Cập nhật mới

Dịch Full Cô Gái Đùa Với Lửa

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,154
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 20


Thứ Sáu, 1 tháng Tư

Chủ nhật, 3 tháng Tư

Miriam Wu ở lại một giờ nữa với Modig. Đến cuối buổi thẩm vấn. Bublanski bước vào phòng, ngồi nghe không nói một lời. Miriam Wu lễ độ nhận ra ông nhưng vẫn chỉ nói tiếp với Modig.

Cuối cùng Modig ngước nhìn Bublanski. Hỏi ông còn hỏi gì nửa không. Bublanski lắc đầu.

- Tôi tuyên bố buổi thẩm vấn Miriam Wu kết thúc. Lúc này là 1 giờ 09 phút chiều.

Modig tắt máy ghi âm.

- Tôi biết là có một chuyện nhỏ với thanh tra hình sự Faste. - Bublanski nói.

- Ông ấy khó tập trung suy nghĩ. - Modig nói.

- Ông ấy ngu. - Miriam Wu bồi thêm.

- Thanh tra hình sự Faste thật sự đã làm nhiều việc hay nhưng tốt nhất có lẽ không nên chọn ông ta thẩm vấn phụ nữ trẻ. - Bublanski nói, nhìn vào mắt Miriam Wu. - Tôi không nên giao cho ông ấy việc này. Tôi xin lỗi.

Miriam Wu nom ngạc nhiên.

- Xin lỗi thì tôi nhận. Thoạt tiên tôi cũng không thân thiện tí nào cả với ông nữa đấy.

Bublanski phẩy tay.

- Tôi có thể hỏi cô vài cái vặt nữa không? Không mở máy ghi âm.

- Cứ hỏi.

- Càng nghe nói về Lisbeth Salander tôi càng rối đầu. Hình ảnh tôi hình dung được từ những người biết cô ấy với hình ảnh tôi lấy ra từ tư liệu của Sở Phúc lợi xã hội và các cơ sở điều trị tâm thần không giống nhau.

- Thế ư?

- Xin trả lời cho tôi vài câu thẳng thắn.

- Được.

- Theo kết luận của bản đánh giá tâm thần thì khi mười tám tuổi Salander bị trì độn trí tuệ.

- Nói bậy nói bạ. Salander chắc chắn thông minh hơn bất cứ ai mà tôi biết.

- Cô ấy không tốt nghiệp trường phổ thông và chả có ngay cả giấy chứng nhận biết đọc biết viết nữa.

- Lisbeth đọc và viết cả một đống giỏi hơn tôi. Cô ấy đôi khi ngồi nghí ngoáy viết công thức số học. Số học thuần túy ấy cơ. Tôi chả hiểu đầu cua tai nheo gì về loại toán ấy.

- Toán?

- Trò tiêu khiển riêng cô ấy chơi.

- Trò tiêu khiển riêng?

- Một số những kiểu phương trình gì đó. Tôi chả hiểu các biểu tượng có nghĩa là gì nữa cơ.

Bublanski thở dài.

- Sau khi cô ấy mười bảy tuổi, bị đưa từ Tantolunden đến, các cơ quan xã hội viết báo cáo nói cô ấy kiếm sống bằng bán dâm một dạo.

- Lisbeth là gái điếm? Cứt! Tôi không biết cô ấy làm gì nhưng thấy cô ấy làm việc ở cái công ty an ninh kia. Tôi không ngạc nhiên chút nào.

- Cô ấy làm gì để sống?

- Tôi không biết.

- Cô ấy có đồng tính ái nữ không?

- Không. Lisbeth làm tình với tôi nhưng như thế không có nghĩa là một đứa ô môi. Tôi nghĩ cô ấy cũng không biết thực chất tính dục của mình là gì nữa. Tôi đoán cô ấy cả đồng tính lẫn dị tính.

- Hai cô dùng còng tay và cái trò kia là ra làm sao? Phải chăng Salander thiên về bạo dâm hoặc cô thử tả cô ấy xem sao?

- Ông hiểu lầm tất cả các đồ chơi tính dục kia mất rồi. Chúng tôi đôi lúc có thể dùng còng tay để chơi trò sắm vai nhân vật nhưng cái ấy không dính gì đến bạo dâm hay bạo hành gì hết. Đấy là trò chơi vui.

- Cô ấy có hung bạo với cô không?

- Không. Trong cuộc chơi tôi luôn là đứa áp đặt.

- OK. Thế đủ rồi. Nhân thể tôi cử một người đến làm khóa mới cho. Anh ta sẽ ở đấy cho tới khi cô có ổ khóa mới.

Miriam Wu cười ngọt ngào.

Bất đồng quan trọng đầu tiên về cuộc điều tra là kết quả của buổi họp chiều vào

- Từ hôm thứ nhất chúng ta đã tập trung tất cả năng lượng vào việc tìm Lisbeth Salander. Cô ta hẳn hoi là nghi phạm đầu bảng - cái này dựa trên chứng cứ - nhưng hình ảnh chúng ta có về cô ta đều bị những ai biết cô ta phủ nhận hết. Armansky, Blomkvist rồi Miriam Wu đều phản đối hình ảnh cô ta là một kẻ tâm thần giết người. Qua đó tôi muốn chúng ta mở rộng suy nghĩ ra một chút, tính đến kẻ giết người thứ hai và khả năng Salander có thể có một tòng phạm hay đơn giản cô ta chỉ là có mặt khi súng nổ mà thôi.

Lời bình của Bublanski đã làm nổ ra một cuộc tranh luận dữ dội, trong đó ông bị Faste cũng như Bohman ở An ninh Milton phản đối mạnh nhất. Bohman nhắc nhóm điều tra rằng lời giải thích đơn giản nhất thường lại là lời giải thích đúng nhất.

- Dĩ nhiên có thể là Salander đã không hành động một mình nhưng chúng ta lại thiếu chứng cứ pháp y về bất cứ một kẻ tòng phạm nào.

- Chúng ta có thể cứ luôn luôn theo các đầu mối của Bublanski ở trong nội bộ cảnh sát. - Faste nói chua.

Trong tranh luận Bublanski được mỗi Modig ủng hộ. Andersson và Holmberg chỉ làm người quan sát trung lập và riêng biệt. Hedstrom ở Milton thì im như hến trong suốt buổi tranh luận. Cuối cùng công tố viên Ekstrom giơ tay.

- Bublanski, như tôi hiểu, thì ông không muốn loại Salander ra khỏi cuộc điều tra.

- Không, dĩ nhiên là không. Chúng ta có dấu tay cô ấy mà. Nhưng cho đến nay chúng ta không thấy được động cơ. Tôi muốn chúng ta nghĩ theo nhiều tuyến khác nhau. Có thể có nhiều người dính líu vào không? Có thể là vẫn có liên quan đến quyển sách về buôn bán tính dục mà Svensson viết kia không? Blomkvist chắc chắn đúng khi nói mấy người bị nêu tên trong quyển sách đã có một động cơ để giết.

- Ông định tiến hành như thế nào? - Ekstrom hỏi.

- Tôi muốn hai người bắt đầu nhìn đến các kẻ giết người ngoài Salander ra. Sonja và Niklas có thể làm cùng với nhau.

- Tôi á? - Hedstrom ngạc nhiên nói.

Bublanski chọn Hedstrom vì gã là người trẻ nhất ở đây và có vẻ có khả năng suy nghĩ độc lập.

- Anh sẽ làm việc với Modig. Đi sâu kỹ vào các cái chúng ta đã biết cho đến nay và cố tìm ra những gì chúng ta đã để sót. Faste, ông, Andersson và Bohman tiếp tục săn lùng Salander. Đấy là ưu tiên số một của chúng ta.

- Còn tôi làm gì? - Holmberg nói.

- Tập trung vào luật sư Bjurman. Khám xét lại nhà ông ta. Xem lại để phòng xa có thứ gì ta để sót. Hỏi gì nữa không?

Chả ai hỏi gì.

- OK. Chúng ta giữ kín việc Miriam Wu đã khai. Có thể cô ấy còn nói nữa với chúng ta, tôi không muốn báo đài nhảy bổ vào cô ấy.

Ekstrom đồng ý nên làm theo kế hoạch của Bublanski.

- Tốt. - Hedstrom nói, nhìn Modig. - Bà là thám tử, bà bảo tôi chúng ta sẽ làm gì?

Họ đang ở hành lang bên ngoài phòng họp.

- Tôi nghĩ chúng ta nên nói chuyện lần nữa với Blomkvist. - Chị nói. - Nhưng trước hết tôi phải bàn với Bublanski một vài việc. Ngày mai và Chủ nhật tôi nghỉ. Nghĩa là đến sáng thứ Hai chúng ta mới bắt đầu. Bỏ hai ngày cuối tuần ra xem kỹ lại tài liệu về vụ án.

Họ chia tay nhau. Modig đi vào buồng giấy Bublanski.

- Ông có rảnh một chút không? - Chị nói.

- Ngồi đi.

- Cáu với Faste quá, tôi sợ đã không giữ được bình tĩnh.

- Ông ấy nói cô đã thực sự bạt tai ông ấy.

- Ông ấy nói tôi muốn ở với Wu một mình vì tôi lên cơn với cô ấy.

- Tôi mong cô không nói với tôi câu ấy. Nhưng chắc chắn nói thế là coi như quấy rối tính dục rồi. Cô có muốn nộp đơn khiếu nại không?

- Tôi đã tát ông ấy. Thế là đủ rồi.

- Cô bị khiêu khích vượt quá sức chịu đựng.

- Quả có thế.

- Faste có vấn đề với các phụ nữ mạnh mẽ.

- Tôi thấy điều ấy.

- Cô là phụ nữ mạnh mẽ và là sĩ quan tốt.

- Cảm ơn.

- Nhưng tôi thích là cô không đánh ai trong cơ quan nữa.

- Tôi không như thế nữa đâu. Tôi không có cơ hội xem kỹ lại bàn làm việc của Svensson ở Millennium hôm nay.

- Chúng ta sẵn sàng miễn cái việc ấy. Hãy về nhà và thoải mái nghỉ cuối tuần.

Hedstrom dừng lại ở Ga Trung tâm, uống cà phê ở quán Café George. Gã cảm thấy thực sự nản. Cả tuần gã chờ tin Salander bị bắt. Nếu cô ta chống lại, may ra một chút thì có thể có một sĩ quan nào đó sẽ bắn cô ta. Đó là một ý hoắng có sức hấp dẫn.

Nhưng Salander vẫn tự do. Không chỉ thế mà Bublanski vẫn chập chờn với cái ý có thể cô ta không giết người. Không phải là một phát triển tích cực.

Dưới quyền Bohman đã đủ tồi tệ rồi - tay này là một trong những người đáng ớn nhất và ít tưởng tượng nhất ở Milton - nhưng nay Hedstrom đang làm phó cho thanh tra Modig và chị ta là người nghi vấn nhất vào Salander. Chị ta chắc là người có thể gieo hồ nghi vào đầu của Bublanski. Gã nghĩ liệu Sĩ quan Bong bóng nổi tiếng này đã có diễn một cái gì đó với con đĩ ấy không. Cái đó chả làm gã ngạc nhiên. Ông ta có vẻ như bị ả này úm. Trong các sĩ quan ở nhóm điều tra, chỉ có Faste còn có đủ độ lạnh để nghĩ sao nói vậy.

Hedstrom suy nghĩ lung. Sáng ấy gã và Bohman đã có một hội ý nhanh ở Milton với Armansky và Fraklund. Một tuần điều tra quay ra thành số không và Armansky thất vọng rằng không ai tìm ra nổi một bối cảnh nào khả dĩ làm cho sáng tỏ được các vụ án mạng. Fraklund gợi ý Milton nên nghĩ lại chủ trương tham gia - có những nhiệm vụ khác cấp thiết cho Bohman và Hedstrom hơn là đi làm không công cho cảnh sát.

Armansky quyết định Bohman và Hedstrom ở lại thêm một tuần nữa. Hết hạn đó mà không có kết quả thì sẽ lui quân.

Nói cách khác, cho đến lúc cánh cửa cho Hedstrom tham gia cuộc điều tra đóng sầm lại thì gã chỉ còn có một tuần. Gã không chắc mình sẽ làm gì đây.

Một lúc sau Hedstrom lấy di động ra gọi Tony Scala, một nhà báo tự do chuyên viết các cái ba láp có thật cho các tạp chí đàn ông. Hedstrom gặp ông ta vài ba lần. Gã bảo ông ta gã có dăm cái tin về cuộc điều tra mấy vụ án mạng ở Enskede. Scala cắn câu luôn: đây có thể là tin giật gân cho một tạp chí lớn. Họ hẹn nhau một giờ nữa đến uống cà phê ở quán Café Avena trên đường Kungsgatan.

Scala béo. Béo ra béo.

- Nếu ông muốn thông tin của tôi thì có hai tiền đề. - Hedstrom nói

- Oẹ ra.

- Thứ nhất không nói đến An ninh Milton trong bài báo. Vai trò của chúng tôi chỉ là cố vấn thôi.

- Tuy biết rằng Salander đã làm việc ở Milton thì vẫn cứ đáng là tin.

- Dẹp cái ấy đi mà nhồi lấy cái này này. - Hedstrom xua xua tay. - Đấy không phải là tin.

- Nếu ông nói thế.

- Thứ hai, ông phải cho bài báo nói vẹo nói vọ thế nào đó để nghe như là một phụ nữ xì ra thông tin này.

- Sao thế hả?

- Để tránh nghi ngờ vào tôi.

- Được. Vậy ông có cái gì?

- Cô bạn đồng tính ái nữ của Salander đã lộ diện.

- OK, tuyệt. Con ranh mà nó ký chuyển nhà ở Lundagatan cho đấy phải không? Cái con biến đi mất ấy hả?

- Miriam Wu. Cái này với ông có đáng cái gì không?

- Ông tin cái ấy thì tốt hơn. Cô ta ở đâu?

- Ở nước ngoài. Cô ấy nói chưa nghe nói đến các vụ án mạng.

- Cô ấy có bị nghi chút nào không?

- Không. Muốn gì thì vẫn chưa. Thẩm vấn cô ấy hôm nay rồi và đã thả ba giờ trước đây.

- Tôi hiểu. Ông có tin chuyện cô ấy không?

- Tôi nghĩ cô ấy nói dối hơn Cuội. Cô ấy có biết cái gì đó.

- Món này tuyệt, Niklas.

- Ông kiểm tra lấy nha. Chúng ta đây là đang nói đến một cô gái cùng vào S&M 1 với Salander.

- Ông biết đúng cái ấy là thật chứ?

- Khi thẩm vấn cô ấy nhận mà. Khi khám nhà chúng tôi tìm thấy còng tay, roi da, quần áo da và tất cả bộ sậu. Roi da thì hơi ngoa. Đúng, đây là toàn nói dối cả nhưng con đĩ Trung Quốc này thì chắc chắn là có chơi roi da chứ còn gì nữa.

- Ông đùa đấy ư? - Scala nói.

Paolo Roberto là người cuối cùng rời đi. Ông ăn chiều trong thư viện, đọc từng dòng những cái viết về chuyện lùng bắt Salander.

Đi ra đường Sveavagen ông thấy nản và bối rối. Và đói. Ông vào nhà McDonald's, gọi burger rồi ngồi xuống một góc bàn.

Lisbeth Salander giết những ba mạng. Ông khó có thể tin chuyện đó. Không phải là cô gái kỳ lạ này. Nhưng ông làm được gì cho chuyện đó? Và nếu làm được thì làm gì?

Miriam Wu về Lundagatan bằng taxi, cô thong thả ghi nhận sự tàn phá của căn nhà cô mới trang trí. Tủ li, tủ quần áo, các hộp đựng đồ và các ngăn kéo bàn làm việc đều trống toang hoác. Có những vệt bột lấy dấu tay ở mọi bề mặt. Các đồ chơi tính dục của riêng cô chất đống ở trên giường. Nhưng như mắt cô thấy thì họ không lấy đi cái gì.

Cô mở máy pha cà phê và lắc lắc đầu. Lisbeth, mày đã dính vào cái [bad word] gì đây thế hả Lisbeth?

Cô lấy di động ra gọi số Salander nhưng được tin nhắn không liên lạc được với chủ thuê bao. Cô ngồi một lúc lâu ở bàn bếp, cố tìm ra cái gì thật, cái gì không. Salander mà cô biết thì không là kẻ sát nhân mắc bệnh tâm thần nhưng mặt khác cô cũng không hiểu rõ Salander lắm. Salander hăng ở trên giường, đúng thế, nhưng hễ tính khí mà thay đổi là lại lạnh như tiền ngay.

Cô tự hứa chưa gặp chưa nghe Salander giải thích thì cô không quyết định gì cả. Cảm thấy muốn khóc, cô bỏ ra hai giờ dọn dẹp.

7 giờ chiều căn hộ nom ít nhiều đã lại ở được. Cô tắm gương sen rồi mặc một váy ngủ bằng lụa phương đông đen vàng vào bếp thì nghe thấy chuông cửa. Cô mở ra thấy một người đàn ông đặc biệt béo, râu ria không cạo.

- Chào Miriam, tôi là Tony Scala. Nhà báo. Tôi hỏi cô vài câu được không?

Một tay chụp ảnh đứng cạnh ông ta chụp lòe luôn một cái vào giữa mặt cô.

Miriam Wu tính cho một cú đá vô lê rồi một cùi chỏ vào mũi nhưng cô kịp tỉnh trí nhận ra như thế chỉ cho họ có thêm những ảnh thuộc loại ảnh họ đang kiếm mà thôi.

- Cô có ra nước ngoài với Lisbeth Salander không nhỉ? Cô biết cô ta ở đâu không?

Miriam Wu đóng cửa lại bằng cái khóa mới lắp. Scala đẩy mở hộp thư ra.

- Sớm muộn cô cũng sẽ phải nói chuyện với báo chí, Miriam. Tôi có thể giúp cô.

Cô nắm quả đấm lại, nện xuống các ngón tay của Scala. Cô nghe thấy tiếng rên rỉ đau đớn. Rồi cô khóa trái cửa, lên giường nằm, nhắm mắt lại. Lisbeth, tìm ra mày là tao vặn ngược cổ mày đi.

Sau khi đến Smadalaro, Blomkvist bỏ buổi chiều ra đi thăm một người nữa trong số các tên Svensson đã nêu ra. Cho tới tuần ấy, anh đã giập đi sáu trong số ba mươi bảy cái tên. Người cuối cùng là một thẩm phán về hưu sống ở Tumba; ông ta đã chủ tọa mấy vụ xử liên quan đến bán dâm.

Được gợi cho nhớ lại, con người đã tàn tạ này không hề tính chuyện phủ nhận, đe dọa hay xin khoan dung. Trái lại, hắn nồng nhiệt nhận đã chơi nhiều gái điếm từ Đông Âu đến. Không, hắn không thấy một tí teo ân hận nào sất. Bán dâm là một nghề đáng kính còn việc hắn làm khách của các cô gái thì hắn coi là làm ơn làm phúc cho các cô.

Vào khoảng 10 giờ tối, đang lái qua Liljeholmen thì Blomkvist được Eriksson gọi, cô nói:

- Chào, anh có đọc trang mạng của Morgon - Posten không?

- Không, họ có gì?

- Bạn gái của Salander đã về nhà hôm nay?

- Cái gì? Ai cơ?

- Cô ô môi Miriam Wu sống ở căn hộ đường Lundagatan ấy.

Wu, Blomkvist nghĩ. "Salander - Wu" ở cái biển đề tên.

- Cảm ơn. Tôi đang trên đường về đây.

Wu tháo dây điện thoại bàn ở căn hộ rồi tắt di động. 7 rưỡi tối hôm ấy, tin cô về nhà xuất hiện trên trang mạng của một tờ báo sáng. Ngay sau đó Aftonbladet gọi rồi ba phút sau là Expressen. Tờ Aktuellt đăng chuyện cô mà không nêu tên nhưng vào khoảng 9 giờ, mười sáu phóng viên không ít hơn đã cố moi lấy bình luận của cô.

Hai lần chuông cửa réo. Cô không mở và tắt hết đèn trong nhà. Cô muốn đập vỡ mũi tay phóng viên nào sắp đến quấy nhiễu. Cuối cùng cô gọi di động cho một bạn gái sống ở mạn dưới Hornstull, nơi có thể đi bộ tới được, hỏi muốn đến qua đêm với cô ấy được không.

Cô lẻn ra khỏi cửa chính trên đường Lundagatan chưa tới năm phút thì Blomkvist đỗ xe ở bên ngoài rồi bấm chuông cửa nhà cô.

Thứ Bảy, vừa 10 giờ sáng, Bublanski đã gọi Modig. Chị ngủ tới 9 giờ rồi chơi với các con cho đến khi chồng chị đưa chúng đi mua vé vui chơi thứ Bảy.

- Cô đọc báo hôm nay chưa?

- Không, chưa. Tôi mới dậy được một giờ và bận với lũ trẻ. Xảy ra chuyện gì?

- Ai đó trong nhóm điều tra xì tin ra cho báo chí.

- Chúng ta đã biết chuyện này cả rồi. Ai đó mấy hôm trước đã xì biên bản tâm thần ra đấy.

- Ekstrom xì.

- Thế ư?

- Dĩ nhiên. Tuy đời nào ông ta nhận. Ông ấy đang cố tạo chú ý đến mình vì như thế có lợi cho ông ấy. Nhưng lần này thì không phải. Một tay viết tự do tên là Tony Scala đã nói chuyện với ai đó, nguời này kể mọi thứ về Miriam Wu, trong đó có những chi tiết đã được nói đến trong cuộc thẩm vấn hôm qua. Đấy là những cái chúng ta muốn giữ kín nhưng Ekstrom lại xì ra.

- Chết tiệt.

- Tay phóng viên không nêu tên ai. Nói nguồn tin là một người có một "vị trí trung tâm trong điều tra".

- Láo. - Modig nói.

- Bài báo gọi nguồn tin là "chị ta".

Modig im lặng một lúc. Chị là người phụ nữ duy nhất trong nhóm điều tra.

- Bublanski, tôi không nói một câu nào với một nhà báo nào hết. Ra khỏi Sở, tôi không bàn với ai hết về cuộc điều tra. Ngay cả với chồng tôi.

- Tôi không nghi cô rỉ tin chút nào cả. Không may là công tố viên Ekstrom thì nghi. Và Faste, đang làm việc cuối tuần, đã lại xiên xẹo giấm ớt vào.

Modig cảm thấy mệt nhoài.

- Vậy bây giờ thì là chuyện gì?

- Ekstrom đòi cô thôi điều tra trong khi rà soát tội để lộ tin.

- Tội gì? Vớ vẩn. Làm sao mà bảo tôi chứng minh...

- Cô chả phải chứng minh gì cả. Ai kết tội thì hãy đem chứng cứ ra đi.

- Tôi biết nhưng... chết tiệt. Chuyện này phải mất bao lâu?

- Sắp xong rồi.

- Sao?

- Thì tôi vừa hỏi cô đó. Cô bảo cô không để rò rỉ tin. Vậy là điều tra xong và tôi làm báo cáo. 9 giờ sáng thứ Hai tôi gặp cô ở văn phòng Ekstrom và tôi sẽ trả lời các câu hỏi.

- Cảm ơn, Bublanski.

- Tôi thích làm thế.

- Có một vấn đề.

- Tôi biết.

- Tôi không rỉ tin thì phải có một ai đó trong nhóm rỉ ra.

- Có gợi ý gì không?

- Mới đầu tôi đoán là Faste nhưng thật tình lại không nghĩ là ông ấy.

- Tôi nghiêng về ý cô. Ông ta có thể hết sức ba láp nhưng cái chuyện rò rỉ tin thì ông ta thật tình cáu đấy.

Bublanski thích các buổi đi bộ, tùy theo thời tiết và thời gian ông có nhiều ít. Ông khoái môn rèn luyện này. Ông sống trên đường Katarina Bangata ở Sodermalm, không xa mấy tòa soạn Millennium hay An ninh Milton, nơi Salander đã làm việc, và Lundagatan, nơi cô ấy sống. Đó cũng là nằm trong khoảng cách đi bộ của nhà thờ Do Thái trên đường St Paulsgatan. Chiều thứ Bảy ông đi bộ đến tất cả các nơi này.

Ban đầu bà vợ Agnes đi với ông. Hai người lấy nhau đã hai mươi ba năm và ông không hề chệch bước bao giờ trong suốt thời gian ấy.

Hai người ở nhà thờ Do Thái một lúc nói chuyện với vị giáo sĩ. Bublanski là Do Thái Ba Lan còn gia đình Agnes - một ít người còn sống sót ở trại Auschwitz - thì gốc gác Hung.

Sau khi thăm nhà thờ Do Thái, họ chia tay nhau. Agnes đi mua sắm, Bublanski đi bộ tiếp.

Ông cần một mình, suy nghĩ về cuộc điều tra. Lần ngược lại những biện pháp ông đã dùng đến từ khi nhiệm vụ rơi xuống bàn làm việc của ông vào cái buổi sáng thứ Năm trước lễ Phục sinh ấy thì ông chỉ có thể nhận ra đôi ba lỗi.

Một là ông không cử ngay người đến khám xét bàn làm việc của Svensson ở Millennium. Cuối cùng khi ông nhớ ra làm việc ấy - và ông đã tự tay làm - thì Blomkvist đã dọn sạch hết những gì chỉ có Chúa mới biết.

Lỗi nữa là quên mất việc Salander đã mua xe. Nhưng Holmberg báo cáo cái xe không có gì đáng để ý.

Ngoài hai lỗi ấy, cuộc điều tra đã được làm chu đáo như mong đợi.

Ông dừng lại ở một kiốt gần Zinkensdamm, nhìn chăm chú vào bản tin. Bức ảnh hộ chiếu của Salander đã được thu lại thành một hình con con nhưng dễ nhận ra, tâm điểm chú ý chuyển sang một dòng tin hấp dẫn hơn:

CẢNH SÁT DÒ TÌM

KẺ ĐỒNG TÍNH ÁI NỮ

THỜ DÒNG QUỶ SATAN

Ông mua một tờ, tìm ra bài báo, nó lọt thỏm vào một bức ảnh năm cô gái cỡ mười tám mười chín mặc jacket da đen với những đinh tán, quần jean đen rách và áo phông bó sát người. Một trong các cô gái cầm lá cờ với ngôi sao năm cánh, tay kia thì ra một dấu hiệu bằng ngón trỏ và ngón út.

Lời chú viết: Lisbeth Salander tụ bạ với một ban nhạc rock chơi ở một câu lạc bộ nhỏ. Năm 1996, ban nhạc ca ngợi Nhà thờ của Satan và nổi tiếng với "Nhãn hiệu của xấu Xa".

Cái tên Những ngón tay Xấu xa không được nhắc đến và tờ báo đã bôi đen mắt các cô gái đi, nhưng bạn bè của nhóm rock này chắc chắn vẫn nhận ra họ.

Bài báo chủ yếu nói về Miriam Wu, bức ảnh minh họa là lấy ra từ một tiết mục cô biểu diễn tại Bern. Cô để vú trần, đội mũ sĩ quan quân đội Nga. Mắt cô cũng bị bôi đen.

BẠN GÁI CỦA SALANDER VIẾT VỀ

LÀM TÌNH ĐỒNG TÍNH NỮ S&M

Người phụ nữ ba mươi mốt tuổi nổi tiếng ở các tụ điểm đêm rất thời thượng tại Stockholm. Cô không bí mật chuyện cô săn phụ nữ và thích thống trị đối tác.

Phóng viên cũng tìm được một cô gái ông ta gọi là Sara, mà theo lời thú nhận của chính cô ta, thì cô ta đã là đối tượng của các mưu toan tìm săn phụ nữ. Bạn trai của cô đã bị "quấy phiền" vì sự cố này. Viết tiếp, bài báo nói rằng ban nhạc này là một dị bản tăm tối, tu hành theo thuyết ủng hộ phụ nữ ở ngoài rìa của phong trào đồng tính ái, họ cũng giành được tiếng tăm nhất định vì đã chủ tọa "hội thảo về sự lệ thuộc" ở Liên hoan Tự hào Đồng tính ái. Chỗ còn lại là dựa trên một mẩu cố tình khiêu khích mà Wu đã viết cho một tờ báo cuồng nhiệt ủng hộ phụ nữ sáu năm trước. Bublanski đọc kỹ bài báo rồi ném tờ báo vào thùng rác.

Ông suy nghĩ về Faste và Modig, cả hai đều là thám tử có bản lĩnh. Nhưng Faste có một vấn đề; ông ta hay làm cho người khác cáu bực. Ông sẽ nói chuyện với ông ta nhưng ông không nghĩ ông ta là nguồn rỉ tin.

Khi định thần xem mình ở đâu thì Bublanski thấy ông đang đứng ở trên đường Lundagatan, nhìn chăm chú vào cửa chính tòa chung cư của Salander. Ông rõ ràng tình cờ mà đi đến đây.

Ông leo thang lên Lundagatan thượng, lên đó ông đứng nghĩ hồi lâu đến chuyện Blomkvist nói về Salander bị hành hung. Câu chuyện không dẫn đến đâu hết. Không có báo cáo của cảnh sát, không có tên những người dính líu và không đến cả hình ảnh được miêu tả thích đáng của kẻ tấn công. Blomkvist nói không đọc được biển số chiếc xe tải hạng nhẹ nhiều chỗ ngồi khi nó chạy đi khỏi hiện trường.

Cứ cho là đã có xảy ra chút nào như thế đi.

Lại một chỗ tắc tị.

Bublanski nhìn xuôi đường Lundagatan đến chiếc Honda màu mận chín vẫn đỗ ở đường thì vừa lúc Blomkvist đi bộ đến cửa chính tòa chung cư.

Miriam Wu hôm ấy dậy muộn, quấn tròn trong chăn. Cô ngồi lên nhìn quanh gian phòng lạ. Cô đã mượn việc báo chí dồn dập nói đến mình làm cớ để đề nghị cô bạn cho ở nhờ.

Nhưng cô nhận ra mình rời căn hộ đi cũng là do sợ Salander gõ cửa. Chất vấn của cảnh sát rồi báo chí đăng tin đã tác động sâu sắc đến cô và cho dù cô đã quyết định không nghĩ như thế nào vội cho đến khi có dịp Salander nói rõ chuyện gì đã xảy ra nhưng cô cũng đã bắt đầu sợ rằng bạn mình có thể là thủ phạm thật.

Cô liếc nhìn xuống Viktoria Viktorsson cũng còn có tên V - Đôi và là một ô môi đặc sệt. Cô ta nằm úp sấp ngủ, miệng lầm bầm. Miriam trườn ra khỏi giường đi tắm. Rồi cô ra ngoài mua bánh quế cuộn để ăn lót dạ.

Mãi đến khi đứng ở quầy cửa hàng cạnh Café Quế trên đường Verkstadsgatan cô mới nhìn thấy bảng tin. Cô nhào vội về nhà V - Đôi.

Blomkvist đấm vào mã số cửa rồi vào nhà. Được hai phút anh lại quay ra. Không có ai ở nhà. Blomkvist nhìn ngược xuôi con phố, phân vân ra mặt. Bublanski chăm chăm theo dõi anh.

Điều làm Bublanski băn khoăn là nếu Blomkvist bịa ra chuyện đánh đuổi ở Lundagatan thì trong trường hợp tồi tệ nhất, nó có nghĩa rằng anh ta có dính líu vào các vụ án mạng. Nhưng nếu anh nói sự thật thì phải có một nhân tố ẩn giấu trong bi kịch này; không phải chỉ có những người có thể nhìn thấy mà bối cảnh giết cũng sẽ phức tạp hơn chứ không chỉ là việc công kích do chứng tâm thần của một cô gái bị rối loạn bệnh lý.

Khi Blomkvist đi về phía Zinkensdamm, Bublanski gọi. Blomkvist dừng lại và nhìn thấy Bublanski. H 5fc0 gặp nhau ở dưới chân cầu thang.

- Chào, Blomkvist. Tìm Lisbeth Salander à?

- Thực sự là không. Tôi tìm Miriam Wu.

- Cô ấy không ở nhà. Ai đó xì ra cho báo chí cái tin rằng cô ấy đã ló mặt ra.

- Cô ấy thì có gì để nói?

Bublanski dò xét nhìn Blomkvist. Kalle Blomkvist.

- Đi với tôi đi. - Bublanski nói. - Tôi cần uống cà phê.

Họ lặng lẽ đi qua Nhà thờ Hogalid. Bublanski đưa anh đến Café Lillasyster, gần chỗ đường Liljeholmsbrom băng qua Norrstrom đến ngoại ô phía nam của Liljeholmen. Bublanski gọi một tách kép espresso với một thìa sữa lạnh còn Blomkvist thì uống cà phê latte. Họ ngồi ở khu vực hút thuốc lá.

- Đã lâu tôi mới bị một vụ nản đến thế này. - Bublanski nói. - Không đọc tờ Expressen sáng mai thì tôi bàn được với anh đến đâu đây?

- Tôi không làm cho Expressen.

- Anh biết tôi định nói gì đấy.

- Bublanski, tôi tin Salander không là thủ phạm.

- Và anh đang làm cuộc điều tra riêng cho bản thân anh? Có phải vì thế mà họ gọi anh là Kalle Blomkvist không?

Blomkvist mỉm cười.

- Họ bảo ông có tên là Sĩ quan Bong bóng.

Nụ cười đáp lại của Bublanski hơi hơi cứng.

- Tại sao anh nghĩ Salander vô tội?

- Về người giám hộ của cô ấy thì tôi không biết tí nào cả nhưng về Dag và Mia thì cô ấy không có một lý do nào hết để giết họ. Đặc biệt với Mia. Salander thù các đàn ông ghét phụ nữ và Mia thì đang làm cái việc siết ốc vào cho cả một đàn khách chơi gái điếm. Việc Mia đang tiến hành là trùng hoàn toàn với điều mà bản thân Lisbeth muốn làm. Cô ấy là một người rất có đạo đức.

- Hình như tôi không thể gắn các mảnh lại để có được một chân dung ăn khớp của cô ấy. Một trường hợp trì độn tâm thần hay một điều tra viên tài giỏi đây?

- Khác hẳn lại. Lisbeth không thích xã hội đến mức khác thường nhưng về trí tuệ thì ở cô ấy chả có gì rắc rối hết. Trái lại, chắc chắn là cô ấy thông minh hơn ông hay tôi.

Bublanski thở dài. Giống như Miriam Wu, Blomkvist đã cho ông một câu chuyện như của mẹ mìn.

- Muốn thế nào thì cũng cần phải bắt cô ấy. Tôi không đi vào chi tiết được nhưng cô ấy đã ở hiện trường gây án và cô ấy có liên quan đến vũ khí gây án.

Blomkvist gật.

- Tôi cho là ông muốn nói đến chuyện tìm thấy dấu tay của cô ấy ở trên khẩu súng. Nhưng cái đó không chứng minh được rằng cô ấy bắn.

Bublanski gật.

- Dragan Armansky cũng không tin như thế. Ông ta thận trọng không nói thẳng ra nhưng ông ấy cũng đang tìm chứng cớ rằng cô ấy vô tội.

- Còn ông? Ông nghĩ sao?

- Tôi là người tìm sự thật. Tôi bắt và thẩm vấn người; ngay lúc này tình hình xem vẻ lôi thôi cho cô Salander. Chúng tôi đã bỏ tù những tên giết người với chứng cứ có hoàn cảnh giảm khinh còn yếu hơn thế này rất nhiều.

- Ông không trả lời câu tôi hỏi.

- Tôi không biết. Nếu cô ấy không chứng minh được là vô tội... Anh nghĩ ai có động cơ giết cả người giám hộ lẫn hai người bạn của anh?

Blomkvist lấy bao thuốc lá ra mời Bublanski nhưng ông lắc. Anh không muốn nói dối cảnh sát. Anh cần nói một điều gì đó về cái người được biết là Zala. Anh cũng nên bảo Bublanski về chánh thanh tra Gunnar Bjorck ở Cảnh sát An ninh.

Nhưng Bublanski và các đồng nghiệp của ông đã nắm được tài liệu của Svensson trong đó có danh mục . Họ chỉ cần đọc nó thôi. Thay vì vậy họ lại như cỗ xe lăn đường xông lên miết, đồng thời mớm cho báo chí những chi tiết tục tĩu về Salander.

Anh có một ý nhưng không biết nó sẽ dẫn đến đâu. Chưa biết chắc, anh chưa muốn nêu tên Bjorck ra.Zalachenko. Đó là mối liên hệ giữa Bjurman với Svensson và Johansson. Vấn đề là cho đến nay Bjorck chưa nói với anh điều gì cả.

- Ông để cho tôi đào sâu hơn ít nữa, rồi tôi sẽ cho ông một lý lẽ thứ hai.

- Không mang dấu vết cảnh sát, tôi hy vọng.

- Không. Miriam Wu đã nói gì?

- Cũng đại khái như anh. Họ có quan hệ với nhau.

- Không phải là việc của tôi. - Blomkvist nói.

- Cô ấy và Salander biết nhau đã ba năm. Cô ấy nói không biết gì lai lịch của Salander, thậm chí không biết cả chỗ Salander làm việc. Khó tin nhưng tôi nghĩ cô ấy nói thật.

- Giữ kín chuyện riêng đã thành nỗi ám ảnh tâm thần của Salander. - Blomkvist nói. - Ông có số điện thoại Miriam Wu không?

- Có.

- Cho tôi được không?

- Không.

- Tại sao không?

- Mikael, đây là công việc của cảnh sát. Chúng tôi không cần các điều tra viên với các lý lẽ hoang dại.

- Tôi chưa có một lý lẽ nào. Mặt khác, tôi nghĩ câu trả lời nằm ở trong tài liệu của Svensson.

- Nếu anh cố gắng thì anh có thể tiếp xúc với Wu.

- Chắc thế. Nhưng cách đơn giản nhất là hỏi một ai đó đã có số điện thoại.

Bublanski thở dài. Blomkvist chợt thấy rất ngán ông này.

- Ý ông là cảnh sát thì tài giỏi hơn người dân thường chứ gì? Dân thường đều bị coi là điều tra viên tư nhân thôi nhỉ?

- Không, tôi không nghĩ thế. Nhưng cảnh sát được huấn luyện và việc của họ là giải quyết các vụ án.

- Người dân thường cũng được huấn luyện chứ. - Blomkvist thong thả nói. - Và đôi khi trong việc tìm ra vấn đề, điều tra viên tư nhân lại giỏi hơn một cảnh sát thực thụ.

- Thì anh cứ tin như vậy đi.

- Tôi biết thế. Lấy vụ Rahman ra mà xem. Một đống cảnh sát nhắm mắt lại ngồi ườn ra năm năm trong khi đem giam Rahman lại, kẻ không hề giết bà phu nhân già. Ông ta cứ còn ngồi tù cho đến nay nếu không có một cô giáo dành mấy năm ra điều tra nghiêm túc riêng một mình. Cô giáo ấy làm không hề với nguồn lực nào sẵn ở trong tay như các ông. Cô giáo ấy không chỉ chứng minh Rahman vô tội mà còn nhận diện ra được kẻ nhiều phần chắc chắn là tên sát nhân.

- Chúng tôi đã mất mặt trong vụ Rahman. Công tố viên không chịu nghe sự thật.

- Bublanski... Tôi sẽ nói với ông một điều. Vào đúng cái lúc "mặt" cũng đang bị mất đi ở trong vụ Salander này, tôi chắc như đinh đóng cột là cô ấy không giết Dag và Mia và tôi sẽ chứng minh điều đó. Tôi sẽ cung cấp cho các ông tên sát nhân thực thụ và lúc chuyện ấy xảy ra thì tôi sẽ viết một bài báo mà ông và các đồng nghiệp của ông đọc sẽ đau đấy.

Trên đường về nhà ở Katarina Bangata, Bublanski cảm thấy cần kíp thưa chuyện với Chúa ngay về vụ án nhưng thay vì đến nhà thờ Do Thái, ông lại đến Nhà thờ Thiên Chúa ở trên đường Folkgungatatan. Ông ngồi xuống một ghế dài ở hàng cuối, không động đậy hơn một giờ. Là người Do Thái ông chả có phận sự gì ở trong một nhà thờ Thiên Chúa nhưng ở đây yên bình và khi cần sắp xếp lại đầu óc ông thường hay đến đó. Ông thấy nhà thờ Thiên Chúa cũng là một nơi tốt để suy ngẫm và ông biết Chúa không so kè chuyện đó. Ngoài ra, có một khác biệt giữa đạo Do Thái và đạo Cơ đốc. Ông đến nhà thờ Do Thái khi ông cần có bằng hữu và sự quây quần với người khác. Người theo đạo Cơ đốc đến nhà thờ để tìm bình yên trước mặt Chúa. Nhà thờ với sự tĩnh lặng và khách đến đó luôn được để cho yên ắng một mình.

Ông loay hoay suy nghĩ về Salander và Wu. Rồi ông nghĩ Berger và Blomkvist có thể còn găm với ông một điều gì - chắc chắn họ biết điều gì đó về Salander mà họ không bảo ông. Việc mà Salander điều tra cho Blomkvist là thuộc kiểu gì đây? Có thể cô ấy đã làm cho Blomkvist trong việc chuẩn bị vạch trần vụ Wennerstrom ra nhưng ông gạt bỏ khả năng này. Salander không thể đóng góp điều gì có giá trị trong vụ này bất kể cô ấy giỏi điều tra cá nhân đến đâu.

Bublanski thấy bức bối: ông không thích lối đinh ninh ngạo mạn của Blomkvist về sự vô tội của Salander. Với ông thì làm thám tử là phải bị nghi ngờ bủa vây xung quanh - nghi vấn là nghề nghiệp của ông. Với một người điều tra riêng lẻ như Blomkvist thì đưa ra kết luận cuối cùng lại là một việc khác hoàn toàn.

Ông không bận tâm đến các điều tra riêng tư vì chúng rất thường hay dẫn tới các lý sự về thông đồng, những cái có thể cho ra những đầu đề trên báo nhưng cũng lại tạo ra cho cảnh sát rất nhiều công việc râu ria không cần thiết.

Điều tra riêng lẻ đã phát triển tới chỗ làm cho cuộc điều tra án mạng lần này trở nên việc khó chịu nhất mà ông từng dính vào. Không hiểu sao ông đã để lạc mất trọng tâm chú ý. Chắc là đã có cả một dây chuyền những hậu quả lôgic.

Nếu một người đàn ông trẻ tuổi bị đâm chết ở đường Mariatorget, thì sẽ là phải dò tìm ra băng đầu trọc hay nhóm côn đồ nào đã hoành hành khắp vùng ga Soder một giờ trước đó. Có bạn bè, chốn quen biết thì sẽ có nghi can rất nhanh thôi.

Nếu một người bị ba phát súng bắn chết trong một quán bar rồi quay ra hắn là một đại bàng trong băng mafia Nam Tư thì lúc đó sẽ phải tìm ra thằng ác ôn nào trong bọn đã toan nắm lấy quyền kiểm soát buôn lậu thuốc lá.

Nếu tìm thấy một phụ nữ trong tuổi hai mươi, lai lịch tử tế và sống bình thường mà bị bóp cổ chết trong nhà cô ta thì lúc đó sẽ phải tìm ra bạn trai của cô ta hay người cuối cùng cô ta nói chuyện với ở quán bar đêm hôm trước là ai.

Bublanski đã làm quá nhiều các cuộc điều tra như thế này đến nỗi ông có thể làm trong khi ngủ.

Cuộc điều tra hiện nay đã bắt đầu rất tốt. Chỉ vài giờ sau họ đã tìm ra nghi can số một. Về thực tế vai trò này là được dành cho Salander - một trường hợp tâm thần rõ rệt, được biết đã từng có những cơn bùng nổ hung bạo không kiểm soát nổi trong đời. Đây chỉ có việc đơn giản bắt cô ta, có bản thú tội hay tùy theo hoàn cảnh đưa cô ta vào nơi chăm sóc tâm thần. Nhưng sau bước bắt đầu khả quan, mọi việc đã hóa ra hỏng toét. Salander không sống ở địa chỉ của cô ta. Cô có những người bạn như Armansky và Blomkvist. Cô có quan hệ với một đồng tính ái nữ thích làm tình với còng số tám và điều đó đặt báo chí vào một cơn cuồng loạn mới toanh vốn dĩ đã ở trong tình hình tệ hại. Cô ấy có hai triệu rưởi curon ở ngân hàng và được biết không phải là chủ thuê mướn. Thế rồi nhân vật Blomkvist xuất hiện với những lý lẽ về buôn bán tính dục và âm mưu thông đồng - và là một nhà báo tên tuổi, anh ta có mục tiêu chính trị khi tạo nên rối ren hoàn toàn trong cuộc điều tra bằng một bài báo duy nhất.

Trên hết tất cả, nghi can thứ nhất đã tỏ cho thấy là không ai dò ra nổi cô ta ở đâu mặc dù thực tế cô ta không cao hơn cái đòn gánh và dễ nhận ra, với hình xăm đầy người. Các vụ án mạng xảy ra đã gần hai tuần mà không nghe thấy cả đến một tiếng thì thào nào về chỗ cô ta có thể ẩn náu.

Bjorck đã có một ngày khốn đốn từ khi Blomkvist bước qua ngưỡng cửa nhà hắn. Lưng hắn đau ê ẩm liên miên nhưng hắn cứ đi đi lại lại trong căn nhà hắn mượn, không thể thư thái cũng như chủ động nghĩ ra điều gì. Hắn không thể hiểu nổi câu chuyện. Các mảnh trong bài đố lắp ghép không rơi vào đúng chỗ của chúng.

Thoạt nghe thấy tin Bjurman bị giết, hắn kinh ngạc. Nhưng hắn không ngạc nhiên với việc Salander bị nhận diện gần như ngay lập tức là nghi can số một. Rồi những la lối ì xèo về cô ta bắt đầu. Hắn đã theo dõi từng bài tường thuật trên tivi và hắn mua các tờ báo mà hắn vớ được rồi đọc từng dòng về vụ này.

Hắn không bao giờ nghi ngờ việc Salander bị bệnh tâm thần và có thể giết người. Hắn chả có lý do thắc mắc về tội lỗi của cô hay những thừa nhận của cảnh sát - trái lại, mọi điều hắn biết về Salander đều bảo với hắn rằng cô bị rối loạn tâm thần nặng thật. Hắn đã có ý gọi cảnh sát góp lời khuyên cho cuộc điều tra nhưng rồi hắn nhận ra chuyện này thực sự chẳng còn liên quan gì đến hắn nữa, và đã có những người có năng lực nắm lấy nó. Ngoài ra gọi như thế có thể làm cho hắn bị chú ý đến, điều mà hắn muốn tránh. Hắn quả tình chỉ theo dõi lơ mơ tiếp các tin lớn về tiến trình vụ điều tra.

Blomkvist đến thăm đã làm cho sự yên bình và tĩnh lặng của hắn lộn tùng phèo. Hắn không hề ngờ qua rằng cơn cuồng hoan giết chóc của Salander lại có thể đi tới chỗ dính dáng đến cá nhân hắn - rằng một trong những nạn nhân của cô ta lại là một con heo bẩn thỉu của thông tin đại chúng và con heo ấy sắp đem hắn phô bày ra trước cả nước Thụy Điển.

Thậm chí chuyện tên của Zala rồi sẽ hiện lên trong một bài báo như một quả lựu đạn đã tháo chốt an toàn hắn cũng ít nghĩ đến. Và hơn hết hắn càng ít tưởng tượng ra rằng một nhà báo như Blomkvist lại biết đến cái tên Zala.

Chuyện này vượt khỏi mọi khả năng lường đến của con người ta.

Sau hôm Blomkvist đến gặp, hắn điện thoại cho sếp cũ, người hiện nay đã hoàn toàn cổ lỗ và sống ở Laholm. Hắn cố moi ra bối cảnh mà không để lộ cho thấy hắn gọi đây là vì những lý do khác chứ không phải vì các lý do thuần túy tò mò hay quan tâm nghiệp vụ. Câu chuyện tương đối ngắn ngủi.

- Bjorck đây. Tôi cho rằng ông đã đọc báo.

- Đã. Cô ta lại thình lình vọt ra.

- Xem vẻ cô ta không thay đổi mấy.

- Chả còn là chuyện để chúng ta bận tâm.

- Ông không nghĩ là...

- Không, tôi không nghĩ gì cả. Mọi cái đã chết và đã chôn vùi rồi. Hết liên quan.

- Nhưng lại là Bjurman chứ không phải ai. Tôi cho rằng không phải tình cờ mà ông ta thành ra người giám hộ con bé.

Vài giây im lặng trên máy.

- Không, không phải ngẫu nhiên. Xem ra là giống một cái ý ba năm trước. Ai có đoán trước chuyện này?

- Bjurman biết đến mức nào?

Sếp cũ của hắn cười lúc cúc:

- Cậu biết thừa Bjurman giống với cái gì rồi mà. Không phải là diễn viên có tài nhất.

- Ý tôi là... hắn có biết mối quan hệ không cơ? Liệu trong giấy tờ hay đồ dùng cá nhân của hắn có cái gì đó có thể dẫn đến một ai đó mà...

- Không, dĩ nhiên là không. Tôi hiểu anh định nói gì nhưng đừng lo. Salander luôn là một con tốt hỉn trong câu chuyện này mà. Chúng ta đã bố trí để cho Bjurman nhận việc ấy nhưng chỉ là khi chúng ta có được một người mà chúng ta kiểm soát được thì mới cho đứng ra giám hộ con bé. Thà thế còn tốt hơn là một số lượng không biết rõ. Nếu con bé bắt đầu bô lô ba la cái gì là ông ta sẽ báo với chúng ta. Bây giờ thì sẽ thực hiện tốt đẹp nhất mọi sự.

- Ý ông nói là sao?

- À, sau chuyện này Salander sẽ vào ngồi lâu trong một nhà tâm thần, ngồi dài ngồi lâu.

- Nghe có lý.

- Đừng lo. Đi mà hưởng yên vui kỳ nghỉ ốm này đi.

Nhưng đó chính là điều Bjorck không thể làm nổi. Blomkvist đã nhìn thấy chỗ này. Bjorck ngồi ở bàn bếp nhìn ra Jungfrufjarden bên ngoài kia trong khi cố tóm lại tình thế của hắn. Hắn bị uy hiếp ở hai bên.

Blomkvist sẽ lôi hắn ra trước pháp luật với tư cách một tên chăn dắt gái. Có một rủi ro nghiêm trọng là hắn sẽ phải chấm dứt sự nghiệp cảnh sát bằng việc bị kết tội đã vi phạm luật về buôn bán tính dục.

Nhưng nghiêm trọng hơn nữa là việc Blomkvist đang cố dò ra lõng Zalachenko. Chả hiểu sao hắn cũng lại dây cả vào chuyện này. Và Zala sẽ dẫn hắn đến thẳng ngay cổng nhà Bjorck.

Rõ ràng sếp cũ của hắn yên trí là ở văn phòng của Bjurman không có thứ gì có thể cho ra được một đầu mối xa hơn. Nhưng có đấy. Bản báo cáo năm 1991. Nhờ Bjorck mà Bjurman có bản này.

Hắn cố cho hiện lại trước mắt cuộc gặp với Bjurman hơn chín tháng trước. Hai người gặp nhau ở Gamla Stan. Một chiều đang làm việc thì Bjurman gọi hắn, gợi ý uống bia. Giữa thanh thiên bạch nhật hai người đã nói đến câu lạc bộ bắn súng và mọi sự nhưng Bjurman tìm hắn là vì một lý do đặc biệt. Hắn muốn được chiếu cố một điều. Hắn đã hỏi về Zalachenko...

Bjorck đứng dậy, đến bên cửa sổ bếp. Hắn có hơi chếnh choáng. Thật ra hắn không hoàn toàn say. Bjurman đã hỏi hắn gì nhỉ?

"Nói về... Tớ đang làm dở một việc cho một chỗ quen biết lâu ngày nay thình lình vọt ra..."

"Ờ thế à, ai vậy?"

"Alexander Zalachenko. Cậu nhớ hắn ta không?"

"Cậu đùa. Hắn đâu phải người dễ mà quên được."

"Chuyện gì với hắn thế?"

Về danh nghĩa đây không hề là việc của Bjurman. Thật ra chỉ riêng việc Bjurman hỏi thế thôi cũng đã đủ để mà soi kính hiển vi vào đấy rồi... nhưng vì nỗi hắn là người giám hộ của Salander. Hắn nói hắn cần bản báo cáo.Và mình đã cho hắn.

Bjorck đã phạm một lỗi nghiêm trọng. Hắn cho rằng Bjurman đã được báo cho hay - không thể nghĩ khác như thế được. Còn Bjurman thì trình bày vấn đề như là hắn muốn nhảy bỏ qua các thủ tục quan liêu rắc rối trong đó mọi thứ đều được đóng cho con dấu "tối mật" rồi cà rịch cà tàng ngâm tôm cho đến hàng tháng. Đặc biệt lại là chuyện dính dáng đến Zalachenko.

Mình đã đưa cho hắn bản báo cáo. Nó vẫn còn đóng dấu "tối mật" nhưng đó là vì một lý do đúng và có thể hiểu được mà Bjurman thì không phải là người sẵn sàng nhè bí mật ra. Hắn không xuất sắc nhưng hắn không bao giờ là đứa buôn dưa lê. Chuyện này có thể gây tổn thất không? Nó là chuyện đã rất nhiều năm trước đây rồi.

Bjurman đã biến hắn thành thằng ngu. Thoạt nghe hắn lại tưởng chỉ là chuyện hợp thức và bàn giấy mà thôi. Càng nghĩ đến chỗ này hắn càng tin là Bjurman đã cố tình rất thận trọng chọn lựa lời lẽ.

Nhưng Bjurman theo đuổi cái chuyện quái gì đây thế chứ?

Thứ Bảy, Blomkvist đến căn hộ ở Lundagatan bốn lần nữa, hy vọng tìm thấy Miriam Wu nhưng cô không bao giờ ở đấy.

Phần lớn hôm ấy anh ở quán Kaffebar trên đường Hornsgatan với chiếc máy tính iBook, đọc lại các thư điện tử mà Svensson đã nhận được ở địa chỉ của anh ấy tại Millennium và nội dung của thư mục . Trước khi bị giết, trong mấy tuần liền Svensson ngày càng bỏ ra nhiều thì giờ hơn điều tra về Zala.

Blomkvist mong có thể gọi điện hỏi Svensson tại sao tài liệu về Irina P. lại nằm trong danh mục . Kết luận duy nhất hợp lý là Svensson nghi hắn đã giết cô gái.

5 giờ chiều, Bublanski gọi anh và cho số điện thoại của Miriam Wu. Anh không hiểu điều gì đã khiến ông ta thay đổi ý kiến nhưng bây giờ có số điện thoại rồi thì cứ nửa giờ anh lại gọi một lần. Mãi đến 11 giờ đêm cô mới mở di động. Câu chuyện ngắn ngủi.

- Chào Miriam. Tôi là Mikael Blomkvist.

- Thì anh là cái quỷ gì chứ?

- Tôi là nhà báo, làm ở tạp chí có tên là Millennium.

Miriam Wu biểu hiện cảm giác bằng một cách cô đúc:

- A, vâng. Nhà báo Blomkvist kia đấy. Cút, đồ báo chí bò sát.

Blomkvist chưa kịp giải thích anh muốn gì cô đã dập máy. Anh hướng vài ý nghĩ xấu xa đến Tony Scala rồi cố gọi lại. Cô không trả lời. Cuối cùng anh gửi tin nhắn đến di động của cô.

Xin gọi tôi. Quan trọng.

Cô không bao giờ gọi.

Khuya đêm ấy Blomkvist đóng máy tính, cởi quần áo và bò lên giường. Anh mong có Berger nằm bên.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,154
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 21


Thứ Năm Phục sinh, 24 tháng Ba

Thứ Hai, 4 tháng Tư

Căn của một phương trình là con số thay được vào phương trình chứ không phải một ẩn số chuyển đổi phương trình thành ra một đồng nhất thức.

Lúc ấy người ta nói căn thỏa mãn được phương trình. Một phương trình là ngụ ý tìm ra hết các căn của nó. Người ta gọi một phương trình luôn luôn được nghiệm là một đồng nhất thức, bất kể ta chọn các giá trị cho các ẩn số của nó như thế nào.

(a + b)^2 = a^2 + 2ab + b^2

Trong tuần đầu tiên cảnh sát săn lùng, Salander sống bình yên thanh thản tại căn hộ của cô trên đường Fiskargatan. Cô tắt di động và lấy thẻ SIM ra. Cô không có ý dùng lại di động nữa. Theo dõi tin bài ở các báo chí phát hành trên mạng và các chương trình tin tức của tivi, cô đã trố mắt ngạc nhiên. Bức ảnh hộ chiếu đầu tiên được tung ra trên mạng rồi xuất hiện trong tất cả các buổi đưa tin của tivi đã làm cô cáu. Nom cô chả khác gì con ngu.

Tuy hàng năm trời cố gắng để không ai để ý đến mình, thì nay chỉ trong một đêm cô đã hóa thành một trong những cá nhân nổi tiếng nhất và được nói đến nhiều nhất ở Thụy Điển. Cô bắt đầu nhận thấy một trong các tin bài lớn nhất năm nay lại là cuộc báo động trên cả nước về một cô gái thấp bé nghi can gây ra ba vụ án mạng. Cô thú vị theo dõi các bình luận và suy diễn trên truyền thông đại chúng, mê mụ đi vì hình như bất cứ tòa báo nào cũng muốn đọc và công bố các tài liệu bí mật về lý lịch bệnh án của cô. Một tít đặc biệt đã đánh thức dậy các ký ức bị vùi sâu:

BỊ BẮT VÌ

HÀNH HUNG Ở

GAMLA STAN

Để lấn chân các đối thủ, một phóng viên ở hãng tin TT chuyên theo dõi tòa án đã sục vào một báo cáo y tế viết vào hồi Salander bị bắt vì đá một người qua đường ở ga xe điện ngầm Gamla Stan.

Cô ở Odenplan trên đường về nhà (tạm thời) với bố mẹ đỡ đầu ở Hagersten. Ở Radsmangatan, một người lạ mặt nom rõ ràng đã lên xe điện rồi lập tức chú ý đến cô. Sau đó cô phát hiện ra người này là Karl Evert Norgren, một tay chơi đàn trong ban nhạc ở Gavle. Bất chấp một nửa toa có khách, ông ta vẫn đến ngồi xuống cạnh cô và bắt đầu chọc ghẹo. Ông ta để tay lên đầu gối cô, toan bắt chuyện theo cái kiểu: "Cô theo tôi về nhà thì tôi cho hai trăm". Cô lờ đi thì ông ta lên râu gọi cô là cái hĩm già chua loét. Cô từ chối chuyện trò và đổi chỗ ngồi ở Ga Trung tâm cũng không ăn thua.

Khi xe đến gần Gamla Stan, ông ta quàng tay ra sau ôm lấy cô, thục tay vào trong áo thun cô, thì thầm vào tai cô rằng cô là một con điếm. Đáp lại, cô huých cùi chỏ vào mắt ông ta rồi bám vào một cây cột thẳng đứng, vùng dậy đá cả hai gót giầy vào ngang sống mũi ông ta, máu liền lập tức chảy ra lênh láng.

Ăn mặc như con ma cà chớp, tóc nhuộm xanh lơ cho nên cô không có cơ lủi vào trong đám đông khi xe điện dừng lại ở sân ga. Một nhân viên trật tự và pháp luật đã túm lấy cô, đè cô xuống đất cho tới khi cảnh sát đến.

Cô rủa cái phận gái cùng sức vóc của mình. Nếu cô là đàn ông thì không ai dám tấn công. Cô chẳng thiết nói rõ tại sao lại đi đá vào mặt Karl Evert Norgren.

Cô cũng chả thấy đáng phải cố giải thích gì đó cho các nhà chức trách mặc đồng phục. Cô khăng khăng không trả lời khi các nhà tâm lý học cố xác định trạng thái tâm thần của cô. May sao vài hành khách khác, gồm cả một phụ nữ ở Harnosand, bà ta có tính kiên trì và tình cờ lại là một Nghị sĩ Quốc hội đảng Trung gian, đã quan sát toàn bộ diễn biến câu chuyện. Bà chứng nhận rằng Norgren tấn công Salander trước rồi mới nổ ra bạo hành. Cuối cùng quay ra thế nào tay Norgren này trước kia đã bị kết án hai lần vì xâm phạm tình dục, công tố viên bèn kết luận cho buông vụ án. Nhưng như thế không có nghĩa rằng báo cáo phúc lợi xã hội về cô gái vẫn được nguyên vẹn. Không lâu sau đó tòa án quận đã tuyên bố Salander không thể tự cai quản mình và cuối cùng cô gái đã phải nhận sự giám hộ của Holger Palmgren rồi sau này là Nils Bjurman.

Bây giờ tất cả các chi tiết riêng tư và bí mật này đều lên hết cả trên mạng Internet cho công chúng tiêu thụ. Biên bản về cô đã được thêm dấm thêm ớt bằng những miêu tả mùi mẫn về việc từ những năm đầu tiên đi học cô đã hay xung đột với những người xung quanh ra sao, thời mười mấy tuổi cô đã sống ở bệnh viện tâm thần cho thiếu niên như thế nào.

Đăng lên truyền thông, các chẩn đoán bệnh của Salander cứ thay đổi khác nhau tùy theo tường thuật của từng kênh phát hành, từng tờ báo. Đôi khi người ta tả cô là bệnh tâm thần, đôi khi là tâm thần phân lập hay tâm thần hoang tưởng. Tất cả báo chí đều đồng thanh cô bị khuyết tật tâm thần - muốn sao thì đó, cô không thể học hết ở trường, phải bỏ cả thi cử kia mà. Công chúng chẳng nên nghi gì chuyện cô bị mất cân bằng và thiên về bạo lực.

Khi phát hiện ra Salander là bạn của Miriam Wu đồng tính ái nữ, một số tờ báo liền lên cơn rồ cơn sốt. Wu đã xuất hiện ở sô biểu diễn trong Liên hoan Tự hào Đồng tính ái của Benita Costa, một tiết mục khiêu dâm trong đó cô chụp ảnh để vú trần, mặc quần da rách toạc với nịt đeo bít tất và giầy bốt da cao gót. Cô đã viết cho một tờ báo "xăng nhớt" những bài báo được trích dẫn rộng rãi, cũng như cô đã trả lời các câu phỏng vấn liên quan đến việc cô xuất hiện ở các sô biểu diễn này nọ. Đem gộp một đồng tính ái nữ bị nghi là giết người hàng loạt với chuyện tính dục S&M kích dâm rõ ràng đã tạo nên những điều kỳ diệu cho con số phát hành báo chí.

Do Miriam Wu không độn thổ đi trong tuần đầu tiên của bi kịch nên đã có suy diễn là cô có thể cũng lại trở thành nạn nhân của Salander hay có thể cô đã tòng phạm. Tuy nhiên phần lớn các suy diễn này chỉ giới hạn ở trong phòng tán gẫu "Lưu đày" của Internet. Mặt khác, một số báo đã ỡm ờ đưa ra lý lẽ cho rằng có lẽ việc luận án của Mia Johansson bàn về buôn bán tính dục bị tiết lộ đã là động cơ giết người của Salander - dựa trên cơ sở cô là gái điếm - theo như Sở Phúc lợi xã hội.

Đến cuối tuần thì báo chí phát hiện Salander cũng có quan hệ với một nhóm phụ nữ trẻ lân la với học thuyết ác quỷ Satan. Họ tự mệnh danh Những Ngón tay Ma quỷ và điều này khiến một nhà báo già giữ chuyên mục đã viết về bệnh mất gốc của thanh niên cùng những mối nguy dụ dỗ họ vào mọi thứ từ văn hóa đầu trọc đến hip - hop.

Khi cộp các khẳng định của báo chí đủ loại lại thì rõ ràng là cảnh sát đang săn lùng một phụ nữ mắc bệnh tâm thần và đồng tính ái từng gia nhập một giáo phái những kẻ thờ quỷ Satan bạo dâm - tự hành xác tuyên truyền cho tính dục S&M và nói chung thù ghét xã hội mà nói riêng thì thù ghét đàn ông. Và do vì năm ngoái Salander đã ra nước ngoài thì đám này có thể còn có cả các quan hệ quốc tế nữa cũng nên.

Salander chỉ một lần phản ứng rất mạnh với điều mà báo chí để lọt ra trong các gào rú của nó:

"CHÚNG TÔI SỢ CÔ TA"

Cô ta đe dọa chúng tôi, thầy giáo và bạn học nói.

Người nói câu này là một cô giáo cũ, nay là một nhà thiết kế vải vóc tên là Brigitta Miaas.

Vào hồi xảy chuyện này Salander mười một tuổi. Cô nhớ Miaas là một phụ giáo môn toán không dễ ưa, chuyên khăng khăng cố bắt cô trả lời một câu hỏi mà cô đã trả lời đúng, mặc dù theo lời đáp chuẩn trong sách giáo khoa thì cô sai. Thực tế, sách giáo khoa sai và chừng nào liên quan đến Salander thì điều đó sẽ lại bày lù lù ra trước mọi người ngay. Nhưng Miaas càng ngoan cố thì Salander càng không muốn bàn đến chuyện này. Cuối cùng cô ngồi bĩu môi ra cho đến khi Miaas hết cách đã túm lấy vai Salander mà lắc để cho cô bé chú ý đến mình. Đáp lại, Lisbeth ném luôn quyển giáo khoa vào đầu cô giáo và thế là bắt đầu om sòm um lên. Cô nhổ nước bọt và đá các bạn học toan ôm chặt lấy cô.

Bài báo là một phóng sự đăng trong một tờ báo chiều, nó dành một quãng trống ở bên in ảnh một bạn học cũ đứng trước cổng ra vào ngôi trường xưa của Salander. Đó là David Gustavsson, người bây giờ tự gọi mình là trợ lý tài chính. Anh ta tuyên bố tất cả học trò đều sợ Salander vì "cô ta từng dọa giết từng đứa một". Salander nhớ Gustavsson là một trong số đứa hay bắt nạt nhất trường, một thằng vũ phu với chỉ số thông minh to bằng que tăm, hắn không bỏ qua một cơ hội nào để dọn bưng cho mọi người xơi các câu chửi tục cùng quả đấm ở gian sảnh nhà trường. Một lần đang trong giờ nghỉ ăn trưa ở nhà thể dục, hắn đánh cô và theo lệ thường, cô đánh trả.

Xét về thuần túy sức lực thì cô chả có cơ may nào nhưng thái độ của cô là thà chết chứ không đầu hàng. Sự tình xấu đi khi một lũ đông các bạn học quây tròn lại xem cô bị Gustavsson đánh ngã lăn ra đất rồi hắn còn đánh nữa đánh mãi. Đến lúc ấy đã thú vị rồi nhưng cô gái ngu ngốc này hình như vẫn không hiểu được rằng thế nào thì tốt với cô ta cho nên không chịu lùi bước. Thậm chí chả kêu la mà cũng chả xin tha.

Một lúc chuyện Salander bị đánh này cũng đã là quá đáng với các bạn học. Gustavsson hẳn hoi là bề trên và Salander hẳn hoi là phận lép nên hắn không mất sĩ diện. Hắn lại bắt đầu cho một chầu nữa và hắn không thể ngừng tay. Cuối cùng hắn đấm hai quả thật lực làm môi cô rách toác và cô nằm chết lịm. Các bạn học bỏ lại cô nằm bẹp một đống ở sau nhà thể dục, rồi chúng vừa cười vừa chạy đi.

Salander về nhà liếm láp các vết thương. Hai ngày sau cô đến trường với cây gậy chơi bóng chày. Ở giữa sân chơi, cô thọc một que sắt vào tai Gustavsson. Khi hắn choáng lên nằm lăn ra đất, cô bèn cúi xuống đè cây gậy lên cổ họng hắn rồi thì thầm vào tai hắn rằng nếu từ nay hắn mà còn đụng đến cô thì cô giết hắn. Khi thầy cô giáo phát hiện ra thì Gustavsson được đưa đến y tế nhà trường còn Salander thì lên phòng hiệu trưởng để bị trừng trị cũng như để nhận các lời bình phẩm vào học bạ sau này và vào các báo cáo phúc lợi xã hội còn nhiều hơn thế nữa của cô.

Mười lăm năm qua Salander đã không còn nghĩ chút nào đến Miaas hay Gustavsson. Cô thầm tính rằng khi rảnh tay đôi chút cô sẽ kiểm tra xem họ đã là cái gì cho đến hôm nay.

Việc tất cả báo chí chú ý đến Salander đã có hiệu quả chung là trước toàn thể dân cư Thụy Điển cô bỗng trở thành vừa nổi tiếng lại vừa tai tiếng. Người ta lên đồ thị, săm soi và công bố cho đến từng chi tiết nhỏ nhặt nhất của lai lịch cô, từ những cơn nổi xung ở trường tiểu học đến chuyện vào bệnh viện tâm thần của thiếu niên Thánh Stefan, ngoài Uppsala, nơi cô đã sống hai năm ở đó.

Cô dỏng tai lên khi bác sĩ trưởng khoa Peter Teleborian được phỏng vấn trên tivi. Lần cuối cùng cô gặp ông cách nay đã tám năm, liên quan đến phiên tòa tuyên bố cô không thể tự cai quản được bản thân. Lông mày ông xù tướng lên rồi ông gãi chòm râu thưa khi ông bối rối quay lại người phóng viên trường quay, giải thích rằng theo luật định ông phải giữ bí mật do đó ông không thể bàn đến cá nhân một người bệnh. Ông chỉ có thể nói được rằng Salander là một trường hợp cực kỳ phức tạp, rằng cô cần được điều trị chuyên khoa, rằng trái lại những chỉ dẫn của ông, lẽ ra phải cho cô được chữa chạy tại cơ sở y tế, điều mà cô yêu cầu, thì tòa án quận đã quyết định đặt cô vào chế độ giám hộ ngoài xã hội. Đây là một vụ tai tiếng, Teleborian tuyên bố. Ông ân hận rằng ba người vừa bị mất mạng là kết quả của phán xét sai lầm này và ông chắc chắn ông đã đấm được mấy quả trúng vào những cắt giảm trong môn điều trị tâm thần mà Chính phủ ép làm trong những thập niên gần đây.

Salander để ý thấy không một tờ báo nào vạch ra rằng hình thức chung nhất trong một phòng bệnh an toàn tại bệnh viện tâm thần dành cho thiếu nhi, nơi mà bác sĩ Teleborian phụ trách, là đặt "các người bệnh vô kỷ luật và không thể quản lý" vào một gian phòng "không có vật kích động". Gian phòng chỉ có một cái giường với một dây trói. Sách giáo khoa giải thích rằng không được cho đứa trẻ vô kỷ luật tiếp nhận bất cứ "vật kích động nào" có khả năng làm nổ ra những cơn hung hãn.

Khi lớn lên cô phát hiện ra còn có một thuật ngữ nữa dùng cho điều này. Sự tước đoạt cảm xúc. Theo công ước Genève thì mọi hình thức đặt người tù vào cảnh bị tước đoạt cảm xúc đều bị xếp hạng là vô nhân đạo. Nó là một yếu tố thường được dùng trong các thí nghiệm tẩy não do các chế độ độc tài nọ kia chủ trương, người ta đã có chứng cứ rằng ở các phiên tòa tại Moscow những năm 30 các tù chính trị từng khai nhận đủ các thứ tội ác đều là đã bị đối xử theo lối tước đoạt cảm xúc này.

Trong khi Salander quan sát mặt Teleborian trên tivi, trái tim cô đã hóa thành một tảng băng nho nhỏ. Cô nghĩ ông có còn dùng thứ nước hoa gớm ghiếc sau khi cạo râu kia nữa không. Ông chịu trách nhiệm về cái điều nó quy định cô sẽ rơi vào trường hợp nào. Rõ ràng người ta đã bảo nhau đối xử với cô sao cho cô hiểu ra được hành động của mình. Salander đã nhanh chóng nhận ra rằng "một người bệnh vô kỷ luật và không thể quản lý" là chẳng khác gì một người bệnh đem trình độ chuyên môn và lý tính của ông ra chất vấn vậy.

Trong quá trình được chữa bệnh cô phát hiện thấy trên thềm của thế kỷ XXI, bệnh viện Thánh Stefan vẫn thực hành các phương pháp điều trị tâm thần phổ biến nhất hồi những năm 1500.

Cô đã qua gần nửa thời gian ở đấy, cột chặt vào cái "gian phòng không có vật kích động".

Teleborian không bao giờ sờ mó cô, xét về tính dục. Ông ta không sờ mó gì đến cô hết, trừ trong những tình huống hồn nhiên nhất. Một lần ông đặt tay lên vai cô, như một lời nhắc nhở khi cô đang bị cột lại trong cảnh biệt lập.

Cô thầm hỏi liệu các vết răng của cô có vẫn còn hằn trên ngón tay út của ông không đây.

Toàn bộ sự việc đã phát triển thành một trò chơi đồi bại trong đó Teleborian nắm đằng chuôi. Cách cô tự vệ chỉ là không cho ông ta vào và mỗi khi ông ta ở trong gian phòng thì lờ ông ta đi hoàn toàn.

Năm mười hai tuổi cô đã được hai nữ cảnh sát viên chở đến bệnh viện Thánh Stefan. Đó là sau vụ "Tất cả Xấu xa" xảy ra một ít tuần. Cô nhớ từng chi tiết. Thoạt đầu cô nghĩ mọi chuyện có thể sẽ được giải quyết xong. Cô cố giải thích tình hình của mình cho các sĩ quan cảnh sát, nhân viên xã hội, nhân viên bệnh viện, y tá, bác sĩ, các nhà tâm lý học, thậm chí cả một vị mục sư, ông đã muốn cô cùng cầu nguyện với ông. Do cô ngồi ở ghế sau xe cảnh sát nên khi họ đi qua Trung tâm Wenner - Gren trên đường lên mạn bắc đến Uppsala, cô vẫn không biết họ đưa mình đi đâu. Không ai bảo gì cô. Chính lúc ấy cô cảm thấy mọi sự vẫn sẽ cứ như cũ, không giải quyết được.

Cô đã cố giải thích với Teleborian.

Các cố gắng của cô đã đưa đến kết quả là đêm hôm bước sang tuổi mười ba, cô bị trói nằm ở trên giường.

Teleborian là kẻ bạo dâm đáng kinh tởm và đáng thù ghét nhất mà Salander từng gặp phải. Hắn vượt Bjurman cả hàng dặm đường. Bjurman thô bạo không thể diễn tả ra lời nhưng cô có thể khống chế được hắn. Nhưng Teleborian thì nấp sau một tấm rèm những tài liệu, xác nhận, danh dự hàn lâm và một lô các trò con tườu về bệnh tâm thần. Không thể báo cáo hay phê phán bất cứ một hành động riêng lẻ nào của ông ta.

Ông được Nhà nước ủy quyền cho trói các cô gái bé bằng dây da.

Mỗi lần Salander nằm ngửa cứng đơ ra trong dây trói còn ông thì thắt chặt lại dây da và khi bắt gặp mắt ông thì cô lại thấy rõ ông đang bị kích thích. Và ông ta biết là cô biết như thế.

Cái đêm sang tuổi mười ba, cô quyết định không bao giờ trao đổi một lời nào nữa với Teleborian hay với bất cứ nhà tâm thần học nào cũng không cam chịu. Đó là món quà sinh nhật cô tặng cho mình. Và cô đã giữ lời hứa. Cô biết như thế sẽ chọc tức Teleborian và hơn bất cứ điều gì khác đã góp phần chính vào cái cảnh đêm đêm cô bị trói chặt vào giường. Nhưng đó là cái giá mà cô muốn trả.

Cô tự học lấy mọi điều về tự kiểm soát. Cô không còn các cơn nổi hung, cũng không quăng vất đồ đạc bừa bãi những ngày cô được thả ra sau khi bị biệt lập.

Nhưng cô từ chối nói chuyện với các bác sĩ.

Mặt khác cô nói năng lễ phép với các cô y tá, nhân viên cấp dưỡng, các chị em dọn phòng. Điều này đã được ghi nhận. Một cô y tá thân thiện tên là Carolina, người được Salander tương đối tin cậy, một hôm đã hỏi tại sao cô lại xử sự cái lối như vậy. Salander kỳ quặc nhìn cô y tá.

Tại sao em không nói với bác sĩ?

Tại vì các ông ấy không nghe những gì em nói.

Salander trả lời có suy nghĩ. Đây là cách cô giao tiếp với các bác sĩ. Cô biết mọi bình luận của cô đều được ghi vào y bạ, trở thành tư liệu cho thấy sự im lặng của cô là một quyết định hoàn toàn có lý tính.

Trong năm cuối cùng ở bệnh viện Thánh Stefan, Salander ít bị vào phòng biệt giam hơn. Khi bị biệt giam thì đều do cô đã chọc giận Teleborian bằng một cách nào đó, điều mà hình như hễ ông ta để mắt đến cô là cô làm ngay tức thì. Ông cố nhiều phen phá vỡ sự im lặng bướng bỉnh của cô, buộc cô phải thấy rằng ông đang có mặt.

Một lần ông kê cho Salander một thứ thuốc tâm thần nó làm cho cô không nghĩ, không thở được, điều ngược lại đã dẫn đến chỗ cô lo lắng bồn chồn. Từ đó cô từ chối uống thuốc mà kết quả là họ phải cưỡng ép cô uống trôi ba viên một ngày.

Cô chống cự dữ đến nỗi nhân viên bệnh viện phải lấy sức đè cô xuống, bóp miệng cô há ra buộc cô phải nuốt thuốc. Lần đầu, Salander móc ngay ngón tay vào cổ họng, cả bữa ăn sáng thế là nôn hết vào người hộ lý gần nhất. Sau đó mỗi lần uống thuốc cô đều bị trói chặt bằng dây da, cô bèn học được cách nôn mà không cần thọc ngón tay vào cổ. Cuộc chống cự ngang ngạnh của cô cũng như việc nhân viên bệnh viện phải tổn hao công sức đã dẫn đến chỗ ngừng uống thuốc.

Cô vừa mười lăm tuổi thì được chuyển về Stockholm sống một lần nữa với một gia đình đỡ đầu mà không có báo trước. Với cô thay đổi này xảy ra như một chấn động. Lúc này Teleborian không trông coi bệnh viện Thánh Stefan nữa. Salander cầm chắc đó là lý do khiến cho cô ra khỏi được bệnh viện. Nếu Teleborian vẫn phụ trách việc ra quyết định thì cô còn bị trói chặt vào giường trong phòng giam biệt lập.

Nay cô đang xem ông ta trên tivi. Cô thầm nghĩ liệu ông có còn tơ tưởng lăng nhăng đến việc đưa cô về cho ông chữa chạy nữa hay không hay cô đã già quá không còn khêu gợi được những ý nghĩ bậy bạ ở ông nữa. Việc ông nhắc đến quyết định của tòa án quận không bắt cô nằm bệnh viện nữa đã làm cho người phỏng vấn bất bình tuy ông ta rõ ràng không hiểu là nên hỏi thêm những gì. Không ai phản đối ý của Teleborian. Người trưởng khoa cũ ở Thánh Stefan đã chết. Ông thẩm phán tòa án quận từng chủ tọa xét xử Salander, và nay phải nhận lấy một phần vai trò của kẻ ác trong tấn bi kịch, thì đã về hưu và từ chối bình luận với báo chí.

Salander tìm thấy một trong những bài báo đáng ngạc nhiên nhất trên trang mạng của một tờ báo xuất bản ở miền trung Thụy Điển. Cô đọc nó ba lần rồi mới tắt máy tính và châm một điếu thuốc lá. Cô ngồi lên chiếc gối Ikea trên ghế bên cửa sổ, ngán ngẩm nhìn ánh sáng bên ngoài.

"CÔ TA LÀM TÌNH CẢ VỚI NAM LẪN NỮ",

MỘT BẠN THUỞ BÉ NÓI.

Người phụ nữ hai mươi sáu tuổi bị truy nã vì liên quan đến ba vụ án mạng đã được miêu tả là một kẻ tâm thần lưỡng tính ái từng gặp khó khăn lớn trong viêc tự điều hòa với nhà trường. Tuy đã nhiều dự định tái nhập cô ta vào trong nhóm nhưng cô ta vẫn cứ làm kẻ ngoài cuộc.

"Rõ ràng cô ta có vấn đề về tính dục", Johanna, một trong số ít bạn thân của cô ta ở trường, nhớ lại. "Sớm đã thấy rõ cô ta khác người và lưỡng tính ái. Chúng tôi rất quan ngại về cô ta".

Bài báo kể tiếp vài chuyện mà nhà cô Johanna này nhớ được. Salander nhăn mặt. Cô không thể nhớ các chuyện này cũng như mình đã có một đứa bạn thân tên là Johanna. Thật ra cô không nhớ nổi là đã biết một ai đó có thể được tả là bạn thân hay đã cố kéo cô vào một nhóm nào trong thời gian cô còn đi học.

Bài báo cũng chả nói cụ thể những chuyện này được cho là xảy ra ở đâu nhưng mười hai tuổi cô đã bỏ học. Như thế có nghĩa người bạn thơ ấu đang quan ngại kia chắc đã phải phát hiện ra cô khi lên mười, có thể mười một tuổi đã lưỡng tính ái.

Trong dòng lũ những bài báo lố bịch cuối tuần qua, bài dẫn lời Johanna đánh Salander mạnh nhất. Nó là bịa đặt ra mặt. Hoặc nhà báo đã quàng phải một đứa mê chuyện hão huyền hoặc tự tay dựng nên tất cả. Cô nhớ tên phóng viên này, cho thêm hắn ta vào danh sách những chủ thể để mai này truy cứu.

Ngay cả các bài tường thuật tích cực hơn, những bài đã phê phán xã hội với những tít như "XÃ HỘI THẤT BẠI" hay "CÔ TA KHÔNG BAO GIỜ NHẬN ĐƯỢC SỰ GIÚP ĐỠ CẦN THIẾT" cũng làm cho cô bị biến chất thành ra một kẻ thù số một của cộng đồng - một kẻ sát nhân hàng loạt chỉ trong cơn cuồng điên mà đã thủ tiêu đi mất ba công dân đáng kính trọng.

Đọc các lời tả về đời mình này, Salander đã bị mê mụ đi một phần nào nhất định, cô nhận thấy một lỗ hổng rõ ràng trong hiểu biết của công chúng. Không thể tiếp cận đầy đủ các chi tiết đã được xếp hạng công phu nhất của cô, rõ ràng báo chí đã bỏ qua hoàn toàn "Tất cả Xấu xa", câu chuyện xảy ra ngay trước khi cô mười ba tuổi. Thông tin được đăng lên là liệt kê ra từ nhà trẻ đến tuổi mười một và rồi lại tiếp tục khi cô ra khỏi bệnh viện tâm thần, năm mười ba tuổi.

Chắc một ai đó trong bộ phận điều tra của cảnh sát đã cung cấp thông tin cho báo chí nhưng vì những lý do mà Salander không biết, người đó đã quyết định giấu đi cái đoạn bao gồm "Tất cả Xấu xa". Điều này làm cô ngạc nhiên. Nếu cảnh sát muốn nhấn mạnh đến xu hướng ứng xử đồi bại của cô thì với đời cô phần báo cáo này mới là điều tàn hại nhất cho tới nay. Nó chính là lý do làm cô bị đưa đến bệnh viện Thánh Stefan.

Chủ nhật lễ Phục sinh, Salander theo dõi điều tra của cảnh sát chặt chẽ hơn. Từ những điều tích cóp được từ báo chí, cô dựng nên một bức tranh về các thành viên của nó. Công tố viên Richard Ekstrom là người lãnh đạo cuộc điều tra sơ bộ và thường là người phát ngôn ở họp báo. Cuộc điều tra thực sự do thanh tra hình sự Jan Bublanski cầm trịch, một ông có phần nào quá trọng lượng trong một bộ đồ may tồi và luôn ở cạnh Ekstrom khi họ nói năng với báo chí.

Sau vài ngày Salander nhận ra Sonja Modig là thám tử nữ duy nhất trong nhóm điều tra và là người đã tìm thấy Bjurman. Cô ghi các tên Hans Faste, Curt Andersson nhưng bỏ mất Jerker Holmberg, ngỡ như chưa có bài báo nào đã nhắc đến tên ông ta vậy. Cô tạo ra ở máy tính của mình một tệp tin cho từng người của nhóm và điền thông tin vào đó.

Dĩ nhiên thông tin về cảnh sát tiến hành điều tra như thế nào được giữ trong máy tính do các cảnh sát đang điều tra sử dụng, cơ sở dữ liệu của họ được lưu trong máy chủ ở trụ sở cảnh sát. Salander biết rằng đột nhập vào mạng nội bộ của cảnh sát là cực kỳ gay go, nhưng như thế không có nghĩa là không thể làm được. Trước kia cô đã từng làm.

Một lần làm nhiệm vụ Armansky giao cho, cô đã lên sơ đồ cấu trúc mạng nội bộ của cảnh sát, tạo ra khả năng chui vào được đăng nhập hình sự để biến nó thành các lối ra vào của riêng cô. Khi toan từ bên ngoài chui vào trong máy tính cảnh sát, cô đã thất bại thảm hại - các tường lửa của cảnh sát quá tân kỳ và cài đầy các loại bẫy, điều sẽ đưa đến sự thận trọng mà họ không hoan nghênh.

Mạng nội bộ cảnh sát là một thiết kế cực hiện đại với hệ cáp riêng, nó được che chắn với các kết nối từ bên ngoài và với ngay cả Internet. Nói cách khác, cô cần phải có một sĩ quan cảnh sát đang làm việc về vụ của cô và được phép vào mạng, hoặc tốt nhất là làm cho mạng nội bộ của cảnh sát tin rằng cô được phép vào mạng. May sao ở mặt này, các chuyên gia an ninh của cảnh sát đã để ra một khoảng trống. Các đồn cảnh sát trên cả nước đều kết nối với mạng và một số trong đó là những đơn vị địa phương nhỏ bé ban đêm không có người trực và cũng không cả báo động đột nhập hay các đội tuần tra an ninh. Đồn cảnh sát ở Langvik bên ngoài Vasteras là một trong số đó. Nó chiếm khoảng 130 mét vuông trong cùng tòa nhà có thư viện công cộng và sở bảo hiểm xã hội khu vực, ban ngày được ba sĩ quan trông coi.

Hồi bấy giờ Salander đả không phá đư 3852 ợc vào mạng để điều tra cái việc cô đang làm nhưng cô đã quyết định là để vào lọt được nó cho các lần điều tra mai sau thì cũng đáng bỏ công và chút ít thì giờ ra. Nghĩ đến các khả năng rồi cô đã làm đơn xin vào làm việc mùa hè trong thư viện ở Langvik. Trong một lần nghỉ sau nghĩa vụ quét dọn vệ sinh cô đã bỏ ra mười phút ở trong bộ phận kế hoạch để sao y chi tiết toàn bộ căn nhà. Có có chìa vào tòa nhà nhưng không sao vào được các văn phòng cảnh sát, chuyện này cũng là hiểu được. Nhưng cũng chẳng mấy khó khăn cô đã phát hiện ra rằng cô có thể trèo vào văn phòng cảnh sát qua cửa sổ buồng tắm ở tầng bốn vốn thường để ngỏ những đêm hè nóng nực. Một công ty bảo hiểm tự do đến tuần tra đồn cảnh sát mỗi đêm một phiên, nhiều nhất là hai. Nực cười thế chứ lại.

Cô mất năm phút để tìm tên người sử dụng máy cùng mật khẩu để ở dưới tấm thảm trên bàn làm việc của đồn trưởng cảnh sát, cô đã để cả một đêm thử nghiệm tìm hiểu cấu trúc mạng lưới cũng như nhận ra đồn trưởng có loại truy cập nào và loại truy cập nào đã được xếp hạng là vượt ra ngoài địa bàn của các nhà chức trách sở tại. Như một phần thưởng, cô cũng lấy được tên người sử dụng máy và mật khẩu của hai sĩ quan cảnh sát sở tại. Một trong họ là Maria Ottosson 32 tuổi và, trong máy tính của nữ sĩ quan này, Salander phát hiện thấy chị ta mới làm đơn đơn xin và được chấp nhận làm thám tử ở phòng chóng gian lậu của cảnh sát Stockholm. Salander có được đầy đủ quyền quản trị máy của Ottosson, chị ta đã để chiếc máy xách tay Dell trong ngăn kéo bàn làm việc không khóa. Vậy Ottosson là một cảnh sát có một máy tính xách tay riêng mà chị ta dùng trong công việc chung. Rất hay. Salander mở máy, cài đĩa CD của mình với chương trình Asphyxia 1.0 vào, phần mềm gián điệp đầu tiên của cô. Cô tải phần mềm xuống hai nơi, một là phần hoạt động hòa nhập của Microsoft Internet Explorer và hai là phần tái lập ở trong sổ địa chỉ của Ottosson. Salander nhận thấy dù Ottosson có mua máy tính mới thì chị ta vẫn sẽ sao sổ địa chỉ của chị ta sang. Và cơ hội là mấy tuần tới khi chị ta đến nhận công việc ở phòng chống gian lậu tại Stockholm thì chị ta sẽ chuyển sổ địa chỉ của mình sang máy tính ở đó.

Salander cũng cài phần mềm vào các máy tính để bàn của các sĩ quan, như vậy cô có thể thu lượm dữ liệu từ bên ngoài và chỉ cần đánh cắp căn cước của họ là cô có thể điều chỉnh được sổ đăng ký tội phạm. Tuy nhiên cô phải thực hành hết sức thận trọng. Phòng an ninh của cảnh sát có hệ báo động tự động nếu như một sĩ quan sở tại trong giờ làm việc mà lại nhập hệ thống mạng bên ngoài hoặc nếu số lượng những thay đổi tăng lên quá dữ. Nếu cô "câu" lấy thông tin của các cuộc điều tra mà thường tình cảnh sát sở tại không liên can, thì cô sẽ kích hệ báo động làm việc.

Cả năm ngoái cô đã làm việc cùng với Dịch Bệnh, người cộng sự để kiểm soát mạng nội bộ của cảnh sát. Nó chứng tỏ là đầy rẫy khó khăn cho nên cuối cùng họ đã bỏ dự định đó nhưng trong quá trình họ cũng đã tích lũy được gần như một trăm căn cước cảnh sát mà họ có thể mượn dùng tùy ý.

Dịch Bệnh đã có một đột phá khi anh đột nhập thành công vào máy tính gia đình của trưởng phòng An ninh Dữ liệu cảnh sát. Ông là một nhà kinh tế dịch vụ dân sự không có kiến thức sâu về thông tin nội bộ nhưng lại có vô thiên lủng thông tin ở trong máy tính xách tay của ông. Sau đó Salander và Dịch Bệnh đã có cơ hội, nếu không truy cập thì ít nhất cũng là phá tàn phá hại mạng nội bộ của cảnh sát bằng virus đủ kiểu đủ loại - một hành động mà cả hai chả thèm làm. Họ là tin tặc chứ không phải kẻ phá hoại. Họ muốn truy cập vào các mạng đang vận hành chứ không là để phá hoại chúng.

Bây giờ Salander kiểm soát danh sách của cô thì thấy không cá nhân nào mà căn cước đã bị cô lấy cắp mất lại đang làm việc với cuộc điều tra về ba vụ án mạng - điều này vượt ngoài hy vọng. Nhưng cô có thể vào được mà không bị rắc rối lắm và đọc các chi tiết về lệnh báo động toàn quốc, kể cả những cáo thị về bản thân cô. Cô phát hiện thấy cảnh sát đã nhìn thấy và theo dõi cô ở Uppsala, Norrkoping, Goteborg, Malmo, Hassleholm và Kalmar cũng như họ đang cho lưu hành một hình ảnh mà máy tính đã xếp loại, cho ra một ý niệm tốt hơn về cô nom giống như thế nào.

Trong toàn bộ chú ý của báo chí, một trong số lợi thế nho nhỏ của Salander là người ta có quá ít các bức ảnh về cô. Ngoài bức ảnh hộ chiếu cũ hồi bốn tuổi, bức cũng được dùng cho bằng lái xe và một bức cảnh sát chụp cho vào hồ sơ lúc cô mười tám (nom không giống tí nào với bây giờ) chỉ có ít ảnh ở trong các niên giám nhà trường và các bức do một thầy giáo chụp về một chuyến đi dã ngoại vào khu bảo tồn tự nhiên Nacka khi cô mười hai tuổi. Bức ảnh về chuyến đi dã ngoại này cho thấy một bộ mặt loa lóa ngồi hơi xa cách với mọi người.

Bức ảnh hộ chiếu cho thấy cô nhìn tho ló, hai môi mím chặt, đầu hơi chúi về đằng trước. Nó hợp với hình ảnh của một tên sát nhân lạc hậu, phi xã hội và báo chí đã in ra hàng triệu bức như vậy. Được cái hay là cô nay nom quá khác đến mức rất ít người nhận ra được nó ở cô trong đời thật.

Cô lý thú đọc chân dung ba người bị giết. Thứ Ba báo chí bắt đầu bơi đứng tại chỗ, và do thiếu bất cứ phát giác mới hay quan trọng nào trong chuyện săn lùng Salander nên họ tập trung vào các nạn nhân. Dag Svensson, Mia Johansson và Nils Bjurman đã được phác họa chân dung ở trong một bài dài của một tờ báo chiều.

Nils Bjurman đã hiện ra như một vị luật sư được kính trọng và quan tâm đến xã hội, tham gia phong trào Hòa bình Xanh và có "cam kết với giới trẻ". Một cột báo đã được dành cho Jan Hakansson, đồng nghiệp và bạn thân của Nils Bjurman, người có một văn phòng ở cùng trong chung cư. Hakansson xác nhận hình ảnh Bjurman là một người đấu tranh cho quyền lợi của những con người thấp bé. Một viên chức dân sự tại công ty bảo hiểm thì tả ông ta như một người chân tình gắn bó với đám trẻ mà ông giám hộ.

Salander mỉm nụ cười méo xệch đầu tiên trong ngày.

Người ta tập trung chú ý nhiều đến Johansson, nữ nạn nhân trong tấn bi kịch. Cô được tả là một phụ nữ trẻ cực kỳ thông minh và dịu hiền đã từng có kỷ lục ấn tượng về thành tích và một sự nghiệp sáng sủa ở trước mặt. Các bạn bè và đồng sự ở đại học bị chấn động và một giáo sư đỡ đầu đều đã có bình luận. Tất cả đều hỏi một câu: "Tại sao?" Những bức ảnh cho thấy hoa và nến thắp sáng ở ngoài cửa tòa chung cư ở Enskede.

So với cô, không gian dành cho Svensson rất ít. Anh được tả là một phóng viên sắc nhọn, không biết sợ. Nhưng chú ý chính hướng về người đối tác của anh.

Nhận ra thấy cho đến tận Chủ nhật Phục sinh mọi người hình như mới biết Svensson đang làm một phóng sự lớn cho tạp chí Millennium, Salander đã chỉ ngạc nhiên vừa phải. Và thậm chí cả ngay lúc ấy các bài báo cũng không nói gì đến cái việc mà anh đang làm kia.

Cô không đọc lời trích mà Blomkvist gửi đến cho Aftonbladet. Mãi tới khuya thứ Năm, khi buổi tin của tivi nhắc tới nó, cô mới nhận ra Blomkvist đã có dụng ý đưa ra thông tin đánh lạc hướng. Anh nói Svensson đã dính dáng vào việc viết một tường thuật về an ninh máy tính và tin tặc bất hợp pháp.

Salander chau mày. Biết thế là sai giả, cô nghĩ Millennium định chơi trò gì đây. Rồi hiểu ra thông điệp, cô mỉm nụ cười méo xệch lần thứ hai trong ngày. Cô kết nối vào máy chủ ở Hà Lan, bấm chuột hai cái vào biểu tượng có tên MikBlom/laptop. Cô tìm thư mục và tư liệu [Gửi Sally] liền bày ra thù lù ở giữa màn hình. Cô bấm chuột hai cái rồi đọc.

Rồi cô ngồi nhìn đăm đăm bức thư của Blomkvist một lúc lâu. Cô vật lộn với những tình cảm trái nghịch nhau. Cho đến hiện nay cô đang chống lại gần như cả nước Thụy Điển, điều này xét về sự đơn giản của nó thì là một phương trình hoàn toàn trang nhã và sáng suốt. Nay thình lình cô có một đồng minh, hay ít nhất một đồng minh tiềm ẩn, tuyên bố anh ta tin cô vô tội. Và dĩ nhiên đây có lẽ là người duy nhất ở Thụy Điển mà cô không muốn gặp lại ở trong bất cứ hoàn cảnh nào. Cô thở dài. Blomkvist mãi cứ là một nhà cách tân ngây ngô. Từ năm mười tuổi Salander đã hết ngây thơ.

Không có những người ngây thơ. Nhưng lại có những mức độ khác nhau về tinh thần trách nhiệm.

Bjurman chết vì hắn đã chọn chơi phạm vào cái luật cô đặt ra. Hắn đã có mọi cơ may cho tới khi hắn thuê một tên đực rựa để hãm hại cô. Điều ấy không thuộc về trách nhiệm của cô.

Nhưng việc Blomkvist liên can thì không thể đánh giá thấp. Anh có thể có ích.

Anh giỏi giải các bài đố và anh ương bướng không ai sánh bằng. Cô đã nhận ra những điều đó ở Hedestad. Đã ngoạm răng vào một cái gì thì chỉ đơn giản là anh không có nhả ra. Anh thực sự ngô nghê. Nhưng anh có thể đến những nơi cô không thể đến. Anh có thể có ích cho tới khi cô ra được nước ngoài an toàn. Đó là điều mà cô cho rằng cô sẽ buộc phải làm sớm.

Không may là khó bề kiểm soát nổi Blomkvist. Anh cần một lý do cho việc anh làm. Và anh cũng cần cả một chứng lý đạo đức nữa.

Nói cách khác, hoàn toàn có thể tiên đoán được anh. Cô nghĩ một lúc rồi tạo một tư liệu mới mà cô gọi là [Gửi MikBlom] rồi viết một chữ duy nhất.

Zala

--- ---

Như thế anh sẽ có một chút gì đó để nghĩ đến.

Cô còn ngồi đó nghĩ thì để ý thấy Blomkvist đã chạy máy của anh. Đọc xong thư cô, anh liền trả lời ngay:

Lisbeth,

Cái nhà cô phá quấy này. Zala là đồ quái quỷ gì? Hắn là mối liên hệ ư? Cô biết ai giết Dag và Mia không? Nếu biết thì bảo tôi để chúng ta có thể giải quyết cái mớ rắc rồi này mà còn đi ngủ. Mikael.

--- ---

OK. Đã đến lúc bấu lấy anh chàng rồi.

Cô tạo một tư liệu mới gọi nó là [Kalle Blomkvist]. Cô biết thế này sẽ làm anh ngẩn ra đây. Rồi cô viết một thư ngắn:

Là nhà báo thì anh hãy tìm lấy đi chứ!

--- ---

Như biết trước, anh đáp lại ngay, kêu gọi cô hãy lắng nghe lý tính và anh thử tác động đến tình cảm của cô. Cô mỉm cười và đóng kết nối của cô vào ổ cứng của anh.

Bây giờ cô bắt đầu chõ mũi vào quanh quẩn đây đó, cô dịch lên mở ổ cứng của Armansky. Cô đọc bản báo cáo ông viết về cô sau ngày lễ Phục sinh. Không rõ bản báo cáo gửi ai nhưng cô cho rằng giải thích có lý nhất là Armansky đang làm việc với cảnh sát để giúp đưa cô vào cuộc.

Cô để một lúc xem qua hết email của Armansky nhưng không tìm thấy gì lý thú. Đúng lúc cắt mạch, cô thấy hiện lên một thư gửi cho người phụ trách kỹ thuật của An ninh Milton, chỉ thị cài đặt một máy quay phim ẩn kín theo dõi trong buồng giấy của ông.

Bingo. Đúng rồi.

Cô xem ngày giờ, thấy thư này gửi đi một giờ sau khi cô đến thăm xã giao hồi cuối tháng Giêng. Như thế có nghĩa là hệ thống theo dõi tự động ở đó cần phải được cô điều chỉnh một số thủ tục quen thuộc nào đó rồi mới có chuyến viếng thăm tiếp theo tới buồng giấy của Armansky.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,154
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 22


Thứ Ba, 29 tháng Ba

Chủ nhật, 3 tháng Tư

Sáng thứ Ba Salander vào sổ đăng ký tội phạm của cảnh sát tìm Alexander Zalachenko. Hắn không ở trong danh sách, điều này không lạ vì theo như cô biết thì hắn không bị kết án về một tội nào ở Thụy Điển, thậm chí còn không có ở cả đăng ký công cộng.

Chui vào sổ đăng ký tội phạm, cô dùng căn cước của chánh thanh tra Douglas Skiold ở cảnh sát Malmo. Cô hơi chột dạ khi thình lình máy của cô khẽ boong một tiếng và một biểu tượng trên thanh trình đơn bắt đầu nhấp nháy ra hiệu có người đang tìm cô ở chương trình tán gẫu ICQ.

Phản ứng đầu tiên của cô là rút phích điện tắt máy. Rồi cô nghĩ lại. Skiold không có chương trình ICQ ở máy ông ta. Rất ít người có tuổi dùng nó.

Có nghĩa là có người đang tìm cô. Và chả có bao lăm khả năng để mà phải lựa chọn. Cô bấm chương trình ICQ đánh mấy chữ:







< Cậu đang tìm gã Zalachenko nào vậy?>










--- ---

Salander do dự. Trước thì Blomkvist nay lại Dịch Bệnh. Những người muốn đến cứu cô không thể chấm hết được ư? Dịch Bệnh, vấn đề là anh ta là một vật cấm cung nặng tạ rưỡi gần như chỉ chuyên qua mạng Internet mà giao lưu với Salander và làm cho Salander trông cứ như là kỳ quan của các cao thủ xã hội vậy. Cô không trả lời thì Dịch Bệnh lại đánh một dòng nữa:













--- ---

Salander thoát chương trình ICQ, ngồi xuống sofa suy nghĩ. Phút sau cô gửi cho địa chỉ hotmail của Dịch Bệnh một email.

Công tố viên Richard Ekstrom, người dẫn dắt cuộc điều tra sơ bộ, sống ở Taby. Ông ta có vợ và hai con và có một kết nối mạng với gia đình qua băng thông rộng. Tớ muốn vào máy xách tay hay máy của nhà ông ta. Tớ muốn đọc ông ta đúng với thời gian. Không cho tiếp cận được ổ cứng bằng chương trình sao chép.

Cô biết Dịch Bệnh hiếm khi ra khỏi nhà ở Sundbyberg cho nên cô hy vọng anh đã chăm bón được dăm ba đứa tuổi teen lớ ngớ làm công việc điền dã. Không cần ký vào thư. Mười lăm phút sau đã được hồi đáp:





--- ---

Sáng thứ Năm cô được email của Dịch Bệnh mang một địa chỉ FTP mật. Salander mừng. Cô không ngờ chưa tới hai ngày đã có kết quả. Ở vào một thời gian mà một phần mềm đơn giản chưa được tạo ra thì "giáp lá cà" một máy tính khác, dù bằng chương trình xuất sắc của Dịch Bệnh cùng phần cứng do anh đặc biệt thiết kế ra cũng là một quá trình cần cù đòi hỏi bạn phải cho các bit thông tin trườn vào một máy tính một kilobyte cho tới khi một chương trình phần mềm đơn giản được tạo dựng. Nó được tiến hành nhanh đến đâu tùy thuộc vào Ekstrom dùng luôn hay thưa máy tính của ông ta, và rồi thường thường lại sẽ phải mất vài ngày nữa để chuyển tất cả các dữ liệu sang một ổ cứng bản sao. Bốn mươi tám giờ đồng hồ không chỉ là ngoại lệ mà còn là một điều không thể có được về mặt lý thuyết. Salander bị ngợp. Cô boong gọi ICQ của anh:





--- ---

Nghĩ một lúc rồi cô chuyến 30.000 curon vào tài khoản của Dịch Bệnh qua Internet. Cô không muốn anh hoảng hồn trước các khoản tiền quá nhiều. Rồi cô thoải mái ngồi lên chiếc ghế Verksam Ikea mở máy tính xách tay của Ekstrom.

Trong một giờ cô đọc hết các báo cáo của thanh tra Bublanski gửi Ekstrom. Salander ngờ chuyện các báo cáo loại này về kỹ thuật là không được phép rời khỏi trụ sở cảnh sát. Nó một lần nữa chứng minh cho cái lý thuyết nói rằng không có hệ thống an ninh nào địch nổi được một nhân viên ngu ngốc. Qua máy tính của Ekstrom cô lượm được vài mẩu thông tin quan trọng.

Thứ nhất, cô phát hiện thấy Armansky đã phân công cho hai người của ông tham gia không công vào nhóm điều tra của Bublanski, như vậy thực tế là An ninh Milton đang đỡ đầu cho việc cảnh sát săn lùng cô. Nhiệm vụ của hai người là giúp sức bắt Salander bằng mọi cách có thể. Cảm ơn lắm nha, Armansky. Tôi nhớ đấy nha. Khi thấy hai người là ai, cô cau mày. Cô coi Bohman như người thẳng ruột ngựa và ông đối xử với cô hoàn toàn tao nhã. Hedstrom thì là một gã sa đọa không ra gì, khai thác vị trí ở An ninh Milton để lừa tiền một trong các khách hàng của công ty.

Salander có một đạo lý phân minh rành mạch. Cô chả chống tí nào lại việc lừa tiền khách hàng của công ty - nghĩ rằng họ đáng bị như thế - nhưng cô, nếu nhận một việc mà cô cam kết giữ bí mật thì cô sẽ không bao giờ vi phạm nó.

Salander nhanh chóng phát hiện ra người xì thông tin cho báo chí chính lại là Ekstrom. Điều này đã rõ ràng ở một thư điện tử trong đó ông trả lời các câu hỏi truy tiếp về cả bản báo cáo tâm thần của Salander lẫn mối quan hệ giữa cô và Miriam Wu.

Mẩu tin có ý nghĩa thứ ba là tình hình nhóm Bublanski không biết một chút nào hết về chỗ họ cần tìm Salander. Cô lý thú đọc những biện pháp nào đã được đem dùng và những địa chỉ nào đã được đặt vào chế độ kiểm soát lỏng lẻo. Đó là một danh sách ngắn. Lundagatan, dĩ nhiên, nhưng cả địa chỉ của Blomkvist, địa chỉ cũ của Miriam Wu ở St Eriksplan và Kvarnen, nơi người ta đã thấy hai cô bên nhau. Sao ta lại phải dây vào Miriam? Sai lầm quá.

Thứ Sáu, nhóm của Bublanski cũng đã tìm ra mối liên hệ với Những Ngón tay Ma quỷ. Cô nghĩ như thế có nghĩa là nhiều địa chỉ nữa sẽ bị thăm viếng. Cô cau mày. Vậy là các cô gái trong nhóm cũng sẽ tan biến đi khỏi vòng bè bạn của cô tuy từ ngày trở về Thụy Điển cô chưa hề tiếp xúc với họ.

Càng nghĩ về tất cả các chuyện này cô càng thấy bối rối. Ekstrom đã xì ra đủ thứ thượng vàng hạ cám cho báo chí. Mục tiêu của ông ta đã rõ. Ông đang xây dựng tên tuổi và vào ngày ông ban lệnh chống cô thì ông làm lễ thi công cho công trình này.

Nhưng tại sao ông không xì ra bản báo cáo năm 1991, bản báo cáo đã dẫn cô tới chỗ bị khóa, bị trói ở bệnh viện Thánh Stefan. Sao lại giấu đi câu chuyện này?

Cô lại trở lại máy tính của Ekstrom, soi xét từng tư liệu. Cô châm thuốc hút khi đã đọc xong hết. Cô không tìm thấy qua một quy chiếu nào tới các sự kiện của năm 1991 trong máy tính của ông. Chuyện này lạ, nhưng chỉ có thể giải thích được rằng ông không biết đến bản báo cáo đó của cảnh sát.

Trong một lúc cô như thất thần. Rồi cô nhìn vào máy tính PowerBook của cô. Đây chính là cái thứ mà tay Kalle Ba Láp Blomkvist này có thể sẽ ngoạm sâu vào đây. Cô mở lại máy tính để vào ổ cứng của anh và tạo một tư liệu [MB2].

Công tố viên E. xì tin cho báo chí. Hỏi ông tại sao không xì bản báo cáo của cảnh sát.

--- ---

Thế là đủ để cho anh ta nổ máy rồi. Cô ngồi kiên nhẫn chờ hai giờ cho Blomkvist vào mạng. Anh đọc email của anh và phải mất mười lăm phút anh mới nhận thấy có tư liệu của cô và lại phải thêm năm phút nữa anh mới hồi đáp được bằng một tư liệu [Bí ẩn]. Anh không cắn câu. Thay vì vậy, anh lại nài rằng anh muốn biết ai đã giết bạn của anh.

Cái lý này Salander hiểu được. Cô cho mềm đi đôi chút và trả lờí bằng [Bí ẩn 2].

Nếu là tôi thật thì anh làm gì?

--- ---

Câu này ngụ ý là một câu hỏi riêng tư. Anh trả lời bằng [Bí ẩn 3]. Nó làm cô cảm động.

Lisbeth, nếu đúng thế, thì như họ đang nói là cô đã đi vượt khỏi ngưỡng, và vậy thì cô có thể nhờ Peter Teleborian giúp. Nhưng tôi không tin cô giết Dag và Mia. Tôi hy vọng và cầu xin là tôi đúng. Dag và Mia sắp xuất bản tường trình của họ về buôn bán tính dục. Tôi nhận thấy cái đó có thể là nguyên nhân của vụ án mạng. Nhưng tôi chả có gì hết để đi tiếp nữa.

Tôi không hiểu đã có gì không phải giữa hai chúng ta, nhưng đã một lần chúng ta bàn về tình bạn. Tôi nói tình bạn xây dựng trên hai cái - tôn trọng và tin cậy. Cho dù không ưa tôi, cô vẫn có thể dựa vào tôi và tin tôi. Tôi không chia sẻ bí mật của cô với bất cứ ai. Ngay cả đến chuyện xảy ra với các tỉ bạc ở Wennerstrom. Tin tôi, tôi không là kẻ thù của cô. M.

--- ---

Thoạt tiên cô cáu điên lên vì Blomkvist nhắc đến Teleborian. Rồi cô nhận ra thấy anh chưa thử mở một trận đấu. Anh không biết Teleborian là ai và anh chắc chỉ thấy hắn trên tivi, nơi ông tình cờ đến như một chuyên gia có trách nhiệm, được quốc tế kính trọng.

Nhưng điều làm cho cô thực sự choáng là việc Blomkvist nhắc tới các tỉ curon của Wennerstrom. Cô không biết anh làm sao moi ra được thông tin này. Cô chắc chắn tuyệt đối rằng cô không hề phạm sai sót và không ai trên thế giới này lại có thể biết được cái việc cô đã làm.

Cô đọc đi đọc lại bức thư mấy lần.

Việc nhắc tới tình bạn làm cho cô không dễ chịu. Cô không biết nên đáp lại chuyện đó như thế nào.

Một lúc sau cô tạo [Bí ẩn 4].

Tôi sẽ nghĩ đến điều đó.

--- ---

Cô tắt máy tính ra ngồi ở ghế bên cửa sổ.

Kho hậu cần pan pizza cũng như vụn bánh mì và cái vỏ pho mát cuối cùng đã hết sạch mấy hôm rồi. Ba ngày vừa qua cô sống sót bằng một gói yến mạch ăn liền mà cô nổi cơn lên mua với cái ý lơ mơ rằng cô cần ăn thêm thực phẩm có nhiều dinh dưỡng hơn. Cô phát hiện thấy một cốc yến mạch, một ít nho khô cô đổ vào một cốc nước rồi cho vào lò vi sóng, một phút sau đã hóa ra thành một suất cháo đặc nóng sốt ngon miệng.

Không phải chỉ vì thiếu thực phẩm mà cô động binh. Cô có chuyện phải tìm. Không may nó lại không là thứ mà cô có thể làm được trong khi vẫn rúc ở trong nhà. Cô đến tủ đứng lấy ra bộ tóc giả màu vàng và hộ chiếu Na Uy của Irene Nesser. Quý cô Nesser không có thật trong đời. Cô có bề ngoài giống Salander và cô đã đánh mất hộ chiếu ba năm trước. Nhờ Dịch Bệnh, nó đã đến tay cô và khi cần đến cô đã dùng căn cước Nesser trong gần mười tám tháng qua.

Cô tháo khoen ra khỏi lông mày, để nó lên đồ trang điểm ở gương buồng tắm. Cô mặc quần jean sẫm màu, một áo thun ấm áp màu nâu với một chút chấm phá màu vàng, đi bốt có đế. Cô có cả một thùng bình xịt Mace và lấy ra một bình con con. Cô cũng tìm khẩu súng bắn điện mà cô chưa đụng đến một năm nay rồi cắm nó vào ổ điện cho sạc. Cô để một bộ quần áo thay vào ba lô đeo vai. 11 giờ đêm thứ Sáu, chín ngày sau các vụ án mạng, Salander rời căn nhà của cô ở Mosebacke. Cô đi bộ đến nhà McDonalc&#39;s trên đường Hornsgatan. Ở đây có vẻ như cô ít tình cờ vồ phải một bạn đồng nghiệp cũ nào ở An ninh Milton ở chỗ gần Slussen hay Medborgarplatsen. Cô ăn một bánh Mac Bự và uống một lon đại Coke.

Cô lên xe bus số 4 ngang qua Vasterbron sang St Eriksplan. Cô đi bộ tới Odenplan rồi đúng sau nửa đêm thì thấy mình ở ngoài cửa chung cư của Bjurman trên đường Upplandsgatan. Cô tin rằng tòa nhà không bị theo dõi nhưng cô nhìn thấy ánh đèn trong cửa sổ một căn hộ ở cùng tầng cho nên cô đi bộ đến Vanadisplan. Một giờ sau, lúc cô quay lại, ánh đèn đã tắt.

Cô nhón đầu ngón chân lên gác, không bật đèn. Cô cắt băng dán của cảnh sát niêm phong căn hộ bằng con dao Stanley, mở cửa khẽ như tờ.

Cô bật đèn gian sảnh, cô biết bên ngoài không nhìn thấy ánh đèn này, rồi bật một cây bút đèn pin để vào buồng ngủ. Các bức rèm chớp đều đã được hạ xuống cả. Cô lia loang loáng tia sáng đèn lên chiếc giường ố máu. Cô nhớ cô đã suýt chết trên chiếc giường này và thình lình cảm thấy rất hài lòng rằng Bjurman đã ra khỏi cuộc đời của cô mãi mãi.

Cô đến đây thăm hiện trường gây án là để tìm trả lời cho hai câu hỏi. Thứ nhất, cô không biết quan hệ giữa Bjurman và Zala. Cô đinh ninh rằng có nhưng qua những gì tìm thấy ở máy tính của Bjurman thì cô không thể giải đáp được điều này.

Thứ hai là một câu hỏi cứ gậm nhấm day dứt cô. Trong lần thăm đêm ít tuần trước, cô để ý thấy Bjurman đã lấy đi tư liệu về cô ở một cặp hồ sơ, nơi ông ta giữ tất cả tài liệu về sự giám hộ của ông. Các trang bị mất là bản báo cáo vắn tắt của cái công ty đã làm chuyện tổng kết tình trạng tâm thần của Salander. Bjurman không còn cần đến các trang đó nữa và có thể ông đã thanh toán hồ sơ và vất bỏ nó đi rồi. Nhưng luật sư thường không bao giờ vất bỏ tài liệu liên quan đến một trường hợp chưa giải quyết xong. Mà các giấy tờ này đã từng ở tệp hồ sơ liên quan đến cô, nhưng cô không tìm thấy chúng ở bàn làm việc của ông ta hay bất cứ đâu gần đó.

Cô thấy cảnh sát đã thu dọn đi các hồ sơ xử lý trường hợp của cô cũng như một vài thứ khác. Cô bỏ thêm hai giờ nữa ra tìm kiếm từng li từng tí khắp căn hộ, biết đâu cảnh sát để sót lại cái gì. Nhưng cuối cùng cô kết luận họ không để sót lại cái gì cả.

Trong bếp cô tìm thấy một ngăn kéo đựng các thứ chìa khóa cũng như một chìa chung của chung cư, một chìa khóa móc cho tới khi tìm thấy chỗ tàng kho của Bjurman. Trong đó có ít đồ gỗ, một tủ đầy quần áo cũ, ván trượt tuyết, một ắc quy xe hơi, các thùng các tông để sách và vài ba đồ bà dằn khác. Cô không phát hiện ra cái gì đáng chú ý cho nên xuống gác, mở cửa vào ga ra xe bằng chiếc chìa chung. Cô lần mò ra chiếc Mercerdes của ông rồi sau ít phút cũng không tìm thấy gì đáng giá ở đó nốt.

Cô không ngại đến văn phòng của Bjurman. Lần đến căn hộ này ít tuần trước, cô vừa mới đến đó và cô biết trong hai năm qua ông ta ít đến văn phòng.

Salander quay về căn hộ của Bjurman, ngồi nghĩ ngợi trên sofa. Một lúc cô đứng lên đi lại ngăn kéo chìa khóa trong gian bếp. Cô nghiên cứu từng chiếc chìa một. Một bộ chìa thuộc về ổ khóa cửa trước và khóa chết cứng, nhưng một chìa khác thì đã gỉ và kiểu cổ. Cô cau mày. Rồi cô ngước mắt lên một ngăn giá bên trên quầy bếp, ở đó Bjurman để khoảng hai chục gói hạt cây, các hạt dùng cho vườn cỏ.

Lão có một căn nhà gỗ nhỏ để nghỉ hè. Hay một miếng đất ở đâu đó. Mình quên mất chỗ này.

Cô mất ba phút tìm ra một biên lai, lâu đã sáu năm ở trong quyển sách thu chi cho biết ông đã trả công sửa xe, lại một ít phút nữa để tìm ra một sổ bảo hiểm cho một bất động sản ở gần Stallarholmen bên ngoài Mariefred.

5 giờ sáng, cô dừng lại ở cửa hàng 7 - Eleven mở cửa 24 giờ tại chóp đỉnh của Hamtverkargatan mạn trên gần Fridhemsplan. Cô mua một ôm bánh pan pizza, ít sữa, bánh mì, pho mát và một vài món chủ yếu khác. Cô cũng mua một tờ báo sáng với một đầu đề làm cô ngẩn ra.

NGƯỜI PHỤ NỮ BỊ TRUY NÃ ĐÃ TRỐN RA NƯỚC NGOÀI?

Vì lý do nào đó tờ báo không nêu tên cô ra. Thay vào đó, cô được gọi là "người phụ nữ 26 tuổi". Bài báo nói một nguồn tin từ cảnh sát cho hay cô ta có thể đã trốn ra nước ngoài và hiện có thể đang ở Berlin. Có vẻ cảnh sát đã nhận được tin mảnh mách rằng người ta đã trông thấy cô ở Kreuzberg, trong một "câu lạc bộ giải phóng phụ nữ - vô chính phủ", cô được miêu tả là đã tụ bạ với đám trẻ liên kết với mọi thứ từ khủng bố tới chống toàn cầu hóa và tôn thờ Satan.

Salander lên xe bus số 4 về Sodermalm, xuống xe ở Rosenlundsgatan rồi đi bộ về nhà ở Mosebacke. Cô pha cà phê, làm một sandwich, xong xuôi thì đi ngủ.

Cô ngủ một mạch cho tới chiều. Khi tỉnh dậy, cô đánh giá tình hình vệ sinh trong nhà, kết luận lẽ ra đã phải thay chăn gối, khăn rải giường. Cô bỏ cả tối thứ Bảy dọn dẹp căn hộ. Cô mang thùng rác ra và nhặt nhạnh báo chí vào hai túi nhựa, đặt chúng vào một cái tủ ở lòng giếng cầu thang. Cô gom một đống quần áo lót và áo phông để giặt rồi một đống quần jean. Cô xếp đầy bát đĩa vào máy rửa bát và bật máy. Rồi cô hút bụi và lau sàn nhà.

Đến 9 giờ tối thì mồ hôi tong tỏng trên người cô. Đổ đầy xà phòng tạo bọt vào bồn tắm, cô nằm dài ra nhắm mắt nghĩ lơ ma lơ mơ. Cô tỉnh dậy lúc nửa đêm, nước đã lạnh. Bò ra khỏi bồn tắm, lau khô người mò về giường lăn quay ra ngủ.

Sáng Chủ nhật, mở máy tính đọc thấy tất cả các trò ngu ngốc viết về Miriam Wu, Salander tức điên tức cuồng. Cô thấy mình thật tệ và có lỗi. Và tội ác của Miriam chỉ vì là chỗ quen biết của... Salander? Bạn? Người yêu sao?

Cô hoàn toàn không biết chữ gì là thích đáng nhất để tả ra mối quan hệ của cô với Mimmi, nhưng cô nhận ra thấy bất kỳ chữ nào mà cô chọn thì quan hệ ấy chắc chắn cũng đã là chấm hết.

Cô sẽ phải giập thêm một cái tên ra khỏi cô, giảm bớt đi nhanh chóng danh sách các chốn quen biết của cô. Điều đó dẫu sao cũng đã viết lên trên báo chí, cô không thể tưởng tượng được bạn cô sẽ lại còn muốn dính dáng chút gì nữa với một Salander tâm thần kia.

Cô khùng lên vì chuyện này.

Cô ghi vào đầu cái tên Tony Scala, tay nhà báo đã khơi mào ra tất cả, cũng quyết định một ngày sẽ đối mặt với tay phụ trách chuyên mục xấu xa đã được in hình với một chiếc jacket kẻ ô cờ, hắn có một bài báo nhắc đi nhắc lại cái tên gọi giễu cợt Mimmi là "con ô môi S&M".

Số lượng người Salander cần xử lý cứ lớn lên. Nhưng trước hết cô phải tìm Zala.

Điều gì xảy ra khi cô gặp hắn, cô không biết.

Blomkvist bị điện thoại gọi dậy lúc 7 rưỡi sáng Chủ nhật. Anh thò tay cầm lấy máy và ngái ngủ trả lời.

- Chào. - Berger nói.

- Ừm. - Mikael nói.

- Một mình hay có ai?

- Không may là một mình.

- Vậy thì em gợi ý là đi tắm một cái rồi uống một chút cà phê. Mười lăm phút nữa anh có khách.

- Ai?

- Paolo Roberto.

- Tay đấm bốc? Vua các vị vua ấy à?

- Anh ấy đã gọi em và nói chuyện nửa giờ.

- Sao lại ra thế?

- Sao lại gọi em ư? À, bọn này quen nhau đủ để chào nhau hê-lô, em đã phỏng vấn anh ấy khi anh ấy đóng trong phim của Hildebrand, và trong mấy năm qua cũng có ít lần vập phải nhau.

- Anh không biết chuyện đó. Nhưng anh hỏi là tại sao lại đến thăm anh?

- Tại vì... nhưng thôi, tốt hơn là để anh ấy tự nói rõ.

Blomkvist chỉ kịp vừa tắm và mặc quần xong thì chuông cửa réo. Anh mở cửa, bảo võ sĩ quyền Anh ngồi vào bàn trong khi anh tìm một sơ mi sạch sẽ và pha hai cà phê espresso đúp mà anh cho vào một thìa sữa. Paolo Roberto ngắm tách cà phê, hơi bị ấn tượng.

- Anh muốn nói chuyện với tôi? - Blomkvist nói.

- Erika Berger gợi ý cho tôi.

- Tôi hiểu. Anh nói đi.

- Tôi biết Lisbeth Salander.

Blomkvist nhướng lông mày.

- Anh biết?

- Thấy Erika nói anh biết cô ấy, tôi cũng khá ngạc nhiên.

- Tôi thấy tốt nhất là anh bắt đầu nói từ đầu.

- OK. Chuyện thế này. Sau một tháng ở New York tôi về nhà vào ngày hôm kia và thấy ảnh của Lisbeth trên tất cả các tờ báo mẹ nó trong thành phố. Báo viết một lô các chuyện mẹ nó bậy bạ về cô ấy, và không có đứa mẹ nó nào nói được cho một lời hay hay về cô ấy.

- Anh mới nổ mà đã ba lần "mẹ nó" rồi đấy.

Paolo Roberto cười thành tiếng.

- Xin lỗi. Tôi thực sự không nhịn được. Thật ra gọi Erika là vì tôi cần nói mà không biết gọi ai. Do nhà báo bị chết ở Enskede làm cho Millennium mà do tôi tình cờ lại biết Erika, thế là tôi gọi cô ấy.

- Vậy rồi?

- Cho dù Salander có bị mất trí hoàn toàn mà làm các thứ cảnh sát nói là cô ấy làm thì cô ấy cũng phải có được cơ hội chứ. Chúng ta tình cờ có pháp luật ở cái đất nước này, không ai bị kết tội mà lại không được có ngày ra cãi trước tòa sất cả.

- Tôi cũng tin như thế.

- Tôi biết điều đó qua Erika. Khi tôi gọi cô ấy, tôi nghĩ dân ở Millennium cũng đang đuổi theo Lisbeth để róc da đầu cô ấy đây, xét vì tay Svensson kia đang viết cho anh. Nhưng Erika nói anh khẳng định Salander vô tội.

- Tôi biết Lisbeth. Tôi thấy cô ấy không thể nào là một kẻ điên loạn giết người được.

Paolo Roberto cười tướng lên:

- Cô ấy là một con gà con mẹ nó đồng bóng... nhưng là một người tốt. Tôi khoái cô ấy.

- Sao anh biết cô ấy?

- Tôi đấm bốc với cô ấy khi cô ấy mới mười bảy.

Blomkvist nhắm mắt một lúc ngắn rồi mở ra nhìn nhà vô địch quyền Anh. Salander luôn luôn đầy bất ngờ như vậy.

- Dĩ nhiên Salander đấm với Paolo Roberto. Cùng một hạng với nhau.

- Tôi không nói đùa.

- Tôi tin anh chứ. Cô ấy một lần bảo tôi cô ấy dùng đấm để đấu với đám trẻ ở một câu lạc bộ quyền Anh nào đó.

- Để tôi nói anh nghe chuyện xảy ra làm sao. Mười năm trước, tôi làm huấn luyện viên cho đám thanh thiếu niên muốn đánh bốc ở câu lạc bộ Zinken. Lúc ấy tôi đã có tên tuổi, người đứng đầu đám thanh thiếu niên của câu lạc bộ nghĩ tôi sẽ có sức lôi cuốn lớn cho nên chiều chiều tôi đến đánh đấm với bọn trẻ. Quay ra thế nào tôi ở lại đấy hết hè và cả một phần mùa thu nữa. Họ mở một chiến dịch, dán biểu ngữ bích chương lên đủ thứ, cố dụ đám trẻ con địa phương tập quyền Anh. Họ đã thu hút được nhiều đứa trẻ mười lăm mười sáu và cả một số nhiều tuổi hơn nữa. Hoàn toàn là những trẻ con nhà di dân. Đấm bốc là một trò dễ dạy và dễ làm rầm rầm lên. Hỏi tôi đi. Tôi biết mà.

- Tôi tin anh.

- Rồi một hôm, giữa mùa hè, cô gái xương xẩu này ở đâu thòi ra không biết nữa. Anh biết cô ấy nom thế nào chứ, đúng không? Cô ấy đến câu lạc bộ nói muốn học bốc.

- Tôi hình dung ra được khung cảnh.

- Cả đám non chục đứa trẻ nặng cân gấp đôi và lớn nhiều hơn cô gái cười ầm lên. Tôi cũng cười. Chẳng phải chuyện nghiêm túc mà là đùa cô ấy một tí. Chúng tôi cũng có một lớp cho con gái và tôi đã nói một cái gì ngu ngốc rằng bọn gà nhép chỉ được phép đấu vào các thứ Năm hay đại khái tương tự gì đó.

- Cá là cô ấy không cười.

- Đúng, không cười. Cô ấy nhìn tôi trừng trừng với đôi mắt đen láy. Rồi cô ấy nhặt đôi găng bốc ai vất ở quanh đó. Đôi găng không buộc thì phải và to quá cỡ tay cô ấy. Nhưng chúng tôi không cười nữa. Anh biết ý tôi nói gì chứ?

- Nghe không thấy hay.

Paolo Roberto lại cười.

- Vì mình là huấn luyện viên nên tôi đi tới làm ra vẻ như đánh cô ấy, anh biết đấy, để nắn gân mà.

- Ái chà...

- Đúng. Bất thình lình cô ấy quất cho tôi một cú vào giữa mặt. Tôi vừa mới đùa cô ấy và không hề chuẩn bị. Cô ấy làm liền cho hai ba quả nữa tôi mới kịp chặn lại. Muốn gì thì cô ấy không có thể lực cho nên đánh cũng như bằng lông thế thôi. Nhưng khi tôi chặn lại thì cô ấy thay đổi chiến thuật. Cô ấy bốc theo bản năng, đấm trúng thêm vài quả nữa. Rồi tôi tập trung chặn đỡ và phát hiện thấy cô ấy nhanh hơn mẹ nó con thằn lằn. Nếu cô ấy to hơn, khỏe hơn, tôi đã có một ván đấu bữa ấy.

- Tôi không lạ.

- Rồi cô ấy lại đổi chiến thuật và quạng cho tôi một cú trúng ngay chỗ hiểm. Cú này thì tôi ngấm đòn.

Blomkvist ngượng nghịu cau mặt.

- Rồi tôi đánh lại, trúng mặt cô ấy. Tôi muốn nói là không hẳn là một cú đấm mạnh hay gì đó mà chỉ là một cái độp nhẹ. Rồi cô ấy đá vào tôi. Muốn gì thì là hoàn toàn ngông rồ rồi. Tôi to gấp ba, nặng 17d5 gấp ba và cô ấy chả có cơ may nào vậy mà cô cứ uýnh tôi tựa như mạng sống của cô ấy nó trông chờ ở đấy vậy.

- Anh đã chọc giận cô ấy.

- Sau tôi mới nhận ra. Và tôi xấu hổ. Tôi muốn nói là chúng tôi rong cờ gióng trống, thượng biểu ngữ bích chương để cố hút đám trẻ vào thì đây cô ấy đến xin học đánh nghiêm túc và rồi cô ấy lại đâm sầm phải một đám đàn ông đàn ang đứng đó trêu đùa cô ấy. Bị đối xử như thế tôi cũng mất kiềm chế như cô ấy thôi.

- Nhưng ta phải nghĩ kỹ rồi hãy uýnh chác với Paolo Roberto chứ!

- À, vấn đề của Salander là quả đấm không mùi mè gì. Cho nên tôi bắt đầu tập với cô ấy. Chúng tôi cho cô ấy vào lớp con gái trong chừng hai tuần, cô ấy thua dăm ba ván vì sớm muộn thì một người nào đó cũng sẽ ăn đòn thôi, lúc ấy chúng tôi như kiểu dừng lại đưa cô ấy đến một phòng có khóa, vì cô ấy khùng đến nỗi bắt đầu cả đá lẫn cắn, cứ đánh vung bọn tôi lên.

- Nghe ra thì đúng chất Lisbeth đấy.

- Cô ấy không bao giờ bỏ cuộc. Nhưng cuối cùng cô ấy làm quá nhiều đứa con gái ngán ngẩm nên huấn luyện viên đá cô ấy ra.

- Rồi thì?

- Hoàn toàn không thể đấu bốc với cô ấy. Cô ấy chỉ có mỗi phong cách mà chúng tôi gọi là Phương thức của Kẻ Tiêu diệt. Cô ấy cứ là cố chẹn cứng đối phương lại, bất kể đó là khởi động hay đấu giao hữu. Đám con gái về nhà đều bị băng bó vì bị cô ấy đá. Lúc ấy tôi bèn có một ý. Tôi có chuyện với một thằng tên là Samir. Nó mười bảy, ở Syrie đến. Tay bốc tốt, người tập tành vạm vỡ, nó có quả đấm táp mặt tốt... nhưng nó lại không di chuyển được. Nó cứ đứng im suốt trận. Thế là tôi bảo Salander đến câu lạc bộ một buổi chiều vào lúc tôi đang dạy Samir. Cô ấy thay quần áo và lên đài với cậu ta, mũ bảo vệ đầu, che miệng đủ lệ bộ. Thoạt đầu Samir không chịu đánh vì cô ấy như mẹ nó "con gà nhép", nó phun ra tất cả các lời lẽ bố láo của bọn ta đây đàn ông thường dùng. Tôi bèn bảo cậu ta, nói to cho ai cũng nghe thấy, đây không là trận đấu và tôi đặt giải 500 curon là cô ấy sẽ chẹt cứng khư được cậu ta. Với Salander thì tôi nói đây không là buổi tập và Samir có thể đánh cô sứt đầu mẻ trán máu me đầm đìa. Cô ấy nhìn tôi không tin. Samir còn vẫn đứng đó bô lô ba la thì chuông réo. Lisbeth hiên ngang đi đến đấm một quả vào mặt cậu ta, khiến cậu ta ngã phệt đít xuống. Đến lúc này tôi dạy cô ấy đã cả một mùa hè rồi, cơ bắp cô ấy đã bắt đầu cứng cáp và quả đấm đã có một ít sức lực.

- Tôi cá là chàng trai người Syrie của anh thích.

- À, sau đó cả tháng liền bọn họ vẫn còn nói đến trận đánh tập này. Samir bị rách môi. Cô ấy thắng điểm, cô ấy có sức lực, hơn nữa cô ấy thực sự có thể làm cho cậu ta bị thương. Sau đó Samir thất vọng quá đến nỗi cậu ta bắt đầu đánh vung lên thật lực. Tôi sợ chết lên vì cậu ta có thể giáng cho một thôi và chúng tôi phải gọi xe cứu thương đến. Cô ấy bị vài vết bầm tím khi chặn vài cú đánh bằng vai, còn cậu ta thì muốn dồn cô ấy vào dây thừng quanh đài vì cô ấy không chịu nổi sức mạnh cậu ta đấm. Nhưng đúng là không có chỗ nào mà bảo được rằng cậu ta đã suýt đánh trúng cô ấy.

- Giá mà tôi được xem trận ấy.

- Hôm ấy đám con trai câu lạc bộ bắt đầu vị nể Salander. Và đặc biệt Samir. Thế là tôi bắt đầu đưa cô ấy lên đài đánh đấm với bọn lớn hơn, nặng hơn rất nhiều. Ấy là vũ khí bí mật của tôi và đó là cách tập luyện lớn. Chúng tôi bố trí các lớp sao cho mục tiêu của Salander là quạng trúng được năm quả vào các chỗ khác nhau trên cơ thể - hàm, trán, dạ dày... Bọn con trai đấu với cô phải tự vệ và phải chống đỡ ở các chỗ đó. Hóa ra đấu bốc với Salander lại thành ra một thứ gây dựng tên tuổi. Y như chơi nhau với một con ong vò vẽ vậy. Chúng tôi thật lòng gọi cô ấy là "vò vẽ", cô ấy trở thành tay đấu cưng của câu lạc bộ. Tôi nghĩ cô ấy cũng thích câu lạc bộ vì một hôm cô ấy đến tập, cổ có xăm một con ong vò vẽ.

Blomkvist mỉm cười. Anh nhớ khá rõ con vò vẽ. Nó là một phần miêu tả của cảnh sát về cô.

- Việc ấy kéo dài được bao lâu?

- Mỗi tuần một tối trong ba năm. Ở đấy tôi chỉ làm trọn thời gian trong mùa hè còn sau đó thì thưa thớt. Người huấn luyện tiếp Salander là huấn luyện viên trẻ Putte Karlsson. Rồi Salander đi làm, không thường xuyên đến nữa, nhưng tới năm ngoái thì cô ấy ở đấy ít nhất một tháng một lần. Một năm tôi gặp cô ấy vài lần và có những buổi tập đấu với cô ấy. Tập tử tế, sau đó cả hai đều đổ mồ hôi. Cô ấy ít nói chuyện với ai. Khi không tập đấu thì cô ấy tập trong hai giờ với túi nặng, tập hết cường độ tựa hồ nó là kẻ thù của cô ấy vậy.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,154
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 23


Chủ nhật, 3 tháng Tư

Thứ Hai, 4 tháng Tư

Blomkvist pha thêm hai cà phê espresso nữa. Anh xin lỗi khi châm thuốc lá. Paolo Roberto nhún vai. Anh nổi tiếng là một kiểu gà trống vênh vang ta đây có thể nghĩ sao nói thế. Blomkvist nhanh chóng nhận thấy anh ta có vênh vang tự mãn trong đời riêng nhưng là một người thông minh và khiêm nhường. Anh nhớ Paolo Roberto cũng đã đặt cược vào một sự nghiệp chính trị trong việc ứng cử dân biểu cho Đảng Xã hội Dân chủ. Anh ta dứt khoát phải có một cái gì đó ở trong đầu. Blomkvist thấy mình bắt đầu thích anh ta.

- Tại sao anh lại đến chỗ tôi với những chuyện này?

- Cô gái đang thực sự bị lôi thôi to, đúng không? Tôi không biết làm thế nào nhưng cô ấy chắc có thể cần đến một người bạn.

- Tôi đồng ý.

- Tại sao anh nghĩ cô ấy vô tội?

- Cái này khó nói rõ. Lisbeth hoàn toàn là một người không thỏa hiệp nhưng tôi cứ không tin được chuyện là cô ấy đã có thể bắn Dag và Mia. Đặc biệt Mia. Vì một điều, cô ấy không có động cơ...

- Ít nhất là chả có cái nào mà chúng ta biết được cả.

- Khá là công bằng. Dùng vũ lực chống lại một người đáng bị như thế, chuyện ấy với Lisbeth không có thành vấn đề. Nhưng tôi không biết có ai đáng thế. Tôi đã quyết định thách thức Bublanski. Tôi nghĩ Dag và Mia bị giết là có lý do. Và tôi nghĩ lý do là ở đâu đó trong bài báo mà Dag đang làm dở.

- Nếu anh đúng thì Salander sẽ cần có thêm một tay nữa để nắm lấy khi cô ấy bị bắt. Cô ấy cần toàn bộ một sự giúp đỡ kiểu khác kia.

- Tôi biết.

Mắt Paolo Roberto lóe lên một tia sáng nguy hiểm:

- Nếu cô ấy không vô tội thì cô ấy sẽ phải chịu một tai tiếng pháp lý con mẹ nó tồi tệ nhất trong lịch sử. Báo chí và cảnh sát đã vẽ cô ấy thành ra một tên giết người và sau tất cả những cái khốn nạn viết về cô ấy thì...

- Tôi hiểu.

- Vậy chúng ta làm được gì đây? Tôi có thể giúp như thế nào không?

- Chúng ta giúp tốt nhất là tìm ra đứa nghi can thứ hai. Tôi chính là đang làm chuyện này. Việc tốt tiếp sau đó là tìm thấy cô ấy trước khi một tên ác ôn nào của cảnh sát bắn chết mất cô ấy. Lisbeth không phải là kiểu người tự nguyện đầu hàng.

- Vậy làm sao tìm ra cô ấy?

- Tôi không biết. Nhưng có một điều chúng ta có thể làm. Một điều thực tiễn, nếu anh có thì giờ và nghị lực.

- Bạn gái tôi cả tuần đi vắng. Vậy tôi có thì giờ và nghị lực.

- Tốt, tôi đang nghĩ do anh là võ sĩ quyền Anh...

- Hứ?

- Lisbeth có một bạn gái, Miriam Wu. Chắc anh đã được nghe về cô ấy.

- Được biết đến nhiều hơn là "con ô môi S&M"...

- Tôi có số di động của cô ấy, tôi đang cố liên lạc. Cô ấy dập máy ngay khi nghe nói là phóng viên.

- Chả trách cô ấy được.

- Tôi thực sự không có thì giờ đuổi theo cô Wu. Nhưng tôi đọc thấy ở đâu đó rằng cô ta đang tập bốc Thái. Tôi đang nghĩ nếu một võ sĩ quyền Anh nổi tiếng mà lại muốn tiếp xúc với cô ấy...

- Tôi tán thành anh. Và anh hy vọng cô ta sẽ cho được đầu mối dẫn tới Salander.

- Khi cảnh sát chất vấn cô ấy, cô ấy nói không biết chỗ Salander đang ở hiện nay. Nhưng cũng đáng để ta thử một chuyến xem.

- Cho tôi số của cô ấy. Tôi sẽ cố nói chuyện với cô ấy.

Blomkvist cho số và địa chỉ trên đường Lundagatan.

Bjorck bỏ hết cuối tuần ra phân tích tình cảnh của hắn. Hắn cả quyết tiền đồ của hắn đang treo trên một sợi chỉ mành và hắn phải nhúng tay phần lớn vào cái việc hắn đã xử lý.

Blomkvist là đồ con heo. Vấn đề duy nhất là liệu có thuyết phục được hắn câm mồm... về cái việc Bjorck đã thuê dịch vụ của mấy con điếm kia không thôi. Đây là một vi phạm có thể bị kết án và nếu chuyện ấy vỡ lở ra thì hắn sẽ bị đuổi việc. Báo chí sẽ xé hắn tơi tả. Một thành viên của Cảnh sát An ninh mà khai thác bọn gái điếm mười mấy tuổi... giá như mấy con điếm ấy lại đừng quá trẻ.

Ngồi đây không làm gì thì chắc chắn là buông tay cho số phận định đoạt rồi. Bjorck đủ thông minh để không nói gì cả với Blomkvist. Anh đã đọc được thần sắc hắn. Tên này đang hấp hối. Anh muốn thông tin. Nhưng anh sẽ buộc phải trả giá cho chuyện đó và cái giá là sự im lặng của anh.

Zala đã mang đến một chiều kích mới hoàn toàn cho cuộc điều tra án mạng.

Svensson đang săn lùng Zala.

Bjurman đang săn lùng Zala.

Và chánh thanh tra Bjorck là người duy nhất biết rằng ở giữa Zala và Bjurman, có một mối quan hệ, điều này có nghĩa là Zala là đầu mối dẫn tới các vụ án mạng ở Enskede và Odenplan.

Chuyện này cũng tạo ra một vấn đề nghiêm trọng khác nữa cho tương lai êm ấm của Bjurman. Hắn là người duy nhất đã cho Bjurman thông tin về Zala - như một cử chỉ thân thiện và tuy toàn bộ tập tài liệu vẫn còn là Tối Mật. Đó là chi tiết thôi nhưng có nghĩa là hắn lại dính vào một vi phạm có thể bị kết án khác nữa.

Hơn nữa, do Blomkvist đến gặp hôm Chủ nhật, hắn lại dây thêm vào một vụ án. Hắn là một sĩ quan cảnh sát, có nghĩa rằng nếu có thông tin về một cuộc điều tra án mạng thì nghĩa vụ của hắn là phải thông báo cho các bạn đồng nghiệp biết ngay. Nhưng nếu hắn cho Bublanski hay Ekstrom thông tin thì hắn sẽ không tránh khỏi đã liên lụy đến. Không chỉ có gái điếm mà là toàn bộ vụ việc Zala.

Thứ Bảy hắn đến cơ quan ở Cảnh sát An ninh trên đường Kungsholmen. Hắn nhặt ra và đọc hết các tài liệu cũ về Zalachenko. Hắn là người viết báo cáo nhưng đã nhiều năm về trước rồi. Tài liệu lâu nhất đã gần tới ba chục năm. Cái gần đây nhất là mười năm.

Zalachenko.

Một thằng ngu luồn giỏi như chạch.

Zala.

Chính Bjorck đã gọi hắn như thế trong báo cáo của mình tuy không thể nhớ đã có dùng cái tên ấy hay chưa. Nhưng mối quan hệ thì đã rõ như ban ngày. Tới Enskede. Tới Bjurman. Và tới Salander.

Bjorck vẫn không biết các mảnh ghép của bài đố đã khớp lại vào với nhau như thế nào nhưng hắn nghĩ hắn biết tại sao Salander lại đến Enskede. Hắn cũng có thể dễ dàng tưởng tượng ra Salander đã nổi cơn hung lên mà giết Svensson và Johansson, hoặc vì hai người từ chối hợp tác hoặc vì họ đã khiêu khích cô ta. Cô ta có một động cơ và chỉ mình Bjorck biết hoặc có thể hai ba người khác nữa ở trong cả cái đất nước này.

Con bé hoàn toàn điên loạn, cầu Chúa sao cho một sĩ quan nào đó sẽ bắn chết nó khi nó bị bắt. Nó biết. Nó có thể làm cho tất cả.

Bất kể Bjorck nhìn vào tình cảnh hắn ra sao, thì Blomkvist vẫn là một lối thoát có thể có của hắn. Và đó là điều duy nhất quan trọng với hắn. Hắn cảm thấy ngày một tuyệt vọng, cần phải thuyết phục Blomkvist đối xử với hắn như một nguồn tin thân tín và giữ im lặng về hắn... nhưng chuyến vi vu điên rồ với lũ điếm kia... Khốn kiếp, giá như Salander cũng bắn cho phọt óc Blomkvist ra nhỉ.

Hắn nhìn vào số điện thoại của Zalachenko, cân nhắc nên hay không nên liên hệ với gã. Hắn không sao mà quyết định được.

Blomkvist đã tiến được một bước trong việc thâu tóm lại những suy nghĩ của anh về cuộc điều tra, ở mỗi giai đoạn của nó. Khi Paolo Roberto rời đi, anh bỏ một giờ ra làm công việc này. Anh viết ra một thứ gần như kiểu nhật ký, trong đó anh để cho suy nghĩ của mình tự do tung hoành nhưng đồng thời cũng tỉ mỉ viết lại mọi chuyện trò, mọi gặp gỡ cũng như tất cả điều tra mà anh đang làm. Anh dùng chương trình bảo mật PGP mã hóa tài liệu rồi gửi thư điện tử cho Berger và Eriksson, cập nhật tình hình cho họ.

Svensson đã tập trung vào Zala trong các tuần chót của đời anh. Cái tên Zala đã được anh nhắc tới trong câu chuyện điện thoại cuối cùng với Blomkvist, trước khi Svensson chết hai giờ. Bjorck nói có biết một cái gì đó về Zala.

Blomkvist đã xem hết những gì anh moi ra được về Bjorck, cũng không nhiều lắm.

Gunnar Bjorck, sáu mươi hai tuổi, không vợ, sinh ở Falun. Hai mươi mốt tuổi đã vào lực lượng cảnh sát. Bắt đầu là sĩ quan tuần tra nhưng học luật và được nhấc lên Sapo, Cảnh sát An ninh, khi hắn hai mươi sáu hai mươi bảy. Đó là vào năm 1969 hay 70, đúng lúc chấm hết thời gian Per Gunnar Vinge phụ trách ở đây.

Vinge bị cách chức sau khi tuyên bố trong một lần chuyện trò với Ragnar Lassinanti, hạt trưởng hạt Norrbotten rằng Olof Palme là gián điệp của Liên Xô. Rồi đến vụ Văn phòng Nội vụ, Holmer, Letter Carrier và vụ ám sát Palme, hết tai tiếng này đến tai tiếng khác. Blomkvist không biết trong vòng ba chục năm ở Cảnh sát An ninh Bjorck đã có thể đóng những vai gì ở các chuyện này.

Sự nghiệp hắn ta vào khoảng giữa các năm 1970 và 1985 phần lớn là một quyển sách chưa viết, chuyện này không lạ vì mọi cái liên quan đến hoạt động của Sapo đều là mật. Hắn có thể là đang gọt bút chì trong một bộ phận tĩnh tại hay có thể đã là một nhân viên mật vụ ở Trung Quốc (không chắc lắm).

Tháng Mười 1985, Bjorck chuyển đến Đại sứ quán Thụy Điển ở Washington trong hai năm. Năm 1988, quay về Sapo ở Stockholm. Năm 1996, một nhân vật của công chúng: được đề bạt làm phó văn phòng của Vụ Nhập cư (và bất cứ chuyện gì tiếp theo). Sau 1996, nhiều phát ngôn khác nhau với báo đài, thí dụ liên quan tới việc lưu đày người Ả Rập v.v... Đặc biệt năm 1998, khi vài nhà ngoại giao Iraq bị trục xuất.

Có cái gì ở chỗ này dính dáng đến Salander và các vụ giết Dag Svensson và Mia Johansson không đây? Có lẽ không có gì cả.

Nhưng Bjorck biết gì đó về Zala.

Vì thế phải có mối liên hệ nào đó.

Berger không nói với ai, ngay cả với chồng, người mà chị rất hiếm giữ bí mật, rằng chị sắp sang tờ Svenska Morgon - Posten. Chị còn một tháng ở lại Millennium. Chị bồn chồn thấp thỏm. Ngày cứ trôi vút qua và rồi thình lình cái ngày cuối cùng ở đây chị sẽ đối diện với nó.

Chị cũng thấy không yên tâm hơn với Blomkvist. Chị đã đọc email cuối cùng của anh với một cảm giác suy sụp. Chị nhận ra các dấu hiệu. Hai năm trước chính sự ngoan cố này đã làm cho anh dính vào với Hedestad, và chính lòng quyết tâm dai dẳng này đã cùng anh theo đuổi Wennerstrom. Từ thứ Năm trước Phục sinh, với anh không còn có gì khác nữa ngoài việc tìm ra ai đã giết các bạn của anh và làm sao đó lập lại được sự vô tội của Salander.

Chị có thiện cảm trọn vẹn với mục tiêu của anh - Svensson và Johansson cũng là bạn của chị - nhưng có một khía cạnh ở Blomkvist làm cho chị không thoải mái. Ngửi thấy mùi máu, anh có thể hóa ra tàn nhẫn hẳn.

Từ lúc anh gọi chị hôm kia và bảo chị anh đã thách thức Bublanski rồi bắt đầu tự nhận lấy mình là một chàng cao bồi khốn nạn đầy nam nhi chí thì chị biết trong một tương lai có thể nhìn thấy trước rằng Blomkvist sẽ bù đầu bù tai vì cuộc săn lùng Salander này. Bằng kinh nghiệm chị biết chỉ có thể bàn với anh khi nào anh giải quyết xong vấn đề. Anh sẽ chòng chành giữa hai trạng thái tự bị cuốn hút và thất vọng. Và trong phương trình này anh cũng sẽ nhận lấy ở một chỗ nào đó những rủi ro chắc chắn là hoàn toàn không cần thiết.

Còn Salander. Berger chỉ gặp cô ta một lần và chị không biết nhiều về cô ta để chia sẻ với Blomkvist niềm tin rằng cô ấy vô tội. Nếu Bublanski đúng thì sao? Nếu cô ấy đã có tội thì thế nào? Nếu Blomkvist cố mò ra được chỗ cô ta và cô ta quay ra lại là một người điên loạn mang súng thì sao?

Cả câu chuyện lạ lùng của Paolo Roberto kể sớm hôm nay cũng không làm cho chị yên tâm lên chút nào. Dĩ nhiên điều tốt là ở bên cô ấy không phải chỉ có mình Blomkvist, nhưng Paolo cũng lại là một cao bồi nốt.

Và chị tìm đâu ra người thay chị ở Millennium đây? Nay việc này đang hóa thành cấp bách. Chị nghĩ gọi Malm thảo luận công chuyện với anh ấy nhưng chị không thể nói với anh ấy và chị vẫn phải giữ kín tin đó với Blomkvist.

Blomkvist là một phóng viên xuất sắc nhưng ở ghế Tổng biên tập thì có thể sẽ là tai họa. Ở phía này, chị và Malm giống nhau nhiều hơn nhưng chị không chắc tin được là Malm sẽ nhận lời chị mời. Eriksson còn quá trẻ, chưa đủ tin cậy. Nilsson quá mải mê với việc của mình. Cortez là một phóng viên tốt nhưng cũng thiếu kinh nghiệm. Lorrie Karim thì quá bấp bênh. Và Berger không thể cầm chắc là Malm hay Blomkvist sẽ ưa thích một ai đó được tuyển từ bên ngoài vào. Rối như mớ bòng bong và hoàn toàn không giống một chút nào hết cái cách mà chị muốn kết thúc nhiệm kỳ của mình ở Millennium.

Sáng Chủ nhật Salander mở Asphyxia 1.3 đi vào bản sao ổ cứng của MikBlom/laptop. Anh đang không lên mạng và cô đọc hết các tài liệu mới được đưa vào hai hôm nay.

Cô đọc nhật ký điều tra của Blomkvist và nghĩ anh viết nó chi tiết như thế này thì liệu có phải là vì cô không và nếu vì cô thì nó có ý nghĩa gì đây. Anh biết cô vào máy tính của anh, vậy thì ta có thể tự nhiên mà kết luận rằng anh muốn cô đọc những cái anh viết. Nhưng vấn đề là: những cái anh ấy không viết ra là những gì? Do biết cô vào máy tính của anh ấy, anh ấy có thể thao túng lưu lượng thông tin. Nhân thể cô để ý thấy rõ ràng về thông tin anh không có nhiều hơn Bublanski mà ở đây chỉ là một kiểu thách đấu nào đó về sự vô tội hay có tội của cô mà thôi. Điều này làm cô ớn vì vài lý do. Blomkvist đưa ra kết luận dựa trên cảm tính hơn là trên sự việc. Một chàng ngốc ngây ngô làm sao. Nhưng anh cũng đang nhắm vào Zala. Nghĩ đúng đấy, Kalle Blomkvist.

Nhưng cô hơi ngạc nhiên thấy Paolo Roberto nhào ra sân khấu. Tin hay đấy. Cô mỉm cười. Cô thích anh chàng nhắng ngạo mạn này. Anh ta đàn ông đàn ang đến tận từng đầu ngón tay. Anh ta quen cho cô nếm vài đòn đau điếng những khi họ lên đài gặp nhau. Tức là nói tới những dịp ít ỏi mà anh ta bố trí được.

Rồi khi đọc đến thư mới nhất của Blomkvist gửi Berger, cô ngồi thẳng lên trên ghế.

Gunnar Bjorck. Sapo. Biết về Zala.

Bjorck biết Bjurman.

Mắt Salander loa lóa khi cô ngầm phác ra một hình ba góc Zala, Bjurman, Bjorck. Đúng, thế này thì có ý nghĩa đây. Trước kia cô không nhìn vấn đề từ phối cảnh này. Có thể là Blomkvist dẫu sao cũng không đến nỗi quá cù lần. Nhưng dĩ nhiên anh vẫn chưa làm rõ ra được mối quan hệ này. Bản thân cô cũng chưa tuy về cái điều đã xảy ra, cô hiểu nhiều hơn. Cô nghĩ một lúc về Bjurman và nhận thấy như thế nào đó việc hắn biết Bjorck đã khiến hắn trở thành tảng đá cản đường lớn hơn là cô hình dung trước kia.

Cô cũng nhận thấy cô sẽ phải làm một chuyến đến thăm Smadalaro.

Rồi cô vào ổ cứng của Blomkvist, tạo một tư liệu mới trong thư mục và đặt tên [Góc võ đài]. Lần sau mở máy tính anh sẽ đọc thấy nó.

1. Tránh xa Teleborian ra. Hắn xấu xa.

2. Miriam Wu không dính gì vào đây.

3. Tập trung vào Zala là anh đúng. Hắn ta là chìa khóa. Nhưng anh không tìm ra hắn ở trong bất cứ sổ sách công khai nào đâu.

4. Có một quan hệ giữa Zala và Bjurman. Tôi không biết là gì nhưng tôi đang lần theo hướng này. Bjorck chăng?

5. Quan trọng. Có một báo cáo tai hại về tôi từ tháng Hai 1991 của cảnh sát. Tôi không nhớ số hồ sơ và tôi không tìm ra được nó. Tại sao Ekstrom lại không đưa cái ấy ra cho báo chí? Trả lời: Nó không ở trong máy tính của ông ta. Kết luận: Ông ta không biết về báo cáo đó. Sao lại có thể như thế được?

-----

Nghĩ một lúc cô lại thêm một tái bút.

T.B. Mikael, tôi không vô tội. Nhưng tôi không giết Dag và Mia. Tôi không liên can gì đến việc giết hai người này. Tối hôm ấy tôi đã gặp họ - trước khi án mạng xảy ra - nhưng tôi rời đi khi họ chưa bị làm sao cả. Cảm ơn đã tin tôi. Chào hộ Paolo Roberto và bảo là quả đấm móc trái của anh ấy nó như bún ấy.

T.T.B. Tại sao anh biết chuyện về Wennerstrom kia?

-----

Blomkvist tìm thấy tư liệu của Salander khoảng ba giờ sau đó. Anh đọc từng dòng từng dòng, ít nhất đến năm lần. Lần đầu tiên cô nói rõ cô không giết Dag và Mia. Anh tin cô và cảm thấy nhẹ người ghê gớm. Và cuối cùng thì cô đã nói chuyện với anh, dù bằng mã khóa như vốn dĩ.

Anh cũng nhận thấy cô không chỉ phủ nhận việc giết Dag và Mia mà cô không nói gì đến Bjurman. Blomkvist cho là vì ở trong thư cô chỉ nhắc đến Dag Svensson và Mia Johansson mà thôi. Anh nghĩ một lúc rồi tạo một tư liệu gọi là [Góc võ đài 2].

Chào Sally,

Cảm ơn cô cuối cùng đã cho biết cô vô tội. Tôi tin cô, dù tôi có bị báo đài ồn ào nó tác động và có cảm thấy ngờ ngợ. Xin lỗi. Nghe điều này thẳng từ dàn phím của cô tôi thấy thích. Tất cả còn lại là phải phát hiện ra hung thủ đích thực. Cô và tôi trước kia đã có làm chuyện này. Nếu cô không quá kín như bưng thì sẽ giúp ích được. Tôi cho rằng cô đã đọc nhật ký điều tra của tôi. Vậy thì cô cũng biết như tôi và còn biết cả tôi đang làm gì. Tôi nghĩ Bjorck biết một cái gì đó, tôi sẽ có một cuộc chuyện trò nữa với hắn ta một ngày gần đây. Tôi có đi lầm lõng khi tìm khách của cô gái không? Việc bản báo cáo của cảnh sát làm tôi thấy lạ đấy. Tôi sẽ nhờ bạn đồng nghiệp Malin Eriksson đào vào chỗ này. Lúc ấy cô bao nhiêu tuổi, mười hai, mười ba? Báo cáo về cái gì?

Tôi ghi nhận đầy đủ thái độ của cô về Teleborian.

M.

T.B. Cô đã phạm một lỗi trong cú Wennerstrom. Tôi biết cô làm chuyện đó - ở Sandhamn dạo Giáng Sinh - nhưng không hỏi vì cô không nói đến. Cái lỗi đó là gì tôi không muốn nói với cô, trừ phi cô gặp tôi để uống cà phê.

-----

Lời đáp đến và nói:

Anh có thể quên đám ma cô chăn dắt điếm đi. Zala là đứa duy nhất đáng chú ý. Và một thằng khổng lồ tóc vàng. Bản báo cáo của cảnh sát đáng chú ý ở chỗ hình như có ai đó muốn đem giấu nó đi. Đó không thể là một sự tình cờ được.

Công tố viên Ekstrom ra chiều cáu bẳn khi nhóm của Bublanski gặp nhau để họp buổi sáng thứ Hai. Hơn một tuần lùng kiếm một nghi can có tên tuổi và hình dáng rõ ràng mà không cho ra kết quả. Tính khí cáu bẳn này không khá hơn khi Andersson, người trực suốt tuần qua, nói với ông diễn biến mới nhất.

- Một vụ đột nhập ăn trộm à? - Ekstrom nói, không giấu vẻ sửng sốt.

- Hàng xóm gọi tối thứ Bảy, nói băng niêm phong của cảnh sát dán trên cửa nhà Bjurman bị phá. Tôi đã kiểm tra.

-Thì sao?

- Băng dính bị cắt ở ba chỗ. Chắc là bằng dao cạo hay dao Stanley. Gọn như không. Khó nhìn thấy.

- Vào ăn trộm ư? Có đám cà lơ chuyên sục vào nhà những người đã chết...

- Không phải ăn trộm. Tôi đã đi hết căn hộ xem. Tất cả mọi thứ giá trị, đầu đọc DVD... vẫn còn cả đó. Nhưng chìa khóa xe của Bjurman thì nằm ở trên bàn bếp.

- Chìa khóa xe?

- Thứ Tư Jerker đã ở căn hộ để xem chúng ta có bỏ sót cái gì không, ông ấy cũng có kiểm tra xe. Ông ấy thề là không có một chìa khóa xe nào ở trên bàn bếp khi ông ấy rời đó đi và dán băng niêm phong lại.

- Ông ấy có thể quên mất rồi để nó ở bên ngoài không? Nhân vô thập toàn.

- Jerker không bao giờ dùng cái chìa khóa ấy. Ông ấy dùng cái ở trong chùm chìa của Bjurman, cái chùm chúng ta tịch thu ấy.

Bublanski chĩa cằm ra.

- Vậy thì không phải là một vụ đột nhập bình thường rồi.

- Ai đó đã vào căn hộ của Bjurman đánh hơi nghe ngóng. Chắc là giữa thứ Tư và tối Chủ nhật khi hàng xóm gọi điện thoại.

- Một ai đó tìm một cái gì đó. Cái gì chứ? Jerker?

- Ở đây chả còn lại cái gì có ý nghĩa cả, cái nào khả nghi thì chúng ta đã tịch thu rồi.

- Ít nhất thì cũng là những cái chúng ta đều biết. Động cơ án mạng vậy là vẫn chưa rõ. Chúng ta cho rằng Salander là một người bệnh tâm thần nhưng người bệnh tâm thần thì cũng vẫn cần phải có động cơ chứ.

- Anh gợi ý gì đây?

- Tôi không biết. Có ai đó tìm kiếm trong căn hộ của Bjurman. Câu hỏi thứ nhất: Ai? Câu hỏi thứ hai: Tại sao? Cái chúng ta để sót là gì?

- Jerker, anh thấy sao?

Holmberg thở dài nhẫn chịu:

- OK. Tôi lại soát lại hết căn hộ vậy. Lần này thì với cả nhíp nhổ râu.

Sáng thứ Hai Salander dậy lúc 11 giờ. Cô nằm lơ ma lơ mơ chừng nửa giờ rồi dậy pha cà phê và tắm. Rồi làm ít lót dạ, đoạn ngồi với máy tính xách tay PowerBook để cập nhật một cái có ở trong máy tính của công tố viên Ekstrom và đọc các trang báo mạng. Các vụ án mạng ở Enskede rõ ràng đã bị kém chú ý đi. Rồi cô mở thư mục điều tra của Svensson và đọc kỹ các ghi chép của anh về việc anh gặp nhà báo Per - Ake Sandstrom, tên chăn dắt gái chạy vặt cho đám mafia tính dục và biết một cái gì đó về Zala. Đọc xong, cô rót thêm cà phê cho mình rồi ra chỗ ở bên cửa sổ ngồi nghĩ.

4 giờ chiều thì cô nghĩ đã hòm hòm. Cô cần tiền mặt. Cô có ba thẻ tín dụng. Một cái mang tên cô, do đó mọi ý định sử dụng đều vô ích. Một cái cấp cho Irene Nesser nhưng cô muốn tránh dùng nó vì nếu cô để cho bị nhận diện ra bằng hộ chiếu của Irene Nesser thì nguy hiểm. Một thẻ cấp cho Công ty Vò vẽ thì gắn với một tài khoản chừng ba triệu curon và có thể chuyển tiền qua Internet mà đổ vào đó. Bất cứ ai cũng có thể dùng thẻ nhưng phải khai danh tính.

Cô xuống bếp mở một hộp thiếc đựng bích quy lấy ra một xấp giấy bạc. Cô có 950 curon tiền mặt, khoản tiền không to. May sao cô cũng có 1.800 đôla Mỹ nằm lăn lóc đâu đó từ ngày cô đi du lịch về; cô có thể đổi sang curon mà không cần thẻ căn cước ở quầy đổi tiền Forex. Tìm ra món này làm cô thấy dễ chịu hơn.

Cô đội bộ tóc giả của Irene Nesser lên đầu, ăn mặc lịch sự, lấy một bộ áo quần thay và một hộp đồ trang điểm cho vào chiếc ba lô. Rồi cô lên đường làm chuyến thăm thú thứ hai đến Mosebacke. Cô đi bộ đến Folkungagatan rồi xuống Erstagatan và đến nhà hàng Watski ngay đúng trước giờ đóng cửa. Cô mua băng điện và một bộ puli ròng rọc cùng với tám mét dây thừng.

Cô lên xe bus 66 trở về. Ở Medborgarplatsen cô thấy một người phụ nữ chờ xe. Thoạt tiên cô chưa nhận ra nhưng một còi báo động ở sâu trong đầu cô đã lên tiếng và khi cô ngước nhìn thì người phụ nữ đó là Irene Flemstrom, thư ký quản lý về lương xá của An ninh Miton. Chị ta có một kiểu đầu mới hơn, mốt hơn. Salander lẻn ra khỏi bến xe khi Flemstrom đứng lên. Cô nhìn chị ta, như kiểu thường tình vẫn hay tìm những bộ mặt có thể quen biết. Cô đi bộ qua tòa chung cư hình bán nguyệt đến ga Sodra, lên chuyến xe lên phía bắc.

Thanh tra Modig bắt tay Berger và được mời ngay uống cà phê. Chị nhận thấy tất cả các cốc các vại trong gian bếp nhỏ đều có lôgô và quảng cáo cho các liên hoan chính trị cũng như tổ chức nghề nghiệp.

- Phần lớn những thứ này là của các buổi chiêu đãi trong đêm bầu cử và phỏng vấn. - Berger giải thích, đưa cho Modig một cốc Đảng Thanh niên Tự do.

Modig làm việc ở bàn làm việc cũ của Svensson. Eriksson đề nghị giúp cả trong việc nói rõ sách và bài báo của Svensson thì nói đến chuyện gì lẫn giới thiệu các tài liệu nghiên cứu.

Modig choáng lên với quy mô của tài liệu. Nhóm điều tra đã bực tức vì việc mất máy tính của Svensson và có vẻ như công trình của anh họ chịu bó tay không vào đọc được. Thật ra thì đã có các bản sao của nó và có thể sẵn sàng lấy ra ở bất cứ đâu trong tòa soạn Millennium.

Blomkvist không ở tòa soạn nhưng Berger cho Modig một danh sách các tài liệu mà anh đã lấy ở bàn làm việc của Svensson, những cáỉ chỉ dính đến tên tuổi của các nguồn cung cấp tin. Modig gọi Bublanski giải thích tình hình. Họ quyết định là tất cả các thứ tài liệu ở bàn làm việc của Svensson, kể cả máy tính của Millennium đều phải tịch biên và Bublanski sẽ quay lại với một giấy bảo lãnh nếu xem ra cần phải lục soát thêm những thứ mà Blomkvist đã mang đi. Modig bèn làm một bản kiểm kê các vật tịch biên rồi Cortez giúp chị mang các cái hộp các tông xuống xe của chị.

Tối thứ Hai, Blomkvist thấy hết sức nản. Nay anh đã tìm ra mười tên người mà Svensson định vạch tội. Ở đâu anh cũng gặp phải những người lo lắng, dễ cáu và bị sốc. Anh nhận thấy thu nhập bình quân của họ vào khoảng 400.000 curon một năm. Họ là một nhóm người sướt mướt, sợ sệt.

Nhưng anh cảm thấy không ai trong họ giấu diếm một điều gì đó liên quan đến các vụ án mạng.

Blomkvist mở máy tính xách tay ra xem có thư mới của Salander không. Không có. Trong thư trước cô đã nói đám ma cô chăn dắt gái là không bõ bèn gì để tâm đến và anh đang mất thì giờ với chúng. Anh đói nhưng cũng chả thiết sửa soạn gì để ăn nhẹ buổi tối. Thêm nữa anh chưa mua bán gì đã hai tuần nay, trừ sữa ở cửa hàng góc phố. Anh mặc jacket đi đến quán rượu Hy Lạp trên đường Hornsgatan, gọi một cừu rán.

Trước tiên S 56d6 alander ngước nhìn lòng cầu thang, đến lúc nhá nhem cô làm hai vòng thận trọng đi quanh các chung cư cạnh đó. Đó là những tòa nhà thấp mà cô ngờ là không có cách âm và không được lý tưởng mấy cho mục đích của cô. Nhà báo Sandstrom sống ở một căn hộ góc nhà trên tầng năm, tầng thượng của chung cư. Rồi cầu thang lên tiếp đến cửa áp mái. Nó phải lên như thế.

Vấn đề là không cửa sổ nào của căn hộ có ánh đèn cả.

Cô đi đến quán pizza cách đó ít phố, gọi một cà phê Hawaii và ngồi xuống một góc đọc báo chiều. Gần 9 giờ cô mua một cà phê latte ở kiốt Pressbyra rồi quay về chung cư. Căn hộ vẫn trong bóng tối. Cô lên cầu thang, ngồi trên bậc đến gian áp mái, ở đấy cô nhìn thấy cửa nhà Sandstrom bên dưới đó nửa tầng. Cô uống cà phê và chờ.

Thanh tra Faste cuối cùng dò ra Cilla Noren, ca sĩ đầu đàn của nhóm thờ Satan Những Ngón tay Ma quỷ của phòng thu Ghi âm Rác rưởi Mới đây ở bên trong một chung cư tại Alvsjo. Đây là cuộc đụng độ có cường độ tương đương với việc người Tây Ban Nha lần đầu tiên gặp người Da đỏ ở vùng Caribbean.

Sau vài mưu toan vô ích ở nhà bố mẹ Noren, Faste đã dò được ra cô ta ở phòng thu, theo cô em cô ta thì cô ta đang ở đấy "giúp cho" sản xuất ra một đĩa CD của ban nhạc Sáp Lạnh của Borlange. Faste không nghe nói đến ban nhạc này bao giờ, nó hình như gồm toàn đám trẻ hai chục tuổi. Vừa bước vào hành lang ông liền vấp phải một bức tường âm thanh, nó làm cho ông ngạt thở lập tức. Ông nhìn Sáp Lạnh qua một cửa sổ và chờ tiếng chát chúa om sòm ngừng lại.

Tóc Noren đen như cánh quạ, có các bím tết màu đỏ và xanh lá cây, mắt thì bôi đen. Đã thiên về ngả mập mạp, cô ta mặc váy ngắn, nịt vú để hở ra một cái cúc xỏ khoen ở bụng. Cô đeo thắt lưng đầy những đinh tán quanh hông và nom giống như một thứ gì từ một bộ phim kinh dị của Pháp đi ra vậy.

Faste giơ thẻ cảnh sát lên, bảo cần nói chuyện với cô ta. Cô vẫn nhai tiếp kẹo cao su, mắt nghi ngờ nhìn ông. Cô chỉ vào một cái cửa rồi dẫn ông vào một thứ như căng tin, ông vướng chân ở đây và suýt ngã xuống một túi rác bị vứt ngay cạnh cửa. Noren cho nước vào một chai nhựa không, uống gần một nửa rồi ngồi xuống một cái bàn, châm thuốc. Hai con mắt xanh lơ sáng sủa cô nhìn ông trừng trừng.

- Ghi âm Rác rưởi Mới đây là gì?

Cô ngán có vẻ như lè cả ra.

- Nó là một công ty ghi âm sản xuất băng nhạc mới.

- Cô là gì ở đây?

- Tôi là kỹ sư âm thanh.

Faste nhìn cô gay gắt.

- Cô có được dạy để làm cái đó không?

- Không. Tôi tự học.

- Cô có sống được nhờ nó không?

- Sao ông hỏi thế?

- Tôi tò mò thôi. Tôi cho là cô đã đọc báo chí mới đây nói về Lisbeth Salander.

Cô ta gật.

- Chúng tôi tin là cô quen cô ta. Đúng không?

- Có lẽ.

- Có lẽ đúng hay có lẽ không đúng?

- Cái này thì là tùy theo ông tìm kiếm chuyện gì.

- Tôi đang tìm một phụ nữ đã gây ra ba vụ án mạng. Tôi muốn thông tin về Lisbeth Salander.

- Từ năm ngoái tôi đã không nghe thấy nói đến Lisbeth rồi.

- Lần cuối cùng thấy cô ta thì ở đâu?

- Đâu như mùa thu hai năm trước. Ở Kvarnen. Nó hay láng cháng ở đó rồi thôi không đến nữa.

- Cô đã thử liên lạc với cô ta chưa?

- Gọi di động cho nó vài lần không được. Máy bị tắt rồi.

- Và cô không có cách tiếp xúc khác nào nữa?

- Không.

- Những Ngón tay Ma quỷ là gì?

Noren nom vẻ thú vị.

- Không đọc báo à?

- Nghĩa là thế nào?

- Họ bảo chúng tôi là một băng của quỷ Satan.

- Cô có như vậy không?

- Trông tôi có ra một đứa thờ Satan không hả?

- Đứa thờ Satan thì nom thế nào?

- Được, tôi không biết ai ngu hơn - cảnh sát hay báo chí.

- Nghe này, cô gái trẻ, đây là một chuyện rất quan trọng.

- Chúng tôi thờ hay không thờ Satan ấy ư?

- Thôi nói nhăng đi mà trả lời câu hỏi.

- Thế câu hỏi là gì chứ?

Faste nhắm mắt một lúc nghĩ đến lần ông gặp cảnh sát ở Hy Lạp trong một dịp nghỉ hè vài năm trước. Lực lượng cảnh sát ở Hy Lạp, dù có những vấn đề của họ, nhưng vẫn có một lợi thế lớn hơn cảnh sát Thụy Điển. Nếu cô gái này cũng trổ thái độ này ra ở Hy Lạp là ông đã có thể bẻ gập cô ấy lại mà táng cho ba gậy. Ông nhìn cô ta.

- Lisbeth Salander có ở trong Những Ngón tay Ma quỷ không?

- Tôi không nghĩ là có.

- Như vậy nên hiểu là như thế nào?

- Lisbeth chắc là người điếc nhạc nhất mà tôi biết.

- Điếc nhạc?

- Nó nói được trumpet khác với trống thế nào nhưng tài năng nhạc của nó chỉ vươn xa đến thế là hết.

- Tôi hiểu. Cô ấy có ở trong băng Những Ngón tay Ma quỷ không?

- Tôi sắp trả lời câu ông hỏi đây. Ông nghĩ Những Ngón tay Ma quỷ là cái quỷ cái ma gì thế kia chứ?

- Cô bảo tôi đi.

- Ông điều tra án mạng bằng cách đọc các bài báo ngu dốt.

- Trả lời vào câu hỏi đi.

- Những Ngón tay Ma quỷ là một băng nhạc rock. Chúng tôi là một lũ con gái thích rock và chơi lấy vui. Chúng tôi quảng cáo cho mình bằng một ngôi sao và một câu ngăn ngắn "Cảm thương Quỷ". Rồi băng nhạc tan, tôi là người duy nhất còn lại làm việc trong âm nhạc.

- Và như cô nói thì Lisbeth Salander không ở trong đó?

- Như tôi nói.

- Thế tại sao nguồn cấp tin của chúng tôi lại nói cô ấy ở trong ban nhạc ấy?

- Vì nguồn cấp tin cho các ông cũng ngu như báo chí cả ấy mà.

- Cô nói cho nghe một cái gì đó không ngu xem.

- Lũ con gái chúng tôi có năm đứa ở trong ban nhạc, bây giờ chúng tôi thỉnh thoảng vẫn gặp nhau. Xưa thì cứ một tuần một lần ở Kvarnen. Nay thì một tháng. Nhưng vẫn có liên hệ.

- Gặp nhau thì các cô làm gì?

- Ông nghĩ người ở Kvarnen thì làm gì?

Faste thở dài.

- Vậy gặp nhau để uống.

- Chúng tôi thường uống bia. Buôn dưa lê. Khi gặp bạn bè thì ông làm gì?

- Thế Salander sao lại góp mặt vào trong bức tranh ấy?

- Mấy năm trước tôi gặp nó ở KomVux. Nó thỉnh thoảng vẫn ló mặt ở Kvarnen và uống bia với bọn này.

- Vậy thì không thể bảo Những Ngón tay Ma quỷ là một "tổ chức" được.

Noren nhìn ông tựa hồ ông ở một hành tinh khác nào.

- Các cô có là ô môi không?

- Ông có muốn bị một đấm vào mồm không?

- Cứ trả lời đi.

- Chúng tôi là gì thì đâu phải là việc ông.

- Cứ thoải mái. Cô không khiêu khích được tôi đâu.

- Chào chứ? Cảnh sát nói rằng Lisbeth đã giết ba người thế rồi ông đến hỏi về sở thích tình dục của tôi. Ông có thể xéo rồi đấy.

- Tôi kéo cô xéo cùng, cô biết đấy.

- Vì cái gì? Nhân đây, tôi quên bảo ông rằng ba năm nay tôi đang học luật và bố tôi là Ulf Noren của Noren & Knape, công ty luật sư. Sẽ gặp ông tại tòa nha.

- Tôi nghĩ cô làm việc trong kinh doanh âm nhạc.

- Tôi làm cái ấy lấy vui. Ông tưởng tôi kiếm sống bằng nghề này à?

- Tôi không biết cô kiếm sống như thế nào.

- Tôi không kiếm sống bằng việc làm một đứa đồng tính ái nữ thờ Satan, nếu ông nghĩ trong đầu như vậy. Và nếu đây là cơ sở để cảnh sát tìm kiếm Lisbeth thì tôi thấy tại sao ông lại không đi mà tìm nó đi.

- Cô có biết cô ấy ở đâu không?

Noren bắt đầu đung đưa thân trên và cho hai tay buông xuống đằng trước.

- Tôi có thể cảm thấy nó đang ở gần đây... chờ chút, tôi xem pin di động có còn hay không.

- Cô đừng có đánh trống lảng.

- Tôi đã bảo là gần hai năm nay tôi không nghe nói đến nó nữa. Tôi không biết nó ở đâu. Vậy bây giờ nếu không có gì khác nữa thì...

Modig đã bị mắc vào với máy tính của Svensson, chị bỏ cả tối ra xếp loại các nội dung ổ cứng và các đĩa của anh. Chị ngồi đọc quyển sách của anh đến 11 giờ.

Chị nhận ra được hai điều. Thứ nhất, Svensson là một nhà văn xuất sắc, miêu tả thuần túy món kinh doanh tính dục với một tính khách quan thuyết phục. Chị mong anh được đến giảng tại Học viện Cảnh sát - kiến thức của anh sẽ là một bổ sung đáng giá cho giáo trình. Chẳng hạn đến Faste cũng nên trông cậy vào những hiểu biết của Svensson.

Thứ hai là Blomkvist lý sự rằng điều tra nghiên cứu của Svensson có thể đã cung cấp ra một động cơ cho các vụ án mạng, cái lý này của anh rõ ràng là có giá trị. Việc Svensson toan vạch tên các khách chơi điếm ra sẽ có tác động nhiều hơn là chỉ làm tổn thương một số người. Đây là một tiết lộ thô bạo. Một số dân chơi nổi tiếng, vài người trong họ đã từng ban ra các bản nghị án tại các phiên tòa xét xử tội ác tính dục hay tham dự các cuộc thảo luận công khai, sẽ bị xóa bỏ.

Vấn đề là dù một tên ác ôn chăn dắt gái sợ bị lôi ra đã quyết định giết Svensson thì vẫn không có triển vọng về một mối liên hệ như thế với Nils Bjurman. Hắn không nằm trong tài liệu của Svensson nhưng điều đó không những chỉ làm cho lý lẽ của Blomkvist giảm sức mạnh mà còn làm tăng khả năng Salander là nghi phạm số một.

Cho dù động cơ giết Svensson và Johansson vẫn còn chưa rõ nhưng Salander đã ở hiện trường gây án và dấu tay của cô thì ở trên khẩu súng.

Khẩu súng cũng gắn trực tiếp với vụ giết Bjurman. Đã có một quan hệ cá nhân và một động cơ có thể có - chữ xăm trên bụng Bjurman khơi ra khả năng về một hình thức tấn công tính dục nào đó hay về một quan hệ bạo dâm - hành xác giữa hai bên. Không thể tưởng tượng ra là Bjurman đã tự nguyện để cho người ta xăm ông ta theo kiểu kỳ dị và đau đớn như vậy được. Hoặc ông ta tìm thấy khoái cảm trong việc bị làm nhục hoặc Salander - nếu cô ta là người đã xăm - trước tiên đã phải làm cho ông trở thành bất lực. Chuyện ấy thực sự xảy ra như thế nào là một cái gì đó Modig không muốn suy đoán.

Mặt khác, Teleborian đã xác nhận rằng bạo hành của Salander là hướng về những người mà vì lý do nào đó cô ấy coi là một đe dọa hay là kẻ tấn công cô ấy.

Ông ta có vẻ che chở thật tình, tựa như không muốn cho người bệnh cũ của ông sẽ phải nhận lấy một hành hạ nào khác. Cũng thế, cuộc điều tra là dựa rộng rãi trên sự phân tích của ông ta về cô gái - như một người bệnh tâm thần ở bên bờ của tầm thần phân lập.

Nhưng lý lẽ của Blomkvist hấp dẫn.

Chị cắn môi dưới tựa như cố hình dung ra một vài kịch bản khác nhau về Salander tên sát nhân, hoạt động đơn độc. Cuối cùng chị viết một dòng vào sổ tay.

Hai động cơ tách biệt hoàn toàn với nhau? Hai kẻ giết người? Một vũ khí gây án?

Chị mơ hồ cảm thấy chị không thể ghim xuống nhưng đây là một điều gì đó chị muốn hỏi Bublanski ở cuộc họp sáng thứ Hai. Chị không thể giải thích tại sao chị bỗng cảm thấy không yên dạ về cái lý nói Salander là một kẻ giết người hoạt động một mình.

Rồi chị coi như đã hòm hòm công việc và dứt khoát tắt máy tính, khóa các đĩa trong ngăn kéo bàn làm việc của chị. Chị mặc jacket, tắt đèn bàn và sắp khóa cửa buồng giấy thì nghe thấy một tiếng động từ cuối hành lang. Chị cau mày. Chị đã ngỡ chỉ có mình chị ở trong vẫn phòng, chị đi dọc hành lang đến buồng giấy Faste. Cửa buồng ông mở hé và chị nghe thấy ông đang nói điện thoại.

"Không chối được là cái đó gắn các việc lại với nhau", chị nghe ông ta nói.

Chị đứng phân vân một lúc rồi hít một hơi dài, gõ vào thành cửa. Faste ngạc nhiên ngước lên nhìn. Chị hơi lảo đảo.

- Modig vẫn còn ở cơ quan. - Faste nói vào điện thoại. Ông nghe và không ngừng chăm chú nhìn Modig. - OK. Tôi sẽ bảo chị ấy. - Ông gác máy. - Bong bóng gọi. - Ông nói để giải thích. - Chị muốn gì?

- Cái gắn mọi việc lại với nhau là gì? - Chị hỏi.

Ông ta nhìn chị dò xét.

- Chị nghe trộm à?

- Không, nhưng cửa buồng ông mở và tôi gõ đúng vào lúc ông nói thế.

Faste nhún vai.

- Tôi gọi Bublanski bảo ông ấy là cuối cùng thì FNL cũng đã làm được một cái gì có ích.

- Cái gì vậy?

- Svensson có một di động với thẻ sim Comviq trả bằng tiền mặt. Họ cho một danh sách các cuộc gọi và qua đó xác nhận câu chuyện nói với Mikael Blomkvist lúc 8 giờ 12 tối. Đó là lúc Blomkvist ăn tối ở nhà cô em gái.

- Tốt. Nhưng tôi nghĩ Blomkvist không có liên can gì đến các vụ án mạng.

- Tôi cũng không. Nhưng đêm ấy Svensson có gọi một lần nữa. Lúc 9 giờ 34. Gọi lâu ba phút.

- Rồi?

- Anh ta gọi điện thoại đến nhà Nils Bjurman. Nói cách khác, có một liên hệ giữa hai vụ án mạng.

Modig buông mình xuống chiếc sofa của khách trong buồng Faste.

- Tốt. Ngồi đi. Hãy là khách của tôi.

Chị lờ.

- OK. Khung thời gian nom nó ra sao đây? Ngay sau 8 giờ Svensson gọi Blomkvist hẹn gặp nhau khuya đêm hôm ấy. 9 rưỡi, Svensson gọi Bjurman. Trước giờ đóng cửa, Salander mua thuốc lá ở cửa hàng góc phố trên đường Enskede. Ngay sau 11 giờ, Blomkvist và cô em gái đến Enskede rồi 11 giờ 11 thì gọi xe cứu thương.

- Nghe chừng đúng đấy chứ.

- Nhưng không hề đúng chút nào cả. Theo bác sĩ bệnh học, Bjurman bị bắn đêm hôm ấy vào giữa 10 và 11 giờ. Vào lúc ấy, Salander đã ở Enskede. Chúng ta đang làm việc trên cơ sở cho rằng Salander bắn Bjurman trước rồi đến hai người kia ở Enskede.

- Cái đó không nói lên điều gì. Tôi đã lại nói chuyện với bác sĩ bệnh học. Cho tới tận đêm hôm sau chúng ta mới tìm thấy Bjurman, muộn hơn gần hai mươi tư giờ. Bác sĩ bệnh học nói thời gian chết có thể trước hay sau trong vòng một giờ đồng hồ.

- Nhưng Bjurman phải là nạn nhân đầu tiên vì chúng ta tìm thấy vũ khí ở Enskede cơ mà. Như thế có nghĩa là cô ta bắn Bjurman vào khoảng sau 9 giờ 34 rồi lái xe về Enskede mua thuốc lá. Có đủ thì giờ để đi từ Odenplan đến Enskede không?

- Có, có chứ. Cô ấy không đi xe công cộng như lúc đầu chúng ta cho là thế. Cô ấy có xe. Sonny Bohman và tôi đã lái thử con đường và chúng tôi có thừa thì giờ.

- Nhưng vậy thì cô ấy đã chờ một tiếng đồng hồ trước khi bắn Svensson và Johansson ư? Cả một giờ ấy cô ấy làm gì?

- Uống cà phê. Chúng ta có dấu tay cô ấy trên tách cà phê.

Ông đắc thắng nhìn chị. Modig thở dài, ngồi im một lúc.

- Hans, ông nhìn vào chuyện này kiểu như nó là một thứ tên tuổi với uy tín. Ông có thể là một tay xấu chơi, hay làm cho người ta phát cáu nhưng tôi gõ cửa đây là để xin ông thứ lỗi cho việc tôi đã tát ông. Tôi không bình tĩnh.

Ông nhìn Modig hồi lâu.

- Modig, chị có thể nghĩ tôi là một tay xấu chơi. Nhưng tôi nghĩ chị là không có nghề và không có cái chất để làm sĩ quan cảnh sát, ít nhất thì không ở trình độ này.

Modig cân nhắc nhiều câu trả lời nhưng cuối cùng chị chỉ nhún vai rồi đứng dậy.

- Được, bây giờ chúng ta biết chúng ta đứng ở đâu. Và xin tin tôi, ông sẽ không ở đây lâu được đâu.

Modig đóng cửa mạnh hơn là chị muốn. Đừng để cho thằng cha ba láp này hắn dây vào mình.

Chị xuống ga ra xe.

Faste toại nguyện mỉm cười với cánh cửa đóng.

Blomkvist sắp về nhà thì di động gọi.

- Chào. Malin đây. Nói chuyện được không?

- Chắc chắn rồi.

- Hôm qua có một cái làm tôi ngạc nhiên.

- Nói xem.

- Tôi đang đọc hết các báo dán của chúng ta ở đây trong việc săn tìm Salander thì tôi tìm được quãng thời gian cô ấy ở bệnh viện tâm thần. Điều tôi nghĩ ngợi là: tại sao lại có một quãng trống lớn như thế ở trong tiểu sử của cô ấy?

- Quãng trống nào?

- Có nhiều cái về chuyện lôi thôi mà cô ấy dính phải khi còn học ở trường. Lôi thôi với thầy cô, với bạn học và vân vân.

- Tôi nhớ chuyện ấy. Có một cô giáo còn nói sợ Salander khi cô ấy mười một tuổi cơ mà.

- Birgitta Miaas.

- Chính thế đấy.

- Rồi có những chi tiết về Lisbeth lúc ở bệnh viện tâm thần. Còn một lô các chuyện về các gia đình đỡ đầu cô ấy lúc cô ấy mười mấy tuổi và về cuộc tấn công ở Gamla Stan.

- Vậy cô nghĩ sao?

- Cô ấy bị đưa vào bệnh viện đúng trước hôm sinh nhật lần thứ mười ba. Rõ ràng nếu một người mười hai tuổi bị can phạm thì đã phải xảy ra một cái gì đó chứ. Trong trường hợp Lisbeth thì phần lớn lại chỉ có vẻ là những cơn hung hăng đã được nói ra trong tiểu sử cô ấy. Nhưng ở đây lại không có gì hết sất cả.

Blomkvist cau mày.

- Malin, từ một nguồn tôi có cái này và tôi tin là có một báo cáo của cảnh sát về Lisbeth viết từ tháng Hai năm 1991, khi cô ấy mười hai tuổi. Nó không ở trong hồ sơ. Tôi đang định nhờ cô đào quanh chỗ đó xem sao.

- Nếu có báo cáo ấy thì nó phải là một bộ phần nằm trong hồ sơ về Lisbeth chứ. Không có nó ở đây là phạm vào luật mất rồi. Anh đã thực sự kiểm tra chưa?

- Chưa, nhưng nguồn tin của tôi nói nó không nằm trong hồ sơ.

Eriksson ngừng một lúc.

- Nguồn tin ấy đáng tin cậy đến đâu?

- Rất.

Cùng lúc Blomkvist và Eriksson đi đến kết luận như nhau.

- Sapo. - Eriksson thốt lên.

- Bjorck. - Blomkvist nói.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,154
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 24


Thứ Ba, 5 tháng Tư

Per - Ake Sandstrom, một nhà báo tự do vào trạc cuối tứ tuần, về nhà ngay sau nửa đêm. Ông hơi ngà ngà và cảm thấy nỗi hoảng sợ nó như một hòn một cục đang náu núp ở trong bụng mình. Cả ngày ông tuyệt vọng không làm được gì cả. Đơn giản là vì ông đang khiếp hãi.

Từ ngày Svensson bị giết đã gần hai tuần rồi. Đêm ấy xem tin trên tivi mà Sandstrom choáng váng. Ông cảm thấy người lâng lâng nguôi dịu và hy vọng - Svensson đã chết vậy thì quyển sách về buôn bán tính dục mà Sandstrom sẽ bị phơi bày ra ở trong đó có thể chi là chuyện lịch sử.

Ông hận Svensson. Ông đã lạy van và thanh minh, ông đã bò lết ra vì con lợn ấy.

Hôm sau vụ án mạng, hoan hỉ quá ư tràn ngập, ông đã không nghĩ được rõ. Mãi đến hôm sau đó nữa ông mới bắt đầu xem xét đến được tình hình của ông. Cảnh sát sẽ tìm ra bài viết của Svensson và bắt đầu đào bới vào chuyến trốn chạy nho nhỏ của ông. Chúa ơi, ông có thể là một nghi can giết người đây.

Cơn hốt hoảng của ông lắng đi khi mặt của Salander bị vất lên trên các bản báo tin trong nước. Nhưng con Salander này nó là đứa nào cơ chứ? Ông chưa nghe nói đến nó trước đây bao giờ. Nhưng cảnh sát rõ ràng đã coi nó là một nghi can quan trọng và theo lời công tố viên thì người ta sắp sớm sủa giải quyết các vụ án mạng. Có khả năng là chẳng có ai tỏ ra chú ý chút nào tới ông. Nhưng bằng kinh nghiệm của mình ông biết các nhà báo luôn lưu lại tư liệu và ghi chép. Millennium. Cái tờ tạp chí cứt đái với một tên tuổi chả có xứng đáng gì. Chúng cũng như mọi đám khác cả thôi. Thò mũi vào xung quanh và làm cho con người ta phải than van rên rỉ, phải thiệt thòi hao tổn.

Ông không thể biết cuộc điều tra sẽ còn diễn ra bao lâu nữa.

Không có ai để cho ông hỏi. Ông cảm thấy mình như đang ở trong giữa chân không.

Ông ngả nghiêng giữa hoảng sợ và say xỉn. Rõ ràng cảnh sát không tìm ông. Có thể - nếu ông rất may mắn - ông sẽ trót lọt. Nhưng nếu ông không may mắn thì cuộc đời làm lụng của ông sẽ chấm hết.

Ông tra chìa khóa vào cửa trước và quay khóa. Mở cửa ra ông thình lình nghe thấy tiếng loạt soạt ở đằng sau, thế rồi chưa kịp quay lại thì ông đã thấy vùng thắt lưng đau bại đi.

Bjorck chưa đi ngủ thì điện thoại réo. Ông đang mặc pyjama và áo khoác nhưng vẫn ngồi trên ghế trong bóng tối, gậm nhấm cảnh tiến thoái lưỡng nan. Trong toàn bộ sự nghiệp dài lâu, ông chưa bao giờ thấy mình lại đang gần sa vào một khốn cảnh như thế này.

Ông không muốn nhấc máy. Đã quá nửa đêm. Nhưng chuông vẫn réo. Đến hồi réo thứ mười ông không cưỡng thêm được nữa.

- Mikael Blomkvist đây. - Một tiếng nói ở đầu đằng kia.

Cứt.

- Quá nửa đêm rồi. Tôi đã đi ngủ.

- Tôi nghĩ nghe tôi nói ông có thể sẽ thú vị.

- Ông muốn gì?

- Sáng mai 10 giờ. Tôi có một cuộc họp báo về bối cảnh các vụ án mạng Dag Svesson và Mia Johansson.

Bjorck nuốt khó khăn.

- Tôi sẽ tường trình tất cả chi tiết trong quyển sách của Svensson mà trừ buôn bán tính dục ra thì đã xong xuôi hết. Ma cô chăn dắt gái duy nhất mà tôi nêu tên là ông.

- Ông hứa là cho tôi một ít thời gian mà... - Nghe thấy giọng mình sợ hãi, Bjorck ngừng lại.

- Đã mấy ngày rồi mà. Ông bảo ông gọi tôi sau cuối tuần. Mai là thứ Ba. Hoặc ông bảo tôi bây giờ hoặc tôi vẫn họp báo sáng mai.

- Nếu cứ họp báo thì ông không tìm ra được cái chó gì về Zala đâu.

- Có thể thế. Nhưng khi ấy thì không còn là việc của tôi nữa. Và ông thì phải nói chuyện với cảnh sát điều tra. Và dĩ nhiên cả với đám báo chí còn lại.

Không có chỗ để thương lượng.

Bjorck bằng lòng gặp Blomkvist nhưng đã thành công ở chỗ làm cho cuộc họp báo hoãn lại đến hôm sau, thứ Tư. Một ân xá ngăn ngắn. Nhưng ông sẵn sàng.

Hoặc là chìm hoặc là bơi.

Ông thức dậy trên sàn phòng khách. Ông không biết mình đã ngất đi bao lâu. Ông đau toàn thân và ông không thể cử động. Một lúc ông mới nhận ra tay mình bị băng dán điện trói quặt ra sau lưng còn chân bị buộc. Một miếng băng dán trên miệng ông. Đèn bật sáng, cửa chớp đóng lại. Ông không hiểu nổi chuyện gì đã xảy ra.

Ông nghe thấy tiếng động hình như vọng ra từ buồng giấy. Ông nằm im nghe và thấy tiếng kéo mở ngăn kéo.Trộm vào nhà? Ông nghe thấy tiếng giấy sột soạt và ai đó lục lọi trong ngăn kéo.

Thời gian như đứng lại, rồi ông nghe thấy tiếng chân ở đằng sau. Ông thử quay đầu nhưng không trông thấy ai. Ông tự nhủ mình bình tĩnh.

Bất thình lình một dây thòng lọng tuột qua đầu ông. Cái nút thít lại quanh cổ ông. Cơn hoảng loạn làm cho ông gần như vãi hết cả ra.

Ông nhìn lên thấy sợi thừng chạy lên một puli ròng rọc bị cột vào một cái móc thường vẫn để treo đèn. Rồi kẻ tấn công hiện ra trước mắt ông. Vật đầu tiên ông thấy là đôi bốt đen.

Khi ông ngước mắt lên thì không còn cơn sốc nào lại có thể lớn hơn được nữa. Thoạt tiên ông không nhận ra cái kẻ mắc bệnh tâm thần mà tấm ảnh hộ chiếu đã được dán bên ngoài mỗi kiốt Pressbyra từ lễ Phục sinh. Cô ta thấp, tóc đen và nom không giống ảnh in trên báo lắm. Cô ta mặc toàn đồ đen - jean, jacket sợi bông ngang thân để phanh, áo phông, găng tay đen.

Nhưng cái làm ông kinh sợ nhất là mặt cô ta. Nó được tô vẽ. Cô bôi môi đen, tô đường mắt đen và nổi lên đặc biệt, đánh bóng đen quầng mắt. Chỗ còn lại trên mặt thì phủ hóa trang trắng. Cô bôi một vệt son đỏ từ bên trái trán vắt ngang qua mũi xuống bên phải dưới cằm.

Một mặt nạ buồn cười. Nó xem vẻ mất trí cái con mẹ nó rồi.

Đầu óc ông cưỡng lại. Nó có vẻ không thật.

Salander nắm lấy đầu dây thừng kéo. Ông cảm thấy thừng cứa vào cổ và ông đã không thở được trong vài ba tích tắc. Rồi ông loay hoay cố đứng lên trên hai chân. Với chiếc ròng rọc cô chả phải mất công sức để kéo ông đứng lên. Khi ông đã đứng thẳng, cô thôi kéo và quấn thừng vài vòng vào ống nước lò sưởi. Cô thắt nút thừng lại.

Rồi cô biến đi khỏi tầm nhìn của ông. Cô đi chừng hơn mười lăm phút. Khi quay lại, cô kéo một chiếc ghế tựa đến ngồi xuống trước mặt ông. Ông cố tránh nhìn vào bộ mặt sơn phết của cô nhưng không thể. Cô để một khẩu súng ở trên bàn phòng khách. Khẩu súng của ông. Cô đã tìm thấy nó ở trong cái hộp giầy bên trong tủ quần áo. Một khẩu Colt 1911 Govenment. Một vũ khí phi pháp ông có đã vài năm nay. Ông mua của một người bạn nhưng ông chưa bao giờ bắn nó. Ngay trước mắt ông cô lấy kẹp đạn ra và nhét vào mấy viên. Cô giật mạnh súng về và lên cò. Sandstrom suýt té xỉu. Ông cố bắt mình nhìn vào mắt cô.

- Tôi không hiểu tại sao đàn ông luôn phải ghi làm tư liệu các trò sa đọa của mình. - Cô nói.

Giọng cô lạnh băng nhưng nhẹ nhàng. Một giọng nói êm ả nhưng cô nói rành mạch. Cô giơ một tấm ảnh lên. Chắc cô đã in nó từ ổ cứng của ông ra, Nhân danh Chúa.

- Tôi cho rằng đây là Ines Hammujarvi, người Estonia, mười bảy tuổi, đến từ Riepalu gần Narva. Ông có thú vị với cô ấy không?

Câu hỏi làm cớ thôi. Sandstrom không tài nào trả lời. Miệng ông bị băng dán kín còn đầu óc ông thì không sao nghĩ nổi ra điều gì để trả lời. Tấm ảnh cho thấy... lạy Chúa, tại sao mình lại đi lưu các ảnh này lại chứ?

- Ông biết tôi là ai không? Gật đi.

Sandstrom gật.

- Ông là một con lợn bạo dâm, một tên đồi trụy, và một kẻ hiếp dâm.

Ông không nhúc nhích.

- Gật.

Ông gật. Thình lình mắt ông rơm rớm.

- Hãy nói rõ đủ hết các quy tắc thỏa thuận ra. - Salander nói. - Chừng nào dính đến tôi thì sẽ phải cho ông chết ngay. Với tôi thì ông sống thoát đêm nay hay chết cũng vậy cả thôi. Hiểu không?

Ông gật.

- Chắc ông vẫn chưa quên để ý tới rằng tôi là một con điên thích giết người. Đặc biệt giết đàn ông.

Cô chỉ vào tờ báo mới mà ông để trên mặt bàn phòng khách.

- Tôi sẽ bóc băng dán ra khỏi miệng ông. Nếu ông la hay cao giọng tôi sẽ vọt cho ông một cái này. - Cô cầm khẩu súng điện lên. - Món này phóng ra 50.000 vôn. Phát sau thì khoảng 40.000 vì tôi đã dùng một lần và chưa nạp lại điện. Hiểu chứ?

Ông nom nghi ngờ.

- Như thế có nghĩa là cơ bắp ông ngừng hoạt động. Ông đã nếm nó khi ông loạng quạng ở cửa vừa rồi đó. - Cô mỉm cười với ông. - Và nó có nghĩa là chân ông không giữ nổi ông nữa, rút cục ông sẽ tự treo cổ lên tận tít trên kia kìa. Còn sau khi vọt cho ông một phát rồi thì tôi chỉ có việc đứng lên rời đây đi mà thôi.

Ông gật. Lạy Chúa, con này là con mẹ điên giết người đây. Ông không được, không thể kiềm chế, nước mắt chảy ràn rụa xuống dưới cằm. Ông thút thít.

Cô đứng lên kéo băng dán ra.

- Nếu ông không xin phép mà nói là tôi vọt cho ông một tia liền.

Chờ cho ông hết sụt sịt, cô nhìn vào mắt ông.

- Ông có một cơ may sống nổi qua đêm nay. - Cô nói. - Một thôi, không có hai. Tôi sắp hỏi ông mấy câu. Nếu ông trả lời thì tôi để ông sống. Hiểu thì gật đầu đi.

Ông gật.

- Nếu ông không chịu trả lời là tôi bắn luôn à. Hiểu chứ?

Ông gật.

- Ông nói dối hay nói quanh tôi cũng bắn luôn à.

Ông gật.

- Tôi không mặc cả với ông. Sẽ không có cơ may thứ hai đâu. Ông trả lời tắp lự hay ông chết. Nếu ông trả lời thỏa đáng thì ông sống. Đơn giản vậy.

Ông gật. Ông tin cô ta. Ông không còn lựa chọn.

- Xin. - Ông nói. - Tôi không muốn chết...

- Sống hay chết là trông ở ông. Nhưng ông vừa vi phạm quy tắc thứ nhất của tôi: tôi không cho phép thì không được nói.

Ông mím môi lại. Con này nó dở người hoàn toàn rồi, rõ ràng rồi.

Quá nản và bồn chồn Blomkvist không biết làm gì cả. Cuối cùng anh mặc jacket và quàng khăn đi lênh phênh ra ga Sodra và qua Bofills Bage rồi, cuối cùng về tòa soạn Millennium ở trên đường Gorngatan. Hoàn toàn im lặng trong tòa soạn. Anh không bật một ngọn đèn nào nhưng anh cho chạy máy pha cà phê và đứng ở cửa sổ nhìn xuống Gorngatan trong khi chờ cà phê được. Anh cố sắp đặt ngay ngắn lại ý nghĩ. Cuộc điều tra án mạng giống như một bức họa ghép trong đó anh có thể tìm ra vài ba mảnh trong khi các mảnh khác thì đơn giản là đã bị mất đi. Ở đâu đó có một hình mẫu. Anh có thể cảm thấy nó nhưng không thể mò ra nổi.

Nghi hoặc bủa vây anh. Cô ấy không phải là một kẻ rối loạn đầu óc mà giết người, anh nhắc nhở mình. Cô đã viết để bảo anh rằng cô không bắn các bạn của anh. Anh tin cô. Nhưng cô vẫn bị gắn chặt vào các vụ án mạng bằng một cung cách khó hiểu nào đó.

Dần dần anh đánh giá lại cái lý lẽ anh đã bám cứng lấy nó từ khi anh bước chân vào căn hộ ở Enskede. Ít nhiều anh đã tức khắc cho rằng bài báo điều tra của Svensson về buôn bán tính dục là động cơ duy nhất hợp lý của vụ án mạng. Nay anh đi tới chấp nhận khẳng định của Bublanski rằng điều đó không giải thích được vụ giết Bjurman.

Trong thư của mình Salander đã bảo anh rằng anh có thể quên đám ma cô chăn dắt gái đi và cần tập trung vào Zala. Tại sao? Món rắc rối không nói ra được. Sao cô không thể bảo anh cái gì thì có ý nghĩa?

Blomkvist rót cà phê vào cái tách Thanh niên Cánh tả. Anh ngồi ở một trong mấy cái sofa tại giữa buồng giấy, đặt chân lên bàn cà phê, châm một điếu thuốc bị cấm.

Bjorck ở trong danh sách đám ma cô. Bjurman đã là người giám hộ của Salander. Không phải ngẫu nhiên mà Bjorck và Bjurman lại cùng làm việc ở Sapo. Một báo cáo của cảnh sát về Salander đã bị mất.

Có thể có một động cơ khác nữa không? Lisbeth Salander có thể là một động cơ không?

Blomkvist ngồi đó, biết rằng anh không thể nói ra lời. Có một cái gì đó vẫn chưa được khám phá nhưng anh không thể nói rõ chính xác ra cái điều mà qua ý nghĩ Salander anh muốn nói nó có thể là động cơ của vụ án. Anh trải qua cảm giác lâng lâng của phát hiện.

Rồi nhận thấy đã quá mệt, anh đổ cà phê, rửa máy rồi đi ngủ. Nằm trên giường, anh lại nắm lấy mạch suy nghĩ và trong hai giờ cố nhận diện cái điều mà anh muốn nói ra thành lời kia nó là cái gì.

Salander hút một điếu thuốc, thoải mái ngả lưng vào chiếc ghế ở trước mặt ông ta. Cô gác chân phải lên trên chân trái rồi đăm đăm nhìn ông. Sandstrom trước nay chưa thấy một cái nhìn nào mãnh liệt như thế này. Khi cất tiếng, giọng cô lại dịu dàng.

- Tháng Giêng 2003, ông gặp Ines Hammujarvi lần đầu tiên ở nhà cô ta tại Norsborg. Cô ta vừa mới sang tuổi mười sáu. Tại sao lại đến gặp cô ấy?

Sandstrom không biết trả lời ra sao. Bản thân ông cũng khó hiểu chuyện đó, nó đã bắt đầu như thế nào hay tại sao ông... Cô giơ súng bắn điện lên.

- Tôi... tôi không rõ. Tôi muốn cô ta. Cô ta đẹp quá.

- Đẹp?

- Vâng. Cô ta đẹp.

- Và ông nghĩ ông có quyền trói cô ta vào giường mà hiếp cô ta.

- Cô ấy bằng lòng làm cái ấy. Tôi thề. Cô ấy bằng lòng.

- Ông trả tiền cho cô ấy chứ?

Sandstrom ấp úng.

- Không.

- Tại sao không? Cô ấy là điếm mà. Điếm thì được trả tiền mà.

- Cô ấy là... cô ấy là một món quà.

- Một món quà. - Giọng Salander chuyển sang có vẻ nguy hiểm.

- Tôi giúp một người và người ấy trả cô ấy cho tôi.

- Per - Ake. - Salander nói giọng phải chăng. - Ông không nên cố tránh trả lời tôi, đồng ý không?

- Tôi thề. Cô hỏi gì tôi trả lời hết. Tôi sẽ không nói dối.

- Tốt. Giúp cái gì và người ta kia là ai?

- Tôi chở lậu vào một ít ma túy. Tôi đang đi công tác ở Estonia, tôi chơi bời với mấy người tôi quen rồi mang các viên ấy quay về lại xe tôi. Tay đi cùng với tôi tên là Harry Ranta. Nhưng hắn không đến tận xe với tôi.

- Ông gặp Harry Ranta như thế nào?

- Tôi biết hắn đã nhiều năm. Đúng ra từ những năm 80. Hắn chỉ là một thằng bạn. Chúng tôi quen đi bar với nhau.

- Và rồi Harry Ranta cho ông Ines Hammujarvi như là một... món quà?

- Vâng... không, tôi xin lỗi, đó là sau này, ở Stockholm đây. Đấy là anh hắn ta, Atho Ranta.

- Vậy ông nói là Atho Ranta gõ cửa nhà ông rồi hỏi ông có muốn lái xe đến Norsborg [bad word] Ines không chứ gì?

- Không... Tôi đang ở... chúng tôi có một liên hoan ở... con khỉ nó... tôi không nhớ cái chỗ ấy nữa....

Ông thình lình run như cầy sấy và quỵ gối xuống bắt đầu sụp. Ông phải chẹn chân vào một chỗ nào để đứng thẳng lên được.

- Bình tĩnh trả lời. - Salander nói. - Tôi không có treo ông lên vì ông cần phải xếp dọn ý nghĩ đâu. Nhưng hễ thấy ông toan lẩn tránh trả lời là tôi... pang!

Cô nhướng lông mày lên và ông ngạc nhiên thấy cô nom giống như thiên thần. Cũng thiên thần như bất cứ ai ở đằng sau tấm mặt nạ gớm ghiếc này đều có thể nom giống thiên thần được cả.

Sandstrom nuốt nước bọt. Miệng ông khô như ngói và ông có thể cảm thấy dây thừng thít quanh cổ.

- Ông uống rượu ở đâu không quan trọng. Sao Atho Ranta lại đi đến bước biếu Ines cho ông?

- Chúng tôi nói chuyện về... chúng tôi... Tôi bảo hắn là tôi muốn... - Ông ta nhận ra mình đang khóc.

- Ông nói là ông muốn có một đứa trong đám điếm.

Ông gật.

- Tôi có say. Hắn nói là cô ta cần... cần...

- Cô ta cần cái gì?

- Atho nói cô ta cần bị trừng phạt. Cô ta khó tính khó nết. Không chịu làm những gì hắn ta muốn.

- Thế hắn muốn cô ta làm gì?

- Làm điếm cho hắn. Hắn mời tôi... tôi đang say, không biết là mình làm gì. Tôi không có ý nói là... Xin tha thứ cho tôi.

Ông thút thít.

- Tôi không phải là người để ông xin tha thứ. Vậy ông nhận giúp Atho trừng phạt Ines và cả hai lái xe đến chỗ Ines.

- Không là như thế.

- Vậy là thế nào? Tại sao ông đi với Atho đến chỗ Ines?

Cô ve vẩy khẩu súng điện ở trên đầu gối. Ông lại run.

- Tôi đi vì tôi muốn cô ấy. Cô ấy ở đấy và sẵn có tại chỗ. Cô ấy sống với một cô bạn gái của Harry Ranta. Tôi không nghĩ là biết tên cô này. Atho trói Ines vào giường và tôi... tôi làm tình với cô ấy. Atho đứng xem.

- Không, ông không làm tình, ông cưỡng hiếp cô ấy.

Ông không nói năng.

- Hay là thế nào?

Ông gật.

- Ines nói gì?

- Không nói gì cả.

- Cô ấy có phản đối không?

Ông lắc đầu.

- Vậy cô ấy nghĩ một gã trung niên rác rưởi trói cô ấy lại rồi [bad word] cô ấy là chuyện chả đáng gì.

- Cô ấy say. Cô ấy chả chú ý gì.

Salander nhẫn chịu, thở dài.

- OK. Rồi ông cứ đi gặp Ines miết.

- Cô ấy quá... cô ấy muốn tôi.

- Cục cứt.

Ông tuyệt vọng nhìn Salander. Rồi ông gật.

- Tôi... tôi hiếp cô ấy. Harry và Atho cho phép. Họ muốn cô ấy được... được huấn luyện.

- Ông có trả tiền cho họ không?

Ông ta gật.

- Bao nhiêu?

- Hắn cho tôi một giá hời. Tôi giúp chở hàng lậu vào mà.

- Bao nhiêu?

- Đại khái vài nghìn đô.

- Có một bức ảnh đã chụp Ines ở nhà này.

- Harry mang cô ấy đến.

Ông ta lại sụt sịt.

- Vậy là với vài nghìn đô ông có một cô gái mà ông khoái làm gì cô ấy cũng đều được cả nhỉ. Ông đã hiếp cô ấy bao nhiêu lần?

- Tôi không biết... mấy lần.

- OK. Ai coi cái băng ấy?

- Tôi phản họ là họ giết tôi.

- Chả bận đến cái cục cứt tôi. Ngay bây giờ tôi có một vấn đề còn lớn hơn anh em nhà Ranta nhiều. - Cô giơ khẩu súng điện lên.

- Atho là thằng anh. Harry là đứa sắp đặt.

- Có bao nhiêu đứa nữa trong băng ấy?

- Tôi chỉ biết Atho và Harry. Bạn gái của Atho cũng ở trong đó. Và một đứa tên là... tôi không biết. Pelle gì gì đó. Người Thụy Điển. Tôi không biết nó là ai. Nó xài ma túy và làm việc cho bọn họ.

- Bạn gái của Atho?

- Silvia. Là điếm.

Salander ngồi nghĩ một lúc. Rồi cô ngước lên nhìn.

- Zala là ai?

Sandstrom tái mặt lại. Blomkvist đã lùng săn hắn để hỏi cũng câu này đây. Hắn không nói gì vì từ lâu hắn biết cô gái đã bị thịt mất rồi.

- Tôi không biết. Tôi không biết là ai.

Mặt Salander tối sầm xuống, cô nói:

- Ông đã làm tốt cho tới nay. Cơ may duy nhất này của ông chớ có mà đem ném nó đi.

- Tôi thề với Chúa, thật thà mà. Tôi không biết người ấy là ai. Nhà báo mà cô bắn...

Ông ta ngừng lại. Nhắc đến chuyện tàn sát ở Enskede có lẽ không phải là ý hay.

- Sao?

- Anh ấy cũng hỏi tôi như thế. Tôi không biết. Nếu biết tôi đã bảo cô ngay, tôi thề đấy. Hắn là người mà Atho biết.

- Ông đã nói chuyện với hắn chưa?

- Đúng một lần chỉ một phút trong điện thoại. Tôi nói với một người nhận mình là Zala. Đúng hơn là ông ta nói với tôi.

- Tại sao?

Sandstrom chớp chớp mắt. Mồ hôi chảy vào mắt và ông cảm thấy nước mắt chảy xuống cằm mình.

- Tôi... họ muốn tôi đỡ đần họ một việc khác nữa.

- Chuyện ông đang cứ rề rề phát ngán lên đây. - Salander nói.

- Họ muốn tôi đi chuyến nữa đến Tallinn mang về một xe đã sửa soạn xong xuôi. Amphetamine. Tôi không muốn làm việc này.

- Sao không?

- Nhiều quá. Họ như đám cướp gangster ấy. Tôi muốn đánh tháo. Tôi có một nghề sống được cơ mà.

- Vậy thì ông nghĩ lúc rỗi rãi chính ông cũng đã là gangster.

- Tôi thực sự không thích thế.

- Ô, được. - Giọng cô đầy khinh miệt khiến Sandstrom nhắm mắt. - Kể tiếp đi. Zala nhảy đến với các ông như thế nào?

- Đấy là một ác mộng.

Nước mắt nước mũi vẫn chảy. Ông cắn môi mạnh đến nỗi môi bắt đầu rớm máu.

- Chán ốm. - Salander nói.

- Atho vẫn ốp tôi chuyện ấy. Harry cảnh cáo tôi, nói Atho đang cáu tôi và hắn không biết rồi sẽ thành ra cái gì. Cuối cùng tôi bằng lòng gặp Atho. Tháng Tám năm ngoái. Tôi đi xe đến Norsborg với Harry...

Miệng ông vẫn mấp máy nhưng không thốt ra lời. Salander nheo mắt lại. Ông lại nói được thành tiếng:

- Atho hắn như một thằng khùng. Hắn rất hung bạo. Cô không biết hắn hung bạo đến mức nào được đâu. Hắn bảo đã quá muộn rồi tôi không đánh tháo ra nổi nữa và nếu tôi không làm theo hắn bảo thì hắn sẽ không cho phép tôi sống. Hắn sắp chứng minh cho tôi xem.

- Ô, thế cơ đấy.

- Họ bắt tôi đi theo họ. Chúng tôi lái xe đến Sodertalje. Atho bảo tôi đội một cái mũ trùm đầu vào. Đó là một cái túi mà hắn buộc lại ở trên mắt tôi. Tôi sợ tưởng chết.

- Vậy là ông ở trên xe với một cái túi trên đầu. Rồi chuyện gì xảy ra?

- Xe dừng lại. Tôi không biết chỗ ấy là đâu.

- Họ cho ông đội mũ trùm đầu ở chỗ nào?

- Ngay trước Sodertalje.

- Thế từ đó đến chỗ kia mất bao lâu?

- Có thể là... nửa giờ. Họ cho tôi ra xe. Chỗ ấy như kiểu nhà kho vậy.

- Chuyện gì diễn ra?

- Harry và Atho đưa tôi vào trong nhà. Có đèn sáng. Vật đầu tiên tôi trông thấy là một cha khốn nạn nào đó nằm trên sàn xi măng. Bị trói chặt. Bị đánh quả là dữ.

- Là ai?

- Người này tên là Kenneth Gustafsson. Nhưng mãi sau tôi mới tìm ra cái tên ấy.

- Chuyện gì diễn ra?

- Có một người ở đó. Hắn là người to lớn nhất mà tôi từng trông thấy. Đồ sộ. Toàn là cơ với bắp.

- Trông hắn giống thế nào?

- Trông giống như chính Quỷ sứ vậy. Tóc vàng.

- Tên?

- Hắn không nói tên ra bao giờ.

- OK. Một đứa khổng lồ tóc vàng. Ai nữa?

- Có một người nữa. Nom căng thẳng. Tóc tóm đuôi ngựa.

Magge Lundin.

- Nữa chứ?

- Cộng tôi và Harry, Atho.

- Nói tiếp.

- Cha khổng lồ... đưa cho tôi cái ghế. Không nói câu nào. Atho nói hết. Hắn bảo cha nằm trên sàn là một thằng hớt lẻo. Hắn muốn cho tôi thấy những ai gây lôi thôi thì gặp chuyện gì.

Sandstrom không kìm được nức nở.

- Thằng khổng lồ xách tay kia lên khỏi sàn, đặt cho ngồi lên một chiếc ghế trước mặt tôi. Chúng tôi cách nhau một mét. Tôi nhìn vào mắt hắn ta. Rồi thằng khổng lồ đứng sau lưng, cho hai tay lên cổ hắn... Nó... nó...

- Bóp cổ hắn?

- Vâng... không... nó siết lại cho tới khi chết. Tôi nghĩ nó đã tay không bẻ gẫy cổ người kia. Tôi nghe thấy cổ tay kia kêu đánh "rắc" rồi chết cứng ở ngay trước mặt tôi.

Sandstrom đung đưa trên sợi thừng. Nước mắt chảy trên mặt ông ta. Ông chưa từng nói với ai điều này. Salander cho ông một phút để tập trung đầu óc lại.

- Rồi sao?

- Người kia - người tóc tóm đuôi ngựa - mở máy cưa, cưa đầu rồi tay người đã chết ra. Sau đó thằng khổng lồ đi đến tôi. Hắn để hai tay quanh cổ tôi. Tôi cố đẩy tay hắn ra. Tôi cố đẩy mạnh hết sức nhưng không làm cho hắn buông ra được một li nào. Nhưng hắn không siết lại - chỉ là đặt tay vào đó một lúc lâu thôi. Trong khi Atho lấy di động ra nói bằng tiếng Nga. Rồi hắn bảo rằng Zala muốn nói chuyện với tôi và cầm máy để vào tai tôi.

- Zala bảo sao?

- Hắn hỏi tôi định đánh tháo phải không. Tôi hứa sẽ đi Tallinn lấy chiếc xe chở amphetamine. Tôi còn làm được gì khác nữa đây?

Salander ngồi im một lúc lâu. Cô ngắm tay nhà báo đang thút thít, sợi thừng đung đưa và có vẻ như cô đang nghĩ đến chuyện khác.

- Tả tiếng nói của hắn xem nào.

- Nó... nghe bình thường.

- Giọng trầm hay cao?

- Trầm. Bình thường. Cộc cằn.

- Nói tiếng gì?

- Thụy Điển.

- Có bị pha không?

- À... có thể có một ít. Nhưng tiếng Thụy Điển thành thạo. Hắn và Atho nói tiếng Nga.

- Ông có biết tiếng Nga không?

- Một ít. Không lưu loát. Chỉ một ít thôi.

- Atho bảo gì hắn?

- Chỉ nói là đã chứng minh xong.

- Ông đã nói cái này với ai khác chưa?

- Chưa.

- Svensson?

- Chưa... chưa.

- Svensson đến gặp ông?

Sandstrom gật đầu.

- Tôi không nghe được ông.

- Vâng.

- Sao đến?

- Anh ấy biết tôi có... gái điếm.

- Anh ấy hỏi gì?

- Anh ấy muốn biết... về Zala. Anh ấy hỏi về Zala. Đấy là lần đến gặp thứ hai.

- Lần đến thứ hai?

- Anh ấy tiếp xúc được hai tuần thì chết. Đó là lần thứ nhất. Rồi lại đến, hai ngày trước khi cô... anh ấy.

- Trước khi tôi bắn anh ấy?

- Vâng.

- Và rồi anh ấy hỏi về Zala lần ấy?

- Vâng.

- Anh ấy bảo gì ông?

- Kh 27bc ng gì cả. Tôi không bảo được anh ấy cái gì cả. Tôi nhận là đã nói với anh ấy ở điện thoại. Tất cả là thế thôi. Tôi không nói gì về thằng khổng lồ tóc vàng và việc họ làm ở Gustafsson.

- OK. Bảo tôi chính xác xem Svensson hỏi gì?

- Tôi... anh ấy chỉ muốn biết tôi biết gì về Zala. Có thế thôi.

- Và ông không bảo anh ấy cái gì cả?

- Không bảo cái gì có ích sất. Tôi không biết gì cả.

Cô đăm chiêu cắn môi dưới. Có một cái gì đó hắn ta không nói.

- Ông bảo ai việc Svensson đến thăm?

Sandstrom có vẻ nghiêng ngửa. Salander vung vẩy khẩu súng điện.

- Tôi gọi Harry.

- Lúc nào?

Ông nuốt nước bọt.

- Đêm hôm Svensson đến thăm tôi lần đầu.

Cô hỏi tiếp một nửa giờ nữa nhưng ông ta chỉ nhắc đi nhắc lại ngần ấy, cộng vài ba chi tiết thêm vào đây đó. Cô đứng lên, để tay vào sợi thừng.

- Ông chắc là một trong những người đồi bại nhất mà tôi từng thấy. - Salander nói. - Chuyện ông làm với Ines đáng tội chết. Nhưng tôi đã bảo ông sẽ được sống nếu trả lời các câu tôi hỏi. Tôi giữ lời hứa.

Cô tháo nút. Sandstrom buông đánh thịch thành một đống nhớp nhúa trên sàn. Ông thấy cô để một cái ghế đẩu lên bàn cà phê, leo lên đó tháo ròng rọc ra. Cô quấn thừng lại, nhét vào ba lô. Cô vào buồng tắm. Ông nghe thấy tiếng nước chảy. Khi trở lại cô đã rửa hết hóa trang trên mặt.

Mặt cô nom sạch sẽ và không phấn son.

- Ông có thể tự cắt dây lấy rồi tự do.

Cô ném một con dao làm bếp ra sau lưng ông.

Ông nghe cô đi ở ngoài gian sảnh một lúc lâu. Nghe như cô thay quần áo. Rồi ông nghe thấy cửa trước mở rồi đóng lại. Ông mất nửa giờ để cắt đứt băng dán. Thoạt tiên ông buông hùm mình vào sofa rồi loạng choạng đứng lên tìm kiếm trong căn hộ. Cô đã lấy đi mất khẩu Colt 1911 Government của ông.

Salander về nhà lúc 4 giờ 55 sáng. Bỏ bộ tóc giả của Irene Nesser ra, cô lên thẳng ngay giường, chẳng cả mở máy tính ra xem liệu Blomkvist đã có giải quyết được cái bí mật về mất bản báo cáo của cảnh sát hay chưa.

9 giờ dậy, cô đã bỏ cả ngày thứ Ba đào tìm thông tin về anh em nhà Ranta.

Atho được ghi chép chi tiết trong các hồ sơ của cảnh sát hình sự. Hắn là công dân Phần Lan xuất thân từ một dòng họ Estonia. Hắn đến Thụy Điển năm 1971. Từ 1971 đến 1978, hắn làm thợ mộc cho công ty Đổ Vôi vữa Skanska. Hắn bị đuổi vì ăn cắp ở địa điểm xây dựng và bị kết án tù bảy tháng. Giữa 1980 và 1982, hắn làm việc cho một hãng xây dựng nhỏ hơn. Hắn bị đá đi sau vài lần đi làm việc trong tình trạng say nhè. Trong phần thời gian còn lại của năm 1980, hắn kiếm sống bằng làm một chân giữ trật tự chống lại đám phá quấy, một kỹ thuật viên tại một công ty mở dịch vụ về nồi áp suất đốt bằng dầu, một tay rửa bát đĩa và nhân viên trông trường học. Hắn đều bị các nơi này đuổi vì say rượu và ẩu đả. Nghề trông trường học chỉ lâu có vài tháng: một thầy giáo báo cáo cái tật quấy rối tính dục và đe dọa học sinh của hắn.

Năm 1987 hắn bị phạt tiền và khép án tù một tháng vì ăn cắp xe hơi, lái xe không có bảo hiểm và nhận các vật ăn cắp. Năm sau hắn bị phạt tiền vì sở hữu vũ khí phi pháp. Năm 1990 hắn bị khép án vì tấn công tính dục, vụ này đã không được nêu rõ trong biên bản hình sự. Năm 1991, hắn bị truy tố vì dọa nạt nhưng được tha bổng. Cùng năm ấy hắn bị phạt và bị án tù treo vì chở lậu rượu. Năm 1992, hắn ngồi tù ba tháng vì đánh bạn gái và đe dọa em gái. Hắn cố giữ yên được cho tới 1997 thì bị kết án cầm giữ vật ăn cắp và hành hung. Lần này hắn bị tù mười tháng.

Em trai hắn, Harry theo hắn đến Thụy Điển năm 1982, làm việc lâu ở một nhà kho. Biên bản hình sự của hắn cho ra ba tội: năm 1990 gian lận bảo hiểm, 1992 bị tù hai năm vì hành hung, nhận tài sản ăn cắp, móc túi và hiếp dâm. Hắn bị lưu đày đến Phần Lan nhưng 1996 lại Thụy Điển thì bị kết án mười tháng tù vì hành hung và hiếp dâm. Bản án được khiếu tố, tòa phúc thẩm ủng hộ Ranta và hắn được trắng án về tội hiếp dâm. Nhưng tội hành hung vẫn bị giữ lại và hắn bị tù sáu tháng. Năm 2000 hắn lại bị kết án, lần này vì đe dọa và hiếp dâm. Các buộc tội sau đó bị bỏ rơi và vụ án bị bãi.

Salander viết ra các địa chỉ mới được biết đến của chúng: Atho ở Norsborg, Harry thì ở Alby.

Máy trả lời của Miriam Wu lần thứ mười lăm đáp lời Paolo Roberto. Hôm ấy ông đã đến địa chỉ ở Lundagatan mấy lần. Ông bấm chuông cửa nhưng không ai trả lời.

Là tối thứ Ba và đã quá 8 giờ. Cô ấy thế nào cũng phải về nhà chứ, cái của nợ này. Ông biết Miriam Wu muốn sống khuất mắt người đời một thời gian nhưng cao trào của trận cuồng phong báo chí đã giảm bớt. Ông có thể ngồi ngoài cửa nhà cô phòng xa cô có thể xuất đầu lộ diện, cho dù chỉ để thay áo quần. Ông đổ đầy cà phê vào một phích nhỏ và chuẩn bị một ít bánh sandwich. Trước khi rời nhà đi, ông đã làm dấu trước thánh giá và tượng Đức mẹ.

Ông đỗ xe ở cách cửa ra vào trên đường Lundagatan rồi đẩy lùi ghế lại đằng sau cho rộng thêm chỗ để cẳng. Ông mở radio âm lượng nhỏ. Ông cầm lên một bức ảnh của Miriam Wu ông cắt từ báo ra. Cô nom nhất đấy, ông nghĩ. Ông kiên nhẫn nhìn mấy người qua lại. Miriam Wu không ở trong số đó.

Cứ mười phút ông lại gọi điện thoại của cô. Quãng 9 giờ ông bỏ ý định gọi thì di động của ông báo sắp hết pin.

Cả thứ Ba Sandstrom như ở trong tình trạng vô cảm. Ông ngủ cả đêm trên chiếc sofa phòng khách, không thể lên giường và không thể ngăn được những cơn thổn thức cứ đều đặn lấn át ông. Sáng thứ Ba ông xuống Systembolaget ở Solna mua nửa lít rượu aquavit Skane. Rồi trở về với chiếc sofa, uống hết một nửa chỗ rượu.

Mãi tối ông mới hiểu rõ tình hình ông và nghĩ xem mình có thể làm gì được cho nó. Ông đã mong, không bao giờ nghe đến anh em nhà Ranta và bọn gái điếm của chúng. Ông không thể tin được ông lại đã ngu đến nỗi để cho bị dụ vào căn nhà ở Norsborg, ở đấy Atho đã trói con bé Ines Hammujarvi say ma túy vào giường, hai chân giạng ra, rồi thách ông, người có cây gậy bự hơn. Chúng đã thay phiên nhau và ông đã thắng cuộc thi cho số lượng lớn hơn về các ngón tính dục thực hiện trong đêm hôm ấy. Cô gái có một lần tỉnh dậy đã chống cự. Atho bỏ nửa giờ ra lần lượt vừa tát cô vừa đổ đầy rượu vào miệng cô, sau đó cô bị chế ngự và hắn lại mời Sandstrom tiếp tục môn thể thao.

Sao ông lại có thể ngu đến thế?

Ông khó lòng mong đợi Millennium sẽ khoan dung cho ông. Họ kiếm ăn bằng cái kiểu tai tiếng này mà.

Ông sợ con mụ điên Salander kia đến chết.

Chưa kể tới thằng khổng lồ tóc vàng.

Rõ ràng là ông không thể đi báo cảnh sát. Ông cũng không thể xoay xở lo toan cho bản thân và vấn đề thì nó cũng sẽ không tự dưng mà biến đi.

Chỉ có một khả năng mong manh mở ra với ông, một nơi mà ông có thể chờ đợi được chút thiện cảm và có thể là một giải pháp giả mạo. Ông đang bấu víu vào các cọng rơm nhưng đó là chọn lựa duy nhất của ông.

Chiều hôm ấy, ông lấy hết can đảm ra gọi vào di động của Harry Ranta. Không có trả lời. Ông thử gọi tiếp đến 10 giờ đêm. Sau khi nghĩ lâu về chuyện này (và được rượu aquavit tiếp thêm sức mạnh) ông gọi Atho Ranta. Bạn gái của hắn, Silvia trả lời. Ả bảo anh em nhà họ đang nghỉ ở Tallinn. Không, Silvia không biết làm sao bắt mối được với họ. Không, ả không biết lúc nào hắn quay về. Họ có thể ở Estonia cả một thời gian. Ả có vẻ vui vì chuyện đó.

Sandstrom không biết chắc là mình thất vọng hay nhẹ người đi. Như thế có nghĩa là ông không cần giải thích sự tình với Atho. Nhưng thông điệp ẩn dưới, rằng anh em nhà Ranta quyết định nghỉ xả hơi không biết lâu đến bao giờ ở Tallinn không hề làm cho thần kinh của Sandstrom êm đi được.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,154
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 25


Thứ Ba, 5 tháng Tư

Thứ Tư, 6 tháng Tư

Chưa ngủ nhưng mải nghĩ quá nên phải một lúc, quãng sắp 11 giờ đêm, Paolo Roberto mới để ý tới người phụ nữ đi từ Nhà thờ Hogalid xuôi xuống. Ông trông thấy cô ở kính chiếu hậu. Tới khi cô ta đi qua dưới ánh đèn đường phía sau ông, ông mới nhận ra đó là Miriam Wu.

Ông ngồi thẳng lại lên ghế. Nghĩ ra khỏi xe ngay nhưng e có thể làm cho cô sợ. Tốt hơn chờ cô đến trước cửa ra vào đã.

Đang nhìn cô đến gần cửa ra vào thì ông thấy một xe van nhiều chỗ nhô đến phía cô gái. Paolo Roberto hoảng hồn khi một người đàn ông - một thú vật đồ sộ tướng mạo quỷ dữ - nhảy ra khỏi cánh cửa trượt của chiếc xe túm lấy Wu. Cô gái hoàn toàn bị bất ngờ. Cô cố lùi lại để giằng ra nhưng người kia vẫn dễ như bỡn nắm lấy cổ tay cô.

Miệng Paolo Roberto há hốc khi ông thấy chân Wu vung lên thành một vòng cung. Cô ta chơi võ Thái! Cô đá trúng đầu người đàn ông. Xem ra cú đá không có chút hiệu quả nào. Người đàn ông giơ tay lên táng vào cạnh đầu Wu. Ở chỗ ông ngồi, Paolo Roberto nghe thấy được cả tiếng đánh. Wu ngã quay lơ ra như bị trúng sét. Người đàn ông cúi xuống, một tay nhấc cô lên lẳng vào xe. Lúc ấy Paolo Roberto mới sực tỉnh và ngậm miệng lại. Ông đẩy tung cửa xe chạy nước rút đến chiếc van.

Được vài bước ông nhận ra mình chạy như thế mới thật là đoảng, ông vừa đạt tốc độ cao nhất thì chiếc van mà Wu bị quẳng vào như bao khoai tây đã quặt chữ U chạy xuống cuối phố. Nó biến mất ở phía Nhà thờ Hogalid. Paolo Roberto ngoắt chạy vội trở về xe mình, ông cũng quay ngoặt chữ U. Chiếc van mất tăm khi ông tới góc phố. Ông phanh xe nhìn xuống Hogalidsgatan rồi rẽ cầu âu sang trái đến Hornsgatan.

Khi ông đến Hornsgatan thì vấp đèn đỏ. Nhưng không có xe qua lại nên ông nhích vào ngã tư nhìn tứ phía. Ngọn đèn hậu duy nhất ông thấy được đang rẽ trái lên Liljeholmsbron ở Langholmsgatan. Ông không biết có phải đó là chiếc van kia không nhưng nó là chiếc xe duy nhất ông nhìn thấy. Ông tăng tốc đuổi nhưng lại bị đèn đỏ ở Langholmsgtan, đành chờ cho xe từ Kungsholmen băng qua trong khi từng giây một tích tắc trôi đi. Đường vừa thông, ông tăng tốc gấp ngay, phớt lờ một đèn đỏ khác.

Ông liều lái rất nhanh qua Liljeholmsbron và qua Liljeholmen thì càng phóng nhanh hơn nữa. Ông vẫn không biết ngọn đèn hậu ông nhìn thấy kia có phải là của chiếc van không, ông cũng không biết là nó rẽ Grondal hay Arsta nữa. Quyết định cứ lao thẳng, ông càng nhấn chân ga. Ông đang đi với hơn 140 cây số một giờ, bùng vút qua dòng giao thông lờ đờ, ôm cứng lấy luật, nghĩ rằng một vài tay lái hay người khác chắc sẽ ghi biển số xe của ông.

Đến Bredang, ông lại nhận thấy chiếc van. Ông đến sát nó cho tới chỉ còn cách năm chục mét để yên chí đúng là chiếc van kia. Ông giảm tốc độ xuống tám chục cây số một giờ và tụt lại ở sau khoảng hai trăm mét. Đến lúc ấy ông mới thở bình thường trở lại.

Miriam Wu thấy máu chảy xuống cổ khi cô rơi lên sàn xe. Mũi cô đổ máu. Hắn đã làm môi cô rách toác và chắc gẫy mất mũi. Cú tấn công y như sét nổ giữa trời xanh. Chưa đầy một giây, cuộc chống cự của cô đã bị dẹp. Cô thấy chiếc van mở máy chạy ngay khi kẻ tấn công cô đẩy cho cửa khép lại. Khi quay đầu xe, kẻ tấn công đã bị mất thăng bằng.

Cô đảo người, tì hông lên sàn xe. Khi người đàn ông quay lại, cô vung chân cho một cú đá, trúng vào cạnh đầu hắn. Cô còn thấy vết giầy hằn lên tại đó. Cú đá chắc phải làm cho hắn bị thương.

Hắn sửng sốt nhìn cô. Rồi hắn mỉm cười.

Chúa ơi, cái đồ quỷ gì đây thế nhỉ?

Cô lại đá nhưng hắn bắt lấy chân cô và vặn rất mạnh đến nỗi cô đau kêu thét lên và lăn người nằm sấp xuống. Hắn bèn cúi xuống tạt tai cô. Hắn đánh trúng cạnh đầu cô. Wu tóe đom đóm mắt, cảm thấy như bị búa tạ giáng vào. Hắn ngồi lên lưng cô. Cô cố hẩy hắn ra nhưng không sao xê nổi được hắn đi một li nào. Hắn bẻ quặt hai tay cô ra sau, khóa lại bằng một cái còng. Cô hết cách tự cứu. Thình lình cô cảm thấy sợ cứng đơ cả người.

Trên đường từ Tyreso về nhà, Blomkvist đi qua sân vận động Hoàn cầu. Cả chiều và tối nay anh đi gặp ba người trong danh sách của Svensson. Anh đã gặp những người hoảng loạn từng được Svensson đối chất và hiện đang chờ trời sập. Họ đã van xin và thanh minh với anh. Anh giập tên cả ba ra khỏi danh sách nghi phạm giết người anh dựng lấy.

Khi lái xe qua Skanstullsbron, anh lấy di động ra gọi Berger. Chị không trả lời. Anh thử gọi Eriksson. Đấy cũng im nốt. Chết tiệt. Trời đã khuya. Anh muốn nói với ai đó về chuyện này.

Nghĩ liệu Paolo Roberto có kết quả gì với Miriam Wu không, anh bấm máy. Chuông năm hồi mới có trả lời.

- Paolo đây.

- Chào, Blomkvist đây. Tôi đang nghĩ nó ra...

- Blomkvist, tôi đang xẹt xẹt xẹt trong một chiếc van với Miriam.

- Tôi không nghe được anh.

- Xẹt xẹt sạt sạt xẹt.

- Anh đang hết pin. Tôi không nghe được anh.

Rồi máy tắt.

Paolo Roberto chửi tục. Điện thoại của ông bị hết pin đúng lúc ông đi qua Fittja. Ông bấm nút ON cho nó hoạt động lại. Ông gọi số dịch vụ cấp cứu nhưng họ vừa đáp lời thì máy ông lại chết.

Khốn kiếp.

Ông có cái sạc điện cắm được vào chỗ châm thuốc lá ở trên xe nhưng ông lại để nó ở nhà, trong gian sảnh. Ông ném di động xuống ghế bên rồi tập trung bám theo ngọn đèn hậu. Ông đang lái một chiếc BMW với đầy thùng xăng và chiếc van không có cơ chạy thoát nổi ông. Nhưng không muốn bị chú ý tới nên ông đã để cho khoảng cách rộng ra vài trăm mét.

Một thằng khổng lồ xơi kích thích tố đã đánh một cô gái ở ngay trước mặt ta. Hãy chờ ta ra tay với cái con mẹ nhà mày nha.

Nếu Erika Berger ở đây chị sẽ gọi ông là một cao bồi ta đây xứng tiếng mày râu. Paolo Roberto thì gọi đó là chuyện bực mình.

Blomkvist lái xe xuống Lundagatan. Nhà Miriam Wu tối om. Anh lại thử gọi Paolo Roberto nhưng được tin nhắn nói hiện không liên lạc được với chủ thuê bao máy. Anh tự rủa mình rồi lái xe về nhà pha cà phê, làm bánh sandwich.

Xe chạy lâu hơn là Paolo Roberto tưởng. Chiếc van đi xa đến Sodertalje thì quay về hướng tây trên đường E20 đến Strangnas. Vừa qua Nykvarn, nó rẽ sang trái vào những con đường nhỏ hơn ở đồng quê Sormland.

Đường càng nhỏ, nguy cơ ông bị những người trong chiếc van để ý đến càng lớn. Ông nhả bớt ga cho tụt lại hơn nữa ở đằng sau.

Ra ngoài này thì ông không chắc chắn về địa lý nhưng theo như ông có thể nói thì họ đang đi sang phía tây của hồ Yngern. Ông không trông thấy chiếc van nên chạy nhanh hơn lên. Ông đã đi tới một đoạn đường thẳng.

Chiếc van đã biến mất. Hai bên là những con đường nhỏ. Ông đã lạc mất chúng.

Miriam Wu thấy cổ và mặt đau nhưng cô đã vượt qua nỗi sợ về hết phương chống cự. Hắn không còn đánh cô nữa. Cô cố ngồi lên tựa vào lưng ghế tài xế. Tay cô bị còng lại ở đằng sau còn trên miệng cô thì là một miếng băng dán. Một lỗ mũi bị máu đông nghẹt lại nên cô khó thở.

Cô nhìn kẻ tấn công cô. Dán xong băng dính lên miệng cô, hắn không nói không rằng. Cô nhìn cái vết giầy cô đá trúng vào hắn. Cú đánh này chắc có gây tổn thương nghiêm trọng. Nhưng hắn có vẻ không thấy mùi mè gì chuyện đó.

Người hắn lực lưỡng, thuộc cỡ đồ sộ. Cơ bắp của hắn cho thấy những giờ dài dài hắn có lẽ đã bỏ ra ở phòng tập thể dục. Nhưng hắn không phải là người tập thể hình. Bắp thịt hắn có vẻ hoàn toàn là trời cho. Bàn tay hắn to bằng cái chảo.

Chiếc van nhảy chồm chồm trên các ổ gà. Cô nghĩ nó đã đi vào đường E4 nam một lúc lâu thì rẽ vào đường làng.

Cô biết dù tay không bị còng, cô cũng không có cơ đương đầu nổi với hắn.

Eriksson gọi Blomkvist sau 11 giờ một lúc, đúng lúc anh về nhà.

- Xin lỗi đã gọi muộn. Tôi cố tìm anh cả hàng giờ mà anh không trả lời điện thoại di động.

- Tôi tắt nó cả ngày vì có chuyện với mấy đứa ma cô.

- Tôi vớ được một cái có thể là hay đây. - Eriksson nói.

- Nói cho tôi đi.

- Bjurman. Anh bảo tôi tìm lai lịch hắn mà.

- Cô thấy gì?

- Hắn sinh năm 1950, bắt đầu học luật năm 1970, ra làm việc ở Klang & Reine năm 1978, năm 1979 thì mở phòng luật riêng. Một trong những nghề tay trái của hắn là làm luật sư ở một tòa án quận trong vài tuần năm 1976. Ngay sau khi tốt nghiệp năm 1976, hắn làm luật sư trong hai năm từ 1976 đến 1978 ở tổng nha Cảnh sát Quốc gia.

- Hay!

- Tôi kiểm tra xem hắn đã làm gì ở đấy. Không dễ mà bới ra được. Kể trong nhiều việc thì hắn đã chịu trách nhiệm về các vấn đề pháp lý cho Cảnh sát An ninh. Hắn làm việc về vấn đề di cư.

- Cái này nói lên điều gì nhỉ?

- Nói rằng hắn làm việc ở đó với một người tên là Bjorck.

- Thằng khốn. Hắn không nói một câu nào về chuyện hắn đã thực sự làm việc với Bjurman.

Paolo Roberto đã ở đằng sau rất xa. Cố hết sức giữ cho mình không ở vào trong tầm nhìn đến nỗi đã nhiều lần ông không thấy chiếc van, nhưng lúc thì ông nhác thấy nó rồi lúc lại mất tăm. Ông cho xe quay đầu lại trên vệ cỏ con đường. Ông lái thong thả, tìm các đường nhánh ở bên.

Sau mới có một trăm năm chục mét ông đã dò thấy ánh đèn lấp lóa sau một khe hẹp trong một rèm cây. Trông thấy một lối mòn trong rừng ở phía bên kia con đường, ông lái xe lên chừng hai chục mét, quay đầu và đỗ đối diện với ngoài đường, chả thiết khóa xe. Rồi ông rảo bước lùi băng sang đường, nhảy qua một con mương. Trong khi len lỏi đi lên qua lùm cây và các cành là thấp, ông mong có một chiếc đèn pin.

Đây chỉ là một rặng cây hẹp ven đường. Rất mau ông đã ra đến một khu đất cát lẫn sỏi và trông thấy vài tòa nhà thấp, tăm tối. Ông đang đi đến các tòa nhà thì ánh đèn trên vịnh bốc dỡ hàng hóa bật sáng.

Ông quỳ xuống, nép mình im lặng. Một giây sau, đèn trong tòa nhà sáng lên. Xem vẻ đây là một nhà kho dài quãng ba chục mét với một hàng cửa sổ hẹp cao tít ở trên một bên vách. Sân đầy những côngtenơ và bên phải ông là một xe chở hàng ở đằng mũi màu vàng. Cạnh nó là một chiếc Volvo trắng. Trong ánh sáng rực lóa của ngọn đèn ngoài cửa, ông thình lình trông thấy chiếc van, đỗ ở cách chỗ ông phủ phục chừng hai mươi lăm mét.

Rồi một cánh cửa mở ra vịnh bốc dỡ hàng hóa ở ngay trước mặt ông. Một người tóc xám lông chuột và bụng bự bia đi ra ngoài nhà kho châm một điếu thuốc. Ngược ánh đèn cửa, Roberto trông thấy tóc hắn buộc túm đuôi ngựa.

Ở cách Tóc đuôi ngựa chưa đến hai chục mét, ông vẫn nhìn được khắp, nhưng ánh lửa chiếc bật lửa đã đánh tan màn đêm quanh ông. Rồi ông và người tóc đuôi ngựa nghe thấy một tiếng rú tắt nghẹn lưng chừng trong chiếc xe van. Khi Tóc đuôi ngựa đi đến chiếc van, Roberto buông nhẹ mình nằm bẹp xuống đất.

Cánh cửa trượt của chiếc van mở xẹt xẹt và ông trông thấy tên khổng lồ tóc vàng nhảy ra rồi lại cúi vào trong xe lôi Miriam Wu ra. Hắn quắp cô bằng một tay, khi cô giẫy giụa thì hắn giữ cô cứng đơ lại ngay dễ như bỡn. Hai người đàn ông nói gì với nhau nhưng Paolo Roberto không nghe được. Rồi Tóc đuôi ngựa mở cửa xe, nhảy ngồi vào ghế tay lái. Hắn mở máy chiếc van, rẽ một vòng hẹp trong sân. Đèn xe quét ngang qua chỗ Paolo Roberto chỉ chừng vài mét. Chiếc van biến mất ở bên dưới một con đường vào nhà, tiếng máy lặng dần vào trong khoảng cách.

Tên khổng lồ mang Miriam Wu qua cửa vào vịnh bốc dỡ hàng hóa. Paolo Roberto trông thấy được cả một cái bóng qua khung cửa sổ cao trên tường. Hình như cái bóng đi về đầu đằng kia của tòa nhà.

Ông thận trọng đứng lên. Quần áo ông nhớp nháp. Ông vừa nhẹ người vừa không yên dạ. Nhẹ người vì đã bám theo được chiếc van và Miriam thì đang ở trong tầm với của ông. Nhưng ông hoảng vì tên khổng lồ nhấc cô gái ra khỏi xe nhẹ như một cái túi giấy.

Khôn ngoan là rút lui gọi cảnh sát. Nhưng di động ông hết pin và ông không biết rõ mình đang ở đâu; chắc chắn ông không thể chỉ cho ai khác đi như thế nào để đến được đây. Và cô gái bên trong tòa nhà này đang bị làm sao ông cũng mù tịt.

Ông thong thả đi vòng quanh toà nhà, phát hiện thấy nó chỉ có một cửa ra vào. Hai phút sau ông đã quay về lại gần cửa và cần phải có quyết định.

Tên khổng lồ là một thằng xấu, chả còn phải ngờ. Hắn đã bắt cóc Miriam Wu. Paolo Roberto không thấy sợ gì đặc biệt - ông rất tự tin và biết nếu xảy ra đánh đấm ông vẫn có thể chơi tốt. Vấn đề là thằng ở trong nhà kho có vũ khí và có những đứa khác ngoài nó hay không. Ông do dự. Không thể có đứa khác nữa ngoài thằng khổng lồ tóc vàng và cô gái.

Vịnh bốc dỡ hàng hàng đủ rộng để cho một chiếc xe chở hàng đằng mũi có thể qua lọt và có một cánh cửa cỡ trung bình gắn vào cổng. Paolo Roberto đi đến ấn tay vào tay nắm cửa để mở nó ra. Ông bước vào một nhà kho lớn tràn ngập ánh đèn, chất đầy các thứ vật liệu xây dựng, thùng hộp bẹp và rác rưởi.

Miriam Wu cảm thấy nước mắt lăn trên má. Cô khóc không phải vì đau má vì bất lực. Cả chuyến đi tên khổng lồ xách nắm cô tựa như cô chả có trọng lượng. Lúc xe đỗ, hắn bóc băng dính ở miệng cô ra. Hắn nhấc cô lên rồi mang cô như không vào trong nhà, vất cô xuống sàn xi măng, cô phản đối hắn cũng như điếc. Khi nhìn cô, hai mắt hắn lạnh băng.

Miriam Wu biết mình sẽ chết ở trong cái nhà kho này.

Hắn quay lưng lại cô, đi đến một cái bàn mở một chai nước khoáng, tu ừng ực vào ngay cổ chai. Hắn không trói hai chân cô lại vào nhau và cô toan đứng lên.

Hắn quay lại nhìn cô mỉm cười. Hắn ở gần cửa hơn cô. Cô không có cơ nào qua hắn mà ra cửa. Giận điên lên với chính mình, cô khuỵu gối xuống. Nếu ta đầu hàng không kháng cự thì ta đáng bị nguyền rủa. Cô lại đứng lên, nghiến răng lại. Nào, cái bị thịt.

Hai tay trói quặt sau lưng, cô thấy mình lóng ngóng và đứng không vững nhưng khi hắn đi đến thì cô lùi lại, vòng xa ra, chờ hắn ra tay. Như chớp cô phóng ra một cú đá vào sườn hắn, quay ngược người lại đá thêm một cú vào hạ bộ hắn. Cô đánh vào hông hắn, lùi lại vài bước, vung vẩy chân cho cú đá thứ hai. Bị còng hai tay, cô không thể giữ thăng bằng để đá vào mặt hắn, nhưng cô đã tung nhanh ra một cú đá trúng mỏ ác hắn.

Hắn vươn tay ra tóm lấy vai cô, quay cô lại, đấm một quả, không mạnh lắm vào trên thắt lưng cô. Miriam Wu hét lên như một con điên. Cô đau bại đi, ngỡ như có một lưỡi dao đang len lách qua vùng bụng mình. Cô lại khuỵu gối xuống. Hắn lại quạt ngang đầu cô một quả nữa và cô liền lăn chiêng ra sàn. Rồi hắn đá vào người cô. Cô cố thở ngắc, tai nghe thấy một dẻ sườn gẫy.

Paolo Roberto không trông thấy cảnh đánh nhưng ông nghe thấy Miriam Wu đau hét lên, một tiếng rú sắc đanh, chói lói tắt ngấm ngay. Ông nghiến răng nhìn về phía tiếng hét. Bên kia bức tường ngăn có một gian phòng. Ông di chuyển lặng lẽ qua nhà kho, hé nhòm qua cửa vừa lúc tên khổng lồ quay cô gái nằm ngửa lên. Hắn biến khỏi tầm mắt của ông một lát rồi trở lại, đặt một cái cưa điện xuống trước mặt cô. Paolo Roberto tụt áo jacket ra.

- Tao muốn mày trả lời một câu hỏi xoàng này thôi.

Giọng hắn the thé, gần như hắn chưa bao giờ vỡ giọng, và có pha tiếng.

- Lisbeth Salander ở đâu?

- Tôi không biết. - Miriam Wu nói, rõ ràng đau.

- Trả lời thế không được. Mày còn có cơ may đấy, đừng để tao phải đụng đến cái thứ này.

Hắn ngồi xổm xuống vỗ vỗ vào cái cưa.

- Lisbeth Salander trốn ở đâu?

Wu lắc đầu.

Khi tên khổng lồ thò tay lấy cái cưa, Paolo Roberto nhào ba bước dứt khoát vào gian phòng đánh mạnh một cú móc phải vào trên thắt lưng hắn. Paolo Roberto thành nhà vô địch quyền Anh không phải là nhờ đắn đo trên vũ đài. Trong sự nghiệp chuyên nghiệp của mình ông đã đấu ba mươi ba trận và thắng hai mươi tám. Khi ông đã đánh thật lực một ai thì ông cầm chắc đối thủ sẽ kềnh và đau đớn trông thấy. Nhưng lần này ông cảm thấy tay ông như vừa đánh phải một bức tường gạch. Trong cả cuộc đời quyền Anh, ông chưa phải trải qua chuyện nào như thế này. Ông ngạc nhiên nhìn tên khổng lồ trước mặt.

Hắn quay lại, nhìn ông, cũng ngạc nhiên không kém.

- Mày bảo sao nếu chúng tao tìm cho mày một người cùng cân lạng với mày?

Ông dồn sức tung ra một tràng ba quả đấm phải - trái - phải vào người hắn. Những cú đánh nặng trịch. Kết quả chỉ là tên khồng lồ lùi lại nửa bước, sửng sốt chứ không phải là vì hiệu quả của các cú đấm. Rồi hắn mỉm cười.

- Mày là Paolo Roberto. - Hắn nói.

Paolo Roberto dừng lại, ngỡ ngàng. Ông vừa giáng cho bốn quả chắc chắn đưa tên khổng lồ đo ván trong khi ông đi đến góc vũ đài và trọng tài thì đếm đến mười. Nhưng xem vẻ các cú đánh của ông không mùi mè gì với hắn cả.

Chúa lòng lành. Thế này thì không bình thường đây.

Rồi như trong phim quay chậm ông thấy quả đấm móc phải của hắn bay đến. Hắn chậm và đấm có tính trước. Paolo Roberto kịp di chuyển nhưng cú đấm trúng vai ông. Ông ngỡ như bị một cây gậy sắt phang phải.

Paolo Roberto lùi lại hai bước, thấy kính trọng đối thủ nhiều hẳn lên.

Có cái gì không ổn ở thằng này. Không ai đấm mạnh như thế được.

Ông tự động giơ cánh tay chặn một quả móc trái và ngay lập tức thấy đau nhói. Nhưng ông không lường thấy quả móc phải như từ đâu đó vọt đến trúng vào trán ông.

Paolo Roberto loạng choạng lùi ra khỏi cửa. Ngã xuống một đống ván gỗ, ông lắc lắc đầu. Ông thấy máu chảy ở trên mặt. Nó đánh rách lông mày mình rồi. Phải khâu lại mất thôi. Nữa đi.

Ngay sau đó, tên khổng lồ hiện ra ở trước mặt và Paolo Roberto nhảy sang bên, theo bản năng. Ông tránh được chỉ trong gang tấc một quả đấm khác mạnh như cái chày của hai quả đấm đồ sộ kia. Ông lùi nhanh lại, nhảy lẹt xẹt ba bốn bước vào tư thế, tay giơ lên thủ thế. Ông xáo động.

Tên khổng lồ nhìn ông, hai con mắt tò mò và gần như thú vị. Rồi hắn cũng đứng thủ thế giống ông. Thằng này là võ sĩ quyền Anh. Hai bên từ từ xoay tròn quanh nhau.

Một trăm tám mươi giây tiếp theo trở thành trận đấu kỳ lạ nhất mà Paolo Roberto từng đánh. Không có huấn luyện viên, trọng tài. Không có chuông báo ngừng hiệp đấu và đưa các đấu sĩ vào góc võ đài. Không nghỉ để uống nước và ngửi muối, không khăn lau máu trên mắt ông.

Bây giờ Paolo Roberto biết ông đang chiến đấu cho sự sống của mình. Tất cả tập tành, tất cả những năm tháng đấm như búa vào bao cát, tất cả những trận đấu và tất cả các kinh nghiệm từ mọi cuộc tỉ thí đã cùng nhau biến thành năng lượng mà ông thình lình có thể triệu tập tới trong khi adrenalin lại được bơm đến theo một cách ông chưa từng nghiệm thấy trước đây.

Hai người lại đấu và Paolo Roberto đã đem hết sức mạnh cùng cuồng nộ của mình vào cuộc. Trái, phải, trái, lại trái và một tạt ngang của tay phải vào mặt, đỡ móc trái, lùi một bước, tấn công bằng tay phải. Từng quả đấm chắc nịch của ông rơi trúng đích.

Ông đang ở trong trận đấu lớn nhất đời ông. Ông đang đánh bằng đầu não cũng như bằng hai quả đấm. Ông cố xoay xở né lần rồi tránh từng cú đối phương quăng vào ông.

Ông đánh một móc phải rành rọt trúng hàm và ông cảm thấy xương bàn tay ông bị rạn và cú đó chắc sẽ làm cho đối phương đổ sụp xuống như một đống thịt. Ông liếc vào các khuỷu ngón tay thấy chúng rớm máu. Ông có thể trông thấy những vết tím bầm và sưng tấy mặt tên khổng lồ. Hắn hình như không cảm nhận thấy các cú đánh.

Paolo Roberto lùi lại, ra sức thở và đánh giá tình hình. Thằng này không phải là người đấu bốc. Nó di chuyển như một người đấu bốc nhưng nó đấm bốc như cứt ấy. Nó làm ra vẻ thôi. Nó không biết chặn đòn. Nó đấm từ xa. Và nó chậm như rùa.

Ngay sau đó tên khổng lồ cho một móc trái vào cạnh khung sườn của Paolo Roberto. Đây là lần thứ hai hắn phối hợp tốt. Khi một dẻ sườn gẫy, Paolo Roberto cảm thấy toàn thân đau dội lên. Ông lại lùi nhưng ông vấp phải một khung giàn giáo và ngã ngửa ra. Ông thấy tên khổng lồ lừng lững ở bên trên người mình nhưng ông quay người lăn sang bên rồi loạng choạng đứng lên.

Ông thủ thế, cố gom sức lực nhưng tên khổng lồ đã đến bên ông. Ông tránh, lại tránh và lại lùi lại, cảm thấy đau ghê gớm mỗi khi đỡ đòn bằng vai.

Rồi đến cái giây phút mà mỗi võ sĩ quyền Anh đều đã kinh sợ trải qua. Cái cảm giác có thể ập đến bất cứ lúc nào giữa chừng trận đấu. Cái cảm giác là mình đánh không nổi. Bạn nhận ra rằng bạn đang sắp thất bại.

Đó là cái nút gần như của mọi trận đánh, cái lúc sức lực chảy rò ra khỏi người bạn và adrenalin bơm đến quá căng đến nỗi nó biến thành một gánh nặng và đầu hàng hiện ra như một bóng ma ở góc vũ đài. Đây là lúc phân chia võ sĩ chuyên nghiệp với võ sĩ nghiệp dư, người thắng với kẻ thua. Ít võ sĩ quyền Anh từng sa vào cái vực sâu này lại có thể xoay chuyển được tình thế, đảo lại thất bại đã cầm chắc trở thành chiến thắng.

Hiểu được điều này, Paolo Roberto hoảng. Ông cảm thấy trong đầu có tiếng gầm gừ, nó làm cho ông choáng váng và ông trải qua giây phút này tựa hồ ông là người đứng xem ở bên ngoài, tựa hồ ông đang nhòm tên khổng lồ qua một lăng kính máy ảnh. Đây là lúc quyết định thắng bại một phen cho mãi mãi.

Ông lùi lại thành một đường vòng cung rộng để tập hợp sức và tranh thủ thời gian. Tên khổng lồ ngoan cố bám lấy ông nhưng thong thả, như kiểu hắn biết chính xác là kết quả đã được định đoạt nhưng hắn muốn kéo dài hiệp đấu ra. Thằng này đấu bốc nhưng không đấu đúng cách được. Nó biết mình là ai. Rành rành nó là dân nghiệp dư. Nhưng quả đấm của nó có sức mạnh tàn phá và hình như nó vô cảm với phản đòn của mình.

Những ý nghĩ này râm ran trong đầu Paolo Roberto trong khi ông cố cân nhắc tình hình bản thân và quyết định làm gì.

Thình lình ông sống lại cái đêm ở Mariehamn hai năm trước. Sự nghiệp võ sĩ quyền Anh của ông đã kết thúc với một cung cách bạo tàn nhất khi ông gặp người Argentina Sebastian Lujan hay đúng hơn khi Sebastian Lujan gặp ông. Lần đầu tiên trong đời ông bị đánh đo ván và bất tỉnh trong mười lăm giây.

Ông thường hay nghĩ về cái điều gì không đúng đã xảy ra. Sức lực ông hoàn hảo. Ông có mục tiêu. Lujan không giỏi hơn ông. Nhưng Lujan đã giáng trúng một quả chắc nịch và hiệp đấu trở thành một biển khơi cuồng nộ.

Sau đó xem video ông thấy ông đã loạng quạng quanh khắp vũ đài như thế nào, không thể kháng cự y hệt chú vịt Donald. Ông bị hạ đo ván sau đó hai mươi ba giây.

Sebastian Lujan không giỏi hơn, cũng không tập tành nhiều hơn ông. Lề sai lầm là quá nhỏ, trận đấu có thể đã đi theo hướng khác.

Chỗ khác duy nhất ông tìm ra sau đó là Lujan thèm khát hơn ông. Khi lên đài ở Mariehamn, Paolo Roberto đã định hướng cho mình là thắng nhưng lại đã không định cho mình chết vì nghiệp đấu bốc. Đấu bốc không còn có nghĩa sinh tử nữa. Thất bại không phải là thảm họa.

Một năm rưỡi sau ông vẫn là võ sĩ quyền Anh. Nhưng ông không còn là nhà chuyên nghiệp, và ông chỉ chơi các trận đấu giao hữu. Nhưng ông vẫn tiếp tục tập tành. Ông không lên cân hay mềm gan nản chí. Ông cũng không điều chỉnh công cụ tốt như trước kia cho một trận đấu danh nghĩa, trận đấu mà ông phải rèn luyện cơ thể trong hàng tháng trời vì nó, nhưng ông là Paolo Roberto chứ không phải là một ai đó. Không giống như ở Mariehamn, trận đấu trong nhà kho ở nam Nykvarn này có nghĩa là sống hay chết.

Ông đã quyết định. Ông dừng phắt lại, để cho tên khổng lồ đến gần. Ông giơ tay trái đỡ quả đấm trái của hắn rồi dồn hết sức lực của mình vào quả móc phải. Ông giáng cho một cú dính trúng vào giữa mũi và miệng tên khổng lồ. Cú tấn công của ông hoàn loàn bất ngờ vì trong mấy giây phút qua ông đều lùi. Ông nghe thấy một cái gì như hẫng hụt. Ông bồi tiếp một loạt đấm trái - phải - trái và cả ba đều rơi vào đúng mặt tên khổng lồ.

Hắn đang đấu với động tác chậm. Hắn đánh trả bằng quả tay phải. Nhìn trước thấy đòn đánh đến, Paolo Roberto cúi tránh quả đấm trời giáng. Ông thấy hắn chuyển trọng lượng cơ thể và biết hắn đang sắp cho ra tiếp quả tay trái. Thay vì chặn đòn, Paolo Roberlo ngả lại đằng sau, để cho quả móc trái đi sạt qua ngang mũi ông. Ông đáp lại bằng một quả đấm rất mạnh vào người hắn, ngay bên dưới khung xương sườn. Khi tên khổng lồ quay lại để tiếp nhận cuộc công kích, quả móc trái của Paolo Roberto bay đến lại quăng trúng vào ngang sống mũi hắn một lần nữa.

Ông thình lình cảm thấy mọi cái ông đang làm đều tuyệt đối chính xác và ông đang kiểm soát trận đấu. Tên khổng lồ lại lùi. Mũi hắn chảy máu. Nay hắn thôi cười.

Thế rồi tên khổng lồ đá ông.

Chân hắn vung ra và Paolo Roberto bất ngờ bị trúng đòn. Ông không nghĩ đối thủ lại đá. Cú đánh như một chiếc búa tạ đánh trúng đùi ông, ngay trên đầu gối và cả đùi ông đau buốt. Không. Ông lùi lại một bước và chân phải ông khuỵu xuống. Ông ngã ngửa ra.

Tên khổng lồ nhìn xuống ông. Trong một tích tắc, mắt hai người gặp nhau. Thông điệp là không thể lầm: Trận đấu đã kết thúc.

Rồi mắt tên khổng lồ trợn thô lố ra khi Miriam Wu từ đằng sau cho một cú đá vào hạ bộ hắn.

Khắp người Miriam Wu đau, nhưng không hiểu sao cô đã xoay xở cho hai tay bị còng trượt xuống được ở bên dưới người cô rồi đau bằng chết qua hai chân mà quay trở lại đằng trước mặt cô.

Sườn, cổ, lưng và thận đều đau nên cô đứng lên khó khăn. Cuối cùng cô lẩy bẩy vịn vào cửa, hai mắt trợn to nhìn tới trong khi Paolo Roberto - tay này ở đâu ra thế nhỉ? - đánh tên khổng lồ bằng quả móc phải rồi một loạt cú đấm phối hợp vào mặt hắn trước khi ông bị nó đá ngã. Miriam Wu thấy mình có thể bớt bận tâm về chuyện Paolo Roberto đã hiện ra như thế nào và tại sao.

Ông là phe tốt. Nhưng lần đầu tiên trong đời cô có một khát vọng hung ác là được tàn hại một người khác. Cô đi nhanh lên vài bước, huy động từng tí năng lượng một cũng như tất cả các cơ bắp còn nguyên vẹn. Cô đến sau lưng tên khổng lồ và đá vào bộ hạ hắn. Cú quyền Thái này có thể là thiếu trang nhã nhưng đã đạt hiệu quả mong đợi.

Miriam Wu gật đầu với chính mình. Đàn ông họ có thể vững chãi như một ngôi nhà và họ có thể được làm bằng hoa cương nhưng bọn họ hết thảy đều có hột giái nằm ở cùng một chỗ giống nhau. Lần đầu tiên tên khổng lồ có vẻ nao núng.

Hắn buột rên lên một tiếng, ôm chặt lấy hạ bộ rồi quỵ một gối xuống.

Wu đứng phân vân rồi thấy phải làm một cái gì đó để cố chấm dứt chuyện này. Cô sắp đi đến đá vào mặt tên khổng lồ thì ngạc nhiên thấy hắn giơ một tay lên. Lẽ nào hắn phục hồi nhanh đến thế được. Cô cứ ngỡ như mình đã đá vào một cái thân cây. Hắn túm lấy chân cô, níu cô xuống và bắt đầu kéo giật cô về phía hắn. Thấy hắn giơ một quả đấm lên, cô tuyệt vọng xoay người, phóng chân còn tự do ra đá. Cô đá trúng mang tai hắn thì quả đấm của hắn cùng lúc nện vào thái dương cô. Cô thấy trước mắt mình ánh chớp và bóng đêm thay nhau diễn ra.

Tên khổng lồ bắt đầu loạng choạng đứng lên.

Vừa lúc ấy Paolo Roberto phang một tấm ván vào sau ót hắn. Hắn nhào về đằng trước rồi đổ kềnh đánh rầm một cái xuống đất.

Paolo Roberto nhìn quanh như trong một giấc mơ. Tên khổng lồ đang quằn quại trên sàn. Có vẻ đã kiệt sức lực, cô gái nhìn với con mắt không hồn. Cố gắng chung của hai người đã cho hai người có được giây lát ngắn ngủi xả hơi.

Paolo Roberto khó đứng vững nổi với một chân bị thương, ông sợ một cơ bắp ở ngay trên đầu gối đã bị rách. Ông tập tễnh đến chỗ Miriam Wu kéo cô dậy. Cô bắt đầu lại đi đứng được nhưng mắt cô hình như ngẩn ngơ. Chẳng nói chẳng rằng ông hất cô lên vai rồi chập chững đi ra cửa. Đầu gối phải của ông đau dữ dội.

Đi ra ngoài vào được bóng tối và không khí mát mẻ thật là sảng khoái. Nhưng ông không có thì giờ nghỉ ngơi.

Ông đi qua sân vào trong rèm cây. Vẫn là con đường ông tới lúc nãy. Chưa kịp vào trong rặng cây ông đã vấp phải một rễ cây và ngã chỏng gọng ra đất. Miriam Wu rên lên và ông nghe thấy cửa nhà kho mở đánh sầm.

Tên khổng lồ đang là một khối hình sừng sững trong khung cửa hình chữ nhật sáng choang. Paolo Roberto đặt một tay lên miệng cô gái. Ông cúi xuống nói thầm vào tai cô bảo phải tuyệt đối im lặng và không động đậy.

Rồi ông mò mẫm trong đám rễ một gốc cây đổ, tìm được một hòn đá lớn hơn quả đấm của ông. Ông làm dấu thánh giá. Lần đầu tiên trong cuộc đời tội lỗi của mình, ông sẵn sàng giết một kẻ khác, nếu ông thấy cần thiết phải thế. Quá ư kiệt quệ, ông biết ông không thể kham nổi một hiệp đấu khác nữa. Nhưng không ai, dù cho bản chất kỳ dị cũng không thể tiếp tục chiến đấu với một hộp sọ bị đập vỡ. Ông nắm chặt hòn đá và cảm thấy nó hình bầu dục, có một cạnh sắc nhọn.

Tên khổng lồ ngật ngưỡng đi đến góc tòa nhà rồi lướt nhanh qua mảnh sân. Hắn đứng lại cách chỗ Paolo Roberto đang nín thở chừng mười bước. Hắn nghe và nhòm ngó xung quanh - nhưng họ biến vào đêm tối theo ngả nào thì hắn chỉ có thể đoán. Sau mấy phút, có như hắn thấy tìm kiếm là viển vông. Hắn dứt khoát trở lại vào trong nhà rồi mất dạng chừng một phút gì đó. Hắn tắt đèn rồi bước ra với một cái túi, đi bộ đến chiếc Volvo. Hắn lái xe xuôi xuống con đường dẫn vào tòa nhà. Paolo Roberto lắng nghe cho đến khi không còn nghe thấy tiếng động cơ nữa. Khi nhìn xuống ông thấy hai con mắt lấp lánh trong tối.

- Chào, Miriam, tôi là Paolo Roberto. Cô không việc gì mà phải sợ tôi.

- Tôi biết.

Tiếng cô yếu ớt. Hết hơi hết sức, ông sụp xuống tựa vào cái cây đổ, cảm thấy adrenalin trong người mình tụt xuống số không.

- Tôi không biết sẽ đứng lên như thế nào đây, - ông nói, - nhưng xe tôi đang ở bên kia đường cái.

Xao động và bàng hoàng, tên khổng lồ có một cảm giác lạ lùng trong đầu. Hắn phanh xe rồi rẽ vào một chỗ đỗ xe ở phía đông Nykvarn.

Lần đầu tiên trong đời hắn bị đánh trong một trận đấu. Và người cho hắn xơi trừng phạt là Paolo Roberto... võ sĩ quyền Anh. Chuyện này như một giấc mơ ngớ ngẩn, kiểu mơ hắn vẫn có trong những đêm trằn trọc. Hắn không hiểu tay võ sĩ quyền Anh từ đâu mà ra. Thình lình gã ở ngay tại đây, đứng ở trong căn nhà kho này.

Không thể hiểu được.

Hắn thậm chí không cảm thấy cả những cú đấm. Chuyện này hắn không lạ. Nhưng cú đá vào bìu thì hắn đãcảm thấy. Rồi cú tấm ván quạng kinh hoàng vào đầu hắn làm cho hắn bất tỉnh. Cay đắng hắn cho tay sờ lần vào cổ, chạm phải một cái bướu thù lù. Hắn ấn ngón tay nhưng không thấy đau. Song hắn thấy choáng váng. Hắn bị mất một chiếc răng ở hàm trên bên phải. Miệng hắn đầy vị máu. Hắn lấy ngón tay cái và ngón trỏ nắm lấy mũi kéo nó treo lên trên theo kinh nghiệm. Hắn nghe thấy một tiếng nổ khẽ ở trong đầu và biết rằng mũi hắn đã bị giập.

Lấy túi và rời nhà kho đi trước khi cảnh sát tới là việc làm đúng đắn lúc này. Nhưng hắn đã phạm một khuyết điểm rất lớn. Hắn đã xem thấy trên kênh Discovery các nhà điều tra có thể tìm ra như thế nào một số lượng chứng cứ pháp y ở hiện trường gây án. Máu. Tóc. ADN.

Hắn không hề mảy may mong muốn quay lại căn nhà kho. Nhưng hắn không còn cách nào khác. Ngay ở trước Nykvarn hắn đã lái qua một chiếc xe đi ngược chiều lại nhưng hắn không nghĩ gì nhiều hơn về nó.

Chuyến về Stockholm là một ác mộng. Máu chảy ở mặt Paolo Roberto và khắp người ông ngấm đòn đau như giần. Ông lái đi như người say, xe lạng xiên xẹo suốt dọc đường. Ông dụi mắt bằng một tay rồi có ý sờ mũi. Nó đau thực sự nên ông chỉ thở được đằng miệng. Ông vẫn tìm kiếm chiếc Volvo trắng và nghĩ ông đã trông thấy một chiếc phóng ngược lại trên con đường khác ở gần Nykvarn.

Khi đi tới Ezo, ông lái đã có dễ hơn đôi chút. Ông nghĩ dừng lại ở Sodertalje nhưng không biết đi đâu. Ông liếc về cô gái, vẫn bị còng tay nằm ở ghế sau, không cài thắt lưng an toàn. Ông đã phải mang cô ra xe và vừa nằm lăn ra ghế là cô thiếp đi luôn. Ông không biết cô ngất đi vì các vết thương hay cô cho máy tắt ngấm chỉ vì kiệt quệ.

Ông ngập ngừng rồi rẽ lên đường E4 phóng tới Stockholm.

Blomkvist mới ngủ được một tiếng thì điện thoại réo. Anh ngó đồng hồ thấy vừa mới qua 4 giờ sáng. Anh ngái ngủ với lấy máy. Là Berger và thoạt tiên anh không hiểu chị nói gì.

- Paolo Roberto ở đâu?

- Ở bệnh viện Soder với cô Wu. Anh ấy cố liên hệ với anh nhưng anh không trả lời.

- Anh tắt máy. Làm cái quái gì mà ở bệnh viện?

Giọng Berger nghe kiên nhẫn nhưng dứt khoát.

- Mikael, đi taxi đến đó ngay mà tìm hiểu xem là chuyện gì. Nghe anh ấy thấy lơ ngơ đặc, nói đến những cưa điện với tòa nhà nào đó ở trong rừng và một con quái vật không biết đấm bốc.

Blomkvist chớp mắt cho tỉnh ngủ. Rồi anh lắc đầu và đi chuẩn bị tắm.

Paolo Roberto nằm nom thảm hại ở đó, trên giường bệnh viện trong chiếc quần đùi đấu bốc của ông. Blomkvist phải chờ một tiếng mới được phép gặp ông. Mũi ông bị giấu dưới lớp gạc băng bó. Mắt trái ông cũng bị băng kín và lông mày ông bị khâu năm mũi thì được dán băng phẫu thuật. Ngực ông quấn băng và khắp người ông là những vết rách cùng những chỗ bầm tím. Đầu gối trái ông bị nẹp chặt.

Blomkvist đưa ông tách cà phê lấy ở máy trong gian sảnh rồi xem xét mặt ông với vẻ phê phán.

- Trông anh như vừa bị đâm xe xong. - Anh nói. - Bảo tôi chuyện là thế nào đi.

Paolo Roberto lắc lắc đầu rồi nhìn vào mắt Blomkvist.

- Có một con quái vật con mẹ nhà nó chứ lại. - Ông nói.

Ông lại lắc đầu rồi xem xét hai quả đấm, các khớp ngón tay sưng vù lên khiến ông khó cầm tách cà phê. Bàn tay và cổ tay phải ông bị bó nẹp. Vốn đã thờ ơ với đấm bốc - nay vợ ông đang giận điên lên.

- Tôi là võ sĩ quyền Anh. Ông nói. - Ý tôi là nói khi tôi đang hoạt động thì tôi không có sợ lên đài với bất cứ ai hết. Tôi dính vài ba cú đấm nhưng tôi cũng biết phục dịch cho họ xơi ra sao chứ. Tôi đã đấm ai thì người ấy cứ theo đúng lời tôi bảo ngồi xuống mà đau thôi. Nhưng tay này nó lại không nghe lời.

Paolo Roberto lắc đầu lần thứ ba. Rồi ông kể lại cho Blomkvist nghe câu chuyện xảy ra hồi đêm.

- Tôi đánh trúng nó ít ra ba chục quả. Mười bốn mười lăm quả vào đầu. Bốn quả tôi nện vào hàm nó. Lúc đầu tôi có thế thủ một ít. Tôi chỉ là tự vệ thôi chứ không muốn giết cái cục cứt ấy. Nhưng cuối cùng thì có cái gì là tôi cho nó hết. Chắc tôi đã đấm một quả làm nó vỡ hàm. Nhưng quái vật chỉ khẽ lắc đầu rồi đấu tiếp. Không phải là người mà, tôi thề với Chúa như vậy.

- Nom hắn thế nào?

- Như chiếc xe tăng, tôi không ngoa. Cao hai mét và nặng chừng tạ ba tạ tư. Toàn cơ bắp và bọc thép hết. Một thằng khổng lồ con mẹ nhà nó chả biết đau là cái gì.

- Trước kia anh đã thấy nó chưa?

- Chưa bao giờ. Nó không phải là võ sĩ quyền Anh. Nhưng nó đánh lạ đấy. Nó chả hiểu bốc là cái gì. Tôi có thể né và đánh nó cho mất thủ thế nhưng nó chả biết di chuyển để tránh đòn một tí nào. Nó là dân ngoài nghề. Nhưng nó cũng cố di chuyển như một võ sĩ quyền Anh. Nó giơ tay lên cũng đúng cách và lúc đầu nó cũng che chắn được. Có thể nó cũng có tập nhưng thằng này là kiểu không nghe lời huấn luyện viên. Nó di chuyển quá chậm và chính cái đó đã cứu mạng tôi - và mạng cô gái. Nó định đấm ra ba quả trời giáng nhưng nó đã tê lê gầm báo cho mình biết trước từ cả tháng mất rồi, thế là mình tránh và chặn được. Nó đấm tôi hai quả khá đấy - một vào mặt, đấy anh trông thấy nó ra thế nào; và một vào người, làm gẫy một xương sườn. Nhưng cả hai đều chưa thật hết lực. Nếu nó đánh tôi đúng cách thì khéo nó bứng đầu tôi bay đi mất rồi.

Paolo Roberto cười, một kiểu cười lục cục lục cục.

- Có cái gì mà vui?

- Tôi đã thắng. Thằng đểu ấy định giết tôi và tôi đã thắng. Tôi thật sự cho nó đo ván. Nhưng tôi đã phải dùng đến tấm ván để cho nó kềnh ra mà đếm mười.

Ông trở lại nghiêm túc.

- Nếu Miriam không đá vào giái nó đúng cái lúc mà người Pháp gọi là le moment juste, rất đúng lúc, thì tôi chẳng muốn nghĩ đến trận đấu kết thúc con mẹ nó ra sao đâu.

- Paolo, tôi thật sự thật sự mừng là anh thắng. Miriam Wu thức dậy cũng nói như tôi thôi. Anh có nghe thấy cô ấy bị sao không?

- Tôi trông thế nào thì cô ấy trông cũng thế. Cô ấy bị chấn động, gẫy mất vài xương sườn, mũi giập và vùng thận bị đau.

Blomkvist cúi xuống để một tay lên bên đầu gối lành của Paolo Roberto.

- Nếu như anh cần tôi làm điều gì... - Blomkvist nói.

Paolo Roberto mỉm cười.

- Blomkvist, nếu cậu lại cần được chiếu cố nữa...

- Hứ?

- ... thì cứ bảo Sebastian Lujan chiếu cố cho cậu.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,154
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 26


Thứ Tư, 6 tháng Tư

Thanh tra Bublanski đang phiền muộn thì ông gặp Modig ở bãi đỗ xe bên ngoài bệnh viện ngay trước 7 giờ. Blomkvist đã gọi ông dậy rồi đến lượt ông gọi Modig dậy. Hai người gặp Blomkvist ở cổng bệnh viện rồi vào buồng Paolo Roberto.

Các chi tiết kỳ quái Bublanski có thể khó nắm nổi nhưng Miriam Wu bị bắt cóc và Paolo Roberto đánh tên bắt cóc thì rút cục điều này đã rõ sờ sờ ra. Trừ việc chưa thể thấy rõ được ai đánh ai nếu xét thương tích của Paolo Roberto. Như Bublanski thấy thì các sự việc đêm qua đã nâng cuộc điều tra về Lisbeth Salander lên một mức phức tạp mới. Trong vụ án quái quỷ này xem ra không có cái gì là bình thường cả. Làm sao Paolo Roberto lại dính vào vụ này?

- Tôi là bạn tốt của Lisbeth Salander mà. - Ông ta nói với họ.

Bublanski và Modig nhìn nhau, vừa ngạc nhiên vừa ngờ vực.

- Cô ấy đã tập đấm bốc với tôi ở nhà thi đấu.

Bublanski nhìn đăm đăm vào một điểm đâu đó ở đằng sau Paolo Roberto. Modig không kìm được bật phá lên cười. Một lúc sau, họ đã ghi lại hết các chi tiết ông ta kể cho họ.

- Tôi muốn nêu ra vài điểm. - Blomkvist đanh giọng nói.

Họ quay lại anh.

- Trước hết, như Paolo tả thì cái người ở nhà kho chạy đi trong chiếc xe van kia đúng là cái người đã từng tấn công Salander trên đường Lundagatan. Một thằng cao lớn, tóc nâu nhạt để kiểu đuôi ngựa và bụng bự vì bia. OK chứ?

Bublanski gật.

- Thứ hai, mục đích bắt cóc Miriam Wu là để buộc cô ấy nói ra chỗ Lisbeth Salander ẩn núp. Vậy thì trước các vụ án mạng ít nhất một tuần hai tên đầu gấu này đã tìm kiếm Salander. Đồng ý không?

Modig nói khẽ:

- Có.

- Thứ ba, thế thì xem ra Salander có bớt phần là con điên đơn độc như đã bị miêu tả đi. Rồi xét theo bề ngoài thì không có đứa rồ nào trong đám này lại đã là thành viên của cái băng nhóm đồng tính ái nữ thờ quỷ Satan.

Cả Bublanski lẫn Modig đều không nói năng.

- Và cuối cùng, thứ tư. Tôi nghĩ câu chuyện này có dính dáng đến một người đàn ông tên là Zala. Dag Svensson đã làm nhiều việc về tay này trong hai tuần cuối cùng của anh ấy. Tất cả các thông tin có liên quan đều nằm trong máy tính của anh ấy. Dag gắn hắn với vụ giết một gái điếm tên là Irina Petrova ở Soldertalje. Biên bản đã ghi rằng cô ấy bị đánh đập dữ dội. Dữ đến độ một trong ba cú đánh tệ hại nhất cũng đủ khiến cho cô ta chết. Các thương tích của cô ấy giống như các thương tích mà Miriam Wu và Paolo Roberto từng đã chịu đựng. Trong cả hai trường hợp, dụng cụ bạo lực khác thường này đều chỉ là hai bàn tay của một tên ác ôn khổng lồ.

- Còn Bjurman? - Bublanski nói. - Chúng ta cứ giả định là có một ai đó có lý do bắt Svensson im lặng. Nhưng giết người giám hộ của Salander thì ai có động cơ?

- Tất cả các mảnh của bài đố ghép hình vẫn chưa khớp vào nhau nhưng có một quan hệ giữa Bjurman và Zala. Đấy là lời giải duy nhất có thể tin được. Các vị có thể tán thành bắt đầu nghĩ theo những tuyến thông tin mới được không? Tôi nghĩ các án mạng này là có liên quan đến buôn bán tính dục. Và Salander thì thà chết chứ không dính vào một chuyện như thế. Tôi đã nói cái cô chết tiệt ấy thế nào lại là một người sống có luân lý rồi đấy.

- Vậy thì vai trò của cô ấy là gì? Cô ấy làm gì ở nhà Svensson và Johansson?

- Tôi không biết. Chứng nhân? Chống lại? Có thể cô ấy đến đấy để cảnh báo Dag và Mia là tính mạng của họ đang bị đe dọa.

Bublanski cho bộ máy hoạt động. Ông gọi cảnh sát Sodertalje và cho họ các chỉ dẫn của Paolo Roberto để đến căn nhà kho ở tây nam hồ Yngern. Rồi ông gọi Holmberg - ông này sống ở Flemingsberg và là người trong nhóm điều tra ở gần Sodertalje nhất - bảo ông liên hệ càng sớm càng tốt với cảnh sát Sodertalje để tham gia cuộc điều tra hiện trường gây án.

Một giờ sau Holmberg gọi lại. Ông đã đến hiện trường gây án. Cảnh sát Sodertalje tìm thấy nhà kho kia không chút khó khăn. Nó đã cháy trụi cùng với hai cái lán chứa hàng và hiện sở chống cháy đang thu dọn ở đó. Có hai can xăng vất ở trong sân.

Bublanski cảm thấy nỗi thất vọng của mình đang như sắp hóa thành điên giận.

Đang xảy ra chuyện chết giấp nào đây? Bọn ác ôn kia là những đứa nào? Salander thật ra là người thế nào? Mà tại sao không thể tìm ra cô ta? Tình hình không sáng sủa ra tí nào khi Ekstrom tham gia cuộc đụng độ, trong cuộc họp 9 giờ sáng. Bublanski báo với ông những tiến triển quan trọng của buổi sáng và đề nghị cần đặt lại trật tự ưu tiên cho cuộc tìm kiếm trong ánh sáng của những sự kiện bí mật vừa xảy ra, chúng đã phủ màn nghi hoặc lên kịch bản mà cho đến nay nhóm điều tra vẫn dựa vào đó để hoạt động.

Chuyện của Paolo Roberto đã củng cố cho chuyện của Blomkvist về vụ tấn công Salander ở Lundagatan. Xem ra giả thiết cho rằng một phụ nữ mắc bệnh tâm thần đã gây nên ba vụ án mạng là không còn có giá trị nữa. Không thể gạt đi hết được những điều nghi ngờ Salander - chúng còn bị vướng các dấu tay của cô trên vũ khí giết người - nhưng cũng lại có nghĩa là cần phải tiến hành cuộc điều tra theo khả năng có một tên giết người khác nữa. Hiện nay chỉ có một lý lẽ - Blomkvist tin rằng các vụ án mạng đều phải có liên quan đến điều tra của Svensson về buôn bán tính đục.

Bublanski nhận ra ba điểm quan trọng. Nhiệm vụ đầu tiên là tìm và nhận diện người đàn ông to lớn và người cộng tác với hắn, tên có tóc để kiểu đuôi ngựa, từng bắt cóc và hành hung Miriam Wu. Chắc sẽ tương đối dễ dàng tìm ra tên khổng lồ.

Andersson nhắc họ nhớ rằng Salander cũng có một bề ngoài khác thường thế mà đã ba tuần tìm kiếm rồi cảnh sát vẫn không biết cô ta ở đâu.

Nhiệm vụ thứ hai bây giờ là thêm vào cho nhóm điều tra một tốp hành động tập trung tìm tòi vào danh sách các khách chơi gái điếm ở trong máy tính của Svensson. Cộng vào việc này có một vấn đề về hậu cần. Nhóm điều tra hiện đang có máy tính của Millennium cho Svensson dùng và các đĩa nén giữ các bản lưu của chiếc máy tính xách tay đã bị mất của Svensson, các cái này chứa đựng tất cả công sức điều tra mà Svensson thu nhặt trong vài năm cùng hàng nghìn trang tư liệu, xếp loại và nghiên cứu chúng cần mất thì giờ. Nhóm điều tra cần được tăng cường và Bublanski chỉ định Modig cầm đầu đơn vị này.

Nhiệm vụ thứ ba là tập trung chú ý vào một người thấp thoáng hiện ra với tên gọi Zala. Nhóm điều tra sẽ tranh thủ sự giúp đỡ của Cục Điều tra Hình sự Quốc gia, vì họ chắc đã gặp cái tên này. Ông trao nhiệm vụ này cho Faste.

Cuối cùng Andersson sẽ điều phối cuộc tìm kiếm tiếp Salander.

Báo cáo của Bublanski mất sáu phút nhưng thảo luận thì mất hẳn một giờ. Faste hung hăng chống lại các đề nghị của Bublanski và không định rút lui ý mình. Ông cho hay ý kiến của ông là cuộc điều tra, bất kể thông tin mới - mà ông ta gọi là bên rìa - vẫn cần phải được tập trung vào Salander. Chuỗi chứng cứ mạnh đến nỗi nếu đem chia cố gắng ra làm nhiều kênh khác nhau sẽ là khinh suất.

- Đang là cục cứt hết chuyện này. Con điên mà chúng ta tìm đây nó chủ về bạo lực và càng ngày nó lại càng tệ hại ra. Các vị có thật lòng tin rằng các báo cáo tâm thần và các kết quả pháp y là trò đùa không? Cô ả bị cột chết vào hiện trường gây án rồi. Chúng ta biết cô ả là một tay khều rút của có hẳn một khoản tiền lớn không minh bạch ở tài khoản của cô ả tại ngân hàng.

- Tôi biết hết các cái đó.

- Ả cũng là thành viên của một kiểu sùng bái tính dục đồng tính nữ. Và nếu như con ô môi Cilla Noren mà lại biết ít hơn những cái điều ả ta để lại thì tôi xin cứ là chết đầu nước.

Bublanski cao giọng lên:

- Faste, dừng lại thôi. Ông bị cái góc độ đồng tính ái này nó ám hoàn toàn mất rồi. Chỗ này vượt ra ngoài chuyên môn.

Một lần nữa ông tiếc đã nói điều này ra trước tập thể. Nói chuyện riêng với Faste sẽ có hiệu quả hơn. Cuối cùng Ekstrom cắt đứt những người đang lên tiếng mà tán thành kế hoạch của Bublanski.

Bublanski liếc nhìn Bohman và Hedstrom.

- Như tôi hiểu thì hai ông chỉ ở với chúng tôi ba ngày nữa thôi, vậy chúng ta hãy tạo ra chuyển biến tốt đẹp nhất cho tình hình. Bohman, ông có thể giúp Andersson tìm manh mối của Salander không? Còn Hedstrom, anh sẽ ở lại với Modig.

Ekstrom giơ tay khi họ sắp sửa giải tán.

- Một điều cuối cùng. Chúng ta giữ bí mật cái phần liên quan đến Paolo Roberto. Báo đài sẽ làm vung ti mẹt lên nếu thêm một tên tuổi nữa nhảy vọt vào trong ánh sáng của cuộc điều tra này. Vậy thì không một lời nào về chuyện ấy ở ngoài gian phòng này.

Sau cuộc họp Modig đưa Bublanski ra một chỗ.

- Tôi mất kiên nhẫn với Faste là đã thiếu sót về chuyên môn. - Bublanski nói.

- Tôi cũng đã bị như vậy. - Modig mỉm cười nói. - Thứ Hai tuần trước tôi đã mở máy tính của Svensson.

- Tôi biết. Cô làm được đến đâu rồi?

- Anh ấy có một tá bản thảo đã sửa khác nhau và một lượng lớn tư liệu điều tra mà tôi vẫn chưa biết cái gì là quan trọng và cái nào lơ đi thì vẫn cứ ổn. Chỉ riêng xếp loại chúng và cho chúng những cái tên có ý nghĩa rồi xem hết các tư liệu thôi cũng đã phải mất vài ngày rồi.

- Hedstrom thì sao?

Modig ngập ngừng. Rồi chị quay lại đóng cửa buồng Bublanski lại.

- Nói thật với anh... tôi không muốn nói xấu ông ấy nhưng Hedstrom chả giúp được mấy.

Bublanski cau mày.

- Nói hết ra đi.

- Tôi không biết. Anh ta không phải là người cảnh sát chân chính như Bohman. Anh ta nói nhiều cái lăng nhăng lắm. Về Miriam Wu thái độ anh ta cũng giống Faste. Và Hedstrom chả thích thú công việc này tí nào. Còn cái này thì tôi chưa có bằng chứng, là anh ta có một kiểu vấn đề gì đó với Salander.

- Như thế nào?

- Tôi cảm thấy hai người chạm vía nhau.

Bublanski thong thả gật đầu.

- Đáng xấu hổ. Bohman thì được đấy nhưng thật tình tôi không muốn có người ngoài dính líu vào việc điều tra.

- Vậy chúng ta sẽ làm thế nào đây?

- Chị cố chịu Hedstrom cho hết tuần này. Armansky nói nếu không có kết quả thì sẽ rút quân về. Hãy tiếp tục đào sâu và chấp nhận phải một mình làm lấy tất cả công việc.

Modig bị đình chỉ điều tra sau đó chỉ có bốn mươi lăm phút. Chị bị triệu đến văn phòng Ekstrom. Bublanski đang ở đấy. Cả hai người đều đỏ mặt tía tai. Tony Scala, nhà báo tự do, vừa tung ra một tin giật gân nói Paolo Roberto đã cứu con ô môi S&M Miriam Wu thoát khỏi một kẻ bắt cóc chưa biết danh tính. Bài báo có mấy chi tiết mà chỉ người ở trong cuộc điều tra mới biết được. Cách viết gợi ý ra rằng cảnh sát đang làm hồ sơ khởi tố Paolo Roberto đã hành hung.

Nhiều báo khác cũng gọi điện thoại đến Ekstrom muốn biết vai trò của người võ sĩ. Ekstrom tím mặt lại. Ông lên án Modig đã xì thông tin. Modig phản đối kịch liệt việc lên án nhưng không ăn thua. Ekstrom muốn chị thôi điều tra.

- Sonja đã nói chị ấy không có xì ra tin nào hết. - Bublanski nói. - Chuyện này đủ là hay cho tôi rồi. Điều đi một thám tử có kinh nghiệm đã quen thuộc với từng chi tiết của vụ này là mất trí.

Ekstrom không chịu đổi ý.

- Modig, tôi không thể chứng minh chị đã để lộ tin nhưng tôi không tin chị trong cuộc điều tra này. Chị bị rút ra khỏi nhóm, có hiệu lực ngay lập tức. Chị nghỉ cho hết tuần này. Thứ Hai chị sẽ được phân công nhiệm vụ mới.

Modig gật đầu và đi ra cửa. Bublanski giữ chị lại.

- Sonja. Về biên bản: tôi không tin một lời nào ở trong đó và tôi tín nhiệm cô hoàn toàn. Nhưng tôi không phải là người quyết định. Trước khi về nhà, xin gặp tôi ở văn phòng tôi.

Mặt Bublanski mang một màu sắc đáng sợ. Ekstrom nom giận điên.

Modig về bàn giấy mình, chỗ chị và Hedstrom đang làm việc với máy tính của Svensson. Chị tức suýt khóc. Hedstrom có thể nói là có một điều gì đó không hay nhưng gã không nói và chị lờ gã. Chị ngồi ở bàn làm việc nhìn vào khoảng không. Gian phòng có một bầu im lặng nặng nề.

Một lát sau Hedstrom xin lỗi nói đi lấy cà phê. Gã hỏi chị có cần một tách không. Chị lắc đầu.

Khi Hedstrom đi rồi, Modig đứng lên mặc jacket vào. Chị lấy túi khoác vai rồi đến buồng giấy Bublanski. Ông chỉ vào ghế khách.

- Sonja, trừ phi Ekstrom cũng điều tôi đi khỏi nhóm điều tra nốt thôi chứ tôi không có định chịu thua trong chuyện này đâu. Tôi sẽ không chấp nhận và tôi đang nghĩ làm một đơn nói rõ. Cô cứ ở lại trong nhóm cho tới khi thấy có cái gì mới với tôi. Do tôi chỉ đạo. Hiểu chứ?

Chị gật.

- Cô không nghỉ cho hết tuần như Ekstrom nói. Tôi muốn cô đến tòa soạn Millennium nói chuyện thêm nữa với Blomkvist. Nhờ anh ấy hướng dẫn giúp cô xem hết ổ cứng của Dag Svensson. Họ có một bản sao ở đấy. Nếu có ai quen với các tài liệu mà nhặt giùm ra hộ những cái có vẻ là quan trọng thì chúng ta sẽ tiết kiệm được nhiều thì giờ.

Modig dễ thở hơn.

- Tôi không nói gì cả với Hedstrom.

- Tôi sẽ lo phía anh ta. Hedstrom có thể giúp đỡ Andersson. Cô có thấy Faste không?

- Không. Họp xong là đi ngay.

Bublanski thở dài.

Blomkvist ở bệnh viện về đến nhà lúc 8 giờ sáng. Anh đã ngủ được đôi chút và anh cần minh mẫn khỏe khoắn để chiều đi gặp Bjorck ở Smadalaro. Anh cởi quần áo, để báo thức 10 giờ rồi ngủ say được thêm hai giờ. Anh cạo râu, tắm, mặc một sơ mi sạch sẽ. Modig gọi vào di động của anh khi anh lái xe qua Gullmarsplan. Blomkvist nói anh không thể gặp chị. Chị nói với anh những cái chị cần và anh bảo chị tìm Berger.

Đến tòa soạn Millennium, Modig thấy mình mến người phụ nữ có lúm đồng tiền, món tóc vàng cắt ngắn, tự tin và hơi bề trên. Chị lơ mơ nghĩ liệu Berger có phải cũng là một ô môi không, vì theo lời Faste thì tất cả đám phụ nữ ở trong cuộc điều tra này hình như đều thiên về hướng đó. Rồi chị nhớ ra đã đọc ở đâu đó rằng chồng của Berger là nghệ sĩ Greger Beckman.

- Có một vấn đề ở chỗ chúng tôi. - Berger nói sau khi nghe yêu cầu của Modig.

- Là gì ạ?

- Không phải vì chúng tôi không muốn giải quyết các vụ án mạng hay giúp cảnh sát. Vả lại các anh chị đã có tất cả dữ liệu ở trong chiếc máy tính mà các anh chị lấy ở đây đi. Chuyện khó xử là vấn đề về đạo đức. Cảnh sát và báo chí đã không hiệp đồng được tốt lắm với nhau.

- Hãy tin tôi, tôi phát hiện ra điều này sáng nay. - Modig mỉm cười nói.

- Sao thế?

- Không có gì cả, chỉ là ý nghĩ cá nhân.

- OK. Để duy trì độ tín nhiệm của mình, báo chí phải giữ một khoảng cách hẳn hoi với các nhà chức trách. Các nhà báo đến làm việc ở đồn cảnh sát và hợp tác với điều tra của cảnh sát cuối cùng đều hóa ra thành những anh chạy cờ để cảnh sát sai vặt.

- Tôi đã gặp một số chạy cờ như thế. - Modig nói. - Nhưng điều trái lại cũng là có thật. Cảnh sát cuối cùng hóa ra cũng bị một số báo chí sai vặt.

Berger cười thành tiếng:

- Cái ấy có đấy. Tôi sợ phải nói ra là ở Millennium đây, chúng tôi đơn giản không cho phép liên kết với cái kiểu làm báo đánh thuê ấy. Thế này không có ý là bảo chị không được hỏi bất cứ nhân viên nào ở Millennium - chúng tôi sẵn sàng để chị hỏi - mà chỉ là nói đến việc cảnh sát yêu cầu chính thức chúng tôi tham dự tích cực vào điều tra của cảnh sát bằng cách đưa tư liệu báo chí của chúng tôi cho cảnh sát sử dụng.

Modig gật đầu.

- Ở chỗ này có hai quan điểm. - Berger nói. - Thứ nhất, một trong các nhà báo của chúng tôi đã bị giết. Cho nên chúng tôi sẽ giúp đỡ hết khả năng. Nhưng quan điểm thứ hai là có những cái chúng tôi không thể và sẽ không cho cảnh sát. Đó là những cái liên quan đến nguồn thông tin.

- Tôi có thể mềm dẻo được. Tôi có thể hứa bảo vệ nguồn thông tin của tạp chí chị.

- Đây không là vấn đề về ý định của chị hay lòng tin của chúng tôi với chị. Đây là vì chúng tôi không bao giờ để lộ nguồn thông tin, bất kể trường hợp nào.

- Tôi hiểu.

- Vậy thì có một sự thật là ở Millennium chúng tôi đang tự điều tra lấy về các vụ án mạng, và nên coi việc này như là một phận sự báo chí. Trong vụ này, tôi đã chuẩn bị khi nào kết thúc một việc gì và sắp đem nó đăng lên thì chúng tôi sẽ trao thông tin cho cảnh sát - chứ không trao trước.

Berger cau mày khi ngừng lại để nghĩ:

- Tôi cũng cần phải sống được với bản thân. Chúng ta hãy làm thế này... Chị có thể làm việc với Malin Eriksson. Cô ấy quen thuộc các dữ liệu và thạo quyết định xem ranh giới nằm ở đâu. Cô ấy sẽ hướng dẫn chị đọc hết quyển sách của Dag - với mục đích dựng lên một danh sách của tất cả những người khả nghi.

Khi lên xe lửa chạy chặng ngắn từ ga Sodra đến Sodertalje, Irene Nesser không biết có tấn bi kịch xảy ra đêm trước. Cô mặc jacket da đen dài ngang thân, quần thẫm màu và áo thun dệt kim màu đỏ gọn ghẽ. Cô đeo kính nhưng đẩy lên trên trán.

Ở Sodertalje cô đi bộ đến xe buýt Strangnas, mua một vé đi Stallarholmen. Cô xuống xe ở phía nam dưới Stallarholmen một ít ngay sau 11 giờ sáng. Không thấy một tòa nhà nào ở trước mặt. Cô hình dung địa thế ở trong đầu. Hồ Malaren ở mạn đông bắc cách vài cây số. Đây là vùng của các nhà gỗ nhỏ nghỉ hè, rải rác có dân cư ngụ quanh năm. Nhà của Bjurman cách trạm xe bus chừng ba cây số. Cô uống một ngụm nước ở trong chai rồi bắt đầu đi bộ. Bốn mươi lăm phút sau cô đến nơi.

Cô bắt đầu đi một vòng quanh khu vực, xem xét các nhà lân cận. Ở bên phải khoảng một trăm rưỡi mét là nhà gỗ nhỏ kế theo. Không có ai trong nhà. Ở bên trái là một khe vực. Cô qua hai nhà nghỉ hè đến một nhóm nhà gỗ nhỏ. Cô thấy có dấu hiệu sinh hoạt ở đây: một cửa sổ mở và tiếng đài phát thanh. Chỗ đây cách căn nhà gỗ nhỏ của Bjurman ba trăm mét. Cô có thể làm việc không bị quấy rầy.

Cô đã lấy chìa khóa ở nhà ông ta. Vào được bên trong rồi, đầu tiên cô vặn ốc tháo cánh cửa chớp ở đằng sau nhà, đề phòng xảy ra chuyện không vui ở đằng trước nhà thì cô có một lối thoát. Điều không vui mà cô chuẩn bị đối phó là một nhân viên cảnh sát điều tra có thể đến lục lọi gì đó ở căn nhà gỗ nhỏ.

Nhà của Bjurman là một trrong những căn cũ kỹ hơn, một căn nhỏ với một phòng chính, một phòng ngủ và một bếp con con có nước máy. Buồng tắm là một gian nhà phụ bằng vữa ở trong vườn, đằng sau tòa nhà chính. Cô bỏ ra hai mươi phút xem hết các tủ li, tủ quần áo và chạn. Cô không tìm ra được đến cả một mẩu giấy nào có thể liên quan gì đó đến Lisbeth Salander hay Zala.

Rồi cô ra gian nhà phụ và lán củi tìm kiếm. Chả có gì đáng chú ý đến ở đây, giấy tờ cũng không. Rõ ràng chuyến đó là vô tích sự.

Cô ngồi ở cổng, uống ít nước và ăn một quả táo.

Khi vào đóng cửa chớp, cô lập tức dừng phắt lại ở trong lối vào gian sảnh. Cô vừa bắt chợt thấy một chiếc thang nhôm cao một mét. Cô lại vào phòng chính, quan sát cái trần bằng ván ghép. Nằm ở giữa hai cái xà đỡ mái, lối mở vào gian áp mái gần như không thể trông thấy. Cô lấy chiếc thang, mở nắp cửa đậy và lập tức trông thấy ngay hai hộp hồ sơ cỡ A4, mỗi hộp đựng vài hồ sơ cùng các tài liệu khác nhau.

Chuyện theo nhau diễn ra bí bét tất cả. Họa vô đơn chí. Lo phiền.

Sandstrom nắm thóp được anh em nhà Ranta. Chúng nói nghe ông ta có vẻ kinh khiếp và cho biết nhà báo Svensson đang dự định một tường thuật về các hoạt động chơi điếm của ông và về anh em Ranta. Đến nay thì không phải là chuyện gì lớn. Nếu báo chí phơi Sandstrom ra thì đó không phải là chuyện của gã, còn anh em nhà Ranta thì có thể lặn bao lâu cũng được, tùy theo nhu cầu. Chúng đã lên tàu Ngôi sao Baltic về Estonia nghỉ. Tất cả chuyện rắc rối này xem vẻ không thể dắt nhau ra tòa được nhưng nếu tình hình cứ tiếp tục xấu đi thì chúng cũng đã thôi dính líu từ trước rồi. Đây là một phần nội dung công việc đã từng được bàn đến.

Rắc rối hơn là Salander đã xoay xở tránh được Lundin. Chuyện này không thể tin được do chỗ con búp bê bằng giẻ rách thì đọ sao nổi với Lundin được. Hắn chỉ phải làm có mỗi việc là nhét con bé vào xe rồi đưa đến chỗ nhà kho ở nam Nykvarn thôi. Rồi Sandstrom lại tiếp một người khác nữa, lần này là Svensson theo lùng Zala. Mọi sự liền được soi bằng một ánh sáng hoàn toàn mới mẻ. Ở giữa nỗi hoảng loạn của Bjurman và việc Svensson không ngừng săn tin đã nổi lên một tình thế đầy nguy hiểm tiềm phục.

Một cha nghiệp dư là một thằng gangster không được chuẩn bị nhận lấy hậu quả. Rõ mười mươi Bjurman là một cha nghiệp dư. Gã đã khuyên Zala đừng có liên quan gì với Bjurman nhưng với Zala thì cái tên "Lisbeth Salander" lại như tấm vải đỏ phất trước mũi con bò đực vậy. Hắn thù ghét Salander. Thật thà mà nói, điều này là vô lý. Nó giống như bấm một cái nút.

Thuần túy là do may mà gã lại ở chỗ Bjurman cái đêm Svensson gọi. Vẫn cái tay nhà báo từng gây rắc rối cho Sandstrom và anh em Ranta. Gã đã đến chỗ Bjurman để làm cho hắn yên tâm hay để dọa hắn, tùy nhu cầu, sau chuyến bắt cóc Salander không thành. Svensson gọi đến đã gây nên nỗi kinh hoàng man dại ở Bjurman, một phản ứng của sự ngu xuẩn mất hết lý lẽ. Rồi thình lình hắn muốn tháo lui.

Phát triển đến cùng cực là Bjurman đã cầm khẩu súng cao bồi lên để dọa gã. Gã chỉ ngạc nhiên nhìn Bjurman rồi tước lấy khẩu súng. Gã đi găng tay nên chuyện dấu tay là không thành vấn đề được. Gã không còn lựa chọn. Bjurman rõ ràng đã tung con súc sắc lên xin âm dương sấp ngửa.

Dĩ nhiên Bjurman có biết chuyện Zala. Và đó chính là lý do khiến cho hắn thành một món nợ phải tính. Gã không hiểu vì sao gã lại bắt Bjurman cởi truồng, trừ việc gã ghét tay luật sư và muốn cho hắn thấy rõ điều ấy. Khi nhìn thấy vết xăm ở trên bụng Bjurman: TÔI LÀ CON LỢN BẠO DÂM, MỘT TÊN ĐỒI TRỤY, MỘT ĐỨA HIẾP DÂM, gã gần như đã quên mất chuyện đó.

Trong một lúc gã thấy buồn cho con người này. Hắn là một thằng ngu đặc như thế đấy. Nhưng gã đang vướng một việc mà tình cảm là không được phép xía vào những chuyện họ cần phải làm. Cho nên gã đưa hắn vào phòng ngủ, bắt hắn quỳ xuống rồi lấy một cái gối thay cho bộ phận giảm thanh.

Gã đã lục lọi nhà Bjurman trong năm phút để xem có một liên hệ nhỏ nhặt nhất nào với Zala không. Cái duy nhất gã tìm thấy là số điện thoại của chính mình. Để chắc ăn gã lấy di động của Bjurman đem đi.

Svensson là vấn đề tiếp theo. Lúc tìm thấy Bjurman chết, Svensson nhất định sẽ phải gọi cảnh sát và bảo cảnh sát anh đã gọi cho luật sư để hỏi về Zala. Lúc đó Zala sẽ trở thành đối tượng quan tâm của cảnh sát.

Gã tự coi mình là thông minh nhưng gã có một lòng kính trọng ghê gớm đối với các năng khiếu chiến lược gần như thần bí của Zala. Hai người đã làm việc cùng với nhau trong gần mười hai năm. Đó là một thập niên thành công và gã đã sùng bái ngước nhìn lên Zala. Gã có thể để hàng giờ nghe Zala giải thích về bản chất người, những yếu đuối của con người cũng như ta có thể lợi dụng những cái đó như thế nào.

Nhưng hoàn toàn bất ngờ, công chuyện làm ăn của hai người đã bị rắc rối.

Gã đã lái thẳng từ nhà Bjurman đến Enskede, đỗ chiếc Volvo cách đó hai phố. May mắn như được trời định sẵn, cửa chính tòa chung cư lại không khóa. Gã đi lên, bấm chuông cửa có biển tên đề "Svensson - Johansson".

Gã đã bắn hai phát - có cả một phụ nữ ở trong căn hộ nữa. Gã không lục tìm hay lấy giấy tờ gì đi. Gã lấy chiếc máy tính ở trên bàn phòng khách rồi quay gót, xuống cầu thang ra xe. Gã rất muốn ra ngay khỏi nơi này. Sai lầm duy nhất của gã là đã đánh rơi khẩu súng trên cầu thang trong khi gã vừa loay hoay giữ chắc chiếc máy tính vừa thò tay móc chìa khóa xe ra. Gã dừng lại một thoáng nhưng khẩu súng đã trượt qua các bậc thang rơi xuống gian hầm và gã quyết định nếu xuống lấy nó thì sẽ mất quá nhiều thời gian. Gã biết mình là loại người mà ai đã trông thấy thì khó lòng quên đi, cho nên điều quan trọng là ra khỏi đây trước khi có ai để mắt đến gã. Việc để rơi khẩu súng lúc đầu đã là một nguyên nhân để phê phán cho tới khi Zala nhận ra những hệ lụy của nó.

Họ đã ngạc nhiên thấy cảnh sát tìm kiếm Salander. Sai lầm của gã lại hóa ra thành một cú may mắn không thể nào tin nổi.

Nó cũng đặt ra một vấn đề mới. Salander trở thành mối liên hệ yếu ớt còn lại. Cô ta từng biết Bjurman và lại có biết Zala. Cô ta có thể luận ra. Gã và Zala đã bàn về chuyện này và đi đến chỗ đồng tình. Hai người phải tìm Salander rồi chôn nghiến cô ở một nơi nào đó. Không tìm ra thấy cô bao giờ nữa thì lý tưởng. Lúc đó cuộc điều tra án mạng rút cục sẽ thành ngâm cứu.

Họ đã nắm lấy một cơ hội là Miriam Wu có thể dẫn họ đến Salander. Nhưng mọi sự lại bị bí bét lần nữa. Paolo Roberto. Ở trong biển người. Chả biết từ đâu ra. Và theo báo chí thì hắn cũng là bạn của Salander.

Gã lặng điếng đi.

Sau Nykvarn gã đã đến nhà Lundin ở Svavelsjo, cách trụ sở Câu lạc bộ Xe máy Svavelsjo chỉ một trăm mét. Không phải chỗ ẩn náu lý tưởng nhưng gã không có nhiều lựa chọn và gã phải tìm một chỗ nào có thể lặn cho tới khi các chỗ bầm tím trên mặt gã nhạt đi và có thể lánh xa mọi người. Gã lấy ngón tay sờ sờ mũi và mó vào cái chỗ sưng vù ở gáy. Chỗ sưng đã bắt đầu xẹp. Rút lui về và đốt trụi tất cả cái chỗ kia đi là việc hay đấy.

Rồi thình lình gã lạnh toát.

Bjurman. Gã đã gặp Bjurman một lần ở nhà nghỉ mùa hè của hắn. Đầu tháng Hai - khi Zala nhận công việc chăm sóc Salander - Bjurman có một hồ sơ về Salander mà gã đã lật lật xem. Sao gã lại có thể quên được báo cáo ấy. Nó có thể dẫn đến Zala.

Gã xuống bếp bảo Lundin đến Stallarholmen một mình càng nhanh càng tốt rồi phóng lên cho một đám cháy ở đó nữa.

Bublanski qua bữa ăn trưa giải lao bằng cố sắp xếp trật tự cho cuộc điều tra mà ông biết là sắp thất bại. Ông tiêu thì giờ với Andersson và Bohman, hai ông này đã cho ông cập nhật việc săn lùng Salander. Từ Goteborg và Norrkoping đã có tin báo đến. Họ gạt ngay tin từ Goteborg nhưng điều trông thấy ở Norrkoping thì có khả năng. Họ thông báo cho các bạn đồng sự và một cuộc giám sát chặt chẽ đã được bố trí ở một địa chỉ mà người ta nhìn thấy một cô gái nom giống như Salander tại đó.

Ông cố tìm Faste nhưng ông ta không ở trong chung cư và không trả lời di động. Sau cuộc họp, Faste đã biến mất.

Rồi Bublanski đi gặp Ekstrom để cố tháo ngòi nổ cho vấn đề với Modig. Ông trình bày hết các lý do để cho thấy rằng đưa chị ra khỏi vụ này là liều lĩnh đến rồ dại.

Ekstrom không nghe, Bublanski tự cho mình chờ đến hết cuối tuần, khi ông nộp đơn than phiền. Đây là một tình huống ngu ngốc. Ngay sau 3 giờ chiều, ông đi ra hành lang và trông thấy Hedstrom từ buồng giấy Modig bước ra, ông vẫn cho rằng Hedstrom đang ở trong đó rà soát kỹ ổ cứng của Svensson. Nay thì Bublanski nghĩ việc làm này là vô nghĩa bởi không có thám tử chân chính nào lại ngoái nhìn qua vai mình để kiểm tra xem mình có thể đã để mất một cái gì đó không. Hedstrom sẽ phải ở với Andersson cho đến cuối tuần.

Ông chưa kịp định nói gì thì Hedstrom đã biến vào trong nhà vệ sinh ở cuối đằng kia hành lang. Bublanski đi đến buồng giấy Modig để chờ Hedstrom quay lại. Ở cửa ông có thể nhìn thấy cái ghế trống không của Modig.

Rồi mắt ông bất chợt thấy chiếc di động của Hedstrom bị bỏ quên ở trên ngăn giá đằng sau bàn làm việc.

Bublanski liếc về nhà vệ sinh vẫn đóng cửa. Rồi ông bước vào buồng giấy, hoàn toàn bột phát, nhét chiếc di động của Hedstrom vào túi, đoạn bước gấp về buồng giấy mình, đóng cửa lại. Ông bấm danh sách các cuộc gọi.

Cuộc họp kết thúc được năm phút, thì

Ông dập máy, nhìn trừng trừng vào di động của Hedstrom. Rồi ông đứng lên, mặt tối sầm như bị phủ một đám mây bão. Ông đi được hai bước ra cửa thì điện thoại bàn réo. Ông quay lại cầm máy lên, quát to tên mình vào trong máy.

- Jerker đây. Tôi đã quay lại cái nhà kho ở ngoài Nykvarn.

- Ông tìm thấy gì?

- Lửa đã rụi. Hai giờ vừa rồi chúng tôi túi bụi. Cảnh sát Sodertalje đem một con chó đánh hơi xác người đến để kiểm tra khu vực đề phòng có người ở trong đống đổ nát.

- Có không?

- Không có. Nhưng chúng tôi giải lao một lúc cho con chó được nghỉ cái mũi chốc lát. Người giữ chó nói cần phải làm thế vì ở những nơi bị cố ý gây cháy các mùi rất là hắc.

- Nói vào đề đi, Jerker. Tôi đang vội.

- Được, anh ta đi bộ và dắt con chó ra xa chỗ cháy. Con chó ra hiệu ở một chỗ sau nhà kho, khoảng bảy mươi lăm mét vào trong rừng. Chúng tôi bắt đầu đào. Mười phút sau chúng tôi tìm thấy một chân người đi giầy. Nom vẻ là giầy đàn ông. Chôn khá nông.

- Ô, mẹ kiếp. Jerker, ông phải đi...

- Tôi đã chỉ huy địa điểm ấy và cho ngừng đào. Tôi muốn có pháp y và các kỹ thuật thích đáng ở ngoài ấy để rồi chúng tôi còn tiến hành.

- Làm rất tốt.

- Nhưng đã hết đâu. Năm phút sau, con chó đánh đấu một điểm khác nữa, cách chỗ trước khoảng tám chục mét.

Salander pha cà phê trên bếp lò của Bjurman và ăn một quả táo nữa. Cô bỏ hai giờ ra đọc, từng trang một, hết các ghi chép của Bjurman về cô. Cô thật sự choáng. Lão đã bỏ khá nhiều cố gắng vào nhiệm vụ và đã hệ thống hóa lại thông tin. Lão đã tìm ra tư liệu về cô mà thậm chí cô cũng không biết là có cái đó.

Cô đọc nhật ký của Palmgren với tình cảm lẫn lộn. Nó đầy hai quyển sổ tay. Ông bắt đầu giữ nhật ký về cô từ khi cô mười lăm tuổi. Cô vừa bỏ chạy khỏi nhà bố mẹ đỡ đầu thứ hai, cặp vợ chồng già ở Sigtuna; ông là nhà xã hội học, bà là tác giả viết sách thiếu nhi. Salander ở với họ mười hai ngày và có thể nói họ tự hào ghê gớm vì đã có một đóng góp xã hội bằng việc nhận cô về và họ chờ đợi cô thường xuyên bày tỏ lòng biết ơn họ. Cuối cùng cô khá là chán khi bà mẹ đỡ đầu, huênh hoang với hàng xóm, bắt đầu giảng giải rằng việc một người trông nom đám trẻ có vấn đề lộ liễu là quan trọng như thế nào. Tôi không phải là một dự án xã hội của nhà bà đâu, cô muốn hét toáng lên. Ngày thứ mười hai cô ăn cắp một trăm curon trong khoản tiền quản gia rồi lên xe bus đi Upplands - Vasby và xe lửa chặng ngắn đến Ga trung tâm Stockholm. Sáu tuần sau cảnh sát tìm thấy cô trong nhà một ông già sáu mươi bảy tuổi ở Haninge.

Ông này cho cô ăn uống và một chỗ để sống. Cô chả phải làm nhiều nhặn gì để đáp lại. Ông muốn được xem cô khi cô tắm. Ông không bao giờ sờ vào cô. Cô biết ông ta có thể bị coi như người mắc tật ái nhi nhưng cô chả thấy một mảy may đe dọa nào ở phía ông. Cô nghĩ ông ta là một người bị hướng nội và bị khuyết tật về mặt xã hội. Cô thậm chí còn đi tới chỗ thấy có cảm giác cùng hội cùng thuyền khi nghĩ đến ông. Cả hai họ đều là người ở ngoài lề.

Cuối cùng một ai đó đã phát hiện ra cô và báo cảnh sát. Một bà làm công tác xã hội đã cố sức thuyết phục cô hãy báo cáo ông già kia đã tấn công tính dục. Cô ngang bướng không chịu nói những gì trái với sự thật và muốn gì thì cô mới mười lăm tuổi và hợp pháp. Rồi Palmgren can thiệp, ký bảo lãnh cho cô. Ông bắt đầu viết một nhật ký về cô, qua nhật ký này thấy ông đã thất vọng với ý định làm dịu và giải quyết các mối nghi hoặc của chính bản thân ông. Những dòng đầu tiên viết vào hồi tháng Mười hai năm 1993:

L. ngày càng tỏ ra là một người trẻ tuổi khó quản lý nhất mà tôi đã từng gặp. Vấn đề là tôi có làm đúng không khi tôi phản đối đưa cô bé về lại bệnh viện Thánh Stefan. Nay trong ba tháng cô bé vừa bỏ chạy khỏi hai gia đình đỡ đầu và rõ ràng đang có nguy cơ gặp phải một số tổn hại nào đó trên đường trôi dạt. Tôi đã sớm quyết định liệu tôi có nên từ bỏ phân công này mà yêu cầu đưa cô bé cho các nhà chuyên môn đích thực trông nom không. Tôi không biết thế nào là đúng, thế nào là sai nữa. Hôm nay tôi đã nói chuyện nghiêm túc với cô bé.

Salander nhớ từng lời buổi nói chuyện nghiêm túc ấy. Đó là ngày hôm trước đêm Noel. Palmgren đưa cô đến chỗ mình và để cô ở trong gian buồng dành sẵn cho khách. Ông làm bữa tối với mì spaghetti với nước xốt thịt rồi cho cô ngồi vào ghế sofa trong phòng khách còn mình thì ngồi đối diện trên một chiếc ghế thường.

Cô nhớ cô đã nghĩ thầm liệu ông có lại cũng muốn xem cô tắm truồng không đây. Nhưng ông đã nói chuyện với cô như với một người trưởng thành. Thật ra đó là một cuộc độc thoại dài hai giờ. Cô chả thốt ra một lời nào. Ông kể ra các sự thật là thực tế bây giờ cô cần phải quyết định giữa hai cái, trở lại bệnh viện Thánh Stefan hay sống với một gia đình đỡ đầu. Ông sẽ làm những cái có thể để tìm ra cho cô một gia đình cô chấp nhận được và ông nài cô làm theo lựa chọn của ông. Ông đã quyết định rằng cô sẽ qua lễ Giáng sinh với ông để cô có thì giờ suy nghĩ đến tương lai của mình. Chuyện ấy do cô quyết định lấy, ông muốn hôm sau ngày Giáng sinh cô sẽ trả lời rõ ràng và hứa nếu có vấn đề thì cô sẽ quay lại với ông chứ không bỏ chạy. Rồi ông cho cô đi ngủ và chắc có lẽ đã ngồi viết những dòng nhật ký đầu tiên của mình.

Holger Palmgren không thể ngờ nỗi sợ phải quay về bệnh viện ở cô gái còn lớn hơn ông tưởng nhiều. Cô qua kỳ nghỉ lễ với con mắt ngờ vực nhìn ngó mọi cử động của ông. Ngày hôm sau ông vẫn chưa có ý sờ soạng cô mà cũng không tỏ dấu hiệu là muốn nhòm trộm cô tắm. Trái lại, ông đã nổi cáu thực sự khi cô thử nhử ông bằng cách đi trần truồng từ buồng của cô sang phòng tắm. Ông đã đóng đánh cái sầm cửa buồng tắm lại. Sau đó cô đã hứa với ông những điều ông yêu cầu. Cô đã giữ lời. Ừ, ít nhiều đã giữ được.

Trong nhật ký, Palmgren bình luận có hệ thống về từng lần ông gặp cô. Đôi khi là ba dòng, đôi khi ông cho ý nghĩ của ông vào đầy cả vài trang. Thỉnh thoảng cô đã phát ngạc nhiên. Palmgren hiểu cô sâu hơn là cô tưởng và có những lần ông bình luận về các chuyện mà cô đã thử lừa ông, và ông đã nhìn thấu thấy ý cô.

Rồi cô mở bản báo cáo của cảnh sát năm 1991.

Các mảnh của bài đố ghép hình đã khớp lại vào nhau. Cô cảm thấy đất như bắt đầu tròng trành.

Cô đọc y bạ do bác sĩ Jesper H.Loderman viết trong đó hình tượng bác sĩ Teleborian nổi lù lù lên. Loderman đã là quân chủ bài của công tố viên khi ông, trong buổi nghe tòa phán xét, đã cố bắt cô vừa mười tám tuổi phải chịu chế độ giám sát của bệnh viện.

Rồi cô tìm thấy một phong bì đựng thư từ giữa Teleborian và một viên cảnh sát nào đó tên là Gunnar Bjorck. Các thư đều đề năm 1991, ngay sau vụ "Tất cả Xấu xa" xảy ra.

Không có gì nói thẳng ra trong thư nhưng thình lình dưới chân Salander mở ra một khung cửa sập. Cô phải mất vài phút mới nắm được các ý ngầm. Bjorck nhắc lại một câu chuyện nào đó mà chắc hai người đã có với nhau. Chữ nghĩa của hắn kín kẽ, không thể chê trách nhưng bức thư đã để toát ra cái ý là nếu Salander bị nhốt trong viện tâm thần suốt đời thì sẽ hay cho hắn.

Giữ cho đứa trẻ có một khoảng cách nào đó với xung quanh là quan trọng. Tôi không thể đánh giá tình trạng tâm lý của cô ta cũng như cô ta cần kiểu chăm sóc nào nhưng cô ta bị bệnh viện giám sát lâu bao nhiêu hay bấy nhiêu, càng ít rủi ro đi vì không thì cô ta sẽ vô ý tạo nên các vấn đề liên quan đến câu chuyện họ đang nắm ở trong tay.

Liên quan đến câu chuyện họ đang nắm ở trong tay. Salander vần đi vần lại câu này trong đầu một lúc.

Teleborian chịu trách nhiệm việc điều dưỡng cho cô ở bệnh viện Thánh Stefan. Đã không có sự cố gì. Giọng các thư từ dẫn cô tới chỗ hiểu ra là người ta không có ý cho các bức thư này được thấy ánh sáng bao giờ.

Teleborian đã có quen biết Bjorck.

Salander cắn môi suy nghĩ. Cô chưa bao giờ điều tra về Teleborian, nhưng hắn bắt đầu trong ngành pháp y và ngay cả Cảnh sát An ninh đôi khi cũng cần tham vấn một chuyên gia pháp y hay bác sĩ tâm thần cho các cuộc điều tra của nó. Nếu cô bắt đầu đào bới, chắc cô sẽ tìm ra được một mối liên hệ. Ở một lúc nào đó trong nghề nghiệp của họ, con đường của Teleborian và Bjorck đã giao nhau.

Khi cần một ai đó có thể chôn vùi Salander thì Bjorck quay đến Teleborian. Chuyện đã xảy ra như thế. Điều trước kia được xem như cơ may thì nay lại mang một chiều kích hoàn toàn mới.

Cô ngồi lặng một lúc lâu nhìn đăm đăm vào khoảng không. Chả ai vô tội. Chỉ có các mức độ trách nhiệm khác nhau mà thôi. Và một ai đó đã chịu trách nhiệm với Salander. Cô dứt khoát sẽ phải có một chuyến viếng thăm Smadalaro. Cô cho rằng ở trong cái xác tàu đắm là chế độ pháp lý của nhà nước này thì sẽ chẳng có ai thiết bàn bạc với cô về vấn đề kia hết, và khi thiếu một người như thế thì việc cần phải làm là hãy chuyện trò một phen với Gunnar Bjorck. Cô nhắm tới cuộc chuyện trò đó.

Cô không cần phải lấy hết các danh mục đi theo cô. Cô đã đọc chúng rồi thì chúng liền in ngay vào trong bộ nhớ nhạy như máy ảnh của cô. Cô lấy đi nhật ký của Palmgren, báo cáo cảnh sát của Bjorck từ 1991, y bạ từ 1996 khi cô bị tuyên bố là không thể tự cai quản bản thân và thư từ giữa Teleborian với Bjorck. Đủ nhét đầy vào ba lô của cô.

Cô đóng cửa nhưng sắp khóa thì nghe thấy tiếng xe máy ở đằng sau. Cô nhìn quanh. Quá muộn, không thể nấp được nữa và cô chả có chút cơ may nào là chạy bỏ được hai tên đi hai xe máy Harley - Davidson sất. Cô thận trọng bước ở trên cổng xuống và gặp chúng trên đường xe rẽ vào nhà.

Bublanski hầm hầm đi xuôi hành lang và thấy Hedstrom vẫn chưa trở lại buồng giấy của Modig. Nhưng nhà vệ sinh trống không. Ông xuôi tiếp hành lang và thấy Hedstrom đang cầm một tách nhựa ở máy pha cà phê, nói chuyện với Andersson và Bohman.

Quay lại cửa, không bị nhóm Hedstrom trông thấy, Bublanski lên một tầng tới buồng giấy Ekstrom. Không gõ, ông giật cửa rầm một cái, cắt ngang câu chuyện trên điện thoại của Ekstrom.

- Đi với tôi. - Ông nói.

- Tôi xin lỗi? - Ekstrom nói.

- Đặt máy xuống rồi đi với tôi.

Vẻ mặt Bublanski dữ đến nỗi Ekstrom làm theo lời ông. Vào tình huống này người ta dễ hiểu vì sao ông lại có biệt hiệu Sĩ quan Bong bóng. Mặt ông như một quả bóng phòng không đỏ chói. Hai người đi xuống chỗ họp ở buồng giấy Andersson. Bublanski bước đến Hedstrom, giơ tay túm chặt lấy tóc gã rồi quay mặt gã về Ekstrom.

- Kìa, ông làm gì đấy? Ông điên à?

- Bublanski! - Ekstrom quát lên, kinh ngạc.

Ekstrom nom căng thẳng. Miệng Bohman trề xuống.

- Cái này của anh phải không? - Bublanski hỏi, giơ chiếc di động Sony Ericsson ra.

- Buông tôi ra!

- LÀ DI ĐỘNG CỦA ANH PHẢI KHÔNG?

- Kìa, khỉ nhỉ. Buông tôi ra.

- Chưa đâu. Anh bị bắt.

- Tôi bị cái gì?

- Anh bị bắt vì lộ bí mật và vì can thiệp vào điều tra của cảnh sát. Không phải thế thì anh cho chúng tôi lời giải thích hợp lý vì sao anh lại gọi một nhà báo, theo như danh sách cuộc gọi ở di động của anh và người này trả lời anh bằng cái tên Tony Scala vào lúc 9 giờ 57 phút sáng nay, ngay sau cuộc họp và đúng trước khi Scala công bố ra cái tin mà chúng ta đã quyết định giữ bí mật.

Sau khi nhận chỉ thị đến Stallarholmen đốt nhà ở đó, Lundin đã kéo Nieminen cùng láng cháng đến nhà câu lạc bộ ở bên trong khu xưởng in bỏ hoang tại ngoại vi Svavelsjo. Từ mùa đông đến giờ đây là lần đầu tiên có thời tiết lý tưởng để lăn bánh ra khỏi đám lợn bẩn thỉu. Hắn đã nhận những chỉ thị chi tiết và hắn đã nghiên cứu một bản đồ. Hai đứa mặc đồ da vào rồi chả mấy chốc đã từ Svavelsjo đến được Stallarholmen.

Lundin không tin nổi vào mắt mình khi trông thấy Lisbeth Salander đứng trên đường rẽ vào nhà nghỉ hè của Bjurman. Hắn cầm chắc là cô, tuy cô nom khác. Tóc giả phải không? Cô cứ đứng đó, chờ chúng. Đây là một món bổng làm cho cái đầu của tên khổng lồ dào dạt lên được đây.

Chúng cho xe đi tới đỗ cách hai mét, kẹp lấy hai bên sườn cô. Khi chúng tắt máy, khu rừng liền lặng như tờ. Lundin hoàn toàn không biết nói gì. Cuối cùng hắn cố lên tiếng.

- Kìa, thế này là sao nhỉ? Bọn tao tìm mày mãi, Salander. Sonny, hãy gặp Quý cô Salander đi.

Hắn mỉm cười. Mắt Salander vô hồn nhìn Lundin. Cô để ý thấy vẫn có một lằn sẹo mới khỏi còn đỏ tươi ở má và quai hàm hắn, hai chỗ đã bị cô cào rách bằng chùm chìa khóa. Cô ngước mắt lên nhìn vào các ngọn cây ở đằng sau hắn. Rồi lại cúi nhìn xuống. Hai con mắt đen lạnh lùng của cô khiến cho người đối diện phải lúng túng.

- Tao vừa bị một tuần thảm hại và tao đang bực bõ đây. - Cô nói. - Mày biết điều tồi tệ nhất là gì rồi chứ? Là mỗi lần tao dớ phải một đống cứt lợn với cái bụng bia bự con mẹ nhà nó định ngáng đường tao. Nay tao muốn rời đi đây. Nào, tiến lên đi.

Miệng Lundin há hốc ra. Hắn nghĩ hắn nghe lầm. Rồi hắn bất giác phá lên cười. Tình huống nhố nhăng. Một con bé xương xẩu hắn nhét vừa vào túi ngực thế mà đứng ở đây nói láo nói lếu với hai người đàn ông to lớn mặc đai da bảo hộ bụng, cái điều cho thấy chúng là ở Câu lạc bộ Xe Máy Svavelsjo, tức là những dân chơi xe máy nguy hiểm nhất, sắp sửa lên làm thành viên chính thức của Các Thiên thần Địa ngục. Chúng có thể xé tan xác cô ra rồi nhét vào túi yên xe của chúng.

Nhưng nếu cô gái có ngon xơi như miếng gatô nho - mà rõ ràng là thế, theo như lời báo chí và theo như cái hắn đang trông thấy ở trước căn nhà của Bjurman đây - thì phù hiệu câu lạc bộ của chúng vẫn cứ bắt con người ta phải kính nể. Thế mà con bé lại không tỏ ra một chút kính nể nào. Lối ăn nói ấy là không tha thứ được, bất chấp tình huống này nực cười đến thế nào. Hắn liếc Nieminen.

- Tao nghĩ con ô môi này cần một củ thìu, Sonny. - Hắn nói, tụt khỏi chiếc Harley - Davidson, gạt chân chống.

Hai đứa từ từ đi đến ngó xuống Salander. Cô không nhích một li. Lundin lắc đầu thở dài. Rồi hắn cho một cú quạt trái tay, mạnh như cú hắn đã đánh Blomkvist trên đường Lundagatan.

Hắn đã đấm trúng vào trống không. Vào lúc tay hắn sắp chạm mặt cô gái thì cô đã lùi lại một bước, đứng ở đó, ngoài tầm tay của hắn.

Nieminen tì lên ghi đông chiếc Harley, thú vị nhìn xem đứa bạn thành viên câu lạc bộ của hắn. Mặt đỏ gắt, Lundin thoi tiếp vào cô hai quả. Cô lại lùi. Lundin quay ngoắt nhanh hơn.

Thình lình dừng phắt lại, Salander trút luôn một nửa bình xịt Mace vào mặt hắn. Mắt hắn cháy bỏng như bốc lửa. Phóng ra hết sức mạnh, biến thành một năng lượng điều khiển từ xa, mũi bốt của cô đá trúng bìu hắn với một sức nặng chừng 120 kilô trên một phân vuông. Lundin thở ngắc, khuỵu gối xuống, ở ngang tầm cao thuận tiện cho Salander. Cô đá vào mặt hắn, cố tình, y như đang đá cú phạt 11 mét trên sân bóng. Có tiếng nứt vỡ ghê rợn rồi Lundin đổ kềnh ra như một bao tải khoai tây.

Phải mất vài giây để cho Nieminen nhận ra là có cái gì đó không thể tin được vừa diễn ra trước mắt hắn. Cố gạt chân chống cho chiếc Harley của hắn nhưng bị trượt, hắn phải cúi nhìn xuống. Hắn bèn quyết định chơi cho chắc ăn nên bắt đầu chộp lấy khẩu súng lục hắn để ở bên trong túi của đai da bảo hộ bụng. Khi đang kéo khóa xuống thì hắn bị trúng một quả vào đuôi mắt.

Hắn ngửng lên đã thấy Salander lao đến như quả đạn đại bác. Cô lấy hết sức song phi cả hai chân vào hông hắn, không đủ làm cho hắn bị thương nhưng đủ để cho hắn cùng với cỗ xe ngã lăn ra. Suýt bị kẹt chân vào dưới cỗ xe, hắn loạng choạng lùi sau vài bước rồi mới lấy lại được thăng bằng.

Khi hắn lại nhìn rõ được cô thì hắn thấy tay cô vung lên và một hòn đá to bằng quả đấm bay vèo đến. Hắn tránh, hòn đá sạt qua cách đầu hắn vài phân.

Cuối cùng hắn lấy được súng ra, cố tháo chốt an toàn nhưng khi hắn ngửng đầu lên lại thì Salander đã ở trước mặt hắn. Hắn nhìn thấy sự dữ dằn trong mắt cô và lần đầu tiên hắn bị một cơn khiếp đảm khiến cho hắn rụng rời.

- Chúc ngủ ngon hả. - Salander nói.

Cô chĩa khẩu súng bắn điện vào bìu hắn, bắn cho hắn 50.000 vôn, giữ hai điện cực nán lại lâu trên người hắn ít nhất hai chục giây. Nieminen từ nay đã được cô cho biến thành ngọn rau lá cỏ.

Nghe có tiếng động ở đằng sau, Salander quay ngoắt lại thấy Lundin đang lóp ngóp cố quỳ lên trên đầu gối. Cô nhướng lông mày nhìn hắn. Hắn đang mù tịt sờ lần trong sương khói của thuốc xịt Mace.

- Tao giết mày! - Hắn thì thầm.

Hắn quờ quạng xung quanh, cố nhận ra chỗ Salander đứng. Cô thận trọng nhìn hắn. Rồi hắn nói:

- Con điếm đ. mẹ nhà mày.

Salander cúi xuống nhặt khẩu súng của Nieminen, nhận ra nó là một khẩu Wanad P.83 của Ba Lan. Cô tháo hộp đạn, kiểm xem nó đã dược nạp đúng đạn 9 li Makarov không. Cô lên đạn. Cô bước qua Nieminen đi đến Lundin, ngắm bằng cả hai tay và bắn một phát vào bàn chân hắn. Hắn rú lên vì sốc rồi lại đổ sụp xuống.

Cô nghĩ có nên bớt thì giờ hỏi về tung tích tên khổng lồ mà cô đã trông thấy ngồi với hắn ở quán Cà phê Blomberg không. Theo Sandstrom, thì tên đó được Lundin giúp đỡ đã giết một người ở nhà kho. Hừm. Cô sẽ phải chờ nổ súng thì mới hỏi được điều cần hỏi.

Lundin bây giờ xem vẻ không đủ bình tâm để sáng suốt chuyện trò được rồi, và lại có khả năng một ai đó đã nghe thấy tiếng súng. Vậy cô cần rời chỗ này ngay. Một ngày tới đây cô còn có thể gặp Lundin để hỏi hắn trong những hoàn cảnh đỡ căng thẳng hơn. Cô cài chốt an toàn cho khẩu súng, kéo khóa túi jacket rồi nhặt ba lô lên.

Đi xuôi con đường được chừng mười mét cô đứng lại nhìn quanh. Cô thong thả lui lại quan sát cỗ xe máy của Lundin.

- Harley - Davidson. - Cô nói. - Hay đấy.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,154
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 27


Thứ Tư, 6 tháng Tư

Blomkvist lái xe của Berger xuống phía nam đến Nynasvagen vào một sáng xuân đẹp trời. Trên các thửa ruộng đen đen đã gợn một thoáng xanh và không khí thì thực sự ấm áp. Thời tiết hoàn hảo này là để cho quên đi mọi vấn đề để mà lái xe ra ngoài đến sống một ít ngày yên tĩnh trong căn nhà nhỏ của anh ở Sandham.

Blomkvist đã bằng lòng với Bjorck rằng anh sẽ ở đấy vào

Bjorck đón anh ở đường dẫn xe vào nhà. Hắn nom tự tin, hài lòng với bản thân hơn hai hôm trước.

Cậu định giở vở gì ra với tôi đây thế?

Blomkvist không bắt tay hắn.

- Tôi có thể cho ông tin về Zala. - Bjorck nói. - Nhưng tôi có một vài điều kiện.

- Nói xem.

- Bài báo của Millennium không nói đến tên tôi.

- Đồng ý.

Bjorck nom ngạc nhiên. Không bàn cãi, Blomkvist nhận lời đánh roạt ngay cái điểm mà Bjorck chờ đợi sẽ phải thương lượng lâu. Nó là con bài chủ của hắn. Tin về các vụ án mạng đổi lấy vô danh tính.

Blomkvist đã bằng lòng và thế là từ bỏ cơ hội làm thành tít lớn ở tờ tạp chí.

- Tôi nghiêm túc đấy. - Bjorck nói. - Tôi muốn viết thành giấy tờ hẳn hoi.

- Ông có giấy có tờ được nhưng tư liệu ấy vô dụng cho ông mà. Ông đã gây ra một tội mà tôi biết và tôi buộc phải báo với cảnh sát. Nhưng biết nhiều thứ, ông lại đang dùng uy thế của mình để mua sự im lặng của tôi. Tôi đã nghĩ về điều này và tôi nhận lời. Tôi sẽ không đưa tên ông lên Millennium. Hoặc ông tin tôi hoặc không.

Trong khi Bjorck nghĩ, Blomkvist nói:

- Tôi cũng có vài điều kiện. Cái giá để cho tôi im lặng là ông phải nói với tôi hết tất cả những gì ông biết. Nếu tôi phát hiện ông giấu cái gì thì thỏa thuận của tôi và ông tiêu luôn và tôi sẽ cho tên ông thượng lên trên mọi bản tin ở Thụy Điển, như tôi đã làm với Wennerstrom.

Bjorck rợn người nhớ lại.

- OK. - Hắn nói. - Tôi chả còn được chọn nữa rồi. Tôi sẽ bảo ông Zala là ai. Nhưng tôi cần phải bí mật tuyệt đối.

Hắn chìa tay ra. Blomkvist nắm lấy. Anh vừa hứa giúp che đi một vụ án nhưng điều này không làm cho anh bị rắc rối gì trong một thời gian. Anh chỉ hứa là anh và Millennium sẽ không viết đến Bjorck. Nhưng Svensson thì đã viết tất cả câu chuyện về Bjorck trong quyển sách của anh ta. Và quyển sách sẽ được xuất bản.

Cảnh sát ở Strangnas nhận được cú điện thoại gọi vào lúc 3 giờ 18 phút chiều. Nó đi thẳng tới tổng đài chứ không qua bộ phận cấp báo. Một người đàn ông tên là Oberg, chủ nhân một căn nhà nhỏ nghỉ hè ở ngay phía đông Stallarholmen báo ông đã nghe thấy tiếng gì như tiếng súng rồi đã đi ra xem có chuyện gì. Ông đã tìm thấy hai người bị thương rất nặng. Nhưng một người có thể là không đến nỗi nặng lắm, chỉ là rất đau đớn mà thôi. À vâng, căn nhà nhỏ ấy là của Nils Bjurman, một luật sư. Tức là Nils Bjurman đã quá cố, người từng được nói đến rất nhiều ở trên báo chí đấy.

Cảnh sát Strangnas đã có một ngày bề bộn việc cùng với một cuộc kiểm soát giao thông rộng khắp ở trong vùng. Buổi sáng đang như thế thì nhiệm vụ kiểm soát giao thông đã bị ngừng lại vì một cú điện thoại báo rằng một phụ nữ trung niên đã bị bạn trai giết ở ngôi nhà họ cùng sở hữu tại Finninge. Gần như cùng lúc lại có một đám cháy ở một căn nhà phụ bên trong một bất động sản tại Storgardet. Trong đống đổ nát có một xác chết. Và cuối cùng, hai xe hơi đâm đầu vào nhau trên xa lộ cao tốc Enkoping. Do vậy lực lượng cảnh sát Strangnas bận rộn, gần như chẳng ai được ngơi tay.

Nhưng sĩ quan trực theo dõi các diễn biến ở Nykvarn sáng hôm ấy lại suy luận rằng cuộc tanh bành rối như canh hẹ mới mẻ này chắc là có gì đó liên quan đến Lisbeth Salander mà ai cũng đang nói đến. Ít ra thì do vì Nils Bjurman là một phần của cuộc điều tra. Bà sĩ quan trực này mở ba mặt trận. Bà trưng dụng chiếc xe van cuối cùng còn lại của cảnh sát lái thẳng đến Stallarholmen. Bà gọi các bạn đồng nghiệp ở Soldertalje yêu cầu viện trợ. Lực lượng ở Sodertalje cũng đã bị dàn mỏng do một bộ phận nhân lực của nó đã bị điều đi đào bới các xác chết quanh một nhà kho bị đốt cháy ở mạn nam Nykvarn. Nhưng mối quan hệ có thể có giữa Nykvarn và Stallarholmen đã thúc viên sĩ quan trực ở Sodertalje phái gấp hai xe tuần tra đến Stallarholmen giúp đỡ viên sĩ quan trực ở Strangnas. Cuối cùng bà sĩ quan trực ở Strangnas gọi vào di động của thanh tra Bublanski ở Stockholm.

Bublanski đang ở An ninh Milton gặp Tổng giám đốc Armansky, cùng hai người trong ban tham mưu của ông, Fraklund và Bohman. Hedstrom vắng mặt lại càng nổi bật lên.

Bublanski lập tức phái Andersson đến căn nhà mùa hè của Nils Bjurman và bảo ông kéo Faste đi cùng nếu liên hệ được với ông ta. Sau khi suy nghĩ một lúc, Bublanski lại gọi Holmberg đang ở gần Nykvarn do đó gần với Stallarholmen hơn rất nhiều. Holmberg cũng một vài tin cho ông.

- Chúng tôi đã nhận diện được cái xác ở dưới giếng.

- Không thể. Sao mà nhanh thế được chứ?

- Khi cái xác được chôn chu đáo với cả ví lẫn thẻ căn cước mỏng dính thì tìm mọi sự sẽ đơn giản thôi.

- Là ai thế?

- Tí ti nổi tiếng. Kenneth Gustafsson, biệt hiệu Gã Ma cà bông. Việc này có gióng lên được hồi chuông nào không đây?

- Ông đùa đấy à? Gã Ma cà bông lại nằm ở trong một cái hố ở Nykvarn sao? Lưu manh khu phố buôn bán, dân bảo kê ở hộp đêm, ăn cắp vặt và nghiện ma túy ư?

- Vâng, người ấy đấy. Ít nhất thì cũng là theo thẻ căn cước ở trong ví. Pháp y sẽ xác nhận căn cước và có vẻ như các mảnh ghép đang khớp lại vào với nhau. Gã Ma cà bông bị chặt ra thành năm sáu khúc.

- Lý thú đấy. Paolo Roberto nói tên võ sĩ siêu nặng đấu với ông ấy đã dọa Miriam Wu bằng một cái cưa điện.

- Nếu có thể là một cái cưa điện thì rất tốt, nhưng tôi chưa xem gần. Chúng tôi vừa bắt đầu đào chỗ thứ hai. Họ đang phải dựng lên một cái lều.

- Tốt đấy, Jerker, hôm nay là một ngày dài, tôi biết, nhưng ông có ở lại được cả tối không?

- Chắc rồi, OK. Tôi sẽ để cho họ tiếp tục ở đây mà đi đến Stallarholmen.

Bublanski tắt máy rồi dụi mắt.

Tập hợp gấp gáp ở Strangnas, nhóm ứng phó có vũ trang đi đến nhà Bjurman vào

Họ nhốt hắn ở trong xe van rồi lái tiếp đi hai trăm mét đến căn nhà nhỏ. Họ thấy một công nhân cảng về hưu tên là Oberg đang làm nẹp bó chân cho một tay là Carl - Magnus Lundin, ba mươi sáu tuổi, chủ tịch của cái băng nhóm tự gọi là Câu lạc bộ Xe máy Svavelsjo.

Sếp của nhóm cảnh sát là thanh tra Nils - Henrik Johansson. Ông trèo ra khỏi xe, sửa ngay ngắn lại thắt lưng rồi nhìn vào gã bị thịt nằm trên mặt đất.

Oberg ngừng băng bó chân Lundin, nhăn nhở nhìn Johansson.

- Tôi là người đã gọi báo cảnh sát.

- Ông báo cáo có tiếng súng nổ.

- Tôi báo cáo là tôi nghe thấy một tiếng súng bắn duy nhất rồi đi điều tra và tìm thấy hai cha này. Cha này bị bắn vào bàn chân và bị đánh khá là ác đấy. Tôi thấy cần gọi một xe cứu thương.

Oberg liếc về chiếc van của cảnh sát.

- Tôi thấy các ông đã dớ thằng cha kia rồi. Tôi đến đây thì gã đã lạnh ngắt lạnh ngơ nhưng có vẻ như cha không bị thương. Sau một lúc cha tỉnh lại nhưng chả thiết ngó ngoáy gì để giúp bồ của gã cả.

Holmberg đến cùng với cảnh sát Sodertalje đúng lúc xe cứu thương chạy đi. Ông đã được nhóm cảnh sát ở đây báo ngắn gọn cho các nhận xét của họ. Cả Lundin lẫn Nieminen đều không muốn nói rõ làm sao chúng lại ở đây. Lundin khó có điều kiện để nói.

- Vậy thì: hai người đi xe máy mặc đồ da, một Harley - Davidson, một nạn nhân bị bắn và vũ khí thì không.

Johansson gật.

- Chúng ta có nên bỏ sót mất rằng một trong các tên anh hùng hiên ngang này đã được đèo ở đằng sau không?

- Tôi nghĩ câu lạc bộ của họ coi chuyện ngồi đèo là không đàn ông đàn ang. - Johansson nói.

- Thế thì ở đây chúng ta mất một chiếc xe máy. Và vì vũ khí cũng bị mất nên chúng ta có thể kết luận rằng một tên thứ ba đã rời hiện trường với một xe máy và một vũ khí.

- Nghe có lý.

- Và cái đó cho ra một câu đố. Nếu hai quý ông hào hoa này đi xe máy từ Svavelsjo đến thì chúng ta cũng mất cả chiếc xe tên thứ ba cưỡi để đến đây. Tên thứ ba không thể đi bằng cả xe của hắn lẫn chiếc xe máy. Mà cuốc bộ từ xa lộ cao tốc Strangnas đến đây thì khá là xa.

- Trừ phi tên thứ ba sống ở trong căn nhà nhỏ này.

- Hừm. - Holmberg nói. - Nhưng căn nhà này thuộc về Luật sư đã quá cố Nils Bjurman, và dứt khoát ông ta không còn sống ở đây nữa.

- Phải có một tên thứ tư rời đi bằng xe hơi.

- Tại sao hai người đó họ lại không đi cùng với nhau bằng xe hơi? Tôi cho rằng đây không phải là chuyện ăn cắp một chiếc Harley dù người ta thèm nó đến thế nào.

Ông nghĩ một lúc rồi đề nghị nhóm cảnh sát cử hai cảnh sát đồng phục đi tìm một chiếc xe bị bỏ lại trên các con đường rừng quanh đó rồi gõ cửa các nhà trong khu vực hỏi xem có ai thấy cái gì khác lạ không, có ai thấy chiếc xe nào thuộc về những người lạ mặt không.

- Vào thời gian này trong năm, ít nhà có người ở lắm. - Sếp nhóm cảnh sát địa phương nói, nhưng ông hứa cố làm hết sức.

Holmberg mở cánh cửa không khóa vào nhà. Ông lập tức thấy ngay hộp hồ sơ trên bàn bếp gồm các báo cáo, biên bản về Salander. Ông ngồi xuống bắt đầu lần giở từng trang, ngạc nhiên quá sức mình.

Nhóm của Holmberg gặp may. Chỉ nửa giờ sau khi gõ cửa các căn nhà dân sống cách quãng, họ đã tìm thấy Anna Viktoria Hansson. Bà bỏ buổi sáng xuân ra quét dọn mảnh vườn ở gần đường rẽ vào căn nhà nghỉ hè. Đúng, đúng thế, bà có thể đã bảy mươi hai nhưng mắt bà nhìn còn tốt. Đúng, đúng thế, bà đã thấy một cô gái thấp bé mặc jacket đen đi bộ qua vào tầm ăn trưa. Ba giờ chiều thì hai người đàn ông đi hai xe máy đến. Họ gây nên cảnh huyên náo ghê người. Ngay sau đó, cô gái trở ra lối khác gặp phải một trong hai chiếc xe máy hay nói chung có thể là một chiếc khác. Ừ, nom như con gái nhưng đội mũ bảo hiểm thì bà cụ không thể nói chắc trăm phần trăm. Thế rồi xe cảnh sát bắt đầu đến.

Đúng lúc Holmberg nghe lời khẳng định này thì Andersson vào căn nhà nghỉ hè.

- Xảy chuyện gì ở đây thế? - Ông nói.

Holmberg âu sầu nhìn bạn đồng sự, ông nói:

- Tôi chả biết giải thích chuyện này với ông như thế nào cả.

- Jerker, ông đang cố bảo tôi là Salander đã đến nhà nghỉ hè của Bjurman rồi hoàn toàn một tay cô ấy đánh cho cả đến cấp chóp bu của Câu lạc bộ Xe máy Svavelsjo cũng bĩnh ra quần đấy phải không? - Nghe Bublanski có vẻ căng thẳng.

- Kìa, Paolo Roberto huấn luyện cô ấy cơ mà.

- Jerker, xin nào. Hãy cho tôi nghỉ.

- OK, nghe cái này đây. Magnus Lundin bị một phát đạn vào chân làm cho bị thương. Viên đạn ra đằng sau gót chân, thổi tung chiếc bốt của hắn.

- Ít ra cô ấy cũng không bắn vào đầu.

- Có vẻ như chưa phải đến mức ấy. Theo nhóm cảnh sát địa phương thì mặt Lundin bị nhiều vết thương nặng: một quai hàm vỡ và hai cái răng bị đánh văng ra. Các bác sĩ ngờ là có bị chấn thương. Ngoài vết thương bị bắn ở bàn chân ra hắn còn đau dữ ở vùng bụng.

- Nieminen thì sao?

- Hắn có vẻ không bị thương. Nhưng theo một ông già gọi báo thì khi ông ta đến, hắn đang bất tỉnh. Một lúc sau hắn tỉnh lại, đang cố bỏ đi thì nhóm cảnh sát Strangnas đến.

Bublanski ngẩn ra không biết nói sao.

- Có một chi tiết bí ẩn. - Holmberg nói.

- Lại một chi tiết nữa?

- Cái đai da chắn bụng... hắn đi xe máy đến đấy mà.

- Ừ sao?

- Nó bị cắt.

- Ông bảo gì bị cắt?

- Mất một mẩu. Lưng đai da bị cắt mất một chỗ chừng hai mươi nhân hai mươi phân. Đúng chỗ in huy hiệu của Câu lạc bộ Xe máy Svavelsjo.

Lông mày Bublanski nhướng lên.

- Tại sao Salander lại cắt đi một mảnh vuông ở đai da của hắn như thế? Làm chiến lợi phẩm? Để trả thù? Nhưng trả thù gì?

- Không biết. Nhưng tôi nghĩ đến một điều khác. - Holmberg nói. - Magnus Lundin là một thằng đô con, tóc để kiểu đuôi ngựa. Một thằng trong đám bắt cóc bạn gái của Salander có tóc để đuôi ngựa và một cái bụng bia bự tổ bố.

Salander chưa có phen nào lồng phóng như thế này từ khi cô thăm khu vui chơi Grona Lund và ngồi ghế Rơi Tự Do mấy năm trước. Cô đã đến đó ba lần và nếu có tiền thì cô đã đến thêm ba lần nữa.

Cưỡi chiếc Kawasaki hạng nhẹ 125 phân khối, thật ra không hơn một xe đã được độ cho tăng thêm công suất, là một chuyện nhưng còn giữ được tay lái của một chiếc Harley 1450 phân khối lại là một chuyện hoàn toàn khác. Ba trăm mét đầu tiên trên con đường rừng bảo dưỡng tồi của Bjurman là cô đi tàu trượt vút lên lao xuống bình thường và cô cảm thấy mình như một con quay sống động. Hai lần suýt lao vào rừng rồi cuối cùng cô lại xoay xở kiểm soát được cỗ xe.

Chiếc mũ bảo hiểm cứ tụt xuống che mất mắt cô, dù cô đã độn cho nó miếng da cô cắt ở đai da chần bông của Nieminen.

Cô không dám dừng lại để chỉnh lại mũ, sợ không tự mình xoay xở nổi với trọng lượng cỗ xe. Cô thấp quá không thò được hai chân xuống đất và e chiếc Harley có thể đổ kềnh. Nếu nó đổ thì cô không tài nào dựng lại nó lên được.

Sự tình suôn sẻ hơn khi cô ra tới con đường rải sỏi rộng hơn dẫn tới khu vực nhà nghỉ hè. Khi cô rẽ ra xa lộ cao tốc Strangnas ít phút sau, cô suýt buột một tay ra khỏi ghi đông vì chỉnh lại mũ. Rồi cô cho tăng ga lên một ít. Cô đi rất nhanh đến Sodertalje, suốt đường tủm tỉm cười khoái chí. Trước khi cô đến Sodertalje, hai chiếc Volvo vàng của cảnh sát rú còi bay ngược chiều lại.

Cô phóng xe là để quẳng chiếc Harley ở Sodertalje và cho Irene Nesser đi xe lửa chặng ngắn vào Stockholm, nhưng Salander không kìm được cơn cám dỗ. Cô quẹo lên đường E4 và tăng tốc. Cô không vượt quá tốc độ quy định, tốt, dù sao cũng không tăng nhiều nhưng cô vẫn cảm thấy như đang rơi tự do. Mãi tới khi đến Alvsjo cô mới quay đi hướng khác tìm một bãi họp chợ, nơi cô cố cho con thú vật đỗ mà không đổ kềnh ra. Cô tiếc rẻ bỏ cỗ xe lại cùng với chiếc mũ bảo hiểm và miếng da từ tấm đai của Nieminen. Cô đi bộ đến xe lửa chạy chặng ngắn. Rét cóng. Cô lên xe đi một chặng đến ga Sodra, rồi đi bộ về nhà ở Mosebacke, làm một chầu tắm nước nóng.

- Tên hắn là Alexander Zalachenko. - Bjorck nói. - Nhưng hắn không chính thức tồn tại. Ông không thể tìm thấy hắn ở sổ đăng ký quốc gia.

Zala. Alexander Zalachenko. Rút cục đã có một cái tên.

- Hắn là ai và tôi làm sao tìm ra được hắn đây?

- Hắn không phải là người mà ông muốn gặp đâu.

- Gì thì cũng cứ bảo cho tôi xem.

- Tôi nói với ông điều này là thuộc về hồ sơ Tuyệt mật đây, tôi có thể vào tù vì nó. Đây là một trong những bí mật được chôn vùi sâu nhất của hệ thống quốc phòng Thụy Điển mà chúng tôi có được. Ông cần hiểu tại sao nó lại quan trọng đến mức ông bảo đảm không tiết lộ ra tên của tôi.

- Thì tôi bảo đảm rồi đấy. - Blomkvist sốt ruột nói.

- Alexander Zalachenko sinh năm 1940 ở Stalingrad. Ông ta được một tuổi thì cuộc tấn công của quân Đức ở mặt trận phía đông bắt đầu. Bố mẹ Zalachenko đều chết trong chiến tranh. Ít ra thì đó là điều Zalachenko nghĩ. Ông ta thật sự không hiểu những gì đã xảy ra trong chiến tranh. Các ký ức rõ nét hơn của ông ta là về một trại trẻ mồ côi ở vùng núi Uran.

Blomkvist ghi lẹ.

- Trại mồ côi ở một thị trấn đồn trú của lính và nó được Hồng quân đỡ đầu. Có thể nói là Zalachenko đã được giáo dục về quân sự rất sớm. Từ khi Liên Xô chấm dứt, các tài liệu xuất hiện cho thấy đã có các thí nghiệm để tạo ra từ đám trẻ mồ côi được Nhà nước nuôi dưỡng một bộ khung binh lính tinh nhuệ, đặc biệt giỏi về điền kinh. Zalachenko ở trong số đó. Để nói cho vắn tiểu sử: lên năm, Zalachenko được đưa vào một trường của quân đội. Thế nào quay ra ông ta lại có tài. Khi mười lăm, năm 1955, ông ta được đưa đến trường quân sự ở Novosibirsk và đã cùng với hai nghìn thiếu niên khác ở đây nhận sự huấn luyện giống như Spetsnaz, quân đội tinh nhuệ Nga.

- OK, ta hãy nói đến thời trưởng thành.

- Năm 1958, mười tám tuổi Zalachenko được điều đến Minsk, đến lớp huấn luyện chuyên gia của GRU,Glavnoye razvedyvatelnoye upralenye, sở tình báo quân sự trực thuộc bộ chỉ huy tối cao quân đội. Chớ có lẫn với KGB, công an mật dân sự. Những người chăm nom gián điệp tình báo và tác chiến đối ngoại thường là GRU. Năm hai mươi tuổi Zalachenko được phái đến Cuba. Đây là một thời kỳ huấn luyện và ông ta mới tương đương cấp thiếu úy. Nhưng ông ta đã ở đấy trong hai năm của cuộc khủng hoảng tên lửa Cuba cùng vụ xâm lăng Vịnh Con lợn. Năm 1963 ông ta quay về Minsk để được huấn luyện sâu thêm. Sau đó đầu tiên ông ta đóng tại Bungaria rồi Hungary. Năm 1965 ông ta được đề bạt trung úy và có nhiệm sở đầu tiên ở lầy Âu, tại Rome, ông ta đã phục vụ ở đây một năm. Đây là nhiệm vụ dưới vỏ bọc đầu tiên. Ông ta là một công dân mang hộ chiếu giả, rõ ràng là thế, và không có liên hệ với đại sứ quán.

Blomkvist vừa viết vừa gật đầu. Trái với ý muốn, anh dần bắt đầu thấy lý thú.

- Năm 1967 Zalachenko được điều đến London. Ông ta tổ chức việc hành quyết một nhân viên KGB bỏ chạy ở đây. Trong mười năm sau đó, ông ta là một trong những nhân viên đứng đầu của GRU, thuộc về lớp ưu tú của các quan quân chính trị hiến dâng hết lòng. Ông ta nói trôi chảy sáu ngôn ngữ và đã làm công việc của nhà báo, nhiếp ảnh gia, trong ngành quảng cáo, thủy thủ, hãy tạm kể ra như thế. Ông ta là một nghệ sĩ về tài sống sót, một chuyên gia cải trang và lừa gạt. Ông ta chỉ huy các nhân viên của mình và tổ chức hay tiến hành các vụ tác chiến của chính ông. Mấy vụ này là những hợp đồng đánh phá, và phần lớn diễn ra ở thế giới thứ ba. Nhưng ông ta cũng dính vào các chuyện tống tiền, hăm dọa cùng mọi kiểu nhiệm vụ khác mà cấp trên cần ông ta hoàn thành. Năm 1969, ông ta được đề bạt đại úy, năm 1972 lên thiếu tá, và năm 1975 lên trung tá.

- Sao hắn lại đến Thụy Điển?

- Đang sắp đến đây. Qua năm tháng ông ta hư hỏng, ông ta tích tiền đây đó mỗi nơi một ít. Ông ta uống quá nhiều và chơi đàn bà quá xá. Cấp trên ghi nhận hết các trò này nhưng ông ta vẫn là con cưng và họ đã lờ đi cho. Năm 1976, ông ta được cử đi công tác ở Tây Ban Nha. Chúng ta chả cần đi vào chi tiết nhưng ông ta đã phạm sai lầm. Nhiệm vụ thất bại và thình lình ông ta bị mất tín nhiệm, phải quay về Nga. Ông ta chọn cách bất tuân thượng lệnh, do đó đi đến một tình cảnh tồi tệ hơn. GRU ra lệnh cho một tùy viên quân sự ở đại sứ quán tại Madrid tìm Zalachenko, nói cho ông ta nhận ra trái phải. Xảy ra trục trặc gì đó, Zalachenko đã giết người của đại sứ quán. Nay thì ông ta hết lựa chọn. Đã chặt cầu, ông ta hấp tấp quyết định bỏ trốn ra nước ngoài. Ông ta để một lõng có vẻ dẫn từ Tây Ban Nha đến Bồ Đào Nha và có thể thì dẫn đến một tai nạn đắm tàu. Ông cũng để lại các manh mối cho thấy ông ta có ý trốn sang Mỹ. Thực ra ông ta chọn trốn đến một nước ít ngờ đến nhất ở châu Âu. Ông đến Thụy Điển, liên hệ với Cảnh sát An ninh, Sapo, xin cư trú chính trị. Nghĩ ra như thế là giỏi vì xác suất về một tổ hành quyết của KGB hay GRU đến tìm ông ở đây thì gần như là zêrô.

Blomkvist ngồi lặng.

- Rồi?

- Nếu mật vụ cỡ lớn của Liên Xô trốn sang Thụy Điển và xin cư trú thì Chính phủ được giả định làm gì? Một chính phú của đảng bảo thủ vừa mới cầm quyền. Thực tế đây là một trong những vấn đề sớm nhất mà chúng ta đã phải trao cho vị Bộ trưởng Ngoại giao vừa được bổ nhiệm. Các cha chính trị hèn nhát dĩ nhiên đã cố rũ bỏ ông ta như một thanh sắt nung đỏ, nhưng họ không trả ông ta lại cho người Xô viết, nếu chuyện này nổ ra thì sẽ là một vụ tai tiếng ở quy mô không gì sánh nổi. Thay vì vậy, họ thử đưa ông ta sang Mỹ hay Anh. Zalachenko từ chối. Ông ta không thích Mỹ còn Anh thì ông ta biết Liên Xô có điệp viên ở các bậc cao nhất của tình báo quân sự. Ông ta không muốn đến Israel vì không thích người Do Thái. Vậy nên ông ta quyết định lấy Thụy Điển làm quê hương.

Toàn bộ câu chuyện nghe khó tin đến nỗi Blomkvist ngỡ khéo mà Bjorck đang xỏ mũi mình.

- Vậy hắn ở lại Thụy Điển?

- Chính xác. Đây là một trong những bí mật quân sự được giữ kín nhất ở Thụy Điển trong nhiều năm. Vấn đề là từ Zalachenko, chúng tôi đã có nhiều thông tin hay. Một thời gian, cuối những năm 70 và đầu 80, trong những người bỏ trốn đất nước ông ta là viên ngọc ở cái vương miện, người cao cấp nhất của một trong những ban chỉ huy ưu tú của GRU.

- Vậy là hắn có thể bán được thông tin?

- Chính xác. Giỏi chơi quân bài của mình, ông ta nhỏ giọt thông tin ra khi nào nó thích hợp với ông ta nhất. Chúng tôi có thể nhận diện ra một điệp viên trong ban chỉ huy của khối NATO tại Brussels. Một điệp viên ở Rome. Tiếp xúc với tất cả một xâu gián điệp ở Berlin. Căn cước của các gã đao súng ông ta dùng ở Ankara và Athens. Về Thụy Điển, ông ta không biết bằng thế, nhưng các thông tin mà ông ta có thì chúng ta có thể cho qua. Đền lại cho các công sức. Ông ta là một mỏ vàng.

- Thế là ông bắt đầu cộng tác với hắn.

- Chúng tôi cho ông ta một căn cước mới, một hộ chiếu, một ít tiền và ông ta tự lo lấy. Ông ta đã được huấn luyện để làm cái việc đó.

Blomkvist ngồi im một lúc, tiêu hóa thông tin. Rồi anh ngước nhìn Bjorck.

- Lần trước tôi ở đây ông đã nói dối tôi.

- Tôi nói dối ư?

- Ông bảo ông gặp Bjurman ở câu lạc bộ bắn súng của cảnh sát trong những năm 80. Nhưng ông gặp từ trước lâu rồi.

- Kiểu phản ứng tự động ấy mà. Điều ấy là bí mật, tôi không có lý do đề cập chuyện tôi và Bjurman đã gặp nhau như thế nào, mãi khi ông hỏi về Zala tôi mới nhận ra chỗ quan hệ.

- Nói xem nó xảy ra làm sao?

- Tôi băm ba và làm việc ở Sapo đã ba năm. Bjurman trẻ hơn nhiều, vừa tốt nghiệp xong. Ông ấy nắm một số vấn đề pháp lý ở Sapo. Đây là việc cho thực tập viên. Bjurman là người ở Karlskrona, bố làm ở tình báo quân sự.

- Rồi?

- Cả Bjurman và tôi đều không phải cỡ nắm một người như Zalachenko, nhưng ông ta tiếp xúc vào Ngày Bầu cử năm 1976. Chả có mống nào ở trụ sở cảnh sát - hôm ấy ai cũng nghỉ hoặc làm công việc theo dõi ở bên ngoài, đại loại thế. Zalachenko chọn lúc ấy để vào đồn cảnh sát Norrmalm xin cư trú chính trị và muốn nói chuyện với ai đó ở Cảnh sát An ninh. Ông ta không nói tên ra. Đang trực, tôi nghĩ đây đích xác là một trường hợp tị nạn cho nên tôi lấy Bjurman và tôi làm cố vấn pháp lý. Hai chúng tôi gặp ông ta ở Norrmalm.

Bjorck dụi mắt.

- Ông ta ngồi đấy nói bình tĩnh và không úp mở mình là ai và đang làm gì. Bjurman ghi chép. Không lâu sau tôi nhận ra mình đang bập phải chuyện gì. Tôi dừng chuyện lại, đưa Zalachenko và Bjurman ra khỏi đồn cảnh sát. Không biết làm thế nào, tôi bèn thuê một phòng ở Khách sạn Continental đối diện ngay với Ga Trung tâm rồi cho ông ta ở đấy. Tôi bảo Bjurman săn sóc ông ta trong khi tôi xuống nhà gọi cấp trên.

Bjorck cười thành tiếng.

- Tôi cứ nghĩ chúng tôi làm đúng ý như các cha nghiệp dư chính hiệu vậy. Nhưng việc xảy ra là thế.

Blomvisk nhún vai nhưng cho thôi.

- Ông ta làm cho nổi bật lên rất rõ rằng đây là một vấn đề đòi hỏi càng hết sức bí mật càng tốt, chúng tôi nên để cho càng ít người dây vào càng hay. Bjurman không bao giờ nên liên quan đến - đây là chuyện vượt quá trình độ ông ấy - nhưng vì ông ấy đã biết chuyện thì cứ giữ ông ấy chứ đừng đưa người mới vào. Tôi cho rằng lý lẽ này cũng áp dụng luôn cả cho sĩ quan trẻ như tôi. Thế là đi tới chỗ chỉ có bảy người làm việc với Cảnh sát An ninh được biết chuyện có Z 3cbd alachenko mà thôi.

- Bao nhiêu người khác nữa biết chuyện này?

- Từ 1976 đến đầu 1990... tổng cộng chừng hai chục người trong Chính phủ, ban chỉ huy quân sự cao cấp và trong Sapo.

- Rồi sau đầu 1990 trở đi?

Bjorck nhún vai.

- Liên Xô sụp thì ông ta hóa ra nhạt trò.

- Nhưng sau khi hắn đến Thụy Điển thì chuyện gì đã xảy ra?

Bjorck im lặng quá lâu đến nỗi Blomkvist phát bồn chồn.

- Nói thật tình... Zalachenko là một thành công lớn, những người trong đám tôi dính vào đều nhờ đó mà nên cơ nên nghiệp. Đừng hiểu lầm tôi, đấy cũng là một công việc chính thức. Tôi đã được phân công làm quân sư cho Zalachenko ở Thụy Điển, trong mười năm đầu chúng tôi gặp nhau ít nhất mỗi tuần một lần. Tất cả chuyện đó diễn ra suốt những năm quan trọng, lúc Zalachenko đầy thông tin mới mẻ. Nhưng đó cũng là để giữ ông ấy trong tầm kiểm soát.

- Theo nghĩa nào?

- Zalachenko là một con quỷ gian trá. Ông ấy có thể đáng yêu đến không thể tin nổi nhưng cũng lại có thể nổi cơn tâm thần, điên loạn. Ông ấy có thể bí tỉ tối ngày và những lúc ấy thì hóa ra hung bạo. Nhiều lần đang đêm tôi phải đi kéo ông ấy ra khỏi các rối ren mà ông ấy tự gây ra.

- Thí dụ...

- Thí dụ, lần ông ấy đến quán bar cãi nhau với ai đó rồi đánh thừa sống thiếu chết hai tay bảo vệ định can. Ông ấy nhỏ con thôi nhưng đặc biệt giỏi cận chiến, đáng tiếc là ông ấy ưa biểu diễn món đó. Một lần tôi phải đến đồn cảnh sát nhặt ông ấy về.

- Hắn có nguy cơ làm cho thiên hạ chú ý đến. Chỗ này nghe không được chuyên nghiệp lắm.

- Ông ta là cái cách ấy đấy. Không phạm tội ở Thụy Điển bao giờ nên không bị bắt bao giờ. Chúng tôi đã cho ông ta một cái tên Thụy Điển, một hộ chiếu Thụy Điển và thẻ căn cước. Một căn nhà mà Cảnh sát An ninh trả tiền. Cho ông ta lĩnh lương ở Sapo chỉ là để giữ ông ta có mặt. Nhưng chúng tôi không ngăn được ông ấy đi bar và chơi gái. Chúng tôi chỉ làm được có mỗi việc thu dọn hậu quả cho ông ta. Tôi làm việc này cho đến 1985 thì nhận nhiệm sở mới và có người thay tôi đã tiếp quản vụ Zalachenko.

- Còn vai trò của Bjurman?

- Nói thật, Bjurman là cái bị thịt. Ông ấy không đặc biệt thông minh gì. Đúng ra ông ấy là người ngồi lầm chỗ. Ông ấy là hoàn toàn ngẫu nhiên mà có dính chút nào vào tất cả vụ Zalachenko này, mà cũng chỉ dính vào trong những ngày đầu và vào những dịp chúng tôi cần ông ấy làm cho một vài thủ tục pháp lý nho nhỏ thế thôi, cấp trên của tôi đã giải quyết vấn đề với Bjurman.

- Sao?

- Cách dễ nhất. Cho ông ấy việc làm ở một công ty luật bên ngoài lực lượng cảnh sát và có quan hệ chặt chẽ với chúng tôi như ông có thể nói đấy.

- Klang & Reine.

- Vâng. Trong nhiều năm ông ấy vẫn được Sapo phân công, những cuộc điều tra nho nhỏ. Vậy là theo cách của mình, ông ấy cũng nên cơ nên nghiệp nhờ Zalachenko.

- Vậy hiện Zalachenko ở đâu?

- Tôi thực sự không biết. Sau 1985, tôi ngừng tiếp xúc với ông ấy và đã mười hai năm không nhìn thấy ông ấy. Tin cuối cùng nghe thấy là ông ấy đã rời Thụy Điển năm 1992.

- Có vẻ hắn đã quay lại. Hắn đã bị tóm liên quan đến vũ khí, ma túy, buôn bán tính dục.

- Tôi chả ngạc nhiên. - Bjorck nói. - Nhưng tôi không biết chắc là ông tìm Zalachenko này hay một ai khác cơ đấy.

- Khả năng có hai gã Zalachenko khác nhau ở trong chuyện này chắc là phải to bằng con kiến. Tên Thụy Điển của hắn là gì?

- Tôi sẽ không lộ cái này ra.

- Bây giờ ông lại lấp lửng.

- Ông muốn biết Zala là ai, tôi đã bảo ông. Nhưng chưa biết ông có giữ lời trong cuộc mặc cả hay không thì tôi chưa cho ông mảnh hình ghép cuối cùng đâu.

- Zala chắc đã giết ba người nhưng cảnh sát lại tìm lầm một người khác. Nếu ông cho là tôi không cần có tên Zala mà vẫn hài lòng thì ông sai đấy.

- Sao ông lại nghĩ Salander không giết?

- Tôi biết.

Bjorck mỉm cười. Ông thình lình thấy yên tâm hơn.

- Tôi nghĩ Zala là hung thủ.

- Sai. Zala không giết ai cả.

- Sao ông biết thế?

- Vì nay Zala đã hơn sáu chục tuổi và tàn tật nặng. Một chân bị cưa cụt, ông ấy không đi được nhiều. Vậy ông ấy không thể chạy nháo hết Odenplan lại Enskede để bắn người. Nếu sắp đi bắn ai thì ông ấy phải gọi sở chuyên chở người tàn tật trước.

Eriksson lễ phép mỉm cười với Modig.

- Việc ấy chị cần hỏi anh Blomkvist.

- OK, tôi sẽ hỏi.

- Tôi không được bàn việc điều tra của anh ấy với chị.

- Thế ngộ nhỡ Zala này nhiều phần là một nghi phạm...

- Chị cần bàn chuyện đó với anh Mikael. - Eriksson nói. - Tôi giúp được chị về món tài liệu mà Dag đang làm nhưng tôi không được nói với chị về cuộc điều tra của chúng tôi.

Modig thở dài.

- Chị bảo được gì cho tôi về những người ở trong danh sách này?

- Chỉ về tài liệu của Dag, còn về các nguồn tin thì không. Nhưng tôi có thể bảo chị rằng đến nay Mikael đã dập đi khỏi danh sách này khoảng hơn một chục tên. Điều đó có thể là giúp được chị.

Không, không giúp được gì. Cảnh sát sẽ phải có các cuộc phỏng vấn chính thức của mình. Một thẩm phán. Hai luật sư. Mấy nhà chính trị và nhà báo... và đồng nghiệp cảnh sát. Đúng là một vòng đua ngựa gỗ. Ngày hôm sau ba vụ án mạng Modig biết đám cảnh sát của chị sẽ bắt đầu phải làm trò này.

Mắt chị sáng lên với một cái tên trong danh sách. Gunnar Bjorck.

- Không có địa chỉ với người này?

- Không.

- Tại sao không?

- Ông ta làm cho Cảnh sát An ninh. Không cho địa chỉ của ông ta vào danh sách. Hiện tại ông ta nghỉ bệnh. Dag không bao giờ mò ra được ông ta.

- Còn cô? - Modig mỉm cười nói.

- Chị hỏi Mikael ấy.

Modig nhìn đăm đăm vào bức tường bên trên bàn làm việc của Svensson. Chị nghĩ.

- Tôi có hỏi một câu riêng tư được không?

- Chị cứ hỏi.

- Cô nghĩ ai đã giết các bạn của cô và ông luật sư?

Eriksson mong Blomkvist có mặt ở đây để nắm lấy các câu hỏi này. Bị một sĩ quan cảnh sát vặn vẹo thì không dễ chịu gì. Không thể nói chính xác ra các kết luận mà Millennium đã đạt tới lại càng không dễ chịu hơn. Rồi cô nghe thấy tiếng Berger ở đằng sau mình.

- Chúng tôi lập luận là sở dĩ người ta gây ra các vụ án mạng là để ngăn đưa ra ánh sáng một phần tường trình của Dag. Nhưng chúng tôi không biết kẻ giết người là ai. Mikael đang tập trung chú ý vào một người mang tên Zala.

Modig quay sang nhìn Tổng biên tập tạp chí Millennium. Berger đưa ra hai tách cà phê trang trí bằng các logo của liên hiệp công đoàn dịch vụ dân sự HTF và đảng Dân chủ Thiên chúa giáo. Berger mỉm cười ngọt ngào rồi lui về văn phòng của mình.

Ba phút sau chị quay ra.

- Thanh tra Modig, sếp của chị vừa gọi. Di động của chị tắt máy. Ông ấy muốn chị gọi ông ấy.

Một bản tin được tung ra nói Lisbeth Salander ít nhất cũng đã ló mặt. Bản tin chỉ rõ chắc cô đã lái một Harley - Davidson và kèm thêm lời cảnh báo cô có vũ khí, cô đã bắn người ở một căn nhà nhỏ mùa hè gần Stallarholmen.

Cảnh sát đặt ụ chặn các đường vào Strangnas, Mariefred và Sodertalje. Tối hôm ấy, các đoàn tàu chở người đi làm đều bị khám xét. Nhưng không tìm thấy ai nom khớp với miêu tả về Salander.

Vào khoảng 7 giờ tối, một đội cảnh sát tuần tra đã tìm thấy chiếc Harley - Davidson ở ngoài bãi họp chợ tại Alvsjo, điều này đã chuyển cuộc điều tra từ Sodertalje sang Stockholm. Báo cáo của Alvsjo nói cũng tìm thấy một miếng của chiếc jacket da có huy hiệu Câu lạc bộ Xe máy Svavelsjo. Tin về việc tìm thấy này đã làm cho thanh tra Bublanski đẩy kính lên tận đầu và ủ rũ nhìn ra bóng tối bên ngoài cơ quan ông trên đường Kungsholmen.

Những phát triển của ngày hôm nay không dẫn đến đâu mà lại ngáng cản. Bạn gái Salander bị bắt cóc, Paolo Roberto nhảy vào cuộc không thể giải thích rồi cháy nhà kho ở gần Sodertalje và các cái xác bị vùi trong rừng tại đó. Rồi cuối cùng vụ việc kỳ quái ở Stallarholmen.

Bublanski đi đến văn phòng chính xem bản đồ Stockholm. Ông tìm thấy Stallarholmen, Nykvarn, Svavelsjo và cuối cùng Alvsjo, bốn chỗ hiện đang được chú ý đến vì các lý do khác nhau. Ông đưa mắt đến Enskede, thở dài. Ông cảm thấy không vui vì cuộc điều tra của họ đang ở đằng sau rất xa các sự kiện vừa mới mở ra. Muốn là gì đi nữa các vụ án mạng ở Enskede cũng đã phức tạp hơn giả định của các ông.

Blomkvist không biết đến thảm kịch ở Stallarholmen. Anh rời Smadalaro vào quãng 3 giờ chiều, dừng lại ở một trạm xăng uống chút cà phê và cố cảm nhận những cái anh vừa phát hiện.

Anh ngạc nhiên là Bjorck đã cho anh nhiều chi tiết đến thế nhưng hắn nhất định từ chối trao cho anh miếng hình ghép cuối cùng: căn cước Thụy Điển của Zalachenko.

- Chúng ta đã có một công chuyện. - Blomkvist nói.

- Và tôi đã làm xong phần tôi ở trong đó. Tôi đã bảo ông Zalachenko là ai. Nếu ông muốn biết hơn thế nữa thì chúng ta phải có một thỏa thuận mới. Tôi cần được bảo đảm rằng tên của tôi sẽ được lấy đi khỏi tất cả các tư liệu điều tra của ông. Và tôi cũng cần được bảo đảm rằng liên quan đến câu chuyện Zalachenko, ông sẽ không viết về tôi một tí nào cả.

Blomkvist đang muốn đi tới chỗ coi Bjorck như một nguồn tin vô danh liên quan đến bối cảnh câu chuyện nhưng anh không thể bảo đảm rằng Bjorck sẽ lại không bị một người nào khác, cảnh sát chẳng hạn, nhận diện là nguồn tin của anh.

- Tôi không ngại về phía cảnh sát. - Bjorck nói.

Cuối cùng họ đồng ý trong một ngày hay hơn họ sẽ suy nghĩ về mọi cái trước khi họ bắt đầu chuyện trò lại.

Trong khi ngồi uống cà phê, Blomkvist cảm thấy có một cái gì ở ngay trước mũi mà anh không nhìn. Nó ở gần đến mức anh có thể cảm thấy hình thù nhưng anh không thể đem nó vào trong tầm tập trung chú ý. Rồi anh chợt thấy có một người khác có thể rọi một ánh sáng nào đó vào câu chuyện. Anh đang khá gần với nhà phục hồi sức khỏe ở Ersta. Anh xem đồng hồ. Anh có thể đi gặp Holger Palmgren.

Gặp Blomkvist xong, Bjorck kiệt sức. Lưng ông đau tệ hơn bao giờ. Ông uống ba viên thuốc giảm đau và phải nằm dài ra trên chiếc sofa phòng khách. Ý nghĩ quay cuồng trong đầu ông. Một giờ sau ông đứng lên đun ít nước rồi lấy ra một túi trà Lipton. Ông ngồi ở bàn bếp âm thầm ngẫm.

Ông có tin được Blomkvist không? Nay ông đang nằm trong tay người này. Nhưng ông vẫn găm lại cái thông tin then chốt: căn cước của Zalachenko và vai trò của hắn trong tất cả tấn bi kịch này.

Sao ông lại sa chân vào cái cảnh rối bét đồ quỷ này? Ông chỉ làm có mỗi việc là chi tiền cho vài đứa điếm. Ông độc thân. Cái con đĩ mười sáu tuổi kia thậm chí nó cũng chả bảo rằng nó thích ông cơ mà. Ông cảm thấy con bé ghê tởm ông. Nếu như nó không trẻ quá như thế. Nếu như nó hai mươi thì chuyện nom sẽ không tệ như thế này. Bjorck cũng ghét cả mình. Và ông chả cố giấu diếm gì điều đó.

Zalachenko.

Một ma cô dắt gái. Nực cười làm sao. Ông đã chơi điếm của Zalachenko. Nhưng Zalachenko đã đủ láu cá để đứng ở đằng sau.

Bjurman và Salander.

Và Blomkvist.

Một lối thoát.

Sau một giờ nghiền ngẫm ông đi vào thư phòng tìm một tờ giấy với số điện thoại ông lấy ở cơ quan đầu tuần này. Đó không phải là điều duy nhất ông giữ với Blomkvist. Ông biết chính xác chỗ Zalachenko đang ở. Nhưng đúng là ông chưa nói chuyện với hắn trong hơn mười hai năm nay. Cũng chả mong muốn chút nào làm lại cái chuyện đó.

Nhưng Zalachenko là một con quỷ ranh ma. Hắn sẽ hiểu ra vấn đề. Hắn có thể tan biến khỏi mặt đất, ra ngoài hay về hưu. Thảm họa tột cùng là nếu như hắn bị bắt. Lúc ấy mọi sự sẽ đổ ập xuống.

Ông ngập ngừng một lát rồi mới bấm số điện thoại.

- Xin chào, Sven Jansson đây. - Ông nói. Một cái tên đã rất lâu rồi ông không dùng. Zalachenko lập tức nhớ ngay ra ông là ai.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,154
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 28


Thứ Tư, 6 tháng Tư

Tám giờ tối Bublanski gặp Modig để uống cà phê và ăn một cái gì ở tiệm Wayne trên đường Vasagatan. Chị chưa bao giờ thấy sếp của mình ỉu xìu đến thế này. Cuối cùng chị giơ tay ra đặt lên bàn tay ông. Đây là lần đầu tiên chị đụng đến Bublanski, và chả có lý do nào khác ngoài tình đồng đội. Ông buồn buồn mỉm cười rồi vỗ vỗ tay chị, cũng là kiểu bạn bè.

- Có lẽ tôi nên rút. - Ông nói.

Chị cười độ lượng.

- Cuộc điều tra này rệu rã rồi. - Ông nói tiếp. - Nó đã rời thành mảnh. Tôi báo Ekstrom mọi chuyện xảy ra hôm nay thì ông ấy chỉ nói: "Ông thấy sao hay nhất thì làm". Ông ấy hình như hết khả năng hành động.

- Tôi không muốn hạ uy tín cấp trên nhưng theo tôi Ekstrom thích thì cứ đi mà làm lấy.

Bublanski gật.

- Cô đã chính thức trở lại với vụ này nhưng đừng có chờ ông ấy gặp xin lỗi cô nha. Faste sáng nay ầm ầm bỏ đi, tung hê hết như cha bố rồi lại tắt máy di động cả ngày. Nếu sáng mai ông ấy không đến tôi sẽ phải cho ai đó đi tìm.

- Theo tôi thì Faste cũng nên rút. Có chuyện gì với Hedstrom?

- Không có gì. Tôi muốn anh ta bị lên án nhưng Ekstrom không dám. Chúng ta đã đá anh ta đi và tôi đã nói chuyện nghiêm túc với Armansky. Chúng ta thôi làm việc cùng với An ninh Milton, như vậy là chúng ta bị mất cả Sonny Bohman và là không may cho chúng ta. Chuyện này xấu hổ. Ông ấy là thám tử có tài.

- Armansky chịu đựng chuyện này thế nào?

- Ông ta bị đè bẹp. Lạ là...

- Sao?

- Ông ấy nói Salander không bao giờ ưa Hedstrom. Ông ấy nhớ hai năm trước cô ấy đã bảo ông là nên thải Hedstrom. Cô ấy nói Hedstrom là cục cứt đê tiện nhưng không giải thích vì sao. Dĩ nhiên Armansky không làm như cô ấy gợi ý.

- Hay.

- Curtis vẫn ở dưới chỗ Sodertalje. Họ đang sắp làm một điều tra về chỗ ở của Carl - Magnus Lundin. Jerker thì ngập đến tận cổ với việc đào tìm các mẩu xác của Gã Ma cà bông Kenneth Gustafsson. Ngay trước khi tôi đến đây ông ấy gọi nói có một xác nữa ở cái huyệt thứ hai. Quần áo cho thấy là một phụ nữ. Hình như mới ở đấy một thời gian.

- Một tha ma đồng rừng. Jan, tôi cho là Salander không còn là nghi can trong các vụ án mạng ở Nykvarn nữa đâu.

Cả hàng giờ Bublanski nay mới mỉm cười:

- Đúng. Cô ấy được dập tên ở vụ này. Nhưng rõ ràng cô ấy có mang vũ khí và bắn Lundin.

- Ông chú ý, cô ấy bắn vào chân chứ không vào đầu hắn. Trong vụ Lundin chắc cũng không có gì khác nhiều nhưng chớ quên rằng người gây án mạng ở Enskede là tay bắn giỏi.

- Sonja... chuyện này hoàn toàn phi lý. Magnus Lundin và Sonny Nieminen là hai cha dữ dằn với những kỷ lục đều ra trò cả. Lundin có thể lên một hai cân và sức khỏe có thể đang không hay nhất nhưng hắn vẫn cứ là nguy hiểm. Còn Nieminen là một thằng vô lại hung tợn, ngay các dân chơi cũng phải sợ hắn. Tôi chỉ không hình dung ra nổi một thứ xương xẩu như Salander mà lại có thể đánh cho hai đứa hộc tiết ra như thế. Không phải vì hắn không đáng phải cho một trận, cô đừng hiểu lầm tôi. Chỉ là tôi không hiểu được sao lại xảy ra nổi chuyện ấy.

- Lúc nào thấy cô ấy chúng ta phải hỏi chuyện này. Muốn gì thì tư liệu cũng đã nói là cô ấy hung bạo.

- Ngay như Curt mà rờ đến hai thằng ấy cùng một lúc là cũng phải đắn đo. Đúng ra là Curt không có sứa đâu.

- Vấn đề là cô ấy tấn công Lundin và Nieminen vì lý do gì?

- Một cô gái nhỏ bé với hai thằng chập mạch trong một căn nhà nhỏ mùa hè. Tôi có thể nghĩ đến một hay hai lý do. - Bublanski nói.

- Có thể ai đó đã giúp cô ấy chăng? Có thể có người khác đã dính vào?

- Biên bản không nói cô ấy đã ở trong căn nhà nhỏ. Có một tách cà phê ở trên bàn. Ngoài ra có lời khai của bà Anna Viktoria Hansson, người canh gác khu vực, để mắt tới chuyện đi đứng của mọi người. Bà thề là duy nhất chỉ có Salander và hai vị anh hùng ở Svavelsjo kia đi qua bà mà thôi.

- Salander vào nhà kia như thế nào được nhỉ?

- Bằng chìa. Tôi đoán cô ấy lấy chìa khóa ở căn hộ của Bjurman. Cô nhớ...

- Băng dán niêm phong của cảnh sát bị cắt. Cô ấy vội.

Modig gõ ngón tay xuống bàn rồi hỏi sang hướng khác.

- Có thể khẳng định Lundin đã góp phần vào việc bắt cóc Miriam Wu được không?

- Cho Paolo nhận dạng ba chục người đi xe máy. Không do dự tẹo nào, ông ấy nhót phăng ngay ra cái người ông ấy trông thấy ở nhà kho ở Nykvarn.

- Còn Blomkvist?

- Tôi chưa liên hệ được với anh ấy. Không trả lời di động.

- Nhưng Lundin trùng với hình dáng miêu tả tên tấn công Salander ở Lundagatan. Vậy chúng ta có thể kết luận Câu lạc bộ Xe máy Svavelsjo đã từng lùng Salander một dạo. Tại sao?

Bublanski giơ hai tay lên.

Modig nghĩ.

- Suốt thời gian chúng ta tìm kiếm, cô ấy đã sống ở tại căn nhà mùa hè của Bjurman chăng?

- Tôi cũng nghĩ thế nhưng Gerger thì không. Căn nhà ấy trông như không có người mới ở, và có nhân chứng nói sớm hôm nay cô ấy mới đi bộ đến mà.

- Tại sao cô ấy đến đấy? Tôi không cho là cô ấy đã sắp xếp gặp Lundin.

- Khó. Chắc đến tìm một cái gì. Và cái duy nhất chúng ta tìm thấy ở đấy là hai hộp hồ sơ hình như có đựng cuộc điều tra của riêng Bjurman về Salander. Đấy là toàn bộ tài liệu của phúc lợi xã hội, giám hộ, Sở Giám hộ và các báo cáo cũ của nhà trường liên quan đến cô ấy. Nhưng hình như có mất một số danh mục. Đều có đánh số. Chúng ta có các danh mục 1, 4 và 5.

- Vậy mất 2 và 3.

- Và có thể các danh mục có các số cao hơn nữa.

- Vậy thì nổi lên vấn đề này. Tại sao Salander lại đi tìm thông tin về mình? - Modig nói.

- Tôi có thể nghĩ đến hai lý do. Hoặc cô ấy muốn giấu một cái gì mà cô ấy biết là Bjurman đã viết về cô ấy hoặc cô ấy muốn tìm một cái gì. Nhưng có một câu hỏi khác nữa.

- Là gì?

- Tại sao Bjurman lại sưu tập một báo cáo tổng hợp về cô ấy rồi đem giấu trong căn nhà nghỉ hè của mình? Salander hình như tìm thấy cái này ở gian áp mái. Ông ta là người giám hộ cô ấy và được phân công cai quản tài chính và các vấn đề khác của cô ấy. Nhưng các tài liệu ở đấy cho ta cảm tưởng là ông ấy gần như bị ám với chuyện phải dựng đồ thị về đời cô ấy.

- Nom Bjurman càng ngày càng ra là một nhân vật xấu. Tôi tính hôm nay sẽ xem hết ở Millennium danh sách đám ma cô dắt gái. Tôi có phần chờ đợi thấy cả tên ông ta ở đấy.

- Ý hay đấy. Thì cứ nhớ lại các phim ảnh con heo bạo lực ta tìm thấy ở trong máy tính ông ta đấy. Cô có tìm thấy gì ở Millennium không?

- Tôi thực sự không biết. Blomkvist đang bận kiểm tra các tên trong danh sách nhưng theo Malin Eriksson, một biên tập viên ở đó, thì anh ấy chưa vớ được cái gì thú vị cả. Jan... tôi cần nói một điều. Tôi nghĩ ở trong vụ này, Salander không làm gì cả. Tôi muốn nói Enskede và Odenplan. Lúc ta mới bắt đầu tôi cũng đinh ninh như tất cả mọi người nhưng nay tôi không tin như thế nữa. Tại sao thì tôi không giải thích được.

Bublanski nhận thấy ông đồng ý với Modig.

Gã khổng lồ đi đi lại lại ở trong nhà của Lundin ở Svavelsjo. Hắn dừng lại bên cửa số bếp nhìn xuống đường. Đến nay lẽ ra bọn chúng đã phải về rồi đây. Hắn cảm thấy bụng hắn như thót lại: có một cái gì đó không ổn.

Hắn không thích ở một mình trong ngôi nhà này. Ở đây hắn không yên như ở nhà. Trên gác có một ống thông gió, luôn luôn có tiếng động gì là lạ. Hắn cố rũ đi nỗi thấp thỏm. Chuyện này rồ, hắn biết thế, nhưng hắn không bao giờ thích đơn độc một mình. Bét ra thì hắn không có sợ con người xương thịt nhưng hắn lại cho rằng các ngôi nhà trống không ở đồng quê mới đáng sợ ghê gớm. Các tiếng động làm cho óc tưởng tượng của hắn hoạt động. Hắn không bỏ đi được cái cảm giác có một ai đó đen đen và hiểm độc đang theo dõi hắn qua khe nứt ở cửa. Một cái gì mà hắn tin là nó đang thở.

Lúc trẻ đã bị rắc rối vì nỗi sợ bóng tối. Hắn đã bị rắc rối cho đến khi hắn đem đám bạn bè của hắn phân loại búa xua ra, cả bọn cùng tuổi lẫn bọn lớn tuổi hơn hắn, hai bọn này đều khoái về chỗ kém cỏi này của hắn. Hắn đã giỏi phân loại mọi người.

Nhưng hắn đang bối rối. Hắn ghét bóng tối, ghét ở một mình. Hắn ghét mọi tạo vật sống trong bóng tối và cô quạnh. Hắn mong Lundin về nhà. Lundin có mặt sẽ làm cho hắn cân bằng lại, cho dù hai đứa chả hề nói một lời với nhau hay chả ở cùng một phòng. Hắn sẽ nghe thấy tiếng động thực tại và biết là có người ở bên.

Hắn mở máy nghe đĩa, cố xua đi nỗi lo thấp thỏm rồi bồn chồn cố tìm ở các giá sách của Lundin ra một cái gì hắn muốn đọc. Sở thích đọc của Lundin thì tệ, hắn đã phải bằng lòng với một sưu tập về các tạp chí xe máy, tạp chí đàn ông và những sách trinh thám bìa thường thuộc vào cái loại hắn không bao giờ chú ý đến.

Cảnh cô đơn ngày càng làm cho hắn sợ sẽ bị hãm kín lại ở đây. Hắn lau chùi bôi mỡ cho khẩu súng hắn giữ trong túi đồ đạc, việc này làm cho hắn lắng dịu đi một lúc.

Cuối cùng hắn không thể ở mãi trong nhà được nữa. Hắn đi quanh vườn cho có chút không khí mát mẻ. Giữ cho các nhà hàng xóm không nhìn thấy, nhưng hắn lại hay dừng lại để quan sát các cửa sổ sáng đèn, nơi có người. Nếu đứng im hoàn toàn hắn có thể nghe thấy tiếng nhạc xa xa.

Khi rời đi hắn phải quay trở vào căn nhà gỗ sơ sài của Lundin, hắn đứng một lúc lâu ở các bậc lên xuống để rũ bỏ cái cảm giác bị đè nén rồi mới dứt khoát bước vào.

7 giờ hắn xem tin tức trên TV4. Hắn kinh hoàng nghe các đầu đề tin rồi một tường thuật về vụ bắn người ở ngôi nhà nghỉ hè tại Stallarsholmen.

Hắn chạy lên cầu thang về gian phòng của hắn ở tầng trên cùng, nhét đồ lề vào một cái túi. Hai phút sau hắn lái chiếc Volvo trắng bỏ đi.

Hắn đã kịp thời chạy trốn trót lọt. Ở ngoài Svavelsjo không đến hai cây số, hai xe cảnh sát đèn xanh nhấp nháy chạy qua hắn trên con đường dẫn họ tới ngôi làng.

Sau một hồi kiên nhẫn thương lượng rất lâu, Blomkvist đã được cho gặp Holger Palmgren. Anh nài ghê quá đến nỗi cô y tá phụ trách đã phải gọi bác sĩ Sivarnandan có vẻ như sống gần đó. Mười lăm phút sau, bác sĩ đến và đứng ra giải quyết với tay nhà báo bướng bỉnh. Lúc đầu ông chả có thiện cảm. Hai tuần qua mấy nhà báo đã tìm ra chỗ Palmgren ở và dùng mọi mánh múng để lấy được một lời tuyên bố của ông. Chính Palmgren đã thẳng cánh từ chối tiếp các vị khách đó, bác sĩ cùng nhân viên bệnh viện đã được chỉ thị không cho ai vào gặp ông.

Bác sĩ Sivarnandan đang rất thất vọng theo dõi vụ này. Các đầu đề tin mà Salander gây nên ở trên báo làm cho ông sốc. Người bệnh của ông đã bị trầm cảm nặng, và ông ngờ nguyên nhân là do Palmgren bó tay không thể giúp được Salander. Palmgren đã bỏ điều trị phục hồi chức năng vận động, nay ông suốt ngày đọc báo và theo dõi việc săn lùng cô gái trên tivi. Không thì ngồi trong buồng ngẫm nghĩ.

Blomkvist cứ đứng ở bàn làm việc của Sivarnandan, giải thích rằng anh dĩ nhiên không đời nào lại muốn quàng một điều không vui nào vào Palmgren. Anh không muốn ông già tuyên bố gì hết. Anh là bạn thân của Salander, anh tin cô ấy vô tội và anh chỉ là đang cùng đường đi tìm những thông tin có thể rọi một vài ánh sáng nào đó vào vài khía cạnh nào đó trong quá khứ của cô mà thôi.

Không dễ mà thuyết phục bác sĩ Sivarnandan. Blomkvist phải nói rõ chi tiết về vai trò của anh trong bi kịch này. Thảo luận mất tới nửa giờ Sivarnandan mới bằng lòng. Ông bảo anh chờ đấy rồi đi lên hỏi Palmgren có muốn tiếp anh không.

Mười phút sau Sivarnandan quay lại.

- Ông ấy bằng lòng gặp. Nếu ông ấy không thích anh thì ông ấy sẽ cho anh ra xe mà về. Anh sẽ không được phỏng vấn hay viết gì lên báo về cuộc thăm viếng này.

- Tôi không viết dòng nào.

Phòng của Palmgren là một phòng nhỏ gồm một chiếc giường, một bàn làm việc, một bàn và hai chiếc ghế. Ông gầy và bạc đầu như một con bù nhìn. Rõ ràng là ông bị rắc rối về thăng bằng nhưng ông vẫn cứ đứng lên khi Blomkvist đến. Ông không chìa tay ra nhưng chỉ vào một chiếc ghế bên bàn. Blomkvist ngồi xuống. Bác sĩ Sivarnandan ở lại trong phòng. Thoạt đầu Blomkvist nghe không thủng lời lẽ ngọng líu ngọng lường của Palmgren.

- Ông là ai mà bảo là bạn của Salander, thế ông muốn gì?

- Ông không phải nói gì với tôi cả. Nhưng tôi đề nghị ông nghe tôi nói đã rồi hãy tống cổ tôi sau.

Palmgren gật cụt lủn một cái rồi lê lê đến chiếc ghế đối diện Blomkvist.

- Tôi gặp Salander lần đầu tiên hai năm trước. Tôi đã thuê cô ấy điều tra một số việc cho tôi. Cô ấy đã đến chỗ tôi ở một thị trấn khác, nơi tôi sống lúc bấy giờ. Và chúng tôi đã làm việc với nhau trong mấy tuần.

Anh nghĩ anh nên nói rõ với Palmgren đến đâu. Anh quyết định nói gần sự thật bao nhiêu hay bấy nhiêu.

- Trong thời gian đó xảy ra hai việc quan trọng. Một là Salander đã cứu sống tôi. Hai là chúng tôi đã thành bạn rất thân một dạo. Tôi đã hiểu được cô ấy và tôi đánh giá cô ấy rất cao.

Không đi vào chi tiết, Blomkvist cho Palmgren biết quan hệ của hai người đã thình lình chấm dứt như thế nào sau lễ Giáng sinh năm ngoái, khi Salander ra nước ngoài.

Rồi anh nói về công việc của anh ở Millennium, về Svensson và Johansson đã bị giết và anh bị kéo vào cuộc săn lùng tên giết người ra sao.

- Tôi nghe là mới đây ông đã bị các phóng viên làm phiền và các bài báo ngu xuẩn chắc chắn là đã liên tiếp theo nhau đăng lên. Tôi chỉ có thể làm được một điều là bảo đảm với ông rằng tôi đến đây không để kiếm vật liệu viết báo. Tôi đến đây vì Lisbeth, với tư cách là bạn của cô ấy. Tôi chắc tôi là một trong rất ít người ở đất nước này đang ủng hộ cô ấy không do dự và không có động cơ sâu xa nào. Tôi tin cô ấy vô tội. Tôi tin rằng một người tên là Zala đứng ở đằng sau các kẻ giết người.

Blomkvist dừng lại. Một cái gì lấp lánh trong mắt Palmgren khi anh nói đến tên Zala.

- Nếu ông có thể góp một cái gì rọi được ánh sáng vào quá khứ của Lisbeth thì đây là thời cơ để làm việc đó. Nếu ông không muốn giúp cô ấy thì tôi đã phí phạm thì giờ của tôi và của ông và tôi hiểu là ông đứng về bên nào.

Trong lúc Blomkvist nói một mình như vậy, Palmgren không thưa thốt gì. Khi anh dừng lại, mắt ông lại sáng lên. Nhưng ông mỉm cười. Ông cố nói cho hết sức rõ.

- Ông muốn giúp cô ấy thật chứ?

Blomkvist gật.

Palmgren cúi về trước.

- Tả phòng khách của cô ấy xem nào.

- Những lần tôi đến, cô ấy có các đồ nội thất cũ nát, cực kỳ xấu xí, chỉ còn chút ít giá trị nào đó với các con mắt tò mò. Tôi đoán là của đầu những năm 50. Có hai cái đệm nát bọc bằng vải nâu với các hoa văn màu vàng đại khái thế. Vải bọc đã rách vài chỗ và ruột ở bên trong thì đã lòi ra khi tôi trông thấy lần cuối cùng.

Thình lình Palmgren cười phá lên. Nghe như ông dặng hắng thì đúng hơn. Ông nhìn bác sĩ Sivarnandan.

- Ít nhất thì anh ta đã có đến nhà cô ấy. Bác sĩ nghĩ có thể mời ông khách của tôi cà phê được không đấy?

- Chắc chắn rồi. - Bác sĩ Sivarnandan đứng lên để đi. Ông dừng lại ở cửa gật đầu với Blomkvist.

- Alexander Zalachenko. - Bác sĩ vừa đóng cửa lại là Palmgren liền nói.

- Vậy là ông có biết cái tên ấy.

- Lisbeth bảo tôi. Và tôi nghĩ cái quan trọng là tôi phải kể câu chuyện này lại với một ai đó... phòng khi tôi có lăn đùng ra chết, gì chứ điều này thì hoàn toàn là có thể xảy ra quá đấy.

- Lisbeth? Sao cô ấy lại biết được gì đó về con người này?

- Ông ta là bố của Lisbeth.

Thoạt đầu Blomkvist không hiểu nổi ông già nói gì. Rồi lời lẽ của ông đã ngấm vào anh.

- Ông nói cái quỷ gì vậy?

- Zalachenko đến Thụy Điển vào những năm 70. Kiểu như là tị nạn chính trị - tôi không được trực tiếp nghe hẳn hoi câu chuyện còn Lisbeth thì ngậm chặt miệng. Đó là thứ cô ấy tuyệt đối không muốn nói đến.

Giấy khai sinh của cô ấy. Đề bố không rõ.

- Zalachenko là bố của Lisbeth. - Blomkvist nhắc to lại.

- Trong từng ấy năm tháng chỉ có mỗi một dịp cô ấy nói với tôi chuyện gì đã xảy ra. Khoảng một tháng trước khi tôi bị nhồi máu cơ tim. Đây, tôi được hiểu là như thế này - Zalachenko đến đây vào khoảng giữa những năm 70. Năm 1977, ông ta gặp mẹ Lisbeth, hai bên có quan hệ với nhau, kết quả là hai đứa con.

- Hai?

- Lisbeth và cô em sinh đôi Camilla.

- Lạy Chúa, thế là những hai người như thế?

- Hai chị em rất khác nhau. Nhưng đó lại là chuyện khác. Tên mẹ Lisbeth thật ra là Agneta Sofia Sjolander. Gặp Zalachenko lúc mười bảy tuổi. Tôi không biết gì thêm về việc họ gặp nhau nhưng tôi suy ra thì bà ấy là một cô gái còn bị lệ thuộc hoàn toàn, dễ thành miếng mồi cho một người đàn ông nhiều tuổi hơn, lõi đời hơn. Bị ngợp trước ông ấy, chắc bà ấy đã yêu lăn yêu lóc ông ấy. Zalachenko té ra chả được điểm gì ngoài cái đẹp trai. Tôi nghĩ ông ta chỉ là theo một người phụ nữ đang muốn yêu thế thôi chứ chẳng có gì nhiều hơn. Dĩ nhiên bà ấy mơ tưởng một tương lai có bảo đảm với ông ấy nhưng ông ấy lại không chú ý gì hết đến hôn nhân. Đúng là họ không bao giờ cưới nhau nhưng đến năm 1979 thì bà ấy đổi họ mình từ Sjolander ra thành Salander. Tôi cho đó là cách bà ấy mượn để tỏ ra họ mãi mãi thuộc về nhau.

- Ý ông là sao?

- Zala, Salander mà.

- Chúa ơi. - Blomkvist nói.

- Ngay trước khi bị bệnh tôi đã bắt đầu nhìn vào tất cả chuyện này. Bà ấy có quyền lấy họ ấy vì mẹ của bà, bà ngoại của Lisbeth, mang họ Salander thật. Rồi chuyện xảy ra là vào đúng lúc này Zalachenko tự bộc lộ ra là một tay tâm thần nặng. Ông ta uống rượu và hành hạ dã man Agneta. Như tôi biết, sự hành hạ này diễn ra qua suốt tuổi thơ của hai cô con gái. Như Lisbeth nhớ được, Zalachenko đôi hồi cũng có đến nhà. Có khi ông ta đi đâu rất lâu rồi thình lình lại ở đó, trong căn hộ của họ trên đường Lundagatan. Mỗi lần về lại vẫn cứ là câu chuyện cũ. Ông ta đến đấy để làm tình, say xỉn, rồi cuối cùng hành hạ mẹ Lisbeth bằng đủ mọi kiểu. Lisbeth kể cho tôi những chuyện cho thấy là còn hơn cả chuyện hành hạ thể xác. Ông ta cầm súng dọa, trong việc dọa có cả những khía cạnh của bạo dâm và khủng bố tâm lý. Tôi suy ra là theo cùng năm tháng chuyện này chỉ càng thêm tồi tệ mà thôi. Mẹ của Lisbeth sống phần lớn những năm 80 trong sợ hãi.

- Ông ta có đánh con không?

- Không. Có vẻ ông ta không đoái gì đến hai đứa con gái. Chả chào chúng lấy một câu. Khi Zalachenko xuất hiện, mẹ chúng thường đưa chúng vào một gian phòng nhỏ và những lúc ấy chỉ khi mẹ cho phép chúng mới được ra. Một lần ông có đét Lisbeth hay đứa em gái nhưng chính là vì chúng làm ông ấy cáu hay vướng cẳng ông ấy như thế nào đó. Bạo hành dồn hết cả vào mẹ chúng.

- Lạy Chúa. Tội nghiệp Lisbeth.

Palmgren gật.

- Lisbeth kể hết chuyện này với tôi không lâu trước khi tôi ốm. Đấy là lần đầu tiên cô ấy nói thẳng về những gì đã xảy ra. Tôi đã quyết định là đến lúc phải xóa bỏ lời tuyên bố ngu xuẩn về việc cô ấy không thể tự cai quản cùng với mọi thứ. Lisbeth cũng thông minh như bất kỳ ai mà tôi biết, tôi đã chuẩn bị đưa trường hợp của cô ấy lên tòa án quận. Rồi tôi bị đột quỵ... rồi khi tỉnh lại thì tôi ở đây.

Một nữ y tá gõ cửa mang cà phê vào. Palmgren ngồi im cho đến khi cô đi ra.

- Trong chuyện của Lisbeth có một số việc tôi không hiểu. - Ông nói. - Agneta bị buộc đi bệnh viện cả hàng chục lần. Tôi đã đọc y bạ của bà ấy. Rõ ràng bà ấy là nạn nhân của sự hành hung ở mức độ nghiêm trọng và cần có phúc lợi xã hội can thiệp. Nhưng không xảy ra chuyện gì hết. Bất cứ khi nào mẹ cần được điều trị thì Lisbeth và Camilla lại phải ở tại cơ sở cấp cứu nhưng vừa được cho ra viện là bà ấy đã phải về ngay nhà và chờ đi cấp cứu lần sau. Tôi chỉ có thể nói đó là sự sụp đổ của toàn bộ mạng lưới bảo hiểm xã hội còn Agneta thì quá khiếp hãi đến mức không thể làm được gì khác ngoài việc chờ kẻ hành hạ mình mò đến. Rồi một cái gì đó đã xảy ra. Lisbeth gọi nó là "Tất cả Xấu xa".

- Là cái gì vậy?

- Zalachenko lần ấy đi đâu lâu mấy tháng. Lisbeth đã sang tuổi mười hai. Có vẻ cô ấy bắt đầu nghĩ thôi thì ông hãy đi mãi đi cho khuất mắt. Nhưng dĩ nhiên ông ta không. Một hôm ông ta quay về. Trước tiên Agneta đưa hai con gái vào trong gian phòng bé. Rồi lên giường với Zalachenko. Thế rồi ông ta đánh bà. Đánh người thì ông ta sướng mà. Nhưng lần này hai đứa con gái không bị khóa... Chúng đã phản ứng khác hẳn. Camilla hãi khiếp vía lên vì một ai đó sẽ phát hiện ra là nhà cô đang có chuyện. Cô bé này nén đi hết mọi thứ, làm ra vẻ mẹ mình không hề bao giờ bị đánh. Khi bố thôi hành hạ mẹ, cô ta có thể đi vào ôm lấy bố, làm như mọi sự đều tốt đẹp cả.

- Cách này là để tự vệ cho mình, chắc thế.

- Đúng. Nhưng Lisbeth lại là một kiểu phản ứng hoàn toàn khác. Lần này cô ngăn không cho bố hành hạ mẹ. Cô vào bếp lấy một con dao rồi đến đâm vào vai Zalachenko. Cô đâm năm nhát rồi ông bố mới cố lấy được con dao và đấm vào mặt cô. Xem vẻ ông ta không bị thương nặng nhưng ông ta chảy máu như một con lợn bị chọc tiết rồi chạy đi.

- Nghe đúng là Lisbeth.

Palmgren cười kha kha.

- Đúng, nghe đúng là Lisbeth. Đừng có đánh nhau với Lisbeth Salander nhé. Với thế giới, thái độ của cô ấy là nếu ai đó dọa cô ấy bằng khẩu súng lục thì cô ấy sẽ tìm khẩu súng bự hơn. Chính điều này làm cho tôi sợ ghê gớm về chuyện gì đang diễn ra ngay lúc này.

- Vậy "Tất cả Xấu xa" là như thế đấy ư?

- Không, không. Rồi hai chuyện nữa xảy ra. Tôi không hiểu được chuyện này là thế nào. Zalachenko bị thương phải đi bệnh viện. Lẽ ra phải có một biên bản của cảnh sát.

- Nhưng?

- Nhưng như tôi phát hiện, tuyệt đối không có hồi âm nào. Lisbeth nhớ là có một người đến nói chuyện với mẹ. Cô không biết nói gì và người ấy là ai. Rồi mẹ cô bảo Zalachenko tha thứ cho cô mọi cái.

- Tha thứ?

- Cô ấy nói như thế mà.

Và thình lình Blomkvist hiểu.

Bjorck. Hay một đồng nghiệp của Bjorck. Dọn dẹp hậu sự cho Zalachenko. Con mẹ những con lợn này. Anh nhắm mắt lại.

- Gì thế?

- Tôi nghĩ là tôi biết chuyện gì xảy ra rồi. Và có người sẽ phải trả giá ở đây. Nhưng ông nói tiếp đi.

- Zalachenko đi mấy tháng. Lisbeth chờ ông ta và chuẩn bị. Cô ấy trốn học hàng ngày để theo dõi mẹ. Cô ấy sợ muốn chết về chuyện Zalachenko có thể làm cho mẹ bị thương. Mười hai tuổi, cô ấy đã thấy mình có trách nhiệm với người mẹ vốn không dám đi báo cảnh sát và đoạn tuyệt với Zalachenko, hay không hiểu được tình cảnh nghiêm trọng như thế nào. Nhưng cuối cùng hôm Zalachenko đến, Lisbeth lại đi học. Cô về nhà đúng lúc ông bố rời đi. Ông ta không nói gì với cô, chỉ cười chế nhạo. Lisbeth vào nhà thấy mẹ bất tỉnh ở trên sàn bếp.

- Nhưng Zalachenko không đụng đến Lisbeth à?

- Đúng. Cô ấy bắt kịp ông bố khi ông ta lên xe. Ông ta hạ kính cửa xuống, có lẽ để nói cái gì đó. Lisbeth đã sẵn sàng. Cô ấy ném một hộp sữa đựng đầy xăng vào trong xe. Rồi ném theo một que diêm đã cháy.

- Trời.

- Cô ấy đã hai lần cố giết bố. Lần này có kết quả. Một người ở trong xe hơi bốc cháy như cây đuốc thì rất dễ bị để ý.

- Nhưng ông ta sống sót.

- Ông ta đau đớn kinh khủng. Một chân bị cưa cụt. Mặt và nhiều chỗ trên người bị bỏng nặng. Và Lisbeth cuối cùng vào bệnh viện tâm thần Thánh Stefan cho thiếu niên.

Mặc dù đã thuộc lòng từng chữ, Salander vẫn đọc lại một lần nữa tài liệu về mình mà cô tìm thấy trong hộp hồ sơ của Bjurman. Cô ngồi ở ghế bên cửa sổ, mở hộp thuốc lá Miriam Wu cho. Cô châm một điếu thuốc và nhìn về phía Djurgarden. Cô phát hiện ra một vài điều về đời mình mà trước kia cô chưa bao giờ biết.

Quá nhiều điều đã trở về với chỗ của chúng đến nỗi cô đâm ra bình tĩnh hẳn lại. Cô chú ý trên hết tới bản báo cáo Bjorck viết hồi tháng Hai năm 1991. Cô không biết chắc trong số những người lớn tuổi nói chuyện với cô thì người nào là Bjorck nhưng cô nghĩ là cô biết. Hắn đã tự giới thiệu với một cái tên khác. Sven Jansson. Cô nhớ từng nét trên mặt hắn, từng lời hắn nói, từng cử chỉ hắn đã làm trong ba dịp cô gặp hắn.

Tất cả câu chuyện là một thảm họa.

Zalachenko bốc cháy đùng đùng ở trong xe. Ông ta cố mở cửa ra, lăn lộn trên mặt đường nhưng chân ông ta bị vướng vào thắt lưng an toàn nên mắc kẹt 4d91 ở trong xe. Người ta chạy vội đến dập ngọn lửa. Một xe cứu hỏa đến đã làm tắt đám cháy. Xe cứu thương đến, cô đã cố làm cho các bác sĩ không biết đến Zalachenko để mà vào xem ngay cho mẹ. Họ đã gạt cô ra. Cảnh sát đến, có những người chứng kiến chỉ vào cô. Cô cố giải thích chuyện xảy ra nhưng xem ra không ai nghe cô cả. Rồi thình lình cô lên ngồi ở ghế sau của xe cảnh sát. Rồi phải mất hàng phút, hàng phút, cả hàng phút rồi gần như phải một giờ nữa, cuối cùng cảnh sát mới vào nhà tìm thấy mẹ cô.

Agneta Sofia Salander mê man bất tỉnh. Não bà bị tổn thương. Trong một loạt dằng dặc những lần xuất huyết não nho nhỏ do đánh đập gây nên thì đây là tổn thương đầu tiên. Bà không bao giờ phục hồi được nữa.

Nay Salander hiểu tại sao không có ai đọc báo cáo của cảnh sát, tại sao Palmgren toan tung nó ra thì đã thất bại, và tại sao công tố viên Ekstrom chỉ huy cuộc lùng kiếm cô thì lại không sờ tay vào nó được. Nó không do cảnh sát bình thường viết ra. Một tên sâu bọ nào đó trong Cảnh sát An ninh đã dựng ra nó. Có con dấu cao su đúc đóng ở đó nói rằng căn cứ vào luật an ninh quốc gia, bản báo cáo này đã được xếp loại Tối Mật.

Zalachenko đã làm việc cho Sapo.

Không phải là báo cáo. Là một tấm màn che đậy. Zalachenko quan trọng hơn Agneta Salander. Không được nhận diện hay phơi bày ông ra. Zalachenko không tồn tại.

Vấn đề không phải là Zalachenko - vấn đề là Lisbeth Salander, con nhãi ranh điên rồ đe dọa làm vỡ lở tanh bành ra một trong những bí mật quan trọng của đất nước.

Một bí mật mà cô chả biết tí nào về nó. Cô ngẫm nghĩ. Zalachenko vừa đến Thụy Điển đã sớm gặp mẹ cô ngay. Ông đã tự giới thiệu với tên họ thật. Có lẽ lúc ấy ông chưa được cho bí danh hay căn cước Thụy Điển, hay là ông không dùng đến nó với bà. Bà chỉ biết tên họ thật của ông. Nhưng ông đã được Chính phủ Thụy Điển cho một tên mới. Điều đó giải thích vì sao trong những năm đó cô không bao giờ tìm ra được tên ông trong bất cứ sổ đăng ký công cộng nào.

Cô đã hiểu ra. Nếu Zalachenko bị lên án hành hung với mức độ nghiêm trọng thì trước tiên luật sư của Agneta Salander sẽ bắt tay nhòm vào tung tích ông. Ông làm ở đâu, Zalachenko? Tên họ thật của ông là gì? Ông người ở đâu? Nếu Salander rút cục đi đến với dịch vụ xã hội thì có thế một ai đó sẽ bắt đầu đào bới quanh. Cô quá bé, tòa không kết án được nhưng nếu điều tra rất kỹ vào chi tiết của vụ tấn công bằng bom xăng thì chuyện kết án có thể xảy ra. Cô tưởng tượng ra được các đầu đề trên báo. Điều tra lẽ ra cần phải được một người đáng tin cậy tiến hành. Thế rồi cộp cho một con dấu Tối Mật và vùi bản báo cáo đi thật sâu để không ai tìm ra được nó. Như Salander cũng cần phải được chôn cho thật sâu để không ai còn tìm ra cô nữa.

Gunnar Bjorck.

Bệnh viện Thánh Stefan.

Peter Teleborian.

Lời giải thích đã làm cho cô điên lên.

Chính phủ yêu dấu... Tôi sẽ có một buổi chuyện trò nghiêm túc với các vị nếu như tôi tìm ra một ai đó để mà nói.

Cô thầm nghĩ lơ mơ. Bộ Y tế và Phúc lợi xã hội sẽ nghĩ thế nào về việc có một quả bom xăng quăng vào cửa trước của bộ họ. Nhưng do không có ai khác nhận trách nhiệm thì Teleborian là một chân thay thế tốt. Cô nhẩm tính khi thu dọn xong chỗ rối ren còn lại này thì cô sẽ nói chuyện nghiêm chỉnh ngay với ông ta.

Nhưng cô vẫn chưa biết hết toàn bộ bức tranh. Sau ngần ấy năm Zalachenko thình lình lại tái xuất với đời. Ông có nguy cơ bị Svensson phơi trần. Hai phát súng. Svensson và Johansson. Khẩu súng có dấu tay của cô ở trên...

Zalachenko hay một ai khác được ông cử đi bắn có thể đã không biết được rằng cô đã tìm thấy khẩu súng đó ở cái hộp trong ngăn kéo bàn làm việc của Bjurman rồi cầm lấy nó. Thuần túy tình cờ nhưng với cô thì rõ ràng là giữa Bjurman và Zala đã có quan hệ từ đầu.

Nhưng câu chuyện vẫn chưa kết gắn lại. Cô nghĩ tới nghĩ lui, cố tuần tự gá lại vào nhau các miếng của ván chơi ghép hình.

Chỉ có một câu trả lời hợp lý mà thôi.

Bjurman.

Bjurman đã điều tra vào đời cô. Hắn đã phát hiện ra mối quan hệ. Hắn đã quay sang với Zalachenko. Cô có đĩa video Bjurman hiếp cô. Đó là thanh gươm treo trên cổ hắn. Có lẽ hắn mơ tưởng Zalachenko có thể sẽ bắt được cô bỏ cuộc.

Cô nhảy xuống khỏi ghế, mở ngăn kéo bàn làm việc lấy ra chiếc đĩa DVD có chữ Bjurman viết bằng bút dạ. Cô cũng không để nó vào cả túi ni lông. Cô chưa nhòm đến nó từ khi cô cho Bjurman xem tận mắt chính hắn ta ở trên màn hình hai năm trước. Cô cân nhắc nó trong tay rồi lại để vào ngăn kéo bàn làm việc.

Bjurman là đứa ngu. Chỉ cần hắn giữ khoảng cách thì cô sẽ buông hắn ngay khi hắn tìm cách rút bỏ được lời tuyên bố cô không thể tự quản. Hắn đã mãi mãi biến ra thành con chó kiểng mà Zalachenko ôm ở trong lòng và đó là một trừng phạt công bằng.

Mạng lưới của Zalachenko. Một vài xúc tu của nó vươn dài ra tuốt đến tận Câu lạc bộ Xe máy Svavelsjo.

Thằng khổng lồ tóc vàng.

Hắn là chiếc chìa khóa của cô.

Cô phải gặp hắn và bắt hắn nói ra chỗ của Zalachenko.

Cô châm một điếu thuốc khác và nhìn ra bức thành ở gần Skeppsholmen. Cô nhìn tít ra tới đường sắt của khu giải trí ở Grona Lund. Cô đang tự nói chuyện với mình. Và bằng cái giọng cô đã nghe thấy một lần ở trong một bộ phim, cô nói:

Bô ô ô ô ô ố, con đang đến gặp bố đây.

7 giờ, cô bật tivi, bắt kịp những diễn biến mới nhất của cuộc săn lùng Lisbeth Salander. Cô ngạc nhiên với những cái cô nhìn thấy.

Cuối cùng sau 8 giờ tối, Bublanski đã gọi được Faste ở di động của ông ta. Không đùa bỡn như mọi bận. Ông không hỏi Faste đã làm được đến đâu mà lạnh lùng cho chỉ thị.

Không chịu hơn được nữa với màn xiếc sáng nay ở trụ sở cảnh sát, Faste đã làm một việc trước đây ông chưa từng trong giờ làm việc. Ông bỏ ra ngoài thị trấn. Tắt di động, ông đến ngồi ở quán bar tại Ga trung tâm, uống hai lon bia trong khi người cứ sôi lên vì giận dữ.

Rồi ông về nhà, tắm và đi ngủ.

Ông cần ngủ để lấy lại sức.

Ông thức dậy đúng vào lúc có mục Rapport và mắt ông gần như đã nổ lòi ra khi ông nghe các tin hàng đầu. Đào được các xác chết ở Nykvarn. Salander đã bắn một thủ lĩnh của Câu lạc bộ Xe máy Svavelsjo. Cảnh sát săn lùng khắp các ngoại thành phía nam. Lưới vây đang thắt chặt lại.

Ông mở di động.

Gần như lập tức cha nhắng Bublanski gọi. Ông ta nói nay cuộc điều tra đang chuyển hướng chú ý sang nhận diện một kẻ giết người có thể là khác và Faste cần thay thế Holmberg tại hiện trường gây án ở Nykvarn. Trong việc mở lại cuộc điều tra Salander, Faste được giao đi nhặt các đầu mẩu thuốc lá ở trong rừng. Những người khác thì săn lùng Salander.

Cái đồ quỷ gì mà bọn Câu lạc bộ Xe máy Svavelsjo lại dính bết vào tất cả trò này?

Khéo mà con đĩ ô môi Modig đã lý sự gì đó rồi chăng.

Không thể như thế được.

Chắc phải là Salander.

Ông muốn mình sẽ là người bắt cô ta. Ông muốn bắt Salander dữ dằn đến nỗi mới chỉ nghĩ thế thôi mà gần như tay ông đã thấy đau trong khi nắm chiếc di động.

Palmgren điềm đạm nhìn Blomkvist đi đi lại lại ở trước cửa sổ gian phòng nhỏ. Đã sắp 7 rưỡi tối và họ nói chuyện liền trong gần một giờ đồng hồ. Cuối cùng Palmgren đập tay lên bàn để cho Blomkvist chú ý.

- Ngồi xuống chứ không thì vẹt hết cả giầy rồi kia. - Ông nói.

Blomkvist ngồi xuống.

- Tôi không hiểu được mối liên hệ của tất cả những bí mật này cho đến khi ông giải thích cho hay về lai lịch của Zalachenko. Tất cả những gì tôi thấy là những điều khẳng định của Lisbeth nhận rằng mình bị bệnh tâm thần.

- Peter Teleborian.

- Hắn chắc đã có bàn bạc gì với Bjorck. Chắc chúng đã phải làm việc với nhau như thế nào đó.

Palmgren đăm chiêu gật đầu. Xảy ra bất cứ sự gì thì Teleborian sẽ là đối tượng mà báo chí quan sát kỹ.

- Lisbeth nói tôi phải ở cho xa ông ấy. Rằng ông ấy xấu xa.

Palmgren nhìn rọi vào anh.

- Cô ấy nói khi nào?

Blomkvist không nói một lúc. Rồi anh mỉm cười nhìn Palmgren.

- Nhiều bí mật hơn nữa cơ, con khỉ. Tôi đã liên hệ với cô ấy khi cô ấy đang lẩn trốn. Tin tức từ phía cô ấy chỉ là những tin mã hóa ngắn nhưng cô ấy luôn đưa tôi vào hướng đúng.

Palmgren thở dài.

- Và dĩ nhiên là anh không báo cảnh sát.

- Đúng. không báo.

- Vậy thì anh cũng không phải bảo tôi. Cô ấy khá giỏi máy tính.

Ông không biết giỏi đến cỡ nào đâu.

- Tôi rất tin là cô ấy có bản lĩnh tự lập. Cô ấy có thể gian nan nhưng cô ấy là kẻ sống sót.

Không gian nan đến thế đâu. Cô ấy tháu được ba tỉ curon. Cô ấy sẽ không đói mà. Cô ấy là một cái túi đầy những vàng, hệt như Pippi Tất dài.

- Điều mà tôi hoàn toàn không hiểu, - Blomkvist nói, - là tại sao trong cả từng ấy năm trời ông lại không đưa vụ cô ấy ra tòa.

Palmgren lại thở dài. Ông thấy buồn vô hạn.

- Tôi đã không đầy phận với cô ấy. - Ông nói. - Khi tôi làm giám hộ, cô ấy chỉ là một trong cả loạt thanh thiếu niên khó khăn có vấn đề. Tôi phải giải quyết với cả chục người khác nữa. Tôi được Stefan Bradhensjo lúc đó làm Bộ trưởng Bộ Phúc lợi phân công. Lúc đó cô ấy đã ở bệnh viện Thánh Stefan và năm đầu tiên tôi không gặp cô ấy. Tôi có nói chuyện với Teleborian hai lần, ông ấy giải thích rằng cô ấy bị bệnh tâm thần và cô ấy được chăm sóc hết mức cho phép. Tôi tin ông ấy. Sao lại không chứ? Nhưng tôi cũng nói chuyện với Jonas Beringer lúc đó là bác sĩ trưởng ở bệnh viện. Tôi nghĩ ông ta không liên can gì đến vụ cô ấy. Ông ấy làm một đánh giá theo yêu cầu của tôi và chúng tôi đồng ý cố đưa cô ấy trở lại với xã hội bằng cách cho đến ở trong một gia đình đỡ đầu. Lúc đó cô ấy mười lăm.

- Và ông đã nâng đỡ cô ấy trong ngần ấy năm đó.

- Chưa đủ đâu. Tôi đứng về phía cô ấy từ cái vụ ở hầm xe điện ngầm. Lúc ấy tôi đã biết và rất mến cô ấy. Cô ấy hăng hái. Tôi đã ngăn họ đưa cô ấy về lại bệnh viện. Muốn thế thì phải để cho cô ấy bị tuyên bố không thể tự cai quản và tôi được cử làm người giám hộ.

- Cho là Bjorck đã không chạy quanh vận động tòa án ra quyết định gì. Chạy sẽ khiến mọi người chú ý. Hắn muốn nhốt cô ấy lại và hắn tính vẽ ra cho cô ấy một chân dung nhợt nhạt thông qua các đánh giá tâm thần của Teleborian và những người khác, cho rằng như thế tòa án sẽ có được kết luận lôgíc. Không ngờ tòa lại theo yêu cầu của ông.

- Tôi không bao giờ nghĩ nên cho cô ấy chịu chế độ giám hộ. Nhưng nói cho ngay thẳng, tôi đã không làm nhiều để lật ngược lại quy định. Lẽ ra tôi phải làm sớm hơn và ép mạnh hơn. Nhưng tôi hoàn toàn bị Salander mê hoặc và... Tôi luôn lần lữa. Tôi có nhiều việc phải làm quá. Thế rồi tôi bị bệnh.

- Tôi nghĩ ông không nên trách mình. Những năm qua không ai trông nom cho lợi ích của cô ấy tốt hơn ông.

- Vấn đề vẫn cứ là tôi không được biết đầy đủ. Lisbeth là thân chủ của tôi nhưng cô ấy không bao giờ hé ra một lời nào về Zalachenko. Sau khi ra khỏi Thánh Stefan vài năm rồi cô ấy mới tỏ ra là tin tôi đôi chút. Chỉ sau khi nghe tòa quyết định tôi mới cảm thấy cô ấy đang rất tà tà bắt đầu giao lưu với tôi, ở ngoài các thủ tục cần thiết.

- Sao cô ấy lại quay ra nói với ông về Zalachenko?

- Tôi cho rằng bất chấp mọi cái, cô ấy đã bắt đầu tin tôi. Ngoài ra trong vài dịp, tôi đã nêu vấn đề rút bỏ lời tuyên bố không thể tự quản cho cô ấy. Có vẻ cô ấy đã nghĩ đến điều đó nên một hôm cô ấy gọi và bảo muốn gặp tôi. Cô ấy đã thôi nghĩ về chuyện kia, và cô ấy kể cho tôi tất cả đầu đuôi về Zalachenko cũng như cô ấy nhìn nhận như thế nào các chuyện đã xảy ra. Chắc ông cũng đánh giá rằng tiếp thu như thế là nhiều với tôi. Nhưng tôi bắt đầu bới thẳng vào câu chuyện. Thì trong bất cứ kho dữ liệu nào ở khắp Thụy Điển, tôi cũng đều không tìm ra được một Zalachenko nào. Đôi khi tôi nghĩ hay là cô ấy tưởng tượng ra các trò đó.

- Khi ông ốm thì Bjurman thành giám hộ của cô ấy. Cái đó không thể là chuyện ngẫu nhiên được.

- Đúng. Vì chúng ta chưa chứng minh được chỗ đó nên tôi không biết nhưng nếu chịu cố gắng vất vả cho đủ thì chúng ta cũng tìm ra được... ai là người tiếp quản chuyện này sau Bjorck cũng như chịu trách nhiệm thu dọn sạch sẽ vụ Zalachenko.

- Tôi không nghĩ Lisbeth lại tuyệt đối từ chối nói chuyện với các nhà tâm lý học hay các nhà chức trách. - Blomkvist nói. - Mỗi lần cô ấy nói thì vấn đề lại đâm ra tệ hơn. Cô ấy cố nói rõ nhưng không ai nghe. Một đứa trẻ tự lập hoàn toàn, cô ấy đã cố cứu mẹ và tự bảo vệ chống lại một bác sĩ tâm thần. Cuối cùng cô ấy làm có mỗi một việc mà cô ấy tự thấy là làm được. Thế là thay vì nói "em làm tốt" hay "cô gái này ngoan" thì họ đem cô ấy nhốt vào bệnh viện tâm thần.

- Không có thẳng tuột như thế đâu. Tôi mong ông hiểu cho rằng ở Lisbeth đang có một cái gì đó thực sự trục trặc. - Palmgren nói gắt.

- Ông nói là ý gì?

- Ông biết là cô ấy đã có lắm rắc rối khi đang lớn lên, còn khi đi học thì có nhiều vấn đề cùng mọi thứ.

- Các cái này báo chí đã nói hết cả rồi. Còn nếu có một tuổi thơ giống như cô ấy thì tôi đi học cũng bị lôi thôi như thế mà thôi.

- Các vấn đề của cô ấy vượt ra ngoài các vấn đề cô ấy gặp ở trong gia đình. Tôi đã đọc hết các bản đánh giá tâm thần nhưng không hề thấy có một chẩn đoán nào hết. Nhưng tôi nghĩ chúng ta nên đồng ý là Lisbeth Salander không giống với người bình thường. Ông đã đánh cờ với cô ấy chưa?

- Chưa.

- Trí nhớ của cô ấy như máy ảnh.

- Tôi biết. Khi làm việc với cô ấy, tôi đã nhận ra chỗ đó.

- Cô ấy thích các câu đố rắc rối. Một lần cô ấy đến chỗ tôi ăn tối Giáng sinh, tôi đã rủ cô ấy giải quyết một số vấn đề trong bản trắc nghiệm thông minh Mensa. Kiểu ấy nó thế này: họ đưa ra cho ông năm biểu tượng giống nhau rồi ông phải quyết định cái thứ sáu nom sẽ như thế nào.

- Tôi biết cái đó.

- Tôi đã thử làm và làm đúng được có một nửa. Tôi đã loay hoay mất hai buổi tối. Cô ấy nhìn vào tờ giấy là trả lời trúng phắp ngay từng câu hỏi à.

- Lisbeth là một cô gái rất đặc biệt.

- Cô ấy rất khó quan hệ với người. Tôi đồ chừng cô ấy có hội chứng bệnh Asperger hay một cái gì tương tự. Nếu ông đọc miêu tả lâm sàng của các bệnh nhân bị Asperger thì xem ra có những cái rất trúng với Lisbeth nhưng lại có những hội chứng ta không tìm thấy một tí nào ở cô ấy cả. Ông để ý thấy đấy, với những ai để cho cô yên và đối xử tôn trọng thì cô ấy không hề nguy hiểm mảy may. Nhưng cô ấy hung bạo, cái này thì khỏi nghi ngờ đi. - Palmgren nói khẽ. - Nếu bị khiêu khích hay đe dọa, cô ấy sẽ hung bạo đánh trả cho phải phát khiếp.

Blomkvist gật đầu.

- Vấn đề là bây giờ chúng ta làm gì? - Palmgren nói.

Vừa lúc ấy bác sĩ Sivarnandan gõ cửa đi vào.

- Tôi hy vọng không quấy phá các vị. Nhưng nếu các vị quan tâm đến Lisbeth Salander thì các vị có thể mở tivi ra nghe tin xem.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,154
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 29


Thứ Tư, 6 tháng Tư Thứ Năm, 7 tháng Tư

Salander giận run cả lên. Sáng hôm ấy cô yên bình thanh thản đến căn nhà nghỉ hè của Bjurman. Cô chưa mở di động từ đêm trước và cả ngày cô không có cơ hội nghe tin. Cô có phần nào ngóng tin đưa về vụ việc ở Stallarholmen nhưng với cơn bão mà cô gặp phải trên tin tivi thì hoàn toàn không ngờ tới.

Bị một gã khổng lồ bắt cóc ở bên ngoài nhà cô tại đường Lundagatan rồi bị hắn hành hung và gây thương tích, Miriam Wu đang nằm ở bệnh viện Soder. Tình trạng cô được tả là nghiêm trọng.

Cô đã được cựu võ sĩ quyền Anh nhà nghề Paolo Roberto cứu. Không nói rõ vì sao ông lại đến căn nhà kho ở Nykvarn. Ông bị các phóng viên quây kín khi ở bệnh viện ra nhưng ông không muốn bình luận gì cả. Mặt ông nom như vừa mới trải qua mười hiệp đấu với hai bàn tay trói giật ra đằng sau.

Đã tìm thấy hai cái xác chôn ở trong rừng gần nơi Miriam Wu bị tấn công. Nghe nói cảnh sát đang đào cái huyệt thứ ba và có lẽ chưa phải là cái cuối cùng.

Rồi có chuyện tìm kiếm Lisbeth Salander chạy trốn.

Lưới bủa vây, như họ nói, đang thít chặt. Hôm ấy cảnh sát đã vây kín vùng lân cận với Stallarholmen. Cô gái có vũ khí và nguy hiểm. Cô gái đã bắn bị thương một, có thể là hai, tay xe máy Thiên thần Địa ngục. Trận náo loạn diễn ra ở căn nhà mùa hè của luật sư đã bị giết chết Nils Bjurman. Đến tối cảnh sát đã sẵn sàng chấp nhận rằng cô gái có lẽ đã tìm được cách thoát khỏi vòng vây.

Ekstrom đã họp báo. Ông trả lời mập mờ. Vâng, ông không nói liệu Salander có chuyện gì với các Thiên thần Địa ngục hay không. Vâng, ông không thể xác nhận tin đồn nói đã trông thấy Salander ở căn nhà kho tại Nykvarn. Vâng, không có gì cho thấy đây là chiến tranh của các băng nhóm ngầm. Vâng, không thể khẳng định chỉ một mình Salander chịu trách nhiệm về các vụ án mạng ở Enskede. Cảnh sát hiện đang tìm cô gái cốt để hỏi về hoàn cảnh của các vụ án mạng.

Salander cau mày. Điều tra của cảnh sát đã có một cái gì đó thay đổi.

Cô vào mạng, đọc trước hết các tường thuật của báo chí rồi vào ổ cứng của Ekstrom, Armansky và Blomkvist.

Email của Ekstrom có mấy lời nhắn lý thú, đặc biệt một nhắc nhở của Jan Bublanski gửi lúc 5 giờ 22 chiều. Thư điện tử này phê bình gay gắt cách quản lý cuộc điều tra sơ bộ của Ekstrom. Nó kết thúc với điều có thể coi như một tối hậu thư. Bublanski yêu cầu (a) phục hồi ngay lập tức và có hiệu lực công tác của thanh tra Modig; (b) định hướng lại tâm điểm của cuộc điều tra nhằm khai thác các giải pháp khác nữa cho hai vụ án mạng ở Enskede; và (c) cuộc điều tra cần tìm kiếm ngay lập tức một nhân vật chỉ mới được biết là Zala.

Các lời buộc tội Salander chỉ dựa vào một chứng cứ trực tiếp duy nhất - vân tay của cô gái in trên vũ khí gây án. Điều này, tôi xin nhắc ông, là chứng cứ rằng cô gái đã cầm vào vũ khí nhưng không là chứng cứ rằng cô ta đã bắn nó và càng không phải là bằng chứng rằng cô đã bắn các nạn nhân của vụ án mạng.

Nay chúng ta biết đã có các vai diễn khác dính líu vào. Cảnh sát Sodertalje đã tìm thấy (cho tới nay) hai xác người trong các mộ nông ở gần một căn nhà kho do một người anh em họ của Carl - Magnus Lundin sở hữu. Rút lại, không thể quan niệm nổi rằng Salander đã góp phần vào các cái chết này, tuy cô ta hung bạo và có bất kỳ chuyện gì ở trong lĩnh vực tâm lý.

Kết thúc Bublanski nói nếu yêu cầu của ông không được thỏa mãn, ông sẽ rời nhóm điều tra, và ông không có ý cho im ắng việc rời đi này. Ekstrom đáp lại là Bublanski thấy thế nào là tốt nhất thì cứ làm.

Ở ổ cứng của Armansky, Salander còn có được thông tin ngạc nhiên hơn nữa. Một trao đổi cụt lủn thư điện tử với phòng lương của Milton cho thấy Niklas Hedstrom đã rời công ty, có hiệu lực ngay tức thì. Anh ta sẽ được tiền nghỉ lễ và ba tháng trợ cấp cắt hợp đồng thuê mướn. Một email đến cho giám đốc trực nói rằng nếu Hedstrom quay lại cơ quan thì cơ quan sẽ cho người đi kèm anh ta đến bàn làm việc để lấy đồ đạc cá nhân rồi lại đi kèm ra ngoài. Một thư điện tử cho phòng kỹ thuật nói cần phải hủy thẻ chìa khóa từ của Hedstrom.

Nhưng thú vị nhất là trao đổi giữa Armansky và luật sư của An ninh Milton, Frank Alenius. Armansky hỏi trong trường hợp Salander bị bắt tạm giam thì làm thế nào đại diện được tốt nhất cho cô ấy. Alenius trả lời rằng Milton không có lý do nào mà lại đi dính vào một nhân viên cũ từng gây ra án mạng, việc ấy sẽ gây điều không hay cho An ninh Milton là công ty bị dây dưa vào chuyện đó. Armansky đáp cộc lốc lại rằng việc Salander dính líu vào bất cứ vụ án mạng nào vẫn là một câu hỏi để ngỏ và ông muốn ủng hộ một cựu nhân viên ông coi là vô tội.

Salander phát hiện Blomkvist không vào máy tính từ sớm hôm qua. Vậy là không có tin.

Bohman để tập hồ sơ lên bàn làm việc của Armansky. Ông nặng nề ngồi xuống. Fraklund mở ra đọc. Armansky đứng bên cửa sổ nhìn ra Gamla Stan.

- Đây là bản báo cáo cuối cùng tôi nộp. Tôi đã bị đá ra khỏi cuộc điều tra. - Bohman nói.

- Không, không phải lỗi của ông. - Armansky nói rồi ngồi xuống.

Ông đã để thành một chồng ở trên bàn họp tất cả tư liệu mà Bohman cung cấp trong hai tuần qua.

- Tôi đã nói chuyện với Bublanski. Ông làm tốt công việc đấy, Sonny. Mất ông, ông ta tiếc nhưng ông ấy không thể chọn lựa được vì Hedstrom.

- Chuyện đó OK thôi. Tôi nhận thấy ở đây, ở Milton này, tôi làm việc tốt hơn ở Kungsholmen dưới đó.

- Ông có thể cho chúng tôi một bản tóm lược không?

- Được, nếu mục tiêu là tìm Lisbeth Salander thì rõ ràng là chúng ta đã thất bại. Đây là một cuộc điều tra rất loạn gồm một số người ganh đua nhau và Bublanski thì không được toàn quyền kiểm soát cuộc tìm kiếm.

- Hans Faste...

- Faste đúng là thằng cha phá bĩnh. Nhưng vấn đề không phải là Faste và một cuộc điều tra luộm thuộm. Bublanski trông coi cho họ đều đem hết khả năng ra lần theo mọi đầu mối. Sự thật là Salander như ma giỏi che giấu tung tích.

- Nhưng việc của ông không phải chỉ có là tóm Salander.

- Đúng, tôi cảm ơn ông đã không bảo cho Hedstrom biết nhiệm vụ nữa của tôi là làm tay trong cho ông và trông nom cho Salander không bị kết tội bậy.

- Thế hôm nay ông nghĩ sao?

- Lúc mới bắt đầu thì tôi tin là cô ấy có tội. Hôm nay thì dù gì tôi cũng không chắc chắn. Quá nhiều cái không ăn khớp...

- Thế?

- À, tôi không còn coi cô ấy là nghi phạm số một nữa. Tôi ngày càng ngả về nghĩ rằng có một cái gì đó trong lập luận của Blomkvist.

- Nó có nghĩa là chúng ta phải nhận diện và tìm ra các tên giết người. Chúng ta có nên bắt đầu lại cuộc điều tra không? - Armansky nói và rót cà phê.

Salander có một đêm tồi tệ nhất trong đời. Cô nghĩ tới lúc cô ném quả bom xăng vào xe của Zalachenko. Lúc hết cơn ác mộng, cô thấy trong lòng êm ả vô cùng. Cô có các vấn đề khác nữa nhưng chúng luôn dính đến cô và cô có thể xử lý được. Bây giờ thì là vấn đề về Mimmi.

Mimmi đã bị đánh và phải nằm bệnh viện. Cô ấy vô tội. Cô ấy chả liên can gì đến chuyện này. Tội duy nhất của cô ấy là quen biết Salander.

Cô tự rủa mình. Những cảm nghĩ có tội với bạn cắn rứt cô. Cô đáng nhận lấy mọi trách móc. Địa chỉ của cô bí mật, cô đang an toàn. Rồi cô thuyết phục Mimmi đến sống ở nhà cô, tại cái địa chỉ bất cứ ai cũng tìm ra thấy kia.

Sao cô lại vô ý vô tứ như thế chứ? Bản thân cô cũng đáng bị đánh nốt.

Cảm thấy đau khổ quá cô ứa nước mắt. Song Salander không bao giờ khóc. Cô lau nước mắt.

10 giờ rưỡi, cô bồn chồn đến nỗi không thể ở trong nhà. Cô mặc áo khoác ngoài và đi bốt lên đường vào trong đêm tối, cô cuốc bộ xuống các phố bên trong cho tới lúc đến Ringvagen thì đứng ở cuối đường xe lượn vào bệnh viện Soder. Cô muốn đến phòng Mimmi đánh thức bạn dậy nói cho hay là mọi sự đều ổn cả. Rồi cô trông thấy ánh đèn xanh của xe cảnh sát ở gần Zinken thì rẽ vào một lối đi phụ để tránh bị nhìn thấy.

Ngay sau nửa đêm cô đã lại ở nhà. Rét cóng nên cô cởi quần áo bò toài lên giường. Cô không ngủ nổi. 1 giờ sáng, cô lại trở dậy, trần truồng đi trong căn hộ không bật đèn. Cô vào trong phòng ngủ để sẵn dành cho khách, ở đó có một cái giường và một bàn làm việc. Cô chưa bao giờ đặt chân vào đây. Cô ngồi xuống sàn, tựa lưng vào tường, nhìn đăm đăm vào bóng đêm.

Lisbeth Salander có một phòng ngủ để không. Trêu nhau thật.

Cô ngồi ở đó cho tới 2 giờ sáng, lúc đó cô lạnh run lên cầm cập. Rồi cô lại bắt đầu khóc.

Trời sắp sáng, Salander tắm và mặc quần áo. Cô mở máy pha cà phê, làm bữa lót dạ, rồi bật máy tính. Cô vào ổ cứng của Blomkvist.

Cô ngạc nhiên thấy anh không cập nhật nhật ký điều tra, cô bèn mở thư mục . Có một tư liệu mới mang đề [Lisbeth - QUAN TRỌNG]. Cô xem đặc tính tư liệu. Nó được tạo ra lúc 12 giờ 52 sáng. Cô nháy chuột hai cái.

Lisbeth, liên hệ ngay với tôi. Chuyện này tồi tệ hơn là tôi có thể hình dung. Tôi biết Zalachenko là ai và tôi nghĩ là tôi biết chuyện gì đã xảy ra. Tôi đã nói chuyện với Holger Palmgren. Tôi đã biết vai trò của Teleborian cũng như tại sao họ lại nhốt cô vào bệnh viện. Tôi nghĩ tôi đã biết ai giết Dag và Mia. Tôi cũng nghĩ tôi biết vì sao lại giết nhưng tôi đang thiếu một số tin thông tin cốt tử. Tôi không hiểu vai trò của Bjurman. HÃY GỌI TÔI! LIÊN HỆ NGAY VỚI TÔI. CHÚNG TA CÓ THỂ GIẢI QUYẾT ĐƯỢC CHUYỆN NÀY. Mikael.

Salander thong thả đọc lại tư liệu. Blomkvist nhắng đã bận đây. Con lợn Tháo vát. Con lợn tháo vát chết giấp. Anh vẫn nghĩ có một cái gì cần phải giải quyết.

Anh có ý tốt. Anh đã muốn giúp. Anh không biết dù xảy ra chuyện gì thì đời cô cũng đã là xong.

Nó chấm hết trước cả khi cô mười ba tuổi.

Chỉ có một giải pháp.

Cô tạo một tư liệu mới, thử viết một hồi âm nhưng các ý nghĩ cứ quay cuồng trong đầu cô mà cô thì có quá nhiều điều muốn nói với anh.

Salander đang yêu chứ kìa. Trêu nhau thật.

Anh sẽ không thấy ra đâu. Cô sẽ không bao giờ cho anh toại nguyện.

Cô xóa tư liệu, nhìn đăm đăm vào màn hình trống không.

Nhưng anh không đáng nhận lấy im lặng hoàn toàn. Anh đã tin tưởng đứng ở bên cô như một chú lính chì kiên định.

Cô tạo một tư liệu mới và viết:

Cảm ơn đã là bạn của tôi.

Trước hết cô phải có một vài quyết định về hậu cần. Cô cần phương tiện đi lại. Dùng chiếc Honda màu vang chát vẫn để ở Lundagatan thì hấp dẫn nhưng xin miễn cho. Trong máy tính xách tay của công tố viên Ekstrom không có dấu hiệu cho thấy ai ở trong nhóm cảnh sát điều tra biết cô đã mua xe, điều này là có thể vì cô chưa tìm cách nộp hồ sơ đăng ký cùng giấy tờ bảo hiểm. Nhưng khi cảnh sát thẩm vấn Mimmi có thể đã nói đến chiếc xe và rõ ràng là Lundagatan thì vẫn bị bất chợt theo dõi.

Cảnh sát biết cô có một xe máy nhưng lấy nó ra khỏi chỗ để xe trong chung cư các căn hộ thì lại còn phiền phức hơn. Ngoài ra sau một số ngày giống như mùa hè, người ta đã dự báo thời tiết thay đổi và cô thì không hám lắm chuyện phóng xe máy trên xa lộ trơn láng nước mưa.

Dĩ nhiên có khả năng khác là thuê một xe với tên Irene Nesser nhưng như thế vẫn có những rủi ro liên quan đến chuyện thuê. Một ai đó có thể nhận ra cô và cô sẽ bị lấy mất căn cước giả. Sẽ là một tai họa; nó là con đường cô chạy trốn ra nước ngoài.

Rồi cô mỉm cười với mình. Có một khả năng nữa. Cô mở máy tính, vào mạng lưới An ninh Milton, dịch chuyển đến bãi xe do một văn phòng ở trong khu vực tiếp tân của An ninh Milton quản lý. An ninh Milton có trong tay gần bốn chục xe, một số chiếc mang logo của công ty dùng cho các chuyến đi công cán. Đa số là xe theo dõi không đánh dấu, để trong ga ra ở trụ sở chỉ huy của An ninh Milton gần Slussen. Thực tế ở ngay góc phố.

Nghiên cứu hồ sơ nhân sự, cô chọn nhân viên Marcus Collander, người vừa đi nghỉ hai tuần. Ông ta để lại số điện thoại của một khách sạn ở Quần đảo Canary. Cô đổi tên khách sạn và đảo rối lên con số điện thoại của cái nơi có thể liên hệ với ông. Rồi cô vào một thư ngắn nói việc làm cuối cùng của Collander là cho xuất một xe đi làm dịch vụ. Cô nhặt một chiếc Toyota Corolla tự động cô đã lái trước đây rồi ghi lại rằng nó sẽ được trả lại tuần sau.

Cuối cùng cô vào hệ thống kiểm soát, lập lại chương trình camera mà cô có thể đi qua. Giữa 4 rưỡi và 5 giờ các camera này sẽ cho chiếu lại cảnh của nửa giờ trước nhưng thời gian mã hóa đã bị thay đổi.

4 giờ 15, cô đóng đồ đạc vào ba lô. Hai bộ quần áo thay đổi, hai bình xịt Mace và khẩu súng bắn điện vừa sạc đầy. Cô nhìn hai khẩu súng lục cô tước được. Cô bỏ khẩu Colt 1911 Government của Sandstrom mà lấy khẩu Wanad P - 38 của Ba Lan đã bị thiếu một viên ở kẹp đạn. Nó mảnh hơn và vừa với bàn tay cô hơn. Cô để nó vào trong túi jacket.

Salander đóng máy tính xách tay PowerBook nhưng để máy tính ở trên bàn. Cô đã chuyển nội dung ổ cứng của cô sang một bản lưu mã hóa ở trên mạng rồi xóa hết ổ cứng bằng một chương trình cô viết lấy, nó bảo đảm đến ngay cô cũng không dựng lại được nội dung đã xóa. Cô không muốn ỷ vào chiếc PowerBook, tha nó theo sẽ vướng. Cho nên cô mang chiếc Palm Tungsten PDA theo.

Cô nhìn quanh khắp buồng giấy. Cô có cảm giác sẽ không quay về căn hộ ở Mosebacke và biết rằng mình đang để lại ở sau lưng những bí mật mà lẽ ra cô đã nên hủy. Nhưng nhìn đồng hồ cô biết mình không có nhiều thì giờ. Cô tắt đèn bàn làm việc.

Cô đi bộ đến An ninh Milton, vào ga ra xe, lên thang máy vào các văn phòng hành chính. Cô không gặp một ai trong hành lang trống không, và không chút khó khăn cô lấy các chìa khóa xe ở trong tủ phòng tiếp tân không khóa ra.

Nửa phút sau cô đã ở ga ra xe, bấm "bíp" mở khóa cửa chiếc Corolla. Cô ném ba lô vào ghế khách, chỉnh lại ghế người lái và kính chiếu hậu. Cô mở cửa ga ra xe bằng chìa khóa thẻ từ cũ. Đúng trước 5 giờ, cô đến Soder Malarstrand ở Vasterbron. Trời bắt đầu sáng.

Blomkvist dậy lúc 6 giờ rưỡi. Anh không để đồng hồ báo thức và mới chỉ ngủ có ba giờ. Anh dậy bật máy tính xách tay và mở thư mục để xem cô trả lời:

Cảm ơn đã là bạn của tôi.

-----

Blomkvist cảm thấy lạnh rợn xương sống. Không là câu đáp anh mong chờ. Mà như một lá thư vĩnh biệt. Một mình Salander chống chọi lại với thế giới. Anh vào bếp mở máy pha cà phê, rồi tắm. Anh mặc một jean cũ và nhận ra đã một tuần anh không giặt quần áo. Anh không có sơ mi sạch. Anh mặc một sơ mi dệt kim màu vang đỏ ở dưới jacket xám.

Khi làm bữa lót dạ ở trong bếp, anh bất chợt thấy một ánh kim loại trên quầy sau lò vi song. Anh lấy dĩa khều ra một chùm chìa khóa.

Chùm chìa khóa của Salander. Anh thấy chúng sau cuộc tấn công trên đường Lundagatan rồi để chúng lên trên lò vi sóng cùng với chiếc túi khoác vai của cô. Anh quên không đưa chúng cho thanh tra Modig cùng với cái túi khoác vai và chắc chúng đã rơi từ chiếc túi đó ra.

Anh nhìn chùm chìa khóa hồi lâu. Ba cái to và ba cái nhỏ. Ba cái to thì chắc một để mở cửa ra vào chung cư, một cho căn hộ, và một khóa vòng. Căn hộ của cô. Rõ ràng không phải căn hộ ở Lundagtan. Vậy cô đã sống ở chỗ của nợ nào đây?

Anh xem kỹ hơn ba chìa khóa nhỏ. Một chắc là của chiếc Kawasaki. Một nom có vẻ của một két an toàn hay một tủ chứa đồ. Anh cầm chiếc khóa nhỏ thứ ba lên. Trên nó có in con số 24914. Anh giật mình nhận ra là có chuyện gì.

Một bưu cục. Một hòm thư. Lisbeth Salander có một hòm thư bưu cục.

Anh tìm trong danh bạ điện thoại các trạm bưu điện ở Sodermalm. Cô đã sống ở Lundagatan. Ringvagen thì quá xa. Có lẽ Homsgatan. Hay Rosenlundsgatan.

Anh tắt máy pha cà phê, bỏ ăn lót dạ, lái chiếc BMW của Berger đến Rosenlundsgatan. Chiếc chìa không vừa. Anh lái đến Hornsgatan. Chiếc chìa vừa khuýp vào hộp thư số 24914. Anh mở nó ra và thấy hai mươi hai món thư tín và anh nhét cả vào ngăn ngoài của túi đựng máy tính xách tay.

Anh lái tiếp đến Hornsgatan, đỗ xe ở gần rạp xi nê Kvarter, ăn lót dạ ở nhà hàng Copabacana trên đường Bergsundsstrand. Trong khi chờ cà phê latte, anh xem từng bức thư một. Tất cả đều gửi tới Công ty Vò vẽ. Chín thư gửi từ Thụy Sĩ, tám từ Quần đảo Cayman, một từ Quần đảo Channel và bốn từ Gibraltar. Lương tâm chả hề cắn rứt, anh xé toạc các phong bì. Hai mươi mốt cái đầu tiên đựng các xác nhận của ngân hàng và báo cáo về các tài khoản cùng quỹ tiền khác nhau. Salander giàu như chú lùn ranh mãnh trong thần thoại.

Bức thư thứ hai mươi hai dầy hơn. Địa chỉ viết tay. Phong bì có in một logo và địa chỉ gửi đi là Nhà Buchanan, Ke Queensway, Gibraltar. Thư bên trong có tiêu đề của một cố vấn pháp luật, Jeremy S. MacMillan. Chữ ông viết gọn rõ.

Cô Salander,

Thư này là để xác nhận việc chi trả đúng hạn cho bất động sản của cô đã được hoàn tất ngày 2 tháng Một. Như đã thỏa thuận, tôi gửi kèm đầy các bản sao của tất cả các tài liệu còn bộ gốc thì tôi xin giữ. Tôi tin rằng cô được hài lòng với việc này.

Cho tôi nói thêm rằng tôi hy vọng mọi điều đều tốt đẹp với cô. Tôi rất vui được cô đột ngột đến gặp hồi mùa hè vừa rồi và tôi cần phải nói tôi hân hạnh được giao tiếp với cô. Tôi trông chờ, như là điều tất yếu, được tiếp tục phục vụ cô.

Chân thành,

J.S.M.

Bức thư đề ngày 24 tháng Một. Có vẻ Salander rất không hay mở hòm thư. Blomkvist nhìn các tài liệu đính theo về việc mua một căn hộ ở một chung cư tại Fiskargatan 9 ở Mosebacke.

Rồi anh suýt sặc cà phê. Giá căn hộ là hai mươi lăm triệu curon, và vụ mua bán được thanh toán trong một năm với hai lần chi trả riêng rẽ.

Salander nhìn một người đàn ông tóc đen, chắc nịch mở khóa cánh cửa hông của Chuyên môn - Ôtô ở Eskilstuna. Đây là một gara xe, một cửa hàng sửa chữa, một hãng cho thuê xe. Một chỗ kinh doanh hợp pháp điển hình. Đang là 6 giờ 50 và theo một giấy viết tay ở trên cửa chính thì đến 7 giờ rưỡi cửa hàng mới mở. Cô qua đường theo sau người đàn ông đi lối cửa hông vào trong tiệm. Ông ta nghe thấy cô bèn quay lại.

- Refik Alba?

- Vâng, cô là ai? Tôi chưa mở cửa.

Cô hai tay cầm khẩu súng P - 38 Wanad của Nieminen chĩa vào mặt ông ta.

- Tôi không kiếm lôi thôi với ông. Tôi chỉ muốn xem danh sách cho thuê xe của ông. Tôi muốn xem ngay. Ông có mười giây để đưa nó ra đây.

Refik Alba bốn mươi hai tuổi, một người Cuốc sinh ra ở Diyarbakir, trong đời ông đã nhìn thấy rặt là súng với súng. Ông đứng như trời trồng. Rồi ông kết luận cái con điên này đã mang súng vào đây thì thôi chả có gì nhiều để mà bàn luận với nó nữa sất cả.

- Sổ ở trong máy tính. - Ông nói.

- Bật lên.

Cô bảo sao ông làm thế.

- Sau cửa này là gì? - Cô hỏi trong khi máy tính bật lên và màn hình bắt đầu nhấp nháy.

- Chỉ là cái tủ.

- Mở ra.

Có một vài bộ quần áo lao động ở trong.

- OK. Đi vào trong đó, đứng im và tôi không làm ông bị thương đâu.

Ông nghe ngay không ỉ eo .

- Lấy máy tính ra, để lên sàn rồi đá ra cho tôi.

Ông làm theo y lời.

- Tốt, bây giờ đóng cửa tủ lại.

Đây là một máy tính cổ Window 95 và ổ cứng 280MB. Mất đến cả thế kỷ mới mở được tư liệu Excel có danh sách xe cho thuê. Chiếc Volvo trắng được thuê hai lần. Lần thứ nhất thuê hai tuần hồi tháng Một, rồi từ ngày 1 tháng Ba. Vẫn chưa trả lại. Người thuê trả một lệ phí hàng tuần cho việc thuê dài hạn.

Người thuê tên là Ronald Niedermann.

Cô xem các danh mục để ở giá trên máy tính. Một trong số có chữ KHÁCH HÀNG in hằn ở gáy. Cô lấy nó xuống giở qua tới chỗ Ronald Niedermann. Khi thuê chiếc xe vào tháng Một, hắn đã đưa hộ chiếu thay cho thẻ căn cuớc và Refik Alba đã sao chụp lại. Cô lập tức nhận ra ngay tên khổng lồ tóc vàng. Theo hộ chiếu, hắn người Đức, ba mươi lăm tuổi, sinh ở Hamburg. Việc Alba chụp sao hộ chiếu cho thấy hắn chỉ là khách hàng, không phải bạn.

Ở cuối trang, Alba viết số một di động và địa chỉ một hòm thư bưu điện ở Goteborg.

Salander để danh mục này về chỗ cũ và tắt máy tính. Cô nhìn quanh thấy một thảm cao su chùi chân ở gần cổng ra vào chính. Cô nhặt nó lên đi lại chỗ cái tủ rồi gõ báng súng vào cửa.

- Bên trong có nghe được không?

- Có.

- Ông có biết tôi là ai không?

Im lặng.

Cha có mù mới không nhận ra ta.

- OK. Ông biết tôi là ai. Ông có sợ tôi không?

- Có.

- Đừng sợ, ông Alba. Tôi sẽ không làm sứt mẻ gì ông cả. Tôi sắp xong ở đây rồi. Tôi xin lỗi đã để ông vào cảnh rắc rối này.

- U... OK.

- Có đủ không khí thở không?

- Đủ... dẫu gì thì cô muốn gì ạ?

- Tôi xem liệu hai năm trước một phụ nữ có thuê xe của ông không. - Cô nói. - Tôi không tìm ra cái cần tìm nhưng đó không phải là lỗi của ông. Vài phút nữa tôi rời đi. Tôi sẽ để cái thảm chùi chân ở dưới cửa tủ đây. Cửa khá mỏng để ông phá được ra song phải mất một lúc. Ông không phải gọi cảnh sát. Ông sẽ không bao giờ thấy tôi nữa. Ông có thể mở cửa hàng như thường lệ và bảo rằng chả có chuyện gì xảy ra.

Cơ may ông ta không gọi cảnh sát khá xa vời nhưng dù ông ta chọn lấy cách nghĩ này thì cũng chả có hại gì. Cô rời gara đi bộ đến chiếc Corolla Toyota ở góc phố, ở đấy cô nhanh chóng biến mình thành ra Irene Nesser.

Cô khó chịu vì là không tìm ra được địa chỉ nơi ở của Ronald Niedermann ở khu vực Stockholm, chỉ là địa chỉ hòm thư bưu điện ở phía bên kia Thụy Điển. Nhưng nó là đầu mối duy nhất cô có. Thôi được, đi Goteborg.

Cô đi đường E20 rồi rẽ về phía tây đến Arboga. Cô mở radio nhưng lỡ mất buổi phát tin, chỉ có vài đoạn quảng cáo. Cô nghe David Bowie hát "đổ xăng vào lửa". Cô không biết tên bài hát nhưng coi câu hát là một điềm báo trước.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,154
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 30


Thứ Năm, 7 tháng Tư

Blomkvist nhìn cửa ra vào của Fiskargatan 9. Đó là một trong những địa chỉ đặc biệt nhất ở Stockholm. Anh tra chìa vào ổ và nó quay êm như ru. Xem danh sách người sống ở đây không giúp được gì. Blomkvist nghĩ chắc phần lớn chúng là các căn hộ của một đoàn thể nhưng trong đó hình như cũng có một vài căn thuộc về riêng cá nhân. Không thấy tên Salander trong danh sách, anh không ngạc nhiên, nhưng vẫn cứ thấy chỗ này không có vẻ lại là nơi trú náu của cô.

Anh leo bộ từng tầng, đọc các biển tên ở cửa. Chả đâu chuông reo. Rồi anh lên tầng thượng, đọc thấy V.Kulla.

Blomkvist vỗ vỗ trán. Anh phải tủm tỉm cười. Chọn cái tên này có lẽ Salander không nhằm chọc vui cá nhân anh mà có vẻ là một ý nghĩ đùa cợt riêng tư nào đó của cô - nhưng ngoài Biệt thự Bát nháo VilleKulla của Pippi Tất dài ra thì Kalle Blomkvist, biệt hiệu đặt theo nhân vật của Astrid Lindgren, còn nên đi tìm cô ở đâu nữa đây?

Anh bấm chuông cửa và chờ hai phút. Rồi anh lấy chùm chìa khóa mở cái khóa vòng cùng cái khóa dưới cùng.

Anh vừa mở cửa là thiết bị báo động kẻ gian đột nhập hoạt động.

Di động của Salander bắt đầu bíp báo. Cô đang ở gần Glanshammar, ngay bên ngoài Orebro. Cô phanh và tạt xe vào vai đường dành cho xe đỗ. Cô lấy chiếc Palm ở túi jacket ra cắm vào điện thoại.

Mười lăm giây trước đó có người đã mở cửa căn hộ của cô. Báo động này không nối với bất cứ công ti an ninh nào. Mục đích của nó chỉ là báo cô rằng ai đó đã bằng cách nào đó đột nhập và mở cửa. Sau ba mươi giây, chuông báo động sẽ ngừng và vị khách không mời sẽ nhận được một cú sững sờ không thú vị hiện ra ở dạng một quả bom đầy sơn giấu trong một hộp cầu chì giả mạo ở gần cửa. Mỉm cười chờ kết cục, cô đếm ngược số giây còn lại.

Blomkvist chán ngán nhìn trừng trừng vào màn hình báo động ở bên cửa. Vì một lý do nào đó anh chả hề nghĩ căn hộ lại có thiết bị báo động. Anh nhìn đồng hồ số đang đếm ngược lại. Báo động của Millennium sẽ được kích hoạt và nếu trong vòng ba chục giây người nào đó không lắp chìa đúng vào mã số gồm bốn con số thì ngay sau đó hai gã đầy cơ bắp của một công ty an ninh sẽ xô cửa ra.

Phản ứng đầu tiên của anh là đóng cửa lại rồi ra nhanh khỏi chung cư. Nhưng anh cứ đứng đực ra ở đó.

Bốn con số. Không thể đoán mò ra mã số được.

25 - 24 - 23 - 22...

Con bé Pippi Tất dài của nợ này.

19 - 18...

Cô dùng mã số gì đây?

15 - 14 - 13...

Anh càng ngày càng cuống.

10 - 9- 8...

Rồi anh giơ tay tuyệt vọng bấm vào con số anh có thể nghĩ đến lúc đó. 8683. Bốn con số tương ứng với các chữ V-Ò-V-Ẽ ở trên bàn phím nhỏ.

Anh ngạc nhiên thấy màn hình ngừng đếm ngược nốt sáu con số còn lại. Rồi báo động bíp một tiếng cuối cùng và màn hình lại về số 0 cùng với ánh sáng xanh trở lại.

Mắt Salander mở thô lố. Khi đang xem cảnh diễn ra kia, cô nghĩ cô đã làm cho chiếc PDA bị rung nhưng cô nhận ra nghĩ thế là vô lý. Theo dự định còn sáu giây nữa quả bom sơn sẽ nổ thì báo động ngừng đếm ngược. Và sau đó một giây, thiết bị báo động trở về số không.

Không thể thế được.

Trên thế giới này không ai biết được mã số của cô.

Sao lại có thể như thế này được? Cảnh sát? Không. Zala? Càng không.

Cô bấm một số vào di động, chờ camera theo dõi kết nối với di động rồi gửi đến những hình ảnh có độ phân giải thấp. Camera này giấu trong một thứ nom như thiết bị phát hiện khói ở trên trần gian sảnh, mỗi giây nó lại chụp một bức ảnh độ nét thấp. Cô cho trường đoạn tua trở lại từ số 0, lúc cửa căn hộ mở ra và thiết bị báo động bị kích hoạt. Rồi cô nhếch mép cười khi cô nhìn xuống Blomkvist như một con rối giật cục, đứng ngẩn tò te một lúc rồi mới bấm vào mã số và tựa vội vào thành cửa, ngỡ đâu sắp bị một cơn đột quỵ.

Kalle Nhắng Blomkvist đã dò được ra lõng của cô. Anh có chùm chìa khóa cô đánh rơi ở đường Lundagatan. Anh khá thông minh để nhớ ra Vò vẽ là tên cô khi vào mạng. Nếu tìm được căn hộ, anh chắc đã mò ra được rằng Công ty Vò vẽ sở hữu nó. Trong khi cô nhìn xem thì anh giật cục đi xuôi hành lang và biến mất khỏi ống kính camera.

Chó chết. Sao mình lại mất cảnh giác thế cơ chứ? Mà tại sao mình lại ném chùm chìa khóa đi?... Bây giờ mọi bí mật của Salander nằm tênh hênh ra ở trước con mắt dò mồi của Blomkvist.

Suy nghĩ về điểm này một lúc, cô quyết định như thế cũng chả làm nên chuyện gì sất. Cô đã xóa ổ cứng. Đó là điều quan trọng nhất. Mà anh là người tìm ra chỗ ẩn náu của cô thì có khi lại lợi cho cô. Anh đã biết các bí mật của cô hơn tất cả mọi người. Con lợn tháo vát sẽ làm điều phải. Anh sẽ không bán cô. Cô hy vọng. Cô cho xe chạy gấp đến Goteborg, đắm trong suy nghĩ.

Eriksson vồ phải Paolo Roberto ở cầu thang lên tòa soạn Millennium khi cô đến đó

- Chào Erika. Cảm ơn đã bằng lòng gặp tôi nhanh như thế. - Võ sĩ nói.

Berger xem kỹ mớ thâm tím và sưng vù đáng sợ ở trên mặt ông rồi chị ngả về đằng trước hôn một cái lên má ông.

- Ông nom chả giống một thứ gì trên quả đất này. - Chị nói.

- Trước tôi cũng đã từng bị vỡ mũi rồi. Chị cất Blomkvist ở đâu?

- Anh ấy đang chơi trò thám tử kẻ gian, tìm đầu mối ở đâu đó. Như thường tình thì không thể túm được lấy anh ấy đâu. Từ sáng hôm qua, tôi không nhận được tin gì từ anh ấy ngoài một bức thư điện tử lạ lùng. Cảm ơn đã... vâng, cảm ơn.

Chị chỉ tay vào mặt ông. Paolo Roberto cười vang lên.

- Ông muốn cà phê không? Ông bảo ông có gì muốn nói với tôi. Malin, đến đây với bọn tôi nào.

Họ ngồi trên những chiếc ghế thoải mái trong buồng giấy của Berger.

- Là nói về cái tên láo lếu tóc vàng bự con đánh nhau với tôi. Tôi bảo Blomkvist là tay bốc của nó không đáng một quả cà ủng. Cái ngộ là hắn cứ giữ thế thủ bằng hai quả đấm rồi xoay vòng quanh làm như hắn đã từng là võ sĩ quyền Anh vậy. Có vẻ như cũng đã có qua một kiểu tập tành nào chút ít.

- Hôm qua Blomkvist có nói như thế ở trong điện thoại. - Eriksson nói.

- Tôi không thể nào mà không nghĩ đến chuyện đó cho nên hôm qua về nhà tôi ngồi xuống gửi email đến các câu lạc bộ quyền Anh ở khắp châu Âu. Tôi tả câu chuyện đã xảy ra, tôi cố hết sức tả tỉ mỉ cho họ về cha này.

- Ông đã gặp may chứ?

- Tôi nghĩ là có được một mẩu.

Ông để lên bàn trước mặt Berger và Eriksson một bức ảnh gửi bằng fax. Nom vẻ nó được chụp trong một buổi tập ở một câu lạc bộ quyền Anh. Hai võ sĩ đang đứng nghe chỉ dẫn của một người già hơn, chắc nịch, đội mũ da vành hẹp và mặc quần áo tập. Non chục người bám quanh vũ đài nghe. Một người to lớn nom như một tên trong băng nhóm trọc đầu đứng ở đằng sau cùng. Xung quanh hắn là một vòng tròn vẽ bằng bút dạ.

- Bức ảnh chụp đã mười bảy năm. Người đứng ở sau cùng là Ronald Niedermann. Bức ảnh này chụp lúc hắn mười tám tuổi, vậy nay hắn cỡ khoảng ba mươi lăm. Nom hắn khớp với tên khổng lồ bắt cóc Miriam Wu. Tôi không thể nói chắc trăm phần trăm là hắn. Bức ảnh hơi bị cũ và chất lượng tồi. Nhưng tôi có thể nói nom hoàn toàn giống hắn đấy.

- Ông lấy ở đâu ra bức ảnh này?

- Tôi được Hans Munster, một huấn luyện viên lão thành của câu lạc bộ Dynamic ở Hamburg đáp lời. Cuối những năm 80, Ronald Niedermann đấm cho họ trong một năm. Hay đúng hơn hắn cố đấm cho họ. Sáng nay nhận được email trước rồi gọi cho Munster xong là tôi đến đây. Munster nói tóm lại như thế này: Niedermann là người Hamburg, hồi những năm 80 tu bạ với một băng nhóm trọc đầu. Hắn có một đứa anh nhiều tuổi hơn, một võ sĩ quyền Anh rất có tài và hắn vào được câu lạc bộ là nhờ người anh. Niedermann có sức khỏe đáng sợ và một cơ thể không ai bì được. Munster nói ông chưa từng thấy ai, kể ngay cả trong đám ưu tú, đấm mạnh bằng hắn. Họ đo sức nặng quả đấm của hắn thì nó vọt ra ngoài đồng hồ bàn cân.

- Nghe như hắn có thể nổi cơ đồ nhờ vũ đài được đấy. - Berger nói.

Paolo Roberto lắc đầu.

- Theo Munster thì hắn không thể, vì mấy lý do. Thứ nhất, hắn không thể học được đấu bốc. Hắn chỉ cứ đứng ì một chỗ mà tung đi các cú đánh. Hắn vụng đến mức tai họa, chỗ này thì khớp với cái tên tôi đã đánh ở Nykvarn vừa rồi. Nhưng tệ hơn là hắn không biết sức mạnh của hắn. Thỉnh thoảng trong các trận đấu tập hắn có thể choang cho một cú gây nên thương tích ghê gớm. Đã có những mũi giập, quai hàm long - một lô các chấn thương không cần thiết. Họ không thể giữ hắn ta ở câu lạc bộ nữa.

- Vậy là hắn có thể bốc nhưng không thực sự là bốc. - Eriksson nói.

- Chính xác. Nhưng lý do hắn thôi bốc là về y học.

- Ông nói sao?

- Hắn có vẻ bất khả bại. Bất kể bị bao nhiêu đòn hắn vẫn cứ lĩnh như không mà đánh tiếp. Té ra hắn bị một thứ bệnh rất hiếm gọi là chứng mất cảm giác đau có tính di truyền. Tôi đã tìm hiểu. Đây là một khuyết tật gien di truyền, nó làm cho đường truyền chất ở các đầu nút thần kinh của hắn không hoạt động. Hay nói nôm na thì là hắn không có cảm giác đau đớn.

- Thế thì là mỏ vàng cho võ sĩ quyền Anh rồi còn gì.

Roberto lại lắc.

- Trái lại. Đây có thể là một rối loạn đe dọa mạng sống. Phần lớn những ai mắc bệnh di truyền này đều chết khá trẻ, chừng giữa hai mươi và hai mươi lăm tuổi. Đau chính là hệ cảnh báo của cơ thể nó cho hay đang có gì đó lôi thôi. Nếu ta để tay vào một cái lò nóng rực là ta thấy đau và rụt ngay tay về. Nhưng nếu ta mắc bệnh này thì ta sẽ chẳng làm gì mà cứ để cho thịt cháy khét lên.

Eriksson và Berger nhìn nhau.

- Nghiêm túc đấy chứ? - Berger nói.

- Tuyệt đối. Niedermann không cảm thấy gì cả, hắn sống như thế tựa hồ có một liều thuốc tê nội tại suốt trong hai mươi tư giờ mỗi ngày. Hắn đã tìm ra cách giải quyết được chuyện này vì hắn lại có một đặc điểm di truyền khác bù vào đấy. Hắn có một hình thể dị thường và một bộ xương cực kỳ khỏe, nên hắn gần như thành ra kẻ bất bại. Sức khỏe của hắn mẹ kiếp nguyên thô và gần như là độc nhất. Trên hết, hắn dễ lành lặn trở lại.

- Tôi bắt đầu hiểu một trận đấu bốc lý thú là phải như thế nào rồi đấy.

- Chắc chắn thế rồi. Tôi không muốn chơi lại nữa đâu. Hắn chỉ duy nhất một lần tỏ thái độ khi bị Miriam Wu đá vào bìu. Hắn thực sự khuỵu gối xuống mất một tích tắc... chắc phải bằng ấy vì cú đá như thế là phải gây ra một phản ứng sinh lý nào đó rồi, do chỗ hắn không cảm thấy đau. Và tin tôi đi - nếu cô ấy đá tôi như thế thì ngay đến tôi đây cũng là xin đổ sập thôi à.

- Vậy ông ngừng đánh nhau với hắn như thế nào?

- Thật ra những người mắc bệnh này cũng bị thương như bất cứ ai cả thôi. Xương cốt của Niedermann có vẻ là bằng xi măng, hãy quên chuyện ấy đi. Khi tôi quạng tấm ván vào sau ót hắn, hắn ngã lăn đùng như một hòn núi vậy. Chấn thương là cái chắc.

Berger nhìn Eriksson.

- Tôi gọi Mikael đây.

Blomkvist nghe di động báo nhưng anh ngạc nhiên quá đến nỗi mãi đến hồi chuông báo thứ năm mới trả lời.

- Chào, Malin đây. Paolo Roberto nghĩ là ông ấy đã nhận diện được ra cha khổng lồ.

- Tốt. - Blomkvist lơ mơ đáp.

- Anh ở đâu?

- Khó nói đấy.

- Nghe anh nói ngộ nghĩnh đấy.

- Xin lỗi. Cô bảo gì cơ?

Eriksson tóm lại câu chuyện Paolo Roberto kể.

- Lần theo hướng đó đi. - Blomkvist nói. - Cô xem có thể tìm ra hắn ở một cơ sở dữ liệu nào đó không nha. Tôi nghĩ cái này quan trọng đấy. Có gì gọi vào di động của tôi.

Eriksson ngạc nhiên, anh cắt máy không cả một tiếng tạm biệt.

Lúc ấy Blomkvist đang đứng bên cửa sổ nhìn ra cảnh quan huy hoàng trải dài từ Gamla Stan xa tít ngoài kia đến Saltsjon.

Anh thấy mụ mị. Có một gian bếp ở ngoài sảnh, bên phải cửa ra vào. Rồi một phòng khách, một buồng giấy, một phòng ngủ và cả một phòng ngủ nho nhỏ cho khách xem vẻ chưa hề đụng đến. Đệm giường vẫn còn trong lớp vỏ bọc ni lông và không có chăn gối. Tất cả đồ nội thất đều mới toanh, của hãng Ikea.

Blomkvist sửng sốt là Salander đã mua chỗ tạm trú này, nó vốn thuộc về Percy Barnevik, một ông trùm công nghiệp. Căn hộ rộng chừng 350 mét vuông và đáng giá hai mươi lăm triệu curon.

Blomkvist lang thang qua các hành lang và buồng gần như trống không, vắng lặng đến mức kỳ lạ, với sàn bằng các kiểu gỗ khác nhau mang hoa văn cùng giấy dán tường nhãn Tricia Guild thuộc loại Berger đã có thời thèm muốn. Ở trung tâm căn hộ là một phòng khách sáng sủa tuyệt vời với những lò sưởi mở nhưng hình như Salander chưa hề nhóm lửa bao giờ. Ban công đồ sộ nhìn ra một quang cảnh kỳ diệu. Có một phòng giặt, buồng tắm hơi, phòng thể dục, các buồng cất chứa đồ và một buồng tắm với chiếc bồn cỡ đại. Có cả một hầm rượu, trống không trừ một chai pont Quinta do Noval từ 1976 - chưa mở. Blomkvist cố sức tưởng tượng ra Salander cầm li rượu pont ở trong tay. Một tấm thẻ sang trọng cho hay chai rượu là quà biếu của nhân viên bất động sản tặng mừng dịp tân gia.

Gian bếp gồm mọi kiểu trang bị với một bếp lò Pháp sáng bóng, sạch sẽ của dân sành ăn, tâm điểm của nó là một bếp ga. Trước đây Blomkvist chưa bao giờ để mắt đến loại bếp Corradi Chateau 120. Chắc Salander dùng nó để đun nước pha trà.

Đồng thời anh sợ sệt ngắm nghía chiếc máy pha cà phê espresso ở trên hẳn một cái bàn của riêng nó. Cô có một Jura Impressa X7 với một máy làm lạnh sữa gắn bên. Chiếc máy nom ít dùng và chắc đã ở trong bếp này từ ngày cô mua căn hộ. Blomkvist biết một máy Jura là tương đương với chiếc xe Rolls Royce - một máy chuyên môn dành cho gia dụng mà giá tiền thì nằm trong quãng 30.000 curon. Anh có một máy pha espresso mua ở John Wall giá chừng 3.500 curon - một trong mấy món ngông cuồng ít ỏi mà anh tự cho phép lọt vào nhà anh và nó chỉ là một mẩu nho nhỏ so với sự hoành tráng của chiếc máy của Salander.

Tủ lạnh có một hộp sữa đã mở, ít pho mát, bơ, trứng cá và nửa hũ dưa chuột muối. Tủ bếp có bốn nửa hũ vitamin, túi trà, cà phê cho loại máy pha cà phê thông thường, hai gói bánh mì và một bịch bít cốt ròn. Trên bàn là một bát táo. Có bốn bánh kẹp giăm bông và một chảo cá ở trong tủ để đông. Tất cả thức ăn anh tìm thấy ở trong nhà chỉ có thế. Trong thùng rác bên dưới quầy gần bếp lò anh thấy vài vỏ hộp bánh pan pizza Billy.

Sự sắp đặt hoàn toàn không cân đối. Salander nẫng vài tỉ curon và mua một căn hộ với không gian đủ chứa quần thần của triều đình cô. Nhưng cô chỉ cần ba phòng cô đã bày đồ đạc. Mười tám phòng khác vẫn còn trống nguyên.

Blomkvist kết thúc tua đi thăm nhà ở trong buồng giấy cô. Không hoa lá, không có tranh hội họa hay thậm chí cả tranh quảng cáo trên tường. Không có thảm thường lẫn thảm đắt tiền. Anh không thấy qua một cái bát trang trí, cây nến hay thậm chí cả một vật trang trí lặt vặt được giữ lại vì vài lý do tình cảm nào đó.

Blomkvist cảm thấy như có ai đang bóp lấy tim anh. Anh cảm thấy anh phải tìm ra Salander và ôm chặt lấy cô.

Anh mà thử làm thế chắc cô sẽ cắn anh ngay.

Tay Zalachenko trời đánh không tha kia.

Rồi anh ngồi xuống bàn làm việc của cô, mở tập tài liệu có bản báo cáo của Bjorck viết từ 1991. Anh không đọc hết mà đọc nhảy, cố nhập lấy cái cốt yếu.

Anh bật máy tính xách tay PowerBook với màn hình 43 phân tây, ổ cứng 200GB, và RAM 1.000 MB của cô.

Trống không. Cô đã lau xóa sạch sẽ. Đây là chuyện đáng ngại.

Anh mở ngăn kéo bàn làm việc thấy một khẩu Colt Government 1911 bắn phát một với kẹp đạn còn đầy, bảy viên. Khẩu súng này Salander lấy của tay nhà báo Sandstrom tuy Blomkvist không hay biết tí nào hết. Anh chưa đi đến chữ S trong danh sách các tay chăn dắt gái.

Rồi anh tìm thấy đĩa DVD đề Bjurman.

Anh cho đĩa vào máy tính của anh rồi kinh hoàng xem nội dung của nó. Anh ngồi đờ đẫn trong khi xem cảnh Salander bị đánh, bị hiếp và suýt nữa thì bị giết. Hình như đã có một camera giấu kín quay cuốn phim này. Anh không xem đủ hết mà nhảy qua từng đoạn, càng về sau càng tồi tệ.

Thằng Bjurman khốn nạn.

Người giám hộ Salander đã hiếp cô. Và cô đã lên tư liệu đến tận chi tiết cuối cùng cho vụ việc này. Ngày giờ trên đĩa cho hay hình ảnh đã được ghi từ hai năm trước. Khi anh chưa gặp cô. Các mảnh ghép hình đang rơi vào vị trí.

Bjorck, Bjurman cùng với Zalachenko trong những năm 70.

Zalachenko và Salander cùng với quả bom xăng làm bằng một hộp giấy đựng sữa đầu những năm 90.

Rồi lại Bjurman, lúc đó giám hộ cô, thay cho Palmgren. Cái vòng tròn đã khép lại. Bjurman đã tấn công người được hắn giám hộ. Với cô, một cô gái không tự vệ, Salander có mọi cái trừ không có tự vệ, hắn đã đối xử như với một con bệnh tâm thần. Cô là cô gái mới mười hai tuổi đã lên đường chinh chiến chống lại một tên đao búa trốn khỏi tình báo quân đội Liên Xô GRU và rồi cô đã làm cho hắn bị tàn tật hết đời.

Salander là người phụ nữ căm ghét các đàn ông căm ghét phụ nữ.

Anh nghĩ lại lúc anh đi đến bước quen biết cô ở Hedestad. Phải là sau vụ cưỡng hiếp vài tháng. Anh nhớ lại là cô không hề bóng gió qua một lời nào đến cái việc đã xảy ra với cô. Cô không để lộ chút nào bản thân cô ra. Blomkvist không thể đoán nổi cô đã làm gì cho Bjurman - nhưng cô đã không giết hắn. Khá là kỳ dị. Nếu không Bjurman đã chết trước đây hai năm. Cô chắc đã khống chế hắn bằng cách nào đó và với chủ đích nào đó rằng hắn có thể không bắt đầu hiểu ra được. Rồi anh nhận thấy anh đã có phương tiện khống chế của cô ở ngay trên cái bàn làm việc này. Đĩa DVD. Chừng nào cô có nó thì chừng ấy Bjurman còn là tên nô lệ kém mọn của cô. Và Bjurman đã quay sang cái người mà hắn cho là đồng minh. Zalachenko. Bố cô. Kẻ thù tồi tệ nhất của cô.

Rồi một chuỗi vụ việc. Bjurman bị bắn đầu tiên rồi Svensson và Johansson.

Nhưng sao lại ra thế?

Cái gì làm cho Svensson và Johansson thành ra một mối de dọa như vậy?

Và thình lình anh biết cái điều chắc đã xảy ra ở Enskede.

Blomkvist tìm thấy một tờ giấy ở trên sàn dưới cửa sổ. Salander đã in ra một trang giấy, vo tròn nó lại rồi vứt đi. Anh vuốt thẳng nó ra. Nó là ấn bản trên mạng của báo Aftohbladet nói về việc bắt cóc Miriam Wu.

Anh không biết Miriam Wu đóng vai trò gì trong vở bi kịch - nếu như có - nhưng cô là một trong số bạn bè rất ít ỏi của Salander. Có thể là bạn duy nhất cũng nên. Salander đã cho cô căn hộ cũ của mình. Nay cô nằm bệnh viện, bị đánh tồi tệ.

Niedermann và Zalachenko.

Mẹ cô trước. Rồi nay Miriam Wu. Salander căm thù đến phát điên lên mất.

Khiêu khích đến thế này là quá nhiều.

Nay cô đang săn lùng.

Vào giờ ăn trưa, Armansky được nhà phục hồi chức năng ở Ersta gọi. Sẵn chờ Palmgren nói cho nghe nhiều, ông đã không đến gặp ông ta. Ông sợ ông sẽ phải báo cáo rằng tội của Salander đã rõ rành rành. Nay ít nhất ông có thể bảo ông ta rằng trong thực tế có sự nghi ngờ có căn cứ về tội của cô.

- Ông làm đến đâu rồi? - Palmgren hỏi độp, không vòng vo.

- Về chuyện gì?

- Việc ông điều tra về Salander ấy.

- Thế sao ông lại đâm ra nghĩ là tôi điều tra nhỉ?

- Đừng có phí thì giờ của tôi đi mà, Dragan.

Armansky thở dài.

- Ông nói đúng.

- Tôi muốn ông đến gặp tôi. - Palmgren nói.

- Tôi có thể đến cuối tuần này.

- Tốt như thế chưa đủ đâu. Tôi muốn ông đến tối nay. Chúng ta có nhiều việc cần bàn đấy.

Blomkvist tự pha cà phê và làm sandwich ở trong bếp của Salander. Anh thấp thoáng mong nghe thấy tiếng chìa của cô ở cửa. Nhưng anh không lạc quan. Ổ cứng trống không trong PowerBook của cô bảo anh rằng cô đã rời bỏ nơi trú náu này mãi mãi. Anh tìm thấy căn hộ của cô quá muộn.

2 rưỡi, anh vẫn ngồi ở bàn làm việc của Salander. Anh đã đọc bản "không báo cáo" của Bjorck ba lần. Nó đã được thảo ra làm một bản lưu ý cho một cấp trên không nêu tên họ. Lời yêu cầu đơn giản: Kiếm một bác sĩ tâm thần dễ bảo để ông ta nhận Salander vào bệnh viện tâm thần của thiếu niên. Cô gái dứt khoát là bị rối loạn, như cách ứng xử của cô ta đã chứng minh rõ ràng.

Blomkvist sẽ dành sự chú ý rất đặc biệt đến Bjorck và Teleborian trong những ngày sắp tới. Anh đang nhìn trước tới việc đó. Di động réo, cắt đứt luồng suy nghĩ của anh.

- Lại chào nữa. Malin đây.

- Gì thế?

- Không có Ronald Niedermann trong các biên bản bảo hiểm xã hội ở Thụy Điển. Hắn không có ở trong bất cứ danh bạ điện thoại, biên bản thuế khóa hay cơ sở dữ liệu về bằng lái xe hoặc bất cứ chỗ nào khác. Nhưng nghe cái này này. Năm 1998, một công ty đã được đăng ký ở Sở Môn bài. Tên nó là KAB, Nhập khẩu AB, và có địa chỉ một hộp thư bưu điện ở Goteborg. Công ty nhập hàng điện tử. Chủ tịch ban giám đốc là Karl Axel Bodin, do đó có tên công ty KAB, sinh năm 1941.

- Nghe không thấy có gì hay cả.

- Tôi cũng thế. Cũng có một kế toán viên ở ban giám đốc đăng ký ở hai chục công ty khác nữa. Ông ta có vẻ là một trong các giám đốc tài chính danh nghĩa mà các công ty nhỏ cần đến. Từ khi lập ra, công ty này ít nhiều nằm yên. Nhưng rồi thành viên thứ ba của ban giám đốc là một R. Niedermann. Tay này không có một con số bảo hiểm xã hội nào ở Thụy Điển. Tay ấy sinh ngày 18 tháng Một năm 1970 và được nêu trong danh sách là đại diện của công ty ở thị trường Đức.

- Làm tốt đấy, Malin. Rất tốt ấy. Ngoài địa chỉ hòm thư bưu điện chúng ta còn có địa chỉ nào nữa không?

- Không, nhưng tôi đã dò ra Karl Axel Bodin. Hắn đăng ký ở Tây Thụy Điển và sống tại địa chỉ cho hòm thư bưu điện 612 ở Gosseberga. Tôi đã dò tiếp; hình như là một bất động sản ở vùng quê không xa Nossebro, phía đông bắc Goteborg.

- Chúng ta biết gì về hắn?

- Hắn khai thu nhập hai năm trước là 260.000 curon. Theo bạn bè chúng ta ở trong lực lượng cảnh sát thì hắn không có tiền án tiền sự. Hắn có giấy phép của một khẩu súng trường bắn hươu sừng tấm và một súng săn. Hắn có hai xe, một Ford và một Saab, đều là kiểu cũ. Bằng lái không có tì vết gì. Hắn không có vợ và tự nhận là chủ trại.

- Một người mà chúng ta không biết gì cả, mà không có tiền án tiền sự. - Blomkvist nghĩ qua một lúc. Anh phải có quyết định.

- Một việc nữa. Armansky gọi tìm anh mấy lần.

- Cảm ơn, Malin. Tôi sẽ gọi cô sau.

- Mikael... mọi cái đều OK với anh đấy chứ?

- Không, mọi cái đều không OK, nhưng sẽ liên hệ được với tôi.

Như một công dân tốt, anh cần báo Bublanski. Nhưng báo thì anh phải nói hết với ông sự thật về Salander hay đi đến một tình trạng sa lầy nửa chân lý nửa giấu diếm. Nhưng vấn đề thực sự không phải là ở đó.

Salander đang ra ngoài tìm Niedermann và Zalachenko. Anh không biết cô đã đi xa đến đâu nhưng nếu anh và Eriksson tìm ra được địa chỉ cho hòm thư 612 ở Gosseberga thì chắc chắn Salander cũng tìm thấy nó. Rất có khả năng cô đang đến Gosseberga. Cái bước đi này là tự nhiên thôi.

Nếu anh gọi cảnh sát báo họ chỗ Niedermann đang ẩn núp thì anh sẽ phải bảo cả họ rằng Salander chắc cũng đang trên đường tới đó. Cô đang bị lùng vì ba vụ án mạng và vụ bắn người ở Stallarholmen, như thế có nghĩa là đội phản ứng vũ trang quốc gia hay cái gì đó tương đương sẽ nhận nhiệm vụ bắt cô. Và không nghi ngờ gì là Salander sẽ chống cự dữ dội.

Blomkvist lấy giấy bút kê một danh sách các việc anh không được hay không muốn báo với cảnh sát.

Trước hết, địa chỉ ở Mosebacke. Salander đã gặp phải nhiều rắc rối để giữ gìn cho căn hộ cô được kín đáo riêng tư. Đây là nơi cô có cuộc đời và các bí mật của cô. Anh sẽ không để cho cô mất nó.

Rồi anh viết Bjurman cộng một dấu hỏi ở sau cái tên.

Anh liếc vào cái đĩa DVD trên bàn làm việc. Bjurman đã hiếp Salander. Hắn gần như suýt nữa thì đã dã man giết cô. Hắn ngạo ngược lợi dụng vị trí là người giám hộ cô gái. Vốn là lợn, hắn phải được phơi bày ra là lợn. Nhưng có một tình thế khó xử về đạo đức. Salander chưa từng báo cảnh sát. Cô sẽ không bao giờ tha thứ cho hắn nhưng bản thân bị phơi mặt trên báo chí bởi một nhóm điều tra của c 5776 nh sát và chỉ trong vài giờ là các chi tiết đau lòng nhất đã xì ra rồi thì sao? Đĩa DVD là chứng cứ và chắc các hình ảnh của nó cuối cùng sẽ lên các tờ báo chiều mất thôi.

Muốn làm thế nào là do Salander quyết định. Nhưng nếu anh đã dò ra được căn hộ của cô thì sớm muộn cảnh sát cũng dò ra. Anh để đĩa DVD vào túi xách.

Rồi anh viết Báo cáo của Bjorck. Năm 1991, nó đã được đóng dấu TỐI MẬT. Nó rọi ánh sáng vào tất cả các chuyện từng xảy ra. Nó lôi tên Zalachenko ra và làm rõ vai trò của Bjorck, nó có thể cùng với danh sách các tên chăn dắt gái trong máy tính của Svensson đem đến cho Bjorck vài giờ hoảng sợ chống đỡ lại với Bublanski. Và với ánh sáng từ các thư từ, Teleborian cũng thấy bản thân hắn gặp rắc rối to nốt.

Các tư liệu sẽ dẫn cảnh sát đến Gosseberga nhưng ít ra anh cũng đã đi trước cảnh sát một bước.

Anh mở Word viết lên mạng những sự việc quan trọng anh phát hiện ra ở các câu chuyện với Bjorck và Palmgren cũng như các tư liệu anh tìm thấy ở chỗ Salander trong hai mươi tư giờ qua. Anh viết những cái này mất một giờ, rồi sao tư liệu vào một đĩa CD cùng với điều tra của anh.

Blomkvist cân nhắc có nên báo cho Armansky không nhưng nghĩ nên cho nghỉ. Ông ta đã có đủ hột dái để mà tung hứng rồi.

Blomkvist đi vào Millennium và đến thẳng buồng giấy Berger. Anh nói ngay, chả chào hỏi:

- Tên hắn là Zalachenko. Hắn trước kia là một tay đao búa của một trong mấy cơ quan tình báo Liên Xô. Năm 1976, hắn đào ngũ và được cho tị nạn ở Thụy Điển, được Cảnh sát An ninh Sapo cấp lương. Sau khi Liên Xô sụp đổ, hắn trở thành một tên cướp băng nhóm chuyên nghiệp, giống như những đứa khác. Nay hắn dính vào buôn bán tình dục và buôn lậu vũ khí, ma túy.

Berger đặt bút xuống.

- Sao mật vụ KGB nhảy vào hoạt động mà em lại không thấy ngạc nhiên chứ nhỉ?

- Không phải KGB. Đây là GRU. Tình báo quân đội.

- Thế thì nghiêm trọng.

Blomkvist gật.

- Ý anh là hắn đã giết Dag và Mia?

- Không phải hắn, không. Hắn cử đứa nào đó làm. Ronald Niedermann, tên quái vật mà Malin đã tìm được ra.

- Anh có chứng minh được chuyện đó không?

- Ít nhiều có. Một số là phỏng đoán. Nhưng Bjurman bị giết là vì hắn nhờ Zalachenko giúp xử lý Salander.

Blomkvist nói với chị về cái đĩa DVD Salander bỏ lại ở trên bàn làm việc.

- Zalachenko là bố của cô ấy...

- Trời đất.

- Bjurman chính thức làm cho Sapo vào giữa những năm 70 và là một trong những người làm cho Zalachenko được chính thức hoan nghênh khi hắn ta đào ngũ bỏ trốn. Sau đó Bjurman thành luật sư tự do và là một tên lừa đảo chuyên nghiệp, làm việc cho một nhóm "đinh" trong Cảnh sát An ninh. Tôi nghĩ có một nhóm bên trong nữa thỉnh thoảng vẫn gặp nhau ở nhà tắm sauna của đàn ông để kiểm soát thế giới và giữ bí mật về Zalachenko. Tôi đoán ngoài bọn này, phần còn lại của Sapo không hề nghe thấy tên chó đẻ này bao giờ. Lisbeth đe dọa làm vỡ tóe loe bí mật này ra. Cho nên chúng nhốt cô ấy ở trong một bệnh viện tâm thần của thiếu niên.

- Không thể là chuyện có thật được.

- Ô, thế mà là chuyện có thật đấy. - Blomkvist nói. Nhiều chuyện khác nhau đã xảy ra và lúc ấy cũng như bây giờ Lisbeth không dễ để cho nắm lấy cô ấy... nhưng từ khi mười hai tuổi cô ấy đã thành mối đe dọa cho an ninh quốc gia.

Anh kể vắn tắt câu chuyện cho chị nghe.

- Cả một món để phải tiêu hóa đấy. - Berger nói. - Còn Dag và Mia.

- Bị giết vì Dag đã phát hiện ra mối liên hệ giữa Bjurman và Zalachenko.

- Vậy bây giờ xảy ra chuyện gì đây? Chúng ta phải báo cảnh sát, báo không?

- Phần nào thôi, không báo hết. Anh đã sao thông tin quan trọng vào cái đĩa này, làm bản lưu lúc cần đến. Lisbeth đang đi tìm Zalachenko. Anh đang cố đi tìm cô ta. Không được nói với bất cứ ai chuyện này.

- Mikael... Em không thích làm thế. Chúng ta không thể găm thông tin trong khi đang có điều tra án mạng.

- Chúng ta sẽ không găm. Anh có ý gọi Bublanski. Nhưng anh đoán Salander đang trên đường đến Gosserberga. Cô ấy vẫn bị truy lùng vì ba vụ án mạng, nếu chúng ta gọi cảnh sát thì đội phản ứng vũ trang sẽ được tung ra truy lùng cùng với vũ khí và có nguy cơ thực sự là cô ấy sẽ chống lại không cho bắt. Lúc ấy thì chuyện gì cũng có thể xảy ra.

Anh ngừng lại và mỉm cười dứt khoát.

- Nếu không muốn như thế thì chúng ta cần giữ cho cảnh sát ở ngoài cuộc để cho đội phản ứng vũ trang không đi đến một kết cục đau lòng.

Berger nom nghi ngờ.

- Anh không muốn để lộ bí mật của Salander ra. Bublanski sẽ phải tìm lấy những cái đó cho ông ấy. Anh muốn em làm ơn giúp anh một việc. Hồ sơ này có bản báo cáo 1991 của Bjorck và một số thư từ giữa Bjorck với Teleborian. Anh muốn em sao một bản rồi gửi nó cho Bublanski hay Modig. Hai mươi phút nữa anh sẽ đi Goteborg.

- Mikael...

- Anh biết. Nhưng trong suốt câu chuyện này anh ở bên Lisbeth.

Berger mím môi lại nhưng không nói gì. Rồi chị gật.

- Cẩn thận. - Chị nói nhưng anh đã đi.

Mình nên đi với anh ấy, chị nghĩ. Đó là điều thuận đạo lý duy nhất mà chị có thể làm được. Nhưng chị vẫn chưa bảo anh rằng chị sắp rời Millennium và mọi sự như thế là hết, bất kể chuyện gì xảy ra. Chị cầm hồ sơ đi đến máy sao chụp.

Hòm thư ở một trạm bưu điện trong một trung tâm mua bán. Salander không biết Goteborg và cả những dọc ngang xuôi ngược của cái thành phố mà cô đang ở đó nhưng cô đã tìm được trạm bưu điện và vào chốt ở trong một quán cà phê để có thể theo dõi cái hòm thư qua một khe cửa sổ, nơi có một tranh quảng cáo cho Svensk Kassajanst, hệ thống bưu điện đã được cải tiến của Thụy Điển.

Irene Nesser trang điểm nền nã hơn Lisbeth Salander. Cô vắt ở cổ mấy chiếc khăn quàng xấu xí và đang đọcTội ác và Trừng phạt cô tìm thấy ở một hiệu sách cách đó một phố. Cô kéo dài thời gian, thỉnh thoảng lật một trang. Cô bắt đầu theo dõi vào lúc ăn trưa, không biết thư từ có được lấy đều đặn, lấy thường ngày hay lấy cách tuần, từ hồi sớm được lấy đi chưa hay liệu sẽ có ai đến không. Nhưng đây là đầu mối duy nhất của cô, và cô nhâm nhi cà phê latte trong khi chờ.

Cô đã sắp lơ mơ ngủ thì thình lình thấy cửa hòm thư mở. Cô liếc vội đồng hồ. Hai giờ kém mười lăm. Số đỏ quá chừng là đỏ.

Cô nhanh nhẹn đứng lên và đi đến cửa sổ, ở đấy cô thấy một người mặc jacket da đen rời khu vực đặt các hòm thư. Cô bắt kịp người này ở ngoài phố. Đó là một thanh niên quãng hai chục tuổi, thanh mảnh. Anh ta rẽ ở đầu phố đến một chiếc Renault đỗ và mở khóa cửa xe. Salander nhập vào bộ nhớ biển số xe này rồi chạy về chiếc Corolla của mình, nó cũng đỗ ở cùng phố, cách đây một trăm mét. Cô bắt kịp chiếc Renault lúc nó rẽ đến Linnegatan. Cô theo nó xuống Avenyn và ngược lên phía Nordstan.

Blomkvist đến Ga Trung tâm vừa kịp bắt chuyến tàu X2000 vào lúc 5 giờ 10 chiều. Anh mua một vé ở quầy bằng thẻ tín dụng, ngồi vào trong toa nhà ăn rồi gọi bữa trưa muộn.

Cảm thấy trong lòng bứt rứt không yên, anh sợ mình đã lên đường muộn. Anh cầu xin Salander sẽ gọi anh nhưng trong tận đáy thâm tâm anh biết cô không gọi.

Năm 1991, cô đã cố hết sức để giết Zalachenko, bây giờ, sau ngần ấy năm, hắn đánh trả.

Palmgren đã đưa ra một phân tích có tính tiên tri. Salander tự thân đã nghiệm thấy nói chuyện với nhà chức trách là chả được cái tích sự gì.

Blomkvist liếc về chiếc túi máy tính xách tay của mình. Anh đã mang theo khẩu Colt anh tìm thấy trên bàn làm việc của cô. Anh không rõ tại sao anh mang nó đi nhưng linh tính mách bảo anh không được để nó ở lại căn nhà của cô. Anh biết ý nghĩ này không phải là một luận cứ lôgic lắm.

Khi tàu qua Arstabron, anh bấm di động gọi Bublanski.

- Ông muốn gì? - Bublanski hỏi, ngán ra mặt.

- Muốn làm cho hết các món dây dưa chưa giải quyết. - Blomkvist nói.

- Các món chưa giải quyết gì?

- Của tất cả mớ bòng bong này. Ông có muốn biết ai giết Svensson, Johansson và Bjurman không?

- Tôi muốn nghe nếu ông có thông tin.

- Tên kẻ giết người là Ronald Niedermann. Đó là tên khổng lồ đã đấu bốc với Paolo Roberto. Hắn là công dân Đức, ba mươi nhăm tuổi, làm việc cho một thằng cặn bã mạt hạng có tên là Alexander Zalachenko, cũng còn gọi là Zala.

Bublanski im một lúc lâu rồi Blomkvist nghe thấy ông thở dài, lật một tờ giấy và bấm bút bi.

- Đây là sự thật, không phải là nhà báo thả diều chơi đấy chứ?

- Đây là sự thật.

- OK. Vậy Niedermann và tay Zalachenko kia đang ở đâu?

- Tôi chưa biết nhưng tìm được ra là tôi báo ông ngay. Lát nữa, Erika Berger sẽ trao cho ông một bản báo cáo của cảnh sát từ năm 1991. Cô ấy sao xong là trao ngay, thật mà. Ông sẽ thấy mọi thông tin về Zalachenko và Salander ở trong đó.

- Như thế nào?

- Như Zalachenko là bố của Lisbeth, thí dụ vậy. Như hắn là một nhân viên đao búa của Liên Xô trong thời Chiến tranh lạnh.

- Một tay đao búa Nga à? - Bublanski họa theo.

- Một bộ phận trong Sapo đã ủng hộ hắn và giấu đi tất cả chuỗi hành vi tội phạm của hắn.

Blomkvist nghe thấy Bublanski kéo ghế ngồi ngay ngắn lại.

- Tôi nghĩ tốt nhất là ông đến làm một tờ khai chính thức.

- Tôi xin lỗi, tôi không có thì giờ làm việc đó.

- Ông nói sao?

- Hiện nay tôi không ở Stockholm. Nhưng tìm thấy Zalachenko là tôi báo tin ngay cho ông mà.

- Blomkvist... Ông không phải chứng minh gì cả. Tôi cũng ngờ về tội của Salander.

- Nhưng tôi chỉ là một người điều tra riêng tư không biết chút nào hết về công việc cảnh sát.

Thật trẻ con, anh nghĩ nhưng anh tắt máy không đợi Bublanski trả lời. Thay vì vậy, anh gọi Annika Giannini.

- Chào em.

- Chào. Có gì mới không?

- Mai có lẽ anh cần một luật sư giỏi.

- Anh đã vướng phải chuyện gì?

- Chưa có gì nghiêm trọng lắm, nhưng anh có thể bị bắt vì ngăn cản cảnh sát điều tra. Nhưng anh gọi vì chuyện khác. Đằng nào thì em cũng không đại diện được cho anh.

- Tại sao không?

- Vì anh muốn em bảo vệ cho Lisbeth Salander và em không thể trông nom cho cả hai bọn anh.

Blomkvist kể nhanh lại câu chuyện. Giannini im lặng, vẻ ái ngại. Cuối cùng cô nói:

- Thế ông anh có tài liệu về tất cả chuyện đó không?

- Có.

- Em đã nghĩ qua cả rồi. Lisbeth cần thực sự một luật sư.

- Em thì tốt nhất.

- Mikael.

- Nghe đây, em là người đã cáu với anh vì lúc cần đến giúp đỡ thì anh lại không nhờ.

Hai người chuyện xong, Blomkvist ngồi suy nghĩ. Rồi anh nhặt di động gọi Holger Palmgren. Anh không có lý do gì đặc biệt để gọi nhưng ông già đáng được biết là anh đang lần theo một hay hai đầu mối và anh hy vọng trong vài giờ tới sẽ giải quyết xong tất cả câu chuyện.

Vấn đề là Salander cũng có các đầu mối.

Salander móc một quả táo trong ba lô ra, mắt vẫn không rời khu nông trại. Cô nằm dài ở rìa một cánh rừng trên tấm thảm sàn xe Corolla cô lấy ra và trải lên mặt đất. Cô đã cởi bộ tóc giả, mặc vào một bộ quần áo thể thao màu xanh nhiều túi hông, một áo thun dầy và một áo chắn gió dài ngang thân có lớp lót giữ nhiệt.

Nông trại Gosseberga nằm cách đường cái bốn trăm mét. Có hai nhà. Nhà chính ở cách cô khoảng một trăm hai chục mét, một ngôi nhà khung trắng hai tầng bình thường với một cái lán và một nhà kho ở bên ngoài chừng bảy chục mét. Qua cửa nhà kho cô có thể thấy capô một chiếc xe trắng. Cô nghĩ đó là chiếc Volvo nhưng nó ở quá xa nên không chắc chắn lắm.

Giữa cô và ngôi nhà là một tràn ruộng bùn chạy dài về bên phải chừng hai trăm mét xuống một cái đầm. Đường xe vào nhà cắt ngang qua thửa ruộng rồi mất vào sau một hàng cây nho nhỏ đi ra phía đường cái. Cạnh đường cái có một nông trại khác nom như bỏ hoang; những miếng ni lông phủ lên cửa sổ. Bên kia ngôi nhà chính là một lùm cây dùng để chắn con mắt hàng xóm gần nhất, một vạt nhà cách đó gần đến sáu trăm mét. Vậy là khu trại trước mặt cô tương đối biệt lập.

Cô ở gần hồ Anten trong một khu vực băng tích đã được mài tròn, ở đó cánh đồng xen lẫn với những thôn xóm be bé và đất rừng rậm rạp. Bản đồ đường xá không cho chi tiết về khu vực nhưng cô đã bám chiếc Renault đen từ Goteborg chạy theo đường E20 rẽ sang phía tây đến Solebrunn ở quận Alingsas. Sau chừng bốn chục phút, chiếc xe quặt gấp vào con đường rừng ở chỗ biển báo đây là Gosseberga. Cô lái tiếp rồi đỗ ở sau một nhà kho trong một vạt cây cách phía bắc xa lộ độ chừng một trăm mét.

Cô chưa nghe nói đến Gosseberga bao giờ nhưng cô có thể nói nó liên quan tới ngôi nhà và nhà kho ở trước mặt cô. Cô đã đi qua một thùng thư bên đường. Chữ sơn ở trên đó là "BĐ Hòm thư 192 - K.A.Bodin". Cái tên chả nói lên điều gì với cô. Cô đã lượn một vòng rộng quanh các ngôi nhà và cuối cùng chọn lấy điểm nấp dò xét. Mặt trời chiều chiếu vào lưng cô. Do 3 giờ rưỡi đã vào vị trí, cô biết chỉ xảy ra có một việc.

Blomkvist chán ngán gõ ngón tay lên mặt bàn ở toa ăn. Đoàn tàu X2000 đỗ ở Katrineholm rồi ở lại đó gần một giờ. Một trong các toa xe bị trục trặc gì đó cần phải sửa. Người ta thông báo xin lỗi đã để hành khách phải chờ.

Anh nản chí thở dài rồi lại gọi cà phê.

Mười lăm phút sau, cuối cùng giật chúi một cái, đoàn tàu lại chạy. Anh nhìn đồng hồ, 8 giờ tối.

Lẽ ra anh nên đi máy bay hay thuê xe hơi. Bây giờ cái cảm giác lên đường quá muộn lại càng làm cho anh bồn chồn hơn.

Quanh quẩn lúc 6 giờ, ai đó bật đèn ở một gian phòng dưới tầng trệt rồi ngay sau đó một ngọn đèn dầu được thắp lên. Salander thấp thoáng thấy những cái bóng ở trong cái cô đồ chừng là gian bếp ở bên phải cửa ra vào nhưng cô không nhận ra được mặt mũi.

Rồi cửa ra vào mở, thằng khổng lồ có tên Ronald Niedermann đi ra. Hắn mặc quần sẫm màu và một áo phông chật làm cho bắp thịt hắn càng hằn rõ lên. Cô đã đúng. Một lần nữa cô thấy đúng thật là Niedermann đồ sộ. Nhưng hắn cũng chỉ là da thịt như mọi người bất chấp những cái mà Paolo Roberto và Miriam Wu đã nếm qua. Niedermann đi quanh ngôi nhà rồi vào nhà kho, nơi đỗ xe. Hắn đi ra với một cái túi nhỏ và trở lại vào trong ngôi nhà.

Sau chỉ ít phút hắn lại hiện ra. Đi kèm bên hắn là một người già hơn, thấp, gầy, chống một cái nạng. Trời quá tối Salander không nhận rõ được nét mặt người này, nhưng cô thấy một luồng lạnh buốt bò lan dọc sống lưng.

Bố ô ô ô, con ở đây...

Cô nhìn kỹ Zalachenko và Niedermann trong khi họ đi bộ lên đường cái. Họ dừng lại ở cái lán, Niederman lấy một ít củi ở đây. Rồi họ quay về nhà, đóng cửa lại.

Salander nằm im mấy phút. Rồi cô hạ ống nhòm xuống, lùi lại cho đến khi ẩn kín hoàn toàn vào giữa hàng cây. Cô mở ba lô lấy ra một bình giữ nhiệt, cô rót một ít cà phê. Cô cho một viên đường vào miệng mút. Cô ăn một sandwich pho mát mua hồi sớm trên đường đi đến Goteborg. Vừa ăn cô vừa tính xem tình thế.

Ăn xong cô lấy khẩu P - 38 Wanad Ba Lan của Nieminen ra. Cô bật kẹp đạn kiểm tra thấy không có gì làm cho chốt an toàn và nòng súng bị kẹt. Cô ngắm bóp cò thử không đạn. Cô có sáu viên đạn Makarov 9 li. Thế chắc là đủ. Cô cho kẹp đạn về chỗ, lên nòng một viên. Cô đẩy chốt an toàn rồi luồn súng vào trong túi phải của áo jacket.

Salander bắt đầu đi đến ngôi nhà, vòng qua khu rừng. Đi được chừng năm chục mét cô thình lình đứng lại.

Ở lề của bản Toán học, Pierre de Fermat ghi: Tôi đã có một chứng minh thực sự tuyệt vời cho mệnh đề này nhưng lề giấy đây quá hẹp không chứa đủ nó.

Bình phương đã được chuyển sang thành lập phương (x3 + y3 = z3) và các nhà toán học đã bỏ hàng thế kỷ ra để tìm lời giải cho câu đố của Fermat. Vào những năm 1990, lúc Andrew Wiles giải bài toán hóc búa này, ông đã vùi đầu vào nó trong mười năm, dùng đến chương trình máy tính tiên tiến nhất thế giới.

Rồi thình lình cô hiểu ra. Lời giải vô cùng đơn giản. Một trò chơi với các con số xếp lần lượt theo thứ tự rồi rơi vào vị trí nhờ một công thức đơn giản, giống với một câu đố bằng hình vẽ hơn cả.

Dĩ nhiên Fermat không có máy tính và đáp án của Wiles là dựa trên các toán học vẫn chưa được phát minh vào lúc Fermat đưa công thức của ông ra. Fermat có lẽ sẽ không bao giờ có được sự chứng minh mà Wiles đã trình làng. Đáp án của Fermat hoàn toàn khác.

Cô ngạc nhiên quá đến nỗi phải ngồi xuống một gốc cây. Cô nhìn đăm đăm về đằng trước trong khi kiểm tra phương trình.

Vậy thì điều ông muốn nói là cái ấy. Thảo nào các nhà toán học phải vò đầu bứt tai.

Rồi cô cười khúc khích.

Có lẽ một triết gia cũng có cơ may giải được câu đố này.

Cô mong cô đã được quen biết Fermat.

Ông là một đồ quỷ ngạo mạn.

Lúc sau cô đứng lên đi tiếp ở giữa lùm cây. Cô giữ cho gian nhà kho ở giữa cô và ngôi nhà chính.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,154
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 31


Thứ Năm, 7 tháng Tư

Salander vào trong nhà kho qua cái cửa sập đưa đến một rãnh phân bón. Không có gia súc trong trại. Cô thấy ba chiếc xe trong nhà kho - chiếc Volvo trắng thuê của Chuyên môn - Ô tô, một Ford cũ và một chiếc Saab có phần mới hơn. Sâu trong nữa là một chiếc bừa gỉ và những dụng cụ từ những ngày chỗ này còn là một nông trại đang hoạt động.

Cô quờ quạng đi trong nhà kho tối om và quan sát ngôi nhà. Nó tối và các phòng ở tầng trệt đều sáng đèn. Cô không thấy động tĩnh nào nhưng nghĩ có nhác thấy một màn hình tivi nhoang nhoáng. Cô liếc đồng hồ. 7 rưỡi. Đang chương trình Rapport.

Cô ngạc nhiên thấy Zalachenko lại chọn sống trong một ngôi nhà biệt lập ở một nơi hẻo lánh thế này. Không giống như người đàn ông cô vẫn nhớ. Có lẽ cô không bao giờ ngờ lại tìm ra ông ta trong một trang trại nho nhỏ màu trắng tại nông thôn. Ở một khu biệt thự vô danh nào đó hay ở một khu ổ chuột tại nước ngoài thì có thể. Ngoài cô, chắc ông đã chuốc lấy lắm kẻ thù. Cô bối rối thấy chỗ này nom quá hở hang trống trếnh. Nhưng cô không ngờ việc ông có vũ khí ở trong nhà. Quờ quạng một lúc lâu, cô lách ra khỏi nhà kho, bước vào nhá nhem chạng vạng. Cô rảo bước qua sân, giữ chân đi nhẹ nhàng và lưng quay vào mặt trước của ngôi nhà. Rồi cô nghe thấy tiếng nhạc khe khẽ. Cô đi êm như mèo vòng quanh ngôi nhà, nhưng không dám ngó vào các cửa sổ.

Linh tính Salander thấy bất an. Một nửa đời mình, cô đã sống khiếp sợ cái con người hiện đang ở bên trong ngôi nhà này. Do mưu toan giết ông đã bị thất bại, cô đã phải chờ đến cái lúc ông trở lại với nửa đời sau của cô. Lần này cô sẽ không phạm một sai lầm nào hết.

Zalachenko có thể là một lão què già nhưng hắn là tên giết người được huấn luyện đã từng sống sót qua bao trận đánh. Ngoài ra còn phải tính đến Ronald Niedermann. Cô rất thích bắt chợt được Zalachenko ở bên ngoài, nơi hắn không được bảo vệ.

Cô không mong chuyện trò với hắn mà sẽ thỏa mãn với một cây súng trường gắn kính nhằm xa. Nhưng cô không có súng trường và xem ra không có khả năng ban tối hắn ra loăng quăng ở ngoài. Nếu chờ dịp tốt hơn, cô sẽ phải rút lui và qua đêm ở trong rừng. Cô không có túi ngủ và dù buổi tối dễ chịu thì đêm vẫn sẽ rét. Bây giờ đã nắm hắn trong tầm tay, cô không muốn lỡ cơ để cho hắn lại lỉnh mất một lần nữa. Cô nghĩ đến Miriam Wu, đến mẹ.

Có lẽ cô phải vào trong nhà, nhưng đó là kịch bản khả thi tồi nhất. Cô chắc chắn có thể gõ cửa và hễ cửa vừa mở là cô bắn luôn rồi vào trong tìm nốt thằng đểu kia. Nhưng tên còn lại là ai thì hắn cũng đã được báo động và nhiều phần chắc là hắn có vũ khí. Lúc cần cân nhắc rủi ro đây. Chọn thế nào nhỉ?

Cô bắt chợt bóng Niedermann đi qua cái cửa sổ cách cô vài mét. Hắn đang ngoái lại nói với ai đó điều gì.

Cả hai đứa đang ở trong gian phòng bên trái cửa chính.

Salander quyết định. Cô lấy súng trong túi jacket ra, tháo chốt an toàn, im lặng đi tiếp đến cổng ngoài. Cô cầm súng tay trái khi cô hết sức thận trọng ấn tay nắm cửa trước xuống. Không khóa. Cô cau mày, ngập ngừng. Cái cửa có hai khóa vòng.

Zalachenko sẽ không để cửa không khóa đâu mà. Việc này làm cổ cô nổi da gà lên.

Cảm thấy lôi thôi.

Hành lang tối như hũ nút. Cô thoáng thấy cầu thang lên gác lờ mờ ở bên phải. Thẳng ngay trước mặt có một cửa và một nữa ở bên trái. Ánh sáng lọt qua một chỗ nứt ở phía trên cửa. Cô đứng lặng nghe. Rồi cô nghe thấy một tiếng nói và tiếng kéo ghế ở gian buồng bên trái.

Cô bước nhanh lên hai bước đẩy tung cửa, chĩa súng vào... gian phòng trống không.

Nghe thấy tiếng áo quần sột soạt ở sau lưng, cô quay ngoắt lại như một con thằn lằn. Khi cô định giơ súng lên ngang tầm bắn, thì một bàn tay đồ sộ của Niedermann đã đóng lại quanh cổ cô như một vòng ê tô sắt, còn tay kia thì ngoạm lấy bàn tay cầm súng của cô. Hắn nắm lấy cổ cô rồi giơ cô lên như một con búp bê.

Cô vung hai chân đá giữa trời. Rồi cô quay người đá vào bìu Niedermann nhưng cô đá trúng vào môi hắn. Cô cảm thấy như đá vào một thân cây. Mắt cô tối sầm lại khi hắn siết lấy cổ cô và tay cô buông rời khẩu súng.

Đồ vô lại.

Rồi Niedermann lẳng cô qua gian phòng. Cô rơi đánh rắc vào một chiếc sofa và đổ xuống đất. Thấy máu bốc lên đầu, cô loạng choạng đứng lên. Trông thấy một gạt tàn thuốc lá pha lê nặng trịch ở trên bàn, cô nắm lấy nó toan ngược tay ném nó đi. Niedermann chộp lấy tay cô đang vung lên. Cô thò bàn tay tự do vào túi quần lấy khẩu súng điện ra, quay người để chĩa nó vào bìu Niedermann.

Cô cảm thấy luồng điện giật mạnh vào khắp cánh tay Niedermann đang nắm cô. Cô đã chờ đợi hắn đau đớn quỵ xuống. Nhưng hắn ngạc nhiên nhìn xuống cô. Mắt Salander hoảng hốt trợn lên. Hắn như đang trải qua một cái gì khó chịu, có bị đau thì hắn cũng không biết. Con người này không bình thường.

Niedermann cúi xuống cầm lấy khẩu súng điện ở tay cô xem, ánh mắt bối rối. Rồi hắn quạng ngang đầu Salander một cú. Ngỡ như đánh bằng một cây gậy chơi golf. Cô ngã lăn chiêng ra sàn gần chiếc sofa. Ngước lên cô thấy Niedermann lạ lùng nhìn mình, như đang nghĩ cô sắp làm gì tới đây. Như con mèo sẵn sàng đùa với con mồi của nó.

Rồi cô cảm thấy có động đậy ở cửa. Cô quay đầu. Hắn từ từ đi vào vùng sáng đèn. Hắn chống tay lên một cái nạng và cô có thể trông thấy chiếc chân giả thò ra ngoài ống quần. Bàn tay trái hắn bị mất hai ngón.

Cô ngước nhìn vào mặt hắn. Nửa bên trái mặt là một tác phẩm gá ghép của mô sẹo. Tai hắn là một cái chũm bé tí và hắn không có lông mày. Hắn hói đầu. Cô nhớ trước kia hắn là một đàn ông lực lưỡng và nam tính với mái tóc đen lượn sóng. Hắn cao chừng mét sáu lăm, hốc hác.

- Chào bố. - Salander nói, giọng vô cảm.

Zalachenko nhìn con gái, dửng dưng.

Niedermann bật đèn trần. Hắn đưa tay lần lần lên quần áo cô kiểm tra xem đã hết vũ khí chưa rồi gạt chốt an toàn khẩu P-38 Wanad của cô, tháo bỏ kẹp đạn. Zalachenko lê chân đi qua hai người, ngồi xuống một ghế có tay, nhặt chiếc điều khiển tivi lên.

Mắt Salander đặt vào chiếc tivi ở đằng sau hắn. Zalachenko bấm chiếc điều khiển và cô trông thấy hình ảnh xanh loang loáng của cái khu vực đằng sau nhà kho và một phần của con đường rẽ vào nhà. Camera hồng ngoại tuyến. Mình đến chúng biết.

- Tao đang nghĩ là mày không dám đến cơ. - Zalachenko nói. - Chúng tao theo dõi mày từ 4 giờ. Tất cả các chỗ có báo động ở quanh trại thì mày đều vấp phải hết.

- Máy phát hiện cử động. - Salander nói.

- Hai cái ở bên đường và bốn cái ở những chỗ quang bên kia cánh đồng. Mày bố trí địa điểm quan sát của mày ở chính ngay chỗ chúng tao đặt thiết bị báo động. Chỗ ấy là chỗ nhìn tốt nhất ở khu trại. Thường thường đó là nai sừng tấm hay hươu, thỉnh thoảng là những đứa mót quả chín đến quá gần. Nhưng chúng tao không hay thấy đứa nào lén vào lối cửa chính mà tay lại cầm súng. - Hắn ngừng lại một lát. - Thật là mày nghĩ Zalachenko ngồi tênh hênh không có bảo vệ tí nào trong căn nhà nhỏ của ông ta ở nông thôn đấy à?

Salander xoa xoa gáy rồi bắt đầu đứng lên.

- Đứng ở sàn đó. - Zalachenko nói.

Niedermann thôi nghịch khẩu súng của Salander và bình thản nhìn cô. Hắn nhếch một lông mày lên mỉm cười với cô. Salander nhớ lại bộ mặt bị đánh của Paolo Roberto trên tivi và nghĩ tốt hơn là cứ ngồi vậy ở trên sàn. Cô thở ra rồi tựa lưng vào chiếc sofa.

Zalachenko giơ bàn tay phải nguyên vẹn của hắn ra. Niedermann lấy súng ở cạp quần ra, lên đạn rồi đưa cho hắn. Salander nhận thấy đó là một khẩu Sig Sauer, sản phẩm tiêu chuẩn của cảnh sát. Zalachenko gật đầu và Niedermann quay đi mặc jacket vào người. Hắn rời gian phòng và Salander nghe thấy cửa chính mở rồi đóng.

- Đề phòng mày có ý nghĩ gì ngu ngốc, nếu như mày định đứng lên là tao bắn thẳng ngay vào bụng mày đấy.

Salander nhẹ người. Cô chưa kịp lao đến hắn thì ắt hắn đã cố tương cho ra ba phát và chắc hắn phải dùng đạn làm cho mình chảy cạn máu mà chết ngay trong vài phút.

- Mày trông như cứt ấy. - Zalachenko nói. - Như một con điếm đang [bad word] dở ấy. Nhưng mày có con mắt của tao.

- Chỗ ấy có đau không? - Hất đầu về cái chân giả, cô hỏi.

Zalachenko nhìn cô hồi lâu.

- Không. Không còn đau nữa.

Salander nhìn hắn chằm chằm.

- Mày muốn giết tao thật à, phải không?

Cô không nói gì. Hắn cười thành tiếng.

- Tao nghĩ đến mày suốt từ ngày ấy. Đúng ra là cứ soi gương tao lại nghĩ đến mày.

- Lẽ ra ông nên để cho mẹ tôi yên.

- Mẹ mày là một con điếm.

Mắt Salander quay ra đen nhánh như hai hòn than đá.

- Mẹ không phải là điếm. Mẹ làm thu ngân ở siêu thị và cố kiếm cho đủ sống.

Zalachenko lại cười phá lên.

- Mày muốn mơ ước hão về mẹ mày thế nào là tùy mày. Nhưng tao biết mẹ mày là đồ điếm. Nhưng nó đã cố bảo đảm cho có chửa lập tức để rồi bắt tao lấy nó. Y như là tao lấy một con điếm vậy.

Salander nhìn xuống nòng khẩu súng và hy vọng hắn lơ là tập trung trong một khoảnh khắc.

- Quả bom xăng ấy thông minh đấy. Tao căm ghét mày vì nó. Nhưng cuối cùng cũng không bõ gì. Không đáng phải mất năng lượng cho mày. Nếu việc thế nào mày cứ để nguyên như thế.

- Có cục cứt ấy. Bjurman yêu cầu ông xử lý tôi mà.

- Đấy gần như lại là chuyện làm ăn khác mất rồi. Hắn cần một cuộn phim mà mày có. Cho nên tao có làm tí chút phi vụ.

- Thế ông nghĩ tôi đưa cuộn phim ấy cho ông chắc?

- Đúng, con gái thân yêu. Tao cam đoan là mày sẽ đưa. Mày không biết là khi Ronald yêu cầu cái gì thì người ta sẽ hợp tác như thế nào đâu. Đặc biệt khi nó giở cái cưa máy của nó ra mà cưa cụt đi của mày một chân. Với tao thì thế là một đền bù thích đáng đấy. Một chân đổi lấy một chân.

Salander nghĩ đến Miriam Wu trong tay Niedermann ở khu nhà kho. Zalachenko hiểu lầm vẻ mặt cô.

- Mày không phải lo. Chúng tao không có ý cưa mày ra đâu. Nhưng bảo tao: Bjurman đã hiếp mày chưa?

Cô không nói năng.

- Mẹ kiếp, hắn chắc đã nếm ngon lành rồi. Tao đọc trên báo thấy nói mày là một con ô môi. Chả lạ. Không thể có thằng đàn ông nào mà lại muốn mày.

Salander vẫn không nói.

- Có thể tao nên bảo Niedermann nó [bad word] mày. Nom mày có thể làm được chuyện ấy đấy. - Hắn nói và nghĩ về chuyện ấy. - Tuy Ronald không có làm tình với con gái. Không, nó không phải thằng đồng tính ái nam. Nó là không có thích làm tình, thế thôi.

- Vậy có thể là ông nên [bad word] tôi. - Salander nói để khiêu khích hắn.

Lại gần nữa đi. Sơ sểnh đi.

- Không, dẫu sao cũng cảm ơn. Như thế thì đồi bại quá.

Hai người im lặng một lúc.

- Ta còn chờ cái gì? - Salander nói.

- Bạn bên mình của tao sắp quay về rồi. Nó chạy đi mua lăng nhăng mấy thứ. Em gái mày ở đâu?

Salander nhún vai.

- Trả lời tao.

- Tôi không biết và tôi thật tình không đoái tí nào đến nó.

Hắn lại cười to.

- Tình yêu chị em chứ hả? Camilla luôn là đứa có cái đầu - mày chỉ là cục cứt vô dụng. Nhưng tao phải nói là chúng mày mà gắn bó với nhau thì tao hài lòng.

- Zalachenko. - Cô nói. - Ông là một tên vô lại chán phè. Có phải Niedermann đã bắn Bjurman không?

- Dĩ nhiên. Ronald là tên lính hoàn hảo. Nó không chỉ tuân lệnh mà khi cần nó còn chủ động nữa.

- Ông móc được nó ở đâu ra?

Zalachenko nhìn con gái, vẻ lạ lùng. Hắn mở miệng như muốn nói cái gì nhưng lại quyết định thôi. Hắn liếc về phía cửa chính rồi mỉm cười với Salander.

- Ý mày nói là mày chưa hiểu hả? Theo Bjurman thì mày được cho là đứa điều tra giỏi cơ mà.

Rồi Zalachenko cười rộ lên khùng khục.

- Chúng tao quen nhau ở Tây Ban Nha từ đầu những năm 90, lúc tao dưỡng bệnh sau cú bom xăng be bé của mày. Nó hai mươi hai và trở thành tay chân của tao. Nó không phải người làm thuê mà là cộng sự. Chúng tao làm ăn rôm rả.

- Buôn bán tính dục.

- Mày có thể nói là chúng tao phân ngành đa dạng và làm ăn với nhiều mặt hàng cùng dịch vụ khác nhau. Mô hình kinh doanh của chúng tao là ở trong hậu trường và không bao giờ để cho bị trông thấy. Nhưng mày phải mò ra Ronald là ai mới đúng chứ.

Salander không biết hắn nhắm nói gì.

- Nó là anh trai mày. - Zalachenko nói.

- Không. - Salander nói, không thở được.

Zalachenko lại cười to. Nhưng mũi súng của hắn vẫn chĩa lạnh lùng vào cô.

- Được, tao nên nói nó là anh cùng cha khác mẹ của mày. - Zalachenko nói. - Kết quả của một chuyến giải trí trong khi tao có nhiệm vụ ở Đức năm 1970.

- Ông đã biến con trai ông thành một tên giết người.

- Ấy không, tao chỉ là giúp nó thực hiện tiềm năng của nó thôi. Trước khi được tao huấn luyện, nó đã có bản lĩnh giết người rồi. Và sau khi tao chết đi nó sẽ trông nom nghiệp nhà.

- Hắn có biết tôi và hắn là anh em cùng cha khác mẹ không?

- Biết chắc chứ. Nhưng nếu mày tưởng có thể kêu gọi tình anh em máu mủ với nó thì hãy quên đi. Tao là gia đình nó. Mày chỉ là con nhặng ở đằng chân trời. Và nó không phải thằng anh duy nhất của mày. Ít ra mày có bốn anh em và ba chị em gái ở các nước khác nhau. Một thằng anh của mày là thằng ngu dở người nhưng một đứa khác thì có thực lực thực sự. Nó trông coi nhánh kinh doanh ở Tallinn. Nhưng đứa duy nhất thực sự thừa hưởng đích đáng các gien của Zalachenko là Ronald.

- Tôi cho rằng các chị em gái của tôi sẽ không có vai trò nào ở trong nghiệp nhà.

Zalachenko nom ngạc nhiên trước gợi ý này.

- Zalachenko... ông đúng là đồ sâu bọ mạt hạng thù ghét phụ nữ. Tại sao ông giết Bjurman?

- Bjurman là đồ đần. Chính tai hắn nghe mà hắn còn không tin khi tao nói rằng mày là con gái tao. Hắn là một trong số rất ít người ở nước này biết lai lịch của tao. Tao phải nhận là khi nó thình lình tiếp xúc với tao thì tao đã nổi cáu nhưng rồi mọi sự lại quay ra tốt đẹp cả. Bjurman chết còn mày thì chuốc lấy tội.

- Nhưng tại sao bắn hắn?

- À, thật ra không dự kiến thế. Có một cửa hậu ở Sapo luôn là có ích, dù trong nhiều năm rồi tao không cần đến nữa. Và dù hắn là thằng đần. Nhưng chả biết sao tay nhà báo ở Enskede kia lại tìm ra mối quan hệ giữa hắn với tao và gọi điện thoại cho hắn ngay lúc Ronald đã ở trong nhà hắn. Bjurman hoảng hồn, hóa ra điên khùng. Ronald phải có quyết định ngay tại trận. Nó làm hoàn toàn đúng.

Tim Salander tụt hẫng xuống như một hòn đá khi bố cô xác nhận điều cô nghi ngờ. Svensson đã tìm thấy một mối liên hệ. Cô đã nói chuyện với Svensson và Johansson trong hơn một giờ. Cô đã mến ngay người phụ nữ nhưng hơi lạnh đôi chút với anh nhà báo. Anh làm cho cô nhớ đến Blomkvist quá nhiều - một kẻ hành thiện không hề đau khổ nghĩ rằng với một quyển sách mình có thể thay đổi mọi thứ. Nhưng cô nhận ra ý đồ lương thiện của anh.

Việc cô đến gặp Svensson hóa ra là phí phạm thời gian. Họ không chỉ được cho cô tới Zalachenko. Tìm thấy tên hắn, Svensson bắt đầu đào bới nhưng không đủ khả năng nhận diện ra hắn.

Nhưng cô đã phạm một sai lầm tai hại. Cô biết giữa Bjurman và Zalachenko phải có một liên hệ và cô đã đặt các câu hỏi về Bjurman với mục đích kiểm tra xem Svensson có nghe qua thấy cái tên này không. Anh không, nhưng anh cũng nổi nghi lên ngay. Anh liền nhắm ngay vào Bjurman và hỏi dồn hỏi dập cô.

Cô cho anh rất ít thông tin nhưng anh hiểu ra rằng Salander là một diễn viên trong vở bi kịch. Anh cũng nhận thấy anh có những thông tin mà cô muốn có. Họ đồng ý sau lễ Phục sinh sẽ lại gặp nhau để thảo luận thêm. Rồi Salander về nhà ngủ. Sáng sau cô dậy để được chào mừng bằng những tin tức buổi sớm cho hay hai người đã bị giết trong căn hộ ở Enskede. Cô chỉ cấp cho Svensson một tin có thể dùng được. Cô đã cho anh cái tên Nils Bjurman. Chắc khi cô vừa rời nhà anh đi, anh đã gọi Bjurman ngay. Và cô là mối liên hệ. Nếu cô không gặp Svensson thì anh và Johansson vẫn sống.

Zalachenko nói:

- Mày không biết chúng tao ngạc nhiên như thế nào khi cảnh sát bắt đầu săn lùng mày vì mấy vụ án mạng đâu.

Salander cắn môi.

Zalachenko xem xét kỹ cô.

- Làm sao lại tìm được ra tao? - Hắn nói.

Cô nhún vai.

- Lisbeth... Ronald sắp về rồi. Tao có thể bảo nó lần lượt bẻ gẫy từng cái xương của mày cho tới khi nào mày nói. Tránh cho chúng tao phải thêm việc ra đi.

- Hòm thư Bưu điện. Tôi dõi xe Niedermann từ ở hãng cho thuê xe rồi chờ cho đến khi cái cục cứt ấy thò mặt ra lấy thư.

- Ha ha. Quá đơn giản. Cảm ơn. Tao sẽ nhớ chuyện này.

Mũi súng vẫn chĩa vào ngực cô.

- Ông có thực sự tin chuyện này sắp vỡ lở tung tóe ra không? - Salander nói. - Ông đã phạm quá nhiều sai lầm, cảnh sát sắp đến được chỗ ông rồi.

- Tao biết Bjorck gọi hôm qua bảo một thằng nhà báo ở Millennium đang đánh hơi và đây chỉ còn là vấn đề sớm muộn thôi. Có thể chúng tao phải làm một cái gì đó với thằng nhà báo này.

- Danh sách này sẽ dài đấy. - Salander nói. - Mikael Blomkvist và Erika Berger, Tổng biên tập, một phó tổng biên tập và nửa tá khác nữa chỉ kể Millennium không thôi. Rồi ông lại có Dragan Armansky và các cộng sự của ông ta ở An ninh Milton. Rồi thanh tra Bublanski và tất cả những ai dính líu vào cuộc điều tra này. Ông phải giết bao nhiêu người để hòng che đi được chuyện này? Không, họ sắp tóm được ông rồi.

Zalachenko mỉm cười với cô, một nụ cười méo xệch đáng sợ.

- Vậy sao? Tao chả bắn đứa nào, cũng chả có chứng cứ pháp y nào chống lại tao. Chúng muốn nhận diện đứa nào thì mặc kệ chúng. Tin tao đi... trong cái nhà này chúng có thể tìm từ nóc đến móng mà cũng chả thấy ra một hạt bụi nào dính được tao vào bất cứ hành động tội ác nào. Sapo giam mày lại ở bệnh viện tâm thần chứ không phải tao và bọn này thì không phải là sẽ mau mắn đem trình tất cả giấy tờ của chúng lên trên bàn đâu nhá.

- Niedermann. - Cô nhắc hắn.

- Sớm mai Ronald sẽ đi nghỉ ở nước ngoài một thời gian và nó sẽ chờ tình hình diễn biến ra sao.

Zalachenko đắc thắng nhìn Salander.

- Mày vẫn cứ là nghi phạm số một. Thế nên tốt nhất với mày chính là biến đi.

Gần một giờ sau thì Niedermann trở về. Hắn đi bốt.

Salander liếc nhìn cái người mà bố cô bảo là anh khác mẹ của cô. Cô không thấy ở hắn một mảy may nào giống mình. Thật ra hắn là một trái ngược hoàn toàn của cô. Nhưng cô cảm thấy rất rõ có một cái gì đó không ổn ở Niedermann. Vóc dáng, bộ mặt non yếu và tiếng nói chưa thật vỡ giọng, những cái đó xem vẻ là một kiểu khuyết tật di truyền nào đó. Quả thật là hắn vô cảm với súng bắn điện và bàn tay hắn đồ sộ. Xem ra không có cái gì là bình thường ở Ronald Niedermann sất.

Có đủ mọi thứ khuyết tật di truyền ở dòng họ Zalachenko, cô chua chát nghĩ.

- sẵn sàng chứ?

Niedermann gật đầu. Hắn chìa tay ra lấy khẩu Sig Sauer.

- Tao đi với mày. - Zalachenko nói.

Niedermann ngập ngừng.

- Đi có một tí thôi mà.

- Đằng nào tao cũng đi mà. Lấy cho tao cái jacket.

Niedermann nhún vai và nghe lời. Rồi hắn bắt đầu làm gì với khẩu súng trong khi Zalachenko mặc jacket và biến vào trong buồng bên cạnh một lúc. Salander nhìn Niedermann vặn một cái nom vẻ như ống giảm thanh tự chế vào một bộ phận tiếp nối.

- Xong, nào đi. - Zalachenko nói ở cửa.

Niedermann cúi xuống kéo Salander đứng lên. Cô nhìn vào mắt hắn.

- Tao cũng sẽ giết nốt cả mày.

- Mày rất tự tin, tao sẽ nói điều ấy cho mày.

Niedermann cười khá dịu dàng với cô rồi đẩy cô ra cửa chính rồi ra sân. Hắn túm chặt lấy sau gáy cô. Các ngón tay hắn thừa quấn kín hết quanh cổ cô. Hắn lái cô đi đến rừng cây ở bên kia nhà kho.

Họ đi thong thả và Niedermann thỉnh thoảng lại dừng để cho Zalachenko bắt kịp. Cả hai đều có đèn pin rất sáng. Khi đã đến rìa rừng, Niedermann buông cổ Salander ra. Hắn giữ khẩu súng dí vào lưng cô.

Họ theo một con đường mòn khó đi trong chừng bốn trăm mét. Salander ngã chúi hai lần, Niedermann lại xách cô đứng lên.

- Rẽ phải ở đây. - Niedermann nói.

Được mười lăm mét, họ đến một khoảng thưa cây. Lisbeth thấy một cái huyệt ở dưới đất. Trong luồng ánh sáng đèn pin của Niedermann cô trông thấy một cái mai cắm vào một đống đất. Rồi cô hiểu ra nhiệm vụ của Niedermann. Hắn đẩy cô tới cái huyệt và cô vấp và cô ngã, hai tay vùi sâu vào trong đất pha cát. Cô đứng lên nhìn đàng hoàng vào mắt hắn. Zalachenko còn nhẩn nha và Niedermann thì kiên nhẫn chờ. Mũi súng nhằm vào ngực cô không hề xê xích.

Zalachenko đứt hơi. Phải hơn một phút sau hắn mới lại nói được.

- Tao thấy nên nói một cái gì nhưng tao nghĩ tao chả có cái gì để nói với mày cả. - Hắn nói.

- Thế là hay cho tôi. - Salander nói. - Tôi cũng chả có gì nhiều để nói với ông. - Cô nhếch mép cười châm biếm.

- Chúng ta hãy kết thúc chuyện này ở đây. - Zalachenko nói.

- Tôi mừng là việc tôi làm cuối cùng cũng đã đem nhốt ông lại mãi mãi ở một chỗ. - Salander nói. - Cảnh sát đêm nay sẽ ở đây.

- Tào lao. Tao đang chờ mày bịp. Mày đến đây để giết tao, có thế thôi. Mày không bảo gì ai hết.

Salander cười toét. Rồi thình lình cô nom thâm hiểm:

- Con có thể cho bố xem cái này không?

Cô thong thả cho tay vào túi quần bên trái lấy ra một thứ hình chữ nhật. Niedermann theo dõi từng động tác của cô.

- Một giờ vừa qua ông nói những gì đều được phát lên trên radio Internet.

Cô cầm chiếc máy tính Palm Tungsten T3 giơ lên.

Trán Zalachenko, ở chỗ vốn là lông mày, cau lại thành rãnh.

- Để chúng tao xem. - Hắn nói, chìa bàn tay lành lặn ra.

Cô ném bổng chiếc PDA qua phía hắn. Hắn bắt lấy ở lưng chừng.

- Bậy bạ. - Zalachenko nói. - Đây là một cái Palm bình thường.

Khi Niedermann cúi xuống xem chiếc máy tính của cô, Salander ném một nắm cát vào hai mắt hắn. Hắn mù tịt nhưng theo bản năng bắn một phát. Salander đã dịch sang bên hai bước, viên đạn chỉ xé một lỗ không khí ở chỗ cô vừa đứng. Cô nắm lấy cái mai vung lên phang vào tay cầm súng của hắn. Cô đánh hết sức mạnh rìa mai sắc cạnh vào các khớp ngón tay hắn và cô trông thấy khẩu Sig Sauer bay thành một vòng cung rộng, rồi rơi vào bụi cây nào đó. Máu tóe ra ở vết thương bên trên ngón tay trỏ của hắn.

Lẽ ra nó phải hét lên vì đau chứ nhỉ.

Niedermann loạng choạng với bàn tay bị thương trong khi tay kia tuyệt vọng dụi mắt. Cơ hội duy nhất để cô đánh thắng trận này là gây cho nó thương tổn rất lớn càng nhanh càng tốt. Nếu để cho diễn ra một trận đấu về sức thì cô cầm chắc thua. Cô cần năm giây để biến vào trong rừng. Cô vung lần nữa chiếc mai ra sau vai. Cô cố xoay cái cán để cho có thể đánh trúng được trước tiên bằng cạnh mai nhưng cô lại bị lỡ tư thế. Mặt mai đập vào mặt Niedermann.

Niedermann gầm gừ khi mũi hắn chỉ trong mấy ngày đã bị vỡ lần thứ hai. Vẫn mù tịt vì cát nhưng hắn cứ vung tay phải lên cố đẩy Salander ra xa. Cô vấp phải một rễ cây. Cô ngã xuống nhưng trong chớp nhoáng đã đứng lên ngay lập tức. Niedermann trước mắt không có thể hành động.

Thôi ta làm bài vù.

Cô đi hai bước về phía rừng cây thấp thì ở cuối mắt mình cô trông thấy Zalachenko - click - giơ súng lên.

Tên vô lại già này cũng có súng.

Ý nghĩ này như một lằn roi quất đánh véo trong đầu cô.

Cô đổi hướng cùng với lúc khẩu súng nổ. Trúng vào phía ngoài của hông, viên đạn làm cho cô quay người, mất thăng bằng.

Cô không thấy đau.

Viên đạn thứ hai trúng vào lưng cô, chạm phải xương bả vai khiến cô dừng lại. Một cơn đau tê bại như lạng lóc toàn thân cô ra.

Cô khuỵu gối xuống. Trong vài ba giây cô không thể cử động. Cô ý thức rõ là Zalachenko đang ở đằng sau, sáu hay có thể bảy mét. Vớt vát lấy chút năng lượng cuối cùng, cô ngoan cường gắng gượng đứng lên rồi lảo đảo nhảy một cái vào trong các bụi cây.

Zalachenko có thì giờ ngắm.

Viên đạn thứ ba trúng vào dưới chóp tai trái của cô chừng hai phân. Nó xuyên qua sọ cô, làm nó vỡ thành một mạng lưới những vết rạn tỏa đều ra ngòai. Viên chì đến nằm ở trong chất xám, khoảng năm phân bên dưới vỏ não, gần đại não.

Với Salander chi tiết y học chỉ là lý thuyết. Còn viên đạn thì gây ngay cho cô một chấn thương mãnh liệt. Cảm giác cuối cùng của cô là một cơn sốc màu đỏ sáng chói rồi hóa sang thành ánh sáng trắng.

Rồi đêm đen. < de6 br />

Click.

Zalachenko toan bắn thêm viên nữa nhưng tay hắn run dữ dội đến nỗi hắn không thể nhằm. Nó gần chết rồi. Và lúc ấy nhận ra cô đã chết, hắn hạ súng xuống, run rẩy khi adrenalin chảy qua khắp người hắn. Hắn nhìn xuống khẩu súng. Hắn đã tính để nó ở nhà. Nhưng hắn đã đi lấy nó và để nó vào túi jacket tựa như hắn cần đến một cái búa cầu may vậy. Một quái vật. Chúng là hai người trưởng thành đầy đủ và một đứa trong chúng là Ronald Niedermann, kẻ đã cầm khẩu Sig Sauer của hắn. Mà con đĩ suýt nữa thì thoát.

Hắn liếc nhìn xác con gái. Trong ánh đèn pin cô trông như một con búp bê bằng giẻ vụn đẫm máu. Hắn cài lại chốt an toàn, nhét khẩu súng vào túi jacket rồi đi đến với Niedermann đang đứng ở đó yếu đuối, nước mắt chảy từ hai con mắt đầy cát cùng với máu ở mũi và bàn tay.

- Tôi nghĩ tôi lại bị giập mũi lần nữa.

- Đồ ngu. - Zalachenko nói. - Nó sắp chết rồi.

Niedermann cứ dụi mắt. Không đau nhưng nước mắt chảy, hắn không nhìn được.

- Đứng thẳng người ra, của nợ. - Zalachenko lắc đầu, khinh miệt. - Không có tao thì mày làm được đồ khỉ gì hả?

Niedermann tuyệt vọng nhấp nháy mắt. Zalachenko tập tễnh đến bên xác con gái, nắm lấy cổ áo jacket của cô. Hắn kéo cô đến cái huyệt chỉ là một hố nhỏ, quá nhỏ để cho Salander có thể nằm dài ra được ở trong. Hắn nhấc người cô lên để cho chân cô ở trên miệng hố rồi cho cô đổ nhào xuống. Cô nằm mặt úp xuống đất ở tư thế bào thai, chân co lại ở bên dưới người.

- Lấp đất lên để mà còn về. - Zalachenko ra lệnh.

Tên Niedermann mù dở phải mất một lúc mới hất được đất lên quanh cô. Cái gì còn lại ở trên hắn nện mạnh thật lực xuống để còn dàn ra xung quanh.

Zalachenko hút thuốc nhìn Niedermann làm. Hắn còn run rẩy nhưng adrenalin đã bắt đầu rút. Hắn thình lình nhẹ người với việc con gái đã chết. Hắn còn có thể hình dung ra con mắt cô khi cô ném quả bom xăng nhiều năm trước kia.

9 rưỡi tối thì Zalachenko cho đèn pin chiếu loang loáng chỗ này chỗ kia rồi tuyên bố hài lòng. Phải mất một lúc lâu hơn để tìm thấy khẩu Sig Sauer ở trong lùm cây thấp. Rồi chúng về nhà. Zalachenko cảm thấy tuyệt vời hài lòng. Hắn săn sóc tay của Niedermann. Lưỡi mai cắt sâu, hắn phải tìm kim chỉ để khâu vết thương lại - một tay nghề hắn học ở trường võ bị Novosibirsk lúc hắn mười lăm tuổi. Ít nhất hắn đã không cần phải tiêm thuốc tê. Nhưng vết thương có thể đủ là nghiêm trọng để cho Niedermann phải đi bệnh viện. Hắn để một cái kẹp vào ngón tay và băng bó lại. Chúng sẽ quyết định vào sáng mai.

Khi xong việc hắn lấy bia cho mình trong khi Niedermann thì rửa đi rửa lại mắt ở trong buồng tắm mãi.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,154
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 32


Thứ Năm, 7 tháng Tư

Blomkvist đến Ga Trung tâm Goteborg ngay sau 9 giờ sáng. Đoàn tàu X2000 đã vớt vát lại chỗ thời gian bị ngừng nhưng vẫn đến muộn. Anh bỏ giờ cuối cùng của chuyến đi ra gọi các công ty cho thuê xe. Thoạt tiên định tìm xe ở Alingsas, anh xuống tàu ở đó nhưng cửa hàng còn đóng cửa. Cuối cùng anh xoay cách lấy một chiếc Volswagen qua một hãng đặt phòng khách sạn trong thành phố. Anh có thẻ lấy xe ở Jarntorget. Nghĩ chả dại mà lái xe trong mối giao thông địa phương rối ren cũng như chế độ vé khó hiểu của Goteborg nên anh lên taxi.

Khi anh nhận chiếc xe thuê thì trong ngăn để găng tay không có bản đồ. Anh mua ở trạm xăng một bản đồ, đèn pin, chai nước khoáng và một cà phê mang đi, anh đặt cái cốc giấy vào giá đỡ ở bảng đồng hồ xe. 10 rưỡi thì anh lái ra khỏi thành phố trên con đường lới Alingsas.

Một con cáo dừng lại, nhìn quanh nhớn nhác. Nó biết có cái gì đó vùi ở đây nhưng từ đâu đó vẳng lại tiếng sột soạt của một con thú ăn đêm nên nó lập tức cảnh giác. Nó đi một bước thận trọng. Nhưng trước khi đi tiếp, nó co chân sau lên đái vào chỗ đó đánh dấu lãnh thổ.

Bình thường Bublanski không gọi các đồng sự muộn vào buổi tối nhưng lần này ông không cưỡng lại được. Ông nhấc máy nói và bấm số của Modig.

- Xin lỗi đã gọi muộn quá. Còn thức không?

- Không sao cả.

- Tôi vừa đọc hết báo cáo của Bjorck xong.

- Tôi chắc đọc xong ông cũng bối rối như tôi.

- Sonja... cô thấy nó sao, cô hiểu như thế nào về những cái đang diễn ra?

- Tôi thấy có vẻ như sau khi Lisbeth Slander cố bảo vệ cho mình và mẹ khỏi bị một tay bạo dâm mất trí đang làm việc cho Sapo hành hạ thì gã Gunnar Bjorck này đã đưa cô ấy vào bệnh viện tâm thần. Hắn đã được bác sĩ Teleborian cùng với những kẻ khác nữa tiếp tay làm bậy ở bản chứng nhận mà chúng ta đã dựa vào phần nào để đánh giá trạng thái đầu óc của cô ấy.

- Cái này làm cho bức tranh của chúng ta về cô ấy thay đổi đây.

- Và giải thích được nhiều thứ.

- Sonja, 8 giờ sáng cô có thể đón tôi đi không?

- Dĩ nhiên.

- Chúng ta sẽ đi xuống Smadalaro để nói chuyện với Gunnar Bjorck. Tôi đã có một số câu hỏi. Lão ta đang nghỉ bệnh.

- Tôi đã tính đến bước này.

Beckman nhìn vợ đang đứng bên cửa sổ trong phòng khách, nhìn ra vùng nước ở bên ngoài. Chị cầm di động trong tay và anh biết chị đang chờ Blomkvist gọi. Chị nom ưu tư đến nỗi anh đi đến quàng tay vào chị.

- Blomkvist già dặn mà. - Anh nói. - Nhưng nếu em lo lắng thật thì em nên gọi tay cảnh sát kia.

Berger thở dài.

- Lẽ ra thì đã làm thế hàng giờ rồi. Nhưng em không vui không phải vì chuyện ấy.

- Anh có nên biết là chuyện gì không?

- Em đã giấu anh một chuyện. Giấu Blomkvist nữa. Giấu cả mọi người ở Millennium.

- Giấu? Giấu cái gì?

Chị quay lại nói với anh rằng chị đã được mời làm Tổng biên tập ở báo Svenska Morgan - Posten. Beckman nhướng lông mày lên.

- Sao em đã lại không nói với anh cơ chứ, anh không hiểu. - Anh nói. - Quả này đồ sộ. Chúc mừng em.

- Em cảm thấy mình như đứa phản bội.

- Mikael sẽ hiểu thôi. Gặp thời thì ai cũng phải tiến lên. Và chính lúc này đây đang là thời với em.

- Em biết.

- Em đã quyết định chưa?

- Đã. Em đã quyết định. Nhưng em không còn bụng dạ nào để bảo với ai cả. Em cảm thấy như là đang giữa cơn thảm họa lớn thì mình lại bỏ đi.

Beckman ôm chầm lấy vợ.

Armansky dụi mắt nhìn ra đêm đen.

- Chúng ta phải gọi Bublanski. - Ông nói.

- Không. - Palmgren nói. - Chả ai, cả Bublanski lẫn một nhà chức trách nào đã động ngón tay giúp cô ấy. Để cho cô ấy tự lo lấy việc của cô ấy đi.

Armansky nhìn người giám hộ cũ của Salander. Ông vẫn ngạc nhiên về sự tiến bộ của bệnh tình Palmgren so với lần ông gặp dạo lễ Giáng sinh. Palmgren vẫn nói ngọng nhưng trong con mắt đã có một sức sống mới. Cũng có cả sự thịnh nộ trước đây ông không thấy ở Palmgren. Palmgren đã nói với ông toàn bộ câu chuyện mà Blomkvist ghép thành.

Armansky bị choáng.

- Cô ấy sẽ cố giết tay bố đấy.

- Có thể. - Palmgren nói bình thản.

- Hoặc là Zalachenko cũng có thể cố giết cô ấy.

- Cũng có thể.

- Vậy thì đúng là chúng ta chỉ biết cứ mà chờ thôi.

- Dragan... ông là người tốt. Nhưng Lisbeth Salander làm gì hay không làm gì, cô ấy sống hay cô ấy chết, chuyện ấy là không có thuộc về trách nhiệm của ông.

Palmgren chìa hai tay ra. Thình lình động tác của ông lại phối hợp được, đã từ lâu ông không làm được điều đó. Tựa hồ bi kịch của vài tuần qua đã làm sống lại các giác quan bị tù, bị cùn đi của ông.

- Tôi không bao giờ có thiện cảm với những người nắm luật pháp trong tay. Tôi chả thấy ai nắm luật mà có một lý do hay ho nào cả. Nói thế này thì có thể nghe tôi như là một cha yếm thế, nhưng dù ông hay tôi nghĩ sao thì cái chuyện xảy ra đêm nay nó vẫn cứ xảy ra. Chuyện này đã được các vì sao viết nên từ khi cô ấy ra đời rồi mà. Với ông và tôi thì tất cả những gì còn lại là chúng ta quyết định sẽ đối xử với cô ấy ra sao nếu cô ấy xong chuyện trở về.

Armansky thở dài rồi dứt khoát nhìn ông luật sư già.

- Nếu mười năm tới đây cô ấy có bị ngồi tù thì ít ra cô ấy cũng đã tự chọn cho mình con đường ấy. Tôi vẫn là bạn của cô ấy. - Palmgren nói.

- Tôi không biết ông lại có một cái nhìn tự do phóng khoáng như thế về thế thái nhân tình.

- Thì tôi đây cũng nào có biết. - Ông nói.

Miriam Wu nhìn đăm đăm trần nhà. Cô có đèn đêm bật sáng và radio bệnh viện chơi âm lượng nhỏ bài "Trên con thuyền tà tà đi Trung Quốc".

Hôm qua tỉnh dậy cô thấy mình ở trong cái bệnh viện mà Paolo Roberto đã đem cô đến. Cô ngủ rồi thức bồn chồn rồi lại ngủ, không thực sự biết đến thời gian trôi qua. Các bác sĩ bảo cô bị chấn thương. Muốn sao thì cô cũng cần nằm bất động. Cô bị dập mũi, gẫy ba xương sườn và khắp người thâm tím. Mí mắt trái cô sưng vù đến nỗi mắt chỉ còn là một cái khe bé tí. Hễ thử giở mình là cô đau. Thở vào cũng đau. Cổ đau, cô phải đeo một cái nẹp, cốt để cho nằm về bên an toàn. Làm cho cô yên lòng, các bác sĩ nói cô sẽ bình phục hoàn toàn.

Hồi tối khi cô tỉnh dậy, Paolo Roberto đang ngồi ở gần giường. Ông nhăn răng cười và hỏi cô thấy sao. Cô thầm nghĩ không biết nom mình có dễ sợ như ông không.

Cô có những câu hỏi và ông đã trả lời. Chả hiểu sao việc ông là bạn thân của Salander xem ra chả có gì đáng lấy làm lạ. Ông là đồ quỷ sứ coi trời bằng vung. Lisbeth thích toàn đồ quỷ sứ coi trời bằng vung, y như cô ghét các tay ngu ngốc huênh hoang phồng phạo. Chỉ có một chỗ khác tế nhị nhưng Paolo Roberto thuộc về hạng trên.

Nay cô đã rõ tại sao ông ở đâu đó không biết lại thình lình nhảy vọt vào nhà kho. Cô ngạc nhiên thấy ông đã quyết định bướng bỉnh đuổi theo chiếc xe van đến thế. Và cô ghê rợn với cái tin cảnh sát đang đào bới xác người trong khu rừng cây quanh cái nhà kho.

- Cảm ơn ông. - Cô nói. - Ông đã cứu sống tôi.

Ông lắc đầu, ngồi im một lúc.

- Tôi đã cố nói rõ cái đó với Blomkvist. Anh ấy thực sự không hiểu được. Nhưng tôi nghĩ cô thì hiểu vì bản thân cô cũng đánh bốc.

Cô hiểu ông định nói gì. Ai không ở đấy thì sẽ không hiểu đánh nhau với một con quái vật không biết đau là như thế nào đâu. Cô nghĩ cô đã từng hết phương chống chọi ra sao.

Sau đó cô chỉ cầm lấy bàn tay băng bó của ông. Họ không nói một lúc lâu. Không có gì hơn nữa để nói. Khi cô tỉnh dậy, ông đã đi. Cô hy vọng Lisbeth sẽ bắt được liên lạc.

Lisbeth là người mà Niedermann đang lùng.

Miriam sợ hắn tóm được Lisbeth.

Salander không thở được. Cô mất cảm thức về thời gian nhưng cô biết mình đã bị bắn và cô nhận ra - bằng bản năng hơn bằng lý tính - cô đã bị chôn dưới đất. Tay trái của cô vô dụng, cô đụng đến nó là cả bả vai đau buốt và cô bồng bềnh trôi ra trôi vào một vùng ý thức mù mịt khói sương. Mình cần có không khí. Đầu cô đau thon thót như muốn vỡ toang, kiểu đau cô chưa từng thấy bao giờ trước đây.

Bàn tay phải cô đặt ở bên dưới mặt. Và theo bản năng cô nậy đất ra khỏi mũi khỏi mồm. Đất pha cát và tương đối khô. Cô cố tạo ra ở trước mặt một không gian to bằng cỡ quả đấm.

Cô không biết mình bị nằm chôn vùi ở đây đã bao lâu. Nhưng cuối cùng một ý nghĩ sáng sủa đã được cô cho hiện hình và thế là cùng với nỗi hoảng loạn nó liền túm lấy cô. Cô không thể thở. Cô không thể động đậy. Đất rất nặng giữ cô cột cứng vào với đá sơ khai. Hắn đã chôn sống mình.

Cô cố cựa một chân nhưng chỉ khiến cho cơ bắp căng lên được chút xíu. Rồi cô phạm sai lầm là cố đứng lên. Cô tì đầu xuống cố nâng mình dậy thì lập tức thấy đau buốt như có một luồng điện giật khắp người. Mình không được gục. Cô lại rơi vào tình trạng đầu óc mụ mị.

Khi nghĩ lại được, cô thận trọng sờ sờ để tìm xem chỗ nào trên cơ thể còn hoạt động. Cái chi mà cô còn có thể xê dịch được một hai phân là bàn tay phải hiện đang ở trước mặt cô. Mình cần phải có không khí.

Salander bắt đầu cào đất. Cô chống khuỷu tay, cố tạo ra một chỗ nho nhỏ để cào. Cô mở rộng cái vùng ở trước mặt bằng lấy mu bàn tay ép đất ra xa khỏi mình. Mình cần phải đào.

Cô phát hiện ra ở giữa khuỷu tay và đầu gối của mình có một cái hõm trong tư thế bào thai uốn gập. Phần lớn không khí đang giữ cho cô còn sống là chứa đựng ở đấy. Cô bắt đầu tuyệt vọng cho phần thân trên nhích lên nhích xuống rồi sờ lần xem đất tụt xuống khoảng trống ở bên dưới cô như thế nào. Ngực cô đã bớt bị đè nặng đi một chút. Cô đã có thể cử động được cánh tay.

Từng phút từng phút cô làm việc trong trạng thái ý thức nửa vời. Cô nạo đất ra khỏi mũi rồi lần lượt ấn lèn từng nắm đất vào cái hốc ở bên dưới cô. Dần dần cánh tay cô đã động đậy được tự do và cô có thể đẩy đất ra xa khỏi đỉnh đầu. Từng phân từng phân một, cô mở rộng cái không gian ở quanh đầu cô. Cảm thấy một cái gì cứng, cô lấy tay nắm phải một cái rễ cây hay que nho nhỏ. Cô đào ngược lên phía trên. Đất vẫn còn đầy không khí và không chặt quánh lắm.

Trên đường về hang, con cáo nghỉ ở bên mộ Salander. Nó đã bắt được hai con chuột và cảm thấy thỏa mãn thì thình lình nó cảm thấy đang có mặt một vật khác. Nó cứng người lại, dỏng hai tai lên. Râu và mũi nó rung rung.

Các ngón tay của Salander như một cái gì đã chết từ dưới đất nhoi lên. Nếu là một con người đang quan sát thì cầm chắc hắn cũng sẽ phản ứng như con cáo. Nó lao vọt đi như một mũi tên.

Salander cảm thấy khí trời mát mẻ chạy lan xuống cánh tay cô. Cô đã lại thở được.

Cô phải mất hơn nửa giờ để thoát ra khỏi nấm mộ. Cô lạ là mình không thể dùng được cánh tay trái nhưng như máy cô vẫn tiếp tục đào đất và cát bằng cánh tay phải.

Cô cần đào với một cái gì khác nữa. Cô thọc tay vào trong hố, thò vào túi ngực lấy hộp thuốc lá ra. Cô mở hộp, dùng nó như một cái muôi. Cô cào đất cho lỏng tơi rồi hất đi. Cuối cùng đã có thể cử động bả vai phải, cô bèn cố đè nó lên lớp đất ở trên người cô. Rồi cô múc được nhiều đất cát hơn nữa và cuối cùng thì đầu cô đã vươn thẳng ra được. Nay cánh tay phải và đầu cô đã nhoi lên khỏi đất. Khi gỡ được nửa người trên thoát ra rồi, cô bắt đầu mỗi lúc một ít vặn vẹo người theo hướng lên trên cho đến thình lình chân cô không còn bị đất giam cứng lấy nữa.

Mắt vẫn nhắm, từ cái mộ cô trườn đi và chỉ dừng lại khi vai va phải một thân cây. Cô thong thả xoay người để tựa vào cái cây và lấy lưng bàn tay phủi sạch đất cát ở trên mắt rồi mới mở ra. Trời đất xung quanh tối như mực và lạnh giá. Cô chảy mồ hôi. Cô thấy đầu, vai trái và hông đau âm ỉ nhưng cô không phí sức nghĩ nguyên nhân vì sao. Cô ngồi im trong mười phút, thở. Rồi cô chợt nhận ra không nên ngồi ở đây.

Cô gắng gượng đứng lên trong khi thế giới đảo tròn ở xung quanh.

Lập tức thấy lợm giọng, cô bèn cúi xuống nôn.

Rồi cô bắt đầu đi. Cô không biết là mình đang đi về hướng nào. Chân trái đau buốt và cô cố loạng choạng bằng cả hai chân. Mỗi lần như thế cái đau đớn hơn lại vọt xuyên lên óc cô.

Cô không biết mình đã đi bao lâu thì nhác trông thấy một ánh sáng ở ngoài đuôi mắt. Cô đổi hướng. Mãi đến khi đứng gần cái lán củi trong sân cô mới nhận ra là mình đang đi thẳng trở lại về căn trại của Zalachenko. Cô lảo đảo như người say.

Các tế bào quang học ở đường rẽ vào nhà và ở trong khu rừng thưa. Cô đang đi đến từ hướng khác. Chúng sẽ không để ý thấy cô được.

Cô hoang mang. Cô biết cô không có hơi sức nào mà chống chọi lại với Niedermann và Zalachenko. Cô nhìn khu trại màu trắng.

Click. Củi. Click. Lửa.

Cô mơ hoắng đến can xăng và một que diêm.

Gắng gượng ghê gớm quay lại đến lán củi, cô loạng choạng phải cái cánh cửa cài bằng một then ngang. Ghé vai phải vào dưới cái then, cô cố nhấc nó lên. Cô nghe thấy cái then ngang rơi xuống đất, va vào cửa đánh ầm. Cô bước vào bóng tối nhìn quanh.

Đây là lán củi. Sẽ không có can xăng ở đây.

Ngồi bên bàn bếp, nghe thấy tiếng chiếc then cửa rơi, Zalachenko ngước nhìn lên. Hắn vén rèm cửa sang một bên nhìn vào đêm tối. Vài giây sau mắt hắn mới quen dần. Gió đang thổi dữ hơn. Dự báo thời tiết đã nói đến một cuối tuần dông bão. Rồi hắn thấy cửa lán củi hé mở.

Hắn và Niedermann đã mang củi về chiều hôm nay. Không cần củi nhưng mục đích là để cho Salander tin rằng mình đã đến đúng chỗ rồi dụ cô đi ra.

Rõ là Niedermann đã không cài then cửa tử tế. Nó có thể vụng về lạ đến như thế đấy. Zalachenko liếc về cửa phòng khách, chỗ Niedermann đang ngủ gà ngủ vịt trên chiếc sofa. Hắn tính đánh thức nó dậy nhưng lại quyết định thôi.

Muốn tìm xăng Salander phải đi đến nhà kho, nơi đỗ xe hơi. Cô dựa vào phiến thớt chặt củi, thở hổn hển. Cô cần phải nghỉ. Cô ngồi ở đấy chừng một phút thì nghe thấy tiếng chân gỗ của Zalachenko vừa bước vừa dừng.

Trong đêm tối Blomkvist đã rẽ lầm ở Mellby, mạn bắc Sollebrunn. Lẽ ra xuống ở Nossebro thì anh lại cứ đi tiếp lên mạn bắc và tới lúc sắp đến Trokorna anh mới nhận ra. Anh dừng xe xem bản đồ.

Anh chửi tục rồi quay xe ngược về Nossebro.

Tay phải Salander vừa nắm lấy cái búa rìu ở trên thớt chặt củi thì Zalachenko đi vào lán. Cô không đủ sức nâng búa rìu lên quá vai nhưng ngả người về phía hông lành lấy điểm tựa và xoay người nửa vòng, cô đã một tay vung nó lên thành một vòng cung.

Vào đúng lúc Zalachenko vừa bật đèn, lưỡi búa rìu đánh vào ngang mặt hắn về bên phải, làm vỡ xương gò má, vào sâu trong trán hắn mấy li. Hắn không hiểu chuyện gì xảy ra nhưng ngay sau đó não hắn ghi nhận được cơn đau và hắn liền hú tru lên như bị quỷ ám.

Niedermann giật mình tỉnh dậy, ngồi lên, bàng hoàng. Hắn nghe thấy tiếng hét mà thoạt đầu hắn tin là không phải tiếng người. Tiếng hét ở bên ngoài vào. Rồi hắn nhận ra là Zalachenko. Hắn vội đứng lên.

Salander đứng chắc chân, lại vung cây búa rìu lên nhưng người cô nó không tuân lệnh. Cô nhằm giáng búa rìu vào đầu ông bố nhưng cô đã dùng cạn hết sức lực và đánh trượt xa mục tiêu, vào đúng bên dưới xương đầu gối. Trọng lượng của đầu búa bập quá sâu đến nỗi cây búa nằm lại và tuột khỏi tay cô khi Zalachenko đổ nhào vào trong lán kéo nó theo. Hắn thở dốc và kêu la.

Cô lại cúi xuống nắm lấy cây búa. Đất chuyển động trong khi những tia chớp lóe lên trong đầu cô. Cô phải ngồi xuống. Cô giơ tay sờ các túi jacket của hắn. Hắn vẫn còn khẩu súng và trong khi mặt đất chòng chành thì cô nhìn kỹ vào khẩu súng.

Một khẩu Browning cỡ 22.

Súng ranh của trẻ hướng sinh quân.

Vì sao mà cô còn sống là thế. Nếu cô bị bắn bằng một viên đạn từ khẩu Sig Sauer của Niedermann hay bằng một khẩu có đạn nặng hơn thì chắc đã có một cái hố to tướng xuyên qua đầu cô mất rồi.

Lúc ấy cô nghe thấy Niedermann nghiêng ngả đi đến rồi hắn đứng đầy phè ở cửa lán. Hắn đứng sững, ghi nhận cảnh tượng ở trước mắt với đôi mắt chằm chằm nhìn không hiểu. Zalachenko rên la như bị ma ám. Mặt hắn là một mặt nạ máu. Hắn có một cây búa hàn vào đầu gối. Một Salander máu me, hôi hám đang ngồi trên sàn cạnh đó. Cô nom giống một cái gì đó ở trong một bộ phim kinh dị, khác xa với quá nhiều những người từng đã biểu diễn ở trong đầu Niedermann.

Không biết đau và đồ sộ như một cỗ xe tăng, hắn lại không bao giờ thích bóng tối.

Với con mắt của riêng hắn, hắn đã nhìn thấy trong đêm tối đủ các loài, các giống, những thứ luôn ẩn nấp, chờ đợi hắn với một nỗi khủng khiếp mơ hồ. Bây giờ nỗi khủng khiếp đó đang hiện ra thành hình.

Đứa con gái ở trên sàn kia đã chết rồi. Chuyện đó chắc như đinh đóng cột.

Chính tay hắn chôn nó mà.

Vậy thì cái của ở trên sàn kia không phải là đứa con gái ấy mà là một thứ trở về từ phía bên kia nấm mồ, với nó thì không tài nào mà đánh thắng được bằng sức người hay bằng vũ khí con người từng biết đến.

Việc một người sống biến ra thành một xác chết đã bắt đầu. Da nó đang đổ sang bộ giáp giống da thằn lằn. Răng nó nhe ra là những mũi mác nhọn hoắt để xé con mồi ra thành những súc thịt. Cái lưỡi rắn rết của nó bắn ra liếm láp quanh mồm nó. Bàn tay nó máu me có những móng vuốt dài mười phân sắc như dao cạo. Hắn có thể trông thấy mắt nó rực lóe lên. Hắn có thể nghe nó gầm gừ khẽ và nhìn thấy nó căng các bắp thịt ra để vồ lấy cổ họng hắn.

Hắn nhìn rõ thấy nó có một cái đuôi đang uốn éo và bắt đầu quật ghê rợn xuống sàn.

Rồi cô giơ súng lên bắn. Viên đạn đi sát Niedermann đến nỗi hắn không cảm thấy gió quất ngang qua tai. Hắn nhìn thấy miệng cô phun lửa về phía hắn.

Quá đỗi.

Hắn ngừng suy nghĩ.

Hắn quay lại chạy lấy sống. Cô bắn trượt phát nữa nhưng tiếng súng có vẻ đã cho hắn mọc thêm cánh. Hắn nhảy qua một hàng rào và bị bóng đêm của tràn ruộng nuốt chửng khi hắn gấp chạy về phía đường cái.

Salander ngạc nhiên nhìn hắn biến khỏi tầm mắt.

Cô lê chân ra cửa lán nhìn dọi vào đêm tối nhưng không trông thấy hắn. Một lúc sau Zalachenko thôi kêu la nhưng nằm rên rỉ vì choáng. Cô mở súng lục xem thấy còn lại một viên đạn đã toan bắn vào đầu Zalachenko. Rồi cô nhớ là Niedermann vẫn còn ở đây, trong đêm tối ngoài kia, tốt nhất là cô nên dành viên đạn lại. Cô sẽ cần đến cả đạn 22 nữa. Nhưng như thế vẫn tốt hơn là không có gì.

Cô phải mất năm phút để cài lại then cửa. Cô chập chững đi qua sàn, vào nhà tìm điện thoại để trên một thanh ván ở trong bếp. Cô bấm một con số cô chưa dùng đến trong hai năm qua. Máy trả lời tự hoạt động.

Chào. Mikael Blomkvist đây. Tôi chưa trả lời được lúc này nhưng xin để lại tên và số để khi có thể tôi sẽ sớm gọi bạn ngay.

Bíp.

- Mik... ơ... - Cô nói và nghe tiếng mình thấy như đặc sệt. Cô nuốt. - Mikael. Salander đây.

Rồi cô chả biết nói gì nữa.

Cô đặt máy lại.

Khẩu Sig Sauer của Niedermann tháo rời để lau chùi và bôi dầu mỡ nằm trên bàn bếp trước mặt cô, gần nó là khẩu P-83 Wanad của Sonny Nieminen.

Cô ném khẩu Browning của Zalachenko xuống sàn và chập chững đi lên nhặt khẩu Wanad xem ổ đạn. Cũng thấy máy tính Palm PDA của mình, cô buông nó vào trong túi. Rồi cô tập tễnh đến chậu rửa, rót đầy nước lạnh vào cái cốc chưa rửa. Cô uống bốn cốc. Khi nhìn lên cô thấy mặt mình trong tấm gương cạo râu cũ trên tường. Cô gần như giật bắn lên vì sợ. Thứ cô nhìn thấy kia làm cho cô nghĩ đến một con vật hơn là con người. Cô là một mụ điên, mặt mũi méo mó, miệng thì ngoác ra thở. Đất cát trát kín người. Mặt cô, cổ cô là một thứ cháo đặc của máu và đất cát. Bây giờ thì cô hiểu phản ứng vừa rồi của Niedermann ở trong lán.

Cô đến gần gương hơn và thình lình nhận thấy chân mình kéo lê ở đằng sau. Hông cô đau gắt ở chỗ phát đạn đầu tiên Zalachenko bắn vào. Phát thứ hai trúng vào bả vai làm cho tay trái cô bị liệt. Nó đau.

Nhưng chỗ đau ở đầu nhói buốt đến nỗi cô lảo đảo. Cô từ từ giơ tay phải lên rờ rờ vào đằng sau đầu. Cô có thể sờ bằng ngón tay thấy cái lỗ thủng ở đầu vào của viên đạn. Trong khi rờ rờ cái lỗ ở sọ, cô thình lình hốt hoảng thấy rằng cô đang sờ vào chính óc cô, rằng cô bị thương nặng, rằng cô đang ngắc ngoải hay có thể là đã chết. Cô không biết tại sao mình còn đứng được.

Cơn mệt làm đờ đẫn đang đánh quỵ cô. Cô không cầm chắc là mình sắp ngất đi hay ngủ gục nhưng cố lần mò ra cái ghế dài ở trong bếp, nằm dài lên đó, bên đầu lành lặn gối lên một cái đệm.

Cô phải nằm xuống lấy lại sức nhưng cô biết cô không thể liều ngủ đi trong khi Niedermann vẫn lảng vảng ở quanh đây. Sớm muộn hắn sẽ quay lại. Sớm muộn Zalachenko sẽ xoay xở đi ra khỏi gian lán, tự lê lết vào trong nhà nhưng cô thì không còn sức để mà thẳng người lên được nữa. Cô đang rét. Cô mở chốt an toàn súng.

Niedermann đứng phân vân trên đường từ Sollebrun đi Nossebro. Hắn đơn độc. Trời tối đen. Bắt đầu nghĩ tỉnh táo lại, hắn thấy xấu hổ vì đã bỏ chạy. Hắn không biết đã có thể xảy ra chuyện gì nhưng hắn đi tới kết luận lôgic là cô gái chắc đã sống sót. Như thế nào đó cô ấy đã tự bới được ra.

Zalachenko cần hắn. Hắn phải quay về nhà rồi vặn ngoéo cổ con ranh ra.

Đồng thời Niedermann cũng cảm thấy rõ rệt rằng mọi sự đã kết thúc. Hắn đã một lúc lâu có cảm giác này. Sự tình bắt đầu đâm ra lôi thôi và họ cứ bị rắc rối mãi từ lúc Bjurman tiếp xúc với họ. Nghe thấy tên Lisbeth Salander, Zalachenko liền thay đổi không nhận ra nổi. Mọi quy tắc về thận trọng và chừng mực mà Zalachenko giảng dạy trong ngần ấy năm đã bị vất bỏ.

Niedermann ngập ngừng.

Zalachenko cần đỡ đần.

Nếu như con ranh ấy nó chưa giết bố.

Như thế thì sẽ có nhiều vấn đề.

Hắn cắn môi dưới.

Hắn đã là cộng sự của bố trong nhiều năm. Hai bố con đã có những năm tốt đẹp. Hắn có tiền để riêng và hắn biết chỗ Zalachenko giấu của. Hắn có dấn vốn và tài năng đòi hỏi để lái đưa kinh doanh tiến tới. Nay điều khôn ngoan là không tình cảm gì hết, bỏ tất mà đi khỏi cái tình thế xem ra không thể chèo lái được nữa này. Đó là quy tắc cơ bản của sống còn mà. Với một sự nghiệp đã mất thì đừng có làm gì cho nó hết.

Con ranh không phải là quỷ là ma nào cả. Nhưng nó có tin xấu. Nó là em cùng cha khác mẹ của hắn.

Hắn đã đánh giá thấp nó.

Niedermann bị giằng xé. Một phần của hắn muốn đi đến vặn cổ cô gái. Phần kia lại muốn hắn cứ thế mà chạy thẳng đi trong đêm.

Hắn có hộ chiếu và ví tiền ở trong túi quần. Hắn không muốn quay lại. Ở trại chả có gì hắn cần đến cả.

Có thể là trừ một chiếc xe.

Hắn còn đang lưỡng lự thì trông thấy một chùm sáng của đèn mui xe hơi đang từ bên kia quả đồi chạy đến. Hắn quay đầu lại. Hắn chỉ cần mỗi một sự là có một chiếc xe đưa hắn đi Goteborg.

Lần đầu tiên trong đời - ít ra thì từ khi là một đứa con gái bé bỏng - Salander không thể tự xử lý được tình thế của mình. Trong các năm qua cô đã bị khuấy trộn vào các cuộc đấu đá, đã phải cung cúc để cho người ta lạm dụng, đã là đối tượng của bất công. Nhà nước cũng như cá nhân. Cô bị giẫm đạp lên thể xác và tâm hồn nhiều hơn bất kỳ ai. Nhưng lần nào cô cũng phản loạn đứng lên. Cô đã từ chối trả lời các câu hỏi của Teleborian và hễ phải è lưng ra chịu đựng bất kể bạo hành thể xác nào thì cô cũng đều lỉnh được ra và rút lui.

Cô có thể sống được với một cái mũi bị dập.

Nhưng cô không thể sống được với một cái lỗ ở sọ.

Lần này cô không thể lê lết về nhà để lên giường trùm chăn kín mít mà ngủ liền cho hai ngày rồi dậy rồi quay trở lại với nếp sống quen thuộc hàng ngày cứ như chẳng hề xảy ra chuyện gì hết cả.

Cô đã bị thương nặng đến nỗi không thể tự mình đối phó lại được với tình cảnh. Cô kiệt quệ sức lực đến nỗi cơ thể cô nó không chịu nghe cô sai khiến.

Mình phải ngủ một lúc, cô nghĩ. Nhưng cô thình lình nhận thấy nếu cô nhắm mắt buông bỏ thì có cơ chắc chắn là cô sẽ không th 2b1d ức dậy nữa. Phân tích kết luận này, cô dần dà đi tới chỗ hiểu ra rằng cô cóc cần. Trái lại. Cô cảm thấy lén lút bị ý nghĩ này hấp dẫn. Nghỉ đi. Không thức dậy.

Ý nghĩ cuối cùng của cô là về Miriam Wu.

Tha thứ cho mình, Mimmi.

Lúc nhăm mắt lại, cô vẫn cầm khẩu súng của Nieminen, chốt an toàn đã gạt bỏ.

Nhìn thấy Niedermann từ xa trong luồng ánh đèn mũi xe, Blomkvist nhận ra hắn ngay lập tức. Một con thú tóc vàng to tướng, cao hơn hai mét thì nhận ra chả khó gì. Niedermann đang vẫy tay chạy lại phía anh. Blomkvist lái chậm lại. Anh lùa tay vào túi ngoài của hộp đựng máy tính lấy ra khẩu Colt 1911 Government anh tìm thấy trên bàn làm việc của Salander. Anh dừng xe ở cách Niedermann năm mét, tắt máy rồi bước ra.

- Cảm ơn đã đỗ lại. - Niedermann nói, thở hết hơi. - Tôi bị... bị tai nạn xe. Ông có thể cho tôi đi nhờ đến thị trấn không?

Giọng hắn cao the thé đáng lạ.

- Dĩ nhiên, tôi có thể thấy là ông đến thị trấn. - Blomkvist nói. Anh chĩa súng vào Niedermann. - Nằm xuống đất.

Các khốn đốn mà Niedermann phải gánh tối hôm ấy là không có kết thúc. Hắn ngạc nhiên nhìn Blomkvist.

Không phải là Niedermann không biết sợ chút nào súng và người cầm súng. Vả lại hắn vốn dĩ kính trọng vũ khí. Hắn đã sống cả đời với vũ khí và bạo lực. Hắn cho rằng người nào đã chĩa súng vào hắn là sẵn sàng bắn hắn rồi. Hắn nheo mắt và cố đánh giá người đứng ở sau khẩu súng nhưng đèn xe đã biến người đó ra thành một nhân vật tối tăm. Cảnh sát? Nghe hắn nói thì không ra cảnh sát. Sĩ quan cảnh sát thường tự nhận mình là cảnh sát. Ít ra thì đó cũng là chuyện họ vẫn làm ở trong phim ảnh.

Hắn cân nhắc cơ may. Hắn biết nếu xông đến hắn có lấy đi khẩu súng. Nhưng nghe người này thấy lạnh lùng và gã lại đứng ở sau cửa xe. Ít nhất hắn cũng dính một viên đạn, có thể là hai. Nếu hắn cử động nhanh, gã kia có thể bắn trượt hay ít nhất không trúng chỗ hiểm nhưng ngay như thế thì nếu hắn sống sót, các viên đạn cũng gây cho hắn khó khăn hay không thể chạy trốn được. Tốt nhất hãy chờ một lúc thuận lợi hơn.

- NẰM XUỐNG NGAY. - Blomkvist quát.

Anh dịch khẩu súng đi vài phân bắn một phát vào cái rãnh.

- Phát sau tao bắn vào đầu gối mày đấy. - Blomkvist ra lệnh to, rõ ràng.

Niedermann quỳ xuống, bị ánh đèn làm chói mắt.

- Ông là ai? - Hắn nói.

Blomkvist thò tay vào túi trong xe lấy ra chiếc đèn pin mới mua ở trạm xăng chiếu thẳng vào mặt Niedermann.

- Quặt tay ra sau lưng. - Blomkvist ra lệnh. - Rồi giạng chân ra.

Anh chờ cho đến khi Niedermann ngập ngừng làm theo lệnh.

- Tao biết mày là ai. Nếu mày giở trò gì ngu xuẩn ra là tao bắn ngay không báo. Tao đang nhằm vào phổi mày, ở dưới xương đòn gánh đây. Mày có thể làm gì tao... nhưng mày sẽ phải trả giá.

Anh để đèn pin xuống đất, tháo thắt lưng, làm một thòng lọng, làm đúng như hai chục năm trước anh đã học khi đi nghĩa vụ quân sự anh làm lính bộ binh ở Kiruna. Anh đứng ở giữa hai chân tên khổng lồ, quàng thòng lọng vào quanh hai tay hắn rồi kéo thít lên trên hai khuỷu tay. Thế là tên Niedermann khỏe như vâm đã không còn khả năng thực hiện mọi mục đích thực tiễn của hắn.

Rồi thì sao đây? Blomkvist nhìn quanh. Họ hoàn toàn đơn độc trong đêm tối trên đường. Paolo Roberto đã không ngoa ngoắt khi tả hình dáng Niedermann. Hắn thù lù một đống. Vấn đề chỉ là tại sao một thằng cha đồ sộ như thế này lại giữa đêm chạy đi như thể hắn bị chính quỷ dữ đuổi thật vậy.

- Tao đang tìm Lisbeth Salander. Tao cho là mày đã thấy cô ấy.

Niedermann không trả lời.

- Lisbeth Salander đâu?

Niedermann nhìn anh, vẻ kỳ lạ. Hắn không hiểu cái gì đang xảy ra cho hắn trong cái đêm lạ lùng này, khi mọi sự xem ra sẽ hỏng bét cả.

Blomkvist nhún vai. Anh quay lại xe, mở cốp sau tìm một cuộn dây thừng. Anh không thể để Niedermann bị trói ở giữa đường cho nên anh nhìn quanh. Dọc theo con đường, cách khoảng ba chục mét anh thấy một biển báo giao thông trong ánh đèn mũi xe: CẨN THẬN: NAI SỪNG TẤM ĐI QUA.

- Đứng lên.

Anh dí mũi súng vào gáy Niedermann đẩy hắn tới biển báo, bắt hắn xuống cái rãnh. Anh bảo hắn ngồi tựa vào cột biển báo. Niedermann ngập ngừng.

- Mọi sự là hoàn toàn đơn giản thôi. - Blomkvist nói. Mày giết Dag Svensson và Mia Johansson. Họ là bạn tao. Tao sẽ không để mày lỏng lẻo ở trên đường cho nên hoặc là mày ngồi đây cho tao trói mày hoặc là tao bắn vỡ đầu gối mày. Mày chọn lấy.

Niedermann ngồi xuống. Blomkvist quấn dây thừng kéo xe hơi vào cổ hắn rồi trói cẩn thận đầu hắn vào cái cột. Rồi anh lấy mười lăm mét dây thừng thắt chặt vào quanh thân và eo lưng hắn. Anh chừa một đoạn dây để trói cánh tay trên của hắn vào cột rồi kết thúc công trình thủ công ấy bằng mấy nút thủy thủ đúng kiểu.

Làm xong xuôi anh lại hỏi Salander ở đâu. Không được trả lời, anh nhún vai để Niedermann ở đấy. Mãi tới lúc quay về xe anh mới thấy adrenalin chảy ở trong người và nhận ra việc anh vừa làm. Hình ảnh khuôn mặt Johansson chập chờn ở trước mắt anh.

Blomkvist châm một điếu thuốc và uống ít nước trong chai. Anh nhìn cái nhân vật ở trong bóng tối bên dưới biển báo nai sừng tấm. Rồi anh nhìn bản đồ và thấy để tới chỗ rẽ vào trại của Karl Axel Bodin, anh phải đi chưa tới một cây số nữa thôi. Anh nổ máy và lái qua Niedermann.

Anh lái chậm qua chỗ rẽ có biển đề tới Gosseberga và đỗ ở gần một nhà kho trên một con đường rừng cách trăm mét về phía bắc. Anh lấy súng ra và bật đèn pin. Thấy vết bánh xe còn mới ở trên bùn, anh cả quyết đã có một chiếc xe khác đỗ cũng ở chỗ này trước đây nhưng anh không dừng lại để xem như thế có nghĩa là thế nào. Anh quay lại chỗ đường rẽ đi Gosseberga, rọi đèn vào hòm thư. B.Đ. Hòm thư 192 - K.A.Bodin. Anh đi tiếp xuôi con đường.

Vào khoảng nửa đêm anh trông ánh đèn trong trại của Bodin. Anh đứng im vài phút nhưng anh không nghe thấy có gì khác hơn những tiếng động ban đêm hằng quen thuộc. Thay vì vào thẳng theo con đường tới trại, anh men tràn ruộng đi đến ngôi nhà từ đằng nhà kho. Anh dừng lại ở sân cách ngôi nhà ba chục mét. Từng sợi thần kinh anh căng hết mức. Việc Niedermann bỏ chạy một mình trên con đường cái cũng đủ là lý do để tin rằng có một tai họa gì đó đã xảy ra ở đó.

Anh qua sân được nửa chừng thì nghe thấy một tiếng động. Anh quay ngoắt lại, quỳ một gối xuống, giơ súng lên. Mất vài tích tắc anh nhận ra nguồn phát đi tiếng động: một trong những nhà phụ ở bên ngoài ngôi nhà chính. Một ai đó rên rỉ. Anh đi nhanh qua bãi cỏ, dừng lại ở gần lán. Ghé nhìn vào góc nhà anh có thể thấy ánh đèn ở bên trong.

Anh lắng nghe. Ai đó đang xê dịch quanh quẩn trong lán. Cầm súng chĩa ở trước mặt, anh nâng then cửa lên bằng tay trái rồi đẩy cửa ra. Anh đối diện với hai con mắt kinh hoàng trên một bộ mặt bê bết máu. Anh trông thấy cây búa rìu ở trên sàn.

- Lạy Chúa. - Anh nói.

Rồi anh trông thấy chiếc chân giả.

Zalachenko.

Salander đã dứt khoát đến thăm hắn, nhưng hắn không thể tưởng tượng nổi chuyện gì sẽ phải xảy ra. Anh đóng cửa rồi đặt lại then cài.

Với Zalachenko trong lán củi và Niederman bị trói tay chân bên rìa đường đi Sollebrun, Blomkvist vội vã qua sân đến ngôi nhà chính. Có thể còn một người thứ ba đang lâm nguy, nhưng ngôi nhà nom như không có người ở, gần như bỏ hoang. Chĩa súng xuống đất, anh khẽ mở cửa. Anh vào trong gian sảnh tối, nhìn thấy một vùng sáng hình chữ nhật ở trong bếp. Tiếng động duy nhất là tiếng tích tắc của một đồng hồ treo tường. Vào đến cửa bếp, anh trông thấy Lisbeth Salander nằm trên một chiếc ghế dài.

Anh đứng đực ra một lúc, nhìn chằm chằm vào thân hình tơi tả của cô. Anh để ý thấy một khẩu súng ở trong tay cô đang buông thõng xuống rìa ghế dài. Anh đến bên cô quỳ thụp xuống. Anh nghĩ anh đã tìm thấy Svensson và Johansson như thế nào rồi nghĩ Salander nay cũng đã chết. Rồi anh nhìn thấy ngực cô hơi hơi động đậy, cũng nghe thấy tiếng thở khò khè yếu ớt.

Anh giơ tay thận trọng gỡ khẩu súng ra khỏi bàn tay nắm chặt của cô. Thế là thình lình tay cô túm chặt lấy báng súng. Mắt cô mở ra thành hai cái khe nhỏ hẹp nhìn anh trong vài giây. Cái nhìn không tập trung. Rồi anh nghe thấy cô lầm rầm, giọng thều thào khiến anh phải khó khăn mới nghe ra cô nói gì.

Kalle nhắn Blomkvist.

Cô nhắm mắt lại và buông rơi khẩu súng. Anh để nó lên sàn, lấy di động ra bấm gọi dịch vụ cấp cứu.
 
CHÚ Ý !!!
Các đạo hữu nhớ thêm TÊN CHƯƠNG và THỨ TỰ CHƯƠNG ở ô phía trên phần trả lời nhanh. Như vậy hệ thống mới tạo được DANH SÁCH CHƯƠNG.
Cập nhật chức năng ĐĂNG TRUYỆN và THÊM CHƯƠNG MỚI trên web Diễn Đàn Truyện tại https://truyen.diendantruyen.com
Top Bottom