Cập nhật mới

Dịch Full Trò Chơi Vương Quyền

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,359
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 20: Chương 18 phần 2




Bà tỉnh giấc vì tiếng gõ cửa.
Catelyn lập tức ngồi dậy. Bên ngoài cửa sổ, những mái nhà của Vương Đô nhuộm đỏ ánh trời chiều. Bà đã ngủ lâu hơn dự tính. Có tiếng gõ thùng thùng lên cánh cửa và một giọng nói cất lên, “Nhân danh đức vua, mở cửa ra.”
“Đợi một chút,” bà nói vọng ra rồi cuốn mình trong áo choàng. Con dao găm nằm trên bàn đầu giường. Bà vồ lấy nó trước khi mở cánh cửa gỗ nặng nề.
Những người đàn ông lao vào phòng mặc áo giáp xích đen và áo choàng vàng kim của Đội Lính Gác. Tay chỉ huy cười khi nhìn thấy con dao trên tay bà và nói, “Không cần tới nó đâu, phu nhân. Chúng tôi tới đưa lệnh bà về lâu đài.”
“Ai ra lệnh?” bà nói.
Hẳn ta đưa bà một dải ruy-băng. Catelyn thấy hơi thở nghẹn lại nơi cỏ họng. Trên đó có dấu triện hình chim nhại, trên sáp xám. “Petyr,” bà nói. Quá sớm. Điều gì đó đã xảy ra với Ser Rodrik. Bà nhìn người chỉ huy lần nữa. “Anh biết tôi là ai không?”
“Không, thưa lệnh bà,” hắn nói. “Chủ nhân Ngón Út của chúng tôi chỉ lệnh đưa bà tới gặp ngài, và lệnh bà sẽ không bị đối xử tệ.”
Catelyn gật đầu. “Anh có thể ra ngoài đợi trong khi tôi thay đồ.”
Bà rửa tay trong chậu và dùng khăn vải lanh lau tay. Những ngón tay bà cứng đơ và ngượng nghịu khi thắt dây áo lót và buộc chiếc áo choàng màu xám buồn tẻ quanh cổ. Sao Ngón Út biết bà ở đây? Ser Rodrik sẽ không bao giờ nói cho cậu ta biết. Ông có thể đã già, nhưng lại là người ương ngạnh và hết sức trung thành. Hay là họ đã tới quá muộn và nhà Lannister đã tới Vương Đô trước rồi? Không, nếu đúng là vậy, Ned phải có mặt tại đây, và chắc chắn ông sẽ tới gặp bà. Làm sao mà...?
Sau đó bà nghĩ tới Moreo. Người Tyrosh đó biết họ là ai và họ ở đâu, quỷ tha ma bắt hắn đi. Bà hy vọng hắn đã có được một món hời vì thông tin này.
Họ mang tới một con ngựa cho bà. Đường phố đã lên đèn khi họ rời đi, Catelyn có thể cảm nhận những ánh mắt đang dõi theo bà và đám lính gác mặc áo choàng vàng kim bao vây xung quanh hộ tống. Khi họ tới Tháp Đỏ, khung lưới sắt đã bị hạ xuống và cánh cổng lớn đã khóa, nhưng những cửa sổ của lâu đài vẫn sống động với những ánh sáng chập chờn. Những tay lính gác xuống ngựa ở bên ngoài tường thành và đưa bà đi qua cánh cửa hậu nhỏ, sau đó lên những bậc thang dài bất tận dẫn lên một ngọn tháp.

Anh ta ngồi một mình trong phòng, trước một cái bàn gỗ nặng nề, đặt một ngọn đèn dầu bên cạnh trong khi đang viết lách. Khi họ đưa bà vào, anh ta ngước lên nhìn và bình thản nói.
“Cat, vì sao em lại tới đây theo cái kiểu này?”
Anh ta đứng dậy và sống sượng ra hiệu với lính gác. “Đi ra đi,” mấy tên lính rời đi. “Anh tin em đã không bị đối xử tệ bạc gì,” anh ta nói sau khi họ rời đi. “Anh đã ra chỉ thị rõ ràng rồi.” Anh ta để ý tới bàn tay đang bị băng. “Tay em...”
Catelyn bỏ qua câu hỏi đầy hàm ý đó. “Em không quen bị người khác triệu tập tới như một nữ hầu,” bà lạnh lùng nói. “Dù là một đứa nhỏ thì anh vẫn phải biết thế nào là lich sự chứ.”
“Anh đã làm em giận. Anh không cố ý.” Anh ta có vẻ hối lỗi. Cái nhìn đó khiến Catelyn nhớ tới một ký ức xa xưa. Anh ta từng là một đứa trẻ láu cá, nhưng mỗi khi phạm sai lầm lại luôn tỏ vẻ ăn năn; đó là một năng khiếu. Năm tháng không làm cho anh thay đổi nhiều. Petyr từng là một cậu nhóc nhỏ con, thấp hơn Catelyn, gầy hơn và nhanh nhẹn hơn, nhưng vẫn có những đường nét góc cạnh cùng đôi mắt xám biết cười y nguyên như trong ký ức của bà. Giờ anh ta nuôi một chỏm râu nhỏ, và trên mái tóc đen đã điểm vài sợi bạc, và dù đã ba mươi tuổi nhưng anh vẫn có cái gì đó rụt rè. Những đường nét của anh khá ăn khớp với con chim nhại bằng bạc trên áo khoác. Từ khi còn là một đứa trẻ, anh đã luôn thích đồ bạc.
“Sao anh biết em ở trong thành phố?” bà hỏi.
“Có chuyện gì mà Lãnh chúa Varys lại không biết,” Petyr nói cùng một nụ cười ranh mãnh. “Ông ấy sẽ sóm tới gặp chúng ta thôi, nhưng anh muốn một mình gặp em đã. Đã quá lâu rồi Cat. Bao năm rồi nhỉ?”
Catelyn bỏ qua sự thân thiết này. Có những vấn đề quan trọng hơn. “Vậy là gián điệp của Nhà vua đã tìm thấy em.”
Ngón Út cau mày. “Em không nên gọi ông ta bằng cái tên đó. Ông ấy là một người khá nhạy cảm. Anh nghĩ do ông ấy là thái giám. Không chuyện gì xảy ra trong thành phố mà Varys không biết. Thi thoảng ông ta còn biết trước khi chúng xảy ra. Ở đâu ông ấy cũng có tình báo. Ông ta gọi họ là những con chim nhỏ. Một trong những con chim nhỏ đó đã báo về chuyến viếng thăm của em. Tạ ơn chúa, Varys đã báo cho anh biết trước.”
“Sao lại là anh?”

Anh nhún vai. “Sao lại không thể là anh? Anh là quan đại tư đồ[10], là thành viên hội đồng của nhà vua. Selmy và Lãnh chúa Renly đã xuống phía bắc để gặp Robert, còn Lãnh chúa Stannis đã tới đảo Dragonstone, ở đây chỉ còn lại Maester Pycelle và anh. Anh là sự lựa chọn hiển nhiên. Varys biết anh luôn là bạn của cô em gái Lysa của em.”
“Vậy Varys có biết về...”
“Lãnh chúa Varys biết mọi điều... trừ lý do em tới đây.” Anh ta nhướng mày. “Sao em ở đây?”
“Nếu một người vợ muốn bên cạnh chồng, và một người mẹ muốn ở gần con gái mình, ai dám bảo bà ta không được tới?”
Ngón Út cười lớn. “Ồ, tốt lắm, nhưng đừng mong anh tin. Anh biết em quá rõ. Châm ngôn của nhà Tully là gì nhỉ?”
Cổ họng bà khô khốc. “Gia đình, Nhiệm vụ, Danh dự.” Bà ngượng nghịu nhắc. Anh ta hiểu bà quá rõ.
“Gia đình, Nhiệm vụ, Danh dự,” anh ta nhại lại. “Tất cả những điều đó bó buộc em ở lại Winterfell, ở nơi Quân sư của chúng ta đã để em lại. Không, phu nhân yêu quý, có điều gì đó đã xảy ra. Chuyến viếng thăm đột ngột của em chứng tỏ có một sự việc cấp bách nào đấy. Làm ơn hãy để anh giúp. Những người bạn cũ sẽ không bao giờ từ chối.” Có tiếng gõ cửa khe khẽ. “Mời vào,” Ngón Út nói.
Người đàn ông bước vào khá mập mạp, sực nức mùi nước hoa, phấn son trát đầy mặt, và nhẵn nhụi như một quả trứng. Ông ta mặc áo gi-lê dệt sợi vàng bên ngoài lễ phục rộng rãi bằng lụa tím, và chân đi đôi dép mũi nhọn bằng nhung mềm. “Phu nhân Stark,” ông ta nói, và nắm lấy tay bà bằng cả hai tay, “thật mừng khi được gặp lại lệnh bà sau từng đó năm.”
Da dẻ ông ta thật mềm mịn, còn hơi thở có mùi hoa đinh tử hương. “Ồ, đôi bàn tay tội nghiệp của lệnh bà. Bà tự làm mình bỏng sao, phu nhân? Những ngón tay này thật tinh tế... Maester Pycelle tốt bụng của chúng ta có làm một loại thuốc mỡ rất tốt, tôi tặng bà một lọ nhé?”
Catelyn rút tay lại. “Cám ơn Lãnh chúa, nhưng Maester Luwin của chúng tôi đã xem qua vết thương cho tôi rồi.”

Varys lắc đầu. “Tôi rất buồn khi nghe tin về con trai bà. Và thằng bé còn quá nhỏ. Thần thánh thật độc ác.”
“Chúng tôi đồng ý với ông về điều đó, Lãnh chúa Varys,” bà nói. Danh hiệu này chỉ là mang tính danh dự, vì ông ta là thành viên của hội đồng; Varys chỉ là một quan mật vụ, không phải chủ nhân của ai ngoài các tình báo viên của mình.
Viên thái giám xòe bàn tay mềm mịn. “Tôi hy vọng mọi chuyện sẽ chuyển biến tốt đẹp hơn, thưa phu nhân. Tôi vô cùng kính trọng chồng bà, quân sư mới của chúng ta, và tôi biết chúng ta đều yêu mến Vua Robert.”
“Đúng,” bà buộc phải đồng tình. “Chắc chắn rồi.”
“Làm gì có vị vua nào được lòng người như Robert của chúng ta,” Ngón Út hài hước nói kèm một nụ cười ranh mãnh. “Ít nhất là theo những gì Lãnh chúa Varys nghe được.”
“Một quý bà tốt bụng,” Varys nói với sự quan tâm sâu sắc. “Thành Phố Tự Trị có những thầy thuốc kì tài. Chỉ cần bà nói một tiếng, tôi sẽ phái một người tới chữa trị cho Bran yêu mến của bà.”
“Maester Luwin đã làm tất cả những gì cần thiết cho Bran,” bà nói. Bà sẽ không nói thêm điều gì về Bran, không phải ở đây, không phải với những người này. Bà không tin Ngón Út, và chẳng có chút niềm tin nào nơi Varys. Bà sẽ không để họ nhìn thấy nỗi buồn của bà. “Lãnh chúa Baelish nói với tôi rằng tôi phải cảm ơn ông vì đã mang tôi tới đây.”
Varys cười khúc khích như một cô gái. “Ồ, đúng rồi. Tôi đoán tôi là kẻ mang tội. Tôi mong lệnh bà sẽ tha thứ cho tôi, thưa phu nhân tốt bụng.” Ông ta tự mình ngồi xuống và đan chéo hai tay vào nhau. “Tôi tự hỏi liệu có vấn đề gì không nếu bà đưa chúng tôi xem con dao?”
Catelyn Stark nhìn viên thái giám với vẻ khó tin đến choáng váng. Bà sợ hãi nghĩ, ông ta là một gián điệp, một thầy bùa hoặc có khi còn tệ hơn. Ông ta biết những thứ không ai có thể biết, trừ khi... “Ông đã làm gì với Ser Rodrik?” bà hỏi.
Ngón Út không hiểu. “Tôi cảm thấy như một hiệp sĩ ra trận không mang theo cây thương rồi. Chúng ta đang nói tới con dao nào? Ser Rodrik là ai?”
“Ser Rodrik là thầy dạy kiếm của Winterfell.” Varys nói cho cậu ta hay. “Tôi đảm bảo, thưa Phu nhân Stark, chúng tôi không làm gì người hiệp sĩ tốt bụng đó cả. Đúng là chiều nay ông ấy có tới đây. Ông ấy tới gặp Ser Aron Santagar trong kho vũ khí, và họ nói về một con dao găm nào đó. Đến chiều, họ cùng nhau rời lâu đài và đi về cái nhà trọ dơ dáy khủng khiếp mà lệnh bà đang ở. Họ vẫn ở đó, uống rượu trong phòng sinh hoạt chung, đợi bà trở về. Ser Rodrik rất buồn vì lệnh bà đã đi mất.”
“Sao mà ông biết được?”

“Tin tức từ những chú chim nhỏ,” Varys mỉm cười nói. “Tôi biết nhiều thứ, thưa quý bà xinh đẹp. Đó là nhiệm vụ của tôi.” Ông ta nhún vai. “Bà cầm theo con dao đó, đúng không?”
Catelyn lôi nó ra khỏi áo choàng và ném xuống cái bàn trước mặt ông ta. “Đây. Có lẽ những con chim nhỏ của ông cũng thì thầm cả tên người sở hữu nó.”
Varys nâng con dao lên với sự duyên dáng quá thể và lướt ngón cái trên lưỡi dao. Máu ứa ra, và ông ta ré lên rồi thả con dao xuống bàn.
“Cẩn thận,” Catelyn nói, “nó sắc lắm.”
“Không gì có thể sắc bằng lưỡi thép Valyria.” Ngón Út nói khi Varys mút ngón tay cái và nhìn Catelyn với bộ mặt sưng sỉa trách móc. Ngón Út nhẹ nhàng nhấc con dao lên, kiểm tra cán dao. Anh tung nó lên rồi tóm lại bằng tay kia. “Cân bằng tốt làm sao. Lý do của chuyến viếng thăm này là tìm chủ sở hữu của nó? Em không cần tìm Ser Aron làm gì, phu nhân yêu quý. Em nên tới gặp anh.”
“Và nếu em đã tới,” bà nói, “anh sẽ nói gì cho em nào?”
“Anh sẽ nói cho em biết rằng ở Vương Đô chỉ có duy nhất một con dao thế này,” Anh ta nắm lấy lưỡi dao bằng ngón trỏ và ngón cái, giơ nó về phía sau, phi dao bằng cú lắc cổ tay rất nghề. Nó cắm sâu vào lớp cửa gỗ sồi, rung bần bật. “Là của anh.”
“Của anh?” Không thể hiểu nổi. Petyr không hề tới Winterfell.
“Cho tới cuộc đấu thương ngựa nhân sinh nhật hoàng tử Joffrey,” anh ta nói, đi sải bước tới bên kia phòng, rút con dao ra khỏi thớ gỗ. “Anh cũng như một nửa triều thần đã cá Ser Jaime thắng.” Nụ cười ngượng ngùng của Petyr khiến anh một lần nữa trở về thời niên thiếu. “Khi Loras Tyrell hạ gục ngài ta, rất nhiều người trong số tụi anh trở nên tay trắng. Ser Jaime đã thua mất một trăm rồng vàng, hoàng hậu mất mặt dây chuyền ngọc lục bảo, và anh mất con dao. Hoàng hậu đã lấy lại được mặt dây chuyền ngọc lục bảo, nhưng người chiến thắng đã giữ hết những cái còn lại.”
“Ai?” Catelyn hỏi, mồm khô khốc vì sự hãi. Những ngón tay của bà nhói đau vì nỗi đau trong kí ức.
“Quỷ Lùn,” Ngón út nói khi Lãnh chúa Varys quan sát nét mặt bà. “Tyrion Lannister.”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,359
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 21: Chương 19 phần 1




JON
 
Những thanh kiếm rộn rã vang lên thành điệu hát trên sân tập.
Bên dưới lớp áo len đen, da thuộc và lớp áo giáp, mồ hôi chảy thành từng dòng lạnh lẽo trên da Jon khi cậu xông lên. Grenn sảy chân lùi lại, lúng túng đỡ đòn. Khi hắn ta giơ kiếm lên, Jon cúi xuống quét trúng đùi hắn, khiến hắn loạng choạng. Cú bổ xuống của Grenn bị Jon phản đòn làm móp mũ trụ của hắn. Khi hắn cố đánh tạt ngang, Jon gạt lưỡi kiếm kia sang một bên và dùng giáp tay đập vào ngực đối thủ. Grenn mất thăng bằng và ngã huỵch xuống tuyết. Jon tước vũ khí cậu kia bằng một nhát chọc vào cổ tay khiến cậu ta rú lên đau đớn.
“Đủ rồi!” giọng của Ser Alliser Thorne sắc như lưỡi thép Valyria.
Grenn ôm lấy tay. “Tên con hoang kia đánh gẫy cổ tay tôi rồi.”
“Tên con hoang đó đã cắt đứt khoeo chân cậu, mở toang cái sọ rỗng của cậu và cắt đứt một bàn tay của cậu. Hoặc đúng là như thế, nếu như kiếm sắc. May cho cậu là Đội Tuần Đêm cần cả những cậu nhóc coi ngựa cũng như những chiến binh.” Ser Alliser vẫy tay với Jeren và Toad. “Kéo con bò rừng này đứng lên, hắn ta phải lo tang ma chứ nhỉ.”
Jon tháo mũ trụ khi những cậu nhóc khác kéo Grenn đứng dậy. Không khí buổi sáng lạnh cóng mơn trớn khuôn mặt cậu mới tuyệt làm sao. Cậu chống kiếm, hít thật sâu và tự ình một khoảnh khắc tận hưởng hương vị chiến thắng.
“Đó là một thanh trường kiếm, không phải ba toong của mấy cụ già,” Ser Alliser xẵng giọng nói. “Hay chân cậu bị đau hả, Lãnh chúa Snow?”
Jon ghét cái tên đó, cái tên móc máy mà Ser Alliser đã dành cho cậu ngay từ ngày đầu tiên cậu tới tập kiếm. Những cậu nhóc khác cũng a dua, và giờ cậu nghe thấy cái tên đó ở mọi nơi. Cậu tra thanh trường kiếm vào vỏ. “Không,” cậu trả lời.
Thorne sải bước tới chỗ cậu, áo choàng da đen thô cứng loạt xoạt theo bước chân ông, một người đàn ông chắc nịch, khoảng năm mươi tuổi, gầy gò và khó tính, với mái tóc đen đã điểm bạc và đôi mắt như hai hạt mã não. “Vậy sự thật là gì,” ông ta hỏi.
“Tôi mệt,” Jon thừa nhận. Tay cậu đau vì sức nặng của thanh trường kiếm, và cậu đã bắt đầu cảm nhận được những vết bầm tím do trận đấu gây ra.
“Cậu yếu đuối quá đấy.”

“Tôi đã thắng.”
“Không. Là Bò Rừng thua.”
Một cậu nhóc cười khẩy. Jon biết tốt hơn hết là nên ngậm miệng lại. Cậu đã đánh bại tất cả những người Ser Alliser cử ra, nhưng chẳng nhận được gì. Thầy dạy kiếm này chỉ biết nhạo báng. Jon cho là Thorne ghét cậu; tất nhiên, ông ta còn ghét mấy tên nhóc kia hơn.
“Chỉ có thế,” Thorne nói với tất cả. “Tôi chỉ có thể chịu nổi từng ấy trong một ngày thôi. Nếu như Ngoại Nhân tới đối đầu với chúng ta, tôi cầu cho chúng có cung thủ, vì hầu hết các cậu chỉ hợp làm bia đỡ đạn thôi.”
Jon lẳng lặng theo sau những người khác về kho vũ khí. Nhóm luyện tập cùng cậu gồm gần hai mươi người, nhưng cậu không thể chơi với một ai. Hầu hết đều là những người đã ở Đội Tuần Đêm một hai năm, nhưng khả năng đấm đá không bằng một nửa Robb, dù mới mười bốn. Dareon nhanh nhẹn nhưng sợ dính đòn. Pyp dùng kiếm như dùng dao găm, Jeren yếu ớt như một bé gái, còn Grenn thì chậm chạp và vụng về. Những cú đánh của Halder thường vô cùng hung bạo, nhưng hắn dễ bị đối phương lừa đòn. Càng ở lâu với họ, cậu càng chán ghét họ.
Vào tới bên trong, Jon treo kiếm lên cái móc trên tường đá, lờ tịt những người xung quanh. Cậu lần lượt tháo áo giáp, áo da, và áo len ướt sũng mồ hôi. Than đỏ rực trong lò đặt ở hai bên căn phòng dài, nhưng Jon vẫn run lẩy bẩy. Ở nơi này cái lạnh luôn vương vất bên cậu. Chỉ trong vài năm nữa thôi cậu sẽ quên mất thế nào là ấm áp.
Khi cởi bộ đồ đen thô ráp vẫn mặc hàng ngày, cậu đột nhiên thấy kiệt sức. Cậu ngồi trên ghế, những ngón tay lóng ngóng tháo áo choàng. Thật lạnh, cậu nhớ tới những căn phòng ấm áp của Winterfell, nơi nước nóng chạy trong tường tựa như máu chảy trong cơ thể. Ít khi người ta tìm được sự ấm áp tại Hắc Thành; những bức tường ở đây luôn lạnh lẽo, con người còn lạnh lẽo hơn.
Không ai từng nói cho cậu biết Đội Tuần Đêm lại giống thế này; không ai trừ Tyrion Lannister. Gã lùn đã nói cho cậu biết sự thực trên đường lên phương bắc, nhưng lúc đó thì đã quá muộn. Jon tự hỏi liệu cha có biết Tường Thành thế nào không. Chắc chắn ông phải biết, cậu nghĩ; nhưng điều đó còn làm cậu tổn thương hơn.
Kể cả chú cậu cũng bỏ rơi cậu tại nơi lạnh lẽo tận cùng thế giới này. Ở nơi đây, người chú Benjen Stark vui vẻ đã trở thành một con người khác. Chú là đội trưởng đội Biệt Kích, và ông dành cả ngày lẫn đêm cùng với tướng Mormont, Maester Aemon và những sĩ quan cấp cao khác, trong khi Jon bị quẳng cho ông thầy dạy kiếm cục cằn Ser Alliser Thorne.
Ba ngày sau khi họ tới, Jon đã nghe được rằng chú Benjen Stark đã dẫn một nhóm nửa tá người đi vào rừng ma. Đêm đó cậu đã lao vào sảnh sinh hoạt chung lớn được dựng bằng gỗ và đòi đi cùng. Chú Benjen từ chối thẳng thừng. “Đây không phải Winterfell,” ông nói trong khi tiếp tục cắt miếng thịt bằng dĩa và dao. “Ở Tường Thành, một người chỉ có được cái người đó kiếm được. Cháu không phải lính biệt kích, Jon, chỉ là một cậu nhóc non nớt vẫn còn ám hương vị mùa hè.”
Jon ngu ngốc cãi lại. “Cháu sẽ tròn mười lăm vào sinh nhật,” cậu nói. “Gần là một người trưởng thành.”
Chú Benjen Stark nhíu mày. “Cháu vẫn là một đứa bé, và mãi là một đứa bé cho tới khi Ser Alliser nói cháu phù hợp làm một người của Đội Tuần Đêm. Nếu cháu nghĩ dòng máu Stark trong cháu sẽ giúp cháu được ưu ái, cháu nhầm rồi. Chúng ta sẽ bỏ qua thân thế gia đình của mình một khi đã thề trung thành. Cha cháu luôn nằm trong trái tim ta, nhưng giờ những người này mới là anh em của ta.” Ông dùng con dao chỉ vào những người xung quanh, tất cả đều lạnh lùng cứng đờ trong bộ đồ đen.
Jon thức dậy vào bình minh ngày hôm sau và nhìn chú mình ra đi. Một trong những lính biệt kích của ông, một người đàn ông to lớn xấu xí, đang hát một khúc ca tục tĩu khi ngồi lên lưng ngựa, hơi thở phả ra hòa vào không khí lạnh giá của ban sáng. Ben Stark cười vì điều đó nhưng không hề cười với đứa cháu. “Ta phải nói không với cháu bao nhiêu lần đây, Jon? Chúng ta sẽ nói chuyện sau khi ta trở về.”

Khi quan sát người chú dắt con ngựa đi qua đường hầm, Jon đã nhớ lại những điều Tyrion Lannister nói với cậu trên vương lộ, đầu óc cậu váng vất hình ảnh Ben Stark sẽ chết, máu thấm đỏ tuyết. Ý nghĩ đó khiến cậu phát bệnh. Cậu đang trở thành cái gì đây?
Sau đó cậu tìm thấy Bóng Ma đang một mình trong phòng cậu, cuộn mình vùi mặt trong bộ lông trắng dày dặn.
Nếu cậu phải ở một mình, cậu sẽ sống cô độc. Hắc Thành không có rừng thiêng, chỉ có một điện thờ nhỏ và một thầy tu nát rượu, nhưng Jon tự thấy mình không thể nào cầu khẩn bất cứ một vị thần nào, dù mới dù cũ. Nếu họ có thật, cậu nghĩ, họ cũng độc ác và lạnh ngắt hệt như mùa đông.
Cậu nhớ những người anh em thực sự của mình: Rickon nhỏ bé, với đôi mắt sáng lấp lánh khi đòi kẹo; Robb, đối thủ, người bạn thân nhất và người đồng hành trung thành; Bran, cứng đầu và tọc mạch, luôn muốn đi theo và cùng Jon và Robb làm bất cứ việc gì họ đang làm. Cậu nhớ những cô em gái, kể cả Sansa, người chưa bao giờ gọi cậu bằng cái tên gì khác ngoài “anh trai cùng cha khác mẹ của tôi” từ khi cô đủ lớn để hiểu con hoang là gì. Và Arya... cậu nhớ cô bé còn hơn nhớ Robb, gầy gò nhỏ bé, với đầu gội lúc nào cũng xước xát, với mái tóc rối bù và quần áo rách, rất hung dữ và ngang ngạnh. Arya dường như chưa bao giờ thích nghi nổi, không hơn gì cậu... nhưng cô bé luôn làm Jon mỉm cười. Cậu có thể đánh đổi mọi thứ để có cô em bên cạnh, để vò rối mái tóc cô bé một lần nữa và nhìn cô em nhăn mặt, biết trước mọi điều cậu muốn nói.
“Mày làm gẫy tay tao, thằng con hoang.”
Jon nhướng mắt về phía giọng nói cộc lốc kia. Grenn lù lù đứng đó, cổ gân lên và mắt vằn đỏ, với ba người bạn đi cùng. Cậu biết Todder, thằng nhóc lùn xủn xấu xí có giọng nói khó nghe. Những lính mới gọi cậu ta là Toad. Jon nhớ, hai cậu kia đi cùng Yoren tới phương bắc, đó là những kẻ hiếp dâm bị bắt ở đảo Fingers. Cậu đã quên mất tên họ. Cậu chẳng thèm nói chuyện vì chúng là những kẻ cục súc và côn đồ, không hề có một chút tự trọng nào.
Jon đứng lên. “Tao sẽ bẻ gẫy tay còn lại hộ mày nếu mày nhờ vả tử tế.” Grenn mười sáu tuổi và cao hơn Jon một cái đầu. Cả bốn tên kia đều to lớn hơn Jon nhưng chúng chẳng làm cậu sợ. Cậu đã đánh bại từng người một ở sân tập.
“Cũng có thể bọn tao sẽ bẻ gãy tay mày,” một trong những tay hiếp dâm nói.
“Thử xem.” Jon với lấy thanh kiếm, nhưng một trong số chúng đã nắm lấy tay cậu và vặn ra sau lưng.
“Chính mày làm bọn ta xấu mặt,” Toad phàn nàn.
“Mày đã tệ hại từ trước khi tao gặp mày rồi,” Jon nói. Tên nhóc đang nắm tay cậu giật mạnh. Cơn đau chạy dọc người, nhưng Jon không kêu một tiếng.

Toad tiến tới gần hon. “Tay tiểu quý tộc này cũng dẻo miệng nhỉ,” hắn nói. Mắt hắn như mắt lợn, sáng nhưng ti hí. “Đó là miệng lưỡi của mẹ mày hả, con hoang? Bà ta làm gì, điếm chăng? Nói cho tụi tao biết tên mụ ta xem nào. Có khi tao ngủ với mụ ta một hai lần rồi cũng nên.” Hắn cười lớn.
Jon vặn vẹo như một con lươn và dậm mạnh lên mu bàn chân thằng nhóc đang giữ cậu. Đột nhiên có tiếng gào đau đớn, còn cậu đã tự do. Cậu lao vào phía Toad, đánh hắn ngã lộn qua ghế, rồi cậu ngồi lên ngực hắn, dùng hai tay bóp chặt cổ hắn, đập đầu hắn rầm rầm xuống đất.
Hai kẻ tới từ Đảo Fingers lôi cậu ra ném xuống đất. Grenn bắt đầu đá cậu. Jon đang lăn người tránh những cú đánh thì một giọng nói oang oang vang lên trong kho vũ khí ảm đạm.
“DỪNG LẠI! NGAY!”
Jon đứng dậy. Bác Donal Noye trợn mắt nhìn chúng. “Đánh đấm thì ra sân mà đánh,” sĩ quan phụ trách vũ khí nói. “Tranh cãi gì thì cũng tránh xa kho vũ khí của ta ra, hoặc không thì đánh với ta này. Mấy cậu sẽ không thích đâu.”
Toad ngồi trên nền nhà, thận trọng sờ sau gáy. Tay hắn dính đầy máu. “Nó định giết tôi.”
“Đúng ạ. Tôi đã chứng kiến,” một trong những kẻ hiếp dâm nói thêm vào.
“Hắn làm gẫy tay tôi,” Grenn lại nói, giơ tay ra cho bác Noye xem.
Sĩ quan phụ trách vũ khí nhìn cổ tay được đưa ra với các liếc xéo. “Một vết bầm. Có thể là bong gân. Maester Aemon sẽ cho cậu thuốc mỡ. Todder, đi tìm ông ấy đi, cậu cần chăm sóc cho cái đầu của mình. Tất cả còn lại, trở về phòng. Không phải cậu, Snow. Cậu ở lại.”
Jon nặng nề ngồi trên băng ghế gỗ dài trong khi những người khát rời đi, chúng nhìn cậu như ngầm cảnh cáo chúng sẽ trả thù. Tay cậu đang căng lên.
“Đội Tuần Đêm cần tất cả nhân lực có thể có,” Bác Donal Noye nói khi họ chỉ còn một mình. “Tất cả những kẻ như Toad. Cậu sẽ không dành được chút danh dự nào nếu giết hắn.”
Cơn giận của Jon lóe lên. “Hắn nói mẹ tôi là...”
“... một con điếm. Tôi nghe rồi. Thế thì sao?”
“Lãnh chúa Eddard Stark không phải loại người đi ngủ với điếm,” Jon lạnh lùng nói. “Danh dự của ông ấy...”
“... không ngăn ông ấy làm cha một đứa con hoang. Đúng không?”

Jon lạnh lùng vì giận dữ. “Tôi đi được chưa?”
“Cậu sẽ đi khi tôi cho phép.”
Jon rầu rĩ nhìn khói bốc lên từ lò than, tới khi Noye nắm lấy cằm cậu, những ngón tay dày thô ráp quay đầu cậu lại. “Nhóc, nhìn vào ta khi ta nói chuyện với cậu.”
Jon đưa mắt nhìn. Viên sĩ quan phụ trách vũ khí có bộ ngực và cái bụng như một thùng rượu. Mũi to và tẹt dí. Ông tay áo bên trái của chiếc áo len đen bị cố định tại vai bằng một cái ghim bạc hình thanh trường kiếm. “Lời nói không thể biến mẹ cậu thành một ả điếm. Bà ấy thế nào thì vẫn vậy, và Toad không thể thay đổi điều đó được. Cậu biết đó, chúng ta có những người sống trên Tường Thành có mẹ là điếm.”
Không phải mẹ tôi, Jon cứng đầu nghĩ. Cậu không biết gì về mẹ mình; Cha Eddard Stark không nói gì về bà cả. Nhưng cậu thường mơ thấy bà, thường xuyên tới nỗi cậu gần như nhìn thấy mặt bà. Trong những giấc mơ, bà rất xinh đẹp, xuất thân cao quý và có đôi mắt hiền hậu.
“Cậu nghĩ việc mình là con hoang của một lãnh chúa cao quý rất khổ sở ư?” sĩ quan phụ trách vũ khí nói tiếp. “Thằng nhóc Jeren đó là con của một thầy tu, Cotter Pyke là con hoang của một ả bồi bàn quán rượu. Giờ anh ta chỉ huy đội gác phía đông bờ biển.”
“Tôi không quan tâm,” Jon nói. “Tôi không quan tâm tới họ và tôi không quan tâm tới ông, Thorne hay Benjen Stark hay bất cứ thứ gì. Tôi ghét ở đây. Nó quá... lạnh.”
“Đúng. Lạnh lẽo, khắc nghiệt và khốn khổ, đó chính là Tường Thành và những người bước đi trên đó. Không giống những câu chuyện bà vú của cậu kể. Ừm, nhổ vào những câu chuyện và nhổ vào bà vú của cậu. Đời là thế này đây, và cậu sẽ sống ở đây cả đời, giống như những người khác vậy.”
“Cả đời,” Jon cay đắng nhắc lại. Sĩ quan phụ trách vũ khí có thể nói về cuộc đời. Ông ta có cái đó. Ông chỉ khoác trên mình trang phục đen sau khi mất đi cánh tay trong trận bao vây Storm’s End. Trước đó, ông làm thợ rèn cho Stannis Baratheon, em trai của nhà vua. Ông đã chu du trong Bảy Phụ Quốc, ăn nhậu, tán gái và chiến đấu hàng trăm trận. Họ nói rằng Donal Noye đã rèn nên cây búa chiến của Vua Robert, thứ vũ khí đã tước đi mạng sống của Rhaegar Targaryen tại trận Trident. Ông đã làm những điều Jon sẽ không bao giờ được làm, và sau khi có tuổi, yên ổn qua tuổi ba mươi, ông lãnh một nhát rìu sượt qua, vết thương mưng mủ tới mức phải cắt cả cánh tay. Chỉ khi đó, khi đã tàn phế, Donal Noye mới tới Tường Thành, nơi cuộc đời ông đã viên mãn nhưng chưa kết thúc.
“Đúng, cuộc đời,” Noye nói. “Cuộc đời dài hay ngắn, phụ thuộc vào cậu, Snow ạ. Nếu cậu tiếp tục con đường cũ, rồi có ngày một trong những anh em đồng hữu của cậu sẽ cắt cổ cậu ngay trên giường ngủ.”
“Họ không phải anh em của tôi,” Jon đáp lại. “Họ ghét tôi vì tôi giỏi hơn họ.”
“Không. Họ ghét cậu vì cậu tỏ ra rằng mình giỏi hơn tất cả. Họ nhìn cậu và thấy một đứa con hoang sống trong lâu đài và tưởng mình là công tử.” Người sĩ quan kho vũ khí nhoài tới gần hơn. “Cậu không phải công tử. Cậu là Snow, không phải Stark. Cậu là một tên con hoang và một kẻ côn đồ.”
“Một kẻ côn đồ ư?” Jon suýt nghẹn. Lời buộc tội thật quá đáng khiến cậu không thở nổi. “Chúng mới là những kẻ tấn công tôi. Bốn người bọn chúng.”
“Đó là bốn kẻ cậu đã bêu xấu khi ở sân tập. Bốn kẻ có lẽ rất sợ cậu. Ta đã quan sát cậu chiến đấu. Đối với cậu đó không phải luyện tập. Nếu cậu dùng kiếm thật, họ sẽ chỉ còn là một đống xác chết; cậu biết, ta biết và chúng cũng biết. Cậu không nhân nhượng chút nào. Cậu khiến chúng xấu hổ. Điều đó có làm cậu tự hào không?”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,359
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 22: Chương 19 phần 2




Jon lưỡng lự. Cậu thực sự thấy tự hào khi chiến thắng. Sao lại không chứ? Nhưng viên sĩ quan phụ trách vũ khí này đang tước nó đi, như thể cậu đã làm việc sai trái. “Họ đều lớn hơn tôi,” cậu phản đối.
“Lớn hơn, to hơn và khỏe mạnh hơn, đúng. Nhưng tôi dám cá thầy dạy kiếm tại Winterfell cũng dạy cậu đấu với những người lớn hơn. Ông ấy là ai nhỉ, một hiệp sĩ già phải không?”
“Ser Rodrik Cassel,” Jon thận trọng đáp. Ở đây có một cái bẫy. Cậu cảm thấy nó đang dần thít lấy mình.
Bác Donal Noye nhoài người, nhìn thẳng vào mặt Jon. “Giờ nghĩ đi, nhóc. Những đứa kia đâu được gặp thầy dạy kiếm nào trước Ser Allister. Cha họ là nông dân, những kẻ kéo xe bò, những kẻ săn trộm, những thợ rèn, thợ mỏ và tay chèo trên những con tàu buôn. Tất cả những gì chúng biết về đánh đấm đều được học trên các bến tàu, trong các con hẻm của Oldtown và Lannisport, trong những nhà thổ và quán rượu ven vương lộ. Có thể chúng đã dùng gậy gộc vài lần trước khi tới đây, nhưng tôi thề với cậu, không đứa nào trong hai mươi đứa đó từng dùng kiếm thật.” Ánh nhìn của ông thật buồn. “Giờ cậu thấy cảm giác chiến thắng thế nào, Lãnh chúa Snow?”
“Đừng gọi tôi như thế!” Jon gay gắt nói, nhưng trong giọng nói đã không còn tức giận. Đột nhiên cậu thấy xấu hổ và tội lỗi. “Tôi chưa bao giờ... Tôi không nghĩ...”
“Tốt nhất là cậu nên bắt đầu nghĩ đi,” Noye cảnh báo. “Làm thế, hoặc ngủ với một con dao đặt cạnh giường. Giờ đi đi.”
Lúc Jon rời khỏi kho vũ khí đã gần giữa trưa. Mặt trời đã ló rạng khỏi những đám mây. Cậu quay lưng với nó và ngước nhìn Tường Thành, lấp lánh ánh xanh và trong suốt như pha lê. Kể cả sau ngần ấy tuần, việc nhìn thấy nó vẫn khiến cậu rùng mình. Hàng thế kỷ bụi đất do gió mang tới đã phủ lên nó như một lớp sương mỏng, và giờ dường như nó thường mang màu xám nhạt, màu của bầu trời nhiều mây... nhưng khi mặt trời ló rạng trong những ngày đẹp trời, nó tỏa sáng, sống động màu sắc, như một vách núi màu trắng xanh khổng lồ che lấp nửa bầu trời.
Benjen Stark đã nói với cậu trên vương lộ khi họ lần đầu tiên nhìn thấy Tường Thành từ đằng xa, đây là công trình kiến trúc vĩ đại nhất từng được xây dựng dưới bàn tay con người. “Và chắc chắn là công trình vô dụng nhất,” Tyrion Lannister đã thêm vào cùng một nụ cười toe toét, nhưng kể cả Quỷ Lùn cũng phải im lặng khi họ tới gần hơn. Bạn có thể thấy nó từ cách đó hàng dặm, một đường màu xanh nhạt chạy dọc chân trời phía bắc, chạy thẳng về hai phía đông và tây rồi biến mất ở phía xa xa, to lớn và không thế bẻ gẫy. Người ta thường nói, đây chính là nơi tận cùng thế giới.
Khi cuối cùng họ thấy Hắc Thành, thấy những vọng lâu bằng gỗ cùng những tòa tháp đá trông chẳng khác gì những khối đồ chơi nằm rải rác trong tuyết, bên dưới tấm màn tuyết phủ mênh mông. Pháo đài cổ xưa của Hội Đồng Hữu Áo Đen không giống lâu đài Winterfell, không giống bất cứ một lâu đài thực sự nào cả. Không có tường thành, nó không thể là một cứ điểm phòng thủ, không thể tránh được đòn tấn công từ các hướng nam, đông, hay tây; nhưng Đội Tuần Đêm chỉ thực tâm canh gác phương bắc, mà ở phía bắc sừng sững Tường Thành. Nó đứng đó, cao gần hai trăm mét, cao gấp ba lần ngọn tháp cao nhất trong pháo đài. Chú cậu nói đỉnh của nó đủ rộng cho thiết kỵ binh sóng bước cưỡi ngựa qua. Trên cảnh hoang tàn đó thấp thoáng những cỗ máy cẩu đá và những cần trục gỗ khổng lồ ở bên trên, trông như những bộ xương của những con chim to lớn, và vài người đàn ông trong bộ đồ đen đi lại giữa chúng chỉ nhỏ như kiến.
Khi cậu đứng ngoài kho vũ khí nhìn lên, Jon cảm thấy gần như bị choáng ngợp như khi lần đầu tiên đứng trên vương lộ. Tường Thành giống như vậy. Thi thoảng cậu gần như quên mất nó ở đó, giống như bạn quên mất bầu trời trên đầu hay mặt đất dưới chân, nhưng lại có những lúc dường như trên thế giới không có gì ngoài công trình đó. Nó lâu đời hơn cả Bảy Phụ Quốc, và khi Jon nhìn từ dưới lên, cậu thấy chóng mặt. Cậu có thể cảm nhận sức nặng của tất cả băng tuyết phủ lên cậu, như thể nó sắp sửa lung lay, và không hiểu sao Jon biết nếu như nó sụp đổ, cả thế giới cũng sụp đổ theo.
“Thử nghĩ xem cái gì nằm ngoài kia,” một giọng nói quen thuộc vang lên.
Jon nhìn quanh. “Lannister. Cháu không nhìn thấy - ý cháu là, cháu nghĩ cháu chỉ có một mình.”

Tyrion Lannister bị độn trong lớp lông quá dày trông như một con gấu nhỏ. “Khi khiến người khác không chú ý tới mình, cháu sẽ biết được nhiều thứ. Cháu sẽ không biết mình có thể biết được những gì đâu.”
“Ngài sẽ không thể biết bất cứ điều gì từ cháu,” Jon nói. Cậu hiếm khi gặp chàng người lùn từ khi cuộc hành trình kết thúc. Với tư cách em trai hoàng hậu, Tyrion Lannister là vị khách danh dự của Đội Tuần Đêm. Tướng chỉ huy đã cho ông ta một căn phòng ở Tháp Vua, dù thực sự cả trăm năm nay chưa từng có vị vua nào đặt chân tới nơi đây. Lannister ăn uống tại bàn của Mormont rồi cả ngày lai vãng trên Tường Thành còn đêm xuống thì chơi xúc xắc ăn tiền và uống rượu với Ser Allister và Bowen Marsh cùng những sĩ quan cấp cao khác.
“Ồ, ta khám phá ra nhiều thứ tại khắp những nơi ta tới.” Người đàn ông nhỏ thó dùng cây gậy chống màu đen cong queo chỉ lên Tường Thành. “Ta đang muốn nói... vì sao khi một người vừa xây tường xong, người khác đã ngay lập tức muốn biết bên kia bức tường có gì?” Ông ta nghiêng đầu tò mò nhìn Jon bằng đôi mắt hai màu. “Cậu có muốn biết phía bên kia tường có gì không?”
“Chẳng có gì đặc biệt,” Jon nói. Cậu muốn đi cùng chú Benjen Stark trong chuyến đi tuần, vào cánh rừng ma huyền bí, muốn chiến đấu với dân du mục của Mance Rayder và bảo vệ vương quốc khỏi Ngoại Nhân, nhưng tốt hơn hết đừng nên nói ra những thứ bạn muốn. “Những lính biệt kích nói ở đó chỉ có rừng cây, núi non và những hồ nước đóng băng, với rất nhiều băng tuyết.”
“Cùng ba bị và ngáo ộp,” Tyrion nói. “Chúng ta đừng quên mất chúng, Lãnh chúa Snow, hoặc không thì cái thứ to tướng kia dùng để làm gì?”
“Đừng gọi cháu là Lãnh chúa Snow.”
Người lùn nhướng lông mày. “Thế cậu thích bị gọi là Quỷ Lùn hơn hả? Nếu để bọn chúng thấy lời nói của chúng làm tổn thương cậu, thì muôn đời cậu vẫn bị chế giễu. Nếu chúng muốn đặt tên cho cậu, hãy chấp nhận, hãy coi đó là tên mình. Sau đó chúng sẽ không thể khiến cậu bị tổn thương thêm nữa.” Ông ta dùng cây gậy ra hiệu. “Nào, đi cùng ta. Giờ họ đang phục vụ ít súp kinh tởm trong phòng sinh hoạt chung, và ta có thể uống chút gì đó nong nóng.” Jon cũng đói, vì thế cậu đi bên cạnh Lannister và đi chậm lại cho đồng điệu với những bước đi lạch bạch, ngượng nghịu của người lùn. Gió đang thổi mạnh lên, và họ có thể nghe thấy tiếng những tòa nhà gỗ cũ kỹ kêu kẽo kẹt xung quanh, và từ đằng xa vang tới tiếng đóng cửa sầm sập, hết lần này tới lần khác, rồi rơi vào lãng quên. Có một lần một đụn tuyết dày rơi xuống khỏi mái nhà ngay gần chỗ họ.
“Ta không thấy con sói của cậu,” Lannister hỏi khi họ cùng nhau bước đi.
“Cháu xích nó ở trong chuồng ngựa cũ khi chúng cháu luyện tập. Giờ họ đã chuyển hết ngựa sang chuồng phía đông, vì thế sẽ không ai quấy rầy nó. Phần thời gian còn lại nó ở cùng cháu. Phòng ngủ của cháu ở trên tháp Hardin.”
“Có phải tòa tháp với bức tường có lỗ châu mai bị sụp phải không? Lở hết đá xuống cái sân bên dưới, và nghiêng ngả như vị vua cao quý Robert của chúng ta sau một đêm dài chè chén? Ta nghĩ tất cả những tòa nhà đó đã bị bỏ hoang.”
Jon nhún vai. “Chẳng ai quan tâm xem người khác ngủ đâu. Hầu hết những vọng lâu cũ đều không có người, cháu muốn ngủ ở đâu thì ngủ.” Hắc Thành từng là nơi cư ngụ cho năm ngàn lính, ngựa cùng những người hầu và vũ khí. Nhưng giờ nó chỉ là mái nhà ột phần mười số đó, và nhiều phần đã sập xuống thành những đống đổ nát.

Nụ cười của Tyrion Lannister bốc hơi trong không khí lạnh lẽo. “Ta chắc chắn sẽ bảo cha cậu bắt thêm vài tên thợ đá, trước khi tòa tháp cậu ở sụp xuống.”
Jon có thể nhận ra chút châm biếm trong đó, nhưng đó là sự thực không thể chối bỏ. Đội Tuần Đêm từng dựng mười chín pháo đài lớn dọc Tường Thành, nhưng giờ chỉ còn ba nơi còn có người canh giữ: Đồn Gác Phía Đông bờ biển cát xám lộng gió, Tháp Đêm nằm trên những ngọn núi tại nơi tận cùng của Tường Thành, và Hắc Thành nằm ở giữa, tiếp giáp điểm cuối vương lộ. Những pháo đài khác đã bị bỏ hoang từ lâu, là những nơi cô độc, bị ma ám, nơi những cơn gió lạnh thổi hun hút qua những ô cửa sổ đen và linh hồn người chết lang thang trên những lan can.
“Cháu thấy tốt hơn hết là ở một mình,” Jon ngang bướng nói. “Những người khác đều sự Bóng Ma.”
“Những cậu bé khôn ngoan,” Lannister nói.
Và sau đó ông ta đổi chủ đề. “Vấn đề là, chú của cháu đã đi quá lâu.”
Jon vẫn nhớ lời mình ước trong cơn giận, hình ảnh chú Benjen Stark chết trên tuyết, và cậu vội nhìn đi nơi khác. Người lùn đã cảm nhận thấy gì đó, và Jon không muốn ông ta thấy sự tội lỗi trong đáy mắt cậu. “Chú ấy nói sẽ trở về trong ngày sinh nhật cháu,” cậu thừa nhận. Ngày sinh nhật của cậu đã qua cách đây hai tuần mà không ai nhớ tới. “Họ đang đi tìm Ser Waymar Royce, cha ngài ấy là tướng tiên phong cho Lãnh chúa Arryn. Chú Benjen nói họ sẽ tìm tới Tháp Đêm. Toàn bộ đoạn đường đó đều là đường núi.”
“Ta có nghe phong thanh rằng dạo gần đây đội mất khá nhiều lính biệt kích,” Lannister nói khi họ bước lên bậc tam cấp của nhà sinh hoạt chung. “Có lẽ năm nay lũ ngáo ộp khá đói đây.”
Bên trong sảnh rộng rãi và se se lạnh, dù lửa đang bập bùng cháy trong lò sưởi cỡ lớn. Những con quạ làm tổ trên những sà gỗ cao ngất. Jon nghe thấy tiếng chúng kêu gào trên đầu trong khi cậu nhận bát súp và phần cùi bánh mỳ đen từ các đầu bếp phiên ngày hôm nay. Grenn và Toad cùng một vài đứa khác đang ngồi ở ghế băng gần lò sưởi nhất, cười đùa và chửi bới nhau bằng cái giọng sống sượng. Jon ưu tư nhìn chúng. Sau đó cậu chọn một chỗ cuối phòng, xa khỏi những người khác. Tyrion Lannister ngồi đối diện cậu, nghi ngờ ngửi ngửi món súp. “Lúa mạch, hành, cà rốt,” ông lẩm bẩm. “Phải có ai nói ấy tay đầu bếp biết củ cải không phải là thịt chứ.”
“Đây là súp thịt cừu,” Jon cởi găng tay và hơ tay nhờ hơi nóng bốc lên từ bát súp. Mùi vị làm cậu ứa nước miếng.
“Snow.”

Jon nhận ra giọng của lão Alliser Thorne, nhưng trong đó có chút tò mò mà cậu chưa từng nghe thấy bao giờ. Cậu quay người lại.
“Tướng chỉ huy muốn gặp cậu. Ngay lập tức.”
Trong một lát Jon sự hãi đến đờ cả người. Vì sao chỉ huy lại muốn gặp cậu? Hay họ đã nghe được tin gì đó về chú Benjen, rằng chú đã chết, và hình ảnh cậu nhìn thấy đã thành sự thực. “Có phải về chú tôi không?” cậu buột miệng. “Ông ấy trở về an toàn chứ?”
“Chỉ huy không thích chờ đợi đâu,” Ser Alliser đáp. “Và tôi không thích bị những thằng con hoang hỏi han nhiều.”
Tyrion Lannister bật dậy khỏi ghế. “Ngừng lại đi, Thorne. Ông đang làm thằng nhóc sợ.”
“Tránh xa những vấn đề không liên quan tới ngài ra, Lannister. Ngài không có tiếng nói ở đây.”
“Nhưng ta có tiếng nói ở triều đình,” người lùn mỉm cười nói. “Chỉ cần một lời vào đúng tái người cần nghe, và ông sẽ chết đau đớn trước khi kịp huấn luyện thêm một cậu nhóc nào nữa. Giờ nói cho Snow nghe tại sao Gấu Già lại muốn gặp cậu ấy. Có phải có tin gì về người chú không?”
“Không,” Ser Alliser nói. “Một vấn đề hoàn toàn khác. Một con chim đã bay tới từ Winterfell, mang theo tin tức liên quan tới em trai cậu nhóc này.” Ông tự sửa lại. “Người em cùng cha khác mẹ.”
“Bran,” Jon thở hắt ra, loạng choạng đứng dậy. “Có chuyện gì đã xảy ra với Bran?”
Tyrion Lannister đặt tay lên tay cậu. “Jon” ông ta nói. “Tôi rất tiếc.”
Jon gần như không nghe thấy gì. Cậu đẩy tay Tyrion ra và sải bước qua phòng. Cậu chạy thục mạng ngay khi ra khỏi cửa, đến thẳng Phòng Chỉ Huy, băng qua những đụn tuyết lâu ngày. Khi những lính gác vừa đi qua, cậu nhảy lên hai bậc thang một lúc. Khi ào vào Phòng Chỉ Huy, giày cậu ướt nhẹp, mắt mở to và thở hổn hển.
“Bran,” cậu nói. “lá thư nói gì thế Bran?”
Jeor Mormont, tướng chỉ huy của Đội Tuần Đêm, là một ông lão cộc cằn, với cái đầu hói và bộ râu muối tiêu xơ xác. Một con quạ đang đậu trên tay ông ăn ngô. “Cậu đọc đi.” Ông xua con quạ đi, và nó vỗ cánh bay ra ngoài cửa sổ, rồi đậu ở đó quan sát Mormont rút cuộn da ở thắt lưng đưa cho Jon.

“Ngo,” nó lầm bầm bằng cái giọng khàn khàn. “Ngo, ngo[11].”
Ngón tay Jon lần theo hình con sói tuyết trên dấu sáp trắng đã bung. Cậu nhận ra chữ viết tay của Robb, nhưng những con chữ dường như cứ mờ mịt và chạy đi khi cậu cố đọc. Cậu nhận ra mình đang khóc. Qua dòng nước mắt, cậu bắt đầu hiểu được lá thư viết gì, và ngẩng đầu lên. “Em ấy tỉnh rồi,” cậu nói. “Thần thánh đã mang em ấy về.”
“Nhưng tàn phế,” Mormont nói. “Tôi rất tiếc, nhóc. Đọc hết lá thư đi.”
Cậu nhìn lá thư, nhưng chúng chẳng có nghĩa lý gì nữa. Không cái gì có nghĩa hết. Bran sẽ sống. “Em trai tôi sẽ sống,” cậu nói với Mormont. Vị tướng chỉ huy lắc đầu, bốc một nắm hạt ngô và huýt sáo. Con quạ bay trở lại vai ông, kêu ré lên, “Sống! Sống!”
Jon chạy xuống cầu thang, với nụ cười rạng rỡ trên khuôn mặt và lá thư của Robb trên tay. “Em trai tôi sẽ sống,” cậu nói với đám lính gác đi qua. Họ nhìn nhau. Cậu chạy về phòng sinh hoạt chung, nơi Tyrion Lannister đang ăn nốt bữa. Cậu ôm lấy người đàn ông nhỏ thó đó, nhấc bổng ông ta lên, và quay tròn trên không trung. “Bran sẽ sống!” cậu hò reo. Lannister có vẻ giật mình. Jon đặt ông ta xuống và nhét lá thư vào tay ông ta. “Đây, ngài đọc đi”.
Mọi người tụ tập xung quanh và tò mò nhìn cậu. Jon thấy Grenn cách đó vài bước chân. Một băng gạc bằng len dày quấn quanh một bên tay hắn. Hắn có vẻ căn thẳng và khó chịu, chẳng hề nguy hiểm chút nào. Jon tới chỗ hắn. Grenn lùi lại và giữ tay lên. “Giờ tránh xa tao ra, đồ con hoang.”
Jon mỉm cười. “Tôi xin lỗi vì cổ tay anh. Robb từng tấn công tôi một lần như vậy, nhưng bằng kiếm gỗ. Đau như trải qua bảy tầng địa ngục vậy, nhưng vết thương của anh còn tệ hơn. Nghe này, nếu anh muốn, tôi sẽ bảo anh cách tự vệ khỏi cú đó.”
Alliser Thorne đã nghe lỏm được. “Lãnh chúa Snow muốn chiếm chỗ của tôi rồi.” Ông chế giễu. “Tôi thấy dạy sói tung hứng còn dễ hơn cậu huấn luyện được con bò rừng này.”
“Vậy chúng ta cược xem, Ser Alliser,” Jon nói. “Tôi rất muốn xem Bóng Ma tung hứng đó.”
Jon thấy Grenn nghẹn thở vì choáng. Tất cả đều im lặng.
Sau đó Tyrion Lannister bật cười ha hả. Ba anh em áo đen từ bàn bên đã tới gần. Tiếng cười vang khắp những hàng ghế, kể cả những đầu bếp cũng cười theo. Những con chim quẫy động trên xà nhà, và cuối cùng cả Grenn cũng khùng khục cười.
Ser Alliser chưa bao giờ rời mắt khỏi Jon. Khi tiếng cười vang lên xung quanh, mặt ông ta sa sầm lại, và tay cầm kiếm cuộn vào thành một cú đấm. “Đây là một sai lầm trầm trọng đó, Lãnh chúa Snow,” giọng ông ta chát chúa đầy thù địch.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,359
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 23: Chương 20 phần 1




EDDARD
 
Eddard Stark cưỡi ngựa qua những cánh đồng cao ngất của Tháp Đỏ trong mệt mỏi, rệu rã, đói khát và giận dữ. Ông ngồi trên lưng ngựa, mơ được ngâm mình thật lâu trong làn nước ấm, được ăn gà quay, được nằm trên chiếc giường lông ngỗng. Bất chợt quản gia của nhà vua tới, thông báo rằng Grand Maester[12] Pycelle đã triệu tập một cuộc họp khẩn cấp với hội đồng. Họ rất vinh dự được diện kiến quân sư nếu như ngài thấy thoải mái. “Còn lâu mới thoải mái nổi,” Ned quát lên khi xuống ngựa.
Người quản gia cúi rạp đầu.”Tôi sẽ gửi tới các thành viên hội đồng lời cáo lỗi của ngày, thưa lãnh chúa.”
“Chết tiệt. Không,” Ned nói. Ông biết mình không nên xúc phạm hội đồng.Họ rất vinh dự được diện kiến quân sư nếu như ngài thấy thoải mái. “Còn lâu mới thoải mái nổi,” Ned quát lên khi xuống ngựa.
Người quản gia cúi rạp đầu. “Tôi sẽ gửi tới các thành viên hội đồng lời cáo lỗi của ngài, thưa lãnh chúa.”
“Chết tiệt. Không,” Ned nói. Ông biết mình không nên xúc phạm hội đồng ngay khi vừa nhậm chức. “Tôi sẽ tới gặp họ. Nói với họ rằng xin họ vui lòng chờ tôi trong giây lát để tôi thay trang phục cho phù hợp.”
“Vâng, thưa lãnh chúa,” người quản gia nói. “Chúng tôi đã sắp xếp để ngài ở căn phòng cũ của Lãnh chúa Arryn tại Tháp Quân Sư, nếu như nó làm ngài hài lòng. Tôi sẽ ang đồ đạc của ngài tới.”
“Cám ơn,” Ned nói khi cởi găng tay cưỡi ngựa và giắt vào thắt lưng, rồi nói với Vayond Poole, người quản gia. “Hình như hội đồng đang cần tôi gấp. Giúp các con gái tôi tìm phòng ngủ, và bảo Jory giữ chúng ở đó. Arya không được đi khám phá gì hết.” Poole cúi đầu. Ned quay trở lại với vị quản gia của hoàng tộc. “Những cỗ xe ngựa của ta đang trên đường vào thành. Ta sẽ cần vài món đồ phù hợp.”
“Đây là vinh dự lớn cho tôi,” người quản gia nói.
Và thế là Ned sải bước tới phòng hội đồng, mệt mỏi rã rời, mặc đồ đi mượn, và thấy bốn thành viên của tiểu hội đồng đang đợi ông.
Căn phòng được bày biện khá nhiều đồ nội thất. Những tấm thảm thêu của thành Myr trải khắp sàn nhà, và ở góc phòng có đặt một bức phù điêu mang tới từ Đảo Summer khắc hình một trăm con thú trong thần thoại màu sắc tươi sáng. Treo trên bức tường là những bức tranh thêu của Norvos, Qohor và Lys, ngoài cửa còn có cặp nhân sư Valyria, mang đôi mắt ngọc hồng lựu sáng cháy âm ỉ trên khuôn mặt đá hoa cương đen.
Thành viên hội đồng mà Ned kém ưa nhất, thái giám Varys, đã sán lại hỏi chuyện ngay khi ông bước vào. “Lãnh chúa Stark, tôi vô cùng đau lòng khi biết về rắc rối của ngài trên vương lộ. Chúng tôi đều đã tới nhà nguyện thắp nến cầu nguyện cho hoàng tử Joffrey. Cầu cho hoàng tử nhanh bình phục.” Tay hắn để lại chút bụi phấn trên tay áo Ned, còn người hắn bốc ra thứ mùi ung ủng và ngòn ngọt như hoa ở nghĩa địa.

“Thần thánh đã nghe thấy lời cầu nguyện của ngài,” Ned trả lời, lạnh lùng nhưng lịch sự. “Hoàng tử đang dần khá hơn rồi.” Ông rút tay ra khỏi những móng vuốt của viên thái giám và đi tới nơi Lãnh chúa Renly đang đứng, cạnh bức phù điêu, trầm tĩnh nói chuyện cùng một người đàn ông thấp bé chỉ có thể là Ngón út. Renly lên tám tuổi khi Robert giành ngai báu, nhưng giờ cậu ta lớn lên, giống anh mình tới mức làm Ned bối rối. Mỗi khi nhìn cậu ta, Ned có cảm giác thời gian đang quay ngược lại và Robert đang đứng trước mặt ông, mới trở về sau chiến thắng trên dòng Trident.
“Có vẻ ngài đã tới nơi an toàn, Lãnh chúa Stark,” Renly nói.
“Cũng như ngài thôi,” Ned trả lời. “Xin ngài thứ lỗi, nhưng đôi lúc trông ngài giống hệt anh trai Robert của ngài.”
“Một bản sao đáng thương,” Renly nói kèm cái nhún vai.
“Nhưng ăn diện hơn,” Ngón út bông đùa. “Lãnh chúa Renly dành nhiều tiền cho quần áo hơn một nửa các phu nhân trong triều đình.”
Đó là sự thật. Lãnh chúa Renly đang mặc bộ đồ vải nhung xanh đậm, với cả tá những con hươu vàng thêu trên áo chẽn. Chiếc áo choàng nửa người hững hờ che một bên vai, được cố định bằng một ghim hoa bằng ngọc lục bảo. “Còn đầy tội ác kinh khủng hơn,” Renly cười nói. “Tỉ như cách ăn mặc của ngài.”
Ngón Út bơ lời chế nhạo đó đi. Cậu ta nhìn Ned với nụ cười xấc xược trên môi. “Tôi đã mong gặp ngài nhiều năm rồi, Lãnh chúa Stark. Chắc chắn phu nhân Catelyn có nói qua với ngài về tôi.”
“Có,” Ned lạnh lùng đáp. Sự kiêu căng ngạo mạn trong lời nhận xét vừa rồi đã chọc giận ông. “Tôi biết là ngài cũng biết anh trai Brandon của tôi.”
Renly Baratheon cười lớn. Varys chạy bổ tới nghe ngóng.
“Hơn cả rõ ấy chứ,” Ngón út nói. “tôi vẫn mang chút vết tích vì lòng nhân ái ngài ấy dành cho tôi. Brandon có nhắc tới tôi không?”
“Có, thường xuyên lắm và rất hào hứng nữa ấy chứ,” Ned nói, mong sao câu nói này sẽ kết thúc tất cả. Ông không có đủ kiên nhẫn chơi trò chơi này, trò chơi câu chữ.
“Tôi những tưởng nhiệt huyết không hợp với người nhà Stark chứ nhỉ,” Ngón út nói. “Ở phương nam này, người ta nói ngài sinh ra từ băng tuyết, và sau khi đi qua Neck ngài sẽ bị tan chảy.”

“Tôi không lên kế hoạch tan chảy sớm thế đâu, thưa Lãnh chúa Baelish. Ngài có thể tin tưởng điều này.” Ned tới bên bàn hội đồng và nói, “Maester Pycelle, tôi tin rằng ngài vẫn khỏe.”
Grand Maester ngồi tại chiếc ghế cao phía cuối bàn và từ tốn mỉm cười. “Đủ khỏe đối với một người ở độ tuổi của tôi, thưa Lãnh chúa,” ông lão trả lời. “nhưng tôi e là mình cũng hay mệt mỏi lắm.” Những sợi tóc trắng lưa thưa bao quanh vầng trán cao trên khuôn mặt phúc hậu. Vòng cổ của vị học sĩ này không phải loại vòng cổ mảnh một đường đơn giản như của Luwin, mà gồm hai mươi tư mắt xích nặng nề tạo thành một chiếc dây chuyền kim loại nặng chịch dài tới ngực. Những mắt xích được rèn từ đủ thứ kim loại mà loài người biết đến: sắt đen, vàng đỏ, đồng sáng, chì đục màu, thép, thiếc, bạc nõn, đồng thau, đồng thanh và bạch kim. Những viên ngọc hồng lựu và thạch anh tím cùng trân châu đen tô điểm thêm cho sợi dây kim loại, và đây đó lại điểm xuyết những viên ngọc lục bảo hoặc hồng ngọc. “Có lẽ chúng ta nên sớm bắt đầu,” Grand Maester nói, hai tay đan vào nhau đặt lên cái bụng bự. “Tôi sợ rằng tôi sẽ ngủ quên mất nếu chúng ta phải chờ đợi lâu hơn.”
“Theo như ý ngài thôi.” Ghế của nhà vua ở phía đầu bàn trống rỗng, trên những tấm nêm có thêu hình con hươu đội vương miện của nhà Baratheon bằng chỉ vàng. Ned ngồi bên cạnh chiếc ghế đó, phía tay phải của nhà vua. “Các lãnh chúa “ ông trịnh trọng nói, “tôi xin lỗi vì làm các ngài đợi lâu.”
“Ngài là quân sư,” Varys nói. “Chúng tôi phụng sự chỉ mong ngài hài lòng, thưa Lãnh chúa Stark.”
Khi những người khác ngồi vào vị trí, Eddard có cảm giác mãnh liệt rằng mình không thuộc về nơi này, về căn phòng này, với những người đàn ông này. Ông nhớ điều Robert đã nói với ông trong hầm mộ bên dưới Winterfell. Tôi bị bao quanh bởi những kẻ nịnh thăn và lũ ngốc, nhà vua cứ khăng khăng như vậy. Ned nhìn xuống bàn hội đồng và tự hỏi ai là nịnh thần và ai là kẻ ngốc. Ông nghĩ sớm muộn gì cũng biết thôi. “Chúng ta chỉ có năm người,” ông nhận định.
“Lãnh chúa Stannis đã thân chinh tới đảo Dragonstone, không lâu sau khi nhà vua vi hành lên phương bắc,” Varys nói, “Và Ser Barristan lịch lãm của chúng ta chắc chắn đang đi cạnh nhà vua về thành, đúng như điều mà một vị tướng chỉ huy Ngự Lâm Quân cần làm.”
“Có lẽ chúng ta nên chờ Ser Barristan và nhà vua tới họp cùng,” Ned gợi ý.
Renly Baratheon cười lớn. “Nếu chúng ta đợi anh trai tôi xuất hiện, có lẽ chúng ta sẽ phải ngồi rất lâu đây.”
“Vị minh quân Robert của chúng ta còn nhiều mối quan tâm,” Varys nói. “Ngài sẵn lòng phó thác những vấn đề nhỏ nhặt cho chúng tôi, để giúp ngài giảm bớt gánh nặng.”
“Ý của Lãnh chúa Varys là những vấn đề liên quan tới tài chính, mùa màng và công lý làm anh trai tôi buồn chán tới phát khóc,” Lãnh chúa Renly nói, “vì thế chúng tôi đành phải cầm quyền vương quốc này. Thi thoảng ngài ấy cũng ra chỉ thị.” Cậu ta rút một cuộn giấy ra khỏi ống tay áo và đặt lên bàn. “Sáng nay ngài ra lệnh cho tôi phi hết tốc lực tới yêu cầu Grand Maester Pycelle triệu tập hội đồng gấp. Ngài ấy có một nhiệm vụ khẩn thiết cho chúng ta.”
Ngón Út mỉm cười và giao lá thư cho Ned. Trên đó có dấu niêm phong của hoàng gia. Ned dùng ngón cái bóc dấu niêm phong và mở thư ra xem mệnh lệnh khẩn cấp của nhà vua, và càng đọc ông càng thấy khó tin. Chẳng nhẽ sự điên rồ của Robert không có điểm dừng sao? Làm điều này nhân danh tên ngài, chính là sát muối vào vết thương. “Thần thánh lòng lành,” ông chửi thề.
“Điều Lãnh chúa Eddard muốn nói là,” Lãnh chúa Renly tuyên báo, “là bệ hạ muốn chúng ta tổ chức một cuộc đấu thương ngựa nhằm vinh danh quân sư mới.”

“Phần thưởng thế nào?” Ngón út hòa nhã hỏi?
Ned đọc lớn câu trả lời từ bức thư. “Bốn mươi ngàn rồng vàng cho quán quân. Hai mươi ngàn cho á quân, hai mươi ngàn nữa cho người thắng vụ hỗn đấu, mười ngàn cho người chiến thắng phần thi bắn cung.”
“Chín mươi ngàn vàng,” Ngón út thở dài. “Và chúng ta không thể lờ đi những chi phí khác. Robert sẽ muốn có một bữa đại tiệc. Điều này đồng nghĩa với việc chúng ta phải thuê đầu bếp, thợ mộc, nữ tì, ca sĩ, nghệ sĩ tung hứng, hề.”
“Hề thì chúng ta có đầy,” Lãnh chúa Renly nói.
Grand Maester Pycelle nhìn Ngón út và hỏi, “Quốc khố có đủ chi cho khoản tiêu này không?”
“Quốc khố làm gì còn?” Ngón út trề môi nói. “Để tôi ngốc một mình là đủ rồi, Maester. Ngài cũng như tôi thừa biết rằng quốc khố đã rỗng không trong nhiều năm nay rồi. Tôi sẽ phải đi mượn tiền. Chắc chắn nhà Lannister sẽ sẵn lòng giúp đỡ. Chúng ta đã nợ Lãnh chúa Tywin khoảng ba triệu rồng vàng tính tới thời điểm này, thêm một trăm ngàn nữa cũng đâu sao?”
Ned choáng váng. “Ngài đang nói rằng Hoàng Gia đã nợ ba triệu đồng vàng?”
“Hoàng gia đã nợ hơn sáu triệu đồng vàng, thưa Lãnh chúa Stark. Nhà Lannister là chủ nợ lớn nhất, nhưng chúng tôi còn đi vay từ Lãnh chúa Tyrell, Ngân hàng Iron của Braavos, từ vài hiệp hội thương mại Tyrosh khác. Mới đây tôi đã phải qua hỏi Hội Tin Lành. Đại Tư Tế mặc cả kỳ kèo còn hơn mấy mẹ bán cá vùng Dorne vậy.”
Ned thất kinh. “Aerys Targaryen để lại một quốc khố đầy ứ vàng bạc. Sao ngài có thể để chuyện này xảy ra?”
Ngón Út nhún vai. “Quan đại tư đồ[13] lo kiếm tiền. Tiêu tiền là chuyện của nhà vua và quân sư.”
“Tôi không tin Jon Arryn lại để cho đức vua Robert đi ăn mày khắp vương quốc,” Ned nóng nảy nói.
Grand Maester Pycelle lắc cái đầu hói, các mắt xích kêu rổn rảng khe khẽ. “Lãnh chúa Arryn là một người đáng tin cậy, nhưng tôi sợ rằng bệ hạ không phải lúc nào cũng nghe theo lời vị quân sư thông thái đó.”
“Anh trai của tôi thích đấu thương và tiệc tùng mà,” Renly Baratheon nói, “và anh ấy ghét cái việc mà anh ấy gọi là “đếm từng đồng từng cắc,”
“Tôi sẽ nói chuyện với bệ hạ,” Ned nói. “Cuộc đấu thương ngựa này là một thứ xa xỉ mà vương quốc này không thể kham nổi.”

“Cứ nói với đức vua nếu ngài muốn,” Lãnh chúa Renly nói, “nhưng tốt hơn hết chúng ta nên lên kế hoạch.”
“Hôm khác đi,” Ned nói. Có lẽ ông nói quá gay gắt, nếu xét cái cách họ nhìn ông. Đáng ra ông phải nhớ rằng mình không còn ở Winterfell, nai chỉ có duy nhất một thủ lĩnh; còn ở đây, ông chỉ là một trong số đông. “Thứ lỗi cho tôi, thưa các lãnh chúa.” Ông nhẹ nhàng hơn. “Tôi mệt quá. Chúng ta nên dừng buổi họp hôm nay lại và tiếp tục khi chúng ta khỏe khoắn hơn.” Ông không cần họ đồng ý, mà tự động đứng lên, cúi đầu chào tất cả, và tiến ra cửa.
Bên ngoài, những xe hàng, kỵ binh vẫn đang ùn ùn tiến vào cổng lâu đài, và sân trở thành một trận địa hỗn độn nào là bùn đất, nào là ngựa, và những người đàn ông đang la hét. Ông được thông báo rằng nhà vua vẫn chưa tới. Chính do mối quan hệ không tốt từ trận Trident mà người nhà Stark cùng gia đinh nhà họ thường đi dẫn đầu đoàn chính, càng tránh xa nhà Lannister bao nhiêu càng đỡ căng thẳng bấy nhiêu. Ông hiểm khi thấy Robert. Mọi người đồn rằng nhà vua ngồi trong cỗ xe ngựa và uống rượu tì tì. Nếu đúng thế, phải hàng tiếng nữa đức vua mới tới nơi, nhưng thế vẫn còn quá sớm so với mong muốn của Ned. Chỉ cần nhìn khuôn mặt Sansa, cơn giận lại bùng phát lên trong ông. Hai tuần cuối cùng của cuộc hành trình thật thảm hại. Sansa đổ lỗi cho Arya và nói rằng đáng ra Nymeria mới đáng phải chết. Và Arya thì bối rối sau khi hay tin cái chết của cậu nhóc hàng thịt. Sansa khóc tới lúc lịm đi, Arya im lặng ủ ê cả ngày trời, còn Eddard Stark mơ thấy cả một địa ngục đóng băng dành cho những người nhà Stark vùng Winterfell.
Ông bước qua sân ngoài, đi qua khung lưới sắt vào sân trong, và đang đi về hướng ông nghĩ là Tháp Quân Sư thì Ngón Út xuất hiện. “Ngài đi nhầm đường rồi, Stark. Đi cùng tôi.”
Ned lưỡng lự, rồi đi theo. Ngón út dẫn ông vào tháp, xuống cầu thang, qua một cái sân trũng, dọc theo một hành lang vắng người, nơi chỉ có những bộ giáp sắt đứng canh gác dọc theo bức tường. Chúng là những gì còn lại của nhà Targaryen, làm bằng thép đen với vảy rồng trang trí trên mũ trụ, nhưng giờ đã phủ bụi và chìm vào lãng quên. “Đây không phải đường về phòng của tôi,” Ned nói.
“Tôi đã nói vậy sao? Tôi đang dẫn ngài xuống ngục thất để cắt cố ngài và giấu xác ngài ra sau tường,” Ngón út trả lời, giọng đầy vẻ chế nhạo. “Chúng ta không có thời gian đâu, Stark. Phu nhân đang đợi.”
“Ngài đang chơi trò gì đây, Ngón út? Catelyn đang ở Winterfell, cách đây hàng trăm dặm.”
“Ồ?” Đôi mắt xanh xám của Ngón út lấp lánh vẻ hứng thú. “Vậy chắc có người giả mạo rồi. Tôi nói lần cuối, đi theo tôi. Hoặc đừng đi nữa, và tôi sẽ giữ nàng ấy cho riêng mình.” Ông ta vội vàng đi xuống.
Ned cảnh giác theo sau, không biết liệu ngày hôm nay có kết thúc nổi không. Ông không thích những trò mưu mẹo, nhưng ông bắt đầu nhận ra rằng chúng chỉ như là rượu thịt đối với một người đàn ông như Ngón út.
Dưới chân cầu thang là một cánh cửa gỗ sồi và sắt nặng nề. Petyr Baelish nâng thanh chắn và ra hiệu cho Ned vào.
Họ bước ra ngoài ánh hoàng hôn ửng đỏ, trên một dốc đá cao trên bờ sông. “Chúng ta đã ra ngoài lâu đài,” Ned nói.
“Thật khó lừa ngài quá cơ, Stark,” Ngón út mỉa mai. “Mặt trời hay bầu trời tố giác chuyện đó à? Đi theo tôi.
Bên vách đá có những hốc đá đó. Cố đừng ngã chết nhé, Catelyn sẽ không bao giờ hiểu nổi đâu.” Nói xong, anh ta nhảy sang bên kia gờ đá, nhanh nhẹn như một con khỉ.
Ned nhìn bề mặt lởm chởm của vách đá một lúc, rồi theo sau còn chậm hơn trước. Đúng như Ngón út nói trước, những hốc đá ở đó, nhưng nếu nhìn từ dưới lên bạn sẽ không tài nào phát hiện được, trừ khi bạn biết cần tìm chúng ở đâu. Con sông dài và cách xa tít dưới tới chóng mặt. Ned áp mặt vào đá, cố không nhìn xuống trừ khi cần thiết.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,359
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 24: Chương 20 phần 2




Cuối cùng, khi ông leo xuống tới một con đường mòn hẹp, nhão nhoẹt bùn thì Ngón út đang uể oải dựa người vào vách đá ăn táo. Ông cảm thấy gần như muốn tìm lỗ mà chui xuống.
“Càng ngày ngài càng già yếu và chậm chạp rồi đấy, Stark,” anh ta nói, và ném quả táo xuống dòng nước xiết.
“Không sao, chúng ta sẽ cưỡi ngựa tiếp.” Anh ta có hai con ngựa. Ned lên ngựa và đi theo sau, dọc theo đường mòn vào thành phố.
Cuối cùng Baelish ghìm cương ngựa trước một ngôi nhà gỗ ba tầng xiêu vẹo, với ánh đèn hắt ra từ những ô cửa sổ dính bụi. Tiếng nhạc và tiếng cười lục khục vọng ra và tỏa dần trên mặt nước. Bên cạnh cánh cửa có treo một chiếc đèn dầu trên một sợi xích nặng nề, trên đó có một quả cầu thủy tinh đỏ viền chì.
Ned Stark giận dữ xuống ngựa. “Một nhà thổ,” ông nói khi xoay vai Ngón út. “Cậu dẫn tôi cả một chặng đường dài để tới một nhà thổ.”
“Phu nhân trong đó,” Ngón út nói.
Đây là lời xúc phạm cuối cùng. “Brandon đã quá tử tế với cậu,” Ned nói khi đẩy gã đàn ông nhỏ thó kia vào tường và dí con dao xuống ngay dưới bộ râu cằm nhọn.
“Lãnh chúa của tôi, không,” một giọng vội vã hét lên. “Ngài ấy nói thật đấy.” Có tiếng bưức chân sau lưng ông.
Ned quay người lại, dao vẫn nắm trong tay, khi một ông già tóc bạc phơ vội vã tới chỗ họ. Ông ta mặc đồ vải thô màu nâu, và lớp da mềm mại dưới cằm rung lên từng chặp theo bước chạy. “Đây không phải việc của ông,” Ned bắt đầu; nhưng đột nhiên, ông nhận ra người đó. Ông hạ con dao xuống, sửng sốt. “Ser Rodrik?”
Rodrik Cassel gật đầu. “Phu nhân đang đợi ngài trên lầu.”
Ned bối rối tra dao vào vỏ. “Catelyn thực sự ở đây? Đây không phải trò đùa biến thái gì đó của Ngón út chứ?”
“Giá mà thế, Stark” Ngón út nói. “Đi theo tôi, cố tỏ ra hoang đàng hơn và bớt giống Quân sư của Nhà Vua đi. Mọi chuyện sẽ hỏng bét nếu như ngài bị nhận ra. Có lẽ ngài nên vuốt ve một hai bộ ngực, chỉ để qua cửa ấy mà.”

Họ bước vào trong, qua phòng sinh hoạt chung đông đúc, nơi một ả béo đang hát mấy khúc ca dâm dục trong khi những cô gái trẻ xinh đẹp trong những bộ váy vải lanh và những dải lụa màu sắc đang dán chặt người lên mấy gã đàn ông hoặc đong đưa trong lòng họ. Chẳng ai buồn để ý tới Ned. Ser Rodrik đợi bên dưới trong khi Ngón Út dẫn ông lên tầng ba, đi dọc theo hành lang, và vào một căn phòng.
Bên trong, Catelyn đang đợi. Bà hét lên khi nhìn thấy ông, chạy tới bên ông, và ôm ông thật chặt.
“Phu nhân của ta,” Ned kinh ngạc thì thào.
“Ồ, tốt quá cơ,” Ngón út nói và đóng cửa. “Ngài đã nhận ra vợ mình.”
“Em cứ sợ rằng ngài sẽ không bao giờ tới, lãnh chúa của em,” bà thì thầm trước ngực ông. “Petyr đã cho em biết tình hình. Cậu ta nói về những rắc rối của ngài với Arya và hoàng tử trẻ. Những mấy đứa thế nào rồi?”
“Cả hai đều đang than khóc, và tức giận,” ông nói. “Cat, ta không hiểu. Nàng làm gì ở Vương Đô vậy? Có chuyện gì sao?” Ned hỏi vợ. “Là Bran à? Có phải con...” chết là từ ông định bật ra, nhưng ông không thể nói.
“Đúng là về Bran, nhưng không phải như chàng nghĩ,” Catelyn nói.
Ned không hiểu. “Vậy thì sao? Sao nàng lại ở đây, tình yêu của ta? Sao lại ở nơi này?”
“Chỉ vì bề ngoài của nó,” Ngón út nói và dựa người vào bệ cửa sổ. “Một nhà thổ. Ngài không thể nghĩ ra Catelyn Tully ở một nơi hạ cấp thế này?” Cậu ta mỉm cười. “Nếu có thể, tôi sẽ sở hữu ngay nơi đặc biệt này, để tiện thu xếp mọi chuyện. Tôi là người lo lắng nhất khi cố tránh cho nhà Lannister biết Cat đang ở tại Vương Đô này.”
“Vì sao?” Ned hỏi. Giờ ông đã thấy tay bà, thấy cách bà ngượng nghịu nắm tay, thấy những vết sẹo đỏ hồng, thấy hai ngón cuối bàn tay trái cứng đơ. “Nàng bị thương.” Ông nắm lấy tay bà, lật lại. “Thần thánh ơi. vết thương sâu quá... một nhát chém do kiếm hoặc là... chuyện gì xảy ra vậy, phu nhân?”
Catelyn rút con dao găm bên dưới áo choàng và đặt vào tay ông. “Lưỡi dao này được mang tới để cắt cổ Bran và để thằng bé chảy kiệt máu.”

Đầu Ned giật mạnh. “Nhưng... ai... vì sao...”
Bà đặt ngón tay lên môi ông. “Hãy để em nói hết. Như thế sẽ nhanh hơn. Nghe này.”
Ông im lặng lắng nghe, và bà kể lại toàn bộ sự việc, từ trận hỏa hoạn tại tháp thư viện tới Varys và những lính canh cùng Ngón út. Và khi bà nói xong, Eddard Stark sững sờ bàng hoàng ngồi bên bàn, con dao nắm chặt trong tay. Con sói của Bran đã cứu mạng thằng bé, ông đờ đẫn nghĩ. Jon đã nói gì khi họ tìm thấy lũ sói con trong tuyết nhỉ? Những đứa con của ngài cần có những con sói này, thưa lãnh chúa. Và ông đã giết chết con sói của Sansa, và để làm gì? Có phải ông đang thấy tội lỗi không? Hay sợ hãi? Nếu thần thánh đã gửi những con sói kia tới, vậy ông đã làm chuyện ngu ngốc gì đây?
Ned đau đớn cố hướng suy nghĩ về con dao. “Con dao của Quỷ Lùn”. Ông không hiểu chuyện này là thế nào. Tay ông nắm chặt lấy cán dao trơn mượt bằng xương rồng, và cắm nó xuống mặt bàn, cảm nhận lưỡi dao ngập trong gỗ. Nó đứng đó như trêu chọc ông. “Vì sao Tyrion Lannister lại muốn Bran chết? Thằng bé đâu có làm tổn hại gì tới hắn.”
“Mấy người nhà Stark các ông không có gì ngoài tuyết giữa hai tai à?” Ngón út hỏi. “Quỷ Lùn không bao giờ hành động một mình.”
Ned đứng dậy, đi đi lại lại khắp phòng. “Nếu hoàng hậu dính líu gì trong vụ này, ôi cầu chúa không phải, thì chính nhà vua... không, tôi không tin được.” Nhưng ngay khi nói những lời đó, ông bỗng nhớ lại buổi sáng lạnh giá trên vùng mộ, và việc Robert cử mấy tay giết thuê truy lùng công chúa Targaryen. Ông nhớ tới đứa con trai vừa mới lọt lòng của Rhaegar, cái sọ nát bấy của nó, và cái cách nhà vua quay lưng đi, y như tại phòng tiếp kiến của Darry cách đây không lâu. Ông vẫn còn nghe văng vẳng đâu đây lời cầu xin của Sansa, cũng như Lyanna đã từng cầu xin.
“Rất có khả năng nhà vua không biết,” Ngón út nói. “Đây không phải lần đầu tiên. Vị minh quân Robert của chúng ta thường nhắm mắt trước những thứ ngài không muốn thấy.”
Ned không biết trả lời thế nào. Đầu ông đang nhức nhối. Khuôn mặt cậu bé hàng thịt cứ hiển hiện lên trước mắt ông, gần như bị chẻ làm hai, nhưng nhà vua đã không nói một lời.
Ngón út nhàn nhã tới bên bàn, rút con dao lên. “Lời buộc tội nào của ngài cũng khép ngài vào tội khi quân cả thôi. Buộc tội nhà vua và ngài sẽ phải khiêu vũ cùng Ilyn Payne trước khi ngài kịp mở miệng. Còn hoàng hậu... nếu ngài có bằng chứng, và có thể khiến Robert chịu lắng nghe, thì may ra...”
“Chúng tôi có bằng chứng,” Ned nói. “Chúng tôi có con dao.”
“Cái này ư?” Ngón út xoay tròn con dao. “Một miếng thép đẹp, nhưng nó là con dao hai lưỡi đó, ngài lãnh chúa ạ. Quỷ Lùn chắc chắn sẽ thề sống thề chết rằng con dao này đã bị mất hoặc bị đánh cắp hồi hắn ta ở Winterfell, và vì kẻ sát thủ hắn thuê đã chết, ai ở đó mà đối chất?” Anh ta nhẹ nhàng ném dao trả lại Ned. “Tôi khuyên ngài nên ném con dao này xuống sông và quên nó đi.”

Ned lạnh lùng nhìn anh ta. “Lãnh chúa Baeỉish, tôi là Stark vùng Winterfell. Con trai tôi nằm đó, tật nguyền, và có thể đang hấp hối. Nó có thể đã chết, cùng với Catelyn, nhưng may mà nhờ có con sói chúng tôi tìm thấy. Nếu ngài thực sự tin tôi có thể quên được, ngài vẫn là tên ngốc to xác y như hồi ngài thách đấu kiếm cùng anh trai tôi.”
“Có thể tôi ngu ngốc... nhưng Stark ạ, tôi vẫn ở đây, trong khi anh trai ngài đã nằm dưới nấm mồ lạnh lẽo mười bốn năm nay. Và nếu ngài mong sớm hội ngộ với anh trai mình thì tránh xa những lời phiền phức của tôi, tùy ngài thôi, nhưng tôi không thích nằm trong nhóm đó, cám ơn rất nhiều.”
“Ngài là người cuối cùng tôi muốn mời vào bất cứ đảng phái nào, Lãnh chúa Baelish ạ.”
“Ngài làm tổn thương tôi sâu sắc đó,” Ngón út đặt tay lên tim. “Về phần tôi, tôi luôn thấy người nhà Stark rất phiền phức, nhưng Cat đã gắn chặt với ngài, vì những lý do tôi chẳng thể hiểu nổi. Tôi sẽ cố vì em ấy mà giữ mạng cho ngài. Tôi thừa nhận, đây là chuyện ngốc nghếch, nhưng tôi không thể từ chối vợ ngài bất cứ chuyện gì.” Ngón út nói.
“Em đã nói với Petyr về những nghi ngờ của chúng ta đối với cái chết của Jon ArrynCatelyn nói. “Anh ấy hứa sẽ giúp ngài tìm ra sự thật.”
Eddard không thích thú gì với tin tức này, nhưng quả thật họ cần giúp đỡ, mà Ngón út từng giống như một người anh trai của Cat. Đây cũng không phải lần đầu tiên Ned phải thỏa hiệp với một kẻ mà ông căm ghét. “Tốt thôi,” ông nói và nhét con dao vào thắt lưng. “Nàng có nhắc tới Varys. Tên thái giám có biết tất cả không?”
“Không phải từ em,” Catelyn nói. “Ngài không cưới một cô ngốc đâu, Eddard Stark. Nhưng Varys có nhiều cách để biết được những điều không ai có thể biết. Ned, em thề, hắn có những cách vô cùng đen tối.”
“Ai chẳng biết hắn có gián điệp,” Ned tùy tiện nói.
“Còn hơn thế,” Catelyn khẳng định. “Ser Rodrik đã bí mật nói chuyện cùng Ser Aron Sangatar, thế nhưng gián điệp vẫn biết. Em sợ kẻ đó.”
Ngón Út cười mỉm. “Cứ để Lãnh chúa Varys cho anh, phu nhân yêu quý. Nếu em chấp nhận được lời tục tĩu nho nhỏ này - ở những nơi tốt hon nơi đây - anh đã nắm bi của hắn trong tay.” Anh ta khum khum bàn tay, mỉm cười nham hiểm. “Nếu đúng hắn là đàn ông, và thực sự có bi. Nếu anh là em, anh sẽ lo lắng về nhà Lannister hơn là về viên thái giám đấy.”
Ned không cần Ngón út chỉ dạy ông. Ông đang nghĩ lại ngày Arya được tìm thấy, nhớ lại nét mặt của hoàng hậu khi bà ta nói, Chúng ta có một con sói, thật nhẹ nhàng và bình tĩnh làm sao. Ông nghĩ tới thằng nhóc Mycah, về cái chết đột ngột của Jon Arryn, về cú ngã của Bran, về vị vua già điên loạn Aerys Targaryen hấp hối trong phòng chầu còn máu lão đang khô dần trên lưỡi kiếm mạ vàng. “Phu nhân,” ông nói và nhìn Catelyn, “ở đây nàng không thế làm gì hơn. Ta muốn nàng trở về Winterfell ngay lập tức. Nếu có một vụ ám sát rồi, rất có thể sẽ còn những vụ khác. Dù ai ra lệnh giết Bran, kẻ đó cũng sớm biết con còn sống.” “Em đã mong được gặp các con...” Catelyn nói.
“Hành động đó kém khôn ngoan nhất đấy,” Ngón út chen ngang. “Tháp Đỏ là nơi tai vách mạch rừng.”
“Ngài ấy nói đúng đó, tình yêu của ta,” Ned vừa nói vừa ôm lấy bà. “Đưa Ser Rodrik về Winterfell. Ta sẽ chăm sóc các cô con gái. Về nhà với những người con trai của chúng ta và bảo vệ chúng nhé.”

“Được thôi, lãnh chúa của em.” Catelyn ngửa mặt lên, đắm chìm trong nụ hôn của Ned. Những ngón tay bị thương của bà gắt gao tuyệt vọng ôm lấy lưng ông, như muốn mãi mãi bảo vệ ông trong vòng tay mình.
“Lãnh chúa và phu nhân có muốn dùng phòng ngủ không?” Ngón út nói. “Tôi nên báo cho ngài hay, Stark, ở đây làm thế phải mất tiền đấy.”
“Em chỉ mong anh để bọn em lại một lát,” Catelyn nói.
“Tốt thôi.” Ngón Út bước ra cửa. “Nhưng đừng lâu quá. Đã tới lúc quân sư và anh phải trở về lâu đài, trước khi có người nhận ra.”
Catelyn tới bên và nắm tay anh ta. “Em sẽ không quên anh đã giúp đỡ em thế nào, Petyr. Khi người của anh tới chỗ em, em không biết họ mang em tới gặp bạn hay thù. Đối với em anh còn hơn một người bạn. Em đã một lần nữa tìm lại được người anh những tưởng đã không còn.”
Petyr Baelish mỉm cười. “Anh nhạy cảm lắm đấy, phu nhân yêu quý. Tốt nhất đừng nói với ai. Anh phải mất hàng năm trời để triều đình tin rằng anh là một kẻ xấu xa độc ác, và anh rất ghét thấy công sức mình bỏ ra đổ xuống sông xuống biển.”
Ned không tin một lời nào, nhưng ông vẫn lịch sự nói, “Tôi cũng rất cám ơn ngài, Lãnh chúa Baelish.”
“Ồ, đây mới là một kho báu chứ,” Ngón Út vui vẻ nói.
Khi cánh cửa đóng lại sau lưng họ, Ned quay lại bên vợ. “Một khi nàng về nhà, hãy thay ta gửi thư cho Helman Tallhart và Galbart Glover. Nói với họ mỗi người hãy dựng một đội quân một trăm cung thủ và củng cố lại Moat Cailin. Hai trăm tay cung tràn ngập nhuệ khí có thể chặn đứng một đội quân định vượt qua Neck. Nói với Lãnh chúa Manderly rằng ông ấy cần tăng cường sức mạnh và gia cố lại tất cả hàng phòng thủ tại Cảng White, và đảm bảo luôn có quân canh gác. Và từ ngày hôm nay trở đi, ta muốn nàng cẩn trọng theo dõi Theon Greyjoy. Nếu có chiển tranh chúng ta sẽ vô cùng cần hạm đội của cha cậu ta.”
“Chiến tranh ư?” Nỗi sợ hằn lên khuôn mặt Catelyn.
“Sẽ không có đâu “ Ned hứa, cầu cho điều đó là thực. Ông lại nắm tay bà. “Nhà Lannister là những kẻ nhẫn tâm mang bộ mặt yếu đuối, và Aerys Targaryen đã học được bài học đau buồn của mình, nhưng chúng sẽ không dám tấn công phương bắc mà không có tổng lực của cả vương quốc, và chắc chắn chúng sẽ không thể nào có được. Ta chơi trò bịp này tới cùng nếu không có gì bất thường. Hãy nhớ vì sao ta tới đây, tình yêu của ta. Nếu ta tìm ra bằng chứng rằng nhà Lannister sát hại Jon Arryn...”
Ông cảm thấy Catelyn đang run rẩy. Bàn tay với những vết sẹo bám chặt lấy ông. “Nếu,” bà nói, “thì sao, tình yêu của em?”
Ned biết đó là phần nguy hiểm nhất. “Công lý đến từ nhà vua,” ông nói. “Khi biết rõ sự thực, ta sẽ nói với Robert.” Và thầm cầu nguyện rằng ngài vẫn là người như ông nghĩ.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,359
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 25: Chương 21 phần 1




TYRION
 
Ngài chắc mình phải rời đi sớm thế này không?” Tướng chỉ huy hỏi.
“Rất chắc chắn, Lãnh chúa Mormont ạ,” Tyrion trả lời. “Anh trai Jaime của tôi sẽ băn khoăn không biết tôi biến thành cái gì mất. Anh ấy có thể nghĩ ông đã thuyết phục được tôi khoác bộ đồng phục đen.”
“Giá mà tôi có thể.” Mormont cầm một cái càng cua và bóp vỡ. Dù đã có tuổi, nhưng tướng chỉ huy vẫn có sức mạnh như một con gấu. “Anh là một người khá ranh ma, Tyrion. Chúng tôi cần những người như anh ở Tường Thành.”
Tyrion cười. “Vậy tôi sẽ lùng sục tất cả người lùn ở Bảy Phụ Quốc và mang họ tới đây cho ngài, Lãnh chúa Mormont.” Anh thản nhiên hút thịt càng cua khi mọi người ồ lên cười. Những con cua được mang tới từ Trạm Đông trong buổi sáng nay, đặt trong thùng tuyết, và chúng ngon tuyệt.
Ser Alliser Thorne là người duy nhất trong bàn không nở lấy một nụ cười. “Lannister đang nhạo báng chúng ta”
“Chỉ nhạo báng ông thôi, Ser Alliser,” Tyrion nói. Lúc này, tiếng cười quanh bàn có chút lo lắng, bối rối.
Đôi mắt đen của Thorne nhìn thẳng Tyrion với vẻ thù hận. “Đối với một người chỉ cao bằng nửa người khác thì ngài khá bạo miệng đấy. Có lẽ ngài và tôi nên cùng nhau ra sân nhỉ.”
“Vì sao?” Tyrion hỏi. “Cua ở đây cơ mà.”

Lời nói này càng làm người khác cười ác hơn. Ser Alliser đứng bật dậy, môi mím chặt. “Tới đây và biến lời nhạo báng của ông thành lưỡi thép xem nào.”
Tyrion nhìn thẳng vào bàn tay phải. “Vì sao, tôi đã có lưỡi thép trên tay rồi, Ser Alliser, dù nó chỉ là một cái dĩa ăn cua. Chúng ta đấu được không?” Anh nhảy lên ghế và bắt đầu chọc chọc vào ngực Thorne bằng cái dĩa tí xíu. Những tiếng cười rú rít lên trong phòng. Một ít thịt cua bay. khỏi miệng tướng chỉ huy khi ông há hốc mồm vì nghẹn. Kể cả con quạ của ông cũng tham gia cùng, kêu ầm ĩ từ trên cửa sổ. “Đấu! Đấu! Đấu!”
Ser Alliser Thorne bước ra khỏi phòng với vẻ cứng đờ như thể bị cắm dao vào mông.
Mormont vẫn há mồm thở hổn hển. Tyrion đấm vào lưng ông. “Người chiến thắng nhận được chiến lợi phẩm,” anh nói lớn. “Tôi chiếm phần cua của Thorne.”
Cuối cùng tướng chỉ huy cũng hoàn hồn. “Anh là một kẻ xấu xa mới dám chọc tức Ser Alliser tới vậy,” ông quở trách.
Tyrion ngồi bệt xuống và nhấp một ngụm rượu. “Nếu một người tự vẽ bia trên ngực mình, sớm muộn cũng có kẻ bắn tên trúng hắn ta. Tôi đã gặp nhiều kẻ đã chết còn hài hước hơn Ser Alliser của ngài đấy.”
“Không đâu,” Đại quản gia, Bowen Marsh, một người tròn trĩnh và đỏ lựng như quả lựu phản đối. “Ngài nên nghe những cái tên khôi hài hắn đặt cho những cậu nhóc mình huấn luyện cơ.”
Tyrion có nghe qua vài cái tên hề. “Tôi cược mấy cậu nhóc đó cũng có vài cái tên cho ông ta,” anh nói. “Gột bỏ băng bao phủ mắt đi, các công tước tốt bụng của tôi. Ser Alliser Thorne chỉ nên đi dọn chuồng ngựa, chứ không phải huấn luyện những chiến binh mới.”
“Đội Tuần Đêm không thiếu người làm việc trong chuồng ngựa,” Lãnh chúa Mormont càu nhàu. “Dường như dạo gần đây họ toàn gửi cho chúng tôi những kẻ như thế. Nào là trẻ chăn ngựa, mấy thằng trộm vặt, và bọn hiếp dâm. Ser Alliser là một hiệp sĩ được phong tước, một trong số ít những hiệp sĩ mặc đồ đen kể từ khi tôi lên làm tướng chỉ huy. Ông ấy đã chiến đấu rất dũng cảm tại Vương Đô.”

“Nhưng ở sai phe,” Ser Jaremy Rykker cộc lốc nhận xét. “Nên biết, tôi đã ở trên chiến trường cùng ông ta. Tywin Lannister đã cho chúng tôi một sự lựa chọn tuyệt vời. Mặc đồ đen, hoặc thấy đầu mình cắm trên giáo trước lúc hoàng hôn. Tôi không có ý xúc phạm gì đâu, Tyrion.
“Không sao, Ser Jaremy. Cha tôi rất thích xiên đầu người, đặc biệt đầu những kẻ làm ông ta bực bội. Và với khuôn mặt thanh tú như ngài, chắc chắn ông ta sẽ trang trí đầu ngài trên Cổng Thành. Tôi nghĩ trông ngài sẽ đẹp choáng váng trên đó.”
“Cám ơn,” Ser Jaremy trả lời cùng một nụ cười mỉa. Tướng chỉ huy Mormont húng hắng. “Thi thoảng tôi sợ rằng Ser Alliser đã hiểu đúng về anh, Tyrion. Anh đang chế giễu chúng tôi cùng mục đích cao cả của chúng tôi ở đây.”
Tyrion nhún vai, “Tất cả chúng ta đều cần bị chế giễu lúc này hay lúc khác, Lãnh chúa Mormont ạ, ít nhất là để chúng ta không quá nghiêm túc. Làm ơn, cho tôi thêm rượu nào.” Anh giơ cốc lên.
Khi Rikker đổ rượu đầy cốc, Bowen Marsh nói, “người anh nhỏ bé mà cơn khát ghê gớm quá đi.”
“Ô, tôi nghĩ Lãnh chúa Tyrion cũng to lớn đó chứ,” Maester Aemon nói từ đầu bàn bên kia. Giọng ông nhẹ nhàng, nhưng tất cả các sĩ quan cấp cao của Đội Tuần Đêm đều im lặng để lắng nghe. “Tôi nghĩ anh ta là một người khổng lồ tại ở nơi đây, nơi tận cùng trời đất.”
Tyrion nhẹ nhàng trả lời, “Tôi được gọi bằng nhiều cái tên, thưa Lãnh chúa, nhưng người khổng lồ thì khá hiếm đấy.”
“Dù sao,” Maester Aemon nói trong khi hướng đôi mắt trắng sữa, mờ đục vào khuôn mặt Tyrion, “tôi nghĩ đó là sự thật.”
Lần đầu tiên, Tyrion thấy mình không thể nói nên lời. Anh chỉ có thể lịch sự cúi đầu và nói, “Ngài thật tử tế, thưa Maester Aemon.”
Ông già mù mỉm cười. Ông khá nhỏ bé, hói đầu và nhăn nheo vì tuổi già. “Tôi được gọi bằng nhiều cái tên, thưa Lãnh chúa,” ông nói, “nhưng hiếm ai nói tôi tử tế.” Lần này chính Tyrion bật cười đầu tiên.

Sau đó khá lâu, khi việc ăn uống đã xong xuôi và một vài người rời đi, Mormont mời Tyrion ngồi bên bếp lửa và cốc rượu nóng quá mạnh khiến anh chảy nước mắt. “Ở nơi phương bắc xa xôi này có thể đi trên vương lộ rất nguy hiểm,” Tướng chỉ huy nói trong khi uống rượu.
“Tôi đã có Jyck và Morree đi cùng,” Tyrion nói, “còn Yoren xuống phía nam.”
“Yoren chỉ là một người đàn ông. Đội Tuần Đêm sẽ hộ tống anh tới Winterfell,” Mormont cương quyết tuyên bố. “Ba người là đủ.”
“Nếu như ngài đã muốn vậy, thưa lãnh chúa,” Tyrion nói. “Ngài có lẽ nên cử Snow đi. Cậu ấy sẽ rất mừng nêu có cơ hội được gặp lại những người anh em của mình.”
Mormont nhăn mặt qua bộ râu muối tiêu rậm rạp. “Snow? Ô, con hoang nhà Stark. Tôi nghĩ là không. Một người lính trẻ cần quên đi cuộc sống họ bỏ lại phía sau, anh em, gia đình và tất cả mọi thứ. Một chuyến về thăm nhà sẽ khuấy động những cảm xúc mà tốt nhất nên ngủ yên. Tôi hiểu những điều đó. Những người bà con của tôi... chị gái tôi Maege giờ đang trị vì Đảo Bear, sau tội lỗi đáng hổ thẹn của thằng con trai của tôi. Tôi có những cô cháu gái mình chưa từng gặp.” Ông uống một ngụm nữa. “Hơn nữa, Jon Snow chỉ là một cậu bé. Anh sẽ cần ba tay kiếm khỏe mạnh, để giúp bản thân được an toàn.”
“Tôi rất cảm động vì sự quan tâm của ngài, Lãnh chúa Mormont.” Rượu mạnh làm Tyrion váng đầu, nhưng chưa say tới mức làm anh không nhận ra Gấu Già muốn một cái gì đó từ anh. “Tôi ước mình có thể đáp lại lòng tốt của ngài.”
“Anh có thể,” Mormont thẳng thừng nói. “Chị gái ngài đang ngồi cạnh nhà vua. Anh trai ngài là một hiệp sĩ vĩ đại, và cha ngài là Lãnh chúa quyền lực nhất trong Bảy Phụ Quốc. Hãy thay chúng tôi nói với họ. Hãy nói với họ những thứ chúng tôi đang cần ở nơi này. Chính ngài đã nhìn thấy rồi đấy. Giờ, quân lực của chúng tôi còn chưa tới một ngàn. Sáu trăm ở đây, hai trăm ở Tháp Đêm, thậm chí ở Trạm Đông còn ít hơn nữa, và chỉ có một phần ba trong đó là lính chiến đấu. Tường Thành dài cả trăm lý. Hãy nghĩ về điều đó. Nếu có một vụ tấn công, tôi chỉ có ba người phòng thủ trên mỗi dặm tường thành”.
“Ba một phần ba,” Tyrion nói kèm một cái ngáp.
Mormont dường như chẳng nghe thấy anh nói gì. Ông già đang hơ tay trước bếp lò. “Tôi đã cử Benjen Stark đi tìm con trai Yohn Royce, đã mất tích ngay trong buổi đi tuần đầu tiên. Cậu nhóc nhà Royce đó còn non nớt như cỏ mùa hè vậy, nhưng cậu ta muốn nhận danh dự tự mình chỉ huy, và nói rằng đó là quyền lợi của một hiệp sĩ. Tôi thật sự không muốn xúc phạm tới cha cậu ta, vì thế tôi chịu thua. Tôi đã cử cậu ta đi cùng hai người tôi cho là giỏi như bất kỳ ai trong Đội Tuần Đêm. Tôi thật ngốc.”
“Ngốc,” con quạ đồng tình. Tyrion liếc nhìn lên. Con chim đang dòm anh bằng đôi mắt đen tròn lấp lánh, vừa nhìn vừa rỉa cánh. “Ngốc” nó lại réo lên. Chắc chắn ông già Mormont này sẽ phật ý nếu anh bóp chết sinh vật kia. Tiếc thật.

Tướng chỉ huy không để ý gì tới con chim lắm mồm kia. “Gared gần bằng tuổi tôi và đã sống tại Tường Thành lâu hơn tôi,” ông nói tiếp, “nhưng dường như ông ta đã không giữ lời thề và đào ngũ. Tôi không thể nào tin nổi, không thể nào là ông ấy được, nhưng Lãnh chúa Eddard đã gửi cho tôi cái đầu ông ấy từ Winterfell. Còn về Royce, không có bất cứ một thông tin gì. Một người đào ngũ, hai người mất tích, và giờ Ben Stark cũng không thấy đâu.”
Ông thở dài thườn thượt. “Tôi phải cử ai đi tìm ông ấy đây? Trong hai năm, tôi đã cử đi bảy mươi người. Tôi đã quá già yếu không thể chịu nổi gánh nặng này, nhưng nếu tôi đặt nó xuống, ai sẽ nhấc nó lên đây? Alliser Thorne? Bowen Marsh? Tôi chắc hẳn phải mù như Maester Aemon mới không nhìn ra bản chất của họ. Đội Tuần Đêm đã trở thành một đội quân gồm những thằng nhóc ủ rũ và những lão già mệt mỏi rồi. Trừ những người ngồi cùng bàn với tôi ngày hôm nay, có lẽ tôi chỉ có hai mươi người biết đọc, thậm chí số người biết suy nghĩ, tổ chức và chỉ huy còn ít hơn. Từng có thời phải dành bao mùa hè để xây dựng lại trạm gác, và mỗi đời tướng chỉ huy lại nâng Tường Thành lên cao hơn lúc đầu. Nhưng giờ tất cả những gì chúng tôi có thể làm là cố sống sót.”
Tyrion nhận ra, ông ta đang vô cùng nghiêm túc. Anh cảm thấy có chút thương thay cho ông già này. Lãnh chúa Mormont đã dành phần đời tươi đẹp ở Tường Thành, và ông cần phải tin rằng những năm tháng cống hiến đó có chút ý nghĩa nào đó. “Tôi hứa, nhà vua sẽ lắng nghe những lời thỉnh cầu của ngài.” Tyrion trịnh trọng nói, “và tôi sẽ nói với cha và cả Jaime nữa.” Anh sẽ nói. Tyrion Lannister rất biết giữ lời. Nhưng anh sẽ không nói những điều không nên; rằng Vua Robert sẽ lờ anh đi, rằng Lãnh chúa Tywin sẽ hỏi liệu anh có mất trí không, còn Jaime sẽ chỉ cười.
“Anh còn trẻ, Tyrion ạ,” Mormont nói. “Anh đã chứng kiến bao mùa đông rồi?”
Anh nhún vai. “Tám, chín. Tôi không nhớ rõ.”
“Và tất cả đều ngắn ngủi.”
“Đúng như ngài nói, lãnh chúa.” Anh sinh ra vào cuối mùa đông, một mùa đông nghiệt ngã kinh khủng mà các maester kể rằng nó kéo dài gần ba năm, nhưng những ký ức đầu tiên của Tyrion lại là về mùa xuân.
“Khi tôi còn là một cậu bé, người ta nói mùa hè dài đồng nghĩa với một mùa đông sắp tới sẽ dài đằng đẵng. Mùa hè này đã kéo dài chín năm, Tyrion, và mùa hè thứ mười sắp tới với chúng ta. Hãy nghĩ đi.”
“Khi tôi còn bé,” Tyrion trả lời, “bà vú của tôi kể rằng, một ngày, nếu con người sống tốt, thần thánh sẽ cho chúng ta một thế giới với mùa hè bất tận. Có lẽ chúng ta tốt hơn chúng ta nghĩ, và Đại Mùa Hè cuối cùng cũng tới rồi.” Anh cười toe toét.
Tướng chỉ huy không lấy gì làm thích thú. “Anh chắc chắn không ngốc tới mức đi tin vào điều đó đâu, lãnh chúa. Giờ ngày đã ngắn hơn. Ở đây không thể có sai lầm gì, Aemon đã nhận được thư từ Citadel, và tự mình nghiên cứu. Chúng ta đang đối diện với cuối hè rồi.” Mormont vươn tay ra và nắm chặt lấy tay Tyrion. “Anh phải nói cho họ hiểu. Tôi nói cho anh nghe, lãnh chúa, bóng tối đang tới rồi. Có những thứ man rợ trong rừng sói tuyết, voi ma mút và gấu tuyết cỡ bằng con bò rừng, và tôi đã thấy những sinh vật xấu xa hơn trong những giấc mơ của mình.”
“Trong những giấc mơ của ông,” Tyrion nhại lại, trong khi tâm trí lại nghĩ về việc anh đang muốn một cốc rượu mạnh nữa.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,359
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 26: Chương 21 phần 2




Mormont nói rất khẽ, gần như không nghe được. “Những ngư dân gần Trạm Đông đã thấy những bóng trắng bên bờ biển.”
Lần này Tyrion không thể ngậm miệng nổi. “Những ngư dân của Lannisport thường nhìn thấy nhân ngư.” “Denys Mallister viết rằng dân vùng núi đang xuống phương nam, đi qua Tháp Đêm với số lượng lớn chưa từng thấy. Họ đang chạy trốn đó lãnh chúa... nhưng chạy trốn khỏi cái gì đây? Lãnh chúa Mormont đi tới bên cửa sổ và nhìn vào màn đêm. “Lannister, họ là những người già cỗi, Lannister, nhưng họ chưa bao giờ cảm nhận được sự giá buốt như thế này. Tôi xin anh, hãy nói với nhà vua điều tôi vừa nói. Mùa đông đang tới, và khi Đêm Trường buông xuống, chỉ có Đội Tuần Đêm đứng giữa vương quốc và bóng tối sẽ trải dài khắp miền bắc. Thần thánh sẽ không giúp chúng ta nếu chúng ta không sẵn sàng.”
“Thần thánh sẽ giúp tôi nếu tối nay tôi không được ngủ. Yoren quyết tâm rời đây khi trời vừa sáng.” Tyrion đứng dậy, buồn ngủ vì rượu và mệt mỏi vì bị đày đọa. “Tôi cảm ơn vì tất cả những ưu đãi ngài dành cho tôi, Lãnh chúa Mormont.”
“Nói với họ đi, Tyrion. Nói với họ và làm cho họ tin đi. Tôi chỉ cần anh cảm ơn tôi như vậy.” Ông huýt sáo, và con quạ bay xuống đậu trên vai. Mormont mỉm cười và cho con chim ít ngô lấy từ túi, và đó là lúc Tyrion rời đi.
Trời lạnh cắt da cắt thịt. Độn lớp lông thú dày dặn, Tyrion Lannister đeo găng tay và gật đầu chào cậu lính canh khốn khổ tội nghiệp bên ngoài Phòng Chỉ Huy. Anh đi qua sân về phòng của mình trên Tháp Vua, từng bước vững vàng nhất có thể. Tuyết kêu lạo xạo dưới chân anh, và hơi thở bốc hơi trước mặt anh như một dải cờ. Anh giấu hai tay vào nách và đi nhanh hơn, mong sao Morree nhớ ủ ấm giường anh bằng gạch nóng hơ trên lửa.
Đằng sau Tháp Vua, Tường Thành tỏa ánh sáng lờ mờ dưới ánh trăng, vĩ đại và huyền bí. Tyrion dừng lại một lúc để nhìn lên. Chân anh đau buốt vì lạnh giá.
Đột nhiên trong anh dâng lên một sự điên rồ kỳ lạ, một ham muốn được nhìn nơi tận cùng thế giới thêm làn nữa. Đây sẽ là cơ hội cuối cùng của anh; ngày mai anh sẽ về phương nam, và không thể tưởng tượng lý do nào có thể khiến anh muốn trở lại nơi khỉ ho cò gáy băng giá này. Tháp Vua ngay trước mặt anh, với sự hứa hẹn về hơi ấm và cái giường êm ái, nhưng Tyrion thấy mình đang đi qua nó, về phía cọc rào nhọn tỏa ánh sáng yếu ớt nơi Tường Thành.
Một cái cầu thang gỗ dốc dần lên mặt tường phía nam, bám vào những cây xà thô nhám chìm sâu trong băng đá. Nó ngoằn ngoèo đi lên, như một tia chớp vậy. Hội anh em áo đen đảm bảo với anh rằng nó vững chắc hơn vẻ bề ngoài, nhưng chân Tyrion đang bị chuột rút ghê gớm khiến anh chẳng còn tâm trí đâu mà nghĩ tới cái cầu thang. Thay vào đó anh tới cái lồng sắt bên cạnh giếng, chui vào trong, và kéo mạnh dây chuông, ba cú thật nhanh.
Dường như anh phải chờ đợi vĩnh viễn trong tình trạng đứng trong lồng, đối lưng với Tường Thành. Đủ lâu để cho Tyrion bắt đầu tự hỏi mình đang làm gì vậy. Anh vừa định quên đi ý tưởng mới nảy ra đó và lên giường ngủ thì cái lồng bị kéo bổng lên.
Anh từ từ đi lên, lúc đầu hơi giật cục, sau đó êm ả hơn. Mặt đất càng ngày càng xa, lồng lắc lư, và Tyrion đang nắm chắc lấy mấy thanh sắt. Anh có thể cảm nhận cái lạnh của kim loại qua găng tay. Anh hài lòng nhận thấy, Morrec đã đốt lò sưởi trong phòng anh, nhưng Tháp Chỉ Huy lại tối om. Dường như Gấu Già hiểu mọi chuyện hơn anh.
Sau đó anh ở trên những ngọn tháp, vẫn tiếp tục được kéo lên. Hắc Thành nằm bên dưới anh, hiện ra dưới ánh trăng. Lúc này mới thấy nó trống trải và ảm đạm thế nào; những tòa vọng lâu không cửa sổ, những bức tường nghiêng ngả, những sân tập lổn nhổn đá sỏi. Xa xa, anh nhìn thấy ánh đèn từ thị trấn Mole, một ngôi làng nhỏ cách đây khoảng nửa dặm về phía nam theo hướng vương lộ, và đây đó thấp thoáng những vệt sáng lấp lánh của ánh trăng trên mặt nước nơi dòng sông băng từ trên những đỉnh núi chảy xuống giao với đồng bằng. Phần còn lại của thế giới là một khoảng không trống trải dài những ngọn đồi lộng gió cùng những cánh đồng đá điểm tuyết.

Cuối cùng, một giọng nói ngọng nghịu vang sau lưng anh, “Bảy địa ngục ơi, đó là người lùn,” và cái lồng giật nảy lên rồi dừng lại, treo lơ lửng ở đó, chầm chậm lắc lư, dây chão kêu kẽo kẹt.
“Chết tiệt, cho hắn xuống,” Có những tiếng làu nhàu, rên rỉ khi cái lồng trượt sang một bên và Tường Thành nằm ngay dưới anh. Tyrion đợi tới khi cái lồng ngừng lắc lư, anh mới mở cửa và nhảy xuống. Một bóng dáng nặng nề mặc đồ đen đang dựa mình vào cần trục, trong khi kẻ thứ hai giữ lấy cái lồng bằng bàn tay đeo găng. Khuôn mặt của họ bịt kín chỉ chừa hai con mắt, và họ mặc cơ man nào là áo len và áo da toàn một màu đen.
“Ngài muốn gì vào cái giờ này cơ chứ?” gã dựa vào cần trục hỏi.
“Ngắm cảnh lần cuối.”
Hai gã xót xa nhìn nhau. “Nhìn tất cả những gì ngài muốn,” gã còn lại nói. “Nhưng đừng ngã xuống, chú lùn. Gấu Già sẽ lột da chúng tôi”.
Có một chiếc lều gỗ nhỏ dựng bên dưới cần trục lớn, Tyrion thấy có ánh sáng mờ mờ từ bếp lò và cảm thấy chút hơi ấm ngắn ngủi tỏa ra khi hai người kia mở cửa bước vào. Và sau đó, anh chỉ còn một mình.
Ở đây trời lạnh buốt thịt da, còn gió giật lấy quần áo anh tựa như một nàng thơ đang nài nỉ. Đỉnh Tường Thành rộng hơn vương lộ, vì thế Tyrion không sợ rơi xuống, dù đoạn đường đi trơn trượt hơn so với sở thích của anh. Hội anh em đã rải đá nhám dọc đường, nhưng dưới sức nặng của không biết bao bước chân ngang dọc có thể làm tan chảy cả Tường Thành bên dưới, vì thế băng đã dần bao lấy những viên sỏi, nuốt chửng lấy nó, cho tới khi đường lại bằng phẳng và giờ là lúc phải rải thêm nhiều đá hơn.
Nhưng, đó lại là một điều nữa mà Tyrion không làm nổi. Anh nhìn về phương đông và phương tây, nhìn về Tường Thành trải dài phía trước mình, và con đường trắng xóa vô tận không biết đâu là điểm bắt đầu và đâu là nơi kết thúc cùng vực thẳm sâu hun hút hai bên. Anh quyết định đi về phía tây, chẳng vì lý do đặc biệt gì cả, dọc theo những con đường mòn gần khu phía nam, nơi những viên đá cuội có vẻ còn mới nhất.
Má anh tê dại vì lạnh, còn đôi chân biểu tình dữ dội hơn theo mỗi bước, nhưng Tyrion lờ chúng đi. Gió vần vũ quanh anh, những viên đá cuội lạo xạo dưới gót giày, con đường tuyết trải dài theo các ngọn đồi, ngày một leo cao hơn, tới khi khuất dạng ở chân trời phía tây. Anh băng qua một máy cẩu đá khổng lồ, phải cao bằng một bức tường thành phố, giá đỡ nằm sâu trong Tường Thành. Tay cẩu của nó đã bị tháo ra đem sửa chữa và rồi bị lãng quên; giờ nó nằm đó như một món đồ chơi bị hỏng, ngập một nửa trong tuyết.
 
Ở phía kia máy cẩu đá, một giọng nói nghèn nghẹt vang lên thách thức. “Ai đó? Dừng lại!”

Tyrion dừng bước. “Nếu ta dừng quá lâu, ta sẽ bị đóng băng tại chỗ đó, Jon “ anh nói khi nhìn thấy một cái bóng nhàn nhạt xù xì lặng lẽ tiến tới đánh hơi lớp lông thú của mình. “Chào mày, Bóng Ma.”
Jon Snow tới gần hơn. Trông cậu bé nặng nề và to lớn hơn dưới bao nhiêu lớp lông thú và áo da, chiếc mũ áo choàng kéo lên che kín khuôn mặt. “Ngài Lannister,” cậu nói và kéo lỏng chiếc khăn che miệng ra. “Đây là nơi cuối cùng cháu nghĩ sẽ thấy ngài.” Cậu nhóc cầm một cây giáo nặng nề bọc sắt, cao hơn người, và một thanh kiếm đeo ở thắt lưng đang nằm trong vỏ da. Trên ngực cậu lấp lánh hình chiếc tù và chiến đen đóng đai bạc.
“Đây là nơi cuối cùng ta mong có người thấy mình,” Tyrion thừa nhận. “Ta bị một ý tưởng lôi kéo lên thôi. Nếu ta chạm vào Bóng Ma, nó sẽ nhai tay ta chứ?”
“Không, nếu như cháu ở đây,” Jon hứa.
Tyrion gãi đằng sau tai con sói trắng. Đôi mắt đỏ của nó bình thản nhìn anh. Nó giờ đã cao tới ngực anh rồi. Một năm nữa, và Tyrion bỗng có một cảm giác chán chường rằng anh sẽ phải ngước lên nhìn nó. “Cháu làm gì ở đây vào tối nay vậy?” anh hỏi. “ngoài việc đóng băng dương vật...”
“Cháu trực ca tối,” Jon nói. “Ser Alliser đã tử tế nhắc nhở trưởng ca gác đặc biệt quan tâm tới cháu. Hình như ông ta nghĩ, nếu họ bắt cháu thức suốt nửa đêm, sáng mai cháu sẽ ngủ gật trong buổi tập. Nhưng tới giờ cháu vẫn làm ông ta thất vọng.”
Tyrion cười. “Thế Bóng Ma biết tung hứng chưa?”
“Chưa ạ,” Jon nói và mỉm cười, “nhưng sáng nay Grenn đã chống trả lại được Halder, còn Pyp không còn làm rơi kiếm thường xuyên như trước nữa.”
“Pyp?”
“Pyp là tên thật của cậu ấy. Cậu nhóc nhỏ thó có đôi tai to ấy. Cậu ấy thấy cháu đang dạy Grenn và nhờ giúp. Thorne chưa bao giờ dạy cậu ấy cầm kiếm đúng cách.” Cậu nhìn về phía nam. “Cháu canh gác một dặm Tường Thành. Ngài đi cùng cháu nhé?”

“Nếu cháu đi chậm,” Tyrion nói.
“Trưởng ca nói rằng cháu phải đi đi lại lại, để máu không đóng băng, nhưng ông ta không nói cháu phải đi nhanh tới đâu.”
Thế là họ cùng nhau đi, với Bóng Ma đi cạnh Jon như một bóng ma trắng mởn. “Sáng mai ta sẽ đi,” Tyrion nói.
“Cháu biết.” Jon nói, có vẻ buồn tới kỳ lạ.
“Ta định sẽ dừng lại ở Winterfell trên đường xuống phía nam. Nếu cháu muốn chuyển thư gì...”
“Nói với Robb sẽ có ngày cháu chỉ huy Đội Tuần Đêm và giúp anh ấy an toàn, vì thế anh ấy nên bắt đầu học thêu thùa cùng các cô gái và bảo Mikken nấu chảy thanh kiếm làm móng ngựa đi.”
“Anh trai cậu còn lớn hơn ta,” Tyrion cười nói. “Ta từ chối gửi bất cứ thông điệp nào có thể lấy mạng mình.”
“Rickon sẽ hỏi khi nào cháu về. Hãy cố giải thích cho nó rằng cháu đã đi đâu, nếu ngài có thể. Nói với nó rằng nó có thể có tất cả những thứ của cháu trong thời gian cháu đi vắng, nó sẽ rất thích.”
Dường như mọi người kỳ vọng nhiều thứ từ anh, Tyrion nghĩ bụng. “Cháu có thể viết tất tần tật vào thư, cháu biết đó.”
“Rickon chưa biết đọc. Bran...” Cậu đột nhiên ngừng lại. “Cháu không biết nên nói gì với Bran. Hãy giúp nó nhé, ngài Tyrion.”
“Ta có thể giúp gì đây? Ta không phải học sĩ, không thể giảm đau. Ta không có phép thuật giúp thằng bé có lại đôi chân.”
“Ngài đã giúp cháu khi cháu cần,” Jon Snow nói.

“Ta chẳng giúp đỡ gì hết,” Tyrion nói. “Chỉ toàn là lời nói.” “Vậy hãy gửi lời nói của ngài tới Bran luôn ạ.”
“Cậu đang yêu cầu một thằng tật dạy một đứa què biết nhảy múa đấy,” Tyrion nói. “Dù có dạy tâm huyết thế nào, kết quả cũng lố bịch cả thôi. Nhưng, ta biết tình anh em là thế nào, Lãnh chúa Snow. Ta sẽ giúp đỡ Bran bất cứ chuyện gì có thể.”
“Cám ơn ngài, Lãnh chúa Lannister.” Cậu tháo găng và chìa tay ra. “Bạn bè nhé.”
Tyrion chợt thấy cảm động. “Hầu hết người thân thiết của ta đều là con hoang,” anh nói kèm một nụ cười nhăn nhở, “nhưng cháu là người bạn đầu tiên ta có.” Anh dùng răng kéo găng ra và nắm lấy tay Snow. Nắm tay của cậu nhóc thật chặt và mạnh mẽ.
Khi anh đeo găng tay lại, Jon Snow đột nhiên chuyến hướng bước tới tường phòng hộ phía bắc phủ đầy băng tuyết. Phía trên anh, Tường Thành đã bị sụt; phía trước anh chỉ còn màn đêm và cảnh vật hoang sơ. Tyrion đi theo cậu nhóc, và đứng sóng vai trước rìa thế giới.
Đội Tuần Đêm không để rừng rậm lấn tới gần mạn bắc Tường Thành tới nửa dặm. Những rặng cây gỗ cứng và cây thân cao cùng sồi đã từng sinh trưởng nơi này đã bị phá đi hàng thế kỷ trước, để mở ra một khoảng không thoáng đãng nhằm không cho kẻ thù một cơ hội vượt qua mà không bị nhìn thấy. Tyrion đã nghe đồn rằng ở nơi nào đó trên Tường Thành, giữa ba pháo đài kia, rừng hoang đã sớm bò lại nơi đây qua hàng thập kỷ, rằng có những nơi, những cây gỗ cao xanh xám cùng những cây mộc tâm đã bám rễ ăn sâu vào bóng tối của Tường Thành, nhưng Hắc Thành lại có nhu cầu nhóm lửa cực lớn, và ở nơi này, rừng cây vẫn giữ khoảng cách cùng những lưỡi hái của hội anh em áo đen.
Nhưng, nó chưa bao giờ xa cách. Từ trên này Tyrion có thể thấy, những hàng cây đen đúa đang đổ bóng xuống khoảng trống, như một bức tường thứ hai dựng song song Tường Thành, một bức tường của màn đêm. Có những nhát rìu không bao giờ được vung trong khu rừng tối, nơi cả ánh trăng cũng không thể thâm nhập vào những đống rễ cây bện vào nhau, cùng những cành cây gai góc và những cành lá đan xen. Ở ngoài đó, cây cối to lớn hơn nhiều, và những người lính biệt kích nói chúng dường như đang suy tư và chúng biết những thứ không phải con người quanh quẩn nơi đây. Chính vì điều kỳ diệu này mà Đội Tuần Đêm đã đặt tên nơi đó là khu rừng ma.
Khi anh đứng đó nhìn vào bóng tối dày đặc không thấy lấy một đốm lửa, với những trận gió gào thét và cái lạnh như những mũi giáo đâm vào ruột gan, Tyrion Lannister cảm thấy anh gần tin vào những câu chuyện về Ngoại Nhân, kẻ thù trong bóng tối. Những câu chuyện đùa của anh về ba bị và ngáo ộp dường như không còn là lời nói đùa nữa.
“Chú cháu ở ngoài đó,” Jon Snow thì thào nói, dựa lên cây giáo mà nhìn vào màn đêm. “Đêm đầu tiên họ cho cháu lên đây, cháu đã nghĩ, chú Benjen tối nay sẽ về, cháu sẽ là người đầu tiên nhìn thấy ông và thổi tù và. Nhưng, chú ấy vẫn chưa về. Không phải đêm đó hay bất cứ đêm nào khác.”
“Cho ông ấy chút thời gian đi,” Tyrion nói.
Xa xa về phương nam, con sói nào đó cất tiếng tru. Một con khác hưởng ứng, rồi thêm một con nữa. Bóng Ma nghiêng đầu nghe ngóng. “Nếu chú ấy không về,” Jon Snow thề, “Bóng Ma và cháu sẽ đi tìm.” Cậu đặt tay lên đầu con sói tuyết.
“Ta tin cháu,” Tyrion nói, bất giác rùng mình về điều mình đang nghĩ, Và ai sẽ đi tìm cháu đây?
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,359
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 27: Chương 22




ARYA
 
Cha cô lại tranh cãi với hội đồng. Arya biết vì điều đó hiện rõ trên mặt ông, khi ông tới bữa tối muộn như mọi ngày. Khi ngài Ned Stark bước vào Tiểu Sảnh thì món khai vị súp bí ngô ngọt đặc quánh đã được dọn đi. Họ đặt tên này cho căn phòng là để phân biệt nó với Đại Sảnh, nơi nhà vua có thể đãi tiệc cả ngàn người, còn đây chỉ là một căn phòng dài mái vòm cao và đủ sắp ghế băng cho hai trăm bàn tiệc mà thôi.
“Chào lãnh chúa,” chú Jory nói khi Cha bước vào. Chú đứng dậy và những lính gác khác đứng dậy theo. Tất cả đều mặc áo choàng mới, bằng len xám dày với đường sọc trắng bằng vải sa tanh. Huy hiệu bàn tay bạc gắn trên cầu vai áo choàng là dấu hiệu nhận biết họ là quân hộ vệ của quân sư. Đội chỉ có năm mười người, vì thế hàng ghế băng gần như trống không.
“Ngồi xuống đi,” Eddard Stark nói. “Ta thấy mọi người đã bắt đầu ăn mà không có ta. Ta mừng khi biết rằng trong thành phố này vẫn còn có vài người đầu óc minh mẫn.” Ông ra hiệu ọi người tiếp tục ăn. Những người hầu bắt đầu mang những đĩa sườn quay phủ tỏi và lá thơm.
“Mọi người trong sân đồn rằng chúng ta sẽ có một cuộc đấu thương ngựa, thưa Lãnh chúa,” chú Jory nói khi đã ngồi xuống. “Họ nói rằng các kỵ sĩ từ khắp nơi trong vương quốc sẽ đổ về để đấu thương ngựa và ăn tiệc để mừng ngài được bổ nhiệm làm quân sư mới.”
 
Arya nhận thấy cha không vui. “Thế họ có nói luôn rằng đó là điều cuối cùng trên thế giới này mà ta muốn không?”
Đôi mắt của Sansa mở to bằng cái đĩa. “Một cuộc đấu thương ngựa,” chị thì thào. Chị đang ngồi giữa Septa Mordane và Jeyne Poole, tránh xa Arya nhất mức có thể mà không bị Cha trách mắng. “Chúng con có được đi xem không, Cha?”
“Con hiểu cảm giác của cha mà, Sansa. Có vẻ cha sẽ phải sắp xếp các trò chơi cho vua Robert và vờ rằng mình rất vinh dự chỉ vì bệ hạ. Nhưng điều này không có nghĩa cha phải đồng ý cho những cô con gái của mình tham gia trò khỉ đó.”
“Ôi, làm ơn đi mà cha,” Sansa nói. “Con muốn xem.”
Septa Mordane lên tiếng. “Công chúa Myrceỉla sẽ ở đó thưa Lãnh chúa, và công chúa còn nhỏ tuổi hơn tiểu thư Sansa. Mọi người mong chờ tất cả những tiểu thư danh giá xuất hiện trong sự kiện hoàng tráng thế này, và vì buổi đấu thương ngựa này là để vinh danh ngài nên sẽ là không hay nếu gia đình ngài không tham dự.”
Dường như cha bị tổn thương. “Ta cho là vậy. Được rồi, cha sẽ sắp xếp chỗ cho con, Sansa.” Ông ngó Arya. “Cho cả hai con.”
“Con không quan tâm tới trò đấu thương ngựa ngu ngốc của họ,” Arya nói. Cô biết hoàng tử Joffrey sẽ tới đó, mà cô thì ghét hẳn.
Sansa nghiêng đầu. “Đây sẽ là một sự kiện tráng lệ. Chẳng ai cần em đâu.”
Sự giận dữ bừng lên trên khuôn mặt cha. “Đủ rồi, Sansa. Con nói thêm một câu nữa thì cha sẽ thay đổi quyết định ngay lập tức. Cha đã quá một mỏi vì cuộc cãi vã không có hồi kết của hai con. Các con là chị em. Cha mong các con sẽ cư xử với nhau như chị em, hiểu không?”
Sansa cắn môi gật đầu. Arya cúi đầu ủ rũ nhìn vào cái đĩa. Cô cảm thấy khóe mắt cay cay. Cô giận dữ quệt nước mắt, nhất quyết không khóc.
Trong sảnh chỉ vang lên tiếng đũa bát lanh canh. “Xin thứ lỗi,” cha cô nói trước bàn. “Hôm nay ta không muốn ăn lắm.” Rồi ông rời khỏi sảnh.
Sau khi ông đi, Sansa phấn khỏi thì thầm với Jeyne Poole. Bên dưới, chú Jory nghe một câu chuyện hài và cười ha hả, còn bác Hullen bắt đầu nói về ngựa. “Giờ con ngựa chiến của cậu, có thể không phải con ngựa tốt nhất giải. Ô không, không còn như cũ nữa, không giống trước nữa đâu.” Mọi người đã từng nghe thấy điều này; Desmond, Jacks, và anh con trai của bác Hullen Harwin hét kêu chú ngồi xuống; còn Porther đòi thêm rượu.
Không ai nói chuyện với Arya. Cô không quan tâm. Cô thích thể này hơn. Nếu được cô còn muốn một mình dùng bữa trong phòng ngủ. Thi thoảng họ đồng ý, khi Cha phải dự tiệc cùng nhà vua hoặc vài lãnh chúa hay công sứ ở nơi này hoặc nơi kia. Những lúc khác, Cha, chị Sansa và cô sẽ dùng cơm trong thư phòng. Những lúc đó Arya thấy nhớ các anh em mình hơn bao giờ hết. Cô muốn chọc ghẹo Bran, chơi với bé Rickon và nhìn thấy Robb cười với mình. Cô muốn Jon xoa tóc cô và gọi cô là “em gái nhỏ” rồi cùng cô nói hết một câu. Cô không còn ai ở bên trừ Sansa, và Sansa sẽ không thèm nói chuyện với cô trừ khi Cha buộc chị ấy phải nói.

Hồi ở Winterfell, hầu như họ toàn ăn trong đại sảnh. Cha cô từng nói một lãnh chúa cần ăn uống cùng với những người phục vụ mình, nếu như muốn họ trung thành với mình. “Hiểu những người đi theo con,” cô từng nghe thấy ông nói với anh Robb như vậy, “Và hãy để họ hiểu con. Đừng yêu cầu những người lính của con chết vì một kẻ xa lạ.” Ở Winterfell, ông luôn dành một chỗ trống trên bàn của mình, và mỗi ngày đều có một người khác nhau được mời tới ăn cùng ông. Cha có thể mời bác Vayon Poole, và chủ đề cuộc nói chuyện sẽ là về kho bạc, kho bánh mỳ và người hầu. Lần tiếp theo sẽ là với chú Mikken, và cha sẽ nghe chú nói về áo giáp, vũ khí và lượng nhiệt cần thiết để rèn và cách tôi thép tốt nhất. Một ngày khác sẽ tới phiên bác Hullen với câu chuyện trường thiên bất tận về bầy ngựa, hoặc Septon Chayle từ thư viện, chú Jory, hay Ser Rodrik, hoặc thậm chí là Già Nan với những câu chuyện giản dị của mình.
Arya không thích gì hơn được ngồi ở bàn của Cha mà nghe họ nói chuyện. Cô bé cũng thích nghe cuộc trò chuyện trên ghế băng; từ những kỵ binh dẻo dai như da thuộc, từ những hiệp sĩ triều đình và những tiểu đồng trẻ tuổi dũng cảm, từ những kỵ sĩ già tóc muối tiêu. Cô thường ném những quả bóng tuyết vào họ và giúp họ trộm bánh trong bếp. Những người vợ của họ thường cho cô bánh nướng và cô đã giúp họ đặt tên cho con, chơi trò “người đẹp và quái vật”, “truy tìm kho báu” hoặc “hãy tới lâu đài nào” với con cái họ. Bác Tom Bự hay gọi cô “Arya Lòng Đất”, vì đó là nơi cô thường trốn. Cô thích cái tên đó hơn tên “Arya Mặt Ngựa” nhiều.
Nhưng đó là ở Winterfell, một thế giới cách xa nơi này, và giờ mọi thứ đã thay đổi. Đây là lần đầu tiên mọi người cùng dùng bữa kể từ khi đặt chân tới Vương Đô. Ayra ghét điều đó. Giờ cô ghét tiếng nói chuyện cười đùa và những câu chuyện họ kể. Họ từng là bạn bè của cô, cô từng cảm thấy an toàn khi có họ ở bên, nhưng giờ cô biết đó là điều dối trá. Họ đã để hoàng hậu giết Quý Cô, thế là quá đủ tệ rồi, thế mà sau đó họ lại để cho Chó Săn tìm thấy Mycah. Jeyne Poole đã nói với Arya rằng họ đã cắt cậu ra từng mảnh để đóng gói trả về hàng thịt, và lúc đầu người cha tội nghiệp của cậu cứ nghĩ đó là một con lợn vừa mổ xong. Và không ai lên tiếng, rút gươm hay làm bất cứ điều gì, kể cả Harwin lúc nào cũng nói những điều dũng cảm, hay chú Jory trưởng đội lính gác. Kể cả cha cô.
“Cậu ấy là bạn mình,” Arya thì thầm, quá nhỏ để không ai nghe thấy. Cô không động tới món thịt sườn, và giờ nó nguội ngắt, một lớp mỡ mỏng đông lại trên đĩa. Arya nhìn chúng mà thấy buồn nôn. Cô đứng dậy.
“Thần thánh ơi, tiểu thư nghĩ mình đang đi đâu đây?” Septa Mordane hỏi.
“Con không đói,” Arya phải nỗ lực lắm mới nhớ ra nổi những lời nói khuôn phép đó. “Con xin phép cáo lui, được chứ ạ?” cô bé khó nhọc nhắc lại.
“Không được,” sơ nói. “Con hầu như không động tới phần ăn của mình. Con sẽ ngồi xuống và ăn hết.”
“Sơ đi mà ăn!” Trước khi ai đó có thể ngăn Arya lại, cô đã giật toang cánh cửa ra trong lúc những người đàn ông cười lớn, Septa Mordane gọi ầm ĩ phía sau, giọng càng lúc càng cao hơn.
Bác Tom Bự đang gác cửa vào Tháp Quân Sư. Bác nháy mắt khi thấy Ayra lao về phía mình và nghe tiếng hò hét từ bà sơ. “Đứng lại nào, tiểu thư, đợi đã,” bác định nói, với tay ra, nhưng Arya đã trượt qua hai chân bác và chạy lên những bậc thang ngoằn ngoèo, nện gót xuống những phiến đá trong khi bác Tom Bự hổn hà hổn hển đuổi theo.
Tại Vương Đô này cô chỉ thích có phòng ngủ, và thứ cô thích nhất là cánh cửa bằng gỗ phiến đen dày với đường viền sắt đen. Và khi cô thả chốt then ngang xuống, không ai có thể vào phòng cô, kể cả Septa Mordane, bác Tom Bự, Sansa, Jory, hay Chó Săn, không một ai! Mà giờ cô đã đóng cửa rồi.
Khi hạ thanh ngang xuống, Arya cuối cùng cũng thấy an toàn để khóc.
Cô đến bên bệ cửa sổ ngồi xuống và khóc, cô căm ghét tất cả và căm ghét bản thân nhất. Tất cả mọi chuyện tồi tệ xảy ra đều là lỗi của cô. Chị Sansa đã nói vậy, và chị Jeyne cũng nói thế. Bác Tom Bự gõ cửa. “Bé Arya, chuyện gì vậy?” bác gọi lớn. “Cháu ở trong đó phải không?”
“Không!” cô hét. Bác ngừng gõ. Một lát sau cô nghe tiếng bác rời đi. Bác Tom Bự luôn dễ gạt.
Arya tới bên hòm đồ đặt dưới chân giường. Cô quỳ xuống, mở nắp hòm, và bắt đầu dùng cả hai tay lôi quần áo ra, tất cả những bộ đồ bằng lụa, sa tanh, nhung, len rồi ném chúng xuống sàn nhà. Nó vẫn nằm dưới đáy hòm, nơi cô giấu nó. Arya nhẹ nhàng nâng nó lên và rút thanh kiếm mỏng ra khỏi vỏ.
Mũi Kim.
Cô lại nghĩ tới Mycah mà nước mắt lưng tròng. Lỗi của cô, lỗi của cô, lỗi của cô. Nếu cô không bảo cậu ta tập kiếm cùng mình...
Lại có tiếng gõ cửa thình thình, to hơn trước. “Arya Stark, mở cửa ngay, có nghe không?”
Ayra quay người lại, với Mũi Kim trong tay. “Tốt hơn hết sơ đừng có vào!” cô cảnh báo rồi điên cuồng chém vào không khí.
“Quân sư sẽ nghe thấy chuyện này!” Septa Mordane giận dữ.
“Con không quan tâm,” Arya hét. “Đi đi!”

“Ta thề tiểu thư sẽ phải hối hận vì hành động xấc láo của mình.”
Arya áp tai nghe ngóng cho tới khi tiếng chân của sơ rời đi.
Cô tới bên bậu cửa sổ với Mũi Kim trong tay, và nhìn xuống cái sân bên dưới. Cô ước giá mà cô có thể leo trèo như Bran; cô sẽ trèo ra ngoài cửa sổ và leo xuống tháp, trốn khỏi cái nơi kinh khủng này, chạy khỏi chị Sansa và Septa Mordane cũng như hoàng tử Joffrey, trốn khỏi tất cả. Cô sẽ ăn trộm ít thức ăn từ nhà bếp, cầm theo Mũi Kim, vớ lấy đôi giày tốt và một chiếc áo choàng ấm. Có thể cô sẽ tìm thấy Nymeria trong khu rừng hoang bên dòng Trident, và rồi họ sẽ cùng nhau trở về Winterfell, hoặc chạy tới chỗ anh Jon tại Tường Thành. Cô ước có Jon ở bên. Như vậy cô sẽ không quá cô đơn.
Có tiếng gõ cửa khe khẽ, Ayra quay người lại và bừng tỉnh khỏi giấc mơ đào tẩu. “Arya,” cha cô nói. “Mở cửa ra. Chúng ta cần nói chuyện.”
Arya đi tới cửa và nâng thanh chắn lên. Chỉ có mình cha thôi. Trông ông buồn nhiều hơn là giận và điều đó còn làm Arya thấy tệ hơn. “Cha vào được không?” Arya gật đầu, rồi xấu hổ cúi gằm xuống. Cha đóng cửa lại. “Kiếm của ai đây?”
“Của con.” Arya gần như quên mất mình đang cầm Mũi Kim trên tay.
“Đưa cho cha.”
Arya lưu luyến giao thanh kiếm, không biết mình có cơ hội được cầm nó nữa không. Cha cô giơ nó ra ánh sáng, kiểm tra hai lưỡi kiếm. Ông dùng đầu ngón cái thử độ sắc của mũi kiếm. “Thanh kiếm của kẻ cướp” ông nói. “Nhưng hình như cha biết dấu hiệu của thợ rèn. Đây là tác phẩm của chú Mikken
Ayra không thể nói dối ông. Cô cúi mặt.
Lãnh chúa Eddard Stark thở dài. “Cô con gái chín tuổi của cha đang mang theo mình thứ vũ khí từ chính xưởng rèn của cha, thế mà cha lại không hề hay biết. Ai cũng nghĩ quân sư sẽ cai trị Bảy Phụ Quốc, nhưng cha nào có quản nổi nhà mình đâu. Sao con có thanh kiếm này vậy, Arya? Con lấy nó ở đâu?”
Arya cắn môi không nói. Cô không thể phản bội Jon, cô không thể nói với cha được.
Sau một hồi, Cha nói, “Cha nghĩ chuyện này không có vấn đề gì đâu, thật đấy.” Ông nghiêm túc nhìn thanh kiếm trong tay. “Đây không phải là đồ chơi con nít, cho con gái lại càng không. Septa Mordane sẽ nói gì nếu bà ấy biết con đang chơi với kiếm?”
“Con không chơi,” Arya khăng khăng. “Con ghét Septa Mordane.”
“Đủ rồi.” Giọng ông thật cộc lốc và mệt mỏi. “Sơ không làm gì quá đáng, và thần thánh thừa biết con đã làm người phụ nữ tội nghiệp đó phải vất vả thế nào. Quả thực mẹ và cha đã giao cho bà ấy một nhiệm vụ bất khả thi là biến con thành một tiểu thư.”
“Con không muốn làm tiểu thư!” Arya giận dỗi.
“Cha sẽ phải bẻ gẫy món đồ chơi này ngay tại đây và ngay lập tức, rồi kết thúc cái chuyện vô nghĩa này.”
“Mũi Kim không thể bị bẻ gẫy,” Arya ngang bướng nói, nhưng âm điệu phản bội lời nói của cô.
“Đó là tên nó, phải không?” Cha cô thở dài. “Ôi Arya, cô bé bất trị. Ông nội gọi đó là ‘Dòng máu sói’. Một chút máu đó chảy trong huyết quản cô Lyanna, còn trong người bác Brandon thì không chỉ là một chút thôi đâu. Và rồi chính dòng máu đó đã sớm đem họ xuống mồ.” Ayra nghe thấy sự buồn bã trong giọng nói của ông; ông ít khi nhắc tới ông nội, cô và bác, những người đã mất trước khi cô chào đời. “Chắc hẳn cô Lyanna cũng mang kiếm bên mình nếu được ông nội con cho phép. Thi thoảng con làm cha nhớ tới cô ấy. Và con cũng giống cô ấy nữa.”
“Cô Lyanna rẩt xinh đẹp mà,” Arya giật mình. Mọi người đều nói vậy, nhưng chưa một ai khen Arya xinh đẹp cả.

“Đúng,” Cha Eddard Stark đồng tình, “xinh đẹp, bướng bỉnh và chết khi còn quá trẻ.” Ông giơ thanh kiếm giữa hai người. “Arya, con nghĩ mình sẽ làm gì với thanh kiếm... Mũi Kim này? Con muốn xiên ai? Chị gái con? Septa Mordane? Con đã biết điều đầu tiên về kiếm thuật chưa?”
Tất cả những gì cô nghĩ tới là bài học anh Jon dạy cô. “Đâm bằng đầu nhọn ạ,” cô buột miệng.
Cha cô khịt mũi cười. “Cha nghĩ đó là nguyên tắc cơ bản đấy.”
Arya cực lực muốn giải thích cho ông hiểu. “Con đang cố học, nhưng...” Mắt cô ầng ậng nước. “Con đã kêu Mycah luyện kiếm với con.” Nỗi buồn ngay lập tức ùa về trong cô. Cô run rẩy quay đi. “Con đã nhờ cậu ấy,” cô khóc. “Đó là lỗi của con, lỗi của con...”
Đột nhiên cánh tay cha ôm choàng lấy cô. Cha nhẹ nhàng ôm tới khi cô quay lại sụt sùi khóc trong lòng ông.
“Không đâu, con yêu,” cha thì thầm. “Con có thể buồn vì bạn, nhưng đừng bao giờ đổ lỗi ình. Con không giết chết cậu bé hàng thịt đó. Chính Chó Săn và người đàn bà hắn phục vụ mới là những kẻ giết người.”
“Con ghét họ,” Arya thổ lộ với ông, mặt vẫn đỏ lựng và đầm đìa nước mắt. “Chó Săn, hoàng hậu, nhà vua và hoàng tử Joffrfey. Con ghét tất cả bọn họ. Joffrey nói dối, chuyện xảy ra không giống lời hắn nói. Con ghét cả chị Sansa nữa. Chị ấy nhớ hết, nhưng chị nói dối để Joffrey thích chị.”
“Chúng ta đều nói dối,” cha cô nói. “Hay con thực sự nghĩ ta tin rằng Nymeria đã chạy trốn?”
Mặt Arya đỏ lựng vì biết lỗi. “Chú Jory đã hứa không nói rồi mà.”
Jory đã giữ lời. Nhưng có những điều chúng ta vẫn biết dù người khác không nói ra. Dù mù đi nữa, cha vẫn biết con sói đó không bao giờ tự nguyện rời xa con.”
“Chúng con phải ném đá vào nó” cô buồn rầu nói. “Con đã bảo nó chạy đi tìm tự do đi và rằng con không cần nó nữa. Ngoài kia còn những con sói khác chơi cùng với nó, bọn con đã nghe thấy chúng tru lên, và Jory nói trong rừng có đầy trò hay, đầy hươu nai cho nó săn. Nhưng nó cứ đi theo, và cuối cùng bọn con phải chọi đá. Con ném trúng nó hai lần. Nó kêu ăng ẳng rồi nhìn con khiến con thấy mình có lỗi, nhưng con làm đúng, đúng không cha? Hoàng hậu sẽ giết nó mất.”
“Con đã làm đúng,” cha nói. “Và nói dối... cũng đâu xá gì nếu chúng ta vẫn giữ được danh dự ình.” Cha đặt
Mũi Kim sang một bên và ôm Arya. Sau đó ông lại cầm thanh kiếm lên và đến đứng bên cửa sổ một lát, ánh mắt đăm chiêu nhìn qua sân. Khi ông quay lại, trong đôi mắt ông ngập tràn nỗi suy tư. Ông ngồi xuống bậu cửa sổ và đặt Mũi Kim ngang gối. “Arya, ngồi xuống. Cha cần giải thích với con một vài điều.”
Cô lo lắng nhảy lên giường. “Con còn quá nhỏ và con không cần thiết phải lắng nghe những lo nghĩ của cha,” ông nói, “nhưng con là thành viên nhà Stark thành Winterfell. Con biết câu khẩu ngôn của chúng ta rồi đó.”
“Mùa đông đang tới “ Arya thì thầm.
“Thời kỳ khắc nghiệt,” cha cô nói. “Cha đã nếm trải mùi vị của nó trên dòng Trident, và khi bác Bran mất. Con gái yêu quý của cha, con sinh ra trong một mùa hè dài ấm áp và con chưa biết đến bất cứ điều gì khác, nhưng giờ mùa đông đang thực sự tới. Giờ hãy nhớ tới gia huy của chúng ta, Arya.”
“Sói tuyết ạ,” cô nói và nghĩ tới Nymeria. Cô ngồi bó gối và đột nhiên thấy sợ.
“Cha sẽ nói cho con nghe vài điều về loài sói, Arya. Khi tuyết rơi và những con gió lạnh thối tới, những con sói cô độc sẽ chết, nhưng cả đàn sẽ sống sót. Vào mùa hè, chúng ta có thể cãi nhau. Nhưng khi mùa đông tới, chúng ta phải bảo vệ cho nhau, giữ ấm và chia sẻ sức mạnh cho nhau. Arya, nếu con cần phải ghét một ai đó, hãy ghét những kẻ thực sự làm tổn thương chúng ta. Septa Mordane là người tốt, và Sansa... Sansa là chị con. Các con có thể khác biệt như mặt trăng và mặt trời, nhưng các con có chung một dòng máu chảy qua tim. Con cần chị ấy, cũng như chị ấy cần con... và nhân danh các vị thần, cha cần cả hai con.”
Giọng nói mệt mỏi của ông làm Arya cũng thấy buồn. “Con không ghét chị Sansa,” cô nói. “Không thực sự ghét ạ.” Cô chỉ nói dối một chút thôi.
“Cha không muốn làm con sợ nhưng cũng sẽ không nói dối con. Chúng ta đang đi vào hang cọp, con ạ. Đây không phải Winterfell. Kẻ thù luôn rắp tâm làm hại chúng ta. Chúng ta không thể tự mình cắn xé nhau. Tính ngang bướng của con, rồi việc con bỏ đi mấy ngày trời tiếp đó những lời con nói ra khi nóng giận, còn cả việc không vâng lời... ở quê nhà, chúng chỉ là những trò con nít chơi trong mùa hè. Nhưng ở đây và bây giờ, khi mùa đông sắp tới, chúng lại là vấn đề khác. Giờ là lúc để con trưởng thành rồi.”
“Con sẽ trưởng thành hơn,” Arya thề. Cô chưa bao giờ thấy yêu cha nhiều như trong giây phút này. “Con sẽ mạnh mẽ hơn. Con sẽ mạnh như anh Robb vậy.”
Ông chìa Mũi Kim cho cô, chuôi kiếm hướng về phía cô. “Đây…”
Cô nhìn thanh kiếm mà lưỡng lự. Trong một giây phút, cô sợ chạm vào nó, sự rằng khi chạm tay tới, nó sẽ bị giằng đi, nhưng rồi cha nói với cô, “Nào, nó là của con.”

“Con có thể giữ nó ạ?” cô nói. “Thật chứ ạ?”
“Thật.” Ông mỉm cười. “Nếu cha lấy nó đi, chắc chắn chỉ trong vòng bốn tuần nữa, cha sẽ tìm thấy một ngôi sao mai giấu dưới gối của con. Đừng đâm chị con nhé, dù cãi vã thế nào.”
“Con sẽ không đâm đâu. Con thề.” Arya ôm chặt Mũi Kim vào ngực khi cha rời đi.
Sáng hôm sau, khi họ ăn sáng, cô xin lỗi Septa Mordane và mong sơ tha thứ. Sơ ngờ vực nheo mắt nhìn cô, nhưng cha gật đầu tán dương.
Ba ngày sau, vào buổi trưa, bác quản gia Vayon Poole đưa Arya xuống Tiểu Sảnh. Những cái bàn được rời đi nơi khác và những chiếc ghê băng được xếp gọn vào chân tường. Sảnh hoàn toàn vắng lặng, cho tới khi một giọng nói vang lên.
“Con đến muộn rồi đó, con trai.”
Một người đàn ông gầy gò đầu hói với cái mũi khoằm vĩ đại bước ra khỏi bóng tối và trên tay ông cầm hai thanh kiếm gỗ. “Ngày mai con phải ở đây vào giữa trưa.” m điệu của ông có chút gì đó du dương giống như âm giọng của người dân các Thành Phố Tự Trị, như kiểu của dân thành Braavos hoặc thành Myr gì đó.
“Bác là ai ạ?” Arya hỏi.
“Ta là thầy dạy nhảy.” Ông ném cho cô một thanh kiếm gỗ. Cô chộp hụt và tiếng kiếm gỗ rơi lách cách trên mặt sân. “Ngày mai con phải bắt được. Giờ nhặt lên nào.”
Đây không phải là một thanh gỗ mà là một thanh kiếm gỗ thực sự, có đủ chuôi, tay chặn, và đốc kiếm. Arya nhặt nó lên và lo lắng nắm chặt lấy thanh kiếm bằng cả hai tay rồi giơ ra trước mặt. Nó nặng hơn vẻ bề ngoài và nặng hơn Mũi Kim nhiều.
Người đàn ông hói đầu nghiến răng. “Sai rồi, con trai. Có phải đại đao đâu mà con cầm bằng cả hai tay. Con phải cầm thanh kiếm bằng một tay.”
“Nó nặng quá ạ,” Arya nói.
“Nó nặng để khiến con mạnh hơn, và để giữ thăng bằng tốt. Thanh kiếm này có lõi chì đó. Giờ cầm một tay là đủ rồi.”
Arya bỏ tay phải ra khỏi chuôi kiếm và lau bàn tay ướt đẫm mồ hôi vào quần. Cô cầm thanh kiếm bằng tay trái. Ông ta có vẻ hài lòng. “Tay trái là tốt. Tất cả những gì ngược chiều đều khiến kẻ thù của con lúng túng hơn. Con đứng sai tư thế rồi. Đặt một chân lên trước, đúng rồi. Con có biết mình gầy như một ngọn giáo không. Điều này cũng tốt vì mục tiêu sẽ nhỏ hơn. Giờ là cách cầm kiếm. Để ta xem nào.” Ông tới gần hơn và nheo mắt nhìn tay cô, tách những ngón tay cô ra và chỉnh lại. “Như thể, đúng rồi. Đừng nắm quá chặt, không, cầm kiếm cần có sự tinh tế và khéo léo.”
“Nhưng nếu con làm rơi thì sao?” Arya hỏi.
“Lưỡi kiếm phải trở thành một phần cánh tay con,” ông hói nói. “Con có làm rơi tay mình không? Không. Chín năm Syrio Forel là kiếm sỹ trưởng cho Hải Vương Braavos nên ông ta biết rõ những điều đó. Hãy nghe lời ông ấy đi con trai.”
Đây là lần thứ ba ông ta gọi cô là con trai rồi. “Con là con gái.” Arya phản kháng.
“Trai với chẳng gái,” thầy Syrio Forel nói. “Con là một tay kiếm, thế thôi.” Ông lại nghiến răng.
“Đúng rồi, cầm kiếm như vậy. Con không cầm một thanh rìu chiến, con đang cầm một...”
“... cây kim,” Arya hùng hổ nói nốt.
“Đúng. Giờ chúng ta bắt đầu nhảy nào. Nhớ này con, à không, chúng ta không học điệu nhảy sắt đá của Westeros, điệu nhảy của các hiệp sĩ cứ như đốn củi và đệm búa ấy. Đây là điệu nhảy của những tay cướp, điệu nhảy uyển chuyển và đột ngột như nước. Con có biết rằng con người đều được tạo ra từ nước không? Khi con chẻ họ ra, nước chảy ra và họ sẽ chết.” Ông lùi lại một bước và giơ thanh kiếm gỗ lên. “Giờ con thử đâm ta xem nào...”
Arya cố đâm ông ta. Cô thử liền trong bốn tiếng, tới khi các cơ bắp khắp người đau nhừ tử, còn thầy Syrio cứ nghiến răng kèn kẹt và bảo cô làm tiếp.
Ngày hôm sau, công việc thực sự của họ thật sự bắt đầu.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,359
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 28: Chương 23 phần 1




DAENERYS
 
“Biển Dothraki đây rồi,” Ser Jorah Mormont nói khi ghìm cương bên cạnh cô trên đỉnh đồi.
Phía dưới họ, cánh đồng cỏ trải dài mênh mông và hoang vẳng, cả khoảng trống kéo đến tận đường chân trời. Biển đây rồi, Dany nghĩ. Ở biển không có đồi núi, rừng cây, thành phố hay những con đường, mà chỉ có cánh đồng cỏ bao la bất tận với những ngọn cỏ dập dờn trong gió. “Mới xanh mướt làm sao,” cô nói.
“Chỉ vào thời điểm này trong năm thôi,” Ser jorah đồng tình. “Công nương nên nhìn thấy biển Dothraki vào thời kỳ ra hoa, lúc đó tất cả chìm trong màu hoa đỏ như biển máu vậy. Khi mùa khô tới, thế giới sẽ trở về màu đồng đất. Đây chỉ là cỏ rhanna thôi. Ngoài kia còn có trăm loại cỏ khác, cỏ vàng màu chanh hay sậm màu chàm, cỏ xanh dương, cỏ vàng cam và cỏ như cầu vồng. Người ta đồn rằng tại Vùng Đất Bóng Tối bên ngoài Asshai có những đại dương cỏ ma, cây cỏ cao hơn người trên lưng ngựa, với thân cỏ trắng như sữa. Chúng tiêu diệt tất cả các loại cỏ khác và lập lòe sáng trong bóng tối cùng những hồn ma vất vưởng. Người Dothraki tin rằng rồi sẽ có ngày cỏ ma bao phủ toàn thế gian, và rồi sự sống sẽ chấm dứt.”
Ý nghĩ đó khiến Dany lạnh người. “Giờ ta không muốn nói về chuyện đó,” cô nói. “Tại nơi đẹp như thế này, ta không muốn nghĩ tới những điều chết chóc.”
“Tuân lệnh, khaleesi,” Ser Jorah kính cẩn nói.
Cô nghe thấy tiếng người và ngoái đầu lại. Cô và Mormont đã tách xa đoàn người, và giờ những người khác đang phi ngựa tới. Cô hầu gái Irri và những cung thủ trẻ thuộc khas[14] của cô phi ngựa uyển chuyển như những nhân mã, nhưng Viserys đang vật lộn với bàn đạp ngựa ngắn ngủn trên tấm yên phẳng. Trông anh ấy thật thảm hại. Đáng ra anh ấy đừng đi cùng. Magister Illyrio hiếu khách đã cố nài anh ở lại Pentos, trong trang viên của mình, nhưng Viserys không nghe. Anh ấy muốn ở cùng Drogo tới khi món nợ được trả, tới khi anh có được vương miện như khal hứa. “Và nếu hắn định lừa ta, hắn sẽ biết thế nào là đánh thức rồng thiêng,” Viserys đặt tay lên thanh kiếm đi mượn mà thề. Illyrio chớp chớp mắt khi nghe lời nói đó và rồi chúc anh lên đường may mắn.
Dany nhận ra rằng lúc này đây cô không muốn nghe anh trai than phiền một lời nào. Ngày hôm nay quá hoàn hảo. Bầu trời cao xanh thăm thẳm, con chim cắt đang lượn vòng trên cao. Cánh đồng cỏ đu đưa, vi vu theo từng hơi thở của gió, không khí ấm áp và Dany thấy thật bình yên. Cô sẽ không để Viserys phá hoại nó.

“Đợi ở đây,” Dany nói với Ser Jorah. “Nói tất cả đứng lại. Nói với họ là ta ra lệnh.”
Hiệp sĩ mỉm cười. Ser Jorah không đẹp trai. Ông có cái cổ và vai to bè như một con bò, lông đen sì rậm rạp che kín cánh tay cùng bộ ngực tới nỗi chẳng còn chút nào dành cho đầu ông. Nhưng nụ cười của ông vẫn khiến Dany thấy ấm áp. “Người đang học được cách nói năng giống một hoàng hậu rồi đấy, Daenerys.”
“Không phải hoàng hậu,” Dany nói. “mà là khaleesi.” Cô kéo cương ngựa và một mình phi nước đại xuống dốc.
Đường đi dốc đứng và đầy sỏi đá, nhưng Dany không sợ, trong tim cô đang vang lên khúc ca của niềm vui và phiêu lưu. Cả cuộc đời Viserys đã nói với cô rằng cô là một công chúa, nhưng phải tới khi được cưỡi chú ngựa bạc này Daenerys Targaryen mới có cảm giác mình thực sự là một công chúa.
Lúc đầu nó tới không hề dễ dàng. Khalasar đã nhổ trại ngay hôm sau lễ cưới, đi theo hướng đông về Dothrak Vaes, và tới ngày thứ ba, Dany tưởng mình sắp chết. Yên ngựa làm trầy mông, gây ra những vết thương hở rỉ máu. Đùi cô bị trầy da còn tay rộp lên vì cầm cương ngựa, bắp chân và lưng đau nhức đến không ngồi nổi. Khi hoàng hôn buông xuống, những nữ tì phải giúp cô xuống ngựa.
Kể cả khi trời tối cũng không đem tới sự thanh thản cho cô. Khi cưỡi ngựa, Khai Drogo hoàn toàn quên mất cô, lờ tịt cô đi trong suốt lễ cưới, chỉ dành hết tối này tới tối khác ngồi uống rượu cùng các chiến binh và các kỵ sĩ tâm phúc, đua ngựa, quan sát phụ nữ nhảy múa và đàn
Ông chết. Dany không có chỗ trong những phần đó. Cô lủi thủi ăn một mình, hoặc cùng Ser jorah và anh trai, rồi sau đó khóc tới lịm đi. Nhưng mỗi đêm, Drogo lại tới lều của cô, đánh thức cô dậy trong bóng tối, tàn nhẫn cưỡi lên người cô như thể cưỡi ngựa. Chàng luôn luôn làm tình từ đằng sau theo kiểu Dothraki, và Dany mừng vì điều đó; như vậy vị phu quân của cô sẽ không thấy nước mắt đang tắm đẫm khuôn mặt cô và cô có thể dùng gối để chặn tiếng kêu khóc vì đau đớn. Khi chàng đã thỏa mãn, chàng sẽ nhắm mắt và ngáy khe khẽ còn Dany sẽ nằm bên cạnh trong tình trạng đau đớn không ngủ nổi.
Ngày nối ngày, đêm nối tiếp đêm như thế, cho đến khi Dany biết cô không thế chịu đựng thêm một giây phút nào nữa. Trong một đêm cô đã nghĩ mình thà chết đi còn hơn tiếp tục sống như thế này.

Nhưng trong giấc mơ đêm đó, một lần nữa cô lại gặp rồng thiêng. Lần này Viserys không xuất hiện trong giấc mơ. Chỉ có cô và con rồng. Lớp vảy của nó đen lật như màn đêm, ướt át và nhày nhụa máu. Dany biết đó là máu của cô. Đôi mắt nó là hai hố nham thạch nóng chảy, và khi nó mở miệng, ngọn lửa nóng rực bùng ra. Cô nghe được tiếng nó hát. Cô mở rộng cánh tay, ôm lấy ngọn lửa, để nó nuốt trọn lấy mình, để nó thanh tẩy cô, tôi luyện và cọ rửa thân thể cô. Cô có thể cảm nhận da mình nhăn lại, cháy xém và bị bóc đi, có thể cảm thấy máu đang sôi tới bốc hơi, nhưng cô không còn thấy đau nữa. Cô thấy mạnh mẽ, tươi mới và dũng mãnh.
Và kỳ lạ làm sao vào ngày hôm sau, cô không còn quá đau đớn nữa. Dường như thần thánh đã nghe thấy lời nguyện cầu của cô và mang tất cả buồn đau tan biến. Kể cả những nữ tì cũng nhận thấy sự thay đổi. “Khaleesi,” Jhiqui nói, “Người có chuyện gì vậy? Người ốm sao?”
“Đúng,” cô đứng trước những quả trứng rồng mà Illyrio đã tặng cô trong ngày cưới và trả lời. Cô chạm tay và lướt nhẹ lớp vỏ quả trứng lớn nhất. Đen và đỏ sậm, cô nghĩ, giống như con rồng trong giấc mơ của cô. Viên đá ấm áp tới lạ kỳ ở nơi ngón tay cô chạm vào... hay cô vẫn đang mơ nhỉ? Cô lo lắng rút tay lại.
Từ thời khắc đó trở đi, mỗi ngày cô thấy mọi việc càng dễ dàng hơn. Chân cô cứng cáp dần; những mụn nước đã vỡ và tay cô dần chai lại; bắp đùi mềm mại của cô rắn chắc hơn và dẻo dai như da thuộc.
Khail đã ra lệnh cho nữ tì Irri dạy Dany cưỡi ngựa theo cách của người Dothraki, nhưng chính con ngựa mới là người thầy thực sự. Con ngựa dường như thấu hiểu tâm tư cô, như thể nó và cô có chung một khối óc vậy. Ngày qua ngày, càng lúc cô ngồi càng vững vàng hơn. Dân Dothraki khá cục cằn và vô cảm, họ không có thói quen đặt tên cho vật nuôi của mình, vì thế Dany nghĩ chỉ gọi con ngựa của mình là con bạc là được. Cô chưa bao giờ yêu quý thứ gì như yêu quý con ngựa này.
Khi cưỡi ngựa dễ dàng hơn, Dany bắt đầu để mắt tới phong cảnh xung quanh. Cô dẫn đầu Khalasar cùng Drogo và những kị sĩ tâm phúc, vì thế cô được nhìn ngắm những vùng đất còn tươi mới chưa bị xâm hại. Phía sau, có lẽ đoàn người tàn phá hết mặt đất, khuấy đục nước sông, khiển bụi đất mịt mù. Nhưng phong cảnh trước mắt họ luôn tươi mới và tràn đầy sức sống.
Họ đi qua biết bao ngọn đồi vùng Norvos, những ruộng bậc thang và những ngôi làng nhỏ nơi những người dân nơm nớp lo sợ nhìn đoàn người đi qua từ sau những bức tường vôi trắng. Ba con sông đầu tiên họ đi qua chảy rất êm đềm hiền hòa, nhưng dòng sông thứ tư thì gấp khúc, hẹp và đầy nguy hiểm. Sau đó họ cắm trại bên cạnh một thác nước xanh cao vút, rồi tiếp tục men theo đống đố nát của một thành phố chết nơi có tin đồn rằng các hồn ma vẫn ngày đêm than khóc bên những cột đá hoa cương đen. Họ phi qua những con đường thẳng tắp như một mũi tên do người Valyria xây dựng từ một ngàn năm trước. Trong nửa tuần trăng, họ đã đi qua rừng Qohor, nơi lá cây đan lại thành một mái vòm thiên nhiên vàng ruộm và những thân cây phải to bằng cả cánh cổng thành. Trong rừng có nai sừng tấm, hổ đốm, vượn cáo lông bạc mang đôi mắt tim to tròn, nhưng tất cả đều chuồn biến khi Khalasar tới và Dany không kịp nhìn thấy một con nào.
Tới lúc đó, những vết thương chỉ còn là những ký ức đang nhạt dần. Cô vẫn đau nhức sau một ngày dài cưỡi ngựa, nhưng giờ theo một cách nào đó cơn đau lại thật tuyệt, và mỗi sáng thức dậy cô đều thấy vui sướng được lên lưng ngựa, hứng khởi được biết điều kỳ thú gì đang chờ đợi cô trên chặng đường phía trước. Khi đêm tới, cô bắt đầu tìm được niềm vui ình, và nếu cô vẫn kêu lên khi Drogo làm tình với cô thì cũng không hoàn toàn vì đau nữa.

Dưới chân đồi, đồng cỏ cao và mềm mại ôm ấp lấy cô. Dany cho ngựa chầm chậm bước vào đồng cỏ, khuất hẳn trong màu xanh ngút ngàn và cảm nhận lấy niềm hạnh phúc khi chỉ có một mình. Ở Khalasar, cô không bao giờ được một mình. Khai Drogo chỉ tới với cô sau khi trời lặn, nhưng các nữ tì luôn mang đồ ăn cho cô, tắm rửa cho cô và ngủ ở ngoài cửa lều. Những kỵ sĩ tâm phúc của Drogo cùng những người trong khas của cô không bao giờ ở xa, anh Viserys luôn là cái bóng lởn vởn bên cô bất kể ngày đêm, dù cho cô không muốn. Lúc này Dany có nghe thấy anh đang rít lên trên đỉnh đồi vì giận dữ với Ser Jorah. Cô cưỡi ngựa đi tiếp, chìm sâu hơn vào đại dương xanh Dothraki.
Màu xanh nuốt chửng lấy cô. Không khí ngập tràn hương cỏ cây và đất đai, trộn lẫn với mùi ngựa, mùi mồ hôi của Dany cùng dầu trên tóc. Mùi của người Dothraki. Họ có vẻ thuộc về nơi đây. Dany hít lấy tất cả và cười lớn. Cô đột nhiên muốn được cảm nhận mặt đất xung quanh mình, muốn được nhấn những ngón chân sâu trong lớp đất đen dày kia. Cô nhảy xuống ngựa, cho con bạc ăn cỏ trong khi cởi đôi giày cao cổ ra. Viserys đột ngột xuất hiện trước mặt cô như một cơn bão hè, con ngựa nhảy dựng lên vì anh giật cương quá mạnh.
“Sao em dám?” anh hét lên. “Sao em dám ra lệnh cho anh? Cho anh trai em ư?” anh nhảy xuống khỏi ngựa và hơi loạng choạng khi chạm đất. Mặt anh đỏ rực khi cố đứng dậy. Anh nắm lấy cô và lay mạnh. “Em đã quên mất mình là ai rồi sao? Hãy nhìn em đi. Hãy nhìn lại mình đi!”
Dany không cần phải nhìn. Cô để chân trân, tóc dính bết dầu, mặc đồ da cưỡi ngựa Dothraki và chiếc áo gi lê son màu vốn là món quà cưới cô được tặng. Cô dường như thuộc về nơi đây. Viserys trông bê bết và bẩn thỉu trong bộ đồ lụa của thành phố và áo giáp xích.
Anh vẫn đang hò hét. “Em không được ra lệnh cho rồng. Em hiểu không? Anh là Đại Vương của Bảy Phụ Quốc, anh không nghe lệnh từ một con điếm của kỵ vương, em nghe rõ chưa?” Anh cho tay vào trong áo cô, những ngón tay cắm vào ngực cô đau đớn. “Nghe rõ chưa?”
Dany đẩy mạnh anh ra.
Viserys nhìn cô chằm chằm và trong đôi mắt màu hoa đinh tử hương kia ngập tràn sự ngờ vực. Cô chưa bao giờ trái lời anh. Chưa bao giờ chống trả. Cơn giận dữ hiển hiện trên từng nét mặt anh ấy. Cô biết, giờ anh có thể làm tổn thương cô rất kinh khủng.
Vút.
Tiếng roi rít lên như một tiếng sấm. Sợi dây cuốn quanh cổ họng Viserys và lôi ngược anh lại. Anh nằm vật trên cỏ, choáng váng và nghẹt thở. Những ky sĩ Dothraki cười vào mặt anh trong khi anh vùng vẫy cố thoát. Người cầm roi tên Jhogo, hỏi. Dany không hiểu, nhưng sau đó Irri đã xuất hiện cùng Ser Jorah và những người khác trong khas. “Jhogo hỏi người có muốn hắn chết không, thưa Khaleesi.” Irri nói.
“Không,” Dany trả lời. “Không.”

Jhogo hiểu. Một người khác quát tháo gì đó, và người Dothraki cười. Irri nói với cô, “Quaro nghĩ người nên cắt tai hắn để cho hắn biết thế nào là lễ độ.”
Anh trai cô đang quỳ gối, những ngón tay cố kéo sợi dây da, hét từng tiếng ngắt quãng và cố hít thở. Sợi dây cuốn chặt quanh thanh quản anh.
“Nói với họ rằng ta không muốn anh ấy bị tổn hại,” Dany nói.
Irri nhắc lại lời cô bằng tiếng Dothraki. Jhogo giật sợi dây, lôi Viserys vòng vòng như một con rối. Sợi dây thu về nhưng kịp để lại một đường hằn đỏ máu trên cổ anh, còn anh ấy thì ngã bật ngửa ra đất.
“Tôi đã cảnh báo bệ hạ trước rồi, thưa công nương,” Ser Jorah Mormont nói. “Tôi đã nói ngài nên ở lại trên mô đất, theo như lệnh của người.”
“Ta biết,” Dany đáp và quan sát Viserys. Anh đang nằm trên đất, thở hổn hển, mặt đỏ lựng và sụt sùi. Trông anh thật đáng thương. Anh ấy luôn đáng thương. Sao cô lại chưa từng nhìn ra nhỉ? Giờ tại nơi từng cư ngụ nỗi sợ hãi đối với anh ấy chỉ là một lỗ hổng.
“Giữ ngựa của anh ấy lại,” Dany ra lệnh cho Ser Jorah. Viserys tóm lấy cô. Anh không thế tin nổi lời của cô; hay Dany cũng chẳng dám tin vào điều cô vừa nói. Nhưng lời cũng đã nói ra. “Để anh trai ta đi bộ về Khalasar.” Trong xã hội Dothraki, những người không cưỡi ngựa không được coi là người nữa, cũng chẳng còn danh dự hay tự trọng. “Để mọi người thấy rõ anh ấy là cái gì.”
“Không!” Viserys hét lên. Anh quay sang Ser Jorah, dùng tiếng phổ thông - thứ ngôn ngữ mà những kỵ binh kia không hiểu - cầu xin Ser Mormont. “Đánh nó đi, Mormont.
Làm đau nó đi. Vị vua của ngươi ra lệnh đấy. Giết chết những con chó Dothraki kia và dạy cho nó một bài học đi.”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,359
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 29: Chương 23 phần 2




Người hiệp sĩ lưu vong hết nhìn Dany lại nhìn Viserys; cô đang đi chân trần với đất bùn dính đầy ngón chân và tóc bết dầu, còn anh mặc đồ lụa và giáp thép. Dany thấy sự phân vân trên gương mặt ông. “Ngài ấy có thể đi bộ, thưa Khaleesi,” ông nói, tay giữ lấy con ngựa của anh trong khi Dany lên lưng con bạc.
Viserys chăm chú nhìn ông rồi ngồi bệt xuống. Anh im lặng không nhúc nhích nhưng ánh mắt nhìn họ rời đi tràn đầy căm hận. Sau đó anh nhanh chóng biến mất trong cánh đồng cỏ cao vút. Khi không còn thấy anh đâu nữa Dany lại thấy sợ hơn. “Liệu anh ấy có tìm được đường về không?” cô hỏi Ser Jorah.
“Kể cả một kẻ mù đường như anh trai của người cũng có thể lần theo dấu vết chúng ta để lại,” ông đáp “Anh ấy rất có lòng tự trọng. Có thể anh ấy vì quá xấu hổ mà không trở về với chúng ta nữa.”
Jorah cười lớn. “Ngài ấy còn đi được đâu? Nếu ngài không tìm được Khalasar, Khalasar sẽ tìm được ngài. Khó chết đuối tại biển Dothraki lắm, cô bé ạ.”
Dany biết ông nói thật. Khaiasar giống một thành phố du mục, nhưng không phải di cư vô định. Luôn có quân trinh sát thăm dò phía trước đoàn, báo nguy khi thấy có kẻ thù, con mồi hay bất cứ điều kỳ lạ gì đó, trong khi những kỵ binh mở đường thường canh chừng hai bên sườn. Họ không bỏ lỡ bất cứ điều gì, nhất là ở đây, trên mảnh đất này, trên quê hương của họ. Những đồng bằng này là một phần của họ... và giờ là một phần của cô.
“Ta đã đánh anh ấy,” giọng cô bâng khuâng. Giờ khi chuyện đã qua, cảm giác như cô vừa mơ một giấc chiêm bao kỳ lạ. “ Ser Jorah, ông có nghĩ... anh ấy sẽ vô cùng tức giận khi trơ về không?” Cô rùng mình. “Ta đã đánh thức rồng thiêng, đúng không?”
Ser Jorah khịt mũi. “Người có thể đánh thức người chết không, cô gái? Ngài Rhaegar là con rồng cuối cùng, và ngài đã hy sinh trên dòng Trident. Viserys chưa bằng cái bóng của một con rắn.”
Cô giật mình vì lời nói thẳng thừng đó. Cô đột nhiên thấy mọi thứ lâu nay mình tin tưởng trở nên mông lung. “Ngài... ngài đã thề trung thành với anh ấy...”
“Đúng rồi, cô bé,” Ser Jorah nói. “Và nếu anh trai người chỉ là cái bóng của một con rắn, làm sao hắn xứng đáng có kẻ hầu hạ?” Giọng ông có chút cay nghiệt.
“Anh Vierys vẫn là vị vua hợp pháp. Anh ấy là…”

Jorah dừng ngựa và nhìn cô. “Giờ nói thực đi. Người có muốn thấy Viserys ngồi trên ngai vàng không?”
Dany suy nghĩ. “Anh ấy sẽ không thể trở thành một vị minh quân, đúng không?”
“Có những điều còn tệ hơn thế... nhưng không nhiều.” Hiệp sĩ thúc ngựa đi tiếp.
Dany đi cạnh ông. “Nhưng,” cô nói, “người dân đang chờ đợi anh ấy. Magister Illyrio nói họ đang thiếu những lá cờ rồng và cầu mong ngày Viserys vượt eo biển trở về giải phóng cho họ.”
“Những người dân thường cầu mưa thuận gió hòa, cầu cho con cái khỏe mạnh, và mùa hè không bao giờ kết thúc,” Ser Jorah nói. “Chuyện các lãnh chúa cao quý đấu đá nhau giành ngai báu thế nào chẳng liên quan tới họ, miễn là họ được sống bình yên.” Ông nhún vai. “Nhưng họ chưa bao giờ được bình yên cả.”
Dany im lặng cưỡi ngựa đi bên cạnh, cố chắp ghép những lời nói của ông với nhau như ghép những mảnh xếp hình. Nó khác xa với những điều Viserys đã nói; vậy là người dân hầu như chẳng quan tâm tới ai là vị vua chân chính, ai là phản vương đang trị vì họ. Nhưng càng nghĩ nhiều về lời nói của Jorah, cô càng thấy chúng hoàn toàn đúng.
“Vậy ngài cầu nguyện điều gì, hả Ser Jorah?” cô hỏi.
“Được về nhà,” ông nói. Trong giọng nói ngập tràn nỗi nhớ mong.
“Tôi cũng cầu được về nhà,” cô nói và tin tưởng vào điều đó.
Ser Jorah cười. “Vậy hãy nhìn quanh mình đi, khaleesi.”

Lúc này cô không còn nhìn thấy đồng cỏ nữa. Thay vào đó, cô thấy Vương Đô cùng Tháp Đỏ đồ sộ do Aegon Đại Đế đã xây nên. Cô nhìn thấy Dragonstone nơi cô được sinh ra. Dưới con mắt của trí tưởng tượng, cả Vương Đô lẫn Dragonstone đều bừng sáng dưới muôn ngàn tia nắng, với những ánh nến hắt ra từ các khung cửa sổ. Dưới con mắt của trí tưởng tượng, tất cả các cánh cửa đều đỏ rực.
“Anh ấy sẽ không bao giờ chiếm lại được Bảy Phụ Quốc,” Dany đã biết điều đó lâu rồi. Chỉ là cô không dám nói ra dù chỉ là thì thầm, nhưng giờ cô đã nói cho Jorah Mormont và cả thế giới này nghe.
Ser Jorah đắn đo nhìn cô. “Người nghĩ là không.”
“Anh ấy không thể dẫn dắt một đội quân kể cả khi khal của ta giao binh lực cho anh ấy,” Dany nói. “Anh ấy không có tiền và chỉ có một hiệp sĩ theo sau chửi rủa anh chẳng bằng một con rắn. Người Dothraki khinh bỉ sự yếu ớt của anh ấy. Anh Viserys sẽ không bao giờ đưa chúng ta về nhà được.”
“Cô bé thông minh đấy.” Hiệp sĩ mỉm cười.
“Ta không phải một cô bé.” Cô mạnh mẽ đáp rồi thúc con bạc phi nước đại. Cô phi càng lúc càng nhanh, bỏ xa Jorah, Irri cùng những người khác, chạy cùng con gió ấm áp vờn trên tóc và ánh chiều tà nhuộm đỏ khuôn mặt. Tới lúc cô đến Khalasar, trời đã ngả bóng hoàng hôn.
Nô lệ dựng lều cho cô cạnh một hồ nước. Cô có thể nghe những giọng nói thô thiển vọng lại từ lâu đài cỏ trên đồi. Sau đó là những tiếng cười, khi những người trong khas kể chuyện gì đã xảy ra ở đồng cỏ ngày hôm nay. Lúc Viserys thất thểu trở về, mọi người đàn ông, đàn bà, trẻ con trong trại đều biết anh là một kẻ đi bộ. Không có chỗ cho những bí mật ở Khalasar.
Dany giao con bạc cho những nô lệ rồi vào lều. Bên dưới lớp vải lụa, căn lều thật mát mẻ và hơi tối. Khi Dany khép cửa lều lại, có tia nắng đỏ rực mang theo những hạt bụi li ti trong không khí vươn tới chạm vào những quả trứng của cô. Trong một khoảnh khắc, cả ngàn chiếc vảy đỏ như lửa nhảy múa trước mắt cô. Cô chớp mắt, và chúng biến mất.
Chỉ là đá thôi, cô tự nhủ. Chúng chỉ là những viên đá, kể cả Illyrio cũng nói vậy, và loài rồng đã tuyệt chủng. Cô áp tay mình lên quả trứng đen và nhè nhẹ xoa vòng quanh quả trứng. Viên đá thật ấm áp. “Do mặt trời thôi,” cô thì thầm. “Mặt trời đã sưởi ấm cho chúng trong cuộc hành trình.”

Cô ra lệnh cho các nữ tì chuẩn bị nước tắm. Doreah đốt lửa bên ngoài lều, trong khi Irri và Jhiqui đi lấy chiếc nồi đồng lớn - lại một món quà khác - từ chỗ những con ngựa thồ tới và đi múc nước trong hồ. Khi nước tắm bốc hơi nghi ngút, Irri giúp cô bước vào và trèo vào sau cô.
“Mọi người đã thấy rồng bao giờ chưa?” cô hỏi khi Irri chà lưng và Jhiqui gội sạch cát bụi vương trên tóc cô. Cô từng nghe nói những con rồng đầu tiên tới từ phương đông, từ Vùng Đất Bóng Tối bên ngoài Asshai và những hòn đảo thuộc Biển Ngọc Bích. Có lẽ vẫn còn vài con sống tại đó, trong những vương quốc kỳ lạ và hoang sơ.
“Những con rồng đã biến mất, thưa Khaleesi,” Irri nói.
“Đã diệt vong,” Jhiqui đồng ý.”Từ rất lâu rồi.”
Visrys đã nói với cô rằng những con rồng Targaryen cuối cùng đã chết cách đây một trăm năm mươi năm, trong thời đại trị vì của Aegon Đệ Tam, người được gọi là Thuốc Độc của Loài Rồng. Nhưng chuyện đó đối với Dany dương như cách đây không lâu.
“Ở mọi nơi ư?” cô thất vọng hỏi. “Kể cả ở phương đông?” Phép thuật đã chết ngóm ở phương tây khi đến với xứ sở Valyria và mảnh đất của những mùa hè kéo dài sụp đổ, kể cả những lưỡi thép được yểm bùa, các tài tử bão táp và những con rồng cũng không thể khiến phép thuật quay trở lại, nhưng Dany luôn được nghe kể rằng ở phương đông mọi chuyện lại khác. Người ta bảo những nhà tiên tri vẫn lang thang trên những vùng đất thuộc Biển Ngọc Bích, rằng những con basiliski[15] càn quấy khắp những khu rừng vùng Yi Ti, và rằng những thầy phù thủy, những kẻ chiêu hồn, thầy bùa vẫn công khai thi triển pháp thuật tại Asshai, còn các màn huyết chú hay ma thuật vẫn được ngấm ngầm thực hiện. Vậy thì sao ở đó không thể có rồng chứ?
“Không có,” Irri nói. “Các vị anh hùng giết chết chúng, vì rồng là loài quái vật độc ác kinh khủng. Ai chẳng biết thế.”
“Ai chẳng biết thế,” Jhiqui đồng tình
“Thương gia từ Qarth từng có lần nói với tôi rằng rồng tới từ mặt trăng,” Doreah tóc vàng nói khi hong ấm chiếc khăn bên bếp lửa. Jhiqui và Irri cùng tuổi với Dany, là người Dothraki bị bắt làm nô lệ khi Drogo hủy diệt Khalasar của cha họ. Doreah lớn hơn, khoảng hai mươi tuổi. Magister Illyrio đã tìm thấy cô trong nhà thổ tại Lys.
Mái tóc bạch kim sũng nước xòa trước mắt Dany khi cô quay đầu, tò mò hỏi. “Mặt trăng ư?”
“Ông ấy nói với tôi rằng mặt trăng chính là một quả trứng, thưa khaleesi,” cô gái vùng Lys nói. “Ngày xưa trên trời từng có hai mặt trăng, nhưng một đã tới quá gần mặt trời và vỡ tung vì nóng. Hàng ngàn hàng ngàn con rồng đã tràn ra, và uống cạn lửa mặt trời. Đó là lý do vì sao rồng thở ra lửa. Rồi sẽ tới một ngày mặt trăng kia sẽ hôn mặt trời, rồi vỡ ra và những con rồng sẽ trở lại.”

Hai cô gái Dothraki khúc khích cười. “Chị đúng là một nữ tì ngốc,” Irri nói. “Mặt trăng không phải trứng. Mặt trăng là một nữ thần, là vợ của thần mặt trời. Mọi người đều biết thế.”
“Mọi người đều biết vậy,” Jhiqui đồng tình.
Da Dany chớm đỏ và hồng lên khi cô trèo khỏi bồn tắm. Jhiqui đặt cô nằm xuống để xoa dầu lên cơ thể cô và cạo sạch đất bít lỗ chân lông. Sau đó Irri rắc lên người cô phấn hoa thơm lừng và quế. Trong khi Doreah chải tóc cho cô cho tới khi chúng sáng lên tựa những sợi bạc, cô nghĩ về mặt trăng, về những quả trứng, và về những con rồng.
Bữa ăn đêm của cô chỉ đơn giản với ít hoa quả, pho mát và bánh mỳ khô, và một bình rượu mật ong để nuốt trôi đồ ăn xuống. “Doreah, ở lại ăn cùng ta,” Dany ra lệnh trong khi bảo những nữ tì khác rời đi. Cô gái thành Lys có mái tóc màu mật ong, và đôi mắt như bầu trời mùa hạ.
Cô cúi mắt xuống khi họ còn một mình. “Người đã mang lại vinh hạnh cho tôi, Khaleesi, “cô nói, nhưng thực ra đó không phải danh dự, mà chỉ là phục vụ thôi. Rất lâu sau khi mặt trăng mọc, họ ngồi bên nhau, nói chuyện.
Đêm đó, khi Khal Drogo tới, Dany đang đợi chàng. Chàng đứng trước cửa lều, nhìn cô với vẻ ngạc nhiên. Cô từ từ đứng dậy rồi cởi váy lụa thả xuống đất. “Đêm nay chúng ta phải ra ngoài, tình yêu của em,” cô nói, vì người Dothraki tin rằng những thứ quan trọng trong đời một người đàn ông phải được thực hiện dưới bầu trời khoáng đạt.
Khal Drogo theo cô bước ra ngoài ánh trăng, những chiếc chuông trên tóc rung khe khẽ. Cách lều của cô vài bước có một tấm thảm cỏ mềm mại, và Dany ấn chàng ngồi xuống đó. Khi chàng định quay người cô lại, cô đặt tay lên ngực chàng. “Không,” cô nói. “Đêm nay thiếp muốn nhìn thấy mặt chàng.”
Ở khalasar không có chỗ cho những chuyện riêng tư. Dany cảm thấy những ánh mắt đang nhìn mình khi cô cởi quần áo chàng, nghe thấy những giọng thì thào khe khẽ khi cô làm theo những gì Doreah đã nói với cô. Nhưng những điều đó chẳng là gì. Cô không phải khaleesi sao? Ánh mắt của chàng mới là điều quan trọng nhất, và khi cô cưỡi lên chàng, cô thấy điều mà cô chưa bao giờ thấy. Cô cưỡi lên chàng một cách cuồng nhiệt như khi cưỡi con bạc, và khi giây phút thăng hoa tới, Khal Drogo đã gọi tên cô.
Khi tới bên kia biển Dothraki thì Jhiqui nhẹ nhàng xoa bụng Dany và nói, “Khaleesi, người có em bé rồi.”
“Ta biết,” Dany nói.
Hôm đó là ngày sinh nhật thứ mười bốn của cô.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,359
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 30: Chương 24 phần 1




BRAN
 
Bên dưới sân, Rickon đang nô đùa cũng lũ sói.
Bran nhìn em mình qua ô cửa sổ. Khi cậu nhóc tới đâu, Gió Xám sẽ là con sói đầu tiên tới đó, rồi nó vượt lên trước chặn đường, sủa inh ỏi mừng rỡ và chạy hết tốc lực sang hướng khác. Lông Xù bám sát gót em, quay ngoắt lại táp nếu những con sói khác tới quá gần. Lông của nó dần chuyển sang màu đen tuyền còn đôi mắt nó mang màu lửa xanh lam. Con Mùa Hè theo chót với bộ lông khói bằng bạc và đôi mắt màu vàng kim luôn bao quát tất cả. Nó nhỏ hơn và cẩn trọng hơn Gió Xám. Bran nghĩ nó là con khôn nhất đàn. Cậu nghe tiếng cười đến hụt hơi của Rickon khi em loạng quạng chạy trên nền đất cứng bằng đôi chân non nớt. Mắt cậu cay xè. Cậu muốn được ở dưới đó, muốn được cười đùa và chạy nhảy. Giận dữ, Bran lau nước mắt không cho chúng lăn xuống. Sinh nhật thứ tám của cậu cứ thế đến và đi. Giờ cậu đã gần là một người trưởng thành, và vì đã lớn cậu không được quyền khóc nữa.
“Toàn là lời dối trá,” cậu cay đắng nói khi nhớ tới con quạ trong giấc mơ. “Mình không thể bay. Thậm chí chạy còn không thể nữa là.”
“Lũ quạ toàn nói dối thôi “ Già Nan đồng tình, nói từ chiếc ghế nơi bà ngồi đó thêu thùa. “Ta biết một câu chuyện về quạ.”
“Cháu không thích nghe chuyện đâu,” Bran ngắt lời, giọng nói đầy hờn dỗi. Cậu từng rất thích Già Nan cùng những câu chuyện của bà. Ngày xưa thôi. Nhưng giờ đã khác rồi. Họ bỏ mặc cậu cùng bà cả ngày, để bà trông nom cậu, lau rửa cho cậu và để cậu không cô độc, nhưng bà còn làm mọi chuyện tệ hơn. “Cháu ghét những câu chuyện ngu ngốc của bà.”
Bà lão móm mém cười với cậu. “Những câu chuyện của bà? Không, công tử ạ, không phải những câu chuyện của bà. Những câu chuyện đó có trước bà, sau bà và trước cả cháu nữa.”
Đúng là bà lão già nua xấu xí, Bran hằn học nghĩ; bà nhỏ thó và nhăn nheo, gần như đui mù, yếu đến mức không leo nổi cầu thang và chỉ còn vài sợi tóc bạc lưa thưa trên lớp da đầu hồng hồng lốm đốm đồi mồi. Chẳng ai biết bà bao nhiêu tuổi, nhưng cha nói mọi người gọi bà là Già Nan kể từ khi ông còn bé. Bà chắc chắn là người già nhất thành Winterfell, có lẽ là người nhiều tuổi nhất trong Bảy Phụ Quốc. Già Nan đã tới lầu đài làm vú nuôi cho ông Brandon Stark vì cha mẹ của ông đã chết khi lâm bồn. Ông là anh trai cũng có thể là em trai Lãnh chúa Rickard, ông nội của Bran, hoặc là anh em gì đó của cha Lãnh chúa Rickard. Mỗi lần Già Nan kể một khác. Nhưng dù trong câu chuyện nào, Già Nan đều nói ông đã chết khi mới lên ba trong tiết giá buốt của mùa hè phương bắc, chỉ còn Già Nan ở lại Winterfell cùng con cái. Bà đã mất cả hai người con trong trận chiến giành ngai báu của vua Robert, và cháu trai bà đã bị giết chết trên tường thành Pyke trong cuộc nổi loạn của Balon Greyjoy. Những người con gái bà đã lấy chồng từ rất lâu rồi rời khỏi thành và đã yên nghỉ cả. Giờ người duy nhất có quan hệ họ hàng với bà là anh Hodor, chàng khổng lồ thiểu năng làm việc trong chuồng ngựa, nhưng Già Nan vẫn tiếp tục sống, tiếp tục thêu thùa và tiếp tục kể chuyện.

“Cháu không quan tâm những câu chuyện đó của ai,” Bran nói, “cháu ghét chúng.” Cậu không muốn nghe chuyện và cậu không muốn gặp Già Nan. Cậu muốn cha mẹ mình. Cậu muốn chạy nhảy cùng Mùa Hè. Cậu muốn được leo lên ngọn tháp sụp và cho đàn quạ ăn ngô. Cậu muốn một lần nữa cưỡi trên con ngựa nhỏ sánh vai anh em mình. Cậu muốn có lại cuộc sống cũ.
“Bà biết một câu chuyện về một cậu nhóc ghét những câu chuyện,” Già Nan nói cùng nụ cười ngờ nghệch trong khi mũi kim đan vẫn tiếp tục chuyển động, phát ra những tiếng kêu lanh canh lanh canh, cho tới khi Bran sẵn sàng hét vào mặt bà.
Cậu biết, mọi chuyện sẽ không bao giờ như cũ. Con quạ đã lừa cậu bay, nhưng khi cậu thức dậy, cậu đã bị què và thế giới đã thay đổi. Tất cả mọi người, cha mẹ cậu, các chị gái cậu bỏ cậu lại và cả người anh cùng cha khác mẹ Jon cũng đi mất. Cha cậu đã hứa cho cậu cưỡi một con ngựa thực sự tới Vương Đô, nhưng ông đã ra đi mà không có cậu. Maester Luwin đã gửi thư quạ tới chỗ Lãnh chúa Eddard cùng một lá thư, một lá thư nữa tới mẹ cậu và lá thư thứ ba cho Jon trên Tường Thành, nhưng không hề có lấy một lời hồi âm. “Thi thoảng lũ quạ cũng bị lạc đường mà con trai “ vị học sĩ nói với cậu như vậy. “Nơi đây và Vương Đô cách nhau hàng trăm dặm, giữa hai nơi hắn có chim cắt sinh sống chứ, có thể lá thư đã không tới được với họ.”
Nhưng Bran lại có cảm giác như thể họ đã chết hết trong lúc cậu chìm trong giấc ngủ... hoặc có lẽ chính Bran đã chết, và họ đã quên mất cậu. Chú Jory và Ser Rodrik cùng bác Vayon Poole đều đã ra đi, chú Hullen, anh Harwin cùng bác Tom Bự và một phần tư đội lính gác cũng đã đi mất.
Chỉ còn anh Robb và bé Rickon ở lại đây, nhưng giờ anh Robb khác lắm. Anh đang là Lãnh chúa Robb, hoặc đang cố làm Robb Lãnh Chúa. Anh đeo bên mình một thanh kiếm thật và chẳng bao giờ mỉm cười. Ngày ngày anh cùng với đội lính gác luyện kiếm, và trong sân lúc nào văng vẳng tiếng gươm giáo trong khi Bran vẫn ngồi chết dí bên ô cửa sổ. Đến tối anh lại ở cùng Maester Luwin, nói chuyện hoặc xem lại sổ sách. Thi thoảng anh cưỡi ngựa cùng Hallis Mollen, đi mất vài ngày tới thăm thú những pháo đài xa xôi. Mỗi khi anh đi hơn một ngày, bé Rickon lại khóc và hỏi Bran liệu Robb có về nữa không. Kể cả khi ở trong thành Winterfell, Robb Lãnh Chúa có vẻ thích ở cùng anh Hallis Mollen và Theon Greyjoy hơn là cùng những người em ruột.
“Bà có thể kể cho cháu nghe cầu chuyện về Brandon Kiến Thiết,” Già Nan nói. “Câu chuyện yêu thích của cháu ấy.”
Hàng ngàn hàng ngàn năm trước, Brandon Kiến Thiết đã dựng nên Winterfell, và nhiều người nói chính ngài là người xây nên Tường Thành. Bran biết câu chuyện đó, nhưng cậu chưa từng thích nó. Có lẽ một Bran khác sẽ thích. Thi thoảng Già Nan nói chuyện với cậu như thể cậu là Brandon của bà, một đứa bé bà đã chăm bẵm bao nhiêu năm về trước, và thi thoảng bà nhầm cậu với bác Brandon, người đã bị Vua Điên giết trước khi cậu ra đòi. Mẹ từng bảo với cậu rằng bà đã sống rất lâu, lâu đến nỗi đối với bà tất cả Brandon Stark đều là một.
“Cháu không thích,” cậu nói. “Cháu thích truyện kinh dị cơ.” Cậu nghe bên ngoài có tiếng náo động và quay đầu ra ngoài cửa sổ. Rickon đang chạy trên sân về phía phòng bảo vệ, những con sói bám sát sau, nhưng ngọn tháp đã chắn ngang khiến Bran không thấy chuyện gì xảy ra. Cậu thất vọng đấm mạnh tay vào đùi mà chẳng cảm thấy gì.

“Ôi, đứa trẻ mùa hè đáng yêu của bà,” Già Nan bình thản nói. “cháu sợ cái gì chứ? Nỗi sợ là dành ùa đông thôi, khi tuyết phủ dày hàng chục mét và những cơn gió lạnh buốt từ phương bắc tràn về. Nỗi sợ chỉ dành cho nhiều đêm dài, khi mặt trời trốn khuất hàng năm ròng, và những đứa nhỏ được sinh ra rồi chết đi trong đêm tối, lũ sói tuyết trở nên gầy nhắng và đói khát, còn những bóng trắng lượn lờ trong khu rừng tối.”
“Ý bà là Ngoại Nhân,” Bran cáu kỉnh nói.
“Ngoại Nhân,” Già Nan đồng tình. “Hàng ngàn hàng ngàn năm trước từng có một mùa đông rất lạnh, khắc nghiệt kinh hoàng và kéo dài hơn cả đời người. Một đêm dài bằng cả một thế kỷ, các vị vua rùng mình và chết trong lâu đài y như những gã chăn lợn chết trong chuồng lợn vậy. Những người phụ nữ thà ủ ấm cho con mình còn hơn thấy chúng chết đói, họ khóc mà dòng nước mắt đóng băng trên má.” Giọng bà cùng tiếng kim đan chìm trong im lặng, và bà ngước lên nhìn Bran bằng đôi mắt trắng đục hỏi. “Vậy đó con trai. Đây là dạng truyện con thích sao?”
“Dạ,” Bran lưỡng lự đáp, “đúng, chỉ là...”
Già Nan gật đầu. “Trong bóng tối mịt mùng đó, Ngoại Nhân lần đầu tiên xuất hiện,” bà nói trong khi tiếng kim đan cứ vang lên, lanh canh, lanh canh. “Ngoại Nhân lạnh lẽo, ngập mùi chết chóc, ghét sắt thép, lửa ấm, ánh nắng mặt trời và tất cả các sinh vật mang máu nóng trong huyết quản. Chúng tràn qua những pháo đài, những thành phố, vương quốc, giết chết không biết bao nhiêu anh hùng và các đạo quân, cưỡi trên lưng những con tử mã dẫn theo một đoàn thây ma. Lưỡi kiếm của loài người không thể chống lại chúng, và chúng không rủ lòng thương ngay cả với phụ nữ và những đứa nhỏ còn đang ẵm ngửa. Chúng săn lùng các thiếu nữ trong những khu rừng đóng băng và cho lũ thây ma theo hầu ăn thịt lũ trẻ.”
Bà hạ giọng, thầm thì khe khẽ, khiến Bran phải nhoài người lại gần mà lắng nghe.
“Chuyện đó xảy ra trước khi người Andal tới, rất lâu trước lúc những người phụ nữ từ xứ Rhoyne trốn qua eo biển tới đây, và hàng trăm vương quốc thuở đó đều thuộc sở hữu của Tiền Nhân vốn đã cướp đất đai từ tay những đứa con của rừng rậm. Nhưng đâu đó trong chốn thâm Sơn cùng cốc, họ vẫn cư ngụ trong những pháo đài gỗ và hang động, còn những khuôn mặt khắc trên gốc cây chính là đội lính canh. Khi lạnh lẽo và chết chóc bao trùm khắp nơi, vị anh hùng cuối cùng đã quyết tâm đi tìm những đứa trẻ, hy vọng phép thuật cổ xưa có thể giúp đánh bại được kẻ thù. Chàng dấn thân vào những vùng đất chết chỉ với một thanh kiếm, một con ngựa, một con chó, và mười hai người bạn đồng hành. Chàng đã tìm kiếm hết năm này tới năm khác, cho tới khi chàng tuyệt vọng nghĩ rằng mình không thể tìm thấy những đứa con của rừng rậm trong thành phố bí mật của họ. Từng người bạn của chàng ngã xuống, rồi tới con ngựa, và cuối cùng, đến chính con chó của chàng cũng chết, còn thanh kiếm của chàng đã bị băng tuyết bao phủ và mẻ dần sau nhiều lần sử dụng. Rồi Ngoại Nhân đánh hơi mùi máu nóng trên người chàng, chúng lắng lặng theo dấu, truy đuổi chàng bằng đàn nhện trắng to như những con chó săn...”
Đột nhiên cánh cửa mở đánh rầm, và tim Bran nhảy tung khỏi lồng ngực, nhưng bên ngoài chỉ có Maester Luwin cùng anh Hodor cao lớn đứng ở bậc cầu thang phía sau. “Hodor!” anh chàng trông ngựa reo lên như thường lệ và cười toe toét với mọi người.

Maester Luwin không hề cười. “Chúng ta có khách tới thăm,” ông thông báo, “chúng ta cần cháu ở đó.”
“Nhưng giờ cháu đang nghe kể chuyện mà,” Bran cự nự.
“Cậu chủ nhỏ, những câu chuyện có thể đợi được, chúng vẫn ở ngay đó khi cháu trở lại thôi,” Già Nan nói. “Những vị khách thường không kiên nhẫn, và đôi khi họ cũng sẽ mang tới cho chúng ta câu chuyện của riêng họ.”
“Ai vậy ông?” Bran hỏi Maester Luwin.
“Tyrion Lannister, và vài người thuộc Đội Tuần Đêm tới chuyển lời của Jon cho các cháu. Giờ Robb đang gặp họ. Hodor, cậu giúp Bran xuống lầu nhé?”
“Hodor!” Hodor vui vẻ đồng ý. Anh cúi cái đầu to tướng tóc tai bờm xờm qua cửa. Hodor cao gần hơn hai mét. Thật khó tin được rằng anh có họ hàng với Già Nan. Bran không biết khi về già anh có teo lại bằng bà không nữa. Dù cho anh Hodor có sống tới một ngàn tuổi thì chắc cũng không thể.
Hodor nâng Bran lên ôm trước bộ ngực khổng lồ của anh dễ dàng như thể ôm một bó cỏ. Trên người anh luôn phảng phất mùi chuồng ngựa, nhưng không hề hôi chút nào. Tay anh đầy lông và cuồn cuộn cơ bắp. “Hodor,” anh nhắc lại. Theon Greyjoy từng bảo có thể anh Hodor không biết nhiều, nhưng chí ít anh biết tên mình. Già Nan đã nổi giận khi Bran nói với bà như vậy, và bà nói cho Bran biết tên thật của anh Hodor là Walder. Không ai biết từ “Hodor” từ đâu đến, nhưng từ khi anh bắt đầu nói từ đó, mọi người đã cho rằng đó là tên của anh. Và đó cũng là từ duy nhất anh biết.
Họ để lại Già Nan trong phòng cùng cây kim đan và những hồi ức của quá khứ. Hodor ngâm nga trong họng chẳng theo giai điệu gì trong khi bế Bran xuống tháp, đi qua sân với Maester Luwin đang sải bước đuổi theo ngay sau.
Anh Robb đang ngồi trên ngai của cha, trên người mặc giáp xích, áo da thuộc và đeo bộ mặt nghiêm nghị của Robb Lãnh Chúa. Theon Greyjoy cùng Hallis Moleen đứng sau anh. Mười hai người lính gác thành một hàng dài trông như một bức tường đá xám bên dưới những ô cửa sổ cao hẹp. Ở giữa phòng, người lùn đang đứng cùng tùy tùng và bốn người lạ mặc trang phục đen của Đội Tuần Đêm. Bran nhận ra không khí căng thẳng trong phòng ngay khi Hodor bế cậu vào phòng.

“Chúng tôi luôn mở rộng cửa chào đón những người lính của Đội Tuần Đêm, cho tới khi nào họ muốn rời đi,” Robb đang nói bằng giọng của Robb Lãnh Chúa. Anh đặt thanh kiếm tuốt trần trên lòng cho cả thế giới thấy. Ngay cả một đứa bé như Bran cũng hiểu một lưỡi kiếm nằm ngoài vỏ có ý nghĩa gì.
“Bất cứ người lính nào của Đội Tuần Đêm,” người lùn nhắc lại, “ý cậu là cậu không chào đón ta, đúng không cậu bé?”
Robb đứng dậy và chĩa kiếm vào phía người lùn kia. “Thưa ngài Lannister, trong khi cha mẹ đi vắng, ta là lãnh chúa thành này. Ta không phải cậu bé của ông.”
“Nếu như cậu là lãnh chúa, cậu cần học tác phong của một vị lãnh chúa,” người đàn ông nhỏ bé chẳng quan tâm tới lưỡi kiếm đang chĩa thẳng vào mình mà trả lời. “Có vẻ người em con rơi của cậu còn biết lễ phép hơn cậu đấy.”
“Jon,” Bran thở dốc trong vòng tay Hodor.
Chú lùn quay lại nhìn cậu. “Quả nhiên là cháu còn sống. Ta khó lòng tin nổi. Đúng là khó giết được người nhà Stark.”
“Người nhà Lannister tốt hơn hết hãy nhớ kỹ điều đó,” anh Robb nói và hạ kiếm xuống. “Hodor, mang em trai ta lại đây.”
“Hodor,” Hodor cười rồi bước lên đặt Bran vào chiếc ghế cao dành cho người nhà Stark, nơi những lãnh chúa vùng Winterfell từng ngồi khi họ còn xưng Vua Phương Bắc. Chiếc ghế đó được tạc từ một phiến đá lạnh lẽo, nay nhẵn bóng vì không biết bao nhiêu người đã ngồi lên, và hai tay vịn ghế được tạo hình đầu sói đang nhe răng. Bran nắm chặt lấy chúng khi đã ngồi xuống, trong khi đôi chân vô dụng lủng lắng bên dưới. Ngồi trong chiếc ghế khổng lồ này khiến Bran có cảm giác mình như một đứa bé sơ sinh vậy.
Anh Robb đặt tay lên vai cậu. “Ngài nói ngài có điều muốn nói với Bran. Và giờ, em ấy đã ở đây rồi, thưa ngài Lannister.”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,359
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 31: Chương 24 phần 2




Bran khó chịu trước ánh mắt của Tyrion Lannister, một con mắt màu đen, một con mắt màu xanh, đang quan sát và đánh giá cậu. “Mọi người nói với ta rằng cháu leo trèo khá giỏi, Bran,” người đàn ông nhỏ bé nói. “Kể cho ta nghe, làm sao cháu có thể ngã thế?”
“Cháu chưa bao giờ ngã,” Bran khắng định. Cậu chưa bao giờ ngã, chưa bao giờ và cũng không bao giờ.
“Đứa nhỏ không nhớ chút gì về cú ngã, hay quá trình treo leo trước đó,” Maester Luwin từ tốn nói.
“Tò mò thật,” Tyrion Lannister nói.
“Em trai tôi không ở đây để trả lời chất vấn, thưa ngài Lannister,” Robb cộc lốc nói. “Làm việc của ngài và đi đi.”
“Ta có một món quà dành cho cháu,” người lùn nói với Bran. “Cháu có thích cưỡi ngựa không cậu bé?”
Maester Luwin tiến lên. “Lãnh chúa, đứa nhỏ này đã mất đi đôi chân. Cậu ấy không thể ngồi trên lưng ngựa.”
“Vớ vẩn,” Lannister nói. “Với con ngựa và cái yên phù hợp, kể cả một kẻ tàn phế cũng có thể cưỡi ngựa.”
Lời nói như một lưỡi dao xoáy thẳng vào tim Bran. Cậu trào nước mắt. “Cháu không tàn phế!”
“Vậy thì ta cũng chẳng lùn,” chàng lùn trề môi nói. “Chắc hắn cha ta phải mừng lắm khi nghe thấy lời đó.”
Anh Greyjoy cười lớn.

“Ngài muốn nói tới loại ngựa và yên nào?” Maester Luwin hỏi.
“Một con ngựa khôn,” Lannister trả lời. “Cậu nhóc không thể dùng chân để ra lệnh cho ngựa, vì thế ngài phải bắt con ngựa phối họp với chủ nhân, dạy nó cách phản ứng với dây cương và giọng nói. Theo ta các ngài nên chọn con ngựa non độ một tuổi và chưa từng được huấn luyện gì.” Ông ta rút cuộn giấy khỏi thắt lưng. “Đưa cái này cho thợ làm yên. Hắn sẽ biết phải bổ sung những gì.”
Maester Luwin cầm lấy cuộn giấy từ tay người lùn xem xét với vẻ tò mò như một con sóc xám nhỏ. “Tôi hiểu rồi. Ngài vẽ rất đẹp, thưa lãnh chúa. Đúng, loại yên này có thể. Lẽ ra tôi phải nghĩ tới chứ nhỉ.”
“Ý tưởng đó tới với tôi dễ dàng hơn, thưa Maester. Nó không khác cái yên của tôi là mấy.”
“Cháu thực sự sẽ được cưỡi ngựa ạ?” Bran hỏi. Cậu muốn tin nhưng cậu sợ. Biết đâu họ lại nói dối cậu giống như khi con quạ hứa cậu có thể bay.
“Được,” chú lùn trả lời. “Và ta thề với cháu, khi ngồi trên lưng ngựa, cậu sẽ cao lớn chẳng thua kém một ai.”
Robb Stark có vẻ bối rối. “Lại một cái bẫy nữa sao, ngài Lannister? Bran là gì với ngài nào? Vì sao ngài muốn giúp em ấy”
“Jon nhờ tôi. Và từ sâu thẳm trong trái tim ta, ta luôn dành tình thương cho những kẻ tàn tật, những đứa con rơi cùng những thứ đã từng tan vỡ.” Tyrion Lannister mỉm cười và đặt tay lên ngực.
Cánh cửa hướng ra sân bật mở. Từng tia nắng xiên vào đại sảnh khi bé Rickon xồng xộc chạy vào. Những con sói tuyết đi cùng bé. Bé mở to mắt và đứng sững trước bậu cửa nhưng những con sói vẫn đi tiếp. Đôi mắt chúng đã tìm thấy Lannister, hoặc có lẽ cái mũi của chúng đã tìm thấy ông ta. Mùa Hè gầm gừ trước, tiếp đó là Gió Xám. Chúng tiến về phía người đàn ông nhỏ bé từ hai phía trái phải.
“Thưa ngài Lannister, có vẻ lũ sói không thích mùi của ngài “ Theon Greyjoy nhận xét.
“Có lẽ ta nên đi thôi,” Tyrion nói. Ông ta lùi một bước... và Lông Xù gầm ghè tiến lên từ đằng sau lưng ông ta. Lannister giật nảy mình, và Mùa Hè lao vào ông từ phía bên kia. Ông ta loạng choạng đứng không vững, trong khi đó Gió Xám dùng những chiếc răng nanh to tướng cắn tuột tay áo ông ta ra.

“Không!” Bran hét khi những người tùy tùng rút kiếm tiến lên. “Mùa Hè, tới đây. Mùa Hè, tới chỗ tao!”
Con sói tuyết nghe thấy, nó hết nhìn Bran rồi lại nhìn Lannister. Nó lùi lại, tránh xa người đàn ông nhỏ thó kia và nằm phủ phục dưới đôi chân tật nguyền của Bran.
Robb gần như nín thở. Anh thở dài và gọi, “Gió Xám.” Con sói tuyết của anh uyển chuyển và lặng lẽ tới bên anh. Giờ ở đó chỉ còn lại Lông Xù đang gầm gừ với người đàn ông nhỏ với đôi mắt cháy rực như hai ngọn lửa xanh.
“Rickon, gọi nó về đi,” Bran hét lên với cậu em út, Rickon định thần lại và gọi, “Về nhà nào, Xù, về nhà nào.” Con sói đen gầm gừ với Lannister lần cuối rồi nhảy về chỗ Rickon. Cậu nhóc ôm chặt cổ nó.
Tyrion Lannister tháo khăn choàng, lau trán và bình thản nói. “Mới thú vị làm sao.”
“Lãnh chúa ổn chứ ạ?” một trong những người tùy tùng hỏi trong khi vẫn nắm chặt thanh kiếm và cảnh giác nhìn những con sói.
“Ta bị rách mất ống tay áo và quần thì thủng không biết bao nhiêu lỗ, nhưng ta cũng chẳng mất gì ngoài lòng tự trọng.”
Anh Robb có vẻ cũng sốc. “Những con sói... Ta không biết vì sao chúng hành động như thế...”
“Hắn chúng tưởng ta là bữa tối rồi.” Lannister cứng nhắc cúi đầu trước Bran. “Cậu bé, ta cám ơn cháu vì cháu đã gọi chúng đi. Ta có thể thề rằng chúng sẽ khó lòng nuốt trôi được ta lắm. Và giờ ta sẽ rời đi, thực sự rời đi.”
“Xin ngài đợi một lát,” Maester Luwin nói. Ông tới bên Robb và thì thầm trao đổi. Bran dỏng tai lắng nghe nhưng không thể.

Robb Stark cuối cùng cũng tra kiếm vào vỏ. “Có thể, ta... ta đã thất lễ với ngài,” anh nói. “Ngài thật tử tế với Bran,...” Robb cố bình tâm lại. “Ngài Lannister, Winterfell chào đón ngài nếu như ngài muốn.”
“Cậu tha cho ta đi, đừng giả tạo như vậy chứ. Cậu không hề thích ta và cũng chẳng mong ta ở lại. Ta đã thấy có một quán trọ ngoài thành, tại thị trấn mùa đông. Ta sẽ tự tìm giường ình và cả hai chúng ta sẽ dễ ngủ hơn. Chỉ cần vài đồng, ta thậm chí còn tìm được một cô hầu gái giúp làm ấm giường cơ.” Ông nói với một người anh em áo đen lưng còng râu bết. “Yoren, chúng ta sẽ lên đường xuống phương nam vào bình minh. Chắc chắn ngài sẽ thấy tôi trên đường thôi.” Nói xong ông chật vật bước qua sảnh trên đôi chân ngắn ngủi, đi qua Rickon và ra ngoài cửa. Những tùy tùng cũng nối gót theo.
Bốn người trong Đội Tuần Đêm còn đứng đấy. Robb bối rối nhìn họ. “Ta đã cho chuẩn bị phòng, và các ngài sẽ có nước nóng để gột rửa bụi đường. Ta mong sẽ được vinh dự ngồi dùng bữa với các ngài.” Đến Bran còn nhận thấy lời nói của anh mình lủng củng vụng về; đó là những lời anh được học chứ không xuất phát từ tấm lòng, nhưng lời cám ơn với hội anh em áo đen cũng chẳng khác gì.
Mùa Hè nối gót Hodor khi anh bế Bran trở lại giường. Già Nan đang ngủ gà gật trên ghế. Anh Hodor nói “Hodor “ rồi ôm bà đi trong khi bà đang ngáy khe khẽ còn Bran nằm trầm tư suy nghĩ. Anh Robb đã hứa rằng cậu có thể được dự tiệc cùng Đội Tuần Đêm trong Đại Sảnh. Con sói nhảy lên giường và Bran ôm chặt nó để cảm nhận hơi thở nóng hổi trên má. “Giờ tao có thể cưỡi ngựa được rồi,” cậu thì thầm với người bạn sói. “Đợi mà xem, rồi chúng ta sẽ được đi săn cùng nhau thôi.” Một lúc sau, cậu thiếp đi mất.
Trong giấc mơ, cậu lại một lần nữa được leo trèo, được đẩy mình lên ngọn tháp cổ kính không có cửa sổ, những ngón tay bám chặt vào phiến đen màu thời gian, những ngón chân quờ quạng tìm chỗ đặt. Cậu leo càng lúc càng cao, qua những đám mây, chui vào bầu trời đêm, nhưng ngọn tháp vẫn vút lên cao mãi. Khi ngừng lại nhìn xuống, đầu cậu quay cuồng choáng váng, cậu cảm thấy những ngón tay đang tuột dần. Bran hét lên và cố bám víu lấy sự sống. Mặt đất cách bên dưới cả ngàn dặm mà cậu nào biết bay. Cậu không thể bay. Cậu đợi tới khi nhịp tim ổn định và hơi thở trở lại bình thường mới trèo tiếp. Cậu không còn cách nào khác ngoài trèo lên. Dưới ánh trăng bằng bạc, cậu nghĩ cậu có thể thấy hình những máng xối nước đầu thú. Tay đau nhức, nhưng cậu không dám nghỉ. Cậu buộc mình phải trèo nhanh hơn. Những cái đầu thú đang quan sát cậu. Mắt của chúng đỏ lập lòe như những viên than nhỏ. Có thể chúng từng là những cái đầu sư tử, nhưng giờ đã bị thời gian làm cho biến dạng xấu xí.
Bran nghe được tiếng chúng thì thầm to nhỏ với nhau bằng thứ âm thanh kinh khủng. Cậu không được nghe, cậu tự nhủ, chỉ cần cậu không nghe thấy là cậu vẫn an toàn. Nhưng khi những đầu thú nhoài ra khỏi phiến đá và cuốc bộ xuống sát cạnh nơi Bran đang treo mình thì cậu biết mình chẳng an toàn chút nào. “Tôi không nghe đâu,” cậu sụt sịt khóc khi chúng tới gần hơn rồi gần hơn. “Tôi không nghe, tôi không nghe.”
Cậu tỉnh dậy trong bóng tối và thở dốc, thấy một bóng đen cao lớn đang sừng sững ở đó. “Tôi không nghe thấy gì “ cậu run rẩy thì thào trong sự hãi, nhưng sau đó bóng đen đó nói “Hodor” và thắp nến trên đầu giường, cậu thấy nhẹ nhõm hắn.
Hodor lau mồ hôi cho cậu bằng mảnh vải đã vắt sạch nước hơi âm ấm, rồi khéo léo nhẹ nhàng mặc quần áo cho cậu. Tới giờ, anh bế Bran xuống Đại Sảnh nơi những chiếc bàn gấp dài đã được kê gần lò sưởi. Vị trí của lãnh chúa ở đầu bàn để trống, nhưng Robb ngồi ngay bên phải và Bran ngồi đối diện. Tối đó họ ăn thịt lợn sữa, bánh nhân thịt chim bồ câu, củ cải bọc bơ, và sau cùng là sáp ong. Mùa Hè giằng lấy khăn ăn từ tay Bran, trong khi Gió Xám và Lông Xù chui vào một góc tranh giành khúc xương. Những con chó của lâu đài Winterfell giờ không dám tới gần sảnh. Hồi đầu Bran thấy lạ, nhưng giờ cậu đã quen rồi.
Yoren là sĩ quan cấp cao hơn trong số những anh em áo đen, vì thế quản gia sắp xếp cho ông ngồi giữa Robb và Maester Luwin. Từ người ông già lạnh lùng đó bốc ra cái mùi chua loét như thể lâu ngày không tắm. Ông ta dùng răng xé thịt, đập vụn xương để hút tủy, và nhún vai khi nghe người nhắc tới Jon Snow. “Cậu ta đúng là thuốc độc của-Ser Alliser,” ông ta làu bàu, và hai người đồng thanh cười vang làm Bran không hiểu gì. Nhưng sau đó khi Robb hỏi về chú Benjen, những anh em áo đen bỗng yên lặng tới đáng ngại.
“Sao thế ạ?” Bran hỏi.
Yoren lau tay lên áo gilê. “Thưa cậu chủ, những tin xấu không nên nói ra trong bữa ăn, nhưng ai dám hỏi thì người đó cũng dám nghe câu trả lời. Ngài Stark mất tích rồi.”
Một người khác nói. “Gấu Già đã cử ngài ấy đi tìm Waymar Royce, nhưng tới giờ ông ấy vẫn chưa trở về, thưa lãnh chúa.”
“Ngài ấy đã đi quá lâu rồi,” Yoren nói. “Rất có khả năng ngài ấy đã chết.”

“Chú tôi không chết được,” Robb cao giọng và trong giọng nói chất chứa sự giận dữ. Anh đứng bật dậy, đặt tay lên đốc kiếm. “Các ngài nghe rõ chưa? Chú tôi không chết!” Giọng anh vang vọng giữa những bức tường đá, và Bran đột nhiên thấy sợ.
Ông già Yoren bốc mùi chua loét ngước nhìn anh Robb, và có vẻ ông ta không hề bị lay động. “Ngài nói thế nào chẳng được,” ông ta nói và cắn thêm miếng thịt nữa.
Người trẻ nhất trong số các anh em áo đen khó chịu dịch người trên ghế. “Không một người nào trên Tường Thành hiểu rừng ma rõ hơn ngài Benjen Stark. Ông ấy sẽ tìm được đường về.”
“Hừ,” Yoren nói, “có thể có hoặc có thể không. Đầy người đi vào khu rừng đó và không bao giờ trở ra nữa.”
Tất cả những gì Bran nghĩ tới là cầu chuyện của Già Nan về Ngoại Nhân và vị anh hùng cuối cùng bị những con nhện to lớn như những con chó săn và thây ma truy đuổi. Cậu lo lắng khi nhớ ra kết cục của câu chuyện. “Những đứa con của rừng rậm sẽ giúp chú ấy,” cậu buột miệng, “những đứa con của rừng rậm ấy!”
Anh Theon Greyjoy cười khẩy trong khi Maester Luwin nói, “Bran, những đứa con của rừng rậm đã chết và biến mất từ mấy ngàn năm trước. Những gì họ để lại cho thế giới này chỉ là những khuôn mặt khắc trên các gốc cây mà thôi.”
“Ở nơi này có thể ngài nói đúng, thưa Maester,” Yoren nói, “nhưng còn chuyện bên ngoài Tường Thành thì ai dám khắng định chứ? Ngoài đó, con người ta không phân biệt nổi cái gì còn sống và cái gì đã chết nữa.”
Đêm đó, sau khi thức ăn đã được dọn sạch sẽ, Robb tự mình bế Bran lên giường. Gió Xám dẫn đường, và Mùa Hè bám sát sau. Dù anh trai cậu khá khỏe còn cậu thì nhẹ như một bó cỏ khô, nhưng vì những bậc thang rất tối và dốc nên khi họ tới đỉnh tháp thì anh Robb đã phải thở dốc.
Anh đặt Bran lên giường, đắp chăn cho cậu rồi thổi tắt nến. Robb ngồi im lặng trong bóng tối cạnh cậu một lúc lâu. Bran muốn nói chuyện, nhưng cậu không biết phải nói gì. “Anh hứa, rồi em sẽ có một con ngựa phù hợp,” sau rồi anh Robb cũng thì thào nói.
“Mọi người sẽ trở về chứ anh?” Bran hỏi.
“Ừ” trong giọng anh Robb chất chứa niềm hy vọng, và cậu biết cậu đang nghe anh trai mình nói chuyện, chứ không phải Robb Lãnh Chúa nữa. “Mẹ sẽ sớm về thôi. Có lẽ chúng ta có thể cưỡi ngựa ra đón mẹ về. Chắc hắn mẹ sẽ vô cùng ngạc nhiên khi thấy em cưỡi ngựa rồi?” Dù trong bóng tối, Bran vẫn cảm nhận được nụ cười trên môi anh trai. “Và sau đó, chúng ta sẽ cưỡi ngựa lên phương bắc xem Tường Thành. Sẽ có ngày chúng ta tới đó, chỉ có hai chúng ta thôi, nhưng chúng ta không báo cho Jon biết trước. Hắn đó sẽ là một chuyến phiêu lưu.”
“Một chuyến phiêu lưu “ Bran bâng khuâng nhắc lại. Cậu nghe thấy tiếng khóc của anh trai. Thế nhưng căn phòng quá tối cậu không nhìn thấy nước mắt lăn trên má anh Robb, cậu chỉ vươn tay ra nắm lấy tay anh. Hai đứa trẻ đan tay vào nhau.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,359
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 32: Chương 25




EDDARD
 
Sự ra đi của Lãnh chúa Jon Arryn là niềm thương tiếc với tất cả chúng tôi, thưa lãnh chúa,” Grand Maester Pycelle nói. “Nói về chuyện tôi đã làm gì để giúp ông ấy ra đi thanh thản còn khiến tôi hơn cả vui mừng. Mời ngài ngồi. Ngài có muốn thư giãn một chút không? Dùng vài quả chà là chẳng hạn? Tôi cũng có ít hồng ngon. Giờ vấn đề tiêu hóa không cho phép tôi uống rượu, nhưng tôi cùng ngài nên thưởng thức một cốc sữa mát lạnh với chút mật ong. Nó giúp chúng ta giải nhiệt rất tốt đấy.”
Quả thực là nóng; Ned cảm thấy chiếc áo lụa dính chặt vào ngực. Không khí ẩm thấp, oi ả bao trùm thành phố như một tấm chăn len thấm nước, và bờ sông trở nên đông đúc khi dân nghèo đổ xô ra đó để tránh xa những căn nhà nóng nực, bức bối; họ tranh nhau một chỗ ngủ gần mặt nước, giờ là nơi duy nhất gió thi thoảng thổi qua. “Ôi, thế thì còn gì bằng,” Ned nói và ngồi xuống.
Pycelle cầm cái chuông bằng ngón trỏ và ngón cái rồi nhẹ nhàng lắc. Một cô hầu gái dáng người thanh mảnh vội vàng bước. “Cô bé, lấy giùm ta và quân sư hai ly sữa nhé. Ngọt vào.”
Khi cô gái đi lấy đồ uống, Grand Maester đan tay vào nhau rồi đặt lên bụng. “Những người dân thường nói năm cuối cùng của mùa hè luôn là năm nóng nhất. Có lẽ không phải, nhưng đôi khi thời tiết nóng quá thể nhỉ? Thực ra, trong những ngày nóng nực thế này, tôi rất ghen tị với mùa hè tuyết rơi của dân phương bắc các ngài.” Sợi xích đính đá quý nặng nề đeo quanh cổ ông lão kêu leng keng khe khẽ khi ông dịch người trên ghế. “Tôi chắc chắn, mùa hè thời Vua Maekar còn nóng hơn và dài gần bằng mùa hè năm nay. Hồi đó có những kẻ ngốc, thậm chí ngay tại Cấm Thành, còn cho rằng cuối cùng Đại Mùa Hè những tưởng không bao giờ kết thúc sẽ ngừng lại vào năm thứ bảy rồi mùa thu ngắn ngủi và mùa đông khắc nghiệt sẽ tới. Nhưng cái nóng đâu có ngừng. Ở các khu phố cổ, cái nóng oi ả cứ hầm hập bốc lên và mọi hoạt động tại đó chỉ sống động khi đêm xuống thôi. Khi đó chúng tôi đi dạo trong những khu vườn bên sông và bàn luận về thần thánh. Tôi vẫn còn nhớ mùi vị của những đêm đó, thưa lãnh chúa - mùi nước hoa lẫn mùi mồ hôi, mùi dưa chín nục, mùi đào, mùi lựu, mùi hoa dạ quỳnh và nguyệt hương. Lúc đó tôi còn là một chàng trai trẻ, vẫn đang trong quá trình tôi luyện sợi xích. Cái nóng hồi đó không làm tôi mệt mỏi như bây giờ.” Đôi mắt Pycelle nhắm như thể ông đang ngủ. “Xin lỗi, Lãnh chúa Eddard. Ngài không tới đây để nghe những lời vòng vo vớ vẩn về một mùa hè trong quá khứ từ trước khi cha ngài chào đời. Nếu có thể, mong ngài thứ lỗi cho những lời lẩm cẩm của kẻ già nua này. Tôi e là trí óc cũng giống như một thanh kiếm vậy. Những thanh kiếm cũ sẽ bị gỉ sét thôi. À, sữa của chúng ta tới rồi.”
Cô hầu gái đặt cái khay giữa họ, và Pycelle cười với cô. “Cô bé ngoan.” Ông nâng cốc, nếm thử, và gật đầu. “Cám ơn con. Con có thể đi.”
Khi cô gái đi ra, Pycelle nheo đôi mắt mờ đục nhìn Ned. “Chúng ta nói tới đâu rồi nhỉ? À, đúng rồi. Ngài hỏi về Lãnh chúa Arryn...”
“Đúng.” Ned lịch sự nhấp một ngụm sữa lạnh. Hơi lạnh thật dễ chịu, nhưng vị ngọt hơi quá so với khẩu vị của ông.
“Nếu những lời đồn đại là đúng, thì đôi khi quân sư cư xử không bình thường,” Pycelle nói. “Tôi và ông ấy đã ở cùng hội đồng trong nhiều năm trời, và mỗi khi có chuyện khó tôi lại đổ hết lên vai ông ấy. Đôi vai rộng đó đã oằn xuống vì những mối lo của vương quốc cùng nhiều điều khác. Con trai ông ấy luôn ốm yếu, còn phu nhân luôn lo lắng tới mức không dám rời mắt khỏi con. Những điều như thế đủ làm một người đàn ông khỏe mạnh phải suy kiệt, mà Lãnh chúa Jon Arryn còn trẻ trung gì cho cam. Cũng hơi lạ nếu như ông ấy hay u uất hay mệt mỏi. Lúc đó tôi nghĩ vậy. Nhưng giờ tôi không chắc lắm.” Ông buồn rầu lắc đầu.
“Ngài có thể nói gì về cơn bạo bệnh cuối đời của ông ấy?” Grand Maester xòe tay ra hiệu lực bất tòng tâm. “Lúc tới gặp tôi hỏi mượn sách, ông ấy vẫn khỏe mạnh và tráng kiện như mọi khi, dù quả thực tôi thấy có chuyện gì đó đang làm ông ấy phiền lòng ghê gớm. Sáng hôm sau ông ấy bệnh nặng tới nỗi không thể rời giường. Maester Colemon nghĩ ông ấy bị lạnh bụng. Lúc đó tiết trời khá oi ả mà quân sư lại hay cho đá vào rượu, điều đó không hề tốt cho việc tiêu hóa. Khi Lãnh chúa Jon càng lúc càng ốm yếu, tôi đã đích thân tới thăm bệnh, nhưng thần thánh không cho tôi sức mạnh cứu sống ngài ấy.”
“Tôi có nghe nói ngài đã đuổi Maester Colemon đi.”
Cái gật đầu của Grand Maester chậm rãi và thong thả như một tảng băng trôi. “Đúng, có lẽ phu nhân Lysa sẽ không bao giờ tha lỗi cho tôi. Có thể tôi sai, nhưng lúc đó tôi nghĩ đó là biện pháp tốt nhất. Maester Colemon giống như con trai tôi, và tôi không phủ nhận khả năng của anh ta, có điều anh ta còn trẻ, mà người trẻ sao hiểu được cơ thể người già yếu ớt như thế nào. Anh ta kê cho Lãnh chúa Arryn những toa thuốc vô dụng cùng nước ớt, và tôi e rằng chính anh ta đã góp tay giết chết ông ấy.”
“Vậy Lãnh chúa Arryn nói gì trăn trối với ngài trong những giờ phút cuối cùng không?”
Pycelle nhăn trán. “Trong giai đoạn cuối của cơn bạo bệnh, quân sư đã gọi tên Robert vài lần, nhưng tôi không biết ông ấy gọi đức vua hay gọi con trai mình nữa. Phu nhân Lysa không cho thằng bé vào vì sợ chính thằng bé rồi cũng nhiễm bệnh. Nhà vua có tới, và ngài đã ngồi bên giường hàng giờ, nói chuyện và cười đùa mong vực dậy tinh thần của Lãnh chúa Jon. Bệ hạ vô cùng yêu quý lãnh chúa.”
“Không còn gì khác sao? Như một lời trăn trối chẳng hạn?”
“Khi tôi thấy không còn hy vọng, tôi đã cho quân sư uống một cốc sữa anh túc để ông ấy không phải chịu đau đớn. Trước khi nhắm mắt, ông ấy thì thầm gì đó với nhà vua và vợ, hình như là một lời chúc phúc cho con trai.

Ông ấy nói, hạt giống rất mạnh mẽ. Đến phút cuối, lời nói của lãnh chúa bị ngắt quãng nhát gừng và không ai hiểu nổi. Mãi tới sáng sau ông mới ra đi trong thanh thản. Ông ấy không nói gì thêm nữa.”
Ned uống thêm một ngụm sữa, cố không ọe ra vì vị ngọt lừ. “Ngài có thấy cái chết của Lãnh chúa Jon Arryn có gì bất thường không?”
“Bất thường ?” Giọng nói của vị học sĩ già nhẹ như một lời thì thầm. “Không, tôi không thấy vậy. Chắc chắn tôi thấy buồn rồi. Nhưng cái chết luôn là điều tự nhiên nhất, thưa Lãnh chúa Eddard. Jon Arryn đã yên nghỉ rồi, và cuối cùng những gánh nặng cũng đã được trút bỏ.”
“Căn bệnh đã cướp đi sinh mạng của ông ấy,” Ned nói. “Ngài đã bao giờ thấy chưa, ở những người khác?”
“Tôi đã là Grand Maester của bảy phụ quốc trong gần bốn mươi năm,” Pycelle trả lời. “Dưới sự trị vì của vị minh quân Robert của chúng ta, và của Aerys Targaryen, và cha ông ta là Jaehaerys Đệ Nhị, thậm chí trong vài tháng ngắn ngủi dưới quyền của cha Jaehaerys, Aegon May Mắn Đệ Ngũ, tôi chứng kiến không biết bao nhiêu căn bệnh, thưa lãnh chúa. Tôi có thể nói với ngài điều này: các ca bệnh giống nhau mà khác nhau. Cái chết của Lãnh chúa Jon không có gì bất thường cả.”
“Nhưng vợ ông ấy lại nghĩ khác.”
Grand Maester gật đầu. “Tôi nhớ người quả phụ đó là em gái vợ ngài. Nếu ngài có thể tha thứ cho những lời nói ngu muội của lão già này, tôi sẽ nói rằng nỗi đau mất chồng có thể làm quẫn trí ngay cả những người mạnh mẽ nhất và vững vàng nhất, mà phu nhân Lysa chưa bao giờ là người như thế. Sau lần sảy thai, bà thấy ai cũng như thấy quân thù, cái chết của lãnh chúa đã khiến bà ấy sụp đổ và cùng quẫn.”
“Vậy ông chắc chắn rằng Jon Arryn mất do bệnh đột ngột?”
“Vâng,” Pycelle quả quyết đáp. “Thưa lãnh chúa nhân từ, nếu không phải vì bệnh thì còn vì khác được chứ?”
“Thuốc độc “ Ned từ tốn gợi ý.
Đôi mắt lim dim của Pycelle choàng mở. Vị học sĩ lớn tuổi nhích người trên ghế. “Một ý nghĩ thật khó chịu làm sao. Chúng ta không sống tại các Thành Phố Tự Trị, nơi những điều đó quá ư bình thường. Grand Maester Aethelmure đã viết rằng tất cả con người trong sâu thẳm đều là một sát nhân, nhưng cứ cho là thế đi, thì kẻ đi hạ độc người khác còn quá đáng khinh.” Ông ta im lặng trong phút chốc, mắt nhìn xa xăm nghĩ ngợi. “Điều ngài vừa gợi ý rất có khả năng, thưa lãnh chúa, nhưng tôi không nghĩ vậy. Tất cả các học sĩ đều biết các dấu hiệu trúng độc cơ bản, trên người Lãnh chúa Jon Arryn không có bất cứ triệu chứng nào. Và quân sư rất được lòng người. Không hiểu loại quỷ đội lốt người nào lại dám giết hại một lãnh chúa cao quý nhường ấy?”
“Ta đã nghe nói rằng thuốc độc chính là vũ khí của đàn bà.”
Pycelle gãi gãi râu ngẫm nghĩ. “Đúng như vậy. Đàn bà, những kẻ hèn nhát... và hoạn quan.” Ông húng hắng và nhổ đờm vào ống nhổ. Trên xà nhà, một con quạ kêu ầm ĩ.
“Ngài có biết Lãnh chúa Varys hồi bé là nô lệ tại thành Lys không? Ngài đừng tin lũ gián điệp.”
Ned chẳng cần ai phải nhắc nhở ông chuyện đó; có cái gì đó về Varys khiến ông nổi da gà. “Tôi sẽ nhớ kỹ, Maester. Và tôi rất cám ơn sự giúp đỡ của ông. Tôi đã làm mất của ông kha khá thời gian rồi.” Ông đứng dậy.
Grand Maester Pycelle cũng chậm rãi đứng lên tiễn Ned ra tới cửa. “Tôi hy vọng tôi đã giúp ngài chút gì để khiến đầu óc ngài được thư thái hơn. Nếu tôi có thể phục vụ gì cho ngài, xin cứ nói.”
“Chỉ một điều thôi,” Ned nói. “Tôi rất tò mò được xem cuốn sách ngài cho Jon mượn trước khi ông ấy ốm.”

“Tôi sợ rằng ngài sẽ không hứng thú gì với nó,” Pycelle nói. “Đó là một bộ sách dày cộp của Grand Maester Malleon về dòng dõi của các đại gia tộc.”
“Nhưng tôi vẫn muốn xem.”
Ông lão mở cửa. “Như ý ngài thôi. Tôi để ở đâu đó. Khi tìm thấy, tôi sẽ đưa thẳng tới phòng của ngài ngay...”
“Ngài thật tốt bụng,” Ned nói. Sau đó, sau khi nghĩ ngợi một lát, ông nói tiếp, “Một câu hỏi cuối, nếu như ngài có thời gian. Ngài có nói rằng đức vua ở cạnh giường Lãnh chúa Arryn khi ông ấy lâm chung. Tôi tự hỏi, hoàng hậu có ở đó không?”
“Sao cơ, không,” Pycelle nói. “Bà cùng lũ trẻ lúc đó đang trên đường tới Casterly Rock, cùng với phụ thân của bà. Lãnh chúa Tywin đã mang theo đoàn tùy tùng tới thành phố nhân cuộc đấu thương ngựa mừng sinh nhật hoàng tử Joffrey, những mong nhìn thấy con trai Jaime của mình giành chiến thắng. Nhưng ông ấy đã vô cùng thất vọng. Chính tôi đã gửi thư cho hoàng hậu biết về sự ra đi đột ngột của Lãnh chúa Arryn. Tôi chưa bao giờ gửi đi một chú chim đưa thư với một tâm trạng nặng nề hơn.”
“Đôi cánh chim đen đưa lời u ám,” Ned thầm thì. Đó là câu nói Già Nan đã dạy ông từ hồi bé.
“Những bà hàng cá nói đúng” Grand Maester Pycelle đồng tình, “nhưng chúng ta thừa biết không phải câu nói đó lúc nào cũng đúng. Khi con chim của Maester Luwin mang tin về con trai Bran của ngài tới, bức thư đã khiến những người thực sự quan tâm tới thằng bé thấy nhẽ nhõm hắn, đúng không ạ?”
“Ngài nói đúng, Maester.”
“Thần thánh ban ơn.” Pycelle cúi đầu. “Nếu ngài muốn, ngài có thể thường xuyên lui tới chỗ tôi, thưa Lãnh chúa Eddard. Tôi rất sẵn lòng phục vụ.”
Khi cánh cửa đóng lại phía sau lưng, Ned nghĩ điều đó có thể đúng, nhưng phục vụ ai?
Trên đường về phòng, ông vô tình thấy Arya trên những bậc thang uốn lượn của Tháp Quân Sư, hai tay giang ra để giữ thăng bằng trên một chân. Đá thô đã làm trầy xước đôi chân trần của cô con gái. Ned dừng lại nhìn. “Arya, con làm gì đấy?”
“Thầy Syrio bảo con một thủy vũ công có thể đứng trên đầu ngón chân hàng giờ liền.” Tay con bé chấp chới trong không khí để giữ vững.
Ned đành phải cười. “Ngón nào?”
“Ngón nào cũng được “ Arya bực tức trả lời. Cô bé nhảy từ chân trái sang chân phải, người lảo đảo trước khi lấy lại thăng bằng.
“Con nhất thiết phải ở đứng đây không?” ông hỏi. “Quãng đường ngã xuống từ đây xuống dưới kia rất lâu và rất đau đấy.”

“Thầy Syrio bảo con rằng một thủy vũ công không bao giờ ngã.” Cô bé bỏ chân xuống và đứng trên cả hai chân. “Cha à, Bran sẽ tới sống cùng chúng ta chứ?”
“Còn lâu mới tới ngày đó được, con yêu à,” ông nói. “Em con cần hồi phục sức khỏe đã.”
Arya cắn môi. “Bran sẽ làm gì khi lớn lên ạ?”
Ned quỳ xuống bên cô con gái. “Em con còn nhiều năm để tìm ra câu trả lời, Arya. Giờ, em ấy còn sống là đủ rồi con ạ.” Tối hôm con chim thành Winterfell mang thư tới, Eddard Stark đã đưa các cô con gái tới rừng thiêng rộng một héc ta với những câu du, cây tống quán sủi, cây dương đen ngả bóng xuống một dòng sông của lâu đài. Ở đây cây mẹ là một cây sồi đại thụ với những nhánh cây to bị thân cây họ tầm gửi bám lấy. Họ quỳ trước cây để tạ ơn, như thể đây chính là cây đước vậy. Sansa chìm vào giấc ngủ khi trăng lên, Arya thức thêm vài tiếng nữa rồi sau đó nằm co mình trên thảm cỏ bên dưới tấm áo choàng của Ned. Ông một mình cảm tạ thần thánh suốt đêm. Khi bình minh phủ lên thành phố, những bông hoa đỏ rực chung quanh các cô gái nở rộ. “Con đã mơ thấy Bran,” Sansa đã thì thầm với ông. “Con thấy em ấy mỉm cười.”
“Em ấy sẽ trở thành một hiệp sĩ,” Arya cũng xen vào. “Một hiệp sĩ trong đội Ngự Lâm Quân. Em ấy vẫn có thể trở thành hiệp sĩ chứ cha?”
“Không,” Ned nói. Ông thấy nói dối cô con gái mình chẳng để làm gì cả. “Nhưng một ngày nào đó em ấy có thể trở thành lãnh chúa của một pháo đài vĩ đại nhất và ngồi trong hội đồng của nhà vua. Có thể em con sẽ xây dựng lên những lâu đài tựa như Brandon Kiến Thiết đã làm, hoặc đi thuyền dọc theo biển Hoàng Hôn, hoặc trở thành con chiên như mẹ con rồi lên tới chức Đại Tư Tế.” Nhưng con trai ông sẽ không bao giờ được chạy cạnh con sói của mình nữa, ông rầu rầu nghĩ, hoặc nằm ngủ với một người phụ nữ, hoặc ôm con trai mình trong vòng tay.
Arya nghiêng đầu sang một bên. “Thế con có thể trở thành thành viên hội đồng của nhà vua, xây lên những lâu đài và trở thành Đại Tư Tế được không ạ?”
“Con à,” Ned nói và nhẹ nhàng hôn lên trán cô con gái, “con sẽ lấy một nhà vua và cai quản lâu đài của ông ấy, và những con trai của con sẽ trở thành những hiệp sĩ, hoàng tử, Lãnh chúa, và đúng, thậm chí còn có thể làm một Đại Tư Tế.”
Arya nhăn mặt. “Không,” cô nói. “đó là số phận của chị Sansa.” Cô bé co chân phải lên và đứng thăng bằng. Ned thở dài và để cô con gái lại đó.
Bên trong phòng, ông cởi chiếc áo lụa nhớp nháp mồ hôi và dội ào ào nước lạnh từ trong cái chậu cạnh giường lên đầu. Alyn tiến vào khi ông đang lau mặt. “Thưa lãnh chúa,” ông nói, “Lãnh chúa Baelish tới cầu kiến.”
“Đưa ngài ấy tới thư phòng của ta,” Ned nói và với lấy một chiếc áo chẽn mới bằng vải lanh nhẹ nhất ông tìm thấy. “Ta sẽ gặp ngài ấy ngay lập tức.”
Ngón Út đang ngồi trên bệ cửa sổ và quan sát những hiệp sĩ của đội Ngự Lâm Quân luyện kiếm ở dưới sân. “Giá mà đầu óc của lão già Selmy còn lanh lẹ như lưỡi kiếm của lão nhỉ,” hắn ta buồn bã nói, “cuộc họp hội đồng của chúng ta sẽ sống động hơn nhiều.”
“Ser Barristan anh dũng và chính trực như bất cứ người đàn ông nào tại Vương Đô.” Ned vô cùng kính trọng vị tướng chỉ huy Ngự Lâm Quân tóc bạc đó.
“Và cũng mệt mỏi như họ,” Ngón út nói thêm, “dù tôi dám cá rằng ông ấy dư sức cho cuộc đấu thương ngựa. Năm ngoái ông ấy đã đánh ngã Chó Săn, và chỉ bốn năm trước thôi ông ấy còn đoạt cả chức vô địch ấy chứ.”
Eddard Stark chẳng hứng thú với việc ai là nhà vô địch mới. “Liệu đây có phải lý do cho chuyến viếng thăm của ngài không, Lãnh chúa Petyr, hay ngài tới đây chỉ để ngắm cảnh từ cửa sổ phòng tôi?”
Ngón Út mỉm cười. “Tôi đã hứa là tôi sẽ giúp đỡ ngài, mà tôi hứa là làm.”
Điều này làm Ned ngạc nhiên. Dù Lãnh chúa Petyr có hứa hay không, ông cũng không thể nào tin nổi hắn, vì hắn là người quá thủ đoạn. “Ngài có gì đó cho tôi sao?”
“Ai đó,” Ngón Út sửa lại. “Bốn ai đó thì đúng hơn. Ngài đã nghĩ tới việc thẩm vấn những người hầu của quân sư chưa?”
Ned nhíu mày. “Giá mà tôi có thể. Phu nhân Arryn đã đưa hết người hầu trở về Eyrie rồi.”

Lysa không giúp đỡ gì cho ông trong phương diện này. Những người thân cận nhất với chồng cô đã đi cùng khi cô chạy trốn: vị học sĩ, quản gia, tướng chỉ huy đội lính gác, những hiệp sĩ và những người tùy tùng.
“Phần lớn những người hầu thôi,” Ngón út nói, “không phải tất cả. vẫn có vài người lưu lại nơi này. Một cô làm bếp đang có chửa vội vã cưới một tay giữ ngựa của Lãnh chúa Renly, một gã coi ngựa đã tham gia Đội Gác Thành, một nhóc hầu bàn bị đuổi vì ăn trộm, và người hầu Lãnh chúa Arryn.”
“Cận vệ?[16]” Ned ngạc nhiên một cách hài lòng. Một người cận vệ sẽ biết nhiều chuyện về chủ nhân.
“Ser Hugh vùng Thung Lũng,” Ngón út nêu tên. “Nhà vua đã phong tước hiệp sĩ cho cậu thanh niên đó sau khi Lãnh chúa Arryn qua đời.”
“Tôi sẽ triệu hắn tới,” Ned nói. “Cùng những người khác.”
Ngón Út nhăn mặt. “Lãnh chúa của tôi, mời ngài vui lòng tới cửa sổ nào.”
“Vì sao?”
“Ngài cứ tới đây, và tôi sẽ cho ngài thấy.”
Ned nhíu mày rồi tới bên cửa sổ. Petyr Baelish hờ hững phẩy tay. “Đó, bên kia sân, ở cạnh cửa kho vũ khí, ngài có thấy một chàng thanh niên đang ngồi mài kiếm không?
“Hắn là ai?”
“Gián điệp của Varys. Tay gián điệp đó rất hứng thú với ngài cùng những việc làm của ngài.” Hắn dịch người trên bậu cửa sổ. “Giờ liếc nhìn trên bức tường. Ở phía tây, qua dãy chuồng ngựa ấy. Thấy người lính gác dựa người trên thành lũy không?”
Ned thấy. “Một trong những gián điệp khác của tay thái giám à?”
“Không, gã này phục vụ cho hoàng hậu. Ngài nhìn xem, hắn rất để ý tới cửa vào tháp, vì hắn có thể biết rõ ai tới gặp ngài. Còn có những kẻ khác, những kẻ mà ngay cả tôi cũng chẳng biết. Ngài nghĩ vì sao tôi lại giấu Cat tại một nhà thổ chứ?”
Eddard Stark không hề thích những mưu đồ chính trị này. “Bảy địa ngục ơi,” ông chửi thề. Quả đúng là gã trên tường thành đang quan sát ông. Đột nhiên thấy không thoải mái, Ned rời khỏi cửa sổ. “Chẳng lẽ bất cứ ai trong thành phố đáng nguyền rủa này đều là gián điệp ột ai đó sao?”
“Hầu như là vậy,” Ngón út nói. Hắn đếm ngón tay. “Ngoại trừ tôi, ngài và nhà vua... nhưng ngài cứ nghĩ mà xem, nhà vua nói với hoàng hậu quá nhiều, còn tôi đâu rõ ngài như thế nào đâu.” Hắn đứng lên. “Ngài có hoàn toàn tin ai trong ngọn tháp này không?”
“Có,” Ned nói.
“Nếu vậy, tôi vô cùng muốn bán cho ngài một mảnh đất tại Valyria[17]” Ngón út cười mỉa. “đáng ra ngài nên trả lời rằng không, nhưng nếu ngài có thể tin được ai thì cứ tin đi. Hãy cử người tâm phúc đó tới chỗ Ser Hugh và những kẻ khác đi. Những kẻ tới chỗ ngài sẽ bị để ý, nhưng kể cả Varys Gián Điệp cũng không thể theo dõi tất cả những người tới gặp ngài mỗi giờ được.” Hắn dợm bước tới cửa.
“Lãnh chúa Petyr,” Ned gọi. “Tôi... rất biết ơn vì sự giúp đỡ của ngài. Có lẽ tôi đã nhầm khi không tin ngài.”
Ngón Út gãi gãi chỏm râu. “Ngài học chậm quá, Lãnh chúa Eddard. Không tin tôi là điều khôn ngoan nhất ngài từng làm kể từ khi xuống ngựa.”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,359
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 33: Chương 26 phần 1




JON
 
Jon đang chỉ cho Dareon cách ra đòn tạt hông hiệu quả nhất thì một lính mới vào sân tập. “Cậu đứng rộng chân ra,” cậu ta nhắc nhở. “Cậu không muốn mất thăng bằng đâu. Tốt đó. Giờ xoay người chém, nhớ dùng toàn lực đấy nhé.”
Dareon dừng lại và nâng lưỡi che mặt lên. “Bảy vị thần ơi,” anh ta thì thào. “Nhìn đi Jon.”
Jon quay người lại. Qua khe mũ trụ, cậu thấy một cậu nhóc béo chưa từng thấy đang đứng ở cửa kho vũ khí. Nhìn qua Jon đoán cậu ta phải nặng hai mươi đá. Cổ áo lông của chiếc áo khoác thêu đã biến mất dưới cằm. Đôi mắt xanh nhạt của cậu ta đang đảo qua đảo lại một cách lo lắng trên khuôn mặt tròn vo, và những ngón tay béo múp nhớp nháp mồ hôi lau lên chiếc áo chẽn nhung. “Họ... họ bảo mình tới đây để... để luyện tập,” cậu ta không nói cụ thể với một ai.
“Một tiểu quý tộc đây mà,” Pyp nhận xét với Jon. “Người phương nam, chắc gần thành Highgarden.” Pyp đã đi lại trong Bảy Phụ Quốc với một đoàn kịch câm, và khoe khoang rằng hắn có thể nói cho anh biết anh là người thế nào tới từ đâu mà chỉ cần nghe giọng nói thôi.
Hình một thợ săn đang sải bước được thêu bằng chỉ đỏ trước ngực áo choàng lông của cậu béo đó. Jon không nhận ra gia huy nhà nào. Ser Alliser Thorne nhìn người mới rồi nói, “Chắc dạo này ở phương nam không có nạn săn trộm hay trộm cắp gì hay sao ấy. Thế nên giờ họ gửi cả lợn đến làm lính Tường Thành đây này. Lãnh chúa Lợn Cạo, cậu nghĩ áo giáp là áo lông thú với vải nhung chắc?”
Sau đó không lâu họ phát hiện rằng cậu lính mới này có đem theo một bộ giáp riêng: áo trấn thủ, áo da thuộc, áo giáp xích, hộ tâm, mũ trụ, thậm chí là cả một cái khiên lớn bằng gỗ bọc da có vẽ huy hiệu thợ săn sải bước giống trên áo khoác. Nhưng, chúng không phải màu đen, vì thế Ser Alliser nhất định buộc cậu ta trang bị lại bằng đồ trong kho vũ khí. Công việc này mất nửa buổi sáng. Vòng ngực của cậu ta buộc ông Donal Noye phải tháo một phần áo giáp và tăng kích thước bằng cách thêm các sợi dây da ở hai bên. Để đội mũ trụ vừa đầu, viên sĩ quan phụ trách vũ khí phải tháo tấm che mặt ra. Xà cạp da quấn quá chặt quanh chân và tay cậu ta khiến cậu ta không thể cử động nổi. Mặc đồ chiến xong trông cậu lính mới cứ như cái xúc xích nướng quá tay sắp sửa bung hết vỏ vậy.
“Hy vọng cậu không lạc lõng với nơi này giống như vẻ ngoài,” Ser Alliser nói. “Halder, hãy xem ngài Lợn Sữa làm được gì nào.”
Jon Snow nhăn mặt. Halder được sinh ra ở một mỏ đá và đang học việc để trở thành một thợ đá. Anh mười sáu tuổi, cao to lực lưỡng, những cú đánh của anh cũng là những cú mạnh nhất Jon từng biết đến. “Kết quả sẽ tệ lắm đây,” Pyp thì thầm và quả đúng thế thật.
Trận đấu kéo dài chưa tới một phút thì cậu nhóc béo núc ních Ida nằm thẳng cẳng trên mặt đất, cả người run rẩy khi máu ứa ra qua chiếc mũ trụ méo mó và giữa những ngón tay núng nính. “Tôi đầu hàng,” cậu ta nheo nhéo hét lên. “Không, tôi đầu hàng, đừng đánh nữa.” Rast và vài cậu nhóc khác phá lên cười ầm ĩ.
Kể cả tới lúc đó, Ser Alliser cũng không cho ngừng. “Đứng lên, ngài Lợn Sữa,” ông ta gọi. “Nhặt kiếm lên.” Khi cậu nhóc vẫn nằm co quắp trên mặt đất, Thorne ra hiệu cho Halder. “Dùng mặt kiếm đánh cho tới khi hắn đứng dậy thì thôi.” Halder vỗ nhè nhẹ lên má thằng nhóc. “Cậu đánh mạnh hơn được chứ nhỉ,” Thorne chế giễu. Halder cầm thanh kiếm bằng cả hai tay và vụt mạnh xuống, làm bung hết tất cả các sợi dây gia cố, tuột cả áo giáp. Cậu lính mới thét lên vì đau.

Jon Snow bước lên một bước. Pyp đặt tay lên cản cậu lại. “Jon, đừng,” cậu nhóc nhỏ thó nói và đưa mắt ái ngại nhìn Ser Alliser Thorne.
“Đứng dậy,” lão Thorne nhắc lại. Cậu nhóc loạng choạng đứng dậy, trượt chân, rồi lại ngã đánh oạch. “Ngài Lợn Sữa bắt đầu hiểu chuyện rồi,” Ser Alliser nhận xét. “Lại.”
Halder giơ kiếm định đánh xuống lần nữa.
“Cho tôi xin miếng thịt lợn muối nào!” Rast giục giã, cười đùa.
Jon rũ tay Pyp. “Halder, đủ rồi.”
Haider nhìn Ser Alliser.
“Cậu con hoang mới nói thôi đã làm những gã nông dân run rẩy rồi,” viên sĩ quan huấn luyện nói một cách sắc lạnh. “Ta có cần nhắc cậu nhớ ta mới là sĩ quan phụ trách huấn luyện ở đây không nhỉ, Lãnh chúa Snow.”
“Nhìn cậu ta đi, Haider” Jon nài, lờ tịt Thorne hết mức có thể. “Chẳng vẻ vang gì khi đánh một kẻ thua cuộc. Hắn đã đầu hàng rồi.” Cậu quỳ xuống cạnh cậu béo.
Halder hạ kiếm xuống. “Hắn đã đầu hàng,” anh ta nhắc lại.
Đôi mắt màu mã não của Ser Alliser dán chặt vào Jon Snow. “Dường như con hoang của chúng ta đang yêu rồi,” lão nói khi Jon giúp cậu béo kia đứng dậy. “Rút kiếm xem nào, Lãnh chúa Snow.”
Jon rút thanh trường kiếm. Cậu chỉ dám thách thức Ser Alliser tới một giới hạn nào đó, và cậu sợ rằng mình đã vượt qua giới hạn đó rồi.
Thorne mỉm cười. “Cậu con hoang muốn bảo vệ cho tiểu thư yêu quý của mình, vậy chúng ta sẽ luyện tập chút xíu vậy. Chuột, Mặt Mụn, lên giúp Đầu Đá của chúng ta nào.” Rast và Albett nhập bọn cùng Halder. “Ba người là đủ để khiến tiểu thư Lợn Sữa kêu eng éc lên rồi. Tất cả những gì các cậu cần làm là vượt qua con hoang.”

“Đứng ra sau tôi,” Jon nói với nhóc béo. Ser Alliser thường bắt cậu đấu theo kiểu hai đấu một, nhưng chưa bao giờ là ba người thế này. Cậu biết tối nay cậu sẽ đi ngủ cùng những vết bầm tím và máu tụ. Cậu lên tinh thần chuẩn bị đón nhận cuộc tấn công.
Đột nhiên Pyp tới bên cậu. “Ba chọi hai sẽ công bằng hơn,” cậu nhóc nhỏ bé vui vẻ nói. Cậu hạ xuống và rút kiếm. Trước khi Jon kịp phản đối, Grenn đã bước ra làm người thứ ba.
Cả sân tập như chết lặng. Jon có thể cảm nhận ánh mắt của Ser Alliser. “Các cậu còn đợi gì nữa?” lão hỏi Rast và những đứa nhóc khác bằng cái giọng nhẹ nhàng giả tạo, nhưng Jon mới là người hành động trước. Halder chỉ kịp đỡ kiếm.
Jon đẩy hắn lùi lại, tấn công dồn dập, khiến cậu thiếu niên lớn tuổi hơn liên tục phải đỡ đòn. Hãy hiểu đối thủ của mình, Ser Rodrik đã từng dậy cậu; Jon hiểu Halder, anh ta khỏe như vâm nhưng lại thiếu kiên nhẫn và không biết cách phòng thủ. Làm anh ta bực bội, chắc chắn anh ta sẽ sơ hở. Điều đó hiển nhiên như mặt trời lặn đằng tây vậy.
Tiếng kiếm va lanh canh vang vọng khắp sân tập trong khi những người khác tụ tập xung quanh. Jon đỡ cú đánh từ trên bổ xuống mà tay tê rần rần. Cậu thúc vào mạng sườn Haider khiến anh ta rên rỉ vì đau. Anh ta phản đòn trúng vai Jon. Áo giáp xích kêu lạo xạo và cậu đau nhói ở cổ, nhưng đột nhiên Halder mất cân bằng. Jon chém vào chân trái hắn, anh ta loạng choạng, chửi thề và đổ vật xuống sân.
Grenn đứng đúng tư thế Jon đã dạy, và cậu ta đã làm Albett dính đòn nhiều hơn chủ ý, nhưng Pyp đang khá chật vật. Rast lớn hơn cậu hai tuổi và to con hơn nhiều. Jon bước về phía sau hắn và đánh vào mũ trụ của Rast như thể gõ chuông. Khi Rast đang quay cuồng, Pyp trượt xuống dưới chiếc khiên chắn, đánh ngã và kề dao vào cổ hắn. Tới lúc đó Jon hành động tiếp. Đối mặt với hai lưỡi kiếm, Albett lùi lại. “Tao đầu hàng” hắn hét lên.
Ser Alliser Thorne khinh bỉ nhìn cảnh trước mặt “Vở kịch câm hôm nay kéo dài thế là đủ”, rồi bỏ đi. Buổi tập tới hồi kết thúc.
Dareon kéo Halder đứng dậy. Con trai ông thợ đá tháo mũ trụ và ném xuống sân. “Trong một giây thôi, anh cứ nghĩ rằng anh đã đánh bại được chú, Snow ạ.”
“Trong một giây, anh đã làm được,” Jon trả lời. Bên dưới lớp áo giáp và áo da, vai cậu đang sưng lên. Cậu tra kiếm vào vỏ và cố cởi mũ, nhưng khi cậu giơ tay, vết thương khiến câu đau tới nghiến răng nghiến lợi.
“Để mình giúp,” một giọng nói vang lên. Những ngón tay mum múp tháo mũ trụ khỏi phần che bọng cổ và nhẹ nhàng nâng nó lên. “Anh ta có làm cậu bị đau không?”
“Mình vẫn bị bầm tím thường xuyên.” Cậu chạm lên vai và nhăn mặt. Sân tập chẳng còn ai khác ngoài họ.
Máu bết trên tóc cậu béo ở phần mũ trụ đã bị Halder đập móp “Tên mình là Samwell Tarly thành Horn...” Cậu dừng lại và liếm môi. “Ý mình là, mình là người Đồi Horn... tính tới khi mình... ra đi. Mình tới đây để mặc đồng phục đen. Cha mình là Lãnh chúa Randyll, quân đồng minh của nhà Tyrell vùng Highgarden. Mình từng là người kế tục cho ông ấy, chỉ là...” Giọng cậu ta lạc đi mất.

“Mình là Jon Snow, con hoang của Ned Stark, vùng Winterfell”
Samwell Tarly gật đầu. “Mẹ tôi gọi tôi là Sam.”
“Cậu có thể gọi hắn là Lãnh chúa Snow” Pyp nhập bọn. “Cậu không muốn biết mẹ hắn gọi hắn là gì đâu.”
“Hai người này là Grenn và Pypar “ Jon nói.
“Thằng xấu trai là Grenn,” Pyp nói.
Grenn quắc mắt. “Mày xấu hơn tao. ít nhất tao không có tai dơi.”
“Cám ơn tất cả mọi người,” cậu béo thành thực nói.
“Sao cậu không đứng dậy đấu tiếp?” Grenn hỏi.
“Tôi cũng muốn lắm, thật đấy. Chỉ là tôi… tôi không thể. Tôi không muốn hắn đánh tôi tiếp.” Cậu ta nhìn xuống mặt đất. “Tôi sự mình chỉ là kẻ hèn nhát. Bố tôi luôn nói tôi như vậy.”
Grenn đứng im như bị sét đánh. Kể cả Pyp cũng chẳng biết nên nói gì, mà Pyp luôn là đứa lanh mồm lanh miệng. Sao có loại người tự nhận mình hèn nhát cơ chứ?
Samwell Tarly chắc hắn đã đọc được suy nghĩ qua nét mặt họ. Cậu ta nhìn vào mắt Jon rồi lảng đi, như thể một con thú đang sự hãi. “Mình... mình xin lỗi,” cậu ta nói. “Mình không muốn... mình như bây giờ.” Cậu ta nặng nhọc bước về kho vũ khí.
Jon gọi với theo. “Cậu đang bị thương,” cậu nói. “Mai cậu sẽ khá hơn thôi.”
Sam quay mặt lại nhìn trông thảm thương vô cùng, “không đâu,” cậu ta nói, cố gắng ngăn nước mắt. “Không bao giờ.”
Khi cậu ta đi khuất, Grenn nhăn mặt. “Chẳng thích mấy thằng hèn,” cậu ta nói giọng không thoải mái. “Tao ước gì chúng ta không giúp hắn. Nếu họ cũng nghĩ chúng ta hèn thì sao?”

“Mày ngu lắm rồi không hèn được đâu,” Pyp bảo.
“Tao không ngu,” Grenn nói.
“Có. Nếu một con gấu tấn công mày trong rừng, mày ngu tới mức chẳng còn biết đường mà chạy đi cơ.”
“Không,” Grenn khăng khăng. “Tao lủi nhanh hơn mày.” Đột nhiên cậu ta ngừng lại, quắc mắt khi thấy nụ cười toe toét của Pyp và nhận ra mình vừa nói gì. Cái cổ to tướng của cậu ta đỏ rực lên. Jon để họ lại tranh cãi với nhau và trở vào kho vũ khí, treo kiếm lên, tháo bộ áo giáp tả tơi ra. Cuộc sống ở Hắc Thành luôn theo quy củ: sáng sáng tập kiếm, chiều chiều làm việc. Anh em áo đen giao cho đội lính mới rất nhiều công việc khác nhau, để xem họ có khả năng nổi trội trong lĩnh vực nào. Jon rất yêu thích những buổi chiều hiếm hoi được ra ngoài cùng Bóng Ma đi săn thịt thú rừng về cho bàn ăn của tướng chỉ huy, nhưng để đi săn mỗi ngày, cậu phải làm việc cật lực cho bác Donal Noye ở kho vũ khí, quay đá mài trong khi người thợ rèn một tay mài sắc những cây rìu cùn vì sử dụng nhiều, hay thổi bễ lò để ông Noye rèn thanh kiếm mới. Những lúc khác, cậu sẽ đi chạy thư, canh gác, dọn chuồng ngựa, gắn mũi tên, giúp Maester Aemon chăm sóc lũ chim hoặc giúp ngài Bowen Marsh tính toán sổ sách và kiểm kê hàng hóa.
Chiều hôm đó, chỉ huy đội gác cử cậu tới cần trục, mang theo bốn thùng đá cuội để trải lại đường đi đã bị băng phủ dày trên Tường Thành. Đó là một công việc buồn chán và đơn độc, kể cả khi có Bóng Ma bên mình, nhưng Jon lại không nề hà. Trong những ngày trời quang mây tạnh, mọi người có thể nhìn thấy một nửa thế giới từ đỉnh Tường Thành, không khí luôn lạnh lẽo và làm người ta khỏe khoắn. Ở đây cậu có thể suy ngẫm, cậu nghĩ về Samwell Tarly... và, kỳ lạ là về Tyrion Lannister. Cậu không biết Tyrion sẽ làm gì với cậu nhóc béo ị kia. Hầu hết mọi người thường lảng tránh những sự thật khó chịu hơn là đối mặt với nó, người lùn đã từng cười bảo với cậu như vậy. Thế giới đầy những kẻ hèn nhát cố giả danh anh hùng; cần phải có một lòng dũng cảm bất thường để dám thừa nhận mình là kẻ hèn như Samwell Tarly đã làm.
Bên vai bị đau làm chậm tiến độ công việc. Mãi tới chiều muộn Jon mới hoàn thành việc trải đường. Cậu nán lại phía trên cao ngắm nhìn cảnh mặt trời khuất bóng, nhuộm bầu trời phía tây thành màu máu. Cuối cùng, khi hoàng hôn bao trùm toàn bộ phương bắc, Jon lăn mấy chiếc thùng rỗng trở lại cũi và ra hiệu cho những người kéo cần trục cho cậu xuống.
Mọi người đã gần ăn xong bữa tối khi cậu và Bóng Ma vào phòng sinh hoạt chung. Một nhóm anh em áo đen đang chơi xúc xắc và ngồi uống rượu bên cạnh bếp lửa. Những người bạn của cậu đang ngồi trên băng ghế gần bức tường phía tây và cười đùa. Pyp đang kể dở một câu chuyện. Cậu con trai người diễn kịch câm mang đôi tai to kia là một kẻ có khả năng khẩu thuật bẩm sinh nhại hàng trăm giọng nói khác nhau, những câu chuyện sinh động như thật. Nếu cần cậu ta sẽ đóng tất cả các vai, một phút trước còn là một nhà vua nhưng phút sau đã là tay chăn lợn. Khi cậu ta hóa thân thành một cô gái ở tửu điếm hay một nàng công chúa ngây thở trong trắng, cậu ta thường dùng cái giọng the thé khiến họ cười chảy cả nước mắt, và những tay hoạn quan thì luôn có cái giọng y hệt giọng của Ser Alliser. Jon yêu thích những câu chuyện cười của Pyp như bất kỳ một ai... nhưng tối đó cậu quay đi và tới cuối băng ghế, nơi Samwell Tarly ngồi một mình, tránh xa những người khác hết mức có thể.
Cậu ta đã ăn xong miếng bánh nhồi thịt mà đầu bếp phục vụ cho bữa ăn đêm khi Jon ngồi xuống phía đối diện. Đôi mắt của cậu béo mở to khi nhìn thấy Bóng Ma. “Nó là sói à?”
“Một con sói tuyết.” Jon nói. “Tên nó là Bóng Ma. Sói tuyết là gia huy nhà cha mình.”
“Của gia đình mình là một thự săn đang bước đi.” Samwell Tarly nói.
“Cậu thích đi săn không?”
Cậu béo rùng mình. “Mình ghét đi săn.” Cậu ta lại có vẻ sắp khóc.
“Giờ lại sao đây?” Jon hỏi. “Vì sao cậu luôn sợ sệt vậy?”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,359
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 34: Chương 26 phần 2




Sam nhìn chằm chằm vào miếng bánh thịt cuối cùng và yếu ớt lắc đầu, quá sự không dám nói. Jon nghe tiếng Pyp ré lên the thé. Cậu đứng dậy. “Chúng ta ra ngoài đi.” Khuôn mặt tròn vo nhìn cậu với vẻ ngờ vực. “Vì sao? Chúng ta làm gì ở ngoài kia?”
“Nói chuyện,” Jon nói. “Cậu thấy Tường Thành chưa?”
“Mình béo, chứ không mù,” Samwell Tarly nói. “Tất nhiên mình đã thấy, nó cao hơn hai trăm mét cơ mà.” Nhưng cậu ta cũng đứng lên, quấn áo choàng phủ lông lên vai và đi theo Jon ra khỏi phòng sinh hoạt chung, vẫn sợ sệt như thể nghi ngờ có trò đùa ác ý nào đó đang đợi cậu ta trong màn đêm. Bóng Ma bước đi bên cạnh. “Mình chưa bao giờ nghĩ nó lại như thế này,” Sam nói, lời nói bốc lên thành khói trong tiết trời lạnh lẽo. Cậu ta thở hổn hà hổn hển khi cố theo kịp. “Tất cả những tòa nhà đều đang sụp đổ, và trời quá... quá là...”
“Lạnh?” Một cơn gió lạnh buốt thổi qua lâu đài, Jon có thể nghe thấy tiếng lạo xạo khe khẽ của những cây cỏ dại xám xịt dưới gót giày.
Sam thảm hại gật đầu. “Mình ghét trời lạnh,” cậu ta nói. “Đêm trước mình đã tỉnh giấc giữa đêm, lửa đã tàn và mình đã chắc rằng đến lúc trời sáng thì mình sẽ bị chết cóng.”
“Quê hương cậu chắc ấm áp hơn.”
“Mình chưa bao giờ thấy tuyết cho tới tháng trước. Mình cùng những người hầu mà cha cử theo mình lên phương bắc đã vượt qua khu mộ, và thứ trắng tinh này bắt đầu rơi xuống như một trận mưa bụi. Lúc đầu mình nghĩ nó thật đẹp như lông vũ từ trên trời rơi xuống vậy, nhưng nó cứ rơi mãi rơi mãi cho tới khi mình lạnh tới tận xương. Những gia đinh bị tuyết đóng băng trên râu và phủ đầy hai vai, vậy mà tuyết vẫn tiếp tục rơi xuống. Mình đã sự rằng nó sẽ không bao giờ chấm dứt.”
Jon mỉm cười.
Tường Thành sừng sững phía trước họ, tỏa sáng mờ mờ dưới ánh trăng non. Trên trời, những ngôi sao sáng trong và lấp lánh. “Họ sẽ bắt mình lên trên đó ư?” Sam hỏi. Khuôn mặt cậu ta đông lại như sữa hỏng khi nhìn lên cái cầu thang gỗ dài dằng dặc. “Mình sẽ chết nếu phải leo lên trên đó mất.”
“Có một cần trục,” Jon chỉ và nói. “Cậu có thể chui vào lồng và họ sẽ kéo cậu lên.”

Samwell Tarly khụt khịt. “Mình không thích độ cao.”
Quá đáng quá rồi. Jon nhíu mày, ngờ vực. “Cậu sợ mọi thứ à?” cậu hỏi. “Mình không hiểu. Nếu cậu thực sự là một thằng hèn, vì sao cậu lại tới đây? Vì sao một thằng hèn lại muốn gia nhập Đội Tuần Đêm?”
Samwell Tarly nhìn cậu một lúc lâu, khuôn mặt tròn dường như đang dúm dó lại. Cậu ngồi xuống mặt đất phủ băng và bắt đầu thổn thức, những tiếng khóc nấc nghẹn làm cơ thể cậu ta rung lên. Jon Snow chỉ có thể đứng nhìn. Cũng giống như tuyết trên khu mộ, dòng nước mắt dường như không bao giờ ngừng rơi.
Bóng Ma lại biết cần làm gì. Im lặng như một cái bóng, con sói tuyết trắng tới gần hơn và liếm những giọt nước mắt nóng hổi trên khuôn mặt Samwell Tarly. Cậu béo giật mình, hét lên... nhưng không hiểu sao, chỉ tích tắc sau, tiếng khóc chuyển thành tiếng cười.
Jon Snow cười với cậu. Sau đó họ ngồi trên mặt đất đóng băng, chui rúc bên trong áo choàng với Bóng Ma ở giữa. Jon kể câu chuyện làm thế nào cậu và Robb tìm thấy lũ sói con trong trận tuyết cuối hè. Câu chuyện dường như đã diễn ra cả ngàn năm trước vậy. Đã rất lâu rồi cậu mới nói tới Winterfell.
“Thi thoảng mình cũng mơ thấy nó,” cậu nói. “mình đi trên những hành lang dài vắng vẻ. Giọng mình vang vọng tứ phía, nhưng không ai trả lời, thế là mình đi nhanh hơn, mở toang các cánh cửa, hét gọi tên. Mình không biết mình cần tìm ai nữa. Hầu hết các đêm mình muốn tìm cha mình, nhưng thi thoảng lại là tìm Robb, hoặc người em gái nhỏ Arya, hoặc chú mình.” Ý nghĩ về chú Benjen Stark làm cậu buồn rười rượi; chú cậu vẫn bặt vô âm tín. Gấu Già đã gửi lính biệt kích đi tìm. Ser Jaremy Rykker đã dẫn đoàn tìm kiếm hai lần, và Quorun Cụt Tay đã đi tới Tháp Đêm bốn lần, nhưng họ không tìm thấy gì ngoài những vết rạch chú đánh dấu trên cây. Trên những cao nguyên đá vùng tây bắc, những vết đó đột ngột ngừng lại và tất cả những dấu vết về chú Ben Stark biến mất.
“Thế cậu có bao giờ tìm thấy ai trong giấc mơ không?” Sam hỏi.
Jon lắc đầu. “Không. Lâu đài luôn luôn vắng người.” Cậu chưa từng nói với ai về giấc mơ, và cậu không hiểu vì sao mình lại đem chuyện này kể với Sam, nhưng nói ra được thật nhẹ lòng. “Kể cả những con quạ cũng rời tổ, còn chuồng ngựa trắng xương. Quang cảnh đó luôn làm mình sợ. Sau đó mình tiếp tục chạy, mở toang các cánh cửa, leo ba bậc một lúc lên tháp, hét gọi một ai đó, bất kỳ một ai. Và sau đó mình thấy mình đứng trước cửa hầm mộ. Bên trong tối om, và mình có thể thấy những bậc thang đang lượn xuống dần. Không hiểu sao mình biết mình phải đi xuống dưới, nhưng mình không muốn. Mình sợ điều đang chờ đợi mình. Những vị Vua già của Mùa Đông ở dưới đó, ngồi trên ngai với những con sói đá nằm dưới chân và thanh kiếm sắt đặt trên lòng, nhưng mình không sợ họ. Mình gào thét rằng mình không phải người nhà Stark, đó không phải nơi dành ình, nhưng chẳng ích gì, dù sao mình vẫn phải đi. Vì thế mình men theo bức tường mò xuống, trên tay không cầm theo lấy một ngọn đuốc soi đường. Bên trong càng lúc càng tối, tới khi mình muốn thét lên.” Cậu ngừng kể, nhíu mày, ngượng ngập. “Mình luôn thức dậy vào lúc đó.” Da cậu đổ mồ hôi lạnh và ướt, cậu run rẩy trong bóng tối. Rồi Bóng Trăng sẽ nhảy đến bên cạnh cậu, hơi ấm từ nó tỏa ra thật dễ chịu tựa như ánh sớm mai vậy. Cậu sẽ ngủ tiếp, mặt áp vào bộ lông trắng xù của con sói tuyết. “Cậu có bao giờ mơ về Đồi Horn không?”
“Không.” Sam mím chặt môi, “Mình ghét nơi đó.” Cậu gãi gãi tai Bóng Ma, mặt trầm tư, còn Jon lặng lẽ thở dài. Một hồi lâu sau khi Samwell Tarly bắt đầu nói chuyện, Jon im lặng lắng nghe và hiểu tại sao cậu nhóc tự nhận mình là đồ hèn lại tới Tường Thành.

Nhà Tarly là một dòng họ lâu đời được người người trọng vọng, là quân đồng minh với Mace Tyrell, Lãnh chúa thành Highgarden và Thủ Lĩnh Phương Nam. Người con cả của Lãnh chúa Randyll Tarly, Samwell sinh ra đã là người thừa kế những vùng đất màu mỡ, một pháo đài cố thủ, và một thanh đại đao hai lưỡi trong truyền thuyết, mang tên Tâm Độc, được rèn từ thép của người Valyria và được truyền từ đời cha sang đời con suốt năm trăm năm.
Dù cho người cha quý tộc kia tự hào về Sam thế nào thì niềm tự hào đó cũng tan biến khi cậu ta lớn dần, trở nên mập mạp, yếu đuối và vụng về. Sam thích nghe và sáng tác nhạc, thích mặc đồ nhung mềm, thích chơi trong bếp của lâu đài bên cạnh những đầu bếp, say sưa ngắm nhìn họ trong không gian đậm mùi bánh chanh và bánh việt quất. Cậu mê mẩn sách vở, mèo con và khiêu vũ, dù khá vụng về. Nhưng cậu phát ốm khi nhìn thấy máu, và chỉ cần nhìn thấy một con gà bị giết cũng khiến cậu khóc lóc mãi. Cả tá những thầy dạy kiếm cứ đến và đi, cố biến Samwell thành một hiệp sĩ theo ý nguyện của cha cậu. Cậu nhóc bị chửi rủa, bị đánh và bị bỏ đói. Một người còn bắt cậu mặc áo giáp xích đi ngủ hòng làm cho cậu dũng mãnh hơn. Người khác cho cậu mặc đồ của mẹ và diễu cậu đi khắp trong sân lâu đài để biến nỗi xấu hổ nơi cậu thành lòng dũng cảm. Cậu càng lúc càng béo quay béo cút và trở nên sợ sệt hơn, tới khi sự thất vọng của Lãnh chúa Randyll biến thành giận dữ và thù hận.
“Có một lần,” Sam thú nhận, giọng chuyển thành tiếng thì thầm, “hai người đàn ông tới lâu đài, đó là những tay thầy bùa tới từ Qarth mang nước da trắng và môi xanh lè. Họ giết chết một con bò đực và bắt mình tắm trong máu nóng, nhưng nó không làm mình dũng cảm như lời họ đã hứa. Mình bị ốm và ói mửa. Cha đã dùng roi trừng phạt họ.”
Cuối cùng, sau khi sinh hạ ba cô con gái, phu nhân Tarly đã sinh cho Lãnh chúa Randyll cậu con trai thứ hai.
Từ ngày đó, cha Sam lờ tịt cậu đi, dành toàn bộ thời gian cho cậu con trai nhỏ, một đứa trẻ dũng mãnh, tráng kiện hơn cả mong mỏi của ông. Samwell đã có vài năm an bình với âm nhạc và những cuốn sách của mình.
Vào buổi bình minh của ngày sinh nhật thứ mười lăm, cậu bị đánh thức và thấy ngựa đã thắng yên sẵn sàng. Ba kỵ binh hộ tống cậu vào trong khu rừng gần đồi Horn, nơi cha cậu đang lột da một con nai. “Con sắp trở thành một người đàn ông trưởng thành, và là người kế nghiệp cha,” Lãnh chúa Randyll nói với cậu con cả, trong khi con dao dài đang nằm trên xác con vật. “Ta không thể từ con, nhưng ta cũng không thể để con thừa kế vùng đất và danh hiệu phải thuộc về Dickon. Tâm Độc phải nằm trong tay người đủ sức sử dụng nó, và con không đáng được chạm vào đốc kiếm. Vì thế ta quyết định rằng ngày hôm nay ngươi sẽ gia nhập đội quân áo đen. Ngươi phải từ bỏ tất cả quyền thừa kế cho em trai mình và đi lên phương bắc trước hoàng hôn.
“Nếu không, sáng mai chúng ta sẽ đi săn, con ngựa của ngươi bị sảy chân trong rừng và ngươi bị ngã ngựa mà chết... hay đó là những gì ta sẽ kể với mẹ ngươi. Trái tim yếu đuối của người đàn bà có thể yêu thương cả một đứa vô dụng như ngươi, và ta không muốn khiến bà ấy đau lòng. Ngươi đừng nghĩ mình sẽ chết dễ dàng. Không gì khiến ta vui thích hơn là được giết ngươi như mổ thịt một con lợn.” Tay ông đỏ lên tận khuỷu khi đặt con dao lột da sang bên cạnh. “Thế nên, giờ ngươi chọn đi. Đội Tuần Đêm” - ông cho tay vào trong con nai, giật quả tim ra, nắm chặt thứ đỏ lòm đang nhỏ máu trong tay - “hoặc thế này.”
Sam kể lại bằng giọng bình thản, tẻ nhạt như thể đó là một câu chuyện về một người khác, không phải cậu ta. Jon thấy lạ vì cậu ta không hề khóc lấy một lần. Khi kể xong, họ ngồi cạnh nhau, lắng nghe tiếng gió thổi. Trong thế giới không còn một âm thanh nào khác.
Cuối cùng Jon nói, “Chúng ta nên về phòng sinh hoạt chung thôi.”
“Vì sao?” Sam hỏi.

Jon nhún vai. “Trong đó có rượu táo nóng, hoặc rượu men nếu cậu thích. Thi thoảng Dareon sẽ hát cho chúng ta nghe, nếu anh ta vui. Anh ấy từng là một ca sĩ, trước khi... ừm, thật ra, gần đúng thôi, anh ta mới tập tọe làm ca sĩ thôi.”
“Sao anh ta lại tới đây?” Sam hỏi.
“Lãnh chúa Rowan vùng Goldengrove thấy hắn ta trên giường cùng con gái mình. Cô gái lớn hơn anh ta hai tuổi, mà Dareon thề sống thề chết rằng ả ta giúp anh trèo qua cửa sổ, nhưng trước mặt cha ả, ả khai anh ấy hãm hiếp ả, và thế là anh ta ở đây. Khi Maester nghe thấy cậu ta hát, ông ấy nói giọng cậu ấy là mật ong trút lên sấm sét.” Jon mỉm cười. “Thi thoảng Toad cũng hát, nếu cậu gọi đó là hát. Cậu ta học hát trong những phút chè chén từ cha mình. Pyp nói giọng cậu ta là nước tiểu hòa cùng rắm.” Họ cùng cười vang.
“Thế thì tôi muốn nghe cả hai bọn họ hát,” Sam thừa nhận, “nhưng họ không muốn tôi ở đó.” Khuôn mặt cậu ta nhuốm màu suy tư. “Lão ấy sẽ bắt tôi đấu tiếp, đúng không?”
“Đúng,” Jon buộc phải nói.
Sam vụng về đứng dậy. “Tốt nhất tôi nên ngủ thôi.” Cậu ta cuốn tấm áo choàng quanh người và lê bước đi.
Những người khác vẫn trong phòng sinh hoạt chung khi Jon trở về cùng với Bóng Ma. “Cậu ở đâu vậy?” Pyp hỏi.
“Nói chuyện với Sam,” cậu nói.
“Hắn thực sự là một thằng hèn,” Grenn nói. “Ở bữa tối, lúc hắn lấy bánh trên ghế còn đầy chỗ, nhưng hắn sợ chẳng dám ngồi cùng bọn tao.”
“Lãnh chúa Lợn Cạo nghĩ mình quá tốt đẹp không nên ngồi cùng lũ như chúng ta,” Jeren gợi ý.

“Tao thấy nó ăn bánh thịt lợn,” Toad cười khinh khỉnh. “Mày nghĩ xem có phải nó đang ăn thịt anh em mình không nhỉ?” Hắn ta bắt đầu nhại tiếng eng éc.
“Thôi đi!” Jon giận dữ quát.
Những cậu trai khác im bặt, ngạc nhiên vì cơn giận đột ngột của cậu. “Nghe tôi nói này,” Jon nói với đám người đang im lặng, và kể cho họ chuyện gì đã xảy ra. Pyp ủng hộ cậu, đúng như cậu nghĩ, nhưng khi Halder đồng ý thì cậu hoàn toàn ngạc nhiên. Grenn lúc đầu có chút do dự, nhưng Jon biết phải nói gì để động viên hắn. Từng người từng người đồng tình. Jon thuyết phục, bông đùa, khích bác, và nếu cần thì dọa dẫm. Và cuối cùng, tất cả đều đồng ý... tất cả trừ Rast.
“Mấy tiểu thư các cậu cứ làm gì mình muốn “ Rast nói, “nhưng nếu Thorne kêu tôi luyện kiếm cùng tiểu thư Lợn Sữa, tôi sẽ tự tay thái cho mình vài lát thịt hun khói.” Hắn cười vào mặt Jon và bỏ họ lại.
Vài giờ sau, khi lâu đài chìm vào giấc ngủ, ba người tới phòng của Rast. Grenn giữ tay trong khi Pyp ngồi lên chân hắn. Jon có thể nghe thấy tiếng thở hổn hển của Rast khi Bóng Ma nhảy đè lên ngực hắn. Đôi mắt con sói tuyết cháy rực như hai hòn than khi nó cắn nhẹ lên da cổ mềm mại, vừa đủ để làm máu chảy. “Hãy nhớ, bọn tôi biết cậu ngủ ở đâu,” Jon nhẹ nhàng nói.
Sáng hôm sau Jon nghe Rast nói với Albett và Toad là hắn bị xước da khi cạo râu.
Kể từ ngày hôm đó, kể cả Rast hay những người khác đều không làm hại tới Samwell Tarly. Khi Ser Alliser cử người lên đấu cùng cậu ta, họ sẽ đứng nguyên tại chỗ, hờ hững đánh cho có. Nếu sĩ quan huấn luyện có hét bắt tấn công, họ sẽ nhảy lên và đánh hờ lên giáp ngực, mũ hoặc chần Sam. Ser Alliser giận dữ, đe dọa và gọi họ là những kẻ hèn, những ả đàn bà, hay tệ hơn, nhưng Sam vẫn không mảy may xây xát. Hai tuần sau, khi Jon thúc giục, cậu ta đã ngồi cạnh Halder và ăn tối cùng mọi người. Lại thêm hai tuần nữa cậu ta mới dám nói chuyện với họ, nhưng có lúc cậu ta đã cười với Pyp và hùa vào trêu chọc Grenn.
Có thể cậu ta béo, vụng về và sợ sệt, nhưng Samwell Tarly không phải đồ ngốc. Một đêm cậu ta tới gặp Jon trong phòng. “Mình không biết cậu đã làm gì,” cậu ta nói, “nhưng mình biết chính cậu là thủ lĩnh.” Cậu ta ngại ngùng nhìn đi chỗ khác. “Mình chưa từng có bạn.”
“Chúng ta không phải là bạn,” Jon nói. Cậu đặt tay lên bờ vai rộng của Sam. “Chúng ta là anh em.”
Và họ đúng là vậy, cậu tự nhủ với mình sau khi Sam ra về. Robb và Bran cùng Riclcon là những người con trai của cha cậu, và cậu vẫn yêu quý họ, nhưng Jon biết cậu không bao giờ thực sự là anh em của họ. Phu nhân Catelyn Stark đã nhìn thấy điều đó. Những bức tường xám xịt của Winterfell có thể ám ảnh giấc mơ của cậu từng đêm, nhưng giờ Hắc Thành mới là cuộc sống của cậu, những người anh em của cậu là Sam, Grenn, Halder, Pyp và những người lính khoác trên mình đồng phục đen của Đội Tuần Đêm.
“Chú tao nói đúng,” cậu thì thầm với Bóng Ma. Cậu không biết liệu mình còn có dịp gặp lại chú Benjen Stark để nói với chú không nữa.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,359
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 35: Chương 27 phần 1




EDDARD
 
Thưa lãnh chúa, vì buổi đấu thương ngựa của quân sư mà chúng tôi mới gặp không biết bao nhiêu rắc rối,” tướng chỉ huy Đội Gác Thành phàn nàn trước hội đồng của nhà vua.
“Buổi đấu thương ngựa của nhà vua,” Ned nhăn mặt, sửa lại. “Tôi đảm bảo với anh, quân sư không hề muốn dây dưa gì với sự kiện lần này.”
“Gọi thế nào tùy ngài. Các hiệp sĩ từ khắp vương quốc đã đổ về, đi theo mỗi người là hai kỵ binh, ba thợ thủ công, sáu sĩ quan huấn luyện, cả tá thương nhân, hai tá gái làng chơi và hằng hà sa số trộm cắp. Tiết trời nóng nực đáng nguyền rủa này đã khiến nửa thành phố lên cơn sốt rồi, vậy mà giờ lại còn những vị khách này nữa... đếm trước chúng tôi có một vụ chết đuối, một vụ náo loạn tại quán rượu, ba vụ ẩu đả bằng dao, một vụ hiếp dâm, hai vụ hỏa hoạn, cướp của thì nhiều không thể đếm nổi, và một tên say rượu phi ngựa xuống Phố Sisters. Đêm trước, chúng tôi tìm thấy một cái đầu phụ nữ trong Đại Thánh Đường, nổi bập bềnh trong hồ cầu vồng. Không ai biết vì sao nó ở trong đó.”
“Thật tồi tệ “ Varys rùng mình nói.
Lãnh chúa Renly Baratheon chẳng mấy cảm thông. “Nếu như anh không thể giữ trị an, Janos, có lẽ Đội Gác Thành cần có người chỉ huy khác.”
Janos Slynt mập mạp và có chiếc cằm chảy xị nhảy dựng như một con ếch trong cơn giận dữ, cái đầu hói đỏ lựng lên. “Aegon Rồng còn không thế giữ trị an, thưa Lãnh chúa Renly. Tôi cần thêm người.”
“Bao nhiêu?” Ned hỏi và nhoài người lên. Như mọi khi, Robert không thèm tới dự buổi họp hội đồng, vì thế quân sư phải thay mặt cho ngài.

“Càng nhiều càng tốt, thưa quân sư.”
“Thuê thêm năm mươi lính mới đi,” Ned nói. “Lãnh chúa Baelish sẽ trả tiền cho anh.”
“Tôi sao?” Ngón út nói.
“Đúng, ngài sẽ trả. Ngài đã xoay xở được bốn mươi ngàn rồng vàng cho lần tranh giải vô địch này, chắc chắn ngải sẽ tìm được cách kiếm chút bạc vụn để đổi lấy sự bình an cho nhà vua.” Ned quay lại với Janos Slynt. “Ta sẽ cho anh mượn thêm hai mươi tay kiếm tinh nhuệ thuộc đội lính gác của ta, cho tới khi cuộc đấu thương ngựa kết thúc.”
“Đội ơn quân sư,” Slynt cúi đầu nói. “Tôi xin hứa, họ sẽ được sử dụng tốt.”
Khi tướng chỉ huy rời đi, Eddard Stark quay lại với hội đồng. “Cuộc đấu này kết thúc ngày nào tốt ngày đó.” Như thể những chi phí đắt đỏ và những rắc rối còn chưa đủ khó chịu, mọi người còn thích sát muối vào vết thương của Ned bằng cách gọi nó là “cuộc đấu thương ngựa của quân sư,” như thể chính ông khởi xướng ra nó vậy. Và Robert dường như thành thực nghĩ rằng ông phải cảm thấy rất vinh dự!
“Vương quốc sẽ thịnh vượng nhờ những sự kiện như thế này, thưa lãnh chúa,” Grand Maester Pycelle nói. “Đó là cơ hội để tạo danh tiếng và tạm lắng những điều đau buồn.”
“Và chia tiền vào nhiều túi,” Ngón út nói thêm. “Tất cả các quán trọ trong thành phố đều đã hết phòng, và những ả gái điếm giờ phải đi chân hai hàng và vừa đi vừa rên rẩm suốt.”
Lãnh chúa Renly cười. “Chúng ta may mắn làm sao khi anh trai Stannis của tôi không ở đây cùng chúng ta. Hãy nhớ lúc anh ấy đưa ra đạo luật vấn đề xây dựng các nhà thổ bất hợp pháp không? Nhà vua đã hỏi liệu anh ấy có muốn định luật về cách ăn, đi ngoài, và thở khi ở trong đó không nữa. Nếu trở thành sự thật, thì chuyện anh ấy có cô con gái xấu xí tới vậy cũng đúng thôi. Anh ta lên giường tân hôn như một người đàn ông hành quân ra trận, với vẻ quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ rõ ràng trong ánh mắt.” Ned lạnh lùng nói. “Tôi cũng đang băn khoăn về người anh trai Stannis của ngài. Tôi không biết bao giờ ngài ấy mới kết thúc chuyến thăm đảo Dragonstone và trở về hội đồng.”

“Chắc chắn là ngay khi chúng ta thả hết lũ điếm xuống biển rồi,” Ngón út trả lời, làm cho những người khác cười nhiều hơn.
“Tôi đã nghe quá đủ về lũ gái điếm trong ngày hôm nay rồi,” Ned nói và đứng lên. “Để mai đi.”
Harwin đang đứng ở cửa khi Ned về Tháp Quân Sư.
“Gọi Jory tới phòng tôi và nói với cha cậu đóng yên ngựa cho tôi,” Ned cộc cằn nói.
“Tuân lệnh, thưa lãnh chúa.”
Tháp Đỏ và “cuộc đấu thương ngựa của quân sư” đã chọc tức ông, Ned nghĩ ngợi khi trèo lên. Ông mong được an ủi trong vòng tay Catelyn, được nghe tiếng Robb và Jon đấu kiếm trên sân tập, được hưởng những ngày trời mát mẻ và những đêm lạnh lẽo của phương bắc.
Về tới phòng, ông cởi phăng bộ đồ lụa của hội đồng và ngồi đọc cuốn sách trong khi đợi Jory tới. Dòng dõi và Lịch Sử các Đại Gia Đình thuộc Bảy Phụ Quốc, với Những Ghi Chép về các Lãnh chúa, phu nhân cùng con cái của họ. Tác giả Grand Maester Malleon. Pycelle đã nói đúng; đây là một cuốn sách tẻ ngắt. Nhưng Jon Arryn đã hỏi mượn nó, và Ned tin chắc chắn ông ấy phải có lý do. Phải có một sự thực ẩn giấu dưới những trang giấy ố vàng kia. Nhưng là cái gì? Cuốn sách có niên đại hơn một thế kỷ. Giờ những người cùng thời với Malleon khi biên soạn nên những danh sách lễ cưới, ngày sinh và ngày tử cũng đã chết từ thời tám hoánh nào rồi.
Ông mở mục về nhà Lannister một lần nữa và từ từ lật từng trang mong tìm thấy điều gì đó. Nhà Lannister là một gia đình dòng dõi, tổ tiên là Lann Khôn Ngoan, một kẻ lừa đảo sống ở Kỷ nguyên Những Anh Hùng, người mà chắc chắn đã biến thành một nhân vật truyền thuyết như Bran Kiến Thiết vậy, nhưng lại được những người hát rong và những người kể chuyện yêu thích hơn nhiều. Trong những khúc ca, Lann là người đã lôi nhà easterly ra khỏi easterly Rock chỉ bằng trí thông minh, và đánh cắp vàng từ mặt trời để khiên mái tóc dợn sóng của mình tỏa sáng. Ned ước gì ngài ta ở đây, để lôi sự thật ra khỏi cuốn sách chết tiệt này cho ông.

Tiếng gõ cửa báo hiệu Jory Cassel đã tới. Ned gấp cuốn sách của Malleon lại và kêu anh vào. “Ta đã hứa điều hai mươi lính canh tới Đội Gác Thành cho tới khi cuộc đấu thương ngựa kết thúc “ ông nói”. “Ta mong anh sẽ tuyển đúng người. Hãy trao quyền chỉ huy cho Alyn, và đảm bảo những người lính hiểu rằng họ tới đó để ngăn chặn những vụ ẩu đả chứ không phải khai mào chúng.” Ned đứng lên, mở cái rương gỗ tuyết tùng và lấy ra một chiếc áo lót vải lanh nhẹ. “Anh đã tìm thấy cậu bé làm trong chuồng ngựa chưa?”
“Thưa lãnh chúa, giờ hắn đã là lính gác,” Jory nói. “Hắn thề rằng hắn sẽ không bao giờ chạm vào một con ngựa nào nữa.”
“Hắn còn nói gì nữa?”
“Hắn nói hắn biết rõ Lãnh chúa Arryn. Họ là những người bạn thân thiết.” Jory khịt mũi. “Trong mỗi dịp sinh nhật quân sư hay thưởng cho các cậu bé ít tiền. Ngài cũng đối xử tốt với lũ ngựa. Ngài chưa bao giờ cưỡi ngựa quá lâu, luôn mang cà rốt và táo cho chúng, vì thế chúng luôn mừng rỡ khi thấy ngài.”
“Cà rốt và táo,” Ned nhắc lại. Có vẻ cả cậu thiếu niên này cũng không mang tới những tin tức hữu dụng hơn là bao.
Mà hắn lại là người cuối cùng trong số bốn người Ngón Út đã điều tra ra. Jory đã nói chuyện với từng người một. Ser Hugh cục cằn và không cung cấp được thông tin gì hữu ích, đã thế lại còn mang vẻ kiêu ngạo đúng kiểu một hiệp sĩ mới nhận sắc phong. Hắn rất vui nếu như quân sư đích thân gặp hắn, nhưng hắn không muốn bị tra khảo bởi một đội trưởng đội lính gác quèn... kể cả nếu viên đội trưởng đó có hơn hắn tới mười tuổi và là một tay kiếm cừ khôi hơn hắn cả trăm lần. Cô hầu gái ít ra cũng dễ mến. Cô nói Lãnh chúa Jon đọc nhiều hơn mức cần thiết, rằng ông luôn buồn phiền vì cậu con trai yếu ớt bệnh tật và khá thô lỗ với phu nhân. Cậu nhóc hầu bàn, giờ là một thợ đóng giày, thì chưa bao giờ nói một lời với Lãnh chúa Arryn, nhưng cậu ta biết nhiều chuyện ngồi lê đôi mách trong khu bếp: lãnh chúa đã cãi vã với nhà vua, lãnh chúa luôn than phiền về đồ ăn của mình, lãnh chúa định gửi con trai đi làm con nuôi tại đảo Dragonstone, lãnh chúa vô cùng yêu thích việc gây giống chó săn, lãnh chúa đã tới gặp một thợ làm vũ khí lành nghề nhờ làm một bộ giáp mới bằng bạc với hình con chim ưng bằng gốm thạch anh màu xanh dương cùng mặt trăng tròn trên tấm hộ tâm. Theo lời cậu nhóc phục vụ bàn, người em của nhà vua đã đi cùng ông .để giúp chọn mẫu thiết kế. Không, không phải Lãnh chúa Renly mà là người em kia, Lãnh chúa Stannis.
“Vậy người lính canh của chúng ta có nhớ ra điều gì đặc biệt khác lạ không?”
“Hắn ta thề rằng Lãnh chúa Jon khỏe như người chỉ bằng nửa độ tuổi ông ấy. Hắn nói ông ấy thường cưỡi ngựa cùng Lãnh chúa Stannis.”
Lại là Stannis, Ned nghĩ. Ông thấy thật kỳ lạ. Jon Arryn và ngài ta khá thân mật, nhưng chưa bao giờ là bạn bè. Và trong khi Robert lên phương bắc tới Winterfell, Stannis lại cất công tới Dragonstone, hòn đảo thành trì của nhà Targaryen mà ngài ta đã nhân danh anh mình chiếm lấy. Ngài ta cũng chẳng nói khi nào sẽ trở lại.
“Họ đi đâu?” Ned hỏi.

“Cậu nhóc nói rằng họ tới một nhà thổ.”
“Một nhà thổ ư?” Ned nói. “Quân sư - Lãnh chúa thành Eyrie lại tới nhà thổ cùng Stannis Baratheon?” Ông lắc đầu ngờ vực và không hiểu Lãnh chúa Renly sẽ nói gì về tin đồn này. Trong lúc say xỉn người ta có thể hát những khúc ca tục tĩu về thói dâm ô của vua Robert, nhưng Stannis là một dạng người khác hẳn: chỉ nhỏ hơn nhà vua có một tuổi nhưng hoàn toàn không giống ngài, ông ta lạnh lùng, không có khiếu hài hước, không hề khoan dung và luôn nghiêm túc trong công việc.”
“Cậu nhóc khẳng định đó là sự thật. Quân sư luôn mang ba tên hộ vệ đi cùng, và cậu nhóc nói họ luôn cười đùa mãi về chuyện đó sau khi cưỡi ngựa trở về.”
“Nhà thổ nào?” Ned hỏi.
“Cậu ta không biết. Nhưng những hộ vệ biết.”
“Thật tiếc Lysa đã đưa tất cả trở về Thung Lũng,” Ned khô khốc nói. “Hẳn thần thánh đang chọc tức chúng ta đây mà. Phu nhân Lysa, Maester Colemon, Lãnh chúa Stannis... những người thực sự biết chuyện của Lãnh chúa Arryn đều cách đây cả ngàn dặm.”
“Ngài có truyền gọi Lãnh chúa Stannis từ Dragonstone về không?”
“Chưa đâu,” Ned nói. “Cho tới khi ta biết chân tướng sự việc và ngài ấy đứng về phía nào.” Vấn đề này cứ làm ông day dứt mãi. Vì sao Stannis lại rời đi? Ngài ta có vai trò gì trong cái chết của Jon Arryn không? Hay ngài ta đang sợ? Ned thấy khó tưởng tượng được có thứ làm Stannis Baratheon, một người từng cố thủ Storm’s End suốt một năm ròng, sống sót nhờ vào thịt chuột và nhai da giày trong khi Lãnh chúa Tyrell và Redwyne ở ngoài cùng những kẻ khác tổ chức tiệc tùng linh đình, có thể sợ hãi. “Nếu có thể, anh hãy mang cho ta cái áo chẽn lại đây. Cái màu xám, có gia huy sói tuyết ấy. Ta muốn người thợ làm vũ khí biết ta là ai. Hắn sẽ sẵn lòng giúp đỡ hơn.”
Jory tới tủ quần áo. “Lãnh chúa Renly cũng là anh em với Lãnh chúa Stannis và nhà vua.”
“Nhưng dường như không ai mời ngài ta tới dự những buổi cưỡi ngựa đó.” Ned không chắc về Renly, về cách cư xử thân thiện và những nụ cười dễ dãi của người này. Vài ngày trước, hắn đã kéo Ned tới xem một chiếc mặt dây chuyền vàng hình bông hồng chạm khắc công phu. Bên trong đó là một bức tiểu họa màu sắc sặc sỡ mang phong cách vùng Myr, vẽ hình một tiểu thư xinh đẹp mang đôi mắt như một chú thỏ và suối tóc nâu mềm mại. Renly bồn chồn muốn biết liệu cô gái này có khiến ông nhớ tới ai không, và khi Ned nhún vai không trả lời, hắn ta có vẻ thất vọng. Hắn ta thú nhận, tiểu thư này là em gái Loras Tyrell, Margaery, nhưng nhiều người nói trông cô ta giống Lyanna. “Không,” Ned sửng sốt nói. Có lẽ nào, Lãnh chúa Renly, một người quá giống Robert thời trẻ, đang hình thành nên một mối tình với một cô gái mà hắn tưởng tượng là Lyanna thời trẻ? Điều này làm ông kinh ngạc hơn cả thấy một cặp đồng tính luyến ái.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,359
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 36: Chương 27 phần 2




Jory giơ chiếc áo chẽn ra, và Ned xỏ vào ống tay áo. “Có lẽ Lãnh chúa Stannis sẽ trở về trong cuộc đấu thương ngựa của Robert,” ông nói khi Jory buộc dải dây đằng sau.
“Thế thì quả là may mắn, thưa lãnh chúa,” Jory nói.
Ned đeo thanh kiếm bên mình. “Nói theo cách khác, chúng ta sẽ không sợ gặp một vụ thảm sát.” Nụ cười của ông thật buồn.
Jory đặt áo khoác lên vai Ned và cố định nó trên cổ Ned bằng huy hiệu Quân sư. “Thợ rèn vũ khí sống ngay trên cửa hiệu, trong một căn nhà lớn ở cuối phố Steel. Alyn biết đường, thưa lãnh chúa.”
Ned gật đầu. “Nếu hắn dám cho ta đi đuổi hình bắt bóng thì chắc chắn chỉ có thần thánh mới giữ được mạng cho hắn thôi.” Đó chỉ là một bằng chứng mong manh, nhưng Jon Arryn mà Ned từng biết không phải loại người mặc giáp bạc đính đá quý. Thép là thép; nó dùng để bảo vệ, không phải vật trang trí. Chắc chắn ông ta đã thay đổi quan điểm. Ông ấy cũng không phải người đầu tiên nhìn nhận mọi thứ khác đi sau vài năm lăn lộn chốn quan trường... nhưng sự thay đổi đó đủ để khiến Ned băn khoăn.
“Tôi có thể giúp gì cho ngài nữa không?”
“Tôi nghĩ anh nên bắt đầu đi thăm viếng mấy nhà thổ trong thành đi.”
“Một nhiệm vụ thật khó khăn, thưa lãnh chúa.” Jory mỉm cười. “Nhiều người sẽ vui lòng giúp đỡ chúng ta. Porther đã bắt đầu khởi sự rồi.”
Con ngựa yêu của Ned đã được đóng yên và đợi ngoài sân. Varly và Jacks sóng bước bên ông khi ông cưỡi ngựa qua sân. Chiếc mũ trụ và áo giáp chắc hẳn vô cùng ngột ngạt khó chịu, nhưng họ không phàn nàn lấy một tiếng. Khi Lãnh chúa Eddard đi qua cổng thành, chiếc áo choàng trắng xám của ông phấp phới trên vai, ông thấy những ánh mắt nhìn mình và thúc ngựa chạy nước kiệu. Người hộ vệ cũng phi ngựa chạy theo.
Ông thường xuyên nhìn về phía sau trong khi họ đi qua những con phố đông đúc. Tomard và Desmond đã rời lâu đài từ sáng sớm tiếp nhận vị trí theo lệnh và để theo dõi bất cứ ai bám theo họ, nhưng dù vậy Ned vẫn không yên. Cái bóng của tay gián điệp cùng những con chim nhỏ của y đã khiến ông chộn rộn như thể cô dâu trong đêm tân hôn vậy.

Phố Steel bắt đầu từ quảng trường chợ bên cạnh Cửa Sông, theo như tên trên bản đồ hay Cổng Bùn Lầy, theo như tên thường gọi. Một diễn viên kịch câm đang khoa trương sải bước qua đám đông như một con côn trùng cỡ bự, với lũ trẻ con chân đất hò hét đuổi theo. Ở một góc khác, hai cậu nhóc rách rưới không lớn hơn Bran là bao đang dùng que đấu kiếm, những người chung quanh người thì cổ vũ người thì chửi rủa. Một bà lão kết thúc cuộc đấu bằng cách nhoài người ra khỏi cửa sổ và đổ cả một thùng bùn loãng lên đầu hai đấu sĩ. Ở dưới bức tường, những người nông dân đứng cạnh xe bò, rồng lên, “Táo đây, táo ngon nhất đây, bán rẻ một nửa đây,” và “Dưa hấu ngọt như mật ong đây,” rồi thì, “củ cải, hành, rễ củ đây, mại dô, mại dô, củ cải, hành, rễ củ đây, mại dô.”
Cổng Bùn Lầy đang mở và một đội Lính Gác Thành mặc áo choàng vàng kim đứng dựa người trên giáo dưới khung lưới sắt. Khi một nhóm người cưỡi ngựa xuất hiện ở phía tây, những lính gác lập tức hành động, hò hét lệnh cho người đi đường và các cỗ xe dẹp sang một bên để hiệp sĩ cùng đoàn tùy tùng tiến vào. Người đầu tiên đi vào mang theo một lá cờ đen dài. Dải lụa phấp phới trong gió như một vật thể sống; dọc lá cờ có thêu hình tia chớp xẹt qua bầu trời đêm. “Tránh đường cho Lãnh chúa Beric!” gã kia hét. “Tránh đường cho Lãnh chúa Beric!” và ngay sau đó một lãnh chúa trẻ tuổi tóc vàng ánh đỏ bảnh bao khoác áo choàng sa tanh đen điểm xuyết những vì sao cưỡi ngựa tiến vào.
“Ngài tới dự cuộc đấu thương ngựa của quân sư phải không ạ?” một lính gác hỏi.
“Ta tới để giành chiến thắng trong cuộc đấu thương ngựa của quân sư,” Lãnh chúa Beric đáp lại trong tiếng reo hò của đám đông.
Ned rẽ vào đường dẫn tới phố Steel rồi đi theo con đường uốn lượn lên một ngọn đồi, đi qua những thợ rèn đang làm việc bên những bễ rèn ngoài trời, những kỵ binh đang mặc cả mua áo giáp, những người bán đồ sắt tóc hoa râm đang bán những thanh kiếm cũ và dao cạo trong cỗ xe bò. Càng lên trên đồi những ngôi nhà càng lớn. Người họ cần gặp sống ở đỉnh đồi, trong một ngôi nhà gỗ lớn trát vữa, với gác mái đổ bóng xuống con đường hẹp. Trên cánh cửa chính bằng gỗ sồi và gỗ mộc tâm có điêu khắc một quang cảnh săn bắn hoành tráng. Hai bên cửa ra vào là hai hiệp sĩ đá trong bộ trang phục tuyệt đẹp bằng thép đỏ bóng loáng, sắp biến hình thành bàng sư[18] và kỳ lân. Ned bỏ ngựa lại cho Jacks và lách người vào trong.
Một cô hầu gái trẻ nhỏ nhắn nhìn thấy huy hiệu và gia huy trên áo Ned, ngay lập tức vị chủ nhà vội vã đi ra và mỉm cười cúi chào ông. “Mang rượu cho quân sư mau,” ông ta nói với cô gái rồi ra hiệu mời Ned ngồi vào ghế. “Thưa lãnh chúa, thần là Tobho Mott, mời ngài, mời ngài, ngài hãy tự nhiên ạ.” Ông ta mặc áo măng tô bằng nhung đen, trên ống tay áo có thêu hình những cây búa bằng chỉ bạc, trên cổ là một sợi xích bạc to tướng với mặt đá ngọc bích to bằng quả trứng chim bồ câu. “Nếu ngài cần vũ khí mới cho giải đấu thương ngựa lần này, ngài đã tới đúng nơi rồi.” Ned không buồn sửa lời ông ta. “Những đồ tạo tác của tôi khá đắt, nên giá cả có ột chút cũng là bình thường thôi, thưa lãnh chúa,” ông ta nói và đổ rượu đầy hai chiếc ly bạc. “Tôi dám đảm bảo, ngài không thể nào tìm ra những đồ tạo tác tuyệt vời như của tôi trong cả bảy phụ quốc. Nếu thích ngài có thể tới thăm tất cả các xưởng rèn ở Vương Đô và tự mình so sánh ạ. Bất cứ một tên thợ vườn nào cũng có thể rèn ra một chiếc áo giáp; nhưng những tác phẩm của tôi mới là nghệ thuật chân chính.”
Ned nhấp một ngụm rượu và để gã nói tiếp. Tobho khoe khoang rằng Hiệp Sĩ Flowers đã mua tất cả những vũ khí tại đây, và rằng rất nhiều lãnh chúa cao quý, những người hiểu rõ về kiếm tốt, kể cả Lãnh chúa Renly, em trai của nhà vua cũng tới đây đặt hàng. Có lẽ quân sư đã thấy bộ giáp mới của Lãnh chúa Renly, bộ giáp màu xanh lam với sừng hươu màu vàng? Không một thợ rèn vũ khí nào có thể tạo ra được màu xanh đậm tới vậy; ông ta biết những công thức bí mật để nhuộm màu cho thép, còn sơn và tráng men chỉ là cách làm của những kẻ mới vào nghề. Hay quân sư cần một thanh kiếm chăng. Tobho đã học cách rèn thép Valyria từ những xưởng rèn của Oohor từ khi còn là một thằng bé. Chỉ có những người hiểu về bùa chú mới có thể nhận vũ khí cũ và rèn lại chúng như mới. “Sói tuyết là biểu tượng của nhà Stark, đúng không ạ? Tôi có thể tạo ra một mũ trụ hình sói tuyết thật tới mức khiến những đứa trẻ nhìn thấy là bỏ chạy,” gã thề thốt.
Ned cười. “Ông đã rèn mũ trụ hình chim ưng cho Lãnh chúa Arryn chăng?”
Tobho Mott ngừng lại một lúc lâu rồi đặt ly rượu sang một bên. “Quân sư cùng Lãnh chúa Stannis em trai của nhà vua quả thực có tới chỗ tối. Nhưng tiếc là họ không cho tôi được vinh dự thành người chuyên cung cấp vũ khí cho họ.”
Ned bình thản nhìn người đàn ông, không nói gì và chờ đọi. Qua nhiều năm, ông đã học được rằng nhiều khi im lặng mang lại hiệu quả cao hơn những câu hỏi. Và quả thực vậy.

“Họ muốn gặp thằng bé,” người thự rèn nói, “vì thế tôi đã đưa họ về xưởng rèn.”
“Thằng bé ư,” Ned nhắc lại. Ông không biết thằng bé nào. “vậy tôi cũng muốn gặp thằng bé đó.”
Tobho Mott cẩn trọng, trầm tĩnh nhìn ông. “Tuân lệnh ngài,” gã nói, nhưng trong giọng nói không còn sự thân thiện lúc trước. Gã dẫn Ned ra cửa hậu và đi qua một cái sân hẹp, về một căn nhà đá sâu hút nơi những thợ rèn làm việc. Khi người thợ rèn mở cửa, luồng không khí nóng rực ùa ra khiến Ned có cảm giác mình đang đi vào miệng rồng. Bên trong, các bễ rèn đỏ lửa ở các góc, không khí sặc mùi khói và lưu huỳnh. Những người thự cả đang làm việc cùng những cây búa và kẹp sắt ngước nhìn lên, quệt mồ hôi trán rồi cắm đầu làm tiếp, trong khi những người thợ học việc ngực trần đang kéo bễ.
Người chủ gọi một câu thanh niên tầm tuổi Robb với cánh tay và bộ ngực cuồn cuộn cơ bắp tới. “Đây là Lãnh chúa Stark, quân sư mới,” Ông ta giới thiệu khi cậu nhóc nhìn Ned bằng cặp mắt xanh lam sâu thẳm và dùng những ngón tay vuốt ngược mái tóc ướt đẫm mồ hôi lên. Mái tóc dày, rối bù, và đen như mực. Dấu vết của bộ râu mới khiến quai hàm cậu ta đen lại. “Đây là Gendry. Rất khỏe và làm việc rất chăm chỉ. Cậu cho quân sư thấy chiếc mũ trụ cậu làm xem nào.” Bẽn lẽn, cậu ta dẫn họ tới băng ghế, và đưa họ xem chiếc mũ trụ hình đầu bò, với hai cái sừng cong vĩ đại.
Ned lật qua lật lại cái mũ trụ. Nó làm bằng thép thô, chưa được đánh bóng nhưng được tạo hình rất chuyên nghiệp. “Một tác phẩm tốt. Tôi rất mừng nếu cậu cho tôi mua lại nó.”
Cậu ta giật nó lại. “Cái này không phải để bán.”
Tobho Mott có vẻ hoảng sợ. “Nhóc, đây là Quân sư của Nhà vua. Nếu ngài muốn cái mũ trụ, cậu nên dâng tặng nó. Được ông ấy hỏi đã là cả một vinh dự cho cậu rồi.”
“Cháu rèn cái này ình,” cậu nhóc cứng đầu nói.
“Trăm ngàn lần xin lỗi, thưa lãnh chúa.” Người chủ vội vàng nói với Ned. “Cậu bé này cứng đầu hệt như thép mới tôi luyện, và cần vài cú đập mới tốt được. Chiếc mũ trụ này may mắn lắm mới được coi bằng tác phẩm của một thợ lành nghề. Thứ lỗi cho hắn và tôi hứa sẽ làm cho ngài một chiếc mũ trụ không giống bất cứ chiếc nào ngài từng nhìn thấy.”

“Cậu tạ không làm gì mà cần ta phải thứ lỗi. Gendry, khi Lãnh chúa Arryn tới gặp cậu, hai người đã nói chuyện gì?”
“Ông ấy chỉ hỏi cháu vài câu hỏi, thưa Lãnh chúa.”
“Hỏi gì?”
Cậu ta nhún vai. “Cháu thế nào, cháu có được đối xử tốt không, và rằng cháu có thích công việc này không, rồi vài thứ về mẹ cháu. Bà ấy là ai và bà ấy trông thế nào thôi.”
“Thế cậu đã trả lời sao?” Ned hỏi.
Cậu ta gạt những sợi tóc vừa rơi xuống trán sang. “Bà ấy mất khi cháu còn bé. Cháu nhớ, bà ấy có mái tóc vàng và thi thoảng lại hát cho cháu nghe. Bà ấy làm việc tại một quán rượu.”
“Lãnh chúa Stannis có hỏi gì cháu không?”
“Cái người hói đầu đấy ạ? Không, không có. Ngài ấy không nói lấy một lời, chỉ nhìn cháu chằm chằm, như thể cháu là một kẻ hãm hiếp con gái ông ấy vậy.”
“Cẩn thận cái miệng lưỡi bẩn thỉu của cậu đấy” người chủ nói. “Đây là Quân sư.” Cậu nhóc cụp mắt xuống. “Một cậu nhóc thông minh, nhưng cứng đầu. Cái mũ này... có một số kẻ gọi cậu bé là đầu bò, vì thế cậu ta đã ném nó vào mồm chúng.”
Ned chạm vào đầu thằng bé, đưa những ngón tay sờ mái tóc đen dày. “Nhìn ta này, Gendry.” Chú nhóc học việc ngửng mặt lên. Ned quan sát quai hàm và đôi mắt màu băng xanh của cậu ta. “Đúng, ông nghĩ, mình đã hiểu rồi. “Làm việc tiếp đi, nhóc. Ta xin lỗi vì làm phiền cậu.” Ông trở về nhà cùng người chủ. “Ai trả phí học cho cậu bé này?” ông nhẹ nhàng hỏi.
Mott có vẻ giận. “Ngài đã nhìn nó rồi đấy. Một thằng bé thật khỏe mạnh. Những cánh tay của nó là những cánh tay làm từ thép tôi. Nó rất tiềm năng, vì thế tôi nhận nó mà không lấy học phí.”

“Nói thật đi,” Ned giục. “Trên phố đầy những đứa nhóc khỏe mạnh. Ngày mà ông nhận một thợ học việc không lấy phí sẽ là ngày Tường Thành sụp đổ. Ai trả tiền?”
“Một lãnh chúa,” người chủ ngần ngừ nói. “Ngài ấy không nói tên, trên áo không có gia huy. Ngài ấy trả bằng vàng, gấp hai lần học phí bình thường, và nói rằng một phần là tiền học của thằng bé, và một đổi lấy sự im lặng của tôi.”
“Miêu tả xem nào.”
“Ngài ấy hơi đậm người, vai tròn, không cao bằng ngài. Bộ râu màu nâu, nhưng có vài sợi đỏ, tôi thề đó. Theo như những gì tôi nhớ, ngài ấy mặc loại áo choàng đắt tiền bằng nhung tím nặng nề được may bằng chỉ bạc, nhưng mũ trùm đã che khuất khuôn mặt, khiến tôi không thấy rõ.” Ông ngần ngừ thêm một lát. “Thưa lãnh chúa, tôi không muốn gặp rắc rối.”
“Không ai trong chúng ta muốn gặp rắc rối cả, nhưng tôi sợ giờ là thời buổi nhiễu nhương, ngài Mott ạ,” Ned nói. “Ngài biết cậu bé đó là ai.”
“Tôi chỉ là một thợ rèn vũ khí, thưa lãnh chúa. Tôi biết điều tôi được nghe.”
“Ngài biết hắn là ai,” Ned kiên nhẫn nhắc lại. “Đây không phải một câu hỏi.”
“Cậu bé là thợ học việc của tôi,” người chủ trả lời. Ông nhìn thẳng vào mắt Ned, cứng rắn như sắt lâu ngày. “Cậu ta là ai trước khi tới chỗ tôi, tôi không quan tâm.”
Ned gật đầu. Ông thấy mình thích người thợ rèn vũ khí lành nghề Tobho Mott này, “Nếu có ngày Gendry thích vung kiếm hơn rèn kiếm, hãy đưa cậu bé tới chỗ ta. Cậu ấy có vẻ ngoài như một chiến binh. Cho tới lúc đó, ông Mott, tôi cám ơn và hứa với ông. Nếu tôi cần một chiếc mũ để dọa trẻ con, tôi sẽ tới nơi này đầu tiên.”
Lính hộ vệ của ông đang đứng chờ bên ngoài cùng lũ ngựa. “Ngài có tìm được thứ gì không, lãnh chúa?” Jacks hỏi khi giúp Ned lên ngựa.
“Có,” Ned phân vân nói. Jon Arryn muốn gì từ người con hoang của nhà vua đây, và vì sao điều đó lại khiên ông mất mạng?
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,359
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 37: Chương 28 phần 1




CATELYN
 
Phu nhân, bà nên đội mũ lên,” Ser Rodrik nói khi những con ngựa mải bước về phương bắc. “Bà sẽ bị lạnh mất.”
“Chỉ là nước thôi mà, Ser Rodrik,” Catelyn trả lời. Tóc bà ẩm ướt và bên bết, vài sợi còn lòa xòa trước trán và bà biết mình tơi tả thế nào, nhưng bà không quan tâm. Cơn mưa phương nam thật nhẹ nhàng và ấm áp. Catelyn thích cảm nhận những giọt mưa rơi như những nụ hôn của mẹ nhẹ nhàng hôn lên mặt bà. Bà như được quay trở lại thời ấu thơ, trong những ngày dài trời giăng mây xám xịt tại vùng Riverrun. Bà nhớ khu rừng thiêng với những cành cây rủ xuống và hơi ẩm từ đất bốc lên, nhớ tiếng cười của cậu em khi cậu đuổi theo bà qua những đụn lá ẩm ướt. Bà nhớ mình đã cùng Lysa làm những chiếc bánh bùn, nhớ độ nặng của nó, nhớ bùn nhơm nhớp và nâu nâu giữa những ngón tay mình. Họ đã đem nó cho Ngón út, rồi cùng nhau cười khúc khích, và anh ta đã ăn nhiều bùn tới nỗi bệnh cả tuần trời. Hồi đó họ mới trẻ con làm sao.
Catelyn gần như đã quên mất. Ở phương bắc, mưa to và lạnh buốt, và thi thoảng chuyển thành mưa đá vào buổi đêm. Một cơn mưa vừa có thể nuôi dưỡng mùa màng vừa có thể hủy diệt nó, và cũng có thể khiến những người đàn ông phải nhanh chóng tìm nơi trú ẩn. Phương bắc không phải nơi cho các cô bé gái chơi đùa trong mưa.
“Tôi ướt hết rồi,” Ser Rodrik phàn nàn. “Ướt thấu tới tận xương rồi.” Những cái cây ở sát cạnh họ, và tiếng mưa rơi tí tách đều đều trên lá hòa cùng tiếng lép nhép khi vó ngựa nhấc khỏi bùn. “Phu nhân, tối nay chúng ta cần một bếp lửa và bữa ăn nóng hổi.”
 
“Có một quán trọ ở ngã tư trước mặt,” Catelyn nói. Bà đã ngủ ở đó nhiều đêm khi còn bé, trong những chuyến du hành cùng cha. Lãnh chúa Hoster Tully thời còn sung sức không biết mệt mỏi, ông luôn thích cưỡi ngựa đi đâu đó. Bà vẫn còn nhớ bà chủ quán trọ, một người đàn bà đẫy đà tên Masha Heddle, lúc nào cũng nhai lá me chua, trên môi luôn thường trực một nụ cười và không bao giờ thiếu bánh ngọt cho lũ trẻ. Những chiếc bánh ngọt được phủ ngập mật ong, thật ngọt ngào trên đầu lưỡi, nhưng Catelyn lại sợ những nụ cười của bà. Lá me chua biến răng bà Masha thành màu đỏ đậm, tạo cho bà một nụ cười như thể máu đang ứa ra vậy.
“Một quán trọ,” Ser Rodirk đăm chiêu nhắc lại. “Giá mà... nhưng chúng ta không thể liều được. Nếu chúng ta muốn giữ bí mật về hành tung, tôi nghĩ tốt hơn hết chúng ta nên tới một pháo đài nhỏ nào đó...” Ông ngừng lại khi nghe thấy những âm thanh trên đường; tiếng nước bắn tung tóe, tiếng giáp kêu lanh canh, tiếng ngựa hí.
“Có người,” ông cảnh báo, tay giữ đốc kiếm. Kể cả trên vương lộ, cẩn trọng cũng chẳng bao giờ là thừa.
Họ đi theo tiếng động tới một khúc ngoặt và thấy một nhóm người có vũ trang đang náo loạn vượt qua một khúc sông. Catelyn dừng ngựa nhường đường. Lá cờ trên tay người đi đầu sũng nước và nằm im, nhưng những người lính hộ vệ mặc áo khoác màu chàm và trên vai họ huy hiệu hình đại bàng bạc của Seagard. “Malliser,” Ser Rodrik thì thầm với bà, như thể bà không biết. “Thưa phu nhân, tốt nhất lệnh bà nên đội mũ trùm lên.”
Catelyn không nhúc nhích. Lãnh chúa Jason Malliser đi cạnh người con trai Patrek, chung quanh là những kỵ sĩ và những người hộ vệ bám sát sau. Bà biết họ đang tới Vương Đô tham dự cuộc đấu thương ngựa của quân sư. Từ tuần trước, người lữ khách đi lại trên vương lộ đông như kiến cỏ; những hiệp sĩ và kỵ binh; những người hát rong cùng cây đàn hạc và trống, những cỗ xe ngựa nặng trĩu nào là cần sa, ngô, nhiều thùng mật ong, những thương nhân, thợ thủ công và gái làng chơi, tất cả bọn họ đều xuôi xuống phương nam.
Bà liều lĩnh quan sát Lãnh chúa Jason. Lần cuối bà gặp ông, ông đang đùa giỡn cùng người chú của bà trong bữa tiệc cưới; nhà Malliser là quân đồng minh của nhà Tully, và ông đã tặng quà cưới vô cùng hậu hĩnh. Mái tóc nâu của ông đã đổ màu muối tiêu, khuôn mặt hằn những nếp nhăn của thời gian, nhưng năm tháng không hề động tới phẩm cách của ông. Ông cưỡi ngựa như người không biết sự là gì. Catelyn ghen tị vì điều đó; bà đã sợ quá nhiều thứ. Khi đoàn người ngựa đi qua, Lãnh chúa Jason gật đầu chào, nhưng đó chỉ là phép lịch sự của một lãnh chúa cao quý đối với những người lạ mặt gặp trên đường. Đôi mắt sắc sảo đó không nhìn thấy bà, và con trai ông ta không buồn nhìn bà lấy một cái.
“Ông ta không biết bà “ Ser Rodirk băn khoăn nói.
“Ông ấy chỉ thấy hai người lữ khách người ngợm dính đầy bùn đất đứng bên vệ đường, ướt nhẹp và mệt mỏi. Ông ấy sẽ không bao giờ nghi ngờ rằng một trong hai người đó là con gái lãnh chúa nhà mình. Tôi nghĩ chúng ta sẽ khá an toàn ở trong quán trọ đó, Ser Rodrik.”

Khi họ tới phía nam ngã tư dòng Trident, trời đã gần tối. Bà Masha Heddle đã béo hơn và da dẻ sạm hơn so với ký ức của Catelyn, nhưng vẫn thích nhai lá me chua. Bà chỉ nhìn lướt qua họ, không thèm nở nụ cười ứa máu lấy một lần. “Chỉ còn hai phòng trên gác thôi,” bà nói, tiếp tục nhai một hồi. “Ở ngay dưới gác chuông ấy, hai người đừng bỏ lỡ bữa ăn nhé, dù vài người nghĩ rằng nó quá ồn ào. Không thể khác được mà. Chúng tôi đầy phòng rồi, hoặc suýt soát cũng thế cả. Giờ một là ở trong những căn phòng đó hoặc ở ngoài đường.”
Chính là những căn phòng đó, những căn phòng gác mái lụp xụp, bụi bặm phía trên cái cầu thang hẹp. “Bỏ giày ở đây,” Masha nói với họ sau khi lấy tiền. “Một đứa nhỏ sẽ lau chúng. Tôi không muốn các người mang bùn đất lên cầu thang của tôi. Để ý tiếng chuông nhé. Xuống muộn sẽ không còn gì mà ăn đâu.” Bà ta chẳng nở lấy một nụ cười, cũng chẳng nhắc gì tới những chiếc bánh ngọt.
Tiếng chuông báo bữa tối thật inh tai. Catelyn đã thay quần áo khô. Bà ngồi bên cửa sổ, nhìn những giọt nước mưa chảy xuống ô cửa kính. Kính đã đục màu và lấm tẩm những giọt mưa, bên ngoài hoàng hôn ướt đẫm đang buông xuống. Catelyn có thể nhìn thấy ngã tư đường nhớp nháp bùn đất tại nơi hai đại lộ giao nhau.
Bà nhìn chăm chăm vào ngã tư đường. Nếu từ đây họ rẽ sang phương tây, họ sẽ dễ dàng xuống Riverrun. Cha luôn cho bà lời khuyên thông thái khi bà cần nhất, và bà mong mỏi được nói chuyện với ông, được báo cho ông biết về cơn sóng gió sắp tới. Nếu Winterfell cần củng cố lực lượng sẵn sàng cho cuộc đương đầu sắp đến thì Riverrrun cũng vậy, vì nó gần Vương Đô hơn nhiều, và vì quyền lực của easterly Rock như một cái bóng đe dọa phương tây vậy. Nếu sức khỏe cha bà tốt hơn, bà có thể tới thăm ông, nhưng ông Hoster Tully đã bệnh liệt giường suốt hai năm nay, và Catelyn không muốn gây thêm áp lực cho cha.
Con đường dẫn tới phương đông nguy hiểm và hoang vu hơn, bà sẽ phải đi qua những ngọn đồi đá, những rừng cây rậm rạp dẫn tới dãy núi Nguyệt, đi qua bao đèo cao và vực sâu tới thung lũng Arryn, sau đó là đảo Fingers gập ghềnh đá. Phía trên thung lũng, lâu đài Eyrie đứng sừng sững, những ngọn tháp vươn tận lên trời cao. Ở đó bà sẽ tìm thấy em gái mình... và có lẽ sẽ thấy câu trả lời mà Ned đang tìm kiếm bây lâu nay. Chắc chắn Lysa biết nhiều hơn những gì cô ấy dám viết trong thư. Có thể em gái bà có những bằng chứng cụ thể mà Ned cần để tiêu diệt nhà Lannister, và nếu chiến tranh, họ sẽ cần sự ủng hộ của nhà Arryn cũng như những lãnh chúa dưới quyền họ.
Nhưng đường núi vô cùng nguy hiểm. Trên đó là nơi cư trú của những bầy mèo ma hay lảng vảng rình mồi trên những ngọn đèo đá, nơi lũ sơn tặc không biết tới luật pháp, những kẻ xuất thân từ vùng núi xuống cướp của giết người và tan biến như tuyết mỗi khi các hiệp sĩ từ thung lũng săn lùng chúng, và là nơi thường xuyên gặp đá lở. Kể cả Jon Arryn, một trong những lãnh chúa vĩ đại của lâu đài Eyrie, cũng phải đi cùng đội hộ tống nếu muốn vượt qua những rặng núi này. Mà Catelyn chỉ có một hiệp sĩ già bên cạnh với thứ vũ khí duy nhất là lòng trung thành.
Không, bà nghĩ, Riverrun và lâu đài Eyrie sẽ phải đợi thôi. Bà sẽ đi lên phương bắc tới Winterfell, nơi những người con trai và nhiệm vụ đang chờ đợi bà. Ngay khi họ an toàn vượt qua Neck, bà sẽ thông báo danh tính ột trong những quân đồng minh của Ned, và cho những kỵ binh đi đưa lệnh dựng trạm gác trên vương lộ.
Cơn mưa che mờ những cánh đồng phía trước ngã tư, nhưng Catelyn vẫn thấy mảnh đất rõ ràng trong ký ức. Khu chợ ở ngay bên kia đường, và ngôi làng cách đó một dặm, với năm mươi túp lều trắng bao quanh một nhà thờ đá nhỏ. Giờ có lẽ ngôi làng đã đông đúc hơn; mùa hè đã kéo dài thật lâu và an bình. Tính từ đây xuôi xuống phương bắc, vượt lộ chạy dọc theo nhánh Green Fork của dòng Trident, đi qua những thung lũng màu mỡ cùng mảnh đất xanh rì, qua bao ngôi làng trù phú và những pháo đài vững chắc, cả những lâu đài của các vị lãnh chúa vùng sông nước.
Catelyn biết tất cả bọn họ; nhà Blackwood và Bracken, luôn luôn là những kẻ thù không đội trời chung, cha bà luôn là người phải làm nhiệm vụ hòa giải. Phu nhân Whent, người cuối cùng trong dòng họ, người cư ngụ cùng những bóng ma tại hầm hộ tối tăm của Harrenhall; Lãnh chúa Frey nóng nảy, người đã sống lâu hơn cả bảy bà vợ và khiến hai lâu đài của mình tràn ngập con cái, cháu chắt. Tất cả bọn họ đều là quân đồng minh với nhà Tully, họ thề phục vụ cho lâu đài Riverrun. Catelyn không biết liệu như thế có đủ nếu chiến tranh xảy ra. Cha bà là người đáng tin nhất trên cõi đời này, và bà chắc chắn ông sẽ triệu tập những người dưới trướng tới... nhưng ai sẽ tới đây? Nhà Darry, Ryger, Mooton cũng thề trung thành với Riverrun, nhưng họ đã đứng về phe Rhaegar Targaryen trong trận chiến trên dòng Trident, còn Lãnh chúa Frey chỉ quy thuận thành Riverrun khi trận chiến đã ngã ngũ khiến nhiều người nghi ngờ liệu ông ta định theo phe nào (phe của họ, ông ta đã giúp cho chiến thắng của họ chắc chắn hơn, nhưng kể từ sau đó về sau cha bà đã gọi ông ta là Lãnh chúa Frey Rùa Bò). Không thể nào có chiến tranh được, Catelyn tích cực nghĩ. Họ sẽ không để nó xảy ra.
Ser Rodrik tới gặp bà ngay khi tiếng chuông ngừng kêu. “Tốt hơn hết chúng ta nên khẩn trương lên nếu còn muốn ăn tối, thưa phu nhân.”
“Sẽ an toàn hơn nếu chúng ta không phải hiệp sĩ và phu nhân cho tới khi vượt qua Neck,” bà nói. “Những người lữ khách bình thường ít bị chú ý hơn. Chúng ta đóng giả một người cha và con gái trong chuyến buôn bán của gia đình đi.”
“Tuân lệnh, thưa phu nhân,” Ser Rodrik đồng ý. Tới lúc bà cười phá lên ông mới nhận ra mình vừa làm gì. “Những phép tắc đã được học từ rất lâu khó thay đổi trong một sớm một chiều lắm, c... con gái.” Ông cố sờ vào bộ ria đã mất, và thở dài thật vọng.
Catelyn nắm tay ông. “Đi nào, cha “ bà nói. “Con nghĩ cha sẽ thấy bà Masha Heddle đã chuẩn bị một bàn tốt cho chúng ta, nhưng đừng khen ngợi bà ấy. Cha thật sự không muốn thấy nụ cười của bà ta đâu.”
Phòng sinh hoạt chung khá dài và hơi lạnh lẽo, với một hàng thùng gỗ to tướng và lò lửa. Một tên phục vụ chạy đi chạy lại với những cái xiên thịt trong khi bà Masha vừa rót bia vừa nhai lá me chua.

Hàng ghế băng chật ních người dân trong thị trấn, những nông dân ngồi xen lẫn cùng những lữ khách. Ngã tư đường này đón tiếp những người bạn đường vô cùng kỳ lạ; những người thợ nhuộm với đôi bàn tay tím đen ngồi cùng ghế với những ngư dân ám mùi cá, người thự rèn cuồn cuộn cơ bắp đang co ro bên cạnh thầy tu gầy đét nhăn nheo, một người bán kiếm dạn dày sương gió và thương nhân béo mập rì rầm trao đổi tin tức như những người bạn vui vẻ.
Các tay kiếm đi cùng nhau nhiều hơn Catelyn tưởng. Ba người ngồi bên đống lửa đeo huy hiệu hình xích thố của nhà Bracken, một nhóm lớn khác mặc áo giáp xích bằng thép xanh và áo choàng không tay màu xám bạc. Trên vai họ có một gia huy khá quen mắt, hình ngọn tháp đôi của nhà Frey. Bà nhìn khuôn mặt họ, nhưng họ đều còn quá trẻ nên không thể biết bà. Khi bà lên phương bắc, người lớn tuổi nhất trong đó cũng chỉ bằng tuổi Bran bây giờ.
Ser Rodrik tìm cho họ một chỗ trống trên ghế băng cạnh bếp. Ở bên Ida bàn là một cậu thanh niên đẹp trai đang lướt những ngón tay trên cây đàn hạc. “Chúa phù hộ cho các ngài, những con người tốt bụng,” cậu ta nói khi họ ngồi xuống. Một cốc rượu trống không nằm trước mặt anh ta.
“Và cho anh nữa, chàng ca sĩ,” Catelyn đáp lời. Ser Rodrik gọi bánh mỳ, thịt và bia ở tông giọng muốn được phục vụ ngay lập tức. Chàng ca sĩ, trẻ, khoảng tầm mười tám, táo bạo nhìn họ và hỏi họ định đi đâu và từ đâu đến, họ có tin gì mới không, rồi để những câu hỏi trôi tuột đi nhanh như tên bắn mà không dừng lại chờ câu trả lời. “Hai tuần lễ trước chúng tôi rời khỏi Vương Đô,” Catelyn trả lời cho câu hỏi an toàn nhất trong số đó.
“Tôi lại đang định nhảy tới đó đây,” cậu thanh niên nói. Đúng như bà nghĩ, cậu chàng thích kể chuyện của mình hơn là lắng nghe chuyện của họ. Những ca sĩ không thích gì hơn là được lắng nghe giọng nói của chính mình. “Cuộc đấu thương ngựa của quân sư đồng nghĩa với việc những lãnh chúa giàu có với ví tiền dày cộp xuất hiện. Lần cuối cùng tôi đã đến và đi với nhiều bạc hơn tôi có thế vác nổi... hoặc đáng lẽ là thế nếu như tôi không tiêu hết vào việc cá tiền cho Sát Vương.”
“Chúa không thích những kẻ cờ bạc,” Ser Rodrik nghiêm túc nói. Ông là người phương bắc, và đồng quan điểm với nhà Stark về cuộc đấu thương ngựa.
“Chắc chắn là họ không yêu thích tôi rồi,” chàng ca sĩ nói. “Những vị thần độc ác của các vị cùng Hiệp sĩ Flowers đều làm thế với tôi.”
“Chắc chắn đây sẽ là một bài học cho cậu,” Ser Rodrik nói.
“Đúng. Lần này tôi sẽ cược cho Ser Loras.”
Ser Rodrik cố vuốt những sợi râu vốn không còn ở đó, nhưng trước khi ông kịp quở trách thì tay phục vụ đã hối hả chạy tới. Cậu ta đặt đĩa bánh mỳ trước mặt họ, và phục vụ họ những xiên thịt nâu được rưới nước dùng nóng sốt. Một xiên nữa xiên những miếng hành, ớt đỏ và những cây nấm béo ngậy. Ser Rodrik ăn ngấu nghiến khi tay phục vụ chạy đi lấy bia.
“Tên tôi là Marillion chàng ca sĩ nói, và gảy một dây đàn hạc. “Chắc chắn hai người đã nghe tôi chơi ở đâu đó rồi chứ nhỉ?”
Phong cách của cậu thiếu niên này làm Catelyn bật cười. Vài người hát rong từng tới tận Winterfell xa xôi, nhưng bà biết những người như anh chàng này từ hồi con gái tại Riverrun. “Tôi e là không,” bà nói.
Cậu ta gẩy một tiếng đàn ai oán. “Thật tiếc cho hai người,” cậu ta nói. “Ca sĩ hát hay nhất hai người từng được nghe là ai?”
“Alia thành Braavos “ Ser Rodrik ngay lập tức trả lời.

“Tôi hát hay hơn que củi khô đó nhiều,” Marillion nói. “Nếu hai người trả tôi một bạc, tôi sẽ vinh hạnh được chứng tỏ cho hai người thấy.”
“Có thể tôi có một hoặc hai đồng, nhưng tôi thà vứt nó đi còn hơn nghe cậu gào thét,” Ser Rodrik càu nhàu. Thành kiến của Ser Rodrik với những ca sĩ quá rõ ràng rồi; âm nhạc là những thứ dễ thương dành cho những cô gái, nhưng ông không thể hiểu vì sao một cậu bé khỏe mạnh lại lướt tay trên đàn hạc trong khi có thể cầm một thanh kiếm.
“Ông nội bà thật cay nghiệt làm sao,” Marillion nói với Catelyn. “Tôi chỉ muốn ca ngợi bà. Bày tỏ lòng ngưỡng mộ với vẻ đẹp của bà. Chứ thật ra, tôi thường hát cho những nhà vua và những lãnh chúa cao quý cơ.”
“Ồ, tôi có thể thấy được,” Catelyn nói. “Lãnh chúa Tully rất thích ca hát. Chắc chắn cậu đã từng tới Riverrun.”
“Cả trăm lần,” chàng ca sĩ vui vẻ nói. “Họ còn dành cho tôi một phòng, và vị lãnh chúa trẻ đối với tôi như đối với anh em vậy.”
Catelyn mỉm cười, không biết Edmure sẽ nghĩ gì. Một ca sĩ khác từng lên giường cùng một cô gái em bà yêu mến; từ đó cậu ghét tất cả các ca sĩ. “Và Winterfell?” bà hỏi. “Cậu đã tới phương bắc chưa?”
“Sao lại tới đó chứ?” Marillion hỏi. “Trên đó toàn là bão tuyết và da gấu, còn nhà Stark không biết đến thứ âm nhạc nào ngoài tiếng sói tru.”
Xa xa, bà nghe có tiếng cửa bật mở.
“Bà chủ,” có tiếng một người hầu gọi từ phía sau, “chúng tôi có ngựa cần đưa vào chuồng, và Lãnh chúa Lannister muốn có phòng và nước tắm nóng.”
“Ôi, thánh thần ơi,” Ser Rodrik nói trước khi Catelyn bảo ông im lặng, những ngón tay bà bấu chặt lấy cánh tay ông.
Masha Heddle cúi đầu và nở nụ cười đỏ rực xấu xí. “Tôi thành thực xin lỗi, thưa lãnh chúa, nhưng chúng tôi không còn phòng.”
Catelyn thấy có bốn người. Một ông già mặc áo đen thuộc Đội Tuần Đêm, hai người hầu... và hắn, vẫn nhỏ thó và xấc xược như xưa. “Người của tôi có thể ngủ trong chuồng ngựa, còn về phần tôi, ừm, tôi không cần một phòng lớn, như bà thấy đó.” Hắn cười giả lả. “Chỉ cần có lửa ấm và cỏ khô không có rận là tôi đã hạnh phúc lắm rồi.”
Masha Heddle không thay đổi. “Thưa lãnh chúa, chúng tôi không còn chỗ, giờ đang diễn ra cuộc đấu thương ngựa, chúng tôi không thể nào, ồ...”
Tyrion Lannister lôi một đồng xu từ trong túi, tung lên rồi bắt lấy, rồi lại tung lên. Kể cả từ bên kia phòng nơi Catelyn đang ngồi, ánh sáng lóe lên của đồng tiền vàng cũng chẳng lẫn đi đâu được.
Một kỵ binh mặc áo choàng xanh nhạt nhoài tới trước chân hắn. “Ngài có thể ở phòng tôi, thưa lãnh chúa.”
“Thật là một người khôn ngoan,” Lannister nói khi ném đồng tiền qua phòng. Tên kỵ sĩ tóm lấy nó. “Và một đồng nữa cho người đánh giày.” Gã người lùn quay lại với bà Masha Heddle. “Tôi tin bà có thể chuẩn bị thức ăn cho chúng tôi chứ?”

“Bất cứ thứ gì ngài thích, thưa lãnh chúa, bất cứ thứ gì,” bà chủ hứa. Và cầu cho hắn nghẹn chết, Catelyn nghĩ, nhưng bà lại thấy hình ảnh Bran nghẹn ứa máu và chết chìm trong đó.
Lannister liếc nhìn dãy bàn gần nhất. “Người của tôi sẽ ăn bất cứ thứ gì bà phục vụ. Gấp đôi đi, vì chúng tôi vừa đi một chặng đường dài vất vả. Tôi sẽ ăn thịt gà, bồ câu, vịt quay, thế nào cũng được. Và mang bình rượu ngon nhất tới nhé. Yoren, ông ăn cùng tôi không?”
“Có, thưa lãnh chúa, tôi sẽ ăn cùng ngài,” người anh em áo đen trả lời.
Người lùn không thèm liếc nhìn về cuối phòng, và Catelyn đang thầm cám ơn vì mình đã ngồi trong những hàng ghế đông đúc thì đột nhiên Marillion nhảy lên. “Ôi Lãnh chúa Lannister!” cậu ta gọi. “Tôi rất mừng được mua vui trong lúc ngài ăn uống. Hãy để tôi hát cho ngài nghe về chiến công vĩ đại của cha ngài tại Vương Đô!”
“Đừng làm ta ăn mất ngon,” người lùn khô khốc nói. Đôi mắt hai màu của hắn nhìn chàng ca sĩ một lát, rồi bắt đầu nhìn đi chỗ khác... và thấy Catelyn. Hắn bối rối nhìn bà một lúc. Bà quay mặt đi, nhưng đã quá muộn. Gã lùn mỉm cười. “Phu nhân Stark, thật là một vinh hạnh bất ngờ,” hắn nói. “tôi rất tiếc vì không gặp được bà tại Winterfell.”
Marillion há hốc mồm bối rối nhìn Catelyn khi bà chậm rãi đứng lên. Bà nghe tiếng chửi thề của Ser Rodrik. Giá mà hắn cứ lân la ở Tường Thành thì tốt, bà nghĩ, giá mà...
“Phu nhân... Stark?” Masha Heddle ngọng nghịu nói.
“Tôi vẫn là Catelyn Tully của lần cuối cùng nghỉ tại đây,” bà nói với bà chủ. Bà có thể nghe thấy những tiếng xì xào, cảm nhận những đôi mắt đang xoáy vào bà. Catelyn liếc nhìn quanh phòng, nhìn gương mặt những hiệp sĩ và hít một hơi thật sâu để điều hòa nhịp tim. Sao bà lại dám mạo hiểm thế này? Giờ không còn thời gian để suy nghĩ, chỉ có một thời khắc và chính giọng nói bà vang bên tai. “Ông, ngồi trong góc đó,” bà nói với một người đàn ông luống tuổi hơn tới giờ bà mới để ý. “Có phải tôi thấy hình con dơi đen của nhà Harrenhall thêu trên áo khoác của ngài không?”
Người đàn ông đó đứng dậy. “Đúng, thưa phu nhân.”
“Và phu nhân Whent là người bạn thực sự của cha ta, Lãnh chúa Hoster Tully thành Riverrun?”
“Đúng vậy,” người đàn ông quả quyết.
Ser Rodrik im lặng đứng dậy và rút kiếm khỏi vỏ. Gã lùn chớp mắt nhìn họ, mặt không biểu cảm, trừ sự bối rối trong đôi mắt hai màu.
“Xích thố luôn được chào đón tại Riverrun bà nói với bộ ba ngồi bên bếp lửa. “Cha ta tin tưởng Janos Bracken như một trong những quân đồng minh hảo hữu và trung thành nhất.”
Ba người kỵ binh bối rối nhìn nhau. “Lãnh chúa của chúng tôi vô cùng vinh dự,” một trong ba người ngần ngừ nói.
“Tôi ghen tị vì cha bà có những người bạn tốt,” Lannister châm biếm, “nhưng tôi không hiểu mục đích của bà, phu nhân Stark.”
Bà lờ hắn đi, quay sang nhóm lớn mặc đồ xanh và xám. Họ là cốt lõi vấn đề, với hơn hai mươi người. “Ta biết gia huy của các người: ngọn tháp đôi của nhà Frey. Lãnh chúa của các ngài sao rồi?”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,359
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 38: Chương 28 phần 2




Người đội trưởng đứng lên. “Lãnh chúa Walder vẫn khỏe, thưa phu nhân. Ông ấy định cưới vợ mới nhân sinh nhật thứ chín mươi, và vô cùng vinh dự nếu phụ thân bà tới dự.”
Tyrion Lannister cười khẩy. Tới lúc này Catelyn biết hắn là của bà. “Người này làm khách trong nhà tôi và âm mưu giết chết con tôi, một đứa trẻ mới lên bảy,” bà tuyên bố với cả căn phòng. Ser Rodrik đến bên cạnh bà, với thanh kiếm cầm chắc trên tay. “Nhân danh vua Robert và các vị lãnh chúa tốt bụng các ngài đang phục vụ, tôi kêu gọi các ngài tiêu diệt hắn và giúp tôi đưa hắn trở về Winterfell chờ đợi sự xét xử của đức vua.”
Bà không biết điều gì đáng hài lòng hơn: âm thanh cả tá thanh gươm đồng loạt rút ra hay vẻ mặt của Tyrion Lannister.
Sansa tới cuộc đấu thương ngựa của quân sư cùng Septa Mordane và Jeyne Poole trong một cái kiệu có trướng bằng lụa vàng loại tốt có thế nhìn xuyên qua được. Chúng nhuộm vàng cả thế giới. Bên ngoài tường thành, cả trăm chiếc lều lớn dựng lên bên sông, và hàng ngàn người tới xem những trận đấu. Sự tráng lệ làm Sansa nghẹt thở; bộ áo giáp sáng loáng, những con ngựa chiến lớn đeo món đồ trang sức bằng vàng và bạc, tiếng đám đông la hét, những lá cờ xí tung bay trong giỏ... và đặc biệt là các hiệp sĩ, các chàng hiệp sĩ chân chính nhất.
“Nó tuyệt hơn trong những bài ca,” cô thì thầm khi họ tìm thấy nơi cha cô hứa giữ chỗ cho cô, giữa những lãnh chúa và phu nhân cao quý. Sansa ăn diện thật đẹp, chiếc váy dạ hội màu xanh lam làm nổi bật mái tóc màu nâu vàng của cô, cô biết mọi người đang nhìn cô và mỉm cười.
Họ quan sát những người hùng trong cả trăm khúc ca tiến lên, kẻ sau hào nhoáng hơn kẻ trước. Bảy hiệp sĩ trong đội Ngự Lâm Quân đều tham gia, trên người họ khoác áo giáp vảy cá màu sữa, áo choàng trắng như tuyết, trừ Jaime Lannister. Ser Jaime cũng mặc áo choàng trắng, nhưng bên trong, ngài mặc áo giáp vàng sáng bóng từ đầu tới chân, với mũ trụ hình đầu sư tử và thanh kiếm vàng. Ser Gregor Clegane, Ngọn Núi Trên Yên Ngựa[19], đang quát tháo ầm ĩ như tiếng núi lở. Sansa còn nhớ Lãnh chúa Yobn Royce, người đã từng làm khách tại Winterfell hai năm trước.
“Áo giáp của ông ấy bằng đồng, có niên đại hàng ngàn năm tuổi, trên đó khắc những chữ rune[20] mang phép thuật bảo vệ ông ấy khỏi mọi tổn hại,” cô thì thầm với Jeyne.
Septa Mordane chỉ về phía Lãnh chúa Jason Malliser, trong bộ đồ màu chàm điểm bạc, với đôi cánh đại bàng trên mũ trụ. Ông đã hạ gục ba tướng quân đồng minh của Rhaegar trong trận Trident. Những cô gái cười khúc khích khi thấy vị thầy tu dũng sĩ Thoros thành Myr, với áo choàng đỏ bay phấp phới và cái đầu nhẵn thín, cho tới khi sơ bảo họ rằng ông ta từng đánh sụp những bức tường thành Pyke chỉ bằng thanh hỏa kiếm trong tay.
Có nhiều kỵ sĩ mà Sansa không biết; những hiệp sĩ ngoài biên cương tới từ Fingers, Highgarden và những ngọn núi xứ Dorne, những kỵ sĩ vô danh và những cận vệ mới, những người con trai ít tuổi hơn cô của các lãnh chúa cao quý, và người thừa kế những gia tộc kém thế hơn. Họ chỉ là những người trẻ tuổi, chưa lập nên chiến công gì, nhưng Sansa và Jeyne đồng tình rằng rồi có một ngày bảy phụ quốc sẽ hát vang tên của họ. Ser Balon Swann. Lãnh chúa Bryce Caron thành March. Người kế tục Bronze Yohn, Ser Andar Royce, và em trai Ser Robar, trên tấm hộ tâm bằng thép sáng bạc cũng được chạm khắc những con chữ rune đã bảo vệ cha họ. Cặp song sinh Ser Horas và Ser Hobber, trên giáp có gia huy chùm nho của nhà Redwyne với màu đỏ tía trên nền xanh da trời. Patrek Mallister, con trai Lãnh chúa Jason. Bộ sáu nhà Frey vùng Crossing: Ser jared, Ser Hosteen, Ser Danwell, Ser Emmon, Ser Theo, Ser Perwyn, những người con và cháu trai Lãnh chúa già Walder Frey và người con hoang Martyn Rivers của ông.
Jeyne Poole thú nhận mình sợ vẻ bề ngoài của Jalabhar Xho, hoàng tử bị lưu đày đến từ đảo Summer, mặc áo choàng không tay màu xanh lam và áo lông vũ đỏ thẫm ngoài làn da đen kít như màn đêm, nhưng khi cô nhìn thấy Lãnh chúa trẻ tuổi Beric Dondarrion với mái tóc màu vàng ánh đỏ và chiếc khiên đen trang trí hình tia chóp, cô tuyên bố rằng mình nguyện được lấy chàng ngay lập tức.
Chó Săn cũng tham gia cùng em trai của nhà vua, Lãnh chúa Renly đẹp trai thành Storm’s End. Chú Jory, anh Alyn và anh Harwin tham gia trong đoàn Winterfell và phương bắc. “Trông Jory cứ như thằng ăn xin khi đứng trong đó ấy.” Septa Mordane khụt khịt nhận xét khi chú xuất hiện. Áo giáp của chú Jory mang màu xám xanh không có họa tiết hay gia huy với chiếc áo choàng bên ngoài tả tơi như giẻ rách. Nhưng chú đã làm tốt phần thi của mình khi đánh Horas Redwyne ngã ngựa ngay trong lượt đấu đầu tiên và một người nhà Frey trong lần thứ hai. Trong lượt đấu thứ ba, chú giao đấu ba đợt với một kỵ sĩ tên Lothor Brune mặc bộ giáp đơn điệu y như chú vậy. Không ai trong hai người ngã ngựa, nhưng cây thưong của Brune vững vàng hơn và cú đâm chính xác hơn, và nhà vua đã tuyên bố hắn giành chiến thắng. Alyn và Harwin không đi xa tới vậy; Harwin ngã ngựa ngay từ lượt đầu tiên dưới tay Ser Meryn thuộc Ngự Lâm Quân, trong khi Alyn thua Ser Balon Swann.
Cuộc đấu kéo dài cả ngày trời tới tận hoàng hôn, vó ngựa quần thảo tới khi cánh đồng chỉ còn là một mảnh đất hoang nát bươm. Hơn mười lần Jeyne và Sansa đồng thanh hét khi những kỵ sĩ đâm vào nhau, những ngọn thương vỡ vụn, trong khi đám đông cổ vũ cho người họ yêu thích. Jeyne che mắt mỗi khi ai đó ngã xuống như thể một bé gái đang sợ hãi vậy, nhưng Sansa cứng rắn hơn. Một tiểu thư cao quý biết phải cư xử thế nào trong những trận đấu thương ngựa. Kể cả Septa Mordane cũng nhận thấy sự điềm tĩnh của cô và gật đầu tán thưởng.
Sát Vương cưỡi ngựa thật tài tình. Ngài đánh ngã Ser Andar Royce và Lãnh chúa thành March Bryce Caron dễ như thể cưỡi ngựa đi vòng tròn, và sau đó đánh một trận khó nhằn với ông Barristan Selmy tóc bạc, người đã chiến thắng trong hai vòng đấu trước hai người hậu bối trẻ hơn ông ngót bốn mươi tuổi.

Sandor Clegane và người anh to lớn, Ser Gregor Ngọn núi, dường như cũng bất khả chiến bại, đánh bại hết đối thủ đến đối thủ khác một cách tàn bạo. Thời khắc kinh hoàng nhất ngày hôm nay là trong lượt đấu thứ hai của Ser Gregor, khi ngọn thương của y giơ lên đâm trúng bọng che cổ, với lực mạnh đâm xuyên qua cổ họng, khiến người hiệp sĩ trẻ chết ngay tức thì. Người thanh niên đó ngã xuống cách chỗ Sansa ngồi chưa đầy hai mét. Mũi thương của Ser Gregor đã đâm xuyên cổ anh ta, máu cứ từ từ ứa ra, mỗi lúc một yếu đi. Chiếc áo giáp của anh mới toanh; trên đó trang trí một ngọn lửa cháy sáng chạy dọc cánh tay; như thể thép bắt lửa vậy. Sau đó khi mặt trời khuất sau những đám mây, ánh lửa biến mất. Áo choàng của hắn mang màu xanh lam, màu xanh của bầu trời trong những ngày mùa hè thoáng đãng, trên đó nổi bật hình vầng trăng khuyết, nhưng máu hắn đã thấm đẫm trên đó, khiến màu vải tối lại và mặt trăng từ từ chuyển sang màu đỏ.
Jeyne Poole khóc lóc thảm thiết tới mức Septa Mordane phải dẫn cô đi chỗ khác để cô lấy lại bình tĩnh, nhưng Sansa vẫn ngồi im, tay đặt trên lòng, quan sát với sự hứng thú lạ lùng.
Cô chưa từng nhìn thấy người chết. Cô đáng ra cũng phải sợ đến phát khóc, nhưng không một giọt nước mắt nào chảy xuống. Có lẽ cô đã dùng tất cả nước mắt cho Quý Cô và Bran rồi. Nếu như chuyện xảy ra với chú Jory, Ser Rodrik hay cha thì sẽ cô sẽ phản ứng khác, cô tự nhủ. Người hiệp sĩ trẻ mặc áo choàng xanh kia chẳng là gì với cô, chỉ là một người lạ mặt tới từ thung lũng Arryn, người mà ngay cả tên cô đã quên ngay khi nghe thấy. Và giờ thế giới cũng quên lãng cái tên của anh ta, chẳng có một bài hát nào ngợi ca anh. Thật buồn làm sao.
Sau khi họ lôi cái xác đi, một cậu bé cầm một cái thuổng chạy tới cánh đồng, đổ đất lên nơi gã hiệp sĩ trẻ ngã xuống để vùi lấp máu đi. Sau đó lượt đấu tiếp tục.
Ser Balon Swann cũng bại trận trước Gregor, còn lãnh chúa ước Renly thua Chó Săn. Renly đã ngã ngựa rất mạnh đến nỗi ngài ta bay ngược khỏi ngựa, chân chấp chới trong không khí. Đầu ngài đập mạnh xuống đất với một tiếng rắc khiến đám đông hoảng hốt, nhưng may sao chỉ là một nhánh gạc hươu trên mũ trụ bị đè gãy thôi.
Khi Lãnh chúa Renly đứng dậy, đám đông hò reo ầm trời, vì cậu em đẹp trai của nhà vua được nhiều người yêu mến. Ngài giao cái gạc gẫy cho người chiến thắng kèm một cái cúi đầu lịch lãm. Chó Săn khịt mũi và ném cái gạc gãy cho đám đông, khiến những người dân thường nhăm nhe vồ lấy chút vàng đó, sau đó Lãnh chúa Renly phải tới chỗ họ dàn xếp sự việc. Tới lúc đó, Septa Mordarte cũng trở lại một mình. Bà giải thích rằng Jeyne thấy mệt mỏi; bà đã giúp cô nàng trở về lâu đài. Sansa gần như đã quên mất Jeyne.
Lát sau, một hiệp sĩ vùng biên cương mặc áo choàng kẻ ca rô bị đám đông la ó vì giết chết ngựa chiến của Beric Dondarrion và bị tước quyền thi đấu. Lãnh chúa Beric chuyển yên sang một con ngựa mới, nhưng sau đó đã bị Thoros thành Myr đánh bay khỏi ngựa. Ser Aron Santagar và Lothor Brune thắng ba vòng liên tiếp; Ser Aron sau đó thất trận trước Lãnh chúa Jason Mal, và Brune thua con trai thứ của Yohn Royce, Robar.
- Cuối cùng, cuộc đấu đi tới lượt thứ tư; Chó Săn và người anh trai to lớn Gregor, Jaime Lannister Sát Vương và Ser Loras Tyrel, chàng hiệp sĩ trẻ được gọi bằng cái tên Hiệp sĩ Flowers.
Ser Loras là con trai út của Mace Tyrel, Lãnh chúa thành Highgarden và Thủ Lĩnh Phương Nam. Ở tuổi mười sáu, chàng là kỵ sĩ trẻ nhất, nhưng đã đánh ngã ba hiệp sĩ trong Ngự Lâm Quân ngay trong ba lượt đấu đầu tiên của buổi sáng. Sansa chưa bao giờ thấy ai đẹp tới vậy. Tấm hộ tâm của chàng được rèn khá cầu kỳ và trạm trổ cả ngàn loài hoa khác nhau, còn trên con bạch mã trắng như tuyết là tấm thảm kết từ hoa hồng đỏ và trắng. Sau mỗi chiến thắng, Ser Loras sẽ tháo mũ trụ và chầm chậm tiến tới hàng rào, và sau cùng rút một bông hoa hồng trắng ném ột thiếu nữ xinh đẹp trong đám đông.
Trận chiến cuối cùng trong ngày của chàng là với Royce. Những nét chữ rune cổ của Ser Robar đã chứng minh công năng bảo vệ nho nhỏ khi Ser Loras chẻ dọc khiên của cậu ta và đẩy cậu ta ngã ngựa xuống đất với một âm thanh chói tai. Robar nằm đó rên rỉ khi kẻ chiến thắng đi vòng quanh cậu ta. Cuối cùng, họ cho gọi một chiếc cáng mang cậu ta về lều, trong tình trạng mê man bất tỉnh. Sansa chưa bao giờ thấy điều này.
Mắt cô dán chặt vào Ser Loras. Khi con bạch mã dừng lại trước cô, cô nghĩ trái tim cô sắp nhảy ra khỏi lồng ngực.
Với những thiếu nữ khác, chàng trao bông hồng trắng, nhưng với cô chàng rút ra bông hồng đỏ. “Thưa tiểu thư yêu quý” chàng nói, “không một chiến thắng nào tuyệt đẹp bằng một nửa của tiểu thư” Sansa bẽn lẽn nhận bông hoa, ngu ngơ vì cử chỉ lịch lãm của chàng. Mái tóc chàng là những lọn tóc rối màu nâu, đôi mắt chàng như vàng đang tan chảy vậy. Cô hít lấy hương hoa hồng ngọt ngào và cầm chặt lấy nó một lúc lâu sau khi Ser Loras đi khỏi.
Cuối cùng khi Sansa nhìn lên, một người đang đứng nhìn cô. Ông ta lùn xủn, với chòm râu dê và tóc điểm bạc, gần bằng tuổi cha cô. “Chắc hẳn cháu là một trong hai cô con gái của em ấy,” ông ta nói với cô. Ông có đôi mắt màu xanh xám buồn bã dù nụ cười đang nở trên môi. “Cháu có vẻ ngoài giống người nhà Tully.”

“Cháu là Sansa Stark” cô nói, đột nhiên thấy không khỏe. Người này mặc chiếc áo choàng dày cổ lông, trên cổ đeo huy hiệu hình con chim nhại bạc, mang phong thái thảnh thơi của một lãnh chúa cao quý, nhưng cô không biết ông. “Cháu nào được vinh hạnh đó, thưa lãnh chúa.”
Septa Mordane nhanh chóng giúp cô. “Con ngoan, đây là Lãnh chúa Petyr Baelish, thuộc tiểu hội đồng của nhà vua.”
“Mẹ cháu từng là một mỹ nhân,” ông ta bình thản nói, hơi thở có mùi bạc hà.
“Cháu có mái tóc của mẹ.” Những ngón tay ông chạm nhẹ lên má khi vuốt ve một lọn tóc nâu vàng, rồi ông ta đột nhiên quay người bỏ đi.
Lúc đó, trăng đã lên và đám đông đã mệt mỏi, vì thế nhà vua quyết định ba trận cuối cùng sẽ diễn ra vào sáng mai, trước cuộc hỗn chiến. Trong khi dân thường bắt đầu dợm bước về nhà, tán dóc về những cuộc đấu trong ngày và những trận sáng mai, triều đình dời tới bên sông bắt đầu bữa tiệc. Sáu con bò rừng lớn đã được nướng hàng giờ liền, chầm chậm xoay trên những que gỗ trong khi những cậu nhóc chạy việc nhà bếp quết bơ và thảo mộc cho tới khi lớp da nứt ra. Bàn ghế được sắp xếp bên ngoài lều lớn, chất đống cỏ ngọt, dầu và bánh mì mới nướng.
Sansa và Septa Mordane được dành cho vị trí danh dự, ở bên trái đài cao nơi nhà vua ngồi cạnh hoàng hậu. Khi hoàng tử Joffrey ngồi xuống bên phải cô, cô thấy cổ họng cứng lại. Chàng không nói với cô một lời sau sự kiện kinh khủng kia, và cô cũng không dám trò chuyện cùng chàng. Lúc đầu cô nghĩ mình ghét chàng vì điều họ đã làm với Quý Cô, nhưng sau khi Sansa lau khô nước mắt, cô tự nhủ mình rằng đó không hoàn toàn là do Joffrey. Hoàng hậu đã làm việc đó; bà ta mới là người cô cần ghét, bà ta và Arya. Nếu không có Arya thì chẳng có chuyện gì tồi tệ xảy ra.
Tối nay cô không thế ghét nổi Joffrey. Chàng quá đẹp trai. Chàng mặc chiếc áo chẽn màu xanh lục đậm đính hai hàng đầu sư tử vàng, trên trán là chiếc vương miện nhỏ bằng vàng và ngọc bích. Tóc chàng sáng như ánh kim vậy. Sansa nhìn chàng mà run rẩy, sự rằng chàng sẽ lờ cô đi, hoặc tệ hơn, lại ghét cô và khiến cô khóc chạy khỏi bàn tiệc.
Thay vào đó, Joffrey cười và hôn lên tay cô, trông chàng đẹp trai và ga lăng như chàng hoàng tử trong những khúc ca vậy, sau đó chàng nói, “Ser Loras thật có mắt nhìn người, tiểu thư xinh đẹp ạ.”
“Ngài ấy chỉ là quá tử tế mà thôi,” cô do dự, cố tỏ ra bình tĩnh và khiêm tốn, dù trái tim đang hát vang. “Ser Loras là một hiệp sĩ đích thực. Chàng nghĩ ngài ấy sẽ chiến thắng trong ngày mai không, hoàng tử?”
“Không,” Joffrey nói. “Con chó của ta, hoặc có thể là cậu Jaime sẽ chiến thắng. Và vài năm nữa thôi, khi ta đủ tuổi tham dự, ta sẽ đánh bại tất cả.” Chàng giơ tay gọi một người hầu đang cầm một bình rượu mùa hè, và rót đầy cốc cho cô. Cô lo lắng nhìn Septa Mordane cho tới khi Joffrey nhoài người sang, đổ rượu vào cốc sơ, lúc đó cô mới gật đầu và duyên dáng cám ơn chàng mà không nói thêm một lời nào.
Những người hầu làm nhiệm vụ tiếp rượu trong cả đêm, nhưng sau đó Sansa không thể nhớ nổi vị rượu nữa. Cô không muốn uống rượu. Cô đã say men của nét huyền ảo trong đêm, chuếnh choáng vì sự hào nhoáng, bị cuốn đi trong những cảnh đẹp mà cô đã mơ ước cả đời và chưa bao giờ hy vọng được biết tới. Những nhạc công ngồi trước lều nhà vua, làm cho cảnh chiều tà tràn ngập tiếng nhạc. Một nghệ sĩ tung hứng điệu nghệ tung những cây gậy đang cháy rừng rực xoay tròn trong không khí. Chàng hề của nhà vua, một kẻ đần mặt tròn như bánh được gọi bằng cái tên Moon Boy[21], khiêu vũ trên đôi cà kheo, mỉa móc mọi người một cách độc ác khiến Sansa nghi ngờ liệu hắn có thực sự đần không. Kể cả Septa Mordane cũng không thể chịu nổi hắn; khi hắn hát về Đại Tư Tế, bà cười tới mức làm đổ cả rượu ra người.
Và Joffrey thật nhã nhặn làm sao. Chàng nói chuyện với Sansa cả đêm, nhấn chìm cô trong những lời khen ngợi, làm cô cười, kể cho cô nghe chuyện phiếm trong triều và giải thích những câu nói đùa của Moon Boy.
Sansa say đậm tới mức quên đi những phép lịch sự thông thường và quên luôn Septa Mordane đang ngồi bên cạnh.

Các món ăn liên tục được bưng tới và dọn đi. Món súp lúa mạch và thịt nai đặc quánh. Món sa lát cỏ ngọt, rau chân vịt và mận, được rắc nhân quả hạch tán nhỏ lên trên. Những con ốc sên quết mật ong và tỏi. Sansa chưa bao giờ ăn ốc sên; Joffrey dạy cô cách lôi ốc ra khỏi vỏ, và tự tay đút cho cô ăn miếng đầu tiên. Sau đó là món thịt cá hồi bắt từ sông, bọc đất nướng; hoàng tử của cô giúp cô đập vỡ lớp vỏ đất cứng để lộ ra miếng thịt trắng ngần bên trong. Và khi món mặn được mang ra, chàng tự tay phục vụ cô thức ăn từ khẩu phần của hoàng hậu rồi mỉm cười đặt vào đĩa cho cô. Cô có thể thấy tay phải chàng còn đau, nhưng chàng không phàn nàn lấy một tiếng.
Sau những chiếc bánh mỳ ngọt và bánh thịt chim câu, táo nướng thơm phức mùi quế cùng bánh chanh bọc đường được bưng lên, nhưng Sansa không thể ăn nhiều hơn hai chiếc bánh chanh, dù cô thích món này vô cùng. Cô đang phân vân liệu có nên ăn thêm chiếc nữa không thì nghe tiếng nhà vua quát.
Vua Robert nói càng lúc càng lớn. Thi thoảng Sansa nghe thấy tiếng ngài cười, hét lên ra lệnh qua tiếng nhạc và tiếng chén đĩa dao dĩa lanh canh, nhưng vì họ ngồi quá xa nên cô không nghe rõ.
Giờ thì mọi người đều đã nghe thấy. “Không,” ông gầm thét làm tất cả mọi người ngừng trò chuyện.
Sansa choáng váng nhìn nhà vua đứng lên, mặt đỏ lựng và khật khưỡng. Ngài cầm một ly rượu và đang say quắc cần câu. “Đồ đàn bà, cô không có quyền bảo ta phải làm gì.” Ngài hét vào mặt hoàng hậu Cersei. “Ở đây ta là vua, cô có hiểu không? Ta trị vì nơi này, và nếu ta nói ngày mai thi đấu là ta sẽ đấu!”
Mọi người dõi theo. Sansa thấy Ser Barristan, em trai nhà vua Renly, cùng người đàn ông thấp bé nói chuyện kì lạ và chạm vào tóc cô, nhưng không ai lên can thiệp. Khuôn mặt hoàng hậu trông như tấm mặt nạ trắng bệch. Bà ta đứng dậy, túm lấy váy, và lao đi trong câm lặng, những người hầu theo sát gót.
Jaime Lannister đặt tay lên vai nhà vua, nhưng nhà vua đẩy ngài rất mạnh.
Lannister loạng choạng ngã xuống còn nhà vua thì cười ha hả. “Hiệp sĩ vĩ đại. Ta vẫn có thể hạ nốc ao anh dễ dàng. Hãy nhớ lấy, Sát Vương.” Ngài giơ chiếc cốc nạm đá quý lên ngang ngực, làm rượu văng tung tóe lên chiếc áo sa tanh. “Đưa búa cho ta và không ai trong vương quốc này có thể chống đỡ nổi.”
Jaime Lannister đứng dậy phủi bụi. “Tuân lệnh, thưa bệ hạ.” Ngài cứng nhắc đáp lời.
Lãnh chúa Renly mỉm cười tiến tới. “Anh làm đổ rượu rồi kìa, Robert. Để tôi mang cho anh một cốc mới.”
Sansa giật mình khi Joffrey đặt tay lên tay cô. “Muộn rồi,” hoàng tử nói. Nét mặt chàng khá lạ lùng, như thể chàng không nhìn thấy cô. “Nàng có cần người hộ tống về lâu đài không?”
“Không,” Sansa bắt đầu nói. Cô nhìn Septa Mordane, và giật mình khi thấy bà đang gục đầu trên bàn, ngáy khò khò. “Ý em là... có, cám ơn chàng, chàng thật tốt bụng. Em mệt rồi, và đường lại tối. Em rất mừng nếu có ai bảo vệ.”
Joffrey gọi, “Chó Săn!”
Sandor Clegane bất chợt hiện ra từ màn đêm. Hắn đã thay áo giáp bằng áo len đỏ thêu hình đầu chó bằng da phía trước. Ánh đuốc làm khuôn mặt bỏng của hắn sáng lên màu đỏ nhàn nhạt. “Vâng, thưa hoàng tử?” hắn nói.
“Đưa vị hôn thê của ta trở lại lâu đài, và đừng để nàng bị tổn hại gì,” hoàng tử cộc cằn ra lệnh. Và không một lời từ biệt, Joffrey rảo bước đi để cô lại đó.

Sansa có thể cảm nhận Chó Săn đang quan sát mình. “Cô nghĩ Joff sẽ tự mình đưa cô về ư?”
Hắn cười. Điệu cười giống tiếng gầm gừ của những con chó bị roi vào bẫy. “Đừng có tưởng bở.” Hắn kéo cô đứng dậy. “Nào, cô không phải người duy nhất cần ngủ đâu. Tôi đã uống quá nhiều, và có lẽ mai tôi sẽ cần giết anh trai mình nữa.” Hắn lại cười.
Đột nhiên Sansa thấy sợ hãi, cô kéo vai Septa Mordane mong đánh thức bà dậy, nhưng bà chỉ ngáy lớn hơn. Vua Robert đang loạng choạng trong khi một nửa băng ghế đã trống không. Bữa tiệc đã tàn, và giấc mộng đẹp đã chấm dứt.
Chó Săn rút một cây đuốc soi đường. Sansa đi sát sau. Mặt đất lổn nhổn đá và mấp mô, ánh lửa lập lòe làm cho cô có cảm giác mặt đất đang uốn mình di chuyển. Cô cụp mắt, quan sát từng nơi đặt chân. Họ đi giữa những lều bạt, mỗi chiếc lều đều treo cờ xí và giáp bên ngoài, sự im lặng càng lúc càng nặng nề. Sansa không dám nhìn hắn, hắn làm cô sợ, nhưng cô được dạy phải có tác phong lịch sự. Một quý cô đích thực sẽ không để ý gì tới gương mặt hắn, cô tự nhủ. “Hôm nay ngài đấu ngựa thật dũng cảm, Ser Sandor “ cô cố gắng bắt chuyện.
Sandor Clegane nhìn cô chằm chằm. “Đừng dùng những lời khen ngợi rỗng tuếch đó với tôi, cô gái... và tôi không phải Ser. Tôi không phải hiệp sĩ. Tôi nhổ vào họ và lời thề của họ. Anh trai tôi là hiệp sĩ. Cô đã thấy anh ấy đấu chưa?”
“Có,” Sansa thì thầm, run rẩy. “Ngài ấy...”
“Dũng cảm?” chó săn nói nốt.
Hắn đang chế giễu cô. “Không ai có thể chống lại ngài ấy,” cuối cùng cô cũng nói được, và tự hào về mình. Cô không nói dối.
Sandor Clegane đột nhiên dừng lại giữa cánh đồng trống tối tăm. Cô không còn lựa chọn nào khác và đứng lại bên cạnh. “Các sơ đã dạy bảo cô rất tốt. Cô giống một con chim tại đảo Summer, một con chim biết nói nhỏ bé xinh đẹp, nhại đi nhại lại những lời nói nhỏ bé xinh đẹp mà họ dạy.”
“Những lời nói ấy thật tàn nhẫn,” Sansa có thể thấy mình đang run lên vì kích động. “Ngài làm tôi sự. Giờ tôi muốn đi tiếp.”
“Không ai có thể chống lại ngài ấy” Chó Săn kèn kẹt nói. “Đúng. Không ai có thể chống lại Gregor. Cậu nhóc ngày hôm nay, trong lượt đấu thứ hai, ồ, mới tuyệt vời làm sao. Cô đã chứng kiến, đúng không? Một thằng bé ngốc nghếch, hắn đáng ra không nên tham dự cuộc thi này. Không tiền, không người hầu, không có ai giúp hắn mặc áo giáp đó. Cái bọng che không được thắt đúng cách. Cô nghĩ Gregor không để ý sao? Cô nghĩ ngọn thương của Gregor vô tình giương lên sao? Con chim biết nói nhỏ bé xinh đẹp ơi, nếu cô tin vào điều đó, cô thực sự chỉ giống một con chim đầu rỗng tuếch. Ngọn thương của Gregor đâm tới chỗ nào hắn muốn. Nhìn tôi đi. Nhìn tôi đi!” Sandor Clegane đặt bàn tay to lớn dưới cằm cô và bắt cô ngửng mặt lên. Hắn ngồi xổm trước mặt cô, và dõi cây đuốc lại gần. “Cô thật đáng yêu. Hãy nhìn kỹ vào. Cô biết điều mình muốn biết. Ta quan sát cô quay mặt đi trong suốt đoạn đường trên vương lộ. Ta nhổ vào. Cô nhìn kỹ đi.”
Những ngón tay hắn giữ chặt quai hàm cô như gọng sắt. Mắt hắn nhìn thẳng vào mắt cô. Đôi mắt ngà ngà say, khuôn mặt sưng sỉa vì tức giận. Cô phải nhìn.
Mặt hắn khá dữ tợn, xương gò má góc cạnh và đôi mắt xám bên dưới hàng lông mày rậm. Mũi hắn to khoằm, mái tóc mỏng và đen nhánh. Hắn để dài và gạt sang một bên vì tóc không mọc ở nửa kia khuôn mặt.
 
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,359
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 39: Chương 28 phần 3




Phần mặt bên trái đã bị hủy hoại. Tai hắn bị thiêu cháy; chẳng còn gì ngoài một cái lỗ. Mắt hắn vẫn nhìn tốt, nhưng xung quanh chẳng chịt những vết sẹo lớn, lớp da đen thô ráp như da thú với những sẹo rỗ và những vết nứt sâu đỏ, cứ chảy nước khi hắn cử động. Bên dưới quai hàm, người ta có thể thấy chút xương ở nơi da thịt bị cháy hết.
Sansa bắt đầu khóc. Hắn thả cô ra, sau đó dụi đuốc xuống đất. “Không có lời nào hay ho sao cô gái? Không có một lời khen ngợi nho nhỏ nào sơ dạy cho cô sao?” Khi không nhận được câu trả lời, hắn nói tiếp. “Hầu hết tất cả đều nghĩ vết thương này do một trận chiến. Một cuộc hãm thành, một ngọn tháp cháy rực, một kẻ thù cầm đuốc. Có kẻ ngốc còn hỏi có phải do lửa rồng không.” Lân này tiếng cười của hắn dịu đi, nhưng vẫn cay nghiệt như cũ.
“Ta sẽ kể cho cô nghe chuyện gì xảy ra, cô gái “ hắn nói, giọng vang lên từ bóng tối, quá gần khiến cô có thể ngửi thấy mùi rượu nồng nặc khó chịu trong hơi thở hắn. “Lúc đó ta trẻ hơn cô, sáu, hay bảy tuổi gì đó. Một thợ mộc đã mở một cửa hàng trong làng dưới chân lâu đài cha ta, và để lấy lòng ông, ông lão tặng quà cho bọn ta. Ông già đó làm ra những thứ đồ chơi tuyệt đẹp. Ta không nhớ mình nhận được cái gì, nhưng ta muốn món quà của Gregor. Một hiệp sĩ gỗ được sơn rất mượt với các khớp nối được gá riêng và có dây cố định, vì thế nó có thể đánh nhau được. Gregor lớn hơn ta năm tuổi, món đồ chơi đó chẳng là gì với hắn, lúc đó hắn đã là một cận vệ hiệp sĩ, cao gần hai mét và lực lưỡng như một con bò đực. Thế là ta lấy trộm thằng hiệp sĩ, nhưng ta có thể nói với cô rằng, ta chẳng thấy vui tẹo nào. Lúc nào ta cũng nơm nớp lo sợ, và quả đúng, hắn đã biết ta lấy. Có một lò than trong phòng. Gregor không nói một lời, chỉ lôi ta đi và ấn mặt ta xuống những hòn than đỏ rực rồi giữ chặt, mặc cho ta kêu khóc. Cô đã thấy hắn khỏe thế nào rồi đấy. Vào lúc đó, phải ba người đàn ông trưởng thành mới lôi hắn ra khỏi ta được.
Những thầy tu luôn rao giảng về bảy địa ngục. Nhưng họ biết gì chứ? Chỉ có người bị bỏng mới biết địa ngục thực sự là gì.
“Cha ta nói với mọi người rằng giường ta bị bắt lửa, và một vị học sĩ nhà đã cho ta ít thuốc mỡ.”
Thuốc mỡ! Gregor cũng đưa thuốc mỡ cho hắn. Bốn năm sau, họ xức cho hắn bằng bảy thứ dầu thơm khi hắn đọc thời thề hiệp sĩ rồi Rhaeagar Targaryen vỗ vai hắn và nói, “Đứng lên đi, Ser Gregor.”
Giọng nói khàn khàn dần lạc đi. Hắn ngồi im lặng trước mặt cô, hình dáng đen đúa khổng lồ ẩn khuất trong màn đêm, khiến cô không nhìn thấy. Sansa có thể nghe thấy hơi thở hổn hển của hắn. Cô nhận ra mình buồn thay cho hắn. Không hiểu vì sao, nỗi sợ đã bay biến.
Sự im lặng cứ kéo dài mãi, khiến cô lại bắt đầu sợ, nhưng giờ cô sợ cho hắn, chứ không phải cho cô. Cô chạm vào đôi vai rộng lớn của hắn. “Ông ta không phải một hiệp sĩ chân chính,” cô thì thầm.
Chó Săn ngẩng đầu rống lên. Sansa loạng choạng lùi lại, nhưng hắn nắm lấy tay cô. “Không,” hắn gầm lên với cô, “không, con chim bé nhỏ ạ, hắn không phải một hiệp sĩ chân chính.”
Suốt quãng đường còn lại vào thành, Sandor Clegane không nói một lời. Hắn dắt cô tới cỗ xe ngựa, nói với tay đánh xe đưa họ về Tháp Đỏ, và theo cô lên xe. Họ im lặng đi qua cổng thành và vào những con phố sáng đèn. Hắn mở cửa xe dẫn cô vào lâu đài, khuôn mặt bỏng co giật và đôi mắt đầy suy tư, hắn chỉ cách cô một bước khi họ lên tháp. Hắn đưa cô an toàn trở về hành lang bên ngoài phòng ngủ.
“Cám ơn ngài,” Sansa ngoan ngoãn nói.
Chó Săn kéo tay cô và tiến tới gần. “Những điều tôi kể cho cô nghe tối nay,” hắn nói, giọng dữ dội hơn bình thường. “Nếu cô dám nói với Joffrey... em gái cô... cha cô... bất kỳ một ai...”
“Tôi sẽ không nói,” Sansa thì thầm. “Tôi hứa.”
Dường như chưa đủ. “Nếu cồ dám nói với bất kỳ ai,” hắn nói nốt, “tôi sẽ giết cô.”

Tôi là người cuối cùng đọc kinh cầu nguyện cho cậu ta,” Ser Barristan Selmy nói khi nhìn xuống thi thể đặt đằng sau cỗ xe ngựa. “Cậu ta không có người thân. Tôi nghe nói, cậu ấy chỉ còn một mẹ già ở thung lũng.”
Trong ánh bình minh mờ nhạt, hiệp sĩ trẻ trông như đang ngủ say. Hắn không đẹp trai, nhưng cái chết đã làm mềm những đường nét rắn rỏi, và Hội Chị Em Quản Sinh Tử[22] đã mặc cho hắn bộ đồ nhung đẹp nhất, cổ cao che đi vết thương do ngọn thương gây ra.
Eddard Stark nhìn mặt hắn, tự hỏi liệu có phải vì ông mà cậu thiếu niên này phải ra đi không.
Bị giết bởi tướng đồng minh nhà Lannister trước khi Ned kịp nói với hắn một lời, có phải ngẫu nhiên không? Ông nghĩ mình chẳng bao giờ biết được.
“Hugh làm cận vệ của Jon Arryn suốt bốn năm ròng,” Selmy nói tiếp. “Theo như Jon nhớ thì nhà vua phong tước hiệp sĩ cho hắn trước khi hắn lên đường lên phương bắc.
Đêm qua Ned ngủ không ngon giấc nên cảm thấy toàn thân mệt mỏi. “Không ai trong chúng ta sẵn sàng cả,” ông nói.
“sẵn sàng cho tinh thần hiệp sĩ ư?”
“Cho cái chết.” Ned nhẹ nhàng che thi thể cậu nhóc bằng tấm áo choàng xanh lam với những vầng trăng khuyết dính máu. Khi mẹ cậu hỏi lý do con mình ra đi, ông cay đắng nghĩ, họ sẽ nói với bà rằng cậu chiến đấu để vinh danh quân sư, Eddard Stark. “Điều này thật vô nghĩa. Chiến tranh không phải một trò chơi.” Ned quay sang người phụ nữ mặc đồ xám từ đầu tới chân, khuôn mặt che kín trừ đôi mắt đứng bên xe ngựa. Hội Chị Em Quản Sinh Tử đang chuẩn bị khâm liệm xác chết, và nhìn vào mặt thần chết sẽ đem lại vận xui. “Gửi áo giáp của cậu ta về thung lũng. Mẹ cậu ta sẽ muốn giữ nó.”
“Nó đáng giá một đồng bạc đồ,” Ser Barristan nói. “Cậu ta đặc biệt rèn nó cho cuộc đấu thương lần này. Khá đơn điệu, nhưng chất lượng tốt. Tôi không biết cậu ta đã trả hết tiền cho thợ rèn chưa.”
“Hôm qua cậu ta đã trả rồi, và trả rất hậu hĩnh,” Ned trả lời. Sau đó ông nói với Hội Chị Em Quản Sinh Tử, “Hãy gửi cho người mẹ bộ áo giáp. Tôi sẽ giải quyết với người thợ rèn.” Cô ta cúi đầu.
Sau đó Ser Barristan cùng Ned tản bộ về lều của nhà vua. Khu trại bắt đầu cựa mình sống dậy. Những món súp béo ngậy kêu xèo xèo nổ lục bục trên bếp lửa, không khí đượm mùi tỏi và hạt tiêu. Những tay cận vệ trẻ chạy đôn chạy đáo trong khi chủ nhân thức giấc, ngáp dài, duỗi tay duỗi chân đón ngày mới. Một gã hầu đang ôm con ngỗng quỳ xuống khi thấy họ. “Lãnh chúa,” gã lẩm bẩm chào trong khi con ngỗng kêu quang quác và mổ vào tay gã. Những tấm khiên ngoài cửa lều cho biết người sở hữu nó: con đại bàng bạc của thành Seagard, chim họa mi của Bryce Caron, chùm nho nhà Redwyne, lợn lòi đốm, bò tót, cây cháy, cừu đực trắng, ba đường xoắn ốc, kỳ lân tím, vũ công, rắn hổ mang đen, ngọn tháp đôi, cú có sừng, và cuối cùng là huy hiệu trắng của Ngự Lâm Quần, tỏa sáng như ánh binh minh vậy.
“Nhà vua muốn tham gia vụ hỗn chiến,” Ser Barristan nói khi họ đi qua khiên của Ser Meryn, ngọn thương của Loras Tyrell đã làm bong một lớp sơn tạo ra vết rạch dài trên gỗ khi đấy ông xuống ngựa.
“Đúng,” Ned khẳng định. Jory đã đánh thức ông dậy vào tối qua để báo tin. Một điều kinh ngạc nho nhỏ khiến ông mất ngủ.
Ser Barristan lo lắng. “Họ nói những nữ thần sắc đẹp của ban đêm nhạt dần vào bình minh, và những đứa con của rượu sẽ bị chối bỏ khi bình minh tới.”

“Họ nói vậy,” Ned đồng ý, “nhưng không đúng với Robert” Những người khác có thể nghĩ những lời đó xuất phát từ thói kiêu ngạo trong cơn say, nhưng Robert Baratheon sẽ nhớ, đang nhớ và không bao giờ bỏ cuộc.
Lều của nhà vua gần bờ sông, và màn sương ban mai bốc lên từ con sông bao lấy nó như những làn khói xám.
Lều bằng lụa vàng, lớn nhất và hoành tráng nhất trong bãi cắm trại. Bên ngoài lối vào, cây búa chiến của Robert đặt cạnh cái khiên sắt cỡ bự in hình con hươu đội vương miện của nhà Baratheon.
Ned đã mong thấy nhà vua đang ngủ vì cơn say túy lúy, nhưng vận may không mỉm cười với ông. Họ thấy Robert đang uống bia bằng cái sừng bóng loáng và gầm thét không vừa lòng với hai người hộ vệ trẻ cố mặc áo giáp vào cho ngài. “Bệ hạ,” một người nói mà suýt khóc, “nó quả nhỏ, không thể vừa được ạ.” Hắn ta lóng ngóng, và cái nọng che cổ hắn đang cố đeo vào cái cổ dày bự của Robert rơi xuống đất.
“Bảy địa ngục ơi!” Robert chửi thề. “Chẳng nhẽ ta phải tự làm? Nhổ vào hai ngươi. Nhặt nó lên.”
“Đừng đứng há mồm nhìn nữa, Lance, nhặt nó lên!” cậu thiếu niên nhảy dựng lên, và nhà vua đế ý người cùng bước vào. “Hãy nhìn những thằng nhóc ngu ngốc này xem, Ned. Hoàng hậu muốn ta mang hai kẻ này hầu cận bên mình, nhưng chúng còn hơn cả vô dụng. Không thể mặc giáp đúng nổi nữa chứ. Chúng nói chúng là cận vệ đấy, chẳng khác nào mấy tên chăn lợn.”
Ned chỉ cần liếc qua cũng hiểu tình thế khó khăn. “Lũ nhóc không có tội,” ông nói với nhà vua. “Giờ ngài quá béo không thể mặc vừa giáp nữa rồi, Robert.”
Robert Baratheon tu một hơi dài rồi ném cái sừng rỗng lên giường ngủ và dùng mu bàn tay quệt ngang miệng, hằm hằm nói. “Béo? Béo, đúng không? Đó là cách anh nói với nhà vua đấy hả?” Sau đó ngài cười phá lên, đột ngột như cơn lốc tới. “Ôi, quỷ tha ma bắt anh đi, Ned, sao anh luôn luôn đúng vậy chứ?”
Những cận vệ lo lắng cười tới khi nhà vua quay lại với chúng. “Các ngươi. Đúng, cả hai ngươi. Các ngươi đã nghe Quân sư nói rồi đấy. Nhà vua quá béo không mặc vừa giáp. Đi tìm Ser Aron Santagar về đây. Nói với ông ta là ta cần khung căng giáp ngực. Ngay lập tức! Các ngươi còn chần chừ gì nữa?”
Những cậu nhóc vấp cả vào nhau bổ nhào ra khỏi lều. Robert cố giữ bộ mặt nghiêm nghị cho tới khi chúng đi khỏi. Sau đó ngài ngồi xuống ghế, cười rung bần bật.
Ser Barristan Selmy cười khoái trá. Kể cả Eddard Stark cũng phải mỉm cười. Nhưng, như thường lệ, những suy nghĩ đen tối lại len vào. Ông không thể nào không để ý tới hai cận vệ: đẹp trai, xinh xắn, vóc người cân đối. Một trong đó bằng tuổi Sansa với những lọn tóc vàng dài; đứa kia chắc khoảng mười lăm, tóc màu hung đỏ, có một hàng ria mép và đôi mắt màu xanh ngọc bích giống hoàng hậu.
“Ôi, ta ước gì mình có thể ở đó mà nhìn mặt Santagar,” Robert nói. “Ta hy vọng hắn sẽ khôn ra mà cử chúng tới nơi khác. Chúng ta phải bắt chúng chạy cả ngày mất!”
“Nhưng cậu bé đó,” Ned hỏi. “Là người nhà Lannister?”

Robert gật đầu, quệt nước mắt. “Anh em họ. Con của anh trai Lãnh chúa Tywin. Một trong hai đứa là con của người đã chết rồi. Hoặc có thể là người còn sống, giờ tôi lại phải nghĩ lại xem. Ta không nhớ. Vợ ta tới từ một đại gia đình mà Ned.”
Một gia đình giàu tham vọng, Ned nghĩ, ông không ghét bỏ gì hai tên cận vệ, nhưng ông thấy lo khi xung quanh Robert toàn họ hàng của hoàng hậu, dù thức hay ngủ. Tham vọng của nhà Lannister đối với quyền lực và danh vọng dường như không có giới hạn. “Người ta đồn là ngài và hoàng hậu tối qua đã xảy ra tranh cãi.”
Sự vui vẻ đông cứng lại trên mặt Robert. “Mụ ta dám cấm ta không được tham gia trận hỗn chiến. Giờ mụ giận dỗi bỏ về lâu đài rồi, quỷ tha ma bắt mụ ta đi. Em gái anh sẽ không bao giờ làm ta mất mặt như thế.”
“Ngài không thể hiểu Lyanna bằng thần đâu, Robert “ Ned nói. “Ngài thấy vẻ đẹp của nàng, nhưng không thấy sự cứng rắn ẩn sâu trong đó. Nàng cũng sẽ nói với ngài rằng ngài chẳng có phận sự gì trong trận hỗn chiến cả.”
“Cả anh nữa sao?” nhà vua nhíu mày. “Anh là một người chua chát, Stark. Ở phương bắc quá lâu và giờ tất cả tinh hoa trong người anh đều đã đóng băng rồi. Còn tinh hoa của ta vẫn tiếp tục sinh trưởng.” Ông vỗ ngực để chứng tỏ.
“Ngài là vua,” Ned nhắc ông nhớ.
“Ta ngồi trên cái ghế sắt chết tiệt đó khi ta buộc phải làm. Điều đó nào có nghĩa rằng ta không có tham vọng như những người đàn ông khác? Thi thoảng nhâm nhi vài chén rượu, hay nghe một ả nào đó la hét trên giường, hoặc cảm nhận ngựa dưới chân ta? Bảy địa ngục ơi, Ned, ta muốn đánh một ai đó quá.”
Ser Barristan Selmy lên tiếng. “Tâu bệ hạ,” ông nói, “Theo lẽ thường nhà vua không nên tham gia hỗn chiến. Cuộc thi sẽ mất đi tính chất công bằng. Ai dám đánh ngài chứ?”
Robert có vẻ thực sự nghĩ lại. “Sao, quỷ tha ma bắt bọn họ. Kể cả chúng có dám đi nữa. Thì người cuối cùng còn đứng đó...”
“là ngài,” Ned nói nốt. Ông ngay lập tức nhận thấy Selmy đánh vào đúng trọng tâm. Đối với Robert, nguy hiểm trong trận hỗn chiến chỉ là chút hương vị, nhưng điều này mới chạm tới lòng tự trọng của đức vua. “Ser Barristan nói đúng. Không ai trong Bảy Phụ Quốc dám mạo phạm ngài để làm ngài bị thương.”
Nhà vua đứng dậy, mặt đỏ lựng. “Hai người đang nói với ta rằng những thằng hèn vênh váo đó sẽ để ta thắng ư?”
“Chắc chắn rồi,” Ned nói và Ser Barristan Selmy cúi đầu ngầm đồng tình.
Trong giây lát Robert giận đến mức không nói được câu nào. Ngài đi đi lại lại trong lều, mặt xầm xì và cáu kỉnh. Ngài cầm tấm hộ tâm lên ném vào Barristan Selmy trong cơn cuồng nộ không nói lên lời. Semly né. Sau đó nhà vua lạnh lùng nói. “Cút, cút trước khi ta giết ngươi.”
Ser Barristan nhanh chóng lui ra. Ned cũng định đi theo thì nhà vua gọi lại. “Không phải anh, Ned.”
Ned quay lại. Robert cầm cái sừng lên, rót bia từ cái thùng trong góc, và đưa cho Ned. “Uống đi,” ngài nói cụt lủn.
“Thần không khá...”

“Uống. Thánh chỉ đó.”
Ned cầm cái sừng lên và uống. Bia đen và nặng, quá nặng khiến ông cay xè mắt.
Robert lại ngồi xuống. “Quỷ tha ma bắt anh, Ned Stark. Anh và Jon Arryn, ta yêu quý cả hai người. Nhưng hai người đã làm gì cho ta thế này? Đáng nhẽ ra một trong hai người nên làm vua, hoặc là anh hoặc là Jon.”
“Ngài có uy hơn, thưa bệ hạ.”
“Ta nói anh uống, chứ không bảo anh cãi ta. Anh khiến ta lên làm vua, ít nhất anh nên lịch sự lẳng nghe khi ta nói, quỷ tha ma bắt anh đi. Nhìn ta này, Ned. Nhìn xem vương quyền làm gì với ta đây. Chúa ơi, quá béo không mặc vừa giáp, sao lại tới nông nỗi này chứ?”
“Robert...”
“Uống và im lặng, nhà vua đang nói. Ta thề với anh, ta chưa từng sung sức như khi giành ngai báu, và chưa bao giờ chết mòn mỏi như lúc này khi ta đã giành được nó. Và Cersei... ta phải cám ơn Jon vì có mụ ta. Ta không muốn kết hôn sau khi Lyanna bị cướp khỏi tay ta, nhưng Jon nói vương quốc cần có người thừa kế. Cersei Lannister rất xứng đôi, mụ ta sẽ thắt chặt quan hệ giữa ta và Lãnh chúa Tywin trong trường hợp Viserys Targaryen dám giành lại ngai báu của cha hắn.” Nhà vua lắc đầu. “Ta rất yêu quý ông già đó, ta thề, nhưng giờ ta nghĩ ông ấy còn ngu ngốc hơn Moon Boy. Ờ, Cersei có vẻ ngoài rất diễm lệ, thật sự, nhưng lạnh lùng... cứ xem cái cách ả ta giữ gìn trinh tiết mà xem, anh sẽ nghĩ rằng mụ đang canh giữ kho vàng của Casterly Rock giữa hai chân vậy. Đây, đưa bia cho ta nếu anh không muốn uống.” Ngài cầm cái sừng lên, dốc thẳng một hơi, ợ to rồi quệt mép. “Ta rất tiếc cho nó, Ned. Thật đấy. Ý ta là con sói ấy. Con trai ta nói dối, ta phải chịu trách nhiệm. Con trai ta... anh yêu con mình, đúng không?”
“Với tất cả trái tim,” Ned nói.
“Ta sẽ nói cho anh một bí mật, ned. Đã hơn một lần, ta mơ rũ bỏ vương miện. Lên tàu tới Thành Phố Tự Trị cùng ngựa và cây búa, dành toàn bộ thời gian đấu đá và chơi gái, ta sinh ra để làm điều đó. Một vị vua đánh thuê, những ca sĩ sẽ yêu mến ta thế nào đây. Anh có biết điều gì ngăn cản ta làm điều đó không? Đó là viễn cảnh Joffrey ngồi trên ngai báu, với Cersei đứng sau thì thầm vào tai nó. Con trai ta. Sao tôi lại có một đứa con trai như nó chứ, Ned?”
“Nó vẫn còn bé,” Ned ngại ngùng nói. Ông không ưa hoàng tử Joffrey lắm, nhưng ông có thể cảm được nỗi đau trong giọng nói của Robert. “Ngài đã quên ngài bất cần đời ra sao khi bằng tuổi nó rồi ư?”
“Nếu nó bất cần đời thì tôi chẳng lo nghĩ gì, Ned. Anh không hiểu nó bẳng tôi đâu.” Ngài thở dài và lắc đầu. “À, có lẽ anh đúng. Jon thường xuyên chịu bó tay với ta, nhưng ta vẫn trở thành một vị vua tốt.” Robert nhìn Ned và cau mặt trước sự im lặng của ông. “Anh nên nói và đồng tình chứ.”
“Bệ hạ...” Ned thận trọng nói.
Robert vỗ lưng Ned. “À, chỉ cần nói ta là vị vua tốt hơn Aerys là xong. Anh không bao giờ nói dối vì tình yêu hay danh dự, Ned Stark ạ. Ta vẫn còn trẻ, và giờ anh ở đây với tôi, mọi chuyện rồi sẽ khác. Chúng ta sẽ làm cho vương triều này được đời đời ca tụng, cầu thánh thần đầy gia tộc Lannister xuống bảy tầng địa ngục đi cho rồi. Ta ngửi thấy mùi thịt hun khói. Anh nghĩ ai sẽ là nhà vô địch đây? Anh có thấy con trai Mace Tyrell không? Họ gọi cậu ta là Hiệp sĩ Flowers. Giờ đó là người con trai khiến cho bất cứ ông bố nào cũng phải tự hào. Buổi đấu thương ngựa hôm qua, cậu ta đá vào cái mông vàng của Sát Vưcmg, anh phải thấy vẻ mặt của Cersei cơ. Ta cười đau cả ruột. Renly nói cậu ta có một cô em gái, một thiếu nữ mười bốn tuổi, xinh đẹp như ánh bình minh..
Họ ăn bánh mỳ và trứng ngỗng luộc cùng cá rán hành và thịt hun khói, trên một cái bàn gấp cạnh bờ sông. Nỗi u uất của nhà vua đã tan biến cùng sương sớm, sau đó Robert ăn cam và cao hứng nói về buổi sáng ở Eyrie khi họ còn là những đứa nhỏ… đã đưa cho Jon một thùng cam, nhớ không? Chỉ có điều những quả cam đó thối hết cả, vì thế ta đã ném cam qua bàn và trúng ngay mũi Dacks. Anh nhớ tay cận vệ mặt mụn của Redford không? Hắn ném trả lại ta, và sau khi Jon ăn nhiều tới phát xì hơi, những quả cam bay tứ phía trong Đại Sảnh.” Ngài cười khùng khục, kể cả Ned cũng mỉm cười khi nhớ lại một thời quá khứ.
Đây chính là cậu bé đã lớn lên cùng ông, ông nghĩ; đây chính là Robert Baratheon mà ông biết và yêu quý. Nếu ông có thể chứng minh rằng nhà Lannister đứng đằng sau vụ tấn công Bran, chứng minh rằng chính họ ám sát Jon Arryn, người này sẽ nghe ông. Và sau đó Cersei sẽ bị phê truất cùng Sát Vương, và nếu Lãnh chúa Tywin dám nổi loạn, Robert sẽ đập tan lão như từng làm với Rhaegar Targaryen trên dòng Trident. Ông đã thấy rất rõ ràng.
 
CHÚ Ý !!!
Các đạo hữu nhớ thêm TÊN CHƯƠNG và THỨ TỰ CHƯƠNG ở ô phía trên phần trả lời nhanh. Như vậy hệ thống mới tạo được DANH SÁCH CHƯƠNG.
Cập nhật chức năng ĐĂNG TRUYỆN và THÊM CHƯƠNG MỚI trên web Diễn Đàn Truyện tại https://truyen.diendantruyen.com
Top Bottom