Cập nhật mới

Dịch Full Cô Gái Mang Trái Tim Đá

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
[Diendantruyen.Com] Cô Gái Mang Trái Tim Đá

Cô Gái Mang Trái Tim Đá
Tác giả: Andrew Davidson
Tình trạng: Đã hoàn thành




Thể loại: Tiểu thuyết

Một chàng trai mang vết bỏng toàn thân thực nghiêm trọng sau một tai nạn.

Một cô gái mang trái tim đá kỳ lại bước vào cuộc đời anh giống như một khúc ngoặt không hề biết trước.

Liệu rằng vụ tai nạn mà anh gặp phải có phải là sự ngẫu nhiên? và cô gái ấy có thật mắc chứng bệnh tâm thần?

Một câu chuyện đan xen quá khứ và hiện tại, mang người đọc đến thế giới huyền bí của thần thoại Hy Lạp.
Giữa bức tranh đó nổi lên câu chuyện tình bất tử vượt mọi trở ngại không gian và thời gian.

Lúc dìu dặt nhẹ nhàng, lúc đau đớn khốc liệt, nhưng không thiếu những tình tiết hài hước trớ trêu hay những phút giây lãng mạn nao lòng,

Cô gái mang trái tim đá là khúc bi ca về sự dâng hiến và hy sinh của một tình yêu mãnh liệt dị thường.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 1


Tai nạn, hệt như tình yêu, luôn đánh úp những kẻ không mảy may nghi ngờ, thường là theo một cách rất dữ dội.

Đó là ngày thứ Sáu Tuần Thánh(1), và các ngôi sao vừa bắt đầu tan vào ánh bình minh. Theo thói quen, vừa lái xe tôi vừa chà vào vết sẹo trên ngực. Mí mắt nặng trĩu và tôi không tài nào tập trung nổi, cũng chẳng có gì ngạc nhiên vì tôi đã dành cả đêm cúi gập người trước gương hít hàng thanh bột trắng vốn khiến khuôn mặt tôi như bị mắc kẹt trong gương. Tôi cứ đinh ninh như thế sẽ làm tăng phản xạ của mình. Tôi đã lầm.

Phía bên kia con đường uốn lượn ngoằn ngoèo là bờ vách dốc đứng chạy xuống sườn núi, phía bên này là cánh rừng âm u. Tôi cố tập trung nhìn về phía trước nhưng lại có cảm giác mãnh liệt rằng có thứ gì đó, có lẽ là một nhóm lính đánh thuê, đang đợi để đánh úp mình từ sau hàng cây. Dĩ nhiên đấy chỉ là ảo giác do ma túy gây ra. Tim đập thình thịch, tôi nắm thật chặt tay lái, mồ hôi cổ đổ ra như tắm.

Tôi đã kẹp sẵn một chai whiskey ngô giữa hai đùi và định lôi ra để làm thêm hớp nữa. Cái chai tuột khỏi tay, rơi vào lòng tôi, đổ rượu tung tóe khắp nơi rồi lăn xuống sàn xe. Tôi kịp cúi xuống nhặt trước khi rượu tràn ra hết, và khi ngước mắt lên, một ảo giác chào đón tôi, một ảo giác kỳ dị làm tất cả mọi thứ như đang chuyển động. Tôi nhìn thấy hằng hà sa số mũi tên lửa từ rừng rậm bắn thẳng vào xe. Theo bản năng, tôi bẻ tay lái, rời khỏi khu rừng có những kẻ thù vô hình. Rõ chẳng phải ý hay vì hành động đó khiến xe tôi văng lại phía cột rào dây thép gai ngăn cách tôi với bờ dốc. Tiếng rít của kim loại va chạm nhau, tiếng cửa xe phía ghế phụ qua hàng dây cáp căng và hàng tá tiếng huỵch khi xe tôi đập vào cột gỗ, mỗi cú đập đều giống như dòng điện xẹt qua máy khử rung tim.

Tôi cố lấy lại thăng bằng và đảo bánh lái quay trở lại với dòng xe cộ đang lao đến, suýt va vào một chiếc xe chở hàng. Xoay ngược bánh lái lại quá mạnh, tôi một lần nữa đập vào rào chắn. Dây cáp đứt phựt và ngay lập tức bay tứ tung như những cái vòi vùng vẫy của con bạch tuộc mắc lao. Một sợi cáp đập vào kính chắn gió và tôi nhớ mình đang nhẹ nhõm đến thế nào vì không bị đập vào thì chiếc xe tuột khỏi vòng tay của con quái thú đang lồng lộn.

Trong một thoáng, tôi cảm nhận được tình trạng phi trọng lượng: một điểm cân bằng giữa không trung và mặt đất, giữa nhân gian và thiên đường. Thật kỳ lạ, tôi nghĩ, vì nó giống biết bao giây phút thiêm thiếp chìm vào giấc ngủ khi tất cả đều đẹp một cách phi thực, không chút trần thế. Giống biết bao cảm giác trôi về với sự hoàn thiện. Nhưng như vẫn thường xảy ra tại thời điểm vừa tồn tại trong thế giới thực vừa dần chìm vào giấc mơ, cái thời khắc vượt sang phía bên kia hàng rào này kết thúc bằng một cú giật phũ phàng kéo tôi trở về thực tại.

Một vụ tai nạn xe hơi dường như kéo dài vô tận và luôn có một thời khắc bạn nghĩ mình có thể sửa chữa sai lầm. Phải, bạn nghĩ. Đúng là mình đang rơi xuống vách núi trong chiếc xe nặng hơn một tấn. Đúng là đáy vực sâu tới hơn ba mươi mét. Nhưng mình dám chắc chỉ cần bẻ mạnh tay lái sang bên là sẽ không có vấn đề gì hết.

Khi đã bẻ tay lái đủ kiểu mà vẫn chẳng thay đổi được tình thế, bạn sẽ có một suy nghĩ rõ ràng, rành rọt thế này: Ôi, mẹ kiếp. Trong một khoảnh khắc huy hoàng, bạn đạt đến trạng thái khổ hạnh mà các nhà triết học Đông phương đã dành cả đời theo đuổi. Nhưng theo sau khoảnh khắc siêu nghiệm ấy, trí óc bạn trở thành siêu máy tính có khả năng tính toán chuyển động quay của chiếc xe, nhân với vận tốc rơi tính trên góc rơi, vận dụng định luật chuyển động của Newton và ngay tức thì, bạn rút ra được một kết luận hãi hùng rằng đây sẽ là một tai nạn thảm khốc.

Xe của bạn lao xuống bờ dốc, nẩy bật lên. Giả thiết của bạn nhanh chóng được chứng minh là chính xác: quả thật đau khủng khiếp. Não bạn phân loại các cảm giác khác nhau. Nào là lật hết bên này sang bên kia, xoay vòng vô định và tiếng xe rít lên khi nó thực hành bài tập yoga kinh hồn của mình. Nào là kim loại vỡ, nghiến vào xương sườn bạn. Còn có cả mùi vị trò chơi khăm của quỷ, cây đinh ba đâm vào mông và mùi lưu huỳnh ngập trong miệng bạn. Không nghi ngờ gì nữa, đúng là bạn đang ở trong tình trạng nguy kịch thật rồi.

Tôi nhớ ánh bạc nóng bỏng lóe lên khi cả năm ngón chân trái bị sàn xe cứa đứt. Tôi nhớ cái trục dẫn động sượt qua vai. Tôi nhớ hình như xung quanh mình kính vỡ tung tóe. Khi cái xe rốt cuộc cũng chịu dừng lại, tôi bị treo lộn ngược, vẫn đang thắt dây an toàn. Tôi có thể nghe tiếng xì xì của đủ loại hơi ga thoát ra từ động cơ, tiếng bánh xe quay tít bên ngoài ngay phía trên mình, và tiếng cạch khô khốc của kim loại khi cái xe ngừng rung chuyển, một con rùa đáng thương bị lật ngửa.

Ngay khi tôi bắt đầu trôi vào trạng thái hôn mê thì vụ nổ xảy ra. Không phải vụ nổ trong phim ảnh mà là vụ nổ ngoài đời thật, giống như sự bùng cháy của một cái lò bất mãn chạy bằng hơi đốt vốn chất chứa nỗi hằn học với chủ nhân mình. Một ngọn lửa xanh liếm qua nóc xe đang nằm nghiêng dưới thân thể treo lủng lẳng của tôi. Một giọt máu rỉ ra từ mũi tôi, rơi thẳng vào ngọn lửa hừng hực đang nhảy múa cuồng dại phía dưới. Tôi có thể cảm thấy tóc mình đã bén lửa, rồi tôi ngửi thấy mùi khét. Thịt da tôi bắt đầu cháy sém như thể tôi chỉ là một mẩu thịt vừa bị ném vào lò nướng ngoài trời, rồi tôi nghe tiếng thịt cháy xèo xèo khi lửa liếm vào da. Tôi không thể với tay lên đầu để dập lửa trên mái tóc đang cháy rừng rực. Tay tôi không chịu nghe lệnh tôi.

Độc giả thân mến, tôi nghĩ các bạn hẳn đã có vài trải nghiệm với sức nóng. Có lẽ các bạn đã có lần rót ấm nước sôi không đúng cách làm hơi nóng bốc lên tay áo; hoặc, với sự liều lĩnh của tuổi trẻ, bạn cố giữ que diêm càng lâu càng tốt. Chẳng phải tất cả mọi người đều ít nhất một lần trong đời đổ đầy nước nóng vào bồn tắm rồi quên nhúng một ngón chân vào thử trước khi đặt cả bàn chân vào hay sao? Nếu bạn mới chỉ bị những tai nạn lặt vặt này, tôi muốn các bạn thử tưởng tượng cái gì đó mới mẻ hơn. Tưởng tượng rằng bạn bật bếp lên - ví dụ loại bếp điện có búi dây màu đen ở phía trên chẳng hạn. Đừng đặt bình nước lên trên bếp vì nước hấp thụ hơi nóng để sôi. Có lẽ vài làn khói xoắn mỏng manh sẽ cuộn lên từ giọt nước tràn ra trước đó trên dây may so. Một tia màu tím sẽ lóe lên, náu trong những cái vòng đen, và rồi trên dây may so bắt đầu xuất hiện những ánh đỏ tía như quả mâm xôi còn xanh. Nó chuyển dần sang màu cam và cuối cùng - cuối cùng! - là một màu đỏ rực cháy. Đẹp thật, phải không? Nào giờ hãy hạ thấp đầu sao cho mắt bạn ngang với mặt bếp và bạn có thể liếc qua những làn khói lung linh cứ cuộn dần lên. Nghĩ về những bộ phim cũ có cảnh nhân vật chính nhìn khắp sa mạc và bất ngờ thấy một ốc đảo xanh tươi. Hãy thử lướt những ngón tay trái trên lòng bàn tay phải, cảm nhận cách da bạn phản ứng với những va chạm dù là nhỏ nhất. Nếu người khác làm thế với bạn, hẳn bạn sẽ cảm thấy rạo rực. Nào, giờ hãy đập thẳng bàn tay tinh tế và nhạy cảm ấy lên cái bếp đang nóng hừng hực kia xem.

Và giữ nó ở đấy. Giữ nó ở đấy khi cái bếp in dấu chín vòng tròn địa ngục của Dante lên lòng bàn tay bạn, cho bạn cơ hội mãi mãi nắm chặt Địa ngục trong tay. Hãy để sức nóng khắc sâu vào da, vào cơ, gân và âm ỉ cháy tới tận xương tủy bạn. Hãy để cho sức nóng ngấm sâu vào bạn đến mức bạn không biết liệu mình có thể buông cuộn dây đó ra được không. Chẳng mấy chốc, mùi da thịt khét lẹt của chính bạn sẽ bốc lên, xoắn chặt lấy lông mũi bạn không chịu rời và bạn ngửi thấy mùi cơ thể mình đang bốc cháy.

Cứ giữ chặt tay bạn ở đó, đếm thật chậm đến sáu mươi. Không được chơi ăn gian đâu đấy. Một Mis-sis-sip-pi, hai Mis-sis-sip-pi, ba Mis-sis-sip-pi... Đến sáu mươi Mis-sis-sip-pi, tay bạn sẽ tan chảy, bao quanh dây may so và hợp thành một phần của nó. Giờ bạn cứ việc thoải mái róc thịt mình ra!!!

Tôi có nhiệm vụ khác cho các bạn đây: cúi xuống, nghiêng đầu sang một bên và đập má vào đúng cái bếp ấy. Bạn thích chọn bên má nào cũng được. Lại đếm sáu mươi lần Mississippi nữa nhé; không được ăn gian đâu đấy. Điều thuận tiện ở đây là tai bạn có thể thoải mái cảm nhận tiếng lép bép, lắc rắc, lốp bốp của thịt da mình.

Giờ bạn hẳn tưởng tượng được những gì tôi đã phải chịu đựng khi bị mắc kẹt trong cái xe đó, không thể thoát khỏi lưỡi lửa, đủ tỉnh táo để phân loại từng trải nghiệm cho tới khi rơi vào trạng thái sốc. Có những giây phút hạnh phúc ngắn ngủi tôi có thể nghe, ngửi và suy nghĩ, đưa ra được dẫn chứng cho tất cả mọi thứ nhưng chẳng cảm thấy gì cả. Sao lại không đau nữa? Tôi nhớ mình đã nhắm mắt lại, cầu mong bóng tối hoàn toàn, bóng tối đẹp đẽ. Tôi nhớ đã ước gì mình là người ăn chay.

Và rồi chiếc xe chuyển động thêm lần nữa, chới với lật nghiêng xuống suối. Như một con rùa đã lật được mai lại và hớt ha hớt hải tìm đến nguồn nước gần nhất.

Sự kiện này - việc chiếc xe rơi xuống suối - đã cứu mạng tôi, nó đã dập tắt lửa và làm nguội thân thể vừa bị nướng cháy của tôi.

Tai nạn, hệt như tình yêu, luôn đánh úp những kẻ không mảy may nghi ngờ, thường là theo một cách rất dữ dội.

Tôi cũng chẳng biết liệu bắt đầu câu chuyện bằng vụ tai nạn của mình có phải là một quyết định đúng đắn hay không vì tôi đã viết sách bao giờ đâu. Nói thật nhé, tôi bắt đầu bằng vụ đâm xe chỉ vì muốn thu hút sự chú ý của các bạn và kéo các bạn vào câu chuyện của tôi thôi. Các bạn vẫn đang theo dõi, nó có vẻ có tác dụng thật.

Trong chuyện viết lách, tôi phát hiện ra, điều khó khăn nhất không phải là việc đặt câu. Mà là cho cái gì vào, cho vào đâu, và bỏ cái gì đi. Tôi vẫn luôn tự hỏi mình. Tôi đã chọn vụ tai nạn, nhưng tôi có thể dễ dàng bắt đầu bằng bất cứ thời điểm nào trong ba lăm năm cuộc đời tôi trước đó. Sao lại không bắt đầu bằng: "Tôi sinh năm 19..., ở thành phố..."?

Còn nữa, sao tôi lại hạn chế phần mở đầu trong khung thời gian của đời tôi? Có lẽ tôi nên bắt đầu ở Nürnberg, đầu thế kỷ mười ba, nơi một phụ nữ có cái tên bất hạnh nhất trần đời Adelheit Rotter đã xa lánh cuộc sống mà cô cho là đầy tội lỗi để trở thành một Beguine - những người phụ nữ dù không có liên hệ chính thức với nhà thờ nhưng được cảm hóa noi gương Chúa Jesus sống đời khổ hạnh. Qua năm tháng, Rotter kêu gọi được rất nhiều môn đồ và, vào năm 1240, họ rời tới một trại sản xuất bơ sữa tại Engelschalksdolf gần Swinach, nơi một nhà hảo tâm có tên là Ulrich II Vol Konigstein đã cho phép họ tá túc với điều kiện họ giúp ông việc nhà. Họ dựng một khu nhà vào năm 1243, năm tiếp theo lập một tu viện và bầu nữ tu viện trưởng đầu tiên.

Do không có con trai nối dõi nên khi chết, Ulrich đã để lại toàn bộ gia sản cho các Beguine. Đổi lại, ông yêu cầu tu viện cung cấp chỗ mai táng cho họ hàng ông và vĩnh viễn cầu nguyện cho gia tộc Konigstein. Và để thể hiện sự khôn ngoan của mình, ông đổi tên gia trang thành Engelthal, hay "Thung lũng thiên thần" thay vì Swinach - "Chuồng lợn". Nhưng điều khoản cuối cùng của Ulrich là điều tác động lớn nhất đến cuộc đời tôi: ông đã ra lệnh xây một phòng viết trong tu viện.

Tôi mở mắt trong luồng ánh sáng xanh đỏ quay cuồng. Một cuộc tấn công chớp nhoáng của giọng nói xen lẫn tiếng ồn. Một thanh kim loại đâm xuyên qua sườn xe, xẻ nó làm đôi. Những bộ đồng phục. Chúa ơi. Con đang ở dưới Địa ngục và người ở đó mặc đồng phục. Tiếng một người đàn ông quát lên. Một người khác cất giọng dịu dàng: "Chúng tôi sẽ kéo anh ra. Đừng lo." Người này đeo quân hàm. "Anh sẽ sớm ổn thôi," anh ta hứa qua bộ ria mép. "Tên anh là gì?" Không thể nhớ nổi. Một nhân viên cấp cứu khác thét gọi một người tôi không thấy mặt. Anh ta giật lùi lại khi trông thấy tôi. Họ có phải làm thế không? Bóng tối.

Mở mắt. Tôi được nẹp vào một cái cáng dành cho người bị tổn thương xương sống. Một giọng nói cất lên: "Một, hai, ba, nâng!" Cả bầu trời phóng vụt về phía tôi rồi lại trôi đi mất hút. "Vào," giọng nói đó lại cất lên. Tiếng kim loại lách cách khi cái cáng ổn định vị trí. Quan tài à, sao lại không có nắp? Quá nhiều chất khử trùng đối với Địa ngục, và liệu vòm trời có thể nào thực sự được tạo nên bằng kim loại xám không? Bóng tối.

Mở mắt. Lại không trọng lượng. Người lái đò bến Mê(2) mặc áo sợi tổng hợp pha cotton màu xanh dương. Tiếng còi cấp cứu dội trên bến phà Acheron bê tông cốt thép. Một chiếc chăn chống cháy đắp lên người tôi. Một mũi kim truyền dịch chọc vào cơ thể tôi - khắp mọi chỗ? Ướt, ướt. Bóng tối.

Mở mắt. Tiếng bánh xe nện thình thịch như tiếng xe đẩy trong cửa hàng gõ trên nền bê tông. Tiếng nói chết tiệt lại cất lên: "Đi nào!" Bầu trời chế nhạo tôi, lướt qua tôi, rồi một trần nhà trát vữa trắng hiện ra. Những cánh cửa đôi trượt mở. "Phòng phẫu thuật số bốn!" Bóng tối.

Mở mắt. Cái miệng há ngoác của một con rắn bổ về phía tôi, cười nói: TA ĐANG TỚI ĐÂY... Con mãng xà cố nuốt lấy đầu tôi... Không, không phải con mãng xà mà là mặt nạ ôxy. VÀ NGƯƠI CHẲNG THỂ CẢN ĐƯỢC ĐÂU... Tôi ngã ra sau, chìm vào bóng tối của tấm mặt nạ.

Hé mắt. Tay bốc cháy, chân bốc cháy, lửa ở khắp mọi nơi, nhưng tôi lại đang mắc kẹt giữa một cơn bão tuyết khủng khiếp. Một cánh rừng ở nước Đức, một dòng sông gần kề. Một người phụ nữ cầm nỏ đứng trên đỉnh núi. Ngực tôi có cảm giác như bị đấm. Tôi nghe thấy tiếng rít khi trái tim mình dần kiệt lực. Tôi cố kêu lên nhưng chỉ thốt ra được những tiếng rên rỉ, một nữ y tá khuyên tôi nên nghỉ ngơi, rằng mọi chuyện sẽ ổn thôi, mọi chuyện sẽ ổn thôi. Bóng tối.

Một giọng nói lơ lửng phía trên đầu tôi: "Ngủ đi, cứ ngủ đi!"

Sau vụ tai nạn, người tôi phồng lên như một cái xúc xích Đức mới nướng, da rạn nứt, nhường chỗ cho phần thịt đang trồi lên. Các bác sĩ, với con dao mổ đầy thèm khát, đẩy nhanh tiến trình bằng vài nhát cắt nhanh gọn. Quá trình này được gọi là lột da, giúp những mô tế bào phồng rộp được tự do giãn nở. Nó phần nào giống như sự nổi dậy của cái tôi thầm kín của bạn, cuối cùng đã được phép cào xuyên qua bề mặt. Các bác sĩ nghĩ rằng họ mổ phanh tôi ra để khởi động quy trình hồi phục nhưng thực ra họ chỉ đang cố giải phóng một con quái vật - một sinh vật với thịt da ứ máu và ngập tràn dịch.

Trong khi một vết bỏng nhỏ sinh ra một vết phồng rộp chứa đầy huyết tương thì những vết bỏng như của tôi gây nên sự thiếu nước trầm trọng. Trong hai mươi tư tiếng đồng hồ đầu tiên ở bệnh viện, tôi được các bác sĩ truyền hơn hai mươi lít nước vào người để bù nước cho cơ thể. Tôi tắm trong dòng chất lỏng khi nó chảy ra khỏi cơ thể cháy sém của tôi nhanh không kém gì lúc được bơm vào, và tôi thấy mình như sa mạc khô hạn trong cơn lũ chớp nhoáng.

Sự trao đổi nước quá nhanh này làm mất cân bằng các thành phần hóa học trong máu, hệ miễn dịch yếu đi do làm việc quá sức, một vấn đề sẽ còn trầm trọng hơn trong những tuần sắp tới khi hiểm họa chết chóc chính đến từ sự nhiễm trùng máu. Ngay cả với một bệnh nhân bỏng có vẻ đã phục hồi được một thời gian dài sau tai nạn, nhiễm trùng vẫn có thể ném anh ta ra khỏi cuộc chơi chỉ trong tích tắc. Hệ thống phòng thủ của cơ thể chỉ hoạt động cầm chừng đúng lúc người ta cần nó nhất.

Lớp da bên ngoài bị cắt rạch của tôi giờ phủ đầy những tàn tích đẫm máu của mô tế bào cháy đen mà người ta thường gọi là lớp vảy sừng, thành phố Hiroshima trên cơ thể người. Cũng giống như không thể gọi một đống bê tông đổ nát là "tòa nhà" sau trận bom phá hủy, bạn không thể gọi cái lớp bên ngoài của tôi là "da" sau vụ tai nạn được. Bản thân tôi đang ở trong tình trạng nguy kịch, ion bạc và kem sulfadiazine phủ khắp phần cơ thể còn lại. Trên đó, những miếng gạc được đặt lên đống hoang tàn.

Tôi không có chút ý thức nào về điều này, đây đều do bác sĩ nói lại với tôi sau đó. Tại thời điểm ấy, tôi nằm bất tỉnh với cái máy điểm từng nhịp tim chậm chạp của tôi. Chất dịch, chất điện phân, chất kháng khuẩn và morphine được truyền qua một loạt ống dẫn (ống truyền dung dịch, ống thông hỗng tràng, ống đặt trong khí quản, ống thông từ mũi vào dạ dày, ống tiết niệu, đúng là trường hợp nào cũng đều có một cái ống!) Một tấm chắn nhiệt giữ cho cơ thể tôi đủ ấm để duy trì sự sống, một cái quạt thông gió giúp tôi dễ thở, và lượng máu tôi được truyền đủ để làm hổ thẹn cả Keith Richards(3).

Các bác sĩ loại bỏ lớp thượng bì cằn cỗi của tôi bằng cách cắt bỏ mô hoại tử, cạo đi phần thịt bị cháy. Họ mang vào hàng thùng nitơ lỏng ngâm những tấm da vừa được lột khỏi tử thi. Da được rã đông trong các khay nước, rồi được đặt cẩn thận lên lưng tôi, ghép vào đúng vị trí. Cứ thế, như thể đang đắp từng dải cỏ lên khoảnh đất phía sau căn nhà gỗ mùa hè, họ phủ lên mình tôi tấm da người chết. Tôi được vệ sinh thường xuyên nhưng cơ thể tôi lại thải loại những tấm da tử thi này, tôi không tài nào thích ứng được với da của người khác. Thế là tôi cứ phải ghép da người chết hết lần này đến lần khác.

Tôi nằm đó, khoác tấm da của người quá cố như chiếc áo giáp chống lại tử thần.

Sáu năm đầu đời của tôi.

Cha tôi mất trước khi tôi chào đời. Ông là một tay chơi đích thực, đến cũng nhanh mà ra đi cũng chóng. Bị gã Sở Khanh vô danh này bỏ rơi, mẹ tôi mất trong lúc sinh nở khi tôi trôi giữa dòng máu của mẹ để vào với thế giới này. Cô y tá nhận nhiệm vụ ôm chặt cơ thể mới sinh nhớp nhúa của tôi đã trượt ngã vào vũng máu khi cố rời phòng hộ sinh, hay theo tôi nghe kể là vậy. Bà tôi thấy tôi lần đầu khi tôi được bế lướt qua bà trong vòng tay một y tá phụ trách bài trắc nghiệm nhân cách Rorschach(4).

Sự chào đời của tôi cũng chẳng suôn sẻ gì. Tôi chẳng bao giờ được nghe kể chính xác chuyện gì đã xảy ra nhưng vì lý do nào đó cơ thể tôi bị mổ từ bụng lên tới ngực, để lại một cái sẹo dài - có lẽ đó là dấu ấn của một vết mổ không chuẩn khi người ta cố cứu sống mẹ tôi. Tôi hoàn toàn không biết gì. Lớn lên, vết sẹo vẫn giữ nguyên kích cỡ cho tới khi cuối cùng nó chỉ còn là một vết tích dài độ vài phân, tụ trên ngực trái nơi một kẻ lãng mạn có lẽ sẽ vẽ nên một trái tim.

Tôi sống với bà ngoại đến khi lên sáu. Sự cay nghiệt của bà dành cho tôi, kẻ gây nên cái chết của con gái bà, là quá hiển nhiên. Theo tôi bà không phải người xấu mà đúng hơn là người không bao giờ có thể nghĩ rằng cô con gái lại là kẻ ra đi trước, cũng như không bao giờ tính đến chuyện giờ đây, ở tuổi xế bóng, bà lại phải gánh trách nhiệm chăm sóc thêm một đứa trẻ khác.

Bà không đánh mắng tôi; bà nuôi dưỡng tôi tử tế; thu xếp đầy đủ các buổi tiêm vắc xin cần thiết cho tôi. Bà chỉ không yêu quý tôi thôi. Bà mất vào một trong những ngày hiếm hoi hai bà cháu thực sự vui đùa với nhau, trong khi đang đẩy xích đu cho tôi trên sân chơi. Tôi bay cao vào không trung, duỗi dài đôi chân về phía mặt trời. Tôi quay trở lại mặt đất, trông chờ bà sẽ giơ tay ra đón. Thay vào đó, tôi lướt qua thân thể cúi gập của bà. Khi tôi đu lướt qua bà lần nữa theo quán tính, bà đã khuỵu khuỷu tay xuống. Rồi bà ngã sấp xuống nền đất của sân chơi. Tôi chạy tới một căn nhà gần đó gọi người lớn, rồi ngồi trên xà ngang chờ chiếc xe cấp cứu muộn màng. Khi các nhân viên y tế nâng bà lên, hai cánh tay mập mạp của bà vung qua lại như những cánh dơi bị vắt kiệt sức sống.

Từ giây phút nhập viện, tôi đã không còn là con người nữa mà một đồ thị tính toán bảo hiểm. Sau khi cân tôi, các bác sĩ lôi máy tính ra xét độ bỏng và tính toán khả năng sống sót. Không nhiều.

Họ làm tất cả những điều này bằng cách nào? Như trong bất kỳ câu chuyện thần tiên điển hình nào, sẽ luôn luôn có một công thức diệu kỳ, và trong trường hợp này là Quy tắc Số Chín. Tỷ lệ bỏng được xác định và đánh dấu trên một đồ thị không khác gì một bản đồ tà thuật trên cơ thể người, được chia thành từng phần theo bội số của chín. Hai cánh tay "đáng giá" chín phần trăm diện tích bề mặt của toàn bộ cơ thể; đầu đáng giá chín phần trăm; mỗi chân đáng mười tám phần trăm; và phần ngực, trước và sau, đáng giá ba sáu phần trăm. Thế nên mới gọi là Quy tắc Số Chín.

Dĩ nhiên có những yếu tố xem xét khác khi đánh giá một vết bỏng. Tuổi tác, ví dụ thế. Người già và trẻ nhỏ có rất ít cơ hội sống sót, nhưng nếu thanh niên sống sót được, họ sẽ có khả năng hồi phục mạnh hơn rất nhiều. Thế đấy, họ có những lợi thế của mình. Thật tốt. Ta cũng phải xét đến dạng bỏng: những vết bỏng do chất lỏng sôi; bỏng điện do dây điện hở, hoặc là bỏng do hóa chất, có thể là acid hay kiềm. Tôi thì chỉ bị dính mỗi món bỏng nhiệt trên thực đơn thôi, cái món trăm phần trăm được chế biến qua lửa ấy.

Bạn có thể băn khoăn, trên thực tế, chuyện gì sẽ xảy đến với cơ thể sống của chúng ta trong đám cháy? Tế bào chứa phần lớn là nước, nước sẽ sôi lên và làm màng tế bào nổ tung. Chẳng hay chút nào. Ở viễn cảnh thứ hai, protein trong tế bào được rán lên như một quả trứng trong chảo, chuyển từ trạng thái chất lỏng mỏng manh sang một thứ gì đó trắng và nhớt. Nếu điều này xảy ra, toàn bộ quá trình trao đổi chất của tế bào sẽ ngừng lại. Vì thế dù cho sức nóng không đủ để giết chết tế bào một cách triệt để thì sự mất khả năng lưu chuyển ôxy cũng đảm bảo các mô tế bào sẽ chết nhanh chóng. Điểm khác biệt ở đây là sự suy kiệt dần dần thay vì chết ngay lập tức.

Sau khi bà mất, tôi tới sống cùng Debi và Dwayne Michael Grace - dì chú, hai kẻ rác rưởi khó chịu với tôi ngay từ giây phút tôi xuất hiện. Tuy nhiên, họ lại rất cảm kích khoản tiền chính phủ trợ cấp để nuôi dưỡng tôi. Nó giúp cho việc mua ma túy dễ dàng hơn hẳn.

Hồi ở với gia đình Grace trơ tráo, tôi phải chuyển hết từ khu nhà lưu động này sang khu nhà lưu động khác cho tới khi những người giám hộ của tôi tìm đến một bữa tiệc thâu đêm mà sau đó phát triển lên thành lễ hội đá(5) kéo dài ba năm. Họ rõ là đi trước thời đại: thời đó loại ma túy tổng hợp này không phổ biến như bây giờ. Nếu không có sẵn ống điếu để hút thì họ sẽ sử dụng bóng đèn bị rút ruột, và có những lúc chẳng còn lại cái bóng đèn nào đến nỗi chúng tôi hoàn toàn sống trong bóng tối. Dù vậy, ma túy dường như chẳng bao giờ cạn. Nhà Grace, với nụ cười lấp lóa như những bàn phím bị đập nát, sẽ cung phụng từng xu một cho bọn cò thuốc.

Một hàng xóm của tôi đã bán đứa con gái nhỏ hơn tôi vài tuổi để đổi lấy lượng thuốc tương ứng. Nếu bạn muốn biết thì giá ngoài chợ của một đứa bé tám tuổi là 35 đô, hay ít nhất lúc tôi còn bé là thế. Khi bà mẹ trở nên hung dữ và bỏ bê nó, con bé thường chạy tới khóc lóc sợ hãi trong căn phòng nhỏ tí của tôi, lường trước được cuộc mua bán đang treo lơ lửng trên đầu. Theo tin tức mới nhất tôi nhận được, bà mẹ đã tỉnh ngộ, cai nghiện và tìm đến với Chúa. Theo tin tức mới nhất tôi nhận được, con bé (giờ đã lớn) là một bà bầu nghiện heroin.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 2


Phần lớn quãng đời thơ ấu của tôi chẳng đẹp đẽ gì, nhưng tôi chưa bao giờ thành món hàng đấu giá tình dục để những người giám hộ có tiền chơi ma túy. Tuy nhiên, người ta lẽ ra có thể nói nhiều điều tốt đẹp hơn về quá khứ của mình.

Cách duy nhất giúp tôi sống sót trong cái thế giới chết tiệt ấy là tưởng tượng ra những thế giới tốt đẹp hơn, vì vậy tôi cố đọc tất cả những gì mình vớ được. Những năm niên thiếu, tôi dành nhiều thời gian trong thư viện đến nỗi các cô thủ thư phải đem những phần bánh sandwich đặc biệt cho tôi. Tôi có bao kỷ niệm ngọt ngào về những người phụ nữ này, những người sẵn sàng giới thiệu sách rồi ngồi nói chuyện hàng giờ với tôi về những gì tôi học được.

Phải rất lâu tôi mới khám phá ra nỗi khát khao dành cho các chất kích thích rồi sẽ ám ảnh tôi suốt thời thanh niên, một thứ bản năng tự nhiên đã buộc phải hình thành sẵn trong tôi. Niềm đam mê đầu tiên và lâu dài nhất của tôi luôn là sự say sưa học hỏi tất cả những vấn đề khơi gợi trí tò mò trong tôi.

Tuy nhiên tôi không đến trường thường xuyên, không phải vì tôi coi việc học hành là mục tiêu thấp kém. Ngược lại là khác: vấn đề của tôi là trường học luôn gây trở ngại cho việc nghiên cứu những đề tài hấp dẫn hơn. Các môn học được trù tính để giảng dạy những thông tin thiết thực nhưng vì thấu hiểu vấn đề cốt lõi quá nhanh nên tôi chẳng thấy hứng thú gì với chúng nữa. Tôi luôn bị sao nhãng bởi những vấn đề bí ẩn xuất hiện ở phần ghi chú trong sách giáo khoa hay một lời nhận xét ngoài lề của giáo viên. Ví dụ: nếu giáo viên hình học của tôi đề cập đến việc Galileo giảng bài về cấu trúc vật lý của Địa ngục, tôi sẽ chẳng còn hứng tập trung lắng nghe khi thầy quay lại giảng về các cạnh của hình bình hành. Tôi sẽ bỏ vài tiết học tiếp theo để lên thư viện, đọc tất cả những gì có thể về Galileo, rồi khi quay trở lại trường tôi sẽ trượt bài kiểm tra toán kế tiếp vì nó chả có câu hỏi nào liên quan đến tòa án dị giáo cả.

Niềm say mê tự học vẫn còn nguyên vẹn, thể hiện rõ trong việc miêu tả quá trình điều trị bỏng của tôi. Chủ đề liên quan mật thiết đến tôi tới mức tôi không thể không gắng hết sức tìm hiểu. Sự nghiệp nghiên cứu của tôi không dừng lại ở đây: quá trình nghiên cứu về tu viện Engelthal, vì nhiều lý do rồi sẽ trở thành rất hiển nhiên, cũng chiếm rất nhiều thời gian của tôi.

Trong khi ngoài thư viện quả thật tôi đã và đang sống một cuộc đời trụy lạc, thì ở bên trong tôi luôn toàn tâm toàn ý vì tri thức như một vị thánh toàn tâm toàn ý với cuốn Kinh Thánh của mình vậy.

Các vết bỏng, theo tôi biết, cũng được phân loại theo độ sâu thương tổn của da. Bỏng bề mặt (bỏng độ một) chỉ ảnh hưởng tới lớp biểu bì, lớp ngoài cùng. Bỏng cục bộ (bỏng độ hai) ảnh hưởng tới phần biểu bì và lớp thứ hai, lớp mô mạch liên kết. Rồi đến bỏng toàn phần (bỏng độ ba), ảnh hưởng tới tất cả các lớp da và để lại sẹo vĩnh viễn.

Những ca nặng - như của tôi - thường là sự kết hợp của các vết bỏng ở nhiều mức độ khác nhau, vì chẳng có ai xoay cái xiên để đảm bảo thịt được nướng đều cả. Ví dụ, tay phải tôi hoàn toàn không bị thương tổn gì. Nó chỉ bị bỏng bề mặt và liệu pháp điều trị duy nhất là dùng loại kem thoa tay thông thường.

Những vết bỏng cục bộ của tôi tập trung chủ yếu tại khoeo chân và xung quanh vùng mông. Da tại đó nhăn lại như những tờ giấy cháy dở, và phải mất vài tháng mới lành. Giờ đây vùng da đó không hoàn hảo chút nào, nhưng mẹ kiếp, nó cũng không quá tệ. Khi ngồi xuống tôi vẫn có thể cảm nhận được mông mình.

Những vết bỏng toàn phần giống như miếng thịt nướng ông già nhà bạn để quên trên lò nướng ngoài trời lúc say rượu. Bỏng loại này phá hủy hoàn toàn; các mô không thể lành lại được. Vết sẹo có thể trắng, đen hay đỏ. Nó là một vết thương khô cứng, mãi mãi không mọc được lông vì các nang lông đã bị đốt sạch. Thật kỳ lạ là chẳng hề đau chút nào, vì các đầu dây thần kinh đã cháy hết rồi còn đâu.

Những vết bỏng ở tay, đầu, cổ, ngực, tai, mặt, chân và vùng đáy chậu đòi hỏi sự quan tâm đặc biệt. Những vùng này chiếm tỷ lệ cao nhất trong Quy tắc Số Chín. Vết bỏng hai phân rưỡi ở đầu nguy hiểm hơn nhiều so với vết bỏng hai phân rưỡi ở lưng. Bất hạnh thay, đây là nơi các vết bỏng độ ba của tôi tập trung nhiều nhất, tôi đã gieo phải đôi súc sắc mắt rắn(6).

Có vài cuộc tranh luận trong giới y học về việc liệu có bỏng độ bốn thực hay không, nhưng với tôi đây đơn thuần chỉ là một đống bác sĩ khỏe mạnh ngồi trong phòng họp tranh biện về ngữ nghĩa học. Những vết bỏng độ bốn này, nếu ta chấp nhận cái thuật ngữ khoa học ấy, ăn sâu xuống tận xương và gân. Tôi cũng phải chịu cả những vết bỏng ấy nữa; như thể việc cái sàn xe cứa hết các ngón chân trái của tôi vẫn còn chưa đủ nghiêm trọng, những vết bỏng được gọi là bỏng độ bốn này cướp mất của tôi ba ngón chân phải, một ngón rưỡi bàn tay trái. Và, Chúa ơi, còn thêm một phần cơ thể nữa.

Bạn nên nhớ là tôi đã làm rớt rượu bourbon lên quần ngay trước vụ tai nạn, một thời điểm đúng là không thể nào tệ hơn được. Hậu quả là đây, đùi tôi thấm đẫm chất dẫn cháy đến nỗi cả vùng bị bỏng nghiêm trọng. dương v*t của tôi như một cây nến trồi ra ngoài cơ thể và cùng bị thiêu chín trong lửa, để cái bấc nến cháy khô ở lại nơi từng là niềm tự hào đàn ông của tôi. Không thể cứu vãn, nó đã bị cắt bỏ ngay sau khi tôi nhập viện trong một quy trình được gọi là phẫu thuật cắt bỏ dương v*t.

Khi tôi hỏi người ta đã làm gì với phần còn lại của cái ấy, cô y tá thông báo cho tôi rằng nó đã bị thải loại với tư cách là rác y tế. Như để an ủi, cô giải thích thêm là các bác sĩ vẫn để bìu và hòn của tôi được nguyên vẹn. Lấy đi tất cả thì quá đáng quá, có lẽ sẽ có người nghĩ thế, cả gốc lẫn ngọn.

Nhà Grace chết trong vụ nổ phòng pha chế đá, chín năm sau lần đầu tôi tới nhà xe lưu động của họ. Chẳng có gì ngạc nhiên: còn ý tưởng nào tồi tệ hơn việc lũ nghiện chế thuốc trong không gian kín, với nguyên liệu bao gồm cả dầu đèn, sơn pha loãng và cồn tẩy rửa?

Tôi chẳng cảm thấy hụt hẫng chút nào. Vào lễ tang của họ, tôi đến nói chuyện với các thủ thư về cuốn tiểu sử của Galileo Galilei mà tôi đang đọc dở - vì quả thực, thầy giáo hình học đã khơi gợi niềm hứng thú với các nhà khoa học trong tôi.

Mặc dù bất kỳ học sinh nào cũng có thể kể về việc Galileo bị ngược đãi dưới tay tòa án dị giáo, nhưng cuộc đời thật của ông phức tạp hơn nhiều. Ông chưa bao giờ có ý định làm con chiên "ghẻ", và khi bị cấm rao giảng học thuyết Vũ trụ Nhật tâm, trong nhiều năm ông đã ngoan ngoãn tuân theo. Con gái Virginia của ông gia nhập tu viện nữ dưới cái tên đáng yêu, xơ Maria Celeste, trong khi cô con gái Livia cũng khoác lên mình chiếc áo tu hành dưới cái tên không kém phần thoát tục là Arcangela. Chuyện này có nét gì đó tương hợp một cách nên thơ vì - dù cho bây giờ tên ông được dùng như cách nói tắt khi đề cập tới việc khoa học bị tôn giáo đàn áp - cuộc đời Galileo đã gắn kết tôn giáo và khoa học với nhau. Người ta nói rằng khi Tommasco Caccini, một cha xứ trẻ dòng Dominic, trở thành người đầu tiên công khai chỉ trích kịch liệt việc Galileo ủng hộ học thuyết Copernic, ông ta đã kết thúc bài rao giảng của mình bằng một câu trích trong Tông đồ công vụ: Hỡi những người con đất Galilee, sao các ngươi lại đứng ngước nhìn lên Thiên đường? Tuy nhiên, điều Caccini không ngờ tới là nếu Galileo có ngước mắt nhìn lên bầu trời, thì khả năng ông đang cầu nguyện cũng cao ngang khả năng ông đang vẽ biểu đồ chuyển động của các thiên thể.

Vào năm hai tư tuổi, Galileo dự tuyển vào vị trí giảng dạy tại trường đại học với hai bài thuyết trình về cấu trúc vật chất trong Địa ngục của Dante. Hầu hết các nhà tư tưởng hiện đại coi đây là việc hết sức kỳ dị, nhưng vào thời Galileo, nghiên cứu vũ trụ theo quan điểm của Dante là một vấn đề vô cùng nóng hổi. (Chẳng phải ngẫu nhiên mà các buổi thuyết trình đều diễn ra ở học viện Firenze tại thành phố quê hương của nhà thơ.) Bài thuyết trình thành công vang dội và giúp Galileo có được chỗ đứng vững chắc với tư cách Giáo sư Toán học tại đại học Pisa.

Mãi về sau này Galileo mới nhận ra rằng quan điểm ông bảo vệ trong bài thuyết trình là không chính xác và luận điểm cho rằng cấu trúc hình nón của Địa ngục có tỷ lệ bất biến, nghĩa là nó có thể tăng về kích thước mà không mất đi tính nguyên vẹn hay sức mạnh, là không đúng. Nếu Địa ngục thực sự tồn tại bên trong Trái đất, thì cái hố khổng lồ đó sẽ khiến lớp phủ Trái đất (quyển manti) gãy vụn trừ phi thành Địa ngục dày hơn nhiều so với mức ông tranh luận ban đầu. Vì vậy Galileo bắt tay vào nghiên cứu bản chất định luật tỷ lệ và, vào cuối đời, công bố những phát hiện của ông trong cuốn sách Two New Sciences (Hai ngành khoa học mới) với những nguyên lý góp phần hình thành nên vật lý hiện đại - một bộ môn khoa học giờ được chia thành từng phân ngành nhỏ vì Galileo đã nhận ra sai lầm của mình khi áp dụng các định luật tự nhiên cho một địa điểm siêu nhiên.

Nhưng nếu Địa ngục là nơi có thực, thì tôi cũng chẳng mấy nghi ngờ việc Debi và Dwayne Michael Grace giờ này đang ở đó.

Tôi bất tỉnh trong gần bảy tuần, được bọc trong túi da người chết. Tình trạng hôn mê của tôi phát sinh từ cú sốc nhưng rồi các bác sĩ quyết định cứ để tôi bất động thế để trị liệu trong khi quá trình phục hồi diễn ra.

Tôi không cần phải có ý thức khắc phục sự suy sụp của hệ tuần hoàn, tôi cũng không cần phải quan tâm đến những thương tổn vùng thận. Tôi không biết ruột mình đã ngừng hoạt động. Tôi chẳng biết gì về những vết lở loét làm tôi nôn ra máu hay việc các y tá tất tả giữ cho tôi khỏi chết ngạt mỗi khi chuyện này xảy ra. Tôi không cần phải chau mày lo lắng về nguy cơ viêm nhiễm sau mỗi ca phẫu thuật cấp cứu hay ghép da. Tôi cũng chẳng được thông báo gì về việc các nang tóc đã cháy ra tro hay tuyến mồ hôi bị phá hủy. Tôi không biết gì khi họ hút bồ hóng ra khỏi phổi - quy trình trị liệu, tiện đây nói luôn, được gọi là biện pháp vệ sinh phổi.

Dây thanh quản của tôi thương tổn nặng nề do hít quá nhiều khói, và thủ thuật mở khí quản đã được thực hiện để thanh quản có thể tự liền mà không phải lắp một cái ống đè lên gây khó chịu. Chẳng làm được gì hơn. Một phần khác của cơ thể tôi cũng ít được quan tâm trong giai đoạn đầu là cái chân phải, bị gãy nát. Các bác sĩ phải chờ cho tình trạng của tôi ổn định rồi mới bắt đầu phẫu thuật nối lại phần xương đùi giập gãy và đầu gối nát tươm. Giữ lại mạng sống cho tôi quan trọng hơn là giữ một giọng nói êm tai và dáng đi không quặt quẹo.

Trong suốt thời gian hôn mê, teo cơ là điều không thể tránh khỏi. Thiếu vận động và mất đi phần lớn da trên người, cơ thể tôi tiến hành việc ăn chính nó. Nó tiêu thụ chất đạm bên trong, tiêu hao một lượng lớn năng lượng chỉ để giữ nhiệt độ ổn định. Tấm chắn nhiệt không cáng đáng được hết, vì thế cơ thể tôi ngưng vận chuyển máu đến các chi. Mối quan tâm của cơ thể là cơ quan trung tâm, vùng ngoại vi bị bỏ mặc, rồi tôi ngừng thải nước tiểu và bị ngộ độc. Khi cơ thể co thắt, tim tôi nở ra; không phải vì tình yêu, mà vì căng thẳng.

Tôi bị dòi bọ phủ kín, một liệu pháp vốn được áp dụng thường xuyên hơn trong quá khứ nhưng gần đây đã phổ biến trở lại trong lĩnh vực y khoa. Các con bọ ăn phần thịt chết, trở nên béo ú trên vùng da thịt thối rữa của tôi, trong khi giữ lại nguyên vẹn phần thịt lành. Các bác sĩ khâu mí mắt tôi lại để bảo vệ mắt và tất cả những gì tôi cần là một người đặt lên đó hai đồng xu tiễn biệt tôi sang thế giới bên kia. Rồi thì, tôi sẽ trở nên hoàn thiện.

Tôi có một ký ức hạnh phúc thời sống với nhà Grace: hạnh phúc, nhưng được đánh dấu bởi một sự kiện hết sức lạ lùng.

Buổi biểu diễn tàu lượn diễn ra vào một ngày nóng nực giữa tháng Tám tại sân bay gần đó. Mấy cái máy bay không làm tôi thích thú - nhưng những người nhảy dù, với chiếc dù bật mở tới tận thiên đường và dải khói đầy màu sắc kéo dài phía sau thì có! Cú rơi từ bầu trời xuống mặt đất, cú bổ nhào của thần thợ rèn Hephaestous chậm lại ngay chỉ bằng một động tác bung những mảnh vải lụa, không khác gì một phép màu. Những người nhảy dù điều khiển cái đòn bẩy kỳ diệu của họ, lượn quanh những hồng tâm lớn màu trắng in nổi trên mặt đất, luôn nhắm trúng đích, vào đúng tâm. Đó là điều đáng ngạc nhiên nhất tôi từng được chứng kiến.

Không biết từ khi nào, một người phụ nữ châu Á đã tiến lại ngay phía sau tôi. Tôi cảm thấy bà trước khi nhìn thấy bà; như thể da tôi nổi gai ốc trước sự xuất hiện của bà vậy. Khi tôi quay lại thì bà đã đứng đó, khẽ mỉm cười. Tôi vẫn còn nhỏ và không biết bà là người Trung Quốc, Nhật Bản hay Việt Nam; bà có làn da cùng đôi mắt của người châu Á và chỉ cao ngang tôi thôi, dù tôi lúc đó mới mười tuổi. Bà mặc một chiếc áo choàng đen đơn giản khiến tôi nghĩ bà hẳn phải thuộc một giáo phái nào đó. Trang phục của bà không bình thường chút nào nhưng dường như chẳng ai trong đám đông nhận ra cả, và đầu bà thì trọc lóc.

Tôi muốn hướng sự chú ý trở về với các vận động viên nhảy dù nhưng không thể. Không thể khi bà vẫn cứ hiện diện sau lưng. Vài phút trôi qua, tôi cố gắng không nhìn bà, nhưng rồi không thể kìm được nữa. Tất cả những người khác đều ngước mắt lên bầu trời còn bà thì nhìn thẳng vào tôi.

"Bà cần gì ạ?" tôi bình tĩnh hỏi; tôi chỉ cần một câu trả lời. Bà không nói gì mà chỉ tiếp tục cười với tôi.

"Bà không nói được ạ?" tôi hỏi. Bà lắc đầu, rồi đưa ra một mảnh giấy. Tôi do dự một chút trước khi cầm lấy nó.

Trên đó viết: Cháu chưa bao giờ băn khoăn vết sẹo của mình thực sự từ đâu mà có ư?

Khi tôi nhìn lại, bà đã biến mất. Trước mắt tôi chỉ có đám đông đang ngẩng hết mặt lên trời.

Tôi đọc lại mảnh giấy lần nữa, không tin nổi bà có thể biết được dị tật trên cơ thể mình. Nó ở trên ngực tôi, bị giấu sau lớp áo, và tôi chắc chắn mình chưa từng gặp người phụ nữ này bao giờ. Nhưng ngay cả khi tôi có vì lý do này khác mà lỡ quên mất cuộc hội ngộ với một người phụ nữ châu Á trọc đầu mặc áo choàng, thì cũng chẳng có cớ gì khiến tôi chỉ cho bà vết sẹo của mình.

Tôi lách qua đám đông, tìm kiếm mọi dấu vết của bà - cái áo choàng dài lướt qua những toán người, phần sau cái đầu trọc - nhưng chẳng có gì cả.

Tôi bỏ mảnh giấy vào túi áo, và từ lúc đó cho đến hết ngày còn lấy ra vài lần để chắc rằng nó có thực. Dwayne Michael Grace hẳn thấy mình rất hào phóng vì đã mua cho tôi chiếc kẹo bông ở gian hàng bánh kẹo. Rồi Debi ôm tôi, và chúng tôi gần như là một gia đình vậy. Sau buổi biểu diễn tàu lượn, chúng tôi tham dự hội thả đèn lồng giấy trên con sông gần đó, một quang cảnh tuyệt đẹp và không hề giống với tất cả những gì tôi nhìn thấy từ trước tới nay.

Khi tôi trở về nhà vào tối hôm đó, mảnh giấy đã biến mất khỏi túi áo dù tôi giữ gìn rất cẩn thận.

Tôi mơ hết giấc mơ này đến giấc mơ khác trong suốt thời gian hôn mê. Những hình ảnh lẫn lộn cứ đan xen vào nhau, cạnh tranh quyết liệt để giành chỗ đứng trên trung tâm sân khấu trong rạp xiếc.

Tôi mơ thấy một phụ nữ nông thôn đang đun nước tắm. Tôi mơ thấy máu từ tử cung mẹ tôi trào ra. Tôi mơ thấy đôi cánh tay mềm nhũn của người bà đang hấp hối, đẩy xích đu cho tôi bay cao mãi vào bầu trời xanh thăm thẳm. Tôi mơ thấy những ngôi chùa Phật giáo gần những dòng sông mát lành trong trẻo cuộn chảy. Tôi mơ thấy cô nhóc bị mẹ đem bán lấy tiền mua ma túy tổng hợp. Tôi mơ thấy cái lò nung bị biến dạng là chiếc ô tô của tôi. Tôi mơ thấy con tàu chiến của người Viking. Tôi mơ thấy cái đe của người thợ rèn. Tôi mơ thấy đôi bàn tay của người thợ điêu khắc chạm trổ những nét mạnh mẽ lên đá. Tôi mơ thấy những mũi tên bốc cháy vọt ra từ bầu trời, tôi mơ thấy những đám lửa đổ xuống như mưa. Tôi mơ thấy kính vỡ khắp nơi. Tôi mơ thấy một thiên thần hoảng loạn bị đóng băng dưới nước.

Nhưng trên tất cả, tôi mơ thấy những gargoyle(7) đang chờ được sinh ra.

Sau sự kiện ở trường bay, tôi cứ quen tay chà vào vết sẹo bẩm sinh trên ngực. Tôi chẳng bao giờ để ý là mình đang chà, nhưng người khác thì có. Dwayne ghét chuyện đó, ông ta vừa hất tay tôi ra khỏi ngực vừa nẹt tôi "dừng cái trò tự sướng ấy ngay". Rồi ông ta lại hít thêm thuốc, khiến người khác thấy khó mà coi trọng những lời chỉ trích đó được.

Khi Dwayne và Debi chết, tôi mất luôn những người họ hàng duy nhất còn sót lại - họ ngoại, dĩ nhiên; họ nội của tôi chẳng là gì ngoài một dấu chấm hỏi. Tôi được đưa vào trại trẻ Cơ Hội Thứ Hai, điều này chỉ làm tôi thêm băn khoăn là mình đã có cơ hội đầu tiên khi nào vậy. Chính ở trại trẻ Cơ Hội Thứ Hai này tôi được theo học hầu hết các chương trình giáo dục do chính phủ tài trợ. Thời trung học tôi đến lớp khá đều đặn, dù thấy chán ngấy, và học được những kiến thức cơ bản về toán và các môn khoa học. Toàn bộ thời gian tôi dành cho thư viện hoàn toàn không hề lãng phí. Tôi đã mày mò tự học từ lâu trước khi ai đó cố dạy cho tôi thứ gì.

Với sự giúp đỡ của những đứa trẻ ở Cơ Hội Thứ Hai, tôi nhanh chóng phát hiện ra đủ loại chất kích thích để thử nghiệm. Trong khi rất ghê loại đá, tôi lại khá hứng thú với cần sa và thuốc lá hasit. Trên thực tế, tôi đã sớm nhận được sự khuyến khích từ dì chú, những người vốn không nhận ra rằng người ta vẫn có thể sống sót mà không cần hóa chất hỗ trợ nên đã cố gắng tránh cho tôi không dùng bất kỳ thứ nào nặng hơn.

Tôi cũng khám phá ra sở thích thứ ba đi kèm với thư viện và chất kích thích: sự diệu kỳ trong chuyện chăn gối. Bắt đầu bằng việc khẩu dâm mang tính chất thăm dò với thằng bạn thân mới quen, Eddie. Đây là trò các cậu trai tuổi teen hay làm: chúng thách một thằng hôn cái ấy và khi thằng kia làm rồi thì gọi nó là thằng ái. Đêm tiếp theo, chuyện tương tự diễn ra. Tôi thích quan hệ tình dục nhưng chẳng khoái gì đồng tính, vì thế tôi nhanh chóng làm chuyện đó với vài cô bé ở trại trẻ - đặc biệt là một cô tên Chastity, trinh bạch, ơn Chúa là cô ta chẳng có khái niệm gì về ý nghĩa cái tên của mình cả. Thực ra mà nói, cô ta không có khái niệm về nhiều thứ lắm. Lần đầu tiên nghe thấy cụm từ "khẩu dâm" cô còn tưởng nó liên quan gì đó đến tai(8). Quan hệ tình dục qua đường tai, bạn có thể liên tưởng thế.

Mười bảy tuổi, tôi tiếp tục thỏa mãn những tò mò giới tính của mình với một bà cố vấn trẻ vị thành niên. Được chính phủ bảo trợ không phải là không có lợi. Sarah là người phụ nữ đầy phiền muộn, nếu trên đời này thực sự tồn tại một kẻ như thế: một bà vợ ba lăm tuổi nghiện rượu với một ông chồng gian dối và phải trải qua giai đoạn đầu khủng hoảng tuổi trung niên. Tôi đem lại sự khuây khỏa và vui thú cho bà ta còn bà ta cho tôi tình dục. Cũng chẳng thiệt hại gì khi tôi trổ mã, không còn là cậu nhóc dễ thương với khuôn mặt bầu bĩnh nữa. Má tôi trở nên góc cạnh hút hồn, tóc tôi gợn sóng cuốn hút, và cơ thể tôi nở nang với cơ bắp thật quyến rũ.

Đến năm mười tám tuổi, khi không còn chịu sự quản lý của ai nữa, tôi đã thành thạo hai biệt tài. Một là hút hít, hai là quan hệ với bà cố vấn, và tôi thấy cần phải biến một trong hai biệt tài này thành cần câu cơm. Có vẻ hút hít không phải một nghề hậu hĩnh, nhưng có thể dễ dàng kiếm được năm mươi đô la nhờ chụp ảnh khỏa thân, trong thời buổi thế giới chả thiếu gì những gã đàn ông trung niên sẵn sàng trả tiền để ngắm các cậu bé đứng trần trụi trong phòng khách nhà mình. Tôi không phê phán gì chuyện đó; tôi còn bận tính xem năm mươi đô có thể mua được bao nhiêu cái bánh hamburger. Rồi chẳng mấy chốc cát sê nhảy vọt lên một trăm năm mươi đô la cho những bức ảnh chụp cảnh chăn gối và - dù sao thì vì bạn đã chụp ảnh rồi - cũng chẳng có gì khó hiểu khi thu nhập tăng gấp đôi gấp ba nhờ đóng phim video. Hơn nữa, ai lại không muốn làm ngôi sao điện ảnh chứ? Mỗi thước phim mất nhiều nhất là vài ngày; nhưng thường chỉ mất vài giờ. Đó là một khoản hậu hĩ đối với một thằng nhóc mười tám tuổi chẳng có kỹ năng gì, và đơn giản như thế đấy, sự nghiệp đóng phim khiêu dâm của tôi bắt đầu.

(1) Lễ kỷ niệm ngày Chúa Jesus bị đóng đinh trên thập tự giá, rơi vào ngày thứ Sáu trước lễ Phục sinh hằng năm (khoảng từ 20/3 đến 23/4).

(2) Nguyên văn: Charon. Nhân vật trong thần thoại Hy Lạp, người lái đò chuyên đưa linh hồn người chết qua sông.

(3)Keith Richards: ca sĩ, nhạc sĩ người Anh, thành viên sáng lập ban nhạc The Rolling Stones. Ông đã từng phải thay máu để cai nghiện ma túy.

(4) Trắc nghiệm nhân cách do nhà tâm thần học Thụy Sĩ Hermann Rorschach sáng tạo năm 1917, bằng cách sử dụng một tập hợp mười giọt mực đối xứng để tìm hiểu xem người ta nhìn thấy những gì, qua đó làm công cụ chẩn đoán các bệnh tâm thần.

(5) Methamphetamine, một loại ma túy tổng hợp. Trên thị trường, chất ma túy này có thể được bán dưới dạng bột hoặc viên nhộng. Người chơi methamphetamine có thể hít, hút, tiêm hoặc nuốt. Khi vào cơ thể, chất này sẽ làm tăng huyết áp, gây tổn thương não, làm thay đổi tính tình.

(6) Trong trò Craps (một trò chơi sử dụng súc sắc), "mắt rắn" là từ lóng chỉ việc gieo cùng lúc ra hai con nhót. Dấu chấm duy nhất trên hai con súc sắc làm người ta liên tưởng đến cặp mắt nhỏ tí của con rắn, và vì là số nhỏ nhất, đồng nghĩa với khả năng thua cao nên người ta thường gắn nó với điềm gở.

(7) Loài sinh vật bay trong truyền thuyết có cánh dơi, tai của loài gặm nhấm, móng vuốt nhọn hoắt và hàm răng sắc bén. Từ gargoyle thường được dùng để chỉ những bức tượng đá nối với một ống máng được thiết kế để tiêu thoát nước khỏi mái nhà, nhưng nó chủ yếu được dùng với mục đích nghệ thuật và nhằm xua đuổi ma quỷ ra ngoài nhà.

(8) Trong tiếng Anh, từ oral (miệng) phát âm giống với aural (tai).
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 3


Chương 2

Ánh sáng tràn qua bên trong mí mắt và tôi nhận thấy một con rắn đang chầm chậm trườn lên tủy sống của mình, nuốt chửng tủy sống bằng cặp hàm có thể tháo rời. Lưỡi nó kêu tanh tách khi nó cất tiếng rít, TA ĐANG TỚI ĐÂY VÀ NGƯƠI CHẲNG THỂ CẢN ĐƯỢC ĐÂU. Giọng phụ nữ - đây là điều giúp tôi biết nó thuộc giống cái - và lưỡi mụ mơn trớn từng đốt sống của tôi trong khi tìm đường lên đỉnh cột sống. Lên đến nơi, mụ liếm vùng hốc sọ, rồi vặn xoắn vài lần như để thông báo với tôi rằng mụ đã yên vị trong ấy rồi. Vảy mụ ta cọ vào các cơ quan nội tạng của tôi còn gan tôi tím bầm vì cái đuôi cứ ngoe nguẩy thất thường của mụ.

Tôi đang nằm trên chiếc giường hơi giúp giảm ma sát và hỗ trợ việc hồi phục; những miếng băng của tôi nhẹ nhàng phất phơ trong làn gió lùa phía trên. Ở mỗi mép giường là một thanh chắn, sơn trắng như những khúc xương bị tẩy trắng hếu, giữ tôi khỏi rơi, hoặc không cho phép tôi thoát ra. Tôi nhanh chóng gọi chiếc giường này là bụng bộ xương và tôi nằm trong luồng gió thổi dào dạt qua lồng ngực nó, trong khi chính những cái xương đó ngăn không cho tôi lang thang đi tìm nghĩa trang mới cho mình.

Tôi không cần dùng đến máy hô hấp nhân tạo nữa nhưng trên người vẫn còn đủ loại ống dẫn khiến tôi trông không khác gì con búp bê dùng để giắt ghim. Những ống dẫn cuộn lại thành vòng tròn, tròn, tròn và tôi tưởng tượng ra quái vật đầu bò Minos đứng trấn giữ cổng Địa ngục, dẫn những kẻ tội đồ tới điểm cuối bằng cách cuộn đuôi lại quanh người họ. Cứ mỗi vòng cuộn của cái đuôi là một tầng sâu của Địa ngục. Thế là tôi đếm những cái ống đáng yêu của mình với sự tò mò đơn thuần: rằng người phân loại tàn nhẫn từ nơi tối tăm kinh khủng ấy sẽ ném tôi sâu đến mức nào.

Cô y tá có vẻ vui khi thấy tôi tỉnh lại. "Bác sĩ Edwards đã điều chỉnh lượng thuốc để giúp anh hồi tỉnh. Tôi sẽ gọi bà ấy ngay."

Tôi cố cất tiếng, nhưng như thể ai đó đã chẹn một chai Coke vào cổ họng tôi mà giã mạnh vậy; những mảnh kính vỡ ghim đầy nơi từng là dây thanh âm của tôi. Cô y tá đề nghị tôi im lặng và trả lời câu hỏi cô biết tôi sẽ hỏi nếu tôi có thể. Tôi đang ở trong bệnh viện, khoa bỏng, cô ấy nói. Có một vụ tai nạn. Tôi đã rất may mắn. Các bác sĩ đã cố hết sức. Vân vân, vân vân, vân vân. Cuối cùng tôi cũng cất được tiếng khò khè, "Bao... lâu?"

"Gần hai tháng." Cô ban cho tôi nụ cười thương hại rồi quay gót đi gọi bác sĩ.

Tôi kiểm tra mấy chiếc xương sườn của bộ xương. Lớp sơn trắng bóng ở vài chỗ đã bong ra do những ngón tay không ngừng cử động. Những chỗ này đã được sơn lại, dĩ nhiên, nhưng vài vết xước nhỏ thì vẫn còn lộ rõ. Dòng suy nghĩ của tôi chìm dưới những lớp sơn, lang thang vô định. Bao lâu thì họ sơn những chiếc giường này một lần? Mỗi bệnh nhân mới là một lần sơn lại? Hay là sáu bệnh nhân, hay một tá? Bao nhiêu người đã nằm đây trước tôi?

Tôi muốn òa khóc nhưng ống lệ đã bị cháy đến tắc nghẽn cả rồi.

Chẳng có mấy việc để làm ngoại trừ trượt ra trượt vào trạng thái hôn mê bất tỉnh. Thuốc giảm đau được truyền từng giọt một trong khi con rắn dần chiếm cứ từng phân xương sống của tôi, tiếp tục lấy cái lưỡi uốn éo đánh tanh tách vào hốc xương sọ tôi. Liếm và hôn, tách tách tách tiếng thuốc nhỏ giọt, xì xì xì tiếng con rắn nói. Bài thuyết giáo đầy âm xuýt của con rắn khi đàm luận về khuynh hướng tâm hồn đầy tội lỗi của tôi dường như kéo dài vô tận. Tiếng bước chân lóc ca lóc cóc trong sảnh, ngàn người đã đến kính viếng hương hồn người chết. Những căn phòng vang dội cái giọng đều đều của mấy bộ phim truyền hình ủy mị sướt mướt. Các gia đình mang bộ mặt lo lắng, thì thầm về tình huống xấu nhất có thể xảy ra.

Tôi không thể hiểu rõ tình trạng nguy kịch của mình và băn khoăn không biết mọi thứ sẽ thế nào khi tôi quay trở lại với sự nghiệp phim ảnh, hay chuyến du lịch nho nhỏ đến bệnh viện này sẽ tốn bao nhiêu. Tôi vẫn chưa nhận ra rằng mình có thể sẽ không bao giờ tiếp tục công việc được và chuyến đi này đã lấy của tôi tất cả. Phải tới vài tuần sau đó, khi các bác sĩ giải thích tường tận đến khủng khiếp về chuyện xảy ra với cơ thể tôi và những gì sẽ tiếp diễn, thì tôi mới bắt đầu hiểu ra vấn đề.

Cơ thể tôi đã giảm sưng tấy và đầu đã co lại gần bằng kích cỡ bình thường. Mặt tôi khó chịu cực độ mỗi khi đầu ngón tay còn lành lặn của tôi chạm vào. Chân tôi được nâng lên và buộc vào thanh đỡ, tôi bị bó vào các mảnh vải dày hạn chế cử động để tránh làm rách mô cấy ghép. Nhìn cái chân phải tàn phế của mình, tôi thấy một bộ kim lạ mắt châm vào da thịt. Bệnh nhân bỏng không được bó bột bằng khuôn sợi thủy tinh - tấy rát vô cùng - vì thế lũ nhện máy cứ việc mọc ra khắp người tôi.

Có ba y tá chính ở khoa bỏng: Connie, Maddy và Beth. Họ không chỉ chăm sóc thể chất mà còn lãnh nhiệm vụ lên-tinh-thần cho bệnh nhân nữa, không ngừng nói với tôi rằng họ tin tưởng tôi, vì thế tôi cũng phải tin vào chính mình. Tôi chắc chắn Connie thực sự tin vào những thứ vớ vẩn tuôn ra từ miệng cô ấy nhưng tôi cảm thấy Maddy và Beth chỉ như những bà bán tạp phẩm cứ nhại đi nhại lại một câu "Chúc quý khách một ngày tốt lành." Mỗi người làm ca tám tiếng; kết hợp lại họ làm trọn vẹn một ngày.

Beth làm việc buổi chiều và chịu trách nhiệm nắn bóp cho tôi hằng ngày, nhẹ nhàng kéo các khớp nối và xoa bóp cơ bắp của tôi. Thậm chí những thao tác rất đỗi dịu dàng này cũng làm tôi đau đớn khôn cùng, dù có sự hỗ trợ của morphine chăng nữa. "Nếu chúng tôi không làm thế này, da anh sẽ cứng lại và anh sẽ không thể cử động các khớp xương được. Chúng tôi luôn làm thế này trong suốt thời gian anh hôn mê đấy." Lời giải thích của cô chẳng làm cơn đau đỡ hơn chút nào. "Chứng co cứng cơ là cả một vấn đề đấy. Nếu nhìn những ngón chân còn lại của mình, anh sẽ thấy chúng có vài thanh nẹp. Giờ anh có thể đẩy tay tôi không?"

Tôi cố đẩy nhưng không thể biết có thành công hay không, cảm giác - thực ra là, sự mất cảm giác - làm tôi quá lúng túng. Tôi không còn xác định được cơ thể mình đang căng ra đến đâu nữa.

Bác sĩ Nan Edwards, bác sĩ điều trị chính của tôi đồng thời là trưởng khoa bỏng, giải thích rằng bà thường xuyên tiến hành phẫu thuật cho tôi trong suốt thời gian tôi hôn mê, loại bỏ phần da bị tổn thương và bó tôi vào đủ loại vật liệu thay thế. Cùng với việc ghép da người khác (da của người chết) tôi cũng được ghép da của chính mình, da từ những phần cơ thể còn lành lặn của tôi, và cả da động vật nữa, da lợn. Ta không thể không băn khoăn liệu mấy ông theo đạo Do Thái hoặc đạo Hồi có chịu để người ta làm thế với mình không.

"Tình thế thật sự không thể đoán định được vì phổi anh bị hư hại nặng. Chúng tôi luôn phải nâng mức ôxy bơm vào cơ quan hô hấp của anh, một dấu hiệu không tốt lành gì," bác sĩ Edwards nói. "Nhưng anh đã vượt qua được. Chắc hẳn anh có điều gì đó rất tốt đẹp đang trông đợi phía trước."

Rõ ngu ngốc. Tôi có đấu tranh để được sống đâu cơ chứ, tôi nào có nhận ra mình hôn mê bất tỉnh đâu, và tôi chắc chắn đã không vật lộn để thoát khỏi tình trạng đó. Chưa một lần nào trong suốt quá trình hôn mê tôi thấy cần quay lại thế giới này cả.

Bác sĩ Edwards nói, "Nếu không nhờ những tiến bộ trong điều trị bỏng từ thời chiến tranh Việt Nam..." Giọng bà trượt đi, như thể tốt hơn tôi nên tự điền vào chỗ trống và nhận ra mình đang ở trong một thời đại may mắn đến thế nào.

Tôi ước gì mình có thể nói nên lời. Tôi sẽ nói với bà ấy rằng tôi mong sao chuyện này xảy đến với tôi vào thế kỷ mười bốn, trong thời buổi chẳng có bất cứ hy vọng nào cho tôi hết.

Tôi bắt đầu sự nghiệp diễn viên phim khiêu dâm ngắn ngủi chuyên về thể loại tình dục khác giới đóng với nhiều bạn diễn nữ, chưa lần nào mất khả năng cương cứng. Nhưng xin đừng cho rằng tôi là kẻ đơn điệu; là nghệ sĩ, tôi luôn tìm kiếm những thử thách mới. Bằng cách luyện tập tới bến, tôi làm phong phú thêm lý lịch bản thân với khẩu dâm, quan hệ qua đường hậu môn, kể cả chơi một lúc ít nhất hai, ba đối tác. Tôi không hứng thú với tình dục đồng giới, dù luôn cảm thấy ngưỡng mộ những tay có thể thực hành với cả hai giới. Tôi cũng không khoái trò khổ dâm, dù có tham gia đóng vài bộ phim với mô típ dùng dây trói đối phương. Tôi từ chối những bộ phim kích thích giao cấu với trẻ em. Rặt những thứ ghê sợ, dù tôi phải thừa nhận Humbert Humbert(9) làm tôi cười khúc khích. Kiểu quan hệ dính dáng đến chất thải con người hiển nhiên là không, chẳng có góc lý trí nào cho phép tôi đi vệ sinh lên ai đấy và tôi càng không thích ai làm thế với mình. Và nếu vì không chịu đóng phim có cảnh quan hệ với động vật mà tôi bị coi là thằng hợm hĩnh thì cứ cho là thế đi: tôi là một đứa hợm hĩnh.

Tôi nằm trên giường bệnh, cảm nhận rõ hơi thở của mình. So với trước vụ tai nạn, nó thật... Từ nào mới miêu tả chính xác nhất đây? "Nặng nhọc" không đúng lắm nhỉ. "Bị đè nén" có vẻ hợp hơn và sát nhất với tình trạng hiện tại của tôi. Hơi thở bị đè nén của tôi một phần là do khuôn mặt bị biến dạng, một phần do những cái ống dẫn xoắn xuýt chạy xuống cổ họng, và một phần do cái mặt nạ vải gạc của tôi. Thỉnh thoảng, tôi tưởng tượng rằng ngay cả không khí cũng sợ thâm nhập vào cơ thể tôi.

Tôi hé nhìn qua những dải băng quấn quanh người, tò mò xem mình còn lại những gì. Vết sẹo bẩm sinh đã nằm cả đời phía trên tim tôi giờ không còn cô đơn nữa. Thực tế là tôi hầu như không thể tìm ra nó nữa, nó đã có một vị trí ấm cúng giữa đống hoang tàn thô ráp trên ngực tôi rồi. Ngày qua ngày, một đoàn bác sĩ, y tá, chuyên gia vật lý trị liệu lướt vào phòng dồn dập tấn công tôi với hết thuốc mỡ lại đến kem bôi da, xoa bóp vùng đất lở Pompei(10) đỏ rực là làn da tôi. "Giãn cơ thụ động," họ nói với tôi, "rất quan trọng." Giãn cơ thụ động, tôi nghĩ, có mà đau thấu trời thấu đất ấy.

Tôi không ngừng lèo nhèo xin mấy cô y tá cho thêm morphine để thỏa mãn con rắn, chỉ để nhận được câu trả lời rằng vẫn chưa tới lúc. Tôi đề nghị, khẩn nài, kỳ kèo, cả khóc lóc nữa; họ thì cứ khăng khăng rằng họ - đồ khốn - luôn tận tâm làm những điều tốt nhất cho tôi. Quá nhiều thuốc men sẽ làm các cơ quan nội tạng của tôi hoạt động bất thường. Quá nhiều thuốc sẽ làm tôi phụ thuộc vào nó. Quá nhiều thuốc thang, bằng cách nào đó, sẽ làm tình hình xấu thêm.

Có một con rắn ký sinh trong tôi. Tôi bị cầm tù trong lồng ngực của một bộ xương. Chiến tranh Việt Nam, có vẻ như thế, tồn tại vì lợi ích của tôi. Các ngón chân ngón tay đều đã bị cắt cụt, và gần đây tôi được biết dù các bác sĩ có thể phẫu thuật tái tạo cơ quan sinh dục cho tôi, tạo dương v*t mới từ các mô lấy từ tay hoặc chân tôi, thì tôi cũng sẽ không bao giờ có thể cương cứng được nữa.

Thêm chút thuốc giảm đau có thể làm tình hình tệ hơn đến mức nào đây? tôi băn khoăn.

Khi các cô y tá đã phát ngấy những lời khẩn nài tăng liều thuốc giảm đau của tôi, họ bảo với tôi họ sẽ mời một bác sĩ tâm lý. Cái áo choàng xanh ông ta trùm ngoài trang phục của mình, để bảo vệ các bệnh nhân bỏng, không mấy hợp với ông ta và tôi có thể nghe thấy tiếng vải nhung tăm cọ xát nơi đùi mỗi khi ông ta bước đi. Ngoài cái đầu hói, ông ta nuôi thêm bộ râu dê lờm xờm trong một nỗ lực bất thành để người ta không chú ý đến cái cằm chẻ, và còn chưng ra đôi má béo núc của một người đàn ông với toàn bộ khẩu phần ăn nằm ở máy bán hàng tự động. Con vật giống ông ta nhất hẳn phải là con sóc chuột có vấn đề về tuyến, và ông ta chìa tay ra như thể là người bạn thân mới quen của tôi vậy. "Tôi là Gregor Hnatiuk."

"Không, xin cám ơn."

Gregor cười ngoác miệng. "Không định cho tôi dù chỉ một cơ hội sao?"

Tôi bảo ông ta thích viết gì lên bản đánh giá thì viết và chúng tôi có thể cùng giả vờ rằng đã rất nỗ lực hợp tác. Bình thường, tôi hẳn cũng có nhiều trò với ông ta lắm - nói với ông ta rằng tôi đã bú sữa mẹ trong thời gian quá dài và hiện đang rất nhớ mẹ, hoặc tôi đã bị người ngoài hành tinh bắt cóc - nhưng cổ họng tôi không thể chịu được sức ép nếu nói quá nhiều từ cùng lúc. Tuy thế, tôi vẫn khiến ông ta hiểu được rằng tôi chẳng mấy hứng thú với bất kỳ phương pháp trị liệu nào ông ta đưa ra.

Gregor ngồi xuống và cầm cái kẹp hồ sơ trong tư thế không khác gì cậu học sinh đang cố che giấu sự cương cứng của mình. Ông ta bảo đảm chỉ muốn giúp tôi thôi, rồi huơ tay loạn xạ ra dấu ông ta không có ý định đến đây để "thâm nhập" vào đầu tôi. Khi còn bé, bọn du côn hàng xóm hẳn đã đánh ông ta như cơm bữa.

Tôi cố bật ra được vài từ: "Thêm thuốc giảm đau đi." Ông ta nói không được, và thế là tôi đuổi ông ta đi. Ông ta bảo tôi không cần phải miễn cưỡng nói chuyện, nhưng ông ta muốn chia sẻ vài phương thức tưởng tượng sáng tạo để chống lại cơn đau. Tôi thấm nhuần lời khuyên của ông ta và tưởng tượng sáng tạo rằng ông ta đã rời khỏi phòng.

"Hãy nhắm mắt lại và nghĩ đến nơi anh muốn tới," ông ta nói. "Nơi đó có thể là một kỷ niệm, hay một địa điểm anh muốn đến thăm trong tương lai. Bất cứ nơi nào làm anh cảm thấy hạnh phúc."

Lạy Chúa lòng lành.

Bác sĩ Edwards đã cảnh báo tôi là lần đầu tỉnh táo trải qua ca mổ cắt bỏ mô hoại tử sẽ rất đau đớn, thuốc giảm đau cũng không ích gì, cho dù có tăng liều. Nhưng tất cả những gì tôi nghe được là "tăng liều", và nó làm tôi mỉm cười hạnh phúc, dẫu không ai có thể thấy được nụ cười đó dưới lớp băng gạc của tôi.

Việc tăng liều thuốc nhanh chóng phát huy tác dụng trước khi tôi được đưa đi phẫu thuật, và khi trí óc còn đang mải bay lượn nơi Thiên đường tươi đẹp thì tôi nghe thấy tiếng bước chân hối hả của bác sĩ Edwards, phát ra từ đôi giày tinh tế của bà, vọng đến phòng tôi từ tiền sảnh trước cả khi bà đến nơi.

Bác sĩ Edwards, dù bạn có nhìn từ góc độ nào đi chăng nữa, trông cũng chỉ tạm được. Không xinh cũng chẳng xấu, nếu trau chuốt một chút thì cũng khá dễ coi nhưng bà chẳng mấy khi đếm xỉa đến việc đó. Mái tóc hẳn sẽ gợi cảm hơn nếu bà chịu chải chuốt mỗi sáng, nhưng thường thì bà chỉ buộc túm ra sau, có lẽ là do những lo ngại mang tính thực tế, vì y bác sĩ được khuyến cáo không nên để những lọn tóc xõa quệt vào vết bỏng. Bà hơi mập mạp và đối với những người thích đoán già đoán non thì cũng không phải một ý tồi nếu cược rằng rồi sẽ có lúc bà ngán ngẩm cảnh phải tính toán lượng calo hấp thụ trong mỗi bữa ăn. Bà trông như thể đã bước sang giai đoạn tàn tạ và mặc nhiên chấp nhận thực tế ấy, hoặc có lẽ bà đã đi đến kết luận rằng, vì mình đang làm việc giữa những người sống sót sau tai nạn bỏng nên quá chú ý đến bề ngoài có khi còn là sự xúc phạm.

Bác sĩ Edwards ra hiệu với tay hộ lý cùng đi, một người đàn ông hồng hào béo tốt mà cơ bắp cứ cuồn cuộn khi anh ta vươn tay về phía tôi. Họ cùng nhau khiêng tôi từ giường sang cáng. Tôi kêu the thé như con lợn bị mắc kẹt, trong một thoáng chợt nhận ra cơ thể mình đã quen với trạng thái bất động đến thế nào.

Khoa bỏng thường nằm ở cánh xa nhất của bệnh viện, vì bệnh nhân bỏng rất dễ bị nhiễm trùng nên họ phải bị cách ly với các bệnh nhân khác. Quan trọng hơn, có lẽ thế, là sự sắp đặt ấy sẽ giảm thiểu khả năng những người đến bệnh viện vô tình gặp phải một Người Nướng Kentucky. Phòng phẫu thuật cắt bỏ mô hoại tử, tôi không thể không để ý, là phòng xa nhất ở cái cánh xa nhất này. Đến khi ca phẫu thuật kết thúc, tôi nhận ra rằng nó còn giúp các bệnh nhân bỏng khác không nghe thấy tiếng la thét.

Tay hộ lý đặt tôi nằm trên một chiếc bàn dốc bằng thép nơi nước ấm, được hòa chung với thuốc để cân bằng các phản ứng hóa học trong cơ thể tôi, chảy ngang qua mặt bàn trơn bóng. Bác sĩ Edwards tháo băng gạc để lộ ra phần thịt đẫm máu trên người tôi. Cứ mỗi lần bà thả gạc vào chiếc xô kim loại là tiếng rơi đánh bẹt lại vang lên. Khi bà rửa vết thương cho tôi, sự ghê tởm hiện lên trên khóe môi trễ xuống, vẻ không vui thể hiện trên những đầu ngón tay bà. Dòng nước chảy qua người tôi cuộn xoáy một màu hồng. Rồi hồng đậm, đỏ nhạt, đỏ đậm. Dòng nước tối thẫm ấy cuộn quanh những mảng thịt trông chẳng khác gì đống ruột cá trên thớt.

Tất cả những điều này chỉ là khúc dạo đầu cho sự kiện chính sắp xảy ra.

Cắt bỏ mô hoại tử là phương pháp cắt xẻ con người, cắt đến khi không chịu được thì thôi. Về mặt kỹ thuật, đó là cách loại bỏ các mô chết hoặc bị nhiễm trùng khỏi vết thương nhằm giúp tế bào da khỏe mạnh phát triển thay thế. Bản thân thuật ngữ này bắt nguồn từ danh từ tiếng Pháp débridement, nghĩa đen là "sự thả lỏng cương". Cấu tạo từ nguyên khá đơn giản: sự cắt bỏ tế bào nhiễm trùng khỏi cơ thể - việc loại trừ những thứ gây nên sự kiềm tỏa - làm người ta liên tưởng đến hình ảnh tháo yên cương khỏi con ngựa, vì bản thân cái yên chính là sự kìm hãm. Người bị hoại tử mô nên được giải phóng khỏi chất gây ô nhiễm, có thể cho là vậy.

Da tôi bị tổn thương nhiều đến nỗi cắt lọc các mô chết đồng nghĩa với việc loại bỏ gần như tất cả mọi thứ. Máu tôi bắn lên người bác sĩ Edwards, để lại những vệt đỏ dài trên ngực áo bà, khi bà dùng một dụng cụ trông giống dao cạo râu để cạo những phần thịt nát rữa của tôi, chẳng khác gì cách chiếc máy gọt vỏ rau quả.

Cách gọi Bác sĩ Edwards có vẻ dài quá - Không, nó quá trang trọng. Tình thế làm chúng tôi còn gần gũi hơn cả những cặp tình nhân bi thảm nhất, thế nên sao lại không dùng tên của bà nhỉ? Nan lướt những vệt dài lên lưng tôi. Tôi có thể nghe thấy tiếng lưỡi dao xoẹt qua xoẹt lại dọc thân thể mình, tách các phần da khỏi nhau. Cách duy nhất để bà biết đâu là phần mô lành là cứ lướt dao vào đó. Nếu tôi rú lên đau đớn có nghĩa là bà đã cày đủ sâu để chạm tới đầu dây thần kinh của tôi. Như William Blake đã viết trong tác phẩm The Marriage of Heaven and Hell (Hôn lễ của Thiên đường và Địa ngục): "Bạn sẽ không bao giờ biết được thế nào là đủ trừ phi bạn biết thế nào là hơn cả đủ."

Nan đặt những lát thịt mỏng của tôi vào cùng cái xô kim loại chứa băng gạc bẩn. Cảm giác không khác gì đang nhìn thấy chính bản thân mình biến mất, lá cờ biểu tượng cho sự tồn tại của tôi mỗi lần lại bị thổi bay đi một milimet. Cảm giác đau đớn, hòa lẫn với morphine, tạo ra những hình ảnh thú vị nhất xẹt qua đầu tôi: thượng nghị sĩ Joe McCarthy gào lên "Thà chết còn hơn theo Cộng sản"; một người thợ mộc làm thập tự giá cho những kẻ sắp bị đóng đinh; tiết giải phẫu trong lớp sinh học, với các em học sinh lớp tám cầm dao rạch bụng mấy con ếch.

Ngay sau khi tôi cắt bỏ xong mô hoại tử, vùng thịt trơ trọi sẽ cần được cấy ghép da, da người chết hoặc da lợn. Chẳng ảnh hưởng gì lắm, vì cơ thể tôi thải loại hết. Điều này cũng đã được các bác sĩ dự đoán trước; vì sự ghép mô không mang tính bền vững, chúng chủ yếu chỉ có tác dụng tránh nhiễm trùng.

Trong suốt thời gian ở bệnh viện, tôi bị lột sống hết lần này đến lần khác. Xét trên nhiều khía cạnh thì bị lột da còn kinh khủng hơn việc bị bỏng ban đầu nhiều vì trong khi tai nạn đến một cách bất ngờ thì lịch lột da lại luôn là điều được biết trước, và tôi cứ việc nằm trong cái bụng của bộ xương, kinh sợ cảnh con dao mổ sắp lướt từng nhát lên người, tưởng tượng ra hàng trăm lần trước khi chuyện đó xảy ra thật.

Việc dùng morphine do tôi tự điều chỉnh - để tôi "có quyền tự quyết", họ nói thế - và tôi nhấn nút như điên. Nhưng có một giới hạn chết tiệt về tổng liều lượng khiến tôi không thể tự dùng quá liều được: quá nhiều so với quyền tự quyết.

Cho tới năm hai mươi ba tuổi, tôi đã đóng hơn một trăm bộ phim khiêu dâm, chất lượng đủ loại. Hầu hết những bộ phim hồi đầu đều khá đơn giản nhưng cũng có một số phim, thời kỳ sau này, được tôi đánh giá là có tính nghệ thuật thực sự.

Đóng phim khiêu dâm cũng giống như bất cứ công việc nào khác: bạn khởi nghiệp với những công ty hạng ba rồi khi hồ sơ đã dày lên, bạn cứ thế mà tiến thôi. Hồi đầu tôi làm việc với những đạo diễn chỉ nhỉnh hơn bọn không chuyên chút xíu - nhưng, mặt khác, tôi cũng vậy, khi đó vẫn chưa ý thức được rằng tình dục, hay nói cách khác là phim khiêu dâm, không phải là cứ hùng hục như chày giã cối cho đến lúc đạt cực khoái.

Tôi học sex theo cái cách mà tất cả mọi người đều học, bằng thực hành; duy có chuyện này thì thư viện tỏ ra hoàn toàn vô dụng. Thực hành, chứ không phải lý thuyết, dạy tôi rằng diễn viên không thể lên đỉnh mà không làm người xem thất vọng - nhưng anh ta cũng không thể cứ làm chuyện ấy suốt mà không cảm thấy nhàm chán, và đây là thế cân bằng cần phải đạt được. Tương tự, tôi học được rằng chẳng có tư thế chuẩn nào cả, và việc thay đổi tư thế chỉ thực sự có hiệu quả nếu hòa nhịp được với cơ thể đối phương.

Tôi không muốn khoe khoang, nhưng quả thực sự tiến bộ của tôi thật đáng ngưỡng mộ. Mọi người đều thấy thế: lời mời tôi đóng phim ngày càng tăng, đạo diễn của tôi trở nên nổi tiếng, bạn diễn nữ của tôi thành thục hơn, và thu nhập của tôi tăng. Tiếng tăm của tôi, về trình độ diễn xuất và sự nỗ lực, được cả khách hàng lẫn những người trong ngành biết tới.

Cuối cùng, tôi không còn cảm thấy thỏa mãn khi chỉ làm việc ở một phía của máy quay nên bèn đề nghị được làm ở các bộ phận khác nữa. Đội ngũ nhân viên luôn trong tình trạng quá tải rất hạnh phúc khi được đỡ một tay; vậy là tôi giúp họ điều chỉnh thiết bị chiếu sáng, tiện thể hỏi luôn cánh quay phim làm thế nào để biết bóng sẽ đổ vào đâu. Tôi cũng thường quan sát cách đạo diễn dựng cảnh, và cho tới lúc này, tôi đã có đủ kinh nghiệm diễn xuất để thỉnh thoảng có thể đưa ra vài gợi ý hay ho cho đạo diễn. Nếu nhà sản xuất gặp vấn đề - một cô diễn viên đột ngột bỏ vai vào phút cuối hay một cái camera bị hỏng - tôi có đủ bạn bè trong ngành để chỉ sau vài cuộc gọi ngắn đã giải quyết xong xuôi vấn đề.

Chẳng mấy chốc, tôi trở thành nhà văn, ít nhất thì cũng là người viết được kịch bản cho phim khiêu dâm. Nhà văn có thể đặt ra tình huống, nhưng khi đến mục hành động thì anh ta chỉ có thể viết ĐÂY LÀ CẢNH NÓNG. Mỗi diễn viên một diễn xuất: người từ chối đóng cảnh quan hệ tình dục qua đường hậu môn, người không chịu đóng cảnh quan hệ đồng giới, vân vân và vân vân, và vì không bao giờ biết trước được diễn viên sẽ đóng cảnh đó như thế nào nên bạn không thể viết quá chi tiết được. Quyết định cuối cùng luôn luôn được đưa ra tại trường quay.

Dù cơn nghiện cứ như những con muỗi trắng khổng lồ thiêu đốt tôi mỗi sớm, tôi cũng không phải gã trai trẻ thiếu khôn ngoan. Tôi nhận thức rõ lợi thế tài chính mà ngành công nghiệp phim đen mang lại - dù nền kinh tế có trở nên thế nào thì thị trường này vẫn luôn có chỗ đứng - nhưng không chỉ có thế. Tôi thích viết kịch bản và diễn xuất, tôi nghĩ chúng ít nhất cũng thỏa nguyện được khát khao nghệ sĩ trong tôi và đó cũng là một ngành thương mại. Sau khi làm đạo diễn cho vài bộ phim, tôi nhận ra rằng cách kiếm tiền thực thụ không phải là diễn trong bộ phim của ai mà là mời được ai diễn xuất trong bộ phim của mình. Thế là tôi lập công ty sản xuất phim riêng khi tuổi đời còn khá trẻ và trở thành một "nhà sản xuất phim thành công với thu nhập khổng lồ".

Thỉnh thoảng, tôi thấy giới thiệu mình theo cách này có vẻ hay hơn là kẻ viết dâm thư.

Đương nhiên tôi không phải bệnh nhân duy nhất trong khoa bỏng. Người bệnh đến rồi đi. Có người kết thúc đợt điều trị và tiếp tục sống, cũng có người chết đi. Ví dụ nhé: một bệnh nhân tên Thérèse, một cô bé vô cùng tuyệt vời với mái tóc vàng óng và đôi mắt xanh như ngọc sapphire.

Nhìn Thérèse, bạn không thể ngờ rằng em bị bỏng, vì em phải chịu đựng sự phá hủy từ bên trong. Thérèse bị phản ứng dị ứng - không khác gì một lò hóa chất cháy trong phổi vậy - trước chất kháng sinh tiêm vào cơ thể để giảm các cơn hen suyễn. Tôi tình cờ nghe thấy một bác sĩ giải thích cho một thực tập sinh: "Đối với cô bé, chuyện đó giống như nốc cả một ngụm to chất độc da cam ấy."

Mẹ của Thérèse, trong bộ đồ màu xanh đậm dành cho người nhà bệnh nhân, làm cả căn phòng ngập ngụa trong biển hoa nhựa. (Hoa thật, mang hàng triệu con vi khuẩn, có thể là tác nhân gây tử vong với chúng tôi.) Mẹ em rất sùng đạo và luôn nói với cô con gái bé nhỏ của mình rằng mỗi sự kiện xảy ra trên cõi đời này đều là một phần trong Kế hoạch Vĩ đại của Chúa. "Chúng ta không thể hiểu tại sao mọi chuyện lại xảy ra như thế, chỉ biết được rằng Chúa luôn chuẩn bị sẵn những phương án lớn lao cho mỗi chúng ta. Lý do của Người rất chính đáng, chỉ có điều có lẽ chúng ta chưa hiểu được thôi." Riêng tôi thì cho rằng chẳng hay ho gì khi nói với một cô bé mới bảy tuổi đầu rằng Kế hoạch Vĩ đại của Chúa là đốt cháy phổi của em ấy.

Howard cũng là một bệnh nhân trong khoa bỏng. Anh bị bỏng từ trước khi tôi đến rất lâu, trong một vụ cháy nhà do người bà bị bệnh Alzheimer của anh ngủ quên với điếu thuốc lá cháy dở kẹp giữa hai ngón tay. Người bà không qua khỏi nhưng anh thì có, và bây giờ anh đang rất chăm chỉ thực hành các bài tập hồi phục chức năng. Anh tập đi bằng nạng, tập tay với những quả tạ nhỏ bằng bạc, anh đi mười bước một ngày rồi mười hai bước ngày tiếp theo. Mắt anh sáng bừng với mỗi thành tựu đạt được, anh không ngớt nói với tôi rằng mình sẽ "vượt qua thử thách này" và sẽ "sống lại cuộc đời mình." Những tuyên bố hùng hồn này chỉ càng mãnh liệt hơn sau khi cô vợ chưa cưới tuyên bố với anh rằng sẽ không có cưới xin gì nữa hết.

Khi Howard ra viện, cả gia đình anh cùng một tá bạn bè (gồm cả cô nàng từng-là-vợ-chưa-cưới) đã tới khoa bỏng chúc mừng. Họ mang một chiếc bánh ga tô đến và nói trông anh tuyệt đến thế nào và họ tự hào về anh ra sao. Howard đã nói rằng "đây là ngày đầu tiên trong cuộc đời còn lại của tôi." Đó đúng là một bữa tiệc khoa trương khủng khiếp, thậm chí cả cái cách họ đột ngột thu dọn đồ đạc cho anh cũng vậy. Howard lê bước về phía giường tôi, nắm lấy bàn tay còn lành lặn của tôi. "Tôi đã nói với cậu là tôi có thể đánh bại được nó. Tôi đã nói với cậu vậy mà. Cậu cũng có thể làm được như thế!" Anh nháy mắt trong nỗ lực truyền động lực cho tôi nhưng, do sự co cơ quanh vùng mắt, cái nháy mắt ấy chỉ làm tôi nghĩ đến hình ảnh một con ruồi đang cố gắng thoát ra khỏi miệng bồn cầu.

Khi ra khỏi phòng, với cha mẹ tháp tùng hai bên, anh không ngoái nhìn lần cuối phòng điều trị bỏng, căn phòng đã gắn bó với anh suốt nhiều tháng qua; tôi có thể thấy rõ anh không hề muốn nhìn lại.

Theo tôi, quả thật là một câu chuyện cảm động về chiến thắng vẻ vang của con người: sự quyết tâm, tình yêu của gia đình và bạn bè, cả suy nghĩ tích cực nữa! Nhưng, thật ra, anh lừa được ai kia chứ? Vợ chưa cưới bỏ anh một cách rất hợp tình hợp lý - người nào sẽ (có thể) yêu nổi một con quỷ chứ? Liệu anh có thể làm tình được nữa không? Liệu anh có thể đi suốt cuộc đời với cha mẹ kè kè bên cạnh giúp anh giữ thăng bằng như thể anh mãi mãi là một đứa trẻ hai tuổi? Trong cái tình cảnh ấy, tôi tự hỏi, chiến thắng ở đâu ra kia chứ?

Howard đã nỗ lực hơn tôi nhiều. Tôi đã nghe anh kể về nỗ lực cải thiện sức khỏe của anh. Tôi đã nghe tất cả mọi người nói anh trông dễ thương ra sao trong khi thực tế, anh chẳng khác gì một con quái vật mà bất cứ người bình thường nào gặp trên đường cũng phải tránh xa. Tôi muốn thét lên khi anh nắm tay mình, vì thậm chí cả tôi cũng không muốn bị anh chạm vào. Tôi ghê tởm anh, ghê tởm cái thứ này, người anh em của tôi.

Phản ứng của tôi chẳng mấy liên quan đến anh ấy, thật đấy; nó đơn thuần xuất phát từ nhận thức rằng dù có làm gì đi nữa, tôi cũng sẽ không bao giờ có thể trở lại như cũ. Tôi có thể luyện tập hằng ngày, tôi có thể chịu đựng hàng ngàn cuộc phẫu thuật, nhưng rốt cuộc vẫn chỉ là cái mụn rộp xấu xí mang hình dạng con người. Chẳng có phương thuốc nào có thể chữa trị cho tôi cả. Đó là điều tôi học được sau những thành tựu của Howard. Đó là thứ tôi hiểu được khi nằm trong bụng một bộ xương và xương sống của mình thì bị con rắn kia nuốt chửng. ANH TA CŨNG CHỈ NHƯ NGƯƠI MÀ THÔI, mụ ta rít lên, NHƯNG VỚI MỘT TÂM HỒN TỐT ĐẸP HƠN.

Nhận thức khủng khiếp nhất: cho dù tôi có thể trở lại là tôi trước tai nạn thì chuyện đó cũng tốt đẹp đến thế nào được chứ? Phải, tôi đã rất đẹp trai. Phải, tôi đã có tiền bạc, sự nghiệp nhưng (cứ nói thẳng toẹt ra nhé) tôi từng là một thằng nghiện thối nát chuyên đóng phim đen. Nghe nói bạn bè tôi, những kẻ đã cùng cười phá lên trước những câu chuyện hài của tôi khi cả bọn ngồi hút hít trên thành bể bơi nhà tôi, đã đến thăm lúc tôi còn hôn mê - nhưng đứa nào cũng chỉ nhìn tôi không đến một phút rồi quay ngoắt bỏ đi, không hẹn ngày gặp lại. Chỉ cần liếc nhìn họ cũng thấy rằng những ngày hút hít của chúng tôi đã mãi mãi là dĩ vãng rồi.

Sau khi tôi tỉnh lại, người duy nhất có thiện chí thật sự là Candee Kisses, một cô gái đáng yêu đóng phim hạng ba chỉ vì cả thế giới đều bất công với cô ấy. Mười bảy tuổi, quá mệt mỏi với việc bị cha dượng hãm hiếp, cô rất sẵn lòng làm bất cứ điều gì để thoát khỏi vòng cương tỏa của lão ta. Và cô đã làm được. Có lẽ giờ cô đang sống ở một trang trại đâu đó, cưới một chàng trai cần cù chăm chỉ tên là Jack, Paul hay Bill, thay vì kiếm sống bằng việc thổi kèn trước máy quay.

Candee đến được vài lần, mang những món quà nhỏ và cố gắng động viên tôi với những câu nói đại loại như tôi đã may mắn thế nào khi còn sống nhưng chủ yếu cô chỉ khóc. Có lẽ cô khóc vì bề ngoài của tôi; hay chính xác hơn, cô khóc cho chính bản thân mình. Sau ba chuyến viếng thăm, tôi bắt cô hứa không quay lại nữa. Cô đã giữ lời. Và giờ mới là chuyện nực cười. Tôi biết cô được hơn năm năm rồi, đã làm chuyện ấy với cô, đã nghe những chuyện cô kể về lão cha dượng, nhưng tôi không hề biết tên thật của cô. Có lẽ đấy là một trong những thứ bạn phải bỏ lại đằng sau khi lựa chọn một cuộc sống mới.

Sau khi Howard cùng bố mẹ anh biến mất sau cánh cửa phòng điều trị bỏng, tôi trở nên mất tự chủ. Ngực tôi thắt lại khi cả sự tức giận lẫn tự thương cảm bản thân bùng lên khiến tôi như muốn nôn, rồi cái cổ họng thảm hại của tôi chỉ cho phép những hơi thở dài hổn hển, rin rít thoát ra mà thôi.

Rồi cô bé tên Thérèse đi đến chỗ tôi. Đó thật là một nỗ lực đáng kinh ngạc, đầy đau đớn đối với em, và với mỗi ngụm không khí em hít vào, tôi có thể nghe được cả tiếng phổi em kêu lạo xạo. Em dường như không còn chút sức lực nào khi đến được bên giường tôi. Em bò lên giường và nắm tay tôi. Không phải bàn tay phải còn lành lặn mà là bàn tay trái đã bị lửa hủy hoại với một ngón tay rưỡi bị mất, em cầm lấy như thể nó là một bàn tay bình thường. Tôi cảm thấy cực kỳ đau đớn khi bị chạm vào chỗ đó và, tuy rất cảm kích sự gần gũi dù làm tôi nhức nhối, tôi khẩn khoản bảo em đi ra.

"Không," cô bé đáp lại.

Tim tôi vô tình loạn nhịp. "Cháu không thấy chú trông như thế nào sao?"

"Có," cô bé nói. "Chú trông y như cháu thôi."

Đôi mắt xanh to, vẫn lấp lánh bất chấp nỗi đau, không rời khuôn mặt biến dạng của tôi.

"Đi đi," tôi ra lệnh.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 4: Tiết 2. Thế giới thật tuyệt."


Cô bé nói em cần nghỉ một chút trước khi quay trở lại giường, rồi nói thêm: "Trong mắt Chúa, chú rất đẹp, chú có biết không."

Cô bé nhắm mắt lại và tôi ngắm khuôn mặt em khi sự kiệt sức cuốn em vào giấc ngủ. Rồi mắt tôi khép lại, ngay tức khắc.

Các y tá nhanh chóng đánh thức tôi dậy. Thérèse ở đó, trên giường tôi, tay cô bé vẫn nắm lấy tay tôi, không thở nữa.

Chuyện xảy ra chỉ trong nháy mắt.

Được thôi, tôi thừa nhận: Tôi đã thử phương pháp tưởng tượng sáng tạo mà Gregor gợi ý.

Tôi thở chậm lại và tập trung làm cơ thể mình cảm thấy nặng nề hơn, bắt đầu với hai ngón chân còn sót lại: nặng, nặng. Rồi đến bàn chân, rồi đến mắt cá chân. Tiếp theo tôi nghĩ về hai bắp chân nặng trịch, hai đầu gối nặng trịch, rồi cặp đùi nặng trịch của tôi. Cứ thế tiếp lên, thân mình, ngực, cổ, đầu... tập trung vào việc thở: hít vào, thở ra, hít vào, thở ra, thật đều đặn, thật bình tĩnh...

Đây là lúc tôi bắt đầu nghĩ đến âm đ*o. Tôi nghĩ chuyện này cũng tự nhiên thôi, vì tôi đã thâm nhập vùng cấm hàng trăm lần rồi. Có những người đàn ông khiến bạn tin rằng phụ nữ ai ai cũng đều có cảm giác giống nhau, nhưng hiển nhiên là những gã này chưa ăn nằm với nhiều phụ nữ. Mỗi âm đ*o đều có cấu trúc riêng, độ sâu và độ ẩm riêng: mỗi cái đều có một nhân cách riêng. Đó là sự thật.

Tôi rất giỏi làm chuyện ấy. Đó vừa là sở thích vừa là nghề. Ngoài giờ làm việc, niềm đam mê của tôi là tìm những người phụ nữ đối lập hoàn toàn với bạn diễn. Nếu bạn làm việc tại một nhà hàng Pháp, bạn có muốn ăn ốc sên vào ngày nghỉ không? Hiếm lắm. Bạn sẽ đi kiếm món khác tại quán ăn gần đấy. Nếu bạn làm trong ngành sản xuất truyền hình, bạn sẽ kết thúc một ngày của mình bằng việc đọc sách. Và, với tư cách là một người làm tình chuyên nghiệp với các cô nàng nóng bỏng ngực độn đầy silicone, tôi thấy việc thử chơi các loại gái khác thật thú vị. Bằng lời lẽ tận tình, không chân thành cho lắm, nhưng được nói ra để cho có vẻ như thế, tôi có thể vẽ ra những giấc mơ hoành tráng nhất và một số phận được hoạch định kỹ càng. Với tài ăn nói của mình, tôi tự giới thiệu với 1001 kiểu gái, từ nàng Scheherazade đến nữ sinh trường Southside Selma.

Giao hợp trước ống kính không đem lại nhiều hưng phấn vì cả ê kíp đều mặc quần áo đầy đủ, séc thì được gửi qua hòm thư, và lãng mạn ở đâu kia chứ? Nhưng cảm giác tôi có được từ việc chiếm lấy - từ việc giành lấy - những người phụ nữ không tham gia vào trò chơi tình dục đó là một điều hoàn toàn khác biệt. Tôi có thể thỏa mãn với các bà nội trợ, nữ cảnh sát và các cô thư ký. Biên tập sách. Nữ cao bồi. Vận động viên điền kinh không chuyên, nữ ngư dân, người trồng cây, nữ nhà văn, đấu vật chuyên nghiệp, họa sĩ, nữ phục vụ bàn, giao dịch viên ngân hàng, giáo viên trường Chủ nhật, nhà tạo mẫu và cả các nữ công chức nữa. Mẹ bạn, chị bạn, bạn gái bạn. Tôi có thể nói bất cứ điều gì để sở hữu một người phụ nữ, dù chỉ trong một giờ. Tôi giả vờ là người theo cánh tả hay cánh hữu, anh chàng nghệ sĩ, nam tính hay nhạy cảm, đòi hỏi hay rụt rè, giàu có hay nghèo khổ, người Công giáo hay Hồi giáo (chỉ có một lần thôi), người ủng hộ phong trào tự do phá thai hay phản đối phong trào tự do phá thai, kẻ sợ người đồng tính, dân bóng (đối với những phụ nữ thích quan hệ với đàn ông đồng tính), người yếm thế hay kẻ lạc quan cuồng nhiệt, nhà sư, cả mục sư dòng Luther nữa. Bất cứ ai tùy vào tình thế.

Tôi nhớ một phụ nữ tên là Michelle. Quan hệ với cô là lần tôi tiến tới mốc hoàn hảo nhất trong chuyện phòng the. Cô là nữ hầu bàn có cái bụng hơi ngấn mỡ, người thoảng mùi trứng rán với nước xốt thịt và một vết sẹo mổ ruột thừa. Tôi đã chứng kiến cảnh hai vợ chồng cô cãi nhau kịch liệt bên ngoài quán cà phê nhếch nhác nơi cô làm việc. Anh chồng bỏ đi còn cô ngồi xuống chiếc ghế băng công viên, quyết không nhỏ một giọt nước mắt. Tôi tiến lại gần, rất nhanh chóng chúng tôi nói chuyện với nhau, rất nhanh chóng cô ấy cười trở lại, rất nhanh chóng chúng tôi về nhà tôi. Hai người có dùng một chút cocaine, cười nhiều hơn một chút và rồi bắt đầu đấm yêu vai nhau. Khi mới bắt đầu, chúng tôi làm chuyện ấy rất khẩn trương, và rồi chúng tôi ngạc nhiên trước sự đê mê mà nó đem lại, những tiếng rên rỉ phát ra. Cô ấy lại cười, tôi cũng thế, rồi cô ấy khóc; cô ấy khóc suốt - không phải vì phiền muộn, mà vì được giải tỏa khỏi phiền muộn.

Chúng tôi tiếp tục hàng giờ liền. Dường như chúng tôi cứ lang thang trên một vách đá dốc đứng nơi tất cả dây thần kinh đều thức tỉnh. Cô nói với tôi mọi chuyện trong (và ngoài) giường ngủ của hai vợ chồng cô. Cô nói với tôi cô sợ sẽ không bao giờ có thể thực sự yêu chồng mình. Cô nói với tôi về những ham muốn với người anh rể và cách cô tự sướng giữa nơi công cộng khi nghĩ rằng - mà thật ra không phải thế - không có ai để ý, và cô kể cho tôi nghe chuyện cô đã ăn trộm những thứ đồ lặt vặt trong cửa hàng nơi góc đường vì việc đó làm cô cảm thấy hưng phấn. Cô nói với tôi cô tin vào Chúa và cô thích nghĩ đến việc Người đang quan sát cô làm những chuyện này. Tôi bảo cô rằng cô là người phụ nữ thật bận rộn. Chúng tôi vẫn không dừng cuộc mây mưa và tôi thấy mình cũng bật khóc trước cảm giác tự nhiên mà nó mang lại.

Da tôi sẽ chẳng bao giờ có lại được cảm giác như thế, quá nhạy cảm với đối tác đến mức tôi không biết chắc cô đã kết thúc ở đâu và tôi bắt đầu ở chỗ nào. Không bao giờ nữa. Không bao giờ da tôi có thể lại là một công cụ giao tiếp hoàn hảo đến thế; với việc đánh mất làn da của mình cho ngọn lửa tàn nhẫn, tôi mất luôn cơ hội làm cho nó tan vào cơ thể người khác. Giá như được một lần như vậy, tôi chủ yếu sẽ cảm thấy hạnh phúc vì đã tìm được cách kết nối vật chất như thế, nhưng chắc chắn tôi mong muốn chuyện ấy sẽ được thực hiện với người nào đó tôi đã gặp gỡ sau vụ tai nạn.

Có lẽ tôi đã phạm sai lầm khá rõ ràng và dai dẳng trong rất nhiều cuộc phiêu lưu tình ái. Nhưng, mặt khác, có lẽ cũng không phải thế. Xin hãy xét lại rằng tôi đã đem lại khá nhiều niềm an ủi cho các quý bà đau khổ. Liệu có phải là vấn đề không nếu Wanda Hay-là-gì-ấy-nhỉ tin rằng tôi là một họa sĩ không hợp thời, vừa ly dị vợ? Chồng cô ta coi chuyện nhậu nhẹt bia rượu với lũ đực rựa thú vị hơn đưa vợ đi khiêu vũ, vì thế việc vui vẻ với một kẻ xa lạ đã mang đến một thế giới hoan lạc cho cô ta. Chìa khóa cho toàn bộ nỗ lực này là tôi có khả năng cuộn mình ngay lập tức vào thế giới tưởng tượng phong phú của mỗi người phụ nữ. Để làm được điều này, để giải mã một con người nhằm mang lại cho cô ta những gì cô ta muốn và cần, là cả một nghệ thuật, và tôi là nghệ sĩ làm tình tài ba.

Những người đàn bà đó không hề muốn con người thật của tôi, và họ cũng chẳng cần tình yêu. Họ chỉ muốn đi tàu nhanh, thứ có thể hâm nóng cặp đùi tươi mát của họ, thứ để họ bô bô tại các câu lạc bộ người yêu sách. Trong mắt họ, tôi chỉ là một cơ thể sinh học - một sinh vật đẹp đẽ khác thường - để họ lợi dụng cho mục đích khám phá những khát khao thật sự của mình mà thôi.

Đây là sự thật: tất cả chúng ta đều khao khát chinh phục người đẹp, vì nó giúp khẳng định giá trị bản thân. Nhân danh những người đàn ông trên khắp thế giới, chúng tôi muốn sở hữu vẻ đẹp của những người phụ nữ mà chúng tôi quan hệ. Chúng tôi muốn nắm lấy vẻ đẹp ấy, giữ thật chặt trong những ngón tay bé nhỏ tham lam của mình, muốn thực sự sở hữu nó trọn vẹn, biến nó thành của mình. Chúng tôi muốn làm điều đó những lúc phụ nữ rực rỡ trong cơn cực khoái. Thật hoàn hảo. Và trong khi tôi không thể nói thay cho các chị em, tôi có thể tưởng tượng được rằng họ - dù có thừa nhận hay không cũng vậy thôi - đều muốn những điều tương tự: sở hữu đàn ông, chiếm lấy vẻ đẹp mạnh mẽ của anh ta, dù chỉ trong giây lát.

Tóm lại, sự lừa dối của tôi thì làm nên sự khác biệt gì chứ? Tôi không bị AIDS cũng chẳng bị mụn rộp, và tuy tôi từng bị tiêm vài phát vào mông thật đấy, nhưng ai mà lại chưa từng hả? Một chút penicillin có thể làm được nhiều việc lắm. Nhưng mặt khác, sau khi cái ấy của bạn đã bị cắt thì thật dễ nhung nhớ về cái thời nhiễm trùng sinh dục nhẹ.

Tưởng tượng sáng tạo có lẽ không phải thứ dành cho tôi.

Connie, trực ca sáng, trẻ nhất, tóc vàng nhất và xinh nhất trong số ba cô y tá của tôi, cô thường kiểm tra băng gạc cho tôi khi tôi thức dậy. Nhìn chung cô quá hớn hở so với sở thích của tôi, nhưng cô lại sở hữu một nụ cười đáng yêu, răng chỉ hơi khấp khểnh chút thôi và lúc nào cũng "Xin chào!" một cách rất chân thành. Một lần khi tôi hỏi tại sao cô luôn tỏ ra thân thiện như thế - một câu nói tuôn ra chẳng dễ dàng gì nhưng rốt cuộc cũng thoát được khỏi miệng tôi - thì Connie trả lời rằng cô "không muốn làm người xấu". Thật vô cùng quyến rũ khi cô thậm chí không tưởng tượng nổi sao tôi lại mất công hỏi một câu như thế trước tiên. Trong nỗ lực làm người tốt ấy, rất hiếm khi cô vào ca mà không mang vài món quà nhỏ cho tôi - một lon soda cô cầm còn tôi hút qua ống hút, hay một bài báo mà cô sẽ đọc to cho tôi nghe vì cô nghĩ nó có thể làm tôi thích thú.

Beth, người lớn tuổi hơn nhiều hai cô còn lại, mát xa cho tôi vào mỗi buổi chiều. Cô quá gầy và quá quan trọng hóa mọi thứ. Tóc cô xoăn, thỉnh thoảng còn hơi rối nữa, nhưng bạn có thể nói ngay rằng cô sẽ không đời nào chịu cắt tóc. Có lẽ là do làm việc quá nhiều năm ở khoa bỏng, nhưng vấn đề ở đây là cô không chịu thay đổi bản thân dù chỉ là một chút.

Mandy, trực ca đêm, trông có vẻ thích đi bar tán tỉnh một anh chàng ngon trai hứng tình nào đó hơn là làm y tá. Hình thức không hẳn là chấp nhận được, nhưng thái độ thì cực kỳ khiêu khích. Thậm chí cả những lúc chăm sóc bệnh nhân bỏng như chúng tôi đây, cô luôn phải chắc rằng hông mình đang chuyển động đầy khêu gợi dưới lần váy trắng. Cô ấy có cái mà tôi hay gọi là một bộ mông tròn lẳn - nghĩa là một bộ mông mà bạn sẽ phải chạy theo sau dù có phải nhảy qua vách đá. Cô là một cô gái rất, rất lẳng lơ, và tôi nghĩ rằng cô trở thành y tá chỉ để có được vẻ ngoài gái-hư-mặc-đồ-y-tá mà thôi. Có lần bắt gặp tôi nhìn mình, cô nói: "Anh hẳn là một gã khốn thực sự trước khi tai nạn xảy ra, phải không?" Đó là một câu khẳng định hơn là một câu hỏi và cô có vẻ không giận dữ mà chỉ thấy thú vị thôi.

Cuối tuần mẹ Thérèse đến thu dọn đồ đạc của con gái. Bà kể cho tôi nghe về đám tang; hiển nhiên là ngài thị trưởng đã gửi một "bó loa kèn hoành tráng" và mọi người hát kinh cầu nguyện "với giọng ca vang tới tận Thiên đường." Rồi bà trầm ngâm nhìn đăm đắm ra ngoài cửa sổ xuống công viên cuối phố, nơi văng vẳng tiếng trẻ em đang chơi bóng chày. Bà bất thần trông già đi cả chục tuổi, và khi dòng suy tưởng bị đứt quãng, bà tỏ ra cực kỳ lúng túng khi thấy tôi đã chứng kiến cảnh ấy.

"Thế Thé..." bà bắt đầu. "Chị được biết con gái chị đã chết trên giường cậu. Nó có...?"

"Không," tôi trả lời, "cô bé không đau đớn gì hết."

"Sao nó lại đi ra... chỗ cậu?"

"Tôi không biết. Cô bé bảo tôi rằng Chúa nghĩ tôi rất đẹp."

Bà mẹ gật đầu, rồi òa khóc nức nở trước khi kịp nuốt nước mắt vào trong. "Nó là một cô bé ngoan. Nó xứng đáng được hưởng nhiều hơn thế..."

Bà mẹ không thể nói hết câu. Bà quay lưng lại phía tôi và bà càng cố bình tĩnh bao nhiêu, hai vai bà càng rung lên dữ dội bấy nhiêu. Khi cuối cùng cũng có thể quay lại nhìn tôi, bà nói, "Chúa nhân từ không bao giờ cho ta cái ta không thể đối phó được. Cậu sẽ ổn thôi."

Bà bước ra cửa, rồi dừng lại. "Chớ thế nầy há chẳng phải là cái đóm đã kéo ra từ lửa sao?" Bà đứng thẳng lưng. "Đó là Zachariah chương 3 tiết 2. Thế giới thật tuyệt."

Rồi bà kẹp những bông hoa nhựa vào nách và bỏ đi.

Bất cứ ai nằm viện lâu ngày đều biết rằng khứu giác sẽ không còn tinh nhạy do cứ phải hít khí amoniac thường xuyên. Trong một ca lột da với Nan, tôi hỏi, "Tôi có mùi thế nào?"

Bà lau mồ hôi trán bằng mặt sau của ống tay áo trắng và tôi biết bà đang quyết định xem nên nói thật hay nên tìm cách nói nào đó dễ chịu hơn. Về điểm này tôi biết rõ bà: bà sẽ chọn nói thật. Bà luôn luôn thế.

"Không tệ như anh nghĩ đâu. Nó - ý tôi là anh - anh có mùi mốc meo và cũ kỹ. Như một ngôi nhà mà tất cả người cư trú đều bỏ đi hết và không cái cửa sổ nào được mở ra trong một thời gian dài."

Rồi bà quay trở lại làm việc, cạo và sang sửa ngôi nhà đã bị chủ bỏ hoang, tôi muốn bảo bà đừng bận tâm làm gì, nhưng tôi biết Nan sẽ lại bĩu môi và tiếp tục công việc thôi.

Bạn còn lâu mới có thể tự chăm sóc bản thân khi đang nằm viện, những kẻ lạ mặt cứ quấy quả bạn: những kẻ lạ mặt lột sống bạn, những kẻ lạ mặt có lẽ chẳng bao giờ thoa đủ kem Eucerin lên da bạn để giúp bạn bớt ngứa; những kẻ lạ mặt cứ kiên quyết gọi bạn là anh yêu này anh yêu nọ trong khi còn khuya bạn mới là anh yêu này nọ gì; những kẻ lạ mặt cứ tưởng rằng gắn một nụ cười như bức tường khô lên khuôn mặt đáng kinh tởm ấy là sẽ làm bạn thấy hạnh phúc được, những kẻ lạ mặt nói chuyện với bạn như thể não chứ không phải cơ thể bạn đã bị nướng cháy rụi; những kẻ lạ mặt đang cố ra vẻ tử tế bằng việc "làm gì đó cho những người kém may mắn hơn"; những kẻ lạ mặt khóc nức khóc nở chỉ vì họ có mắt nhìn; và những kẻ lạ mặt muốn khóc mà không thể, và bởi thế trở nên sợ hãi chính mình hơn là bạn - kẻ bị bỏng.

Khi đã quá ngán xem ti vi, tôi đếm những cái lỗ trên trần nhà thủng lỗ chỗ. Tôi đếm lại để kiểm tra kết quả. Tôi ghi vào trong đầu hình ảnh bóng chiều tà lén lút bò xuống những bức tường. Tôi học cách đoán xem một cô y tá đang vui hay buồn qua tiếng bước chân. Tẻ nhạt đã trở thành bạn cùng giường với tôi và dần chiếm chỗ của ga trải giường. Con rắn không ngừng hôn đáy hộp sọ tôi, đồ quỷ cái. TA ĐANG TỚI ĐÂY. Mặt tôi tái nhợt đi, cảm thấy nghẹt thở vì mùi thuốc khử trùng. Tôi muốn trườn xuống ống tiết niệu và chìm vào nước tiểu.

Thế đã là tệ lắm rồi, ấy vậy nhưng Nan còn làm mọi việc tệ hơn bằng cách giải thích với tôi rằng sau khi kết thúc đợt điều trị tại bệnh viện - mà còn nhiều tháng nữa mới kết thúc - tôi sẽ được chuyển đến viện điều dưỡng để "tái hòa nhập" với xã hội. Cuối cùng, bà nói, tôi sẽ có thể tự lo được hầu hết các nhu cầu cá nhân và sống tự lập.

Mười bảy năm sau khi rời khỏi trại trẻ mồ côi, tôi lại tìm đường trở về một viện phúc lợi khác - nhưng khi còn là một đứa trẻ không xu dính túi, ít nhất tôi đã có cả cuộc đời trước mặt. Ba mươi lăm tuổi, tôi là một gã đàn ông kiệt quệ, tàn tạ như một que diêm lụi.

Thế là tôi lắng nghe các bác sĩ và gật đầu đồng ý khi họ nói với tôi về những cuộc phẫu thuật sắp tới, nhưng lẽ ra họ cũng nên cho tôi biết về chuyến đi tới đây của tôi tới thành phố dưới đáy biển chứ. Tôi đã ký tất cả các đơn chấp thuận; tôi ký đơn nhượng nhà cửa và toàn bộ tài sản cá nhân. Ca bỏng như của tôi dễ tốn cả nửa triệu đô la để chữa trị, và chẳng phải tính toán gì nhiều cũng thấy chi phí có thể nhảy lên đến hơn một triệu.

Luật sư của tôi đến, trông thiếu thoải mái trong bộ đồng phục dành cho khách thăm bệnh. Không như những người khách khác, ông ta còn quyết định đeo cả một cái mặt nạ phẫu thuật nữa; bạn sẽ nghĩ ông ấy thật nhân đức khi lo cho tôi, nhưng có vẻ như ông ta hoang tưởng mình sẽ nhiễm thứ bệnh gì đó kinh khiếp lắm thì đúng hơn. Bất luận thế nào tôi cũng thấy rất hợp lý: tôi không thể không ngẩng lên nhìn bộ mặt đeo mặt nạ của ông ta mà không liên tưởng tới hình ảnh một tên trộm xuất hiện để chôm đồ của tôi được.

Ông ta nói rất lấy làm tiếc về tai nạn của tôi, rồi khi màn thăm hỏi xã giao kết thúc, ông ta bắt tay ngay vào việc giải thích những khó khăn nghiêm trọng mà công ty sản xuất của tôi đang vấp phải. Vấn đề cốt lõi là không hoàn thành được hợp đồng chuyển nội dung mới đến các đại lý; việc quay phim phải hoãn lại ngay khi thiếu sự chỉ đạo của tôi tại trường quay, trong khi các cam kết phân phối đều đã được ký. Ông ta nói qua vài lựa chọn, nhưng vì tôi chưa bao giờ đào tạo ai gánh vác trách nhiệm thay thế trong trường hợp mình mất khả năng lao động, chỉ có duy nhất một kịch bản khả thi: phá sản. Ông ta không muốn cứ làm phiền tôi mãi trong "thời kỳ khó khăn", ông ta giải thích, vì thế ông ta đã chuẩn bị hết giấy tờ giúp các chủ nợ của tôi tiến hành tịch thu và thanh lý tài sản. Dĩ nhiên, ông ta đã đảm bảo khoản lệ phí kê khai phá sản được thanh toán xong xuôi rồi.

Tôi chỉ phải ký tất cả các loại giấy tờ ông ta bày ra trước mặt; để ông ta phắn khỏi phòng càng sớm càng tốt. Sự mỉa mai không buông tha tôi, sau khi kiếm tiền trong ngành kinh doanh xác thịt, giờ tôi phải đánh đổi tất cả tài sản cho da thịt. Chứng thư được ký xong và công ty của tôi ngay lập tức tan thành mây khói, ông luật sư chẳng biết nói gì hơn ngoài câu tôi cảm thấy rất tiếc rồi chuồn khỏi phòng nhanh hết mức.

Và thế là cuộc đời tôi vẫn tiếp tục. Khi các bác sĩ bảo tôi đã có nhiều tiến triển, tôi cố hết sức nặn ra một nụ cười giả tạo. Mấy cô y tá tràn đầy tự hào khi nhìn tôi nắm chặt quả bóng trị liệu bằng bàn tay bị bỏng. Họ nghĩ rằng tôi đang tập để cải thiện sức khỏe, nhưng thật ra tôi chỉ muốn khóa mồm họ thôi. Tôi quá mệt mỏi với thái độ trêu chọc của Maddy, sự nghiêm túc của Beth và vẻ lạc quan của Connie.

Tôi nằm kiên nhẫn trong lúc bôi kem Eucerin, mỗi lần bôi là cả một sự chịu đựng. Sâu trong tâm trí, tôi thường cầu nguyện một cơ hội để từ bỏ tất cả. Có lần, Nan thản nhiên nói rằng các vết thương của tôi là "thách thức kinh điển" đối với một bác sĩ như bà ấy, vậy là tôi chỉ ra rằng tôi không phải vấn đề để bị đem ra giải quyết. Bà lắp bắp. "Đó không phải điều tôi muốn nói. Tôi... tôi, ừm... Anh nói đúng. Tôi đã cư xử không phải, tôi thật sự xin lỗi."

Tôi cảm nhận được hương vị thoảng qua của chiến thắng, nhưng buồn cười thay, tôi hoàn toàn đồng ý với bà, tôi là một vấn đề cần được giải quyết, dù chúng tôi nhìn nó từ những khía cạnh đối lập. Bà nhìn những dải băng của tôi như cái kén ấu trùng mà từ đó tôi sẽ chui ra, còn tôi coi đó như tấm vải liệm xác chết.

Con rắn cái thối tha nằm trên xương sống của tôi cứ quấn đuôi quanh bụng tôi và rít lên cái câu TA ĐANG TỚI ĐÂY VÀ NGƯƠI CHẲNG THỂ CẢN ĐƯỢC ĐÂU. Tôi chẳng thèm bận tâm nữa. Con rắn đang đến gần. Thì sao chứ? Chỉ là thêm một vấn đề nữa vào cái danh sách vô tận những vấn đề mà thôi. Trại tập trung Dachau của phát xít Đức đóng trên mặt tôi. Thân thể tôi, Địa ngục trần thế của Dante, không ngớt hăm dọa sẽ tự sụp đổ bất cứ lúc nào. Lớp da bao phủ cái Địa ngục tâm hồn rỗng tuếch không thể tiếp tục chống đỡ sức nặng của chính nó được nữa; sự thống nhất trong cấu trúc cơ thể tôi, dù ở khía cạnh nào chăng nữa, đều đã bị tổn hại. Một bác sĩ, nghe nói về việc tôi bị mất cái ấy, đã đến thăm và giải thích những tiến bộ mới nhất trong lĩnh vực cấy ghép dương v*t, phòng khi tôi có thể được lắp cái thay thế. Trong khi trước đây chỉ có những chiếc cần nối với khớp nối để giúp dương v*t cương lên hoặc thả lỏng, giờ đây việc cấy các hệ thống bơm tinh dịch tinh vi đã không còn nằm ngoài tầm tay nữa.

Những tiến bộ kỹ thuật như thế cũng chẳng an ủi được mấy cho một người đàn ông từng được ngưỡng mộ vì khả năng duy trì sự cương cứng trong những thời kỳ tồi tệ. Thời oanh liệt nay còn đâu.

Tôi sẽ chỉ hồi phục sức khỏe đến mức đủ điều kiện ra viện, và trong vòng hai mươi tư tiếng sau khi xuất viện, tôi sẽ chết. Đây là lời hứa của tôi đối với bản thân, và cũng là động lực duy nhất giúp tôi tiếp tục sống.

Tôi là kẻ vô thần.

Tôi không tin trên đời lại có một vị Chúa sẽ trừng phạt tôi vì tội tự sát.

Vì thiếu niềm tin tôn giáo, tôi không bao giờ coi vụ tai nạn là sự trừng phạt của thánh thần cho những hành vi "trụy lạc" của mình. Tôi biết chính xác vì sao tai nạn xảy ra. Vì lúc đó tôi đang phê, tôi có ảo giác hàng loạt mũi tên bay về phía mình. Để tránh những mũi tên tưởng tượng, tôi đã lái xe bay qua một vách đá thật. Xăng trong bình xăng của tôi chỉ phản ứng như xăng bình thường, đó là bốc cháy khi bắt lửa. Khi bị những ngọn lửa nuốt chửng lấy, cơ thể tôi bắt đầu bốc cháy theo định luật của nhiệt động lực học và sinh học. Chẳng có ý nghĩa gì sâu xa hơn cả.

Tôi hiểu rằng có một số người tin vào Chúa sau khi họ gặp bất hạnh, tuy nhiên với tôi điều này có vẻ còn nực cười hơn là tin vào NGƯỜI khi còn hạnh phúc. "Chúa trừng phạt tôi. Người hẳn phải rất yêu tôi." Giống như việc bạn không muốn một mối quan hệ lãng mạn cho tới khi người khác phái đấm cho bạn một cú vào mặt. Sự "sống sót kỳ diệu" không làm tôi thay đổi quan điểm Thiên đường chỉ là một ý niệm được con người tạo nên để giúp họ đối mặt với sự thật rằng cuộc sống trên trái đất vừa cực kỳ ngắn ngủi và cũng, ngược đời chưa, dài lê thê.

Tuy nhiên, với tinh thần nói toạc móng heo, tôi cũng muốn hé lộ vài điều là rất nhiều kẻ hữu thần sẽ khăng khăng phải thông báo về sự bất tín của tôi đối với Chúa. Họ sẽ tranh luận rằng tôi chối bỏ ý niệm Thiên đường vì nếu chấp nhận nó, tôi sẽ phải thừa nhận rằng định mệnh của mình là ở dưới Địa ngục.

Vì tôi đã sát hại ai đó.

Có tiếng thở dài nhẹ nhàng như dải lụa cuộn sóng bất chợt tấn công một tâm hồn đã chấp nhận cái chết đang đến gần. Đó là một túi khí nhẹ trong cuộc sống thường nhật nhiễu nhương. Dải lụa cảm xúc này bay phấp phới - không, "bay phấp phới" là một từ quá tràn trề sức sống - mảnh lụa quấn quanh bạn như thể nó đã bị thổi dạt không ngừng về phía mặt đất và cuối cùng cũng tìm thấy mục tiêu. Lá cờ chiến bại được hạ xuống đầy nhân đạo và, bằng hành động này, thất bại cũng không quá tệ. Thất bại đã bị đánh gục bởi vòng tay âu yếm của chính thất bại, và cái chết thì bị chiến thắng nuốt chửng.

Tiếng rít của con rắn yếu dần và cái chết chạm vào tôi với vẻ âu yếm và chiếm hữu: nó là một lão chủ đang xoa đầu con chó của mình, hay một bậc cha mẹ dỗ dành đứa con đang quấy khóc. Thời gian bắt đầu co lại và ngày gần như không tách rời đêm. Bóng tối bành trướng như một cơn sóng thần đẹp đẽ, lặng lẽ dâng trào và cơ thể khao khát cháy bỏng những lời ru dịu dàng cùng những bài thánh ca đưa tiễn con chiên về với Chúa.

Tôi có quyền tuyên bố điều này: không gì có thể sánh với quyết định tìm đến cái chết. Tôi đã lập một kế hoạch hoàn hảo và điều đó làm tôi mỉm cười. Nó giúp tôi trôi nhẹ nhàng hơn trên cái giường hơi của mình.

Tôi là một con quái vật bị hắt hủi. Sẽ chẳng ai khóc thương sự ra đi của tôi; thực tế là, tôi đã không còn tồn tại nữa rồi. Ai sẽ nhớ đến tôi chứ - các bác sĩ đã làm ra vẻ quan tâm ư? Nan đã cố hết sức nói những lời tốt đẹp và luôn chìa bộ mặt hy vọng ra với tôi, nhưng bà cũng rất tốt khi không nói dối tôi. Còn tôi thì lại nói dối bà khi giả vờ là mình muốn chữa lành bệnh. Tôi hoàn thiện kế hoạch của mình, suy tính đường đi nước bước trong lúc các cô y tá chăm sóc vết thương cho tôi, đôi bàn tay dịu dàng của họ lướt nhẹ trên cơ thể tôi như những con côn trùng duyên dáng đậu trên đống phân.

Bạn không muốn tự tử bất thành đâu. Đặc biệt khi bạn đang trong trường hợp giống tôi, phải đối mặt với cuộc đời còn lại như miếng há cảo để từ tuần trước. Cách duy nhất làm sự việc tệ hơn là sống đời thực vật hay bị liệt tứ chi, một điều cũng rất dễ xảy ra nếu bạn tính toán sai. Vì thế, hãy để tôi lặp lại lần nữa: bạn không muốn tự tử bất thành đâu.

Kế hoạch của tôi sẽ được thực thi ngay khi xuất viện, vì trong khoa bỏng họ canh chừng tôi kỹ lắm. Ở viện điều dưỡng, sẽ chẳng có khóa khiếc hay bảo vệ gì hết. Để làm gì chứ? Chỗ đó được lập ra để giúp người ta tái hòa nhập với xã hội chứ đâu phải để tránh xa nó.

Tôi vẫn còn vài nghìn đô giấu trong ngân hàng dưới một cái tên giả; còn nhiều hơn cả mức cần thiết. Tôi sẽ rời viện điều dưỡng, lết xuống phố, tìm một ngân hàng và rút tiền. Tại cửa hàng quần áo, tôi sẽ mua một cái áo khoác có mũ để có thể đi đến vùng đất tử thần mà không bị phát hiện. Và rồi cuộc đi săn hấp dẫn nhất sẽ bắt đầu.

Mua một khẩu súng ngắn là việc khá dễ dàng. Tôi đã quyết định tiếp cận Tod "Rác Rưởi" White, một tay bán hàng phi pháp cò con, sẵn sàng bán bà mình để lấy một đô la. Bán được một khẩu súng săn với giá hời sẽ mang lại một nụ cười thớ lợ trên khuôn mặt rỗ chằng rỗ chịt của hắn, và không chừng hắn còn ném cho tôi thêm vài viên đạn khuyến mãi ấy chứ.

Những thứ khác còn dễ kiếm hơn. Dao cạo râu có bán tại bất kỳ cửa hàng tiện lợi nào. Dây thừng có thể tìm được ở kho kim khí góc phố. Thuốc ngủ tại hiệu thuốc trong vùng. Rượu Scotch ở quầy rượu siêu thị.

Sau khi kiếm đủ dụng cụ, tôi sẽ đăng ký phòng ở một khách sạn nào đó. Khi chỉ còn mỗi mình trong phòng, tôi sẽ uống vài viên thuốc chống dị ứng, dù chẳng sốt siếc gì. Tôi sẽ ngồi xem vài bộ phim tươi mát trên kênh truyền hình người lớn của khách sạn, chỉ để hoài niệm một chút. Ai biết được, tôi còn có thể nhìn thấy chính mình trong chương trình giã biệt ấy chứ.

Trong khi xem phim, tôi sẽ mở chốt súng để lắp vài viên đạn vào. Tiếp theo tôi sẽ làm một cái thòng lọng, đặc biệt chú ý đến nút dây. Nó không dùng để thắt cổ mà là để bẻ gãy cổ: một cái nút to, giúp giải quyết mọi việc thật nhanh gọn. Sau khi làm xong cái thòng lọng hoành tráng, tôi sẽ lật nó trên tay vài lần thể hiện sự ngưỡng mộ thành quả lao động của mình và kéo nó đầy tự hào, vì bạn cũng biết là đàn ông thích kéo cái ấy(11) của mình như thế nào rồi mà.

Tôi sẽ lượn ra ban công mang theo thòng lọng và khẩu súng. Hoàng hôn. Tôi sẽ hít đầy lồng ngực không khí buổi đêm. Dang rộng tay để ôm trọn thành phố. Co nắm đấm lại và đấm mạnh vào ngực mình hai cú. Tràn đầy cảm giác mạnh mẽ và nam tính, tôi sẽ thắt chặt sợi dây thừng vào lan can ban công. Tôi sẽ quăng thòng lọng sang phía bên kia, đảm bảo sợi dây đủ dài cho một cú rơi nhẹ nhàng êm ái trước khi nó giật một cú gọn gàng miễn chê. Rồi tôi sẽ cuộn dây lại, cầu mong mình có thể làm y hệt với con rắn cái khốn nạn ký sinh trong cột sống của mình.

Tôi sẽ xoay nắp hộp thuốc rồi lấy ra năm viên thuốc ngủ, để chúng lướt xuống cổ họng bằng một ly rượu Scotch. Sau món cocktail này, tôi sẽ nốc thêm vài ly cùng loại nữa. Uống rượu ngắm mặt trời lặn lúc nào cũng thú vị. Trong khi tiêu hóa những thức uống mát lạnh, tôi sẽ rút dao cạo râu ra khỏi hộp và cứa đứt một phần dây. Hành động này sẽ cần đôi chút phán đoán nhờ học hành, để cứa dây sao cho nó không đứt ngay lập tức do sức giật từ cú rơi của tôi. Tôi muốn sợi dây giữ tôi lại, ít nhất cũng trong khoảnh khắc, trước khi tôi chạm tới điểm tận cùng.

Tôi sẽ uống một ly Scotch với năm viên thuốc ngủ nữa. Bây giờ, đây là lý do tôi uống thuốc chống dị ứng: thuốc ngủ có thể gây nôn mửa nếu uống quá liều còn thuốc chống dị ứng giúp ngăn phản ứng đó lại, đảm bảo cho chất gây ngủ yên vị trong dạ dày. Khá là thông minh, nhỉ? Tiếp theo, tôi sẽ lấy liều morphine được cấp hằng tuần rồi tiêm vào người chỉ bằng một nhát đâm xi lanh tuyệt vời. Để hoàn thiện món cocktail hỗn hợp độc dược, tôi sẽ chiêu một ly Scotch cuối cùng để trôi hết dư vị thuốc ngủ. Đến giờ này, bạn đã hiểu kế hoạch của tôi được phối hợp như thế nào rồi chứ.

Tôi sẽ tròng dây thòng lọng vào cổ, làm thật nhanh vì tôi sẽ nhanh chóng cảm thấy choáng váng, điên đảo. Tôi sẽ lấy một lưỡi dao cạo râu sáng loáng khác ra khỏi hộp. Nhìn nó sáng lấp lánh mà xem, thật giống cái nháy mắt của một vị Chúa tưởng tượng! Bằng một nhát rạch khéo léo tôi sẽ cứa cổ tay phải của mình, thật sâu và gọn, rồi tôi sẽ rạch cổ tay trái với cách thức tương tự. Điều này rất quan trọng: tôi sẽ cắt dọc theo chiều dài tĩnh mạch thay vì cắt ngang. Những người cắt ngang cổ tay là do hoặc không thực sự muốn chết, hoặc quá ngu dốt không thể kết thúc cuộc đời mình.

Tôi sẽ ngồi trên thành ban công. Với hai bàn tay đẫm máu, tôi sẽ nâng khẩu súng nạp đầy đạn lên và đặt họng súng vào trong mồm. Tôi sẽ cẩn thận chỉnh góc nòng súng sao cho viên đạn chu du qua vòm họng vào tới bộ óc phong phú của mình. Thuận lợi của súng săn, so với súng ngắn, là khả năng ngắm bắn không thực sự quan trọng. Hàng trăm viên đạn sẽ ngay lập tức tóe ra xé toang cái đầu khốn nạn của bạn. Hình ảnh mới đẹp đẽ làm sao chứ.

Người tôi lúc đó sẽ ở đúng vị trí, lưng quay lại phía thành phố, thế nên cú nổ sẽ làm tôi bắn qua lan can ban công. Cùng lúc não bị bắn tan nát, tôi sẽ rơi, nhưng cú rơi sẽ bị dừng lại đột ngột bởi cái thòng lọng vẫn đang quấn quanh cổ tôi. Trong một thoáng, tôi sẽ chỉ treo lơ lửng ở đó, chân giãy đành đạch. Thực ra thì, có lẽ tôi sẽ nẩy lên nẩy xuống vài lần; khó mà nói chính xác được. Hai cổ tay của tôi sẽ chảy máu ròng ròng còn sọ là một đống chất xám nhầy nhụa, một thứ gì đó trông giống như bức tranh tồi tệ nhất của Picasso. Những gì còn lại trong não tôi sẽ bắt đầu quằn quại vì thiếu ôxy. Dạ dày tôi lúc đó sẽ tràn ngập rượu Scotch và thuốc ngủ. Mạch máu của tôi sẽ đưa dòng máu hưng phấn vì morphine tràn qua những vết rạch trên hai cổ tay. Giờ, nếu khi nãy tôi cắt dây vừa đủ thì lúc này dây sẽ bắt đầu đứt rời. Những sợi thừng bện sẽ bung ra và, chỉ trong vài phút, sẽ đứt hoàn toàn. Người tôi sẽ rơi qua hai mươi tầng lầu xuống vỉa hè bên dưới. Thật đẹp. Thật hoàn hảo. Giờ đó là một vụ tự tử, tuyệt hơn một tiếng kêu cứu gấp trăm ngàn lần.

Gì thì gì, đó cũng là kế hoạch của tôi. Chưa một ai lại mong đợi cái chết của mình nhiều như tôi.

Chú thích

(9) Nhân vật nam chính trong tiểu thuyết Lolita của nhà văn Nga Vladimir Nabokov. Humbert là người đàn ông trung niên đem lòng yêu và sau đó đã quan hệ với cô bé Lolita 12 tuổi, con gái riêng của vợ.

(10) Thành phố cổ của La Mã, bị phá hủy bởi núi lửa phun năm 79.

(11) Nguyên văn: knot, vừa có nghĩa là nút thắt, vừa được hiểu theo nghĩa lóng là dương v*t.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 5


Hãy để tôi được bắt đầu bằng vài nét miêu tả về mái tóc của cô ấy - bởi vì, quả thực, không thể bắt đầu bằng bất cứ điều gì khác được. Mái tóc của cô giống như những chùm nho Tartarus(12) mọc trong đêm, vươn lên từ một nơi tối tăm đến nỗi ánh sáng mặt trời chỉ là lời đồn thổi. Nó mọc lan ra khắp nơi, những lọn quăn đen rủ xuống quyến rũ tới mức trông chúng như thể sẵn sàng nuốt chửng tay bạn nếu bạn may mắn được lướt những ngón tay của mình qua vậy. Mái tóc của cô lạ lùng đến độ thậm chí giờ đây, sau rất nhiều năm, tôi vẫn phải ngồi chế ra những ẩn dụ vớ vẩn này đây, việc tôi biết sẽ làm mình phải tiếc thương mỗi sáng.

Đôi mắt của cô cũng sắp làm tôi cảm thấy lúng túng. Nó cháy bùng như trái tim xanh lét của bao cặp tình nhân ghen tuông cứ buộc tội nhau mỗi khi đêm về. Không, tôi nhầm rồi, mắt cô không phải màu lục: nó màu xanh nước biển. Những con sóng đại dương cuộn lên trong tròng mắt cô, như một cơn bão bất ngờ ập đến, sẵn sàng cướp lấy viên thủy thủ khỏi người vợ của anh. Không, đợi chút... có thể mắt cô màu xanh lục: đôi mắt có khả năng thay đổi màu sắc tùy tâm trạng, có lẽ vậy, như những chiếc nhẫn cẩn đá quý công khai chuyển màu theo cảm xúc người đeo.

Cô xuất hiện tại khoa bỏng trong bộ áo dành cho người thăm bệnh màu xanh lá cây nhạt, với đôi mắt khó hiểu cùng mớ tóc rối tinh rối mù, và tôi đợi một cử chỉ há hốc miệng quen thuộc của bất cứ ai mới nhìn thấy tôi lần đầu. Tôi đợi cô lấy tay che miệng vì sốc và kinh hãi. Cô làm tôi thất vọng khi chỉ nở nụ cười:

"Anh bị bỏng. Một lần nữa."

Thông thường tôi luôn tuân theo quy tắc không đáp lại bất cứ câu nói kỳ quái nào của người lạ. Nhưng, thành thực mà nói, trong trường hợp này sự im lặng của tôi xuất phát từ việc tôi không muốn cô nghe cái giọng vịt đực như toilet vỡ của tôi. Cổ họng tôi đang lành lại, nhưng tai tôi (bên còn nghe được) vẫn chưa quen với chất giọng thảm hại hiện tại. Tôi chỉ muốn cô nghe được giọng nói trước đây của mình, giọng nói có thể dụ dỗ phụ nữ lên giường.

Trước sự im lặng của tôi, cô nhắc lại. "Đây là lần thứ ba anh bị bỏng."

Tôi thu hết can đảm và chỉnh cô. "Mới một lần thôi."

Một thoáng bối rối hiện ra trên mặt cô. "Có lẽ anh không còn là mình nữa."

Cô tiến lại giường tôi, mắt không ngừng xoáy sâu vào mắt tôi, kéo chặt những tấm rèm nhựa dày mắc xung quanh chúng tôi để đảm bảo cuộc nói chuyện được riêng tư. Cô rướn người về trước, cách tôi có vài phân, chăm chú nhìn vào mặt tôi. Chưa có bất cứ ai nhìn tôi kiểu ấy, trước vụ bỏng cũng vậy và hiển nhiên là kể từ sau đó thì càng không. Mắt cô, lấp lánh lúc xanh lục, lúc xanh biển, có những quầng thâm đen phía dưới, như thể cô chưa ngủ cả tuần liền rồi. Khi môi cô gần như chạm vào môi tôi, cô thì thầm một từ. "Engelthal."

Không nghi ngờ gì nữa, thưa bạn đọc, bạn hẳn đã có lúc nào đó trong đời mặt đối mặt với một người điên chứ. Bạn có thể cảm nhận được sự điên rồ ngay lập tức, thường thì ngay trước khi đối phương có cơ hội nói được gì, nhưng cái câu rất vô nghĩa này cứ bám chặt lấy tôi. Gặp một người điên thì chẳng có gì đáng nói cả, vì cả thế giới đều sống chung với họ; cái thu hút tính hiếu kỳ của tôi là phản ứng của chính bản thân kia. Thông thường với mỗi cuộc gặp gỡ như vậy, bạn chỉ muốn tránh ra xa. Nếu đang đi trên phố, bạn sẽ nhìn vội sang chỗ khác rồi rảo bước nhanh hơn, nhưng ở phòng điều trị bỏng cách duy nhất tôi có thể làm là rung chuông gọi y tá. Nhưng tôi đã không làm thế. Phản ứng duy nhất của tôi trước tình huống có thể rất nguy hiểm này là không phản ứng gì cả. Vậy ai điên hơn, người phụ nữ tóc tai rối bù hay là tôi?

Cô lùi lại một bước. "Anh không nhớ gì cả."

"Phải." Cho dù điều cô nghĩ lẽ ra tôi phải nhớ có là gì đi nữa thì cũng rõ như ban ngày là tôi không nhớ gì hết.

"Thế càng thú vị," cô nói. "Anh có biết họ đang cố đầu độc những trái tim của tôi không?"

"Không," tôi lại trả lời, nhưng cảm thấy hứng thú với điều mà một nhận xét vu vơ có thể dẫn đến. "Họ làm thế à?"

"Phải, tôi không thể để họ làm thế, vì tôi cần phải sám hối hết tội lỗi đã." Cô nhìn quanh, như thể lo lắng không biết mình có bị nghe trộm không. "Lần này làm sao mà anh bị bỏng?"

Tôi đã có thể nói nhiều câu ngắn một lúc, miễn là nhớ dừng lại để thở, nên tôi kể cho cô nghe qua vài chi tiết về vụ tai nạn của mình - khi nào, ở đâu, thế nào, đã bao lâu rồi. Rồi tôi hỏi tên cô.

"Anh biết tên tôi mà." Cô cứ đưa tay lên ngực mình như thể mong đợi sẽ tìm thấy gì ở đó, một thứ hiển nhiên đã mất. Động tác của cô làm tôi nhớ đến cách tôi vẫn luôn chà vết bớt bẩm sinh trên ngực mình.

"Cô đang làm gì đấy?" tôi hỏi.

"Họ lấy mất cái vòng cổ của tôi rồi. Họ nói nó có thể được dùng để làm hại ai đó," cô trả lời. "Một bé gái mới chết."

Tôi nghĩ tới Thérèse. "Làm sao cô biết?"

"Ồ, tôi biết một chút về người chết" - cô cười - "nhưng tôi nghĩ chúng ta khá may mắn."

"May mắn thế nào?"

"Chúng ta đã sống lâu hơn một cô bé bảy tuổi. Chúng ta đã sống lâu hơn cô ấy một trăm lần."

"Cô đang nói cái gì đấy?"

"Tôi có một con chó tên là Bougatsa." Những ngón tay của cô, giờ đang đặt trên mạng sườn, giật liên hồi. "Nó sẽ rất thích anh."

"Tôi không thích chó."

"Anh sẽ thích thôi."

"Chúng không thích tôi."

"Ồ. Vì anh quá cố chấp và xấu tính, phải không?"

Có phải cô ấy đang móc máy một nạn nhân bỏng thật không?

"Cái tên ấy có nghĩa là gì?" tôi hỏi. "Bougatsa ấy."

"Đấy là phần nhân trong bánh ngọt kiểu Hy Lạp, và con chó của tôi có màu y như thế. Có lẽ tôi sẽ mang nó đến thăm anh."

"Chó không được phép vào đây." Thở dốc. "Thậm chí cả hoa cũng có thể giết tôi."

"Ha! Đừng nghĩ tôi là đứa ngốc. Anh biết rõ mình sợ những thứ kinh khủng hơn chó đấy." Cô nhẹ nhàng đặt tay lên ngực tôi, thật dịu dàng. Tôi rùng mình, không chỉ vì sự đụng chạm và còn vì ánh sáng lóe lên trong mắt cô. "Anh rất muốn tự kết liễu bản thân và tôi không thể buộc mình trách anh được. Nhưng sẽ có một thời khắc, một nơi nào đó cho những chuyện như thế, chỉ có điều không phải tại đây và vào lúc này."

Sao cô lại nói những điều như thế? Tôi thấy cần phải thay đổi chủ đề. "Cô trông rất ổn so với một người bảy trăm tuổi đấy."

"Anh thì không," cô nói, nhìn xuống khắp người tôi. Đây là lần đầu tiên có ai đó đùa cợt về những vết bỏng của tôi. "Thế, anh nghĩ tôi nên làm gì với những trái tim của mình?"

"Tôi nghĩ..." Tôi dừng lại một chút, để làm cô nghĩ mình đang rất cẩn thận suy xét vấn đề, trong khi thực tình tôi chỉ chuẩn bị cho độ dài của câu nói sắp tới mà thôi. "Tôi nghĩ cô nên trao nó cho những người chủ xứng đáng."

Mắt cô mở to, như thể tôi vừa tra chìa vào một ổ khóa bí mật, và tôi băn khoăn không biết mình có ấn nhầm nút vào phòng bệnh tâm thần không. Nhưng, rất nhanh chóng, nét mặt hân hoan của cô được thay thế bằng sự hoài nghi. Cô đi tới một góc giường của tôi, đứng nói gì đó bằng một ngôn ngữ khác. "Jube, Domine benedicere." (13) Tiếng Latin? Theo sau là một cuộc trò chuyện ngắn, cô nói chuyện với hư không, bằng thứ ngôn ngữ tôi không thể hiểu, chờ những lời đáp tôi không thể nghe thấy. Sau khi cuộc nói chuyện tưởng tượng thứ nhất kết thúc, cô cúi rạp đầu rồi đi ra góc giường thứ hai và lặp lại bài biểu diễn. Và rồi, góc thứ ba. Cô kết thúc mỗi cuộc nói chuyện theo đúng cách đã bắt đầu - "Jube, Domine benedicere." - rồi cô quay trở lại vị trí ban đầu, không còn gợn chút hoài nghi.

"Ba Vị Chủ Nhân của tôi khẳng định đó thực sự là anh. Vì anh tôi sẽ cố gắng hoàn thiện trái tim cuối cùng của mình."

Câu nói này rõ ràng đã làm dâng trào cảm xúc trong cô. Cô trông như sắp khóc khi nói, "Tôi đã chờ anh quá lâu rồi."

Ngay lúc ấy, Beth đến kéo rèm ra. Cô có vẻ sốc khi thấy tôi có khách đến thăm sau rất nhiều tuần trơ trọi, nhưng sự sửng sốt của cô nhanh chóng chuyển thành lo ngại khi cô nhận thấy tia nhìn sung sướng đầy điên dại ánh lên trong mắt người phụ nữ đến thăm. Sau đó Beth phát hiện ra tuy vị khách của tôi mặc đồng phục nhưng đó không phải tông xanh lá dành cho khách đến thăm mà là sắc xanh nhạt hơn dành cho bệnh nhân, và rằng người phụ nữ kia đang đeo một cái vòng màu có mã số dành cho bệnh nhân tâm thần. Beth, chuyên nghiệp như thường ngày, không va chạm trực tiếp với khách của tôi mà nói rằng cô từ chối để tôi ở một mình với người đó. Cô gọi ngay một tay hộ lý đến để "hộ tống" người phụ nữ trở lại khoa tâm thần.

Tôi chẳng cảm thấy sợ hãi gì hết và, thực sự, có chút hoang dại thổi vào bầu không khí khô khốc đến ngột ngạt này kể cũng hay. Trong vài phút ngắn ngủi trước khi tay hộ lý tới, người phụ nữ và tôi tiếp tục nói chuyện, một cách nhẹ nhàng, trong khi Beth đứng ở góc xa nhìn cả hai với ánh mắt cảnh giác. Người khách của tôi nói thầm để không bị nghe lỏm. "Chúng ta có chung một người quen."

"Tôi nghi ngờ chuyện đó đấy."

"Anh chỉ mới gặp bà ấy một lần, trong đám đông. Bà ấy không nói được," cô nói, rướn lại gần tôi hơn, "nhưng bà ấy cho anh một manh mối."

"Một manh mối?"

""Cháu chưa bao giờ băn khoăn vết sẹo của mình thực sự từ đâu mà có ư?""

Người khách đặt tay lên ngực mình và tôi nghĩ cô chuẩn bị chỉ vị trí vết sẹo trên người tôi, nhưng cô chỉ tìm kiếm vô vọng chiếc vòng cổ bị thất lạc của mình mà thôi.

Làm sao người phụ nữ này có thể đoán chính xác những từ trong mảnh giấy được trao cho tôi tại buổi biểu diễn tàu lượn? Tuy nhiên, tôi là một người rất lý trí - đây chỉ là một sự trùng hợp kỳ lạ, không hơn không kém. Để chứng minh điều đó, tôi cố đánh lạc hướng cô một chút: "Cả người tôi đã là một vết sẹo rồi."

"Không phải những vết bỏng của anh. Mà là vết sẹo bẩm sinh, nằm trên trái tim anh ấy."

Ngay lúc ấy, tay hộ lý xuất hiện và bắt đầu công đoạn thuyết phục người phụ nữ rời đi. Beth cũng giúp một tay, lấy thân hình mình đẩy người phụ nữ ra phía cửa.

Giọng tôi vẫn chưa được khỏe nhưng tôi cố cao giọng hết mức. "Làm sao cô biết?"

Người phụ nữ quay lại phía tôi, mặc kệ những cánh tay đang kéo khuỷu tay mình. "Vấn đề của những người như chúng ta là chúng ta không chết một cách đúng nghĩa."

Chỉ được đến thế, người bảo vệ đã kéo cô ra khỏi phòng.

Luôn có lời giải thích logic cho tất cả mọi chuyện; vì thế, cũng có một lời giải thích logic vì sao người phụ nữ ấy biết chuyện vết sẹo của tôi.

Lời giải thích thứ nhất: chó ngáp phải ruồi.

Lời giải thích thứ hai: một trò đùa do bạn tôi bày ra, ai đó nghĩ việc cử một diễn viên đóng vai người phụ nữ tâm thần có chút hiểu biết về cuộc đời tôi đến là một trò thú vị lắm. Vấn đề của giả thiết này là tôi chưa bao giờ kể cho bất cứ người bạn nào về người phụ nữ châu Á gặp tại trường bay, và tôi cũng chẳng còn đứa bạn nào để trêu chọc mình cả.

Lời giải thích thứ ba: người phụ nữ này thích các bộ phim khiêu dâm tôi đóng và biết về vết sẹo trên ngực tôi. Nó hiện rõ trên phim, vì tôi chẳng bao giờ buồn bôi phấn che cả. (Thêm vào đó thể loại phim ảnh của tôi tốn hơi nhiều mồ hôi.) Chỉ có điều tôi được đăng ký nhập viện với tên thật chứ không phải nghệ danh, và với bộ dạng hiện tại của tôi thì cô không thể nhận ra con người tôi trước đây được.

Lời giải thích cuối cùng: người phụ nữ này yêu những bộ phim khiêu dâm tôi đóng, và đã lần theo dấu vết công ty sản xuất đã ngừng hoạt động của tôi. Một kẻ nào đó, có thể là lão luật sư chết tiệt của tôi, đã cho cô biết về vụ tai nạn của tôi và chỉ cho cô đường đến khoa bỏng.

Nhưng nếu cô là một fan cuồng nhiệt, sao cô không nói gì đến nghề trước kia của tôi? Và nếu cô đến để tìm người diễn viên mình từng thấy trước đây, làm sao cô có thể tỏ ra hài lòng đến thế khi nhìn thấy con người mới của tôi?

Và, cuối cùng là, dù hầu hết hành vi của người phụ nữ ấy đều rất kỳ cục, nhưng chắc chắn không có biểu hiện gì của một kẻ nghiện phim khiêu dâm loại nặng cả. Tin tôi đi, đời tôi đã gặp đủ bọn biến thái để có thể chỉ ngay ra một tên giữa đám đông rồi.

Tôi nghĩ mình sẽ hỏi lại khi cô đến gặp tôi lần nữa, vì không hiểu sao tôi linh cảm cô sẽ lại tới. Khi tôi nói với mấy cô y tá là tôi hoan nghênh bất cứ cuộc gặp gỡ sắp tới nào với nữ bệnh nhân tâm thần đó, họ đều nở một nụ cười lạ lẫm với tôi. Hẳn họ cho rằng thật đáng buồn khi tôi lại trông đợi cuộc viếng thăm của một phụ nữ tâm thần. Nhưng điều đó chẳng cản trở được tôi, và tôi thậm chí còn nhờ Beth hỏi hộ tên người ấy. Cô từ chối luôn, thế là tôi nhờ Connie. Cô cũng nói việc tiết lộ tên tuổi một bệnh nhân khác là trái với nội quy bệnh viện. Trước tình hình đó, tôi bảo với Connie là cô sẽ "rất, rất xấu" nếu không chịu giúp tôi hỏi tên của người duy nhất đã đến thăm tôi sau một thời gian dài như thế. Và vì mong muốn được làm người tốt hơn bất cứ điều gì trên đời, Connie nhanh chóng quay trở lại kèm theo thông tin mà tôi yêu cầu.

Tên người phụ nữ đó là Marianne Engel.

Tôi cao hơn so với trước vụ tai nạn. Vụ cháy đã làm tôi khô quắt lại như miếng thịt bò khô trong suốt đợt trị liệu. Tôi đã từng thanh thoát và đẹp đẽ như một cậu bé Hy Lạp ở thế kỷ thứ ba, với cặp mông căng tròn như hai nửa quả dưa chín mọng mà những doanh nhân Nhật Bản phải trả một khoản kha khá để vuốt ve. Da tôi mềm mại và sạch tinh như sữa chua chưa đánh, bụng tôi được chia thành từng múi đối xứng, còn đôi cánh tay vạm vỡ mà rất mượt mà. Nhưng khuôn mặt tôi mới chính là vàng mười. Tôi sở hữu đôi gò má xuất hiện trong những giấc mơ của nhà thơ Pháp Verlaine. Mắt tôi đen và sâu thẳm đến nỗi một đoàn thám hiểm hang động nhỏ phải dành cả ngày mới tham quan hết. Một người đồng tính từng nói với tôi anh ta biết bao khao khát được nhẹ nhàng đặt của quý thâm sì của mình vào môi dưới tôi. Tôi đã cười anh ta nhưng trong lòng thì lén lút xem đó là một lời khen tuyệt vời.

Kể từ sau vụ tai nạn, tôi đã cố gắng từ bỏ sự tự mãn của mình, nhưng nội tâm vẫn còn đấu tranh rất dữ dội. Tôi nhớ quá khứ, nhớ khi khuôn mặt tôi thật hoàn hảo, và khi cơn gió nhẹ hất tóc tôi lên làm nó trông như phần lông dưới mềm mại của cánh chim. Tôi nhớ lúc phụ nữ đi trên đường quay lại cười với tôi, tự hỏi sẽ tuyệt diệu đến thế nào nếu được sở hữu vẻ đẹp của tôi dù chỉ trong giây phút lóe sáng ngắn ngủi.

Nếu có thể chấp nhận bài miêu tả về một con quái vật là tôi bây giờ đây, bạn cũng nên chấp nhận bài miêu tả về một mỹ nam là tôi trong quá khứ. Và từ khi gặp Marianne Engel, tôi cảm nhận sự mất mát - đặc biệt tại khoảng trống giữa hai chân mình - càng thêm sâu sắc.

Phòng tôi lại vinh dự đón cô mười ngày sau đó, cô mặc chiếc áo choàng trông có vẻ là một trong những bộ trang phục được cắt may đẹp nhất thời Trung cổ. Không phải tôi đang kể chuyện cho vui với các bạn đâu; cô đã mặc cái thứ ấy thực đấy. Chiếc mũ trùm đầu lơ lửng trên mặt, đôi mắt sáng như những viên ngọc bích lấp lánh trong mỏ. Cô đặt một ngón tay lên môi, dặn tôi giữ im lặng, và lén lút đi tới bên giường. Tôi muốn cười phá lên nhưng nhận ra với cô, đây là một vấn đề nghiêm túc. Ngay khi đến bên cạnh tôi, cô kéo luôn rèm cửa để chúng tôi có thể, một lần nữa, có được sự riêng tư. Cô lẽ ra chẳng cần phải lo lắng quá, vì trong phòng chỉ có mỗi hai bệnh nhân khác thôi mà một người đã ra khỏi phòng để luyện tập phục hồi chức năng còn người kia thì đã ngáy khò khò rồi.

Phía sau hàng rào nhựa ấy, cô cảm thấy đủ an toàn để kéo mũ trùm đầu ra sau - một chút, không kéo hết - và tôi có thể thấy những quầng thâm dưới mắt cô đã biến mất. Cô trông tỉnh táo hơn trong lần gặp đầu tiên của chúng tôi nhiều, và có mùi thuốc lá rất đậm trên người cô. Tôi băn khoăn không biết có phải cô đã chôm chỉa từ người y tá nào không hay chỉ là họ lờ đi không xét nét cô. Do một lần nữa cô không mặc đồng phục chuẩn dành cho khách thăm bệnh, tôi ngờ rằng họ không biết tí gì về chuyện cô vào đây. Cô cứ đặt tay ở góc mũ suốt, như thể sẵn sàng kéo nó ra sau ngay lập tức.

"Tôi không muốn họ biết tôi đang ở đây."

"Các bác sĩ ấy hả?"

Marianne Engel gật đầu. Tôi nói với cô rằng cô không có gì phải sợ, họ đều là người tốt.

"Anh không biết mấy về các bác sĩ đâu." Cô thọc tay vào cổ áo rồi kéo một sợi dây da treo lủng lẳng cái đầu mũi tên ra. "Nhìn này, tôi đã lấy lại được vòng cổ của mình rồi." Cô nhấc chiếc vòng qua đầu rồi chìa ra, phía trên ngực tôi, để cho đầu mũi tên đung đưa như một cái bùa ma thuật đang tìm kiếm trái tim tôi. "Cho phép tôi nhé?"

Tôi không biết cô muốn gì nhưng vẫn gật đầu.

Marianne Engel hạ thấp tay xuống, thả lỏng sợi dây da để đầu mũi tên chạm vào ngực tôi. "Cảm thấy thế nào?"

"Như thể nó thuộc về nơi đó vậy."

"Chắc chắn rồi."

"Sao cô biết về vết sẹo trên ngực tôi?"

"Đừng vội. Giải thích những chuyện như thế cần có thời gian." Cô nhấc sợi dây chuyền khỏi ngực tôi và đeo lại vào cổ mình. "Còn bây giờ, tôi kể anh nghe câu chuyện về một con rồng nhé."

"Ngày xửa ngày xưa, có một con rồng tên là La Gargouille sống ở Pháp, bên dòng sông Seine. La Gargouille là một con rồng bình thường như bất cứ con rồng nào khác với vảy màu xanh, cổ dài, bộ móng vuốt sắc nhọn và đôi cánh nhỏ tưởng không hỗ trợ mấy cho việc bay nhảy nhưng hóa ra cũng có ích. Như hầu hết các con rồng khác, nó có thể thở ra lửa, phun ra hàng lít nước, xé toạc những thân cây to lớn bằng móng vuốt của mình.

"Cư dân của thành phố gần đó, Rouen, căm ghét con rồng và luôn sống trong sợ hãi. Nhưng họ có thể làm gì? Nó mạnh hơn họ rất nhiều, thế là mỗi năm họ phải nộp một vật cúng tế với hy vọng xoa dịu nó. La Gargouille thích các trinh nữ, thói quen cố hữu của loài rồng, nhưng dân làng lại có xu hướng cống nạp bọn tội phạm. Bất luận thế nào, việc con người bị ăn thịt nhìn chung là một chuyện rất khủng khiếp.

"Chuyện này kéo dài hàng thập kỷ. Cuối cùng, khoảng những năm 600 sau Công nguyên, một linh mục tên là Romanus đặt chân lên thành phố này. Ông đã nghe kể về con rồng và muốn thử khuất phục con quái thú. Romanus đề nghị, nếu mọi người đồng ý xây một nhà thờ, và nếu dân làng chịu làm lễ rửa tội, ông ta sẽ tiêu diệt con rồng. Dân làng, tất nhiên chẳng ngốc nghếch gì, nhận ra ngay đây là một món hời. Họ có mất mát gì đâu, trừ một con rồng?

"Thế là Romanus đi tới bờ sông Seine, mang theo một quả chuông, một quyển Kinh Thánh, một cây nến và một chiếc thập tự giá. Ông ta thắp nến, cắm xuống đất, mở quyển Kinh Thánh ra rồi lớn tiếng gọi La Gargouille. Con ác thú trồi ra từ trong hang chẳng chút ngần ngại; xét cho cùng, nó là một con rồng, việc quái gì nó lại phải sợ một con người tầm thường chứ? Gì thì gì, một vị khách như thế với nó cũng chẳng hơn gì một bữa thịt tươi.

"Ngay khi con rồng xuất hiện, Romanus liền rung chuông - như một lời báo tử - và bắt đầu đọc to những lời răn của Chúa.

"Con rồng khịt ra những bụm khói nhỏ khi nghe thấy tiếng đọc kinh, như thể chuyện đó làm nó khoái chí lắm, cho đến khi nó nhận ra mình không thể phun lửa tùy thích được nữa. Phổi nó đau rát rồi sau một thoáng bắt đầu xẹp xuống, chẳng còn tí hơi nào.

"Nhận ra mình không thể tiêu diệt vị mục sư bằng lửa nữa, La Gargouille phóng vụt tới chỗ ông. Romanus nhấc thập tự giá lên và mạnh mẽ giơ ra trước mặt con quái thú, làm nó không thể tiến thêm được bước nào nữa, như thể có một bàn tay vô hình đang đẩy nó lại phía sau. Dù con vật có xoay chuyển thế nào đi nữa, Romanus cứ lặp đi lặp lại hành động đó, và La Gargouille không thể tiến lại gần người đang tra tấn nó chút nào. Một tay cầm thập tự giá và một tay ôm quyển Kinh Thánh, Romanus tiếp tục đọc kinh với một niềm tin thuần khiết; mỗi tiết như một mũi tên xuyên sâu xuống lớp vảy rồng, và mỗi chương như một ngọn giáo cắm phập vào mạng sườn của nó.

"Cả đời La Gargouille chưa bao giờ phải chịu những chuyện như thế này, nó bắt đầu thoái lui. Nó nhìn khắp trái phải nhưng Romanus đã dùng cây thập tự giá đẩy nó về phía sau. Một khi con rồng đã bị kẹt cứng trong hang động của nó, vị linh mục tiếp tục đọc kinh không ngừng nghỉ cho tới khi con rồng khuỵu xuống đầu hàng. Mọi việc chỉ kết thúc khi Romanus gập cuốn Kinh Thánh lại và thổi tắt ngọn nến; nghi thức đã hoàn thành và con quái thú đã bị thuần hóa.

"Không còn chút ý chí chiến đấu nào, La Gargouille cúi đầu chấp nhận để Romanus choàng chiếc áo tế của ông quanh cổ nó. Sau đó vị mục sư dùng cây thập tự giá thắt nút dây trói thật chặt, rồi dẫn con rồng thất trận quay trở về thành phố.

"Cách duy nhất để giết chết một con rồng là trói nó vào cọc rồi đem đi thiêu sống, tất cả mọi người đều biết chuyện đó, và thế là mọi thứ được tiến hành. La Gargouille rú lên đau đớn, nhưng đối với dân làng âm thanh ghê rợn đó nghe như một thứ nhạc ngọt ngào. Tiếng gào thét vang mãi không ngừng vì đầu và cổ của La Gargouille không chịu cháy rụi - khả năng khạc ra lửa của loài rồng đã tôi luyện cho những vùng đó sức mạnh chống lại sự tàn phá của lửa. Nhưng cuối cùng thì con quái vật cũng chết, và dân làng đã thoát khỏi lời nguyền khủng khiếp của họ.

"Người dân thị trấn rất chính trực và họ đã thực hiện đầy đủ bản giao kèo. Tất cả mọi người đều đồng ý làm lễ rửa tội, và họ dựng một nhà thờ. Cái đầu không bị cháy rụi của La Gargouille được treo trên mái và, trong hàng bao thế kỷ tới, sẽ được dùng làm nguyên mẫu cho các loại chimera(14) và gargoyle."

Marianne Engel hoàn toàn chìm đắm trong câu chuyện của mình, cho tôi cơ hội quan sát cô kỹ lưỡng hơn. Mắt cô, hôm nay có màu xanh nước biển, đã thôi đảo quanh cảnh giác với các bác sĩ. Cô nhìn tôi chằm chằm, trực diện, đến mức tôi cảm thấy ngượng. Ánh nhìn đầy nhục cảm và khiêu khích.

Cô không phải kiểu phụ nữ bạn có thể liệt vào hạng vẻ đẹp cổ điển. Răng cô hơi nhỏ so với miệng, nhưng tôi luôn thấy những người có hàm răng nhỏ khá quyến rũ. Tôi nghĩ lông mày cô hơi quá rậm rạp so với gu của một số đàn ông nhưng, nói thật nhé, bọn ấy là một lũ ngu. Điểm đáng bàn duy nhất trên khuôn mặt cô là cái mũi, không quá to, tôi phải nhắc các bạn, nhưng chắc chắn không được gọi là thanh thoát. Một chỗ gồ trên sống mũi cho thấy hồi xưa cô từng bị gãy mũi, nhưng tôi nghĩ nó làm cô trông khá cá tính. Người ta có thể kiện rằng lỗ mũi cô trông hơi tẹt, nhưng bất kỳ vị quan tòa sáng suốt nào cũng ném vụ kiện ấy ra khỏi tòa thôi.

Da cô xanh xao, như thể bị cớm nắng. Cô có vẻ gầy, dù chiếc áo choàng của cô làm người ta khó phán đoán được đường nét cơ thể. Cô cao hơn hầu hết phụ nữ khác, nhưng không cao đến mức quá khổ. Khá cao, bạn có thể nói vậy. Cô bao nhiêu tuổi? Rất khó nói chính xác, nhưng chắc gần bốn mươi.

Rất lâu sau khi cô ngừng nói, tôi mới nhận ra mình vẫn tiếp tục nhìn cô chăm chú và cô mỉm cười đáp lại, không có vẻ khó chịu mà khá hài lòng. Tôi thốt ra điều đầu tiên xẹt qua óc. "Cô vừa bịa chuyện đấy à?"

"Không, đó là một truyền thuyết lâu đời." Cô cười vang. "Tôi không có năng khiếu sáng tác truyện, nhưng tôi nắm khá vững lịch sử đấy. Ví dụ, anh có biết Jeanne d"Arc bị thiêu sống ở Rouen và tro của bà ấy bị ném xuống sông Seine không?"

"Không, tôi không biết."

"Suy nghĩ rằng cơ thể bà ấy vẫn là một phần của dòng nước ấy đã giúp tôi thấy thanh thản."

Chúng tôi còn nói nhiều nữa, về khối chuyện. Rồi bác sĩ Edwards, tôi có thể nhận ra tiếng bước chân, bước vào phòng theo lịch trực thường ngày và kéo rèm ra.

"Ồ," bà nói, bất ngờ khi thấy một vị khách. "Tôi có làm phiền không?"

Marianne Engel kéo cái mũ trùm đầu lại rồi đứng bật dậy, suýt thì vướng vào tấm rèm nhựa khi vội vã đi qua bác sĩ Edwards. Trên lối ra, cô còn ngoái lại nhìn tôi khẩn khoản, "Đừng nói với ai nhé."

Những ngày sau cuộc viếng thăm của Marianne Engel, Nan bắt đầu dùng một con dao lóc da bằng điện để "thu hoạch" phần da nguyên lành của tôi và ghép sang vết thương. Bà nói với tôi đây là một bước tiến trong quá trình điều trị, nhưng trông chẳng có vẻ gì như thế cả. Vùng da khỏe mạnh vẫn còn những dây thần kinh đang hoạt động, nên mỗi đợt thu hoạch đúng là đã lóc sạch da trên người tôi, để lại phía sau những vết thương hở miệng. Mất khoảng hai tuần để mỗi bộ phận bị lóc da hồi phục trước khi quá trình lặp lại. Vết thương của tôi lên da non chỉ để lại bị lóc đi lần nữa. Tôi là một trang trại hạ bì, còn con dao lóc da bằng điện là cái máy đập lúa.

Sau mỗi đợt thu hoạch, tôi được bôi đầy kem và quấn trong những lần băng mỏng. Vài ngày sau, một trong những cô y tá, thường là Beth, sẽ thay băng lần đầu tiên sau mỗi đợt điều trị. Nan sẽ đứng cạnh kiểm tra tỷ lệ da ghép thành công - "tỷ lệ da ghép bám sống" - ước lượng tương đối để tính toán xem quy trình thành công hay thất bại. Tỷ lệ da ghép bám sống khoảng tám lăm phần trăm được coi là tốt; bất cứ tỷ lệ nào dưới mức này đều làm Nan cau mày tặc lưỡi. Dưới sáu mươi phần trăm có nghĩa là bà sẽ phải làm thêm một công đoạn cấy ghép nữa.

Ngay cả khi lớp da ghép sống được, sự thiếu hụt tuyến bã nhờn làm phần mô mới cấy luôn trong tình trạng thiếu độ ẩm nghiêm trọng. "Kiến bò dưới da" là một sáo ngữ không những không lột tả được cảm giác, mà còn thiếu tính tượng hình nữa. Bầy mối ăn gỗ vung vẩy cái cưa xích bé tẹo, có lẽ thế; hay lũ cáy khoác chiếc áo lông lá và đi giày bằng sợi thủy tinh; hoặc một quân đoàn chuột con kéo những cái cày nhỏ xíu bằng dây kẽm gai. Đàn gián dưới lớp biểu bì đi giày đá bóng và đeo đinh thúc ngựa của cao bồi nhảy điệu clacket? Có lẽ.

Tôi đêm ngày mong đợi Marianne Engel xuất hiện trở lại.

Tôi nghĩ về cô quá nhiều, và ý nghĩ ấy chiếm hết thời gian mà lẽ ra tôi đã dành để nuôi nỗi sợ bị cắt lọc hay lập kế hoạch tự tử. Khi bụng bắt đầu cảm thấy đau, tôi tự hỏi liệu mình có nhớ cô thật không, người phụ nữ tôi chỉ mới quen. Đây có phải là nhớ mong trông đợi? Tôi quả thật không biết, vì tôi chỉ có cảm giác thế này những khi đường dây ma túy trong thành phố trong tình trạng cháy hàng.

Hóa ra, cảm giác dấy lên trong dạ dày tôi không phải là nhớ nhung gì hết. Bộ ruột bị kích thích của tôi nhanh chóng chuyển từ điệu nhảy flamenco bốc lửa sang một cơn đau nóng rát. Ruột tôi trở nên cay nóng như tiêu ớt và tiếng phách gõ tanh tách trong hậu môn của tôi. Nan chọc tay vào bụng tôi hỏi xem tôi có đau không. Tôi nói với bà là chỗ đó đang diễn ra cuộc Nội chiến Tây Ban Nha chết giẫm. Rất nhanh chóng, vài bác sĩ khác nhảy vào phòng tôi, một hàng áo blu trắng làm tôi nhớ đến bài thơ Flanders Fields. Họ chiếu, chụp và lẩm bẩm gì đó đại loại như "Thật thú vị" và "Hừmmmm." (Dù có gì thực sự thú vị đi nữa, một bác sĩ không bao giờ, không bao giờ, được phép nói "Thú vị" với lại "Hừmmm" trước mặt bệnh nhân cả.) Thật nhanh gọn, đám bác sĩ thích lẩm bẩm này xác định rằng tôi bị viêm tụy nặng, tình hình nguy kịch đến nỗi rất nhiều mô tụy của tôi đã chết.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 6


Quá trình hoại tử tụy có hai loại chính: không nhiễm trùng và nhiễm trùng. Loại của tôi là nhiễm trùng. Nếu không được phẫu thuật kịp thời, khả năng tôi không qua khỏi là khá cao. Thế là các bác sĩ nói với tôi rằng tôi không có nhiều lựa chọn ngoài việc loại bỏ, càng nhanh càng tốt, một lượng lớn mô tụy. Sao lại không làm theo chứ, tôi nhún vai. Sau năm giờ chẩn đoán, tôi được đưa lên xe đẩy vào phòng phẫu thuật. Bác sĩ gây mê bảo tôi đếm ngược từ mười. Tôi chỉ đếm đến sáu.

Bệnh nhân bỏng không được sử dụng loại thuốc gây mê thông thường, thay vào đó là thuốc gây mê ketamine - thường gây ảo giác. Trong một lần được gây mê, tôi đã có một ảo giác vô cùng dễ chịu, một món quà khuyến mãi bất ngờ cho một trải nghiệm lẽ ra thật tê tái. Tôi đang đứng nhìn ra biển, một phụ nữ Anh đáng yêu cạnh bên, và đối với một bệnh nhân bỏng còn gì tuyệt vời hơn giấc mơ về nước?

Tôi tỉnh dậy để tiếp nhận thông tin nửa số mô tụy của mình đã bị cắt bỏ. Thêm vào đó, bác sĩ phẫu thuật còn vốc một nắm đầy mô ruột bị tổn thương gần đó. Tôi nghĩ ông cho rằng vì đã mất công mổ phanh ra rồi nên tội gì mà không vơ vét hết. Từng chút từng chút một, tôi trở thành chất thải y tế. Ai mà biết được, có lẽ một ngày nào đó các bác sĩ sẽ khai thác cái mỏ lộ thiên của tôi cạn kiệt tới mức tôi chả còn gì ngoài hư vô nữa.

Marianne Engel đang ngồi đọc sách trên chiếc ghế trong góc phòng tôi, khoác trên người thứ gì đó trông rất nhếch nhác. Sau vài giây dụi mắt cho quen với ánh sáng, tôi nhận ra đó là bộ đồng phục dành cho khách thăm bệnh. Khi thấy tôi đã tỉnh, cô liền đi về phía tôi, cuốn sách cô đang đọc có nhan đề Non Omnis Moriar.(15)

"Sao cô lại ở đây?" Tôi đợi một câu trả lời sẽ vuốt ve cái tôi ngất ngưởng của mình.

"Tôi đến để nhìn anh chịu đau đớn."

"Cái gì?"

"Tôi ghen tị điều đó."

Quên cái bệnh tâm thần của cô ta đi: một nạn nhân bỏng sẽ không thể tha thứ cho người dám tuyên bố ghen tị với sự đau đớn của anh ta đâu. Tôi đấu tranh kịch liệt với màn sương thuốc gây mê của mình để tung ra cú phản đòn dữ dội. Tôi không thể nhớ chính xác mình đã nói những gì, nhưng chắc chắn chẳng nhẹ nhàng chút nào.

Khi hiểu ra những lời nói của mình xúc phạm tôi đến thế nào, cô cố giải thích. "Tôi ghen tị với tất cả những nỗi thống khổ, vì có thống khổ mới có một tâm hồn đẹp. Nó mang người ta đến gần Chúa hơn. Những người phải chịu đau khổ là những đứa con được Chúa lựa chọn."

"Thế sao cô không đi mà tự thiêu ấy," tôi nạt, "và thấy mình trở nên đẹp thế nào?"

"Tôi quá yếu đuối," cô trả lời, dường như không để ý tới lời mỉa mai của tôi. "Tôi không chỉ sợ lửa, tôi còn sợ mình sẽ chết mà không kịp trải qua hết mọi khổ đau."

Tác dụng của thuốc giảm đau lên não đã kéo tôi trở lại với bóng tối. Tôi cảm thấy rất hạnh phúc vì đã thoát khỏi cuộc trò chuyện này.

Loại bệnh chính xác mà Marianne Engel mắc phải vẫn còn mù mờ nhưng khi cô gợi ý "những người phải chịu đau khổ là những đứa con được Chúa lựa chọn", tôi nghĩ nhiều khả năng cô bị tâm thần phân liệt.

Những người mắc bệnh tâm thần phân liệt thường phải chịu đựng thời kỳ đặc biệt khó khăn về tôn giáo, vài bác sĩ còn giả định rằng điều này liên quan đến độ tuổi phát bệnh: hội chứng thường phát triển trong khoảng từ mười bảy đến hai lăm tuổi, giai đoạn nhiều người bắt đầu phải đối mặt với vấn đề tôn giáo tín ngưỡng của mình. Người tâm thần phân liệt thường trải qua những giai đoạn nhận thức cao - hay hoàn toàn rơi vào trạng thái ảo tưởng, ví dụ như ảo thanh - mà có thể làm họ tin rằng mình được Chúa đặc biệt chọn lựa. Tình hình trở nên tồi tệ hơn vì họ không hiểu được rằng biểu tượng tôn giáo chỉ mang tính ẩn dụ.

Thiên Chúa giáo được xây dựng trên quan niệm Chúa Jesus chết để gánh tội cho toàn nhân loại: để cứu chuộc chúng ta, Người đã bị tra tấn và bị đóng đinh trên cây thập giá. Một người tâm thần phân liệt, trong nỗ lực nắm bắt ý nghĩa câu chuyện, có thể sẽ lý giải như sau: Jesus là người con yêu dấu của Đức Chúa Cha, và Jesus đã phải chịu những đau đớn khủng khiếp, vì thế những người phải chịu những đau đớn khủng khiếp nhất chính là những đứa con được Chúa yêu thương nhất.

Có cả một truyền thống lâu đời những người cuồng tín tin rằng đau đớn sẽ mang con người lại gần với Đấng Cứu thế, nhưng một khuôn mặt người thật bao giờ cũng thuyết phục hơn lý thuyết suông. Vì lý do này, cho phép tôi được kể đôi chút về cuộc đời của một ông Heinrich Seuse, tu sĩ người Đức. Sinh năm 1295, Seuse đã trở thành một trong những biểu tượng tôn giáo quan trọng nhất thời bấy giờ, được biết đến như một Minnesanger - "ca sĩ hát về những tình yêu cao đẹp" - vì chất thơ tuyệt diệu trong những tác phẩm của ông.

Seuse vào nhà dòng Dominic tại Konstanz năm mười ba tuổi, và theo những ghi chép của chính ông, hoàn toàn không có gì bất thường trong suốt năm năm đầu của cuộc sống tôn giáo. Tuy nhiên, năm mười tám tuổi, ông đã bất ngờ gặp một ảo giác - một cảm giác thần tiên thoát tục mạnh mẽ khiến ông không còn chắc liệu linh hồn mình đã bị tách rời khỏi thân thể hay chưa. Ông xem trọng sự kiện này đến mức đã lấy đó mở đầu cho cuốn tự truyện đời mình, The Life of the Servant (Cuộc đời một bầy tôi của Chúa).

Vài học giả nhận xét Cuộc đời một bầy tôi của Chúa là cuốn tự truyện đầu tiên được viết bằng tiếng Đức, trong khi những vị khác cho rằng nó chả phải tự truyện gì sất. Rất nhiều đoạn văn bản được cho là công trình của Elsbeth Stagel, một phụ nữ trẻ đến từ tu viện Toss, cô con gái tinh thần được yêu quý nhất của Seuse. Có vẻ cô đã ghi lại nhiều cuộc đối thoại của họ để làm cơ sở cho cuốn Cuộc đời mà không thông qua Seuse, và khi phát hiện ra những gì cô làm, ông đã đốt một phần bản thảo trước khi "một thông điệp của Chúa" ra lệnh cho ông phải giữ phần còn lại. Không ai biết bao nhiêu phần của tác phẩm Cuộc đời được viết bởi Stagel và bao nhiêu bởi Seuse.

Tác phẩm Cuộc đời là câu chuyện kể hấp dẫn, cung cấp cho ta nhiều chi tiết tuyệt vời về những ảo giác Seuse mắc phải trong suốt cuộc đời: Chúa chỉ cho ông hình ảnh về Thiên đường, Địa ngục, nơi Chuộc tội, còn những linh hồn đã rời khỏi xác xuất hiện trước mặt ông và kể ông nghe những tin mới nhất về cuộc sống của họ ở thế giới bên kia. Câu chuyện mới hay và kịch tính làm sao! Nhưng đoạn đáng đọc nhất trong tác phẩm Cuộc đời là đoạn mà Seuse - hoặc Stagel - miêu tả quá trình ông tự tra tấn bản thân.

Là một người cuồng tín với quan niệm khoái lạc thể xác sẽ khiến tinh thần yếu nhược, Seuse tuyên bố ông đã không bước vào một căn phòng lắp lò sưởi nào trong vòng hai mươi lăm năm và rằng ông đã nhịn uống nước cho đến khi lưỡi nứt toác vì khô, phải mất cả năm trời mới lành lại được. Ông rất hạn chế ăn uống - chỉ ăn một lần trong ngày và không bao giờ ăn thịt, cá hay trứng - và trong một lần có ảo giác cơn thèm táo của mình còn mạnh hơn khao khát có được Trí tuệ Vĩnh hằng, để tự trừng phạt bản thân, ông đã sống hai năm mà không ăn trái cây. (Người ta băn khoăn không biết liệu ông có khi nào không ngộ ra giá trị đạo đức của câu chuyện và cứ tiếp tục ăn hoa quả ngoài đời thật - như để chống lại cái lệnh cấm ẩn dụ ấy - hay không.)

Ở phần thân dưới, Seuse mặc một cái khố có đóng một trăm năm chục chiếc đinh đồng sắc nhọn chĩa mũi vào trong, vào da mình. Ở phần thân trên, ông mặc một chiếc áo rơm cài xích sắt, dưới cái xích là cây thập tự giá bằng gỗ dài bằng một sải tay người đính thêm ba chục cái đinh đồng nữa. Kẹp chặt những thứ này vào xương bả vai, mỗi cử động - đặc biệt là lúc quỳ xuống cầu nguyện - đều làm những cái đinh nhọn đâm sâu vào da thịt ông, và sau đó ông sẽ bôi giấm lên vết thương. Seuse đeo cây thập giá tua tủa này trong vòng tám năm cho đến khi Chúa lên tiếng cấm ông tiếp tục.

Ông mặc bộ trang phục tra tấn này cả khi ngủ - trên một cánh cửa cũ. Khi nằm xuống ông thường còng tay chân mình lại bằng những chiếc vòng da vì nếu tay được tự do, ông sẽ xua những con chuột cứ chực cắn xé ông hàng đêm. Thỉnh thoảng ông làm đứt những cái vòng này trong lúc ngủ, thế là ông bắt đầu đeo găng tay da đính thêm nhiều đinh bấm bằng đồng sắc nhọn để giúp cạo da mình một cách hiệu quả như thể đang dùng bàn nạo pho mát. Seuse giữ thói quen này trong mười sáu năm cho đến khi nhận được một lời phán khác của Chúa bắt ông ném đống dụng cụ dỗ giấc này xuống một dòng sông gần đấy.

Thay vì làm Seuse cảm thấy thanh thản mỗi lần Chúa cấm ông tự trừng phạt bản thân, những can thiệp thần thánh này lại làm ông cảm thấy rất phiền muộn. Khi một nữ tu hỏi ông dạo này ra sao, Seuse trả lời rằng mọi chuyện thật tồi tệ vì một tháng nay ông không còn biết đến đau đớn nữa và ông sợ rằng Chúa đã bỏ rơi mình.

Những trừng phạt thể xác này, Seuse nhận ra, mới chỉ là sự bắt đầu: chúng chưa phải bằng chứng rõ ràng cho tình yêu vĩ đại của ông trước Chúa. Để bù đắp, một đêm ông cởi áo ra và dùng một cái kim châm được mài nhọn để khắc những chữ IHS vào phần thịt phía trên trái tim mình. (Nếu bạn không hiểu thì cũng đừng lo: IHS là tên viết tắt của Chúa trong tiếng Hy Lạp.) Máu tuôn ra khỏi chỗ thịt rách toác nhưng ông nói hầu như không thấy đau đớn gì, độ phê mới cao làm sao. Những chữ hiến tế không bao giờ mờ đi và ông thầm lặng mang vết thương trên mình cho đến cuối đời, nó xoa dịu ông trong những thời khắc khó khăn, ông tuyên bố thế, vì biết tên của Chúa Jesus đang chuyển động cùng với từng nhịp đập của trái tim mình.

Seuse mất năm 1366, một cuộc đời dằng dặc mà bạn chỉ có thể ngờ ngợ rằng nó hình như còn dài hơn cả thực tế ấy.

Tôi thấy việc Seuse được "khai sáng tâm hồn" lúc mười tám tuổi, chính là khi bệnh tâm thần phân liệt ở vào giai đoạn dễ phát tác nhất, thật thú vị. Nếu mắc chứng này, bạn có thể làm nhiều điều tồi tệ hơn nữa trong cuộc sống tôn giáo ở Đức thế kỷ mười bốn. Trong Thời kỳ Thần bí, khả năng ngoại cảm của bạn không bị khiếp sợ mà còn được tôn kính. Nếu bạn đánh đập bản thân vô tội vạ, thì không phải bạn đang tự hành hạ mình mà là đang học tập Chúa. Nếu nghe thấy những giọng nói kỳ lạ, nghĩa là bạn đã có khả năng liên lạc trực tiếp với Chúa rồi.

Nhưng trong tất cả những điều trên, có một sự kiện trong cuộc đời Heinrich Seuse làm tôi cảm thấy đặc biệt hấp dẫn, dù đó là điều tôi chưa bao giờ có khả năng xác nhận lại trong thư viện nghiên cứu của mình.

Marianne Engel cứ khăng khăng bảo với tôi là, từ xửa từ xưa, cô đã gặp ông ta rồi.

Khi tôi tỉnh lại, Marianne Engel đã đi khỏi, nhưng cô để lại một món quà trên chiếc tủ đầu giường, một gargoyle nhỏ bằng đá.

Tôi xoay cái vật quái dị nhỏ bé ấy trên tay. Cao khoảng mười lăm phân, gargoyle trông như một sinh vật lùn tịt nửa người nửa quỷ, có màu của một đám mây đen ảm đạm. Cái bụng bự của nó thõng xuống đôi chân vắt tréo, hai khuỷu tay chống lên đầu gối, cằm tựa vào đôi bàn tay chỉ có ba ngón. Lưng nó mọc ra một đôi cánh dày và ngắn ngun ngủn, có vẻ để phô trương hơn là để bay. Cái đầu to bè đặt trên đôi vai rụt như một tảng đá chỉ chực bị đẩy khỏi đỉnh vách đá. Nó có cặp mắt to đùng thấp thoáng sau đôi lông mày rậm rạp như của người tiền sử Neanderthal, thêm một cái mồm lởm chởm răng. Gargoyle dường như đang cố hết sức để quắc mắt hăm dọa, nhưng có vẻ nó chưa đủ sức. Nét mặt nó vừa thân thiện vừa buồn bã và không hiểu sao, trông rất người, như nét mặt của một người đàn ông cô đơn đã dành cả đời lê từ tai nạn này đến tai nạn khác cho tới khi cái hậu quả chồng chất vùi dập anh ta dưới sức nặng của những ngôn từ anh ta không thể thốt ra.

Tình trạng sức khỏe của tôi cải thiện trông thấy trong những ngày hậu phẫu. Chiếc sà lan chở rác là bụng tôi đây bắt đầu học cách nổi trở lại, dù nó không còn chở được nhiều như trước nữa. Chân phải của tôi, với đầu gối tả tơi và cái hông bầm giập, cũng bắt đầu lành lại, và các bác sĩ hứa sẽ nhanh chóng tháo lũ nhện máy ra cho tôi. Mỗi ngày, tôi dường như cảm thấy đỡ bất tiện hơn khi nằm trên chiếc giường xương.

Nan huých nhẹ tôi rồi viết vài dòng ghi chú lên biểu đồ của tôi. Bà luôn rất chuyên nghiệp, nhưng tôi nhận thấy mình gọi bà là Nan nhiều hơn là bác sĩ Edwards. Tôi không biết liệu bà có khó chịu với biểu hiện thân mật này không nhưng bà chưa bao giờ bắt tôi thôi cả. Tôi nghĩ điều này làm mình thêm bạo dạn và trong một thoáng tò mò, tôi hỏi bà đã kết hôn chưa. Bà hơi do dự rồi định trả lời, nhưng cuối cùng quyết định không nói gì.

Chỗ ngồi bên cạnh chiếc giường xương của tôi vẫn để trống, dành cho những chuyến thăm nom của các cô y tá và Nan. Một ngày không có Marianne trở thành hai ngày không có Marianne, hai trở thành ba, rồi năm ngày không có Marianne, cho tới khi tất cả cộng lại thành một tuần không có Marianne. Tôi muốn hỏi cô về cái tượng gargoyle nhỏ, vì sao cô lại đưa nó cho tôi, nó có ý nghĩa gì.

Tôi đọc rất nhiều sách, hầu hết là những bí mật của luật sư mà tôi chẳng hứng thú mấy. Tôi cần cái gì đó thay thế, và thế là tôi hỏi mượn Nan vài cuốn sách về những hiện tượng tâm lý bất thường. "Chị hẳn phải có sách gì đó về tâm thần phân liệt, khủng hoảng tinh thần, rối loạn lưỡng cực, hay cái gì đại loại chứ?"

"Đó không phải lĩnh vực chuyên môn của tôi," bà trả lời. "Hơn nữa, anh nên đọc các sách nói về bỏng ấy."

Nan đã mang hàng chồng sách về hồi phục sau bỏng đến để trên chiếc tủ đầu giường mà tôi chả sờ tới lần nào. Tôi không đọc chúng vì chúng là thứ sách tôi nên đọc. Chúng tôi thỏa thuận: cứ mỗi cuốn sách tâm lý bà mang đến, tôi sẽ đọc một trong những cuốn sách về bỏng. Nan xem đây là thắng lợi và kiên quyết đòi tôi phải đọc một trong những cuốn của bà trước.

Sau khi tôi đã đọc xong một cuốn sách về bỏng, Gregor đến phòng tôi, lại mặc cái quần nhung tăm cứ cọ vào hai đùi, mang trên tay một cuốn sách tâm lý học. Ông ta trao nó cho tôi và nói rằng bác sĩ Edwards đã nhờ ông ta mang đến, từ bộ sưu tập riêng trong văn phòng ông ta.

"Chỗ này không làm anh phát điên đấy chứ, hả?" Cái cách ông ta cười khùng khục một mình khiến tôi tự hỏi không biết có phải ông ta đã nghĩ về chuyện đó suốt từ khoa tâm thần đến đây không. Khi tôi hỏi ông ta liệu một bác sĩ tâm thần có được phép gọi bệnh nhân của mình là thằng điên không, ông ta lau vội một giọt mồ hôi rỏ ra từ chân mày bằng chiếc khăn tay kẻ ca rô, và chẳng trả lời gì cả. Thay vì thế, ông ta hỏi tôi tại sao lại hứng thú với tâm thần phân liệt và khủng hoảng tinh thần đến vậy.

"Không phải việc của ông," tôi nói.

Gregor mở miệng như thể định nói gì nữa, nhưng ông ta lại chỉ mỉm cười và gõ một phát lên đầu gargoyle nhỏ của tôi. "Tôi thích cái này," ông ta nói, trước khi lạch bạch chạy ra khỏi phòng trên đôi giày moca.

Ngày hôm sau, một phụ nữ châu Á nhỏ bé, mới liếc qua trông giống một con búp bê hơn là người thật, bước vào phòng tôi.

Xin đừng vội kết luận tôi đang cố tô đậm thêm định kiến rằng tất cả phụ nữ châu Á đều trông giống búp bê sứ. Đó không phải loại búp bê tôi nghĩ trong đầu. Người phụ nữ này có khuôn mặt bè bè, mũi tẹt và nụ cười đáng kinh ngạc. (Tôi luôn ghét những người cười hết cỡ mà trông không có vẻ ngu ngốc.) Má cô như hai quả táo chín, mà khi kèm với chiếc áo kẻ sọc và quần bò yếm bên dưới lần áo thăm bệnh, tạo nên ấn tượng tổng thể về cô búp bê Raggedy Ann(16) đến từ phương Đông.

"Xin chào! Tôi tên là Sayuri Mizumoto. Rất hân hạnh được gặp anh." Cô thọc tay vào tay tôi và bắt tay cuồng nhiệt. Và nếu như tôi không viết rằng cứ mỗi khi nói, cô lại cười toe toét, thì từ đây xin hãy coi chuyện cô cười là đương nhiên nhé.

"Sayuri là cái tên quái gì vậy?"

"Một cái tên đẹp," cô trả lời bằng giọng Úc. "Giờ hãy ngồi dậy đi nào."

Tôi hỏi tại sao cô lại mong tôi sẽ làm theo những gì cô bảo.

"Vì tôi là bác sĩ vật lý trị liệu mới của anh và bây giờ anh sẽ phải ngồi dậy."

"Cô thậm chí còn không biết..."

"Tôi đã nói chuyện với bác sĩ Edwards, và anh có thể làm được điều đó!" Có một kết hợp kỳ lạ giữa vui sướng và tự hào trong cách cô nói với tôi rằng tôi có thể làm được điều đó! Cô luồn tay xuống dưới lưng tôi rồi đứng choãi chân ra để giúp tôi. Cô cảnh báo rằng tôi có thể cảm thấy chóng mặt một chút khi máu lên não, còn tôi cứ cự nự đây chắc chắn không phải một ý hay.

"Chắc chắn là ý hay đấy," cô vui vẻ nói. "Nào, một, hai, được rồi!"

Tôi ngồi lên; cô khá khỏe so với một con búp bê đấy. Trong một thoáng tôi cảm thấy khá thoải mái, tay cô đang đỡ tôi. Rồi cơn chóng mặt ập đến và cả căn phòng bắt đầu xoay tròn kỳ lạ. Sayuri đặt một tay lên gáy tôi để giúp đầu tôi không bị ngúc ngắc. "Anh làm rất tốt! Giữ yên nào."

Khi đỡ tôi nằm xuống, cô nhận xét, "Không quá tệ, phải không?"

"Tệ kinh lên được."

"Sốc quá!" Cô lấy tay che cái miệng đang há hốc ra, giả vờ sợ hãi.

"Anh đúng là không khác gì người ta vẫn nói. Chưa có ai nói với anh miệng là cánh cổng chính dẫn đến mọi bất hạnh à?"

Khi tôi tỉnh dậy sau giấc ngủ trưa, Marianne Engel đang đứng trước tôi, rèm đã được kéo lại. Vắt trên thành ghế cạnh giường tôi là một bộ đồng phục thăm bệnh, mà sau đó tôi phát hiện ra đã được cô mặc khi vào phòng nhằm xoa dịu các y tá tình cờ gặp phải, rồi nhanh chóng bị cởi phăng ra. Thế là cô lại mặc bộ quần áo đường phố của mình: áo sơ mi trắng tay bồng nhét trong quần jean bạc màu với dây lưng đính những đĩa bạc nhỏ. Mái tóc thả hờ hững trên bờ vai, chảy dài xuống phía lưng. Khuôn mặt cô rất bình thản còn đôi mắt thì sáng bừng - sắc xanh lục, xanh kinh khủng. Một con rồng thêu nằm trên ống quần bên phải.

Cuối cùng tôi biết mình đã đúng khi đoán rằng thân hình của Marianne Engel khá bắt mắt. Có vẻ con rồng cũng nghĩ thế, vì nó bò từ mắt cá chân lên đến hông, xoắn quanh và âu yếm ôm lấy đùi cô. Mỗi cái vảy là một hạt xê quin đầy màu sắc, đôi mắt màu hồng ngọc được làm từ những viên giả đá quý to tướng. Cái lưỡi xoắn xuýt thè ra tinh nghịch liếm mông cô. Những móng vuốt thêu bằng chỉ đen, cắm ngập vào phần thịt ngon lành trên chân cô. "Tôi thích quần của cô," tôi nói. "Cô đã ở đâu vậy?"

"Tôi bận," cô trả lời. "Chiếc quần này tôi được tặng."

"Làm gì? Ai tặng?"

"Làm việc, nhưng rồi bị ốm nhẹ." Cô kéo cái ghế cạnh giường rồi ngồi xuống. "Jack tặng quần cho tôi."

"Rất tiếc khi biết cô không được khỏe. Jack là ai?"

"Tôi đỡ rồi. Ghen à?"

"Rất vui khi nghe thế. Hôm nay cô không lẩn trốn các bác sĩ đấy chứ?"

"Không. Ghen à?"

"Với Jack á?" Dào ôi. "Cô hòa thuận với họ quá nhỉ?"

"Chẳng đến mức ấy đâu. Chẳng muốn nói về chuyện đó."

"Các bác sĩ hay là Jack?"

"Các bác sĩ," cô trả lời. "Anh muốn nói về Jack à?"

"Dĩ nhiên là không. Đời sống riêng tư của cô là riêng tư chứ, nhỉ?"

"Một mối quan hệ khá phức tạp."

"Với Jack?"

"Với các bác sĩ." Marianne Engel gõ đầu ngón tay lên đôi mắt cẩn đá quý của con rồng thêu trên quần. "Nhưng với bác sĩ Edwards thì có vẻ ổn, tôi đoán thế."

"Ồ. Thế là cô đã hoàn toàn khỏi bệnh, gì gì ấy nhỉ?"

"Bị suy nhược, có thể nói như thế." Cô ngả đầu sang một bên. "Kể cho tôi nghe về tai nạn của anh đi."

"Tôi phê thuốc, rồi lái xe lao xuống vực."

"Gieo gió gặt bão."

Tôi chỉ vào bức tượng nhỏ trên chiếc tủ đầu giường. "Tôi thích gargoyle này."

"Nó không phải gargoyle. Mà là grotesque."

"Ông nói gà, bà nói vịt."

"Tôi sẽ không ngừng ăn gà đâu." Marianne Engel trả lời, "nhưng đó là grotesque. Gargoyle là máng xối."

"Mọi người đều gọi cái này là gargoyle(17)."

"Mọi người đều sai." Cô rút một điếu thuốc lá ra khỏi bao, không châm lửa mà bắt đầu cuộn nó lại giữa ngón cái và ngón trỏ. "Gargoyle được tạc trên tường thánh đường để tiêu thoát nước, giúp móng nhà không bị xói lở. Người Đức gọi chúng là Wasserspeier. Anh có nhớ không?"

"Nhớ gì cơ?"

""Ống khạc nước." Nghĩa đen là thế."

"Sao cô biết nhiều về mấy thứ ấy thế?"

"Grotesque hay ngôn ngữ?"

"Cả hai."

"Grotesque là những thứ tôi làm," Marianne Engel đáp. "Ngôn ngữ là sở thích."

"Cô muốn nói gì, cô "làm" grotesque?"

"Tôi tạc tượng." Cô hất đầu về con quỷ lùn trong tay tôi. "Tôi tạc cái ấy."

"Ông bác sĩ tâm lý của tôi thích nó."

"Lão nào vậy?"

"Bác sĩ Hnatiuk."

"Ông ta khá hơn hết thảy lũ còn lại."

Tôi hơi ngạc nhiên. "Cô biết ông ta à?"

"Tôi biết hầu hết mấy người ấy."

"Nói tôi nghe việc chạm khắc của cô đi."

"Tôi bắt đầu hứng thú với việc này khi quan sát anh làm." Bàn tay kia của cô vân vê cái vòng cổ mặt hình đầu mũi tên.

"Tôi không tạc tượng."

"Anh đã từng."

"Không, tôi chưa tạc bao giờ," tôi nhấn mạnh. "Nói cho tôi biết tại sao cô thích tạc tượng đi."

"Đây là nghệ thuật thụt lùi. Lãi thu về còn ít hơn cả vốn." Cô dừng lại. "Thật tệ khi anh không nhớ rằng mình biết chạm khắc. Tôi vẫn còn giữ một thứ anh đã làm đấy."

"Cái gì vậy?"

"Morgengabe của tôi." Marianne Engel nhìn tôi chăm chú, như thể đang trông đợi một ký ức không hề tồn tại lướt qua trí óc tôi. Khi nhận thấy chẳng có gì xảy ra cả, cô nhún vai và ngả người vào ghế. "Jack là quản lý của tôi."

Một người quen trong công việc. Tốt. "Kể cho tôi nghe về anh ta đi."

"Tôi nghĩ sẽ để anh tự đoán." Hôm nay cô hẳn rất hưng phấn. "Tôi kể anh nghe một câu chuyện nhé?"

"Lần này là về cái gì vậy?"

"Về tôi."

Chú thích

(12) Trong thần thoại Hy Lạp, dưới Trời, Đất, Biển là Tartarus, một chốn sâu thẳm, tối tăm, nơi những linh hồn tội lỗi phải chịu đày đọa và trừng phạt.

(13) Lạy chú phù hộ (Tiếng Latin)

(14) Chimera: quái vật đầu sư tử, mình dê, đuôi rắn trong thần thoại Hy Lạp.

(15)Tôi sẽ không chết hẳn(Tiếng Latin)

(16)Nhân vật trong loạt sách thiếu nhi của nhà văn Mỹ Johnny Gruelle, là một cô búp bê rách rưới với mái tóc làm bằng sợi màu đỏ và cái mũi tam giác.

(17)Những bức tượng được chạm khắc kỳ dị theo phong cách Gothic, chỉ có tác dụng trang trí, không có chức năng tiêu thoát nước.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 7


Ngày sinh chính xác của tôi giờ cũng chẳng mấy quan trọng, nhưng theo như tôi biết thì nó rơi vào một ngày nào đó năm 1300. Tôi chưa bao giờ biết cha sinh mẹ đẻ của mình là ai, họ đã bỏ tôi trong một cái giỏ tại cổng chính tu viện Engelthal vào giữa tháng Tư khi tôi mới được vài ngày tuổi. Thông thường một đứa trẻ bị bỏ rơi sẽ không được thu nhận và nuôi dạy ở đây - xét cho cùng Engelthal không phải trại trẻ mồ côi - nhưng do số phận, tôi được xơ Christina Ebner và cha Fredrich Sunder tìm thấy vào chính cái đêm họ bàn luận xem cái gì được coi là dấu hiệu của Chúa.

Xơ Christina vào tu viện năm mười hai tuổi và bắt đầu thấy ảo giác hai năm sau đó. Khi tìm thấy tôi thì bà mới ngoài hai mươi và là một nhà thần học tiếng tăm. Cha Sunder ngót năm mươi tuổi, là giáo sĩ trong vùng, ông bước vào đời sống tôn giáo muộn hơn hết thảy những người khác. Cho tới lúc đó, ông đã làm giáo sĩ nghe các xơ Engelthal xưng tội được khoảng hai mươi năm. Nhưng điều quan trọng nhất anh cần biết về họ là bản chất gốc của họ, vì nếu họ không quá giàu tình cảm, mọi chuyện có thể đã hoàn toàn khác.

Có hai lời nhắn để lại trong cái giỏ chứa tôi. Một viết bằng tiếng Latin, một viết bằng tiếng Đức, nhưng cả hai đều có nội dung như nhau. Một đứa trẻ của định mệnh, đứa con thứ mười trong một gia đình tử tế, được đem tới như món quà dành cho Chúa Cứu thế và tu viện Engelthal. Xin hãy đối xử với con bé như Chúa mong muốn. Rất hiếm người dân thường nào biết viết một ngôn ngữ, nói gì đến hai, vì thế tôi nghĩ bản thân sự tồn tại của hai lời nhắn này đã giúp khẳng định tôi là con nhà lành rồi.

Theo tôi biết, xơ Christina và cha Sunder nhanh chóng quyết định rằng sự xuất hiện của một đứa trẻ trong đêm đó chứ chẳng phải đêm nào khác không phải sự trùng hợp ngẫu nhiên, và cũng chẳng hại gì đến chuyện bản thân xơ Christina cũng là đứa con thứ mười trong gia đình. Khi họ mang tôi tới trước bà trưởng tu viện, bà khá do dự khi phải đối phó với những lý lẽ kết hợp của cả hai người. Liệu bà trưởng tu viện có thể phớt lờ khả năng sự xuất hiện của tôi trước cổng đã được bề trên sắp đặt? Khi phải xử lý những thông điệp của Chúa, tốt nhất cứ cẩn thận là hơn. Hầu hết các xơ trong tu viện đều cảm thấy thế, mặc dù vẫn có một người phản đối quyết liệt việc giữ tôi ở lại. Đó là xơ Gertrud, thủ thư của tu viện - "bậc thầy ghi chép" - cai quản phòng viết ở Engelthal. Anh cần nhớ tên bà ấy, cả tên trợ lý của bà nữa, xơ Agletrudis. Cả hai người đều tác động đến cuộc đời tôi, và thường là những tác động không hay ho cho lắm.

Engelthal được coi là một trong những trung tâm tâm linh quan trọng nhất tại Đức. Anh có thể nghĩ điều này khiến thời thơ ấu của tôi bị gò bó, nhưng sự thật không hề như thế. Các xơ chăm sóc tôi rất chu đáo, có lẽ tôi đã giúp họ quên đi những công việc thường nhật. Tôi luôn thấy vui khi làm họ mỉm cười, vì ngay khi nhận ra mình đang cười, họ sẽ cố hết sức để khép miệng lại. Tôi có cảm giác như mình đã phá vỡ một quy tắc nào đó vậy.

Tôi luôn cảm thấy gần gũi với xơ Christina và cha Sunder, những người đã trở thành cha mẹ thay thế của tôi, điều này thể hiện trong cách tôi thường dùng để gọi cha Sunder. Theo nguyên tắc, tất cả mọi người phải gọi ông là "cha", nhưng sự khiêm tốn của ông lớn đến nỗi ông luôn yêu cầu mọi người gọi mình là "huynh". Vì thế với tất cả những người khác, ông là huynh trưởng Sunder, nhưng với tôi ông luôn là cha. Tôi cho rằng ông cho phép thế có lẽ vì tôi đã thấy được một góc khác trong con người ông mà không ai nhận ra - ừm, ngoại trừ huynh trưởng Heinrich, người sống cùng ông trong căn nhà nhỏ gần ngọn đồi trong rừng. Lúc nào tôi cũng nghe thấy tiếng cười của cha Sunder trong khi hầu hết những người khác chỉ nhìn thấy nét mặt nghiêm nghị của ông.

Tất cả những bà xơ khác khi đến tu viện đều đã trải qua thời thơ ấu ở nơi khác, còn từ đầu tiên tôi nói là với cha Sunder. "Gott(18)." Chúa ơi, thật là lời mở đầu đầy vinh quang cho một ngôn ngữ. Thử nghĩ mà xem, làm sao ông có thể trưng ra với tôi cái mặt nạ mộ đạo khủng khiếp thường sử dụng trước đông người được? Nó chẳng phù hợp chút nào khi ông đang chơi đùa với một em bé, và khi ông nghĩ đã đến lúc cần đeo cái mặt nạ ấy lên với tôi thì đã quá muộn. Nhưng dù chỉ là một đứa trẻ, tôi cũng hiểu rằng ông phải giữ gìn hình ảnh, và bí mật của ông được tôi giữ kín.

Cha Sunder luôn mặc áo rơm và rất hay tự xỉ vả bản thân, gọi chính mình là kẻ tội đồ - chủ yếu là vì "những tội ác thời trai trẻ của ông", gì cũng được - và luôn cầu xin tha thứ. Ông tin rằng mình bị "ô nhiễm" bởi những việc đã làm trước khi theo đạo. Ông không hay làm những trò này trước mặt tôi nhưng, khi ông làm thế, huynh trưởng Heinrich sẽ lặng lẽ đứng nơi góc phòng với đôi mắt long lên sòng sọc.

Dù trách cứ bản thân nhưng cha Sunder không bao giờ ngần ngại tha thứ cho người khác. Và ông có giọng nói, giọng nói ngọt ngào nhất bạn có thể tưởng tượng được. Khi ông nói, ta không thể không nghĩ rằng không chỉ mình ông mà cả Chúa cũng yêu ta.

Xơ Christina - tôi thậm chí không biết phải bắt đầu từ đâu. Bà quả thật là một người phụ nữ lạ lùng. Bà sinh vào ngày thứ Sáu Tuần Thánh, dấu hiệu đầu tiên của những ân huệ đến trong đời bà. Mọi người đều nói trong tất cả những đại diện của Chúa trên trái đất này, bà là một trong mười lăm người được ưu ái nhất. Khi còn nhỏ, tôi chưa một lần nghi ngờ tính chân thực của điều đó, chỉ đến mãi sau này tôi mới tự hỏi làm sao một điều như thế lại có thể đem ra định lượng được. Những ảo giác và tài văn chương của xơ Christina đã làm tu viện nức tiếng thơm. Bà sáng tác luôn tay và viết nên hai kiệt tác - Khải huyền và Sách về các xơ tại Engelthal, lịch sử về những vị nữ tu có vai trò trọng yếu trước thời chúng tôi. Các tác phẩm của bà đã khơi nguồn cảm hứng sáng tác cho những người khác trong tu viện. Ví dụ, xơ Gertrud của phòng viết đã cho ra lò Cuộc đời nữ tu Gertrud tại Engelthal với sự giúp đỡ của huynh trưởng Heinrich và huynh trưởng Cunran nhưng, thành thật mà nói, tôi luôn có cảm giác cuốn sách ấy được viết với nỗ lực chính là thêm mắm thêm muối cho cái truyền thuyết của chính bà mà thôi.

Gertrud có một thói quen rất kỳ lạ là không ngừng nuốt không khí. Thật không thể không để ý và cũng không thể không ghét được. Người ta nói mẹ bà đã sinh tám cậu con trai trước khi sinh bà, toàn là đẻ khó, nhưng khi sinh Gertrud thì không tốn chút sức lực nào. Có lẽ bạn sẽ băn khoăn chuyện đó thì có ảnh hưởng gì, nhưng ngay từ đầu nó đã đặt Gertrud ngang hàng với Chúa vì sự ra đời của Người cũng được cho là không hề đau đớn - việc sinh nở cũng thuần khiết như sự thụ thai. Mọi người đều nói em bé sơ sinh Gertrud không bao giờ bú mẹ; cô bé có vẻ thích húp không khí soàm soạp như thể đang hút trực tiếp dòng sữa ngọt ngào thần thánh từ đó vậy. Tôi luôn ngờ rằng việc bà cả đời nuốt không khí chẳng qua chỉ để không ai quên được câu chuyện ấy mà thôi.

Trong tất cả những cuốn sách được viết vào thời kỳ cảm hứng này, cuốn sách tôi yêu thích nhất là Gnaden(19) - cuộc đời của Friedrich Sunder. Ừm, tôi thích nó nhưng không thích những việc xảy đến với nó chút nào. Sau khi cha Sunder mất, cuốn sách bị đem đi chỉnh lý và rồi toàn bộ phần đề cập đến tôi bị xóa bỏ, ấy là chưa kể còn những gì gì nữa. Không phải lòng tự tôn của tôi bị xúc phạm, mà tôi đã - vẫn đang - bị xúc phạm vì họ đã hủy hoại ý định của ông.

Dù thế nào đi nữa, họ là những người sống quanh tôi khi tôi còn nhỏ. Một lần tôi hỏi xơ Christina khi nào tôi sẽ được phép ra ngoài sống, thì bà trả lời là không bao giờ - nhưng đó không phải chuyện đáng phiền não mà là một món quà cần được ăn mừng. Chúa đã rất rộng lượng khi hé lộ kế hoạch của Người cho tôi ngay từ khi tôi mới ra đời, ngay lập tức đặt tôi vào Engelthal. Không một nữ tu nào khác, kể cả bản thân Christina, được phép dành cả đời mình trong vinh quang được phụng sự Chúa. "Con mới may mắn làm sao," bà nói, báo hiệu câu chuyện đã đến hồi kết thúc.

Mọi người đều kỳ vọng khi trưởng thành tôi cũng sẽ bắt đầu cầm bút. Kỳ vọng này được nhen nhóm khi tôi biết nói rất sớm và học tiếng Latin cũng dễ dàng như tiếng mẹ đẻ vậy. Hiển nhiên là tôi không thể nhớ được, nhưng họ nói tôi hầu như không phải tập nói từng từ đơn một trước khi bắt đầu nói một câu hoàn thiện. Anh phải hiểu, thời đó, trẻ con về cơ bản được coi như một người lớn chưa hoàn thiện. Bản chất của một đứa trẻ không phải thứ có thể phát triển, vì tâm tính đã được xác định ngay từ lúc mới sinh; thời thơ ấu là quá trình giúp trẻ bộc lộ bản thân, không phải để phát triển bản thân, vì thế khi khả năng ngôn ngữ của tôi xuất hiện, nó nghiễm nhiên được coi như luôn tồn tại, được Chúa đặt sẵn ở đó, chờ được khám phá mà thôi.

Tôi yêu những vị khách đến thăm Engelthal. Dân địa phương đến chữa trị trong bệnh xá, và chúng tôi tất sẽ đón họ vào. Không phải chỉ từ góc độ tình cảm, mà còn là một nhu cầu chính trị nữa. Tu viện phát triển nhanh chóng mỗi khi các nhà quý tộc hiến tặng những vùng đất xung quanh, và chúng tôi cũng thừa hưởng luôn cả các tá điền. Có cả những khách viếng thăm khác, những mục sư lang bạt mong muốn được đến xem Engelthal là chỗ thế nào mà có thể tạo ra những ảo giác kỳ diệu đến thế giữa các nữ tu, hay những người, thực tế hơn, chỉ mong được tá túc qua đêm. Tôi thích một ông nông dân bệnh tật không kém gì một nhà quý tộc, vì mỗi người đều mang đến cho tôi những câu chuyện về thế giới bên ngoài.

Xơ Christina thường chiều chuộng tôi mỗi khi có khách. Tôi sẽ được ngồi yên trong góc phòng, chăm chú lắng nghe những cuộc đối thoại, chẳng bị ai để ý. Gertrud phản đối, dĩ nhiên, và luôn khinh khỉnh chõ cái mũi dài mảnh xuống nhìn tôi. Thị lực suy giảm khiến bà khó tỏ vẻ coi thường một cách rõ ràng.

Gertrud xem những vị khách này không khác gì những kẻ xâm phạm công việc chính của mình vì, với tư cách nữ thủ thư của tu viện, thỉnh thoảng bà cũng phải dịch. Mà bà lại chẳng giỏi cho lắm - tiếng Pháp và tiếng Ý cố lắm cũng chỉ xoàng xoàng - nhưng vị trí của bà đòi hỏi mấy cái đó. Hầu hết khách đến thăm chúng tôi đều nói được tiếng Latin hoặc tiếng Đức nhưng tôi thích nhất những người mang đến ngôn ngữ lạ. Chính trong những cuộc đối thoại này mà khả năng nghe của tôi được mài sắc. Thử thách đặt ra không chỉ là hiểu được từ mà còn phải nắm được những khái niệm ngoại lai nữa. Ví dụ, tôi biết Giáo hoàng Clement đã chuyển giáo hội đến Avignon - nhưng tại sao? Và nơi đó ở đâu? Trông nó như thế nào? Một đêm tôi tình cờ nghe thấy cuộc cãi vã đầu tiên. Một người khách nước ngoài dám nghi ngờ sự tôn nghiêm của Giáo hoàng quá cố Boniface và Gertrud đã nhảy chồm chồm lên để bảo vệ Đức Giáo hoàng. Đối với một con bé như tôi, chuyện đó thật gây sốc.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 8


Tôi nhớ như in cái đêm năng lực của mình được bộc lộ. Một người khách ngoại quốc ngồi giữa chúng tôi và Gertrud, như thường lệ, lại vật vã với việc chuyển ngữ. Tôi chẳng thấy có gì khó hiểu cả, vì tôi có thể nắm được tất cả những gì họ nói. Không quan trọng đó là ngôn ngữ gì, đơn giản là tôi hiểu được thôi. Vào đêm đó vị khách là người Ý, một ông già nghèo khổ, nhếch nhác. Bất cứ ai cũng có thể thấy rằng ông không còn trụ được ở thế giới này lâu nữa, và ông đang nỗ lực hết sức để mọi người hiểu được tình huống ông đang gặp phải. Gertrud vung tay lên đầy khinh bỉ và tuyên bố rằng giọng của ông thô tục đến nỗi không thể hiểu được.

Có lẽ vì ông lão trông quá yếu ớt, hay có lẽ vì tiếng nấc hấp hối nơi ngực ông. Có lẽ vì ông vừa húp từng thìa cháo vừa không ngớt lời cám ơn các bà xơ, không thốt lên một lời than trách nào dù chẳng ai hiểu được ông. Hay có lẽ vì tôi có cảm giác là nếu không có ai đó nói chuyện với ông trong cái đêm định mệnh ấy, thì có thể sau này sẽ chẳng có ai nói chuyện với ông nữa. Dù vì lý do gì, tôi cũng đã phá vỡ luật im lặng của mình và bước ra khỏi góc phòng. Dùng phương ngữ Ý của ông, tôi hỏi, "Tên ông là gì ạ?"

Ông nhìn lên qua chiếc thìa với một niềm vui khó tả trên khuôn mặt. "Paolo," ông trả lời, rồi hỏi vì sao tôi hiểu được tiếng địa phương của ông. Tôi không biết bằng cách nào hay tại sao, tôi nói, tôi hiểu được, thế thôi. Tôi nói với ông rằng tôi thường nghe người nước ngoài nói chuyện và sau khi họ đi khỏi tôi sẽ lưu giữ những cuộc nói chuyện bằng ngôn ngữ của họ vào tâm trí trước khi đi ngủ. Ông nghĩ điều đó thật tuyệt vời. Khi tôi hỏi ông từ đâu tới, ông trả lời mình sống phần lớn cuộc đời tại Firenze nhưng ông sinh ra tại miền Nam nổi tiếng với giọng địa phương đặc sệt. Giọng của ông, ông giải thích, là sự kết hợp khủng khiếp của cả hai nơi đó. Ông cười khi nói thế, và tiếng cười làm xơ Christina bừng tỉnh khỏi sự ngạc nhiên tột độ. Bà bắt đầu ướm câu hỏi cho tôi, vừa để kiểm tra kỹ năng dịch của tôi vừa nhằm moi thông tin. Qua tôi, câu chuyện của ông lão được kể lại.

Paolo đã sống trọn đời mình với người vợ mà ông rất mực yêu quý. Bà mới mất và ông biết mình cũng sớm đi theo vợ thôi. Đây là lý do cho cuộc hành trình của ông, vì ông chưa bao giờ biết đến những đất nước khác ngoài quê hương mình và ông không muốn chết mà không có bất cứ ý niệm gì về thế giới cả. Ông không sợ cái chết, bởi ông là một con chiên ngoan đạo và đang trông đợi phần thưởng cuối cùng của mình. Ông hỏi xem liệu mình có thể nghỉ một đêm tại tu viện trước khi tiếp tục chuyến đi không. Xơ Christina chấp thuận, vì bà có đủ quyền hạn để ra quyết định nhân danh tu viện trưởng, và Paolo rất cảm kích trước sự tốt bụng của bà. Lần đầu tiên trong đời, tôi cảm thấy mình quan trọng.

Paolo lấy một quyển sách từ trong túi ra giơ về phía tôi. Rõ ràng ông muốn trao nó cho tôi. "Tôi chẳng mấy dịp cần đến thứ này nữa đâu."

Xơ Christina bước tới trước để từ chối thay tôi. "Nói với ông ấy rằng ông quá nghèo nên chúng ta không thể lấy những gì ông có được. Nhưng hãy cám ơn ông ấy." Tôi dịch, và Paolo gật đầu tỏ ý đã hiểu. Ông cảm ơn các xơ lần nữa trước khi đến bên chiếc giường đã được dọn sẵn.

Xơ Christina bảo tôi hôm sau đến gặp bà và tu viện trưởng trong phòng tăng hội sau giờ cầu kinh buổi sáng. Tôi hỏi liệu có phải tôi bị phạt vì đã lên tiếng hay không nhưng xơ Christina bảo đảm với tôi là không.

Khi tôi đến phòng họp vào sáng hôm sau, tu viện trưởng đang ngồi bên bàn làm việc còn xơ Christina đứng phía sau bà. Gertrud đứng ở góc phòng với vẻ mặt vô tư. Tu viện trưởng là người tốt nhưng bà vẫn làm tôi thấy sợ. Bà đã quá già, cái cằm xị nhăn nheo như da chó săn.

"Ta nghe xơ Christina nói là tối qua đã nhận được thiên khải," bà làu bàu. "Marianne con của ta, không thể hiểu tại sao con lại biết tiếng Ý. Con đã đạt được kỳ tích đó bằng cách nào vậy?"

Xơ Christina gật đầu trấn an, làm tôi thêm can đảm. "Khi con nghe các ngôn ngữ, con cứ thế là hiểu được thôi ạ," tôi nói. "Con không biết tại sao mọi người lại không làm được thế."

"Con cũng hiểu được những ngôn ngữ khác chứ? Đây thật là một khả năng tuyệt vời."

"Cho phép con được nói," Gertrud xen vào. Bà già gật đầu đồng ý. "Phán xét của Người thật đúng đắn, thưa Tu viện trưởng. Luôn luôn là thế. Nhưng, con nghĩ chúng ta nên cẩn thận xét xem năng lực kỳ dị ấy đến từ đâu. Con cho rằng chúng ta cần phải cẩn trọng, vì chúng ta biết quá ít về sự ra đời của đứa trẻ này. Có gì bảo đảm rằng năng lực này đến từ Chúa, mà không phải từ... một Thực thể khác?"

Tôi chẳng có tư cách gì để đấu lại Gertrud trong tình huống này nhưng, thật may mắn, xơ Christina thì có. "Thế xơ nghĩ nó có thể đến từ đâu, thưa xơ Gertrud?"

"Những cái tên đó tốt nhất không nên thốt khỏi miệng, nhưng xơ hẳn biết rất rõ rằng có những lực lượng mà những linh hồn chính trực như chúng ta luôn phải đề cao cảnh giác. Tôi không nói đây là trường hợp đó, tôi chỉ đề xuất rằng chúng ta cần phải khôn ngoan xem xét mọi khả năng."

Tu viện trưởng đáp lại lời cáo buộc. "Cho tới khi chúng ta có lý do để tin khác đi, chúng ta hãy cứ cho rằng đây thực sự là thiên khải của Chúa chứ không phải âm mưu của Kẻ thù."

Tôi có thể đoán chắc rằng Gertrud còn muốn nói nữa, nhưng đã biết ý mà dừng lại. "Vâng, thưa Tu viện trưởng. Dĩ nhiên ạ."

Bà già lại tiếp tục. "Ta cho rằng đây không chỉ là một thiên khải mà còn là một lời kêu gọi nữa. Có phải tất cả mọi người đều nói được các ngôn ngữ trên đời không? Có phải tất cả mọi người đều có thể làm phiên dịch không? Không. Khi một tài năng tuyệt diệu như thế được phát hiện, nghĩa vụ của chúng ta là phải đảm bảo rằng nó được đem ra phụng sự công cuộc vinh danh Chúa. Con đồng ý chứ, xơ Gertrud?"

"Con đồng ý rằng chúng ta, tất cả mọi người, nên làm những gì có thể để phụng sự Người." Cách Gertrud rặn những từ này ra khỏi miệng không khác gì một mụ hà tiện nhón từng cắc một ra khỏi ví của mụ vậy.

"Ta rất vui khi con nói thế," tu viện trưởng tiếp tục, "vì ta đã quyết định sẽ để con đưa đứa trẻ vào phòng viết. Rõ ràng con bé có năng khiếu ngôn ngữ, và việc đào tạo sẽ được tiến hành ngay lập tức."

Tôi thảng thốt. Giá có thể thấy trước viễn cảnh mình bị đem cho Gertrud dạy dỗ, tôi sẽ không bao giờ bước ra khỏi góc nhà ấy. Cái mà vị nữ tu viện trưởng coi là "phần thưởng" dành cho tôi thực sự là đòn nặng nề nhất trong tất cả những đòn trừng phạt, và tôi chắc chắn rằng sự phẫn nộ của tôi chỉ thua mỗi của Gertrud thôi. Cuối cùng thì chúng tôi cũng đã có chung một niềm tin: rằng đây đúng là một ý tưởng khủng khiếp.

"Marianne chẳng qua chỉ là một đứa trẻ," Gertrud cự lại, "chắc chắn nó chưa sẵn sàng cho những trách nhiệm ấy. Dù nó có thể có vài kỹ năng cơ bản, nhưng vẫn còn nhiều phẩm chất khác nữa cần cho công việc. Sự kiên nhẫn, ví dụ thế, và sự tập trung chú ý từng chi tiết mà một đứa trẻ chưa thể có được."

"Nhưng con bé sẽ học," tu viện trưởng đáp lại, "theo con."

"Con khẩn khoản xin được bàn luận thêm về vấn đề này. Con hiểu những gì Người nghĩ nhưng..."

Tu viện trưởng ngắt lời bà. "Ta rất vui khi thấy con đã hiểu. Con không muốn ta đi ngược lại ý Chúa chứ con gái, xơ Gertrud?"

"Vâng, dĩ nhiên là không rồi, thưa Tu viện trưởng." Gertrud chắp tay ra sau lưng, và tôi có thể nghe thấy tiếng móng tay bà đâm sâu vào lần vải áo chùng. Xơ Christina tiến lên trước, đặt một bàn tay lên vai tôi, và hỏi xem liệu - với sự cho phép rộng lượng của tu viện trưởng - có thể cho chúng tôi được vài phút riêng tư không. Tu viện trưởng chấp thuận đề nghị rồi rời gót. Gertrud cũng ra khỏi phòng, giận dữ nuốt không khí trong khi cố hết sức không đóng sầm cửa lại trên lối ra. Bà không thành công cho lắm.

Xơ Christina nói. "Ta biết con không thích thú ý tưởng này lắm, nhưng ta thực sự tin rằng xơ Gertrud là một phụ nữ tốt và rất thánh thiện, con có thể học được rất nhiều từ bà ấy. Dù bây giờ con chưa thể hiểu được, nhưng tài năng của con rất xuất chúng và bất ngờ. Chúa hẳn đã dành cho con một kế hoạch vĩ đại và lương tâm ta không cho phép mình làm lơ chuyện này. Chúng ta phải tin vào sự soi rạng này và nhớ rằng Chúa không cho phép điều gì xảy ra ngẫu nhiên cả."

Anh có thể hình dung rằng một đứa trẻ làm sao hiểu được những điều như thế, dù nó có được nuôi dưỡng trong tu viện đi nữa. Làm sao mà kế hoạch của Chúa lại bao gồm cả việc cho Gertrud huấn luyện tôi chứ? Tôi rền rĩ cho đến khi mặt đỏ bừng và nước mắt chảy dài xuống má. Xơ Christina cứ để tôi xả ra hết và thậm chí còn chịu ăn mấy cú đấm giận dỗi của tôi nữa. Tuy nhiên, bà cũng tránh mấy cú đá của tôi, thế nên tôi đoán sự tự hy sinh bản thân của bà cũng có giới hạn. Khi cuối cùng tôi cũng kiệt sức và ngồi phịch xuống sàn nhà, bà liền ngồi xuống bên cạnh tôi.

Tôi nói với bà là tôi ghét bà, nhưng cả hai chúng tôi đều biết đó không phải sự thật. Bà vuốt tóc tôi và thầm thì với tôi rằng mọi thứ sẽ ổn thôi, chỉ cần tôi tin vào Chúa. Và rồi bà lấy thứ gì đó ra khỏi áo chùng của mình, một cuốn sách bà đã giấu trước đó.

"Sáng nay khi đến đánh thức Paolo, ta thấy ông ấy đã ra đi bình an trong giấc ngủ. Không chút đau đớn, ta tin thế, nét mặt của ông rất thanh thản. Nhưng rõ ràng tối qua ông ấy đã muốn con giữ cuốn sách này, nên ta sẽ hoàn thành nốt tâm nguyện cuối cùng của ông là đưa nó cho con bây giờ."

Xơ Christina trao cho tôi một cuốn Kinh Thánh viết bằng tiếng Ý, cuốn sách đầu tiên tôi có thể gọi là của mình. Rồi bà dẫn tôi tới phòng viết, để tôi có thể bắt đầu phụng sự ý Chúa.

Chú thích

(18) Tiếng Thụy Điển, nghĩa là "tốt đẹp".

(19) Ân điển (tiếng Đức).
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 9


Làm sao tôi có thể miêu tả được cuộc đời ở thời Trung cổ mà Marianne Engel nói là của cô, khi mà - dĩ nhiên - cô cũng như tôi, không còn sống ở thế kỷ mười bốn nữa? Thách thức không chỉ nằm ở tính thiếu chân thực trong câu chuyện, mà còn bởi tôi không còn có thể chỉ viết bằng giọng của chính mình nữa: bây giờ tôi phải viết theo cả giọng của cô. Tôi đã rất nỗ lực để viết lại câu chuyện về Engelthal chính xác theo những gì cô kể, nhưng nếu việc ghi lại những lời cô nói có gì sai sót thì rất mong được lượng thứ. Tôi đã cố hết sức rồi.

Câu chuyện cũng đặt ra câu hỏi rằng Marianne Engel thực ra đã điên đến mức độ nào. Cô có thật sự tin rằng mình đã được nuôi dạy trong một tu viện thời Trung cổ không, hay cô chỉ đang cố mua vui cho một bệnh nhân bỏng? Khi tôi cố bắt cô thú nhận cô chỉ đang bịa chuyện, cô nhìn tôi như thể chính tôi mới là kẻ điên và, vì tôi muốn cô lại đến nữa, nên tôi cũng khó lòng bắt cô nói khác đi được. Cuối cùng, tôi quyết định cứ để cô kể chuyện cho tới khi sự thật bị lột trần.

Tôi không phải người duy nhất nghĩ ngợi về tình trạng thần kinh của vị khách này. Bác sĩ Edwards đã đến thăm tôi với mục đích xa xôi là khuyên tôi hạn chế các cuộc viếng thăm tiếp theo của người phụ nữ mới xuất hiện trong cuộc đời tôi đây. Cuộc trò chuyện bắt đầu bằng lời cảnh báo về những rủi ro sức khỏe Marianne Engel có thể mang tới; do cô cứ lén lút vào khi các y tá không để ý và cô chẳng thèm quan tâm đến nội quy đồng phục dành cho khách thăm bệnh, ai mà biết được cô sẽ mang các thể loại vi trùng gì đến? Tôi gật gù tán thành ý kiến này nhưng bẻ lại rằng việc trông đợi một cái gì đó - một ai đó­ - đến thăm hiển nhiên không hại gì đến quá trình hồi phục của tôi.

"Có thể là thế, nhưng anh cần phải tập trung vào việc hồi phục, chứ không phải là quan tâm tới..." Nan dừng một chút để soạn ra một cụm từ mang tính chính trị, "... những vấn đề chẳng có ích gì cho anh cả."

Bà mới nhanh nhảu làm sao khi cho tôi biết tôi cần gì, tôi nghĩ.

"Tôi đã làm nghề này lâu rồi và tôi thấy gia tăng căng thẳng có thể gây hại cho bệnh nhân thế nào."

Tôi hỏi liệu có phải bà lo lắng vì khách của tôi là bệnh nhân không thường xuyên của bệnh viện không, và Nan khẳng định chuyện đó chẳng có lợi cho Marianne Engel chút nào. Tuy nhiên, bà cũng mau miệng thêm rằng họ không, hay không thể, viện cớ này để cấm cửa Marianne Engel; vì cô được đánh giá là đủ khả năng hòa nhập xã hội, thế nên cô cũng đủ điều kiện đến thăm bệnh nhân. Tuy nhiên, tôi thấy Nan có thể dùng ảnh hưởng của mình để gây khó dễ hết mức.

"Tôi muốn nói với chị," tôi đề nghị, "nếu chị cho phép cô ấy tiếp tục đến, tôi sẽ tập luyện với Sayuri chăm chỉ hơn."

"Kiểu gì thì anh cũng vẫn phải làm thế thôi."

"Nhưng mà tôi sẽ không làm thế," tôi nói, "và chị sẽ chỉ nhận được cái chị đáng nhận được thôi."

Nan hẳn xét thấy bà sẽ không có vụ thương lượng nào tốt hơn cái tôi đang đề nghị, vì bà đã chấp nhận. Tuy nhiên, bà không thể không thêm vào, "Tôi không bắt buộc phải thích chuyện đó đâu nhé."

"Không, chị không cần phải thích đâu," tôi nói. "Chị chỉ cần để cô ấy yên thôi."

Không lâu sau cuộc gặp với bác sĩ Edwards, Connie đến cùng một tay hộ lý để đưa tôi tới một căn phòng biệt lập, cách xa các bệnh nhân bỏng khác. Tôi hỏi cô chuyện gì đang xảy ra - chắc chắn có nhầm lẫn gì rồi. Không đâu, cô trấn an tôi, tôi sẽ có phòng riêng, theo chỉ thị của bác sĩ Edwards, dù cô không biết tại sao. Cô nói với tôi rằng tôi nên cố hưởng thụ sự riêng tư của mình khi còn có thể vì nếu điều này là một nhầm lẫn, nó sẽ nhanh chóng bị sửa chữa thôi. Thay vì mang tôi ra khỏi chiếc giường xương, họ chỉ làm mỗi việc là đẩy cả cái giường ấy xuống hành lang rồi vào một căn phòng nhỏ hơn, nhưng rất đẹp và trống không.

Trống không, ấy là, cho tới khi Sayuri đến vẽ ra một bài tập mà cô muốn tôi bắt đầu luyện tập hằng ngày. "Bác sĩ Edwards bảo tôi là anh đang rất háo hức được tập những bài tập khó hơn," cô vừa nói vừa đặt một cái ván dài bằng thành giường lên giường, dựng nghiêng cách xa tôi. Trên tấm ván xẻ một cái rãnh lấy chỗ cho cô đặt hai quả bóng bạc nặng một cân vào. Tôi phải đẩy quả bóng lên tận đỉnh ván, và rồi lại nhẹ nhàng đỡ lấy khi nó lăn xuống chân ván. Cứ thế lặp đi lặp lại.

Tôi đã từng kéo những thiết bị quay phim nặng hàng chục cân đi quanh giường vào mỗi thước phim, thế mà giờ đây tôi lại phải hạ mình đẩy một quả bóng lên trên một cái ván gỗ. Tệ hơn, ngay cả nhiệm vụ đơn giản này cũng khiến tôi phải tập trung hết sức mình. Tôi có thể nhìn thấy khuôn mặt băng bó của mình phản chiếu trên mặt cong của quả bóng bạc, và tôi càng đẩy quả bóng ra xa bao nhiêu, hình ảnh phản chiếu của tôi càng chạy ra xa bấy nhiêu. Sayuri tán thưởng mọi thành công của tôi. "Hoàn hảo!" Khi chúng tôi kết thúc, cô nhẹ nhàng đẩy quả bóng như thể nó là - ừm, như thể nó là một quả bóng nặng một cân vậy. Không những làm tôi nóng mắt vì khỏe hơn tôi, người phụ nữ Nhật Bản nhỏ bé này còn làm tôi nóng mắt hơn khi cô khẽ cúi đầu chào rời khỏi phòng.

Sau đó, khi bác sĩ Edwards tới bên giường bệnh của tôi, tôi đã hỏi về căn phòng riêng. Tại sao, tôi vặn vẹo, tôi lại được xài sang đến thế? Nó chẳng có vẻ gì là phần thưởng cho thái độ tốt của tôi, hay cho sự luyện tập khắt khe tôi vừa bắt đầu và sẽ còn phải tiếp tục cả.

Nan, theo lời bà, đang tiến hành một nghiên cứu mà bà rất mong được xuất bản về ảnh hưởng của phòng riêng trong việc chữa trị cho bệnh nhân bỏng so với phòng chung. Bà hy vọng trường hợp của tôi có thể cung cấp thêm một số góc nhìn sâu sắc về những bệnh nhân được chuyển phòng trong quá trình điều trị, và thật may mắn làm sao khi ngẫu nhiên lại còn một phòng trống. Khi tôi hỏi liệu điều này có đồng nghĩa với việc một lúc nào đó tôi có thể bị chuyển lại về phòng chung không, bà chỉ nói là vẫn chưa biết được.

Tôi trấn an bà rằng tôi rất vui được làm con chuột thí nghiệm bé bỏng bị cách ly cho bà chừng nào bà muốn, nhưng có chua thêm: "Chị chắc là không còn điều kiện nào nữa chứ?"

Bà nghĩ một chút, rồi quyết định hé thêm một sự thật - điều mà tôi đã đoán từ trước: "Anh cứ thoải mái tiếp nhận những cuộc viếng thăm của cô Engel, nhưng tôi thấy cô ấy không có lý do nào để đến thăm những bệnh nhân khác."

Tôi nói rằng tôi rất cảm kích sự quan tâm của bà dành cho những người khác, và bà gật đầu. Khi cả hai đều thấy rõ là chẳng còn gì để nói thêm, bà lại gật đầu cái nữa rồi nhanh chóng rời phòng.

Những chuyến thăm của Marianne Engel càng thêm phần thú vị vì giờ chỉ có hai chúng tôi, chẳng cần phải kéo rèm nhựa, và vì các bác sĩ đã thôi không bắt cô mặc đồng phục bảo vệ nữa. Quần áo thường ngày của cô được chấp nhận, phần vì tôi đang dần trở nên khỏe hơn và việc mặc đồng phục không còn bắt buộc nữa, nhưng, có lẽ quan trọng hơn, đó là vì đội ngũ y tá bác sĩ đã quá ngán cái cảnh cứ phải tranh luận với cô rồi. Marianne Engel là một vị khách mà tất cả bọn họ đều đồng lòng phản đối nhưng tôi lại đấu tranh để được có, cho nên tôi nghĩ họ đã quyết định là có rủi ro gì thì tôi tự đi mà chịu lấy.

Giờ đây khi đã có thêm nhiều không gian riêng, những cuộc chuyện trò của tôi với Marianne Engel ngày càng đa dạng: làm thế nào để nấu món mì lasagna chay; những trò chơi gì đang được tổ chức tại lễ hội ở Hamburg; vẻ đẹp buồn bã của bản giao hưởng cung D thứ dành cho kèn Oboe của Marcello; tập quán định cư của thổ dân da đỏ vùng duyên hải phía Tây nước Mỹ; vì sao người ta lại hát trong các ban nhạc rock; giá trị của văn học Canada trên tương quan so sánh với văn học Nga; khí hậu khắc nghiệt đã hình thành phẩm chất con người như thế nào; lịch sử nạn mại dâm ở châu Âu; vì sao người ta lại đam mê ý tưởng trong album "Heavyweight Champion of the World" của ban nhạc rock Reverend and The Makers; những cuộc hội thoại có thể diễn ra giữa một thành viên của giáo phái Nhân chứng Jehovah với một nhà khảo cổ học; và cả kẹo cao su giữ được hương vị trong cổ họng bao lâu. Những năm tháng thăm thú thư viện quả rất có ích cho tôi.

Tôi hỏi về Ba Vị Chủ Nhân của cô, và hỏi kháy rằng liệu những đấng phù trợ ấy có được nhiều nữ tu Trung cổ biết đến không. Cô nghiêm túc trả lời rằng không hề có chuyện đó nhưng thực tế thì Heinrich Seuse cũng có Ba Vị Chủ Nhân mà ông cần có được sự đồng thuận (với cùng bài kinh tiếng Latin cô đã dùng) khi muốn nói chuyện với họ.

Phản ứng của tôi khá hiển nhiên: "Các vị bảo hộ của hai người có giống nhau không?"

"Không." Vị chủ nhân đầu tiên của Seuse là thánh Dominic, người sáng lập dòng Dominica, chỉ cho phép nói chuyện ở thời gian và địa điểm thích hợp. Vị chủ nhân thứ hai, thánh Arsenius, chỉ chấp nhận những cuộc nói chuyện không liên quan đến các vấn đề vật chất. Vị chủ nhân thứ ba, thánh Bernard xứ Clairvaux, chỉ cho phép Seuse được nói khi việc đó không làm ông ấy bị rối loạn cảm xúc.

"Còn những vị chủ nhân của cô?"

Cô nói rằng chủ nhân của mình là Meister Eckhart, một nhà thần học nổi tiếng đã hoạt động suốt thời xơ Marianne còn trẻ; Mechthild von Magdeburg, lãnh tụ tinh thần của người Beguine, người sáng lập Engelthal; và cha Sunder, người cô đã nhắc đến trước đó.

Khi cuộc trò chuyện cuối cùng cũng xoay quanh sự nghiệp khiêu dâm của tôi, nó hầu như chẳng còn đặc biệt nữa; chỉ là chút gia vị cho một cuộc nói chuyện trên trời dưới biển. Tuy vậy, cô rất tò mò về công việc đó và đặt nhiều câu hỏi làm tôi phải trả lời hết công suất. Khi kết thúc, tôi hỏi công việc kiếm sống của tôi có làm phiền lòng cô không.

"Không hề," cô trả lời, và nhắc tôi nhớ rằng thậm chí cả thánh Augustine cũng sống một cuộc đời hoan lạc trước khi cất lời khẩn nài nổi tiếng với Chúa, "Hãy cho con trở nên thánh thiện - nhưng cứ từ từ thôi."

Điểm khác biệt, tôi chỉ ra cho cô, là tôi sẽ không đến với tôn giáo để trốn tránh quá khứ của mình. Marianne Engel nhún vai tỏ vẻ bàng quan. Không biết có phải cô nghĩ tôi đã sai và rồi tôi sẽ có niềm tin vào Chúa không, hay đơn giản là cô không quan tâm. Nhưng việc chuyển chủ đề trò chuyện cũng gợi lên vấn đề về đức hạnh và tôi bèn ướm hỏi liệu cô có biết chuyện xảy ra với cái ấy của tôi trong đám cháy không.

"Tôi được các bác sĩ thông báo là nó đã bị mất," cô trả lời.

Thế là cô đã biết, nhưng cô nghĩ gì? "Và...?"

"Và thật đáng tiếc."

Phải, thật đáng tiếc. "Tôi cứ tưởng cô không thích nói chuyện với các bác sĩ."

"Tôi cần biết rõ về những vết thương của anh nên không thể tránh nói chuyện đó."

Đó là dấu chấm hết cho cuộc trò chuyện ngày hôm ấy về của quý bị mất của tôi; quá nhiều so với những gì tôi định nói rồi.

Mỗi lần đến thăm, Marianne Engel lại ăn mặc chỉn chu hơn lần trước, thành một ngưòi phụ nữ mới. Cổ tay cô lủng lẳng các loại vòng từ khắp nơi trên thế giới: Aztec, Maya, Tonka Toy, Ojibwa. Ngón tay cô đeo đầy nhẫn nhựa, những con voi màu vàng tên là Duke Elliphant và Ellaphant Gerald. Đôi giày thể thao của cô đính đầy hạt xê quin khiến tôi liên tưởng tới cả một đàn cá nhiệt đới đang bơi loạn xạ. Khi ra khỏi phòng để hút thuốc, cô nâng vạt váy màu tím lên để nhún gối chào. Tôi hỏi nguyên cớ gì đã làm cô thay đổi gu thẩm mỹ thế thì nhận được câu trả lời là vì tất cả mọi người đều nghĩ rằng cô điên, nên cô cũng mặc cho giống thế luôn.

Thật thú vị: đây là câu nhận xét khôi hài đầu tiên của cô về tình trạng thần kinh của bản thân. Tôi nghĩ có lẽ đó là sự khai mào mà tôi đang trông đợi, thế là tôi hỏi cô - chỉ ra rằng cô cũng đã hỏi bác sĩ về những vết bỏng của tôi - là cô được chẩn đoán đang ở trong tình trạng nào. Cô dập luôn chủ đề ấy bằng việc nói như đinh đóng cột rằng các bác sĩ chẳng qua không hiểu nổi sự quyến rũ đặc biệt của cô thôi.

Cô thò tay vào ba lô lấy ra một cuốn sách nhỏ bìa da. Cô muốn đọc to cho tôi nghe, cô nói thế. Địa ngục của Dante. Một lựa chọn tuyệt vời cho phòng bỏng, tôi nhận xét, và nói thêm rằng dù rất yêu văn học, nhưng đây là tác phẩm kinh điển mà tôi chưa bao giờ đọc.

Cô mỉm cười như thể biết điều gì đó mà tôi không biết. Cô có một linh cảm mạnh mẽ, cô nói, rằng tôi sẽ không chỉ thấy cuốn đó phù hợp với sở thích của mình mà còn rất thân thuộc nữa.

Marianne Engel đang kể câu chuyện cuộc đời cô hồi thế kỷ thứ mười bốn. Giờ, nếu cô có thể làm thế này thì chắc độc giả cũng sẽ không phiền nếu tôi cung cấp chút thông tin về cuộc đời của Sayuri mà tại thời điểm này trong thời gian nằm viện dưỡng bệnh tôi chưa biết. Để biện minh cho việc nhảy khỏi trình tự thời gian, tôi phải nói là cô Mizumoto chỉ kể cho tôi nghe những chuyện này sau khi chúng tôi đã trở nên thân thiết - và ít nhất thì câu chuyện của cô cũng có thật.

Sayuri là con thứ ba, con gái thứ hai, của Toshiaki và Ayako Mizumoto. Vị trí con út quả là bất hạnh, vì điều đó có nghĩa khi còn bé thì cô là người thứ năm được tắm mỗi tối. Các gia đình Nhật Bản có truyền thống dùng chung bồn tắm và, dù họ đã rửa ráy trước khi vào bồn rồi, nước vẫn cứ đen dần đi sau mỗi lần tắm. Người cha vào trước, rồi đến các thành viên nam từ lớn nhất đến nhỏ nhất. Xong xuôi mới đến lượt phụ nữ tắm, lại theo trình tự từ lớn nhất đến nhỏ nhất. Điều này có nghĩa là cha, anh trai, mẹ, chị gái đều dùng bồn tắm trước Sayuri. Suốt cả quãng đời thơ ấu của mình, hằng đêm cô luôn phải ngâm mình trong dòng nước tích tụ chất bẩn của cả gia đình.

Đám cưới của Toshiaki và Ayako là sản phẩm của omiai, một cuộc hôn nhân sắp đặt. Nếu không phải một cuộc hôn nhân ngập tràn tình yêu, nó ít nhất cũng làm tròn trách nhiệm, bằng chứng là ba đứa trẻ. Toshiaki làm việc chăm chỉ ở cơ quan, quán rượu và quán karaoke; Ayako quán xuyến việc nhà, giữ tay hòm chìa khóa và sắp sẵn thức ăn đợi chồng khi ông ta về nhà trong tình trạng say xỉn và hát hò ầm ĩ. Họ hoàn thành những nghĩa vụ cần thiết để được xếp vào danh sách những gia đình Nhật Bản bình thường, và cả Toshiaki lẫn Ayako đều mong muốn con cái của mình sau này cũng đáp ứng được những yêu cầu ấy.

Đứa con trai đầu lòng của họ, Ichiro - cái tên, tiện đây nói luôn, nghĩa là Đứa Con Đầu Lòng - vào một trường đại học tốt. Vì thế, anh ta nhận được một công việc tốt với đồng lương hậu hĩnh ở một công ty tên tuổi sau khi tốt nghiệp; mọi sự diễn ra như thế. Thực ra thì, Ichiro chẳng cần phải chú tâm học hành sau khi được nhận vào trường làm gì, vì việc được nhận vào trường mới quan trọng, học hành á, không đến mức ấy. Sau khi kiếm được một công việc tốt, anh ta làm việc vài năm rồi cưới một cô gái Nhật Bản con một gia đình tử tế ở một độ tuổi hợp lý. Rất ngẫu nhiên, độ tuổi hợp lý của một cô gái Nhật Bản luôn nhỏ hơn hai lăm, vì đó là khi cô ấy trở thành một cái "bánh Giáng sinh". Những cái bánh Giáng sinh, như mọi người đều biết, trước ngày hai lăm thì được thèm muốn nhưng sau đấy thì rất nhanh hỏng và bị bỏ đi. Vợ của Ichiro mới hai ba, thế nên cô ấy còn lâu mới đến ngày hết đát. Toshiaki và Ayako rất hài lòng; Ichiro sẽ thừa kế căn nhà và chăm sóc phần mộ của bố mẹ sau khi hai cụ qua đời.

Chị của Sayuri, Chinatsu - một cái tên thật đáng yêu, nghĩa là Một Nghìn Mùa Hè - cũng đã theo học ở một ngôi trường tốt, rồi làm nhân viên văn phòng vài năm và kết hôn lúc hai mươi tư tuổi rưỡi. Vừa kịp. Cô bỏ việc và bắt tay vào kế hoạch sinh con luôn. Một lần nữa, hai ông bà lại rất hài lòng.

Và rồi đến lượt cô con gái út nhà họ, cô bé rắc rối Sayuri ấy. (Tên cô có nghĩa là Hoa Loa Kèn Bé Nhỏ. Quả thật, người Nhật đúng là những bậc thầy đặt tên.)

Sayuri nhỏ hơn Chinatsu vài tuổi. Cha mẹ cô không bao giờ dám gọi cô là một tai nạn nhưng, thỉnh thoảng thôi, họ cũng nói hớ ra là cô "nằm ngoài kế hoạch". Cha mẹ cô, nếu bị ép buộc, cũng sẽ thừa nhận rằng những thứ nằm ngoài kế hoạch có thể khá phiền nhiễu nhưng, mặt khác, nếu hai đứa trẻ trước đã tốt rồi thì đứa thứ ba hẳn phải tốt hơn một phần ba. Tuy nhiên, khả năng toán của Sayuri phát triển đến độ đủ nói cho họ biết rằng thêm một vào hai thực ra có thể làm tăng gấp rưỡi chất lượng, chứ không phải chỉ một phần ba đâu.

Ichiro và Chinatsu đều đã đi những con đường đúng đắn và làm những gì đáng được trông đợi. Hình mẫu được xây dựng vững chắc, được gấp lại gọn gàng và cất đi như một chiếc áo kimono đẹp đẽ; khuôn mẫu cư xử đúng mực gần như đã trở thành một vật thừa kế truyền đời. Tất cả những gì Sayuri phải làm, để tiếp tục hoàn thiện cuộc đời hoàn hảo của bố mẹ cô, ấy là noi gương anh chị. Nhưng điều này, thật bất hạnh, lại là điều cô không bao giờ muốn. Nếu làm thế, cô lý luận, cô không chỉ bị đày đọa suốt thời thơ ấu mà cả đời cô cũng sẽ phải vật vã trong cái bồn tắm gia đình bẩn thỉu.

Vấn đề là Sayuri không chắc cô thực sự muốn làm gì, thế nên cô khôn ngoan im miệng và chờ thời cơ. Cô học hành cực chăm thời trung học, nhưng sau lưng bố mẹ, cô đã dành toàn bộ thời gian còn lại của mình để học tiếng Anh. Họ không mảy may hay biết rằng mỗi tối thứ Ba hằng tuần, trong lúc họ hồn nhiên cho là con mình đang ở sân tập bóng chuyền thì thực ra cô lại được một phụ nữ người Úc tên Maggie phụ đạo tiếng Anh. Mỗi thứ Bảy Sayuri đều đi xem phim, không phải để giải trí mà để học nói như Jodie Foster, Susan Sarandon, và (thật không may) Woody Allen. Vào những chiều Chủ nhật, cô thường đến bảo tàng địa phương để săn khách du lịch Mỹ và khi dồn được một người vào góc rồi, cô sẽ hỏi xem liệu anh ta có thể nói chuyện với cô trong năm phút để cô luyện tiếng Anh được không. Các du khách đều đồng ý, vì ai có thể từ chối sự nhiệt tình đáng yêu thế chứ? Cùng lúc đó, Sayuri ngoan ngoãn điền đơn xin vào những trường đại học thích hợp tại Nhật Bản và đã được nhận vào một trường. Cha mẹ cô rất hạnh phúc. Giờ Sayuri chỉ còn phải lo tốt nghiệp, làm nhân viên văn phòng một vài năm, và bay khỏi giá bánh trước năm hai lăm tuổi.

Ngay sau lễ tốt nghiệp trung học phổ thông, Sayuri đến đại sứ quán Úc cùng Maggie để lấy visa lao động. Một tuần sau, Sayuri gọi điện thoại đường dài cho cha mẹ mình từ tít sân bay Sydney. Chẳng cần phải nói, họ thất vọng tràn trề, không chỉ vì hành động liều lĩnh và bất kính của cô mà còn vì cô đã không đủ can đảm nói lời tạm biệt trước khi rũ áo ra đi.

Thực ra thì, Sayuri làm thế không phải do thiếu can đảm, mà còn thừa là đằng khác. Nếu cô cố cãi lý với cha mẹ, họ sẽ không bao giờ để cô đi. Đó sẽ là một cuộc tranh luận mà cô không thể thắng nhưng cũng không muốn thua, vậy nên cô chỉ làm những gì cần làm để bắt đầu một cuộc sống mong muốn. Lúc đầu cha mẹ Sayuri tưởng con gái nói đùa - nó không thể gọi cho họ từ Úc được? Nó không có ý định ở lại đó chứ? Khi cuối cùng cũng chịu chấp nhận sự thật, họ đã hết đe dọa rồi lại thuyết phục cô. Sayuri cúp máy, vì nếu cô tiếp tục nghe thì cũng chẳng thay đổi được gì.

Cô ở Úc một năm, chuyển hết công việc này đến công việc khác: phục vụ bàn, sơn nhà cửa, hái quả, gia sư tiếng Nhật, vân vân và vân vân. Da cô thêm rám nắng nhưng nụ cười của cô ngày càng tươi, còn tiếng Anh thì ngày càng tiến bộ. Vấn đề lớn nhất cô gặp phải khi ở những nước phương Tây là cô thường phải đi mua sắm ở khu quần áo dành cho trẻ em để tìm những bộ vừa với mình, vì cô hơi nhỏ người kể cả với phụ nữ Nhật Bản. (Đây là lý do trong thời gian ở nước ngoài cô trông cứ như con búp bê.) Sayuri gọi cho cha mẹ mỗi tháng một lần - mỗi lần một trạm điện thoại khác nhau - để báo cho họ biết cô vẫn khỏe và lễ phép nghe khi họ khẩn khoản khuyên cô quay về. Thỉnh thoảng Ichiro viện cả sức nặng của giọng huynh trưởng đưa vào cuộc thoại. Sayuri cũng lờ mệnh lệnh của anh ta luôn.

Khi visa của Sayuri hết hạn, cô quay trở lại Nhật Bản. Mẹ cô khóc nức nở còn cha cô thì thét lên, mặc dù một phần trong ông cũng ngưỡng mộ những gì cô đã làm được. Sayuri thông báo với họ rằng cô sẽ theo học tại một trường đại học của Mỹ để lấy học vị. Trong suốt năm tiếp theo, cô làm thêm ba việc một lúc, đỗ những kỳ thi năng lực tiếng Anh cần thiết và được nhận vào khoa vật lý trị liệu trường đại học Michigan. Khi đến lúc phải ra đi một lần nữa, mẹ cô lại tuôn thêm một dòng sông nước mắt Nhật Bản. Tuy nhiên, đến lúc này, người cha đã chấp nhận ý nghĩ điên rồ của cô con út. Khi Toshiaki đề nghị đỡ một phần học phí, Sayuri ôm chặt ông thật lâu. Chẳng biết phải làm gì, ông bèn cố ưỡn ngực đứng thẳng hết mức.

Sayuri hoàn thành khóa học với tấm bằng xuất sắc và được nhận vào một bệnh viện nơi rốt cuộc cô sẽ gặp tôi. Rất lâu trước khi tôi xuất hiện, cô đã trả được hết từng đồng học phí cha cô chu cấp.

Bác sĩ Hnatiuk cứ vài ngày lại đến phòng tôi một lần để đưa sách tâm lý học. Tôi bắt đầu thấy thích ông ta. Tôi chẳng biết mình thay đổi thái độ với ông ta từ khi nào vì tôi chưa từng phun ra câu: "Này, rốt cuộc sóc chuột cũng không đến nỗi tệ lắm đâu nhỉ." Ông ta cứ âm thầm tiếp cận tôi. Quan trọng nhất là ông ta đã không lôi cái quan hệ bác sĩ-bệnh nhân ra áp dụng với tôi nữa, mà cứ để cuộc trò chuyện diễn ra tự nhiên. Một điều quan trọng khác là ông ta cũng thích cái gargoyle Marianne Engel tặng tôi, trong khi Beth lại gọi nó là "thứ đồ nhỏ thó xấu xí". Tuy nhiên, điều thực sự làm tôi thấy có hứng thú với Gregor là, trái ngược với vẻ ngoài nhu nhược, ông ta là người sống đam mê và tận tâm với công việc. Một chiều nọ, ông ta kể tràng giang đại hải về những tên luật sư mà theo ông ta là kẻ thù lớn nhất của tâm lý trị liệu trong suốt nửa thế kỷ qua. Ông ta kể tôi nghe bọn họ đã đấu tranh cho quyền lợi của bệnh nhân như thế nào - đúng là đáng hoan nghênh - nhưng lại còn lên đến mức mặc kệ bệnh nhân ăn phân của mình nữa chứ. "Cứ mặc kệ bọn luật sư biến phân thành thức ăn dinh dưỡng."

Vài tuần trôi qua, Gregor bất ngờ thay đổi ngoại hình. Ông ta đã vứt đôi giày moca cùng chiếc quần nhung tăm siêu phản cảm và bắt đầu mặc những bộ quần áo dường như hợp với mình hơn. Dù chúng không thể được coi là "phong cách", nhưng nói chung cũng tạm chấp nhận được. Ông ta cũng chăm chỉ luyện tập thể thao đến độ đôi gò má hồng hào trông không còn giống như hậu quả của việc phi lên cầu thang nữa, và ông cũng đã giảm được chút mỡ thừa quanh bụng.

Gregor chẳng bao giờ hỏi vì sao tôi đọc sách tâm lý, nhưng ông ta luôn sẵn sàng trả lời mọi câu hỏi của tôi về bệnh tâm thần phân liệt. Dù tôi chưa bao giờ đả động đến tên cô trong bất cứ cuộc nói chuyện nào, một ngày tôi đã nói hớ ra (thực ra cũng không hẳn là lỡ miệng cho lắm) rằng tôi thực hiện những nghiên cứu này vì sợ một người bạn của tôi CÔ TA KHÔNG PHẢI BẠN NGƯƠI có thể mắc chứng này. CÔ TA CHỈ LÀ MỘT CON ĐIÊN.

"Tôi biết rồi," Gregor nói. "Marianne Engel."

Gregor có vẻ thỏa mãn vì đã chứng tỏ bản thân mình hơn tôi một bậc, nhưng tôi đoán chắc ông ta cũng đã được thông báo về việc này khi bác sĩ Edwards cố thuyết phục tôi hạn chế các cuộc viếng thăm của cô. Gregor đúng là có điều trị cho cô vài lần, ông ta nói, là người cuối cùng chữa cho cô khi cô phải nhập viện vì đã "nói chuyện với các hồn ma" nơi công cộng. "THẤY CHƯA?" Tôi hỏi sao ông ta lại không nói chuyện này với tôi từ trước. Ông ta dẫn lại lời thề Hypocrate, và chua thêm là sẽ không đả động đến cô nữa ngoài những điều đã nói.

"Vả lại," ông ta nói. "Tôi cũng sẽ không khẳng định hay phủ nhận đấy có phải một ca tâm thần phân liệt hay không."

Gregor cũng bảo rằng ông ta chưa bao giờ hé lộ nội dung những cuộc trò chuyện giữa tôi và ông ta cho bất kỳ ai. Tôi nói ông ta thích buôn gì thì buôn, vì tôi không phải bệnh nhân của ông ta. Đáp lại, ông ta bảo rằng chúng tôi vẫn đang ở trong bệnh viện mà tôi là bệnh nhân còn ông ta là bác sĩ, vì thế ông ta coi lý do này là đủ cho việc bảo mật thông tin rồi. Tôi bày tỏ suy nghĩ rằng các bác sĩ tâm thần nhìn chung đều vô tích sự và rằng tôi thực sự chẳng quan tâm đến những gì họ (ám chỉ ông ta) nghĩ về tôi.

"Ồ, có lẽ đúng là rất nhiều người trong chúng tôi đáng ra có thể làm tốt hơn thế," Gregor thừa nhận, "nhưng chúng tôi cũng có lúc xuất thần đấy. Ví dụ nhé, trong số những vấn đề nhân cách của anh, tôi có thể chẩn đoán được vấn đề lớn nhất."

"Thế đó là gì vậy?"

"Anh nghĩ mình thông minh hơn hết thảy những người khác."

Trừ quãng thời gian Marianne Engel biến mất gần cả tuần liền, giờ cô đến phòng điều trị bỏng gần như hằng ngày. Cô giúp tôi tập luyện, đặt hai tay dưới lòng bàn chân của cái chân còn lành lặn của tôi và giúp tạo độ cản khi tôi cố đạp như anh chàng cua rơ một chân.

"Tôi đã nói chuyện với bác sĩ Edwards," cô nói. "Bà ấy đã cho phép tôi mang cho anh chút thức ăn."
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 10


Vì giờ cô đã nói chuyện với bác sĩ của tôi, tôi hỏi liệu cô có cho phép tôi được nói về ca của cô với một trong những bác sĩ đã điều trị cho cô không. Nói rõ ra là, bác sĩ Hnatiuk.

Cô trả lời là không muốn tôi bàn luận về vấn đề của cô với bất cứ ai, và cảm thấy bị xúc phạm khi tôi dám đề nghị việc ấy. Trong tất cả mọi người, cô nói, lẽ ra tôi phải là người biết chắc cô không bị điên.

Có một khoảng lặng lúng túng giữa chúng tôi, cho tới khi Marianne Engel phá tan nó, "Paracelsus(20) đã kê một đơn thuốc điều trị bỏng gồm mỡ lợn rừng, dòi bò trong sọ một người đàn ông bị treo cổ và một phần xác ướp. Cả đống đó được nướng chín lên." Rồi cô bắt đầu giảng cho tôi nghe về lịch sử ghép da, suốt từ thời khởi thủy với những người Hindu cổ đại cho tới thời hiện đại. Tôi kéo một dải băng quấn trên chân tôi lên cho cô thấy những miếng da ghép hiện tại của mình, gồm cả mấy mảng da của người da màu nữa. Vì các bác sĩ đã dùng một chiếc máy nghiền ép chỗ da này thành một tấm lưới có thể trải rộng trên bề mặt lớn hơn, sản phẩm cuối cùng trông không khác gì một bàn cờ biến dạng.

"Nếu anh là kẻ phân biệt chủng tộc," cô nói, lướt ngón tay trên tấm thân bàn cờ của tôi, "chắc anh thấy việc này khó chịu lắm."

Những ngón tay của cô nhẹ nhàng nấn ná trên vùng hoang địa ấy. Chúng lướt từ thân trên tới cổ tôi, ngừng lại nơi bả vai để uốn theo những đường cong. "Cảm giác khoác lên mình tấm da của người khác thì như thế nào vậy?"

"Tôi không có đáp án hay ho cho câu hỏi đó đâu," tôi trả lời. "Đau lắm."

"Anh có thể nhớ những câu chuyện của họ không? Anh có thể cảm nhận được tình yêu mà họ đã cảm nhận không?"

Thỉnh thoảng tôi cũng gặp khó khăn trong việc đoán xem liệu Marianne Engel có chờ câu trả lời thật không hay chỉ đang trêu tôi thôi. "Cô có nghiêm túc không đấy?"

"Điều đó làm tôi nghĩ về chúng ta," cô tiếp tục nói. "Điều đó làm tôi muốn khâu mình vào anh như những tấm da kia vậy."

Tôi đằng hắng.

"Anh có biết là," cô hỏi, "da của tôi cũng bị đóng dấu không?"

Tôi cũng phần nào nắm được ý cô. Khi cô mặc áo phông, tôi không thể không để ý đến những cụm từ Latin được xăm quanh bắp tay cô. Trên cánh tay trái là dòng chữ Certum est quia impossibile est. Khi tôi hỏi nó có nghĩa gì thì cô dịch ra là "Điều đó hiển nhiên vì điều đó không thể xảy ra." Trên cánh tay phải là dòng chữ Quod me nutrit, me destruit. Câu này, cô bảo, có nghĩa là, "Thứ nuôi dưỡng tôi cũng sẽ hủy diệt tôi."

"Tôi không hiểu," tôi thú thật.

Cô cười, "Ồ, đó là vì anh vẫn chưa nhìn thấy tôi tạc tượng thôi."

Rồi Marianne Engel thực hiện cái hành động nhỏ nhặt này. Cô chạm vào khuôn mặt tôi.

Thật là chuyện nhỏ nhặt, được ai đó chạm vào mặt ấy, đúng không? Nhưng hãy nghĩ đến những con quái vật bị lửa thiêu, bị hắt hủi trên thế giới này. Nghĩ đến những con người mà da họ không còn nhớ được xúc cảm yêu thương. Ngón tay cô nhẹ lướt trên khuôn mặt hoang tàn của tôi, luồn xuống dưới những dải băng để chạm vào đống tàn tích của mặt tôi. Những ngón tay ấy trìu mến du ngoạn lên đôi má băng bó của tôi, vất vả chạm đến môi tôi. Chúng dịu dàng nghỉ lại đó, trong giây lát. Tôi khép mí mắt cháy rụi của mình lại, những vết sẹo nhỏ túm tụm tại những nơi mà vài tuần trước các vết thương đã được khâu kín. Trái tim tôi đập loạn xạ trong lồng ngực và, cùng lúc, những lỗ chân lông bị bít chặt của tôi thi nhau làm việc quá tải, mà không giọt mồ hôi nào nhỏ ra cả.

"Khuôn mặt tôi thế nào?"

"Như hoang mạc sau trận bão."

Tôi có một thôi thúc mãnh liệt muốn nói với cô rằng trước vụ tai nạn tôi rất đẹp, nhưng tôi không nói gì. Để làm gì chứ? Và rồi, tôi chạm vào má cô bằng bàn tay lành lặn của mình. Cô không hề lùi lại: không. Không hề lùi lại.

"Có nhiều điều tốt lành đang đến." Marianne Engel thì thầm, trước khi cô đứng dậy đi tới các góc phòng để nói chuyện với Ba Vị Chủ Nhân vô hình. Có vẻ như, dù bằng tiếng Latin, cô đang xin phép làm gì đó. "Jube, Domine benedicere."

Khi trở lại bên giường tôi, cô nở nụ cười chứng tỏ lời khẩn cầu của mình đã được chấp nhận. "Anh có muốn xem những hình xăm khác của tôi không?"

Tôi gật đầu, và cô bắt đầu bằng việc túm gọn mớ tóc rối bù của mình rồi búi lên cao để lộ gáy. Một hình thập tự nhỏ được xăm ở đó, là sự kết nối của ba sợi thừng không có điểm dừng. Cô bảo tôi chạm vào nó. Tôi làm theo. Tôi lướt tay theo chiều dài hình xăm, rồi chiều rộng; đóng dấu chữ thập trên da cô.

Cô cởi giày ra. Xung quanh mắt cá chân trái là hình một chuỗi tràng hạt, được xăm sao cho cây thập tự nằm ngang cổ chân cô. Bằng cách này, cô nói, cô sẽ luôn sẵn sàng sám hối. Nhưng cô lại mỉm cười, và rõ ràng cả cô cũng không quá coi trọng vấn đề này.

Tiếp theo, cô cởi quần ra - một hành động tôi hoàn toàn không ngờ tới, vì chẳng hiểu sao phim ảnh đã đóng đinh vào đầu tôi quan niệm phụ nữ luôn cởi đồ từ trên xuống. Cô không mặc đồ lót, nên thứ còn lại trên người cô chỉ là chiếc áo phông hình Beethoven đang say bí tỉ. (Chú thích? "Bản giao hưởng thứ chín của Beethoven.")

Hình xăm con rắn trải dài hết chân phải của cô, ở đúng chỗ con rồng thêu trên quần. Nó quấn quanh cô, đúng như cách Kinh Thánh thể hiện hình ảnh con rắn quấn quanh thân cây Trí tuệ của Thiện và Ác. Marianne Engel đứng đối diện tôi, và tôi có thể thấy thân con rắn xuất hiện đầu tiên ở đầu gối, bò dần lên và quấn hai vòng quanh đùi cô, với cái đầu hình thoi ngả vào xương chậu của cô, xiên về phía âm đ*o.

Mắt cô dán chặt vào tôi. Cô cởi chiếc áo hình Beethoven ra, dù phải vật vã mới kéo được nó ra khỏi đầu, cho tới khi cô trần như nhộng đứng giữa phòng tôi, trừ cái vòng cổ hình đầu mũi tên đang lủng lẳng trên cổ.

Tôi đã có những giây phút bị kích thích trong phòng điều trị bỏng. Maddy đã cố hết sức trêu chọc tôi với cặp mông nhún nhảy của cô, và thỉnh thoảng cô còn ngoẹo cổ lại kiểm tra xem có xi nhê gì không nữa. Nhưng đây là lần đầu tiên tôi thấy mình bị kích thích giới tính một cách trọn vẹn. Về mặt tâm thần, ít nhất cũng là thế; cơ thể tôi vẫn sản xuất hoóc môn dồn máu tạo sự cương cứng. Tôi chỉ không có chỗ cho dòng máu ấy đổ vào thôi. Tôi tưởng tượng máu đang tụ lại chỗ ấy, làm vùng háng của tôi đỏ bừng lên.

Có một hình thập tự nữa, lớn hơn nhiều so với hình xăm trên gáy cô, nằm trên bụng. Nó được xăm theo kiểu chữ thập Celtic, với bốn cạnh tụ lại điểm nút tròn ở trung tâm. Toàn bộ hình thập tự được bao quanh bởi một hình ô van, dài và hẹp, phủ từ đỉnh xương chậu cho tới tận đáy lồng ngực của cô. Ba chữ cái in hoa lớn - "IHS" - được viết ngay chóp đường cong trên của hình ô van.

Trên ngực trái của cô là một hình xăm Trái tim Thiêng liêng lớn, đỏ rực và được bao quanh bởi vòng hoa mão gai. Trái tim bị nuốt chửng trong biển lửa vàng rực bùng cháy, lan tận lên vai cô.

Cô đi về phía giường, để tôi có thể quan sát thân thể đầy hình xăm của cô được rõ hơn, và bảo tôi chạm vào hình xăm tên Chúa. Tôi chạm vào, da gà cô nổi lên dưới bàn tay còn lành lặn của tôi.

Cô quay người lại, ngồi lên mép giường, quay lưng về phía tôi. Đôi cánh thiên thần trải dài từ vai cô cho tới mông, nơi đầu nhọn của chiếc cánh đáp xuống. Đôi cánh phủ kín lưng cô và tôi không thể không giơ tay về phía chúng. Như thể tôi nghĩ mình có quyền chạm vào da cô, như thể tôi có quyền chạm vào vì nó là của tôi. Mất một thoáng tôi mới nhận ra là không phải thế - không thể làm thế được, thế là tay tôi dừng lại giữa không trung. Nó cứ lơ lửng ở đó bối rối một hồi cho tới khi Marianne Engel nói, không hề quay lại: "Tôi muốn anh chạm vào tôi."

Thế là tôi đi nốt phần còn lại của quãng đường, lướt ngón tay lên những đường nét của hình xăm đôi cánh. Chúng là sự kết hợp hoàn hảo của những nét kim xăm vừa mạnh mẽ vừa rất đỗi tinh tế, chi tiết đến nỗi người ta tưởng là lông thật. Giờ đây lưng của cô đang rung lên, và trái tim tôi cũng vậy.

Một lúc sau, cô ngượng ngùng nhìn tôi qua vai. Cô cười - hồi hộp, phấn khích - và tôi ngừng lại, phá vỡ mối liên kết qua những đầu ngón tay giữa hai người. Cô đứng dậy rồi mặc quần áo vào. Chúng tôi không nói một lời nào. Khi mặc quần áo xong, cô rời khỏi phòng luôn.

Không có tài liệu đủ sức thuyết phục nào chỉ ra đâu là thời điểm tốt nhất để tháo băng cho bệnh nhân bỏng, do việc teo cơ làm cho tình hình không thể tránh khỏi phức tạp. Cuối cùng, bác sĩ Edwards quyết định mạo hiểm chọn ngẫu nhiên một ngày để tháo lũ nhện máy ra khỏi chân tôi.

Việc tháo băng làm Sayuri, vốn luôn nóng lòng kéo tôi ra khỏi giường, sung sướng vô vàn. Cô vỗ tay hai lần trong trạng thái vô cùng phấn khích. "Anh đã sẵn sàng chưa? Anh đã genki(21) chưa? Đã đến lúc rồi!"

Maddy và Beth đứng sẵn sàng giúp đỡ, với đồng phục xanh da trời và đôi găng tay màu vàng to sụ. Họ kéo giãn cơ của tôi trong vài phút trước khi giúp tôi đạp chân để làm giảm sự cứng cơ chân. Rồi mỗi y tá quàng một tay ra sau lưng tôi để đỡ tôi đứng dậy, giữ cho đến khi tôi đỡ chóng mặt. Từng chút một, họ thả lỏng tay ra cho tới khi tự tôi phải chống đỡ sức nặng của chính mình.

Lần đầu tiên từ khi bị tai nạn, tôi đang đứng. Sayuri oang oang đếm giây - "sáu... bảy... tám!" - trước khi chân tôi chuyển từ spaghetti chưa chín thành spaghetti chín. Ngay lập tức, máu dồn xuống người tôi như vừa nhớ ra trọng lực có tác dụng gì và ộc ra khỏi những vùng da bị lóc của tôi. Những dải băng quấn chân tôi nhuốm đỏ, xấu hổ vì sự vô dụng của mình; thời điểm tôi bất tỉnh đã tới.

Cánh phụ nữ đặt tôi trở lại giường và hân hoan với những nỗ lực của tôi. Khi đầu óc tôi đã bình tĩnh lại sau cú nâng thẳng vừa xong, tôi nhìn thấy bác sĩ Edwards đang đứng ở cửa phòng, nụ cười nở trên môi.

Trước khi cố đứng vững, đáng ra tôi sẽ nói - với thái độ trượng phu, hợm hĩnh nhất có thể - là kết quả thế quái nào chẳng được. Đứng là một hành động ngu ngốc mà trẻ con cũng không thèm chơi. Nếu bạn cho phép mình quan tâm đến việc mình đứng được hay không, ai biết bạn sẽ còn quan tâm đến cái gì nữa? Dù không muốn vui vẻ vì những trò vỗ tay reo hò, nhưng tôi thấy chúng có vẻ rất thật. Những người phụ nữ tự hào về tôi và, trái với phán xét có vẻ đúng đắn hơn của mình, tôi cũng tự hào về bản thân mình.

Thay vì phủi sạch thành quả của mình, tôi trở thành một thằng ngốc cười nhăn nhở. Tôi cám ơn mọi người vì đã giúp đỡ và điều duy nhất khiến tôi nuối tiếc là Marianne Engel không ở đó để nhìn thấy những gì tôi làm được.

Tôi hy vọng mình có thể ngủ ngon đêm đó, nhưng không. Giấc ngủ đến cùng cơn ác mộng.

Đêm đó tôi mơ thấy Sayuri dựng tôi dậy rồi đột ngột buông tôi ra. Cơ thể xiêu vẹo của tôi sụp xuống; tôi có thể cảm thấy con rắn ở xương sống cuộn mình lại rồi uốn éo vặn vẹo. NGƯƠI NGHĨ MÌNH CÓ THỂ TỰ ĐỨNG ĐƯỢC SAO? Nan ném phi tiêu về đống đổ nát vô dụng là tôi trong khi các y tá đập tay ăn mừng thất bại của tôi. Tôi nhìn xuống cái giường xương của mình. Lửa cháy, hàng ngàn ngọn nến đang cháy. Tôi muốn vươn tay ra dập tắt chúng nhưng cứ như thể có ai đó đã tháo hết cơ tay của tôi, biến tôi thành một con rối không dây. Lửa hóa thành những khuôn mặt cười giận dữ nhìn tôi và lưỡi lửa chẻ đôi liếm những tấm ga trên chiếc giường xương, khiến chúng trông như những tấm vải liệm cháy bùng bùng. Xương vỡ nát xung quanh tôi, kêu răng rắc giận dữ như một giàn giáo đang sụp đổ.

Nhóm bác sĩ y tá cứ tiếp tục cười. Một trong số họ nói bằng giọng Đức khàn đục: "Alles brennt, wenn die Flamme nur heik genug ist. Die Welt ist nichts als ein Schmelztiegel." Hình như trong mơ, tôi cũng có khả năng như Marianne Engel trong đời thực: khả năng đa ngôn ngữ. Tất cả mọi thứ sẽ cháy nếu lửa đủ nóng. Thế giới chỉ là một lò lửa đang hừng hực cháy.

Tôi bị mắc kẹt dưới những mảnh xương trong khi tấm vải liệm tiếp tục cháy. Những khuôn mặt trong lửa vẫn giữ nguyên nụ cười đầy căm hờn của chúng, những cái lưỡi phản trắc cứ liếm, liếm, liếm. TA ĐANG TỚI ĐÂY VÀ NGƯƠI CHẲNG THỂ CẢN ĐƯỢC ĐÂU. Tôi nghe tiếng những mũi tên rít trong gió. Tôi cảm thấy chúng cắm ngập vào tay tôi, tôi cảm thấy chúng cắm ngập vào chân tôi.

Tôi đã mơ một giấc mơ dài về lửa cháy, khi cuối cùng cơn ác mộng cũng kết thúc và tôi tỉnh lại, sự bồng bềnh của chiếc giường hơi làm tôi bối rối. Phải mất một lúc tôi mới chắc chắn mình đang mơ hay tỉnh.

Tôi kể với Marianne Engel về việc đứng được tám giây trong ngày đầu tiên cố gắng, và đứng được những mười ba giây vào ngày thứ hai. Cô cố gắng tỏ ra thán phục đúng cách đối với những thành tựu của tôi, nhưng hiển nhiên là cô đang bị rối trí vì chuyện gì đó.

"Có chuyện gì vậy?"

"Hả? Không, không, không có gì cả." Cô chạm tay lên cái u nằm thù lù, đang lớn lên từng ngày, trên vai tôi. "Cái gì thế?"

"Cái này gọi là giãn mô."

Tôi giải thích với cô là dưới da tôi có một quả bóng hơi nhỏ làm bằng silicone, và hằng ngày các bác sĩ tiêm thêm một chút muối vào đó. Khi quả bóng hơi phình ra thì da tôi cũng giãn theo, giống như khi người ta tăng cân ấy. Cuối cùng, quả bóng hơi bị hút cạn và tôi sẽ được thêm một mảnh da nữa, mảnh da ấy sẽ được cấy từ vai tôi xuống một điểm nhận nào đó trên cổ.

"Thật tuyệt, ước gì trong lần đầu tiên tôi có thể làm điều tương tự cho anh."

"Cái gì cơ?"

"Đừng bận tâm." Cô chạm vào chỗ u lần nữa, rồi mỉm cười. "Anh biết không, sự phát triển đó làm tôi nghĩ đến những đinh nhọt do Dịch hạch Đen gây ra."

"Cái gì?"

"Tôi có người bạn..." Cô dần nín bặt như thể đã đánh mất suy nghĩ của mình trong không trung. Cô ngồi đó vài phút, nhìn đăm đăm vào khoảng không, nhưng thay vì ngồi yên, tay cô vung vẩy còn nhiều hơn lúc nghịch điếu thuốc chưa hút hay chạm vào cái vòng cổ. Trông chúng như muốn xòe ra và tiết lộ câu chuyện cô đang giấu giếm tôi.

Cuối cùng, cô hất đầu về phía chiếc bàn đầu giường tôi. Trên đó là chồng sách tâm lý học mà cô đã luôn kìm nén để không hỏi gì về chúng. "Anh đang tìm hiểu tôi," cô nói. "Liệu tôi có nên thuê vài bộ phim khiêu dâm của anh để hiểu anh rõ hơn không?"

Điều này - dù tôi nghĩ sẽ không nói thẳng ra với cô dưới bất cứ hình thức nào - là điều mà tôi không bao giờ muốn cô làm. Tôi bắt cô hứa không bao giờ được xem bất kỳ bộ phim nào của tôi cả.

"Tôi đã nói với anh là tôi không quan tâm rồi mà," cô nói. "Anh thấy xấu hổ à?"

Tôi bảo đảm với cô là tôi chả xấu hổ gì đâu; tôi chỉ không muốn cô xem chúng thôi. Đó là sự thật, nhưng không phải tất cả: tôi không muốn cô xem chúng bởi vì tôi không muốn cô biết một tôi trước đây, rồi đem so sánh với tôi bây giờ. Tôi không muốn cô nhìn thấy vẻ đẹp của tôi, làn da mềm mại của tôi, thân hình cường tráng của tôi, và rồi lại phải nhìn lên cái thứ kinh tởm đang nằm trên chiếc giường trước mặt cô. Tôi nhận ra điều này rất vô lý, và dĩ nhiên cô cũng biết tôi từng có thời không bị bỏng, nhưng tôi không muốn điều đó trở nên thực tế với cô hơn nữa. Nếu cô có thể chấp nhận tôi như thế này, có lẽ chỉ vì cô không có gì để so sánh cả.

Marianne Engel đi về phía cửa sổ và nhìn chằm chằm ra ngoài trong giây lát, trước khi quay lại buột miệng: "Tôi ghét phải rời xa anh, và tôi muốn luôn được ở bên giường anh. Tôi cần anh hiểu là khi tôi nhận chỉ thị thì điều đó hoàn toàn nằm ngoài khả năng của tôi."

Đây là một trong những lúc hiếm hoi tôi hiểu được chính xác cô đang nghĩ gì: cô có một bí mật muốn chia sẻ, nhưng biết rằng đó là loại bí mật mà hầu hết mọi người không hiểu được. Bật mí là một vấn đề sống còn nhưng cô lại luôn lo rằng điều đó quái dị đến độ khó có thể nói ra. Chẳng hạn giống như khi giải thích rằng có một con rắn ký sinh trong xương sống của bạn ấy.

"Khi chuẩn bị làm việc," Marianne Engel bắt đầu, hít thật sâu, "tôi thường ngủ trên đá trong ít nhất mười hai tiếng đồng hồ, nhưng thường là lâu hơn. Đó là công đoạn chuẩn bị. Khi nằm trên một tảng đá, tôi có thể cảm nhận được nó. Tôi có thể cảm nhận được tất cả những gì thuộc về nó, mọi thứ bên trong. Nó rất... ấm áp. Cơ thể tôi chìm vào những đường nét của nó rồi tôi cảm thấy mình không trọng lượng, như đang trôi vậy. Tôi gần như... mất khả năng cử động. Nhưng điều đó thật tuyệt vời; nó hoàn toàn trái ngược với sự tê liệt. Nó giống như sự thức tỉnh, siêu thức tỉnh, đến nỗi tôi không thể cử động vì cảm giác ấy đã hoàn toàn lấn át."

"Cô có ý gì khi nói mình có thể cảm nhận được những gì bên trong tảng đá?" tôi hỏi.

"Tôi thu nhận những giấc mơ của tảng đá, và những con gargoyle trong đó nói cho tôi biết những gì tôi cần làm để giải thoát chúng. Chúng cho tôi nhìn mặt và chỉ cho tôi cách biến chúng trở nên trọn vẹn. Khi đã có đủ thông tin, tôi liền bắt tay vào làm. Cơ thể tôi tỉnh táo, nhưng tôi không có ý niệm gì về thời gian, không có gì trừ công việc. Nhiều ngày trôi qua tôi mới nhận ra mình không hề ngủ và cũng gần như không ăn gì. Như thể tôi đang cố đào một nạn nhân sống sót ra khỏi trận tuyết lở của thời gian đã tích tụ qua hàng thế kỷ rồi bất ngờ đổ ập xuống núi cùng một lúc. Những con gargoyle vẫn luôn ở trong tảng đá nhưng, chính giây phút này, chúng không thể chịu nổi việc phải ở lại thêm chút nào nữa. Chúng đã ngủ vùi cả mùa đông trong tảng đá, và cái đục trong tay tôi mang mùa xuân đến. Nếu tôi đục đúng chỗ thì những gargoyle sẽ hiện ra như những bông hoa bừng nở trên bờ sông lởm chởm đá. Tôi là người duy nhất có thể làm điều đó, vì tôi hiểu ngôn ngữ của chúng và cũng là người duy nhất có thể trao cho chúng những trái tim cần thiết để bắt đầu cuộc đời mới."

Cô ngừng lại, dường như đợi tôi nói gì đó, bất cứ điều gì - nhưng người ta làm sao có thể đáp lại những lời tuyên bố như thế chứ? Vì cô muốn một câu trả lời nhanh gọn và tôi cũng muốn cô tiếp tục nói, nên tôi đã nói rằng đó có vẻ là một quá trình cực kỳ sáng tạo.

"Không, ngược lại là đằng khác. Tôi là một cái ống dẫn cho nước chảy ra chảy vào. Đó là một vòng tròn, một vòng tròn nước cuộn chảy giữa Chúa, những con gargoyle và tôi, vì đó chính là Chúa - một vòng tròn mà tâm ở khắp mọi nơi và chu vi thì không xác định. Và trong suốt thời gian tôi đục đẽo, giọng của gargoyle ngày càng to hơn. Tôi làm nhanh hết mức vì tôi muốn giọng nói đó dừng lại, nhưng nó cứ thúc giục tôi, đòi tôi giúp nó được tự do. Tiếng nói chỉ câm lặng khi tôi hoàn thành, và rồi tôi kiệt sức tới mức đến lượt tôi chìm vào giấc ngủ. Đó là lý do tôi mất hút năm, sáu ngày liền. Phải mất ngần ấy thời gian để giải phóng gargoyle và để tôi có thể hồi phục. Tôi không thể quyết định lúc nào một gargoyle sẵn sàng sinh ra và tôi cũng không thể từ chối nguyện vọng của nó. Vì thế hãy tha thứ cho tôi những khi tôi không xuất hiện, vì tôi không có sự lựa chọn nào khác."

Ừm, được rồi. Ít nhất bây giờ tôi cũng biết cô làm gì với những trái tim mà cô nghĩ là đang ở trong ngực mình. Chúng sẽ nằm trong những bức tượng cô tạc.

Tôi đã từng chắc chắn rằng Marianne Engel bị tâm thần phân liệt, nhưng căn cứ vào thói quen làm việc của cô thì giờ tôi phải tính đến khả năng cô có thể bị khủng hoảng tinh thần. Mọi bằng chứng đều dẫn đến hướng đó: khi tôi gặp cô lần đầu, trông cô mệt mỏi và vận toàn đồ đen; giờ cô thật rạng rỡ trong cả cách ăn mặc và tính cách. Những người bị tâm thần phân liệt thường có xu hướng lảng tránh các cuộc trò chuyện, thỉnh thoảng còn ngồi yên hàng giờ liền, nhưng Marianne Engel lại hoàn toàn trái ngược. Và còn bản chất công việc của cô nữa. Rất nhiều nạn nhân khủng hoảng tinh thần trở nên nổi tiếng trong lĩnh vực nghệ thuật vì chính tình trạng bệnh lý của họ đã thắp lên ngọn lửa nhiệt tình cần thiết để sáng tạo ra những kiệt tác. Đây, dĩ nhiên, chính là việc Marianne Engel đang làm: sáng tạo tượng đài. Nếu những thói quen chạm khắc của cô không phải đặc điểm của một người loạn thần kinh, tôi cũng chẳng tưởng tượng được đó là cái quái gì nữa.

Nhưng cũng có rất nhiều bằng chứng về bệnh tâm thần phân liệt. Cô miêu tả những tiếng nói phát ra từ tảng đá, trao cho cô những chỉ dẫn. Cô coi bản thân mình là sợi dây kết nối với các đấng thần linh, và sản phẩm của cô là quỹ đạo trao đổi thông tin giữa Chúa, những gargoyle và bản thân cô. Chưa kể đến cái "quá khứ" ở Engelthal và niềm tin Địa ngục là một ấn phẩm văn hóa thích hợp cho phòng điều trị bỏng nữa. Tóm lại, hiếm có sự kiện nào trong đời cô mà không động chạm cách này hay cách khác đến Thiên Chúa giáo và, như đã nói từ trước, những người mắc chứng tâm thần phân liệt thường bị ám ảnh bởi các vấn đề tôn giáo.

Thống kê cũng đưa ra một dấu hiệu bệnh lý nữa. Bệnh tâm thần phân liệt hay gặp ở nam giới hơn nữ giới, nhưng hơn tám mươi phần trăm bệnh nhân tâm thần phân liệt nghiện thuốc lá nặng, và Marianne Engel thường xuyên nhảy khỏi phòng bỏng để hít chút nicotine. Và trong khi đang nói chuyện với tôi, mắt cô luôn bồn chồn, ánh nhìn cứ luôn khóa chặt lấy mắt tôi: điều này chỉ bắt đầu có ý nghĩa sau khi tôi đọc một cuốn sách của Gregor nói rằng những bệnh nhân tâm thần phân liệt rất hiếm khi chớp mắt.

Từ chối điều trị là tình trạng chung của cả hai bệnh lý, nhưng với những lý do khác nhau. Một người khủng hoảng tinh thần có thể từ chối dùng thuốc vì khi dùng liều cao thì cô ấy tin rằng không cần phải dùng liều thấp nữa, hoặc cô ấy đã quá nghiện liều cao đến nỗi liều thấp chỉ đơn giản là cái giá phải trả. Những người tâm thần phân liệt, mặt khác, lại có xu hướng từ chối dùng thuốc vì họ tin mình đang bị đầu độc - lời tuyên bố Marianne Engel đã đưa ra không chỉ một lần.

Giờ đây rất nhiều bác sĩ nghiêng theo giả thuyết là cả hai tình trạng bệnh lý này cùng song song tồn tại thường xuyên hơn nhiều so với những chẩn đoán thông thường, vì thế có thể người ta sẽ áp dụng cả hai chẩn đoán một lúc.

Cùng lúc lật các trang sách về sức khỏe tâm thần để hiểu cô rõ hơn, tôi càng ngày càng hiểu rõ bản thân mình, và tôi cũng không hoàn toàn thoải mái với những gì đọc được.

Tôi luôn so sánh mất mát của cô với mất mát của tôi, tự nhủ rằng cô không thể nào hiểu được nỗi đau thể xác của tôi trong khi tôi thực sự có thể hiểu được bản chất nỗi đau tinh thần của cô. Và trong khi rất nhiều chứng bệnh thần kinh có thể chữa khỏi nếu được điều trị đúng cách thì chẳng có một viên thuốc nào có thể khiến tôi trở lại bình thường. Một người điên điên dở dở vẫn có thể hòa mình vào đám đông nhưng tôi sẽ luôn luôn nổi bật với tư cách là một ngón tay cái cháy dở nhô lên khỏi nắm đấm loài người; điều này làm tôi có cảm giác mình là kẻ chiến thắng trong một cuộc thi không hề tồn tại.

Ngày hôm sau Marianne Engel xuất hiện trong bộ váy trắng giản dị với xăng đan hở ngón, nhìn cô người ta có thể lầm tưởng là một phụ nữ đến từ làng chài bên bờ Địa Trung Hải. Cô mang tới hai giỏ thức ăn, một trắng một xanh da trời, và tôi có thể nói chúng nặng đến thế nào theo cách cô khệ nệ xách vào phòng. Cúi người xuống, cái đầu mũi tên trên vòng cổ của cô nảy ra nảy vào trong cổ áo hình chữ V như miếng mồi gắn trên dây câu. "Cuối cùng tôi cũng có thể thực hiện được lời hứa là sẽ cho anh ăn rồi."

Tôi sẽ giải thích một chút về việc bác sĩ Edwards cho phép khách thăm bệnh mang đồ ăn vào phòng điều trị bỏng. Ngoài lợi ích tinh thần của một buổi picnic (nó là thế mà), còn có cả lợi ích thể chất nữa. Cùng với việc sức khỏe khá lên, cơ thể tôi đã xảy ra tình trạng gọi là tăng chuyển hóa: một cơ thể bình thường chỉ cần hai nghìn calo một ngày thì sau một vụ bỏng nặng có thể tiêu thụ đến bảy nghìn calo. Dù các ống thông mũi họng hằng ngày vẫn cung cấp chất dinh dưỡng vào thẳng dạ dày nhưng thế vẫn chưa đủ cho tôi và tôi đã được phép, thậm chí còn được khuyến khích, ăn thêm thức ăn ngoài.

Trước đây Marianne Engel cũng đã mang đồ ăn nhẹ đến cho tôi, nhưng rõ ràng bữa ăn hôm nay thịnh soạn hơn rất nhiều. Cô mở hai cái giỏ ra - một đựng đồ nóng còn một chất đầy đá để làm lạnh - và bắt đầu bày thức ăn ra. Có một cái bánh mì focaccia tròn mới nướng, vẫn còn vương mùi củi cháy, một chai dầu ô liu và giấm balsamic. Cô phết một lớp màu đen lên trên mặt chất màu vàng rồi nhúng một mẩu bánh focaccia vào hỗn hợp chất lỏng lốm đốm đó. Cô đọc câu kinh quen thuộc trước khi nâng miếng bánh bỏ vào miệng tôi: "Jube, Domine benedicere."

Cô cũng mang cả pho mát nữa: Camembert, Gouda, pho mát xanh, pho mát sữa dê Iran. Cô hỏi tôi thích loại nào và khi tôi chọn loại làm từ sữa dê, cô toét miệng cười. Tiếp, vài cái bánh bốc khói trong giấy gói trông giống như bánh kếp nhưng mùi thì kinh không chịu nổi. Bánh ngọt Gordonzola không phải ai cũng ăn được, cô giải thích, nhưng cô mong là tôi sẽ thích nó. Tôi thích thật. Những miếng dưa lưới tròn nằm ngoan ngoãn giữa những lát thịt muối prosciutto mỏng dính, sắc vàng mọng nước lấp ló qua màu đỏ của thịt.

Cô tiếp tục khai phá hai cái giỏ. Những quả ô liu xanh mọng đến chói mắt, bị nhồi ớt ngọt đến căng tròn, nằm ườn thỏa mãn trong một cái tô vàng. Một đĩa đầy cà chua tẩm giấm đen với pho mát bocconcini tròn trắng như tuyết. Hàng ổ bánh mì pita và những chiếc chén tràn đầy món khai vị hummus và xốt tzatziki. Hàu, cua, sò điệp chìm đắm trong một cái chết êm ái giữa biển nước xốt marinara; những lát chanh nhỏ đứng thăng bằng trên rìa đĩa như những chiếc phao cứu sinh đang chờ được ném xuống. Xúc xích lợn rắc hạt tiêu đen. Những miếng chả lá nho, cố ra vẻ phong trần nam tính trong bộ com lê nhỏ xinh màu xanh, được ướp thơm bằng rượu vang đỏ. Những khoanh mực ống dày dặn. Thịt soulvaki được nướng xiên cùng những củ hành phết bơ ngọt ngào và hạt tiêu om. Một miếng thịt cừu vai nấu kỹ đến nỗi nó sẽ rời ra nếu bạn chỉ cần vừa nhìn nó vừa nghĩ đến cái nĩa vây quanh là gia đình khoai tây nướng nhỏ bé mà hạnh phúc.

Tôi ngồi như bị mắc kẹt giữa ngồn ngộn thức ăn, không dám cử động vì sợ sẽ hất đổ một cái đĩa nào đó. "Chúng ta không thể nào ăn hết chỗ này được."

"Hết hay không không phải vấn đề." Cô lấy một cái chai ra khỏi giỏ lạnh. "Hơn nữa, tôi chắc chắn các nữ y tá sẽ rất vui vẻ giúp đỡ chúng ta xử lý chỗ còn lại. Anh sẽ không nói với họ là tôi uống rượu chứ, nhỉ? Tôi thích rượu nho Hy Lạp vì có thể nếm được cả vị đất trong đó."

Mấy cô y tá nhanh chóng đứng lố nhố quanh cửa như một bầy chim hải âu háu đói. Tôi có một cảm giác hãnh diện kỳ lạ rất đàn ông, cái cảm giác ta có được khi bị bắt gặp đang hẹn hò với một phụ nữ xinh đẹp. Đám y tá cười rúc rích và bình phẩm vài câu trước khi bỏ đi trực ca. Marianne Engel đưa từng miếng nhỏ vào miệng tôi. "Thử cái này đi... Anh sẽ rất thích. Nữa nhé."

Chúng tôi rất nỗ lực, nhưng số phận đã định sẵn là chúng tôi không bao giờ có thể ăn hết được. Khi chúng tôi cuối cùng cũng chịu thua, cô mang ra một cái bình giữ nhiệt bằng kim loại mỏng và đổ cà phê Hy Lạp vào hai tách nhỏ. Cà phê đặc quánh đến mức mất đến ba mươi giây mới đổ xong. Rồi cô mang món tráng miệng ra: bánh baklava phết mật ong dày đến nỗi trào cả ra ngoài như một tổ ong đang làm từ thiện. Kem gelato ba màu, xanh trắng đỏ. Và dĩ nhiên cả món bougatsa, cảm hứng cho tên con chó của cô - bánh ngọt nâu nhạt với kem trứng phết giữa những lớp bánh phyllo.

"Anh có thích nghe một câu chuyện không?" Marianne Engel nói. "Nó kể về tình yêu đích thực, tình anh em sâu nặng và những mũi tên tìm được đến đích."

"Lại về cô nữa à?"

"Không, đó là câu chuyện về người bạn tốt Francesco Corselini của tôi."

Chú thích

(20) Paracelsus (1493-1541) là nhà vật lý học, thực vật học, giả kim, thiên văn học và huyền bí học thời Phục hưng.

(21) Genki: khoẻ (tiếng Nhật).
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 11


Nếu có một điều Graziana biết chắc thì đó là Francesco yêu quý của cô là một người đàn ông tốt. Anh là thợ rèn ở thành phố quê hương Firenze của họ và luôn nỗ lực trau dồi tay nghề, luôn cố gắng rèn một cái móng ngựa tốt hơn hay một thanh kiếm mạnh mẽ hơn. Thỉnh thoảng anh làm quên thời gian và chỉ dừng lại khi Graziana xuất hiện bên xưởng để gợi ý anh nên quan tâm đến lửa trong lò rèn ít thôi và quan tâm đến lửa trong lòng vợ nhiều hơn. Cô đùa là anh hẳn phải làm điều gì đó rất tệ trong kiếp trước nên giờ mới phải chăm chỉ đến vậy để chuẩn bị cho hậu sự dưới Địa ngục. Anh cười, hứa sẽ đến ngay, và Graziana cũng cười theo. Cô biết chồng mình sẽ chẳng bao giờ phải xuống Địa ngục.

Francesco không bao giờ được biết đến với vai trò "người làm kiếm giỏi nhất nước Ý" hay "người thợ rèn vĩ đại của thành Firenze", nhưng với anh điều đó chẳng quan trọng. Anh muốn được làm một thương nhân tốt, một người thợ rèn đáng tin cậy kiếm những đồng tiền chân chính, nhưng khát khao thật sự của anh là được làm một người chồng tuyệt vời. Anh làm những món quà xinh đẹp cho Graziana tại xưởng rèn của mình - chân nến, bát đĩa và những món trang sức tuyệt diệu nhất. Anh luôn tự hào nói rằng thành công lớn nhất của anh là đôi nhẫn cưới anh đã làm cho mình và Graziana. Trong một căn phòng ở nhà họ, có cả một bộ sưu tập đồ kim loại cho đứa con sắp được thụ thai của hai anh chị. Anh mơ về ngày mình sẽ là người cha tuyệt vời của những đứa con cô sinh ra.

Anh chàng Francesco này không phải một người đàn ông đẹp ngất ngây, nhưng vợ anh cũng chẳng phải tuyệt thế giai nhân gì. Đối với một số phụ nữ thì anh hơi lông lá quá, hai cánh tay rắn chắc của anh vươn ra từ một thân hình được vỗ béo bởi quá nhiều bia và mì sợi. Graziana thường gọi anh là L"Orsacchiotto - Con Gấu - và chọc chọc vào bụng anh, và Francesco sẽ đáp lại, "Tập luyện ghê lắm mới được thế đấy. Đây là kiểu cơ bắp thả lỏng."

Graziana có mái tóc dày và đôi mắt đen nhưng những điểm còn lại của cô thì chẳng có gì nổi bật. Tuy nhiên, Francesco luôn nói với cô rằng cô là người phụ nữ đẹp nhất nước Ý, anh tin như thế. Họ là một đôi thanh mai trúc mã và hầu như không ngày nào anh lại không cám ơn Chúa vì đã cho cô làm vợ mình.

Họ thật hạnh phúc. Cô thật tốt bụng. Anh thật tận tụy. Cần phải nói thêm gì nữa không?

Thật bất hạnh, có.

Đó là năm 1347 và một căn bệnh quái lạ đã tràn đến từ Trung Hoa, căn bệnh khủng khiếp nhất người ta từng biết. Nó càn quét khắp những bến cảng, vào sâu trong thành phố và vùng đồng quê nước Ý, giết người như đám cháy rừng thiêu rụi cây cối. Ở các thị trấn, chuông nhà thờ đổ không ngớt vì người ta tin rằng tiếng chuông sẽ đánh đuổi bệnh tật. Rất nhiều người tin rằng mùi của người chết làm căn bệnh đó lan tràn, nên họ luôn ra đường với những chiếc khăn tay tẩm nước hoa che kín mặt. Trầm hương đốt khắp nơi, hòa lẫn với mùi hôi thối của xác chết...

Một chiều muộn, Graziana thấy sốt. Cô về phòng nghỉ một chút. Khi thức dậy vào tối hôm đó, cô đã phát hiện ra một cục hạch to bằng quả trứng ở háng, và những cục khác đang sưng lên dưới hai nách. Cô biết rằng Dịch hạch Đen đã tấn công mình.

Trong bếp, Francesco đang chuẩn bị thức ăn. Cô thét bảo anh đi, ngay lập tức, vì cô đã bị nhiễm bệnh. "Gavoccioli!"cô gào lên. Sưng bạch hạch đấy. Cô bắt anh phải cứu lấy chính mình, vì tất cả mọi người đều biết rằng sẽ không có thuốc chữa, không có hy vọng nào cả. Cô khẩn khoản, "Đi đi! Đi ngay đi!"

Căn bếp chìm trong tĩnh lặng. Graziana nằm trên giường, nghe im lặng trùm lên khoảng cách giữa cô và người chồng. Rồi cô nghe thấy anh bắt đầu gõ xoong chảo để giấu tiếng khóc. Vài phút trôi qua; Francesco bước xuống hành lang về phía cô. Cô la hét, chửi ầm lên bắt anh tránh ra xa, nhưng anh đã đứng trước cửa phòng với một khay mì sợi và chút rượu.

"Em sẽ thấy khá hơn nếu em ăn gì đó, chỉ một chút thôi cũng được," Francesco nói. Anh bước vào phòng, đặt cái khay xuống và ngồi bên cạnh cô. Rồi anh cúi xuống hôn cô.

Graziana cố đẩy anh ra. Đó là lần đầu tiên và duy nhất trong đời cô có ý từ chối anh nhưng Francesco dùng sức mạnh của người thợ rèn trong anh để áp đảo cô và hôn trả lại tất cả những sự kháng cự vào miệng cô. Sau vài giây cô nhận ra có chống cự cũng vô ích nên chấp nhận những nụ hôn của anh. Thế là xong.

Tối đó họ ăn một chút rồi đi nằm. Qua cửa sổ, trăng tròn nhìn họ trìu mến. "La luna è tenera," Francesco nói. Mặt trăng thật dịu dàng. Anh nhắm mắt lại và ôm cô chặt hơn. Điều cuối cùng Graziana nhìn thấy vào tối hôm đó là khuôn mặt anh đang ngủ. Khi cô thức dậy vào sáng hôm sau, khuôn mặt anh là thứ cô nhìn thấy đầu tiên trong ngày mới. Cô bị sốt rất cao, mồ hôi đổ đầm đìa, và mạch thì đập nhanh như ngựa phi nước đại.

"Nhìn này," anh dịu dàng nói, "những đốm đen đã xuất hiện trên da em rồi." Graziana bắt đầu khóc, nhưng Francesco mỉm cười vuốt tóc cô. "Đừng khóc. Chúng ta không có thời gian cho nước mắt đâu. Hãy để chúng ta yêu nhau khi còn có thể."

Buổi chiều hôm ấy, bệnh tình của Graziana đã đến lúc cực kỳ nguy kịch. Trong suốt ba ngày, họ nằm cùng nhau. Trong suốt ba ngày, Graziana hấp hối trong vòng tay anh khi anh kể cho cô nghe câu chuyện về những con thiên nga, về những điều kỳ diệu và tình yêu vĩ đại. Nửa đêm thứ ba kể từ khi cô ngã bệnh, Francesco bị những tiếng thở nặng nhọc của cô đánh thức. Cô quay mặt về phía anh.

"Đã đến lúc rồi."

Anh nói, "Anh sẽ sớm gặp lại em."

Francesco hôn Graziana lần cuối, mang hơi thở cuối cùng của cô vào tận sâu trong lồng ngực. "Ti amo," cô nói. Em yêu anh.

Sau khi cô ra đi, Francesco tháo chiếc nhẫn cưới khỏi ngón tay cô. Anh giờ cũng ốm rất nặng, nhưng vẫn cố gồng mình ra khỏi giường. Anh hầu như không thể đứng nổi, tập tễnh vì buồn nôn và sốt, nhưng anh vẫn cố ép mình đi về phía lò rèn. Vẫn còn một việc nữa cần phải làm.

Anh nhóm lửa và đốt lò. Anh nung chảy cả hai chiếc nhẫn cưới, của anh và của cô, rồi đổ chúng vào một chiếc khuôn hình mũi tên. Khi đầu mũi tên hoàn thành, anh đặt nó lên cán tên. Anh nhìn xuống dọc chiều dài mũi tên, đảm bảo nó thẳng và chuẩn như bất cứ mũi tên nào anh từng làm.

Francesco giật cây cung treo trên tường xuống. Nó từng thuộc về cha anh, một cung thủ vĩ đại, người đã hy sinh trên chiến trường khi Francesco và anh trai Bernado còn nhỏ. Cây cung này, cây cung được một người đồng đội của cha mang trở lại Firenze, là tài sản duy nhất của cha mà Francesco có được. Ngoài kỷ vật này, anh thậm chí còn không có chút ký ức nào về ông.

Anh quay về phòng ngủ, bên xác Graziana. Anh với tay qua ô cửa sổ mở và đặt cây cung ra ngoài. Giờ đã tảng sáng và anh nhờ một cậu bé đi ngang qua gửi lời nhắn tới cho anh trai anh, vốn đang sống tại một khu khác trong thành phố. Một tiếng sau, Bernado đã đứng ngoài cửa sổ phòng ngủ của Francesco.

Francesco khẩn nài người anh đừng lại gần thêm chút nào nữa, sợ rằng sẽ lây bệnh sang cho anh mình. Francesco xin một ân huệ cuối cùng.

"Bất cứ điều gì," Bernado nói. "Anh sẽ trân trọng nguyện ước cuối cùng của em."

Sau khi Francesco thỉnh cầu xong, anh ngồi lên giường, quay mặt ra cửa sổ. Giữa những tiếng sụt sịt, Bernado nâng cung lên và đặt mũi tên vào vị trí. Anh hít một hơi thật sâu, dồn hết sức và cầu xin linh hồn người cha dẫn đường cho mũi tên trúng đích. Bernado buông dây cung và để mũi tên bay đi. Đường tên đi chính xác và cái chết đến ngay lập tức.

Francesco ngã ngửa xuống giường, bên cạnh Graziana của anh, với đầu mũi tên được làm từ chiếc nhẫn cưới của hai người găm chắc vào tim. Anh đã chết như đã sống, trong tình yêu.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 12


Không ai có thể quy kết tôi quá lãng mạn được, vì ngay sau khi Marianne Engel kể xong câu chuyện thì điều đầu tiên tôi thốt ra là: "Cô không thấy việc cả hai cùng chết vì bệnh dịch là quá bi thảm hả?"

Tôi sẽ để các bạn tự tưởng tượng tông giọng của cô khi cô nói không, cô không thấy câu chuyện tình yêu này "bi thảm" chút nào.

Sau khi cô đi, tôi ngồi phân tích câu chuyện này từ rất nhiều khía cạnh khác nhau. Nó thật viển vông: nước Ý thời Trung cổ, hy sinh, cống hiến và những chiếc nhẫn cưới được bắn xuyên qua Trái Tim Người Chồng Đích Thực Của Tâm Hồn. Theo logic, tôi đi tới kết luận là điểm cốt lõi của câu chuyện không phải ở việc đôi ấy chết vì căn bệnh hiểm nghèo mà ở chuyện có một điều sâu sắc nào đó trong hành động của Francesco. Tuy nhiên, nếu đang ở trong bếp nấu mì mà vợ bắt đầu rên la vì những cục u to bằng con voi của cô ấy, tôi sẽ phi ra cửa sau ngay tắp lự.

Suốt mất ngày trời, tôi đợi Marianne Engel quay lại, háo hức muốn thông báo với cô rằng sau khi suy nghĩ kỹ càng tôi nhận thấy Francesco cũng không phải một anh ngốc vô phương cứu chữa cho lắm. Tôi muốn cho cô thấy tôi đang phát triển với tư cách một con người, như mấy ông sính dùng thuật ngữ tâm lý học hay nói, vì cô cần được cập nhật thông tin về những sự phát triển này. Khi cô không đến, tôi băn khoăn không biết có phải cô đã bị gọi đi phục vụ bọn gargoyle hay do tôi đã làm cô cụt hứng với mấy câu nhận xét chẳng chút lãng mạn nào của mình. Và cái bộ não to bằng quả óc chó của tôi bắt đầu hoạt động lại: Cụt hứng quái gì? Làm sao tôi lại có thể cho phép bản thân, dù chỉ trong giây lát, nghĩ rằng chúng tôi là một đôi cơ chứ? DỞ HƠI.

Beth đến bên giường tôi mang theo một cái gói mà cô nói vừa được người đưa thư chuyển đến. Tôi xé toạc ra thì thấy một lời nhắn viết trên cuộn giấy da nâu. Chữ trông như được viết bằng bút lông ngỗng, từ hàng thế kỷ trước, bay bướm với thư pháp thất truyền từ lâu.

Người yêu dấu của tôi.

Tôi sẽ làm việc trong vài ngày tới.

Những linh hồn lại chế ngự tôi một lần nữa.

Gargoyle khao khát được chào đời.

Sớm gặp lại anh,

M.

Tôi thấy rất thanh thản vì không phải tại tôi đã làm gì không hợp ý nên cô mới không đến; lý do chỉ đơn giản là một đợt chạm khắc nữa.

Có một bộ phim truyền hình trên ti vi. Edwards lại bị mất trí nhớ lần nữa, còn cô chị gái biệt tăm biệt tích của Pamela đã quay trở lại sau chuyến đi từ thiện tại châu Phi. Tôi đẩy quả bóng lên tấm ván. Tôi nhìn khuôn mặt phản chiếu của mình trên lớp bạc lăn đi. Tôi đạp chân. Thêm nhiều lớp da nữa được thu hoạch. Morphine tiếp tục nhỏ từng giọt một. Con rắn tiếp tục liếm đáy sọ tôi. TA ĐANG TỚI ĐÂY VÀ NGƯƠI CHẲNG THỂ CẢN ĐƯỢC ĐÂU. Và còn nữa: THẰNG ĐỂU, ĐỒ THUA CUỘC, ĐỒ HAY THAN VÃN, THẰNG NGHIỆN, QUỶ SỨ, QUÁI VẬT, ÁC MA, ĐỒ KHỐN, QUÁI THÚ, VŨ PHU, YÊU TINH, ĐỒ HẾT THỜI, ĐÃ CHẲNG LÀ CÁI GÌ RA HỒN, SẼ KHÔNG LÀ CÁI GÌ RA HỒN. KHÔNG ĐƯỢC YÊU, KHÔNG ĐÁNG YÊU, KHÔNG PHẢI NGƯỜI.

A, con rắn ngu ngốc thì biết cái quái gì? Marianne Engel đã gọi tôi là "Người yêu dấu của tôi".

Tôi nghĩ về Francesco làm việc trong hơi nóng lò rèn. Tôi nghĩ về Graziana ăn mì sợi trên giường bệnh, chỉ một chút để cô cảm thấy đỡ hơn. Tôi nghĩ về những người yêu nhau khi cái chết đang đến gần, tôi cố gắng tưởng tượng mình sẽ trân trọng một người nào đó đến mức sẽ chết vì họ; tôi, người thấy việc sống cho chính bản thân mình đã khó khăn lắm rồi. Và tôi cố gắng hình dung chuyện gì sẽ xảy ra khi cuối cùng tôi cũng được rời khỏi khoa bỏng, và mối quan hệ của tôi với Marianne Engel sẽ thay đổi như thế nào.

Bệnh viện là một môi trường biệt lập nơi tôi thấy sự lập dị của cô thật đa dạng sắc màu, nhưng đó cũng là nơi sự lập dị ấy không có khả năng thật sự ảnh hưởng đến cuộc sống hằng ngày của tôi theo một cách tiêu cực. Tôi được bảo vệ bởi một thời gian biểu đều đặn, và nhóm bác sĩ chịu đựng cô vì tôi đã đấu tranh cho những cuộc viếng thăm của cô và vì tôi chẳng có một người bạn nào khác - ngoại trừ, có lẽ, Gregor. Vì mới chỉ gặp cô trong một môi trường bó hẹp, hạn chế, tôi bắt đầu băn khoăn thế này: ở đời thực, Marianne Engel sẽ còn điên tới mức nào nữa?

Khi cô nói về những trái tim trong ngực mình, hay cuộc sống của cô bảy trăm năm về trước, đó quả là một sự chuyển hướng tuyệt vời khỏi sự đơn điệu thường ngày. Thỉnh thoảng tôi hơi khó chịu, nhưng trong lòng tôi thường thấy rộn ràng khi nghĩ cô cảm thấy một "mối liên hệ thần bí" với tôi. Nhưng tôi sẽ đối xử với cô như thế nào nếu cô gặp tôi trước vụ tai nạn? Không nghi ngờ gì nữa, tôi chắc chắn sẽ phẩy tay xua cô đi và tiếp tục con đường riêng của mình. Chỉ là một mụ điên khác thôi. Trong bệnh viện, dĩ nhiên, tôi không thể bỏ đi đâu được cả.

Sẽ đến lúc tôi có thể bỏ đi được, nếu tôi muốn.

Cô Marianne Engel của tu viện, lần gặp gần đây nhất là một đứa trẻ sống ở đầu thế kỷ mười bốn, đã bắt đầu công cuộc tập huấn của mình trong phòng viết tại Engelthal. Những trụ sở như thế được lập ra từ vài trăm năm trước, khi Charlemagne ra lệnh xây dựng các thư phòng để lưu giữ những bản thảo quan trọng. Lúc đầu, dĩ nhiên, việc viết sách hầu như chỉ để lưu giữ Lời của Chúa.

Công việc viết lách không hề đơn giản. Anh ấy - hoặc, trong trường hợp ở Engelthal, cô ấy - sẽ chỉ được cung cấp những dụng cụ đơn giản: dao, phiến mài mực, phấn, dao cạo, bọt biển, đầu mẩu bút chì, thước kẻ và dùi đục. Để giữ an toàn cho các cuốn sách, không được phép đốt nến trong phòng viết. Nếu trời trở lạnh, người viết thậm chí còn không thể sưởi ấm tay mình được. Giá trị của các cuốn sách lớn đến mức những phòng viết thường được đặt tại tầng cao nhất của tòa tháp bất khả xâm phạm; bản thân những cuốn sách chứa đựng những đoạn cảnh báo về hậu quả của trộm cắp và phá hoại. Điển hình một đoạn còn viết rằng kẻ trộm sách sẽ bị ốm nặng, sốt cao, bị bánh xe nghiền nát và bị treo cổ. Không phải chỉ chịu một trong số những hình phạt này mà phải chịu lần lượt từng cái một.

Đó là một đời sống khắc khổ, nhưng người viết phải luôn tự nhắc bản thân mình rằng mọi từ cô chép ra vừa là điểm cộng cho cô vào Ngày Phán xét Cuối cùng vừa là một vũ khí chống lại quỷ Satan. Kẻ thù không đội trời chung này, tuy nhiên, không phải loại bị tấn công mà không trả đũa, và thế là hắn đã cử Titivillus, quỷ sứ bảo hộ cho nghệ thuật thư pháp, phản đòn.

Titivillus là một tên tiểu quỷ lắm mưu nhiều kế. Dù người chép có ý định tốt đẹp đến đâu chăng nữa, công việc viết lách cứ lặp đi lặp lại tẻ nhạt vô cùng. Tâm trí sẽ lang thang nơi nào đó và vài lỗi sai sẽ xuất hiện. Nhiệm vụ của Titivillus là đổ đầy sai sót vào cái bao của mình hàng nghìn lần một ngày. Những bản thảo lỗi sẽ được mang đến cho Satan, chúng sẽ được ghi lại vào Cuốn sách Sai sót và được dùng để chống lại những ghi chép về Ngày Phán xét Cuối cùng. Vì thế việc ghi chép đặt người viết vào một tình thế ngặt nghèo: viết chính xác thì được điểm cộng, viết không chính xác sẽ bị điểm trừ.

Nhưng âm mưu của Ác quỷ không thành. Biết được việc làm của Titivillus, những người chép sách càng nỗ lực hoàn thành bản thảo chuẩn xác hơn. Cuối cùng Titivillus không còn cách nào đổ đầy cái bao của mình nữa và bị giáng xuống làm kẻ suốt đời lẩn quất trong nhà thờ, ghi lại tên của những người phụ nữ ngồi buôn chuyện trong thánh lễ Mass.

Trường hợp nào cũng thế, những bản thảo điển hình được viết bởi một thầy ký Trung cổ theo kiểu chữ thường Gothic - điều thú vị ở đây là nó giống hệt kiểu chữ Marianne Engel dùng ghi chép thường ngày. Điều này thật ra cũng chẳng chứng tỏ được điều gì, nhưng tôi sẽ thấy mình thật tắc trách nếu không đả động gì đến nó.

Sáu ngày trôi qua kể từ khi Marianne Engel gửi lời nhắn. Năm ngày kể từ lần gần nhất các miếng thịt của tôi được lóc từ chỗ này đắp sang chỗ khác trên cơ thể. Bốn ngày kể từ khi tôi có thể tự đứng được trong ba mươi bảy giây. Ba ngày kể từ lần nói chuyện cuối cùng giữa tôi và Gregor. Hai ngày kể từ khi tôi tự đứng được trong bốn mươi sáu giây, được cô Sayuri Mizumoto sinh lực tràn trề đỡ. Một ngày kể từ khi tôi lại trở về tình trạng chúi đầu chúi mũi toan tính tự tử.

Khi Gregor ghé thăm, tôi có thể thấy ngay rằng ông ta vẫn đang tập luyện, nhưng dưới cằm vẫn còn chút mỡ thừa chưa tống khứ đi được. Bộ râu dê mới tỉa của ông ta cũng giúp che được phần nào chỗ đó, và tôi khen ngợi ông ta hết mực về những cải thiện ngoại hình và hỏi người phụ nữ may mắn là ai.

Ông ta vội trả lời là chẳng có người phụ nữ nào cả. Cứ rối rít cả lên. Nhận thấy mình đã vô tình để hớ, ông ta thay đổi chiến thuật và cố đánh trống lảng như chẳng có chuyện gì nghiêm trọng, nhưng chỉ tổ lộ tẩy mà thôi.

Đó là một đặc tính kỳ lạ nhưng rất cố hữu ở những người luôn thấy bản thân mình kém hấp dẫn. Họ xấu hổ nếu ta úp mở rằng họ có thể đang thích một ai đó; vì họ cảm thấy không xứng đáng được nhận sự quan tâm từ người khác, họ cũng từ chối quan tâm đến người khác luôn.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 13


Chúng tôi vẫn chưa đủ thân thiết để tôi có thể tò mò thêm nên khi Gregor cố thay đổi chủ đề, tôi để ông ta yên.

Sayuri nhảy bổ vào phòng tôi, nói ra những lời phải được viết bằng chữ in nghiêng. "Chào buổi sáng! Anh có thể dành chút thời gian nói về việc chữa trị được không?"

Tôi nói với cô là tôi không có thời gian. Giọng tôi không khác nào một tiếng huỵch nặng nề xen lẫn những tiếng kim loại leng keng, như một khay đầy dao kéo rơi độp xuống đất. Đó chính xác là điều tôi mong đợi.

"Sốc quá!" Sayuri thảng thốt kêu lên, lấy tay che miệng trước khi vỗ về tôi rằng nụ cười là thang thuốc bổ, và bắt đầu giải thích rằng hôm nay cô đến để làm vài bài kiểm tra thể lực và độ tinh nhạy của tôi. Những khả năng của cơ thể tôi, cô giải thích, "vẫn chưa xác định được," cho nên cô sẽ dùng một thiết bị gọi là máy đo góc để đo độ linh hoạt các khớp xương của tôi. Cô nâng cánh tay tôi lên rồi gập ở khuỷu, nguệch ngoạc ghi kết quả vào một cuốn sổ nhỏ. Rồi cô kiểm tra chân tôi, nhận ra chân phải của tôi (cái chân đã bị nát bấy) hầu như không có phản ứng gì. Cô cẩn thận ghi vào cuốn sổ nhỏ của mình. "Có một chút vấn đề."

Tiếp, để đo cảm giác ở các vùng khác nhau trên cơ thể tôi, cô chọc một cái gậy đáng ghét vào tôi và hỏi cảm giác thế nào. Tôi nói với cô là tôi có cảm giác như cô đang dùng một cái gậy đáng ghét chọc vào tôi ấy. Ôi, cái cách cô cười; tôi mới là một nghệ sĩ tấu hài tài ba làm sao.

Sayuri đặt chiếc bút chì của mình vào bàn tay còn lành lặn của tôi và bảo tôi viết gì đó vào cuốn sổ của cô. Tôi viết, nét chữ run rẩy, Cô ấy đang ở đâu? (Đây là một ví dụ khác cho thấy tôi sinh ra dưới ngôi sao may mắn khi ngọn lửa đã tha cho bàn tay phải của tôi trong khi tôi bẩm sinh thuận tay trái.) Sayuri không mảy may để tâm đến những từ tôi viết ra; cô chỉ quan tâm đến độ linh hoạt của tôi thôi. Cô chuyển chiếc bút sang tay trái của tôi, cái bàn tay thiếu một ngón rưỡi, và bảo tôi viết một câu khác. Tôi cố nguệch ra mấy chữ Khốn nạn. Sayuri nhìn thành quả văn chương của tôi và nhận xét rằng ít nhất cô cũng nhận được mặt chữ.

Cô tóm gọn mọi thứ bằng việc nói rằng tôi sẽ sớm có một chương trình tập luyện, khá là hấp dẫn đấy! "Chúng ta sẽ cùng nỗ lực để anh đi được trên chính đôi chân của mình, dạo quanh khắp nơi, trước cả khi anh kịp nhận ra ấy chứ!"

Tôi nói rằng tôi đã biết quá rõ mình phải đi như thế nào rồi, thế nên làm thế quái nào mà tôi thấy hứng thú với chuyện đó được?

Sayuri chỉ ra ­­­- với phong thái vô cùng dịu dàng - là dù tôi đã biết đi khi ở trong cơ thể cũ của mình, tôi sẽ phải học đi khi ở trong cơ thể mới này. Khi tôi hỏi cô xem liệu tôi còn có thể đi lại như một người bình thường không, cô nhẹ nhàng nói rằng có lẽ tôi đang nhìn nhận vấn đề hơi nhầm lẫn một chút và tôi cần tập trung vào những bước đầu tiên thay vì cả quá trình.

"Chỉ là một đống tri thức Đông phương rẻ tiền chẳng liên quan gì đến cuộc sống của tôi."

Tôi đoán đó là lúc cô nhận ra tôi đang cố kiếm cớ cãi nhau nên cô tiến lại gần tôi một bước. Cô nói rằng việc tôi có thể đi được tốt đến mức nào phụ thuộc vào rất nhiều thứ, nhưng đóng vai trò quan trọng nhất vẫn là ý chí của tôi. "Số phận của anh nằm cả trong tay anh thôi."

Tôi nói với cô rằng tôi ngờ việc tôi tiến bộ đến đâu thực sự chẳng liên quan gì đến cô cả, vì kiểu gì cô cũng được nhận đủ số tiền thôi.

"Như thế không công bằng," cô trả lời, trao cho tôi chính sự mào đầu mà tôi đang trông đợi. Tôi chớp ngay lấy thời cơ và giải thích cho cô cái thực sự "không công bằng" là gì. "Không công bằng" nghĩa là trong khi cô có thể về nhà vào mỗi buổi tối, ăn sushi và xem Godzilla trong suất chiếu muộn thì tôi vẫn phải nằm lay lắt trên giường bệnh với cái ống hút phân. Cái ấy ấy, tôi chỉ ra cho cô, mới là không công bằng.

Sayuri nhận ra rằng đôi co với tôi cũng chẳng ích lợi gì, nhưng cô vẫn rất dịu dàng. "Anh đang cảm thấy sợ và tôi có thể hiểu điều đó. Tôi biết thật khó khăn khi anh muốn tưởng tượng ra kết cục trong khi anh thậm chí còn chưa tưởng tượng nổi sự khởi đầu. Nhưng mọi thứ đều sẽ trở nên tốt đẹp thôi. Chỉ cần có thời gian."

Tôi đã đốp lại thế này: "Vứt cái vẻ thương hại khỏi mặt cô đi, con mụ Nhật lùn."

Ngày hôm sau Marianne Engel đến bên giường dúi một mẩu giấy nhỏ vào tay tôi. "Học cái này đi," cô nói, và luyện cho tôi từng chữ cho tới khi tôi thuộc lòng.

Một giờ sau, Sayuri Mizumoto đi vào phòng, đầu ngẩng cao. Cô liếc Marianne Engel một cái, rồi nhìn chằm chằm vào tôi. "Các cô y tá nói anh muốn gặp tôi."

Tôi cố hết sức để cúi đầu chào cô, dù gập người xuống chẳng dễ dàng gì. Tôi bắt đầu nói những từ vừa học: "Mizumoto san, konoaidawa hidoi kotoba wo tsukatte hontouni gomennasai. Yurushite kudasai." (Dịch qua thì thế này Tôi thực sự xin lỗi vì hôm trước đã nói những lời không phải với cô. Xin hãy tha thứ cho tôi.)

Hiển nhiên tôi đã chộp được cô đúng lúc bất ngờ. Cô trả lời. "Tôi chấp nhận lời xin lỗi của anh. Anh học những từ đấy bằng cách nào vậy?"

"Đây là... bạn của tôi, Marianne. Cô ấy đã dạy tôi." Đúng là thế thật, nhưng điều đó cũng không giải thích được tại sao Marianne Engel biết tiếng Nhật. Tôi đã hỏi, dĩ nhiên, nhưng trong suốt một tiếng vừa rồi cô từ chối trả lời bất cứ câu hỏi nào mà chỉ chăm chăm sửa lỗi phát âm cho tôi. Tôi cũng không biết làm thế nào mà, sau khi không đến bệnh viện trong vòng bảy ngày, cô lại biết tôi đã sỉ nhục Sayuri. Có lẽ một y tá đã nói cho cô, hoặc là bác sĩ Edwards.

Rất ngẫu nhiên, đây là lần đầu tiên hai người phụ nữ gặp nhau. Marianne Engel bước về phía Sayuri, cúi gập người chào, và nói."

Sayuri mở to mắt ngạc nhiên xen lẫn thích thú và cúi chào lại."

"Marianne Engel gật đầu."

" ""Sayuri mỉm cười.""

""Marianne Engel lắc đầu tỏ ý không tán thành."

"

""

Marianne Engel cúi đầu lần nữa."

"

Sayuri giơ tay lên che miệng, cố nén tiếng khúc khích."

"

Sayuri có vẻ rất hài lòng khi thấy hành động thô lỗ hôm trước của tôi đã tạo nên một cuộc gặp gỡ thật bất ngờ. Cô xin phép ra khỏi phòng với nụ cười tươi tắn trên môi, cúi chào Marianne Engel lần nữa.

Marianne Engel ghé sát miệng vào tai tôi, thì thầm. "Tôi không muốn nghe thêm bất cứ câu chuyện nào về việc anh sỉ nhục cô Mizumoto nữa. Dùng miệng lưỡi của một con quái thú không thể làm giảm nỗi đau của anh được đâu. Anh phải để trái tim mình luôn mở rộng đón nhận yêu thương, và hãy tin tôi. Tôi hứa sẽ đưa chúng ta đến tự do nhưng tôi không thể làm điều đó một mình được."

Cô rời khỏi giường, kéo một chiếc ghế từ góc phòng ra, ngồi phịch xuống, với nét mặt mệt mỏi của người vợ thất vọng trước sự kém cỏi của anh chồng. Bài diễn văn ngắn kỳ dị của cô làm tôi cất tiếng hỏi một câu tôi luôn muốn nói nhưng lại quá ngại chưa thể thốt ra: "Cô muốn gì ở tôi?"

"Không gì cả," cô trả lời. "Tôi không muốn anh làm bất cứ cái gì cho tôi cả."

"Tại sao?" tôi hỏi. "Điều đó nghĩa là gì chứ?"

"Chỉ bằng việc không làm gì cả anh mới có thể chứng tỏ tình yêu của mình được."

"Tôi không hiểu."

"Anh sẽ hiểu," cô nói. "Tôi hứa đấy."

Với câu nói này, Marianne Engel kết thúc cuộc nói chuyện về những gì sắp xảy ra trong tương lai và quyết định quay lại kể câu chuyện quá khứ của mình. Tôi chả tin chút nào - sao tôi có thể chứ? - nhưng ít ra nó cũng không khiến tôi cảm thấy tẻ nhạt như cuộc trò chuyện vừa nãy.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 14


Lớn lên ở Engelthal, điều khó khăn nhất đối với tôi là làm thế nào để hạ giọng mình xuống. Tôi hiểu rõ im lặng là một phần không thể thiếu trong đời sống tinh thần của chúng tôi, tuy thế tôi rất hay bị chỉnh vì tội "quá cởi mở". Thực ra tôi chỉ đang làm những gì một đứa trẻ hay làm mà thôi.

Ở Engelthal không chỉ âm thanh mà tất cả mọi thứ đều câm lặng. Mọi mặt của cuộc đời chúng tôi đều được tóm gọn trong Thể chế Giáo hội, một tài liệu chỉn chu đến mức dành hẳn năm chương chỉ để nói về quần áo và giặt giũ. Thậm chí cả những tòa nhà của chúng tôi cũng không có chút tinh tế nào vì sợ sẽ làm vấy bẩn tâm hồn chúng tôi. Chúng tôi phải ngồi trong phòng ăn theo đúng thứ tự như khi đứng hát đồng ca. Trong suốt bữa ăn, chúng tôi vẫn được nghe đọc sách để nuôi dưỡng cả thể chất lẫn tinh thần. Chúng tôi phải nghe những đoạn trích trong Kinh Thánh và rất nhiều đoạn nói về thánh Augustine, thỉnh thoảng là Cuộc đời của thánh Dominic, Hào quang truyền thuyết, hoặc Thánh Trudperter Hohelied. Ít nhất thì việc nghe đọc sách cũng giúp chúng tôi sao nhãng khỏi bữa ăn nhạt nhẽo - gia vị thì bị cấm và chúng tôi không được ăn thịt nếu không có sự cho phép đặc biệt, chỉ được đưa ra vì những lý do về sức khỏe.

Bất cứ khi nào không phải ở nhà nguyện chính để dự thánh lễ Mass, tôi dành toàn bộ thời gian của mình trong phòng viết. Gertrud đã thể hiện rất rõ ngay từ đầu là bà không ưa sự hiện diện của tôi chút nào. Tuy thế, với tư cách thủ thư của tu viện, thật không mẫu mực nếu bà cứ thẳng tay xả cục tức lên đầu tôi. Về điều này, đã có trợ lý của bà là xơ Agletrudis lo rồi.

Agletrudis là một hành tinh nhỏ bụ bẫm quay xung quanh Gertrud, siêu sao của phòng viết; tất cả những hành động của cô ta đều được tính toán sao cho luôn làm hài lòng chủ nhân của mình bằng cách hành hạ tôi. Mục đích cả đời của cô ta là tiếp quản phòng viết sau khi Gertrud chết. Tôi là cái gì chứ, ngoài một vật cản to tướng trên con đường của cô ta?

Từ rất lâu trước khi tôi đến, mối quan ngại tài chính đã thâm nhập vào phòng viết. Cung cấp sách cho những công dân giàu có, thường là để đổi lấy đất đai sau khi họ chết, đã thành một tập tục. Gertrud, bất chấp mọi vẻ thần thánh tự tạo của mình, không bao giờ phản đối sự sắp đặt này trên bình diện kinh tế nhưng ghét việc bán sách vì một lý do: chuyện đó ảnh hưởng đến việc sử dụng phòng viết cho mục đích riêng của bà. Hồi sự nghiệp còn non trẻ, Gertrud đã quyết định soạn một tác phẩm vĩ đại sẽ đời đời lưu giữ truyền thuyết về bà: một bản Kinh Thánh bằng tiếng Đức. Tuy bà chưa bao giờ nói hẳn chuyện đó ra, tôi chắc chắn rằng bà đang mơ mộng nó sẽ được biết đến dưới cái tên Die Gertrud Bibel.

Đây chính là vấn đề căn bản với sự hiện diện của tôi: tôi là một bé gái - một người lớn chưa hoàn thiện - người sẽ lấy mất khoảng thời gian quý báu bà dành cho công việc thực sự của mình. Tôi vẫn còn nhớ những lời Gertrud nói khi bà đặt tôi dưới sự quản lý của Agletrudis. "Tu viện trưởng tin rằng đứa trẻ này có thể làm được gì đó. Chỉ cho nó một vài kỹ năng cơ bản, tốt nhất là ở bên phòng ấy, nhưng cấm không cho nó sờ vào cái gì. Những ngón tay chuối mắn ấy không xứng đáng được chạm vào những dụng cụ của Chúa. Và trên hết, kéo nó tránh xa cuốn Kinh Thánh của ta ra."

Thế là, thời gian đầu, tôi chỉ được phép ngồi nhìn. Anh có thể hình dung được đối với một đứa trẻ thì chuyện này buồn tẻ đến thế nào đấy, nhưng vì tôi đã dành phần lớn tuổi thơ thu thập thông tin trong khi ngồi yên lặng ở góc phòng, nên chuyện này cũng chẳng có gì mới với tôi cả. Tôi bị mê hoặc bởi cách những chiếc bút lông trở thành một phần phụ trợ cho ngón tay người viết. Tôi tìm hiểu công thức làm mực và biết được rằng thêm thần sa hoặc chu sa vào sẽ làm mực có màu đỏ. Tôi quan sát cách các nữ tu dùng dao để gọt đầu bút chì mỗi khi những con chữ hăm dọa sẽ đánh mất độ rõ nét. Ngay lập tức tôi biết mình đã ở đúng vị trí.

Có những thứ ngày nay chúng ta coi là hiển nhiên thì vào thời đó lại rất đặc biệt. Ví dụ như giấy. Chúng tôi không tự làm mà nhận hàng từ một người cung cấp giấy da trong vùng. Rồi chúng tôi phải chuẩn bị sẵn sàng cho giấy được đem vào sử dụng. Các xơ phân loại giấy theo chất lượng tốt xấu rồi theo lông và da động vật để cho thớ giấy được đều khi mở rộng cuốn sách, và thỉnh thoảng Gertrud cũng chỉ thị rằng cuốn sách cần được thêm vài trang màu "để có chút khí thế". Chỉ riêng một cuốn sách cũng cần đến da của vài trăm con vật. Làm sao một cô bé không bị cuốn hút chứ?

Tôi có thể chỉ trích Gertrud vì rất nhiều thứ nhưng chắc chắn đối với sự tận tụy bà dành cho công việc thì không. Nếu nhiệm vụ được giao là dịch một cuốn sách, mỗi việc bàn luận về cách diễn đạt một câu thôi đôi khi cũng kéo dài hơn cả giờ đồng hồ. Hầu hết các xơ làm việc trong phòng đó, dù có càu nhàu về thái độ độc tài của Gertrud, đều cảm thấy rằng bà đang hoàn thành một nhiệm vụ mà Chúa đã chỉ định riêng bà làm. Các xơ không bao giờ dám ho he chút nào, cả trong thời kỳ soạn cuốn Die Gertrud Bibel căng thẳng nhất.

Cũng có mấy cô ghi chép băn khoăn một nhiệm vụ dịch lớn lao như thế đã được ai chỉ định và liệu công việc đó có xúc phạm thánh thần không, nhưng những xơ này cũng đủ khôn ngoan để không chất vấn người cai quản phòng viết - hoặc chỉ đơn giản là sợ không dám hỏi. Thế nên họ cũng chẳng dám ca thán gì, chỉ cố tập trung vào số trang hiếm hoi của cuốn Kinh Thánh được Gertrud chấp nhận. Trong khi tất cả mọi người đều tham gia vào quá trình soạn sách, bà luôn là người có tiếng nói cuối cùng.

Gertrud chỉ cho phép những người chép sách lành nghề nhất làm việc với những cuốn sách da bê thượng hạng. Bà cứ lảng vảng xung quanh họ, giật nẩy cả cái cổ cò mỗi khi lo rằng một từ nào đó có thể bị viết sai hoặc mực có thể bị nhòe. Khi dấu chấm cuối cùng được đặt sau câu cuối cùng của trang bản thảo, anh có thể thấy vai Gertrud thả lỏng và nghe tiếng không khí kẹt trong phổi bà thoát ra nhẹ nhõm. Rồi bà lại soàm soạp nuốt thêm một ngụm không khí đầy nữa.

Những khoảnh khắc thư giãn này không kéo dài lâu. Gertrud sẽ phải mang cuốn sách đến chỗ những người chuyên viết đề mục để đánh dấu số chương và số tiết bằng mực đỏ, và trong khi quá trình này diễn ra, những người minh họa sẽ vẽ thử hàng tá bức ký họa để đưa vào những góc trống trên trang giấy. Khi quyết định cuối cùng được đưa ra, những bức tranh sẽ được đặt vào đúng chỗ.

Những trang sách đã hoàn thành quả là một công trình diệu kỳ. Gertrud sẽ dành cả tiếng đồng hồ kiểm tra đi kiểm tra lại rồi mới chịu xếp nó lại và chuyển sang trang khác. Từng tờ từng tờ một, một cuốn sách hoàn chỉnh dần hiện ra, nhưng vẫn luôn có những công đoạn khác cần hoàn thành. Bất cứ khi nào chúng tôi có đơn đặt hàng bản thảo từ các nhà quý tộc, Gertrud sẽ hướng ánh nhìn nhớ nhung trìu mến về phía tình yêu đầu của mình, nhưng bà cũng phải nghe lệnh của tu viện trưởng như tất cả những người khác thôi.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 15


Không hiểu sao, chuyện tôi không được phép tham gia vào bất cứ nhiệm vụ nào của phòng viết lại đến tai tu viện trưởng. Tôi có thể hình dung được xơ Christina đứng đằng sau vụ này. Với một tiếng thở dài cam chịu và một bài giải thích dài lê thê rằng mình rất phản đối chuyện này, Gertrud đã cho tôi biết là "dưới chỉ thị của Tu viện trưởng, bây giờ ta sẽ phải cho phép những ngón tay bé tí ngu ngốc của ngươi được bắt đầu luyện tập." Bà cho tôi vài mảnh giấy da cũ, nham nhở lỗi chép sai, và bảo tôi nỗ lực làm việc đi.

Tôi chìm đắm vào công việc. Tôi luyện tập trên bất cứ mẩu giấy da bê vứt đi nào mà tôi tìm thấy và, khi kỹ năng của tôi tiến bộ, tôi đã miễn cưỡng được cho những cây bút lông tốt hơn và được dành nhiều thời gian để luyện tập kỹ năng dịch hơn. Tôi đã biết tiếng Đức, Latin, Hy Lạp và Aramaic, tiếng Ý trong cuốn Kinh Thánh của Paolo, và một chút tiếng Pháp. Tôi đang trên đà đọc hết từng cuốn một trong phòng viết và sự trưởng thành của tôi luôn là nguồn ngạc nhiên sững sờ đối với các xơ, dù tôi chẳng bao giờ nhận được một lời tán dương nào từ Gertrud cả. Xơ Agletrudis luôn tìm được niềm vui trong việc bới móc mọi sai sót của tôi và khi tôi quay lưng lại tiếp tục làm việc, lọ mực của tôi sẽ bị đổ một cách bí ẩn, những cuốn sách của tôi sẽ biến mất một cách bí ẩn, hoặc những chiếc bút lông ngỗng của tôi sẽ bị tòe ngòi một cách bí ẩn. Mỗi lần tôi chỉ ra những tai nạn "ngẫu nhiên" với Gertrud, bà chỉ cười khẩy và thề sống thề chết cho sự trong sáng của xơ Agletrudis.

Tuy thế, cuối cùng Gertrud cùng cô trợ lý cũng không thể phủ nhận tài năng của tôi được nữa. Tôi dần trở thành người dịch được nhiều ngôn ngữ nhất, và cũng là người dịch nhanh và chính xác nhất. Sự khó chịu của Agletrudis đối với tôi không còn là sự không ưa đơn thuần nữa mà đã biến thành cảm giác ghen ghét đầy đe dọa, cả Gertrud cũng bực bội ra mặt khi bà bắt đầu nhận ra tôi có giá trị đến thế nào đối với Die Gertrud Bibel. Bà chẳng còn là một phụ nữ trẻ trung gì nữa, và nếu muốn đảm bảo cuốn Kinh Thánh được hoàn thành khi bà còn sống, bà cần phải đẩy nhanh tiến trình lên. Cuối cùng, bà cũng chịu để tôi bắt đầu đóng góp chút ít.

Có cả một cuộc sống bên ngoài phòng viết nữa. Lớn dần lên, tôi phát hiện ra cách trèo qua những cánh cổng tu viện và cuối cùng đã tìm được đường đến với thế giới bên ngoài. Tôi không đi tìm rắc rối; tôi chỉ muốn biết ngoài kia có gì thôi. Lẽ tự nhiên điểm dừng đầu tiên của tôi là căn nhà nhỏ thuộc về cha Sunder và huynh trưởng Heinrich. Khi tôi xuất hiện, cha Sunder không hề che giấu vẻ không hài lòng về hành động của tôi. Ông dọa sẽ kéo tôi về lại tu viện và báo cho tu viện trưởng biết, nhưng chẳng hiểu sao chúng tôi lại cùng nhau ngồi uống nước trái cây. Rồi chúng tôi ăn một chút. Và trước khi ông kịp nhận ra, thời gian đã trôi qua dài đến nỗi sẽ thật khó xử nếu cố giải thích tại sao ông lại không mang tôi về ngay lập tức. Thế là, sau khi tôi hứa sẽ không quay lại nữa, huynh trưởng Heinrich và cha Sunder cho phép tôi lẩn lại vào tu viện. Tôi quay trở lại vào đêm hôm sau. Một lần nữa tôi lại bị mắng té tát, nhưng chúng tôi cuối cùng còn ăn nhiều thức ăn và uống nhiều nước ép hơn. Mô hình tôi thì cứ phá vỡ lời hứa còn họ thì cứ mắng nửa vời ấy kéo dài trong vài tuần cho tới khi chúng tôi cùng nhau bỏ cái trò đóng kịch ấy đi.

Mỗi khi đến bên rặng núi trông sang căn nhà của họ, tôi luôn cảm thấy rất phấn khởi. Ngôi nhà gỗ nhỏ của họ đã trở thành ngôi nhà thứ hai, ngôi nhà bí mật của tôi. Vào những tối mùa hè chúng tôi thường chơi trốn tìm giữa những bụi cây. Đó là quãng thời gian hạnh phúc nhất của tôi, liếc nhìn từ phía sau bụi rậm hai người đàn ông trạc ngũ tuần đáng bậc cha chú đang giả vờ không tìm thấy tôi.

Engelthal là một cộng đồng nhỏ bé, thế nên việc người khác biết về những chuyến viếng thăm "vụng trộm" của tôi là điều không thể tránh khỏi. Tôi nghĩ không ai thấy chuyện này thật sự nguy hiểm cả, và dù đó là một bí mật mở giữa các nữ tu sĩ, tôi thực lòng tin rằng Gertrud, Agletrudis và cả tu viện trưởng đều không hề biết. Nếu họ mà biết, những chuyến thăm thú của tôi đã bị dập ngay lập tức chỉ vì lý do bảo vệ tài sản.

Tu viện trưởng mất trong đêm hồi tôi chỉ là đứa trẻ mới lớn, và cần phải bầu ra nữ tu viện trưởng mới càng sớm càng tốt. Những tu viện dòng thánh Dominic là những tổ chức rất dân chủ; xơ Christina, người vừa mới hoàn thành Cuốn sách về các xơ tại Engelthal và đang bắt đầu cuốn Khải huyền, đã đạt được số phiếu gần như tuyệt đối. Thế là bà đã sở hữu danh xưng mẹ Christina. Hiển nhiên tôi rất hài lòng với sự kiện này, nhưng đó đồng thời cũng là vấn đề đối với xơ Agletrudis. Mọi chuyện mới nhanh chóng chuyển sang chiều hướng bất lợi cho cô ta làm sao kia chứ, về khát vọng leo lên chức thủ thư tu viện ấy. Không chỉ vì sự hiện diện của một thần đồng trong phòng viết, mà còn bởi vị nữ tu viện trưởng mới từ lâu đã luôn là người bảo hộ lớn nhất cho cô bé ấy. Khi tôi chính thức cất lời tuyên thệ theo đạo không lâu sau khi mẹ Christina nhậm chức, đây hẳn đã trở thành giọt nước làm tràn cái thùng mang tên xơ Agletrudis. Tôi có thể cảm nhận được sự căm ghét bùng cháy trong mắt cô ta khi tôi thề sẽ phục vụ thánh Dominic và tất cả các tu viện trưởng cho tới chết.

Tuy thế, trong mắt những nữ tu sĩ khác, tôi lại thấy sự ủng hộ và tình yêu thương. Đối với họ, có vẻ như tất cả mọi thứ trong cuộc đời tôi đã được đặt vào đúng chỗ - nhưng đó không phải những gì tôi cảm thấy. Tôi thấy mình như một kẻ mạo danh trong ngôi nhà của Chúa vậy.

Tôi đã được nuôi dưỡng trong một bầu không khí vô cùng thiêng liêng, nhưng tôi chẳng cảm thấy mình thánh thiện chút nào. Thế nên rất nhiều xơ trong số chúng tôi, gồm cả Gertrud và Agletrudis, đều đã thấy những ảo giác thần bí, nhưng tôi thì không. Điều này làm tôi luôn có cảm giác kém cỏi. Tôi có năng lực ngôn ngữ, đúng, nhưng đó cũng chỉ là những gì họ thấy - năng lực, chẳng phải quà tặng hay thiên khải của Chúa. Không chỉ mỗi việc thiếu kết nối với Chúa mới làm tôi cảm thấy không xứng, mà còn vì những nữ tu sĩ khác đều có vẻ quá chắc chắn về con đường của họ trong khi có rất nhiều thứ tôi không hiểu gì cả. Tôi cảm thấy hoang mang trong cả tâm hồn và nhận thức; tôi thiếu sự chắc chắn mà dường như tất cả mọi người đều có.

Mẹ Christina trấn an tôi rằng tôi không nên quá lo lắng về việc thiếu ảo giác. Mỗi nữ tu sĩ chỉ nhận được lời nhắn khi đã sẵn sàng, bà nói, và vấn đề không nằm ở việc kêu gọi Chúa đến với mình mà phải làm bản thân trở nên thuần khiết hơn để Chúa muốn tới. Khi tôi trả lời rằng tôi không biết phải làm gì nữa để bản thân được trong sáng hơn, mẹ Christina khuyên tôi nên chuẩn bị sẵn sàng đón nhận Chúa Vĩnh Hằng bằng việc bỏ vẻ phàm tục đã ăn sâu vào trong máu tôi đi. Tôi gật đầu, như thể khẳng định lời giải thích này đã làm sáng tỏ mọi thứ, nhưng thực tế nó để lại trong tôi cảm giác bối rối không khác gì cảm giác của một con bò lạc.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 16


Tôi đã nghĩ về những ý tưởng này cả đời, nhưng chẳng thể ngộ ra. Ý tưởng, khái niệm. Những kiến thức thông thường quá mơ hồ mà tôi không thể nắm bắt. Mẹ Christina hẳn đã nhìn thấy nét mặt tôi khi ấy, vì bà nhắc tôi nhớ rằng tôi cũng có khả năng ngôn ngữ không thể lý giải và dù năng lực này không mang đến những ảo giác kỳ bí, nó thực sự đã làm tôi trở nên độc đáo. Ngày càng rõ ràng là, bà nói, Chúa chắc chắn phải có một dự định tuyệt vời cho tôi. Nếu không thì tại sao Người lại ban cho tôi món quà tuyệt diệu đến như thế? Tôi hứa sẽ nỗ lực nhiều hơn và thầm mong một ngày nào đó tôi cũng sẽ trưởng thành để có niềm tin vào bản thân mình như bà đã có.

Không lâu sau khi bước vào tuổi đôi mươi, tôi đã gặp Heinrich Seuse lần đầu tiên và cũng là duy nhất. Ông đang trên đường từ Straburg tới Koln, nơi ông sẽ học tại studium generale(22). Ông nói, dù không tiện đường nhưng thật khó bỏ qua cơ hội đến thăm Engelthal vĩ đại. Nguyên văn lời ông là thế đấy.

Hiển nhiên ông biết cách uốn lưỡi để bỏ bùa mẹ Christina, nhưng Gertrud thì lại là chuyện khác. Ngay khi nghe phong thanh chuyện Seuse sẽ nghiên cứu dưới sự chỉ dẫn của Eckhart, bà từ chối gặp ông luôn.

Eckhart là một chủ đề khá tế nhị. Dù là một học giả thành công với những bài viết về thần học bằng tiếng Latin, ông có vẻ nổi tiếng hơn, hay đúng hơn là tai tiếng hơn, với những bài thuyết giảng bất thường bằng tiếng Đức mẹ đẻ. Khi Eckhart nói về sự giống nhau siêu hình giữa bản chất của Chúa và linh hồn con người, những ý tưởng của ông dường như xa rời khỏi đạo lý Thiên Chúa chính thống, và đây không phải thời dành cho những ý tưởng như thế. Đã có quá nhiều xung khắc giữa các dòng tu và giới tăng lữ về việc Giáo hoàng chuyển đến Avignon rồi.

Khi tôi đọc những bài viết của Eckhart và hỏi Gertrud về ông, phản ứng của bà khá dữ dội. Dù thừa nhận chưa thực sự đọc tác phẩm nào của ông, bà cũng nhấn mạnh mình cũng chẳng có lý do gì phải đọc cả. Bà đã nghe đủ những quan điểm nhơ bẩn của Eckhart đến nỗi chẳng cần phải đi đến nguồn rác nữa. Bà nhổ tên ông ra khỏi miệng như thể nó là quả thối. "Eckhart là một người đàn ông đầy triển vọng, nhưng ông ta đã tự đẩy bản thân tới chỗ tàn lụi. Ông ta sẽ bị coi là một kẻ dị giáo, chóng thôi, nhớ lời tôi đấy. Ông ta thậm chí còn không thừa nhận rằng Chúa rất tốt đẹp nữa."

Cũng có phần lạ là thái độ của Gertrud thành ra lại có lợi cho tôi. Vì bà từ chối gặp Seuse, tôi đã được chọn để dẫn ông đi thăm thú phòng viết. Tôi khá sốc vì diện mạo của ông. Ông gầy đến nỗi tôi khó mà tin được xương ông có thể chống đỡ được sức nặng cơ thể, mà bản thân nó cũng đã nhẹ lắm rồi. Da ông vàng vọt và đầy vết đồi mồi, và tôi có thể thấy từng mạch máu trên mặt ông nổi ngay dưới lớp da. Quầng thâm đen tụ dưới mắt ông, như thể ông chưa bao giờ được ngủ vậy. Tay ông, chi chít vảy nhỏ mà ông hay gảy đi theo thói quen, trông như đôi găng tay thịt đổ đầy những mảnh xương ghép lỏng lẻo với nhau.

Sự miêu tả của tôi làm ông trông có vẻ khủng khiếp nhưng trên thực tế ông hoàn toàn ngược lại. Làn da mỏng mảnh của ông dường như chỉ để cho ánh sáng của tâm hồn chiếu rọi qua. Cách ông vẫy những ngón tay mảnh khảnh khi nói làm tôi liên tưởng đến những cây non rung lên trước mỗi cơn gió nhẹ. Và nếu ông trông như chẳng bao giờ ngủ, cách ông nói đã làm người nghe hiểu được đó chỉ là bởi ông thường xuyên phải nhận những thông điệp quan trọng không thể bỏ qua. Mặc dù ông chỉ hơn tôi vài tuổi, tôi không thể không có cảm giác là ông biết những bí mật mà tôi sẽ chẳng bao giờ nắm được.

Tôi dẫn ông đi qua phòng viết và rồi, lát sau, qua những mảnh đất trải dài thuộc về Engelthal. Khi chúng tôi đã an toàn tránh xa khỏi những đôi tai nhan nhản khắp mọi ngóc ngách của tu viện, tôi liền nêu lên chủ đề Meister Eckhart, và đôi mắt Seuse sáng bừng lên như thể tôi vừa đưa cho ông chìa khóa dẫn vào Thiên đường. Ông nói liến láu tất cả mọi điều ông biết về người đàn ông sắp trở thành thầy giáo của mình. Tôi chưa bao giờ nghe những lời lẽ rối rắm mà lại sáng lạn đến thế, và giọng của Seuse trở nên cuồng loạn trong niềm vui tôn giáo.

Tôi hỏi vì sao xơ Gertrud lại nói rằng Meister Eckhart thậm chí còn không thừa nhận Chúa rất tốt đẹp. Seuse giải thích rằng quan điểm của Eckhart là bất cứ cái gì tốt cũng đều có thể tốt hơn, và mọi thứ đã có thể trở nên tốt hơn ấy thì đều có thể trở nên tốt nhất. Chúa không thể được miêu tả là "tốt", "tốt hơn" hoặc là "tốt nhất" được vì Người ngự trị tất cả mọi vật. Nếu một người nói rằng Chúa rất thông thái, người đó đang nói dối vì bất cứ cái gì thông thái cũng đều có thể trở nên thông thái hơn. Bất cứ điều gì người đó nói về Chúa cũng đều không chính xác, kể cả gọi Người là Chúa. Chúa là "sự hư không thượng đẳng" và là "Đấng siêu việt", Seuse nói, hơn hết thảy mọi từ ngữ và hơn tất cả mọi sự hiểu biết. Điều tốt nhất một người có thể làm là giữ im lặng, vì bất cứ khi nào huyên thuyên về Chúa, anh ta cũng sẽ mắc tội dối trá. Người thầy chân thật biết rằng nếu anh ta có được một vị Chúa mình có thể hiểu được, anh ta sẽ không bao giờ coi Người đó là Chúa.

Buổi chiều hôm đó tâm trí tôi được mở mang những khả năng mới, và trái tim tôi được tiếp thêm những hiểu biết mới. Tôi không thể tưởng tượng nổi tại sao Gertrud lại muốn ngăn không cho những cuốn sách của Eckhart gia nhập vào tủ sách của chúng tôi. Thứ mà ai đó có thể gọi là dị giáo ấy, tôi chỉ thấy chúng như những giả thiết hợp lý về bản chất của Chúa. Tôi đã bị thuyết phục rằng những gì tôi học được trong suốt tuổi trẻ của mình thật quá hạn chế. Nếu những tham luận của Eckhart không đến được tai tôi, còn những gì tôi đã không được nghe nữa? Tôi nhận ra điều đó khi Seuse nói vào buổi chiều hôm ấy, với những tia sáng lấp lánh hiện lên trong mắt, "Đau khổ làm tình yêu của bạn trở nên mạnh mẽ."

Trong cơn bộc phát, tôi thú thật với Seuse rằng tôi cực kỳ mong muốn được đọc một tác phẩm nào đó của Eckhart. Điều này khiến Seuse thoáng cười, nhưng ông không nói gì cả. Tôi băn khoăn không biết có phải vì ông cảm thấy thú vị khi tôi dám nói ra một ước nguyện đi ngược lại với lập trường của tu viện không, nhưng tôi cũng không nghĩ thêm gì đến nó nữa cho tới khi ông rời chỗ chúng tôi vài ngày sau đó. Tôi rất muốn được dành thêm nhiều thời gian với ông, nhưng Gertrud, có lẽ đánh hơi được điều này, đã đảm bảo cho công việc ở phòng viết của tôi nhiều gấp đôi bình thường.

Tôi được phép chào tạm biệt Seuse ở cổng, khi ông khởi hành đến Koln. Khi đã chắc chắn không bị ai nhòm ngó, ông dúi vội vào lần áo chùng của tôi một cuốn sách nhỏ.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 17


Từ khi tôi viết những chữ đó ra, chúng cứ ám ảnh tôi. Vứt cái vẻ thương hại khỏi mặt cô đi, con mụ Nhật lùn. Tôi luôn bị thôi thúc sửa lại bức vẽ ngày hôm qua bằng cây cọ vẽ ngày hôm nay và che đi những điều làm tôi cảm thấy hối tiếc, nhưng tôi khao khát xóa những từ ấy đi đến nỗi tôi đã bị thuyết phục là cần phải để chúng lại.

Sayuri Mizumoto không phải một con mụ và cô cũng không nhìn tôi với vẻ thương hại. Điều đó quá hiển nhiên. Tôi đã nói những lời lẽ khủng khiếp ấy vì tôi phát điên lên với việc Marianne Engel cả một tuần liền không thèm đến thăm tôi.

Tôi cảm thấy xấu hổ về cách mình đã đối xử với Sayuri và sợ rằng câu nói đó khiến tôi bị coi là một kẻ phân biệt chủng tộc. Sao lại không thể chứ? Nhưng tôi đảm bảo với bạn rằng tôi chọn từ "Nhật lùn" chỉ bởi vì tôi muốn kiếm cho mình lợi thế có thể làm Sayuri cảm thấy yếu đuối. Tôi dùng từ đó không phải vì tôi nghĩ người Nhật là một dân tộc thấp kém, mà vì tôi cho rằng có thể Sayuri cũng nghĩ bản thân cô thấp kém, bởi là một Nhật kiều. (Khi trở nên thân thiết với cô hơn, tôi đã phát hiện ra cô chẳng có chút phức cảm tự ti dân tộc nào.) Và cũng như từ "Nhật lùn" có hàm ý phân biệt chủng tộc, thì từ "con mụ" có hàm ý khinh miệt phụ nữ, nhưng sự thật là tôi ghét hầu hết đàn ông cũng như hầu hết phụ nữ. Thực ra là tôi có đủ khả năng trở thành một người ghét tất cả mọi sinh vật sống.

Hay ít nhất, tôi cũng đã từng. Tôi tin rằng mình đã thay đổi từ cái hôm tôi đả kích Sayuri. Tuy không thể tuyên bố rằng mình yêu thương sâu sắc tất cả mọi người, nhưng tôi đã có thể tự tin khẳng định giờ tôi ít ghét người hơn hồi xưa. Điều này có thể được coi là một tuyên bố yếu ớt về sự trưởng thành cá nhân, nhưng tôi nghĩ thỉnh thoảng những điều này nên được đánh giá bằng cả một quá trình chứ không chỉ bằng tình hình hiện tại.

Bác sĩ Gregor Hnatiuk, trong cơn giận dữ ngút trời, trông thật đẹp biết bao. Ông ta phóng thẳng vào phòng tôi bắt tôi phải xin lỗi cô Mizumoto. Hiển nhiên ông ta đã đi sau thời đại: ông ta đã nghe về những lời sỉ nhục của tôi, nhưng chưa biết gì về việc tôi chuộc lỗi bằng tiếng Nhật. Tuy thế, cảnh tượng mồ hôi sáng lấp lánh trên vầng trán khi ông ta đang cố bảo vệ danh dự cho người phụ nữ kiều diễm thì thật ngoạn mục.

Đó là lúc tôi nhận ra người ông ta đang mê mẩn là ai.

Tôi giải thích tất cả căng thẳng đã được xóa bỏ và thêm rằng nhờ đó mà Sayuri còn tìm thêm được một người bạn mới biết nói tiếng Nhật nữa. Điều này làm Gregor nguôi ngoai phần nào, nhưng ông ta vẫn thấy cần bồi thêm một cú chua cay nữa. "Một ngày nào đó anh sẽ thấy rằng cái miệng to tướng của mình là cánh cổng chính dẫn đến mọi bất hạnh đấy."

"Phải, Gregor, tôi đã nghe câu đó trước đây rồi," tôi nói. "Từ Sayuri ấy."

Bầu má sóc chuột của ông ta đỏ ửng. Hiển nhiên chỉ cần nghe thấy tên cô cũng quá đủ để ông ta bối rối, và cách ông ta quay ngoắt người biến ra khỏi phòng đã khẳng định mọi nghi ngờ của tôi.

Trước ngưỡng cửa ông ta đột ngột dừng lại, quay lưng lại nói: "Marianne Engel nói được tiếng Nhật à?"

Dưới đây là bản dịch cuộc đối thoại giữa Marianne Engel và Sayuri Mizumoto.

Marianne Engel: Cô Mizumoto. Rất hân hạnh được gặp mặt. Tôi là Marianne Engel.

Sayuri Mizumoto: Vậy ư? Tôi cũng rất vui được gặp cô. Rất mong được chiếu cố. Cô nói được tiếng Nhật ư?

Marianne Engel: Một chút. Tôi từng sống mấy năm tại một trang trại hoa oải hương ở Hokkaido. Có phiền không nếu tôi hỏi, tên Hán tự của cô có phải là "Hoa Loa Kèn Bé Nhỏ" không?

Sayuri Mizumoto: A, đúng đấy. Tiếng Nhật của cô tốt quá.

Marianne Engel: Không, chưa đến mức ấy đâu. Và họ của cô có nghĩa là "Nguồn Nước", có phải không?

Sayuri Mizumoto: Vâng, đúng vậy.

Marianne Engel: Tên của cô rất hợp với người bạn của tôi. Xin hãy chăm sóc anh ấy hộ tôi. Xin hãy bỏ quá cho thái độ không tốt của anh ấy.

Sayuri Mizumoto: Vâng, tôi sẽ cố hết sức.

Câu hỏi đặt ra là: làm thế nào tôi biết được nội dung một cuộc đối thoại mà khi nó diễn ra lần đầu, tôi không hiểu gì cả?

Câu trả lời là: Sayuri đã giúp tôi. Cô đảm bảo với tôi nó rất trung thành với bản gốc nhưng thực sự tôi chẳng có cách nào biết được, ngoại trừ việc tin cô. Tôi tin cô, khá tin, dù tôi vẫn có một nỗi sợ hãi dai dẳng rằng cả bản dịch này là một mớ sai sót mà Titivillus sẽ tống vào cái bao của nó để mang về cho Satan dùng chống lại tôi vào Ngày Phán xét Cuối cùng. Nhưng đây cũng là cơ hội tôi phải chớp lấy.

Tôi rất hài lòng được thông báo rằng những lời lẽ tàn nhẫn của tôi đã không phá hỏng tình bạn ngày càng được củng cố giữa chúng tôi. Trong thời gian chúng tôi ở cùng nhau, tôi đã biết được sự thật về tuổi thơ của Sayuri (hay là, ít nhất, cũng là phiên bản của cô về chuyện đó), như tôi đã viết lúc trước.

Nhưng điều lớn lao nhất tôi học được sau bao năm tháng qua là Sayuri Mizumoto là một phụ nữ tuyệt vời. Còn từ nào để diễn tả một người phụ nữ đã giúp dịch một cuốn sách mà trong đó cô bị gọi là con mụ Nhật lùn chứ?

Sayuri và Marianne Engel đã quyết định sẽ cùng giúp tôi thực hiện chương trình phục hồi chức năng. Bác sĩ Edwards có chút lo ngại về ý tưởng đó, nhưng cuối cùng đã đồng ý khi Sayuri gợi ý rằng một người bạn có thể giúp chương trình trở nên dễ dàng và dễ chịu với tôi hơn.

Tôi đã đứng được và thậm chí còn đi được vài bước nữa, nhưng Sayuri muốn tôi bước đi thật sự cơ. Quá trình này không đơn giản như khi tôi nhảy khỏi giường và đi loạng choạng dọc hành lang. Cô mang đến một sợi xích đặc biệt để chân tôi có thể đu đưa trong khi cô khom người xuống trước tôi, kéo chân tôi theo vòng tròn. Cô, hoặc Marianne Engel, sẽ ấn tay vào gan bàn chân tôi để mô phỏng lực cản của mặt đất, và tôi sẽ phải đẩy lại. Nghe có vẻ đơn giản; nhưng chẳng dễ chút nào đâu.

Cuối mỗi buổi luyện tập, Sayuri sẽ bắt tôi đứng càng lâu càng tốt. Tôi chẳng bao giờ đứng được lâu, nhưng cô luôn hét "Chiến đấu! Chiến đấu! Chiến đấu!" để khích lệ tôi. Khi không thể cố thêm được nữa, tôi sẽ được đặt lại vào giường và chúng tôi sẽ tổng kết lại những tiến bộ đạt được trong ngày hôm đó.

Thỉnh thoảng Marianne Engel sẽ cầm lấy tay tôi và tôi thấy thật khó tập trung xem Sayuri đang nói gì.

Marianne Engel đến trong bộ quần áo bụi bặm đến nỗi tôi phải ngạc nhiên vì sao họ lại cho cô vào. Cô hẳn đã lẻn qua trạm gác của các y tá, dù tôi cũng chẳng biết sao việc đó lại trót lọt trong khi cô phải kéo lê hai giỏ thức ăn. Lúc cô ngồi xổm xuống để dỡ chúng ra, tôi thấy một đám bụi nhỏ rớt ra từ khoeo gối cô.

"Tôi đã nghĩ nhiều về câu chuyện của Francesco và Graziana," tôi thốt lên, vừa nhớ ra mình chưa hề cập nhật với Marianne Engel về việc phát triển nhân cách tới chuẩn lý tưởng của tôi. "Thật lãng mạn."

Cô cười phá lên trong khi lôi hai chai rượu Scotch ra khỏi cái giỏ lạnh. "Đây là dành cho bác sĩ Edwards, cô Mizumoto và các y tá. Tôi mong rằng anh không nói dối tôi, nhưng có lẽ anh sẽ thích câu chuyện tối nay hơn."

Tôi để ý thấy có chút máu khô bám quanh rìa những móng tay bầm giập của cô khi cô lấy thức ăn ra khỏi giỏ lạnh. Cá và khoai tây chiên, xúc xích và khoai tây nghiền. Một dẻ sườn bò đút lò kèm bánh pudding Yorkshire béo ngậy. Những cái sandwich nhỏ xíu: thịt lợn hun khói và trứng, pho mát và rau. Bánh quy và mứt dâu. Bánh sữa Kaiser. Những dây tỏi và hành. Pho mát trộn kem thảo mộc. Pho mát bơ Đức, pho mát Thụy Sĩ, pho mát Gouda, pho mát hun khói Gruyère, cả pho mát Emmenthal nữa. Xa lát dưa chuột tươi với xốt sữa chua nằm trong một chiếc bát nhỏ xinh xắn vẽ hình Hansel và Gretel. Những củ khoai tây đỏ mũm mĩm, được bổ làm bốn để khoe phần thịt trắng bên trong; những đọt măng tây xanh mum múp, bơ chảy; những quả cà tím béo tròn được nhồi đầy trông như những bà bầu mắn đẻ. Những lát thịt cừu mỡ màng xếp chồng lên nhau như một bức tượng đài khiêu khích bệnh xơ vữa động mạch. Một chồng cải muối đứng lẻ loi dường như được thêm vào phút cuối vì ai đó nghĩ là không đủ rau. Mấy quả trứng nướng, dù ai mà thèm ăn trứng nướng chứ? Rồi, phong cách ẩm thực quay ngoắt sang kiểu Nga: varenyky (bánh hấp, theo kiểu nói của dân không chuyên) phủ hành, và holubtsi (cơm cuốn cải bắp) chan xốt cà chua cay nồng.

Marianne Engel thả một quả trứng vào miệng, như thể bao ngày rồi cô chưa được ăn, và nhồm nhoàm nhai nuốt như một con dã thú. Làm sao một người đói đến chừng này lại không nếm thử thức ăn trong lúc nấu chứ? Khi đã thuần hóa cơn đói ngấu nghiến của mình, cô tuyên bố. "Câu chuyện về Vicky Wennington với những cơn bão dữ dội, một tình yêu ân cần và cái chết trong nước biển mặn chát!"

Tôi ngồi nghiêm chỉnh lại, háo hức nghe, và cắn thêm một miếng holubtsi nữa.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 18


Trong xã hội London, không gì quan trọng hơn là sở hữu cái tên thuộc về một dòng họ danh giá, và Victoria D"Arbanville sinh ra đã mang một trong những cái họ lâu đời và đáng kính trọng nhất. Tuổi thơ của cô là một chuỗi những bài học để hỗ trợ cho sự trưởng thành sau này: cô được dạy tiếng Pháp, tiếng Ý, tiếng Đức, tiếng Latin và một chút tiếng Nga; cô có thể bàn luận về thuyết tiến hóa của Darwin mà không cần công khai nói đến mối quan hệ giữa người và vượn; và cô có thể hát những khúc opera hay nhất của Monteverdi, dù cô thích Cavalli hơn. Cha mẹ cô thật ra cũng chẳng quan tâm con gái họ thích loại nhạc nào; họ chỉ quan tâm xem làm thế nào để cô cưới được một quý ông lịch lãm, vì đó là điều mà những thiếu nữ thời nữ hoàng Victoria cần phải làm.

Victoria chưa bao giờ nghi ngờ rằng mình cũng sẽ làm theo đúng như thế, cho đến cái ngày cô gặp Tom Wennington. Không phải một anh Thomas nào đó đâu, người đàn ông này là một anh Tom đích thực. Họ đã cùng dự một buổi dạ tiệc trang trọng, Tom - mặc một bộ com lê xộc xệch - đi cùng một người bạn. Sau bữa ăn, cánh đàn ông rút về phòng khách nơi chủ đề chính là Nghị viện và Kinh Thánh. Tom cũng chẳng biết gì nhiều mà góp chuyện mặc dù nếu bị ép buộc anh có thể nêu chút ý kiến về đất cát. Anh là một người nông dân, từ đầu đến chân, như cha ông anh vậy.

Tom là người đàn ông thô kệch hơn bất cứ người đàn ông nào Victoria từng biết, nhưng niềm vui sướng của cô mỗi khi tình cờ gặp anh, vô tình mà hữu ý, trong suốt những tuần tiếp theo, là không thể chối cãi. Về phần mình, Tom cũng đã kéo dài thời gian ở lại London thêm một tháng so với dự định ban đầu; anh gồng mình chịu đựng các bữa tiệc, các buổi uống trà, và các buổi biểu diễn opera chỉ để tìm cơ hội gặp Victoria. Cuối cùng bạn của Tom, dù giàu có và hào phóng, cũng bắt đầu hết cả com lê để cho Tom mượn. Tom, biết rõ ruộng đồng của anh không thể tự sinh sôi, đã quyết định hoặc đi về nhà một mình hoặc lấy hết can đảm bám trụ lại. Tiện đây, đó là câu nói mà Victoria đã dạy anh.

Nhà D"Arbanville hoảng sợ tột độ khi họ đoán được con gái mình quan tâm đến cái anh, cái anh... nông dân này! Nhưng đến lúc đó thì đã quá muộn. Victoria không chỉ giỏi trích lời Phu nhân Macbeth mà còn biết ứng dụng khả năng lập kế hoạch của bà. Khi cô nhanh chóng nhận ra Tom không hiểu được những từ hoa mỹ mình nói, Victoria đã sắp xếp một chuyến đi bí mật đến nhà máy hàng đầu trong lĩnh vực sản xuất máy nông nghiệp chạy bằng hơi nước của cả London.

Tom đã bước vào cái thế giới xa lạ là London chỉ vì mê mụ Victoria, nhưng anh chưa bao giờ quên rằng Victoria không biết chút gì về cuộc sống của anh. Qua chuyến đi này, cô đã chỉ cho anh thấy cô rất sẵn lòng học nghề nông. Những câu hỏi của cô đối với người quản lý thực vật đã chứng tỏ rằng cô đã bỏ nhiều công sức nghiên cứu về những thứ đó trước cả khi cô bước chân vào nhà máy, và đây chính là điều đã thuyết phục Tom rằng không có người phụ nữ nào khác dành cho anh ngoài cô.

Khi Tom cầu hôn, cô biết những tháng ngày bó gối trong phòng khách của mình đã kết thúc. Vâng, cô trả lời ngay lập tức, không thèm chơi trò do dự. Cô đã kết thúc cuộc đời làm Victoria, và sẵn sàng bắt đầu cuộc đời mới với tư cách là cô Vicky đáng yêu của anh.

Sự phản đối của cha mẹ cô yếu đi trông thấy khi họ biết Tom sở hữu một diện tích đất rộng bao la, và đôi trẻ đã nên duyên trong một hôn lễ quá hoành tráng so với ý thích của anh. Vicky chuyển đến sống tại trang trại Wennington bát ngát, với một phía nhìn ra cánh đồng và một phía trông về biển Bắc. Đó là một địa điểm khá lạ lùng đối với ngôi nhà, nhưng bà cố nội của Tom đã khăng khăng phải có được một chỗ nhìn ra "nơi đất dừng lại và hòa vào biển cả".

Vicky sẽ nhắc nhở Tom nếu anh quên không cạo râu còn Tom sẽ trêu Vicky rằng gót giày của cô quá cao đối với vợ một người nông dân, nhưng cô cũng thầm run rẩy trước hàm râu lởm chởm ram ráp của anh và anh cũng rất yêu cái cách đôi ủng thành thị làm hông cô lúc lắc. Mùi mồ hôi của anh có thể làm cô rùng mình sung sướng, còn mùi nước hoa thoang thoảng của cô khiến anh phải lấy vội chiếc khăn mùi soa lấm lem ra lau gáy. Khi còn ở London, cơ thể cô chỉ lặng lẽ tồn tại, trên nông trại của họ, Vicky đã ăn sâu bám rễ vào đất mẹ. Cô nhóm lửa để đun những ấm nước khổng lồ cho Tom tắm mỗi tối. Cô thổi ống bễ, mỉm cười, người đẫm mồ hôi, và tưởng tượng anh sẽ cảm thấy thế nào trước sự gần gũi của cô. Chính trong những lần tắm tối này mà lần đầu tiên Vicky cảm thấy yêu đôi tay của mình. Cô quên luôn những bài học piano thuở còn thơ khi kỳ cọ đất bẩn cho chồng.

Đến mùa gặt, Vicky thụ thai. Cô mập lên trông thấy vào mùa đông và sinh em bé khi mùa xuân đến, Vicky gọi cậu bé là Alexander; Tom gọi cậu bé là Al. Bầu không khí thôn quê trở nên ngọt ngào hơn bao giờ hết.

Sáng sáng họ thường cùng nhau đứng trên vách đá, bế em bé trên tay, nhìn những ngư dân đến rồi đi. Họ làm điều này rất thường xuyên sau đám cưới, và mọi việc cũng không có gì thay đổi trong suốt mùa hè đầu tiên của đứa bé. Tom nhắm mắt lại và tưởng tượng mình đang ở trên mặt nước. Khi còn trẻ, anh từng mơ được gia nhập Hải quân Hoàng gia, nhưng đã từ bỏ ý định khi người cha mất và để lại trang trại cho anh.

Tuy nhiên, Tom vẫn có một chiếc thuyền nhỏ anh thường đi vào những ngày Chủ nhật. Vào một ngày như thế đầu tháng Mười một, cũng như bao ngày khác, Tom rủ Vicky đi cùng anh. Vụ mùa mới thu hoạch và họ có đủ thời gian rảnh để dành một ngày cho nhau. Cô nói với anh mình hơi mệt một chút và muốn ở lại chăm sóc em bé. "Nhưng anh cứ đi đi," cô nói. "Vui nhé."

Từ trên vách đá, Vicky bế Alexander trên tay, nhìn Tom lái chiếc thuyền ra khỏi cảng và tiến dần về phía đại dương, bóng hình anh mỗi lúc một nhỏ dần cho đến khi khuất hẳn. Cô kéo áo khoác chặt hơn và kéo chăn lên cằm con. Một luồng gió lạnh căm căm thổi tới; cô cảm thấy rét thấu xương trong lúc vội vã quay về nhà. Tháng Mười một rồi, cô nghĩ, có gió cũng là bình thường thôi.

Luồng gió buốt giá kéo theo cơn bão, thật đột ngột và dữ dội. Trong trang trại, Vicky thiếp đi cùng với cơn đau đầu, tay ôm chặt con bên ngực. Cô cứ trở mình mãi cho đến khi cả hai choàng tỉnh bởi một tia chớp đánh thẳng xuống cánh đồng. Vicky ngồi bật dậy còn Alexander òa lên khóc. Cô mặc vội quần áo rồi chạy về phía rìa vách đá, để em bé lại cho cô giúp việc trông.

Vicky đảo mắt suốt dọc chân trời để tìm chiếc thuyền bé nhỏ của chồng. Chẳng có gì ngoài nước biển xám xịt đang cuộn lên giận dữ.

Ít phút sau, một người tá điền ra đưa Vicky vào nhà, e ngại cơn gió mạnh có thể kéo cả cô bay khỏi rìa vách đá. Dưới đáy vực là những tảng đá sắc nhọn có thể xé toạc một con người. Khi Vicky đã ở yên trong nhà, họ cố trấn an cô. "Anh Wennington là một thủy thủ giỏi. Anh ấy sẽ tìm được chỗ trú trong một cái vịnh nhỏ và ngồi ở một nơi an toàn đợi cơn bão qua đi. Anh ấy sẽ trở lại khi bão tan thôi." Vicky gật đầu cho qua chuyện, mong muốn tin đó là sự thật.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 19


Đó là cơn bão khủng khiếp nhất trong ký ức của những người còn sống và nó gào thét trong suốt ba ngày liền. Vicky dật dờ đi từ nhà ra vách đá, đứng mãi cho tới khi có một người tá điền đến nói với cô là Alexander đang khóc và cần được chăm sóc.

Cơn bão cuối cùng cũng qua đi. Bầu trời u ám rạng dần và ánh mặt trời chiếu rọi qua khe hở giữa các đám mây. Vicky lại quay về chỗ của mình trên rìa vách đá, và cô đứng đó cả ngày liền, đợi người chồng trở về. Nhưng anh vẫn không xuất hiện.

Ngày tiếp theo cô tổ chức một đội cứu hộ. Tom được mọi người yêu quý hết mực và tất cả những chiếc thuyền có thể sử dụng được đều bơi xuôi ngược bờ biển để tìm anh.

Không có chút dấu hiệu nào của Tom. Không có dấu hiệu của bất cứ cái gì. Chỉ có những con sóng cô đơn, trải dài. Cứ như đại dương đã xóa bỏ mọi chứng cứ về sự tồn tại của anh. Sau ba ngày tìm kiếm, những người đánh cá ngại ngần từ bỏ mọi nỗ lực. Họ cũng phải nuôi sống gia đình mình. Họ hứa với Vicky là sẽ tiếp tục để mắt tới mọi dấu hiệu.

Cô không từ bỏ - không thể từ bỏ dễ dàng thế được. Cô thuê một thủy thủ kèm theo thuyền, và hai người cùng nhau tìm kiếm thêm sáu tuần nữa. Vicky dần trở nên thân thuộc với tất cả những rìa đá nhấp nhô nơi bờ biển. Tuy nhiên, đến giữa tháng Mười hai, những cơn gió lạnh như băng đã thổi Vicky và người làm thuê ra khỏi biển cả. Đã đến lúc phải quay về từ chuyến đi tìm người mất tích để quan tâm chăm sóc đến những người còn sống. Bé Alexander cần mẹ nó.

Những người tá điền vẫn tiếp tục công việc của mình nhưng thiếu đi sự chỉ dẫn của Tom. Điều duy nhất làm họ cảm thấy nhẹ lòng là vụ gặt đã xong trước khi cơn bão ập tới. Giáng sinh là một sự kiện thật thê thảm, không một cây thông được dựng lên, không một con ngỗng nào được chế biến. Năm đó, bắt đầu thật hứa hẹn với sự ra đời của Alexander vào mùa xuân, đã kết thúc trong đau buồn.

Dần dần, Vicky trở lại cuộc sống vốn có của mình nhưng cô vẫn chỉ vận toàn đồ đen. Người trong vùng gọi cô là Góa phụ Wennington. Cô nhận được vài lời trả giá khá hời cho trang trại, nhưng cô cương quyết không bán. Thật không đúng khi từ bỏ mảnh đất đã thuộc về gia đình Tom hàng bao thế hệ, và cô cũng không muốn từ bỏ ngôi nhà nơi cô đã yêu và được yêu mãnh liệt. Hơn nữa, cô cũng không muốn quay trở lại xã hội London. Móng tay cô đã dính quá nhiều đất rồi.

Nhưng hơn tất cả, mảnh đất là tất cả những gì Alexander biết về cha mình. Mảnh đất này là Tom. Trong suốt mùa đông cô đơn đầu tiên, Vicky nghiên cứu cách điều hành trang trại, học tất cả những gì cô có thể, vì người chồng mất tích và đứa con thơ dại của họ. Cô cần phải làm một cái gì đó, bất cứ cái gì, để hạn chế tối đa những suy nghĩ về sự đánh cắp Tom trắng trợn của biển cả. Nhưng mỗi buổi sáng, khi mặt trời mọc, Vicky lại đứng bên rìa vách đá một tiếng đồng hồ. "Tom đã chết rồi," người dân trong vùng nói. "Sao cô ấy lại không thể chấp nhận điều đó chứ? Thật tội nghiệp!"

Khi mùa xuân đến, Vicky bắt đầu điều hành trang trại. Lúc đầu các tá điền khá e dè tuân theo chỉ dẫn của cô nhưng khi thấy rõ ràng là cô biết mình đang làm gì, họ thôi không xì xào nữa. Họ kết luận rằng tiền nhà Wennington vào tay Vicky cũng tốt như khi ở trong tay Tom. Cô làm việc rất chăm chỉ để chứng tỏ bản thân, và dù vụ mùa không thành công bằng năm trước đó, nó cũng không đến nỗi nào. Vào lễ tưởng niệm đầu tiên sự kiện Tom mất tích, Vicky đã tháo bỏ khăn tang, nhưng mỗi sáng cô vẫn luôn đi đến rìa vách đá. Đó không phải điều cô có thể lý giải cho người khác, nhưng cô tin rằng bằng cách nào đó những đợt thủy triều sẽ mang tình yêu của cô đến với Tom.

Năm tháng qua đi, trang trại ngày càng trở nên giàu có. Vicky đã được biết đến như một nông dân giỏi và một nữ doanh nhân tài ba. Cô có những nhân công tốt nhất vì cô luôn trả lương hậu hĩnh nhất. Cô luôn trả lương hậu hĩnh nhất vì cô luôn thu được nhiều nhất. Cuối cùng cô bắt đầu mua những trang trại láng giềng, với giá cả hợp lý, và khi cô quản lý những mảnh đất mới này, chúng đều gia tăng sản lượng thường xuyên.

Trong suốt hai mươi hai năm, Vicky miệt mài làm việc. Bà trở thành người chủ đất giàu có nhất trong cả vùng, còn Alexander trở thành một thanh niên khỏe mạnh, cả về thể chất lẫn tinh thần, và giỏi giang. Rồi một ngày, cậu gặp một thiếu nữ thông minh, mạnh mẽ đến từ một thành phố gần đó. Cậu yêu cô, cầu hôn và được chấp nhận. Vicky biết rằng con trai mình sẽ hạnh phúc.

Trong suốt hai mươi hai năm, sáng nào bà cũng dành một giờ đứng trên vách đá nhìn xuống những ngọn sóng quằn quại mời gọi phía dưới. Ba trăm sáu mươi lăm ngày một năm. Tất cả mọi người đều biết bà đang đợi chồng mình trở về. Tám nghìn ngày. Mưa, gió, mưa tuyết, tuyết, nắng nôi cũng không ảnh hưởng gì đến Góa phụ Wennington. Tám nghìn giờ. Không một lần bà rời bỏ chỗ đứng cô đơn của mình bên rìa thế giới, nơi mặt đất hòa vào biển cả.

Vào mùa thu sau lễ cưới của Alexander, đã có một trận bão khủng khiếp. Đó, thực sự, là trận bão tệ nhất từ sau trận bão đã cướp Tom đi. Thật lạ lùng, bão đến vào đúng tuần lễ đó, vào đầu tháng Mười một, khi bà mất ông. Gió thét gào, nhưng thậm chí một cơn bão hung bạo cỡ đó cũng không đủ sức khiến Vicky rời khỏi vách đá. Thật ra bà thích những ngày bão tố nhất, vì chúng làm bà cảm thấy mình được đến gần bên người chồng đã mất tích nhất. Vicky đứng hai tay dang rộng, ôm lấy cơn mưa khi nó ập xuống da thịt mình. Bà thì thầm tên ông. "Tom, Tom, Tom, Tom..." Tóc bà tung bay, và rồi bà thét vào trận bão. "Em yêu anh, em yêu anh, em yêu anh, em sẽ luôn yêu anh."

Alexander đứng nhìn từ phía trang trại, vừa phấn khích vừa lo lắng. Anh chấp nhận nghi lễ của mẹ mình vì anh biết nó là một phần không thể thiếu, nhưng lần này thì khác. Bình thường, mẹ luôn yên lặng và đăm chiêu nhìn ra xa; ngày hôm ấy, mẹ giật lên như thể là con rối của trận bão. Alexander chạy vội ra ngăn mẹ lại. "Mẹ! Con chưa bao giờ cản mẹ. Nhưng giờ mẹ phải vào đi, ngoài này quá nguy hiểm."

Vicky gào lên trong cơn bão. "Không!"

Alexander dốc hết sức chống lại cơn bão. Chống lại mẹ mình. "Mẹ có đứng nhìn bao lâu đi nữa cũng chẳng có kết quả gì đâu."

Vicky lắc đầu. "Hiển nhiên là có chứ."

Alexander siết chặt cổ chiếc áo mưa. Anh gào lên dưới lần mũ áo mưa cao su màu vàng. "Không ai nghi ngờ tình yêu của mẹ cả."

Vicky quay mặt khỏi con mình, hướng về phía biển. Bà nói thật nhẹ nhàng, nhẹ nhàng đến mức con mình không thể nghe thấy. "Mẹ chỉ muốn nhớ về ông ấy."

Cơn mưa như trút đã xói đất thành những rãnh nước nhỏ quanh chân bà. Đất bắt đầu long ra và Alexander cảm thấy nó đang dịch chuyển. Một vết nứt toác hiện ra giữa họ: hai mươi hai năm đứng suốt tại một vị trí đã làm mòn nền đá. Alexander hoảng loạn với tay về phía mẹ mình, mắt anh mở to vì hoảng sợ. Anh gào lên bắt mẹ nắm lấy tay mình. Vicky đưa tay về phía con trai nhưng khi tay gần như đã ở trong tay con, bà dừng lại. Bà không còn sợ hãi nữa và mỉm cười. Bà để tay mình buông thõng bên sườn.

"Vì Chúa, mẹ ơi!"

Alexander không thể nói thêm được gì nữa. Tiếng gió mưa gầm rú và tiếng sấm nổ chớp giật ầm ầm khắp nơi, nhưng anh chưa bao giờ thấy mẹ mình bình thản và đẹp đến vậy. Như thể bà đã chờ đến lượt mình, và cuối cùng giây phút đó cũng tới. Đất sụt dưới chân bà và anh đứng nhìn mẹ mình biến mất cùng rìa vách đá vỡ vụn.

Thi thể của bà không bao giờ được tìm thấy. Tất cả dân làng đều nói rằng cuối cùng bà đã trở lại bên Tom yêu dấu của mình, dưới những con sóng đại dương.
 
CHÚ Ý !!!
Các đạo hữu nhớ thêm TÊN CHƯƠNG và THỨ TỰ CHƯƠNG ở ô phía trên phần trả lời nhanh. Như vậy hệ thống mới tạo được DANH SÁCH CHƯƠNG.
Cập nhật chức năng ĐĂNG TRUYỆN và THÊM CHƯƠNG MỚI trên web Diễn Đàn Truyện tại https://truyen.diendantruyen.com
Top Bottom