Cập nhật mới

Dịch Full Tên Của Đóa Hồng

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,133
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 40


SAU KINH TỐI (tt và hết)

Tác giả: Umberto Eco

Vâng, đó là một phụ nữ, hay đúng hơn là một thiếu nữ. Vì ít khi được tiếp xúc với người khác phái, tôi không biết nàng độ tuổi bao nhiêu. Chỉ biết nàng rất trẻ, có lẽ khoảng đôi tám đôi chín hay đôi mươi gì đó. Tôi bàng hoàng cảm nhận cái thực thể con người toát ra từ nhân dáng đó. Đây không phải là một ảo giác, và dẫu sao tôi nghĩ đó là một thực thể tốt. Có lẽ vì nàng đang run lẩy bẩy như cánh chim non trong tuyết giá, đang than khóc sợ hãi tôi.

Nghĩ rằng bổn phận của mọi con chiên ngoan đạo là cứu vãn người đồng loại, tôi hết sức nhẹ nhàng tiến đến nàng và dùng tiếng La-tinh trong sáng bảo nàng chớ sợ, vì tôi là bạn chớ không phải là thù, chắc chắn không phải là kẻ thù nàng đang kinh hãi.

Tôi nghĩ có lẽ vì ánh mắt dịu dàng của tôi nên con người ấy đã trấn tĩnh lại và tiến đến tôi. Tôi thấy nàng không hiểu tiếng La-tinh của tôi, nên liền phản xạ nói bằng tiếng Đức bản xứ. Nàng vô cùng hoảng sợ, không hiểu vì những âm thanh đó chói tai, lạ lùng với dân địa phương vùng này, hay vì những âm thanh tôi phát ra nhắc nàng nhớ lại kinh nghiệm với binh sĩ xứ tôi chăng? Tôi bèn mỉm cười, nghĩ rằng ngôn ngữ của cử chỉ và nét mặt dễ truyền thông hơn từ ngữ, và thấy nàng lộ vẻ yên tâm. Nàng cũng cười đáp lại và nói vài từ gì đó.

Tôi chỉ hơi hơi hiểu thổ ngữ của nàng, nhưng trong giọng nói của nàng, tôi nhận ra những lời ngọt dịu, dường như nàng bảo tôi rằng: “Anh trẻ lắm, anh xinh trai lắm…”. Một tu sinh từ bé đến lớn sống trong chủng viện rất hiếm khi nghe ai nói đến vẻ đẹp của mình. Chúng tôi thường được răn là nhan sắc thì chóng phai và phải xem thường nó. Nhưng kẻ thù thì có vô số cạm bẫy, và tôi thú thật rằng lời khen tôi đẹp trai, dù có xảo trá đi nữa, sao nghe êm tai quá, khiến lòng tôi xao xuyến khôn nguôi. Đặc biệt vì cô gái vừa nói vừa vươn tay ra, các đầu ngón tay nàng mơn trớn đôi má nhẵn nhụi của tôi. Tôi sướng điên lên, nhưng khi ấy trong lòng chẳng cảm thấy một tí gì tội lỗi. Đấy chính là sức mạnh của Quỷ sứ khi nó thử thách và muốn đẩy ân đức ra khỏi tâm hồn chúng ta.

Đột nhiên, người con gái hiện ra trước mắt tôi như một trinh nữ đen đúa nhưng xinh đẹp. Nàng mặc một cái áo nhỏ nhắn bằng vải thô đã sờn chỉ, xẻ ngực hơi hở hang, cổ đeo một chuỗi hạt nhỏ bằng đá màu rất tầm thường. Đầu nàng vươn thằng trên chiếc cổ trắng ngần, mắt nàng trong như nước hồ thu, mũi nàng cao như ngọn tháp Li-băng, tóc màu tím huyền. Những bím tóc rủ xuống như một đàn dê, hàm răng như đàn cừu đi tắm về, tất cả đi sánh đôi, không con nào vượt con nào. Tôi không khỏi trầm trồ: “Trông kìa, em xinh tươi, người yêu của anh, trông kìa, em đẹp quá. Tóc em như đàn dê nằm dọc theo núi Gilead (3), môi em như sợi chỉ thắm, thái dương em hồng hồng như miếng lựu, cổ em như ngọn tháp của vua David treo hàng ngàn cái khiên”. Vừa sợ hãi vừa mê mẩn, tôi tự hỏi người con gái đang đứng trước mặt tôi là ai mà hiện lên như ánh bình minh, đẹp đẽ như vầng trăng, rạng rỡ như mặt trời và khủng khiếp như thiên binh vạn mã. (4)

Rồi người ấy tiến sát tôi hơn. Nàng ném cái bọc đen thui mà vẫn ôm khư khư trong lòng nãy giờ vào một góc rồi giơ tay vuốt ve gương mặt tôi, và nhắc lại lời ngợi khen ban nãy. Khi tôi còn đang hoang mang không biết nên chạy trốn hay nhích lại gần nàng, đầu còn đang giần giật như thể hồi kèn của Joshua sắp sửa giật sập bức tường Jericho, vừa sợ vừa khao khát chạm vào người nàng, thì nàng đã sung sướng mỉm cười, và ư ử rên lên như một nàng dê cái mãn nguyện. Nàng tháo dây cổ áo, rồi tuột nó ra khỏi thân, và trần truồng đứng trước tôi như Ê-va đứng trước A-dong trong vườn địa đàng. Tôi thầm thì lập lại những lời đã nghe Ubertino nói: “Bộ ngực thật đẹp, hơi nhô cao một cách vừa phải” (5), đôi nhũ hoa của nàng, hiện lên như đôi nai tơ đang nhai cỏ trong đám huệ tây thanh khiết, rốn nàng như một cốc rượu đầy ắp, vòm bụng nàng trắng ngần như bột.

Tôi thốt lên: “Ôi bầu trời sáng ngàn sao, ôi ánh lửa khép kín, nguồn cội của những khu vườn, kho báu thơm nức hương hoa và chất xức tẩm”. Rồi thân tôi quyện vào thân nàng lúc nào chẳng biết, người nàng ấm áp, tỏa ra một mùi thơm nồng tôi chưa hề biết. Tôi chợt nhớ câu: “Này các con, khi cuồng si, con người trở nên bất lực”. Cho dù việc đang xảy ra là cạm bẫy của kẻ thù, hay ân đức của Thượng đế đi nữa, tôi chỉ biết mình đang yếu đuối bất lực trước mãnh lực đang thôi thúc. Tôi đành la lên “Ôi ta kiệt sức rồi! Ta hiểu sao mình kiệt sức, nhưng lại không cảnh giác (6). Đôi môi nàng tỏa ra mùi thơm hoa hồng, bàn chân nàng mang dép quai trông đẹp tuyệt, cặp đùi rắn chắc, hai đầu gối là hai viên ngọc, công trình của những nghệ nhân khéo léo. Tôi thầm thì, ôi tình yêu, một giai nhân tuyệt vời, giam giữ cả những vị vua chúa.

Tôi ngã vào lòng nàng, rồi cả hai lăn xuống nền gạch trơ của nhà bếp. Không biết do tôi hay do nàng, chiếc áo dòng tuột khỏi thân tôi, và chẳng ai thẹn thùng nhìn thân thể người kia nữa. Chúng tôi hóa thân vào nhau.

Rồi nàng hôn lên môi tôi, môi nàng ngon ngọt hơn rượu, người nàng thơm ngào ngạt, cổ đeo chuỗi hạt trắng ngần, tai đeo hoa mơn mởn, em xinh đẹp biết bao, này người yêu ơi, em xinh đẹp biết bao, mắt em như mắt bồ câu, hãy để anh ngắm gương mặt của em, nghe em nói, giọng em du dương, mặt em quyến rũ, tim anh rộn ràng, hỡi người em bé bỏng, vì mắt em, vì xâu chuỗi em đeo, môi em mọng, miệng em thơm như sữa ngọt, như mật, hơi thở em thơm mùi táo, ngực em là hai chùm nho, vòm họng em là rượu nồng ngây ngất thấm vào tim yêu, chảy tràn qua răng môi anh. Nàng là ai, hỡi người con gái rạng rỡ như ánh bình mình, thanh khiết như ánh trăng, trong sáng như ánh dương, khủng khiếp như đoàn hùng binh rợp cờ xí?

Lạy Chúa, khi tâm hồn ngây ngất, phẩm hạnh duy nhất là được yêu người mình gặp, hạnh phúc cao cả nhất là nắm được cái hiện hữu… Tôi nghĩ những lời tiên tri cuối cùng đã thành hiện thực, khi nàng đổ trào lên tôi dòng thác ngọt ngào khôn tả, toàn thân tôi dường như biến thành một con mắt, có thể nhìn được phía sau, và tôi đột nhiên nhìn thấy rõ vạn vật chung quanh. Tôi hiểu rằng từ tình yêu đã phát sinh sự hợp nhất, sự dịu dàng, điều thiện, nụ hôn và sự viên mãn, như tôi đã từng nghe nói nhưng lại tưởng nói đến điều gì khác. Khi gần đến đỉnh khoái lạc, tôi thoáng nhớ rằng có lẽ đêm đó tôi đã bị con Quỷ dâm dục hớp hồn, con Quỷ bị đọa nay đã hiện nguyên hình quỉ quái trước một linh hồn đang ngây ngất hỏi: “Mi là ai” mà biết cách cướp linh hồn ta, cám dỗ thân xác ta. Nhưng tôi lập tức tin rằng điều tôi đắn đo mới chính thực quỷ quái, vì chẳng có gì tốt đẹp, thiêng liêng hơn điều tôi đang trải nghiệm, mà sự ngọt ngào cứ mỗi phút lại trào dâng thêm…

Giờ đây, khi viết lại những dòng này, miêu tả cái giây phút khoái cảm ấy mà tôi đã trải qua, tái sinh nó trên mảnh da này tay tôi còn run rẩy. Thôi, chúng ta hãy quay về với sứ mệnh thuật các sự kiện trong ngày, và tất cả nỗi bàng hoàng mình đã trót đắm chìm vào. Đấy, tôi đã kể các bạn nghe điều tôi nhớ lại vào dịp đó và đã để ngòi bút yếu mềm của tôi, người viết sử trung thành và chân thực, ngừng lại.

Tôi nằm, bên cạnh cô gái không biết trong bao lâu. Tay nàng xoa nhè nhẹ lên thân thể đẫm mồ hôi của tôi. Lòng tôi lâng lâng bồi hồi, như ánh lửa cuối cùng chập chờn tắt dần dưới đồng tro tàn, khi lửa ngọn đã tàn lụi. Tôi sẽ chẳng ngại ngần gọi một người được ban cho một kinh nghiệm tương tự như thế trong đời là một người hạnh phúc, mặc dù khoảng khắc này rất chóng vánh và hiếm hoi. Như thể mình không còn tồn tại, mình không biết mình là ai, mình cảm thấy thấp kém và gần biến vào hư vô. Cả tâm hồn tôi bị lôi cuốn đến nỗi đánh mất trí nhớ trong niềm hoan lạc; hẳn là sự rạng rỡ của vầng thái dương vĩnh cửu, niềm vui phát sinh từ đó khiến con người rộng mở, cao cả, phóng khoáng, còn vết nứt rộng mở mà con người mang trong chính mình sẽ chẳng còn khép lại dễ dàng nữa, vì đó là vết chém của gươm ái tình, và hạ giới này không có gì ngọt ngào và khủng khiếp hơn.

Lòng đắm chìm trong niềm vui khôn tả, tôi ngủ thiếp đi.

o0o

Hồi lâu sau, tôi mở mắt ra và ánh trăng đã mờ hơn, có lẽ bị mây che. Tôi duỗi tay ra nhưng không thấy cô gái đâu cả. Tôi quay đầu lại, nàng đã ra đi.

Khi người con gái đã thỏa mãn dục vọng và khao khát của tôi đi rồi, tôi mới bất ngờ nhận thấy dục vọng của mình là phù phiếm và nỗi khao khát là sa đọa. “Sau cuộc giao hoan, mọi thú vật đều thấy buồn” (7). Tôi biết mình đã phạm tội. Giờ đây sau bao nhiêu năm than van cay đắng sự lầm lạc của mình, tôi vẫn không tài nào quên đêm ấy tôi đã sung sướng biết bao và đối với Đấng Toàn năng, người đã tạo ra một điều tốt đẹp, tôi sẽ sai trái nếu không công nhận rằng giữa hai kẻ phạm tội đó đã xảy ra một việc mà chính bản chất nó cũng tốt đẹp. Có lẽ tuổi già hiện nay khiến tôi thấy thẹn thùng nhớ lại thuở thanh xuân tươi đẹp của mình. Đáng lẽ tôi phải hướng suy nghĩ của mình vào cái chết đang gần kề. Ngày ấy, còn là thanh niên, tôi đã không nghĩ đến cái chết, mà tôi khóc ngất đi vì tội lỗi của mình.

Tôi run rẩy đứng dậy, vì đã nằm quá lâu trên nền đá lạnh trong nhà bếp nên toàn thân tôi tê cứng. Tôi mặc quần áo vào, rồi lên cơn sốt. Tôi liếc vào góc, nhìn thấy cái bọc mà cô gái đã để lại khi bỏ chạy. Tôi cúi xuống xem xét: nó là một bọc vải, dường như lấy từ nhà bếp. Tôi mở ra, thoạt đầu không biết có gì ở bên trong, phần vì ánh sáng lờ mờ, phần vì hình thù mơ hồ của vật đó. Rồi tôi hiểu ra. Trước mắt tôi, giữa những cục máu và miếng thịt nhầy nhụa trăng trắng, hiện ra một quả tim to tướng, tuy chết rồi, nhưng những mạch máu rõ rệt vẫn còn thoi thóp đập.

Mắt tôi tối sầm lại, miệng đắng nghét. Tôi thét lên và ngã gục xuống.

Chú thích:

(1) “Historica fratris Dulcini Heresiarche ”

(2) “De Ta Fabula Narratur ”

(3) Ngọn núi ở nước Jordan, phía đông bắc Biển Chết.

(4) “Terribilis ut castrorum acies ordinata ”

(5) “Pulchra sunt ubera quae paululum supereminent et tument modice ”

(6) “O langueo, causam languoris video nec caveo! ”

(7) "Omne animal triste post coitum ”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,133
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 41


ĐÊM

Tác giả: Umberto Eco

Adso đau khổ xưng tội với thầy William,

suy ngẫm về thân phận đàn bà

trong công cuộc tạo hóa.

Sau đó cậu phát hiện ra một tử thi.

Tôi tỉnh dậy thấy có người đang dấp nước lên mặt tôi. Đấy là thầy William, tay cầm đèn. Thầy đã kê dưới đầu tôi một vật gì đó.

- Chuyện gì thế, Adso? Ban đêm con đi lang thang ăn cắp đồ lòng trong nhà bếp à?

Tóm lại, thầy William thức dậy, tìm không thấy tôi bèn nghi tôi sắp thực hiện một việc liều lĩnh nào đó trong Thư viện. Khi men theo nhà bếp về phía Đại dinh, thầy thấy một bóng đen thoát ra khỏi cửa, chạy về phía vườn rau (chính là cô gái đang bỏ trốn, có lẽ vì nàng nghe có người đến). Thầy cố muốn biết đó là ai, liền chạy theo, nhưng bóng đen đã lao về phía bức tường ngoài và biến dạng. Sau khi lục soát mọi nơi, thầy William vào nhà bếp và thấy tôi đang ngất xỉu.

Vẫn còn hoảng sợ, tôi nói với thầy về cái bọc chứa quả tim và lúng búng suy diễn thêm về một án mạng khác thì thầy phá lên cười:

- Adso ơi, ai lại có trái tim to như thế? Đó là tim bò. Hôm nay, họ có mổ một con. Làm sao con có quả tim này?

Đến đây, lòng tràn đầy ăn năn và sợ hãi, tôi òa lên khóc và xin thầy làm phép xưng tội. Thầy nhận lời và tôi thú hết, không giấu gì cả.

Thầy William lắng nghe tôi xưng tội từ đầu đến đuôi, lộ vẻ khoan dung. Khi tôi thú xong, thầy nghiêm nghị bảo:

- Adso, quả thật con đã phạm tội ngược lại điều răn cấm giao hợp, và cũng ngược lại với bổn phận của một tu sinh. Con chỉ có một lý do để bào chữa là con đã rơi vào một tình huống mà ngay cả thánh cũng phạm tội. Thánh kinh đã nói nhiều về tội cám dỗ của đàn bà. Hàng Giáo phẩm đã nói: đàn bà như lửa cháy, còn sách cách ngôn, trong kinh Cựu ước có viết: đàn bà chiếm lấy linh hồn quý giá nhất của đàn ông và làm hư hỏng những con người mạnh mẽ nhất… Điều thầy muốn nói với con, Adso ạ, là đương nhiên con không được phép tái phạm nữa, nhưng nếu con đã lỡ phạm tội thì cũng không đến nỗi gớm ghiếc lắm đâu. Một tu sĩ cũng nên trải nghiệm qua đam mê xác thịt, ít nhất là một lần trong đời, để về sau, có thể khoan dung và thông cảm với những kẻ phạm tội mà mình sẽ an ủi và khuyên nhủ… thế đấy, Adso ạ, đó là việc ta không mong cầu trước khi nó xảy ra, nhưng nếu nó đã lỡ rồi thì chớ nên nguyền rủa nó quá. Thế nên hãy đến với Chúa và đừng bàn thêm gì về việc ấy nữa. Chớ nên suy nghĩ, đeo đẳng mãi một việc mà ta nên quên… - Đến đây, giọng thầy như dịu xuống vì một xúc cảm riêng. – Nếu có thể, hãy bàn xem sự kiện đêm qua có ý nghĩa gì? Cô gái ấy là ai và đến đây để gặp người nào?

- Con không biết, con không trông thấy người ở bên nàng.

- Đúng, nhưng chúng ta có thể suy từ nhiều dữ kiện chắc chắn để biết kẻ ấy là ai. Thứ nhất, kẻ ấy phải già và xấu, một người mà cô gái không hoan hỉ đến gần, đặc biệt, nếu như cô ta đẹp như con tả, dù thầy nghĩ rằng con sói nhỏ của thầy ăn món gì cũng thấy ngon cả.

- Tại sao lại già và xấu hở thầy?

- Vì cô gái không đến với kẻ ấy vì tình yêu mà vì một gói thức ăn thừa. Cô ta hẳn là một thôn nữ, vì đói đã đến đây, có lẽ không phải là lần đầu, để bán thân cho tu sĩ dâm dục nào đó để đổi lấy miếng ăn cho bản thân và gia đình.

- Một gái điếm à! - tôi hoảng sợ kêu lên.

- Một gái quê nghèo thôi, Adso ạ. Có lẽ cô ấy còn đàn em thơ phải nuôi. Một cô gái, mà nếu có điều kiện, sẽ dâng hiến cho tình yêu chớ không phải dục vọng, như cô đã làm đêm nay vậy. Quả thực, con đã kể rằng nàng bảo con trẻ đẹp, và vì tình yêu đã tặng không con cái mà cô ta có thể dùng để đổi lấy một quả tim hay vài cái phổi bò. Cô ta cảm thấy cao cả và đạo đức vì món quà mà mình đã tự hiến quá, đến nỗi bỏ chạy mà chẳng lấy theo thứ gì để đổi chác cả. Do đó, thầy mới nghĩ rằng người mà cô ấy đã so sánh với con không thể trẻ và đẹp trai được.

Tôi thú thật rằng dù lòng rất đỗi ăn năn, lời thầy giải thích vừa rồi khiến tôi vô cùng tự hào. Tôi yên lặng nghe thầy nói tiếp:

- Tu sĩ già nua, xấu xí ấy phải có cơ hội xuống làng tiếp xúc với nông dân vì một công việc gì liên quan đến chức vụ của mình. Hắn phải biết cách đưa người ra vào tu viện, và biết trong nhà bếp có bộ đồ lòng ấy. Cuối cùng, hắn hẳn phải có tính tiết kiệm, không muốn nhà bếp mất đi những thức ăn bổ béo hơn: nếu không, hắn đã đưa cho cô gái một miếng thịt bíp-tếch hay một miếng thịt nào ngon lành đã lọc lựa. Thế là con thấy hình ảnh của một người lạ mặt hiện lên rất rõ, và tất cả những đặc tính này đều thích hợp với một người mà thầy chẳng ngại ngần chi mà không định tên: Đó là viên quản hầm Remigio của chúng ta. Còn nếu ta lầm, đó là con người bí ẩn Salvatore, người xuất thân từ địa phương này nên có thể nói chuyện dễ dàng với dân trong vùng và biết cách thuyết phục cô gái làm theo ý mình, nếu con không đến.

Tôi hài lòng nói: - Tất cả đều đúng cả, nhưng giờ đây chúng ta biết được kẻ đó thì có ích gì chăng?

- Không, có ích rất nhiều. Câu chuyện trên có thể có hay không có liên hệ với các án mạng mà chúng ta đang quan tâm. Mặt khác, nếu quản hầm là một tu sĩ dòng Dolcino, thì gốc gác của gã sẽ giải thích cho hành động này, và ngược lại. Cuối cùng, chúng ta biết được rằng tu viện này là nơi hay xảy ra nhiều biến cố kỳ quặc về đêm. Và ai có thể nói chắc rằng quản hầm của chúng ta, hay Salvatore, những kẻ đi lại dễ dàng trong tu viện vào ban đêm, lại không biết nhiều điều liên quan đến các biến cố, nhưng chưa nói ra?

- Họ sẽ kể cho chúng ta biết chứ?

- Không, nếu chúng ta thông cảm bỏ qua cái xấu của họ. Nhưng, nếu chúng ta thực sự muốn biết điều gì, chúng ta có cách thuyết phục họ nói. Nói khác đi, khi cần, quản hầm và Salvatore là những người ta có thể dùng, xin Chúa tha cho chúng con tội lừa lọc này, cũng như Ngài đã tha thứ nhiều tội khác nữa – Thầy tinh quái nhìn tôi, và tôi không có lòng dạ nào để bình luận các quan điểm đúng của thầy.

- Chúng ta nên về ngủ, vì còn một canh nữa là đến Kinh sớm. Nhưng Adso ạ, thầy thấy con vẫn còn ray rứt, sợ sệt vì tội lỗi của con… Chẳng có gì tốt hơn là vào nhà thờ cầu nguyện một lát để trấn an tinh thần. Thầy đã giải tội cho con, nhưng chưa chắc đã được. Hãy đến xin Chúa chứng nhận – Rồi thầy đánh nhẹ lên đầu tôi, có lẽ vừa tỏ lòng trìu mến cha con đầy cương nghị vừa trừng phạt rất khoan dung. Hay có lẽ, thầy thèm muốn được như tôi, vì thầy là con người khao khát những kinh nghiệm mới lạ và sống động.

Chúng tôi trực chỉ nhà thờ theo lối cũ. Tôi nhắm mắt vội vã theo thầy, vì đêm đó những bộ xương nhắc nhở tôi quá hiển nhiên về thân phận cát bụi của mình và niềm tự hào về xác thịt là ngu xuẩn biết bao.

Khi đến gian giữa của giáo đường, chúng tôi thấy một bóng người trước bàn thờ chính. Tôi tưởng đó là Ubertino, nhưng hóa ra lại là Alinardo. Thoạt tiên Huynh không nhận ra chúng tôi, Huynh nói không ngủ được nên định thức đêm để cầu nguyện cho một tu sĩ trẻ vừa mất tích (Huynh thậm chí cũng không nhớ tên). Huynh cầu nguyện cho linh hồn Huynh ấy, nếu đã chết và cho thân xác, nếu đang nằm bệnh hoạn, cô đơn đâu đó. Huynh nói:

- Nhiều người chết quá, nhiều quá… Nhưng điều này đã được ghi trong Phúc âm. Hồi kèn thứ nhất vang lên thì mưa đá đổ xuống. Hồi kèn thứ hai, một phần ba biển hóa máu. Các con đã tìm thấy một xác chết trong mưa đá, một xác khác trong máu… Hồi kèn thứ ba báo hiệu rằng, một ngôi sao bùng cháy sẽ rơi xuống phần thứ ba của sông hồ. Nầy nhé, người tu sĩ thứ ba của chúng ta đã mất tích. Hãy sợ cho người thứ tư, vì phần thứ ba của mặt trời, mặt trăng và tinh tú, sẽ bị đập nát và trời sẽ tối đen như mực…

Khi ra khỏi cánh ngang của nhà thờ, thầy William tự hỏi không biết trong lời tu sĩ già ấy có chứa đựng sự thực nào không? Tôi vạch rõ:

- Nhưng nói như thế có nghĩa là cho rằng đầu óc quỉ quyệt của kẻ nào đó đã theo lời sách Mặc khải để sắp xếp ba cái chết. Nói như thế cũng cho rằng Berengar đã chết! Nhưng ngược lại, chúng ta biết Adelmo đã tự tử chết...

- Đúng. Nhưng cái chết của Adelmo có lẽ đã gợi ý cho chính đầu óc quỷ quái, bệnh hoạn đó cách sắp xếp hai cái chết sau theo một biểu tượng nào đó. Nếu thế, người ta sẽ tìm thấy Berengar trong một con sông hay dòng suối. Còn trong tu viện thì không có sông, suối nào để người chết đuối cả…

- Chỉ có nhà tắm thôi, - Tôi bất thần nhận xét.

- Adso! Nè, đó có thể là ý hay đấy. Nhà tắm!

- Nhưng chắc họ đã tìm ở đó rồi…

- Sáng nay, thầy thấy các tôi tớ đi lùng kiếm, họ mở cửa phòng tắm nhưng chỉ liếc nhìn vào mà không xem xét kỹ lưỡng. Họ không nghĩ sẽ tìm thấy một vật được dấu kỹ, mà chỉ tìm kiếm một thây người nằm kệch cỡm ở đâu đó, như xác Venantius trong vại máu vậy… chúng ta đến đó xem đi. Trời còn tối, nhưng đèn chúng ta vẫn rạng lắm.

Thế là chúng tôi đi, ung dung mở cửa vào nhà tắm, cạnh bệnh xá.

Những tấm màn dày ngăn các bồn tắm với nhau, tôi không nhớ có bao nhiêu. Các tu sĩ tắm gội ở đây, còn Severinus dùng nó như một phương pháp trị liệu, vì không có gì bồi dưỡng thể xác và tinh thần tốt hơn đi tắm. Trong góc có xây một lò sưởi để dễ dàng đun nước. Trong lò có tro mới và phía trước là một nồi lớn nằm đổ nhào. Nước có thể lấy từ bồn ở góc kia.

Chúng tôi nhìn vào những bồn tắm trống đầu tiên. Chỉ có bồn tắm cuối cùng có kéo màn là đầy nước, cạnh bồn là một đống áo quần. Thoạt nhìn, dưới ánh đèn, mặt nước trông phẳng lì, nhưng khi đèn soi gần hơn, chúng tôi thoáng thấy một xác chết trần truồng dưới đáy bồn. Chúng tôi từ từ kéo xác ra: Berengar. Thầy William nói xác này quả thật có bộ mặt của người chết đuối. Mặt mũi chương phù. Thân hình trắng bệch và nhão nhẹt, không có lông, trông như thân thể một phụ nữ trừ bộ phận sinh dục gớm ghiếc ỉu sìu. Tôi đỏ mặt, rùng mình. Tôi làm dấu thánh giá còn thầy William làm phép trên xác.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,133
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 42


NGÀY THỨ TƯ

Tác giả: Umberto Eco

William và Severinus

khám nghiệm từ thi Berengar,

phát hiện lưỡi bị đen,

đó là điều lạ

đối với một người chết đuối.

Rồi họ bàn luận về các loại

độc dược gây đau đớn nhất,

và một vụ trộm trong quá khứ.

Tôi sẽ không tả lại chúng tôi đã báo cho Tu viện trưởng như thế nào, toàn tu viện đã thức dậy trước giờ hành lễ ra sao, những tiếng thét kinh hoàng, nỗi sợ hãi và đau buồn hiện lên mọi khuôn mặt, tin dữ đã lan đến khắp mọi người trong khu ra sao, các tôi tớ làm dấu thánh giá và đọc chú trừ tà. Tôi không biết buổi Kinh Sớm có tiến hành như thường lệ hay không và có ai dự lễ. Tôi đi theo thầy William và dược thảo sư Severinus, hai người đã sai bọc xác Berengar lại và đem đặt lên bàn, trong bệnh xá.

Khi tu viện trưởng và các tu sĩ khác đã đi khỏi, dược thảo sư và thầy tôi khám nghiệm tử thi kỹ lưỡng với vẻ điềm tĩnh của những người làm nghề thầy thuốc. Severinus nói:

- Chắc chắn Huynh ấy đã chết đuối. Mặt sưng, bụng căng…

- Nhưng Huynh ấy không bị người khác trấn nước. Vì, nếu thế thì Huynh ấy phải chống lại kẻ sát nhân, thế nhưng mọi thứ đều gọn gàng, sạch sẽ cứ như thể Berengar đã đun nước đổ vào bồn và tự nằm vào.

- Tôi chẳng lạ gì. Berengar mắc chứng co giật, và chính tôi thường khuyên Huynh ấy tắm nước ấm để xoa dịu tinh thần và thể xác. Nhiều lần Huynh ấy đã xin phép tôi đốt lò trong nhà tắm. Vì thế, đêm qua Huynh ấy đã…

- Đêm hôm kia, vì xác này, như Huynh thấy, đã ở trong nước ít nhất một ngày…

Thầy William kể cho dược thảo sư một số diễn biến đêm hôm đó, Thầy không kể việc chúng tôi lén lút vào phòng thư tịch, nhưng có kể đã theo dõi một bóng người bí ẩn, kẻ đã giật mất quyển sách của chúng tôi. Severinus hiểu thầy William chỉ kể một phần sự thật nhưng không hỏi thêm. Huynh nhận xét rằng, nếu Berengar chính là kẻ trộm bí ẩn đó thì có thể vì bồn chồn nên đã đi tắm cho tỉnh. Berengar là một người rất nhạy cảm. Đôi khi, vì bực bội hay xúc động, Huynh ấy thường run lên, toát mồ hôi lạnh, mắt trố ra, ngã xuống nền gạch và sùi bọt mép trắng xóa. Thầy William nói:

- Dẫu sao, trước khi đến nhà tắm, Huynh ấy đã đến một nơi nào khác, vì tôi không tìm thấy quyển sách bị mất trộm ở đấy. Như thế, Huynh ấy đã đến một nơi, sau đó, để xoa dịu sự căng thẳng, và có lẽ để tránh sự lùng kiếm của chúng tôi, Huynh ấy mới lẻn vào nhà tắm và trầm mình trong nước. Severinus ạ, Huynh có tin rằng bệnh tật của Berengar có thể khiến Huynh ấy ngất đi và chết đuối không?

- Có thể - Severinus nói, giọng ngờ vực. Nãy giờ, Huynh ấy vẫn xem xét đôi tay của tử thi. Huynh nói: - Một điều kỳ lạ…

- Điều gì?

- Hôm nọ, khi xem xét đôi tay của Venantius lúc đã lau sạch máu, tôi có để ý thấy một chi tiết mà tôi không chú tâm lắm. Đầu hai ngón của bàn tay mặt bị bầm tím, như thể bị dính một chất màu đen gì đó. Huynh thấy không, cũng giống hệt như hai đầu ngón tay của Berengar bây giờ. Nói chính xác thì ta cũng thấy có dấu vết như vậy trên ngón giữa. Lúc ấy, tôi nghĩ tay Venantius đã dính một loại mực gì đó trong phòng thư tịch…

- Lý thú nhỉ! – Thầy William trầm tư nói, nhìn sát đầu ngón tay của Berengar hơn nữa.

Bình minh đang ló dạng, ánh sáng trong phòng còn yếu ớt, và thầy tôi hẳn rất khó chịu vì mất kính. Thầy lặp lại: - Lý thú thật. Nhưng cũng có những vết mờ trên bàn tay trái, ít ra là trên ngón cái và ngón trỏ.

- Nếu chỉ bên tay mặt thì người đó có lẽ đã cầm một vật gì nhỏ, dài và mảnh…

- Như một cây bút chẳng hạn. Hay một thức ăn nào đó. Một côn trùng. Một con rắn. Một cái chân lọ. Hay một cây gậy. Quá nhiều thứ. Nhưng nếu tay bên kia cũng có dấu, thì nó cũng có thể là một cái cốc: tay phải giữ chặt và tay trái dùng ít sức hơn đỡ nó…

Severinus chà nhẹ lên các ngón tay của xác chết, nhưng vết tím đen không tan đi. Tôi để ý thấy Huynh có đeo một đôi găng tay thường sử dụng khi tiếp xúc với các độc chất! Huynh hít hít, nhưng không ngửi được mùi gì.

- Tôi có thể kể tên vài thảo chất, và cả khoáng chất nữa, thường để lại những dấu vết như thế này. Vài loại gây chết người, những loại khác thì không. Các tu sĩ minh họa đôi khi bị dính bụi vàng trên các ngón tay…

Thầy William nói: - Adelmo là một tu sĩ minh họa. Tôi thấy dù xác Adelmo bị tan nát như vậy, nhưng Huynh lại không nghĩ đến chuyện xem xét các ngón tay của tử thi. Nhưng ngón tay của những xác chết khác, có lẽ đã sờ vào một vật gì đó thuộc về Adelmo.

- Tôi thực không biết. Ngón tay của cả hai người chết đều tím đen. Huynh có thể suy diễn gì từ đó?

- Tôi không suy diễn gì cả: từ hai sự kiện giống hệt nhau, không thể suy diễn ra một trường hợp đặc biệt. Cả hai trường hợp đều ứng với một nguyên lý chung. Thí dụ: có một chất làm tím ngón tay mỗi khi ai chạm vào nó…

Tôi đắc chí thốt lên phần hợp đề của tam đoạn luận: - …Ngón tay của Venantius và Berengar đều tím đen, vậy họ đã chạm vào chất đó!

Thầy William nói: - Giỏi đấy, Adso, tiếc thay tam đoạn luận của con không đứng vững, vì tiền đề hai của nó không được tổng quát (1). Đó là dấu hiệu cho thấy chúng ta chọn tiền đề một không hay lắm. Đáng lẽ, không nên nói rằng những ai chạm vào một chất nhất định nào đó sẽ bị tím các ngón tay, vì cũng có những người tay bị tím nhưng không chạm vào chất đó. Thầy nên nói rằng, tất cả những ai và chỉ những ai ngón tay bị tím đen thì mới chắc hẳn đã chạm vào chất nói trên, thí dụ như Venantius, Berengar, v.v…

Tôi hí hửng nói: - Vậy là chúng ta có giải đáp rồi.

- Than ôi, Adso, con quá tin tưởng vào tam đoạn luận. Cái mà ta có, chỉ đơn thuần là một câu hỏi. Đó là, chúng ta thử nêu lên một giả thuyết rằng Venantius và Berengar cùng chạm vào một chất, một giả thuyết hoàn toàn hữu lý. Nhưng, khi ta tưởng tượng ra một chất duy nhất có khả năng gây ra hậu quả này, chúng ta vẫn chưa biết chất đó là gì, tìm thấy ở đâu và sao lại chạm vào nó. Nhớ nhé, chúng ta cũng không biết cái chất họ chạm vào đó đã giết hại họ hay không? Giả sử một thằng điên muốn giết tất cả những ai chạm vào bụi vàng. Liệu chúng ta có thể nói bụi vàng giết người không?

Tôi nản lòng. Tôi luôn tin rằng luận lý là một vũ khí đa năng, còn bây giờ tôi nhận thức được giá trị của nó tùy thuộc vào cách sử dụng.

Severius chắc chắn không phải là nhà luận lý học, nên lúc đó ông dùng suy luận trên cơ sở kinh nghiệm của mình: - Thuốc độc thì nhiều và đa dạng như những điều nhiệm màu của thiên nhiên – Huynh nói, chỉ tay vào một loạt lọ và ống xếp gọn gàng trên những kệ dọc theo tường, cùng với nhiều bộ sách. – Như tôi đã thưa chuyện cùng Huynh trước đây. Những loại dược thảo này, khi được pha trộn và cho dùng đúng cách, có thể sử dụng như thức uống và dầu thoa chết người. Ở đằng kia, các loại cây độc cần, cây cà dược, có thể gây ra chứng ngái ngủ hay kích thích, hay cả hai: nếu dùng cẩn thận chúng là thần dược, nếu dùng quá độ sẽ gây chết người.

- Nhưng không có chất nào trong số này để dấu trên ngón tay chớ?

- Tôi nghĩ là không. Có những chất chỉ nguy hiểm khi ăn vào bụng, còn những chất khác lại tác động lên da… Có một lần người ta cho tôi xem một hợp chất, khi thoa vào đùi trong của con chó, gần sát bẹn, sẽ làm con vật quằn quại chết ngay, bốn chân dần dần cứng đờ lại…

- Huynh biết nhiều về độc chất quá, - thầy William nói, giọng thán phục.

Severinus nhìn đăm đăm vào mắt thầy một chốc - Tôi biết những gì một y sĩ, dược thảo sư, người nghiên cứu khoa học về sức khỏe con người phải biết.

Thầy William nghĩ ngợi một hồi, rồi nhờ Severinus cạy miệng xác chết để nhìn lưỡi. Severinus hiếu kỳ lấy ra một cái đè lưỡi mỏng, làm theo lời thầy. Huynh ấy kinh ngạc thốt lên: - Lưỡi đen thui!

Thầy William thầm thì: - Ra thế, Huynh ấy đã dùng ngón tay nắm một thứ gì đó rồi nuốt nó vào bụng… Điều này loại trừ những chất độc gây chết người bằng cách ngấm vào da, như Huynh vừa nói. Nhưng như thế không làm việc suy diễn của chúng ta dễ hơn. Vì từ nay, đối với Berengar và Venantius, chúng ta phải suy đoán họ có một hành động tự nguyện. Họ nắm một thứ gì đó và đút nó vào miệng và hiểu được điều họ đang làm…

- Một thứ để ăn? Để uống?

- Có thể. Hay cũng có thể… à, tại sao không nhỉ?... là một nhạc cụ giống như ống sáo chẳng hạn…

- Vô lý.

- Dĩ nhiên là vô lý. Nhưng chúng ta không được loại trừ một giả thuyết nào, dù nó có hoang đường mấy đi chăng nữa. Giờ, hãy quay lại đề tài độc chất. Nếu có một kẻ biết rõ về thuốc độc như Huynh, đột nhập vào đây và lấy các dược thảo của Huynh, liệu hắn có thể chế ra một loại dầu thoa gây chết người, có khả năng để lại những vết tím đen trên đầu ngón tay và lưỡi được không? Hay chất ấy có thể được trộn với đồ ăn, thức uống, bôi lên muỗng, hay một vật gì đó để đút vào miệng không?

Severinus công nhận: - Được, nhưng ai kia chứ? Hơn nữa, dẫu chúng ta chấp nhận giả thuyết này, làm sao kẻ ấy có thể đưa thuốc độc cho hai sư huynh xấu số?

Thành thực mà nói, tôi không thể hình dung Venantius hay Berengar lại để một kẻ nào đó đến gần, trao cho họ một chất bí ẩn nào đó và thuyết phục họ hãy ăn hay uống nó đi. Nhưng thầy William dường như không nao núng trước điều vô lý này, bèn nói: - Chúng ta sẽ nghĩ đến nó sau. Bây giờ tôi muốn Huynh cố nhớ lại một sự kiện gì đó mà có lẽ Huynh đã quên rồi. Thí dụ: như có ai đó đã hỏi Huynh về các loại dược thảo, có ai có thể lọt vào bệnh xá một cách dễ dàng…

Severinus cắt ngang: - Khoan đã. Cách đây nhiều năm, tôi có cất giữ một chất cực mạnh trên kệ đó. Chất này do một sư huynh từ phương xa đến cho tôi, Huynh ấy không thể kể các thành phần trong chất đó, dĩ nhiên bằng dược thảo thôi, nhưng có vài loại hơi lạ. Nhìn thì nó nhờn nhờn và có màu vàng vàng, nhưng Huynh ấy bảo tôi chớ có chạm vào nó, vì nếu để nó chạm vào môi thì sẽ chết ngay. Dù chỉ nuốt vào một lượng tí ti thôi thì trong vòng nửa giờ, người sẽ mệt mỏi rã rời, tứ chi từ từ tê liệt rồi chết. Huynh ấy không muốn mang theo chất này nên tặng cho tôi. Tôi giữ nó một thời gian dài, định tìm cách nghiên cứu nó. Rồi một hôm có một trận bão lớn. Một tu sinh phụ tá của tôi để cửa bệnh xá mở, và trận cuồng phong đã tàn phá căn phòng này đây. Chai lọ vỡ, thuốc chảy trên nền, cây thuốc và thuốc bột văng vãi tứ tung. Tôi phải vất vả suốt ngày để sắp xếp mọi vật lại, và chỉ cho quét dọn các chai lọ vỡ và những dược thảo không còn dùng được nữa. Cuối cùng, tôi khám phá rằng chính cái ống tôi vừa nói với Huynh đã bị mất tích. Thoạt tiên, tôi lo lắng, về sau tôi nghĩ nó đã bị vỡ và lẫn vào các loại vụn rác khác. Tôi đã cho quét nền bệnh xá rất cẩn thận, còn những kệ thì…

- Huynh có nhìn thấy ống thuốc đó vài giờ trước cơn bão không?

- Có… nhưng, à không, nay nghĩ kỹ lại, nó nằm đằng sau dãy lọ, được dấu rất kỹ, nên tôi không kiểm soát nó hàng ngày…

- Do đó, theo Huynh nghĩ, có lẽ nó đã bị mất trộm một thời gian dài, trước khi xảy ra cơn bão, mà Huynh không biết?

- Bây giờ, nghĩ kỹ lại thì hẳn nhiên là vậy.

- Và người tu sinh phụ tá của Huynh có thể đã trộm thuốc, và nhân có bão bèn cố tình mở cửa để xáo trộn đồ đạc của Huynh lên?

Severinus trở nên kích động: - Vâng, đương nhiên. Không chỉ thế thôi, nhưng nay nhớ lại điều đã xảy ra, tôi thật ngạc nhiên, vì dù cơn bão có dữ dội đến mấy đi nữa, nó đâu thể xáo tung quá nhiều thứ lên như vậy? Có thể ai đó đã lợi dụng nó để lục phá căn phòng và gây nhiều thiệt hại hơn cả cuồng phong nữa.

- Tu sinh ấy là ai?

- Tên chú ấy là Augustine. Nhưng đã chết năm ngoái, rớt từ giàn cao xuống, khi chú ấy và những Sư huynh khác cùng tôi tớ đang chùi những bức tượng ở phía chính diện của nhà thờ. Quả thật, tôi nhớ lại, chú ấy đã thề bán sống bán chết là không để cửa mở trước khi có bão. Chính tôi là người đã giận dữ đổ lỗi cho chú ấy về tai ương này. Có lẽ chú ấy không thực có lỗi.

- Thế là chúng ta có một nhân vật thứ ba, tinh thông hơn một tu sinh, biết Huynh có thứ thuốc độc hiếm ấy. Huynh có kể cho ai nghe về nó không?

- Tôi thực không nhớ. Dĩ nhiên, tôi có nói với Tu viện trưởng để xin phép giữ chất nguy hiểm này và nói với vài người khác, có lẽ trong thư viện, vì tôi đang tìm một quyển sách về dược thảo để thu thập thêm kiến thức.

- Nhưng chẳng phải Huynh đã nói rằng Huynh giữ tại đây những quyển sách hữu dụng nhất cho ngành của Huynh ư?

- Vâng, có giữ nhiều. – Severinus nói và chỉ vào một góc phòng có vài chiếc kệ đựng mấy chục quyển sách. - Nhưng khi đó tôi đang tìm một vài quyển sách mà tôi không được giữ ở đây. Malachi quả thật rất ngần ngại không muốn để tôi xem những quyển sách đó. Tôi phải xin phép Tu viện trưởng – Giọng Huynh nhỏ lại, hầu như thẹn thùng không muốn để tôi nghe lời mình nói – Huynh biết không, trong một khu bí mật của Thư viện, họ cất giữ những sách viết về phép phù thủy, tà thuật và các công thức chế bùa mê. Tôi được phép tham khảo vài cuốn sách này khi cần thiết, và hy vọng tìm được công thức và công dụng của chất đó, nhưng vô hiệu.

- Như thế, Huynh đã nói với Malachi về chất này?

- Đương nhiên rồi, và có lẽ cả với phó quản thư viện Berengar nữa. Nhưng đừng vội kết luận nhé: tôi không nhớ rõ, có lẽ các tu sĩ khác cũng có mặt khi tôi nói chuyện, đôi khi phòng thư tịch cũng khá đông, Huynh biết đấy…

- Tôi không nghi ai hết, và chỉ cố tìm hiểu việc gì có thể đã xảy ra. Dẫu sao, Huynh kể việc này đã xảy ra nhiều năm trước đây. Thật lạ lùng, có kẻ đã trộm thuốc độc, giữ nó thật lâu không dùng đến, mãi sau này…. Điều này cho thấy một đầu óc độc ác đã nuôi dưỡng âm mưu giết người suốt thời gian dài một cách bí mật.

Severinus làm dấu thánh giá, mặt lộ vẻ khiếp sợ:

- Lạy Chúa, xin tha tội cho chúng con.

Chẳng có gì đáng bàn thêm. Chúng tôi đậy điệm thi thể Berengar lại, để chuẩn bị tang lễ.

Chú thích:

(1) Aut semel aut iterum medium generaliter esto
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,133
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 43


KINH ĐẦU

Tác giả: Umberto Eco

William dụ Salvatore,

rồi đến viên quản hầm thú nhận quá khứ của mình,

Severinus tìm được cặp kính bị mất trộm,

Nicholas đem đến cặp kính mới,

Và William, với sáu con mắt,

giải mã bản viết của Venantius.

Khi chúng tôi đi ra thì Malachi bước vào. Huynh ấy dường như bực bội khi thấy chúng tôi ở đấy, nên ngoe nguẩy đi ngay. Severinus từ trong nhìn ra thấy Malachi, bèn hỏi:

- Có phải Huynh tìm tôi không? Có phải để…?

Huynh im bặt, liếc nhìn chúng tôi. Malachi khẽ ra hiệu cho Severinus, như muốn nói: “Chúng ta sẽ bàn chuyện đó sau….,”

Khi chúng tôi sắp bước ra thì Huynh ấy bước vào, nên cả ba đều đứng ở ngưỡng cửa.

Malachi nói một câu hơi thừa:

- Tôi đến tìm Sư huynh dược thảo sư… Tôi… tôi bị nhức đầu.

- Chắc hẳn do không khí ngột ngạt trong Thư viện - Thầy William nói giọng ái ngại – Huynh nên hít một chút thuốc gì đó.

Malachi mấp máy môi như thể muốn nói gì nữa, nhưng lại thôi, Huynh cúi đầu đi thẳng vào trong, còn chúng tôi thì dời gót. Tôi hỏi:

- Huynh ấy tìm Severinus làm gì?

Thầy tôi bực bội đáp: - Adso, con phải tập động não suy nghĩ. - Rồi thầy đổi đề tài - Giờ chúng ta phải đi hỏi chuyện một vài người - Thầy nói tiếp, mắt nhìn xuống đất chằm chặp – Ít ra là khi họ vẫn còn sống. Này nhé, từ rày về sau, chúng ta phải cẩn thận khi ăn uống. Chỉ nên dùng đồ ăn, thức uống nấu chung cho mọi người. Sau Berengar, chúng ta là những người biết nhiều nhất. Dĩ nhiên, ngoại trừ kẻ sát nhân.

- Nhưng thầy định thẩm vấn ai bây giờ?

- Adso, con đã nhận thấy ở đây những việc đáng lưu ý nhất đều xảy ra về ban đêm. Họ chết ban đêm, họ đi lang thang trong phòng thư tịch ban đêm, họ đưa phụ nữ vào tu viện ban đêm... Tu viện có hai bộ mặt: ngày và đêm; nhưng tiếc thay, tu viện về đêm lại có nhiều chuyện đáng chú ý hơn. Vì thế, chúng ta nên quan tâm đến những ai đi lang thang ban đêm, kể cả người con thấy đêm qua với cô gái, chẳng hạn. Chuyện cô gái có thể có hay không có liên quan đến việc đánh thuốc độc. Dẫu sao, thầy cũng có suy nghĩ về người đàn ông đêm qua, kẻ ấy ắt hẳn phải là người hiểu biết nhiều chuyện về đời sống ban đêm ở nơi thiêng liêng này. À mới nhắc đến là thấy ngay rồi.

Thầy chỉ về phía Salvatore, Huynh ấy đã trông thấy chúng tôi. Tôi nhận thấy Huynh bước hơi ngập ngừng như muốn lánh mặt, toan quay đi nhưng không kịp. Rõ ràng Salvatore biết không thể tránh được thầy trò tôi nên tiếp tục bước tới, toét miệng cười chào chúng tôi và nói ngọt xớt: “Xin Chúa ban phước lành”. Thầy tôi không để Huynh ấy dứt lời, hỏi ngay, giọng sắc lẻm:

- Huynh có biết Toà án dị giáo sẽ đến đây ngày mai không?

Salvatore có vẻ không vui, yếu ớt hỏi: - Còn tôi thì sao?

- Còn Huynh thì nên khôn ngoan nói sự thật cho tôi nghe, cho một người bạn và cũng là một thầy dòng Khất thực như Huynh ngày xưa, còn hơn là ngày mai phải kể lại cho những người mà Huynh đã biết quá rõ.

Bị tấn công quá đột ngột, Salvatore đành bỏ mọi ý định chống cự. Huynh ấy nhìn thầy William với vẻ ngoan ngoãn, ra chiều sẵn sàng kể bất cứ điều gì, thầy hỏi:

- Đêm qua, có một phụ nữ trong nhà bếp. Ai với cô ấy?

Salvatore ngần ngừ nói: - Ôi, một con bán mình như đứa làm thuê đâu có đạo đức, tiết hạnh gì.

- Tôi không cần biết cô gái có trong trắng hay không. Tôi muốn biết ai với cô ấy!

- Lạy Chúa tôi, những con quỉ cái này thật là tinh ranh! Chúng biết cách đánh bẫy đàn ông ban đêm...

Thầy William tóm lấy ngực áo Salvatore: - Ai đã ở với cô ta, Huynh hay quản hầm?

Salvatore biết không thể tiếp tục nói dối. Huynh bèn kể một câu chuyện lạ lùng mà vất vả lắm chúng tôi mới biết được rằng, để làm vui lòng quản hầm, ban đêm, Huynh ấy phải đưa gái quê vào tu viện theo những đường hầm bí mật. Huynh thề rằng mình làm thế chỉ vì tốt bụng, nhưng buồn cười thay vẫn lộ vẻ tiếc rẻ không biết làm cách nào để thoả mãn dục vọng của chính mình, hay bảo cô gái bố thí cho mình một chút gì sau khi đã ăn nằm với quản hầm. Huynh ấy vừa kể vừa nheo mắt, cười hềnh hệch, như thể kể với những người phàm tục rành chuyện nam nữ. Huynh ấy chốc chốc lại len lén liếc tôi, mà dù muốn tôi cũng chẳng thể ngăn được, vì cả hai chúng tôi đã bị ràng buộc với nhau bởi một điều bí mật chung, tôi đã hoá thành kẻ đồng loã và đồng phạm tội lỗi với Huynh ấy.

Đến đây, thầy William bèn đánh bạo đột ngột hỏi Salvatore:

- Huynh đã quen Remigio trước hay sau khi theo Dolcino?

Salvatore quỳ sụp xuống chân thầy William, nức nở cầu xin thầy chớ tiêu diệt Huynh mà hãy cứu vớt Huynh khỏi Toà án dị giáo. Thầy William trịnh trọng thề sẽ không kể cho ai nghe những điều mình biết được, thế là Salvatore chẳng ngại ngần gì giao quản hầm vào tay chúng tôi ngay. Hai người đã gặp nhau trên đồi Núi Trọc, cả hai đều cùng băng của Dolcino, Salvatore và quản hầm đã cùng thoát thân vào ẩn náu trong chủng viện xứ Casale, và lại cùng nhau nhập dòng Cluniac. Khi Salvatore lắp bắp khẩn cầu xin tha thứ, thì rõ ràng chẳng còn gì để khai thác thêm ở Huynh ấy nữa. Thầy William thấy đã đến lúc bất ngờ tấn công Remigio, nên rời Salvatore đi. Huynh ấy liền chạy trốn ngay vào nhà thờ.

Quản hầm lúc ấy đang ở phía bên kia tu viện, trước dãy kho thóc, mua bán mặc cả với các nông dân dưới thung lũng. Huynh sợ hãi nhìn chúng tôi và làm ra vẻ tất bật công việc, nhưng thầy William đã yêu cầu Huynh phải tiếp chuyện mình. Thầy nói:

- Tôi thiết nghĩ, vì những nguyên do liên quan đến nhiệm vụ của Huynh nên rõ ràng là Huynh buộc phải đi lại trong tu viện, ngay cả khi mọi người đều say ngủ.

Remigio đáp: - Cũng tuỳ. Đôi khi có một số việc vặt phải giải quyết, nên tôi phải hy sinh một vài giờ ngơi nghỉ.

- Có điều gì khiến Huynh nghĩ rằng, có một người nào khác, không có lý do chính đáng, cũng đi lang thang giữa khoảng nhà bếp và Thư viện không?

- Nếu có thấy gì, tôi đã thưa với Tu viện trưởng.

- Hẳn rồi. - Thầy William đồng ý và đột nhiên chuyển sang chuyện khác – Ngôi làng dưới kia không giàu lắm nhỉ?

- Cũng nghèo mà cũng giàu. Nhưng người canh tác đất đai của tu viện sống dưới đó lệ thuộc vào chúng tôi, và họ được hưởng bổng lộc trong những năm được mùa. Thí dụ: vào ngày lễ thánh Joan, họ nhận được mười hai đấu lúa mạch, một con ngựa, bảy con bò, một con bò tót, năm con dê, hai mươi con cừu, mười lăm con heo, năm mươi con gà và mười bảy tổ ong. Có cả hai mươi con heo quay, hai mươi bảy hũ mỡ, nửa cân mật, ba cân xà phòng, một lưới cá...

- Tôi hiểu rồi, tôi hiểu rồi - Thầy William cắt lời – Nhưng điều này không nói lên được tình hình ở dưới làng, có bao nhiêu người dân ở đó canh tác đất tu viện, và những người không canh tác đất tu viện thì được bao nhiêu đất để tự cày cấy…

- Ồ, về việc đó… thì một gia đình bình thường ở dưới đó có đến năm mươi sào đất.

- Tôi hiểu rõ rồi.

- Huynh còn muốn biết điều gì khác chăng? – Remigio hỏi bằng một giọng, tôi nghe như thách thức.

- Vâng, tôi hỏi Huynh về đời sống của dân dưới thung lũng, vì hôm nay, trong thư viện, tôi đang nghiền ngẫm những bài giảng của Humbert người La Mã, cho phụ nữ, đặc biệt là Chương “Về những người phụ nữ nghèo trong những căn nhà nhỏ miền quê ” (1). Trong Chương này, Humbert viết rằng, các phụ nữ nghèo miền quê, hơn bất kỳ ai khác, thường phải bán thân nuôi miệng. Khi bán thân cho một người thường, họ đã phạm tội trọng rồi, nhưng nếu có một linh mục thì tội càng nặng hơn, và nếu cho một tu sĩ dòng kín thì đó là một tội nặng nhất. Huynh biết rõ hơn tôi là trong những nơi thiêng liêng như tu viện, vẫn luôn có sự cám dỗ của con Quỷ dâm dục. Tôi không biết Huynh qua những lần tiếp xúc với dân làng có nghe nói đến vài tu sĩ, lạy Chúa tha tội, đã dụ dỗ gái tơ phạm tội gian dâm không?

Mặc dầu thầy tôi nói những điều này bằng giọng rất thản nhiên, quý độc giả có thể hình dung những lời này đã làm viên quản hầm đáng thương bối rối biết bao. Tôi không dám nói rằng mặt của Huynh ấy trở nên trắng bệch, nhưng có thể nói là mặt của Huynh ấy tái hẳn đi. Huynh nhẫn nhịn đáp:

- Huynh hỏi tôi những điều mà nếu tôi biết thì đã thưa với Tu viện trưởng rồi. Dầu sao, nếu những tin tức này giúp ích gì cho cuộc điều tra của Huynh thì tôi xin khai ra. Đúng thế, câu hỏi thứ nhất của Huynh đã nhắc tôi nhớ đến…. cái đêm Adelmo chết… lúc ấy tôi đang quanh quẩn trong sân… về chuyện gà qué đấy mà… Tôi có nghe người ta đồn rằng một anh thợ rèn ban đêm đi ăn cắp gà… Đúng, đêm hôm đó tôi quả có thấy - từ đằng xa, nên không chắc lắm – Berengar men theo khu hát kinh về nhà nghỉ, dường như từ hướng Đại dinh…. Tôi không ngạc nhiên lắm, các tu sĩ đã có dạo xầm xì về Berengar. Có lẽ Huynh đã nghe…

- Không. Huynh kể đi.

- Này nhé… biết nói sao đây? Người ta nghi Berengar nuôi dưỡng những đam mê… không chính đáng đối với một thầy dòng….

- Có lẽ Huynh định nói rằng Berengar có gian díu với gái làng, như ban nãy tôi đã hỏi?

Quản hầm đằng hắng, lúng túng, nở một nụ cười trơ trẽn - Ồ, không… những đam mê còn tệ hơn…

- Thế nói cách khác, một tu sĩ tìm khoái lạc với gái làng là nuôi dưỡng những đam mê tương đối chính đáng hơn à?

- Tôi không định nói thế, nhưng chắc Huynh đồng ý rằng, sự sa đoạ cũng như đạo đức có nhiều mức độ khác nhau… Thân xác có thể bị cám dỗ theo tự nhiên và… trái với tự nhiên.

- Huynh muốn nói Berengar bị thôi thúc bởi nhục dục đối với những người cùng phái à?

- Tôi nói đó là những lời xầm xì… Tôi báo Huynh biết những việc này, để chứng tỏ lòng thành thật và thiện chí của tôi…

- Xin cảm ơn. Tôi đồng ý rằng, tội đồng tính luyến ái thì gớm ghiếc hơn các hình thái nhục dục khác nhiều. Thành thật mà nói, tôi không chủ tâm điều tra về chúng.

Quản hầm nói một cách triết lý… - Đó là những điều buồn bã, khốn khổ, cho dù chúng có xảy ra chăng nữa.

- Đúng đấy, Remigio ạ. Chúng ta thảy đều là những kẻ phạm tội khốn khổ. Tôi không bao giờ muốn bới lông tìm vết vì e rằng tôi cũng chả tốt lành gì. Tôi sẽ rất biết ơn, nếu Huynh chỉ giáo cho các sai lầm của tôi trong tương lai. Do đó, chúng ta hãy cứ nói thẳng, nói thật, không che dấu mọi sai lầm.

- Khi Huynh cần biết điều gì đặc biệt, hãy đến và xem tôi như một người bạn trung thành.

Thầy William nhiệt tình nói: - Quả thật, tôi xem Huynh như vậy. Ubertino bảo ngày xưa, Huynh theo dòng của tôi. Tôi không bao giờ phản bội một người anh em cũ, đặc biệt là trong những ngày này, khi chúng ta đang chờ đợi phái đoàn của Giáo hoàng, dẫn đầu là một phán quan vĩ đại, lừng danh vì đã đưa lên giàn hoả nhiều tu sĩ dòng Dolcino.

Quản hầm không phải là kẻ ngốc. Huynh ấy nghĩ không thể tiếp tục chơi trò mèo vờn chuột nữa, nhất là hiểu được mình chính là chuột, bèn nói:

- Thưa sư huynh William, tôi thấy Huynh biết nhiều chuyện hơn tôi tưởng. Hãy giúp tôi và tôi sẽ giúp Huynh. Quả thật tôi là người yếu mềm nên đã để cho xác thịt cám dỗ. Salvatore báo rằng Huynh hay tu sinh của Huynh, đêm qua đã bắt gặp cạm bẫy ấy trong bếp. Huynh đã chu du nhiều nơi. Huynh thừa hiểu rằng thậm chí các Hồng Y ở Avignon cũng không phải là những khuôn mẫu đạo đức. Tôi biết Huynh không thẩm tra về những lỗi nhỏ đê hèn này, nhưng tôi hiểu Huynh đã biết ít nhiều về quá khứ của tôi.

Tôi đã sống một cuộc đời lạ lùng, như nhiều anh em dòng Khất thực khác. Nhiều năm trước đây, tôi tin vào lý tưởng của sự nghèo khổ, nên đã bỏ cộng đồng đi sống đời du thủ du thực. Cũng như nhiều người khác, tôi tin vào các lời giảng của Dolcino. Tôi là một người dốt nát. Tôi được nhập dòng, nhưng chỉ biết đọc kinh mà thôi. Tôi biết rất ít về Thần học. Có lẽ giáo lý không làm tôi rung động lắm. Huynh thấy đấy, ngày xưa tôi vùng lên chống lại các lãnh chúa, nay tôi phục vụ họ, và vì quyền lợi của vị lãnh chúa dải đất này, tôi ra lệnh cho những người như tôi. Phản bội hay phản loạn: những người dân chất phác như chúng tôi có rất ít quyền lựa chọn.

- Đôi khi, những người chất phác hiểu sự việc giỏi hơn các bậc thông thái.

Quản hầm nhún vai nói: - Có thể. Thậm chí lúc đó tôi cũng không hiểu việc mình làm. Huynh thấy đấy, đối với Salvatore, việc này dễ hiểu thôi: Cha mẹ Huynh ấy là nông nô, thuở nhỏ Huynh ấy sống nghèo khổ, bệnh hoạn… Dolcino là hiện thân của sự nổi loạn tiêu diệt giới lãnh chúa. Đối với tôi thì khác. Tôi xuất thân từ một gia đình thành thị. Tôi không phải chạy trốn cái đó. Đó là – tôi biết nói sao nữa - buổi yến tiệc của những kẻ xuẩn ngốc, một ngày hội huy hoàng… Trên núi, với Dolcino, trước khi chúng tôi buộc phải ăn thịt các bạn đồng ngũ bị chết trận, trước khi có nhiều người chết vì cực khổ, đến nỗi chúng tôi không thịt hết đành phải quăng xác cho chim chóc và thú hoang trên sườn núi Rebello… và có lẽ cũng chính trong những giây phút đó… là một bầu không khí… có thể nói là tự do? Trước đây, tôi không biết tự do là gì. Các thầy giảng đã bảo chúng tôi: “Chân lý mang lại tự do cho các con”. Chúng tôi cảm thấy tự do, và nghĩ rằng đó là chân lý. Chúng tôi tưởng mọi điều mình làm là đúng…

- Và từ đấy Huynh quen thói… tự do gian díu với đàn bà à? – Tôi hỏi, mà thậm chí cũng không hiểu vì sao. Đêm hôm trước, đầu tôi đã bị ám ảnh bởi lời Cha Ubertino, những điều đọc được trong phòng thư tịch và những biến cố đã xảy ra cho tôi. Thầy William tò mò nhìn tôi, không ngờ tôi bạo dạn và bộc trực như thế. Quản hầm trừng trừng nhìn tôi như nhìn một quái vật. Huynh nói:

- Trên núi Rebello, có khoảng hơn mười người, mà suốt thời thơ ấu đã ngủ trong một căn phòng chỉ rộng vài thước vuông, trong đó anh chị em, bố con ngủ lẫn lộn với nhau. Huynh có biết hoàn cảnh mới ấy có ý nghĩa gì đối với họ không? Họ được làm cái việc mà trước đây phải làm vì bị đòi hỏi. Ban đêm, khi sợ quân thù đến, người ta nằm trên đất, ôm chặt người nằm bên cho khỏi lạnh… Những tu sĩ đáng thương, xuất xứ từ dòng dõi quí tộc rồi đi tu hành như các Huynh, cho rằng dị giáo là một hình thái tín ngưỡng phát sinh từ quỉ sứ. Nhưng đó chính là một lối sống, và là… một kinh nghiệm mới… không còn thầy cả, cha bề trên nữa…. và người ta bảo Chúa đã ở cùng chúng tôi. Sư huynh William ạ, tôi không nói ngày xưa mình đúng, và thực tế là Huynh thấy tôi ở đây, vì tôi đã bỏ họ lâu rồi. Tôi chẳng bao giờ thật sự hiểu được các cuộc tranh luận thông thái về sự cơ nghèo của Đấng Kitô và quyền được sở hữu, và các quyền khác… Tôi đã bảo, lúc theo Dolcino là một ngày hội lớn, và trong đó mọi diễn tiến đều trái ngược. Khi về già, mình không khôn ra mà lại hoá tham… Ở đây, tôi là một kẻ tạp thực… Người ta có thể xử tử một tên dị giáo, nhưng họ có xử tử một kẻ háu ăn không?

- Thôi, đủ rồi, Remigio ạ… Tôi không cật vấn Huynh về chuyện cũ mà về chuyện mới xảy ra. Hãy thành thật với tôi, tôi không cố ý hại Huynh đâu. Tôi không thể và sẽ không xét xử Huynh. Nhưng Huynh phải kể tôi nghe những gì Huynh biết về các biến cố trong tu viện. Huynh đi lại trong tu viện quá nhiều, ngày cũng như đêm, nên chắc phải biết một cái gì. Ai giết Venantinus?

- Xin thề độc là tôi không biết. Tôi chỉ biết thời gian và địa điểm Huynh ấy chết.

- Ở đâu? Bao giờ?

- Tôi sẽ kể. Đêm đó, sau Kinh Tối một canh tôi vào bếp…

- Vào cách nào? Lý do gì?

- Bằng lối cửa vườn rau. Tôi có một chìa khoá mà thợ rèn đã làm cho tôi từ lâu. Cửa nhà bếp là cửa duy nhất không gài then bên trong. Còn lý do của tôi thì… không quan trọng, chính Huynh đã nói là không buộc tôi vào tội ham mê xác thịt, - Remigio bối rối mỉm cười – Nhưng tôi không muốn Huynh nghĩ rằng tôi suốt ngày chỉ làm tình… Đêm đó tôi đi tìm thức ăn để đưa cho cô gái mà Salvatore sẽ dẫn vào nhà bếp…

- Từ đâu?

- Ồ, ngoài cổng chính, bức tường ngoài còn có những lối vào khác. Tu viện trưởng biết… Tôi biết… Nhưng đêm đó cô gái không vào. Tôi đuổi cô ra ngay vì tôi đã khám phá cái mà tôi sắp kể Huynh nghe đây. Do đó, đêm qua tôi muốn đem cô vào lại. Nếu Huynh đến trễ hơn một chút, có lẽ Huynh đã gặp tôi thay vì Salvatore. Chính Huynh ấy, đã báo cho tôi có người trong Đại dinh, nên tôi bỏ về phòng mình…

- Chúng ta hãy quay lại cái đêm Chủ nhật rạng ngày thứ hai.

- Vâng, tôi vào bếp và thấy Venantinus nằm chết trên nền nhà.

- Trong bếp ư?

- Vâng, gần bồn rửa bát. Có lẽ Huynh ấy vừa từ phòng thư tịch xuống.

- Không có dấu vết vật lộn?

- Không một dấu vết. Tuy nhiên, bên cạnh xác chết có một cái cốc vỡ và vài vệt nước dưới đất.

- Sao Huynh biết đó là nước?

- Tôi không biết, tôi nghĩ đó là nước. Còn là gì khác nữa cơ chứ?

Về sau thầy William giảng cho tôi hay chiếc cốc đó có thể hiển thị hai điều khác nhau. Một kẻ nào đó đã đưa cho Venantius một ly thuốc độc để uống ngay tại bếp hay chàng trai xấu số đã uống thuốc độc (nhưng ở đâu, khi nào?) và xuống nhà bếp để uống nước cho dịu cảm giác nóng bỏng của cơn đau đột ngột, đang đốt cháy tim gan và lưỡi của mình.

Dầu sao, chúng tôi chẳng khai thác thêm gì được nữa. Sau khi kinh hãi liếc nhìn thây ma Venantius, Remigio quyết định không nên làm gì cả. Nếu cầu cứu thì sẽ phải thú nhận rằng mình đã lang thang trong Đại dinh ban đêm, mà cũng chẳng có lợi gì cho người anh em xấu số. Do đó, Remigio thấy cứ để mặc kệ sự việc như vậy, đợi ai đó sáng mai vào mở cửa, sẽ khám phá ra tử thi. Huynh bèn chạy đón đầu Salvatore, lúc ấy đã đưa cô gái vào tu viện, rồi cùng kẻ đồng loã ấy về phòng ngủ. Vào Kinh Sớm, khi những người nuôi heo báo tin dữ cho Tu viện trưởng, Remigio ngỡ rằng người ta đã phát hiện tử thi nơi mình đã thấy đêm qua, nhưng Huynh kinh hoàng thấy nó bây giờ lại cắm trong vại máu. Kẻ nào đã đem cái thây ma ra khỏi nhà bếp? Remigio không đưa ra lời giải thích nào về điều này.

Thầy William nói: - Người duy nhất được phép đi lại tự do trong Đại dinh là Malachi.

Quản hầm phản ứng dữ dội: - Không, không phải Malachi đâu. Tôi không tin như vậy… Dầu sao, tôi không nói xấu gì Malachi với Huynh cả.

- Huynh có chịu ơn thế nào đi nữa thì cũng cứ yên tâm. Malachi có biết gì về Huynh không?

Quản hầm đỏ mặt: - Vâng, có. Và Huynh ấy tỏ ra rất kín đáo. Nếu là Huynh tôi sẽ để mắt đến Benno. Huynh ấy có mối liên hệ kỳ quặc với Berengar và Venantius… Nhưng tôi xin thề là chẳng trông thấy điều gì khác. Nếu tôi biết điều chi, tôi xin báo Huynh hay.

- Bây giờ như thế đủ rồi. Nếu cần, tôi sẽ tìm Huynh sau.

- Quản hầm mừng rỡ thở phào, quay về công việc của mình, nặng lời nhiếc mắng những nông dân đã thừa lúc hai người nói chuyện nẫng đi mấy bao hạt giống.

Ngay lúc đó, Severinus đến chỗ chúng tôi, tay cầm cặp kính của thầy William bị trộm hai đêm trước.

- Tôi tìm thấy cặp kính trong chiếc áo dòng của Berengar. Hôm nọ tôi thấy Huynh đeo kính này trong Thư viện. Có phải của Huynh không?

Thầy William sung sướng reo lên: - Xin tạ ơn Chúa! Chúng ta đã giải quyết được hai vấn đề! Tôi đã tìm lại kính và cuối cùng biết rằng chính Berengar đã trộm nó trong phòng thư tịch!

Chúng tôi vừa mới nói đến đó thì Nicholas chạy tới, mặt còn đắc chí hơn cả thầy William. Tay Huynh ấy cầm một cặp kính đã làm xong, tra vào gọng đàng hoàng. Huynh hét lên: - William, chính tay tôi đã làm xong cặp kính này! Tôi tin nó sẽ dùng tốt! – Khi thấy thầy William đã đeo sẵn một cặp kính khác rồi, Huynh ấy bàng hoàng đứng lại. Thầy William không nỡ làm Nicholas cụt hứng nên liền tháo cặp kính cũ, đeo cặp kính mới vào: - Cặp này tốt hơn cặp kia. Tôi sẽ luôn dùng cặp kính của Huynh, còn cặp kính cũ sẽ giữ dự trữ thôi.

Rồi thầy quay sang tôi:

- Adso này, giờ thầy sẽ rút về phòng để đọc các giấy tờ mà con đã biết đấy. Cuối cùng đã tìm lại được! Đợi thầy đâu đó nhé. Và xin cám ơn, rất cám ơn các Sư huynh thân mến.

Chuống báo Kinh Xế sáng vang lên. Tôi đi đến khu hát kinh. Các tu sĩ đang cầu nguyện cho linh hồn Berengar quá cố. Tôi tạ ơn Chúa đã giúp chúng tôi tìm được không chỉ một, mà đến hai cặp kính.

Trong cảnh yên lành êm ái vô biên đó, tôi ngủ thiếp đi, quên tất cả những điều xấu xa vừa tai nghe mắt thấy, mãi đến tan lễ mới tỉnh giấc. Tôi sực nhớ, đêm qua mình không ngủ và buồn bã nghĩ mình đã phí sức quá. Khi bước vào nơi không khí tươi mát, đầu óc tôi lại bị ám ảnh bởi những ký ức về cô gái.

Tôi rảo bước thật nhanh, cố xua đi những ý nghĩ ấy. Tôi thấy hơi choáng váng. Tôi nắm đôi tay tê cứng lại và dậm chân trên mặt đất. Tôi vẫn còn buồn ngủ, nhưng trong người lại thấy tỉnh táo và đầy sức sống. Tôi không hiểu việc gì đang xảy ra cho mình nữa.

Chú thích:

(1) “Ad mulieres Pauperes in villulis ”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,133
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 44


KINH XẾ SÁNG

Tác giả: Umberto Eco

Adso tương tư đau khổ,

William mang đến bản viết của Venantius,

vẫn hết sức bí ẩn dù đã giải mã xong.

Tình thực, những biến cố kinh khủng tiếp sau cuộc gặp gỡ tội lỗi với cô gái đã khiến tôi hầu như quên mất sự kiện đó, và khi đã xưng tội với thầy William xong, tâm hồn tôi cảm thấy nhẹ nhõm, không còn ân hận như khi thức dậy sau cơn sa ngã của mình, như thể lời xưng tội của tôi đã trao hộ gánh nặng tội lỗi lên vai thầy. Nhưng không phải lòng tôi hoàn toàn thanh thản. Giờ đây, bước đi dưới ánh nắng yếu ớt, lạnh lẽo trong sáng mùa đông ấy; giữa dòng sinh hoạt sôi nổi của người và súc vật, tôi nhớ lại các trải nghiệm của mình theo một cách khác. Trong tâm trí nóng bỏng của tôi, chợt hiện lên bóng ma Berengar, thây chương phù những nước, và tôi rùng mình, nghĩ vừa thương vừa sợ. Như để xua đi hình ảnh kinh tởm đó, đầu óc tôi hướng về những hình ảnh khác vẫn còn tươi nguyên trong ký ức và trước mắt tôi lại hiện ra nhân dáng của thiếu nữ xinh đẹp và khủng khiếp như thiên binh vạn mã.

Tôi nhớ nàng. Xác thịt tôi đã quên đi những cảm giác khoái lạc tội lỗi và chóng qua trong cuộc giao hoan với nàng, nhưng linh hồn tôi chưa quên được gương mặt nàng và không tài nào tự cho rằng nỗi nhớ nhung này là sa đoạ, lòng tôi thổn thức như thể gương mặt ấy đã toả rạng tất cả niềm hạnh phúc của tạo hoá.

Lý trí tôi biết rằng nàng là kẻ cám dỗ tội lỗi, nhưng tâm hồn nhạy cảm của tôi lại hướng về nàng như nguồn cội của mọi ơn huệ. Thật khó diễn tả cảm xúc của mình. Tôi muốn viết rằng tôi vẫn còn nằm trong cạm bẫy của tội lỗi, vẫn còn khao khát mong nàng hiện ra bất cứ lúc nào. Tôi len lén ngó những người thợ đang làm việc, cố tìm thử xem quanh góc lều kia hay trong kho tối tăm nọ có xuất hiện hình bóng đã quyến rũ tôi hay không.

Tôi tin rằng cuộc yêu đương đêm qua chỉ là trò dâm dục, vì tôi muốn cô gái cho mình cái mà mình chưa hề có. Nhưng buổi sáng nay, tôi chẳng mong muốn gì ở nàng cả. Tôi chỉ mong nàng tốt đẹp, mong nàng được cứu thoát khỏi cảnh nghèo đói tàn nhẫn đã đẩy nàng đến cảnh bán thân nuôi miệng, mong nàng được hạnh phúc. Tôi cũng chẳng yêu cầu ở nàng điều gì hơn nữa, chỉ ước ao dược nghĩ đến nàng, được nhìn thấy nàng trong những con bò, con cừu, những tàng cây, trong ánh sáng dịu êm đang tắm đẫm khuôn viên tu viện trong hạnh phúc.

Giờ tôi nhớ lại lời những nhà thông thái nói rằng, tình yêu có thể gây tác hại cho người, nếu nó quá cuồng nhiệt. Tình yêu của tôi quá cuồng nhiệt. Tình yêu nồng nàn thời thanh xuân ấy của tôi là lầm lạc, nhưng sự thật buộc tôi phải nói rằng, khi đó, tôi cảm thấy nó vô cùng tốt đẹp. Hãy để điều này cảnh giác những ai có thể rơi vào chiếc lưới tình cám dỗ như tôi ngày đó.

Rồi một bản năng kỳ diệu đã đến cứu vớt tôi. Cô gái hiện lên trước mắt tôi qua hình ảnh thiên nhiên và những người lao động xung quanh. Nhờ bản tính vui tươi của mình, tôi cố thoát khỏi cơn ám ảnh cũ bằng cách nhìn ngắm mọi người làm việc. Tôi quan sát những người nuôi bò dẫn đàn ra khỏi chuồng, những người nuôi lợn cho lợn ăn, những người chăn cừu xua chó đi gom cừu về, những nông dân vác lúa mì và hạt kê đến cối xay, rồi mang ra những bao bột ngọt mịn. Tôi đắm chìm trong những suy nghĩ về thiên nhiên, cố xua đi mọi ưu tư bằng cách chiêm nghiệm các thực thể sống, nhìn ngắm họ để quên mình.

Cảnh thiên nhiên trinh nguyên chưa nhuốm trí khôn sa đoạ của con người mới đẹp làm sao!

Tôi không nghĩ về cô gái ấy nữa, nói đúng ra, tôi cố biến mối tình nồng nhiệt tôi dành cho nàng thành niềm hạnh phúc và yên bình đầy thành kính sâu lắng trong lòng.

o0o

Lòng tôi còn đang thơ thới hân hoan như thế thì thấy thầy tôi tiến đến. Hóa ra nãy giờ cứ lê chân đi không hề nghĩ ngợi, tôi đã đi giáp một vòng tu viện và quay trở lại nơi thầy trò tôi chia tay nhau cách đây hai giờ. Điều thầy bảo bứt tôi ra khỏi dòng suy tư ban nãy và hướng đầu óc quay về những điều bí ẩn tối tăm trong tu viện.

Thầy William có vẻ đắc chí lắm. Tay thầy cầm bản viết của Venantius đã được giải mã xong. Chúng tôi về phòng thầy, tránh xa những đôi tai dỏng lên nghe ngóng, và thầy dịch tôi nghe những điều thầy đã đọc được. Sau câu viết bằng mẫu tự hoàng đạo: “Secretum finis africae manus supra idolum primum et septimum de quatuor ”, đoạn văn bằng tiếng Hy Lạp có nghĩa như sau:

“Độc dược khủng khiếp làm tẩy uế…

Vũ khí tốt nhất để tiêu diệt quân thù…

Dùng những kẻ hèn mọn, thô tục và xấu xí, nhìn thấy sự tật nguyền của họ mà khoái trá… Họ không thể chết… Không phải trong nhà của những người cao quí, quyền uy, mà từ những ngôi làng nông dân, sau những bữa ăn nhậu thừa mứa… Những thân hình phục phịch, gương mặt dị dạng.

Chúng hiếp gái trinh, và ăn nằm với điếm, không tội lỗi, chẳng sợ sệt.

Một sự thật khác, một hình ảnh sự thật khác…

Những quả vả đáng kính.

Viên đá nhục nhã lăn trên bình nguyên… Trước mắt.

Lừa đảo là cần thiết và ngạc nhiên trong lừa đảo, nói điều ngược với cái mình tin, nói một đằng ám chỉ một nẻo.

Đối với họ ve sẽ từ đất kêu vang lên”.

o0o

Thế là hết! Tôi nghĩ nó ngắn quá, hầu như chẳng chứa đựng điều gì hết! Lời lẽ như lời một người điên lảm nhảm, và tôi thưa với thầy như thế.

- Có lẽ, và chắc chắn do cách thầy dịch, nên nghe nó càng điên hơn. Thầy hiểu tiếng Hy Lạp còn ít quá. Thế nhưng, dù chúng ta có bảo Venantius điên, hay tác giả của quyển sách này là điên chăng nữa, đoạn viết này cũng không chỉ cho chúng ta biết tại sao lại có quá nhiều người mà không phải ai cũng điên cả, đã bỏ công cất dấu quyển sách này rồi lại moi nó ra…

- Nhưng có phải những câu viết ở đây trích từ quyển sách bí ẩn không?

- Chắc chắn đây là những câu do chính Venantius viết. Con thấy đó: đây không phải là bản da cổ xưa. Những dòng này chắc chắn không phải là các chú thích được ghi lại khi đọc sách, nếu không Venantius đâu có viết bằng tiếng Hy Lạp làm gì. Huynh ấy chắc hẳn đã sao chép lại và rút gọn những câu đọc được trong quyển sách lấy trộm từ “Finis Africae”. Huynh ấy mang sách xuống phòng thư tịch, vừa đọc vừa ghi lại những câu theo Huynh là quí giá. Rồi một việc gì đó xảy ra. Có thể Huynh ấy cảm thấy choáng váng, hay nghe có tiếng chân ai đi lên. Do đó, Huynh bèn đặt quyển sách cùng các ghi chú của mình xuống dưới bàn giấy, có lẽ định tối mai sẽ lên lấy lại. Dù thế nào đi nữa, trang giấy này là khởi điểm duy nhất có thể giúp chúng ta tái tạo bản chất của quyển sách bí ẩn đó, và chỉ nhờ hiểu được bản chất của quyển sách, chúng ta mới có khả năng suy ra bản chất của kẻ sát nhân. Vì trong mọi tội ác nhằm chiếm đoạt một vật gì đó, bản chất của vật thể đó sẽ cho chúng ta một ý tưởng, dù là rất mơ hồ, về bản chất của tên giết người. Kẻ giết người vì một nắm vàng sẽ là kẻ tham lam; kẻ giết người vì một quyển sách hẳn tha thiết muốn giành lấy cho mình các bí mật trong quyển sách đó. Thế nên chúng ta phải tìm cho ra quyển sách mà ta không có ấy xem nó nói điều gì.

- Và, từ vài dòng này đây, thầy có thể hiểu được quyển sách đó là gì chăng?

- Adso ạ, những dòng này tựa như những lời kinh mà ý nghĩa vượt ra ngoài các con chữ. Buổi sáng nay, khi đọc những dòng này, sau cuộc nói chuyện với viên quản hầm, thầy rất ngạc nhiên thấy ở đây cũng đề cập đến những người phàm tục và nông dân như những người nêu cao một sự thật khác với sự thật của những nhà thông thái. Quản hầm nói bóng gió đến một tội đồng loã lạ lùng đã buộc Huynh ấy với Malachi. Malachi có thể đang cất giấu một bản văn dị giáo nguy hiểm mà Remigio đã uỷ thác chăng? Như thế, có lẽ Venantius đã đọc và chú giải vài chỉ thị bí ẩn, có liên quan đến một nhóm người thế tục, cục cằn đang nổi loạn chống lại mọi người, mọi thứ. Nhưng…

- Nhưng sao thầy?

- Nhưng có hai sự kiện chống lại giả thuyết của thầy. Sự kiện thứ nhất: Venantius có lẽ không chú ý tới những vấn đề loại như vậy; Huynh ấy là người dịch các bản viết tiếng Hy Lạp chứ không phải là nhà thuyết giảng về bọn dị giáo. Sự kiện thứ hai là giả thuyết này không giải thích được những câu về quả vả, viên đá và ve sầu…

Tôi đánh bạo nói: - Có lẽ đó là những câu đó chứa đựng một ý nghĩa khác. Hay thầy có một giả thuyết nào khác không?

- Có, nhưng còn lờ mờ lắm. Khi thầy đọc trang viết này, thầy nhớ dường như trước đây đã đọc vài từ ở đâu đó rồi, và một vài đoạn hầu như giống hệt thế này mà thầy đã thấy ở nơi khác hiện trở lại trong óc thầy. Quả thực, trang giấy này tựa như nói về một điều gì đó đã được nói đến nhiều trong những ngày vừa qua… Nhưng thầy chưa nhớ ra được. Thầy phải suy nghĩ lại. Có lẽ, thầy phải đọc những quyển sách khác.

- Tại sao? Để biết một quyển sách nói gì, thầy lại phải đọc những quyển sách khác à?

- Đôi khi như vậy đó. Sách thường nói về những quyển sách khác. Một quyển sách thường giống như một hạt giống sẽ trổ hoa thành một quyển sách nguy hiểm hay ngược lại, nó là quả ngọt từ một cây đắng.

- Đúng vậy. – Tôi kinh ngạc nói. Trước đây, tôi vẫn nghĩ mỗi quyển sách viết về những điều thiêng liêng hay phàm tục nằm bên ngoài sách vở. Bây giờ tôi nhận thức rằng sách cũng thường viết về sách: như thể chúng bàn luận về nhau vậy. Theo cách suy nghĩ này, Thư viện đối với tôi lại càng phức tạp hơn nữa. Như thế nó sẽ là nơi chất chứa những lời thầm thì đằng đẵng hàng bao thế kỷ, một cuộc đối thoại âm thầm giữa bản viết này với bản viết kia, một sinh vật sống, nơi ngự trị của những sức mạnh mà trí óc con người không thể chế ngự được, một kho báu đầy ắp những bí mật, phát sinh từ nhiều bộ óc lớn, những bí mật sống lâu hơn những học giả quá cố đã sản sinh ra hay truyền đạt chúng.

Tôi nói: - Thế thì cất giấu sách mà làm gì, nếu từ những quyển sách được tự do đọc, ta có thể tìm hiểu được những quyển sách cấm?

- Nếu qua nhiều thế kỷ thì chẳng có ích lợi gì. Nhưng trong khoảng thời gian vài năm hay vài ngày thì nó có tác dụng. Con thấy đấy, thực ra chúng ta bị hoang mang biết bao.

Tôi sững sờ hỏi: - Thế thì thư viện không phải là một công cụ để loan truyền sự thật, mà chính là nhằm trì hoãn sự xuất hiện của sự thật ư?

- Không nhất thiết và không phải luôn luôn như vậy. Trong trường hợp này thì quả đúng như thế.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,133
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 45


KINH TRƯA

Tác giả: Umberto Eco

Adso đi đào nấm truyp

và thấy phái đoàn dòng Khất thực đến,

họ bàn bạc rất lâu với William và Ubertino,

từ đó biết thêm nhiều điều lo buồn

về Giáo hoàng John XXII

Sau những lời bàn luận như vậy, thầy tôi quyết định không xúc tiến gì thêm nữa. Tôi đã từng nói rằng, thầy tôi đôi khi có những giây phút hoàn toàn ngưng hoạt động, như thể vòng quay không ngừng của tinh tú đã đứng lại, và thầy đã ngừng theo. Buổi sáng hôm đó, thầy tôi cũng vậy. Ông nằm duỗi dài trên ổ rơm, nhìn đăm đăm vào cõi hư vô, tay khoanh trên ngực, môi hơi mấp máy như đang đọc kinh, nhưng không đều đặn và thành tâm lắm.

Tôi tôn trọng những giây phút suy tư của thầy nên quay ra sân và thấy ánh dương đang yếu dần. Buổi sáng trong đẹp đến vậy mà bây giờ trời đã ẩm ướt, đầy sương mù. Những đám mây nặng trĩu từ phương Bắc bay về đang phủ tràn lên đỉnh núi một lớp sương mỏng. Đã bắt đầu thấy khó nhận ra những toà nhà ở đằng xa.

Tôi thấy dược thảo sư Severinus đang vui vẻ tập họp những người nuôi lợn lại và lùa đàn lợn về. Huynh bảo sắp đi xuống thung lũng đào nấm truyp. Tôi liền đi theo Huynh, vì tôi biết Huynh đi đào nấm để quên đi những biến cố buồn bã đang ám ảnh mọi người. Tôi nghĩ, khi giúp Huynh quên đi nỗi ưu tư của Huynh, có lẽ tôi sẽ, nếu không quên thì cũng vơi đi, nỗi ưu tư của chính mình.

Buổi sáng toàn một màu xám đục, gần như sữa, mất hẳn đường chân trời, ngay cả nơi hẻm núi mở ra những bờ bãi xa. Khi chúng tôi chầm chậm đi xuống dốc núi, tôi chợt thấy phái đoàn của các thầy dòng Khất thực đang tiến lên. Tôi liền chạy bay về tu viện để báo cho thầy William biết.

Thầy William đợi đoàn khách mới tới bước vào tu viện và được Tu viện trưởng đón tiếp theo nghi lễ. Đoạn, thầy bước đến và mọi người trao đổi những lời chào hỏi và ôm nhau thân hữu.

Đã qua giờ ăn trưa, nhưng Tu viện trưởng gọi dọn thêm một bàn mới cho khách và tế nhị để chúng tôi ở lại với đoàn. Được miễn trừ các điều bó buộc của Giáo luật, còn lại một mình với thầy William, đoàn khách tự do ăn uống và trao đổi các suy nghĩ của mình. Dẫu sao, xin Chúa tha thứ cho sự so sánh kỳ cục của con, nó cũng như một hội đồng chiến tranh được nhóm họp chớp nhoáng, trước khi đạo quân của kẻ thù là đoàn Avignon đến.

Khỏi cần phải nói là đoàn khách mới đến đã lập tức gặp Ubertino. Tất cả mọi người đều ngạc nhiên, sung sướng và kính trọng chào đón Cha, không chỉ vì ngưỡng mộ một thời gian vắng mặt đằng đẵng và những nỗi sợ hãi bao quanh sự mất tích này, mà còn vì những phẩm chất của người chiến sĩ kiên cường đã mấy thập kỷ nay cùng sát vai chiến đấu với họ.

Khi kể về cuộc họp ngày mai, tôi sẽ nói thêm về các thầy dòng trong đoàn. Thoạt tiên, chúng tôi trao đổi với nhau rất ít, vì tôi phải dự vào cuộc hội kiến tay ba giữa thầy William, Cha Ubertino và Cha Michael xứ Cesena. Tôi đã kể một ít về Cha Michael trong những trang trước. Bây giờ tôi hiểu rõ thêm nhiều quan điểm trái ngược nhau và những thay đổi chiến thuật chính trị đột ngột của Cha mà trong những năm vừa qua đã khiến các bạn bè và tín hữu của Cha kinh ngạc. Trước đây hai năm, Cha cùng với các tu sĩ của mình tại Đại hội chung ở Lyons, đã nói về Giáo hoàng với thái độ trung dung và kính trọng. Hôm nay, tại Tu viện này, Cha ngồi thân mật tại bàn với những người nói về Giáo Hoàng không một chút tôn kính, thậm chí còn khinh miệt.

Tôi đã kể phần còn lại của câu chuyện. Giáo hoàng John triệu Cha Michael về Avignon. Bản thân Cha vừa muốn lại vừa không muốn đi, cuộc họp ngày mai sẽ quyết định hình thức và cách bảo đảm cho chuyến đi sắp tới, sao cho nó không được biểu lộ một thái độ thuần phục hay thách thức. Tôi nghĩ Cha Michael chưa hề đích thân gặp John bao giờ, hay ít ra là trong cương vị Giáo hoàng. Dẫu sao, đã lâu rồi Cha không gặp Giáo hoàng, nên các bạn bè của Cha vội khắc hoạ tên buôn thần bán thánh ấy bằng những màu sắc đen tối nhất…

Tuy nhiên, các cuộc trò chuyện khác tại bàn ăn không giúp tôi hiểu thêm được các biến cố tôi đang kể lại bao nhiêu. Các tu sĩ dòng Khất thực đã nhất trí với nhau về lập trường của họ tại cuộc thương thảo ngày mai. Họ lần lượt đánh giá từng đối phương. Họ lưu tâm bàn bạc cái tin mà thầy William thông báo về sự xuất hiện của Bernard Gui, đặc biệt là tin Giáo chủ Bertrand del Poggetto sẽ chủ trì phái đoàn Avignon. Hai phán quan, quả thực là quá nhiều. Đó là dấu hiệu cho thấy họ định dùng cuộc tranh luận về dị giáo để chống lại dòng Khất thực.

Thầy William nói: - Càng đông càng tệ. Chúng ta sẽ xem họ như những kẻ dị giáo.

Cha Michael nói: - Không, không. Hãy tiến hành một cách thận trọng. Chúng ta không được gây nguy hại đến bất kỳ một sự thoả thuận nào.

- Theo con thấy, mặc dù con cũng đã bỏ công tiến hành việc tổ chức cuộc họp mặt này, Cha Michael biết con không tin rằng phe Avignon đến đây sẽ thu được thành quả nào. John đòi một mình Cha đến Avignon mà lại không có sự đảm bảo nào. Nhưng tối thiểu, cuộc họp sẽ có một nhiệm vụ là làm cho Cha hiểu được việc đó. Nếu Cha đến đó trước khi có kinh nghiệm này thì sự việc sẽ càng tệ hơn nữa.

Cha Michael chua chát nói: - Thế là Huynh đã cật lực bỏ công mấy tháng nay chỉ để xúc tiến một việc mà Huynh nghĩ là vô ích.

- Chính Hoàng đế và Cha đã yêu cầu con. Chung cuộc, việc hiểu rõ thêm kẻ thù của mình chẳng bao giờ là một việc vô ích cả.

Lúc đó người ta đến báo cho chúng tôi hay là phái đoàn thứ hai đã vào nội thành. Các tu sĩ dòng Khất thực đứng dậy và đi ra đón đoàn của Giáo hoàng.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,133
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 46


KINH XẾ TRƯA

Tác giả: Umberto Eco

Hồng y Giáo chủ Bertrand Del Poggetto,

cùng Bernard Gui và các thành viên khác

từ Avignon đến,

rồi mỗi người làm một việc khác.

Những người đã biết nhau, những người chưa biết nhau, dù đã nghe nói đến nhau, tất cả đều chào hỏi nhau trong sân đầy vẻ dịu dàng. Bên cạnh Tu viện trưởng, Hồng Y Giáo chủ Bertrand Del Poggetto cư xử như một kẻ đã quen với uy quyền, như thể mình chính là Giáo hoàng thứ hai vậy. Đối với mọi người và với từng người, đặc biệt là các tu sĩ dòng Khất thực, hắn mỉm cười thân ái, báo trước cuộc họp ngày mai sẽ dẫn đến một thoả thuận tốt đẹp, và chuyển đến mọi người những lời chúc lành, từ John XXII. Khi thầy William giới thiệu tôi như đệ tử và thư ký của thầy, hắn xoè bàn tay đeo nhẫn ra cho tôi hôn, như kiểu phô nụ cười với những người khác.

Tôi lập tức chú ý đến người tôi đã nghe bàn tán nhiều nhất những ngày gần đây: Bernard Gui, như cách người Pháp gọi, hay Bernardo Guidoni hay Bernardo Guido, như cách gọi ở những nơi khác.

Đó là một tu sĩ dòng Dominic tuổi trạc bảy mươi, thân hình gầy và thẳng. Tôi chú ý đến đôi mắt xám của lão, nhìn đăm đăm mà không lộ chút cảm xúc nào. Tôi thường thấy chúng loé lên một ánh sáng khó hiểu, tinh ranh, vừa che dấu, vừa cố tình bộc lộ những suy nghĩ và đam mê của mình.

Trong khi mọi người chào hỏi nhau, lão không tỏ ra thân ái hay hữu hảo như những người khác, mà luôn luôn giữ vẻ lịch sự. Khi trông thấy Ubertino, lão tỏ ra kính trọng, nhưng trừng trừng nhìn Cha, đến nỗi tôi phải rùng mình khó chịu. Khi chào Cha Michael lão mỉm cười bí ẩn và lạnh lùng thì thầm. “Cha đã đợi ở đó một thời gian nhỉ”. Tôi không thể bắt được trong câu nói đó một vẻ nôn nóng, một nét chế giễu, một mệnh lệnh, hay một dấu hiệu quan tâm nào. Lão gặp thầy William, và khi biết được thầy là ai, bèn nhìn thầy với vẻ nhã nhặn đầy căm thù. Tôi dám nói chắc rằng không phải gương mặt lão lộ ra những cảm xúc riêng đó, mà vì ắt hẳn lão muốn thầy William biết lão rất căm thù thầy. Thầy William đáp lại vẻ thù địch của Bernard Gui bằng một nụ cười thân ái, và nói:

- Bấy lâu nay, tôi vẫn hằng mong gặp một người mà uy tín lừng lẫy là bài học cho tôi noi theo và là lời khuyên răn soi đường cho nhiều quyết định quan trọng trong đời tôi. – Rõ ràng đó là những lời ca ngợi, gần như nịnh bợ nữa, đối với những ai chưa biết; nhưng Bernard thừa hiểu rằng, một trong những quyết định quan trọng nhất trong đời thầy William là từ nhiệm chức phán quan. Tôi có cảm tưởng rằng nếu thầy William hân hoan nhìn thấy Bernard bị tống vào ngục tối của triều đình, thì Bernard chắc hẳn cũng rất khoái chí thấy thầy William bị chết bất đắc kỳ tử. Vì Bernard ngày ấy nắm binh lực trong tay, tôi đâm ra lo sợ cho tính mạng của thầy tôi.

Tu viện trưởng hẳn đã báo cho Bernard biết về các án mạng trong tu viện. Giả vờ không để ý đến lời bóng gió sâu cay của thầy William, lão nói:

- Theo lời của Tu viện trưởng, và nhằm hoàn thành sứ mệnh đã uỷ thác cho tôi theo những điều khoản của hiệp định đã liên kết mọi chúng ta tại đây lại với nhau, bây giờ tôi phải can dự vào các biến cố đau thương đang nồng nặc mùi hôi tanh độc hại của ma quỷ. Tôi nói điều này vì tôi biết xưa kia, Huynh cũng như chúng tôi, đã chiến đấu trong mặt trận quân thiện dàn binh chống quân ác.

Thầy William điềm tĩnh nói: - Đúng thế. Nhưng sau đó, tôi đã đổi bên rồi.

Bernard nhẫn nhịn chịu đòn: - Huynh có thể kể giúp tôi đôi điều về những án mạng này chăng?

Thầy William nhã nhặn nói: - Rất tiếc là không. Tôi không có kinh nghiệm như Huynh về các án mạng.

Từ đó trở đi, tôi mất dấu mọi người. Sau khi nói chuyện với Cha Michael và Ubertino, thầy William rút về phòng thư tịch. Thầy xin phép Malachi xem xét vài quyển sách nào đó, nhưng tôi không nghe được tựa. Malachi nhìn thầy với vẻ kỳ quái nhưng không thể từ chối. Lạ thay, không cần tìm kiếm những quyển sách này trong Thư viện, vì chúng đều nằm trên bàn giấy của Venantius. Thầy lao vào đọc sách, nên tôi chẳng dám quấy rầy.

Tôi xuống bếp và gặp Bernard Gui ở đó. Có lẽ lão muốn tìm hiểu cấu trúc của tu viện nên đi thăm thú khắp nơi. Tôi nghe lão dùng tiếng địa phương thẩm vấn các đầu bếp và các tôi tớ khác, dường như thăm hỏi về mùa màng và cách điều hành công việc trong tu viện. Nhưng dù hỏi những câu vô thưởng vô phạt nhất, mắt lão cứ soi mói nhìn vào mắt người đối diện, rồi đột nhiên hỏi sang một câu khác, khiến người ấy lắp bắp, tái xanh mặt. Bằng một cách quái dị nào đó, lão đang tiến hành cuộc điều tra và khai thác một thứ vũ khí khủng khiếp mà mọi phán quan khi thi hành nhiệm vụ đều sử dụng: đó là nỗi sợ hãi những người khác. Vì bất kỳ ai, khi bị thẩm tra, do sợ hãi rằng mình sẽ bị nghi ngờ điều chi đó, thường kể cho phán quan bất luận điều gì có thể khiến phán quan nghi ngờ người khác.

Suốt buổi chiều, tôi thấy Bernard tiến hành điều tra theo kiểu đó, khi thì bên cối xay gió, khi thì trong nhà dòng. Nhưng lão gần như không bao giờ giáp mặt các tu sĩ, mà chỉ khai thác các nông dân hay những anh em ngoại đạo. Một chiến thuật ngược hẳn với chiến thuật của thầy William từ bấy lâu nay.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,133
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 47


KINH CHIỀU

Tác giả: Umberto Eco

Alinardo cung cấp những tin tức quý giá,

William bày phương pháp

đi đến một sự thật có khả năng đúng,

bằng một loạt các sai lầm hiển nhiên.

Thầy William hớn hở từ phòng thư tịch đi xuống. Trong khi đợi bữa ăn chiều, chúng tôi chợt gặp Alinardo trong nhà dòng. Nhớ lời Huynh dặn, tôi đưa cho Huynh nắm đậu kê hôm qua lấy được trong nhà bếp. Huynh cảm ơn tôi, rồi tọng một nắm đậu vào cái miệng móm sọm, nhai trệu trạo nói:

- Con thấy chứ? Cái xác kia cũng nằm đúng chỗ mà sách Mặc khải đã tiên tri… Giờ hãy đợi hồi kèn thứ tư!

Tôi hỏi, sao Huynh nghĩ rằng lời giải của chuỗi án mạng lại nằm trong sách Mặc khải? Huynh nhìn tôi kinh ngạc: - Sách của thánh John giải được mọi thứ! - Rồi Huynh nhăn mặt, chua chát nói:

- Ta biết mà, ta đã nói mãi như thế cả một thời gian dài… Ta chính là người, con biết không, đã đề nghị với Tu viện trưởng… Tu viện trưởng lúc đó kìa… thu thập càng nhiều lời bình về sách Mặc khải càng tốt. Ta sắp được làm quản thư viện… Thế rồi tên kia xoay sở sao đó được phái đi Silos, tìm ra những bản viết hay nhất, trở về với một đống của cướp được thật đẹp… Ôi, gã biết nơi tìm kiếm, gã cũng nói ngôn ngữ của bọn vô thần… Thế là Thư viện được giao vào tay hắn mà không vào tay ta. Nhưng Chúa đã trừng phạt hắn và sớm đẩy hắn vào đêm trường tối tăm. Ha ha ha…

Ông lão già nua lẩm cẩm mà tôi vẫn thấy ngây thơ như một đứa trẻ con, giờ bỗng phá lên một tràng cười hiểm ác.

Thầy William hỏi: - Huynh đang nói đến tu sĩ nào vậy?

Alinardo sững sờ nhìn chúng tôi:

- Ta đã nói đến ai à? Ta không nhớ … đã xa xưa lắm rồi. Nhưng Chúa trừng phạt, Chúa huỷ diệt, Chúa làm phai mờ ký ức. Nhiều hành động kiêu hãnh đã xảy ra trong Thư viện, đặc biệt sau khi nó lọt vào tay ngoại nhân. Chúa vẫn còn trừng phạt…

Chúng tôi không thể khai thác gì thêm ở ông lão nữa, nên bỏ đi, để lão tiếp tục lảm nhảm. Thầy William rất chú ý đến cái tin vừa rồi: - Alinardo là một người đáng lắng nghe, mỗi lần nói, lão lại cho biết một điều rất hay.

- Lần này, Huynh ấy nói gì thế?

- Adso ạ, giải quyết một điều bí ẩn không giống như dựa vào các giả thuyết ban đầu để suy luận đâu. Việc tìm kiếm trong các dữ kiện tự nhiên để phát hiện các qui luật, sự chứng minh được tiến hành hết sức gian khổ. Đương đầu với các dữ kiện không giải thích được, con phải cố hình dung ra nhiều qui luật chung, mà các mối liên hệ của chúng với các dữ kiện còn chưa nắm được. Rồi đột nhiên, trong mối liên hệ bất ngờ giữa một hệ quả, một tình huống đặc biệt và một trong các qui luật này, con chợt phát hiện ra một cách lý giải có vẻ đáng tin hơn những cách khác. Con sẽ cố ứng dụng nó vào các trường hợp tương tự, sử dụng nó để dự đoán trước và khám phá ra rằng linh cảm của mình đúng. Nhưng trước khi chung cuộc, con sẽ chẳng bao giờ biết dữ kiện nào là đúng để đưa vào hay gạt ra ngoài sự suy luận của con. Và đó chính là công việc thầy đang làm đây. Thầy sắp xếp rát nhiều các chi tiết riêng rẽ và thử đưa ra vài giả thuyết. Thầy phải đưa ra rất nhiều giả thuyết, nhiều cái ngớ ngẩn đến nỗi thầy xấu hổ chẳng dám kể cho con nghe. Con thấy đấy, trong trường hợp của chú ngựa Brunellus, khi trông thấy các dấu vết, thầy đã suy đoán ra nhiều giả thuyết bổ sung và trái ngược nhau: đó có thể là một con ngựa xổng chuồng, có thể Tu viện trưởng đã cưỡi con ngựa đẹp xuống núi, có thể con ngựa Brunellus để dấu chân trên tuyết, còn một con ngựa khác, Favellus chẳng hạn, đã vương lại vài sợi bờm trong bụi và ai đó đã làm gẫy vài nhánh cây. Thầy chẳng biết giả thuyết nào đúng cả, cho đến khi thầy thấy quản hầm và các tôi tớ lo lắng đi lùng sục con ngựa. Thế rồi thầy hiểu giả thuyết về con ngựa Brunellus là giả thuyết duy nhất đúng, và thầy cố chứng minh với các tu sĩ như vậy. Thầy đã thắng, nhưng thầy cũng có thể thua. Những người khác cho thầy là khôn ngoan vì thầy đã thắng, nhưng họ không biết những lúc thầy thua vì ngu ngốc, họ không biết vài giây trước khi thắng, thầy còn chưa biết mình có thắng không. Bây giờ, đối với những biến cố trong tu viện, thầy có nhiều giả thuyết hay, nhưng chưa có dữ kiện nào khả dĩ hiển nhiên cho phép thầy tuyên bố giả thuyết nào là đúng nhất. Do đó, để về sau khỏi lộ vẻ ngu ngốc, thầy không nhận mình khôn ngoan từ bây giờ. Đừng bắt thầy suy nghĩ nữa, tối thiểu là cho đến ngày mai.

Đến lúc đó, tôi mới hiểu được phương pháp luận của thầy tôi, nó hoàn toàn khác với phương pháp dựa trên các nguyên lý tiên nghiệm của các triết gia. Tôi hiểu, khi thầy chưa tìm được câu trả lời, thầy thường đưa ra nhiều lời giải hoàn toàn khác biệt. Lòng tôi vẫn còn hoang mang nên đánh bạo nói:

- Thế, nhưng…. thầy vẫn còn cách xa giải đáp lắm mà….

- Thầy đã đến gần một giải đáp, nhưng chưa biết cái nào.

- Như thế, thầy không có một lời đáp cho các vấn đề đặt ra.

- Adso ạ, giá có, thầy sẽ đi dạy thần học ở Paris.

- Ở Paris, lúc nào cũng có lời giải đáp đúng đắn ư?

- Không bao giờ, họ biết rất rõ về những sai lầm của mình

Tôi hỏi với giọng gắt gỏng trẻ con: - Thế thầy không bao giờ phạm sai lầm à?

- Thường chứ. Nhưng thay vì nghĩ ra một, thầy lại tưởng tượng thêm nhiều, thế nên thầy không làm nô lệ cho cái nào cả.

Tôi có cảm giác thầy William không hề chú tâm đến sự thật, một điều không có ý nghĩa gì ngoài sự điều chỉnh giữa sự vật và tri thức. Ngược lại, thầy thích thú tưởng tượng xem có bao nhiêu khả năng có thể thực hiện được.

Tôi thú thực, lúc đó, tôi đâm chán ngán ông thầy của tôi và thầm nghĩ “May quá, phán quan đã đến”. Khao khát muốn tìm hiểu sự thật, tôi ngả về phe Bernard Gui.

Bị giằng xé trong tâm trạng phạm tội này còn hơn cả Judas bán Chúa trong đêm thứ năm tuần Thánh, tôi cùng với thầy William đến nhà ăn dùng bữa tối.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,133
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 48


KINH TỐI

Tác giả: Umberto Eco

Salvatore kể về một bùa mê dị thường

Bữa ăn tối dành cho phái đoàn thật hảo hạng. Tu viện trưởng hẳn rất am tường thói háu ăn của con người và các nghi thức trong triều đình Giáo hoàng. Đầu bếp bảo tôi biết mấy con heo vừa mổ định làm tiết canh theo công thức của miền Cassino, nhưng do cái chết thảm thương của Venantius, họ buộc phải đổ tất cả huyết đi nên cuối cùng, phải mổ thêm vài con nữa. Tôi tin rằng mấy ngày đó, ai cũng sợ ý nghĩ phải giết các sinh vật của Chúa. Tuy nhiên, chúng tôi vẫn có bồ câu ra-gu tiềm rượu vang, thỏ quay, chả nướng bọc bột thánh Clare, cơm nấu quả hạnh trồng trên đồi, ô-liu nhồi, phô-mai chiên, thịt cừu sốt tiêu sống, đậu trắng và những thức bánh ngọt tuyệt hảo, bánh bông lan thánh Bernard, bánh thánh Nicholas, bánh bao thánh Lucy, rồi các loại rượu vang, rượu thuốc, khiến ai cũng hứng khởi vui vẻ, ngay cả Bernard Gui thường vẫn rất khắc nghiệt. Dường như đây là bữa tiệc của những tên háu ăn, chỉ khác là mỗi khi ăn một miếng hay hớp một ngụm rượu, họ liền thành kính đọc kinh.

Sau cùng, mọi người đều vui vẻ đứng dậy, vài người nêu cớ bị đau chi đó để khỏi xuống dự Kinh Tối, nhưng Tu viện trưởng cũng không phiền trách gì. Không phải ai cũng được hưởng quyền lợi và tuân thủ những nghĩa vụ áp dụng cho những người theo dòng tu của chúng tôi.

Khi các tu sĩ chia tay, tôi tò mò nán lại trong nhà bếp, nơi họ đang chuẩn bị khóa cửa khi đêm xuống. Tôi thấy Salvatore cắp một cái bọc lẻn ra vườn. Bị óc hiếu kỳ thúc giục, tôi chạy theo và gọi hắn. Hắn cố tránh tôi, nhưng khi tôi hỏi thì hắn bảo trong cái bọc đang ngọ nguậy đó có một con rắn thần.

- Hãy coi chừng lũ rắn! giống xà tinh này đầy thuốc độc, tỏa sáng ra bên ngoài! Tôi nói gì thế, ngay cả mùi tanh cũng tỏa ra giết người! Đầu độc anh… Lưng nó có đốm đen, đầu gà, nửa thân dựng đứng trên mặt đất, nửa thân bò trườn như các loài rắn khác. Rồi nó giết người đẹp nhỏ bé…

- Người đẹp nhỏ bé?

- Ừa, con vật nhỏ bé mà, chỉ dài hơn con chuột một chút xíu, à, còn gọi là chuột xạ, là xà hay lãi. Khi chúng cắn, người đẹp sẽ chạy đi kiếm fenicula hay Cicerbita rồi nhai nó, và trở lại với battaglia. Họ nói nó sinh sản qua mắt, nhưng phần lớn nói sai.

Tôi hỏi hắn dùng con rắn thần làm gì thì hắn bảo đó là việc riêng của mình. Lòng tôi tràn ngập hiếu kỳ nên bảo rằng với bao nhiêu cái chết trong mấy ngày nay rồi, không thể để xảy ra điều gì lén lút bí mật nữa, tôi sẽ mách với thầy William. Thế rồi Salvatore hết sức nài nỉ tôi đừng mách, hắn mở cái bọc ra và đưa cho tôi xem một con mèo đen. Hắn kéo tôi lại gần, cười nham nhở nói rằng, hắn không muốn viên quản hầm nhiều quyền hành hay một tu sinh trẻ tuổi đẹp trai như tôi được hưởng tình yêu của các thôn nữ nữa, trong khi hắn chẳng được gì sất vì xấu xí, thảm hại khốn khổ. Nhưng hắn có biết một loại bùa quái quỉ có thể khiến mọi phụ nữ đều yêu hắn. Người ta phải giết một con mèo đen, móc mắt nó ra, nhét vào trong hai quả trứng của một con gà mái đen, mỗi trứng một con mắt. Rồi để trứng thối rữa trong một đống phân ngựa, và mỗi trứng sẽ sinh ra một con quỉ nhỏ phục tùng mình, đem lại cho mình mọi lạc thú của cõi đời. Nhưng tiếc thay, muốn bùa yêu này được kiến hiệu, Salvatore bảo rằng người phụ nữ mà hắn khao khát phải nhổ nước bọt lên hai quả trứng, trước khi vùi chúng vào đống phân ngựa. Việc này làm hắn đau đầu vì thế đêm nay hắn phải đem cô gái ấy vào, dụ cô ta làm phép mà không cho biết nguyên do.

Mặt tôi nóng bừng bừng, toàn thân sôi lên, và yếu ớt cất tiếng hỏi xem có phải đêm nay, hắn sẽ đưa chính cô gái ấy vào tu viện không. Hắn cười chế giễu tôi, bảo tôi thực đã nổi lòng tà dâm rồi. Hắn bảo, trong làng có hàng đống con gái, hắn sẽ đưa vào một cô khác, còn đẹp hơn cả cô gái tôi thích nữa. Tôi nghĩ, hắn nói dối để đuổi tôi đi. Nhưng tôi làm gì được hắn cơ chứ? Theo dõi hắn suốt đêm, trong khi thầy William đợi tôi làm một công việc khác à? Và gặp lại nàng, người con gái mà lý trí tôi xua đi xa, còn lòng tôi thì cứ níu gần lại, người tôi chẳng nên gặp lại, dù tim vẫn khao khát nhớ mong ư? Hẳn là không rồi. Thế là tôi tự nhủ lòng rằng Salvatore đã nói thực về chuyện cô gái, hay có thể mọi thứ hắn nói đều láo toét, cái bùa yêu hắn miêu tả ban nãy chỉ là sản phẩm tưởng tượng của cái đầu óc ngây ngô, mê tín của hắn, và hắn sẽ chẳng làm gì cả.

Tôi nổi cáu, bảo hắn rằng đêm nay, hắn nên liệu hồn đi ngủ, vì các cung thủ sẽ tuần tra khắp tu viện. Hắn đáp là hắn biết rành tu viện hơn mấy tay cung thủ, và chẳng ai nhìn thấy ai trong trời sương mù như thế này. Hắn còn bảo tôi nên cút đi, sẽ chẳng gặp hắn được nữa đâu, dù hắn có đang vui thú với cô gái tôi yêu chỉ cách một thước chăng nữa. Hắn dùng nhiều từ để diễn tả, nhưng đó là ý hắn muốn nói. Tôi giận dữ bỏ đi, vì một tu sinh cao quí như tôi không đáng cãi nhau với một tên hạ tiện như vậy.

Tôi đến gặp thầy William và làm theo kế hoạch. Nghĩa là, chúng tôi đứng dự Kinh Tối ở phía sau gian giữa của giáo đường, như thế, khi tan lễ, chúng tôi sẽ sẵn sàng thực hiện cuộc thám hiểm lần thứ hai vào sâu trong lòng Mê Cung.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,133
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 49


SAU KINH TỐI

Tác giả: Umberto Eco

Viếng Mê Cung lần nữa,

đến ngưỡng cửa “finis Africae”,

nhưng không đột nhập được

vì chưa hiểu cái thứ nhất và cái thứ bẩy

của thứ tư là gì.

Cuối cùng Adso lại nhuốm bệnh tương tư,

dù cũng chóng qua

Chuyến viếng thăm Thư Viện lần này đòi hỏi nhiều giờ làm việc đằng đẵng. Miêu tả bằng lời thì việc xác minh mà chúng tôi định thực hiện rất đơn giản, nhưng quá trình vừa soi đèn vừa đọc các bản khắc chữ, đánh dấu các lối đi và các bức tường trống lên bản đồ, ghi lại các mẫu tự đầu và len lỏi theo nhiều con đường khác nhau, thật là dài và buồn tẻ.

Trời lạnh buốt. Đêm không có gió, nên chúng tôi không nghe những tiếng rít khe khẽ mà đêm đầu tiên đã khiến chúng tôi hoảng sợ, thay vào đó là luồng hơi băng ẩm ướt từ các khe hẹp tràn vào. Chúng tôi đeo găng len vào để cầm sách khỏi cóng tay, nhưng đó là loại găng hở đầu ngón để dùng khi viết trong mùa đông, nên chốc chốc, chúng tôi lại phải hơ tay lên lửa, khoanh tay vào ngực hay vỗ đồm độp vào nhau, lò dò đi mà người lạnh cóng.

Do đó, chúng tôi tiến hành công việc không được liên tục lắm. Chúng tôi dừng lại ngắm nghía các kệ sách, thầy William, mắt đeo kính mới, có thể nán lại đọc sách; mỗi lần phát hiện một tựa sách, thầy lại reo lên mừng rỡ, có lẽ vì thầy biết quyển sách đó, hoặc giả thầy đã tìm đọc nó hàng bao lâu nay, hoặc thầy chưa nghe ai nhắc đến nó, nên vô cùng xúc động. Tóm lại, đối với thầy, mỗi quyển sách là một con thú diệu kỳ vừa tìm thấy trong một miền đất xa lạ. Vừa giở một bản viết, thầy vừa bảo tôi tìm các bản khác.

Tôi vừa nắm một quyển sách được minh họa tuyệt đẹp, với những mê cung rau quả, có rắn, khỉ, thò đầu ra “Hãy nghe những lời này: Cantamen, Collamen, Gongelamen, Stemiamen, Plasmamem, Sonerus, Alboreus, Gaudifluus, Glaucicomus…”

Thầy William nói dịu dàng:

- Các hòn đảo quê thầy đó. Đừng quá khó tính với những tu sĩ từ miền Hibernia [1] xa xôi. Có lẽ, ngày nào tu viện này còn tồn tại, chúng ta còn nói đến Thánh Đế La Mã, thì chúng ta còn phải ơn họ…

- Những hình vẽ này… Thật không tin nổi vào mắt mình nữa! Nhiều màu sắc quá! – Tôi nói, cố thu hết tất cả vào mắt.

- Chúng từ một miền đất không có mấy màu sắc, một mảng trời xanh và mênh mông màu lục. Nhưng chúng ta không được đứng đây bàn cãi về các tu sĩ Hibernia mãi được. Thầy muốn biết tại sao sách của họ lại ở đây cùng với các tác giả người Anh và các nhà ngữ pháp học của các nước khác. Con nhìn sơ đồ của con xem, chúng ta đang ở đâu vậy?

- Trong các phòng của ngọn tháp phía Tây. Con cũng đã ghi lại các bản khắc. Như thế là, sau khi rời phòng không có cửa sổ, chúng ta vào phòng bảy cạnh và mỗi phòng trong tháp chỉ có một lối vào duy nhất: mẫu tự màu đỏ là H. Rồi chúng ta đi từ phòng này sang phòng khác quanh ngọn tháp, và trở lại căn phòng không có cửa sổ. Sự phối hợp của các mẫu tự khép thành… thầy nói đúng! HIBERNI!

- HIBERNIA, nếu chúng ta đi từ phòng không có cửa sổ trở lại phòng bảy cạnh, vì cũng như mọi phòng bảy cạnh khác, nó mang mẫu tự A, bắt đầu của Apocalypsis [2]. Do đó, có các tác phẩm của những tác giả miền Ultima Thule [3], các nhà ngữ pháp học và tu từ học, vì những người sắp xếp Thư viện nghĩ rằng một nhà ngữ pháp học phải đặt cùng với các nhà ngữ pháp học Hibernia, dù người ấy có xuất xứ từ Toulouse chăng nữa. Đó là một tiêu chuẩn. Con thấy chưa? Chúng ta bắt đầu hiểu được vài điều rồi đó.

- Nhưng trong các phòng ở ngọn tháp phía đông, nơi chúng ta khởi hành, lại đọc thấy FONS, … có nghĩa là gì chứ?

- Hãy đọc kỹ bản đồ của con. Con cứ đọc các mẫu tự trong các phòng tiếp theo, theo trật tự ta đến.

- FONS ADIEU…

- Không, FONS ADAE[4]. U là phòng không có cửa sổ thứ hai ở hướng đông, thầy nhớ mà, có lẽ nó khớp với một sự phối hợp khác. Và chúng ta đã tìm thấy gì trong thiên đàng hạ giới đó? Nên nhớ rằng căn phòng có bàn thờ hướng về mặt trời rạng đông đặt tại đó.

- Ở đó có rất nhiều Thánh Kinh, sách giảng Thánh kinh và toàn các sách kinh.

- Con thấy đó, lời của Chúa ứng hợp với thiên đàng hạ giới, mà như mọi người nói là nằm mãi tận phương đông. Và tại đây, về phương tây: HIBERNIA.

- Như thế, đồ án của Thư viện tái hiện lại bản đồ của thế giới à?

- Có thể. Sách được sắp xếp dựa theo xuất xứ từng nước hay theo quê quán của tác giả, hay như trong trường hợp này là theo nơi mà đáng lẽ họ phải sinh ra. Các quản thư viện cho rằng nhà ngữ pháp học Virgil [5] sinh nhầm tại Toulouse, đáng lẽ ông phải sinh tại các quần đảo phương tây mới phải. Họ đã chỉnh lại các sai lầm của tự nhiên.

Chúng tôi tiếp tục đi, xuyên qua một dãy phòng đầy những sách Mặc khải tuyệt đẹp, một trong số đó là phòng tôi đã bị ảo giác. Chúng tôi lại thấy ánh sáng chập chờn từ xa. Thầy William bịt mũi, chạy tới dập tắt lửa và nhổ nước bọt vào đống tro tàn. Chúng tôi băng vội qua căn phòng cho chắc, nhưng tôi nhớ ra mình đã thấy một quyển sách Mặc khải có nhiều màu, có vẽ hình một phụ nữ và một con rồng. Chúng tôi tái lập sự phối hợp của các căn phòng, khởi đầu từ phòng chúng tôi vào sau cùng, có mang mẫu tự đầu màu đỏ Y, Đảo ngược lại, chúng tôi có từ YSPANIA [6], nhưng mẫu tự cuối cùng A, cũng là mẫu tự kết thúc HIBERNIA. Thầy William bảo đó là dấu hiệu cho thấy có vài phòng chứa đựng những tác phẩm thể loại hỗn hợp.

Khu vực được đặt tên YSPANIA đường như chứa rất nhiều bản chép tay sách Mặc khải, tất cả đều làm rất đẹp theo trường phái nghệ thuật Hispania[7]. Chúng tôi nhận thấy có lẽ thư viện này là nơi có bộ sưu tập phong phú nhất các bản sao sách của các tông đồ hiện có trong xứ đạo, và một lượng vô cùng lớn các sách giảng về loại này.

Trong khi quan sát như thế, chúng tôi đến tháp phía nam mà đêm nọ chúng tôi đã đi qua. Căn phòng không cửa sổ mang mẫu tự S của khu YSPANIA dẫn vào phòng E, và sau đó xuyên dần qua năm phòng trong ngọn tháp, chúng tôi đến phòng cuối cùng không có lối ra nào khác mang mẫu tự đỏ L. Đảo ngược lại, chúng tôi có LEONES[8]

- Sư tử phương Nam. Trên bản đồ chúng ta đang ở Châu Phi, và đây là sư tử. Điều đó giải thích tại sao chúng ta thấy có nhiều bản viết của các tác giả vô thần như vậy.

- Còn nhiều nữa đây này, - tôi lục lọi trong các kệ sách – "Canon ” của Avicenna, và một bản viết chữ đẹp mà con không nhận ra.

- Theo cách trang trí, thầy thấy đó là Kinh Koran của đạo Hồi, nhưng rất tiếc, thầy không biết tiếng Ả Rập.

- Kinh Koran, Thánh kinh của bọn vô thần, một quyển sách sa đọa…

- Nó chứa đựng một tư tưởng khác với chúng ta. Nhưng con hiểu tại sao họ lại xếp quyển sách này ở đây, nơi có sư tử và những con quái vật. Thế nên chúng ta sẽ gặp sách về các quái vật, kỳ lân. Khu vực LEONES này chứa những quyển sách mà những người sáng lập Thư viện xem là sách giả trá. Sách gì thế kia?

- Sách bằng tiếng La Tinh, nhưng gốc từ Ả rập. Ayyub al Ruhawi, luận thuyết về bệnh chó dại. Còn đây là sách về kho tàng. Và “Luận về “Những hình bóng” của Alhazen[9]

- Con thấy đó, trong số các quái vật và điều giả trá, họ cũng sắp vào đây các công trình khoa học mà giáo dân phải học tập rất nhiều. Đó là cách suy nghĩ vào thời họ xây Thư viện

- Nhưng tại sao họ cũng xếp sách về kỳ lân lẫn trong các sách giả trá.

- Rõ ràng các nhà sáng lập Thư viện có những tư tưởng lạ lùng. Họ hẳn tin rằng một quyển sách viết về những thú vật hoang đường, sống ở những miền đất xa xôi, phải nằm trong danh mục sách giả trá, được những người vô thần truyền bá.

- Kỳ lân, sư tử, tác giả Ả rập và người Ma rốc nói chung. Thảo nào đây là khu Phi châu mà các tu sĩ nói đến.

- Chắc chắn nó đây. Và nếu thế thì chúng ta nên đi tìm các nhà thơ châu Phi mà Pacificus nhắc tới đi.

Quả thật, khi bước lui về phòng L, chúng tôi thấy trên một kệ sách bộ sưu tập các tập thơ của Floro, Fronto, Apuleius, Martianus Capella và Fulgentius

Tôi nói: - Ra đây là nơi mà Berengar nói có lời giải cho một bí mật nào đó.

- Gần như là ở đây. Berengar dùng câu “finis Africae” và chính cách nói này đã khiến Malachi nổi giận. Tận cùng có thể là phòng cuối cùng, trừ phi… - Thầy chợt hét lên: - Thánh Thần ơi! Con không để ý gì sao?

- Gì ạ?

- Hãy quay lại phòng S, nơi khởi hành ngay!

Chúng tôi quay lại phòng không cửa sổ đầu tiên, có khắc dòng thơ: “Super thronos viginti quatuor ”[10]. Phòng có hai cửa. Một cửa dẫn vào phòng Y, có một cửa sổ nhìn xuống lồng cầu thang bát giác bên trong. Một cửa khác dẫn vào phòng P, nằm dọc theo tường ngoài, tiếp theo chuỗi kết hợp của YSPANIA. Cửa về phía tháp dẫn vào phòng E mà chúng tôi vừa bước qua. Rồi đến một bức tường trống, và cuối cùng là cửa dẫn vào một phòng không có cửa sổ thứ hai, mẫu tự đầu là U. Phòng đó là phòng có gắn tấm gương, may thay là ở trên bức tường ngay bên tay phải tôi, nếu không, tôi lại phát hoảng lên rồi.

Nhìn kỹ bản đồ, tôi thấy phòng này rất kỳ lạ. Giống như căn phòng không cửa sổ khác của ba ngọn tháp kia, phòng này đáng lẽ phải dẫn vào phòng bảy cạnh ở trung tâm. Nếu không thì cửa vào phòng bảy cạnh phải ở trong phòng không cửa sổ, kế là phòng U. Nhưng phòng U này, ngoài một cửa dẫn vào phòng T, có một cửa sổ nhìn xuống lồng bát giác, và một cửa khác nối với phòng S, ba bức tường kia đều đầy nghẹt sách. Nhìn quanh chúng tôi khẳng định điều đã rõ ràng trên bản đồ; theo cách lập luận lô-gic cũng như phép cân xứng chặt chẽ, ngọn tháp phía nam này đáng lẽ phải có một phòng bảy cạnh, thì lại chẳng có phòng nào như thế cả. Tôi nói:

- Không, chẳng có phòng bảy cạnh nào.

- Không, không phải thế. Nếu không có phòng bảy cạnh thì các phòng khác kích thước sẽ rộng hợn, trong khi đó các phòng này ít nhiều cũng giống hình dáng các phòng trong các tháp kia. Vậy phòng bảy cạnh đó có, nhưng không đến được.

- Nó bị tường bít kín à?

- Có thể. Và chính đó là “Finis Africae”, nơi mà các tu sĩ quá cố vì hiếu kỳ đã lảng vảng chung quanh. Nó bị tường bít kín, nhưng không có nghĩa là không có lối vào. Quả thực, phải có một lối vào, và Venantius đã tìm thấy nó, hay đã được Adelmo miêu tả nó, sau khi Adelmo moi được từ Berengar. Hãy đọc lại các ghi chú của Venantius.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,133
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 50


SAU KINH TỐI (tt và hết)

Tác giả: Umberto Eco

Thầy rút từ áo dòng ra mảnh giấy của Venantius và đọc lại: “Đặt tay trên thần thứ nhất và thứ bảy của thứ tư”. Thầy nhìn quanh: - Ủa, đúng rồi “Thần” là hình ảnh ở trong gương! Venantius nghĩ bằng tiếng Hy lạp vì trong ngôn ngữ đó, còn rõ hơn trong ngôn ngữ của chúng ta nữa, từ "eidolon” vừa có nghĩa là hình ảnh vừa là ma, và tấm gương phản chiếu chính hình ảnh biến dạng của chúng ta, khiến chúng ta nhầm tưởng là bóng ma đấy! Thế nhưng, cái gì là cái thứ tư "trên thần" nhỉ? Một cái gì trên bề mặt phản chiếu này à? Thế thì chúng ta phải đặt mình vào một góc cạnh nhất định nào đủ để nhận ra một vật phản chiếu trong tấm gương, ứng hợp với sự miêu tả của Venantius…

Chúng tôi thử ở mọi vị trí, nhưng vô ích. Ngoài hình ảnh của chúng tôi ra, tấm gương chỉ phản chiếu những đường nét mờ ảo của căn phòng, dưới ánh đèn tù mù… Thầy William suy nghĩ:

- Thế thì, khi nói “trên thần”, Huynh ấy có thể muốn chỉ bên ngoài tấm gương… như vậy chúng ta buộc phải sang phòng kế, vì tấm gương này chắc hẳn là một cánh cửa…

Gương này cao hơn tầm thước một người trung bình, được gắn chặt vào tường, nhờ một khung gỗ sồi chắc chắn. Chúng tôi sờ khắp nơi, cố đút ngón tay vào kẽ giữa tường và khung gỗ, nhưng tấm gương dính chặt cứng ngắc như một thành phần của bức tường, như một viên đá trong đống đá.

- Nếu không phải bên ngoài, thì có thể là bên trên. – Thầy William thầm thì và kiễng chân, giơ tay lên sờ dọc theo cạnh trên của khung gỗ. Thầy chẳng thấy gì ngoài bụi. Thầy buồn bã suy nghĩ:

- Về chuyện này, dù bên ngoài tấm gương này có một căn phòng thì quyển sách mà chúng ta và các tu sĩ khác tìm kiếm cũng chẳng còn trong phòng đó nữa, vì đầu tiên, Venantius đã lấy nó đi và rồi Berengar đã mang nó đi đâu chỉ có Chúa mới biết.

- Nhưng có lẽ Berengar đã mang nó trở lại đây.

- Không, đêm đó chúng ta đang ở trong thư viện, và mọi dữ kiện đều cho thấy Huynh ấy chết sau khi trộm quyển sách chẳng bao lâu, cũng trong cùng đêm ấy, trong nhà tắm. Nếu không, chúng ta đã gặp lại Huynh ấy buổi sáng kế tiếp rồi. Chẳng sao… Tạm thời, chúng ta đã xác định được “finis Africae” là ở đâu và đã thâu thập được gần như đầy đủ các dữ kiện cần thiết để hoàn thiện tấm bản đồ thư viện, của chúng ta. Con phải công nhận rằng, nhiều bí ẩn trong Mê cung đã được sáng tỏ.

Chúng tôi đã đi qua các phòng khác, ghi lại tất cả các phát hiện của chúng tôi lên bản đồ. Chúng tôi đến những phòng chỉ chất toàn các bản viết về toán học và thiên văn học, những phòng khác chứa các tác phẩm viết bằng chữ Xy-ri mà thầy trò tôi chẳng ai biết, các phòng khác nữa xếp sách viết bằng thứ chữ khó nhận ra, có lẽ là các bản viết từ Ấn độ. Chúng tôi đi lại giữa hai chuỗi phối hợp JUDAEA[11] và AEGYPTUS[12]. Tóm lại, để đọc giả khỏi nhàm chán vì trình tự giải mã của chúng tôi, sau khi đã hoàn tất bản đồ, chúng tôi tin rằng thư viện quả thực đã được xây cất và sắp xếp theo hình ảnh của một quả cầu đất và nước. Về hướng bắc, chúng tôi thấy ANGLIA[13] và GERMANI[14], dọc theo bức tường phía tây nối với GALLIA[15], rồi ở cực tây biến thành HIBERNIA, và về hướng tường nam là ROMA (thiên đường của La tinh cổ đại) và YSPANIA. Mạn nam có LEONES và AEGYPTUS, dần lên hướng đông trở thành JUDAEA và FONS ADAE. Giữa tháp đông và bắc, dọc theo tường là ACAI, thầy William bảo đây là một phép cải dung hay để chỉ Hy Lạp, và trong bốn phòng đó có một kho chứa sách của các nhà thơ và triết gia thời đa thần cổ xưa.

Hệ thống sắp từ rất kỳ quặc. Lúc thì hướng thẳng, lúc thì giật lùi, lúc thì chạy vòng. Như tôi đã nói, nhiều khi cùng một mẫu tự được dùng để cấu tạo hai từ khác nhau; trong trường hợp này, căn phòng có hai kệ: mỗi kệ một đề tài. Nhưng rõ ràng tìm kiếm một khuôn vàng trong cách sắp xếp này chỉ hoài công. Nó thuần túy chỉ là một công cụ nhớ, cho phép quản thư viện tìm được một tác phẩm nhất định nào đó. Một quyển sách tìm thấy trong “quarta Acaiae” có nghĩa là quyển sách đó nằm trong phòng thứ tư, đếm từ phòng trong đó xuất hiện mẫu tự đầu A. Và để tìm đến phòng này, quản thư viện phải thuộc lòng con đường vòng hay thẳng dẫn đến nó, cũng như ACAI được phân bố trên bốn phòng xếp thành hình vuông. Thế là chúng tôi nhanh chóng học được trò chơi của những bức tường trống. Thí dụ, từ hướng đông đi đến ACAI, người ta sẽ thấy không có phòng nào dẫn sang các phòng kế đó: mê cung chấm dứt ở khu vực này, và muốn đến ngọn tháp phía bắc, người ta phải đi xuyên suốt ba ngọn tháp kia. Nhưng dĩ nhiên, các quản thư viện vào từ FONS, sẽ thừa biết rằng muốn đến, thí dụ như ANGLIA chẳng hạn, sẽ phải qua AEGYPTUS, YSPANIA, GALLIA và GERMANI mà thôi.

Cuộc thám hiểm thư viện của chúng tôi kết thúc với những thành quả tốt đẹp như thế. Nhưng trước khi bảo rằng chúng tôi khoan khoái rời Thư viện, tôi xin thú thực cùng quý độc giả một điều.

Cuộc thám hiểm của chúng tôi được tiến hành với mục tiêu chính yếu là tìm cho ra chìa khóa chỉ lối vào nơi bí ẩn này. Tuy nhiên, trong khi đánh dấu sự sắp xếp và đề tài của các phòng, chúng tôi cũng có nán lại giở xem nhiều loại sách, tựa như thám hiểm một lục địa bí ẩn hay một miền đất lạ. Cuộc thám hiểm thứ hai này thường được đồng tình tiến hành khi thầy trò tôi xem lướt qua cùng loại sách, tôi chỉ cho thầy xem những quyển lạ nhất còn thầy giải thích cho tôi những điều tôi chưa hiểu.

Nhưng đến một điểm nọ, khi chúng tôi vừa mới đi quanh các phòng trong ngọn tháp phía nam thuộc khu LEONES, thầy tôi chợt dừng tại một phòng đầy sách Ả rập với nhiều hình vẽ dị thường. Vì đêm đó, chúng tôi đem theo hai ngọn đèn nên tôi bèn tò mò bước sang phòng kế, và nhận ra rằng đồ án thông thái và kín đáo của Thư viện đã tích lũy vào bức tường này những quyển sách không thể đưa cho ai đọc, vì chúng được viết về các loại bệnh trong tâm xác, dưới nhiều dạng khác nhau và hầu như toàn do các học giả vô thần viết. Một quyển sách đập vào mắt tôi, nó không lớn, nhưng được minh họa bằng những hình vẽ thu nhỏ. Tựa sách là “Gương tình yêu ”[16], tác giả: Maximus xứ Bologna, bao gồm nhiều câu trích dẫn từ các tác phẩm khác, tất cả đều nói về bệnh tương tư. Chắc quý độc giả thừa hiểu rằng quyển sách đã thổi bùng lên ngọn lửa trong trí óc tôi, từ sáng đến giờ vốn đã nguội lạnh, khiến nó thổn thức nhớ đến hình ảnh cô gái.

Suốt ngày hôm nay, tôi đã cố xua đi nỗi phiền muộn của mình, nhắc đi nhắc lại rằng một tu sinh minh mẫn, thăng bằng chớ nên suy nghĩ như vậy. Hơn thế, trong ngày đã xảy ra nhiều biến cố căng thẳng, nên lòng tôi cũng nguôi ngoai khuây khỏa, tôi nghĩ mình đã thôi bị cơn bứt rứt thoáng qua dày vò nữa. Thế nhưng mới chỉ xem qua quyển sách, tôi liền phát hiện mình bị bệnh thất tình nặng hơn mình nghĩ. Tôi liếc vội vàng qua các trang sách vì sợ thầy William bước vào hỏi tôi đang nghiền ngẫm thứ gì say mê thế, tin rằng tôi đang mắc một thứ bệnh, có thể nói là bình thường, như vô số người đã mắc phải, và có thể xem tôi như một con bệnh mẫu vậy.

Tôi rất xúc động khi đọc các trang sách của Ibn-Hazm, ông định nghĩa tình yêu là một thứ bệnh có thể tự chữa trị, vì con bệnh không muốn lành và không thích ai chạy chữa. Tôi kinh hoảng đọc thấy một người yêu đương cuồng nhiệt, khi không được gặp đối tượng thương yêu của mình, thì thể xác sẽ khô héo và thường phải nằm liệt giường, đôi khi cơn bệnh tấn công não bộ khiến con bệnh mất trí, nói năng lảm nhảm. Nếu bệnh càng trầm kha thì cái chết sẽ theo liền, tôi tự hỏi không biết niềm vui được nhớ nhung này có đáng hy sinh thân xác cao quý của mình như vậy không, chưa kể đến những nỗi đau khác trong tâm hồn.

Cuối cùng, tôi chẳng nghi ngờ gì về bệnh tình trầm trọng của mình khi đọc các lời trích dẫn từ học giả vĩ đại Avicenna. Tiếc thay Avicenna đã đưa ra một phương pháp chữa trị là cho đôi tình nhân thành vợ thành chồng với nhau, như vậy sẽ chữa lành bệnh. Ông quả thực là một người vô thần, dù rất khôn ngoan đi nữa, vì không xem xét đến hiện trạng của một tu sinh dòng Benedict, như thế người ấy sẽ bị đọa đày, hay đúng hơn, được tôn phong không bao giờ lành bệnh. Cũng may Avicenna có xem xét đến trường hợp của những tình nhân không thành hôn với nhau được, và đề nghị phương pháp điều trị triệt để là tắm nước nóng. Thế có phải hôm nọ Berengar tắm nước nóng để chữa bệnh thất tình của mình đối với tình nhân Adelmo quá cố không nhỉ? Nhưng có phải người ta mắc bệnh thất tình đối với người cùng phái, hay đó chỉ là nhục dục thú vật? Avicenna cũng đưa ra cách chữa trị khác, chẳng hạn như nhờ một mụ già chuyên nghiệp phỉ báng người yêu của mình – dường như mấy mụ già giỏi việc này hơn đàn ông. Có lẽ phương pháp này chữa hay đấy, nhưng tôi chẳng thấy có mụ già nào trong tu viện, như thế, tôi phải nhờ một tu sĩ nào đó chê bai cô gái đó giùm tôi ư? Nhưng nhờ ai cơ chứ? Hơn nữa, một tu sĩ có hiểu đàn bà rõ như một mụ già lắm mồm không? Phương pháp chữa trị cuối cùng của Saracen đề nghị mới thực là thất đức, vì nó yêu cầu kẻ tương tư khốn khổ đó cặp với nhiều cô gái nô lệ, một cách chữa hoàn toàn không thích hợp với một tu sĩ. Cuối cùng tôi tự hỏi, làm sao một tu sĩ trẻ thoát khỏi bệnh “tình” đây? Không có cách nào cứu chữa ư? Tôi có nên cầu cứu Severinus và các cây thuốc của Huynh ấy không? Mãi tôi mới tìm thấy một đoạn trong tác phẩm của Arnold xứ Villanova, người mà thầy William đã kính cẩn nhắc đến. Phương pháp do Arnold đề nghị là cố từ bỏ mọi hy vọng tiếp cận đối tượng mình yêu, như thế, mọi ám ảnh sẽ tan biến.

Tôi nhủ thầm, trời ơi, thế thì mình đã lành, hay gần lành bệnh rồi, vì tôi có rất ít, hầu như không có hy vọng gặp lại đối tượng mình yêu, và nếu có gặp lại cũng chẳng có hy vọng đạt tới nàng, và nếu có đạt tới thì chẳng có hy vọng chiếm giữ, và nếu có chiếm giữ hay giữ gần mình thì vì tình trạng tu hành lẫn những trách nhiệm do danh dự gia đình đặt lên thì… Tôi nhủ thầm, mình được cứu chữa rồi, bèn xếp sách, định thần lại, vừa khi thầy William bước vào phòng.

Chú thích:

[1] Ái Nhĩ Lan

[2] Mặc Khải

[3] Miền Thule xa xôi nhất, đối với những người cổ đại là miền ban đầu

[4] Thiên đàng hạ giới

[5] Virgil: (72-19 trước Công nguyên): nhà thơ, nhà ngữ pháp học La mã, tác giả trường ca La tinh “AENEID”

[6] Tây Ban Nha

[7] Khu vực đế chế La mã cổ xưa, bao gồm lãnh thổ Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha ngày nay

[8] Sư tử

[9] “De aspectibus”

[10] Hai mươi bốn vị niên trưởng ngồi trên ngai

[11] Xứ Ju-đa, nay là Palestine

[12] Hy Lạp

[13] Nước Anh

[14] Người nước Đức

[15] Người xứ Gaul

[16] “Speculam amoris”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,133
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 51


ĐÊM

Tác giả: Umberto Eco

Salvatore bị Bernard Gui phát hiện

trong một tình trạng thảm hại

thiếu nữ Adso yêu bị bắt

và bị buộc tội là phù thủy

Mọi người về giường

càng lo lắng và đau buồn hơn

Vừa xuống đến nhà ăn, chúng tôi nghe vài tiếng động lớn và thấy có ánh đèn yếu ớt phát ra từ hướng nhà bếp. Thầy William liền thổi phụt đèn. Chúng tôi bám sát tường, đi đến cửa nhà bếp, nghe thấy tiếng động phát ra từ bên ngoài, nhưng cửa lại mở. Rồi tiếng động và ánh sáng biến mất, và ai đó đóng rầm cánh cửa thật mạnh. Cảnh náo động xảy ra, báo hiệu một điều chẳng lành. Chúng tôi vội trở lại lò thiêu xương, trồi lên giáo đường giờ đang vắng tanh, theo cửa nam ra ngoài và thoáng thấy những ánh đuốc bập bùng trong nhà dòng.

Chúng tôi chạy đến, và trong cảnh rối loạn, hẳn cũng đã chạy như bay, như nhiều tu sĩ khác đến từ nhà nghỉ hay khu hành hương, giờ đang có mặt tại chỗ. Chúng tôi thấy các cung thủ nắm chặt Salvatore, mặt trắng dã như đôi tròng mắt, và một người phụ nữ đang gào khóc. Tim tôi thắt lại: đó chính là người yêu trong tâm tưởng của tôi. Khi thấy tôi, nàng nhận ra ngay và nhìn tôi với ánh mắt khẩn cầu, tuyệt vọng. Tôi định chạy tới giải thoát nàng, nhưng thầy William đã giữ tôi lại và thầm thì gắt gỏng tôi. Từ mọi phía, các tu sĩ và vị khách đang chạy tới.

Tu viện trưởng đến, cùng với Bernard Gui. Trưởng toán cung thủ báo cáo ngắn lại cho Bernard hay. Việc xảy ra như sau:

Theo lệnh của phán quan, ban đêm họ tuần tra toàn tu viện, đặc biệt chú ý đến con đường dẫn từ cổng chính đến nhà thờ, khu vườn và tiền diện của Đại dinh. Thận trọng đi trong bóng đêm dày đặc sương mù, các cung thủ cuối cùng đã bắt được Salvatore cùng với cô gái, khi hắn đang lần mò mở cửa nhà bếp.

- Một đứa con gái tại nơi linh thiêng này! Với một tu sĩ! – Bernard khắc nghiệt nói với Tu viện trưởng, đoạn tiếp – Thưa Đức Cha cao quí, nếu hành động này chỉ liên quan đến sự vi phạm lời thề giữ tiết hạnh thì việc trừng phạt kẻ này là hoàn toàn thuộc quyền phân xử của Cha. Nhưng do chúng ta chưa biết chắc việc đi lại của hai kẻ xấu xa này có gây nguy hại gì đến sự an toàn của hai đoàn khách hay không, nên ta phải soi sáng việc bí ẩn này. Này, tên lưu manh kia! Ngươi dấu gì đây? – Bernard lôi từ ngực áo Salvatore ra một cái bọc lồ lộ mà hắn đang cố giấu đi.

Tôi đã biết rồi: một con dao và một con mèo đen. Khi mở bọc ra, con mèo gào lên giận dữ và phóng chạy. Hai cái trứng vỡ chảy nước nhớt nhợt, người khác trông thấy tưởng như máu hay mật vàng, hay một chất gớm ghiếc nào tương tự. Salvatore đang định vào bếp giết mèo và moi mắt nó; ai biết hắn đã hứa hẹn gì với cô gái để dụ dỗ cô ta theo mình. Ít lâu sau, tôi biết được những lời hứa hẹn đó. Bọn cung thủ vừa khám xét cô gái, vừa cười nham nhở và văng ra những lời dâm dật, chúng đã tìm thấy trong người cô một con gà trống nhỏ đã chết, nhưng chưa vặt lông. Xui xẻo thay, tắt đèn nhà ngói cũng như nhà tranh, con gà đêm đó trông cũng đen như con mèo. Tuy nhiên, tôi nghĩ cũng chẳng tốn kém mấy để dụ dỗ cô gái nghèo đáng thương ấy, người (vì yêu tôi) mà đêm trước đã vứt cả quả tim bò quý giá.

Bernard la lên, giọng lộ vẻ quan tâm lắm:

- A ha! Mèo đen, gà đen… À, ta biết những thứ đồ tế nhuyễn loại này lắm mà…

Hắn để ý thấy thầy William trong số những người hiện diện, bèn nói:

- Sư huynh William cũng nhận ra những thứ này chứ? Chẳng phải ba năm về trước, tại Kilkenny, Huynh đã là phán quan, chứng kiến cô gái đó giao cấu với quỉ sứ, hiện ra dưới dạng một con mèo đen ư?

Theo tôi, dường như thầy William im lặng vì hèn nhát. Tôi nắm tay áo thầy, giật giật, tuyệt vọng thầm thì:

- Thầy nói đi, nói rằng gà chỉ để ăn thôi…

Thầy gỡ tay tôi ra và nhã nhặn nói với Bernard:

- Tôi nghĩ, Huynh chẳng cần các kinh nghiệm xưa của tôi để đi đến kết luận của mình.

Bernard mỉm cười:

- Ồ, không đâu, còn có nhiều nhân chứng có căn cứ hơn. Stephen xứ Bourbon, trong luận chứng về bảy quà tặng của Thánh Linh, kể Thánh Dominic, sau khi giảng đạo tại Fanjeaux chống bọn dị giáo, đã tuyên bố với một số phụ nữ rằng, họ sẽ được gặp đức thầy bấy lâu họ hằng phục vụ. Đột nhiên, một con mèo đáng sợ nhảy ngay vào giữa đám đông. Nó to như một con chó lớn, đôi mắt khổng lồ đỏ rực, lưỡi dài đến rốn đầy những máu, cái đuôi ngắn dựng thẳng lên trời, do đó dù con thú có xoay hướng nào đi nữa, nó cũng phơi bày cái hậu môn xấu xa hôi thối của nó. Các môn đồ của quỉ Sa tăng, không kể các Hiệp sĩ Templar, luôn có thói quen hôn hậu môn đó mỗi khi gặp gỡ. Sau khi đảo quanh đám phụ nữ cả giờ đồng hồ, con mèo phóng lên sợi dây chuông, leo lên cao tít, để lại một đống phân tanh tưởi.

Những tiếng rì rầm kinh hoàng lan khắp đám tu sĩ, nhiều người đưa tay làm dấu thánh giá.

Bernard nói, mặt lộ vẻ đạo đức:

- Thưa Tu viện trưởng, có lẽ Đức cha không biết những kẻ phạm tội thường làm gì với những công cụ như thế này! Nhưng nhờ ơn Chúa, tôi biết rất rõ! Tôi đã nhìn thấy những tên độc ác nhất, cùng đồng bọn của chúng, trong đêm khuya thanh vắng đã dùng mèo đen để làm những thứ phép mà chúng không thể chối cãi được: chúng cưỡi lên con thú và nhờ bóng đêm che chở, lao vút vào không gian bao la, kéo theo bọn nô lệ của chúng đã hóa thành những thần bóng đè dâm dục… Rồi Quỉ hiện ra, hay có lẽ chúng tin thế, dưới dạng một con gà hay vài con thú màu đen nào khác. Rồi bọn chúng, chớ hỏi tôi bằng cách nào, ngủ với Quỉ. Và tôi biết chắc rằng cách đây không lâu, chính tại Avignon, các loại bùa ngải và thuốc xức đã được chế bằng những phép phù thủy như thế này, để mưu hại sinh mạng Đức Giáo Hoàng của chúng ta, bằng cách bỏ thuốc độc vào thức ăn của Người. Giáo hoàng đã bảo toàn được thân mình và phát hiện loại thuốc độc, chính nhờ Người có đeo những viên châu ngọc lớn, chạm hình lưỡi rắn, đính nhiều hồng ngọc và ngọc lục bảo đã được ban phép thánh. Kẻ thù của Giáo Hoàng còn đi xa hơn nữa, và mọi người hẳn biết về tên dị giáo Bernard Délicieux bị bắt cách đây mười năm; người ta tìm thấy trong nhà hắn những quyển sách về tà thuật, có chú thích trên những trang tàn ác nhất, hướng dẫn cách làm những hình nhân bằng sáp để hại kẻ thù. Mọi người có tin nổi không? người ta còn tìm thấy trong nhà hắn những hình nhân chế tạo thật tinh xảo, giống hệt hình của Giáo hoàng, trên đó có khoanh những vòng tròn nhỏ màu đỏ, chỉ những chỗ hiểm trong thân thể. Mọi người biết rằng, hình nhân đó sẽ được treo bằng sợi chỉ trước một tấm gương, rồi dùng kim đâm xuyên qua những chỗ hiểm, và… Ồ, tại sao tôi lại nói mãi về những thứ bùa phép độc ác, ghê tởm ấy nhỉ? Chính Giáo hoàng đã mô tả và lên án chúng trong quyển “Trên những tấm gương của bọn chúng ”[1] do Người viết năm ngoái. Hy vọng Đức cha có một bản trong thư viện phong phú của Ngài, nơi nó sẽ được suy ngẫm…

- Chúng tôi có, chúng tôi có – Tu viện trưởng xác nhận ngay, giọng u buồn.

Bernard kết luận:

- Rất tốt. Bây giờ vụ nầy có vẻ rõ ràng rồi. Một tu sĩ bị cám dỗ; một mụ phù thủy, và vài phù phép gì đó may thay chưa được thực hiện. Nhằm mục đích gì? Đó là điều chúng ta phải tìm hiểu, và tôi sẵn sàng hy sinh vài giờ nghỉ ngơi để biết cho ra nhẽ. Đức cha cho phép tôi sử dụng một nơi nào đó để giam người này chứ?

- Chúng tôi có vài phòng dưới hầm của lò rèn, rất may ít khi dùng đến và đã bỏ hoang nhiều năm.

Bernard nhận xét:

- May hay không may.

Rồi hắn ra lệnh cho các cung thủ tìm người chỉ đường xuống đó và đem giam hai phạm nhân vào hai phòng riêng biệt. Họ phải cột chặt Salvatore vào những cái khoen đóng dính trong tường để lát nữa đây, Bernard có thể nhìn thẳng vào mặt hắn khi hỏi cung. Bernard tiếp rằng, vì đã rõ cô gái là ai, nên đêm nay không cần tra hỏi gì. Cô sẽ đợi đem ra xét xử trước khi bị thiêu như một phù thủy. Và nếu là phù thủy, cô sẽ chẳng dễ dàng chịu khai đâu. Nhưng một tu sĩ thì có thể sẽ ăn năn, cung khai sự thật và tố cáo những tên đồng lõa.

Cả hai bị lôi đi, một người im lặng và đập phá như điên cuồng, người kia khóc nức nở, vừa đá vừa la như một con thú sắp bị thọc tiết. Nhưng cả Bernard, bọn cung thủ, lẫn tôi đều không hiểu được tiếng địa phương của cô gái. Nàng la thét mà như một người câm. Có những từ mạnh mẽ gây xúc động, những từ khác khiến chúng tôi càng hoang mang hơn, trong đó có những từ tục tằn của giới bình dân, những người chưa được Chúa ban cho ơn huệ thể hiện được mình bằng ngôn ngữ chung của trí thức và quyền lực.

Một lần nữa, tôi dợm bước theo nàng, một lần nữa thầy William nghiêm mặt giữ tôi lại. – Đứng yên, thằng ngốc. Cô gái bị bắt rồi, và sẽ bị thiêu sống.

Khi tôi kinh hoàng theo dõi cảnh tượng, mắt nhìn nàng mà lòng tràn ngập những suy nghĩ mâu thuẫn nhau, tôi cảm thấy ai đó chạm vào vai mình, không hiểu tại sao ngay trước khi quay lại, tôi đã biết rõ đó chính là Ubertino. Cha hỏi:

- Con đang nhìn mụ phù thủy ấy phải không?

Tôi biết Cha không hay gì về chuyện của tôi. Với sự am tường đáng sợ các đam mê của con người, Cha hỏi chỉ vì đã bắt gặp trong ánh nhìn của tôi một sự căng thẳng lạ thường.

Tôi chối: - Không, con không nhìn cô ấy… đúng ra có lẽ con nhìn cô ây, nhưng cô ấy không phải là phù thủy… Chúng ta biết mà: Có lẽ cô ấy vô tội…

- Con nhìn cô gái ấy vì cô ta đẹp. Cô gái đẹp, phải không? – Cha xiết cánh tay tôi, hỏi giọng vô cùng ấm áp. – Nếu con nhìn vì cô ấy đẹp, lòng thấy chao đảo, nhìn mà thấy lòng thèm muốn thì chỉ việc đó thôi cũng biến cô ta thành phù thủy rồi. Hãy cảnh giác, con ạ… Vẻ đẹp của thân thể chỉ ở ngoài da thôi. Nếu đàn ông có thể nhìn thấy cái gì ở dưới lớp da đó, như linh miêu xứ Boeotia[2], thì họ sẽ rùng mình khi thấy đàn bà. Tất cả vẻ yêu kiều đó chỉ gồm có máu mủ, thể dịch và mật đắng. Nếu con nghĩ đến những gì ẩn dưới lỗ mũi, trong cổ họng và dạ dày thì sẽ thấy chỉ toàn chất hôi thối. Nếu con thấy tởm lợm khi chạm tay vào mủ hay phân thì tại sao lại khao khát muốn ôm cái bao đầy phân đó?

Tôi thấy lợm giọng, không muốn nghe gì nữa. Thầy tôi cũng đã nghe, liền đến cứu tôi. Thầy đến gần Ubertino, cộc cằn nắm lấy cánh tay Cha và giằng tôi ra.

- Đủ rồi, Ubertino. Cô gái ấy chốc nữa đây sẽ bị hành hình, rồi đưa lên giàn hỏa. Cô ta sẽ hóa thành thứ đúng như cha nói: máu, mủ, thể dịch và mật đắng. Nhưng những người như chúng ta sẽ là kẻ đào từ dưới làn da đó cái mà Chúa muốn che chở và được làn da kia tô điểm. Khi nó biến thành vật chất nguyên sơ thì Cha cũng chẳng tốt đẹp gì hơn cô ta đâu. Hãy để thằng bé được yên.

Ubertino bàng hoàng, thầm thì:

- Có lẽ ta đã phạm tội. Ta chắc đã phạm tội rồi. Một người phạm tội có thể làm gì khác?

Bây giờ mọi người đang quay vào bên trong, bàn bạc về sự kiện vừa qua. Thầy William nán lại một lúc với cha Michael và các tu sĩ dòng Khất thực khác, họ hỏi thầy nghĩ gì.

- Trong đầu Bernard bây giờ đang hình thành một lập luận, tuy còn lờ mờ. Trong tu viện, có những phù thủy hoạt động, đang tiến hành những việc giống như những việc làm trước đây nhằm chống giáo hoàng tại Avignon. Đương nhiên đây không phải là chứng cớ, và trước tiên, nó sẽ không thể dùng để phá rối cuộc họp ngày mai. Đêm nay, Bernard sẽ cố moi từ tu sĩ khốn khổ đáng thương đó vài điều mấu chốt khác, mà tôi chắc chắn hắn sẽ không dùng ngay sáng mai đâu. Hắn sẽ để dành đó. Sau này hắn sẽ dùng nó để đảo lộn tiến trình của cuộc tranh luận, nếu chúng chuyển hướng bất lợi cho hắn.

Cha Michael hỏi: - Hắn có thể ép tu sĩ đó nói điều gì đó và dùng nó chống lại chúng ta không?

Thầy William do dự nói: - Hy vọng là không.

Tôi biết, nếu Salvatore khai với Bernard những gì đã kể cho chúng tôi về quá khứ của hắn và quản hầm, nếu hắn tiết lộ điều gì về quan hệ với Ubertino, dù chỉ một thoáng thôi, thì sẽ gây ra một tình cảnh hết sức bối rối.

Thầy William điềm đạm nói: - Dầu sao, hãy đợi xem chuyện gì sẽ xảy ra. Về việc đó, Cha Michael à, mọi thứ đã được quyết định trước rồi. Nhưng Cha muốn thử mà.

Cha Michael nói: - Cha muốn, và Chúa sẽ giúp Cha. Cầu thánh Francis giúp tất cả chúng con.

- Amen, - mọi người đáp lại

- Nhưng điều đó không nhất thiết xảy ra, - thầy William nhận xét hơi bất kính, - Thánh Francis có thể đang ở đâu đó, đợi đến ngày phán xét mà không giáp mặt với Thượng đế.

- Nguyền rủa tên dị giáo John! – Tôi nghe thầy Jerome lầu bầu khi mọi người về phòng nghỉ. – Nếu hắn cướp đi sự giúp đỡ của thánh thần, thì những kẻ tội lỗi đáng thương như chúng ta sẽ ra sao?

Chú thích:

[1] Super illius Specula!

[2] Một miền đất Hy lạp cổ xưa, tây bắc Attica, thủ đô: Thebes
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,133
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 52


NGÀY THỨ NĂM

Tác giả: Umberto Eco

Cuộc tranh luận

về sự cơ nghèo của Chúa Kitô

Tim tôi bị dày vò bởi trăm ngàn nỗi khắc khoải sau cảnh tượng đêm qua, nên buổi sáng ngày thứ năm, khi tôi thức dậy, thì chuông báo Kinh Đầu đã điểm. Thầy William lắc tôi thật mạnh, đe rằng hai phái đoàn sẽ gặp nhau chốc lát nữa thôi. Tôi nhìn ra cửa sổ, chẳng thấy gì cả. Làn sương mù hôm qua, giờ vẫn là lớp màn sữa đục phủ trùm lên toàn cao nguyên.

Khi bước ra ngoài, cảnh tu viện hiện ra ngỡ như chưa từng trông thấy nó bao giờ. Từ xa xa, ta nhận ra được vài tòa nhà chính – như giáo đường, Đại Dinh, nhà nguyện – dù vẫn mờ mờ ảo ảo như bóng lồng trong bóng, còn các khu nhà khác thì đến gần mấy bước mới nhận ra. Đồ đạc và thú vật dường như đột hiện lên từ cõi hư vô; người ta hiện hình lên như những bóng ma, ban đầu màu xám, rồi dần dần, một cách khó khăn, mới nhận ra mặt.

Sinh ra từ miền Bắc, tôi không quen với loại thời tiết mù sương này. Có lẽ vào lúc khác, nó sẽ nhẹ nhàng gợi tôi nhớ đến những bình nguyên và lâu đài nơi quê hương tôi. Nhưng sáng hôm nay, thời tiết này đau đớn thay, lại giống với tâm hồn tôi quá, và nỗi buồn do nó đánh thức dậy cứ lớn dần lớn dần khi tôi chậm bước đến nhà nguyện.

Còn cách nhà nguyện vài thước, tôi thấy Bernard Gui chia tay với một người mà tôi chưa kịp nhận mặt. Khi người ấy đi qua, tôi mới biết là Malachi. Huynh ấy nhìn quanh như một người phạm tội không muốn bị ai bắt gặp.

Huynh không nhận ra tôi và bỏ đi. Bị óc hiếu kỳ thôi thúc, tôi đi theo Bernard và thấy hắn đang giở xem vài tờ giấy gì đó, có lẽ do Malachi vừa đưa. Đến cổng nhà nguyện, hắn ra dấu gọi trưởng nhóm cung thủ đang đứng gần đó đến và thầm thì vài lời với người này. Rồi hắn đi vào. Tôi tiếp tục bám theo.

Đây là lần đầu tiên tôi đặt chân đến đây. Nhìn từ bên ngoài, nhà nguyện lớn vừa phải, kiến trúc thanh nhã. Tôi nhận thấy nó vừa được xây lại trên tàn tích của một giáo đường nguyên sơ dành cho tu viện trưởng, mà một phần có lẽ đã bị hỏa thiêu.

Từ ngoài bước vào, người ta đi qua một cánh cổng kiểu mới, vòm nhọn không có trang trí, trên cùng là một cửa sổ hồng. Nhưng bên trong, người ta lọt vào một tiền sảnh xây dựng trên nền móng của một hành lang cũ. Đối diện là một cửa khác, vòm kiểu xưa, với một mạng giữa hình bán nguyệt, được chạm khắc tuyệt đẹp. Hẳn đó là cánh cửa của nhà thờ cũ, nay đã biến mất. Không có hình ảnh kỳ thú nào chạm khắc trên cánh cửa khiến người ta cảm thấy bất an, vì chúng không tượng trưng cho các tội lỗi trần thế hay nỗi khổ đau dưới địa ngục, mà chỉ muốn minh chứng rằng, Chúa Lời đã đến với toàn thế giới hữu tri và đang lan đến thế giới vô tri. Như thế, cánh cửa này là lời hứa hoan hỉ về một sự hài hòa, thống nhất, đạt được trong lời Chúa dạy, về một giáo hội tốt đẹp toàn thế giới.

Tôi nhủ thầm, đây là một điềm báo tốt cho cuộc họp sắp xảy ra bên trong ngưỡng cửa này. Tại đây, những con người vì những lời minh giảng mâu thuẫn về phúc âm đã trở thành kẻ thù của nhau, hôm nay có thể sẽ hòa giải được các ý kiến bất đồng. Tôi tự trách mình là một kẻ tội lỗi yếu đuối, cứ mãi khóc than vì nỗi đau riêng, trong khi những biến cố quan trọng trong lịch sử Thiên chúa giáo như thế này đang sắp xảy ra. Tôi so sánh khổ đau hèn mọn của mình với lời hứa cao cả về một nền hòa bình yên lành đã được khẳng định trong viên đá của mạng giữa. Tôi xin Chúa tha thứ sự yếu đuối của tôi, và tôi băng qua thềm cửa với niềm thanh thản mới.

o0o

Vừa bước vào, tôi thấy toàn bộ các thành viên của hai phái đoàn đã đến đông đủ. Họ ngồi đối diện nhau trên các băng ghế dài được sắp theo hình bán nguyệt, hai phe ngăn cách nhau bởi một chiếc bàn, nơi Tu viện trưởng và Hồng y Bertrand đang ngồi.

Thầy William đặt tôi ngồi cùng với các tu sĩ dòng Khất thực. Ở đây, có Cha Michael cùng các môn đệ, và các tu sĩ khác của dòng Francisco trong Triều Avignon, vì cuộc gặp gỡ này không nhằm làm ra vẻ một trận chiến tay đôi giữa người Ý và người Pháp, mà chính là cuộc tranh luận giữa những người ủng hộ giáo luật dòng Francisco với những người chỉ trích nó – những người thảy đều liên kết với nhau bởi lòng trung thành Công giáo vững chắc với triều đình Giáo hoàng.

Tu viện trưởng khai mạc phiên họp và cho rằng đây là lúc thích hợp để tóm lược các biến cố trong thời gian gần đây. Cha nhắc lại rằng, trong năm 1332, Đại hội chung của các thầy dòng Khất thực, họp tại Perugia, dưới sự lãnh đạo của Cha Michael xứ Cesena, đã xác lập một suy nghĩ đúng đắn là để nêu gương cho một cuộc đời hoàn thiện, Đấng Ki-tô và các tông đồ theo lời dạy của Ngài, đã chẳng bao giờ sở hữu một vật gì, dù là của cải hay hận thù.

Sự thật này là một điều trong đức tin và giáo lý của Thiên chúa giáo, được suy ra từ nhiều đoạn khác nhau trong các kinh sách. Như thế, việc từ bỏ quyền sở hữu mọi vật là xứng đáng và thiêng liêng. Hội đồng thành Viên năm 1312 cũng đã tán thành chân lý này. Chính Giáo hoàng John trong sắc lệnh “Đòi hỏi của một số người ”[1] năm 1317, về tình trạng của các thầy dòng Khất thực, đã cho rằng sự khẳng định của Hội đồng đó là đúng đắn và hợp lý. Tu viện trưởng tiếp, thế nhưng năm 1323, John đã ban hành sắc lệnh ngày nay rất nổi tiếng là “Giữa một số người ”[2] trong đó hoàn toàn lên án các luận thuyết của Đại hội Perugia.

Đến đây, giáo chủ Bertrand nhã nhặn ngắt lời Tu viện trưởng và bảo rằng năm 1324, để làm sự việc phức tạp hơn và để chọc giận Giáo hoàng, Vua Louis đã khẳng định các luận thuyết của Đại hội Perugia mà chẳng hề có căn cứ nào, rồi đặt mình chống lại Giáo hoàng, gọi Giáo hoàng là kẻ gây tai tiếng và gieo mầm mất đoàn kết, và sau cùng là kẻ cầm đầu dị giáo.

Tu viện trưởng liền tiếp tục và bảo phần đầu của cuộc tranh luận nên được tiến hành giữa các sứ giả của Giáo hoàng với những người con đại diện của Thánh Francis, những người bằng việc tham gia cuộc gặp gỡ này, đã chứng tỏ mình là những đưa con trung thành nhất của Giáo hoàng. Đoạn, Tu viện trưởng mời cha Michael, hay đại biểu của Cha, chỉ rõ lập trường mà Cha định bảo vệ tại Avignon.

Cha Michael bảo ông vui mừng thấy trong số những người tham dự sáng nay có Cha Ubertino xứ Casale, người mà chính Giáo hoàng năm 1322 đã yêu cầu viết một bản tường thuật đầy đủ về vấn đề sự cơ nghèo của Chúa. Ubertino là người tốt nhất có thể tóm lược các điểm cốt yếu của các tư tưởng mà ngày nay, vẫn là những tư tưởng của dòng Francisco không hề thay đổi.

Ubertino đứng dậy, và bằng một giọng nói đầy thuyết phục, nụ cười đầy hấp lực, cách lý luận rõ ràng và liên tục, Cha đã thu hút người nghe suốt thời gian trình bày, Cha đưa ra một bản luận văn dài rất uyên bác, nêu lên các căn cứ làm nền tảng cho các luận thuyết của Đại hội Perugia.

Nhưng đến đây, Jean d’Anneaux phía đối diện đã đứng dậy tuyên bố rằng, ông nghĩ các lập luận của Ubertino là trái ngược với sự suy luận đúng đắn lẫn sự minh giảng đúng đắn về Thánh kinh.

Bên dòng Khất thực, Jerome, Giám mục xứ Kaffa, đã nóng nảy đứng dậy. Hàm râu Huynh run lên vì tức giận, mặc dù đã cố nói giọng hòa hoãn. Huynh đưa ra các lập luận hơi lộn xộn. Thế nhưng các lý lẽ trái ngược của Jean de Baunine, phe Giáo hoàng, giờ đã điên tiết lên, nghe còn lộn xộn hơn. Cuộc tranh luận càng lúc càng gay gắt, và đã có thêm sự tham gia của Giám mục dòng Dominic xứ Alborea. Rồi Alborea đuối lý, bèn lao ngang qua khoảng ngăn cách dòng Khất thực và đoàn Giáo hoàng, la toáng lên và dùng những lời lẽ tôi chẳng dám nhắc lại, đe dọa sẽ bứt râu Giám mục xứ Kaffa, nhét râu ông vào đâu đó, để trừng phạt theo kiểu ăn miếng trả miếng.

Các tu sĩ dòng Khất thực vội chạy tới quây thành một vòng cản, bảo vệ người anh em của mình; bên Avignon nghĩ rằng nên tiếp tay với giám mục Dominic, người cùng phe mình, và thế là một trận cãi lộn ầm ĩ liền nổ ra. Tu viện trưởng và Hồng y phải cố hết sức mới dẹp yên, nhưng trong trận đấu võ mồm hỗn loạn tiếp theo đó, các tu sĩ dòng Khất thực và tu sĩ dòng Dominic mắng nhau hết sức nặng lời, như thể mỗi người là con chiên của của Chúa chống lại bọn Saracen[3]. Hai người duy nhất còn ngồi trên ghế là William phía bên này và Bernard Gui phía bên kia. Thầy William lộ vẻ buồn, còn Bernard lại ra mặt vui, khẽ nhếch mép cười.

Khi Alborea nắm lấy hàm râu của Giám mục xứ Kaffa, tôi hỏi thầy:

- Chẳng lẽ không có cách tranh luận nào để chứng minh hay phản bác sự cơ nghèo của Chúa tốt hơn ư?

- À, con có thể xác nhận cả hai lập trường, Adso ạ. Nhưng vấn đề không phải Chúa nghèo hay không nghèo mà chính là Giáo hội có buộc phải nghèo hay không, và “nghèo” không có nghĩa là có hay không sở hữu một cung điện. Thực ra, nó có nghĩa là xác nhận hay phủ nhận các quyền hợp pháp được sở hữu của cải trần gian.

- Thế thì tại sao Hoàng đế lại rất chú ý đến những gì dòng Khất thực nói về sự cơ nghèo.

- Đúng thế. Dòng Khất thực đang về hùa với Hoàng đế chống lại Giáo hoàng. Nhưng Marsilius và thầy xem đó là con dao hai lưỡi, và muốn triều đình ủng hộ quan điểm của chúng ta và phục vụ lý tưởng vì nhân loại.

- Thầy sẽ nói như thế khi người ta mời thầy phát biểu chăng?

- Nếu thầy nói như vậy, thầy sẽ hoàn thành sứ mệnh của mình là giải thích các quan điểm của những nhà thần học triều đình. Nhưng đồng thời, thầy cũng không chu toàn nhiệm vụ, vì thầy phải tạo điều kiện dẫn đến một cuộc gặp gỡ khác ở Avignon, và thầy e rằng Giáo hoàng John sẽ không nhất trí cho thầy đến đó, nếu thầy nói những điều này.

- Vậy thì…?

- Vậy thì thầy bị kẹt giữa hai thế lực đối nghịch nhau, như một con lừa loay hoay không biết nên ăn bao rạ nào. Thời điểm chưa chín muồi. Marsilius kêu gào phải có một cuộc đổi mới cấp tốc, nhưng không thể thực hiện được. Còn Hoàng đế Louis đâu có khá hơn các vị tiên vương, mặc dù hiện nay Ngài là thành trì duy nhất chống lại một tên xấu xa như John. Nếu họ không giết sạch nhau, thì thầy sẽ phải lên tiếng. Dầu sao, con cũng phải ghi lại tất cả những lời phát biểu: tối thiểu, chúng ta cũng lưu lại được biên bản của cuộc họp hôm nay.

Khi hai thầy trò tôi nói chuyện thì cuộc tranh cãi đã lên đến tột đỉnh gay gắt. Quả thực, tôi cũng không hiểu làm thế nào mà chúng tôi lại nghe giọng nói của nhau được. Bernard Gui bèn ra hiệu cho các cung thủ vào để tách hai phe ra. Nhưng, như những người bao vây và bị bao vây ở hai bên chiến lũy, họ vẫn chửi bới, lăng nhục nhau, người này không đợi người kia nói dứt lời như thường xảy ra trong các vụ tranh luận ở quê tôi, mà theo kiểu dân trời biển, câu này lấp câu kia, như những làn sóng của một đại dương cuồng nộ. Tôi ghi lại đây một cách lộn xộn, không rõ người nào nói câu nào.

- Phúc âm nói rằng, Chúa có một túi tiền!

- Câm mồm! Chính các người đã vẽ các túi ấy lên cả thánh giá. Thế ngươi sẽ nói sao về việc Chúa khi đến Jerusalem phải trở về nghỉ đêm ở Bethany[4]?

- Nếu Chúa muốn ngủ ở Bethany thì ngươi là cái thứ gì mà thắc mắc?

- Không, đồ ngu. Chúa về Bethany vì Ngài không có tiền trả phòng trọ ở Jerusalem!

- Quỉ thần ơi, nhà ngươi thật ngốc như lừa. Thế Chúa ăn gì ở Jerusalem?

- Thế thì một con ngựa được chủ cho ăn lúa để sống có phải là chủ của lúa không?

- Thấy chưa? Ngươi so sánh Chúa với con ngựa…

- Không, chính ngươi là kẻ đã so sánh Chúa với tên Giám mục buôn thần bán thánh của triều đình ngươi, đồ đống cứt!

- Thế ư? Đã bao nhiêu lần giáo hội phải vác chiếu hầu tòa để bảo vệ tài sản của các ngươi?

- Tài sản của giáo hội chớ không phải của chúng tôi. Chúng tôi chỉ sử dụng nó thôi!

- Sử dụng để tiêu pha, để xây dựng nhà thờ đẹp, có tượng vàng, đồ đạo đức giả, mồ cha cố tổ những tên xấu xa đê hèn. Ngươi thừa biết không phải sự cơ nghèo mà chính là việc từ thiện mới thực là nguyên tắc của một đời toàn thiện.

- Đó chính là những lời của tên Thomas háu đói của các ngươi!

- Đồ du côn, hãy giữ lời ăn tiếng nói. Người mi gọi là “tên háu đói” chính là một vị thánh của giáo hội La Mã!

- Thánh đếch gì! Được John phong thánh để chọc quê dòng Francisco! Giáo hoàng của các ngươi không thể tạo ra thánh, vì hắn chính là một tên dị giáo! Tên đầu sỏ dị giáo!

- Bọn ta đã nghe điều đó rồi. Những lời phun ra từ bọn ngụy Bavaria ở Sachsenhausen, được Ubertino của các ngươi nhai đi nhai lại!

- Chớ hàm hồ, đồ lợn, mày là con của con mụ điếm Babylon và những con đượi khác! Ngươi biết năm đó Ubertino không ở với Đức vua mà ở ngay tại Avignon để phục vụ Giáo chủ Orsini, và Giáo hoàng đã phái cha đến Aragon làm sứ giả!

- Biết quá rồi, tại bàn ăn của giáo chủ, lão thề sẽ sống đời nghèo nàn, mà nay lại ở trong tu viện giàu nhất của bán đảo nước Ý này! Ubertino, nếu ngươi không ở đấy thì ai đã ở đấy thúc giục vua Louis sử dụng tác phẩm của ngươi?

- Nếu vua Louis đọc tác phẩm của ta thì ta có lỗi gì? Chắc chắn vua không thể đọc sách của các ngươi, đồ vô học.

- Ta mà vô học ư? Chẳng phải Thánh Francis của các ngươi là đồ vô học, đi nói chuyện với ngan ngỗng sao?

- Đồ báng bổ!

- Mi mới chính là đồ báng bổ.

Đến đây, Hồng y Bertrand và Tu viện trưởng đồng thanh hét lên:

- Thôi đi, thôi đi các huynh kính mến!

Chú thích:

[1] Quorundam exigit

[2] Cum inter nonnullos

[3] Người Hồi giáo chống lại Thập Tự Quân

[4] Một thành phố cổ gần Jerusalem, trên núi Olives
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,133
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 53


KINH XẾ SÁNG

Tác giả: Umberto Eco

Severinus nói với William

về một quyển sách lạ

Cuộc cãi lộn còn đang gay cấn thì một tu sinh canh cửa bước vào, vượt qua cảnh hỗn loạn này như một người băng đồng dưới cơn mưa đá. Chú ấy tiến gần thầy William, thì thầm rằng Severinus khẩn thiết muốn nói chuyện với thầy. Chúng tôi bước ra tiền sảnh đầy đặc các tu sĩ hiếu kỳ đang lắng nghe từ những tiếng la hét xem bên trong xảy ra diễn biến gì. Ở hàng đầu, chúng tôi thấy Aymaro chào chúng tôi với nụ cười khinh khỉnh cố hữu của một kẻ tội nghiệp trần gian ngu ngốc này, và nói:

- Từ khi các dòng Khất thực được thành lập, Thiên chúa giáo hẳn đã đạo đức hơn.

Thầy William gạt phắt Aymaro sang một bên và đi về cái góc nơi Severinus đang đợi. Huynh thất vọng vì muốn nói chuyện riêng với chúng tôi, nhưng không thể tìm được một nơi yên vắng trong cảnh hỗn loạn này. Chúng tôi định ra ngoài, nhưng Michael xứ Cesena nhìn ra cửa nhà nguyện, vẫy thầy William vào, bảo cuộc cãi cọ đã được hòa giải, và người ta sẽ tiếp tục đọc tham luận.

Trong tình thế tiến thoái lưỡng nan, thầy William giục Severinus nói, và dược thảo sư cố hết sức để mọi người khỏi nghe thấy:

- Berengar chắc chắn đã vào bệnh xá trước khi đến nhà tắm

- Sao Huynh biết?

Có vài tu sĩ đến gần, vì tò mò muốn nghe chuyện của chúng tôi. Severinus nhìn quanh, giọng càng nhỏ hơn:

- Huynh bảo tôi người đó… chắc hẳn phải mang trong người vật gì… Đúng, tôi tìm thấy một vật trong phòng thí nghiệm, giữa những quyển sách… một quyển sách, không phải của tôi, một quyển sách lạ…

Thầy William đắc thắng nói: - Chính nó đấy. Mang nó đến cho tôi ngay.

- Không thể được. Tôi sẽ giải thích sau. Tôi đã khám phá… tôi nghĩ đã khám phá được một điều hay lắm… Huynh phải đến, tôi phải đưa Huynh xem quyển sách.. một cách thận trọng…

Severinus im bặt. Chúng tôi nhận ra Jorge đã âm thầm lặng lẽ hiện ra bên cạnh chúng tôi như thể có phép mầu vì không quen nơi đây, hai tay lão đưa ra phía trước như thể mò đường. Một người bình thường có lẽ không hiểu nổi những lời thầm thì của Severinus, nhưng chúng tôi biết rằng, cũng như mọi người mù khác, thính giác của Jorge vô cùng nhạy bén.

Nhưng dường như lão chưa nghe gì cả. Quả thực, lão lại sờ soạng đi xa dần chúng tôi, chạm vào một tu sĩ và hỏi người ấy điều chi đó. Tu sĩ nắm nhẹ cánh tay lão và đưa ra ngoài. Lúc đó, Cha Michael xuất hiện và đòi thầy William phải vào lần nữa. Thầy bèn quyết định và nói với Severinus:

- Huynh làm ơn trở về ngay nơi Huynh vừa đến. Khóa cửa bên trong và đợi tôi.

Thầy nói với tôi:

- Còn con, hãy theo dõi Jorge. Dù lão ấy có nghe gì đi nữa, thầy nghĩ, lão sẽ không nhờ dắt đến bệnh xá đâu. Dẫu sao, con sẽ kể cho ta biết lão đi đâu.

Khi quay về tiền sảnh, thầy William thấy Aymaro len lỏi trong đám đông chen lấn nhau, định theo dõi Jorge ra ngoài. Đến đây, thầy William lại hành động thiếu khôn ngoan. Từ đầu sảnh đường này, thầy hét lớn đến Severinus đang đứng ở ngoài thềm đầu sảnh kia:

- Cố giữ những tờ giấy đó cho an toàn… Đừng quay lại… nơi để chúng!

Tôi đang định bám theo Jorge thì thấy quản hầm tựa vào rầm cửa ngoài; hắn đã nghe lời thầy William cảnh giác, bèn nhìn từ thầy tôi sang dược thảo sư, mặt căng thẳng vì sợ hãi. Hắn thấy Severinus bước ra, liền bám theo. Đến ngưỡng cửa, tôi sợ sẽ mất dấu Jorge đang chìm vào làn sương mù, nhưng hai người kia đang trực chỉ hướng ngược lại, và cũng sắp sửa biến mất trong sương. Tôi tính toán thật nhanh xem mình nên làm gì. Thầy William bảo tôi theo dõi lão mù vì e rằng lão sắp đến bệnh xá. Nhưng người hướng dẫn đã dắt lão đi hướng khác; lão đang băng qua nhà dòng và trực chỉ giáo đường hay Đại dinh. Ngược lại, viên quản hầm ắt hẳn đang theo dõi dược thảo sư, và thầy William đang lo lắng về việc có thể xảy ra trong phòng thí nghiệm. Thế nên tôi bèn theo hai người này, lòng ngổn ngang thắc mắc không biết Aymaro biến đi đâu, trừ phi Huynh ấy đi ra vì những lý do hoàn toàn khác hẳn chúng tôi.

Tôi bám theo quản hầm, giữ một khoảng cách vừa phải. Hắn đang bước chậm lại vì biết chắc có người đang theo dõi mình, nhưng không biết đó là ai. Tôi không nhận rõ được cái bóng mình đang theo, nhưng tôi biết đó là hắn.

Bị buộc phải để ý đến tôi nên hắn không theo sát Severinus được, thế nên, khi cánh cửa bệnh xá hiện lên trong làn sương thì nó đã đóng kín rồi. Tạ ơn Chúa, Severinus đã vào được bên trong. Quản hầm, một lần nữa quay lại nhìn tôi, trong khi tôi đứng im như cột cờ; rồi hắn như quyết định điều gì đó và đi về phía nhà bếp. Tôi nghĩ mình đã hoàn thành sứ mệnh, nên quyết định quay về để báo cáo. Có lẽ tôi đã nhầm: nếu tôi đứng lại canh thì có lẽ đã tránh được nhiều tai họa. Sai lầm đó, đến nay tôi mới nhận ra.

Tôi trở lại tiền sảnh nhà nguyện. Cảnh náo loạn ban nãy dường như chẳng có gì nguy hiểm. Tôi đến bên thầy William và báo cáo ngắn gọn vài lời. Thầy gục gặc đầu tán thành, và ra hiệu bảo tôi im lặng. Cuộc tranh cãi lộn xộn đang lắng dịu. Các nhà thương thuyết thuộc hai phe đang ôm hôn hữu nghị. Giám mục Alborea ca ngợi đức tin của các tu sĩ dòng Khất thực. Jerome tán dương lòng từ thiện của các thầy giảng. Ai cũng bày tỏ hy vọng Giáo hội sẽ không bị xào xáo vì các mâu thuẫn nội bộ nữa. Người thì khen ngợi sự cứng cỏi của nhóm này, người thì ca tụng sự hòa hoãn của nhóm kia. Ai cũng nhắc đến công lý và sự khôn ngoan. Chưa bao giờ tôi trông thấy có nhiều người thành khẩn lưu tâm đến sự vẻ vang của những giá trị thần học chính yếu đến thế.

o0o

Bây giờ, Hồng y Bertrand mời thầy William giảng giải các luận thuyết của những nhà thần học hoàng gia. Thầy miễn cưỡng đứng dậy; biết rằng cuộc họp này không đi đến đâu. Thực ra, thầy đang nôn nóng muốn đi, vì đối với thầy, quyển sách bí ẩn kia còn khẩn thiết hơn kết quả của buổi họp. Tuy nhiên, rõ rằng là thầy không thể tránh né bổn phận của mình.

Thầy cất tiếng, với nhiều tiếng “ừ” “à” khác thường và không phải cách, dường như để chứng tỏ rằng thầy không tuyệt đối tin tưởng điều thầy sắp phát biểu. Thầy mở lời, đoan chắc rằng thầy đã quán triệt quan điểm của những người phát biểu trước, cũng vì thế cái mà những người khác gọi là “học thuyết” của các nhà thần học hoàng gia, chẳng qua chỉ là những nhận xét rời rạc, không thể gọi là những tín điều đã được khẳng định.

Thầy William nói bằng một giọng rất ôn tồn, ngập ngừng diễn tả những điều thầy đã khẳng định, do đó, không ai có thể đứng lên phản đối. Thế không có nghĩa là mọi người đều tin lời thầy nói. Những người phe Avignon ngồi bồn chồn vặn vẹo, cau mày, lẩm bẩm những lời phê phán với nhau, ngay cả Tu viện trưởng cũng lộ vẻ khó chịu vì những lời lẽ này. Còn bên dòng Khất thực, Cha Michael thì hoang mang, Jerome thì khiếp sợ, còn Ubertino lại tư lự.

Hồng y Poggetto phá tan sự im lặng, mỉm cười một cách thoải mái và nhã nhặn hỏi thầy William xem thầy có dám đi Avignon để thưa với Giáo hoàng những điều này không. Thầy William hỏi lại ý kiến của Hồng y xem có nên làm như vậy không. Hồng y trả lời, suốt đời Giáo hoàng đã nghe rất nhiều ý kiến tranh luận, và vẫn là Người cha thương yêu đối với mọi đứa con của Người, nhưng các đề nghị của thầy William ắt hẳn sẽ làm người hết sức đau buồn.

Bernard Gui, nãy giờ chưa hề mở miệng, bây giờ mới lên tiếng:

- Tôi sẽ rất vui mừng nếu Sư Huynh William, người đã giải thích các tư tưởng của mình một cách vô cùng khéo léo và hùng hồn, sẵn lòng bày tỏ các tư tưởng đó để Giáo hoàng phán xét…

- Thưa ngài Bernard, ngài đã thuyết phục tôi, nhưng tôi sẽ không đi. – Đoạn thầy William phân trần với Hồng y:

- Cha biết đấy, bệnh yếu phổi không cho phép con thực hiện một cuộc hành trình dài như thế trong thời thiết này.

Hồng y nói: - Thế sao Huynh lại nói dài dòng thế?

Thầy William nhũn nhặn đáp: - Để minh chứng cho sự thật vì sự thật sẽ giải phóng cho chúng ta.

Đến lúc này, Jean de Baunne, tu sĩ dòng Dominic, mới lớn tiếng phản đối:

- Không! Ở đây, chúng ta không bàn đến sự thật giải phóng chúng ta, mà về sự tự do quá trớn, muốn tự cho nó là sự thật!

Thầy William dịu dàng công nhận:

- Cũng có thể.

Linh cảm báo tôi biết rằng một cuộc đấu khẩu cuồng nộ sắp bùng nổ có thể còn gay gắt hơn lần trước. Nhưng rồi chẳng có chuyện gì xảy ra cả. Trong khi De Baunne đang nói thì trưởng toán lính bước vào và thầm thì điều gì đó vào tai Bernard. Bernard đứng phắt dậy, giơ tay lên nói:

- Thưa các Huynh, buổi tranh luận bổ ích này có thể được tiếp diễn, nhưng hiện nay, một biến cố trầm trọng buộc chúng ta phải đình chỉ cuộc họp này lại, nếu Tu viện trưởng cho phép. Một việc đã xảy ra ở đằng kia…

Hắn chỉ mông lung ra ngoài, đoạn sải bước qua tiền sảnh, đi ra ngoài. Nhiều người bước liền theo. Thầy trò tôi ở trong số những người đi đầu.

Thầy nhìn tôi nói: - Thầy e có việc gì xảy ra cho Severinus.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,133
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 54


KINH TRƯA

Tác giả: Umberto Eco

Tìm thấy xác chết của Severinus

nhưng quyển sách Huynh đã tìm được

thì không còn nữa.

Chúng tôi đau khổ sải bước băng qua sân. Trưởng toán lính dẫn chúng tôi đến bệnh xá. Khi đến nơi, chúng tôi thấy trong lớp sương mù dày đặc nhiều bóng người xôn xao. Tu sĩ và tôi tớ chạy toán loạn. Các cung thủ đứng canh ở bên ngoài, ngăn không cho ai vào. Bernard nói:

- Những lính canh đó là do tôi phái tới để lùng kiếm một người có thể soi sáng nhiều điều bí ẩn.

Tu Viện trưởng sững sờ hỏi:

- Sư huynh dược thảo sư à?

Bernard mở đường vào trong, nói:

- Không. Cha sẽ thấy ngay thôi.

Chúng tôi bước vào phòng thí nghiệm của Severinus, và một cảnh tượng đau thương đập ngay vào mắt. Xác của dược thảo sư xấu số nằm giữa một vũng máu, đầu lai láng máu. Kệ ở tứ phía dường như bị một cơn bão tàn phá: các chai lọ, sách vở, tài liệu bị đập vỡ, xé rách tan hoang, nằm vương vãi khắp nới. Bên cạnh xác chết là một lồng cầu lớn, ít nhất bằng hai đầu người, gồm nhiều vòng kim loại chế biến tinh xảo ghép lại với nhau, trên đỉnh có một thập giá bằng vàng, được đặt trên một trụ ba chân ngắn, có trạm trổ. Mấy lần trước đến đây, tôi thấy nó được đặt trên chiếc bàn phía tay trái cửa trước.

Ở cuối phòng, hai người lính giữ chặt viên quản hầm đang vùng vẫy kêu oan. Khi thấy Tu viện trưởng, hắn hét tướng lên:

- Cha ơi! Tật đi đây đi đó đã hại con! Khi con bước vào, thì Severinus đã chết rồi, và họ bắt con con lúc con đang sững sờ nhìn cái chết thê thảm này!

Trưởng toán lính đến chỗ Bernard và được hắn cho phép báo cáo lại sự việc trước mặt mọi người. Các cung thủ được lệnh lùng bắt quản hầm và đã tìm hắn khắp tu viện trên hai giờ đồng hồ. Tôi nghĩ, hẳn Bernard đã ban lệnh này trước khi vào nhà nguyện, bọn lính vì còn lạ chỗ nên có lẽ đã tìm kiếm lung tung mà không biết quản hầm đang ở trong tiền sảnh của nhà nguyện cùng với các tu sĩ khác, chẳng hay biết gì về số phận của mình. Sương mù khiến việc tìm kiếm của họ càng khó khăn thêm. Suy từ lời nói của trưởng toán lính thì từ khi tôi không theo dõi Remigio nữa, hắn bèn đi về phía nhà bếp và có ai đó đã thấy và báo cho bọn lính. Lính đến Đại Dinh thì Remigio vừa mới đi được một lát. Jorge ở trong nhà bếp, khai rằng lão vừa nói chuyện với quản hầm xong. Toán lính liền lục xét khu vực phía vườn rau, và gặp già Alinardo, từ trong sương hiện ra như một bóng ma, có vẻ như lạc đường. Chính Alinardo bảo vừa mới thấy Remigio đi về hướng bệnh xá. Toán linh đến đấy, thấy cửa bệnh xá mở toang. Bước vào, họ thấy Severinus nằm chết còn quản hầm thì đang điên cuồng lục lạo khắp các kệ, quăng ném mọi thứ xuống đất như đang lùng kiếm một vật gì. Trưởng toán kết luận, sự việc đã rành rành: Remigio bước vào, tấn công rồi giết dược thảo sư, đoạn truy tìm vật đã khiến hắn giết người.

Một tên lính nhặt lồng cầu từ dưới đất lên, trình báo cho Bernard xem. Đó là một cấu trúc thanh nhã gồm nhiều vòng bằng thau và bạc, ghép lại với nhau nhờ một cái khung bằng những vòng đồng chắc chắn hơn, gắn trên một trụ ba chân. Vật này đã giáng xuống sọ nạn nhân, và khi va chạm, nhiều vòng mảnh, nhỏ, đã long ra, hay cong về một phía, chính là cái phía đã đập lên đầu Severinus, vì còn dính những vệt máu, và cả những chùm tóc và các mảng óc lầy nhầy đáng sợ.

Thầy William cúi xuống, xem Severinus có chết thực chưa. Đôi mắt đứng tròng của nạn nhân đã bị che phủ bởi dòng máu trên đầu chảy xuống. Tôi không biết còn có thể đọc được trong con người cứng đờ ấy hình ảnh của kẻ sát nhân, chứng tích cuối cùng về sự nhận thức của nạn nhân, như người ta đã có lần nói chăng? Tôi thấy thầy William giở đôi tay xác chết lên xem có vết tím đen trên ngón không, dầu lần này nguyên nhân gây ra cái chết rõ ràng khác hẳn: tuy nhiên, Severinus có mang một đôi găng tay bằng da mà Huynh ấy thường dùng để cầm những cây thuốc độc, rắn mối, hay các côn trùng lạ.

Trong khi đó, Bernard Gui nói với quản hầm:

- Này Remigio xứ Varagine, đó là tên ngươi phải không? Căn cứ trên những lời buộc tội và để khẳng định những mối nghi ngờ khác, ta đã lệnh cho người lùng bắt ngươi. Nay ta thấy mình đã hành động đúng, mặc dù đáng tiếc là quá chậm.

Bernard quay sang Tu viện trưởng:

- Thưa Cha bề trên, con hoàn toàn chịu trách nhiệm về vụ án mạng cuối cùng này, ngay từ sáng nay con đã biết nên tống giam người này, sau khi nghe những lời tiết lộ của tên khốn nạn bị bắt đêm qua. Nhưng như Cha đã biết, suốt buổi sáng nay con bận bịu với những trách nhiệm khác, và lính của con đã cố gắng hết sức…

Hắn nói lớn giọng cho mọi người có mặt đều nghe (phòng lúc ấy đông nghẹt, mọi người từ khắp nơi dồn vào, vừa nhìn các vật bị đập phá tung tóe, vừa chỉ vào xác chết, vừa xì xầm bàn tán về án mạng). Khi Bernard nói, tôi liếc thấy Malachi trong đám đông, đang lạnh lùng quan sát hiện trường. Quản hầm, khi sắp bị lôi đi, cũng liếc nhìn Malachi. Gã vùng vẫy thoát ra khỏi tay của tên lính và lao mình về phía người tu sĩ anh em, túm lấy áo và kề sát mặt quản thư viện, nói vội vã và tuyệt vọng, cho đến khi bọn lính xông vào túm lấy gã. Nhưng khi bị lôi xềnh xệch đi, một lần nữa gã lại quay về hướng Malachi và hét lớn: - Huynh thề, và tôi đã thề mà!

Malachi không trả lời ngay, dường như muốn lựa lời thích hợp nhất, và khi quản hầm bị lôi qua cửa, bèn nói:

- Tôi sẽ không làm gì để hại Huynh cả.

Thầy trò tôi nhìn nhau, không hiểu tấn tuồng này có ý nghĩa gì. Bernard cũng đã nhận thấy, nhưng không lộ vẻ bối rối, hắn còn mỉm cười với Malachi, như thể tán đồng lời lẽ của quản thư viện và thông đồng một âm mưu u ám. Rồi hắn tuyên bố: ngay sau bữa ăn, phiên tòa đầu tiên sẽ được nhóm tại đại sảnh, để công khai mở cuộc điều tra này. Hắn ra lệnh đem quản hầm xuống lò rèn, nhưng không cho phép nói chuyện với Salvatore.

Ngay lúc đó, chúng tôi nghe tiếng Benno thì thầm từ phía sau lưng vẳng lên:

- Tôi vào tiếp ngay sau Huynh, khi phòng này mới đóng phân nửa, và Malachi lúc đó không có mặt ở đây.

- Chắc hẳn Huynh ấy vào sau.

Benno khăng khăng:

- Không. Tôi đứng sát cửa, thấy rõ từng người vào. Tôi nói thật, Malachi đã ở bên trong… trước đó rồi.

- Trước cái gì?

- Trước khi quản hầm vào. Tôi không đoan chắc, nhưng tôi tin rằng Huynh ấy bước ra từ sau bức màn kia, khi có một số chúng ta ở đây rồi. – Benno hất hàm chỉ về phía tấm màn lớn che khuất chiếc giường, nơi Severinus thường bảo những ai đang chữa trị vào nằm nghỉ. Thầy William hỏi:

- Huynh định ám chỉ Malachi đã giết Severinus và nấp ở đấy khi quản hầm bước vào ư?

- Hay là từ sau bức màn đó, Huynh ấy đã chứng kiến việc xảy ra ở đây. Nếu không, thì tại sao quản hầm lại van xin Huynh ấy đừng làm hại mình và Malachi đáp lại cũng hứa hẹn không làm hại Huynh ấy.

- Có thể lắm. Dẫu sao, đã có quyển sách ở đây, và nó hẳn vẫn nằm ở đây, vì cả Malachi lẫn quản hầm đều đi ra tay không.

Nhờ tôi báo cáo, thầy William hiểu Benno biết sự việc, và lúc đó thầy cần sự giúp đỡ. Thầy đến chỗ Tu Viện Trưởng đang rầu rĩ quan sát xác Severinus. Thầy yêu cầu Cha bảo mọi người lui ra, vì thầy muốn xem xét hiện trường kỹ hơn nữa. Tu Viện Trưởng chấp nhận và đi ra, còn ném cho thầy William một cái nhìn ngờ vực, như thể trách móc thầy lúc nào cũng đến quá trễ. Malachi cố nán lại, viện lý do này lý do kia, nhưng cả thảy đều rất mơ hồ. Thầy William nhấn mạnh rằng đây không phải là Thư viện, nơi này Malachi không có quyền hành gì. Thầy nhã nhặn nhưng rất cứng cỏi, trả đũa được lần Malachi không cho phép thầy xem xét bàn giấy của Venantius.

o0o

Chỉ còn ba chúng tôi ở lại. Thầy William dọn sạch các mảnh vụn và giấy tờ trên một chiếc bàn, rồi bảo tôi lần lượt đưa cho thầy xem các cuốn sách trong bộ sưu tập của Severinus. So sánh với kho sách mênh mông trong Mê Cung thì đây chỉ là một bộ sưu tập nhỏ, thế nhưng nó cũng có đến hàng mấy chục quyển, đủ mọi kích cỡ, trước đây được xếp gọn ghẽ trên các kệ, còn bây giờ thì nằm vương vãi trên mặt đất lẫn với các thứ khác, chúng đã bị đôi tay hoảng loạn của quản hầm xáo tung lên, vài quyển còn bị xé rách, dường như hắn không phải tìm một quyển sách mà tìm một cái gì đó có thể kẹp giữa những trang sách. Vài trang bị giứt đứt tung ra khỏi bìa. Không dễ gì thu nhặt chúng nhanh chóng, phân loại theo chủ đề và xếp lên bàn. Mọi việc phải làm khẩn trương, vì Tu Viện Trưởng cho chúng tôi quá ít thời giờ. Các tu sĩ sẽ vào tẩm liệm cái xác tan nát của Severinus để chuẩn bị chôn cất. Chúng tôi cũng phải đảo quanh tìm kiếm dưới bàn, sau kệ, trong tủ, xem có gì lạ mà lần khám xét đầu tiên chưa phát hiện ra. Thầy William không cho Benno giúp tôi mà chỉ để Huynh ấy đứng giữ cửa. Bất chấp lệnh của Tu Viện trưởng, nhiều người cứ nhất định lấn vào phòng: các tôi tớ nghe tin, hoảng sợ, các tu sĩ thương tiếc người anh em của mình, các tu sinh mang chậu nước để rửa và vải sạch để phủ lên xác chết…

Vì thế chúng tôi phải hành động thật nhanh. Tôi quơ những quyển sách ấy trao cho thầy William xem xét và đặt lên bàn. Khi thấy công việc này kéo dài, chúng tôi bèn đồng tiến hành cùng một lúc. Tôi nhặt sách lên, vuốt nó ra nếu bị nhàu, đọc tựa, và đặt xuống. Vài quyển chỉ còn lại những trang tơi tả.

- “Ba quyển sách về thảo mộc ”. (1)

- Quỷ thật, không phải quyển này. – Thầy William nói và đập mạnh quyển sách lên bàn.

- “Kho tàng dược thảo ” (2) – Tôi đọc, và thầy William quát: - Bỏ nó xuống. Chúng ta đang tìm một quyển sách tiếng Hy lạp!

- Quyển này chăng? – Tôi hỏi, và đưa thầy một tác phẩm có những trang đầy chữ trừu tượng. Thầy William bảo:

- Không. Đồ ngu! Đó là tiếng Ả Rập. Thầy Bacon có lý: bổn phận đầu tiên của một học giả là phải học ngoại ngữ!

- Nhưng thầy có biết tiếng Ả rập đâu! – Tôi bực bội cãi lại, và thầy đáp:

- Ít ra thầy cũng hiểu đó là tiếng Ả rập.

Tôi đỏ mặt lên vì tiếng Benno cười khúc khích sau lưng.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,133
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 55


KINH TRƯA (tt và hết)

Tác giả: Umberto Eco

Sách đã nhiều mà còn có nhiều ghi chú, bản cuộn nhiều hình vẽ, vòm thiên đàng, thư mục các kỳ hoa dị thảo được chép lên những trang giấy rời, có lẽ là bút tích của người quá cố! Chúng tôi lục xét mọi ngõ ngách trong phòng thí nghiệm một lúc lâu. Thầy William mặt lạnh như tiền, còn nhích cả xác chết để xem bên dưới có gì không, rồi lục lạo bên trong chiếc áo dòng. Chẳng có gì hết. Thầy William giải thích:

- Phải làm thế thôi. Severinus giam mình trong phòng với quyển sách, còn quản hầm thì cũng không giữ nó…

Tôi hỏi: - Liệu quản hầm có giấu nó trong áo dòng không?

- Không. Quyển sách thầy thấy hôm nọ dưới bàn Venantius rất to, nếu quản hầm dấu nó dưới áo thì ta phải thấy ngay.

- Bìa nó như thế nào?

- Thầy không biết. Nó mở ngỏ và thầy chỉ thoáng thấy có vài giây, đủ để biết nó bằng tiếng Hy Lạp, ngoài ra thầy không nhớ gì hơn. Chúng ta hãy tiếp tục, quản hầm không mang theo nó và thầy nghĩ Malachi cũng không.

Benno xác nhận: - Chắc chắn là không. Khi quản hầm túm lấy ngực Huynh ấy, rõ ràng là Huynh không thể dấu gì ở dưới áo được.

- Tốt. Hay cũng có thể là xấu. Nếu quyển sách không có trong phòng này, hiển nhiên đã có ai khác ngoài Malachi và quản hầm vào đây trước.

- Thế thì có một người thứ ba đã giết Severinus ư?

- Có quá nhiều người - thầy nói.

Tôi hỏi: - Nhưng mà, ai có thể biết được quyển sách nằm ở đây?

- Jorge chẳng hạn, nếu Huynh ấy nghe lén chúng ta.

- Đúng, nhưng Jorge không thể giết một người khỏe mạnh như Severinus, với một vũ lực như thế.

- Dĩ nhiên là không. Ngoài ra, con đã thấy Jorge đi về phía Đại Dinh, và toán lính đã thấy Huynh trong nhà bếp, ngay trước khi họ gặp quản hầm. Thế nên Huynh không có đủ thời giờ để đến đây rồi đi về bếp.

- Hãy để con suy nghĩ – Tôi nói, cố tình bắt chước thầy – Alinardo cũng quanh quẩn trong khu vực gần đây, nhưng lão đứng còn không vững, nên không thể áp đảo được Severinus. Quản hầm có ở đây, nhưng thời gian từ lúc hắn rời bếp đến khi toán lính ập vào quá ngắn ngủi, con nghĩ, thật khó có thể kịp gọi Severinus mở cửa, tấn công và giết người, rồi lục lạo lung tung. Malachi có thể đến trước tiên, vì Jorge nghe chúng ta nói chuyện ở tiền sảnh, bèn vào phòng thư tịch kể cho Malachi có một quyển sách của Thư viện đang ở trong phòng thí nghiệm của Severinus. Malachi đến đây, thuyết phục Severinus mở cửa và giết Huynh ấy, chỉ có Trời mới biết tại sao. Nhưng nếu Huynh tìm được sách thì nhận ra nó ngay, đâu cần lục lọi làm gì, vì Huynh là quản thư viện mà! Thế còn ai nữa?

- Benno, - thầy William nói.

Benno lắc đầu quầy quậy. – Không, thưa sư Huynh William, Huynh biết tính tôi tò mò ghê lắm. Nếu tôi đã vào đây và có khả năng đi ra cùng với quyển sách, thì tôi còn đứng đây với Huynh làm gì. Lúc này tôi sẽ chiêm ngưỡng báu vật của mình ở nơi nào khác…

Thầy William mỉm cười nói: - Lý luận khá vững vàng đấy. Tuy nhiên, Huynh cũng không biết quyển sách ấy như thế nào. Có lẽ Huynh đã giết người và bây giờ nấn ná ở đây để nhận diện quyển sách.

Mặt Benno đỏ bừng, hắn lên tiếng phản đối: - Tôi đâu phải là kẻ sát nhân!

Thầy William triết lý nói: - Mãi đến khi phạm tội giết người thì mình mới thành kẻ sát nhân. Dẫu sao, quyển sách đã mất, và điều này cũng chứng minh Huynh đã không để nó ở đây.

Nói xong, thầy quay lại ngắm nghía xác chết. Đến lúc đó, thầy mới thấm thía cái chết của người bạn mình rồi nói: - Tội nghiệp Severinus! Tôi đã nghi ngờ cả Huynh và các thuốc độc của Huynh nữa. Huynh biết trước sẽ bị bẫy thuốc độc nên đã đeo găng tay vào. Huynh sợ tai họa ở trần gian, nào ngờ nó đến từ thiên đàng…

Thấy lại nhặt chiếc lồng cầu lên và chăm chú quan sát nó: - không hiểu tại sao họ lại dùng vũ khí kỳ lạ này…

- Vì nó ngay tầm tay…

- Có lẽ. Nhưng còn có những vật khác như chai lọ, dụng cụ làm vườn… Đây là một kiểu mẫu tiêu biểu cho kỹ xảo kim loại và thiên văn học. Nó bị hỏng rồi… Lạy chúa tôi! – Thầy la lên.

- Phần thứ ba của mặt trời bị đập nát, phần thứ ba của mặt trăng và phần thứ ba của tinh tú… - Thầy trích dẫn.

Tôi thừa biết đó là từ sách Mặc khải của thánh Tông đồ John, bèn thốt lên: - Hồi kèn thứ tư.

- Đúng rồi. Trước tiên là mưa đá, rồi máu, rồi nước và bây giờ là tinh tú… Nếu đúng như vậy thì phải xem xét lại mọi việc… Kẻ sát nhân không ngẫu nhiên tấn công, mà đang theo một phương án… Nhưng có thể tưởng tượng được chăng, có một đầu óc quỉ quyệt đến nỗi chỉ ra tay giết người khi có dịp theo lời dạy trong sách Mặc khải?

- Việc gì sẽ xảy ra với hồi kèn thứ năm – Tôi kinh hoàng hỏi, óc cố nhớ lại: “Ta trông thấy một ngôi sao từ trời rơi xuống, và người đó được ban cho chìa khóa của hố sâu không đáy…”. Ai đó sẽ chết đuối trong một giếng nước à?

- Hồi kèn thứ năm còn tuyên hứa nhiều điều khác nữa. “Từ hố sâu bốc khói từ một lò nung lớn, từ đó lũ cào cào sẽ nhảy ra chích đốt loài người, nọc của chúng cũng độc như nọc bọ cạp. Bọn cào cào hình dáng trông như ngựa, đầu đội vương miện vàng, miệng mọc răng sư tử…” Kẻ sát nhân của chúng ta có thể có sẵn nhiều phương tiện khác nhau để thực hiện các lời dạy trong sách… Nhưng chúng ta không nên theo đuổi những điều hão huyền, mà nên thử nhớ lại điều Severinus nói, khi Huynh ấy báo cho chúng ta đã tìm được quyển sách…

- Thầy bảo Huynh ấy đem quyển sách đến cho thầy, Huynh nói không được…

- Huynh có nói thế và liền đó cuộc nói chuyện của chúng ta bị gián đoạn. Tại sao Huynh ấy không thể mang nhỉ? Một quyển sách mang đi đâu mà chẳng được. Và sao Huynh ấy lại đeo găng tay? Trên bìa sách có chất gì liên hệ đến thuốc độc đã giết Berengar và Venantius chăng? Một cái bẫy bí ẩn, một đầu ngón tẩm thuốc độc…

- Một con rắn!

- Sao không phải là cá voi chứ? Không, chúng ta lại theo đuổi những điều hão huyền rồi. Như chúng ta thấy, thuốc độc phải ngấm vào bằng đường miệng. Ngoài ra, Severinus không nói chính xác rằng không thể mang sách đó đến được, mà chỉ nói muốn cho thầy xem nó ở đây. Sau đó, Huynh mang găng tay vào… Như thế, chúng ta biết phải mang găng tay mới cầm sách được. Benno, nếu Huynh tìm được quyển sách như vẫn hằng hy vọng, thì Huynh cũng làm như thế. Vì Huynh rất sốt sắng, nên hãy giúp tôi thêm điều này. Trở lại phòng thư tịch và theo dõi Malachi. Chớ để Huynh ấy lọt khỏi mắt Huynh.

- Xin vâng! – Benno đáp và đi ra, trông có vẻ vui sướng vì nhiệm vụ mới.

Chúng tôi không thể cầm chân các tu sĩ khác lâu hơn nữa, nên họ tràn vào phòng. Đã qua giờ ăn, có lẽ Bernard đang nhóm phiên tòa trong phòng nguyện. Thầy William nói: - Chúng ta chẳng làm gì được hơn.

Ra khỏi bệnh xá, hai thầy trò vất bỏ cái giả thuyết nghèo nàn của tôi. Khi băng qua vườn rau, tôi hỏi thầy có thực tin Benno không. Thầy đáp:

- Không hẳn, nhưng điều mà chúng ta bảo thì Huynh ấy đã biết rồi, và chúng ta đã làm Huynh ấy sợ quyển sách. Rốt cuộc, bảo Huynh ấy rình Malachi, chúng ta cũng khiến Malachi theo dõi Huynh ấy, hiển nhiên chính Malachi cũng đang tự tay tìm quyển sách.

- Vậy thì quản hầm muốn gì?

- Rồi chúng ta sẽ biết. Dĩ nhiên hắn cần một vật gì đó và cần nó ngay để thoát khỏi mối nguy hiểm đang đe dọa. Vật này chắc Malachi phải biết, nếu không, làm sao giải thích được sự van xin khẩn khoản của Remigio…

- Dẫu sao, quyển sách đã biến mất…

- Đây là một việc kỳ cục nhất. – Thầy William nói, khi chúng tôi đến nhà nguyện. – Nếu quyển sách ở đó, như Severinus đã nói, thì hoặc giả nó đã bị lấy đi hay vẫn còn ở đó.

Tôi kết luận: - Vì nó không có ở đấy, vậy có người đã lấy nó đi.

- Cũng có thể suy luận trên một bình diện nhỏ hơn. Vì mọi bằng chứng đều khẳng định rằng không ai có thể lấy nó đi…

- Vậy thì nó vẫn ở đó. Nhưng nó lại không có đó.

- Khoan đã. Chúng ta nói nó không có đó vì chúng ta đã không tìm thấy nó. Nhưng có lẽ chúng ta không tìm ra vì không thấy nó nằm ở chỗ nào.

- Nhưng chúng ta đã tìm khắp nơi mà!

- Chúng ta tìm, nhưng không thấy. Hay là thấy, mà không nhận ra… Adso, Severinus tả quyển sách như thế nào? Huynh ấy nói câu gì?

- Huynh ấy bảo đã tìm thấy một quyển sách không phải của mình, bằng tiếng Hy Lạp.

- Không! Thầy nhớ ra rồi. Huynh ấy bảo một quyển sách lạ. Đối với người học thức như Severinus thì một quyển sách bằng tiếng Hy Lạp chẳng có gì lạ, cho dù Huynh ấy không biết tiếng Hy Lạp thì vẫn có thể nhận ra mặt chữ. Và một học giả cũng không gọi một quyển sách Ả Rập là lạ lùng, dù người ấy không biết tiếng Ả Rập chăng nữa…

Thầy ngưng nói – Sao lại có quyển sách Ả Rập trong phòng thí nghiệm của Severinus?

- Nhưng sao Huynh ấy gọi quyển sách Ả Rập là lạ?

- Đó mới là vấn đề. Nếu Huynh ấy gọi nó là lạ lùng thì do vì nó trông lạ lùng, ít ra là đối với Huynh ấy, một dược thảo sư, chớ không phải quản thư viện… Trong thư viện có thể có nhiều quyển sách xưa, đóng lại thành một tập, gồm những bài lạ lùng khác nhau, bài thì tiếng Hy Lạp, bài thì tiếng Xy-ri…!

- …Và bài thì tiếng Ả Rập! – Tôi hét lên, choáng váng vì sự sáng ý này.

Thầy William lôi tôi xềnh xệch ra khỏi tiền sảnh và đẩy tôi chạy về phía bệnh xá.

- Đồ quỉ Đức! Đồ ngỗng đực! Đồ ngu! Mi chỉ nhìn những trang đầu mà không xem hết.

Tôi há hốc mồm cãi lại: - Nhưng thưa thầy, chính thầy là người xem những trang con đưa và bảo nó là tiếng Ả Rập chớ không phải Hy Lạp.

- Đúng thế, Adso, thầy mới chính là đồ quỉ. Nào lẹ lên! Chạy!

Chúng tôi trở lại phòng thí nghiệm, nhưng vất vả lắm mới vào được, vì các tu sinh đang khiêng xác ra. Những người hiếu kỳ khác đang đi lung tung trong phòng. Thầy William chạy xổ đến chiếc bàn và nhặt các quyển sách lên để tìm quyển sách giết người. Thầy quăng đi hết quyển này đến quyển kia trước đôi mắt kinh ngạc của những người có mặt, rồi lại mở chúng ra đóng chúng lại. Than ôi, quyển sách Ả Rập không còn ở đó nữa. Tôi chỉ lờ mờ nhớ quyển sách bìa cũ, không cứng cáp, mòn nhiều, bọc những nẹp kim khí mỏng.

- Ai đã vào đây sau khi tôi đi? – Thầy William hỏi một tu sĩ. Người này nhún vai: rõ ràng ai muốn vào thì vào, sao biết đấy là ai.

Chúng tôi cố suy nghĩ các khả năng có thể xảy ra. Malachi ư? Có thể. Quản thư viện biết vật mình cần, có lẽ đã rình thấy chúng tôi đi ra tay không, bèn quay lại, đầy tự tin. Còn Benno? Tôi nhớ khi thầy trò tôi chế giễu nhau về quyển sách tiếng Ả Rập, Huynh ấy đã cười khúc khích. Lúc ấy tôi tưởng Huynh cười sự dốt nát của tôi, nhưng có lẽ Huynh cười vì sự ngờ nghệch của thầy: Huynh đã biết rõ những lớp vỏ khác nhau ngụy trang các bản viết xưa, và có lẽ đã nắm được cái điều mà khi ấy chúng tôi chưa kịp nghĩ ra – đó là, Severinus không biết tiếng Ả Rập và do đó sẽ thật kỳ quặc nếu Huynh ấy giữ trong đám sách của mình một quyển sách không đọc được. Hay có một người thứ ba chăng.

Thầy William ngượng chín người. Tôi cố an ủi thầy, bảo suốt ba ngày nay thầy đã tìm kiếm một quyển sách Hy Lạp thì đương nhiên là khi xem xét, thầy phải loại đi tất cả các sách không phải tiếng Hy Lạp. Thầy đáp rằng con người tất phải sai lầm, nhưng có những kẻ sai lầm hơn người khác bị gọi là ngốc, trong đó có thầy. Thầy tự hỏi, không biết một người không có khả năng nghĩ ra rằng các bản văn cũng được đóng thành bộ, điều mà ngay cả tu sinh cũng biết, trừ những thằng ngu như tôi, người ấy có xứng đáng theo học ở Paris và Oxford không? Hai tên hề như thầy trò tôi sẽ thành công vẻ vang tại các chợ phiên, và chúng tôi nên theo nghề đó thay vì đi gỡ rối các bí ẩn, nhất là chúng tôi còn phải đấu trí với những kẻ khôn ngoan hơn mình nhiều. Thầy kết luận:

- Than vãn cũng chẳng ích chi. Nếu Malachi lấy sách thì Huynh ấy đã trả nó cho Thư viện. Và chúng ta chỉ tìm ra nó nếu biết cách xâm nhập “finis Africae”. Nếu Benno lấy sách, Huynh ấy phải suy đoán rằng trước sau gì thầy cũng nghi ngờ và sẽ trở lại phòng thí nghiệm và như thế Huynh ấy phải vội vã hành động ngay. Vậy Huynh ấy phải đang cất giấu nó, và ắt hẳn không giấu nó trong phòng mình, là nơi mà chúng ta sẽ đến thẳng để tìm gặp. Thôi, hãy trở lại nhà nguyện, xem thử trong cuộc hỏi cung, quản hầm có khai điều gì hữu ích không. Dẫu sao, thầy vẫn chưa rõ kế hoạch của Bernard, hắn lùng bắt nạn nhân của mình trước khi Severinus chết, hẳn vì những lý do khác.

Chúng tôi trở về nhà nguyện. Lẽ ra chúng tôi nên đến phòng Benno, vì sau này chúng tôi mới biết, anh bạn trẻ này không đánh giá cao thầy William và không ngờ thầy quay lại phòng thí nghiệm nhanh như thế. Nghĩ rằng mình không bị lùng kiếm trong khu vực đó, Benno đi thẳng về phòng để giấu quyển sách.

Nhưng tôi sẽ kể việc này sau. Trong lúc này, nhiều biến cố rối ren và quan trọng đang diễn ra, khiến mọi người tạm quên đi quyển sách bí ẩn. Dầu không quên nó, chúng tôi đã bị lôi cuốn vào những trách nhiệm khẩn cấp khác liên quan đến sứ mệnh mà thầy William chung qui hoàn thành.

Chú thích:

(1) “De plantis libri tres ”

(2) “Thesaurus herbarum ”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,133
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 56


KINH XẾ TRƯA

Tác giả: Umberto Eco

Công lý được thi hành,

nhưng mọi người ngượng nghịu

nghĩ rằng mình lầm.

Bernard Gui ngồi ngay chính giữa bàn gỗ gụ trong phòng nguyện. Bên cạnh là một tu sĩ dòng Dominic giữ nhiệm vụ lục sự ghi chép, và hai giám mục trong phái đoàn giáo hoàng ngồi hai bên, giữ vai thẩm phán. Quản hầm đứng trước bàn, giữa hai tên lính.

Tu viện trưởng quay sang thầy William thầm thì: - Cha không biết thủ tục tòa này có hợp pháp chăng. Hội đồng Lateran năm 1215 trong Giáo điều thứ 37 đã qui định không ai có thể bị gọi trình tòa trước những thẩm phán mở pháp đình cách xa nhà phạm nhân hơn hai ngày đường. Ở đây hoàn cảnh có lẽ khác, chính thẩm phán từ xa đến, nhưng…

Thầy William nói: - Phán quan được miễn trừ mọi thủ tục pháp lý thông thường, và không theo các tiền lệ của thường luật. Người ấy được hưởng đặc quyền và thậm chí không bị buộc phải nghe các luật sư biện hộ.

Tôi nhìn Quản hầm. Remigio trông tiều tụy. Hắn nhìn quanh như một con thú hoảng hốt đang nhận ra các hoạt động của một nghi thức hiến tế làm hắn sợ hãi. Bây giờ, tôi biết hắn sợ vì hai lý do đều khủng khiếp như nhau, thứ nhất, mọi người đều thấy hắn bị bắt quả tang phạm tội, thứ hai, hôm trước khi Bernard khởi sự điều tra, góp nhặt các lời đồn đại và bóng gió, Remigio đã e ngại quá khứ của hắn sẽ bị phơi bày, hắn càng hoảng hốt hơn khi thấy Salvatore bị bắt.

Nếu Remigio bị dày vò sợ hãi, thì phần Bernard Gui, hắn biết cách biến nỗi sợ hãi của nạn nhân thành cơn kinh hoàng. Hắn im lặng khi ai cũng tưởng hắn sắp bắt đầu cuộc thẩm vấn. Hắn đặt tay lên những tờ giấy trước mặt, giả vờ như sắp xếp chúng, nhưng một cách lơ đãng. Hắn nhìn bị can chằm chặp, cái nhìn có lẫn vẻ bao dung đạo đức giả, sự châm biếm lạ lùng và vẻ khắc nghiệt không thương tiếc. Tất cả những điều này quản hầm đều đã biết, nhưng vẻ im lặng và trì hoãn của phán quan khiến hắn càng hiểu chúng thấm thía hơn. Càng cảm thấy nhục nhã thì nỗi bồn chồn sẽ biến thành tuyệt vọng, và hắn sẽ hoàn toàn lệ thuộc vào quan tòa như thỏi sáp mềm trong tay người.

Cuối cùng Bernard phá tan bầu không khí im lặng. Hắn thốt lên vài câu nói theo thủ tục xử án, thưa cùng các thẩm phán rằng, nay họ có thể tiến hành cuộc hỏi cung bị can liên quan đến hai tội ác cùng gớm ghiếc như nhau, một tội thì ai cũng thấy rành rành, nhưng không ghê tởm bằng tội kia, bị can bị bắt trong khi giết người, và trong lúc thật sự bị truy tầm về tội phản giáo.

Lời đã phán. Quản hầm lấy tay che mặt, và khó khăn lắm mới nhấc tay được vì đã bị xiềng. Bernard bắt đầu hỏi:

- Ngươi là ai?

- Remigio xứ Varagine. Con năm mươi hai tuổi, nhập chủng viện dòng Khất thực ở Varagine khi còn bé.

- Thế sao ngày nay ngươi lại ở trong dòng Benedict?

- Cách đây nhiều năm, khi giáo hoàng ban hành “Sắc lệnh La Mã ” (1) con sợ bị nhiễm nọc dị giáo của các Anh em Nghèo khó… mặc dù con chưa hề cùng quan điểm với họ… Con nghĩ, tâm hồn tội lỗi của mình nên lánh xa cái không khí đầy cám dỗ ấy, nên xin vào đây và được đón nhận vào tập thể các tu sĩ trong tu viện này, nơi con đã phục vụ hơn tám năm trời với chức quản hầm.

Bernard chế nhạo: - Ngươi thoát khỏi các cám dỗ của bọn dị giáo, hay nói đúng ra, ngươi đã thoát được cuộc điều tra quyết tâm phát hiện bọn dị giáo và nhổ tận gốc chúng. Các tu sĩ dòng Cluniac tốt bụng đã mở lòng nhân hậu nhận ngươi và những người như ngươi vào. Nhưng đổi lớp áo dòng không đủ để xóa đi con quỉ dị giáo sa đọa trong tâm hồn, do đó, nay chúng tôi nhóm toà tại đây để tìm hiểu những gì đang rình rập ẩn nấp trong các ngõ ngách sâu kín của tâm hồn xấc láo của ngươi, và người đã làm gì trước khi đến chốn linh thiêng này.

Quản hầm thận trọng nói: - Linh hồn con vô tội và con không hiểu Ngài nói sự sa đọa dị giáo là có ý gì?

- Thấy chưa? – Bernard hét lên, quay sang nói với các thẩm phán. – Chúng đều một phường với nhau mà. Khi bị bắt, chúng đối mặt với công lý như thể lương tâm mình thanh thản, chẳng có gì ân hận cả. Chúng đâu có biết rằng, đó là dấu hiệu hiển nhiên tố cáo tội ác của bọn chúng, vì một người lương thiện khi hầu tòa đều phải bồn chồn bối rối! Hỏi hắn xem có biết tại sao ta ra lệnh bắt hắn không. Ngươi có biết không, Remigio?

Quản hầm đáp: - Thưa ngài, con rất sung sướng nếu Ngài cho con hay.

Tôi ngạc nhiên, vì quản hầm đối đáp lại những câu hỏi nghi thức bằng những lời lẽ cũng lễ nghi không kém, cứ như hắn rất thạo các thủ tục hỏi cung và các mẹo đánh bẫy của nó, và đã được đào tạo một thời gian dài để đương đầu với bất kỳ tình huống nào có thể xảy ra như thế này.

Bernard hét lên:

- Kìa, đó là lối trả lời đặc trưng của bọn dị giáo hỗn láo! Chúng quỉ quyệt như cáo xóa xấu chân và rất khó bắt nọn chúng, vì đức tin của chúng cho phép chúng được quyền nằm ẩn tránh né sự trừng phạt. Chúng lập lại những câu trả lời vòng vo, cố đánh bẫy phán quan, người phải chịu đựng cảnh quan hệ với những kẻ đáng tởm như vậy. Này Remigio, ngươi chẳng bao giờ liên hệ với những người gọi là Anh em Nghèo khó hay các thày dòng khổ hạnh, hay các tu sĩ Beghard phải không?

- Con đã trải qua những nỗi thăng trầm của dòng Khất thực khi xảy ra cuộc tranh cãi triền miên về sự cơ nghèo, nhưng con chưa bao giờ gia nhập giáo phái Beghard cả!

- Thấy chưa, hắn chối chưa bao giờ gia nhập giáo phái Beghard cả, vì giáo phái này, tuy cũng mang tính chất dị giáo như giáo phái Anh em Nghèo khó, lại xem dòng Anh em nghèo khó là một nhánh chết của dòng Francisco, nên tự nhận mình thanh khiết và hoàn thiện hơn. Nhưng nhiều hoạt động của giáo phái Beghard cũng giống như của giáo phái kia thôi! Remigio, ngươi có chối rằng người ta đã từng thấy ngươi khi cầu nguyện trong nhà thờ thì ngồi sụp xuống, ép mặt vào tường, hay nằm dài ra mũ che kín đầu, chớ không quỳ gối khoanh tay lại như những tu sĩ khác chăng?

- Trong dòng thánh Benedict, các tu sĩ cũng nằm dài cầu nguyện, vào những lúc thích hợp…

- Ta không hỏi ngươi làm gì vào những lúc thích hợp, mà vào lúc không thích hợp kia! Do đó, đừng chối rằng ngươi đã giữ một dáng bộ này nọ đặc trưng của giáo phái Beghard… Này, hãy khai đi: ngươi tin gì?

- Thưa ngài, con tin mọi điều mà một con chiên ngoan đạo tin.

- Nghe thành kính gớm nhỉ! Thế con chiên ngoan đạo tin gì?

- Điều mà Giáo hội răn dạy.

- Giáo hội nào? Giáo hội của bọn tín đồ tự nhận mình là hoàn thiện, bọn Tông đồ giả danh, bọn Anh em Nghèo khó dị giáo, hay Giáo hội mà bọn chúng đã so sánh với con điếm thành Babylon, Giáo hội mà tất cả chúng ta đều thành tâm tin tưởng?

Quản hầm hoang mang nói: - Thưa ngài, xin bảo cho con biết Ngài tin Giáo hội nào là chân chính.

- Ta tin đó là Giáo hội La Mã, giáo hội thánh thiện duy nhất của các Tông đồ, được Giáo hoàng và các Giám mục của Người lãnh đạo.

- Con cũng tin như thế.

Phán quan hét lên: - Khôn lanh khiếp nhỉ! Xảo quyệt khiếp nhỉ! Các Huynh thảy đều nghe hắn chứ! Hắn muốn nói hắn tin điều tôi tin tưởng ở giáo hội này, để tránh né khỏi phải khai ra hắn tin gì! Nhưng, chúng tôi đã rành những trò cáo già này rồi! Thôi, hãy đi vào trọng tâm. Ngươi có tin rằng Giáo hoàng đã ban hành rằng muốn thực lòng ăn năn, ngươi phải xưng tội với các tôi tớ của Chúa, và giáo hội La Mã có quyền lực thắt buộc trên trần gian này những gì sẽ được thắt buộc trên thiên đàng?

- Chẳng lẽ con không phải tin những điều đó sao?

- Ta không hỏi ngươi “phải’ tin điều gì, mà hỏi ngươi tin gì!

Quản hầm hoảng sợ nói:

- Con tin mọi điều Ngài và các học giả tài ba khác bảo con tin.

- À! Nhưng những học giả tài ba ngươi nhắc đến đó có phải là những người lãnh đạo giáo phái của ngươi không? Khi nói đến các học giả tài ba, có phải ý ngươi muốn ám chỉ thế không? Có phải những tên láo toét sa đọa đó là những kẻ ngươi đã đi theo để tìm ra đức tin của mình? Ngươi muốn ám chỉ rằng, nếu ta tin những điều chúng tin thì ngươi sẽ tin ta, nếu không, ngươi sẽ tin mình chúng thôi!

Quản hầm lắp bắp: - Thưa Ngài, con không nói thế. Ngài khiến con nói thế. Con sẽ tin Ngài, nếu Ngài dạy con điều tốt lành.

- Quân xấc xược! – Bernard thét lên, giộng nắm tay lên bàn, - Ngươi ngoan cố nhắc lại từ trong ký ức những công thức mà chúng đã dạy ngươi trong giáo phái. Ngươi nói, ngươi sẽ chỉ tin ta nếu ta giảng dạy những gì mà giáo phái ngươi cho là tốt lành. Bọn Tông đồ giả danh đã trả lời như thế, và bây giờ ngươi cũng đối đáp hệt như thế, có lẽ một cách vô ý thức, vì từ miệng ngươi lại trào lên những lời lẽ mà ngày xưa ngươi đã được dạy để đánh lừa các phán quan. Thế nên chính miệng ngươi đã buộc tội ngươi, và nếu ta không dùng kinh nghiệm phán xử thì đã lọt bẫy ngươi rồi… Nhưng, này tên sa đọa kia, hãy đi vào vấn đề chính! Ngươi có bao giờ nghe nói đến Gherrardo Segarelli xứ Parma không?

- Con có nghe nói đến người ấy, - Quản hầm đáp, mặt xanh lè, nếu người ta vẫn còn nhận được cái vẻ tái nhợt trên gương mặt tan nát ấy.

- Ngươi có bao giờ nghe nói đến Fra Dolcino xứ Novara?

- Con có nghe người ta nói đến.

- Ngươi có bao giờ gặp mặt và nói chuyện với gã chưa?

Quản hầm lặng đi vài giây, như thể đo thử hắn nên tiến bao xa khi khai ra một phần sự thật. Rồi hắn quyết định và yếu ớt cất tiếng: - Con đã gặp và nói chuyện với người ấy.

Bernard hét: - Nói lớn lên! Hãy để một lời thực cuối cùng sẽ thoát khỏi miệng ngươi! Ngươi nói chuyện với gã khi nào?

- Thưa Ngài, con lúc ấy là tu sĩ trong một tu viện gần Novara, bọn Dolcino tụ tập trong khu vực đó, và đi ngang tu viện của con, ban đầu không ai biết rõ chúng là ai…

- Nói láo! Làm thế nào mà một tu sĩ Francisco xứ Varagine lại ở trong tu viện vùng Novara được chứ? Ngươi không ở trong tu viện, lúc ấy ngươi đã là một tên trong nhóm Anh em nghèo khó lang thang, sống nhờ của bố thí khắp vùng đó, và ngươi đã gia nhập bọn Dolcino!

Quản hầm run rẩy nói: - Sao ngài lại khẳng định như thế chứ?

- Ta sẽ cho ngươi thấy ta có thể, không, ta khẳng định điều đó như thế nào. – Đoạn Bernard ra lệnh đem Salvatore vào.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,133
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 57


KINH XẾ TRƯA (tt)

Tác giả: Umberto Eco

Hình ảnh của kẻ bất hạnh ấy – kẻ đã bị Bernard đích thân hỏi cung suốt đêm, tuy không công khai, nhưng lại ác nghiệt hơn cuộc hỏi cung này – khiến tôi động lòng thương cảm. Như tôi đã tả, bộ mặt Salvatore bình thường trông đã dễ sợ, nhưng buổi sáng nay, nó càng giống loài thú hơn bao giờ hết. Mặc dù thân thể xiềng xích của gã lê đi không muốn nổi, chân tay lòng khòng loẻo khẻo, chẳng lộ vẻ gã đã chịu đựng bạo lực nào, nhưng cách bọn lính lôi gã đi xềnh xệch như lôi một con khỉ bị trói bằng thừng, cho thấy rất rõ cuộc hỏi cung kinh hoàng được tiến hành ra sao.

Tôi thì thầm với thầy William.

- Bernard đã tra tấn hắn…

- Đâu có. Phán quan không bao giờ tra tấn, việc giam cầm, hành hình bị cáo luôn luôn được giao cho thế quyền.

- Thì cũng thế thôi!

- Không phải thế. Nó khác, vì tay của phán quan vẫn trong sạch, vì khi phán quan đến thì bị cáo đột nhiên tìm được nơi nương tựa làm dịu đi những vết đau, thế nên sẽ thổ lộ lòng mình.

Tôi nhìn thầy, hoảng sợ nói: - Thầy chỉ đùa.

- Đây là chuyện đùa sao?

Bernard đang hỏi cung Salvatore, và ngòi bút của tôi không thể ghi lại những lời nói vụn vỡ của gã. Lời lẽ của gã rối loạn, hỗn độn như tiếng kêu của một con khỉ đầu chó, mọi người vất vả lắm mới hiểu nổi. Bernard dẫn dắt những câu hỏi, khiến Salvatore chỉ có thể trả lời “có” hoặc “không”, và do đó không thể nói dối được tí gì. Và, điều Salvatore nói thì quí độc giả cũng có thể hình dung dễ dàng. Gã kể, hay gã khẳng định những gì gã đã kể đêm nọ, một phần của câu chuyện tôi đã kết lại: những ngày lang thang của một tu sĩ Anh em nghèo khó, Chăn chiên, và Tông đồ giả danh, làm thế nào trong thời Fra Dolcino, gã đã gặp được Remigio trong nhóm này, rồi trốn theo hắn, tham gia trong trận chiến trên núi Rebello, và sau nhiều nỗi thăng trầm, đã trú ẩn trong tu viện Casale. Gã còn nói thêm rằng thủ lĩnh dị giáo Dolcino, khi gần thua trận bị bắt, đã ủy thác cho Remigio một số lá thơ để hắn mang đi đâu, đưa ai gã không biết. Remigio lúc nào cũng mang kè kè những lá thơ này bên mình, chẳng dám đưa cho ai, khi đến tu viện này, hắn sợ không dám giữ trong người nhưng cũng không muốn hủy chúng đi, nên đã ủy thác lại cho quản thư viện, vâng, cho Malachi, và người này phải giấu chúng nơi nào đó sâu kín trong Đại Dinh.

Khi Salvatore nói, quản hầm căm ghét nhìn gã, và đôi khi không kìm lại được đã hét lên: - Đồ rắn rít, đồ quỉ dâm dục; ta là cha của ngươi, là bạn, là người che chở cho ngươi, mà nay ngươi đền ơn cho ta như thế đó!

Salvatore nhìn người đã bảo vệ cho mình, giờ đang cần được bảo vệ, cố gắng nói:

- Cha Remigio, khi có thể, con là người của cha… Nhưng cha biết, bọn đàn em của tên trưởng toán lính mà;…

Remigio lại thét vào mặt gã:

- Đồ điên! Ngươi tưởng tự cứu được mình hả? Ngươi có biết rồi ngươi cũng sẽ chết như một kẻ dị giáo không? Hãy nói những điều ngươi khai khi bị tra tấn chỉ toàn là bịa đặt đi!

- Con không phải người có chữ nghĩa… Con phạm tội không có tà tâm, và Ngài Bernard cao quí biết mà, nhân danh Cha và con và các thánh thần, con mong Ngài bao dung…

Phán quan đáp: - Chúng tôi sẽ bao dung trong giới hạn tòa cho phép, và sẽ khoan hồng xem xét thiện chí khai thật lòng của ngươi. Giờ hãy về phòng suy nghĩ thêm và tin vào ơn huệ của Chúa. Còn bây giờ, chúng ta hãy bàn đến một vấn đề có tầm quan trọng hoàn toàn khác. Này Remigio, thế là ngươi có mang theo mình vài lá thơ của Dolcino, và đã trao chúng cho tu sĩ anh em quản thư viện…

- Không đúng. Không đúng! – Quản hầm la lên, tưởng như cách tự vệ vẫn còn hiệu quả. Nhưng Bernard đã cắt ngang: - Ngươi không phải là người phải khẳng định điều này đâu, người ấy sẽ là Malachi xứ Hildesheim.

Bernard sai lính gọi Malachi đến, nhưng quản thư viện không có trong số những người đang hiện diện. Tôi biết Malachi hoặc đang ở trong phòng thư tịch, hoặc lảng vảng gần bệnh xá để lùng kiếm Benno và quyển sách. Khi lính đưa Huynh ấy đến, mặt Huynh phờ phạc và cố tránh nhìn mọi người. Thầy William buồn rầu lẩm bẩm:

- Thế là bây giờ Benno tự do làm gì tùy thích.

Nhưng thầy đã lầm. Tôi thấy Benno đang nghểnh cổ nhìn qua vai các tu sĩ đang chen chúc nhau quanh cánh cửa tiền sảnh để theo dõi cuộc hỏi cung. Tôi chỉ cho thầy William thấy. Chúng tôi nghĩ Benno còn tò mò muốn tìm hiểu các diễn biến đang xảy ra còn hơn cả quyển sách nữa. Về sau, chúng tôi mới biết, đến khi đó, Benno đã ngã giá xong một vụ trao đổi tồi bại.

Malachi xuất hiện trước tòa, mắt không bao giờ chạm mắt quản hầm. Bernard nói:

- Này Malachi, sáng hôm nay, sau khi nghe Salvatore thú tội đêm qua, ta đã hỏi xem Huynh có nhận được từ bị cáo hiện đang có mặt đây những thơ từ gì không…

Quản hầm la lên: - Malachi! Huynh đã thề sẽ không làm gì hại tôi mà!

Malachi xoay nhẹ về phía bị cáo, lúc ấy đang ở sau lưng, và nói, giọng trầm đến độ tôi vất vả lắm mới nghe ra: - Nếu tôi có thể làm gì đó để hại Huynh, thì việc đó đã được làm rồi. Các lá thơ đã được trao cho Ngài Bernard sáng nay, trước khi Huynh giết Severinus…

- Nhưng Huynh biết, Huynh phải biết là tôi không giết Severinus! Huynh biết vì Huynh ở đó trước tôi mà!

- Tôi ư? Tôi đến đó sau khi họ đã phát hiện Huynh.

Bernard cắt ngang: - Cứ cho là như vậy đi Remigio, thế ngươi đang tìm gì trong phòng thí nghiệm của Severinus?

Quản hầm hoang mang xoay nhìn thầy William rồi Malachi, rồi lại Bernard:

- Nhưng, sáng hôm nay con… tôi nghe sư huynh William có mặt ở đây bảo Severinus canh giữ một số giấy tờ gì đó... và từ tối qua, khi Salvatore bị bắt, con e ngại những bức thư đó…

Bernard đắc thắng reo lên:- Thế thì ngươi có biết về những lá thơ đó!

Đến đây, quản hầm rơi vào bẫy. Hắn bị kẹt giữa hai sự lựa chọn: một là, minh oan cho tội dị giáo, hai là, xóa tan sự nghi ngờ đã giết người. Theo bản năng, hắn chắc hẳn đã quyết định chống chế tội thứ hai, thế nên hắn đang tìm cách tự bào chữa:

- Con sẽ nói về những lá thơ đó sau… Con sẽ giải thích… Con sẽ kể làm sao tôi có được chúng… Nhưng hãy nghe con nói chuyện xảy ra sáng nay. Khi thấy Salvatore rơi vào tay Ngài Bernard, con nghĩ người ta sẽ bàn về những lá thơ đó, bao nhiêu năm nay rồi, mỗi khi nghĩ đến chúng, tâm can con lại bị dày vò… Rồi, khi nghe sư huynh William và Severinus nói về giấy tờ gì đó... biết nói sao... con kinh hoảng quá, nghĩ rằng Malachi muốn tống khứ chúng nên đã giao cho Severinus… Con muốn thủ tiêu chúng, nên đến chỗ Severinus… Cửa mở ngỏ và Severinus đã chết rồi, con liên tục lục lạo khắp đồ đạc để tìm các lá thơ… Con chỉ sợ rằng…

Thầy William rỉ tai tôi : - Rõ ngốc, sợ tai họa này thì lao đầu vào tai họa kia…

Bernard xen lời: - Cứ cho rằng ngươi đã khai gần hết sự thật, ta bảo gần hết thôi nhé. Ngươi tưởng Severinus đang giữ những lá thơ đó và lục tìm chúng trong phòng thí nghiệm. Tại sao ngươi nghĩ Huynh ấy giữ thơ? Tại sao ngươi lại giết các tu sĩ khác? Có lẽ ngươi nghĩ các lá thơ đó đã có lần chuyển qua tay những người này chăng? Có lẽ tu viện này có thói thu nhập tàn tích của bọn dị giáo bị hỏa thiêu chăng?

Tôi thấy Tu viện trưởng giật bắn người. Không có gì tồi tệ bằng lời buộc tội đã gom góp các tàn tích của bọn dị giáo, và Bernard đã quỉ quyệt gán ghép các án mạng với tội dị giáo, và mọi chuyện khác với đời sống trong tu viện. Dòng suy nghĩ của tôi bị cắt đứt, vì quản hầm la lên rằng hắn không có liên quan gì đến các án mạng kia cả. Bernard nhẹ nhàng trấn an hắn: tạm thời, việc này không phải là điều họ đang bàn đến, họ đang hỏi cung Remigio về tội dị giáo, do đó hắn chớ nên đánh lạc hướng để người ta khỏi chú ý đến quá khứ dị giáo của mình bằng cách kể chuyện Severinus hay gieo ngờ vực cho Malachi. Thế nên hắn phải quay lại chuyện các lá thơ.

Bernard nói với nhân chứng:

- Malachi, ở đây Huynh không phải là bị cáo. Sáng nay, Huynh đã trả lời các câu hỏi của tôi theo yêu cầu, và không hề giấu diếm điều gì. Bây giờ, tại đây, Huynh hãy lập lại những điều đã nói ban sáng và chớ sợ hãi chi.

Malachi nói: - Tôi xin lặp lại những điều đã nói sáng nay. Một thời gian ngắn sau khi Remigio đến đây, Huynh ấy lo quản nhà bếp, và chúng tôi thường gặp nhau vì nhiệm vụ - là một quản thư viện, tôi được giao trách nhiệm ban đêm đóng cửa Đại Dinh, và do đó cả nhà bếp nữa. Tôi không có lý do gì để phủ nhận tình bạn thân thiết giữa chúng tôi, và cũng không có lý do gì để ngờ vực người này, Huynh ấy bảo hiện đang giữ vài tài liệu bí mật, được người ta xưng tội ủy thác lại, những tài liệu này không được rơi vào bàn tay phàm tục và Huynh không dám giữ trong người. Vì tôi hiện đang quản nơi duy nhất trong tu viện cấm mọi người đến, Huynh nhờ tôi giữ các giấy tờ đó sao cho khỏi ai nhòm ngó. Tôi đồng ý, không hề nghi ngờ đó là các tài liệu dị giáo, khi cất chúng đi, tôi cũng chẳng hề đọc… Tôi cất chúng vào nơi sâu kín nhất trong các phòng bí mật của Thư viện, và sau đó quên bẵng đi cho đến sáng nay, khi Ngài phán quan đề cập với tôi các giấy tờ đó, thế là tôi đem chúng ra, trao lại cho Ngài…

Tu viện trưởng nhíu mày, ngỏ lời: - Tại sao Huynh không báo cho Cha biết sự thỏa thuận giữa con và quản hầm? Thư viện đâu phải là nơi để tàng trữ những vật riêng của tu sĩ! – Tu viện trưởng làm sáng tỏ rằng việc này không liên quan đến tu viện.

Malachi bối rối đáp: - Thưa Cha, con nghĩ việc ấy không quan trọng lắm. Con vô tình phạm tội.

Bernard thân thiện nói: - Dĩ nhiên, dĩ nhiên rồi. Chúng ta thảy đều tin rằng quản thư viện đã hành động vì thiện ý, và sự thành thật hợp tác với phiên tòa này là bằng chứng cụ thể. Tôi thành tâm van xin Cha Bề trên chớ trừng phạt Huynh ấy vì một hành động thiếu cẩn trọng trong quá khứ. Chúng tôi tin Malachi, và yêu cầu Huynh ấy tuyên thệ xác nhận rằng, những giấy tờ tôi sắp trình ra đây là những giấy tờ Huynh ấy trao cho tôi sáng nay, do Remigio ủy thác cho Huynh ấy nhiều năm trước đây, sau khi hắn đến tu viện này. – Bernard trương lên hai mảnh da trong số giấy tờ nằm trên bàn. Malachi nhìn và xác nhận: - Tôi xin thề với Chúa Toàn Năng và Đức Mẹ Đồng Trinh và tất cả Thánh thần rằng, đó chính là các giấy tờ tài liệu, xưa nay đều y vậy.

- Thế đủ rồi. Malachi, Huynh được phép lui.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,133
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 58


KINH XẾ TRƯA (tt)

Tác giả: Umberto Eco

Ngay trước khi Malachi đi đến cửa, đầu cúi gầm, thì từ đám đông hiếu kỳ chen chúc phía dưới tiền sảnh, vang lên một giọng nói:

- Đi giấu giùm thư cho người ta, rồi người ta dẫn xuống bếp cho xem đít tu sinh.

Đây đó có người cười lên, Malachi vội vã đi ra, lấn người này, đẩy người kia. Tôi dám chắc đó là giọng Aymaro, nhưng Huynh ấy đã hét lên giọng the thé. Tu viện trưởng mặt đỏ nhừ, la lên ra lệnh yên lặng, đe dọa sẽ nghiêm khắc trừng trị mọi người, và đuổi họ ra khỏi tiền sảnh. Bernard cười ranh mãnh. Hồng Y Bertrand, ngồi ở một phía, cúi xuống thì thầm vào tai Jean d’Anneaux điều gì đó, Jean lấy tay che miệng và cúi đầu như thể đang ho. Thầy William bảo tôi: - Quản hầm không chỉ phạm tội dâm dục cho riêng mình, mà còn làm ma cô dắt mối nữa. Nhưng Bernard không cần đếm xỉa đến điều đó trừ phi nó khiến Tu viện trưởng, người trung gian của triều đình, phải ngượng ngùng…

Thầy chưa nói dứt lời, Bernard đã hỏi thẳng: - Thưa Sư huynh William, tôi cũng rất quan tâm muốn biết Huynh và Severinus đang nói đến loại giấy tờ gì sáng nay thì Quản hầm nghe trộm và hiểu lầm.

Thầy William nhìn trừng trừng lại: - Quả thực Huynh ấy hiểu lầm tôi. Chúng tôi đang nói đến một bản sao luận thuyết về Chó dại của Ayyub al–Ruhawi, một quyển sách vô cùng uyên bác mà hẳn Ngài đã biết tiếng và hẳn rất hữu ích cho Ngài. Ayyub nói bệnh chó dại có thể nhận ra nhờ hai mươi lăm triệu chứng hiển nhiên…

Bernard, người theo dòng Dominic, tiếng la tinh là “Domini Canes” nghĩa là bầy chó của Chúa, nhận thấy đây không phải là lúc thích hợp để dấy lên một cuộc đấu khẩu khác, bèn nói ngay: - Như thế, việc này không liên hệ với nội vụ đang bàn cãi. – Và phiên xử tiếp tục:

- Hãy quay lại với Sư huynh Remigio, này tu sĩ dòng Khất thực kia, ngươi còn nguy hiểm hơn một con chó dại. Nếu Sư huynh William mấy ngày vừa qua đã chú ý đến nước dãi của bọn phản giáo hơn nước dãi chó thì có lẽ Huynh ấy cũng đã phát hiện được con rắn độc nào đang làm ổ trong tu viện. Chúng ta hãy quay trở lại những lá thơ này. Bây giờ, chúng tôi biết chắc rằng những lá thơ ấy, trước đây, đã ở trong tay ngươi và ngươi cố tình giấu nhẹm chúng như một thứ độc hại nhất, và ngươi đã giết người – Bernard khoát tay, chận không cho Remigio phản đối. – Chúng ta sẽ nói chuyện giết người sau… ngươi đã giết người để chúng khỏi lọt vào tay ta. Ngươi nhận ra những tờ giấy này là sở hữu của ngươi chứ?

Quản hầm không đáp, nhưng sự im lặng của hắn cũng đã đủ thừa nhận. Bernard nhấn mạnh:

- Và những tờ giấy này là gì? Đây là hai trang viết tay, bút tích của thủ lãnh dị giáo Dolcino, vài ngày trước khi gã bị bắt. Gã ủy nhiệm chúng cho một đệ tử để đưa đến cho những kẻ khác trong giáo phái vẫn còn rải rác khắp nước Ý. Tôi có thể đọc cho quí vị nghe toàn bộ nội dung hai lá thơ, làm thế nào Dolcino, sợ ngày tàn của mình sắp đến, đã giao bức thông điệp hy vọng cho Quỉ sứ - theo lời gã nói với đồng bọn! Gã an ủi chúng, và mặc dầu những ngày tháng gã tuyên bố trong thơ này không trùng hợp với ngày tháng trong các thơ trước, như gã đã hứa năm 1305 rằng Hoàng đế Frederick sẽ tiêu diệt hoàn toàn các linh mục, thế nhưng gã vẫn khẳng định cuộc tiêu diệt này không còn bao xa. Một lần nữa, thủ lãnh dị giáo lại nói láo, vì từ ngày đó đến nay đã hơn hai mươi năm và sự tiên đoán ác đức này đâu thành sự thật. Nhưng chúng ta không cần bàn cãi đến những lời tiên tri lố bịch này, mà chỉ nói đến sự kiện Remigio là người lưu giữ chúng. Này tên tu sĩ dị giáo không chịu hối cải, ngươi vẫn còn chối không nhận đã giao lưu và chung sống với giáo phái của bọn Tông đồ giả danh chứ?

Đến đây, quản hầm không phủ nhận được nữa, bèn nói: - Thưa Ngài, thời trai trẻ của con đầy rẫy những lỗi lầm ghê tởm nhất. Khi con học được những lời thuyết giảng của Dolcino, vì con đã từng bị các thầy dòng khổ hạnh quyến rũ, nên liền tin lời gã và gia nhập bè lũ của gã. Vâng, thực thế, con đã ở với chúng trong những vùng Brescia, Bergamo, Como và Valsesia, con cùng chúng trú ẩn trên đồi Núi Trọc, trong thung lũng Rassa, và cuối cùng trên núi Rebello. Nhưng con không bao giờ tham gia vào những hành vi đê hèn, và khi chúng bắt đầu vơ vét, khủng bố, thì con vẫn duy trì tinh thần ôn nhu, phẩm hạnh của bầy con Thánh Francisco. Chính trên núi Rebello, con đã bảo Dolcino rằng con cảm thấy không còn khả năng tham gia những trận đánh nữa, gã cho phép con về, và gã bảo không muốn có những tên hèn nhát theo gã, chỉ yêu cầu con mang hai lá thơ đến Bologna…

- Trao cho ai? – Hồng y Bertrand hỏi.

- Vài người cùng giáo phái với gã. Con nghĩ mình còn nhớ tên họ, và khi con nhớ con sẽ thưa Ngài hay. – Remigio vội vã xác nhận. Rồi hắn nêu lên vài tên mà Hồng Y dường như biết, vì Cha mỉm cười hài lòng và gật gù tán đồng với Bernard.

- Tốt lắm, - Bernard nói và ghi lại những tên này, đoạn hỏi Remigio. – Thế sao giờ đây ngươi lại giao nộp tên các bạn bè của ngươi?

- Thưa ngài, họ không phải bạn bè của con, và bằng chứng là con không trao thư cho họ. Thực tình là con đi xa hơn, và nay con xin khai thật điều mà con đã cố quên đi bao nhiêu năm nay: nhằm mục đích ra khỏi nơi đó mà không bị quân của Giám mục xứ Vercelli bắt, lúc ấy họ đang phục kích trên cánh đồng, con bèn xoay sở liên lạc với vài người của giám mục, và để đổi lấy một tờ giấy đi lại an toàn, con đã chỉ cho họ những lối tốt để tấn công thành lũy của Dolcino. Do đó một phần chiến công của binh đội của giáo hội là do con đóng góp…

- Hay lắm. Điều đó cho thấy rằng ngươi không chỉ là một tên dị giáo mà còn là một thằng hèn nhát và phản bội. Nó không thay đổi được hoàn cảnh của ngươi đâu. Như mới đây, ngươi đã cố cứu mình bằng cách đổ tội cho Malachi, người đã giúp đỡ ngươi, rồi sau đó, để nhẹ tội, ngươi lại khai ra các đồng bọn của mình cho pháp luật. Nhưng ngươi chỉ phản bội lại thân xác, chớ không phản lời răn dạy của chúng. Ngươi giữ những lá thư này làm tàn tích, hy vọng một ngày nào đó sẽ có can đảm và cơ hội mà không phải liều mạng, để trao chúng đi, lấy lòng bọn Tông đồ giả danh.

- Không, thưa Ngài, không, - quản hầm đầm đìa mồ hôi, tay run lẩy bẩy nói: - Không, con thề rằng…

- Thề thốt! Lại thêm một bằng chứng khác về thủ đoạn lừa đảo của ngươi! Ngươi muốn thề vì hiểu rằng ta biết những tên dị giáo dòng Waldenses sẵn sàng giở trò hai mặt, thậm chí chịu chết nữa, chớ nhất định không chịu thề! Còn nếu hoảng sợ quá, chúng sẽ giả vờ thề thốt! Nhưng ta thừa hiểu người không thuộc giáo phái Kẻ Nghèo xứ Lyon, đồ cáo già độc ác! Và ngươi cố đánh lạc hướng, để ta không nhận chân được bản chất của ngươi! Ngươi thề phải không? Ngươi thề với hy vọng được giải tội, nhưng ta bảo cho biết: một lời thề không đủ đâu! Ta có thể đòi một, hai, ba, hàng trăm lời thề tùy thích. Ta thừa hiểu rằng bọn Tông đồ giả danh các ngươi tha tội cho những kẻ thà chịu thề giả chớ không phản bội giáo phái. Như thế, mỗi lời thề sẽ thêm bằng chứng cho tội của ngươi!

- Thế thì con phải làm gì đây? – Quản hầm thét lên, quì sụp xuống.

- Chớ có nằm mọp ra như một tên Beghard! Ngươi không phải làm gì hết. Lúc này, chỉ có mình ta biết việc phải làm – Bernard mỉm một nụ cười đáng sợ, nói. – Ngươi chỉ phải xưng tội. Xưng tội hay không xưng tội thì ngươi cũng sẽ bị đọa đày và lên án, vì ngươi sẽ bị trừng trị như một kẻ khai man. Thế thì ngươi hãy xưng tội đi, chỉ để rút ngắn cuộc hỏi cung đau đớn nhất này, nó đã làm tổn thương lương tri và lòng thương cảm của chúng ta!

- Nhưng con phải xưng tội gì đây?

- Hai tội: Thứ nhất, ngươi thuộc giáo phái của Dolcino, ngươi có chung những quan điểm dị giáo và có tham gia các hành vi nguy hại đến các giám mục và các thị trưởng, ngươi không hối cải mà còn tiếp tục duy trì những điều láo toét và hoang tưởng này, mặc dù tên thủ lĩnh dị giáo đã chết và giáo phái đã giải tán, tuy chưa hoàn toàn bị diệt tận gốc. Thứ hai, tâm can ngươi đã bị sa đọa vì những lối hành đạo trong giáo phái tanh hôi ấy, ngươi có tội đã gây ra những vụ rối loạn chống lại Chúa và con người trong tu viện này, vì những nguyên do ta chưa nắm được, nhưng cũng không cần nêu rõ ra đây làm gì, một khi chúng ta đã khẳng định rằng, tư tưởng dị giáo của những kẻ đã và đang thuyết giảng về sự cơ nghèo chống lại giáo huấn của Giáo hoàng và các sắc lệnh của Ngài, chỉ có thể dẫn đến các hành vi tội ác. Đó là điều một người sùng đạo phải nhớ, và thế là đủ. Xưng tội đi.

Điều Bernard muốn thật quá rõ ràng. Không thèm lưu tâm tìm hiểu ai là thủ phạm giết các tu sĩ kia, hắn chỉ muốn vạch ra rằng Remigio bằng một cách nào đó, đã có chung các tư tưởng do các nhà thần học của Hoàng đế đưa ra. Và một khi hắn chỉ ra được mối liên hệ giữa các tư tưởng này – mà cũng là tư tưởng của Đại hội Perugia – với các tư tưởng của dòng Anh em nghèo khó và Dolcino, chỉ ra được một tu sĩ trong tu viện này đã theo đuổi tất cả những loại tư tưởng dị giáo đó và là thủ phạm của nhiều vụ sát nhân, thì hắn quả sẽ giáng một đòn trí mạng xuống đối phương. Tôi nhìn thầy William và biết thầy đã hiểu, nhưng không làm được gì, dù thầy đã tiên liệu tất cả. Tôi nhìn Tu Viện trưởng và thấy gương mặt Cha u ám: Cha đang nhận ra, dù muộn màng, rằng mình cũng bị lôi vào bẫy, và quyền lực của Cha trong vai trò trung gian đang thu hẹp dần, vì Cha sẽ xuất hiện như một vị Chúa đất, nơi tất cả tội lỗi của thế kỷ rủ nhau về. Còn quản hầm, hắn không biết mình còn có thể kêu oan về tội nào. Nhưng có lẽ lúc đó, hắn chẳng thể tính toán được nữa, tiếng khóc bật ra từ cổ họng hắn là tiếng khóc từ tâm hồn, trong đó trào tuôn bao năm trường lặng lẽ ăn năn. Hay là, sau một cuộc đời vô định, nhiệt tình và vỡ mộng, hèn nhát và phản bội, nay đối mặt với một ngày tàn không tránh khỏi, hắn quyết định sẽ bộc lộ đức tin hồi thanh xuân của mình, chẳng cần thắc mắc xem nó đúng hay sai nữa, mà chỉ tự chứng minh rằng hắn còn đức tin. Hắn hét lên:

- Phải rồi. Con cùng ở với Dolcino, cùng tham gia các tội ác và sự phóng đãng của gã, có lẽ con điên rồ, con lẫn lộn lòng yêu Chúa Ki-tô với khao khát tự do và sự thù ghét các giám mục. Đúng là con đã phạm tội, nhưng con không biết về mọi việc xảy ra trong tu viện. Con thề!

- Tạm thời chúng ta đã đạt được vài kết quả, vì ngươi công nhận đã theo bọn dị giáo Dolcino, mụ phù thủy Margaret và đồng bọn của ả. Ngươi có nhận đã ở với chúng gần Trivero, khi chúng treo cổ nhiều tín hữu Thiên chúa giáo trung thành, kể cả một đứa trẻ mười tuổi vô tội hay không? Khi chúng treo cổ nhiều người khác trước mặt cha mẹ, vợ con họ, vì họ không tuân theo ý muốn của lũ chó đó không? Lúc đó, vì ngươi bị cơn cuồng nộ và lòng kiêu hãnh mù quáng nên nghĩ ai không thuộc cộng đồng của bọn ngươi sẽ không được cứu rỗi, có phải không? Nói đi!

- Phải, con tin như vậy và đã làm như vậy!

- Và ngươi có mặt khi chúng bắt các môn đệ của giám mục và bỏ họ chết đói trong ngục, khi chúng chặt bàn tay, cánh tay một phụ nữ đang có bầu, bỏ mặc bà ta sinh ra một đứa trẻ không được rửa tội, chết liền sau đó? Ngươi cùng với chúng phóng hỏa và san bằng các làng ở Mosso, Trivero, Cossila, Clecchia và nhiều địa phương khác trong khu vực Crepacorio, nhiều nhà ở Mortiliano và Quorino, chúng đốt nhà thờ ở Trivero, sau khi đã làm ô uế các hình thiêng liêng, đập phá mộ bia trên bàn thờ, bẻ gãy cánh tay của tượng Đức mẹ Đồng trinh, cướp đi lọ, chén thánh, sách vở, phá hủy tháp chuông nhà thờ và đoạt mọi của cải của các linh mục?

- Phải phải, con có ở đó và bọn con lúc đó chẳng ai biết mình đang làm gì, chúng con muốn báo trước giờ phút trừng phạt, chúng con là những người tiên phong của Hoàng đế, được trời phái xuống để thúc đẩy sự hạ giới của thiên thần yêu thương, khi đó hết thảy sẽ hưởng được ơn huệ của Thánh linh và Giáo hội sẽ được canh tân, sau khi tiêu diệt mọi kẻ sa đọa, thì chỉ còn những người hoàn thiện cai trị!
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,133
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 59


KINH XẾ TRƯA (tt và hết)

Tác giả: Umberto Eco

Quản hầm dường như vừa bị hớp hồn vừa được soi sáng, vẻ im lặng, giả vờ như đã tan vỡ, quá khứ của hắn quay về, không chỉ qua lời nói mà còn bằng hình ảnh nữa, hắn đang sống lại những cảm xúc xưa kia đã khiến hắn hưng phấn.

- Và ngươi đã đốt phá cướp bóc của cải của các người Thiên chúa giáo lương thiện!

- Chúng con đốt phá cướp của vì đã tuyên bố cái nghèo vì chân lý chung, và có quyền chiếm đoạt của bất chính của kẻ khác. Chúng con muốn đánh vào tận trung tâm của mạng lưới tham lam phát triển từ giáo phận này sang giáo phận kia. Nhưng chúng con không bao giờ cướp của để sở hữu, hay giết người để cướp của, chúng con chỉ giết để trừng phạt, để lấy máu tẩy sạch những gì không thanh khiết. Chúng con cũng phải giết những người vô tội để giết được hết lẹ hơn. Chúng con muốn một thế giới tốt đẹp hơn, một thế giới hòa bình, ngọt ngào, hạnh phúc cho tất cả mọi người, chúng con muốn thủ tiêu cuộc chiến mà lòng tham của các người đã mang đến, vì các người đã nhiếc mắng chúng con gây đổ máu… để thiếp lập công lý và giành hạnh phúc… Thực sự cũng không tốn bao nhiêu, vội vã quá và cũng đáng để nhuộm đỏ nước Carnasco ở Stavello ngày ấy, chúng tôi cũng đổ máu nữa chứ, chúng tôi có tiếc gì thân mình đâu, máu các người, máu chúng tôi, cần thật nhiều, cần ngay, thời tiên tri của Dolcino đã kề rồi, chúng tôi phải thúc đẩy chuỗi sự kiện tiến nhanh.

Toàn thân hắn run lẩy bẩy, hắn chà xát đôi tay vào áo dòng như muốn chùi sạch máu đang nhớ lại. Thầy William bảo tôi:

- Tên háu ăn đã trở nên trong sạch.

Tôi hoảng hốt hỏi:

- Thế này là sự trong sạch à?

- Cũng có những loại khác nữa, nhưng dù loại nào đi nữa, nó luôn làm thầy sợ.

- Trong sự trong sạch điều gì làm thầy sợ nhất?

- Sự vội vã.

Tiếng Bernard vang lên: - Đủ rồi, đủ rồi. Chúng tôi muốn nghe ngươi xưng tội, chớ không phải nghe hô hào tàn sát. Quả thực, không chỉ xưa kia ngươi theo dị giáo: nay ngươi vẫn là tên dị giáo. Không chỉ trước đây ngươi giết người: giờ ngươi lại là tên sát nhân. Nào, hãy khai ngươi đã giết các tu sĩ anh em trong tu viện này như thế nào, và tại sao?

Quản hầm thôi run rẩy, hắn dáo dác nhìn xung quanh như vừa sực tỉnh con mơ:

- Không. Con chẳng liên quan gì đến các án mạng trong tu viện. Con đã khai hết những gì con làm: chớ ép con khai những gì con không làm…

- Nhưng còn việc gì mà ngươi chẳng thể làm được? Ngươi định nói mình vô tội ư? Ôi con cừu non, ôi biểu tượng của hiền dịu! Quí vị nghe hắn chứ: Kẻ ngày xưa tay nhúng trong vũng máu bây giờ lại vô tội! Có lẽ chúng ta đã nhầm, Remigio là một mẫu mực về đạo đức, một người con trung thành của Giáo hội, một kẻ thù của Kẻ thù của Chúa, Huynh ấy luôn tôn kính trật tự mà bàn tay của Giáo hội đã vất vả dựng lên trên các làng mạc, thị thành, nền an cư lạc nghiệp, tiểu thủ công nghệ và các kho tàng của nhà thờ. Huynh ấy vô tội, và chẳng hề phạm một tội ác nào. Này Sư Huynh Remigio, hãy đến đây cho ta ôm vào lòng, để ta an ủi Huynh đã bị lũ ác buộc tội!

Khi Remigio sững sờ nhìn Bernard như thể đột nhiên tin vào lời giải tội cuối cùng, Bernard đanh mặt như cũ và cao giọng ra lệnh cho trưởng toán lính:

- Ta ghê tởm những biện pháp mà Giáo hội luôn lên án khi thế quyền sử dụng chúng. Nhưng có một luật pháp thống trị và chi phối ngay cả các cảm xúc riêng tư của ta nữa. Hãy xin Tu viện trưởng dành cho một chỗ để đặt các dụng cụ khảo hình. Đừng có tiến hành ngay. Giam hắn trong phòng ba ngày, xiềng tay chân lại. Rồi cho hắn xem các dụng cụ ấy. Chỉ cho xem thôi. Đến ngày thứ tư hãy tiến hành. Công lý không được thực hiện vội vã, như bọn tông đồ giả danh vẫn tin, mà công lý của Chúa có hàng nhiều thế kỷ để ung dung thi hành. Hãy tiến hành chậm rãi, từng chút một. Và hơn hết, hãy nhớ đến lời ta vẫn dặn đi dặn lại: Tránh gây tàn tật hay tử vong. Một trong những lợi ích mà phương pháp này ban cho phạm nhân chính là người ấy mong được chết, nhưng cái chết sẽ không đến trước khi người ấy tự nguyện khai hết, khai sạch mọi tội lỗi.

Lính cúi xuống nhấc quản hầm lên, nhưng hắn trụ chân trên đất và quơ quào phản kháng, ra hiệu muốn nói. Khi được phép, hắn cất tiếng, nhưng tiếng nói cứ lúng búng trong họng như một gã say lầu bầu và nghe như có cái gì tục tĩu trong đó. Dần dần hắn mới lấy lại vẻ hăng tiết của lúc xưng tội ban nãy.

- Không, thưa ngài. Không, xin chớ tra tấn. Con là một thằng hèn nhát. Mười một năm trong tu viện này con đã phản bội, đã phủ nhận đức tin ngày xưa. Con lo thu thuế của nông dân và người trồng tỉa, chăm nom chuồng ngựa, chuồng heo để đàn gia súc tăng lên làm giàu cho Tu viện trưởng, con sẵn sàng tham gia việc điều hành cái cơ ngơi của tên phản giáo này. Con đã làm giàu lên và quên đi những ngày nổi loạn cũ, con đắm mình trong thú ăn uống và những thú vui khác nữa. Con là một thằng hèn. Hôm nay con đã bán những người anh em cũ của mình ở Bologna, rồi lại bán Dolcino. Là một thằng hèn, giả dạng một thập tự quân, con đã chứng kiến cảnh Dolcino và Margaret bị bắt vào ngày chúa nhật và bị dẫn đến tháp Bugello. Con đã lang thang ở Vercelli ba tháng trời đến khi có thơ của Giáo hoàng Clement tuyên án tử hình. Con đã chứng kiến cảnh Margaret bị cắt thành từng mảnh ngay trước mắt Dolcino, khi bị mổ ruột, nàng thét rống lên, ôi thân thể tội nghiệp mà một đêm nọ con cũng đã chạm tay vào… Khi cái xác nát bấy của nàng bị thiêu đốt, thì chúng nhào vào Dolcino, dùng kẹp hun nóng rứt mũi, rứt hòn dái của ông. Về sau, người ta nói ông không rên la một tiếng là không đúng đâu. Dolcino to cao, có bộ râu rậm của quỉ, mái tóc đỏ chảy lọn xuống đến xương bả vai, khi lãnh đạo thì thật là hùng dũng, phương phi, đầu đội mũ rộng vành có gắn lông chim, lưng giắt gươm bên ngoài áo dòng. Dolcino khiến đàn ông khiếp hãi và đàn bà hét lên vì khoái lạc… Nhưng khi bị tra tấn thì ông cũng đau đớn rống lên như một mụ đàn bà, một con bò cái, khi chúng ném ông từ góc này sang góc kia thì các vết thương ông chảy máu ròng ròng và chúng cứ tiếp tục ray rứt ông, cho ông thấy một phái viên của Quỉ có thể sống được bao lâu. Ông muốn chết và bảo chúng kết liễu mạng mình cho rồi, nhưng ông chết muộn quá, mãi đến khi lên giàn hỏa rồi và chỉ còn lại một đống thịt bấy máu. Con đi theo và mừng là mình đã thoát nạn, tự hào mình khôn khéo, thằng côn đồ Salvatore cũng đi cùng, gã nói: Sư huynh Remigio, chúng mình sao khôn quá, chẳng có gì ghê tởm hơn tra tấn! Hàng bao nhiêu năm nay, con đã nhủ thầm sao mình tồi quá, và mừng sao mình đã tồi như vậy, thế nhưng con vẫn luôn hy vọng được chứng tỏ mình không đến nỗi hèn. Thưa Ngài Bernard, hôm nay ngài đã ban cho con sức mạnh, ban cho con sự can đảm để khai ra đức tin trong hồn con khi xác con lìa nó. Nhưng xin đừng bắt con can đảm hơn, con cũng chỉ là người trần mắt thịt. Xin đừng tra tấn con. Con sẽ khai bất cứ điều gì Ngài muốn. Cho con lên giàn hỏa ngay còn hơn vì con sẽ chết ngạt trước khi chết thiêu. Xin chớ tra tấn con như Dolcino. Xin đừng. Ngài muốn một xác chết, và như thế ngài cần con nhận tội cho những cái thây kia. Dầu sao, sớm muộn gì con cũng ra ma rồi. Vì vậy, con sẽ nói điều Ngài muốn. Con đã giết Adelmo vì thù ghét tuổi thanh xuân và cái giọng giễu cợt của hắn cứ chế giễu những con quái vật già nua béo mỡ, ngu dốt như con. Con giết Venantius vì hắn giỏi quá và cứ đọc những quyển sách mà con chẳng hiểu gì sất. Con giết Berengar vì ghét cái thư viện của hắn, con chỉ nghiên cứu thần học bằng cách đập dùi cui vào đầu những tên linh mục phì nộn. Con giết Severinus… tại sao nhỉ? À, tại vì hắn sưu tập cây thuốc hoài, một kẻ như con, hồi ở núi Rebello, cứ ăn cây thuốc, cỏ, lá, mà có thắc mắc gì về chất loại của chúng đâu. Nói thực, kể cả Tu viện trưởng: Cha thuộc về phe Giáo hoàng hay nhà vua đi nữa thì cũng vẫn là kẻ thù của con, con lúc nào cũng ghét lão, dù lão có nuôi con đi nữa thì cũng chính vì con đã nuôi lão. Như thế đã đủ cho Ngài chưa? À, chưa hả, Ngài còn muốn biết con giết hết thảy bọn đó như thế nào ư?... Ừ, con giết họ… để xem nào… bằng cách triệu tập các thế lực quỉ quái, với hàng ngàn đạo âm binh, tập hợp dưới quyền điều khiển của con nhờ tài nghệ mà Salvatore đã chỉ lại. Giết người đâu cần phải xuống tay. Quỉ sẽ làm việc đó, nếu mình biết cách ra lệnh cho chúng.

Hắn tinh quái liếc nhìn những người tham dự, vừa liếc vừa cười phá lên. Những tiếng cười của hắn bây giờ là tiếng cười của một kẻ điên, dù như thầy William sau này đã chỉ cho tôi thấy, gã điên này cũng đủ trí khôn để kéo luôn Salvatore vào tròng với gã để trả thù tội phản bội.

- Thế ngươi ra lệnh cho Quỉ như thế nào? - Bernard xem lối lảm nhảm này như một lời khai trước pháp luật, bèn hỏi riết theo.

- Chính Ngài phải biết chứ: chẳng lẽ Ngài đi với ma bao năm nay rồi mà không biết mặc áo giấy! Chính Ngài phải biết chứ, hỡi tên đồ tể của Tông đồ! Mày lấy một con mèo đen tuyền, phải không, cột bốn chân nó lại rồi nửa đêm đem nó đến ngã ba đường, gọi lớn lên: Hỡi ác quỉ Lucifer vĩ đại, hỡi Diêm vương, ta gọi mời ngươi về xâm nhập vào xác của kẻ thù ta như ta đang giữ chặt con mèo này đây, vì nếu ngươi giết chết được kẻ thù của ta thì nửa đêm ngày hôm sau, cũng tại chỗ này, ta sẽ tế ngươi con mèo này, và ngươi sẽ làm theo lệnh ta dưới quyền lực của những ma thuật mà ta đang áp dụng theo sách mật của Thánh Cyprian, nhân danh tất cả các ma vương thống lĩnh âm binh, Adramelch, Alastor, và Azazel; những ma vương ta đang cầu đây, cùng với bầy quỉ đầu trâu mặt ngựa của chúng…

Môi Remigio run bần bật, mắt như muốn lọt khỏi tròng, và dường như đang cầu nguyện, nhưng hắn gởi lời van cầu của mình đến toàn thể lũ ma vương thống lãnh âm binh.

- Tôi bị xua đuổi, hãy chịu tội cho chúng tôi: - Amen, xin thương xót chúng tôi… Samael, xin hãy cứu chúng tôi khỏi điều thiện… Belial, hãy xót thương… Focalor, hãy nhằm vào sự sa đọa của tôi… Haborym, Mẹ kiếp Chúa… Zaebos, banh đít ta ra… Leonard, hãy vảy t*ng trùng lên người ta để ta trở thành ô uế… (2)

- Thôi đi! Thôi đi! – Mọi người trong phòng thét, đưa tay làm dấu thánh giá. – Ôi chúa, xin thương xót tất cả chúng con!

Quản hầm im lặng, sau khi thốt lên tên của bọn ác quỉ đó, hắn ngã sấp mặt xuống, răng nghiến chặt, môi giật giật, miệng sùi dãi trắng xóa. Đôi tay hắn, dù đã bị xiềng đau đớn, cứ co giật mở ra nắm vào, còn chân thì cứ đá lung tung vào khoảng không. Thấy tôi run rẩy bấn loạn vì sợ hãi, thầy William đặt tay lên đầu tôi và gần như túm lấy gáy tôi, nhấn xuống, bắt trấn tĩnh lại. Thầy nói: - Con thấy chưa? Khi bị tra tấn hoặc bị đe dọa sẽ chịu tra tấn, người ta không chỉ khai ra những tội đã làm, mà cả những việc người ấy có thể làm, mặc dù chẳng hề biết đến chúng. Bây giờ Remigio thực tâm chỉ muốn chết.

Bọn lính lôi quản hầm đi, người hắn vẫn còn co giật. Bernard thu nhặt giấy tờ. Rồi hắn ngồi nhìn trừng trừng vào những người có mặt, tuy bất động nhưng lòng rất bồn chồn bất an.

- Cuộc hỏi cung đã chấm dứt. Bị cáo đã tự buộc tội mình và sẽ bị giao về Avignon để đưa ra xử lần cuối cùng, nhằm thận trọng thực hiện sự bảo vệ công lý và sự thật. Chỉ sau khi kết thúc phiên tòa theo nghi thức này, hắn mới bị hỏa thiêu. Thưa Tu viện trưởng, hắn chẳng còn thuộc quyền Cha nữa cũng chẳng còn thuộc về con, một công cụ hèn mọn của sự thật. Việc thi hành công lý sẽ xảy ra ở nơi khác, các người chăn chiên đã hoàn thành nhiệm vụ của mình, nay chó canh sẽ tách con cừu ghẻ ra khỏi bầy và dùng lửa tẩy sạch nó. Thời kỳ đau thương chứng kiến gã này phạm những tội ác tày đình đã chấm dứt. Xin cầu mong tu viện được sống yên lành. Nhưng trần gian – đến đây Bernard cao giọng quay sang nói với các sứ giả, - vẫn chưa có hòa bình. Trần gian bị bọn dị giáo dày xéo, chúng trú ẩn ngay trong Cung vua! Xin các Sư Huynh nhớ điều này: Cái đai ác quỉ (3) đã buộc các giáo hữu sa đọa của Dolcino vào những vị thầy danh dự của Đại hội Perugia. Chúng ta chớ quên: dưới mắt Thượng đế, những lời điên loạn lảm nhảm của kẻ khốn nạn mà ta vừa trao lại cho công lý cũng chẳng khác gì lời của những vị thầy ngồi ăn tiệc tại bàn của gã người Đức xứ Bavaria đã bị tước phép thông công. Nguồn cội phát sinh bọn dị giáo độc ác nảy nở từ nhiều lối thuyết giảng, dù được kính trọng nhưng vẫn chưa bị trừng phạt. Chúng ta biết rằng kẻ công khai theo dị giáo không phải là loại dị giáo duy nhất – Có thể phân biệt những kẻ ủng hộ dị giáo nhờ năm biểu hiện. Thứ nhất, những kẻ bí mật thăm nom bọn dị giáo bị giam cầm. Thứ hai, những kẻ thương tiếc khi chúng bị bắt và đã từng là bạn thân của chúng. Thứ ba, những kẻ tuyên bố bọn dị giáo đã bị kết án không công bằng, mặc dầu tội chúng đã rành rành. Thứ tư, những kẻ ngờ vực và chỉ trích người xử bọn dị giáo, và đã thành công khi thuyết giảng chống lại người ấy, điều này có thể phát hiện từ ánh mắt, cái nheo mũi, và những cử chỉ chúng cố giấu. Cuối cùng, biểu hiện thứ năm là chúng thu nhặt xương tàn của bọn dị giáo bị hỏa thiêu và tôn kính nắm xương này… Nhưng, tôi cũng xem biểu hiện thứ sáu là vô cùng quan trọng: tác giả của những quyển sách, trong đó bọn phản giáo tìm ra những tiêu đề để áp dụng tam đoạn luận theo kiểu sa đọa của chúng cũng ra mặt là bạn của bọn phản giáo.

Khi nói lời này, Bernard nhìn Ubertino trân trân. Tất cả phái đoàn Pháp đều hiểu rõ Bernard muốn ám chỉ gì. Giờ đây, cuộc họp đã thắt lại, chẳng ai dám tiếp tục cuộc tranh luận ban sáng, vì thừa hiểu mỗi một lời nói ra sẽ bị cân đong dưới ánh sáng của những biến cố khủng khiếp vừa qua. Nếu Giáo hoàng đã phái Bernard đến đây để ngăn chặn sự hòa giải giữa hai nhóm, thì hắn đã thành công.

Chú thích:

(1) Sancta Romana

(2) Abigor, pecca Pro nobis… Amon, miserere nobis… Samael, libera nos a bono… Belial eleison… Focalor, in corruptionem meam intende… Hyborym, damnabus dominam… Zaebos, anum menum aperies… Leonard, asperge me spermate tue et inquinabor…

(3) Cingulum diaboli
 
CHÚ Ý !!!
Các đạo hữu nhớ thêm TÊN CHƯƠNG và THỨ TỰ CHƯƠNG ở ô phía trên phần trả lời nhanh. Như vậy hệ thống mới tạo được DANH SÁCH CHƯƠNG.
Cập nhật chức năng ĐĂNG TRUYỆN và THÊM CHƯƠNG MỚI trên web Diễn Đàn Truyện tại https://truyen.diendantruyen.com
Top Bottom