Cập nhật mới

Dịch Full Nhấn Chuông Đi, Đừng Đợi!

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,524
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
[Diendantruyen.Com] Nhấn Chuông Đi, Đừng Đợi!

Nhấn Chuông Đi, Đừng Đợi!
Tác giả: David Nicholls
Tình trạng: Đã hoàn thành




Brian Jackson là fan chính hiệu của Thách thức Đại học từ thời thơ ấu. Cậu luôn mơ ước trở thành một ngôi sao của game show này. Những ngày đầu của đại học cậu đã không ngừng cố gắng tìm mọi cơ hội để góp mặt trong đội tuyển dự thi...Nhưng khi cậu chưa kịp nguôi sung sướng vì ước mơ nay đã trở thành hiện thực thì chuyện gia đình, bạn bè, mối quan hệ với Alice Harbinson một cô nàng nóng bỏng và Rebecca Epstein cô bạn lập dị đã kéo theo toàn bộ thời gian và tâm trí của cậu.

Nội dung truyện không hề mới mẻ nhưng bằng lối kể kể chuyện mang đầy phong cách David Nicholls thì câu chuyện này đã không thể trộn lẫn với những câu chuyện khác. Nó khiến cho người đọc cảm nhận được hơi thở của thời sinh viên lãng mạn, sôi động và tràn đầy nhiệt huyết.

Nhận định

“Vì đã gợi lên những phút giây tuổi trẻ đầy bối rối, cuốn sách này thật không gì sánh nổi.”

- Glamour

“Nhấn chuông đi, đừng đợi được viết hay đến nỗi lột tả một cách chân thực và đem đến nhiều điều để suy ngẫm… Một cách nhìn dễ chịu về thời gian khi ta đủ trẻ để nghĩ rằng mọi chuyện có thể xảy ra, trước khi đủ già để biết rằng chúng sẽ không xảy ra.”

- Word

“Một mẻ lưới chuyện hoài cổ dí dỏm về những năm 1980 hài hước vui nhộn.”

- Waterstone

“Nicholls đã phác họa toàn bộ những trải nghiệm ở ngưỡng cửa đại học… không chỉ vậy, ông còn đưa vào đó một chút sâu lắng, câu chuyện về một thiếu niên mồ côi cha cố gắng vươn lên trong cuộc sống đã khơi dậy những cảm xúc chân thành.”

- Guardian

“Nicholls tái dựng những khoảng thời gian đầy hoang mang mà sinh viên trải qua trong thời đại học – những bữa tiệc cuồng nhiệt, tình bạn chông chênh và những khoảnh khắc đan xen lãng mạn – bằng khả năng khắc họa tính cách nhân vật tuyệt vời. Đó là một hành trình vui vẻ ở cuối mảng ký ức của tất cả sinh viên, xen một vài tình tiết cảm động thương xót.”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,524
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 1


VÒNG MỘT

Cô hiểu rất rõ loại người này - cái khát vọng mờ nhạt, tâm thần rối loạn, cả sự hiểu biết về cái thế giới bên ngoài sách vở...

Tiểu thuyết Howards End, E. M. Forster.

1

CÂU HỎI: Ông là con riêng của vợ kế Robert Dudley và là người được sủng ái một thời của Nữ hoàng Elizabeth Đệ Nhất, đồng thời cũng là kẻ từng cầm đầu một kế hoạch kém cỏi không thành nhằm chống lại Nữ hoàng, để rồi bị xử tử vào năm 1601. Ông là ai?

TRẢ LỜI: Essex.

***

Tất cả những người trẻ tuổi đều lo lắng về chuyện nọ chuyện kia, đó là một phần không thể tránh khỏi và rất đỗi tự nhiên của quá trình trưởng thành, và năm mười sáu tuổi, nỗi lo âu lớn nhất đời tôi là tôi chẳng còn bao giờ đạt được bất kỳ cái gì tốt đẹp hoặc thuần khiết, hoặc cao quý, hoặc chân thực, như kết quả chương trình O-level[1] của tôi nữa.

[1] Chương trình O-level: tương đương với chương trình lớp Mười tại Việt Nam.

Dĩ nhiên hồi đấy tôi cũng chẳng nhặng xị lên vì mấy chuyện này; tôi không đóng khung bằng cấp hoặc bất kỳ thứ gì dở hơi kiểu vậy, và tôi sẽ không nói chi tiết điểm số thực tế ra đây, vì khi đó chuyện sẽ chỉ thành ra mang tính chất hơn thua mà thôi, nhưng dứt khoát là tôi thích được sở hữu chúng; các văn bằng ấy. Mười sáu tuổi, lần đầu tiên tôi cảm thấy mình đủ năng lực để làm bất kỳ cái gì.

Tất nhiên, tất cả đều đã là chuyện từ ngày xửa ngày xưa. Giờ thì tôi đã mười tám tuổi, tôi thích nghĩ rằng mình đã khôn ngoan và điềm đạm hơn trước những chuyện này. Vì vậy kết quả chương trình A-level[2] của tôi, nói một cách tương đối thôi, không có gì to tát. Ngoài ra, cái ý niệm là bằng cách nào đó bạn có thể định lượng trí thông minh bằng một hệ thống các bài thi viết lỗi thời và lố bịch chỉ đúng ở bề nổi. Có điều, đó là kết quả chương trình A-level tốt nhất của Trường Phổ thông Hỗn hợp[3] Phố Langley năm 1985, thực ra là tốt nhất kể từ mười lăm năm nay, ba điểm A và một điểm B, cộng lại là 19 điểm - đấy, giờ thì tôi nói ra mất rồi - nhưng thực lòng, tôi không tin điều đó có gì đặc biệt hay ấn tượng, tôi chỉ tiện mồm nhắc đến thôi. Mà dù sao đi nữa, so với những phẩm chất khác, chẳng hạn như lòng dũng cảm, hoặc sự nổi tiếng, hoặc lòng vị tha, hoặc sự khỏe mạnh, hoặc ngoại hình dễ nhìn, hoặc làn da đẹp, hoặc đời sống tình dục thỏa mãn, bạn sẽ thấy ngay rằng có một lô một lốc các thứ thật sự chẳng hề quan trọng.

[2] Chương trình A-level: tương đương với chương trình lớp Mười một, Mười hai tại Việt Nam.

[3] Một dạng trường công ở phương Tây, không tuyển lựa học sinh đầu vào theo tôn giáo hoặc thành tích học tập.

Nhưng như bố tôi từng nói, cốt yếu của một nền giáo dục là cơ hội mà nó mang đến, cánh cửa mà nó mở ra, bởi vì nếu không như vậy thì bản thân kiến thức chỉ là một ngõ cụt, đặc biệt nếu nhìn từ nơi tôi đang đứng, tại đây, vào buổi chiều tà một ngày thứ Tư tháng Chín, trong một nhà máy sản xuất lò nướng bánh mì.

Tôi đã dành hẳn kỳ nghỉ lễ để làm ở bộ phận giao hàng của Ashworth Electricals, tức là tôi phụ trách việc đặt lò nướng bánh mì vào hộp trước khi chúng được giao cho các đại lý bán lẻ. Dĩ nhiên, cũng chỉ có bấy nhiêu cách để đặt lò nướng vào trong hộp, vì vậy hai tháng trôi qua nhìn chung khá tẻ nhạt, có điều mặt tốt là tiền công 1 bảng 85 xu một giờ, không tệ tí nào, và mình còn được ăn bao nhiêu bánh mì nướng tùy thích. Hôm nay là ngày làm việc cuối cùng, tôi cứ chong mắt chờ cảnh mọi người lén lút chuyền tay nhau tấm thiệp ghi lời tạm biệt và vụ thu hoạch quà chia tay của mình, rồi lại chờ xem sẽ tới quán rượu nào để tổ chức tiệc chia tay, nhưng bây giờ đã 6 giờ 15 phút, nên tôi cứ chắc mẩm là mọi người về nhà cả rồi.

Tốt thôi, vì dù sao tôi cũng đã có những kế hoạch khác, vì vậy tôi lấy đồ đạc của mình, vơ một nắm bút bi và một cuộn băng keo trong tủ đựng văn phòng phẩm rồi xăm xăm về phía cầu tàu, nơi tôi đã hẹn gặp Spencer và Tone.

***

Với chiều dài 2.360 thước Anh, tương đương 2.158 ki lô mét, cầu tàu Southend chính thức là cầu tàu dài nhất thế giới. Thật lòng mà nói, có lẽ nó hơi quá dài, đặc biệt là đang xách theo rất nhiều bia. Bọn tôi có mười hai lon Skol 500 ml, bò viên xào chua ngọt, cơm chiên đặc biệt và một phần khoai tây chiên với xốt cà ri - đủ các mùi vị trên đời - nhưng đúng lúc bọn tôi đi đến cuối cầu tàu thì bia đã hết lạnh còn thức ăn thì lạnh ngắt. Vì đây là một dịp kỷ niệm đặc biệt nên Tone cũng đã vác theo cái cát xét kiểu dân khu ổ chuột hay xách theo có kích cỡ bằng một cái tủ quần áo nhỏ và, công bằng mà nói, có lẽ nó sẽ chẳng bao giờ khuấy động được khu ổ chuột nào, trừ phi bạn tính cả Shoeburyness[4]. Khi chúng tôi ngồi xuống băng ghế dài ở phía cuối cầu tàu và ngắm nhìn hoàng hôn tráng lệ bên trên nhà máy lọc dầu thì cái máy đang phát cuốn băng The Best Of The Zep do chính tay Tone tuyển chọn.

[4] Một thị trấn ở Đông Nam Essex, nước Anh, thuộc địa hạt Southend.

“Cậu không định trở thành một thằng đần chứ hở?” Tone hỏi, tay mở một lon bia.

“Ý gì đấy?”

“Cậu ấy muốn nói là cậu không định lên mặt sinh viên với bọn tớ chứ,” Spencer nói.

“À, tớ là sinh viên. Tức ý là, tớ sẽ như thế, nên...”

“Không phải, ý tớ là cậu không định học đủ thứ vớ vẩn xong lên mặt dạy đời, đến Giáng sinh thì khoác cái áo choàng về nhà, nói tiếng Latin và phun ra nào là ‘Người ta làm’ rồi thì ‘Người ta cho rằng’ rồi thế này thế kia chứ...”

“Trúng phóc Tone ạ, đấy chính xác là những gì tớ định làm.”

“Thôi cho tớ xin. Cậu đần thế đủ rồi đấy, không cần cố trở nên đần thêm nữa đâu.”

Tôi đã nhiều lần bị Tone gọi là “thằng đần”, nếu không phải “thằng đần” thì cũng là “thằng đồng bóng”, nhưng mẹo ở đây là phải hiểu ngôn ngữ ở chừng mực nhất định, và cố nghĩ về nó như một cách biểu lộ sự yêu mến, kiểu như mấy đôi trai gái vẫn âu yếm gọi nhau là “em yêu/anh yêu” hay “cục cưng” ấy. Tone vừa vào làm việc trong một nhà kho tại Currys, và đang bắt đầu chế tạo một phụ kiện nhỏ nhắn xinh xinh để gắn vào dàn ầm thanh hifi xách tay kêu lạch cạch, giống như cái chúng tôi đang nghe bây giờ. Đó cũng chính là ban nhạc Led Zeppelin của cậu ta; Tone thích tự gọi mình là dân “metallist”, nghe có vẻ chuyên nghiệp hơn là “rocker” hay “heavy metal fan”. Cậu ta cũng ăn mặc giống như một tay metallist: nhiều vải denim màu xanh nhạt, nhiều sợi tóc vàng hoe óng ả được vén ra đằng sau, hệt như một tay Viking ẻo lả. Thật ra thì mái tóc của Tone là thứ duy nhất của cậu ta trông ẻo lả. Xét cho cùng thì cậu ta vẫn là thằng có máu bạo lực. Dấu hiệu một buổi chiều đi chơi thành công với Tone là bạn về nhà mà đầu vẫn chưa bị ấn xuống bồn cầu và giội nước.

Bây giờ đến bản “Stairway to Heaven”.

“Chúng mình có cần phải nghe cái thứ hippie vớ vẩn chết tiệt này không hả Tone?” Spencer nói.

“The Zep đấy, Spencer.”

“Tone ạ, tớ biết là The Zep, thế tớ mới muốn cậu tắt cái thứ chết tiệt đấy đi.”

“Nhưng The Zep thống trị cơ mà.”

“Vì sao hả? Bởi vì cậu nói họ thống trị à?”

“Không, vì họ là một ban nhạc nổi tiếng và có tầm ảnh hưởng lớn.”

“Tony, họ đang hát về tiên đấy. Đúng là...”

“Tiên nào...”

“Thì yêu tinh vậy,” tôi nói.

“Đấy không chỉ là tiên và yêu tinh, mà là Tolkien[5], là văn chương đấy...” Tone thích cái thứ kiểu như thế; những quyển sách có bản đồ ở mặt trước, và hình minh họa trang bìa là những người đàn bà to cao, dữ tợn trong bộ đồ lót làm từ các vòng kim loại xâu vào nhau, tay cầm thanh kiếm to bản, loại phụ nữ mà trong thế giới thực cậu ta muốn lấy làm vợ. Thực ra thì ở Southend, chuyện đó khả thi hơn bạn tưởng.

[5] John Ronald Reuel Tolkien: nhà văn, tiểu thuyết gia, nổi tiếng với tác phẩm Chúa tể những chiếc Nhẫn.

“Mà tiên với yêu tinh thì có gì khác nhau?” Spencer hỏi.

“Ai biết. Hỏi Jackson đi, thằng chết giẫm ấy có cả đống chứng chỉ đấy.”

“Tớ chịu, Tone ạ,” tôi nói.

Khúc độc tấu ghi ta đã cất lên và giờ thì Spencer nhăn cả mặt lại. “Trời, bao giờ mới kết thúc đây, cứ hát tới hát lui hoài thế này hả trời...”

“Bài hát kéo dài 7 phút 32 giây của một thiên tài chân chính đấy nhé.”

“Cách tra tấn chân chính thì có,” tôi nói. “Mà sao lúc nào cậu cũng chọn nó thế?”

“Bởi vì nó chính là cái radio xách tay của tớ mà...”

“Mà cậu đã chôm được. Chính xác thì nó vẫn thuộc về Currys.”

“Ừ đấy, nhưng mà tớ mua pin...”

“Ai bảo thế, cậu chôm pin thì có...”

“Không phải mấy cục này, tớ mua những cục này...”

“Thế pin giá bao nhiêu vậy?”

“1 bảng 98 xu.”

“Vậy giả sử tớ cho cậu 66 xu, bọn mình có thể được cái gì đấy tử tế hơn không?”

“Cái gì, như kiểu Kate Bush á? Được rồi, Jackson, thế cứ bỏ cuộn băng Kate Bush vào, cả bọn sẽ có một khoảng thời gian thật vui vẻ mà nghe Kate Bush, cả bọn sẽ có một điệu nhảy cực kỳ, cực kỳ hay ho và một bài song ca với Kate Bush...” Và trong khi Tone với tôi đang đấu khẩu, Spencer ngả người về phía cái cát xét, thờ ơ thò tay lấy cuộn băng The Best Of The Zep ra rồi ném tuốt xuống biển.

Tone hét lên “Oái!” và ném lon bia ra sau rồi cả hai thằng cùng rượt nhau chạy xuống cầu tàu. Tốt nhất là không nên tham gia vào những vụ đánh lộn. Tone có khuynh hướng hơi mất kiểm soát một chút, cậu ta bị ám ảnh bởi linh hồn của Odin[6] hay cái gì đấy đại loại vậy, và nếu tham gia thì tôi sẽ không tránh khỏi cảnh bị Spencer ngồi đè lên cánh tay trong khi Tone xì hơi vào mặt, nên là tôi vẫn ngồi yên, uống bia và xem Tone đang cố kéo chân Spencer qua những thanh rào chắn của cầu tàu.

[6] Thần Odin là vị thần đứng đầu trong thế giới thần thoại Bắc u và cũng là vua của ‘thị tộc’ thần thánh Aesir. Đây là vị thần chiến tranh, có khả năng quyết định chiến thắng trong những trận chiến và cũng là vị thần của sự khôn ngoan.

Mặc dù đang là tháng Chín, nhưng khí trời buổi chiều tối đã bắt đầu có chút hơi lạnh ẩm ướt, cảm giác mùa hè đang sắp hết, và tôi lấy làm mừng vì mình đã khoác cái áo gió to phồng này. Lúc nào tôi cũng ghét mùa hè; cái cách ánh mặt trời chiếu vào màn hình ti vi buổi trưa và khí trời oi bức thôi thúc người ta phải mặc áo thun ngắn tay và quần soóc. Tôi ghét áo thun ngắn tay và quần soóc. Nếu tôi ăn mặc như vậy mà đứng bên ngoài một hiệu thuốc, tôi cam đoan là một vài cụ già tử tế sẽ cố bỏ một đồng xu lên đầu tôi.

Không, cái mà tôi thật sự trông mong chính là mùa thu, là được đá lá vàng rơi trên đường đến giảng đường, được chuyện trò sôi nổi về các nhà thơ siêu hình với một cô gái tên Emily, hay Katherine, hay Francois, hoặc tên gì đó mặc quần tất len đen bó sát và để kiểu tóc cắt ngắn giống nữ minh tinh Louise Brooks, rồi quay lên căn phòng gác mái của cô ấy và làm tình trước cái lò sưởi chạy điện cũng của cô ấy. Sau đó chúng tôi đọc to thơ của T. S. Eliot và uống rượu nho thượng hạng trong những cái ly nhỏ xíu, lắng nghe âm nhạc của Miles Davids. Dù sao thì đó cũng là những gì tôi tưởng tượng là sắp diễn ra. Trải nghiệm về Đại học. Tôi thích từ trải nghiệm. Từ đó nghe như trò lái tàu lượn ở khu vui chơi Alton Towers vậy.

Trận chiến rồi cũng ngã ngũ, Tone trút bỏ sự hung hãn còn lại của cậu ta bằng cách ném những viên thịt bò xào chua ngọt vào lũ mòng biển, Spencer quay lại, nhét vạt áo sơ mi vào trong quần, ngồi xuống bên cạnh tôi và bật một lon bia khác. Spencer thật biết cách cầm lon bia; trông cậu ta cứ như đang uống một ly martini ấy.

Spencer là đứa tôi sẽ nhớ nhất. Cậu ta không định học lên đại học, mặc dù rất có thể cậu ta là gã thông minh nhất mà tôi từng gặp, đồng thời là gã bảnh trai nhất, gan góc nhất và hay ho nhất. Dĩ nhiên tôi sẽ không hé răng với cậu ta về những điều này, vì chúng nghe thật muốn nổi da gà, nhưng cũng không cần thiết phải nói ra vì đằng nào cậu ta cũng biết rõ cả rồi. Cậu ta có thể học lên đại học nếu thật sự muốn, nhưng cậu ta lại phá rối các kỳ thi; không chủ định, nhưng mọi người đều có thể thấy cậu ta làm vậy. Cậu ta ngồi bàn kế bên tôi trong bài thi tiếng Anh, và cứ nhìn cây bút di chuyển cũng đủ biết không phải cậu ta đang viết mà là đang vẽ. Để trả lời cho câu hỏi về Shakespeare cậu ta vẽ Những người vợ vui vẻ của Wonsor, và cho câu hỏi về thơ cậu ta vẽ một bức tranh có nhan đề “Wilfred Owen trải qua sự kinh hoàng tại chiến hào buổi ban đầu”. Tôi cố gắng thu hút sự chú ý của cậu ta, vì vậy tôi ném cho cậu ta một cái nhìn thân thiện “Ê, coi nào bồ”, nhưng cậu ta chỉ cúi gằm mặt xuống, vẽ hí hoáy, và sau một tiếng đồng hồ cậu ta đứng lên rồi đi ra ngoài, đến cửa thì nháy mắt với tôi; không phải một cái nháy mắt tự phụ mà là một cái nháy mắt với đôi mắt đỏ rơm rớm nước, hệt như một tên lính Anh trên đường ra pháp trường xử bắn.

Sau vụ đó, cậu ta không đi thi nữa. Sau lưng cậu ta đôi khi người ta vẫn nói tới cụm từ “suy sụp tinh thần”, nhưng Spencer tưng tửng thế kia thì suy sụp cái nỗi gì. Giả sử có bị thật, cậu ta cũng đã làm cho cái việc suy sụp thần kinh trông có vẻ hay hay. Theo cách nhìn nhận sự việc của tôi, toàn bộ cái kiểu sặc mùi Jack Kerouac[7] đó, cái trăn trở giày vò về sự tồn tại của con người đó, ở một chừng mực nhất định thì cũng được thôi, nhưng sẽ không ổn chút nào nếu nó làm ảnh hưởng đến điểm số của bạn.

[7] Nhà văn vĩ đại thuộc thế hệ Beat, được biết đến nhiều nhất với tác phẩm Trên đường.

“Cậu định sẽ làm gì hả Spencer?”

Cậu ta nheo mắt lại, nhìn tôi. “Cậu nói làm là có ý gì hả?”

“Cậu biết rồi còn hỏi. Kiểu như việc làm ấy.”

“Tớ có việc làm rồi còn gì.” Spencer đã đăng ký thất nghiệp, nhưng cậu ta cũng đang làm thu ngân ở trạm xăng mở suốt đêm trên đường A127.

“Tớ biết cậu đã có việc làm. Nhưng trong tương lai...”

Spencer nhìn ra cửa sông, và tôi bắt đầu hối hận vì đã đưa ra chủ đề này.

“Bạn Brian của tôi ơi, vấn đề của cậu chính là cậu đánh giá thấp sự hấp dẫn của cuộc sống ở một trạm xăng mở đêm rồi. Tớ được chén bánh kẹo bao nhiêu tùy thích. Tha hồ đọc bản đồ. Hít hà những mùi hương hấp dẫn. Những ly rượu miễn phí...” Cậu ta tu một hơi bia dài, và tìm cách chuyển chủ đề. Cho tay vào cái áo gió Harrington của mình, cậu ta lôi ra một cái băng cát xét với một danh sách bản nhạc viết tay được nhét mặt sau: “Tớ làm cái này cho cậu đấy. Để cậu có thể chơi nó trước mặt những đứa bạn mới ở trường đại học, lừa cho bọn đấy tưởng là cậu cũng có gu âm nhạc.”

Tôi cầm lấy cuộn băng có dòng chữ “Tuyển tập Đại học của Bri” với những chữ cái được viết hoa tỉ mẩn với các góc cạnh kiểu 3D. Spencer đúng là một nghệ sĩ tài hoa.

“Cái này tuyệt quá, Spencer, cảm ơn bồ nhé...”

“Được rồi, Jackson, nó chỉ là một cuộn băng giá 69 xu mua ở chợ thôi, không cần phải ướt át thế đâu.” Cậu ta nói thế, nhưng cả hai đứa tôi đều biết rằng một cuộn băng tuyển tập dài chín mươi phút hẳn phải là thành quả của ba giờ đồng hồ miệt mài, và sẽ tốn nhiều thời gian hơn nếu bạn còn thiết kế một cái danh sách bản nhạc nữa. “Cậu có bỏ băng vào không hả? Thằng hề kia quay lại bây giờ này.”

Tôi đặt cuộn băng vào, nhấn nút play, và giọng Curtis Mayfield hát bài “Tiếp tục tiến lên” vang lên. Spencer chịu ảnh hưởng nhiều của xu hướng âm nhạc những năm 1960, nhưng đã chuyển sang dòng nhạc soul cổ điển; Al Green, Gil Scott-Heron, đại loại thế. Spencer còn sành điệu đến mức thậm chí thích nhạc jazz. Không chỉ thứ nhạc jazz của Sade hay The Style Council thôi đâu; mà là thứ nhạc jazz đích thực, những thứ khó chịu, buồn tẻ. Chúng tôi ngồi đó và lắng nghe một lát. Tone hiện giờ vẫn đang cố gắng khều tiền ra khỏi cái kính viễn vọng bằng con dao bấm mà cậu ta mua trong một chuyến dã ngoại của trường đến Calais, còn Spencer và tôi thì ngồi xem hệt như những bậc phụ huynh khoan dung của một đứa trẻ có vấn đề về hành vi ứng xử.

“Vậy cuối tuần cậu sẽ về chứ?” Spencer hỏi.

“Tớ không biết. Mong là vậy. Nhưng không phải cuối tuần nào cũng được đâu.”

“Chắc phải được chứ? Không thì một mình tớ lại bị kẹt ở đây với thằng Conan Mọi Rợ[8] à...” rồi Spencer hất cằm về phía Tone lúc này đang hết giẫm lại đá song phi vào cái kính viễn vọng.

[8] Nhái theo tên Cortan the Barbarian, một bộ phim do Amold Schwarzenegger thủ vai.

“Sao bọn mình không cụng ly chúc mừng hoặc làm một cái gì đó nhỉ?” tôi nói.

Spencer trề môi: “Cụng ly á? Vì cái gì?”

“Cậu biết mà - cho tương lai hay đại loại thế chẳng hạn.”

Spencer thở dài, và lại cầm lon bia cụng nhẹ vào lon của tôi. “Vì tương lai. Hy vọng da cậu sạch mụn.”

“Cút đi, Spencer,” tôi nói.

“Cậu cút đi thì có, Brian,” cậu ta nói, nhưng cười vang.

Uống đến những lon bia cuối cùng thì chúng tôi đã khá say, hai thằng bèn ngả lưng xuống, hai mắt nhắm nghiền, không nói lời nào, chỉ lắng nghe tiếng sóng biển và Otis Redding đang hát “Thử một chút dịu dàng”, mà vào buổi tối cuối hè trời trong gió mát này, ngước nhìn những vì sao, cùng với những người bạn thân nhất ở bên cạnh, tôi có cảm giác như thể cuộc sống đích thực cuối cùng đã bắt đầu, và mọi thứ đều hoàn toàn có thể.

Tôi muốn được nghe những bản sonata dương cầm và biết ai là người chơi. Tôi muốn đến những buổi hòa nhạc cổ điển và biết khi nào nên vỗ tay. Tôi muốn “cảm” được nhạc jazz hiện đại mà không cần hiểu nó, nghe có vẻ giống như một sai lầm khủng khiếp, và tôi muốn biết Velvet Underground chính xác là ai. Tôi muốn hoàn toàn đắm mình vào Thế giới Ý niệm, muốn hiểu được kinh tế học hỗn hợp, và biết người ta thấy cái gì ở Bob Dylan. Tôi muốn sở hữu những lý tưởng chính trị cấp tiến nhưng nhân văn và thông thái, tôi muốn chủ trì những cuộc thảo luận hăng say nhưng đầy lý lẽ xung quanh chiếc bàn bếp gỗ, nói những câu kiểu như “Hãy định nghĩa thuật ngữ của bạn!” và “Lập luận của bạn chỉ đúng ở bề nổi!” rồi thình lình phát hiện ra là mặt trời đã mọc và chúng tôi đã nói chuyện thâu đêm. Tôi muốn tự tin dùng những từ như là “nhân danh” và “duy ngã” hay “thực lợi”. Tôi muốn học để đánh giá được rượu vang ngon, rượu ngoại, các loại whisky ủ từ rượu mạch nha, và học cách uống chúng mà không trở thành một tên bợm nhậu toàn tập, rồi ăn những món lạ và món nước ngoài, trứng chim choi choi và tôm hùm đút lò với xốt phô mai, những món nghe thì có vẻ không ăn được, hoặc những món tôi không thể phát âm được. Tôi muốn làm tình với những phụ nữ xinh đẹp, tinh tế và đáng sợ, suốt cả ngày hoặc vào buổi chiều tà dưới ánh đèn, và tỉnh táo, không sợ hãi, và tôi muốn nói được trôi chảy nhiều ngoại ngữ, thậm chí là một hai từ ngữ, và mang theo một cuốn sổ nhỏ bọc da để ghi lại những ý tưởng và nhận xét sắc sảo, rồi cả những vần thơ ngẫu hứng. Trên hết thảy tôi muốn đọc sách; những cuốn sách bọc da nặng dày như cục gạch, giấy mỏng đến khó tin và những dải ruy băng màu tía để đánh dấu trang đọc dở; những cuốn tuyển tạp thi ca mua lại, giá rẻ, bụi bặm, những cuốn sách ngoại văn có những bài luận khó hiểu, đắt không thể tưởng của các trường đại học nước ngoài.

Đôi khi, tôi muốn mình có ý tưởng độc đáo nào đấy. Và tôi muốn được hâm mộ, hoặc thậm chí được yêu, nhưng cái đó phải chờ thời gian trả lời. Về phần công việc, tôi không thật chắc chắn là mình muốn cái gì, nhưng đó phải là cái gì đó mà tôi không chán ghét, không làm tôi muốn bệnh, và không làm tôi lúc nào cũng lo ngay ngáy về tiền bạc. Và đó là tất cả những thứ mà một nền giáo dục đại học sẽ cho tôi.

Chúng tôi uống sạch bia, sau đó thì mọi chuyện không còn kiểm soát được nữa, Tone ném giày của tôi xuống biển, thế là tôi đành phải cuốc bộ về nhà bằng đôi vớ.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,524
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 2


2

CÂU HỎI: Bộ phim nào của Powell và Pressburger được chuyển thể từ một câu chuyện của Hans Christian Andersen, công chiếu năm 1948, trong đó Moira Shearer nhảy múa đến chết trước một đầu máy xe lửa chạy bằng hơi nước?

TRẢ LỜI: Giày đỏ.

***

Số 16 đường Archer, giống như tất cả những ngôi nhà khác trên đường này, cũng là một maisonette, một dạng giảm nhẹ của danh từ tiếng Pháp (giống cái) maison, nghĩa đen là “ngôi nhà nhỏ”. Tôi sống ở đây cùng mẹ tôi, và nếu bạn muốn nhìn thấy một cách bày biện thật sự bất tiện thì bạn sẽ không phải thất vọng trước cảnh một thằng con trai mười tám tuổi và một phụ nữ góa chồng bốn mươi mốt tuổi cùng sống trong một ngôi nhà nhỏ đâu. Vụ sáng nay là một ví dụ. 8 giờ rưỡi sáng, tôi vẫn đang nằm trong chiếc chăn lông vịt, nghe chương trình “Chào buổi sáng” và ngắm nhìn cái máy bay mô hình treo toòng teng trên trần nhà. Tôi nên tháo chúng xuống, tôi biết chứ, nhưng ở một thời điểm nào đó, cách đây hai năm, chúng từ một thứ đồ trẻ con đáng yêu đã biến thành một thứ vô dụng buồn cười, nên tôi cứ để kệ chúng trên đấy.

Mẹ bước vào, sau đó gõ cửa.

“Chào buổi sáng, ngái ngủ à. Hôm nay là một ngày trọng đại đấy!”

“Mẹ chưa bao giờ gõ cửa thì phải, mẹ nhỉ?”

“Mẹ có gõ mà con!”

“Không, mẹ bước vào, sau đó mới gõ cửa. Đấy có phải là gõ cửa đâu...”

“Thế thì sao nào? Không phải con đang làm gì đó chứ?” Bà liếc nhìn ranh mãnh.

“Không phải, nhưng mà...”

“Đừng nói là con giấu cô gái nào trong đây nhé,” và bà giật một góc chăn. “Coi nào, cháu yêu, đừng có ngượng, chúng ta hãy nói về điều đó đi. Ra đây nào, ra đây, cháu là ai cũng được mà...”

Tôi kéo mạnh cái chăn qua đầu. “Một phút nữa con xuống...”

“Ở đây bốc mùi, thật sự bốc mùi, con có thấy vậy không?”

“Mẹ chẳng nghe gì hết...”

“Mùi giống con trai. Thật ra thì các cậu nhóc làm gì để tạo ra cái mùi giống như vậy nhỉ?”

“Thật tốt vì con sắp đi, đúng không?”

“Chuyến tàu của con lúc mấy giờ vậy?”

“12 giờ 15.”

“Vậy sao con vẫn còn ở trên giường hả? Nè, quà chia tay cho con...” và bà ném một cái túi đựng hàng xuống chăn. Tôi mở ra; bên trong là một ống nhựa trong suốt, kiểu thường dùng để đựng bóng tennis, nhưng nó chứa ba cái quần lót nam vải cotton được cuộn tròn lại, màu đỏ, trắng và đen, các màu trên quốc kỳ Đức Quốc xã.

“Mẹ, mẹ không nên...”

“Ôi dào, đáng bao nhiêu đâu mà.”

“Không, ý con là con mong mẹ không nên tốn ít như vậy.”

“Đừng có láu cá, chàng trai trẻ. Dậy mau. Con còn phải gói ghém đồ đạc đấy. Và cảm phiền mở cửa sổ ra cho thoáng đi.”

Sau khi bà đi khỏi, tôi giũ mấy cái quần ra khỏi ống nhựa để chúng rơi xuống tấm chăn, tận hưởng cảm giác trọng đại của sự kiện này. Vì, thật lòng, đây là Những Chiếc Quần Cuối Cùng Mẹ Mua Cho Tôi. Cái màu trắng cũng được, cái màu đen thì theo như tôi thấy là sẽ bền đây, nhưng còn cái màu đỏ? Chúng không phải hơi chói sao? Với tôi, quần đỏ là những thứ nói “Dừng lại” và “Nguy hiểm”.

Nhưng với tinh thần phiêu lưu mạo hiểm, tôi bước ra khỏi giường và mặc cái quần đỏ vào. Điều gì xảy ra nếu chúng lại giống như Giày đỏ, và tôi không tài nào cởi ra được? Tôi hy vọng không phải, vì khi đó xét hình ảnh phản chiếu trong chiếc gương tủ quần áo thì tôi trông chẳng khác gì vừa bị bắn vào háng. Dù sao thì tôi cũng mặc cái quần dài từ hôm qua, mang hơi thở bốc mùi chua ngọt cùng hàm răng xỉn màu và cảm giác váng vất do Skol đêm qua đi xuống nhà ăn sáng. Sau đó tôi sẽ đi tắm, rồi gói ghém quần áo, và đi. Tôi không thể tin rằng mình thực sự rời đi. Tôi không thể tin là mình được phép đi.

Nhưng dĩ nhiên khó khăn lớn nhất của ngày hôm nay là gói ghém quần áo, rời khỏi nhà và lên xe lửa mà không nghe mẹ nói những từ như, “Bố tự hào về con.”

***

Một tối thứ Ba vào tháng Bảy, trời bên ngoài hãy còn sáng, màn được kéo lại một nửa để chúng tôi xem ti vi cho rõ. Tôi mặc pyjama và áo choàng tắm, bốc mùi xà bông Dettol, đang tập trung cao độ vào chiếc Airfix Lancaster Bomber bằng 1/72 kích thước thật trên khay trà trước mặt. Bố tôi vừa tan sở về, ông đang uống một lon bia đắng, khói từ điếu thuốc ông hút lơ lửng trong ráng chiều tà.

“Phần thi Thách thức Đại học dành cho bạn; Triều đại nào của vương quốc Anh là triều đại cuối cùng chứng kiến hoạt động quân sự đối kháng?”

“George Đệ Ngũ,” bố nói.

“George Đệ Tam,” Wheeler, Đại học Jesus, Cambridge nói.

“Chính xác. Vòng điểm thưởng của thí sinh sẽ được bắt đầu với một câu hỏi về địa chất.”

“Có biết gì về địa chất không đấy Bri?”

“Một chút ạ,” tôi đánh bạo nói.

“Bề ngoài như có dạng tinh thể hoặc bóng loáng, loại nào trong ba loại đá chính được hình thành do sự nguội lại và đông đặc của vật chất trái đất bị nung chảy...?”

Cái này tôi biết, tôi chắc là cái này tôi biết. “Đá núi lửa!” tôi đáp.

“Đá mácma,” Armstrongs trường Jesus, Cambridge nói.

“Chính xác.”

“Con gần đúng,” bố nói.

“Đá mácma bao gồm các tinh thể lớn dễ nhận thấy được gọi là tinh thể ban có kết cấu là gì?”

Tôi trả lời đại. “Dạng hạt,” tôi nói.

Johnson, trường Jesus, Cambridge nói: “Thuộc đá Pocfia?”

“Chính xác.”

“Con suýt đúng,” bố nói.

“Bài thơ Người tình của Porphyria, trong đó nhân vật chính siết cổ người yêu bằng bím tóc của cô...” - xem nào, tôi biết câu trả lời thật - “là bài thơ tự sự của nhà thơ thời Victoria nào?” Là Robert Browning. Chúng tôi đã học về bài thơ này trong giờ Ngữ Văn tuần trước. Đó là Browning, tôi biết đúng là như vậy.

“Robert Browning!” tôi trả lời, cố hết sức để không hét lên.

“Robert Browning?” Armstrong, trường Jesus, Cambridge nói.

“Chính xác!” Và có tiếng vỗ tay cho Armstrong trường Jesus, Cambridge từ phía khán giả trường quay, nhưng cả hai bố con đều biết rằng tiếng vỗ tay thật sự dành cho tôi.

“Trời đất, làm thế nào mà con biết câu trả lời hả Bri?” bố hỏi.

“Chỉ là con biết thôi,” tôi nói. Tôi muốn quay lại nhìn mặt ông, để xem ông có cười hay không - ông không cười nhiều, nhất là sau một ngày làm việc - nhưng tôi không muốn mình trông có vẻ tự mãn nên bèn ngôi im và nhìn cái bóng đẫm ánh nắng của ông trên màn hình ti vi. Ông nuốt khói thuốc lá vào, đặt nhẹ bàn tay cầm điếu thuốc lên đầu tôi, giống như một vị hồng y giáo chủ, vuốt tóc bằng với những ngón tay dài vàng khè, và bảo với tôi rằng:

“Không chừng một ngày nào đó con sẽ ở đó đấy,” tôi tự mỉm cười với chính mình, cảm thấy mình thật thông minh sáng dạ và đúng đắn, như một người hoàn toàn khác.

Dĩ nhiên, sau đó tôi trở nên tự mãn và cố gắng trả lời mọi câu hỏi, rồi trả lời sai mọi câu hỏi, nhưng chuyện đó không thành vấn đề bởi vì tôi đã đúng một lần, và tôi biết rằng ngày nào đó mình sẽ lại đúng một lần nữa.

***

Tôi nghĩ, nói rằng mình không bao giờ là nô lệ của những thay đổi thất thường của thời trang thì cũng chẳng ngoa. Thế không có nghĩa tôi là người phản thời trang, chỉ là không có trào lưu nào trong các trào lưu thanh niên chủ yếu ở thời đại tôi sống thật sự phù hợp. Chung quy thì, có một thực tế phũ phàng thế này, nếu bạn là fan của Kate Bush, Charles Dickens, trò sắp chữ, David Attenborough và Thách thức Đại học thì bạn chẳng có được nhiều lựa chọn về một trào lưu thanh niên.

Không phải tôi chưa từng thử qua. Từng có một thời gian dài tôi hay trằn trọc khó ngủ vì lo sợ rằng mình có thể trở thành một người Gothic, nhưng tôi nghĩ đó chỉ là một giai đoạn mà thôi. Vả lại, đàn ông Gothic căn bản đều ăn mặc giống ma cà rồng quý tộc, và nếu có thứ gì tôi chẳng bao giờ tin, thì đó chính là ma cà rồng quý tộc. Tôi chỉ không có xương gò má. Hơn nữa, trở thành một người Gothic nghĩa là bạn phải nghe nhạc Gothic, cái này thì thật hết chịu nổi.

Vậy nên cuộc chạm trán chớp nhoáng duy nhất của tôi với văn hóa thanh niên ít nhiều chỉ có thế. Tôi tin là bạn sẽ nói rằng cảm nhận của cá nhân tôi về phong cách có thể được mô tả đúng nhất là không trang trọng nhưng cổ điển. Tôi thích quần vải cotton xếp li hơn quần denim, nhưng thích vải denim sậm màu hơn sáng màu. Áo bành tô phải nặng, dài, và cổ áo bị sờn, khăn quàng cổ phải có núm tua nhỏ, màu đen hoặc đỏ tía, và là thứ không thể thiếu từ đầu tháng Chín cho đến cuối tháng Năm. Giày chắc chắn phải đế thấp và không quá nhọn đầu, và (điều này rất quan trọng) chỉ mang giày màu đen hoặc màu nâu với quần jean.

Nhưng tôi cũng không sợ thử nghiệm, đặc biệt là khi giờ đây tôi đang có cơ hội để làm mới chính mình. Vì vậy với chiếc va li cũ của bố mẹ mở toang đặt trên giường, tôi xem lướt qua mấy bộ quần áo mới mua dành riêng cho ngày đặc biệt này. Đầu tiên là áo gió dày, một cái áo màu đen trông nặng nề, dày đến không tin nổi, hệt như một cái áo da lừa. Tôi khá hài lòng với nó, và với sự pha trộn đầy ẩn ý giữa mỹ thuật và lao động chân tay - “có chiếc áo Shelley này là đủ rồi, tôi khỏi mặc thêm cái gì bên ngoài nữa”.

Tiếp theo là năm cái áo sơ mi dài tay không cổ, với tông màu hòa phối của trắng và xanh dương, tôi mua với giá 1 bảng 99 xu một cái trong chuyến đi chơi trong ngày đến phố Carnaby cùng Tone và Spencer. Spencer ghét những cái áo này, nhưng tôi thì nghĩ chúng thật tuyệt, đặc biệt khi phối với cái áo gi lê màu đen mà tôi đã mua với giá 3 bảng ở gian đồ cũ của Hội Giúp đỡ Người Cao tuổi. Tôi đã giấu mẹ cái áo gi lê, không phải vì bà có bất kỳ điều gì phản đối Hội Người Cao tuổi, mà bởi vì bà nghĩ rằng đồ cũ thật là dung tục và chẳng khác gì nhặt đồ ăn trên sàn nhà. Cái mà tôi đang hướng đến khi kết hợp áo gi lê/áo sơ mi dài tay không cổ/kính mắt gọng tròn là hình tượng một sĩ quan trẻ tuổi bị suy nhược thần kinh bởi chiến tranh, có tật nói lắp và một cuốn sổ tay đầy những thơ, anh ta được gửi về từ mặt trận, nhưng đang hoàn thành nghĩa vụ của người công dân yêu nước bằng cách làm việc tại một trang trại ở ngôi làng Gloucestershire xa xôi, ở đó anh ta bị người dân địa phương đối xử với vẻ ngờ vực thô lỗ, nhưng lại được cô con gái của mục sư, người đòi quyền bầu cử cho phụ nữ, ham đọc sách, xinh đẹp, một người theo chủ nghĩa hòa bình, ăn chay và lưỡng tính thầm thương trộm nhớ. Đây thực sự là một cái áo gi lê ra trò. Và ngoài ra, nó không phải đồ cũ, nó là đồ cổ.

Tiếp theo là chiếc áo vét nhung kẻ nâu của bố. Tôi trải áo trên giường và cẩn thận xếp cánh tay áo dọc theo ngực. Có một vết ố nước trà nhỏ ở đằng trước từ cách đây hai năm, khi tôi sai lầm mà mặc nó đến dự buổi khiêu vũ của trường. Tôi biết việc này bị coi là hơi bệnh, nhưng tôi lại nghĩ đó là một cử chỉ đẹp, một kiểu bày tỏ lòng tôn kính. Dù vậy thì đáng lẽ tôi cũng nên hỏi ý mẹ trước, bởi vì khi thấy tôi mặc chiếc áo vét của bố đứng trước gương, bà đã la lên và ném cốc trà về phía tôi. Cuối cùng khi nhận ra đó là tôi, bà liền òa khóc và nằm trên giường nức nở suốt nửa tiếng đồng hồ, tôi phải nói để bạn biết đó là sự khuấy động ra trò trước một bữa tiệc. Và khi bà bình tĩnh lại, tôi đi đến dự buổi khiêu vũ thật và đã có cuộc trò chuyện sau đây với Janet Parks, tình-yêu-đời-tôi trong tuần đó.

TÔI: Janet, nhảy điệu chậm nhé?

JANET PARKS: Bri này, áo vét đẹp đấy.

TÔI: Cám ơn cậu!

JANET PARKS: Cậu lấy nó ở đâu ra vậy?

TÔI: Đây là áo của bố tớ!

JANET PARKS: Nhưng không phải bố cậu đã... mất rồi sao?

TÔI: Phải!

JANET PARKS: Vậy cậu đang mặc cái áo vét của người bố quá cố à?

TÔI: Đúng vậy. Thế điệu nhảy thì sao nhỉ?

... và đến lúc ấy thì Janet đưa tay lên che miệng, lủi đi và bắt đầu chỉ trỏ thì thầm trong góc phòng với Michelle Thomas và Sam Dobson, sau đó đi ve vãn Spencer Lewis. Không phải tôi chịu một lời nguyền về cái áo hay gì đó đâu. Với lại, ở trường đại học, cái tiểu sử này sẽ chẳng quan trọng. Không ai biết bất cứ điều gì về nó, ngoại trừ tôi. Ở trường đại học, nó chỉ là một chiếc áo vét nhung kẻ đẹp. Tôi gấp áo lại rồi để vào va li.

Mẹ bước vào, sau đó gõ cửa, và tôi nhanh tay đóng va li lại. Bà trông như vừa khóc đủ rồi, không cần chiếc áo vét của bố khơi gợi nỗi buồn thêm nữa. Sau cùng, bà đặc biệt xin nghỉ làm sáng nay để có thể khóc.

“Sắp xong chưa con?”

“Gần xong rồi.”

“Con có muốn lấy cái chảo chiên không?”

“Không, thiếu nó thì con vẫn ổn mà mẹ.”

“Nhưng con sẽ ăn gì?”

“Mẹ biết rồi đấy, con sẽ ăn nhiều thứ chứ đâu chỉ có khoai tây chiên!”

“Không, con sẽ không ăn được món nào khác đâu.”

“À, có thể con sẽ bắt đầu ăn như vậy. Dù sao thì cũng có khoai tây đút lò.” Tôi nhìn xem bà có cười hay không.

“Con nên đi rồi nhỉ?” Tàu còn lâu mới tới, nhưng mẹ nghĩ việc đón tàu cũng giống như du lịch nước ngoài bằng đường hàng không vậy, tức là ta phải có mặt trước khi khởi hành bốn tiếng đồng hồ để làm thủ tục. Không phải do chúng tôi từng đi máy bay hay gì khác, thế nhưng, thật là kỳ lạ khi bà vẫn chưa khiến tôi bỏ ra đường kiếm việc.

“Nửa tiếng nữa con đi,” tôi nói, và im lặng bao trùm. Mẹ muốn nói gì đó nhưng không sao thốt nên lời, chắc là đại loại như bố tự hào về tôi, nhưng bà quyết định để dành những lời đó nói sau, và quay lưng bỏ đi. Tôi ngồi lên va li để cố đóng nó lại, sau đó nằm dài trên giường nhìn quanh phòng lần cuối - kiểu thời khắc mà, nếu hút được thuốc thì tôi đã hút rồi.

Tôi không thể tin điều này xảy ra thật. Đây là tuổi trưởng thành tự lập, cảm giác là như thế này đây. Không có nghi lễ nào nhỉ? Ở một số bộ lạc châu Phi xa xôi buổi lễ kỷ niệm những sự kiện quan trọng trong đời người thường kéo dài bốn ngày với những nghi thức kỳ quái như xăm mình và dùng những chất gây ảo giác mạnh được chiết xuất từ nhái, các bô lão trong bộ lạc thì trét máu khỉ khắp người ta, nhưng ở đây, nghi thức chỉ gói gọn trong ba cái quần mới và chiếc chăn lông vịt của ta được nhồi nhét vào một túi nhựa lót thùng rác.

Khi xuống lầu tôi thấy mẹ đã gói một bọc đồ to tướng, hai hộp bằng vải lớn chứa hầu hết các vật dụng trong nhà cho tôi. Đảm bảo là có cái chảo chiên ở đó, được vùi khéo léo trong đống vật dụng nấu nướng, cái lò nướng tôi thó được từ Ashworth Electricals, một cái ấm, cuốn sách Bữa ăn tuyệt vời với Mince, và một rổ đựng bánh mì với sáu ổ bánh nhỏ dẹt rắc bột và một ổ Mighty White. Thậm chí có cả bàn bào phô mai, mà bà biết rõ tôi không ăn phô mai. “Mẹ ơi, con không thể vác nguyên đống đồ này theo được,” tôi nói, và vì vậy những giây phút cuối cảm động và là biểu tượng cho thời niên thiếu của cuộc đời tôi được dành để cãi cọ với mẹ về việc tôi có cần đồ đánh trứng hay không - phải, sẽ có một cái vỉ nướng bánh mì nữa, phải, tôi thật sự cần máy nghe nhạc và cặp loa - và khi cuộc thương lượng cuối cùng cũng ngã ngũ thì hai mẹ con đã giảm tải xuống còn một va li, một ba lô đựng mấy đồ nghe nhạc và sách vở, hai túi nhựa đen lót thùng rác đựng chiếc chăn lông vịt và gối, đồng thời, mẹ kiên quyết bắt đem theo một đống khăn lau bát đĩa.

Cuối cùng đã đến giờ. Tôi hết sức kiên quyết không cho mẹ tiễn ra ga bởi vì đi một mình thì trông sẽ có vẻ mạnh mẽ và có phong cách hơn. Tôi đứng ở bậc cửa trong khi bà lấy ví ra, từ tốn nhét một tờ bạc 10 bảng gấp rất nhỏ vào tay tôi, trông như một viên hồng ngọc.

“Mẹ...”

“Không sao, cầm lấy đi.”

“Con sẽ ổn mà, thật đấy...”

“Con đi nhé. Nhớ giữ gìn sức khỏe...”

“Con...”

“Thỉnh thoảng cố ăn ít hoa quả tươi...”

“Con sẽ cố...”

“Còn nữa...” Đến rồi đây. Bà nuốt nước mắt nói, “... con biết là bố sẽ rất tự hào về con, đúng không?” Tôi vội hôn lên đôi môi khô đang mím lại của mẹ rồi chạy, từng quãng ngắn, cật lực, ra ga.

***

Trên tàu tôi nhét tai nghe vào và nghe cuốn băng tuyển tập chọn lọc đặc biệt của mình, những bài hát được yêu thích mọi thời đại của Kate Bush. Đó là một tuyển tập khá hay, nhưng nhà tôi không có dàn âm thanh hifi thích hợp, vì vậy bạn có thể nghe tiếng mẹ nói vọng lên lầu bảo rằng miếng sườn đã chín già nửa trong âm thanh của bài “Người đàn ông với hình ảnh đứa bé trong đôi mắt”.

Tôi trịnh trọng mở quyển thơ Nữ hoàng Faerie mới cứng của thi sĩ Spencer ra, chúng tôi sẽ phải học quyển này trong học kỳ đầu tiên. Tôi thích nghĩ rằng mình là một độc giả khá chân chính, đầu óc cởi mở và đủ tính tốt khác, nhưng những vần thơ này thì hình như chẳng có ý nghĩa gì cả, vì vậy tôi bỏ cuốn Nữ hoàng Faerie xuống sau mười tám dòng đầu tiên, và thay vào đó tập trung nghe Kate Bush hát, đồng thời ngắm cảnh thôn quê nước Anh thoáng vụt qua, rồi tạo cái dáng vẻ trầm ngâm, phức tạp và thú vị. Tôi có một ô cửa sổ to, bốn chỗ ngồi và một cái bàn riêng, một lon Coca và Twix, và với tôi bây giờ thì điều duy nhất có thể làm cho cuộc sống tươi đẹp hơn là có một cô gái hấp dẫn bước vào, ngồi đối mặt với tôi và nói gì đó kiểu như...

“Xin lỗi, mình để ý thấy cậu đang đọc cuốn Nữ hoàng Faerie. Có khi nào cậu đang tình cờ trên đường đến khoa Ngữ Văn ở đại học không nhỉ?”

“Ừ, đúng rồi đấy!” tôi trả lời.

“Thật tuyệt vời! Cậu không phiền nếu mình ngồi đây chứ? Nhân tiện, mình là Emily. Nói mình nghe nào, cậu có thường nghe nhạc của Kate Bush không...?”

Thế rồi cuộc trò chuyện giữa chúng tôi diễn ra rất tinh tế và lịch sự và hài hước, rồi có một luồng điện vô hình xẹt ngang làm trỗi dậy những ham muốn nhục dục giữa hai đứa, thế là lúc ghé trạm Emily liền ngả người qua bàn, e lệ cắn làn môi dưới đầy đặn, và nói, “Brian này, tớ hầu như không biết gì về cậu, và trước đây tớ cũng chưa bao giờ nói điều này với người đàn ông nào, nhưng chúng mình có thể đi đến... khách sạn hay chỗ nào đó được không? Chỉ là tớ không biết liệu có thể cưỡng lại nó lâu hơn được không,” và tôi bèn chấp nhận với một nụ cười mệt mỏi, như thể muốn nói, “Tại sao chuyện này cứ phải xảy ra mỗi lần mình lên tàu thế nhỉ,” và dắt tay cô ấy vào khách sạn gần nhất...

À mà khoan. Đầu tiên, tôi phải làm gì với đống hành lý của mình nhỉ? Tôi không thể xuất hiện ở khách sạn với hai cái túi nhựa lót thùng rác đúng không? Và rồi còn tiền phòng nữa. Số tiền kiếm được từ việc làm thêm mùa hè của tôi đã bị tiêu sạch vào tiền phòng trọ rồi, tấm séc trợ cấp thì tận tuần sau mới đến tay, và mặc dù trước giờ chưa ở khách sạn lần nào, tôi biết tiền phòng sẽ không rẻ - dễ phải bốn mươi, năm mươi bảng gì đấy - và hãy đối mặt với chuyện đó, toàn bộ chuyện đó sẽ kéo dài, xem nào, mười phút nếu tôi may mắn, cùng lắm là mười lăm phút, mà tôi thì không hề muốn trải qua giây phút chìm đắm trong nhục dục ngây ngất mà phải đồng thời lăn tăn về vụ tiền nong. Tôi cho là Emily có thể sẽ đề nghị chia đôi tiền phòng, nhưng tôi sẽ phải từ chối thôi, không cô ấy lại nghĩ tôi đúng là đồ giẻ rách. Còn giả sử cô ấy cứ khăng khăng đòi trả tiền và tôi đồng ý, cô ấy vẫn sẽ phải đưa ra tiền mặt, mà cho dù chúng tôi làm việc đó trước hay sau khi làm tình, nó chắc chắn cũng sẽ khiến cho cuộc gặp gỡ bớt đi một chút phiền muộn sầu não và cả sự ngọt ngào. Liệu cô ấy có nghĩ tôi là thằng không bình thường nếu tôi ở lại sau đó để tận dụng hết các tiện nghi tuyệt nhất của khách sạn không nhỉ? “Emily yêu quý, cuộc mây mưa của chúng mình thật tuyệt vời và thấm thía lạ lùng. Bây giờ cậu lấy giúp mình cái khăn tắm ở ba lô được không?” Hơn nữa, nhảy thẳng lên giường với một cô gái sắp học chung trường có thật là một ý tưởng hay ho không? Chuyện gì xảy ra nếu tình trạng căng thẳng tình dục giữa chúng tôi cản lối con đường học hành của hai đứa? Thực tế thì, có lẽ đó không phải là một ý tưởng hay. Có khi tôi nên chờ đợi để hiểu rõ Emily hơn một chút trước khi cả hai tiến tới mối quan hệ thể xác.

Và đúng lúc xe lửa vào ga, tôi thật sự cảm thấy nhẹ nhõm vì Emily chỉ là một hình ảnh trong tưởng tượng của tôi mà thôi.

Tôi kéo mấy cái túi nhựa và hành lý ra khỏi ga tàu nằm trên một quả đồi nhìn xuống được toàn thành phố. Đây mới là lần thứ hai tôi đến đây sau buổi phỏng vấn, và cũng không tệ, dù không phải trường Oxford hay Cambridge, nhưng đây là trường đại học tốt thứ nhì. Điều quan trọng là nó có tháp hình chóp. Một kiểu mơ mộng.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,524
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 3


3

CÂU HỎI: Cuốn tiểu thuyết nổi tiếng nào của Frances Hodgson Burnett, viết năm 1886 và sau đó được dựng thành kịch nhiều lần, đã làm dấy lên xu hướng thời trang để tóc quăn dài và mặc áo com lê nhung có cổ đăng ten ở nam thanh niên?

TRẢ LỜI: Cậu chủ nhỏ Fauntleroy[1].

[1] Nguyên văn: Little Lord Fauntleroy.

***

Đây là những gì tôi viết vào mục “Sở thích và mối quan tâm” trong đơn nộp cho Văn phòng Nhà ở Trực thuộc Đại học: Đọc sách, Phim ảnh, Âm nhạc, Kịch nghệ, Bơi lội, Cầu lông, Quan hệ xã hội!

Rõ ràng danh sách đó chẳng thể hiện gì nhiều. Thậm chí nó còn không hoàn toàn đúng. “Đọc sách” là sự thật, nhưng ai mà chả đọc sách. “Phim ảnh” và “Âm nhạc” cũng tương tự. “Kịch nghệ” thì là nói dối, tôi ghét kịch nghệ. Thực ra thì tôi có tham gia mấy vở kịch, chỉ là không bao giờ thực sự xem trọn vẹn một vở, ngoại trừ một tiết mục lưu diễn giáo dục về an toàn đường bộ, trong đó tuy các diễn viên nhiệt tình, sôi nổi và phô trương, nhưng màn trình diễn vẫn chẳng để lại mấy ấn tượng thẩm mỹ trong tôi. Có điều bạn phải giả vờ thích kịch nghệ - đó là luật. “Bơi lội” cũng không hẳn là đúng. Tôi bơi được, nhưng chỉ theo cái kiểu của bất kỳ con vật nào đang sắp chết đuối. Tôi chỉ nghĩ là mình cần phải thêm vào cái gì đó mang tính thể thao. “Cầu lông” cũng vậy. Khi tôi nói tôi thích cầu lông, ý tôi là giả sử có mấy kẻ nào đó chĩa súng vào đầu tôi và ép tôi phải chơi một môn thể thao bất kỳ nếu không muốn bị bắn chết, mà chúng lại không chấp nhận xem trò sắp chữ là một môn thể thao, thì môn thể thao đó chính là cầu lông. Ý tôi là, môn đó có thể khó đến đâu cơ chứ? “Quan hệ xã hội!” cũng là một uyển ngữ. “Cô độc và Thiếu thốn tình dục” thì chính xác hơn, nhưng cũng quái gở hơn. Nhân tiện, dấu cảm thán ở cuối từ “Quan hệ xã hội!” nhằm chuyển tải một cái nhìn thiếu tôn kính, vô tâm, bất chấp tất cả đối với cuộc đời.

Vì vậy, phải thừa nhận là tôi chẳng cung cấp thông tin gì đáng kể cho mấy người ở Văn phòng Nhà ở Trực thuộc Đại học, thế mà chẳng hiểu sao họ lại xếp tôi ở trong ngôi nhà này với Josh và Marcus.

Richmond House nằm trong một dãy nhà gạch mới xây trên đỉnh một ngọn đồi rất dốc nhìn xuống thành phố, ở vị trí thuận tiện chỉ cách trạm xe buýt gần nhất mấy cây, chính vì vậy, cuối cùng khi đến nơi tôi đã vã mồ hôi ướt đẫm bên trong cái áo gió dày. Cửa trước mở toang, hành lang đầy những cái hộp cùng xe đạp đua và hai mái chèo, một cây gậy và miếng lót đánh cricket, các thiết bị trượt tuyết, bình thở ôxy và một bộ đồ lặn. Trông như một vụ cướp cửa hàng dụng cụ thể thao. Tôi ném va li vào phía bên trong cửa ra vào, cảm thấy nỗi lo lắng đang lớn dần lên, và trèo bừa qua đống đồ thể thao để tìm những người trọ cùng.

Nhà bếp được thắp sáng bằng đèn neon, có vẻ đơn điệu, bốc mùi thuốc tẩy và men bia. Gần bồn rửa, hai thằng con trai, một to lớn tóc vàng, một ngăm đen béo lùn, mặt lốm đốm tàn nhang, đang dùng vòi hoa sen phun đầy nước vào cái thùng rác rỗng bằng nhựa. Bài hát “Cô ấy bán nơi trú ẩn” của The Cult đang phát ra ầm ĩ từ cát xét. Tôi đứng ở ngưỡng cửa một lát, rồi nói “Xin chào!” và “Chào đằng ấy!” trước khi đứa tóc vàng cuối cùng cũng nhìn lên và trông thấy tôi với mấy cái túi rác đen.

“Xin chào! Đó là người dọn rác!”

Cậu ta vặn nhạc xuống một nấc, chồm tới giống như một con cún giống Labrador thân thiện, rồi bắt tay tôi một cách hùng hồn, và tôi nhận ra đây là lần đầu tiên tôi bắt tay một người đồng trang lứa.

“Cậu hẳn là Brian,” cậu ta nói. “Mình tên Josh còn đây là Marcus!”

Marcus nhỏ thó và đầy mụn nhọt, tất cả những nét đặc trưng của cậu ta đều tập trung ở giữa khuôn mặt, đằng sau cặp kính phi công trông rất ngầu song cũng chẳng khiến cậu ta nom có khả năng lái máy bay một chút nào. Cậu ta nhìn tôi từ trên xuống dưới với khuôn mặt có vẻ cáu kỉnh, khịt mũi, rồi lại chú ý vào cái thùng rác nhựa. Nhưng Josh thì cứ nói huyên thuyên, không thèm đợi câu trả lời, bằng giọng nói liền một mạch của phim thời sự Pathe. “Cậu đến đây bằng cách nào? Phương tiện giao thông công cộng à? Cậu sống ở đâu? Cậu thấy ổn đấy chứ? Cậu toát mồ hôi đầm đìa kìa.”

Josh mang một đôi giày ống màu đỏ tía, mặc áo gi lê nhung màu be - đó là một chiếc áo gi lê nhung - một cái áo sơ mi tím, và quần jean đen bó sát đến nỗi có thể thấy rõ từng cái tinh hoàn cậu ta ở đâu. Cậu ta có kiểu tóc giống Tone, kiểu Viking Nữ hóa, dấu hiệu của dân metallist kinh niên, nhưng được bù lại bằng một bộ ria mép lông tơ; với cái kiểu trưng diện ấy, cậu chàng kỵ sĩ này trông như thể vừa đánh mất thanh trường kiếm của mình.

“Cái gì trong thùng rác vậy?” tôi hỏi.

“Bia tự ủ. Tụi mình nghĩ là để quá trình lên men diễn ra càng sớm thì càng tốt. Hiển nhiên là cậu có thể tham gia nếu muốn, chúng ta chỉ phải chia chi phí làm ba thôi...”

“Được thôi...”

“Chi phí bây giờ là 10 bảng, để mua men bia và chất cô đặc cây hoa bia và ống và thùng và các thứ linh tinh khác, nhưng sau ba tuần thì cậu có thể thưởng thức Bia đắng Yorkshire truyền thống với giá 6 xu nửa lít!”

“Món hời nhỉ!”

“Marcus và mình là những tay nấu rượu lậu, hai đứa vận hành một cái máy chưng cất rượu trong ký túc, kiếm lời kha khá đấy. Mặc dù tụi mình ngẫu nhiên lại là hai thằng ngoại trú!”

“Các cậu học cùng trường à?”

“Chắc chắn rồi. Rất khăng khít, phải không, Marcus?” Marcus khịt mũi. “Cậu học ở đâu vậy?”

“Ồ, cậu chưa nghe đến nơi đó đâu...”

“Thử coi.”

“Phố Langley?”

Im lặng.

“Trường Phổ thông Hỗn hợp Phố Langley?”

Chẳng có động tĩnh gì.

“Southend?” tôi gợi ý. “Essex?”

“Không! Cậu hoàn toàn đúng, chưa bao giờ nghe nói luôn! Muốn tớ chỉ cho phòng cậu không?”

Tôi theo Josh lên lầu, Marcus lững thững theo sau, đi dọc theo hành lang màu xám xanh trang trí bằng những chỉ dẫn về cách ứng phó trong trường hợp có hỏa hoạn. Chúng tôi đi qua căn phòng mới của họ chất đầy những hộp và va li nhưng vẫn còn rộng rãi, và đến cuối hành lang, Josh đẩy tung cửa một căn phòng thoạt nhìn giống hệt một cái xà lim.

“Tèn ten! Hy vọng cậu không phiền, nhưng chúng tớ đã chia phòng trước khi cậu đến đây rồi.”

“Ồ. Thế à...”

“Tung đồng xu để quyết định. Cậu biết đấy, chúng tớ muốn bắt tay dọn đồ đạc ra, ổn định chỗ ở.”

“Dĩ nhiên rồi! Được thôi!” Tôi có cảm giác mình vừa bị lừa, và quyết định sẽ không bao giờ tin gã mặc áo gi lê nhung nào nữa. Bây giờ phải tính kế làm sao đòi lại quyền lợi của mình mà không tỏ ra lộ liễu.

“Hơi bé thì phải, nhỉ?” tôi nói.

“Chà chà, Brian, phòng nào chẳng bé. Mà chúng tớ đã tung đồng xu đấy, rất là công bằng và sòng phẳng.”

“Thế làm sao cậu tung đồng xu cho ba người?”

Im lặng. Josh cau mày, miệng câm như hến.

“Nếu cậu không tin tưởng bọn này, lúc nào chúng ta cũng có thể tung lại,” Marcus khịt khịt mũi vẻ tự ái.

“Không, không phải vậy, chỉ là...”

“Rồi, thế thì chúng tớ sẽ để cậu lại ổn định chỗ ở. Mừng vì có cậu gia nhập!” và họ chạy đi, quay về chỗ ủ bia, xì xà xì xầm.

Chỗ ở của tôi trông như thể vừa bị xới tung lên. Căn phòng có cái vẻ cuốn hút và không khí của hiện trường một vụ án mạng; một tấm nệm nằm chỏng chơ trên khung kim loại, tủ quần áo và bàn đồng bộ, bằng gỗ dán và hai cái kệ nhỏ bằng mica giả gỗ. Tấm thảm có màu nâu của bùn đất và như kiểu được dệt từ những sợi lông mu chắc chắn. Một cái cửa sổ trông dơ bẩn ở phía trên cái bàn nhìn xuống thùng rác bên dưới, trong khi đó tấm bảng hiệu đóng khung cảnh báo rằng sử dụng keo dính Blu-Tack trên tường sẽ bị xử tử. Mặc dù vậy, tôi đã muốn một căn phòng gác mái, và tôi đã có một căn phòng gác mái. Tốt hơn là nên thích nghi với nó, tôi nghĩ thế.

Việc đầu tiên tôi làm là lắp đặt dàn âm thanh nổi, và bỏ đĩa nhạc Never for Ever, album thành công vang dội thứ ba của Kate Bush vào. Các đĩa nhạc còn lại được chất đống kế bên mặt đĩa quay, và có một chút đấu tranh nội tâm trong tôi về việc để album nào hướng mặt ra ngoài; tôi thử với Revolver của The Beatles, Blue của Joni Mitchell, Diana Ross và The Supremes và Elia Fitzgerald trước khi bố trí đĩa mới coóng Brandenburg Concertos của Bach có nhãn ghi Âm nhạc Giải trí, một món hời với giá 2 bảng 49 xu.

Sau đó tôi dọn sách vở ra, và thử nhiều cách khác nhau để sắp xếp chúng trên cái kệ mica; theo thứ tự chữ cái tên tác giả, theo thứ tự chữ cái tên tác giả nhưng chia nhỏ theo chủ đề; thể loại; quốc gia; kích cỡ, và cuối cùng, hiệu quả nhất, theo màu sắc - bộ Penguin kinh điển màu đen ở một đầu kệ, màu nhạt dần đến bộ Picador màu trắng ở cuối kệ, ở giữa là bộ Virago màu xanh chiếm khoảng 5 xăng ti mét, bộ mà tôi chưa có thời gian đọc nhưng chắc chắn sẽ đọc. Việc này rõ ràng khá mất thời gian, và khi tôi xong xuôi hết thì trời cũng vừa tối hẳn, nên tôi bèn gắn cái đèn bàn lên bàn.

Kế đó tôi quyết định biến giường ngủ của mình thành một chiếc giường kiểu futon. Thực ra đã có lúc tôi từng muốn làm việc này, nhưng mẹ chỉ cười nhạo khi tôi thử làm ở nhà, nên tôi định sẽ thử làm ở đây một phen. Tôi khiêng tấm nệm lên, nó bị lấm bẩn một cách khó hiểu và đủ ẩm để trồng cải xoong, đặt xuống sàn sao cho nó không tiếp xúc với mặt tôi, rồi chật vật dựng ngược khung giường bằng kim loại lên. Nó nặng đến cả tấn, nhưng cuối cùng tôi cũng xếp gọn được nó an toàn đằng sau tủ quần áo. Đương nhiên như thế nghĩa là tôi sẽ mất đi hơn nửa mét mặt sàn quý giá, nhưng khi xong thì hiệu quả cũng xứng đáng lắm - một kiểu không khí phương Đông, khiêm nhường, trầm tư mặc tưởng, chỉ bị làm giảm bớt một chút bởi những cái sọc màu xanh nước biển đậm, đỏ và trắng trên lớp bọc ngoài cái chăn lông vịt của Cửa hàng Bách hóa Gia dụng Anh.

Để giữ phong cách Thiền khiêm nhường của giường futon, tôi muốn hạn chế trang trí, bèn chỉ dán lên bức tường phía trên cái gối những bưu thiếp hình các bức họa và tấm ảnh ưa thích, một kiểu tuyên ngôn bằng hình ảnh về những anh hùng và những thứ mà tôi yêu thích. Tôi nằm trên chiếc futon và lấy keo Blu-Tack ra; Cái chết của Chatterton của Henry Wallis, Ophelia Chết đuối của Millais, Đức mẹ đồng trinh và Chúa Hài đồng của Da Vinci, Đêm đầy sao của Van Gogh, một bức của Edward Hopper; Marilyn Monroe vận váy xòe nhìn u sầu vào máy ảnh; James Dean trong chiếc áo khoác dài ở New York; Dustin Hoffman trong Người đàn ông chạy marathon; Woody Allen; một bức ảnh bố và mẹ ngủ gật trên ghế xếp ở Butlins, Charles Dickens, Karl Marx, Che Guevara, Laurence Olivier trong vai Hamlet, Samuel Beckett, Anton Chekhov, tôi đóng vai chúa Giê-su trong vở kịch Phúc âm hồi lớp Sáu, Jack Kerouac, Burton và Taylor trong Ai sợ Virginia Woolf? cùng một bức ảnh của Spencer, Tone và tôi trong một chuyến dã ngoại của trường đến lâu đài Dover. Spencer hơi tạo dáng, đầu khẽ cúi nghiêng về một bên, trông lãnh đạm, chán chường và khôn ngoan. Tone như mọi khi, đang giơ tay chữ “V”.

Cuối cùng, ngay cạnh gối, tôi để một tấm hình của bố, trông ông gầy gò như giống chó uypit[2] và có phần đáng sợ giống như nhân vật Pinky trong bộ phim Băng đảng ở Brighton, nhưng ở thành phố phía quay mặt ra bờ biển Southend, một tay cầm chai bia và điếu thuốc lá cháy âm ỉ trên những ngón tay dài. Ông có mái tóc đen chải ngược, gò má nhọn, cao, mũi nhỏ dài, một chiếc áo ba nút cổ cao, và dù ông cười nửa miệng về phía ống kính, trông ông vẫn có chút đáng sợ. Cái này chụp vào khoảng năm 1962, bốn năm trước khi tôi ra đời, vậy ông hẳn là trạc tuổi tôi bây giờ. Tôi thích tấm hình này, nhưng tôi vẫn có cảm giác lo lắng là nếu ông bố mười chín tuổi của tôi gặp thằng con mười chín tuổi của ông trên cầu tàu Southend vào một tối thứ Bảy nào đấy, đó hẳn là một cơ hội thuận tiện để ông cho tôi một trận tơi bời.

[2] Uypit (whippet): một loại chó săn Anh, mình nhỏ và gầy.

Có tiếng gõ cửa, và theo bản năng tôi giấu keo Blue-Tack ra sau lưng. Tôi cho đó là Josh đến yêu cầu tôi làm đầu sai cho gã hoặc cái gì đấy tương tự, nhưng thay vào đó là một cô gái tóc hoe cao lớn có mái tóc kiểu Viking và ria mép màu vàng hoe nhàn nhạt.

“Cậu dọn đồ đạc đến đâu rồi? Ổn chứ?” Josh nói trong bộ đồ phụ nữ.

“Tốt, ổn cả.”

“Sao cái nệm của cậu lại nằm trên sàn thế?”

“Ồ, tớ nghĩ là nên thử giường kiểu futon một thời gian.”

“Giường futon? Thật hả?” Josh nói, cái miệng thoa son há hốc ra như thể đó là điều kỳ quái nhất cậu ta từng nghe trong đời, tức cười thật, chuyện này lại đến từ một gã con trai mặc đồ phụ nữ. “Marcus, đến đây mà xem cái giường futon của Jackson này!” và Marcus, trong bộ tóc giả màu đen uốn quăn, váy thể thao khúc côn cầu và đôi vớ bị tuột chỉ, thò mũi vào phòng, khịt khịt, rồi biến mất.

“Mà này, giờ chúng tớ biến đây - cậu có đến cùng không?”

“Hử, đến...”

“Tiệc Gái làng chơi và Cha xứ, trang viên Kenwood. Vui lắm.”

“Được rồi, xem nào, có thể. Chỉ là tớ nghĩ tớ nên ở nhà mà đọc...”

“Ồ, đừng có ủy mị như vậy chứ...”

“Nhưng tớ không có gì để mặc...”

“Cậu có một cái áo sơ mi sậm màu phải không?”

“À... ờ.”

“Tốt, vậy thì đi thôi. Dán một miếng bìa màu trắng dưới cái cổ áo thế là xong. Gặp cậu trong năm phút nữa nhé. À mà, đừng quên 10 bảng cho vụ làm bia tự ủ đấy nhé? Nhân tiện, yêu những gì cậu đã làm cho căn phòng ghê...”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,524
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 4


4

CÂU HỎI: Năng lượng tương tác của hai hạt proton liên quan đến việc phân tách giữa chúng. Lực tương tác giữa hai proton khi việc phân tách giữa chúng tương ứng là a) nhỏ và b) trung bình là lực gì?

TRẢ LỜI: Lực đẩy và lực hút.

***

Là một người tinh tế và từng trải, tôi biết giá trị của việc “lót dạ” trước khi đi chơi tối, nên tôi đã mua một gói khoai tây chiên và xúc xích khô cho bữa tối rồi đánh chén trên đường đến bữa tiệc. Mưa bắt đầu nặng hạt, nhưng tôi đã tranh thủ ăn khoai tây hết mức có thể trước khi chúng nguội ngắt và ỉu đi. Marcus và Josh rảo bước đầy tự tin về phía trước trên đôi giày cao gót, dửng dưng trước ánh nhìn ngán ngẩm của người qua đường. Tôi cho rằng việc những đứa con-trai-bảnh-bao-mặc-đồ-phụ-nữ chắc phải là một trong những nỗi khốn khổ khi sống ở một thị trấn đại học. Chẳng bao lâu nữa là tới tuần lễ của những đám diễu hành, lá cây sẽ chuyển sang màu đồng, chim én sẽ bay về phương Nam, và các trung tâm mua sắm sẽ chật ních nam sinh trường Y ăn mặc như những cô y tá nóng bỏng.

Trên đường đi, Josh hỏi tôi dồn dập.

“Cậu đang học gì hả Brian?”

“Ngữ Văn.”

“Thơ hả? Tớ học Chính trị và Kinh tế, Marcus học Luật. Có chơi môn thể thao nào không, Brian?”

“Chỉ có trò sắp chữ thôi,” tôi nói một cách dí dỏm.

“Trò sắp chữ đâu phải môn thể thao,” Marcus khịt mũi.

“Chẳng qua cậu chưa thấy cách tớ chơi thôi!” tôi nói, nhanh như chớp.

Nhưng cậu ta có vẻ không thấy chuyện này hài hước tí nào, vì cậu ta chỉ cau mày và nói, “Cậu chơi như thế nào cũng vậy cả thôi, nó vẫn không phải là môn thể thao.”

“Không, tớ biết, tớ chỉ...”

“Cậu có chơi bóng đá, cricket hay bóng bầu dục không?” Josh hỏi.

“À, thật ra không có môn nào trong số đó...”

“Vậy ra không phải dân thể thao à?”

“Không hề.” Tôi không thể ngăn được cái cảm giác rằng mình đang được đánh giá để cho gia nhập một câu lạc bộ tư nhân giấu tên, và đã bị đánh rớt.

“Thế còn bóng quần thì sao? Tớ cần người chơi cặp.”

“Không biết bóng quần. Thỉnh thoảng chơi bóng bàn thôi.”

“Bóng bàn là trò của con gái,” Marcus nói, chỉnh lại sợi dây trên đôi giày cao gót quai hậu.

“Nghỉ một năm à?” Josh hỏi.

“Không...”

“Đi đâu đẹp đẹp vào mùa hè này chứ?”

“Không...”

“Bố mẹ cậu làm nghề gì?”

“À, mẹ làm thu ngân ở Woolworths. Bố bán kính hai lớp, nhưng giờ thì ông đã qua đời rồi.” Josh siết chặt cánh tay tôi và nói, “Tớ rất tiếc,” không rõ cậu ta ám chỉ việc bố tôi qua đời hay công việc của mẹ tôi.

“Thế còn các cậu thì sao?”

“Ồ, bố tớ làm Bộ Ngoại giao, mẹ tớ làm ở sở Giao thông.” Chúa ơi, cậu ta theo đảng Bảo thủ. Hay ít nhất tôi cũng suy ra rằng Josh ủng hộ đảng Bảo thủ nếu bố mẹ cậu ta ủng hộ đảng Bảo thủ, điều này có xu hướng gia truyền. Còn về Marcus, tôi chẳng ngạc nhiên khi phát hiện cậu ta trong Đoàn Thanh niên Hitler.

Cuối cùng chúng tôi cũng đến trang viên Kenwood. Tôi đã tránh ở khu ký túc xá theo lời khuyên trong ngày hội tư vấn tuyển sinh đại học rằng chúng chán ngắt, quy củ và đầy những người Công giáo. Hiện thực chính là ở đâu đó giữa một nhà thương điên và một trường công nhỏ - những hành lang âm vang kéo dài, sàn lát gỗ, mùi đồ lót ẩm ướt đang hong trên một cái lò sưởi âm ấm, và cái cảm giác rằng ở một nơi nào đó, điều gì đấy khủng khiếp đang xảy ra trong nhà vệ sinh.

Tiếng thình thịch của ban nhạc Dexys Midnight Runners từ xa vọng lại chào đón chúng tôi suốt dọc hành lang dẫn đến một căn phòng lớn, ốp gỗ tấm, có cửa sổ cao và đám sinh viên tụ tập thưa thớt - khoảng bảy phần là Gái làng chơi so với ba phần là Cha xứ, còn trong nhóm Gái làng chơi thì tỷ lệ nam nữ xấp xỉ năm mươi - năm mươi. Cảnh tượng chẳng đẹp đẽ cho lắm. Những gã con trai to lớn và một nhúm con gái, quần tất bị xé rách một cách nghệ thuật, vớ thể thao nhét đầy áo ngực, đứng dựa lưng vào tường hệt như, sao nhỉ, Gái làng chơi, trong khi các vị hiệu trưởng thuộc dòng dõi quý tộc dưới triều Vua Edward săm soi nhìn xuống từ những bức chân dung của họ trong sự thất vọng ê chề.

“Nhân tiện, Bri này, tớ không chắc liệu cậu có mười bảng...” Josh nói, cau mày lại “... cho cái vụ bia tự ủ hay không?”

Dĩ nhiên tôi không thể xoay xở món tiền đó thật, và đây là mười bảng mẹ đã nhét vào tay tôi, nhưng trên tinh thần kết giao bạn mới, tôi bèn đưa ra số tiền đó, thế là Josh và Marcus chuồn đi hệt như những con chó trên bãi biển, bỏ tôi ở lại tìm kiếm những mối quan hệ bạn bè sẽ theo tôi suốt đời. Nói chung, tôi quyết định, vào lúc trời còn sớm thì tốt nhất là đi kiếm một cha xứ thay vì một gái làng chơi.

Trên đường đi ra quầy bar tự chế, một cái bàn có chân kê bày bán Red Stripe với giá rất hữu nghị chỉ có 50 xu một lon, tôi khoác bộ mặt làm-ơn-nói-chuyện-với-tôi, nở nụ cười toe toét của một kẻ ít nói ngờ nghệch cộng thêm cái gật đầu ngập ngừng và cái nhìn đầy hy vọng. Kẻ đang đứng đợi được phục vụ là một gã hippie gầy cao lêu nghêu với nụ cười nhăn nhở kiểu nhà quê ra tỉnh na ná tôi, và đặc biệt, nước da cậu ta thậm chí còn xấu hơn. Cậu ta quét mắt nhìn quanh phòng, và nói cái giọng nằng nặng của vùng Birmingham, “Điêêêêên hết rồi hay sao ấy!”

“Điên thật!” tôi nói, rồi cả hai đứa tròn xoe mắt như muốn bảo, “Chậc, bọn trẻ thời nay đúng là!” Tên cậu ta là Chris, và chẳng bao lâu tôi biết cậu ta cũng học khoa Văn; “Đúng là đồng thanh tương ứng!” Chris thốt lên, và rồi bắt đầu kể tôi nghe toàn bộ chương trình học A-level của cậu ta, đồng thời kể tỉ mỉ nội dung đơn xin nhập học, lại còn nội dung của từng cuốn sách đã đọc trong đời, trước khi sa đà vào việc miêu tả kỳ nghỉ hè đi du lịch vòng quanh Ấn Độ, trong đời thực, tôi để thời gian lặng lẽ trôi qua bằng cách gật đầu, rồi uống hết ba lon Red Stripe, và đang thắc mắc không biết da cậu ta có xấu hơn tôi thật không thì đột nhiên tôi nhận ra điều cậu ta đang nói...

“... và cậu biết gì không? Dạo gần đây tớ không hề dùng giấy vệ sinh lần nào cả.”

“Thật á?”

“Thật đấy. Mà tớ cũng không nghĩ sẽ dùng nó nữa. Cách này sạch hơn nhiều, lại còn thân thiện với môi trường hơn.”

“Thế cậu làm gì...?”

“Ô, chỉ dùng tay thôi, với một xô nước nữa. Tay này này!” và cậu ta chìa bàn tay đó ra dưới mũi tôi. “Tin tớ đi, nó vệ sinh hơn ối lần.”

“Nhưng tớ tưởng cậu đã nói cậu vẫn bị kiết lỵ?”

“À, đúng, nhưng chuyện đó khác. Ai mà chả bị kiết lỵ.”

Tôi quyết định không nói thêm về vấn đề này nữa, và thốt lên, “Tuyệt! À, cậu làm tốt lắm...” rồi tôi lại bắt đầu nghe cậu ta huyên thuyên, từ những băng ghế gỗ trơn của chiếc xe buýt ọp ẹp từ thành phố Hyderabad đến thung lũng Bangalore cho đến khi, ở một nơi nào đó trên đồi Erramala, Red Stripe phát huy tác dụng và tôi vui sướng nhận ra bụng mình đầy nước và thế là thật tiếc nhưng tôi phải đi vệ sinh rồi - “Đừng đi đâu hết, tớ sẽ quay lại ngay, cứ ở nguyên chỗ cậu đứng nhé” - và khi tôi bỏ đi cậu ta nắm lấy vai tôi, giơ bàn tay trái lên trước mặt tôi và nói, một cách nhiệt thành, “À đừng quên đấy! Không cần giấy vệ sinh!” Tôi mỉm cười và thoăn thoắt đi về phía trước.

Khi quay lại, tôi nhẹ nhõm nhận ra cậu ta đã đi mất, thế là tôi đi và ngồi xuống gờ sân khấu bằng gỗ, kế bên một cô gái có thân hình nhỏ nhắn, gọn gàng, ăn mặc không giống gái làng chơi cũng không giống cha xứ mà giống một thành viên của KGB Youth Wing hơn - áo khoác đen to sụ, quần tất đen, sơ mi denim ngắn tay, mũ nồi đen kiểu Liên Xô cũ, mái tóc đen bóng dầu chải ngược hẳn ra sau. Tôi nở nụ cười “mình-ngồi-đây-có-phiền-không?” và cô nàng nở nụ cười “có-đấy-cút-đi” đáp lại, cơ mặt căng ra một chút, và thấp thoáng những cái răng trắng bóng, nhỏ, đều như bắp, lấp loáng sau màu son môi đỏ thẫm không phù hợp. Tôi chỉ cần bỏ đi là xong chuyện, tất nhiên, nhưng bia đã khiến tôi không biết sợ là gì và thân thiện thái quá, vì vậy nên bất chấp tất cả tôi ngồi xuống cạnh cô. Ngay cả trong tiếng ghi ta bass bùm bụp của bản “Two tribes”, bạn vẫn có thể nghe thấy tiếng cơ mặt cô đang bị kéo căng ra.

Sau một hồi, tôi quay qua và liếc nhìn cô ấy. Cô đang hút thuốc lá tự cuốn, rít từng hơi ngắn bồn chồn, mắt dán chặt vào sàn nhảy. Tôi có hai lựa chọn, nói chuyện hoặc bỏ đi. Có lẽ tôi nên thử nói chuyện. “Có một điều mỉa mai: tớ thực sự là một cha xứ đấy!”

Không có câu trả lời.

“Tớ chưa từng thấy nhiều gái làng chơi thế này từ hồi sinh nhật lần thứ mười sáu!”

Không có câu trả lời. Có lẽ cô không nghe thấy tôi nói. Tôi mời cô uống một ngụm từ lon bia Red Stripe của tôi.

“Cậu tử tế thật. Tớ sẽ uống, cảm ơn nhiều nhé,” và cô cầm lon bia bên cạnh lên, quơ qua quơ lại trước mặt tôi. Giọng cô chính xác hợp với khuôn mặt, nghe khó chịu và chói tai; thổ ngữ Glasgow của Scotland, tôi nghĩ vậy.

“Coi nào! Cậu hóa trang thành ai để tới đây vậy?” tôi vui vẻ hỏi, hất cằm vào bộ quần áo của cô.

“Tớ đến như một người bình thường,” cô đáp, không có vẻ định cười.

“Ít ra cậu cũng nên cố gắng chứ! Chỉ cần gắn một cái cổ đứng hoặc thứ gì tương tự vào đấy thôi!”

“Cũng có thể. Trừ việc tớ là người Do Thái.” Cô uống một hớp bia trong lon của mình. “Buồn cười thật, đã nằm trong Cộng đồng Người Do Thái thì chẳng bao giờ thực sự được cởi những bộ đồ hóa trang ra cả.”

“Tớ biết, thỉnh thoảng tớ ước mình là người Do Thái,” tôi nói. Tôi thấy rõ là câu này khá liều lĩnh so với một mẹo bắt chuyện, và tôi không thật chắc tại sao mình lại nói ra. Có lẽ một phần vì tôi nghĩ quan trọng là phải trung thực, trong các vấn đề chủng tộc, giới tính và bản sắc, phần vì ở đoạn này thì tôi đã khá say.

Cô nheo mắt, rồi nhìn tôi một hồi, hệt như trong một bộ phim cao bồi Viễn Tây, ngậm điếu thuốc, đang quyết định xem có nên làm mếch lòng tôi hay không, rồi lặng lẽ hỏi: “Đúng như vậy không?”

“Tớ xin lỗi, tớ không phải là người phân biệt chủng tộc, tớ chỉ muốn nói rằng nhiều người tớ coi là anh hùng đều là người Do Thái, thế nên...”

“Vậy à, thật mừng là dân tộc tớ có được sự tán thành của cậu. À mà, những anh hùng đấy là ai thế?”

“À, cậu biết đấy, Einstein này, Freud này, Marx này...”

“Karl hay Groucho?”

“Cả hai. Arthur Miller, Lenny Bruce, Woody Allen, Dustin Hoffman, Philip Roth...”

“Chúa Giê-su, chắc chắn rồi...”

“... Stanley Kubrick, Freud, J.D. Salinger...”

“Tất nhiên, đúng ra mà nói thì Salinger không phải là người Do Thái.”

“Ồ, phải mà.”

“Tin tớ đi, ông ấy không phải đâu.”

“Cậu có chắc không?”

“Chúng tớ đều biết - chúng tớ có trực giác đặc biệt.”

“Nhưng đó là một cái tên Do Thái.”

“Bố ông ấy là người Do Thái, mẹ là người Công giáo, vì vậy chính xác mà nói thì ông ấy không phải. Tính Do Thái truyền từ mẹ sang con.”

“Tớ không biết điều đó.”

“Thế thì bây giờ cậu biết rồi đấy, chương đầu cho nền giáo dục đại học của cậu,” và cô quay lại nhìn trừng trừng vào sàn nhảy bây giờ đã chật ních Gái làng chơi đang lắc lư theo điệu nhạc. Đó là một cảnh tượng khá ác nghiệt, giống như một vòng tròn địa ngục mới được khám phá, và cô gái quan sát với sự suy tính lộ rõ, như thể đang đợi quả bom chính mình gài nổ tung. “Chúa ơi, Người sẽ nhìn thấy bọn người này chứ,” cô lè nhè mệt mỏi khi bản “Two tribes” chuyển sang bản “Relax”. “Frankie nói rằng ‘Ab-so-lute-ly noooo fucking idea...’” Quyết định rằng thái độ mỉa mai chán đời nhất định phát huy hiệu quả ở đây, tôi chắc là mình đã cười thành tiếng khi đó, và cô quay qua tôi, cười nửa miệng. “Cậu biết thành tích vĩ đại nhất của trường nội trú Anh là gì không? Những thế hệ con trai có mái tóc mềm mượt biết chỉnh đai móc bít tất đúng cách. Thật thú vị là có không biết bao nhiêu người trong lũ các cậu đến trường đại học gói ghém theo quần áo phụ nữ nữa.”

Lũ các cậu?

“Thật ra tớ học ở trường phổ thông hỗn hợp,” tôi nói.

“Ồ, hoan hô cậu. Cậu biết không, cậu là người thứ sáu nói điều đó với tớ tối nay rồi đấy. Tớ tự hỏi đó có phải là một câu thoại tán gẫu khó hiểu của những người cánh tả không nhỉ? Tớ phải lấy làm ấn tượng hơn nữa với cái gì chứ? Hệ thống trường học của bang chúng ta ư? Hay thành tích học tập anh hùng rặt lý thuyết suông của các cậu?”

Nếu tôi nhạy bén đối với cái gì đó, chính là tôi biết khi nào mình sắp bị đánh, thế là tôi cầm lon bia còn đầy ba phần tư của mình mà vung vẩy lên làm như nó rỗng; “Tớ định tới quầy bar, tớ lấy cái gì đó cho cậu được không, hở...?”

“Rebecca.”

“... Rebecca?”

“Tớ không cần gì đâu.”

“Được thôi. Ờ. Gặp lại cậu sau nhé. Nhân tiện, tớ là Brian.”

“Tạm biệt, Brian.”

“Tạm biệt, Rebecca.”

Tôi định đi tới quầy bar, nhưng chợt trông thấy gã hippie Chris đang đứng xếp hàng, nách kẹp một túi khoai tây chiên to tướng, vậy nên tôi bèn tiến ra khỏi đại sảnh và quyết định đi dạo.

Tôi đi lang thang xuống cầu thang lót ván gỗ, nơi nhóm tân sinh viên cuối đang nói lời tạm biệt với bố mẹ trên nền bản nhạc “Legend” (Huyền thoại) của Bob Marley. Một cô gái nức nở trong cánh tay của bà mẹ cũng đang thổn thức trong khi ông bố mất kiên nhẫn đứng thừ người ra, bàn tay nắm chặt một cuộn tiền nhỏ. Một gã gầy và cao lêu nghêu, mặc toàn đồ đen Gothic đeo niềng răng đang lúng túng dùng hết sức bình sinh đẩy bố mẹ ra khỏi phòng, để gã có thể tiếp tục công việc nghiêm túc là làm mọi người biết đến cái sinh vật tối tăm và phức tạp ẩn sau tất cả những miếng kim loại và nhựa đó. Những sinh viên mới đến khác đang chào hỏi hàng xóm phòng bên, giới thiệu lý lịch giản lược: môn học, nơi sinh, điểm thi, ban nhạc yêu thích, trải nghiệm ấu thơ đau buồn nhất. Cái cảnh đó giống kiểu tầng lớp trung lưu, lịch thiệp thường thấy ở những bộ phim chiến tranh, trong đó có những tân binh trẻ tuổi đến doanh trại rồi cho người khác xem tấm ảnh cô bạn gái nơi quê nhà.

Tôi dừng chân trước bảng thông báo của Hội Sinh viên, uống một ngụm bia và nhìn vu vơ qua những tờ áp phích - một bộ trống được rao bán, kêu gọi tẩy chay Barclays, một cuộc họp đã quá hạn của đảng Cộng sản Cách mạng để ủng hộ thợ đào mỏ, buổi thử vai cho vở Cướp biển Penzance - tôi để ý thấy ban nhạc Self-Inflicted và Meet Your Feet sắp công diễn tại Frog và Frigate thứ Ba tuần sau.

Và đó là lúc tôi nhìn thấy nó.

Trên bảng thông báo, một bản photo tấm áp phích khổ A4 màu đỏ nhạt có dòng chữ:

PHẦN THI THÁCH THỨC ĐẠI HỌC

DÀNH CHO BẠN!

Phân biệt được kịch gia Sophocles với triết gia Socrates?

Phân biệt được ban Ursa Minor với diễn viên Lee Majors?

Phân biệt carpe drim với lệnh habeas[3] corpus

Bạn nghĩ là bạn có đủ năng lực để thách thức những thanh niên có thực lực?

Sao bạn không tham gia buổi thi tuyển Thách thức Đại học?

Xét tuyển qua bài thi viết ngắn (và vui!).

Giờ ăn trưa thứ Sáu, 1 giờ đúng,

Hội Sinh viên, phòng họp số 6.

Yêu cầu cam kết. Không chấp nhận những kẻ lười biếng hay cơ hội.

Chỉ dành cho những trí tuệ khôn ngoan nhất.

[3] Tiếng Latin, khoảnh khắc (carpe diem) và lệnh đình quyền giam giữ (habeas corpus).

Nó đây rồi. Chính là nó. Thách thức.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,524
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 5


5

CÂU HỎI: Nghệ sĩ Mỹ da màu nào tự gọi mình là “người chăm chỉ nhất trong giới kinh doanh giải trí” và là người tiên phong của dòng nhạc funk, nổi tiếng với danh hiệu “Bố già nhạc soul”?

TRẢ LỜI: James Brown.

***

Điều khiến tôi ấn tượng mạnh nhất là mái tóc của họ; những lọn tóc lớn, dày, khô chẻ hết như cây lúa mì bị chết cháy; phần tóc cắt ngang trán mềm rủ xuống giống tấm màn; tóc mai kiểu sườn cừu giống trong vở kịch hóa trang vào giờ uống trà ngày Chủ nhật. Bố sẽ giận tái mặt trước bất kỳ kiểu tóc nào không phải kiểu ngắn-sau-và-hai-bên trong chương trình Top of the pops nhưng nếu bạn xuất hiện trong chương trình Thách thức Đại học thì bạn có quyền để bất kỳ kiểu tóc quái đản nào mà bạn muốn. Cứ như họ không làm sao cưỡng lại được, như thể kiểu đầu điên khùng đó chỉ là sự phát tiết thứ năng lượng tinh thần dư thừa không thể kiểm soát, khác thường kia ra bên ngoài. Giống như một nhà khoa học mất trí, bạn không thể trở nên mẫn tiệp mà vẫn còn mong có được mái tóc gọn gàng, hoặc thị lực kha khá, hay khả năng tự tắm giặt và ăn mặc.

Còn về quần áo; những chiếc áo dài màu đỏ kiểu truyền thống Anh quốc cổ xưa, bí ẩn, kết hợp với cà vạt họa tiết bàn phím dương cầm lập dị, những cái khăn quàng tự đan dài vô tận, áo khoác kiểu người Afghanistan. Dĩ nhiên, khi bạn là một đứa trẻ đang xem ti vi, mọi người trông đều sẽ có vẻ lớn tuổi và khi hồi tưởng lại thì tôi cho là họ trẻ, về mặt lý thuyết tính bằng năm trái đất, nhưng nếu họ thật sự hai mươi tuổi thì đó cũng là cái kiểu hai mươi tuổi mà như sáu mươi hai. Chắc chắn không có nét gì trên những gương mặt đó cho thấy tuổi trẻ, hoặc nhựa sống hay sức khỏe tốt. Thay vào đó họ trông mệt mỏi, xanh xao, tiều tụy vì lo lắng, như thể đang đấu tranh với sức nặng của tất cả các thông tin đó - chu kỳ nửa phân rã của chất Tritium, nguồn gốc của thuật ngữ “quân sư”, hai mươi số nguyên tố đầu tiên, khuôn vần của bài thơ xonê theo kiểu nhà thơ Ý Petrarch - đã lấy đi một phần lớn sức lực của họ.

Dĩ nhiên, hai bố con tôi ít khi trả lời đúng, nhưng điều đó không thực sự quan trọng. Đây không phải là chuyện vớ vẩn - không phải việc cảm thấy tự mãn và thỏa mãn với tất cả những điều bạn đã biết, đây là cảm giác thấy mình hoàn toàn nhỏ bé trong vũ trụ mênh mông đầy rẫy những điều mà bạn hoàn toàn mù tịt; điểm cốt lõi là theo dõi trong niềm kính sợ, bởi vì nó khiến bố và tôi cho rằng những sinh vật kỳ lạ này dường như biết tuốt. Hãy hỏi bất kỳ câu nào: khối lượng của Mặt Trời là bao nhiêu? Tại sao chúng ta lại ở đây? Vũ trụ có phải là vô tận? Bí mật của hạnh phúc đích thực là gì? Và thậm chí nếu họ không biết câu trả lời ngay tức thì, họ cũng có thể bàn bạc, thì thầm với nhau, nói khẽ, rì rầm, và nghĩ ra một cái gì đấy nếu không hoàn toàn chính xác thì nghe vẫn có vẻ gần đúng.

Và cũng chẳng sao khi có những thí sinh rõ ràng là không hòa nhập được với xã hội, hơi lôi thôi lếch thếch hay mặt đầy tàn nhang, hay là những trinh nữ già trước tuổi, hoặc trong vài trường hợp trông thật sự lập dị, thì vấn đề là đâu đó có một nơi mà người ta thật sự biết tất cả những điều ấy, thích thú nắm bắt và say mê nồng nhiệt với mớ tri thức ấy, nghĩ rằng nó thật quan trọng và đáng giá, thế rồi một ngày, bố bảo, nếu tôi học hành thực sự, thực sự chăm chỉ, tôi có lẽ cũng đến được đó...

***

“Muốn tham gia hả?” cô gái hỏi.

Tôi quay người lại và thề có Chúa, nàng xinh đẹp đến nỗi tôi suýt nữa đánh rơi cả lon bia.

“Muốn tham gia hả?”

Tôi không nghĩ mình từng đứng quá gần một vẻ đẹp như thế. Đây dĩ nhiên là vẻ đẹp trong sách vở, hoặc có lẽ trong một bức tranh, hoặc một cảnh trí, giống như trong chuyến dã ngoại địa lý đến đảo Purbeck, nhưng cho đến bây giờ tôi vẫn không nghĩ là mình từng được trải nghiệm vẻ đẹp chân chính, không phải trong đời thực, một người ấm áp, dịu dàng, một điều gì đó bạn có thể chạm vào, dù chỉ là trên lý thuyết. Nàng quá hoàn hảo đến nỗi tôi thực sự chùn bước khi gặp nàng. Cơ ngực tôi căng hết mức và tôi phải nhắc mình thở ra. Tôi nói nghe có vẻ phóng đại thái quá, tôi biết, nhưng nàng quả thật trông giống hệt Kate Bush tóc vàng, trẻ trung.

“Muốn tham gia hả?” nàng hỏi.

“Hử?” tôi đáp lại, nhanh như cắt.

“Nghĩ cậu đủ giỏi không?” nàng nói, hất cằm vào tấm áp phích.

Nhanh nào, nói cái gì hóm hỉnh đi.

“Á à,” tôi nói một cách dí dỏm, và nàng mỉm cười nhìn tôi thông cảm, hệt một cô y tá trẻ tốt bụng mỉm cười với Cậu bé Voi.

“Vậy gặp cậu ngày mai nhé?” nàng nói, rồi bỏ đi. Nàng mặc đồ hóa trang, nhưng rất khôn khéo, với sự dí dỏm tuyệt vời, tự tin và tinh tế, nàng đặc biệt thích bộ cánh Gái làng chơi Pháp hạng sang - chiếc áo sọc đen trắng bó sát, đai lưng co dãn của vũ công ba lê, màu đen, rộng, váy màu chì đen, quần tất ôm sát. Hay đó là tất dài nhỉ? Tất dài hay quần tất, tất dài hay quần tất, tất dài hay quần tất...

Tôi lẽo đẽo theo nàng suốt dọc hành lang, giữ một khoảng cách an toàn, đứng đắn ở đằng sau, và quan sát nàng bước những bước uyển chuyển, giống như Monroe bước ra từ đám hơi nước trong phim Some Like It Hot, tất dài hay quần tất, tất dài hay quần tất, rồi mỗi khi nàng bước qua một cánh cửa phòng ngủ thì lại có ai đấy thò đầu ra và nói xin chào, rồi chào bạn, rồi bạn có khỏe không và bạn nhìn thật tuyệt; nhưng nàng chỉ mới ở đây tám tiếng đồng hồ, một ngày là tối đa, thế thì làm sao nàng có vẻ như biết hết mọi người vậy nhỉ?

Sau đó nàng vào bữa tiệc, đi băng qua đám đông cha xứ đang há hốc miệng và tiến tới đám con gái đang đứng chỗ rìa sàn nhảy, kiểu con gái thích chạy theo mốt, xinh xẻo, khó chịu thường đánh hơi thấy nhau và đàn đúm với nhau. DJ đang chơi bản “Tình yêu hư hỏng”, không khí trong phòng dường như trở nên tối tăm hơn, suy đồi hơn và săn đuổi tình dục hơn, và nếu nó không giống hệt được với Berlin thời Cộng hòa Weimar thì ít nhất cũng giống như vở Cabaret[1] do đám sinh viên dự bị đại học ở East Sussex dựng lại. Tôi đứng trong bóng tối và quan sát. Tôi phải suy nghĩ rõ ràng nếu muốn làm việc này một cách đúng đắn, và tôi cũng cần nhiều bia hơn. Tôi đi mua lon thứ sáu. Hay thứ bảy nhỉ? Không chắc nữa. Cũng chả sao.

[1] Vở nhạc kịch làm năm 1966 của sân khấu Broadway, lấy bối cảnh nước Đức thời Cộng hòa Weimar.

Tôi vội vã quay lại, phòng trường hợp nàng đi mất, nhưng nàng vẫn đứng đó, bên rìa sàn nhảy với bộ tứ của mình, cười đùa như thể nàng đã biết họ cả đời thay vì mới chỉ một buổi trưa. Tôi cố tạo ra một vẻ mặt nhăn nhó, chán nản buồn cười và hai lần đột phá vòng vây, đi đến gần nàng với vẻ thờ ơ, hy vọng nàng sẽ trông thấy tôi, chộp lấy khuỷu tay tôi mà nói, “Kể em nghe mọi điều về anh đi, chàng trai quyến rũ.” Nàng chẳng làm vậy, nên tôi quyết định đi về hướng nàng một lần nữa. Tôi lặp lại chuyện này có lẽ mười bốn hay mười lăm lần, nhưng nàng chẳng mảy may chú ý gì đến tôi, nên tôi quyết định tiếp cận trực diện hơn. Tôi đi tới đứng sau lưng nàng.

Tôi đứng sau nàng trong suốt bản nhạc “Blue Monday” (Thứ Hai buồn) của New Order được ghi trên loại đĩa 30 xăng ti mét. Cuối cùng, một trong các cô bạn mới của nàng, cô gái môi mỏng, mặt tam giác với đôi mắt mèo và mái tóc cắt ngắn nhuộm vàng óng trông thấy tôi và theo bản năng liền đặt tay lên túi xách, chắc cô ta nghĩ tôi đứng đó với ý định chôm bóp của ai đấy. Vì thế tôi bèn toét miệng cười để trấn an, và mắt cô ta bắt đầu nháy lia lịa với cả nhóm, và có lẽ cô ta đã phát ra tín hiệu cảnh báo tần số cao hay đại loại như vậy, vì cuối cùng cả nhóm quay lại nhìn tôi, và bất thình lình nàng Kate Bush tóc vàng đứng ngay đó, khuôn mặt xinh đẹp chỉ cách mặt tôi có hai phân rưỡi. Lúc này tôi vẫn còn sáng suốt nên lấy hết sức bình sinh, tôi nói: “Xin chào!”

Điều này chẳng làm nàng thích thú như tôi đã hy vọng, vì nàng chỉ nói “Chào” và sắp sửa quay lưng lại với tôi.

“Chúng ta đã gặp rồi sao ấy nhỉ? Vừa mới nãy? Ở hành lang?” tôi lắp bắp.

Khuôn mặt nàng ngây ra. Dù vừa uống nhiều bia, nhưng miệng tôi khô và dính lại, như thể nước miếng đã bị làm đặc lại bằng bột ngô, nên tôi liếm môi và nói, “Cậu đã hỏi tớ là có muốn tham gia không? Thách thức Đại học ấy?”

“À, đúng rồi,” nàng trả lời, và quay lại, nhưng mấy đứa bạn của nàng đã tản ra, chắc họ cảm thấy có chuyện giữa chúng tôi, và cuối cùng chỉ còn trơ trọi lại chúng tôi, như định mệnh đã an bài.

“Điều mỉa mai là tớ thực sự là một cha xứ đấy!” tôi nói.

“Hả?” Nàng ghé lại gần hơn, và tôi chộp lấy cơ hội đặt bàn tay lên tai nàng, rồi để nó lướt nhẹ lên cái đầu đáng yêu của nàng.

“Tớ thật sự là một cha xứ đấy!” tôi hét lên.

“Thật không?”

“Gì cơ?”

“Một cha xứ?”

“Không, tớ không phải là cha xứ.”

“Tớ nghĩ cậu đã nói cậu là cha xứ mà?”

“Không, tớ không phải...”

“Thế thì cậu đã nói gì hả?”

“À, đúng rồi, ý tớ là, tớ đã, đúng rồi, đã nói, tớ là một cha xứ, đúng vậy, nhưng tớ, nói đùa thôi mà!”

“Ồ. Xin lỗi, tớ không hiểu...”

“Nhân tiện, tớ là Brian!” Đừng hoảng chứ...

“Chào Brian...” và nàng bắt đầu nhìn quanh tìm các cô bạn. Cứ tiếp tục đi, tiếp tục đi nào...

“Tại sao? Trông tớ giống một cha xứ lắm hả?!” tôi hỏi.

“Tớ không biết. Một chút xíu, chắc vậy...”

“Ồ! Thế à! Thế thì cảm ơn nhé! Cảm ơn nhiều.” Lúc này tôi đang vờ làm ra vẻ giận dữ, hai tay khoanh cao trước ngực, cố gắng làm nàng cười, cố gắng tạo ra một lời nói đùa dí dỏm và vô tư. “Một cha xứ hở! Thế thì cám ơn cậu nhiều lắm! Trong trường hợp đó, cậu trông giống một... giống một gái làng chơi đích... đích thực!”

“Gì cơ?”

Nàng chắc không nghe thấy tôi nói rồi, vì nàng không cười, nên tôi bèn cao giọng.

“Một GÁI LÀNG CHƠI! Cậu trông giống hệt gái điếm! Một gái điếm hạng sang, cậu nghe chưa...”

Nàng mỉm cười với tôi, một nụ cười rất nhẹ, phảng phất sự khinh bỉ, và nói, “Cậu không phiền chứ, Gary, tớ muốn đi... kinh khủng.”

“Được rồi! Gặp lại cậu sau!” nhưng nàng đã đi mất, để tôi ở lại với cái cảm giác mơ mơ hồ hồ rằng mọi việc lẽ ra đã có thể tốt hơn. Lẽ nào nàng cảm thấy bị xúc phạm, rõ ràng tôi đã nói với giọng bông đùa cơ mà nhỉ? Nhưng làm sao nàng biết đó là giọng bông đùa, nếu nàng không quen với giọng nói bình thường của tôi? Cũng có thể bây giờ nàng chỉ nghĩ là tôi có giọng nói buồn cười thôi? Còn Gary là tên quái nào? Tôi đứng nhìn nàng đi về hướng nhà vệ sinh, có điều nàng chỉ đi xa nhất là tới sàn nhảy, nàng dừng lại đó, thì thầm vào tai một cô gái khác, rồi họ đều phá lên cười. Vậy ra nàng không cần đi nhà vệ sinh gì cả. Nhà vệ sinh chỉ là một trò bịp bợm.

Rồi nàng bắt đầu nhảy. Họ đang chơi bài “Love Cat” (Mèo tình yêu) của nhóm The Cure, và để thể hiện lời bài hát một cách dí dỏm và sâu sắc, nàng đang nhảy hơi giống một con mèo, tạo ra vẻ chán chường và xa cách và mềm dẻo, một cánh tay thỉnh thoảng đưa lên trên đấu giống như, ừm, như một đôi tai mèo! Nàng là vũ công thú vị nhất trên thế giới! Bây giờ nàng để tay dưới cằm giống như hai móng vuốt nhỏ, “Love Cat” đích thị là bài hát được dành riêng cho nàng, và nàng thật sự xinh đẹp một cách tuyệt vời, tuyệt vời, cực tuyệt vời, và tôi chợt nảy ra một ý tưởng, một kế hoạch tuyệt vời bởi sự đơn giản và tài tình, không thể thất bại, và tôi ngạc nhiên sao mình lại không nghĩ ra sớm hơn.

Khiêu vũ! Tôi sẽ tán tỉnh nàng bằng khiêu vũ hiện đại.

Đĩa nhạc đổi bài, đó là bản “Sex Machine” (Cỗ máy sex) của James Brown, với tôi thì cũng tốt thôi, vì giờ đây tôi đang thực sự cảm thấy hào hứng như một cỗ máy sex, rồi bạn sẽ thấy. Tôi cẩn thận đặt lon Red Tripe xuống sàn, thế này nó sẽ bị đá văng ngay lập tức, nhưng tôi chẳng màng, và chuyện đó cũng chả sao. Ở nơi sắp đến, tôi sẽ không cần lon bia. Tôi bắt đầu thực hiện một số động tác khởi động ở rìa sàn nhảy, trước tiên phải cẩn thận, nhưng tôi mừng vì đã mang đôi giày bằng da không thuộc này thay cho đôi Green Flash, vì đế giày bằng giúp tôi trượt thoải mái trên sàn lát gỗ, cảm thấy tay chân nhẹ nhàng và linh hoạt. Rồi thì thận trọng, giống như lúc quay lại sân trượt băng, tôi bám chặt vào tường, cẩn thận tìm đường lên sàn nhảy, lượn lờ xung quanh nàng.

Nàng đang nhảy trong nhóm nhỏ năm người của nàng, đứng kín như bưng, như một đội hình phòng thủ vững vàng mà bộ binh La Mã sử dụng để đẩy lùi những kẻ thù man rợ. Cô gái mắt mèo thấy tôi trước, cô ta phát tín hiệu cảnh báo tần số cao, thế là nàng Kate Bush Tóc Vàng liền phá vỡ đội hình, quay người, trông thấy tôi thì liền nhìn thẳng vào mắt tôi, tôi liền chộp ngay lấy tín hiệu đó, để âm nhạc dẫn đắt, rồi nhảy như trước giờ chưa bao giờ được nhảy.

Tôi nhảy như thể cuộc đời mình phụ thuộc vào điệu nhảy đó, cắn môi dưới một cách quyến rũ, đây vừa là tín hiệu gợi tình vừa để thu hút sự chú ý, rồi nhìn thẳng vào mắt nàng, táo bạo, vừa đủ táo bạo để nàng chột dạ quay đi. Mà nàng quay đi thật. Thế nên tôi lướt nhẹ sát bên nàng, thu hút lại ánh nhìn của nàng, và nhảy hết sức lực. Tôi nhảy như thể đang mang Giày Đỏ, mà sau đó tôi nghĩ có lẽ mình đúng, có lẽ đó là vì những cái quần ấy, những cái quần mà mẹ đã đưa tôi, những cái Quần Đỏ, nhưng dù là gì đi nữa, tôi đang nhảy giống James Brown, tôi có nhạc funk và soul và một chiếc túi mới, tôi là người chăm chỉ nhất trong giới kinh doanh giải trí, tôi là một cỗ máy được tạo riêng cho mục đích sex, trượt và xoay 360 độ, 720 độ và đến giờ có một lần là 810 độ, cú xoay làm mặt tôi quay ra hướng khác, và tôi loạng choạng mất phương hướng, nhưng cũng chẳng hề gì vì James Brown đang hát “đem nó đến cái cầu[2]” nên tôi cũng vậy, tôi đem nó đến cái cầu, bất kể đó là nơi nào đi nữa, và trên đường đến cái cầu, tay tôi lần lên cổ và bóc toạc miếng bìa cứng màu trắng với điệu bộ xúc phạm tôn giáo có tổ chức một cách trắng trợn, rồi ném mạnh xuống sàn, vào giữa một nhóm người giờ đã đứng thành một vòng tròn bao quanh tôi, đang vỗ tay và cười đùa và chỉ trỏ vào tôi với sự kinh ngạc cùng thán phục, khi tôi xoay tròn cúi người chạm xuống sàn, chiếc áo khoác mỏng bay tự do sau lưng. Cặp kính của tôi bị hơi nưóc làm cho hơi mờ, nên tôi không nhìn thấy khuôn mặt của Kate Bush trong đám đông, chỉ thoáng thấy một cô gái Do Thái tóc đen, hay cáu gắt, tên Rebecca thì phải, nhưng giờ muốn ngừng nhảy thì cũng đã muộn, vì James Brown đang bảo tôi lắc thứ hái ra tiền[3], lắc thứ hái ra tiền của tôi, và tôi phải mất một phút suy nghĩ vì tôi cũng không chắc thứ hái ra tiền của mình là cái gì. Đầu tôi chăng? Không, mông tôi, chắc rồi, thế là tôi lắc lấy lắc để theo kiểu hay nhất có thể, vẩy mồ hồi vào đám đông vây quanh, hệt như một con chó ướt sũng, và rồi bất thình lình một tiếng kèn cor vang lên và bài hát kết thúc và tôi.

[2] Take it to the bridge! - lời bài hát.

[3] Shake your money maker - lời bài hát “Sex Machine”.

Thì.

Kiệt sức.

Tôi tìm khuôn mặt nàng trong đám đông đang hoan hô, nhưng nàng chắc hẳn đã đi rồi. Không việc gì phải lo lắng. Điều quan trọng là đã tạo được ấn tượng. Chúng tôi sẽ lại chạm mặt nhau, ngày mai, lúc một giờ trưa, tại buổi sơ tuyển Thách thức.

Giờ thì điệu slow mỉa mai, châm chọc đang bắt đầu trỗi lên, bài “Careless Whisper” (Lời thì thầm bất cẩn), nhưng mọi người nếu không thờ ơ thì cũng đã quá say nên không ra nhảy nữa, vậy nên tôi quyết định về đi ngủ. Trên lối ra dọc theo hành lang, tôi vào nhà vệ sinh và lấy vạt áo lau sạch mồ hôi đặc quánh trên cặp kính để nhìn khuôn mặt mình phản chiếu rõ hơn trong chiếc gương phía trên bồn tiểu. Chiếc áo sơ mi của tôi ướt mồ hôi dính chặt vào da và nút áo bị bứt tung đến tận rốn, còn tóc tôi bết dính vào trán, và máu thì dồn cả lên đầu, cụ thể là lên mấy cái mụn trứng cá, nhưng tôi vẫn nghĩ mình trông khá ổn nếu nhìn tổng thể. Bây giờ căn phòng cứ xoay mòng mòng, nên tôi áp trán lên cái gương ở trước mặt để cố định đầu khi đi tiểu, và từ một buồng vệ sinh tỏa ra mùi khói cần sa và phát ra hai giọng cười rúc rích nho nhỏ. Rồi có tiếng xả bồn cầu, và hai cô gái làng chơi bước ra, một cô mặt ướt nhẹp, đang kéo lại chiếc váy thể thao khúc côn cầu, còn kia là một anh chàng chơi bóng bầu dục vai rộng mặc bộ đồ giả gái làng chơi. Cả hai đều bị son môi lem nhem khắp mặt. Họ nhìn tôi thách thức, thách tôi dám mở miệng chê bai, nhưng lòng tôi giờ đây ngập tràn cảm giác hân hoan, đam mê và tình yêu của tuổi trẻ nông nổi, vui sướng, thăng hoa, nên tôi cười với họ một cách mụ mị. “Điều mỉa mai là tớ thực sự là một cha xứ đấy!” tôi nói.

“Ồ, vậy thì xéo đi,” anh chàng quát.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,524
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 6


6

CÂU HỎI: Tập thơ số chín thuộc Khúc dạo đầu của Wordsworth có một lời cổ vũ: “Bình minh đến mà còn sống là hạnh phúc tột cùng...”?

TRẢ LỜI: Nhưng tươi trẻ mới thật là thiên đường.

***

Khi bình minh của một ngày mới đến, thật đáng buồn khi nó cũng giống bình minh của ngày cũ.

Thậm chí còn không phải là bình minh, bây giờ đã 10 giờ 26 phút sáng. Tôi nghĩ hôm đầu tiên mình sẽ thức dậy tràn trề sinh lực, khôn ngoan và hăng hái học tập, nhưng thay vào đó tôi vẫn giống thường lệ; xấu hổ, tự căm ghét mình, buồn nôn, và mơ hồ cảm thấy là lúc thức dậy thường không nên trong tình trạng thế này.

Tôi cũng hơi bực vì rõ ràng ai đó đã vào phòng khi tôi đang ngủ, nhét nỉ vào miệng tôi và sau đó đóng dấu lên đầu tôi. Tôi đau nhức khi cử động, nên đành nằm nghỉ một lát và đếm xem đã bao nhiêu đêm liên tiếp mình đi ngủ trong cơn say, và tính ra con số áng chừng khoảng 103. Và con số này đáng lẽ còn lớn hơn nếu như không phải trước đây có lần tôi bị viêm amiđan. Tôi tính đến khả năng có lẽ mình mắc chứng nghiện rượu. Thỉnh thoảng tôi có nhu cầu xác định bản thân là người này hay người khác, và nhiều lần trong đời tự hỏi mình có phải là người Goth, người đồng tính luyến ái, người Do Thái, người Công giáo hay một người bị rối loạn thần kinh, hoặc giả tôi là con nuôi, tim có một lỗ hổng, hay có khả năng dịch chuyển đồ vật bằng sức mạnh ý chí không, và thật buồn làm sao, tôi thường xuyên rút ra kết luận rằng tôi chẳng là ai trong số đó cả. Thực tế thì tôi hoàn toàn không phải bất cứ thứ gì. Tôi thậm chí còn không phải là một “trẻ mồ côi”, không phải theo đúng nghĩa đen của nó, nhưng “kẻ nghiện rượu” nghe vẫn có vẻ hợp nhất. Còn từ nào khác để chỉ một đêm nào cũng đi ngủ khi đang say xỉn? Mặc dù vậy, nghiện rượu có lẽ cũng không phải là điều xấu xa nhất trên đời này; ít nhất một nửa số người trong đống bưu thiếp dán trên bức tường đầu giường tôi đều là sâu rượu nhưng không được để rượu ảnh hưởng đến hành vi hay sự nghiệp học hành của mình.

Hoặc cũng có thể là tôi đã đọc quá nhiều tiểu thuyết chăng. Trong tiểu thuyết, những kẻ nghiện rượu luôn hấp dẫn và hài hước và duyên dáng và phức tạp, như là Sebastian Flyte hay Abe North trong Cuộc tình bỏ đi[1], và họ uống rượu chỉ vì nội tâm chìm đắm trong nỗi buồn sâu thẳm, không thể nguôi ngoai, hoặc do di chứng của Chiến tranh Thế giới thứ Nhất, trong khi tôi uống rượu chỉ vì tôi khát, và vì tôi quá ngu ngốc không biết khi nào nên ngừng lại. Xét cho cùng, khả năng là tôi không thể đổ lỗi việc nghiện rượu cho cuộc chiến Falklands[2] được.

[1] Tender Is the night, tiểu thuyết của Scot Fitzgerald. Một số nguồn khác dịch là Đêm dịu dàng hoặc Dịu dàng là đêm.

[2] Cuộc chiến tranh kéo dài hai tháng mà không có tuyên chiến giữa Argentina và Vương quốc Anh vào năm 1982, kết quả là lực lượng Argentina thất bại và phải rút quân.

Và chắc chắn tôi bốc mùi kẻ nghiện rượu. Chỉ chưa đầy hai mươi bốn tiếng đồng hồ, căn phòng mới bắt đầu có mùi. Đó là cái mùi “con trai” mà mẹ đã nói - âm ẩm và chua, giống như mùi của mặt sau cái đồng hồ đeo tay. Mùi đó bốc ra từ đâu nhỉ? Có đúng là bốc ra từ mình không? Ngồi trên giường, tôi thấy cái áo sơ mi mặc tối qua nằm trên sàn nhà gần đó, vẫn còn ướt nhẹp mồ hôi. Ngay cả cái áo len cũng âm ẩm. Một ký ức bị che lấp bất chợt lóe lên trong đầu tôi... một điều gì đó về... khiêu vũ? Tôi lại nằm xuống kéo cái chăn lông vịt trùm lên đầu.

Cuối cùng, chính cái giường futon đã lôi tôi dậy. Tối qua nó dường như đã co lại, và tôi có thể cảm thấy cái sàn nhà cứng, lạnh lẽo dọc theo xương sống, đến nỗi bây giờ tôi giống như đang nằm trên một cái khăn tắm lớn ẩm ướt bị để trong túi nhựa suốt một tuần lễ vậy. Tôi ngồi trên rìa nệm, chống cằm lên gối, lục khắp túi quần tìm ví. Nó đây rồi, nhưng thật đáng lo khi trong đó chỉ còn một tờ 5 bảng và 18 xu lẻ. Số tiền này sẽ giúp tôi cầm cự trong ba ngày, cho đến thứ Hai tuần sau. Tối qua thực ra mình đã uống bao nhiêu nhỉ? Rồi, lạy Chúa, nó lại lóe lên, những ký ức bị che lấp, nổi bong bóng lên mặt nước giống như một cái rắm trong bồn tắm. Khiêu vũ. Tôi nhớ đã nhảy múa giữa một đám đông. Nhưng làm sao lại thế được, vì tôi thường nhảy giống như mắc chứng kinh phong, mà những người này lại đang cười rồi vỗ tay và reo hò.

Và rồi tôi chợt nhận ra, rành rành đến mức khủng khiếp, sự thật rằng tràng pháo tay chỉ là mỉa mai.

***

Tòa nhà Hội Sinh viên là một khối bê tông xấu xí phô trương chằng chịt những vệt ố do nước mưa để lại, nằm lạc lõng chẳng khác nào một cái răng sâu giữa một dãy nhà kiểu Georgia đẹp đẽ. Sáng nay dòng người tấp nập đi vào đi ra từ cánh cửa tự động, đơn lẻ hoặc theo những nhóm nhỏ sát rạt bên những người bạn thân cũ, vì đây là ngày cuối của Tuần lễ Tân Sinh viên, và không có tiết học nào cho đến thứ Hai. Thay vào đó, hôm nay là cơ hội để chúng tôi gia nhập các Hội.

Tôi gia nhập Hội Tiếng Pháp, Hội Phim ảnh, Hội Văn học, Hội Thơ ca, và là chủ bút của ba tờ tạp chí sinh viên: tờ Scribbler văn chương bay bổng, tờ Tattle thô tục, bất kính và tờ By Lines nghiêm túc, vận động chính trị, theo cánh tả. Tôi còn đăng ký vào cả Hội Phòng Tối (“Hãy gia nhập cùng chúng tôi để xem bạn rửa ra cái gì!”) mặc dù tôi chẳng có cái máy ảnh nào, và sau đó tôi còn định bụng đăng ký vào Hội Nữ sinh, nhưng khi xếp hàng ở bàn đăng ký của họ tôi bắt gặp cái nhìn trừng trừng đối đầu của một người trông giống như Gertrude Stein[3] và bắt đầu tự hỏi việc tham gia vào Hội Nữ sinh có lẽ là một nỗ lực quá gian nan chăng. Trước kia có lần tôi từng phạm sai lầm này rồi, trong chuyến dã ngoại của trường đi thăm Bảo tàng Victoria và Albert, khi thấy một bảng hiệu ghi “Phụ nữ”, tôi cứ tưởng đó là nơi trưng bày về sự thay đổi vai trò của phụ nữ trong xã hội, nhưng rốt cuộc thì hóa ra lại đứng trong nhà vệ sinh nữ. Cuối cùng tôi quyết định bỏ qua Hội Nữ sinh, vì mặc dù tôi chắc chắn luôn ủng hộ phong trào giải phóng nữ quyền nhưng tôi hoàn toàn không tự tin là mình tham gia không phải chỉ để gặp con gái.

[3] 1874-1946: nhà văn nữ người Mỹ. Bà sống hầu hết cuộc đời tại Pháp và là một trong các nhân vật tiêu biểu của trào lưu hiện đại trong văn học Mỹ giai đoạn 1914-1945.

Tôi lướt nhanh qua những chiếc áo len dài tay màu nhạt, khuôn mặt tươi trẻ của Hội Cầu lông, phòng khi có người lật tẩy tôi, sau đó vẫy tay với Josh đang bị bao quanh bởi đám bạn bè xếp hàng đăng ký vào Hội Quý tội Lực lưỡng hay cái gì đấy, đại khái là liên quan đến trượt tuyết và nhậu nhẹt và quấy rối con gái và quan điểm cánh hữu cực đoan.

Tôi cũng quyết định không tham gia Hội Kịch nghệ. Giống như Hội Nữ sinh, đây là cách khá tốt để ở bên các cô gái, nhưng tệ ở chỗ đó chỉ là trò bịp bợm để phỉnh phờ bạn diễn một vở kịch. Hội Kịch nghệ sẽ diễn vở Charle’s Aunt, vở Antigone của Sophocles và Equus trong học kỳ này, và tôi biết chắc là mình sẽ chỉ được phân những vai như một thành viên trong nhóm đồng ca Hy Lạp mặc những tấm trải giường bị xé rách rồi đồng thanh la to qua cái mặt nạ làm từ giấy bồi, hoặc là một trong những kẻ ngốc tội nghiệp trong vở Equus bỏ cả buổi chiều mặc quần áo nịt của dân múa ba lê và đội cái đầu ngựa làm bằng móc áo. Thế nên, Hội Kịch nghệ ạ, cám ơn nhưng xin kiếu. Hơn nữa, xin chia sẻ là tôi đã từng đóng vai chúa Giê-su trong vở Phúc âm hồi năm học cuối, và khi bạn từng bị đánh roi và đóng đinh trước toàn trường một lần, bạn sẽ không thực hiện cái việc khôn ngoan ấy ở bất cứ đâu nữa. Tone và Spencer cười ngất suốt vở điễn và hét to “Nữa! Nữa đi” suốt màn đánh bốn mươi roi, nhưng mọi người lại nói cảnh đó thật cảm động.

Khi nghĩ mình đã đăng ký đủ các hội, tôi đi thơ thẩn trong phòng tìm cô gái bí ẩn tối qua, dù chỉ Chúa mới biết tôi sẽ làm gì nếu gặp lại nàng. Chắc chắn không phải khiêu vũ. Tôi đi hai vòng quanh sảnh phòng tập thể dục, nhưng không thấy bóng dáng nàng đâu, thế nên tôi đi lên lầu đến căn phòng diễn ra vòng loại cuộc thi Thách thức, chỉ để bảo đảm là đến phòng đúng giờ. Chắc chắn là phòng này rồi, tấm áp phích dán trên cửa; Cuộc thi Thách thức Đại học của bạn. Chỉ dành riêng cho những trí tuệ khôn ngoan. “Muốn tham gia hả?” nàng đã hỏi thế tối qua. “Có khi gặp cậu ở đó cũng nên?” nàng đã nói thế. Nàng có nói nghiêm túc không nhỉ? Và nếu đúng như vậy, nàng đang ở đâu? Tôi đến sớm cả tiếng đồng hồ, vì vậy tôi quyết định lại hội trường, đi tìm thêm một vòng nữa.

Đang xuống lầu thì tôi chạm mặt cô gái Do Thái tóc đen tối qua ở cầu thang; Jessica, phải không nhỉ? Cô nàng đang đứng cùng một đám con trai gầy nhom, xanh xao ở Harringtons và mặc quần jean đen ôm sát chân, đang phát tờ rơi cho đảng Lao động Xã hội Chủ nghĩa và tất cả đều trông giận dữ, nhưng với tinh thần kết liên đoàn, tôi tiến đến gần nói, “Xin chào, đồng chí!”

“Chào buổi sáng, chân nhấp nhảy,” cô nàng lè nhè, liếc nhìn bàn tay đang nắm chặt của tôi, không vui vẻ chút nào, cũng đúng thôi, vì có gì đâu mà vui. Cô nàng quay lại với việc phát tờ rơi. “Tớ nghĩ Hội Khiêu vũ đâu đó đằng kia kìa.”

“Ôi Chúa ơi, điệu nhảy đó thật sự tệ lắm hả?”

“Nói đơn giản thì tớ hoàn toàn tin là nên để một cây bút chì vào giữa hai hàm răng cậu để cậu không tự cắn đứt lưỡi mình ra.”

Tôi cười tự chê bai mình, và lắc đầu, theo kiểu tôi-bị-điên, nhưng cô nàng không cười nên tôi bèn nói, “Cậu biết không, cuộc đời dạy tớ hai điều; thứ nhất là không nhảy múa khi say xỉn!”... Im lặng... “Thật ra, tớ đang tự hỏi không biết tớ có thể lấy một tờ rơi không?”

Cô nàng nhìn tôi tò mò, bị thu hút bởi sự sâu sắc tiềm ẩn của tôi rồi đây.

“Cậu có chắc là tớ không phí phạm giấy không?”

“Hoàn toàn không phí.”

“Thế cậu đã là thành viên của một đảng phái chính trị nào chưa?”

“Ừm, cậu biết đấy. Phong trào Đấu tranh Giải trừ Vũ khí Hạt nhân!”.

“Đấy mà là đảng phái chính trị à.”

“Vậy ra cậu không nghĩ chính sách quốc phòng là một vấn đề chính trị ư?” Tôi đáp, thích thú với cách nói nghe có vẻ đao to búa lớn.

“Chính trị là kinh tế, thuần túy và đơn giản. Những nhóm hoạt động chỉ vì mục đích duy nhất, gây sức ép với chính phủ như Phong trào Đấu tranh Giải trừ Vũ khí Hạt nhân hay Tổ chức Quốc tế vì môi trường đóng vai trò quan trọng và hợp pháp, nhưng phát biểu rằng cá heo to lớn và tốt tính, hay nạn tàn sát bằng vũ khí hạt nhân là ghê tởm thì không phải là quan điểm chính trị, cái đấy là hiển nhiên. Ngoài ra, trong một thể chế xã hội chủ nghĩa chân chính, quân đội sẽ tự động bị tước quyền...”

“Giống như ở Nga ấy à?” tôi hỏi.

À ha!

“Nga đâu phải là một nước xã hội chủ nghĩa thực sự.”

Ôi giời...

“Hay Cuba?” tôi hỏi.

Trúng phóc!

“Ờ, theo ý cậu vậy. Thì giống như ở Cuba.”

Hừm...

“Thế thì tớ cho là Cuba không có quân đội phải không?” tôi hỏi.

Một khám phá hay ho.

“Thực ra cũng không hẳn, nhưng chẳng đáng kể nếu xét trong tương quan với tổng sản lượng quốc gia. Ở Cuba, sáu phần trăm tiền thuế được chỉ cho quốc phòng, so với bốn mươi phần trăm ở Mỹ.” Cô nàng chắc hẳn đang thêu dệt những con số đó. Đến ông Castro cũng chưa chắc biết chuyện này. “Nếu không phải chịu sự đe dọa thường xuyên của Mỹ thì đất nước đó thậm chí không cần chi đến sáu phần trăm. Hay cậu muốn nằm thao thức cả đêm lo sợ bị Cuba xâm lược?”

Có vẻ hơi trẻ con thái quá khi buộc tội cô nàng thêu dệt chuyện đó, nên tôi chỉ nói, “Vậy tớ lấy một tờ rơi có được hay không nào?” và cô nàng miễn cưỡng đưa cho tôi một tờ.

“Nếu cậu muốn được nói thật hơn ấy mà, thì đảng Lao động ở đằng kia. Hay cậu cứ làm đến nơi đến chốn là gia nhập đảng Bảo thủ luôn đi.”

Cô nàng nói như tát vào mặt, khiến tôi mất một lúc mới hiểu được, rồi trong khi tôi đang nghĩ xem nên nói gì, cô nàng quay lưng lại với tôi, quay sang phía khác và tiếp tục phát tờ rơi. Tôi muốn đặt tay lên vai cô nàng, xoay người cô nàng lại mà nói: “Đừng có quay lưng lại với người ta thế chứ, đồ đàn bà con gái khó tính, cố chấp, tự cao tự đại, bởi vì chính công việc của bố tôi, dù ít dù nhiều, đã giết chết ông ấy, vậy nên đừng có lên lớp cho tôi về Cuba, bởi vì dứt khoát tôi hiểu rõ về sự bất công xã hội xảy ra ngay dưới mũi tôi hơn hẳn cậu và toàn bộ đám trai trường Mỹ thuật của cậu, rặt một bọn tư sản.” Và tôi suýt nói ra điều đó, nói hẳn ra, nhưng rốt cuộc tôi đã chọn cách nói khác, “Cậu nên nhận ra là hiển nhiên nếu cậu rút ngắn tên hội của cậu, nó chỉ thành ra là Hội Hội!”

Cô nàng quay sang tôi, thật chậm rãi, nheo mắt lại và nói, “Này. Nếu cậu thật sự nhiệt tình và hăng say với việc phản đối những gì Thaher đang làm với đất nước này thì cậu nên tiếp tục kiên trì. Nhưng ngược lại nếu cậu chỉ quan tâm đến việc đưa ra một lô lốc những chuyện cười ấu trĩ và mấy câu bình luận rỗng tuếch thì tớ nghĩ chúng tớ có thể xoay xở mà không cần có cậu, cám ơn nhiều!”

Dĩ nhiên, cô nàng đúng. Sao tôi lúc nào nghe cũng có vẻ bông lơn và thiếu thuyết phục khi nói về chính trị thế nhỉ? Tôi không cảm thấy mỉa mai về chuyện đó. Tôi nghĩ về việc cố gắng giãi bày cho cô nàng biết, chỉ bằng một cuộc trao đổi thông minh phù hợp với những người trưởng thành, nhưng lại có một cuộc cãi vã nhỏ nổ ra giữa một trong mấy anh chàng gầy nhom mặc đồ jean đen và một cậu ở Đấu tranh Giai cấp, nên tôi nghĩ tốt hơn là nên đi cho rồi.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,524
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 7


7

CÂU HỎI: Được nhà tâm lý học người Đức William Stern phát minh ra, hệ số gây tranh cãi nào lúc đầu được định nghĩa là thương số của tuổi trí tuệ một người chia cho tuổi thực tế của người đó, nhân với 100?

TRẢ LỜI: IQ

***

Tôi đi lên lầu đến phòng họp số 6, một thanh niên cao ráo cân đối đang bố trí bàn ghế trong phòng thi, độ khoảng ba mươi bàn, có bộ dạng lăng xăng của người làm việc văn phòng. Anh ta rõ ràng là lớn tuổi hơn tôi, hăm mốt hăm hai gì đó, cao và vừa vặn trong chiếc áo len dài tay có in tên trường đại học màu đỏ tía, da rám nắng, đẹp trai, vẻ điềm tĩnh, mái tóc ngắn màu vàng hoe hoe đỏ chải gọn gàng, kiểu tóc trông như vừa được đúc khuôn từ một miếng nhựa. Tôi nhìn anh ta một hồi qua tấm cửa kính. Anh ta trông như một phi hành gia, nếu nước Anh có phi hành gia, hoặc một Nhân vật Hành động không có vẻ đáng sợ. Điều làm tôi băn khoăn ở anh ta là tôi nhớ hình như đã thấy anh ta ở đâu rồi thì phải...

Anh ta đã nhìn thấy tôi, nên tôi bèn thò đầu vào phòng lịch sự hỏi, “Xin lỗi, đây có phải là phòng thi Thách thức Đại h...?”

“Đặt ngón tay lên chuông để trả lời, câu hỏi khởi động đầu tiên của cậu - cậu có thể đọc biển báo không?”

“Được.”

“Trên đó viết gì?”

“Phòng họp số 6, một giờ trưa.”

“Bây giờ là mấy giờ?”

“12 giờ 45.”

“Vậy tôi coi đó là trả lời cho câu hỏi của cậu được không?”

“Tôi cho là vậy.”

Thế là tôi ngồi chờ ngoài cửa và khởi động bằng cách lướt qua một số danh sách trong đầu; các vị vua và các nữ hoàng Anh, bảng tuần hoàn các nguyên tố hóa học, các đời tổng thống Mỹ, định luật nhiệt động, các hành tinh của Hệ Mặt Trời, chỉ để đề phòng thôi; kỹ thuật làm bài kiểm tra căn bản. Tôi kiểm tra thấy mình có mang theo một cây bút chì và bút bi, một miếng khăn giấy, một hộp kẹo Tic-Tac, và đợi những thí sinh khác xuất hiện. Sau mười phút tôi vẫn là thí sinh duy nhất có mặt ở chỗ này, thế là tôi ngồi đó nhìn săm soi cái gã ngồi ở bàn giáo viên trong khi anh ta phân loại và kẹp ghim các đề thi một cách khá nghiêm nghị. Tôi đoán anh ta chắc phải có vị trí khá cao trong ban tuyển chọn Thách thức Đại học, và hẳn đang choáng váng với thứ quyền hạn dễ khiến người ta say sưa này, nhưng tôi phải chiếm được cảm tình của anh ta nên đúng 12 giờ 58, không sớm hơn, tôi đứng lên bước vào phòng.

“Bây giờ vào được chưa?”

“Được. Cậu có thể bước vào. Có bao nhiêu người ở ngoài đó cùng với cậu?” anh ta nói, không thèm ngước lên nhìn.

“Ừm... không ai hay sao ấy?”

“Thật không?” Anh ta nhìn ra phía sau tôi, bởi vì rõ ràng là tôi không đáng tin. “Ôi ghét thật! Năm 1983 lại tái hiện.” Anh ta tặc lưỡi và thở dài, rồi ngồi lên mép bàn, cầm lấy một bìa kẹp hồ sơ, sau đó nhìn tôi từ đầu xuống chân dò xét, liếc nhìn khuôn mặt tôi, trước khi dừng lại điểm cách một bên mặt tôi ba mươi xăng ti mét, anh ta có lẽ thích nhìn chỗ đó hơn. “Này cậu, tôi là Patrick. Tên cậu là gì?”

“Brian Jackson.”

“Năm mấy?”

“Năm đầu! Mới đến hôm qua!”

Tặc lưỡi và thở dài. “Chuyên ngành?”.

“Ý anh là tôi đang học cái gì ấy hả?”

“Cậu nghĩ sao cũng được.”

“Văn học Anh.”

“Chúa ơi, thêm một người nữa! Thế thì ít ra cậu cũng không hoàn toàn phí phạm ba năm trong đời cậu.”

“Xin lỗi, tôi...”

“Chuyện gì đã xảy ra cho tất cả các nhà toán học, đó chính là điều tôi muốn biết. Tất cả các nhà hóa sinh? Tất cả những kỹ sư cơ khí? Không nghi ngờ gì nữa, nền kinh tế đang chuẩn bị xuống dốc; mọi người đều biết phép ẩn dụ là gì, nhưng chẳng ai có thể xây dựng một nhà máy điện cả.”

Tôi bật cười, xong nhìn lại xem anh ta có phải đang đùa không, nhưng anh ta không đùa. “Tôi có chứng chỉ A khoa học!” tôi nói, tỏ ra cảnh giác.

“Thật à? Môn gì?”

“Vật lý và Hóa học.”

“Thế thì cậu đây rồi! Một Anh chàng Phục hưng! Định luật thứ ba về chuyển động của Newton là gì?”

Ồ, anh bạn, anh phải cố gắng hỏi khó hơn thế chứ...

“Phản lực có cùng độ lớn và ngược chiều với lực tác động,” tôi trả lời.

Phản ứng của Patrick cũng có cùng mức độ và ngược chiều giống như vậy; một cái nhíu mày khó chịu thoáng qua, trước khi anh ta quay lại nhìn vào cuốn sổ ghi chép.

“Trường?”

“Gì cơ?”

“Tôi hỏi ‘trường gì?’ Tòa nhà to. Xây bằng gạch, có giáo viên trong đó ấy...”

“Tôi hiểu câu hỏi, nhưng chỉ lấy làm lạ là tại sao anh muốn biết?”

“Thế thì thôi, Trotsky[1], cậu đã nói rõ ý cậu rồi. Cậu có đem bút theo không? Tốt. Giấy làm bài đây, và một phút nữa tôi sẽ ở cùng cậu.” Khi tôi chọn chỗ ngồi gần cuối phòng thì hai người nữa đến từ phía sau. “À, kỵ binh!” Patrick nói.

[1] Trotsky là một nhà lý luận cách mạng Bôn sê vích và Mác xít, bị đưa ra khỏi Đảng Cộng sản và trục xuất khỏi Liên Xô sau khi lãnh đạo một cuộc đấu tranh của cánh tả đối lập chống lại các chính sách và sự thăng tiến của Joseph Stalin trong những năm 1920 cũng như tình trạng quan liêu ngày càng tăng tại Liên Xô nhưng thất bại.

Đồng đội tiềm năng đầu tiên, một cô gái Trung Quốc, gây ra một chút xáo động, vì cô ấy hình như có một con gấu trúc bám trên lưng. Nhìn kỹ và gần hơn thì mới phát hiện ra đó không phải là con gấu trúc bằng xương bằng thịt mà là một cái ba lô được thiết kế độc đáo! Tôi cho là nó thể hiện một sự hài hước hơi kỳ quặc, nhưng một cuộc thi kiến thức tổng quát cao cấp, nghiêm túc này. Dù sao đi nữa, nghe từ cuộc nói chuyện của cô với Patrick thì tôi biết cô tên là Lucy Chang, sinh viên năm hai, học khoa Y, và vì vậy có thể có lợi thế hơn tôi khi gặp những câu hỏi về môn khoa học đó. Tiếng Anh của cô khá lưu loát, mặc dù cô nói nhỏ đến không ngờ, với trọng âm lướt kiểu người Mỹ. Thế luật chơi cho người nước ngoài thì sao đây?

Thí sinh kế tiếp là một gã đô con, giọng oang oang, người vùng Manchester, mặc đồng phục quân đội màu xanh ô liu, mang giày bốt to nặng, đeo bên hông một ba lô nhỏ màu xanh kiểu Không lực Hoàng gia Anh với biểu tượng của Phong trào Đấu tranh Giải trừ Vũ khí Hạt nhân viết bằng bút dạ quang, chẳng ăn nhập gì cả. Patrick phỏng vấn anh chàng một cách lịch sự miễn cưỡng, giống như hạ sĩ quan chỉ huy nói với hạ sĩ, và hóa ra đó là Colin Pagett, sinh viên năm ba khoa Chính trị, đến từ Rochdale. Anh chàng đảo mắt quanh phòng, gật đầu chào, sau đó chúng tôi im lặng ngồi chờ và nghịch bút, cả ba ngồi cách xa nhau như định luật hình học cho phép, đợi mươi, mười lăm phút, cho đến khi hoàn toàn chắc rằng không còn người nào xuất hiện nữa. Nàng đâu nhỉ? Nàng đã nói là sẽ ở đây mà. Ngộ ngỡ có gì xảy ra với nàng thì sao?

Cuối cùng, Patrick Phi Hành Gia thở dài, đứng lên từ sau cái bàn và phát biểu, “Được rồi, chúng ta hãy bắt đầu nhé? Tên tôi là Patrick Watts, từ Ashton-Under-Lyme đến, học Kinh tế, tôi là đội trưởng của đội Thách thức Đại học năm nay”... coi nào, ai đang nói vậy nhỉ?... “Khán giả trung thành của chương trình này có thể nhận ra tôi là thí sinh đã tham gia vòng thi đấu năm ngoái.”

Đúng rồi, chính vì thế mà tôi biết anh ta. Tôi nhớ đã xem cái tập quan trọng đó cực kỳ cẩn thận vì tôi đang điền đơn gửi cho Hội đồng Tuyển sinh Đại học, và tôi muốn biết tiêu chuẩn như thế nào. Tôi nhớ dạo đó tôi nghĩ họ là một đội khá thảm hại, và Patrick rõ ràng vẫn còn mang nặng vết thương lòng, vì anh ta nhìn xuống sàn, khuôn mặt tỏ vẻ hổ thẹn khi nhắc đến việc đó. “Rõ ràng, đó không phải là một màn trình diễn hoàn mỹ” - họ bị đánh bại hoàn toàn ngay từ vòng đầu, nếu tôi nhớ không lầm, trước một đối thủ cũng nhẹ ký - “nhưng chúng tôi rất hy vọng vào cơ hội năm nay, đặc biệt với quá nhiều... đầu vào... đầy hứa hẹn.”

Cả ba đưa mắt nhìn quanh phòng, nhìn nhau, và nhìn dãy bàn trống trơn.

“Thôi được rồi! Thế thì, không chần chừ gì nữa, các bạn hãy vượt qua bài kiểm tra này nào. Bài thi viết, bốn mươi câu hỏi, bao gồm nhiều chủ đề đa dạng, tương tự như những chủ đề chúng ta sẽ phải gặp trong cuộc thi. Năm ngoái chúng ta đặc biệt yếu về lĩnh vực khoa học” - anh ta nhìn vào tôi - “và tôi muốn chắc rằng lần này chúng ta không quá thiên về nghệ thuật...”

“Và một nhóm gồm bốn người, đúng thế không?” gã người Manchester nói to.

“Đúng vậy.”

“Nếu thế thì chắc rồi... chúng ta là một đội.”

“À, đúng vậy, nhưng cần đảm bảo là chúng ta đạt đến một chuẩn mực tương xứng.”

Nhưng Colin không chịu để yên. “Tại sao?”

“Thì, nếu chúng ta không đạt đến mức đó... chúng ta sẽ lại thua.”

“Sao nữa?”

“À, nếu chúng ta lại thua... nếu chúng ta lại thua...” và miệng Patrick giờ đây không sao diễn đạt nên lời nữa, cứ mở ra khép lại giống hệt con cá thu đang hấp hối. Anh ta cũng mang khuôn mặt y như vậy trên đài truyền hình quốc gia năm ngoái, khi cố gắng rồi bị thất bại khi trả lời một câu hỏi hoàn toàn đơn giản về các hồ nước ở Đông Phi: cũng cái nhìn kinh hãi ấy, trong khi mọi thành viên khác trong nhóm đều biết câu trả lời, sẵn sàng trả lời thay anh ta; hồ Tanganyika, Tanganyika, đồ đần.

Ngay lúc đó anh ta bị phân tâm bởi tiếng động ở cửa - một lô những khuôn mặt con gái đang cười toe toét ép lên cửa kính, một tràng cười đang cố kìm lại, một vụ xô đẩy, và nàng bị những bàn tay vô hình đẩy vào phòng, rồi nàng chỉ đứng chết trân ở đó, cười khúc khích, cố gắng lấy lại bình tĩnh, nhìn xung quanh căn phòng và nhìn bốn người chúng tôi.

Tôi thề, trong khoảnh khắc đó tôi nghĩ mọi người sắp sửa đứng lên hết.

“Ối! Xin lỗi mọi người nhé!”

Nàng nói hơi lắp bắp, chân nàng dường như hơi loạng choạng. Nàng không nghĩ sẽ làm bài thi trong tình trạng say xỉn thế này chứ?

“Xin lỗi, em có đến trễ lắm không?”

Patrick lấy tay vuốt mái tóc phi hành gia, liếm môi và trả lời, “Hoàn toàn không. Vui vì em đã tham gia... em...?”

“Alice. Alice Harbinson.”

Alice. Alice. Dĩ nhiên, nàng là Alice. Nàng còn có thể là ai khác chứ?

“Được rồi, Alice. Nào... ổn định chỗ ngồi đi...” Và nàng nhìn quanh, cười với tôi, rồi bước đến ngồi ở ngay bàn sau tôi.

***

Mấy câu hỏi khởi động khá dễ; về hình học cơ bản và một vài câu về các thành viên Hoàng gia Anh thật sự làm chúng tôi thấy nhẹ nhõm, nhưng thật khó tập trung vì Alice đang phát ra tiếng động giống như nghẹt mũi ở bên vai tôi. Tôi quay lại nhìn nàng, và không còn nghi ngờ gì nữa, nàng đang khom người trên đề thi, mặt đỏ bừng, người rung lên vì cố nén cười. Tôi quay lại làm bài tiếp.

Câu hỏi số 4. Istanbul cổ xưa có tên là gì trước khi được gọi là Constantinople?

Dễ ợt. Byzantium.

Câu số 5. Khí heli, neong, argong và xenon là bốn khí thuộc nhóm “khí trơ”. Hai khí còn lại là gì?

Không biết. Hay là kripton và hidro? Kripton và hidro.

Câu số 6. Thành phần chính của nước hoa tỏa ra từ Alice Harbinson là gì, và tại sao mùi thơm đó lại dịu nhẹ quá chừng như vậy?

Một loại đắt tiền, hương hoa dịu nhẹ. Có lẽ là Channel No 5 chăng? Kết hợp với một lượng nhỏ xà bông Pears, và thuốc lá Silk Cut, và rượu nhẹ...

Thôi đủ rồi. Tập trung nào.

Câu số 6. Bà Thatcher nắm ghế nào trong Nghị viện?

Dễ ợt. Tôi biết câu trả lời, nhưng tiếng động lại phát ra. Tôi quay người nhìn và lần này bắt gặp ánh mắt nàng, nàng nhăn mặt, miệng nói “Xin lỗi...” và ra dấu sẽ không làm ồn bằng cách lấy tay đưa ngang miệng giống như đang khóa một cái dây kéo tưởng tượng. Tôi hé miệng mỉm cười khi nghiêng đầu ra sau như muốn nói, này, ôi dào, đừng bận tâm, tớ không thấy phiền gì đâu, rồi quay lại bài thi. Phải tập trung. Tôi thảy một viên Tic-Tac vào miệng và đưa mấy ngón tay lên bóp trán. Tập trung nào, tập trung nào.

Câu số 7. Màu môi của Alice Harbinson có thể miêu tả đúng nhất bằng từ...?

Không chắc nữa, không thấy rõ. Màu gì được nhắc trong bài thơ bốn mươi câu của Shakespeare ấy. Màu hoa hồng Damask hay màu đỏ san hô hay gì đó tương tự như vậy? Có lẽ tôi nên nhìn thêm một cái nữa. Không. Đừng. Đừng nhìn. Chỉ nên tập trung. Thấp đầu xuống.

Câu 8, 9 và 10 cũng xong, nhưng sau đó là một loạt câu hỏi vật lý và toán học vừa khó vừa ngớ ngẩn liên tiếp, và tôi bắt đầu hơi lúng túng, bỏ qua hai hay ba câu mà tôi không hiểu nhưng cố gắng làm một câu về ty thể.

“Suỵt...”

Câu số 15. Năng lượng được giải phóng do sự ôxy hóa các hợp chất của quá trình trao đổi chất qua màng tế bào, được chuyển hóa thành chất ATP[2]...

[2] ATP (adenosine triphosphate): hợp chất hóa hữu cơ - nuclêôtít.

“Suỵttttt...”

Nàng rướn người lên phía trước cái bàn, mắt mở to, cố gắng chuyển cho tôi vật gì đó trong bàn tay nắm chặt. Tôi canh lúc Patrick không để ý, liền đưa tay ra sau, và cảm thấy nàng đang nhét một tờ giấy nháp nhỏ vào bàn tay khum khum của mình. Patrick ngước lên nhìn, tôi liền nhanh nhẹn chuyển sang cử chỉ duỗi tay ra, cánh tay giơ qua đầu, và khi nguy hiểm không còn rình rập, tôi mở tờ giấy ra. Nội dung thư là, “Người lạ thân mến, vẻ đẹp kỳ quái của anh thu hút em. Phải mất bao lâu nữa thì em mới có thể cảm nhận được môi anh áp vào môi em đây?”

Hay, chính xác hơn là, “Này học gạo! Giúp tớ với! Tớ rất NGỐC và lại XỈN mất rồi. Làm ơn cứu tớ khỏi bị bẽ mặt HOÀN TOÀN. Đáp án cho câu 6, 11, 18 và 22 là gì? Câu 4 là Byzantium, đúng chứ? Cám ơn cậu nhé, hồi âm sớm, kẻ đần ngồi sau lưng cậu:X:X:X. Tái bút: Xì tớ với thầy giáo xem, sau nay tớ sẽ cho cậu biết tay.”

Nàng đang yêu cầu tôi chia sẻ kiến thức tổng quát với mình, và nếu đó không phải là hành động mời gọi thì tôi không biết đó là gì nữa. Dĩ nhiên gian lận trong một kỳ thi là một điều tệ hại, và nếu là người nào khác thì còn lâu tôi mới dính vào, nhưng đây là trường hợp ngoại lệ nên tôi mau mắn kiểm tra lại các câu hỏi, sau đó lật mặt sau tờ giấy và viết: “Câu 6 là Finchley, câu 11 có lẽ là ‘Stones of Venice’ của Ruskin, câu 18 có lẽ là thí nghiệm con mèo của Schrodinger, còn câu 22 thì tớ không chắc; Diaghilev chăng? À mà đúng rồi, câu 4 là Byzantium.”

Tôi đọc đi đọc lại nội dung vài lần. Nó quá khô khan nếu so với một lá thư tình, và tôi muốn nói điều gì đó khiêu khích và kích thích hơn chứ không phải viết “Em đáng yêu quá”, nên tôi nghĩ một hồi, hít một hơi thật sâu, rồi viết: “Mà nè, cậu nợ tớ đấy! Cà phê lần tới nhé? Chúc cậu điều tốt đẹp nhất, Học gạo!”... sau đó trước khi kịp đổi ý, tôi xoay ghế và để lại lời nhắn lên bàn cô ấy.

Câu số 23. Cá voi thuộc phân bộ Mysteciti có một cơ cấu ăn đặc biệt được gọi là...?

Tấm sừng hàm.

Câu số 24. Thể thơ nào của Pháp được Corneille và Racine vận dụng, mỗi câu thơ có 12 âm tiết, phần vần đặt ở âm thứ sáu và âm cuối?

Thể thơ Alexandrine.

Câu số 25. Nhịp tim tăng, đổ mồ hôi lạnh và cảm giác phấn chấn thường là triệu chứng của tình trạng cảm xúc gì?

Thôi nào, cúi đầu xuống, tập trung nào, đây là cuộc thi Thách thức, nhớ chưa hả?

Câu số 25. Khối mười hai mặt có bao nhiêu đỉnh?

À, mười hai mặt, nghĩa là có mười hai mặt phẳng, nghĩa là nếu tách rời nó ra thì có 12 nhân 4, bằng 48, nhưng phải trừ số góc chung thì sẽ là, cái gì, 24 cơ à? Tại sao lại những 24? Vì mỗi đỉnh là chỗ giao nhau của ba mặt phẳng? 48 chia 3 là 16. 16 đỉnh? Không có công thức cho bài toán này ư? Nếu mình vẽ nó ra thì sao nhỉ?

Và khi tôi đang cố gắng vẽ một khối mười hai mặt theo kiểu tách rời kết cấu thì một cục giấy nhỏ được lốp qua đầu tôi và bay lướt trên mặt bàn. Tôi chộp cục banh giấy đó lại trước khi nó rơi khỏi cạnh bàn, mở ra và đọc, “Được thôi. Nhưng phải hứa là không có nhảy nhót gì đâu đấy.”

Tôi mỉm cười với mình, và làm bộ điềm tĩnh bằng cách không quay đầu lại, bởi vì rốt cuộc tôi chính là như vậy, một gã khá điềm tĩnh, và quay lại với việc tách rời kết cấu của khối mười hai mặt.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,524
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 8


8

CÂU HỎI: Nếu sự nóng sáng là ánh sáng được phát ra từ một vật nóng, thì thuật ngữ nào dùng để chỉ ánh sáng phát ra từ một vật tương đối lạnh?

TRẢ LỜI: Sự phát quang.

***

“Tớ cứ đinh ninh là cậu không nhận ra tớ khi không có cái cổ áo đứng của cha xứ cơ!”

“Sao? Ồ, không. Ban đầu thì không,” nàng nói.

“Ừm... Alice nhỉ!”.

“Đúng rồi.”

“Như trong Xứ sở thần tiên ấy hả?”

“Ừ... ờ,” nàng nói, nóng lòng nhìn lối ra.

Chúng tôi ngồi ở một cái bàn đá cẩm thạch nhỏ ở Le Paris Match, một tiệm cà phê đang cố gắng một cách chật vật để có phong cách Pháp; ghế gỗ “xịn”, gạt tàn có chữ Ricard, những bản sao tác phẩm của danh họa Toulouse-Lautrec và dòng chữ “croque monsieur” trong thực đơn thay vì “bánh mì nướng kẹp giăm bông pho mát”. Trong tiệm đầy sinh viên mặc áo cổ lọ đen và quần jean Levi’s 501 đang chồm người qua đĩa khoai tây chiên sôi nổi chuyện trò và vung vẩy điếu thuốc lá vào không khí, ước rằng chúng là những điếu thuốc hiệu Gitanes thay vì Silk Cut. Tôi chưa từng đến Pháp, nhưng Pháp giống thế này thật á?

“Vậy cậu được đặt theo tên của Alice trong Alice ở Xứ sở Thần tiên à?”

“Tớ cũng nghe nói thế.” Ngừng. “Thế còn cậu, tại sao bố mẹ lại đặt tên cậu là Gary?”

Tôi suy nghĩ một chốc, thật ra là cố nghĩ ra một giai thoại thú vị và buồn cười để lý giải tại sao tôi tên là Gary, rồi quyết định nên nói thật.

“Thật ra, tên tớ là Brian.”

“Dĩ nhiên rồi. Xin lỗi, ý tớ là Brian.”

“Không chắc nữa. Tớ không nghĩ là cái tên Brian có xuất hiện trong văn chương. Hay thay vào đó là Gary. Ngoại trừ hình như có Gary trong Anh em nhà Karamazov hay sao ấy nhỉ? Gary, Keith và...”

“... và Brian! Brian Karamazov!” nói rồi nàng cưới phá lên, tôi bèn cười theo.

Hôm nay quả thực đã trở thành một ngày rất trọng đại với tôi, bởi vì không chỉ ngồi đây với Alice Harbinson, người đang cười nhạo chính cái tên tôi, tôi còn đang được thưởng thức tách cà phê cappuccino đầu tiên trong đời. Ở Pháp người ta có uống cappuccino không nhỉ? Dù sao, nó cũng được; hơi giống cà phê sữa giá 35 xu ở quán cà phê phục vụ buổi sáng chỗ cầu tàu Southend, ngoại trừ việc loại cà phê này có một lớp váng màu xám thơm mùi xạ quế thay vì chỉ có mấy giọt cà phê đắng loại uống liền không hòa tan ở phía trên. Lỗi của tôi; tôi bỏ hơi quá tay, cứ nghĩ đó là bột sô cô la, nên nó có hơi sữa nồng nồng giống mùi ở nách. Nhưng rồi tôi cho rằng cappuccino có chút giống tình dục ở chỗ tôi có thể hưởng thụ nhiều hơn ở lần thứ hai. Mặc dù vậy khi phải bỏ ra 85 xu, tôi không chắc chắn là còn có lần thứ hai. Điểm này lại có chút giống tình dục.

Bổn cũ soạn lại. Tình dục và Tiền bạc. Hãy ngừng nghĩ về tình dục và tiền bạc. Đặc biệt là tiền bạc, thật khủng khiếp, bạn đang ở đây với cô gái thú vị này, thế mà tất cả những gì bạn nghĩ đến là giá của một tách cà phê sao. Cả tình dục nữa.

“Mình đói rồi,” nàng nói. “Chúng mình đi ăn trưa nhé? Khoai tây chiên hay gì?”

“Nhất trí!” tôi nói, và nhìn vào thực đơn. Những 1 bảng 25 xu cho một bát toàn những lát khoai tây chiên mỏng dính ư? “... Mặc dù tớ không thật sự đói lắm, nhưng cậu cứ gọi vài món cũng được.”

Thế là nàng vẫy tay gọi bồi bàn, một anh chàng gầy như giống chó uypit với lọn tóc vểnh trước trán kiểu Morrissey, vẻ bề ngoài cho thấy anh ta là sinh viên, anh ta bước tới và nói qua đầu tôi, chào nàng bằng câu “Xin chào!” rõ to và thân thiện.

“Chào, hôm nay khỏe không?” nàng hỏi.

“Ồ, khỏe. Trừ việc tớ không nên ở đây. Làm ca đúp!”

“Ôi, trời ạ. Tội cậu quá!” nàng nói, xoa xoa cánh tay anh ta với vẻ thương cảm.

“Mà nhân tiện, cậu khỏe không?” anh ta hỏi.

“Rất khỏe, cảm ơn cậu.”

“Không phải nói gì chứ hôm nay trông cậu dễ thương thật đấy.”

“Ây da, ngại chết đi được,” Alice nói và lấy tay che mặt.

Úi giời ơi.

“Thế tớ lấy cho cậu món gì được nào?” anh ta nói, cuối cùng cũng nhớ ra anh ta ở đây làm cái gì.

“Chúng tớ chỉ gọi một bát khoai tây chiên có được không?”

“Absolument[1]!” anh bồi bàn nói, và hầu như chạy hết tốc lực vào bếp để bắt đầu chuẩn bị những miếng khoai tây mạ vàng quý giá đó.

[1] Tiếng Pháp: nhất định rồi.

“Sao cậu biết anh ta?” tôi hỏi khi anh ta đã đi khỏi.

“Ai? Anh chàng bồi bàn hả? Tớ đâu có quen anh ta.”

“Ồ.”

Và im lặng bao trùm. Tôi nhấm nháp cà phê, và lấy lòng bàn tay lau bột quế dính ở mũi.

“Xem nào! Tớ không chắc cậu nhận ra tớ khi tớ không có cái cổ áo đứng của cha xứ!”

“Cậu nói chuyện đó rồi mà.”

“Tớ nói rồi hả? Thỉnh thoảng tớ lại bị thế, bối rối về những gì đã nói hoặc chưa nói, hoặc cảm thấy mình đang nói to những điều chỉ muốn nói trong đầu, nếu cậu hiểu ý tớ...”

“Tớ biết chính xác ý cậu là gì,” nàng nói, nắm lấy khuỷu tay tôi. “Tớ lúc nào cũng lẫn lộn hết cả, hoặc là buột miệng nói ra cái gì đấy...” Những gì nàng đang làm lúc này thật ngọt ngào làm sao; nàng đang cố gắng tạo điểm chung giữa hai đứa mặc dù tôi chẳng tin nàng lấy một giây. “Tớ thề, đôi khi, tớ còn chẳng biết mình đang làm gì nữa...”

“Tớ cũng vậy. Giống như vụ nhảy nhót tối qua...”

“À, phải rồi...” nàng nói, bĩu môi “... điệu nhảy...”

“... Phải rồi, xin lỗi về điệu nhảy. Nói thật lúc ấy tớ hơi bị say.”

“Ồ, cậu nhảy được mà. Cậu là vũ công giỏi!”

“Không thể nào!” tôi đáp. “Cậu biết không, tớ chỉ ngạc nhiên là không ai thử đặt cây bút chì vào giữa hai hàm răng tớ cả!”

Nàng bối rối nhìn tôi. “Tại sao?”

“À... để ngăn tớ tự cắn lưỡi mình ra chẳng hạn?” Vẫn không có phản ứng. “Cậu biết chứ, như kiểu người bị... động kinh ấy!”

Nhưng nàng chả nói gì, lại nhấm nháp cà phê. Ồ, lạy Chúa - có lẽ tôi đã xúc phạm nàng chăng. Có khi nàng biết một người động kinh cũng nên. Có khi chứng động kinh đã xảy ra trong gia đình nàng! Có khi chính nàng bị động kinh.

“Cậu không thấy nóng khi mặc cái áo gió dày đó à?” nàng hỏi, và anh chàng bồi bàn quay lại với những lát khoai tây đẹp mắt, có khoảng sáu miếng, được bày đầy nghệ thuật trong một cái chén đựng trứng lớn, rồi anh ta quanh quẩn ở đó, nhe răng cười, hài lòng với chính mình, cố gắng bắt chuyện một lần nữa, thấy thế tôi bèn tiếp tục nói.

“Cậu biết không, nếu cuộc đời từng dạy tớ hai điều, thì điều đầu tiên là không nhảy múa khi ta xỉn.”

“Còn điều thứ hai?”

“Đừng thử đổ sữa vào một cái máy pha Soda.”

Nàng bật cười, và khi nhận ra mình bị đánh bại, anh chàng bồi bàn đành rút lui. Tiếp tục nào, cứ thế nhé...

“... tớ không biết mình trông mong điều gì, tớ chỉ nghĩ là mình đã chế ra loại thức uống nhiều sữa sủi bọt đầy kinh ngạc này, nhưng mà có một cái tên cho loại sữa sủi bọt đấy...” (ngừng lại, uống một hớp) “... đó là sữa chua!”

Thỉnh thoảng tôi có thể tự làm mình ói, thật đấy.

Thế là chúng tôi nói chuyện một hồi nữa và nàng ăn khoai tây chiên, nhúng khoai vào cái đĩa Pyrex đựng xốt cà chua, và khung cảnh giống như buổi chiều ở tiệm cà phê trong bài thơ Bản tình ca của J. Afred Prufrock của T. S. Eliot, chỉ có điều món ăn trong đấy đắt tiền hơn. “Tôi có dám ăn một quả đào không ấy à? Không, không phải với cái giá này...” Tôi biết một số chuyện về nàng. Nàng là con một, giống tôi - nàng nghĩ chuyện gì đó đã xảy ra với cái ống của mẹ nhưng không chắc lắm. Nàng không bận tâm đến việc là con một, điều đó chỉ có nghĩa là nàng luôn ham đọc sách và nàng học trường nội trú, nàng biết điều đó không hợp thời về mặt chính trị, nhưng dù sao nàng cũng thích vậy, và là Đàn Chị trong trường đại học. Nàng rất gần gũi với bố mình, ông làm phim tư liệu nghệ thuật cho đài BBC và thường dẫn nàng đến chỗ làm trong những ngày nghỉ để nàng có kinh nghiệm làm việc, và nàng đã gặp Melvyn Bragg nhiều, nhiều lần, và rõ ràng nhà văn này ngoài đời thật sự, thật sự vui tính, và cực kỳ sexy. Nàng cũng yêu mẹ, dĩ nhiên rồi, nhưng họ hay cãi nhau, có lẽ vì quá giống nhau, và mẹ nàng làm việc bán thời gian cho TreeTops, một cơ sở từ thiện xây nhà trên cây cho trẻ em nghèo.

“Chúng sống với bố mẹ có lẽ tốt hơn chăng?” tôi hỏi.

“Gì cơ?”

“À, cậu biết đấy, trẻ con mà sống một mình ở tuốt trên cây - thế thì chắc sẽ rất nguy hiểm, đúng không?”

“Không, không phải vậy, chúng không sống trong mấy căn nhà trên cây, đó chỉ là một hoạt động vào kỳ nghỉ hè thôi.”

“Ồ, thế à. Hiểu rồi...”

“Hầu hết bọn trẻ đó gia đình đều túng quẫn, chỉ có bố hoặc mẹ, và cả đời chúng chưa bao giờ có một kỳ nghỉ cùng gia đình!” Ôi Chúa ơi, nàng đang nói về tôi à! “Việc đó tuyệt lắm. Nếu cậu không có chương trình gì mùa hè này thì cậu có thể tham gia.” Tôi gật đầu hào hứng, dù không hoàn toàn chắc là liệu nàng đang đề nghị tôi phụ một tay hay đang đem đến cho tôi một kỳ nghỉ thật.

Sau đó Alice kể cho tôi về kỳ nghỉ hè của nàng, một vài ngày ở trên ngọn cây với mấy đứa trẻ nghèo, và không nghi ngờ gì nữa, chúng rất khao khát chuyện đó. Thời gian lại được chia ra nghỉ ở những ngôi nhà của họ tại London, Suffolk và Dordogne, sau đó biểu diễn với nhóm kịch của trường nàng ở Festival Edinburgh.

“Các cậu đã diễn vở gì?”

“Vở Hảo phụ Tứ Xuyên của Bertolt Brecht.” Dĩ nhiên, chuyện nàng đóng vai gì trong vở này quá rõ ràng rồi, đúng không? Đây là một cơ hội kinh điển để sử dụng cụm từ “người được đặt tên cho vở kịch.”

“Vậy ai đã đóng vai người được đặt tên cho vở kịch...?”

“Ồ, tớ đấy,” nàng trả lời. Đúng, đúng, dĩ nhiên là cậu rồi.

“Và cậu đã đóng?” tôi hỏi.

“Hả?”

“Tốt chứ?”

“Ồ, không tốt cho lắm. Mặc dù tờ The Scotsman có vẻ cũng cho là nó tốt. Cậu biết vở kịch đó đấy chứ?”

“Rất rõ,” tôi bốc phét. “Thật ra bọn tớ đã diễn vở Vòng phấn Cáp-ca-zơ của Bretch ở trường trung học vào học kỳ cuối vừa rồi” - ngừng, nhấp một ngụm cappuccino - “Tớ đóng vai viên phấn.”

Chúa ơi, tôi nghĩ tôi sắp ói rồi.

Nhưng nàng bật cười, và chúng tôi bắt đầu nói về những yêu cầu khi đóng Hảo Phụ, người được lấy tên để đặt cho vở kịch của Bretch, và tôi tranh thủ cơ hội này để được nhìn nàng lần đầu tiên mà không chịu tác động của rượu, và không có mồ hôi trên kính, nàng thật đẹp. Chắc chắn nàng là người con gái xinh đẹp đích thực đầu tiên mà tôi gặp từ trước đến giờ, còn hơn cả trong nghệ thuật Phục hưng hay trên ti vi. Ở trường bọn họ từng nói Liza Chambers xinh đẹp, khi đó ý họ thật sự muốn nói là gợi tình, nhưng Alice thì đẹp thật; làn da mịn màng như thể hoàn toàn không có lỗ chân lông, và tỏa sáng bởi một chất phát quang nào đó dưới da. Hay mình nên nói đó là “chất lân quang”? Hoặc “chất huỳnh quang”? Có gì khác biệt không nhỉ? Phải dò từ điển mới được. Dù sao đi nữa, nàng có vẻ như không trang điểm, hoặc, có khả năng hơn, trang điểm một cách khéo léo nghệ thuật đến nỗi trông như không trang điểm, ngoại trừ vùng quanh mắt, vì chắc chắn trong đời thực không có ai có hàng lông mi như thế, đúng không? Và rồi đôi mắt; nếu nói màu nâu thì không phải là từ đúng, vì như vậy thì nó quá đục và tối, mà tôi thì không thể nghĩ ra từ nào hay hơn, trừ việc đôi mắt đó sáng, tinh anh và to tròn đến nỗi ta có thể thấy nguyên tròng mắt có những đốm nhỏ màu xanh lá cây. Miệng nàng đầy đặn và có màu trái dâu tây, giống Tess Derbyfield[2], nhưng là một Tess hạnh phúc, cân bằng, mãn nguyện, người phát hiện ra rằng, tạ ơn Chúa, rốt cuộc nàng thật sự là người của dòng họ D’Urberville. Trên hết nàng có một cái thẹo nhỏ xíu ở môi dưới, tôi tưởng tượng nàng đã có cái vết đó từ một vài sự cố xương máu khi đi hái dâu thời thơ ấu. Mái tóc nàng màu mật ong và hơi quăn, được kéo ra sau trán, theo kiểu mà tôi tưởng tượng được gọi là “thời kỳ tiền Raphael”. Nàng trông như ở thế kỷ - từ gì trong thơ T. S. Eliot nhỉ? Quattrocento[3]. Hay từ đó là của nhà thơ Yeats nhỉ? Và nó có nghĩa là thế kỷ mười bốn hay thế kỷ mười lăm nhỉ? Tôi cũng phải tra lại khi quay về phòng mới được. Phải tự mình ghi nhớ, tra từ “Quattrocento”, “Damask”, “Nâu xám”, “Phát quang”, “Lân quang” và “Huỳnh quang”.

[2] Tess Derbyfield là tên nhân vật nữ chính trong cuốn tiểu thuyết Tess of the D’Urbervilles của Thomas Hardy.

[3] Quattrocento: thế kỷ mười lăm.

Và bây giờ nàng đang nói về buổi tiệc tối qua, nào là nó khủng khiếp như thế nào, nào là tất cả những gã tệ hại mà nàng đã gặp, hầu hết là những gã chơi bóng bầu dục khó chịu, ăn mặc không hợp thời trang, nhát chết. Nàng ngả người về phía trước cái ghế trong, đôi chân dài quấn quanh chân ghế bên dưới, rồi chạm vào khủy tay tôi để nhấn mạnh ý nào đó, nhìn vào mắt tôi như thể thách tôi nhìn đi chỗ khác, và nàng cũng có cái tật kéo kéo đôi hoa tai mạ bạc trong khi nói chuyện, cử chỉ đó ngụ ý rằng nàng đã bị tôi hấp dẫn từ trong tiềm thức, hoặc đó chỉ là do chỗ xỏ lỗ tai bị nhiễm trùng nhẹ. Về phần tôi, tôi đang thử một vài biểu cảm mới trên khuôn mặt và cả tư thế nữa, một trong số đó là ngả người về phía trước và đặt tay dưới cằm, các ngón tay để hờ hững ngang miệng, thỉnh thoảng xoa xằm ra cái vẻ trải đời. Tư thế này có nhiều mục đích; 1) trông như tôi đang trầm tư mặc tưởng, 2) thế này thật gợi cảm - các ngón tay trên môi, một điệu bộ gợi tình kinh điển - và 3) nó cũng giúp che giấu những cái đốm đỏ xấu xí nổi thành dề ở quanh khóe miệng tôi trông như thể tôi vừa bị bỏng xúp.

Nàng gọi thêm một tách cappuccino. Tôi tự hỏi không biết mình có phải trả tiền cả tách đó không nhỉ? Không thành vấn đề. Cuộn băng Stephane Grappelli/Django Reinhardt đã tới điệp khúc trong tiếng nhạc nền, phát ra tiếng vù vù giống như con ruồi xanh đâm sầm vào cửa sổ, và tôi khá hạnh phúc khi chỉ việc ngồi đó và lắng nghe. Nếu như nàng có khuyết điểm nào đấy, và rõ ràng nó chỉ nhỏ xíu thôi, đó là dường như nàng không đặc biệt tò mò về người khác, về tôi chẳng hạn. Nàng không biết tôi từ đâu đến, nàng không hỏi về mẹ hay bố tôi, nàng không biết họ tôi, tôi chẳng hề bị thuyết phục rằng nàng không còn nghĩ tôi tên Gary. Sự thực là, từ lúc hai đứa ở chỗ này, nàng chỉ hỏi tôi đúng hai câu - “Mặc cái áo gió dày đấy cậu không thấy nóng à?” và “Cậu có biết đó là quế không?”

Thình lình, như thể đọc được suy nghĩ của tôi, nàng nói, “Tớ xin lỗi, hình như tớ cứ nói suốt thì phải. Cậu không phiền chứ?”

“Không hề”.

Và tôi không bận lòng thật, tôi chỉ thích ngồi đây bên nàng, và để người khác thấy tôi bên nàng. Nàng đang nói về gánh xiếc Bungari thú vị mà nàng từng được ở Hội chợ Edinburgh, cũng có nghĩa đây là thời điểm tốt để đánh lạc hướng và tính nhẩm hóa đơn. Ba tách cappuccino giá 85 xu, tổng cộng 2 bảng 55 xu, cộng với khoai tây chiên, à nhầm, pommes frites mới đúng, giá 1 bảng 25 xu, à nhân tiện tính ra được mỗi miếng giá khoảng 18 xu, để xem nào, 25 cộng 55, bằng 80, tức là 3 bảng 80 xu, cộng với tiền boa cho cậu trai đang cười ở đằng kia, 30, không, 40 xu đi, thế là 4 bảng 20 xu, và mình có 5 bảng 18 xu trong túi, nghĩa là rốt cuộc mình sẽ còn 98 xu để cầm cự cho đến khi nhận tấm séc học bổng vào thứ Hai. Chúa ơi, thế nhưng nàng xinh đẹp quá chừng. Nếu nàng đề nghị cưa đôi tiền thì sao? Mình nên chấp nhận không nhỉ? Mình muốn nàng biết là mình tin tưởng mạnh mẽ vào bình đẳng giới, nhưng lại không muốn nàng nghĩ mình nghèo kiết xác hoặc, tệ hơn, keo kiệt. Mà ngay cả khi chia đôi số tiền, mình cũng chỉ còn 3 bảng, và mình phải đòi Josh đưa lại 10 bảng của mẹ cho đến thứ Hai, điều đó có nghĩa là mình sẽ phải làm đầu sai cho cậu ta đến kỳ nghỉ Giáng sinh, tẩy trắng tấm lót crikê hoặc nướng bánh xốp cho cậu ta. Mà gượm đã, nàng đang hỏi gì mình này.

“Cậu có muốn gọi thêm một tách cappucino nữa không?”

KHÔNG!

“Không, tốt hơn là không,” tôi nói. “Thật ra, chúng ta nên quay lại - xem kết quả. Để tớ tính hóa đơn...” và tôi nhìn quanh tìm bồi bàn.

“Tớ có tiền lẻ đây,” nàng nói, ra vẻ với tay lấy ví.

“Không cần đâu, thật đấy, tớ mời...”

“Cậu chắc không?”

“Chắc, chắc rồi,” tôi nói, rồi đếm và để 4 bảng 20 xu trên bàn đá hoa, và cảm thấy mình thật tao nhã.

***

Bên ngoài Le Paris Match tôi nhận ra trời bắt đầu tối; tôi không nhận ra chúng tôi đã nói chuyện hàng giờ. Trong lúc đó, tôi thậm chí quên cả cuộc thi Thách thức. Nhưng giờ thì tôi đã nhớ ra, và rốt cuộc tất cả những gì tôi có thể làm là không chạy ào đi. Mặc dù vậy, Alice là người thích đi dạo mát, nên chúng tôi tản bộ đến Hội sinh viên trong ánh sáng của buổi tối mùa thu, và nàng nói, “Thế ai xúi giục cậu vậy?”

“Gì cơ? Cuộc thi Thách thức hả?”

“Cậu gọi tên cuộc thi là thế à? Thách thức?”

“Không phải mọi người đều gọi như vậy sao? Ồ, tớ chỉ nghĩ là chuyện đó có vẻ vui,” tôi nói dối, tỏ vẻ thờ ơ. “Hơn nữa, nhà tớ chỉ có tớ và mẹ, nên không đủ thành viên để tham gia Ask The Family...” Tôi nghĩ là nàng có thể nắm bắt thông tin đó, nhưng thay vào đó nàng chỉ nói, “Những cô bạn ở cùng dãy hành lang xúi tớ tham gia, như lời thách đố ấy. Và sau hơn một lít bia ở quán bar vào buổi trưa, ý kiến đó bỗng dưng hóa ra không tồi chút nào. Và tớ muốn trở thành một diễn viên, hay một người nào đó có thể xuất hiện trên truyền hình, một người dẫn chương trình hoặc đại loại thế, nên tớ nghĩ xuất hiện trước ống kính sẽ là một thử nghiệm tốt, nhưng giờ tớ không chắc về chuyện đó nữa. Cuộc thi này không phải là một bàn đạp rõ ràng để đáp xuống kinh đô Hollywood đúng không? Thách thức Đại học. Tớ chỉ mong là bây giờ bị loại quách cho rồi, nói chân thành đấy, để tớ có thể quen hết cái việc ngu ngốc này.” Bước đi nhẹ nhàng, nhưng Alice Harbinson, bước chân nàng đang giẫm đạp lên những giấc mơ của tôi.

“Cậu có bao giờ nghĩ sẽ chọn nghề diễn viên không?” nàng hỏi.

“Ai cơ, tớ á? Chúa ơi không đâu, tớ dở lắm...” sau đó, tôi chỉ nói để thử xem thế nào, “với lại, tớ nghĩ ngoại hình tớ không đủ đẹp để trở thành diễn viên.”

“Ồ, không phải đâu! Nhiều diễn viên trông cũng đâu có ưa nhìn gì đâu...”

Nàng chê tôi đây mà, nhưng kể ra thì cũng đúng.

Khi chúng tôi tiến gần đến bảng thông báo bên ngoài phòng họp số 6, tôi cảm thấy như lại đang trải qua cảm giác đi xem kết quả thi O-level; sự tự tin thầm kín, trộn với một lượng phù hợp hồi hộp, sự nhận thức được việc kiểm soát biểu hiện trên khuôn mặt quan trọng như thế nào, không lộ vẻ quá hài lòng với bản thân, quá tự mãn. Chỉ cần mỉm cười, gật đầu vẻ hiểu biết và bước đi.

Đến bảng thông báo, tôi có thể thấy con gấu trúc của Lucy Chang đang ló ra qua vai cô ấy ở bảng kết quả cuộc thi, và có cái gì từ góc độ đầu của cô ấy mách bảo tôi rằng tin đó không tốt lành chút nào cho cô ấy. Cô ấy quay đầu và bước đi, nở nụ cười ngọt ngào pha chút thất vọng. Có vẻ Lucy sẽ không tham gia với chúng tôi trong phòng tập Granada rồi, thật đáng tiếc, vì cô ấy trông có vẻ tử tế. Tôi cười với cô ấy đầy thông cảm khi cô ấy rảo bước, và đi thẳng đến bảng thông báo.

Tôi đọc thông báo.

Tôi chớp mắt, rồi đọc lại.

KẾT QUẢ THI TUYỂN CUỘC THI

THÁCH THỨC ĐẠI HỌC

Kết quả phần thi sơ tuyển đầy hăng say cho cuộc thi Thách thức Đại học năm 1985 như sau:

Lucy Chang - 89%

Colin Pagett - 72%

Alice Harbinson - 53%

Brian Jackson - 51%

Vậy nên đội hình năm nay sẽ như sau: Patrick Watts, Lucy, Alice và Colin. Buổi diễn tập đầu tiên sẽ vào thứ Ba tuần sau. Xin chúc mừng các bạn đã được tham gia!

Patrick Watts.

* (Trường hợp có ai phải cấp cứu hoặc bệnh nặng, đe dọa đến tính mạng, Brian Jackson sẽ là thành viên dự bị ưu tiên thứ nhất.)

“Ôi, Chúa ơi! Không thể tin được, mình ở trong đội!” Alice thét lên, nhảy tưng tưng và siết chặt cánh tay tôi.

“Này, cậu làm tốt lắm!” tôi tìm được một nụ cười ở đâu đó, và đóng khung nó lên mặt mình.

“Này, cậu có nhận ra là nếu cậu không chỉ tớ mấy câu trả lời đó, cậu sẽ ở trong đội thay vì tớ không!” nàng ré lên. Ờ, phải rồi, Alice ạ, tớ đã nhận ra điều đó, thật đấy.

“Bây giờ mình làm gì đây? Đi bar và uống quắc cần câu nhé?” nàng đề nghị. Nhưng tôi cạn tiền rồi, mà tự nhiên cũng cảm thấy chẳng thích thú gì nữa.

Tôi không được vào đội, tôi có 98 xu trong túi, và tôi yêu trong vô vọng.

Không phải vô vọng. Mà là vô ích.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,524
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 9


VÒNG HAI

“Thằng bé đó, hắn gọi con bồi, quân J,” Estella nói, giọng khinh khi, trước khi ván bài đầu tiên của chúng tôi chấm dứt.

Charles Dickens, trích Gia tài vĩ đại.

9

CÂU HỎI: George, Anne, Julian, Timmy và Dick được biết đến nhiều nhất với cái tên...?

TRẢ LỜI: Bộ Năm Lừng Danh.

***

Có ba điều tôi luôn mong sẽ xảy ra ở đại học - thứ nhất là được mất tân, thứ hai là được đề nghị trở thành gián điệp, thứ ba là được tham gia cuộc thi Thách thức Đại học. Điều đầu tiên, đời trai tân, đã đi đời nhà ma hai tuần trước khi tôi rời Southend nhờ việc uống say và lóng ngóng thỏa mãn ham muốn khi đang đứng dựa vào thùng rác có bánh xe, ở ngõ sau Littlewoods, và sự ưu ái của Karen Armstrong. Thật ra cũng chẳng có gì nhiều để nói về trải nghiệm đó; trái đất không dịch chuyển, nhưng thùng rác thì có. Sau đó, xảy ra một số tranh luận về việc liệu hai đứa có “làm đúng cách” hay không, điều đó chắc hẳn sẽ đem đến cho bạn một vài ý tưởng về kỹ thuật tuyệt vời và sự khéo léo tinh vi trong nghệ thuật làm tình của tôi. Cuốc bộ về nhà vào cái đêm mùa hè đáng nhớ đó, khi chúng tôi thưởng thức những giọt còn lại trong chai Merrydown đã hết lạnh sau khi quan hệ, Karen cứ nhắc đi nhắc lại, “Đừng kể ai hết, đừng kể ai hết, đừng kể ai hết,” cứ như chúng tôi vừa làm điều gì thật sự, hoàn toàn khủng khiếp không bằng. Theo cách mà tôi cho là đúng như thế thật.

Còn về việc được yêu cầu làm gián điệp cho Nội các của Nữ hoàng, à, ngay cả khi đặt qua một bên sự dè dặt về ý thức hệ, tôi khá chắc ngôn ngữ cũng quan trọng trong nghề điệp viên, mà tôi có chứng chỉ O-level tiếng Pháp. Loại A đấy, nhưng, nếu xét về hoạt động gián điệp thực thụ, đây vẫn là một điểm hạn chế khiến tôi khó có thể thâm nhập chẳng hạn như một trường tiểu học Pháp, hoặc có thể, trong tình cảnh bức bách, một tiệm bánh mì. Nhạn Đen gọi Hổ Mang Đỏ; tôi có thông tin chi tiết về lịch trình xe buýt đây...

Tôi chỉ còn mong đợi ở cuộc thi Thách thức, và bây giờ tôi xoay xở để thách thức điều đó. Tối nay là buổi họp mặt đầu tiên, và thậm chí tôi phải bỏ biết bao nhiêu công sức thuyết phục chỉ để được mời. Patrick không trả lời điện thoại của tôi, và khi cuối cùng tôi cũng lùng gặp được anh ta, anh ta nói rằng người dự bị thật ra không cần thiết phải đến, khi mà anh ta đã khá chắc rằng không có ai bị ô tô chẹt phải. Nhưng tôi cứ tiếp tục nói và nói cho đến khi anh ta chịu khuất phục, vì nếu không có mặt, tôi sẽ không được gặp Alice, trừ khi tôi bắt đầu lượn lờ bên ngoài ký túc xá của nàng.

Và đừng tưởng là tôi chưa nghĩ tới việc đó. Trong vòng sáu ngày kể từ khi chúng tôi gặp nhau, tôi chưa hề gặp nàng lần nào nữa. Và tôi đang tìm kiếm. Bất kể khi nào đến thư viện, tôi lại thấy mình đi một vòng quanh các dãy bàn, hoặc lảng vảng một bộ dạng khả nghi ở khu Kịch nghệ. Khi đến quán bar với Marcus và Josh, rồi miễn cưỡng vui vẻ khi được giới thiệu với một vài gã mới như James hay Hugo hay Jeremy, tôi lại quan sát cửa ra vào qua vai họ phòng khi nàng bước vào. Chỉ đá vài câu vào giữa những cuộc tán gẫu, tôi lúc nào cũng canh chừng, nhưng rốt cuộc cũng chẳng thấy tăm hơi nàng đâu, điều đó cho thấy nàng đang có một cuộc sống đại học khác xa tôi. Hay nhỡ đâu nàng đang hẹn hò ai đó? Có khi nào nàng cũng phải lòng một gã đẹp mã, xương gò má cao, một nhà thơ Nicaragua đang bị lưu đày hoặc một nhà điêu khắc hoặc gì đấy, rồi thì dành trọn cả tuần trước nằm trên giường, uống rượu vang hảo hạng và đọc to thơ với thẩn không. Đừng nghĩ thế. Bấm chuông tiếp nào.

Tôi tự hỏi lẽ nào Patrick cố tình đưa tôi cái địa chỉ sai, và sắp sửa quay đầu bỏ đi thì nghe tiếng anh ta đi lóc cóc xuống cầu thang.

“Xin chào!” tôi nói, cười rạng rỡ khi anh ta mở cửa.

“Chào, Brian,” anh ta rên rỉ, thể hiện ngay trước mặt tôi cái biểu cảm mà anh ta có vẻ thích hơn cả, và theo chân anh ta lên cầu thang chung để vào căn hộ.

“Vậy mọi người sẽ đến vào tối nay hả?” tôi ngây thơ hỏi.

“Tôi nghĩ vậy.”

“Anh đã nói tất cả bọn họ rồi chứ?”

“Ừ, ừm.”

“Vậy anh đã nói với Alice chưa?”

Anh ta đứng lại ở bậc thang, quay đầu và nhìn ra sau. “Tại sao?”

“Chỉ tò mò thôi.”

“Đừng lo. Alice đang đến.” Anh ta lại mặc cái áo len đồng phục của trường đại học, tôi hơi ngạc nhiên một chút. Ý tôi là tôi sẽ hiểu hơn, nếu trên áo có ghi Yale hoặc Harvard hoặc tên trường nào đó, bởi vì khi đó cái áo là một lựa chọn thời trang. Nhưng tại sao lại đi quảng cáo cho việc anh ta đang học một trường đại học với tất cả những người cũng ở trường đại học đó? Anh ta không lo là thậm chí mọi người sẽ nghĩ anh ta chỉ làm bộ làm tịch hay sao?

Chúng tôi bước vào căn hộ nhỏ và giản dị, làm gợi nhớ đến một căn nhà mẫu quảng cáo trong bloc lịch phương Đông. Có mùi thịt băm và hành.

“Tôi có mang một ít rượu!” tôi nói.

“Tôi không uống rượu,” anh ta đáp.

“Ồ. Được thôi.”

“Tôi cho là cậu sẽ muốn một cái mở nút chai. Tôi nghĩ tôi có một cái ở đâu đó. Cậu uống trà, hay muốn bắt đầu ngay với chai rượu của cậu?”

“Ồ, rượu nhé!”

“Được rồi, ở yên đây nhé, tôi sẽ quay lại liền. Cậu không hút thuốc đấy chứ?”

“Không.”

“Vì ở đây cấm tiệt hút thuốc...”

“Đồng ý, nhưng tôi có hút thuốc đâu...”

“Được rồi, à mà này, chỉ đứng đây thôi nhé. Đừng chạm vào bất cứ thứ gì!” Bởi vì học năm thứ ba, rõ ràng bố mẹ lắm tiền, Patrick dường như có cuộc sống theo nề nếp của một người bán thành niên: những đồ dùng thiết thực, không phải để trưng bày, mà chắc chắn là của chính anh ta, một ti vi, một đầu video, một phòng khách không giường không bếp ga không vòi sen. Trên thực tế, anh ta gần như không phải sinh viên nữa; mọi thứ đều ở đúng vị trí của nó và đây là một nơi cho tất cả, giống như nơi sinh sống của một nhà tu hành hay một kẻ sát nhân hàng loạt đặc biệt kỹ tính. Trong khi anh ta tìm cái mở nút chai, tôi nhìn quanh phòng khách. Nơi được trang trí duy nhất của căn hộ là bức tường phía trên cái bàn, của anh ta; một tấm hình bãi biển, với những dấu chân dần biến mất về phía mặt trời lặn, và bài thơ truyền cảm về việc làm cách nào Giê-su luôn ở bên ta. Mặc dù công bằng mà nói nếu Giê-su ở bên cạnh anh ta trong trường quay truyền hình năm ngoái, anh ta có lẽ đã có nhiều hơn 65 điểm.

Có tiếng chuông cửa, và tôi nghe tiếng Patrick lê bước xuống cầu thang, nên tôi tận dụng cơ hội xem xét kệ sách của anh ta; chủ yếu là sách giáo khoa kinh tế học, xếp gọn gàng theo thứ tự chữ cái, một cuốn Kinh Thánh. Một kệ khác đầy băng video - Monty Python và Chén Thánh cùng với Anh em nhà Blues - tiết lộ một mặt sáng sủa hơn của Patrick Watts.

Nhưng bên cạnh đó có một loạt hai mươi băng video VHS giống hệt nhau; một kệ những băng video thu hình tại nhà với những cái nhãn màu trắng viết tay hoàn hảo được dán đúng cách dọc theo gáy cuộn băng. Tôi bước đến để nhìn gần hơn và với tay lấy đại một cuộn. Các nhãn ghi như sau:

03/03/1984 - Newcastle đấu với Sussex

10/03/1984 - Durham đấu với Leicester

17/03/1984 - Đương kim vô địch Cambridge đấu với Dundee

23/03/1984 - Sidney Sussex đấu với Exeter

30/03/1984 - UMIST đấu với Liverpool

06/04/1984 - Birmingham đấu với UCL

... và cứ thế tiếp tục, Keele đấu với Sussex, Manchester đấu với Sheffield, Open đấu với Edinburgh. Phía trên những cái băng cát xét đó có một tấm hình lồng trong khung ảnh, bị úp xuống. Giờ thì tôi đang cảm thấy mình hoàn toàn giống Marion Crane[1], nhưng tôi cứ cầm tấm hình lên xem, và đúng vậy, đó là tấm ảnh Patrick bắt tay Bamber Gascoigne[2] và tôi bất thình lình cảm thấy khiếp sợ, đây là chốn thiêng liêng của Patrick, và tôi đã lầm lạc mù quáng bước vào hang ổ của một gã điên...

[1] Một nhân vật trong phim Psycho. Cô lấy cắp tiền của ông chủ, sau đó, trên đường bỏ trốn, cô vô tình nghỉ chân tại một nhà nghỉ do một kẻ tâm thần làm chủ.

[2] Người dẫn chương trình Thách thức Đại học trong suốt 25 năm, từ số đầu tiên đến tận năm 1987.

“Tìm gì đấy, Brian?”

Tôi xoay tròn người, tìm kiếm một thứ vũ khí gì đấy. Patrick đang đứng ngay cửa ra vào, Lucy Chang đang ngấp nghé nhìn qua vai anh ta, và cái ba lô gấu trúc của Lucy Chang đang ngấp nghé nhìn qua vai cô.

“Chỉ là ngưỡng mộ tấm ảnh của anh thôi!”

“Được thôi, nhưng cậu làm ơn đặt nó trở lại đúng chỗ cũ, được chứ?”

“Vâng, vâng dĩ nhiên rồi...”

“Lucy... trà nhé?”

“Dạ, vâng, cám ơn anh.”

Anh ta ném cho tôi một cái nhìn kiểu không-thèm-đếm-xỉa, rồi đi vào bếp. Lucy ngồi trên chiếc ghế lưng cứng của Patrick, nhưng ngồi ngay lên thành ghế, để không ép con gấu trúc xẹp lép. Chúng tôi ngồi yên lặng, rồi cười với nhau, và cũng chẳng rõ vì nguyên cớ gì, cô bật cười nghe có vẻ hơi căng thẳng. Trông cô nhỏ nhắn gọn gàng, mặc một chiếc sơ mi trắng tinh sạch sẽ được ủi cẩn thận, nút áo trên cùng được gài lại. Như vậy cũng không hề gì, cô vẫn khá hấp dẫn, ngay cả với đường chân tóc thấp hơi lộn xộn có vẻ đang bò xuống để gặp gỡ cặp lông mày, trông giống một bộ tóc giả bị trượt về phía trước.

Tôi cố gắng nặn ra điều gì đó để nói. Tôi định nói với cô là theo cuốn Kỷ lục Guinness, Chang chính thức là cái họ phổ biến nhất thế giới, nhưng tôi cho rằng cô cũng biết thừa điều này rồi, nên đành mở miệng khen, “Này, cậu giỏi thật đấy, điểm số thật đáng ngạc nhiên! Tám mươi chín điểm!”

“Ồ, cảm ơn cậu. Và cậu cũng giỏi lắm, giỏi việc...”

“... thua cuộc?”

“Ờ... phải, tớ cho là vậy!” và cô lại cười, giọng cao và giòn giã. “Giỏi việc thua cuộc!”

Vì lịch sự, tôi cũng cười hùa theo, và nói, “Chả sao. Thua nữa. Thua cho hoành tráng!”

“Samuel Beckett nói, đúng không?”

“Đúng rồi,” tôi nói, hỏi lại. “Cậu đang học gì vậy, nhắc lại xem?”

“Ồ, năm hai, ngành Y,” cô nói, và tôi nghĩ, Chúa ơi, cô ấy là một thiên tài. Tôi quan sát với vẻ ngạc nhiên lộ rõ khi cô cởi cái ba lô độc đáo ra.

“Tớ thích gấu trúc,” tôi nói.

“Ồ... cảm ơn cậu!”

“Đang ngấp nghé nhìn qua vai cậu kìa! Hay tớ nên nói là Bắc Kinh trên vai cậu nhỉ!”

Cô nhìn tôi không hiểu, thế nên để cho rõ, tôi nói, “Cậu mang nó bên mình từ nhà hả?”

“Cậu nói gì cơ?”

“Cậu mang nó từ nhà à?”

Cô trông bối rối. “Cậu muốn nói đến ký túc xá của tớ á?”

Tôi có cảm giác chưng hửng. “Không, cậu biết đấy... quê cậu ấy.”

“À, ý cậu là Trung Quốc! Bởi vì đó là gấu trúc chứ gì? Mà, thật ra, tớ đến từ Minneapolis, nên không phải đâu.”

“Phải, nhưng lúc ban đầu cậu đến từ...?”

“Minneapolis...”

“Nhưng bố mẹ cậu, họ đến từ...”

“Minneapolis...”

“Nhưng bố mẹ của họ đến từ...”

“Minneapolis...”

“Tất nhiên rồi. Minneapolis.” Và cô cười với tôi bằng sự tử tế chân thật, hoàn hảo bất chấp sự thật rằng tôi rõ ràng là một gã cặn bã phân biệt chủng tộc, dốt nát. “Đó là nơi Hoàng tử sinh ra!” tôi nói, giọng sôi nổi.

“Chính xác! Đó là nơi Hoàng tử sinh ra,” cô ấy nói. “Dù tớ chưa bao giờ gặp anh chàng đó.”

“Ôi,” tôi thốt lên. Tôi thử lại lần nữa. “Cậu đã xem phim Mưa tím chưa?”

“Chưa,” cô đáp. “Thế. Cậu. Đã. Xem. Mưa tím chưa?”

“Rồi. Hai lần,” tôi đáp.

“Cậu có thích không?” cô hỏi.

“Không hẳn,” tôi đáp.

“Nhưng cậu đã xem đến hai lần mà!”

“Tớ biết vậy,” tôi đáp, và hóm hỉnh nói, theo giọng Mỹ khá chuẩn, “Chả hiểu!”

Và rồi, ơn Chúa, cửa mở và Colin Pagett Bé Bự xuất hiện, cầm theo bốn chai Newcy Brown và một hộp giấy Gà rán Kentucky. Patrick đưa cậu ta vào giống như một ông quản gia dẫn anh thợ cạo ống khói vào, và trong im lặng khó xử sau đó, tôi từ từ ngẫm nghĩ về nghệ thuật trò chuyện đầy phức tạp. Tất nhiên, lý tưởng nhất vẫn là thức dậy vào buổi sáng và được đưa tận tay bản lời thoại dự định sẽ nói trong cả ngày, thế là tôi có thể xem qua và tự viết lời thoại cho mình, cắt bỏ những nhận xét ngốc nghếch và câu nói đùa ngu si, dở hơi. Nhưng rõ ràng điều đó không thực tế, và một lựa chọn khác là chẳng bao giờ nói chuyện nữa, thì cũng không khả dụng.

Vì vậy có lẽ tốt hơn nên nghĩ là việc trò chuyện hơi giống việc sang đường; trước khi mở miệng tôi cần dành vài phút nhìn cả hai phía, thận trọng xem xét điều sắp nói ra. Và nếu điều này có nghĩa là cuộc nói chuyện của tôi sẽ hơi chậm và mất tự nhiên, giống như một cú điện thoại giữa hai bờ Đại Tây Dương, cũng đồng nghĩa với việc tôi phải dành thêm một ít thời gian đứng ngoài rìa cuộc trò chuyện, nói một cách ẩn dụ là, nhìn sang trái sang phải, thế thì nên làm như vậy, vì rõ ràng tôi không thể mù quáng đi loạng choạng giữa dòng xe cộ. Tôi không thể cứ để mình bị xe chẹt phải như thế này.

May quá, chưa cần trò chuyện gì ngay lúc này vì trong khi đợi Alice đến, Patrick cho chạy một trong số các cuốn băng video quý báu của anh ta - trận chung kết năm ngoái, và chúng tôi ngồi xem đội Dundee thắng một lần nữa, trong khi Patrick lầm bầm câu trả lời và Colin ăn thịt gà trong hộp, thế là trong mười lăm phút, chỉ có những âm thanh thế này: Colin mút đùi gà, Patrick lầm bầm như điên ở tay ghế sofa.

“... Kafka... nitơ... 1956... tá tràng... câu hỏi bẫy, không phải cái nào cả... C. P. E. Bach...”

Và thỉnh thoảng, tôi xen vào một câu trả lời, không thì là Colin, với cái miệng đầy thịt gà rán - Ravel, Hỏa Ngục của Dante, Rosa Luxembourg, Veni Vidi Vici - nhưng rõ ràng Patrick đang đánh dấu lãnh thổ của mình, cho thấy ai mới là chủ, vì giọng của anh ta càng ngày càng to...

“... NHỮNG BẢN BLUE BUỒN... KHÔNG PHẢI DÂN DO THÁI... BỆNH THƯƠNG HÀN. MARY... ĐÓ ĐỀU LÀ SỐ NGUYÊN TỐ...”

... và mặc dù cũng thích chương trình này cũng nhiều như bao người khác, tôi không thể chịu được ý nghĩ rằng chuyện này có thể đưa sự việc đi quá xa...

“... RHINE, RHONE, DANUBE... AND TY THỂ... CON LẮC FOUCAULT...”

... anh ta đã học thuộc lòng chúng à? Liệu chúng tôi có phải nghĩ là anh ta chưa bao giờ xem cuốn băng trước đây, hay chúng tôi phải nghĩ là đằng nào thì anh ta cũng biết mọi câu trả lời rồi? Và Lucy Chang có phản ứng gì trước tất cả sự việc này? Tôi liếc sang bên cạnh, cô đang nhìn xuống sàn, mắt nhắm nghiền, và tôi nghĩ có lẽ cô buồn, hoặc khó xử, cũng dễ hiểu thôi, nhưng sau đó tôi để ý thấy vai cô hơi rung và nhận ra cô đang cố kìm để không cười phá lên...

“... BÀI THƠ CA NGỢI BÌNH ĐỰNG DI CỐT CỦA NGƯỜI HY LẠP... BO DIDDLEY...

THẢM SÁT VÀO NGÀY LỄ THÁNH BARTHOLOMEW... CẦU HÀNG KHÔNG BERLIN...”

... và đúng lúc có lẽ cô không nhịn nổi nữa, chuông cửa dưới lầu vang lên, và Patrick đi ra, để ba chúng tôi chăm chăm nhìn thẳng vào ti vi. Cuối cùng, chính Colin là người lên tiếng trước, với chất giọng trầm, đầy vẻ bí ẩn.

“Chỉ tại tớ nghĩ lẩn thẩn, hay gã này hoàn toàn phát điên rồi hả?”

***

Sự xuất hiện của Alice làm cho bầu không khí trở nên bớt nặng nề đáng kể. Nàng thở hổn hể, được bọc trong cái khăn choàng cổ, áo khoác và găng tay hở ngón bằng da lộn, nhìn quanh phòng, mỉm cười chào mọi người. “Chào Bri!” nàng nói một cách thật ấm áp, và ném cho tôi một cái nháy mắt khiêu gợi. Patrick lăng xăng quanh nàng, đúng là gã đần, anh ta luồn tay lên mái tóc trông như nhựa màu be, mời nàng ngồi vào chỗ của mình, và rót một ly rượu Bulgarian Cabernet Sauvignon từ chính chai rượu tôi mua bằng tiền túi và đem đến như thể đó là của anh ta vậy. Khi Alice hỏi, “Anh có phiền không nếu em hút thuốc?” anh ta nói “Dĩ nhiên là không!” như thể đột nhiên đó là một ý tưởng tuyệt vời, tại sao anh ta không tự mình nghĩ ra sớm hơn vậy, sau đó anh ta ngó quanh tìm gì đó để dùng làm gạt tàn, rồi thấy một hộp nhỏ đựng kẹp giấy, anh ta trút hết kẹp ra bàn, theo đúng kiểu điên cuồng rũ bỏ không thương tiếc.

Alice nép mình ngồi cạnh tôi trên ghế sofa, hông nàng áp chặt vào hông tôi, Patrick hắng giọng rồi nói với cả đội.

“Thế là chúng ta đã có mặt đầy đủ! ‘Bộ Tứ Siêu Đẳng!’ Và tôi thật sự nghĩ rằng chúng ta sẽ tạo nên một điều đặc biệt vào năm nay...”

Chờ một chút nào - Bộ Tứ ấy à?

“Bây giờ sẽ giải thích về quá trình diễn ra cuộc thi này...”

Tôi đếm số người trong phòng: một, hai, ba...

“... giai đoạn đầu tiên là chúng ta cần thắng vòng sơ khảo cho cuộc thi được truyền hình trực tiếp...”

Tại sao không nói là “Bộ Năm Lừng Danh”? Anh ta có mất cái quái gì khi nói “Bộ Năm Lừng Danh” đâu chứ.

“Thời hạn là hai tuần, cuộc thi không chính thức, nhưng cũng khó phết đấy, chúng ta cần đủ giỏi để có thể thi khi chương trình lên sóng. Vậy từ đây cho đến lúc đó, tôi đề nghị bốn chúng ta họp mặt ở đây vào giờ này mỗi tuần, và trả lời thử một số câu hỏi soạn trước, và có thể xem một hoặc hai cuốn băng, chỉ là để tập luyện đều đặn trong...”

Gượm đã - sao tôi lại không thể đến chứ? Tôi phải đến, nếu không, làm sao tôi gặp được Alice. Tôi giơ tay định hỏi, nhưng Patrick đang để một cuộn băng vào đầu video, và không thể thấy tôi, nên tôi bèn hắng giọng và nói, “Ơ này, Patrick...?”

“Gì hả Brian?”

“Thế tôi không cần đến à?”

“Tôi nghĩ thế, không cần đâu...”

“Không hề à...?”

“Không...”

“Anh không nghĩ đó là một ý kiến hay nếu sau này...?”

“À, chúng tôi sẽ chỉ cần cậu trong trường hợp khẩn cấp thôi. Tôi chỉ nghĩ tốt nhất là cả bốn thành viên nên tập cho quen việc coi nhau như một đội, trên cơ sở, cậu biết đấy, chúng tôi là một đội.”

“Vậy là anh không cần tôi à?”

“Không.”

“Thậm chí không cần đến và, anh biết đấy, quan sát chẳng hạn...?”

“Không thật sự cần thiết đây Brian, không đâu...” và anh ta vội vàng ấn nút cho chạy cuộn băng. “Được rồi, đây là trận Leeds đấu với Birkbeck trong vòng tứ kết hai năm trước. Một trận đấu thật sự hay...” rồi anh ta ngồi xuống ghế sofa, Alice chen giữa chúng tôi, hông nàng ép sát vào hông tôi, trong khi tôi cố gắng nghĩ ra kế hoạch ám sát Patrick Watts.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,524
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 10


10

CÂU HỎI: Khẩu hiệu tiếng Latin xuất hiện cùng hình ảnh sư tử gầm ở đầu các bộ phim của hãng Metro-Goldwyn-Mayer có nghĩa gì?

TRẢ LỜI: Ars Gratia Artis - Nghệ thuật Vị Nghệ thuật.

***

“Vâng, cá nhân em, em phải nói là em tuyệt đối ghét bài thơ này. Ý em là, em thấy cái ý nghĩ rằng đây là một bài thơ tình đặc sắc thật là nhảm nhí. Đây chỉ là một bài thơ của một gã hứng tình, một tên sở khanh tầm thường, tuyệt vọng về tình dục đang cố gắng chạm đến cái quần lót của người tình bằng cách lải nhải rằng ‘Thời giờ thấm thoắt thoi đưa’[1] mà không chấp nhận lời từ chối. Chẳng có gì là trữ tình hay lãng mạn, và chắc chắn không có gì tình tứ trong bài thơ này cả, không hề, cho dù ta là phụ nữ,” Erin lè nhè, đó là cô bạn của Alice, cô gái mắt mèo với mái tóc cắt ngắn nhuộm vàng hoe. “Thực tế thì, nếu có gã nào đấy gửi bài thơ này cho em hoặc đọc nó cho em nghe hoặc làm gì tương tự, em sẽ gọi cảnh sát. Chẳng lấy gì làm lạ nếu người tình của ông ta thấy xấu hổ. Nhà thơ này là một gã thù ghét đàn bà toàn tập.”

[1] Nguyên văn: Time’s Winged Chariot.

“Em nghĩ Andrew Marvell là một gã thù ghét đàn bà?” Giáo sư Morrison hỏi, ngả người trên chiếc ghế bành, những ngón tay dài đặt trên bụng.

“Về cơ bản thì đúng là vậy. Dù gì đi nữa, theo như bài thơ này thì chắc chắn là như vậy rồi.”

“Vậy giọng nói của nhà thơ và giọng nói trong bài thơ là của một người và hệt như nhau?”

“Tại sao lại không? Chẳng có gì cho thấy bất kỳ biện pháp nhân cách hóa xa nào...”

“Brian, em nghĩ sao?”

Nói thật nhé, tôi đang nghĩ về Alice, vì vậy tôi ngừng lại một giây và câu giờ bằng cách chà chà vào lỗ tai, như thể những khả năng đặc biệt quan trọng của tôi bằng cách nào đó lại nằm ở dái tai và tôi chỉ cần kích hoạt chúng vậy. Đây mới là lần phụ đạo thứ ba của tôi, và lần trước tôi bị bắt lỗi vì tội giả vờ đã đọc Công viên Mansfield trong khi sự thật là chỉ mới xem được nửa tập đầu trên ti vi, vì vậy lần này phải làm tốt hơn. Từ kho vũ khí của mình, tôi chọn cụm từ “bối cảnh lịch sử”.

“Em nghĩ nó phức tạp hơn thế, đặc biệt nếu ta đặt bài thơ này vào bối cảnh lịch sử...” và Erin chép miệng thở dài, vì cô ta có xu hướng làm thế bất cứ khi nào tôi mở miệng trong giờ phụ đạo. Erin rõ ràng ghét tôi thậm tệ, mặc dù tôi chẳng hiểu tại sao, vì tôi vẫn luôn mỉm cười với cô ta cơ mà. Tất nhiên trừ phi đó chính là nguyên nhân. Thôi kệ đi. Tập trung nào. “Trước hết rõ ràng có một yếu tố hài hước mạnh mẽ ở đây. Sử dụng thủ pháp khoa trương chính là tự nhận thức được bản thân, và theo hướng đó, bài thơ có một chút giống bài xônê số 130 của Shakespeare, ‘Mắt người tình tôi không giống ánh mặt trời’... (một câu thơ hay)... ngoại trừ trong trường hợp này sự khoa trương của nhà thơ khiến ông có vẻ ngốc nghếch - sự tuyệt vọng, bất hạnh cùng cực mà ông vin vào để thuyết phục người tình hồi tâm chuyển ý đã khiến ông trở thành một nhân vật có bản chất hài hước. Đó là một vở hài kịch phản ánh sự tuyệt vọng về tình dục và sự bẽ mặt đầy lãng mạn. Thật ra ‘người tình xấu hổ’ được lấy tên để đặt cho bài thơ, đối tượng của niềm đam mê không được đáp lại của nhà thơ này, chính là người có toàn bộ quyền hạn ở đây...”

“Này, đó là một đống những thứ tào lao theo chủ nghĩa sô vanh, phản động đấy,” Erin ngắt lời, cô ngồi ngọ ngoạy trên ghế suốt từ nãy giờ, phẫn nộ làm cho các ghế nhựa kêu kin kít. “Cái cô người yêu thẹn thùng ấy chả có quyền hạn gì hết, cũng chả có tí cá tính nào, cô ta chỉ là kẻ tầm thường, rỗng tuếch, chẳng qua được khắc họa là người có sắc đẹp và không sẵn lòng quan hệ tình dục với cái ông nhà thơ ấy thôi. Mà âm điệu bài thơ rõ ràng là chẳng hài hước hay trữ tình gì sất, chỉ có dọa nạt, dụ dỗ với đàn áp thôi.”

Rồi thì Chris, gã hippie có bàn tay cáu bẩn bắt đầu lên tiếng, thế là tôi quyết định để Erin dùng anh chàng như chỗ gãi ngứa thay thế trong chốc lát. Giáo sư Morrison nở một nụ cười hiền từ như một người cha với tôi, để tôi biết là ông đồng tình với tôi về mọi mặt. Tôi thích Giáo sư Morrison. Tôi cũng sợ ông nữa, sự kết hợp này hoàn toàn đúng để dành cho một giảng viên đại học. Ông trông hao hao David Attenborough, điều đó cũng tốt cho một giảng viên đại học, ông hay mặc quần nhung kẻ, cà vạt hàng dệt kim, người ốm như que củi, khác hẳn cái bụng phệ nhỏ chắc nịch trông như một miếng lót nệm được cột vào bằng dây da dưới chiếc áo sơ mi bẩn. Và khi ta đang nói thì ông lắng nghe chăm chú, đầu hơi ngẩng lên, những ngón tay dài đan vào nhau kiểu nhà thờ có mái hình tháp trước miệng, hệt như các Trí thức hay làm trên ti vi.

Trong khi Erin đang ăn tươi nuốt sống Chris và Giáo sư Morrison đang chăm chú theo dõi, tôi để tâm hồn treo ngược cành cây và nhìn ra khu vườn bên ngoài cửa sổ, tiếp tục nghĩ về Alice.

***

Khi đi dọc theo Phố Lớn trên đường về sau buổi phụ đạo, tôi thấy Rebecca hay tên-gì-đó và hai gã trông kiểu tao-điên-lắm-rồi-đấy lúc nào cũng kè kè bên cô nàng. Họ đang nhét tờ rơi vào tay những người mua sắm thờ ơ và trong tích tắc tôi đã định sang đường. Nói thật ra tôi có phần e dè cô nàng đó, nhất là sau cuộc nói chuyện gần đây, nhưng tôi đã tự hứa với lòng là phải hết sức kết giao thật nhiều bạn bè mới ở trường đại học, ngay cả khi họ đưa ra đủ loại dấu hiệu để thể hiện là chẳng thích mình cho lắm.

“Chào đằng ấy,” tôi nói.

“Nữ hoàng Khiêu vũ đây mà! Khỏe không?” cô nàng hỏi và đưa tôi một tờ rơi, cổ động tôi tẩy chay Barclays.

“Thật ra tiền học bổng của tớ đang được gửi ở một ngân hàng đa quốc gia nhân đạo và chu đáo khác rồi!” tôi nói với ánh nhìn sắc bén, đầy nhạo báng và giễu cợt, nhưng cô nàng không hẳn đang nhìn tôi mà lại quay ra phát tờ rơi và la to “Chống nạn phân biệt chủng tộc ở Nam Phi! Ủng hộ tẩy chay. Không mua hàng hóa Nam Phi! Nói không với nạn phân biệt chủng tộc ở Nam Phi!...” Khi tôi đã bắt đầu cảm thấy mình cũng bị tẩy chay và dợm bước đi thì cô nàng hỏi, bằng giọng nhỏ nhẹ hơn một tí, “Sao rồi, cậu ổn định chưa?”

“À, ổn cả. Tớ ở chung nhà với hai thằng Rupert cánh tả trời đánh thánh vật. Nhưng trừ cái đó ra thì mọi thứ cũng không tệ lắm...” tôi vừa mớm thêm gợi ý về vụ đấu tranh giai cấp mà cô nàng quan tâm, nhưng chắc cô nàng nhận thấy được điều đó, vì cô nàng chỉ nhìn tôi, bối rối.

“Họ đều tên là Rupert à?”

“Không, bọn đấy tên là Marcus và Josh.”

“Thế thì Rupert là ai?”

“Họ là, họ là, cậu biết đấy... Rupert[2] chứ còn ai nữa,” nhưng lời phê bình này đang bắt đầu mất đi ít nhiều sắc bén, và tôi tự hỏi thay vào đó mình có nên đề nghị phát tờ rơi phụ không. Rốt cuộc, đó chính là điều khiến tôi thấy hăng hái, và tôi có một chủ trương khắt khe là không ăn được trái cây Nam Phi, nó cũng khắt khe như chủ trương không ăn trái cây của tôi vậy. Nhưng giờ thì Rebecca đang gấp những tờ rơi còn lại và đưa cho các bạn học của cô nàng.

[2] Rupert (tiếng lóng Anh) chỉ những thiếu niên nổi tiếng vì tính sáng tạo mà thiếu những phẩm chất đàn ông quan trọng.

“Được rồi, phần của tớ hôm nay thế là xong nhé. Gặp cậu ngày mai, Toby, gặp cậu sau, Rupert...” và đột nhiên tôi thấy mình sánh bước xuống phố cùng cô nàng, hoàn toàn không biết việc đó là chủ ý của ai nữa. “Thế bây giờ tụi mình đi đâu đây?” cô nàng hỏi, hai tay nhét sâu vào túi áo khoác đen vinyl.

“Đúng ra, tớ đang trên đường đến Triển lãm Nghệ thuật Thành phố.”

“Triển lãm Nghệ thuật á?” cô nàng hỏi, tỏ vẻ thích thú.

“Phải, cậu biết đấy, tớ nghĩ là mình cứ xem cho biết thì đã sao?”

Cô nàng chun mũi, trả lời, “Được thôi, cùng đi ‘xem cho biết’ vậy!” và tôi theo chân cô nàng xuống phố.

***

A, cái chiêu đi-xem-thử-triển-lãm-nghệ-thuật-thế-nào xưa như trái đất chính ra lại không lỗi thời đâu nhé. Tôi đã chờ đợi dịp nào đó để thử chiêu này, vì ở Southend nó không khả thi, nhưng đây là một phòng triển lãm nghệ thuật đúng chuẩn; không khí yên lặng như ở thư viện, những băng ghế đá cẩm thạch, tay bảo vệ ngủ gà ngủ gật trên mấy cái ghế không thoải mái. Kế hoạch lý tưởng của tôi là hẹn hò Alice ở đây, nhưng cứ diễn tập với người khác trước cũng tốt, để tôi có thể lường trước những phản ứng tự phát của mình.

Tôi không ngại thú nhận rằng hiểu biết của tôi về nghệ thuật tạo hình khá là nông cạn; thí dụ như, tôi thường bấm bụng nói rằng ai đấy trong tranh giống hệt người-này-người-nọ trên ti vi. Ngoài ra, có một số quy tắc cần phải nắm rõ khi đi xem triển lãm nghệ thuật - đứng trước mỗi bức tranh trong bao lâu, tạo ra âm thanh gì, kiểu thế - nhưng Rebecca và tôi đã nhanh chóng tạo ra một nhịp điệu đúng mực và thoải mái; không đi quá nhanh để bị coi là nông cạn, cũng không dừng lại quá lâu để mà thấy chán chết.

Chúng tôi đang bước vào phòng Thế kỷ Mười tám, đứng trước một bức tranh không đặc sắc lắm của một họa sĩ tôi chưa từng nghe đến, bức Lãnh chúa và Nữ lãnh chúa đứng dưới cây đậm chất Gainsborough.

“Phối cảnh xa gần tuyệt thật nhỉ,” tôi nói, nhưng thu hút sự chú ý của cô bằng quy luật vật thể trở nên nhỏ hơn khi ở xa hơn thì có chút tầm thường, thế nên tôi quyết định chọn cách tiếp cận mang tính chính trị xã hội hơn, Mác xít hơn.

“Nhìn khuôn mặt họ kìa! Hẳn là họ hài lòng với địa vị của mình lắm!”

“Chắc vậy,” Rebecca đáp, chẳng mặn mà gì lắm.

“Thế không thích nghệ thuật à?”

“Dĩ nhiên là thích. Chẳng qua tớ không nghĩ là chỉ vì một thứ được đặt vào một cái khung lớn, mạ vàng tệ hại mà tớ buộc phải đứng trước nó hàng giờ mà xoa cằm. Ý tớ là, xem cái này đi...” Tay vẫn để trong túi áo, cô ra hiệu bằng cánh dơi của chiếc áo khoác, chỉ chung quanh phòng một cách mạnh bạo, “... những bức chân dung của cái bọn nhà giàu rỗi hơi đang ngắm nghía của cải bất chính của mình, những bức tranh xinh xắn thể hiện công việc đồng áng vất vả nhọc nhằn, những bức tranh vẽ những con heo sạch sẽ không có vết bẩn nào. Ý tớ là hãy nhìn những thứ kỳ dị này xem” - cô ấy chỉ một thân hình khỏa thân đầy đặn, hồng hào, mịn màng nằm dài trên ghế - “tranh khiêu dâm dành cho bọn buôn nô lệ. Vì Chúa, lông mu của cô ta đâu hết rồi cơ chứ! Có bao giờ trong đời cậu thấy một người đàn bà khỏa thân giống như thế chưa?” Tôi định bảo là chưa bao giờ thấy đàn bà khỏa thân, nhưng lại không muốn thổi bay đi phẩm chất nghệ thuật của mình, nên khẽ nói. “Ý tớ là, đúng ra thì bức tranh đó dành cho ai nhỉ?”

“Thế cậu không nghĩ nghệ thuật có giá trị nội tại nào đấy à?”

“Không, tớ không nghĩ nó có giá trị nội tại chỉ vì ai đó ở đâu đó quyết định gọi nó là ‘nghệ thuật’. Giống như cái này này - đó là một thứ vớ vẩn mà cậu có thể thấy trên bức tường của Câu lạc bộ Bảo thủ dưới tỉnh...”

“Thế thì tớ cho là nếu cách mạng đến, cậu sẽ đốt rụi chỗ này...”

“Ôi chao, đúng là cậu có một thói quen nhỏ đáng mến đấy, vơ đũa cả nắm...” tôi theo chân cô đi vào một phòng chứa đầy tranh tĩnh vật, và quyết định đưa cuộc nói chuyện ra khỏi chủ đề chính trị. “Số nhiều của ‘tĩnh vật’ là gì nhỉ? Là ‘các tĩnh vật’ hay ‘những tĩnh vật’?” Điều này khiến tôi chú ý là vì nó là một điều thú vị tinh tế có thể đem thảo luận trên kênh Radio 4, nhưng cô lại không cắn câu.

“Vậy cậu theo đảng phái chính trị nào?” cô hỏi.

“À, chắc kiểu như là chủ nghĩa nhân văn tự do cánh tả.”

“Nói cũng như không...”

“À, tớ không nói l...”

“À mà cậu học ngành gì ấy nhỉ?”

“Văn. Anh.”

“Vănanh là cái gì?”

“Văn học Anh.”

“Thời bây giờ người ta gọi nó như thế hả? Mà cái gì cuốn hút cậu vào Vănanh thế, ngoài cái sự thật đó chỉ là một sự trốn tránh có lợi, béo bở, to tát.”

Tôi chọn cách phớt lờ lời bình luận cuối, và đi thẳng vào bài phát biểu tủ của mình. “À, thật tình tớ cũng không biết phải làm gì. Tớ có kiến thức nền kha khá với các chứng chỉ O-level và A-level, tớ nghĩ tới lịch sử, nghệ thuật, hoặc có thể là một môn khoa học nào đấy. Có điều nói về văn học ấy mà, về cơ bản thì nó tóm gọn kiến thức của tất cả các môn học - nào là lịch sử, triết học, chính trị học, chính trị học giới tính, xã hội học, tâm lý học, ngôn ngữ học, khoa học. Văn học là sự phản ánh có tổ chức của loài người về thế giới xung quanh mình, nên cũng là tự nhiên khi mà sự phản ánh đó sẽ chứa đựng toàn bộ...” - lấy hơi cái đã - “... một bộ những quan điểm, ý tưởng, vấn đề...”

Vân vân, vân vân và vân vân. Hoàn toàn chân thành nhé, đây không phải là lần đầu tiên tôi nói những điều này đâu. Thực tế thì, tôi sử dụng bài phát biểu tủ ngắn này trong tất cả những cuộc phỏng vấn vào các trường đại học, và mặc dù không được khí thế như bài diễn văn Chúng ta sẽ chiến đấu trên các bãi biển[3], nó vẫn thường thành công với các giảng viên đại học, đặc biệt khi đi kèm với, như lúc này, vò đầu bứt tai và rất nhiều những điệu bộ nhấn mạnh. Tôi đưa bài phát biểu lên tới cực điểm gây choáng “... như Hamlet đã nói với Polonius trong hồi hai, cảnh hai, toàn là về ‘từ ngữ, từ ngữ, từ ngữ’, cái chúng ta gọi là ‘văn học’ thực ra chỉ là công cụ cho cái được miêu tả chính xác hơn là Nghiên cứu về... Vạn vật.”

[3] Tên thường gọi của bài diễn văn nổi tiếng do Winston Churchill đọc trước Hạ viện Anh ngày 4 tháng Sáu năm 1940.

Rebecca ngẫm nghĩ về điều này, gật gù ra vẻ nghiêm trang. “Thế hả, đấy chắc chắn là một mớ những thứ nhảm nhí vớ vẩn nhất mà thỉnh thoảng tớ cũng nghe nói đến,” cô ấy nói, và bắt đầu bỏ đi.

“Cậu nghĩ thế à?” tôi nói, lóc cóc chạy theo.

“Ý tớ là sao cậu không nói đơn giản là muốn mài đũng quần trên ghế nhà trường trong ba năm? Ít ra thế cũng chân thật hơn. Văn chương không dạy cậu về ‘vạn vật’, mà nếu có đi nữa, cũng chỉ theo cách không thực tế, hời hợt, vô ích nhất. Tức là bất cứ ai nghĩ chỉ cần đọc qua vở Under Milk Wood là đã có thể học điều gì đó thực tiễn về chính trị, tâm lý học hoặc khoa học thì đúng là họ đang nói vớ vẩn. Cứ thử tưởng tượng mà xem nếu ai đó bảo cậu, ‘À, ngài-tên-gì-đó-ơi, tôi sắp sửa cắt bỏ lá lách của ngài, và, thôi được rồi, thật ra tôi chưa học Y đến trình độ đó đâu, nhưng đừng lo, tôi rất thích đọc Cuộc phiêu lưu của ông Pickwick[4]...?”

[4] The Pickwick Papers, tiểu thuyết đầu tiên của Charles Dickens.

“À, ngành Y là một trường hợp đặc biệt.”

“Thế chính trị thì không phải à? Còn lịch sử? Luật? Tại sao lại không? Bởi vì dễ hơn à? Không đáng phân tích sâu bằng à?”

“Thế sao cậu không nghĩ tiểu thuyết, thơ ca và kịch nghệ góp phần làm cho cuộc sống có chất lượng và phong phú hơn?”

“Tớ đã không nói vậy, được chưa? Tớ chắc là đúng như thế, nhưng một bản nhạc pop ba phút cũng làm được thế, và không ai nghĩ là cần phải mất đến năm để học cái đó đâu.”

Tôi chắc là Alexander Pope[5] đã nói gì đó rất chuẩn để giải vây cho tôi lúc này, nhưng tôi không tài nào nhớ nổi, và tôi định bụng dùng từ “thuyết vị lợi” nhưng cũng không chắc lắm. Thế thay vào đó, tôi bèn nói, “Chỉ vì một cái gì đó không thực tiễn thì không có nghĩa là nó không hữu dụng.”

[5] Nhà thơ Anh nổi tiếng thế kỷ mười tám.

Nghe thế, Rebecca chun mũi, và tôi nhận ra lúc này mình đang lâm vào một tình huống khó đối phó, về mặt ngữ nghĩa, nên tôi quyết định dùng chiến thuật khác, và tiếp tục tấn công.

“Thế cậu đang học ngành gì, cái rất là hữu dụng ấy?”

“Luật. Năm hai.”

“Luật!... Ra vậy, tớ cho là luật cũng hữu ích đấy.”

“Ờ, cứ hy vọng vậy đi.”

Luật chính là lý lẽ. Nếu đang trong một phiên tòa, nhất định tôi không muốn tranh cãi với Rebecca Epstein. Cô nàng nói như tát vào mặt người ta với cái giọng Glasgow, phun ra những cái kiểu “Định nghĩa thuật ngữ của anh xem nào!” và “Lập luận của anh sáo rỗng quá đấy!” Thực ra giờ tôi cũng chẳng muốn tranh luận với cô ấy, nên tôi bèn ngừng nói và chúng tôi lặng lẽ đi hết Bảo tàng Thành phố, ngắm nghía những tủ kính trưng bày hóa thạch, đồng xu La Mã và nông cụ cổ xưa. Tôi nghĩ đây chính là lần đầu trong cuộc đời đi học mình được nếm trải và cọ xát với thực tiễn. Dĩ nhiên cũng có những tranh cãi với Erin trong giờ phụ đạo, nhưng nó cũng giống như trò vật tay; vấn đề chỉ là bạn có thể chịu đựng được tới đâu. Với Rebecca, tôi cảm thấy như bị đâm vào mắt. Ngoài ra, đây mới chỉ là tuần lễ thứ ba, tôi chắc là rồi mình sẽ khá hơn, và tận đáy lòng tôi biết mình có thể nghĩ ra một câu trả lời hùng hồn sắc bén, ngay cả khi nếu chuyện đó không xảy ra trong vòng ba đến bốn ngày nữa. Lúc này thì tôi quyết định thử xem có định chuyển chủ đề hay không.

“Vậy sau rồi cậu muốn làm gì?” tôi hỏi.

“Chưa biết. Chúng ta có thể đi uống gì đấy nếu cậu muốn...”

“Không, ý tớ là sau đại học ấy, khi cậu đủ điều kiện...”

“Khi đủ điều kiện á? Chả biết nữa. Sẽ có điều gì đấy thật sự tạo nên khác biệt cho đời người. Tớ cũng không chắc mình có muốn làm luật sư không, nhưng mà tớ có hứng thú với luật nhập cư. Văn phòng Tư vấn Công dân làm việc tốt đấy. Cũng có khi tớ chuyển sang làm chính trị hoặc viết báo hay cái gì đấy, nhằm góp phần thay đổi những gã Bảo thủ đáng ghét. Cậu thì sao?”

“Ồ, có khi dạy học hoặc nghiên cứu. Lớ ngớ có khi lại viết văn.”

“Cậu viết cái gì thế?”

“À, chưa có gì cả.” Tôi quyết định thử cách khác, và nói thêm, “Chỉ có một bài thơ ngắn thôi.”

“Ô, đây rồi. Cậu là một nhà thơ, thế mà tớ chẳng biết gì sất.” Cô ấy nhìn đồng hồ. “À, tớ phải về đây.”

“Cậu sống ở đâu?”

“Trang viên Kenwood, chỗ có bữa tiệc ầm ĩ ấy.”

“A, cùng chỗ với cô bạn Alice của tớ hở?”

“Alice-tóc-vàng-xinh đẹp á?”

“Cậu ấy xinh đẹp á? Tớ chẳng để ý.” Giờ tôi chuyển qua thử áp dụng màn nhăn nhở khôi hài kiểu hậu nữ quyền, nhưng Rebecca chỉ tặc lưỡi, cau có hỏi, “Làm sao cậu quen cô ả thế hả?”

“À, chung đội tuyển Thách thức Đại học...” tôi nói, tự nhiên nhún vai. Tiếng cười của Rebecca vang lên dội vào bức tường đá của viện bảo tàng.

“Cậu chỉ được cái thích đùa!”

“Có gì mà buồn cười?”

“Không, không có gì. Xin lỗi nhá, tớ không biết mình đang nói chuyện với một nhân vật trên truyền hình cơ đấy. Cậu đang cố chứng tỏ cái gì vậy?”

“Cậu muốn nói đến chuyện gì?”

“À, tham gia vào chương trình kiểu như thế thì tức là cậu muốn chứng minh điều gì đó.”

“Tớ chẳng muốn chứng minh cái gì cả! Cho vui thôi. Và dù sao đi nữa, bọn tớ cũng chưa đủ điều kiện để tham gia cuộc thi trên truyền hình. Tuần sau bọn tớ mới thi vòng loại.”

“Thi đấu hả? Nghe có vẻ khí khái đàn ông phết nhỉ. Khác gì cậu phải mặc quần áo bảo hộ hoặc cái gì tương tự. Cậu chơi ở vị trí nào vậy? Trung phong? Thủ thành...?”

“Thật ra thì tớ là dự bị đầu tiên.”

“À, thế thì cậu không thật sự ở trong đội rồi.”

“Không. Không, tớ nghĩ không phải thế.”

“À, nếu cậu muốn tớ bẻ gãy ngón tay bấm chuông của đứa nào đấy, chỉ cần cho tớ biết...” Bây giờ chúng tôi đang đứng ở bậc cầu thang phòng triễn lãm, và lúc chúng tôi bước vào trong thì trời đã bắt đầu tối. “Nói chuyện với cậu vui thật đấy... Tớ xin lỗi, tớ lại quên tên cậu mất rồi.”

“Brian. Brian Jackson. Tớ đưa cậu về nhé?”

“Tớ biết đường, tớ sống ở đó mà, nhớ không? Hẹn gặp sau nhé, Jackson,” cô xuống cầu thang, rồi dừng chân và quay đầu lại. “Mà Jackson này? Tất nhiên là cậu nên học bất kỳ môn nào cậu muốn. Việc nhận thức và hiểu được thứ văn chương trong sách vở hoặc bất kỳ nỗ lực nghệ thuật nào chính là trung tâm của một xã hội tử tế. Cậu nghĩ tại sao sách vở lại là thứ đầu tiên mà phát xít đem đốt chứ hả? Cậu cần học cách bảo vệ chính kiến tốt hơn,” nói rồi cô quay lưng, bước từng bước ngắn xuống bậc thang rồi biến vào màn đêm.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,524
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 11


11

CÂU HỎI: Từ nào gốc tiếng Đức, mô tả niềm vui có được từ sự không may của kẻ khác?

TRẢ LỜI: Schadenfreude[1].

[1] Sự sung sướng trên nỗi đau khổ của người khác.

***

Hôm nay rốt cuộc vận may cũng đến với tôi. Colin Pagett Bé Bự mắc bệnh viêm gan.

Tôi biết chuyện này vào giữa giờ giảng về tập Thơ trữ tình của Coleridge và Wordsworth. Tiến sĩ Oliver đã giảng được một lúc, và tôi đang cố gắng tập trung, cố gắng hết mình, nhưng trong tâm trí tôi Thơ trữ tình là một cái gì đó giống như Kate Bush đã hát, bài “Người đàn ông với hình ảnh đứa trẻ trong mắt”[2], và đó chính là vấn đề chủ yếu của tôi đối với văn học lãng mạn; chỉ là chúng không đủ lãng mạn mà thôi. Bạn cứ tưởng là có cả một đống thơ tình để có thể chép vào những tấm thiệp Valentine, nhưng nhìn chung thì chúng toàn nói về hồ nước, bình đựng tro hỏa táng và người đi thu gom đỉa.

[2] Nguyên văn: “The Man with the child in his eyes”.

Qua những điều tôi có thể lượm lặt từ Tiến sĩ Oliver, mối quan tâm chủ yếu của Tâm hồn Lãng mạn là 1) Thiên nhiên, 2) Mối quan hệ giữa con người với thiên nhiên, 3) Sự thật và 4) Cái đẹp, nhưng ngược lại tôi có xu hướng hưởng ứng nhiều nhất với dòng thơ khai thác những đề tài như a) Chúa ơi, em xinh thật đấy, b) Anh thích em, xin hãy hẹn hò với anh được không, c) Hẹn hò với em thật, thật là tuyệt vời và d) Sao em lại không muốn hẹn hò với anh nữa? Chính nhờ xử lý được những đề tài này một cách kín đáo và sâu sắc mà dòng thơ của Shakespeare và Donne trở nên trữ tình và xúc động lòng người nhất ở nước Anh đầy những luật lệ này. Tôi ngẫm nghĩ đầu đề cho bài luận khai sáng sắp tới và đang định đặt là Hướng đến định nghĩa về “Lãng mạn”, nghiên cứu bước đầu về “chất trữ tình” trong thơ của Coleridge và Donne hoặc tương tự thì, vừa hay làm sao, tôi thấy khuôn mặt của Alice Harbinson xuất hiện trước cửa giảng đường.

Mọi người nhìn lên, họ nhìn thì cũng chả sao, nhưng hình như nàng đang dứ dứ ngón tay chỉ vào tôi, và nhép miệng nói điều gì đó. Tôi chỉ vào mình và nàng lật đật gật đầu, cúi xuống thật nhanh, viết gì đó vào tờ giấy A4 rồi ấn nó lên cửa kính.

“Brian, Mình Cần Cậu - Khẩn cấp,” tờ giấy viết thế.

Để quan hệ ư? Tôi tự hỏi. Chắc không đâu, mặc dù vậy, rõ ràng tôi không còn lựa chọn nào khác ngoài việc đi ra, vì vậy tôi gom sách vở tài liệu lại một cách kín đáo, cúi người xuống và hướng ra cửa. Tiến sĩ Oliver, thật ra là cả hội trường, nhìn về phía tôi.

“Xin lỗi thầy - em có hẹn với bác sĩ ạ,” tôi nói, và đặt tay lên ngực, như muốn nhấn mạnh là mình có thể lăn đùng ra chết bất đắc kỳ tử đây này. Dù sao, Tiến sĩ Oliver không có vẻ bận tâm gì nhiều mà tiếp tục giảng về Thơ Trữ tình, tôi lẻn ra ngoài hành lang gặp Alice, mặt nàng lúc này đã đỏ bừng, mồ hôi nhễ nhại, nàng thở không ra hơi nhưng mà thật đáng yêu.

“Xin lỗi, xin lỗi, xin lỗi, xin lỗi...” nàng thở hổn hển.

“Không sao, có chuyện gì vậy?”

“Chúng tớ cần cậu! Cho vòng xét tuyển chiều nay.”

“Thật không? Nhưng Patrick nói tớ không nên quấy rầy...”

“Colin không thể thi được - cậu ấy bị viêm gan.”

“Cậu đùa tớ đấy à!” Tất nhiên, tôi không đấm tay vào không khí hay làm động tác ăn mừng nào cả, vì tôi hoàn toàn thích Colin và lo cho cậu ta thật, thật đấy mà, thế là tôi tỏ ra lo lắng và hỏi thăm, “Cậu ấy có sao không?”

“Hoàn toàn không sao. Không nghiêm trọng, viêm gan A ấy mà. Đúng là cậu ấy trông có vẻ vàng vàng, nhưng sẽ ổn thôi, ổn cả thôi. Có điều như thế nghĩa là cậu được vào đội! Ngay bây giờ!” và chúng tôi làm vài động tác nho nhỏ thể hiện sự nôn nóng giành chiến thắng, chẳng có gì suồng sã cả, rồi chạy ào đến Hội Sinh viên.

***

Có những thời điểm mà dường như chính thành tựu của nhân loại lại mở rộng thêm quan niệm của chúng ta về khả năng của con người - chẳng hạn như tác phẩm điêu khắc của Bernini hay Michelangelo, vở bi kịch của Shakespeare hay tứ tấu đàn dây của Beethoven. Và trưa nay, trong cái quán bar sinh viên không một bóng người, vì một vài nguyên nhân không thể giải thích cho hợp lý - số phận, hay may mắn, bàn tay vô hình của Chúa, hay một sự chiếu cố - tôi dường như đã biết mọi thứ.

“Nếu Adenine cặp với Thymine thì Cytosine cặp với...?”

Biết. “Guanine.”

“Tên đầy đủ của tổ chức trao giải Oscar?”

Biết. “Viện Hàn lâm Khoa học và Nghệ thuật Điện ảnh.”

“Đúng. Sậy, bụi rậm, đầm lầy và rừng đều là tên các loài của họ Sylviidae, tên phổ biến hơn của họ này là...?”

Biết. “Chim chích?”

“Đúng. Tên thật Roberta Joan Anderson?”

Biết. “Joni Mitchell.”

“Đúng.”

Ban tổ chức Thách thức Đại học đã cử Julian tới, một thanh niên nói năng nhỏ nhẹ, lịch sự, khoảng hai mươi lăm tuổi, mặc áo cổ chữ V và thắt cà vạt; đại khái là bản sao của Bamber Gascoigne. Thể lệ cuộc thi rất dễ hiểu - bốn mươi câu hỏi trong vòng mười lăm phút, không có đối thủ, được phép thảo luận - xem chúng tôi có đạt yêu cầu để xuất hiện trong vòng chung kết chiếu trên truyền hình hay không. Và chúng tôi đạt. Ồ, chúng tôi đạt thật. Trên thực tế, tôi không ngại khi nói rằng chúng tôi nóng lòng lắm rồi.

“Một nhân vật từ thế kỷ mười hai, hoàng hậu của Pháp và Anh, là nguồn cảm hứng cho nhiều bài thơ của Bernard de Ventadour, một nhà thơ trung đại?”

“Eleanor xứ Aquitaine,” tôi đáp.

“Gượm, gượm đã - làm ơn thông qua đội trưởng cái đã, được chứ?” Patrick rít lên giận dữ. “Này, Brian, làm sao cậu biết hả?”

Tôi biết câu trả lời thật, vì Katharine Hepburn đã đóng vai bà ấy trong bộ phim gây nhiều tranh cãi thường được chiếu trên ti vi vào trưa Chủ nhật, nhưng tôi không nói cho anh ta biết điều đó, tôi chỉ gật đầu ra vẻ nghiêm trang và nói, mắt mở to, “Tôi chỉ... biết thế thôi,” như thể cái năng lực chinh phục thế giới tuyệt vời, tuyệt đối từ kiến thức phổ quát của tôi là một điều bí ẩn, ngay cả với tôi vậy. Đầy ngờ vực, Patrick nhìn sang Lucy Chang để xác minh, nhưng cô nàng chỉ nhún vai, thế là anh ta bèn trả lời: “Eleanor của xứ Aquitaine?”

“Đúng,” Julian nói.

Cảm thấy một bàn tay đang nắm chặt cánh tay mình, tôi liền liếc sang phải, Alice đang ngồi đó mỉm cười với tôi, mắt mở to đầy ngạc nhiên. Đó là câu trả lời đúng thứ chín liên tiếp, và tôi đang cảm thấy điều mà Jesse Owens[3] ắt hẳn đã cảm thấy ở Thế vận hội Berlin năm 1936. Những người khác không có khả năng đạt được điều đó, ngay cả Lucy Chang, và đột nhiên bệnh viêm gan của Colin Pagett như thể lại là điều tốt nhất xảy đến với tất cả mọi người trừ Colin Pagett, bởi vì có vẻ là tôi biết mọi điều về mọi thứ thật.

[3] Jesse Owens là vận động viên điền kinh người Mỹ thành công nhất trong Thế vận hội Mùa hè tại Berlin năm 1936, anh giành được bốn huy chương vàng.

“Đường vĩ tuyến nào được chọn tại hội nghị Postdam năm 1945 làm đường phân chia ranh giới của Nam Triều Tiên và Bắc Triều Tiên?”

Tôi thật tình không biết câu trả lời, nhưng không sao, chúng tôi đã có Lucy.

“Vĩ tuyến ba mươi tám?”

“Đúng.”

Và chuyện cứ thế tiếp diễn - Andalucia - đúng, 1254 - đúng, canxi cacbonat - đúng, Ford Madox Ford - đúng. Dĩ nhiên, nếu chuyện này thật sự diễn ra trên ti vi, chắc hẳn toàn quốc sẽ phải sững sờ, những cái nĩa găm đầy bánh nướng sẽ bị khựng lại khi đang ở giữa đường đưa vào miệng người xem trong sự kinh ngạc đến nghẹt thở. Nhưng không, nó chỉ diễn ra trong một quán bar sinh viên vắng tanh, nồng nặc mùi bia và thuốc lá, vào lúc ba giờ chiều một ngày thứ Ba của tháng Mười một ẩm ướt, và không có ai theo dõi, thậm chí những người quét dọn cũng vậy, một người trong số họ đã bắt đầu hút bụi các tấm thảm của quán.

“Ừm, có lẽ chúng ta nên...” Julian lầm bầm.

Patrick nhảy dựng lên và la hét đầy giận dữ.

“Này nhé! CHÚNG TÔI ĐANG CỐ GẮNG THI VÀ ĐANG CHẠY ĐUA VỚI THỜI GIAN ĐẤY!”

“Cái đó làm sau cũng được mà!” người quét dọn nói, vẫn tiếp tục hút bụi.

“ANH NÀY NÀY...” Patrick lớn tiếng, chỉ tay vào Julian, giống như một nhà tiên tri của Kinh Cựu ước “... ĐÃ ĐƯỢC TRỤ SỞ CUỘC THI THÁCH THỨC ĐẠI HỌC Ở MANCHESTER CỬ ĐẾN ĐÂY ĐẤY!” và vì một lý do nào đó, hình như câu nói này được việc, vì người quét dọn đã tắt máy hút bụi, lầm bầm đi đổ gạt tàn.

Trở lại với cuộc thi. Tôi tự hỏi lẽ nào câu thần chú đã bị phá vỡ, và không biết chúng tôi có thể giữ thế thắng mãi không, nhưng tôi không cần lo lắng vì câu hỏi kế tiếp là về việc chôn tàu của người được phát hiện tại Suffolk vào năm 1939, vụ phát kiến này đem đến hiểu biết sâu sắc về những nghi thức chôn cất cổ xưa.

Biết.

“Vùng Sutton Hoo,” tôi đáp.

“Đúng.”

“Cuộc kiểm tra tâm lý qua mẫu vết mực,” tôi trả lời.

“Đúng.”

“Biểu mô...” Lucy trả lời.

“Đúng.”

“Uganda?” Patrick nói.

“Không, tôi nghĩ là nước Zaire...” tôi nói, và Patrick cáu kỉnh nhìn tôi hệt như Caligula[4] vì đã dám nghi ngờ uy quyền của anh ta, sau đó quay lại phía Julian và trả lời chắc nịch “Uganda.”

[4] Gaius Julius Caesar Augustus Germanicus, thường được gọi với biệt hiệu Caligula, là hoàng đế La Mã thứ ba thuộc triều đại Julio-Claudia, trị vì từ năm 37 đến năm 41 Công nguyên, nổi tiếng là một lãnh chúa độc tài điên cuồng.

“Sai rồi. Thật ra đó là Zaire,” Julian nói, cười an ủi tôi. Tôi nghĩ đã thấy mắt Patrick hơi giật giật một cách không tự chủ, nhưng tôi đã quá chín chắn để mà hả hê về điều đó, vì rốt cuộc, Patrick ạ, đó không phải là hành động ghi điểm nhỏ nhặt của một cá nhân, tất cả là vì đồng đội, đồ đần...

“Chim sẻ nuôi,” tôi đáp.

“Đúng.”

“a là đồng dư của b theo môđun m đúng không?” Lucy thì thào.

“Đúng.”

“Luật hạn chế nhập khẩu ngũ cốc,” Patrick la lên.

“Đúng.”

“The Woodlanders của Thomas Hardy,” tôi đề xuất.

“Đúng.”

“Buster Keaton?” Alice gợi ý.

“Không, tớ nghĩ đó là Harold Lloyd,” tôi nói, một cách từ tốn nhưng chắc chắn.

“Được rồi, Harold Lloyd?” Alice đáp.

“Đúng. Kỹ sư hàng không nào mất vào năm 1937, vài năm trước khi bản thiết kế nổi tiếng nhất của ông bắt đầu thống trị bầu trời trong suốt cuộc chiến của...?”

“R. J. Mitchell,” tôi đáp.

“Cái gì?” Patrick hỏi.

“R. J. Mitchell, người thiết kế máy bay Spitfire.” Tôi nhớ được cái tên này là do tờ quảng cáo trên cái hộp của bộ lắp ráp Airfix tỉ lệ 1/12, và tôi biết mình đúng, đó là R. J. Mitchell, nhất định rồi, chắc chắn thế. Nhưng Patrick hiện đang nhìn tôi, cau mày như thể anh ta đang hồ hởi, đang khao khát chờ tôi bị sai. “Là R. J. Mitchell đấy - tin tớ đi.”

“R. J. Mitchell?” anh ta gượng đáp.

“Đúng,” Julian nói, giờ thì không thể không mỉm cười rồi. Patrick nheo mắt nhìn tôi, nhưng Lucy thì ngả người về phía trước anh ta và ra dấu với tôi bằng cách giơ ngón tay cái lên, còn Alice, à, Alice trượt bàn tay ra sau tôi và đặt lên chỗ thắt lưng tôi, nơi chiếc áo sơ mi bị lòi ra khỏi quần jean.

“Được rồi, câu hỏi cuối; kim loại có tính sắt từ thuộc nhóm VIII trong bảng tuần hoàn các nguyên tố hóa học, được nhà hóa học Thụy Điển Georg Brandt tách ra vào năm 1735, được sử dụng để sản xuất hợp kim có tính từ và chịu nhiệt?” Thành thật mà nói, bảng tuần hoàn các nguyên tố hóa học của tôi hơi bị hoen gỉ, và tôi chẳng biết tí gì về câu này cả, nhưng không hề gì vì lại một lần nữa Lucy Chang đã biết.

“Coban,” cô trả lời.

“Đúng.” Cuộc thi chấm dứt, chúng tôi nhảy lên vỗ vào lưng nhau, Alice ôm chầm lấy tôi, và từ chỗ ướt đẫm trên lưng tôi nhận ra mình đã đổ mồ hôi hệt như con ngựa đua.

Nhưng Julian hắng giọng và nói, “À, điểm số chung cuộc của các bạn là ba mươi chín trên tổng số bốn mươi, một điểm số thật sự tuyệt vời, và tôi vui mừng thông báo rằng các cậu nhất định sẽ có mặt trong cuộc tranh tài Thách thức Đại học năm nay!”

Và đám đông, nếu có một đám đông, chắc hẳn họ sẽ reo hò điên dại cho xem.

***

Bên ngoài tòa nhà Hội Sinh viên tất cả bọn tôi đều bắt tay với anh chàng Julian trẻ tuổi, chúc anh ta quay lại Manchester thượng lộ bình an, hẹn gặp lại anh vào ngày 15 tháng Hai, xin gửi những lời chúc tốt đẹp nhất đến ông Bamber, ha-ha, rồi tất cả chúng tôi đứng cạnh nhau trong ráng chiều, chẳng biết tiếp theo đây phải làm gì.

“Thế thì... đi uống bia chúc mừng nhé!” tôi nói, thích thú muốn kéo dài dư vị chiến thắng.

“Sao? Vào lúc bốn giờ chiều ấy à?” Patrick giận dữ nói, làm như tôi vừa mời mọi người quay lại chỗ tôi để hút heroin hay rượu chè trác táng không bằng.

“Không được đâu, xin lỗi nhé, mai có bài kiểm tra,” Lucy nói.

“Tớ cũng không đi được luôn,” Alice nói, và có một khoảng lặng chờ đợi ngắn ngủi trong khi mọi người đang băn khoăn không biết nàng định đưa ra nguyên nhân gì.

Nàng chẳng bận tâm đến việc đó, thế là tôi bèn nói, “Được rồi, tớ đi cùng đường với cậu, tớ sẽ đưa cậu về nhà.” Chúng tôi cất bước, và tôi cố nghĩ ra một lời giải thích hợp lý cho việc mình đang đi hoàn toàn sai hướng.

“Này, sao mà cậu giỏi thế hả!” nàng nói, khi chúng tôi băng qua công viên dẫn đến ký túc xá của nàng. “Cậu thú vị thật đấy.”

“À, ừ, cám ơn nhé. Cậu cũng vậy mà.”

“Ôi dào, vớ vẩn. Tớ chẳng có ích gì cho đội cả. Lúc đầu tớ vào được đội chẳng qua vì cậu tuồn cho tớ đáp án thôi.”

“Ô, làm gì có chuyện đấy,” tôi nói, mặc dù đúng thế thật.

“Mà làm sao cậu biết những cái đó thế?”

“Phí hoài tuổi xuân!” tôi đáp, nhưng nàng không hiểu, nên tôi bèn nói tiếp, “Tớ cho là mình chỉ có khả năng nhớ những kiến thức vô bổ, chỉ vậy thôi.”

“Cậu nghĩ có một thứ như thế thật à? Như kiểu kiến thức vô bổ ấy?”

“À. Thỉnh thoảng tớ còn mong là mình chưa từng học cách đan bằng kim móc,” tôi nói, và Alice phá lên cười. Rõ ràng nàng tưởng tôi đang đùa, có lẽ như thế là tốt nhất. “Và lời của những bài nhạc pop, nhiều lúc tớ nghĩ tớ có thể đoán mà không cần biết quá nhiều lời nhạc pop...”

“Cứ cho tôi những quả táo lốm đốm nhưng xin hãy giữ lại chim chóc và những chú ong...?”

Biết bài này.

“‘Chiếc taxi màu vàng to lớn’ của Joni Mitchell,” tôi nói.

“Từ đô thị Ibizato tới vùng sông suối Norfolk Broads...”

Bài này cũng biết.

“‘Sự sống trên Sao Hỏa’, ca sĩ Bowie,” tôi nói.

“Được rồi, xem nào, một bài mới nhé. “Nàng có xương gò má cao, đôi mắt tội lỗi và nàng được khai sáng về tình dục của Cosmopolitan...”

Dĩ nhiên, tôi biết câu trả lời, nhưng tôi im lặng một hồi ra vẻ không biết, rồi nói, “‘Làn da hoàn hảo’, Lloyd Cole và nhóm Commotions?”

“Chúa ơi, cậu giỏi quá xáááááá,” nàng nói rồi, kỳ lạ làm sao, nàng nắm lấy tay tôi, và chúng tôi đi dạo băng qua công viên khi mặt trời đang dần lặn.

“Được rồi, đến lượt tớ. Đoán nhé...”

Thế là tôi nghĩ một lúc, hít một hơi sâu rồi nói,

“Anh thấy hai ngôi sao vụt sáng đêm qua/ Anh ước với hai vì sao nhưng đó chỉ là những vệ tinh/ Thật sai lầm khi nguyện ước với những vật vô tri trong không trung/ Anh ước, anh ước, anh ước em để ý đến anh.”

Và có vẻ chuyện thế là trót lọt, theo cái nghĩa nàng không phát ói và nôn vào tôi ngay tại chỗ. Vâng, tôi biết mình phải tự cảm thấy xấu hổ, và tôi, tôi thấy thế thật. Dù vậy, có vẻ nàng tiếp nhận chuyện đó một cách khá ngây thơ, suy nghĩ một hồi và nói “Billy Bragg - bài ‘Một nước Anh mới mẻ’.”

“Trúng phóc,” tôi nói.

“Đẹp mà, đúng không?”

“Tớ cũng nghĩ vậy,” và chúng tôi thả bộ trên con đường có hàng cây rợp mát, ánh đèn vàng cam nhấp nháy khi chúng tôi đi ngang qua, giống như cái sàn nhảy phát sáng trong cuốn video Billie-Jean. Trong giây phút này đây, tôi chợt nghĩ chúng tôi rất giống tấm ảnh đen trắng trên bìa của album tuyển tập Những bản tình ca bất hủ của hãng Ronco gồm bốn đĩa được quảng cáo trên ti vi. Phía trước là một đống lá mới rơi phủ đầy mặt đất có màu nâu đỏ nhạt, nâu vàng nhạt và vàng, tôi hướng nàng nhìn về phía chúng, nói “Ê, chúng mình cùng đá đống lá kia đi!”

“Không làm thì tốt hơn. Hay có phân chó trong đấy,” nàng đáp.

Và tôi phải thừa nhận dễ mà nàng có lý lắm.

***

Một lát sau chúng tôi đã quay về trang viên Kenwood. Nàng nắm cánh tay tôi suốt cả đoạn đường, điều này phải có một ý nghĩa gì đó chứ nhỉ, thế là tôi bạo gan hỏi, “Này, thứ Ba tuần tới cậu định làm gì?”

Phải có một con mắt đầy kinh nghiệm như tôi mới nhận thấy một tia nhìn hoang mang thoáng vụt qua trên khuôn mặt Alice Harbinson, nhưng không sao cả, nó chỉ thoáng qua trong tích tắc, trước khi nàng ngỡ ngàng nhìn, và gõ gõ ngón tay vào cằm. “Thứ Ba tuần... tới á? Để xem nào...” nàng nói. Nhanh lên, Alice, nghĩ ra một cái cớ nào đó đi, cô gái nhanh nhẹn, coi nào, nghĩ đi, nghĩ đi...

“Chỉ là sinh nhật lần thứ mười chín của tớ thôi, cậu biết đấy. Cái tuổi Một-Chín!...” và tôi ngừng lại đủ lâu cho nàng mù quáng đi vào cái bẫy tôi giăng ra.

“Và cậu có một bữa tiệc! À tớ thích đến...”

“Thực ra, không có tiệc tùng gì, tớ không quen nhiều bạn bè để mà mở một bữa tiệc. Nhưng tớ nghĩ có khi chúng mình chỉ đi ra ngoài... ăn tối hay làm gì đó được không nhỉ?”

“Chỉ có cậu với tớ à?” nàng mỉm cười. Phải nói như thế nào nhỉ, “há hốc” hay “nhếch mép”?

“Chỉ có tớ với cậu thôi...”

“Được,” nàng đáp, nghe như có hai từ. “Đư. Ược. Sao không nhỉ? Phải rồi! Sẽ rất tuyệt đây! Sẽ vui lắm đây!” nàng thốt lên.

Và nó sẽ tuyệt. Tuyệt và vui. Tôi quyết tâm là nó sẽ Tuyệt và Vui.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,524
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 12


12

CÂU HỎI: Laguno, Vellus (ngắn, mềm và không sắc tố), và Ferminal (cứng dài và có sắc tố) là những thuật ngữ dùng để mô tả các giai đoạn phát triển khác nhau của bộ phận nào trên cơ thể con người?

TRẢ LỜI: Lông.

***

Hôm nay là một ngày đặc biệt, không chỉ là sinh nhật thứ mười chín, năm cuối cùng của tuổi thiếu niên, khởi đầu cho giai đoạn trưởng thành, tuổi thanh niên mới lạ đầy háo hức trong cuộc đời Brian Jackson, mà đây còn là ngày hẹn hò ăn tối lãng mạn chỉ có hai người, tôi và Alice Harbinson, và như một món quà sinh nhật đặc biệt cho bản thân, cho Alice, và cho thế giới, tôi quyết định thay đổi hẳn hình tượng của mình.

Thật sự thì việc này đáng lẽ phải làm lâu lắm rồi. Nhiều nghệ sĩ vĩ đại, chẳng hạn như David Bowie hoặc Kate Bush giữ vững địa vị của mình bằng cách liên tục thay đổi thái độ và diện mạo, nhưng công bằng mà nói gần đây trông tôi có vẻ hơi lạc hậu. Tôi không định làm điều gì thái quá, không định bắt đầu mặc áo nịt len, làm anh hùng hoặc trở thành kẻ lưỡng tính hoặc cái gì tương tự, nhưng tôi định cắt tóc. Không, không chỉ cắt ngắn. Cắt kiểu cơ.

Nói thật thì đầu tóc thường là nguyên nhân gây tranh cãi. Giống như việc dùng gel, rửa mặt hay thoa son, ở Trường Phổ thông Hỗn hợp Langley, việc cắt tóc tạo kiểu thường bị xem là có chút èo uột. Điều đó có nghĩa là mãi cho đến hôm nay đầu tôi vẫn bù xù với kiểu tóc vô danh, không có kiểu dáng rõ ràng, tóc rủ thẳng xuống qua mắt, cổ áo, hơi quăn trông mất vệ sinh và lòi ra hai tai nên nhìn đầu tôi trông chẳng khác nào một cái chuông to hoặc là, như Tone hắn sẽ mô tả, đầu của tay nắm cửa.

Nhưng hôm nay tất cả những chuyện đó sẽ kết thúc, bởi vì tôi đã để mắt đến Cutz, một thẩm mỹ viện nam nữ - không phải tiệm hớt tóc - có bề ngoài ưa nhìn. Nó hiện đại mà không cách tân, và hoàn toàn nam tính, sạch sẽ, với những cuốn tạp chí The Face và id để đọc, thay vì một đống báo Razzle và Mayfair quăn mép, dính đầy tóc. Tôi đã nói chuyện với một thanh niên tử tế tên Sean, một anh chàng tóc húi cua đeo một bên khuyên tai và có cách xử sự rất-con-trai, anh ta bảo sẽ làm tóc cho tôi lúc mười giờ.

Dĩ nhiên, đắt khủng khiếp, nhưng tôi đã có năm bảng mẹ gửi qua bưu điện sáng nay (nhét vào một cái thiệp mặt trước có hình các cầu thủ bóng đá - “Đừng tiêu xài hoang phí đấy!”), và năm bảng từ Nana Jackson dành cho buổi tối lãng mạn hai người tối nay, nên tôi cảm thấy khá rủng rỉnh và đường hoàng khi hờ hững bước vào tiệm Cutz, là vị khách đầu tiên trong ngày. Tôi tiến đến chỗ đám nhân viên đang tụ tập quanh bàn tiếp tân, uống cà phê và hút Silk Cut.

“Hẹn lúc 10 giờ? Với Sean? Tên Jackson?”

Bọn họ đều nhìn lên, nghía quần áo và đầu tóc tôi, sau đó nhìn xuống theo kiểu “không-nên-dính-vào”, ngoại trừ cô tiếp tân, cô ta đi tới và kiểm tra sổ hẹn. Mặc dù vậy, tôi không thấy Sean đâu. Anh bạn mới Sean của tôi đâu rồi nhỉ?

“Hôm nay Sean không đến làm,” cô ta nói.

“Ồ, thế à...?”

“Nhưng mà Nicky có thể cắt tóc cho cậu. Anh ta là thợ học việc. Được chứ?”

Tôi dõi theo ánh mắt cô ta nhìn vào góc nhà nơi có một cậu trai gầy trơ xương đang miễn cưỡng quét đống tóc cắt tối qua. Nicky đấy ư? Cậu ta trông chỉ khoảng sáu tuổi.

“Thợ học việc á?” tôi thì thào.

“Anh ta cũng giống Sean thôi, chỉ là rẻ hơn một chút”, cô tiếp tân vui vẻ nói, nhưng ngay đến cô ta cũng còn biết đó là chuyện may rủi.

Bạn có biết là ở miền Viễn Tây, khi một toán cao bồi vào một nhà thổ, và anh chàng thủ lĩnh phải chọn cô gái điếm mà anh ta thích nhất, lúc nào cũng sẽ có một cô trông sexy với một cái nốt ruồi xinh đẹp, một cô rõ ràng trông hấp dẫn hơn mấy cô khác, những cô béo ục ịch hoặc gầy trơ xương hoặc già nhăn nheo, hoặc có một cái chân gỗ, hoặc một nốt ruồi trên môi, hoặc một con mắt giả, dĩ nhiên chàng cao bồi thường chọn cô hấp dẫn nhất đúng không? Ừm, tôi không thể không thấy ái ngại thay cho cảm xúc của mấy cô gái điếm khác. Tôi biết mại dâm là sai trái, nhưng cái kiểu nhún vai đầy thất vọng, cam chịu mà các cô gái điếm bị khách chối từ thể hiện ra khi quay lại chiếc ghế dài cho thấy rằng mặc dù tốt hơn là họ không nên đổi tình dục lấy tiền thay vì tình yêu với một gã cao bồi xa lạ, nhưng chắc hẳn nếu được đề nghị làm thế thì vẫn tốt hơn. Và đó chính là cách nhìn mà Nicky Học Việc đang trao cho tôi. Tôi không thể khước từ Nicky, bởi vì anh ta chính là cô gái điếm có cái chân gỗ.

“Tôi dám chắc là Nicky sẽ làm tốt!” tôi vui vẻ nói, và Nicky nhún vai, đặt chổi xuống, cầm kéo lên, sẵn sàng cắt tóc cho tôi.

Họ đem lên cho tôi một loại cà phê độc đáo đựng trong bình có tay cầm, và chúng tôi có cái hình như được gọi là “tư vấn”. Cái này đúng là đánh đố, vì tôi không thật sự có đủ vốn từ. Tôi nghĩ tới việc đem theo một tấm ảnh đại khái để hỗ trợ về nhãn quan, nhưng nếu tôi trưng ra một tấm ảnh của David Bowie hoặc Sting hay Harrison Ford, họ chỉ cười vào mặt tôi mà thôi.

“Cậu muốn cắt kiểu gì? Bình thường à?”

“Không biết. Kiểu bình thường là sao?”

“Ngắn-sau-và-hai-bên.”

Không, thế không đẹp - nghe lạc hậu quá đi. “Thật ra tôi thiên về kiểu để dài ở trên, tóc xõa rẽ ngôi trái, rồi chải ra sau, ngắn ở trên lỗ tai và đằng sau hơn.”

“Cạo ở sau hả?”

“Chỉ một ít thôi.”

“Giống trong Brideshead Revisited hả?”

“Không!” tôi bật cười, có nghĩa là đồng ý.

“À, thế thì khác gì đâu?”

Bình tĩnh nào. “Ừm.”

“... vì cái cậu vừa mới mô tả chính là ngắn-sau-và-hai-bên.”

“Vậy hả? Thế thì được thôi, ngắn-sau-và-hai-bên.”

“Có gội đầu không?” cậu ta đề nghị, cầm mớ tóc giữa ngón trỏ và cái với vẻ ghê tởm, giống như một người đang cầm một tờ khăn giấy dơ bẩn vậy.

Có đắt hơn không nhỉ? “Thôi, khỏi, vậy là được rồi, cảm ơn.”

“Cậu là sinh viên à?”

“Phải!”

“Đoán vậy.”

Và thế là bắt đầu. Anh chàng Nicky trẻ tuổi thật ra cũng khá khéo léo với cây kéo, nếu so với cây kéo bằng nhựa có đầu bo tròn anh ta sử dụng lần gần đây nhất, và chẳng bao lâu anh ta nhào vào đầy hào hứng, khi bản “Purple Rain” được bật to với dàn âm thanh nổi. Trong khi đó tôi ngồi đọc The Face và vờ hiểu nội dung tờ tạp chí, vờ không lo lắng gì về mái tóc của mình, ồ không, không hề, ngay cả khi Nicky là thợ học việc. Thợ học việc gì nhỉ? Thợ học việc sửa ống nước? Sửa điện? Chạy máy tiện? Tôi đang xem một bài báo về trượt ván mà chẳng nhồi nhét được gì hết, nên thay vào đó chỉ nhìn những người mẫu trong mấy bức ảnh chụp thời trang, tất cả đều gầy tong teo, ái nam ái nữ, hở ngực và có dáng vẻ uể oải sau khi giao hợp, hết thảy bọn họ đều chế nhạo tôi, như thể chế nhạo những gì Nicky đang làm với mái tóc tôi, và bây giờ cái tông đơ điện đã tắt, anh ta đang dùng kéo tỉa tóc ở gáy tôi. Thợ học việc xén lông cừu? Tôi ngước nhìn lên từ tờ The Face, nhìn vào gương, và trông... đẹp thật, gọn gàng và mới mẻ, có sự sửa sang nhưng tự nhiên. Trông tôi ổn. Thực ra thì, tôi nghĩ đây có lẽ chính là kiểu tóc dành riêng cho mình, kiểu tóc hoàn hảo, kiểu tóc mà tôi đã đợi chờ trong suốt cuộc đời mình. Nicky, tôi rất xin lỗi vì đã từng nghi ngờ anh...

Nhưng anh ta vẫn tiếp tục cắt. Giống như khi bạn vừa vẽ được một kiệt tác ở trường tiểu học, và giáo viên nói “Dừng lại ngay đi, con làm hỏng bây giờ” - Nicky đang làm hỏng nó! Anh ta đang tạo ra những đường dao cạo sát mang tai tôi, anh ta cạo gáy cao lên đến mức phần tóc dài ở đỉnh đầu trông hệt như một bộ tóc giả. Thợ học việc cắt cỏ à? Hay thợ học việc giết mổ ở hàng thịt? Tôi muốn nhào tới và giựt sợi dây cáp điện ra khỏi tường, nhưng không thể, tôi chỉ bèn quay lại câm lặng nhìn vào tờ The Face, có bài báo gì đó nói về kiểu khiêu vũ cuồng nhiệt của người Mỹ da đen ở các trung tâm mua sắm ở Basingstoke, và chờ đợi tiếng rè rè dừng lại.

Cuối cùng thì anh ta cũng dừng lại. “Gel hay sáp?” Anh ta hỏi.

Chúa ơi, gel hay sáp ấy à? Làm sao mà tôi biết được. “Túi trùm đầu luôn” có phải là một lựa chọn không? Tôi chưa bao giờ dùng sáp, thế là tôi bảo sáp, và anh ta mở một hộp xi giày nhỏ, chà thứ gì đó như kiểu mỡ lợn vào tay, rồi vuốt ngón tay lên những gì còn lại của mái tóc tôi.

Rõ ràng là tôi đã xa, xa thật xa khỏi Brideshead. Trông tôi như Winston Smith. Trông tôi như một con thỏ bị vặt lông. Trông tôi có vẻ hom hem với đôi mắt mở to, bộ dạng ho lao và hơi bị điên. Nicky lấy tấm gương và cho tôi thấy phần gáy, nơi cái tông đơ điện đã làm lộ ra cảnh tượng trên Sao Hỏa với những vết thẹo và nhọt mà tôi thậm chí còn không biết đến sự tồn tại của chúng cho đến giờ, một trong số chúng đang rướm máu.

“Nghĩ sao hả?” Nicky hỏi.

“Hoàn hảo!” tôi nói.

***

Giờ thì tôi đã phá hỏng mái tóc của mình, đúng lúc phải chọn một nhà hàng cho bữa tối lãng mạn hai người. Một lần nữa, không ai dạy bạn cách chọn nhà hàng, và tôi cũng chưa bao giờ đến một nhà hàng đúng nghĩa với một người nào khác trước đây, chủ yếu chỉ có uống cà phê và ăn cà ri với món Tàu cùng Spencer và Tone, mà ở những nơi đó, thường thì kiểu kết thúc truyền thống của một bữa ăn không phải là rượu cognac và một điếu xì gà hảo hạng, mà là cảnh Tone la lên “Chạy!” Thế nên tôi làm việc này dựa vào bản năng hơn là kinh nghiệm, nhưng vẫn theo sát một số nguyên tắc cơ bản.

Trước tiên, không cà ri, phòng trường hợp tình hình trở nên say đắm. Hơn nữa, chẳng có gì đặc biệt hay ho khi ngồi đó với đối tượng mình sùng bái, phẩy phẩy tay trước miệng như định nói “Quỷ tha ma bắt, cay thế chứ lại!” Thứ nhì, cố gắng tránh các nhà hàng nằm trong những khu bách hóa tổng hợp hoặc siêu thị. Tôi từng đãi Janet Parks một bữa trưa ngồi-ăn-ngon-lành ở Bách hóa Gia đình Anh Basildon, và tôi không nghĩ chuyện thật sự đã diễn ra tốt đẹp. Nói chung, nên tránh việc mang thức ăn của bạn trên một cái khay về bàn; hãy nhớ, nữ bồi bàn không phải là xa xỉ phẩm. Thứ ba, đừng quá khoa trương. Trong cơn bốc đồng, tôi đã nói với Alice là sẽ đưa cô ấy đến Bradley’s Bistro, một quán khá sang, nhưng tôi đã đến xem thực đơn và nó quá là đắt, nên chúng tôi tính đi chỗ nào mà kết hợp được món ăn ngon với đáng-đồng-tiền. Thậm chí tính cả 5 bảng của Nana Jackson, tôi chỉ có 12 bảng cho bữa tối hai người, gồm cả rượu vang, hai món chính và một món tráng miệng với hai cái muỗng.

Đi quanh phố, nhìn vào cửa sổ các nhà hàng, tôi bắt gặp hình ảnh mái tóc mới của mình, khuôn mặt tôi trông như đang bị ám ảnh và sợ hãi. Thứ sáp tóc đó cũng dở tệ. Họ khiến bạn nghĩ là nó có thể cho bạn quyền kiểm soát, nhưng tất cả những gì nó làm lúc này là khiến cho phần tóc ngang trán tôi dính bết vào và rủ xuống trán, hệt một con mòng biển dính dầu. Có lẽ dưới ánh nến trông sẽ đỡ hơn. Miễn là nó không bị cháy.

Tôi dạo quanh các nhà hàng trong một khu rẻ tiền có vẻ nhà quê trong thị trấn, và cuối cùng đưa ra quyết định - một nhà hàng Ý truyền thống tên là Pizza Plaza Luigi. Nhà hàng có món hamburger, sườn nướng, cá trích nhỏ chiên giòn, có khăn trải bàn kẻ ô đỏ, nến đặt trong chai rượu vang dưới hàng núi sáp đỏ, bánh mì giòn tan tặng kèm và cối xay tiêu to trên mỗi bàn, thế là tôi đặt bàn hai người, lúc 8 rưỡi, tên Jackson, với một người đàn ông mặt đỏ gay, móng tay dơ bẩn, ông ta có thể mà cũng có thể không phải là Luigi, cái tên được đặt cho quán, sau đó quay về phòng trọ.

13

CÂU HỎI: Một loại vải chéo màu xanh rất bền lấy tên từ một chất liệu có nguồn gốc từ Nimes, một thành phố ở Pháp, còn được gọi là “serge de Nimes”; nhựa cây rỉ ra từ cây hevea brasiliensis; và tơ được dệt từ kén tằm. Hãy cho biết tên ba nguyên liệu trên.

TRẢ LỜI: Vải denim, cao su và lụa.

***

Tôi đang viết một bài luận về “Hình tượng thiên nhiên trong những bài thơ xônê thần thánh của John Donne”, nhưng tìm tài liệu suốt một tuần rồi mà thật sự là vẫn chưa tìm thấy gì.

Những ghi chú bằng bút chì ở lề sách cũng không ích gì cả; tôi viết những điều như “Lễ truyền tin![1]” và “phi lý?” và “So sánh với Freud” và “ông ấy quay lại bàn đây rồi!” mà không tài nào nhớ nổi sao mình lại viết như vậy, nên thay vào đó tôi lấy quyển Về bộ môn nghiên cứu chữ viết của Jacques Derrida. Tôi chợt nảy ra ý nghĩ là có sáu kiểu sách. Đầu tiên là sách ảnh, kế đến 2) sách có nhiều hình minh họa hơn chữ, tiếp theo 3) sách có nhiều chữ hơn hình minh họa, sau nữa là 4) sách không có hình minh họa, có khi chỉ có một tấm bản đồ hoặc cây phả hệ, nhưng rất nhiều mẩu hội thoại, rồi thì 5) sách có những đoạn văn dài và hầu như không có mẩu hội thoại nào, cuối cùng 6) sách không có một mẩu hội thoại, không chuyện kể, chỉ có những đoạn văn dài loằng ngoằng rồi chú thích cuối trang và mục lục sách tham khảo và phụ lục và chữ viết rất, rất nhỏ. Quyển On grammatology của Jacques Derrida thuộc kiểu thứ sáu, và nói một cách hàn lâm, tôi bị mắc kẹt đâu đó giữa loại thứ tư và thứ năm. Tôi đọc dòng đầu tiên, lật nhanh hòng tìm kiếm một bản đồ hoặc một bức ảnh hoặc hình mình họa nhưng chả được gì và rồi ngủ thiếp đi.

[1] Lễ Truyền tin (lễ hội ngày 25 tháng Ba) để tưởng nhớ việc Maria được thông báo rằng bà sẽ là mẹ của Chúa Giê-su.

Khi tỉnh dậy, tôi chợt nhận ra là đã 4 giờ 30 phút, vậy là chỉ còn ba tiếng để chuẩn bị bữa tối. Tôi đi về phía nhà tắm, nhưng Josh đang sử dụng bồn tắm để ngâm xà phòng một đống quần denim bẩn. Tôi phải bốc đống quần áo ra khỏi bồn nước màu xanh, lạnh lẽo, và chất chúng thành đống trong chậu rửa trước khi có thể đổ nước vào tắm, và mãi cho đến khi bước vào bồn tôi mới nhận ra là mình chưa rửa sạch bột giặt, và thế tức là tôi, hầu như, sắp đem mình đi giặt trong nước giặt vải cotton/polyester 70 độ không gây kích ứng da. Thế nên việc tắm rửa không hoàn toàn thư giãn như mong đợi, đặc biệt khi tôi phải tráng bằng nước lạnh chảy ra từ vòi hoa sen khi cố gắng ngăn chặn khả năng xấu nhất là bị bỏng do hóa chất. Nhìn vào gương, tôi thấy hình như mình đã hơi ngả màu xanh lơ.

Tôi chuyển đống quần denim ướt lại bồn, sau đó lòng rạo rực ý muốn trả thù chính đáng, tôi đi nhanh xuống hành lang đến cửa phòng ngủ của Josh, và khi đã chắc là cậu ta không có ở trong, tôi lẻn nhanh vào chôm lấy tuýp sữa rửa mặt Apri của cậu ta, loại này chủ yếu là hột đào non nghiền thành những hạt xà phòng li ti để chà lên mặt. Tôi làm như vậy, và có một lớp bọt khá vừa ý, nhưng khi rửa lớp bọt đó đi, kết quả không tốt lắm. Trông như thể tôi vừa lao qua một cái cửa sổ có lớp kính dày ấy. Hoặc là thế hoặc là ai đó đã chà những hạt đào nghiền nhỏ lên mặt tôi quá mạnh. Tôi nghĩ ở đây cần ghi nhớ một bài học: không nên cọ xát mụn trứng cá.

Bây giờ mặt bị đơ, và sợ không dám cười vì nhỡ đâu mặt sẽ chảy máu, tôi quay lại phòng mình, chỗ có cái giường futon được dựng úp vào tường, lau khô người, bỏ quần áo bẩn qua một bên, và cẩn thận chọn quyển sách nào đó để bên ngoài phòng khi Alice muốn vào “để ‘uống cà phê’”, hoặc nhiều khả năng hơn, để uống cà phê. Tôi chọn Tuyên ngôn Cộng sản, Cuộc tình bỏ đi, Thơ trữ tình, Nữ thái giám, một vài tập thơ của E. E. Cummings và Thơ xônê và Tình ca của John Donne, phòng khi trở nên đắm đuối và tôi cần một vài bài thơ lãng mạn trong tay. Tôi phân vân về Nữ thái giám, vì mặc dù tôi muốn nàng nghĩ rằng chủ trương sinh lý của tôi có tính cách mạng và cấp tiến, nhưng hình minh họa một người phụ nữ bán thân lõa lồ kỳ quái trên trang bìa vẫn luôn có chút khiêu dâm đối với tôi, nhiều đến mức tôi từng phải giấu nó đi để mẹ không nhìn thấy.

Sau đó tôi mặc cái quần đùi đen mới toanh, cái quần dài đen đẹp nhất, cái áo vét mới-second-hand dành cho bữa tối, mua từ tiệm quần áo cũ “Olden Times”, cái áo sơ mi trắng đẹp nhất, và vạt nơ và dây đeo quần mới màu đen. Tôi sửa sang lại quả đầu trông như con mòng biển chết, sau đó vỗ vỗ mặt với nước hoa Old Spice từ chiếc lọ sứ màu trắng cũ của bố, nó làm tôi có mùi hơi già và không được đứng đắn, lại còn ngứa muốn chết nữa. Sau đó tôi kiểm tra lại bao cao su trong ví, lúc nào tôi cũng mang theo phòng trường hợp có điều kỳ diệu xảy ra. Cái bao cao su đặc biệt này là cái thứ hai trong bộ ba định sử dụng cho mục tiêu mất tân, cái đầu tiên đã gặp số phận bi đát trong thùng rác di động ở ngõ sau của Littlewoods. Cái này đã ở trong ví của tôi lâu lắm rồi đến nỗi nó kẹt vào lớp vải lót, và miếng giấy bạc bọc bên ngoài đã bắt đầu bị xỉn màu xung quanh chỗ nhô lên bên ngoài của bao cao su, giống như mấy cái khuôn rập bị méo mó. Mặc dù vậy, tôi vẫn thích mang nó bên mình, cũng như người ta thích mang mề đay của Thánh Christopher, bất chấp sự thật là cơ hội tôi có thể dùng nó tối nay cũng chẳng khác nào cơ hội để tôi mang chúa hài đồng Giê-su băng qua sông.

***

Trên đường đến trang viên Kenwood cứ chín mươi mét tôi phải dừng lại một lần, vì mấy cái kẹp kim loại trên dây đeo quần tôi không chịu bám chặt vào cạp quần mà cứ bung ra tụt lên đập vào đầu ti tôi đau điếng.

Tôi đang gắn lại chúng lần thứ hai mươi thì một giọng nói vang lên từ đằng sau, “Ai đó đã lấy mất con gấu bông của cậu à, Sebastian?”

“Xin chào, Rebecca, cậu khỏe không?”

“Tớ khỏe, câu hỏi là cậu có khỏe không đấy?”

“Ý cậu là sao hả?”

“À, có chuyện gì xảy ra với mái tóc cậu thế?”

“Cậu không thích à?”

“Nó làm cậu trông giống Heinrich Himmler[2]. Mà bộ cánh đỏm dáng này là sao vậy?”

[2] Heinrich Luitpold Himmler (1900-1945) là một trong những nhân vật có thế lực nhất của Đức Quốc xã.

“À, cậu biết người ta nói gì rồi đấy - cái áo làm nên ông thầy tu...”

“... trông không được thoải mái nhỉ?”

“À, nếu cậu muốn biết thì, tớ có mời một người đi ăn tối nay.”

“Oaaaaaaaaaaaaaa...!”

“Trong sáng thôi mà.”

“Vậy quý cô may mắn đó là ai thế? Tớ hy vọng không phải cô nàng Alice Harbinson quỷ quái kia...” Tôi nhìn một cách ngây thơ vô số tội lên bầu trời. “Ôi dào, thật không tin được. Mấy cậu trai ấy à, các cậu thật quáááááá dễ đoán. Nói chân tình nhá, nếu thích chơi với búp bê, sao cậu không đi ra ngoài mà mua lấy một con?”

“Gì?”

“Không có gì. Này, tốt hơn hết là cậu nên đi đi Jackson ạ, nếu không sẽ bị lỡ chuyến đò đấy.”

“Cậu nói thế là ý gì?”

“Tớ chỉ muốn nói rằng cô ta rõ ràng là một quý cô vô cùng trẻ đẹp và nổi tiếng, chỉ vậy thôi. Tụi này ở cùng một dãy hành lang, tối nào chẳng có một hàng dài những cậu chàng chơi bóng bầu dục đứng rồng rắn ngoài cửa mà nhỏ dãi, tất cả bọn họ đều cầm những cái chai Lambrusco hết lạnh...”

“Thật á?”

“À ờ. Còn cô nàng thì có thói quen thả bộ từ hành lang xuống phòng tắm chung trong cái quần lót và áo ngực đen nhỏ xíu. Thật tình tớ cũng chả biết biểu diễn thế thì được cái tích sự gì nữa...”

Tôi đánh bật luôn hình ảnh đó ra khỏi đầu. “Cậu nói như kiểu không thích cô ấy hay sao đó.”

“Ối dào, tớ hầu như chả biết gì về cô nàng - tớ không đủ hay ho cho cái đám đông đó, đúng không? Ngoài ra, tớ không nghĩ cô nàng là, các cậu gọi là gì nhỉ, một cô gái mà các cô gái khác ao ước trở thành ấy, cậu hiểu tớ muốn nói gì rồi đấy. Cá nhân tớ, tớ chẳng thấy chút hấp dẫn nào ở cái kiểu con gái mà kể cả khi lên đỉnh vẫn trưng ra được bộ mặt tươi cười, nhưng mà, này, chỉ là ý kiến riêng của tớ thôi nhé. Thế cậu định dắt cô nàng Alice yêu kiều đó đi đâu thế?”

“À, là một chỗ trên phố thôi. Biết quán Luigi không?”

“Tất cả các tiệm KFC đều hết chỗ rồi à?”

“Cậu nghĩ quán Luigi là một ý tồi hả?”

“Không hẳn. Cậu rõ ràng là một quý ông có khiếu thẩm mỹ và tinh tế! Mà tớ nghe nói là hai lạng pho mai, ớt và mấy khoanh hành sẽ khiến người ta chết thèm. Jackson này, có lẽ một ngày nào đó cậu cũng nên đưa tớ đến đấy thử một phen.”

Rồi cô đi trước, để tôi đứng đó cố nghĩ ra một điều gì khôn ngoan để nói. “Rebecca,” tôi gọi với theo. Cô quay lại, cười toe toét. “Sao cậu lúc nào cũng gọi tớ là Jackson vậy?”

“Cậu thấy phiền à?”

“Không hẳn. Chỉ là có một chút kỳ cục, vậy thôi.”

“Ối, tớ xin lỗi. Tớ cảm thấy thích gọi thế. Hay cậu thích được gọi là ‘Brian’ hơn? Không thì thân mật và vui vẻ hơn chút nữa là ‘Bri’? Hay có lẽ ‘Herr Himmler’ chăng...?”

“Brian đi, tớ nghĩ thế.”

“Thế được rồi, gọi Brian nhé. Chúc vui vẻ, Brian. Bảo trọng nhé, Brian. Chơi đẹp nhé, Brian”... và cô biến mất phía cuối hành lang... “Gặp cậu sau nhé, Brian.”

Tôi cuống cuồng chạy đến phòng Alice, nửa mong thấy một hàng con trai đứng xếp dài, nhưng khi tôi đến đó thì cửa phòng đóng. Tôi nghe được tiếng nói bên trong - chính xác thì tôi không áp tai vào cánh cửa gỗ, vì làm thế thật không phải, nhưng tôi đứng đủ sát để nghe lỏm được.

“Hắn định dẫn cậu đi ăn tối ở đâu vậy?” một giọng nói vang lên, là con gái, tạ ơn Chúa.

“Quán Bradley, tớ nghĩ vậy,” Alice đáp.

“Quán Bradley à - rất sang trọng.”

“Cậu ta có giàu không?”

“Không biết. Không nghĩ vậy,” Alice nói.

“À, phải đảm bảo là quay về trước mười một giờ nhé, tiểu thư, nếu không tụi này báo cảnh sát đi tìm cô đấy...” Tôi gõ cửa, vì không muốn nghe thêm nữa, sau đó có vài tiếng xì xầm và tiếng cười khúc khích, rồi nàng ra mở cửa.

Nàng mặc chiếc váy dạ hội xa tanh màu xám tro cắt ngắn với chân váy phồng, tóc bới cao, kết hợp với đôi giày cao gót, trông nàng phải cao hơn đến hai tấc so với bình thường. Nàng cũng trang điểm đậm hơn ngày thường, lần đầu tiên thoa môi son, đường nét vết thẹo lồi nhỏ xíu vẫn có thể thấy được ở môi dưới. Mặc dù vậy, điểm nổi trội hơn cả là chiếc áo dài dạ hội được cắt ngắn. Nàng chắc phải mặc một chiếc áo ngực không dây bên trong vì đôi vai nàng để trần, như thể nửa trên cơ thể nàng đã bị ấn một cách nhẹ nhàng ra khỏi chiếc váy, và những đường cong tuyệt vời của Alice ngực trần lồ lộ ra, bập bềnh, đưa đẩy lên vạt trên của chiếc váy xa tanh. Trong một cuốn tiểu thuyết thế kỷ mười chín, người ta sẽ nói rằng nàng có một “bộ ngực kỳ vĩ”. Thực tế thì, bây giờ người ta cũng nói như vậy. Nàng có một bộ ngực kỳ vĩ. Mày đang nhìn chòng chọc đấy. Đừng nhìn nữa, Brian.

“Chào Alice.”

“Chào Brian.”

Ở phía sau nàng, Erin Mắt Mèo, và một cô gái khác trong nhóm của nàng, đang cười với tôi rất giả tạo. Ngậm miệng lại đi, Brian.

“Cậu trông tuyệt lắm, Bri à,” Erin nói, nhưng ý tứ thì không phải vậy.

“Cám ơn cậu! Sao, mình đi chứ?”

“Dĩ nhiên rồi.”

Rồi nàng nắm lấy cánh tay tôi và chúng tôi đi.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,524
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 13


14

CÂU HỎI: Bao gồm một mạch thẳng các nguyên tử cacbon, với nguyên tử hiđro dọc theo chiều dài, và nhân tố tăng trưởng cacboxin ở một đầu, axít Oleic là một ví dụ được phân bố rộng nhất của thành phần li-pít nào?

TRẢ LỜI: Axít béo.

***

Dĩ nhiên, về mặt đường lối, tôi không tán thành quan niệm về vẻ đẹp hình thể cho lắm. Cái ý nghĩ một người nào đó, đàn ông hay phụ nữ, nhận được sự chú ý hoặc yêu mến hoặc hâm mộ hoặc tôn trọng hoặc nịnh bợ nhiều hơn, đơn thuần chỉ bởi một yếu tố di truyền học kỳ quặc cộng thêm một vài ý nghĩ tùy hứng và chủ quan được-định-nghĩa-giữa-đám-đàn-ông về “cái đẹp” có lẽ đối với tôi vốn dĩ là sai lầm và không thể chấp nhận được.

Nói thì nói vậy, nhưng Alice rõ ràng là... rất xinh đẹp. Dưới ánh nến nàng trông như De la Tour. Hay Vermeer? Hay Watteau nhỉ? Nàng biết mình đang bị nhìn ngắm khi mở tờ thực đơn, và nàng thừa biết mình trông đáng yêu, nhưng cảm giác ra sao nhỉ? Được ngắm nhìn, thay vì chỉ bị nhìn, và thể hiện sự vui thích, hoàn toàn bị động, chỉ bởi được ngắm nhìn. Mặc dù lúc này đang ngắm nhìn nàng, tôi chợt nghĩ đó thậm chí chẳng phải sự vui thích gì cả, giống một cơn đau hơn, một cơn đau bụng nhức nhối, âm ỉ, yếu ớt, bạn muốn tống khứ nó đi nhưng lại không thể, vì có quá nhiều cám dỗ khiến bạn phải ngồi đó nhìn ngắm, ngồi đó nhìn chằm chằm và đón nhận nàng.

Kể từ khi gặp Alice, tôi để ý thấy người ta ai cũng nhìn chằm chằm vào nàng theo cách này. Tôi quan sát Patrick làm chuyện đó, anh ta vuốt tóc ra sau, lè cái lưỡi phi công ngốc nghếch mập mạp của anh ta ra, và tôi quan sát cậu bồi bàn quán Luigi làm chuyện đó khi cậu ta cởi chiếc khăn choàng màu đỏ tía ra khỏi đôi vai trần của nàng và dẫn chúng tôi đến bàn, sau đó lẩn ra sau những cánh cửa mở để kể lể, để cả bếp trưởng và người rửa chén đều ra khỏi bếp vì mấy lý do mơ hồ, chỉ để nhìn thấy nàng. Cảm giác ra sao nhỉ? Được hâm mộ ngay cả khi mình còn chưa nói một lời, được khao khát hai ba trăm lần một ngày bởi những người hoàn toàn không biết mình là người ra sao?

Khi mẹ xem ti vi, bà thường bình phẩm một cô gái, một ngôi sao điện ảnh hoặc một ai đó, nói rằng “Cô ta đẹp thật...” sau đó, đầy chỉ trích, nói “... và cô nàng biết điều đó” với giọng Kinh Cựu ước hay nhất của bà. Tôi chẳng biết “đẹp và biết mình đẹp” thì tốt hơn hay tệ hơn là “xấu và biết mình xấu”, và tôi cho rằng vẻ đẹp hình thể tuyệt vời chắc hẳn là một loại gánh nặng, nhưng khi trút bỏ được một gánh nặng chắc hẳn phải đón lấy gánh nặng nào đó nhẹ hơn.

***

Nhìn lên trên tờ thực đơn, tôi liếc trộm vào khuôn ngực đẫm ánh nến, mơn mởn mà tôi đang cố không nhìn vào vì không muốn nàng cảm thấy bị soi mói.

“Đẹp, phải không?” nàng hỏi.

Tôi cho là nàng muốn nói đến nhà hàng nên bèn trả lời, “Vậy hả? Hy vọng là thế.” Tôi phải thì thầm, vì ở đây chỉ có chúng tôi, và tôi không muốn làm Luigi khó chịu, anh chàng đang bận rộn ở chỗ quầy bar phủ cây trường xuân nhựa, đang bôi dầu lên những cái ly uống rượu, và liếc nhìn dâm dật. Việc đặt bàn trước có lẽ không cần thiết như tôi tưởng. “Tớ đã cố đặt bàn ở Bradley nhưng kín chỗ cả rồi,” tôi nói phét.

“Đừng lo. Nơi này tuyệt mà!”

“Có bánh pizza và mì ống đấy, còn trang bên kia có bánh hamburger...”

“À, đây rồi...” nàng nói, gỡ những trang ép nhựa đóng thành một cuốn thực đơn khổ A4.

“Hay cậu có thích sườn nướng không...?”

“Được-rồiiiii.”

“Và cậu còn phải ăn khai vị, mọi món nữa đấy, cứ gọi tất cả các món cho tớ!”

“Ừm, để xem nào...”

Và chúng tôi quay lại với cái thực đơn.

Ôi, Chúa ơi.

Im lặng.

Tốt hơn là nên nói gì đó đi.

“Ừmmmmmm. Bánh mì que đi!”

Tôi lấy một ổ bánh mì que, lột giấy ra, lấy một lát bơ nhỏ trét vào ổ bánh mì. “Cậu biết tớ hay băn khoăn điều gì về sườn nướng không? Ai quyết định chúng dư nhỉ[1]! Không phải con heo, chắc rồi! Không lẽ con heo lại nói rằng, ‘À, tôi cần những cái sườn này, nhưng những cái kia thì dư đấy, lấy chúng đi! Lọc hết thịt ở sườn tôi đi! Ăn! Ăn sườn tôi đi!’ “Nàng trao cho tôi nụ cười kiểu đứa-trẻ-cần-sự-quan tâm, liếc nhìn bàn tay tôi, tôi nhìn xuống và nhận ra là vì một lẽ nào đó, tôi đang vung vẩy con dao trên tay.

[1] “Spare ribs” là món sườn nướng. Tác giả muốn chơi chữ khi tách riêng “spare” làm tính từ có nghĩa là “dư, thừa”. Khi đó, “spare ribs” sẽ được dịch là sườn bị dư, thừa.

Bình tĩnh lại nào.

Dừng ngay việc nói nhăng nói cuội.

Bỏ - con dao - xuống nào.

Nhưng sự thật thì tôi đang bắt đầu mất dần niềm tin rằng quán Luigi là một điểm hẹn cho những cám dỗ lãng mạn. Tôi nhận ra, sàn nhà là vải sơn lót, chúng đang quăn lại nơi miếng ván gỗ ốp chân tường, không sạch sẽ cho lắm, và tấm khăn trải bàn kẻ ca rô thật ra là bằng nhựa vinyl, để tiện cho việc lau sạch. Hơn nữa, mặc dù quán Luigi xếp chỗ cho chúng tôi ngồi ở một góc lãng mạn ở phía sau, nhưng chỗ đó khá gần nhà vệ sinh, cũng thuận tiện, cứ cho là vậy đi, nhưng có nghĩa là sẽ có mùi thơm phảng phất của một ít hương nước tẩy sàn hương chanh ban đêm. Tôi lo Alice có thể cảm thấy chỗ ngồi này không thoải mái. Rõ ràng nàng bắt đầu trông không được thoải mái; chiếc váy dạ hội phồng phồng ra quanh người nàng, trông như thể nàng đang bị cái váy của mình nuốt chửng.

“Mình gọi món nhé?” tôi đề nghị.

“Tớ phải nói là mấy món này trông có vẻ ngon đấy,” nàng nói, nhưng tôi không chắc nàng nghĩ vậy. Chúng tôi tập trung xem thực đơn, những trang giấy đụng vào thấy hơi dinh dính, chữ đánh máy bị sai chính tả do viết theo cách phát âm - món bò Chilly Concarny, đúng không nhỉ? - và được chia thành “Khai vị!”, “Bữa chính!” và “Ồ tiếp tục nào...!”. Thật lòng mà nói, món nào trông cũng có vẻ ngon lành; với điểm nhấn là các món thịt cháy cạnh và được chiên ngập mặt, hầu như không có rau. Thậm chí phô mai cũng được chiên ngập mặt và khẩu phần ăn ở đây rõ là nhiều, vì họ nói cho khách biết trên thực đơn trọng lượng của tất cả các món thịt. Nhưng tôi không thể không lo lắng vì Alice có thể quen ăn đồ ăn nhẹ, đậu hũ, rau xà lách và những món hấp, mà tôi nghĩ nàng thuộc típ trọng-chất-hơn-lượng. Tôi bắt đầu đổ mồ hôi. Và ngứa nữa, do chất tẩy trong nhà tắm. Tôi nhìn xuống và để ý thấy cổ tay áo sơ mi trắng của mình có vệt bẩn màu xanh của vải denim.

Nhạc hiệu quảng cáo Cornetto được chơi ở đoạn lặp nhạc nền, và sau một hồi cân nhắc trong im lặng, chúng tôi đã sẵn sàng. Tôi nhìn quanh tìm Luigi, nhưng có thể nhận thấy anh ta đang từ đằng sau tiến đến qua tiếng bước chân bám trên vải lót sàn nhà. Alice gọi món nấm nhồi và pizza margarita có xa lát viền ngoài, trong khi tôi chọn món cá trích con, nửa con gà nướng với khoai tây chiên và món nước xốt tặng kèm. “Mong nó không phải là nửa sau!” tôi nói, và Alice mỉm cười, hết sức tế nhị, rồi khăng khăng bảo tôi chọn rượu. Có loại rượu gì đó đựng trong bình đựng nước, nhưng đến tôi cũng còn biết rượu không thể rẻ mạt như thế, nên tôi quyết định chọn một loại rượu đóng chai và có ga. Sâm banh thì quá đắt nên tôi chọn Lambrusco. Chẳng phải Rebecca đã nói gì đó về việc thích loại rượu này ư? Tôi chẳng hiểu biết gì nhiều về rượu, nhưng tôi biết rượu trắng đi với gà và cá, nên tôi gọi rượu Lambrusco Bianco trắng.

Sau khi bồi bàn đi khỏi, tôi liền thốt lên, “Ôi Chúa ơi, sai cả rồi!”

“Sao vậy?”

“À, tớ đã gọi rượu Lambrusco Bianco trắng mà dĩ nhiên ‘bianco’ có nghĩa là trắng rồi! Lỗi lặp thừa chứ còn gì nữa!” Khi mẩu chuyện vặt thú vị này được kể ra, tôi nhận ra rằng nó sẽ chẳng tạo dấu ấn gì trong một chương trình biểu diễn của Parkinson, nhưng lại có tác dụng phá tan bầu không khí e dè này, và nàng mỉm cười rồi chúng tôi bắt đầu tâm sự. Hay đúng ra là nàng nói và tôi gật đầu lắng nghe, lấy nến, đốt một đầu, cắm ở những góc trống, và ngắm nàng. Nàng đang nói, như thường lệ, về những ngày đi học ở trường Linden Lodge, một trong những trường tư thục xã hội chủ nghĩa đắt đỏ khủng khiếp trong nước, và tôi phải nói là như những gì tôi nghe được thì việc đi học chẳng hề khó nhọc tí nào, và cũng chẳng có gì giống trường nội trú cả, nghe giống một bữa-tiệc-ngủ-bảy-năm hơn. Theo như những gì tôi nhận thấy khi nghe Alice mô tả, một ngày học điển hình ở Linden Lodge sẽ giống như thế này:

8:30 - 9:30 Hút cần sa. Nướng bánh mì.

9:30 - 10:30 Làm tình với con trai/con gái của Người Nổi tiếng.

10:30 - 11:30 Dựng nhà kho.

11:30 - 12:30 Đọc to thơ T. S. Eliot, nghe nhạc Crosby, Stills và Nash, chơi đàn xelô.

12:30 - 1:30 Thử ma túy, làm tình.

1:30 - 3:30 Bơi lội khỏa thân theo cặp. Bơi cùng cá heo.

3:30 - 4:30 Xây tường-gạch-xếp lên nhau. Tình dục (tùy chọn).

4:30 - 5:30 Học ghi ta thường, không có điện.

5:30 - 6:30 Làm tình, sau đó vẽ phác họa bằng than chì người bạn tình lõa thể đang ngủ.

6:30 - 04:00 Bắt buộc nghe Bob Dylan.

04:00 Tắt đèn, nhưng chỉ khi bạn muốn.

Rõ ràng, theo quan điểm chính trị, tôi không tán thành kiểu trường học như vậy, ngay cả khi nghe qua nó thật tuyệt vời. Nào là hút ma túy và tình dục rồi thì hát không ngừng những bản nhạc của Simon và Garfunkel, bạn có thể nghĩ rằng họ chẳng bao giờ học hành tử tế gì ráo, nhưng họ chắc phải làm nên một trò trống gì đó, vì rốt cuộc thì Alice cũng đang ở đây, và dù tôi chưa hỏi về điểm số chương trình A-level của nàng, không phải trong buổi hẹn đầu tiên, nhưng nàng có một chứng chỉ, ngay cả khi đó chỉ là chứng chỉ Kịch nghệ. Có lẽ nếu bạn nghe chương trình Radio 4 đủ nhiều từ tấm bé, bạn sẽ được giáo dục từ trong tiềm thức.

Món cá trích con của tôi đã tới, khoảng ba mươi con cá nhỏ mình bạc được rửa sạch và bày lên một lá xà lách búp, chúng nhìn thẳng lên tôi mà nói “Tụi tôi chết vì cậu đấy, đồ tồi, ít nhất hãy làm gì đó cho hay ho vào!” Thế là tôi bỏ một con vào miệng, để đuôi cá thò ra ngoài và giả bộ làm con mèo. Con cá trôi xuống không được ổn cho lắm. Nàng trở lại với món nấm xào tỏi.

“Món đó thế nào?”

“Ngon! Rất có mùi tỏi. Tối nay tớ sẽ chẳng hôn hít gì hết!”

Và đấy, lời cảnh báo khôn khéo, như một hồi còi ô tô vang lên trong lỗ tai, trong trường hợp tôi đang có bất kỳ ý tưởng huyễn hoặc nào đó. Thật ra cũng chẳng có gì đáng ngạc nhiên, giống y như tôi đã dự đoán, và tôi thấy được an ủi với việc đó là một lời cảnh báo mơ hồ, mặc dù chỉ rất mơ hồ - đó không phải về cậu, Brian, đó là về nấm - ẩn ý là nếu nàng gọi một món khai vị khác, chẳng hạn như phô mai Camembert chiên giòn, thì bây giờ chúng tôi đã sẵn sàng làm tình rồi.

“Thế cậu có nhiều bạn trai lắm hả?” tôi hỏi vu vơ, vẫn nhấm nháp con cá.

“À, chỉ một hai người thôi,” thế này thì nàng sắp sửa kể tôi nghe về tất cả bọn họ rồi đây.

Xét từ góc độ chính trị - tình dục học, tôi nghĩ việc không nên thiên vị đàn ông trong tự do tình dục thật sự rất quan trọng. Dĩ nhiên, hoàn toàn không có lý do gì để cấm Alice Harbinson có một quá khứ tình dục và yêu đương nồng nhiệt, nhưng dù vậy tôi nghĩ công bằng mà nói “chỉ một hai người” là một lời tuyên bố có phần sai lạc. Vào lúc món chính được dọn lên, những cái tên bắt đầu nghe không rõ nữa, nhưng nhất định có một người tên là Rufus, anh ta có bố là đạo diễn phim nổi tiếng và đã chuyển đến LA vì tình yêu họ dành cho nhau chỉ toàn là căng thẳng và u ám, bất kể như thế có nghĩa là gì đi nữa. Và Alexis, anh chàng đánh cá Hy Lạp mà nàng gặp trong kỳ nghỉ, anh chàng cứ xuất hiện tại ngôi nhà của gia đình nàng ở Luân Đôn và hỏi cưới nàng làm vợ, cho đến khi nhà nàng phải báo cảnh sát trục xuất anh ta. Và Joseph, một nhạc công jazz tài năng đính thực mà nàng buộc phải chấm dứt quan hệ vì anh ta cứ xúi nàng cùng hít hê rô in. Và Tony, một người bạn làm đồ gốm của bố nàng, ông ta làm ra những món đồ gốm tuyệt đẹp cho ngôi nhà nông thôn của cô chủ trại nhỏ xinh đẹp này ở vùng cao nguyên xứ Scotland, và ở tuổi sáu mươi hai ông ta rất thạo chuyện chăn gối, nhưng rồi lại không ngừng gọi điện thoại vào giữa đêm và cuối cùng đã cố tự sát trong cái lò nung gốm của mình, nhưng bây giờ thì ổn rồi.

Và Saul, một anh chàng người mẫu Mỹ giàu có và có vẻ ngoài đáng kinh ngạc với (thì thầm) “dương v*t vĩ đại cực kỳ”, nhưng ta không thể tạo dựng một mối quan hệ chỉ dựa trên tình dục, ngay cả khi đó là thứ tình dục làm cho người ta mụ mẫm. Và rồi, đáng buồn hơn cả, đó là ông Shillabeer, giáo viên dạy Ngữ văn của nàng, người đã khiến nàng chống lại T. S. Eliot và hình như đã có lần làm cho một cô gái đạt cực khoái chỉ bằng việc đọc to Bốn bản tứ tấu, và ông ta đã phải lòng Alice khi họ đóng vở kịch Cuộc thử thách gắt gao, nhưng thành ra lại có phần bị ám ảnh. “Cuối cùng ông ấy bị suy nhược thần kinh và phải nghỉ dạy. Giờ thì ông ấy đã quay về sống cùng bố mẹ. Ở Wolverhampton. Cũng buồn, thật đấy, vì ông ấy đúng là một giáo viên Ngữ văn hay ho.”

Khi nàng nói xong, tôi đã lột sạch nửa-con-gà rưới đầy nước xốt cay chua ngọt chỉ còn trơ xương, và phần còn lại nằm trên đĩa của tôi trông chẳng khác nào, ừm, một trong các người tình cũ của Alice. Gần như tất cả mối quan hệ của nàng đều kết thúc trong điên rồ, ám ảnh và phá hoại, thế là đột nhiên cuộc phiêu lưu tình ái của tôi bên cái thùng rác di động với Karen Armstrong ở sau Littlewoods dường như đã mất đi vài phần bi đát.

“Không phải quái lạ sao - bao nhiêu người như thế mà đều có kết thúc tệ hại à?” tôi nói.

“Tớ biết! Kỳ quặc nhỉ? Tony, bạn làm gốm của bố tớ, cái ông trong lò nung ấy, từng bảo tớ là khi đến với tình yêu tớ giống hệt Bốn Kỵ sĩ của Ngày Tận thế!”

“Nhưng cứ thế thì có bao giờ cậu bị, cậu biết đấy... tổn thương không?”

“Dĩ nhiên, Brian à. Đó là lý do tại sao tớ không định có bất kỳ mối quan hệ nào ở đại học. Tớ định tập trung vào việc học,” rồi nàng nói thêm, không thể tin nổi, bằng giọng Mỹ, “Tớ định vào tu viện nữ!”

Và lại nữa, tiếng còi ô tô. Một cách thờ ơ, nàng quay lại tiếp tục bốc lấy miếng phô mai Cheddar đang chảy ra trên chiếc margarita, rồi quấn nó quanh ngón trỏ. “Dù sao đi nữa thì cũng xin lỗi cậu - cứ toàn tớ, tớ, tớ. Thế bố mẹ cậu làm gì ấy nhỉ? Tớ lại quên mất rồi...” nàng mút ngón tay, nói.

“Mẹ tớ làm ở Woolworths, còn bố thì mất rồi.”

Nàng đưa khăn ăn lên miệng, nuốt thức ăn.

“Cậu không kể tớ nghe chuyện đó...”

“Tớ chưa kể à?”

“Không, tớ chắc là cậu đã không kể.” Nàng với tay qua bàn, đặt bàn tay lên cánh tay tôi. “Brian, tớ rất tiếc.”

“Ồ, không sao, đó là chuyện cách đây sáu, à không, bảy năm rồi, lúc tớ mười hai tuổi.”

“Chuyện gì đã xảy ra?”

“Trụy tim.”

“Ồ lạy Chúa, ông bao nhiêu tuổi?”

“Bốn mươi mốt.”

“Chắc là khủng khiếp lắm.”

“Ờ, phải, cậu biết đấy.”

Và bây giờ nàng đang ngả người về phía trước, mắt mở to, nàng nắm lấy bàn tay tôi siết chặt, còn tay kia thì cầm lấy cái chai có lớp sáp nến đông lại ở bên ngoài, đặt nó qua một bên để có thể thấy rõ tôi.

“Cậu có bận lòng khi kể về chuyện đó không?”

“Không, không hề,” tôi trả lời, và bắt đầu kể.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,524
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 14


15

CÂU HỎI: Lee J. Cobb. Fredric March và Dustin Hoffman đều đóng vai Willy Loman bất hạnh trong vở kịch nào của Arthur Miller năm 1949?

TRẢ LỜI: Cái chết của người bán hàng.

***

“Bố tớ là người bán kính hai lớp, một công việc thật buồn cười, vì đó là một trong những nghề mà người ta nghĩ có thể cười nhạo, giống như nhân viên trông xe, thanh tra thuế hay thợ thông cống. Tớ nghĩ đó là bởi, chung quy thì, chẳng ai thích kính hai lớp cả. Dù sao đi nữa, bố chắc chắn là không thích, sau mười năm bán kính thì chắc chắn là không. Trước đây ông ở trong quân đội, nơi ông gặp mẹ và sinh ra tớ. Ông hoàn thành quân dịch, là một trong những người cuối cùng làm việc đó, đại loại cũng thích việc đó, mà không biết phải làm gì khác nên ông đã lưu lại một thời gian. Tớ nhớ là mình đã lo sợ, bất cứ khi nào nghe bản tin nói có chiến sự ở một nơi nào đó, căng thẳng với Nga, hoặc khi Bắc Ailen có xung đột hoặc điều gì tương tự, lo sợ là ông bị triệu tập, bị nhét vào bộ quân phục, bị dúi súng vào tay. Nhưng tớ không nghĩ ông có kiểu cách một người lính thực thụ, tớ nghĩ ông thiên về nhân viên văn phòng hơn. Dù sao thì khi có tớ, mẹ đã kiên quyết phản đối và bắt ông phải rời quân ngũ vì phát ngấy chuyện lúc nào cũng di chuyển, bà còn ghét cả Tây Đức nơi tớ sinh ra nữa, thế nên ông bèn quay lại Southend, nhận công việc bán kính hai lớp và chuyện thật ra cũng chỉ có vậy.”

“Ông có thích công việc đó không?”

“Trời ạ, không. Ý tớ là, lúc đầu chắc ông cũng thích, tớ cho là vậy, nhưng dần dà ông trở nên chán ghét nó. Cậu thấy đấy, công việc đó kéo dài nhiều giờ, vì phải chộp được khách hàng ngay khi họ tới, điều đó có nghĩa là mỗi buổi sáng sớm, mỗi buổi chiều và buổi tối, vì vậy khi ông về nhà thì trời thường đã tối, ngay cả vào mùa hè. Và tớ nghĩ là việc rao hàng đến tận cửa cũng có liên quan: ‘Xin lỗi bà, nhưng bà có nhận thấy sự khác biệt to lớn mà kính hai lớp có thể đem đến cho hóa đơn điện lò sưởi hay không,’ đại loại thế. Và tớ biết thu nhập chính là nhờ vào tiền hoa hồng, đồng nghĩa với việc lo lắng thường trực về tiền nong. Bất kể phải làm công việc gì sau này, tớ cũng không bao giờ muốn được trả lương bằng hoa hồng. Tớ biết đó là một động lực, nhưng chỉ là động lực để làm rối tung cuộc đời cậu, chẳng khác gì làm việc với một khẩu súng chĩa vào đầu. Tớ nghĩ, nó đúng là tệ hại. Bất kể thế nào. Buồn bã. Tẻ nhạt.

“Dù sao đi nữa, ông cũng ghét công việc đó. Dĩ nhiên ông chưa bao giờ kể với tớ là ông ghét, tại sao lại phải kể cho một thằng oắt con kia chứ, nhưng chắc chắn ông ghét nó vì ông tỏ ra giận dữ bất cứ khi nào ông từ chỗ làm về; không quát tháo, đánh đập hay làm gì tương tự, chỉ có cơn giận dữ nín lặng, căng thẳng, nghiến răng, đỏ mặt bộc phát từ những chuyện nhỏ xíu xiu, như đồ chơi bị vứt lung tung hay thức ăn bị bỏ phí. Ta muốn ký ức về bố mẹ sẽ là những buổi cắm trại ngoài trời hoặc được cõng trên vai, hay trò ném gậy xuống sông, hoặc tương tự, nhưng không ai có thời thơ ấu hoàn hảo cả và tất cả những gì tớ còn nhớ là ông cãi nhau với mẹ trong bếp về tiền nong hoặc công việc hoặc bất kỳ chuyện gì, mặt ông đỏ gay, ông siết chặt rồi thả lỏng nắm tay.”

“Kinh khủng vậy.”

“Thế à? Ừm, tớ cũng hơi thổi phồng một chút. Tớ nhớ là mình hay ngồi xem ti vi với ông, nếu được phép thức cho đến khi ông về nhà. Ngồi trên nền nhà giữa hai chân ông. Chương trình đố vui. Ông thích các chương trình đố vui, và những phim tài liệu về thiên nhiên, David Attenborough, những chương trình giáo dục, lúc nào ông cũng nói giáo dục quan trọng như thế nào, tớ cho rằng bởi vì ông nghĩ đó là chìa khóa để có một cuộc sống tốt hơn, không phải chịu bất hạnh, được làm công việc mà mình không thấy chán ghét.”

“Thế, làm sao mà ông, cậu biết đấy...?”

“À, tớ cũng không biết chính xác. Tớ không thích hỏi mẹ về chuyện đó, vì nó sẽ khơi gợi nỗi đau của bà, nhưng hình như ông đi ra ngoài làm việc, ở nhà mấy khách hàng, cố thuyết phục họ về lợi ích của kính hai lớp hay gì đó, rồi đơn giản là ông... quỵ. Ngay tại đó, trong phòng khách của họ. Tớ đi học về, đang xem ti vi còn mẹ đang pha trà thì có tiếng gõ ở cửa, và có mấy người đang nói chuyện ở lối đi, tớ chạy ra xem có chuyện gì thì thấy có hai viên cảnh sát, rồi mẹ tớ ngã sụp xuống tấm thảm. Lúc đầu tớ nghĩ có lẽ bố bị bắt giam hay gì đó, nhưng nữ cảnh sát đã nói ông đang ở trong tình trạng xấu, và rồi họ giục mẹ đến bệnh viện trong khi tớ sang ở nhờ nhà hàng xóm, và chẳng bao lâu sau khi mẹ tớ đến đó thì bố tớ mất. Ồ, xem này. Hết rượu rồi. Cậu uống nữa không? Thêm một chai nhé? Tớ đã qua đêm ở nhà hàng xóm và sáng hôm sau thì họ cho tớ biết chuyện. Làm ơn lấy thêm một chai Lambrusco, không chúng tôi chưa quyết món tráng miệng, cho chúng tôi năm phút được không?”

“Dù sao đi nữa. Nhớ lại hồi đó, tớ cũng chẳng ngạc nhiên, mặc dù ông chỉ mới bốn mươi mốt tuổi, vì ông chỉ giống như cái... mấu nút chai này, lúc nào cũng vậy. Và ông đã uống, ý tớ là rất nhiều, ở các quán rượu vào giờ ăn trưa và sau giờ làm việc, lúc nào cậu cũng có thể ngửi thấy mùi bia trên người ông. Ông còn hút khoảng sáu mươi điếu mỗi ngày. Trời ạ, tớ từng mua thuốc lá làm quà Giáng sinh cho ông. Tớ không nghĩ trong ký ức của mình về riêng ông, có khi nào ông không rít thuốc. Thậm chí có một tấm ảnh của ông và mẹ với tớ trong khu phụ sản, ông đang châm lửa cho điếu thuốc. Trong một bệnh viện, với tàn thuốc và một chai bia để thăng bằng trên đầu cái giường cũi. Ông già dớ dẩn.”

“Thế cậu phản ứng ra sao?”

“Trước cái chết của ông hả? Ừm. Không rõ nữa. Kỳ quặc, tớ nghĩ thế. Ý tớ là tớ đã khóc và đủ mọi thứ, nhưng họ muốn tớ nghỉ học, điều đó làm tớ lo lắng vì tớ không muốn bỏ lỡ bài học, chắc cậu cũng phần nào nhận thấy tớ thuộc loại người nhỏ tuổi nhưng dị hợm, lạnh lùng, học gạo. Thành thật mà nói thì tớ buồn vì mẹ nhiều hơn vì mẹ thật sự yêu bố, lúc ấy bà mới có, bao nhiêu nhỉ, ba mươi ba tuổi, và ông là người đàn ông duy nhất bà từng ăn nằm cùng, trước đó và mãi về sau, theo như tớ biết, và bà đón nhận chuyện đó đau đớn lắm lắm. Ừ thì bà vẫn ổn chừng nào còn có người ở xung quanh, và dĩ nhiên trong hai tuần đầu ngôi nhà rất đông đúc - đủ loại nào là mục sư, bạn học của bố, những người hàng xóm, ông bà, và cô dì chú bác - không có thời gian để mẹ cảm thấy thật sự đau khổ, vì lúc nào bà cũng bận rộn làm bánh mì sandwich và pha trà, dọn giường chiếu cho những người họ hàng xa lạ đến từ Ailen mà hai mẹ con chưa bao giờ gặp mặt trước đây và kể từ dạo đó cho đến giờ. Nhưng sau hai tuần, tất cả bọn họ đều bắt đầu bỏ đi và chỉ còn tớ và mẹ. Và đó chính là thời điểm tồi tệ nhất, cái lúc mà mọi chuyện lắng xuống và người ta bỏ hai mẹ con tớ trơ trọi một mình ấy. Một sự kết hợp hoàn toàn không bình thường, một cậu thiếu niên và bà mẹ. Ý tớ là, cậu sẽ dễ nhận ra rằng... thiếu người nào đó.

“Và tớ nghĩ là, hồi xưa, lẽ ra tớ nên đối xử tốt hơn với mẹ, ngồi với bà và nhiều chuyện khác nữa. Nhưng tớ thường ghét ngồi trong phòng khách đó mỗi tối, ngó bà xem bộ phim Dallas hay bất cứ cái gì rồi bà tự dưng khóc ầm lên. Khi ta ở độ tuổi đó thì kiểu tình cảm đó, nỗi buồn khổ đó, ừm, nó... chỉ làm ta khó xử mà thôi. Phải làm gì chứ? Choàng tay qua người bà ư? Nói điều gì đó ư? Mà một thằng nhóc mười hai tuổi thì nói được gì đây chứ? Thế là tớ bắt đầu bực bội với việc đó một cách quái gở và khủng khiếp. Tớ thường tránh mặt bà. Tớ chỉ đi từ trường đến thư viện công cộng và từ thư viện về phòng để làm bài tập về nhà; theo như tớ nhớ thì chẳng bao giờ có đủ bài tập về nhà để làm cả. Chúa ơi, thật là hèn.”

“Còn chuyện ở trường thì sao?”

“Ồ, mọi chuyện ổn cả. Sự thương cảm không xuất hiện dễ dàng ở những cậu nhóc mười hai tuổi, dù sao thì cũng không phải ở trường tớ, và thật ra tại sao cần phải như vậy nhỉ? Một số đã cố gắng, nhưng cậu có thể nhận ngay ra là họ đang giả bộ. Hơn nữa - và điều này mới thật đáng hổ thẹn - vào lúc đó tớ chẳng nghĩ gì nhiều về người đã thật sự, cậu biết đấy, mất đi, bố tớ, chết bất đắc kỳ tử ở tuổi bốn mươi mốt, hoặc thậm chí về chuyện đó ảnh hưởng tới mẹ nhiều như thế nào, tớ chỉ nghĩ làm thế nào mà chuyện đó lại xảy đến với tớ. Từ chỉ việc đó là gì nhỉ? Thuyết duy ngã hay lầm lạc hay gì nhỉ? Lầm lạc.”

“Tớ nghĩ là dù sao chuyện đó cũng khiến tớ được chú ý, theo một cách kinh khủng; thằng-bé-mồ-côi-cha, cái tiếng tăm ủy mị và đáng sợ ấy, cậu biết không, những đứa con gái trước đây chưa bao giờ nói chuyện với cậu bước đến chìa cho cậu một thanh sô cô la Kit-Kat và vỗ vỗ lên lưng cậu. Dĩ nhiên cũng có những trò bắt nạt, và có hai đứa oắt con lấy tớ làm trò cười, gọi tớ là thằng mồ côi, kiểu như vậy, cái đấy cũng chả có gì hóm hỉnh cả, vì đâu phải tớ không còn mẹ. Nhưng tớ có một đứa bạn tên Spencer, vì lý do nào đó mà cậu ta quyết định chăm sóc tớ, và điều đó thật sự hữu ích. Đứa nào cũng hãi Spencer. Cũng phải thôi, vì Spencer là một thằng mất dạy khó chơi, cái thằng Spencer...”

“Cậu có hình không?”

“Spencer á? À, ý cậu là hình bố tớ hả. Không, không để trong ví tớ. Sao, cậu nghĩ tớ nên mang theo à?”

“Không hề.”

“Ở nhà tớ có đấy. Cậu có thể đến nhà tớ. Không nhất thiết phải là tối nay rồi, nhưng, cậu biết đấy, bất cứ khi nào...”

“Và cậu nghĩ về ông chứ?”

“Ồ, phải, dĩ nhiên rồi. Mọi lúc. Nhưng chuyện đó khó lắm vì bố con tớ chưa bao giờ hiểu nhau hẳn hoi. Dù sao thì cũng không giống như hai người lớn với nhau.”

“Tớ chắc là ông yêu cậu lắm.”

“Cậu nghĩ vậy à?”

“Dĩ nhiên. Cậu thì không?”

“Không chắc. Thành thực mà nói, tớ nghĩ ông cho rằng tớ hơi không bình thường.”

“Ông chắc hẳn tự hào lắm đây.”

“Sao lại thế?”

“Nhiều lý do lắm. Vào được đại học. Là ngôi sao của đội tuyển, sắp lên ti vi và còn nhiều chuyện khác nữa...”

“Cũng có thể. Điều duy nhất tớ vẫn còn nghĩ mãi mà không biết tại sao, vì nó không hợp lý chút nào, mà nói chính xác thì cũng chẳng phải lỗi của họ, nhưng tớ muốn gặp người đã thuê ông, người đã hái ra bộn tiền từ việc bắt ông làm việc như thế, vì tớ nghĩ mấy người đấy là một lũ đểu giả. Xin lỗi - nói hơi thô tục. Tớ không hẳn biết tên cũng như nơi ở của họ, có thể trong cái biệt thự chết tiệt bự tổ chảng nào đấy ở Algarve hoặc đâu đó, và tớ cũng chẳng biết nói gì khi gặp họ, vì họ không làm điều gì sai trái cả, họ chỉ điều hành việc kinh doanh, chỉ kiếm lời, và bố tớ có thể nghỉ việc bất cứ lúc nào nếu ông quá chán ghét nó, nhảy lên xe đạp và tìm một nơi làm khác, vả lại, dù gì đi nữa, cậu biết đấy, ông ra đi quá sớm như vậy có thể là vì nguyên nhân khác, ngay cả khi ông là một người bán hoa hay một giáo viên tiểu học hay gì đó cũng vậy, nó không giống như việc sơ ý phạm tội, tai nạn hầm mỏ hay tàu bè đánh cá hay gì đó, ông chỉ là một người bán hàng, nhưng thật không đúng khi có người lại ghét công việc của mình nhiều đến vậy, và tớ nghĩ đến người đã khiến ông trở nên như thế, à, dù sao đi nữa, tớ nghĩ bọn họ thật đểu giả và tớ căm thù họ, mỗi ngày, bất kể họ là ai, vì đã cướp đi... Mà dù sao thì, chờ tớ một lát được không? Tớ phải đi vệ sinh đã.”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,524
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 15


16

CÂU HỎI: Tuyến và ống lệ chủ yếu phụ trách việc tạo ra và điều tiết cái gì?

TRẢ LỜI: Nước mắt.

***

Cuối cùng tôi cũng phải cho là thật may khi chúng tôi ngồi gần nhà vệ sinh.

Đến giờ tôi đã ở trong đó được một lúc rồi. Hơi lâu thì phải. Tôi không muốn nàng nghĩ tôi bị tiêu chảy hay gì đó, nhưng tôi cũng không muốn nàng thấy tôi khóc. Là một chiêu quyến rũ, nhưng việc khóc lóc không kiểm soát nhất định là không được đánh giá cao. Chắc giờ nàng nghĩ tôi là một trong những thằng con trai mít ướt. Ngay lúc này nàng có thể ở ngay ngoài cửa, lắc đầu, tính tiền rồi vội vã quay về ký túc xá để kể lể cho Erin mọi chuyện: “Chúa ơi, cậu không tin nổi là tớ đã có một buổi tối như thế nào đâu. Cậu ta chỉ là một thằng nhóc mít-ướt...”

Có tiếng gõ vào cửa buồng vệ sinh, và tôi cho rằng đó là Luigi, đến kiểm tra xem tôi có chuồn lối cửa thoát hiểm hay không, nhưng giọng nói đó...

“Brian, cậu ổn chứ?”

“Ồ, chào Alice!”

“Trong đó ổn chứ hả?”

“Ờ, tớ ổn, tớ ổn.”

“Cậu có muốn mở cửa không, cưng?”

Ồ, Chúa ơi, nàng muốn vào buồng vệ sinh với mình.

“Mở cửa đi nào, cưng...”

“Thật mà, tớ ổn, tớ sẽ ra với cậu ngay.” Gượm đã - “cưng” á?

“Được rồi. Nhưng quay lại với tớ ngay, được chứ?”

“Hai phút nữa,” tôi hét lên khi nàng đi ra phía cửa, “cậu cứ việc gọi tráng miệng nếu muốn!”

Và nàng đi khỏi. Tôi đợi một chút, sau đó rời khỏi buồng và nhìn vào gương. Tôi cho là mình trông không đến nỗi tệ - mắt hơi đỏ, nhưng nước mũi không còn chảy nữa, tôi chỉnh lại cái nơ con bướm, vuốt tóc ra sau cho gọn gàng, cài lại dây đeo quần, và đi ra ngoài, quay lưng lại, đầu cúi thấp để Luigi không nhìn thấy. Khi tôi tiến đến bàn. Alice đứng lên, và thật bất ngờ, nàng choàng tay ôm tôi thật chặt, má áp vào má tôi. Tôi không biết phải làm sao, nên cũng bèn choàng tay qua người nàng, ngả người về phía trước một chút tạo đủ khoảng trống cho chiếc váy phồng, một tay đặt lên chiếc váy xa tanh xám, tay còn lại trên lưng nàng, cái lưng xinh đẹp, ngay tại chỗ da thịt lộ ra phía trên xa tanh, và nàng thì thầm vào tai tôi - “Cậu thật là một chàng trai đáng yêu” - và tôi nghĩ là mình lại sắp bật khóc nữa, không phải vì tôi thật là một chàng trai đáng yêu, mà vì tôi thật là một tên ngu đần, ngốc nghếch, kinh tởm, thế nên tôi nhắm nghiền mắt và chúng tôi cứ như vậy hồi lâu. Khi mở mắt ra tôi thấy Luigi đang nhìn, và sau đó anh ta nháy mắt một cách ranh mãnh với tôi, rồi đưa ngón cái lên. Tôi không biết phản ứng như thế nào nên cũng giơ ngón tay cái lên, và ngay lập tức cảm thấy đáng khinh bỉ, vì tôi hoàn toàn chả hiểu mình giơ ngón cái lên để làm gì.

Dĩ nhiên, cuối cùng, dây đeo quần tôi bị tuột và Alice buông ra, mỉm cười với tôi với cái miệng xịu xuống, kiểu nụ cười tội nghiệp mà các bà mẹ hay thể hiện với những đứa bé khóc nhè trong các mẩu quảng cáo trên ti vi. Bây giờ tôi bắt đầu cảm thấy hơi không thoải mái, nên nói, “Xin lỗi về chuyện đó. Thường thì phải khuya hơn tớ mới bắt đầu khóc.”

“Chúng mình đi nhé?”

Nhưng tôi chưa muốn đi vội. “Cậu không dùng món tráng miệng à? Cà phê hay cái gì đó?”

“Không, tớ ăn xong rồi.”

“Họ có món bánh phồng có nhân thì phải? Sợ mập vì sô cô la...?”

“Không, thật đó, tớ nốc no rồi,” và từ một chỗ nào đó ở nếp gấp của chiếc váy phồng, nàng giơ ra một cái ví xách tay nhỏ nhất thế giới, và định mở ra.

“Này, để tớ thanh toán!” tôi nói.

Và thế là tôi trả tiền, cuối cùng giá cả chính ra cũng khá hợp lý, nhờ tôi có cơn suy sụp tinh thần toàn tập thay cho món tráng miệng, và chúng tôi bước ra ngoài.

Trên đường quay lại ký túc xá của nàng, chúng tôi đổi chủ đề, và nói về sách, về việc cả hai đều ghét D. H. Lawrence ra sao và chúng tôi thích cuốn sách nào của Thomas Hardy hơn; tôi thích cuốn Jude Kẻ vô danh, còn nàng thì mê cuốn Xa đám đông điên loạn. Đó là một buổi tối muộn cuối tháng Mười một ôn hòa, đường phố ẩm ướt mặc dù không có mưa. Nàng đề nghị đi ngắm cảnh, và rồi hai đứa leo lên ngọn đồi nhìn xuống toàn thành phố, thở dốc vì vừa leo vừa nói chuyện, không lúc nào gián đoạn. Âm thanh của xe cộ trên những con đường thành phố trở nên xa dần và tiếng động duy nhất ngoại trừ tiếng nói của chúng tôi là tiếng gió lùa qua những tán cây và tiếng phần phật của chiếc váy dạ hội bằng xa tanh đang bay. Đến nửa đường lên đồi nàng quàng nhanh cánh tay qua cánh tay tôi, giữ chặt một chút, rồi ngả đầu lên vai tôi. Người gần đây nhất quàng tay tôi thế này là mẹ, trên đường về nhà sau khi xem tôi đóng vai chúa Giê-su trong vở kịch Phúc âm. Dĩ nhiên bà đã xem tôi bị hành hình, chuyện đó chắc chắn có tác động đến tình cảm của một bà mẹ, nhưng tôi nhớ là ngay cả khi đó tôi vẫn cảm thấy có một chút lạ lẫm, phần thì tự hào, phần thì vô cùng bối rối, giống như tôi là chú-lính-nhỏ-đích-thực của bà hay một thứ gì đó vậy. Alice nắm lấy cánh tay tôi không chút e dè, một hành động như thể nàng đã lượm lặt được từ một bộ phim truyền hình cổ trang, nhưng thật hay, tôi cảm thấy ấm hơn và như cao lên được năm phân.

Lên tới đỉnh đồi chúng tôi ngồi xuống một băng ghế dài, nàng ép sát hông vào tôi để hai đứa ngồi một cách ấm cúng và thoải mái ở một góc, và mặc dù tôi có thể cảm thấy hơi ẩm đang thấm qua quần, và biết là nó để lại những vệt tảo, tôi cũng không bận tâm. Thực ra, tôi cũng sẽ không bận tâm nếu chúng tôi cứ ngồi ở đây mãi mãi, ngắm nhìn thành phố ở bên dưới, và những ánh đèn đường cao tốc tỏa ra đổ về vùng nông thôn.

“Tớ vừa chợt nhận ra, tớ chưa chúc mừng sinh nhật cậu.”

“Ồ, không sao đâu...”

“Dù vậy, chúc cậu sinh nhật vui vẻ...”

“Ồ, cảm ơn cậu, cậu cũng vậy.”

“Có điều hôm nay không phải sinh nhật tớ,” nàng nói.

“Không, dĩ nhiên không phải. Xin lỗi cậu.”

“Và tớ cũng không có quà sinh nhật cho cậu nữa...”

“Không sao. Buổi tối hôm nay chính là một món quà rồi.”

Chúng tôi ngừng nói chuyện, và tôi định bụng chỉ lên một số chòm sao, giống như người ta vẫn làm trong phim. Tôi đã học thuộc lòng tên chúng chỉ để cho một dịp như thế nào, nhưng trời quá nhiều mây, nên thay vào đó tôi băn khoăn không biết trời có đủ tối để hôn nàng không, hay nàng có đủ say để cho phép tôi hôn không.

“Brian nè, cậu định làm gì vào Giáng sinh?”

“Ừm, không biết...”

“Cậu muốn đến và ở lại không?”

“Đâu cơ?”

“Với tớ.”

“Ở Luân Đôn ư?”

“Không đâu, gia đình tớ có một ngôi nhà riêng ở Suffolk. Cậu có thể gặp Rose và Michael.”

“Rose và Michael là ai vậy?”

“Bố mẹ tớ!”

“Phải rồi! Ừm tớ thích lắm, nhưng tớ không muốn để mẹ một mình...”

“Dĩ nhiên không rồi, nhưng cậu có thể ghé về sau Giáng sinh, vào ngày sau Lễ tặng quà hoặc ngày nào đó. Và bố mẹ tớ hầu như chỉ thích ở riêng với nhau thôi, thế nên hầu hết thời gian sẽ chỉ có tớ và cậu” - nàng nghĩ cần thuyết phục tôi - “chúng mình có thể đi chơi, dạo phố, đọc sách, nói chuyện và làm những thứ khác...”

“Được rồi,” tôi nói.

“Tuyệt vời! Thỏa thuận vậy nhé. Bây giờ tớ lạnh cóng rồi. Chúng mình về nhà thôi.”

Lúc chúng tôi về đến ký túc xá của nàng thì đã là nửa đêm, nhưng vẫn còn một vài người đi tới đi lui dọc theo hành lang lát sàn gỗ, những kẻ học gạo, những người mất ngủ và những tên sử dụng ma túy. Cả bọn đều nói “Chào Alice” và rồi liếc nhìn tôi đầy nghi hoặc, nhưng tôi không để tâm. Tôi quá bận suy nghĩ về cách chúng tôi chào tạm biệt, quy trình của nó. Dừng lại trước cửa phòng, nàng nói, “tốt hơn là tớ nên leo thẳng lên giường đi ngủ, ngày mai có bài giảng lúc chín giờ mười lăm.”

“Phải đấy. Về...?”

“Stanislavski và Brecht, vở kịch Đường phân đôi lớn, dấu chấm hỏi.”

“Phải rồi, vì xét trên nhiều mặt thì họ không thật sự khác biệt đến thế, mặc dù người ta có xu hướng nghĩ triết lý của họ loại trừ lẫn...”

“Thật đấy, Brian, thật sự tớ nên đi ngủ.”

“Rồi. À, mà cảm ơn cậu vì đã đồng ý đi chơi với tớ.”

“Brian - tớ không đồng ý. Tớ muốn đi,” rồi nàng rướn người về trước rất nhanh và hôn lên mặt tôi chỗ gần tai. Nụ hôn thật nhanh, giống như một cú mổ của rắn hổ mang, và phản xạ của tôi không hẳn đã theo kịp, nên tôi chỉ có thời gian đủ để tạo ra tiếng hôn chụt ầm ĩ với cái miệng mở to lên lỗ tai của nàng, rồi cánh cửa đóng lại và nàng biến mất.

Và một lần nữa, tôi đi bộ trên con đường xe chạy lát sỏi, đi về nhà. Cuối cùng thì mọi chuyện cũng ổn. Tôi nghĩ thế là ổn. Tôi đã được mời đến ngôi nhà riêng ở vùng nông thôn của nàng, và tôi nghĩ hiện giờ nàng đã tìm thấy ở tôi “sự thú vị”, ngay cả khi “sự thú vị” không thật sự là điều tôi theo đuổi. Tôi có phần không thoải mái về lý do tại sao lại thế, nhưng vẫn...

“Ô hay, Jackson!”

Tôi nhìn quanh.

“Xin lỗi, ý tớ là Brian. Brian, trên này nè...” Đó là Rebecca, cô đang rướn người ra khỏi cửa sổ lầu một, chuẩn bị đi ngủ trong chiếc áo thun ngắn tay màu đen dài.

“Thế nào, chuyện sao rồi, chàng trai đang yêu?”

“Ờ, cậu biết đấy. Tốt đẹp.”

“Thế là tình yêu đã nảy nở?”

“Không phải ‘yêu’. ‘Thích’ thôi.”

“‘Thích’ nảy nở. Tớ nghĩ vậy. Tớ cảm nhận được điều đó. Giống như trong không khí ấy. Làm tốt lắm, Brian. Vậy cậu hãy kiên trì ở đó nhé, anh bạn.”

Trên đường về nhà tôi đi đến gara mở thâu đêm và tự thết đãi mình một Picnic và lon Lilt bằng số tiền tiết kiệm được nhờ khóc lóc. Khi tôi về đến Richmond House thì đã gần hai giờ sáng. Có ba mẩu giấy nhắn viết tay được đính trên cửa phòng...

7:30 Brian - mẹ cậu gọi.

10:45 Spencer gọi. Nhắn là cậu ấy “đã chán đến phát điên”. Cậu ấy ở trạm xăng suốt đêm. Gọi lại cho cậu ấy.

Brian, cậu làm ơn đừng xài sữa rửa mặt Apri của tớ mà không thèm hỏi nhé?

17

CÂU HỎI: Chính xác thì Dorothy Gale phải làm gì để quay về Kansas?

TRẢ LỜI: Đập gót chân xuống đất ba lần, trong đầu thì nghĩ rằng “Không Nơi Nào Tốt Hơn Ở Nhà”.

***

Khi tôi mở cửa vào nhà, mẹ vẫn còn ở Woolworths, nên tôi pha một ca đầy trà, quăng phịch người xuống ghế sofa, lấy bút đánh dấu cẩn thận chương trình ti vi sẽ xem vào dịp Giáng sinh trên tờ tập san của Radio Times. Tôi cảm thấy kiệt sức hoàn toàn, thật không may, điều này phần lớn là do loại bia tự ủ của Josh và Marcus hơn là những nhiệt thành học hành. Một vài tuần lễ cuối của học kỳ đã trôi qua với một vài bữa tiệc buồn tẻ thưa thớt người tham dự trong ngôi nhà của những người xa lạ, hay trò uống thi trong nhà bếp với đám bạn của Josh và Marcus; những thằng con trai chơi thể thao to cao, lực lưỡng và những đứa con gái nồng nhiệt, có làn da rám nắng quanh năm ở những đội thể thao dùng vợt để bắt và ném bóng, hết thảy đều dựng cổ áo sơ mi lên, đều học tiếng Pháp, đều đến từ những hạt xung quanh Luân Đôn, và đều có mái tóc vàng hoe chải ra sau giống hệt nhau. Tôi đã chế ra một câu chuyện đùa khá hay về kiểu con gái này, đó là tất cả bọn họ đều đi ra từ cỗ xe ngựa có-chùm-tua-trên-nóc[1] nhưng không may là không có ai để kể chuyện đùa đó.

[1] Nguyên văn “Surrey-with-a-fringe-on-top”: tên một bài hát.

Dù sao đi nữa, bất kể người ta dạy họ cái gì ở những trường tư đó, học chắc chắn biết cách uống bia. Tôi cảm thấy bị đầu độc, xanh xao và ốm đói, và tôi mừng vì đã về đến nhà, được nằm dài trên ghế sofa, xem ti vi. Trưa nay không có chương trình gì hay, chỉ có một vài phim cao bồi, tôi bèn đưa mắt nhìn mông lung vào những tấm ảnh hồi đi học của mình để trên nóc ti vi, chụp trước khi bố mất. Còn điều gì xám xịt và buồn bã hơn một tấm ảnh cũ hồi đi học? Họ nói máy chụp hình làm tôi trông mập ra khoảng hai ký rưỡi, nhưng có vẻ trong tấm ảnh này số ký lô tăng thêm đó đã dồn hoàn toàn vào đám mụn trứng cá. Tôi trông hệt như người Trung cổ, một nạn nhân của dịch bệnh, toàn những mụn nhọt, và tôi tự hỏi mẹ thấy thế nào khi tôi cười nhăn nhở khả ố trước mặt bà lúc bà đang cố xem ti vi.

Tấm ảnh khiến tôi nản lòng đến mức phải tắt ti vi và đi vào bếp để đun ấm nước pha thêm trà. Trong khi đợi nước sôi, tôi nhìn ra sân sau, một miếng đất nhỏ phủ bóng râm có kích thước của một cái giường đôi mà mẹ đã lát gạch sau khi bố mất, cho đỡ buồn. Tôi pha trà rồi đem túi xách đi lên phòng ngủ ở trên gác. Mẹ đã tắt lò sưởi, để tiết kiệm hơi đốt, thế là phòng lạnh như đá, nên tôi để nguyên quần áo leo lên giường và nhìn lên trần nhà. Chả hiểu sao cái giường có vẻ như nhỏ hơn, giống như giường trẻ con, mà thực ra thì căn phòng trông nhỏ hơn chứ không chỉ cái giường. Chúa mới biết tại sao, không phải là do tôi đã lớn thêm ra, nhưng rồi, chỉ sau ba tháng tôi bắt đầu cảm thấy đây giống như phòng của một người khác. Những thứ để ở đây giống như đồ chơi của con nít - những đống truyện tranh, những hóa thạch nằm ở ngưỡng cửa sổ, những mẩu ghi chú của Brodie, mô hình máy bay phủ một lớp bụi treo trên trần nhà, những cái áo sơ mi đi học cũ treo trong tủ quần áo. Vì nguyên cớ nào đó, tôi bắt đầu cảm thấy thoáng buồn, nên bèn nghĩ về Alice một lát, và rồi tôi ngủ thiếp đi.

***

Tôi đã không nói chuyện với nàng đúng nghĩa một thời gian dài rồi. Cuộc họp đội tuyển cuộc thi Thách thức đã được giải tán cách đây hai tuần, và kể từ bữa đó nàng dường như bị nuốt chửng vào trong cái hội nhỏ của mình, một đám ồn ào, khép kín với những đứa con trai con gái xinh đẹp, bảnh bao mà tôi đã thấy trong quán bar sinh viên, hay khi họ lái xe quanh phố, bảy hay tám người nhét chật ních vào chiếc xe 2CV vàng nhạt đầy khói, chuyền tay nhau chai vang đỏ và nghe nhạc của Jimi Hendrix, sau đó cả bọn quay lại căn hộ kiểu vua George của một người trong nhóm để thích thú chia sẻ ma túy và làm tình với nhau. Trên thực tế lần tôi tiếp cận Alice với khoảng cách gần nhất là ở quán bar sinh viên cách đây hai ngày. Tôi đã tiến lại và nói “Xin chào”, bọn họ đều đáp lại “Xin chào”, tươi tỉnh và mỉm cười, nhưng không may là không có đủ ghế ở bàn để tôi có thể ngồi xuống cùng với họ. Hơn nữa, Alice phải vẹo cả cổ mới quay lại nói chuyện được với tôi, và cũng không mất nhiều thời gian để bạn có thể đứng ở ngoài rìa một nhóm giống như thế trước khi bạn bắt đầu cảm thấy như thể mình đang làm nhân viên dọn bàn. Dĩ nhiên tôi không cảm thấy gì ngoài sự khinh thường cái đám trịch thượng, tự mãn, bảnh chọe đó, nhưng không may sự khinh thường đó không đủ để tôi không muốn là một thành viên của họ.

Nhưng chúng tôi cũng đã xoay xở nói chuyện đủ lâu để Alice có thể xác nhận rằng chuyến đi nghỉ ở ngôi nhà nông thôn sẽ được tiến hành. Tôi không phải mang gì theo ngoại trừ thật nhiều sách và áo khoác. Thật ra nàng đã cười nhạo khi tôi hỏi có phải đem theo khăn tắm không. “Nhà tớ có cả đống khăn tắm,” nàng nói, và tôi nghĩ, phải, đương nhiên nàng có rồi. “Không thể chờ được nữa,” nàng nói. “Không thể chờ thêm được nữa,” tôi nói, nhưng tôi thật sự có ý đó, vì tôi biết ở trường tôi thật sự chẳng bao giờ có thể chiếm nhiều thời gian của nàng, có quá nhiều điều phân tâm, quá nhiều những thằng con trai gầy cao lêu nghêu nghễu nghện có tiền của và căn hộ riêng. Nhưng cuối cùng, khi chúng tôi đi xa với nhau, chỉ có tôi và nàng, đó sẽ là cơ hội của tôi, thời cơ to lớn để chứng minh cho nàng thấy việc chúng tôi ở bên nhau là hoàn toàn không thể tránh khỏi.

***

Đó là buổi sáng ngày Giáng sinh, việc đầu tiên tôi làm khi thức dậy là ăn một tô Frosties đầy và bật ti vi lên. Bây giờ khoảng mười giờ, và bộ phim Phù thủy xứ Oz đã chiếu rồi, nên tôi để màn hình bật trong khi mẹ và tôi mở quà của nhau. Bố cũng hiện diện ở đó, theo cái cách, giống như hồn ma của Jacob Marley, ăn mặc giống trong tấm ảnh cũ chụp bằng máy Polaroid mà tôi còn giữ, trông mệt mỏi và chua chát trong cái áo ngủ đỏ tía, mái tóc đen chải ngược ra sau, ông mang một đôi dép lê mới và đang hút bao thuốc tôi đã mua và gói lại làm quà cho ông.

Năm nay mẹ mua cho tôi mấy cái áo gi lê mới và Tuyển tập chọn lọc của E. E. Cummings mà tôi đã yêu cầu rõ ràng, và bà đã phải đặt mua đặc biệt. Tôi xem giá tiền trên trang giấy để trắng ở đầu và cảm thấy cắn rứt lương tâm vì nó đắt quá, ít nhất cũng bằng một ngày lương, nhưng tôi bèn cảm ơn và hôn lên má bà, đưa món quà của tôi cho bà để đáp lại - một giỏ những chai dầu thơm nhỏ đan bằng liễu gai mua ở Body Shop, và một cuốn Ngôi nhà lạnh lẽo cũ thuộc tủ sách Everyman’s Library.

“Gì đây?”

“Đó là một tác phẩm của Dickens yêu thích của con. Hay tuyệt vời.”

“Ngôi nhà lạnh lẽo? Nghe như chính ngôi nhà này vậy.”

Và câu nói đó vừa mới tạo dựng nên tinh thần chung cho ngày hôm nay, thật sự là như vậy. Giống như trong truyện của Dickens.

Chú Des cùng ăn bữa tối Giáng sinh với chúng tôi. Vợ chú Des đã bỏ chú để chạy theo một gã đồng nghiệp cách đây hai năm, nên hằng năm mẹ đều mời chú ăn bữa tối Giáng sinh vì chú không còn nhiều người thân. Mặc dù không phải là chú ruột của tôi, chỉ là một người sống cách ba căn nhà, chú vẫn nghĩ là bằng cách nào đó có quyền làm rối tung tóc tôi và trò chuyện với tôi như thể tôi mới mười hai tuổi.

“Thế cháu thế nào hả, nhóc tì?” chú hỏi, bằng cái giọng dỗ dành con nít.

“Khỏe, cảm ơn chú Des.”

“Trời đất quỷ thần ơi, ở trường đại học họ không dạy cháu cách dùng lược hay sao!” chú thốt lên, vò đầu tôi. “Nhìn bộ dạng của cháu mà xem!” - rối, xù lên, bù xù - và tôi chợt nảy ra ý nghĩ là tất cả điều này thật buồn cười khi được phát ra từ một người đàn ông bốn mươi lăm tuổi có mái tóc vàng hoe uốn quăn và một bộ râu nham nhở hệt như được cắt ra từ một mẫu thảm, nhưng tôi im lặng vì mẹ không thích tôi cãi lại chú Des. Thế là tôi làm bộ lúng túng ngượng ngùng và tự thấy mình hãy còn may và ít ra năm nay chú ấy không lấy năm mươi xu ra từ đằng sau tai tôi.

Mẹ thò đầu khỏi cửa và thông báo, “Món cải lên nhé!” Một luồng hơi nóng chất diệp lục phảng phất đã xác thực lời cảnh báo của bà, và tôi cảm thấy hơi buồn nôn, vì tôi vẫn còn có thể cảm nhận được vị của Frosties bị mắc kẹt giữa mấy cái răng khôn. Sau đó bà quay lại nhà bếp còn chú Des và tôi ngồi xem Phù thủy xứ Oz với âm lượng được vặn nhỏ xuống.

“Quỷ thần ơi, không phải lại là thứ rác rưởi này chứ!” chú Des la lên. “Giáng sinh nào cũng Phù-thủy-chết-tiệt-của-cái-xứ-Oz-chết-bầm.”

“Chú nghĩ họ sẽ tìm một bộ phim khác để chiếu sao?!” tôi hỏi. Rồi chú Des hỏi về trường học.

“Vậy thật sự thì cháu làm gì suốt cả ngày hả?” Tôi cho đó là một câu hỏi hay, và là câu hỏi tôi đã tự vấn bản thân đôi lần.

“Nhiều chuyện để làm lắm - đi lên giảng đường, đọc sách, viết tiểu luận - đại loại như vậy.”

“Và chỉ vậy thôi hả? Quỷ thần ơi - tốt cho một vài...!”

Phải đổi chủ đề thôi. “Thế còn chú thì sao hả chú Des, công việc của chú thế nào rồi?”

“Ồ, không có gì ầm ĩ, Bri à, lúc này thì không có gì ầm ĩ...” Chú Des làm trong ngành xây dựng - xây nhà kính trồng hoa, cổng vòm và mái hiên - hay ít nhất chú đã làm công việc đó cho đến khi có vụ ly dị và suy thoái kinh tế. Hiện tại chiếc xe tải nằm lười nhác trước nhà, và chú Des dành phần lớn thời gian để tháo rời động cơ, rồi gắn chúng lại, hoàn toàn không chuẩn xác, để sau đó phải tháo chúng ra một lần nữa. “Người ta dường như không muốn mở mang cái gì cả, khi đang trong cuộc suy thoái. Những cái đó đúng là xa xỉ phẩm, những cổng vòm và nhà kính ấy...” Rồi chú lấy ngón tay ép râu xuống, và liếc nhìn thê lương vào bộ phim Phù thủy xứ Oz, những con khỉ hơi phiền toái có cánh mọc ra ở sau lưng, còn tôi thì thấy thật tệ nếu đi hỏi chú về công việc khi mà tôi đã biết là nó chẳng hề suôn sẻ. Sau khi một hay hai hồi ngây người nhìn vào những con khỉ đang bay, chú ấy kéo mình ra khỏi sự bâng quơ đó, bằng một sự nỗ lực vận động của cơ thể, ngồi thẳng lưng hết mức có thể theo độ dài lưng ghế, và vỗ tay. “Được rồi, giờ uống chút gì đó chứ? Rốt cuộc thì hôm nay cũng là Giáng sinh kia mà. Thuốc độc của cháu là gì đây Bri?” rồi thì, bí ẩn “... ngoại trừ món cải Brussels!”

Tôi nhìn đồng hồ để trên bệ lò sưởi - đã 11 giờ 55 rồi. “Chú Des này, cháu sẽ uống bia,” và chú lăng xăng đi vào nhà bếp, làm như thể chú ấy sống ở đây vậy.

Lúc ăn bữa trưa trong nhà bếp và kênh Radio 2 đang bật, tôi quyết định công bố tin trọng đại.

“Nhân đây - con muốn thông báo một chuyện...”

Mẹ ngừng nhai. “Chuyện gì?”

“Một số chuyện đã xảy ra ở trường đại học vào cuối học kỳ.”

“Ôi, Chúa ơi, Brian...” mẹ nói, bụm tay che miệng.

“Mẹ đừng lo, chuyện không tệ đâu...!”

Bà nhìn sang chú Des, rồi căng thẳng nói, “Nói tiếp đi con...”

“À, con sắp tham gia chương trình Thách thức Đại học!”

“Gì cơ, cái chiếu trên ti vi đó hả?” chú Des hỏi.

“Trúng phóc! Con ở đội tuyển!”

Mẹ bắt đầu cười sặc sụa, và nhìn sang Des, cũng đang cười phá lên. “Chúc mừng cháu, Bri,” chú nói, và đặt nĩa xuống để rảnh bàn tay vò tóc. “Đấy là một tin vẻ vang, thật sự là vẻ vang...”

“Chúa ơi, và thật nhẹ cả người,” mẹ nói, uống một ngụm rượu đầy, và đặt tay lên ngực để làm dịu nhịp tim đang đập.

“Sao vậy mẹ, thế mẹ nghĩ con sắp nói gì cơ?”

“À, con cưng, thật tình là, mẹ nghĩ con bảo mẹ là con bị đồng tính!” bà nói rồi lại phá lên cười, và nhìn sang chú Des, chú ấy cũng bắt đầu cười, cười lắm đến mức tôi e chú ấy sắp bị nghẹn rau cũng nên.

Vào buổi chiều, sau khi xử lý xong món gà tây, chú Des tự rót cho mình một ly Scotch lớn và châm một điếu xì gà dài nhỏ, còn mẹ châm một điếu Rothman, rồi chúng tôi chăm chú theo dõi chương trình Top of The Pops. Chú Des càu nhàu mỗi lần máy quay chĩa vào những ca sĩ hát đệm ăn mặc hở hang, mẹ cười khoan dung và vỗ vào cánh tay chú. Bà nghĩ ra cách thức riêng của mình để giải quyết một thùng rượu sô cô la truyền thống, cắn cái nắp ra khỏi những chai rượu sô cô la nhỏ và rót nhỏ giọt nhiều loại rượu khác nhau vào miệng mình, hệt như một kẻ nghiện rượu khó tính. Đây là một bước tiến mới đầy kỳ quái trong việc nghiện rượu của bà, và tôi không biết điều gì đã khiến bà như thế, nhưng không muốn bị bỏ lại đằng sau, tôi tiếp tục uống hết một lốc bốn lon bia. Vì tôi là một tay nghiện nhạc jazz, và luôn cập nhật tình hình âm nhạc thịnh hành hiện nay, tôi đã giúp nhận dạng những gương mặt ít tên tuổi trong đoạn video Do They Know It’s Christmas? (Họ có biết luôn nay là Giáng sinh không), sau đó cả nhà xem Bài diễn văn của Nữ hoàng, rồi chú Des lên đường đi gặp người mẹ già của chú ở phố trên, nhưng hứa sẽ quay lại lúc sáu giờ để ăn những món còn thừa và chơi trò cờ tỉ phú truyền thống, kéo dài vô tận, mà chú Des chắc chắn sẽ thắng, nhưng chỉ bằng cách tự chỉ định mình là nhà cái và gian lận tiền nong.

Sau đó trước khi mặt trời tối hẳn, mẹ và tôi mặc áo khoác rồi đi ra ngoài. Mẹ nắm lấy khuỷu tay tôi khi hai mẹ con đi bộ vài dặm đến nghĩa trang để đặt hoa lên mộ bố. Không khí ẩm và lạnh khiến bà có phần còn say hơn, và tôi phải cúi xuống để nghe bà nói chuyện. Bà có mùi của cây xô thơm, hành và rượu Tia Maria.

Như thường lệ tôi đứng với mẹ một lát và bảo làm sao mà bia mộ trông vẫn còn đẹp thế nhỉ, rồi tôi đi khỏi và đứng ra xa một đoạn để chờ trong khi mẹ nói chuyện với bố. Tôi luôn cảm thấy có phần không thoải mái khi chờ đợi mà không có sách để đọc, nên thay vào đó tôi cố nhận dạng các loài chim, nhưng chỉ có con quạ và ác là (thuộc họ quạ), sáo đá (họ sáo sậu) và sẻ (họ sẻ nhà), tôi chẳng hiểu tại sao nghĩa trang luôn thu hút những loại chim mang đến điềm báo chết chóc, bệnh tật và khổ đau như thế, và sau khoảng mười phút thì mẹ nói xong những gì phải nói, bà chạm nhẹ vào bia mộ, và bỏ đi, cúi đầu xuống, và nắm lấy cánh tay tôi, không nói lời nào cho đến khi bà có thể phần nào kiểm soát được hơi thở và có thể nói chuyện bình thường. Bây giờ thì trời đã tối hẳn, nhưng hai đứa nhóc từ điền trang trong vùng đang lái những chiếc xe đạp BMX mới mà chúng nhận được trong dịp Giáng sinh giữa những ngôi mộ, đạp phanh mạnh hết cỡ để bánh xe trượt xuống thấp làm đám sỏi bị văng lên. Mẹ, mắt vẫn còn đẫm lệ và hơi say do rượu sô cô la, cảm thấy khó chịu trước việc đó, và bắt đầu quát lên với chúng - “Các cháu không nên làm như vậy, không phải ở nghĩa trang, hãy biết tôn trọng chút đi.” Một đứa giơ tay chữ V rồi đạp xe ngang qua, cười vang và hét vọng lại, “Xéo đi, lo chuyện của bà đi, bà già dấm dỡ”. Tôi có thể cảm thấy mẹ lại đang bật khóc và đột nhiên tôi có mong muốn sục sôi là rượt sau thằng oắt đó, túm lấy mũ trùm của cái áo parka và hất nó ra khỏi chiếc xe đạp mới, đè đầu gối lên lưng nó và chà cái mặt đểu cáng, ngu si của nó xuống đám sỏi, để xem mất bao lâu thì nó nín cười. Và rồi cũng đột nhiên tôi ước mình đang ở một nơi xa, xa thật xa nơi này, nằm bất động với một ai đó, trên một chiếc giường ấm áp, chìm vào giấc ngủ.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,524
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 16


18

CÂU HỎI: Tên của hợp chất hữu cơ có công thức chung là R-OH, trong đó R đại diện cho nhóm ankin gồm cacbon và hidro, còn OH đại diện cho một hoặc nhiều nhóm hidroxin?

TRẢ LỜI: Rượu

***

Black Prince là một quán rượu nhỏ phục vụ riêng cho những khách hàng dưới độ tuổi cho phép uống rượu. Ở trường chúng tôi quen gọi nó là Nhà Trẻ, theo lý luận của chủ quán thì bất kỳ đứa trẻ nào đủ láu cá để giấu cà vạt của bộ đồng phục vào trong túi quần tức là đã đủ tuổi uống rượu. Vào buổi trưa thứ Sáu cảnh tượng ở đó giống như một cảnh phim Grange Hill, và bạn có thể công khai đi vào với chiếc cặp đeo vai.

Ngoài học kỳ, thật khó lòng tưởng tượng có nơi nào vắng vẻ hơn nơi này để họp mặt và uống rượu. Nước sơn màu nâu, thô thiển, ẩm thấp, có phần giống như mình đang ngồi trong thận của ai đó, tuy nhiên năm năm gần đây, việc họp mặt ở chỗ này vào mỗi tối của Lễ Tặng quà đã trở thành truyền thống, mà truyền thống thì thiêng liêng rồi. Vậy là chúng tôi ở đây, tôi, Tone và Spencer, ngồi trong một cái buồng nhựa vinyl có mà giống cục máu, lần đầu tiên bọn tôi gặp lại nhau kể từ hồi tháng Chín. Tôi có một chút lo âu trước cuộc tái ngộ này, nhưng Spencer dường như thật lòng vui mừng khi gặp lại tôi. Tone cũng vậy, theo cách riêng của cậu ta, về cơ bản là được thể hiện qua những khớp đốt ngón tay chà mạnh lên đỉnh đầu tôi.

“Cái quái gì xảy ra với mái tóc cậu thế này?”

“Ý cậu là sao?”

“Phồng lên một tí, đúng không?” Tone chộp lấy chỗ gần tai tôi, ngửi như ngửi trái dưa hấu. “Cậu xài keo bọt à?”

“Không, làm gì có keo bọt nào.” Thực ra, tôi có xài một ít keo bọt thật.

“Thế nó được gọi là gì, cái kiểu tóc như thế này ấy?”

“Gọi là kiểu Brideshead,” Spencer đáp.

“Kiểu này là ngắn-sau-và-hai-bên. Thế họ gọi kiểu đầu của cậu là gì hả Tone?”

“Chả có tên gì sất, nó chỉ là chính nó thôi. Thế dạo này cậu uống gì - vang đỏ Bồ Đào Nha với chanh? Rượu nâu Tây Ban Nha ly vừa? Vang ngọt trắng...” Bắt đầu rồi đây, mà tôi còn chưa kịp cởi cái áo gió ra nữa.

“Tone, cho nửa lít bia đi.”

“Bia đặc biệt nhé?”

“Chơi luôn. Bia đặc biệt.”

“Bia đặc biệt” tức là bia-có-rượu-gin-ở-trên-cùng. Một phần sự chuyển tiếp mang tính giáo dục của chủ quán này là vun đắp cho những thử nghiệm và cải tiến, và ông sẽ không chớp mắt, bất kể bạn yêu cầu sự kết hợp kinh tởm nào. Ngoài ra, bia-có-rượu-gin-ở-trên-cùng thật ra cũng đã là một sự kết hợp khá chững chạc theo tiêu chí của quá Black Prince rồi. Bất cứ thứ gì không có mùi dừa hay bạc hà hay hạt hồi đều được coi là tinh tế ở đây.

Đây là lần tôi đi xa lâu nhất mà không gặp mặt Spencer thường xuyên kể từ khi hai đứa mười hai tuổi, và tôi rất lo lắng không biết có bất kỳ khoảng lặng ngượng ngùng nào không. Nhưng đây rồi. Khoảng lặng. Spencer cố khỏa lấp nó bằng cách nảy miếng lót cốc bia của cậu ta lên không khí và chộp lấy nó, trong khi tôi nhoài tay ra lấy hộp diêm, may ra thì sẽ có cái gì đó để đọc ở mặt sau hộp diêm.

“Này. Tớ tưởng cậu đã nói là cuối tuần sẽ về cơ mà?” cuối cùng cậu ta cũng lên tiếng.

“À, tớ cũng định thế, nhưng mà bận chút việc.”

“Bận. Phải rồi.”

“Giáng sinh vui chứ?” tôi hỏi.

“Thường thôi. Giống Giáng sinh năm ngoái, na ná Giáng sinh năm sau. Cậu thì sao?”

“Ờ, cậu biết đấy. Cũng vậy thôi.” Tone quay lại với ba cốc bia đặc biệt. “Thế nào... có gì mới không?” tôi hỏi.

“Cái gì ‘mới’ cơ?” Spencer hỏi lại.

“Chỗ làm, ý tớ là...”

“Chỗ làm gì chứ?” cậu ta hỏi, nháy mắt. Theo như tôi biết, Spencer vẫn đang làm hợp đồng thu ngân ca đêm.

“Thì ở trạm xăng ấy...”

“À, giờ chỗ tớ làm có khuyến mãi một bộ ly uống rượu vang, cái đó gây xáo động dữ đấy nhé, rồi có hôm thì giá pizza bốn sao tăng, chuyện đó cũng khá ly kỳ. Nên nói chung, tớ chưa bao giờ thấy thú vị như thế này từ khi có thanh Kit-Kat toàn sô cô la đó. À, tuần trước có một đám sinh viên lái đi thẳng mà không trả tiền...”

“Tớ mong là cậu đã rượt theo chúng,” Tone nói kháy.

“Ồ, không, Tone, tớ không rượt theo, vì chúng ở trong xe còn tớ thì đi bộ. Với lại, tớ chỉ được trả có 1 bảng 80 xu một giờ. Họ phải trả tớ nhiều hơn số đó trước khi tớ xả thân rượt đuổi chứ.”

“Làm thế nào cậu biết bọn nó là sinh viên?” tôi hỏi, nhử mồi.

“À, vì chúng ăn mặc rất xấu. Khăn choàng cổ dài, mắt kính tròn nhỏ, tóc cắt xấu òm...” Cậu ta mỉm cười đầy ẩn ý với Tone, sau đó quay lại phía tôi. “Bri này, thị lực cậu sao rồi?” Đây là trò đùa giữa Tone và Spencer, bọn họ tin rằng tôi đã nói dối đối với chuyên gia nhãn khoa để được đeo kính.

“Tốt, cảm ơn cậu, Spencer,” và tôi quyết định đi lấy ít khoai tây chiên.

Trên lối ra quầy bar, tôi nghĩ một hồi về việc hướng ra cửa và bỏ đi. Tôi quý Spencer và Tone, đặc biệt là Spencer, và tôi nghĩ hai đứa cũng quý tôi, dù Chúa mới biết chúng tôi chưa bao giờ nói ra cái từ bắt đầu bằng chữ Q ấy lần nào, ít nhất thì cũng chưa từng làm thế trong tình trạng tỉnh táo. Nhưng vào sinh nhật thứ mười tám của tôi, Spencer và Tone đã trói tôi trần như nhộng vào cuối cầu tàu Southend và ép tôi uống thuốc nhuận tràng, nên đó là một thứ tình yêu được thể hiện theo những cách độc đáo.

Khi tôi quay lại, hai đứa đang bắt đầu nói về đời sống tình dục của Tone, nên tôi biết mình sẽ thoát nạn trong một hoặc vài tiếng đồng hồ tới. Phục vụ quầy bar, thợ cắt tóc, giáo viên, chị của bạn học, hoặc thậm chí là mẹ của bạn học, dường như không ai miễn nhiễm với sức mê hoặc Bắc Âu của Tone. Danh sách thì vô tận, chi tiết thì rõ ràng, và sau một hồi tôi bắt đầu cảm thấy muốn tắm, nhưng Tone rõ ràng có một điều gì đó khiến cậu ta đặc biệt được yêu thích, một điều gì đó không phải sự nhạy cảm, dịu dàng hay thận trọng. Sẽ dễ dàng hơn nếu tưởng tượng là, sau khi làm tình, cậu ta chà đốt ngón tay thật mạnh lên đầu người tình. Tôi thắc mắc, nhưng không hỏi, liệu Tone có thực hiện biện pháp an toàn tình dục hay không, nhưng ngờ rằng cậu ta nghĩ trò đó chỉ dành cho những đứa nhát chết. Nếu Tone bị ném ra khỏi máy bay, cậu ta vẫn nghĩ rằng cái dù là thứ dành cho những đứa nhát chết.

“Thế còn cậu thì sao hả, Brian, có động tĩnh gì không?”

“Không hẳn.” Nghe có vẻ hơi mù mờ, nên tôi bèn hờ hững nói thêm, “Có một cô gái tên Alice, cô nàng mời tớ đến ở cùng vào ngày mai, tại ngôi nhà ở vùng nông thôn của cô ấy, nên...”

“Nhà ở nông thôn của cô ấy?” Spencer hỏi. “Cô ấy làm gì? Một cô gái vắt sữa bò à?”

“Cậu biết đấy, một ngôi nhà, ở nông thôn, của bố mẹ cô ấy...”

“Thế cậu sẽ ngủ với cô nàng à?” Tone hỏi.

“Bọn tớ rất thuần khiết nhé.”

“Thuần khiết có nghĩa là gì vậy?” Spencer hỏi, mặc dù cậu ta biết thừa.

“Nghĩa là cô nàng không cho cậu quan hệ chứ sao,” Tone nói.

“Tớ không ‘quan hệ’ với ẻm vì tớ không muốn ‘quan hệ’ với ẻm, dù sao thì cũng chưa phải bây giờ. Tớ mà đã muốn thì tớ sẽ làm.”

“Mặc dù những bằng chứng gần đây cho thấy không phải thế,” Spencer nói.

Tone dường như đã nhận thấy chuyện này nực cười đến không ngờ, nên tôi quyết định lại rút lui, đi lấy thêm rượu-gin-và-bia; tôi suýt vấp chân khi rời khỏi buồng, nên tôi biết bia đang bắt đầu có tác dụng. Cần đặc biệt lưu tâm đến việc không vung tay quá trán trong những ngày này. Quán Black Prince vốn rẻ không thể tưởng được, và có thể ba chàng trai trẻ say xỉn nói năng lảm nhảm, hung hăng, ủy mị và bạo lực này vẫn nhận được tiền thối từ tờ mười bảng.

Khi tôi ngồi xuống, Spencer hỏi tôi, “Thế thực ra thì cậu làm gì cả ngày hả?”

“Nói chuyện. Đọc sách. Lên giảng đường. Trang luận.”

“Nhưng đó không phải là công việc thật sự, phải vậy không?”

“Không phải công việc. Là trải nghiệm.”

“Ừ, phải rồi, tớ rất hạnh phúc trong Trường Đại học Cuộc đời, cảm ơn cậu rất nhiều,” Tone nói.

“Tớ đã nộp đơn xin vào Trường Đại học Cuộc đời. Không có điểm chuẩn,” Spencer nói.

“Không phải lần đầu cậu nói điều đó, đúng không?” tôi hỏi.

“Rõ ràng là không rồi. Thế còn chính trị thì sao?” Câu hỏi khiến cho người ta cảm thấy như bị lấy que chọc vào người vậy.

“Về cái gì cơ?”

“Gần đây có cuộc biểu tình tuần hành nào không?”

“Có một hay hai gì đó.”

“Để làm gì?” Tone hỏi.

Điều đúng đắn phải làm là chuyển chủ đề, nhưng tôi không hiểu vì sao phải thỏa hiệp quan điểm chính trị của mình chỉ để có được một cuộc sống dễ dàng, nên tôi bèn kể họ nghe.

“Phân biệt chủng tộc...”

“Ủng hộ hay chống đối?” Spencer hỏi.

“... Sở Y tế Quốc dân, Quyền của Người Đồng tính...”

Tone ngẩng đầu lên khi nghe thấy điều này. “Thằng khốn kiếp nào đang cố gắng cướp đi quyền của cậu vậy?”

“Không phải quyền của tớ. Đó là một động thái của Hội đồng Bảo thủ cố ngăn chặn các trường học phác họa tình dục đồng giới theo chiều hướng tích cực; đó là hội chứng sợ và kỳ thị quan hệ đồng giới...”

“Thế đấy là những gì họ làm hả?” Spencer hỏi.

“Ai cơ?”

“Trường đại học. Vì tớ không nhớ có ai dạy nó trong trường chúng mình.”

“À, không, trường không dạy, nhưng...”

“Thế thì tại sao đó lại là một vấn đề to tát?”

“Ừ, ý tớ là cậu đã trở thành người đồng tính mà có cần phải được dạy dỗ gì đâu,” Tone nói.

“Phải rồi, đúng vậy, Tone à, thật là một ý hay...”

“À, tớ nghĩ đó là một scandal,” Spencer nói, làm bộ giận dữ. “Tớ nghĩ nó phải được dạy. Chiều thứ Ba. Môn Đồng tính đôi...”

“Xin lỗi, cô ơi, em quên làm bài tập đồng tính rồi...”

“Chứng chỉ đồng tính!...”

Ba đứa tôi cố gắng nghĩ ra một chuyện đùa khác nhưng không được, thế nên thay vào đó Spencer nói, “À, tớ nghĩ thật tuyệt vì cậu đang đưa ra lập trường về một điều quan trọng, tớ nghĩ thế thật đấy. Một điều gì đó ảnh hưởng đến tất cả chúng ta. Giống như khi cậu gia nhập Phong trào Đấu tranh Giải trừ Vũ khí Hạt nhân ấy. Chúng ta đã có cuộc thảm sát hạt nhân nào chưa? Chưa nhá.”

Tone loạng choạng bước đi. “Xem nào. Vẫn giống như nãy nhé?”

“Tone, lần này đừng cho gin,” tôi nói, biết là cậu ta sẽ bỏ rượu gin vào bia.

Sau khi cậu ta đi khỏi, Spencer và tôi ngồi xếp mấy túi khoai tây chiên rỗng thành những hình tam giác nhỏ, biết là chuyện này vẫn chưa ngã ngũ. Rượu gin làm tôi dễ nổi nóng, còn sưng sỉa nữa; đi ra ngoài chơi với bạn bè còn có nghĩa lý gì nếu tất cả những gì họ định làm là giễu cợt? Cuối cùng tôi nói, “Thế cậu phản đối điều gì hả Spencer?”

“Chả biết. Mái tóc cậu chăng?”

“Không đùa đâu đấy.”

“Tin tớ đi, nói nghiêm túc mà...”

“Nhưng thật đấy, chắc cậu phải đấu tranh cho một cái gì đấy chứ.”

“Không biết. Nhiều thứ lắm. Nhưng chắc không phải quyền của người đồng tính...”

“Đâu chỉ có quyền của người đồng tính, còn có những thứ khác, những thứ cũng ảnh hưởng đến cậu, những thứ giống như cắt giảm phúc lợi, cắt giảm tiền trợ cấp thất nghiệp, nạn thất nghiệp...”

“À, thôi xin cám ơn, bạn Brian của tôi, tớ mừng là cậu quyết tâm đấu tranh thay cho phần tớ, và tớ đang trông chờ được nhận thêm tiền công đây.”

Tôi không biết nói gì nữa. Tôi cố nói một điều gì đó hòa giải hơn, bằng giọng bạn bè. “Này, năm học tới cậu lên đó thăm tớ đi!”

“Đại loại giống Ngày Nghề nghiệp hả?”

“Không, cậu biết đấy, chỉ là để vui chơi thôi...” và đây chính là thời điểm mà tôi cần đổi chủ đề sang tình dục hay điện ảnh hay truyền hình hay gì đó. Nhưng thay vì vậy tôi hỏi, “Mà sao cậu không thi lại chứng chỉ A-level nhỉ?”

“Ừm, bởi vì tớ không muốn chăng...?”

“Nhưng thế thì đúng là phí phạm...”

“Phí phạm? Phí phạm cái đầu cậu ấy! Đọc thơ và thủ dâm vào cái tất của cậu trong ba năm trời, đấy mới là phí phạm.”

“Nhưng cậu đâu cần phải học khoa Văn, cậu có thể chọn một khoa khác kia mà, một cái gì đó có ích cho nghề nghiệp sau này...”

“Brian, đổi chủ đề được không?”

“Được thôi...”

“... Vì tớ đã có đủ lời khuyên hướng nghiệp đến phát sợ ở Cục Y tế và An sinh Xã hội rồi, tớ không thiết tha với lời khuyên nào trong quán rượu vào Lễ Tặng quà nữa...”

“Thôi được rồi. Chuyển chủ đề vậy.” Như một đề nghị hòa bình, tôi đề xuất, “Cỗ máy đố vui nhé?”

“Chắc chắn rồi. Máy đố vui đi.”

Quán Black Prince đã đầu tư sắm một cái máy đố vui mới, được vi tính hóa, thế là chúng tôi cầm bia chỗ cái máy, đặt cốc thăng bằng trên mặt nó.

“Ai đóng vai Cagney trong chương trình truyền hình Cagney và...”

“C - Sharon Gless,” tôi nói.

Đúng.

“Trận chiến Trafalgar diễn ra năm...?”

“B - 1805,” tôi đáp.

“Biệt danh của Norwich City FC là...”

“A - Canaries,” Tone nói.

Đúng.

Có lẽ đây là thời điểm tốt để nhắc tới cuộc thi Thách thức...

“Davros đã phát minh ra cái gì?”

“A - Cỗ máy Daleks,” tôi nói.

Đúng.

“Họ gốc của ai là Schicklegruber?”

“B - Hitler,” tôi nói.

Đúng.

Tôi có thể tình cờ thốt ra trong lúc trò chuyện, một cách bình thường; “Có chuyện này không biết tớ đã kể chưa nhỉ? Tớ chuẩn bị tham gia Thách thức Đại học!”

“Người Mỹ nào nắm kỷ lục giành được nhiều huy chương Olympic nhất...?”

“D - Mark Spitz,” Tone nói.

Đúng.

“Cậu có biết Thách thức Đại học không, trên truyền hình ấy...?” Có lẽ họ sẽ không chế nhạo đâu. Có lẽ họ nghĩ chuyện đó cũng vui - làm tốt lắm Bri - rốt cuộc thì chúng ta vẫn là bạn bè thân thiết...

“Một câu hỏi nữa thôi, chúng ta sẽ thắng được hai bảng!”

“Được rồi, tập trung vào...”

Mình nhất định phải kể cho họ nghe về Thách thức...

“Phim Chiến tranh giữa các vì sao được đề cử bao nhiêu giải Oscar?”

“B - Bốn,” tôi nói.

“D - Không,” Tone nói.

“Tớ chắc là bốn,” tôi nói.

“Không đời nào. Đó là câu hỏi mẹo. Phim đấy chẳng có bất kỳ...”

“Không đoạt giải, mà là được đề cử...”

“Nó cũng không được đề cử, tin tớ đi Spence...”

“Bốn, Spence, tớ thề đấy, B - bốn...”

Và bây giờ hai đứa đều nhìn Spencer, một cách khẩn khoản, “Làm ơn chọn tớ đi mà, tớ chứ không phải cậu ta đâu, tớ mới đúng, tớ thề, chọn tớ đi, phần thưởng hai bảng đấy” và, được lắm, cậu ấy chọn tôi, cậu ấy tin tôi, cậu ấy chọn B.

Sai. Đáp án chính xác là D - mười đề cử.

“Thấy chưa!” Tone quát lên.

“Cậu cũng sai còn gì!” Tôi quát lại.

“Cậu là đồ ngu,” Tone nói.

“Cậu mới là ngu,” tôi đáp.

“Cả hai cậu đều ngu!” Spencer nói.

“Cậu là đồ ngu, cậu ngu,” Tone nói.

“Không, bồ tèo ạ, cậu ngu thì có,” Spencer nói và rốt cuộc thì tôi quyết định có lẽ không nên kể họ nghe về Thách thức.

Nửa lít rượu gin với bia lần thứ tư làm cả bọn dễ xúc động và luyến tiếc những chuyện đã xảy ra cách đây sáu tháng, và chúng tôi ngồi hồi tưởng một cách trìu mến về những người chúng tôi không thật sự thích, những niềm vui mà chúng tôi không thật sự có được, về việc cô Clarke dạy Thể dục thật sự là đồng tính nữ, và Barry Pringle chính xác thì mập như thế nào, và rồi, cuối cùng, quán rượu báo sắp đóng cửa.

Bên ngoài quán Black Prince, trời bắt đầu mưa. Spencer đề xuất cả bọn đi tới quán bar mở thâu đêm ở Manhattan xem sao, nhưng chúng tôi không say đến mức đó. Tone đã nẫng được một băng video mới nhân dịp Giáng sinh, và muốn xem bộ phim Thứ Sáu ngày 13 có độ dài tám mươi chín phút, nhưng tôi đã buồn bực và say lắm rồi, nên quyết định về nhà, đi theo hướng ngược lại.

“Dịp năm mới, cậu sẽ về đây chứ?” Tone hỏi.

“Không nghĩ vậy đâu. Tớ nghĩ sẽ ở cùng Alice.”

“Được thôi anh bạn, gặp cậu sau,” cậu ta vỗ mạnh vào lưng tôi rồi loạng choạng suýt ngã.

Nhưng Spencer liền bước tới ôm chầm lấy tôi, hơi thở của cậu ta nghe có mùi bia với rượu gin ở trên, và thì thầm những lời ướt át vào tai tôi, “Nghe này, anh bạn Brian, cậu thực sự là bạn tớ, người bạn tốt nhất, và thật tuyệt khi cậu bước ra thế giới bên ngoài, gặp gỡ những người đặc biệt, có những trải nghiệm mới, những ý tưởng mới, ở trong những trang viên và những thứ khác, nhưng hãy hứa với tớ một chuyện, được chứ?” Cậu ta dựa vào thật sát. “Hứa với tớ là cậu không trở thành một thằng chết tiệt toàn tập.”

19

CÂU HỎI: Nếu vết bỏng chỉ ảnh hưởng đến lớp biểu bì được định nghĩa là bỏng độ một, vậy thì thuật ngữ nào để chỉ vết bỏng đến các mô dưới da?

TRẢ LỜI: Bỏng độ ba.

***

Cho dù phần đời còn lại của tôi có dễ đoán trước, vô vị, lờ phờ như thế nào, bạn vẫn có thể dám chắc rằng lúc nào cũng có một điều thú vị nào đó xảy đến với làn da tôi.

Khi ta còn trẻ con, da chỉ là một lớp bên ngoài hồng hào không thay đổi: không có lông, không có lỗ chân lông, không có mùi, hữu ích. Thế rồi một ngày ra nhìn hình cắt ngang dưới kính hiển vi trong cuốn sách giáo khoa Sinh vật chương trình O-level - nang, tuyến chất nhờn, mỡ dưới da, và ta chợt nhận ra có quá nhiều thứ có thể không hoạt động tốt. Và chúng đã không hoạt động tốt. Từ tuổi mười ba trở đi là một bộ phim truyền hình dài tập của những cái mụn, thẹo và lông mọc vào trong, phân bố khắp nơi, dưới nhiều hình dạng khác nhau, từ những lỗ chân lông đầu đen kín đáo sau tai cho đến những cái nhọt-sáng-từ-bên trong sưng lên trên chóp mũi, trung tâm hình học của khuôn mặt. Để trả miếng, tôi đã thử nhiều thủ thuật ngụy trang, nhưng tất cả các loại kem tông màu da mà tôi thử đại loại đều có màu hồng của bệnh bạch tạng và có xu hướng thu hút sự chú ý vào những đốm trên mặt một cách hiệu quả giống như dùng bút dạ quang vẽ một vòng tròn vậy.

Tôi thực sự không để tâm đến chuyện này hồi niên thiếu. À dĩ nhiên tôi có bận tâm, nhưng tôi đã chấp nhận nó như một phần của quá trình trưởng thành; một điều chả dễ chịu chút nào nhưng không thể tránh khỏi. Nhưng giờ tôi đã mười chín tuổi, cái độ tuổi đa phần được định nghĩa là người lớn, và tôi bắt đầu cảm thấy khổ sở. Sáng nay, đứng dưới ánh đèn bóng tròn 100 oát trong bộ đồ ngủ, mặt tôi trông đặc biệt xấu tệ. Tôi cảm giác như thể mình đang rỉ ra rượu gin, bia và dầu lạc từ vùng chữ T trên mặt, và có một vật thể mới, một cục gì cưng cứng dưới da, kích thước khoảng bằng hạt đậu, di chuyển ra xung quanh khi tôi chạm vào. Tôi quyết định cầu viện đến đại pháo. Chất làm se da. Ở cái nhãn phía sau một lọ có ghi “Cảnh báo - có thể tẩy trắng vải” và tôi thoáng lo lắng có lẽ không tốt khi thoa lên mặt ta một thứ có thể làm cháy một lỗ trên ghế sofa, nhưng dù sao thì cũng nên thử một phen. Rồi tôi rửa lần cuối bằng Dettol, chỉ cầu may mắn. Sau khi tôi làm xong, phòng tắm có mùi giống như bệnh viện, nhưng mặt tôi ít ra cũng đã có cảm giác căng ra và được cọ rửa sạch, như thể tôi vừa trải qua quy trình rửa xe trong tình trạng bị buộc vào nắp ca pô vậy.

Có tiếng gõ cửa và mẹ bước vào, cầm theo chiếc áo sơ mi dài tay không cổ bằng vải lanh màu trắng cổ điển nhất của tôi, mới được ủi, và một gói bọc trong giấy thiếc.

“Có ít thịt đùi lợn muối và gà tây, cho bạn con đấy.”

“Con nghĩ đồ ăn đã được chuẩn bị rồi mà mẹ. Hơn nữa họ đều là người ăn chay.”

“Đó là thịt trắng...”

“Con không nghĩ vấn đề ở màu sắc đâu mẹ...”

“Nhưng con định ăn gì nào?”

“Con ăn những gì họ ăn!”

“Sao, rau ấy à?”

“Vâng!”

“Con chưa từng ăn một cọng rau nào suốt mười lăm năm qua! Thật đáng kinh ngạc khi con không bị còi xương.”

“Mẹ này, còi xương là do thiếu vitamin D2, còn bệnh scobat là bệnh của máu do thiếu vitamin C, thiếu trái cây tươi.”

“Thế con có muốn đem theo ít trái cây tươi không?”

“Không cần đâu mẹ, thật đấy, con ổn mà, con không cần trái cây hay thịt gì đâu.”

“Con nên mang theo thì tốt hơn, lúc đi tàu ấy. Nếu con để lại đây thì đồ ăn chỉ có nước bị hỏng thôi.” Đối với mẹ tôi, ý nghĩa đích thực của Giáng sinh luôn luôn là Thịt Nguội nên tôi đành đầu hàng, và cầm lấy cái gói bọc giấy thiếc từ bà. Nó nặng khoảng một đầu người. Bà theo tôi vào phòng ngủ, để kiểm tra xem có đúng là tôi nhét nó vào va li hay không, giống như một viên chức hải quan với thiên chức một bà mẹ, và tôi coi như mình hãy còn may mắn vì bà không ép tôi phải đem theo rau cải.

Bây giờ bà đã ngồi xuống giường, và bắt đầu gấp gọn lại cái áo sơ mi dài tay không cổ của tôi.

“Mẹ không hiểu tại sao con lại mặc những bộ đồ cũ kinh khủng này nữa...”

“Có khi tại con thích chúng cũng nên?...”

“Ý con là con định cưa sừng làm nghé...”

“Con đâu có phê bình mẹ mặc đồ gì...”

“Quần đùi ống rộng! Con mặc cái đó làm quần lót bao lâu rồi hả?”

“Kể từ khi con bắt đầu tự mua đồ lót...”

“Thế quần chẽn lỗi mốt rồi hả con?”

“Con không có ý kiến gì, mẹ ạ...”

“Mẹ cứ nghĩ con thích mấy cái quần lót vải cotton đó hơn...”

“Con dùng kết hợp. Còn tùy...”

“Tùy vào cái gì?”

“Mẹ!...”

“Thế con định ở với bạn gái bao lâu?”

“Không biết. Ba ngày, cũng có khi là bốn. Mà cô ấy có phải bạn gái con đâu.”

“Thế con có quay về nhà không?”

“Không, con sẽ quay về trường cao đẳng[1] luôn.”

[1] Ở một số nước, cả hai loại trường cao đẳng (college) và đại học (university) đều cấp cùng một loại bằng cử nhân, điều kiện nhập học cao hay thấp tùy theo chất lượng, danh tiếng và thứ hạng của các trường. Tên gọi hoàn toàn không ảnh hưởng gì.

Tôi không biết tại sao, nhưng tôi thích gọi là “trường cao đẳng”, có lẽ bởi vì “trường đại học” nghe có vẻ vẫn kiêu kỳ đối với tôi. “Vậy con không ở nhà vào dịp năm mới à?”

“Con không chắc.”

“Con ở với cô gái đó hả?”

“Con nghĩ thế.” Tôi hy vọng thế.

“Ôi. Tiếc quá...” Bà đang sử dụng giọng nói tử vì đạo của mình. Mẹo ở đây là không được nhìn vào mắt bà. Tôi tập trung gói ghém hành lý. “Thế sau đó con có quay về đây không?”

“Con không về được thật đấy. Con có việc phải làm.”

“Làm ở đây cũng được mà...”

“Con không về được thật mà...”

“Mẹ sẽ không quấy rầy con đâu...”

“Con cần những quyển sách đặc biệt mà mẹ...”

“Vậy con nhất định không ở nhà để mừng năm mới hả?”

“Đừng nghĩ vậy mà mẹ, không.” Từ phía sau lưng tôi có tiếng thở dài buồn thảm đến nỗi tôi nghĩ nếu quay đầu lại, không chừng tôi lại thấy bà đang nằm như chết rồi trên sàn cũng nên. Giờ thì phát cáu lên rồi, tôi nói, “Đằng nào thì mẹ chả đi ra ngoài uống rượu với chú Des đến say bí tỉ ra, mẹ con mình cũng có gặp mặt nhau đâu cơ chứ...”

“Mẹ biết, chỉ bởi đây là lần đầu tiên con không ở nhà, vậy thôi. Mẹ chỉ không thích thui thủi ở nhà một mình...”

“À, một ngày nào đó chuyện đấy chắc chắn sẽ xảy ra mà mẹ.” Nhưng cả hai mẹ con đều nghĩ về một điều giống nhau. Nó không nên xảy ra, không phải như thế này, không phải ngay lúc này. Im lặng bao trùm, rồi thì tôi nói, “Mẹ à, con định thay đồ, mẹ cảm phiền...”

Bà thở dài, ngồi dậy rời khỏi giường.

“Có cái gì mà trước đây mẹ chưa từng thấy đâu.”

Cũng mới đây thôi. Đêm Giao thừa năm 1984-1985, tôi về nhà say quắc cần câu đến nỗi ói ra đầy giường. Tôi có một ký ức mơ hồ cảm động về việc mẹ giúp tôi trong nhà tắm lúc rạng sáng, dùng vòi sen rửa sạch Pernod, bia, con gà và khoai tây đã được tiêu hóa hết một nửa. Chuyện đó mới cách đây mười hai tháng. Bà chưa bao giờ nhắc đến việc đó kể từ dạo ấy và tôi thích tin rằng chuyện đó có lẽ không thực sự xảy ra, nhưng tôi khá chắc nó đã xảy ra rồi.

Thỉnh thoảng tôi nghĩ đúng là không có đủ chuyên gia tâm lý trên cả thế giới này...

***

Mẹ tươi tỉnh lên một chút lúc tôi hôn tạm biệt bà ở ngưỡng cửa, mặc dù bà vẫn cố giúi vào tay tôi một mớ tạp phẩm. Tôi khước từ một ổ bánh mì Mighty White, một lít Dry Blackthorn, một túi bánh patê dùng trong dịp lễ Giáng sinh, một hũ kem tiệt trùng ít chất béo 250ml, một bọc khoai tây khoảng 2 ký rưỡi, một gói nhỏ bánh quy Jaffa Cakes, một chai Iced Magic hương bạc hà, chai hai lít dầu hướng dương, và mỗi câu không-cảm-ơn là một nhát dao chém vào xương bả vai của mẹ tôi. Gây thiệt hại xong, tôi đi thẳng, kéo lê chiếc va li trên đường, và không quay đầu nhìn lại phòng khi bà òa lên khóc. Trên đường ra ga tôi dừng lại rút năm bảng từ máy rút tiền, rồi dừng ở quầy báo mua một ít rượu cho nhà Harbinson. Tôi muốn mua loại nào tử tế một tí, nên cuối cùng đã thổi vèo 3 bảng vào một chai rượu có hộp đựng riêng.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,524
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 17


20

CÂU HỎI: Thuật ngữ kinh tế xã hội nào ban đầu được dùng để chỉ những cư dân là thợ thủ công ở các thành bang vào thế kỷ mười một ở Pháp, giữ vị trí trung gian giữa tá điền và địa chủ?

TRẢ LỜI: Giai cấp tư sản.

***

Trên chuyến xe lửa rời Southend, nhìn qua ô cửa sổ, tôi thấy những con đường vắng vẻ, ẩm ướt, một nhúm những cửa hàng mở cửa chẳng mấy mặn mà với chuyện buôn bán theo kiểu mua-hay-không-thì-tùy. Bốn ngày giữa ngày Lễ Tặng quà và Giao thừa chắc chắn là những ngày dài nhất và bực mình nhất trong năm - kiểu như ngày Chủ nhật sưng sỉa, khốn kiếp. Mặc dù tệ nhất vẫn là Ngày nghỉ của các Ngân hàng Anh trong tháng Tám. Tôi chắc như bắp là mình sẽ chết vào khoảng hai giờ rưỡi trưa trong một ngày nghỉ của Ngân hàng Anh trong tháng Tám. Chết vì buồn chán cùng cực.

Tôi đổi tàu tại Shenfield, ăn trưa tại đó bằng một lon nước tăng lực Lucozade, một túi khoai tây chiên hình vòng Hula Hoops và một thanh sô cô la Twix mua ở sạp báo lộng gió, và chỉ còn đủ thời gian để kiểm tra xem mặt mình đã lành chưa trong chiếc gương ở nhà vệ sinh sân ga trước khi quay lại tàu.

Rời vùng ngoại ô và hướng về Sufford, mưa đã hóa thành tuyết. Tuyết kiểu như thế này hiếm khi đến được vùng Southend. Sự kết hợp của đèn đường, không khí cửa sông và hệ thống sưởi trung tâm có xu hướng biến tuyết trở nên giống như gầu bám trên da đầu, lạnh lẽo, ẩm ướt, nhưng ở đây, xuyên qua những cánh đồng khi mặt trời lặn, tuyết trông dày và sạch một cách tuyệt vời. Đọc trang đầu tiên quyển Cantos của Ezra Pound đến năm lần mà vẫn không hiểu nổi từ nào, tôi bèn bỏ cuộc và nhìn ra cảnh vật bên ngoài. Thật đẹp mê hồn. Đi khỏi sân ga được mười phút, tôi đã choàng áo khoác và khăn quàng cổ vào và xem bóng mình phản chiếu trên cửa sổ xe lửa. Cổ đứng hay cổ bẻ thì hơn nhỉ? Tôi đang nhắm đến cái dáng vẻ kiểu như nhân vật trong tiểu thuyết của Graham Greene, như trong phim Third-Man[1] chẳng hạn nhưng chỉ đạt được tạo hình như trong video ca nhạc của nhóm Ultravox.

[1] Bộ phim dựng trên tiểu thuyết cùng tên của Graham Greene này được nhiều nhà phê bình coi là kiệt tác.

Năm phút trôi qua, và tôi đang tập nói những gì định nói khi gặp lại Alice. Tôi chưa có cảm giác căng thẳng như thế này bao giờ kể từ khi cởi áo ra để bị đóng đinh vào cây thập ác hồi đóng vai Chúa Giê-su trong vở Phúc âm. Thậm chí tôi cười hình như cũng không đúng kiểu; nụ cười nhăn nhó méo xệch về một bên, cái miệng khép chặt khiến tôi trông như nạn nhân của chứng đột quỵ, nhưng khi tôi mở miệng, với hàm răng có màu-kem-và-đen, nó chẳng khác nào cái túi đựng thẻ chữ trong trò sắp chữ. Cả đời ăn trái cây và rau quả tươi có nghĩa là Alice Harbinson có hàm răng hoàn hảo. Tôi tưởng tượng ra cảnh nha sĩ của nàng nhìn vào miệng nàng mà chỉ biết khóc ròng trước vẻ rạng rỡ, trắng tinh, thuần khiết, tươi sáng của nó.

Khi tàu dừng lại ở nhà ga, Alice đang chờ ở cuối sân ga, rúc mình tránh tuyết trong chiếc áo khoác dài chấm đất màu đen nom đắt tiền, đầu quấn khăn choàng cổ len màu xám, và tôi không biết nàng để chiếc đàn balalaika ở đâu. Nàng không chạy ào tới khi nhìn thấy tôi, nhưng ít ra nàng cũng rảo bước nhanh hơn, và khi khuôn mặt nàng nằm trong tầm nhìn, tôi có thể thấy nàng đang nhe răng ra, và sau đó nở nụ cười, da nàng trắng hơn, môi đỏ hơn và có một cái gì đó mềm mại và ấm áp ở nàng khác hẳn hồi ở trường cao đẳng, như thể nàng vừa hết ca làm, rồi nàng choàng tay ôm lấy tôi, nói rằng nhớ tôi, rằng rất hào hứng khi tôi tới đây, rằng chúng tôi sắp sửa rất vui vẻ, và trong thoáng chốc tôi cảm thấy được niềm hạnh phúc viên mãn, trong gió tuyết với Alice ở ngay trên sân ga tại vùng thôn quê này. Cho đến khi tôi nhìn thấy, qua vai nàng, một người đàn ông chắc là bố Alice. Heathcliff[2] trong chiếc áo khoác vải bông không thấm nước.

[2] Nhân vật nam chính trong tiểu thuyết Đồi gió hú.

Nếu có cơ hội tôi sẽ nắm bắt lấy, nhưng thay vào đó tôi chìa bàn tay ra trước mặt ông. Dạo gần đây tôi đang thử nghiệm việc bắt tay, vì theo như tôi hình dung thì người trưởng thành phải làm như vậy, nhưng ông Harbinson chỉ nhìn tôi như thể tôi vừa làm một việc gì đó thuộc thế kỷ mười tám và lạc lõng đến kinh người, giống như cử chỉ khẽ nhún đầu gối cúi chào hay gì đó. Cuối cùng ông cũng bắt tay tôi, siết đủ chặt để thể hiện là ông có thể đập vỡ sọ tôi nếu muốn, sau đó quay người bỏ đi.

Khi tôi kéo lê túi hành lý của mình đến chiếc xe Land-Rover xanh trong bãi đậu xe của nhà ga, Alice đi phía trước, nàng quàng tay qua cổ bố như thể ông ấy là bạn trai hay bạn bè của mình vậy. Tôi mà choàng tay qua cổ mẹ như vậy thì kiểu gì bà cũng sẽ gọi cho các dịch vụ xã hội, nhưng ông Harbinson dường như coi chuyện đó là bình thường, ông vòng tay qua eo của Alice và kéo nàng sát vào người. Tôi lóc cóc đi kế bên.

“Brian là vũ khí bí mật của nhóm bọn con. Cậu ấy chính là chàng trai thiên tài mà con kể với bố đấy,” Alice nói.

“Dạ, cháu e thiên tài không phải là từ đúng đâu ạ,” tôi nói.

“Không, tôi thì chắc chắn từ đó không đúng,” ông Harbinson đáp.

Băng qua những con đường thôn quê. Tôi ngồi ghế sau, giữa những đôi giày đi bộ, ủng cao su cao đến đầu gối dính đầy bùn đất và tấm bản đồ của Cục Bản đồ sũng nước, trong khi Alice tiếp tục độc thoại về tất cả những bữa tiệc nàng đã tham gia và những người bạn cũ nàng đã gặp, còn tôi chăm chú nuốt từng lời, chỉ để kiểm tra xem liệu có sự hiện diện của Những Kẻ Dính Mũi Vào Chuyện Yêu Đương hay không, có thể là một cậu diễn viên trẻ, hoặc một nhà điêu khắc có chút cơ bắp tên Max, Jack hay Serge gì đó. Nhưng dù sao đi nữa trời vẫn yên bể vẫn lặng, cho đến lúc này. Có khi là nàng đang giữ kẽ trước mặt bố. Nhưng tôi cũng nghi ngờ chuyện đó lắm. Tôi nghĩ Alice là một trong những người kỳ lạ có cách cư xử trước mặt bố mẹ mình giống hệt cách cư xử trước mặt bạn bè.

Ông Harbinson vừa nghe vừa lái trong im lặng, kín đáo phát ra tiếng xùy phản đối nho nhỏ. Ông thật to lớn, và tôi cố tưởng tượng tại sao một người làm phim tư liệu nghệ thuật cho đài BBC2 lại có vóc người giống như thợ nề vậy. Lại còn rậm lông, kiểu người phải cạo râu trên má hai lần một ngày, nhưng rõ ràng ông được chó sói nuôi lớn, nhưng là loài sói biết giá trị của nền giáo dục cao đẳng chính quy. Ông cũng có cái vẻ trẻ trung, ưa nhìn và sành điệu quá so với một ông bố, như thể gia đình là một chốn mà ông ấy sảy chân rơi vào giữa buổi hòa nhạc của Jimmy Hendrix và cuộc phiêu diêu do ngấm LSD[3] vậy.

[3] LSD (lysergie acid dicthylamide): loại ma túy mạnh gây ra ảo giác.

Cuối cùng chúng tôi cũng về tới Ngôi nhà nhỏ Chim két. Ngoại trừ việc “ngôi nhà nhỏ” không hẳn là từ đúng. Nó thật to lớn và đẹp đẽ, kiểu ngôi nhà “quây quần”, một dãy trang trại và chuồng gia súc, gần như là một ngôi làng hoàn chỉnh, túm tụm vào nhau để sống trong điền trang của gia đình Harbinson; tất cả sự xa xỉ của một ngôi nhà lớn ở nông thôn có giá trị lịch sử để cho khách tham quan mà không tiềm ẩn vẻ quý tộc phiền phức về mặt chính trị nào. Trong tuyết, cảnh vật trông giống như một tấm thiệp Giánh sinh có hình động. Thậm chí còn có khói bốc ra từ ống khói, tất cả đều toát ra vẻ dân dã và dáng dấp của thế kỷ mười chín, ngoại trừ chiếc xe thể thao 2CV của Alice và một hồ bơi được phủ vải dầu ở chỗ trước đây có lẽ là chuồng bò. Trên thực tế bất kỳ quan điểm nào về lao động nặng nhọc, thiết thực ở nông thôn đều đã bị quét sạch từ lâu lắm rồi, thậm chí chó dường như cũng thuộc tầng lớp trung lưu; hai con giống Labrador đang nhảy lên như muốn nói “Thật vui khi gặp cậu, kể tuốt tuồn tuột về cậu cho tụi này nghe với”. Tôi sẽ chẳng lấy làm ngạc nhiên nếu phát hiện họ có cây đàn Đại Dương cầm.

“Cậu gặp Mingus và Coltrane đi này!” Alice giới thiệu.

“Chào Mingus và Coltrane.” Hai con chó có hơi coi thường khuôn phép một chút khi chúng bắt đầu ngửi ngửi món thịt nguội trong va li tôi khi chúng tôi băng qua sân trại. Tôi quẩy cái túi lên tận cánh tay.

“Cậu nghĩ sao?”

“Thật đẹp. Rộng lớn hơn tớ mong đợi.”

“Bố mẹ tớ đã mua chỗ này khoảng 5 đồng tiền vàng gì đấy thì phải, hồi những năm sáu mươi. Vào gặp Rose nhé,” và tôi mất một giây để ngộ ra rằng Rose là mẹ của nàng.

Có một câu nói sáo rỗng mang hơi hướng chủ nghĩa sô vanh xa xưa rằng hãy nhìn mẹ của cô gái mà bạn định lấy, sau khi kết hôn, cô ấy sẽ giống như vậy, nhưng trong trường hợp mẹ của Alice, tôi chẳng có gì phải phiền lòng. Nói thế không phải tôi định kết hôn với Alice hay gì, nhưng bà Harbinson thật đẹp. Khi chúng tôi bước vào nhà bếp, một ngôi nhà nhỏ hình vòm bằng đồng đỏ và gỗ sồi, bà đang đứng bên bồn rửa lắng nghe chương trình The Archers, và trong khoảnh khắc tôi nghĩ rằng Julie Christie đang rửa cà rốt, dáng người bà nhỏ nhắn, có những nếp nhăn mờ quanh đôi mắt màu xanh nước biển, mái tóc hoe uốn mềm mại. Tôi rảo bước lên phía trước băng qua những phiến đá lát trơn nhẵn, dang rộng một cánh tay ra như chú lính chì, quyết định kiên trì với chuyện bắt tay.

“Ra đây là Brian mà cô đã được nghe kể nhiều lần sao,” bà nói, mỉm cười, và đưa bàn tay dính đất lắc lắc đầu ngón tay tôi, rồi mỉm cười với tôi, và tôi thoáng hồi tưởng về một cô giáo mà tôi thầm yêu lúc chín tuổi.

“Rất vui được gặp bác, bác Harbinson.” Tôi nói giống như chín-tuổi vậy.

“Ồ, đừng có gọi cô là bác Harbinson, nghe già lắm. Gọi cô là Rose đi.”

Khi bà cúi về phía trước hôn vào má tôi, tôi liếm môi như một phản xạ, thế nên cái hôn vội lên má bà có hơi ươn ướt, rồi có tiếng động ầm ĩ được khuếch đại dường như làm những phiến đã nảy lên. Tôi thực sự có thể thấy nước miếng mình ánh lên bên dưới mắt bà. Bà kín đáo lấy mu bàn tay chùi đi trước khi nó khô lại, làm bộ như đang sửa lại mái tóc uốn. Rồi ông Harbinson lù lù xuất hiện giữa chúng tôi và hôn vào má bên kia, bên má khô ráo, thể hiện quyền sở hữu của mình.

“Thế cháu sẽ gọi bác là gì đây ạ, bác Harbinson?” tôi vui vẻ hỏi.

“Gọi là ông Harbinson.”

“Michael! Đừng xấu tính thế.” Rose nói.

“... hoặc Ngài. Cậu có thể gọi tôi là Ngài...”

“Cậu cứ mặc kệ ông ấy đi,” Alice bảo.

“Cháu có mua ít rượu biếu hai bác,” tôi nói, kéo mạnh cái chai ra khỏi túi và đưa cho ông. Ông Harbinson nhìn nó như thể tôi vừa đưa cho ông cái bình đựng nước tiểu của tôi vậy.

“Ồ, cám ơn Brian nhiều lắm! Thỉnh thoảng đến chơi nhé!” Rose nói. Ông Harbinson trông không có vẻ thực tình muốn thế.

“Đi nào, để tớ chỉ phòng cậu,” Alice nói, nắm lấy tay tôi, và tôi theo nàng lên lầu, để ông bà Harbinson ở lại xì xầm sau lưng.

Trong ngôi nhà nhỏ trên đường Archer có một chỗ lưng chừng cầu thang, ở đấy nếu nghển cổ lên một chút ta có thể thấy tất cả các căn phòng trong ngôi nhà. Ngôi nhà nhỏ Chim két không giống vậy chút nào. Nó thật đồ sộ. Phòng tôi, vốn là phòng cũ của Alice, nằm ngay chóp ngôi nhà, dưới những thanh xà bằng gỗ sồi nhiều năm tuổi, như đang ở Chái Đông hay gì đó. Một bức tường bị che lấp hoàn toàn bởi những tấm ảnh phóng to của Alice lúc nhỏ; nàng mặc chiếc đầm in hoa không tay không cổ đang nướng bánh; nàng mặc cái áo yếm liền quần đang nhặt quả mâm xôi; nàng đóng vai Olivia trong Đêm thứ mười hai diễn ở trường, và, đoán xem, nàng với bộ ria vẽ lên mặt trong vở Hảo phụ Tứ Xuyên, và mặc bộ đồ làm từ túi đựng rác màu đen đóng giả “kẻ cuồng nhạc rock”, trông không được thuyết phục cho lắm, trong một bữa tiệc hóa trang, e dè giơ ngón tay chữ V trước máy ảnh. Một bức ảnh chụp lấy ngay của bố mẹ nàng thuở hai mươi, chủ nhân kiêu hãnh của một trong những cái túi đậu đầu tiên, trông như thành viên của nhóm nhạc Fleetwood Mac, mặc những cái áo gi lê được phối với nhau rất hợp và đang hút cái gì đó có lẽ là thuốc lá. Những cái kệ đựng sách thiếu nhi chỉ ra rằng Alice rõ là độc giả khá quan trọng trong Puffin Club; Tove Jansson, Ingrid Lindgren, Eric Kastner, Herge, Goscinny, Uderzo, Saint-Exupery - thế giới văn chương dành cho trẻ nhỏ - và, hơi không phù hợp, một cuốn sách bìa mềm bị long gáy có tựa đề Dây buộc. Một cuốn phê bình phim nghệ thuật loại A của Madonna từ bảo tàng Uffiza và một chuỗi tranh truyện vui Snoopy bị cắt ra. Những tấm bằng khen được đóng khung chứng nhận là Alice Harbinson có thể đồng thời bơi ở cự ly 1.000 mét, thổi kèn ô-boa hồi lớp Sáu và chơi piano hồi lớp Tám, trong chừng mực tôi biết. Phòng ngủ của tôi chính là cái Bảo tàng Quốc gia của Alice Harbinson. Tôi không biết làm sao mà nàng lại cho rằng tôi có thể ngủ được ở đây.

“Cậu nghĩ phòng này có ở được không?” nàng hỏi.

“Ờ, tớ nghĩ là sẽ xoay xở được.” Nàng quan sát tôi nhìn lướt qua những tấm ảnh, không hề làm ra vẻ ngượng nghịu hay e lệ giả tạo. Đây là những thứ đã ghi dấu lại cuộc đời tớ - đẹp chứ? Lúc bốn tuổi, nàng là tất cả những gì ta có thể ước mong ở một đứa trẻ bốn tuổi, ở độ tuổi mười bốn thì nàng đã thật sự giỏi giang, lạy Chúa.

“Định tìm nhật ký của tớ thì không ăn thua gì đâu, tớ giấu đi rồi. Còn nếu cậu thấy lạnh, mà chắc là vậy, thì có một cái mền ở trong tủ áo đấy. Nào, để tớ giúp cậu xếp đồ ra. Cậu muốn làm gì tối nay nào?”

“Ờ, tớ cũng chưa biết, chắc chỉ đi dạo đâu đó thôi. À, ti vi có chiếu phim Some Like It Hot.”

“Xin lỗi cậu, ở đây không có ti vi.”

“Thật á?”

“Bố không tán thành việc mua ti vi.”

“Nhưng ông ấy là nhà sản xuất chương trình truyền hình cơ mà!”

“Nhà tớ ở Luân Đôn cũng có một cái ti vi, nhưng ông nghĩ nếu có một cái ở quê nữa thì thật hoang đường. Ánh mắt của cậu có nghĩa gì vậy?”

“Ồ, tớ chỉ đang nhẫm nghĩ - ba ngôi nhà, một cái ti vi. Với hầu hết những người khác thì tình hình có vẻ như ngược lại.”

“Không cần nói chuyện đó cho tờ Người cộng sản đâu Brian, sẽ chẳng ai thèm nghe hết. Ê này, quần đùi ống rộng đấy à?” Nàng đang cầm mấy cái quần lót của tôi. Một luồng cảm xúc tình ái mơn man tràn ngập bầu không khí giữa chúng tôi, và tôi hết sức biết ơn mẹ vì bà đã ủi chúng thẳng thớm. “Tớ cứ nghĩ cậu thích quần lót bó sát.” Tôi đang cố nghĩ xem điều này là tốt hay xấu, thì Alice ré lên, “Ôi lạy Chúa tôi! Cái gì thế này...?”

Nàng đã tìm thấy gói thịt bọc giấy thiếc trong túi tôi. Tôi cố giật nó ra khỏi tay nàng.

“Ồ, chỉ là gói đồ của mẹ tớ thôi...”

“Để tớ xem nào...”

“Không có gì đâu, thật đấy.”

“Hàng lậu!” Nàng mở tung cái gói ra. “Thịt? Cậu lén mang theo nguồn cung cấp thịt riêng!”

“Mẹ lo là tớ không có đủ chất đạm.”

“Để thử một miếng nhá - tớ đang thèm.” Nàng lấy một miếng thịt lợn muối xông khói luộc màu vàng rồi ngồi phịch lên giường. “Hừm. Hơi khô.”

“Đó là công thức đặc biệt của mẹ tớ. Bà nấu nó qua đêm, xắt nhỏ, để trong lò sưởi, rồi kết thúc công đoạn bằng máy sấy tóc.”

“À mà đừng để Rose bắt gặp cậu ăn cái này nhé. Bà sẽ thấy bị xúc phạm đấy. Ngôi nhà nhỏ Chim két là khu vực nghiêm cấm thịt.”

“Thế Mingus và Coltrane ăn gì?”

“Giống nhà tớ thôi. Rau, điểm tâm, gạo, mì ống...” Họ cho chó ăn mì ống. “Cậu có cái gì ở kia thế?”

“Quà Giáng sinh của cậu đấy.” Tôi giơ cái đĩa than gói trong giấy gói quà ra. “Là một cây vợt tennis.”

Nàng liếc nhìn tấm thiệp, một tác phẩm lãng mạn đầy khêu gợi của Chagall được dán băng dính vào album. Tôi đã đổ nhiều thời gian và tận tâm tận lực cho nội dung thông điệp, lại còn phải nháp đi nháp lại nhiều lần, trước khi có được những dòng mùi mẫn và hùng hồn này; “Gửi tặng Alice; người bạn mới nhất, tốt nhứt (chính tả?!?), tất cả tình yêu của tớ, luôn luôn bên cậu, Brian.” Tôi đặc biệt hài lòng với cách nhận xét hài hước tếu táo “(chính tả?!?)” ở đoạn “bạn tốt nhứt/tình yêu” mà không cần làm giảm đi tính chân thực của cảm xúc, nhưng cuối cùng thậm chí nàng còn chả buồn đọc mà cứ thế xé giấy gói quà ra.

“Joni Mitchel! Album Blue!”

“Ôi không, không phải là cậu đã có rồi chứ hả?”

“Mới khoảng sáu bản thôi. Nhưng cậu chọn đúng chóc. Tớ yêu Jone. Thật ra tớ đã mất tân khi đang nghe nhạc Joni Mitchell.”

“Tớ hy vọng không phải là bài ‘Chiếc taxi màu vàng to lớn’.”

“Thật ra là bài Ve vãn và Tán tỉnh...” tôi cũng có thể đoán ra.

“Còn cậu thì sao?”

“Sự trong trắng của tớ à? Chẳng nhớ nữa. Có thể là đĩa Hành khúc Tang lễ hoặc bài Geoff Love và Ban nhạc chơi nhạc chiến tranh của Chopin chăng. Tớ nghĩ là bài ‘Cuộc diễu hành của Dambusters’. Nối tiếp theo sau là một sự im lặng kỳ quái.”

Nàng cười và trao nó lại cho tôi. “Tiếc thật đấy. Cậu còn giữ hóa đơn không?”

“Tớ nghĩ là còn. Có cái gì đấy cụ thể mà tớ có thể đổi cho cậu không?”

“Tạo sự ngạc nhiên cho tớ đi. Nhưng làm ơn không phải là Kate Bush nhé. Tớ sẽ để cậu làm nốt việc lấy đồ ra.”

“Trà chiều vào lúc nào?”

“Nửa tiếng nữa là bữa tối rồi.” Khi đi ra cửa nàng ôm tôi một lần nữa. “Tớ rất mừng khi cậu ở đây. Chúng ta sẽ có rất nhiều trò vui, tớ hứa với cậu đấy.”

Sau khi nàng đi khỏi, tôi treo cái áo sơ mi dài tay không cổ mới ủi lên móc gỗ, thưởng thức cái cảm giác của phủ thống sứ và sự vĩnh cửu. Nếu tôi làm đúng, tôi có thể vẫn còn ở lại đây vào dịp năm mới. Thậm chí ngày mồng Hai Tết, hoặc có thể là mồng Ba...

Tôi mở tủ quần áo, gần như mong tìm đến được Narnia[4].

[4] Tên một vùng đất xuất hiện trong xê ri bảy cuốn tiểu thuyết Biên niên sử Narnia của C. S. Lewis. Câu chuyện mở đầu với việc bốn đứa trẻ bình thường phát hiện ra một cái tủ quần áo dẫn đến xứ sở huyền diệu Narnia, nơi có những linh thú, những sinh vật có thể nói chuyện và sự tồn tại của pháp thuật.

***

Cuối cùng, chất đạm hóa ra lại trở thành điều ít phải lo ngại của tôi hơn cả. Bữa tối là quả hạch nướng. Tôi đã từng nghe về quả hạch nướng, và lúc nào cũng nghĩ đó là lời nói đùa, nhưng đây rồi, một đống bánh có lẫn những hạt cứng, âm ấm và phô mai chay tan chảy ở mặt trên cùng, lần ăn thử hạch đầu tiên của tôi với một món không phải là một thanh đồ ăn nhanh. Miếng bánh nằm trên đĩa giống như một đống đất nhỏ hình ống do giun đùn lên. Tôi tự hỏi không biết mấy con chó đang ăn gì?

“Món hạch nướng của cháu thế nào, Brian?”

“Dạ ngon lắm, cám ơn cô, Rose.” Không biết từ đâu tôi góp nhặt được một cái ý niệm rằng cứ gọi tên của người khác nhiều lần là lịch sự - “Dạ vâng Rose, dạ không Rose, dạ thích Rose” - nhưng tôi nghĩ chuyện đó làm tôi nói giống như Uriah Heep. Tốt nhất là nói tiếp điều gì đó hài hước một chút. “Đây là lần ăn thử hạch đầu tiên của cháu với một món không phải là một thanh đồ ăn nhanh!”

“Cất cái bản mặt xấu xí, đần độn và lấy ngay bàn tay bẩn thỉu, nhơ nhuốc của mày ra khỏi người con gái tao, thằng ngu ngốc ti tiện lẻm mép,” ông Harbinson nói. À, ông không nói thế, nhưng trông ông có vẻ thế.

Rose chỉ đưa ngón tay vuốt lên lọn tóc uốn, mỉm cười, và hỏi thăm, “Món bí xanh được chứ?”

“Chắn chắn rồi!” Thực tế là cả đời tôi chưa bao giờ ăn bí xanh, nhưng chỉ để gây ấn tượng về sự nhiệt tình của mình, tôi liền nhanh tay đút một nĩa đầy cái món đầy nước, sền sệt đó vào mồm, rồi ngoác miệng cười một cách đần độn. Giống như tất cả các loại rau xanh khác, nó có vị vốn dĩ của rau, xen lu lô luộc, nhưng tôi quá tha thiết muốn làm hài lòng Rose đến nỗi đó là những gì tôi làm để cản mình không xoa bụng và nói “Hừm...” Tôi uống một chút rượu để rửa trôi cái vị rêu ở hồ đó đi. Không thấy bóng dáng cái bình rượu của tôi đâu, và tôi cho rằng nó đã được đem ra ngoài và bắn bỏ. Hoặc cũng có khi mấy con chó đang uống nó với món mì ống của chúng, cùng một ít bánh mì que. Tuy nhiên, loại vang này thì ngọt và ấm đến nỗi tôi cảm thấy nên nhấp từng ngụm từ một cái muỗng nhựa đựng được 5ml.

“Lần đầu đến Suffolk hả Brian?”

“Cháu từng ở đây một lần rồi ạ. Vào một dịp lễ leo núi!”

“Thật hả? Nhưng chẳng phải nơi này cực kỳ bằng phẳng sao?” Rose nói.

“Tại ban đầu cháu không biết điều đó!”

Ông Harbinson phì mạnh hơi qua lỗ mũi.

“Cô không hiểu. Ai bảo cháu là...?” Rose hỏi.

“Mẹ, Brian đang đùa í mà,” Alice đáp.

“Ồ, hiểu rồi, phải rồi!”

Rõ ràng tôi nên ngừng ngay việc cố ra vẻ hài hước, nhưng tôi vẫn chưa nghĩ ra cái gì để thay thế. Cảm nhận được nhu cầu cần hỗ trợ, Alice quay qua tôi, đặt tay lên cánh tay tôi: “Brian nè, nếu cậu muốn xem cái gì thật sự tếu, đáng lẽ cậu nên ở đây vào hôm qua.”

“Sao vậy, có chuyện gì xảy ra hôm qua à?”

Rose đỏ bừng mặt. “Ồ, Alice, con yêu, chúng ta giữ chuyện đó riêng trong nhà thôi, làm ơn đi mà?”

“Nó có thể kể cho cậu ta nghe,” ông Harbinson làu bàu.

“Nhưng mà ngượng lắm!...”

“Kể cho tớ với!” tôi nói, hòa mình vào trò vui.

“Nhưng cô thấy lố bịch lắm,” Rose nói.

“Thế này...” Alice kể “... nhà tớ có mời một vài người bạn đến chơi, như vẫn thường mời trong Lễ Tặng quà, và cả nhà chơi trò suy đoán, đến lượt tớ, tớ cố gắng diễn tả bộ phim Năm ngoái tại Marienbad cho mẹ, thế rồi bà kích động và hào hứng quá mức, bà la to hết mức, đến nỗi cái đồ bịt của bà bị vọt ra và rớt ngay xuống ly rượu của người hàng xóm nhà kế bên!”

Thế là mọi người cười phá lên, kể cả ông Harbinson, không khí thật vui vẻ, trẻ trung, thú vị và suồng sã đến nỗi tôi nói, “Tức là cô không mặc đồ lót à?!?”

Mọi người im bặt.

“Cậu nói gì cơ?” Rose hỏi.

“Đồ bịt của cô ấy. Khi nó vọt ra ngoài. Làm thế nào nó đi... qua quần lót... của cô được?”

Ông Harbinson đặt dao nĩa xuống, nuốt ực thức ăn trong miệng, xoay qua tôi nói, rất chậm rãi, “Thật ra thì, Brian này, bác nghĩ Alice đang nói đến cái đồ bịt răng của mẹ nó.”

Chẳng bao lâu sau đó tất cả chúng tôi đi ngủ.

***

Tôi đang ở trong phòng tắm, vỗ nước lạnh vào mặt thì Alice gõ cửa.

“Chờ hai giây thôi,” tôi nói, dù chẳng hiểu tại sao mình nói vậy; tôi vẫn mặc quần áo đầy đủ, và tôi không thể làm gì nhiều cho dáng vẻ bên ngoài chỉ trong hai giây, ngoại trừ việc lấy khăn tắm quấn quanh đầu.

Tôi mở cửa, Alice bước vào, cẩn thận đóng cánh cửa ở sau lưng và nói, rất chậm rãi và nghiêm túc, “Cậu có phiền không nếu tớ nói một điều - một điều riêng tư?”

“Không đâu, cứ nói đi!” Tôi làm phép tính trong đầu và cả quyết rằng có khoảng một phần ba cơ hội nàng đang đề nghị tôi làm tình cùng nàng vào tối nay.

“Thế thì... thật là sai lầm khi rửa mặt thật mạnh bằng khăn flanen kiểu như thế này. Cậu sẽ chỉ bị chảy máu và làm lây lan chỗ nhiễm trùng thôi...”

“Ồ...”

“Và cậu sẽ bị thẹo nữa.”

“Phải... rồi...”

“Hiện giờ cậu có giặt khăn flanen bằng nước sôi không?”

“À, không...”

“Vì khăn flanen chắc chắn là một phần của vấn đề...”

“Thế à, phải rồi...”

“Nếu tớ là cậu, tớ sẽ không dùng khăn flanen nữa đâu, khăn flanen tuyệt đối dễ sợ, chỉ cần rửa mặt bằng nước và xà phòng thuần chất, không có mùi thơm...” Làm sao để tôi thoát ra khỏi cuộc nói chuyện này được đây? “... và không cần phải là xà phòng diệt khuẩn, vì chúng thường thiên về việc làm se lỗ chân lông...” Đây thậm chí còn không phải là một cuộc nói chuyện, tôi chính là người đang đợi nàng ngừng nói. “... Và cậu cũng không nên dùng kem làm se, nó có hiệu quả trước mắt, nhưng về lâu về dài thì chỉ làm cho tuyến chất nhờn hoạt động nhiều hơn...” Đến nước này thì tôi bèn đưa mắt nhìn vào cửa sổ phòng tắm, tự hỏi liệu có nên phi thân qua đó hay không. Alice chắc phải để ý thấy, nên nàng liền nói, “Tớ xin lỗi. Cậu có phiền khi tớ nói những chuyện này không?”

“Không hề. Cậu thật là hiểu biết. Nếu ‘chăm sóc da’ có mặt trong Thách thức Đại học, chúng ta sẽ được cười vui vẻ lắm đấy!”

“Ồ, tớ không làm cậu khó chịu chứ?”

“Không, tớ chỉ không nghĩ là mình có thể làm gì được hơn, chỉ vậy thôi. Tớ nghĩ đó chắc là sự kích thích của tuổi dậy thì! Hoóc môn các thứ ấy mà. Rồi tớ sẽ bắt đầu có hứng thú với con gái sớm thôi!” Alice mỉm cười độ lượng, rồi trao cho tôi nụ hôn chúc ngủ ngon kiểu chị gái, đôi mắt nàng quét khắp mặt tôi để tìm chỗ an toàn trước khi đáp xuống.

Sau đó run rẩy trên giường ngủ, nằm ngửa đợi mặt khô để không làm dây vết máu lên gối, tôi cẩn thận đánh giá lại chiến lược cho ngày mai, và sau khi cân nhắc kĩ lưỡng, tôi quyết định chiến lược của mình chính là sẽ bớt ngu đi. Chuyện này sẽ không dễ dàng, nhưng quan trọng nhất là nàng phải thấy được Tôi đích thực. Vấn đề là, tôi đang bắt đầu nghi ngờ liệu cái ý niệm rằng có một cái Tôi đích thực từng trải, thông minh, hài hước, tử tế, dũng cảm đang chạy đâu đó ngoài kia có phải hơi ảo tưởng hay không. Giống như Người Tuyết; nếu như không hề có ai nhìn thấy nó một cách chân xác, tại sao lại có người tin là nó thật sự tồn tại?
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,524
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 18


21

CÂU HỎI: Một sắc lệnh yêu cầu sự có mặt của một bên trước tòa hoặc trước thẩm phán, thuật ngữ tiếng Latin là “habeas corpus” có thể được dịch là...?

TRẢ LỜI: Lệnh đình quyền giam giữ.

***

Khi thức dậy vào sáng hôm sau tôi cảm thấy lạnh cóng đến nỗi trong thoáng chốc đã nghĩ rằng ông Harbinson chắc hẳn đã di chuyển tôi ra ngoài trời lúc tối. Tại sao người càng sang trọng bao nhiêu thì nhà họ lại càng lạnh bấy nhiêu? Mà không phải chỉ có cái lạnh, còn bẩn nữa; lông chó, những quyển sách bám đầy bụi, những đôi ủng đầy bùn, tủ lạnh bốc mùi sữa chua và pho mát đang thối rữa và rau ngoài vườn đang héo quắt. Tôi thề là cái tủ lạnh của nhà Harbinson có đất trồng. Có lẽ đến hè họ còn phải cắt cỏ trong đó. Nhưng có lẽ đó cũng chính là định nghĩa về tình trạng chân chính, xác thực của giai cấp trung lưu, khả năng chịu lạnh và dơ bẩn với sự tự tin tuyệt đối. Cái đó, và những bồn rửa mặt nhỏ ở mỗi phòng ngủ. Tôi tóe nước lạnh như đá vào mặt, đặt cuốn Dây buộc lên lại kệ sách, và đi xuống lầu.

Kênh Radio 4 đang phát to chương trình từ những cái loa ẩn đâu đó, và Alice đang nằm dài trên ghế sofa, đắp cái mền Blue Peter Dogs, đọc sách.

“Chào buổi sáng!” tôi nói.

“Chào,” nàng nói khẽ, đắm mình trong quyển sách.

Tôi chen vào kế bên một con chó.

“Đang đọc gì vậy?” tôi hỏi bằng một giọng trêu trọc. Nàng chìa cái bìa cho tôi xem. “Trăm năm cô đơn - nghe giống đời sống tình dục của tớ quá!”

“Ngủ ngon chứ?” nàng hỏi, khi cuối cùng cũng nhận ra là tôi không định bỏ đi.

“Thật thú vị, cám ơn.”

“Lạnh không?”

“Ờ, hơi hơi.”

“Đó là vì cậu quen xài lò sưởi rồi. Rất tệ cho cậu, lò sưởi ấy mà, nó có thể làm tê cóng các giác quan...”

Và như để nhấn mạnh luận điểm của nàng, ông Harbinson lững thững đi vào ngang qua phòng khách. Ông trần truồng.

“Chào buổi sáng!” ông nói, huỵch toẹt.

“Chào buổi sáng!” Ngay cả khi hai mắt tôi đang dán cố định vào nóc lò sưởi, tôi vẫn thấy rõ ràng ông ấy hoặc là người đàn ông quá rậm lông, hoặc đang mặc bộ áo liền quần vải nỉ, màu đen.

“Có trà trong ấm không, Alice?” ông hỏi, trần như nhộng.

“Bố tự làm đi.”’

Và ông cúi người xuống bên cạnh nàng, cúi xuống từ eo, rồi tự rót cho mình một tách trà, sau đó sải bước lên lầu, nhảy ba bậc thang một. Khi cuối cùng đã có thể nhìn ra một cách an toàn, tôi hỏi, “Thế. Cái đó. Hoàn toàn. Bình thường. Hả?”

“Cái gì cơ?”

“Ông bố trần như nhộng.”

“Chắc rồi.”

“Ồ.”

“Không làm cậu sốc chứ?” Nàng hỏi, mắt nheo lại.

“À, cậu biết đấy...”

“Cậu chắc cũng từng nhìn thấy bố cậu trần như nhộng rồi nhỉ.”

“À, không, từ khi ông mất.”

“Dĩ nhiên là không, tớ xin lỗi, tớ quên mất, nhưng trước khi ông mất kìa, cậu chắc phải thấy ông trần truồng rồi chứ.”

“À, có lẽ. Nhưng đó không phải là cách tớ chọn để nhớ về ông.”

“Thế còn mẹ cậu thì sao?”

“Chúa ơi, không! Thế cậu có khỏa thân trước mặt bố cậu không?”

“Chỉ khi bọn tớ làm tình,” Alice nói, rồi tặc lưỡi và xoe tròn mắt. “Dĩ nhiên là có, cả nhà tớ đều thế. Chung quy cũng đều là người nhà cả mà. Chúa ơi, cậu thực sự phát hoảng, đúng không? Nói thiệt nha, Brian, với một người hiện đại thì cậu thật sự cổ lỗ sĩ đến khó tin đấy.” Trong một giây tôi thoáng thấy nàng như một Đàn Chị, xấu xa và trịch thượng. Mà nàng vừa gọi tôi là cổ lỗ sĩ thật đấy à? “À, đừng lo lắng, Brian, tớ vẫn sẽ mặc quần áo khi có khách mà.”

“Ồ, làm ơn, đừng thỏa hiệp chứ, đừng làm vậy với tớ...” Alice biết tôi đang liều thử vận may, nàng cười gượng gạo. “Ý tớ là, tớ nghĩ tớ có thể xoay xở được.”

“Hừm. Bây giờ tớ tự hỏi không biết việc đó có hoàn toàn đúng không nữa?” Alice liếm đầu ngón tay, và lật quyển sách sang trang.

Bữa sáng với bánh mỳ nướng tại nhà có màu sắc, trọng lượng, bề mặt và mùi vị của đất nhiều mùn. Trong bếp kênh Radio 4 đang bật. Trên thực tế, theo như tôi thấy phòng nào cũng đang bật đài và rõ ràng là không thể tắt được, hệt như màn hình ti vi vào năm 1984. Chúng tôi nhai và nghe đài, và nhai, Alice thì đọc sách suốt. Tôi cảm thấy thật khốn khổ. Một phần vì tôi là người đầu tiên bị gọi là “cổ lỗ sĩ” kể từ năm 1971, nhưng chủ yếu là tôi phiền lòng bởi chuyện nhắc đến bố. Làm sao nàng lại “quên” cơ chứ? Và tôi khinh bỉ cái kiểu mình nói về ông trước mặt người khác. Tôi chắc bố ắt sẽ sung sướng vô ngần khi biết chính số phận của ông suốt từ dạo đó đã được thằng con sử dụng làm công cụ trong một loạt những câu nói đùa đê tiện, trơn tru, hoặc những cuộc độc thoại tự thương thân của nó lúc say xỉn. Cuộc săn tìm cái Tôi đích thực trở nên tệ hại, mà thậm chí tôi còn chưa đánh răng nữa.

Và rồi chúng tôi đi tản bộ dưới tuyết. Ta khó lòng mà gọi đây là tuyệt tác nông thôn vùng East Anglia; tôi tin là cảnh vật đang đập vào mắt theo kiểu thời hậu hạt nhân, cảnh tượng giữ nguyên trạng không hề thay đổi bất kể ta đi bao xa, điều đó phần nào làm tiêu tan những dự tính, nhưng ít nhất thì nó cũng trước sau như một. Cũng dễ chịu khi ở một nơi không phải nghe tiếng đài Radio 4. Alice nắm lấy tay tôi, và tôi gần như quên đi chuyện tuyết đang làm hỏng đôi giày ống đế cao su bằng da lộn mới toanh của mình.

Kể từ khi vào đại học, tôi để ý thấy mọi người đều muốn nói về năm chủ đề chính: 1) “Kết quả chương trình A-level của tôi”, 2) “Chứng rối loạn ăn uống/căng thẳng thần kinh của tôi”, 3) “Học bổng toàn phần của tôi”, 4) “Tại sao tôi thật sự nhẽ nhõm khi không vào Oxbridge[1]”, 5) “Những quyển sách yêu thích nhất của tôi” và chúng tôi đang nói về chủ đề cuối này.

[1] Oxbridge là từ ghép tên của hai trường đại học danh tiếng là Oxford và Cambridge.

“Quyển yêu thích hàng đầu của tớ từng là Nhật ký của Anne Frank. Hồi còn nhỏ, lúc nào tớ cũng muốn trở thành Anne Frank. Hiển nhiên là không phải vì cái kết, chỉ là cái ý nghĩ được sống thật giản dị trên một căn gác mái, đọc sách, ghi nhật ký, đem lòng yêu cậu con trai Do Thái nhạy cảm, xanh xao sống ở căn gác mái nhà kế bên. Nghe có vẻ hơi hư hỏng tí nhỉ?”

“Một chút xíu.”

“Tớ nghĩ đó chỉ là một giai đoạn mà tất cả bọn con gái chúng tớ phải trải qua ở độ tuổi nhất định, như kiểu là cắt cổ tay, nôn mửa, rồi là đồng tính nữ ấy.”

“Cậu đã thử làm đồng tính nữ?” tôi buột miệng hỏi, bằng giọng gần như the thé.

“À, ở trường nội trú thì ít nhiều gì cậu cũng phải thử. Cái đó là bắt buộc; đồng tính nữ, tiếng Pháp và bóng rổ.”

“Thế cậu đã... làm gì?”

“Cậu sẽ không muốn biết đâu.” À, phải rồi, rõ ràng là như vậy.

“Thật ra cũng chẳng có gì nhiều. Tớ chỉ thử xem thế nào thôi.”

“À, có lẽ cậu sai lầm chính ở chỗ đó đấy!” Nàng nở một nụ cười mệt mỏi.

“Xin lỗi. Thế thì... chuyện gì đã xảy ra?”

“Chỉ là việc đó không phù hợp với tớ cho lắm. Tớ cho là vậy. Tớ luôn thích làm tình với đàn ông hơn. Tớ nhớ cái cảm giác về sự xâm nhập.” Chúng tôi đã đi xa hơn một chút. “Thế còn cậu thì sao?”

“Tớ hả? Ồ, tớ cũng nhớ sự xâm nhập.”

“Brian, tớ đang cố nói nghiêm túc đấy,” nàng nói, đấm vào cánh tay tôi bằng đôi găng tay hở ngón. “Cậu cũng vậy hả?”

“Tớ cũng làm sao cơ?”

“À, tớ cho là cậu cũng ngủ với đàn ông.”

“Không!”

“Thật chứ?”

“Hoàn toàn không. Sao cậu lại hỏi thế?”

“Tớ chỉ giả định là cậu làm thế thôi.”

“Cậu nghĩ tớ đàn bà thế à?” tôi hỏi. Một lần nữa lại là cái giọng the thé.

“Không, không phải đàn bà. Mà ngoài ra, tính đàn bà không phải là dấu hiệu của đồng tính luyến ái...”

“À, không, dĩ nhiên không phải.”

“... và dù sao thì nó cũng không phải là chuyện xấu xa gì.”

“Không, dĩ nhiên không phải. Chỉ là cậu nói nghe hệt như một người bạn học của tớ, chỉ vậy thôi.”

“À, đối với tôi bà ta thưởng phản kháng quá nhiều.”[2]

[2] Nguyên văn: “Methinks the lady doth protest too much”, một câu nói của Shakespeare.

Đổi chủ đề thôi. Tôi tha thiết muốn khơi lại cuộc nói chuyện về đồng tính nữ, nhưng rồi lờ mờ nhớ lại là trước đó nàng có nói về việc nàng tự cắt cổ tay. Có lẽ tôi nên khai thác từ đó.

“Thế còn... tự hủy hại mình?”

“Tự hủy hại cái gì cơ?”

“Cậu nói cậu từng cắt cổ tay?”

“Ồ, chỉ thỉnh thoảng tôi. Một lời-kêu-cứu, tớ nghĩ người ta gọi hành động đó như thế. Hay chính xác hơn là lời-kêu-gọi-sự-chú-ý. Tớ hơi buồn chán ở trường, hơi lẻ loi, chỉ vậy thôi.”

“Tớ ngạc nhiên đấy,” tôi nói.

“Thật à? Tại sao điều đó lại làm cậu ngạc nhiên nhỉ?”

“Chỉ là tớ không thể tưởng tượng nổi cậu mà cũng có điều gì đó phiền muộn.”

“Brian, cậu phải thôi cái ý nghĩ tớ là cái đĩa bạc kiểu Người Hoàn Hảo đi. Thật sự không phải vậy đâu.”

***

Nhưng buổi chiều hôm đó nàng khá là hoàn hảo.

Khi tản bộ về gần đến nhà, chúng tôi nô đùa chơi trò ném tuyết vào nhau trên bãi cỏ trước nhà, hoàn toàn khác những lần chơi ném tuyết trước đây của tôi, không có ai gói phân chó hay kính vỡ vào giữa những nắm tuyết. Thậm chí đó cũng không phải là trận đánh nhau bằng tuyết, chỉ là một trò vờn đuổi kích thích nhẹ nhàng, cái kiểu đùa giỡn không tự nhiên vì có cảm giác như thể đang được quay phim, lý tưởng nhất là với máy quay đen trắng. Sau đó chúng tôi bước vào nhà và ngồi trên sofa gần lò sưởi để hong khô, và nàng mở đĩa nhạc yêu thích, rất nhiều đĩa của Rickie Lee Jones, Led Zeppelin, Donovan và Bob Dylan - mặc dù Alice mới mười sáu tuổi vào năm 1982, nhưng ở nàng nhất định có cái gì đó rất 1971. Tôi nhìn nàng nhảy quanh phòng với bài “Crosstown Trafic” (Giao thông xuyên thành phố) của Jimi Hendrix, rồi khi đã mệt hết cả hơi và chán việc cứ ba phút lại phải thay đĩa, nàng liền bỏ cái đĩa than cũ của Ella Fitzgerald kêu lạch cạch vào, và chúng tôi nằm trên sofa đọc sách, thỉnh thoảng lén đưa mắt nhìn nhau, giống như một cảnh giữa Michael York and Liza Minnelli trong Hộp đêm, chỉ nói chuyện khi chúng tôi cảm thấy thích. Và, thật kỳ diệu, gần trọn buổi chiều tôi đã kiềm chế được mình không nói điều gì ngốc nghếch hay khoe khoang hay lên mặt ta đây, không chọc cười hay tự thương mình, không làm vỡ hay đổ bất cứ thứ gì, không nói xấu ai, không rền rĩ, than vãn hay rờ lên mặt khi nói. Thực tế, tôi chỉ là người tốt nhất mà tôi có thể trở thành, và nếu người đó không hoàn toàn đáng yêu thì ít ra anh ta cũng khá đáng mến. Và khoảng bốn giờ chiều Alice mon men đến bên, nằm dựa đầu vào lòng tôi mà ngủ thiếp đi, và ít nhất là lúc này đây, dường như thật sự đúng, nàng tuyệt đối và hoàn toàn hoàn hảo. Giờ chúng tôi đang nghe album Blue, mặt 2, bài số 5, và Joni đang hát “Lần cuối tôi gặp Richard là ở Detroit vào năm 68/ Và anh bảo rằng một ngày nào đó mọi kẻ lãng mạn đều sẽ cùng chung số phận/ Là một kẻ nào đó chán chường, say xỉn và hoài nghi trong một quán cà phê tăm tối...” và khi đĩa nhạc kết thúc, căn phòng đã chìm trong im lặng, chỉ còn tiếng khúc gỗ cháy âm ỉ, tôi vẫn ngồi đó yên lặng, thật yên lặng, ngắm nàng ngủ. Đôi môi nàng hé mở và tôi cảm thấy hơi thở âm ấm của nàng trên đùi mình, tôi nhìn vào cái thẹo lồi nhỏ xíu ở môi dưới nàng, màu trắng nhạt tương phản với màu đỏ của môi, và có khao khát cháy bỏng là lấy ngón cái rờ qua vết thẹo đó, nhưng không muốn làm nàng tỉnh giấc, nên tôi chỉ nhìn nàng, nhìn, nhìn mãi, nhìn mãi. Cuối cùng tôi buộc lòng phải đánh thức nàng dậy, vì lo rằng sức nặng và hơi ấm tỏa ra từ đầu nàng lên đùi tôi có thể làm tôi bị kích thích quá mức, bạn biết tôi muốn ám chỉ gì rồi đấy, và chúng ta hãy đối mặt với thực tế: không ai thích bị đánh thức theo kiểu đó. Không phải với cái đó trong lỗ tai của họ.

Và rồi, tin nổi không, chuyện thậm chí còn trở nên tốt hơn. Tối đó bố mẹ nàng đi ra ngoài, ăn món rau tại một nhà máy của ai đó được cải tạo thành nhà hàng ở Southwold, thế là chỉ còn tôi và Alice ở nhà. Khi chúng tôi đứng trong bếp uống những cốc to gin & tonic, tôi phải xấu hổ mà nói rằng tôi đang tự sướng bằng cách ảo tưởng rằng chúng tôi chung sống với nhau ở đây. Chúng tôi tắt hết đèn trong nhà và chơi trò xếp chữ trên ngọn nến, chăm chú nhìn vào các chữ cái, và tôi thắng, thật ra là cũng phải mất một lúc lâu, nhưng với sự khiêm tốn và thái độ lịch sự. Hai chữ “quỷ quyệt” và “kinh ngạc” tình cờ lại nằm ở những ô được ghi điểm gấp ba lần.

Bữa ăn nhẹ là cơm gạo lức xào rau, có màu sắc và hương vị hơi giống như khi chúng ta xào những thứ rác rưởi ở cái hót rác, nhưng cũng ăn được nếu cho nước tương vừa đủ. Hơn nữa, lúc có thời gian để ăn, cả hai đã xỉn quắc cần câu, hai đứa chồm lên nói chuyện với nhau rồi cười và nhảy nhót quanh phòng khách theo giai điệu những bài hát cũ của Nina Simone, rồi xem mình có thể trượt bằng vớ bao xa trên sàn gỗ đánh véc ni bóng loáng. Sau đó khi hai đứa nằm phịch xuống sàn cười rúc rích, ngả ngớn bên nhau, Alice thình lình nắm lấy hai tay tôi, mỉm cười tinh quái mà nói, “Cậu muốn lên lầu không?”

Tim tôi muốn phọt ra khỏi miệng.

“À, còn tùy. Có gì trên lầu?” tôi nói, quỷ quyệt và kinh ngạc.

“Đi với tớ rồi tự tìm hiểu lấy,” và nàng bò lên các bậc thang bằng tất cả tay chân, la vọng lại, “Phòng ngủ cậu, hai phút nữa - mang rượu vang!”

Tập trung. Chỉ cần tập trung.

Tôi đi tới bồn rửa ở bếp, dời cái chảo sũng nước qua một bên, mở vòi nước lạnh, và vỗ vỗ nước lên mặt, một phần để cho tỉnh rượu, một phần để chắc là tôi không phải đang nằm mơ, rồi cầm chai rượu và ly nước chỉ còn nửa bằng các đầu ngón tay, tôi theo nàng lên lầu.

Alice chưa vào phòng tôi, vậy nên tôi bèn đi tới bồn rửa mặt và nhanh nhẹn đánh răng, tai vểnh lên nghe ngóng bước chân nàng để nàng không bắt gặp tôi đang đánh răng và nghĩ rằng tôi xem nhẹ việc đó. Rồi khi nghe bước chân nàng dọc hành lang, tôi súc miệng và nhổ nước ra, rồi tắt đèn ở trên đầu và tạo dáng nằm trên giường kiểu hững hờ và chờ đợi.

“Tén tèn!”

Nàng đang đứng ở ngưỡng cửa, cánh tay vung rộng ra giống như người vừa đoạt giải Oscar, nhưng tôi không biết phải nhìn vào cái gì nữa. Có lẽ là ngực nàng chăng? Hy vọng hão huyền, tôi tự hỏi liệu có phải nàng đã mặc một loại đồ lót đặc biệt nào đó, và rồi tôi nhận ra nàng cầm giấy cuốn trên một tay còn tay kia cầm một cuộn giấy bóng kích cỡ nhỏ dùng để bao thực phẩm.

“Cái gì thế này?”

“Cần sa, anh bạn ạ. Cần sa độc hại. Chúng mình không thể hút ở dưới lầu - Michael giống như chó đánh hơi vậy. Ông bố đó có dễ dãi phóng túng thì cũng chỉ đến mức nào đấy tôi.” Nàng chộp lấy cuốn Thế giới ngộ nghĩnh của Richard Scarry từ trên kệ sách rồi bắt đầu lăn cái ống lên cuốn sách.

“Vậy mẹ cậu thì sao?”

“Ồ, thật ra là mẹ mua cái này cho tớ, mua cả một gã đáng sợ trong làng. Tớ có thể nói gì đây! Cơn khủng hoảng của bà nội trợ chăng. Hơn nữa, bà phải tìm cái gì đó để cho qua ngày tháng, tớ cho là thế. Thứ này thật tuyệt vời. Tuyệt cú mèèèèèo!” Chúa giúp con, nàng đang nói giọng người Tây Ấn, Jamaica lẫn Aldeburgh, và lần đầu tiên tôi thấy mình thật sự xấu hổ về nàng. “Ma túy mạnh thật sự, thậậậậật... là... loại cần...sa tôôôôốt...” Alice ơi, làm ơn dừng lại đi, làm ơn đi được không? Giờ nàng châm lửa và đang hít sâu vào, ghìm khói trong phổi và trong khi mắt trợn ngược lên đê mê, rồi trề môi thổi khói ra về hướng cái chao đèn, và tôi băn khoăn không biết thứ cần sa này có phải là chất kích dục không.

Alice nhìn tôi với vẻ mặt lờ đờ, và đưa tôi cái ống, như một lời thách thức. Mà đúng thế thật.

“Tới lượt cậu, Bri.”

“Thật ra, Alice này, e tớ không hút được đâu.”

“Sao không? Sao cậu lại không muốn phê hả Bri?”

Chất này đã tác động khiến nàng rất vui, rất vui vẻ, và khi nàng đang đập đầu vào giường, tôi phân trần, “Không, tớ thích lắm, chỉ là tớ chưa bao giờ học cách hút, thậm chí với thuốc lá, tớ không thạo lắm, không thể giữ hơi lại, không thể nếu không muốn phun cả phổi ra.” Thật ra, hút thuốc lá là một trong những chuyện tôi đã hy vọng được làm ở trường đại học, giống như đọc Don Quixote, mọc râu và học thổi kèn xắc-xô-phôn âm nữ trầm, nhưng tôi chỉ không muốn làm cái này thôi.

“Cậu là một người kỳ lạ, đúng không, Brian Jackson?” nàng nói, đột nhiên có vẻ nghiêm túc. “Làm sao cậu có thể không hút cơ chứ! Hút gần như là điều tớ làm tốt nhất. Hoặc không thì cũng là tốt nhì...” nàng nói, nháy bên mắt lờ đờ. Cần sa chắc là chất kích dục. “Được rồi, chúng mình sẽ thử một cái gì đấy kích thích hơn. Nhưng trước hết cho tí nhạc đi đã!” Và nàng vấp ngã vào cái máy ghi âm trẻ con, hộc băng dẹt, thiết kế nặng nề và rườm rà, có chữ “Của Alice” được viết bên trên bằng bút xóa, rồi nàng bới tung ngăn kéo cũ tìm một cuộn băng, nhét nó vào và bấm nút. Tôi tin đó là Brian Cant đang hát bài hát thiếu nhi “A Froggy Went A Courtin” (Chàng Ếch đi tán tỉnh).

“Wow - Hồi tưởng kiểu Proust[3] hả?” nàng nói. “Bài hát này chính là tuổi thơ của tớ. Tớ thích bài hát này chết đi được! Cậu có thích không? Được rồi, đến đây, chàng trai trẻ, ngồi thẳng lên...” Chúng tôi quỳ trên giường, mặt đối mặt, và nàng đưa mặt tới cách mặt tôi khoảng năm xăng ti mét.

[3] Marcel Proust (1871- 1922): nhà văn Pháp. Tác phẩm nổi tiếng nhất của ông là Đi tìm thời gian đã mất.

“Được rồi, đặt tay cậu ở đây...” và nàng nắm lấy hai cổ tay tôi, đẩy chúng ra sau lưng tôi “và bĩu môi, thế này này.” Môi nàng chỉ cách môi tôi có vài xăng ti mét, tôi có thể ngửi thấy vị ngọt của nước xốt tương và gừng trong hơi thở của nàng. Rồi nàng lấy hai tay ép hai má tôi lại với nhau để môi trề ra to tướng.

“Ếch đi tán tỉnh, nó đã đi thật, ừ hư...”

“Bây giờ, cái cậu sắp sửa nhận được, ngài Brian Jackson ạ, được gọi là nạp đạn tự động, mà không, không phải cái cậu nghĩ đâu, nên làm ơn đừng có mà lanh chanh. Tớ định sẽ thổi khói vào miệng cậu, cậu phải hít sâu khói vào rồi giữ nó trong phổi mà không được ho, hiểu chứ? Tớ cấm đấy! Thay vào đó cậu cứ nín hơi lâu chừng nào cơ thể cho phép, và chỉ lúc đấy cậu mới được thở ra. Rõ chưa?”

“Hoàn toàn rõ.”

“Thế thì được. Bắt đầu!”

Nàng đặt ống nối giữa môi, nuốt khói vào sâu, rồi mỉm cười, nhướng cặp lông mày lên như muốn hỏi “Sẵn sàng chưa?”, và tôi gật đầu, rồi, tớ sẵn sàng. Nàng đưa môi lên môi tôi gần đến nỗi chúng cách có vài xăng ti mét, vài mi li mét, thậm chí chắc cũng không phải thế, chắc là chạm vào nhau rồi cũng nên, rồi nàng thổi, và tôi hít vào, thật ra chỉ là tự nhiên thôi, dựa vào tình huống này, và tôi muốn khoảnh khắc này cứ thế mãi mãi.

“Ếch đi tán tỉnh, nó đã đi thật

Với một thanh kiếm và khẩu súng lục đeo bên mình

Một con ếch đi tán tỉnh, nó đã đi thật, ừ hư...”

Cuối cùng, khi phổi tôi chực nổ tung đến nơi, tôi bèn thở ra và nàng ngồi phịch xuống hỏi, “Cậu nghĩ sao?”

Khi đã tìm ra cách để mấp máy miệng, tôi nói, “Được lắm!”

“Thấy gì không?”

“Không có gì to tát.”

“Muốn thử lần nữa không?”

Ồ, Chúa ơi, vâng, Alice, tớ có thể được à? Muốn nhiều hơn bất kỳ thứ gì trên thế giới này ấy chứ...

“Được, được, phải rồi...”

“Cậu có chắc không? Nó mạnh lắm đấy.”

“Thật mà, Alice, tin tớ đi. Tớ có thể lo liệu chuyện đó mà.”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,524
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 19


***

Khi tôi tỉnh lại, Alice đã đi khỏi, tôi đang nằm trong tấm chăn lông vịt, và Chàng Ếch vẫn còn đi tán tỉnh. Cuốn băng ở chế độ đảo mặt tự động. Tôi không biết mình đã nằm đây bao lâu rồi, nên bèn nhấn mạnh nút dừng băng và tìm cái đồng hồ báo thức du lịch của mình. Một giờ rưỡi sáng. Tôi đột nhiên thấy khát muốn chết, nhưng tạ ơn Chúa vẫn còn nửa bình vang đỏ mới nguyên ở sát giường, tôi ngồi dậy và dốc gần cạn bình. Tôi kiểm tra xem Alice có cởi quần dài của tôi ra trước khi đặt tôi lên giường không, rồi nhận ra nàng đã không làm thế, nhưng tôi đã quá phê thuốc chẳng biết nên hài lòng hay thất vọng nữa.

Ngoài ra, tôi đang quá mải nghĩ về đồ ăn. Đời tôi chưa bao giờ đói hơn thế. Ngay cả bí xanh dường như cũng hấp dẫn. Rồi, tạ ơn Chúa, tôi nhớ ra mình là người sở hữu Thịt Nguội, Chúa ban phước lành cho mẹ. Tôi lục tung va li lấy ra cái gói bọc giấy thiếc, xé viền mỡ ra khỏi một miếng thịt lợn xông khói luộc, tống chỗ thịt nạc vào mồm. Ngon thật, nhưng thiếu cái gì đó. Bánh mì. Cần bánh mì sandwich. Phải có bánh mì.

Việc đi lại thật không dễ dàng hơn so với những gì tôi nhớ, và xuống lầu dường như là việc hoàn toàn không thể. Tôi không muốn bật đèn lên, nhưng ở đây đúng là tối đen như mực, nên dựa người vào tường, tôi bước loạng choạng dọc theo hành lang và xuống bậc thang vào nhà bếp. Thời gian như dãn ra, và cuộc hành trình có vẻ như kéo dài đến vài ngày, nhưng cuối cùng tôi đã đến nơi và bắt đầu một công việc đòi hỏi thể lực là tự đẽo gọt cho mình hai miếng bánh mì làm từ bột chưa rây tự nướng ở nhà. Thành quả là chiếc bánh mì sandwich có kích thước, trọng lượng và kết cấu của một cục gạch xây nhà, nhưng tôi không thèm quan tâm, vì nó có chứa Thịt Nguội. Tôi yên vị ở bàn và đầu tiên đổ một ít sữa ra, thử làm cho cái bánh mì bớt cứng, nhưng sữa đã vón cục lại và không dính nhau, khi tôi định bước đến bồn rửa và đổ nó đi thì đèn được bật lên và tôi nghe tiếng cọt kẹt từ đầu cầu thang.

Có khi đó là Alice! Có khi chúng tôi có thể tiếp tục làm chuyện còn dang dở. Nhưng không phải. Đó là bà Harbinson. Rose. Rose Khỏa Thân. Tôi nuốt sữa vón cục cái ực.

Dĩ nhiên, tôi chỉ cần nói ngay một điều gì đó, thông thường, không liên quan đến tình dục, đại khái kiểu “Xin chào Rose!” nhưng chất ma túy và rượu vang đã khiến tôi đờ đẫn và bối rối, mà tôi không muốn một phụ nữ khỏa thân hét toáng vào mặt mình lúc hai giờ sáng, nên tôi chỉ ngồi đó, rất lặng lẽ, và hy vọng là bà sẽ bỏ đi. Bà mở tủ lạnh, và rồi cúi người xuống, ánh đèn tủ lạnh màu trắng và cái cúi người làm bà ấy trông trần truồng hẳn. Nhìn kỹ mới thấy bà ấy có mang một đôi vớ dày màu xám, cái đó làm cho sự lõa thể của bà có kiểu chất lượng của món ăn điểm tâm, lành mạnh, giống một bức phác họa chân dung bằng bút chì từ cuốn cẩm nang tình dục The Joy Of Sex, và trong trạng thái phê thuốc, tôi tự hỏi không biết có từ nào như từ xương mu không. Bà ấy đang tìm gì thế không biết? Mà sao lâu vậy? Tôi từng hình dung là bà trông “ngon-lành-hơn-so-với-tuổi” nhưng khi đó tôi chưa bao giờ thực sự thấy một người phụ nữ khỏa thân toàn diện như thế này, trong đời thực và một cách đột ngột, tôi mới chỉ thấy những thứ lặt vặt lẻ tẻ, và ngay cả khi đó thì cũng không ai trong số họ quá mười chín tuổi, nên tôi thật sự không phải là chuyên gia về chủ đề này. Đấy là còn chưa kể, tôi cho rằng tình huống này không hẳn không có chút khiêu dâm, dù là đối với người đã được làm dịu đi phần nào bởi gói đùi lợn muối và hun khói có nhiệt độ cơ thể đang nằm trong lòng tôi. Chợt lo lắng bà sẽ ngửi thấy mùi thịt, tôi cố gấp miếng giấy thiếc lại một cách yên lặng, và hậu quả là tiếng lách tách dường như vang dội trong nhà bếp hệt như một cơn bão điện.

“Ôi Chúa ơi! Brian!”

“Xin chào bà Harbinson!” tôi tươi tỉnh nói. Tôi cho là bà sẽ lấy cánh tay để che đi sự lõa lồ, nhưng bà có vẻ không ngại cho lắm, mà chỉ dửng dưng với tay lấy chiếc khăn lau bát hiệu National Trust, quấn quanh eo và nắm ở hông giống cái xà rông. Tôi có thể thấy chữ “Sissinghurst”[4] chạy dọc trên đùi bà.

[4] Tên một thành phố du lịch rất hấp dẫn ở Anh.

“Ôi cưng, hy vọng là cô không làm cháu bị sốc,” bà nói.

“Dạ, cũng không hẳn...”

“Nhưng mà cô chắc là cháu đã thấy hàng trăm phụ nữ khỏa thân trước đây rồi.”

“Bà chắc sẽ bị ngạc nhiên đó, bà Harbinson.”

“Cô đã bảo cháu rồi, cứ gọi cô là Rose! Bà Harbinson khiến cô cảm thấy mình quá già!”

Có một sự im lặng thoáng qua, tôi phải tìm chuyện gì đó để nói nhằm xua tan đi sự ngại ngùng và bất tiện của tình cảnh này, và rồi nghĩ ra một giải pháp hoàn hảo.

Bằng giọng Mỹ, tôi nói, “Bà đang định cám dỗ tôi ư, bà Harbinson?!”

Tôi vừa nói gì ấy nhỉ?...

“Cậu nói gì cơ?”

Đừng có lặp lại...

“Bà đang cố cám dỗ tôi?” tôi nói.

Nhanh lên, giải thích, giải thích đi...

“Bà biết đấy... giống như bà Robinson ấy?” tôi giải thích.

Rose ngây người nhìn tôi. “Bà Robinson là ai?”

“Đó là một câu trích dẫn. Trong phim Tình mẹ tình con...”

“À, bây giờ cô có thể nói cháu nghe, Brian à, cô không có ý định cám dỗ cháu...”

“Cháu biết, cháu biết, và cháu không muốn bị cô cám dỗ...”

“Phải rồi, ừm, tốt thôi...”

“Ý cháu không phải là cháu không thấy cô hấp dẫn...”

“Cậu nói gì cơ?”

“Cái quái gì đang diễn ra ở dưới đây vậy?” một giọng nói vang lên, và một đang người đang nhảy từng bậc xuống cầu thang, chân có bắp thịt rắn chắc và ngực vạm vỡ - đôi chân trần trụi, rắn chắc và bộ ngực vạm vỡ của ông Harbinson. Ông ta hình như đang cầm một cái dù xếp giữa hai chân nhưng nhìn gần hơn mới thấy đó là dương v*t của ông ta. Bây giờ thì tôi thật sự không biết phải nhìn vào đâu nữa. Việc không nhìn vào bộ phận sinh dục của Rose dường như đưa tầm mắt tôi trực tiếp nhìn xuống bộ phận sinh dục của ông Harbinson, và đột nhiên thật khó tìm nơi nào trong bếp mà không có bộ phận sinh dục, thế là cuối cùng tôi chọn một điểm trên cái tủ bếp hiệu Aga, và tập trung, tập trung, tập trung.

“Chẳng có gì xảy ra cả, Michael à. Em chỉ xuống uống nước và Brian đã ở đây, chỉ có vậy thôi mà...” Tại sao bà ấy lại nói cái kiểu tội lỗi thế chứ hả? Bà ấy đang cố giết tôi chắc?

“Thế các người nói về chuyện gì?”

Ôi, Chúa nhân từ, ông ta đã nghe thấy lời con nói. Con chết chắc rồi.

“Không có gì cả! Brian chỉ làm em giật mình, thế thôi...”

Ông Harbinson và dương v*t của ông ta trông có vẻ không bị thuyết phục cho lắm, và tôi nhận ra rằng thực sự thì ông ta không lấy tay che đậy dương v*t, mà là đang cầm nó, và trong thoáng chốc tôi có một nỗi sợ phi lý là ông ta sắp sửa đánh tôi bằng cái đó.

“Thế thì, nói nhỏ lại, được chứ? Còn Rose, quay lại giường!” và ông ta giậm chân quay lên lầu, vẫn cầm cây dù được cuộn lại của mình. Rõ ràng hết sức ngượng ngùng, Rose lấy cái tạp dề nhựa vinyl in hoa từ cái móc gần tủ bếp Aga, và quạu quọ mặc nó vào, trong khi tôi gạt chứng cứ liên quan đến thịt trên bàn vào gói giấy thiếc, và nhét nó vào ngăn kéo đựng dao nĩa.

Cuối cùng bà bước tới cái bà, và rít lên, “Cô nghĩ tốt nhất là không ai trong chúng ta nhắc lại chuyện này nữa, được chứ, Brian?”

“Dạ được, nhưng cháu chỉ muốn nói rằng thật sự cháu chỉ trích dẫn...”

“Cô cháu mình quên chuyện đó đi, được chứ? Cứ giả vờ như nó chưa bao giờ xảy ra...” Bà nhìn chăm chú vào mặt tôi. “Brian, cháu cảm thấy ổn đấy chứ?”

“Hoàn toàn khỏe ạ!”

“Cháu trông hơi xám.”

“Ồ, đó là màu da bình thường của cháu mà, Rose!”

Bà nhìn cái ly trước mặt tôi.

“Sữa đấy à?”

“Ừ... ừm.”

“Vậy ra cháu giữ nó à?”

“Cháu e là vậy, Rose ạ.”

“Brian, còn cô thì đang tìm cái đó.”

“Xin lỗi” - bà với lấy cái ly - “Cô sẽ không uống đâu, nếu cô là cháu!”

“Sao thế?”

“Nó hỏng rồi, vón cục, thật đấy, nó thật kinh tởm...”

Và bà cầm lấy ly sữa vón cục, ngửi ngửi, nhấp một ít, rồi nhìn tôi với vẻ hoàn toàn khinh thị và nói, “Đây là sữa đậu nành, Brian ạ.”

Từ một nơi nào đó ở Nông trang Chim két vang lên một tiếng cười cuồng loạn, một tiếng cười dễ sợ, rúc rích điên rồ, tiếng cười của một đứa trẻ hư hỏng, thảm hại, và phải mất một lúc lâu để nhận ra là tiếng cười đó phát ra từ tôi.

***

Khi tôi tỉnh dậy vào sáng hôm sau, như thường lệ phải mất ba giây kể từ lúc biết rằng mình phải cảm thấy vô cùng xấu hổ, tôi mới nhớ ra được lý do vì sao. Thật ra, tôi đã rên rỉ, rên rỉ thật to, như thể bị ai đó nhảy lên ngực. Tôi nhìn đồng hồ báo thức. Mười một giờ rưỡi mà tôi cảm thấy như vừa thoát khỏi một cơn hôn mê.

Tôi nằm đó một lát, cố tìm ra cách tốt nhất để xử lý tình huống này. Cách tốt nhất là tự tử, còn cách tốt nhất thứ hai đòi hỏi nhiều hành động hèn hạ, ngụy biện và tự giễu mình, thế là tôi bắt đầu mặc đồ, để chuẩn bị đối mặt với nó, đúng lúc có tiếng gõ cửa.

Đó là Alice, trông rầu rĩ, nàng thế cũng chẳng sao. Liệu nàng có biết bà mẹ khỏa thân của nàng đã nghĩ tôi cố gắng cám dỗ bà không nhỉ?

“Xin chào, người đẹp ngái ngủ...” nàng thì thào.

“Alice, tớ rất, rất xin lỗi về chuyện tối qua...”

“Ồ, Chúa ơi, mọi chuyện ổn cả, không có gì đâu, quên nó đi...” Rõ ràng là nàng không biết. “Nghe này, Brian, có chuyện đột xuất, tớ phải đi Bournemouth...” Nàng ngồi chỗ thành giường, trông như sắp khóc.

“Sao, có chuyện gì đã xảy ra vậy?”

“Là bà nội, bà bị ngã xuống cầu thang khuya hôm qua, bà đang ở bệnh viện, xương hông bị gãy, và cả nhà phải đi thăm bà...”

“Ôi, Chúa ơi, Alice...”

“Mẹ và bố đã đi rồi, nhưng tớ phải theo sau, nên tớ không nghĩ là chuyện đón năm mới sẽ thực hiện được, tớ e là vậy.”

“Ồ, không sao đâu. Tó sẽ tìm lịch trình của...”

“Tìm xong rồi. Có một chuyến tàu đi Luân Đôn trong bốn mươi lăm phút nữa, tớ sẽ cho cậu quá giang ra ga. Được chứ?”

Và thế là tôi bắt đầu gói ghém đồ đạc, nhồi nhét sách và quần áo vào túi như thể đây là trường hợp sơ tán khẩn cấp, và mười phút sau chúng tôi đã ngồi trong chiếc Land-Rover, Alice lái xe. Nàng trông thật bé nhỏ đằng sau tay lái, giống như búp bê Sindy đang lái chiếc jeep Người Đàn ông Hành động vậy. Tuyết đã biến thành thứ bùn nhão xám xịt dơ bẩn trong đêm, và chúng tôi hình như đang lái xe quá nhanh, mọi chuyện được quy cho không khí chung của sự căng thẳng và lo lắng.

“Hôm nay tớ bị đau đầu khủng khiếp!” tôi bày tỏ.

“Tớ cũng vậy,” nàng đáp.

Hai trăm mét hương lộ vụt qua.

“Tớ tình cờ chạm mặt bố mẹ cậu trong nhà bếp tối qua,” tôi nói bâng quơ.

“Ồ, vậy à!”

Thêm hai trăm mét nữa.

“Họ có nói gì về chuyện đó không?”

“Không hẳn. Không. Tại sao họ phải nói nhỉ?”

“Không có nguyên do gì đâu.” Dường như tôi đã được an toàn. Rõ ràng tôi không mừng khi bà Harbinson ngã cầu thang, như ít nhất bà cũng đã giúp tôi không phải đối mặt với tình cảnh oái oăm.

Lúc chúng tôi đến ga thì còn mười lăm phút nữa tàu chạy, và nàng giúp tôi mang túi đặt lên sân ga vắng vẻ.

“Tớ rất xin lỗi về việc cậu không thể ở lại để đón năm mới.”

“Ồ, không sao đâu mà. Gửi lời hỏi thăm của tớ đến bà nội cậu nhé.” Để làm gì nhỉ? Vì Chúa, mình chưa bao giờ gặp người phụ nữ đó. “Và tớ thật sự xin lỗi về việc khiến cậu bị quá liều tối qua.”

“Thật đấy, không sao đâu. Này, cậu không phiền nếu tớ không cùng cậu đợi tàu chứ? Chỉ là tớ cần phải đi...” Và chúng tôi ôm nhau, nhưng không hôn, thế rồi nàng đi khỏi.

***

Tôi về nhà vào giờ uống trà, và tự động bước vào. Mẹ mặc bộ quần áo ấm rộng và đang nằm dài trên sofa hờ hững xem game show Blockbusters với âm lượng ở mức to nhất, một cái gạt tàn đặt cân bằng trên bụng, một thùng sô cô la hiệu Quality Street và một chai bia Tia Maria trên bàn cà phê trước mặt. Khi tôi bước vào phòng bà ngồi bật dậy và nhét cái chai xuống dưới cái nệm, rồi chợt nhận ra tôi, bà lấy cốc rượu nâu Tia Maria ra và cố che giấu nó bằng cách lấy cả hai tay che lại, giống như đó chỉ là một cốc ca cao hay gì đó không bằng.

“Con về sớm thế!”

“Vâng, mẹ, con biết...”

“Tôi chọn chữ P, Bop...”

“Thế thì, có chuyện gì vậy con?”

“Bà của Alice bị gãy xương hông.”

“Làm thế nào mà chuyện đó lại xảy ra được?”

“Con xô bà xuống lầu.”

“Không, không đúng.”

“Mẹ, con cũng không biết.”

“Chữ P nào là thành phần hóa học chính để sản xuất diêm?”

“Tội nghiệp thật. Bà ấy sẽ không sao chứ?”

“Làm sao con biết được? Con có phải bác sĩ phụ trách đâu? Phốt pho.”

“Đúng.”

“Cái gì?” mẹ hỏi.

“Ti vi!” tôi cáu kỉnh.

“Tôi chọn chữ H, Bob...”

“Có gì không ổn hả, Bri?”

“Không, không có gì không ổn hết!”

“Tên của người nào bắt đầu bằng chữ H được đặt cho...?”

“Có phải con đã chia tay với cô bạn gá...?”

“Cô ấy không phải bạn gái con!”

“Được rồi, không cần quát lên như thế!”

“Vẫn còn hơi sớm để uống cocktail, bà già nhỉ?”

Và rồi tôi quay người chạy lên lầu, cảm thấy khó ở và hổ thẹn. Mà cái chữ “bà già” đầy thô lỗ, cáu kỉnh ấy từ đâu ra thế không biết? Tôi chưa bao giờ gọi mẹ là “bà già” cả. Tôi vào phòng, đóng sầm cửa lại, nằm dài trên giường và đeo tai nghe vào để nghe băng cát xét Trái tim sư tử, album thứ hai hay đến ngất ngây của Kate Bush, “Symphony in blue” (Bản giao hưởng buồn), mặt A, bài một. Nhưng gần như ngay lập tức tôi nhận ra một thứ bị bỏ quên.

Thịt Nguội.

Tôi đã để gói thịt nguội trong ngăn kéo nhà bếp tối qua. Tôi không có số của nhà Harbinson ở Bournermouth, nên tôi quyết định gọi về ngôi nhà ở nông thôn và để lại tin nhắn cho Alice khi nàng trở về. Sau bốn hồi chuông, máy trả lời tự động bật lên, và tôi chỉ vừa mới nghĩ ra phải nói gì, thì ai đó bất ngờ nhấc ống nghe lên.

“Xin chào...?”

“Ồ. Xin chào, đó có phải... có phải Rose không?”

“Ai đấy?”

“Cháu là Brian, bạn của Alice?”

“Ồ, chào cháu, Brian. Cháu giữ máy nhé.”

Có tiếng sột soạt khi bà để tay lên ống nghe, và một vài tiếng lầm bầm nghe không rõ, rồi Alice nghe máy.

“Xin chào, Brian?”

“Chào! Cậu vẫn ở đó à!”

“Phải, phải, cả nhà đều ở đây.”

“Tớ lại cứ nghĩ là cậu ở Bournemouth...”

“Cả nhà tớ đã tới đó, nhưng... cuối cùng hóa ra là bà đã cảm thấy khỏe lên nhiều, nên mọi người lại lái xe về. Thật ra, cả nhà tớ chỉ vừa mới về tới nơi.”

“Phải rồi. Bà khỏe chứ?”

“Bà hoàn toàn khỏe mạnh!”

“Không bị gãy xương hông à?”

“Không, chỉ bị bầm tím, và, ừm, bị sốc.”

“Tuyệt. Tớ mừng khi nghe điều đó. À, đương nhiên, không phải mừng vì bà bị sốc đâu nhé, ý tớ là tai nạn không đe dọa đến tính mạng...”

Có một khoảng lặng.

“Thế...?”

“Tớ chỉ muốn gọi để nói là, tớ để... à, cái, cậu biết đấy, thịt nguội ở đó.”

“Hiểu rồi. Và cái đó để ở đâu... thịt ấy?”

“Trong ngăn kéo ở bàn bếp.”

“Ồ. Được rồi. Tớ sẽ đi lấy ra.”

“Có khi nên chờ cho đến khi mẹ cậu không quanh quẩn ở đó nhỉ?”

“Dĩ nhiên rồi.”

“Vậy thì... gặp lại cậu ở trường vào năm tới, nhỉ?”

“Chính xác. Hẹn gặp cậu vào năm tới nhé!” Rồi nàng đi khỏi, và tôi chỉ còn biết đứng ở hành lang, tay cầm ống nghe, nhìn vào khoảng không.

Tôi có thể nghe thấy tiếng ti vi trong phòng khách.

“Ba định luật của K nào mô tả chính xác sự chuyển động của các hành tinh quanh Mặt Trời?”

“Johannes Kepler,” tôi nói, chẳng với ai cả.

“Đúng!”

Tôi hoàn toàn không biết mình phải làm gì bây giờ.
 
CHÚ Ý !!!
Các đạo hữu nhớ thêm TÊN CHƯƠNG và THỨ TỰ CHƯƠNG ở ô phía trên phần trả lời nhanh. Như vậy hệ thống mới tạo được DANH SÁCH CHƯƠNG.
Cập nhật chức năng ĐĂNG TRUYỆN và THÊM CHƯƠNG MỚI trên web Diễn Đàn Truyện tại https://truyen.diendantruyen.com
Top Bottom