Cập nhật mới

Dịch Full Tiếng Cười Trong Bóng Tối

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,359
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
[Diendantruyen.Com] Tiếng Cười Trong Bóng Tối

Tiếng Cười Trong Bóng Tối
Tác giả: Vladimir Nabokov
Tình trạng: Đã hoàn thành




Thể loại: Kinh điển

Tiếng cười trong bóng tối xoay quanh chuyện của một nhà phê bình nghệ thuật đứng tuổi, giàu có tên là Bruno Krechmar. Ông là hình mẫu thành đạt mà nhiều người trong xã hội hướng tới. Nhưng trong những con người mẫu mực dường như luôn ẩn chứa những bế tắc. Chuyện ngoại tình của nhà phê bình là tâm điểm của tiểu thuyết Tiếng cười trong bóng tối. Bruno trở thành nạn nhân của những đam mê bị kìm nén do chính mình tạo ra. Để rồi, ông rơi vào bẫy của cặp tình nhân trẻ tuổi. Họ biến ông thành diễn viên chính trong vở hài kịch mà họ vừa là đạo diễn vừa là khán giả. Cuộc đời Bruno kết thúc trong thảm họa đúng như tác giả đã báo trước ngay đầu tác phẩm.

Ngoại tình vốn là câu chuyện đầy rẫy trong đời thường, và là đề tài quen thuộc trong văn chương. Nhưng Tiếng cười trong bóng tối đã kể một câu chuyện ngoại tình với tất cả chiều sâu nội tâm phức tạp, đầy màu sắc trong diễn biến được xem là phổ biến đến tẻ nhạt. Bằng cách sử dụng ngôn ngữ bậc thầy, tác giả đẩy giác quan người đọc đến cấp độ nhạy cảm nhất, đưa tới một trải nghiệm về nỗi thống khổ hài hước của con người.

Nếu như Lolita được tác giả Vladimir Nabokov dịch từ tiếng Anh sang tiếng Nga, thì Tiếng cười trong bóng tối lại được dịch từ tiếng Nga sang tiếng Anh. Trong quá trình chuyển ngữ, tác giả Nabokov đã nảy sinh ra nhiều tình tiết mới cho tác phẩm, và ông đã viết lại thành một Tiếng cười trong bóng tối hoàn toàn mới bằng tiếng Anh.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,359
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 1


Ngày xửa ngày xưa ở Berlin của Đức có một người đàn ông tên là Albinus. Ông ta giàu, hạnh phúc, đáng kính; một ngày nọ ông bỏ vợ để theo một người tình trẻ tuổi; ông ta yêu; không được yêu; và cuộc đời ông kết thúc trong thảm họa.

Đó là toàn bộ câu chuyện và đáng ra chúng ta đã có thể dừng tại đây nếu không phải vì việc kể chuyện này sẽ mang lại lợi ích và thú vui; và dù có một tấm bia mộ viền rêu có rộng chỗ để khắc lại bản tóm tắt cuộc đời một người đàn ông, người ta luôn mong được biết chi tiết.

Chuyện là vào một đêm nọ, Albinus có một ý tưởng tuyệt vời. Đúng ra, ý tưởng này không thật sự là của ông, bởi vì nó được gợi ý từ một câu viết của Conrad (không phải ông Conrad nổi tiếng người Ba Lan[1] mà là Udo Conrad, người viết cuốn Hồi ký kẻ hay quên và một cuốn khác về nhà ảo thuật giả tự làm mình biến mất bí ẩn trong buổi biểu diễn giã biệt.) Bất kể thế nào, ông đã biến ý tưởng đó thành của mình bằng cách yêu thích nó, chơi đùa với nó, để nó ngày càng chiếm nhiều cảm tình nơi ông, và chừng ấy là đủ để hợp pháp hóa một tài sản trong thành quốc tự do của tâm trí. Là một nhà phê bình nghệ thuật và chuyên gia về hội họa, ông thường thích thú với việc gắn mác danh họa này và danh họa kia với những phong cảnh và khuôn mặt mà ông, tức Albinus, gặp trong đời thực: điều này đã biến cuộc sống của ông thành một phòng trưng bày tinh tế gồm những bức tranh giả hấp dẫn, bức nào cũng vậy. Rồi, một đêm, khi ông đang cho bộ óc có học của mình nghỉ ngơi và viết một bài tiểu luận về nghệ thuật điện ảnh (không có gì đặc sắc cho lắm, ông không có tài năng gì xuất chúng mà), thì ý tưởng tuyệt vời đó nảy ra trong đầu ông.

[1. Chỉ Joseph Conrad, nhà văn Anh gốc Ba Lan nổi tiếng.]

Ý tưởng này liên quan đến thể loại phim hoạt hình màu vừa mới xuất hiện vào thời kỳ đó. Thật hấp dẫn làm sao, ông nghĩ, nếu người ta có thể sử dụng phương pháp này để tái tạo hoàn hảo trên màn hình một bức hình nổi tiếng nào đó, hay nhất là một bức thuộc trường phái Hà Lan, trong màu sắc rực rỡ và thổi vào đó sự sống - những chuyển động, cử chỉ được triển khai sinh động, hài hòa trọn vẹn với trạng thái tĩnh của chúng trong bức tranh: ví dụ như, một quán rượu với những hình người nhỏ bé đang say sưa uống quanh những chiếc bàn gỗ, và hình ảnh thoáng qua của một mảnh sân ngập nắng với đàn ngựa thắng yên - tất cả bỗng trở thành một cách sống khi người đàn ông nhỏ bé mặc áo đỏ nọ đặt chiếc cốc vại xuống, cô gái đang bê chiếc khay kia vặn mình để thoát ra, và một con gà mái bắt đầu mổ lên ngưỡng cửa. Cảnh đó có thể tiếp tục bằng cách đưa những nhân vật nhỏ bé ra ngoài đời, đi xuyên qua một bức phong cảnh của chính họa sĩ ấy; cảnh đó có thể có bầu trời màu xám với con kênh đóng băng, và những người đi những đôi giày trượt lạ mắt đúng ở thời đó, đang trượt thành những đường lượn tròn kiểu xưa gợi lên bởi bức tranh; hay cảnh đó có thể có một con đường ẩm ướt trong sương mù và một cặp hai người cưỡi ngựa - kết thúc là quán rượu lúc trước, rồi từng bước từng bước các nhân vật và ánh sáng được khôi phục theo đúng trình tự và được ổn định đâu vào đó, đại khái là mọi thứ cuối cùng quay về như trong bức tranh ban đầu. Sau đó, ta cũng có thể thử dùng tranh của các họa sĩ Ý: mảng màu xanh hình nón của một ngọn đồi ở phía xa, một con đường mòn màu trắng lượn vòng quanh, dòng người hành hương nhỏ bé đang uốn khúc đi lên. Và thậm chí ta có thể dùng cả tranh theo chủ đề tôn giáo, nhưng chỉ những bức với nhân vật thu nhỏ. Và người họa sĩ làm phim không những phải hiểu biết sâu về nhà danh họa và thời đại của ông, mà còn phải đủ tài năng để tránh mọi tương phản giữa chuyển động mới thêm vào và chuyển động được nhà danh họa thời xưa làm ngưng lại - để làm việc đó họa sĩ kia phải lấy cảm hứng từ bức họa - ờ, việc này cũng khả thi đấy. Còn màu sắc... màu sắc thì nhất thiết phải thật tinh tế hơn màu sắc trong phim hoạt hình. Câu chuyện được kể sẽ thú vị biết bao, câu chuyện về trí tưởng tượng của một nhà danh họa, một chuyến du hành ngây ngất của đôi mắt và cây cọ vẽ, một thế giới toát lên phong cách của nhà danh họa và tràn ngập những gam màu do chính ông tạo nên!

Một thời gian sau, Albinus có dịp nói đến chuyện đó với một nhà sản xuất phim, nhưng ông này không một chút hào hứng - ông ta nói rằng ý tưởng này sẽ cần đến một công việc tinh xảo đòi hỏi những cải tiến mới trong phương pháp làm phim hoạt hình, và sẽ tốn một núi tiền; ông ta nói rằng vì thiết kế quá công phu, độ dài hợp lý của một bộ phim như thế sẽ không thể nhiều hơn vài phút; và kể cả nếu được chiếu, bộ phim cũng sẽ làm đa số khán giá chán đến tận cổ và ai cũng sẽ thấy thất vọng.

Rồi Albinus lại bàn chuyện đó với một nhà điện ảnh khác, và ông ta cũng gạt bỏ đề xuất này. "Chúng ta có thể bắt đầu bằng một bộ phim khá đơn giản," Albinus nói, "một cửa sổ nhà thờ kính màu bỗng trở nên sống động, một huy hiệu chuyển sang hoạt hình, một hoặc hai ông thánh nho nhỏ."

"Tôi e rằng đây không phải là ý tưởng hay," ông ta đáp. "Chúng tôi không thể liều làm một bộ phim quá cầu kỳ."

Nhưng Albinus vẫn ôm giữ ý tưởng của mình. Cuối cùng thì ông nghe nói đến một anh chàng thông minh, Axel Rex, một tay cực giỏi vẽ những bức tranh quái dị - trên thực tế tay này từng làm bộ phim dựa trên một câu chuyện cổ tích Ba Tư làm giới trí thức ở Paris thích thú và cũng đồng thời làm phá sản người bỏ vốn cho vụ kinh doanh mạo hiểm này. Vì thế Albinus cố tìm gặp hắn, nhưng được biết hắn vừa trở lại Mỹ để vẽ tranh biếm họa cho một tờ báo ảnh. Một thời gian sau, Albinus tìm được cách liên lạc với hắn và Rex có vẻ quan tâm.

Vào một ngày tháng Ba, Albinus nhận được một lá thư dài của hắn, nhưng lá thư lại đến vào đúng lúc chuyện đời tư - rất riêng tư - của ông đang trải qua một cơn khủng hoảng đột ngột, cho nên ý tưởng tuyệt vời đó (mà lẽ ra đã có thể sống dai dẳng và biết đâu sẽ tìm được một bức tường để bám vào rồi đơm hoa kết trái) vừa héo khô rồi teo quắt lại một cách lạ lùng trong tuần trước đó.

Rex viết rằng việc tiếp tục cố thu hút dàn Hollywood chỉ là vô vọng thôi, rồi hắn thản nhiên đề xuất rằng Albinus là người có của cải, thì nên tự bỏ vốn để thực hiện ý tưởng của mình; trong trường hợp đó, hắn, tức là Rex, sẽ chấp nhận một khoản tiền công như thế như thế (một số tiền nghe mà giật mình) mà một nửa phải trả trước, để thiết kế một bộ phim, ví dụ lấy cảm hứng từ bức Thành ngữ của Brueghel[2] chẳng hạn, hay bất cứ thứ gì khác mà Albinus muốn hắn dựng thành hình ảnh động.

[2. Pieter Brueghel (1525-1569): họa sĩ và nhà đồ họa in ấn người Hà Lan. Bức Thành ngữ Hà Lan, còn gọi là Áo choàng xanh, là một bức tranh lớn minh họa nghĩa đen của nhiều thành ngữ, trong đó trung tâm là một người đàn bà khoác cho chồng mình chiếc áo choàng xanh, có nghĩa là cắm sừng chồng.]

"Nếu là anh, tôi sẽ thử mạo hiểm. Các phim thông thường khác tốn tiền hơn... Ý tôi nói những bộ phim về chiến tranh có các tòa nhà sụp đổ," ông em vợ của Albinus tên Paul, một người béo mập và tốt bụng, với hai cái bút chì và hai cái bút máy gài ở túi áo ngực, nhận xét.

"Ờ, với những bộ phim như thế người ta sẽ thu hồi được vốn, còn tôi thì không."

"Hình như tôi nhớ," Paul nói trong khi rít một hơi xì gà (họ sắp kết thúc bữa ăn tối), "anh dự định cúng vào đó một món tiền đáng kể - không ít hơn số tiền công hắn đòi là bao. Thế thì tại sao, vấn đề là gì vậy? Trông anh không còn vẻ hăng hái như cách đây không lâu. Anh không định bỏ cuộc đấy chứ?"

"Hừm, tôi cũng chẳng biết nữa. Cái khía cạnh thực dụng này làm tôi hơi khó chịu; chứ nếu không, tôi vẫn thích ý tưởng của mình."

"Ý tưởng gì vậy?" Elisabeth hỏi han.

Đó là một trong những thói quen vặt của bà - hỏi về chuyện đã được bàn bạc thấu đáo khi có mặt bà. Đó hoàn toàn là do bà bồn chồn, chứ không phải do bà chậm hiểu hay thiếu tập trung; và quá nửa số lần, ngay khi đang hỏi, đang lỡ buột ra câu nói không dừng được nữa, tự bà vẫn nhận ra mình luôn biết câu trả lời. Chồng bà biết rõ thói quen vặt này mà không lấy làm bực mình, ngược lại, ông thấy cảm động và thích thú. Lúc thường, hẳn ông sẽ bình thản tiếp tục câu chuyện bởi ông biết chắc (còn chờ đợi nữa là khác) rằng bà sẽ đưa ra được lời giải đáp cho câu hỏi của mình. Nhưng vào cái ngày tháng Ba đó, Albinus đang trong cơn bực dọc, bối rối, khổ sở, đến độ ông không còn giữ được bình tĩnh nữa.

"Mới từ cung trăng rơi xuống à?" ông cộc cằn hỏi, và vợ ông liếc nhìn móng tay mình rồi nói xoa dịu:

"Dạ vâng, em nhớ ra rồi."

Đoạn bà quay sang cô bé Irma tám tuổi đang ngấu nghiến một đĩa đầy kem sô cô la mà la lên:

"Đừng ăn nhanh như thế, con yêu, mẹ xin đấy, đừng ăn nhanh như thế."

"Tôi cho rằng," Paul lên tiếng trong khi rít điếu xì gà, "mọi phát minh mới..."

Bị cuốn trong dòng cảm xúc lạ lùng, Albinus nghĩ: "Mình quan tâm đến cái tay Rex này làm cái quái gì nhỉ, cả cái cuộc đàm luận ngớ ngẩn này, cả cái món kem sô cô la này...? Mình đang phát điên lên đây mà chẳng ai biết gì. Còn mình thì không dứt ra được, có cố cũng chỉ vô vọng, và ngày mai mình sẽ lại đi đến đó ngồi như một gã điên trong bóng tối om... Không thể tin nổi."

Điều đó chắc chắn là không thể tin nổi - càng không thể tin nổi khi mà trong suốt chín năm làm chồng, ông luôn kiềm chế được bản thân, chưa bao giờ, chưa bao giờ... "Thực ra," ông nghĩ, "mình phải nói với Elisabeth về chuyện đó; hay là chỉ cần đi đâu với cô ấy một thời gian ngắn; hay là đi khám bác sĩ tâm lý; nếu không thì..."

Không, người ta không thể rút súng bắn chết một cô gái họ thậm chí còn không quen, đơn thuần chỉ vì bị cô nàng cuốn hút.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,359
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 2


Albinus chưa từng gặp nhiều may mắn trong tình trường. Mặc dù có ngoại hình điển trai kiểu gia giáo kín đáo, không hiểu sao ông không thu được lợi ích thiết thực nào từ sức hấp dẫn phụ nữ của mình - bởi vì rõ ràng có cái gì đó rất quyến rũ trong nụ cười dễ thương và trong đôi mắt xanh nhạt hơi lồi ra mỗi khi ông suy nghĩ căng thẳng (và do đầu óc ông hơi chậm chạp nên điều này xảy ra ngoài ý muốn khá thường xuyên). Ông là người nói chuyện có duyên, chỉ có đôi mắt ngập ngừng khi diễn đạt, ưu điểm lớn nhất của tật nói lắp vốn mang đến nét duyên dáng tươi mát cho cả câu nói cũ rích nhạt nhẽo nhất. Điểm cuối nhưng không kém quan trọng (vì ông sống trong một xã hội Đức trưởng giả) là ông được cha mình để lại một tài sản đang dùng để đầu tư an toàn; ấy thế mà, sự lãng mạn lần nào đi ngang qua đời ông cũng đều tìm được cách trở thành lãng xẹt.

Thời sinh viên ông có một chuyện tình chán ngắt, vào loại nặng ký, với một người phụ nữ đứng tuổi u buồn, về sau trong chiến tranh, bà này gửi ra mặt trận cho ông những đôi tất màu tím, những chiếc áo len dặm người và những lá thư thắm thiết dài lê thê, được viết nhanh như chớp trên giấy da với kiểu chữ nguệch ngoạc khó đọc. Tiếp đó còn có vợ một vị giáo sư mà ông gặp bên bờ sông Rhine; bà ta xinh đẹp nếu chỉ nhìn từ một góc và dưới một ánh sáng nhất định, nhưng lạnh nhạt và bẽn lẽn đến độ ông nhanh chóng bỏ cuộc. Cuối cùng, ở Berlin, ngay trước đám cưới của mình, ông dính vào một người phụ nữ gầy gò buồn tẻ với khuôn mặt thô kệch, bà hay đến mỗi đêm thứ Bảy và có thói quen kể tỉ mỉ về toàn bộ quá khứ của mình, nói đi nói lại về cái chủ đề đáng nguyền rủa đó, thở dài mệt mỏi trong vòng tay ông, và luôn kết thúc bằng câu tiếng Pháp duy nhất bà biết: "C'est la vie."[1] Những lầm lỡ ngu ngốc, những trải nghiệm dò dẫm, những nỗi thất vọng; vị Thần Tình Ái bảo hộ cho ông chắc hẳn vụng về, nhát gan và không hề có trí tưởng tượng. Bên cạnh nhưng mối tình nhạt nhẽo này có hàng trăm cô gái mà ông chỉ mơ đến chứ không hề làm quen được; họ lướt qua đời ông, để lại cảm giác mất mát tuyệt vọng kéo dài một hai ngày, chính cái cảm giác làm cho cái đẹp được là cái đẹp: một cái cây đơn độc xa xăm trên nền trời vàng ánh kim; những gợn sóng ánh sáng hắt lên mặt cong cong phía trong của một cây cầu; một điều gì đó không thể nắm bắt nổi.

[1. Tiếng Pháp, nghĩa là "Đời là thế".]

Ông lấy vợ, nhưng dù ông yêu Elisabeth theo cách của mình, bà cũng không đem đến được cho ông những rung cảm ông đang ngày càng mòn mỏi vì khao khát. Bà là con gái một ông chủ nhà hát nổi tiếng, một thiếu nữ tóc vàng mảnh mai yểu điệu, một đôi mắt nhợt màu và những mụn li li tội nghiệp ngay trên cái mũi nhỏ nhắn mà các nữ văn sĩ Anh sẽ tả là "hếch"[2] (hãy lưu ý chữ "e" thứ hai thêm vào để tránh nhầm lẫn). Làn da của bà mỏng đến độ chỉ cần chạm nhẹ cũng để lại một vết đỏ lâu mới nhạt.

[2. Nguyên tắc retrousée, từ gốc tiếng Pháp. Chữ "e" thứ hai ở đây trong tiếng Pháp để chỉ tính từ giống cái.]

Ông lấy bà bởi vì mọi chuyện diễn ra như thế. Một chuyến đi chơi trên núi cùng bà, thêm vào cậu em trai to béo và bà chị họ đặc biệt cường tráng mà ơn Chúa, cuối cùng cũng bị bong gân mắt cá chân ở Pontresina, là sự kiện chịu trách nhiệm chính về cuộc hôn nhân của ông bà. Bà có nét gì đó thật xinh xắn và nhẹ nhõm, bà còn có giọng cười thật nhân hậu. Họ làm đám cưới ở Munich để tránh cuộc tấn công của đám bạn bè quen ở Berlin. Những cây hạt dẻ đang nở rộ. Một cái hộp đựng thuốc lá vốn được coi như của quý bị mất trong khu vườn bỏ hoang. Một ông bồi bàn ở khách sạn nói được bảy ngôn ngữ. Elisabeth lộ ra là có một vết sẹo nhỏ mềm mại, di chứng của lần viêm ruột thừa.

Bà là người hay quyến luyến, nhu mì và dịu dàng. Tình yêu của bà phảng phất nét của loài hoa huệ; nhưng đôi lúc nó bùng cháy và khi đó Albinus mê muội mà nghĩ rằng mình không cần thêm một bạn tình nào khác.

Lúc có thai, đôi mắt bà mang một vẻ hài lòng trống rỗng, như thể bà đang trầm tư suy ngẫm về thế giới bên trong mới mẻ của mình; dáng đi ơ hờ của bà chuyển thành lạch bạch đầy cẩn trọng và bà ngấu nghiến những nắm tuyết bốc vội lên khi không ai nhìn. Albinus cố chăm sóc bà hết mình; ông dẫn bà đi dạo thật lâu và chậm rãi; ông trông nom sao cho bà phải đi ngủ sớm và chú ý không để đồ đạc có góc nhọn trong nhà làm bà đau khi đi lại; nhưng khi đêm đến ông lại mơ thấy một cô gái trẻ nằm dài trên bãi biển nóng bỏng hiu quạnh, và trong giấc mơ đó một nỗi sợ bị vợ bắt quả tang bất thình lình choán lấy ông. Buổi sáng Elisabeth ngắm thân hình đang phình lên của mình trước tủ gương và nở nụ cười hài lòng bí ẩn. Rồi một hôm bà được chở đến nhà hộ sinh và Albinus sống đơn độc trong ba tuần. Ông chẳng biết làm gì một mình cả; ông uống khá nhiều rượu brandy và bị hai ý nghĩ đen tối dằn vặt, mỗi ý nghĩ đen tối theo một kiểu riêng: một là vợ ông có thể chết, hai là, giá mà can đảm hơn đôi chút, ông đã có thể kiếm được một cô gái thân thiện nào đem về phòng ngủ trống trải của mình.

Đứa bé đó rồi có chịu ra đời không đây? Albinus dạo lên dạo xuống dọc hành lang dài được quét vôi và láng men trắng xóa, có cái cây cọ trông như một cơn ác mộng đặt trên đỉnh cầu thang; ông căm ghét nó; ông căm ghét cái sắc trắng tuyệt vọng của nơi đó và những cô y tá má đỏ, đầu gắn cánh trắng, rì rầm nói chuyện và lúc nào cũng tìm cách đuổi ông đi. Cuối cùng thì bác sĩ phụ mổ cũng ló ra và nói bằng giọng rầu rĩ: "Xong rồi, mọi việc xong rồi." Albinus thấy trước mắt mình rơi xuống một màn mưa bụi đen sẫm như ánh sáng nhập nhòe của các bộ phim rất cổ (1910, một dòng người đưa tang gấp gáp đứt khúc với những đôi chân bước quá nhanh[3]). Ông lao vào phòng bệnh nhân, Elisabeth vừa hạnh phúc cho ra đời một bé gái.

[3. Đoạn này tác giả liên hệ đến đám ma của đại văn hào người Nga Lev Tonstoy.]

Đứa bé ban đầu đỏ và nhăn nhúm như một quả bóng đồ chơi bị xẹp. Nhưng rồi nhanh chóng, da mặt cô bé phẳng ra, và sau một năm thì cô bé bắt đầu nói bi bô. Bây giờ cô bé tám tuổi và bớt lém đi nhiều, do thừa hưởng tính rụt rè của mẹ. Nét tươi vui của cô bé cũng giống mẹ mình, một nét vui tươi kín đáo dị thường. Nó đơn thuần là niềm vui thích lặng lẽ về cuộc sống của bản thân, thoáng điểm thêm vẻ ngạc nhiên hài hước về việc mình đang sống thật - vâng, về căn bản nó là thế đấy: một nét tươi vui của người trần.

Và trong suốt những năm đó, giữa hai luồng cảm xúc làm ông rất đỗi rối bời, Albinus vẫn luôn chung thủy. Ông cảm thấy mình yêu vợ chân thành trìu mến - quả thực cũng nhiều như ông có thể yêu một người đồng loại nào; và ông hoàn toàn thẳng thắn với bà về mọi việc, trừ cái niềm khao khát thầm kín điên rồ đó, cái giấc mơ đó, cái nỗi ham muốn đang đốt thủng đời ông. Bà đọc hết mọi lá thư ông viết đi hay nhận được, muốn biết mọi chi tiết công việc của ông - đặc biệt là công việc liên quan đến xử lý các bức tranh cổ màu sắc tối tăm mà giữa những vết rạn nứt có thể phát hiện ra mông một con ngựa trắng hoặc một nụ cười ảm đạm. Họ trải qua cùng với nhau những chuyến du lịch nước ngoài rất thú vị và những buổi chiều đẹp êm ả ở nhà khi ông ngồi với bà ngoài ban công cao phía trên khu phố màu xanh có những đường dây điện và ống khói vẽ ngang chân trời hoàng hôn bằng mực tàu, và ông ngẫm nghĩ rằng mình thật sự hạnh phúc hơn so với mình đáng được hưởng.

Vào một buổi chiều (một tuần trước lần nói chuyện về Axel Rex), trên đường đến quán cà phê nơi ông có buổi hẹn công chuyện, ông nhận ra đồng hồ của mình đang chạy như ngựa (đây cũng không phải lần đầu tiên), vì thế ông còn cả tiếng đồng hồ, một món quà miễn phí cần phải sử dụng bằng cách này hay cách khác. Dĩ nhiên đi xuyên qua thành phố về lại nhà thì thật là ngớ ngẩn, nhưng ông cũng không cảm thấy muốn ngồi đó đợi: cảnh những người đàn ông khác bên người yêu luôn làm ông khó chịu. Ông đi lang thang vơ vẩn và đến trước một rạp chiếu bóng nhỏ, ánh đèn từ đó hắt lên lớp tuyết một vùng sáng màu đỏ thắm. Ông liếc nhìn tấm áp phích (vẽ một người đàn ông đang ngước nhìn lên một ô cửa sổ đóng khung lấy một đứa trẻ mặc áo ngủ), chần chừ, rồi mua vé vào xem.

Ông mới chỉ vừa bước vào khoảng tối mượt như nhung thì luồng sáng hình ô van của chiếc đèn pin đã quét ngay về phía ông (như vẫn thường diễn ra) rồi không kém phần nhanh chóng và nhẹ nhàng dẫn ông xuống lối đi thoai thoải tối mờ. Chính khi ánh đèn chiếu lên tấm vé đang cầm trong tay, Albinus nhìn thấy khuôn mặt nghiêng nghiêng của cô gái và rồi, khi bước sau cô, ông lờ mờ nhận ra thân hình rất thon thả và vẻ nhanh nhẹn cân đối trong dáng đi bình thản của cô. Lúc loạng quạng ngồi vào ghế, ông ngước lên nhìn cô và thấy lại tia sáng trong trẻo từ mắt cô mỗi khi tình cờ được ánh đèn chiếu tới và đường viền tan nhoe của gò má trông như nét bút của một danh họa vĩ địa trên nền đen đậm đặc. Chuyện này không có gì đặc biệt cho lắm cả: những chuyện như thế đã từng xảy ra với ông và ông biết chỉ có dại dột mới nghĩ ngợi về chuyện đó. Cô đi khỏi rồi mất hút trong bóng tối, và ông bỗng cảm thấy chán ngán và buồn bã. Ông vào xem lúc bộ phim đã sắp hết: một cô gái đang bước giật lùi giữa đống đồ đạc tung tóe, phía trước một gã đeo mặt nạ tay cầm súng. Chẳng có gì thú vị khi theo dõi những chuyện xảy ra trong phim mà không thể hiểu được vì chưa xem đoạn đầu.

Trong giờ nghỉ, ngay khi đèn được bật lên, ông nhìn thấy cô lần nữa: cô đứng ở lối ra, cạnh tấm rèm màu tím xấu đến hãi hùng mà cô vừa kéo sang một bên, và dòng người đi ra tràn qua cô. Một tay cô đút trong túi chiếc tạp dề ngắn có thêu, chiếc váy màu đen ôm rất sát hai tay và ngực cô. Ông gần như khiếp đảm chăm chú nhìn khuôn mặt cô. Đó là một khuôn mặt trắng xanh, hờn dỗi, đẹp đến nhức nhối. Ông đoán cô khoảng mười tám tuổi.

Rồi khi phòng chiếu hầu như không còn ai nữa và dòng khán giả kế tiếp bắt đầu lan ngang ra, dọc theo các hàng ghế, cô đi qua đi lại, vài lần đến khá gần ông, nhưng ông quay mặt đi vì cảm thấy đau đớn khi nhìn và vì ông không thể không nghĩ tới chuyện biết bao lần cái đẹp hay những gì ông gọi là cái đẹp - đã đi ngang qua ông rồi tan biến mất.

Ông ngồi trong bóng tối thêm nửa tiếng nữa, đôi mắt lồi dán lên màn hình. Rồi ông đứng dậy bước ra ngoài. Cô kéo rèm sang một bên cho ông, làm những chiếc vòng gỗ khẽ kêu lách cách.

"Ôi, nhưng mình sẽ nhìn thêm lần nữa," Albinus đau khổ nghĩ.

Ông thấy đôi môi cô dường như hơi chúm lại. Cô thả tấm rèm xuống.

Albinus giẫm phải vũng nước đỏ như máu; tuyết đang tan, màn đêm ẩm ướt, mọi sắc màu không phai của đèn đường đều chảy tan ra. "Argus"[4] - tên này cho rạp chiếu bóng thật hay.

[4. Argus là một nhân vật có trăm mắt trong thần thoại Hy Lạp.]

Ba ngày sau thì ông không thể lờ đi những ký ức về cô được nữa. Ông cảm thấy phấn khích một cách lố bịch khi bước vào chỗ đó lần nữa, cũng lại giữa chừng một bộ phim nào đó. Mọi thứ lại diễn ra đúng như lần đầu: ánh đèn pin quét qua, đôi mắt dài giống trong tranh của Luini[5], bước đi nhanh nhẹn trong bóng tối, cử động yêu kiều của cánh tay trong lớp vải đen khi cô lách cách kéo rèm sang một bên. "Bất cứ người đàn ông bình thường nào cũng biết cần làm gì," Albinus nghĩ. Một chiếc ô tô đang ngoằn ngoèo lao xuống con đường trơn có những chỗ ngoặt khuỷu tay giữa một bên là vách đá một bên là vực thẳm.

[5. Bernardino Luini là một danh họa người Ý.]

Khi ra về, ông cố tìm ánh mắt cô, nhưng không được.

Bên ngoài, mưa không ngừng trút xuống và vỉa hè sáng loáng một màu đỏ thẫm.

Giá ông không đến đó lần thứ hai, ông hẳn đã có thể quên cái lần phiêu lưu chưa thành đó, nhưng giờ thì đã quá muộn. Ông lại đến đó lần thứ ba, kiên quyết là sẽ mỉm cười với cô - và cái liếc nhìn đưa tình của ông hẳn sẽ tuyệt vọng biết bao, nếu ông làm được. Cuối cùng thì tim ông đập quá mạnh đến nỗi ông lỡ mất dịp đó.

Ngày hôm sau Paul đến ăn tối, họ bàn về chuyện làm ăn với Rex, bé Irma ăn ngấu nghiến món kem sô cô la và Elisabeth hỏi những câu quen thuộc.

"Mới từ cung trăng rơi xuống à?" ông hỏi lại, và rồi cố gỡ gạc cho sự ác ý của mình bằng nụ cười gượng gạo muộn màng.

Sau bữa tối ông ngồi cạnh vợ bên chiếc xô pha rộng, phủ lên bà những chiếc hôn nhanh chóng trong lúc bà đang ngắm váy dạ hội và đồ trang sức trong một tạp chí cho phụ nữ, và ông ngơ ngẩn nghĩ thầm:

"Quỷ tha ma bắt, mình đang hạnh phúc, mình cần cái gì hơn nữa nào? Cái loại người lả lướt trong bóng tối... Muốn bóp nghiền cái cổ xinh đẹp của cô ta. Hừm, đằng nào thì cô ta cũng đã chết rồi, vì mình sẽ không đến đó nữa."
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,359
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 3


Cô tên là Margot Peters. Cha cô làm nghề gác cổng và từng bị sang chấn mạnh trong Thế chiến: mái đầu muối tiêu của ông gật gật liên hồi như để không ngừng khẳng định nỗi oan ức và thống khổ, và mọi khiêu khích dù nhỏ nhất cũng làm ông rơi vào trạng thái khích động dữ dội. Mẹ cô còn khá trẻ nhưng cũng đã bị đời làm cho bầm giập - đó là một phụ nữ thô thiển và nhẫn tâm, lòng bàn tay đỏ của bà là nguồn dồi dào vô hạn những cú đòn. Đầu bà thường được cuốn trong chiếc khăn vuông, để tóc không dính bụi khi làm việc, nhưng sau mỗi buổi tổng vệ sinh ngày thứ Bảy, thực hiện chủ yếu nhờ chiếc máy hút bụi khôn khéo cắm vào thang máy, bà diện quần áo đẹp rồi dạo quanh thăm hỏi. Bà không được những người thuê nhà thích vì thái độ xấc xược và cung cách ác ý khi bà yêu cầu mọi người chùi chân vào thảm. Cái Cầu thang là thần tượng chính của đời bà - không phải như biểu tượng của sự thăng hoa vẻ vang, mà như một vật để lau chùi đẹp đẽ bóng loáng, khiến cho cơn ác mộng kinh hoàng nhất của bà (sau suất ăn chất quá tay khoai tây và dưa bắp cải) là một đợt cầu thang những bậc trắng muốt hằn rõ vết giày đen bẩn, trước hết bên phải rồi bên trái, rồi lại bên phải và cứ tiếp thế cho đến tận chiếu nghỉ tầng cuối. Một người đàn bà tội nghiệp, không phải là thần tượng để nhạo báng.

Otto, anh trai Margot, hơn cô ba tuổi. Anh ta làm việc ở một nhà máy sản xuất xe đạp, căm ghét thứ chủ nghĩa cộng hòa nhượng bộ của cha mình, thích bàn chuyện chính trị trong quán bia cạnh nhà và đấm tay xuống bàn mà tuyên bố: "Điều đầu tiên con người cần có là cái dạ dày lèn chặt." Đó là nguyên tắc kim chỉ nam của anh ta - một nguyên tắc cũng khá hợp lý.

Khi nhỏ Margot có đi học, và ở trường cô ít bị véo tai hơn ở nhà. Động tác hay gặp nhất của một chú mèo con là cú nhảy nhẹ êm ái, đến bất chợt thành chuỗi; động tác của cô là thình lình giơ nhanh khuỷu tay trái lên che mặt. Dù vậy, cô vẫn lớn lên thành một cô gái thông minh và đầy nhiệt huyết. Khi mới tám tuổi, cô hăng hái tham dự các trận đá bóng đầy trò la hét và cào xé nhau mà bọn học trò nam chơi ngay giữa lòng đường với quả bóng cao su to bằng quả cam. Khi mười tuổi cô tập lái chiếc xe đạp của anh trai mình. Hai tay để trần, bím tóc đen bay bay, cô mở hết tốc lực xe đạp lên xuống vỉa hè; rồi chống một chân đăm chiêu dừng lại bên lề đường. Tới tuổi mười hai cô ít huyên náo hơn. Khi này cô không thích gì hơn việc dừng ở cửa thì thầm tán chuyện với con gái ông bán than củi, hai cô nhận xét về những người đàn bà hay ghé thăm một trong những người thuê nhà và bàn luận về kiểu mũ của khách qua đường. Một lần cô tìm thấy trên cầu thang một chiếc túi cũ sờn bên trong có một bánh xà phòng hạnh nhân nhỏ còn dính sợi lông con mảnh, và cả nửa tá ảnh kỳ quặc. Một lần khác, cậu bé tóc đỏ vốn hay ngáng chân cô trong giờ chơi hôn vào gáy cô. Rồi một đêm nọ cô lên cơn kích động và bị giội nước lạnh lên người, sau đó bị bồi thêm một trận đòn nhừ tử.

Một năm sau cô trở nên xinh xắn khác thường, cô mặc chiếc váy ngắn màu đỏ và mê điện ảnh điên cuồng. Sau này cô nhớ về đoạn đời đó của mình với một cảm giác ngột ngạt kỳ lạ: những buổi chiều sáng sủa, ấm áp, êm ả; tiếng các cửa hiệu cài then khi trời tối; cha cô giạng chân ngồi trên ghế ngoài cửa hút tẩu, đầu giật giật; mẹ cô đứng chống nạnh; bụi tử đinh hương ngả qua hàng rào, bà von Brock đi chợ về với những món đồ đựng trong chiếc túi lưới màu xanh lá cây; cô hầu Martha đứng chờ để qua đường với một chú chó săn và hai chú chó phốc lông cứng... Trời dần tối. Anh trai cô về nhà với một vài gã bạn lực lưỡng, họ vây tròn quanh cô, xô vào người cô và véo cánh tay trần của cô. Một gã trong số họ có đôi mắt giống diễn viên điện ảnh Veidt. Con phố, với tầng trên của các tòa nhà vẫn còn ngập trong ánh sáng màu vàng, đã dần trở nên khá yên ắng. Duy có bên kia đường hai người đàn ông hói đầu đang chơi bài trên ban công, và mỗi tiếng cười ha hả với tiếng họ quật quân bài đều nghe rõ rệt.

Khi sắp mười sáu tuổi, cô chơi thân với một cô bán hàng ở cửa hiệu tạp phẩm nhỏ góc phố. Em gái cô này đã kiếm sống khá dư dả bằng nghề làm người mẫu cho một họa sĩ. Bởi vậy Margot mơ ước trở thành người mẫu và sau đó thành ngôi sao màn bạc. Dường như sự chuyển tiếp đó đối với cô là vấn đề khá đơn giản: bầu trời đang ở đó, sẵn sàng chào đón ngôi sao của cô. Cũng vào khoảng thời gian đó, cô học khiêu vũ và thỉnh thoảng cùng cô bán hàng đi đến vũ trường "Thiên đường"; ở đó cô được đám đàn ông đứng tuổi mời mọc cực kỳ trắng trợn ngay giữa những tiếng loảng xoảng và rên rỉ của một ban nhạc jazz.

Một ngày nọ khi cô đứng ở góc phố, một gã thanh niên cưỡi xe mô tô màu đỏ bất ngờ đến gần mời cô lên xe đi một vòng, trước đó cô đã từng thấy hắn một hay hai lần. Mái tóc màu nâu vàng của hắn chải ngược về phía sau và chiếc sơ mi vẫn còn no gió căng phồng sau lưng hắn. Cô mỉm cười, leo lên ngồi phía sau hắn, chỉnh lại váy, và một giây tiếp đó, cô đã du hành trong tốc độ kinh hoàng với chiếc cà vạt của hắn bay tạt vào mặt. Hắn chở cô ra ngoài thành phố rồi dừng xe lại. Đó là một buổi chiều nắng, một đám muỗi nhỏ vằn đang không ngừng mạng vá không trung tại cùng một chỗ. Không gian rất yên tĩnh, sự yên tĩnh của những cây thông và cây thạch nam. Hắn xuống xe, và lúc ngồi cạnh cô bên bờ mương hắn nói với cô rằng năm ngoái hắn đi xuống đến tận Tây Ban Nha, cũng chỉ như thế này. Rồi hắn choàng tay quanh người cô, bắt đầu siết chặt và sờ soạng, hôn cô dữ dội đến độ chóng mặt. Cô quẫy người vùng ra và bật khóc. "Anh có thể hôn em," cô nức nở, "nhưng không phải như thế này. Em xin anh đấy." Gã trai trẻ nhún vai, lên xe nổ máy, chạy xe, rồ máy chồm lên, lái chệch sang lối khác rồi biến mất, để cô ngồi lại trên một cột mốc cây số. Cô đi bộ về nhà, Otto trước đó đã nhìn thấy cô đi, anh ta tương cho cô một cú đấm vào cổ và một cú đá điêu luyện đến độ làm cô ngã xuống chiếc máy khâu đến thâm cả người.

Mùa đông năm sau, em gái cô bán hàng giới thiệu Margot với bà Levandovsky, một phụ nữ đáng tuổi với dáng người cân đối và lối cư xử nhã nhặn, tuy có tì vết là cách nói chuyện ngọt như mía lùi và một vết bớt tím trên má to bằng cả bàn tay: bà ta thường giải thích vết đó là do mẹ bà bị khiếp đảm trong một vụ cháy khi mang thai bà. Margot dọn vào sống trong một căn phòng nhỏ dành cho người hầu ở căn hộ của bà, và cha mẹ cô mừng rỡ vì đã tống khứ được cô đi, thêm nữa họ cho rằng mọi nghề nghiệp đều được minh biện bằng số tiền nhờ nó mà kiếm được. May mắn là anh trai cô, người vẫn thích phát biểu với luận điệu dọa dẫm về việc bọn tư bản mua con gái nhà nghèo, lại vắng nhà một thời gian để đi làm ở Breslau.

Ban đầu Margot làm người mẫu trong lớp ở một trường nữ sinh, rồi sau đó trong một phòng vẽ đích thực nơi người vẽ không chỉ có phụ nữ mà cả đàn ông, hầu hết đều khá trẻ. Với mái tóc đen mượt cắt đẹp đẽ, cô ngồi trên một tấm thảm nhỏ, hoàn toàn khỏa thân, chân gập dưới thân mình, cô tì người lên cánh tay nổi gân xanh; tấm lưng mảnh dẻ (óng ánh lớp lông tơ giữa hai bờ vai xinh đẹp, một bên so lên đến gò má đỏ bừng) hơi cúi xuống phía trước làm ra vẻ mệt mỏi đăm chiêu; cô liếc xéo các sinh viên đang nhìn lên rồi nhìn xuống và nghe thấy tiếng rì rầm cùng tiếng bút chì sột soạt đang đánh bóng đường cong này đường cong kia. Trong nỗi buồn chán tột độ, cô thường chọn cậu sinh viên đẹp trai nhất và liếc anh chàng bằng đôi mắt đen ướt mỗi khi anh ta ngẩng lên, môi hé ra và trán chau lại. Cô chưa hề thành công trong việc khuấy động sự tập trung của anh ta, và điều này làm cô phật ý. Trước đó cô cứ hình dung một mình ngồi giữa không gian ngập ánh sáng, phơi mình trong bao cặp mắt; cô mơ tưởng việc đó chắc chắn rất vui thú. Nhưng hóa ra nó chỉ làm người cô mỏi nhừ, vậy thôi. Để tự giải khuây, cô trang điểm trước khi ngồi làm người mẫu, cô tô đôi môi khô nóng, vẽ đen hai hàng mi dù thực ra chúng đã khá đủ sẫm màu, thậm chí có lần cô còn bôi son lên núm vú của mình. Vì việc này mà cô bị cái bà Levandovsky mắng cho một trận.

Ngày tháng cứ thế trôi đi và Margot chỉ có một ý niệm rất mơ hồ về việc mình đang thật sự theo đuổi cái gì; tuy vậy cô vẫn luôn giữ viễn ảnh về bản thân trong lốt một minh tinh màn bạc mặc bộ áo lông thú tuyệt mỹ, được một người gác cổng khách sạn tuyệt mỹ dưới tán ô khổng lồ nâng tay đỡ xuống chiếc ô tô tuyệt mỹ. Cô vẫn còn đang băn khoăn tìm cách nhảy xuống từ tấm thảm phai màu trong phòng vẽ sang thế giới rực rỡ nạm kim cương dó, khi bà Levandovsky lần đầu nói đến một anh chàng tỉnh lẻ trẻ tuổi si tình.

"Không có bạn trai thì cháu không làm được việc gì đâu," bà tuyên bố với giọng đầy mãn nguyện trong lúc uống cà phê. "Cháu là một cô gái trẻ quá sôi nổi nên không thể không cần người bầu bạn, còn anh chàng trẻ tuổi khiêm nhường đó lại đang đi tìm một tâm hồn trong sáng giữa cái thành phố đồi bại này."

Bấy giờ Margot đang ôm trong lòng chú chó lạp xưởng lông vàng béo tròn của bà Levandovsky. Cô kéo hai cái tai mềm như lụa của con vật, gí sát hai chóp tai vào nhau trên cái đầu êm mượt của nó (nhìn từ phía trong hai cái tai đó trông như tờ giấy thấm màu hồng sẫm đã bị dùng nhiều), rồi cô trả lời mà không nhìn lên:

"Ồ, chưa cần đến chuyện đó đâu. Cháu mới mười sáu tuổi thôi mà, phải không ạ? Và làm thế để làm gì nào? Có đi đến đâu không? Cháu biết tỏng mấy anh chàng đó."

"Cháu thật là ngốc nghếch," bà Levandovsky từ tốn nói. "Cô không nói đến mấy tên đểu cáng mà cô nói đến một người hào hoa phóng khoáng, anh ta đang mơ về cháu đấy, kể từ lần nhìn thấy cháu ngoài phố."

"Một lão già tàn tật nào đó chứ gì, cháu đoán thế," Margot nói và hôn vào cái mụn cơm trên má chú chó.

"Thật là ngốc nghếch quá đi thôi," bà Levandovsky nhắc lại. "Anh ta ba mươi tuổi, mày râu nhẵn nhụi, xuất chúng, đeo cà vạt lụa và mang hộp đựng thuốc lá bằng vàng."

"Nào, đi dạo nhé," Margot nói với chú chó, thế là nó trượt từ lòng cô xuống sàn phịch một cái rồi lon ton chạy dọc hành lang.

Và cái người hào hoa mà bà Levandovsky nói đến nào có phải là một chàng trẻ trai bẽn lẽn từ tỉnh lên. Hắn tiếp cận bà nhờ hai người khách buôn niềm nở từng chơi poker với hắn trên chuyến tàu hỏa chuyển tiếp tới bến cảng, suốt từ Bremen đến Berlin. Ban đầu, chuyện giá cả không hề được bàn đến: bà mối chỉ đơn thuần cho hắn xem bức ảnh một cô gái tươi cười với đôi mắt lấp lánh ánh nắng và một chú chó bế trên tay, và Miller (đó là tên hắn dùng) chỉ đơn thuần gật đầu. Vào ngày hẹn, bà ta mua vài chiếc bánh ngọt và pha thật nhiều cà phê. Rất sáng suốt, bà khuyên Margot mặc chiếc váy đỏ quen thuộc. Gần sáu giờ, chuông cửa reo.

"Mình sẽ chẳng làm gì mạo hiểm cả, chẳng có gì mạo hiểm," Margot nghĩ. "Nếu mình ghét anh ta thì mình sẽ nói ngay cho bà ta biết, còn nếu không thì mình sẽ suy tính cẩn thận từ từ."

Thật không may, quyết định phải nghĩ gì về Miller lại không phải vấn đề đơn giản. Trước hết, khuôn mặt hắn gây ấn tượng mạnh. Mái tóc đen xỉn của hắn được vô tâm chải lật về phía sau, hơi dài và có vẻ khô khô lạ lùng; chắc chắn đó không phải là tóc giả, cho dù giống tóc giả đến khác thường. Hai gò má hắn cao đến độ làm má trông hõm vào, và màu da trên má trắng đục như được trát một lớp phấn mỏng. Đôi mắt sắc lấp lánh của hắn và hai lỗ mũi hình tam giác ngộ nghĩnh (làm ta nghĩ đến một chú linh miêu) luôn cử động liên hồi, trái lại, nửa dưới khuôn mặt hắn nặng nề với hai nếp nhăn bất động nơi khóe miệng. Trang phục của hắn có vẻ khá xa lạ: chiếc sơ mi đúng màu xanh da trời ấy cùng cái cà vạt màu xanh da trời sáng, bộ com lê xanh da trời thẫm ấy cùng chiếc quần rộng thùng thình. Người hắn cao gầy và khi hắn dò lối cẩn trọng di chuyển giữa những đồ đạc sang trọng nhà bà Levandovsky, đôi vai vuông vắn của hắn cử động uyển chuyển. Margot đã hình dung về hắn rất khác, và giờ đây cô khoanh chặt hai tay ngồi đó, cảm thấy khá sốc và khổ sở, trong khi ánh mắt Miller đang thẳng thừng nuốt chửng cô. Bằng một giọng kèn kẹt, hắn hỏi tên cô. Và cô trả lời hắn.

"Còn tôi là Axel[1] nhỏ bé," hắn nói và cười một tiếng, rồi đột ngột quay sang nói chuyện tiếp với bà Levandovsky: họ bình thản nói về những điểm du lịch ở Berlin và hắn tỏ ra lịch sử theo kiểu giễu cợt với bà chủ nhà.

[1. Nhân vật trong vở kịch cùng tên của Villiers de I'lsle-Adam về chuyện tình giữa chàng Axel và một công nương người Đức. Tác phẩm chịu nhiều ảnh hưởng của Richard Wagner.]

Rồi bỗng nhiên hắn rơi vào im lặng, châm một điếu thuốc và gỡ mẩu giấy thuốc lá dính trên đôi môi dầy dặn, rất đỏ của mình (cái hộp thuốc lá bằng vàng ở đâu nhỉ?), rồi nói:

"Tôi có một ý thế này, thưa bà kính mến. Đây là vé lô sát sân khấu cho vở opera của Wagner[2], chắc chắn bà sẽ thích đấy. Nên bà hãy đội mũ và chuồn nhanh. Đi bằng taxi đi, cả tiền taxi tôi cũng sẽ trả cho."

[2. Wihelm Richard Wagner (1813-1883) là nhà soạn nhạc kiêm nhạc trưởng, đạo diễn kịch và nhà lý luận âm nhạc người Đức nổi tiếng với các tác phẩm opera.]

Bà Levandovsky cảm ơn hắn, nhưng đáp lại với một vẻ tự trọng rằng bà thích ở nhà hơn.

"Tôi có thể nói riêng với bà vài câu được không?" Miller hỏi, khó chịu ra mặt và đứng lên khỏi ghế.

"Uống thêm chút cà phê nào," bà kia bình tĩnh đề xuất.

Miller liếm mép rồi ngồi xuống. Sau đó hắn mỉm cười, và với kiểu cách hiền lành mới có đó hắn lao vào kể câu chuyện tức cười về một người bạn của hắn, một ca sĩ opera được giao đóng vai Lehengrin, nhưng do say rượu mà không kịp lên thuyền thiên nga kéo để ra sân khấu nên đành lạc quan chờ chuyến thiên nga tiếp theo[3]. Margot cắn môi và đột nhiên gập người ra phía trước cười phá lên như trẻ con. Bà Levandovsky cũng cười, bộ ngực đồ sộ rung nhè nhẹ.

[3. Trong vở opera của Wagner, Lehengrin phải bắt kịp chuyến thiên nga mới cứu được nàng công chúa Đức. Câu chuyện này dựa trên sự việc có thật xảy ra với ca sĩ opera nổi tiếng Leo Slezak.]

"Được thôi," Miller nghĩ, "nếu mụ già này muốn mình đóng vai một gã ngốc đang tương tư thì mình sẽ làm thôi... và sẽ hăm hở quyết làm. Mình sẽ nhập vai đến cùng và còn hoàn hảo hơn mụ ta tưởng."

Rồi ngày hôm sau hắn đến, rồi lại đến, và lại đến. Bà Levandovsky mới chỉ nhận một ít tiền ứng trước và muốn có toàn bộ, nên bà không rời hai người một giây. Nhưng thỉnh thoảng vào những buổi chiều muộn khi Margot dắt chó đi dạo, Miller bỗng bất ngờ hiện ra từ trong bóng tối và tản bộ bên cạnh cô. Điều này làm cô xốn xang đến độ chân cô vô tình bước vội hơn, quên bẵng chó chú đang phải lóc cóc theo cô, thân người lơ lửng thành một góc với mặt đường nơi những bước chân nó đang chấp chới. Bà Levandovsky nghe được những lời đồn thổi về các cuộc gặp này, thế là bà liền tự mình dắt chó đi dạo.

Hơn một tuần trôi qua như vậy. Rồi Miller quyết định hành động. Thật ngu xuẩn nếu phải trả món tiền khổng lồ mụ ta đòi trong khi hắn đã bắt đầu đạt được mục tiêu mà không cần sự giúp đỡ của mụ. Một tối nọ, hắn kể thêm cho mụ và Margot ba câu chuyện tiếu lâm, đó là những chuyện buồn cười nhất họ từng nghe; hắn uống ba tách cà phê, rồi trong khi tiến đến gần bà Levandovsky, hắn kéo bà lại ôm lấy mà đẩy vào phòng tắm, đoạn nhanh tay rút chìa khóa ra và khóa trái cửa từ bên ngoài. Ban đầu người đàn bà tội nghiệp sửng sốt mất năm giây không thốt ra nổi một lời, sau đó thì - Ôi, lạy Chúa!...

"Xếp đồ đạc nhanh lên rồi đi theo anh," hắn nói, quay người về phía Margot đang đứng giữa phòng, cả hai tay bịt chặt lấy đầu.

Hắn đưa cô đến một căn hộ nhỏ hắn thuê cho cô từ hôm trước, và Margot thì vừa mới vượt qua ngưỡng cửa đã lập tức hoan hỉ đầu hàng và buông mình theo định mệnh, cái định mệnh vẫn nằm đó đợi cô từ khá lâu rồi.

Và cô thích Miller vô cùng. Có cái gì đó thỏa mãn biết bao trong cách nắm chặt của tay hắn, trong cách đụng chạm vào đôi môi đầy đặn. Hắn không nói chuyện nhiều, nhưng hắn thường bế cô ngồi trên đầu gối mình và cười lặng lẽ khi nghĩ ngợi về điều bí ẩn nào đó. Cô không đoán được hắn làm gì ở Berlin và hắn thật sự là ai. Cô cũng không tìm ra được khách sạn của hắn, và một lần, khi cố lục túi áo hắn, cô bị hắn giũa một trận ra trò, vì thế cô quyết định lần sau phải làm khéo hơn, nhưng hắn thận trọng quá. Mỗi khi hắn đi ra ngoài, cô lại sợ hắn không quay về; nhưng mọi lúc khác cô thấy mình hạnh phúc khác thường và hy vọng họ sẽ ở bên nhau mãi mãi. Thỉnh thoảng hắn tặng cô thứ gì đó, như đôi tất chân bằng lụa, nùi bông thoa phấn - không có gì đắt tiền cả. Nhưng hắn lại dẫn cô đi ăn ở các quán ngon, đi xem phim và sau đó uống cà phê, và một lần khi cô thở gấp bởi nhìn thấy một nam diễn viên điện ảnh nổi tiếng đến ngồi cách chỗ họ vài bàn, hắn ngước nhìn anh chàng diễn viên và họ chào nhau, điều này làm hơi thở gấp của cô lại càng ngọt ngào hơn.

Còn về phần hắn, hắn ngày càng yêu thích cô hơn, đến mức thường thì mỗi khi sắp sửa đi, hắn bỗng đột nhiên nhét mũ vào một góc (trước đó tình cờ cô phát hiện ra nhờ mặt trong chiếc mũ đó là hắn đã từng đến New York) và quyết định ở lại. Mọi chuyện kéo dài đúng một tháng. Rồi vào buổi sáng nọ hắn dậy sớm hơn bình thường và nói rằng hắn phải đi. Cô hỏi hắn đi bao lâu. Hắn nhìn cô đăm đăm rồi đi đi lại lại quanh phòng trong bộ đồ ngủ màu tím, xoa hai tay như là đang rửa vậy.

"Đi hẳn, chắc vậy," hắn bất ngờ trả lời, rồi bắt đầu mặc quần áo mà không hề nhìn cô. Cô nghĩ chắc chắn hắn đùa, liền đạp khăn trải giường ra, vì căn phòng rất nóng, đoạn cô quay mặt vào tường.

"Tiếc là anh chưa có bức ảnh nào của em," hắn nói trong khi thọc chân vào giày.

Rồi cô nghe tiếng hắn xếp đồ và khóa chiếc va li hắn dùng để mang các thứ lặt vặt đến căn hộ. Vài phút sau, hắn lên tiếng: "Nằm yên và đừng ngó nghiêng."

Cô không nhúc nhích. Hắn đang làm gì vậy? Cô so đôi vai trần. "Nằm yên," hắn nhắc lại.

Trong vài phút mọi thứ yên lặng như tờ, chỉ nghe một âm thanh gai người khe khẽ quen thuộc.

"Bây giờ em quay lại được rồi," hắn nói.

Nhưng Margot vẫn nằm bất động. Hắn đến gần cô, hôn tai cô rồi bước nhanh ra ngoài. Nụ hôn đó còn văng vẳng trong tai cô khá lâu.

Cô nằm trên giường cả ngày hôm đó. Hắn không quay lại nữa.

Sáng hôm sau, cô nhận được một bức điện từ Bremen: "Tiền phòng đã trả đến tháng Bảy, vĩnh biệt nàng yêu nữ dịu dàng."

"Trời ơi, thiếu anh ta mình sẽ ra sao đây?" cô thốt lên thành lời. Cô nhào đến bên cửa sổ, mở tung ra và chuẩn bị lao người xuống. Nhưng chính lúc đó, một chiếc xe cứu hỏa màu đỏ xen vàng hụ còi inh ỏi tới rồi dừng lại trước tòa nhà đối diện. Một đám đông xúm lại, khói cuồn cuộn tuôn ra từ cửa sổ tầng thượng và những mảnh tro giấy đen sì bay bồng bềnh trong gió. Cô quan tâm đến đám cháy đến độ quên mất cả mình đang định làm gì.

Cô còn rất ít tiền. Trong cơn khủng hoảng, cô đến vũ trường như các thiếu nữ bị bỏ rơi vẫn làm trong phim. Hai người đàn ông Nhật lịch thiệp đến gạ gẫm cô, và do đã uống nhiều cocktail hơn tửu lượng cho phép nên cô đồng ý qua đêm với họ. Sáng hôm sau, cô đòi họ trả hai trăm mác. Hai gã người Nhật đưa cho cô ba mác năm mươi xu tiền lẻ và bắt cô cuốn xéo. Cô quyết định phải thận trọng hơn trong những lần sau.

Rồi đêm nọ trong quán bar, một lão to béo với cái mũi như quả lê chín nhũn đặt bàn tay dăn dúm lên đầu gối mượt như lụa của cô và nói bằng giọng nhung nhớ:

"Anh rất vui được gặp lại em, Dora à. Em còn nhớ hè năm ngoái chúng mình vui chơi cùng nhau thế nào chứ?"

Cô cười phá lên và trả lời rằng lão nhầm rồi. Lão già thở dài và hỏi cô muốn uống gì. Rồi lão lái xe đưa cô về, và trong bóng tối của chiếc xe lão cư xử thú vật đến nỗi cô phải nhảy xuống. Lão đi theo, van xin gần như khóc để cô cho gặp lại. Cô đưa lão số điện thoại của mình. Sau khi thanh toán xong tiền phòng cho cô đến tháng Mười một và còn đưa đủ tiền để cô mua một chiếc áo choàng lông, lão được cô cho phép ở lại qua đêm. Lão là một người bạn tình dễ chịu, ngay khi thôi rên rỉ là lập tức ngủ vùi. Rồi có một lần lão lỡ hẹn, và khi cô rốt cuộc cũng gọi điện đến văn phòng của lão thì được cho hay rằng lão đã chết.

Cô đem bán chiếc áo choàng lông và số tiền đó giúp cô sống đến mùa xuân. Hai ngày trước khi bán, cô bỗng cháy bỏng khao khát được trình diễn cho bố mẹ xem vẻ hào nhoáng của mình, thế là cô đi taxi ngang qua nhà. Hôm ấy là thứ Bảy và mẹ cô đang lau bóng quả đấm cửa trước. Bà chết đứng khi nhìn thấy cô con gái. "Trời, tao không thể nào tin nổi!" bà thảng thốt kêu lên đầy cảm xúc. Margot mỉm cười lặng lẽ rồi quay vào xe taxi và qua cửa kính sau cô thấy ông anh trai đang từ trong nhà chạy ra. Anh ta vung nắm đấm lên mà chửi bới cô gì đó.

Cô thuê một căn phòng rẻ hơn. Nửa kín nửa hở, hai bàn chân nhỏ để trần, cô ngồi trên mép giường trong bóng tối đang đặc dần, hút thuốc hết điếu này sang điếu khác. Bà chủ nhà của cô, một người dễ xúc động và vẫn thỉnh thoảng ghé qua phòng cô để tán chuyện thân tình, một hôm nói cho cô hay anh họ của bà là chủ một rạp chiếu phim khá ăn khách. Mùa đông này có vẻ lạnh hơn các mùa đông trước; Margot tìm quanh mình thứ gì đó để đem cầm: cái ánh hoàng hôn này chăng?

"Mình sẽ làm gì tiếp đây?" cô ngẫm nghĩ.

Vào một buổi sáng lạnh giá ảm đạm, tự thấy mình đủ can đảm, cô liền trang điểm thật ấn tượng, tìm một hãng phim với cái tên đầy hứa hẹn và xin được cái hẹn với giám đốc tại văn phòng của ông ta. Hóa ra đó là một người đàn ông đứng tuổi, mắt phải bịt băng đen còn mắt trái lập lòe tia nhìn soi mói. Để mở đầu, Margot khẳng định cô đã từng đóng phim - và rất thành công.

"Phim nào vậy?" ông giám đốc hỏi, trong khi nhìn chăm chăm vào khuôn mặt hào hứng của cô một cách nhân từ.

Cô liều lĩnh nói bừa tên một hãng phim, một bộ phim. Người đàn ông không nói gì. Rồi ông nhắm mắt trái lại (nếu mắt kia còn sáng thì làm vậy trông ông như đang nháy mắt) và nói:

"Thật may cho cô là đã gặp tôi đấy. Ở địa vị của tôi, những người khác sẽ bị cám dỗ bởi... ờ... vẻ tươi trẻ của cô mà hứa hươu hứa vượn, và, hừm, và cô sẽ phải trả giá bằng thân xác của mình mà chẳng thành được cái bóng mờ ánh bạc nào trong phim tình cảm, ít ra là trong loại phim tình cảm mà hãng chúng tôi sản xuất. Tôi thì, như cô thấy đấy, không còn trẻ nữa và những gì ở đời tôi chưa từng thấy thì cũng chẳng đáng xem. Tôi nghĩ con gái tôi chắc nhiều tuổi hơn cô. Và chính vì thế tôi muốn nói với cô điều này, cô bé thân mến ạ. Cô chưa bao giờ là diễn viên đâu. Về nhà đi, nghĩ cho kỹ, nói chuyện với bố mẹ nếu cô vẫn còn quan hệ tốt với họ, mà tôi đoán là không.."

Margot đập găng tay vào mép bàn, đứng dậy kiêu hãnh bước ra, khuôn mặt nhăn nhúm vì tức giận.

Một hãng phim khác có văn phòng trong cùng tòa nhà ấy, nhưng cô thậm chí không được tiếp. Lòng đầy phẫn nộ cô bỏ về nhà. Bà chủ nhà luộc cho cô hai quả trứng và vỗ vỗ vai cô trong khi cô ăn ngấu nghiến, giận dữ. Rồi người phụ nữ tốt bụng đó đi kiếm ít rượu brandy và hai cái cốc nhỏ, rót rượu bằng bàn tay run run, cẩn thận đóng nút chai và đem cất đi.

"Hãy uống chúc cô may mắn," bà nói và ngồi xuống cạnh chiếc bàn lung lay. "Mọi chuyện sẽ tốt đẹp thôi, cô bé thân mến ạ. Mai tôi sẽ đi gặp ông anh họ và chúng tôi sẽ bàn về chuyện của cô."

Cuộc nói chuyện ấy khá thành công và mới đầu Margot thích công việc mới của mình, cho dù, dĩ nhiên, cũng hơi bẽ bàng khi phải khởi đầu sự nghiệp điện ảnh theo cách ấy. Ba hôm sau cô cảm thấy như chưa hề làm gì cả trong đời ngoài việc dẫn khách xem phim dò dẫm đến ghế của họ. Tuy nhiên, sang thứ Sáu thì có một sự thay đổi chương trình làm cô phấn chấn hơn. Cô đứng tựa vào trong bóng tối xem Greta Garbo. Nhưng chỉ ít lâu sau thì cô ngán hẳn. Thêm một tuần nữa trôi qua. Có một người đàn ông lúc đi ra khỏi rạp vẫn lần chần cạnh cửa mà liếc nhìn cô với vẻ mặt ngượng ngùng bất lực. Khoảng hai ba hôm sau ông ta quay lại. Ông đóng bộ chỉnh chu và đôi mắt xanh của ông nhìn cô chăm chăm đầy thèm khát.

"Một lão trông khá tử tế, tuy có phần tẻ nhạt," Margot suy tưởng.

Rồi khi ông ta xuất hiện lần thứ tư hay thứ năm - mà chắc chắn không phải để xem phim bởi vì cũng vẫn là một bộ phim đó - cô thoáng thấy phấn khích trong lòng, một cảm giác hồi hộp dễ chịu.

Nhưng ông ta nhút nhát quá chừng, cái ông này! Một lần trên đường về nhà, ông đi bên kia đường. Cô bước chậm lại mà không nhìn quanh, nhưng hai khóe mắt cô lại quặt ra sau như tai thỏ, mong chờ ông ta sẽ theo. Nhưng không, ông ta lại tan biến đi đâu mất. Sau đó khi ông lại đến rạp Argus, bộ dạng của ông trông xanh xao, ốm yếu rất đáng chú ý. Hết giờ làm việc, Margot lẹ làng bước ra ngoài phố, cô dừng lại, mở ô. Ông ta vẫn đang dừng ở lề đường bên kia ,thế là cô từ tốn băng qua đường về phía ông. Nhưng vừa thấy cô đến gần là ông liền rảo bước đi.

Ông thấy mình thật ngu ngốc và nôn nao nữa. Ông biết cô đang đi đằng sau và vì thế ông sợ mình bước quá nhanh thì sẽ để tuột mất cô, nhưng rồi ông lại sợ mình bước quá chậm thì sẽ làm cô đi vượt. Ở ngã tư đường tiếp đó, ông buộc phải đợi trong lúc hết chiếc xe này lại đến chiếc xe khác đi qua. Chính từ chỗ này cô vượt ông, suýt trượt chân trước chiếc xe tải chở đầy xe đạp, cô nhảy lùi lại, xô vào ông. Ông nắm lấy khuỷu tay mảnh mai của cô và họ cùng nhau qua đường.

"Giờ thì chuyện bắt đầu rồi," Albinus nghĩ và vụng về chỉnh nhịp bước của mình theo cô; ông chưa bao giờ đi bên cạnh một người phụ nữ nào nhỏ nhắn như vậy.

"Ông bị ướt hết rồi," cô mỉm cười nói. Ông cầm lấy chiếc ô từ tay cô; cô ép sát người vào ông hơn. Trong khoảnh khắc ông sợ tim mình sẽ nổ tung, nhưng rồi bỗng nhiên có gì đó trong ông được mở trói thật sung sướng như thể ông đã bắt được giai điệu của niềm đê mê, cái niềm đê mê ẩm ướt đang gõ nhịp, gõ nhịp vào lớp lụa mỏng mượt căng trên đỉnh đầu ông. Giờ thì mọi lời nói của ông tuôn ra thật dễ dàng và ông thưởng ngoạn sự trôi chảy mới nảy sinh này.

Mưa ngừng rơi, nhưng họ vẫn bước dưới ô. Khi hai người dừng lại trước cửa nhà cô, ông đóng cái vật đẹp đẽ, bóng loáng, ướt nhèm đó lại rồi đưa trả cô.

"Đừng đi vội," ông van nài (cùng lúc đó ông để nguyên tay trong túi áo và cố đẩy chiếc nhẫn cưới ra bằng ngón cái). "Đừng đi," ông nhắc lại (chiếc nhẫn đã rời ra).

"Muộn rồi," cô nói, "dì tôi sẽ bực mình."

Ông nắm lấy cổ tay cô và bằng vũ lực của sự nhút nhát cố hôn cô, nhưng cô nhanh nhảu cúi đầu xuống nên môi ông chỉ chạm được vào chiếc mũ nhung của cô.

"Buông tôi ra," cô thầm thì, cúi đầu xuống. "Ông biết là không nên làm thế."

"Nhưng em đừng đi," ông kêu lên. "Tôi không có ai trên đời này ngoài em."

"Tôi không thể, tôi không thể," cô đáp, đoạn vừa xoay chìa khóa vừa tì bờ vai nhỏ nhắn đẩy cánh cửa đồ sộ.

"Ngày mai tôi sẽ lại đợi em đấy," Albinus nói.

Cô mỉm cười với ông qua khung cửa kính rồi chạy dọc hành lang tối mờ về phía vườn sau.

Ông hít một hơi sâu, dò dẫm tìm khăn mùi soa, xì mũi, cẩn thận cài khuy áo choàng rồi lại mở ra; ông nhận thấy bàn tay mình nhẹ bẵng và trơ trụi biết bao, rồi ông vội vã luồn ngón tay vào chiếc nhẫn còn ấm nóng.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,359
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 4


Ở nhà không có gì thay đổi, điều này có vẻ lạ thường. Dường như Elisabeth, bé Irma và Paul đang sống trong một thời đại khác, trong suốt tĩnh lặng như nền những bức tranh Ý đầu Phục hưng. Sau khi làm việc cả ngày tại văn phòng, Paul thích có một tối thanh bình ở nhà chị gái. Ông ấp ủ lòng kính trọng sâu sắc đối với Albinus, đối với học vấn và gu thẩm mỹ của ông anh rể, đối với những đồ vật đẹp đẽ xung quanh ông ta - bức thảm Gobelin xanh màu rau bina trong phòng khách vẽ một cuộc săn trong rừng.

Khi Albinus mở cửa căn hộ, ông cảm thấy rã rượi cả cõi lòng khi suy ngẫm rằng vài giây nữa ông sẽ thấy vợ mình: bà có đọc được sự xảo trá trên khuôn mặt ông không đây? Bởi vì cuộc đi dạo dưới mưa đó là một sự phản bội; tất cả những gì diễn ra trước đó mới chỉ là ý nghĩ và giấc mơ. Có lẽ do một rủi ro đáng sợ nào đó mà những hành động của ông đã bị quan sát và báo cáo lại chăng? Có lẽ người ông tỏa ra mùi thơm của thứ nước hoa rẻ tiền cô dùng chăng? Khi bước vào sảnh, ông mau chóng dựng lên trong đầu một câu chuyện có thể dùng khi cần: về một họa sĩ trẻ, về hoàn cảnh nghèo khó và tài năng của cô ta, và về chuyện ông đã cố gắng giúp đỡ cô. Nhưng chẳng có gì thay đổi cả, kể cả cánh cửa màu trắng và đằng sau đó con gái ông đang ngủ, ở cuối hành lang, kể cả chiếc áo choàng to tướng của ông em vợ đang treo trên móc riêng (một loại móc áo đặc biệt bọc lụa đỏ) vẫn yên lặng chỉnh tề như mọi khi.

Ông đi vào phòng khách. Họ ở đây rồi - Elisabeth trong chiếc áo váy vải tuýt kẻ ca ro quen thuộc, Paul đang hút xì gà, và một bà người quen của họ, góa phụ của một nam tước bị khánh kiệt vì lạm phát, giờ đang làm chủ một cửa hàng kinh doanh thảm và tranh... Bất kể họ đang thảo luận vấn đề gì: nhịp điệu cuộc sống hàng ngày làm an lòng đến độ ông thấy một niềm vui dâng trào: thì ra ông đã không bị phát hiện.

Rồi sau đó khi nằm cạnh vợ trong phòng ngủ mờ sáng có nội thất trang trí kín đáo,với một góc lò sưởi (sơn màu trắng) phản chiếu trong gương như thường lệ, Albinus lấy làm kinh ngạc về tính cách hai mặt của bản thân: tình cảm ông dành cho Elisabeth là hoàn toàn chắc chắn và không hề suy giảm, nhưng đồng thời ông nung nấu trong tâm can ý tưởng là có lẽ không quá ngày mai... ừ, chắc chắn ngày mai...

Nhưng điều đó không đơn giản như thế. Trong những lần gặp gỡ tiếp theo, Margot khéo léo tìm kế tránh chuyện chăn gối với ông - và ông không có cơ hội nhỏ nhất nào để có thể đưa cô đến khách sạn. Cô không kể cho ông nhiều về bản thân - chỉ nói rằng cô mồ côi cha mẹ, rằng cha cô là họa sĩ (trường hợp ngẫu nhiên kỳ lạ, cái chi tiết này), và cô sống với bà dì; rằng cô cạn sạch tiền, nhưng đang mong muốn từ bỏ công việc gây kiệt sức đó.

Albinus tự giới thiệu với cô dưới cái tên giả vội nghĩ ra, Schiffermiller, và Margot chua chát nghĩ: "Lại một Miller nữa - đã có rồi," và rồi: "Ồ, ông nói dối, tất nhiên rồi."

Tháng Ba đó mưa rất nhiều. Những cuộc dạo đêm dưới ô kia vò xé Albinus, vì thế ông nhanh chóng đề xuất họ vào một quán cà phê. Ông chọn một quán tồi tàn chật chội nơi ông chắc mẩm sẽ không gặp ai quen.

Ông có thói quen ngay khi vừa ngồi xuống bàn là rút hộp thuốc lá và bật lửa ra. Trên vỏ hộp thuốc Margot nhìn ra những chữ cái đầu của tên ông. Cô không nói gì, nhưng sau một thoáng suy nghĩ, cô nhờ ông đi lấy giùm cô danh bạ điện thoại. Trong lúc ông đi về phía quầy điện thoại, dáng lạch bạch chậm chạp, cô cầm chiếc mũ của ông đặt trên ghế lên và kiểm tra chớp nhoáng lớp lót bên trong: có tên ông ở đó (ông viết tên lên mũ để ngăn chặn mấy tay họa sĩ lơ đễnh trong các buổi tiệc).

Lúc này ông đã quay trở lại với cuốn danh bạ điện thoại, ông cầm nó như cầm một cuốn Kinh Thánh, mỉm cười dịu dàng; và trong lúc đó ông đăm đăm nhìn hàng mi dài rủ xuống của Margot, cô lướt nhanh qua mục R và tìm ra địa chỉ cùng số điện thoại của Albinus. Sau đó cô lặng lẽ đóng tập sách màu xanh da trời đã sờn cũ đó lại.

"Em cởi áo khoác ra đi," Albinus thì thầm.

Không buồn đứng lên, cô bắt đầu lắc mình chuồi ra khỏi hai tay áo, nghiêng cái cổ xinh đẹp và rướn vai phải rồi vai trái về phía trước. Khi giúp cô, Albinus cảm nhận được làn hương violet nồng nản tỏa ra và trông thấy xương bả vai của cô chuyển động, và lớp da vàng vọt giữa đôi xương ấy gợn sóng rồi lại phẳng mịn ra. Sau đó cô bỏ mũ, ngó vào tấm gương bỏ túi, thấm ướt ngón trỏ rồi đập đập lên lọn tóc đen bên thái dương.

Albinus ngồi xuống bên cô và ngắm đi ngắm lại khuôn mặt mà mọi nét đều thật quyến rũ - đôi gò má cháy bỏng, đôi môi lấp lánh ánh rượu brandy anh đào, vẻ trang nghiêm trẻ con của đôi mắt màu hạt dẻ và cái nốt ruồi nhỏ mịn tơ trên đường cong mềm mại ngay dưới mắt trái.

"Dù có biết sẽ bị trẹo cổ vì chuyện này, mình cũng sẽ cứ ngắm cô ấy," ông nghĩ.

Thậm chí cả những từ lóng Berlin thô tục của cô cũng chỉ làm chất giọng khàn khàn và hàm răng to trắng thêm quyến rũ. Khi cười cô khép nửa mắt và một lúm đồng tiền nhảy múa trên má. Ông lóng ngóng vuốt ve bàn tay nhỏ nhắn của cô, nhưng cô vội rút tay lại.

"Em đang làm anh phát điên lên đây," ông nói.

Margot vỗ nhẹ vào cổ tay ông và nói: "Giờ anh hãy ngoan đi nào."

Sáng hôm sau ý nghĩ đầu tiên của ông là: không thể tiếp tục như thế được nữa, đơn giản là không thể. Mình phải kiếm cho cô ấy một căn phòng. Quỷ tha ma bắt cái bà dì. Sẽ chỉ có hai ta thôi, duy chỉ có hai ta. Một cuốn sách giáo khoa về tình yêu cho người mới học. Ôi, bao nhiêu thứ mình sẽ dạy cô ấy. Trẻ trung là thế, trong sáng là thế, làm người ta phát điên là thế...

"Anh ngủ rồi à?" Elisabeth khẽ hỏi.

Ông diễn một động tác ngáp hoàn hảo và mở mắt. Elisabeth trong bộ váy ngủ màu xanh nhạt đang ngồi trên mép chiếc giường đôi mà xem xét đống thư từ.

"Có cái gì hay không?" Albinus hỏi và đăm đăm nhìn bờ vai trắng của bà trong nỗi băn khoăn đờ đẫn.

"Trời, hắn lại hỏi xin tiền anh. Hắn nói là vợ và mẹ vợ hắn bị ốm và người ta đang âm mưu chống lại hắn. Hắn nói hắn không đủ tiền mua màu vẽ. Chúng ta phải giúp hắn lần nữa, chắc vậy."

"Ờ, dĩ nhiên rồi," Albinus đáp, và trong tâm trí ông hiện lên hình ảnh lạ thường, sống động về người cha đã khuất của Margot: ông ta cũng vậy, lúc sinh thời chắc hẳn là một họa sĩ xơ xác, tính tình nóng nảy, không có nhiều tài và bị cuộc đời bạc đãi.

"Còn đây là thư mời đến Câu lạc bộ Họa sĩ. Chúng ta sẽ phải đi dự lần ày. Còn đây là một lá thư từ Mỹ."

"Em đọc to lên đi," ông nhờ bà.

"Thưa ngài kính mến, tôi e rằng không có nhiều tin mới cho ngài, nhưng vẫn có một vài điểm tôi muốn bổ sung vào lá thư cuối dài dòng của mình và xin mở ngoặc là ngài vẫn chưa trả lời lá thư đó. Vì vào mùa thu tới tôi có thể sẽ đến..."

Ngay lúc đó, chuông điện thoại trên chiếc bàn cạnh giường ngủ reo vang. "Chậc chậc," Elisabeth nói, đoạn nghiêng người về phía trước. Albinus lơ đãng theo dõi những ngón tay mảnh mai của bà chuyển động, nhấc ống nghe màu trắng lên và siết chặt, rồi ông nghe âm vọng nhỏ xíu của một giọng rúc rích ở đầu bên kia.

"Ồ, xin chào," Elisabeth vừa kêu lên vừa làm mặt nhăn nhó với chồng, một dấu hiệu chắc chắn rằng đó là quý nam tước phu nhân đang nói và nói rất nhiều.

Ông giơ tay với lá thư từ Mỹ đến và liếc nhìn ngày gửi. Buồn cười thật, ông vẫn chưa trả lời lá thư trước. Bé Irma đến chào cha mẹ như mỗi sáng. Cô bé lặng lẽ hôn cha rồi đến mẹ, mẹ cô đang lắng nghe câu chuyện trên điện thoại, mắt nhắm lại, thi thoảng lầm rầm đồng tình không đúng chỗ hay giả vờ ngạc nhiên.

"Hôm nay con nhớ làm một cô bé ngoan nhé," Albinus thì thầm với con gái. Với nụ cười trên môi, bé Irma xòe ra một nắm bi.

Con bé không hề xinh đẹp; vầng trán gồ ghề tái nhợt của nó phủ đầy tàn nhang, lông mi quá nhạt, mũi quá dài so với khuôn mặt.

"Tất nhiên rồi," Elisabeth nói và thở dài nhẹ nhõm cúp máy.

Albinus chuẩn bị đọc tiếp lá thư. Elisabeth nắm tay con gái kể cho nó chuyện gì đó hài hước, bà cười ngặt nghẽo, hôn con bé và sau mỗi câu lại kéo nhẹ nó một cái. Bé Irma tiếp tục vừa mỉm cười bẽn lẽn vừa di di giày trên sàn nhà. Chuông điện thoại lại reo. Lần này Albinus ra trả lời.

"Chào anh, anh Albert thân mến," một giọng nữ nói.

"Ai..." Albinus lên tiếng, và đột nhiên ông có cảm giác buồn nôn như khi đi thang máy xuống rất nhanh.

"Chuyện anh bịa tên với em là không hay ho gì đâu," giọng nói tiếp tục, "nhưng em tha thứ cho anh. Em chỉ muốn nói với anh..."

"Nhầm số rồi," Albinus lạc giọng nói, rồi đập ống nghe xuống. Cùng lúc đó ông hoảng hồn nghĩ Elisabeth có thể đã nghe thấy gì đó, cũng giống như vừa nãy ông nghe thấy giọng nhỏ xíu của bà nam tước.

"Cái gì vậy?" bà hỏi. "Sao mặt anh lại đỏ bừng lên thế?"

"Ngớ ngẩn! Irma, con gái của cha, chạy đi chơi đi, đừng đứng luẩn quẩn như thế. Vô cùng ngớ ngẩn. Hai ngày nay lần gọi nhầm này là thứ mười rồi. Cậu ta viết rằng cuối năm nay có thể sẽ tới đây. Anh sẽ vui được gặp cậu ấy."

"Ai viết?"

"Trời đất ơi! Em không bao giờ hiểu được người khác nói gì cả. Cái người từ Mỹ ấy. Cái tay Rex ấy."

"Rex nào vậy?" Elisabeth vô tư lự hỏi.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,359
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 5


Cuộc gặp của họ đêm đó đầy dông bão. Albinus ở nhà cả ngày vì lo cô có thể gọi điện lại. Lúc cô từ rạp chiếu phim Argus bước ra, ông không dằn được chào cô bằng câu:

"Nghe đây, cô nhóc, tôi cấm cô gọi điện cho tôi. Không được làm như thế. Tôi không nói tên cho cô, tức là tôi có lý do riêng cho việc đó."

"Ồ, được thôi. Tôi cũng hết chuyện với ông rồi," Margot thờ ơ đáp rồi bỏ đi.

Ông đứng đó, bất lực nhìn chăm chăm theo cô.

Ông mới ngu ngốc làm sao! Đáng ra ông phải giữ mồm, như thế thì rốt cuộc cô sẽ tưởng mình nhầm số. Ông đuổi kịp và đi bên cạnh cô.

"Hãy tha lỗi cho tôi," ông nói. "Đừng cáu gắt với tôi, Margot à. Tôi không thể sống thiếu em. Em nghe này, tôi đã nghĩ kỹ mọi chuyện rồi. Em bỏ việc đi. Tôi giàu mà. Em sẽ có phòng riêng, có căn hộ riêng, bất kể thứ gì em thích..."

"Ông là tên nói dối, hèn nhát và ngu ngốc," Margot nói (thâu tóm khá súc tích bản chất của ông). "Và ông đã có vợ... vì thế ông mới giấu nhẫn cưới trong túi áo mưa. Ồ, dĩ nhiên là ông đã có vợ, nếu không ông đã chẳng thô lỗ như thế trên điện thoại."

"Thế nếu tôi đã có vợ thật thì sao?" ông hỏi. "Em không gặp tôi nữa à?"

"Có quan trọng gì với tôi chứ? Ông cứ lừa dối vợ đi; làm thế là tốt cho bà ấy."

"Margot, em thôi đi," Albinus rên rỉ.

"Hãy để tôi yên."

"Margot, nghe tôi nói này. Đúng là tôi đã có gia đình, nhưng tôi xin em đừng nhạo báng chuyện đó nữa... Ôi, em đừng bỏ đi," ông kêu lên, níu lấy cô, trượt hẫng, rồi túm chặt chiếc túi xách tay cũ sờn của cô.

"Quỷ tha ma bắt ông đi!" cô hét lên và đóng sập cửa vào mặt ông.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,359
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 6


"Cháu muốn xem bói," Margot nói với bà chủ nhà, nghe đoạn bà ta lấy ra từ sau mấy chai bia rỗng một bộ bài cũ nát, hầu hết các quân bài góc đã mòn đến độ trông gần như tròn. Một người đàn ông giàu có tóc sẫm màu, những nỗi phiền muộn, một bữa tiệc, một chuyến du hành dài...

"Mình phải tìm ra ông ta sống ở đâu," Margot nghĩ, khuỷu tay tựa lên bàn. "Có thể là rốt cuộc ông ta chẳng thực sự giàu có và không đáng để mình bận tâm. Hay mình cứ thử liều xem?"

Sáng hôm sau, vào đúng thời điểm như lần trước, cô gọi điện cho ông. Elisabeth đang tắm. Albinus nói gần như thì thầm, mắt dán chặt vào cánh cửa. Cho dù lo phát sốt, ông vẫn hạnh phúc đến phát điên lên được, vì cô đã tha thứ.

"Em yêu của anh," ông thì thầm, "em yêu của anh."

"Ông nói xem mấy giờ thì bà xã của ông sẽ vắng nhà?" cô vừa cười vừa hỏi.

"Tiếc là anh không biết." Ông trả lời, rùng mình như bị lạnh. "Sao em hỏi vậy?"

"Tôi muốn ghé chơi một chút thôi mà."

Ông im lặng. Đâu đó có cánh cửa mở ra.

"Anh không thể nói chuyện tiếp được," Albinus thì thầm.

"Nếu tôi đến gặp ông, tôi có thể hôn ông đấy."

"Hôm nay à, anh không biết. Không được," ông lắp bắp, "em không thể làm vậy được. Tối nay anh sẽ gặp em và rồi chúng ta sẽ..." Ông ngắt điện thoại và ngồi đờ ra một lúc, lắng nghe tim mình đập thình thịch. "Có lẽ mình đúng là tên hèn nhát," ông nghĩ. "Cô ấy chắc còn lề rề trong phòng tắm cả nửa tiếng nữa cơ."

"Anh có một đề xuất nhỏ," ông nói với Margot khi họ gặp nhau. "Mình bắt taxi đi."

"Xe mui trần chứ?" Margot hỏi.

"Không, thế thì quá nguy hiểm. Anh hứa sẽ đối xử tốt với em," ông nói thêm trong khi đắm đuối ngắm khuôn mặt cô đang nghếch lên đầy vẻ trẻ con, trông rất trắng dưới ánh đèn đường sáng chói.

"Em nghe này," ông nói khi họ đã ngồi vào taxi. "Thứ nhất là dĩ nhiên anh không giận vì em gọi điện, nhưng anh xin em, anh cầu khẩn em, em đừng làm thế nữa, em yêu của anh, báu vật của anh." ("Nói thế dễ nghe hơn," Margot thầm nghĩ.)

"Và thứ hai là em hãy nói cho anh nghe, bằng cách nào em tìm ra tên anh vậy?"

Cô nói dối, dù không cần thiết cho lắm, rằng có một phụ nữ cô quen nhìn thấy họ đi cùng nhau ngoài đường, và bà ta cũng quen ông.

"Ai vậy?" Albinus kinh hãi hỏi.

"Ồ, là một bà làm công thôi mà. Đâu như bà ta có một người chị từng làm đầu bếp hay người hầu trong nhà anh thì phải."

Albinus tuyệt vọng cố nặn trí nhớ.

"Dù sao em cũng đã nói với bà ta rằng bà ta nhầm. Em là cô bé thông minh mà."

Trong xe, bóng tối trôi trượt rồi lắc lư khi những khối vuông của ánh đèn màu tro xám chiếu xuyên qua xe, từng một phần tư rồi một nửa rồi toàn bộ, từ cửa sổ này sang cửa sổ kia. Margot ngồi gần ông đến độ ông cảm nhận được hơi ấm nhục dục ngất ngây của thân thể cô. "Mình sẽ chết hay hóa điên lên mất nếu mình không chiếm được nàng," Albinus nghĩ.

"Và thứ ba là," ông lớn tiếng, "em hãy tự tìm chỗ ở cho mình, ví dụ một căn hộ hai hay ba phòng có bếp - tức là, với điều kiện em cho anh thỉnh thoảng đến thăm."

"Albert, anh quên điều em đề xuất sáng nay rồi sao?"

"Nhưng như thế thì mạo hiểm quá," Albinus rên rẩm. "Em thấy đấy... Ngày mai chẳng hạn, anh sẽ ở nhà một mình từ khoảng bốn đến sáu giờ chiều, nhưng ai biết được chuyện gì sẽ đến..." và ông mường tượng trong đầu vợ ông có thể quay về nhà vì quên thứ gì đó.

"Nhưng em đã nói là em sẽ hôn anh mà." Margot dịu dàng nói, "và rồi anh biết đấy, không có một chuyện gì trên đời này là không có cách giải thích ổn thỏa cả."

Vì thế nên hôm sau, khi Elisabeth và bé Irma đi ra ngoài uống trà, ông giao cho cô hầu Frieda (may thay, hôm đó người đầu bếp nghỉ làm) đi chạy việc vặt thật lâu với vài cuốn sách cần chuyển đến một địa điểm xa tít tắp.

Bây giờ thì ông ở nhà một mình. Đồng hồ đeo tay của ông bị chết vài phút trước, nhưng đồng hồ treo tường trong phòng khách thì chạy đúng, và ngoài ra ông còn có thể nghểnh cổ ra cửa sổ để xem đồng hồ nhà thờ. Bốn giờ mười lăm. Đó là một ngày sáng sủa nhiều gió giữa tháng Tư. Trên bức tường ngập nắng của ngôi nhà đối diện, cái bóng làn khói mau lẹ tỏa ra từ cái bóng ống khói tẽ sang một phía. Sau trận mưa rào mới qua, lớp nhựa đường đang khô đi từng mảng, sự ẩm ướt vẫn còn lộ rõ thành những hình khung đen cổ quái trông như được sơn vắt qua chiều ngang của con đường.

Bốn giờ rưỡi. Cô có thể đến bất cứ lúc nào.

Mỗi khi nghĩ đến thân hình thiếu nữ mảnh dẻ của cô, làn da mượt như tơ, cảm giác khi chạm vào đôi bàn tay nhỏ ngộ nghĩnh không được giữ gìn chau chuốt ấy, ông thấy đột ngột dâng lên một niềm đam mê gần như nhức nhối. Lúc này, viễn ảnh nụ hôn cô đã hứa làm ông chìm trong niềm ngây ngất dường như khó có thể mãnh liệt hơn được. Và xa hơn thế nữa, tận cùng một hành lang lát đầy những mặt gương, ông còn phải chạm đến được hình ảnh trắng mờ của thân thể cô, chính cái hình dáng đã từng được các sinh viên mỹ thuật, thật tận tâm và cũng thật vụng về, phác họa. Nhưng Albinus không ngờ vực gì đến những giờ tẻ nhạt của cô ở phòng vẽ, cho dẫu nhờ một thủ thuật lạ lùng của định mệnh, ông đã tình cờ thấy cô khỏa thân từ trước: ấy là khi ông bác sĩ già Lampert của gia đình cho ông xem vài bức họa bằng than chì do con trai ông ta vẽ hai năm trước, trong đó có bức vẽ một cô gái để kiểu đầu tém ngồi trên thảm, hai bàn chân gập lại dưới thân mình, tì lên cánh tay cứng đờ, bờ vai chạm vào má. "Ồ không, tôi nghĩ mình thích gã gù hơn," ông nhận xét, rồi lật lại trang có bức vẽ một người tàn tật rậm râu. "Vâng, thật đáng tiếc là cậu ấy lại bỏ con đường nghệ thuật," ông nói thêm rồi đóng tập tranh lại.

Năm giờ kém mười. Cô đã muộn hai mươi phút. "Mình đợi đến năm giờ rồi sẽ đi," ông thầm nhủ.

Bỗng ông nhìn thấy cô. Cô đang qua đường, chẳng mặc áo choàng hay đội mũ, cứ như nhà cô ở ngay góc phố vậy.

"Vẫn còn kịp chạy xuống nói với cô ấy rằng đã quá muộn rồi," nhưng thay vì làm vậy Albinus lại nín thở nhón chân đi vào sảnh, và khi nghe thấy tiếng giậm chân trẻ con của cô đi lên cầu thang, ông mở cửa êm ru.

Trong chiếc váy ngắn màu đỏ tay trần, Margot mỉm cười với chiếc gương, rồi cô vừa xoay người trên gót giày vừa vuốt mượt mái tóc sau gáy.

"Anh đúng là sống kiểu cách," cô nói, và đôi mắt sáng ngời của cô ngao du quanh gian sảnh có những bức tranh xa hoa, một cái bình sứ đặt trong góc và vài creton màu kem thay giấy dán tường. "Đi lối này à?" cô hỏi và đẩy cửa vào. "Ồ!" cô thốt lên.

Ông đặt bàn tay run rẩy quanh eo cô và cùng cô ngước lên nhìn chùm đèn treo bằng pha lê, như thể ông cũng là người lạ. Nhưng ông thấy toàn bộ chùm đèn qua một lớp sương mù bồng bềnh. Cô đứng đó, chân vắt tréo và người đung đưa nhè nhẹ, mắt cô rảo nhìn quanh.

"Anh giàu đấy," cô nói khi họ đi vào phòng kế bên. "Chúa ơi, thảm mới đẹp làm sao!"

Cô mê mẩn với chiếc tủ buýp phê trong phòng ăn đến độ Albinus có thể lén sờ soạng hai bên sườn cô và lên trên nữa, tới một vùng da thịt mềm nóng bỏng.

"Ta đi xem tiếp nào," cô hào hứng nói.

Khi đi qua một tấm gương, ông thấy một người đàn ông nhợt nhạt trang nghiêm bước bên cạnh một cô học trò diện váy áo ngày Chủ nhật. Ông thận trọng vuốt ve cánh tay mượt mà của cô, và tấm gương nhòe đi.

"Đi tiếp nào," Margot nói.

Ông muốn đưa cô quay lại phòng làm việc. Như thế nếu vợ ông trở về sớm hơn ông dự tính thì cũng dễ giải thích: một nghệ sĩ trẻ đang muốn ông giúp đỡ.

"À, thế cái gì ở phía kia vậy?" cô hỏi.

"Đó là phòng trẻ. Em đã xem hết mọi thứ rồi."

"Để em đi xem," cô vừa nói vừa lắc vai.

Ông hít một hơi thật sâu.

"Đó là phòng trẻ, em yêu ạ. Chỉ là phòng trẻ thôi mà - không có gì để xem cả."

Nhưng cô đi vào phòng trong và đột nhiên ông cảm thấy một xung cảm lạ lùng hối thúc ông hét lên với cô: "Xin đừng có động đến bất cứ vật gì." Nhưng cô đã cầm một con voi màu tím bọc nhung lông. Ông giật lấy nó nhét vào một góc. Margot cười phá lên.

"Cô bé con anh sống trong nhung lụa ở chỗ này đây," cô nói. Tiếp đó, cô mở cánh cửa kế bên.

"Thế là đủ rồi, Margot," Albinus nài xin, "chúng ta đã đi quá xa căn sảnh và sẽ không nghe được tiếng cửa ra vào. Như thế thì nguy hiểm chết người đấy."

Nhưng cô gạt ông ra như một đứa trẻ nghịch ngợm và lướt qua lối đi đến phòng ngủ. Ở đó cô ngồi xuống trước tấm gương (hôm đó các tấm gương có nhiều trọng trách), cầm cái lược sống nạm bạc lên, hít hít cái chai đậy nút bạc.

"Ôi, dừng!" Albinus hét lên.

Cô khéo léo né ông, chạy đến chiếc giường đôi và ngồi xuống mép giường. Cô kéo tất lên như đứa trẻ, bật cái nịt tất kêu đánh tách và thè đầu lưỡi về phía ông.

"... sau đó mình sẽ tự tử," Albinus nghĩ, bỗng nhiên thấy mất bình tĩnh.

Ông lảo đảo đi về phía cô, hai tay dang rộng, nhưng cô nhảy bật qua ông, miệng ríu rít hân hoan, và chạy vụt ra khỏi phòng. Ông lao theo cô dù hơi chậm chân. Margot đóng sầm cửa, và trong khi vừa hổn hển vừa cười cô vặn chìa khóa cửa từ bên ngoài. (Ôi, cái mụ đàn bà to béo khốn khổ đó đã đập và thụi và hét đến thế nào!)

"Margot, mở ra ngay," Albinus nhẹ nhàng nói.

Ông nghe thấy tiếng chân cô nhún nhảy xa dần.

"Mở ra," ông nhắc lại to hơn.

Im lặng.

"Con nhỏ hồ ly tinh," ông nghĩ, "tình thế này mới ngu xuẩn làm sao!"

Ông khiếp sợ. Người ông nóng bừng. Ông vốn không có thói quen chạy nhảy quanh các phòng. Ông khổ vì cơn ham muốn không được thỏa mãn. Cô đã bỏ đi thật chưa? Ôi trời, có ai đang đi vòng quanh căn hộ. Ông thử vài chiếc chìa khóa trong túi áo, và rồi không còn giữ được bình tĩnh, ông rung cửa dữ dội.

"Mở ngay ra. Có nghe không hả?"

Tiếng bước chân đến gần hơn. Không phải Margot.

"Chào anh. Có chuyện gì vậy?" một giọng nói ông không ngờ đến cất lên - giọng của Paul! "Anh bị nhốt ở trong à? Tôi mở cửa cho anh nhé?"

Cửa mở ra. Paul trông lo âu. "Chuyện gì xảy ra vậy hả ông anh?" ông hỏi lại và há hốc mồm nhìn chiếc lược nằm trên sàn.

"Ồ, một chuyện dớ dẩn... Lát nữa tôi sẽ kể cho cậu... Hãy uống chút gì đã nhé."

"Anh làm tôi sốc suýt vỡ tim," Paul nói. "Tôi không hình dung nổi chuyện kinh khủng gì đã xảy ra. May là tôi ghé qua. Chị Elisabeth nói sẽ về nhà vào khoảng sáu giờ. May là tôi đến sớm. Ai nhốt anh ở trong thế này? Tôi mong rằng không phải là cô hầu nhà anh đã phát điên đấy chứ?"

Albinus đứng quay lưng về phía Paul và bận rộn với cốc rượu brady.

"Cậu không gặp ai trên cầu thang chứ?" ông hỏi, cố giữ giọng rành rọt.

"Tôi đi thang máy," Paul đáp.

"Thoát rồi," Albinus nghĩ, tâm trạng ông phấn khởi hẳn lại. (Nhưng quên rằng Paul cũng có chìa khóa căn hộ thì đúng là ngu xuẩn đến nguy hiểm.)

"Cậu có tin được không," ông vừa nói vừa nhấp một ngụm brandy, "một tên trộm đã đột nhập vào nhà. Dĩ nhiên cậu đừng kể với Elisabeth nhé. Tôi đoán chừng hắn nghĩ không có ai ở nhà. Tự nhiên tôi nghe thấy tiếng cửa ra vào bất thường. Tôi ra khỏi phòng làm việc để xem cái gì kêu lách cách vậy - thì kìa một gã đàn ông đang lẻn vào phòng ngủ. Tôi đi theo cố tóm cổ hắn, nhưng hắn kiểu như đã chuồi ra rồi nhốt tôi vào trong phòng. Tiếc là hắn thoát mất. Tôi nghĩ có thể cậu đã trông thấy hắn."

"Anh đùa đấy à," Paul nói với giọng thất kinh.

"Không, tôi không hề đùa. Tôi đang ở trong phòng làm việc thì nghe thấy cửa ra vào kêu lách cách. Nên tôi đi xem có chuyện gì và..."

"Nhưng có thể hắn đã ăn cắp thứ gì đó, ta hãy kiểm tra xem. Và phải báo cảnh sát nữa."

"Ồ, hắn không có đủ thời gian đâu." Albinus nói, "chuyện đó diễn ra trong vài giây, tôi làm hắn sợ chuồn mất."

"Trông hắn ta thế nào?"

"Ồ, một gã đàn ông đội mũ lưỡi trai. To lớn, trông rất khỏe."

"Hắn đã có thể làm anh bị thương! Việc này thật bực mình. Chúng ta cùng xem xét xung quanh đi nào."

Họ đi một vòng qua các phòng. Kiểm tra các ổ khóa. Mọi thứ đều ở nguyên chỗ cũ. Chỉ đến khi kiểm tra gần xong, lúc họ đi qua thư viện, một nỗi khiếp sợ bỗng nhói trong tim Albinus: trong phòng đó, ở một góc giữa mấy giá sách, ngay đằng sau cái tủ sách xoay, hiện ra mép một chiếc váy màu đỏ. Nhờ một phép thần nào đó Paul lại không nhìn thấy nó, dù ông sục sạo rất cẩn trọng. Ở phòng kế bên có một bộ sưu tập tiểu họa và ông gí mắt nhìn vào mặt kính nằm nghiêng.

"Thế là đủ rồi, Paul à," Albinus vội vã nói. "Không cần thiết phải kiểm tra hơn nữa. Rõ ràng là hắn không lấy đi thứ gì."

"Trông anh run rẩy quá," Paul thốt lên khi họ quay lại phòng làm việc. "Ông anh tội nghiệp của tôi! Anh à, anh phải thay khóa cửa đi hay là phải luôn cài then. Thế còn cảnh sát? Anh có muốn tôi..."

"Suỵt," Albinus rít lên.

Những tiếng nói chuyện đến gần và Elisabeth đi vào, theo sau là Irma, cô bảo mẫu và một người bạn của con bé - một đứa trẻ béo tròn có khả năng làm nhiều trò huyên náo ầm ĩ dù có bộ dạng nhút nhát lì lì. Albinus thấy mọi thứ như một cơn ác mộng. Sự có mặt của Margot trong căn nhà thật kinh khủng, quá sức chịu đựng... Cô hầu trở về mang theo mấy cuốn sách - cô không tìm ra địa chỉ, chẳng có gì đáng ngạc nhiên cả! Cơn ác mộng càng hãi hùng hơn. Ông đề xuất tối đó đi xem hát, nhưng Elisabeth nói bà bị mệt. Trong bữa tối ông căng tai tập trung nghe những tiếng sột soạt khả nghi, đến độ không để ý mình đang ăn gì (đó là món bò lạnh với dưa chua). Paul vẫn tiếp tục ngó nghiêng, ho húng hắng, hay ầm ừ - giá mà cái tên ngốc nhiều chuyện này cứ ngồi yên đó chứ không đi dò xét xung quanh, Albinus thầm nghĩ. Nhưng một điều khủng khiếp khác có thể đến: bọn trẻ có thể chạy chơi khắp các phòng, nhưng ông không dám đi khóa phòng thư viện lại; làm thế có thể dẫn đến những rắc rối không lường được. Ơn Chúa, đứa bạn nhỏ của Irma nhanh chóng ra về, còn Irma bị tống vào giường. Nhưng tâm trạng căng thẳng vẫn còn. Ông cảm thấy như tất cả họ - Elisabeth, Paul, người hầu và chính ông - đang tỏa đi khắp các phòng, trong khi đáng ra cứ phải tụm lại nguyên một chỗ, để Margot có cơ hội lẻn ra ngoài nếu cô thật sự muốn thế.

Cuối cùng, lúc khoảng mười một giờ Paul ra về. Như thường lệ, Frieda cài then cửa. Vậy là bây giờ Margot không thể thóat ra được nữa rồi!

"Anh buồn ngủ díp mắt đây này!" Albinus nói với vợ và bồn chồn ngáp, rồi không thể ngừng ngáp được nữa. Họ lên giường. Căn nhà hoàn toàn im ắng, Elisabeth sắp sửa tắt đèn.

"Em ngủ đi," ông nói. "Chắc anh sẽ ra ngoài đọc một chút."

Bà mỉm cười ngái ngủ, không hề để ý đến sự mâu thuẫn của ông. "Khi anh trở lại thì đừng làm em tỉnh giấc nhé," bà lầm rầm nói.

Mọi thứ yên ắng đến bất thường. Sự yên tĩnh dường như dâng lên, dâng lên mãi để rồi sẽ bất ngờ đầy tràn ra và vỡ ra thành tiếng cười. Sau khi trườn ra khỏi giường, trong bộ đồ ngủ ông lê đôi dép trong nhà bằng nỉ dọc hành lang, không gây một tiếng động nào. Lạ thật: mọi nỗi kinh hoàng bỗng biến mất. Cơn ác mộng tan thành cảm giác ngọt ngào sắc bén: cảm giác tự do tuyệt đối, nét đặc trưng của các giấc mơ tội lỗi.

Albinus mở cổ áo ngủ trong khi rón rén đi quanh. Toàn thân ông run rẩy. "Chỉ một giây nữa thôi, một giây nữa thôi cô nàng sẽ thuộc về mình," ông nghĩ. Ông nhẹ nhàng mở cửa thư viện và bật ngọn đèn được nhẹ nhàng che dịu.

"Margot, cô nàng bé nhỏ mê hoặc của anh," giọng ông thầm thì xúc động như phát sốt.

Nhưng đó chỉ là chiếc gối lụa màu đỏ mà vài ngày trước chính ông mang vào đây, để quỳ lên khi tra cứu bộ Lịch sử Nghệ thuật của Nennenmacher gồm mười tập in khổ bỏ túi.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,359
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 7


Margot bảo với bà chủ nhà rằng cô sẽ sớm chuyển đi. Mọi chuyện diễn ra thật hoàn hảo. Khi ở trong căn hộ của ông, cô đã nhận ra sự giàu có của kẻ si tình là đúng thực. Hơn nữa, xét qua bức ảnh trên bàn ngủ, vợ ông hoàn toàn không như cô đã mường tượng, kiểu một bà to béo oai vệ với nét mặt dữ tợn đằng đằng sát khí và bàn tay sắt; trái lại, bà ta xem chừng kín đáo, thuộc típ người dễ dàng bị loại khỏi vòng chiến mà không cần mấy công sức.

Và cô lại khá thích Albinus: ông là người hào hoa, ăn mặc chỉnh tề chải chuốt, thoáng mùi bột phấn rôm và thuốc lá sang. Dĩ nhiên, cô không thể hy vọng cô lại được sự ngây ngất của mối tình đầu. Và cô cũng không cho phép mình nghĩ về Miller, về gò má hõm màu trắng đục, về mái tóc đen bù xù và đôi bàn tay dài khéo léo của anh ta.

Albinus có thể vỗ về làm hạ cơn sốt của cô, như chiếc lá mã đề mát lịm làm dịu cơn đau khi đắp lên vết sưng. Ngoài ra, còn có điều gì hơn thế nữa. Ông không những khá giả mà còn thuộc tầng lớp dễ tiếp cận sân khấu và điện ảnh. Cô vẫn thường đứng sau cánh cửa phòng khóa trái mà tạo đủ các kiểu mặt tuyệt hảo cho khán giả là chiếc tủ gương, hay là biểu diễn giật lùi trước một nòng súng tưởng tượng. Và cô tự thấy dường như mình có điệu làm duyên và nụ cười khinh bạc không kém bất kỳ một minh tinh điện ảnh nào.

Sau khi khổ công tìm kiếm kỹ lưỡng, cô thuê được một căn hộ nhiều phòng khá đẹp trong một khu phố rất sang. Albinus bực bội vì chuyện cô ghé thăm lần trước đến độ cô thấy thương ông và không gây khó dễ mỗi khi ông nhét vào túi cô tập tiền dày cộm trong lúc dạo chơi buổi chiều nữa. Hơn nữa, cô còn để ông hôn trong chỗ khuất của hiên nhà. Ngọn lửa của nụ hôn này chảy quanh ông như vầng hào quang nhiều màu sắc đến tận khi ông về tới nhà. Ông không thể đặt nó xuống trong sảnh như đặt chiếc mũ nỉ đen, và khi đi vào phòng ngủ ông nghĩ bụng vợ mình chắc phải nhìn thấy vòng sáng đó.

Nhưng Elisabeth, một phụ nữ điềm tĩnh ở tuổi ba mươi lăm, không bao giờ nghi ngờ chồng có thể lừa dối mình. Bà biết ông có vài cuộc phiêu lưu tình ái trước khi họ cưới nhau, và chính bà vẫn nhớ mình khi bé từng thầm yêu một diễn viên lớn tuổi hay đến thăm cha bà và làm vui nhộn không khí bữa ăn sáng bằng trò bắt chước tuyệt hay các âm thanh trong sân trại. Bà từng nghe nói và cũng đọc được rằng các cặp vợ chồng không ngừng lừa dối nhau: thực vậy, ngoại tình là chủ đề trọng tâm của những lời ong tiếng ve, ngoại tình là chủ đề trọng tâm của những lời ong tiếng ve, của thơ ca, của những chuyện hài hước và của các vở opera nổi tiếng. Tuy vậy, bà vẫn giữ niềm tin đơn giản và kiên định rằng cuộc hôn nhân của ông bà là một sự kết nối rất đặc biệt, quý giá, sang trọng, không thể bị rạn vỡ.

Những buổi tối chồng bà vắng nhà, với lý do đi gặp các họa sĩ quan tâm đến ý tưởng điện ảnh của ông, cũng không hề làm bà mảy may nghi ngờ. Thái độ cáu kỉnh và bồn chồn của ông được bà quy cho thời tiết lạ lùng của tháng. Năm năm đó: vừa mới nóng đây thôi thì đã trút xuống những trận mưa giá buốt, kèm theo những hạt đá nảy trên bệ cửa sổ như những quả bóng tennis nhỏ xíu.

Một hôm bà lơ đãng hỏi: "Chúng mình đi du lịch ở đâu đó đi? Tyrol? Hay là Rome nhé?"

"Em thích thì cứ đi," Albinus đáp. "Anh còn một đống việc phải làm, em yêu à."

"Vâng, đó là em nghĩ vậy thôi," bà trả lời và sau đó đi chơi sở thú với Irma để xem chú voi sơ sinh. Hóa ra chú voi này gần như không có vòi mà có một dải lông ngắn dựng đứng dọc sống lưng.

Còn với Paul, tình thế lại khác. Chuyện cửa bị khóa để lại trong ông cảm giác bất an lạ lùng, Albinus chẳng những không báo cảnh sát mà còn bực mình khi ông nhắc đến chuyện ấy. Vì thế ông không thể không nghiền ngẫm về sự việc đó. Ông cố nhớ xem lúc bước vào tòa nhà rồi đi về phía thang máy thì có thể ông đã thấy nhân vật khả nghi nào đó chăng. Ông tự cho mình là người quan sát giỏi, chẳng hạn như ông nhớ lúc đi qua thì có con mèo nhảy lên, rồi nó trườn qua giữa mấy song sắt hàng rào quanh vườn, và một cô nữ sinh mặc váy đỏ được ông giữ cửa cho, tiếng cười và giọng hát từ chiếc đài vẫn bật như mọi khi trong phòng thường trực. Ừ, tên trộm chắc hẳn chạy xuống lúc ông đang ở trong thang máy. Nhưng điều gì làm ông cảm thấy bực bội thế này đây?

Hạnh phúc hôn nhân của chị mình rất thiêng liêng đối với ông. Một vài ngày sau, khi ông được nối điện thoại đến Albinus giữa lúc ông anh rể còn đang nói chuyện với người khác, ông nghe lỏm được vài từ (nghe trộm: lại vẫn là cái thủ thuật cổ điển của định mệnh) và suýt nuốt chửng que diêm đang dùng để xỉa răng.

"Đừng hỏi anh, cứ mua cái gì em thích."

"Nhưng anh không thấy sao, Albert..." một giọng nữ thô lậu đỏng đảnh nói.

Ông rùng mình dập điện thoại xuống như vừa sơ xuất tóm phải một con rắn.

Tối đó, lúc ngồi với chị gái và anh rể, ông không thể nghĩ ra điều gì để nói. Ông chỉ ngồi đó, lúng túng và nhấp nhổm, sốt ruột xoa cằm, vắt cặp chân mập mạp sang bên này rồi sang bên kia, nhìn đồng hồ của mình rồi lại nhét cái vật vô cảm không kim đó vào túi áo gi lê. Ông thuộc loại người nhạy cảm, đỏ mặt xấu hổ kể cả khi người khác làm điều luống cuống.

Cố thể nào người mà Paul yêu mến và kính trọng này lại đang lừa dối chị của ông? "Không, không thể, không đúng như thế, một sự hiểu nhầm ngu ngốc nào đó thôi," ông không ngừng tự nhủ thầm như vậy khi liếc sang Albinus đang đọc sách với vẻ mặt điềm tĩnh, thỉnh thoảng ho húng hắng và cẩn thận rọc những trang sách bằng con dao cắt giấy màu ngà... "Không thể như thế được! Cái cửa phòng bị khóa đã găm vào đầu mình ý nghĩ này. Những lời mình nghe thấy chắc chắn có cách giải thích nào đó đường đường chính chính. Ai lại có thể lừa dối Elisabeth được?"

Còn bà thì đang cuộn mình ở góc xô pha, thuật lại chậm rãi và tỉ mỉ nội dung vở kịch vừa xem. Đôi mắt nhạt màu của bà với những vết tàn nhang mờ phía dưới trông ngay thẳng như mắt của mẹ bà vậy, và cái mũi không đánh phấn bóng lên một cách tội nghiệp. Paul gật đầu mỉm cười. Nếu bà đang nói tiếng Nga đi chăng nữa thì có lẽ với ông cũng không khác. Rồi bỗng nhiên, chỉ trong một tích tắc, ông bắt được ánh mắt Albinus nhìn ông qua cuốn sách trên tay.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,359
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 8


Trong suốt thời gian đó, sau khi thuê được căn hộ, Margot tiến hành mua một số vật dụng trong nhà, bắt đầu bằng một chiếc tủ lạnh. Tuy trả tiền hậu hĩ, thậm chí với một cảm giác hài lòng nhất định, song Albinus đang tiêu tiền một cách mù quáng, bởi ông không những chưa hề đến xem căn hộ mà còn không biết cả địa chỉ. Cô nói rằng chỉ khi nào mọi thứ hoàn tất ông đến xem nhà thì mới thật là thú vị.

Một tuần trôi qua. Ông nghĩ cô sẽ gọi cho ông vào thứ Bảy. Ông canh điện thoại suốt cả ngày. Nhưng nó chỉ nhấp nháy và câm lặng. Đến thứ Hai thì ông cho rằng cô đã lừa ông - cô đã bỏ đi vĩnh viễn. Buổi tối đó Paul đến chơi. Những cuộc viếng thăm này giờ trở thành sự đày đọa cho cả hai. Tồi tệ hơn nữa là Elisabeth không có nhà. Paul ngồi đối diện Albinus trong phòng làm việc, hút thuốc và ngắm nghía đầu điếu xì gà. Gần đây ông thậm chí gầy hẳn. "Cậu ta biết hết mọi chuyện rồi," Albinus rầu rĩ nghĩ. "Ừ, thì sao nào, nếu cậu ta biết? Cậu ta cũng là đàn ông, cậu ta chắc chắn phải hiểu chứ."

Bé Irma lon ton chạy vào, thế là khuôn mặt Paul bừng sáng. Ông bế cô bé vào lòng và thốt lên ủn ỉn khe khẽ tức cười khi cô thọc ngón tay nhỏ xíu vào bụng ông để ngồi cho thoải mái.

Rồi Elisabeth quay về nhà sau bữa tiệc trà chơi bài bridge ở nhà ai đấy. Ý nghĩ về bữa ăn và buổi tối dài lê thê sau đó bỗng dường như là điều ngoài sức chịu đựng của Albinus. Ông thông báo sẽ không ăn tối ở nhà; vợ ông hiền hậu hỏi sao ông không nói sớm hơn.

Ông chỉ có một mong muốn duy nhất: tìm cho ra Margot ngay lập tức, bằng mọi giá. Định mệnh đã hứa hẹn với ông nhiều đến thế thì bây giờ không có quyền lừa gạt ông. Ông tuyệt vọng đến độ quyết định một bước thật táo bạo. Ông biết địa chỉ căn phòng cũ của cô, và ông biết cô sống đó với bà dì. Thế là ông đi tới đó. Lúc đi qua khoảnh sân sau, ông thấy qua cửa sổ tầng trệt một cô hầu đang trải ga giường, liền hỏi thăm cô.

"Cô Peters?" cô ta nhắc lại, tay vẫn cầm chiếc gối cô vừa đấm cho phẳng: "Ồ, tôi nghĩ là cô ấy đã chuyển đi. Nhưng ông nên tự đi tìm xem. Tầng thứ năm. Cửa bên trái."

Một người đàn bà nhếch nhác với cặp mắt đỏ ngầu mở hé cánh cửa mà không tháo dây xích cài cửa, rồi hỏi ông muốn gì.

"Tôi muốn biết địa chỉ mới của cô Peters. Cô ấy từng sống ở đây với một người dì."

"Ồ, thế à?" bà ta hỏi với vẻ quan tâm đột ngột, và giờ thì bà tháo dây xích cài cửa. Bà dẫn ông vào một phòng khách bé tí, ở đó mọi đồ vật chỉ cần bị chạm nhẹ đến là rung lên và kêu lách cách. Trên một tấm vải sơn có những vết nâu bẩn hình tròn đặt một đĩa khoai tây nghiền, một túi giấy méo mó đựng muối và ba chai bia rỗng. Với nụ cười bí ẩn, bà ta mời ông ngồi xuống.

"Kể cả nếu tôi là bà dì của cô nàng," bà nháy mắt nói, "có lẽ tôi cũng không biết địa chỉ của cô ta đâu. Mà không," bà dữ tợn nói thêm, "cô ta chẳng có bà dì nào sất."

"Say rồi," Albinus mệt mỏi nghĩ. "Nghe đây," ông nói, "bà có thể nói cho tôi biết cô ta đi đâu không?"

"Cô ta thuê một phòng của tôi," người đàn bà vừa trầm ngâm nói vừa chua chát nghĩ về sự vô ơn của Margot khi cô giấu không cho bà biết về người bạn giàu có này lẫn chỗ ở mới của mình, dù cái địa chỉ ấy thì đánh hơi ra cũng không khó lắm.

"Tôi phải làm gì bây giờ?" Albinus kêu lên. "Bà có thể gợi ý cho tôi làm gì được không?"

Đúng là đồ vô ơn đến đáng buồn. Bà đã giúp cô ta nhiều như thế; bây giờ bà cũng không biết kể ra thì sẽ giúp cho Margot hay là ngược lại (bà ưa khả năng sau hơn), nhưng người đàn ông to lớn mắt xanh đang bồn chồn này trông bất hạnh đến độ bà thở dài một tiếng rồi nói cho ông điều ông muốn biết.

"Ngày xưa tôi cũng được nhiều người theo đuổi," bà lâm râm nói và gật gật đầu khi dẫn ông ra. "Họ theo đuổi thật mà."

Lúc đó là bảy giờ rưỡi. Phố đã lên đèn, và ánh sáng nóng dịu màu da cam trông tuyệt đẹp trong ánh hoàng hôn nhạt. Bầu trời vẫn còn khá xanh với một đám mây màu cam ánh hồng lẻ loi phía xa, và toàn bộ vẻ hài hòa chập chờn giữa ánh đèn và ánh hoàng hôn này làm Albinus chóng mặt.

"Một giây nữa thôi mình sẽ ở trên thiên đường," ông nghĩ khi ngồi trong chiếc taxi lao nhanh trên lớp nhựa đường kêu rin rít.

Trước ngôi nhà lớn bằng gạch nơi cô sống hiện giờ có trồng ba cây bạch dương cao vút. Một tấm biển bằng đồng mới tinh khắc tên cô gắn trên cửa căn hộ. Một người đàn bà to lớn với hai cánh tay như hai tảng thịt sống ra mở cửa cho ông. "Đã có đầu bếp rồi," ông trìu mến nghĩ. "Vào đi," đầu bếp nói rồi trở lại phía trong. Ông vuốt mượt mái tóc thưa của mình xuống rồi bước vào.

Margot trong bộ đồ kimono đang nằm trên chiếc xô pha gớm ghiếc bọc vải hoa sặc sỡ, hai tay vắt tréo sau đầu. Trên bụng cô đặt hờ hững một cuốn sách đang mở, bìa quay lên trên.

"Anh nhanh đấy," cô nói, uể oải chìa tay ra.

"Chà, em không có vẻ ngạc nhiên khi thấy anh," ông dịu dàng thì thầm. "Em thử đoán xem anh tìm ra địa chỉ của em thế nào đi."

"Thì em đã gửi địa chỉ cho anh mà," cô vừa thở dài đáp vừa nhún cả hai vai lần nữa.

"Khá là buồn cười," Albinus nói tiếp mà không để tâm đến lời cô, ông ngấu nghiến nhìn đôi môi tô son mà chỉ một giây nữa thôi... "Khá là buồn cười, nhất là chuyện em lỡm anh về cái bà dì tưởng tượng của em."

"Tại sao anh lại đến đấy?" Margot tra hỏi, bỗng nhiên nổi giận. "Em đã viết cho anh địa chỉ của em ở góc trên bên phải, rất rõ ràng rồi mà."

"Góc trên? Rõ ràng?" Albinus thắc mắc, nhăn mặt bối rối. "Em đang nói về chuyện quái quỷ gì thế?"

Cô đóng sập sách lại và ngồi nhổm dậy trên xô pha.

"Anh chắc đã nhận được thư của em rồi chứ?"

"Thư nào?" Albinus hỏi rồi bất chợt lấy tay che miệng, hai mắt mở thao láo.

"Em gửi thư cho anh sáng nay," cô vừa nói vừa nằm lại xuống ghế và tò mò nhìn ông chăm chăm. "Em đoán đến tối nay sẽ nhận được thư và đi gặp em ngay."

"Em không làm thế thật chứ!" Albinus hét lên.

"Dĩ nhiên là em làm thế thật. Và em có thể nói chính xác cho anh nghe những gì em đã viết: 'Anh Albert yêu quý, tổ ấm nhỏ xinh đã sẵn sàng, và con chim non đang ngóng chờ anh. Chỉ cần anh đừng ôm em quá chặt, nếu không anh sẽ làm đầu con búp bê nhỏ của anh chao đảo hơn bao giờ hết.' Đại loại chỉ có thế thôi."

"Margot," ông lạc giọng thầm thì, "Margot, em đã làm cái gì vậy? Anh ra khỏi nhà trước khi có thể nhận được thư. Ông đưa thư... ông ấy chỉ mang thư đến vào tám giờ kém mười lăm. Mà bây giờ là..."

"Ơ, đó không phải là lỗi của em," cô nói. "Nói thật là anh khó chiều đấy. Thư ngọt ngào thế cơ mà."

Cô nhún vai, cầm cuốn sách lên và quay lưng lại ông. Trang bên phải có một bức ảnh đặc tả Greta Garbo.

Albinus thấy mình đang nghĩ: "Thật kỳ lạ làm sao. Thảm họa đang diễn ra, vậy mà người ta vẫn có thể để ý đến một bức ảnh." Tám giờ kém hai mươi. Margot nằm đó, thân hình cô uốn cong bất động, như một chú thằn lằn.

"Em vừa làm đổ vỡ..." ông bắt đầu gào lên hết sức, nhưng không nói hết câu. Ông chạy ra ngoài, vội vã lao xuống cầu thang, nhảy lên một chiếc taxi, và trong khi ngồi trên mép ghế, người vươn về phía trước (như thể làm vậy sẽ giúp ông đi thêm được mười phân), ông nhìn chằm chằm vào lưng người tài xế và tấm lưng đó mới tuyệt vọng làm sao.

Ông đến nơi, ông nhảy ra khỏi xe, ông trả tiền như trong phim - quăng một đống tiền ra mà không cần xem. Qua hàng rào khu vườn ông nhìn thấy dáng người quen thuộc của ông đưa thư gầy gò chân vòng kiềng. Ông ta đang nói chuyện với người thường trực lùn mập.

"Có thư cho tôi không?" Albinus hổn hển hỏi.

"Tôi vừa mới phát thư xong, thưa ông," ông đưa thư đáp với nụ cười toe toét thân thiện.

Albinus nhìn lên. Các ô cửa sổ căn hộ của ông được thắp sáng trưng - tất cả cửa sổ - một điều bất thường. Bằng một nỗ lực phi thường ông đi vào tòa nhà và bắt đầu đi lên cầu thang. Ông lên đến đỉnh cầu thang thứ nhất rồi thứ hai... "Hãy cho anh giải thích... Một nghệ sĩ trẻ đang cần được giúp đỡ... Đầu óc cô ta không bình thường, viết thư tình cho người lạ..." Thật ngớ ngẩn - cuộc chơi này đã kết thúc rồi!

Trước khi đến được cửa, ông bỗng xoay người lao xuống cầu thang. Một chú mèo băng qua lối đi trong vườn và lẹ làng trườn qua song sắt.

Mười phút sau ông trở lại căn phòng nơi ông vừa mới hân hoan bước vào cách đó không lâu. Margot vẫn đang uốn người nằm trên xô pha trong tư thế cũ, như một chú thằn lằn lười biếng. Cuốn sách vẫn mở ở trang đó. Albinus ngồi xuống cách cô một khoảng ngắn và bắt đầu bẻ ngón tay.

"Đừng làm thế," Margot nói mà không hề ngẩng lên.

Ông ngừng bẻ tay, rồi lại nhanh chóng làm tiếp.

"Hừm, thế thư đã đến chưa?"

"Ôi, Margot," ông nói và hắng giọng vài lần. "Quá muộn, quá muộn rồi," ông như rít lên bằng một giọng nghe là lạ.

Ông đứng lên, đi đi lại lại quanh phòng, xì mũi và ngồi lại xuống ghế.

"Cô ấy đọc mọi thư từ của anh," ông nói, đăm đăm nhìn xuyên qua lớp hơi ẩm ở mũi giày mình và cố gắn nó cho khớp vào giữa họa tiết run rẩy của tấm thảm.

"Hừ, anh phải cấm bà ta làm việc đó chứ."

"Margot, em không hiểu... Cô ấy vẫn thường làm thế - đó là một thói quen, một niềm vui. Cô ấy đôi khi còn để thất lạc thư, trước cả khi anh đọc. Có đủ mọi loại thư buồn cười. Sao em có thể làm chuyện đó được? Anh không hình dung nổi cô ấy sẽ làm gì bây giờ. Giá mà có phép thần, chỉ một lần này thôi... có thể cô ấy bận việc khác... có thể... Ôi không không!"

"Hừm, anh phải cẩn thận đừng để bị trông thấy khi bà ta đến đây. Em sẽ tiếp bà ấy một mình, trong sảnh."

"Ai cơ? Bao giờ?" ông hỏi và lờ mờ nhớ lại mụ phù thủy say khướt ông từng gặp, cách đây nhiều năm.

"Bao giờ á? Em nghĩ là bất cứ lúc nào. Bà ấy có địa chỉ của em rồi, phải không nào?"

Albinus vẫn chưa thể hiểu được.

"Ồ, ý em là vậy," cuối cùng ông lầm rầm. "Em mới ngốc làm sao. Margot! Hãy tin anh rằng bất kể thế nào chuyện đó cũng không thể xảy ra. Chuyện gì cũng được... nhưng không thể làm chuyện đó."

"Thế thì càng tốt," Margot nghĩ, và bỗng nhiên cô cảm thấy cực kỳ phấn chấn. Khi gửi thư đi, cô đã hình dung một hậu quả nhỏ mọn hơn thế nhiều: kiểu như ông không chịu đưa thư cho bà ta xem, vợ ông điên lên, giậm chân, nổi cơn tam bành. Như thế mối nghi ngờ bắt đầu được khơi lên và đoạn đường tiếp theo sẽ thuận lợi hơn. Nhưng bây giờ thì sự may mắn đã giúp cô và con đường tức thì rộng mở. Cô để cuốn sách trượt xuống sàn và mỉm cười khi nhìn bộ mặt nhăn nhó chán nản của ông. Đã đến lúc hành động, cô nghĩ bụng.

Margot vươn người, nhận thấy một cảm giác râm ran khoan khoái trong cơ thể mảnh mai của mình, rồi cô đăm chiêu nhìn lên trần nhà mà nói: "Anh đến đây nào."

Ông đến, ngồi xuống mép xô pha và thoái chí lắc đầu.

"Hôn em đi," cô nói, mắt nhắm lại. "Em sẽ làm cho anh khuây khỏa."
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,359
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 9


Tây Berlin, một sáng tháng Năm. Những người đội mũ lưỡi trai trắng đang quét dọn đường phố. Kẻ nào đã vứt những đôi giày da bóng cũ trong rãnh nước đây? Chim sẻ ríu rít trên đám dây thường xuân. Một chiếc xe tải chạy điện chở sữa đang lăn êm mượt như kem trên bốn chiếc bánh căng tròn. Mặt trời chói chang chiếu vào ô cửa kính tầng thượng trên vòm mái nghiêng lớp ngói màu xanh lá cây. Bầu không khí tươi mới trong trẻo hãy còn chưa quen với tiếng còi xe ở xa; nó nhẹ nhàng thấm lấy mọi âm thanh và mang chúng đi như những vật quý giá dễ vỡ. Trong khu vườn trước nhà những cây đinh hương Ba Tư đang nở hoa. Bất kể hơi lạnh buổi sớm, đàn bướm trắng đã dập dờn bay quanh như ở một khu vườn quê. Tất cả mọi thứ đó vây lấy Albinus lúc ông bước ra khỏi ngôi nhà đã ở lại đêm trước.

Ông cảm thấy một nỗi bất an âm ỉ. Ông đói bụng, ông chưa cạo râu hay tắm rửa; chiếc sơ mi mặc từ hôm qua chạm vào da làm ông cáu tiết. Ông cảm thấy hoàn toàn kiệt sức - và chẳng có gì đáng ngạc nhiên cả. Đêm qua là đêm ông hằng mơ ước suốt bao năm. Cái cách cô khép hai xương bả vai và kêu rừ rừ khi ông lần đầu hôn tấm lưng mịn như tơ của cô cho ông biết rằng ông sẽ đạt được điều ông mong muốn, và điều ông mong muốn không phải là cơn ớn lạnh của sự trong trắng. Cũng như trong trí tưởng tượng điên rồ nhất của ông, mọi thứ đều được phép; tình yêu đoan trang, giới hạn tiết hạnh, điều ít quen thuộc trong thế giới tự do mới mẻ này như những con gấu trắng ở Honolulu.

Sự lõa lồ của cô tự nhiên như thể cô vẫn có thói quen chạy dọc bãi biển trong những giấc mơ của ông. Có nét gì đó kỳ tài đến mê mẩn trong cách cô làm chuyện chăn gối. Và sau đó cô sẽ chuồn mất, đi lại tung tăng quanh phòng, lắc cặp hông thiếu nữ của mình và nhấm nháp miếng bánh mì khô còn lại sau bữa tối.

Cô rơi vào giấc ngủ khá bất chợt, cứ như cô dừng lại giữa một câu nói, lúc ánh đèn điện bắt đầu nhuộm thành màu vàng của phòng giam tử tù và ô cửa sổ thành màu xanh ma quái. Ông đi vào nhà tắm, nhưng chỉ làm chảy ra được từ vòi vài giọt nước màu gỉ sắt. Ông thở dài, dùng hai ngón tay cắp một miếng bọt biển bị bỏ quên ra khỏi bồn tắm, rón rén thả nó xuống, kiểm tra miếng xà phòng màu hồng trơn tuột mà nghĩ đến việc phải dạy Margot về quy tắc vệ sinh. Ông mặc quần áo trong khi hai hàm răng va lập cập, rồi ông kéo chăn lông phủ lên người Margot đang ngủ ngon lành, hôn mái tóc sẫm màu rối bù ấm nóng của cô, để lại trên bàn một lá thư ngắn viết bằng bút chì và nhẹ nhàng bước ra ngoài.

Bây giờ đây, khi dạo bước dưới ánh nắng mặt trời êm dịu, ông nhận ra giờ đền tội sắp đến. Khi thấy lại tòa nhà nơi ông sống bao năm với Elisabeth, khi đi lên bằng chiếc thang máy mà tám năm trước từng chở cô y tá bế đứa con gái ông, cùng với vợ ông, thật nhợt nhạt nhưng hạnh phúc, và khi đứng trước cánh cửa nơi cái tên uyên bác của ông khoan thai phát ra ánh sáng lập lòe, Alnibus gần như đã quyết sẽ không lặp lại chuyện đêm trước, giá như có một phép thần xảy ra. Ông tin chắc rằng nếu Elisabeth chưa đọc lá thư đó thì ông có thể bằng cách nào đó giải thích được việc vắng nhà - ông có thể nói rằng ông thử hút chơi thuốc phiện ở nhà ông họa sĩ Nhật vốn từng đến ăn tối với họ - lời giải thích này nghe hoàn toàn hợp lý.

Nhưng giờ đây ông phải mở cánh cửa này ra, phải bước vào và phải nhìn thấy... Ông sẽ thấy gì đây?... Hay có lẽ tốt nhất là không nên vào - cứ để nguyên mọi thứ như thế, rồi bỏ trốn, biến đi luôn?

Bỗng nhiên ông nhớ lại hồi Thế chiến, ông cố bắt mình không cúi lưng quá thấp khi rời khỏi chỗ nấp.

Ông bất động đứng trong sảnh, lắng nghe. Không một tiếng động. Bình thường vào giờ này buổi sớm, căn hộ tràn ngập âm thanh: ở đâu đó phải có tiếng nước chảy, tiếng cô bảo mẫu lớn giọng với Irma, tiếng cô hầu làm bát đĩa kêu lanh canh trong phòng ăn... Không một tiếng động nào! Chiếc ô của Elisabeth dựng ở góc nhà. Ông cố tìm thấy từ đó đôi chút an ủi. Chính ngay lúc này, khi ông vẫn đang đứng ở đó, cô hầu Frieda không đeo tạp dề xuất hiện từ hành lang, chằm chằm nhìn ông rồi thê thảm nói:

"Ôi, thưa ông, cả nhà bỏ đi tối qua rồi."

"Đi đâu?" Albinus hỏi mà không nhìn cô ta.

Cô ta kể cho ông mọi chuyện. Cô nói nhanh và to hơn bình thường. Rồi cô òa khóc nức nở khi đỡ lấy mũ và ba toong của ông.

"Ông uống chút cà phê chứ?" cô rền rĩ.

Sự bừa bộn trong phòng ngủ tự nó kể ra câu chuyện. Chiếc váy dạ hội của vợ ông nằm trên giường. Một ngăn tủ com mốt bị kéo mở toang. Bức chân dung nhỏ của ông bố vợ quá cố biến mất khỏi chiếc bàn. Góc tấm thảm bị lật lên. Albinus lật nó xuống lại rồi lặng lẽ đi vào phòng làm việc. Vài lá thư đã mở nằm trên bàn. À, nó đây rồi - nét chữ mới trẻ con làm sao! Sai chính tả, là sai chính tả! Thư của nhà Dreyer mời ăn trưa. Chu đáo thật. Một lá thư ngắn của Rex. Hóa đơn của nha sĩ. Tuyệt vời.

Hai giờ sau Paul xuất hiện. Mình thấy cậu ta râu cạo vụng về. Trên gò má căng nính của Paul có miếng băng đen dán chéo.

"Tôi đến lấy đồ đạc," ông nói lúc đi ngang qua.

Albinus vừa đi theo Paul vừa rung những đồng xu trong túi quần kêu leng keng và lặng lẽ quan sát, trong khi Paul cùng Frieda hối hả xếp đồ vào rương, cứ như họ đang vội vã để bắt kịp tàu.

"Đừng quên cái ô," Albinus lơ đãng nói.

Rồi ông lại đi theo họ và việc xếp đồ được lặp lại trong phòng trẻ. Trong phòng của cô bảo mẫu, một cái va li nằm đó sẵn sàng. Họ mang cả nó đi.

"Paul, cho tôi nói một câu thôi," Albinus lầm rầm, và ông hắng giọng rồi đi vào phòng làm việc. Paul bước theo và đứng cạnh cửa sổ.

"Đúng là một bi kịch," Alibinus nói.

"Hãy để tôi nói với anh một điều," cuối cùng Paul thét lên, trong khi vẫn nhìn chăm chăm qua cửa sổ. "Nếu chị Elisabeth sống qua được cú sốc này thì đó là may mắn quá chừng đấy. Chị ấy..."

Paul ngừng nói. Cái hình chữ thập trên má ông giần giật chạy lên chạy xuống.

"Chị ấy như một xác chết, đúng như thế. Anh đã... Anh là... Anh quả thực là một tên vô lại, thưa anh, hoàn toàn vô lại."

"Cậu có hơi khiếm nhã không đấy?" Albinus vừa hỏi vừa cố mỉm cười.

"Thật kinh khủng!" Paul hét lên, giờ mới nhìn vào ông anh rể lần đầu. "Anh kiếm được cô ta ở đâu? Làm sao con điếm đó lại dám viết thư cho anh?"

"Từ từ, từ từ nào," Albinus nói và liếm môi.

"Tôi sẽ cho anh ăn đòn. Tôi thề đấy!" Paul hét còn to hơn nữa.

"Hãy nhớ là Frieda có thể nghe rõ từng từ đấy," Albinus thì thầm.

"Anh có trả lời tôi không?" Paul cố nắm lấy ve áo khoác của ông, nhưng Albinus đập vào tay Paul và nở một nụ cười yếu ớt.

"Tôi không để bị tra hỏi đâu," ông thì thầm. "Toàn bộ chuyện này khá đau lòng. Cậu không thể nghĩ được đây chỉ là một sự hiểu nhầm thôi sao? Thử giả sử..."

"Anh nói dối!" Paul gầm lên, nện ghế xuống sàn nhà, "đồ đểu cáng! Tôi vừa mới đi gặp cô ta. Một con đĩ ti tiện đáng đi trại cải tạo. Tôi biết là anh sẽ nói dối, đồ đểu cáng. Sao anh có thể làm thế? Đây không phải là sự đồ bại đơn thuần, đây là..."

"Thế là đủ rồi," Albinus cắt ngang bằng giọng gần như không thể nghe được.

Một chiếc xe tải đi ngang qua, khung kính kêu lanh canh nhè nhẹ. "Ôi, Albert," Paul bỗng nói bằng giọng bình tĩnh không ngờ và đầy tiếc nuối, "ai có thể nghĩ rằng..."

Ông bước ra. Frieda đứng khóc ở chái nhà. Ai đó bê hành lý đi. Rồi tất cả lại im lặng.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,359
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 10


Chiều đó Albinus xếp đồ vào va li và lái xe đến nhà Margot. Thuyết phục được Frieda ở lại căn hộ trống đó thật không dễ dàng. Cuối cùng thì cô đồng ý khi ông đề xuất là người tình trẻ tuổi của cô, một đại úy cảnh sát đáng kính trọng, có thể đến ở chỗ vốn là phòng ngủ của cô bảo mẫu. Và nếu ai gọi điện tới, cô cần nói rằng ông đã bất ngờ đi Ý với gia đình.

Margot đón ông một cách lạnh nhạt. Sáng hôm đó cô bị đánh thức bởi một quý ông to béo giận dữ đang đi tìm anh rể của mình; ông ta chửi rủa cô đủ thứ. Ơn Chúa là người đầu bếp, một phụ nữ đặc biệt to khỏe, đã đẩy được ông ta ra ngoài!

"Căn hộ này thật ra chỉ cho một người thôi," cô nói, mắt liếc về chiếc va li của Albinus.

"Ôi, anh xin em đấy," Albinus tội nghiệp thì thầm.

"Dù sao chăng nữa chúng ta cũng có nhiều chuyện phải bàn. Em không có ý định chịu đựng những lời sỉ nhục của đám họ hàng ngu ngốc nhà anh đâu" - và cô đi đi lại lại quanh phòng trong chiếc áo choàng ở nhà bằng lụa đỏ, bàn tay phải kẹp dưới nách trái, miệng rít thuốc tới tấp. Với dải tóc đen xõa phủ vầng trán, cô trông giống như một người di gan.

Sau bữa trà, cô lái xe đi mua máy hát. Sao lại máy hát nhỉ? Lại vào đúng ngày này... Sức cùng lực kiệt và đầu đau như búa bổ, Albinus nằm nghiêng trên xô pha trong căn phòng khách gớm ghiếc mà nghĩ: "Một điều khủng khiếp không tả nổi vừa xảy ra, vậy mà mình lại khá bình tĩnh. Elisabeth bất tỉnh những hai mươi phút, rồi cô ấy la hét, nghe chắc hãi hùng lắm; còn mình khá bình thản. Cô ấy vẫn là vợ mình và mình yêu cô ấy, dĩ nhiên mình sẽ tự bắn một viên đạn vào đầu nếu cô ấy chết vì lỗi của mình. Mình băn khoăn không biết họ đã giải thích ra sao cho bé Irma về việc chuyển nhà đến căn hộ của Paul và về mọi thứ hấp tấp và rối tinh cả lên? Cách Frieda tường thuật lại thật ghê người: 'rồi bà hét lên, rồi bà hét lên...' Lạ thật, vì xưa nay Elisabeth chưa lớn tiếng một lần nào."

Ngày hôm sau, khi Margot đi ra ngoài mua đĩa hát, ông ngồi viết một lá thư dài. Trong thư, ông quả quyết với vợ một cách khá chân thành, tuy lời lẽ có thể hơi quá hoa mỹ, rằng ông vẫn trân quý bà như trước, dẫu hành động phóng túng nhỏ nhen của ông "đã làm tổn thương hạnh phúc gia đình chúng ta như lưỡi dao của gã điên rạch nát một bức tranh". Ông khóc, rồi ông nghe ngóng cho chắc rằng Margot chưa về, rồi ông lại viết tiếp, trong khi vừa sụt sùi lẩm bẩm một mình. Ông xin vợ tha thứ, nhưng lá thư đó không mang một dấu hiệu nào về chuyện ông có sẵn sàng từ bỏ người tình hay không.

Ông không nhận được thư trả lời nào cả.

Rồi ông nhận ra rằng, nếu không muốn tiếp tục dằn vặt bản thân thì ông phải xóa bỏ hình ảnh gia đình khỏi bộ nhớ, và phải buông thả bản thân mình hoàn toàn vào niềm đam mê mãnh liệt, gần như bệnh hoạn mà vẻ yêu kiều vui tươi của Margot khơi dậy trong ông. Về phía mình, cô luôn sẵn sàng đáp lại ham muốn chăn gối của ông; với cô, chuyện đó chỉ làm cô tươi mới lại; cô vô tư và chẳng lo nghĩ gì; hai năm trước bác sĩ nói rằng cô có thể không có con được, và cô coi đó như một ân huệ và phúc lành.

Albinus dạy cô phải tắm rửa hàng ngày chứ không chỉ rửa tay và cổ như cô vẫn làm cho đến nay. Chân tay cô bây giờ sạch sẽ và móng tô đỏ bóng, cả tay lẫn chân.

Ông không ngừng khám phá những vẻ hấp dẫn mới ở cô - những điều nhỏ nhặt làm ông cảm động, trong khi nếu ở bất kỳ cô gái nào khác lại sẽ làm ông thấy thô thiển cục cằn. Những đường nét trẻ thơ của cơ thể cô, vẻ trơ trẽn và ánh thẫm mờ dần của đôi mắt (như thể chúng từ từ tắt đi, giống đèn rạp hát) khiến ông mê loạn đến độ đánh mất cả vết tích cuối cùng của sự rụt rè trong vòng ôm mà người vợ đoan trang tinh tế từng đòi hỏi.

Ông hầu như không rời khỏi nhà vì sợ gặp người quen. Chỉ khi bất đắc dĩ và chỉ vào buổi sáng, ông mới cho Margot ra ngoài - để phiêu lưu săn tìm tất chân và đồ lót bằng lụa. Ông kinh ngạc vì sự thiếu tò mò của cô: cô không bao giờ hỏi về cuộc đời quá khứ của ông. Đôi khi ông cố làm cô quan tâm đến quá khứ của mình, ông kể cho cô về tuổi thơ, về người mẹ mà ông còn nhớ nhưng mơ hồ, về cha ông, một chủ đồn điền cường tráng rất yêu chó và ngựa mình nuôi, ngô và bột mì mình trồng, và đã chết khá đột ngột - giữa tràng cười sang sảng trong phòng bi-a khi một vị khách kể một câu chuyện tục tĩu.

"Chuyện đó thế nào? Kể cho em nghe đi," Margot hỏi - nhưng ông đã quên mất rồi.

Ông kể cho cô về niềm say mê hội họa mà ông có từ rất sớm, về công việc, về những khám phá của ông; ông kể cho cô cách khôi phục một bức tranh bằng tỏi và nhựa cây tán vụn để làm tan lớp sơn dầu cũ ra thành bụi, và dùng vải flanen tẩm dầu thông để làm biến mất lớp ám khói hay bức tranh thô thiển vẽ đè lên trên, rồi sau đó vẻ đẹp nguyên thủy của bức tranh sẽ nở bừng.

Margot thì chủ yếu quan tâm đến giá thành của một bức tranh như thế.

Ông kể cho cô nghe về Thế chiến, về lớp bùn buốt giá trong các đường hào, và cô hỏi ông tại sao giàu như vậy mà ông không dùng mánh khóe kiếm một vị trí đằng sau chiến tuyến.

"Em là cô bé đáng yêu thật ngộ nghĩnh!" ông thốt lên trong khi mơn trớn vuốt ve cô.

Cô bắt đầu cảm thấy buồn chán vào chiều tối; cô thèm đi xem phim, thèm đi nhà hàng sang trọng và nghe nhạc da màu.

"Em sẽ có mọi thứ, mọi thứ, mọi thứ," ông nói, "chỉ cần em để anh hồi tâm lại đã. Anh có đủ mọi kế hoạch... chẳng bao lâu nữa chúng mình sẽ đi chơi biển."

Ông nhìn quanh phòng khách của cô và lấy làm lạ - sao một người như ông, luôn kiêu hãnh vì không có khả năng chịu đựng được bất kể thứ gì mang gu thẩm mỹ dở, lại có thể khoan dung được cái căn phòng kinh khủng này. Mọi thứ trở nên đẹp đẽ chính nhờ niềm đam mê của mình, ông trầm ngâm suy tư như vậy.

"Chúng ta đã xếp đặt ổn định rồi, phải không em yêu?"

Cô hạ cố đồng tình. Cô biết mọi thứ này chỉ là tạm thời: ký ức về căn hộ xa hoa của ông vẫn vương vất trong tâm trí cô; nhưng dĩ nhiên không có gì phải vội vã cả.

Vào một ngày tháng Bảy, khi Margot trên đường từ hiệu may quần áo đi bộ về sắp tới nhà, có ai đó níu lấy cô từ phía sau bên trên khuỷu tay. Cô xoay người lại. Đó là ông anh Otto của cô. Hắn nhe răng cười một cách đáng ghét. Hai người bạn của hắn đang đứng cách đó một đoạn, và họ cũng nhe răng cười.

"Tao rất vui được gặp mày, em gái ạ," hắn nói. "Thật không hay ho gì đâu khi mày quên gia đình mình."

"Buông ra," Margot nói khẽ và cụp mắt nhìn xuống.

Otto đưa hai tay chống nạnh: "Trông mày bảnh nhỉ," hắn nói trong khi nhìn cô từ trên xuống dưới. "Thật đấy, đúng là một tiểu thư mà!"

Margot xoay người bước đi. Nhưng hắn tóm lấy tay cô lần nữa, làm cô đau ,và cô khẽ kêu "Ái ái!" như khi còn nhỏ.

"Nhìn đây," Otto nói, "hôm nay là ngày thứ ba tao theo dõi mày. Tao biết mày sống ở đâu. Nhưng chúng ta nên đi thêm chút nữa đã."

"Để tôi đi," Margot thì thào, cố nới tay hắn ra. Một người qua đường dừng lại vì đoán chừng đó là một cuộc cãi vã. Nhà cô đã khá gần. Albinus cũng có thể tình cờ nhìn ra ngoài cửa sổ. Như thế thì sẽ phiền phức đây.

Cô đành chịu để hắn ép. Hắn dẫn cô quanh góc phố; hai tên kia, Kaspar và Kurt, bước theo họ, liếc mắt đểu cáng và vung vẩy hai tay.

"Anh muốn cái gì?" cô hỏi, khinh bỉ nhìn chăm chăm chiếc mũ lưỡi trai đính đầy dầu mỡ của anh mình và điếu thuốc lá dắt sau tai.

Hắn nghiêng đầu sang một bên ra hiệu: "Đi vào trong quán bar kia nào."

"Không," cô hét lên, nhưng hai tên kia tiến đến gần, gầm gừ xô cô về phía cửa. Cô bắt đầu thấy hoảng sợ.

Trong quán bar, một vài người đàn ông đang tranh luận về cuộc bầu cử sắp tới với giọng oang oang quát tháo.

"Ngồi xuống đây, góc này," Otto nói.

Họ ngồi xuống. Margot nhớ lại một cách sống động và với chút kinh ngạc rằng hồi xưa họ thường cùng đi chơi ở ngoại thành - cô, Otto và hai gã trai trẻ rám nắng này. Họ dạy cô bơi và tóm lấy cặp đùi trần của cô dưới nước. Kurt có hình một cái mỏ neo xăm trên cẳng tay và hình một con rồng trên ngực. Họ nằm dài trên bờ sông và liên tục ném cát mịn ướt sệt vào nhau. Họ đập lên người cô đúng chỗ chiếc quần bơi ướt ngay khi cô vừa nằm xuống. Hồi đó mọi thứ mới vui làm sao, đám đông vui vẻ, giấy rác vứt khắp nơi, và Kaspar, thân hình cơ bắp, tóc vàng, đứng ven hồ rung tay như thể đang rét run và hét toáng lên: "Nước ướt, ướt!" Cậu ta giữ mồm dưới nước khi bơi và rống lên như chó biển. Và việc đầu tiên cậu làm khi bơi lên bờ là chải lại mái tóc rồi cẩn thận đội mũ lên. Cô nhớ mình cùng chơi bóng với họ, rồi cô nằm xuống và họ phủ cát lên người cô, chỉ để chừa khuôn mặt và sau đó xếp lên phía trên một hình chữ thập bằng sỏi.

"Nhìn đây," Otto nói, và khi bốn chiếc cốc viền vàng đựng bia hơi xuất hiện trên bàn. "Mày chẳng có gì phải xấu hổ về bạn bè gia đình chỉ vì mày có một ông bồ giàu. Trái lại, mày phải nghĩ đến chúng ta chứ." Hắn nhấp một ngụm, và hai tên bạn hắn cũng làm theo. Cả hai cùng quan sát Margot với thái độ thù địch khinh thường.

"Anh chẳng hiểu anh đang nói gì cả," cô khinh khỉnh đáp lại. "Mọi thứ rất khác với những gì anh nghĩ. Thực ra chúng tôi đã đính hôn."

Cả ba cùng phá lên cười. Cô thấy dâng tràn cảm giác ghê tởm đến độ cô nhìn đi chỗ khác và bồn chồn lay cái khóa chiếc túi xách tay. Otto lấy cái túi từ tay cô, mở ra và tìm thấy một hộp phấn, chìa khóa, một chiếc khăn tay nhỏ xíu và ba mác rưỡi mà hắn chôm luôn.

"Chừng này đủ trả tiền bia," hắn nói rồi nghiêng người diễn điệu chào và đặt túi trước mặt cô.

Họ gọi thêm bia. Margot cũng khổ sở nuốt chút bia; cô vốn ghét bia, nhưng cô không muốn bọn họ uống phần của cô.

"Tôi đi được chưa?" cô hỏi và vuốt thẳng đôi lọn tóc bên thái dương.

"Cái gì? Mày không thích ngồi với anh mày và bạn bè của anh mày à?" Otto hỏi với giọng ngạc nhiên mỉa mai. "Trời ơi, mày thay đổi nhiều quá. Nhưng chúng ta vẫn còn chưa nói đến công chuyện..."

"Anh lấy cắp tiền của tôi rồi đấy, giờ thì tôi đi đây."

Bọn chúng lại gầm gừ và cô lại thấy hoảng sợ. "Không có chuyện lấy cắp ở đây," Otto độc ác nói. "Đây không phải là tiền của mày, mà là tiền mày lấy từ một kẻ kiếm được từ mồ hôi của giai cấp lao động. Vì thế tốt hơn là mày không nên nói đến chuyện lấy cắp. Mày..."

Hắn tự kiềm chế và nói tiếp với giọng bình tĩnh hơn:

"Nghe đây. Mày lấy một ít tiền mặt của ông bạn mày cho chúng tao và gia đình đi. Năm mươi mác là đủ. Hiểu không?"

"Thế giả sử tôi không hiểu?"

"Thế thì chúng tao sẽ trả thù êm ái," Otto khẽ trả lời. "Ồ, chúng tao biết hết về mày rồi đấy. Đính hôn à! Chuyện này vui đấy."

Nét mặt Margot bất chợt rạng lên và hạ hai hàng mi xuống thì thầm:

"Được thôi. Tôi sẽ lấy tiền cho anh. Thế là xong chứ? Tôi đi được chưa?"

"Ngoan đấy. Nhưng sao vội vã vậy? Ngoài ra chúng ta phải gặp nhau nhiều hơn chút nữa. Mày có muốn hôm nào đi chơi hồ không?" Hắn quay sang hai tên bạn. "Bọn mình từng vui chơi thích nhỉ! Đáng ra nó không nên tỏ vẻ kênh kiệu như thế, phải không nào?"

Nhưng Margot đã nhổm dậy và đứng uống nốt cốc bia.

"Trưa mai, ở cùng góc phố này," Otto nói, "rồi chúng ta sẽ lái xe đi chơi cả ngày. Đồng ý không?"

"Đồng ý," Margot vui tươi đáp. Cô bắt tay cả bọn rồi đi ra.

Cô quay về nhà, và khi Albinus đặt tờ báo xuống rồi đứng dậy đón cô, cô bước lảo đảo và giả vờ ngất xỉu. Đó là một màn diễn tầm thường nhưng hiệu quả. Ông lo sợ đến cùng cực, ông đặt cô nằm thoải mái trên xô pha, mang nước đến.

"Có chuyện gì vậy? Nói anh nghe nào," ông vừa vuốt tóc cô vừa nhắc đi nhắc lại không ngừng.

"Giờ thì anh sẽ bỏ em mất thôi," cô rên rỉ.

Ông nuốt nước bọt và nhảy ngay tới kết luận xấu nhất: rằng cô đã phản bội ông.

"Được thôi. Thế thì mình sẽ giết cô ta," ông nghĩ nhanh. Nhưng nói ra lời thì ông nhắc lại khá bình thản, "Có chuyện gì vậy, Margot?"

"Em đã lừa dối anh," cô thút thít.

"Cô ta phải chết," Albinus nghĩ.

"Em dối anh rất nhiều, anh Albert à. Trước hết, cha em không phải là họa sĩ; ông ấy từng là thợ sửa khóa, bây giờ thì ông ấy làm gác cổng. Mẹ em làm nghề lau cầu thang, còn anh trai em là công nhân bình thường. Em có một tuổi thơ vất vả, rất vất vả. Em bị đánh, bị hành hạ."

Albinus thấy nhẹ người khoan khoái, và tiếp đó là cảm giác thương xót ngập tràn.

"Không, anh đừng hôn em. Anh phải biết hết mọi chuyện. Em bỏ nhà đi. Em kiếm sống bằng nghề làm người mẫu. Em bị một mụ già khủng khiếp bóc lột. Sau đó em có một cuộc tình. Anh ta cũng có gia đình như anh, mà vợ anh ta không chịu ly dị, cho nên em bỏ anh ta vì em không chịu nổi chuyện chỉ là tình nhân, cho dù em yêu anh ta điên cuồng. Sau đó em bị một lão chủ nhà băng quấy rầy. Lão ta tặng em toàn bộ gia tài của lão, nhưng dĩ nhiên em từ chối. Lão ta chết vì vỡ tim. Sau đó em đi làm ở rạp chiếu bóng Argus."

"Ôi, tội nghiệp, thật tội nghiệp em, chú thỏ nhỏ bé bị săn đuổi của anh," Albinus thì thầm (tình cờ làm sao, cũng từ lâu ông đã thôi tin rằng ông là mối tình đầu của cô).

"Anh thật sự không khinh thường em chứ?" cô hỏi, mỉm cười qua hàng nước mắt, cảnh này khó diễn vì chẳng có tí nước mắt nào để mà cười qua cả. "Em rất mừng là anh không khinh thường em. Nhưng giờ để em kể cho anh chuyện kinh khủng nhất: anh trai em đã tìm ra chỗ em sống, hôm nay em gặp anh ta và anh ta đòi tiền, cố tống tiền em vì anh ta nghĩ rằng anh chưa biết gì... ý em nói chưa biết về quá khứ của em. Anh biết không, khi gặp anh ta và nghĩ rằng có ông anh trai như thế thật hổ thẹn, và rồi khi em nghĩ đến chú mèo dịu dàng đầy tin tưởng của em vẫn không hề biết gì về gia đình em - anh biết không, em rất xấu hổ vì họ và cũng vì em chưa kể sự thật cho anh..."

Ông bế cô lên và đung đưa cô; ông hẳn sẽ ngâm nga một câu hát ru nếu ông thuộc câu nào. Cô bắt đầu cười không thành tiếng.

"Chúng ta phải làm gì về chuyện này đây?" ông hỏi. "Giờ thì anh sợ để em đi ra ngoài một mình. Chúng ta báo cảnh sát chứ?"

"Không, đứng làm vậy," cô kêu lên, giọng nhấn khác thường.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,359
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 11


Ngày hôm sau lần đầu tiên Albinus hộ tống cô khi cô đi ra ngoài. Cô muốn mua nhiều váy mùa hè và đồ tắm, rồi cả đống kem để giúp mặt trời nhuộm rám làn da cô. Khu nghỉ mát Solfi ở biển Adriatic, nơi Albinus chọn cho chuyến du lịch đầu tiên của họ, là một nơi nóng nực và chói chang ánh nắng. Khi họ lên taxi, cô nhận thấy anh trai mình đứng bên kia đường, nhưng cô không chỉ anh ta cho Albinus thấy.

Việc phải xuất hiện bên cạnh Margot làm ông thấy hết sức lúng túng; ông không thể quen được với vị trí mới của mình. Khi họ quay về, Otto đã biến mất. Margot đã dự đoán rất chuẩn rằng hắn cảm thấy bị tổn thương và sẽ cư xử thiếu suy nghĩ.

Hai hôm trước ngày họ khởi hành, Albinus ngồi thảo một lá thư công chuyện tại chiếc bàn bất tiện lạ thường, trong khi cô sắp xếp đồ đạc vào chiếc va li mới đen bóng trong phòng kế bên. Ông nghe thấy tiếng giấy lau sột soạt và bài hát mà cô ngậm miệng âm ư khẽ hát cho mình nghe.

"Mọi thứ mới kỳ lạ làm sao," ông nghĩ. "Giá hôm Giao thừa người ta nói cho mình biết rằng vài tháng nữa đời mình sẽ thay đổi hoàn toàn..."

Margot đánh rơi thứ gì đó trong phòng bên cạnh. Tiếng âm ư ngưng lại một giây rồi khe khẽ tiếp tục.

"Sáu tháng trước đây mình là người chồng đúng chuẩn mực trong một thế giới không có Margot. Định mệnh đã xóa sổ nó gọn ghẽ làm sao! Những người đàn ông khác có thể kết hợp một cuộc sống gia đình hạnh phúc với những cuộc ngoại tình thoáng qua, nhưng với mình mọi thứ sụp đổ ngay lập tức. Tại sao vậy nhỉ? Và mình ngồi đây có vẻ như đang suy nghĩ rõ ràng và hợp lý. Nhưng trên thực tế cơn động đất đang trong lúc rung chuyển mạnh nhất và Chúa mới biết mọi việc sẽ tự dàn xếp thế nào..."

Bỗng nhiên chuông cửa reo. Từ ba cửa khác nhau Albinus, Margot và bà đầu bếp chạy cả vào sảnh cùng lúc.

"Albert," Margot gọi thầm, "anh hãy cẩn trọng. Em chắc là anh ta đấy."

"Đi vào phòng em đi," ông thầm thì trả lời. "Anh sẽ xử lý cậu ta ổn thỏa thôi."

Ông mở cửa. Đó là cô gái từ cửa hiệu may trang phục phụ nữ. Cô ta vừa đi khỏi thì chuông cửa lại reo lần nữa. Ông lại mở cửa. Trước mặt ông hiện ra một gã trẻ tuổi với khuôn mặt lỗ mãng đần độn, nhưng giống Margot đến kinh ngạc - cũng đôi mắt đen ấy, mái tóc bóng mượt ấy, cái mũi thẳng hơi chẻ ở chóp ấy. Hắn mặc bộ com lê ngày Chủ nhật và đầu mút cà vạt bị dém vào trong áo sơ mi, giữa hàng khuy.

"Cậu muốn gì?" Albinus hỏi.

Otto ho và nói bằng giọng khàn vẻ thổ lộ bí mật.

"Tôi cần nói chuyện với ông về em gái tôi. Tôi là anh trai của Margot."

"Thế tại sao lại là với tôi, tôi có thể biết được không?"

"Ông là... ngài...?" Otto bắt đầu bằng giọng hỏi vặn. "Ngài...?"

"Schiffermiller," Albinus nói, thấy khá nhẹ người khi biết rằng thằng nhóc vẫn chưa biết tên tuổi mình.

"Hừm, ngài Schiffermiller, tôi tình cờ thấy ông đi với em gái tôi. Nên tôi nghĩ ông có thể quan tâm nếu tôi... nếu chúng ta..."

"Tất nhiên rồi... nhưng sao lại đứng ở cửa? Mời cậu vào nhà."

Hắn đi vào và ho lần nữa.

"Điều tôi muốn nói là thế này, thưa ngài Schiffermiller. Em gái tôi còn trẻ người non dạ. Mẹ tôi không đêm nào ngủ được từ ngày cô bé Margot của gia đình tôi bỏ nhà đi. Em tôi mới có mười sáu tuổi, ông biết đấy - đừng có tin nó nếu nó nói nhiều tuổi hơn. Để tôi nói cho ông biết, chúng tôi là người đàng hoàng - cha tôi là cựu chiến binh. Đây là một tình thế rất, rất không hay ho. Tôi không biết cái gì có thể bù đắp được..."

Otto càng thêm tự chủ, bắt đầu gần như tin vào điều hắn nói.

"Tôi thật sự không biết," hắn nói tiếp, ngày càng hào hứng hơn. "Hãy hình dung xem, thưa ngài Schiffermiller, nếu ông có một cô em gái ngây thơ yêu quý mà lại bị người ta mua..."

"Này hãy nghe đây, anh bạn," Albinus ngắt lời hắn. "Hình như ở đây có chuyện nhầm lẫn nào đó. Vợ sắp cưới của tôi nói cho tôi hay là gia đình cô hẳn sẽ biết ơn nếu tống khứ được cô ấy đi."

"Ôi, không," Otto vừa nháy mắt vừa đáp. "Ông sẽ không làm cho tôi tin được rằng ông sẽ cưới nó đâu. Khi một người đàn ông muốn cưới một cô gái đứng đắn, thì ông ta đến nói chuyện với gia đình cô ấy. Hãy cẩn trọng hơn một chút và bớt cao ngạo hơn một chút, ngài Schifermiller ạ!"

Albinus tò mò nhìn Otto chăm chăm mà nghĩ rằng gã trai trẻ thô thiển này nói có lý do phần nào, vì hắn có quyền lo lắng cho hạnh phúc của Margot như Paul có quyền lo lắng cho hạnh phúc của chị gái mình. Quả thật, nếu so với cuộc hội thoại hãi hùng hai tháng trước thì cuộc chuyện trò này cứ như một phiên bản nhại lại tinh vi. Và ông thấy dễ chịu khi nghĩ rằng bây giờ ít nhất ông có thể phản kháng lại, dù hắn là anh trai hay không - tận dụng việc Otto chỉ là tên bịp bợm và du côn, dĩ nhiên.

"Tốt hơn cậu nên thôi đi," ông nói, rất quả quyết, rất bình tĩnh - đúng như một nhà quý tộc, thực vậy. "Tôi biết chính xác đầu đuôi mọi chuyện. Đây không phải việc của cậu. Bây giờ mời cậu đi khỏi đây."

"Ồ, thật thế à," Otto nhăn mặt đáp. "Được thôi."

Hắn im lặng, vận mũ lưỡi trai trong tay và nhìn xuống sàn nhà. Rồi hắn thử đổi giọng.

"Ông có thể phải trả giá đắt trước khi kết thúc đấy, ngài Schiffermiller à. Cô em bé bỏng của tôi không hẳn đúng như ông nghĩ đâu. Tôi nói là nó ngây thơ, nhưng đó là vì tình thương cảm của người anh trai mà thôi. Ông bị dắt mũi dễ dàng quá đấy, ngài Schiffermiller à. Thật hết sức buồn cười khi nghe ông gọi nó là vợ sắp cưới. Làm tôi không nhịn được cười. Giờ thì tôi có thể nói cho ông một vài điều..."

"Hoàn toàn vô ích," Albinus đỏ mặt đáp. "Cô ấy đã tự kể cho tôi hết. Một đứa trẻ không may mắn và gia đình không thể bảo vệ. Mời cậu đi ngay lập tức," và Albinus mở cửa ra.

"Ông sẽ hối tiếc đấy," Otto vụng về nói.

"Đi ngay nếu không tao tống cổ mày ra," Albinus nói thêm (để hân hoan chạm vào đích chiến thắng, như người ta vẫn nói).

Otto bỏ đi rất từ từ.

Được trời phú tính đa cảm hời hợt đặc trưng của giới trưởng giả, Albinus (với kiểu cách quý phái) bỗng hình dung trong đầu cuộc đời nghèo khổ và xấu xa của cậu thanh niên đó. Thêm nữa - hắn ta đến là giống Margot khi cô hờn dỗi. Trước khi đóng cửa, ông rút nhanh ra một tờ mười mác ấn vào tay Otto.

Cửa đóng lại. Đứng một mình ở chiếu nghỉ cầu thang, Otto xem xét tờ giấy bạc, mải mê nghĩ ngợi một giây, rồi rung chuông cửa.

"Cái gì thế, quay lại hở?" Albinus hét lên.

Otto chìa bàn tay nắm tiền ra.

"Tôi không muốn tiền boa của ông." Hắn giận dữ càu nhàu. "Tốt hơn hết là ông đem cho những người thất nghiệp - có vô khối người như thế."

"Thôi, xin cậu hãy cầm lấy," Albinus nói, cảm thấy ngượng chín người.

Otto nhún vai.

"Tôi không thèm nhận mấy vụn bánh của những kẻ giàu nứt đố đổ vách. Người nghèo cũng biết tự trọng. Tôi..."

"Chà, đó chỉ là..." Albinus dợm nói.

Otto lê chân, sưng sỉa nhét tờ giấy bạc vào túi áo, đoạn vừa lẩm bẩm vừa bước xuống cầu thang. Danh dự xã hội đã được thỏa mãn xong, giờ đây hắn có thể cho phép mình thỏa mãn các nhu cầu nhân sinh.

"Không nhiều nhặn gì," hắn nghĩ, "nhưng dù sao có còn hơn không... và lão ta sợ mình, cái lão mắt trố nói lắp ngu xuẩn đó."
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,359
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 12


Từ lúc Elisabeth đọc được mấy dòng thư của Margot, cuộc sống của bà biến thành một trong những câu hỏi đánh đố quái dị dài lê thê mà người ta bắt tay cố giải cho ra trong phòng học mộng tưởng của cơn mê sảng u uất. Và bắt đầu bà có cảm giác như chồng mình đã chết và mọi người đang cố lừa cho bà nghĩ rằng chẳng qua ông đã bỏ rơi bà.

Bà nhớ lại - vào buổi tối mà giờ đây dường như thật xa xăm - bà hôn lên trán ông trước khi ông đi, và ông cúi người nói: "Dù sao đi nữa, tốt hơn em nên xin hẹn với Lampert. Không thể cứ để con bé tiếp tục gãi như thế được."

Đó là những lời cuối cùng của ông trong cuộc sống này, những lời đơn giản bình thường nói về mấy vết sẩy ngứa nhẹ phát ra trên người bé Irma - và rồi ông bỏ đi mãi mãi.

Lọ thuốc mỡ kẽm đã chữa khỏi chỗ ngứa đó sau vài ngày - nhưng không thuốc mỡ nào trên thế giới này có thể xoa dịu và xóa đi ký ức về vầng trán rộng màu trắng của ông và cách ông vỗ nhẹ lên túi áo khi rời khỏi căn phòng.

Trong những ngày đầu tiên, bà đã khóc nhiều đến mức chính là bà cũng ngạc nhiên về dung tích tuyến nước mắt của mình. Các nhà khoa học có biết lượng nước mặn chát có thể chảy ra từ mắt người là bao nhiêu không? Và điều đó làm bà nhớ đến một mùa hè trên bờ biển nước Ý, họ từng hay tắm cho con bé trong bồn nước biển - ôi, những giọt nước mắt của bà có thể trút đầy một cái bồn còn to hơn thế nhiều và tắm cho cả một người khổng lồ vùng vẫy.

Không rõ vì sao bà thấy việc ông từ bỏ Irma dường như còn khủng khiếp hơn nhiều so với việc ông bỏ bà đi. Hay là ông sẽ cố đánh cắp con gái mình? Gửi con bé về quê cùng cô bảo mẫu liệu có là thận trọng hơn không? Thế là thận trọng, Paul nói vậy, và ông giục bà cũng đến đó luôn. Nhưng bà không nghe theo. Tuy bà cảm thấy sẽ không bao giờ có thể tha thứ (không vì ông đã làm bẽ mặt bà - bà quá kiêu hãnh nên không thể cảm thấy mình bị đối xử tệ bạc như thế - nhưng vì ông đã tự hạ nhục mình), song Elisabeth vẫn chờ đợi, ngày này qua ngày khác, hy vọng cửa sẽ mở ra giống trong cái đêm bất ngờ như sét đánh ngang tai đó, và chồng bà sẽ bước vào, nhợt nhạt như Lazarus[1], đôi mắt màu xanh của ông sưng húp nhoẹt nhòe, quần áo tả tơi từng mảnh, hai tay dang rộng.

[1. Trong Tân Ước, Lazarus là em của Madeleine, được Chúa Jesus hồi sinh.]

Phần lớn thời gian mỗi ngày bà ngồi trong một căn phòng nào đó, hay thậm chí đôi khi trong sảnh - ở bất cứ chỗ nào mà màn sương nặng trịch của tâm tư bất thần chiếm ngự bà - và bà suy ngẫm về chi tiết này hay chi tiết kia trong cuộc đời làm vợ của mình. Bà thấy dường như ông đã luôn không chung thủy. Và lúc này đây bà nhớ và hiểu ra (như một người đang học một ngôn ngữ mới có thể nhớ ra mình từng nhìn thấy một cuốn sách bằng ngôn ngữ đó lúc còn chưa biết) những vết đỏ - những nụ hôn đỏ nhớp nhúa – mà bà đã có lần nhìn thấy trên khăn mùi soa của chồng.

Paul đã làm hết những gì có thể để chuyển hướng suy nghĩ của bà. Ông không bao giờ nhắc tới Albinus. Ông thay đổi một số thói quen yêu thích của mình – chẳng hạn như thói quen đi nhà tắm hơi kiểu Thổ mỗi sáng Chủ nhật. Ông mang tạp chí và tiểu thuyết đến cho bà, và họ trò chuyện về thời thơ ấu của họ, về cha mẹ họ đã qua đời từ lâu, và về người anh trai tóc vàng bị chết trong trận Somme[2]: đó là một nhạc sĩ, một kẻ mơ mộng.

[2. Một trận đánh đẫm máu diễn ra vào mùa hè và mùa thu năm 1916 trong Chiến tranh Thế giới thứ nhất.]

Vào một ngày hè nóng nực nọ, họ đi công viên xem một chú khỉ nhỏ, nó trốn thoát khỏi ông chủ và leo lên một cây du cao. Khuôn mặt nhỏ đen đúa của nó dưới vòng lông tơ màu xám ló nhìn ra từ đám lá xanh và biến mất, rồi một cành cây kêu xào xạc và lay động ở vài thước trên cao. Ông chủ cố dụ nó xuống bằng một điệu huýt sáo khẽ, bằng một quả chuối to màu vàng, bằng một tấm gương bỏ túi mà ông làm lóe sáng đi lóe sáng lại, nhưng chỉ hoài công.

“Nó sẽ không quay lại đâu, vô vọng thôi, nó sẽ vĩnh viễn không quay lại đâu,” bà lẩm bẩm rồi òa khóc.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,359
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 13


Phía trên không có gì ngoài một màu xanh thẳm, Margot nằm xoãi người như đại bàng dang cánh trên bờ cát màu bạch kim, chân tay cô nhuốm một màu nâu mật ong đậm sánh, và một dải thắt lưng cao su mảnh màu trắng nổi trên nền đen của chiếc áo tắm: một bức áp phích quảng cáo bãi biển hoàn hảo. Bên cạnh cô, Albinus nằm chống tay lên má và với niềm khoái cảm vô hạn ông ngắm nhìn màu sáng trơn bóng của mi mắt đang khép cùng đôi môi vừa trang điểm của cô. Mái tóc đen ướt của cô được hất từ vầng trán tròn ra phía sau và những hạt cát lấp lánh trong đôi tai nhỏ bé. Nếu nhìn rất gần, sẽ thấy bờ vai màu nâu bóng của cô phủ lớp lông tơ óng ánh. Cái thứ màu đen bó sát như hải cẩu cô đang mặc ngắn đến không tưởng được.

Albinus thả một nắm cát chảy nhỏ giọt, như từ một chiếc đồng hồ cát, lên chỗ hõm trên bụng cô. Cô mở mắt, chớp chớp trong ánh nắng chói màu xanh bạc, mỉm cười rồi lại nhắm mắt.

Một lúc sau cô nhổm dậy, vòng hai tay ôm chặt đầu gối và ngồi bất động. Lúc này ông có thể nhìn thấy tấm lưng trần đến eo của cô đang lấp lánh những hạt cát dọc đường cong cột sống. Ông nhẹ nhàng phủi cát đi. Làn da cô mượt mà nóng bỏng.

“Trời ơi,” Margot nói, “hôm nay biển mới xanh làm sao.”

Biển đúng là rất xanh: xanh tía nhìn từ xa, xanh biếc màu cánh trả khi đến gần hơn, xanh kim cương chỗ những ngọn sóng bắt được ánh sáng. Lớp bọt sóng xô ào lên, chảy đi, chậm dần, rồi rút đi, tráng lên bờ cát ướt một mảng gương mịn, đến lượt nó lại bị đợt sóng tiếp theo phủ ngập lên. Một người đàn ông lông lá mặc quần màu đỏ cam đứng ở mép nước đang lau cặp kính. Một cậu bé sung sướng hét ầm lên mỗi khi bọt sóng chảy xô vào trong thành quốc có tường bao quanh mà cậu vừa xây. Những chiếc dù sặc sỡ và lều kẻ sọc dường như lặp lại về màu sắc cái hiệu ứng mà tiếng hò hét của những người tắm biển gây ra đối với tai người. Một quả bóng lớn rực rỡ từ đâu đó ném đến nảy thình thịch trên cát. Margot bắt lấy quả bóng, nhảy lên ném trả lại.

Lúc này Albinus nhìn thấy dáng người cô lồng trong cái nền sặc sỡ của bãi biển; cái nền mà ông gần như không nhìn ra, bởi ánh mắt đăm đăm của ông đang hoàn toàn tập trung vào Margot. Mảnh dẻ, cháy nắng, với mái tóc đen và một cánh tay long lánh chiếc vòng vẫn còn dang ra sau cú ném, với ông cô dường như là một bức tranh minh họa tô màu tinh tế mở đầu chương thứ nhất trong cuộc đời mới của ông.

Cô đến gần khi ông đang nằm xoãi người (với chiếc khăn tắm phủ trên đôi vai đỏ rộp), ngắm cử động của đôi bàn chân cô nhỏ nhắn. Cô cúi xuống ông, và với điệu cười khúc khích của dân Berlin cô đập mạnh trúng vào chiếc quần bơi căng kín của ông.

“Nước ướt!” cô hét lên và chạy như bay. Rồi cô tiến bước với cặp hông đong đưa và hai cánh tay dang rộng, lao về phía trước đến chỗ nước ngập đầu gối, đoạn ngã bò người xuống, cố gắng bơi, cười rúc rích, rồi cô bò nhổm lên và lại đi tiếp đến chỗ lớp bọt sóng ngập đến eo. Ông nhảy tùm xuống biển đuổi theo cô. Cô quay lại phía ông, cười, nhổ nước, vuốt những sợi tóc ướt khỏi mắt. Ông toan dìm cô xuống, rồi túm lấy mắt cá chân cô, còn cô thì vừa đạp vừa la hét.

Một phụ nữ Anh đang ngả người trên chiếc ghế võng dưới cây dù màu hoa cà mà đọc Punch[1]. Bà quay sang chồng mình, một người đàn ông mặt đỏ đội mũ trắng đang ngồi xổm trên cát, và nói:

“Anh nhìn ông người Đức đang nô đùa với cô con gái kìa. Giờ thì đừng lười nhác nữa nào, William. Anh đưa bọn trẻ ra đó bơi cho thỏa thích đi.”

[1. Punch là một tạp chí hàng tuần của Anh in các truyện hài.]
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,359
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 14


Sau đó, trong chiếc áo choàng tắm sặc sỡ, họ đi lên bờ và lên tiếp con đường đầy đá một nửa phủ dưới những cây đậu chổi và kim tước. Đằng xa là một biệt thự nhỏ với giá thuê cắt cổ, trắng lấp lánh như đường kính giữa những cây bách đen. Những chú dế to tướng lộng lẫy lướt qua mặt đường lát sỏi. Margot cố bắt chúng. Cô khom người thận trọng xòe ngón tay trỏ và ngón tay cái ra, nhưng cẳng chân gập sát của chú dế giật bất ngờ, đôi cánh màu xanh lơ hình quạt chĩa ra và nó bay khoảng ba thước tiếp rồi mất hút ngay khi hạ cánh.

Trong căn phòng mát mẻ sàn lát gạch đỏ, ánh sáng qua khe cửa chớp nhảy nhót trong mắt còn dưới chân thì vẽ thành những đường sáng, Margot, như con rắn, rũ bộ da màu đen ra, và trên người không có gì ngoài đôi giày cao gót, cô vừa lách cách đi tới đi lui trong phòng vừa ăn một quả đào nghe xuyn xuýt; những sọc nắng đan qua đan lại trên thân hình cô.

Buổi chiều tối có khiêu vũ ở sòng bạc. Biển trông nhạt màu hơn bầu trời đang ửng đỏ, và ánh sáng từ một chiếc tàu hơi nước chạy qua rực rỡ như trong ngày hội. Một chú bướm đêm vụng về đập cánh quanh chiếc đèn có chụp hình hoa hồng; và Albinus nhảy với Margot. Mái đầu chải mượt của cô chỉ vừa chạm đến vai ông.

Chẳng bao lâu sau khi đến, họ làm quen với vài người. Ông nhận thấy mình bị vò xé bởi cảm xúc ghen tuông thấp hèn khi nhìn thấy trong lúc nhảy Margot ép sát vào bạn nhảy, nhất là ông biết cô không mặc gì dưới chiếc váy mỏng manh: cặp chân cô rám nắng đẹp đến độ cô không cần mang vớ. Đôi khi Albinus mất hút cô. Khi đó, ông đứng dậy bồn chồn đi vòng quanh, đập đập điếu thuốc lên chiếc hộp. Ông lang thang đi vào một căn phòng nơi mọi người đang chơi bài, đi lên sân thượng, rồi quay trở lại với niềm tin phát ớn rằng cô đang lừa dối ông. Đột nhiên cô hiện ra từ hư không và ngồi xuống bên ông trong chiếc váy đẹp tỏa ánh sáng lung linh và nhấp một ngụm rượu vang lớn. Ông không để lộ nỗi lo sợ của mình, nhưng tay ông dưới bàn bồn chồn vuốt ve đầu gối trần của cô cứ gõ vào nhau mỗi khi cô ngả người ra ghế và phá lên cười – với vẻ hơi cuồng loạn, ông nghĩ vậy – vì điều gì đó không hài hước cho lắm mà người bạn nhảy gần nhất của cô đang nói.

Để ghi điểm cho Margot, phải thừa nhận rằng cô đã cố gắng hết sức để vẫn khá chung thủy với ông. Nhưng dù ông có dịu dàng và chu đáo đến đâu trong chuyện chăn gối, cô vẫn luôn biết rằng với cô tình yêu này sẽ luôn thiếu một điều gì đó, trong khi sự đụng chạm dù nhẹ nhất của người tình đầu tiên vẫn mãi là một bản mẫu cho hết thảy mọi điều. Thật không may, một cậu người Áo trẻ tuổi nhảy giỏi nhất Solfi, và chơi bóng bàn cừ khôi, lại hao hao giống gã đàn ông tên Miller; có cái gì đó trong những đốt ngón tay mạnh mẽ của hắn, đôi mắt sắc nhạo báng của hắn cứ không ngừng làm cô nhớ đến chuyện cô muốn quên đi.

Vào một đêm nóng bức, giữa hai điệu nhảy, cô tình cờ cùng hắn đi lạc vào một góc tối trong khu vườn sòng bạc. Mùi thơm thơm nhàn nhạt của cây vá đè nặng không gian và sự pha trộn buồn tẻ giữa ánh trăng và tiếng nhạc vọng đến từ xa dễ làm rung động những tâm hồn đơn giản.

“Đừng đừng,” Margot thì thầm khi cô cảm thấy môi hắn áp lên cổ và má mình, trong khi những ngón tay tinh ranh của hắn dò dẫm trên chân cô lần về phía trên.

“Anh đừng làm thế,” cô thì thầm, và ngả đầu ra sau ngấu nghiến hôn trả hắn. Hắn vuốt ve cô tỉ mỉ khắp người đến độ cô thấy chút sức lực ít ỏi còn lại trong cô đang tiêu tán mất, nhưng đúng lúc đó cô thoát ra được và bỏ chạy lên sân thượng thắp đèn sáng trưng.

Cảnh này không bao giờ lặp lại nữa. Margot đã quá si mê cuộc sống mà Albinus mang đến cho cô – một cuộc sống đầy ắp sự quyến rũ của bộ phim hạng nhất với những cây cọ đung đưa và những bông hồng run rẩy (bởi luôn có gió trong thế giới màn ảnh) – và cô sợ phải thấy nó vỡ vụn ra hết đến độ cô không dám mạo hiểm; quả thực trong một thời gian cô còn mất đi cả tính cách chủ đạo của mình – sự tự tin. Tuy nhiên cô lấy lại được sự tự tin ngay sau khi họ trở về Berlin vào mùa thu.

“Rất đẹp, không còn nghi ngờ gì nữa,” cô khô khan nhận xét trong lúc xem một phòng khách sạn tiện nghi họ vừa thuê, “nhưng em hy vọng là anh hiểu, anh Albert à, chúng ta không thể tiếp tục như thế này mãi được.”

Albins đang thay quần áo để đi ăn tối, vội trấn an cô rằng ông đã tiến hành thủ tục thuê một căn hộ mới.

“Ông ta thực sự nghĩ rằng mình ngốc lắm sao?” cô tự hỏi trong nỗi oán giận dữ dội.

“Anh Albert,” cô lên giọng. “Em thấy anh không hiểu.” Cô thở dài một hơi thật sâu và lấy hai tay ôm mặt. “Anh thấy xấu hổ vì em,” cô nói, quan sát ông qua kẽ ngón tay.

Ông hoan hỉ cố ôm cô vào lòng.

“Đừng chạm vào em,” cô hét lên, dùng khuỷu tay xô mạnh ông ra. “Em biết rất rõ là anh sợ bị người ta thấy đi với em ngoài phố. Nếu anh xấu hổ vì em thì anh có thể bỏ em để quay về với bà Lizzy của anh. Anh hoàn toàn tự do mà.”

“Ôi đừng làm thế, em yêu,” ông bất lực van nài cô.

Cô lao người lên xô pha và cố bật ra những tiếng nức nở.

Albinus kéo quần lên, quỳ xuống, cố thận trọng chạm vào vai cô đang giật lên mỗi khi ngón tay ông đến gần.

“Em muốn gì nào?” ông hỏi nhẹ nhàng. “Em muốn gì nào, Margot?”

“Em muốn sống với anh thật công khai,” cô khóc sướt mướt. “Trong nhà của anh. Và gặp mọi người…”

“Được thôi,” ông nói, và đứng dậy phủi ống quần.

(“Và trong khoảng một năm nữa ông ta sẽ cưới mình,” Margot nghĩ bụng đồng thời tiếp tục thổn thức rất thật, “ông sẽ cưới tôi trừ phi lúc đó tôi đã ở Hollywood rồi, nếu vậy thì ông có thể xuống địa ngục luôn cũng được.”)

“Nếu em không thôi khóc, chính anh cũng sẽ khóc mất,” Albinus nói.

Margot ngồi dậy và não nùng cười. Nước mắt chỉ làm tăng thêm sắc đẹp của cô. Gương mặt cô bốc lửa, con ngươi rực sáng, và một giọt nước mắt lớn đang run rẩy bên mũi cô: ông chưa từng nhìn thấy giọt nước mắt nào lại to và rực rỡ như thế.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,359
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 15


Ngay khi vừa mới quen với việc không bao giờ nói với Margot về nghệ thuật, lĩnh vực mà cô không biết gì và cũng không hề quan tâm, thì Albinus đã phải học cách giấu giếm nỗi đau khổ ông phải chịu đựng trong những ngày đầu tiên họ sống chung ở căn hộ cũ, nơi ông từng sống mười năm với vợ mình. Tất cả mọi vật xung quanh đều làm ông nhớ đến Elisabeth; những món quà bà tặng ông, và những món quà ông tặng bà. Trong mắt Frieda ông đọc thấy lời khiển trách sưng sỉa, và không quá một tuần sau cô ta đã bỏ đi sau hai ba lần khinh khỉnh lắng nghe Margot tuôn ra những lời mắng mỏ the thé.

Căn phòng ngủ và phòng trẻ dường như đăm đăm nhìn Albinus với vẻ trách móc ngây thơ cảm động, nhất là phòng ngủ, vì Margot đã kịp thời dọn sạch mọi đồ đạc trong phòng trẻ và biến nó thành chỗ chơi bóng bàn. Tuy nhiên, phòng ngủ… Đêm đầu tiên Albinus cảm tưởng như có thể ngửi thấy mùi nước hoa nhè nhẹ của vợ, khiến ông chán nản và mất hứng đến độ Margot cười rúc rích trước sự rụt rè bất ngờ của ông.

Cú điện thoại đầu tiên là một trận tra tấn. Một người bạn cũ gọi đến hỏi thăm chuyến du lịch ở Ý có tốt đẹp không, Elisabeth có khỏe không và liệu bà có thể đi dự buổi hòa nhạc cùng vợ ông ta vào sáng Chủ nhật không.

“Thật ra, trước mắt chúng tôi đang sống ly thân,” Albinus khó khăn nói. (“Trước mắt!” Margot chế giễu nghĩ thầm khi uốn éo trước gương để săm soi tấm lưng đã phai từ nâu thành vàng ánh kim.)

Tin về biến đổi trong cuộc sống của ông lan rất nhanh, mặc dù ông cả tin hy vọng rằng không ai biết ông đang sống với nhân tình; khi họ bắt đầu tổ chức các buổi tiệc tùng, ông áp dụng biện pháp đề phòng thường lệ bằng cách để Margot đi ra cùng đám khách khứa và mười phút sau quay về nhà.

Ông cảm thấy một mối quan tâm buồn thảm trong việc mọi người dần dần hỏi thăm vợ ông; một số người thôi không đến chơi nhà ông nữa; và một vài người, quen vay mượn ông đều đặn, bỗng trở nên thân thiện và nhiệt tình đáng ngạc nhiên; đám nghệ sĩ cố tỏ ra như không có chuyện gì; và cuối cùng, một số người, chủ yếu là học giả đồng nghiệp, vẫn sẵn sàng đến chơi như trước nhưng không bao giờ đi cùng vợ, và hình như giữa những bà vợ của họ đang lây lan một cơn dịch đau đầu lạ kỳ.

Ông ngày càng quen dần với sự hiện diện của Margot trong các căn phòng từng đầy ắp ký ức. Cô chỉ cần thay đổi vị trí một số đồ vật thông thường thì ngay lập tức nó liền mất đi linh hồn của mình và ký ức về nó tắt rụi; vấn đề chỉ là cô cần bao lâu để động tới hết thảy mọi thứ, và nhờ bàn tay nhanh nhẹn của cô, vài tháng sau cuộc sống quá khứ của ông trong mười hai căn phòng này đã chết hẳn. Căn hộ giờ đây dù đẹp đến đâu cũng không còn điểm gì chung với căn hộ nơi ông từng sống cùng vợ.

Một đêm khuya, khi ông đang xát xà phòng lên lưng Margot sau buổi khiêu vũ, còn cô đang vui thú với trò đứng lên trên miếng bọt biển khổng lồ giữa bồn tắm đầy nước (bong bóng trào lên như trong ly sâm banh), cô đột nhiên hỏi ông có nghĩ rằng cô có thể trở thành diễn viên điện ảnh hay không. Ông cười và nói không suy nghĩ, vì toàn bộ tâm trí ông đang bị cuốn hút vào những điều dễ chịu khác: “Tất nhiên rồi, sao lại không?”

Vài ngày sau cô quay lại đề tài đó, lần này cô chọn thời điểm lúc đầu óc Albinus tỉnh táo hơn. Ông rất vui mừng về mối quan tâm của cô đến điện ảnh và bắt đầu tuôn ra một lý thuyết yêu thích về giá trị so sánh của phim câm và phim nói: “m thanh sẽ giết chết điện ảnh ngay lập tức,” ông nói.

“Người ta làm phim như thế nào?” cô ngắt lời ông.

Ông đề xuất dẫn cô tới phòng quay nơi ông có thể cho cô xem mọi thứ và giải thích quá trình làm phim. Sau đó sự việc tiến triển rất nhanh chóng.

“Thôi ngay, mình đang làm gì đây nhỉ?” một sáng nọ Albinus tự hỏi khi nhớ lại đêm trước ông đã hứa cấp tiền cho bộ phim một nhà sản xuất xoàng xĩnh muốn thực hiện, với điều kiện là Margot được giao vai nữ phụ, một người tình bị bỏ rơi.

“Mình thật là ngu!” ông nghĩ. “Chỗ đó sẽ đầy các nam diễn viên trẻ tuổi dẻo mồm tràn trề sức quyến rũ phụ nữ - và mình sẽ tự biến mình thành lố bịch nếu cứ đi theo cô ấy khắp nơi. Mặt khác”, ông an ủi bản thân, “cô ấy cần một loại công việc gì đó để làm bản thân luôn vui thú, và nếu cô ấy phải dậy sớm thì mình và cô ấy sẽ khỏi phải lãng phí từng đêm khốn khổ ở mấy trò khiêu vũ.”

Hợp đồng được ký và các buổi diễn tập bắt đầu. Trong hai ngày đầu tiên Margot trở về nhà trong tâm trạng cực kỳ cáu kỉnh và phẫn uất. Cô phàn nàn rằng cô bị buộc phải lặp lại cùng một động tác đến hàng trăm lần liên tục, rằng ông đạo diễn la mắng cô, rằng cô bị lóa mắt do đèn chiếu. Cô chỉ có một niềm an ủi duy nhất: nữ diễn viên (khá nổi tiếng) đóng vai chính, Dorianna Karenina, tỏ ra dễ mến với cô, cô ta khen ngợi diễn xuất của cô và tiên đoán rằng cô sẽ làm nên những điều kỳ diệu. (“Một điềm gở!” Albinus nghĩ bụng.)

Cô nhấn mạnh rằng ông không được có mặt trong lúc cô làm việc: sự có mặt của ông làm cô lúng túng, cô nói. Bên cạnh đó, nếu ông thấy mọi thứ trước khi chiếu, bộ phim sẽ không còn gây bất ngờ cho ông nữa – mà Margot thì thích làm mọi người bất ngờ. Tuy nhiên, ông tìm thấy thật nhiều niềm thích thú trong việc thoáng nhìn được cô đang diễn các tư thế kịch trước chiếc gương đứng; một tấm ván sàn cọt kẹt làm ông bị lộ, cô ném chiếc gối màu đỏ vào người ông và ông phải thề rằng ông chưa nhìn thấy gì hết.

Ông thường lái xe đưa cô đến phòng quay và sau đó đến đón cô về. Một ngày nọ, được biết buổi diễn tập sẽ kéo dài khoảng hai giờ, ông đi dạo và nhầm đường vào khu phố nơi Paul sống. Ngay lập tức ông cảm thấy nhói lên niềm mong muốn được gặp cô con gái bé nhỏ nhợt nhạt ít hấp dẫn của mình: lúc đó là khoảng thời gian con bé thường đi học về. Khi rẽ ở góc phố, ông nửa mơ nửa tỉnh đã nhìn thấy nó cùng cô bảo mẫu từ xa, nhưng đột nhiên ông thấy lo sợ và vội rảo bước đi.

Cũng đúng ngày hôm đó, Margot đi ra về phía ông, bừng đỏ, tươi cười: cô đã diễn thành công, thành công – và việc quay phim sẽ sớm kết thúc.

“Anh sẽ nói với em một chuyện,” Albinus nói. “Anh sẽ mời Dorianna đến ăn tối. Chúng ta sẽ tổ chức một bữa thịnh soạn và mời một số khách thú vị. Hôm qua một họa sĩ gọi điện cho anh, anh ta là họa sĩ biếm họa, đúng hơn là một người vẽ tranh hài các thứ, em biết đó. Anh ta vừa từ New York về, và anh ta rất có tài theo cách riêng của mình. Anh cũng sẽ mời anh ta nữa.”

“Chỉ có điều em muốn ngồi cạnh anh cơ,” Margot nói.

“Được rồi, cưng của anh, nhưng nhớ là anh không muốn tất cả họ biết là em đang sống chung với anh.”

“Ồ, họ đều biết rồi mà, anh ngốc ạ,” Margot nói, mặt cô đột nhiên tối sầm lại.

“Nhưng việc đó làm em rơi vào vị trí trái cựa chứ không phải anh,” Albinus chỉ rõ. “Em phải nhận thấy điều này chứ. Chuyện đó không quan trọng với anh, tất nhiên rồi, nhưng vì lợi ích của em, xin em vui lòng làm như lần trước.”

“Nhưng như thế ngớ ngẩn lắm… Và bên cạnh đó, vẫn có cách để chúng ta tránh những chuyện khó chịu này mà.”

“Làm thế nào, tránh họ à?”

“Nếu anh không hiểu,” cô bĩu môi. (“Khi nào thì ông ta mới nói đến chuyện ly hôn đây?” cô nghĩ.)

“Xin em hãy đúng mực nào,” Albinus nói ngọt với cô. “Anh làm tất cả mọi thứ em yêu cầu. Em biết khá rõ mà, mèo con của anh…”

Dần dần ông đã có được một bộ sưu tập khá nhiều tên gọi yêu.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,359
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 16


Mọi chuyện diễn ra đúng như dự định. Trên chiếc khay sơn mài đặt trong sảnh là những tấm thẻ được khéo léo làm sẵn, có ghi tên các vị khách mời xếp thành cặp, để mọi người đều biết ngay mình sẽ ngồi cạnh ai trong bữa tối: bác sĩ Lampert và Sonia Hirsch; Axel Rex và Margot Peters; Boris von Ivannoff và Olga Waldheim, vân vân. Một người hầu (vừa mới được tuyển) đầy ấn tượng với khuôn mặt của một bậc thượng lưu người Anh (hay ít ra Margot nghĩ vậy, và cặp mắt cô thường nấn ná nhìn hắn không hề ác cảm) trịnh trọng mời khách vào. Cứ vài phút chuông cửa lại reo. Trong phòng khách đã có năm người, ngoài Margot. Bước vào tiếp là Ivanoff – von Ivanoff, cái tên ông ta coi là xứng đáng để người khác gọi ông, người gầy, mặt giống loài chồn, hàm răng gớm guốc và đeo kính một mắt. Sau đó là Baum, nhà văn, một kẻ nhặng xị, mập lùn, mặt đỏ, có khuynh hướng cộng sản rõ rệt và thu nhập dư dả, đi cùng vợ, một phụ nữ đứng tuổi, thân hình còn rất mỹ miều, trong những năm tháng tuổi trẻ ngông cuồng từng bơi trong bể kính giữa những chú hải cẩu làm xiếc.

Chuyện trò đã khá rôm rả. Olga Waldheim, nữ ca sĩ có hai cánh tay trắng muốt, bộ ngực tròn căng, mái tóc uốn sóng màu mứt cam, và âm điệu báu ngọc trong mỗi lần nàng uốn giọng, như thường lệ đang kể những mẩu chuyện đáng yêu về sáu chú mèo Ba Tư của mình. Albius đứng cười và vừa chăm chú nhìn Margot qua bờm tóc trắng của ông bạn Lampert (một chuyên gia tài năng về họng và biết chơi vĩ cầm với trình độ xoàng xoàng) vừa nghĩ trong đầu rằng chiếc váy đăng ten màu đen cùng bông thược dược bằng nhung gài ở ngực mới hợp với cô làm sao, chà thật là đáng yêu. Trên đôi môi đỏ rực thoáng nụ cười phòng thủ, như thể cô không dám chắc người ta có đang giễu cợt cô hay không, và mắt cô biểu lộ vẻ nai tơ đặc biệt, ông biết thế có nghĩa là cô đang phải nghe những thứ cô chẳng hiểu gì: trong trường hợp này là những ý tưởng của Lampert về âm nhạc của Hindemith.

Bỗng nhiên ông nhận thấy cô mặt đỏ bừng bừng và nhổm dậy. “Thật ngốc nghếch, tại sao cô ấy lại đứng dậy như thế nhỉ?” ông thầm nghĩ trong khi vài người khách mới đến bước vào: Dorianna Karenina, Axel Rex và hai nhà thơ trẻ hạng tép riu.

Doriana ôm hôn Margot làm mắt Margot sáng long lanh như vừa mới khóc. “Đúng là ngốc thì mới uốn gối trước cái cô diễn viên hạng hai đó,” Albinus lại nghĩ. Dorianna nổi tiếng vì có đôi vai thanh tú, nụ cười Mona Lisa và chất giọng khàn khàn của lính ném lựu đạn.

Albinus bước lại gần Rex đang còn chưa biết ai là chủ nhà và đang xoa xoa hai tay như xát xà phòng.

“Tôi rất vui vì cuối cùng cũng được gặp anh,” Albinus nói. “Anh có biết là tôi đã hình dung về anh rất khác – lùn, béo, đeo kính gọng sừng, cho dù tên anh luôn làm tôi nghĩ đến một cây rìu. Thưa quý ông quý bà, đây là người gây cười cho cả hai lục địa. Chúng ta hãy hy vọng lần quay lại Đức này anh ấy sẽ ở lại hẳn.”

Với cặp mắt lấp lóe, Rex khẽ cúi chào nhiều lần trong khi vẫn liên tục xoa tay. Hắn diện một bộ vét kiểu công sở đẹp mê hồn giữa một thế giới smoking Đức cắt may xấu xí.

“Xin mời mọi người vào bàn,” Albinus nói.

“Tôi đã gặp em gái ông rồi thì phải?” Dorianna hỏi bằng giọng trầm đáng yêu của mình.

“Em gái tôi đang ở trên Thiên đường,” Rex trang nghiêm đáp.

“Ồ, tôi xin lỗi,” Dorianna nói.

“Chưa từng ra đời,” hắn nói thêm và ngồi xuống chiếc ghế cạnh Margot.

Vừa cười khoan khoái, Albinus vừa thả ánh mắt mình đi lạc về phía Margot. Cô đang nghiêng người về phía khách ngồi kế bên, Sonia Hirsch, họa sĩ lập thể dáng vẻ từ mẫu, với khuôn mặt tẻ nhạt. Trong dáng dấp giống trẻ con đến lạ, đôi vai Margot hơi nhô lên và cô nói nhanh bất thường, đôi mắt cô ươn ướt và hàng mi chớp chớp. Ông nhìn xuống chiếc tai nhỏ xinh ửng đỏ của cô, đường ven ở cổ cô, mảng tối mềm mại giữa hai bờ ngực cô. Một tay ép lên gò má cháy bỏng, cô nôn nóng say sưa tuôn ra hàng tràng câu vô nghĩa.

“Người hầu là đàn ông thì ít ăn cắp hơn,” cô liến thoắng, “cho dù dĩ nhiên là không ai lại đi ăn trộm một bức tranh thật to, và có thời tôi rất mê những bức tranh to có đàn ông cưỡi ngựa, nhưng sau khi xem quá nhiều tranh…”

“Cô Peters,” Albinus nói bằng giọng xoa dịu, “đây là người làm cả hai lục địa…”

Margot giật mình bật quay lại.

“Ồ, thật vậy sao, hân hạnh được biết ông.”

Rex nghiêng người chào, rồi trong khi quay sang Albinus hắn từ tốn bình luận:

“Trên tàu tôi tình cờ đọc được cuốn tiểu sử Sebastiano dl Piombo xuất chúng do ông viết[1]. Thật tiếc là ông đã không trích dẫn thơ xon-nê của ông ta.”

[1. Sebastiano Luciani del Piombo (1485- 1547): họa sĩ Ý. Nabokov có viết một truyện tựa đề La Venezia về bức tranh Chân dung một người đàn bà La Mã trẻ của del Piombo.]

“Ồ, nhưng mà thơ của ông này rất dở,” Albinus đáp.

“Đúng vậy,” Rex nói. “Chính đó mới là điều quyến rũ đến vậy.”

Margot bật dậy và bằng những bước đi nhanh gần như nhảy cô lao về phía người khách cuối cùng – một phụ nữ khô héo chân dài giống như con đại bàng bị nhổ trụi lông. Margot từng theo học lớp diễn thuyết của bà ta.

Sonia Hirsch dịch đến chỗ Margot và quay sang Rex:

“Anh nghĩ gì về các tác phẩm của Cumming?” cô ta hỏi. “Ý tôi nói đến loạt tác phẩm gần đây nhất của ông ta – mấy cái Giá treo cổ và Nhà máy ấy, anh biết chứ?”

“Dở ẹc,” Rex đáp.

Cửa phòng ăn mở ra. Các quý ông nhìn quanh tìm quý bà của mình. Rex đứng tách biệt. Ông chủ nhà đang chìa tay đỡ Dorianna, chăm chăm nhìn quanh tìm Margot. Ông thấy cô ngay ở phía trước, chen giữa dòng những cặp đôi đang chảy vào phòng ăn.

“Tối nay cô ấy không được khỏe,” ông lo lắng nghĩ, và bàn giao quý bà của mình cho Rex.

Khi mọi người đang thanh toán món tôm hùm, ở đầu bàn ăn, nơi (chuỗi tên sau đây tốt nhất nên được sắp xếp theo một đường cong) Dorianna, Rex, Margot, Albinus, Sonia Hirsch và Baum đang ngồi, cuộc nói chuyện đang lúc sôi nổi nhất cho dù khá rời rạc. Margot đã một hơi nốc cạn ly rượu thứ ba và lúc này đang ngồi người thẳng cứng, đôi mắt rực sáng nhìn thẳng về phía trước. Rex không để ý đến cả cô lẫn Dorianna, cái tên cô này làm hắn khó chịu, mà đang tranh cãi ngang qua bàn với nhà văn Baum về vấn đề phương tiện biểu đạt nghệ thuật.

“Một nhà văn chẳng hạn,” hắn nhận xét, “nói về Ấn Độ nơi tôi chưa bao giờ đến thăm, và tuôn ra hàng tràng về vũ nữ, săn hổ, thầy tu khổ hạnh, hạt trầu, rắn rết: Vẻ đẹp quyến rũ của phương Đông bí ẩn vân vân. Nhưng điều đó rốt cuộc là gì nào? Chẳng là gì hết. Thay vì hình dung ra Ấn Độ, tôi chỉ có được một cơn đau răng nhức nhối vì những hương vị ngọt ngào phương Đông đó. Bây giờ, có cách khác, như một vị đồng nghiệp từng viết: “Trước khi đi ngủ, tôi bỏ đôi bốt ướt ra để phơi khô và sáng hôm sau tôi thấy một rừng cây xanh lam rậm rạp mọc trên đó (‘Nấm mốc, thưa bà,’ hắn giải thích cho Dorianna lúc này đang nhướng mày) thế là ngay lập tức Ấn Độ trở nên sống động trong tôi. Phần còn lại sẽ tự đến.”

“Các yogi ấy làm được những điều kỳ diệu,” Dorianna nói. “Hình như họ có thể thở sao cho…”

“Nhưng xin lỗi cậu, anh bạn thân mến,” Baum phấn khích kêu lên – vì ông này vừa viết một tiểu thuyết dài năm trăm trang về chuyện diễn ra tại Tích Lan[2], ông ta vừa ở đó hai tuần, suốt ngày đội mũ cối chống nắng. “Cần phải làm bức tranh hoàn toàn bừng sáng, để mỗi bạn đọc có thể hiểu được. Điều quan trọng không phải là cuốn sách ta viết ra, mà là vấn đề nó đặt ra và giải pháp. Để mô tả vùng nhiệt đới, tôi buộc phải tiếp cận chủ đề từ góc quan trọng nhất, tức là – sự bóc lột, sự tàn ác của thực dân da trắng. Nếu cậu nghĩ về hàng triệu hàng triệu…”

[2. Tích Lan (Ceylon): tên trước đây của Sri Lanka.]

“Tôi chẳng nghĩ gì sất,” Rex nói.

Margot đang đăm đăm nhìn về phía trước, bất chợt cười khúc khích – và điều này, không rõ vì sao, chẳng liên quan gì đến cuộc nói chuyện. Albinus đang thảo luận giữa chừng về cuộc triển lãm nghệ thuật mới nhất với nhà họa sĩ lập thể dáng vẻ từ mẫu, liền liếc sang cô tình nhân trẻ của mình. Ờ, cô ấy uống quá nhiều. Giữa khi ông đang nhìn, cô lại uống một ngụm từ ly của ông. “Thật là trẻ con!” ông nghĩ trong khi sờ vào đầu gối của cô dưới bàn. Margot lại cười khúc khích và ném một bông cẩm chướng qua bàn đến ông già Lampert.

“Thưa các ngài, tôi không biết các ngài nghĩ gì về Udo Conrad,” Albinus xen vào cuộc xung đột. “Với tôi dường như anh ta thuộc loại tác giả có tầm nhìn tinh tế và phong cách siêu phàm có thể làm anh thích, thưa anh Rex, và nếu anh ta không phải là một nhà văn lớn thì đó là vì – vì về chuyện này, ngài Baum, tôi đồng tình với ngài – anh ta khinh thường các vấn đề xã hội, mà làm như thế trong thời đại của các biến động xã hội này là điều đáng trách và, cho phép tôi nói thêm, là tội lỗi. Thời cùng là sinh viên ở Heidelberg tôi biết anh ta rất rõ và sau đó chúng tôi thi thoảng gặp nhau. Tôi coi cuốn sách hay nhất của anh ta là Thủ thuật biến mất, thực tế là chương đầu cuốn đó anh ta từng đọc ở đây, tại bàn này, ý tôi là, tại một cái bàn tương tự, và…”

Sau bữa tối họ ngả ngớn, hút thuốc và uống rượu mùi. Margot nhẹ vút từ chỗ này đi sang chỗ khác và một trong hai nhà thơ tép riu cứ lẽo đẽo theo cô như con chó xù. Cô đề xuất thử dùng điếu thuốc của mình đốt một lỗ trên lòng bàn tay cậu ra và bắt đầu làm thế thật, và, dẫu mồ hôi chảy ròng ròng, cậu vấn giữ nụ cười như một vị anh hùng trẻ tuổi. Lúc trước ở một góc thư viện, Rex đã kéo dài rất lâu thái độ xúc phạm không thể tưởng tượng nổi với Baum, và giờ thì hắn chuyển sang nói chuyện với Albinus và bắt đầu mô tả cho ông một vài khía cạnh của Berlin như thể đó là một thành phố đẹp xa xôi; hắn tả hay đến độ Albinus hứa sẽ cùng hắn đi xem con đường đó, cây cầu đó, bức tường màu sắc kỳ dị đó…

“Tôi vô cùng xin lỗi,” ông nói, “rằng chúng ta không thể cộng tác làm bộ phim dựa trên ý tưởng của tôi được. Tôi chắc rằng nếu anh làm hẳn sẽ tạo nên điều kỳ diệu, nhưng thẳng thắn mà nói tôi không thể làm được – lúc này thì không, dù thế nào đi chăng nữa.”

Cuối cùng các vị khách bị cuốn vào làn sóng, bắt đầu bằng những tiếng rì rầm nho nhỏ, lớn dần cho đến khi nó cuốn họ ra khỏi nhà trong một cơn xoáy những lời tạm biệt sủi bọt.

Albinus còn lại một mình. Không gian màu xanh và nặng khói xì gà. Ai đó đánh đổ thứ gì lên chiếc bàn Thổ Nhĩ Kỳ - chỗ nào cũng dính nhớp nháp. Người hầu trịnh trọng, mặc dù hơi loạng choạng (“Nếu gã còn uống say lần nữa mình sẽ đuổi việc gã”), mở cửa sổ ra, và màn đêm đen trong trẻo sương giá ùa vào.

“Không hẳn là một buổi tiệc rất thành công, có vẻ vậy,” Albinus nghĩ và vừa ngáp vừa cởi áo smoking ra.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,359
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 17


“Có một người đàn ông nọ,” Rex nói khi hắn cùng Margot rẽ ngoặt ở góc phố, “một lần đánh mất chiếc khuy và đúng hai mươi năm sau, vào chính ngày đó, có vẻ là thứ Sáu, ông ta ăn một con cá to – nhưng không có viên kim cương nào bên trong cả. Đó là điều anh thích về sự trùng hợp.”

Quấn chặt người trong chiếc áo choàng bằng da hải cẩu, Margot rảo bước bên cạnh hắn. Rex túm lấy khuỷu tay cô và buộc cô dừng lại.

“Anh không bao giờ nghĩ sẽ gặp lại em. Làm thế nào em lại đến được chỗ đó? Anh không tin vào mắt mình được, như người mù vẫn nói. Hãy nhìn anh nào. Anh không chắc em trở nên đẹp hơn, nhưng anh vẫn thích em nhiều như cũ.”

Margot đột nhiên khóc nức nở và quay đi. Hắn kéo tay áo cô, nhưng cô quay người đi xa hơn. Họ quay tròn tại chỗ.

“Vì Chúa, em nói gì đi. Em sẽ đi đâu đây – đến chỗ anh hay chỗ em nào? Em bị làm sao thế?”

Cô rũ hắn ra vào rảo bước trở lại góc phố. Rex đi theo cô.

“Em bị cái quỷ gì thế này?” hắn bối rối hỏi lại.

Margot bước nhanh hơn. Hắn lại đuổi kịp cô.

“Hãy đi với anh, cái cô ngốc này,” Rex nói. “Nhìn xem, anh có cái gì đây này…” Hắn rút ví ra.

Margot lập lức dùng mu bàn tay tạt vào mặt hắn.

“Cái nhẫn trên ngón trỏ của em rất sắc đấy nhé,” hắn bình tĩnh nói. Và hắn vừa tiếp tục đi theo cô vừa vội vã lục lọi trong ví.

Margot chạy đến cổng vào ngôi nhà, mở khóa cửa. Rex cố dúi cái gì đó vào tay cô, nhưng đột nhiên hắn ngước mắt lên.

“Ồ, lại cái trò tinh quái ấy phải không?” hắn nói khi nhận ra lối cửa mà họ vừa đi ra.

Margot đẩy cửa ra mà không hề nhìn quanh.

“Đây, cầm lấy,” hắn thô bạo nói, và vì cô không chịu cầm, hắn dúi nó vào bên trong cổ áo lông của cô. Cánh cửa chắc hẳn đã sập đánh rầm, nếu đó không phải là loại cửa chống sập bằng khí nén. Hắn đứng đó, bấu bấu môi dưới, và rồi quay bước.

Margot mò mẫm dò đường qua bóng tối đến chân cầu thang tầng trệt, và đang sắp đi tiếp thì đột nhiên cảm thấy muốn ngất xỉu. Cô ngồi xuống một bậc thang và khóc nức nở như chưa từng nức nở bao giờ - kể cả khi hắn bỏ cô đi. Cô cảm thấy một cái gì đó nhàu nát chạm vào cổ mình, liền túm lấy. Đó là một mảnh giấy thô. Cô nhấn công tắc đèn và thấy mình đang cầm trong tay không phải tờ giấy bạc, mà là bức phác họa bằng chì: một cô gái nhìn từ phía sau, vai trần, chân trần, nằm trên giường, mặt quay vào tưởng. Phía dưới là ngày tháng, đầu tiên ghi bằng bút chì, sau đó viết đè lên bằng bút mực – ngày, tháng, năm khi hắn bỏ cô đi. Chính vì thế hắn đã bảo cô không được quay lại nhìn – vì hắn đang vẽ cô! Có thật là mới hai năm trôi quay kể từ hôm đó?

Ánh sáng vụt tắt nghe tách một tiếng, và Margot tựa người lên chấn song thang máy, lại khóc lần nữa. Cô khóc vì hắn bỏ cô đi lúc đó, vì hắn đã giấu cô tên thật và danh tiếng của mình, vì lẽ ra cô đã có thể hạnh phúc với hắn suốt thời gian đó nếu hắn ở lại, và vì nếu thế thì sau đó cô đã không rơi vào tay hai gã người Nhật rồi lão già và cả Albinus. Và rồi cô cũng khóc vì trong bữa tối Rex thì sờ đầu gối bên phải của cô, còn Albinus thì bên trái – như thể Thiên đường nằm bên tay phải, còn Địa ngục nằm bên tay trái cô vậy.

Cô dùng tay áo quệt mũi, mò mẫm trong bóng tối và nhấn công tắc đèn lần nữa. Ánh sáng làm cô bình tĩnh hơn đôi chút. Cô xem xét bức vẽ thêm lần nữa; nghĩ rằng dù nó có ý nghĩa với cô thế nào thì giữ nó cũng nguy hiểm, cô liền xé nó thành từng mảnh nhỏ rồi quăng qua chấn song xuống hố thang máy sâu hút. Việc này làm cô nhớ đến những năm tháng đầu tiên của tuổi thơ. Rồi cô rút gương bỏ túi ra, thoa phấn lên mặt trong một động tác đảo tròn mau lẹ, vừa làm vừa dẩu môi trên ra, đoạn đóng túi xách lại với một tiếng cạch dứt khoát và chạy lên cầu thang.

“Sao em về muộn thế?” Albinus hỏi.

Ông đã mặc quần áo ngủ.

Cô hổn hển giải thích rằng cô thấy khó tống khứ được ông von Ivanoff vì ông này cứ nài nỉ cô để ông lái xe đưa cô về.

“Đôi mắt người đẹp của mình mới lấp lánh làm sao,” ông lẩm bẩm, “và cô ấy cũng mệt mỏi và nóng nảy làm sao. Người đẹp của mình say rượu.”

“Không, đêm nay hãy để em yên,” Margot nhẹ nhàng đáp.

“Thỏ con của anh, anh xin mà,” Albinus van nài. “Anh đã chờ lâu như vậy.”

“Hãy chờ lâu thêm chút nữa. Trước hết em muốn biết một điều: anh đã làm gì xúc tiến vụ ly hôn chưa?”

“Ly hôn?” ông sửng sốt hỏi lại.

“Đôi khi tôi không hiểu được anh, Albert à. Rốt cuộc, chúng ta phải đặt mọi thứ vào đúng chỗ, phải không nào? Hay có lẽ anh định sau một thời gian sẽ bỏ tôi mà quay trở lại với cái bà Lizzy?”

“Bỏ em?”

“Đừng nhắc lại lời của tôi nữa, đồ ngốc. Không, anh không được đến gần tôi chừng nào anh còn chưa cho tôi một câu trả lời hợp lý.”

“Được thôi,” ông nói. “Thứ Hai tới anh sẽ nói chuyện với luật sư.”

“Thật đấy chứ? Anh hứa nhé?”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,359
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 18


Axel Rex vui mừng được trở về quê hương xinh đẹp của mình. Gần đây hắn gặp một vài rắc rối. Vì một lý do nào đó, các bản lề của vận may bị kẹt tắc – thế là hắn vứt bỏ nó trong bùn như người ta vứt cái ô tô hỏng. Tỉ như, hắn cãi nhau với ông chủ bút, vì ông này không biết tán thưởng câu đùa gần đây nhất của hắn – chẳng phải là hắn có ý đưa câu đó lên mặt báo. Nói chung là có một vụ cãi cọ. Liên đới vào trong tình trạng hỗn loạn đó là một bà cô không chồng giàu có, một vụ giao dịch tiền nong ám muội (“cho dù rất vui thú,” Axel rầu rĩ nghĩ), và một cuộc đối thoại khá là đơn phương với một số nhà chức trách về vấn đề người nhập cư không ai muốn. Người ta đã không tử tế với hắn, hắn ngẫm nghĩ, nhưng hắn sẵn sàng tha thứ cho họ. Thật buồn cười làm sao, cái cách họ ngưỡng mộ tác phẩm của hắn và rồi chỉ một giây sau đã toan đấm thẳng vào mặt hắn (mà một hai lần khá thành công).

Tuy nhiên tồi tệ hơn hết là vấn đề tài chính. Danh tiếng – tuy không ở tầm quốc tế như cái lão ngốc hiền lành ám chỉ hôm qua, song vẫn cứ là danh tiếng – có dạo từng mang đến cho hắn khá nhiều tiền. Giờ đây, khi hắn phần nào đang không có kế hoạch gì và mơ hồ về sự nghiệp vẽ tranh biếm họa của mình ở Berlin, cái nơi mà người ta từ xưa đến nay vẫn còn ở cấp độ chuyện hài hước về mẹ vợ, hắn lẽ ra vẫn còn số tiền đó, ít nhất là một phần, giá như hắn không cờ bạc.

Ngay từ thời thơ ấu hắn đã trau dồi một thiên hướng lừa bịp, thế nên chẳng có gì đáng ngạc nhiên khi trò đánh bài yêu thích của hắn là poker! Hắn chơi bất kỳ lúc nào có được bạn chơi; hắn chơi cả trong khi mơ ngủ: với những nhân vật lịch sử hay với một người anh họ xa nào đó đã chết từ lâu mà ngoài đời hắn không bao giờ nhớ tới, hay với những người – lại cũng nếu ở ngoài đời – sẽ cự tuyệt thẳng thừng chuyện ở trong cùng một phòng với hắn. Trong giấc mơ đó hắn nhặt lên năm quân bài được chia cho, xếp lại rồi nâng lên sát mắt; hắn hân hoan nhìn thấy quân phăng teo đội mũ và đeo chuông, và, khi dùng ngón tay cái cẩn thận miết chặt rồi xòe ra góc trên một quân bài rồi một quân bài tiếp, hắn từ từ nhận ra mình có năm quân phăng teo. “Tuyệt vời,” hắn tự nhủ thầm mà không hề sửng sốt về lượng quân bài đó, rồi bình thản đặt món cược đầu tiên, số tiền cược này được Henry VIII (của Holbein[1]), chỉ với bốn quân Q trong tay, đặt gấp đôi. Sau đó, hắn tỉnh dậy, vẫn nguyên bộ mặt phớt tỉnh của một tay chơi poker.

[1. Hans Holbein (1497-1543): họa sĩ Đức. Ông là họa sĩ riêng của vua Anh Henry VIII và là tác giả bức tranh HenryVIII nói đến trên đây.]

Buổi sáng hôm đó ảm đạm và tối trời đến độ hắn phải bật đèn cạnh giường ngủ. Tấm voan che cửa sổ trông bẩn thỉu. Đáng ra họ phải cho hắn ở phòng tốt hơn, xứng với số tiền hắn trả (số tiền mà hắn nghĩ có thể họ sẽ chẳng bao giờ trông thấy). Bỗng nhiên, trong một cơn sốc êm ái, hắn nhớ lại cuộc gặp mặt kỳ lạ tối hôm trước.

Thường thì hắn hồi tưởng về những chuyện tình của mình không có một cảm xúc đặc biệt nào. Margot là một ngoại lệ. Trong suốt hai năm qua, hắn thường thấy mình nghĩ về cô, và hắn thường đăm đăm ngắm bức phác họa nhanh bằng chì với một cảm giác nào đó rất giống với sầu muộn; một thứ cảm xúc lạ lùng bởi vì Axel Rex, nói cho nhẹ nhàng nhất, là một kẻ hay giễu cợt.

Khi hắn lần đầu rời nước Đức lúc còn trẻ (khá nhanh chóng, để tránh chiến tranh), hắn bỏ lại đằng sau người mẹ tội nghiệp đầu óc không còn minh mẫn, và ngay sau hôm hắn khởi hành đi Montevideo bà ngã cầu thang và qua đời vì chấn thương. Khi còn bé, hắn giội dầu lên lũ chuột còn sống, châm lửa đốt rồi quan sát chúng chạy lao quanh như tên bắn trong vài giây giống như những ngôi sao băng bừng cháy. Còn với lũ mèo thì tốt hơn hết là không nên tìm hiểu hắn đã làm gì. Sau đó, ở tuổi trưởng thành hơn, lúc tài năng nghệ thuật của hắn đang phát triển, hắn cố thỏa mãn trí tò mò của mình bằng các cách tinh tế hơn, không phải điều gì bệnh hoạn có cái tên y học đâu - ờ, hoàn toàn không hề bệnh hoạn – mà hắn chỉ tò mò một cách lạnh lùng với đôi mắt thao láo, như những lời chú giải bên lề mà cuộc đời điểm thêm vào những tác phẩm nghệ thuật của hắn. Hắn vô cùng thích thú ngắm nhìn cuộc đời bị biến thành ngớ ngẩn khi nó bất lực trượt vào thế giới tranh biếm họa. Hắn coi khinh những trò chơi khăm: hắn thích chúng tự đến và tình cờ, chỉ cần thêm một tác động nho nhỏ thảng hoặc từ phía hắn là cả chiếc xe đã lao xuống dốc. Hắn thích lừa mọi người, và làm việc đó càng ít nhọc công thì trò đùa càng làm hắn thích thú. Đồng thời, gã đàn ông nguy hiểm này, với bút chì trong tay, thật sự là một họa sĩ rất tài năng.

Ông chú ở nhà một mình với lũ trẻ và nói với chúng rằng ông sẽ mặc đồ cải trang để cho chúng vui. Đợi một hồi lâu mà ông chú vẫn chưa xuất hiện, lũ trẻ đi xuống nhà thấy một người đàn ông đeo mặt nạ đang nhét các món đồ dùng bằng bạc vào túi. “Ôi, chú ơi,” chúng vui sướng hét lên. “Ừ, thế chú hóa trang thế này được chứ?” ông chú nói, đoạn tháo mặt nạ ra. Đấy là tam đoạn luận Hegel về tính hài hước. Chính đề: ông chú cải trang thành tên ăn trộm (để làm lũ trẻ cười); phản đề: đó đúng là một tên trộm (để làm bạn đọc cười); hợp đề: đó vẫn là ông chú (đang lừa bạn đọc). Đây chính là tính siêu hài hước Rex muốn đưa vào tác phẩm của mình, và phong cách này hắn cho là khá mới mẻ.

Ngày nọ, một họa sĩ vĩ đại đứng trên giàn vẽ cao bắt đầu bước lùi lại để ngắm cho rõ hơn bức tranh tường mình đã vẽ xong. Thêm một bước lùi nữa, ông sẽ ngã ngửa, và, do một tiếng hét báo hiệu lại có thể trở thành tai hại chết người, người học việc của ông đủ sáng suốt mà quăng những gì chứa trong một chiếc xô vào bức kiệt tác. Thật là hài hước! Và còn hài hước hơn biết bao nếu để mặc nhà danh họa đang chăm chú mê mải lùi lại bước hụt vào chỗ trống, còn chính khán giả, tình cờ làm sao, lại đang chờ cảnh chiếc xô. Theo Rex hiểu, nghệ thuật biếm họa (ngoài đặc tính tổng hợp và lại – bị - lừa của nó) dựa trên sự đối lập giữa một bên là tính tàn nhẫn và bên kia là tính nhẹ dạ cả tin. Và nếu ngoài đời thực Rex có thể thản nhiên nhìn mà không hề động tay khi một người hành khất mù vui vẻ khua gậy chuẩn bị ngồi xuống chiếc ghế băng vẫn còn ướt sơn, ấy là hắn chỉ đang tìm cảm hứng cho bức tranh sắp tới của mình mà thôi.

Nhưng mọi điều này lại không áp dụng được cho những cảm xúc Margot khơi dậy trong hắn. Trong trường hợp của cô, kể cả từ góc độ nghệ thuật, nhà họa sĩ trong Rex chiến thắng vẻ vang trước nhà danh hài. Hắn cảm thấy hơi khó chịu về việc mình vui thích đến thế khi tìm lại được cô: thật vậy, nếu hắn bỏ rơi cô, đó chỉ là vì hắn sợ sẽ trở nên mê đắm cô quá.

Lúc này hắn muốn trước hết điều tra ra cô có thật sự sống với Albinus không. Hắn nhìn đồng hồ: đúng giữa trưa. Hắn nhìn ví tiền của mình: trống trơn. Hắn mặc quần áo và đi bộ đến ngôi nhà hắn vừa đến tối trước. Tuyết rơi nhè nhẹ đều đều.

Tình cờ người mở cửa lại chính là Albinus và ban đầu ông không nhận ra vị khách người phủ đầy tuyết đứng trước ông kia là ai. Nhưng lúc Rex ngẩng mặt lên sau khi chùi giày lên thảm, Albinus nồng nhiệt đón chào hắn. Người đàn ông trẻ này tối trước đã gây ấn tượng mạnh cho ông không chỉ bởi sự dí dỏm thường trực và tác phong thoải mái, mà còn bởi dáng vẻ lạ thường của hắn: hai gò má hõm trắng nhợt, cặp môi đầy đặn và mái tóc đen lạ lùng tạo nên một vẻ xấu xí đầy quyến rũ. Mặt khác, thật dễ chịu làm sao khi nhớ lại lời nhận xét của Margot lúc họ bàn về bữa tiệc: “Gã nghệ sĩ bạn anh có cái mặt đến tởm – đó là gã đàn ông mà bằng mọi giá em cũng không bao giờ hôn.” Và cả điều mà Dorianna nói về hắn cũng thú vị nữa.

Rex xin lỗi vì cuộc viếng thăm hơi suồng sã và Albinus thân ái bật cười.

“Nói thật,” Rex nói, “ông là một trong số ít người ở Berlin mà tôi muốn được kết thân hơn. Ở Mỹ đàn ông kết bạn dễ dàng hơn ở đây, và ở bên đó tôi đã tạo cho mình thói quen cư xử thoải mái không gò bó. Tha lỗi cho tôi nếu tôi làm ông sốc, nhưng ông có thật lòng nghĩ cho phép cái con búp bê vải đỏm dáng kia ngồi vắt trên đi văng là hợp lý hay không, khi mà treo ngay phía trên là một bức tranh của Ruysdael? Nhân đây, xin ông cho phép tôi xem các bức tranh của ông kỹ càng hơn? Bức đằng kia trông tuyệt đẹp.”

Albinus dẫn hắn đi khắp các phòng. Căn phòng nào cũng có treo bức tranh quý nào đó – với một số bức tranh giả nằm rải rác. Rex say mê chăm chăm ngắm nhìn. Hắn nghĩ liệu bức của Lorenzo Lotto[2] với thánh John mặc áo màu hoa cà và Đức mẹ đồng trinh đang sụt sùi đó có thật đúng là nguyên tác không. Trong cuộc đời phiêu lưu của mình, có thời hắn từng làm nghề vẽ tranh giả và đã tạo ra được vài bức rất hay ho. Thế kỷ mười bảy – hắn chuyên vẽ tranh của giai đoạn đó. Tối qua hắn nhận ra một người bạn cũ trong phòng khách và bây giờ hắn săm soi nó lần nữa trong niềm khoái cảm cực tinh tế. Bức này theo phong cách đẹp nhất của Baugin[3]: chiếc đàn mandolin trên bàn cờ, rượu vang màu ngọc đỏ trong ly và một bông cẩm chướng trắng.

[2. Lorenzo Lotto (1480-1556): họa sĩ Ý thuộc trường phái Venice. Ở đây tác giả nói đến bức tranh Pietà của Lotto.]

[3. Lubin Baugin (1612-1663): họa sĩ Pháp. Miêu tả này phỏng theo bức tranh Tĩnh vật với bàn cờ của Baugin.]

“Trông bức đó có hiện đại không nào? Gần như là siêu thực, đúng vậy,” Albinus trìu mến nói.

“Đúng vậy,” Rex nói, nắm cổ tay mình trong khi ngắm bức tranh. Đúng là hiện đại: hắn vẽ nó mới tám năm trước đây thôi.

Rồi họ bước dọc lối đi có treo một bức tranh đẹp của Linard[4] – những bông hoa và một con bướm đêm có mắt. Đúng lúc đó Margot từ phòng tắm đi ra trong chiếc áo choàng tắm màu vàng chói. Cô chạy dọc hành lang, suýt đánh rơi một chiếc dép đi trong nhà.

[4. Jacques Linard (1597-1645): họa sĩ Pháp nổi tiếng về tranh tĩnh vật. Ở đây tác giả nói đến bức tranh Giỏ hoa của Linard.]

“Vào đây nào,” Albinus nói, với một tiếng cười ngại ngùng. Rex theo ông vào thư viện.

“Nếu tôi không nhầm thì,” hắn mỉm cười nói, “đó là cô Peters. Cô ta là họ hàng của ông à?”

“Giả vờ để làm gì nào?” Albinus nghĩ nhanh. Không thể bịt mắt một tay giỏi quan sát (mà, ờ, như thế lại chẳng thực khôn ngoan sao, theo kiểu hơi phóng khoáng một chút?) “Là cô tình nhân bé nhỏ của tôi đấy,” ông dõng dạc nói to.

Ông mời Rex ở lại ăn tối và hắn nhận lời ngay chẳng chút màu mè. Khi xuất hiện ở bàn ăn, Margot trông uể oải nhưng bình thản: sự kích động đêm hôm trước mà cô gần như không kiềm chế nổi giờ biến thành cái gì đó rất giống hạnh phúc. Khi ngồi giữa hai người đàn ông đang chia sẻ cuộc đời của cô, cô thấy mình như diễn viên chính trong một bộ phim bi kịch bí ẩn và đầy đam mê – vì thế cô cố gắng cư xử cho tương xứng: cô mỉm cười lơ đãng, hạ hai hàng mi xuống, âu yếm đặt tay mình lên tay áo của Albinus lúc cô nhờ ông đưa trái cây, và ném về phía người tình cũ ánh mắt lạnh nhạt thoảng qua.

“Không, mình sẽ không để anh ta biến đi lần nữa, không có gì phải sợ hãi cả,” cô bỗng tự nhủ, và cơn rùng mình êm ái đã mất từ lâu chạy dọc sống lưng cô.

Rex nói khá nhiều. Trong những chuyện vui hắn kể cho họ có câu chuyện hài hước về một diễn viên đóng Lohengrin say rượu mà để lỡ mất thuyền thiên nga rồi đành ôm hy vọng chờ chuyến thiên nga sau. Albinus cười rất thật lòng nhưng Rex biết (và đó chính là mục đích riêng tư trong câu chuyện đùa này của hắn) rằng ông mới chỉ hiểu ra một nửa thôi, còn chính nửa kia mới làm Margot cắn môi. Khi nói chuyện, hắn hầu như không nhìn cô. Mỗi khi hắn nhìn, cô liền vội đưa ánh mắt liếc xuống chỗ này hay chỗ kia trên váy nơi ánh mắt hắn vừa dừng lại giây lát, rồi cô vô thức chỉnh sửa lại chỗ ấy.

“Sắp tới đây chúng ta sẽ được thấy ai đó trên màn ảnh,” Albinus nháy mắt nói.

Margot bĩu môi và đập nhẹ vào tay ông.

“Cô là diễn viên à?” Rex hỏi. “Ồ, thật vậy sao? Thế cô cho phép tôi hỏi, cô đóng trong những phim nào?”

Cô trả lời mà không nhìn hắn và cảm thấy tự hào vô cùng. Hắn là họa sĩ nổi tiếng còn cô là minh tinh màn bạc. Họ giờ ở cùng một nấc thang.

Rex ra về ngay sau bữa ăn, suy ngẫm xem tiếp theo mình nên làm gì và sa chân và một câu lạc bộ đánh bạc. Một dây đồng chất (mà lâu lắm rồi hắn mới lấy được) ít nhiều làm hắn phấn khích hẳn lên. Ngày hôm sau hắn gọi điện cho Albinus và họ cùng đi xem một triển lãm những bức tranh cố gắng khoe mẽ mình hiện đại. Ngày tiếp sau đó, hắn ăn tối tại căn hộ của Albinus. Rồi hắn lại bất chợt ghé thăm, nhưng Margot không có nhà và hắn đành phải cố duy trì một cuộc hội thoại hàn lâm dông dài với Albinus lúc này đã bắt đầu rất đỗi thích hắn. Rex trở nên hết sức khó chịu. Sau cùng thì định mệnh cũng động lòng trắc ẩn với hắn, chọn tình huống một trận khúc côn cầu trên băng ở Cung Thể thao để thể hiện cử chỉ tốt bụng.

Lúc cả ba người đang đi vào khoang ngồi, Albinus nhận ra đôi vai của Paul và bím tóc sáng màu của Irma. Chuyện như thế này chắc chắn sẽ xảy ra ngày này hay ngày khác, nhưng dù ông đã luôn chờ đợi, nó vẫn tóm được ông một cách hoàn toàn bất ngờ đến độ ông vụng về đổi hướng đi và vì thế đâm sầm vào bên sườn Margot.

“Nhìn xem anh đang làm gì đây, cái anh này,” cô nanh nọc nói.

“Hãy ngồi xuống thoải mái và gọi cà phê đi,” Albinus nói. “Anh phải… ờ … đi gọi điện thoại. Anh gần như quên khuấy mất.”

“Ôi xin anh đừng đi,” Margot vừa nói vừa đứng lên lại.

“Việc này khá khẩn cấp,” ông nài nỉ, hai vai chùng xuống cố thu nhỏ người hết mức (không biết Irma đã thấy ông chưa đây?). “Nếu anh phải đi lâu thì em cũng đừng lo. Xin thứ lỗi cho tôi, Rex.”

“Xin anh hãy ở lại đây,” Margot nhắc lại rất nhỏ nhẹ.

Nhưng ông không nhận ra ánh mắt lạ lùng, cũng như gò má ửng đỏ và đôi môi run rẩy của cô. Lưng gập cong hẳn xuống, ông vội vã đi về phía lối ra.

Một giây im lặng trôi qua, rồi Rex thở dài sườn sượt.

“Enfin seuls[5],” hắn âu sầu nói.

[5. Tiếng Pháp, nghĩa là “Cuối cùng chỉ còn hai ta.”]

Họ ngồi cạnh nhau trong khoang ghế đắt tiền bên chiếc bàn nhỏ phủ khăn rất trắng. Phía dưới, ngay phía sau hàng rào, trải rộng mặt sân băng mênh mông. Ban nhạc đang chơi một hành khúc hỉ trường đầy tiếng nện thình thình. Lớp băng trống trơn phủ một lớp bóng như dầu màu xanh da trời. Bầu không khí vừa nóng vừa lạnh.

“Giờ anh đã hiểu chưa?” Margot bất chợt hỏi, gần như chẳng biết mình đang hỏi gì.

Rex sắp trả lời thì đúng lúc đó một tràng vỗ tay vang dội khắp nhà thi đấu rộng thênh thang. Hắn siết chặt những ngón tay nhỏ bé nóng bỏng của cô ở dưới bàn. Margot thấy nước mắt dâng trào, nhưng cô không rút tay lại.

Một cô gái đi tất dài màu trắng mặc váy ngắn màu bạc diềm bông đang trượt trên mũi giày qua sân băng, và khi đã lấy được đà, vẽ nên đường uốn lượn tuyệt đẹp rồi nhảy lên cao, rồi xoay tròn, rồi lại trượt đi tiếp.

Đôi giày trượt băng óng ánh của cô lóe sáng như tia chớp khi cô trượt vòng tròn và nhảy múa, cắt xuống sân băng bằng sức va chạm mãnh liệt.

“Anh đã bỏ rơi tôi,” Margot mở lời.

“Ờ, nhưng anh đã lao về với em, phải không nào? Đừng khóc nữa, em yêu. Em quan hệ với ông ta đã lâu chưa?”

Margot định nói, nhưng nhà thi đấu lại ngập những tiếng huyên náo ầm ầm. Sân băng lại không có ai. Cô chống khuỷu tay lên bàn và ép hai tay lên hai thái dương.

Giữa những tiếng huýt sáo, vỗ tay và la hét, các cầu thủ thong thả trượt ngang sân băng – trước hết là đội Thụy Điển, rồi đến đội Đức. Thủ môn của đội khách trong chiếc áo len lấp lánh với hai miếng đệm lớn bằng da từ mu bàn chân đến tận hông, chậm rãi lướt về phía khung thành nhỏ xíu của mình.

“Ông ta sẽ khiến bà ấy ly dị với ông ta. Anh có hiểu là anh đã chọn đúng thời điểm khó xử nhất để quay về không?”

“Vớ vẩn. Em thật sự tin ông ta sẽ cưới em à?”

“Nếu anh làm đảo lộn mọi thứ thì ông ta mới không.”

“Không đâu, Margot à, ông ta sẽ chẳng cưới em đâu.”

“Còn em nói ông ta sẽ cưới đấy.”

Môi họ vẫn tiếp tục mấp máy, nhưng cuộc cãi vã chóng vánh của bọn họ bị nhấn chìm trong tiếng hò hét xung quanh. Đám đông đang gầm thét đầy kích động khi những chiếc gậy lanh lẹn đuổi theo quả bóng trên băng, rồi đánh văng nó, rồi móc nó lên, rồi chuyển nó đi, rồi đánh hụt nó, rồi va vào nhau chan chát trong cú va chạm chớp nhoáng. Thủ môn di chyển nhịp nhàng bên này bên kia tại vị trí gác, chụm chân lại để hai miếng đệm hợp thành một tấm khiên chắn duy nhất.

“… anh quay về thật rầy rà quá. Anh chỉ là tên ăn mày so với ông ta. Chúa ơi, giờ tôi biết anh sẽ làm hỏng mọi thứ mà.”

“Vớ vẩn, vớ vẩn, chúng ta sẽ rất cẩn trọng.”

“Tôi phát điên lên mất,” Margot nói. “Đưa tôi ra khỏi cái chỗ ầm ĩ này đi. Ta đi thôi. Tôi chắc chắn ông ta sẽ không quay lại lúc này đâu, mà nếu có thì đây sẽ là một bài học đáng đời.”

“Đến chỗ anh đi. Em phải đến. Đừng có ngốc nghếch nữa nào. Chúng ta sẽ làm nhanh thôi. Một tiếng nữa thôi em sẽ về nhà ngay mà.”

“Im đi. Tôi không dại dột mạo hiểm đâu. Tôi đã mất hàng tháng trời thực hiện kế hoạch mới dụ được ông ta cho đến nước này, và giờ thì ông ta đã xuôi rồi. Anh thực sự mong chờ tôi sẽ tung hê mọi thứ bây giờ sao?”

“Ông ta sẽ chẳng cưới em đâu,” Rex nói với giọng tin tưởng kiên định.

“Anh có đưa em về nhà không nào?” cô hỏi gần như hét lên, và một ý nghĩ lóe lên trong đầu cô: “Mình sẽ để anh ta hôn trong taxi.”

“Đợi một chút. Nói xem, làm sao em biết được là anh đang cháy túi?”

“Em nhìn thấy điều đó trong mắt anh,” cô đáp và bịt tai lại, bởi lúc này tiếng ồn đạt tới cực điểm: một bàn thắng vừa được ghi, thủ môn đội Thụy Điển nằm sõng soài trên băng và cây gậy bị đánh văng khỏi tay anh ta đang vừa xoay vòng vòng vừa trượt xa dần trên mặt băng như một mái chèo bị trôi tuột mất.

“Hừm, anh nói thế này nhé: lần chần chỉ phí thời gian. Đằng nào chuyện này sớm muộn cũng sẽ xảy ra. Đi thôi nào. Cửa sổ phòng anh mà hạ mành xuống thì nhìn ra đẹp lắm.”

“Thêm một câu nữa là tôi sẽ lái xe về một mình đấy.”

Khi họ đi dọc phía sau các khoang ghế, Margot giật mình cau mày. Một ông mập mạp đeo kính gọng sừng đang gườm gườm nhìn cô vẻ ghê tởm. Ngồi cạnh ông ta là một cô bé đang theo dõi trận đấu qua cặp ống nhòm to bự.

“Nhìn kia kìa,” Margot cáu kỉnh nói với người bạn đồng hành, “anh có thấy gã béo với đứa trẻ kia không? Đó là em rể và con gái ông ta đấy. Giờ thì em hiểu sao con sâu đó lại uốn người bò đi mất. Tiếc là lúc trước em không nhận ra họ. Gã này từng rất bất lịch sự với em, cho nên nếu ai đó cho gã một trận nên thân thì em cũng chẳng bận tâm.”

“Thế mà em còn nói được đến chuyện cưới hỏi à,” Rex bình luận trong khi đi xuống những bậc thêm rộng êm ru bên cô. “Ông ta sẽ không bao giờ cưới em đâu. Giờ nhìn đây, em yêu. Anh có đề xuất mới này. Đề xuất cuối cùng, anh nghĩ vậy.”

“Đề xuất gì vậy?” Margot ngờ vực hỏi.

“Anh sẽ đưa em về nhà an toàn, nhưng em sẽ phải trả tiền taxi đấy, em yêu à.”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,359
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 19


Paul gườm gườm nhìn theo cô, ngấn thịt quanh cổ ông ngày càng chuyển màu đỏ tía. Dẫu vốn có bản chất hiền lành, ông cũng sẽ không nề hà xử Margot như cách cô vừa muốn làm với ông. Ông băn khoăn tự hỏi người đi cùng cô là ai và Albinus đang ở đâu; ông tin chắc rằng ông này chắc quanh quẩn đâu đây thôi và cảm thấy không chịu nổi ý nghĩ con bé có thể bất chợt nhìn thấy ông ta. Ông thấy nhẹ nhõm hơn hẳn khi tiếng còi kết thúc trận đấu vang lên và ông có thể cùng Irma chuồn khỏi đó.

Họ về đến nhà. Con bé có vẻ mệt, và khi trả lời những câu hỏi của mẹ về trận đấu nó chỉ gật đầu, môi nở cái nụ cười bí ẩn vốn là nét riêng biệt quyến rũ nhất của nó.

“Họ lao bổ đi trên sân băng trông mới đáng kinh ngạc làm sao chứ,” Paul nói.

Elisabeth tư lự nhìn ông rồi quay sang con gái. “Đến giờ đi ngủ, đến giờ đi ngủ rồi,” bà nói.

“Ôi, chưa đâu,” Irma ngái ngủ khẩn khoản.

“Trời ơi. Đã gần nửa đêm rồi, con chưa bao giờ thức khuya như thế.”

“Hãy nói cho chị biết, Paul này,” Elisabeth nói, khi Irma đã được ấp ủ trên giường ngủ yên ổn. “Chị cảm thấy có chuyện gì đó đã xảy ra. Lúc em vắng nhà chị thấy rất bồn chồn. Paul, nói cho chị biết đi.”

“Nhưng em chẳng có gì để nói cả,” ông đáp, mặt mỗi lúc một đỏ hơn.

“Em không gặp ai hết sao?” bà đánh bạo hỏi. “Em không gặp ai thật sao?”

“Điều gì làm chị có ý nghĩ như vậy?” ông lẩm bẩm, hoàn toàn bối rối trước độ nhạy gần như thần giao cách cảm mà bà chị ông có được từ khi ly thân với chồng.

“Chị luôn lo sợ điều đó,” bà thì thầm, chầm chậm cúi đầu.

Sáng hôm sau Elisabeth bị cô bảo mẫu đánh thức, cô này đi vào phòng tay cầm chiếc cặp nhiệt độ.

“Irma bị ốm, thưa bà,” cô nói nhanh nhảu. “Thân nhiệt con bé lên đến hơn ba mươi tám độ.”

“Hơn ba mươi tám,” Elisabeth nhắc lại và bất chợt nghĩ: “Vì thế mà hôm qua mình mới thấy bất an đến vậy.”

Bà nhảy ra khỏi giường chạy như bay vào phòng trẻ. Irma đang nằm ngửa, nhìn đăm đăm lên trần nhà với đôi mắt long lanh.

“Một người đánh cá và một chiếc thuyền,” nó nói, tay chỉ lên trần nhà nơi ánh sáng từ chiếc đèn ngủ hắt lên thành hình kiểu như họa tiết. Lúc đó còn khá sớm, tuyết đang rơi.

“Con có đau họng không, cục cưng?” Elisabeth hỏi trong khi vẫn đang trầy trật mặc áo váy vào người. Rồi bà lo lắng cúi xuống khuôn mặt nhỏ nhòn nhọn của con bé.

“Chúa ơi, trán nó mới nóng làm sao!” bà thốt lên, tay gạt mớ tóc màu sáng ra khỏi lông mày con bé.

“Rồi một, hai, ba, bốn cây sậy,” Irma khẽ nói khi vẫn đang nhìn lên.

“Tốt hơn ta phải gọi bác sĩ thôi,” Elisabeth nói.

“Ôi, không cần vậy đâu, thưa bà,” cô bảo mẫu đáp. “Tôi sẽ cho con bé uống nước trà nóng với chanh và đủ một liều aspirin. Ai lúc này cũng bị cúm mà.”

Elisabeth gõ cửa phòng Paul. Ông đang cạo râu, và để nguyên bọt xà phòng trên má ông đi vào phòng của Irma. Paul hay làm xước mặt khi cạo râu kể cả khi dùng dao cạo an toàn – và lúc này một mảng đỏ tươi đang lan rộng qua đám bọt trên cằm ông.

“Dâu và kem đánh bông,” Irma nói khẽ khi ông cúi xuống con bé.

Khoảng chập tối bác sĩ đến, ông ngồi xuống mép giường Irma, mắt nhìn không chớp vào góc phòng, và bắt đầu bắt mạch cho nó. Irma nhìn đăm đăm vào chiếc lông trắng trong hốc cái tai rộng có cấu trúc phức tạp và vào mạch máu hình chữ W trên thái dương hồng hồng của ông.

“Được rồi,” bác sĩ nói, nhìn con bé qua gọng kính. Rồi ông bảo Irma ngồi dậy và Elisabeth kéo váy ngủ của nó lên. Thân người Irma rất trắng và gầy, đôi xương bả vai nhô hẳn lên. Bác sĩ đặt ống nghe lên lưng con bé, ông thở nặng nhọc và cũng bảo nó thở.

“Được rồi,” ông lại nói.

Rồi ông gõ vào những chỗ khác trên ngực con bé và nắn bụng nó bằng những ngón tay lạnh như băng. Cuối cùng ông đứng lên, vỗ nhẹ lên đầu con bé, rửa tay, kéo cổ tay áo xuống, sau đó Elisabeth dẫn ông vào phòng làm việc, ở đó ông ngồi thoải mái xuống, vặn nắp bút máy ra và viết đơn thuốc.

“Vâng,” ông nói, “có nhiều người đang bị cúm. Có buổi biểu diễn hôm qua cũng bị hủy bỏ vì nữ ca sĩ và người đệm đàn đều dính bệnh cúm.”

Sáng hôm sau, thân nhiệt Irma hạ xuống đáng kể. Paul thì ngược lại trông phờ phạc, ông thở khò khè và liên tục xì mũi, nhưng ông vẫn thẳng thừng từ chối lên giường nghỉ và thậm chí vẫn đến văn phòng như thường lệ. Cả cô bảo mẫu cũng sụt sịt nốt.

Tối đó, khi rút ống thủy tinh ấm nóng từ dưới nách con gái ra, Elisabeth vui mừng nhận thấy cột thủy ngân hầu như không chạm đến vạch mốc đỏ. Irma chớp mắt, ánh sáng làm lóa mắt con bé; nên nó giờ quay mặt vào tường. Căn phòng tối trở lại. Khung cảnh thật ấm cúng, dễ chịu và đôi chút phi lý. Irma nhanh chóng rơi vào giấc ngủ, nhưng rồi giữa đêm con bé tỉnh dậy vì một giấc mơ thoáng vẻ không vui. Nó khát nước và muốn uống cốc nước chanh dinh dính để trên bàn ngủ, nó uống cạn và cẩn thận đặt lại cốc như cũ, môi chép khe khẽ.

Nó thấy căn phòng dường như tối hơn mọi khi. Ở phòng kế bên, cô bảo mẫu đang ngáy ầm ầm, gần như ngây ngất đê mê. Irma lắng nghe tiếng cô ngáy, và rồi bắt đầu ngóng đợi tiếng xình xịch thân quen của chiếc tàu điện chạy ra từ đường hầm rất gần ngôi nhà. Nhưng chẳng có gì cả. Có lẽ đã quá muộn, nên tàu đã ngừng chạy. Irma nằm mở mắt thao láo. Bỗng nhiên con bé nghe thấy từ ngoài phố một tiếng huýt sáo quen thuộc theo nhịp bốn nốt. Đó đúng là cách huýt sáo của cha nó hồi ông vẫn còn về nhà – chỉ để họ biết lát nữa thôi ông sẽ đến và bữa tối có thể dọn ra rồi. Irma biết chắc đó không phải cha mình, mà là người đàn ông suốt hai tuần lễ nay thường đến thăm cái bà ở tầng bốn – cô bé con ông gác cổng nói với nó thế và còn thè lưỡi ra khi Irma đưa ra nhận xét rất hợp lý rằng chỉ có ngốc thì mới đến chơi muộn như vậy. Nó cũng biết là không nên nhắc đến chuyện cha mình cũng đang sống với cô bạn trẻ: điều này Irma nghe được từ câu chuyện giữa hai bà lúc họ đi xuống cầu thang phía trước nó.

Tiếng huýt sáo dưới cửa sổ lặp lại. Irma nghĩ: “Ai biết được nào? Có khi cuối cùng lại chính là cha chăng? Và chẳng ai cho cha vào nhà cả; có thể họ cố tình nói với mình đó là một người lạ chăng?”

Con bé tung chăn ra và nhón chân đi về phía cửa sổ. Trên đường đi, nó va vào một chiếc ghế và một vật gì mềm mềm (con voi của nó) rơi xuống nghe thịch và lại nghe chít chít, nhưng cô bảo mẫu vẫn ngáy không chút lo âu. Nó mở cửa sổ ra và một luồng gió lạnh như băng dễ chịu ùa vào phòng. Ngoài phố, trong bóng đêm, ai đó đang đứng nhìn chăm chăm lên ngôi nhà. Nó nhìn xuống ông ta một lúc khá lâu, nhưng rồi rất thất vọng nhận ra đó không phải cha mình. Người đàn ông cứ đứng mãi, đứng mãi. Rồi ông ta quay người và chậm rãi bước đi. Irma cảm thấy thương ông. Người nó tê cóng đến độ không đóng nổi cửa sổ, vì thế khi quay về giường không ấm lại được. Cuối cùng, nó ngủ thiếp đi và mơ thấy mình chơi khúc côn cầu với cha. Ông cười ha hả, trượt chân ngã bệt và đánh mất chiếc mũ chóp cao, còn nó cũng ngã bổ chửng. Mặt băng lạnh kinh người, nhưng nó không thể đứng dậy nổi, gậy khúc côn cầu của nó thì bò đi xa dần theo kiểu sâu đo.

Sáng hôm sau, thân nhiệt con bé tăng đến bốn mươi độ, mặt nó tím ngắt và nó kêu đau ở bên sườn. Bác sĩ được triệu đến ngay lập tức.

Mạch bệnh nhân đạt một trăm hai mươi, chỗ đau trên ngực không phản ứng khi gõ lên và ông bác sĩ phát hiện qua ống nghe những tiếng lép bép khe khẽ. Ông kê đơn thuốc đắp, phenacetin và thuốc giảm đau. Elisabeth bỗng thấy mình sắp phát điên lên, rằng sau những chuyện vừa xảy ra, đơn giản là định mệnh không có quyền hành hạ bà như thế. Với một nỗ lực rất lớn và cố tĩnh tâm lúc chào tạm biệt bác sĩ. Trước khi đi, ông khám thêm cho cô bảo mẫu đang sốt cao, nhưng trong trường hợp người phụ nữ cường tráng này thì không có gì đáng báo động cả.

Paul tiễn bác sĩ ra đến sảnh và lạc giọng hỏi han – ông cố nói qua tiếng khò khè do cơn cảm – rằng liệu có gì nguy hiểm không.

“Tôi sẽ khám lại cho con bé ngay hôm nay,” bác sĩ chậm rãi trả lời.

“Lúc nào cũng vẫn thế,” ông bác sĩ già Lampert nghĩ ngơi khi đi xuống cầu thang. “Lúc nào cũng vẫn mấy câu hỏi đó, vẫn ánh mắt khẩn cầu đó.” Ông kiểm tra sổ ghi hẹn của mình và trườn vào sau vô lăng ô tô, đóng sập cửa. Năm phút sau ông bước vào một ngôi nhà khác.

Albinus đón ông trong chiếc áo vét ấm viền lụa mà ông mặc khi làm việc ở nhà. “Cô ấy không được khỏe lắm từ hôm qua,” ông lo lắng thông báo. “Cô ấy than là đau khắp người.”

“Có sốt không?” Lampert hỏi lại và băn khoăn chẳng biết có nên nói cho người tình lo âu này hay rằng con gái ông đang bị viêm phổi không.

“Không, chỉ thế thôi, cô ấy không có vẻ bị sốt” Albinus đáp với giọng báo động. “Còn tôi thì nghe nói cúm mà không có triệu chứng sốt là đặc biệt nguy hiểm.”

(“Sao mình lại phải nói cho ông ta nhỉ?” Lampert nghĩ bụng. “Ông ta bỏ rơi gia đình mà không chút dằn vặt. Họ sẽ tự nói cho ông ta nếu họ muốn. Tại sao mình lại can thiệp vào?”)

“Hừm,” Lampert nói với một tiếng thở dài, “để tôi khám cho bệnh nhân quyến rũ của chúng ta nào.”

Margot đang nằm trên xô pha, cáu kỉnh và mặt đỏ ửng, người quấn trong chiếc áo choàng ở nhà bằng lụa với một đống dây đăng ten. Cạnh cô là Rex ngồi vắt chéo chân, đang phác họa khuôn mặt yêu kiều của cô lên mặt sau vỏ bao thuốc lá.

(“Một tạo vật tuyệt đẹp, không cần bàn cãi gì nữa,” Lampert nghĩ, “nhưng cô nàng có vẻ gì đó giống loài rắn.”)

Rex rút vào phòng kế bên, vừa đi vừa huýt sáo, Albinus lượn quanh gần ngay đó. Lampert tiến hành khám cho bệnh nhân. Một cơn cảm lạnh nhẹ, vậy thôi.

“Tốt nhất cô nên ở nhà khoảng hai ba hôm,” Lampert nói. “Nhân đây, bộ phim làm đến đâu rồi? Đã xong chưa?”

“Vâng, ơn Chúa,” Margot đáp, uể oải kéo chăn đắp quanh người. “Tháng sau sẽ có buổi chiếu riêng. Tôi cần phải khỏi bệnh vào lúc đó, dù chuyện gì xảy ra đi nữa.”

(“Và thêm nữa.” Lampert nghĩ ngợi lan man, “con bé lẳng lơ này sẽ làm ông ta lụn bại cho xem.”)

Khi bác sĩ đi khỏi, Rex quay lại bên Margot và vơ vẩn tiếp tục vẽ cô, miệng không ngừng huýt sáo. Trong vài giây, Albinus đứng cạnh hắn, nghếch đầu theo dõi những chuyển động nhịp nhàng của bàn tay trắng xương xương đó. Rồi ông đi vào phòng làm việc để viết nốt bài báo về một cuộc triển lãm đang được dư luận bàn tán nhiều.

“Khá hay đấy, làm người bạn ở ngôi nhà này cũng khá hay đấy,” hắn nói và cười hô hố.

Margot nhìn hắn rồi giận dữ đáp:

“Ừ, em yêu anh đấy, cái đồ xấu xí – nhưng chẳng đi tới đâu đâu, tự anh biết điều đó mà.”

Hắn vo tròn vỏ bao thuốc rồi ném xoáy nó lên bàn.

“Nghe này, em yêu quý, hôm nào em phải đến chỗ anh, đơn giản thế thôi. Những buổi ghé thăm này của anh quả là vui vẻ lắm, dĩ nhiên rồi, và còn đủ thứ, nhưng anh phát ớn cái lối vui này rồi.”

“Trước hết, xin anh đừng có hét lên. Anh thì chẳng bao giờ thấy thỏa mãn nếu chúng ta không làm điều gì đó liều lĩnh một cách ngu ngốc. Chỉ một công kích nhỏ nhất, chỉ một chút nghi ngờ nhỏ nhất, ông ta sẽ giết chết em hay tống em ra khỏi nhà, và chúng ta chẳng ai sẽ có được một xu nào cả.”

“Giết chết à,” Rex cười khùng khục, “ghê nhỉ.”

“Xin anh đợi thêm chút nữa. Anh không hiểu sao? Một khi ông ta cưới em, em sẽ bớt lo lắng hơn và sẽ tự do hành động như ý em hơn. Là vợ rồi thì không dễ bị tống khứ đi được. Ngoài ra, còn bộ phim. Em đã có đủ mọi loại kế hoạch.”

“Bộ phim à,” Rex lại cười rộ.

“Ừ, rồi anh sẽ thấy. Em tin chắc nó sẽ rất thành công. Chúng ta phải đợi. Em cũng nóng lòng y như anh mà, anh yêu.”

Hắn ngồi xuống mép xô pha và choàng tay qua vai cô.

“Đừng, đừng,” cô nói, người run rẩy và mắt đã khép hờ.

“Chỉ hôn một chút xíu thôi.”

“Một chút xíu thôi,” cô ngạt thở đáp.

Hắn cúi xuống người cô, nhưng đột nhiên cánh cửa nào đó kêu lách cách ở xa và họ nghe thấy Albinus đang đến gần: tiếng bước chân trên thảm, trên sàn, trên thảm rồi lại trên sàn.

Rex sắp sửa đứng dậy thì đúng lúc đó nhận ra khuy áo khoác của hắn đang mắc vào đám dây đăng ten trên vai Margot. Margot cố gỡ nó thật nhanh. Rex giật mạnh nhưng đám dây không chịu rời ra. Margot luống cuống cằn nhằn trong lúc dùng móng tay nhọn giật cái nút thắt. Đúng lúc đó, Albinus lao nhanh vào phòng.

“Không, không phải tôi đang ôm cô Peters đâu,” Rex nói bình thản. “Tôi chỉ đang giúp cô ấy cho thoải mái và rồi bị vướng, ông thấy đấy.”

Margot vẫn còn đang giằng đám dây mà chưa ngước nhìn lên. Tình huống khôi hài đến đỉnh điểm và Rex thấy thích thú hết sức.

Albinus lặng lẽ rút ra một con dao gấp bỏ túi to có cả tá lưỡi dao và cái ông bẩy ra được hóa ra là một chiếc giũa nhỏ. Ông cố thử lần nữa và làm gãy cả móng tay mình. Trò khôi hài đang tiến triển thú vị.

“Vì Chúa, đừng có đâm cô ấy,” Rex ngây ngất nói.

“Bỏ tay ra đi,” Albinus nói, nhưng Margot hét lên:

“Anh dám cắt dải đăng ten à, cắt cái khuy ra ấy!”

“Ngừng lại ngay, đó là khuy áo của tôi,” Rex la lên.

Trong giây lát cả hai người đàn ông trông như đang ngã lên người cô. Rex kéo mạnh lần cuối, có cái gì đó đứt phụt, và hắn thoát được ra.

“Đi vào phòng làm việc của tôi ngay,” Albinus u ám nói với hắn.

“Này, chúng ta hãy khôn ngoan nào,” Rex nghĩ, và hắn nhớ đến một mánh khóe từng giúp hắn lừa được một đối thủ.

“Xin mời anh ngồi xuống,” Albinus nói, mày cau lại nặng nề. “Điều tôi muốn nói với anh khá quan trọng. Đó là về buổi triển lãm tranh Quạ Trắng này. Tôi đang tự hỏi không biết anh có muốn giúp tôi không. Anh thấy đấy, tôi vừa mới viết xong một bài báo khá đi sâu vào chuyên môn và, hừm, nhạy cảm, rồi một số họa sĩ triển lãm tranh sẽ bị xử lý khá thô bạo trong tay tôi.”

(“Ô hô!” Rex nghĩ. “Hóa ra vì thế mà trông ông mới sầu thảm đến vậy. Nỗi sầu thương của bộ óc có học chăng? Hay nỗi thống khổ của cảm hứng? Tuyệt vời.”

“Giờ việc tôi muốn anh làm,” Albinus nói tiếp, “là minh họa cho bài báo của tôi bằng cách đưa vào đó những bức biếm họa nho nhỏ nhằm nhấn mạnh những điều tôi phê bình, đả kích và cả màu sắc lẫn đường nét… như anh từng làm với Barcelo.”

“Tôi sẵn sàng phục vụ ông,” Rex nói. “Nhưng tôi cũng có một đề xuất nhỏ. Ông biết tôi muốn nói gì rồi đấy – phải tính đến một số chi phí, mà tôi thì đang hơi cạn tiền mặt. Ông có thể cho tôi một khoản ứng trước được không? Một món nhỏ thôi – năm trăm mác chẳng hạn.”

“Sao không, dĩ nhiên rồi. Nhiều hơn, nếu anh muốn. Đằng nào thì anh cũng phải định giá cho các bức minh họa mà.”

“Đây là ca ta lô à?” Rex hỏi. “Tôi xem được chứ? Thiếu nữ, thiếu nữ, lại thiếu nữ,” hắn vừa xem tiếp với vẻ ghê tởm ra mặt vừa xem các bản chụp. “Thiếu nữ vuông chữ điền, thiếu nữ dặt dẹo, thiếu nữ phù voi…”

“Và, xin anh cho biết,” Albinus ranh mãnh hỏi, “các thiếu nữ làm anh chán ngấy đến thế là vì sao?”

Rex giải thích khá thẳng thắn.

“Hừm, đó chỉ là vấn đề gu, tôi nghĩ vậy,” Albinus nói; ông vốn tự hào về tính khoáng đạt của bản thân. “Dĩ nhiên tôi không lên án cậu. Đó là điều khá phổ biến, tôi tin là thế, trong giới đàn ông có máu nghệ sĩ. Nếu ở một người bán hàng thì tôi sẽ thấy tởm lợm, nhưng ở một họa sĩ thì lại rất khác – thật ra khá dễ thương và lãng mạn – sự lãng mạn đến từ Rome. Tuy nhiên,” ông nói thêm, “tôi có thể đảm bảo với cậu rằng như vậy thì cậu sẽ bỏ phí khá nhiều thứ đó.”

“Ồ không đâu, cảm ơn ông. Phụ nữ với tôi chỉ là loại động vật có vú không gây hại, hoặc là bạn đồng hành vui vẻ - đôi khi.”

Albinus cười. “Hừm, do cậu đã thẳng thắn về việc này đến thế, đến lượt tôi thú nhận với cậu một điều. Cô nàng diễn viên đó, Karenina ấy, ngay khi vừa nhìn thấy cậu đã nói rằng cô ta tin chắc cậu là người thờ ơ với phái yếu.”

(“Ồ, cô ta đã nói vậy sao?” Rex nghĩ bụng.)
 
CHÚ Ý !!!
Các đạo hữu nhớ thêm TÊN CHƯƠNG và THỨ TỰ CHƯƠNG ở ô phía trên phần trả lời nhanh. Như vậy hệ thống mới tạo được DANH SÁCH CHƯƠNG.
Cập nhật chức năng ĐĂNG TRUYỆN và THÊM CHƯƠNG MỚI trên web Diễn Đàn Truyện tại https://truyen.diendantruyen.com
Top Bottom