên trung úy không đợi cô mà đã bắt đầu luôn cuộc điều tra. Theo thông tin anh ta thu thập được, có người đã sử dụng thẻ tín dụng của Sebastian Larabee vào đầu giờ chiều tại một máy rút tiền tự động trên quảng trường Pecqueur.

Constance biết chỗ đó: một quảng trường rợp bóng cây nằm giữa đại lô Junot và quán Chú thỏ lanh lợi. Ngay gần khu Montmartre vốn tập trung nhiều khách du lịch.

Thật kỳ cục khi chọn nơi này để lẩn trốn, cô nghĩ bụng trong lúc vượt lên một chiếc mô tô.

Gã người Mỹ đó và vợ cũ của hắn đã trốn ở đâu nhỉ? Một căn hầm? Một ngôi nhà hoang? Một khách sạn, có lẽ nhiều khả năng hơn…

Cô gọi lại cho Botsaris để chắc chắn là anh ta đã phát lệnh truy nã tới các hãng taxi và công ty cho thuê ô tô. Mọi việc đều đã hoàn thành, nhưng các phản hồi thì vẫn đến nhỏ giọt.

- Tôi cũng đang chờ hình ảnh từ các camera giám sát ở sân bay Roissy.

Constance ngắt máy rồi nhập tọa độ của quảng trường Pecqueur vào GPS trên chiếc iPhone để lấy danh sách các khách sạn quanh đó. Có quá nhiều khách sạn nên khó lòng mà kiểm tra từng chỗ được.

Tuy nhiên, cô vẫn quyết định thử kiểm tra một khách sạn nào đó. Và đó là Le Relais Montmartre, trên phố Constance.

Giống tên cô…

Cô tin vào các dấu hiệu, vào sự trùng hợp, sự tương đồng và sự ngẫu nhiên của các tình tiết.

Chỗ này dù sao cũng rất đẹp… cô nghĩ ngợi trong lúc đỗ xe hàng hai trước một tòa nhà.

Quả thật, đừng nên mơ mộng làm gì: mười phút sau cô bước ra khỏi khách sạn với hai bàn tay trắng. Chen chúc giữa dòng người, cô đi tới tận Timhotel trên quảng trường Goudeau. Cô có cảm giác nơi này sẽ khiến người Mỹ thích thú. Lại xôi hỏng bỏng không. Quá rõ ràng.

Trong khi đang chuẩn bị đi tiếp thì cô nhận được điện thoại từ Botsaris.

- Chị nghe nhé! Một lái xe của LuxuryCab khẳng định đã đón vợ chồng Larabee ở sân bay rồi đưa họ tới Grand Hôtel de la Butte. Ở ngay cạnh quảng trường Pecqueur. Quá hợp lý luôn!

- Đừng vội mừng quá sớm, Botsaris.

- Tôi sẽ cử một đội đến ngay hiện trường, được chứ đại úy?

- Không, cứ để tôi làm. Tôi sẽ đi xác minh. Tôi sẽ báo tin cho cậu.

Constance quay lại phố Durantin rồi rẽ vào phố Lepic tiếp đến là đại lộ Junot. Cô tiến vào ngõ cụt dẫn đến khách sạn đó. Cánh cổng bằng sắt rèn để mở: cánh thợ làm vườn đang đi ra. Constance tranh thủ tiến vào trong dinh thự mà không thông báo sự hiện diện của mình. Chiếc xe thể thao RCZ men theo con đường băng qua khu vườn rồi đỗ xịch trước tòa nhà màu trắng đồ sộ.

Khi leo lên bậc thang, Constance lục tìm trong túi áo khoác để cầm trong tay chiếc thẻ ngành. Chính là thần chú của cô.

- Đại úy Lagrange, Đội cảnh sát truy nã quốc gia, cô giới thiệu ở bàn lễ tân.

Bà chủ khách sạn không phải là người hay chuyện. Rốt cuộc phải đe dọa bà ta mới có được vài thông tin. Đúng, Sebastian Larabee và vợ hắn đúng là đang lưu trú tại đây, nhưng họ đã rời khách sạn một tiếng trước.

- Bà nói là họ đã đặt phòng này từ cách đây một tuần ư?

- Đúng thế, thông qua website của khách sạn.

Constance yêu cầu được xem phòng họ. Trong khi được dẫn lên phòng, cô tự nhủ chi tiết này có vẻ không khớp với những gì cô đọc được trong hồ sơ. Việc đặt phòng trước cho thấy đã có dự tính, thế mà các tình tiết trong cuộc điều tra của cảnh sát Mỹ lại khiến cô hiểu rằng vợ chồng Larabee đã rời New York trong cảnh hết sức vội vã.

Khi bước vào căn phòng áp mái rộng rãi, Constance thấy thích thú trước lối bài trí lộng lẫy và kiểu cách. Chưa một người đàn ông nào từng tặng cô một chuyến đi nghỉ cuối tuần tại một nơi giống chốn này…

Nhưng nữ cảnh sát điều tra nhanh chóng bước lên trước người chủ khách sạn. Trong phòng tắm, cô phát hiện một chiếc áo sơ mi rồi một áo vest dính máu và, trong phòng khách, một túi hành lý cũng như mấy túi giấy mua hàng của các thương hiệu nổi tiếng nhất.

Càng lúc càng kỳ lạ.

Như thể vợ chồng Larabee này đang đi nghỉ trăng mật chứ không phải bỏ trốn ấy.

- Khi đi khỏi đây họ ăn mặc thế nào?

- Tôi không nhớ rõ nữa, bà chủ khách sạn đáp.

- Bà đùa tôi ấy à?

- Họ mặc đồ dạ hội.

- Và bà không hay biết gì về nơi họ có thể đến chứ?

- Tôi hoàn toàn không biết.

Constance dụi mắt. Người phụ nữ này nói dối, cô chắc chắn điều đó. Để bắt bà ta phải mở miệng, có lẽ cần thêm thời gian; thế nhưng đó lại chính là thứ cô đang thiếu.

Chỉ còn lại phương pháp Dirty Harry… Chẳng phải lúc nào cô cũng thầm mơ ước sẽ có một ngày được áp dụng nó sao? Bây giờ hoặc không bao giờ.

Cô đột ngột rút khẩu Sig-Sauer từ bao súng, túm lấy cổ người phụ nữ rồi gí nòng súng vào thái dương bà ta.

- Họ đã đi đâu? Cô hét lên.

Hoảng loạn, bà chủ khách sạn nhắm mắt lại. Hàm bà ta run bần bật.

- Họ nói với tôi là… họ đã hỏi đường tôi, bà ta nấc lên.

- Để đi đâu?

- Tới Ga Bắc… Rồi sau đó tới cầu Alma, tôi nghĩ thế.

- Tại sao lại là cầu Alma?

- Tôi không chắc… Họ có nói về một bữa tối trên tàu. Tôi nghĩ họ đã đặt trước bữa tối ở đó.

Constance buông tay rồi rời khỏi phòng. Ra đến cầu thang, cô gọi cho Botsaris. Cái chuyện tàu bè và ăn tối trên du thuyền sông Seine này khiến cô thấy bối rối. Nhưng nhất định phải ngăn không cho vợ chồng Larabee lên tàu hỏa. Từ Ga Bắc có thể dễ dàng bắt tàu đi Anh, Bỉ và Hà Lan.

Cô gặp phải hộp thư thoại của viên thuộc cấp nên để lại tin nhắn cho anh ta:

- Cậu gọi cho mấy tay ở Bắc Paris. Báo với họ dấu hiệu nhận dạng vợ chồng Larabee rồi phát lệnh để họ tăng cường kiểm tra các chuyến tàu khởi hành đi nước ngoài. Anh cũng tìm cho tôi xem công ty du thuyền nào có bến ở cầu Alma rồi xác minh xem họ có khách hàng đặt chỗ nào tương ứng với hai người Mỹ đó không. Khẩn trương nhé!

Trên đường ra xe, cô nhận ra bà chủ khách sạn đang đứng bên cửa sổ nhìn theo cô. Bà ta đã hoàn hồn và nói với cô giọng giận dữ:

- Đừng tưởng mọi chuyện đến đây là hết nhé! Tôi sẽ báo cấp trên của cô rồi khởi kiện cô. Đây sẽ là cuộc điều tra cuối cùng của cô, đại úy ạ!

Chuyện đó thì tôi biết rồi… Constance ngẫm nghĩ trong lúc ngồi vào trước tay lái.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
623,263
Điểm cảm xúc
35
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 31


Phải vận động, liên tục.

Đặc biệt không được để bế tắc, không do dự, không dừng lại.

Cao lênh khênh trên đôi giày cao gót, mặc đầm dạ hội, Nikki trông thật lạc lõng giữa không gian xô bồ ở Ga Bắc.

Ngay khi bước vào sân ga, mật độ người qua lại dày đặc đã tác động đến họ. Đột nhiên, họ có cảm tưởng bị một làn sóng người cuốn đi. Có thể cảm nhận được nhịp đập của ga tàu. Trở thành một phần của một dòng chảy. Bị nuốt vào rồi bị tiêu hóa trong cái bụng khổng lồ đang sôi ùng ục.

Cầm mảnh bìa ghi mã mở tủ gửi đồ trên tay, Sebastian khó khăn lắm mới xác định được vị trí. SNCF, RATP, Eurostar, Thalys… Nhà ga này là điểm đến từ đó có nhiều nhánh tỏa ra, đang nhào trộn một đám người hỗn tạp: người lao động trở về ngoại ô, khách du lịch lạc đường, doanh nhân bận rộn, những nhóm “thanh niên” choán chỗ trước các ô kính, người vô gia cư, cảnh sát tuần tra…

Họ đã tốn khá nhiều thời gian mới tìm được phòng giữ hành lý ở tầng ngầm thứ nhất, thu mình giữa một bến tàu và một hiệu cho thuê ô tô. Đó là một căn phòng màu lục nhạt, không có cửa sổ, chiếu sáng tù mù. Một căn phòng giống như mê cung dài dằng dặc bốc ra thứ mùi quần áo ẩm mốc. Trong lúc đi giữa các tủ gửi đồ màu xám, họ chăm chú tìm ba con số ghi trên mảnh bìa. Số đầu tiên chỉ vị trí cột, số thứ hai là số ngăn và số cuối cùng là mật mã để mở ngăn tủ thép.

- Nó kìa! Nikki kêu lên.

Sebastian bấm năm chữ số lên bàn phím kim loại. Anh kéo cánh cửa ngăn tủ rồi nhìn vào bên trong, lòng đầy sợ hãi.

Trong ngăn tủ là một chiếc ba lô bằng vải dù màu xanh lơ nhạt, gắn logo “Chuck Taylor”.

- Là ba lô của Jeremy! Tôi nhận ra nó! Nikki kêu lên.

Cô mở ba lô: nó rỗng không. Cô lật đi lật lại chiếc ba lô, không ăn thua.

- Nó có một cái túi chìm kìa, phải không?

Cô xác nhận. Trong lúc luống cuống, cô không để ý thấy một lớp lót bằng ni lông được may ép vào lưng ba lô. Cơ hội chót. Tay run rẩy, cô kéo dải khóa để xem bên trong…

- Một chiếc chìa khóa à?

Cô xem xét vật sáng lấp lánh đó rồi chìa cho Sebastian. Đó đúng là một chiếc chìa khóa kim loại thân khoan. Nhưng nó mở cái gì chứ?

Họ thoáng thấy nản chí. Cảm giác mệt mỏi khi cứ bị lôi đi thế này. Một lần nữa và một lần nữa. Mỗi lần nghĩ đã nắm được một khả năng, họ lại bị hụt. Mỗi lần hy vọng chạm được tới đích, dường như họ lại càng xa đích hơn.

Nhưng cảm giác mệt mỏi ấy qua rất nhanh.

Nikki là người đứng dậy trước.

- Không nên lãng phí thời gian ở đây nữa, cô vừa nhìn chiếc đồng hồ treo tường vừa nói. Nếu chúng ta đến cầu Alma muộn, thuyền sẽ không đợi chúng ta đâu.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
623,263
Điểm cảm xúc
35
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 32


Suốt bốn mươi lăm phút qua Constance Lagrange chạy khắp các bến đỗ ở Ga Bắc cùng một nhóm nhân viên của Đội an ninh đường sắt.

Việc giám sát nhà ga đã được tăng cường, nhưng vẫn không thể tìm ra vợ chồng Larabee. Có lẽ đơn giản là họ đã từ bỏ chuyến du lịch vì sự xuất hiện của cảnh sát.

Trừ phi họ chưa bao giờ có ý định bắt tàu đi đâu đó.

Điện thoại của Constance rung lên. Là Botsaris.

- Tôi biết họ đi đâu rồi, viên thuộc cấp khẳng định. Họ đặt bữa tối lúc tám rưỡi trên một chiếc thuyền của Công ty du thuyền Paris.

- Cậu đùa tôi đấy à?

- Tôi không dám, thưa đại úy.

- Thế điều đó không khiến cậu thấy ngạc nhiên à? Nếu đang lẩn trốn ở Paris, chẳng lẽ cậu không có mối bận tâm nào khác ngoài việc ăn uống ngủ nghỉ và đi ăn tối trên một chiếc du thuyền sao?

- Chuyện này là chắc chắn đấy.

- Cứ giữ máy nhé.

Constance cáo lui với mấy cảnh sát bên an ninh đường sắt đồng thời yêu cầu họ vẫn giữ cảnh giác rồi đi về phía bãi đỗ xe.

- Botsaris? Cô gọi anh ta để tiếp tục cuộc nói chuyện.

- Vâng, thưa đại úy.

- Cậu đến gặp tôi tại bến tàu ở cầu Alma nhé.

- Tôi đi cùng một đội chứ?

- Không, chúng ta sẽ đón tiếp họ nhẹ nhàng thôi. Chỉ có tôi và cậu.

Constance vừa cài dây an toàn vừa liếc mắt nhìn đồng hồ trên bảng điều khiển.

- Cũng hơi muộn để tóm họ trước khi tàu rời bến, không phải sao?

- Tôi có thể yêu cầu bên du thuyền hoãn giờ khởi hành.

- Không, nếu hai kẻ tình nghi nhận ra bên du thuyền chậm giờ, có nguy cơ họ sẽ hoảng sợ và sẽ lại vuột khỏi tay chúng ta trong gang tấc mất.

- Để phòng xa, tôi báo luôn cho đội đường sông nhé?

- Cậu không thông báo cho ai hết và đợi tôi thôi, hiểu chưa?
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
623,263
Điểm cảm xúc
35
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 33


Chiếc taxi xuôi xuống đại lộ Montaigne rồi thả Nikki và Sebastian xuống đầu cầu Alma. Đêm đã buông nhưng trời vẫn còn nóng. Sau Barbès và Ga Bắc, Sebastian cảm thấy thật sự nhẹ nhõm khi thấy lại một Paris an toàn hơn: một Paris thân thiện của hai bờ sông Seine và của tháp Eiffel rực sáng.

Họ đi bộ sang bờ hữu ngạn xuôi về phía cầu Invalides. Náu mình dưới những gốc dẻ cổ thụ, cảng Conférence là nơi neo đậu của các du thuyền thuộc Công ty du thuyền Paris.

Những chiếc thuyền đầu tiên họ gặp trên đường đi đều đang thả từng nhóm khách hàng xuống phía dãy xe buýt của các hãng lữ hành. Họ vượt nhanh qua những thuyền này để đến bến dành cho các nhà hàng – du thuyền.

- Tôi nghĩ là nó ở kia, Nikki vừa nói vừa trỏ tay về phía một chiếc tàu lớn hai tầng lắp kính.

Họ đến bến của nhà hàng L’Amiral, xưng danh với cô nhân viên lễ tân, cô này chào mừng họ đã đến rồi đưa lại họ một mảnh giấy cứng gấp lại.

- Tàu sắp khởi hành rồi đấy ạ, cô ta nói trong lúc dẫn họ tới tận bàn.

Được lắp những ô kính lớn ở hai bên, tầng dưới của tàu bày biện khoảng một trăm bàn trong không khí lãng mạn. Ánh sáng dịu mát, trần lấp lánh, sàn màu tối, những cốc thủy tinh đựng nến cháy chập chờn được đặt xen giữa các bộ đồ ăn: tất cả đã được suy tính để tạo nên bầu không khí thân mật, cho đến cả cách sắp xếp ghế ngồi cũng là để giúp các cặp đôi được ngồi sát bên nhau. Sau khi an vị tại chiếc bàn ngay sát cửa kính, Nikki và Sebastian thoáng cảm thấy bối rối bởi sự gần gũi này. Sebastian cụp mắt nhìn xuống, đọc lướt quyển thực đơn trong đó hứa hẹn “Ẩm thực đầy sáng tạo với hương vị tinh tế được bếp trưởng của chúng tôi thể hiện xuất sắc với những nguyên liệu tươi ngon nhất.”

Nói xạo…

- Chào mừng quý khách đến với nhà hàng, một nữ nhân viên phục vụ có mái tóc dày kiểu châu Phi cuộn trong khăn chào họ.

Cô ta mở chai rượu nho trắng Die đặt trong chiếc xô đầy ắp đá lạnh và rót cho họ hai ly rồi đề nghị họ gọi món.

Sebastian miễn cưỡng xem lướt thực đơn. Tình huống lúc này trở nên hoàn toàn nực cười. Theo phép lịch sự, Nikki đành cố xem thực đơn rồi chọn món cho cả hai. Cô phục vụ nhập yêu cầu của họ vào cuốn sổ điện tử rồi chúc họ một buổi tối vui vẻ.

Tàu lúc này đã kín người. Có nhiều người Mỹ, người châu Á và người Pháp đến từ các tỉnh. Nhiều người rõ ràng là đang trong kỳ trăng mật, một số khác thì hạnh phúc ở bên nhau trong dịp kỷ niệm ngày cưới. Phía trước họ, một cặp vợ chồng người Boston cùng hai đứa con đang đùa giỡn với giọng đồng lõa. Còn phía sau là một cặp đôi người Nhật đang thì thầm những lời lẽ yêu đương vào tai nhau.

- Tôi khát khô cả họng rồi! Nikki thì thầm rồi làm một hơi hết ly rượu đang sủi bọt.

Cô tiện tay rót luôn thêm một ly.

- Thứ này không phải sâm banh, nhưng thật dễ chịu!

Đột nhiên, động cơ quay nhanh hơn, khiến bộ dẫn tiến kêu vù vù. Mùi dầu mazut phảng phất bay lên từ mặt sông rồi con tàu rời cầu Alma, kéo cả một đàn chim trắng bay theo.

Nikki áp mặt vào vách kính. Mới đầu tối nên tàu thuyền nhộn nhịp trên sông Seine: những sà lan chở hàng dập dềnh sát mép nước, những thuyền máy tốc hành, thuyền chuyên dụng của Đội tuần tra đường thủy hoặc của cứu hỏa. Đến trước vườn hoa Trocadéro, con tàu vượt qua một bến tàu nhỏ bao quanh là những hàng cây tiêu huyền và dương. Nhiều khách du thuyền đang ăn tối trên boong tàu nâng ly về phía du khách trên các tàu du lịch, và phần lớn những người này cũng đáp lại bằng một cử chỉ thận thiện.

- Thưa quý ông, quý bà, đây là món khai vị: gan ngỗng béo vùng Landes cùng mứt sung Provence.

Ban đầu còn ra vẻ khinh khỉnh nhưng Sebastian đã ngốn sạch món gan ngỗng chỉ bằng vài miếng. Anh chưa hề ăn gì từ sau cái món gỏi cá muối kinh tởm mua ở cổng trường Jeremy hôm trước. Nikki cũng chẳng nể nang. Bánh mì nướng có hơi nguội và phần xà lách có hơi ít cũng chẳng sao, cô ngốn ngấu ngập răng từng miếng bánh mì hòng làm dịu đi tiếng dạ dày sôi réo rồi uống cạn ly rượu Bordeaux.

- Đừng uống liền một lúc nhiều như thế, anh lo lắng nói khi thấy cô bắt đầu uống ly rượu thứ tư từ tối đến giờ.

- Anh lúc nào cũng làm người ta mất hứng, tôi thấy thế đấy…

- Tôi có cần nhắc lại với cô là chúng ta đang đi tìm con trai và rằng chúng ta còn có một lời thách đố cần phải giải không?

Nikki ngao ngán nhìn lên trời, nhưng vẫn miễn cưỡng lấy từ túi xách ra chiếc chìa khóa họ đã tìm được trong tủ gửi đồ. Họ xem xét nó rất kỹ. Chẳng có gì đáng chú ý. Dòng chữ “ABUS Security” được khắc trên vành khóa. Đó là dấu hiệu mong manh duy nhất mà họ có trong tay.

Sebastian thở dài đánh thượt. Mấy cái trò tìm dấu vết này khiến anh thấy mệt mỏi. Khi duy trì sức ép lên anh, những câu đố này khiến anh không thể dừng một chỗ để rồi nhìn lại. Chỉ sau có vài giờ, anh đã mắc chứng cuồng ám: anh săm soi từng người phục vụ, từng hành khách cứ như thể họ là người bắt cóc trẻ em và anh thấy mọi thứ đều đáng ngờ.

- Tôi sẽ thử tra cứu xem, Nikki cả quyết khi rút điện thoại ra.

Nếu Sebastian đã bị móc điện thoại thì vợ cũ của anh vẫn còn nguyên. Cô đăng nhập mạng internet rồi gõ “ABUS Security” vào trang tìm kiếm Google. Những trang đầu tiên đều dẫn đến cùng một địa chỉ. ABUS là một thương hiệu của Đức chuyên về lĩnh vực bảo đảm an toàn, sản xuất chủ yếu các loại khóa, thiết bị chống trộm, ổ khóa và hệ thống máy quay giám sát.

Nhưng chiếc chìa khóa thì liên quan gì đến du thuyền trên sông Seine này chứ.

- Cười lên nào! Smile for the camera! Lächeln fur die camera! 笑つて ください!

Tay cầm máy ảnh, thợ chụp ảnh chính thức của công ty du thuyền đi qua từng bàn một, lưu lại khoảnh khắc của các cặp đôi đủ mọi quốc tịch.

Tất nhiên là Sebastian từ chối cho chụp ảnh, nhưng tay “Paparazzi” thông thạo ngoại ngữ vẫn nằn nì:

- Ông bà thật là đẹp đôi!

Anh mỉm cười và, để không làm to chuyện, anh đồng ý tạo dáng bên cạnh cô vợ cũ, nở một nụ cười nhăn nhó.

- Cười nào! Tay thợ ảnh yêu cầu.

Biến đi cho khuất mắt tao… Sebastian bực bội nghĩ.

- Cảm ơn quý khách! Tôi sẽ trở lại ngay…, tay thợ ảnh hứa hẹn trong khi một cô phục vụ đang dọn dẹp bát đĩa.

Những chiếc cột thép của đường tàu điện trên không Bir-Hakeim nổi bật trong màn đêm.

Trên tàu, không khí được sưởi khá ấm áp. Một quầy hàng rất rộng bằng gỗ chạy chính giữa boong dưới, quây tròn một bục nhô cao trên mặt sàn, trên đó có một nghệ sĩ violon, một nghệ sĩ piano và một bản sao của Michael Bublé đang chơi lại vài bài cơ bản: Lá vàng, Fly Me to the Moon, Người tình Saint-Jean của em, The Good Life,…

Khách du lịch thích thú lẩm nhẩm hát theo trong khi tàu L’Amiral lúc này đang tiến sát vào bờ đảo Thiên Nga. Được gắn vào từng bàn, một màn hình dùng để phát các đoạn video hướng dẫn giới thiệu với người nghe các thông tin và giai thoại về từng công trình mà chiếc du thuyền lướt qua. Nikki chỉnh phụ đề sang tiếng Anh.

“Ở MŨI ĐẢO THIÊN NGA LÀ BẢN SAO NỔI TIẾNG CỦA BỨC TƯỢNG THẦN TỰ DO Ở NEW YORK. NHỎ HƠN BẢN GỐC BỐN LẦN, BỨC TƯỢNG HƯỚNG ÁNH MẮT VỀ PHÍA NƯỚC MỸ VÀ LÀ BIỂU TƯỢNG CHO TÌNH BẠN PHÁP-MỸ…”

Khi đến mũi hòn đảo nhân tạo, con tàu dừng vài phút, để du khách có thời gian chụp hình rồi quay ngược lại tiếp tục đi dọc theo bờ tả ngạn.

Sebastian tự rót cho mình một ly rượu.

- Loại này không phải là Gruaud-Larose, nhưng cũng khá ngon, anh nhân nhượng nói với Nikki.

Cô mỉm cười với anh, vẻ thích thú. Dù không muốn, anh vẫn dần buông mình để mặc bầu không khí thân tình và vẻ đẹp của cảnh quan chế ngự.

Con tàu từ từ tiến dọc theo bến Suffren rồi bến Bourdonnais. Hai bến tàu cùng nhau vẽ nên một vòng cung, tạo nên một khoảng rộng nhô ra mặt nước. Các vòng quay ngựa gỗ và không gian đi dạo trải rộng đến tận chân tháp Eiffel. Ngay cả những kẽ đang vô cùng chán chường như anh cũng không thể phủ nhận được vẻ thần tiên của nơi này. Đồ ăn thì dở, ca sĩ thì chán ngắt, nhưng vẻ thần tiên của Paris thì là thực sự, hơn hẳn mọi thứ khác.

Anh vừa uống thêm một ngụm rượu Bordeaux vừa nhìn gia đình đến từ Boston ngồi ở bàn phía trước. Đó là một cặp vợ chồng trạc tuổi họ, tầm bốn mươi đến bốn mươi lăm. Hai đứa con tầm mười lăm tuổi khiến anh nhớ đến Camille và Jeremy. Căng tai ra nghe ngóng, Sebastian biết được rằng ông bố là bác sĩ còn bà mẹ dạy nhạc trong một nhạc viện. Cả bốn người bọn họ đều thể hiện hình ảnh một gia đình gắn bó: những nụ hôn, những cái vỗ vai, những câu chuyện đùa lan tỏa, niềm thán phục chia sẻ với nhau trước mỗi danh thắng.

Chúng ta lẽ ra cũng được như thế, Sebastian buồn bã nghĩ. Tại sao nhiều người có thể đạt được một cuộc sống thanh thản như thế trong khi nhiều người khác lại nhấn chìm nhau trong những cuộc cãi vã liên miên? Lối cư xử và tính cách của Nikki là nguyên nhân duy nhất dẫn đến thất bại của gia đình họ hay chính anh cũng có phần lỗi trong thất bại này?

Nikki bắt gặp ánh mắt rực sáng của chồng cũ và đoán ra điều anh đang nghĩ tới.

- Cảnh tượng này không khiến anh liên hệ đến chúng ta đấy chứ?

- Đến chúng ta ở phiên bản không ly hôn…

Nikki nói thêm, như thể suy nghĩ của cô phát ra thành lời:

- Vấn đề không phải là ở những điểm khác biệt giữa hai chúng ta, mà là cách chúng ta đã điều chỉnh những khác biệt ấy: bất lực trong việc thống nhất cách dạy dỗ con cái, anh cự tuyệt cùng nhau quyết định tương lai cho chúng, thái độ thù địch của anh đối với tôi…

- Khoan đã, cô làm ơn đừng có đảo ngược vai trò như thế chứ! Cô có muốn tôi nhắc lại với cô điều đã đẩy nhanh sự chia cắt giữa chúng ta không?

Cô nhìn anh, sững sờ khi thấy anh lật lại câu chuyện này, nhưng anh nói tiếp, giọng cà khịa:

- Cô đã “quên” tới trường đón con vì lúc đó cô còn đang bận để cho gã nhân tình cưỡi lên mình ở phía bên kia Brooklyn!

- Anh thôi cái kiểu đó đi! Cô quát lên.

- Không, tôi sẽ không thôi! Anh kêu lên. Bởi vì đấy là sự thật! Vì không thấy cô đến, Camille và Jeremy đã quyết định đi bộ về nhà. Và cô còn nhớ chuyện xảy ra sau đó chứ?

- Anh thật quá đáng…

- Camille hôn mê hai ngày vì bị một chiếc taxi tông vào!

Bị cuốn theo cơn giận, Sebastian không thể dừng được nữa:

- Và khi tới bệnh viện gặp tôi, người cô nồng nặc mùi rượu! Thật quá may mắn thì Camille mới tỉnh lại mà không bị di chứng nào. Do lỗi của cô mà con bé suýt mất mạng và chuyện đó, tôi sẽ không bao giờ tha thứ cho cô!

Nikki đứng phắt dậy.

Cần phải chấm dứt cuộc nói chuyện này. Cô không thể chịu đựng thêm được nữa.

Vẫn còn tức giận, Sebastian không chịu thể hiện bất cứ động thái nào giữ cô ở lại. Anh nhìn cô rời bàn ra leo cầu thang lên boong trên.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
623,263
Điểm cảm xúc
35
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 34


Chiếc xe hai chỗ RCZ xuống con dốc dẫn tới bến Conférence.

Constance đậu xe bên cạnh chiếc xe công vụ của Botsaris.

Tựa người vào ca pô, viên trung úy trẻ đang đứng hút thuốc.

- Cậu không tìm được thứ gì phô trương hơn à? Constance ca cẩm với anh ta. Đã đến nước này thì sao cậu không dùng luôn đèn và còi hiệu?

- Sếp đừng bực mình thế, tôi đã đợi cho con tàu đi rồi mới đỗ xe vào đây.

Constance nhìn đồng hồ đeo tay.

20h55.

- Chắc là bọn chúng ở trên tàu chứ?

- Vâng. Nhân viên lễ tân khẳng định là bàn đặt trước đã có người ngồi.

- Biết đâu chúng cử đồng bọn tới. Có chắc chắn là chúng không?

Botsaris đã quen với kiểu đòi hỏi của Lagrange. Anh ta rút từ áo khoác hai tấm ảnh. Hai bức hình chụp từ đoạn băng do camera giám sát ghi lại, anh ta đưa luôn cho sếp cuốn băng đó.

Constance nheo mắt. Đúng là vợ chồng Larabee. Cô vợ mặc đầm dạ hội còn anh chồng mặc com lê tối màu: hai hình mẫu sành điệu.

- Người đẹp nhỉ, không phải sao? Botsaris nhận xét khi chỉ vào Nikki.

Mải suy nghĩ, sếp anh ta không đáp lời. Có điều gì đó không hợp lý trong cuộc điều tra này, và cô nôn nóng muốn biết đó là điều gì.

- Tôi đã hỏi thăm, viên trung úy nói thêm. Chuyến đi kéo dài gần hai tiếng, nhưng con tàu đang dừng giữa chặng. Nếu mọi chuyện suôn sẻ, chúng ta sẽ tóm được chúng trong vòng nửa tiếng nữa.

Constance nhắm mắt lại rồi day day hai mí. Cho đến tận lúc này, cô vẫn kiên cường chịu đựng, nhưng một cơn đau nửa đầu đột nhiên xoáy vào óc cô.

- Có sao không, đại úy?

Cô mở mắt ra rồi gật đầu.

- Thực ra, ở văn phòng mọi người hơi lo lắng cho chị, viên trung úy thú nhận.

- Tôi đã bảo cậu là ổn mà! Cô vừa quát vừa rút một điếu thuốc của anh ta.

Nhưng cả hai đều biết cô đang nói dối.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
623,263
Điểm cảm xúc
35
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 35


Gió nổi lên ở boong trên của tàu, nơi các du khách được tận hưởng tầm nhìn trọn vẹn bốn phía trên sông Seine.

Khuôn mặt kín như bưng, Nikki hút thuốc, tì tay lên thành tàu, ánh mắt nhìn chăm chăm về phía xa tới vẻ oai nghiêm và đồ sộ của cầu Alexandre-III. Thân cầu cong hình cánh cung, được tô điểm bằng lọat tượng và nhiều lớp mạ vàng, vắt ngang sông Seine chỉ bằng một nhịp.

Sebastian đến chỗ cô. Cô cảm nhận được sự có mặt của anh ở phía sau, nhưng đoán là anh tới không phải để xin lỗi.

- Tai nạn mà Camille phải chịu là lỗi của tôi, cô thừa nhận mà không quay người lại, nhưng anh đừng quên hoàn cảnh khi ấy. Lúc đó, hai chúng ta đã hoàn toàn buông xuôi, chúng ta cãi vã triền miên, anh còn chẳng thèm nhìn tôi nữa…

- Không gì có thể tha thứ cho cách cư xử của cô, anh cắt ngang.

- Thế còn anh, cách cư xử của anh, anh nghĩ là đáng tha thứ sao? Cơn giận bùng lên trong cô.

Tiếng vang từ giọng cô thu hút ánh mắt của những người có mặt trên boong. Một cặp đôi cãi nhau thường là cảnh tượng thú vị…

Nikki vẫn tiếp tục với vẻ hung hăng không hề suy giảm:

- Sau khi ly hôn, anh đã tống cổ tôi khỏi cuộc đời anh, trong khi chúng ta hoàn toàn có thể duy trì mối quan hệ, đương nhiên là không phải với tư cách nhân tình nhân ngãi, không phải thế, nhưng chí ít cũng trên tư cách những người làm cha làm mẹ.

- Cô thôi ngay những lời cao siêu triết lý đó đi: chúng ta là vợ chồng hoặc chúng ta không phải là như thế.

- Tôi không đồng ý. Lẽ ra chúng ta có thể có được quan hệ tốt đẹp. Nhiều người đã làm được điều như thế.

- Quan hệ tốt đẹp ư? Cô giễu tôi đấy à?

Cô quay người lại nhìn anh. Trong ánh mắt anh, sau vẻ mệt mỏi và cơn giận dữ, vẫn ánh lên chút tình yêu thương.

- Đã có bao thời khắc đẹp đẽ trong câu chuyện hai ta, cô nhấn mạnh.

- Và cũng có bao điều đau đớn, anh vặn lại.

- Nhưng phải thừa nhận là anh đã không cư xử cho ra dáng một người lớn có trách nhiệm vào thời điểm chúng ta ly hôn.

- Nếu cô tốt đẹp ra dáng được hơn thì hẵng chê bai người khác…, Sebastian xẵng giọng vặc lại.

Nikki lấn tới:

- Tôi nghĩ anh vẫn chưa biết chính xác mức độ ảnh hưởng từ các hành vi của mình. Anh đã chia cắt hai đứa con song sinh của chúng ta! Anh đã cướp của tôi đứa con gái và anh đã cắt đứt với con trai mình! Thật kinh tởm!

- Nhưng cô đã chấp nhận thỏa thuận đó, Nikki.

- Bởi tôi bị buộc và bị ép phải làm vậy! Vì với cả đống luật sư anh đã thuê và hàng triệu đô la trong tay, có thể anh sẽ giành được quyền nuôi dưỡng cả hai đứa trẻ.

Cô để vài giây trôi qua, rồi quyết định hỏi cho ra nhẽ điều cô vẫn luôn giữ trong lòng.

- Thực ra, anh chưa bao giờ thực sự muốn trông nom Jeremy, có phải không? Cô hỏi khẽ.

Sebastian vẫn im lặng.

- Tại sao anh lại ruồng bỏ chính con trai mình? Cô nài nỉ, hai mắt ngấn lệ. Đó là một thằng bé đáng yêu, nhạy cảm và mong manh. Nó lúc nào cũng chờ đợi một lời khen ngợi hay một dấu hiệu quan tâm từ anh, nhưng chẳng bao giờ điều đó xảy ra…

Sebastian chịu đựng những lời trách móc mà anh biết là đúng. Nhưng Nikki vẫn muốn biết:

- Tại sao anh chưa bao giờ cố hiểu nó?

Anh do dự một lúc, rồi nhân nhượng:

- Bởi vì điều đó quá khó khăn.

- Điều gì quá khó khăn?

- Bởi vì thằng bé quá giống cô. Nó mang nét mặt của cô, điệu cười của cô, ánh mắt của cô, cách nói chuyện của cô. Khi tôi nhìn thấy nó, tôi như thấy chính cô. Và như thế thật quá sức chịu đựng, anh thú nhận, mắt nhìn đi nơi khác.

Nikki không chờ đợi điều này. Ngây người mất một lúc cô mới nói được thành câu:

- Anh quá để tâm đến lòng tự ái của bản thân mà quên đi tình yêu dành cho con trai mình ư?

- Tôi đã làm tốt phần việc của mình đối với Camille, anh nhấn mạnh. Con bé chín chắn, thông minh và được dạy dỗ đến nơi đến chốn.

- Anh có muốn biết sự thật không, Sebastian? Cô hỏi, mắt ngấn lệ. Camille là một quả bom nổ chậm. Anh đã giữ con bé trong vòng kiểm soát của mình cho đến tận lúc này, nhưng điều đó sẽ không kéo dài đâu. Và khi con bé vùng dậy, có thể anh sẽ phải hối hận đấy.

Sebastian nhớ tới vỉ thuốc tránh thai mà anh phát hiện được trong phòng con gái. Anh dịu lại, tiến tới ôm cô trong vòng tay.

- Em nói đúng, Nikki. Anh xin em, chúng ta đừng tranh cãi nữa. Hãy gắn bó với nhau trong thử thách này. Anh sẽ thay đổi cách cư xử với Jeremy và em có thể tới thăm Camille bất cứ khi nào em muốn. Anh hứa là mọi chuyện sẽ ổn thỏa.

- Không, quá muộn rồi. Điều tồi tệ đã xảy ra. Giờ thì không thể sửa chữa được nữa.

- Không, chẳng có gì là không thể sửa chữa, anh kiên quyết khẳng định.

Trong khi con tàu lướt đi dưới nhịp cong cong của cầu Nghệ thuật và cầu Pont-Neuf, họ cứ ở yên trong vòng tay nhau một lúc.

Rồi mỗi người lại giữ khoảng cách với người kia.

Con tàu lướt đi dọc theo bờ sông ngang tầm các quầy sách trên kè Saint-Michel. Có thể nhận ra cung điện Conciergerie trên đảo Cité và, ở cuối đảo, là dáng vẻ gô tíc của nhà thờ Đức Bà. Xa xa, những dinh thự xa hoa trên đảo Saint-Louis in bóng lên nền trời vẫn hửng sáng dù đã về khuya.

- Giờ chúng ta thử giải mã bí ẩn của chiếc chìa khóa này đã, Nikki đề xuất sau khi đã dập đến điếu thuốc lá thứ ba. Chắc chắn chúng ta đã bỏ lỡ dấu hiệu gì đó. Vụ dàn xếp này hắn phải mang ý nghĩ gì đó. Phải tìm cho ra thứ mà chiếc chìa khóa này có thể mở được…

Cả hai cùng nhau đi hết dọc rồi lại ngang boong tàu trên, tìm kiếm một ổ khóa hay một lỗ khóa mà không được. Gió thổi mạnh khiến trời đêm thêm lạnh. Thấy Nikki run rẩy, Sebastian bèn choàng áo vest của anh lên người cô. Ban đầu cô từ chối, nhưng anh cứ cố nên rút cuộc cô để mặc anh.

- Nhìn kìa! Đột nhiên anh kêu lên, tay chỉ về một dãy thùng kim loại để áo cứu hộ.

Có sáu thùng tất cả, chiếc nào cũng có một khóa bảo vệ. Họ bồn chồn thử tra chìa khóa vào tất cả ổ khóa, nhưng không có chiếc nào mở được.

Mẹ kiếp…

Nản chí, Nikki lại châm một điếu thuốc nữa, hai người lặng lẽ hút chung điếu thuốc, tựa vào thành boong. Hai bờ sông đen kín người, tạo thành, như một dãy họa tiết, những “Dòng sông Seine cuộc đời” nhỏ bé: trong không khí náo nhiệt, những gia đình đi dã ngoại, những cặp tình nhân hôn nhau, một cặp tình nhân lớn tuổi hơn thì khiêu vũ bên mép nước như trong một bộ phim của Woody Allen. Xa xa, những phường vô lại vật vờ, vài nhóm thiếu nữ vừa cười cợt vừa trỏ ngón tay thối về phía người qua đường, một gã lang thang đang hút điếu cỏ dài đến một thước. Đồ uống có cồn ở khắp nơi: rượu nho, bia, rượu vodka.

- Đi nào, chúng ta vào trong thôi, cô lầm bầm. Em thấy lạnh.

Họ cùng xuống khoang dưới.

Trong phòng khách, không khí đang hồi náo nhiệt. Lúc đầu bữa còn rụt rè, giờ các thực khách đã đang hát vống cả lên. Một khách du lịch người Mỹ thậm chí còn quỳ gối trước vị hôn thê để cầu hôn.

Nikki và Sebastian trở lại bàn họ. Món chính đã được mang ra. Trong đĩa của Sebastian, một miếng phi lê bò nguội đặt cạnh thứ xốt trứng bơ Béarn đã đông lại. Bên đĩa của Nikki là hai con tôm khốn khổ đang đấu tay đôi trên chiếc bánh kẹp cơm Ý. Lúc họ mới ăn được vài miếng món ăn nguội ngắt, một nghệ sĩ violon tiến lại gần rồi chơi những nhịp đầu tiên của bản Tình ca. Lần này, Sebastian đuổi anh ta đi mà chẳng nể nang gì.

- Rót rượu cho em đi, Nikki yêu cầu.

- Em đừng uống nữa, sẽ say đấy. Mà chai rượu của chúng ta cũng hết rồi.

- Thế thì sao, nếu em muốn say thì sao! Đấy là việc của em! Đấy là cách để em đối mặt với chuyện đang xảy ra với chúng ta.

Nikki đứng dậy rồi lướt mắt qua nhiều bàn tìm kiếm một chai rượu nào đó. Cô tìm thấy một chai mới vơi một chút trên bàn để thức ăn thừa gần quầy bar rồi mang về chỗ mình.

Cô tự rót thêm một ly trước ánh mắt rụng rời của chồng cũ.

Bực mình, Sebastian ngoảnh mặt đi nhìn sang phía cửa kính. Lại điểm đến mới trong chặng du ngoạn, chiếc tàu tới trước tấm lưới thép ở cầu Charles-de-Gaulle. Hiện tại hơn các công trình trước đó, cầu Charles-de-Gaulle trông như một chiếc cánh máy bay chuẩn bị rạch ngang bầu trời. Rồi chiếc tàu soi sáng hai bên bờ bằng những ngọn đèn pha công suất lớn, hé lộ một cảnh khốn cùng bất ngờ: dưới gầm cầu, vô số người vô gia cư đã sắp hành lý, dựng lều bạt, bếp lò. Một “màn diễn” khiến các du khách cảm thấy khó chịu và làm dịu ngay không khí cho đến lúc đó vẫn rất vui nhộn. Điều này phản ánh “hội chứng Paris” trứ danh. Hằng năm, các đại sứ quán lại phải làm thủ tục hồi hương cho hàng chục du khách bị choáng, đến mức phát bệnh, bởi sự chênh lệch giữa hình ảnh lý tưởng về Paris vẫn được quảng bá trong các bộ phim và hình ảnh phũ phàng hơn trong thực tế của thủ đô nước Pháp. Trên tàu, sự xáo trộn này không kéo dài. Con tàu lại tiếp tục hành trình về phía những ngọn tháp kính của “Thư viện lớn”, trước khi quay đầu ở bờ kè Bercy để trở lại bờ hữu ngạn, tiến về Paris lịch sử trên những tấm bưu thiếp và tờ rơi quảng bá du lịch. Âm nhạc bởi vậy càng lôi cuốn hơn và cảm giác khó ở đã hoàn toàn tiêu tan.

Thêm một ngụm rượu.

Bề ngoài, rượu khiến tâm trí Nikki rối loạn, nhưng nó cũng khiến sự nhạy cảm của cô tăng lên. Cô tin chắc mình đã để vuột mất một điều gì đó, một thứ hiển nhiên. Thậm chí, cô còn chẳng cố tập trung nữa. Những phân tích theo lý trí không phải là điều sẽ giúp cô tìm lại được Jeremy, mà chính là bản năng của một người mẹ. Trong tình huống kiểu như thế này, sự nhanh nhạy của các cảm xúc hiệu quả hơn nhiều tính lô gíc và lý trí.

Không cố kiểm soát cảm xúc, cô mở hết các van để cảm xúc tự bộc lộ. Cô để mặc nước mắt tuôn rơi và mặc cho các hình ảnh lộn xộn trong đầu mình. Hiện tại, quá khứ đan xen với nhau. Tuy nhiên, cô cần tìm ra ranh giới, tìm ra một vị trí tốt để quan sát. Không phải để mình bị cảm xúc nhấn chìm, mà sử dụng nó theo cách hợp lý để nắm bắt được thông điệp từ đó.

Lòng bồn chồn lo lắng, cô nhìn ra cửa kính. Tất cả trộn lẫn với nhau trong đầu cô đến phát nôn. Những kỷ niệm xoay tròn, biến dạng, đan xen cho đến khi hòa quyện với nhau.

Nhạc rất to. Xung quanh cô, mọi người đang gõ nhịp. Trên sàn nhảy, nhân viên nhà hàng bây giờ đảm nhiệm vị trí dẫn dắt. Các nhân viên phục vụ cả nam lẫn nữ đưa chân theo điệu nhạc Nga.

Kalinka kalinka kalinka maya…

Cô uống thêm một ngụm rượu. Dù trong phòng khí nóng, Nikki vẫn run lập cập. Kết hợp với ánh đèn trên sàn nhảy, đoạn điệp khúc này khiến cô thấy đau đầu.

Kalinka kalinka kalinka maya…

Con tàu đang trở về điểm xuất phát. Qua cửa kính, cô nhìn thấy ban công cùng các gương mặt điêu khắc trên cầu Pont-Neuf, rồi hình bóng của cầu Nghệ thuật hiện lên trên nền trời, Cô ngắm nhìn hàng rào trên cầu. Chúng lấp lánh hàng nghìn tia sáng. Cô nheo mắt lại và nhận ra hàng chục, hàng trăm, hàng nghìn ổ khóa treo dọc thân cầu.

- Em biết cái chìa khóa này mở thứ gì rồi! Cô reo lên.

Cô chỉ cho Sebastian máy phát những đoạn phim hướng dẫn được gắn vào bàn ăn. Cúi xuống màn hình nhỏ xíu, họ đọc giai thoại được gán cho công trình này:

“CŨNG NHƯ CẦU PIETRA Ở VÉRONNE HAY CẦU LUZHKOV Ở MATXCƠVA, CẦU NGHỆ THUẬT TỪ VÀI NĂM NAY TRỞ THÀNH ĐỊA ĐIỂM YÊU THÍCH CỦA CÁC CẶP TÌNH NHN, HỌ ĐẾN ĐY ĐỂ GẮN ‘KHÓA TÌNH YÊU’, BIỂU TƯỢNG CHO SỰ KẾT NỐI VỮNG CHẮC.

DÙ ĐÃ CÓ VÀI THAY ĐỔI, NHƯNG NGHI THỨC VẪN ĐƯỢC GIỮ NGUYÊN: CÁC CẶP TÌNH NHN GẮN KHÓA VÀO HÀNG RÀO TRÊN LAN CAN CẦU RỒI NÉM CHÌA KHÓA QUA VAI XUỐNG SÔNG SEINE VÀ NIÊM PHONG TÌNH YÊU CỦA HỌ BẰNG MỘT NỤ HÔN.”

- Chúng ta phải xuống tàu!

Họ hỏi một nhân viên lễ tân để biết thêm thông tin. Tàu sẽ cập bến ở cầu Alma trong vòng chưa đầy năm phút nữa.

Đang trong tâm trạng phấn khích, Nikki và Sebastian lại gần lan can để lên cầu tàu ngay khi con tàu cập bến.

Tàu L’Amiral lướt qua trước mặt tiền cung điện Louvre, bến Champ-Élysées, rồi dừng hẳn tại bến đón khách của nó, tại cầu Alma.

Trong lúc cả hai vội vã xuống thuyền, Nikki bỗng kéo tay áo chồng cũ.

- Khoan đã! Có cảnh sát!

Sebastian nhìn lên kè sông. Một người phụ nữ mặc áo khoác da và một gã trai trẻ với những bước chân dứt khoát đang chuẩn bị leo lên thành tàu.

- Em nghĩ thế à?

- Họ là cảnh sát, em bảo anh rồi mà! Anh nhìn đi.

Phía xa, anh nhận ra chiếc Peugeot 307 sơn phù hiệu với màu sắc của Cảnh sát quốc gia.

Sebastian bắt gặp ánh mắt của người phụ nữ. Hai cảnh sát hiểu rằng họ đã bị đối tượng nhận ra nên nhảy bổ lên cầu tàu.

Nikki và Sebastian quay ngược trở lại. Trước khi trở lại boong trên, Sebastian chộp được trên bàn ăn một con dao chắc hẳn đã được dùng để cắt một miếng thịt bò nướng quá tay.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
623,263
Điểm cảm xúc
35
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 36


Khi bắt gặp ánh mắt Sebastian, Constance Lagrange biết rằng gã người Mỹ đó đã nhận ra họ. Cô rút khẩu súng lục ra rồi giơ lên, cánh tay áp chặt vào người.

- Không được nổ súng bừa bãi! Cô ra lệnh cho Botsaris khi bước vào khoang tiếp khách.

Nhìn thấy súng, nhiều du khách kêu lên thảng thốt. Lao nhanh vào khoang nhà hàng, hai cảnh sát đã xô đổ nhiều bàn ăn trên đường tiến của họ. Với sự tiếp ứng của Constance, Botsaris lao lên cầu thang dẫn lên boong trên, nhưng không thể mở được cánh cửa kim loại.

- Chúng chặn cánh cửa rồi! Viên trung úy kêu lên.

Constance rút lui. Cô đã phát hiện ra một lối đi khác ở phía sau con tàu: một chiếc thang dẫn lên boong trên. Cô có mặt ở trên boong chưa đầy ba giây sau. Từ xa, cô thấy Larabee chui vào khoang lái qua một ô cửa hai cánh tự đóng. Tay cầm một con dao, gã đang uy hiếp lái tàu để bắt ông ta phải khởi động lại tàu. Cô bước lên vài bước tiến về phía gã, nhưng chờ đến khi cảm nhận được sự có mặt của Botsaris phía sau rồi mới nhắm bắn kẻ trốn chạy.

- Không được cử động! Cô hét lên đúng lúc tàu tăng tốc.

Nữ cảnh sát mất thăng bằng, nhưng lại bám được vào vai của viên phụ tá. Cô nheo mắt. Lúc này gã người Mỹ đang trèo lên khoang lái và cố thuyết phục cô vợ cũ lại chỗ đó.

- Bám vào anh, Nikki!

- Không, em không làm được!

- Chúng ta không còn lựa chọn nào cả, em yêu!

Constance nhìn thấy gã nắm lấy tay vợ rồi đẩy cô lên phần khoang nhô cao.

Nữ cảnh sát lặp lại mệnh lệnh mà không ăn thua gì. Gã nằm trong tầm ngắm của cô, nhưng cô do dự không bắn.

Chúng đang cố làm gì vậy? Cầu Iéna vẫn còn xa. Còn tàu sẽ ghé vào cầu Debilly, một cầu đi bộ hình cánh cung bắc qua sông Seine nối đại lộ New York với kè Branly.

Chúng không định đu lên đó đấy chứ?

Chiếc cầu đi bộ đó không quá cao, nhưng cũng đủ khiến nhiệm vụ nếu không đến mức bất khả thi thì cũng quá mạo hiểm, nhất là khi tàu đi với tốc độ này. Constance nhớ lại những bộ phim cô xem hồi nhỏ, trong đó có cảnh Belmondo thực hiện những cú nhảy thần sầu ở Paris. Nhưng Sebastian Larabee không phải Belmondo. Đó là một gã thợ làm đàn ở Thượng Đông Manhattan có thói quen chơi golf vào mỗi sáng Chủ Nhật.

- Tôi có thể bắn vào đùi hắn, đại úy, Botsaris gợi ý.

- Đừng mất công. Hắn không bao giờ đu được lên đó đâu. Cây cầu đó quá cao còn tàu thì chạy quá nhanh. Bọn chúng sẽ chỉ rơi xuống sông mà thôi. Cậu gọi cho đội đường sông đi, kè Saint-Bernard. Yêu cầu họ gửi tiếp viện cho chúng ta để vớt chúng!

Con tàu vẫn lừ lừ tiến về phía những quầng sáng của cây cầu đi bộ. Ngoài những trụ cầu bê tông ở gần hai bờ, cây cầu có kết cấu hoàn toàn bằng thép và mặt cầu bằng ván gỗ màu hổ phách. Cũng như tháp Eiffel, công trình này là một trong những nguyên mẫu kim loại được xây dựng vào đầu thế kỷ XX. Ban đầu được xây dựng để sử dụng tạm thời, rốt cuộc chúng lại sống qua cả thế kỷ.

Theo bản năng, Sebastian tung người nhảy lên bám vào khung cầu. Nikki ném đôi giày cao gót đi rồi cũng nhảy theo, bám chặt lấy thắt lưng chồng cũ. Hai cú nhảy hoàn hảo.

May mắn tột đỉnh cho kẻ nhập môn…

Bằng một cú nhảy, Constance leo lên được nóc khoang lái, nhưng ván cờ đã chơi xong. Con tàu đã chạy qua cầu và đang rẽ sóng tiến về phía vườn hoa Trocadéro.

Cô điên tiết buông ra một câu nguyền rủa, mắt dõi theo hai bóng người đang kéo nhau lên tấm lưới treo lơ lửng của cây cầu đi bộ.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
623,263
Điểm cảm xúc
35
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 37


Tay trong tay, Nikki và Sebastian chạy thục mạng trên đường cao tốc tả ngạn sông Seine. Băng qua hàng ô tô, họ len vào lối đi riêng dọc theo Bảo tàng Nghệ thuật sơ khai rồi đi ra phố Đại học.

- Vứt điện thoại di động và tất cả những gì có thể dùng để định vị chúng ta đi! Sebastian ra lệnh.

Vừa chạy Nikki vừa ném điện thoại đi. Bước chân cô tập tễnh. Lúc thực hiện màn chạy trốn mạo hiểm trên tàu, chân váy của cô bị rách và bàn chân phải cô đập vào lan can kim loại của tàu.

Làm gì bây giờ? Đi đâu được?

Họ dừng lại lấy hơi dưới một vòm cổng trên phố Rapp. Bị cảnh sát truy đuổi, bây giờ họ trở thành kẻ trốn chạy. Nhờ tình huống may mắn đến thần kỳ, họ mới thoát được vụ bắt giữ đã được lên chương trình, nhưng họ còn có thể giữ thế làm chủ tình hình như này được bao lâu nữa chứ?

Lúc này, họ cần đến cầu Nghệ thuật để tìm ra cái ổ khóa bí ẩn kia. Vì vậy, họ không nên đi xa khỏi sông Seine, đồng thời phải hết sức cẩn trọng.

Bỏ qua bến tàu điện ngầm và những con phố lớn ở quận VII, họ lang thang trong những con phố nhỏ, quay bước ngay khi thấy bóng sắc phục cảnh sát, sang đường ngay khi có đám đông tụ tập khả nghi. Đến nỗi phải mất gần một giờ họ mới tới được đích.

Dù đang là tiết thu, mùi hương mùa hè vẫn phảng phất trên cầu Nghệ thuật.

Dành riêng cho người đi bộ, cây cầu kim loại này mang lại tầm nhìn thật ấn tượng: chỉ cần ngước mắt lên, người ta có thể gặp lại những nhịp cong cong của cầu Pont-Neuf, quảng trường Vert-Galant và những ngọn tháp màu trắng của nhà thờ Đức Bà.

Nikki và Sebastian thận trọng bước lên cầu. Trời vẫn còn nóng. Cái nóng lạ thường và những ngày trung tuần tháng Mười thế này. Mặc váy ngắn, áo phông cộc tay hay áo vest mỏng, rất đông thanh niên tụ tập thành từng nhóm nhỏ, thậm chí ngồi bệt xuống đất vừa ăn uống vừa bàn luận thế sự hay hát hò quanh một cây ghi ta. Một bầu không khí hỗn tạp và những “món” bình dân: khoai tây chiên, sandwich, gà quay, sô cô la.

Một cảnh tượng không thể hình dung nổi ở nước Mỹ[1], rượu được uống thoải mái và với lượng lớn. Tóc vàng, tóc hung, tóc đỏ, tóc hồng, tóc trắng… Nhiều cô cậu còn rất trẻ - dám chắc trong số đó có nhiều trẻ vị thành niên - liên tiếp nốc cạn những lon bia và cốc rượu với tốc độ nhanh chóng mặt. Dẫu vậy, không khí nơi này vẫn rất hồn nhiên.

[1]. Ở Mỹ, đồ uống có cồn bị nghiêm cấm bán cho trẻ vị thành niên và bị cấm sử dụng ở nơi công cộng

Móc vào lan can cầu, những chiếc “khóa tình yêu” chi chít hai bên, dọc theo thân cầu. Có bao nhiêu chiếc ở đây? Hai nghìn? Ba nghìn?

- Chúng ta sẽ không bao giờ tìm ra đâu… Nikki sầu não nói khi lấy chìa khóa từ túi xách ra.

Sebastian khuỵu chân xuống lan can cầu. Đa phần số khóa này đều được đánh dấu bằng mực không phai hoặc được khắc trực tiếp vào mặt khóa. Thường là chữ viết tắt hoặc tên hai người kèm theo một mốc thời gian nào đó:

T + L – 14/10/2011

Elliot & Ilena – 21/10

Sebastian thầm mỉm cười. Bản thân chúng, những lời ước hẹn tình yêu vĩnh cửu này thật đáng trân trọng. Bị khóa chặt như thế, trái tim đôi tình nhân dường như đã được gắn với nhau vĩnh viễn. Nhưng trong số hàng nghìn lời thề trang trọng này, có bao nhiêu thực sự vượt qua được thử thách của thời gian?

Đến lượt mình, Nikki cũng quỳ xuống xem những chiếc lovelock. Những ổ khóa đủ kích cỡ. Nhiều chiếc được sơn màu, nhiều chiếc có hình trái tim, được khắc những dòn chữ quen thuộc:

Anh yêu em/ Ti amo/ Te quiero…

Nhiều chiếc khóa còn mang những công thức tình yêu lạ lẫm:

B +F + A

Thậm chí còn thật sự “phóng đãng”:

John + Kim + Diane + Christine

Hay ủy mị:

Thời gian cứ trôi, nhưng kỹ niệm còn mãi…

Hay cay độc hơn:

Solange Scordelo là đồ đĩ thõa.

- Chúng ta đừng lãng phí thời gian nữa? Sebastian nói.

Họ chia nhau công việc. Ở bên trên, Sebastian xác định xem ổ khóa nào mang nhãn hiệu ABUS sau đó chỉ cho Nikki để cô thử mở chúng bằng chìa khóa của họ. Cô nhận thấy các mốc thời gian đều khá mới, điều đó có nghĩa là để bảo vệ lan can cầu, tòa thị chính hoặc hội đồng thành phố chắc đã thực hiện các đợt cắt khóa định kỳ.

Nhưng chút việc vặt của họ có vẻ đáng ngờ và thu hút nhiều ánh nhìn. Chưa nói đến việc này chán ngắt.

ABUS - ABUS - ABUS - ABUS - ABUS… Doanh nghiệp Đức mà trước giờ họ chưa từng nghe tên có vẻ thống lĩnh thị trường khóa: có đến gần một nửa số khóa mang nhãn hiệu này!

- Có khi đến hết đêm chúng ta vẫn chưa làm xong, Sebastian lẩm bẩm trong khi hai cảnh sát mặt sắc phục đang tiến lên cầu.

- Chú ý!

Họ cùng lùi lại, nhưng thoạt nhìn thì hai cảnh sát đó chỉ đến đây để nhắc nhở với những kẻ dạo chơi này rằng có một sắc lệnh của hội đồng thành phố về việc cấm tiêu thụ đồ uống có cồn trên cầu đi bộ. Vờ ra vẻ thiện chí, đám thanh niên thu dọn các loại chai vào túi xách rồi lại bỏ ra ngay khi hai cảnh sát quay gót.

Hai cảnh sát đó không phải những kẻ dễ qua mắt, nhưng chắc chắn họ không có phương tiện cũng như không được lệnh buộc những kẻ kia phải tôn trọng đúng luật pháp. Họ bận tâm nhiều hơn tới tình trạng sức khỏe của một gã say sỉn đang dọa sẽ nhảy xuống sông. Họ nói chuyện với gã, cố nói lý lẽ với gã, nhưng gã say chửi rủa họ rồi bắt đầu tỏ ra hung hăng. Một cảnh sát quyết định gọi trợ giúp qua bộ đàm.

- Chỉ hai phút nữa thôi, cây cầu này sẽ đầy cảnh sát, Sebastian lo lắng. Chúng ta phải đi đã.

- Trước khi tìm ra được ở khóa thì không!

- Em đúng là ương bướng quá đấy! Một khi đã ngồi tù rồi thì chúng ta sẽ tiến nhanh lắm đây.

- Khoan đã, em có ý này! Bây giờ anh chịu khó đi tìm những chiếc khóa “đặc biệt”: những chiếc có một vệt sơn, ruy băng hoặc một dấu hiệu khác biệt nhé.

- Tại sao?

- Em tin chắc họ đế cho chúng ta một dấu hiệu nào đó.

Cả hai bắt đầu vào công việc đó. Nhiều ổ khóa mang dấu ấn theo màu sắc của một đội bóng nào đó – “Viva Barcelona! Viva Messi” -, hay một phong trào chính trị - “Yes We Can” - hay một khuya hướng tình dục - lá cờ đa sắc gay friendly.

- Tới xem này!

Được móc vào lưng chừng lan can ở một đầu cầu, một ổ khóa cỡ lớn có dán hai miếng đề can: một có hình đàn violon, một được trang trí bằng slogan nổi tiếng I Love New York vốn được in trên vô số áo phông.

Khó có thể tìm được thứ gì rõ ràng hơn.

Nikki xoay chìa khóa. Ổ khóa mở tung.

Cô muốn xem xét ổ khóa dưới ánh đèn đường, nhưng cảnh sát đã xông lên cầu. Sebastian kéo cánh tay Nikki:

- Đi khỏi đây thôi, nhanh lên!
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
623,263
Điểm cảm xúc
35
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 38


THẾ GIỚI MÊ HOẶC CỦA NGHỆ THUẬT XĂM HÌNH MAORI

Thu mình trong phòng làm việc không có cửa sổ, Lorenzo Santos đặt quyển sách xuống, anh đã miệt mài đọc nó gần hết cả buổi chiều.

Anh biết thêm được vô vàn điều thú vị, nhưng không điều gì có thể giúp cuộc điều tra của anh tiến triển.

Lòng đầy thất vọng, anh dụi mắt rồi ra hành lang lấy một cốc soda từ máy bán nước tự động.

OUT OF ORDER [1]

[1]. Máy hỏng

Chỉ còn thiếu điều này nữa thôi…

Anh giận dữ đấm thẳng vào chiếc máy, tấm biển trên đó như muốn trêu ngươi anh.

Có còn thứ nào hoạt động chuẩn xác ở cái đất nước này không?

Để bình tâm lại, Santos bước ra sân sau với ý đồ làm vài cú bỏ bóng. Bóng tối đang từ từ buông xuống Brooklyn. Qua hàng rào, anh ngắm nhìn mặt trời lặn dần trên nền trời ráng đỏ. Anh chộp lấy quả bóng rổ rồi cố thực hiện một cú ném từ xa. Quả bóng chạm vào rổ bằng kim loại, ngập ngừng một lát rồi rơi xuống chệch hướng.

Rõ ràng là không may chút nào…

Cuộc điều tra của anh cũng đang giẫm chân tại chỗ như vậy. Dù có sự trợ giúp của bên khoa học hình sự, anh cũng chẳng tiến thêm chút nào. Tuy nhiên, cuối buổi sáng nay, anh đã nhận được bản báo cáo chi tiết do một chuyên gia phân tích vết máu soạn thảo. Vị chuyên gia đó đã phân tích hiện trường vụ án theo cách rất xác đáng, tái hiện tỉ mỉ diễn biến vụ ẩu đả. Drake Decker đã bị giết trước tiên, bị gã “Maori” phanh thây, có thể tìm được dấu vân tay của gã này trên con dao chiến. Sau đó gã Maori chết, bị Sebastian Larabee hạ sát bằng một mảnh kính vỡ. Còn về những dấu vân tay của Nikki, chúng được phát hiện ở nhiều vị trí, và đặc biệt trên cây gậy bi a, thứ đã đâm thủng mắt gã hộ pháp trước khi hắn chết hẳn.

Nhưng trình tự này chẳng nói lên được gì về động cơ của những nhân vật chính cũng như danh tính của “người thứ ba”. Gã đó chưa từng xuất hiện trong cơ sở dữ liệu của cảnh sát. Càng lúc Santos càng tin chắc rằng dù mang hình xăm như thế nhưng gã đó không phải người Polynesia. Anh đã viện đến sự giúp đỡ của Keren White, nhà nhân chủng học của Sở Cảnh sát New York làm việc ở precinct 3, nhưng bà vẫn chưa gọi lại cho anh. Vì trông chờ rất nhiều vào việc xác định danh tính gã xăm trổ này, anh đã thử thực hiện những điều tra riêng, nhưng chẳng thu được gì.

Lúc này Santos ghi bàn liên tục, anh dần lấy lại được sự tự tin, thoát khỏi tâm trạng căng thẳng mà cuộc điều tra khiến anh rơi vào.

Trong sự nghiệp cảnh sát, đã nhiều lần anh có được linh cảm về một vụ án bằng cách đi bộ nhanh hay chơi bóng rổ. Trong lúc hoạt động gắng sức, nhiều yếu tố trở nên rõ ràng hơn, các sự việc có vẻ riêng lẻ lại kết nối với nhau theo cách sáng tỏ. Tại sao lần này lại không như thế chứ?

Vì vậy, Santos cố gắng nhìn nhận các sự kiện dưới góc độ khác.

Thế nếu lời giải cho bí ẩn này không nằm ở danh tính của gã Maori mà ở chính con người Drake Decker thì sao?

Thật sự thì anh biết gì về chủ quán Boomerang? Drake là một gã vô lại hạng tép riu, gia đình hắn đã dính vào những việc phạm pháp ít nhất cũng đến hai thế hệ rồi: cha hắn, Cyrius, đang thụ án chu thân tại Rickers Island, trong khi đó em út của hắn, Memphis, lẩn trốn đã năm năm nay hòng tránh hình phạt tù dài hạn trong một vụ buôn lậu ma túy. Decker cũng dính vào cocain và quán bar của hắn là một chốn ít nhiều ám muội, nhưng cảnh sát khu vực đó vẫn thường nhắm mắt làm ngơ trước các hoạt động của hắn, bởi Drake cung cấp tin tức quý giá cho họ.

Nhưng giữa tên vô lại đó và nhà Larabee có mối liên hệ gì chứ?

Có lẽ là Jeremy…

Sebastian biết rõ con trai của Nikki. Cậu bé chẳng thích thú gì anh và mối ác cảm đó đến từ hai phía.

Anh ném cú bóng cuối cùng rồi trở vào văn phòng, quyết định thử điều tra chéo. Anh nhập hai cái tên rồi cho chạy chương trình trong máy tính cá nhân. Sau vài giây, phần mềm trả lại kết quả.

Có một vụ việc!

Vụ việc này xảy ra trước đây gần một tháng, vào thứ Bảy đầu tiên của tháng Mười. Tối hôm đó, Drake bị đưa vào đồn sau khi có một khách hàng khiếu nại đã bị hắn đánh nhừ tử và dùng vũ khí đe dọa. Họ đã nhanh chóng thả hắn mà không đưa ra cáo buộc bất lợi nào.

Còn có Jeremy, cậu bé đã bị đưa vào đồn vì tội lấy cắp trò chơi điện tử trong một trung tâm thương mại.

Khi đối chiếu hai bản báo cáo từ cảnh sát, có thể thấy Drake và cậu bé đã ở chung phòng tạm giam trong khoảng mười bốn phút.

Liệu đó có phải là lần đầu tiên họ gặp nhau? Santos tự hỏi.

Anh đột nhiên tin rằng nút thắt của điều bí ẩn nằm ở mười bốn phút ngắn ngủi đó. Có chuyện gì đó đã xãy ra giữa Decker và Jeremy vào tối hôm ấy. Một cuộc trò chuyện? Một thỏa thuận? Một vụ tấn công?

Dù sao cũng là chuyện gì đó đủ quan trọng để thôi thúc một loạt sự kiện dẫn tới việc phát hiện ra hai cái xác chết ngập trong vũng máu ba tuần sau đó.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
623,263
Điểm cảm xúc
35
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 39


- Em không thể đi tiếp được nữa. Em đau quá! Nikki ca cẩm trong lúc ngồi thụp xuống vỉa hè phố Mornay.

Sebastian quỳ xuống cạnh cô.

- Em nghĩ mình bị bong gân rồi, cô âu sầu nói, tay xoa bóp mắt cá chân.

Anh kiểm tra phần khớp. Nó xưng phồng và một vết bầm nhạt màu đã bắt đầu hiện lên. Nếu suốt hai giờ trước cơn đau còn có thể chịu đựng thì bây giờ nó trở nên dữ dội đến mức Nikki không thể bước đi được nữa.

- Can đảm lên, chúng ta sắp tới nơi rồi. Cần phải tìm chỗ nào qua qua đêm đã.

- Nhưng anh có biết chúng ta nên tới đâu không?

Chạnh lòng, anh hỏi xem cô có phương án nào không.

- Không, cô nói.

- Vậy thì em phải tin anh.

Anh đưa tay ra giúp cô đứng dậy, để cô bám vào cánh tay mình, rồi họ bước thấp bước cao cùng đi tới đại lộ Bourdon.

- Chúng ta vẫn ở quanh bờ sông Seine sao? Cô ngạc nhiên hỏi.

- Gần như thế, anh đáp.

Họ sang đường để đi dọc theo một đoạn kè đá trắng. Nikki cúi xuống. Một đoạn đi bộ dài hơn năm trăm mét dọc theo dòng nước.

- Chính xác thì chúng ta đang ở đâu?

- Trên bến du thuyền Arsenal. Giữa kênh Saint-Martin và sông Seine.

- Anh mò được cái chốn này từ đâu ra đấy?

- Anh đã đọc một bài ở tạp chí du lịch trên máy bay. Anh nhớ tên vì nó giống tên đội bóng của Anh mà Camille hâm mộ.

- Anh có con thuyền nào neo lại chưa đấy? Cô trêu anh.

- Chưa, nhưng chúng ta có thể tìm thấy chiếc nào đó. Tóm lại thì trừ phi em quá đau không trèo qua được rào chắn này…

Cô nhìn anh mà không thể nén được nụ cười bất chấp sự nghiêm trọng của tình huống. Khi cả hai người bọn họ ở trong trạng thái tinh thần này, cô có cảm giác họ không thể bị khuất phục.

Hàng rào cao phải tới mét rưỡi. Một tấm biển lớn bằng gỗ ghi rõ ràng giờ đóng cửa là từ 23 giờ đến 6 giờ sáng và rằng một nhân viên bảo vệ cùng con chó của ông ta đêm nào cũng làm vài vòng tuần tra.

- Anh nghĩ nó là giống chó gì? Một con chó bông hay một con ngao? Cô vừa cười vừa bám vào cánh cổng.

Cô khó nhọc trèo qua cánh cổng rồi anh bước theo cô trên kè sông. Với vẻ yên bình đáng ngạc nhiên, nơi đây có khoảng hơn một trăm chỗ neo thuyền đủ các kích cỡ, từ những boat house vô cùng sang trọng tới những chiếc thuyền cũ kỹ cần nâng cấp. Cách sắp xếp thuyền khiên Nikki nhớ tới các dòng kênh ở Amsterdam mà cô đã từng được biết hồi còn là người mẫu.

Họ đi dọc kè sông, dò xét cẩn thận các con thuyền.

- Được rồi, anh nhắc cho em nhớ rằng chúng ta đến đây không phải để chọn mua tàu, Sebastian nôn nóng. Chúng ta chỉ muốn chợp mắt vài tiếng thôi.

- Chiếu đó có vẻ không tệ lắm, phải không?

- Quá sang trọng. Anh cược là nó có gắn thiết bị báo động.

- Thế thì chiếc kia vậy.

Cô chỉ một chiếc tjalk nhỏ, một chiếc “thuyền Hà Lan” dài khoảng hơn chục mét, thân hẹp và mũi cong đẹp tuyệt.

Sebastian nheo mắt. Tất cả thuyền xung quanh đều không có người. Có thể nhận ra tấm biển “Cần bán” đặt trên cửa kính của thuyền. Quả thực là chiếc thuyền này quá tuyệt. Sebastian nhảy lên boong rồi, với vẻ tự nhiên khiến Nikki phải sững sờ, anh giơ chân đạp mạnh khiến cánh cửa gỗ ở buồng lái bật tung.

- Có vẻ anh quen làm việc này rồi nhỉ, cô vừa nhận xét vừa lại chỗ anh. Em khó có thể tưởng tượng nỗi là cách đây hai hôm anh còn ngồi chải chuốt cây đàn violon trong xưởng nhà mình…

- Giờ thì gần như sẽ không còn được như thế nữa, không phải sao? Anh hẳn là đang bị truy nã khắp hai châu lục vì tội giết người, chưa kể một tội danh chạy trốn, một vụ buôn bán ma túy, tấn công thuyền trưởng một tàu du lịch…

- Thế đấy, chúng ta chính là Bonnie và Clyde! Cô trêu chọc khi bước vào trong khoang.

Từ buồng lái, có thể đi sang phòng khách được sắp xếp quanh hai chiếc ghế dài. Chiếc tjalk này vốn là tàu chở hàng cũ được cải tiến thành tàu du lịch. Cách trang trí bên trong khá đơn sơ, nhưng rất thu hút với những người thích phong cách “thủy thủ già”: cờ hải tặc, mô hình tàu được lồng vào các chai tủy tinh, đèn dầu, thừng chão…

Từ phòng khách, họ tiến thẳng vào phòng ngủ của khoang sau. Kiểm tra độ sạch của chăn ga xong là Nikki nằm phịch xuống giường. Rõ ràng vết bong gân đang hành hạ cô. Sebastian chồng hai chiếc gối xuống cuối giường rồi giúp cô đặt mắt cá chân lên trên gối.

- Anh sẽ trở lại ngay.

Tại mũi tàu, anh tìn thấy phòng bếp nhỏ đầy đủ tiện nghi, được ngăn riêng bằng một cách cửa chấn xong. May mắn làm sao tủ lạnh vẫn hoạt động. Anh đổ hai khay đá vào túi ni lông rồi trở về phòng ngủ.

- Lạnh quá! Nikki kêu lên khi anh áp túi đá lạnh vào chỗ đau.

- Em thôi kêu ca đi! Như thế sẽ giúp giảm sưng.

Quả thực là đá lạnh gần như ngay lập tức khiến cơn đau dịu xuống. Nikki tranh thủ lúc nghỉ ngơi chộp lấy túi xách rồi lấy ra chiếc love lock.

- Chúng ta cùng xem xét kỹ chiếc khóa này nhé.

Chiếc ổ khóa kim loại chẳng có điểm gì đặc biệt ngoại trừ những miếng đề can và hai dãy số được khắc trên đó.

48 54 06

2 20 12

- Anh mệt với mấy thể loại thách đố như ở Mật mã Da Vinci này lắm rồi! Sebastian càu nhàu.

- Suy cho cùng, biết đâu chính Dan Brown là kẻ đã bắt cóc Jeremy! Nikki bông đùa để không khí bớt căng thẳng.

Nikki là như vậy. Cô luôn sẵn lòng dùng sự hài hước để vượt qua những tình huống nghiêm trọng nhất. Đó gần như trở thành bản tính của con người cô. Nhưng Sebastian không có tâm trạng đùa giỡn. Anh lườm cô rồi đề xuất:

- Tại sao đây lại không phải một số điện thoại chứ?

- Với đầu số 48 à? Em hơi ngạc nhiên đấy. Dù sao thì cũng không phải đầu số điện thoại của Mỹ hay Pháp.

- Anh không biết liệu em có hiểu không, nhưng còn bao nhiêu nước khác trên thế giới này cơ mà.

Theo đà, anh bước ra phòng khách. Giữa đống đồ đạc lộn xộn, anh tìm thấy một cuốn danh bạ điện thoại phủ kín bụi liền mang nó vào phòng.

- 48 tương ứng với mã quốc tế của Ba Lan, anh nói.

Nikki đột nhiên cảm thấy kích động và lo lắng. Ba Lan: quê hương cô…

- Cần phải gọi thử vào số máy này!

Nhưng làm sao mà gọi được? Sebastian đã bị lột mất điện thoại, Nikki thì vừa vứt điện thoại đi để khỏi bị định vị.

- Em còn thẻ tín dụng, cô vừa nói vừa phe phẩy tấm thẻ nhựa hình chữ nhật.

Mắt cố toát ra vẻ mệt mỏi. Sebastian đặt tay lên trán Nikki. Người cô đang hầm hập sốt.

- Sáng mai chúng ta sẽ thẻ gọi từ một bốt điện thoại công cộng nào đó. Bây giờ, em phải nghỉ ngơi đã.

Anh quay lại phòng tắm, lấy hộp thuốc giảm đau Ibuprofen rồi đưa một viên nhộng cho Nikki trong khi đó cô vừa lầm bầm vừa thiếp dần vào giấc ngủ. Rồi anh bật máy sưởi phụ đặt dưới chân giường và tắt đèn, xong xuôi anh ra khỏi phòng qua cánh cửa tự đóng.

Tủ lanh trống trơn, trừ một vỉ sữa chua đã quá hạn và khoảng chục chai bia Mort Subite. Sebastian mở một chai rồi bước ra boong uống.

Bến cảng im ắng. Phi thời gian. Một không gian tách biệt chỉ cách cảnh náo nhiệt trên quảng trường Bastille chừng vài trăm mét. Sebastian ngồi bệt xuống, lung tựa vào thành tàu bằng gỗ. Anh duỗi dài hai chân ra, nhấp một ngụm rượu rồi cất chiếc khóa vào túi xách của Nikki. Trong đó có một gói thuốc lá. Anh châm một điếu rồi tranh thủ lục ví vợ cũ. Đúng như dự đoán, anh rút ra một tấm ảnh mới chụp hai đứa con của họ. Camille và Jeremy là cặp sinh đôi khác trứng. Dù được sinh ra cùng một ngày nhưng khó có thể thấy được nét giống nhau giữa chúng khi Camille đúng là tông nhà Larabee còn Jeremy lại đặc nhà Nikovski. Thật lạ lùng. Camille không giống mẹ chút nào. Cô bé xinh xắn, nhưng với khuôn mặt tròn trịa hơn, hai lúm đồng tiền, mũi hếch cùng đường nét dịu dàng. Còn Jeremy, thằng bé lại thừa hưởng vẻ đẹp Ba Lan từ Nikki. Một vẻ đẹp lạnh lùng, như không thể chạm tới, dáng người dong dỏng, tóc cứng, mũi khá thẳng, mắt rất sáng. Càng lớn, thằng bé càng giống mẹ, và điều đó khiến Sebastian thấy khó chịu.

Anh vừa rít một hơi thuốc dài vừa nhớ lại điều mà Nikki đã trách móc anh hai tiếng trước. Anh đã ích kỷ coi trọng tự ái của bản thân hơn là tình yêu dành cho con cái ư? Chắc chắn mọi chuyện không đến mức gay gắt như cô nói, nhưng ý cô cũng không hẳn sai.

Suốt những năm qua, bị ám ảnh bởi những vết thương lòng của riêng mình, anh đã cố trả thù Nikki một cách vô thức. Bị lòng thù hận dẫn dắt, anh những muốn hành hạ cô, bắt cô phải trả giá cho sự rạn nứt rồi tan vỡ giữa họ. Nhưng điều độc ác nhất anh từng làm lại là với hai đứa con. Ý muốn chia rẽ dứt khoát cách giáo dục hai đứa trẻ sinh đôi thật là phi lý và vô trách nhiệm. Đúng là bây giờ có lẽ anh không trông thấy điều đó, nhưng cho đến tận khi ấy, anh vẫn luôn tìm ra được những lý do thật hợp lý để biện minh cho cách cư xử của mình.

Dưới ánh trăng, Sebastian thin chằm chằm vào bức ảnh con trai. Mối quan hệ gữa cha con anh thật mờ nhạt, xa cách, bị vô số những điều hiểu lầm làm cho xói mòn. Đương nhiên anh rất yêu nó, nhưng là bằng thứ tình yêu hơi mơ hồ, thiếu đi sự ấm áp và đồng cảm.

Điều đó phần lớn là lỗi ở anh. Anh chưa bao giờ nhìn con trai bằng ánh mắt hân hoan. Anh không ngừng so sánh thằng bé với Camille và cuộc so tài đó không bao giờ có lợi cho Jeremy. Anh nhanh chóng nhìn nhận nó với vẻ ngờ vực. Hơi giống một vụ kiện đã cầm chắc thất bại. Ngay cả khi điều đó không có nghĩa lý gì, anh vẫn hình dung ra rằng Jeremy sẽ chỉ khiến anh thất vọng vì mẹ nó, người mà nó giống vô cùng, đã khiến anh thất vọng trước đó.

Thời gian gần đây, khi hai cha con gặp nhau, họ chẳng chia sẻ được gì mấy. Sebastian thỉnh thoảng lại lôi thằng bé tới một cuộc triển lãm hoặc một buổi độc tấu violon, nhưng chỉ là để che đậy cho sự thiếu hứng thú của anh đối với những buổi đi chơi cùng con trai kỹ hơn. Điều này thật vô lý bởi anh thật sự không giành thời gian giúp thằng bé quan tâm đến nghệ thuật hay nhạc cổ điển.

Trong khi lục lọi phòng nó cùng Nikki, anh đã rất bất ngờ khi phát hiện thấy hàng kệ sách về nghệ thuật thứ bảy. Chắc chắn là vì sợ những lời cay độc của anh nên Jeremy chưa bao giờ nói với anh về mong ước được vào một trường điện ảnh, cũng như kế hoạch trở thành đạo diễn của nó. Đúng là anh không biết cách truyền niềm tin cho con trong nhữ lựa chọn của thằng bé…

Sebastian vừa uống nốt chai bia và nhìn ngắm cột Tháng Bảy trên quảng trường Bastille đang rực sáng phía xa trong màn đêm.

Liệu có còn kịp sửa chữa những vụng về và lỗi lầm của anh không? Còn kịp nói chuyện lại với con trai anh? Có thể, nhưng để làm được điều ấy, trước tiên phải tìm thấy thằng bé đã.

Anh châm một điếu thuốc nữa bằng mẩu thuốc cũ rồi quyết định không chờ đến ngày mai mới tìm kiếm hướng đi từ số điện thoại Ba Lan kia. Sau khi chắc chắn Nikki đã ngủ, anh lấy ổ khóa bỏ vào túi mình.

Rồi anh nhảy lên kè sông, rời khỏi con tàu.
 
CHÚ Ý !!!
Các đạo hữu nhớ thêm TÊN CHƯƠNG và THỨ TỰ CHƯƠNG ở ô phía trên phần trả lời nhanh. Như vậy hệ thống mới tạo được DANH SÁCH CHƯƠNG.
Cập nhật chức năng ĐĂNG TRUYỆN và THÊM CHƯƠNG MỚI trên web Diễn Đàn Truyện tại https://truyen.diendantruyen.com
Top Bottom