Cập nhật mới

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
623,263
Điểm cảm xúc
35
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
[Diendantruyen.Com] Cuộc Gọi Từ Thiên Thần

Cuộc Gọi Từ Thiên Thần
Tác giả: Guillaume Musso
Tình trạng: Đã hoàn thành




Guillaume Musso, nhà văn trẻ người Pháp, sinh năm 1974 tại Antibes, trị trấn nhỏ bên bờ Địa Trung Hải. Ngay từ năm mười tuổi, cậu bé Guillaume đã phải lòng văn chương và tuyên bố một ngày nào đó sẽ viết tiểu thuyết. Lớn lên, anh lại theo học ngành kinh tế rồi trở thành giáo viên sau khi tốt nghiệp nhưng niềm đam mê thuở ban đầu vẫn tràn đầy. Năm 2001, “Skidamarink”, tiểu thuyết đầu tay của anh ra đời và nhận được những tín hiệu tốt từ giới phê bình. Và tác phẩm thứ hai “Rồi sau đó” (2004) đã đưa tên tuổi Musso đến với công chúng và dần trở thành cái tên ấn tượng của của văn học lãng mạn đương đại nước Pháp. Các tác phẩm của Musso được nhiều độc giả yêu mến và đã được dịch ra nhiều thứ tiếng.

Cuộc Gọi Từ Thiên Thần là tiểu thuyết thứ bảy của Musso được xuất bản tại Việt Nam.
 
Sửa lần cuối:

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
623,263
Điểm cảm xúc
35
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 1: Mèo và Chuột


Một chiếc điện thoại di động ư?

Ban đầu, bạn không thực sự thấy được ích lợi của nó, nhưng để không tỏ ra tụt hậu, bạn mua thử một chiếc điện thoại di động hết sức đơn giản với gói cước cơ bản. Thời gian đầu, đôi khi bạn bất giác thấy mình ba hoa trên điện thoại hơi to một chút, ở nhà hàng, trong tàu điện ngầm hoặc trên sân hiên các quán cà phê. Đúng là dùng di động rất tiện lợi, thật yên lòng khi hễ muốn là có thể nghe được giọng nói của bạn bè người thân.

Giống như tất cả mọi người, bạn học cách soạn SMS bằng cách bấm trên một bàn phím bé xíu, và rồi bạn quen với việc gửi tin nhắn hàng loạt. Giống như tất cả mọi người, bạn không dùng sổ ghi nhớ nữa mà thay bằng phiên bản điện tử. Bạn cần mẫn lưu vào danh bạ số liên lạc của những người quen biết, gia đình và người yêu. Bạn ngụy trang ở đó cả số của người cũ cũng như mã số thẻ tín dụng, phòng trường hợp bạn không nhớ ra.

Bạn sử dụng chức năng máy ảnh trong điện thoại, ngay cả khi nó chỉ đem lại những tấm hình chất lượng tệ hại. Thật dễ chịu khi luôn có bên mình một tấm ảnh tức cười để cho các đồng nghiệp cùng xem.

Vả lại, tất cả mọi người đều làm vậy. Món đồ vật hợp với thời đại: Những vách ngăn giữa đời sống riêng tư, đời sống nghề nghiệp và đời sống xã hội mờ nhạt đi. Nhất là khi cuộc sống thường nhật đã trở nên gấp rút hơn, linh hoạt hơn, thường xuyên đòi ở bạn hỏi một sự tung hứng khéo léo với thời gian biểu.

Mới đây, bạn đã đổi từ chiếc điện thoại cũ kỹ đang dùng sang một mẫu điện thoại cải tiến hơn: Một tuyệt tác nho nhỏ cho phép bạn check mail, lướt mạng, và tải từ đó về hàng trăm ứng dụng.

Tới đây thì bạn đã trở thành một tín đồ của điện thoại di động. Như thể được cấy ghép vào cơ thể bạn, từ nay trở đi, chiếc điện thoại di động đã trở thành một phần nối dài của chính bạn, theo bạn vào tới tận phòng tắm hay toa lét. Dù ở bất cứ nơi đâu, bạn cũng sẽ hiếm khi để tới hơn nửa tiếng trôi qua mà không nhìn tới màn hình điện thoại, chờ một cuộc gọi vẫn chưa thấy tăm tích, một tin nhắn thân tình hay mật thiết. Và dù hòm thư của bạn báo trống, bạn vẫn sẽ nhấp vào kiểm tra xem liệu mình có thư nào đang chờ không.

Giống như món đồ chơi cưng nhất thời thơ ấu, chiếc điện thoại di động khiến bạn yên lòng. Màn hình của nó êm dịu, tạo cảm giác thư thái mời gọi giấc ngủ. Nó giúp bạn tự tin trong mọi tình huống và giúp bạn có thể dễ dàng liên lạc ngay tức khắc, để mở ra mọi khả năng...

Nhưng một tối nọ, về tới nhà, bạn lục hết túi quần túi áo rồi cả túi xách nữa, và nhận ra rằng điện thoại di động của bạn đã biến mất. Bị mất ư? Bị đánh cắp ư? Không, bạn chẳng chịu tin như thế. Sau khi kiểm tra lại một lần nữa nhưng vẫn chẳng thấy tăm hơi chiếc điện thoại đâu, bạn cố tự thuyết phục mình là đã để quên ở văn phòng, nhưng... đâu thể thế được: Bạn nhớ mình vẫn còn dùng đến nó khi vào thang máy rời công sở kia mà, và dĩ nhiên, cả trên tàu điện ngầm lẫn trên xe buýt.

Chà!

Thoạt tiên, bạn bực mình vì đã mất điện thoại, rồi bạn mừng vì đã đăng ký bảo hiểm “Trong trường hợp mất cắp/thất lạc/gãy vỡ”, nếu tính các điểm tích lũy được thì ngay ngày mai, bạn có thể tặng cho mình một món đồ chơi công nghệ mới với màn hình cảm ứng.

Tuy nhiên, đến tận ba giờ sáng, bạn vẫn không tài nào chợp mắt được...

Bạn lặng lẽ thức dậy để khỏi đánh thức người đàn ông đang nằm cạnh.

Vào đến bếp, bạn lục tìm ngăn trên tủ tường lấy ra một bao thuốc hút dở từng nhét bừa vào đó phòng trường hợp gặp chuyện nan giải. Bạn châm một điếu, và vì hoàn cảnh bạn đang lâm vào quá đỗi bi đát, bạn rót một cốc vodka.

Khốn nạn thật...

Bạn ngồi đó, co ro trên ghế dựa. Bạn lạnh, vì trước đó đã mở toang cửa sổ không muốn mùi thuốc lá lưu lại trong bếp.

Bạn tổng kết toàn bộ những gì có trong chiếc điện thoại vừa mất: một vài video, khoảng năm mươi bức ảnh, lịch sử truy cập Internet, địa chỉ nhà bạn (kèm đó là mã cửa ra vào tòa nhà), địa chỉ nhà bố mẹ bạn, số liên lạc của những người dĩ nhiên không nên xuất hiện trong danh bạ, những tin nhắn có thể khiến người ta nghĩ rằng...

Đừng cuồng ám như vậy chứ!

Bạn rít thêm một hơi thuốc rồi nhấp một ngụm rượu.

Nhìn bề ngoài thì chẳng có gì thực sự nguy hại hết, nhưng bạn thừa biết vẻ bề ngoài luôn lừa dối.

Điều khiến bạn lo lắng, đó là điện thoại của mình có thể đã lọt vào tay những kẻ có dụng ý xấu.

Chưa gì bạn đã hối tiếc về một vài tấm ảnh, một vài bức mail, một vài cuộc trò chuyện. Quá khứ, gia đình, tiền bạc, tình dục... Nếu tìm kỹ, ai đó muốn hại bạn sẽ có trong tay thứ thừa sức phá tan hoang cuộc đời bạn. Bạn nuối tiếc, nhưng tiếc nuối cũng chẳng ích gì.

Vì đã rét run, bạn bèn đứng dậy đóng cửa sổ. Trán tì vào cửa kính, bạn nhìn những tia sáng hiếm hoi vẫn lấp lóe trong đêm rồi tự nhủ rằng ở đầu kia thành phố, một người đàn ông nào đó có lẽ đang dán mắt vào màn hình điện thoại của bạn, khoái trá thăm dò những khoảng tối trong cuộc sống riêng tư của bạn và quyết lục tung bộ nhớ điện thoại để tìm cho ra những bí mật nho nhỏ đầy nhơ bẩn của bạn.

#Muathienkieu: Truyện chia sẻ phi lợi nhuận cho các bạn không có điều kiện mua sách. Các bạn có điều kiện thì mua ủng hộ tác giả và NXB nhé.

.

“Có những người được số phận sắp đặt để gặp nhau. Dù họ có ở đâu chăng nữa. Dù họ có đi đâu chăng nữa. Một ngày nào đó họ sẽ gặp nhau.”

Claudie GALLAY

New York

Sân bay JFK

Một tuần trước Giáng sinh

NÀNG

- Thế rồi sao?

- Thế rồi Raphaël tặng tớ một chiếc nhẫn kim cương hiệu Tiffany và cầu hôn tớ.

Điện thoại áp vào tai, Madeline tản bộ trước những ô kính rộng nhìn xuống đường băng. Cách đó năm nghìn cây số, trong căn hộ nhỏ nằm phía Bắc Luân Đôn, cô bạn thân nhất của nàng đang lắng nghe với vẻ nôn nóng bản tường thuật chi tiết chuyến du hí lãng mạn của nàng tại Quả táo lớn.

- Anh chàng đã trình diễn cho cậu xem màn khủng nhất rồi đấy! Juliane ghi nhận. Nghỉ cuối tuần ở Manhattan, phòng khách sạn Waldorf, dạo chơi bằng xe ngựa, cầu hôn kiểu cổ điển...

- Đúng vậy, Madeline vui sướng. Mọi chuyện thật hoàn hảo, như trong phim vậy.

- Có lẽ hơi quá hoàn hảo chăng? Juliane trêu bạn.

- Cậu có thể giải thích cho tớ biết làm thế nào mà chuyện gì đó lại có thể “quá” hoàn hảo được không, quý bà chán đời?

Juliane cố nói gỡ một cách vụng về:

- Ý tớ là: có lẽ chuyện này hơi thiếu yếu tố bất ngờ. New York, Tiffany, dạo chơi dưới tuyết và sân trượt băng Central Park... Như thế hơi nhàm và sáo rỗng quá phải không nhỉ!

Madeline ranh mãnh phản công:

- Nếu tớ nhớ không nhầm, khi Wayne cầu hôn cậu là lúc anh chàng vừa từ quán rượu về sau một tối chè chén say sưa. Anh chàng đã nốc căng bụng như đoàn tàu điện ngầm vào giờ cao điểm rồi đi nôn mửa trong toa lét ngay sau khi ngỏ lời với cậu, đúng không nào?

- OK, ván này cậu thắng, Juliane đầu hàng.

Madeline mỉm cười, tiến lại gần khu vực làm thủ tục cố tìm ra Raphaël giữa đám đông chen chúc. Vào đầu dịp nghỉ Giáng sinh như những ngày này, hàng nghìn du khách đang hối hả trong nhà ga sân bay ầm ĩ như ong vỡ tổ. Một số về thăm gia đình trong khi những kẻ khác lại khởi hành tới nơi tận cùng trái đất, tới những điểm đến thiên đường, rời xa khung cảnh âm u của New York.

- Mà này, Juliane tiếp lời, cậu vẫn chưa nói tớ nghe câu trả lời của cậu là thế nào đâu đấy.

- Cậu đùa hay sao thế? Dĩ nhiên là tớ nhận lời cầu hôn rồi!

- Cậu không bắt anh chàng phải chờ đợi chút nào sao?

- Chờ đợi ư? Jul’ à, tớ gần ba mươi tư tuổi rồi còn gì! Cậu không nghĩ tớ chờ đợi như thế là đủ rồi ư? Tớ yêu Raphaël, tớ hẹn hò với anh ấy đã hai năm nay và bọn tớ đang cố gắng có con với nhau. Chỉ vài tuần nữa thôi, bọn tớ sẽ dọn tới căn nhà đã cùng nhau chọn mua. Juliane ạ, lần đầu tiên trong đời mình tớ cảm thấy được chở che và hạnh phúc.

- Cậu nói thế là bởi anh chàng đang ở bên cạnh cậu chứ gì?

- Không! Madeline kêu lên rồi bật cười thành tiếng. Anh ấy đi gửi hành lý rồi. Tớ nói thế bởi tớ đang nghĩ đúng như thế!

Cô dừng lại trước một quầy bán báo. Xếp nối đầu nhau, các trang nhất nhật báo vẽ nên bức chân dung về một thế giới tuột dốc không phanh đã cầm cố tương lai của chính mình: khủng hoảng kinh tế, thất nghiệp, bê bối chính trị, bất bình trong xã hội, thảm họa môi trường...

- Cậu không sợ rằng với Raphaël, cuộc đời cậu sẽ toàn những điều được dự kiến sẵn ư?

Juliane hỏi xóc.

- Đó đâu phải là điều xấu! Madeline vặc lại. Tớ cần ai đó vững chãi, đáng tin cậy, chung thủy. Xung quanh chúng ta mọi thứ đều đang tạm bợ, mong manh và bấp bênh quá rồi. Tớ không muốn trong cuộc sống lứa đôi của mình tồn tại những thứ đó. Tớ muốn mỗi tối về nhà đều chắc chắn tìm được trong tổ ấm của mình cảm giác yên ổn và bình tâm. Cậu hiểu không?

- Hừm... Juliane nói thay lời đáp.

- Không có kiểu “hừm” hàm ý phản đối đó đâu nhé, Jul’. Vậy nên cậu hãy bắt đầu công cuộc lượn qua các tiệm để chọn bộ váy phù dâu đi nhé!

- Hừm, cô gái trẻ người Anh vẫn lặp lại, nhưng lần này là để che giấu cảm xúc hơn là thể hiện thái độ hoài nghi.

Madeline nhìn đồng hồ đeo tay. Đằng sau cô, trên đường băng cất cánh, những chiếc máy bay màu trắng sữa xếp hàng nối đuôi nhau chờ đến lượt cất cánh.

- Được rồi, tớ cúp máy đây, chuyến bay sẽ cất cánh lúc 17 giờ 30 và đến giờ tớ vẫn chưa tìm được... chồng tớ!

- Chồng tương lai của cậu, Juliane mỉm cười chỉnh lại. Khi nào cậu mới tới Luân Đôn thăm tớ nhỉ? Tại sao không phải là dịp cuối tuần này?

- Tớ muốn lắm chứ, nhưng không thể được: bọn tớ hạ cánh xuống Roissy sớm lắm. Tớ chỉ đủ thời gian ghé về nhà tắm qua trước khi cửa hàng mở cửa.

- Phải, ít nhất thì cậu không thất nghiệp!

- Tớ là người bán hoa, Jul’ à! Giáng sinh là một trong những mùa tớ bận rộn nhất.

- Cố gắng chợp mắt một chút trên máy bay nhé.

- Được rồi! Mai tớ sẽ gọi cho cậu, Madeline hứa trước khi gác máy.

CHÀNG

- Đừng cố nài nữa, Francesca! Không có chuyện ta gặp nhau đâu!

- Nhưng em chỉ cách anh có hai chục mét thôi, ngay dưới chân cầu thang cuốn...

Điện thoại di động áp vào tai, Jonathan nhíu mày rồi tiến lại gần lan can nhô ra phía trên cầu thang cuốn. Nơi bậc thang cuối cùng, một phụ nữ tóc nâu dáng dấp chẳng khác nào Đức Mẹ đang vừa nói chuyện điện thoại vừa dắt tay một đứa trẻ lọt thỏm trong chiếc áo phao ngắn hơi quá rộng. Tóc buông dài, cô mặc chiếc quần jean cạp trễ, áo phao lông vũ ôm sát, và cặp kính râm gọng to tựa như một chiếc mặt nạ che khuất một phần khuôn mặt cô.

Jonathan hướng về phía con trai mình giơ tay vẫy, cậu bé rụt rè giơ tay vẫy lại.

- Giao Charly cho tôi rồi xéo đi! - Anh giận dữ ra lệnh.

Mỗi lần nhìn thấy vợ cũ, một cơn điên giận pha lẫn đau đớn lại xâm chiếm anh. Một thứ cảm giác mãnh liệt mà anh không thể kiểm soát khiến anh cùng lúc vừa trầm uất vừa hung hãn.

- Anh không thể tiếp tục nói với em bằng giọng như vậy! - Cô chống chế bằng giọng mang chút âm sắc Ý.

- Đừng cho mình cái quyền lên giọng giảng đạo đức với tôi! - Anh vỡ òa. Cô đã lựa chọn nên giờ hãy gánh lấy hậu quả. Cô đã phản bội gia đình mình, Francesca ạ! Cô đã phản bội chúng tôi, Charly và tôi.

- Anh đừng có kéo Charly vào chuyện này!

- Đừng có kéo thằng bé vào chuyện này ư? Trong khi chính nó phải chịu những hệ lụy phiền toái ư? Chính vì những lầm lạc của cô mà mỗi năm thằng bé chỉ được gặp bố nó có vài tuần kia mà!

- Em rất tiếc...

- Còn vụ đi máy bay nữa! Anh không để vợ cũ nói hết câu. Cô có muốn tôi nhắc cô nhớ tại sao Charly lại sợ phải đi máy bay một mình, thế nên tôi buộc phải bay từ đầu này sang đầu kia đất nước vào mỗi kỳ nghỉ ở trường không? Anh cao giọng hỏi.

- Chuyện xảy ra với chúng ta, chỉ là... đời là vậy mà, Jonathan. Chúng ta đều là người trưởng thành cả rồi và không có chuyện một bên là người đàn ông tử tế còn bên kia là ả đàn bà độc ác đâu.

- Thẩm phán không nghĩ thế đâu, anh lưu ý, bỗng chốc cảm thấy chán ngán khi ám chỉ đến cuộc ly hôn được tòa tuyên bố là bắt nguồn từ những lầm lỗi của người vợ cũ.

Vẻ suy tư, Jonathan đưa mắt nhìn đường băng. Mới có 16 giờ 30 nhưng bóng tối chẳng mấy chốc sẽ bao trùm. Trên các đường băng sáng trưng, một hàng dài các máy bay chở khách cỡ lớn đang chờ hiệu lệnh của tháp điều khiển trước khi cất cánh tới Barcelona, Hồng Kông, Sydney, Paris...

- Thôi, nói thế đủ rồi, anh tiếp lời. Đến mùng 3 tháng Một là trường học mở cửa lại, tôi sẽ đưa Charly về trước đó một ngày.

- Nhất trí, Francesca chấp nhận. Còn một điều cuối cùng này: Em đã mua cho thằng bé một chiếc điện thoại di động. Em muốn bất cứ lúc nào cũng có thể liên lạc với thằng bé.

- Cô đùa hay sao thế! Quên chuyện đó đi! Anh bùng nổ. Không ai cho trẻ con bảy tuổi dùng di động cả.

- Chuyện đó thì còn phải bàn đã, cô vặn lại.

- Nếu chuyện đó còn phải bàn thì cô đừng có tùy tiện ra quyết định. Có lẽ chúng ta sẽ bàn chuyện này sau, nhưng lúc này thì cô lấy lại thứ đồ chơi công nghệ của cô ngay rồi để thằng bé tới chỗ tôi!

- Đồng ý thôi, cô bình tĩnh nhượng bộ.

Jonathan nghiêng người nhìn qua thành lan can rồi nheo mắt quan sát cảnh Charly đưa trả Francesca một chiếc điện thoại nhỏ sặc sỡ. Rồi cậu bé ôm hôn mẹ, sau đó bước những bước rụt rè về phía cầu thang cuốn.

Jonathan chen lấn qua vài hành khách để lao tới đón con trai.

- Con chào bố.

- Chào cậu bé của bố, anh thốt lên rồi ôm con trai vào lòng.

HỌ

Những ngón tay của Madeline lướt nhanh trên bàn phím. Điện thoại trên tay, cô vừa nhìn lướt các quầy kính trong khu vực bán hàng miễn thuế vừa soạn một tin nhắn trả lời Raphaël. Bạn trai cô đã gửi xong hành lý nhưng lúc này đang xếp hàng để qua cổng an ninh. Trong tin nhắn, Madeline hẹn anh sẽ gặp nhau tại quầy bán đồ uống.

- Bố ơi, con thấy hơi đói. Con muốn ăn một chiếc bánh kẹp được không ạ? Charly lễ phép hỏi ý kiến bố.

Tay đặt lên vai con trai, Jonathan đang rảo bước trên lối đi quanh co bằng thép và kính dẫn tới cửa lên máy bay. Anh ghét các sân bay, đặc biệt là vào thời điểm này trong năm - Giáng sinh và các nhà ga sân bay nhắc anh nhớ tới hoàn cảnh thảm thê hai năm về trước khi anh biết vợ phản bội - nhưng quá đỗi vui mừng được gặp lại Charly, anh bế bổng thằng bé lên.

- Một chiếc bánh kẹp cho chàng trai trẻ này nào, một chiếc thôi! Anh vừa hào hứng thốt lên vừa rẽ đám đông để bước vào quầy bán đồ ăn.

Thiên Môn, quầy bán đồ ăn uống chính của sân bay được bố trí quanh một khoảng sân trong, ở trung tâm là nhiều quầy hàng ẩm thực bày bán đủ loại đặc sản.

Một chiếc bánh phồng sô cô la hay một phần pizza nhỉ? Madeline tự hỏi khi nhìn quanh bàn bày các món tự chọn. Dĩ nhiên, một loại quả nào đó sẽ hợp lý hơn, nhưng bụng cô đang đói ngấu. Cô đặt chiếc bánh ngọt vào khay, rồi vội để lại chỗ cũ gần như ngay tắp lự khi chú dế lương tâm rỉ tai cô lượng calo có trong thứ đồ ăn hấp dẫn đó. Hơi thất vọng cô nhón một quả táo trong giỏ đan bằng cành liễu, gọi một ly trà chanh rồi ra quầy thanh toán.

Bánh mì Ciabatta, sốt Pesto, cà chua dầm, giăm bông Parme và pho mát Mozzarella. Charly chảy nước miếng trước chiếc bánh kẹp kiểu Ý của mình. Từ hồi nhỏ xíu cậu đã được bố dẫn theo đến những căn bếp của nhà hàng, điều ấy mang lại cho cậu sở thích ăn ngon và kích thích nơi cậu trí tò mò với đủ mọi loại mùi vị.

- Con chú ý không làm đổ khay nhé, đồng ý chứ? Jonathan khuyên con trai sau khi trả tiền suất ăn nhẹ của hai bố con.

Cậu bé gật đầu cam kết, chú tâm duy trì thế cân bằng mong manh giữa chiếc bánh kẹp và chai nước trên khay.

Quầy hàng đông nghẹt người. Căn phòng hình ovan khuôn dọc theo một bức tường kính trông thẳng ra các đường băng.

- Ta ngồi đâu hả bố? Charly hỏi, mất phương hướng giữa đám đông du khách.

Jonathan nhìn chằm chặp đám đông ồn ã đang chen lấn giữa các hàng ghế bằng ánh mắt đầy lo ngại. Rõ ràng là số thực khách đông hơn số ghế còn trống. Thế rồi, như có phép mầu, một chiếc bàn trống hiện lên gần khung cửa kính rộng.

- Thẳng hướng Đông, cậu nhóc thủy thủ! Anh thông báo và nháy mắt với con trai.

Trong lúc anh rảo bước, điện thoại của anh réo vang giữa mớ âm thanh inh ỏi. Jonathan lưỡng lự chưa muốn nhận cuộc gọi. Mặc dù đang tay xách nách mang - túi hành lý gắn bánh xe ở một tay, tay kia cầm khay đồ ăn - anh vẫn cố lấy máy di động ra khỏi túi áo vest, nhưng...

Hỗn độn ồn ào kinh khủng! Madeline phát bực khi nhìn thấy đám đông du khách đang đổ dồn vào nhà hàng ăn. Cô, kẻ đang nuôi hy vọng có được khoảnh khắc thư thái trước chuyến bay, thậm chí còn không thể tìm ra một cái bàn trống để ngồi xuống!

Ái! Cô cố nén để khỏi hét lên khi một con bé mặt mũi trâng tráo giẫm xéo lên chân cô mà không hề có một lời xin lỗi.

Oắt con đáng ghét, cô bực bội nghĩ đồng thời nhìn con bé bằng ánh mắt nghiêm khắc, con bé liền đáp trả bằng cách lén chĩa ngón tay giữa lên, ý nghĩa của hành động ấy thì đã quá rõ.

Madeline thậm chí chẳng kịp nghĩ ngợi lâu trước hành động thù nghịch này. Cô vừa nhìn thấy một cái bàn trống ngay sát ô cửa kính rộng. Cô vội rảo bước vì sợ sẽ để vuột mất vị trí ngồi quý giá đó. Cô chỉ còn cách đích ba mét thì thấy điện thoại di động rung bần bật trong túi.

Chẳng đúng lúc tẹo nào!

Thoạt tiên cô quyết định không nhấc máy nhưng rồi lại đổi ý: chắc trăm phần trăm là Raphaël đang tìm cô. Cô vụng về bê chiếc khay bằng một tay – “khỉ thật, cái khay đồ uống này nặng chết đi được!” – trong lúc lục túi để moi chiếc điện thoại đang nằm lẫn lộn giữa chùm chìa khóa to tướng, cuốn sổ ghi nhớ và cuốn tiểu thuyết đang đọc dở. Cô đang vặn vẹo người để ấn nút nhận cuộc gọi và đưa điện thoại áp lên tai thì bỗng...

Madeline và Jonathan đâm sầm vào nhau. Tách trà, táo, sandwich, chai Coca, ly rượu vang, tất tật bay vèo lên không trung trước khi hạ cánh xuống mặt đất.

Bị sốc, cả Charly cũng buông rơi khay đồ ăn đang bê trên tay rồi bật khóc nức nở.

- Ngu không để đâu cho hết! Jonathan vừa càu nhàu vừa khó nhọc đứng dậy.

- Không còn biết nhìn xem mình đang đặt chân ở đâu nữa hả!

Anh hét lên.

- Đồ u mê ngây dại! Madeline nổi cáu ngay khi đã hoàn hồn.

- Ra thế! Lại còn là lỗi của tôi nữa đấy? Không cần đổi vai như vậy đâu anh bạn!

Cô quyết đối đầu với anh trước khi nhặt lại điện thoại di động, túi xách và chùm chìa khóa vương vãi trên mặt đất.

Jonathan quay sang trấn an con trai, nhặt lại chiếc sandwich vốn được bọc một lớp giấy ni lông, chai nước cùng điện thoại di động.

- Tôi nhìn thấy cái bàn này trước nhé! Anh phẫn nộ. Hai bố con tôi gần như đã ngồi xuống thì bỗng đâu cô lao phăm phăm đến như tuyết lở mà thậm chí còn không...

- Anh đùa chắc? Tôi phát hiện ra cái bàn này trước anh nhiều!

Cơn giận của cô gái làm âm sắc giọng Anh nãy giờ không thể nhận thấy lộ ra rõ nét.

- Nói gì thì nói, cô chỉ có một mình trong khi tôi đang dắt theo một đứa bé.

- Lý do hay hớm nhỉ! Tôi chẳng hiểu tại sao việc dẫn theo một đứa bé lại cho anh cái quyền nhảy xổ vào tôi và làm bẩn áo sơ mi của tôi! Cô không hài lòng chút nào khi phát hiện ra vết rượu vang dây trên ngực áo.

Chút bối rối, Jonathan lắc đầu rồi ngước mắt nhìn lên. Anh toan mở miệng phản đối nhưng Madeline đã nhanh miệng nói trước:

- Mà trước hết, tôi cũng không đi một mình nhé! Cô khẳng định chắc nịch khi thoáng thấy Raphaël.

Jonathan nhún vai rồi cầm tay Charly.

- Đi nào, bố con mình đi chỗ khác thôi. Cô ả vụng về tội nghiệp...

Anh thốt lên rồi rời khỏi quầy hàng.

Chuyến bay Delta 4565 rời New York tới San Francisco lúc 17h. Vui mừng vì được gặp lại con trai, Jonathan dường như không nhận thấy sự trôi qua của thời gian. Từ khi bố mẹ chia tay nhau, Charly mắc phải chứng sợ máy bay. Thằng bé không thể đi máy bay một mình, và cũng không thể ngủ nổi khi đang ở trên máy bay. Vậy nên hai bố con họ dành bảy tiếng hành trình để kể cho nhau nghe những giai thoại, những câu chuyện cười và xem đến lần thứ hai mươi từ đầu tới cuối bộ phim Cô tiểu thư và gã lang thang trên màn hình máy tính xách tay, trong khi khoái trá thưởng thức những hũ kem Häagen-Dazs nhỏ lạnh cóng môi. Loại đồ ngọt này thường dành cho khách hạng thương gia nhưng một cô tiếp viên sáng ý, hết sức có cảm tình với vẻ mặt của Charly và thái độ vụng về đầy duyên dáng của bố cậu bé, đã tự cho phép mình vi phạm quy tắc ấy.

(Các bạn đang đọc truyện tại: tuthienbao.com

Chúc các bạn đọc truyện vui vẻ)Chuyến bay Air France 29 rời sân bay JFK lúc 17h30. Ngả người vào chiếc ghế êm ái và tiện nghi của khoang hạng thương gia – “rõ ràng là Raphaël thu xếp mọi chuyện rất ổn thỏa” – Madeline bật máy ảnh lên xem lại những bức hình trong chuyến du lịch của họ tới New York. Kề bên nhau, hai kẻ đang yêu sung sướng điểm lại những khoảnh khắc tuyệt vời nhất của một chuyến đi mang hơi hướm tuần trăng mật. Rồi Raphaël thiu thiu ngủ trong khi Madeline mải miết xem không biết bao nhiêu lần The Shop Around the Corner, vở hài kịch cũ của Lubitsch từ danh sách video tự chọn.

Nhờ chênh lệch múi giờ nên thậm chí còn chưa tới 21h khi máy bay chở Jonathan hạ cánh xuống San Francisco.

Trút bỏ được nỗi bồn chồn cố hữu, Charly ngủ thiếp trên tay bố khi vừa rời khỏi máy bay.

Trong sảnh đến của sân bay, Jonathan đứng chờ anh bạn Marcus, người hùn vốn với anh mở một quán bia nhỏ kiểu Pháp giữa khu North Beach. Marcus đã hứa sẽ lái xe tới sân bay đón hai bố con anh. Anh kiễng chân lên để nhìn bao quát khắp đám đông.

- Hắn mà đúng giờ thì mình mới choáng chứ! Anh gắt gỏng.

Cam chịu chấp nhận giả thiết đó, anh quyết định kiểm tra điện thoại xem có tin nhắn nào không. Ngay khi anh tắt chế độ “máy bay”, một tin nhắn dài ngoằng lập tức xuất hiện trên màn hình:

“Chào mừng tới Paris, bạn thân mến! Tớ hy vọng cậu đã tranh thủ nghỉ ngơi trên máy bay và Raphaël không ngáy quá to :) Cho tớ xin lỗi chuyện ban nãy nhé: Tớ vui vì cậu kết hôn và vì cậu đã tìm được người đàn ông có thể mang lại hạnh phúc cho cậu. Tớ hứa sẽ làm hết khả năng để hoàn thành nghiêm túc và trọng thể vai trò phù dâu của mình! Bạn thân trọn kiếp của cậu, Juliane.”

Trò đùa này là gì vậy? Anh thầm nghĩ khi đọc lại tin nhắn. Một trò gàn dở của Marcus chăng? Anh tin như thế mất vài giây, cho đến khi kịp xem xét lại chiếc điện thoại đang cầm trên tay: Cùng mẫu máy, cùng màu sắc, nhưng... đây không phải điện thoại của anh! Một cú liếc nhanh qua ứng dụng thư điện tử cho phép anh phát hiện danh tính của chủ nhân thực sự: một cô Madeline Greene nào đó sống tại Paris.

Khốn nạn! Anh lầm bầm. Điện thoại của cô ả đầu đất gặp ở sân bay JFK đây mà!

Madeline nhìn đồng hồ đeo tay và cố nén cơn ngáp. Sáu rưỡi sáng. Chuyến bay chỉ kéo dài hơn bảy tiếng một chút nhưng vì chênh lệch múi giờ, đã là sáng thứ bảy khi máy bay hạ cánh xuống. Sân bay Roissy đang thức dậy với nhịp điệu gấp gáp. Giống như ở New York, những du khách đi nghỉ dịp Giáng sinh đã chiếm lĩnh sân bay dù cho giờ vẫn là sáng sớm.

- Em chắc chắn muốn đi làm hôm nay chứ? Raphaël hỏi khi đứng đợi trước băng chuyền trả hành lý.

- Dĩ nhiên rồi, anh yêu! Cô nói rồi bật điện thoại để kiểm tra hòm thư. Em cá với anh là đã có rất nhiều đơn hàng đang chờ em rồi đấy.

Cô nghe hộp thư thoại trước tiên, một giọng lè nhè ngái ngủ hoàn toàn xa lạ với cô để lại một tin nhắn:

“Chào Jon’, Marcus đây. Ờ... tớ gặp chút rắc rối với chiếc 4L rồi: nó bị rò dầu kiểu... Thôi, tớ sẽ giải thích với cậu sau. Tóm lại là tớ sẽ tới muộn một lúc. Xin lỗi nhé...”

Vậy gã khờ khạo này là ai mới được chứ? Cô vừa nói vừa ngắt máy. Ai đó đã bấm nhầm số chăng? Hừm...

Lòng đầy nghi hoặc, cô quan sát thật kỹ chiếc điện thoại. Cùng một nhãn hiệu, cùng mẫu máy... nhưng đây không phải máy của cô.

- Khốn kiếp! Cô buột miệng thành tiếng. Đây là điện thoại của thằng cha dở hơi ở sân bay!
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
623,263
Điểm cảm xúc
35
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 2: Separate lives[1]


[1]. Tiếng Anh trong nguyên bản: Những mảnh đời riêng lẻ.

.

“Thật kinh khủng khi sống có đôi có cặp mà vẫn cảm thấy cô đơn.”

Paul MORAND

.Jonathan gửi tin nhắn đầu tiên...

Tôi đang giữ điện thoại của cô, cô đang giữ điện thoại của tôi đúng không? Jonathan Lempereur

... Madeline hồi âm hầu như tức khắc:

Phải! Anh đang ở đâu? Madeline Greene

Ở San Francisco. Còn cô?

Ở Paris L Làm thế nào bây giờ?

Ở Pháp vẫn có bưu điện cơ mà, đúng không nhỉ? Ngay ngày mai tôi sẽ gửi lại điện thoại cho cô qua FedEx.

Thật tử tế... Tôi cũng sẽ làm vậy ngay khi có thể. Địa chỉ của anh là gì?

Nhà hàng French Touch, 1606 phố Stockton, San Francisco, CA.

Địa chỉ của tôi: Tiệm hoa Khu Vườn Kỳ Diệu, số 3 phố Delambre, quận XIV Paris.

Cô chuyên bán hoa tươi phải không? Nếu đúng thì cô có một đơn hàng khẩn từ một tay Oleg Mordhorow nào đó: 200 bông hồng đỏ giao tại nhà hát Châtelet cho nữ diễn viên có cảnh trút bỏ y phục ở hồi ba. Nói riêng với cô nhé, tôi không nghĩ đó là vợ ông ta đâu...

Anh có quyền gì mà nghe tin nhắn thoại của tôi?

Nhưng làm vậy chỉ để giúp cô thôi mà, đồ óc bã đậu!

Tôi thấy anh nhắn tin cũng thô thiển chẳng kém gì lúc nói năng! Vậy ra anh kinh doanh nhà hàng hả Jonathan?

Đúng vậy.

Vậy thì quán ăn hạng bét của anh có khách đặt chỗ đây: một bàn hai người vào tối mai, cho ông bà Strzechowski. Tóm lại, tuy sóng điện thoại hơi kém, nhưng đó là lời nhắn tôi nhận được…

Tuyệt lắm. Chúc ngủ ngon.

Ở Paris mới có 7 giờ sáng...

Jonathan lắc đầu vẻ đầy tức tối rồi nhét điện thoại vào túi trong áo vest. Cô ả này khiến anh dựng tóc gáy.

San Francisco

21h30

Một chiếc 4L Renault kiểu cổ màu đỏ chót rời quốc lộ 101 để rẽ vào đường dẫn tới khu trung tâm. Chiếc xe cà tàng cũ kỹ bò lê trên đường Embarcadero như một con ngựa tồi, tạo cảm giác như đang chạy ở chế độ chậm nhất của động cơ. Hệ thống sưởi đã bật ở mức cao nhất nhưng không ăn thua, các cửa kính đều đầy hơi nước đọng lại thành giọt.

- Bố con tớ đến văng lên lề đường với đống sắt vụn của cậu mất! Jonathan than vãn, chỗ ngồi ghế cạnh lái của anh chật cứng.

- Không đâu, con xế của tớ chạy ngon đấy chứ! Marcus gạt phăng. Giá mà cậu biết tớ dồn tâm sức chăm sóc cho nó thế nào!

Mái tóc bù xù và dính bết, lông mày rậm rì, bộ râu mười tám ngày chưa cạo và mí mắt sùm sụp kiểu chó Droopy, trông Marcus như người tiền sử, thậm chí có những ngày nom anh còn nhưng người ngoài hành tinh. Bơi trong chiếc quần tụt và áo sơ mi Hawaii phanh cúc đến tận rốn, thân hình cò hương của anh như cố vặn vẹo và trật khớp để trụ lại trong khoang lái của ô tô. Chân đi đôi tông cũ, anh lái xe bằng một chân, gót đặt trên chân côn còn các ngón lần lượt đè lên chân ga và chân phanh.

- Con thì con rất khoái xe của chú Marcus! Charly vừa reo lên phấn khích vừa khua khoắng tay chân trên ghế sau.

- Cảm ơn cậu nhóc của chú! Anh đáp kèm với một cái nháy mắt dành cho Charly.

- Charly! Thắt ngay dây an toàn vào, thôi ngay cái trò ngọ nguậy liên hồi đó đi! Jonathan ra lệnh.

Rồi anh quay sang bạn:

- Chiều nay cậu có ghé qua quán không?

- Ờ... không phải hôm nay chúng ta đóng cửa quán sao?

- Nhưng ít ra cậu cũng nhận mẻ vịt rồi chứ?

- Vịt nào?

- Mẻ đùi vịt và gà gô mà Bob Woodmark vẫn giao cho chúng ta thứ Sáu hằng tuần ấy!

- À, tớ đã tự nhủ rõ ràng mình quên khuấy mất việc gì đó mà!

- Đồ đại ngốc! Jonathan nổi cáu. Làm sao cậu có thể quên việc duy nhất tớ đã nhờ cậu thế hả?

- Chuyện cũng đâu đến nỗi nghiêm trọng... Marcus lẩm bẩm.

- Có chứ! Ngay cả khi Woodmark khó tính như ranh thì trang trại của hắn vẫn cung cấp cho chúng ta những sản phẩm tốt nhất. Nếu cậu cho hắn leo cây, hắn sẽ đâm ác cảm với chúng ta và cắt nguồn cung ứng. Thử vòng qua quán xem nào, tớ cá với cậu là hắn đã để lô hàng lại sân sau rồi đó.

- Tớ có thể ghé qua đó sau, Marcus nói chắc. Giờ tớ đưa bố con cậu về nhà cái...

- Không! Jonathan ngắt lời ngay. Cậu chỉ là một gã hậu đậu không ai có thể tin tưởng được, vậy nên tớ phải tự quán xuyến lấy thôi.

- Nhưng thằng nhỏ mệt lử rồi kia kìa!

- Không ạ, không hề đâu ạ!Charly hớn hở reo lên. Cháu cũng muốn ghé qua quán mà!

- Thế là xong rồi nhé, Jonathan dứt khoát. Tới ngã tư phố 3 thì rẽ đi, anh ra lệnh rồi dùng tay áo quệt hơi nước đang ngưng đọng lại trên kính chắn gió.

Chiếc 4L cũ kỹ không quen với sự thay đổi bất ngờ này. Bốn chiếc bánh xe không bám đường, cùng với thao tác chuyển hướng đột ngột này thiếu chút nữa đã gây ra tai nạn.

- Cậu thấy rõ rành rành là cậu không đủ sức kiểm soát đồ cặn bã này chưa! Jonathan gào lên. Khốn kiếp, cậu sẽ giết chúng ta mất thôi!

- Tớ đã gắng hết sức rồi đấy! Marcus vừa nói giọng chắc nịch vừa nắn lại vô lăng giữa một dàn hợp xướng những tiếng còi xe đầy phẫn nộ.

Trên đường ngược lên phố Kearney, chiếc xe cà tàng cũng chạy ổn định hơn được một chút.

- Chính vì vừa gặp lại chị gái tớ mà tâm trạng cậu thành ra thế hả? Marcus cất tiếng sau hồi lâu im lặng.

- Francesca chỉ là chị cùng cha khác mẹ với cậu thôi.Jonathan chữa lại.

- Cô ấy thế nào rồi?

Jonathan ném cho cậu bạn ánh mắt thù địch.

- Nếu cậu nghĩ là hai người bọn tớ đã nói chuyện phiếm thì...

Marcus biết chủ đề này hết sức nhạy cảm nên quyết định không hỏi thêm. Anh tập trung lái tới đại lộ Columbus rồi đỗ “bé cưng” của mình trước một quán bia treo biển tên French Touch nằm ở góc giao giữa phố Union và Stockton.

Đúng như Jonathan đã dự đoán, Bob Woodmark đã để lại lô hàng ở mé sau quán. Hai người khiêng các sọt hàng vào trữ trong phòng lạnh rồi vào phòng chính để kiểm tra xem mọi thứ đã ngăn nắp đâu vào đó chưa.

French Touch là một mảnh nước Pháp nằm gọn trong khu North Beach, khu phố Ý của San Francisco. Nhỏ bé nhưng ấm cúng, nơi đây tái hiện nội thất những quán rượu Pháp thập niên 30: gỗ ốp tường, gờ thạch cao trang trí, sàn ghép mảnh, những chiếc gương lớn của Thời Hoàng Kim, những tấm áp phích cũ có hình Joséphine Baker, Maurice Chevalier và Mistinguett. Thực đơn của quán chào mời một thứ ẩm thực Pháp kiểu truyền thống, giản dị, không chút phô trương kiểu cách. Trên tấm bảng đã đen treo tường người ta có thể đọc thấy: “Ốc sên xếp lớp mật ong, lườn vịt nấu cam, bánh tác Saint Tropez...”

“Con ăn kem được không bố?” Charly xin phép khi tới ngồi trước quầy bar bóng loáng nằm dọc căn phòng.

- Không được đâu con yêu. Con đã ních đến hàng kí lô kem trên máy bay rồi còn gì. Mà giờ đã quá khuya rồi, lẽ ra con phải nằm trên giường từ lâu rồi mới phải.

- Nhưng đang là kỳ nghỉ mà bố...

- Thôi nào, Jon’, tỏ ra dễ mến đi nào! Marcus cũng nằn nỉ.

- Ôi không, cậu không định xía vào chuyện này đấy chứ!

- Nhưng giờ là Giáng sinh cơ mà!

- Đúng là hai cậu nhóc! Jonathan không khỏi mỉm cười.

Anh ngồi ở phía cuối quán. Đằng sau quầy bếp để ngỏ cho phép thực khách theo dõi một phần công đoạn chuẩn bị các món ăn.

- Con thích ăn kem gì nào? anh hỏi cậu con trai.

- Một ly Bà Đầm Trắng ạ! cậu nhóc reo lên phấn khích.

Vô cùng khéo léo, “anh cấp dưỡng” bẻ vài khoanh sô cô la đen vào chiếc bát nhỏ để nấu chảy trong nồi hấp.

- Thế còn cậu? Anh hỏi Marcus.

- Chúng ta nên mở một chai vang...

- Tùy cậu.

Một nụ cười tươi rói rạng rỡ trên gương mặt Marcus. Anh háo hức rời chỗ ngồi tiến lại gần chốn thánh đường của riêng mình - hầm rượu nhà hàng.

Cùng lúc, trước ánh mắt thèm thuồng của Charly, Jonathan xếp hai viên kem va ni ăn kèm bánh lòng trắng trứng vào một chiếc cốc có chân. Đợi cho sô cô la tan chảy, anh cho thêm một thìa kem tươi rồi trộn đều. Anh trút sô cô la nóng lên hai viên kem lạnh rồi phủ lên trên cùng một lớp kem đánh dậy bọt và hạnh nhân sém cạnh.

- Thưởng thức thôi! Anh vừa nói vừa cắm một chiếc ô nhỏ trang trí trên chóp kem.

Bố và con trai cùng vào bàn, ngồi sát cạnh nhau trên băng ghế dài êm ái. Mắt sáng lấp lánh, Charly vớ lấy chiếc thìa dài và bắt đầu nếm thử.

- Nhìn cho kỹ kỳ quan này đi! Marcus hừng hực khí thế khi từ hầm rượu trở ra.

- Một chai Screaming Eagle 1997 ư! Cậu điên hay sao thế? Những chai như thế này phải được dành cho khách hàng chứ!

- Thôi nào! Cứ coi như đây là quà Giáng sinh cho tớ đi, anh xuống giọng nài nỉ.

Sau một thoáng ngần ngừ lấy lệ, Jonathan đồng ý mở chai rượu hảo hạng. Cân nhắc mọi bề thì thà rằng Marcus uống vài ly ngay tại quán còn hơn. Ít ra anh có thể trông chừng cậu bạn thân. Nếu không, anh chàng người Canada có nguy cơ đi lòng vòng khắp các quán bar và một khi đã ngà ngà say, anh chàng sẽ gây ra hàng loạt thảm họa. Đã rất nhiều lần, một vài gã bạn nhậu của Marcus đã lạm dụng lòng tốt và sự cả tin của anh để vặt sạch bách tiền bạc của anh qua vài ván bài poker rồi dụ anh ký những tờ giấy ghi nợ khống mà sau đó Jonathan phải khổ sở đủ đường mới trả gỡ lại được.

- Nhìn màu thứ rượu tiên này mà xem! Marcus phấn khích reo lên trong lúc san rượu vang vào một bình khác.

Là đứa con ngoài giá thú của cha ruột Francesca với một nữ ca sĩ nhạc đồng quê người Québec, Marcus không được thừa kế xu lẻ nào sau khi thân sinh của anh, một doanh nhân giàu nứt đố đổ vách người New York, qua đời. Mẹ anh mới mất cách đây ít lâu và anh chỉ duy trì mối quan hệ hết sức xã giao với người chị cùng cha khác mẹ. Không một đồng xu dính túi, anh từng sống trong một tâm thế vô tư lự, thờ ơ với vẻ ngoài của bản thân, lờ đi quy tắc cơ bản của phép lịch sự và những nguyên tắc sống trong xã hội. Anh ngủ triền miên mười hai tiếng mỗi ngày, đến giờ lại qua quán giúp một tay, nhưng những gò bó của cuộc sống và thời gian biểu làm việc dường như không tác động nhiều đến anh. Tử tế đến mức khờ khạo, chất phác và lôi cuốn, ở anh có cái gì đó chân thành và dễ tha thứ, ngay cả khi việc giải quyết những hậu quả do thói vô trách nhiệm thường nhật màMarcusgây ra luôn khiến người ta kiệt sức.

Suốt thời gian cuộc hôn nhân của anh vẫn còn êm ấm, Jonathan chỉ nhìn nhận Marcus như một gã đần mà anh chẳng có gì để chia sẻ. Tuy nhiên, khi Francesca rời bỏ anh, cậu em vợ ấy mới là người duy nhất trợ giúp anh. Thời điểm đó, bất chấp đã có Charly, Jonathan vẫn phó mặc bản thân trượt vào hố sâu trầm uất. Không có việc gì để làm, tâm trạng hoang mang cực độ, anh chìm đắm trong nỗi buồn, giao du hơi quá mức với các quý ông Jack Daniel và Johnnie Walker[2].

[2]. Tên các loại rượu mạnh

May thay, nhờ có phép mầu kỳ diệu, Marcus đã dẹp thói biếng nhác của mình sang một bên, và lần đầu tiên trong đời, đứng ra lo liệu mọi việc. Anh nhắm được một nhà hàng Ý cũ kỹ vừa đổi chủ, chạy vạy ngược xuôi để thuyết phục những người mua lại biến nơi này thành một quán rượu kiểu Pháp rồi giao phần việc bếp núc cho anh rể phụ trách. Sáng kiến này đã giúp Jonathan vững bước quay lại với cuộc sống bình thường. Vừa cảm thấy bạn bình tâm trở lại thì Marcus lập tức tái phát chứng lười vô phương cứu chữa.

- Chúc sức khỏe cậu! Anh vừa nói vừa đưa Jonathan một ly rượu.

- Vậy thì đây là Giáng sinh sớm nhé, anh chàng người Pháp kết luận rồi bật chiếc radio Art déco tậu được tại chợ trời Pasadena.

Anh chuyển sang kênh chuyên nhạc rock đang phát bản live ca khúc Light My Fire.

- Chà! Ra trò đấy! Marcus đang ngồi thoải mái trên chiếc ghế dài không tiếc lời khen ngợi, mặc dù cũng không rõ anh đang nói tới loại rượu vang đỏ hay âm nhạc của nhóm The Doors.

Jonathan cũng đang gắng thư giãn. Anh mở cúc cổ sơ mi rồi cởi hẳn áo vest, nhưng lại thấy phiền lòng ngay khi thoáng thấy chiếc điện thoại của Madeline trên mặt bàn. Câu chuyện cầm nhầm điện thoại này sẽ khiến mình mất khối khách đặt bàn! anh thở dài. Trong số các khách quen quả đã có vài người được biết số di động của anh: Một đặc quyền giúp họ có một bàn trống ngay cả trong những tối quán đông khách.

Trong khi Marcus cầm chiếc điện thoại lên, Jonathan ngắm nhìn con trai đang dần ngủ thiếp đi trên băng ghế. Anh những mong có được khoảng chục ngày nghỉ để chăm sóc Charly chu đáo hơn nhưng lại không thể tự cho phép mình làm vậy. Anh vừa mới thoát khỏi vòng xoáy nợ nần gần như đã nhấn chìm anh vài năm trước, và cơn hoảng loạn đó đã dạy anh biết tránh xa những hạn thanh khoản, những khoản thanh toán tiền mặt, những thương phiếu chưa thanh toán và các điều luật hình sự xử lý việc thanh toán chậm trễ.

Anh nhắm mắt trong tâm trạng rã rời và Francesca lại hiện lên, trong bộ dạng anh đã trông thấy tại sân bay. Đã hai năm trôi qua mà nỗi đau vẫn còn nguyên. Gần như không thể chịu thấu, anh mở mắt rồi nhấp một ngụm rượu để xua tan hình bóng cô. Anh đã không có được cuộc sống như hằng mong muốn, nhưng đó vẫn là cuộc đời anh.

- Này, cô nàng này không tệ đâu nhé! Marcus reo lên phấn khích trong khi lướt ngón tay không lấy gì làm sạch sẽ trên màn hình cảm ứng để xem ảnh chụp lưu trong chiếc điện thoại.

Tò mò, Jonathan ngó sang nhìn màn hình.

- Để xem nào.

Trong số hình chụp cô gái trẻ có một vài tấm người mẫu tạo dáng khá khêu gợi. Những tấm ảnh đó đều được đặt chế độ chụp đen trắng: đồ ren mỏng, dải đeo tất bằng xa tanh, bàn tay đưa lên e ấp che ngực hoặc để hờ trên đường cong nơi hông. Không có gì quá nghiêm trọng vào thời buổi này khi một số kẻ còn tung clip sex của chính mình lên mạng Internet...

- Cho con xem với được không? Charly hỏi khi bừng tỉnh giấc.

- Không, không. Con ngủ lại đi. Cái này trẻ con không xem được.

Dù sao thì cũng khá ngạc nhiên khi cô ả lắm chuyện ở sân bay, với điệu bộ cảnh vẻ như thế, lại có những tấm hình gợi tình đến thế này.

Có phần kinh ngạc hơn là thích thú, Jonathan chỉnh chế độ zoom vào mặt người mẫu. Nhìn bề ngoài, cô nàng có vẻ vui ra mặt, sẵn sàng cống hiến cho cuộc chơi, nhưng đằng sau nụ cười phô diễn ấy người ta có thể đoán được thái độ đầy ngượng ngùng. Rõ ràng những bức hình dạng này nói đúng ra là yêu cầu của người chụp cô nàng, kẻ trong một khoảnh khắc đã tự coi mình là Helmut Newton[3]. Ai là kẻ cầm máy ảnh đó? Chồng cô nàng? Người tình? Jonathan nhớ là đã gặp gã đó tại sân bay, nhưng anh không tài nào hình dung được khuôn mặt gã.

[3]. Nhiếp ảnh người Úc gốc Đức, nổi tiếng với những bức ảnh khỏa thân đen trắng.

- Thôi nào, như thế đủ rồi đấy! anh quả quyết nói rồi tắt phụp điện thoại trước ánh mắt thất vọng của Marcus.

Bỗng cảm thấy mình chẳng khác nào một kẻ biến thái thích thị dâm, anh tự hỏi mình có quyền gì mà đi sâu vào lục lọi đời tư của người phụ nữ này.

- Cứ làm như cô nàng sẽ thấy ngại khi xem xét trong máy cậu ấy! anh chàng người Canada lưu ý anh.

- Tớ mặc xác. Đằng nào thì cô ta cũng chẳng bao giờ tìm thấy dạng ảnh đó trong điện thoại của tớ! Anh thốt lên rồi rót cho mình một ly Screaming Eagle. Cậu đừng tưởng là tớ thích thú với việc chụp ảnh Popaul...

Thứ rượu vang này đậm đà vị nho đỏ và bánh mì tẩm gia vị. Vừa nhấm nháp thứ đồ uống tuyệt hảo, Jonathan vừa thầm điểm lại những gì được lưu trong điện thoại di động của anh. Nói cho đúng ra thì anh hoàn toàn chẳng còn nhớ gì hết.

Dù thế nào đi nữa thì cũng chẳng có gì riêng tư hay nguy hại cả, anh tự trấn an.

Về điều này thì anh đã nhầm hoàn toàn.

Paris

7h30

Được trang trí bởi những đường kẻ sọc trên nắp xe, chiếc Jaguar XF đời mới nhất lướt nhanh trong sắc xanh lơ lạnh lẽo như kim loại của vùng ngoại ô Paris. Với toàn những chất liệu sang trọng - da bọc trắng, gỗ hồ đào, nhôm xước - khoang lái toát lên vẻ xa hoa và tiện nghi. Trên ghế sau chất đầy hành lý có in họa tiết Monogram cùng với túi đựng đồ chơi gôn và một cuốn tạp chí Fig Mag.

- Em chắc chắn muốn mở cửa tiệm hôm nay chứ? Raphaël hỏi lại lần nữa.

- Anh ơi! Madeline kêu lên. Chúng ta đã nói chuyện này nhiều lần rồi mà.

- Ta có thể kéo dài kỳ nghỉ kia mà… anh nằn nì. Anh lái thẳng đến Deauville, ta sẽ nghỉ qua đêm ở Normandy rồi ngày mai sẽ dùng bữa sáng cùng bố mẹ anh.

- Nghe hấp dẫn quá, nhưng... thôi anh ạ. Mà hơn nữa, anh cũng có cuộc hẹn đưa khách hàng đi thăm công trường còn gì.

- Chính em là người quyết định, kiến trúc sư đầu hàng, rẽ sang đại lộ Jourdan.

Denfert-Rochereau, Montparnasse, Raspail: chiếc xe chạy gần như qua cả quận XIV trước khi đỗ trước số nhà 13 phố Campagne-Première có cánh cổng màu lục thẫm.

- Tối nay anh qua cửa tiệm đón em nhé?

- Thôi anh, để em đi xe máy tới.

- Em sẽ đóng băng mất!

- Có thể lắm, nhưng em yêu chiếc Triumph của em! Cô đáp rồi hôn anh.

Họ ôm siết nhau cho tới khi hồi còi vội vã của một tài xế taxi tàn nhẫn kéo họ ra khỏi thế giới của riêng hai người.

Madeline sập cửa xe lại rồi hôn gió tạm biệt người yêu. Cô bấm mã mở cánh cổng dẫn vào một khoảng sân lác đác cây cối. Ở đó, ngay sát khu vườn là căn hộ cô thuê từ ngày chuyển tới sống tại Paris.

- Chà! Nhiệt độ trong này chắc chỉ âm 15 độ! Cô run cầm cập khi bước vào căn nhà nhỏ hai tầng, điển hình cho các xưởng nghệ sĩ được xây dựng trong khu phố vào cuối thế kỷ XIX.

Cô quẹt diêm nhóm hệ thống sưởi lên rồi cắm bình siêu tốc để chuẩn bị pha trà.

Căn xưởng vẽ nguyên thủy từ lâu đã nhường chỗ cho một căn hộ hai phòng xinh xắn bao gồm một phòng khách, một khu bếp nhỏ và một phòng ngủ trên gác lửng. Nhưng trần nhà cao, những khung cửa kính màu khổ lớn trên bức tường chính và sàn nhà bằng gỗ sơn vẫn gợi nhắc khuynh hướng nghệ thuật ban đầu và góp phần tạo nên nét quyến rũ độc đáo cho nơi này.

Madeline bật kênh TSF Jazz, kiểm tra xem lò sưởi đã bật mức to nhất chưa rồi nhấm nháp trà, lắc lư theo nhịu kèn trompette của Louis Amstrong trong lúc chờ căn hộ ấm dần lên.

Cô tắm qua dưới vòi sen, rồi rùng mình bước ra khỏi phòng tắm mở tủ áokhoác vội chiếc áo phông giữ nhiệt, quần jean và một chiếc áo len Scotland dày sụ. Sẵn sàng lên đường, cô ăn vội một thanh Kinder Bueno, vừa nhai vừa khoác thêm chiếc áo bu dông da rồi quàng quanh cổ chiếc khăn dày nhất.

Lúc cô leo lên yên chiếc mô tô màu vàng lửa đã là hơn 8 giờ. Cửa tiệm của cô không mở cửa, nhưng cô muốn ghé qua nó trước khi đi gặp Raphaël. Tóc tung bay trong gió, cô phóng trên quãng đường khoảng trăm mét dọc con phố cô hằng yêu quý. Chính tại đây, Rimbaud và Verlaine đã sáng tác thơ, Aragon và Elsa đã yêu nhau, Godard đã lưu danh muôn thuở hồi kết bộ phim đầu tay của mình. Trong cảnh phim buồn vô hạn này Jean-Paul Belmondo “kiệt sức” ngã vật xuống đất sau khi nhận một phát đạn vào lưng, ngay trước mắt vị hôn thê người Mỹ.

Madeline rẽ sang đại lộ Raspail rồi men theo phố Delambre tới tận Khu vườn kỳ diệu, tiệm hoa được mở cách đây hai năm và giờ đã trở thành niềm tự hào của cô.

Cô vừa mở cửa sắt cuốn vừa nơm nớp lo. Chưa bao giờ cô đi vắng lâu đến thế. Suốt kỳ nghỉ ở New York, cô đã nhờ Takumi trông nom hộ cửa tiệm, anh chàng học việc người Nhật đã học xong khóa đào tạo dành cho người trồng hoa tại Paris.

Bước vào bên trong tiệm rồi, cô liền thở phào nhẹ nhõm. Takumi đã làm đúng lời cô dặn. Chàng trai trẻ người châu Á đã đi Rungis mua những đồ thiết dụng từ hôm qua và căn phòng đang tràn ngập hoa tươi: lan, tulip trắng, loa kèn trắng, trạng nguyên, râm bụt tím, mao lương, trinh nữ, thủy tiên bấc, hoa bướm, loa kèn đỏ. Cây thông Noel to mà họ đã cùng nhau trang trí đang lấp lánh khoe sắc, những bó tầm gửi và nhựa ruổi thì rủ từ trên trần xuống.

Đã thấy yên tâm, cô cởi áo khoác ra, đeo tạp dề vào, tập hợp dụng cụ làm việc - kéo tỉa, bình tưới, lưỡi xới - rồi hăm hở bắt tay vào những nhiệm vụ khẩn cấp nhất, lau chùi lá một cây sung, sang chậu một cây lan, cắt tỉa tạo hình một chậu bonsai.

Madeline đã thiết kế cửa tiệm hoa của cô như một xứ sở diệu kỳ và thơ mộng, một không gian lãng mạn, một chốn thanh bình và an toàn cách xa bầu không khí ồn ào náo động của thành phố. Dù một ngày trôi qua có buồn bã thế nào, cô vẫn muốn các khách hàng rũ bỏ được những phiền muộn sâu kín ngay khi bước qua ngưỡng cửa tiệm hoa. Vào mùa Giáng sinh, bầu không khí trong Khu vườn kỳ diệu trở nên đặc biệt quyến rũ, gợi nhớ lại những mùi hương thuở ấu thơ và những truyền thống xưa cũ.

Sau khi đã hoàn thành những bước cơ bản, cô lôi đám thông ra trang trí mặt tiền rồi mở cửa tiệm vào đúng lúc đồng hồ điểm 9 giờ.

Cô mỉm cười khi nhìn thấy khách hàng đầu tiên bước vào - trong nghề này, một câu ngạn ngữ cổ có nói rằng nếu khách mở hàng là đàn ông, ngày hôm đó sẽ đắt hàng, rồi lại mặt mũi sa sẩm trước yêu cầu của người khách ấy: Anh ta muốn gửi một bó hoa tới vợ mình mà không kèm theo danh thiếp. Đây là chiến thuật mới đang thịnh hành của các ông chồng ghen tuông: gửi tặng hoa nặc danh để chờ xem phản ứng của vợ mình như thế nào. Nếu khi anh chồng về tới nhà, cô vợ không kể gì về bó hoa, anh ta có thể kết luận nhanh chóng rằng vợ mình đang cặp bồ... Người khách thanh toán hóa đơn rồi rời khỏi tiệm, không thèm quan tâm xem bó hoa ấy gồm có những gì. Trong khi Madeline đang một mình bắt tay vào thiết kế bó hoa để Takumi kịp giao tới ngân hàng nằm trên phố Boulard vào lúc 10h thì bỗng nghe vang lên khắp tiệm tiếng ghi ta điện trong bài Jumpin’ Jack Flash. Cô chủ tiệm hoa nhướng mày đầy nghi hoặc. Bản nhạc nổi tiếng của Rolling Stones vọng ra từ chiếc ba lô có chứa điện thoại di động của gã Jonathan gì gì đó. Cô ngần ngừ chưa muốn bắt máy, nhưng cô còn đang mải cân nhắc thì tiếng chuông đã tắt. Im lặng được khoảng một phút, rồi lại có một âm thanh ngắn và trầm đục cho thấy người vừa gọi đã để lại một tin nhắn.

Madeline khẽ nhún vai. Dẫu gì cô cũng sẽ không nghe bất cứ cuộc gọi nào của người khác... Cô còn khối việc phải làm! Vả lại, cô mặc xác cái gã Jonathan gì gì vừa thô lậu vừa đểu cáng đó. Vả lại...

Chợt cảm thấy tò mò đến không thể cưỡng lại, cô ấn vào màn hình cảm ứng rồi áp điện thoại lên tai. Một giọng trầm và ngần ngại vang lên: Một phụ nữ người Mỹ, giọng nói pha chút âm sắc Ý, đang khó khăn lắm mới kìm được những tiếng thổn thức.

“Jonathan à, em đây, Francesca đây. Làm ơn gọi lại cho em. Chúng ta cần nói chuyện, chúng ta cần... Em biết em đã phản bội anh, em biết anh không hiểu tại sao em lại phá hỏng tất cả. Hãy quay lại đi, xin anh, hãy làm vậy vì Charly và hãy làm vậy vì chúng ta. Em yêu anh... Anh sẽ không quên, nhưng anh sẽ tha thứ cho em. Chúng ta chỉ có một cuộc đời này thôi, Jonathan, và chúng ta được sinh ra là để cùng nhau sống cuộc đời dó và có thêm những đứa con khác. Hãy tiếp tục thực hiện những kế hoạch của chúng ta, hãy tiếp tục sống như trước. Không có anh thì chẳng còn là cuộc sống nữa...”

Giọng người phụ nữ Ý tắc nghẹn trong một nỗi buồn thương vô hạn và tin nhắn thoại kết thúc ở đó.

Mất một lúc, Madeline ngồi bất động, xáo trộn bởi những gì vừa nghe được, và chợt cảm thấy tội lỗi. Hai cánh tay cô nổi da gà. Cô rùng mình rồi đặt chiếc điện thoại vẫn còn chất chứa nước mắt lên quầy, tự hỏi rằng cô đang định làm gì thế nhỉ.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
623,263
Điểm cảm xúc
35
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 3: Trong vòng bí mật


“Ai cũng có bí mật. Chỉ là chúng ta có tìm được chúng hay không.”.

Stieg LARSSON

Jonathan nhả chân phanh rồi chuyển sang số ba. Hộp tốc độ rít lên một tiếng chói tai như thể chiếc xe vừa được giải thoát. Anh đã đòi hỏi quá nhiều ở vô lăng chiếc 4L: ngay cả khi nhà đã ngay gần đó, anh vẫn không thể nghĩ đến khả năng để Marcus tự lái xe. Nằm ườn trên ghế sau, bạn anh đang nằm nghỉ cho giã rượu, miệng lẩm nhẩm từng đoạn ngắn trong những bài hát ngông cuồng quen thuộc của Georges Brassens:

Khi nghĩ đến Fernande,

Tôi lại cửng, lại cửng...

- Thấp xuống một tông nữa đi! Jonathan ra lệnh rồi liếc xéo qua kính chiếu hậu, canh chừng xem cậu con trai của anh có bị giật mình thức giấc hay không.

- Xin lỗi nhé, Marcus nói rồi ngồi thẳng dậy để hạ kính xe xuống.

Anh chàng người Canada thò đầu ra khỏi cửa xe, mặc cho gió thổi mơn man trên mặt, như thể khí trời đêm sẽ giúp anh tỉnh rượu.

Thằng cha này say mèm rồi..., Jonathan thầm nghĩ rồi lại giảm tốc lần nữa cho đến khi chiếc xe đạt tới vận tốc của một con sên mắc chứng hen suyễn.

Chiếc ô tô con đang tiến vào ngả phía Tây của phố Filbert, một trong những con phố sầm uất nhất San Francisco. Khi bắt đầu lên dốc, chiếc xe cà khổ lại ho khù khụ, có nguy cơ dừng khựng lại nhưng rốt cuộc cũng lấy đủ hơi sức để khó nhọc bò lên tới đỉnh đồi được chiếu sáng bởi thứ ánh sáng trắng của Coit Tower, tòa nhà cao nhất thành phố. Jonathan thực hiện một cú quay ngoắt hóc hiểm để đỗ ngang xe, quay bánh xe hướng về phía trong vỉa hè. Nhẹ cả người vì đã về tới nơi bình yên vô sự, anh bế con trai vào lòng, tiến vào lối đi khuất giữa đám bạch đàn, cọ và hoa giấy.

Marcus loạng choạng theo sau anh, vừa đi vừa hát rống lên đến váng óc những bài hát nhả nhớt ban nãy.

- Có để cho người khác ngủ không đấy! Một giọng hàng xóm phàn nàn.

Jonathan chộp lấy vai bạn mà kéo cho anh chàng rảo bước.

- Cậu là người bạn đích thực duy nhất của tớ, bạn thân duy nhất tớ có..., gã say lẩm nhẩm rồi bíu lấy cổ anh.

Jonathan khó khăn lắm mới giữ được bạn anh đứng vững, và “hai người đàn ông rưỡi” đó lần từng bước men xuống những bậc thang gỗ dốc đứng của đồi Telegraph. Chiếc cầu thang uốn khúc giữa một thảm thực vật rậm rạp ngăn cách giữa những ngôi nhà nhỏ xinh màu sắc rực rỡ sắc màu. Tránh được sự tàn phá của trận động đất năm 1906, những ngôi nhà ghép ván ban đầu được xây dựng làm nơi ở cho các thủy thủ và công nhân bốc vác, nay được các khách hàng thuộc giới văn nghệ sĩ và trí thức giàu có ưa chuộng.

Cuối cùng họ cũng đến trước cánh cổng chính dẫn vào một khu vườn bỏ hoang nơi cỏ dại mọc sum sê đã giành phần thắng tuyệt đối trong cuộc chiến sinh tồn với đám văn anh và đỗ quyên.

- Tốt rồi, ai nấy về phòng mình đi nào! Jonathan tuyên bố với vẻ quyền uy của người chủ gia đình.

Anh thay quần áo cho Charly, đặt cậu bé nằm lên giường, dém chăn rồi hôn chúc ngủ ngon. Rồi anh cũng làm tương tự với Marcus, trừ có vụ hôn. Dù sao cũng không cần phải phóng đại kia mà...

Rốt cuộc cũng được yên thân, Jonathan ghé vào bếp tự rót cho mình một cốc nước rồi mang laptop ra sân thượng ngồi. Vẫn chưa quen với chênh lệch múi giờ, anh cố nén một cái ngáp rồi dụi mắt, thả mình xuống một chiếc ghế tựa bằng gỗ tếch.

- Thế nào chàng trai, cậu không buồn ngủ sao?

Jonathan ngước lên nhìn về phía phát ra giọng nói: đó là Boris, chú vẹt nhiệt đới sống trong nhà.

Mình quên khuấy mất nó!

Chú chim thuộc về chủ cũ của căn nhà, một kẻ gàn dở đã viết chúc thư với một điều khoản bắt buộc đối với bất cứ ai mua lại căn biệt thự, là phải chăm sóc chú vẹt cưng của mình đến khi chú lìa đời. Boris đã hơn sáu mươi tuổi. Ròng rã hàng thập kỷ, ngày nào người chủ cũng dành một tiếng đồng hồ dạy Boris nói tiếng ngườivới hơn một nghìn từ và hàng trăm thành ngữ luôn được chú ta đem ra sử dụng hợp tình hợp cảnh đến kinh ngạc.

Chú vẹt gia nhập tổ ấm mới với thái độ hết sức điềm tĩnh và lập tức trở thành nguồn vui của Charly. Nhất là chú ta lại còn cực kỳ hòa hợp với Marcus, người đã truyền cho chú ta trọn bộ sưu tập những câu rủa xả của thuyền trưởng Haddock. Nhưng Boris cũng là một kẻ bông lơn đáng ghét nên Jonathan chỉ đánh giá cao một cách tương đối tính nết tinh quái và miệng lưỡi dẻo quẹo của chú.

- Cậu không buồn ngủ saaaaao? Chú chim nhắc lại.

- Có chứ, cậu nghĩ mà xem, nhưng tôi quá mệt nên không ngủ được.

- Đồ rỗ mặt! Boris buông lời lăng mạ.

Jonathan lại gần chú vẹt đang chễm chệ ngự trên sào đậu với chiếc mỏ to khoằm và hai cẳng chân có móng sắc dày. Bất chấp tuổi đã cao, bộ lông nửa vàng nửa lam của Boris vẫn giữ được độ láng bóng, còn lớp lông tơ màu đen vằn vện quanh viền mắt đem lại cho chú ta vẻ đĩnh đạc và ngạo nghễ.

Chú vẹt lúc lắc chiếc đuôi dài, vừa giang cánh vừa ngoạc mỏ ra đòi:

- Tôi muốn táo, mận, chuối...

Jonathan quan sát kỹ lồng vẹt.

- Cậu vẫn chưa ăn dưa chuột và rau diếp kìa.

- Rau diếp tởm! Tôi muốn quả thông, hồ đào và đậu phộôông cơ.

- Thế đấy, còn tôi ấy à, tôi muốn Hoa hậu Thế giới nằm trên giường tôi kia.

Jonathan lắc đầu rồi mở máy tính. Anh đọc hết thư điện tử, trả lời thư cho hai nhà cung cấp, ghi lại vài bàn đặt chỗ trước rồi châm một điếu thuốc, quan sát hàng nghìn đốm sáng đang lấp lánh trên đại dương. Ngồi từ đây, tầm nhìn ra vịnh đẹp tuyệt vời. Những tòa nhà chọc trời của khu phố thương mại nổi bật trên hình bóng khổng lồ của cây cầu Bay Bridge trải dài về phía Oakland. Phút tĩnh mịch ấy bị khuấy động bởi một hồi chuông điện thoại xa lạ: một đoạn violon, theo vốn hiểu biết mù mờ của anh về âm nhạc thì đó là đoạn mở đầu một bản Caprice của Paganini.

Điện thoại của Madeline Greene.

Nếu muốn ngủ, tốt hơn hết là anh nên tắt máy, bởi với múi giờ chênh lệch, nhiều khả năng số cuộc gọi đến còn tăng thêm nhiều. Tuy thế, anh vẫn quyết định nhận nốt cuộc gọi này.

- Tôi xin nghe?

- Là cậu đấy hả người đẹp?

- Ơ...

- Cậu không đến nỗi kiệt sức đấy chứ? Tớ hy vọng cậu đi đến nơi về đến chốn.

- Tuyệt lắm. Cô thật tử tế vì đã hỏi thăm.

- Thế anh không phải là Madeline sao?

- Rõ là thế còn gì!

- Là anh hả Raphaël?

- Không, tôi là Jonathan ở San Francisco.

- Hân hạnh được biết anh, tôi là Juliane Wood. Tôi có thể biết tại sao anh lại cầm điện thoại của cô bạn thân của tôi không?

- Vì tôi và bạn cô vô tình nhầm điện thoại với nhau.

- Tại San Francisco sao?

- Tại New York, chính xác là tại sân bay. Nói tóm lại, giải thích cặn kẽ ra thì dài dòng lắm.

- Ra thế, kỳ cục thật đấy...

- Vâng, nhất là khi chuyện đó xảy đến với người khác. Vậy cô...

- Chuyện xảy ra thế nào?

- Được rồi, cô nghe đây, giờ đã muộn rồi và chuyện này kể ra cũng không lấy gì làm thú vị.

- Ôi có chứ! Ngược lại thì có, kể cho tôi nghe đi!

- Cô gọi từ châu Âu hả?

- Tôi gọi từ Luân Đôn. Để tôi bảo Madeline kể lại vậy. Số của anh là bao nhiêu ấy nhỉ?

- Cô hỏi gì kia?

- Số di động của anh.

- ...

- Để tôi gọi cho Madeline...

- Nhưng tôi không cho cô số cá nhân được đâu, tôi đâu có quen cô!

- Nhưng Madeline đang cầm điện thoại của anh cơ mà!

- Ôi, khỉ thật! Chắc là cô còn cách khác để liên lạc với bạn cô chứ! Cô chỉ việc gọi cho anh chàng Raphaël gì đó thôi!

Cô ả lắm lời! Anh nghĩ trong lúc vội vã chấm dứt cuộc trò chuyện.

- Alô, alô, từ đầu máy bên kia Juliane vẫn lặp đi lặp lại.

Ôi, đồ đểu cáng! Cô tức điên lên khi rốt cuộc cũng hiểu ra rằng đầu dây bên kia đã ngang nhiên cúp máy.

Jonathan đang kiên quyết tắt máy thì bỗng cơn tò mò trỗi dậy khiến anh muốn xem lại lần nữa những bức ảnh lưu trong điện thoại. Ngoài vài ba kiểu ảnh tư thế khêu gợi, phần lớn các file đều chứa ảnh chụp khi du lịch, một album thực thụ kỷ niệm những chuyến du hí lãng mạn của cặp đôi. Giả dụ như Madeline và Raphaël tình tứ trên quảng trường Navone tại Rome, trên thuyền mui cong ở Venise, trước quần thể lâu đài Gaudí ở Barcelona, đu lên xe điện ở Lisbon hay trượt tuyết trên dãy Alpes. Cũng chừng ấy địa danh chính Jonathan đã cùng Francesca đi qua thời còn mặn nồng yêu đương. Nhưng hạnh phúc của người khác vẫn khiến anh buốt nhói, anh chỉ dám xem lướt qua chứ không nấn ná lâu.

Tuy thế anh vẫn tiếp tục xem xét các dữ liệu khác, xem qua thư viện nhạc của Madeline với vẻ hết sức chú tâm. Vốn chờ được thấy điều tệ hại nhất - mớ nhạc Pop và R’n’B thị trường - anh đã phải tròn mắt ngạc nhiên khi phát hiện ra... thứ âm nhạc mà bản thân anh mê thích: Tom Waits, Lou Reed, David Bowie, Bob Dylan, Neil Young...

Những kẻ lãng du ca lên những khúc nhạc buồn bã, buổi bình minh nhợt nhạt như báo trướcsố phận phảichia ly.

Chuyện này thật lạ lùng. Hẳn là bộ quần áo không làm nên thầy tu nhưng anh thấy khó mà hình dung ra người phụ nữ trẻ quần áo là lượt, đầu tóc bóng bẩy và diện đồ Louis Vuitton từ đầu đến chân khi ở sân bay ấy lại có thể chìm đắm trong thế giới thống khổ này.

Bị trí tò mò đẩy đi xa hơn, anh xem thêm danh mục phim Madeline đã tải về điện thoại. Lại một sự ngạc nhiên nữa: không phải những bộ phim hài lãng mạn dài tập như Sex and the City hay Desperate Housewives, mà là những bộ phim điện ảnh gai góc hơn, gây nhiều tranh cãi hơn: Bản tango cuối ở Paris, Crash, Nghệ sĩ dương cầm, Macadam Cowboy và Leaving Las Vegas.

Jonathan dừng lại ở nhan đề phim cuối cùng: Câu chuyện tình vô vọng giữa một kẻ nghiện rượu nung nấu ý định tự sát và một cô điếm khốn khổ này chính là bộ phim anh yêu thích nhất. Khi xem bộ phim lần đầu, anh đang ở đỉnh cao trong sự nghiệp và hạnh phúc gia đình. Tuy nhiên, vết trượt dài của Nicolas Cage trong hơi men khi cố nhấn chìm thất bại của cuộc đời bằng rượu chè dường như khá thân thuộc đối với anh. Đó là thể loại phim khơi lại những vết thương lòng của bạn, đánh thức những con quỷ đã ngủ yên trong bạn và những bản năng tự hủy hoại của bạn. Kiểu câu chuyện buộc bạn phải đối mặt với những nỗi sợ thầm kín nhất, với nỗi cô đơn trong bạn, và nhắc bạn nhớ rằng không ai có thể tránh được lúc sẩy chân rơi xuống địa ngục. Tùy theo tâm trạng của bạn vào lúc xem phim, tác phẩm điện ảnh này có thể khiến bạn nôn nao hoặc khiến bạn tự nhìn mình sáng rõ hơn. Dù thế nào chăng nữa nó vẫn tác động sâu sắc đến bạn.

Chắc chắn là: Madeline có những sở thích gây bất ngờ.

Càng lúc càng băn khoăn, anh chuyển sang check mail và SMS. Không kể một vài tin nhắn liên quan tới công việc, phần còn lại chủ yếu là tin trò chuyện với Raphaël - bạn trai cô nàng, rõ ràng là một người tình say đắm và ân cần - và với cả cô bạn thân - cô nàng Juliane mồm loa mép giải kiêm đại lý buôn dưa nhưng cũng là người bạn trung thành và vô cùng hóm hỉnh ban nãy. Hàng chục email đến từ một nhà thầu xây dựng tại Paris cho phép đoán được Madeline và Raphaël sắp chuyển đến sống trong một ngôi nhà thuộc khu Saint-Germain-en-Laye, họ đã dành nhiều công sức chăm chút kỹ càng để biến nơi đó thành tổ ấm tình yêu đầu tiên. Rõ ràng là cặp đôi này đang trên mây, chỉ có điều trong lúc tiếp tục làm cái việc rõ ràng có thể định nghĩa là “lục lọi”, Jonathan đã truy cập nhật ký điện tử của Madeline và phát hiện thấy những cuộc gặp đều đặn với một người nào đó tên Esteban. Ngay lập tức anh hình dung ra một gã tay chơi người Achentina, tình nhân của cô gái người Anh. Mỗi tuần hai lần, vào thứ Hai và thứ Năm từ 18 giờ đến 19 giờ, Madeline lại gặp anh chàng Casanova người Nam Mỹ của mình! Anh chàng Raphaël đã hay biết những lầm lạc của cô vợ chưa cưới xinh đẹp này chưa nhỉ? Chưa hề, chắc chắn là thế rồi. Chính Jonathan cũng đã phải chịu vận rủi đó mà không hề nhận ra tín hiệu gì cho tới tận khi phát hiện ra sự lừa dối của Francesca, trước đó anh cứ nghĩ cặp đôi của mình vẫn tránh được những cơn lốc xoáy.

Cũng y như thế..., anh nghĩ với tâm thế của kẻ chẳng còn chút ảo tưởng nào.

Qua ảnh chụp, anh thấy tuồng như Raphaël có vẻ chán ngắt với chiếc áo pull buộc hờ trên vai và chiếc sơ mi màu xanh nhạt đúng hình mẫu con rể lý tưởng. Nhưng trước Esteban, kẻ hẳn đang đóng vai tay thủy thủ chuyên phóng ngư lôi vào hạnh phúc hôn nhân của người khác, Jonathan không khỏi cảm thấy dâng lên một mối đồng cảm với Raphaël và tình đoàn kết riêng giữa các ông chồng bị cắm sừng với nhau

Trong số những cuộc gặp khác, từ “phụ khoa” lặp lại khá đều đặn: bác sĩ Sylvie Andrieu, người mà Madeline có vẻ vẫn đến khám từ sáu tháng nay vì gặp vấn đề về hiếm muộn. Ít ra, đó cũng là điều mà những bức thư điện tử đến từ một phòng xét nghiệm y học đã được Madeline đặt mật khẩu truy cập gợi lên.

Trước màn hình điện thoại của cô nàng, Jonathan hơi có cảm giác mình là kẻ xem trộm và không được thoải mái tự nhiên, nhưng có điều gì đó ở người phụ nữ này bắt đầu thu hút anh.

Những tuần gần đây, Madeline đã trải qua những đợt kiểm tra thông thường nhất để tầm soát nguy cơ vô sinh tiềm ẩn: đường biểu diễn thân nhiệt, chọc sinh thiết, siêu âm, chụp X-quang. Đến đây Jonathan vẫn thành thạo: Francesca và anh đã từng gặp phải những vấn đề tương tự và cũng theo đúng những liệu trình này trước khi thụ thai Charly.

Anh dành thời gian đọc kết quả hết sức chăm chú. Theo những gì anh hiểu được, kết quả khá khả quan. Madeline có vòng kinh đều đặn, lượng hoóc môn ở mức bình thường và không cần phải kích rụng trứng. Ngay cả anh yêu dịu dàng của cô cũng đã thuận lòng xét nghiệm tinh dịch và Raphaël hẳn là đã nhẹ cả người khi thấy số lượng t*ng trùng của mình đủ đông đảo và di chuyển đủ nhanh để cho phép thụ tinh tự nhiên.

Chỉ còn thiếu một xét nghiệm duy nhất, thường gọi là “test Hühner” là bức tranh hoàn chỉnh. Và khi xem lại tổng thể các ghi chú xuất hiện trong nhật ký điện tử, Jonathan nhận ra rằng kể từ ba tháng trở lại đây, lần nào ngày hẹn làm xét nghiệm cũng bị hoãn lại.

Kỳ lạ thật...

Anh nhớ rất rõ tâm trạng của mình thời đó, khi chính anh thực hiện xét nghiệm này cùng Francesca. Dĩ nhiên, xét nghiệm nhằm kiểm tra độ tương hợp giữa t*ng trùng và dịch nhầy tử cung này hơi mang tính gò bó - phân tích phải được thực hiện trong vòng hai ngày trước khi rụng trứng và chưa đầy mười hai tiếng sau một cuộc giao hợp không áp dụng phương pháp tránh thai nào -, nhưng một khi đã quyết định tiến hành hàng loạt phân tích này, bạn chỉ có một mong muốn duy nhất: Kết thúc nó càng nhanh càng tốt để được yên lòng.

Tại sao Madeline lại hoãn thực hiện xét nghiệm này đến ba lần như vậy?

Anh vắt óc suy nghĩ dù biết rằng mình sẽ không thể tìm được câu trả lời cho câu hỏi này. Nói cho cùng, những lần lỡ hẹn đó có thể bắt nguồn từ phía bác sĩ phụ khoa hoặc từ phía Raphaël lắm chứ.

- Đi ngủ thôi, thằng cha kia! Boris gọi anh.

Lần duy nhất này, chú vẹt có lý. Anh đang chơi trò gì vậy, thức như chong chong đến tận hai giờ sáng để dò xét một cách vô vọng màn hình điện thoại của một phụ nữ anh mới chỉ thoáng gặp có hai phút trong đời ư?

Jonathan đứng dậy khỏi ghế, quyết tâm đi ngủ, nhưng chiếc điện thoại tiếp tục phát huy sức hấp dẫn của mình. Không thể đặt nó xuống, anh kết nối điện thoại với mạng wifi sẵn có rồi xem lại bộ sưu tập ảnh lần nữa. Anh cho phát tự động những tấm ảnh của Madeline cho tới khi thấy bức mình đang tìm. Anh bấm lệnh in rồi trở vào phòng khách.

Máy in kêu lạo xạo trước khi đẩy ra một bức ảnh chân dung chụp nửa thân trên người phụ nữ trẻ trước Kênh Lớn tại Venise. Jonathan cầm lấy bức ảnh rồi nhìn thẳng vào mắt Madeline.

Trên gương mặt này ẩn chứa một bí mật. Đằng sau vẻ rạng rỡ và nụ cười này, anh cảm thấy một vết rạn, một điều gì đó đổ vỡ không cách nào cứu chữa, như thể bức ảnh mang một thông điệp vô thức mà anh không thể giải mã.

Jonathan quay ra sân thượng. Như bị chiếc điện thoại thôi miên, giờ anh xem thêm những ứng dụng khác mà Madeline đã tải về máy - nhật báo tin tức, bản đồ tàu điện ngầm Paris, dự báo thời tiết...

- Bí mật của cô là gì hả Madeline Greene? Anh thì thầm, tay vẫn lướt trên màn hình điện thoại.

- Madeline Greene, chú vẹt nhại theo ầm ĩ.

Ánh đèn bật sáng trong căn nhà đối diện.

- Để cho người ta ngủ với chứ! Giọng một ông hàng xóm than phiền.

Jonathan đang định mở miệng mắng Boris thì bỗng bị một chương trình thu hút sự chú ý: “lịch hoa hồng”, trong đó Madeline ghi lại một phần không nhỏ cuộc sống riêng tư của mình. Được sắp xếp như một cuốn sổ lịch, ứng dụng ghi nhớ ngày bắt đầu và kết thúc chu kỳ, xác định ngày rụng trứng, những ngày khả năng thụ thai tăng cao và tính toán độ dài trung bình của chu kỳ tháng. Một “nhật ký” theo dõi sự thay đổi của cân nặng, nhiệt độ và tâm trạng trong khi những biểu tượng bí ẩn hình trái tim cho phép người sử dụng ghi nhớ những ngày có gần gũi thể xác.

Vị trí các biểu tượng hình trái tim trên lịch này cho Jonathan một sự thật hiển nhiên: Madeline tỏ vẻ muốn sinh con, nhưng lại cẩn trọng để chỉ gần gũi chồng sắp cưới vào những ngày nằm ngoài khoảng thời gian dễ thụ thai...
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
623,263
Điểm cảm xúc
35
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 4: Chênh lệch múi giờ


“Trái tim phụ nữ là một mê cung những điều tế nhị thách thức tâm hồn thô kệch của người đàn ông đang rình rập. Nếu bạn thực sự muốn chiếm hữu một phụ nữ, trước tiên cần phải nghĩ giống như nàng và việc đầu tiên cần làm là chinh phục tâm hồn nàng”..

Carlos RUIZ ZAFON

Trong lúc đó, tại Paris...

- Takumi, tôi có việc này nhờ cậu.

Đồng hồ treo tường trong tiệm vừa điểm 11 giờ. Ngồi vắt vẻo trên ghế thang, tóc búi lại ghim bằng một que ghim hoa, hai bàn tay trầy xước, Madeline vừa treo xong một bó nhựa ruồi to tướng.

- Sẵn sàng, thưa cô chủ, anh chàng học việc đáp.

- Đừng gọi tôi là “cô chủ” nữa đi! Cô vừa bước xuống thang vừa càu nhàu.

- Nhất trí, Madeline ạ, anh chàng người châu Á chữa lại, đỏ mặt tía tai.

Gọi cô chủ bằng tên riêng thế này tạo ra một cảm giác thân mật khiến anh chàng thấy không thoải mái.

- Nhờ cậu ra bưu điện gửi giúp tôi gói hàng này, cô giải thích, rồi chìa ra một phong bì nhỏ bằng giấy không thấm nước trong đó có chiếc điện thoại di động của Jonathan.

- Được thôi, thưa... ờ, Madeline.

- Địa chỉ này ở Mỹ đó, cô dặn dò rồi đưa cho anh chàng phụ việc tờ 20 euro.

Takumi đọc địa chỉ ghi trên phong bì:

Jonathan LEMPEREUR

French Touch

1606 phố Stockton

San Francisco, CA 94133

USA

- Jonathan... Như tên bếp trưởng ấy nhỉ? anh chàng vừa cưỡi lên chiếc xe đạp điện thường dùng để giao hàng vừa hỏi.

- Cậu biết người này sao? Cô chủ tiệm hoa ngạc nhiên bước hẳn xuống vỉa hè để trò chuyện tiếp.

- Cả thế giới này biết anh ta ấy chứ, anh chàng đáp ngay mà không nhận ra sự vụng về trong nhận xét của mình.

- Có nghĩa tôi là đứa đại ngốc chứ gì? Madeline đùa.

- Không, ờ... hoàn toàn không phải vậy, tôi..., anh chàng học việc ấp úng.

Giờ thì mặt Takumi đã đỏ bừng như hoa mười giờ. Trán anh chàng lấm tấm mồ hôi, mắt thì nhìn dán xuống đất.

- Được rồi, cậu để hôm khác hẵng tiến hành vụ mổ bụng tự sát nhé, cô giễu thêm. Trong khi chờ đợi hãy nói tôi biết gã kia là ai nào.

Anh chàng người Nhật nuốt nước bọt đánh ực.

- Cách đây vài năm, Jonathan Lempereur sở hữu nhà hàng nổi tiếng nhất New York. Bố mẹ tôi đã đãi tôi một bữa ở đó nhân dịp tốt nghiệp cử nhân. Đó là một địa chỉ huyền thoại: muốn đặt bàn phải đăng ký danh sách chờ trước cả năm trời, hương vị các món ăn thì độc đáo, không thể thấy ở bất cứ nơi nào khác.

- Tôi không nghĩ là cùng một người đâu, cô nói, tay chỉ vào phong bì. Địa chỉ anh ta cho tôi cũng là một nhà hàng, nhưng có vẻ là loại quán ăn xập xệ chứ không phải nhà hàng năm sao.

Takumi cất phong bì vào ba lô rồi nhấn pêđan mà không tìm hiểu thêm.

- Hẹn lát nữa.

Madeline vẫy tay chào tạm biệt rồi trở vào tiệm.

Câu chuyện do anh chàng học việc kể đã kích thích trí tò mò của cô nhưng cô vẫn cố gắng làm việc tiếp như thể không có chuyện gì xảy ra. Từ lúc mở cửa tới giờ, tiệm vẫn chưa ngớt khách. Cũng giống như dịp lễ thánh Valentine, Giáng sinh đánh thức những xúc cảm: tình yêu, lòng hận thù, nỗi cô đơn, sự sầu muộn. Chỉ trong sáng này, cô đã gặp trong tiệm hoa của mình một loạt nhân vật độc đáo chẳng ai kém ai: một kẻ chuyên quyến rũ già đời gửi mười hai bó hoa cho mười hai người tình ở mười hai thành phố khác nhau, một phụ nữ trung niên tự gửi cho mình một bó hoa lan để giữ thể diện trước các đồng nghiệp, một cô gái người Mỹ khóc lóc sụt sùi muốn gửi cho bạn trai người Paris một bó hoa héo úa thay cho lời tuyên bố chia tay. Chủ tiệm bánh trong khu phố thì đặt hàng một chậu xương rồng Mexico to đùng với những cái gai vừa dài vừa nhọn để gửi tặng bà mẹ vợ yêu quý...

Madeline thừa hưởng từ bố mình niềm đam mê với nghệ thuật trồng hoa. Được sự hứng thú này dẫn dắt, thoạt tiên cô rèn mình theo phương pháp tự học trước khi theo học các khóa của Piverdière, trường đào tạo nghề trồng hoa nổi tiếng thuộc Angers. Cô tự hào vì theo đuổi một nghề góp mặt trong tất cả các sự kiện trọng đại của cuộc đời một con người. Chào đời, rửa tội, cuộc hẹn đầu tiên, đám cưới, giảng hòa, thăng tiến sự nghiệp, về hưu, an táng: hoa luôn đồng hành với người từ lúc nằm nôi cho tới lúc xuống mồ.

Người phụ nữ trẻ bắt tay vào thực hiện một tác phẩm mới, nhưng chỉ sau năm phút đã phải bỏ dở giữa chừng. Cô không thể gạt ra khỏi đầu câu chuyện Takumi vừa kể.

Cô ra đằng sau quầy và bật máy vi tính của tiệm. Khi gõ cụm “Jonathan Lempereur” trên Google, cô nhận được hơn sáu trăm nghìn kết quả! Cô truy cập vào Wikipedia. Hệ thống bách khoa toàn thư trực tuyết có một trang dài về người đầu bếp, bài viết được minh họa bằng một tấm ảnh chụp, không thể nghi ngờ gì nữa, đúng là ảnh của người đàn ông mà hôm qua cô đã gặp ở sân bay, ngay cả khi trên bức ảnh này Jonathan trông trẻ và sexy hơn. Bối rối, Madeline đeo cặp kính cận vào rồi vừa cắn bút chì vừa bắt đầu đọc những gì hiển thị trên màn hình máy tính:

Jonathan Lempereur, sinh ngày 4 tháng Chín năm 1970, là một đầu bếp kiêm doanh nhân người Pháp đã tạo dựng phần lớn sự nghiệp của mình tại Mỹ.

Quá trình học nghề

Vốn là người gốc Gascogne, anh xuất thân trong một gia đình chủ nhà hàng hạng thường và từ nhỏ đã làm việc tại nhà hàng của bố mình, quán La Chevalière, quảng trường Libération tại Auch. Năm mười sáu tuổi, anh bắt đầu học việc và thu thập được vô số kinh nghiệm: phụ bếp nhà hàng Ducasse, Robuchon và Lenôtre sau đó trở thành trợ tá đắc lực của bếp trưởng nổi tiếng người Provence Jacques Laroux trong nhà hàng La Bastide tại Saint-Paul-de-Vence.

Tài năng bộc lộ

Vị sư phụ tài năng đột ngột tự tử đẩy Lempereur lên vị trí số một của nhà hàng La Bastide. Trái với mọi dự đoán, anh đã lèo lái nhà hàng trụ hạng thành công và ở tuổi hai mươi lăm, trở thành bếp trưởng trẻ nhất người Pháp đứng đầu một nhà hàng được Cẩm nang Michelin xếp loại ba sao.

Vậy nên khách sạn Cap-d’Antibes lừng danh đã đánh tiếng mời anh về để vực dậy nhà hàng La Trattoria của họ. Chưa đầy một năm ngày khai trương, nhà hàng khách sạn này cũng được xếp loại ba sao, biến Jonathan Lempereur thành một trong bốn đầu bếp duy nhất tích lũy được sáu sao trong cuốn cẩm nang nổi tiếng này.

Chính thức thành danh

Năm 2001, anh gặp Francesca, con gái doanh nhân người Mỹ Frank DeLillo, ghé qua khách sạn Cap trong kỳ nghỉ trăng mật cùng chủ ngân hàng Mark Chadwich. Cô gái sắp thừa kế một gia tài lớn và chàng bếp trưởng tuổi trẻ tài cao đã trúng phải tiếng sét ái tình, khiến chưa đầy một tuần sau đám cưới, Francesca quyết định tiến hành thủ tục ly dị, chấp nhận sống trong mối bất hòa với gia đình trong khi khách sạn danh tiếng vùng Côte d’Azur sa thải bếp trưởng của mình để giữ gìn danh tiếng.

Cặp đôi mới chuyển tới sống tại New York rồi kết hôn. Với sự giúp đỡ của vợ, Jonathan Lempereur mở nhà hàng của riêng mình mang tên Thống Soái nằm tại tầng thượng của tòa nhà Rockefeller Center.

Đối với Lempereur, đó là khởi đầu một thời kỳ đặc biệt sáng tạo. Vừa thí nghiệm những công nghệ mới vừa bảo tồn những hương vị đặc trưng của ẩm thực Địa Trung Hải, anh trở thành một trong những người truyền bá “ẩm thực phân tử” và ngay lập tức gặt hái thành công. Chỉ trong vài tháng, anh trở thành con cưng của các ngôi sao, các chính khách và các chuyên gia phê bình ẩm thực. Vừa tròn ba mươi lăm tuổi, anh đã được một hội đồng giám khảo quốc tế gồm bốn trăm nhà báo viết thời luận bầu là đầu bếp tài ba nhất thế giới, họ ca ngợi “căn bếp sáng ngời” của anh và biệt tài tặng cho các thực khách “một chuyến du hành vị giác kỳ diệu”. Vào thời đó, mỗi năm nhà hàng của anh nhận được hàng chục nghìn yêu cầu đặt chỗ đến từ khắp nơi trên thế giới và thường xuyên phải đợi hơn một năm trời mới có bàn.

Biểu tượng truyền thông

Song song với sự nghiệp đầu bếp, Jonathan Lempereur còn trở nên nổi tiếng bởi tần suất xuất hiện trên truyền hình dày đặc, đặc biệt là chương trình Một giờ với Jonathan trên BBC America rồi Những bí mật của bếp trưởng trên Fox thu hút hàng triệu khán giả truyền hình mỗi tuần và đã được phát hành dưới dạng sách và DVD.

Năm 2006, được sự ủng hộ của Hillary Clinton, Thượng nghị sĩ New York, Lempereur bắt đầu cuộc vận động chống lại thực đơn áp dụng trong các căng tin nhà trường của thành phố. Các cuộc gặp gỡ của anh với học sinh, phụ huynh học sinh và giáo viên rốt cuộc đã đưa đến kết quả là việc áp dụng thực đơn cân bằng hơn trong các trường học.

Với nụ cười quyến rũ, chiếc áo khoác da và âm sắc Pháp lôi cuốn của mình, bếp trưởng trẻ tuổi đã trở thành biểu tượng của ẩm thực hiện đại và lọt vào danh sách những nhân vật có ảnh hưởng nhất của tạp chí Time. Tờ tuần san còn nhân dịp này đặt cho anh biệt danh “Tom Cruise của giới ẩm thực”.

- Cô có bán những đồ trang trí này không?

- Gì kia?

Madeline ngẩng lên khỏi màn hình máy tính. Mải mê theo dõi diễn biến cuộc đời của Lempereur, cô không nhận ra một vị khách nữ vừa bước vào tiệm.

- Mấy món đồ trang trí này, cô bán luôn chứ? người phụ nữ hỏi lại, tay chỉ các tầng giá bằng gỗ vân nhạt màu trưng bày các đồ phụ kiện: nhiệt kế cổ, đồng hồ cúc cu cổ, lồng chim, gương ố, đèn bão và nến thơm.

- Ơ... không ạ, bà thứ lỗi, chúng là một phần của cửa hàng này, Madeline nói dối, chỉ mong khách hàng đi khỏi để tập trung theo dõi tiếp tiểu sử của Jonathan.

Doanh nhân: xây dựng tập đoàn Thống Soái

Dựa trên danh tiếng mới hình thành đó, Lempereur đã cùng vợ mình sáng lập ra tập đoàn Thống Soái được ủy thác quản lý thương hiệu mang tên anh dưới dạng các sản phẩm phái sinh. Vậy là cặp vợ chồng bắt đầu mở hết cơ sở này đến cơ sở khác: quán rượu, quán bia, bar chuyên phục vụ rượu vang, khách sạn hạng sang... Đế chế nhà hàng của họ trải rộng khắp thế giới, từ Las Vegas tới Miami qua cả Bắc Kinh, Luân Đôn và Dubai. Năm 2008, tập đoàn Thống Soái có trong tay hơn hai nghìn nhân công tại hơn mười lăm quốc gia và doanh số đạt tới vài chục triệu đô.

Những khó khăn tài chính và rút lui khỏi thế giới ẩm thực

Trong khi khách hàng tiếp tục đổ về nhà hàng của anh tại New York, đầu bếp người Pháp lại là đích ngắm của những cuộc tấn công ngày càng dữ dội. Chính những nhà phê bình mới cách đây vài năm còn ca ngợi khả năng sáng tạo và tài năng của anh giờ lại quay ra trách anh đã phân tán hoạt động và trở thành “một cỗ máy kiếm tiền đơn thuần”.

Tuy nhiên, nhiều hoạt động trong tập đoàn khổng lồ của anh còn xa mới đạt tới ngưỡng sinh lời. Tập đoàn Thống Soái ngập trong nợ nần và đứng bên bờ vực phá sản vào tháng Mười hai năm 2009. Vài tuần sau, sau khi chia tay vợ, Jonathan Lempereur tuyên bố bỏ cuộc vì “mệt mỏi với những lời phê phán”, “cạn kiệt cảm hứng” và “vỡ mộng với thế giới ẩm thực”. Ở tuổi ba mươi chín, buộc phải nhượng lại quyền khai thác thương hiệu của mình, Lempereur rút hẳn khỏi các hoạt động kinh doanh sau khi ghi dấu ấn trong thế giới ẩm thực hiện đại.

Đọc đến cuối phần tiểu dẫn, Madeline được biết vị bếp trưởng đã từng xuất bản một cuốn sách năm 2005, Tự thú của một đầu bếp đang yêu. Tìm kiếm thêm nữa với hai ba lần kích chuột, cô tìm ra trang web của quán French Touch tại San Francisco là nơi Jonathan đang quản lý. Rõ ràng là trang web không được cập nhật thường xuyên. Trong đó chỉ xuất hiện vài thực đơn giá 24 đô làm thí dụ: xúp hành, dổi đen nấu táo, bánh kem quả vả. Không có gì ngộ hơn đối với một người cách đây vài năm đã từng đứng đầu nhà hàng danh tiếng nhất thế giới.

Làm sao anh ta lại ra nông nỗi ấy? Cô tự hỏi trong lúc tản bộ giữa đám thông và lan. Cô đến góc trong cùng của tiệm hoa nơi được bài trí như một khu vườn, rồi thẫn thờ ngồi xuống chiếc xích đu treo trên một cành cây lớn gắn lên trần.

Điện thoại trong tiệm đổ chuông kéo cô ra khỏi dòng suy tưởng.

Cô đứng bật dậy để ra nhấc máy. Là Takumi.

- Cậu vẫn ở bưu điện hả?

- Không thưa..., à Madeline. Vì đang có đình công nên bưu điện đóng cửa hết rồi.

- Được, trên đường về cậu nhớ ghé qua hiệu sách mua cho tôi cuốn này nhé. Cậu có gì để ghi lại không? Tên sách đây: Tự thú của một đầu bếp đang yêu của...
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
623,263
Điểm cảm xúc
35
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 5: You’ve got mail[1]


[1]. Tiếng Anh trong nguyên bản: Bạn có thư mới

“Mong muốn biết ai đó trọn vẹn là một cách chiếm hữu họ, khai thác họ. Đó là một ước muốn đáng hổ thẹn cần phải từ bỏ”

Joyce Carol OATES

San Francisco, nửa đêm

Jonathan giật nhanh sợi dây công tắc bật bóng đèn nê ông treo phía trên gương phòng tắm. Không thể chợp mắt nổi. Trạng thái kích động và cảm giác bỏng rát trong dạ dày không ngừng tra tấn anh sau khi uống thứ rượu vang dấm dớ đó. Dưới quầng sáng nhợt nhạt, anh lục tìm trong tủ vỉ thuốc an thần và dạ dày. Tìm được hai viên thuốc đó rồi, anh sang phòng bếp lấy nước khoáng uống luôn.

Căn nhà chìm trong tĩnh lặng. Marcus, Charly và ngay đến Boris đã ngã vào vòng tay của thần Morphée từ lâu. Khung cửa sổ cánh sập vẫn mở hé, nhưng trong phòng không vì thế mà lạnh. Một làn gió ấm nổi lên khiến chiếc chuông gió làm bằng tre kêu khe khẽ trong khi ánh trăng xuyên qua cửa kính chiếu sáng màn hình chiếc điện thoại anh đang sạc pin trên quầy bar. Jonathan không thể kiềm chế thêm: anh bấm vào nút duy nhất trên điện thoại để mở máy, màn hình lập tức sáng lên trong vắt. Chấm nhỏ màu đỏ báo hiệu Madeline đã nhận được thư đang bật sáng. Một dạng giác quan thứ sáu pha lẫn tò mò thúc giục anh chạm vào biểu tượng để đọc thư. Anh mới gửi thư đi mười phút trước, và kỳ lạ làm sao thư này lại được gửi tới cho anh...

“Jonathan thân mến (anh có muốn chúng ta bỏ qua cách xưng hô trịnh trọng ông Lempereur hay cô Greene không? Nói cho cùng, tôi hình dung rằng nếu đã cả gan đọc thư của tôi thì hẳn anh cũng đã xem qua ảnh tôi lưu trong máy và được rửa mắt với vài ba tấm ảnh “nghệ thuật” trong album của tôi. Vậy thì anh là một kẻ đồi bại và đó là vấn đề của anh, nhưng hãy tuyệt đối tránh đưa chúng lên Facebook, vì tôi không chắc liệu chồng sắp cưới của tôi có đánh giá cao hành động đó không...)

Jonathan thân mến (lần nữa), tôi đang tranh thủ giờ nghỉ trưa (à vâng, ở Paris giờ đã là quá trưa rồi) để viết cho anh trong lúc nhấm nháp một chiếc sandwich chả viên hiệu Mans được chế biến cẩn thận bởi Pierre & Paul, các thành viên ưu tú của Hiệp hội Hiệp sĩ Chả Băm tỉnh Sarthe kiêm nghệ nhân làm bánh mở tiệm ngay đối diện tiệm hoa của tôi. Tôi đang ngồi tại quầy, giữa ngập tràn ánh nắng. Vậy nên miệng tôi đầy thịt, vụn bánh vãi tứ tung trên áo len còn màn hình chiếc điện thoại đẹp đẽ của anh đang dính đầy vết mỡ. Không được quyến rũ cho lắm, tôi đồng ý với anh, nhưng cực ngon luôn. À mà anh đâu phải đối tượng tôi phải thuyết phục trong chuyện nên biết đánh giá cao thú ăn ngon...

Vậy thì Jonathan thân mến ạ, tôi viết thư này để thông báo cho anh hai tin: một tin tốt và một tin xấu. Chúng ta hãy bắt đầu bằng tin xấu nhé: như anh có lẽ đã biết, vào đầu kỳ nghỉ này, một cuộc đình công đang làm tê liệt xứ sở tuyệt vời là nước Pháp này. Sân bay, xa lộ, các phương tiện giao thông công cộng, dịch vụ bưu điện: tất cả đều ngừng hoạt động. Takumi, cậu học việc ở tiệm tôi, vừa ra tới bưu điện trên đại lộ Montparnasse thì thấy nó đã đóng cửa, vậy nên ngay lúc này tôi không có cách nào gửi trả điện thoại cho anh.

Sẵn lòng phục vụ.

Madeline.”

Jonathan lập tức có phản ứng. Mười hai phút sau, thư hồi âm của anh xuất hiện:

Cô trêu tức tôi đấy à? Câu chuyện đình công này là gì thế?

Nếu cô ta không trả lại điện thoại cho anh, thì còn lâu anh mới trả lại điện thoại cho cô ta!

Và ba mươi giây sau Madeline đã kịp đổ thêm dầu vào lửa:

Giờ này mà vẫn thức sao Jonathan? Anh không bao giờ chợp mắt hả? Không phải tình trạng thiếu ngủ này đã gây ra kiểu tâm trạng pha trộn giữa cáu bẳn và chán sống đặc trưng của anh sao?

Jonathan buông một tiếng thở dài rồi gửi tiếp một lá thư nữa đến người phụ nữ trẻ:

Mà cô đã hứa hẹn với tôi là có một tin tốt bù lại tin xấu đấy...

Ngồi vắt vẻo trên ghế quầy bar, Madeline nuốt miếng sandwich cuối cùng trước khi độp lại:

Chính xác, tin tốt đây: dù lạnh và có đình công khắp nơi nhưng thời tiết ở Paris vẫn đẹp vô cùng.

Vừa gửi mail đi mà cô đã ngóng hồi âm, nó xuất hiện gần như ngay lập tức:

Được, ít ra là lần này thì không còn nghi ngờ gì nữa: cô đang trêu tức tôi.

Dù đang lo lắng nhưng cô không thể nén nổi một nụ cười. Vì ngăn cô trả lại chiếc điện thoại di động cho chủ nhân đích thực, cuộc đình công của các dịch vụ công cộng này đã đưa cô vào một mớ bòng bong. Nó bắt cô gánh lấy một trách nhiệm nặng nề mà cô không hề muốn. Cô có nên báo cho Jonathan biết về tin nhắn thoại mà vợ cũ của anh đã để lại sau khi gọi từ New York nhằm van xin anh quay trở lại, chung sống với cô ta hay không? Madeline đang vô tình nắm giữ một thông tin quan trọng đối với tương lai của một cặp đôi và chuyện này không khiến cô thoải mái chút nào.

Người phụ nữ trẻ gọi ly rượu vang thứ hai rồi vừa uống vừa quan sát người qua đường và xe cộ đi lại qua cửa kính. Nằm gần một chuỗi cửa hàng của các thương hiệu lớn, phố Delambre náo nhiệt vào dịp cuối tuần này nhờ những cuộc mua sắm cho lễ Giáng sinh. Trên vỉa hè chan hòa ánh nắng, những chiếc măng tô ôm sát của phụ nữ Paris, những chiếc áo phao lông vũ dày sụ của đám thiếu niên, những chiếc khăn sặc sỡ, những chiếc mũ không vành của bọn nhóc con, những gót giày nện côm cốp và hơi nước thoát ra từ mọi cái miệng hòa quyện vào nhau trong một chuyển động mê say của màu sắc và các gương mặt.

Madeline uống nốt ly rượu vang, và chính trong tình trạng chếnh choáng hơi men ấy mà cô cầm bút - chỉ là một cách nói - để viết bức thư sau cùng:

Jonathan thân mến,

Giờ đã là 13 giờ. Giờ nghỉ ăn trưa của tôi đã hết và thế càng hay, vì nếu tôi còn ngồi thêm phút nào trong nhà hàng này tôi cảm thấy mình sẽ xiêu lòng trước món bánh kem Tatin táo renet cùng viên kem và tất cả những thứ còn lại. Một “sự quét sạch” thực sự như ở chỗ anh người ta thường nói vậy. Nhưng ở thời điểm chưa đầy một tuần nữa là đến Giao thừa này, sự cám dỗ đó sẽ không thực sự hợp lẽ, anh có lẽ nhất trí với tôi về điểm đó.

Thật vui được trò chuyện cùng anh, dù chỉ là những bức mail ngắn ngủi, và bất chấp tính tình cáu bẳn và thói hay cằn nhằn, cục súc và giận dỗi của anh, mà tôi hiểu rất rõ, đã tạo nên một dạng “thương hiệu” mà nhất định nhiều phụ nữ khác hẳn sẽ thấy hấp dẫn. Tuy nhiên, trước khi tạm biệt anh, cho phép tôi thỏa mãn trí tò mò cá nhân bằng cách đặt cho anh ba câu hỏi:

1) Tại sao người tự nhận là “bếp trưởng tài ba nhất thế giới” lúc này lại phục vụ món bít tết-khoai chiên tại một quán rượu bình thường trong khu phố?

2) Tại sao anh vẫn còn thức vào lúc 4 giờ sáng?

3) Anh còn yêu vợ cũ không?

Ấn nút GỬI xong ngay lập tức Madeline đã hiểu ra rằng mình vừa làm một việc ngu ngốc. Nhưng đã quá muộn...

Cô rời khỏi nhà hàng Pierre & Paul rồi băng qua phố, đầu nhưng nhức vì rượu vang.

- Này! Chống mắt lên xem mình đang đi đâu chứ, CÔ NGỐC! Một tay chơi cá tính với mái tóc chờm mắt nạt cô, thiếu chút nữa đã hất cô ngã nhào với chiếc xe đạp Vélib.

Để tránh chiếc xe này, Madeline thình lình lùi lại một bước, nhưng “lượm” ngay được một hồi còi của chiếc 4x4 đang cố vượt chiếc xe đạp từ bên phải. Cô sợ phát khiếp và vội né chiếc ô tô địa hình để bước lên vỉa hè phía đối diện. Trong lúc mải tránh né, cô làm gãy gót một trong hai chiếc giày cao cổ của mình.

Khỉ thật! cô thở dài khi mở cửa tiệm để trốn vào Khu vườn kỳ diệu của mình. Cô tôn thờ Paris, nhưng lại ghét dân Paris...

- Mọi việc ổn chứ thưa cô chủ? Takumi hỏi thăm vì thấy rõ là cô đang bị choáng.

- Cậu chậm tiếp thu quá đấy! Cô nạt lại để có thời gian trấn tĩnh.

- Xin lỗi, anh chàng người châu Á tiếp. Mọi việc ổn chứ Madeline?

- Ổn cả, chỉ là cái gót giày ngớ ngẩn này...

Cô bỏ lửng câu nói, nhấp chút nước lên mặt rồi tháo giày và cởi áo khoác ra trước ánh mắt trân trối của cậu nhân viên.

- Không cần nhìn tôi chằm chằm với vẻ dê xồm như thế, tôi sẽ không múa thoát y đâu.

Khi thấy Takumi đỏ lựng như một quả gấc, Madeline lập tức hối tiếc về cách cư xử của mình và không muốn để sự ngượng nghịu kịp hình thành giữa họ.

- Cậu có thể đi ăn trưa được rồi. Cứ ăn thong thả nhé, tôi sẽ lo mọi việc.

Còn lại một mình trong tiệm, người phụ nữ trẻ cuống cuồng mở điện thoại của Jonathan ra. Anh vừa hồi âm cho cô:

Madeline thân mến,

Nếu làm thế này có thể thỏa mãn trí tò mò của cô thì đây là câu trả lời cho từng câu hỏi cô nêu ra:

1) Đã từ rất lâu rồi tôi không còn là “bếp trưởng tài ba nhất thế giới” nữa, đấy là nếu đã từng như vậy. Nói theo cách văn vẻ thì tôi đã đánh mất cảm hứng và đam mê cần thiết để thực hiện những tác phẩm mang tính sáng tạo rồi. Có nghĩa là, nếu cô có dịp qua San Francisco cùng Raphaël của cô, hai người đừng quên ghé lại thưởng thức món bít tết-khoai chiên của nhà hàng chúng tôi. Thịt bít tết ở chỗ chúng tôi mềm và ngon tuyệt, còn khoai chiên thực sự là khoai tây được chiên với tỏi, húng và mùi. Những “mỹ nhân của Fontenary”, được một nhà sản xuất địa phương trồng với số lượng hạn chế và toàn bộ khách hàng của chúng tôi đều có nhận xét là đặc biệt giòn và vàng đủ độ.

2) Đúng là lúc này đã 4 giờ sáng và tôi vẫn còn thức. Lý do à? Có hai câu hỏi cứ luẩn quẩn trong đầu khiến tôi không tài nào chợp mắt được.

3) Biến đi cho khuất mắt tôi.

Phố Odessa, Takumi bước vào nhà hàng nhỏ nơi cậu là khách quen. Cậu chào ông chủ nhà hàng rồi chọn chỗ ngồi hơi khuất trong phòng thứ hai, bớt ồn ã và ít người lui tới. Cậu gọi một chiếc bánh nhiều tầng thêm cà chua và pho mát dê tươi: một món đặc sản do Madeline giúp cậu khám phá. Trong khi chờ món nhập bữa được mang ra, cậu lôi từ trong túi ra một cuốn từ điển bỏ túi để tìm trong đó nghĩa của từ “dê xồm”, tra được rồi cậu lại càng bối rối hơn nữa. Như bị bắt quả tang, cậu bỗng có cảm tưởng phi lý rằng mọi khách hàng đang ném cho cậu những ánh mắt buộc tội. Madeline có một thú vui tinh quái là thách thức cậu và khiến mọi xác tín cùng điểm tựa của cậu lung lay. Cậu lấy làm tiếc vì cô đã không coi trọng cậu, đúng ra cô chỉ coi cậu như một thiếu niên chứ không phải như một người đàn ông. Người phụ nữ này quyến rũ cậu như một loài hoa bí ẩn. Thường thì cô rạng rỡ, vàng ươm như một bông hướng dương, tỏa ra quanh mình vẻ rạng rỡ, niềm tin và lòng nhiệt thành. Nhưng có đôi lúc, cô có thể trở nên bí ẩn và ủ rũ, giống hình ảnh của hoa lan đen: Một loài hoa hiếm được các nhà sưu tầm săn lùng thường nở vào giữa mùa đông trên những cây cọ Madagascar.

Vị khách bước vào thật không đúng lúc. Để phục vụ vị khách này, Madeline đã phải bỏ dở việc soạn thư và cất điện thoại vào chiếc túi nhỏ trên tạp dề. Đó là một cậu thiếu niên chừng mười lăm mười bảy tuổi với vẻ ngoài của một baby rocker như người ta vẫn thường thấy tại cổng các trường trung học ở các khu phố quý tộc: Giày Converse, quần jean bó, áo sơ mi trắng, áo vest ôm sát hàng hiệu, kiểu tóc được chải rối một cách khéo léo.

- Tôi có thể giúp gì cho cậu nhỉ?

- Em... ờ... phải rồi, em muốn mua hoa, cậu nhóc giải thích rồi đặt bao đàn ghi ta xuống ghế.

- Cậu hỏi đúng lúc thật. Lẽ ra cậu nên hỏi mua bánh sừng bò, tôi sẽ có nhiều hơn đấy.

- Gì kia?

- Không có gì, bỏ đi. Cậu cần một bó tròn hay bó dài?

- Chà, thực ra em cũng không rõ đâu.

- Màu nền nã hay sặc sỡ?

- Gì kia? cậu thiếu niên nhắc lại như thể người ta đang nói với cậu bằng tiếng Do Thái cổ.

Chắc chắn là không phải kẻ khôn khéo tinh ranh nhất trong lứa tuổi đó, cô nghĩ vậy trong lúc cố gắng giữ thái độ bình tĩnh và nụ cười trên môi.

- Được rồi, cậu có dự định dành cho việc mua hoa này một khoản là bao nhiêu không?

- Em chả rõ đâu. Có thể mua được gì đó với 300 euro không?

Lần này thì cô không thể nén nổi một tiếng thở dài: cô ghét những kẻ không có chút ý thức nào về giá trị của đồng tiền. Trong thoáng chốc, một vài kỷ niệm thời thơ ấu lại ùa về trong cô: những năm tháng bố cô thất nghiệp, những hy sinh của gia đình để cô có thể tiếp tục đến trường... Làm thế nào lại tồn tại một hố sâu ngăn cách như vậy giữa cậu nhóc sinh ra đã hưởng cảnh giàu sang phú quý và bé gái là cô khi xưa nhỉ?

- Được rồi, nghe này nhóc, cậu không cần tới 300 euro để mua một bó hoa đâu. Dù thế nào chăng nữa cũng không phải là trong tiệm của tôi, rõ chưa nào?

- Rõ rồi, cậu ta uể oải đáp.

- Vậy thì cậu mua hoa tặng ai nhỉ?

- Tặng một phụ nữ.

Madeline ngước mắt nhìn lên.

- Là mẹ cậu hay bạn gái?

- Thực ra là tặng cho một người bạn của mẹ em, cậu ta đáp, xem chừng đã bắt đầu lúng túng.

- Được rồi, và thông điệp cậu muốn truyền tải khi tặng bó hoa này là gì vậy?

- Thông điệp ư?

- Cậu tặng hoa cho người ấy với mục đích gì? Để cảm ơn người ấy đã tặng cho cậu chiếc áo len nhân dịp sinh nhật hay để bày tỏ điều gì khác?

- Ờ... phương án thứ hai có vẻ đúng hơn.

- Khỉ thật, tình yêu khiến cậu mụ người đi hay là lúc nào cậu cũng như vậy thế? Cô vừa hỏi vừa lắc đầu.

Cậu thiếu niên không nghĩ là trả lời thì giúp được gì. Madeline rời khỏi quầy và bắt đầu làm một bó hoa.

- Cậu tên gì nhỉ?

- Jeremy.

- Còn bạn của mẹ cậu, người ấy bao nhiêu tuổi rồi?

- Ơ... nói gì thì nói cũng nhiều tuổi hơn chị.

- Vậy cậu đoán tôi bao nhiêu tuổi?

Đến đây cũng vậy, cậu ta chọn cách không trả lời, bằng chứng cho thấy cậu ta có lẽ không đến nỗi quá ngốc như bề ngoài.

- Được rồi, cậu chẳng xứng đáng có chúng chút nào, nhưng đây là thứ phù hợp nhất, cô giải thích rồi chìa cho cậu nhóc bó hoa. Đây là loại hoa tôi yêu thích nhất: Violet Toulouse, vừa đơn giản, sang trọng lại thanh lịch.

- Đẹp quá, cậu ta công nhận, nhưng trong ngôn ngữ các loại hoa thì nó tượng trưng cho điều gì vậy?

Madeline nhún vai.

- Bỏ qua ngôn ngữ của các loài hoa đi. Mang tặng thứ gì cậu cho là đẹp, chỉ thế thôi.

- Nhưng dẫu sao..., Jeremy cố nài.

Madeline giả bộ ngẫm nghĩ.

- Trong thứ mà cậu gọi là “ngôn ngữ của các loại hoa”, hoa violet thể hiện sự khiêm tốn và e ấp, nhưng nó cũng tượng trung cho một tình yêu bí mật, vậy nếu như cậu e rằng nó hơi mơ hồ, tôi sẽ thay bằng một bó hồng.

- Không, hoa violet rất phù hợp với em, cậu trả lời rồi ngoác miệng cười.

Cậu nhóc trả tiền và, trước khi rời khỏi tiệm, cậu cảm ơn Madeline về những lời khuyên.

Còn lại một mình, cô lại lấy điện thoại ra vội vã soạn tiếp tin nhắn đang bỏ dở:

Ngàn lần xin lỗi anh, Jonathan, vì đã thiếu tế nhị mà can thiệp vào cuộc sống riêng tư của anh. Vì một ly rượu đã làm tôi cẩu thả hơn trong lời lẽ (một ly Vouvray trắng êm dịu hương mật ong, hoa hồng và quả mơ. Chắc là anh biết, và nếu đúng là thế thì anh hẳn sẽ thứ lỗi cho tôi :)

Tôi nghĩ là cuộc đình công của bưu điện sẽ không kéo dài quá lâu, nhưng để phòng trường hợp ngược lại, tôi sẽ nhờ đến một hãng vận chuyển tư nhân. Tôi đã liên lạc với một nhân viên chuyển phát nhanh và anh ta sẽ đến lấy điện thoại của anh vào cuối buổi chiều. Tính cả những ngày lễ và cuối tuần, công ty đó đảm bảo với tôi rằng anh sẽ nhận được gói hàng trước thứ Tư.

Cho phép tôi chúc anh cũng như con trai anh những ngày lễ vui vẻ và an lành.

Madeline

Gửi Madeline,

Cô muốn biết hai bí ẩn đã ngăn cản giấc ngủ của tôi sao, chúng đây:

1. Tôi tự hỏi ESTEBAN là ai.

2. Tôi tự hỏi tại sao cô làm cho người thân của mình tin rằng cô đang muốn có con trong khi thực tế cô lại làm mọi cách để điều đó ĐỪNG xảy ra...

Chìm trong sợ hãi, Madeline tắt điện thoại và tránh xa nó như để chạy trốn khỏi nguy hiểm.

Anh ta biết điều đó! Anh ta đã lục lọi điện thoại của cô và đã đặt câu hỏi về Esteban và đứa trẻ!

Mồ hôi chảy dọc sống lưng cô. Madeline nghe tim mình đập thình thịch trong lồng ngực. Tay chân cô run lẩy bẩy.

Làm sao lại có chuyện này chứ? Nhật ký điện tử và hộp thư của cô, chắc chắn rồi...

Đột nhiên cô thấy lòng mình hoang mang trống rỗng nên phải cố gắng để đứng vững. Cô cần phải bình tĩnh: chỉ với những chi tiết đó, Jonathan Lempereur không thể biết gì nhiều hơn. Chừng nào anh ta chưa tìm ra những thứ khác thì đó chưa phải là một mối đe dọa thực sự.

Nhưng trong điện thoại cô có một tài liệu mà anh ta tốt nhất đừng nên đụng vào: Một thứ mà Madeline không có quyền sở hữu. Một thứ đã từng phá hủy cuộc đời cô rồi dẫn cô đến ngưỡng điên loạn và cái chết.

Về mặt lý thuyết, bí mật của cô được bảo vệ an toàn. Lempereur là một kẻ tọc mạch bẩn thỉu, chứ không phải một thiên tài tin học hay một tên chuyên đe dọa tống tiền. Anh ta đã chơi lại cô, đùa cợt cười nhạo cô, nhưng nếu cô không tiếp tục trò chơi, rốt cuộc anh ta cũng sẽ chán nó.

Ít nhất đó là những gì cô hy vọng.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
623,263
Điểm cảm xúc
35
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 6: Sợi dây


“Bởi (họ) được nối với nhau bằng sợi dây (…) thứ chỉ tồn tại giữa 2 cá thể thuộc giống loài của họ, hai cá thể nhận thấy nỗi cô đơn của mình trong nỗi cô đơn của người kia.”

Paolo GIORDANO

San Francisco

9h30 sáng

Marcus khó nhọc tỉnh dậy.

Như một kẻ mộng du, anh tiến vào tận phòng tắm, bước vào dưới vòi sen mà không buồn cởi quần đùi hay áo sơ mi rồi đứng lặng đi dưới những tia nước tuôn xối xả cho đến khi bình nước nòng cạn sạch. Nước lạnh ngắt làm anh mở một mắt, sau khi đã mau chóng lau khô người, anh lê bước tới phòng ngủ để rồi nhận ra rằng ngăn kéo đựng đồ lót đã rỗng không. Toàn bộ quần đùi và áo phông của anh đang chất đống trong chiếc giỏ liễu đan. Anh chàng người Canada nhướng một bên mày dò hỏi. Jonathan, nhiều lần dọa không giặt đồ hộ cho anh nữa, lần này đã làm thật!

- Jon’! anh rên rỉ trước khi nhận ra rằng hôm nay là thứ Bảy và vào giờ này thì tay chủ nhà hàng chắc chắn đã rời nhà để lang thang trong khu chợ tụ họp những quầy hàng trang trại trên đường Embarcadero.

Vẫn ngái ngủ, anh thọc tay vào túi đồ lót bẩn rồi vớ đại những thứ quần áo “có thể tái sử dụng” mặc lên người.

Sau đó Marcus lê vào bếp, mò mẫm tìm chiếc áo ấm Thermos đựng trà mạn do Jonathan pha sẵn mỗi sáng. Anh buông mình xuống ghế rồi ừng ực tu một hơi trà mạn trực tiếp từ vòi ấm. như thể thứ đồ uống này đánh thức các nơ ron thần kinh của Marcus, anh bỗng thấy minh mẫn lạ thường và lập tức trút bỏ bộ đồ lót đang mặc trên người rồi giặt bằng nước rửa bát ngay trong bồn rửa. Sau khi đã vắt kiệt nước, anh mở lò vi sóng rồi đặt mức thời gian là tám phút.

Hài lòng về bản thân, anh bước ra ngoài sân thượng trong bộ dạng trần như nhộng.

- Chào gã xỉn! Boris cất tiếng chào mừng anh.

- Chào túm lông, Marcus vừa đáp vừa gãi nhẹ vào bộ lông vẹt.

Dấu hiệu đỉnh điểm của mối đồng lõa giữa hai bên, chú chim nhảy nhót, nghiêng nghiêng đầu rồi há mỏ, mời anh một bụm hoa quả lẫn lộn đang nuốt dở.

Marcus cảm ơn anh bạn vẹt rồi vươn người dưới nắng, ngáp đến sái quai hàm.

- Vặn sườn đi! Vặn sườn đi! Chú vẹt hét vang.

Nghe những lời cổ vũ nhiệt tình đó, Marcus liền thực hiện công việc anh vốn coi là nhiệm vụ quan trọng nhất trong ngày: kiểm tra hệ thống tưới cho khoảng chục cây tài mà nằm khuất sau bụi hồng trong vườn. Jonathan không tán thành vụ trồng trọt này tẹo nào, nhưng vờ như không hay biết. Nói cho cùng thì California chính là nơi sản xuất sợi gai dầu hàng đầu tại các nước phương Tây và San Francisco là biểu trưng cho thái độ khoan dung, ủng hộ thứ mà những vùng khác đều chống lại.

Marcus vẫn nán lại trên sân thượng thêm một lúc để hưởng nắng ấm. Vì đã trải qua phần lớn đời mình trong tiết trời thường xuyên giá lạnh của Montréal nên anh đặc biệt yêu thích khí hậu ấm áp của California.

Trên quả đồi nhỏ thuộc Telegraph Hill, người ta khó mà tin được rằng Giáng sinh đang đến gần: đám loa kèn Virginie vàng rực đang hé nở, đám cọ lùn, mận tía và trúc đào rạng rỡ dưới nắng, những ngôi nhà gỗ oằn mình dưới sức nặng của dàn thường xuân, chỉ còn hiện ra lấp ló giữa cây cối xum xuê nơi lũ sẻ vườn nhí nhảnh và lũ chim ruồi sặc sỡ ríu rít hòa ca.

Bất chấp lúc bấy giờ vẫn còn khá sớm, một vài người đi dạo đã bắt đầu thả bước xuống những bậc cầu thang Filbert đầy hoa. Bất chấp đám cây cối mọc um tùm, ngôi nhà vẫn không hoàn toàn khuất nẻo khỏi mọi tầm nhìn. Một vài người đi ngang qua lấy làm vui thích, số khác choáng váng nhưng không ai có thể dửng dưng trước gã khờ đang trần trùng trục mà tán phét với một chú vẹt.

Marcus chẳng lấy gì làm phiền cho tới khi một du khách rút máy ảnh ra định lưu lại cảnh tượng này.

- Ở nhà mình mà cũng không được yên thân nữa! Anh chàng người Canada gắt gỏng rồi lui vào trong bếp, đúng lúc đồng hồ của lò vi sóng phát tín hiệu đã kết thúc quy trình “nấu”.

Tò mò muốn biết kết quả, anh mở lò để lôi mớ quần áo ra. Chúng không chỉ khô rang, mà còn nóng hổi và mềm mại nữa!

Hơn thế, chúng còn bốc mùi bánh xốp, anh lấy làm mừng rõ sau khi hít hà mớ quần áo.

Anh đứng mặc quần áo trước gương, thỏa mãn, chỉnh lại quần đùi, vuốt phẳng chiếc áo phông mà anh đặc biệt ưa thích vì câu slogan in trên đó:

OUT OF BEER

(life is crap)[1]

[1]. Tiếng Anh trong nguyên bản: HẾT BIA (đời như phân). (Chú thích của tác giả)

Bụng anh sôi ùng ục. Đói ngấu, anh mở tủ lạnh, lục lọi các loại đồ ăn trước khi đánh liều thử chế biến một hỗn hợp kỳ quặc. Trên lát bánh mì, anh phết một lớp bơ lạc dày, phủ thêm lớp dầu cá sác-đin đóng hộp, trên cùng là vài khoanh chuối.

Tuyệt cú mèo! Anh nghĩ bụng rồi thở phào khoan khoái.

Anh mới chỉ thưởng thức được vài miếng sandwich thì bỗng nhận ra chúng.

Những bức ảnh chụp Madeline.

Hơn năm chục bức ảnh chân dung được ghim trên tấm bảng gỗ bần, đính bằng nam châm trên các cánh cửa tủ tường kim loại hay thậm chí là dán thẳng lên tường bằng băng dính.

Rõ ràng là người bạn sống chung nhà với anh đã mất trọn đêm để in ra những bức ảnh này. Người phụ nữ trẻ hiện lên dưới đủ mọi góc độ: một mình, cùng người yêu, góc chụp chính diện, góc chụp nghiêng… Jonathan thậm chí còn phóng to một vài bức để xem xét tỉ mỉ đôi mắt và gương mặt cô.

Bối rối, Marcus ngừng nhai rồi tiến lại gần những bức ảnh. Mặc dù không để lộ ra nhưng anh chàng Canada vẫn luôn theo dõi Jonathan với thái độ hết sức cảnh giác. Tại sao hắn lại dán hết ảnh của cô nàng này ra thế nhỉ? Hắn đang tìm cách nhìn thấu điều gì đằng sau ánh mắt của Madeline Greene?

Bên dưới vẻ ngoài bình thản, anh nhận ra sự yếu đuối của bạn mình và biết rằng “sự hồi phục” của Jonathan vẫn chỉ là tạm thời.

Mỗi người đều có trong tim mình một sự trống rỗng, một vết đứt gãy, một cảm giác bơ vơ và cô độc.

Marcus biết chỗ đứt gãy trong tim Jonathan vãn sâu hoắm.

Và một cách xử sự như thế này không hề báo trước điều gì tốt đẹp.

Trong lúc đó, cách chỉ vài cây số…

- Bố ơi, con nếm thử món thịt bò khô được không? Charly xin phép. Đó là thịt của các chàng cao bồi mà!

Công kênh cậu con trai trên vai, suốt một giờ qua Jonathan dạo khắp các quầy hàng thuộc khu chợ nông sản tụ lại trên bãi bồi của bến thuyền cũ. Đối với anh chàng chủ nhà, việc này đã trở thành một thói quen bất di bất dịch: Mỗi sáng thứ Bảy, anh tới đây mua bổ sung đồ dự trữ và tìm cảm hứng soạn ra thực đơn chủ đạo trong tuần.

Chợ nông sản là một thể chế thực sự tại San Francisco. Quanh Ferry Building tập hợp khoảng một trăm quầy hàng của các chủ nông trại, dân chài và người trồng rau bán các sản vật địa phương, sản phẩm của nền nông nghiệp sinh thái. Ở đó người ta tìm thấy những loại rau tươi ngon nhất, những loại hoa quả chín mọng nhất, những mẻ cá tươi rói, những súc thịt non mềm. Jonathan yêu cái nơi vốn thu hút một đám đông ô hợp này: Các du khách, các đầu bếp, những người đơn giản là sành ăn tới tìm những sản phẩm chất lượng.

- Bố ơi, đằng kia có bán thịt bò khô kìa! Con chưa bao giờ được ăn món đó!

Jonathan “thả” con trai xuống đất, cậu bé chạy vội về phía quầy hàng vừa chỉ. Phấn khích, Charly nuốt chửng một mẩu thịt bò sấy khô rồi cố nén để không nhăn mặt.

Jonathan nháy mắt với con trai vẻ láu lỉnh.

Giữa nơi có thể coi như đại hội của các thứ mùi vị này, anh cảm thấy thoải mái như ở nhà. Rau húng, dầu ô liu, hồ đào, pho mát dê tươi, quả bơ, bí ngồi, cà chua, cà tím, rau thơm, bí đỏ, xà lách. Anh sờ nắn, hít hà, nếm thử, chọn lựa. “Đầu bếp tồi là người tìm cách che giấu hương vị nguyên thủy của nguyên liệu thay vì khơi dậy nó.” Jacques Laroux, bếp trưởng từng huấn luyện anh, đã truyền cho học trò tài khéo léo và thái độ nghiêm khắc trong khâu tuyển chọn sản phẩm, thói quen tôn trọng nguyên tắc mùa nào thức nấy và tìm kiếm những nhà cung ứng nguyên liệu tươi ngon nhất.

Ở đây, trong vựa rau củ quả của nước Mỹ, chuyện đó không có gì là quá khó. Đã lâu rồi, thực phẩm sinh học không còn là thứ gì đó quá xa lạ nữa mà đã trở thành một phong cách sống tại San Francisco cũng như trên toàn bang California.

Vẫn để mắt trông chừng Charly, Jonathan mua nốt năm con gà chắc nịch, mười khúc cá bơn và một thùng sò Saint-Jacques. Anh mặc cả chục con tôm hùm cùng năm cân tôm hùm Na Uy.

Ở mỗi chỗ mua hàng, anh đều cho người phụ trách quầy biết số ô đất nơi anh đỗ chiếc xe tải nhỏ của mình để nhân viên của họ chuyển hàng đã mua ra tận nơi.

- Này, Jonathan, nếm thử hộ tôi món này đi! Một người tách vỏ hàu đánh bắt tại mũi Point Reyes chìa cho anh một con hàu.

Đó là trò đùa giữa họ với nhau, bởi anh chàng người Pháp, vì không đánh giá cao thói quen của dân địa phương là nhúng con hàu xuống nước trước khi ăn, thường không bao giờ đưa món hàu vào thực đơn của nhà hàng mình.

Jonathan cảm ơn rồi nuốt chửng phần thân mềm của con hàu cùng với một chút chanh và mẩu nhỏ bánh mì.

Anh tranh thủ quãng thời gian tạm nghỉ này để lấy từ túi áo khoác ra chiếc điện thoại di động của Madeline. Anh kiểm tra màn hình và thấy hơi thất vọng khi nhận ra cô chủ tiệm hoa không hồi âm lại tin nhắn của anh. Lẽ nào anh nên gửi cho cô thêm một tin nhắn nữa để xin lỗi? Lẽ nào anh đã đi quá xa? Nhưng người phụ nữa này khiến anh tò mò biết chừng nào… Đêm qua, ngay sau khi in những tấm ảnh đó ra, anh đã phát hiện ra một điều khác thường khi xen phân bổ bộ nhớ của chiếc điện thoại:

Dung lượng ổ: 32 Go

Sẵn sàng để dùng: 1.03 Go

% đã dùng: 96,8

% còn trống: 3,2

Thông tin hiển thị này khiến anh sửng sốt. Làm thế nào mà bộ nhớ của chiếc điện thoại này lại có thể đầy đến mức đó? Thoạt nhìn, trong điện thoại có lưu năm bộ phim, khoảng mười lăm ứng dụng, năm chục bức ảnh, hơn hai trăm bài hát và… tất cả chỉ có thế. Không đủ để đầy bộ nhớ một chiếc smartphone, không cần phải là một chuyên gia tin học cũng có thể biết chắc điều đó. Kết luận ư? Ổ cứng hẳn phải chứa đựng những dữ liệu khác.

Tì khuỷu tay vào lan can nhô cao trên vịnh, Jonathan vừa châm một điếu thuốc vừa nhìn Charly đang ngồi xổm gần dãy chuồng thỏ. Rõ ràng hút thuốc ở nơi này là việc không đúng luật cho lắm, nhưng vì thiếu ngủ nên anh cần nạp vào cơ thể chút nicotin. Anh rít một hơi thuốc, gật đầu đáp trả câu chào của một đồng nghiệp. Jonathan chỉ được các đồng nghiệp yêu mến như thế kể từ khi anh không còn khiến họ cảm thấy bị lu mờ nữa! Mỗi khi gặp anh, phần lớn các nhà cung cấp nguyên liệu và các chủ nhà hàng đều chào anh với một thái độ kỳ lạ pha trộn giữa tôn trọng và thương hại. Ở đây, phần lớn mọi người đều biết anh là ai: Jonathan Lempereur, cựu bếp trưởng tài hoa nhất của thế hệ anh, cựu Mozart trong lĩnh vực bếp núc, cựu chủ nhà hàng sành điệu nhất thế giới.

Và một loạt cựu khác…

Hôm nay thì anh chẳng còn gì cả, hoặc gần như thế. Xét trên phương diện pháp lý, thậm chí anh còn không được quyền mở nhà hàng. Khi buộc phải bán giấy phép khai thác tên tuổi của mình, trên thực tế anh đã cam kết sẽ tránh thật xa khỏi mọi căn bếp. French Touch không thuộc về anh và tên anh sẽ không bao giờ được trương lên nữa, kể cả trên website của nhà hàng hay trên danh thiếp.

Trong một bài báo, một cây bút nữ của tờ Thời luận đã đột ngột khơi lại vấn đề khó xử ấy nhưng cô cũng nhận thấy nhà hàng khiêm tốn hiện giờ anh đang đứng bếp không còn sót lại chút nào vẻ hào nhoáng lẫy lừng của Thống Soái khi xưa. Vậy là Jonathan đã tranh thủ mặt báo để giải quyết dứt điểm mọi chuyện: Phải, nhà hàng của anh chỉ phục vụ những món đơn giản với giá phải chăng, anh sẽ không bao giờ sáng tạo thêm bất cứ thực đơn nào nữa và cảm thấy hứng thú của anh đã không quay trở lại; không, anh sẽ không bao giờ màng đến bất cứ giải thưởng nào dành cho giới đầu bếp nữa. Ít ra thì mọi chuyện cũng đã sáng tỏ và bài báo đã giúp các đầu bếp đang lo ngại về khả năng Lempereur sẽ quay trở lại nhà bếp yên chí lớn.

- Bố ơi, con nếm vài hạt đậu nhỏ tẩm mù tạc này được không ạ? Charly nằn nì trong khi hướng ánh mắt đầy tò mò về phía quầy hàng của một ông lão châu Á bày bán cả lưỡi vịt và súp rùa.

- Không được, con trai. Con sẽ không thích đâu, món đó cay lắm!

- Đi mà bố! Trông có vẻ ngon thế cơ mà!

Jonathan nhún vai. Tại sao ngày từ thuở thiếu thời, bản chất con người đã xúi giục chúng ta lờ đi những lời khuyên chín chắn?

- Tùy con.

Anh rít một hơn thuốc nữa rồi nheo mắt lại vì nắng. Trượt ván, đi bộ hoặc đi xe đạp, nhiều người đang tận hưởng thời tiết đẹp dạo chơi dọc bờ biển. Đằng xa, đại dương đang rực rỡ và trên bầu trời xanh thẳm vài chú mòng biển lượn qua lượn lại sẵn sàng chớp thời cơ lao xuống đám đồ ăn đang bày ra trước mắt.

Họng đang cay xé vì món thịt bò khô, lẽ ra Charly nên đề cao cảnh giác hơn, nhưng màu xanh lục ngon mắt của đám đậu chiên phồng đã khơi gợi lòng tin nơi cậu. Vậy nên không hề dè chừng cậu nhóc ngốn ngấu một nắm nhỏ hạt đậu tẩm mù tạc và…

Ọe! Cay quá! Cậu bé kêu toáng lên, nhanh chóng phun phì thứ vừa cho vào miệng.

Bắt gặp ánh mắt cười nhạo của ông già người Nhật, cậu nhóc quay sang bố.

- Lẽ ra bố phải cảnh báo con mới phải! Cậu trach bố cho đỡ ngượng.

- Đi nào, bố dẫn con đi uống một cốc sô cô la, Jonathan vừa đề nghị vừa dập tắt điếu thuốc rồi nhấc bổng Charly đặt lên vai.

Trong khi đó, tại Paris…

Khi nhân viên chuyển phát nhanh đẩy cửa bước vào Khu vườn kỳ diệu thì đã hơn bảy giờ tối. Bất chấp giờ đã muộn, cửa tiệm vẫn còn nhộn nhịp khách ra vào, Madeline đang cố gắng xoay xở để phục vụ được nhiều khách hàng cùng một lúc.

Vừa nhấc mũ bảo hiểm ra khỏi đầu, anh nhân viên chuyển phát nhanh lập tức có cảm tưởng mình vừa bị ném vào một không gian khác. Với những đóa hoa mang sắc màu của mùa thu, những hương thơm hòa quyện, chiếc xích đu và chiếc thùng tưới cũ kỹ, lạ kỳ thay cửa hàng hoa này lại khiến anh nhớ ngay tới khu vườn trong ngôi nhà nơi thôn quê của bà anh, nơi anh đã trải qua phần lớn những kỳ nghỉ thời thơ ấu. Sững sờ trước không khí êm ái đầy bất ngờ nơi hòn đảo nhỏ thiên nhiên này, anh có cảm giác bấy lâu nay giờ mới được thực sự hít thở.

- Tôi có thể giúp gì không? Takumi lên tiếng.

- Chuyển phát nhanh Federal Express, anh đáp sau khi chợt bừng tỉnh giấc mơ giữa ban ngày. Có người ở tiệm gọi tôi tới lấy một kiện hàng.

- Đúng đấy, kiện hàng đó đây.

Nhân viên chuyển phát nhanh nhận lấy hộp giấy bìa anh chàng người châu Á đưa cho.

- Cảm ơn, chúc buổi tối tốt lành.

Anh đi ra phố rồi cưỡi lên chiếc mô tô. Anh tra chìa khóa, ấn nút khởi động rồi tăng tốc tới đại lộ. Anh chạy xe được khoảng chục mét thì bỗng nhìn qua kính chiếu hậu và nhận ra một phụ nữ đang vẫy gọi mình. Anh bóp phanh rồi dừng lại trên vỉa hè.

- Tôi là Madeline Greene, cô giải thích khi đã đuổi kịp anh. Chính tôi đã điền mẫu khai trên Internet để yêu cầu chuyển phát nhanh gói hàng này, nhưng mà…

- Cô muốn hủy đơn hàng sao?

- Và lấy lại gói hàng này, anh thông cảm giúp nhé.

Không gây chút khó khăn, chàng thanh niên trả lại gói hàng cho Madeline. Hiển nhiên, anh đã gặp nhiều trường hợp người gửi đổi ý vào phút chót.

Cô ký giấy xác nhận rồi đưa anh chàng một tờ 20 euro để đền bù thiệt hại.

Madeline quay lại tiệm hoa, ôm khư khư chiếc điện thoại trước ngực, tự hỏi liệu cô quyết định như thế là đúng hay sai. Khi chọn cách không gửi trả lại Jonathan chiếc điện thoại thuộc về anh, cô ý thức được nguy cơ bị coi là cố tình khiêu khích đối phương. Trong những ngày sắp tới, nếu không nghe nhắc gì về anh nữa, cô có thể trả lại máy cho anh lúc nào mà chẳng được, nhưng trong trường hợp mọi chuyện xấu đi, cô muốn giữ khả năng liên hệ trực tiếp với anh.

Cùng lúc cô hy vọng rằng chuyện đó sẽ không bao giờ xảy ra.

San Francisco

Jonathan tiếp tục dạo quanh khu chợ dưới những mái vòm của Ferry Building. Được xây dựng cách đây đã hơn một trăm năm, nhà ga hàng hải ngạo nghễ án ngữ dọc đường Embarcadero. Tòa nhà trải qua thời hoàng kim vào những năm 1920 khi trở thành nhà ga hàng hải đón lượng du khách đông nhất thế giới. Ngày nay, tòa trụ sở chính đã được biến thành dãy nhà trưng bày thương mại thanh lịch, nơi các cửa hàng bán pho mát chế biến thủ công, bánh mì, đồ ăn sẵn, đặc sản Ý và thực phẩm khô tinh chế nối tiếp nhau dọc lối đi. Nơi đây được những kẻ háu ăn vô cùng mến chuộng.

Anh chàng chủ nhà hàng kết thúc chuyến mua sắm bằng một lô hoa quả mùa đông, nho, kiwi, chanh, lựu, cam, rồi thực hiện lời hứa mua cho con trai một cốc sô cô la thơm phức tại một trong những quán cà phê nằm dọc trên đê chắn sóng.

Charly nhẹ cả người khi xua được hết vị mù tạc đang đốt cháy cổ họng với thứ nước ca cao ngọt dịu. Jonathan gọi cho mình một tách trà mạn. Tâm trí anh đang để nơi khác. Nhấp xong ngụm trà đầu tiên, anh kiểm tra màn hình điện thoại. Vẫn chưa nhận được tin tức gì từ Madeline.

Một giọng nói bên trong thầm nhắc anh nên dùng lại tại đây. Anh đang chơi trò gì thế này? Anh đang tìm cách chứng minh điều gì? Cái thói lục lọi tìm tòi thế này có thể mang lại gì cho anh ngoài phiền phức?

Nhưng anh quyết định làm ngơ trước những lời cảnh báo ấy. Đêm qua, anh đã mở lần lượt tất cả các ứng dụng và chỉ duy có ứng dụng này khiến anh thấy đáng nghi nhất: một khoảng lưu trữ cho phép đọc các file dung lượng lớn – PDF, hình ảnh, video – sau khi đã chuyển chúng từ máy vi tính sang điện thoại. Nếu Madeline đã ngụy trang tài liệu gì đó trong chiếc điện thoại di động này – và đó là điều cần tính đến sau khi phân tích bộ nhớ điện thoại –, thì hẳn là những tài liệu đó sẽ nằm cả trong ứng dụng này.

Chỉ có điều ứng dụng đã được cài mật khẩu bảo vệ!

NHẬP MẬT KHẨU

Jonathan nhìn con trỏ nhấp nháy để mời anh nhập mã bảo vệ. Quyết tâm thử vận may, anh gõ lần lượt MADELINE, GREENE rồi PASSWORD.

Nhưng không nên mơ mộng làm gì.

Sau khi thử tới lần thứ ba vẫn thất bại, anh tra giờ trên đồng hồ đeo tay rồi phát hoảng khi thấy thời gian trôi vùn vụt. Dịp cuối tuần, anh thuê một nhân viên tới nhà hàng phụ việc, nhưng anh chàng đầu bếp đó không có chìa khóa, mà không nên kỳ vọng là gã Marcus lười chảy thây sẽ dến đúng giờ.

- Đi nào chàng thủy thủ, nhổ neo thôi! Anh ra lệnh rồi giục Charly mặc áo khoác vào.

- Bố ơi, ta có thể đi chào lũ sư tử biển trước đã được không?

Cậu nhóc muốn bố dẫn đi xem lũ sinh vật biển kỳ lạ đã chọn bến 39 làm nơi ở cố định kể từ sau trận động đất năm 1989.

- Không được đâu, con yêu, bố phải đi làm, Jonathan đáp, hơi cảm thấy có lỗi. Ngày mai bố con ta sẽ tới vịnh Bodega ngắm chúng, rồi lên thuyền câu cá luôn, được không con?

Jonathan vớ lấy khăn ăn lau sạch hàng ria mà sô cô la vừa vẽ ra dưới mũi con trai mình.

Họ vừa tới bãi đỗ xe thì chiếc điện thoại di động rung lên bần bật trong túi áo anh. Jonathan lấy điện thoại ra, nhận thấy tên người gọi hiển thị trên màn hình là ESTEBAN.

Trong một giây, anh lưỡng lự không biết có nên nhận cuộc gọi không, nhưng người phụ trách giao hàng đã vẫy anh lại để họ cùng nhau chất hàng lên xe. Charly sẵn lòng giúp một tay nên ba người đàn ông nhanh chóng chất được toàn bộ các thùng sọt lên chiếc minibreak hiệu Austin, một chiếc Countryman chính hiệu của thập niên 1960 có gắn biểu tượng của nhà hàng bằng gỗ.

- Cài dây an toàn vào đi con, Jonathan bảo con trai trước khi xoay chìa khóa.

Nhằm thẳng hướng khu phố Ý, anh gài chiếc điện thoại vào khay đựng đồ sát kính chắn gió, rồi…

Có thế chứ! Esteban để lại một tin nhắn thoại! Anh mở loa ngoài để nghe, nhưng trong khi anh đang chờ nghe thấy một giọng đàn ông thì một giọng nữ du dương cất lên thông báo:

“Chào cô Greene, tôi gọi từ phòng khám của bác sĩ Esteban để biết liệu có thể lùi cuộc hẹn của cô vào thứ Hai này lại một tiếng hay không. Làm ơn vui lòng liên lạc lại với chúng tôi. Chúc cô kỳ nghỉ cuối tuần an lành.”

Jonathan phác một cử chỉ ngạc nhiên. Vậy ra Esteban không phải tên một người tình Nam Mỹ mà là họ của một vị bác sĩ! Nổi cơn tò mò, anh mở ứng dụng Những trang vàng cài sẵn trong máy thì con trai anh chỉnh ngay:

- Chú ý nhìn đường đi bố!

Anh gật đầu tỏ vẻ đồng hanh:

- Nhất trí, con giúp bố nhé.

Phấn khởi vì được tin tưởng nhờ cậy, Charly chạm vào màn hình cảm ứng để nhập dữ liệu vào danh bạ trực tuyến. Nghe bố đánh vần, cậu nhóc gõ BÁC SĨ ESTEBAN, rồi tới PARIS, và ấn nút tìm kiếm. Sau vài giây, chương trình cho hiển thị kết quả:

Laurence Esteban

Bác sĩ chuyên khoa Tâm thần

Số 66 phố Las Cases 75007 Paris

Vậy là Jonathan đã nhầm khi nghĩ theo hướng Madeline đang lén ngoại tình, nhưng anh đã đoán ra tâm trạng bất ổn của cô. Trên những bức ảnh chụp, người phụ nữ trẻ có thể biểu lộ toàn bộ vẻ bề ngoài hạnh phúc, nhưng một người đến khám bác sĩ chuyên khoa Tâm thần hai lần mỗi tuần hiếm khi là một hình mẫu về sự bình tâm…
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
623,263
Điểm cảm xúc
35
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 7: Hoàng đế bị truất ngôi


“Cả hai chúng ta cần quên, cần nơi trú chân, trước khi mang thứ hành lý hư không này của mình đi xa hơn. (…) Hai con người thất trận cô đơn mà nương tựa vào nhau.”

Romain GARY

Paris, quận VIII

1 giờ sáng

Tại căn hộ trong một tòa nhà nhỏ ở Faubourg-du-Roule

Một làn mưa tuyết rơi trên các mái nhà thủ đô.

Dưới ánh sáng ngọn đèn ngủ, cuộ nình ấm áp trong chăn, Madeline đọc nốt những trang Tự thú của một đấu bếp đang yêu, cuốn sách của Lempereur mà Takumi đã mua cho cô ngay sáng nay.

Nằm bên cạnh cô, Raphaёl đã ngủ từ hai tiếng trước. Khi vào giường nằm, anh đã hy vọng vợ sắp cưới sẽ rút ngắn thời gian đọc sách trước viễn cảnh một cuộc “mơn trớn”, nhưng Madeline không rời mắt khỏi cuốn sách, và sau khi chờ đợi hồi lâu, Raphaёl ngủ thiếp đi mất.

Madeline thích đọc sách trong bầu không khí tĩnh lặng buổi đêm. Mặc dù nằm ngay gần Champs-Élysées nhưng căn hộ của Raphaёl vẫn là một chốn náu mình yên bình, tránh xa tiếng còi hụ của xe cảnh sát và các loại tiếng hú hét của dân chơi. Cô đọc ngốn ngấu sách do Jonathan viết với một cảm giác pha trộn giữa ngưỡng mộ và ghê tởm. Cuốn sách xuất bản năm 2005. Bấy giờ Lempereur đang sống thời vàng son, minh chứng là bìa bốn của cuốn sách gồm toàn những lời ngợi khen nồng nhiệt và nhất trí cao độ dành cho người viết: “Phù thủy của các hương vị”, “Mozart của nghệ thuật ẩm thực”, “đầu bếp tài năng nhất thế giới”.

Trong các bài phỏng vấn, Lempereur nhấn mạnh quan điểm cá nhân: Sáng tạo ẩm thực là một ngành nghệ thuật riêng biệt, cũng giống như hội họa hay văn chương. Đối với anh, ẩm thực không chỉ dừng lại ở việc thỏa mãn vị giác, mà còn hàm chứa trong đó một không gian nghệ thuật. Hơn cả đầu bếp, anh tự định nghĩa mình như một nhà sáng tạo, bằng cách so sánh công việc của anh với công việc của một văn trước trang giấy trắng, và qua đó khẳng định sự hiện diệncủa “dấu ấn ẩm thực”.

“Vượt lên trên công việc thủ công thuần túy, tôi muốn món ăn mình nấu ra kể những câu chuyện và khơi dậy những cảm xúc”, anh tuyên bố.

Với quan điểm như vây, anh ngược về cội nguồn sáng tạo của mình để xác định căn nguyên của nghệ thuật ẩm thực trong anh. Các trực cảm của anh hình thành như thế nào? Anh dự tính kết hợp vị này với vị kia theo quy trình nào để tạo ra một hương vị trước nay chưa ai biết đến? Thành phần của món ăn cũng như phương diện thẩm mỹ của món ăn đóng vai tròn gì?

“Tôi tò mò muốn biết mọi thứ, anh thú nhận. Tôi nuôi dưỡng sức sáng tạo của bản thân bằng cách tham quan các viện bảo tàng, các triển lãm tranh, nghe nhạc, xem phim và ngắm cảnh, nhưng nguồn cảm hứng lớn nhất của tôi chính là vợ tôi, Francesca. Tôi đóng của nhà hàng suốt ba tháng để náu mình trong căn xưởng riêng tại California. Tôi cần khoảng thời gian này để tự tái tạo bản thân và hoàn thiện những thực đơn mới sẽ áp dụng tại Thống Soái trong năm tiếp theo.”

Madeline ngạc nhiên với số chương sách dành để nói về hoa. Jonathan sử dụng rất nhiều hoa trong nấu ăn, ấn định một phần các thực đơn của mình xung quanh hương vị của chúng: Nụ râm bụt vàng ngâm giấm, bánh xèo giòn gan béo kèm mứt hoa hồng, đùi ếch thắng caramen kèm hoa violet, hoa quả nghiền lạnh vị mimosa và bánh trứng nhân tử đinh hương, kẹo thơm vị hoa mỹ nhân Nemours…

Madeline cảm thấy bụng mình sôi réo. Đọc cuốn sách này chỉ khiến cô đói ngấu! Cô khẽ khàng rời khỏi giường, khoác thêm tấm chăn rồi vào căn bếp kiểu Mỹ trông ra các mái nhà. Cô đặt ấm nước lên bếp rồi mở tủ lạnh tìm thứ gì đó nhấm nháp được.

Hừm, chẳng có gì mấy…

Lục trong tủ bếp, rốt cuộc cô cũng tìm ra một gói bánh quy Granola ăn dở. Trong lúc đợi cho nước sôi, cô ăn bánh quy rồi xem lướt phần phụ lục của cuốn Tự thú của một đầu bếp đang yêu có in một vài thực đơn đã làm nên danh tiếng cho nhà hàng Lempereur tại New York.

Thời Jonathan còn đứng bếp, mỗi tối nhà hàng Thống Soái lại đề xuất một chuyến du hành vị giác thông qua chừng hai mươi món ăn để nhấm nháp theo khẩu phần nhỏ, theo một trật tự chính xác như kịch bản phim, sắp đặt khéo léo những bất ngờ và đột phá thú vị. Đọc tham khảo thực đơn Madeline không khỏi chảy nước miếng.


Đuôi tôm bỏ lò kèm trứng cá muối

Bánh thăn lợn hun khói kèm pho mát Parma

Trứng trộn nhím biển kèm bánh nugatin

Hoa keo tẩm bột rán kèm thục quỳ

Đậu tằm nhỏ xào tỏi bao vỏ bánh mì tẩm gia vị

Pizza kiểu Pháp chính hiệu Nice


Sò Saint-Jacques om hạnh nhân kèm cơm Ý hạnh nhân

Cơm ý trộn nấm rưới xốt sô cô la trắng

Đùi bê xứ Basque dầm hoa nhài

Thịt cừu sữa thái hạt lựu và thái tròn trộn mật ong kèm lá húng


Kẹo marshmallow nướng than củi

Dứa phủ cánh hoa mộc lan

Dâu ướp cánh râm bụt rán vàng ruộm

Bánh trứng nhân hoa tử đinh hương rưới mousse sữa kèm dầu ô liu và mật ong

Bánh chuối trộn ca cao cùng cơm sữa vị hoa cơm cháy

Mousse dừa phết caramen

Kẹo lạnh đánh bông

Tay cầm tách trà, Madeline ngồi trước màn hình máy tính xách tay. Qua cửa kính, cô nhìn những bông tuyết xốp nhẹ tan đi khi rơi xuống mái nhà. Dù lòng không muốn, người phụ nữ trẻ vẫn cảm thấy sự ngưỡng mộ của mình đối với Lempereur mỗi lúc một lớn dần và nhất là với bí ẩn vây quanh việc anh đột ngột rời khỏi sân khấu ẩm thực. Tại sao một người đàn ông vẫn còn trẻ đang ở đỉnh cao vinh quang nghệ thuật lại đột ngột quyết định giã từ sự nghiệp?

Trên Google, cô gõ “Jonathan Lemperuer” kèm theo “đóng cửa nhà hàng riêng” rồi đặt lệnh tìm kiếm…

Trong khi đó, tại San Francisco…

Đang là bốn giờ chiều. Jonathan đưa ra món tráng miệng cuối cùng trong ngày – một chiếc bánh tart vị mơ và hương thảo giản dị - rồi cởi tạp dề và đi rửa tay.

Xong nhiệm vụ! Anh thầm nghĩ vậy khi rời khỏi bếp. Ra đến phòng ăn chính, anh chào một khách hàng rồi ra sau quầy để pha hai tách espresso – một cho phụ bếp của anh, một cho anh. Anh vớ hai cái tách, kiểm tra nhiệt độ để chắc chắn rằng thất thoát nhiệt là không đáng kể và hương cà phê được bảo toàn. Ở North Beach, khu phố Ý của thành phố, người ta không đùa với chuyện này! Không có chuyện làm hỏng một tách espresso hay sử dụng một trong những kiểu máy pha cà phê vốn khiến cho vị cà phê trên hành tinh này, từ Thượng Hải đến New York, nơi nào cũng giống nơi nào.

Cầm tách cà phê của mình trên tay, anh bước ra sân thượng và yên tâm khi thấy Charly không buồn chán quá. Cậu bé đang mải miết lạc vào thế giới khủng long trên chiến máy tính bảng và không buồn để ý đến bố khi anh ngồi xuống gần con trai, phía dưới một lò sưởi.

Anh kín đáo châm một điếu thuốc, nhìn những người qua đường và lũ trẻ đang đi lại trên quảng trường Washington. Anh yêu nơi này và bầu không khí đặc biệt của nó. Mặc dù hiện giờ phần đông cư dân nơi đây đều là người gốc Á nhưng khu phố vẫn hết sức gắn bó với di sản Ý-Mỹ của mình, bằng chứng là những hàng kem bán rong, những cây đèn treo cờ “lục, trắng, đỏ” và số lượng đông đảo các nhà hàng gia truyền nơi người ta có thể thưởng thức món mì trộn sốt pesto, panna cotta đủ vị và bánh tiramisu. Địa danh này nhuốm màu huyền thoại: Kerouac từng sống tại đây, Marilyn Monroe đã kết hôn tại nhà thờ lớn và Francis Coppola, đạo diễn phim Bố già, vẫn có một nhà hàng và văn phòng làm việc tại đây.

Jonathan lấy điện thoai di dộng của Madeline ra khỏi túi. Vẫn không có tin nhắn mới. Anh bật ứng dụng bí ẩn kia lên, quyết tâm vượt qua chướng ngại mật khẩu.

NHẬP MẬT KHẨU

Được thôi, cần phải tiến hành theo đúng trình tự. Thiên hạ vẫn kiên trì nhồi nhét vào đầu chúng ta rằng chìa khóa bảo vệ tài khoản cá nhân cũng quan trọng y như mật mã thẻ tín dụng. Được. Thiên hạ vẫn nhắc đi nhắc lại đến nhàm tai chúng ta lời khuyên để lựa chọn một mật khẩu thực sự an toàn: tránh những từ quá ngắn, không sử dụng những thông tin mà người thân cận của chúng ta biết rõ, nên chọn mật khẩu tạo bởi cả chữ lẫn số và ký tự đặc biệt xen kẽ nhau. Thiên hạ cam đoan với chúng ta rằng, theo quan điểm này, một chuỗi dạng như “!Efv(dkslldf%gruijv0oalkus,dCX” sẽ là một mật khẩu xuất sắc gần như không thể nào đánh cắp.

Trừ có điều người đã tạo ra cũng không thể nhớ nổi…

Jonathan uống một hơi cạn tách cà phê. Anh tin chắc rằng nên tìm thứ gì đó đơn giản hơn. Trong cuộc sống hiện đại này, chúng ta phải tung hứng với đủ thể loại mã: thẻ tín dụng, các mạng xã hội, tài khoản thư tín, hành chính… Để đăng nhập bất cứ dịch vụ nào, chúng ta cần có một mật khẩu. Như vậy thì đầu óc nào mà nhớ cho hết được. Vậy nên, để đơn giản hóa cuộc sống, đa phần mọi người có xu hướng chọn những mật khẩu ngắn và quen thuộc cho dễ nhớ. Bất chấp toàn bộ những quy tắc về an ninh, lựa chọn của họ thường thiên về ngày sinh, tên vợ hoặc tên các con, tên vật nuôi, một số điện thoại hoặc một dãy các số liên tiếp hoặc những chữ cái liền kề.

Jonathan lần lượt thử gõ “123456”, “abcde”, “raphael”, “Greene” cũng như số điện thoại của Madeline.

Thất bại.

Lục tìm trong hòm mail của người phụ nữ trẻ, anh tìm thấy một tin nhắn đặc biệt thú vị: hồ sơ xin đăng ký do Madeline gửi cho người được ủy quyền đã bán cho cô chiếc mô tô của mình. Trong số đó có bản sao chứng minh thư của cô. Nhờ đó mà biết được ngày tháng năm sinh của cô, Jonathan nhập “21031978”, ngày “21 tháng Ba 1978”, “21/03/78” rồi theo kiểu Anh “03211978” “marcstrong11978”, “03/21/78”.

Lại thất bại.

- Nghĩ xem nào! Anh tự nhủ thành lời.

Vì địa chỉ mail của Madeline là maddyg[email protected], anh thử “maddygreene” rồi “maddygreene78”.

Thất bại.

Jonathan cảm thấy cơn tức giận và thất vọng dâng trào trong anh. Anh nắm chặt tay lại và thở hắt ra. Thật tức điên khi đã đứng trước cánh cửa bí mật rồi lại không thể bước vào bên trong!

Madeline đeo cặp kính cận lên để thoải mái đọc các kết quả tìm kiếm đang hiển thị trên màn hình.

Lemperuer thoái vị, Lemperuer bị cách chức, Sự sụp đổ của Lemperuer: báo chí Pháp đã đua nhau chơi chữ[1] để thông báo sự “rút lui” của Jonathan. Cô nhấp chuột vào đường link dẫn tới bài báo đăng trên website của tờ Libération.

[1]. Tên nhân vật đồng âm với I’emperuer tiếng Pháp nghĩa là hoàng đế, thống soái.

Văn hóa 30/12/2009

LEMPERUER BỊ TRUẤT NGÔI

Thần đồng của nghệ thuật ẩm thực tiên phong đã bất ngờ tở chức một cuộc họp báo vào tối qua tại Manhattan để thông báo việc nhà hàng riêng của mình sẽ đóng cửa cũng như toàn bộ các hoạt động sẽ được chuyển nhượng.

Vẻ mặt mệt mỏi, râu ria lởm chởm, mắt thâm quầng, dáng người tròn trĩnh: chính lvới bộ dạng thê thảm này, thứ Năm vừa rồi giáo hoàng của nghệ thuật ẩm thực New York, đầu bếp người Pháp Jonathan Lemperuer, đã tuyên bố đóng cửa ngay lập tức nhà hàng Thống Soái (Michelin xếp hạng ba sao), cũng như nhượng lại toàn bộ các hoạt động của tập đoàn mà anh đã cùng vợ mình là Francesca Delillo sáng lập. Một quyết định dẫn tới nhiều hậu quả nặng nề cho hai nghìn nhân viên của tập đoàn.

Một đầu bếp đặc biệt

Tọa lạc trong Rainbow Room huyền thoại, Thống Soái nhiều lần được tạp chí Restaurant Magazine của Anh xếp hạng là “Nhà hàng đệ nhất thế giới”

Được một số người đánh giá là biết nhìn xa trộng rộng và giàu năng lực sáng tạo, còn một số khác xem là kẻ chuyên bịp bợm lừa gạt, Lemperuer đã gây nên sự tranh cãi trong giới ẩm thực từ gần chục năm nay.

Sự chán nản

Để giải thích cho quyết định đột ngột của mình, vị đầu bếp cho là anh đã “mệt mỏi, nản lòng và cũ kỹ”, cùng với đó là sự kiệt quệ khi phải luôn chân luôn tay, làm việc 18 tiếng mỗi ngày, 360 ngày mỗi năm.

“Tôi dừng lại mọi thứ. Dừng hẳn”, Lemperuer nói rõ, dứt khoát loại trừ khả năng sẽ phụ trách một nhà hàng lớn nào khác. “Tôi không còn chút hứng thú nào để thực hành nghệ thuật của mình và tôi không nghĩ một ngày nào đó cảm hứng này có thể quay trở lại”, anh giải thích, đồng thời cũng nói thêm rằng đã chán ngấy những phê bình không còn hiểu về công việc anh làm nữa.

Những vấn đề trong hôn nhân

Còn những lời phê bình, có vẻ như chính những vấn đề trong cuộc sống hôn nhân đã đẩy nhanh lựa chọn rút khỏi thế giới ẩm thực của anh. “Tôi rất gắn bó với vợ tôi, Francesca, và dĩ nhiên việc chúng tôi chia tay nhau mới đây đóng vai trò quan trọng trong quyết định này của tôi”, Lemperuer thừa nhận, tuy thế, vẫn khéo léo lẩn tránh những câu hỏi xoay quanh đời tư.

Những vấn đề tài chính

“Nhưng các tham số tài chính cũng liên quan đến việc đẩy nhanh quyết định rút lui không thể tránh khỏi của tôi”, anh nói rõ. Từ nhiều năm nay, tập đoàn Thống Soái quả đã lâm vào cảnh nợ nần chồng chất do mô hình kinh tế hoạt động kém hiệu quả và các hoạt động đầu tư mạo hiểm. Tình cảnh ngặt nghèo này đã buộc Lemperuer phải nhượng lại quyền khai thác tên tuổi mình cho tổ hợp khách sạn hạng sang Win Entertainment, tổ hợp này tới đây sẽ thâu tóm toàn bộ hoạt động của tập đoàn.

Một tương lai bấp bênh

Tuổi chưa đến bốn mươi, liệu Lemperuer sẽ làm gì đây? Nghỉ ngơi chăng? Tìm lại nguồn sinh lực mới? Tiếp tục bằng một cuộc chơi khác? Cựu bếp trưởng vẫn còn rất mơ hồ về tương lai của bản thân. Vội vàng kết thúc bài phát biểu của mình, người đàn ông cô độc với ánh mắt thất thần này đã rời khỏi cuộc họp báo. Một người đàn ông mệt mỏi, nhưng có lẽ cũng thầm cảm thấy nhẹ nhõm vì không phải diễn vai “Hoàng đế” nữa.

Madeline nhấp chuột vào một đường link khác: một bài báo đăng trên website của tờ The New York Times đưa ra một nhận định mới về thời ký đó.

TRIỆU CHỨNG VATEL

Bài viết của Ted Booker

Đăng ngày 30 tháng 12 2009

Thủ lĩnh tiêu biểu của nghệ thuật ẩm thực tiên phong, Jonathan Lemperuer phải chăng đã không cưỡng nổi triệu chứng Vatel[2]?

[2]. Đầu bếp của hoàn thân Condé, lưu danh hậu thế vì đã tự vẫn vào năm 1571 trong một dịp chủ nhân của mình đãi tiệc, do thuyền câu về muộn và Vatel sợ không có đủ thực phẩm.

Bếp trưởng người New York thực ra hoàn toàn không phải là người đầu tiên trong số những bậc kỳ tài của lĩnh vực ẩm thực đột ngột quyết định rời sân khấu sau một phen thất vọng. Từ Bernard Loiseau[3] đến Jacques Laroux, nhiều bếp trưởng kỳ cựu trước anh đã cảm thấy nỗi lo sợ thường trực về một sự suy tàn.

[3]. Một trong những bếp trưởng người Pháp vĩ đại nhất của nửa sau thế kỷ XX. Được nhắc tới rất nhiều trên các phương tiện thông tin đại chúng trong suốt thập niên 90, ông tự tử mà không để lại bất kỳ lời giải thích nào vào tháng Hai năm 2003 ở tuổi năm mươi hai.

Jonathan Lempereur đã thành công một cách kỳ diệu trong việc kết hợp được cả sự sáng tạo, sự công nhận của giới phê bình và khả năng sinh lời suốt mười năm qua. Tối qua, chính sự cân bằng mong manh này đã vỡ vụn.

Tiếp theo đó là một loạt những lời dẫn chứng khiến cho bài báo giống như một tiểu truyện về người quá cố, tất cả những người có liên quan đều nói về Lempereur như thể anh đã… chết.

Michael Bloomberg, thị trưởng New York, ca ngợi tài năng tuyệt vời của một bếp trưởng vĩ đại, người sau nhiều năm đã trở thành công dân New York thực thụ.

Hillary Clinton nhắc lại “Sự ủng hộ nhiệt tình của Jonathan Lempereur trong các hoạt động học đường nhằm hỗ trợ ngành giáo dục về gu ăn uống cho trẻ em”. Frédéric Mitterrand, bộ trưởng Văn hòa Pháp, suy tôn anh như “Một thiên tài trong sáng tạo ẩm thực đã góp phần khiến cho ẩm thực Pháp tỏa sáng trên trường quốc tế”.

Bên cạnh những phản ứng tiếc nuối vẫn có một lời phát biểu rõ ràng là hết sức lạc lõng: Phát biểu của bếp trưởng người Scotland Alec Baxterm người đã mất danh hiệu đầu bếp tài hoa nhất hành tinh về tay Jonathan. Baxter vẫn nuôi chí báo thù và không thềm che giấu thái độ thỏa mãn: “Lemperuer chỉ là một ngôi sao băng trong thế giới ẩm thực. Một hiện tượng được giới truyền thông nặn ra và rốt cuộc đã bị phá hủy bởi chính hệ thống đã đẩy anh ta lên tờ áp phích. Thử hỏi mười năm nữa còn ai nhớ đến tên anh ta đây?”

Những lời nhận xét mạnh mẽ nhất, riêng tư nhất và cảm động nhất đến từ Claire Lisieux, một trong hai bếp phó của Thống Soái. “Tôi làm việc cùng Jonathan Lemperuer đã mười năm nay, người phụ nữ trẻ giải thích. Chính anh ấy đã dạy tôi mọi thứ. Anh ấy đã phát hiện ra tôi khi tôi còn làm công việc phục vụ bàn trong một quán cà phê ở Madison nơi anh ấy tới dùng bữa sáng mỗi ngày. Tôi không có giấy phép làm việc hợp pháp và anh ấy đã giúp tôi có được thứ đó bằng cách nhận tôi vào làm ở nhà hàng của anh. Đó là một người đàn ông có ý chí quật cường, yêu cầu cao nhưng rất độ lượng với nhân viên.”

- Cô ấy à, hẳn là cô đã thầm yêu hắn rồi… Madeline lẩm bẩm trước khi tiếp tục đọc bài báo.

“Jonathan là sự pha trộn giữa mạnh mẽ và yếu đuối, Claire nói tiếp. Một con người có tính cách cực đoan, nhiều mâu thuẫn, vừa mê đắm lại vừa ghê sợ giới truyền thông và sự nổi tiếng. Thời gian gần đây, tôi cảm thấy tinh thần anh ấy khá suy sụp. Cực kỳ năng nổ, thưởng xuyên chịu áp lực, anh ấy tìm kiếm không mệt mỏi sự hoàn hảo mà giờ đây đã trở thành một dạng xiềng xích nô lệ. Anh ấy kiệt sức vì đã làm việc không lơ là từ sáng tới tối. Anh ấy hầu như không bao giờ đi nghỉ. Chừng nào vợ anh ấy còn ủng hộ thì Jonathan vẫn còn chống chọi được, nhưng khi chị ấy rời bỏ Jonathan thì toàn bộ chuyện này trở nên quá nặng nề. Bởi tất cả mọi người đều nhầm về Jonathan Lempereur: Khao khát được công nhận của anh ấy, tham vọng của anh ấy, sự nhượng bộ của anh ấy với hệ thống ngôi sao không phải là những dấu hiệu của chứng hoang tưởng tự đại cực đoan. Tôi chỉ nghĩ rằng anh ấy làm thế vì Francesca. Để làm chị ấy vui lòng, để chị ấy yêu mình. Kể từ lúc họ chia tay nhau, tôi chỉ nghĩ đơn giản là không còn điều gì khiến anh ấy quan tâm nữa, không còn điều gì có ý nghĩa với anh ấy nữa…”

- Em còn thức làm gì thế này?

Madeline giật nảy mình, quay phắt lại như bị bắt quả tang. Mặc bộ pyjama, dáng điệu ngái ngủ, Raphaёl đang nhìn cô với vẻ rất lạ.

- Không có gì, không có gì đâu, cô vừa nói chắc vừa đóng vội màn hình máy tính lại. Em… em đang xử lý tài khoản: những khoản nộp vào, Urssaf[4], các loại phí tổn… Anh cũng biết là gì rồi đấy.

[4]. Viết tắt của cụm từ Union de recouvrement des cotisations de sécurité sociale et d’allocations familiales, một cơ quan chuyên thu các khoản đống góp xã hội tại Pháp.

- Nhưng bây giờ là 2 giờ sáng cơ mà!

- Em không ngủ được, anh yêu, cô vừa giải thích vừa gỡ kính ra.

Cô uống một ngụm trà đã nguội ngắt, chúi mũi vào hộp bánh quy nhưng chợt nhận ra là nó đã rỗng không từ lúc nào.

Raphaёl cúi xuống hôn lên môi cô. Anh luồn một tay vào trong chiếc váy ngủ cô đang mặc để vuốt ve bụng cô. Rồi miệng anh rời miệng Madeline để trượt xuống hôn cổ cô. Chậm rãi, anh tuột một bên dây chiếc váy ngủ bằng lụa rồi dây thứ hai…

Hứng thú yêu đương của anh đột ngột bị cắt ngang bởi đoạn điệp khúc trong ca khúc Jumpin’ Jack Flash. Raphaёl thốt rùng mình vì ngạc nhiên, phác một cử chỉ giật lùi.

Madeline nhìn điện thoại của Jonathan đang rung lên bên cạnh máy tính xách tay của cô. Ảnh chụp một phụ nữ tóc nâu, vẻ mặt nghiêm trang, đôi mắt sẫm và sâu, đang hiển thị trên màn hình. Tên người gọi hiện lên trên tấm ảnh: FRANCESCA

Không kịp suy nghĩ gì thêm, Madeline nhấc máy…

- Bố ơi, con thấy hơi lạnh…

Jonathan ngẩng đầu lên khỏi màn hình điện thoại. Suốt một giờ qua, anh mải mê theo đuổi những suy nghĩ ngoắt ngoéo để tìm cách đánh cắp mật khẩu của Madeline mà chưa được. Anh đã đọc qua phần lớn thư điện tử của người phụ nữ trẻ, kiên trì thu thập những mẩu thông tin và ở mỗi dấu hiệu mới lại tìm ra một mật khẩu tương ứng.

- Lấy áo len mặc thêm vào đi con yêu, anh nói rồi đưa cho con một chiếc khăn giấy để cậu nhóc chùi nước mũi đang chảy ròng ròng.

Mặt trời đã lặn nhường chỗ cho một màn sương màu trắng dày đặc bao phủ phố xá và công viên đối diện với sân thượng của quán. Không phải vô cớ mà San Francisco còn có tên gọi khác là Thành phố sương mù. Thậm chí đây còn là một trong những nét có phần bí hiểm và gây bất ngờ của thành phố: Màn sương dày đặc có thể bao phủ cả thành phố và cây cầu Cổng Vàng nổi tiếng chỉ trong vài phút.

Khi Charly quay trở lại trong chiếc áo len cổ lọ dày sụ, Jonathan nhìn đồng hồ đeo tay.

- Lát nữa Alessandra sẽ tới . Con có thích đi xem Wicked với chị ấy không?

Cậu nhóc gật đầu rồi kêu lên:

- Chị ấy kìa!

Rồi nhảy cẫng lên vui sướng khi nhìn thấy cô giữ trẻ của mình.

Cô sinh viên là con gái của Sandro Sandini, ông chủ của một trong những nhà hàng Ý lâu đời nhất khu phố. Cô đang theo học một khóa đào tạo nghiệp vụ tại Berkeley, và mỗi khi Charly ghé qua California, Jonathan đều nhờ cô trông Charly giúp.

Anh đang chào cô gái thì chiếc điện thoại di động rung lên trong tay anh. Anh nhìn số điện thoại gọi đến hiển thị trên màn hình và nhận ra dãy số quen thuộc của vợ cũ!

- Alô?

Bằng giọng đều đều không âm sắc, Francesca giải thích với anh rằng trong lúc tìm cách liên lạc với anh, cô gặp một cô gái người Paris đã giải thích với cô việc cầm nhầm máy. Cô chỉ muốn yên tâm rằng mọi chuyện vẫn ổn và muốn nói chuyện với Charly.

- Mẹ con này, Jonathan nói rồi đưa điện thoại cho con trai.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
623,263
Điểm cảm xúc
35
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 8: Những người ta yêu


“Đôi khi, tình yêu cũng là như thế này: để những người ta yêu ra đi.”

Joseph O’CONNOR

Quận Sonama

California

Sáng Chủ nhật

- Bố không yêu mẹ nữa phải không ạ? Charly hỏi.

Chiếc xehiệu Austin ngừng lại dọc bờ biển uốn lượn của Thái Bình Dương. Jonathan và con trai đã dậy từ lúc bình minh. Họ rời San Francisco theo đường cao tốc số 1, lần lượt đi qua bãi biển cát đen của Muir Beach và ngôi làng du mục Bolinas nơi từ hàng thập kỷ nay người ta đã phá bỏ toàn bộ các biển chỉ dẫn để ngăn chặn nạn du khách xô bồ đổ về nơi này.

- Vậy là, bố vẫn còn yêu mẹ ạ? Cậu nhóc xoay câu hỏi theo cách khác.

- Tại sao con lại hỏi bố câu đó? Jonathan vừa hỏi lại vừa với tay vặn nhỏ bớt tiếng radio.

- Bởi vì con biết mẹ nhớ bố và mẹ muốn cả ba chúng ta lại sống cùng nhau.

Jonathan lắc đầu. Anh vẫn không thể chịu để con trai mình tin rằng cuộc chia tay giữa hai người sinh ra nó có thể chỉ là tạm thời. Theo kinh nghiệm cá nhân, anh biết một đứa trẻ thường thầm hy vọng rằng ngày nào đó bố mẹ nó sẽ quay lại với nhau và anh không muốn Charly nuôi ảo tưởng đó.

- Quên ý nghĩ đó đi, con yêu. Sẽ không có chuyện đó đâu

- Bố chưa trả lời con nhé, cậu nhóc nhắc. Bố vẫn còn yêu mẹ một chút chứ?

- Nghe này, Charly, bố biết con khó mà chấp nhận được chuyện này và hoàn cảnh gia đình ta khiến con đau lòng. Ông bà nội cũng chia tay nhau khi bố bằng tuổi con bây giờ. Cũng như con, bố rất buồn và trách ông bà vì đã không cố gắng giảng hòa với nhau. Bố công nhận là khi bố mẹ vẫn còn yêu nhau thì ba người chúng ta đều hạnh phúc hơn. Bất hạnh thay, những câu chuyện tình không kéo dài mãi. Chuyện là thế đấy. Quan trọng là con hiểu rằng thời kỳ đó đã qua rồi và sẽ không trở lại nữa.

- Hừm…

- Mẹ và bố đã từng yêu nhau rất nhiều và con là kết quả của tình yêu đó. Chỉ cần bấy nhiêu đó thôi cũng đủ để bố không bao giờ hối tiếc về quãng thời gian đó rồi.

- Hừm…

Trước mặt con trai, Jonathan không bao giờ chỉ trích Francesca trong vai trò người mẹ. Vả chăng, anh chỉ có thể trách cô là người vợ không chung thủy, còn với Charly, cô luôn là một người mẹ tuyệt vời.

- Trái ngược hoàn toàn với các mối quan hệ đôi lứa, mối quan hệ giữa bố mẹ và con cái kéo dài suốt cuộc đời, anh nói tiếp, phết y nguyên lời khuyên của những cuốn sách tâm lý từng đọc. Con không phải chọn lựa giữa bố và mẹ: Mẹ sẽ vẫn luôn là mẹ của con và bố sẽ luôn là bố của con. Cả hai bố mẹ đều có trách nhiện nuôi dạy con và đồng hành cùng con trong cả những thời điểm hạnh phúc hay những lúc khó khăn của cuộc đời.

- Hừm…

Jonathan nhìn cảnh vật lướt qua trước kính chắn gió. Con đường uốn khúc quanh co men theo bờ biển, cảnh vật hai bên đường đầy vẻ hoang vu. Với những vách đá lởm chởm và lồng lộng gió, nơi này gợi nhớ đến Bretagne hay Aixolen hơn là tới California.

Anh cảm thấy tội lỗi vì đã không biết dùng những lời lẽ thích đáng hơn khi trò chuyện cùng con trai. Đối với Charly, việc bố mẹ chia tay nhau thật bất ngờ và nghiệt ngã biết mấy. Cho đến bây giờ, Jonathan vẫn cẩn trọng để không bao giờ mô tả chi tiết cho cậu bé nghe về mối quan hệ giữa hai người, nhưng liệu đó có phải là giải pháp hiệu quả? Dĩ nhiên là thế rồi: làm sao có thể giải thích nổi sự phức tạp của mối quan hệ vợ chồng và tác hại của sự phản bối đối với một đứa trẻ đây? Dù sao anh cũng đánh liều giải thích thêm:

- Bố không chối bỏ chút gì của quá khứ, nhưng đến một ngày, bố hiểu ra rằng mẹ con không còn là người phụ nữ ngày nào bố đã gặp. Trong những năm cuối cùng bố mẹ còn ở bên nhau, bố đã đem lòng yêu một ảo ảnh. Con hiểu không?

- Hừm…

- Thôi cái kiểm “hừm” ấy đi! Con có hiểu hay là không nào?

- Con không rõ lắm, cậu nhóc đáp rồi bĩu môi đầy hờn dỗi.

Khỉ thật, tại sao mình lại nói với thằng bé chuyện này?... Jonathan cảm thấy hối hận

Họ vượt qua một đàn bò sữa và tới đích: Ngôi làng chài nhỏ bên vịnh Bodega. Nằm cách San Francisco sáu mươi cây số về phía Tây Bắc, địa điểm này đã trở nên nổi tiếng khắp thế giới kể từ khi được Alfred Hitchcock chọn để quay phần lớn các cảnh trong Đàn chim.

Vào buổi sáng mùa đông ấy, thành phố duyên hải chưa lấy gì làm náo nhiệt. Họ đưa xe vào bãi đỗ gần như vắng tanh. Charly xuống xe rồi chạy trên chiếc cầu phao để xem bầy sư tử biển đang phơi nắng và kêu những tiếng nghe chừng khoan khoái.

Trên bến cảng có nhiều quầy hàng bày bán những loại hải sản vẫn còn tươi rói, và dưới mái hiên các nhà hàng, một vài bậc lão thành đang ngồi trên đu mà thưởng thức, bất chấp giờ sáng sớm, món cua bể và sò đốm chowder[1].

[1]. Món xúp gồm sò đốm, hành và thịt hun khói đổ trực tiếp vào bánh mì đã khoét rỗng ruột.

Thực hiện đúng lới hứa với con trai, Jonathan đã thuê một chiếc thuyền mũi nhọn giống với thuyền truyền thống vùng Marseille.

- Nào, chàng thủy thủ, dong buồm ra khơi thôi!

Mặt nước lặng như tờ, cực kỳ thuận lợi cho việc đi biển.

Chiếc thuyền nhỏ rời xa bờ rồi neo lại cách bến cảng hai dặm. Charly lấy cần câu ra, hai bố con cùng móc giun vào lưỡi rồi thả xuống nước.

Jonathan kiểm tra điện thoại Madeline nhưng ở đây lại không có sóng. Mắt vẫn theo dõi sát sao con trai, anh châm một điếu thuốc, vừa tận hưởng hơi thuốc đầu tiên vừa quan sát đám chim chân màng đông đúc đang lượn quanh thuyền. Rõ ràng là Hitchcock đã có được cảm hứng làm phim khi chứng kiến cảnh tượng này: nơi đây tràn ngập đủ các loài chim – mòng biển, cốc, dẽ giun, mòng xám – tiếng kêu của chúng hòa lẫn với tiếng còi tàu.

- Bố này, tại sao bố hút thuốc trong khi thừa biết thuốc lá gây tử vong? Charly thắc mắc.

Jonathan vờ như không nghe thấy, hỏi lại:

- Cá cắn câu rồi hả?

Nhưng cậu nhóc quyết tâm không từ bỏ cuộc vận động chống thuốc lá:

- Con thì con không muốn bố chết tí nào, cậu nói, mắt ngân ngấn nước.

Jonathan thở dài.

Làm thế nào để chiến đấu với nó đây?

Anh đầu hàng, dụi tắt điếu thuốc sau khi rít nốt một hơi cuối cùng.

- Con hài lòng rồi chứ?

- Rồi ạ! Cậu nhóc đáp, lập tức lấy lại vẻ mặt tươi rói.

Trong khi đó, tại Deauville…

Đồng hồ quả lắc trong phòng khách vừa điểm 19 giờ.

Một ngọn lửa cháy đỏ đang bập bùng trong lò sưởi. Raphaёl cùng bố đang chơi một ván bi-a. Ngồi trên trường kỷ da chần, Madeline đang máy móc gật đầu, lơ đãng nghe câu chuyện làm quà của Isaure – mẹ chồng tương lai của cô – trong khi dưới chân cô, Sultan, con chó cốc giống Anh của gia đình đang trìu mến nhỏ dãi lên đôi giày cô mới mua.

Bên ngoài, mưa quất ràn rạt vào cửa kính từ đầu buổi chiều.

- A ha! Bác khoái chương trình này lắm! Isaure kêu lên, bỏ Madeline lại để quay sang vặn to tiếng ti vi - lúc này đang phát chương trình ngớ ngẩn không biết thứ bao nhiêu vào dịp cuối năm.

Madeline tranh thủ khoảng trống này để rời khỏi trường kỷ.

- Cháu ra ngoài châm điếu thuốc ạ.

- Anh tưởng em bỏ thuốc rồi cơ mà, Raphaёl phản đối.

- Thứ đó sẽ giết cháu mất thôi, cháu yêu, Isaure bồi thêm.

- Có thể ạ, cô công nhận, nhưng cũng cần thiết phải chết vì thứ gì đó chứ, phải không ạ?

Nói đến đó, cô mặc thêm áo khoác rồi bỏ ra ngoài sân thượng.

Mặc dù đêm đã buông từ lâu, một hệ thống đèn chiếu nhân tạo vẫn soi sáng trang viên nhỏ kiểu Anh-Normand, tôn bật dãy nhà gỗ trét và làn nước xanh lam của bể bơi.

Madeline dạo vài bước dọc theo sân thượng có mái che rồi tới chống tay lên lan can. Trang viên nhô cao trên trường đua mang lại một quang cảnh hết sức ấn tượng về Deauville.

Cô châm điếu thuốc, rít hơi đầu tiên. Gió thốc vào mặt cô. Được tiếng sóng biển vọng tới êm ru, cô nhắm mắt, cố gắng thư thái.

Thứ tiện nghi tư sản và tính trơ ì của những kỳ nghỉ cuối tuần cùng gia đình gợi lên trong cô những cảm xúc trái ngược: yên lòng, thanh thản, nổi dậy, muốn chạy trốn.

Có lẽ là với thói quen…

Khí trời buốt lạnh. Cô kéo khóa áo khoác lên kín cổ, đội mũ rồi móc điện thoại ra khỏi túi.

Từ sáng nay, phần lớn các suy nghĩ của cô đều hướng quanh Francesca DeLillo, người mà cô đã trò chuyện qua điện thoại hồi đêm. Người phụ nữ này, bí mật của cô ấy, câu chuyện cô ấy kể khiến cô như bị thôi miên. Cuộc trò chuyện của họ không kéo dài, nhưng đủ đặc biệt để ám ảnh cô cả ngày trời. Khi Francesca biết tường tận tình huống, cô ấy tỏ ra hơi bối rối rồi yêu cầu cô xóa giúp tin nhắn mình đã để lại trên hộp thư thoại của Jonathan và nhất là không tiết lộ cho anh biết chuyện đã xảy ra. “Một phút yếu lòng”, cô ấy đã thú nhận như vậy. Madeline hiểu.

Cô mở trình duyệt Internet của chiếc smartphone và gõ tên đầy đủ của Francesca trong mục tìm kiếm hình ảnh. Ngày còn trẻ, trong thời gian theo học chuyên ngành quản lý, cô gái thừa kế khối tài sản kếch xù còn làm người mẫu cho các hãng thời trang danh tiếng. Những bức ảnh đầu tiên được chụp trong những năm 1990, cả trên sàn diễn lẫn poster quảng cáo. Nhìn trong ảnh, Francesca có nét giống Demi Moore, Catherine Zeta-Zones hay Monica Bellucci. Sau đó là rất nhiều ảnh chụp cũng Jonathan, bằng chứng cho thấy trong những năm hạnh phúc, cặp đôi không ngần ngại dùng cuộc sống riêng để quảng bá việc kinh doanh.

Mưa mỗi lúc một mau hơn. Có tiếng sấm ầm ì, chớp sét sáng lóa ngay gần trang viên, nhưng mải mê lướt mạng nên Madeline chẳng hề hay biết.

Các ngón tay cô lướt trên màn hình cảm ứng rồi bấm vào đường link dẫn tới trang mạng của tạp chí Vanity Fair. Vài năm trước, tờ Paris Match phiên bản Mỹ đã dành trọn sáu trang cho cặp đôi với bài tít: “Ẩm thực chính là tình yêu!” Một bài phỏng vấn dài và những bức ảnh khá huyễn hoặc không mấy liên quán tới nghệ thuật ẩm thực. Trên một bức trong số đó, người ta có thể thấy cặp đôi xăm trên bả vai phải cùng một dòng chữ. Madeline zoom vào ảnh để nhìn rõ hình xăm.

You’ll never walk alone[2]

[2]. Anh sẽ không bao giờ bước đi một mình

Ý nghĩa thật… với điều kiện chắc chắn sẽ ở bên nhau trọn đời trọn kiếp kia. Bởi vì lúc này, khi đã có độ lùi về thời gian, bức ảnh có gì đó thật thống thiết.

- Em yêu, em đến cảm lạnh mất thôi! Raphaёl thốt lên khi vừa mở cửa ra.

- Em vào trong nhà đây, anh yêu! Madeline đáp, không rời mắt khỏi màn hình điện thoại.

Xem hết bức hình này đến bức hình khác, một sự thật hiển nhiên đập vào mắt cô. Thái độ của Francesca biến đổi tùy theo việc cô tạo dáng một mình hay cùng Jonathan: từ siêu mẫu yểu điệu, tự tin về khả năng quyến rũ của mình, biến thành người đàn bà yêu đắm đuối với ánh mắt của Chimène. Thậm chí nếu không kể đến những màn tạo dáng cho phóng viên chụp ảnh thì vẫn không thể phủ nhận tình yêu của hai người họ dành cho nhau.

Cái gì đã chia cắt họ nhỉ? Cô tự hỏi như thế khi trở lại phòng khách.

- Tại sao họ lại chia tay nhau? Charly vừa hỏi vừa cất cần câu vào cốp xe.

- Ai kia?

- Ông bà nội ấy ạ.

Jonathan nhướng mày. Anh xoay chìa khóa điện trong ổ rồi ra hiệu cho cậu nhóc cài dây an toàn. Chiếc minibreak rời vinh Bodega, chạy thẳng hướng San Francisco.

Vẫn lái xe, Jonathan mở ví để lấy trong đó ra một tấm hình đã phai màu chụp một nhà hàng nhỏ ở tỉnh.

- Ông bà nội con từng mở một nhà hàng tại vùng Tây Nam nước Pháp, anh đưa tấm hình cho con trai và giải thích.

- N…ữ…k…ỵ…s…ĩ, Charly đọc ngắc ngứ từng chữ sau khi nheo mắt, cố giải mã biển hiệu của nhà hàng.

Jonathan gật đầu xác nhận.

- Khi bố còn nhỏ, ông nội con đã yêu một phụ nữ khác trong vài tháng: người đại diện của một hãng sâm banh lớn cung cấp rượu cho nhà hàng.

- Thế ạ?

- Tình yêu đó kéo dài hơn một năm. Vì trong các thành phố nhỏ tin đồn lan đi rất nhanh nên hai người họ đã cẩn trọng giữ kín chuyện, và quả là họ đã làm được.

- Tại sao ông nội lại làm như vậy ạ?

Jonathan hạ tấm che nắng xuống để mắt khỏi chói vì ánh mặt trời buổi trưa.

- Tại sao đàn ông lại lừa dối vợ họ? Tại sao đàn bà lại gạt chồng mình?

Anh để câu hỏi lơ lửng đó vài giấy, lát sau mới nói tiếp như thể đang trút những suy nghĩ ra thành lời:

- Có hàng tá nguyên do, bố nghĩ vậy: Ham muốn mòn dần đi, nỗi sợ tuổi già, nhu cầu được yên tâm về khả năng quyến rũ của bản thân, cảm giác một cuộc phiêu lưu tình ái sẽ không để lại hậu quả gì… Dĩ nhiên sẽ có những lời giải thích nghe hết sức hợp lý. Bố không thể nói với con rằng bố đang biện minh cho ông nội con, nhưng bố cũng không buộc tội ông.

- Vậy thì không phải do chuyện đó mà bố không nói chuyện với ông khi ông mất hả bố?

- Không đâu con yêu, không phải vì chuyện đó đâu. Ông nội con có những khuyết điểm khác, nhưng dù có lúc ông đã thiếu chung thủy như thế, bố chưa bao giờ nghi ngờ tình yêu ông dành cho bố. Bố chắc chắn chuyện ngoại tình đó đã gây cho ông nhiều đau khổ, nhưng đam mê cũng hệt như ma túy vậy: ban đầu con nghĩ có thể chế ngự được nó, nhưng rồi một ngày nào đó, con sẽ phải thừa nhận rằng chính nó đang chế ngự con…

Vừa kinh ngạc vừa hơi ngần ngại khi nghe những lời thú nhận này, Charly nhìn bố qua kính chiếu hậu trong xe bằng ánh mắt lạ lẫm, nhưng Jonathan nói thêm:

- Cuối cùng thì ông nội con cũng “cai” được người đàn bà ấy. Nhưng sáu tháng sau khi cuộc dan díu ấy kết thúc, ông cũng không tìm ra cách gì tốt hơn là thú nhận mọi chuyện với bà nội.

- Tại sao ạ? Cậu nhóc hỏi, mắt mở to ngạc nhiên.

- Bố nghĩ bởi vì ông hối hận và cảm thấy có lỗi.

Jonathan bật xi nhan để đỗ xe trước cây xăng duy nhất của một trạm xăng cũ kỹ.

- Sau đó thì sao ạ? Cậu nhóc vừa bước theo bố vừa hỏi.

Jonathan nhấc vòi bơm xăng lên.

- Ông xin bà tha thứ. Vì ông bà đã có với nhau hai mặt con, ông xin bà đừng khiến gia đình ly tán, nhưng bà nội con không gượng dậy nổi sau khi biết về sự phụ bạc này. Người chồng bà hằng yêu thương đã phá hòng tình yêu giữa hai người cùng với tất cả những gì họ đã cùng nhau vun đắp. Vậy nên bà nhất định không tha thứ cho ông và rời xa ông.

- Dứt khoát ạ?

Jonathan thanh toán tiền xăng rồi quay ra xe.

- Bà nội con là thế đấy, anh giải thích rồi khởi động xe.

- Nghĩa là sao ạ?

- Bà thuộc mẫu phụ nữ si tình, một tín đồ vĩ đại của lý tưởng chủ nghĩa, cuồng nhiệt và đam mê. Tàn nhẫn thay, bà nhận ra rằng người mà bà yêu thương nhất đời có khả năng lừa dối bà và khiến bà bị tổn thương. Bà thường nói rằng lòng tin là yếu tố quan trọng hàng đầu trong tình yêu đôi lứa. Bà thường nói nếu không có lòng tin thì tình yêu không còn thực sự là tình yêu nữa, và điều này thì bố tin là bà nội con có lý.

Vì Charly đã quên mình là một cậu nhóc ngốc ngếch nên không thể nhận ra:

- Chuyện của bố mẹ cũng giống thế phải không ạ?

Jonathan xác nhận:

- Có thể thật, trong nhiều năm liền, bố với mẹ là một. Bố mẹ chia sẻ mọi thứ và tình yêu đã bảo vệ bố mẹ khỏi mọi chuyện. Nhưng đến một ngày… một ngày tình yêu tan biến… và chẳng còn gì khác đáng nói nữa.

Charly buồn bã lắc đầu, và vì cũng chẳng tìm ra được chuyện gì khác để nói nên cậu nín thinh tới tận lúc về nhà.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
623,263
Điểm cảm xúc
35
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 9: Một bí mật được giấu kín


“Giữa họ có sự mật thiết của một bí mật được cất giữ.”

Marguerite YOURCENAR

San Francisco

Chủ nhật

Đầu buổi chiều

Charly mở toang cửa rồi lao vào phòng khách.

- Nhìn này, chú Marcus! Cháu câu được hai con cá đây này!

Uể oải ngồi xếp bằng trên trường kỷ, anh chàng người Canada đang hút một điếu thuốc cuộn to như cốc kén đựng khoai tây chiên.

- Có mùi gì kinh quá, cậu la lên rồi đưa tay bịt mũi.

Marcus đứng bật dậy, vội vàng giấu biến điếu cần sa đang hút dở bằng cách dúi nó vào trong bao che chậu hoa đang chễm trệ trên mặt bàn thấp.

- Chà chà, chào nhóc.

Nhưng Jonathan đã ném cho anh một cái nhìn sắc lẹm.

- Tớ đã nhắc bao nhiều lần là…? Anh mở đầu bằng giọng nạt nộ.

- Ngon mà, làm gì có ai chết, anh chàng người Canada uể oải chống chế.

- Mấy trò mèo của cậu sẽ khiến tớ bị tước quyền trông nom con trai, khi ấy thì có người chết rồi đó!

Jonathan mở toang các cửa sổ để thông khí trong khi Charly lấy trong thùng lạnh ra một con cá quân to và một con cá thân bẹt vẫn còn quẫy.

- Chúng tươi chưa này! Cậu nhóc reo lên, hết sức tự hào về hai chiến lợi phẩm của mình.

- Phải rồi, chứ không như chú Marcus của con…, Jonathan chua thêm một cách nham hiểm để chọc cười con trai.

Đúng là anh bạn sống chung nhà với anh có một khái niệm hết sức độc đáo về “lễ phục Chủ nhật”: quần đùi nhàu nhĩ, tất cọc cạch và áo phông lần này đươc tô điểm bằng một lá tài mà nổi bật trên nền cờ Jamaica.

- Con muốn ăn hoa quả không? Jonathan hỏi trong lúc xếp vào tử lạnh phần đồ ăn mang đi đường còn lại.

- Thực ra con thích chú Marcus làm cho con món sandwich ba tầng cơ…

- Ừm…, anh nói vẻ hoài nghi.

- Coi như thỏa thuận xong nhé! Marcus thốt lên rồi lấy từ tủ bếp ra các nguyên liệu.

Charly leo lên một trong những chiếc ghế cao đặt xung quanh quầy bar, liếm mép chờ sẵn.

Marcus cần mẫn phết bơ lát bánh mì thứ nhất rồi rắc ca cao lên, sau đó ốp nó vào lát thứ hai phết sữa đặc, chồng lên lớp cuối cùng phết xi rô vị cây thích.

Charly xơi chiếc sandwich ngon lành, lúng búng cất lời với cái miệng đầy bánh:

- Nhon lắm, nháu chảm ơn!

Vô cùng tự hào về lời khen, Marcus đã chuẩn bị xong suất ăn dự bị.

Cậu làm một chiếc chứ Jon’?

Jonathan toan mở miệng từ chối – không có chuyện anh ngốn cái thứ hổ lốn hàm lượng calo cao quá mức đó – nhưng rồi lại đổi ý. Tại sao lại quay lưng với tất cả những thú vui ấy, với tất cả những khoảnh khắc xôm tụ cùng Marcus và con trai anh? Nói cho cùng, em vợ anh có đầy khuyết điểm, nhưng cậu ấy mang đến một chút vui đùa và nét chấm phá độc đáo cho gia đình họ. Và trên hết cậu ấy biết cách khiến Charly mỉm cười hơn tất cả mọi người trong khi chính anh, bị giam cầm vĩnh viễn trong nỗi muộn phiền, không phải là người bố hớn hở nhất mà một cậu con trai có thể mơ đến.

- Thử xem nào, nói cho cùng thì tại sao lại không cơ chứ! Anh nói rồi ngồi xuống bàn cùng họ.

Anh rót cho cả bàn một chầu trà mạn rồi bật radio lên, dò tần số kênh chuyên phát nhạc rock của California. Thế là ba người họ thưởng thức bữa quà chiều theo nhịp những ca khúc đình đám của Eagles, Toto và Fleetwood Mac.

- Cậu biết sao không? Tớ sẽ ghi “món bánh sandwich ba tầng trứ danh của chú Marcus” vào thực đơn đồ tráng miệng của nhà hàng, Jonathan đùa. Tớ tin chắc sẽ đắt hàng đấy!

Charly đang cười khanh khách thì bỗng ngước mắt nhìn lên và:

- Tại sao bố lại dán toàn bộ chỗ ảnh này lên? Cậu nhóc ngạc nhiên chỉ vào những bức ảnh chụp Madeline đang giăng đầy trên tường bếp.

Jonathan cảm thấy như bị bắt quả tang. Từ hai ngày nay, anh để mặc bản thân cuốn theo trí tò mò, nhưng lúc này đây anh không thể hiểu nổi cách xử sự của mình đang tuân theo logic nào và mang ý nghĩa gì. Tại sao cuộc sống của người phụ nữ này lại mê hoặc anh đến thế? Tại sao anh lại tự cho là mình đã được giao một sứ mệnh?

- Con nói đúng, chúng ta sẽ gỡ ảnh đi, anh đồng tình, gần như thấy nhẹ nhõm nhờ quyết định hợp lý đó.

- Để tớ giúp cậu, em vợ anh đề nghị.

Hai người đàn ông đứng dậy và bắt đầu gỡ từng tấm ảnh đang giăng khắp phòng xuống.

Madeline ở Venise, Madeline ở Rome, Madeline ở New York…

- Này, cậu thấy không? Đây là ở Cantona này…

- Gì kia?

Marcus chìa cho anh xem tấm ảnh vừa giật xuống. Trong trang phục áo khoác da và sơ mi ôm sát, Madeline đang mỉm cười trước một chiếc bánh sinh nhật có cắm hai mươi chín ngọn nến. Sự việc xảy ra cách đây đã năm sáu năm. Trông cô rõ ràng là trẻ trung hơn, nhưng lại không thanh lịch và nữ tính bằng người phụ nữ mà Jonathan đã gặp tại sân bay. Hồi đó, khuôn mặt cô tròn hơn, có vẻ gì đó trông như thằng con trai bà mụ nặn nhầm, cùng quầng thâm xấu xí bên dưới mắt.

Bức chân dung ấy được chụp trong một phòng làm việc: người ta nhìn thấy những hồ sơ đóng bìa cứng, một chiếc máy tính khá cổ lỗ sĩ cùng với bút máy, bút đánh dấu và một cái kéo cắm trong cốc có quai. Ngay cả khi chất lượng ảnh chụp không được tốt cho lắm, người ta vẫn nhận ra một poster hình Eric The King[1] khoác áo thi đấu của Quỷ Đỏ được ghim trên tường.

[1]. Tiếng anh nguyên bản: Vua Eric, biệt danh của cầu thủ bóng đá Eric Cantona khi còn chơi trong đội hình Manchester United.

- Cậu biết bức ảnh này được chụp ở đâu không? Marcus hỏi.

- Không.

- Theo tớ thì là trong một đồn cảnh sát đấy.

- Tại sao?

Anh chỉ những cái bóng màu đen và vàng mờ mờ trên nền hình.

- Hai người này, đó đó, chính là cảnh sát.

- Vớ vẩn!

- Cậu có thể phóng to ảnh ra không?

- Nghe này, chúng ta không phải đang trong loạt phim Chuyên gia đâu đấy…

- Cứ thử đi!

Nửa tin nửa ngờ, Jonathan lấy ra chiếc máy tính xách tay anh dùng để tải xuống toàn bộ ảnh của Madeline. Anh nhấp chuột trên biểu tượng tương ứng để mở xem ảnh trong ứng dụng Photoshop và sử dụng tính năng zoom của phần mềm. Tất nhiên là độ chính xác không tuyệt vời cho lắm, nhưng người ta vẫn có thể nhìn rõ các chi tiết hơn.

Nói cho đúng ra, rất có thể những mảng màu vàng huỳnh quang trên nền ảnh tương ứng với những chiếc áo gi lê màu vàng với dải phản quang mà một số cảnh sát Anh hay mặc. Nhưng đó không phải là bằng chứng thuyết phục cho lắm. Trong khi xem xét kỹ những phần khác nhau của bức hình, một chi tiết khác nhau của bức hình khiến anh chú ý: Ba chữ cái “GMP” in trên chiếc cốc của Madeline.

- GMP à? Cậu có biết là viết tắt của cụm nào không?

Jonathan mở trang tìm kiếm rồi gõ “GMP+cảnh sát”. Kết quả đầu tiên dẫn đến trang web của Greater Manchester Police: Lực lượng cảnh sát quận Manchester.

- Cậu có lý, bức ảnh này đúng là được chụp trong một sở cảnh sát.

- Cậu có quen nhiều người ăn mừng sinh nhật trong một sở cảnh sát không?

Vài giây yên lặng thoáng qua. Câu trả lời đã rõ rành rành: trong một quá khứ chưa xa, người phụ nữ trẻ đó từng là cảnh sát!

Jonathan hiểu rằng mình vừa tìm ra chìa khóa mở cánh cửa bí mật mà Madeline hằng che giấu. Nhưng dù đã đạt được mục đích, thâm tâm anh vẫn đầy hoài nghi. Anh có quyền gì mà khám phá bí mật của Madeline như vây? Anh là người hiểu rõ hơn ai hết rằng người ta không thể xới tung quá khứ lên mà không bị trừng phạt và…

- Nhìn này!

Marcus đã chiếm lấy máy tính và quyết định thay anh bằng cách gõ lên thanh công cụ tìm kiếm: “Madeline+Greene+cảnh sát+Manchester”.

Có đến hàng trăm kết qả, nhưng kết quả đầu tiên hiển thị trên màn hình là một bài báo trích từ tờ The Guardian:

MADELINE GREENE, NỮ THANH TRA

PHỤ TRÁCH VỤ DIOXIN,

VỪA TOAN TỰ SÁT
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
623,263
Điểm cảm xúc
35
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 10: Cuộc đời của những người khác


“Nỗi khốn khổ lớn nhất đời chúng ta bắt nguồn từ việc chúng ta vĩnh viễn cô đơn, và mọi nỗ lực, mọi hành vi của chúng ta chỉ nhằm mục đích trốn chạy khỏi nỗi cô đơn đó.”

Guy de MAUPASSANT

Paris

Thứ Hai ngày 19 tháng Mười hai

4h30 sáng

Một màn tuyết mịn dày đã rơi được vài phút trên quận VIII. Im lìm bởi không khí lạnh ban đêm, khu phố Faubour-du-Roule vắng hoe.

Một chiếc Peugeot Partner màu trắng bật đèn xi nhan trước khi đỗ hàng đôi ngay giữa phố Berri. Một phụ nữ mặc áo parka liền mũ to sụ bước ra khỏi tòa nhà bình dị rồi ngồi vào chiếc xe tải nhỏ.

- Tăng mức sưởi lên đi, trong xe lạnh như băng vậy! Madeline phàn nàn trong lúc cài dây an toàn.

- Đã bật mức cao nhất rồi đấy, Takumi đáp rồi khởi động xe. Ngày Chủ nhật của chị vui chứ?

Người phụ nữ trẻ lẩn tránh câu hỏi, xỏ đôi găng len hở ngón vào trong lúc chờ khoang lái xe ấm lên.

Takumi không gặng hỏi thêm. Xe chạy xuôi xuống phố Artois rồi rẽ phải ra phố La Boetsie tiếp đến là Champs-Élysées.

Madeline nới lỏng khăn quàng, rút từ túi áo ra một bao thuốc rồi châm một điếu.

- Tôi cứ nghĩ chị bỏ thuốc rồi…

- Thôi được rồi! Không phải cậu cũng lại bắt đầu đấy chứ! Cậu biết Gainsbourg từng nói gì không? “Tôi uống rượu và hút thuốc: Rượu để bảo quản hoa quả còn khói thuốc để bảo quản thịt.”

Takumi ngẫm nghĩ vài giây rồi nhận ra:

- Thứ nhất ông ấy đã đạo câu này của Hemingway…

- …thế còn thứ nhì?

- Thứ nhì là cả hai người đó đều ngỏm rồi, phải không nào?

- Được lắm: nếu chuyện đó khiến cậu thấy phiền thì hoặc chuyển chỗ khác mà làm hoặc cứ kiện tôi ra tòa vì tội gây nhiễm độc thuốc lá thụ động đi!

- Tôi nói vậy chỉ vì muốn tốt cho chị thôi, Takumi bình tĩnh đáp.

- Nghe này, đừng quấy rầy tôi nữa được không? Và vứt cái thứ thuốc ngủ này đi cho tôi! Cô vừa ra lệnh vừa chỉ vào chiếc radio trong xe đang phát ca khúc Yêu biết mấy phiên bản tiếng Nhật, vẫn do chính Johnny trình diễn.

Anh chàng châu Á bỏ đĩa CD ra và Madeline dò lần lượt từng tần số cho tới khi tìm thấy một kênh cổ điển đang phát Tổ khúc Bergamasque. m nhạc giúp cô dịu đi phần nào. Cô quay sang phía cửa kính xe nhìn tuyết bắt đầu đọng lại trên vỉa hè.

Tại bùng binh cửa ô Dauphine, Takumi lại theo đường ven để ra ngoại ô. Tâm trạng Madeline không được tốt, như đôi khi vẫn vậy, nhưng chuyện này không bao giờ kéo dài. Cậu nén một cái ngáp. Những chuyến đi đêm tới Rungis khiến cậu thích thú. Chỉ có điều phải dậy từ lúc tờ mờ sáng… Mặc khác, không phải tất cả các chủ tiệm hoa đều cất công làm việc này. Phần lớn các “đồng nghiệp” của họ bằng lòng với việc giao hoa thẳng tới tiệm sau khi đã đặt hàng trên Internet! Madeline đã thuyết phục cậu rằng đó không phải là cách hiệu quả để duy trì tiệm hoa, rằng phẩm chất hàng đầu của người bán hoa thực thụ nằm chính ở công cuộc tìm kiếm sản phẩm hoàn hảo.

Vì đang có tuyết rơi nên mặt đường trơn trượt, nhưng chuyện này không lấy đi của Takumi niềm vui thích lái xe qua Paris trong đêm. Cảnh tượng đường sá thông thoáng mang một vẻ gì đó không thực khiến người ta ngất ngây. Cậu lái tiếp vào quốc lộ A6 giống như khi đi Orly và chẳng mấy chốc sẽ tới trước trạm kiểm soát của khu chợ lớn nhất bày bán những sản phẩm tươi ngon của thế giới.

Rungis quyến rũ Takumi. “Cái bụng của Paris” cung cấp phân nửa lượng cá, các loại rau quả và rau củ mà thủ đô tiêu thụ. Đó chính là nới những chủ nhà hàng nổi tiếng nhất và những nghệ nhân khó tính nhất tới tìm mua đồ dự trữ. Mùa xuân năm trước, khi bố mẹ cậu tới Pháp thăm con, anh chàng người Nhật đã đưa họđi thăm Rungis trước tiên, thậm chí trước cả tháp Eiffel! Đây là nơi vô cùng ấn tượng:Một thành phố thực sự với hàng nghìn người qua lại, với sở cảnh sát, ga tàu, lực lượng cứu hỏa, các ngân hàng, tiệm cắt tóc, hiệu thuốc và hai mươi nhà hàng! Cậu mê mẩn không khí náo nhiệt này, nhất là quãng bốn đến năm giờ sáng, khi hoạt động đến hồi sôi động nhất với vũ điệu của các loại xe tải nơi người ta chất hàng và dỡ hàng xuống trong một thế giới đủ loại mùi vị.

Đến trạm kiểm soát, Madeline giơ thẻ người mua để vào bên trong và chiếc xe tải nhỏ đỗ lại giữa đại lộ Người trồng rau và đại lộ Thành phố nhỏ, tại một trong những bãi đỗ có mái che của khu vực dành riêng cho nghề làm vườn.

Họ chọn một xe đẩy cao rồi tiến vào trong gian nhà xây bằng kính và thép rộng mênh mông. Hai mươi nghìn mét vuông của tòa C1 được dành trọn cho những loại hoa đã cắt. Vượt qua cánh cửa tự động đóng mở, người ta cảm thấy như đang lạc vào một thế giới khác. Cảnh vật âm u bên ngoài nhường chỗ cho một bản giao hưởng của hương thơm cùng màu sắc.

Phấn chấn hẳn lên trước cảnh tượng ấy, Madeline dụi mắt, tỉnh ngủ thực sự rồi sải từng bước dài dứt khoát qua đại sảnh. Trên một diện tích tương đương ba sân bóng đá, khoảng năm chục quầy bán buôn nằm sát nhau trong cái nhà kho rộng thênh thang, nơi mỗi lối đi lại mang tên một loài hoa: lối Mimosa, lối Đuôi Diều, lối Chân Ngỗng…

- Chào cô nàng xinh đẹp! Émile chào cô, ông là ông chủ quầy cô vẫn thường mua phần lớn những thứ mình cần.

Với chiếc mũ rơm, kéo chuyên dụng, bộ quần áo bảo hộ và bộ ria mép hình ghi đông xe đạp, Émile Fauchelevent là một phần của nơi này. Góp mặt tại Rungis từ khi chợ đi vào hoạt động năm 1969, ông thông thạo toàn bộ quy tắc điều lệ và bộ máy vận hành của nơi này.

- Để tôi mua cho cô một cốc “đen không đường” nhé? Ông vừa hỏi vừa cho mấy đồng xu vào máy bán cà phê tự động.

Madeline gặt đầu tỏ ý cảm ơn ông.

- Và một tách trà cho Katsushi? Ông nói thêm, mắt liếc sang cậu học việc của Madeline vẻ thách thức.

- Tên tôi là Takumi, anh chàng người châu Á bình tĩnh đáp, mà tôi thích một tách cappuccino hơn.

Émile không nao núng:

- Và một cappuccino cho Tashimi, một nhé!

Anh chàng lẳng lặng đón lấy tách cà phê rồi cúi gằm mặt, thất vọng vì không được chủ quầy tôn trọng.

- Một ngày nào đó, cậu nên quyết định tống một quả đấm vào mặt ông ta, Madeline rỉ tai Takumi thừa lúc Émile tiến về phía một người khách mới. Riêng chuyện đó thì tôi không thể làm thay cậu được.

- Nhưng… đó là một ông lão mà.

- Ông ta cao hơn cậu ba cái đầu và nặng gấp đôi cậu! Nếu chuyện này có thể khiến cậu yên tâm thì ngày trước với tôi, trò bắt nạt ma mới này đã kéo dài suốt sáu tháng kia. Mỗi lần nhìn thấy tôi, ông ta lại gọi tôi là Thịt bò hay Người Anh ấy chứ.

- Làm thế nào mà chuyện ấy lại chấm dứt?

- Khi tôi hất tách cà phê đang sôi vào giữa mặt ông ta. Kể từ đó ông ta coi tôi như công chúa vậy.

Takumi cảm thấy bối rối. Tại xứ sở nơi cậu sinh thành, người ta vẫn thường tìm cách tránh sự xung đột, đối đầu và thái độ khiêu khích bằng mọi giá.

- Nhưng… tại sao ở đây lại xảy ra chuyện đó?

- Ở đâu cũng xảy ra chuyện kiểu này thôi, cô nói rồi bóp nát chiếc cốc giấy trước khi ném vào thùng rác. Và nếu cậu muốn biết ý kiến của tôi thì cậu cần đối diện với kiểu tình huống này để trở thành một người đàn ông.

- Nhưng tôi là đàn ông rồi mà Madeline!

- Phải, nhưng không phải là người đàn ông mà cậu mong muốn trở thành.

Cô để cậu lại với lời nhận xét đó rồi đi tìm Bérangère, một trong những nữ nhân viên bán hàng của Fauchelevent, họ cùng dạo qua nhiều gian hàng khác nhau. Cô mua hai ba lô cánh lá, mặc cả sát sạt giá hoa tulip, cúc xuân và hoa trà, nhưng lại nhượng bộ trước ba bó hồng Xích đạo tuyệt đẹp. Cô thoải mái trong chuyện mặc cả, chỉ mong trả giá các loại hoa đúng với giá trị của chúng. Takumi lo việc chất lô hàng đầu tiên này lên xe đẩy và đuổi kịp cô chủ trong gian trưng bày cây xanh.

Bằng con mắt nhà nghề, Madeline chọn các cây thu hải đường và cây tai chuột trồng trong chậu trong khi cậu học việc của cô, do yêu cầu bắt buộc của những dịp lễ cuối năm, chọn nhanh những “ngôi sao” của lễ Giáng sinh như nhựa ruồi, tầm gửi, trạng nguyên và hồng Giáng sinh.

Cô cũng để cậu chọn những loại cây chống ô nhiễm ngày càng bán chạy cho các doanh nghiệp, nhưng chính cô lại cho là chán chết, cô dành nhiều thời gian chọn các loài lan trắng và lan hồng đã tạo dựng nên danh tiếng của tiệm mình.

Sau đó cô dạo nhanh một vòng quanh nhà kính nơi bày những món đồ “công nghệ mới” cho phép các khách hàng có được những món quà thú vị mà ít tốn kém: nến thơm, cây “ăn thịt”, xương rồng hình trái tim, lá cà phê trồng trong tách espresso…

Ở gian bán đồ trang trí, cô thích mê một thiên thần bằng sắt rèn đang nổi cơn thịnh nộ trong tủ kính. Takumi đi theo cô và nghe như nuốt lấy từng lời cô nói. Bất chấp vóc dáng mảnh khảnh, cậu vẫn có thể lấy làm hãnh diện vì đã cáng đáng nhiệm cụ khó khăn nhất, đẩy chiếc xe sau mỗi lần dừng lại trở nên nặng hơn, tay nhấc túi đất mùn nặng mười cân hoặc một chậu bọc ngoài bằng đất nung.

Gió thổi mạnh khiến các nhà kính rung lên. Nhìn qua cửa kính người ta có thể thấy những bông tuyết sáng bay phấp phới trên không trung trước khi phủ kính mặt đường rải nhựa bằng thứ bọt trắng lạnh băng của nó.

Để trì hoãn thời điểm phải đương đầu với giá lạnh, Madeline nân ná trong cái tổ kén bình yêu này. Việc chọn mua những loại cây thân củ mùa xuân – huệ da hương, thủy tiên bấc, giọt sữa – kéo cô khỏi nỗi muộn phiền. Đối với cô, người vốn ghét những dịp lễ tết, đầu đông là thời điểm buồn nhất năm, nhưng đó cũng là thời điểm cô cần nhìn thấy cuộc sống trở lại nhất. Đối với cô, đó là lời hứa thực sự của Giáng sinh…

6h30

Takumi cẩn thận đóng cốp xe lại. Chiếc xe tải nhỏ đã lèn chặt đồ.

Đi nào, tôi sẽ đãi cậu bữa sáng! Madeline đề nghị.

Cuối cùng cũng được nghe một câu tử tế.

Họ đẩy cửa bước vào quàn Cordeliers nằm ở tung âm khu vực đồ làm vườn. Quanh quầy, nhiều thực khách đang chuyện phiếm, sắp đặt lại trật tự thế giới trước ly vang đỏ hoặc tách cà phê đen. Một vài người trong số đó đang chăm chú dọc tờ Người Paris, số khác điền xổ số điện toán hoặc chơi cá ngựa. Nhiều cuộc chuyện trò xoay quanh cuộc bầu cử tống thống sắp tới: liệu Sarko có tái đắc cử hay không? Liệu cánh tả có chọn được ứng cử viên xuất sắc nhất cho mình hay không?

Họ ngồi vào bàn, ở một góc đỡ ồn ào hơn. Madeline gọi một cốc đúp espresso còn Takumi để mặc mình bị một chiếc kebap đẫm mỡ quyến rũ.

- Nào, dạ dày cậu giỏi chịu trận thật đấy! Cậu cứ lên lớp tôi vụ hút thuốc nhưng cậu nên trông chừng lượng cholesterol của bản thân nhé!

- Tôi cởi mở với mọi nền văn hóa mà, anh chàng người châu Á vừa biện minh vừa cắn một miếng bánh to.

Người phụ nữ trả tháo găng rồi phanh cúc áo khoác, lấy ra chiếc điện thoại của Jonathan.

- Chị vẫn chưa gởi trả anh ta ư, anh chàng người Nhật nhận xét.

- Cậu hay để ý thật đấy.

- Thực ra chuyện này không khiến tôi ngạc nhiên.

- Và cậu gặp phải vấn đề gì với nó sao? Cô vặn laị, thủ thế.

- Không, tôi dám chắc rằng chuyện của Lempereur khiến chị lưu tâm…

Cô dịu đi và có vẻ lưỡng lự trước khi chìa cho cậu một tờ giấy vừa in ra hồi đêm.

- Cậu đã từng sống tại Mỹ, vậy cậu có nghe nói đến chuyện này chưa?

Tò mò, Takumi mở tờ giấy ra rồi đọc dòng tít in đậm:

JONATHAN LEMPEREUR

BỊ BẠN THÂN NHẤT PHẢN BỘI

Chỉ trong vài ngày, đầu bếp nổi tiếng nhất thế giới đã mất cả vợ lẫn nhà hàng cùng người bạn thân nhất của mình. Trần tình về một cuộc phản bội kép.

(PEOPLE Mag – ngày 3 tháng Một 2010)

- Tôi không biết là chị đọc thể loại báo này, cậu nói rồi đeo kính vào.

- Cậu có muốn miễn cho tôi mấy câu xỏ xiên đó không hả?

Bốn bức ảnh minh họa cho bài báo khiến người ta không thể nghĩ gì khác người hướng suy diễn bên trên. Loạt ảnh được chụp ngày 28 tháng Mười hai năm 2009 tại Nassau, Bahamas. Trên ảnh là Francesca đi cùng gã George LaTulip nào đó. Cặp đôi lọt vào ống kính của một tay săn ảnh trong một góc nhỏ thiên đường mang tên Cable Beach. Mặc dù là ảnh “chụp lén”, nhưng các bức ảnh vẫn mang tính thẩm mỹ. Trong bộ đồ vải coton sáng màu, cựu người mẫu đang tay trong tay dạo bước cùng người tình dọc bãi biển cát trắng nước xanh lam lấp lánh. Thái độ của họ biểu lộ tình cảm bên trong. Hoàn toàn đồng lõa, họ mỉm cười và trao nhau ánh mắt tình tứ, như thể thế giới chỉ có hai người. Trong bức ảnh cuối cùng, cặp tình nhân đang hôn nhau thắm thiết tại sân thượng của một quán cà phê thiết kế theo lối kiến trúc thuộc địa.

Loạt ảnh này mang vẻ quyến rũ và hoài cổ gợi nhớ những tấm hình quảng cáo cho Calvin Klein trong thập niên 1990.

Vẫn thường thiên về tiết lộ những chuyện điên rồ của phái mạnh, nhưng tờ báo lá cải đã không hề nương nhẹ với “những hành động lầm lạc” của Francesca. Phải nói rằng, trong thế giới đạo đức giả và theo thuyết Thiện Ác này, vụ ngoại tình hội đủ các yếu tố khiến ai nấy đều liên tưởng tới một bi kịch cũ kỹ. Một mặt, người đàn bà ngoại tình có vẻ đẹp quyến rũ chết người tìm tới tận nơi cùng trời cuối đất để phản bội chồng mình với bạn thân nhất của anh ta. Mặt khác, người chồng chung thủy ở lại New York chăm lo cậu con trai và cố gắng cứu nhà hàng đang mấp mé bên bờ phá sản của hai vợ chồng. Chi tiết cuối cùng nhưng không kém phần quan trọng, vai người tình do gã George LaTulip kia đảm nhiệm với vẻ ngoài hết sức oai phong lẫm liệt. Người đàn ông cao lớn, tóc nâu, lãng tử, quyến rũ. Một “hot man”, bất chấp cái tên khá nực cười của mình, vẫn giống Richard Gere vào thời hoàng kim một cách kỳ lạ.

Đọc bài báo kỹ hơn một chút, độc giả hiểu rằng George LaTulip làm việc với tư cách phụ tá cho Jonathan tại nhà hàng Thống Soái: đó là người cộng tác thân thiết nhất của anh, cũng đồng thời là bạn anh. Trước khi gặp Jonathan, George đã thử vận may hết cuộc casting này đến cuộc casting khác, cùng lúc bán bánh mì kẹp xúc xích trên một trong những chiếc xe đẩy dạo nhan nhản nơi đường phố Manhattan. Jonathan có biệt tài phát hiện tiềm năng của mọi người. Anh đã đào tạo George và biến gã thành phụ tá của mình, mang lại cho gã sự ổn định, cuộc sống vật chất sung túc và một CV đảm bảo chắc chắn tìm được việc làm cho đến hết đời. Và để cảm ơn anh, gã kia đã cướp mất vợ anh…

- Cậu nghĩ sao?

- Tôi nghĩ đôi lúc đàn bà thật khốn nạn, Takumi đáp.

- Nếu chuyện này khiến cậu nói ra những điều ngu ngốc như vậy, Madeline lẩm bẩm, thì tôi nghĩ tôi nên thôi không dẫn cậu vào các quán rượu nữa, mà…

Nhưng anh chàng người Nhật không để cô nói hết câu:

- Khoan đã! Cái tên này: George LaTulip, tôi đã nghe thấy ở đâu đấy rồi. Chúng ta không tình cờ giao hoa cho hắn ta đấy chứ?

- Không, tôi không nghĩ thế đâu. Với một cái tên như thế này thì kiểu gì tôi cũng phải nhớ rồi chứ! Vả lại, tối sẽ lấy làm ngạc nhiên nếu hắn đang sống tại Paris…

Nhưng Takumi vẫn khăng khăng với ý nghĩ đó.

- Chị có mang theo máy tính xách tay không?

Madeline thở dài rồi lấy từ túi xách ra chiếc notebook cô đã nhập “dữ liệu khách hàng”.

Takumi xoay màn hình sang mình rồi gõ “LaTulip”. Không cần chờ lâu đã thấy một dữ kiện hiển thị trên màn hình:

George LaTulip

Cà phê Fanfan, 22 bis, đại lộ Victor-Hugo

75116 Paris

- Chính tôi đã giao cho hắn một bó hoa thược dược tía cách đây tám tháng. Một đơn hàng chúng ta thầu lại từ đồng nghiệp của chị ở quận XVI, Isodore Brocus. Tôi đã lập hóa đơn theo tên tiệm cà phê, chính vì thế mà họ của hắn không gợi nên điều gì cho chị.

- Thế còn cậu? Cậu còn nhớ hắn không?

- Không, tôi chỉ giao hoa cho một nhân viên trong quán thôi.

Madaline không tin nổi vào mắt mình. George LaTulip không những đã mở một nhà hàng mà còn đang sống ở Paris. Thế giới này quả là nhỏ bé…

- Nào, chúng ta nhổ neo thôi, cô ra lệnh. Cậu sẽ chén nốt chiếc bánh kebab ấy trong xe, nhưng liều liệu đừng để tôi tìm thấy một vết mỡ nào dây ra ghế đó!

- Chúng ta quay về tiệm sao?

- Cậu thì quay về tiệm; tôi thì nghĩ mình sẽ ghé thăm “Fanfan hoa tuy líp” xem sao…

- Nhưng viện cớ gì đây?

- Cậu nghĩ là tôi cần đến cớ nào đó mới bắt chuyện được với một gã đàn ông à…
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
623,263
Điểm cảm xúc
35
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 11: Cuộc điều tra


Cheatam Brigde – Một tháng sau ngày phát hiện xác chết đã làm tan biến toàn bộ cơ may tìm thấy cô bé Alice Dixon còn sống, trung úy cảnh sát phụ trách vụ điều tra, Madeline Greene, ba mươi mốt tuổi, đã cố kết liễu đời mình bằng cách treo cổ trên xà nhà.

May thay, trong khi ngã xuống nữ thanh tra trẻ tuổi đã kéo theo một chiếc tủ kính, nó vỡ tan trên sàn nhà và đánh thức người hàng xóm cùng tầng, bà Juliane Wood, người này đã nhanh chóng chạy sang ứng cứu. Sau khi được sơ cứu, cô Greene đã được đưa tới bệnh viện Newton Heath.

Các bác sĩ cho hay tình trạng sức khỏe của cô đáng lo ngại, nhưng không nói rõ khả năng sống sót là bao nhiêu.

Di hại của một cuộc điều tra nhiều ám ảnh.

Lý giải thế nào về hành động đáng tiếc này? Mặc cảm tội lỗi? Quá tải trong công việc? Không có khả năng dứt khỏi một cuộc điều tra quá ám ảnh? Dù thế nào đi nữa đó cũng là một cách lý giải khả dĩ có thể chấp nhận. Henry Polster, cảnh sát trưởng Manchester, vừa tiết lộ rằng Madeline Greene đã xin thôi việc kể từ khi biết về cái chết của Alice Dixon, mười bốn tuổi, nạn nhân cuối cùng của Harald Bishop, tên giết người hàng loạt khét tiếng đã bị cảnh sát Merseyside bắt giữ cách đây vài ngày. Các đồng nghiệp của cô Greene đều cảm thấy bất ngờ và xáo trộn. “Ngay cả khi đã ngồi tù, tên Đồ tể Liverpool vẫn suýt ám hại thêm một nạn nhân nữa”, cảnh sát điều tra JimFlaherty, cộng sự của cô, ái ngại bày tỏ.

Jonathan gãi đầu: toàn bộ những sự kiện này có vẻ đã trở thành tâm điểm tại Vương quốc Anh trong suốt nhiều tháng liền, nhưng chúng lại không vượt qua được Đại Tây Dương.

- Cậu đã nghe nhắc tới “Vụ Alice Dixon” hay “Đồ tể Liverpool” bao giờ chưa? anh hỏi bạn mình cho chắc ăn.

- Chưa từng, anh chàng người Canada đoan chắc với anh.

Dĩ nhiên là thế rồi. Không cần mất công mơ mộng làm gì: những người như Marcus thường sống trong một vũ trụ trôi nổi, chẳng có lấy một liên hệ nào với tin tức thời sự. Một thế giới nơi Bill Clinton vẫn là tổng thống, bức tường Berlin vẫn chưa sụp đổ và người ta vẫn phê ma túy hay chơi game Pacman trong các quán bar…

Ý tưởng này xuất hiện như một lẽ hiển nhiên. Jonathan bật điện thoại của Madeline lên rồi khởi động phần mềm được thiết lập mã bảo vệ

NHẬP MẬT KHẨU

Anh gõ “ALICE” và ứng dụng lập tức được mở…

Chiếc điện thoại di động chứa hàng trăm tài liệu liên quan đến “vụ Dixon”: những ghi chép, những bài báo, những bức ảnh, những đoạn video. Jonathan mở trên màn hình lần lượt từng thứ đồng thời copy về máy tính xách tay để tiện tra cứu sau. Thoạt tiên, anh nghĩ rằng những file thông tin này chỉ là một dạng hồ sơ báo chí dung lượng lớn liên quan đến vụ bắt cóc và sát hại cô bé, nhưng càng tìm hiểu kỹ hơn, anh càng hiểu tại sao Madeline lại làm tất cả để bảo vệ những dữ liệu này. Nữ cảnh sát điều tra đã scan, sao chép, photo lại mọi dữ kiện trong hồ sơ vụ điều tra cuối cùng mình phụ trách! Người ta thấy lẫn trong đó cả những ghi chép của riêng cô, những dấu vết tìm thấy, những buổi thẩm vấn các nghi phạm được quay phim trong thời gian quản thúc, những bức ảnh và mô tả chính xác các tang vật, hàng chục trang điều tra về quan hệ hàng xóm láng giềng. Chừng ấy tài liệu mật được đóng dấu sở Cảnh sát Greater Manchester và hẳn sẽ không bao giờ nên rời khỏi trụ sở cảnh sát hoặc trụ sở tòa án…

- Gì thế bố? Charly hỏi, lo lắng khi thoáng nhìn thấy một loạt những bức ảnh đẫm máu lần lượt diễu qua trên màn hình máy tính của bố mình.

- Đừng nhìn chúng, con yêu, đám ảnh này không dành cho trẻ con đâu, Jonathan đáp rồi xoay màn hình ra phía khác.

Anh kiểm tra tốc độ truyền dữ liệu. Mặc dù anh đang dùng wifi nhưng lưu lượng vẫn không được nhanh lắm và phải mất hai tiếng nữa dữ liệu mới được tải xuống hoàn tất.

- Đi nào! Chúng ta sẽ đấu một trận bóng rổ với chú Marcus, anh hớn hở đề xuất.

Họ xuống một trong những khoảng sân có rào lưới sắt nằm quanh Levi’s Plaza. Hai phe giành giật từng điểm. Charly chạy hùng hục, rồi sau khoảng hai mươi lần đưa bóng vào rổ thành công đã trở về nhà trong trạng thái mệt lữ. Cậu nhóc đi tắm, nhấm nháp một khúc cá tự tay câu được hồi sáng rồi ngủ thiếp đi trước ti vi, trên đó đang chiếu một tập phim Hai người đàn ông rưỡi.

Jonathan bế con về phòng ngủ. Bên ngoài, màn đêm đã buông. Marcus lại châm điếu thuốc cuộn hút dở rồi ra ngoài sân thượng vừa phì phèo thưởng thức đúng kiểu hút xì gà La Habana vừa tán chuyện với Boris.

Jonathan lục tìm trong ngăn đá tủ lạnh lấy ra chai vodka anh đào do một nữ thực khách người Nga tặng. Vừa bật màn hình máy tính, anh vừa rót cho mình một cốc rượu mà theo thông tin ghi trên nhãn, được chưng cất trên than gỗ bulô trước khi lọc qua một lớp kim cương.

Chỉ có thế…

Anh kiểm tra xem toàn bộ dữ liệu có được tải về ổ cứng máy tính chưa. Madeline không chỉ đem theo bên mình hàng chục mà là hàng trăm tài liệu. Tổng cộng có tới gần một nghìn thứ tài liệu tạo thành một trò chơi ghép hình rùng rợn và thảm khốc. Rõ ràng là cô cảnh sát trẻ tuổi đã quyết liệt theo đuổi vụ này suốt sáu tháng trời, làm việc cả ngày lẫn đêm trong quãng thời gian đó tới mức dồn hết sinh lực và tâm trí cho nó. Một câu chuyện bỉ ổi đã suýt lấy đi mạng sống của cô…

Jonathan mở những bức ảnh được tải sau cùng ra xem: trông thật ghê tởm. Vậy là anh tỏ rõ thái độ lưỡng lự. Anh có thực sự muốn và đủ can đảm bắt tay vào tìm hiểu câu chuyện về một vụ bắt cóc và sát hại trẻ em không?

Câu trả lời là không.

Tuy thế, anh vẫn nốc một hơi cạn cốc vodka, rót cho mình cốc thứ hai rồi đến lượt mình dấn bước vào địa ngục.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
623,263
Điểm cảm xúc
35
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 12: Alice


“Chuyện xảy ra giữa mùa hè phóng túng và điên rồ ấy. Bấy giờ Frankie mười hai tuổi. Cô bé không thuộc về bất cứ câu lạc bộ nào hay bất cứ cái gì trên đời. Cô bé đã trở thành một cá thể không liên hệ, cứ vật vờ quanh những cánh cửa, và cô bé thấy sợ.”

Carson McCULLERS

Ba năm về trước

Ngày 8 tháng Mười hai 2008

Sở Cảnh sát Cheatam, Đông Bắc Manchester

Madeline cao giọng:

- Chị phải giải thích cho tôi rõ hơn về chuyện này vì tôi vẫn chưa hiểu nổi. Tại sao chị lại đợi đến TÁM NGÀY rồi mới trình báo việc con gái mình mất tích?

Ngồi trước mặt cô, nước da tái xanh và mớ tóc dính bết, Erin Dixon đang vặn vẹo người trên ghế. Đứng ngồi không yên, run lẩy bẩy, chị ta hấp hấy mắt và vặn xoắn chiếc cốc nhựa đựng cà phê trong tay.

- Khốn nạn thật, cô biết lũ trẻ thế nào rồi đấy! Chúng đến rồi chúng lại đi. Vả lại tôi đã nói với cô rồi còn gì: Alice vẫn luôn tự lập như thế, con bé luôn tự mình xoay xở lấy, nó…

- Nhưng cô bé chỉ mới MƯỜI BỐN TUỔI! Madeline lạnh lùng cắt ngang.

Erin lắc đầu rồi đòi ra ngoài để hút một điếu thuốc.

- Không được! Nữ thanh tra dứt khoát.

Cô nheo mắt rồi im lặng. người phụ nữ cô đang lấy cung khoảng ba mươi tuổi (cùng độ tuổi cô), nhưng chị ta khuyết nhiều răng và gương mặt chị ta, bị thứ ánh sáng lạnh lẽo của đèn trần rọi thẳng vào, đã bị nỗi mệt mỏi và những vết tấy đỏ tàn phá.

Một tiếng đồng hồ vừa qua trong sở cảnh sát, Erin đã trải qua mọi trạng thái xúc cảm: đầu tiên là đầm đìa nước mắt khi trình báo vụ mất tích của cô con gái, rồi càng lúc càng hằn học và giận dữ khi thấy cuộc xét hỏi cứ kéo dài mãi, và chị ta tỏ ra không đủ khả năng nói liên tiếp hai câu liền mạch để giải thích tại sao lại để đến một tuần mới quyết định báo cảnh sát.

- Thế còn bố cô bé, anh ta nghĩ sao về chuyện này?

Erin nhún vai.

- Anh ta biến mất lâu lắm rồi… Nói cho đúng ra, tôi thậm chí không chắc chắn về danh tính của anh ta. Thời đó tôi cứ ngủ lang tứ tung mà chẳng dùng biện pháp phòng ngừa nào hết…

Madeline đột nhiên cảm thấy phẫn nộ. Cô đã làm việc tại đội phòng chống ma túy năm năm trời và đã thuộc nằm lòng thái độ này: sự bồn chồn, ánh nhìn khó nắm bắt là những dấu hiệu rõ ràng của một cơn vật ma túy. Những vết quanh môi Erin là vết bỏng do một chiếc tẩu bằng thủy tinh chịu lửa để lại. Bà Dixon là con nghiện ma túy. Chấm hết.

- Được rồi, chúng ta đi thôi Jim! Madeline quyết định rồi vớ lấy chiếc áo khoác ngắn cùng vũ khí của mình.

Trong khi cô rẽ qua văn phòng thượng cấp, đồng đội của cô áp giải Erin ra bãi đỗ xe rồi châm cho chị ta một điếu thuốc.

Bấy giờ đã là mười giờ sáng, nhưng bầu trời vẫn giăng kín mây đen khiến người ta có cảm tưởng là ngày sẽ không bao giờ lên.

- Ta đã nhận được câu trả lời từ hệ thống cấp cứu trung tâm, Jim thông báo sau khi kết thúc cuộc gọi từ điện thoại di động. Các bệnh viện không lưu hồ sơ bệnh án nào mang tên Alice Dixon cả.

- Tôi đã đoán chắc rồi mà, Madeline đáp rồi cài số xe.

Chiếc Ford Focus thình lình trượt đi trên mặt đường sũng nước. Bật đèn hiệu và hú còi, chiếc xe lao nhanh về khu phố phía Bắc. Tay trái giữ vô lăng, tay phải túm chặt radio, nữ thanh tra tiến hành phối hợp các biện pháp đầu tiên: gửi ảnh Alice tới tất cả các sở cảnh sát trên toàn Vương quốc Anh, gửi thông cáo về vụ mất tích của cô bé tới báo giấy và báo hình, yêu cầu huy động khẩn cấp một nhóm cảnh sát pháp y…

- Đi chầm chậm thôi, cô sẽ khiến chúng ta tiêu đời đấy! Jim phàn nàn trong khi Madeline vừa lái xe chờm lên vỉa hè đầy nguy hiểm.

- Anh không thấy là chúng ta đã mất quá nhiều thời gian rồi sao?

- Thì bởi vậy, chúng ta xuất phát chưa tới mười phút cơ mà…

- Anh đúng là đại ngốc!

Hai cảnh sát tới ngã tư trong một khu phố bình dân. Với những dãy nhà xây bằng gạch đỏ trải dài đến hút tầm mắt, Cheatam Bridge là ví dụ điển hình cho vùng ngoại ô công nghiệp cũ thảm thê. Những năm gần đây, các thành viên Công đảng rót nhiều tiền để tân trang những khu phố ở phía Đông Bắc, nhưng Cheatam Bridge đã không tận dụng được nhiều từ mối lợi này. Vì nhiều ngôi nhà được sử dụng vào mục đích khác nên phần lớn các khu vườn đều bị bỏ hoang, và cơn khủng hoảng đang bóp nghẹt nền kinh tế Anh cũng khiến cho tình hình chẳng được cải thiện gì hơn.

Đến khu vực này còn chẳng được xếp thứ hạng cao trong các sách hướng dẫn về du lịch thì còn nói gì đến Farm Hill Road, khu nhà nơi mẹ Alice sống? Đó đích thị là một xó xỉnh khốn cùng bị nạn tội phạm hoành hành. Madeline và Jim theo bước Erin Dixon vào một dãy nhà tồi tàn đổ nát nơi những kẻ vô gia cư, đĩ điếm và bán ma túy độc chiếm.

Vừa bước vào căn nhà xập xệ, Madeline đã cảm thấy lợm giọng. Phòng khách trông thảm thê gớm ghiếc: đệm trải luôn xuống sàn, các khung cửa sổ ken đầy bìa các tông, và những mẫu ván gỗ, trong phòng phảng phất mùi thức ăn thiu… Rõ ràng là Erin bố trí căn hộ của mình thành “ổ chích hút” để vét chút tiền của những con nghiện ghé qua nơi này. Ngay cả khi đã tính đến khả năng cảnh sát tìm đến nhà mình, ả cũng không buồn xóa dấu vết: một chiếc tẩu được chế thủ công từ lon bia vẫn nằm lăn lóc trên bậu cửa sổ cạnh vài chai bia rỗng và một chiếc gạt tàn đựng điếu cần sa đã hút hết ba phần tư.

Madeline và Jim nhìn nhau e ngại: căn cứ vào số lượng những kẻ quái đản đã qua lại nơi này, công việc điều tra sẽ không hề đơn giản. Họ lên gác, đẩy cánh cửa dẫn vào phòng riêng của Alice và…

Nơi này thật lạc lõng so với phần còn lại của căn nhà. Căn phòng bài trí giản dị và ngăn nắp với một bàn viết, các giá sách và sách vở. Nhờ có sáp thơm, không khí phảng phất mùi hương vani và cây đuôi diều dễ chịu…

Một thế giới khác…

Madeline ngước mắt nhìn chăm chú các mặt tường của căn phòng nhỏ được trang trí bằng những tấm vé và chương trình biểu diễn mà Alice đã xem: những vở nhạc kịch - Carmen và Don Giovanni tại Nhà hát Lowry -, một vở kịch - Vườn thú thủy tinh tại Playhouse -, một vở ba lê - Romeo và Juliette tại sân khấu của BBC Phiharmonic Orchestra.

- Cô bé này là người ngoài hành tinh hay sao? Jim hỏi.

- Phải đấy, Erin lẩm bẩm. Nó… Nó lúc nào cũng vậy: lúc nào cũng vùi đầu vào sách vở, vẽ vời rồi nhạc nhẽo… Tôi cứ tự hỏi con bé lấy ở đâu ra mấy cái thói đó.

Dù sao thì cũng không phải thừa hưởng từ bà, Madeline nghĩ bụng.

Nữ thanh tra như bị thôi miên trước cảnh tượng đang nhìn thấy. Hai bức tranh chép nằm ở hai mép bàn đối diện nhau: một bức Tự họa của Picasso vẽ trong thời kỳ xanh và bức Then trứ danh của Jean Honoré Fragonard.

Jim nhìn những tựa sách trên giá: toàn tiểu thuyết kinh điển và kịch.

- Cô biết nhiều bé gái ở Cheatam Bridge đọc Anh em nhà Karamazov và Những mối quan hệ nguy hiểm không? Anh hỏi khi vừa liếc thấy hai cuốn sách.

- Ít ra thì tôi cũng biết một đứa như thế, Madeline đáp với vẻ lơ đễnh.

- Ai thế?

- Chính tôi…

Cô gạt ký ức đó ra khỏi tâm trí. Những vết thương thời thơ ấu vẫn còn nhức nhối và hôm nay không phải là ngày để động lòng thương cho số phận của cô.

Cô xỏ một đôi găng cao su, mở hết các ngăn kéo ra rồi lục soát toàn bộ căn phòng.

Trong tủ âm tường, Madeline tìm thấy khoảng chục gói bánh quy cacao nhân vani – loại nhãn hiệu Oreo – cùng với những chai nhựa nhỏ đựng sữa dâu hiệu Nesquik.

- Con bé hầu như chỉ sống bằng món bánh quy chấm sữa, mẹ Alice giải thích.

Alice đã “ra đi” mà không mang theo bất cứ thứ gì: cây đàn vĩ cầm để trên giường, máy tính cá nhân – một chiếc Mac kiểu vỏ sò đời cũ – chễm chệ trên bàn học, còn cuốn nhật ký của cô bé được giấu ở chân giường. Madeline tò mò mở cuốn sổ ra và phát hiện một tờ 50 bảng gập tư gài trong bìa sổ.

Một tia độc địa lóe lên trong mắt Erin. Rõ ràng chị ta đang tự trách mình vì đã không nhanh trí lục lọi căn phòng trước cảnh sát.

Điềm xấu, Madeline tự nhủ. Nếu bỏ nhà ra đi, cô bé sẽ không bỏ lại một khoản tiền như thế này. Đội cảnh sát pháp y cô triệu tập vừa đến. Cô yêu cầu họ khám xét kỹ lưỡng toàn bộ căn nhà. Với panh, dao mổ và dụng cụ đục tường, các kỹ thuật viên thu thập số lượng lớn các mẫu vật rồi lần lượt bỏ vào các ống bịt kín. Trong khi người của cô xử lý những vật chứng quan trọng, Madeline mở một kẹp hồ sơ trong đó cô bé cất giữ một số bài tập ở trường: điểm số đều đoạt loại xuất sắc và lời phê của giáo viên đều mang tính ngợi khen.

Alice đã tự xây dựng cho mình một thành trì văn hóa để chạy trốn cuộc sống thường nhật nhớp nhúa. Học vấn và tri thức như những khiên chắn cô tự xây dựng để tự bảo vệ mình trước bạo lực, nỗi sợ hãi và sự tầm thường…

Năm chiếc xe cảnh sát hiện đang đỗ ở Farm Hill Road. Madeline trao đổi vài lời với trưởng nhóm cảnh sát pháp y, ông đảm bảo với cô rằng đã tìm ra đủ tóc trên lược của Alice để thu được những mẫu ADN chất lượng tốt.

Cô dựa người lên nắp ca pô xe , châm một điếu thuốc, mắt đăm đăm nhìn bức ảnh chụp Alice. Đó là một cô bé xinh xắn, cao ráo và mảnh mai, trông già trước tuổi. Gương mặt cô bé trắng muốt, càng trắng hơn với những vết tàn nhang lấm chấm để lộ gốc gác Ailen. Cô bé có đôi mắt hình quả hạnh màu lục xám gợi nhớ các bức chân dung của Modigliani. Trong đôi mắt ấy người ta đã có thể đọc thấy nỗi chán chường vô hạn cũng như lộ rõ niềm mong muốn được che giấu đi vẻ đẹp của mình vì biết rằng trong môi trường cô bé lớn lên, nó sẽ đem tới cho cô nhiều rắc rối hơn là niềm vui sướng.

Biết hy vọng gì ở tương lai khi hoàn cảnh xuất thân trong cuộc sống đã khó khăn đến thế? Làm thế nào để người ta có thể lớn lên dưới đáy cùng xã hội, giữa những con nghiện ma túy và những kẻ bại não mà chính mình không trở nên hơi điên khùng được chứ?

Có lẽ nào rốt cuộc em đã bỏ nhà đi? Madeline thầm hỏi Alice. Có lẽ nào em đã rời bỏ khu phố thối nát nơi người ta chỉ gặp toàn những kẻ thân tàn ma dại này? Có lẽ nào em muốn chạy trốn người mẹ kém cỏi thậm chí còn không thể nói cho em biết bố em là ai?

Nhưng Madeline không tin vào kịch bản này. Alice có vẻ là một cô bé thông minh và chỉn chu. Rời khỏi khu phố này ư? Đồng ý. Nhưng để đi đâu? Với ai? Và làm gì kia chứ?

Cô dùng đầu mẩu thuốc hút gần hết để châm một điếu mới.

Phòng riêng của Alice đã làm sống lại những ký ức về chuyện của chính cô. Như 99% những đứa trẻ lớn lên trong khu phố, Madeline từng có một tuổi thơ hỗn loạn giữa một bà mẹ mắc chứng trầm cảm và một ông bố nghiện rượu. Đến tuổi thiếu niên, cô đã thề với bản thân sẽ chạy trốn khỏi thảm họa nhân đạo này, sẽ đi tìm vận may ở những nơi khác. Giấc mơ lớn của cô là một ngày nào đó được sống tại Paris! Cô là một học sinh giỏi đã thi đỗ các kỳ thi luật, rồi thực tế của khu phố lại đeo đuổi cô và cô gia nhập ngành cảnh sát, lên lon nhanh chóng nhưng vẫn chôn chân trong cảnh sắc u ám và buồn tẻ của Cheatam Bridge.

Cô không than phiền về số phận, ngược lại là khác. Công việc khiến cô vui bởi nó mang một ý nghĩa: kiềm chế tội phạm, giúp các gia đình có thể để tang khi tìm ra những kẻ đã giết hại người thân của họ, đôi khi là cứu những sinh mạng. Dĩ nhiên, chuyện đó không phải ngày nào cũng dễ dàng. Ở đây cũng như bất cứ nơi nào khác, cảnh sát luôn phải đối diện với một nỗi day dứt sâu kín. Không chỉ là chuyện họ không còn cảm thấy được tôn trọng nữa, mà còn là chuyện cương vị cảnh sát khiến họ phải hứng chịu những lời lăng mạ và đe dọa. Đó là một thực tế chung, nhưng người ta có thể cảm nhận nó rõ rệt hơn nữa trong một khu phố như Cheatam Bridge. Các đồng nghiệp nhận công tác tại đây đều tránh tiết lộ nghề nghiệp của mình với hàng xóm láng giềng và dặn con cái tuân thủ nguyên tắc đó khi tới trường. Mọi người hết sức yêu quý cảnh sát trong các bộ phim truyền hình dài tập nhưng lại xỉ vả những cảnh sát làm việc trong khu phố nơi mình sinh sống… Vậy nên cần phải kìm nén một cơn trầm cảm thường nhật, chịu đựng thái độ thù nghịch của dân chúng, thái độ thờ ơ của cấp trên. Chấp nhận nhìn thấy ô tô của mình bị chọi đá và bằng lòng với những trang thiết bị cổ lỗ sĩ: nhiều ô tô công vụ thậm chí không có hệ thống radio, một vài chiếc máy tính vẫn chạy hệ điều hành Pentium II…

Thi thoảng chuyện đó thật khó mà chịu đựng được. Bạn bắt đầu cảm thấy, với riêng bạn, tính phi lý của các tai nạn chết người, nỗi thống khổ của những phụ nữ bị bạo hành, nỗi khiếp sợ của những đứa trẻ bị lạm dụng, nỗi đau của gia đình các nạn nhân.

Ngày càng phiền muộn và sống trong căng thẳng, một vài người rốt cuộc đã suy sụp. Vừa năm ngoái, một cảnh sát trong đội của cô vô cớ nổi cáu rồi bắn hạ một tay anh chị hạng xoàng trong lúc hỏi cung hắn; mới cách đây sáu tháng, một nữ thực tập viên trẻ tuổi đã dùng súng công vụ tự tử ngay trong sở cảnh sát.

Trái ngược với nhiều đồng nghiệp, Madeline không vỡ mộng cũng chẳng suy sụp. Cô tình nguyện ở lại trong khu phố “khó nhằn” này để lên lon nhanh hơn. Số cảnh sát viên kỳ cựu cũng như các tân binh mới ra trường trụ lại ở đây không nhiều. Điều này mở ra những triển vọng nghề nghiệp… Nhờ vậy theo năm tháng, cô đã có được một vị trí riêng cũng như quyền hạn nào đó cho phép cô điều tra những vụ “thú vị” nhất, cũng là những vụ thương tâm và đẫm máu nhất.

- Cô bé không cố tình bỏ đi đâu, phải không? Jim hỏi khi ra gặp cô.

- Không, nếu là bỏ nhà đi thì ta đã tìm ra cô bé rồi, và cô bé sẽ không bỏ lại tờ 50 bảng kia đâu.

- Với những gì Erin có trong tài khoản ngân hàng, tôi nghĩ ta cũng có thể loại trừ khả năng đây là một vụ bắt cóc đòi tiền chuộc.

- Dĩ nhiên rồi, cô tán thành, nhưng dẫu sao ta vẫn sẽ điều tra lũ nghiện xung quanh cô bé: với loại người đó thì đây có thể là một vụ trả thù hoặc bắt cóc đe dọa lắm chứ.

- Ta sẽ tìm ra cô bé, Jim khẳng định như để tự thuyết phục mình.

Họ không phải đang ở đất Mỹ, cũng không phải trong một cuốn tiểu thuyết trinh thám: Ở nước Anh ngày nay, rất hiếm gặp những vụ trẻ vị thành niên mất tích không được giải quyết thấu đáo.

Hai năm trước, Madeline và Jim đã giám sát cuộc điều tra một bé trai mất tích do bị bắt cóc khi đang chơi trong vườn nhà. Báo động được truyền đi lập tức: Người ta đã cho triển khai rất nhiều các biện pháp tìm kiếm trong khoảng thời gian rất ngắn. Chỉ sau vài giờ, nhờ dấu hiệu nhận dạng ô tô, kẻ bắt cóc đã bị bắt giữ rồi nhận tội. Trước khi đêm xuống, người ta đã tìm ra cậu bé bị trói trong một túp lều, vẫn còn sống và hoàn toàn khỏe mạnh.

Khi hồi tưởng lại tình tiết cho thấy việc phản ứng ngay tức thì có tầm quan trọng thế nào, Madeline để cho cơn giận mặc sức bùng nổ:

- Đồ khốn, đồ ngu xuẩn! Cô nổi khùng, thụi một cú lên nắp ca pô chiếc Focus. Chờ tám ngày trời trôi qua mới đến trình báo việc con gái mất tích! Đích thân tôi sẽ tống ả ta vào tù!

Trong bất kỳ vụ mất tích nào, khoảng thời gian bốn mươi tám giờ đầu tiên cũng mang tính quyết định. Nếu quá thời hạn này mà vẫn chưa tìm ra đối tượng mất tích thì nhiều khả năng người ta sẽ không bao giờ tìm ra họ.

- Bình tĩnh nào! Jim bảo rồi đi ra xa. Tôi đã lấy số điện thoại di động của Alice. Để xem ta có thể lần theo các cuộc gọi của cô bé không.

Madeline nhìn tấm ảnh lần nữa, họng cô nghẹn lại. Cô nhìn Alice như nhìn một người em gái, thậm chí là một đứa con… Giống như Erin, cô cũng có thể mang thai ngoài ý muốn khi mới mười bảy tuổi với một thằng du côn trong khu phố lắm chứ, vào một tối thứ Bảy trên đường rời hộp đêm về nhà trên băng ghế sau của một chiếc Rover 200.

Em đang ở đâu vậy? cô thì thầm hỏi Alice.

Chuyện này hiếm khi xảy ra với cô, cô cảm thấy bị ám ảnh bởi một niềm tin không gì lay chuyển nổi: Alice còn sống. Nhưng ngay cả khi đúng như vậy thì Madeline cũng không hề nuôi ảo tưởng nào cả. Cô bé sẽ không được ở một nơi thoải mái. Đúng hơn là hẳn đang ở trong một căn hầm tối tăm ẩm ướt của một gã biến thái hoặc giữa nanh vuốt một tay mafia chuyên buôn bán phụ nữ trẻ và dắt gái.

Dù thế nào chăng nữa, có một điều chắc chắn.

Cô bé hẳn là đang sợ.

Sợ kinh khủng.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
623,263
Điểm cảm xúc
35
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 13: Những ngày suy sụp


“Everybody counts or nobody counts.”[1]

Michael CONNELLY

[1]. Tiếng Anh trong nguyên bản: Mỗi người đều đáng giá hoặc chẳng ai đáng giá hết.

“Người” cuối cùng nhìn thấy Alice Dixon còn sống là… một chiếc camera giám sát. Trên băng video thu được từ camera đặt tại ngã tư Pickle Cross, người ta nhận thấy vóc dáng mảnh khảnh của cô bé đang xuống khỏi xe buýt, ba lô đeo trên lưng. Người ta thấy rõ ràng là cô bé đã rẽ ở góc phố để đi tiếp trên đường dẫn tới trường trung học. Một hành trình chưa đầy tám trăm mét. Thế rồi… không gì nữa cả. Những ngày im lặng, thờ ơ và bí ẩn. Không ai nhìn thấy hay nghe thấy gì hết. Cứ như thể Alice đã bốc hơi vậy.

Như tất cả các thành phố lớn của Anh, Manchester được nhồi cho hàng nghìn camera. Mười năm nay, chính sách video giám sát trên diện rộng đã len lỏi đến từng ngõ ngách của thành phố. Theo cách đó, một công dân có thể lọt vào ống kính máy quay tới ba trăm lần một ngày. Một biện pháp không tránh khỏi để chống lại nạn tội phạm đang hoành hành. Ít ra là trong bài diễn văn của các chính trị gia, bởi trên thực tế lại là chuyện khác: Vì không được đầu tư đến nơi đến chốn, thiết bị này thường không hoạt động tốt. Vào buổi sáng Alice mất tích, toàn bộ các camera đặt xung quanh khu vực trường trung học đều bị hỏng hoặc hư hại, hình ảnh thu được bị nhiễu hoặc không sử dụng được…

Trong những ngày tiếp theo, Madeline huy động một trăm năm mươi cảnh sát lục soát từng căn hộ, từng căn hầm và vườn tược trong bán kính ba ki lô mét quanh trường trung học. Cảnh sát lấy lời chứng của hàng trăm người, tiến hành quản thúc tại nơi cư trú những kẻ có tiền sử luyến đồng và lần theo manh mối chiếc xe tải nhỏ màu trắng khả nghi mà nhiều học sinh đã trông thấy.

Tin rằng Erin Dixon phải chịu phần lớn trách nhiệm trong vụ mất tích của Alice, Madeline ra lệnh quản thúc chị ta, xét hỏi chị ta trong vòng hơn hai mươi tiếng đồng hồ. Đối với nữ thanh tra, Erin là một con ma cà rồng, bị ma túy chế ngự hoàn toàn, có thể làm bất cứ chuyện gì để đổi lấy một liều cocain, kể cả bán con gái cho một mạng lưới mãi dâm. Nhưng buổi lấy cung không thu được kết quả nào đáng kể. Làm theo lời khuyên của luật sư riêng, Erin yêu cầu được kiểm tra bằng máy phát hiện nói dối – một trò đùa nhả quá đáng – và thành công với bài test đó. Chị ta được tự do sau buổi thẩm vấn và khi đứng trước camera đã tự cho phép mình ra giọng nức nở kêu gọi những kẻ bắt cóc, nếu có, hãy nương tay.

Bộ phận tin học chuyên trách của sở cảnh sát dễ dàng lấy được mật khẩu máy tính của Alice: HEATHCLIFF, tên nhân vật nam chính trong Đồi gió hú, cuốn tiểu thuyết gối đầu giường của cô bé. Rủi thay, quá trình phân tích cả ổ cứng lẫn hộp thư điện tử đều không cung cấp được manh mối quan trọng nào, dù nhỏ nhất.

Khi đọc lướt qua nhật ký của Alice, Madeline phát hiện ra rằng cô bé có thói quen khai man tuổi thực để làm những công việc lặt vặt. Bằng cách đó cô bé kiếm ra tiền tự mua sách vở và đi xem các buổi biểu diễn. Những tháng gần đây, cô bé làm việc tại Soul Cà phê, một quán bar nằm trên đường Oxford trong khu học xá. Bị bắt giữ và bị kết tội vì đã sử dụng lao động chưa đến tuổi thành niên, chủ quán được đặt ra ngoài vòng nghi vấn liên quan đến vụ bắt cóc.

Ngày 15 tháng Mười hai, một toán thợ lặn đã mò tìm suốt hai ki lô mét dọc bờ phía Tây sông Irk. Một toán khác phụ trách hồ Rockwel nằm cách trường trung học bốn trăm mét. Họ đưa lên nhiều bộ khung xe hơi, những chiếc xe đẩy, một chiếc Mobylette, hai tủ lạnh và nhiều rào chắn an toàn. Nhưng không có thi thể nào hết.

Jim phân tích tất cả các cuộc gọi đi và gọi đến trên điện thoại di động của cô bé. Chủ nhân mọi số điện thoại trong danh bạ đều bị thẩm vấn nhưng không thu được kết quả nào.

Giáng sinh trôi qua mà cuộc điều tra không có chút tiến triển nào.

Madeline không chịu nghỉ phép. Cô bắt đầu dùng thuốc để có thể chợp mắt vài giờ.

Thế nhưng cô không phải là người mới bước chân vào nghề. Cô đã nhận công tác trong khu phố ghê rợn này nhiều năm liền. Bạo lực và nỗi khiếp sợ đã trở thành một phần trong cuộc sống thường nhật của cô nhiều năm liền. Cô đã chứng kiến những màn tội ác, những cuộc mổ xác và canh giữ những tên tội phạm nguy hiểm nhất nhiều năm liền. Cô đã vây bắt những kẻ giết người, bắt giữ những tên hiếp dâm và buôn ma túy, vạch mặt những kẻ ái nhi, phá vỡ những mạng lưới buôn lậu ma túy. Nếu cần phải tính thêm, cô đã điều tra hàng chục và hàng chục vụ mưu sát. Ba năm trước, thậm chí cô đã cận kề cái chết trong một cuộc đọ súng giữa hai băng đảng: một viên 357 Magnum sượt qua đầu cô, xé toạc một mảng da đầu và để lại một vết sẹo mà cô vẫn phải khó khăn lắm mới ngụy trang được sau mớ tóc.

Cuộc sống của cô gắn liền với công việc điều tra.

Ngay cả khi công việc điều tra có bao hàm cả nỗi ám ảnh, nỗi cô đơn và nguy hiểm thường trực.

Ngay cả khi công việc điều tra có biến cô thành một bóng ma đối với bạn bè, gia đình và đồng nghiệp của cô.

Nhưng trong hoàn cảnh hiện tại, không phải đó chính là cái giá phải trả sao: Tự mình trở thành bóng ma để tìm ra một bóng ma khác?...

Tới tháng Một, Jim cùng đội của anh rà soát các cuộc gọi diễn ra quanh trạm tiếp phát gần trường học nhất trong khoảng thời gian vài tiếng đồng hồ trước và sau thời điểm Alice mất tích. Tên những người thực hiện các cuộc gọi được kiểm tra chéo trên hệ thống hồ sơ lưu trữ của cảnh sát. Họ lọc ra được hơn hai trăm đối tượng từng có tiền án tiền sự, hầu hết là tội phạm vị thành niên. Tất cả đều bị thẩm vấn, thời gian biểu của các đối tượng được xác minh, nơi ở bị khám xét. Trong số đó có một người đàn ông năm mươi tuổi tên là Fletcher Walsh từng bị kết án hiếp dâm hai mươi năm về trước, đồng thời đang sở hữu một chiếc xe tải nhỏ màu trắng…

Nhìn bề ngoài, chứng cứ ngoại phạm của Fletcher Walsh khá kín kẽ nhưng khi cảnh sát khám xét ga ra của hắn, bầy chó nghiệp vụ đã tìm ra những dấu máu đằng sau ô tô. Mẫu máu được gửi về phòng pháp y tại Birmingham và cảnh sát tiến hành theo dõi Walsh 24/24 giờ trong lúc chờ kết quả.

Ngày 13 tháng Hai, phát ngôn viên của lực lượng cảnh sát Greater Manchester thông báo những kết quả phân tích dấu máu thu được trong chiếc break của Fletcher Walsh không cho phép khẳng định chắc chắn chúng thuộc về Alice Dixon.

Rồi sự quan tâm của giới truyền thông sụt giảm. Lực lượng cảnh sát tham gia cuộc điều tra được điều động đi nơi khác. Cuộc điều tra giẫm chân tại chỗ.

Hằng đêm, Madeline tiếp tục mơ thấy Alice và tiếp tục bị ánh mắt cô bé ám ảnh. Mỗi sáng, cô thức dậy với hy vọng tìm ra một manh mối mới hoặc một hướng điều tra trước đó đã bị lơ là.

Các đồng nghiệp và thượng cấp của Madeline vẫn luôn coi cô là một cảnh sát cứng rắn nhưng lần này cô không gắng gượng nổi. Cô đã tự tạo cho mình những nền tảng thiếu kiên cố, một bộ giáp sắt bảo vệ không loại trừ lòng trắc ẩn thực sự. Thậm chí cô bao giờ cũng chỉ xuất sắc hơn khi nỗi đau của nạn nhân trở thành nỗi đau của chính cô. Một thói quen gần gũi nguy hiểm nhưng giúp cô làm việc hiệu quả.

Đó là chuyện đã xảy ra với Alice. Ngay từ ngày đầu tiên, vụ mất tích của cô bé này đã khiến cô xáo trộn. Cô bé này nhắc cô nhớ về quá khứ của chính mình. Một sự tương đồng khiến người ta bối rối, một mối liên hệ mơ hồ, một sự gắn bó tự bản năng. Một cảm giác mà cô biết là sẽ giày vò mình nhưng cô thậm chí còn không buồn thử đấu tranh để loại bỏ nó.

Đây không chỉ là chuyện cá nhân, còn hơn thế nữa kia. Niềm tin chắc rằng thực ra cô là người duy nhất thực sự quan tâm đến số phận của cô bé. Cảm giác đã thế chỗ mẹ cô bé và gánh trên vai mình trách nhiệm về vụ mất tích.

Đêm đó, cô đã tự hứa với bản thân một điều: Nếu không thể tìm ra Alice còn sống, cô sẽ không bao giờ sinh con…

Cảm giác bất lực nhấn chìm cô. Đôi khi, cảm giác đó còn tệ hơn việc người ta thông báo cho cô biết rằng cô bé đã chết, bởi cô không ngừng tưởng tượng ra những gì Alice đang phải chịu đựng. Những hình ảnh bi thảm và trĩu nặng xâm chiếm tâm trí cô.

Để có thể bấu víu vào một thứ gì đó, cô còn đi xem bói. Sau khi sờ nắn một chiếc áo từng thuộc về Alice, ông thầy bói phán chắc như đinh đóng cột rằng cô bé đã chết và còn đưa địa chỉ công trường nơi cái xác được chôn. Madeline huy động một đội cảnh sát tới lật tung toàn bộ khu công trường đó lên. Nhọc công vô ích.

Khi biết về cú vồ hụt này, sếp của Madeline khuyên cô nên nghỉ ngơi tĩnh dưỡng vài ngày. “Cần phải đối diện với thực tế chứ: Alice Dixon đã mất tích ba tháng nay. Chuyện thật thương tâm nhưng đã đến nước này, cô biết rõ rằng hầu như chẳng còn cơ may nào để tìm ra cô bé kia mà. Chúng tôi còn cần cô cho những cuộc điều tra khác và những hồ sơ khác nữa…”

Nhưng Madeline cảm thấy không thể xử lý “những cuộc điều tra khác và những hồ sơ khác”. Cô sẵn sàng làm bất cứ việc gì để bảo toàn một hy vọng mong manh là tìm ra Alice.

Vậy nên cô quyết định đích thân bước vào hang cọp.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
623,263
Điểm cảm xúc
35
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 14: Kẻ thù sâu kín


“Chúng ta luôn được lựa chọn. Thậm chí chúng ta còn là tổng hòa các lựa chọn của riêng mình.”

Joseph O’CONNOR

Madeline đỗ chiếc xe cà tàng của mình trước cửa quán Thiên nga trắng, quán rượu Ailen thuộc quyền sở hữu của dòng họ Doyle từ nhiều đời nay.

Cheatam Bridge là một dải đất hẹp với dân số chưa đến mười nghìn người nằm cách trung tâm Manchester ba cây số về phía Đông Bắc. Dân cư xưa kia phần đông là người Ailen, khu phố công nghiệp cũ đã liên tiếp trải qua những đợt di trú của dân Ấn, dân quần đảo Antilles, dân Pakistan, dân châu Phi và gần đây nhất là dân Đông u. Thành phần cư dân đa dạng đó đã sản sinh ra một sự pha trộn văn hóa tuyệt vời, nhưng cũng là gốc rễ của một cuộc chiến chết chóc và không ngừng nghỉ giữa các băng đảng. Hoạt động của cảnh sát khu phố gặp nhiều khó khăn và tình trạng phạm trọng tội luôn ở mức báo động.

Vừa bước chân vào quán, Madeline đã bị một giọng mỉa mai gọi giật lại:

- Chào Maddie! Em vẫn sở hữu cặp mông ngon nhất lực lượng cảnh sát Manchester, em biết không?

Cô quay lại và nhận ra Danny Doyle đang ngồi ở góc trong cùng, chống khuỷu tay lên quầy bar, trước mặt là một vại nửa lít bia nâu, hắn giơ vại bia về phía cô. Xung quanh hắn là đám vệ sĩ đang cười hô hố hưởng ứng câu đùa của ông chủ.

- Chào Daniel, cô nói rồi bước tới. Lâu lắm rồi nhỉ.

Danny “Dub[1]” Doyle là thủ lĩnh của một trong những băng đảng thế lực nhất giới đạo tặc Manchester. Kẻ đứng đầu triều đại tội phạm gia đình, đã trị vì suốt năm mươi năm qua ở xứ Cheatam Bridge thối nát. Mới ba mươi bảy tuổi, hắn đã nhiều phen ra tù vào tội với lý lịch tư pháp cá nhân dài dằng dặc: tra tấn, buôn lậu ma túy, cướp có vũ khí, rửa tiền, ma cô, tấn công cảnh sát…

[1]. Biến thể của Dubh, cái tên trong tiếng Ailen có nghĩa là đen tối.

Trên hết, Danny là một kẻ hung bạo, có thể đóng đinh câu rút thủ lĩnh một băng đảng đối địch trên bàn bi-a không chút gớm tay. Cùng với em trai mình và đồng đảng, “Dub” đã hạ sát khoảng hai chục mạng người, thường là trong những màn tra tấn cực kỳ man rợ.

- Anh mời em một cốc bia nhé? Hắn đề nghị.

- Tôi thích một ly vang Bordeaux hơn, Madeline đáp. Thứ bia Guinness tởm lợm của anh làm tôi phát nôn.

Một tiếng rì rầm kinh ngạc lan nhanh trong đám vệ sĩ đang quây lại quanh Doyle. Không ai được quyền nói với hắn bằng cái giọng đó, huống chi là một phụ nữ. Madeline nhìn đám anh chị vẻ khinh bỉ. Đó là một đám ô hợp gồm vài gã trông như tinh tinh và vài gã thấp bé đã xem Mặt thẹo và Bố già quá nhiều lần. Chúng tìm cách bắt chước các nhân vật trong hai bộ phim đó từ lời ăn tiếng nói đến dáng dấp điệu bộ, nhưng với bộ tịch lố lăng vô văn hóa và giọng điệu líu ríu, chúng sẽ không bao giờ có được phân nửa đẳng cấp của người nhà Corleone.

Không buồn lên giọng, Danny Doyle hỏi tay phụ trách quầy bar liệu trong hầm rượu có vang Bordeaux không.

- Vang Bordeaux ấy ạ? Không đâu. Trừ phi… Có lẽ là trong đống thùng mà Liam đã xoáy ở chỗ tay người Nga…

- Đi kiểm tra xem, Doyle ra lệnh.

Madeline nhìn thẳng vào mắt hắn.

- Ở đây tối tăm quá. Chúng ta nên ra sân thượng, trời đang đẹp thế kia.

- Anh nghe em.

Doyle là một kẻ phức tạp và biến thái. Hắn nắm quyền lãnh đạo băng đảng cùng người em trai sinh đôi, Jonny, lọt lòng mẹ sau hắn năm phút nhưng không bao giờ chịu chấp nhận cương vị em thứ của mình. Jonny mắc chứng tâm thần phân liệt cuồng ám nên thường nổi cơn hung bạo bất ngờ, nói ngắn gọn, tay này đã từng bị giam nhốt nhiều lần, mà thường trong bệnh viện tâm thần hơn là trong tù. Trong hai anh em, chính Jonny mới là con quái vật khát máu và Madeline luôn nghĩ Danny để mặc mình bị lôi kéo vào vòng xoáy bạo lực này một phần là nhằm duy trì sự áp chế lên em trai.

Khi họ ra tới sân thượng, một tay vệ sĩ tóc hung tiến tới với ý định khám xét cô cảnh sát trẻ, nhưng Madeline đã ngăn gã lại:

- Mày mà dám động đến tao thì tao chặt mày làm hai khúc đấy.

Danny cười nhẹ, giơ một tay lên trấn an đám vệ sĩ rồi xua chúng đi chỗ khác. Hắn đích thân yêu cầu Madeline đưa cho hắn vũ khí cô mang theo rồi kiểm tra xem cô có giấu thứ vũ khí nào khác đằng sau lưng hay dọc bắp chân không.

- Đừng có lợi dụng hoàn cảnh để sờ soạng tôi đấy!

- Anh vẫn cá chắc với đám thuộc hạ của mình thế này: tất cả mọi người đều biết rõ rằng nếu một ngày nào đó cảnh sát quyết định trừ khử anh, thì người họ cử đến để thực hiện công việc bẩn thỉu đó sẽ chính là em…

Họ ngồi mặt đối mặt qua một cái bàn sắt tráng men dưới dàn thường xuân uốn hình vòm mang vẻ duyên dáng điền viên.

- Trông cứ như ở Provence hoặc ở Ý ấy nhỉ, Doyle thốt lên nhằm lờ đi tình huống khó xử.

Madeline rùng mình. Ngồi đối diện với quỷ dữ thật không dễ dàng gì.

Ngoại trừ việc trước khi trở thành quỷ dữ Danny Doyle từng là bạn học tiểu học của cô và sau này, khi học trung học, hắn còn là cậu con trai đầu tiên được cô cho phép hôn mình…

- Anh đang nghe em đây, Danny nói, hai bàn tay đan vào nhau.

Vóc dáng trung bình, tóc nâu, khuôn mặt trơn láng và vuông vức, Doyle tìm mọi cách để giống với “quý-ông-bình-thường”. Madeline biết hắn ngưỡng mộ bộ mặt biến hóa khôn lường tựa tắc kè hoa của nhân vật do Kevin Spacey thủ vai trong phim Những kẻ khả nghi thường gặp. Thường mặc đồ đen từ đầu đến chân, lúc này Doyle đang khoác trên người bộ vest Ermernegildo Zegna hẳn phải có giá hơn ba nghìn bảng mà không hề phô trương. Khác với đám thuộc hạ của mình, Doyle không hề trở nên lố bịch. Thậm chí hắn còn có vẻ cuốn hút toát ra từ kiểu đàn ông không thèm quyến rũ phụ nữ.

- Tôi đến gặp anh vì chuyện Alice Dixon, Daniel ạ.

- Con bé mất tích ấy hả?

- Đúng vậy. Chính tôi là người phụ trách điều tra vụ việc từ ba tháng nay. Anh có thông tin gì không?

Doyle lắc đầu.

- Không, mà tại sao?

- Anh có dám thề rằng mình không phải là kẻ đứng đằng sau toàn bộ chuyện này không?

- Vì lý do gì mà anh lại phải bắt cóc con bé đó?

- Để bắt cô bé làm việc, bóc lột nó…

- Nó mới mười bốn tuổi kia mà!

Madeline lấy từ ví ra bức ảnh chụp Alice.

- Trông cô bé như đã mười sáu. Mà cô bé lại còn xinh xắn nữa chứ, phải không? Cô vừa nói vừa chìa tấm ảnh ra trước mặt hắn. Đừng nói với tôi là anh không xơi tái nó đấy!

Doyle chịu không nổi câu nói khiêu khích này. Bằng một cử chỉ mau lẹ, hắn tóm tóc Madeline kéo cho mặt cô gần lại, chỉ cách mặt hắn vài xăng ti mét rồi nhìn thẳng vào mắt cô.

- Em đang chơi trò gì thế hả Maddie? Anh đã phạm đủ mọi thứ lỗi lầm trên đời này, tay anh ngập trong máu và dưới địa ngục đã có chỗ dành sẵn cho anh rồi, nhưng anh CHƯA BAO GIỜ động đến một đứa trẻ.

- Vậy thì hãy giúp tôi đi! Cô thét lên, cố gắng vùng thoát khỏi hắn.

Doyle buông tay rồi hỏi gắt:

- Em muốn anh làm gì?

- Anh biết tất cả mọi người trong khu phố này và có đến phân nửa họ nợ anh điều gì đó. Anh giải quyết những vấn đề hàng xóm láng giềng, anh bảo vệ những người buôn bán, thậm chí anh còn tổ chức phát quà Giáng sinh cho các gia đình nghèo khó nhất…

- Đó là phương diện Robin Hood của anh mà, Doyle mỉa mai.

- Nhất là anh tìm cách khiến cho một loạt người phải chịu ơn anh.

- Để tạo cơ sở cho chuyện làm ăn thôi…

- Vậy thì tôi muốn anh sử dụng mạng lưới của mình để tìm ra cho tôi các thông tin về vụ bắt cóc Alice.

- Thông tin kiểu gì?

- Những lời chứng mà người ta không muốn cung cấp cho cảnh sát.

Doyle thở dài rồi suy nghĩ vài giây.

- Maddie à… Con bé ấy đã mất tích hơn ba tháng trời rồi. Em hẳn ý thức rất rõ rằng người ta sẽ không bao giờ tìm ra…

- Tôi không tới đây để nghe những điều ngu ngốc, cô cắt ngang lời hắn trước khi tiếp tục thỉnh cầu. Trong các mối quan hệ của anh có vài kẻ là con buôn chính trị và nhiều kẻ là doanh nhân. Những người cũng chịu ơn anh vì đã không gửi cho vợ họ hoặc cho báo chí những bức ảnh được coi là mầm mống hiểm họa vì chụp được cảnh họ truy hoan với gái gọi. Rốt cuộc, anh biết chi tiết hơn tôi vì đám gái gọi đó chính là do anh chi tiền mời tới…

Một nụ cười bồn chồn rúm ró hiện lên trên môi Doyle.

- Làm cách nào mà em biết được thế?

- Tôi là cảnh sát, Daniel ạ. Anh biết rất rõ rằng điện thoại của anh đã bị nghe trộm từ nhiều tháng nay mà.

- Điện thoại thì anh có đến cả chục chiếc cơ, hắn nhún vai chống chế.

- Không quan trọng. Tôi muốn anh sử dụng đám “cổ cồn trắng” đó để thu hút dư luận quần chúng trở lại.

Nhân viên quầy bar mang tới cho họ chai Bordeaux mà cuối cùng gã cũng tìm thấy.

- Thứ này vừa ý quý cô chứ ạ? Gã hỏi.

- Một chai Haut-Brion 1989! Cô đọc nhãn rượu. Chúng ta sẽ không mở chai này đâu. Đây là một chai vang hảo hạng!

Hất đầu ra hiệu để đàn em làm điều ngược lại, Doyle ra lệnh cho gã nhân viên rót cho họ hai ly.

- Nó thuộc về một thằng chó má họ Ruskoff giờ này đang yên nghỉ dưới sáu tấc đất rồi! Vậy thì anh cực vui được uống mừng sức khỏe hắn!

Để không làm hắn phật ý, Madeline nhấp môi nếm thứ rượu hảo hạng trong lúc vẫn chờ đợi câu trả lời của Doyle.

- Nếu anh giúp em tìm ra con bé đó thì đổi lại anh được cái gì đây?

- Một sự thỏa mãn cá nhân, lòng khoan dung của Chúa đối với một vài hành vi của anh, một dạng chuộc tội…

Hắn cười khẽ.

- Và nghiêm túc hơn thì sao?

Để tự tiếp thêm can đảm cho mình, Madeline uống một ngụm vang lớn. Cô đã có sự chuẩn bị cho cuộc mặc cả này. Doyle chẳng bao giờ cho không ai cái gì và chính vì lẽ đó mà cô chỉ tới gặp hắn như viện đến phương kế cuối cùng.

- Một tên chỉ điểm đã tới sở Cảnh sát Greater Manchester để báo cho chúng tôi biết về các dự định của anh cách đây vài tuần…, cô bắt đầu.

Doyle lắc đầu.

- Em khẳng định rằng trong nhóm của anh có tay trong sao? Em lòe anh rồi.

- Hắn đã báo cho chúng tôi biết về vụ cướp có vũ khí nhằm vào xe chở tiền của ngân hàng Butterfly do anh lên kế hoạch vào thứ Sáu tuần tới…

Doyle vẫn thản nhiên như không.

- Nếu anh giúp em, em sẽ phím cho anh tên hắn chứ?

Madeline lùi sâu vào lòng ghế.

- Không có chuyện đó đâu, tôi đã nói cho anh biết quá nhiều rồi. Anh phải tự xoay xở mà tìm cách giải quyết tiếp chứ.

- Em dám để thanh danh mình tổn hại khi đến gặp anh yêu cầu giúp đỡ, nhưng em chưa sẵn sàng để tay mình nhúng chàm đến cùng chứ gì?

- Xin anh đấy, Daniel… Nếu tôi cho anh biết tên người đó thì anh ta sẽ chết ngay hôm nay trước khi trời tối mất.

- Đương nhiên là thế rồi, hắn đáp và nhìn cô với vẻ trìu mến xen lẫn trách móc.

Họ gắn bó với nhau bởi một mối liên hệ lạ kỳ. Ngoại trừ cô, không ai dám gọi hắn là “Daniel” bao giờ và hắn cũng hầu như chắc chắn rằng cô không cho phép nhiều người gọi mình là “Maddie”.

- Trong chuyện này thì không thể có biện pháp nửa vời, Maddie ạ. Hoặc em lặn thật sâu để giúp con bé kia, hoặc em từ chối không để mình bị ướt. Em phải tự mình cân nhắc.

- Anh chẳng cho tôi lựa chọn nào hết.

- “Chúng ta luôn được lựa chọn. Thậm chí chúng ta còn là tổng hòa các lựa chọn của riêng mình.” Cuốn sách nào đã nói vậy nhỉ? Một trong những cuốn tiểu thuyết em đã gửi cho anh trong lần đầu anh ở tù.

Trước mặt đám tay chân, Daniel làm ra vẻ vô văn hóa nhưng sự thực lại khác xa. Trái ngược với em trai mình, hắn quan tâm đến nghệ thuật, và trước khi bị tống giam, hắn đã bắt đầu theo học chuyên ngành kinh tế và quản trị, đầu tiên ở Luân Đôn, tiếp đến là ở Đại học California.

Madeline rút từ túi quần jean ra một tờ giấy gập làm tư rồi chìa nó cho Doyle.

- OK, đây là tên người chỉ điểm cho chúng tôi, cô nói.

Cô đứng dậy để rời khỏi quán.

- Ở lại thêm năm phút nữa đi, hắn khẩn nài, cầm tay cô giữ lại.

Nhưng cô giằng tay khỏi tay hắn. Vậy nên, để giữ cô lại thêm vài giây, hắn móc bật lửa từ trong túi ra và đốt tờ giấy mà không đọc nội dung bên trong.

- Được lắm, anh thắng rồi.

Cô chấp nhận ngồi lại xuống ghế, hắn rót cho cô một ly rượu vang.

- Tại sao em không rời bỏ cái xứ Manchester chết tiệt này chứ? Hắn hỏi rồi châm một điếu thuốc. Lúc nào em cũng bảo em muốn sống ở Paris kia mà…

- Thế còn anh, tại sao anh không sang Mỹ sống? Các công ty bất động sản và nhà hàng mà anh mua ở Los Angeles là để dùng vào việc gì? Để rửa tiền chắc?

Hắn lẩn tránh câu hỏi ấy bằng cách hồi tưởng lại:

- Em luôn muốn mở một tiệm bán hoa…

- Còn anh vẫn thường bảo anh muốn viết kịch!

Doyle mỉm cười khi nghe cô nhắc lại chuyện cũ. Câu lạc bộ kịch của trường cấp II. Năm 1988. Khi ấy hắn mới mười bốn tuổi.

- Với riêng anh, cuốn sách của đời anh đã được viết từ trước khi anh chào đời kia! Một khi đã sinh ra tại Cheatam Bridge và tên là Danny Doyle thì em không thể chạy trốn số mệnh của mình được.

- Tôi cứ tưởng chúng ta luôn được chọn lựa, cô ranh mãnh đáp.

Một thứ ánh sáng tỏa rạng trong mắt Doyle, tiếp theo là một nụ cười chất phát tức thì làm biến đổi gương mặt hắn, đem lại cho hắn một vẻ hết sức thu hút. Khó mà hình dung được rằng cũng chính người đàn ông này, chỉ một tháng trước, đã dùng dao rựa chặt đứt cả tứ chi của một gã người Ukraina trót tìm cách soán ngôi hắn. Cô biết trong mỗi người đều có phần thiện và phần ác cùng tồn tại. Lại có một số kẻ, bởi chủ động lựa chọn hoặc do bị bắt buộc, đang khai triển phần xấu nhất trong con người họ. Vào lúc ấy, cô tự hỏi Daniel sẽ trở thành dạng người nào nếu hắn đánh cược vào mặt sáng trong nhân cách mình thay vì đi theo con đường ngoắt ngoéo hòng chạy trốn một kết cuộc bi thảm.

Vậy là trong hai hay ba giây thời gian như ngưng đọng. Hai hay ba giây đặc ân khi cả hai quay trở lại tuổi mười lăm. Khi họ mỉm cười với nhau. Khi Daniel chưa giết mạng người nào. Khi cô chưa trở thành cảnh sát. Khi Alice chưa mất tích. Hai hay ba giây khi cuộc đời vẫn tràn đầy hứa hẹn.

Hai hay ba giây…

Rồi một tên vệ sĩ xuất hiện trong sân thượng và thứ bùa mê nguy hại kia gián đoạn.

- Ta phải đi thôi, ông chủ, nếu không sẽ lỡ mất gã Jamaica.

- Ra xe trước đi, tao ra sau.

Daniel uống nốt ly rượu rồi đứng dậy.

- Em có thể tin ở sự giúp đỡ của anh, Maddie ạ, nhưng có lẽ đây là lần cuối cùng chúng ta gặp nhau.

- Tại sao?

- Bởi vì không bao lâu nữa anh sẽ chết.

Cô nhún vai.

- Anh nói vậy từ vài năm nay rồi.

Doyle dụi mắt vẻ mệt mỏi.

- Lần này thì tất cả các phe đều muốn lấy mạng anh: bọn Nga, bọn Albani, cảnh sát, OFAC[2], lớp mới đang lên của khu phố không còn biết trên dưới là gì nữa…

[2]. Viết tắt của cụm Office of Foreign Assets Control: một cơ quan của bộ Tài chính Mỹ chuyên đấu tranh chống nạn rửa tiền.

- Anh đã luôn biết rằng mọi chuyện sẽ kết thúc như vậy mà, phải không?

- Chẳng sớm thì muộn thôi, hắn đáp rồi trả lại súng cho cô.

Rồi hắn nhìn cô lần cuối và những lời hắn không hề định nói ra cứ thế buột khỏi miệng:

- Nụ hôn của chúng ta… anh vẫn thường nhớ đến.

Cô cụp mắt nhìn xuống.

- Chuyện đó cách đây hơn hai mươi năm rồi mà Daniel.

- Đúng thế, nhưng anh muốn em biết rằng kỷ niệm ấy lúc nào cũng đi cùng anh và anh không hề hối tiếc.

Đến lượt mình, cô nhìn hắn. Thật khó khăn khi nghe điều ấy, và cũng thật khó để chấp nhận. Chuyện này có gì đó thật phù phiếm, nhưng thế giới này đâu phải trắng hoặc đen rõ ràng, và bản chất trung thực thôi thúc cô thừa nhận:

- Em cũng không mà, Daniel. Em cũng không hối tiếc chuyện đó.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
623,263
Điểm cảm xúc
35
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 15: The girl who wasn’t there[1]


[1]. Tiếng Anh trong nguyên bản: Cô gái vắng mặt

“Nàng không hay biết rằng: Địa ngục chính là sự thiếu vắng.”

Paul VERLAINE

Tuần tiếp theo cuộc gặp gỡ giữa Madeline và Doyle, các nhân chứng mới “tự động” đến trình diện ở đồn cảnh sát, cho phép khai thác lại manh mối về chiếc xe tải nhỏ màu trắng. Có ít nhất ba người khẳng định đã nhìn thấy một cô bé tóc vàng khoảng mười lăm tuổi trong một chiếc xe chuyên dụng giống xe của thợ lắp đặt đường ống hoặc thợ điện.

Các lời chứng của họ cho phép dựng lên chân dung phác thảo của một người đàn ông “kiểu Albani”, khoảng ba mươi đến bốn mươi tuổi, được viên biện lý của Crown Prosecution Service[2] chấp nhận cho phát đi hàng loạt.

[2]. Tiếng Anh trong nguyên bản, tức là cơ quan công tố ở Anh và xứ Wales.

Doyle lén cho chạy một website là http://www.alice-dixon.com nhằm mục đích hỗ trợ một hiệp hội. Hiệp hội này phụ trách quyên góp các khoản từ thiện để đặt làm hàng trăm tấm biển tìm trẻ lạc treo trong các nhà ga, các trạm dừng xe buýt và các khu thương mại nhà cửa trên khắp nước Anh.

Ngày 21 tháng Ba, tại Twickenham, trong khuôn khổ Giải đấu hữu nghị giữa các quốc gia, người ta phát đi 82.000 tờ thông báo tìm kiếm tới các khán giả xem trận đấu bóng bầu dục giữa Anh và Écosse.

Tương tự, vào ngày 7 tháng Tư, trong trận tứ kết Cúp C1 giữa Manchester United và FC Porto: chân dung Alice được hiển thị suốt một phút trên các màn hình khổng lồ của sân Old Trafford trước bảy mươi nghìn người xem trực tiếp và hàng trăm triệu khán giả truyền hình.

Kể từ đó, các bằng chứng bắt đầu thực sự nhất quán.

Sở cảnh sát đã nhận hàng loạt cuộc gọi từ những kẻ loạn trí và những kẻ giỏi bịa chuyện, nhưng số lượng các manh mối mới tăng lên nhanh chóng: một bác sỹ khẳng định đã gặp Alice trên chuyến tàu Eurostar đi Bruxelles vào đúng ngày cô bé mất tích. Một gái mại dâm nói đã “cộng tác hành nghề” cùng cô bé trong khu phố De Wallen, khu đèn đỏ của Amsterdam, nổi tiếng với hệ thống sex-shop, peep-show và các cô gái “trong tủ kính”. Một phụ nữ nghiện ma túy thề là đã chia với cô bé một bi ở Soho. Một lái xe tải đường trường đoan chắc đã nhìn thấy cô bé trong một chiếc Mercedes màu đen trên một bãi đỗ dọc xa lộ thuộc lãnh thổ Ba Lan. Một khách du lịch gửi cho cảnh sát bức ảnh chụp gần bể bơi của một khách sạn hạng sang tại Thái Lan, trên ảnh là một cô bé giống Alice như hai giọt nước. Cô bé đi cùng một người đàn ông luống tuổi. Bức ảnh được phát tán trên Internet và được các chuyên gia hình thái học nghiên cứu, nhưng manh mối này dứt khoát bị loại bỏ.

Trong lá thư nặc danh, một kẻ tâm thần nhận trách nhiệm về vụ bắt cóc, cưỡng hiếp và sát hại cô bé, nhưng người viết đã để lại nhiều dấu vết cho phép cảnh sát nhận dạng hắn ngay trong ngày. Người ta nhanh chóng phát hiện ra rằng vào thời điểm Alice mất tích thì hắn đang ngồi tù.

Ngày 12 tháng Tư, ở tầng ba của bãi đỗ xe ngầm khu Moss Side, người ta tìm thấy thi thể Liam Kilroy bị đánh đến chết bằng gậy bóng chày. Được biết gã đàn ông này là một trong những viên phó của Danny “Dub” Doyle. Cái chết này không làm phía cảnh sát ngạc nhiên, bởi Liam cũng chính là chỉ điểm của họ và con át chủ bài để hy vọng nhanh chóng lật đổ tên bố già mafia của Manchester.

Đêm đó Madeline không ngủ.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
623,263
Điểm cảm xúc
35
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 16: Cái hộp


“Kẻ nào nhúng tay vào máu sẽ rửa chúng trong nước mắt.”

Ngạn ngữ Đức

Ngày 15 tháng Sáu, một gói hàng kỳ lạ được chuyển tới sở Cảnh sát Cheatam Bridge.

Nó được gửi cho trung úy Madeline Greene người phụ trách vụ Alice Dixon.

Đó là một hộp nhựa kín bưng trông giống những hộp trữ lạnh người ta thường dùng khi đi picnic. Madeline mở hộp ra: bên trong đầy đá bào. Cô dùng tay gạt những viên đá nhỏ trong mờ. Lớp đá bào đầu tiên màu trăng trắng, nhưng cô càng bới sâu xuống thì một chất lỏng màu đỏ càng loang ra. Khi nhận ra đó là những vết máu, tim cô bắt đầu đập thình thịch. Cô kìm nén cơn hoảng hốt, dừng lại một lúc trước khi tiếp tục bới tìm. Ở dưới đáy hộp có một… khối thịt đã gần như đông lạnh, cô nhìn nó đầy ghê tởm. Rồi cô hiểu ra rằng đó là một thứ nội tạng.

Một quả tim được moi ra một cách thô bạo.

Một trái tim người.

Tim của Alice.

Lần này, phòng thí nghiệm ở Birmingham đã có đủ chất liệu cần thiết và chỉ mất vài tiếng đồng hồ để khẳng định các mẫu sinh thiết lấy từ quả tim đông lạnh trùng khớp với mẫu ADN chứa trong tóc của Alice.

Giờ thì chẳng còn nghi ngờ gì nữa.

Alice đã chết.

Ngày hôm ấy, có điều gì đó trong Madeline vỡ vụn. Cô trở về nhà như một kẻ mộng du, nốc nhiều ly whisky cùng hai viên thuốc ngủ. Ngày hôm sau, cô không tới sở cảnh sát làm việc, các ngày tiếp theo cũng vậy. Suốt ba tuần lễ cô nằm bẹp trên giường mắc chứng ngủ lịm, chỉ biết có rượu mạnh và thuốc ngủ. Thực tại đã trở nên không thể chịu nổi trong mắt cô. Không còn gì là quan trọng nữa rồi. Ngay cả khi biết được kẻ điên khùng đứng đằng sau tội ác này. Cô bối rối, không thể dự tính gì cho tương lai, sẵn sàng ấn nút “Off” của cuộc đời mình.

Ngày 19 tháng Sáu, tờ The Sun đưa tin một hãng sản xuất truyền hình đã tiếp xúc và đặt vấn đề với Erin Dixon, chị ta nhận một khoản trả trước là 50.000 bảng để đồng ý đưa câu chuyện dựa trên vụ mất tích và giết hại con gái mình lên màn ảnh.

Ngày 26 tháng Sáu, trong một cuộc kiểm tra đường bộ thông thường, cảnh sát Merseyside đã bắt giữ một người tên Harald Bishop. Lái xe trong tình trạng say rượu, người đàn ông này chở phía sau chiếc xe hòm những dụng cụ sắc bén vấy máu. Thoạt tiên, hắn khẳng định đã xẻ thịt một con lợn rừng mình vô tình đâm phải trong rừng Bowland. Nhưng lời khai của hắn lộn xộn và hết sức khả nghi. Gã đàn ông bị thẩm vấn và đưa vào phòng giam dành cho người say rượu trong sở cảnh sát nhỏ bé ở Prescot. Khi mới bắt tạm giam, cảnh sát sở tại không ngờ rằng trước mặt họ chính là kẻ mà từ nhiều năm nay báo chí đã đặt cho biệt danh “Đồ tể Liverpool”.

Trong quá trình khai báo, Bishop thú nhận hơn hai mươi vụ giết hại các phụ nữ trẻ và bé gái, và cũng chừng ấy vụ hiếp dâm trong khoảng thời gian từ 2001 đến 2009.

Ai nấy đều kinh ngạc. Một cuộc kiểm tra nồng độ cồn trong máu đơn giản vừa cho phép bắt giữ một trong những kẻ phạm những tội ác kinh khủng nhất mà nước Anh từng biết đến. Hàng chục vụ giết người và bắt cóc không được làm sáng tỏ suốt mười năm qua rốt cuộc đã tìm được lời giải.

Màn thú tội của Harald Bishop kéo dài cả đêm. Đến sáng sớm hôm sau, vụ sát hại cuối cùng mà hắn thừa nhận là vụ sát hại Alice Dixon. Hắn khai là mình đã vứt xác Alice xuống sông Mersey sau khi gửi tim cô bé tới sở Cảnh sát Manchester.

Vụ việc được đăng tải trên trang nhất các báo suốt nhiều tuần. Bishop bị hỏi cung tới hàng chục lần, nhưng trí nhớ của hắn khá tồi, thường xuyên nhầm lẫn ngày tháng và cung cấp lời khai mơ hồ về tiến trình một số tội ác. Khi khám xét nơi ở của hắn, các nhân viên điều tra đã tìm thấy các phần thi thể còn sót lại, nhiều đến nỗi không thể nhận dạng chính xác toàn bộ.

Nửa đêm mùng 7 tháng Bảy, Madeline Greene thòng sợi dây phơi quần áo lên thanh xà chìa ra bên trên căn gác lửng.

Chuyện này cần phải kết thúc.

Với lượng rượu whisky còn lại, cô nốc hết chỗ thuốc có trong tay, chủ yếu là thuốc ngủ và thuốc an thần. Rồi cô trèo lên ghế, tóm lấy đầu dây phơi để biến nó thành một cái thòng lọng. Cô chui đầu qua đó rồi thắt nút.

Chuyện này cần phải kết thúc.

Từ một tháng nay, những hình ảnh ghê rợn tràn ngập tâm trí cô. Những hình ảnh không thể chịu thấu chẳng cho cô nghỉ ngơi giây nào. Những hình ảnh khiến cô cảm thấy những điều ghê tởm mà hẳn Alice đã phải chịu đựng.

Chuyện này cần phải kết thúc.

Chuyện này cần phải kết thúc.

Thế nên, cô nhảy xuống.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
623,263
Điểm cảm xúc
35
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 17: Hoa lan đen


“Một mình (…). Tôi luôn một mình dù có chuyện gì xảy ra.”

Marilyn MONROE

San Francisco

Sáng thứ Hai

Ngày đã rạng trên đồi Telegraph. Những tia mặt trời đầu tiên lấp lánh trên bề mặt crôm của tủ lạnh khiến phòng bếp đang lờ mờ tối bỗng sáng bừng lên. Bị lòa mắt vì tia phản chiếu, Jonathan đưa tay lên che mặt.

Đã sáng rồi…

Kiệt sức vì thức trắng đêm trước màn hình máy tính, anh dụi mắt. Hai mắt anh cay sè, tai ù đặc, tâm trí toàn những cảnh ghê rợn.

Anh khó nhọc đứng dậy định bật máy pha cà phê, nhưng giống như một võ sĩ quyền Anh loạng choạng sau khi lãnh một loạt đòn tới tấp, anh mất hơn một phút đứng yên không phản ứng, mắt nhìn vô định, vẫn choáng váng vì cuộc ngụp lặn trong những cảnh tượng tăm tối đó. Anh thốt rùng mình; bóng ma của Alice, đi kèm là bóng Madeline, vẫn lảng vảng trong phòng. Trong tâm trí anh mọi thứ rối tung, hành động giết người điên rồ của tên Đao phủ Liverpool, cảnh khốn cùng của Cheatam Bridge, sự tàn phá của thuốc phiện, bản chất không thể phân định rõ ràng là tốt hay xấu của Danny Doyle, máu, nước mắt, chết chóc… Bất chấp nỗi chán ghét đó, anh chỉ có một khát khao duy nhất: lại ngồi xuống trước màn hình máy tính để tiếp tục khai thác thêm vài tài liệu trong hồ sơ mà anh còn chưa kịp mở ra kia. Nhưng Charly chẳng bao lâu nữa sẽ thức dậy và trước khi chuẩn bị bữa sáng cho con trai, anh cần tắm qua một chút để rũ sạch ham muốn điên rồ đó. Anh đứng hồi lâu dưới làn nước nóng bỏng, xát xà phòng đến trầy da để loại bỏ những hình ảnh của cơn ác mộng đang đeo đẳng tâm trí anh. Những câu hỏi đầy ám ảnh vẫn giày vò anh và cứ trở đi trở lại không thôi. Bishop đã bắt nạn nhân của mình phải chịu những trò tra tấn tàn bạo nào trước khi ra tay sát hại cô bé? Hắn đã tiết lộ những điều gì khác về Alice? Liệu Madeline có gặp lại Danny không và nhất là, làm thế nào cô cảnh sát tận tụy với nghề ở trường Manchester lại có thể trở thành cô chủ tiệm hoa dễ thương ở Paris?

Paris, quận XVI

10 giờ sáng

Madeline dựng chiếc Triumph vào chỗ đỗ dành cho xe hai bánh ở đầu đại lộ Victor-Hugo. Cô cởi mũ bảo hiểm ra, giũ cho tóc bông lên rồi đẩy cửa bước vào Đại bàng con, một quán rượu truyền thống mang dáng dấp bình dân trong khu phố khá là sang trọng này. Cô ngồi xuống bàn đầu tiên gần cửa sổ. Từ vị trí này, cô có thể dễ dàng quan sát Cà phê Fanfan, nhà hàng của George LaTulip với biển hiệu danh tiếng được treo chễm chệ ngay bên kia đường. Cô gọi một tách trà, một bánh sừng bò, lôi laptop từ ba lô ra rồi…

Mình đang làm cái quái gì ở đây thế này?

Câu hỏi đặt ra từ nửa kia trí óc khiến cô cứng họng. Tại sao cô lại bỗng chốc bước ra khỏi cuộc sống thoải mái mình đang có? Vị trí của cô là ở tiệm hoa, cùng với Takumi và các khách hàng chứ đâu phải ngồi rình mò trước nhà hàng của một gã cô chưa từng gặp hay nghe nói đến.

Mày có còn làm trong ngành cảnh sát nữa đâu! Mày không còn làm trong ngành cảnh sát nữa! cô nhắc đi nhắc lại hòng tự thuyết phục mình. Nhưng liệu người ta có vĩnh viễn từ bỏ được một nghề như nghề cảnh sát?

Vài phút sai, cô chọn cách gạt sang một bên phương diện lý trí trong con người mình. Cô cầm theo cả tờ tạp chí lá cải đăng bài tiết lộ mối quan hệ giữa George và Francesca.

Mày hãy động não đi nào! cô vừa tự ra lệnh cho bản thân vừa trải rộng tờ tạp chí trên mặt bàn.

Cô săm soi kĩ lưỡng thêm lân nữa những bức ảnh được coi là bằng chứng không thể chối cãi về việc Francesca ngoại tình. Những tấm hình này có cái gì đó không ổn. Trông chúng quá nghệ thuật. Vốn là cựu người mẫu, Francesca sở hữu giác quan nhạy bén trong việc tạo dáng và tận dụng ánh sáng. Loạt ảnh này được xem như tác phẩm của một tay paparazzi, vậy mà Madeline tin chắc rằng chúng được dàn cảnh kĩ lưỡng, còn lâu mới là “chụp trộm”.

Nhưng dàn cảnh bởi ai? Và với mục đích gì?

Cô vừa kết nối laptop với Internet vừa ăn bánh sừng bò. Trên website của Cà phê Fanfan, cô dễ dàng tìm thấy số điện thoại của nhà hàng. Cô gọi điện và yêu cầu được nói chuyện với George, nhưng đầu dây bên kia trả lời rằng phải sau mười một giờ ông LaTulip mới tới. Cô tranh thủ quãng thời gian chờ đợi để thúc đẩy thêm chút nữa công cuộc tìm kiếm. Trang web tái hiện đúng hình ảnh của nhà hàng: hiện đại và xa hoa. Nhìn vào số tài khoản, người ta nhận thấy nhà hàng này thực ra thuộc tổ hợp khách sạn hạng sang Win Entertainment.

Tập đoàn đã mua lại toàn bộ hoạt động của Lempereur…

Trong các thực đơn có mức giá trên trời, cô nhận ra một vài món ăn đã góp phần tạo nên tên tuổi của Jonathan. George không chỉ đánh cắp vợ Jonathan mà cả những công thức món ăn nổi tiếng nhất của anh!

Thật bất công…

Madelineline mở một ô tìm kiếm với từ khóa George LaTulip, rồi nhấp chuột vào kết quả là một trang bog về…môn lặn. Hẳn là LaTulip đam mê môn chụp ảnh dưới biển. Được cập nhật thường xuyên, trang blog của hắn giống một tủ kính trưng bày những chuyến đi khác nhau và đăng tải hàng trăm bức ảnh tuyệt vời chụp các loại cá đủ màu sắc, những con rùa khổng lồ và những nhánh san hô rực rỡ. LaTulip thám hiểm thế giới từ nhiều năm nay. Hắn từng lặn ở Belize, Hawaii, Zanzibar, Maldives, Braxin, Mexico… Mọi thứ đều được sắp xếp, lưu trữ, ghi chú. Trong khi xem lướt qua những trang đó, Madeline dừng lại ở bức ảnh chụp một con cá mập báo tuyệt đẹp. Theo lời thuyết minh đi kèm, bức ảnh được chụp tại Maldives ngày 26 tháng Mười hai 2009. Dòng chữ đề ngày tháng khiến cô cựu cảnh sát nhăn mặt. Theo tờ tạp chí kia, những tấm hình chụp cùng Francesca được chụp ngày 28 tháng Mười hai 2009 trên một bãi biển tại Nassau, Bahamas. Ngoại trừ việc Maldives và Bahamas nằm cách nhau ít nhất là mười lăm nghìn cây sô, ở hai điểm hoàn toàn đối lập của địa cầu… Di chuyển từ địa điểm này đến địa điểm kia bằng máy bay trong quãng thời gian chưa đầy hai ngày chắc chắn là chuyện khả dĩ, nhưng lại khó thực hiện nếu tính đến nhiều chặng quá cảnh khác nhau. Tin chắc là đã nắm bắt được điều gì đo, cô cố đào sâu trực giác của mình. Xem hết trang này tới trang khác, cô nhận thấy không một kì nghỉ nào của LaTulip kéo dài dưới một tuần. Cũng hợp lý thôi khi người ta phải đến tận cùng trái đất để lặn xuống đáy đại dương… Thế mà chuyến đi tới Maldives của hắn lại chỉ kéo dài vỏn vẹn có hai ngày. Vậy thì mọi thông tin đều khiến người ta nghĩ rằng George dừng ngang kì nghỉ để tới gặp Francesca.

Madeline cảm thấy bụng quặn lên. Một cảm giác nóng rực lâng lâng và thú vị, một cơn rùng mình dữ dội thường đến với cô mỗi khi phát hiện ra manh mối đầu tiên cho cuộc điều tra. Mày KHÔNG CÒN là cảnh sát nữa đâu, giọng nói bên trong cô nhắc lại.

Nhưng cô chọn cách lờ nó đi rồi bước ra vỉa hè vài phút để hút một điếu thuốc, tự hài lòng với phát hiện vừa xong.

San Francisco

- Con chào bố.

- Chào con trai, Jonathan nói rồi nhấc bổng Charly lên mà hôn trước khi đặt cậu bé xuống một trong những chiếc ghế đẩu trong bếp.

- Cậu nhóc dụi mắt rồi vục đầu vào bát sô cô la nóng. Jonathan phết bơ, phủ thêm một chút mật ong keo lên lát bánh mì rồi đưa cho con trai. Charly cảm ơn bố rồi hỏi liệu cậu có thể xem phim hoạt hình trên ti vi được không. Sáng hôm đó, Jonathan có lý do thỏa đáng để miễn cho cậu bài thuyết giáo chống lại truyền hình như mọi khi.

- Dĩ nhiên rồi, con yêu, anh đáp rồi tự tay dùng điều khiển bật ti vi.

Charly sán lại gần ti vi. Jonathan tranh thủ lúc con trai đang mải mê xem Bob Bọt Biển để ngồi vào trước màn hình máy tính và tiếp tục nghiên cứu “hồ sơ Dixon”.

Trong số các tài liệu anh chưa xem tới có một file video nén, anh đeo tai nghe vào rồi bật file đó lên. Hình ảnh không được rõ nét cho lắm. Rõ ràng là đoạn phim được quay bằng điện thoại hoặc máy kĩ thuật số hồi giữa những năm 2000. Tuy thế âm thanh vẫn nghe rõ.

Ở tiền cảnh, người ta nhìn thấy Madeline, hai mắt nhắm nghiền. Cô nằm trên giường bệnh, dường như vẫn đang hôn mê hoặc ít nhất là đang ngủ say. Rồi người đàn ông cầm “camera” đặt nó lên bàn đầu giường và tự quay chính mình. Đó là một người đàn ông tóc nâu, rắn rỏi, khuôn mặt vuông vức, ánh mắt u ám và mỏi mệt.

- Lần này em sẽ tai qua nạn khỏi, Maddie ạ…, hắn bắt đầu nói bằng giọng đều đều không ngữ điệu.

Jonathan hiểu ngay người đàn ông đó chính là Danny Doyle…

Paris

Chiếc Porsche Panamera dừng lại trước nhà hàng lúc hơn mười một rưỡi trưa. George LaTulip xuống khỏi xe rồi đưa chìa khóa cho người đánh xe vào chỗ đỗ.

Ngồi sau ô cửa kính của quán cà phê, Madeline nheo mắt để nhìn cho kỹ đối tượng. Hắn đã già hơn đôi chút so với trong ảnh nhưng bề ngoài vẫn rất phong độ: dáng điệu chải chuốt, thân hình như vận động viên điền kinh. Dĩ nhiên là tóc hai bên thái dương đã chớm bác nhưng chưa đủ để xếp hắn vào hàng “đẹp lão”.

Cô quyết định nhẩn nha tìm hiểu và quan sát hắn. Dựa vào thời điểm hắn xuất hiện tại nhà hàng khá muộn, rõ ràng là George chuyên tâm vào quan hệ công chúng hơn là việc đứng bếp. Vậy nên cô tin chắc rằng hắn sẽ không nấn ná ở đó quá lâu một khi lượt phục vụ ăn trưa kết thúc.

Càng gần đến giờ trưa thì Đại bàng con – quán cà phê nhỏ nơi cô đang ẩn náu – càng đông đúc. Bà chủ quán hỏi liệu cô có muốn nếm món ăn nào đó không, cô nhận lời vì không muốn mất vị trí quan sát của mình. Cô gọi món chính của ngày hôm đó. Thực đơn không giống như nhà hàng bên kia đường nhưng cô đói đên mức chỉ bằng vài miếng đã kết thúc món “xúc xích Toulouse trộn húng và hành trắng nước hàng”.

Vậy đó, cô đã quay trở lại với lĩnh vực chuyên môn xưa kia: Những nơi ẩn nấp, những buỗi theo dõi đối tượng tình nghi, những điều phán đoán, những bữa ăn vội vàng… Vậy mà cô từng tin chắc rằng mình đã gạt bỏ được toàn bộ những chuyện đó, nhưng những phản xạ xưa cũ nhanh chóng quay trở lại. Cô đang tìm cách chứng minh điều gì? Chứng minh rằng cô vẫn chưa đánh mất sự tinh nhanh nhạy bén ư? Rằng cô vẫn còn khả năng tháo gỡ những nút thắt của một bí mật ư?

Chuyện này khiến cô háo hức bao nhiêu thì cũng khiến cô khiếp sợ bấy nhiêu. Hơn hai năm nay, cô tìm mọi cách xóa sạch quá khứ của mình, và hôm nay cô e rằng nó đã trỗi dậy một cách tàn nhẫn, như một con quỷ sống khỏi chốn giam cầm. Cô như một con nghiện ma túy hay nghiện rượu: không bao giờ cai được hẳn, có thể tái nghiện bất cứ lúc nào trước cám dỗ dù nhỏ nhất.

Khi nhớ về quá khứ, mắt cô lại ngân ngấn nước. Giữ cho mình tránh xa khỏi nỗi muộn phiền. Nhất là không được nhớ tới Alice. Cuộc điều tra cuối cùng đã đẩy cô xuống đáy vực. Cô đã tỉnh dậy trong bệnh viện sau hai ngày hôn mê vì tự tử hụt. Khi mở mắt cô đã thấy tay mình cầm chiếc điện thoại. Vẫn đang trong trạng thái ngây dại đờ đẫn, cô nhìn màn hình điện thoại mà không hiểu gì hết. Trên bàn đầu giường có một bì thư đặt gần bó hoa violet giản dị, cô mở ra và thấy bên trong là một tấm danh thiếp:

“Chúng ta luôn có quyền chọn lựa”

Em nhớ bảo trọng

Daniel

Cô quay lại với điện thoại của mình và nhận thấy ai đó đã dùng nó để quay phim. Khi cô mở file hình ảnh đó ra thì thấy gương mặt Danny hiện lên trên màn hình. Cô chưa bao giờ nhìn thấy hắn mệt mỏi như thế và cũng “người” đến thế:

- Lần này em sẽ tai qua nạn khỏi, Maddie ạ…, hắn bắt đầu nói bằng giọng đều đều không ngữ điệu.

Lần này em sẽ tai qua nạn khỏi, Maddie ạ, nhưng không phải lần nào cũng được như vậy đâu. Anh biết cảnh sát mà: họ không khác với những gã như anh là mấy. Anh biết phần lớn rồi cuối cùng cũng sẽ đi chung trên một con đường khiến người ta vỡ mông: con đường dẫn vào bóng tối, bạo lực, nỗi đau khổ, những nỗi ám ảnh, cái chết…

Anh biết em luôn ngủ mà không rời khẩu súng. Anh biết em bị nỗi sợ hãi ám ảnh. Anh biết hằng đêm em ngủ không yên giấc, giấc mơ của em đầy những bóng ma, xác chết và quỷ dữ. Anh biết quyết tâm của em, nhưng cũng biết cả mảng tối ấy trong em. Phần đó đã hiện hữu từ khi em còn là một cô bé và công việc của em chỉ khiến nó phình to thêm. Nhưng nó cũng đã biến em thành một cái xác biết đi còn sống mà như đã chết. Em đã đánh mất sự trong sáng, vẻ tươi tắn và ánh sáng của mình. Từ nay về sau, ánh sáng duy nhất thắp lên trong em là tia sáng le lói của cuộc vây dồn. Thực chất, em không khác người mẹ nghiện ma túy của cô bé kia là mấy. Em đã trở thành một con kền kền, một con nghiện cần thỏa mãn định mức săn đuổi và bắt bớ mới có thể cảm thấy phấn khích. Đó là liều thuốc của em. Em tự chích những thứ đó vào người và em sẽ chết vì chúng…

Danny dừng lại châm một điếu thuốc như thể để tìm từ ngữ. Họ đang ở trong bệnh viện nơi hút thuốc dĩ nhiên là hành động bì cấm ngặt, nhưng luật lệ đó, nếu có giá trị thì chỉ đối với cộng đồng con người chứ không liên quan đến một kẻ như Doyle.

- Em khao khát sự thật, hắn tiếp, nhưng công cuộc tìm kiếm cái tuyệt đối đó đang khiến em hao mòn và sẽ không bao giờ dừng lại. Sau Alice sẽ có những xác chết khác, những cuộc điều tra khác, những tội phạm khác cần bắt giữ… Và mỗi lần như thế, em sẽ cảm thấy phiền muộn hơn, cô độc hơn và chông chênh hơn. Em muốn vây dồn cái ác, nhưng cái ác chẳng có gì để làm với em hết. Nó sẽ phá hủy em và để lại em một mình đơn độc, có thế thôi. Rốt cuộc thì các ác luôn thắng, tin anh đi…

Em đang đi bên rìa cuộc đời mình, Maddie. Em cần phải thoát khỏi cái vòng xoáy trôn ốc này trước khi ngã nhào xuống một vực thăm nơi không lối nào thoát ra được nữa.

Anh không muốn em sống cuộc sống này. Anh không muốn em để mặc mình bị nghiền nát.

Hãy chuồn khỏi khu phố này, Maddie ạ. Hãy chuồn khỏi thành phố khốn kiếp này. Hãy biến những giấc mơ của em thành hiện thực. Tới Paris đi. Mở tiệm hoa mà em đã nhắc tới bao lâu nay! Đừng để nó chỉ là ảo tưởng. Em thậm chí đã tìm ra cho nó một cái tên, anh còn nhớ… Là gì nhỉ? Tên một bài hát Pháp xưa cũ, anh nghĩ thế: Khu vườn kì diệu…

Câu nói ngừng giữa chừng. Danny cởi cúc áo sơ mi rồi bồn chồn rít vài hơi thuốc, mắt rời khỏi ống kính máy quay. Hắn dụi mắt, thở dài, tìm điều gì đó để nói thêm, tay đưa lại gần điện thoại định tắt camera đi rồi lại đổi ý. Trông hắn như thể đang rất tuyệt vọng. Một dòng nước mắt mệt mỏi bất ngờ trào dâng trong mắt hắn rồi chảy tràn xuống má. Hắn quệt nước mắt bằng một cử chỉ vụng về, gần như con trẻ. Hẳn là trong đời mình Danny không khóc nhiều. Cuối cùng, hắn chỉ thì thầm:

- Anh yêu em.

Rồi hình ảnh giật lên trước khi mờ dần.

Và theo bản năng Madeline hiểu rằng Danny đã chết.

Nằm trên giường bệnh, cô nhìn bó violet rồi nhìn tấm danh thiếp lần nữa. Khi lật mặt sau, cô thấy một dãy số liên tiếp. Một số điện thoại mà cô bấm gọi ngay sau đó. Đó là số của một ngân hàng ở Thụy Sĩ. Cô xưng tên và người ta thông báo rằng một tài khoản đã được mở dưới tên cô, số dư của tài khoản hiện giờ là 300.000 euro.

San Francisco

Hình ảnh giật lên trước khi mờ dần.

Mất vài giây, Jonathan ngồi sửng sốt trước màn hình, dù không muốn nhưng anh vẫn cảm thấy có phần khâm phục kẻ gian ác này.

Gã Danny Doyle này… Cái gã kỳ quặc này…

Hai năm rưỡi qua hắn đã thành ra thế nào?

Ở cái thời đại đáng sợ mà chúng ta đang sống, phần lớn các câu hỏi không chống chọi với Internet được lâu, và thêm lần này nữa, Google đem lại cho anh câu trả lời gần như tức thì.

Khám phá rùng rợn tại cửa ô Manchester

Bài báo đăng ngày 10 tháng Bảy 2009. Một hoặc hai ngày sau khi đoạn phim được ghi lại. Danny không lòe bịp, hắn biết mình đang gặp nguy hiểm chết người. Nhà báo giải thích rằng xác của bố già đạo tặc Danny “Dub” Doyle được tìm thấy trong tình trạng chân bị cắt cụt, răng bị nhổ sạch bằng kìm. Băng cướp Ukraina đã tung đòn trả thù dã man…

Khám phá mới này làm anh lạnh sống lưng. Jonathan trở lại màn hình chính. Chỉ còn một tài liệu cuối cùng chưa mở. Một file đuôi JPG: một bức ảnh. Anh di con trỏ trên màn hình máy tính, nhấp vào hình ảnh, và máu anh như đông lại.

Paris

Đại lộ Victor-Hugo

George LaTulip rời khỏi nhà hàng sau 14 giờ một chút. Ngay lập tức, Madeline leo lên mô tô rồi bám sát mục tiêu để không mất dấu hắn. Cô theo hắn đến tận phố Clément-Marot thuộc trung tâm khu Tam giác vàng. Chiếc Porsche đỗ vài giây trước một hãng bất động sản hạng sang. Người phụ nữ trẻ ngồi vào xe của George LaTulip và ôm hôn hắn thắm thiết. Rõ ràng cô là một cộng tác viên của hãng. Cao ráo, tóc vàng, trẻ trung, váy ngắn và nét quyến rũ đặc trưng của dân Slavơ. Gợi cảm, nhưng đủ thanh lịch để bán những căn hộ giá ba bốn triệu euro cho những khách hàng sang trọng. Chiếc xe rời quận VIII sang bờ tả sông Seine rồi tới bãi đỗ xe của trường Y. Tay trong tay, cặp đôi dạo bwowcsc dọc phố Saint-Sulpice, rẽ sang phố Bonoparte trước khi bước qua cổng vào một tòa nhà nằm trên phố Abbaye.

Madeline kiên nhẫn chờ khoảng hai mươi phút trước khi đến lượt một bà lớn tuổi về tới nơi. Cô vội theo chân bà ta vào bên trong để kiểm tra hòm thư của cư dân sống trong tòa nhà. Một trong số đó mang tên LaTulip. Rõ ràng là George đang sống đời vương giả: xe đẹp, bồ trẻ, căn hộ ở Saint-Germain-des-Prés. Không hề tệ đối với một người trước đây từng bán bánh mì kẹp xúc xích.

Khoảng lặng yêu đương của cặp tình nhân không kéo dài: khoảng mười lăm phút sau đã thấy họ sánh đôi bước ra phố. Họ rảo bước tới bãi đỗ xe, rồi George đưa cô bồ về lại nơi làm việc. Không nhận ra mình đang bị theo dõi, hắn về khu phố Ternes theo lối đại lộ Wagram, rẽ sang phố Néva rồi tiến qua cánh cổng oai nghiêm của một dinh thự màu trắng lợt.

Madeline lao thẳng mô tô lên vỉa hè rồi phanh khựng lại trước tấm biển mạ vàng có khắc chữ cái hiện đại cho biết tên của tòa nhà: Quỹ DeLillo.

Cô “cảnh sát” đỗ xe cách khán phòng Pleyel không xa rồi quay trở lại. Trận tuyết rơi hồi sáng đã nhường chỗ cho mặt trời nhưng cái lạnh vẫn cắt da cắt thịt khiến miệng của cô gái người Anh phả ra từng làn khói.

Cô đang ở trong khu phố sầm uất; những quán hàng ăn uống không thiếu: Marison du Chocolat, trà quán Mariage Frères… Không muốn rời mắt khỏi lối vào tòa nhà nhưng vẫn thèm sưởi ấm, Madeline ngồi vào một bàn nơi trà quán nổi tiếng nhất Paris.

Bao quanh quầy là các tầng giá gỗ sồi nguyên khối bày hàng chục hộp sắt đựng các loại trà khô quý giá bậc nhất. Không gian quán phảng phất mùi hương trầm và mùi hoa nhài. Danh mục các loại trà phong phú vô kể. Madeline chọn lựa có phần hú họa khi để mặc mình bị dẫn dắt bởi chất thơ của những cái tên và yêu cầu một tách trà “Sương mù Himalaya” kèm một bánh xốp bơ.

Như một phản xạ, cô lấy laptop ra, kết nối wifi để truy cập Internet.

Công cuộc tìm kiếm với từ khóa Quỹ DeLillo cho cô biết rằng Francescank DeLillo, bố của Francesca, đã sáng lập tổ chức này chỉ vài năm trước khi qua đời. Hoạt động của quỹ thiên về cấp học bổng hỗ trợ để các học sinh xuất sắc có hoàn cảnh khó khăn có thể tiếp tục học lên cao. Hiệp hội này – một trong những hiệp hội hào phóng nhất trên thế giới – đặt trụ sở tại New York, nhưng có chi nhánh tại Paris mà người nắm quyền điều hành chính là… George LaTulip.

Madeline trầm ngâm nhấp một ngụm trà đượm vị quả phi và nho xạ. Gọng kìm đang siết chặt quanh LaTulip bởi mọi hướng điều tra đều quy về hắn. Nhờ phép màu nào mà người đàn ông vốn có xuất phát điểm là sô không tròn trĩnh ấy lại có thể được cả Francesca lẫn tập đoàn đã “tống cổ” Jonathan cùng trải thảm đỏ đón chào?

Mỗi khám phá mới lại đẩy cơn phấn khích của cô tăng lên một nấc. Cuộc điều tra này khiến cô thích thú. Ngay lúc này, cô không còn nghĩ tới những bó hoa, những đồ trang trí hay đến tiệm hoa nữa. Cô chỉ còn nghĩ tới việc khám phá bí mật của George LaTulip, cô chắc chắn đó cũng là bí mật cuộc chia tay giữa Francesca và Jonathan.

Hai tiếng rưỡi sau

Trời đã tối khi George rời khỏi tòa nhà của Quỹ DeLillo. Trong khoảng thời gian chờ đợi, Madeline đã kịp thưởng thức nhiều loại trà khác nhau. Cô vội vàng thanh toán một hóa đơn khá nặng đô rồi tới chỗ dựng mô tô đúng lúc chiếc Porsche phóng hết tốc lực ra đại lộ Courcelles.

Khỉ thật!

Cô cưỡi lên chiếc Triumph rồi vít ga nhưng tới được quảng trường Ternes thì mất dấu chiếc Panamera.

Đừng hoảng.

Xét theo logic của George hắn phải quay về nhà hàng để lo phục vụ bữa tối chứ nhỉ.

Trúng phóc! Cô lại gặp chiếc ô tô hòm của hắn ở đoạn quảng trường Ngôi sao. Một lần nữa, cô cảm thấy thoáng rùng mình vì phấn khích. Càng lúc cô càng nhập tâm vào trò chơi “điều tra” này. Cô PHẢI khui ra bí mật của George, PHẢI lục soát căn hộ của hắn, PHẢI hỏi cung hắn để buộc hắn thú tội, PHẢI…

STOP! Mày đâu còn là cảnh sát nữa! Giọng nói trong đầu cô thét bảo.

Đúng vậy, tiến hành một cuộc điều tra khó hơn nhiều khi không có thẻ nghiệp vụ. Không thể triệu tập hắn tới đồn cảnh sát hay xin lệnh khám xét nơi ở của hắn. Nhưng thiếu đi uy lực đó thì cô vẫn có thể sử dụng mẹo vặt để tìm ra cách tiếp cận với hắn để chiếm được lòng tin của hắn.

Cách nào nhỉ?

Mặt bạt gió, Madeline bám theo chiếc ô tô tới đại lộ Victor-Hugo rồi dừng lại cùng nó trước đèn đỏ. Cà phê Fanfan chỉ còn cách chừng hai mươi mét nữa.

Tìm ra kế gì đó. Ngay bây giờ.

Khi đèn tín hiệu chuyển sang xanh, cô tăng tốc để tiến lên ngang tầm chiếc Panamera.

Dù sao thì mày cũng sẽ không liều đến mức tự làm mình gãy xương đấy chứ!

Nhưng một sức mạnh đã đẩy cô về phía trước.

Đừng phá hoại chiếc mô tô đẹp đẽ của mày chứ!

Trong khi chiếc Porsche đi chậm lại, Madeline cắt ngang đường đi của nó, thình lình phanh gấp để khóa cứng bánh sau chiếc mô tô. Thanh chắn sốc đụng mạnh vào chiếc mô tô đúng lúc nó đổ nghiêng. Madeline văng ra khỏi chiếc Triumph đang trượt đi trên mặt đường rải nhựa và chỉ kết thúc hành trình trượt dài đó khi va vào một cột đèn đường. Người phụ nữ trẻ lăn trên mặt đường. Đầu cô dộng xuống đất nhưng được bảo vệ nhờ chiếc mũ bảo hiểm che kín đầu và chấn động nhẹ đi nhờ lúc xảy ra va chạm cả hai phương tiện đều đang chạy chậm.

Bốn bánh chiếc Panamera nghiến ken két, để lại trên mặt đường một vệt lốp rồi dừng khựng lại. George hốt hoảng rời khỏi con quái vật bằng thép của mình để chạy vội tới chỗ Madeline.

- Tôi… tôi xin lỗi! Cô đã cắt ngang đường tôi!

Madeline ghi nhận mức độ thiệt hại: Áo khoác của cô bị sờn, quần jean bị rách, hai bàn tay và cẳng tay trầy xước. Nhưng ngoài những thứ đó ra không có gì nghiêm trọng hết.

- Tôi sẽ gọi cứu thương. George vừa nói vừa mở điện thoại di động.

- Tôi nghĩ không cần đâu, cô đảm bảo rồi nhấc mũ bảo hiểm ra khỏi đầu.

Cô lùa tay cho tóc hơi rối lên rồi tặng cho hắn nụ cười đẹp nhất của mình.

Một tia ham muốn lóe lên trong mắt George - ánh nhìn sáng quắc của một gã thợ săn.

Nắm lấy bàn tay hắn vừa chìa ra để giúp cô đứng dậy, Madeline hiểu rằng cô vừa bước được một chân qua cánh cửa.

Đó là bước thứ nhất: thâm nhập hàng ngũ địch.

San Francisco

Jonathan nhấp chuột vào file cuối cùng. Bức ảnh mở ra ở chế độ toàn màn hình. Đó là bản sao tấm áp phích khổ nhỏ từng được niêm yết hàng nghìn bản trên khắp Vương quốc Anh để loan tin về vụ mất tích của Alice Dixon. Chính giữa trang áp phích là bức ảnh của một bé gái khoảng mười lăm tuổi, tóc vàng khô cứng, nụ cười chua xót và gương mặt hết sức xanh xao lấm tấm tàn nhang. Người ta chọn bức này bởi trong ảnh cô bé mặc đúng chiếc áo nỉ đã mặc hôm mất tích: một chiếc áo nỉ chui cổ lót bông có mũ màu hồng pha xám hiệu Abercrombie & Fitch. Một chiếc áo nỉ quá rộng so với khổ người được cô bé tạo nét khác biệt bằng cách khâu thêm một phù hiệu của đội bóng Manchester United.

Trong số các tài liệu khác của “hồ sơ Dixon”, Jonathan hầu như chỉ tập trung vào các ghi chép cá nhân của Madeline và các tài liệu chính thức của cuộc điều tra. Đây là bức chân dung đầu tiên của Alice mà anh thực sự bỏ thời gian quan sát.

Ngay khi bức ảnh xuất hiện trên màn hình, tim anh đã giật thót trong lồng ngực. Một cơn khó thở xâm chiếm anh. Rồi ánh mắt anh gặp phải ánh nhìn của Alice, lòng anh như thắt lại.

Anh biết cô bé này.

Anh từng gặp cô bé.

Anh từng nói chuyên với cô bé.

Sửng sốt và lo sợ, anh vội vã đóng máy tính lại. Tim anh đập dồn, tay anh run run. Anh hít thở sâu để trấn tĩnh lại nhưng không ăn thua.

Ký ức về cuộc gặp gỡ đã để lại trong tâm trí anh một vết sẹo không phai nhạt lại sống dậy mãnh liệt. Anh thử gạt nó đi, nhưng cơ thể anh lại run rét từng cơn như thể đang tan rã dưới tác động của nỗi sợ.

Anh cần phải biết rõ ràng từ đầu chí cuối.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
623,263
Điểm cảm xúc
35
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 18: Thuốc ngủ


“Trong mọi điều tổn hại thì thương tâm nhất chính là những tổn hại mà người ta tự buộc mình phải chịu.”

SOPHOCLE

San Francisco

Thứ Hai 19 tháng Mười hai

22h30

Jonathan xuống trạm xe cáp cách nhà thờ Grace hai khối nhà. Thành phố chìm trong một thứ sắc trắng mờ đục bóp nghẹt mọi âm thanh và phủ lên những con phố tấm màn bí ẩn. Rời phố Powell, anh cuốc bộ thêm chừng trăm mét trước khi tới bệnh viện Lenox.

- Tôi có hẹn với bác sĩ Moracles, anh thông báo với quầy lễ tân.

Vì được yêu cầu chờ trong đại sảnh, anh thả phịch người xuống chiếc trường kỷ trong phòng chờ rồi rút từ trong túi ra tờ giấy in ảnh chân dung Alice.

Gương mặt cô bé ám ảnh anh suốt cả ngày trời. Anh đã tìm mọi cách gạt đi ký ức về cô bé, ra sức tự nhủ rẳng mình đã nhận nhầm người, nhưng chỉ phí công vô ích. Khi anh gặp Alice Dixon, tóc cô bé màu nâu và cô bé khẳng định mình tên là Alice Kowalski, nhưng cô bé mặc đúng chiếc áo chui đầu màu hồng đó và ánh mắt cũng mang cùng vết thương đó.

- Chào anh, Jonathan.

- Chào em, Ana-Lucia, anh đáp, ngước mắt nhìn người phụ nữ trẻ trung xinh đẹp với nước da nâu và mái tóc đen huyền.

Từ bác sĩ Moracles toát ra vẻ thanh lịch và giản di. Vóc dáng nhỏ nhắn, cô mặc chiếc áo blouse trắng mở cúc để lộ áo sơ mi bên trong theo kiểu áo vest ôm sát thân, kín đáo tôn lên đường nét ưa nhìn của cô.

- Anh lên phòng làm việc của em chứ?

Anh quả quyết bước theo cô vào thang máy.

- Đã lâu rồi nhỉ, cô nhận xét rồi ấn nút để thang máy lên tầng bảy.

- Hơn một năm rồi, Jonathan thừa nhận.

Buồng thang máy đi lên trong thinh lặng. Anh đã gặp Ana-Lucia Moracles ngay trong những tháng đầu tiên sống tại San Francisco. Một thời kỳ khó khăn của đời anh. Elliott Cooper, một bác sĩ phẫu thuật trong bệnh viện, khách hàng quen thuộc của nhà hàng do anh làm chủ cuối cùng đã trở thành bạn anh và giới thiệu anh đến khám chỗ nữ bác sĩ tâm lý này. “Tuy không thể tự giải quyết mớ bòng bong trong cuộc sống riêng, nhưng Ana-Lucia biết cách giúp đỡ người khác, ngay cả khi cô ấy hơi quá xinh đẹp để hành nghề bác sĩ tâm lý”, ông bác sĩ già vẫn cảnh cáo anh như thế.

Jonathan đã tới điều trị vài buổi, thổ lộ tâm tình, rồi anh đến chỉ để lấy thuốc an thần, rồi anh không đến nữa. Phân tích tâm lý không phải thứ dành cho anh, dù thế nào anh củng chưa sẵn sàng.

Một tối, vài tuần sau buổi khám cuối cùng, anh tình cờ gặp Ana-Lucia tại một quán bar khu North Beach. Nơi này giống một quán rượu dành cho dân chơi mô tô hơn là một quán cà phê thời thượng. Trên sân khấu là tay ghi ta solo đang cover một ca khúc cũ của Led Zep’, một chân nện trống caJonathan, chân kia điều khiển bảng thu âm thanh mẫu. Jonathan vẫn chưa quên được vợ cũ; còn Ana-Lucia vừa bị bạn trai – một kẻchơi chứng khoán thích sở hữu và ích kỷ sống ở đầu bên kia nước Mỹ – bỏ rơi, nhưng nữ bác sĩ đã trót mê hắn như điếu đổ. Họ uống bia, tán tỉnh nhau đôi chút và đều cảm thấy sẵn sàng làm chuyện ngu ngốc. Mỗi người chúng ta ai cũng có phút yếu lòng…

- Anh có vẻ không được khỏe cho lắm, cô lên tiếng phá vỡ im lặng.

- Anh từng biết đến những ngày khá khẩm hơn, anh thừa nhận. Thực ra, anh có chuyện này muốn nhờ em.

Cửa thang máy mở ra một hành lang dài dẫn tới phòng làm việc của Ana-Lucia, căn phòng nhỏ với ánh sáng dịu mắt trông ra phố Hyde.

- Em nghe anh nói đây.

- Nếu anh nhớ không nhầm thì mỗi lần anh tới khám, em đều ghi âm lại cuộc trò chuyện giữa chúng ta, phải vậy không?

- Vâng, nhưng số buổi khám chỉ đếm trên đầu ngón tay, cô vừa nhớ lại vừa gõ họ tên Jonathan trên bàn phím.

Tìm ra hồ sơ bệnh án của anh rồi, cô nói rõ thêm:

- Em có ba bản ghi âm đây.

- Em cho anh lấy các file đó được không?

- Dĩ nhiên, em sẽ gửi cho anh qua mail ngay bây giờ. Đó là một phần của việc điều trị mà. Anh có cần thêm thứ gì khác không?

- Cảm ơn em, vậy là ổn rồi, anh nói chắc rồi đứng dậy.

- Vậy được rồi, em không nài thêm nữa.

Đến lượt cô cũng đứng dậy, cởi chiếc áo blouse ra treo lên mắc.

- Em hết giờ làm rồi, để em đưa anh về nhé? Cô đề nghị rồi khoác thêm chiếc áo khoác da màu hạt dẻ, nó khiến cô giống một siêu mẫu hơn là một bác sĩ.

- Được vậy thì tốt quá.

Anh theo cô xuống bãi đỗ xe dưới tầng hầm, cô bước tới một chiếc Audi Spyder mới toanh.

- Em khám bệnh bao nhiêu buổi một tuần mới đủ sức tậu cho mình một chiếc xe như thế này?

- Xe này không phải của em, cô tránh khéo rồi khởi động xe.

- Anh hiểu rồi, chàng trai chứng khoán của em đã trở lại.

- Còn vợ anh thì không ư?

Jonathan nhún vai vì thấy câu hỏi thật phi lý.

Chiếc mui trần lao nhanh trên phố Bush rồi rẽ sang Leavenworth. Ana-Lucia thích sống mạo hiểm. Cô tranh thủ tuyến đường vừa dài vừa thẳng của phố California để tăng tốc đột ngột.

- Em chơi trò gì vậy?

- Em xin lỗi, cô nói rồi giảm tốc độ.

Vẻ trầm ngâm, cô cho xe chạy chậm ngược lên đại lộ Grant rồi Lombard trong thinh lặng. Một lúc sau, cô đánh liều nhận xét:

- Anh cũng giống như tất cả mọi người, Jonathan ạ, lạc lối trong những vùng tối của riêng mình. Anh sẽ chỉ thực sự khá hơn khi tự trút bỏ được gánh nặng của những bóng ma trong tâm trí mình.

- Những bóng ma thì đâu có nặng, anh đùa.

- Nhưng những thứ xiềng xích chúng kéo theo thì nặng đến hàng tấn, cô bật lại.

Anh ngẩm nghĩ về lời đáp này suốt quãng đường còn lại, rồi cô thả anh xuống đỉnh đồi Telegraph.

- Còn em, em ổn hơn rồi chứ? Anh hỏi khi mở cửa chiếc Spyder.

- Không, cô thú nhận, nhưng đó lại là chuyện khác.

- Được rồi, vậy anh không nài thêm nữa.

Cô khẽ nở một nụ cười rồi phóng như bay về phía thành phố đang sáng đèn.

Nhẹ nhõm khi về đến nhà, Jonathan đẩy cửa bước vào. Marcus đã ngủ trên trường kỷ trước màn hình ti vi đang chiếu một tập Star Trek cũ rích. Anh tắt ti vi rồi ghé qua phòng con trai để kiểm tra xem mọi việc có ổn không. Charly đang say ngủ. Cậu nhóc ngủ gục trên chiếc máy tính bảng giữa lúc trợ giúp lũ Angry Birds chiến đấy chống lại đàn lợn xanh.

Hơi tức giận, Jonathan tắt máy tính bảng. Hồi tầm tuổi này, anh thường ngủ gục trên một trang sách đọc dở chứ không phải trước màn hình máy tính! Anh hồi tưởng lại cái thời đã xa khi anh miệt mài đọc Tintin, Ba chàng lính ngự lâm, Marcel Pagnol, Jules Verne, rồi sau này là Stephen King và John Irving. Toàn bộ những thứ đó có vẻ như thật xa vời. Giờ đây truyền hình, video game, máy tính, điện thoại di động, các loại màn hình và các loại mạng xâm chiếm cuộc sống của chúng ta ngay từ khi còn tấm bé. Để biến mọi thứ thành tệ hại hơn.

Mình đã trở thành lão già xuẩn ngốc rồi chăng? Anh tự vấn trước khi chính mình cũng không cưỡng nỗi sức hấp dẫn của chiếc máy tính và ngồi trước laptop để check mail của Ana-Lucia.

Đúng là có ba file định dạng mp3 ứng với ba buổi trị liệu anh đã tham gia cùng nữ bác sĩ. Anh biết chính xác thứ mình đang tìm kiếm. Đoạn băng ghi âm anh muốn nghe lại là đoạn mở đầu buổi trị liệu thứ hai.

Anh đeo tai nghe, tắt điện rồi ngồi trên trường kỷ nghe đoạn băng ghi âm.

Những phút đầu tiên, người ta nghe thấy chủ yếu là giọng Ana-Lucia, có tác dụng trấn an lạ thường, cố gắng đưa bệnh nhân của mình vào trạng thái thư giãn hoàn toàn hơi giống với một giấc ngủ thôi miên nhẹ.

Rồi cô đi vào điểm mấu chốt của vấn đề:

“Tuần trước, anh đã kể cho tôi nghe tuần lễ tệ hại nhất trong đời anh: chỉ trong vài ngày anh đã cùng lúc mất đi người vợ và công việc. Cũng trong tuần đó anh biết tin cha mình qua đời, người cha mà anh đã không trò chuyện suốt mười lăm năm nay. Anh nói mình phải đắn đo rất lâu trước khi quyết định tới dự lễ tang. Rồi cuối cùng anh đã đáp máy bay tới Paris, có đúng như vậy không?”

Sau một lúc im lặng, Jonathan bắt đầu thú thật. Vào thời hoàng kim truyền thông của anh, anh đã quen với các trường quay của đài truyền hình và nhẵn mặt với các cuộc phỏng vấn. Nhưng đã hai năm rồi Jonathan không còn “tự nghe mình nói” nữa nên anh thấy hơi kỳ cục khi nhận ra cách nói cũng như cách phát âm của mình thời đó chất chứa cảm xúc và đau đớn đến mức nào:

“Tôi đã tới Paris vào cuối giờ chiều ngày 31 tháng Mười hai. Năm đó, tiết trời mùa đông trên toàn nước Pháp lạnh căm. Tuyết đã rơi từ tuần trước và ở một vài nơi, thủ đô nước Pháp trông chẳng khác nào một khu trượt tuyết…”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
623,263
Điểm cảm xúc
35
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 19: Cắt ngang đường bạn đi


“Thành công không phải lúc nào cũng là một dấu hiệu cho thấy sự phát triển, thậm chí nó thường là lợi ích thứ phát của một nỗi đau sâu kín.”

Boris CYRULNIK

“Tôi đã tới Paris vào cuối giờ chiều ngày 31 tháng Mười hai. Năm đó, tiết trời mùa đông trên toàn nước Pháp lạnh căm. Tuyết đã rơi từ tuần trước và ở một vài nơi, thủ đô nước Pháp trông chẳng khác nào một khu trượt tuyêt…”

Paris

Hai năm trước

31 tháng Mười hai 2009

Tôi thuê xe ngay tại sân bay, một chiếc ô tô hòm tiện nghi của Đức được cho là vận hành tốt để đảm bảo hành trình suôn sẻ. Lẽ ra tôi có thể đáp một chuyến bay thẳng tới Toulouse nhưng vì vướng mấy ngày lễ nên lễ an táng của cha tôi bị hoãn lại tới mùng 2 tháng Một, và ý nghĩ sẽ trải qua đêm giao thừa tang tóc cùng chị gái và anh rể khiến tôi nhăn mặt.

Thế nên tôi quyết định lái xe tới Auch rồi tối ngày hôm sau mới khởi hành. Tôi vẫn còn hai mươi tư giờ trước mắt. Ba ngày nay tôi chưa chợp mắt nên định sẽ nhấn chìm cơn mất ngủ này trong một đêm thật dài. Bấy giờ tôi đang mơ đến một bộ sưu tập các loại thuốc ngủ có thể hạ gục cả một trung đoàn, nhưng tôi không mang đơn thuốc theo người và cũng không dễ tìm ra một vị bác sĩ vào giờ này. Trước hết tôi phải tìm được một khách sạn đã, bởi lẽ khách sạn nằm ở quận VI nơi tôi thường ghé đã không còn phòng trống.

- Chúng tôi đã kín phòng, tay nhân viên lễ tân sẵng giọng thông báo với tôi.

Thông thường, ngay cả khi tôi bất chợt ghé qua không thông báo trước thì quản lý khách sạn vẫn xoay xở để tiếp đón tôi hết sức trọng thị bởi lẽ tôi là Jonathan Lempereur, bởi lẽ việc tôi chọn nghỉ chân trong khách sạn của họ là niềm vinh dự đối với họ, bởi lẽ họ từng treo bức ảnh tôi ký tặng trong phòng khách nhỏ của khách sạn, cùng ảnh của những nhân vật quan trọng khác từng lưu lại nơi đây. Nhưng tin tức lan nhanh và các nhân viên hẳn đã biết về sự “thất sủng” của tôi, bởi không ai cố gắng động chân động tay giúp đỡ tôi. Tôi có quen một vài đồng nghiệp trong lĩnh vực kinh doanh khách sạn và nhà hàng cao cấp, nhưng sự đau đớn nơi tôi cũng có giới hạn và tôi đã quyết định dứt khoát không gói cảnh tán gia bại sản của mình thành quà tặng họ. Sau vài cuộc điện thoại, cuối cùng tôi cũng tìm ra phòng nghỉ qua đêm trong một khách sạn khiêm nhường tại quảng trường Château-Rouge, góc đại lộ Barbès giao với phố Poulet. Phòng của tôi quả là “khiêm nhường”, thậm chí còn tuềnh toàng. Nhất là lạnh ngang Bắc Cực. Tôi đã thử tăng mức sưởi lên nhưng tình hình vẫn không khá hơn là mấy. Bây giờ là 17 giờ; trời đã sâm sẩm tối. Tôi đang ngồi trên giường, hai tay ôm lấy đầu. Tôi nhớ con trai, nhớ vợ, nhớ cuộc đời mình. Chỉ trong một tuần tôi đã mất tất cả. Vài ngày trước tôi vẫn sống cùng gia đình trong một căn hộ rộng thênh thang tại khu TriBeCa, tôi điều hành một đế chế, tôi có thẻ tín dụng Black Card và nhận chục lời mời phỏng vấn mỗi tuần… Tối nay, tôi bỗng muốn khóc và chuẩn bị đón năm mới trong không khí cô quạnh của một phòng khách sạn tồi tàn.

You’ll never walk alone…

Một sự thật hiển nhiên thảm thê bỗng đỗ ụp xuống tôi. Tôi rời phòng khách sạn để ngồi lên chiếc xe thuê. Tôi nhập một địa chỉ vào thiết bị GPS, phố Maxime-Gorki ở Aulnay-sous-Bois rồi lái theo chỉ dẫn của giọng nữ cài sẵn trong thiết bị. Trên ghế cạnh lái là một chồng báo tạp chí của cả Pháp lẫn Mỹ mua tại sân bay. Báo chí Pháp, vốn thường xuyên lờ tôi đi suốt những năm gần đây, lần này đã tha hồ thòa mãn: Lempereur bị truất ngôi, Lempereur thoái trị, Sự sụp đổ của Lempereur…

Đó là trò chơi của giới truyền thông và tôi đã chuẩn bị tinh thần đón nhận. Tuy nhiên, không phải vì thế mà những dòng tít này trở nên dễ nghe hơn, chúng chẳng khác nào cú đấm vào giữa mặt tôi. Thậm chí tôi không thể tự thuyết phục mình rằng mình sẽ gượng dậy được. Ngoại trừ việc sáng tạo những công thức chế biến mòn ăn thì tôi biết làm gì nào? Không gì cả hoặc rất ít ỏi… Mất Francesca, tôi mất luôn tình yêu nồng cháy vẫn luôn thúc đẩy tôi tiến tới, đòn bẩy đưa tôi từ một bếp trưởng “tầm thường” trở thành chủ nhà hàng hạng nhất thế giới. Tại Pháp có hai mươi lăm nhà hàng ba sao và tổng cộng gần tám mươi nhà hàng như thế trên toàn thế giới, nhưng trong đó chỉ duy nhất một nhà hàng có danh sách khách chờ hơn một năm mới đặt được bàn. Đó là nhà hàng của tôi và tôi biết mình làm nên kỳ tích ấy là nhờ Francesca. Bởi tôi chỉ được tiếp thêm lửa theo cách đó - tình yêu độc tôn, niềm đam mê, nhu cầu quyến rũ nàng không ngừng nghỉ. Phải tới năm ba mươi mốt tuổi tôi mới gặp Francesca, nhưng tôi đã tìm kiếm nàng từ thời còn học trung học. Suốt mười lăm năm nuôi hy vọng một người phụ nữ như nàng tồn tại đâu đó trên Trái đất này. Một phụ nữ đẹp như Catherine Zeta-Jonathanes được cấy ghép bộ não của Simone de Beauvoir. Một phụ nữ sở hữu mười đôi Stilettos trong tủ giày, nhưng lại có khả năng trò chuyện vời bạn bè về ảnh hưởng từ âm nhạc của Haydn lên toàn bộ tác phẩm của Beethoven hay về hiệu ứng tình cờ trong tranh của Pierre Soulages.

Khi Francesca bước vào một căn phòng, nàng thu hút hết thảy ánh nhìn. Phụ nữ muốn nàng trở thành bạn thân nhất của họ, nam giới khao khát được ngủ với nàng, trẻ con thích kiểu dí dỏm của nàng. Chuyện đó diễn ra như theo phản xạ, như một thông lệ, không thể tránh khỏi. Chúng tôi đã sống những năm tháng yêu đương mặn nồng trong vầng sáng nóng bỏng ấy và sự phân chia nhiệm vụ kỳ khôi: tôi có danh tiếng, nàng có sự thành điệu và lôi cuốn. Tình yêu của chúng tôi đã duy trì được thế cân bằng suốt mười năm liền trên sợi dây mỏng manh đó.

Lái theo xa lộ, chừng hai mươi phút sau tôi có mặt ở Aulnay. Tôi tìm thấy một chỗ đậu xe trên phố Gorki, cách tòa nhà nơi Chirstophe Salveyre đang sống không xa.

- Jonathan đây, tôi nói luôn khi nhấn vào chuông báo.

- Jonathan nào nhỉ?

- Jonathan Lempereur, em họ của anh đây.

Salveyre là con trai của chị gái mẹ tôi. Chúng tôi chưa từng gặp nhau cho tới khi anh liên lạc với tôi qua điện thoại tại New York cách đây bao năm. Khi tới nghỉ ở thành phố được mệnh danh là Quả Táo Lớn, anh bị cảnh sát bắt tạm giam sau một cuộc ẩu đả trong quán bar. Anh không quen biết ai ở Manhattan và không còn đồng xu dính túi. Nể tình máu mủ ruột ra, tôi đã trả tiền bão lãnh cho anh tại ngoại rồi để anh ở tạm khu nhà phụ của nhà hàng suốt nửa tháng trong lúc chờ vụ việc của anh được dàn xếp ổn thỏa. Anh chơi bài ngửa và không hề giấu tôi bản chất công việc anh làm tại Pháp: anh chuyên phân phối lẻ ma túy. Tôi nghe chuyện đó mà lạnh sống lưng, nhưng anh trấn an ngay rằng trên lãnh thổ Mỹ thì anh chẳng hề có tội tình gì.

- Cậu làm cái quái gì ở đây thế? Anh hỏi tôi khi ra mở cửa.

- Em cần anh giúp lại em một việc, tôi vừa nói vừa lẻn vào căn hộ.

- Mẹ kiếp, cậu đến không đúng lúc rồi. Tôi về để “sạc đầy bình” đấy, nhưng sẽ lại đi ngay bây giờ.

- Em có chuyện quan trọng.

- Cậu muốn gì?

- Em cần vũ khí.

- Vũ khí á?

- Một khẩu súng.

- Cẩu thấy trên cửa ra vào có đề “cửa hàng bán vũ khí” chắc? Cậu muốn tôi kiếm đâu ra một khẩu súng cho cậu bây giờ?

- Anh cố gắng đi!

Salveyre thở dài thườn thượt.

- Mẹ kiếp, hôm nay là giao thừa đấy! Mọi người đều tiệc tùng còn tôi thì đang có một mớ hàng khủng phải bán tống bán tháo đây. Mai quay lại gặp tôi nhé.

- Không, em cần thứ đó ngay tối nay!

- Tối nay thì tôi không thể rồi. Tôi phải đi giao hết hàng càng sớm càng tốt.

- Hãy nhớ rằng em đã giúp anh khi anh gặp rắc rối…

- Vậy ai sẽ trả cho tôi khoản lãi hụt kia?

- Cứ nói cho em biết anh cần bao nhiêu đi.

- Tôi sẽ giúp nếu cậu mua cho tôi 4.000 euro tiền hàng. Và thêm 3.000 nữa cho khẩu súng.

- Nhất trí, tôi đáp với vẻ không quan tâm. Anh không ngại cầm tiền đô chứ?

Khi rời New York, tôi đã vét sạch két sắt và có trong túi hơn 10.000 đô tiền mặt.

- Cho tôi một giờ đồng hồ, anh bảo tôi. Cậu có thể đợi luôn ở đây cũng được: tranh thủ nghỉ ngơi đi, mặt mũi cậu trông đến khiếp.

Tôi nghe theo lời khuyên của anh và ngã vật xuống trường kỷ. Trên bàn có một chai Cognac đã khui. Tôi rót cho mình một cốc to rồi thêm một cốc nữa trước khi thiu thiu ngủ.

Salveyre quay trở lại lúc quá tám giờ tối một chút.

- Cho cậu xem thứ tôi vừa tìm thấy này; anh nói rồi đưa tôi một khẩu súng lục mạ crom báng màu đen.

Khẩu súng nhỏ gọn nhưng vừa tay. Ổ đạn đủ năm viên.

- Đây là một khẩu Smith&Wesson mẫu 60 cỡ nòng 38 đặc biệt.

Thông tin ấy lọt vào qua tai này rồi lại ra ngoài qua tai kia.

Tôi đưa tiền cho anh, anh đưa lại một túi nhựa dẻo đáy tròn khóa kéo chứa chừng hai mươi liều ma túy. Tôi lưỡng lự định để lại cho anh, nhưng cuối cùng vẫn quyết định sẽ mang theo, tự nhủ mình sẽ hủy sau.

Như thế thì sẽ không có ai được tiêu thụ số hàng trắng này, tôi tự bào chữa.

Tôi biết, mình thật ngây thơ…

20 giờ

Tôi cất khẩu súng và chỗ cocain đó vào hộc đựng đồ trên xe rồi lái thẳng hướng khách sạn. Không cần phải bật GPS để lái hết quãng đường theo chiều ngược lại: xa lộ A1, lối ra cửa ô Chapelle…

Khỉ thật.

Tôi vừa ngớ ngẩn bỏ lỡ một lối rẽ vào đường nhánh. Rượu Cognac đã hạ tôi đo ván. Bỗng nhiên tôi không còn chắc lắm về tên phố nữa. Tôi lái tiếp trên chuỗi các đại lộ mang tên Thống chế khoảng năm trăm mét giữa cửa ô Clignancourt và cửa ô Clichy.

Nơi này không lấy gì làm hấp dẫn. Dưới ánh sáng nhờn nhợt hắt ra từ các biển quảng cáo, một nhóm gái điếm đang õng ẹo chèo kéo khách. Một vài chiếc ô tô đỗ lại chớp nhoáng: Cửa kính xe hạ xuống, những gả ngồi trong mặc cả giá tàu nhanh hoặc tàu chậm rồi tùy theo câu trả lời mà chọn mời cô gái lên xe. Hoặc không. Đèn giao thông đằng trước xe tôi vừa chuyển sang đỏ. Dù không muốn tôi vẫn mắc kẹt trước một trạm chờ xe buýt. Một cô gái Đông u trong trang phục váy ngắn và bốt da tới gõ lên cửa kính xe tôi để chào mời. Thoạt tiên tôi thử lờ cô ta đi, nhưng cô ta lại biểu diễn một màn khiêu vũ ngắn mang hơi hướm Cối xay gió Đỏ. Mắt cô ta buồn bã và trống rỗng. Cô ta khiến tôi mủi lòng và tôi quyết định hạ cửa kính xe để ít ra cũng có đôi lời khen ngợi màn nhảy múa vừa rồi.

Tôi biết, tôi thật ngây thơ…

Hai chiếc xe cảnh sát lao tới từ phía sau cách xe tôi chừng hai chục mét. Chưa đầy ba giây sau, cả con phố rung lên theo nhiệp điệu của tiếng còi kèm đèn pha phơn phớt xanh. Cảnh sát đã lôi băng đeo tay ra, kiên quyết làm nhiệm vụ thật hăng hái vào tối giao thừa, vây bắt đám gái mại dâm, xác minh danh tính các khách mua dâm.

Tôi đang nâng cửa kính xe lên thì một bóng phụ nữ bất thần mở cửa xe rồi ngồi vào cạnh ghế lái.

- Khởi động xe ngay kẻo bị tóm bây giờ! Cô ta thét lên giữa đám hỗn loạn.

Đó là một bé gái. Một thiếu niên chừng mười lăm tuổi.

Một gái bán hoa ư? Ở tuổi này ư?

- Lái đi chứ, khốn thật! Cô bé gào lên.

Tôi vừa chui vào tổ ong vò vẽ nào thế này? Trong máu tôi hẳn phải có đến hai gram cồn, ngoài ra còn có một khẩu súng, một túi đầy cocain trong hộc đựng đồ và một cô bé ở tuổi vị thành niên cùng ngồi trong xe.

Tôi sẽ ngồi tù và ở trong đó một thời gian dài mất thôi.

Thậm chí tôi còn không đợi đèn tín hiệu chuyển sang xanh mà đã rẽ ngay ở ngã tư đầu tiên.

Phóng hết tốc lực, tôi ngược lên đại lộ Porte-de-Saint-Ouen rồi hòa vào dòng xe cộ lưu thông ở vùng ngoại vi.

- Cháu chơi trò gì vậy? tôi hỏi người khách đi nhờ xe.

- ‘Just wanna escape these [bad word] cops’[1], cô bé đáp bằng thứ tiếng Anh lơ lớ.

[1]. Tiếng Anh trong nguyên bản: Để trốn đám cảnh sát khốn kiếp ấy.

Tôi bật đèn mui và tranh thủ lúc dòng xe lưu thông chậm để quan sát cô bé thật kỹ. Đó là một cô bé khoảng mười lăm tuổi, vóc dáng mảnh dẻ và khó đoán. Tóc cô bé nhuộm đen ngoại trừ vài lọn màu đỏ son. Một lọn tóc quá dài cứ không ngừng rủ xuống mắt cô bé. Cô bé mặc quần jean ống côn, đi đôi giày da hiệu Converse, áo phông kẻ sọc bị che khuất một phần dưới chiếc áo pull liền mũ màu hồng pha xám có khâu phù hiệu của đội bóng Manchester United. Một viên đá nhỏ xíu lấp lánh trên cánh mũi trái còn cổ cô bé đeo một chiếc vòng kiểu thời Trung đại bằng bạc và pha lê màu hồng lựu. Kiểu trang điểm gô tích – chì kẻ mày và viền mắt màu đen trên nền phấn trắng nhợt – khiến cô bé trông chẳng khác nào xác chết, nhưng lại cho thấy một phong cách được nghiên cứu kỹ lưỡng.

Tôi quan sát đôi giày của cô bé: chúng gần như còn mới. Cô bé mặc quần áo hàng hiệu và đeo trang sức. Đây không phải một gái đứng đường mà là con nhà giàu thì đúng hơn.

Tôi không biết phải làm gì. Tôi không thể bỏ mặc cô bé giữa vùng ngoại ô này được. Tôi cần tìm hiểu thêm, nhưng cô bé có vẻ không hay chuyện lắm. Tôi lái vào đường nhánh đâu tiên dẫn tới trạm xăng ở cửa ô Montreuil rồi dừng trên bãi đỗ.

- Cháu tên gì? tôi hỏi cô bé bằng tiếng Anh.

- Chuyện đó thì có liên quan gì đến chú?

- Nghe này, chính CHÁU tự động lên xe của chú trong khi chú chẳng hề yêu cầu, vậy nên chớ có cao giọng như thế, OK?

Cô bé nhún vai, quay mặt đi chỗ khác.

- Cháu tên gì? tôi kiên quyết nhắc lại.

- Alice, cô bé rền rĩ. Alice Kowalski.

- Cháu sống ở đâu?

- Cháu chẳng thấy chuyện đó can hệ gì tới chú hết.

- Tại sao ban nãy cháu lại sợ cảnh sát đến thế?

- Thế còn chú? cô bé quay sang nhìn tôi.

Bị phản công bất ngờ, tôi chống chế:

- Chú uống hơi quá chén, thế thôi.

Đúng lúc ấy, nắp hộc đựng đồ tôi đóng không chặt bị bung ra, mở toang. Cô bé phát hoảng khi nhìn thấy khẩu súng và gói ma túy. Cô bé mở cửa xe chạy trốn, trong lòng chắc mẩm đã gặp phải một tên vô lại.

- Chờ đã, chuyện không phải như cháu nghĩ đâu! Tôi nói rồi chạy theo cô bé trên bãi đỗ xe.

- Để cháu đi, cô bé vặc lại rồi trốn trong trạm dừng nghỉ.

Tôi châm một điếu thuốc và quan sát cô bé qua lớp cửa kính. Cô bé đang ngồi trên một chiếc ghế đẩu gần dãy máy bán nước tự động. Cô bé này là ai? Cô bé đang tìm cách chạy trốn khỏi cái gì? Vào khoảnh khắc ấy, tôi đã thoáng có ý định quay ra xe và bỏ đi mà không nài thêm nữa. Toàn bộ chuyện này chẳng can hệ gì đến tôi. Tôi chẳng được cóc khô gì khác ngoại trừ những phiền toái phải gánh thêm.

Tôi thở dài, nhưng vẫn quyết định tới gặp cô bé bất chấp mọi cân nhắc vừa xong. Trạm dừng nghỉ được tô điểm bằng những món đồ trang trí cho dịp lễ: tràng hoa điện buồn tẻ, cây thông trơ trụi với đám quà trang trí bằng nhựa. Radio phát một bài hit cũ rích của thập niên tám mươi.

- Cháu mời chú một cốc espresso chứ?

- Cháu không có tiền, cô bé lắc đầu từ chối.

Tôi rút ví ra tìm ít tiền lẻ.

- Cháu muốn thứ gì không? Tôi hỏi, nhét vài đồng vào máy.

- Muốn chú để cháu yên thân.

Tôi cố gắng thuyết phục cô bé.

- Nghe này, chúng ta đã có bước khởi đầu không mấy thuận lợi.

- Giờ thì chú lượn đi, cháu sẽ tự xoay xở một mình.

- Với gì đây? Cháu không có xu nào dính túi mà một chữ tiếng Pháp bẻ đôi cũng không biết. Chú sẽ không bỏ mặc cháu trong tình cảnh đó đâu. Đó là trách nhiệm của một người trưởng thành như chú.

Cô bé ngước mắt nhìn trời, nhưng rốt cuộc vẫn nhận chỗ tiền lẻ tôi đưa cho. Cô bé chọn trong máy bán đồ uống tự động một chai sữa nhỏ vị dâu và một gói bánh quy Oreo. Trong lúc cô bé ăn chỗ đồ ngọt đó, tôi nhặt tờ Metro đang nằm chỏng chơ trên bàn.

- Nhìn này, trong tờ báo này có ảnh chú đấy. Cháu có thể xem qua, không phải trong mục rao vặt đâu nhé.

Cô bé nhìn bài báo rồi ngẩng lên.

- Cháu đã thấy chú trên truyền hình! Trong chương trình mà chú phẫn nộ với những người theo chế độ ăn chay toàn phần!

Cô bé ám chỉ một cuộc đấu kỳ khôi đặt tôi ở thế đối lập với những phần tử cực đoan khá thế lực đang tìm cách khiến cho gan ngỗng béo bị cấm tại Mỹ.

- Nếu chú là một ngôi sao truyền hình, vậy thì chú làm quái gì ở những cô gái bán hoa giá 20 euro nhỉ, lại đúng vào đêm giao thừa, với hộc đựng đồ trên xe chất đầy ma túy? cô bé hỏi bằng giọng khiêu khích.

- Được rồi, đi theo chú nào, tôi yêu cầu cô be.

Chúa ban phúc lành cho truyền hình. Danh tiếng của tôi đã khôi phục chút ít lòng tin của cô bé, tuy vẫn giữ khoảng cách khá xa nhưng cô bé đã chấp nhận cùng tôi tới chỗ đậu chiếc BMW.

- Thứ nhất, chú không phải là khách làng chơi và cháu biết điều ấy rất rõ, nếu không cháu đã chẳng ngồi lên xe chú, dù là trốn cảnh sát đi nữa…

Cô bé không đáp, chứng tỏ tôi đã ghi một điểm.

- Thứ hai, chỗ ma túy này không thuộc về chú, tôi giải thích rồi cầm túi nhựa dẻo đó lên, quẳng vào một trong những thùng rác công cộng ở bãi đỗ xe. Chuyện này phức tạp, nhưng chú buộc phải giữ nó để có được khẩu súng này.

- Còn thứ vũ khí ấy dùng để làm gì?

- Chú chỉ dùng để tự vệ thôi.

Không còn nghi ngờ gì nữa, cô bé là người Mỹ, bởi cô bé chấp nhận lời giải thích đó mà không thắc mắc gì thêm.

- Được rồi, giờ đến lượt cháu nhé. Nói chú biết cháu sống ở đâu, bằng không chú sẽ gọi cảnh sát.

- Cháu đã làm một việc ngu ngốc, cô bé mở lời. Cháu bỏ nhà ra đi, tất cả chỉ có thế. Cháu sống ở New York nhưng giờ đang đi nghỉ cùng bố mẹ. Gia đình cháu có một ngôi nhà ở Côte d’Azur.

- Ở đâu kia?

- Cap-d’Antibes.

Tôi biết rõ nơi đó. Chính tại đó tôi đã có nhà hàng “đúng nghĩa” đầu tiên.

- Cháu muốn về nhà nhưng lại bị mất trộm túi xách trên tàu TGV nên chẳng còn cả điện thoại lẫn ví tiền.

Cô bé có vẻ thành thực, ngay cả khi vẫn có điều gì đó khập khiễng mà tôi không rõ là vì đâu.

- Cứ việc gọi cho bố hoặc mẹ cháu nếu chú không tin lời cháu!

Cô bé đưa tôi một số điện thoại, tôi bấm gọi luôn. Chỉ sau một hồi chuông, tôi gặp một bà Kowalski nào đó đón nhận cuộc gọi của tôi như một sự giải thoát. Bà xác nhận toàn bộ câu chuyện: con gái bà đã bỏ nhà đi ngay sau buổi sáng hôm đó sau một trận cãi vã. Rõ ràng là bà đang lo sợ, ngay cả khi bà cố gắng không để lộ vẻ hốt hoảng ra bên ngoài.

Tôi chuyển máy để bà nói chuyện với Alice cho yên tâm. Không muốn trở thành kẻ tò mò thóc mách, tôi bỏ ra ngoài hút một điếu thuốc, tì khuỷu tay lên nắp ca pô xe, nhưng tôi vẫn nghe thấy phần lớn cuộc nói chuyện giữa hai người bọn họ. Họ nói chuyện điện thoại khá lâu. Alice xin lỗi và bật khóc thút thít. Khi cô bé chuyển máy lại cho tôi, tôi đề nghị với bà Kowalski sẽ đích thân đưa con gái về tận nhà cho bà. Tôi chỉ phải “xuống phía Nam” để dự lễ an táng cha tôi và nội trong buổi sáng tôi có thể có mặt tại Antibes.

Bà lưỡng lự hồi lâu nhưng rốt cuộc vẫn chấp nhận.

Chúng tôi lái xe đã được nửa tiếng đồng hồ.

Dưới bầu trời âm u và màn tuyết rơi, chúng tôi đi theo xa lộ Soleil và vừa ngang qua Évry. Alice mải miết đọc mấy tờ báo Mỹ miêu tả chi tiết thất bại của tôi trong sự nghiệp và hôn nhân.

- Vợ chú đẹp thật đấy…, cô bé nói sau khi quan sát chăm chú bức ảnh chụp Francesca.

- Ừ, mười năm qua ngày nào chú cũng nghe câu đó ít nhất là một lần…

- Và chú thấy bực sao?

- Cháu hiểu nhanh đấy.

- Tại sao thế?

- Nếu không đẹp đến thế, có lẽ cô ấy đã không phản bội chú.

- Cháu nghĩ chuyện chẳng có gì liên quan, cô bé phán với vẻ thạo đời ở tuổi mười lăm.

- Dĩ nhiên là có chứ. Càng xinh đẹp thì cháu càng có nhiều người theo đuổi, như vậy càng gặp nhiều cám dỗ. Điều đó tự nhiên thôi mà…

- Nhưng chú cũng thế mà, phải không? Trong các chương trình truyền hình, chú vẫn đóng vai ngài bếp trưởng gợi cảm luôn…

- Không! Tôi ngắt lời cô bé. Không giống nhau. Chú thì không như thế.

- Như thế nào?

- Cháu làm chú bực rồi đấy.

- Trả lời hay thật, cô bé nhận xét.

Thấy tôi làm thinh, cô bé bật radio và dò tần số. Tôi nghĩ Alice đang tìm cho ra một kênh “nhạc trẻ”, thế nhưng cô bé lại dừng ở kênh France Musique. Alice lập tức bị hút vào bản nhạc đang phát: một bản viết cho đàn dương cầm tao nhã và tinh tế.

- Hay thật, tôi lên tiếng.

- Nhạc của Schumann, Davidsbundlertanze, nhạc phẩm số 6.

Tôi cứ ngỡ cô bé lòe mình cho đến khi bản nhạc kết thúc và người dẫn chương trình thông báo:

“Các bạn vừa nghe Maurizio Pollini trình diễn bản Davidsbundlertanze của Robert Schumann.”

-Hoan hô!

Cô bé ra vẻ khiêm tốn:

- Dễ ấy mà.

- Chú không biết nhiều về Schumann lắm. Dù thế nào thì chú cũng chưa bao giờ nghe những bản này.

- Chúng được viết để tặng cho Clara Wieck, người phụ nữ trẻ mà Schumann yêu.

Cô bé ngừng lại trước khi nêu nhận xét:

- Đôi khi tình yêu hủy diệt, đôi khi nó lại kết tinh trong những tác phẩm nghệ thuật tuyệt vời…

- Cháu chơi dương cầm hả?

Cô bé im lặng một lúc trước khi trả lời. Đã nhiều lần cô bé thể hiện vẻ giữ kẻ như vậy trong đêm nay, như thể luôn e sợ mình sẽ mắc lỗi vụng về hoặc để lộ quá nhiều bí mật.

- Không, cháu chơi vĩ cầm. Cháu rất mê nhạc.

- Thế ở trường mọi chuyện đều ổn chứ? Cháu học lớp mấy rồi?

- Đủ rồi, đừng nghĩ chú ép được cháu phải nói chuyện đấy nhé.

- Vụ dạt nhà lần này là để chứng tỏ cái gì vậy?

- Lần này thì chú làm cháu bực mình rồi đấy, cô bé đáp rồi lại vùi đầu vào mấy tờ báo.

23 giờ

Alice đã ngủ thiếp đi được hai giờ đồng hồ, nhưng khi xe đi ngang qua Beaune thì cô bé tỉnh dậy, chúng tôi vẫn đang di chuyển trên xa lộ A6 thẳng hướng Lyon.

- Lễ an táng bố chú dự kiến vào ngày nào ạ?cô bé vừa hỏi vừa dụi mắt.

- Ngày kia.

- Làm sao mà bố chú mất?

- Chú không rõ.

Cô bé nhìn tôi vẻ lạ lẫm.

- Chú và ông ấy không nói chuyện với nhau mười lăm năm nay rồi, tôi nói lấp lửng.

Nhưng vì cảm thấy mình chẳng có lỗi gì trong chuyện này, tôi thổ lộ thêm chút ít:

- Bố chú có một nhà hàng mang tên Nữ kỵ sĩ, một nhà hàng hết sức tầm thường ở quảng trường Tự do vùng Auch. Cả đời mình ông hằng mơ có được một ngôi sao trong bảng xếp hạng của Cẩm nang Michelin, nhưng ước mơ đó chưa bao giờ thành hiện thực.

Tôi vượt một dãy xe trước khi kể tiếp:

- Mùa hè năm mười bốn tuổi, chú ra làm phụ bếp cho nhà hàng. Buổi tối, sau giờ phục vụ, chú ở lại trong bếp để thử nghiệm những ý tưởng riêng. Cứ như vậy chú tạo ra được ba món chính và hai món tráng miệng, bố chú nghe bếp phó của mình thuyết phục nên cũng muốn đưa thêm những món đó vào thực đơn nhà hàng. Rồi nhờ người nọ rỉ tai người kia mà người ta nhanh chóng kéo đến nhà hàng chỉ để thưởng thức các món mới. Các món do chú tạo ra. Bố chú không thích trở thành cái bóng của chú. Đến kỳ khai giảng, để đẩy chú đi xa, ông đăng ký cho chú học một trường nội trú ở Sophia-Antipolis tận miền Đông Nam nước Pháp.

- Tàn nhẫn quá…

- Ừ! Và trong những tháng tiếp theo, Michelin đã gắn một sao cho nhà hàng của gia đình chú, nêu đích danh các món mới của nhà hàng! Bố chú giận chú không để đâu cho hết, như thể chú đã phá hỏng cái ngày đẹp đẽ nhất đời ông vậy.

- Ngốc thật!

- Đấy là bước đầu tiên trong quá trình tuyệt giao giữa chú và ông ấy.

Cô bé nhặt tờ Time Out New York đang rơi dưới chân lên rồi chỉ cho tôi thấy một đoạn trong bài báo được cô bé khoanh tròn.

- Còn chuyện này là thật hay người ta thêu dệt nên?

- Cháu thấy chú còn mắt nào mà đọc báo trong khi đang cầm lái thế này à…

- Họ nói là chú đã quyến rũ được vợ mình nhờ món bánh hạnh nhân!

- Đó là lối nói đã rút gọn tối đa rồi, tôi mỉm cười giải thích.

- Kể cho cháu nghe đi!

- Thời đó, Francesca vừa kết hôn với một chủ ngân hàng. Cô ấy đang nghỉ tuần trăng mật tại Coote d’ Azur, đúng khách sạn nơi chú làm việc. Chú phải lòng cô ấy ngay từ cái nhìn đầu tiên, giống như người ta nhiễm một loại virus vậy. Tối hôm đó, chú gặp lại cô ấy trên bãi biển, không đi cùng chồng. Cô ấy vừa dạo bước dọc triền sóng vừa hút thuốc. Chú hỏi cô ấy thích món tráng miệng nào nhất. Cô ấy bảo thích món cơm sữa vị va ni do bà cô ấy nấu cho…

- Rồi sau đó?

- Chú dành cả đêm để gọi điện sang Mỹ. Chú phải gặp bà cô ấy qua điện thoại để biết được công thức chính xác của món tráng miệng, đến hôm sau, chú miệt mài cả ngày trời để tạo ra món bánh tráng hạnh nhân vị cơm sữa. Chú làm khoảng chục cái rồi tặng cô ấy. Những lời thêu dệt làm nốt phấn việc còn lại.

- Khá đẳng cấp, cô bé thừa nhần.

- Cảm ơn cháu.

- Thực ra chú có nét giống Schumann đấy, cô bé đùa. Để làm đẹp lòng người mình yêu, ông viết cho nàng những bản concerto. Còn chú lại sáng tạo riêng cho người mình yêu một loại bánh hạnh nhân!

Chalon-sur-Saône, Tournus, Mâcon… đến nửa đêm thì một tấm biển chỉ dẫn hienj ra trước mắt chúng tôi: “Lyon: 60km”.

- Happy New Year, Alice nói.

- Chúc mừng năm mới, tôi đáp.

- Cháu đói bụng quá…

- Chú cũng vậy. Gặp trạm dừng nào đó ta sẽ dừng lại để mua bánh sandwich.

- Bánh sandwich! cô bé thốt lên. Cháu ăn mừng năm mới cùng đầu bếp vĩ đại nhất thế giới vậy mà người ấy lại muốn cháu xơi mấy cái bánh sandwich khốn khổ gói trong màng bọc thực phẩm cơ đấy!

Lần đầu tiên kể từ một tuần qua, tôi cười phá lên. Cô bé này cũng biết đùa đấy chứ.

- Cháu muốn chúng ta làm gì bây giờ? Chú không thể nấu cho cháu món gì đó trong xe này được.

- Ta dừng lại đâu đó chăng?

Quả là cả hai chúng tôi đã mệt lử sau khi ngồi xe một mạch bốn trăm năm mươi cây số.

- Cháu có lý, chúng ta xứng đáng được nghỉ ngơi một chút.

Hai mươi phút sau, tôi rẽ ở lối ra “Ga Perrache” để lái tiếp về phía trung tâm thành phố rồi dừng trên một chỗ đỗ dành cho xe giao hàng.

- Đi theo chú.

Bất chấp cái lạnh tê tái, thành phố vẫn náo nhiệt: âm nhạc, pháo, các nhóm hề xiếc, những gã say gào rống lên mấy bài hát tục tĩu…

- Cháu chưa bao giờ thích ngày Tất niên, Alice nói rồi kéo phéc mơ tuya áo khoác lên kín cổ.

- Chú cũng không.

Đã lâu lắm rồi tôi không đặt chân đến Lyon. Năm mười bảy tuổi tôi đã có ba tháng làm phụ bếp trong một nhà hàng gần nhà hát Opéra, nằm ở góc giao giữa phố Longue và phố Pleney.

- Đóng cửa rồi, Alice nhận xét khi đi tới trước nhà hàng Nĩa bên trái.

- Nói cho đúng, đó chính là điều chú hi vọng. Từ thời chú còn làm việc tại đay, ông chủ đã bỏ qua các bữa tối Giáng sinh và năm mới rồi.

Đầu phố có một con ngõ nhỏ thông chéo ra phố Plâtre. Giữa con đường lát gạch, tôi biết có một cánh cửa con dẫn ra khoảng sân trong thông với bếp. Dĩ nhiên là cửa khóa, nhưng đêm đó, tôi đã phạm pháp nhiều lần, đủ để không quan tâm đến chi tiết này nữa.

Căn bếp của nhà hàng khá hiện đại, cực kỳ sạch sẽ và ngăn nắp.

- Chú chắc là không có chuông báo động đấy chứ? Alice hỏi sau khi quan sát với vẻ lo lắng ô kính cửa sổ tôi vừa đập vỡ.

- Nghe này, chú không chắc chắn được điều gì, nhưng nếu chuyện đó khiến cháu sợ quá thì cháu có thể quay ra xe. Cháu có quyền nhát gan mà.

- Không, cháu có sợ đâu! Cô bé chối phăng.

- Bởi lẽ dù thế nào thì chính cháu mới là người nằng nặc đòi chú nấu cho món gì đó…

Cô bé nhìn tôi thách thức.

- OK, cháu phụ trách món mì spaghetti còn chú chuẩn bị món bánh hạnh nhân, được chứ?

- Bánh hạnh nhân ư? Không, không thể được. Chú cần ít nhất hai mươi tư giờ để làm bánh hạnh nhân đúng nghĩa. Nếu không để trong tủ lạnh qua đêm thì bánh…

- Rồi, cháu đã hiểu: chú đang mất nhuệ khí.

Nhận xét của cô bé làm tôi chạm tự ái:

- Cháu muốn nghĩ sao cũng được. Cháu định làm spaghetti như thế nào?

- Sốt Pesto, cô bé đáp rồi mở một ngăn đá ra. Trong tủ đông có húng quế tươi.

Cô bé bắt đầu thu thập nguyên liệu và tôi cũng làm công việc đó trong lúc chờ lò nóng lên.

- Đưa cho chú cái thố đít gà nào! Tôi chỉ vào cái cát trộn xa lát bằng inox.

Cụm từ tôi dùng làm cô bé phì cười. Nụ cười của cô bé vừa hiếm hoi vừa xinh xắn.

Tôi rây đường, bột hạnh nhân và ca cao vào trong thố. Cô bé ngâm húng quế vào nước ấm rồi ngắt bỏ cành, lấy khăn thấm khô từng lá.

- Pho mát Grana Padano hay Parmigiano Reggiano nhỉ? cô bé phân vân.

- Parmigiano đi! Tại sao cháu bỏ nhà đi? Tôi bất ngờ hỏi trong lúc quan sát cô bé nạo pho mát.

- Cháu… Cháu có anh bạn trai người Paris quen trong một chuyến đi dã ngoại tới Pháp do nhà trường tổ chức. Cháu muốn gặp anh ấy mà bố mẹ cháu không đồng ý.

Vẻ không được tự nhiên, cô bé mất một lúc mới trả lời được vì còn phải cân nhắc từ ngữ, gãi mũi gãi cằm, tránh nhìn vào mắt tôi. Chừng ấy dấu hiệu khiến tôi ngờ rằng cô bé đang nói dối.

- Cả hai chú cháu mình đều biết sự thật không phải vậy, đúng không nào?

Ánh mắt cô bé bấu víu ánh mắt tôi như van xin tôi đừng tìm hiểu thêm.

Tôi quay lại với món mình đang làm dở, rắc hỗn hợp có ca cao xuống lòng trắng trứng đã đánh bông trong khi cô bé cho pho mát, húng quế, hạt thông, tỏi và dầu ô liu vào bát trộn.

Khi bột đã quyện sánh, tôi dùng đầu nặn chuyên dụng tạo ra những khoanh bột tròn.

Cô bé nếm thử hỗn hợp trong bát, nêm muối, tiêu, cho thêm dầu rồi tiếp tục trộn cho đến khi có được thứ nước sốt loãng vừa phải.

- Ai dạy cháu làm như vậy?

- Cháu tự học thôi, cô bé đáp như thể đó là lẽ hiển nhiên.

Trong khi chờ cho vỏ bánh cứng lại, tôi quay sang hỗn hợp sô cô la lỏng và kem tươi, còn cô bé thì chần mì spaghetti làm từ lúa mì nguyên cám vào nước sôi.

Tôi tìm thấy trong tủ tường một hộp sô cô la đen không đến nỗi nào. Trong lúc tôi thái vụn ba thanh để làm món kem trộn kia, Alice đã nhai rau ráu một khoanh vuông.

- Thứ này phải để nhiều giờ trong tủ lạnh thì mới sánh được.

Tôi nhìn đồng hồ. Bấy giờ đã gần hai giờ sáng. Tôi cho bánh hạnh nhân vào lò rồi chỉnh ngay nhiệt độ lò cho thấp xuống.

- Chú chưa kể cháu nghe tại sao chú vừa đóng cửa nhà hàng và tống khứ tất cả mọi người đâu nhé, cô bé đưa ra nhận xét trong lúc tự rót cho mình một cốc sữa.

- Chuyện phức tạp lắm, cháu không hiểu được đâu…

Tức khắc, tôi nghĩ đến lũ kền kền ở Win Entertainment. Tôi đã buộc phải bán toàn bộ cổ phiếu cho chúng để thoát cảnh phá sản và bị chúng truất quyền sở hữu đối với tên tuổi và tác phẩm của mình. Từ giờ trở đi, tất cả các nhà hàng thuộc tập đoàn đó đều có quyền đưa những món do tôi sáng tạo vào thực đơn. Cả một đời sáng tạo bị lũ con buôn đánh cắp không chút ngại ngần. Thất bại của một cuộc phiêu lưu mà tôi đã dồn toàn bộ tâm sức từ năm mười sáu tuổi…

Một con dao gập cán ngà và gỗ mun nằm lăn lóc trên mặt bàn. Tôi nắm lấy cán dao rồi phóng về phía trước. Con dao quay nhiều vòng trong không trung trước khi cắm phập vào giữa cánh cửa làm vang lên một âm thanh trầm đục.

- Chỉ có một “Thống soái” mà thôi. Và Thống soái chính là ta.

Không nói một lời, Alice bước lại gần cánh cửa rút con dao ra đúng lúc chuông đồng hồ đếm ngược reo vang báo hiệu món bánh hạnh nhân của tôi đã chín.

Tôi rảy chút nước xuống dưới lớp giấy dầu, nước bốc hơi sẽ làm bánh róc hơn.

- Tài tình, Alice nhận xét.

Cô bé giúp tôi phết đẫm hỗn hợp kem đã chuẩn bị sẵn lên phân nửa số vỏ bánh trước khi ghép từng cặp vỏ vào nhau để tạo thành bánh hạnh nhân.

- Muốn bánh ngon hơn, lẽ ra phải để trong tủ lạnh đủ hai mươi tư tiếng, nhưng chúng ta sẽ tăng tốc bằng cách để bánh trong tủ đông một tiếng.

Trong khoảng thời gian đó, Alice đem ra hai đĩa mì, hai chú cháu đánh chén ngon lành. Vừa ăn cô bé vừa kể cho tôi nghe một loạt giai thoại: nào là ở tuổi mười bốn Mozart chỉ cần nghe qua một lần đã có thể chép lại bản nhạc Miserere của Allegri, nào là khúc Adagio của Albinoni thực ra không phải do Albinoni viết nên, rồi thì đến cuối đời, Picasso thường ký trực tiếp lên da người hâm mộ để ngăn không cho họ bán lại chúng, rồi thì trong ca khúc Hey Jules của Beatles, tiếng trống chỉ nổi lên ở đoạn thứ ba bởi Ringo Starr bận đi toa lét trong buổi thu!

Khi đã cảm thấy thoải mái và tin tưởng, giọng cô bé thay đổi lúc nào không hay. Ngữ điệu “tóp tép” hơn, âm sắc khàn đi. Lúc này, cô bé khiến tôi liên tưởng tới anh em nhà Gallagher[2] và tôi sẵn sàng đánh cuộc rằng cô bé này từng sống ở miền Bắc nước Anh.

[2]. Ca sĩ và nhạc công ghi ta của nhóm nhạc rock Oasis, cả hai đều là người gốc Manchester.

[/b]

Mặc dù có vốn kiến thức về văn hóa có thể sánh ngang bách khoa toàn thư nhưng cô bé không hề tỏ ra thông thái rởm mà đúng hơn là luôn tò mò về mọi thứ và sẵn lòng chia sẻ kiến thức. Đúng kiểu trẻ con mà tất cả các bậc phụ huynh đều mong ước…

Chúng tôi tiếp tục lái xe xuôi xuống phía Nam.

Trong vòng hai tiếng, tôi đã đi được hai trăm bảy mươi cây số, còn Alice thì được chừng ba chục cái bánh hạnh nhân.

- Cháu đau bụng, cô bé than vãn.

- Chú đã cảnh báo cháu rồi mà.

Chúng tôi dừng tại một trạm nghỉ dọc xa lộ ngay giáp Aix-en-Provence. Tôi tới quầy thu ngân thanh toán tiền xăng trong khi Alice vào toa lét. Vài phút sau, cô bé quay trở ra, mặt tái xanh, tay cầm một mớ khăn giấy.

- Cháu uống trà nhé?

- Không ạ, cháu ra xe đợi chú.

Côte d’Azur

7 giờ sáng

Phía chân trời, ngày đang ló rạng nhuốm lên bầu trời những dải màu hồng. Nằm trên đường từ Nice đi Cannes, bán đảo Cap-d’Antibes hiện ra mờ ảo giữa một vùng núi đá và thông biển.

- Cháu chỉ đường cho chú nhé, tôi dặn Alice khi chạy xe dọc bờ biển Địa Trung Hải.

Chúng tôi đi ngang qua khách sạn Eden Roc nổi tiếng, rồi Alice chỉ đường cho tôi lái tới tận cánh cổng cuối cùng của ngõ Sans-Soucis. Chính trong khung cảnh tuyệt vời tựa thiên đường này, giữa những khách sạn sang trọng và những dinh thự cỡ tỉ phú này, bố mẹ Alice sở hữu một biệt thự nghỉ dưỡng.

Cánh cổng vẫn để ngỏ. Lối đi rải sỏi dài khoảng hai trăm mét cắt ngang rừng thông dẫn tới một ngôi nhà bề thế mang phong cách thập niên 30 hướng ra biển. Một phụ nữ cao ráo và tao nhã đang đợi chúng tôi trên thềm nhà. Alice mở cửa xe, hai người bọn họ lao tới ôm chầm lấy nhau.

- Tôi là Kowalski, cô tự giới thiệu rồi chìa tay cho tôi bắt.

Cô ta hẳn phải sinh con từ khi còn rất trẻ, bởi tôi trông cô ta không quá ba lăm. Mái tóc vàng nhạt được tết rồi búi lại nom hết sức kiểu cách. Cô có ánh nhìn sáng và dữ dội; các nét trên khuôn mặt tinh tế và thanh nhã đến khó tin bất chấp một vết sẹo dài xuất phát từ cung mày rạch ngang gò má tới tận viền môi. Một sự lăng nhục bất ngờ đến nỗi ta chỉ có một mong muốn duy nhất: biết hoàn cảnh hình thành nên vết sẹo này. Cô cảm ơn tôi đã giúp đỡ và mời tôi uống cà phê, nhưng tôi giải thích rằng mình đã có hẹn trước.

Khi tôi quay ra xe, Alice liền bám theo để lấy nốt chục cái bánh hạnh nhân còn lại.

- Cháu để dành cho bữa chiều, cô bé giải thích rồi nháy mắt với tôi rồi đi về phía mẹ đang đợi.

Cô bé đi được vài mét rồi bỗng quay lại và nghiêm trang khuyên bảo tôi:

- Chú bảo trọng nhé.

Tôi lái xe ngược trở ra rồi dừng trước bãi biển nơi mở ra con đường mòn ven biển. Tôi lấy khẩu súng từ trong hộc để đồ, khóa chiếc BMW rồi tiến bước trên con đường mòn, ký ức tràn ngập trong tâm trí.

Tuy sinh ra tại Auch, nhưng Antibes mới chính là nơi lưu giữ nhiều thời khác đẹp đẽ nhất trong cuộc đời tôi. Mười bốn tuổi, bố đã gửi tôi đến trường nội trú ở Sophia-Antipolis, rất gần đây. Mười lăm tuổi, trên bờ thành lâu đài Grimaldi, tôi đã hôn Justine, mối tình thời niên thiếu. Và sau đó, tôi đã điều hành các nhà hàng Pháp của riêng mình tại khách sạn La Bastide thuộc Saint-Paul-de-Vence rồi tại khách sạn Hôtel du Cap.

Những ký ức trỗi dậy khiến tôi thốt rùng mình.

Số phận lạ kỳ thay đã đưa tôi trở lại nơi tôi có được những thành công bước đầu vào một ngày chán nản buông xuôi như thế này…

Lối đi dạo hẹp, kề đó là vách đá dốc đứng đến chóng mặt. Tôi nhảy từ mỏm đá này sang mỏm đá khác để tới gần bờ biển dốc đứng cuồn cuộn sóng, thứ đem lại cái nhìn toàn cảnh có một không hai lên thành phố sừng sững tường thành, những đỉnh núi tuyết phủ của dãy Alpes và quần đào Lérins.

Tôi dừng lại trước vầng dương màu cam đang ngự nơi chân trời. Không khí trong lành tinh khiết còn cảnh sắc chói lọi không kém gì nỗi cô đơn và bồn chồn đang khiến tôi cồn cào ruột gan.

Một ngày đẹp trời để chết.

Tôi rút khẩu súng ra khỏi túi. Lời giới thiệu của Christophe Salveyre vọng lại trong tâm trí tôi: “Một khẩu Smith&Wesson mẫu 60 cỡ nòng 38 đặc biệt”.

Mỗi người trong chúng ta ai cũng có một ý niệm về hành vi tự sát. Hành vi đó là dũng cảm hay hèn nhát? Tất nhiên là cả hai đều không phải. Đó chỉ là một quyết định tuyệt vọng khi con người ta lâm vào tình cảnh không lối thoát. Phương cách cuối cùng để ra khỏi cuộc đời mình và thoát khỏi nghịch cảnh không thể chịu đựng thêm.

Trước đó, tôi vẫn luôn đối mặt, tôi vẫn luôn đương đầu. Tôi vẫn luôn vật lộn chống lại tất thảy, thúc ép số phận và áp đặt vận may, nhưng hôm nay thì khác. Tôi phải đương đầu với một kẻ thù đáng gờm: chính tôi. Kẻ thù cuối cùng. Kẻ thù nguy hiểm nhất.

Hành động của tôi không có gì là lý tính hết. Tôi không lên kế hoạch trước hàng tháng trời, nhưng cần phải có nó như một lời đáp trả duy nhất cho nỗi cô đơn đột nhiên ập tới từ vài ngày nay đang giày vò tôi, đẩy tôi trượt xuống vực thẳm.

Tôi nghĩ đến tình bạn, nhưng tôi chưa từng có bạn. Tôi nghĩ đến gia đình, nhưng tôi đã đánh mất gia đình mình. Tôi nghĩ đến tình yêu, nhưng tình yêu đã tan biến.

Hình ảnh con trai bỗng lướt qua tâm trí và tôi thử bấu víu vào đó nhưng đôi khi, ngay cả việc nghĩ tới con mình cũng không đủ để chống lại cái chết.

Tôi kề họng súng kim loại lạnh ngắt lên thái dương. Tôi lên đạn, nhìn mặt trời lần cuối, hít thở lần cuối rồi bóp cò như một sự giải thoát.

Tôi bóp cò.

Một lần.

Hai lần.

Nhưng tôi không chết.

Tôi kiểm tra ổ đạn: nó rỗng không.

Không thể thế được.

Khi rời khỏ Aulnay-sous-Bois tôi đã tự mình kiểm tra và thấy rõ ràng năm viên đạn kia mà.

Tôi quay ra xe và mở hộc đựng đồ bên trong: không thấy tăm hơi viên đạn nào. Chỉ có hai tờ khăn giấy của trạm dừng xe mà Alice dùng để lau tay. Giữa những vết bẩn dây ra từ bánh hạnh nhân sô cô la, cô bé để lại cho tôi một lời nhắn nguệch ngoạc viết vội bằng bút dạ xanh.

Chú Lempereur thân mến, à mà ý cháu là chú Jonathan.

Cháu đã mạn phép lấy hết đạn trong khẩu súng của chú và đem vứt vào thùng rác ở bãi đậu xe trong lúc chú uống cà phê. Cháu không biết tại sao chú lại mang theo thứ vũ kí này, nhưng cháu hầu như chắc chắn rằng đó là một ý tưởng tồi.

Cháu cũng biết rằng đêm nay, ngay cả khi bản thân chú không hề ổn đi nữa, chú vẫn cố gắng làm cháu vui cười và chăm sóc cháu.

Cháu lấy làm tiếc về những vấn đề tài chính chú gặp phải và về vợ của chú. Có lẽ một ngày nào đó mọi chuyện giữa cô chú sẽ được dàn xếp ổn thỏa. Nhưng cũng có lẽ chỉ đơn giản vì cô ấy không phải là tình yêu của đời chú.

Cháu đã từng không hạnh phúc suốt khoảng thời gian dài. Khi thực sự buồn, cháu vẫn bám víu vào một câu nói thỉnh thoảng được cho là của Victor Hugo, thậm chí cháu còn chép vào trong đầu tiên của nhật ký. Nó đại ý thế này: “Những năm tháng đẹp nhất đời người là những năm tháng còn chưa sống qua.”

Bảo trọng nhé, chú Jonathan.

Alice

Đọc xong những dòng này, sự sống bỗng thắng thế, tôi òa khóc một mình trong xe như một tên ngốc.
 
CHÚ Ý !!!
Các đạo hữu nhớ thêm TÊN CHƯƠNG và THỨ TỰ CHƯƠNG ở ô phía trên phần trả lời nhanh. Như vậy hệ thống mới tạo được DANH SÁCH CHƯƠNG.
Cập nhật chức năng ĐĂNG TRUYỆN và THÊM CHƯƠNG MỚI trên web Diễn Đàn Truyện tại https://truyen.diendantruyen.com
Top Bottom