Cập nhật mới

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
610,923
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 20


Điều tôi đã học được chỉ gói gọn trong ba, bốn từ: Ngày ai đó yêu bạn, trời rất đẹp, tôi không thể nói gì hơn được nữa, trời rất đẹp!

Jean Gabin

Juliette yêu thương...

Anh xin em, hãy dành chút thời gian lắng nghe anh, cho dù em đang rất giận anh...

Anh biết những ngày vừa qua rất khó khăn với em và hãy tin rằng không một phút nào trôi qua mà anh không nghĩ về em.

Anh cũng biết sẽ chẳng có chuyện gì xảy ra nếu lúc ở sân bay anh có đủ can đảm đề nghị em ở lại với anh thay vì để em bước lên chuyến bay đáng nguyền rủa ấy. Chẳng phải vì anh không muốn thế, có thể chỉ là do sự mất niềm tin vào cuộc sống và nỗi sợ hãi rằng câu chuyện của chúng ta chỉ dựa trên những lời nói dối.

Juliette ngồi xuống ghế, hai chân co lên tận ngực, không hiểu Sam đang chuẩn bị tiết lộ điều gì với cô.

Vì anh đã nói dối em: anh không còn là người có gia đình nữa. Anh từng có gia đình, nhưng vợ anh đã qua đời cách đây một năm.

Cô ấy tên là Federica. Anh biết cô ấy từ thuở ấu thơ. Cả anh và cô ấy đều lớn lên trong cùng khu phố Brooklyn. Một khu phố nghèo khó như rất nhiều những khu phố tồn tại trong các thành phố lớn đông đúc. Anh chưa bao giờ biết đến cha mẹ mình và bà anh là người đã chăm sóc anh như bà có thể. Còn về Federica, toàn bộ gia đình mà cô ấy có được là một người mẹ nghiện ngập tới tận xương tủy suốt từ sáng đến tối. Đó là tuổi thơ của bọn anh. Để có thể hình dung, em chỉ cần biết đơn giản là những năm gần đây, mỗi lần nhìn lại những tấm ảnh lớp cũ, bọn anh đều nhận ra rằng đa số các bạn học cùng thời đó đều hoặc đã chết, hoặc đang ở trong tù.

Nhưng bọn anh, bọn anh vẫn sống. Anh là bác sĩ còn cô ấy là họa sĩ; bọn anh sống trong một căn hộ xinh đẹp; bọn anh đã thoát khỏi nơi đó.

Ít nhất, đó là điều anh vẫn tưởng cho tới buổi tối kinh hoàng ấy...

Anh còn nhớ dạo đó là khoảng giữa tháng Mười hai và là gia đình anh cảm thấy trong người rất thoải mái. Chiều hôm ấy ở bệnh viện mọi người đã cùng nhau mừng Noel trong bầu không khí ấm cúng. Bọn trẻ đã trang trí một cây thông thật lớn bằng những hình origami do chúng tự gấp. Đã mười lăm ngày liền anh không mất một bệnh nhân nào. Federica chuẩn bị sinh em bé và anh vô cùng hạnh phúc.

Khi ra khỏi bệnh viện, tối hôm đó, anh đã đi lang thangười một lát khắp các cửa hiệu để mua một vài món quà: một cuốn sách về Raphael cho Federica, một con rối bằng gỗ sơn màu và một con voi nhồi bông để trang trí phòng cho em bé...

Đó là lần duy nhất, tương lai hiện ra đối với anh gần như thanh bình và sáng sủa, và anh trở về nhà trong tâm trạng nhẹ nhàng. Cửa nhà để mở. Từ cầu thang, anh cất tiếng gọi Federica nhưng cô ấy không trả lời. Hơi băn khoăn, anh đẩy cửa buồng tắm và phát hiện ra điều không thể tin nổi. Tường và gạch nhớp nháp máu. Trong bồn tắm, cái xác không sự sống của Federica trôi bồng bềnh trong làn nước đỏ, cổ tay và cổ chân bị cứa rất sâu. Vợ anh đã tự sát trong lúc đang mang thai.

Choáng váng, Juliette lau một giọt nước mắt lăn dài trên má. Áp chặt chiếc máy ghi âm vào tai, cô bước ra hiên để hít thở chút không khí. Sam tiếp tục:

Dù trong tương lai có gặp phải chuyện gì đi nữa, anh cũng chắc chắn rằng nó không thể khủng khiếp hơn cái chết của vợ anh.

Em cần phải hiểu, Juliette ạ: là bác sĩ, nghề nghiệp của anh chủ yếu dựa trên lòng tin rằng nỗi đau không phải là định mệnh. Hàng ngày, khi khám bệnh, anh gặp phải những đứa trẻ khủng hoảng vì bị đánh đập tàn tệ, vì mất người thân hay vì bệnh tật. Công việc của anh là phải thuyết phục chúng rằng chúng có thể đứng dậy sau những cơn khủng hoảng đó. Và đa số trường hợp là anh thành công. Chính vì vậy một phần mà anh trở thành bác sĩ: bởi anh biết cuộc sống vẫn có thể tiếp diễn sau những điều khủng khiếp. Chăm sóc mọi người, đó không chỉ là tìm hiểu nguyên nhân căn bệnh của họ, mà còn là cho họ niềm tin rằng ngày mai sẽ tốt đẹp hơn hôm qua.

Nhưng anh chưa bao giờ thuyết phục được Federica. Người phụ nữ anh yêu gặp hoàn cảnh tuyệt vọng và anh không thể giải thoát cô ấy khỏi nỗi đau đớn. Anh và cô ấy sống bên nhau nhưng bọn anh chỉ là "một + một" và không bao giờ thành được hai.

Anh tin rằng người ta chỉ có thể cứ ai đó chịu chấp nhận sự cứu giúp. Nhưng Federica ngày càng ít cởi mở. Cô ấy chưa từng thực sự thoát khỏi quá khứ. Cô ấy đã đánh mất ý chí đấu tranh đến một mức độ mà anh không thể ngờ. Người ta phải mất đi bao nhiêu hy vọng để có thể tự sát khi đang mang thai...

Trong suốt những tháng sau đó, mọi thứ đối với anh đều vô nghĩa. Chẳng có gì có thể tác động tới anh, kể cả niềm vui hay nỗi đau. Cái chết của chính mình cũng không làm anh sợ hãi nữa. Có những ngày, thậm chí anh còn mong đợi nó như một sự giải thoát.

Chỉ công việc là vẫn khiến anh quan tâm song anh làm việc mà ngày càng mất đi niềm tin. Anh không hy vọng điều gì, anh sống như một người máy.

Cho tới khi gặp em...

Em nghĩ chúng mình có bao nhiêu cơ may để gặp được nhau? Anh đã đọc ở đâu đó rằng có hơn một triệu rưỡi con người đi ngang qua nhau mỗi ngày ở Quảng trường Thời đại. Một triệu rưỡi, em tưởng tượng được không?

Chuyện gì có thể khiến mình không gặp nhau? Nửa giây? Cùng lắm là một giây thôi...

Nếu em đi ngang qua phố chỉ sớm hơn một giây, chúng ta có thể đã để hụt mất nhau. Nếu anh đổi làn đường chỉ muộn hơn một giây, chúng ta đã có thể để hụt mất nhau.

Toàn bộ câu chuyện của chúng ta phụ thuộc vào một giây đồng hồ ấy.

Chỉ một giây thôi và có lẽ anh không bao giờ nhìn thấy khuôn mặt em.

Chỉ một giây thôi và có lẽ em thậm chí chẳng biết anh tồn tại.

Một giây ngắn ngủi và có lẽ em không bước khỏi máy bay...

Một giây thôi và có lẽ mình đã chết... Juliette đứng trên hiên nghĩ.

Và nếu một giây đó quả đúng là giây phút của chúng ta? Tia sáng bất ngờ của chúng ta, vận may của chúng ta.

Điều có thể làm biến đổi cuộc sống của chúng ta mãi mãi...

Hãy nghĩ về điều đó!

Anh biết, anh đã nói dối em và hãy tin rằng anh vô cùng ân hận;.

Anh cũng biết em không phải luật sư, song đừng hình dung rằng điều đó khiến anh khó chịu, ngược lại. Phục vụ bàn hay diễn viên, quan trọng gì. Anh chẳng tìm kiếm giàu có hay danh vọng. Tiền chưa bao giờ là tiêu chí đầu tiên trong các quyết định của anh. Anh không có gia sản, anh chẳng có gì, thậm chí không có lấy một căn hộ riêng của mình. Chỉ có công việc là cả cuộc sống của anh.

Và một niềm hy vọng mà anh sẽ để em đoán...

Mắt đẫm nước, Juliette tắt máy đi. Cô cởi bỏ bộ choàng tắm và, thậm chí chẳng buồn dành thời gian trang điểm lại, cô mặc những quần áo vừa nhặt ra nhanh như chớp. Cô hoàn chỉnh trang phục của mình bằng một chiếc khăn choàng màu vàng chanh và một chiếc áo khoác bằng vải nhung kẻ sọc có lót lông bên trong.

Chỉ hay giây nữa thôi và cô chuẩn bị rời khỏi phòng.

Nhưng một lát sau cô lại quay trở lại: trong lúc vội vã, cô đã đi chân trần ra ngoài. Cô lục tìm trong túi và vớ được đôi giày Kickers hai màu chung thủy của mình, bằng da mịn và đế cao su.

Đứng trước gương trong thang máy, cô "chỉnh đốn" lại mình một chút. Suy cho cùng, nom cô không đến nỗi tệ. Bộ quần áo cũ khiến cô trông có vẻ bụi. Tất nhiên là không phải đỉnh cao của sự sang trọng, song ít ra cũng đúng là cô.

° ° °

Cô gặp lại Sam ở bệnh viện và cả hai đều có chung ý muốn trốn khỏi thành phố buổi chiều hôm đó. Thật đúng lúc: Leonard McQueen lại một lần nữa đề nghị với Sam nên tận dụng ngôi nhà của ông ở New England và lần này thì anh không từ chối.

Họ rời New York bằng Quốc lộ 95. Ngay trong xe ô tô họ cũng không buông nhau ra được. Thế là một bàn tay mười ngón cùng điều khiển tốc độ xe và họ hôn nhau mỗi lần dừng trước đèn đỏ. Những nụ hôn của họ có mùi vị của mùa xuân và họ cảm thấy thật ngỡ ngàng. Ngay khi vừa đi qua New Heaven, họ đã rời khỏi đường cao tốc để có thể tận hưởng hết vẻ đẹp của quang cảnh. Bờ biển trải dài về phía đông Bắc điểm xuyết bởi những vĩnh, những mỏm đá và những bến cảng. Nó dẫn thẳng tới biên giới giữa Connecticut và Đảo Rhode, trong một ngôi làng chài nhỏ nơi tọa lạc ngôi nhà của McQueen.

Vào những ngày đẹp trời, vùng này thu hút rất nhiều du khách và người chơi du thuyền hờ những phòng tranh và những cửa hiệu bán đồ mỹ nghệ song hôm nay ngôi làng gần như vắng tanh và trông còn đẹp hơn cả mùa du lịch.

Sau khi đậu xe, Sam và Juliette đi dạo một lát trên phố chính giữa những ngôi nhà cổ của các thuyền trưởng. Rồi họ đi về phía biển. Từ sáng, bầu trời đã quang mây và nhiệt độ dễ chịu kỳ lạ, như thể mùa hè Ấn Độ đổ bộ vào chính giữa mùa đông. Quả thật, sự đảo lộn khí hậu ngày càng trở nên rõ rệt. Tay trong tay, họ lang thang dưới ánh nắng vàng rộm, dọc theo đê chắn song. Họ ngắm nhìn những con tàu, trong khi Juliette buông một câu đùa:

- Nếu là trong một bộ phim, nếu em là diễn viên nổi tiếng và anh là Kevin Costner, chúng ta sẽ cùng lên một trong những thuyền buồm kia và anh sẽ đưa em ra khơi.

- Em có nghĩ là đang nói trúng phóc không: ông cụ McQueen bảo rằng ông có một con tàu thả neo ở gần đây.

- Tên nó là gì?

- Jasmine, - Sam vừa nói vừa xem lại giấy tờ của con tàu.

Sau vài phút tìm kiếm, họ đến trước một chiếc thuyền buồm dài khoảng hai mươi tám bộ, toàn bộ bằng gỗ đánh bóng, tuyệt đẹp.

- Anh biết lái không? - cô vừa hỏi vừa nhảy lên cầu tàu.

- Cái lợi khi học Y ở trường Harvard là thỉnh thoảng được mời tới dự những lễ hội cuối tuần tại tàu của các đại gia trong vùng, - anh vừa giải thích vừa đi lên chỗ cô.

- Nghiêm túc nhé, anh có định làm một vòng không?

- Thì cũng phải xứng đáng với các diễn viên điện ảnh của em chứ.

- Nhưng em tưởng phải có giấy phép thì mới được lái một con tàu thế này...

- Em đừng lo, nếu bị tóm thì lần này sẽ là anh vào tù.

Anh tháo buồm và chuẩn bị cho con tàu. Sau khi tìm ra đúng chiếc chìa khóa trong chùm chìa ông cụ McQueen đưa, anh bật động cơ và máy tàu ngay lập tức kêu ro ro.

- Kéo neo đi! - Sam hét lên. - Thế nào, Costner chắc sẽ bảo thế, đúng không?

- Anh ta chẳng đứng đến gót chân của anh, - cô trả lời và hôn anh, rồi bằng một bước nhảy ngoạn mục, cô leo lên phần trên của cầu tàu nơi có thể ngắm nhìn những chú hải âu đang lượn vòng trên đầu.

Khi đón được làn gió thuận, Sam tắt động cơ, kéo rồi căng buồm hết cỡ. Từ từ, con tàu tăng tốc và ướng ra ngoài khơi. Mặt trời chậm chạp xuống dần, nhuộm bầu trời bằng những tia sáng màu da cam. Juliette lên khoang lái đứng cùng Sam. Cô ôm chặt lấy anh. Ngọn gió buổi tối khiến người họ rạng rỡ và bao quanh họ như một tấm voan vô hình. Trong yên lặng, họ cùng nhâm nhi niềm hạnh phúc giản đơn được ở bên nhau, thanh thản giữa tiếng sóng rì rào, thả mình vào khoảnh khắc ngắn ngủi mà ở đó cuộc sống chợt ngập tràn ánh sáng và như dâng tặng họ một vận may.

Họ quay về bến cảnh đã được nửa giờ. Juliette đang làm nóng mình bằng một tách trà trong một nhà hàng nhỏ trong khi Sam xếp buồm lại cho gọn gàng. Xong việc, anh quay lại lối đi dạo trồng cây dọc theo bờ biển. Anh cảm thấy thật nhẹ nhõm và thoải mái. Cuộc sống thực sự đổi màu khi người ta yêu. Một lần nữa, cuộc sống dường như lại trở nên có ý nghĩa đối với anh.

Anh chuẩn bị đến chỗ Juliette thì một hồi chuông vang lên phá tan niềm hạnh phúc tột độ của anh. Không phải máy nhắn tin hay điện thoại di động, chỉ là một trong những ca bin điện thoại công cộng ngoài đường. Một trò đùa chăng? Anh quay sang trái rồi quay sang phải: lối đi vắng tanh. Anh quyết định không để ý tới điều đó, song rất nhanh chóng anh bị phản xạ của một bác sĩ giữ chân: nhỡ là ai đó đang cần giúp đỡ thì sao? Tốt nhất là không nên mạo hiểm để một cuộc gọi không có người trả lời.

- Vâng? - anh vừa nhấc máy vừa hỏi.

Bên kia đầu dây, người mà anh không muốn nhớ tới nhất đang nhắc anh:

- Đừng có quên thỏa thuận của chúng ta, Galloway: câu chuyện sẽ chấm dứt vào giữa trưa thứ Bảy.

- Costello? Cô còn muốn gì nữa? Và trước hết, cô đang ở đâu?

- Anh biết rất rõ tôi muốn gì, - Grace đáp.

- Tôi không thể làm điều đó với người phụ nữ tôi yêu!

- Tôi e anh không được quyền lựa chọn.

- Tại sao cô lại làm điều đó với chúng tôi? Tôi đã phải chịu tang một lần rồi! Tôi đã phải trả giá bằng sự đau đớn của tôi rồi!

- Tôi biết, Sam, nhưng tôi không phải là người quyết định.

- Vậy thì ai quyết? - anh hét lên. - Ai quyết?

Grace đã gác máy.

Điên cuồng, Sam đập mạnh ống nghe vào cabin.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
610,923
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 21


Người ta phải sống cuộc đời mình bằng cách nhìn về phía trước, nhưng lại chỉ có thể hiểu được nó khi nhìn lại phía sau.

Soren Kierkegaard

Sáng thứ Năm.

Sam quay về phía Juliette. Ló ra khỏi tấm chăn dày chỉ là một mẩu vai trần và vài lọn tóc vàng xõa trên gối như những tia nắng mặt trời. Anh đã cố ngủ được vài giờ nhưng bất chấp sự hiện diện của cô, nỗi lo ngấm ngầm vẫn cứ làm anh trăn trở. Lách mình khỏi vòng tay nữ thần Morphée, anh liếc mắt nhìn đồng hồ - 5h04 - và quyết định dậy dù còn rất sớm.

Từ giờ anh không thể tự huyễn hoặc mình được nữa: nguy hiểm đang đe dọa anh và anh không biết phải đối phó bằng cách nào. Chìm trong cảm giác bất an, anh thấy mình giống như một nhân vật trong Chiều không gian thứ tư, bộ phim truyền hình nhiều tập mà anh vẫn xem khi còn là một đứa trẻ: một người đàn ông bình thường vượt qua một ranh giới mà không hề biết nó tồn tại và kinh hoàng ý thức được sự hiện diện của những rạn nứt trong cuộc sống hiện tại.

Anh lặng lẽ ra khỏi giường. Trên thảm vẫn còn vương vãi những bằng chứng của cơn say tình giữa hai người hôm qua: một chiếc áo gilê, một áo len màu. một áo sơ mi Arrow, vài chiếc quần áo lót...

Anh sang phòng tắm và mở vòi hoa sen. Nước nóng chảy khiến ống nước rung lên và khắp phòng ngập hơi nước. Sam lao vào làn nước nóng rãy, đầu vẫn ởn vởn những mối nghi hoặc. Anh đang dần đánh mất khả năng kiểm soát tình hình và nhất là phải đơn phương độc mã đối diện với những câu hỏi này. Anh có thể nói chuyện với ai về điều gì đang xảy đến mà không bị mảy may nghi ngờ? Biết tâm sự cùng ai?

Có một người, anh đột nhiên nghĩ ra, nhưng đã lâu lắm rồi..

Anh cố không nghĩ sâu thêm về khả năng ấy, bước ra khỏi vòi hoa sen và lau người thật khô.

Quay lại phòng, anh nhanh chóng mặc đồ và viết vội vài dòng cho Juliette rồi để vào một chỗ thật dễ nhìn trên gối. Anh cũng để cho cô chìa khóa căn hộ của anh ở Manhattan.

Trong bếp, anh tuyệt vọng tìm kiếm chút cà phê nhưng không thấy.

Đúng vào buổi sáng hôm nay khi mình phải cần khoảng chục tách.

Trước khi đi, anh nhìn Juliette lần cuối rồi bước ra bậc thềm nơi anh được một làn gió buốt lạnh và những đợt sóng ồn ào đón chào. Vừa mải mê suy nghĩ, anh vừa đi xuống cầu thang và xoa xoa hai bàn tay vào nhau. Mặc dù trời lạnh nhưng chiếc 4x4 chỉ nhoáng một cái đã nổ được máy.

Vì vẫn sớm nên chưa đầy một tiếng anh đã về tới New York. Anh sắp rẽ sang phía Đông để chạy về hướng bệnh viện nhưng rồi lại quành xe về hướng Brooklyn.

- Aaaahh!

Anh vừa phải phanh thật gấp để không tông vào chiếc cam nhông của một tiệm hoa đang đi giao hàng. Bánh xe của anh rít lên và trượt dài trên đường nhựa. Hệ thống phanh rất hiệu quả nhưng vẫn không tránh được việc chiếc 4x4 phải dừng lại ngay sau chiếc cam nhông. Dù va chạm không mạnh lắm song anh vẫn bị chấn động.

Sam lùi lại rồi phóng lên xem chiếc xe trở hàng. Anh nhận thấy người lái xe - một anh chàng Tây Ban Nha vẻ hằn học - không hề bị thương. Trái lại, anh ta đang khua tay ầm ĩ và dứ dứ nắm đầm về phía bác sĩ, chửi mắng anh đủ thứ trên đời.

Sam quyết định không xuống xe. Anh vớ lấy một tấm danh thiếp bao giờ cũng có sẵn trong ví và quăng nó qua cửa kính.

- Tôi sẽ thanh toán hết! - anh vừa hét lên vừa nổ máy.

Anh sẵn sàng gánh chịu trách nhiệm của mình nhưng giờ thì anh có chuyện khác phải ưu tiên.

Anh cần đi gặp một người.

Một người mà trước kia anh từng tìm đến.

Khi anh không còn khả năng suy nghĩ về bất cứ điều gì nữa.

Sam đậu xe dọc theo vỉa hè. Mười năm đã trôi qua kể từ ngày anh rời Bed-Stuy. Anh từng thề sẽ không bao giờ quay lại nơi này nữa, và cho đến giờ anh vẫn luôn giữ lời.

Thoạt tiên, anh ngạc nhiên trước sự đổi mới của khu phố. Cơn sốt bất động sản đã quét sạch các tầng lớp trung lưu ở Manhattan và rất nhiều người đã vội vàng mua lại với giá rẻ những ngôi nhà nhỏ bằng gạch nâu từng bị bọn vô lại đóng chiếm.

Phía cuối phố, một chiếc xe cảnh sát bình thản đi tuần và khu này có vẻ thậm chí quá sạch sẽ, như thể chỉ có trong vài năm mà khu Petit Beyrouth đã trở nên yên tĩnh như một vùng ngoại ô sang trọng.

Thế nhưng, chẳng mấy chốc một cơn rùng mình lại chạy dọc sống lưng anh như ngày xưa. Anh hiểu rằng bóng ma đầy hăm dọa của những tên ma cô hay những tên bán ma túy vẫn lởn vởn với bất kỳ ai từng sống ở đây trong những năm khó khăn.

Anh đi bộ lên đầu phố. Ngôi nhà thờ nhỏ vẫn nằm đó, kẹt giữa bãi bóng rổ và một nhà kho sắp đến lúc phải được dỡ bỏ. Sam leo vài bậc thang và và dừng lại trước cửa. Ngày xưa, cha Hathaway luôn để " Ngôi nhà của Chúa" mở cửa, đề phòng trường hợp cần. Từ khi cha Hathaway qua đời, một cha xứ khác đã tới thay thế. Tuy vậy, khi Sam đẩy cánh cửa dày bằng gỗ, nó vẫn mở ra và kêu ken két. Cuối cùng cũng có một thứ không thay đổi....

Nơi này thật dễ nhận ra nhờ lối trang trí rực rỡ. Những vật dụng trang trí đa dạng được đặt cạnh nhau tạo nên nét hài hòa kì lạ, hơi giống kiểu trang trí ở các nhà thờ Nam Mỹ. Các bức tường được tô điểm bằng những tấm vải màu vàng và vô số gương nhỏ. Phía trên bàn thờ, một bức tượng Đồng trinh có cánh đang chìa tay về phía khách tham quan trong khi những bức tranh tường mày sắc nổi trội đặc tả nỗi đau của Chúa.

Sam bước vào, lòng ngập tràn cảm xúc. Lúc còn nhỏ, anh vẫn thường tới đây trú ngụ. Cha Hathaway dành cho anh hẳn một góc nhỏ trong kho đồ thờ để anh ngồi làm bài tập. Sam chưa bao giờ có đức tin mãnh liệt, song trong khu phố có quá ít chỗ thích hợp với việc học hành để anh chọn lựa.

Bác sĩ tiến tới gần một bệ thờ tắm trong ánh sáng vàng. Một chiếc lư trầm treo ở đầu những sợi xích thay thế cho chân nến. Xung quanh có hàng chục ngọn nến đang cháy. Anh để vài đô la vào trong hốc rồi thắp ba ngọn nến: một cho Federica, một cho Angela và một ngọn cuối cùng cho Juliette.

Nhà thờ vẫn đắm mình trong một thứ mùi đặc biệt pha giữa hạt tiêu và vani, thứ mùi ấy như một cỗ máy thời gian đột nhiên đưa anh quay trở lại mười năm về trước.

Từ sâu thẳm tâm can, anh chỉ mong chờ điều này. Bấy lâu nay anh vẫn tự thuyết phục mình rằng anh đã chiến thắng những thử thách tuổi trẻ, song điều đó không hề đúng. Từ mười năm nay, anh sống một cách máy móc, học và chữa bệnh không mệt mỏi. Thật ngu ngốc khi tự nhủ rằng nếu anh có thể cứu được một số lượng bệnh nhân nào đó thì anh tuyệt đối có thể chữa cho mình khỏi chứng lo âu và tìm thấy bình yên. Nhưng mọi chuyện không diễn ra như vậy: dù những vết bầm tím đã biến mất, nhưng vết thương vẫn luôn còn đó. Và anh không biết phải làm thế nào. Việc Federica tự tử lẽ ra phải buộc anh đối diện với sự thật của quá khứ để tự giải thoát tốt hơn. Nhưng thay vì vậy, anh lại giam mình trong vai người đàn ông góa vợ không vượt qua được nỗi đau. Cho tới khi anh gặp một ánh mắt, một niềm hy vọng... Song cuộc gặp gỡ bất ngờ với Juliette này lại trở nên ảm đạm bởi lời nói dối của anh và những lời cảnh báo đầy đe dọa của Grace Costello.

Sam ngồi lên một trong những chiếc ghế băng thô sơ nằm dọc hai bên lối đi. Ở đó, trong ánh sáng an ủi của nhà thờ, anh để mặc những kỷ niệm ùa về.

Một vài hình ảnh quá khứ, bấy lâu bị chôn trong chiếc hòm trí nhớ của anh, chợt nổi lên và đưa anh trở lại tháng Tám năm 1994.

Mùa hè đánh dầu bước ngoặt trong của họ...

Đó là năm họ mười chín tuổi. Cho tới lúc ấy. Federica và anh đã bằng cách này hay cách khác đứng được ngoài những trân xoáy bạo lực khốc liệt trong khu phố.

Ở trường, Sam xoay sở khá tốt. Từ một năm nay, anh học rất giỏi các môn khoa học ở trường đại học. Anh dành phần lớn thời gian để đọc sách và những nỗ lực của anh đã mang lại kết quả : anh đứng đầu khóa học và nếu tiếp tục anh có thể vào học ở một trong những trường y khoa hàng đầu ở bờ Đông. Tuy vậy, anh sẽ cần đến tiền. Hiện giờ, anh có một khoản học bồng nhỏ, song năm sau nó sẽ hết hạn. Vì thế anh phải ký kết một khoản vay cho sinh viên nhưng như thế cũng không đủ. Từ năm mười bốn tuổi, hè nào anh cũng lao động, dành dụm từng đồng một và gần như bí mật, với hy vọng gom góp được một khoản nho nhỏ. Hè năm đó, anh tìm được việc phục vụ bàn bãi biển ở Atlantic City, một trong những khách sạn sang trọng ven bờ đại dương. Thành phố chơi bờicách New York hai giờ rưỡi đường, Sam ngủ lại đó và chỉ về gặp Federica hai tuần một lần vào ngày nghỉ.

Chặng đường của cô gái nhiều trắc trở hơn. Cô vừa học nốt khóa học đào tạo nghề làm vườn vừa làm việc bán thời gian cho một trang trại nuôi ong ở Massachusetts. Nơi có tới hàng chục tổ ong được đặt trong các khu vườn và các công viên Manhattan.

Phải nói rằng dù chưa từng dùng ma túy bao giờ, song thình thoảng cô vẫn buôn bán tí chút để thanh toán tiền ma túy và thuốc điều trị cho mẹ cô vì sức khỏe của bà ngày càng sa sút.

Sam nhiều lần gọi điện đề nghị cho cô mượn tiền; cô từ chối kiên quyết tới mức anh phải thôi nài nỉ. Anh cũng đã tìm cách khuyên can cô, cảnh báo cô rằng điều đó rồi sẽ kết thúc tôi tệ, thậm chí còn giảng đạo đức cho cô: nếu phan phát ma túy, cô sẽ khiến cuộc sống của nhiều người khác gặp nguy hiểm và như vậy là đồng lõa với bọn buôn lậu. Song chẳng tác dụng gì. " Anh đừng bắt em phải để mẹ em chết dần" là câu trả lời duy nhất của Federica và mọi tranh cãi luôn dừng lại ở đó.

Suốt một thời gian dài, cô chỉ giao một vài gói hàng ở chỗ này hay chỗ khác, trong lúc đi kiểm tra các tổ ong. Rồi vào đầu mùa hè năm ấy, bênh của mẹ cô trở nên trầm trọng. Bà cần được phẫu thuật sớm, điều này đòi hỏi một khoản tiền lớn.

Đó là lúc Dustface xuất hiện trong cuộc đời họ. Tên buôn lậu dữ dằn và hung bạo này kiểm soát một phần khu phố. Dustface để mắt tới Federica từ trước đó một thời gian. Ở cô toát ra vẻ bí ẩn đôi khi vẫn thấy ở những phụ nữ Nam Mỹ, ngay cả khi họ sống trong nghèo khó. Sự pha trộn giữa vè kiêu hãnh và phong thái tao nhã chắc chắn có thể giải thích được vì sao trong các trận càn quét, cảnh sát không bao giờ làm phiền đến cô. Cái may mắn đặc biệt ấy của cô đã gợi cho Dustface ý tưởng: sử dụng Federica làm trung gian mang ma túy vào Mỹ.

Nếu Sam biết được dự định đó thì hẳn anh đã phản đối, thậm chí chống lại để bảo vệ bạn gái mình. Thật không may, đó là thời kỳ anh làm việc tại Atlantic City. Không hề nói với anh một lời, Federica bay sang Caracas và trong chuyến bay trở về, cô mang theo mình ba chục viên cocain mà cô đã nuốt chửng trước đó một chút. Đây là một trong những giờ phút kinh khủng nhất trong cuộc đời ngắn ngủi của cô. Suốt chuyến bay cô cầu nguyện, co rúm mình vì sợ lớp nhựa dẻo bọc bên ngoài bị rách và chất gây nghiện lan ra trong dạ dày cô.

Cơn ác mộng cuối cùng cũng kết thúc, cô tự thề sẽ không bao giờ tái phạm, nhưng Dustface quay lại tấn công, đề nghị cô một nhiệm vụ khác ít mạo hiểm hơn kèm một khoản hoa hồng hậu hĩnh. Lần này, cô phải sang Mexico và mang về một ô tô với các lốp chứa đầy cocain.

Bất hạnh thay, Federica không từ chối được. Cô sang Mexico nơi người ta giao cho cô một chiếc Toyota bình thường chứa đầy bột trắng. Sau khi qua khỏi trạm kiểm soát ở biên giới Tijuana mà không hề bị kiểm tra, cô phóng thẳng về New York, đi theo những con đường ít người qua lại nhất và tôn trọng giới hạn tốc độ. Cho tới đó, mọi việc vẫn diễn ra trôi chảy; tuy nhiên lẽ ra cô phải thận trọng bởi rõ ràng, vận may không bao giờ dừng quá lâu ở một địa chỉ.

Trên đường Baton Rouge, cô dừng lại ở một trạm xăng để đổ đầy bình và đi vệ sinh. Khi quay ra bãi đậu xe chiếc ô tô đã biến mất. Là sự tình cờ bất hạnh hay một vụ lừa đảo? Đối với cô, hậu quả sẽ đều như nhau: chẳng bao giờ cô có thể trả được một số tiền lớn như vậy và một tên du côn như Dustface hoàn toàn có khả năng tra tấn cô, biến cô thành nô lệ và rất có thể giết chết cô.

Không thể quay về Brooklyn, cô đi xe buýt tới Atlantic City và ngã khuỵu trong vòng tay của Sam.

Nghe xong chuyện của bạn gái, chàng trai trẻ bàng hoàng. Tuyệt vọng, Federica nói với anh cô dự định trốn khỏi New York vĩnh viễn. Sam tìm cách ngăn cản cô: họ không thể vứt bỏ mọi thứ chỉ trong một ngày. Và nếu hôm nay họ chạy trốn thì họ sẽ phải chạy trốn cả đời. Vì vậy, đối với anh, tuyệt đối không có chuyện chạy trốn. Anh vẫn luôn tin rằng số phận đã ràng buộc họ với nhau và họ sẽ cùng thoát hoặc cùng chết. Bản thân anh tự trách mình đã không lường trước được tai họa này, song chẳng phải người ta vẫn luôn tránh không nhìn vào những gì khiến người ta sợ hãi hay sao? Suốt đêm, Federica xin anh tha lỗi vì đã lôi anh vào những rắc rối của cô, nhưng lúc đó đã quá muộn để có thể quay đầu lại.

Cuối cùng, Sam quyết định quay lại New York một mình. Anh ngây thơ nghĩ rằng mọi chuyện rồi sẽ đâu vào đó. Chuyến xe buýt Greyhound thả anh xuống khi bóng tối đã buông trên khu phố. Thoạt tiên anh trở về nhà rồi quyết định đích thân đến gặp trực tiếp Dustface. Trước đó, anh đào cái hộp sắt đựng tiền tiết kiệm dành cho việc học của anh lên. Trong hộp có gần sáu ngàn đô la. Anh sẵn sàng đưa toàn bộ số tiền cho Dustface để đổi lấy lời hứa của hắn để Federica yên. Nhưng trước hết, anh tạt qua chỗ bạn anh là Shake Powell. Cậu ta không có ở nhà và Sam nghĩ như thế còn tốt hơn. Anh leo tường nhà lên tận mái và từ đó, anh lẻn qua cửa sổ vào phòng ngủ của bạn. Sau một viên gạch trên tường, anh tìm thấy khẩu súng mà Shake cất giữ. Đó là một kiểu hốc chứa đồ mà anh trai cậu ấy để lại trước khi đi nghỉ một thời gian ở Đảo Rykers. Sam kiểm tra xem trong súng có đạn chưa rồi nhét vào túi trong áo khoác. Anh vẫn luôn tránh xa các thứ vũ khí, nhưng anh biết rằng lần này mọi sự có thể sẽ không diễn ra như anh mong muốn.

Bằng chứng, suy cho cùng, cho thấy anh cũng không đến nỗi ngây thơ lắm...

- Này, người con thống thái. lúc nào cũng trong trạng thái mơ mộng!

Một giọng nói khàn khàn đưa bác sĩ quay lại với thực tại và khiến anh khẽ rùng mình như vừa bị bắt lỗi. Anh ngước mắt nhìn lên và thấy Shake Powell vừa bước vào qua cửa kho chứa đồ thờ.

- Shake!

- Chào cậu, Sam.

Thật khó tin, nhưng Shake đã trở thành linh mục và tiếp nối công việc của cha Hathaway. Anh đã suy sụp ssau khi anh trai anh tự vẫn trong tù và chắc chắn đã tìm thấy trong tín ngưỡng sự an ủi mà anh rất cần.

Như thời còn trẻ, hai người siết tay nhau theo một quy tắc phức tạp rồi vỗ vai nhau rất thân mật. Chàng trai da đen cao lớn vẫn đồ sộ như một đồ vật. Anh mặc quần jean bạc màu và áo khoác hơi chật so với các cơ bắp của anh. Bộ râu quai nón cắt ngắn và bạc màu nổi bật trên làn da đen và ráp. Shake là một mãnh lực tự nhiên, một sự tập trung năng lượng và Sam không thể đếm xuể số lần trước kia anh bạn này từng bảo vệ anh khỏi bị hành hung trong khu phố.

- Cậu thế nào?

- Khá hơn lần trước.

Hai người đàn ông không gặp nhau từ mười năm nay, dù thi thoảng họ vẫn giữ liên lạc. Như Shake khuyên anh sau cái đêm khủng khiếp ấy, Sam đã cắt đứt mọi quan hệ với khu phố dù đối với anh việc không được ở gần người bạn trai duy nhất anh từng thân thiết là một cái giá phải trả quá đắt.

- Tớ cảm thấy như vừa mới hôm qua, - Sam nói để ngăn mình khỏi quá xúc động.

- Với tớ thì như cả thiên thu rồi. Lần cuối gặp nhau chúng mình vẫn là hia đứa trẻ còn hôm nay cạu mặc một bộ trang phục doanh nhân và làm việc trong một bệnh viện lớn.

- Một phần là nhờ cậu đấy.

- Cậu đừng huyên thuyên nữa đi!

Họ dừng lại hồi lâu trong yên lặng rồi Shake quyết định.

- Tớ đã biết chuyện Federica và tớ có gọi điện nhiều lần cho cậu...

- Tớ biết, tớ đã nhận được những lời nhắn của cậu và thực sự chúng giúp tớ cảm thấy dễ chịu hơn, dù tớ không gọi lại.

Rồi như được dẫn dắt bởi giác quan thứ sáu, Shake hỏi:

- Cậu gặp rắc rối phải không, anh bạn?

- Ai mà chẳng gặp cơ chứ?

- Vậy hãy ra đây kể cho tớ nghe với một tách cà phê. Đây có thể là ngôi nhà của Chúa thật, song lại lạnh khủng khiếp!

Shake sống trong một căn hộ nhỏ, sạch sẽ và gọn gàng, nằm ngay phía sau nhà thờ. Anh mời Sam ngồi lên một trong những chiếc ghế đẩu ở phòng khách và đi vòng ra sau quầy để chuẩn bị hai ly expresso bằng một chiếc máy pha cà phê cổ lỗ sĩ mạ crom vẫn được sử dụng trong các quán bar lâu đời kiểu Ý. Trên giá chất đầy những chiếc cúp mà Shake giành được trong các trận đấm bốc. Nhưng để người ta khỏi tưởng nhầm đây là cách ca tụng bạo lực, vị linh mục đã cho đóng khung một câu nói của Shakespeare: " Máu không thể được rửa bằng máu, mà phải được rửa bằng nước."

- Cậu nếm đi, rồi phát biểu cho tớ xem nào, - anh vừa nói vừa đặt một tách cà phê sánh bọt trước mặt bác sĩ.

- Cà phê Colombia à ?

- Cà phê Jamaica: hiệu Blue Mountain. Nổi tiếng đấy, đúng không?

Sam gật đầu xác nhận.

- Nhìn này, - Shake đưa tay chỉ vào một mẩu báo đính trên xà gỗ, - tớ đã cắt bài báo nói về cậu trong tờ New York Times ra đấy.

- Bài báo nói chủ yếu về bệnh viện, chứ không phải về tớ, - Sam đáp.

- Xem ra cậu vẫn đóng vai khiêm tốn...

Sam nhún vai.

- Tớ cũng đã nhận được các khoản đóng góp của cậu, - Shake nói tiếp - Năm ngàn đô la vào mỗi kỳ Noel cho các hoạt động từ thiện của nhà thờ...

- Tớ tin cậu : tớ biết chắc số tiền ấy được dùng đúng mục đích.

- Ừ, nhưng cậu không cần phải gửi nhiều như thế.

- Đó cũng là một cách để trả món nợ của tớ, - Sam giải thích. - Khi tớ rời khỏi đây cùng Federica, cha Hathaway đã cho bọn tớ mượn tiền.

- Tớ biết : có lần cha đã nói với tớ rằng đó là khoản đầu tư đúng đắn nhất mà cha từng thực hiện trong suốt cuộc đời.

- Nhưng số tiền đó là để dành cho người nghèo...

Một nụ cười sáng lên trên khuôn mặt Shake.

- Thế cậu chưa bao giờ nghĩ rằng vào thời đó, chúng mình chính là người nghèo ư?

Sam suy nghĩ một lát về sự thật ấy, rồi anh quay về phía bạn.

- Shake, tớ gặp phải một chuyện hoàn toàn điên rồ...

Sam kể cho bạn nghe những sự kiện kì lạ đã làm thay đổi cuộc sống của anh những ngày gần đây. Thoạt đầu anh kể về cuộc gặp gỡ bất ngờ với Juliette, về cảm giác thoải mái và viên mãn mới mẻ tràn ngập trong anh, mang đến cho anh hy vọng tìm lại được tình yêu và có thể lập gia đình. Cả những lo sợ và lúng túng đã ngăn anh không giữ cô ở lại và gây ra những rắc rối pháp lý sau vụ nổ máy bay. Rồi một cách ngập ngừng, Sam kể tiếp những trao đổi gay gắt khó tin giữa anh và một nữ cảnh sát tự nhận mình là sứ giả, từ trên trời rơi xuống để hoàn thành một sứ mệnh đen tối.

Shake Powell là một linh mục rất thực tế, anh đã quyết địnhh dành cả cuộc đời mình để giúp đỡ những gia đình nghèo khổ và những đứa trẻ gặp khó khăn. Hiểu biết tâm linh không phải là thế mạnh của anh và anh luôn để công việc nghiên cứu về tôn giáo cho những người khác. Cũng vì thế, anh không mấy tin vào hiện tượng siêu nhiên. Tuy vậy, anh vẫn chăm chú lắng nghe những tâm sự của bạn. Anh biết Sam không phải một kẻ cuồng tưởng hay cả tin. Trong cuộc đời thầy tu của mình, chính Powell cũng đã một đôi lần phải đối diện với những chuyện không thể giải thích. Mỗi lần những chuyện như thế xảy ra, anh thường khuất phục trước một số thứ vượt quá hiểu biết của mình. Có lẽ đôi khi anh phải chấp nhận không hiểu tất cả. Anh mong rằng mọi câu trả lời rồi sau này sẽ được giải đáp.

Nhưng nghe Sam kể, anh không thể ngăn nổi mình cảm thấy càng lúc càng băn khoăn, sự lo lắng của anh tăng thêm hẳn một bậc khi bác sĩ kể tới thỏa thuận kinh khủng mà người sứ giả kia đã nói với Sam.

Suốt một hồi khá lâu, chẳng ai nói năng gì cả, rồi Shake phá vỡ yên lặng bằng một câu hỏi mà anh buộc phải đặt ra, dù anh đã biết trước câu trả lời:

- Cậu vẫn không có đức tin phải không?

- Ừ, - Sam thú nhận, - tớ không muốn nói dối cậu.

- Cậu biết không, đôi khi, Chúa...

- Để Chúa sang một bên, được không?

Rồi anh rời khỏi ghế và ra ngồi trên bậu cửa sổ. Qua lớp cửa kính, anh nhìn thấy sân bóng rổ nơi anh từng chơi biết bao lần. Anh vẫn giữ được một số kỷ niệm rời rạc. Có những ngày anh cảm thấy thực sự vui vẻ, còn những ngày khác anh thường bị lũ trẻ lớn hơn, bạo gan hơn bắt nạt. Dù sao đi nữa, anh cũng chưa bao giờ khóc trước mặt chúng, điều đó suy cho cùng cũng đã là một dạng chiến công.

- Theo cậu, tớ phải làm gì? - Sam hỏi và quay về phía bạn.

Shake thở dài.

- Điều cậu vừa kể cho tớ nghe thật phức tạp, nhưng cậu không nên nhượng bộ trước sự đe dọa của người tự xưng là sứ giả ấy.

- Nhưng cô ta đe dọa cả tớ lẫn Juliette.

- Nếu vậy, cậu sẽ phải đối đầu với cô ta, và đừng lôi kéo Juiette vào những chuyện này. Hãy bảo vệ người phụ nữ mà cậu yêu, Sam ạ.

- Tớ không dám chắc mình có đủ khả năng.

- Lúc nào cậu cũng coi thường bản thân...

- Không, tớ nói nghiêm túc đấy. Tớ chẳng biết phải làm gì.

- Hãy để tớ nói chuyện với cô ta, - Shake vừa nói vừa đấm nắm đấm vào lòng bàn tay. - Hãy để tớ dọa cho cô ta một mẻ...

- Không, Shake, làn này không làm thế được đâu. Người phụ nữ đó có vè chẳng sợ hãi điều gì.

- Chẳng có ai là không sợ điều gì, Sam ạ. Điều này thì cậu hãy tin ở tớ.

- Vị linh mục tiễn Sam ra xe. Khu phố đang dần dần thức dậy: cửa hàng thực phẩm Hàn Quốc đang mở cửa, một chiếc xe buýt trường học đang chậm chạp đi vào phố và cửa hàng Frisco bắt đầu nhộn nhịp.

- Cậu biết không, không một ngày nào trôi qua mà tớ không nhớ lại cái buổi tối cách đây mười năm khi tớ...

- Phải, tớ biết, - Shake cắt ngang. - Nếu điều này có thể an ủi cậu, thì chính tớ cũng nghĩ về chuyện đó mỗi ngày.

- Cậu có chắc chúng ta đã hành động đúng đắn không?

Một làn ánh sáng tâm hồn như lóe lên trong mắt linh mục.

- Người ta không bao giờ biết chắc mình có quyết định đúng hay không. Chính điều đó đã tiếp thêm gia vị cho sự tự do mà Chúa dành tặng chúng ta.

Sam quay chìa khóa trong ổ rồi hạ thấp cửa xe.

- Tạm biệt Shake.

- Nhớ cho tớ biết tin và đừng ngại nếu cậu cần đến tớ. Và đừng có đợi đến mười năm sau mới quay lại đấy! Mọi chuyện đã dần đi vào quên lãng và cậu không phải sợ gì ở đây nữa cả.

Sam vẫn chưa hoàn toàn tin điều đó.

Anh khởi động máy sau khi đưa tay vẫy lần cuối.

Rất nhiều lần anh đặt cho mình câu hỏi : điều gì sẽ xảy ra nếu anh không tìm đến Dustface với một khẩu súng trong túi áo? và suy cho cùng, liệu anh có thực sự cứu thoát Federica vào buổi tối hôm đó không, hay anh chỉ trì hoãn một kết cục hiển nhiên bi thảm?

Kể từ ngày hôm đó, dù gì đi nữa, anh cũng đã học được một điều là con người luôn thuộc một trong hai nhóm: nhóm những kẻ đã từng giết người và những kẻ chưa từng.

Anh thuộc nhóm người thứ nhất.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
610,923
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 22


Như vậy là ta đã gửi một thiên thần đến với con để chăm sóc con suốt chặng đường và đưa con tới nơi ta đã định.

Sách Xuất hành 23, 20

Ba lô khoác vai, Grace lang thang trên các con phố khu East Village. Khi cô mới vào nghề, người ta thường cử cô đi tuần trong khu này. Cô vẫn nhớ về nơi này như một nơi náo nhiệt lúc nào cũng đầy những cụ già Đông Âu, những người ăn mặc theo phong cách punk 1, những ngoại kiều phục trang lòe loẹt 2 và những người chuộng kiểu thời trang Gothic 3. Như ở khắp nơi tại Manhattan, khu này ngày càng trở nên trưởng giả, dù người nghèo vẫn nhan nhản trong các tòa nhà chung cư giá rẻ thuộc Alphabet City.

Không khí lạnh buốt, nhưng ánh nắng buổi sáng đã báo hiệu một ngày mùa đông đẹp trời. Grace dừng lại ở một tiệm bánh ngọt trên phố để mua một cốc cà phê mang đi cùng một miếng bánh sô cô la đen. Đúng là cuộc sống của con người luôn đầy rẫy những cám dỗ thật khó lòng chống chọi!

Jodie Costello đi lên Đại lộ số Một về phía Công viên Quảng trường Tompkins. Vô số những người bán hàng rong rải hàng hóa của họ khắp hai bên đường. Trốn mình sau những dãy hàng, Jodie kiểm tra chắc chắn không có một viên cảnh sát nào lảng vảng quanh đó. Mỗi lần đi giật túi, nó đều nhắm vào khách du lịch, vì xác suất tìm thấy tiền trong túi thường cao hơn. Nhưng sáng nay nó quyết định hành nghề trong một khu vực ít khách du lịch song cũng ít cảnh sát tuần tra hơn. Nó không được khỏe lắm: dáng đi xiêu vẹo, bụng quặn đau và gần như không đứng vững. Nó không muốn nhắm vào mục tiêu nào quá khó. Không phải một gã đàn ông muốn lên mặt anh hùng đuổi theo nó chẳng hạn.

Nó nhắm vào một người phụ nữ đang quay lưng về phía nó. Khoác chiếc áo da, trông cô ta có dáng thể thao và dường như còn trẻ. Hơi mạo hiểm, nhưng hai tay cô đang bận cầm cà phê và bánh ngọt. Đặc biệt chiếc túi bằng da thuộc của cô trông có vẻ là loại hàng tốt khiến nó đoán cô cũng có chút của gì đó.

Jodie cân nhắc hơn thiệt: lao ra, không lao ra, lao ra, không lao ra... Chúa ơi, nó căm ghét cái trò này. Nó cảm thấy mình thật đáng thương và nó sợ. Lao ra, không lao ra... Nó cần phải có tiền. Nó lại lên cơn đói thuốc và nó cảm thấy những giọt mồ hôi đang rịn ra dọc sống lưng. Lao ra, không lao ra... Đột nhiên, nó quyết định và bắt đầu lấy đà: lao ra.

Grace cảm thấy cánh tay trái của cô bị xô mạnh về phía trước như thể ai đó làm trật khớp vai cô. Chiếc cốc trên tay cô bắn lên không rồi rơi xuống lòng đường. Chính cô cũng bị mất thăng bằng và ngã lăn ra đất. Rất nhanh chóng, cô nhìn thấy kẻ tấn công: một phụ nữ, đúng hơn là một cô gái trẻ mặc áo trấn thủ. Cô kịp nhận ra mái tóc xơ xác và móng tay sơn đen của cô bé. Trong khoảnh khắc, ánh mắt họ gặp nhau. Có điều gì đó chợt lóe sáng trong đôi mắt tối tăm của Jodie: sự pha trộn giữa hy vọng và hoảng hốt nhanh chóng nhường chỗ cho cảm giác thoáng ngờ vực. Điều này diễn ra không quá một giây, song giây phút ấy kéo dài như trong thước phim quay chậm, đọng lại mãi mãi, như tia sáng pha lê, trong tâm ký ức của hai người.

Rồi mọi thứ tua nhanh trở lại. Jodie tiếp tục chạy, tay ôm chặt chiếc túi vừa giật được trước ngực. Những tiếng la ó phẫn nộ dậy lên xung quanh nó. Grace đứng bật dậy nhanh như chớp và đuổi theo nó... Có điều gì đó ở con bé khiến cô bàng hoàng, nhưng cô không biết là điều gì. Jodie băng qua phố, thiếu chút nữa thì bị xe tông phải. Nó đưa mắt liếc nhanh về phía sau, bực tức vì thấy nạn nhân của nó đuổi theo. Nó cố chạy nhanh hơn, chạy gần như đứt hơi và không cảm thấy đôi chân đâu nữa. Một loạt còi vang lên inh ỏi, đến lượt Grace chạy len lỏi giữa những làn xe hơi để sang được vỉa hè bên kia. Cô lao rất nhanh, mỗi bước chạy lại rút ngắn khoảng cách thêm vài phân nữa. Jodie thấy dạ dày như đảo lộn: nếu trong bụng nó có gì thì nó đã nôn thốc ra ở đây, ngay trên vỉa hè này rồi. Từng chút một, Grace rút ngắn khoảng cách, càng chạy tới gần, cô lại càng thấy choáng váng mà vẫn không hiểu nguyên nhân gì khiến cô xúc động như vậy. Jodie gần như hết hơi. Còn vài bước chân nữa thôi là nó sẽ bị tóm cổ. Chạy đến phố 14, nó rẽ trái. Có một trạm tàu điện ngầm ở cách đó không xa. Nó chỉ cần cố thêm vài mét nữa.

- Nó kia rồi! - một giọng đàn ông hét lên.

Jodie quay ngoắt đầu lại và nhìn thấy hai viên cảnh sát mặc đồng phục đang đuổi theo sát nút.

Khi lần thứ hai chạm phải ánh mắt của con bé giật đồ, Grace cảm thấy một cơn rùng mình làm sống lưng cô tê cứng. Lúc ấy cô hiểu điều gì ở con bé đó khiến cô choáng váng, nhưng điều này khó tin đến mức bộ não của cô không chịu chấp nhận.

Sợ hãi cùng cực, Jodie lao xuống trạm tàu điện ngầm và đi vội trên bậc thang chính. Cố thu hết sức lực, nó nhảy qua thanh chắn tự động, theo sau sát gót là Grace và hai viên cảnh sát. Grace không muốn mất dấu. Cô xô đẩy vài khách du lịch, lao xuống cầu thang ngược chiều và cuối cùng cũng đến được đường tàu. Một lần nữa cô choáng nhìn thấy con bé và trái tim cô cất tiếng bất chấp lý trí:

- Jodie? - cô hét lên, - Jodie!

Con bé đứng sững lại trên đà lao, như một luồng điện đánh trúng. Nó từ từ quay lại, thả rơi chiếc túi đang nắm trong tay và cảm thấy tim bung ra như một trái lựu đạn vừa nổ tung thành hàng ngàn mảnh nhỏ. Giọng nói này, khuôn mặt này...

Sững sờ vì không thể tin nổi, hai người đứng đối diện nhau, chỉ cách có vài mét.

- Mẹ...? - Jodie gọi và giọng nó lạc đi.

Nó mở miệng thêm lần nữa nhưng không một âm thanh nào phát ra và toàn thân nó chợt trào lên những tiếng nức nở không thể kìm được. Một lần nữa, thời gian kéo dài ra và đó là khoảnh khắc của họ. Khoảnh khắc đồng sinh và tái sinh; khoảnh khắc vượt thời gian và phi lý trí.

Tàu điện ập đến, không khí xoáy như có lốc.

Khi những định luật vạn vật hấp dẫn lại phát huy tác dụng, Jodie tiến thêm một bước về phía trước để được gần Grace. Nhưng hai người cảnh sát đã đuổi gần tới chỗ họ và người to cao hơn đổ sập xuống người con bé.

- Tôi túm được nó rồi! - ông ta hét lên và ghì chặt nó xuống đất.

Ông giữ nó nằm im chẳng mấy khó khăn, úp mặt nó xuống đất và vặn ngược cánh tay nó ra phía sau để chụp còng sắt vào.

Ông vừa bấm được một bên còng thì một cú đá rất mạnh vào sườn khiến ông nghẹt thở. Không hiểu điều gì xảy đến với mình, ông quay về phía Grace đúng lúc cô bồi thêm cú thứ hai và mặt khiến ông mất thăng bằng.

- Lên tàu ngay! - Grace ra lệnh cho con gái trong khi viên cảnh sát thứ hai rút dùi cui xông lại bảo vệ đồng nghiệp.

Sững người vì xúc động, Jodie như bị đóng đinh một chỗ, không hiểu điều gì đang diễn ra.

- Lên tàu đi! - Grace nhắc lại khi hồi còi báo hiệu đóng cửa tàu vang lên.

Cú dùi cui thứ nhất bổ lên gáy cô, rồi cú thứ hai. Ngay trước khi bất tỉnh, cô dường như nhìn thấy con gái mình nhảy vào trong toa tàu.

Trong khi tàu từ từ chuyển bánh, Jodie đứng dán mặt vào kính để nhìn hai viên cảnh sát lôi mẹ của nó di dọc theo cầu thang.

° ° °

Shake Powell đang lo lắng. Anh không muốn Sam thấy điều đó, nhưng câu chuyện về sứ giả khiến anh băn khoăn và một câu hỏi cứ lởn vởn trong đầu anh.

Anh gọi điện tới tổng đài thông tin và yêu cầu được nối máy với bệnh viện St. Matthew. Gọi tới nơi, anh xưng tên và xin được nói chuyện với bác sĩ Galloway.

- Shake hả?

- Này cậu, người phụ nữ mà cậu nói với tớ lúc nãy tên là gì nhỉ?

- Grace Costello, - Sam đáp, - cậu nhớ ra điều gì hả.

- Không, - linh mục nói dối. - Xin lỗi vì đã làm phiền cậu.

Anh vội vã gác máy, sợ rằng bạn anh sẽ hỏi thêm câu gì nữa.

Grace Costello, anh nhắc lại như một tiếng vang. Đó là cái tên mà anh không muốn nghe nhất. Shake đột nhiên cảm thấy rần rật ở hai bên thái dương. Anh cần không khí. Gần như lảo đảo, anh xuống gác đi ra sân bóng rổi.

Grace Costello! Có lẽ anh nên báo cho Sam biết chăng? Anh suy nghĩ một lát về giả thiết này, song không quyết định được. Gần như miễn cưỡng, anh đi vào nhà thờ và làm dấu thánh. Từ biết bao năm nay, để có thể giữ vững đức tin, anh vẫn luôn đánh cược về sự tồn tại của một Đức Chúa đầy thông cảm và lòng thương. Song thực chất, anh biết gì về Thượng đế? Quả là Đức Chúa anh vẫn đối thoại cùng ở sâu thẳm trong anh rất nhân từ và độ lượng.

Nhưng Đức Chúa ấy liệu có tồn tại ở nơi nào khác ngoài tâm trí anh không?

Juliette tỉnh dậy trong khung cảnh tiện nghi trái ngược hoàn toàn với ba đêm trong tù. Cô vùi mình lần cuối dưới lớp chăn, êm và ấm như bộ lông cừu, rồi mới liếc mắt về phía đồng hồ treo tường và tá hỏa: đã 8h30 trong khi Cục Nhập cảnh hẹn cô 10h tới kiểm tra sức khỏe, thủ tục không thể thiếu trong việc gia hạn visa. Một hành động phòng ngừa xưa như trái đất.

Cô nhảy phắt dậy, gọi cho một loạt taxi rồi kiểm tra giờ tàu. Cô có thể đến kịp, nhưng sẽ phải chạy.

Cô đang vội vàng đi tắm thì thấy mẩu giấy Sam đặt trên gối. Cô đọc với vẻ thú vị. Một lần, hai lần, ba lần.

Cuốn mình trong tấm chăn, cô bước ra bãi biển và được bầu tời, đại dương và gió chào đón. Thoải mái, cô tận hưởng thời khắc của niềm hạnh phúc mới mẻ, sung sướng tua lại trong đầu đoạn phim ghi những khoảnh khắc mới đây của họ.

Gió biển lạnh buốt, song không đủ mạnh để ngăn cô dạo vài vòng trên cát.

Cô cảm thấy mình xinh đẹp và nhẹ nhàng. Cuộc sống thật tuyệt vời.

° ° °

Khi mở mắt ra, Grace thấy mình đang bị còng tay vào cánh cửa sau chiếc xe cảnh sát.

- Ái chà, nhẹ tay tí chứ! Người nhà đây mà! - cô kêu lên.

Từ phía trước, một trong hai viên cảnh sát quay lại ném cho cô cái nhìn hằn học. Phải nói thêm rằng ông ta đang giữ một chiếc mùi soa đầy máu trên mũi...

- Các anh đang làm một việc ngu ngốc đấy. Tôi là thanh tra quận 36.

- Phải rồi, - viên cảnh sát lái xe nói, - còn mẹ tôi là Britney Spears!

Để yên tâm, viên cảnh sát bị thương ở mặt lục trong túi áo vest của Grace và tìm thấy một chiếc phù hiệu mang hàng chữ NYPD.

- Quỷ tha ma bắt! - anh chàng "dùi cui" chửi thề và nhấn mạnh chân vào bàn phanh.

Anh ta điều khiển xe cho đậu vào sát vỉa hè dọc khu Lexington.

- Thế còn con bé kia? - anh ta hỏi bán tính bán nghi.

- Nó là một trong những người đưa tin của tôi! - Grace giải thích.

- Nhưng rõ ràng nó đã giật túi của cô?

- Chỉ là tạo cảnh thôi!

- Tạo cảnh?

- Nghe đây, mấy anh bạn, đừng tìm cách hiểu cặn kẽ, OK?

- Thế cô có cần phải dần chúng tôi mềm xương kiểu đó không? Cô đập gần vỡ mũi tôi rồi.

Grace nhún vai.

- Thì các anh cũng phải trả giá một chút cho sự nhầm lẫn ngu ngốc này chứ.

- Chúng tôi chỉ thực hiện đúng bổn phận thôi. Cũng phải thừa nhận cô tình ngay lý gian đi, - viên cảnh sát lái xe vừa biện hộ vừa tháo còng cho cô.

- Thôi được, thôi được! Giờ thì các anh hãy làm chút việc có ích và đưa tôi đến chỗ này đi.

- Cô muốn đi đâu?

- Bệnh viện St. Matthew, - cô vừa nói vừa xoa xoa cổ tay.

° ° °

Trụ sở của Trung tâm y tế John Kennedy được đặt tại một tòa nhà bọc thép và kính nằm ở đoạn giao nhau giữa Đại lộ Công viên và đường số 52. Juliette vội vã đi vào giữa nhà. Cô đến muộn gần mười lăm phút, nhưng chắc người ta cũng không đến nỗi vì thế mà tống lại cô vào tù.

Có điều, ở đây, ai mà biết được...

Trong lúc chờ thang máy, cô đưa mắt ngưỡng mộ nhìn về phía mái vòm kiểu Byzance - phủ toàn vàng lá và kính màu - bao trùm cả sảnh chính. Điều mà cô thích nhất ở New York: dù sống ở đây hàng năm trời nhưng thật hiếm có ngày nào đó trôi qua mà bạn không phát hiện ra một thứ đẹp đẽ mình chưa từng biết đến.

Cô đi thang máy lên tầng ba mươi ba, tự hứa với mình sau khi hoàn thành các thủ tục sẽ quay lại đây chiêm ngưỡng mái vòm này cho thỏa thích.

Cô xuất trình thư triệu tập tại quầy lễ tân. Người ta yêu cầu cô chờ một lát rồi đưa cô vào một hành lang dài có mùi bệnh viện. Juliette vẫn như lơ lửng trên mây và ngay cả những màu sắc ảm đạm, nhợt nhạt và lạnh lẽo như thép cũng không thể khiến tâm trạng cô buồn bã. Tất nhiên, cô vẫn thích ở chỗ khác hơn. "Muốn khỏe mạnh, hãy tránh xa bác sĩ," cụ của cô vẫn thường nhắc đi nhắc lại như vậy, mà cụ thì vừa vui khỏe bước qua tuổi chín mươi lăm, và cho đến giờ cô gái trẻ người Pháp vẫn luôn triệt để áp dụng lời khuyên đó.

- Cô Beaumont? - một người đàn ông mặc áo blouse trắng hỏi.

- Tôi đây.

- Tôi là bác sĩ Goldwyn. Nếu cô đồng ý thì chúng ta sẽ bắt đầu.

Juliette theo ông ta vào một căn phòng hình ống không có gì đặc biệt. Việc khám sức khỏe được tiến hành dưới dạng một cuộc khám tổng thể nhanh gọn. Trước hết người ta tiêm bổ sung vắc xin cho cô, rồi họ lấy máu để xét nghiệm. Sau đó cô trả lời một số câu hỏi về tiền sử y lý của cô và gia đình cô. Cuối cùng, bác sĩ nghe tim phổi cô như bình thường. Để làm dịu bầu không khí, Juliette hỏi như yêu cầu một ân huệ:

- Ông làm ơn đừng tìm ra ung thư ngày hôm nay: tôi đang yêu.

Nhưng bác sĩ thậm chí chẳng buồn mỉm cười. Ở trung tâm y tế người ta phải chăm sóc hàng tá bệnh nhân và nếu muốn sự nồng nhiệt thì tốt nhất là nên bấm chuông cửa khác.

- Xong rồi, cô ạ.

- Tôi có thể đi được chưa?

- Được, hãy để lại địa chỉ cho chúng tôi và chúng tôi sẽ gửi cô toàn bộ báo cáo sức khỏe. Trừ khi cô muốn chờ lấy luôn kết quả.

- Có lâu không?

- Nửa tiếng.

- Tôi sẽ ở lại, - cô quyết định.

Tốt nhất là nên làm một thể cho xong chuyện này. Người ta đề nghị cô ngồi chờ trong phòng đợi đã tiệt trùng. Cô lấy một cốc cà phê từ máy bán hàng tự động và ngồi hồi lâu bên cửa kính để sẽ những tia sáng phản chiếu từ những tòa nhà chọc trời dọc hai bên Đại lộ Công viên. Như trong trò chơi lăng kính, mỗi ô cửa đều in hình bầu trời và những tòa nhà xung qunah. Juliette thấy cảnh đó thật tuyệt và cũng thật kinh khủng, có lẽ là cô thấy mình nhỏ xíu, mỏng manh, dễ chết.

Cốc cà phê khiến cô buồn nôn. Cô bóp nát chiếc cốc giấy giữa hai bàn tay. Tại sao đột nhiên cô lại có linh cảm kỳ cục như thế về sức khỏe của cô nhỉ?

Thật nực cười. Cô rất khỏe mạnh. Nếu được yêu cầu, cô sẵn sàng chạy marathon quanh New York hoặc leo một mạch lên tháp chuông bảy ngàn bậc ở Empire State Building. Cô xua đi những lo sợ của mình bằng cách nghĩ tới những điều tích cực. Chắc chắn anh sẽ nghỉ trưa và họ có thể cùng nhau thư giãn tại Công viên Bryant.

Cửa phòng bật mở và một cô y tá xuất hiện.

- Cô Beaumont, bác sĩ Goldwyn đã có kết quả của cô. Mời cô theo tôi.

° ° °

Jodie áp sát trán vào cửa kính tàu suốt quãng đường. Khung cảnh lòng đất trong đường tàu lướt qua trước mắt nó với tốc độ chóng mặt. Giữa cảm giác sợ hãi và bàng hoàng, nó chẳng biết phải nghĩ gì nữa. Đúng rồi, nó đang phát điên. Làm sao giải thích khác đi được chuyện nó tưởng mình vừa nhìn thấy mẹ?

Ôi! Nó chẳng huyễn hoặc mình làm gì. Nó biết chắc là mẹ đã chết và được chôn cất từ mười năm nay. Tất cả chỉ là do tác dụng phụ của cái thứ ma túy chết tiệt ấy thôi. Một kiểu ảo tưởng khiến đầu óc nó rối tung lên.

Thế nhưng mọi thứ lại có vẻ vô cùng thực. Mẹ nó trông giống hệt như trong trí nhớ của nó: vẫn ở tuổi ấy, vẫn dáng vẻ ấy, vẫn giọng nói đầy che chở và đáng tin cậy ấy. Trong đầu nó, những hình ảnh của cuộc gặp gỡ kỳ lạ đó đang diễn ra như trong thước phim quay chậm còn đầu óc nó thì càng lúc càng ong ong. Một câu hỏi cứ lặp đi lặp lại. Làm thế nào mà người phụ nữ ấy biết được tên nó và vì sao cô ta lại bảo vệ nó khỏi cảnh sát? Jodie tuyệt đối không nghĩ ra và suy cho cùng nó cũng chẳng dám chắc về điều nó thấy, bởi lẽ từ khi ma túy xuất hiện trong cuộc đời nó, chẳng còn gì là chắc chắn với nó nữa cả.

Con bé xuống ga Quảng trường Thống nhất và lên tàu đi về phía Bắc. Trong toa tàu đưa nó quay lại khu Bronx, có ai đó đưa mắt nhìn đôi còng còn lủng lẳng trên cổ tay nó. Jodie liền nhét sâu tay vào túi để che đi.

Những giọt nước mắt chảy dài trên mặt nó và nó chẳng thể làm gì để ngăn chúng lại. Nó chưa bao giờ cảm thấy mình yếu đuối và cô độc như lúc này.

° ° °

Juliette đẩy cửa phòng làm việc của bác sĩ Goldwyn.

- Mời cô ngồi, cô Beaumont.

Cô ngồi xuống đối diện với ông. Ông ta có vẻ cao ngạo của một bác sĩ biết được điều gì đó về cô mà cô không biết và ông ta coi đó như một thứ quyền lực.

- Thế nào? - Juliette hỏi để chấm dứt màn kịch ấy.

Bác sĩ đưa cô cô gái một tờ giấy rất bình thường: kết quả xét nghiệm máu. Juliette cúi đầu xem nhưng chỉ thấy một chuỗi các chữ số đang nhảy múa trước mắt cô.

- Tôi sắp chết phải không? - cô hỏi, nửa nghiêm túc, nửa lo lắng.

- Không, trái lại...

- Trái lại?

- Chúng tôi xét nghiệm thai cho tất cả các bệnh nhân nữ trong độ tuổi sinh nở...

- Và...?

- Cô có thai, cô Beaumont ạ.

--- ------ ------ ------ -------

1 Xu hướng thời trang lấy màu đen làm chủ đạo, đôi khi kết hợp thêm hai màu đỏ và trắng, đi kèm theo cách trang điểm, đầu tóc, phụ kiện, logo, khẩu ngữ đa dạng và hình thù kỳ dị, tạo nên vẻ ma quái cùng cá tính mạnh mẽ cho người khác.

2 Nguyên văn tiếng Pháp là "rastars", chỉ những người nước ngoài ăn mặc sặc sỡ và có vẻ giàu có đáng nghi ngờ.

3 Xu hướng thời trang tôn vinh vẻ đẹp nhiều họa tiết, cũng lấy màu đen làm chủ đạo để thể hiện sự lãng mạn và bí ẩn trong nỗi buồn đau, cô đơn, trầm uất.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
610,923
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 23


Chúng ta chỉ tồn tại vì những người chúng ta yêu mến và chẳng vì gì khác.

Christian Bobin

Bệnh viện St.Matthew

- Thưa cô, cô không thể vào khu vực đó được!

Grace Costello vừa đi vòng qua quầy lễ tân của khoa cấp cứu. Cô lại gần tấm bảng ghi chép các ca bệnh đang được xử lý để tìm tên của Sam.

- Khu vực này dành riêng cho nhân viên! - hai nhân viên bảo vệ vừa cảnh cáo vừa tiến về phía cô.

Họ chuẩn bị túm lấy tay cô thì cô chìa ra trước mắt họ tấm thẻ thần kỳ rồi cài nó lên ve áo.

- Cảnh sát đây! Tôi tìm bác sĩ Galloway, có việc khẩn cấp.

Connie nhìn lịch rồi nói:

- Tầng hai, phòng 203.

Grace bước bốn bậc một lên cầu thang và đi vào căn phòng nơi Sam đang hoàn tất việc băng bó cho một cậu bé vừa nghịch dại bằng cách diễn lại một đoạn trong chương trình Jacka 1.

Vừa thấy cô tiến đến, bác sĩ đã ngước mắt lên trời, nhưng Grace không để anh có thời gian nổi giận:

- Tôi cần anh giúp đỡ, Galloway ạ.

Ngạc nhiên vì lời đề nghị đó, anh nhìn cô chăm chú hơn.

- Chuyện gì xảy ra với cô vậy? - anh vừa nói vừa chỉ vào những vết bầm tím do dùi cui để lại.

- Không có gì nghiêm trọng.

- Khoan đã, cô chảy máu rồi...

Ngạc nhiên, Grace đưa tay vuốt vành xương lông mày: một dòng máu đang chảy dọc bên thái dương. Đầu cô bị đập xuống đất lúc cô quần nhau với mấy viên cảnh sát, nhưng cô không nghĩ là mình bị thương.

- Cô ngồi xuống đi, tôi sẽ băng lại, - Sam đề nghị sau khi xong việc với bệnh nhân.

Grace cởi áo khoác ra và ngồi xuống ghế. Sam lấy một miếng gạc rồi bắt đầu sát trùng vết thương cho cô.

- Ai làm cô bị thương thế này?

- Hai viên cảnh sát, nhưng giá anh thấy được tôi đã hạ họ như thế nào.

Sam không thể nín cười trước thái độ kiêu hãnh ấy của cô, anh hiều rõ hơn vì sao Rutelli chưa bao giờ dám thú thật tình cảm của mình với người phụ nữ kiêu hãnh và quả cảm này.

- Không cần phải tỏ ra cứng rắn trước mặt tôi, cô biết đấy.

- Tốt quá, vì tôi đang cần anh, mà tôi lại chẳng muốn quỳ gối xin xỏ.

- Cần tôi để làm gì?

- Để tìm lại con gái tôi.

Giọng cô đã biến đổi, gần như không lộ rõ nhưng Sam tin anh thoáng nhận thấy sự yếu đuối ở Grace Costello.

- Cô đã gặp lại con gái?

- Tôi không cố ý: nó giật túi của tôi cách đây nửa tiếng.

- Đúng là một gia đình đặc biệt! - anh thở dài.

Cô nhìn anh bằng ánh mắt trách móc.

- Chuyện này nghiêm túc đấy, anh Galloway. Tôi đang lo lắng thực sự. Trong ánh mắt nó có cái đó, anh hiểu không...

Anh nhíu mày:

- Cái gì?

- ...cái ánh đờ đẫn và lo lắng mà đôi khi người ta vẫn thấy ở các con nghiện.

- Nhưng làm sao cô có thể tình cờ gặp con bé được?

Grace kể lại cho an một cách chi tiết hoàn cảnh của cuộc hội ngộ ngăn ngủi với Jodie và khi nghe, Sam không thể ngăn mình xúc động.

- Sao cô không thử tìm con bé nói chuyện? - anh đề nghị.

Cô nói nhỏ:

- Vì tôi đã chết, anh Galloway ạ, tôi cứ nghĩ thời gian phải khiến anh hiểu ra vấn đề rồi chứ.

- Đối với một người chết, thì cô có một vết thương thật đẹp, - anh vừa nói vừa kiểm tra vết thương của cô sau khi sát trùng. - Tôi phải khâu hai mũi.

Trong khi anh chuẩn bị đồ nghề, Grace nói tiếp:

- Tôi muốn anh giúp tôi tóm Jodie và nói chuyện với nó.

- Nói gì với nó bây giờ?

- Anh sẽ tìm được điều gì đó, tôi tin tưởng ở anh.

- Tại sao lại là tôi?

- Bởi vì nó cần được điều trị và anh là bác sĩ. Và cũng vì...

- Sao?

-...bởi vì tôi chỉ có mỗi anh, Sam ạ. Đối với tất cả mọi người tôi đều đã chết và tôi phải tiếp tục như thế. Tôi không được quyền can thiệp vào cuộc sống của mọi người vì bất cứ lí do gì.

Cô ngước mắt lên nhìn anh. Trong ánh mắt cô là niềm hy vọng xen lẫn nỗi sợ hãi bị từ chối. Trong vài giây, người phụ nữ trong Grace chợt vượt lên trên người cảnh sát, và Sam cảm động trước vẻ mạnh mẽ pha lẫn nữ tính ở cô.

Grace không để thái độ lúng túng kéo dài :

- Ái, nhẹ tay thôi chứ, - cô vừa nói vừa nhảy dựng lên. - anh cố tình hay sao thế?

- Phải, tôi rất thích nhìn thấy cô đau đớn.

- Được, rất hân hạnh vì đã mang lại cho anh sự thích thú nhỏ nhoi trong ngày, nhưng giờ thì tôi đợi một câu trả lời: anh có giúp tôi hay không?

Phớt lờ câu hỏi, Sam tìm cách biết thêm thông tin:

- Hiện nay con gái cô đang ở đâu?

- Nếu biết thì tôi đã không cần anh giúp đỡ.

- Cô mới là cảnh sát, - anh nói, - còn tôi chỉ là bác sĩ thôi.

Cô không nói gì. Anh suy nghĩ vài giây, rồi góp ý:

- Nếu cô muốn tìm Jodie, tôi nghĩ chúng ta sẽ phải nhờ đến một người....

Grace nhíu mày. Sam rút từ trong ví tấm danh thiếp mà Rutelli đã đưa anh và cho Grace xem. Cô phản đối ngay lập tức:

- Hãy để Mark đứng ngoài chuyện này, được chứ?

- Nghe này, cô bảo tôi rằng Jodie có một cái còng đeo lủng lẳng trên tay. Chi tiết ấy không thể không thu hút sự chú ý. Ai đó nhìn thấy có lẽ sẽ báo cho cảnh sát và Rutelii sẽ biết.

- Chưa chắc. Anh biết rõ là anh ấy đã bị giáng chức.

Sam cố thuyết phục:

- Nếu chúng ta thông báo cho ông ấy biết, tôi tin chắc ông ấy sẽ giúp được chúng ta bằng cách này hay cách khác. Ông ấy là một cảnh sát tốt, đúng không?

- Tốt nhất, - Grace đáp không hề do dự.

- Nếu vậy hãy để tôi gọi cho ông ấy. Điều đó chẳng ảnh hưởng gì đến việc chúng ta tự thử mình làm điều gì đó.

Grace vẫn lưỡng lự. Sam liền đẩy cô vào thế phải quyết định.

- Người đàn ông này phát điên vì cô, Costello ạ, nhưng điều đó thì tôi nghĩ chắc cô phải biết rồi chứ.

Grace không trả lời song có điều gì đó chợt lấp lánh trong mắt cô. Không phải nước mắt. Chỉ là một thoáng sắc màu hồi tưởng và nuối tiếc.

Sam tiếp tục:

- Sau cái chết của cô, có điều gì đó đã tắt ngấm trong Rutelli.

- Anh đừng tưởng tôi không nhận ra điều đó. Chẳng việc gì phia xoáy sâu thêm mũi giao vào vết thương lòng của tôi để khiến tôi thêm ân hận. Tôi muốn nhắc anh nhớ là tôi bị ám sát. Tôi không được chọn điều đã xảy đến với tôi!

Sam nhìn cô thương cảm. Đây là lần đầu tiên anh thấy Grace thật sự là một con người. Chắc chắn cô cũng không khác anh là mấy và nếu gặp gỡ trong hoàn cảnh khác có lẽ họ có thể làm bạn của nhau. Một câu hỏi chợt lóe lên trong tâm trí anh:

- Ai giết cô, Grace? Cô có biết không?

Câu hỏi như treo lơ lửng, bay lượn vài giây trong bầu không khí êm ả của bệnh viện, cho tới khi cửa bật mở và Janice Freeman bước vào cùng một bệnh nhân.

- Tôi cứ tưởng trong phòng không có ai...

- Tôi xong rồi đây, - Sam nói, - nhưng tôi cần xin chị cho tôi nghỉ một ngày.

- Đừng nghĩ đến chuyện đó nữa, - Janice cắt ngang, - phòng chờ đang chật ních bệnh nhân và tôi nhắc anh rằng anh vừa nghỉ chiều hôm qua...

- Tôi không hề xin chị cho nghỉ một ngày nào trong suốt hai năm liền tôi làm việc ở đây!

- Nếu vậy cứ tiếp tục thế đi.

- Việc này rất quan trọng, - anh năn nỉ.

- Tôi đã nói vơí anh là không, anh Galloway ạ, tôi còn phải điều hành cả một khoa.

Grace sốt ruột. Vẫn trong tư thế một một đệ tử của những phương thức dùng cơ bắp, cô đứng xen vào giữa hai bác sĩ và nói với bà trưởng khoa đầy quyền uy.

- Cảnh sát New York. Chúng tôi đang điều tra một vụ án tế nhị và chúng tôi yêu cầu bác sĩ Galloway giúp đỡ

Jodie bước xuống đường tàu tại một trong các ga phía Nam Bronx. Đôi môi nó run rẩy và trán nóng hầm hập. Nó cảm thấy yếu tớ đến mức nó quyết định đến thẳng nhà Cyrus, dù biết rất rõ đó là một sai lầm. Nó không có tiền và gã sẽ chẳng bỏ lỡ cơ hội tấn công nó quyết liệt với chiêu bài tạm ứng của gã. Nhưng khi đói thuốc thì người ta là như vậy: không thực sự thuộc về bản thân mình nữa. Mà thuộ về con quỷ bên trong đang gặm nhấm ruột gan và liên hồi hành hạ người ta. Và điều đó chẳng liên quan gì tới chuyện ý chí hay lý trí cả.

Jodie băng qua khoảng sân nằm lọt thỏm giữa nhưng tòa nhà tồi tàn và bẩn thỉu rồi đi tắt qua một bãi đất hoang được bao quanh bởi hàng rào thép gai. Từ vài năm gần đây, nhờ vào tiền quỹ công, một vài nơi đã được tu sửa lại, trong đó có khu Hyde Pierce. Trên các phương tiện truyền thông, người ta nhắc rất nhiều đến tinh thần sáng tạo cũng như những nỗ lực của dân cư trong khu phố nhằm tái thiết môi trường an ninh. Nói vậy, nhưng khu vực phía nam Bronx này vẫn luôn là một trong những xó xỉnh nghèo nàn nhất cả nước. Rất hiếm người muốn sinh sống tại đây , và nếu muốn lang thang dạo chơi thì tốt nhất là nên chọn một nơi khác.

Như bị một thế lực ác độc điều khiển từ xa, nó đến trước dãy nhà nơi Cyrus sống. Trên mặt tiền cả khu nhà giá thuê rẻ mạt này, có một bức graffiti tối tăm vẽ cảnh một tù nhân đứng sau song sắt đang nhìn một chú chim bồ câu bay. Bên dưới là nhũng chữ cái khắc nghuệch ngoạc như cảnh báo: ''Địa ngụ là nơi không còn chỗ cho hy vọng.'' Một khẩu hiệu hay song chưa bao giờ ngăn cản được ai thoát khỏi con đường nghiện ngập...

Khi Jodie lao vào cầu thang, nó chạm chán một trong các khách hàng của Cyrus, một cái bóng, gày gò và đầy thương tích, trước kia từng là một phụ nữ nhưng bây giờ trong chẳng còn giống cái gì nữa cả.

Vẫn kịp để không lên trên đó, biết không.... một giọng nói trong đầu đang thì thầm với nó.

Đó quả là một lời thì thầm khó chịu, một tiếng cười khẩy ác ý, cợt nhả trước nỗi đau của nó mà nó không sao kiểm soát được. Song mọi sự là thế đấy: đến cảm giác ăn năn tội lỗi cũng là mọt trong những đòn tra tấn.

Mày sợ,đúng không? Giọng nói khẳng định. Tao biết là mày sợ mà.

Jodie cố cướng lại không nghe theo giọng nói.Nó bước lên các bậc thang như một cáu máy, cố gắng không nghĩ ngợi gì nữa. Dù sao thì nó cũng chẳng còn sức mà chống cự. Nó cảm thấy lạnh, lạnh đến mức nó ao ước được cuộn mình trong một tấm chăn và chìm vào giấc ngủ vĩnh viễn.

Nhưng giọng nói không chịu buông tha nó:

Mày là một con nô lệ, mày biết chứ? Một con nô lệ bẩn thỉu thối tha.

Nó đã đến trước căn hộ của Cyrus. Nó nghe thấy cái thứ nhạc không thể chấp nhận được ấy, mạnh đến nỗi làm cánh cửa rung lên.

Mày có cảm giác là mình đau khổ nhiều lắm rồi, đúng không? Nhưng nếu mày đẩy cánh cửa này ra, mày lại dấn thêm một bước nữa vào bóng tối.

Jodie dừng lại trong vài giây, như để tự thuyết phục mình rằng nó vẫn làm chủ được số phận.

Nào, nhanh lên, vào đi, giọng nói thúc giục. Nhưng chuyện đó sẽ còn tệ hơn cả điều mày tưởng tượng, cứ tin tao đi.

Nó muốn ấn lên một cái nút để có thể dập tắt những nỗi đau đớn của mình. Nó cảm thấy hai chân bủn rủn và nó còn dồn hết sức lực còn lại đập vào cánh cửa: - Tao đây, Cyrus.

Có tiếng động trong ổ khóa. Rồi cánh cửa bật mở và Jodie bị hút vào bên trong giống như rơi xuống vực thẳm.

Bước cạnh nhau, Sam và Grace đi lên con phố dọc theo bệnh viện. Tay cầm di động, Sam đang mải nói chuyện với Rutelli. Anh muốn biết liệu gần đây viên cảnh sát có tin tức gì về Jodie không.

- Chuyện đó liên quan gì tới anh? - Rutelli hỏi, ngờ vực.

- Tôi nghĩ Jodie đang gặp nguy hiểm.

- Con bé gặp nguy hiểm từ mười năm nay rồi: từ khi nó mất mẹ.

Một bức màn buồn bã che phủ ánh mắt Grace, cô vẫn theo dõi cuộc nói chuyện nhờ vào một tai nghe.

- Ông có biết con bé sống ở đâu không? - Sam hỏi.

- Nó bỏ trốn khỏi trại dành cho trẻ phạm tội cách đây sáu tháng, - viên cảnh sát giải thích. - Từ đó, không thể nào tìm được nó. Mới đây, có người thấy nó gần khu Nam Bronx nhưng tôi không có địa chỉ chính xác và rất khó có thể đi tuần ở đó mà gặp được một chút may mắn.

- Ông hãy nghe tôi nói: sáng nay Jodie suýt nữa thì bị hai viên cảnh sát tóm gọn.

- Ở chỗ nào?

- Cạnh khu East Village. Nó thoát được, dù một trong hai người họ đã bắt đầu lồng được còng tay vào tay nó.

- Khỉ thật, sao anh biết những chuyện đó.

- Không quan trọng, ông Rutelli ạ.

- Anh lại gặp cô ấy, đúng không?

- Ai?

- Người phụ nữ tự xưng là Grace, anh đã gặp lại cô ấy phải không ?

Sam đưa mắt hỏi Grace, nhưng cô lắc đầu và giơ bàn tay lên ra hiệu cho anh kết thúc cuộc nói chuyện.

- Tôi buộc phải gác máy đây, ông Rutelli. Hãy gọi cho lại cho tôi nếu ông có tin tức gì đó.

Chiếc taxi bọ kẹt cứng giữa dòng xe ùn tắc, sốt ruột, Juliette yêu cầu người lái xe thả cô ở đoạn Murray Hill. Cô đi bộ còn nhanh hơn và không khí lạnh buốt có lẽ sẽ giúp những ý nghĩ của cô trở nên sáng sủa.

Vẫn bàng hoàng trước tin mình có thai, cô không thể kiềm chế nổi sự phấn khích. Nếu trái tim đang mách bảo cô hãy tận hưởng trọn vẹn niềm hạnh phúc ấy, thì lý trí lại khuyên cô không nên quá vui mừng.

Cô nghĩ tới tất cả những gì mình vừa trải qua mấy ngày gần đây. Đúng là có những thời kỳ mọi thứ đều biến động nhanh chóng trong cuộc sống. Đứa trẻ này đã được hình thành trước đó một tuần, vào một đêm bão tuyết, với một người đàn ông mà cô mới quen được vài giờ.

Cô cố gắng sắp xếp lại trật tự trong thâm tâm. Liệu đây có phải thời điểm thích hợp để sinh con không ? Chắc chắn là không. Liệu có thời điểm nào thực sự là thích hợp không? Lý tưởng mà nói, cô vẫn luôn tự nhủ rằng cô sẽ làm mẹ khi cô có một công việc ổn định, một căn hộ của riêng mình và được sống chung với ai đó. Vậy tại sao không chờ luôn tới lúc nạn nghèo ở Châu Phi kết thúc hay Chúa cứu thế hồi sinh?

Đương nhiên, cô vẫn trắng tay và cuộc sóng của cô cũng chẳng phải là một tấm gương về sự ổn định. Đương nhiên, thế giơi này vẫn hỗn loạn và hành tinh đang chết dần chết mòn bởi nạn ô nhiễm, nhưng cuộc sống còn ý nghĩa gì đâu nếu không có trẻ con?

Lúc này có hai câu hỏi cứ luẩn quẩn trong đầu cô. Cô có nên nói với Sam về việc cô có thai hay không? Và nếu có thì anh sẽ phản ứng như thế nào?

Một chiếc ô tô bóp còi inh ỏi để xin đường xe suýt đâm phải người cô và người lái xe lớn tiếng mắng mỏ. Để tránh không bị xe nghiền nát, cô lục trong túi và lôi ra đôi kính cận. Cô vừa đeo kính vào thì thoáng nhìn thấy Sam bên kia đường.

Tim cô đập dồn dập. Cô định gọi và giơ tay vẫy anh thì chợt nhận ra anh đi cùng một người phụ nữ. Thoạt tiên cô không nhìn rõ cô ta lắm. Mặt trời đứng bóng chói chang trên phố rọi vào mắt cô. Juliette đứng lùi sang bên để quan sát Grace rõ hơn. Cô ta cao ráo, tóc nâu, trông nhanh nhẹn và kiêu hãnh với đôi giày cao cổ. Một chiếc quần jean bó sát đôi chân thon thả và một chiếc áo khoác da rất vừa vặn khiến cô ta có dáng vẻ vừa quyến rũ vừa ung dung.

Để không bị phát hiện, Juliette không sang đường nữa mà giấu mình sau mặt tiền của một cửa hiệu.

Người phụ nữ này là ai? Một đồng nghiệp?Một người bạn? Một người tình?

Trong giây lát, mọi vui mừng trước cái tin có thai trong cô biến mất để nhường chỗ cho một nỗi buồn bất chợt.

Mặc dù cố gắng lăm nhưng Juliette vẫn không thể rời mắt khỏi người mà cô đã coi là đối thủ của mình. Dường như có môi đồng cảm kỳ lạ nào đó gắn kết Sam và cô ta lại. Hai người đang say sưa trao đổi với nhau. Rồi, người phụ nữ kia đặt bàn tay lên cánh tay bác sĩ để kéo anh vào một quán cà phê. Vì họ ngồi gần cửa ra vào nên Juliette có thể tiếp tục quan sát họ qua cửa kính.

Thật lạ vì người phụ nữ này như hút hết ánh sáng vào mình. Người cô ta tỏa hào quang. Ở cô ta có điều gì đó không thể nắm bắt được, một dáng vẻ gợi nhơ tới Catherine Zeta-Jones nhưng cũng gợi nhớ tới girl next door 2 khiến người ta có cảm giác tin cậy, Dù sao đi nữa, cô ta cũng là một phụ nữ New York đích thực, Juliette chắc chắn như vậy. Cô đoán cô ta rất quyến rũ, và cũng rất có cá tính. Kiểu phụ nữ có khả năng làm chủ số phận của mình.

Trong khoảnh khắc, Juliette tự hỏi vì sao cô cảm thấy giận giữ và bực bội. Có lẽ vì người phụ nữ này hơn hẳn mình: cao hơn, đẹp hơn, tự tin hơn. Nhìn cô ta ngồi cạnh Sam, cô thấy trong mình dấy lên những nghi ngờ về khả năng quyến rũ của chính mình.

Thế là để tự trấn an, cô nghĩ tới lời nhắn mà anh đã ghi âm lại cho cô, tới bức thư tình anh viết cho cô sáng nay, tới những giờ phút đầy đam mê mà họ vừa cùng nhau trải qua.

Nhưng điều đó không làm dịu được nỗi đau trong cô.

Ngồi bên cửa sổ, Sam và Grace suy nghĩ về những gì họ có thể làm để tìm lại Jodie.

- Nếu con gái cô nghiện thật thì chắc nó phải từng tới bệnh viện hoặc trung tâm nào đó.

- Anh nghĩ thế ư?

- Giữa các cơn sốc thuốc và những cuộc săn tìm chất gây nghiện, có rất nhiều con nghiện được đưa tới trạm cấp cứu. Tôi có thể tra cứu các hồ sơ nhập viện để xem có dấu vết gì của Jodie không.

- Anh được quyền làm thế không?

- Lý thuyết thì không. Tuy nhiên tôi vẫn có thể gọi vài cú điện thoại. Tôi quen biết các bác sĩ ở hầu hết các bệnh viện: những người tôi gặp qua các chuyến công tác tình nguyện sang Châu Phi hoặc Balkans. Nhờ đó mà tôi có các mối quan hệ : nếu tôi yêu cầu, chắc họ sẽ không từ chối giúp đỡ đâu.

- Tốt lắm, nhưng có lẽ nên làm theo thứ tự. Mark nói người ta từng nhìn thấy Jodie lang thang ở Bronx.

- OK, tôi gọi cho tổng đài để lấy số điện thoại của các bệnh viện gần khu đó.

° ° °

- Không hả? Không một dấu vết gì của Jodie Costello? Cậu chắc không? Thôi đành vậy Alex, cảm ơn cậu.

Sam gác máy. Anh vừa gọi xong cú điện thoại thứ năm nhưng không có kết quả gì. Vậy mà anh đã kỳ vọng rất nhiều khi gọi cho Alex Stiple, một bác sĩ anh quen ở Nigeria trong chiến dịch tiêm vắc xin phòng bệnh bại liệt. Stiple là bác sĩ nỗi trú trưởng khoa cấp cứu bệnh viện Mount Crown, bệnh viện lớn nhất Bronx, và Sam đã thực sự tin rằng anh sẽ tìm thấy manh mối gì đó khi gọi tới đây.

Anh nhận thấy sự thấy vọng thực sự hiện lên trên gương mặt Grace và tìm cách trấn an cô:

- Chúng ta sẽ làm được, - anh khẳng định, - tôi tin chắc chúng ta sẽ tìm được Jodie

Để tăng thêm phần thuyết phục, anh định bấm tiếp một số điện thoại nữa thì di động đổ chuông.

- Galloway nghe, - anh nói khi nhấc máy.

- Sam? Em Juliette đây...

- Anh muốn gọi cho em mấy lần nhưng không có số. Thế nào, buổi khám sức khỏe của em ra sao?

- Khá tốt.

- Em đang ở đâu?

- Trên Đại lộ Công viên. Em có thể qua gặp anh được không? Chúng ta sẽ ăn trưa cùng nhau....

- Anh bảo này, anh rất muốn vậy, nhưng không thể được. Hiện đang có dịch cúm, ở đây bận ghê lắm. Mọi người nghe vô tuyến đưa tin về dịch cúm gà và họ nháo nhác cả lên. Tụi anh phải trấn an họ. Anh bị kẹt ở khoa cấp cứu đến hai giờ chiều rồi sau đó lại tiếp tục về phòng khám.

- Anh đang ở đâu?

Sam ngần ngừ. Dù không muốn nói dối nhưng giờ không phải là lúc nói với cô về Grace Costello. Anh sẽ kể hết cho Juliette nghe ...sau này, khi nào anh biết chắc mọi nguy hiểm đã lùi lại sau lưng họ.

- Anh ở đâu à? Ờ, thì đang làm việc.

- Ở bệnh viện?

- Phải, ở bệnh viện, - anh đáp, không mấy thoải mái.

Grace nhìn anh một cách lạ lùng, như thể cánh báo anh một điều gì đó.

- Thế lúc em gọi thì anh đang làm gì?

- Anh đang ngồi với một bệnh nhân, - anh đáp, - một bé gái sáu tháng tuổi.

- Em bé bị bênh gì?

- Viêm tiểu phế quản.Một loại bệnh viêm phế quản thường thấy ở các bé sơ sinh và...

- Em biết bệnh viêm phế quản. Em bé bệnh nhân ủa anh tên gì?

- Ừm,...Maya. Nghe anh này, giọng em lạ quá, Juliette ạ. Em có chắc là mọi chuyện ổn không?

- Không, mọi chuyện không ổn chút nào.

- Sao vậy?

- Vì anh nói dối em.

- Làm gì có chuyện đó, - anh tự vệ.

- ANH NÓI DỐI EM! - cô hét lên và dùng lòng bàn tay đập hai cú vào lớp cửa kính mặt tiền của quán cà phê.

Tất cả khách hàng giật nảy mình và cùng lúc với Sam, họ đưa mắt nhìn về phía kính cửa.

Juliette đứng đó, ngay sau lớp tường bằng kính. Sam nhìn cô sững sờ. Cô thì thầm điều gì đó với anh và nhìn cách cô mấp máy môi, anh đoán được điều cô muốn nói:

I don't trust you anymore. 3

Bác sĩ đứng lên và chạy vội ra khỏi quán cà phê. Nhưng Juliette bỏ chạy. Anh tìm cách giữ cô lại.

- Khoan, chờ anh đã!

Cô gái lao xuống lòng đường và huơ tay vẫy một chiếc taxi.

- Juliette! Nghe anh nói, được không? Ít ra cũng để anh có cơ hội giải thích với em chứ!

Chiếc taxi dừng lại bên cạnh cô gái người Pháp, cô chui tọt vào bên trong xe và không buồn đưa mắt liếc nhìn Sam. Anh bác sĩ chạy theo và đập vào cửa xe song vô ích. Chiếc taxi tăng tốc và hòa vào dòng xe cộ.

- Quỷ tha ma bắt! - Sam chán nản buông một câu.

Rồi anh quay lại và thấy Grace dang hai tay tỏ vẻ bất lực.

- Tôi rất tiếc, anh Galloway.

- Còn cô nữa, đủ rồi.

Anh chuẩn bị buông thêm một câu thì chuông điện thoại đổ dồn. Anh vội vàng nhấc máy, tin chắc là Juliette gọi lại cho anh.

- Nghe này em yêu, anh có thể giải thích hết với em! Dù thế nào đi nữa thì mọi chuyện hoàn toàn không phải như em tưởng tượng đâu...

- Tớ cũng muốn tin cậu lắm, - giọng Alex Stiple đáp lại, - nhưng tớ không chắc là cậu đang tìm cách thuyết phục tớ...

- Alex hả? Xin lỗi cậu, tớ nhầm cậu ...với một người khác.

- Phụ nữ đấy! - Stiple thở dài. - Kiểu gì thì rồi họ cũng nắm chúng ta đằng chuôi, đúng không?

- Phải, - Sam đồng tình và đưa mắt nhìn Grace ra vẻ thiếu thiện cảm, - cậu nói không sai chút nào...

- Sao cũng được, nếu cậu vẫn còn quan tâm thì chúng tớ đã tìm thấy Jodie Costello.

- Thật không? - Sam vừa nói vừa giơ ngón tay cái về phía Grace.

- Cũng khá mất thời gian vì không phải cô bé là người được điều trị, mà cách đây ba tháng, cô bé tới đây cùng một cô bạn bị sốc thuốc. Tớ có địa chỉ nếu cậu cần.

- Đọc cho tớ đi, - Sam vừa đáp vừa lấy bút từ túi trong áo vest ra.

Như thời còn đi học anh viết vào lòng bàn tay địa chỉ mà bạn anh cho.

Sau khi cảm ơn bạn, Sam gác máy. Anh đã lấy lại được chút bình tĩnh.

- Chúng ta đi thôi, - anh vừa nói vừa quay lại phía Grace. - Xe của tôi đậu cách đây không xa, nhưng với tình trạng giao thông thế này thì tốt nhất nên khần trương lên.

Sam quả quyết rảo bước về phía bãi đậu xe bệnh viện. Lúc anh đi trước Grace được khoảng năm mươi mét thì nghe tiếng cô gọi:

- Có một điều cần làm cho rõ, anh Galloway!

- Điều gì vậy?

- Anh hãy tin rằng tôi rất cảm kích trước sự hỗ trợ của anh, - cô vừa khẳng đinh vừa đi đến chỗ anh, nhưng ngay cả khi anh giúp tôi thì cũng sẽ không có chuyện trao đổi đâu.

- Cô đang nói về chuyện gì? - anh nhíu mày hỏi.

- Tôi về đây là để mang Juliette đi cùng tôi và điều đó sẽ không thay đổi, anh hiểu chứ?

Trong vài giây, anh không trả lời như thể anh vẫn không tin nổi chuyện này bất chấp những tình tiết rối rắm xảy đến dồn dập. Grace lưỡng lự nhìn anh chăm chú. Giống như bị năng lượng của anh thôi miên. Người đàn ông này có cái gì đó rất dễ gây xúc động trong cách anh kiên tâm làm điều tốt.

- Cô khẩn trương lên, chúng ta sẽ tìm thấy con gái cô, - anh chỉ nói vậy và giơ cánh tay, ngón trỏ chỉ vào đồng hồ đeo tay để Grace hiểu họ còn rất ít thời gian.

Một nụ cười nham hiểm nở trên khuôn mặt Cyrus. Đứng trước gã, Jodie đang nài nỉ gã cho nó chút gì đó. Gì cũng được: viên, bột, heroin... Nó không có tiền nhưng nó có thể trả bằng cách khác...

Gã sường điên. Gã vẫn luôn biết sẽ có một ngày Jodie phải cầu xin gã. Các con nghiện đều như thế cả : thoạt đầu, lũ con gái đứa nào cũng đến tìm gã với vẻ cứng cỏi nhưng khi đã thực sự sa ngã, chúng quay lại bò bằng bốn chân, bỏ qua mọi thể loại tự trọng và sẵn sàng làm bất cứ điều gì.

Còn nữa, cái con bé Jodie này trong mới ngon lành chứ. Có thể nó hơi gầy một chút, tại tất cả thứ của nợ mà nó đã nốc... nhưng trông vẫn ngon làm sao.

Hiếm khi gã phấn khích như thế. Gã chẳng hề thấy thương hại hay thông cảm cho cái con bé đang hoảng loạn này. Cyrus sống trong một thế giới chỉ tồn tại các kiểu tương quan lực lượng. Nhưng trước khi hành sự nghiêm túc, gã phải vờn con bé này một chút. Gã ra lệnh cho nó ngồi lên ghế dài và cởi áo trấn thủ ra. Nó miễn cưỡng tuân theo, gã sáp lại và xé tan áo nó bằng cách giật cổ áo hình chữ V.

- Cho tao xem cái khuyên rốn của mày.

Bị tấn công, Jpodie lập tức tỉnh cơn vật vã. Nó hét lên một tiếng và tìm cách thoát ra. Nhưng Cyrus đã chồm xuống người nó với bàn tay như gọng kìm, gã chít lấy cổ họng nó.

- Vội vàng gì, Babe-o-rama.

Jodie nghẹt thở. Nó tuyệt vọng tìm cách thoát. Chỉ với một bàn tay, gã da đen bóp cổ nó, siết chặt ngón tay cái và ngón giữa quanh họng. Jodie thiếu không khí. Nó cảm thấy một luồng máu sôi sục hai bên tai. Cyrus siết mạnh thêm và Jodie tưởng nó sắp ngất xỉu. Gã thừa cơ hất nó ngã và đè dí nó xuống đất. Ngay lập tức gã nhảy lên người nó, ngồi chồm hỗm trên lưng nó. Gã cảm thấy một cơn thèm muốn trỗi dậy trong mình, nhưng Jodie chống cự quyết liệt khiến gã buộc phải chú ý.

- Nằm im!

Gã chặn đầu gối lên cột sống để nó không cựa quậy được, điều này chẳng mấy khó khăn vì gã nặng gấp đôi con bé. Rồi gã bẻ quặt tay nó ra phía sau. Có tiếng kêu rắc và Jodie ré lên đau đớn.

- Mày có câm ngay không! - gã gào lên rồi táng cho nó một cái tát đủ mạnh để hạ cả một tay đô vật

Đầu Jodie đập xuống đất và nó gần như bất tỉnh. Chân tay nó cứng đờ và các thớ thịt căng đơ, như thể nó đang rơi vào trạng thái tê liệt. Cyrus liền nhân đó tháo khăn buộc đầu của gã ra và nhét vào miệng con bé. Gã rất muốn tiếp tục trò chơi của mình song gã còn vài dự định khác với con bé này.

Khi tỉnh lại, Jodie đã bị bịt miệng và trói chặt. Cyrus vác nó lên vai đi xuống cầu thang như vác một bao xi măng. Đến sân, gã mở cốp chiếc xe Lexus đời mới nhất, ném Jodie vào không chút nương tay rồi ngồi vào ghế lái.

Vừa lái xe, gã vừa rút chiếc điện thoại di động mới coóng ra rồi nhấn một số điện thoại để báo là gã đang trên đường tới.

- Mày có thứ tao yêu cầu không? - một giọng hỏi.

- Có, thưa ông chủ, - Cyrus trả lời.

Rồi gã gác máy.

Gã ma cô vung tay và nhăn mặt vì đau: con khốn này đã cào gã bật máu và để lại một vêt rách da dài hơn mười phân. Lẽ ra gã phải cho nó một cái bạt tai rồi sau đó mới xử lý nó. Nó chỉ đáng được hưởng thế thôi.

Nếu gã chịu dừng lại trong cơn hăng tiết, thì đó không phải là vì gã thương cảm gì Jodie, mà chỉ là vì gã đã dự tính cho nó những thú vui khác.

Dù sao đi nữa, ở cái nơi mà gã đưa nó tới, cũng chẳng mấy người có thể quay trở về.

--- ------ ------ ------ -------

1 Một chương trình bị phê phán rất nhiều của kênh MTV trong đó bốn người diễn lại những pha mạo hiểm trong khung cảnh cuộc sống thường nhật.

2 Cô gái nhà bên , cũng là tên một bộ phim của đạo diễn Luke Greenfiled.

3 Em không còn tin anh nữa.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
610,923
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 24


Việc xấu mà con người làm thường sống lâu hơn họ. Việc tốt thường bị chôn vùi cùng họ.

Shakespeare

Ngồi sau tay lái, Cyrus chạy xe hết tốc độ qua các khu nhà Hyde Pierce. Gã muốn kết thúc vụ này càng nhanh càng tốt. Nếu được chọn, gã ước mình được ở nơi khác, nhưng một khi Kên Kên có việc cần nhờ, tốt nhất là nên thực hiện ngay. Nếu vẫn muốn được kéo dài sự sống nơi hạ giới này...

Kên Kên tên thật là Clarence Sterling. Hắn điều khiển phần lớn các hoạt động buôn bán ma túy tại Nam Bronx và gần như toàn bộ số ma túy mà Cyrus đang bán là do hắn cung cấp. Trước kia, Sterling chỉ là một kẻ thanh trừng sẵn sàng cống hiến tài năng của mình cho những ai trả tiền nhiều nhất. Rồi hắn lợi dụng các cuộc thanh toán loại trừ lẫn nhau giữa hai băng đối lập để nhảy vào buôn bán.

Theo thời gian, tính tàn ác và cách hắn trừ khử không thương tiếc mọi kẻ thù đã khiến hắn được phong danh Kên Kên mặc dù không ai dám phát ngôn cái tên ấy trước mặt hắn. Dĩ nhiên bạo lực là một phần: của thể loại làm ăn này, song Clarence Sterling lại bơm thêm vào đó cả tính tàn nhẫn.

Sự thật là hắn khoái làm người ta đau đớn. Một phần tiếng tăm của hắn được tạo dựng sau khi hắn đóng đinh một gã ma cô thử qua mặt hắn vào bàn bia a: hai con dao khắc cắm trên hai cổ tay, hai con khác cắm trên hai cổ chân. Mà đó không phải là cách duy nhất hắn sử dụng vũ khí. Vài lần khác, có nhiều nhân chứng còn kể lại chuyện hắn tra tấn và xẻo thịt nạn nhân, trong khi chỉ cần một viên đạn "đơn giản" xuyên đầu là đủ để kết thúc vấn đề.

Thời gian gần đây, sự hung bạo của hắn dường như còn tăng lên nữa. Đây đó người ta xì xào rằng Kên Kên đang phát bệnh và hắn không được hoàn toàn tỉnh táo.

Vài ngày trước, khi Cyrus đến lấy một mẻ hàng mới, Sterling đã tỏ ý muốn tìm một đứa con gái để làm một việc đặc biệt. Cyrus không cần biết hắn ám chỉ điều gì khi nói như vậy và gã cũng thận trọng không đặt ra bất cứ câu hỏi nào. Tới cuối buổi gặp, Sterling nhắc lại yêu cầu đó thêm một lần nữa, ngay lập tức gã nghĩ tới Jodie.

Cyrus lùi xe rồi tiến vào một lối đi nhỏ dẫn tới một dãy nhà kho vừa được sửa sang. Kên Kên đã chọn chỗ này làm đại bản doanh của hắn. Gã ma cô dừng lại trước một ga ra, bấm còi một hồi ngắn để báo hiệu đã tới nơi, rồi ra hiệu vào chiếc máy quay giám sát đặt phía trên cửa ra vào.

Thực tình mong cho xong sớm, gã nghĩ khi nghe tiếng Jodie dùng chân đạp vào cốp xe. Sau vài giây, cánh cửa tự động nâng lên và chiếc Lexus tiến vào con đường lát bê tông đưa xuống tầng dưới.

Cyrus tuân theo mệnh lệnh mà gã đã nhận thức. Gã mở cốp xe, túm tóc Jodie và bắt nó phải theo gã.

- Cyrus, tao van mày. Đừng...

- Câm ngay!

Jodie tìm cách chống cự, nhưng xương đùi nó đã bị gãy và mỗi cử động mạnh đều làm nó đau buốt.

Cả hai đi qua một bãi đậu xe nhỏ tối tăm, rồi gã ma cô dẫn nó vào một căn phòng dài và hẹp nơi gã ấn nó ngồi xuống một chiếc ghế bành ngả ra trông giống như ghế trong phòng cách nha sĩ. Gã trói giật khuỷu tay nó vào đó rồi bịt miệng nó bằng một dải băng dính cách điện.

Sau khi xong việc, Cyrus vội vã rời khỏi phòng và không hề quan tâm tới chuyện gì diễn ra tiếp đó.

Lúc tắt đèn, gã liếc mắt nhìn con bé lần cuối, tin chắc gã sẽ không bao giờ gặp lại nó nữa.

° ° °

Mark Rutelli dừng xe trước cổng chính Sở Cảnh sát New York.

- Ông không thể đậu xe ở đây được đâu! - một cảnh sát trẻ mặc đồng phục cảnh cáo.

- Cậu biết không, chàng trai trẻ? Không những tôi sẽ để xe ở đây, mà cậu còn phải trông nó cho tôi nữa đấy.

Ông bước lên vài bậc, rồi dừng ngay lại khi viên cảnh sát dọa ông:

- Tôi sẽ cho cẩu xe của ông đi.

Rutelli quay lại và đứng sừng sững trước mặt cậu ta. Anh chàng cao hơn ông hẳn một cái đầu. Anh ta là một trong những cảnh sát mới ra trường, đẹp trai và cao lớn, theo cảm nhận của Rutelli thì trông giống một chú khỉ chân dài hơn là một "cảnh sát thực sự".

- Cậu sẽ không cho cẩu cái gì đi cả, chàng trai ạ.

- Đây có phải là một lời đe dọa không, sĩ quan?

- Phải đấy, - Rutelli đáp và túm lấy cổ cậu ta rồi ghì chặt. - Nếu lúc tôi quay ra mà chiếc xe này bị di chuyển dù chỉ hai phân thôi, tôi sẽ đập mặt cậu xuống thùng xe cho tới khi hứng được đủ máu để sơn toàn bộ tòa nhà này thành màu đỏ. Liệu một lời đe dọa như vậy đã đủ rõ ràng chưa?

- Hừ hừ... tôi... tôi nghĩ là rồi.

- Thế hả, cậu nghĩ hả? - ông vừa hỏi vừa siết mạnh thêm.

- Rõ... rất rõ rồi, - anh chàng khó nhọc lắm mới thốt lên thành tiếng và thu mình lại trước ánh mắt kinh ngạc của những người qua đường.

Rutelli buông tay đột ngột.

- Xem ra thì chúng ta hiểu nhau rồi.

Ông tiến vào trong tòa nhà hành chính và không quay đầu lại. Ông không mặc sắc phục nhưng kinh nghiệm cho ông biết cách tránh bị giữ lại ở quầy lễ tân. Ông không dùng thang máy mà đi lên thang bộ bằng những bước sải dài. Cuối cùng, ông tới tầng nơi có phòng làm việc của Jay Delgadillo, giám đốc phụ trách tuần tra của Sở Cảnh sát New York.

Trước kia Rutelli biết rất rõ người này. Hồi mới vào nghề, cả hai đều là những thanh tra trẻ đầy triển vọng. Rồi con đường của họ rẽ sang các ngả khác nhau. Rutelli chìm sâu vào một cuộc sống cô đơn và nghiện ngập trong khi Delgadillo nhanh chóng thăng chức qua mọi cấp bậc của ngành cảnh sát. Mang trong mình một tham vọng chính trị rất lớn, ông ta không hề che giấu ý định trở thành thị trưởng người Tây ban Nha đầu tiên của New York.

Giống như đang thi hành công vụ, Rutelli lọt qua các rào cản và tiến tới tận cửa phòng làm việc của người bạn cũ.

JAY DELGADILLO

GIÁM ĐỐC TUẦN TRA

Dù một cô thư ký có tìm cách ngăn cản: "Không được, thưa ông, ông không thể..." thì Rutelli vẫn bước vào phòng mà không cần chờ thông báo trước.

Delgadillo, đang nói chuyện với hai người khác. Bực mình vì sự xuất hiện đường đột này, ông ta phản ứng gay gắt:

- Mark, cậu không thể xông vào phòng làm việc của tớ như thế được. Tớ đề nghị cậu đi ra ngay!

- Cho tớ xin ba phút thôi, Jay, có việc quan trọng.

Vào trường hợp khác có lẽ Delgadillo sẽ chẳng ngần ngại gì mà không gọi bảo an, nhưng ông cảnh giác với những phản ứng khó lường của Rutelli và không thích gặp phải rủi ro.

- Xin các anh vui lòng thứ lỗi, - ông ta nói với những người kia.

Khi chỉ còn lại hai người, họ liền bắt đầu ngay một cuộc tranh luận nảy lửa.

- Cậu muốn gì nữa đây, Mark?

Rutelli tóm tắt sự việc cho ông ta nghe. Ông giải thích rằng ông đang tìm kiếm Jodie Costello và yêu cầu được biết ngay nếu ai đó báo thấy một cô bé với chiếc còng lủng lẳng trên cổ tay.

- Không thể được! - Delgadillo đáp dứt khoát. Cậu chỉ còn là một tuần tra viên thôi, Mark ạ. Và sau những trò ngu xuẩn của cậu năm ngoái, cậu chẳng được quyền yêu cầu bất cứ điều gì nữa cả.

Ông ta im lặng vài giây rồi nói thêm:

- Nếu cậu muốn biết ý kiến của tớ, thì đây: lẽ ra cậu nên hài lòng vì vẫn giữ được việc làm.

Rutelli thở dài. Trong khoảnh khắc, ông muốn lao vào Delgadillo và đấm cho ông ta một cú vào mặt. Nhưng ông nghĩ Jodie và kìm mình lại.

- Cuộc trao đổi đến đây là kết thúc, - Delgadillo nói và chỉ tay ra cửa.

Thay vì bước ra cửa, Rutelli lại tiên gần hơn tới bàn làm việc của cấp trên.

- Nghe đây, Jay, trong cuộc sống không phải chỉ có chính trị. Cậu cũng biết rất rõ Grace. Và nếu tớ nhớ không nhầm thì hai chúng ta đã từng là bạn...

- Phải đấy, - Degaldillo thừa nhận, - chúng ta đã từng là bạn, nhưng đó là trước khi cậu trở thành một tên thân bại danh liệt.

- Cậu thôi ngay đi, Jay.

- Cậu biết mà, Mark: cậu là một kẻ yếu đuối và tớ không thể nào ưa nổi những kẻ như cậu được nữa. Những kẻ như cậu là nỗi nhục của ngành cảnh sát và khi nào có quyết định sàng lọc lại nơi này thì cậu sẽ là người đầu tiên bị tống ra khỏi cửa.

Rutelli phải cố ghìm mình thêm lần nữa. Ông ngờ rằng Delgadillo đang cố tìm cách khiêu khích ông. Thay vì rơi vào cái bẫy đó, ông ra đứng trước cửa sổ rộng nhìn xuống đường.

- Cậu có thấy tòa nhà đá hoa hồng phía đằng kia không?

- Có.

- Sau đó có một cái sân nhỏ, với một bãi đất lổn nhổn, nơi lũ trẻ vẫn thường tới chơi bóng rổ.

- Thế thì sao? - Delgadillo nói, vẻ cáu kỉnh.

- Thế thì, - Rutelli đáp và nhìn thẳng vào mắt ông ta, - nếu chúng ta để sống và phù hiệu lại đây rồi cùng ra cái sân nhỏ đó để nói chuyện như những người đàn ông với nhau, cậu sẽ biết ai là kẻ mạnh mẽ và ai là kẻ yếu đuối...

- Ra đánh nhau trong một cái sân nhỏ! Nói chuyện "như những người đàn ông"! - Delgadillo giễu cợt. - Tỉnh lại đi Mark. Cậu nghĩ mình đang ở đâu? Trong một bộ phim chăng? Tất cả kết thúc rồi. Cậu đã hết thời.

Rutelli lắc đầu.

- Cậu tưởng mọi chuyện đã kết thúc vì cậu không còn đứng trên mặt đất nữa, vì cậu mặc những bộ quần áo Armani và vì cậu tưởng mình đã trở thành một người quan trọng.

- Cậu khiến tớ thương hại.

- Tớ khiến cậu thương hại ư? Được lắm. Để tớ nhắc lại cho cậu điều này: cậu có nhớ vụ trộm ở cửa hàng trang sức trên phố Broadway nơi người ta gọi cậu và tới tới cứu khẩn cấp không?

- Tớ biết cậu đang muốn dẫn tới chuyện gì...

- Cậu còn nhớ cậu cảm thấy thế nào khi một trong hai tên trộm gí súng vào gáy cậu không? Tớ tin chắc cậu vẫn nhớ. Thậm chí tớ còn tin chắc rằng cậu vẫn mơ thấy cảnh đó buổi đêm. Và ngày hôm đó, cậu thật mừng vì tớ đã ở đó cùng cậu...

- Thôi được, - Delgadillo nhượng bộ, - cậu đã cứu mạng tớ cách đây mười lăm năm khi hạ gục tên trộm đó, nhưng cậu chỉ làm bổn phận của mình thôi chứ có gì hơn đâu. Và nếu cậu muốn biết rõ, thì không có sự can thiệp của tớ, cậu đã bị tống cổ từ lâu lắm rồi. Thế nên tớ nghĩ mình đã trả hết nợ cho cậu, Mark ạ...

- Cậu vẫn còn một khoản nữa, - Rutelli nhấn mạnh. - Và đây là khoản cuối cùng, tớ hứa với cậu: cậu giúp tớ lần này, tớ sẽ không bao giờ đòi hỏi gì cậu nữa.

Delgadillo khoanh tay lại, vừa khẽ đung đưa người trên ghế thở dài. Ông ta suy nghĩ thêm một hồi khoảng mười giây rồi mới quyết định:

- OK, tớ sẽ ra lệnh, - ông ta vừa nói vừa nhấc điện thoại lên. - Nếu có đội tuần tra nào biết tin tức về Jodie Costello thì cậu sẽ được ưu tiên báo tin và mọi người sẽ để cậu tự do hành động.

- Cảm ơn Jay.

- Tuy nhiên, có một điều kiện trao đổi: sáng thứ Hai, tớ muốn thấy thư từ chức của cậu trên bàn tớ. Tùy cậu muốn đánh đổi hay không.

Rutelli không hề chuẩn bị tinh thần cho điều kiện cuối cùng này. Từ chức! Ông sẽ ra sao nếu người ta đuổi việc ông? Ông là người gần như đã mất hết mọi thứ. Tuy vậy, ông vẫn đón nhận cú sốc này mà không hề chớp mắt.

- Được thôi, cậu sẽ thấy.

- Thư từ chức, súng và phù hiệu của cậu, - Delgadillo nhắc nhở.

° ° °

Sam rời Đông Harlem và chạy lên cầu Triborough về hướng Bronx. Grace cảnh báo anh.

- Nếu chúng ta tìm thấy Jodie, anh không được nhắc tới tôi dù với bất kỳ lý do gì, anh hiểu chứ?

- Chắc sẽ khó đấy...

- Tôi biết, anh phải xoay xở để khám cho nó và thuyết phục nó điều trị cai nghiện.

Sam lắc đầu:

- Rồi sau đó tôi giải thích hành động can thiệp của mình thế nào? Jodie là một thiếu niên suy sụp, nó sẽ không chịu để một người lạ xông vào cuộc sống của nó và dạy nó những bài học đạo đức đâu.

- Nếu là anh thì sẽ được. Anh có cách khiến người ta cảm thấy tin cậy và anh biết điều đó.

Bên ngoài, mặt trời đã nhường chỗ cho những đám mây và một vài bông tuyết rơi lác đác trên kính xe. Grace nhấn nút bật lò sưởi trên tay vịn của ghế cô ngồi. Nội thất chiếc 4x4 gợi cô nghĩ tới một du thuyền hạng sang làm từ gỗ, da và công nghệ hiện đại. Lần thứ hai mươi, cô đọc lại địa chỉ nơi có thể con gái cô đang trú ngụ.

- Nghe này, anh Galloway, địa chỉ mà chúng ta có nằm ở Hyde Pierce. Đây là khu vực khá nguy hiểm, vì thế tôi đề nghị anh mang theo thứ này.

Sam thoáng rời mắt khỏi đường để nhìn xuống và thấy Grace đang đưa cho anh khẩu Glock của cô.

- Tôi tưởng mình đã tịch thu vũ khí của cô rồi cơ mà, - anh ngạc nhiên.

- Một cảnh sát tốt luôn mang theo súng dự trữ trong người. Nào, cầm lấy đi.

Bác sĩ từ chối.

- Tôi căm ghét vũ khí.

- Anh thôi ngay những bài thuyết giáo kiểu đó đi: nếu biết cách dùng đúng lúc thì vũ khí có thể cứ nhiều mạng sống đấy.

- Cô không thuyết phục được tôi đâu. Lần cuối khi tôi cầm một khẩu súng, mọi chuyện đã kết thúc tồi tệ.

- Nghĩa là sao?- Tôi đã giết chết một người đàn ông.

Grace có vẻ hơi ngạc nhiên. Trong một lát mỗi người đều thu mình trong yên lặng. Rồi Grace hiểu ra điều Sam nói là thật.

- Đó là khi nào?

- Cách đây khoảng chục năm, ở Bedford-Stuyvesant.

- Tôi biết khu đó.

- Tôi đã lớn lên ở khu đó, cùng Federica. Cô ấy thiếu tiền của một gã ma cô trong vùng, một gã tên Dustface vẫn thường thực hiện các cuộc giao dịch tại một ngôi nhà cổ hoang tàn.

- Và anh tới tìm gã... - Grace đoán.

- Tôi đã gom được một phần số tiền đó và tôi nghĩ số tiền ấy sẽ làm gã nguôi bớt, nhưng tôi cũng mượn súng của một người bạn phòng khi cần đến...

Grace đón đầu:

- Anh đã hạ gục tên ma cô kia?

- Không.

- Thế sao anh nói anh đã...

- Người bị tôi giết không phải là gã.

- Vậy là ai?

Sam bật xi nhan và yên lặng. Anh đột nhiên cảm thấy hồi hộp và run rẩy, như thể anh đang thấy lại cảnh tượng ấy, gần như rất thực.

- Khi tôi bước vào căn nhà hoang đó, mọi người đều sửng sốt. Dustface đang cãi cọ với một khách hàng. Chúng nhanh chóng to tiếng với nhau rồi Dustface rút súng ra.

- Anh đã làm gì?

- Tôi biết gã sẽ bắn. Vì vậy, để kiềm chế gã, tôi dùng khẩu súng của tôi để đe dọa. Bầu không khí vô cùng căng thẳng. Tôi nhắm mắt lại và thế là súng cướp cò. Tôi thậm chí còn không biết mình có thực sự bóp cò hay không? Tất cả những gì tôi biết là khi tôi mở mắt ra thì người bị giết không phải là Dustface mà là người đàn ông kia vì gã đã dùng ông ta để làm khiên đỡ đạn.

- Thật là một câu chuyện kinh khủng, - Grace thừa nhận.

- Không ngày nào trôi qua mà tôi không nghĩ về chuyện đó. Dù sao, chuyện đó cũng làm hỏng cả cuộc đời tôi. Không bao giờ tôi có thể sống thanh thản được nữa...

Anh hạ cửa xe xuống để hít thở chút khí trong lành trước khi nói thêm:

- Vì thế tôi không muốn cầm súng của cô.

- Tôi hiểu, Sam, tôi hiểu.

Chìm trong bóng tối kinh hoàng, Jodie co rúm người vì khiếp sợ. Nó tìm cách tháo dây nhưng Cyrus đã trói nó bằng một sợi dây thép và mỗi lần nó cựa quậy thì sợi dây lại cứa sâu vào da thịt nó. Mảnh băng dính bịt miệng khiến nó nghẹt thở và không thể kêu được. Mà dù có gào đi chăng nữa thì liệu có ai nghe thấy tiếng nó cơ chứ?

Nó cố gắng lấy hơi và chợt nghe có tiếng bước chân. Ngay lập tức, toàn thân nó run rẩy. Những bước chân tiến lại gần, như thể ai đó đang bước xuống những bậc thang bằng kim loại. Dồn hết sức bình sinh, Jodie cầu cho cánh cửa đừng mở vì nó biết người sắp bước vào sẽ chỉ hành hạ nó.

Cánh cửa lật được kéo lên trong tiếng rít ken két và cả căn phòng được chiếu sáng bởi một thứ ánh sáng nhờ nhờ phát ra từ một quả cầu thủy tinh phủ đầy bụi.

Một gã đàn ông đứng ngay ở ngưỡng cửa. Cái bóng to cao nhưng khẳng khiu của hắn nổi bật trong luồng sáng. Jodie thấy máu trong người như đông lại. Gã đàn ông tiến về phía nó. Mặc dù trông gầy gò nhưng cơ thể hắn lại rất vạm vỡ và rắn chắc. Đầu hắn cạo trọc lốc, da nhám và một vết xăm màu chạy dọc cái cổ dài và trần trụi của hắn, vốn là nguồn gốc của cái biệt danh mà người ta đặt cho hắn.

Clarence Sterling, gã Kên Kên.

Như đại đa số dân cư trong khu phố, Jodie biết danh tiếng của hắn nhưng chưa bao giờ nghĩ mình sẽ gặp hắn trong đời. Kên Kên muốn làm gì nó? Như một con thú bị vây dồn, nó đảo mắt nhìn khắp xung quanh, tìm kiếm một lối thoát, nhưng căn phòng chỉ có một cái bàn duy nhất ngoài cái ghế mà nó đang bị buộc chặt vào.

Sterling cầm một cái thùng nhỏ bằng thép và đặt nó lên bàn. Hắn tiến tới sát bên đứa con gái và nhìn nó bằng ánh mắt ma quái. Làn da trắng nhờn nhợt, hơi xam xám, lại lấp lánh như xừ cừ khiến hắn trông giống như một con ma.

Jodie muốn hét lên nhưng không thể thốt được chút âm thanh nào. Vậy mà thật bất ngờ, Kên Kên giật mảnh băng dính dán miệng nó ra:

- Nào, hét lên, khóc đi, tao thích thế...

Jodie quay mặt đi chỗ khác và bật khóc nức nở.

Clarence mở cái thùng nhỏ ra và xem xét dụng cụ bên trong: một mớ hỗn độn nào xi lanh, lọ và dao mổ đủ kích cỡ.

Hắn dành hẳn một phút để lựa chọn và khi quay lại phía Jodie hắn cầm trong tay một xi lanh chứa đầy thứ chất lỏng màu vàng.

Nó giãy giụa tìm cách thoát khỏi hắn nhưng chỉ là ảo tưởng. Không mấy khó nhọc, hắn giữ chặt cổ tay và chọc thẳng mũi kim vào một đường ven nổi.

- Mày muốn có thuốc phải không? - hắn nói giọng ma quái, - vậy thì mày sẽ có...

Bằng một động tác dứt khoát, hắn bóp xi lanh.

Rất nhanh, Jodie cảm thấy mọi khả năng chống cự đều tan biến và hiểu ra nó không còn thuộc về mình nữa. Một cơn đau khủng khiếp, giống như một vết bỏng, xoáy vào gần tim nó. Nó ngật đầu ra phía sau và trần nhà xoay như chong chóng với tốc độ điên cuồng.

Rồi sau đó là một cái hố đen.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
610,923
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 25


Những con ma cà rồng thật may mắn: chúng sống được nhờ sát hại con người. Còn chúng ta, chúng ta buộc phải tàn sát lẫn nhau.

Khó khăn lắm Jodie mới mở được mắt. Thoạt tiên, nó chỉ phân biệt được một thứ gì đó như tàn lửa, dày đặc và chói lòa, cứ quay cuồng xung quanh nó. Còn có cả âm thanh nữa: những tiếng hét của trẻ con giống như trong một sân chơi. Để tránh ánh sáng, nó đưa cả hai tay lên che mắt rồi mới từ từ rẽ các ngón tay ra. Thứ đầu tiên mà nó nhìn thấy là cái cổng chào của Quảng trường Washington.

Làm thế nào mà nó lại tới được đây, ngồi trên một cái ghế băng đơn, ngay chính giữa Greenwich Village? Nó nhìn đồng hồ đeo tay: chưa được nửa tiếng kể từ khi nó bị gã Kên Kên tấn công. Con bé tìm cách đứng lên nhưng nó nhanh chóng từ bỏ ý định. Một thứ gì đó như kiểu áo nịt chắn ngang lồng ngực nó, chưa kể cột sống nó đau rần.

Nó thử xoay đầu, nhưng cử động của nó lập tức bị cắt ngang bởi một luồng điện tê liệt chạy dọc vai. Nó cố nén một tiếng kêu đau đớn. Một cơn rùng mình ớn lạnh chạy qua người nó và nó nghe xương mình răng rắc giống như pha lê vỡ. Nó đặt một bàn tay run rẩy lên ngực: sao nó lại có cảm giác như năm hay sáu xương sườn bị gãy nhỉ?

Nó chậm rãi kéo khóa áo trấn thủ xuống. Một chiếc áo kiểu như áo phao bó chặt lấy eo và ngực nó. Tại sao chúng lại mặc cho nó thứ này? Nó dừng lại hồi lâu rồi mới hiểu điều gì đang thực sự xảy đến với mình. Nó lần tay vào túi áo và thấy lời cảnh cáo dưới đây được viết trên một mẩu giấy:

One move: you BLOW

One word: you BLOW

Never forget I'm WATCHING YOU 1

Một lần nữa nó mở áo trấn thủ ra và xem lại thứ đồ được quấn quanh ngực nó: đó không phải là một cái áo phao, đó là một cái thắt lưng đầy thuốc nổ.

° ° °

Rồi đấy, giờ con bé mới hiểu vấn đề!

Ngồi sau màn hình máy tính, Kên Kên đang ở tột đỉnh sung sướng. Nhờ vào hệ thống máy quay đặt quanh công viên, hắn có thể quan sát trực tiếp mọi chuyện diễn ra tại Quảng trường Washington. Hắn chia màn hình thành bốn mảng chữ nhật: ba trong số đó theo dõi công viên từ các góc độ khác nhau và một chiếu cận cảnh Jodie.

Rất nhẹ nhàng, hắn đưa tay vuốt lên cái nút màu da cam kích nổ gắn trên điện thoại di động. Chỉ cần chạm nhẹ vào đó thôi là hắn đã run lên.

Vì mọi thứ chuẩn bị nổ tung. Khối thuốc nổ mà hắn đặt trên người Jodie chứa hơn một ký TNT trộn lẫn những mảnh vụn kim loại. Vụ nổ sẽ gây ra một cuộc tàn sát ghê gớm và những cảnh tượng hoảng loạn. Tháng trước, một vụ đánh bom liều chết đã làm nổ tung tàu điện ngầm ở Mát xcơ va. Chính vụ đó đã cho hắn ý tưởng... Trên ti vi, người ta nói tới hai mươi người chết và hơn sáu chục người bị thương. Hắn hy vọng sẽ có được nhiều hơn thế. Trong hai chục phút nữa, một buổi biểu diễn kịch của sinh viên sẽ được tổ chức ngay trước đài phun nước. Buổi biểu diễn mỗi tuần một lần này được rất nhiều người tới xem. Đủ để làm nên một vụ ra trò!

Trong bộ anxo bệnh hoạn của hắn, hắn vẫn luôn nghĩ rằng hủy diệt bất cứ thứ gì cũng đều là cách tuyệt vời nhất để chiếm hữu được thứ đó. Tất nhiên, hắn có thể chẳng cần chờ mà cho mọi thứ nổ tung ngay trong giây lát. Nhưng hắn muốn kiên nhẫn thêm chút nữa để tận hưởng toàn bộ công trình của mình và gom được số nạn nhân tối đa. Hắn đặc biệt thích công đoạn chuẩn bị này, khoảnh khắc bình thản chờ ngọn lửa bùng lên, khi màn kịch điên cuồng nhất dường như hoàn toàn có thể...

Nhấp chuột vài cái, hắn chiếu cận mặt Jodie để thưởng thức nỗi tuyệt vọng của con bé. Hắn bị hớp hồn bởi vẻ mỏng manh và những nỗ lực không bỏ cuộc của nó. Mặc dù vậy, hắn vẫn cảm thấy nó đang chuẩn bị gục ngã. Cho tới giờ, mọi chuyện đều diễn ra trôi chảy, nhưng hắn vẫn cần phải cẩn thận. Một lần nữa, hắn đưa tay sờ lên nút kích nổ.

Hắn không nên chần chừ quá lâu.

° ° °

Trong hành lang của tòa nhà, có ai đó đã nghịch ngợm phá hỏng toàn bộ chuông gọi lên tầng. Sam buộc phải đập thình thình vào cửa căn hộ. Anh nghe thấy tiếng bước chân rồi tiếng khò khè và đoán chắc có người đang theo dõi anh qua khe cửa.

- Xéo đi! - một giọng hét lên sau cánh cửa.

Sam chăm chú nhìn qua lỗ khóa và nhận ra nó đã bị phá hỏng từ đời nào.

- Tôi không phải kẻ trộm, - anh vừa nói vừa tìm cách trấn an, - tôi cũng không phải cảnh sát.

Cuối cùng, khóa cũng xoay và một khuôn mặt cau có hiện ra trong khuôn của: đó là Birdie, cô gái cùng thuê nhà với Jodie. Cô gái mặc rất ít quần áo trên người: một cái quần soóc ngắn cũn khêu gợi và một cái áo phông màu hồng giấy kẹo hở rốn.

- Có việc gì?

- Tên tôi là Sam Galloway, tôi là bác sĩ và tôi cần gặp Jodie.

- Nó không có nhà, - Birdie vừa đáp vừa ân hận vì đã mở cửa.

- Cô làm ơn đi, có chuyện rất quan trọng, - Sam vừa trấn an vừa thò một bàn chân vào chặn cửa.

- Anh muốn gì ở nó?

- Chỉ giúp thôi.

- Nó không cần anh giúp.

- Tôi nghĩ là có đấy.

- Jodie gặp rắc rối à?

- Nó nghiện, đúng không?

- Hơi hơi...

Sam tìm cách nhìn thẳng vào mắt Birdie. Đôi mắt cô ta buồn bã, trống rỗng, nhem nhuốc vì mascara.

- Cô nghe đây: tôi biết cô từng phải nhập viện vì sốc thuốc và Jodie đã đưa cô vào bệnh viện. Nó đã cứu cô khi cô cần giúp đỡ. Hôm nay, đến phiên cô phải giúp nó. Chỉ cần đưa tôi địa chỉ nơi may ra tôi có thể tìm thấy nó là được.

Birdie ngần ngại:

- Dạo này nó hay lân la tới chỗ thằng Cyrus...

- Cyrus?

- Gã là nhà cung cấp của chúng tôi. Tôi sẽ viết cho anh địa chỉ, nhưng anh không được nói là tôi đã...

- Tôi hứa.

Birdie nguệch ngoạc vài chữ vào sau một tấm phiếu mua hàng giảm giá. Sam cảm ơn cô và chìa cho cô tấm danh thiếp có ghi địa chỉ liên lạc của anh ở bệnh viện.

- Nếu một ngày nào đó cô muốn từ bỏ, hãy đến tìm tôi, tôi sẽ giúp cô.

Birdie từ chối tấm danh thiếp.

- Anh có hai chục đô có phải hơn không?

- Không, xin lỗi, - anh trả lời, thất vọng trước phản ứng của cô gái.

Mỗi lần gặp những người nghèo đói hay tuyệt vọng, Sam đều cản thấy tội lỗi vì không thể giúp được họ. Anh ước mình có thể cứu vớt tất cả mọi người, dù anh biết điều đó là không tưởng. Ở bệnh viện, mọi người vẫn hay trêu chọc anh bởi cái tính đó, song anh biết đó chính là sức mạnh và sự cân bằng của anh. Anh đã đi ra cầu thang nhưng rồi không thể không quay lại.

- Khoan đã!

Sam rút trong ví ra hai tờ tiền mặt và gấp chúng lại rồi nhét tấm danh thiếp vào giữa sao cho nếu Birdie muốn lấy được tiền thì cô phải cầm cả danh thiếp.

Cô giật lấy những thứ anh đưa và sập cửa không nói năng gì.

Vào đến phòng khách, Birdie quay lại với việc đang làm dở - xem quảng cáo trên ti vi - nhưng trước đó đã không quên tạt qua bếp để ném tấm danh thiếp vào thùng rác. Cô nhét hai tờ tiền vào giữa sợi dây thun áo con. Với số tiền này, cô có thể mua được hai hoặc ba viên thuốc cho một chuyến du hành ngoạn mục...

Trong khi đó, Sam quay lại chỗ Grace đang chờ, cô đứng dựa lưng vào mũi xe, sẵn sàng can thiệp trong trường hợp nguy hiểm.

- Thế nào? - cô hỏi đầy lo lắng.

- Jodie không có ở đây, nhưng tôi có một địa chỉ khác. Lên xe đi, tôi sẽ kể cô nghe...

Birdie nằm dài vắt ngang người trên tràng kỷ, đầu chúc xuống và hai tay vắt tréo hình chữ thập để âm nhạc tràn ngập tâm trí dễ dàng hơn. Đột nhiên, một ý nghĩ chợt lóe lên trong đầu khiến cô chạy lại xuống bếp. Cô lục tìm trong thùng rác, lấy lại địa chỉ của Sam rồi đính tấm các lên cái bảng nỉ cạnh tủ lạnh.

Có thể, một ngày nào đó...

° ° °

Kinh hoàng khi nghĩ tới bất cứ một cử động nhỏ nào, Jodie nghe tiếng tim mình đập thình thịch vào những khối thuốc nổ. Hai đầu gối nó run lên và cảm giác trống rỗng mênh mông cứ xoáy trong lòng nó, như thể nó đang rơi xuống một vực thẳm không đáy.

Chỉ vài giờ trước thôi, cuộc sống đối với nó vẫn thật vô vọng và vô nghĩa, rất nhiều lần nó nghĩ rằng cái chết có thể sẽ là một sự giải thoát. Thế nhưng vào đúng lúc này, nó lại chắc chắn một điều duy nhất: nó không muốn chết. Ý nghĩ rằng mọi thứ sẽ kết thúc, quá đột ngột, vào một buổi chiều mùa đông như thế này, khiến nó hoảng sợ. Người nóng bừng, nó ngả đầu ra phía sau để chiêm ngưỡng bầu tời mênh mông vô hạn. Một bông tuyết vỡ tan trên má nó và biến thành giọt nước mắt nóng hổi.

Vẫn bất động trên ghế băng, nó nhìn ra xung quanh. Trong tâm trạng hoảng loạn, đột nhiên nó nhìn rõ mọi vật hơn, như thể nó đang hòa mình vào từng con người đang có mặt tại công viên.

Quảng trường Washington nằm ở một trong những khu phố dễ chịu nhất Manhattan. Quanh đây, các tòa nhà chọc trời nhường chỗ cho những tòa nhà nhỏ lịch lãm xây gạch đỏ. Noel qua chưa lâu, trên các cành cây và các ban công, những dải đèn được kết thành hình thiên thần và ngôi sao.

Bất chấp tuyết rơi, từng đoàn người vẫn qua lại náo nhiệt trên các lối đi. Đây là một trong những nơi ưa thích nhất của các sinh viên Đại học New York, trường có nhiều dãy nhà nằm quanh khu công viên. Một số sinh viên đang tập dượt một vở kịch, một số khác đang chơi ném đĩa, tung hứng hoặc trượt patin.

Đặc biệt, có rất nhiều người lôi cả đàn ra đây và, bất chấp giá lạnh, họ vẫn biểu diễn những tiết mục hòa tấu nho nhỏ cho người qua đường cùng thưởng thức. Chơi nhạc ở đây hay hơn biết bao so với chơi nhạc giữa những bức tường chật hẹp của phòng thu! Phía Tây công viên, trên những chiếc ghế băng và bên những chiếc bàn gỗ, nhiều người ngồi chơi cờ vua và vài người say sưa theo dõi ván đấu giữa một ông già người Do Thái độ mũ kippa và một đấu thủ trẻ có triển vọng trở thành Bobby Fisher.

Có cả những bà mẹ ngồi sửa lại khăn cho con cái, đội cho chúng những chiếc mũ len dày chụp kín mang tai rồi mới chịu để chúng chạy đuổi theo lũ sóc.

Đây quả là tinh thần New York đích thực. Một New York đa chủng tộc và đa văn hóa, nơi chỉ trong khoảnh khắc người ta ngỡ như đang sống trong một thế giới không tưởng chứa chan tình bằng hữu.

Jodie nhìn tất cả những việc đó bằng một tinh thần hoàn toàn mới mẻ. Trên chiếc ghế băng cạnh chỗ nó ngồi, một đôi uyên ương đang vừa cùng ăn một miếng bánh kẹp rán giòn vừa ôm hôn nhau âu yếm. Nó xúc động nhìn họ: nó thì sắp chết mà chưa từng biết yêu là gì.

Đột nhiên, gần đài phun nước lớn, một nhóm sinh viên đang chờ vở kịch mở màn chợt đồng thanh hát vang bài Hallelujah của Leonard Cohen theo phong cách Jeff Buckley. Sững sờ vì họ hát quá hay, rất nhiều người qua đường dừng chân lại để nghe và trong khoảnh khắc, cảm giác biết ơn và thuần khiết ngự trị khắp không gian công viên.

Rồi một người thuyết giáo, trên tay cầm cuốn Kinh thánh, chặn những kẻ hiếu kỳ lại và báo cho họ về một thảm họa đang đến gần.

Nhưng chẳng ai thực sự quan tâm tới ông ta...

° ° °

Mark Rutelli đi tuần trong khu Midtown, ngóng chờ, mặc dù không mấy tin tưởng, một cú điện thoại sẽ cho ông biết tin tức của Jodie. Cả sáng nay ông không uống một ly nào. Delgadillo chắc sẽ hoan hỉ lắm nếu thấy ông say và ông không muốn tặng ông ta sự thích thú đó. Vấn đề danh dự.

Thế nhưng từ vài phút nay, ông cảm thấy đôi tai mình càng lúc càng run rẩy. Gần như trái với ý muốn của ông, đôi chân ông phanh kít xe lại trước cửa một tiệm rượu mạnh. Mất công mơ hão làm gì: hôm nay chưa phải ngày ông từ bỏ rượu.

Ông xông vào tiệm rượu và bước ra với một chai vodka nhỏ giấu kín trong tờ giấy bản. Ông chờ đến lúc ngồi vào xe rồi mới nhấp một ngụm. Rượu khiến lưỡi, vòm miệng và cổ họng ông như bị đốt cháy trước khi thắp lên ngọn lửa dữ dội trong cuống họng và toàn bộ cơ thể ông. Rutelli biết rất rõ rằng cảm giác tăng lực này chỉ là một kiểu đánh lừa bản thân, song trong thời gian ngắn, chất độc ấy lại khiến ông nhanh chóng trở nên hoạt bát. Trái tim tràn ngập nỗi buồn và cảm giác tội lỗi, ông hớp thêm một ngụm và nhẹ người đi khi thấy hai tay không còn run nữa.

Rutelli cảm thấy trong lòng như rạn vỡ nhưng chai sạn đối với bên ngoài. Người ta cứ nghĩ ông là người cứng rắn và mạnh mẽ, song thực tế hoàn toàn ngược lại. Càng cố vươn lên trong công việc ông càng bị nhấn chìm bởi quá nhiều cảm xúc mà ông không biết phải kiểm soát thế nào.

Công việc của một cảnh sát không phải lúc nào cũng cho người ta thấy những khía cạnh tốt đẹp nhất của nhân loại. Càng về sau ông càng thường xuyên nhận ra rằng thực tế không hoàn toàn giống như mong đợi. Thế là ông bắt đầu uống rượu. Để cảm thấy mình được ở bên ngoài thế giới ấy và có thể chấp nhận được nỗi tuyệt vọng cùng những đau khổ mà ông nhận thấy quanh mình.

Hồi ông còn làm với Grace, cuộc sống của ông nhẹ nhàng hơn rất nhiều. Sự đồng cảm giúp họ vượt qua dễ dàng hơn những khó khăn nghề nghiệp. Grace thực sự có tài trong việc đó: cô khiến cho cuộc sống thường nhật trở nên lung linh đẹp đẽ và dễ dàng tìm thấy ý nghĩa cho mọi thứ trong khi ông chỉ biết kéo lê một nỗi buồn sâu thẳm mà giờ đây không rời ông ra nữa.

Ngày nào ông cũng nhớ Grace. Đôi lúc, khi đã thực sự say mèm, ông còn tự huyễn hoặc chính mình rằng cô vẫn sống. Nhưng điều đó chẳng kéo dài được lâu và mỗi lần lý trí trở lại là một lần thêm đau đớn.

Ông còn đang gặm nhấm suy nghĩ này thì tiếng radio rè rè kéo ông quay về thực tại.

- Sĩ quan Rutelli?

- Tôi đây.

- Tôi nghĩ có người đã tìm thấy Jodie Costello...

° ° °

Sam đậu xe trước thanh chắn khu nhà chung cư rẻ tiền và vẫn để động cơ nổ. Tuyết bắt đầu rơi rất dày khiến đường phố vắng tanh và như bị bỏ hoang. Grace một lần nữa nhắc anh phải thận trọng trong khi anh xua đi bằng cách nhún vai.

- Nghe tôi này, anh Galloway, - cô nhấn mạnh, - chúng ta đang ở trung tâm khu Bronx và anh chuẩn bị nói chuyện với một tên buôn ma túy, nguy hiểm đấy!

- Tôi biết.

- Vì thế đừng có tìm cách chơi trò tế nhị với Cyrus, anh hiểu không?

- Yes, sir 2.

Grace dừng lại vẻ nghĩ ngợi, rồi tiếp lời:

- Tôi muốn hỏi anh một chuyện...

- Tôi nghe cô nói đây.

- Cái tên ma cô của vợ anh, gã Dustface ấy, chết rồi phải không?

- Phải.

- Chết như thế nào?

Sam mở cửa xe. Không khí lạnh ngắt tràn vào bên trong chiếc 4x4.

- Chuyện đó xưa lắm rồi và cũng chẳng phải chuyện người ta kể cho nhau nghe sau những bữa cơm gia đình...

Anh rời khỏi xe và không nói thêm gì nữa. Vẫn suy tưởng, Grace nhìn anh đi xa dần dưới làn tuyết rơi, rồi cô đuổi theo và bắt kịp anh cách đó vài mét.

- Khoan đã, Sam.

Cô rút súng, tháo đạn rồi lại đưa nó cho anh.

- Súng không có đạn đâu. Như thế, anh không phải sợ sẽ giết mất hắn mà có lẽ chỉ là dọa được...

Anh bác sĩ không để cô nói hết câu.

- Cô làm ơn đừng nằn nì nữa! Mỗi người có một cách làm riêng.

- Được lắm, nếu thích thì anh cứ để mình bị giết, - cô tự ái đáp.

Sam tiến vào tòa nhà đầu tiên và thử định hướng nhưng rồi lại bước ra ngay: một vụ láng giềng cãi cọ nhau nảy lửa đang nổ ra trong cầu thang. Suy cho cùng, Grace không hề nhầm: chẳng việc gì phải đóng vai người hùng để rồi lĩnh một nhát dao và bị sát hại ở cái nơi nhơ nhớp này.

Phải mất một lúc anh mới tìm được địa chỉ chính xác của Cyrus vì các hòm thư đều đã bị tháo tung. Anh không hỏi đường bất cứ ai: anh đã sống cả tuổi thơ trong một khu phố như thế này và anh biết chẳng thể trông cậy vào ai ngoài chính mình. Đến trước cánh cửa cần tìm, anh nhấn chuông nhiều lần. Không ai ra mở cửa dù từ trong căn hộ vẫn phát ra tiếng nhạc inh tai. Anh đập thình thình vào cửa cho tới khi nhìn một gã da đen xuất hiện và ném cho anh cái nhìn ác cảm.

- Muốn gì đây?

- Cậu là Cyrus?

- Có thể.

- Tôi tìm Jodie Costello. Cô bé ở chỗ cậu không?

- Không quen, - Cyrus đáp cụt lủn.

- Cậu đừng có giở trò với tôi. Tôi biết rõ cậu là người tuồn cho nó những thứ đồ bẩn thỉu.

- Cút khỏi đây ngay, không tao đập nát mặt mày. Tao không biết nó, cái con Jodie của mày ấy.

Gã định đóng cửa. Sam lại dùng tới bài chặn chân vào cửa.

- Mày chỉ cần nói cho tao biết con bé ở đâu thôi, Cyrus.

Song gã ma cô không có ý định hợp tác. Gã lùi lại, co chân rồi bất thần đá một cú thật mạnh khiến Sam bắn vào tường hành lang.

- Fucking hell! Get stuffed, man 3! - gã chửi thề, khoái chí vì đã áp dụng thành công cú kick boxing của gã.

Xong xuôi, gã đóng sập cửa lại.

Sam đứng dậy, vừa đau vừa uất. Cú đá trúng gan anh và anh cảm thấy nghẹt thở. Có tiếng bước chân đi lên cầu thang.

- Ái chà... tôi cảm giác như cách làm của anh cũng có nhiều hạn chế, - Grace châm biếm.

- Không phải lúc nào nó cũng mang lại kết quả, - Sam thừa nhận, và phủi bụi bám trên áo măng tô.

- Giờ chúng ta đang vội, chúng ta sẽ dùng cách của tôi, nếu anh đồng ý.

- Không phản đối.

- Xin anh thứ lỗi trước vì cách này không được nhã nhặn lắm, - cô vừa nói vừa rút súng ra khỏi bao.

Cô đứng trước cửa và bắn hai phát liền khiến khóa hất tung. Sam đá một cú để cánh cửa bung hẳn rồi theo chân Grace xông vào căn hộ.

--- ------ ------ ------ -------

1 Một cử động: mày NỔ TUNG

Một lời nói: mày NỔ TUNG

Đừng bao giờ quên tao ĐANG THEO DÕI MÀY (chú thích của tác giả)

2 Vâng, thưa ngài.

3 Chó chết! Cút cha mày đi, đồ khốn! (chú thích của tác giả).
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
610,923
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 26


Anh sẵn sàng chết thiêu dưới địa ngục để bảo vệ em...

Toàn thân Jodie tê cóng. Chiếc áo khoác của nó ướt đẫm mồ hôi giá lạnh, quá mỏng để có thể bảo vệ nó trước cái rét và quần bó dính bết vào da vì nó không kiểm soát nổi mình lúc gặp Kên Kên. Con bé run lẩy bẩy và thấy người mình như chảy nước, như dần tan ra vì sợ.

- Chào cháu, Jodie.

Nó ngước nhìn lên, hoảng hốt: Mark Rutelli, hai tay đút túi quần, đang bước về phsia nó. Nó muốn báo cho ông biết, bảo ông đừng tiến đến gần, và nhất là đừng nói chuyện với nó!

Vì gã Kên Kên đang theo dõi họ.

Vì mọi thứ sẽ nổ tung.

Để không làm nó bỏ chạy, Rutelli ngồi xuống chiếc ghế băng bên cạnh. Ngay lập tức, ông nhận ra tình trạng thảm hại của con bé.

- Dạo này cháu thế nào rồi? - ông hỏi để mào đầu.

- Không tốt lắm ạ, - Jodie thú nhận.

Giọng nó yếu ớt và đứt quãng, như sắp lịm đi, như ngọn lửa của một cây nến đang leo lét chống chọi với gió.

- Cháu gặp rắc rối phải không?

Thoạt đầu nó ngồi yên, nhưng rồi nó gật đầu và Rutelli nhận thấy nó đang khóc.

- Chú có thể giúp cháu không, Jo?

Giữa hai tràng nức nở nghẹn ngào, nó mới nói nổi:

- Cháu nghĩ... cháu có một quả bom...

- Một quả bom?

- ... trên người cháu...

- Cháu nói gì thế?

- ... quanh thắt lưng cháu.

Rutelli lắc đầu.

- Để chú xem nào! Ông vừa nói vừa đứng dậy.

Ông bước lại gần ghế băng nhưng nó ra hiệu cho ông đừng đến gần. Đôi mắt cô bé nhuốm đầy vẻ kinh hoàng khiến viên cảnh sát e dè và buộc phải ngồi xuống lại.

Rutelli cố sắp xếp lại các ý nghĩ trong đầu. Chuyện quả bom có vẻ khó tin. Chắc Jodie nói sảng. Nó đang bị sốc thuốc giống như nhiều trường hợp khác mà ông từng gặp trong suốt quá trình công tác của mình. Nếu muốn giúp nó, điều duy nhất hợp lẽ lúc này là gọi một chiếc cứu thương. Ông chuẩn bị phát cuộc gọi qua radio nhưng rồi ông nhìn vào mắt nó. Thông thường, ông luôn tìm cách tránh làm như vậy vì nó có ánh mắt của Grace và điều đó làm ông đau đớn.

Đôi mắt trong trẻo của Jodie ngập lửa, như thể ai đó thiêu đốt mặt biển. Những giọt nước mắt, nỗi sợ hãi, ma túy, sự thiếu ngủ hòa trộn vào nhau. Trên tất cả những thứ đó, Rutelli đọc được một thông điệp, một lời cầu cứu:

Hãy cứu cháu!

° ° °

Điên cuồng, gã Kên Kên đấm mạnh nắm tay xuống bàn. Cái gã đàn ông đang nói chuyện với Jodie là ai? Khỉ thật, lẽ ra hắn phải gắn micro để có thể nghe được! Trong cơn phấn khích, hắn vội vã đến mức quên hết cả những nguyên tắc cơ bản. Mất kiểm soát, hắn gõ vài câu lệnh trên bàn phím để điều chỉnh camera quay thẳng vào đứa con gái. Phía sau nó, hắn lờ mờ nhìn thấy cái bóng của Rutelli. Hắn nhíu mày và nheo mắt. Jodie có quen biết gã này không? Không, chắc chắn là không. Chắc là một gã biến thái đang tìm cách tán tỉnh lũ con gái mới lớn trong công viên...

Thế nhưng cuộc nói chuyện giữa chúng dường như kéo dài quá mức chấp nhận được. Gã Kên Kên chần chừ và nhìn sang các màn hình khác. Buổi diễn kịch chuẩn bị bắt đầu và càng lúc càng có nhiều người xúm quanh đài phun nước.

Chỉ hai phút nữa thôi, hắn quyết định và nắm chặt kíp nổ bằng bàn tay run rẩy.

° ° °

- Cháu nghĩ hắn đang theo dõi chúng ta?

Jodie thoáng gật đầu.

Bằng một vài lời kín đáo, nó kể cho người cảnh sát nghe những gì nó vừa trải qua: nó đã bị tên ma cô bắt cóc như thế nào và giao tới chỗ gã Kên Kên ra sao.

- Cháu nghĩ hắn đang ở quanh đây à?

Nó lắc đầu. Rutelli không hiểu gì nữa.

- Làm thế nào hắn có thể nhìn thấy chúng ta được?

- Nhờ các camera.

Rutelli quay đầu.

- Camera nào? Quanh đây có cái camera nào đâu.

- Các webcam... - Jodie cố giải thích.

Rutelli gầm gừ trong cổ họng. Ông chịu không hiểu webcam là gì. Từ mười năm nay, ông chẳng quan tâm gì tới tiến bộ công nghệ. Những điện thoại di động, Palm Pilot, e-mail, wifi...: chẳng cái gì trong số dó có chỗ đứng trong cuộc sống của ông. Ông nghĩ lại điều Delgadillo nói trước đó: chắc ông ta không nhầm khi khẳng định rằng Rutelli đã "hết thời".

Nhận thức ấy càng khiến ông chìm sâu hơn vào cảm giác dằn vặt.

- Xin lỗi chú, - Jodie đột ngột nói và cố nén để khỏi òa lên khóc.

- Sao lại xin lỗi? - Rutelli ngẩng đầu lên hỏi.

- Xin lỗi vì trước kia cháu đã không tin tưởng chú...

- Viên cảnh sát thấy tim mình se lại. Chính ông cũng đang bị dằn vặt bởi những nỗi ân hận.

- Không phải tại cháu, Jodie ạ. Lỗi là ở chú. Chú không biết cách bảo vệ cháu. Lẽ ra chú phải ở bên cháu thường xuyên hơn.

- Cháu đã không cho chú cơ hội, - cô bé lại ăn năn.

Một lần nữa, ánh mắt họ gặp nhau và Rutelli đột nhiên cảm thấy được tiếp thêm một sức mạnh chưa từng có.

- Chú sẽ cứu cháu ra khỏi đây, - ông khẳng định. - Nhưng trước hết cháu phải cho chú biết tên khốn đó đang núp ở đau. Cháu có biết địa chỉ chỗ hắn trốn không?

Lúc này Jodie chợt bàng hoàng nhận ra rằng nó không biết chính xác sào huyệt của gã Kên Kên. Cyrus đã tống nó vào cốp xe và đưa đi, sau đó lại nhốt nó trong một căn phòng tối tăm không cửa sổ. Nó cố suy nghĩ, song nó đã kiệt quệ cả thể xác lẫn tinh thần. Một cơn đau đầu mà nó chưa từng gặp khiến đầu óc nó quay cuồng.

- Cháu không biết nữa... - nó lúng búng.

- Thử cố gắng xem, - Rutelli động viên.

Hiểu rất rõ sự sống của nó có thể sẽ phụ thuộc vào thông tin đó, Jodie cố tập trung, thử huy động hết sức lực nội tại từ tận những góc sâu thẳm mà chính nó cũng chưa bao giờ nghĩ đến, dù nó đã vô cùng yếu mệt.

- Cháu nghĩ... cháu nghĩ là đâu đó ở phía đường Travesrse Road, phía Tây Hyde Pierce.

- Cháu cần phải nói rõ hơn.

- Cháu không biết nữa... cháu không biết nữa.

Rutelli cố không để lộ vẻ tuyệt vọng.

- OK, - ông vừa nói vừa đứng lên để quay lại xe, - chú sẽ tự xoay xở với thông tin đó nhưng chắc chú phải hành động thật nhanh.

- Cháu sợ phải ở một mình, - Jodie thú nhận.

- Chú biết, - ông nói, - nhưng nhất định không được cử động. Chú sẽ quay lại ngay.

Những lúc bình thường ông cũng không phải người biết cách an ủi người khác mà nhất là một đứa con gái đang cơn tuyệt vọng. Thế nhưng chính ông cũng phải ngạc nhiên khi những lời nói cứ tuôn ra một cách tự nhiên:

- Cháu biết sao không? Trong lúc chờ chú quay lại, cháu hãy lập danh sách những thứ cháu muốn thực hiện trước khi đến tuổi hai mươi. Cháu hiểu chứ?

Nó dè dặt gật đầu.

- Và khi những chuyện này kết thúc, chú sẽ giúp cháu lấy lại quãng thời gian đã mất. Chú hứa với cháu.

° ° °

- Rẽ phải, - Cyrus chỉ đường bằng giọng run rẩy.

Gã ma cô ngồi ở ghế sau chiếc 4x4, khẩu súng của Grace gí sát thái dương gã Sau cuộc tra hỏi bạo lực, cô đã thuyết phục được gã phải đưa họ tới tận sào huyệt của Kên Kên.

- Tiếp theo thế nào? - Sam hỏi.

- Đi thẳng, rồi ngã tư thứ hai rẽ trái.

Sam bật cầu gạt lên để gạt sạch tuyết bắt đầu tích tụ. Chiếc xe địa hình rẽ vào một lối đi chạy dọc theo một dãy nhà kho.

- Ở đây phải không?

- Đúng, - Cyrus đáp, - nhà xe cuối cùng bên trái.

Vừa đậu ở một khoảng cách khá xa, Sam vừa cho xe chạy chậm dần tới tận cánh cửa tự động.

- Phải có khóa mã, - anh nhận xét, - mày biết không?

- Không, - Cyrus đáp, - thường thì ông ta mở cửa cho tôi khi biết tôi sắp đến.

Grace lên đạn và cương quyết ấn nòng súng vào họng Cyrus.

- Đưa khóa mã cho chúng tao!

Kinh hãi, gã ma cô dang rộng hai cánh tay vẻ bất lực.

- Mày có ba giây. Một... hai... b...

- Dừng lại ngay, Sam gào lên, - gã ta nói thật đấy!

- Làm sao anh biết được?

- Tôi là bác sĩ tâm lý, tôi biết khi nào một người nói dối.

- Tôi không tin.

Mặc dù vậy, cô vẫn rút nòng súng khỏi miệng Cyrus.

- Đi với tao.

Cô lôi xềnh xệch gã thanh niên da đen ra khỏi xe. Cô đẩy gã nằm gí xuống mui xe và lục soát cho tới khi moi ra được chiếc điện thoại di động.

- Số của Kên Kên là gì?

- Tôi không biết, - Cyrus nói dối, - ông ta luôn là người gọi cho tôi trước mỗi khi có hàng.

Grace đưa điện thoại cho Sam. Bác sĩ tra nhanh danh bạ và không tìm thấy bất kỳ dấu vết nào về số điện thoại của Kên Kên.

Grace ném chiếc điện thoại xuống đất và lấy chân di nát.

- Cút ngay, - cô nói với Cyrus.

- Tôi... tôi được thả?

- Nếu mày tìm cách báo cho hắn, tao sẽ tìm mày xử lý. Mày hiểu chứ?

- Vâng, thưa bà.

Nhưng Sam lại không đồng tình.

- Gã là một tên buôn ma túy, Grace. Chúng ta không bắt hắn sao?

- Anh không phải cảnh sát, anh Galloway ạ.

- Nhưng cô thì có...

- Bỏ đi: chúng ta không đến đây vì việc đó.

Trong khi Cyrus chuồn vội không dám ho he gì, Grace nói thêm:

- Bác sĩ không thể cứu được hết mọi người, cảnh sát cũng không thể bắt hết mọi người. Thế đấy.

- Vậy bây giờ cô định thế nào?

Grace chậm rãi đi một vòng quanh xe, xem xét nó như thể cô đang có ý định mua nó. Chiếc 4x4 thuộc loại xe đắt tiền, đường nét lịch lãm song lại có dáng khỏe mạnh và vuông vức, như kiểu xe quân sự.

Grace quan sát tấm chắn mũi xe rộng, dày và chắc, cắm thẳng đứng xuống giữa hai ngọn đèn pha vuông. Độ rộng của lốp xe, chiều cao ấn tượng của ghế xe: mọi thứ đều góp phần mang lại cho chiếc xe một cảm giác vững chãi và góc cạnh, như thể nó luôn sẵn sàng tấn công.

- Một chiếc xe như thế này đáng giá bao nhiêu? - Grace hỏi.

- Rất đắt, - Sam thừa nhận. - Và nếu cô muốn biết thêm thông tin, thì tôi vẫn chưa trả xong tiền mua nó.

- Thật lạ, - Grace bình luận. - Tôi không thể hình dung được anh lại thích một chiếc xe kiểu này.

Trong thoáng chốc, ánh mắt Sam bối rối và anh thú nhận bằng giọng lạc đi:

- Tôi quyết định mua nó... vào ngày Federica báo cho tôi biết cô ấy có thai. Tôi đã hạnh phúc đến mức vội vàng lao ngay tới salon ô tô đầu tiên mà tôi gặp, như thể việc mua một chiếc xe thật to sẽ mang đến cho tôi một gia đình đông đúc tương xứng. Tôi đã tưởng tượng ra những chuyến dã ngoại cuối tuần, những kỳ nghỉ gia đình trong các công viên quốc gia... Thật ngốc, phải không?

- Đâu có, Sam.

Cô đặt tay lên vai anh tỏ vẻ thông cảm. Sam nhìn chiếc 4x4 vẻ nghĩ ngợi rồi tuyên bố:

- Tôi biết cô đang nghĩ gì, Grace ạ. Và tôi đồng ý làm như vậy.

- OK, - Grace nói, - không mất thời gian nữa nhé.

Rồi họ cùng lên xe và cô ngồi vào chỗ bên cạnh anh.

Anh cho xe lùi vào để có thể lấy đà tối đa. Chiếc xe được trang bị một bộ V8-4,4 lít, loại động cơ mạnh nhất từng có trên một chiếc Land Rover.

- Thắt dây an toàn vào, - anh yêu cầu.

Trên bảng điều khiển có một nút dùng để chọn chế độ lái phù hợp với địa hình. Sam gạt cần điều khiển từ chế độ lái thông thường sang chế độ lái trên đường gồ ghề. Ngay lập tức, hệ thống điều chỉnh lại các thông số về độ treo, công suất và độ bám đường cho tương xứng.

- Tôi vẫn biết sớm hay muộn thì chiếc 4x4 này cũng sẽ được dùng vào việc gì đó, - anh khẳng định trước khi nhấn ga.

Và giống như một con lợn lòi hung hãn, cả chiếc xe địa hình nặng hai tấn lao hết tốc độ tông thẳng vào cánh cửa sắt.

° ° °

Kên Kên đang ngây ngất trước những hình ảnh trôi qua trước mắt. Quảng trường Washington là một trong những nơi náo nhiệt nhất thành phố và sự náo nhiệt này khiến hắn choáng ngợp, dù trước đó hắn chưa bao giờ có cảm giác mình đang sống. Hắn say sưa với sự tồn tại của tất cả những con người này, nhấm nháp từng tiểu tiết một: màu tóc của một cô sinh viên, nụ cười của một người mẹ với đứa con, những bước nhảy của hai anh chàng háp rap...

Có lúc, hắn nhắm mắt lại và tưởng tượng ra khung cảnh sau đó. Vụ nổ sẽ gây chấn thương trong chu vi nhiều cây số, tạo ra một tình trạng hỗn loạn. Thoạt đầu sẽ là những khuôn mặt ngơ ngác vì không hiểu sao chiến tranh lại có thể đột ngột xảy ra trong đời họ. Rồi tiếp đến là những cái xác nát bươm nằm la liệt trên mặt đất. Những tiếng kêu gào thảm thiết sẽ nổi lên khắp nơi. Mọi người sẽ bỏ chạy tán loạn, mặt mũi đẫm máu và lục phủ ngũ tạng tung tóe khắp không trung.

Những hình ảnh của một vụ tàn sát kinh hoàng cứ hiện ra trước mắt hắn, từng phân cảnh một, như thể nó đã thực sự xảy ra.

Tất cả có vẻ như rất thật. Một đứa bé gái bị kẹt dưới một chiếc ghế băng gào lên: "Mẹ ơi! Mẹ ơi!" Một người đàn ông còn trẻ đứng dậy sau khi bị hất bắn vào đài phun nước. Đầu anh ta chỉ còn một đống thịt nhầy nhụa máu. Cả người rung lên bần bật bởi cơn nức nở, một phụ nữ khiếp sợ nhận ra cô ta đã bị mất một cánh tay.

Tứ phía là những xác chết, là những người bị thương, là nỗi kinh hoàng. Tình trạng hỗn loạn không thể tả nổi. Một khung cảnh tang thương đầy ấn tượng. Nhưng thân thể nằm rải rác trong các vũng máu.

Sự tuyệt vọng sẽ lan tràn khắp nơi, mãnh liệt và khủng khiếp đến nỗi họ không bao giờ có thể quên được.

Hắn có điên không? Có chứ, rõ là thế rồi. Nhưng điều đó thì thay đổi được gì? Sau khi suy nghĩ hồi lâu về câu hỏi ấy, Clarence đi tới kết luận rằng xã hội cần những người như hắn. Những tên tội phạm vĩ đại nhất rất cần cho nhân loại, dù chỉ là để giúp nhân loại hiểu thế nào là cái Xấu. Và chỉ cái Xấu mới có thể khiến cho cái Tốt tồn tại. Vì nếu suy nghĩ cặn kẽ: thì không có bệnh tật, chẳng cần bác sĩ; không có lửa, chẳng cần lính cứu hỏa; không có kẻ thù; chẳng cần lính tráng...

Phải, hắn nghĩ, chỉ cái Xấu mới có thể dọn đường cho cái Tốt.

° ° °

Sam phải làm đi làm lại nhiều lần mới đẩy bung được cánh cửa. Sau lần thứ ba, những tấm bản lề của cánh cửa sắt tung ra để mở lối cho chiếc Land Rover.

Kên Kên giật mình khi nghe thấy tiếng va đập phía trên đầu hắn. Cảnh sát ư? Làm sao họ tìm ra được hắn? Liếc mắt nhìn lên màn hình an ninh, hắn nhận ra đúng là hắn đang bị tấn công. Nhưng rồi hắn thở phào nhẹ nhõm khi thấy chỉ có duy nhất một chiếc xe và đó không phải xe cảnh sát.

Điên tiết vì bị quấy rối, hắn vớ lấy một khẩu súng lục tự động cất trong ngăn bàn. Dù những kẻ đột nhập ấy có là ai đi nữa thì họ cũng sẽ phải hối hận vì đã xông vào đây.

Sam lao xuống đoạn đường dốc bằng bê tông và tiến vào một bãi đỗ xe ngầm. Bên trong tối đen như mực. Anh muốn bật đèn pha, nhưng Grace ngăn anh lại để không ai phát hiện ra chỗ họ đứng. Anh vừa tắt động cơ thì một loạt đạn làm lớp kính phía trước nổ tung.

- Cúi xuống, - Grace ra lệnh và kéo tay anh.

Những viên đan rít lên và vãi tung tóe khắp nơi, xé toang bầu không khí bằng những tiếng đổ vỡ đinh tai.

Chiếc 4x4 vẫn đứng bất động chính giữa nhà xe. Grace nhìn Sam. Mặt anh cắt không còn giọt máu.

- Anh ở đây nhé! - cô thì thầm bảo anh.

Cả hai người đang gập mình núp dưới ghế. Súng lăm lăm trên tay, Grace mở cửa xe, cố không gây tiếng động, rồi lăn mình xuống đất.

Một lần nữa, một loạt đạn bay như mưa về phía chiếc xe.

Grace đã trườn được vào một cái hốc bê tông. Áp sát mình vào tường, cô phản công bằng một vài phát súng. Trong một lúc, bầu không khí nặng nề bao trùm nhà xe. Rồi đột nhiên, những tiếng bước chân vang lên trên lối đi. Grace hé mắt nhìn ra khỏi chỗ nấp và thoáng thấy bóng gã Kên Kên đang chạy trốn trong hành lang. Cô giơ súng bắn nhưng không trúng đích. Thế là cô lao ra và bám theo hắn trên lối đi. Cô tiến lên thận trọng. Hành lang ngập trong cảnh tranh tối tranh sáng màu cam, ánh sáng vừa đủ để nhìn thấy một tia sáng mỏng manh phát ra từ sau cánh cửa.

Vẫn ngồi lại trong xe, Sam oằn mình với chiếc áo măng tô để trên ghế sau. Anh lục túi bên trong áo và tìm thấy điện thoại di động. Anh phải liên lạc với cảnh sát càng nhanh càng tốt. Trong bóng tối, anh hầu như không phân biệt được các nút điện thoại. Anh nhấn đại một nút để làm sáng màn hình nhưng chẳng ăn thua. Chết tiệt, anh quên không sạc điện thoại và pin đã cạn sạch! Hôm qua anh đã phát hiện ra, lúc còn ở nhà Leonard McQueen, nhưng anh không mang sạc theo. Anh cay đắng ân hận vì không giữ lại trên mình cái điện thoại của của Cyrus mà trước đó chỉ vài phút họ đã ngu ngốc giẫm nát.

Đến lượt anh bước khỏi chiếc 4x4. Làm sao anh có thể giúp Grace bây giờ? Anh nheo mắt và lờ mờ trông thấy cô ở trước mặt cách anh khoảng hai chục mét. Can đảm và đơn độc, cô tiến sâu vào cái hành lang tối tăm có cánh cửa khép hờ nơi có lẽ Jodie đang bị giam giữ.

Sam lo lắng tột độ. Grace đã quá mạo hiểm khi tiến lên một cách lộ liễu. Chắc chắn tên Kên Kên đang giấu mình sau cánh cửa và chờ đợi, sẵn sàng nã tiesp một loạt đạn nữa. Trận chiến thực sự không cân sức. Khẩu súng lục của tên buôn lậu có thể bắn đạn tự động trong khi Grace chỉ có mỗi khẩu súng công vụ trong tay.

Đột nhiên, Sam nhìn thấy một cái bóng sẫm màu và uyển chuyển đang tiến tới sau lưng Grace và anh cảm giác tim mình thắt lại. Gã Kên Kên đã nấp trong một cái hốc nằm khuất sau tường. Grace đi ngang qua mà không thấy hắn và cái bẫy đang đổ sập lên cô. Anh mở miệng định cảnh báo cô nhưng không một âm thanh nào thoát ra nổi.

- Mày kiếm tao à? - Kên Kên hỏi.

Sững sờ, Grace bất động mất nửa giây trước khi quay phắt lại hết sức có thể. Nhưng đã quá muộn. Gã Kên Kên nhấn cò và Grace, người gập xuống dưới làn đạn, bị bắn tung về phía sau tới vài mét.

- Không!! - Sam hét lên và nhảy bổ vào Kên Kên.

Lợi dụng lúc hắn đang sửng sốt, anh bồi cho hắn một cú đấm móc hàm cật lực khiến hắn lăn ra đất. Bàng hoàng vì cú sốc, tên tội phạm buông rơi khẩu súng. Sam chụp ngay lấy gáy hắn và thúc thêm cho hắn một cú bằng đầu gối nhưng hắn đã thoát được khỏi tay anh. Vẫn nằm sóng soài trên mặt đất, hắn quét chân khiến bác sĩ mất thăng bằng và đến lượt anh ngã lăn ra đất. Cả hai cùng đứng lên một lúc, đối mặt và sẵn sàng lao vào nhau. Sam đã quên nỗi sợ hãi và người anh sôi lên vì căm phẫn. Dưới chân anh, xác Grace nằm ngửa sóng soài.

Đã lâu lắm rồi anh không hỗn chiến với anh nhưng bị cơn giận dữ kích động, anh tấn công trước tiên, đấm túi bụi vào Kên Kên bằng những cú móc hàm song hắn vẫn né được và phản công bằng một cú húc khuỷu trúng ngay trán Sam. Bác sĩ đánh trả bằng một cú đá trúng ngay đối thủ đang trên đà lao xuống. Gã Kên Kên giả bộ ngã gục. Hắn nằm ngửa, vẻ không còn khả năng kháng cự. Sam buông lơi cảnh giác chỉ một giây nhưng thật không đúng lúc, vì Sterling liền co ngay chân ngoắc một phát khiến bác sĩ lại mất thăng bằng.

Lợi dụng ưu thế vừa chiếm được, Kên Kên co gối và thu hết sứ đạp thẳng gót giày vào ống đồng Sam.

Bác sĩ ngã lăn ra đất và rú lên như thể xương chân anh bị gãy nát. Một cú thúc khuỷu cuối cùng giáng xuống vai và hoàn toàn hạ đo ván anh.

- Hiệu quả đấy, đúng không? - Kên Kên kết luận và nhặt khẩu súng lên. - Người Nhật gọi đó là đòn fumikomi. Đòn đó cũng rất hiệu quả nếu muốn đốn gãy đùi hay đập vỡ mắt cá chân...

Nằm dài trên đất, Sam ôm chặt ống đồng để tìm cách làm dịu bớt cơn đau. Nhà xe vẫn chìm trong bóng tối. Kên Kên bật một công tắc đèn để rọi sáng khuôn mặt tù binh mới của hắn trước khi kết liễu anh ta. Với hắn, việc nhìn rõ cái Xấu vào thời điểm hắn kết thúc nó là điều vô cùng quan trọng.

Một luồng sáng chói lòa tràn ngập nhà kho. Sam nhắm mắt lại kinh hoàng. Hóa ra anh sẽ chết như thế này ư, đột ngột, một viên đạn cắm vào đầu, đơn độc trong một kho hàng tối tăm ở Bronx? Quá nghiệt ngã! Anh vẫn chưa chuẩn bị! Sáng nay, anh còn tỉnh dậy bên cạnh Juliette và không một giây nào anh nghĩ hôm nay sẽ là ngày cuối cùng của đời mình. Tất nhiên, anh không phải người đầu tiên kết thúc cuộc sống vào lúc mọi thứ đang nở rộ, song đó chỉ là niềm an ủi mong manh. Giờ thì anh cảm thấy hơn cả sợ hãi, như thể tim anh đang dâng lên tận cổ họng.

Nhưng Kên Kên vẫn không nổ súng.

Bằng cử chỉ can đảm cuối cùng, Sam mở mắt ra. Đã thế thì cứ nhìn thẳng vào cái chết. Lần đầu tiên anh thấy rõ khuôn mặt của kẻ tấn công anh và anh bàng hoàng nhận ra mình có quen biết hắn.

- Clarence Sterling!

Lúc nãy, khi Cyrus nhắc tới người đàn ông mà gã giao Jodie cho, gã không nói đến tên thật của hắn, mỗi lần gã chỉ gọi hắn bằng cái biệt hiệu sặc mùi chết chóc.

Sam không phải người duy nhất nhận ra đối thủ và Sterling bật lên một tiếng cười lạnh gáy.

- A! A! A!... Galloway...

Anh chậm rãi đứng lên. Trong đầu anh, mọi chuyện lại như nổi lên khỏi mặt nước. Anh mới gặp Sterling một lần trong đời, cách đây mười năm, song anh chưa bao giờ quên được hắn.

Khi giây phút kinh ngạc trôi qua, Kên Kên nhận xét:

- Mày, tao biết mày là ai và mày cũng biết tao là ai...

Clarence Sterling, tên giết thuê mà anh đã trả tiền để hắn trừ khử Dustface. Hồi đó hắn chỉ là một tên nhãi ranh trong khu phố, dù sự hung bạo của hắn đã khiến người ta dè nể.

- ... tao chẳng việc gì phải giết mày nữa. Nào! Đứng lên và đi mau!

Sam đứng dậy và buộc phải đi vào hành lang dưới họng súng đe dọa.

Sau lần gặp hụt với Dustface, Sam hiểu rằng tên trùm buôn lậu này sẽ truy đuổi họ - Federica và anh - cho tới khi trừ khử họ xong xuôi. Đã hàng nghìn lần anh trăn trở với ý nghĩ đó trong đầu rồi mới buộc mình phải thừa nhận một điều hiển nhiên: cách duy nhất để bắt đầu một cuộc sống mới là tiêu diệt Dustface. Trong khu phố, người ta vẫn thì thầm truyền nhau tên của một số kẻ dọn dẹp có khả năng thực hiện một hợp đồng. Sam đã dùng sáu ngàn đô la tiền tiết kiệm của anh để giao kết với một trong số những tên đó. Hắn tên là Clarence Sterling. Hai ngày sau, Dustface chết. Chẳng ai biết Sam đứng đằng sau toàn bộ chuyện này. Kể cả cha Powell lẫn Federica. Đó là quyết định của anh và anh hoàn toàn chịu trách nhiệm. Và sáng sáng, khi nhìn mình trong gương mỗi lần cạo râu, anh vẫn tiếp tục trả giá cho điều đó.

Cái giá phải trả bằng máu.

Hai người đàn ông đến cuối hành lang và đi lên một cầu thang bằng sắt dẫn tới một phòng kiểu như phòng làm việc. Sam tin chắc thế nào cũng nhìn thấy Jodie bị trói trong một góc phòng. Nhưng thay vào đó lại là một máy tính với rất nhiều màn hình. Gã Kên Kên ngồi xuống ghế và ra hiệu cho Sam đứng vào một góc.

- Mày sẽ được ngồi hàng đầu với tao! Hãy chống mắt lên mà xem. Sẽ thú vị lắm đấy!

Trên màn hình chính, Sam nhìn thấy Jodie ngồi trên ghế băng. Phía sau, anh nhận ra Quảng trường Washington, song vẫn chưa hoàn toàn hiểu tính nghiêm trọng của vấn đề.

Rồi anh thấy Sterling vớ lấy điều khiển kích nổ và lúc này anh mới hiểu một vụ tàn sát sắp xảy ra.

- Bắt đầu nhé! - Kên Kên gào lên.

Bằng nỗ lực cuối cùng, Sam lao về phía hắn, nhưng bị hạn chế bởi vết thương, anh thiếu mất sự nhanh nhẹn.

Sterling có đủ thời gian để thấy anh lao đến. Hắn chộp lấy khẩu súng lục vẫn để trong tầm tay với và chĩa thẳng vào người bác sĩ.

- Mày tiêu rồi!

Hắn đặt tay vào cò súng và kéo. Một tiếng nổ vang lên xé tan bầu không khí yên tĩnh trong nhà kho, liền sau đó là một tiếng nổ khác nhấn chìm ngay tiếng nổ đầu như một thanh âm dội lại.

Sam cảm thấy vai mình như vỡ tung. Máu bắn cả lên mặt anh nhưng khi anh nhìn thấy Kên Kên ngã lăn dưới chân anh thì anh mới hiểu đó không phải là máu của mình.

Mệt mỏi, tê liệt đau đớn, tay ôm chặt lấy vết thương, anh bác sĩ ngã sụp xuống song vẫn cố mở thật to mắt.

Đứng ngay ngưỡng cửa là Mark Rutelli đang nhìn bàn tay phải, một khẩu súng lủng lẳng trong tay.

Bàn tay ông không hề run rẩy.

Ông bước vài bước vào trong phòng và kiểm tra để biết chắc Sam không bị thương quá nặng. Rồi ông tiến về phía cái xác của Kên Kên và bắn thêm hai phát đạn nữa như muốn dùng hai phát súng đó để tự giải thoát mình khỏi những năm tháng đau đớn và buồn phiền.

Phía xa, có tiếng hú còi của nhiều xe cảnh sát và xe cứu thương.

Rutelli vòng ra sau bàn làm việc và xem xét dãy thiết bị tin học đã giúp Kên Kên quan sát các con mồi của hắn. Ông nhìn vào màn hình chính. Đôi mắt của Jodie hiện lên trên đó, dường như đang nhìn ông. Ông ghé sát lại gần màn hình và thì thầm:

- Xong rồi... Mọi chuyện từ giờ sẽ tốt đẹp.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
610,923
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 27


... mỗi người đều bảo vệ một người nào đó trước phần còn lại của thế giới, mỗi người đều là phần còn lại của thế giới đối với một người nào đó.

Philip Roth

Bệnh viện St. Matthew - khoa cấp cứu - 8h46 tối.

- Anh ngồi yên đi, bác sĩ Galloway.

Claire, Giuliani, một bác sĩ nội trú trẻ tuổi, đang chuẩn bị cuốn xong một cuộn băng to đùng quanh vai Sam, trên người anh khoác bộ quần áo dành cho bệnh nhân nội trú theo đúng quy định của bệnh viện. Theo yêu cầu của người đồng nghiệp, anh thôi không ngọ nguậy trên giường nữa và nhắm mắt lại. Bầu không khí náo loạn của cuộc đọ súng đã được thay thế bằng sự yên tĩnh của bệnh viện. Chỉ vài giây sau cái chết của Kên Kên, một đội quân cảnh sát và cứu thương đã tràn vào nhà kho, và chẳng buồn hỏi ý kiến anh, họ đưa ngay anh về đúng bệnh viện của anh và buộc anh phải làm một loạt các cuộc xét nghiệm và chụp phim.

- Anh gặp may đấy, - Claire nhận xét, - viên đạn xuyên qua phần mềm nhưng không chạm vào xương. Tuy vậy, trong vài ngày tới vẫn phải kiểm tra xem có nhiễm trùng không: phần mô cơ bị rách và...

- Được rồi, cô đừng quên tôi cũng là bác sĩ. Còn cổ chân tôi thì thế nào?

Cô chìa cho anh xem kết quả chụp phim.

- Không bị gãy, chỉ bị bong gân khá nặng thôi. Và không phải vì anh cũng là bác sĩ mà anh thoát khỏi nghĩa vụ nghỉ ngơi trong vòng mười lăm ngày tới. Nếu anh ngoan ngoãn thì có thể tôi sẽ băng rất đẹp cho anh...

Sam nhăn nhó và quay đầu đi chỗ khác. Một thanh nhựa nẹp chặt vào cánh tay khiến cử động của anh bị hạn chế, song không phải vì vậy mà anh không nhìn thấy một thân hình đồ sộ mặc bộ quần áo sẫm màu đang đứng gác trước cánh cửa mở hé.

- Claire, tôi cần nhờ cô giúp tôi một việc.

- Đổi lại tôi sẽ được gì chứ? - cô bác sĩ trẻ vừa hỏi vừa gỡ túi đá chườm ra khỏi cổ chân bệnh nhân.

- Lòng biết ơn chân thành nhất của tôi, - Sam ướm thử.

- Cộng với một bữa ăn tối tại nhà hàng Jean-Georges 1, người ta đồn món tráng miệng ở đó ngon thôi rồi.

- Đồng ý bữa ăn tối.

Anh đưa tay chỉ vào nhân viên FBI đúng lúc một cô y tá mang tới một đôi nạng. Viên cảnh sát tận dụng lúc cô y tá đến để bước vào trong phòng. Người đàn ông này cao lớn sừng sững như một cái tủ gương và tóc cũng húi cua kiểu truyền thống như phần đông các đồng nghiệp cảnh sát khác. Anh ta tiến đến bên giường bệnh và xuất trình thẻ để khẳng định tư cách hợp pháp của mình.

- Xin chào anh Galloway, tôi là điệp vụ Hunter. Tôi biết lúc này anh đang rất mệt nhưng tôi có một vài câu hỏi cần trao đổi với anh.

- Xin sẵn lòng, - Sam trả lời, làm bộ hợp tác.

Claire đã đoán ra anh cần gì nên cô liền can thiệp ngay:

- Tuyệt đối không thể được, - cô nói bằng giọng nghiêm khắc, - các vết thương của bệnh nhân rất nghiêm trọng và anh ấy cần được nghỉ ngơi hoàn toàn.

- Sẽ rất nhanh thôi, - Hunter hứa, - chỉ cần một vài lời để làm sáng tỏ những gì cảnh sát Rutelli đã khai.

- Tôi nghiêm túc phản đối, - cô vừa noi vừa đẩy anh ta về phía cửa.

Song Hunter vẫn không chịu bỏ cuộc.

- Cho tôi xin mười lăm phút thôi.

- Tất cả những gì tôi có thể cho anh là mệnh lệnh rút ngay khỏi đây!

- Cô đang đe dọa một điệp vụ liên bang đấy! - anh ta phản đối.

- Chính xác, - cô gái trả lời không hề nhượng bộ, - Tôi đang chịu trách nhiệm điều chị cho anh Galloway và tình trạng bệnh của anh ta không cho phép anh hỏi cung anh ta vào lúc này. Vì thế tôi yêu cầu anh đừng ngoan cố nữa.

- Hừm... được lắm, - Hunter nhượng bộ, bực bội vì bị đẩy lùi bởi một cô gái bé nhỏ. - Sáng mai tôi sẽ quay lại.

- Đúng vậy, - cô nói với theo, - nhớ báo trước cho tôi để tôi còn mang hoa tới đón anh!

Điệp vụ Hunter bước ra ngoài, cố kìm một câu chửi thề và thầm nuối tiếc cái thời kỳ chưa xa khi phụ nữ còn biết ở đúng vị trí của họ.

Ngay khi viên cảnh sát rời khỏi phòng, Sam tung chăn ra và ngồi lên mép giường, tháo tung các dây truyền.

- Tôi có thể biết anh đang định làm gì được không?

- Tôi về nhà đây.

- Anh nằm xuống ngay lập tức! - Claire ra lệnh. - Anh tưởng mình là ai? Jack Bauer chăng? Tuyệt đối không có chuyện anh rời khỏi bệnh viện.

Sam dùng chân đạp lùi chiếc xe đẩy chất các dụng cụ khâu vết thương rồi với lấy quần áo của mình.

- Tôi sẽ ký tất cả các thủ tục miễn trừ trách nhiệm, như thế cô có thể yên tâm.

Claire nổi cáu:

- Đây không phải là vấn đề miễn trừ trách nhiệm, tôi chỉ hỏi anh một câu đơn giản thôi: anh vừa mới thoát chết, vai và cổ chân anh đang ở trong tình trạng thảm hại, bây giờ là chín giờ tối và bên ngoài nhiệt độ đang làm âm mười độ... Anh còn định làm gì nữa mà không chịu nằm yên trên giường?

- Đi tìm một người phụ nữ, - Sam vừa nói vừa đứng lên.

- Một người phụ nữ! - Claire thốt lên đầy vẻ ngạc nhiên. - Anh tưởng cô ấy sẽ thấy anh cực kỳ quyến rũ với đôi nạng và vết thương băng bó chắc?

- Điều đó không thành vấn đề.

- Mà trước hết, người phụ nữ ấy là ai?

- Tôi không nghĩ điều này có can hệ tới cô.

- Có chứ, anh nên nhớ!

- Cô ấy là người Pháp... - Sam nói.

- Lại còn thế nữa! - cô đùa. - Được một lần tôi độc quyền sở hữu anh cả đêm thì anh lại phản bội tôi vì một cô gái người Pháp...

Sam cười lại với cô và khó nhọc lết ra cửa.

- Cảm ơn vì mọi thứ, Claire.

Cô dìu anh đi hết hành lang và chờ anh vào hẳn trong thang máy rồi mới hỏi:

- Hãy giải thích cho tôi một điều cuối, Sam!

- Gì vậy?

Ánh mắt họ gặp nhau đúng lúc hai cánh cửa từ từ khép lại.

- Tại sao lại có những người lúc nào cũng gặp may nhỉ?

° ° °

Hai cánh cửa thang máy mở ra sảnh bệnh viện. Gần như được bao quanh bằng kính và được trang trí bằng cây xanh, chỗ này trông giống như một khu vườn mùa đông. Sam khập khiễng đi qua khu vực sân trong để tới chỗ Jodie đang nằm. Trước khi quay về tìm Juliette, anh muốn kiểm tra chắc chắn rằng cô bé đang được chăm sóc bởi những bàn tay giỏi nhất.

Anh dừng lại vài giây để ngắm tuyết rơi qua lớp kính. Anh rất thích bệnh viện vào buổi đêm, khi tất cả sự náo nhiệt của ban ngày đã tan biến hết. Anh thuộc tòa nhà như lòng bàn tay. Đây là chỗ của anh, có lẽ là chỗ duy nhất trên trái đất khiến anh cảm thấy được ở đúng chỗ của mình và có ích.

Đến cuối hành lang, anh đẩy nhẹ cánh cửa phòng bệnh mà một cô y tá đã chỉ cho anh.

Jodie đang ngủ mơ màng. Đầu giường nó, Mark Rutelli đang đứng gần một chiếc ghế, hai tay khoanh lại. Ông có con mắt hổ 2, luôn trong tư thế cảnh giác, sẵn sàng nhảy chồm vào bất cứ mối nguy hiểm nào dù là nhỏ nhất có thể đe dọa đến người được ông bảo vệ.

Sam được chào đón bằng một cử chỉ ôm hôn lặng lẽ. Hai người đàn ông vẫn chưa nói chuyện lại với nhau kể từ sau trận bắn giết, song họ đều biết rằng từ nay giữa họ đã hình thành một mối liên hệ kỳ lạ. Rutelli khẽ nhíu mày hỏi thăm vết thương của Sam nhưng anh lắc đầu, vẻ như đã từng chứng kiến nhiều điều ghê gớm hơn thế.

Rồi anh bước lại gần cô bé. Một tấm ga giường.

--- ------ ------ ------ -------

1 Một nhà hàng Pháp nổi tiếng gần Công viên Trung tâm. (chú thích của tác giả).

2 Nguyên bản tiếng Pháp L'oeil du tigre, đây cũng là tên tiếng Pháp của bộ phim Rocky III, do diễn viên Sylvester Stallon thủ vai chính, trong đó võ sĩ quyền anh nổi tiếng Rocky thua trận trước đối thủ mới là Clubber Lang và phải tìm lại "mắt hổ" thì mới giành được chức vô địch.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
610,923
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 28


Chẳng điều gì chắc chắn hơn cái chết,

Chẳng điều gì thiếu chắc chắn hơn cái chết.

Ambroise Paré

Thứ sáu - 8h12 sáng

Grace kéo cao cổ áo. Gió thổi ào ào trên Công viên Battery. Công viên nhỏ ở phía Nam Manhattan này làm thành một hòn đảo nhỏ xanh mướt nằm giữ một đại lộ ven biển và những tòa nhà chọc trời của khu Phố Wall. Grace đi qua công viên để bước vào lối đi dạo chạy dọc bờ sông, nơi nhìn ra một khung cảnh ngoạn mục đến nghẹt thở. Đã có rất đông khách du lịch và người chạy bộ thể dục xuất hiện bất chấp trời lạnh và còn khá sớm. Grace ngồi xuống một chiếc ghế băng và trong một lát, say sưa chiêm ngưỡng quang cảnh khu vịnh đang náo động bởi những chiếc tàu kéo và xà lan.

Bầu không khí trong trẻo và lạnh giá khiến mắt cô buôn buốt còn người cô khẽ run rẩy. Từ khi trở về, cô đã nhận thấy những chi tiết nhỏ nhặt trong cuộc sống với một cảm giác mới: màu sắc bầu trời, tiếng những con mòng biển, cảm giác gió lùa vào mái tóc... Cô biết thời gian của cô ở đây đã gần kết thúc và chẳng bao lâu nữa cô sẽ phải tạm biệt tất cả những gì làm nên mùi vị cuộc sống. Mặc dù vậy, từ khi gặp lại con gái, tình yêu cuộc sống trong cô đã được tái sinh và điều này khiến cô trở nên mỏng manh hơn, yếu đuối hơn.

Con người hơn.

Cô biết chắc cô không thể thoát khỏi nhiệm vụ của mình và cô sẽ phải hoàn thành nó, nhưng chính ý nghĩ đó thôi cũng khiến cô không thể chịu đựng nổi và rất nhiều câu hỏi vẫn cứ tiếp tục khiến cô trăn trở. Tại sao cô không nhớ được rõ ràng vì một vài ngày trước khi cô chết? Tại sao cuộc giải phẫu cái xác của cô lại cho thấy những dấu vết của chất gây nghiện trong cơ thể cô? Và nhất là tại sao người ta lại chọn cô để hoàn thành công việc kỳ quặc này trong khi cô vẫn không hiểu ý nghĩa của nó?

° ° °

Lúc Sam mở mắt, Juliette không còn ở đó nữa. Cả hai người đã thức tời tờ mờ sáng nhưng rồi những tia nắng bình minh đầu tiên và liều thuốc mà anh uống để chống lại cơn đau đã nhấn chìm anh vào một giấc ngủ mơ màng.

Hoảng sợ, anh đứng bật dậy trong thoáng chốc, nhưng một mẩu giấy dặt ngay trên gối khiến anh bình tĩnh lại:

Tình yêu của em,

Em phải quay lại lãnh sự quán để hợp thức hóa giấy tờ của em. Chúng ta gặp nhau sau. Anh tự chăm sóc mình nhé.

Em yêu anh.

Juliette

Tái bút: Anh bắt đầu nghĩ tên cho con của chúng mình đi.

Em rất thích tên Matteo cho con trai và Alice cho con gái.

Mà tại sao không phải là Jimmy và Violette nhỉ...?

Gần như đau đớn, Sam vùi mình vào gối, cố tìm lại chút mùi hương của người phụ nữ anh yêu. Rồi anh bước vào phòng tắm nơi một dòng chữ được viết nắn nót bằng son môi trên mặt gương đang chờ anh:

Hoặc có thể là Adriano và Céleste?

Hay Mathis và Angèle...?

Thế nhỡ sinh đôi thì sao? Anh đột ngột nghĩ và bị cuốn vào trò chơi.

Trong bếp, trên tủ lạnh, anh nhìn thấy những chữ cái rất đẹp, dưới hình dạng những con thú rừng sâu, đã được đi chuyển để tạo thành hai từ mới. Anh đánh vần được: Guilermo, rồi bên dưới là Claire-Lise, anh tự hỏi không biết trong tiếng Pháp người ta phát âm các từ này như thế nào.

Anh cố gắng hết sức để mặc quần áo bất chấp vết thương trên vai và bước ra phố. Trời vẫn còn sớm, anh nhanh chóng tìm thấy một chiếc taxi.

- Công viên Battery, - anh nói với người lái xe.

Anh chàng này liền đi qua những tòa tháp của khu Hạ Manhattan. Một cảm giác trống rỗng cuộn lên trong dạ dày Sam. Anh nhận ra mình chưa ăn gì từ hơn hai mươi tư tiếng đồng hồ nay và dừng lại tại tiệm Starbucks đầu tiên để gọi một suất ăn sáng theo kiểu New York: một chiếc bánh sừng bò và một cốc cà phê rất to rồi vừa đi bộ vừa uống trên đường.

Đang đi thì điện thoại di động của anh đổ chuông. Ai đó đã nhắn tin cho anh. Đó là giọng Juliette đang đề xuất với anh:

Có thể là Manon hay Emma hay Lucie, Hugo, Clément, Valentin, Garance, Tony, Susan, Constance, Adèle...

Anh nhăn nhó, bực bội vì không thể vui được dù lẽ ra lúc này anh phải có quyền đùa giỡn và nghịch ngợm cùng cô.

Kéo lết chân, anh đi một vòng quanh Lâu đài Clinton, tòa lâu đài nhỏ nằm chính giữa khu công viên trước kia được dùng để bảo vệ bến cảng và giờ thì bị biến thành chỗ bán vé lên phà. Anh đã quyết định không dùng tới nạng song giờ anh lại cay đắng ân hận vì điều đó.

Anh đang lết đi trên đoạn đường uốn lượn dẫn tới bến cảnh thì nhìn thấy Grace bước về phía anh.

Một lần nữa, anh không thể ngăn mình ngạc nhiên khi thấy cô còn sống. Sáng nay lúc tỉnh dậy, anh gần như thầm ước cuộc gặp gỡ giữa họ hôm trước chỉ tồn tại trong trí tưởng tượng của anh. Suy cho cùng, lúc đó anh đang sốt và anh đã mê sảng trong giấc ngủ.

Nhưng không nên nằm mơ.

Gần như lúng túng, Grace đặt bàn tay lên cánh tay anh và vụng về hỏi:

- Tôi hy vọng các vết thương không làm anh quá đau.

- Cô thấy đấy, tôi tràn trề sức sống, - anh đáp lại, nửa như khiêu khích, nửa như oán trách. - Cô có muốn chơi một ván bóng tường không?

- Một lần nữa, tôi xin lỗi anh, Sam ạ.

Anh nổi cáu:

- Hãy thôi cái kiểu lần nào cũng nhắc đi nhắc lại là cô xin lỗi đi! Như thế thì quá dễ dàng! Cô nhảy vào cuộc sống của tôi và báo với tôi rằng người phụ nữ mà tôi yêu sẽ chết và cô muốn tôi nhảy vũ điệu samba để chứng tỏ niềm vui của mình!

- Anh nói đúng, - cô thừa nhận.

Cả hai đều co rúm vì lạnh. Để làm ấm người, họ hòa mình vào đoàn người đang đổ về bến cuối của chuyến phà đến Đảo Staten. Sam tìm cách che giấu việc anh bước đi khó nhọc song chẳng phải vì thế mà Grace không nhận thấy. Cô muốn giúp anh nhưng anh đẩy cô ra.

Một chiếc tàu trên bến chuẩn bị khởi hành. Không nói với nhau một lời, họ quyết định đi lên: khúc sông cần qua khá ngắn, không mất tiền và bên trong phà có lò sưởi.

Chiếc phà gần như chật ních người. Mặc dù rất lạnh song Sam vẫn lên ngồi trên boong phía sau và chỉ vài phút sau Grace cũng tìm ra anh. Giống như khi họ gặp nhau lần đầu, cô đưa cho anh một cốc cà phê.

- Hình như đây là thứ tệ nhất của New York: suốt cả ngày nó cứ sôi sùng sục trong những cái thùng bằng kim loại khổng lồ...

Sam cầm lấy cốc nước và nhấp một ngụm.

- Quả thật là rất lạ, - anh nhăn mặt.

Cà phê có thể rất chán, nhưng ít ra nó cũng giúp sưởi ấm hai bàn tay.

Vừa uống, họ vừa đứng cạnh nhau một hồi lâu, không trò chuyện, ánh mắt mải dõi theo những vệt sang phơn phớt xanh ở đường chân trời. Grace nhìn chăm chăm về phía Đảo Ellis và những bến cảng Brooklyn như thể đây là lần đầu tiên cô thấy chúng. Sam châm một điếu thuốc và rít một hơi thật sâu. Cách họ vài sải tay, tượng Nữ thần Tự do đang giương cao ngọn đuốc trong gió.

Sau vài phút, Grace thử mở đầu câu chuyện:

- Anh biết không, Sam, dù tôi có từ chối không hoàn thành nhiệm vụ thì họ cũng sẽ gửi một người khác rồi.

- Một người khác?

- Một sứ giả khác, để sửa chữa sai lầm...

- Sửa chữa sai lầm! Tôi báo cho cô biết là cô đang nói về cuộc sống của tôi và của Juliette!

- Tôi hoàn toàn ý thức được điều đó, nhưng tôi đã giải thích với anh rồi: Juliette phải chết, chính vì vậy mà người ta cử tôi tới đây. Tôi chưa bao giờ bị yêu cầu làm công việc này cả và anh hãy tin rằng tôi thực hiện nó mà chẳng hề vui vẻ gì.

Một lần nữa, anh muốn tìm cách bảo vệ người mình yêu:

- Tôi căm ghét cái ý nghĩ về định mệnh. Cả cuộc đời, tôi đã đấu tranh để thoát khỏi những điều đã được định sẵn. Tôi sinh ra ở một trong những nơi tệ hại nhất của thành phố này. Mọi thứ được định sẵn để tôi trở thành một kẻ côn đồ, nhưng tôi đã đấu tranh để trở thành một người khác và tôi đã thoát ra được!

- Chúng ta đã bàn về tất cả những chuyện này rồi, Sam ạ. Tôi chưa bao giờ nói với anh rằng mọi hành động của con người đều đã được định trước tới từng chi tiết nhỏ nhất cũng như cuộc sống chỉ là việc hoàn thành một kịch bản đã được viết sẵn mà thôi.

Cô nhìn thẳng vào mắt anh rồi nói:

- Nhưng ngược lại, tôi muốn nói với anh rằng có những chuyện chúng ta không thể nào thoát ra được.

Sam đã hết lý lẽ. Tối qua, khi gặp lại Claire, sau vụ nổ súng, anh hiểu rằng trận chiến đã cầm chắc thất bại. Tuy vậy anh vẫn nói thêm một điều, như một tiếng kêu từ trái tim:

- Tôi yêu cô ấy!

Grace nhìn anh thông cảm.

- Anh biết rõ tình yêu không thể đủ để chống lại cái chết. Tôi yêu con gái tôi, tôi yêu Mark Rutelli song điều đó không giúp tôi thoát khỏi một viên đạn bắn vào đầu...

Cô nghĩ ngợi một lát rồi nói tiếp, như nói với chính mình:

- Điều khiến tôi ân hận nhất là đã chết đi mà chưa thú nhận tình yêu của tôi với anh ấy, cách đây mười năm...

Sam châm điếu thuốc thứ hai và để mặc nó cháy hết vì anh bị cuốn vào câu chuyện của Grace. Chiếc phà từ từ cập bến Đảo Staten, song đa số các hành khách vẫn ở lại phà để quay về Manhattan.

Giờ đây, dù bị buộc phải chấp nhận câu chuyện khó tin của Grace, Sam vẫn không ngừng tự đặt những câu hỏi liên quan đến bản chất của sự sống và cái chết. Anh đã suy nghĩ về điều này gần hết đêm nhưng nó vẫn không thôi trở đi trở lại, khiến anh mỗi lúc càng thêm lo lắng và kích động hơn. Phải chăng cuộc sống con người có một mục đích nào đó, hay suy cho cùng nó cũng chỉ là một cỗ máy móc sinh học? Còn cái chết... Liệu có phải nó hoàn toàn vô nghĩa không hay nó mở ra con đường dẫn đến một cuộc sống khác, một nơi khác mà bất cứ ai trong chúng ta cũng đều phải tới?

Từ khi bắn chết một người thời còn trẻ, anh không bao giờ chấp nhận nổi cái chết của những người khác được nữa và bất chấp nghề nghiệp của mình, mỗi lần mất một bệnh nhân là một phần anh cảm thấy mình càng thêm phần khốn khổ. Dù anh đã tìm cách phủ nhận cái chết song nó vẫn luôn bắt kịp anh. Trong đầu anh lại hiện ra khuôn mặt Federica, người anh đã không thể cứu sống, rồi khuôn mặt Angela, cô bệnh nhân bé bỏng mà anh mới để mất cách đây không lâu. Thậm chí anh còn nghĩ cả tới Kên Kên bởi những hình ảnh về cái chết khủng khiếp của hắn vẫn chưa hết ám ảnh anh. Giờ này những người ấy đang ở đâu?

Anh vẫn thường trò chuyện với những bệnh nhân người châu Á và họ luôn tin rằng trong chúng ta có một thứ gì đó không bao giờ chết mà vẫn tiếp tục cuộc hành trình dưới một hình hài khác. Trước kia, anh từng bị hoang mang khi nghe câu chuyện của những người đã trải qua kinh nghiệm cận kề cái chết: đường hầm ánh sáng, cảm giác dễ chịu, việc gặp lại những người đã khuất... Nhưng chưa bao giờ anh tin vào điều đó hay vào những lời thuyết giảng tốt đẹp của cha Hathaway, người vẫn luôn động viên anh từ thời thơ ấu phải tìm kiếm Chúa và tin Chúa tồn tại.

Nhưng hôm nay, cuộc gặp gỡ với Grace đã mở ra cho anh một chân trời hiểu biết mới. Grace là người đã từng qua bên đó, cô sẽ tiết lộ được cho anh điều bí mật lớn.

Vậy là với tâm trạng vừa tò mò vừa lo sợ, anh hỏi cô:

- Chuyện gì xảy ra sau đó, Grace?

- Sau cái gì?

- Cô biết rất rõ tôi đang muốn nói gì mà.

Grace không trả lời ngay. Phải, cô biết Sam đang muốn nói về điều gì. Hơn nữa cô vẫn luôn biết sớm hay muộn họ cũng sẽ đề cập đến việc này.

- Sau cái chết phải không? Tôi rất tiếc phải khiến anh thất vọng, nhưng tôi chẳng nhớ gì cả.

- Khó lòng mà tin cô được...

- Nhưng lại là thật đấy.

- Cô không giữ lại một hồi ức nào về mười năm vừa qua sao?

- Trong đầu tôi, dường như mười năm đó chưa bao giờ tồn tại.

- Thì ra chết là như vậy: một cái hố đen khổng lồ...

- Hoàn toàn không phải. Chẳng phải vì tôi không nhớ được gì thì có nghĩa là không có gì, nếu không tôi đã chẳng ở đây. Tôi nghĩ đúng hơn là khi các sứ giả được cứ xuống mặt đất, bí mật về cái chết phải được giữ gìn tuyệt mật, ngay cả đối với họ. Vì lúc còn sống, con người không bao giờ biết được điều gì diễn ra sau đó. Tôi chỉ biết rằng chúng tôi xuống mặt đất này không phải là chuyện tình cờ.

Thấy vẻ hoang mang của anh, cô nói thêm bằng giọng nhẹ nhàng:

- Anh đừng tưởng điều đó không làm tôi lo lắng! Tôi cảm thấy mình hoàn toàn trơ trọi và bất lực, và nếu anh muốn biết thì tôi còn sợ phải quay lại nơi đó nữa kìa. Thế nhưng tôi biết một điều, đó là tôi có một nhiệm vụ phải hoàn thành và ngoài điều đó ra tôi không được can thiệp vào cuộc sống của những người khác.

- Nhưng khi cần cứu con gái cô, cô có băn khoăn gì đâu!

- Đúng vậy, - Grace thừa nhận, - khi tìm cách cứu Jodie, tôi đã phần nào lơ là nhiệm vụ của mình...

Sam nhún vai. Điện thoại di động của anh reo lên trong khi chiếc xà lan chuẩn bị cập bến. Anh nhấc máy.

- Tôi nghe?

Đó là Juliette. Tín hiệu rất tồi nên giọng cô nghe có vẻ xa xăm. Trên cầu tàu, gió thổi rất to, nhưng Sam vẫn bắt được vài lời loáng thoáng: "em nóng lòng...", "em yêu anh...", "đừng để bị lạnh..." cùng một loạt những cái tên mới: "Jorge, Margaux và Apolline..." Rồi tín hiệu nhòe đi, giống như dấu hiệu cho thấy Juliette đang tuột khỏi tay anh.

Khi những hành khách đầu tiên bắt đầu lên bờ, Sam quyết định hạ lá bài cuối cùng xuống. Những ngày gần đây, dù không muốn thú nhận song anh vẫn thường nghĩ tới khả năng này. Ngay từ buổi tối khi nhận được thông điệp viết bằng tranh của Angela, anh đã hiểu rõ là anh sẽ không thoát khỏi Grace Costello mà không hề hấn gì. Bất chấp những suy nghĩ tích cực, anh vẫn điểm lại mọi khả năng có thể cứu Juliette và giải pháp duy nhất anh thấy khả thi nằm trong câu hỏi anh sắp đặt ra cho Grace:

- Nếu cô nhất định phải mang nó đi, nếu thực sự phải tôn trọng cái trật tự sự vật ấy...

- Thì sao?

- Thì trong trường hợp đó, hãy mang tôi đi! Hãy đồng ý để tôi lên cái cáp treo ấy cùng cô thay cho Juliette.

Grace nhìn thẳng vào mắt anh. Khuôn mặt cô toát ra vẻ thanh thoát kỳ lạ, như thể cô không ngạc nhiên lắm trước lời đề nghị đó của Sam.

Câu hỏi của anh lơ lửng vài giây. Anh mở miệng định nói thêm điều gì đó nhưng lại thôi.

- Anh đang nhắc đến cuộc sống của chính anh đấy, - cuối cùng cô nói, - đó là một quyết định mà người ta không thể đưa ra một cách thiếu cân nhắc và người ta có thể nuối tiếc ở phút cuối cùng.

- Tôi suy nghĩ đủ rồi. Để cứu Federica, ngày xưa, tôi đã phạm tội ác, thậm chí tôi còn đánh mất chính mình. Hôm nay tôi biết rằng để cứu Juliette, tôi chẳng còn lựa chọn nào khác là dùng chính cuộc sống của tôi để đổi lấy cô ấy. Hãy nhận lấy nó, - Sam van xin.

- Được, anh sẽ là người ra đi.

Một trận gió chợt nổi lên. Sam cố tìm cách che giấu cảm xúc nhưng anh thấy chân mình bắt đầu run run.

- Cáp treo ở Đảo Roosevelt, đúng không?

- Đúng, ngày mai, lúc 13h, - Grace nói rõ hơn.

- Thế nếu từ giờ đến lúc đó tôi muốn gặp cô thì sao?

- Tôi sẽ liên lạc với anh.

- Không, Grace ạ, - anh vừa nói vừa rút điện thoại di động ra, - từ giờ trở đi cô không còn là người duy nhất đặt ra luật chơi nữa.

Không để cô có thời gian từ chối, Sam ra lệnh cho cô phải cất chiếc di động vào túi áo khoác rồi rời khỏi bến phà.

Grace ở lại cầu thêm vài phút. Từ chỗ quan sát của cô trên cao, cô nhìn anh bác sĩ đi xa dần.

Cho đến giờ, kế hoạch vẫn diễn ra đúng như cô dự đoán.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
610,923
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 29


"Ta vẫn muốn quay lại thời khắc ta yêu mến

Nhưng giờ chết đã điểm mất rồi."

Lẩmtine

Đầu giờ chiều - bệnh viện St. Matthew

Căn phòng nhỏ của Jodie Costello chìm trong bóng tối. Cánh cửa nhẹ nhàng mở ra và ai đó thò đầu qua khe cửa hé mở. Sau khi đã kiểm tra chắc chắn rằng cô bé vẫn ngủ say, Grace lặng lẽ bước lại gần giường.

Rất nhẹ nhàng, cô run rẩy đặt tay lên trán con gái. Cô bàng hoàng đứng yên bên nó, trong khi những giọt nước mắt cứ âm thầm chảy dài trên má cô. Đó là một cảm xúc mà trước kia cô chưa từng biết đến: niềm vui sâu sắc vì cuối cùng cũng tìm lại được Jodie xen lẫn nỗi buồn mênh mang vì không thể nói chuyện được với nó. Có lúc, chỉ thiếu chút nữa thôi là cô đã đánh thức nó dậy để nói cho nó biết cô yêu nó biết chừng nào và cô ân hận biết bao vì tất cả những việc đã xảy ra. Nhưng cô biết cô không có quyền làm như vậy và cũng không nên làm như vậy: Jodie cần được thanh thản còn hơn là phải chịu thêm một cú sốc tình cảm khác. Vì vậy cô đành hài lòng với việc thì thầm:

- Hãy tha thứ cho mẹ vì đã bỏ rơi con trong suốt từng ấy năm...

Rồi cô cầm lấy bàn tay nó:

- Mẹ mong rằng từ nay trở đi mọi chuyện sẽ diễn ra tốt đẹp hơn với con.

Jodie ngủ mơ màng. Nó trở người trên giường và lẩm nhẩm điều gì đó không rõ. Trên bàn đầu giường, Grace nhận ra bức ảnh mà cô luôn để trong ví của mình.

Cô vẫn nhớ rất rõ cái ngày bức ảnh này được chụp, một ngày đầu những năm 1990....

Đó là một ngày mùa thu đẹp trời, một ngày Chủ nhật. Grace và Mark Rutelli đã quyết định tận hưởng ánh mặt trời trên đảo Nantucket, phía Nam Boston. Họ để hành lý ở Madaket, bãi biển yêu thích nhất của những người lướt sóng, rồi trải khăn tắm hướng ra biển. Bên cạnh hai người, Jodie - lúc đó vừa tròn một tuổi - đang vừa nghịch cát vừa gặm một chiếc bánh quy Oreo.

Một chiếc đài cũ đang phát một bài hát của Simon và Garfunkel nói về sức mạnh của những tình yêu chân thành. Grace nhắm mắt lại. Cô cảm thấy rất dễ chịu. Thanh thản, được tiếng sóng ru êm và được làn gió cuối hè mơn trớn.

Rồi họ ăn trưa ngay trên bãi biển: bánh mì kẹp thịt, gà nguội, và để chiều lòng Jodie, bánh ngọt nhân dâu rừng và nước quả.

Đó cũng là ngày họ bàn luận với nhau về tương lai của họ trong ngành cảnh sát. Một đồng nghiệp cũ của họ đã thành lập một công ty bảo về và mời họ làm một công việc vừa được trả lương cao hơn lại vừa bớt nguy hiểm hơn những công việc mà họ đang làm lúc đó. Rutelli - quá mệt mỏi vì cuộc sống căng thẳng của một nhân viên cảnh sát - đã tỏ vẻ chấp nhận nhưng điều đó là không thể đối với Grace.

- Em yêu nghề của mình, Marko ạ. Em yêu thực tế công việc...

- Em muốn có một mức lương tồi tệ, đi một chiếc xe hơi cũ nát và sống trong một căn hộ tồi tàn?

- Anh đừng nói quá lên như thế. Trước hết căn hộ của em chẳng đến nỗi tồi tàn!

- Dù sao đi nữa, công việc này cũng quá nguy hiểm. Nhất là đối với phụ nữ!

- Rồi đấy! Vậy là anh đã nói ra! Toàn những luận điệu phân biệt đối xử!

- Anh chẳng hề phân biệt đối xử!

- Nghề này chính là thứ em thích làm. Em không muốn có một công việc nhàn hạ. Em yêu ý nghĩ rằng mình đang mạo hiểm cuộc sống của mình để cứu cuộc sống của những người khác...

- Em liều lĩnh quá, Grace ạ. Giờ em đã có một đứa con, em phải nghĩ đến nó một chút chứ!

- Em tin vào ngôi sao may mắn của mình.

- Một ngày nào đó, vận may sẽ bỏ rơi em.

- Khi nào nó bỏ rơi em hẵng hay. Em cũng rất có thể bị xe đâm chết khi đang đi chợ trên phố lắm chứ.

Rutelli cầm máy ảnh lên và đề nghị Grace đứng với Jodie trước mặt biển.

- Em sẽ không bao giờ bỏ công việc này, - Grace vừa nói vừa bế con gái lên tay.

- Nói thế, em cũng phải thận trọng hơn, - Rutelli nhắc lại. - Người ta chỉ sống một lần thôi.

Cô đã nhún vai và nhoẻn miệng cười với anh chàng điệu bộ rất quyến rũ:

- Ai mà biết được, Marko? Ai mà biết được?

Tiếng mở cửa kêu lên ken két khiến Grace đột ngột quay trở lại hiện tại. Cô y tá chỉ quan tâm tới việc kiểm tra xem mọi chuyện với Jodie có ổn không rồi rời khỏi căn phòng ngay mà không để ý tới sự hiện diện của Grace.

Cô trút tiếng thở dài nhẹ nhõm, nhưng cô ý thức được rất rõ rằng cô đang quá mạo hiểm. Cô không thể ở lại đây mãi được.

Một lần nữa, Jodie trở người trên giường và vì thói quen từ ngày xưa, Grace hát khẽ cho con bé nghe một điệu nhạc của Gershwin, êm ả như một bài hát ru và mang tên gọi rất ý nghĩa: Someone to watch over me 1.

Thay lời vĩnh biệt, cô nghiêng mình xuống giường và thì thầm hứa:

- Mẹ không biết mình đi đâu, mẹ không biết chuyện gì sẽ đến với mẹ, mẹ chỉ hy vọng rằng một phần bé nhỏ của mẹ sẽ ở lại với con, dù con không thể nhìn thấy hay nghe thấy mẹ...

Lần này, Jodie giật mình thức giấc.

Có ai đó đang ở trong phòng!

Nó mở mắt ra và bật đèn ngủ lên.

Nhưng Grace đã biến mất.

° ° °

Chelsea - 151 Đường số 34 phía Tây

Với vài trăm nghìn mét vuông mặt bằng và cao mười tầng, Macy's chiếm hẳn một tòa nhà trên Đại lộ số Bảy. Chính khu trung tâm mua sắm, cửa hàng lớn nhất trong số các cửa hàng lớn nhất thế giới này, là nơi Sam và Juliette đến tận hưởng nốt buổi chiều. Sau khi dạo chơi trên phố SoHo và trước khi nhấm nháp một ly kem lạnh ở Serendipity, họ đã cùng nhau bàn hàng giờ liền về những dự định tương lai cho năm mươi năm sắp tới. Họ thống nhất với nhau tên gọi của ba đứa con, màu sơn cửa sổ cho ngôi nhà của họ, nhãn hiệu chiếc xe sắp tới và những nơi họ sẽ cùng đi nghỉ.

Hạnh phúc tột đỉnh, Juliette vô cùng rạng rỡ. Bước chân nhẹ nhõm, cô đi qua tất cả các gian hàng của cửa hàng vĩ đại này, ngây ngất trước những chiếc nôi em bé, những con thú nhồi bông và những chiếc gối ôm. Hơi tụt lại phía sau, Sam cố gắng hưởng ứng mặc dù lòng anh đang tan nát. Suốt buổi chiều, anh phải tán dương một niềm hạnh phúc mà anh sẽ không bao giờ có được, bởi anh ý thức rất rõ mình đang sống những giờ phút cuối cùng của cuộc đời. Ngày mai, cũng vào giờ này, anh sẽ không hiện diện trên cõi đời nữa, và điều đó khiến anh cảm thấy vô cùng chán nản. Thế nhưng không một giây nào anh cảm thấy hối hận về đề nghị của anh với Grace. Anh phải cứu Juliette và đó là ý nghĩ duy nhất đem lại cho anh cảm giác nhẹ nhõm, đủ để xua đi tất cả.

Cũng không nên tự lừa dối mình làm gì, anh phải chịu trách nhiệm về cái chết của hai con người và dù đó có là những tên buôn ma túy đi nữa thì cảm giác tội lỗi của anh mất hết ý nghĩa. Anh có thể tự nhủ với mình đủ thứ: sâu thẳm trong lòng, anh vẫn biết một ngày nào đó anh sẽ phải trả giá và cái chết của Federica không đủ để thanh toán hết món nợ của anh. Chính vì thế, anh đã nói dối Juliette đêm đầu tiên, vì gánh nặng tội lỗi của anh đã ngăn cấm anh mãi mãi không được hưởng hạnh phúc.

- Sam!

Từ cuối lối đi, Juliette đang vẫy anh lia lịa, thích thú khi nhìn thấy một con khủng long nhồi bông cao hơn năm mét. Anh cười với cô song tâm trí anh để đi chỗ khác.

Như thể anh đã chết.

Khỉ thật, anh sợ đến đờ đẫn cả người mất rồi! Thế mà đã rất nhiều lần anh đồng hành với bệnh nhân cho tới tận ngưỡng cửa tử. Anh đã cầm tay của những người không gia đình, cố tìm những lời an ủi để xua đi nỗi kinh hoàng trong họ. Nhưng mọi sự lại khác hoàn toàn khi nó liên quan tới cái chết của chính anh!

Sam rã rời. Nỗi sợ của anh còn xen lẫn cả cảm giác bị tước đoạt vì anh sẽ không bao giờ được thấy con anh. Nó sẽ là trai hay gái? Ngay cả điều đó anh cũng sẽ chẳng bao giờ biết.

Vậy mà đã nhiều năm nay anh đã ao ước xây dựng một gia đình. Anh chưa bao giờ có được điều đó và nó khiến anh đau đớn. Anh muốn có nhiều con để bám chắc hơn vào cuộc sống. Trong một môi trường ngày càng thù địch và phi nhân tính như hiện nay, anh mong mỏi tạo lập được những mối liên hệ sâu sắc và xây dựng được một không gian sống yên ổn, giàu tình người.

Nhưng mọi chuyện sẽ không diễn ra như vậy. Ngày mai, anh sẽ biến mất. Juliette có lẽ sẽ quay về Pháp và làm lại cuộc đời. Thậm chí có thể con anh sẽ chẳng bd cô nghe nhắc đến anh. Suy cho cùng, anh sẽ để lại gì cho nó? Anh chẳng có tài sản, chẳng có của cải, chẳng có bất cứ bằng chứng nào vệ sự có mặt của anh trên trái đất. Đúng là anh đã chữa bệnh và chăm sóc cho hàng trăm người, nhưng liệu còn ai nhớ đến anh?

Bỗng nhiên, anh nghĩ ra một việc: tại sao anh không thành hôn với Juliette trước khi chết nhỉ? Phải rồi, đó chính là giải pháp! Điều đó tương đương với việc chính thức thừa nhận con của anh. Anh suy nghĩ một lát rồi dùng máy di động của Juliette gọi đến Tòa Thị chính để hỏi thủ tục. Liệu họ có thể thành hôn trong buổi tối hôm nay hoặc sáng mai được không? Người ta trả lời anh rằng đây không phải là Las Vegas và mọi buổi lễ thành hôn tại Bang New York đều phải được cấp wedding license mà để có được nó thì phải trình đơn yêu cầu trước buổi lễ tối thiểu hai mươi tư giờ đồng hồ. Quả là hợp lý: người ta muốn tránh những cuộc hôn nhân được quyết định một cách bốc đồng. Sam chán chường gác máy. Anh thậm chí còn không có đủ hai mươi tư giờ cho mình.

- Liệu anh có yêu em mãi mãi không?

Đang mê mải với những ý nghĩ của mình, anh ngẩng đầu lên và phát hiện ra Juliette đang đứng nhón gót chân trước mặt đợi anh trao cô một nụ hôn.

- Mãi mãi, - anh trả lời và hôn cô.

Anh mong muốn điều đó thành hiện thực biết bao, thế nhưng như Grace Costello đã nói, chắc chắn trong cuộc sống có những thứ người ta không thể nào chạy trốn được.

Ra đến vỉa hè, trong khi Juliette bước lên taxi trước, một ý nghĩ khác lại nảy sinh trong tâm trí Sam.

- Em không ngại đi về một mình chứ? Anh muốn tạt qua bệnh viện một lát.

- Nhưng em muốn ở bên anh cả buổi tối cơ!

- Cho anh hai tiếng thôi, em nhé. Có chuyện quan trọng.

Cô bĩu môi tỏ vẻ thất vọng.

- Chỉ hai tiếng ít ỏi thôi mà! - Sam hứa và vừa đóng cửa xe vừa hôn cô.

Còn lại một mình, anh nhìn đồng hồ. Anh sẽ không bị muộn. Nếu khẩn trương, có thể anh vẫn còn thời gian. Không chờ được một chiếc taxi khác, anh lao xuống trạm tàu điện ngầm gần nhất và ngược lại điều anh đã khẳng định với Juliette, anh không đến bệnh viện mà đến ngân hàng.

- Thông thường các chuyên viên tư vấn tài chính của chúng tôi chỉ có thể tiếp khách khi có hẹn trước, - nhân viên lễ tân giải thích với anh. - Tuy vậy, may ra có ai đó trong số họ kết thúc công việc sớm hơn dự định. Tôi sẽ thử hỏi xem.

Sam kiên nhẫn đợi trong khoảng không gian được bố trí thành phòng chờ nơi anh có thể xem một số tài liệu dành cho khách tham khảo. Vì thế, khi anh bước vào phòng làm việc của Ed Zick Jr., chuyên gia tư vấn đầu tư, anh đã có thừa thông tin để hoàn thiện kế hoạch của mình.

- Tôi có thể giúp được gì, thưa ông?

- Tôi muốn mua một hợp đồng bảo hiểm nhân thọ, - Sam giải thích.

- Chúng tôi có một mẫu hợp đồng tuyệt vời, đơn giản và ít tốn kém, có thể đảm bao tương lai cho những người thân của ông, - nhân viên ngân hàng bắt đầu ngâm nga.

Sam gật đầu và khuyến khích anh ta tiếp tục.

- Ông có thể hiểu nguyên tắc của các hợp đồng bảo hiểm nhân thọ không? Mỗi tháng ông sẽ rót vào một khoản tiền đóng phí. Nếu không có chuyện gì xảy ra với ông - lạy Chúa ban phước để điều đó luôn đúng - ông sẽ mất khoản phí đó. Nhưng trong trường hợp tử vong sớm, chúng tôi sẽ rót một khoản tiền cho người thừa hưởng do ông chỉ định: vợ ông, các con ông hoặc... một người nào khác. Và khoản tiền đó không phải đóng bất cứ một khoản thuế thừa kế nào.

- Đó chính là thứ mà tôi đang tìm kiếm.

Trong vòng chưa tới nửa tiếng, hai người đã thống nhất xong mức phí bảo hiểm, thời hạn đóng, mức đền bù và người thừa hưởng hợp đồng.

Sam điền vào một bảng câu hỏi y khoa và hứa ngày hôm sau sẽ đi xét nghiệm máu. Ở tuổi của anh, các thủ tục tương đối đơn giản. Ed Zick đưa cho anh danh sách các tổ chức được công nhận và thật may mắn vì bệnh viện của anh nằm trong số đó. Sáng mai anh có thể tiến hành ngay xét nghiệm này. Lại thêm một vận may nữa: Ed Zick làm việc cả thứ Bảy và anh ta đề nghị hồ sơ sẽ có hiệu lực ngay khi anh ta nhận được bản fax xét nghiệm.

Trong lúc Sam chuẩn bị đặt bút ký thì anh chàng nhân viên ngân hàng thủ thỉ gợi ý với anh một điều khoản đảm bảo bổ sung: nhân đôi khoản tiền trong trường hợp tử vong do tai nạn.

Sam nhíu mày và ra chiều suy nghĩ. Anh đã theo học một khóa học về kinh tế y khoa và biết rõ đây là một mẹo marketing. Theo thống kê, chỉ có một trên mười hai hay mười ba các ca tử vong có nguyên nhân do tai nạn. Do đó, các hãng bảo hiểm không phải gánh chịu nhiều rủi ro nghiêm trọng lắm trong khi phần lớn các khoản đóng góp sẽ giúp họ bứt phá về lợi nhuận.

- Đồng ý, - Sam nói và nghĩ tới tai nạn cáp treo sẽ đưa anh đi.

Miệng cười hớn hở, Ed Zick chìa tay cho anh, tin chắc đã dễ dàng lừa vào tròng một khách hàng béo bở.

Ngày mai anh sẽ bớt cười cợt, Sam nghĩ khi chào tạm biệt. Song điều đó cũng chỉ mang lại chút an ủi thoáng qua.

Khi anh ra đến phố, trời đã trở nên lạnh buốt và màn đêm bắt đầu buông xuống. Trên trời, những vì sao đầu tiên đang xuất hiện.

Sam trút tiếng thở dài nhẹ nhõm. Ít ra, tương lai vật chất của Juliette và con anh cũng đã được đảm bảo.

Nhưng anh biết tiền bạc chỉ là một lối thoát giả tạo.

° ° °

Nam Brooklyn - khu phố Bensonhurst - đầu buổi tối.

Mark Rutelli leo hai tầng gác của một tòa nhà xây gạch nâu. Ông mở cửa căn hộ của mình và không bật đèn ngay. Rèm cửa đã được kéo hết lên và vầng trăng tròn vành vạnh tỏa khắp căn phòng một thứ ánh sáng xanh dìu dịu. Trái với điều người ta có thể đoán được, căn hộ này, dù khiêm tốn và không có gì đặc biệt, song lại rất sạch sẽ và gọn gàng.

Rutelli không về nhà từ hai ngày nay. Cả đêm hôm qua ông ở bệnh viện và cả ngày thì đi trực. Chừng nào công việc còn khiến ông bận rộn thì chừng ấy ông còn cảm thấy trong mình khỏe khoắn; lúc này, ông rất sợ phải ở một mình. Ông cho một đĩa CD vào dàn nghe: một bản giao hưởng của Prokofiev. Ông yêu thích và am hiểu nhạc cổ điển. Những người chỉ mới quen biết ông thời gian gần đây vẫn luôn coi ông là một gã quê mùa nghiện rượu không có khả năng gì khiến họ vì nể. Song những người trước kia đã từng nói chuyện với ông thì đều biết ông là người hiểu biết và nhạy cảm.

Ông bước vào buồng tắm, tắm dưới vòi hoa sen, cạo râu rồi thay một bộ quần áo sạch sẽ: quần jean đen và áo phông màu nước biển mà Grace tặng ông cách đây rất lâu nhưng nhiều năm nay ông không dùng tới. Lần đầu tiên sau nhiều tháng, ông dám nhìn mình trong gương. Thông thường, ông không thích thứ mà ông thấy trong đó, nhưng từ khi cứu thoát Jodie, ông cảm thấy trong mình có điều gì biến chuyển và ông nhìn chăm chú không hề chớp mắt vào hình ảnh phản chiếu trong gương.

Rồi ông đi vào bếp và mở tủ lạnh lấy ra một bịch sáu chai bia Budweiser. Đó khẩu phần của ông, là liều thuốc của ông, là thứ duy nhất ông tìm được để chắc mình có thể đi vào giấc ngủ. Và ông biết rất rõ điều gì sẽ xảy đến: ông sẽ uống đến khi ngã vật ra, đờ đẫn vì say và ngủ một giấc đầy mộng mị cho tới ba giờ sáng. Khi đó, ông thức dậy, lo lắng và run rẩy, và để có thể ngủ đến tận sáng, ông sẽ phải uống thêm một cốc vodka đầy tràn trong tâm trạng áy náy.

Ông đặt sáu lon bia lên bàn nhưng không đụng tới một lon nào.

Mày đang chơi trò gì thế này? Mày biết rất rõ rằng cuối cùng mày cũng sẽ uống.

Ông mở lon đầu tiên song vẫn không đụng tới.

Mày thấy khoái chí, đúng không, khi tự nhủ với mình rằng đó chỉ là chuyện muốn là được!

Ông dốc hết bia trong lon vào bồn rửa bát, lon thứ nhất rồi tới lon thứ hai, lon thứ ba, lon thứ tư và lon thứ năm.

Thế đấy, giờ thì mày chỉ còn một lon thôi. Cứ tiếp tục trò chơi này thêm chút nữa đi xem nào.

Ông muốn uống chết đi được. Mặc dù vậy, ông vẫn dốc cạn lon cuối cùng vào bồn rửa bát và mở vòi cho nước chảy để xua tan mùi bia.

Ông châm một điếu thuốc và bước ra hiên. Ngày mai, ông sẽ tới gặp Sam Galloway nhờ giúp đỡ và nếu cần ông sẽ đi cai nghiện. Lần đầu tiên trong đời ông cảm thấy phải làm điều đó. Ông sẽ dừng uống, vì ông và vì Jodie.

Ông thổi thổi vào hai bàn tay cho ấm. Trời rét như cắt. Khi đang chuẩn bị quay lại phòng thì ông nghe có tiếng bước chân phía sau.

- Chào anh, Marko.

Ông quay phắt lại, hoảng hốt khi nghe thấy giọng của người vừa gọi ông.

Grace đang đứng cách ông ba mét. Rạng rỡ, tự tin, đúng như trong ký ức của ông.

Đôi mắt Rutelli nhòa đi. Cảm xúc này quá sức chịu đựng của ông.

Khỉ thật, mình không uống một giọt rượu nào từ hai ngày hôm nay...

Có lẽ ông đã mất trí. Ông bước một bước về phía cô, thử cất tiếng nói, nhưng giọng ông trở nên lắp bắp:

- Anh... anh không hiểu...

- Em nghĩ chẳng có gì nhiều để hiểu, - cô vừa nói vừa đặt ngón tay lên miệng ông.

Grace vòng tay ôm lấy ông và Rutelli thả lỏng người cho thời khắc mà ông đang được sống.

Họ ôm chặt nhau như vậy rất lâu, Rutelli lại thấy lại mùi hương không hề thay đổi trên làn da của người đồng nghiệp cũ, một mùi hương phảng phất sữa và va ni mà ông không bao giờ quên được.

- Anh đã nhớ em biết bao nhiêu, - ông thú nhận.

- Em cũng vậy, Marko, em cũng nhớ anh.

Rutelli cảm thấy tim mình đập thình thịch vì xúc động và lo âu. Ông cầm lấy cổ tay Grace, không thể buông ra được vì sợ lại đánh mất cô thêm lần nữa.

- Em đã thực sự quay lại ư? - mãi rồi ông cũng nói ra được.

Cô nhìn thẳng vào mắt ông và đặt tay lên má ông.

- Phải, Marko ạ.

Cô dừng lại, đến lượt cô trở nên quá xúc động.

- ... nhưng em sẽ không ở lại, - cô nói nốt câu.

Ánh mắt rạng rỡ của Rutelli chợt tối đi tức thì. Grace tựa đầu lên vai ông.

- Em sẽ giải thích tất cả.

° ° °

Một giờ sau, Grace đã kể cho Rutelli nghe toàn bộ câu chuyện khó tin của cô. Rất nhiều lần, ông nhíu mày tỏ vẻ ngạc nhiên, thế nhưng ông chẳng còn cách nào khác ngoài việc chấp nhận những gì cô bạn đồng nghiệp kể. Dù mọi khái niệm cơ bản trong ông đều đang tan biến song ông biết điều Grace nói là sự thật. Quá hạnh phúc vì được gặp lại cô, ông không muốn làm cho mọi chuyện trở nên nặng nề bởi những câu hỏi mà ông biết chắc sẽ chẳng bao giờ có câu trả lời.

Thật ngược đời vì chính Grace lại là người muốn tìm hiểu thông tin.

- Có thể anh sẽ giúp được em, - cô vừa nói vừa đưa cho ông một tập giấy.

Rutelli mở ra xem. Đó là báo cáo khám nghiệm tử thi Grace. Ông đã đọc tập hồ sơ này nhiều lần song thêm một lần nữa ông nghiên cứu nó chăm chú.

- Anh không thấy có điều gì kỳ lạ ư?

- Điều gì? - ông hỏi.

- Dấu vết heroin, Mark ạ! Tại sao? Em không bị nghiện, phải không?

Rutelli thở dài, lúng túng.

- Em không nhớ ư?

- Không.

Lúc này, Grace cảm thấy lo ngại về điều Rutelli sắp tới cho cô biết. Cô chẳng dám chắc điều gì nữa. Thực ra cô là ai? Cô có điều gì cần giấu giếm chăng?

- Hồi đó, Đôi Chống ma túy đề nghị em đảm nhiệm vị trí tay trong...

- Em làm tay trong ư?

Rutelli gật đầu:

- Khi bị giết, em đang tìm cách trà trộn vào một nhóm buôn lậu ma túy.

- Điều đó giải thích cho dấu vết ma túy...

- Phải, em biết công việc như vậy thường giả dối thế nào rồi đấy...

Grace gật đầu. Dần dần, các ký ức xuất hiện trở lại. Để được các tên trùm buôn ma túy chấp nhận, cảnh sát trà trộn vào đội ngũ của chúng thường phải tự chích ngay trước mặt chúng. Chỉ để đánh lừa chúng và không làm mất vỏ bọc của chúng. Grace biết rõ có rất nhiều người trong số họ trở thành những con nghiện thực sự và bước chân sang phía bên kia hàng rào ranh giới.

- Em phải biết anh đã tìm cách ngăn em chấp nhận công việc đó, - Rutelli trấn an cô. - Nhưng em là một thanh tra trẻ đầy nhiệt huyết và năng nổ lúc nào cũng tin chắc như đinh đóng cột vào công việc của mình.

- Em muốn có ích cho xã hội và có thể mang lại cho con gái em một thế giới an toàn hơn.

- Phải, nhất là em lại cứng đầu và chúng ta đều biết điều đó đã dẫn em đi tới đâu!

- Cuộc sống thường ác nghiệt, - cô nhận xét và nghĩ tới điều đã xảy ra với Jodie sau đó.

- Phải, - ông thừa nhận, - ác nghiệt và ngắn ngủi.

Một nỗi buồn sâu lắng chợt trùm lên hai người cảnh sát. Grace sực tỉnh và tự trách mình đã làm nguội lạnh sự nồng nàn của buổi trùng phùng giữa hai người.

- Đừng lãng phí buổi tối hôm nay, Marko. Anh sẽ đưa em đi đâu đó ăn tối chứ? - cô đề nghị, cố làm cho bầu không khí vui vẻ trở lại.

- Đến bất cứ chỗ nào em muốn.

- Nhà hàng quen thuộc của chúng ta, - cô hóm hỉnh đề nghị.

Họ chạy xe vài phút về phía Bắc và đậu lại ở khu Brooklyn Heights, cách RiverManhattan và cầu Brooklyn. Trước kia, mỗi lần đi tuần trong khu phố, Grace và Rutelli thường nói với nhau rằng một ngày nào đó, nếu khá giả, họ sẽ cùng ăn một bữa trong nhà hàng sang trọng này. Còn trong khi chờ đợi, họ thường mua pizza tại cửa hàng Grimaldi's và quay lại nhấm nháp trong xe. Ăn pizza trong xe chính là cái mà họ vẫn gọi là nhà hàng quen thuộc của họ. Một sự lựa chọn ít tốn kém hơn River Café. Có thể là kém sang trọng hơn, nhưng dù sao đi nữa thì quang cảnh cũng đẹp như thế. Café không xa. Nhà hàng trứ danh, nổi tiếng khắp thế giới này, có một tầm nhìn độc nhất vô nhị bao quát cả

Grace ngồi lại một mình trong xe chờ Rutelli đi mua thức ăn. Ông gõ tay lên kính rồi chui vào xe với một cái hộp bằng bìa.

- Pizza del Mare, nếu anh nhớ không nhầm?

- Trí nhớ của anh rất tốt.

Giống như ngày trước, họ vừa ăn vừa nghe đài, ánh mắt nhìn xa xăm về phía bên kia cầu Brooklyn. Trên đài, Neil Young đang chơi ghi ta những bản tuyệt hay của Harvest Moon. Các tòa nhà chọc trời của khu Hạ Manhattan trải ra trước mắt họ và một lần nữa họ lại có cảm giác như cả thế giới này thuộc về họ. Ở đây, suốt nhiều giờ liền, họ đã thảo luận, vui đùa và tái thiết thế giới.

Giờ khắc thần tiên trôi qua, thế rồi Rutelli liền đặt câu hỏi mà ông giữ trong lòng hồi lâu:

- Liệu em có thể ở lại thêm một thời gian không?

Grace chậm rãi lắc đầu:

- Không được, Marko ạ, điều em đang làm đã khá là vô trách nhiệm rồi...

- Thế khi nào em lại ra đi và đi như thế nào?

Cô kể cho ông nghe chuyện gì sẽ phải xảy ra ngày mai trên cáp treo ở Đảo Roosevelt và một nỗi buồn sâu lắng chợt xâm chiếm Rutelli. Grace tìm cách an ủi ông:

- Anh phải chấm dứt thần tượng hóa em đi. Anh phải học cách sống thiếu em.

- Anh không thể.

- Đương nhiên là anh có thể. Anh còn trẻ, anh có hàng đống ưu điểm. Anh có thể làm lại cuộc đời, xây dựng gia đình và sống hạnh phúc. Và nếu có thể thì xin anh hãy để mắt tới Jodie.

Rutelli đột ngột quay lại phía cô và nhíu mày:

- Thế còn... em thì sao?

- Em, em đã chết rồi, - Grace đáp rất nhẹ nhàng.

Sự thật này, dù thế nào đi nữa, Mark Rutelli cũng không thể chấp nhận được.

- Lẽ ra anh phải đi với em, buổi tối hôm em bị sát hại. Lẽ ra anh phải có mặt ở đó để bảo vệ em và không bao giờ được rời xa em!

- Không, Marko! Không! Anh không việc gì phải tự trách mình. Cuộc sống là như vậy mà.

Rutelli vẫn không thôi hối hận:

- Nếu làm thế thì mọi chuyện đã khác.

Trong một hồi lâu, mỗi người tự thu mình vào một góc riêng tư và chẳng ai nói gì cho tới khi Grace luồn tay vào tóc Mark.

- Anh cần phải đoạn tuyệt hoàn toàn với nỗi đau,- cô thì thầm.

Rutelli chỉ lắc đầu.

- Hãy làm điều đó vì em. Hãy phá bỏ bức tường cô đơn và nghiện ngập mà anh đã xây lên quanh mình.

- Giá em biết được anh nhớ em biết chừng nào, Grace.

Giọng ông lạc đi và ông quay đầu ra chỗ khác để cô không thấy ông đang khóc.

- Em cũng nhớ anh, - cô vừa nói vừa nghiêng người lại gần ông.

Lúc đó, họ cùng quên đi tất cả và cuối cùng thì họ cũng trao nhau nụ hôn đầu tiên.

Họ quay về Bensonhurst sau nửa đêm một chút. Khi đến chân tòa nhà nơi ông ở, Rutelli biết giờ chia tay đã điểm và tim ông thắt lại.

- Em biết đấy, nhất định em phải biết rằng...

Grace dịu dàng ngắt lời ông:

- Em biết, Marko, em biết.

Cô cố đấu tranh để không cho cảm xúc trào lên. Thay vào đó, cô nói bằng giọng bông đùa:

- Anh không mời em một ly cuối cùng sao? Em cứ tưởng anh là người biết cách cư xử với phụ nữ chứ...

Hơi ngượng nghịu, họ bước lên cầu thang và khi cánh cửa khép lại, sự ngượng nghịu của họ hoàn toàn biến mất và họ quấn lấy nhau nồng nhiệt như một cơn lốc xoáy. Cả hai đều biết rằng đêm nay sẽ là đêm của họ và cũng sẽ là đêm cuối cùng.

Họ tận dụng từng giây một. Thời gian không tồn tại nữa. Chỉ có hai con người yêu nhau say đắm, yêu nhau như thể họ sẽ không bao giờ xa nhau.

Sáng sớm hôm sau, Rutelli bị đánh thức bởi tiếng ríu rít của những con chim chích và chim sẻ. Căn hộ vẫn tràn ngập thứ ánh sáng màu xanh dương nhạt. Động thái đầu tiên của ông là quay sang chiếc gối bên cạnh. Không có phép màu nào diễn ra: Grace không còn ở bên ông nữa và ông biết cô sẽ không quay lại.

Ông đứng lên và nhìn qua cửa sổ, ngắm ngày bắt đầu lên.

Ông suy nghĩ hồi lâu về tất cả những gì Grace nói với ông cho tới khi một ý nghĩ chợt lóe lên trong ông như một điều hiển nhiên. Ông cân nhắc mọi hậu quả có thể rồi quyết định.

Khi ông khép cửa sổ lại, trái tim ông tràn ngập một sự thanh thản kỳ lạ.

--- ------ ------ ------ -------

1 Ai đó để bảo vệ tôi. (chú thích của tác giả).
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
610,923
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 30


Khi nghĩ về tất cả những gì đã xảy ra, tôi muốn loại khỏi tâm trí mình ý nghĩ rằng một định mệnh bí ẩn đang dệt những sợi tơ trong cuộc đời chúng ta với một cái nhìn rất rõ ràng về tương lai, mà không hề để ý tới những ước muốn hay dự định của chúng ta.

Theo Matilde Asensi

- Em đi nhé, tình yêu của em.

Sam giật mình thức giấc. Juliette, trẻ trung và nhí nhảnh, hôn chụt vào cổ anh và đặt một khay đồ ăn sáng lên giữa giường.

Anh ngồi phắt dậy.

- Em đi đâu thế? - anh hỏi và lo lắng nhìn cô chuẩn bị đi.

- Colleen, cô bạn cùng phòng cũ của em, chuyển đi hôm nay. Em tới giúp cô ấy một tay.

Chỉ trong nháy mắt anh bật dậy, ngạc nhiên và bực bội vì đã không dậy sớm hơn. Sao anh lại có thể ngủ say như chết với một mối lo thắt ruột thắt gan cơ chứ?

- Nhưng..., - anh ấp úng, - anh tưởng chúng ta sẽ ở với nhau cả buổi sáng hôm nay...

Đến đầu giờ chiều, anh sẽ chết!

Cô chìa cho anh một chiếc bánh sừng bò đã phết mứt. Anh không thể rời mắt khỏi cô được nữa. Cô nhìn anh mỉm cười, sung sướng vì được anh quan tâm nhiều như vậy. Mọi thứ ở cô đều rạng rỡ. Vết sữa chua uống mà cô quên chưa chùi vạch trên mép cô một hàng ria trắng mịn và ánh mặt trời buổi sớm như dát vàng lên tóc cô.

Ai đó nhấn hai hồi còi ngay bên dưới cửa sổ.

- Colleen đấy, - Juliette nói khi nhìn qua cửa kính. - Em đã bảo cô ấy tới đây đón em.

Cô cài khuy áo măng tô lại và vớ lấy chiếc khăn quàng cổ sặc sỡ màu sắc.

- Chờ thêm chút nữa đã! - Sam van vỉ.

Anh đuổi kịp cô ngoài cửa và cầm lấy bàn tay cô. Cô hôn anh và anh vùi đầu vào cổ cô, hít lấy mùi hoa và mùi anh đào trên người cô.

- Em chỉ đi có bốn tiếng thôi, anh yêu, - cô nói vẻ chòng ghẹo khi thấy anh tỏ ra háo hức như vậy.

Còn anh, anh sẽ ra đi mãi mãi!

Vậy là cô đã vuột khỏi tầm tay anh. Sẽ chẳng bao giờ anh được gặp lại cô nữa. Anh không nghĩ điều đó lại xảy ra như vậy, quá nhanh. Liệu cô sẽ giữ kỷ niệm gì về anh? Họ đã có quá ít thời gian ở bên nhau. Anh còn muốn nói với cô biết bao điều; anh còn muốn cô hiểu anh nhiều hơn; anh còn muốn...

Nhưng có thể như thế đối với cô mọi chuyện sẽ bớt nặng nề hơn.

Anh miễn cưỡng buông tay cô ra.

Cô gái mở cửa và bước xuống thang. Sam nhìn theo cô ra tới phố và thấy cô chui vào trong chiếc xe Chevy cổ của Colleen. Chiếc xe nổ máy và rẽ ở góc đường. Qua lớp kính, Juliette huơ chiếc điện thoại lên và Sam kịp đoán ra được hai câu ngắn ngủi lướt qua trên môi cô.

Câu đầu tiên: em sẽ gọi anh.

Và câu thứ hai: em yêu anh.

° ° °

Sau khi đã dậy và mặc quần áo, Sam phi ngay tới bệnh viện để thực hiện các cuộc kiểm tra cho phép hoàn thành hợp đồng bảo hiểm. Hôm trước, anh đã báo với Janice Freeman rằng anh sẽ tạt qua và mọi thứ được tiến hành trong chưa đầy một tiếng. Vừa gửi fax các kết quả cho ngân hàng, anh vừa có một cảm giác hài lòng cay đắng rằng anh sẽ chết trong tình trạng sức khỏe tuyệt vời.

Nếu chỉ vì bản thân, có lẽ anh đã ở lại làm việc và tìm cách sử dụng những giờ cuối cùng này sao cho có ích nhất. Từ khi anh đứng dậy, một nỗi lo lắng vô hình cứ bám theo anh và anh sợ phải ở một mình. Nhưng Janice Freeman hoàn toàn không biết gì về những lo lắng của anh nên đã tống cổ anh ra ngoài và khuyên anh nên tận dụng kỳ nghỉ bắt buộc.

Bên ngoài, ánh mặt trời phản chiếu trên tuyết khiến cả thành phố như bừng lên trong hàng ngàn ánh lửa. Trên vỉa hè, anh cố tình va phải những người đi đường. Anh cảm thấy mình như một giọt nước ở giữa một con sóng: như một con người ở giữa đồng loại của mình. Mối liên hệ mặc nhiên ấy khiến anh bình tĩnh lại, và đứng giữa dòng người, nỗi sợ của anh giảm nhẹ hẳn đi.

Anh bước thật nhanh cho ấm người, thích thú khi nghe thấy tiếng tuyết rạn răng rắc dưới chân. Anh dừng lại ở Portobello Café, ngồi vào bàn và gọi một tách cappuccino.

Trước lúc ra đi, anh còn một việc quan trọng nữa cần làm: thực hiện một lời hứa. Anh bấm di động gọi số của Trung tâm Butterfly tại thành phố Hartford, một trung tâm cai nghiện chuyên đón nhận các bệnh nhân thanh thiếu niên. Đúng như anh dự đoán, danh sách chờ đã kín cho cả sáu tháng sắp tới và phí gia nhập trung tâm lên đến hơn mười ngàn đô la. Sam cố hết sức bảo vệ trường hợp của Jodie, nhấn mạnh tới chấn động tinh thần mà cô bé vừa trải qua và sự cần thiết của việc cho cô bé gia nhập chương trình. Sau hai mươi phút đồng hồ, sự kiên nhẫn của anh đã được đền đáp và trung tâm chấp nhận điều trị cho cô bé với điều kiện toàn bộ chi phí trong suốt quá trình điều trị phải được thanh toán ngay trong ngày. Ngay tức khắc, Sam gọi điện tới ngân hàng và yêu cầu tra số dư trên tài khoản của anh. Vị trí bác sĩ trong một bệnh viện công của anh mang lại cho anh một khoản thu nhập quá ít ỏi so với mức lẽ ra anh có thể kiếm được nếu mở phòng khám tư và anh chỉ vừa trả xong khoản vay cho chi phí học đại học.

- Anh còn mười một ngàn ba trăm hai mươi đô la, - nhân viên ngân hàng thông báo.

Không đắn đo, anh yêu cầu chuyển số tiền này vào tài khoản của Trung tâm Butterfly và để lại tin nhắn cho bộ phận xã hội của bệnh viện để thông báo với họ việc anh vừa làm.

Đây là cử chỉ cuối cùng của mình với tư cách bác sĩ... anh nghĩ và cảm thấy tim mình se lại.

Tuy nhiên, anh cố gắng không nghĩ quá nhiều về chuyện đó và đưa mắt nhìn một lượt quanh phòng.

Sáng nay, anh quan sát những người xung quanh mà không hề cảm thấy chán. Anh ước gì có thể dừng lại và nói với mỗi người một câu. Bất cứ chi tiết nhỏ nhặt nào đối với anh cũng đầy ý nghĩa và vô cùng đẹp đẽ: những tia nắng mặt trời xuyên qua kính, những tiếng cười giòn giã quanh các bàn ăn, mùi cà phê và bánh ngọt... Tại sao anh lại chờ tới khi đến ngưỡng cửa tử rồi mới quan tâm đến những điều nhỏ bé đang làm nên hương vị cuộc sống này nhỉ?

Anh ngước mắt nhìn đồng hồ treo tường, lo lắng khi thấy từng giây đồng hồ đang trôi qua nhanh quá. Như vậy là kết thúc rồi ư? Anh đã biết được gì về cuộc sống? Chẳng có gì nhiều. Anh nghĩ tới những đất nước mà anh chưa từng đặt chân đến, những trang sách anh chưa từng lật ra, những dự định mà anh vẫn hoãn đến sau này...

Sam rời quán cà phê, trong lòng buồn bã. Trong đầu anh, hình ảnh về những ngày mới đây đang diễn ra rất nhanh. Anh cố tìm ý nghĩa của những sự kiện vừa rồi nhưng vô ích. Tại sao anh lại có cảm giác đã bỏ qua điều gì đó quan trọng nhỉ?

Trong khi nghĩ ngợi, chợt anh nhớ tới một sự cố nhỏ khiến anh bàng hoàng và có thể anh đã không quan tâm tới như lẽ ra anh phải làm. Anh đi đến chỗ giao nhau giữa Đại lộ Hai và Đường số 34. Rất nhiều taxi đang chờ khách. Anh giơ tay vẫy một chiếc.

Anh phải tới gặp Shake Powell lần cuối.

Khi thấy Sam từ taxi bước ra, Shake chẳng hề ngạc nhiên về việc bạn tới thăm. Từ hai ngày nay, anh vừa mong lại vừa không muốn gặp bạn. Trước nhà thờ, với sự giúp đỡ của một tình nguyện viên, anh đang chất những thùng đựng thực phẩm lên chiếc xe tải nhỏ của một trung tâm dành cho những người vô gia cư trong thành phố.

- Cậu cần thêm người giúp không? - Sam đề nghị.

- Đây không phải là công việc dành cho những người ẻo lả đâu, - Shake cảnh báo.

- Cậu có muốn biết người ẻo lả sẽ nói gì không? - bác sĩ trả lời và túm ngay lấy cái thùng nặng nhất.

Ba người đàn ông im lặng làm việc và chẳng mấy chốc những chiếc thùng la liệt đã được xếp gọn gàng. Trước khi đóng cửa sau xe, Shake tống thêm vào mấy cái chăn và một túi đựng các dụng cụ vệ sih.

- Đi từ từ thôi nhé, Chuckie! - anh gọi với theo khi nhìn chiếc xe đi xa dần, đó là một chiếc cam nhông cổ lỗ sĩ lẽ ra phải chết mục từ thời Ronald Reagan rồi.

Anh chàng tình nguyện viên đáp lại lời nhắc nhở của anh bằng hai hồi còi. Tạm yên tâm, Shake quay sang Sam.

- Chuyện gì xảy ra vậy, anh bạn? Trông cậu có vẻ như đang gặp trục trặc.

- Cho tới tách cà phê.

Hai người lên căn hộ. Trong khi Shake loay hoay cạnh cái máy pha expresso cổ, Sam nhìn vào hình thánh giá xăm trên mặt trước cánh tay bạn, vẻ đăm cô hiêu.

- Tớ chưa bao giờ thấy ông ấy, - anh khẳng định bằng giọng tỏ rõ sự bực tức.

- Ai cơ? - Shake hỏi khi mang cà phê tới.

- Chúa chết tiệt của cậu ấy. Tớ chưa bao giờ thấy ông ấy. Cả trong khu phố khi tớ còn là đứa trẻ, cả trong bệnh viện của tớ, lẫn trong bất cứ đất nước chiến tranh nào tớ từng tới...

- Thế mà Chúa có mặt đấy, - linh mục vừa nói vừa mở cửa sổ. - Cậu phải học cách nhìn cho kỹ hơn, anh bạn ạ.

Sam liếc mắt nhìn ra ngoài cửa kính.

Hai đứa trẻ, một trai và một gái đang chơi trên sân bóng rổ. Đứa con trai da đen, đứa con gái châu Á, chúng chưa đầy mười tuổi. Đứa con gái đang vẽ ô lò cò bằng phấn trong khi đứa con trai đang tập ném bóng cho thật căng. Chỉ một lát nữa thôi, một lũ trẻ cao lớn hơn, khỏe mạnh hơn sẽ tới để chiếm bãi đất này và đuổi hai đứa bé kia đi. Thế nhưng trong chút xíu thời gian còn lại đó, sân chơi vẫn thuộc về chúng. Thằng bé mập mạp và nhỏ con đến nỗi quả bóng nom có vẻ khổng lồ khi được nó ôm chặt trong tay. Mặc dù rất cố gắng song nó vẫn không đưa được bóng vào rổ lần nào, nhưng điều đó không hề ngăn cản đứa bạn nó liên tục động viên nó đầy tình cảm. Chỉ sau vài phút, chắc chắn nó đã nhận thấy rằng sau khi cố gắng là lúc phải được an ủi. Bất chấp trời lạnh, nó vẫn ngồi lên bức tường thấp bao quanh sân vận động, lôi từ trong túi ra một cái bánh sô cô la và bẻ một nửa cho đứa bạn trong khi con bé này cười như nắc nẻ.

Sam quay về phía bạn.

- Đẹp thật đấy, nhưng đối với tớ vẫn chưa đủ, - anh nói.

- Cậu thấy chưa đủ?

- Chưa.

Câu trả lời của anh rất rõ ràng và đanh thép. Shake thở dài:

- Thế cậu còn muốn gì nữa?

- Hiểu.

- Hiểu gì?

- Ý nghĩa của tất cả những chuyện này: những cuộc chiến tranh vô nghĩa, những căn bệnh không thể điều trị được, những cuộc khủng bố bất thình lình...

- Cậu làm tớ bực mình rồi đấy, Sam. Chúa không phải là Siêu nhân. Cậu là người rất yêu tự do, cậu phải cảm thấy sung sướng vì được quyền tự do lựa chọn chứ. Cậu sẽ nói gì nếu có một ngoại lực cứ luôn can thiệp vào mọi chuyện trong cuộc sống của cậu để sửa chữa hậu quả của mọi hành động do cậu gây ra?

Sam nhún vai ra hiệu rằng những luận điểm này vẫn không thuyết phục được anh.

- Chúng ta được tự do làm điều tốt cũng như điều xấu, - Shake nhận xet.sẽ - Đúng là càng tự do bao nhiêu thì những lựa chọn càng trở nên phức tạp bấy nhiêu nhưng chúng ta không được quyền trách móc Chúa vì đã trao tự do cho chúng ta.

Shake đứng lên và châm một điếu xì gà. Ngửi mùi khói, Sam đoán trong đó không chỉ có thuốc.

- Chuyện gì xảy ra với cậu vậy?

- Tớ sợ Shake ạ.

- Vì sao?

- Vì tớ sắp chết.

- Cậu đừng có nói nhảm!

Một cơn gió khiến cánh cửa bật ra. Sam đứng dậy đóng nó lại. Mặt trời đã biến mất. Những đám mây đen đang bay rất nhanh về phương Bắc và bỗng dìm cả căn phòng vào bóng tối. Shake muốn bật đèn nhưng bóng đã vỡ.

- Tớ phải đi đây.

Sam chuẩn bị bước xuống cầu thang thì Shake kéo tay anh lại.

- Khoan đã!

- Gì thế?

- Lần trước tớ chưa nói hết cho cậu...

Bị chặn lại, Sam ngồi phịch xuống bậc thang. Dù anh sợ phải nghe thấy điều bạn mình sắp tiết lộ song anh vẫn gợi chuyện.

- Cậu biết cô ấy, đúng không? Chính vì vậy mà cậu gọi điện đến bệnh viện cho tớ.

- Grace Costello hả? Phải, - Shake thở dài, - tớ đã gặp cô ấy.

- Khi nào?

- Cách đây mười năm.

- Vào năm cô ấy chết?

Shake lặng lẽ gật đầu thừa nhận.

- Trong vụ nổ súng với Dustface, cậu tưởng cậu đã giết một khách hàng của gã ma cô, đúng không?

- Phải, - Sam khẳng định. - Lúc đó tối quá và tớ cũng chỉ nhìn thấy sau lưng, nhưng tớ còn nhớ đó là một người đàn ông đội mũ lưỡi trai.

- Đó không phải là một người đàn ông, Sam ạ.

Bác sĩ vẫn không chịu hiểu vấn đề.

- Cậu nói thế nghĩa là sao?

- Vài giây sau khi cậu rút ui, Dustface đã bỏ trốn khi nghe thấy tiếng ô tô. Hắn tưởng đó là cảnh sát, nhưng thực ra là tớ. Federica lo cho cậu và cô ấy đã gọi điện báo cho tớ.

- Tớ biết tất cả những chuyện đó rồi.

Như những cảnh phim chớp nhoáng, kỷ niệm của hai người đàn ông lại trỗi dậy một cách rõ ràng kỳ lạ. Sống lại trong tâm trí cái đêm khủng khiếp ấy, họ như thấy cả bầu không khí, nhiệt độ lẫn mùi sợ hãi mà lúc đó họ ngửi thấy.

Shake nói tiếp:

- Khi bước vào trong phòng, ngay lập tức tớ hiểu ra rằng mọi chuyện đã nát bét. Tớ muốn bảo vệ cậu Sam ạ.

- Cậu đã bảo tớ bỏ trốn bằng xe của cậu. Tớ không hề muốn, nhưng cậu gào thét quyết liệt đến nỗi cuối cùng tớ cũng phải đi, - Sam đau đớn nhắc lại, trong lòng vẫn bị nỗi ân hận ám ảnh gặm nhấm.

- Đó là điều phải làm, - Shake khẳng định. - Nếu một người như cậu bị tống vào tù hai mươi năm thì thế giới này quả là tuyệt vọng rồi. Cậu cần phải học cho xong. Điều đó là ưu tiên số một. Đối với cậu cũng như đối với Federica và tất cả chúng ta.

- Có thể...

Shake tiếp tục:

- Tớ ở lại một mình trong căn phòng. Tớ cũng hơi sợ nhưng tớ biết mình có thể kiểm soát được điều đó. Tớ chỉ cần làm cho cái xác biến mất thôi. Tớ quỳ xuống bên cạnh cái xác đang nằm úp mặt xuống đất và lật nó lại. Đó là một phụ nữ...

Sam sững sờ.

- Tớ lục tìm trong túi áo cô ta: cô ta không có ví, nhưng tớ tìm thấy chìa khóa xe của cô ta. Tớ ra khỏi khu nhà và chẳng mấy chốc thì tìm thấy chiếc xe. Tớ không được để chiếc xe đó nằm ngoài đường, nếu không cảnh sát sẽ điều tra Bedford. Tớ đã mang thi thể người phụ nữ ấy ra tận xe và lái nó đi thật xa khỏi chỗ đó để chắc chắn rằng người ta không bao giờ lần ra được cậu.

Sam ngơ ngác không tin, không thể thốt nổi câu nào.

Shake kết thúc câu chuyện đang kể:

- Chỉ sau này, khi đọc báo tớ mới biết người phụ nữ đó: cô ấy tên là Grace Costello và cô ấy là cảnh sát. Từ đó tớ kết luận chắc cô ấy đang thi hành công vụ bằng cách trà trộn vào đám buôn ma túy để tìm bằng chứng vạch tội chúng.

Khuôn mặt Shake lúc này đầy những nếp nhăn, như thể việc khơi dậy những kỷ niệm đó đã khiến anh già đi nhiều tuổi.

Sam vẫn đang trong cơn sốc. Chân tay anh run lên và nhịp tim anh tăng rất nhanh.

Shake đặt tay lên vai bạn:

- Cậu có biết vì sao tớ lại cắt bài báo nói về cậu trong tờ New York Times ra không? Đó là để chỉ cho lũ trẻ trong khu phố đọc và nói với chúng: "Các con thấy người đàn ông đã trở thành bác sĩ này rồi đấy, chú ấy cũng sinh ra ở đây như các con, chính trong cái khu phố tồi tệ này. Chú ấy không có cha còn mẹ chú ấy đã bỏ đi ngay khi chú ấy vừa lọt lòng. Thế mà chú ấy vẫn thành công. Chú ấy thành công bởi chú ấy tự tạo được cho mình phương tiện và bởi chú ấy không nghe cái lũ ngu xuẩn luôn tìm cách hướng chú ấy đi sai đường. Chú ấy tên là Sam Galloway và là bạn của cha đấy."

- Cảm ơn cậu, - Sam trả lời.

- Cả hai chúng ta đều đã làm điều mà chúng ta nghĩ nên làm, - Shake quyết liệt khẳng định. - Và tớ không thấy chúng ta mắc nợ gì với bất cứ ai trên mặt đất này.

- Với cô ấy, Shake ạ, với Grace Costello...

Trong đầu Sam, câu nói này vang lên như một mệnh lệnh.

Anh nhìn đồng hồ: Grace hẹn anh lúc 13h và bây giờ đã gần trưa.

- Tớ phải đi đây, - anh vội vã thông báo.

Anh bước gần như chạy ra phố trong khi Shake tìm cách giữ anh lại.

- Cậu đi đâu vậy? - anh lo lắng hỏi. - Cậu định đi gặp cô ấy, đúng không?

Rất may là Sam đã dặn chiếc taxi đợi anh. Anh lên xe ngồi hàng ghế phía sau.

- Tớ sẽ đi với cậu! - Linh mục quyết định.

- Không, Shake. Lần này tớ sẽ đi một mình!

Sam đóng sập cửa, nhưng lại hạ kính xuống và tìm cách trấn an bạn.

- Cậu đừng lo. Tớ sẽ gửi tin tới cậu.

Chiếc xe khởi động và lao gấp về hướng Manhattan, để lại Shake Powell trên bậc thang nhà thờ, vẫn băn khoăn không biết phải hiểu câu cuối này như thế nào.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
610,923
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 31


Thế gian khiến tôi lúng túng và tôi không thể nghĩ rằng

Chỉ có đồng hồ treo tường mà không có người thợ đồng hồ.

Voltaire

12h01

Chiếc taxi chạy chậm lại khi tới đầu cầu Brooklyn.

- Nhanh nữa lên! - Sam ra lệnh.

Người lái xe nhún vai và chỉ vào dòng xe đang chầm chậm lăn bánh vì thời tiết quá xấu.

Lần thứ hai trong vòng một tuần, New York chuẩn bị hứng chịu một trận bão tuyết rất mạnh. Gió thổi ào ào và nhìn những đám mây đen đang cuốn quanh đỉnh những tòa nhà chọc trời, khó mà có thể tin được rằng sáng nay trời từng có nắng.

Trên ghế sau xe, Sam lục tìm trong túi lấy ra bao thuốc lá. Chỉ còn một điếu.

Điếu thuốc cuối cùng của kẻ bị kết án, anh vừa châm thuốc vừa nghĩ.

Người lái xe đưa anh trở về thực tại bằng cách chỉ vào tấm biển No Smoking.

- Please, sir!

Sam hạ kính xuống nhưng vẫn không dập điếu thuốc.

Lời tự thú của Shake khiến anh chấn động mạnh, song nó cũng làm mọi thứ trở nên sáng tỏ: chính anh đã giết Grace và giờ đến lượt anh chuẩn bị chết. Nếu như sự thật này khiến anh chìm trong đau đớn, thì đồng thời anh cũng hiểu được rằng cái giá phải trả cũng tương xứng với tội ác mà anh đã gây ra. Như vậy, Grace quay lại để trả thù. Điều đó có vẻ hợp lý, song anh vẫn phải biết rõ ràng mọi chuyện.

- Anh có điện thoại di động không? - anh hỏi người lái xe.

- Di động ư? - anh chàng người Pakistan nhắc lại và làm như không hiểu.

- Phải, một chiếc điện thoại cầm tay ấy, - Sam giải thích.

- No, sir.

Sam thở dài, rồi rút một tờ hai mươi đô la từ trong ví ra và áp chặt vào tấm kính của khoang lái.

- Chỉ một cuộc gọi thôi!

Người lái xe chụp lấy tờ tiền và chìa cho anh một cái điện thoại nhỏ màu bạc vừa xuất hiện như có phép màu trong hộp đựng găng tay.

Khi đồng tiền đi trước, mọi cánh cửa đều mở ra, Sam vừa ngâm nga vừa cầm lấy điệnt hoại.

Anh bấm số của chính mình và như đã định, chính Grace trả lời:

- Anh vẫn chưa quên cuộc hẹn của chúng ta, Sam...

- Cô đừng lo...

Anh đang giận cô và cũng không hề che giấu:

- Cô biết mọi chuyện sẽ kết thúc như vậy rồi, phải không?

- Anh nói gì vậy?

- Tất cả những chuyện liên quan tới Juliette chỉ là cái cớ, là cách để làm tôi chú ý tới cô. Ngay từ đầu, cô đến là vì tôi, để trả thù...

- Nhưng tôi trả thù gì chứ, Sam?

Bàng hoàng, bác sĩ nhìn qua kính cửa. Bầu trời xám xịt như tro và tuyết lúc này rơi thành từng bông rất to. Grace đang giả vờ ngạc nhiên hay cô thực sự không biết ai đã giết cô? Anh tiếp tục dồn:

- Cô thôi diễn kịch đi, cô biết thừa vì sao người ta lại chọn cô cho nhiệm vụ lần này.

- Không! - cô thề.

Thấy cô vẫn tiếp tục chối, Sam kinh hãi hiểu rằng Grace không hề nói dối và chính anh sẽ phải nói cho cô biết điều đó.

Nhưng anh không biết phải bắt đầu thế nào. Không thể như thế này được! Không thể nói qua điện thoại! Anh ước gì mình đang đứng trước mặt Grace để có thể nhìn thẳng vào mắt cô, song lại không thể cho phép mình trì hoãn. Thế là bằng giọng run rẩy, anh nói:

- Người đàn ông bắn cô, cách đây mười năm..., cái người phải chịu trách nhiệm về cái chết của cô cũng như về tất cả những bất hạnh mà người thân của cô phải chịu...

Anh dừng lại một vài giây, như để lấy hơi, trước khi thú nhận:

- Người đó... chính là tôi.

Vì cô vẫn yên lặng, anh nói thêm:

- Tôi muốn bắn Dustface và tìm cách cứu cô nhưng tôi đã bắn trượt.

Sam cảm nhận được hơi thở ở đầu dây bên kia.

- Tôi rất ân hận, Grace! Ân hận vì tất cả những gì đã xảy đến với cô!

Hơi thở trở nên dồn dập rồi bật thành từng tràng nức nở. Dù Grace không nói gì, Sam vẫn có thể cảm nhận được sự đổ vỡ trong cô. Anh chỉ nhắc lại một câu: "Rất ân hận".

Rồi đường dây bị cắt.

12h07

Vì tuyết rơi dày nên lúc này chiếc taxi bị mắc kẹt ở cửa ngõ Manhattan. Những chiếc xe nối đuôi nhau chạy sát nút trong tiếng còi rền vang như một bản hòa tấu. Sam cố tìm cách gọi lại cho Grace nhưng cô đã tắt máy. Anh xem đồng hồ, anh còn một chút thời gian nữa trước khi đến 13h. Cùng lắm, nếu xe không thể chạy được, anh sẽ xuống một trạm tàu điện ngầm nào đó khi đi vào downtown. Nhưng có điều gì đó khiến anh cứ bị dằn vặt: nếu không phải Grace quay lại để trả thù thì chẳng phải cô đã nhượng bộ quá dễ dàng khi anh đề nghị thế chỗ cho Juliette hay sao?

Anh cảm thấy như mình vẫn bỏ sót một chi tiết trong bức tranh ghép hình, dù anh không biết đó là miếng ghép nào. Chẳng giúp gì được thêm cho anh, một cơn đau đầu như búa bổ lại còn hành hạ anh từ lúc anh chia tay với Shake. Anh vùi đầu vào hai bàn tay, lấy hai ngón cái bít chặt lỗ tai và cố gắng suy nghĩ. Trong các chi tiết có gì đó kỳ quái, anh biết vậy. Rất kiên nhẫn, anh điểm lại từng sự kiện một đã diễn ra trong những ngày vừa qua: buổi gặp mặt đầu tiên với Grace tại công viên Trung tâm, bài báo ra ngày hôm sau thông báo tin Juliette còn sống, cuộc tranh cãi của họ về vấn đề định mệnh không thể nào thay đổi và chẳng nên chống đối lại làm gì, bức thông điệp từ thế giới bên kia được Angela gửi tới thông qua những hình vẽ, vụ tai nạn cáp treo được tường thuật trong mục tin thời sự của một trang web ma, câu nói mà Grace vẫn nhắc đi nhắc lại: đôi khi có những thứ người ta chẳng thể làm gì để thay đổi được.

Chính điều đó khiến anh thấy băn khoăn: nếu không thể làm gì để thay đổi trật tự các sự vật, thì tại sao Grace lại chấp nhận để anh ra đi thay cho Juliette? Điều này thật vô lý.

Rồi bỗng nhiên một chi tiết nảy ra trong tâm trí anh. Khi Grace cho anh xem trang web viết về trước tai nạn cáp treo, anh gần như chắc chắn giờ được nhắc đến trong bài báo đó là 12h30. Vậy mà Grace lại hẹn anh lúc 13h!

Lần này thì mọi thứ đều khớp cả. Grace đã đánh lừa anh bằng cách cố tình hẹn anh sai giờ. Cô hiểu rõ anh sẽ không bao giờ bỏ rơi Juliette và anh sẽ làm mọi thứ để chống lại việc Juliette phải chết. Để đánh lạc hướng sự cảnh giác của anh, cô đã để anh tin rằng cô chấp nhận sự hy sinh của anh. Anh đã tin cậy cô, nhưng cô lại không giữ lời.

Và giờ thì Juliette đang gặp nguy hiểm.

12h12

Nếu tai nạn phải xảy ra lúc 12h30 thì anh còn không đầy mười phút.

Anh ngang nhiên với lấy chiếc điện thoại của gã taxi driver... - Này! Anh đã hứa là sẽ chỉ gọi một cuộc thôi cơ mà! - ... để bấm số di động của Juliette.

Một hồi chuông.

Hai hồi chuông.

Ba hồi chuông.

"Xin chào, bạn đang gọi vào số của Juliette Beaumont, hãy để lại lời nhắn và tôi sẽ..."

Quỷ tha ma bắt cái hộp thư thoại.

12h14

Lại một lần nữa anh xem đồng hồ. Quá muộn rồi. Anh sẽ chẳng bao giờ đến đó kịp dù có đi bằng tàu điện ngầm chăng nữa.

Chiếc taxi vẫn chết gí giữa làn xe và chưa qua được Astor Place vì tuyết rơi mỗi lúc một dày thêm. Hoảng loạn và bất lực, Sam chẳng biết phải làm gì. Anh chìa một tờ năm mươi đô la ra cho người lái xe và yêu cầu anh ta chạy thẳng lên vỉa hè. Một chùm chớp lóe lên trên bầu trời, tiếp theo là một tràng sấm động. Anh ngước mắt nhìn lên và ngạc nhiên trước cơn dông tuyết này. Hôm nay đến cả thời tiết cũng phát điên mất rồi!

Anh nhìn ra xung quanh. Anh phải thửm làm gì đó, nhưng làm gì bây giờ? Một chiếc xe mô tô địa hình len lỏi giữa những chiếc xe hơi đã thu hút sự chú ý của anh. Không suy nghĩ gì, anh nhảy thẳng ra giữa đường. Người lái mô tô phanh két trước mặt anh. Bánh sau của chiếc Suzuki trượt dài khiến nó khựng lại rồi đổ nghiêng.

- Anh bị điên à! - người lái mô tô hét lên.

Sam bước lại gần anh ta, nhưng thay vì đỡ anh ta lên, anh lại đẩy anh ta về phía sau để làm anh ta mất thăng bằng.

- Thành thật xin lỗi, - anh nói, - nhưng tôi không có thời gian giải thích với anh.

Trong nháy mắt, anh đã đoạt lấy chiếc xe. Anh nhảy lên xe, nhấn nút khởi động và động cơ bắt đầu rung lên.

- Đồ khốn, xe vẫn đang chạy rô đa đấy! Nhưng Sam đã đi xa rồi.

12h17

Nhẹ và dễ lái, chiếc xe mô tô lạng lách trong dòng xe với tốc độ đáng kinh ngạc. Đưa mắt sang phải, liếc mắt sang trái: Sam cố gắng tập trung để khỏi gây tai nạn. Từ lúc này trở đi, mỗi giây phút đều vô cùng quý giá. Từ tập trung lái xe, anh vừa suy nghĩ việc mình nên làm. Anh chỉ còn một cơ may cuối cùng để cứu sống Juliette với điều kiện anh phải tìm thấy cô ngay lập tức.

12h19

Cô đã nói với anh là cô sẽ ở nhà Colleen tới đầu giờ chiều. Anh phải tới đó tìm cô. Anh vẫn nhớ địa chỉ mà cô đã cho anh: một tòa nhà nhỏ ở cuối Công viên Morningside. Anh đưa mắt nhìn kính chiếu hậu, bật xi nhan rồi tăng tốc vượt qua mấy chiếc ô tô và lao về phía Bắc.

Hồi anh 16 tuổi, Shake mua một chiếc mô tô cũ 125 phân khối và Sam đã giúp bạn tân trang cho chiếc xe. Suốt mùa hè, hai người đã chơi trò đua xe tính thời gian vòng quanh khu phố.

Đó là điều anh nghĩ tới khi chạy trên đường Broadway, Columbus Circle và phía Tây Công viên Trung tâm...

12strong1

Khi tới Công viên Morningside, anh dễ dàng tìm thấy tòa nhà Colleen ở. Anh đưa mắt tìm tên chủ nhà trên các hộp thư và biết cô ở tầng sáu. Thang máy? Không, đi bộ. Bất chấp vết thương, anh leo bốn bậc thang một, dần dần lấy lại hy vọng. Lên đến cửa, anh đập thình thình như chuẩn bị phá cửa lao vào. Colleen, tay cầm chổi sơn, mặc chiếc áo phông của trường đại học Columbia và quần bò yếm. Một bím tóc vàng dài buông ra từ chiếc mũ lưỡi trai bóng chày.

- Juliette đâu? - anh vừa gào lên vừa túm lấy hai vai cô.

Cô nhìn anh như thể anh là một gã điên trong cơn cuồng nộ.

- Nhưng chuyện gì xảy ra với anh vậy, Sam?

- JULIETTE ĐÂU? - anh vừa nhắc lại vừa lắc người cô.

- Cô ấy đi rồi, - cô vừa nói vừa đẩy anh ra.

- Khi nào?

- Cách đây mười lăm phút. Có ai đó đến tìm cô ấy.

- Ai?

- Tôi không biết... Một phụ nữ. Juliette có vẻ quen biết cô ấy và hai người họ đã đi cùng nhau.

Trông người phụ nữ đó như thế nào?

- Tóc nâu, khoảng ba mươi lăm tuổi, mặc áo da và...

Grace!

- Họ đã đi đâu?

- Tôi chịu.

Chết tiệt!

12strong4

Anh chạy xuống cầu thang còn nhanh hơn cả khi leo lên. Gần như đứt hơi, anh nhảy lên mô tô và lao về hướng cáp treo.

Những lo sợ của anh đúng là có cơ sở: Grace đã đến tìm Juliette để đưa cô đi cùng.

Hai tay bấu chặt lấy ghi đông, anh chạy nhanh hết mức. Anh đã cởi tung áo măng tô và cái lạnh tê tái khiến xương anh như đang đóng băng lại. Những bông tuyết mắc vào tóc anh và nhảy múa trước mắt anh. Anh gần như không thấy đường nữa mà chỉ chạy theo cảm tính.

12strong5

Anh vòng qua Công viên Trung tâm theo hướng Bắc rồi đi dọc xuống Đại lộ số Năm. Anh vừa chạy qua MOMA nhưng lại quành lại để lao vào một đoạn đường mà anh nghĩ là lối tắt xong rốt cuộc lại là đường một chiều. Anh xông vào đi ngược chiều mất vài chục mét, mấy lần lao cả lên vỉa hè và lĩnh hàng chục cú còi xe ầm ầm nhắc nhở song anh vẫn tiếp tục cuộc chạy đua điên cuồng.

Mặt đất trơn tuột như trên sân băng và anh vô cùng sợ phải dùng tới phanh.

12strong6

Anh lao ra quảng trường Grand Army Plaza với vận tốc hơn một trăm cây số trên giờ. Gió thổi bạt đi nhưng Sam vẫn giữ được thăng bằng. Anh bị một chiếc xe cảnh sát đuổi theo và quyết định không dừng lại. Anh gần đến đích rồi. Anh vừa rẽ sang hướng Đông gần Trump Tower thì một cơn mưa đá đổ ập xuống thành phố. Trong vòng chưa đầy một phút, một lượng khổng lồ những viên đá băng chồng chất trên mặt đất, đập ầm ầm vào vỏ xe, làm vỡ tung các lớp kính chắn, gây nhiều thiệt hại nghiêm trọng cho các cột đèn đường và các loại tủ kính.

Và chỉ trong một phút, cả con phố bị biến thành sân trượt băng và việc giữ thăng bằng cho chiếc xe chẳng mấy chốc trở thành việc vô cùng khó thực hiện. Sam thử bóp phanh nhưng chiếc xe trượt dài vài mét rồi lao thẳng vào một chiếc ô tô dang đậu bên đường.

12strong7

Anh đứng dậy.

Quần anh đã bị rách toạc, khuỷu tay anh rớm máu và vai anh đau như xé. Nhưng anh vẫn đi bộ được. Anh bỏ lại chiếc xe trên vỉa hè rồi chạy nốt vài trăm mét cuối cùng trong chừng mực chân anh có thể chịu được.

12strong8

Sam lao lên bến cáp treo, nằm ở điểm giao nhau giữa Đại lộ số Hai và Đường số 60.

Khi thời tiết bình thường, đường tàu điện treo Đảo Roosevelt sẽ chở khách đi từ Manhattan đến đảo Roosevelt, qua sông East River. Nhưng vì lý do có bão, người ta đã giăng dây an toàn quanh bến với tấm biển lớn màu vàng có in hình một chiếc đầu lâu.

Song một khoang cáp cuối cùng vẫn chuẩn bị rời bến dù bên trong không có hành khách.

Có điều trong khoang không hẳn không có hành khách...

12strong9

Từ chỗ anh đứng, Sam nhìn thấy rất rõ bóng hai người hành khách.

- Juliette! Grace! - anh vừa gào to vừa bước về phía bến.

Nhưng đã quá muộn. Các cánh cửa tự động vừa khép lại và khoang cáp bắt đầu dâng dần lên cao.

- Phải dừng ngay khoang cáp đó lại! - anh hét lên để át đi tiếng gió và tiếng đá rơi.

Nhưng chẳng có ai nghe thấy tiếng anh.

Bất lực, anh ngã khuỵu gối xuống, mắt vẫn dán chặt vào khoang cáp đang dần dần bay lên trời...

Những tràng sấm rền vang kéo theo những tia chớp. Không hiểu vì sao, những hạt mưa đá cứ trộn lẫn vào những bông tuyết vẫn đang rơi dày đặc. Cái khoang cáp bay trên East Side lơ lửng ở độ cao hơn bảy chục mét so với tòa nhà trụ sở Liên Hiệp quốc.

Tim Sam đập thình thịch và trong thoáng chốc, anh cố an ủi mình nhưng vô ích. Nhỡ Grace đã bịa ra tất cả những chuyện này thì sao? Suy cho cùng, tại sao cái khoang cáp đó lại có thể gặp nạn được chứ? Thật vô lý. Chẳng ai có thể biết trước tương lai. Sẽ chẳng có chuyện gì xảy ra hết...

12h30

Anh để tất cả những câu hỏi đó trôi qua trong anh cho tới khi một cơn gió mạnh ập tới khoang cáp khiến nó chao đảo. Khoang cáp bật khỏi đường rãnh và trượt đi nhiều mét trước khi va phải một cái cột trong tiếng động chói tai.

Một chùm lửa điện lóe lên. Trong khoang cáp, ánh đèn điện chập choạng, rồi tắt ngấm. Một hồi lâu khoang cáp dường như sững lại, song một đợt gió nữa ào tới khiến nó văng bật ra và lao thẳng xuống lòng sông.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
610,923
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 32


Thế giới này chỉ là một cây cầu. Hãy đi qua nhưng đừng xây nhà trên đó.

Tuyết vẫn rơi không ngừng khiến cả thành phố bị trùm trong một tấm chăn xám xịt.

Sam lang thang trên đường, lòng trĩu nặng cảm giác ân hận và ăn năn. Lại một lần nữa anh thất bại vì không cứu được người phụ nữ mình yêu. Và lần này, anh chẳng còn gì để tự bào chữa cho mình nữa. Cái chết không đến bất ngờ, anh đã có đầy đủ thời gian để biết trước điều đó.

Khi lê chân tới cuối Đại lộ Công viên, anh thoáng thấy bóng mình trong một tấm kính và điều anh nhìn thấy khiến anh kinh hoảng: quần rách tơi tả, áo dính đầy máu và khuôn mặt tím tái vì lạnh trông không khác gì một chiếc mặt nạ vô hồn.

Toàn thân run rẩy, anh tiếp tục bước đi và nghĩ về cái đêm anh treo những bức tranh của Angela lên và thấy lời cảnh báo hiện ra: Grace nói thật.

Phải, Grace nói thật: cô sẽ chỉ ra đi nếu mang theo Juliette theo. Và đó là điều cô đã làm.

Bão tuyết và gió lạnh khiến thành phố trở nên vắng tanh. Trong khung cảnh tĩnh lặng này, Sam chợt nhận ra anh đã để máu chảy ròng ròng theo bước chân và anh buộc phải kiểm tra vết thương của mình. Lúc ngã xe, cánh tay bị đâm và đầu nhọn của chỗ để chân bằng kim loại. Chỗ mà anh cứ tưởng chỉ bị xây xước nhẹ hóa ra lại là một vết thương rất sâu xé rách thịt anh tới tận sát xương.

Nhưng thân thể đầy vết thương của anh vẫn chẳng thể so sánh được với những gì còn lại. Trong anh trống rỗng. Anh biết anh sẽ không vượt qua nổi thử thách lần này và chẳng còn gì níu kéo anh ở lại nơi hạ giới nữa.

Tới gần Quảng trường Thống nhất, anh đi ngang qua quán cà phê nhỏ kiểu Pháp nơi Juliette đã đưa anh tới buổi sáng sau đêm yêu đương đầu tiên của họ. Trong căn phòng mang màu sắc cổ xưa này, họ đã cùng nhau đùa giỡn và ăn bánh ngọt. Đó chính là lúc anh bắt đầu thực sự yêu cô.

Khi nhìn cô cười và khe khẽ hát những bài hát cũ, anh đã tin chắc rằng đó chính là cô: người phụ nữ anh muốn được trọn đời ở bên. Người anh sẽ chở che và người sẽ che chở anh. Như thể trời cao đã gửi xuống một thiên thần để cứu anh ra khỏi những đau đớn dằn vặt.

Khi nghĩ lại những ngày cuối tuần đó đã hạnh phúc biết bao, anh chợt thấy trong mình tràn lên một cảm giác chán chường. Sau khi cho anh nếm mùi hạnh phúc, sao số phận lại buộc anh phải chịu đựng một điều trái ngược đau đớn dường này?

Nhưng anh biết rất rõ chẳng có câu trả lời nào cho câu hỏi đó của anh. Mệt mỏi và hoàn toàn khuất phục, anh buông vũ khí.

Anh ngã gục xuống tuyết khi chỉ cách nhà vài mét và cũng chẳng thiết tìm cách đứng lên. Từ giờ trở đi anh giống người chết hơn là người sống.

Anh đã nằm dài trên tuyết như vậy bao lâu?

Lâu lắm...

Cho tới khi anh nhìn thấy cô, mờ ảo và vô thực, phía đầu kia con đường.

Juliette.

Thoạt đầu cô bước vài bước, bất chấp những bông tuyết quay cuồng trước mặt. Rồi trong tiếng tuyết rơi âm thầm, anh thấy cô chạy lại phía anh.

Như thể trời cao đã gửi xuống một thiên thần để của anh ra khỏi những đau đớn dằn vặt...

Đoạn kết

Một ngày sau...

Sau hai mươi tư tiếng đồng hồ quần đảo, cơn bão đã biến đi cũng nhanh như khi nó đến. Sương mù đã tan và mặt trời cuối ngày hắt những tia nắng cuối cùng lên những tòa nhà chọc trời.

Khắp nơi ở New York, cuộc sống dần lấy lại nhịp điệu. Những chiếc xe dọn tuyết đi lại trên đường phố, mọi người dùng xẻng khơi thông lối đi còn bọn trẻ đã lôi ván trượt tuyết ra.

Không biết từ đâu xuất hiện một chú chim có bộ lông màu bạc lượn phía trên Midtown. Nó lao như tên bắn xuyên qua luồng ánh sáng màu cam đang rực lên trên những tòa nhà rồi đậu xuống bậu cửa sổ của bệnh viện St. Matthew.

Ở đó, tại phòng số 606, Sam ngủ mơ màng trên giường, chân bó bột và vai quấn một cục băng dày. Bên cạnh anh, vùi mình trong một chiếc ghế bành, Juliette đang dõi theo từng hơi thở của anh. Khi anh tỉnh lại, một chiếc dài đặt trên bàn ngủ đang rỉ rả phát các tin tức mới nhất.

... cơn bão dữ dội hoành hành tại Mahattan dường như đã dịu dần và thành phố của chúng ta có vẻ như đã lấy lại sự yên bình. Thiệt hại sẽ rất nặng nề: hàng trăm cây trong Công viên Trung tâm bị gãy cành, đường phố đầy những mảnh kính vỡ và không thể đếm nổi số lượng xe hơi bị bẹp trần...

Trong vài giây, Sam mơ màng nghe giọng đọc. Khi anh mở mắt, Juliette vẫn ở cạnh và đang mỉm cười với anh.

Nửa hy vọng nửa lo âu, anh rướn người dậy và vẫn chưa hiểu chuyện gì đang xảy ra với mình. Juliette áp tay lên má anh và cúi xuống lướt nhẹ môi lên môi anh.

Trong lúc đó, bản tin nhanh vẫn tiếp tục:

... các đội cứu hộ đã làm việc suốt ngày và các bệnh viện đều quá tải...

Trong đầu Sam hàng loạt câu hỏi chồng chéo lên nhau:

- Em không ở trên cáp treo ư?

Juliette lắc đầu.

Sam nhẹ người, nhưng có điều gì đó khiến anh không hiểu. Anh chắc chắn đã nhìn thấy hai bóng người trong khoang cáp. Nếu Grace ra đi mà không phải cùng Juliette, thì ai là người đã theo cô vào khoang cáp?

Câu trả lời đến với anh qua làn sóng thần kỳ:

... sau tai nạn thảm khốc ngày hôm qua, cáp treo Đảo Roosevelt sẽ phải đóng cửa trong nhiều tuần để sửa chữa. Theo các nhân chứng, có hai người trong khoang cáp treo vào lúc xảy ra tai nạn. Các thợ lặn vẫn đang tiếp tục tìm kiếm dưới lòng sông, cho đến giờ họ vẫn chưa vớt được thi thể nào. Khoang cáp đã được trục lên, nhưng các nhân viên điều tra chỉ tìm thấy trong đó hai tấm phù hiệu cảnh sát. Phù hiệu thứ nhất thuộc về cảnh sát Mark Rutelli quận 21, phù hiệu thứ hai là của một nữ thanh tra đã qua đời cách đây mười năm...

Sam không thể giấu nổi nỗi buồn của mình. Như vậy là bằng cử chỉ yêu thương cuối cùng, Rutelli đã chọn đi theo Grace tới cửa tử. Juliette cầm tay anh và hỏi:

- Người đó là Grace Costello phải không anh?

Anh nhìn cô vẻ ngạc nhiên.

- Sao em biết?

- Vì chị ấy đã tới gặp em ở nhà Colleen và nhờ em gửi anh thứ này.

Juliette với tay về phía bàn ngủ để lấy một phong thư. Cô rút lá thư trong đó ra và đưa nó cho anh.

Sam,

Khi chặng đường của hai chúng ta giao nhau lần đầu tiên, cách đây mười năm, chuỗi sự kiện ấy đã dẫn đến một bi kịch khủng khiếp. Nhưng anh không có lỗi, Sam ạ. Thậm chí tôi còn muốn tin rằng trong một tình huống khác, chúng ta đã có thể thành bạn.

Cảm ơn anh đã vén lên tấm màn bí mật về cái chết của tôi. Giờ thì tôi đã biết câu trả lời cho những câu hỏi vẫn khiến tôi day dứt.

Tuy vậy, tôi vẫn không chắc mình đã hiểu rõ mục đích sâu xa của nhiệm vụ lần này. Có khi nào ngay từ đầu tôi đã hiểu nhầm những gì người ta mong đợi ở tôi? Có thực sự là họ muốn tôi đưa Juliette đi không hay họ chỉ cử tôi về đây để cứu con gái tôi và cho tôi hòa giải với anh? Tôi không biết.

Tôi chỉ biết một điều: tôi sẽ không lấy đi người phụ nữ anh yêu.

Nếu có lúc nào đó anh nhớ về tôi, hãy cứ nhớ nhưng đừng cảm thấy nặng nề hay ân hận. Hãy tự nhủ với mình rằng có thể tôi cũng ở một nơi nào đó gần đây thôi và đừng quá lo lắng cho tôi.

Đổi lại, trong một phòng bệnh ở bệnh viện của anh, có một cô bé mười lăm tuổi đã có một cuộc sống chẳng hề dễ dàng gì. Cô bé đang bắt đầu mang hình hài của một phụ nữ, song nó vẫn chỉ là một bé gái và là thứ quý giá nhất cuộc đời tôi. Anh đã một lần cứu sống nó; nó vẫn cần tới sự giúp đỡ và lòng tin của anh. Tôi xin anh, hãy tiếp tục để mắt đến nó.

Thế đấy, giờ khắc đã điểm và tôi phải đi đây.

Tôi không biết mình sẽ thấy gì ở thế giới bên kia và hậu quả của những hành động tôi làm sẽ là gì. Nói thật nhé, tôi cũng hơi sợ. Nhưng lúc ra đi, tôi muốn tin rằng người ta đã cho tôi được lựa chọn. Tôi đã nghe theo trái tim mình và nó bảo tôi hãy để Juliette lại cho anh.

Tôi có quyền được đưa ra quyết định đó không? Tôi hoàn toàn không biết, nhưng không quan trọng...

... suy cho cùng, ông trời cũng có thể chờ đợi được.

Grace.

Lời cảm ơn

Tặng Suzy.

Tặng cha mẹ và các anh em của tôi.

Tặng tất cả các độc giả của cuốn Rồi sau đó..., những người bằng lời nói hoặc thư từ, đã bày tỏ cùng tôi sự đồng cảm của họ với câu chuyện này.

Tặng Bernard Fixot, Leblond và Caroline Lépée.

Làm việc với các bạn thực sự là một niềm may mắn.
 
CHÚ Ý !!!
Các đạo hữu nhớ thêm TÊN CHƯƠNG và THỨ TỰ CHƯƠNG ở ô phía trên phần trả lời nhanh. Như vậy hệ thống mới tạo được DANH SÁCH CHƯƠNG.
Cập nhật chức năng ĐĂNG TRUYỆN và THÊM CHƯƠNG MỚI trên web Diễn Đàn Truyện tại https://truyen.diendantruyen.com
Top Bottom