Cập nhật mới

Dịch Full Cô Gái Mang Trái Tim Đá

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 20


Bên cạnh giường tôi, trên chiếc bàn nhỏ, là một bông loa kèn bằng thủy tinh xuất hiện vào buổi sáng sau hôm câu chuyện về Vicky được kể. Tôi rất lúng túng không hiểu vì sao nó lại ở đó, vì Marianne Engel đã rời bệnh viện từ lâu trước khi tôi ngủ. Khi tôi hỏi các cô y tá xem ai trong số họ đã để bông loa kèn thủy tinh lại thì họ đều thề là không phải mình. Hơn nữa, Maddy còn khẳng định chắc chắn rằng suốt đêm không hề có một ai đi qua phòng trực của y tá. Thế có nghĩa là hoặc các cô y tá nói dối, hoặc Marianne Engel đã lẻn vào với sự trợ giúp của bóng tối.

Câu hỏi thứ hai về bông loa kèn thủy tinh là: Nó tượng trưng cho cái gì?

Tại sao, bạn hoàn toàn có thể hỏi tôi, tại sao tôi lại nghĩ nó mang một ý nghĩa nào đó? Một vài thứ, trong đó có những món được làm từ công nghệ thổi thủy tinh, đơn giản là nhìn rất hay. (Và tôi có cần phải nhắc bạn nhớ là khoa bỏng cấm mang hoa thật vào không nhỉ?) Tuy nhiên, tôi chắc chắn rằng nó thực sự mang một ý nghĩa nào đó; càng dành nhiều thời gian với Marianne Engel, tôi càng tin rằng mọi thứ đều liên quan đến nhau một cách không thể lý giải.

"Ồ," bác sĩ Edwards nói, "một chút bí ẩn không phải lúc nào cũng xấu. Nó khiến người ta có lòng tin."

"Đừng nói với tôi là chị theo đạo đấy, Nan. Tôi không nghĩ là tôi chịu nổi đâu."

"Tín ngưỡng của tôi, có hay không có, cũng chẳng việc gì đến anh. Anh có cuộc sống riêng của mình, như bữa tiệc tối qua ấy, và tôi cũng có cuộc sống của tôi." Có chút... ghen tị pha lẫn giận dữ và làm mình làm mẩy? gọi như thế nào được nhỉ?... trong giọng nói của bà.

Thật lạ khi Nan có vẻ khó chịu với bữa cơm do chính bà chỉ định. Là một kẻ cơ hội, tôi coi đây là bàn đạp cho tôi hỏi bà một câu khiến tôi bận lòng bấy lâu: vâng, tôi biết là tình trạng gia tăng chuyển hóa các chất trong cơ thể khiến tôi cần phải hấp thụ thêm nhiều calo, nhưng lý do thật sự bà cho phép Marianne Engel làm việc đó là gì.

"Mọi người đều phải ăn," Nan thản nhiên nói.

Câu trả lời của bà, dĩ nhiên, không phải một câu trả lời đúng nghĩa. Thế là tôi hỏi lại. Nan, như thỉnh thoảng vẫn thế, dành vài giây cân nhắc lợi hại của việc nói thật. Tôi rất thích khi bà làm thế. Như tôi mong đợi, bà đã không nói dối. "Tôi cho phép những bữa ăn này vì rất nhiều lý do. Đầu tiên, sẽ rất tốt cho anh nếu anh hấp thụ được càng nhiều chất dinh dưỡng càng tốt. Tôi cũng làm việc này vì các y tá nữa vì có vẻ anh đã xử sự phải phép hơn từ khi Marianne Engel đến. Nhưng trên hết, tôi làm việc này vì tôi chưa bao giờ gặp một người nào cần bạn đến như anh."

Nói ra điều đó đã làm Nan cảm thấy nhẹ nhõm. Tôi hỏi bà nghĩ gì về việc Marianne Engel giúp tôi tập vật lý trị liệu, và bà thừa nhận chính xác những gì tôi đang nghi ngờ, rằng bà không thích ý tưởng đó lắm.

"Chị lo lắng là tôi bắt đầu phải phụ thuộc vào cô ấy nhiều quá," tôi nói, "và cô ấy sẽ làm tôi thất vọng."

"Chẳng phải chuyện ấy cũng làm anh lo lắng sao?"

"Phải," tôi trả lời.

Vì Nan đã quyết định nói cho tôi nghe sự thật, điều nhỏ nhặt nhất tôi có thể làm là trả lời thẳng thắn như vậy.

Mọi thứ dường như đang tiến triển gần giống như cái lẽ phải thế. Giờ đây khi tôi thực sự có khát vọng cải thiện bản thân và đang nỗ lực để thực hiện điều đó, tôi có thể cảm thấy mình ngày càng mạnh mẽ hơn. NGƯƠI CÓ CHẮC KHÔNG? Nhưng để sẵn sàng đối mặt với thế giới thực ngoài kia thì phải cần đến cả sức mạnh thể chất lẫn tinh thần.

Maddy đặt tôi ngồi vào xe lăn rồi đẩy tôi vào phòng chung nơi có bốn bệnh nhân bỏng khác. Một người đàn ông đang đứng trên bục trong lễ phục áo sơ mi và cà vạt: Lance Whitmore là một bệnh nhân đã xuất viện. Anh đã phải chịu những vết bỏng gần (nhưng không hoàn toàn) tệ bằng tôi. Vết thương của anh thì khó nhìn thấy hơn - chỉ có bên cằm phải và phần cổ mới cho thấy anh từng bị bỏng - nhưng anh nói trên người anh có chi chít sẹo lồi mà anh sẽ cho chúng tôi xem sau buổi thuyết trình, nếu chúng tôi có muốn xem liệu vài năm sau khi hồi phục thì chúng tôi sẽ được những gì. Tôi chẳng cần; phải đối mặt với những tháng ngày hiện tại đã đủ lắm rồi.

Sự hiện diện của Lance vừa có tác dụng củng cố tinh thần vừa là nguồn thông tin đáng tin cậy. Anh đã ở bên ngoài ba năm và rất sẵn lòng truyền thụ chút kinh nghiệm trong việc hòa nhập thành công, cứ như một nhà diễn thuyết của Hội Cai Rượu ấy.

"Hãy nhìn vào từ chấn thương trong từ điển," Lance bắt đầu, "và các bạn sẽ thấy có rất nhiều định nghĩa. Về mặt y khoa, đây là một từ chỉ những tổn thương gây ra cho cơ thể do tác động bên ngoài, trong trường hợp của chúng ta là do lửa. Dĩ nhiên, cũng có các nghĩa tương tự, và các bạn cũng sẽ bị tổn thương - do người ta vô tình hay hữu ý - khi các bạn rời khỏi đây. Người khác không thực sự hiểu những gì đã xảy đến với chúng ta đâu."

Bài diễn văn của Lance diễn ra như người ta đoán trước: anh lại nói về những "thách thức" và "cơ hội" mình gặp phải, và những gì anh đã làm để có lại cuộc sống của chính mình. Khi bài diễn văn kết thúc, anh để mọi người được tự do thảo luận.

Câu hỏi đầu tiên đến từ một nữ bệnh nhân cứ gãi suốt từ đầu đến cuối buổi nói chuyện. Cô muốn biết liệu "những vùng da bị lóc" của cô có luôn "ngứa đến phát điên" thế này không.

"Cảm giác ngứa cuối cùng cũng hết thôi. Tôi hứa đấy." Một loạt tiếng xì xào nhẹ nhõm rộ lên giữa đám đông. Thậm chí cả tôi, người đã thề sẽ giữ im lặng, cũng phải thở phào biết ơn. "Các bạn không thể làm gì khác ngoài việc cố gắng chịu đựng cho qua thời kỳ khó khăn, quả là bất hạnh, nhưng tôi luôn luôn thấy dễ chịu hơn mỗi khi nhớ về điều mà Winston Churchill từng nói."

"Chúng ta sẽ không bao giờ đầu hàng?" nữ bệnh nhân bị ngứa gợi ý.

"Ồ, vâng," Lance cười, "Nhưng tôi đang nghĩ về câu "Nếu chúng ta phải đi qua Địa ngục... thì cứ đi thôi.""

Một bệnh nhân khác hỏi, "Khi ra ngoài xã hội anh cảm thấy thế nào?"

"Thực sự rất khó khăn, nhất là trong thời kỳ đầu. Hầu hết mọi người đều giả vờ không nhìn thấy bạn, nhưng họ vẫn thì thầm. Một vài người còn ngang nhiên nói kháy bạn nữa, thường là mấy cậu choai choai. Điều thú vị ở đây là rất nhiều người nghĩ nếu bạn bị bỏng thì hẳn là do bạn bị quả báo. Suốt bao thế hệ ông bà ta đã dạy như vậy, đúng không? Lửa là dấu hiệu trừng phạt của thánh thần. Thật khó cho mọi người phải đối mặt với một thứ phi logic như chúng ta - bị bỏng, nhưng vẫn sống - vì thế chúng ta hẳn đã làm việc gì đó rất sai trái, nếu không họ sẽ phải chấp nhận một sự thật rằng những điều như vậy cũng có thể xảy đến với họ." Anh ngừng lại. "Có ai ở đây nghĩ những vết bỏng của mình là kết quả của một sự trừng phạt nào đó không?"

Chúng tôi nhìn nhau cho tới khi một bệnh nhân rụt rè giơ tay lên, một giây sau lại thêm một người nữa. Tôi sẽ không giơ tay đâu, dù Lance có đợi bao lâu đi nữa.

"Điều này cũng hoàn toàn bình thường thôi," anh trấn an chúng tôi. "Sao lại là tôi? Ngày nào tôi cũng hỏi mình câu này nhưng chưa một lần nhận được câu trả lời. Tôi sống tốt. Tôi đi lễ nhà thờ, đóng thuế, tình nguyện tham gia câu lạc bộ nam sinh vào cuối tuần. Tôi đã, và đang, là một người tốt. Vậy-sao-lại-là-tôi?" Ngừng lại. "Chẳng có lý do nào cả. Một khoảnh khắc đen đủi, với hậu quả cả đời."

Một bệnh nhân khác hỏi, "Mọi người có hỏi về những vết bỏng của anh không?"

"Có bọn trẻ con, vì chúng vẫn chưa biết cách cư xử phải phép. Một số người lớn nữa, và nói thật thì tôi rất cảm kích. Mỗi một người bạn gặp trong suốt quãng đời còn lại sẽ băn khoăn về chuyện đó, vì thế thỉnh thoảng dẹp thắc mắc ấy khỏi đường đi của mình để có thể đến với những điều khác cũng là một việc tốt."

Một bàn tay dè dặt giơ lên, "Thế còn chuyện ấy thì sao?"

"Tôi rất thích chuyện ấy." Câu nói của Lance khiến vài người cười khúc khích, và tôi đoán anh đã đọc bài phát biểu này đủ nhiều để hoàn thiện câu trả lời mà anh luôn luôn gặp phải. "Với mỗi người khác nhau thì việc chăn gối cũng khác. Da bạn là một phần khá tuyệt vời của chuyện ấy, phải không? Cơ quan lớn nhất trong cơ thể, với diện tích bề mặt lên đến ba mét vuông, và mang lại rất nhiều khoái cảm. Giờ đây chúng ta đã mất khá nhiều đầu dây thần kinh rồi, quả thật rất tệ nhỉ."

Người bệnh vừa nêu câu hỏi liền thở dài nặng nề, nhưng Lance giơ cao tay lên để thể hiện rằng mình vẫn còn vài điều muốn nói. "Da là đường chia cắt giữa người với người, nơi bạn kết thúc và nơi người khác bắt đầu. Nhưng trong quan hệ tình dục, tất cả đều thay đổi. Nếu da là một hàng rào ngăn cách người với người thì tình dục là cánh cổng mở cơ thể của bạn ra cho đối phương."

Chưa bao giờ trong đời tôi lại có ý nghĩ đấy, với bất cứ ai. Càng không phải với Marianne Engel.

Lance đằng hắng. "Tôi đã rất may mắn: vợ tôi đã ở lại bên tôi. Trên thực tế, những vết bỏng đã làm chúng tôi đồng cảm hơn, và điều đó cũng được vận vào đời sống tình dục nữa. Tôi buộc phải trở thành một người tình tuyệt vời hơn, vì tôi phải trở nên ngày một, ừm, sáng tạo hơn. Đó là tất cả những điều tôi muốn nói về chuyện đó."

"Điều gì là khó khăn nhất đối với anh sau khi xuất viện?"

"Quả là một câu hỏi khó, nhưng tôi nghĩ đó là việc phải mặc trang phục tạo áp suất hai mươi ba tiếng mỗi ngày. Chúng thật tuyệt vời, các bạn biết đấy, trong việc hạn chế tạo sẹo nhưng - Chúa ơi! - cảm giác giống như bị chôn sống vậy. Bạn sẽ luôn mong đợi được tắm, dù rất đau đớn, để có thể thoát ra khỏi cái thứ kinh khủng ấy." Lance nhìn vào mắt tôi một thoáng, rồi tôi có cảm giác anh đang đặc biệt nói đến tôi. "Tôi mặc bộ đồ của mình trong mười tháng đầu tiên từ khi ra viện nhưng với một số bạn ở đây thì có thể là một năm, hoặc lâu hơn."

Anh tiếp tục, "Chỉ sau khi rời khỏi đây các bạn mới nhận ra rằng một vết bỏng sẽ tồn tại vĩnh viễn. Đó là một sự kiện dai dẳng, một sự việc liên tục tái diễn. Các bạn sẽ rơi thẳng từ cảm giác hạnh phúc lâng lâng vì biết mình còn sống xuống hố sâu tuyệt vọng khi bạn chỉ ước được chết. Và chính khi bạn bắt đầu nghĩ rằng sẽ chấp nhận con người mới của mình, điều đó cũng thay đổi luôn. Vì việc bạn là ai không phải điều bất di bất dịch đâu."

Lance có vẻ hơi bối rối, như thể anh đã nhỡ đưa mình vào một chủ đề mà bản thân không muốn nói tới. Anh đưa mắt nhìn khắp phòng, đăm đăm nhìn xuống mọi ánh mắt trong vài giây, trước khi kết thúc buổi nói chuyện. "Những phương pháp điều trị bỏng hiện đại thật không thể tưởng tượng nổi, còn các bác sĩ thì thật tuyệt vời, và tôi rất biết ơn vì đã được sống. Nhưng như thế vẫn chưa đủ. Da bạn là dấu hiệu nhận biết nhân dạng bạn, hình ảnh mà bạn trưng ra với mọi người. Nhưng nó không bao giờ khẳng định bạn thực sự là ai. Vì bị bỏng chẳng hề làm bạn kém - hoặc nhiều - tính người hơn. Chỉ là bạn bị bỏng mà thôi. Vì thế trong hoàn cảnh kỳ dị này, bạn hiểu ra điều mà hầu hết mọi người sẽ không bao giờ hiểu được, rằng da chỉ là nước sơn chứ không phải nét tinh túy của một con người. Xã hội chỉ giỏi khua môi múa mép về chuyện tốt gỗ hơn tốt nước sơn, nhưng ai có thể hiểu được điều đó bằng chúng ta?"

"Một ngày nào đó, nhanh thôi," Lance nói, "các bạn sẽ bước ra khỏi nơi đây và phải quyết định xem mình sẽ sống nốt quãng đời còn lại như thế nào. Bạn sẽ được đánh giá bởi cái mà người khác nhìn thấy, hay bởi cái tinh túy trong tâm hồn các bạn?"

HAI LỰA CHỌN THẬT NGHÈO NÀN.

Gregor mua một bịch kẹo đủ loại để chúc mừng tôi nhân lễ Halloween. Vì chúng tôi là đàn ông nên chúng tôi không đả động gì đến cuộc nói chuyện hôm trước giữa hai người, và mấy cái kẹo là cách ông ta ngỏ ý rằng chúng tôi nên dĩ hòa vi quý. Nếu địa điểm không phải là bệnh viện, tôi tin chắc ông ta đã mang đến cả bịch sáu lon bia rồi.

Buổi tối đó đã cho thấy một đột phá trong tình bạn của chúng tôi. Gregor kể cho tôi nghe một câu chuyện ngượng chín người về lễ Halloween tệ nhất của ông ta, khi ông ta hóa trang - trong một nỗ lực sai lầm để tạo ấn tượng với cô sinh viên y khoa mình đang mê mẩn - thành một bộ gan người. Ông ta đã mất nhiều công sức để chế bộ trang phục của mình trông càng thật càng tốt, gồm cả một ống cao su giả làm ống gan được gài vào một chiếc túi bí mật đựng rượu vodka trong thùy trái lá gan. Lý lẽ ông ta đưa ra là làm thế sẽ giúp ông ta có thể hút rượu cả tối, bất cứ khi nào người phụ nữ kia làm ông ta hồi hộp quá mức. (Có lẽ lần đầu tiên trong lịch sử, một người đàn ông lọc rượu khỏi gan rồi hấp thụ nó vào cơ thể.) Không may là ông ta thẹn đến nỗi nhanh chóng say bí tỉ. Cuối buổi tối hôm đó, Gregor và người ấy thấy mình đang ở trên gác xép của một họa sĩ chép tranh của Jackson Pollock. Câu chuyện kết thúc với cảnh Gregor phải trả cho ông họa sĩ mấy trăm đô la sau khi nôn vào một trong những bức vẽ của ông ấy, dù tôi cũng chẳng hiểu việc đó có tạo được khác biệt gì cho bức tranh hay không.

Tôi cố vượt mặt Gregor bằng câu chuyện về Giáng sinh đáng xấu hổ nhất của mình, về một nỗ lực không thành trong việc quyến rũ một cô yêu tinh tại một cửa hàng tạp hóa, người đã kết hôn với một anh già Noel lạm dụng chất kích thích. Gregor đáp trả bằng câu chuyện lễ Noel của ông ta, khi ông ta đã nhỡ tay bắn mẹ mình bằng khẩu súng hơi mới được tặng sau hàng tháng trời thề thốt rằng an toàn là mối quan tâm hàng đầu của ông ta. Cuối cùng, không hiểu sao chúng tôi quyết định sẽ cùng chia sẻ một câu chuyện đáng xấu hổ nhất thời thơ ấu, vào các ngày lễ hoặc không. Tôi là người kể trước.

Là một cậu bé bình thường, tôi đã phát hiện ra nghịch cái ấy của mình thật thích thú biết bao, nhưng vì lúc ấy đang phải sống với bà mợ nghiện cùng ông cậu nghiện, nên tôi chẳng có ai để san sẻ những khám phá sinh học của mình cả.

Tôi cũng biết láng máng, từ việc nghe lỏm mấy người lớn hút đá, rằng có những bệnh hoa liễu. Bạn chắc chắn không muốn mắc phải một trong số đó đâu, vì những điều rất xấu sẽ xảy đến với súng của bạn. (Mợ Derbi, khi thấy bản thân không thể tránh nói đến cái ấy của tôi, đã luôn gọi nó là súng.) Tôi cũng biết các bệnh hoa liễu được truyền qua chất dịch tiết ra trong khi giao hợp. Mình lẽ ra cũng có thể làm vài nghiên cứu, tôi nghĩ, nhưng tôi biết rõ các cô thủ thư đến độ chẳng thể liều lĩnh bị bắt quả tang đang tìm mấy cuốn sách như thế. Hơn nữa, điều này cũng dễ hiểu: vì người ta có thể mắc bệnh hoa liễu khi xuất tinh và giờ đây khi tôi đã có khả năng xuất tinh, tôi sẽ phải cẩn thận để tránh bị lây nhiễm. Vì thế tôi bắt đầu xem xét các lựa chọn.

Tôi có thể dừng việc thủ dâm. Nhưng việc đó đã quá.

Tôi có thể phủ bụng bằng một chiếc khăn tắm để hứng dòng tinh dịch tội lỗi. Nhưng không thể giấu một chiếc khăn to như thế và lén lút giặt sạch nó cũng khó.

Tôi có thể thủ dâm vào một chiếc tất. Nhưng tất cả những đôi tất của tôi đều được dệt bằng vải bông thưa, và chất dịch có thể rỉ qua đó và thấm vào lỗ chân lông trên da tôi.

Tôi có thể thủ dâm vào những cái túi đựng sandwich có mép dán. Phải rồi, việc này không những nghe có vẻ y học mà còn hợp với tôi kinh khủng. Hiển nhiên, đây là cách tôi chọn.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 21


Không lâu sau tôi đã có một bộ sưu tập túi căng phồng dưới gầm giường, nhưng tôi không thể cứ chất cả đống vào thùng rác chung được - nếu ai đó phát hiện ra, hay nếu một con chó ăn vụng nào đó rải mấy cái túi chứa chất mặn mặn ấy trên bãi cỏ trước cửa? Thế là tôi quyết định tốt nhất là vứt chúng vào thùng rác nhà khác; càng xa ngôi nhà di động của chúng tôi càng tốt.

Địa điểm lý tưởng là khu nhà giàu trong thị trấn, cách xa bãi đỗ xe lưu động cả về khoảng cách lẫn địa vị xã hội. Tuy nhiên điều tôi không lường tới là người giàu ở đây rất nghi ngờ những thằng nhóc cứ lén lút quanh thùng rác nhà họ. Không lâu sau đó, một chiếc xe cảnh sát đã xuất hiện và tôi phải đứng trước hai ông sĩ quan lực lưỡng, cố gắng giải thích những hành vi đáng ngờ của mình.

Tôi không hề muốn phản bội bản chất đích thực của nhiệm vụ của tôi, nhưng các ông cảnh sát đã yêu cầu tôi đưa cho họ túi đồ mua sắm mà tôi đang cầm. Tôi van xin họ để tôi đi, nói rằng chẳng có gì trong túi trừ "bữa trưa" của tôi cả. Khi dùng vũ lực để lấy cái túi, họ đã tìm thấy bốn mươi gói nhỏ chứa một chất màu trắng không rõ nguồn gốc và bắt tôi trả lời chính xác rằng tôi đang buôn bán loại ma túy dạng lỏng nào.

Hoảng sợ trước viễn cảnh bị hỏi cung tại đồn cảnh sát địa phương trong khi họ phân tích thành phần hóa học của chất lỏng dạng sữa này, tôi thú nhận tôi đang đi loanh quanh để tìm chỗ vứt mấy cái túi đựng bánh sandwich có mép dán chứa đầy tinh dịch của mình.

Hai ông cảnh sát lúc đầu chẳng hề tin, nhưng khi câu chuyện của tôi trở nên chi tiết hơn, họ đứng lặng như trời trồng - cho tới khi họ bật cười. Không cần phải nói, tôi chẳng ấn tượng gì trước cách họ phản ứng với tình trạng khủng hoảng sức khỏe của tôi. Sau khi cười đã đời, hai người bỏ cái túi của tôi vào thùng rác gần nhất rồi đưa tôi về nhà.

Trên tinh thần đồng chí vừa xây dựng giữa chúng tôi, Gregor khoác lác rằng ông ta có một câu chuyện hay chẳng kém, nếu không muốn nói là hay hơn.

Khi còn nhỏ, Gregor chẳng khác gì một đứa vô học, dù tôi cho ông ta điểm tối đa vì ông ta không bao giờ tin rằng mình có thể tự chuốc bệnh hoa liễu. Khi ông ta khám phá ra trò thủ dâm, ông ta đã nghĩ thế này: Nếu thủ dâm bằng nắm tay khô cong đã thích thế này rồi, thì sẽ còn thế nào nữa nếu dùng một thứ gì đó trông có vẻ giống âm đ*o hơn?

Thế là Gregor bắt đầu các thí nghiệm của mình. Ông ta đã thử dùng nước rửa tay trong nhà tắm cho tới khi phát hiện ra thực tế phũ phàng của bỏng xà phòng. Tiếp theo ông ta thử dùng kem thoa tay, khá công hiệu cho tới khi cha ông ta bắt đầu vặn hỏi tại sao ông con có ham muốn bất thường về một làn da mềm mại. Cuối cùng thì Gregor, luôn có đầu óc sáng tạo và một căn bếp chất đầy bát đựng hoa quả tú ụ, bắt đầu nghiên cứu những khả năng mà một cái vỏ chuối có thể mang lại. Chẳng phải chính tự nhiên đã chế tạo vỏ chuối đặc biệt cho việc phục vụ cái ống bơm da thịt này?

Vỏ chuối có một xu hướng rất xấu là hay bị rách trong khi hành sự nhưng, không bao giờ chịu đầu hàng, Gregor đã quyết định giải quyết yếu điểm tự nhiên này bằng băng dính trong. Rất thành công, nhưng ông ta cũng lại phải đối mặt với vấn đề khó khăn từng gây phiền hà cho tôi: đó là công đoạn xóa dấu vết.

Ông ta quyết định vứt vỏ chuối vào bồn cầu rồi xả nước, nhưng chiếc vỏ thứ tư đã làm mấy cái ống đồng loạt đình công. Khi cha của Gregor phát hiện ra tình trạng tắc nghẽn, rất tự nhiên, cụ bắt tay vào xử lý cái ống bơm. Gregor trốn trong phòng ngủ của mình, cầu Chúa ra tay khiến những cái vỏ trôi khỏi ống thay vì cứ dồn ứ lại. Nếu Người giúp con, thưa Chúa, con sẽ không bao giờ thủ dâm vào vỏ chuối nữa. Khi cha của Gregor không thể tự thông cái ống, cụ đã gọi thợ sửa ống nước trong vùng đến, mang theo dụng cụ thông toilet và những hiểm họa lơ lửng trên đầu.

Chúa đã đáp lại lời cầu nguyện của Gregor. Vỏ chuối gánh tội cuối cùng cũng trôi, và lời nhận xét duy nhất của người thợ sửa ống nước là mẹ Gregor nên xem xét việc thêm chút chất xơ vào khẩu phần ăn của gia đình. Gregor đã giữ lời hứa với Chúa bằng việc từ bỏ việc lạm dụng hoa quả mãi mãi - hay ít nhất ông ta cũng đảm bảo như vậy, bên giường bệnh của tôi.

Chúng tôi đang trêu chọc lẫn nhau và hứa giữ bí mật của cả hai thì Marianne Engel bước vào phòng, bó trong những dải băng xác ướp, đôi mắt xanh biển/xanh lục sáng lấp lánh giữa những dải băng trắng quấn quanh mặt, mái tóc sẫm màu thả hờ xuống lưng. Cô rõ ràng không ngờ đến sự có mặt của một chuyên gia tâm thần trong phòng tôi, chứ đừng nói là người đã từng điều trị cho cô trong quá khứ. Nó làm cô chết lặng/cứng đơ giữa đường, như một tử thi cứng đờ ba nghìn (hoặc bảy trăm) năm tuổi sống dậy tức thì. Gregor, nhận ra mái tóc và đôi mắt không lẫn vào đâu được của cô, lên tiếng trước. "Marianne, thật tuyệt khi gặp lại cô. Cô khỏe không?"

"Tôi khỏe." Hai từ cụt lủn phát ra. Có lẽ cô sợ bộ trang phục của mình sẽ làm cô bị ném ngay lại vào phòng tâm thần, vì việc lảng vảng quanh khoa bỏng trong bộ dạng quấn băng thì tử tế nhất cũng bị coi là dở hơi và thảm nhất sẽ là một trò đùa tồi tệ.

Trong nỗ lực làm cô được thoải mái, Gregor nói, "Halloween là ngày lễ yêu thích của tôi, thậm chí còn hơn cả lễ Giáng sinh ấy. Bộ hóa trang của cô thật tuyệt." Ông ta dừng lại để cho cô cơ hội đáp lại nhưng cô chẳng nói gì cả, thế nên ông lại tiếp tục, "Điều này rất thú vị đối với các bác sĩ tâm thần, cô biết đấy. Nhìn những bộ hóa trang của mọi người cũng là cách để ta có cái nhìn qua về những ước mơ thầm kín của họ. Tôi ấy à, tôi sẽ hóa trang thành một anh Bolshevik khát máu."

Marianne Engel căng thẳng kéo mấy dải băng xoắn xuýt quanh eo mình. Gregor nhận thấy nỗ lực kéo dài cuộc hội thoại chẳng đi đến đâu cả, thế là ông ta nhã nhặn xin phép rồi thẳng tiến ra khỏi cửa.

Cô nhẹ cả người sau khi ông ta đi, cô đút cho tôi những thanh sô cô la và kể tôi nghe những câu chuyện ma - thể loại truyền thống, không phải chuyện về những người quen của cô. Cô kể câu chuyện nổi tiếng về hai đứa trẻ, sau khi nghe đài báo có một kẻ tay móc sắt vừa trốn khỏi nhà thương điên gần đấy đã chạy vội khỏi Đường Tình Nhân để rồi phát hiện ra một cái móc gãy treo lủng lẳng trên tay nắm cửa khi chúng trở về nhà; câu chuyện về một cô gái trẻ đi nhờ xe về nhà và quên mất áo khoác, mấy ngày sau khi người lái xe mang chiếc áo đến nhà cô trả thì biết rằng người xin đi nhờ ấy đã chết từ mười năm trước, cũng trên đoạn đường anh gặp cô; câu chuyện về người đàn ông ngồi chơi xếp hình bên bàn bếp khi xếp xong hiện lên bức tranh anh đang ngồi bên bàn bếp hoàn thành trò chơi xếp hình, với mảnh cuối cùng lộ ra một khuôn mặt kinh dị đang đứng nhìn từ ngoài cửa sổ; câu chuyện về một cô trông trẻ cứ phải nghe những cuộc điện thoại mỗi lúc một khó chịu hơn, cảnh báo cô về những nguy hiểm xảy đến với đứa trẻ mà cô đang chăm sóc cho tới khi, nhờ tổng đài lần theo số điện thoại gọi đến, cô mới biết cuộc gọi đó được thực hiện từ chính trong ngôi nhà, vân vân.

Vừa kể, Marianne Engel vừa phủ một tấm ga giường thừa lên đầu và chiếu đèn ngược lên mặt bằng chiếc đèn pin mượn ở bàn y tá. Trông cô ảo đến quyến rũ. Cô ở lại quá cả giờ thăm cho phép - mấy cô y tá từ lâu đã thôi áp đặt luật lệ với Marianne Engel - và lúc nửa đêm, cô dường như cảm thấy bối rối vì sự vắng mặt của chiếc đồng hồ quả lắc điểm mười hai (hay có lẽ là mười ba) tiếng giữa phòng.

Điều cuối cùng cô nói, trước khi rời đi vào sáng sớm, là "Đợi đến Halloween sang năm nhé. Chúng ta sẽ đến một bữa tiệc rất tuyệt vời."

Việc thu hoạch da của tôi diễn ra thưa dần. Những cuộc phẫu thuật vẫn chiếm vị trí chủ đạo trong cuộc sống của tôi, dĩ nhiên là thế, nhưng những mơ mộng tự sát giờ hầu như đã không còn nữa và tôi đã trở thành học sinh siêu sao của Sayuri. Tôi có thể nói dối rằng đó là vì tính cách mạnh mẽ của tôi, và vì tôi quyết tâm giữ lời với Nan. Tôi có thể nói dối rằng tôi làm việc này vì bản thân. Tôi có thể nói dối rằng tôi làm việc này vì tôi đã nhìn thấy ánh sáng chân lý. Nhưng lý do chính khiến tôi làm việc này là để tạo ấn tượng với Marianne Engel.

THẬT DỄ THƯƠNG LÀM SAO. Con rắn cái khẽ hất đuôi và đánh lưỡi, háo hức mơn trớn tôi từ cả hai phía. TA ĐANG BĂN KHOĂN XEM MỌI CHUYỆN SẼ THẾ NÀO KHI NGƯƠI RỜI BỆNH VIỆN.

Tôi đã tốt nghiệp khóa học lê vài bước một lúc, có sử dụng khung tập đi bằng nhôm. Tôi thấy mình như thằng ngốc, nhưng Sayuri đã trấn an rằng tôi sẽ sớm được chuyển sang dùng gậy buộc vào cẳng tay thôi.

Một thứ đã giúp tôi rất nhiều là đôi giày chỉnh hình được chế tạo riêng cho tôi. Đôi đầu tiên làm chân tôi đau đớn nên các chuyên gia đã chế đôi thứ hai khắc phục mọi nhược điểm. Lợi ích lớn nhất của đôi giày, tuy thế, lại nghiêng về mặt tinh thần nhiều hơn thể chất. Giày là cứu tinh vĩ đại cho một người đàn ông bị mất ngón chân: chúng như những món hóa trang bằng da giúp đôi chân tàn phế trông được bình thường.

Tôi phải thừa nhận Sayuri biết chính xác những gì cô làm. Lúc đầu những bài tập rất chú trọng đến việc kéo giãn cơ để giúp tôi lấy lại cảm giác vận động. Rồi chúng tôi viện đến Thera-Bands, những sợi dây co giãn giúp tạo sức cản, trước khi chuyển sang chương trình luyện tập nâng những vật nhẹ. Sức nặng được tăng dần lên theo mỗi tuần, và thỉnh thoảng tôi còn hỏi Sayuri xem liệu mình có thể nâng những vật nặng hơn so với bài tập đề ra một chút được không.

Vì giờ đã có thể đi được vài bước ra khỏi giường, tôi bắt đầu tập tễnh đi về phía toilet của mình mỗi khi cần tỉnh táo. Bạn có thể nghĩ đây là một bước tiến lớn trong việc tin tưởng bản thân nhưng đây thực sự là một cú đấm tâm lý khi nhận ra mình không còn tiểu đứng được nữa. Tôi thấy tình trạng này khiến tôi giống hoạn quan quá chừng.

Tôi đã vào viện được gần tám tháng và Giáng sinh đang đến gần. Marianne Engel làm tất cả những gì cô có thể, treo các vòng hoa, chơi nhạc của Handel và than vãn vì cô không được phép thắp những cây nến Mùa Vọng trong phòng điều trị bỏng.

Vào đêm ngày mùng sáu tháng Mười hai, Marianne Engel đặt đôi giày chỉnh hình mới của tôi lên bậu cửa sổ và giải thích rằng đêm nay thánh Nicholas sẽ nhét quà vào trong những đôi giày của trẻ nhỏ. Khi tôi nói chúng tôi chưa bao giờ có tập tục này hồi còn ở khu nhà lưu động, cô nhắc tôi nhớ rằng thế giới không hề bắt đầu và kết thúc với những kinh nghiệm của bản thân tôi. Khá hợp lý. Khi tôi chỉ ra rằng tôi không còn là một đứa trẻ nữa, cô chỉ suỵt tôi một cái. "Trong mắt Chúa, chúng ta đều là những đứa trẻ."

Khi Connie lấy đôi giày của tôi xuống vào buổi sáng hôm sau - "Những thứ này làm cái quái gì ở đây vậy?" - cô thấy chúng được ních đầy những tờ một trăm đô la.

Tôi rất cảm động trước việc làm ấy, hơn cả những gì tôi có thể tưởng tượng. Phản ứng của tôi không vì bản thân món tiền này, mà vì những tình cảm Marianne Engel gửi gắm vào hoàn cảnh hiện tại của tôi. Kỳ nghỉ lễ đã đặt tôi vào một tình huống khó xử: làm sao tôi có thể tặng lại những món quà Giáng sinh chứ? Dù đúng là tôi có chút tiền giấu trong nhà băng dưới một cái tên giả nhưng tôi chẳng có cách nào để lấy được nó ra cả. Có lẽ thế, sự thật là, tôi sẽ không bao giờ có thể rút được số tiền đó ra, thậm chí cả khi tôi xuất viện, vì nhân dạng giả mà tôi đã dùng để lập tài khoản được đính một bức ảnh không bao giờ có thể là khuôn mặt của tôi nữa.

Marianne Engel đã nhận ra thứ tôi cần và, thay vì bắt tôi hỏi xin tiền hay mặc kệ tôi, đã tìm ra cách trao quà thật đáng yêu. Một món quà! Từ thánh Nicholas! Và thế là tình thế tiến thoái lưỡng nan của tôi đã được giải quyết. Gần như vậy. Tôi vẫn phải tìm cách đem những món quà từ cửa hàng về bên giường mình, nhưng tôi đã có kế hoạch sẵn rồi.

Tôi yêu cầu Gregor ghé qua vào cuối một buổi tập của tôi với Sayuri. Khi cả hai đã tập trung ở đó, tôi bắt đầu: "Cứ thoải mái nói không nếu muốn, nhưng hai người thực sự có thể giúp được tôi chuyện này. Tôi mong hai người có thể mua sắm hộ tôi."

Gregor hỏi tại sao tôi lại cần cả hai người. Bởi vì tôi muốn trao cho mỗi người một món quà, tôi giải thích, và tôi hầu như không thể bảo họ tự mua quà cho mình được. Sayuri sẽ mua món quà tôi định tặng Gregor, và Gregor sẽ mua món quà tôi định tặng Sayuri. Những món quà còn lại, hai người có thể đi mua cùng nhau.

"Đừng lo lắng," Sayuri nói, "Tôi yêu việc mua sắm cho lễ Giáng sinh."

Nghe thấy thế, Gregor cũng nhanh chóng đồng ý. Tôi đưa cho mỗi người một chiếc phong bì chứa danh mục những thứ tôi muốn họ mua, thay mặt tôi, cho mỗi người. Khi họ rời phòng Gregor liếc lại về phía tôi, một nụ cười lạ lùng thoáng hiện trên khuôn mặt.

Marianne Engel vẫn chưa đọc xong phần Địa ngục cho tôi nghe. Đọc lâu một phần là vì cô chẳng bao giờ đọc quá nhiều liền một lúc, cô có vẻ thích tận hưởng vẻ đẹp của những con chữ hơn, nhưng cũng vì cô cứ luôn nhảy sang đọc bằng tiếng Ý. Tôi chẳng bụng dạ nào mà bắt cô dừng lại mỗi khi cô làm thế vì cô quá chú tâm vào câu chuyện và, hơn nữa, thứ tiếng Ý thốt ra từ miệng cô thật tuyệt. Cuối khổ thơ, tôi phải chỉ cho cô thấy là tôi chả hiểu gì cả, và ngày hôm sau cô sẽ đọc lại đoạn ấy, thường là đọc hết bằng tiếng Anh.

Voltaire viết rằng Dante là một lão điên có quá nhiều kẻ nịnh nọt, và danh tiếng của ông cứ tiếp tục tăng cao chỉ vì hầu như chẳng có ai thực sự đọc hết trường ca Thần khúc. Tôi gợi ý lý do ít người đọc Dante là vì chẳng có ai thực sự thấy cần đọc cả. Trong thế giới Tây phương, Địa ngục là ý niệm của tất cả mọi người về Địa ngục; với tư cách là một tác phẩm văn học, chỉ có Kinh Thánh là thấm sâu vào nhận thức chung của xã hội hơn Địa ngục mà thôi.

"Anh có biết," Marianne Engel hỏi, "rằng Địa ngục của Dante được sáng tác dựa trên Ánh sáng trôi chảy của Thượng đế của Mechthild von Magdeburg không?"

"Một trong Ba Vị Chủ Nhân của cô phải không?"

"Phải," cô đáp.

Tôi thừa nhận, cũng chẳng có gì đáng ngạc nhiên, rằng tôi biết rất ít (sự thật là: không chút nào) về người phụ nữ này, vì thế Marianne Engel lại tiếp tục quá trình giáo dục tôi, Mechthild sinh ra tại Saxony vào đầu thế kỷ mười ba và khi còn nhỏ đã thường xuyên được chính Chúa Thánh Thần viếng thăm hằng ngày. Hai mươi tuổi, cô trở thành một Beguine tại Magdeburg, sống cuộc đời cầu nguyện và hành xác đầy ngoan đạo; thật hấp dẫn, khi cô tăng cường độ hành hạ bản thân, những ảo giác của cô cũng ngày càng đến thường xuyên hơn. Khi cô miêu tả lại cho giáo sĩ nghe xưng tội, ông tin chắc về nguồn gốc thần thánh của chúng và bảo cô viết lại.

Das flieBende Licht der Gottheit, tên tiếng Đức của tuyệt tác đó, đã có ảnh hưởng rất lớn đến lớp nhà văn tiếp theo, gồm cả Meister Eckhart và Christina Ebner. Rõ ràng Dante Alighieri cũng đã đọc bản dịch tiếng Latin, và rất nhiều học giả tin ông đã sử dụng trật tự cuộc sống ở thế giới bên kia trong tác phẩm của Mechthild làm nền móng ý tưởng cho Thần khúc: Thiên đường ở trên cùng, Luyện ngục ở ngay dưới, và Địa ngục ở tận đáy. Trong Địa ngục sâu thẳm của Mechthild, Satan bị xích bởi tội lỗi của chính hắn trong khi đau buồn, bệnh tật và đổ nát chảy thẳng ra khỏi trái tim và cái miệng đang bốc cháy của hắn. Điều này giống một cách đáng ngờ với Satan của Dante, một con quái vật có ba bộ mặt bị nhốt trong một tảng băng ở nơi sâu nhất giữa Địa ngục, miệng nhai bộ ba kẻ tội đồ (Judas, Cassius và Brutus) với dòng mủ cứ mãi chảy khỏi ba cái miệng của nó.

"Có những người," Marianne Engel nói, "tin rằng cô "Matilda" mà Dante đã gặp trong Luyện ngục thực ra chính là Mechthild."

"Đó có phải những gì cô nghĩ không?" tôi hỏi.

"Tôi tin," cô khẽ cười, "rằng tác phẩm của Dante thường bị ảnh hưởng bởi các nhà văn khác."

Khi cô đọc cho tôi nghe câu chuyện về cuộc hành trình của Dante, tôi thấy thật thân thuộc và tôi rất thích dù (hay có lẽ là vì?) nó được đọc giữa phòng điều trị bỏng. Tôi có cảm giác rất thoải mái khi Marianne Engel đọc cho tôi, trong cách cô luồn tay vào những ngón tay tôi khi đọc thơ. Tôi sửng sốt trước sự kết hợp những ngón tay đẹp đẽ và xấu xí của chúng tôi, và tôi muốn cô cứ đọc cho tôi nghe mãi - có lẽ vì tôi sợ rằng khi kết thúc, cô sẽ không còn tiếp tục dẫn tôi, tay trong tay, ra khỏi Địa ngục của chính tôi nữa.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 22


Khi tôi trình bày với Marianne Engel lý thuyết của tôi là chẳng ai cần đọc Địa ngục để biết hình ảnh tượng trưng về Địa ngục cả, cô đã chỉnh tôi ngay. "Dù điều đó có thể đúng với hầu hết mọi người, nhưng anh thì biết rất rõ vì tôi đã đọc cho anh nghe bản dịch tiếng Đức rồi."

"À há." Tôi đã không ngờ tới việc đó. "Cô dịch lúc nào vậy?"

"Tôi đoán là mười hoặc hai mươi năm sau khi Dante viết xong tác phẩm ấy. Thật tốn thời gian. Tôi khá chắc mình là người đầu tiên dịch phần Địa ngục, nhưng anh không bao giờ xác thực được việc đó đâu."

"Thế cô đã đọc cho tôi nghe lúc nào vậy?" tôi hỏi.

"Khi anh đang hồi phục từ lần bỏng đầu tiên."

Địa ngục được xuất bản lần đầu tiên vào năm 1314. Nếu Marianne Engel hoàn thành bản dịch của cô hai mươi năm sau, thì có lẽ đó là năm 1334. Cứ chiếu theo lời tuyên bố của cô khi trước là cô sinh vào năm 1330, thì lúc đó cô cũng hơn ba mươi rồi.

Khi tôi nghiên cứu kỹ về những con số này, tôi không quên nhận ra rằng chúng thật lố bịch và hoàn toàn không có khả năng xảy ra. Tôi chỉ đang chỉ ra rằng, ít nhất thì có những điều rất vô lý đã xảy ra trong một giai đoạn lịch sử rất có lý. Đây là điều làm tôi ngạc nhiên về tình trạng thần kinh của cô: những câu chuyện điên rồ của cô vô cùng nhất quán.

Vì không sống ở thời Trung cổ nên tôi cần phải nghiên cứu rất nhiều trong suốt quá trình viết cuốn sách này để kiểm tra những gì cô nói, hoặc những gì tôi nhớ là cô đã nói, có trái ngược với sự thật không. Điều thú vị ở đây là tất cả những sự kiện cô tuyên bố là sự thật có thể đã diễn ra đúng như những gì cô miêu tả, nếu cô không nói về những sự kiện xảy ra từ thời cổ xưa ấy bằng ngôi thứ nhất.

Dù vẫn phải chịu sự điều khiển của nhà thờ, Engelthal là một thể chế dân chủ với các nữ tu viện trưởng đều được bầu bằng cách bỏ phiếu. Tất cả những hoạt động thường nhật đã được viết rõ trong cuốn Thể chế Giáo hội. Những miêu tả của Marianne Engel về kiến trúc, các bài kinh cầu, các cuốn sách được nghiên cứu, và nghi lễ khi ăn đều chính xác. Christina Ebner đã ở trong tu viện đó và bà đã viết Cuốn sách về các xơ tại Engelthal và Khải huyền. Friedrich Sunder là một giáo sĩ địa phương, làm lễ xưng tội cho các nữ tu, và ông cũng đã viết cuốn Ân điển-cuộc đời. Có một cuốn sách tên là Cuộc đời nữ tu Gertrud tại Engelthal, được viết với sự giúp đỡ của huynh trưởng Heinrich và Cunrat Fridrich.

Mặc dù không có một ghi chép nào về việc Heinrich Seuse đến thăm Engelthal nhưng cũng chẳng có bằng chứng nào ngược lại cả. Nếu ông thực sự có đến vào đầu những năm 1320, như Marianne Engel nói, thì điều này xảy ra khi ông đang trên đường từ Straburg đến Koln để tầm sư Meister Eckhart học đạo. Thế nên ai dám nói là ông đã không đến thăm tu viện từng được coi là trung tâm trọng yếu nhất của Chủ nghĩa Thần bí Đức?

Thế nhưng. Dù có xây dựng quãng đời của cô hay nghiên cứu các hình tượng tôn giáo Đức hoàn hảo đến đâu chăng nữa, Marianne Engel hoặc vẫn bị tâm thần phân liệt, hoặc bị khủng hoảng thần kinh, hoặc cả hai. Tôi không thể quên được điều này. Sáng tạo và điều hành những vũ trụ tưởng tượng là biểu hiện của những bệnh nhân này: không chỉ những gì họ làm, mà còn về họ là ai nữa. Và đã có vài dị biệt trong câu chuyện của Marianne Engel; ví dụ, chẳng có ghi chép nào về một cô xơ tên là Marianne Engel trong bất cứ tài liệu hiện có nào tại Engelthal, cũng như chẳng có gì đề cập đến Die Gertrud Bibel, và tôi đã cố dùng những thiếu sót này để bắt Marianne Engel thừa nhận câu chuyện của cô không có thật.

"Anh siêng học quá nhỉ?" cô nói. "Đừng lo, việc anh không thể tìm được thông tin về tôi hay về cuốn Die Gertrud Bibel cũng có lý do cả thôi. Sẽ đến lúc chúng ta nói về chuyện đó, tôi hứa đấy."

Những người hát mừng Giáng sinh an lành ghé qua để hát về những đêm tĩnh lặng, đêm thánh. Một cô Noel Sally Ann đã mang bánh quy và sách đến. Các đồ trang trí treo khắp hành lang.

Cảm giác mong đợi mùa Giáng sinh mới lạ lùng làm sao. Thường thì tôi luôn ghét Giáng sinh; nó luôn để lại trong miệng tôi dư vị của một cái bánh hoa quả mốc. (Tôi nói điều này không có ý ám chỉ một bà cô già người Nhật nào đâu.) Suốt thời thơ ấu, những Giáng sinh của tôi luôn gắn liền với việc nhà Grace đốt hết tiền mua quà cho tôi vào ma túy tổng hợp; đến lúc trưởng thành, Giáng sinh có nghĩa là vui vẻ với một người phụ nữ đội mũ phớt đỏ.

Tôi vẫn tập tành, vẫn trải qua các ca trị liệu định kỳ, nhưng sự kiện hấp dẫn nhất là cuộc gặp gỡ với những người phụ nữ quan trọng trong đời tôi: Nan, Sayuri và Marianne Engel. Tôi không biết gì về lịch điều trị, và lạ lùng thay, chẳng ai muốn nói cho tôi biết cả. Trong trái tim bé nhỏ luôn coi mình là cái rốn vũ trụ, tôi tưởng tượng đó sẽ là một bữa tiệc đầy bất ngờ. Tôi đã không thể sai lầm hơn.

Sayuri đến đầu tiên. Tôi đã nói từ trước là cô dường như lúc nào cũng vác cơ thể bé nhỏ của mình theo sau một nụ cười rạng rỡ, nhưng vào ngày hôm ấy, chỉ có cái cơ thể bé nhỏ của cô là có mặt thôi. Khi tôi hỏi liệu mọi việc có ổn không, cô trả lời ổn một cách chẳng mấy thuyết phục. Thay vì tiếp tục chủ đề, tôi hỏi xem cô đã mua quà của tôi cho Gregor chưa. Cô bảo rồi và ít nhất, tôi có thể tin cô. Tôi đang định hỏi thêm vài câu nữa thì Marianne Engel và Nan bước vào phòng như những con ngựa tranh nhau phi về đích. Marianne Engel nhìn thẳng vào tôi và nói luôn: "Khi ra khỏi đây, anh sẽ về với tôi."

"Không nhanh thế chứ," Nan nghiêm giọng nói, trước khi chuyển sự chú ý sang tôi. "Như anh cũng biết, anh sẽ được ra viện trong vài tháng tới..."

"... và sau đó anh sẽ đến sống ở nhà tôi." Sự mất kiên nhẫn trong giọng Marianne Engel đã để lộ ra rằng cô nghĩ cuộc nói chuyện này chẳng cần thiết tí nào.

"Bình tĩnh." Nan giơ tay lên trước khi ném cho Marianne Engel một cái nhìn tức tối. "Đó không phải quyết định của cô."

"Anh ấy chẳng có nơi nào khác để đi cả."

Nan phản đòn. "Tôi đã sắp xếp một chỗ ở Phoenix Hall rồi."

"Anh ấy không muốn đến sống ở đó." Điều này thì rất đúng, tôi không muốn, nhưng bác sĩ Edwards từ lâu đã khuyên tôi đến đó vì nơi ấy có những nhân viên được đào tạo với tay nghề cao, những chương trình giới thiệu việc làm và nguồn cung ứng y tế dồi dào. Thêm nữa, ở đó còn có các tư vấn viên, không kể đến các bệnh nhân bỏng khác cũng cùng phải đối mặt với những vấn đề như tôi.

"Tôi có làm việc với những bệnh nhân ở Phoenix," Sayuri nói, "thế nên nếu anh đến đó, chúng ta vẫn có thể tiếp tục những bài tập vận động cho anh."

"Tôi sẽ thuê cô," Marianne Engel nói. "Tiền không thành vấn đề. Cô có thể làm việc đó ở nhà tôi."

Lời gợi ý này làm Sayuri nhìn bác sĩ Edwards với vẻ mặt khó xử. "Tôi không biết quy định của bệnh viện về vấn đề này thế nào."

Nan trả lời rằng bên cạnh vấn đề quy định, Phoenix Hall có cả một đội ngũ nhân viên chuyên nghiệp, tất cả đều rất sẵn sàng làm hết sức mình. Marianne Engel đáp lại rằng cô sẽ cung cấp cho tôi tất cả những gì tôi cần. "Nếu cô Mizumoto quá bận rộn, chúng tôi sẽ thuê người khác. Nhưng chúng tôi mong có được cô ấy, vì chúng tôi thích cô ấy."

Cô xoay người nhìn thẳng vào tôi, và cuối cùng cũng chịu hỏi xem tôi muốn gì. "Anh có muốn đến chỗ Phoenix Hall này không?"

"Không."

"Anh có muốn đến nhà tôi không?"

"Có."

Marianne Engel lại hướng sự chú ý của mình về phía bác sĩ Edwards. "Đấy. Thảo luận xong."

Nói tôi cần thời gian để suy nghĩ thì nghe có vẻ thận trọng. Sau rốt, tôi đã chọn Marianne Engel chứ không phải các bác sĩ đã giúp tôi hồi phục trong suốt bao tháng trời. Câu trả lời vội vã của tôi, nói một cách nhẹ nhàng nhất, rất phi logic.

Tuy nhiên, nếu có một điều gì đó mà tôi có thể chắc chắn, thì đó là việc tất cả mọi người trong căn phòng ấy đều một lòng mong những điều tốt đẹp nhất cho tôi. Tôi không biết rằng Marianne Engel và Nan đã tranh luận về việc sắp xếp chỗ ở cho tôi hàng tuần liền; vì tôi hầu như ngày nào cũng thấy cả hai người bọn họ nên điều này chỉ có thể xảy ra nếu họ cùng nhau giấu chuyện để giảm thiểu căng thẳng cho tôi.

"Vẫn còn nhiều thời gian trước khi đưa ra quyết định chính thức," Nan nói, ám chỉ cuộc đối thoại này đã đến hồi kết thúc. Chẳng ai không cảm nhận được sức nặng của từ chính thức mà bà nói ra cả.

Có rất nhiều mối quan ngại khá thực tế mà tôi không thể lờ đi khi tính đến chuyện sống với Marianne Engel. Một trong những vấn đề đó là, dù cô nói mình có nhiều tiền, cô có lẽ cũng không thể chu cấp cho tôi được.

Cưu mang một người bị bỏng là chuyện hết sức tốn kém. Ngoài phí tổn điều trị của tôi - tiền trả cho Sayuri, tiền thuốc, thiết bị tập luyện - thì còn có cả chi phí sinh hoạt nữa. Thức ăn. Quần áo. Giải trí. Vật dụng cá nhân. Cô sẽ phải trả phí tổn cho cuộc sống của tôi, vừa là một bệnh nhân, vừa là một người đàn ông. Mặc dù những chương trình hay tổ chức từ thiện của chính phủ có thể đóng góp phần nào cho việc chăm sóc nhưng tôi rất nghi ngờ việc Marianne Engel lại chịu hỏi xin sự trợ giúp của họ; tính cách của cô luôn như thế, tôi đoán chắc là sự kiêu hãnh, các thủ tục giấy tờ và các vấn đề riêng tư sẽ làm cô chẳng buồn ngó ngàng đến chuyện đó. Cô tuyên bố mình có đủ khả năng tài chính để nuôi sống tôi, nhưng tôi rất khó lòng chấp nhận điều đó là sự thật được - một tập tiền một trăm đô nhét đầy trong chiếc giày không đủ để thuyết phục tôi tin vào của cải của cô. Liệu chỗ tiền này có phải chỉ là một điều huyễn hoặc như hầu hết các góc cạnh khác trong cuộc sống của cô không? Liệu tôi có phải tin rằng cô đã dành dụm tiền của trong suốt bảy trăm năm hay không?

Việc đến sống với cô không chỉ gặp vấn đề về tài chính, mà còn có cả vấn đề đạo đức nữa. Vì lời đề nghị của cô xuất phát từ niềm tin "trái tim cuối cùng" của cô là dành cho tôi, tôi rõ ràng đang lợi dụng, đang lừa dối một phụ nữ rối loạn tâm thần. Là người còn tỉnh táo, tôi không chỉ biết rõ hơn, tôi còn phải hành động theo đúng cái thực tế mà tôi biết rõ kia nữa. Và bất luận thế nào, tại sao tôi lại phải đặt mình vào tình trạng phụ thuộc một người phụ nữ đầu óc không bình thường mà tôi cũng chẳng quen thân gì cho cam? Dù tình cảnh của tôi giờ đã thay đổi và thể chất của tôi cũng yếu hơn so với trước kia, nhưng từ hồi niên thiếu tôi đã luôn sống tự lập. Thậm chí cả trước đó nữa: dù mang vai trò giám hộ, nhà Grace chỉ giỏi mỗi việc quản lý bộ sưu tập ma túy của họ mà thôi. Trên thực tế, tôi đã phải tự chăm sóc bản thân ngay từ khi sáu tuổi.

Vậy là tôi sai lầm trong việc chấp nhận lời đề nghị của Marianne Engel, và Nan đã đúng. Tôi sẽ thay đổi quyết định nóng vội của mình và cuối cùng cũng đến Phoenix Hall thôi.

Chiều đó khi Gregor đến để đưa quà của Sayuri, ông ta chúc mừng quyết định chuyển đến sống cùng Marianne Engel của tôi. Khi tôi thông báo với ông ta mình đã thay đổi quyết định, ông ta giật nẩy người nói rằng tôi đã đưa ra quyết định đúng đắn duy nhất rồi. "Tôi nghĩ sự tiến bộ của anh dưới sự hướng dẫn của bác sĩ Edwards thật đáng ngạc nhiên. Tôi rất ngưỡng mộ bà ấy."

Tôi biết quá rõ Gregor để có thể nói được khi nào thì ông ta không nói hết những gì mình nghĩ. Đây là một trong những lúc đó. "Nhưng...?"

Gregor nhìn trái, rồi lại nhìn phải, để chắc chắn không có ai xung quanh. "Nhưng mà thậm chí khỉ cũng còn có thể rơi khỏi cây mà."

Tôi chả hiểu câu này có ý nghĩa gì cả, thế là Gregor giải thích: Thậm chí cả các chuyên gia cũng có thể mắc sai lầm. "Dù tiến sĩ Edwards là bác sĩ điều trị cho anh, và là một người tài giỏi,thích tôi cũng không nghĩ rằng anh nên đánh giá thấp ảnh hưởng của Marianne Engel tới sự hồi phục của mình. Cô ấy đến đây hằng ngày, cô ấy giúp anh tập luyện, và hiển nhiên là cô ấy rất quan tâm đến anh. Chúa mới hiểu tại sao. Nhưng tôi sẽ không nói cho anh bất cứ chuyện gì mà anh không biết đâu."

ÔNG TA NGHĨ CÔ BẠN GÁI HÂM DỞ CỦA NGƯƠI THỰC SỰ CÓ TÌNH CẢM VỚI NGƯƠI ĐẤY.

Câm miệng lại, đồ khốn. Tôi chỉnh Gregor. "Cô ấy có hơi ảo tưởng."

"Cứ việc phủ nhận điều đó," ông ta nói, "nhưng rõ là cô ấy thích anh."

THẬT DỄ THƯƠNG.

Tôi không định tiếp tục tranh luận về vấn đề đó. Tôi không có hứng. "Thế ông sẽ làm gì?"

"Là tôi thì tôi cũng sẽ lo lắng về việc sống với Marianne Engel," ông ta nói, "nhưng anh cũng có phải tay khá khẩm đâu cơ chứ. Nếu hai người có thể chịu nổi nhau, tôi nghĩ anh nên làm thế."

"Dù cô ấy thích tôi - tôi không nói rằng cô ấy thích tôi đâu nhé - tôi không thực sự hiểu rõ cảm giác của mình với cô ấy." Tôi ngừng lại. "Tôi không biết."

"Nếu anh không chấp nhận lời đề nghị của cô ấy, anh sẽ là thằng ngu nhất trần đời," Gregor nói, "ngoài việc là một kẻ nói dối trắng trợn nữa."

Khi cứ nằm lì trên một cái giường trong bệnh viện, bạn sẽ bắt đầu có cả một danh mục trong đầu về tất cả những tiếp xúc giữa người với người. Tôi chạm vào mu bàn tay của Gregor, lần đầu tiên chúng tôi chạm vào nhau, và nói, "Cám ơn ông vì đã mang quà của Sayuri đến."

MỘT KHOẢNH KHẮC CẢM ĐỘNG...

Tôi nhấn chuông gọi ý tá mang thêm morphine.

... GIỮA NHỮNG KẺ THUA CUỘC.

Sáng Giáng sinh, Marianne Engel xuất hiện trong phòng tôi với một túi quà và một chiếc va li màu bạc rồi nhét ngay xuống gầm giường tôi. Chúng tôi ở bên nhau vài giờ, nói chuyện như thường lệ về mọi thứ hoặc những chuyện không đầu không cuối, trong khi cô đút cho tôi quýt và bánh hạnh nhân. Như mọi khi, cô đi ra ngoài vài lần để hút thuốc lá, nhưng tôi nhận thấy có những lúc khi quay lại người cô không hề ám khói thuốc. Khi tôi hỏi có phải cô đang làm việc gì khác không, cô lắc đầu bảo không. Tuy thế, nụ cười đã tố giác cô.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 23


Vào đầu giờ chiều, Sayuri và Gregor đến, theo sau là Connie, mới vừa hết ca. Bác sĩ Edwards không bao giờ làm việc vào Giáng sinh, còn Maddy và Beth đều đã xin nghỉ để dành thời gian cho gia đình. Khi thấy không còn ai đến nữa, Marianne Engel lôi túi quà ra khỏi góc phòng và chúng tôi bắt đầu trao quà cho nhau.

Mấy cô y tá đã mua cho tôi vài cuốn sách về các chủ đề hiện đang cuốn hút tôi, ví dụ như kiến trúc nội thất của các tu viện Đức thời Trung cổ cùng những tác phẩm của Heinrich Seuse và Meister Eckhart.

"Mua quà cho anh chẳng dễ chút nào. Tôi đã phải đi ba hiệu sách khác nhau đấy," Connie nói. Ngay khi nhận ra điều này có vẻ nghe giống một lời phàn nàn, cô vội thêm vào, "Không phải tôi khó chịu gì đâu, thật đấy!"

Gregor tặng tôi một bộ dụng cụ văn phòng phẩm, vì tôi đã tiết lộ với ông ta mấy tuần gần đây mình đang viết lách, còn Sayuri tặng tôi mấy que kem vị oải hương mà tôi đã rất vui sướng đem ra chia cho tất cả mọi người. Marianne Engel có vẻ thích món quà này nhất và thấy rất buồn cười khi kem làm lưỡi cô tím ngắt.

Tôi tặng mấy cô y tá những chiếc đĩa nhạc của các ca sĩ họ yêu thích. Món này có vẻ không cá tính cho lắm, nhưng tôi thật sự không biết cuộc sống ngoài bệnh viện của họ như thế nào. Về phần Sayuri, tôi trao cho cô món quà tôi đã nhờ Gregor chọn hộ: một đôi vé đi xem lễ hội phim của Akira Kurosawa sắp tới.

"Tôi đã nảy ra ý tưởng này khi bác sĩ Hnatiuk kể tôi nghe. Ông ấy thích Kurosawa, cô biết đấy."

Marianne Engel nhìn tôi, nhướng mày tỏ ý buộc tội vì tôi chẳng tinh tế gì cả.

Tiếp theo là món quà của tôi cho Gregor, được Sayuri chọn: phiếu giảm giá bữa tối cho hai người tại một nhà hàng Nga với cái tên cực kỳ nhạt nhẽo là Rasputin. Tôi hỏi Sayuri rằng cô đã ăn thức ăn đúng kiểu Nga bao giờ chưa, và cô bảo là chưa. Tới lượt tôi nhướng mày nhìn về phía Gregor. Khi họ cám ơn tôi về những món quà, tôi càu nhàu rằng "Giáng sinh sẽ chẳng là Giáng sinh nếu thiếu đi những món quà ấy." Không ai có vẻ hiểu tôi đang nói về cái gì, chỉ để chứng minh rằng sẽ có thêm nhiều người cần đọc sách của Louisa May Alcott.

Tiếp, đến lượt Marianne Engel tặng quà. Các cô y tá được tặng thẻ spa, Connie nhét ngay thẻ vào chỗ đĩa CD. Sayuri được tặng một ngôi chùa Phật bằng thủy tinh nâu tinh xảo trong khi Gregor được tặng một cặp chân nến làm bằng sắt uốn. Họ đều rất ấn tượng về chất lượng của những món đồ thủ công này, và Marianne Engel khoe rằng những món quà đó đều là tác phẩm của hai người bạn cô.

Về phần Marianne Engel và tôi, chúng tôi đều quyết định sẽ trao quà cho nhau sau đó, một cách bí mật. Và có lẽ tôi là người duy nhất để ý thấy, nhưng có vẻ như Sayuri và Gregor cũng có một ước định tương tự.

Một lát sau, Gregor nói, "Chúng ta đã sẵn sàng đi tiếp chưa nhỉ?" Tất cả mọi người nhìn Marianne Engel, cô gật đầu. Giáng sinh thực sự là mùa của những điều kỳ diệu, khi cán bộ y tế lại trông chờ vào sự hướng dẫn của một người tâm thần phân liệt. Sayuri đặt tôi ngồi vào xe lăn còn Gregor đẩy tôi đi dọc hành lang, và khi tôi hỏi rằng chúng tôi đang đi đâu, chẳng ai chịu trả lời thẳng cả. Tôi nhanh chóng nhận ra rằng chúng tôi đang hướng tới quán cà phê. Có lẽ ở đó có vài dịch vụ Giáng sinh, một ông già Noel làm thuê hoặc vài người tình nguyện hát thánh ca, mặc dù việc chưa từng nghe gì về những thứ đó làm tôi thấy hơi kỳ quái. Sau hàng tháng trời ru rú trong bệnh viện, giờ tôi chú ý tới từng sự việc nhỏ nhất.

Khi những cánh cửa của quán cà phê trượt ra, tôi choáng ngợp bởi mùi vị của tất cả những món ăn trên thế giới. Bên bức tường xa xa, một nhóm phục vụ tình nguyện đang bận dọn một dãy bàn ngồn ngộn thức ăn. Ba mươi hay bốn mươi người đang đi lại quanh phòng, dưới những dải biểu ngữ đỏ treo lơ lửng trên trần, và vài người trong số họ ra hiệu về phía chúng tôi. Lúc đầu, tôi tưởng họ đều đang chỉ về tôi nhưng khi những tình nguyện viên vẫy tay với Marianne Engel, tôi nhận ra rằng cô mới là trung tâm chú ý, chứ không phải tôi. Các bệnh nhân bắt đầu thong thả đi về phía chúng tôi; một người đàn ông ho sù sụ, một phụ nữ tóc xoăn với hai cánh tay băng bó, một cậu bé dễ thương có một chân tập tễnh. Phía cuối phái đoàn là một cô nhóc đầu trọc, tay cầm chùm bóng bay, thêm cả một đoàn người nhà theo sau cổ vũ.

Tất cả mọi người đều cám ơn Marianne Engel vì những gì cô đã làm; lúc này thì tôi vẫn chưa biết đó là việc gì. Sau khi Gregor đẩy tôi ra phía mấy bàn thực phẩm và giúp tôi ra khỏi xe lăn, ông ta giải thích rằng cô đã chủ trì kiêm chủ chi cả bữa tiệc. Việc này, xét theo sự thiếu thận trọng thường ngày của cô, không phải nhiệm vụ nhỏ nhặt gì. Thậm chí cả khi đã thấy những bữa ăn ngoại cỡ mà cô mang vào phòng tôi, tôi cũng hầu như không thể đoán được sẽ còn những gì nữa.

Gà tây, thịt lợn hun khói, ngỗng nướng, gà, bánh bao nhân thịt, cà ri dê, lợn rừng, thịt hươu, thịt băm, cá chép (cá chép á? ai ăn cá chép?), cá tuyết đại dương, cá ê fin, cá tuyết hầm, sò, thịt nguội, một tá đủ loại xúc xích, trứng rán, xúp đuôi bò, cháo thịt, cháo hành, nhiều pho mát hơn cả chỗ sữa bạn vắt được từ vú bò, đậu phộng, đậu đỏ, hành, dưa chuột muối, củ cải Thụy Điển, cà rốt, khoai tây, khoai lang, khoai lang ngọt hơn, khoai lang ngọt nhất, bắp cải, cà rốt, củ cải vàng, bí, bí đỏ, cơm gạo basmati, cơm gạo trắng, cơm gạo lứt, cơm gạo hoang, cơm gạo trồng, món khai vị kiểu Ý, thịt nhồi, bánh mì trộn, bánh vòng, bánh sữa, bánh pho mát, salad xanh, salad Caesar, salad đậu, salad trộn mì ống, salad trộn thạch, salad rắc kem và táo, mì spaghetti, mì fettuccini, mì macaroni, mì rigatoni, mì cannelloni, mì tortellini, mì guglielmo marconi (chỉ để kiểm tra xem bạn có đang đọc không ấy mà(23)), chuối, táo, cam, dứa, dâu, việt quất, hạt trộn, bánh thịt băm, bánh pudding Giáng sinh, bánh mì Giáng sinh, bánh quy sữa dừa, bánh hồ đào, sô cô la, sô cô la khúc cây, sô cô la hình con ếch, đậu đa vị Betty Bott, kẹo mềm, đường, gia vị, tất cả mọi thứ ngon miệng, bánh lễ Hiển linh, bánh hoa quả, bánh gừng hình người, bánh Giáng sinh kiểu Ý Torte Vigilia di Natale, những món ngon lành cành đào, rượu nam việt quất, rượu trứng, sữa, nước nho, nước táo, nước cam, đồ uống không cồn, cà phê, trà, bạn-nói-nước-cá-chùa tôi-nói-nước-cà-chua, nước khoáng đóng chai.

Tất cả mọi người trong bệnh viện hẳn đã chất đầy đĩa của họ một, hai, ba lần rồi, và Marianne Engel quyến rũ mỗi vị khách bằng vẻ duyên dáng và lập dị của mình. Chẳng hại gì khi cô khoác lên người bộ đồ yêu tinh và trông cực kỳ dễ thương. Nhạc nổi lên, mọi người vui vẻ nói chuyện với nhau, tất cả đắm chìm trong không khí lễ hội. Những bệnh nhân bình thường chẳng bao giờ thèm gặp nhau giờ đang bù khú chuyện trò, có lẽ là đang so đo bệnh tật. Tiếng ho bị nhòa đi bởi tiếng cười, và những tiếng reo thích thú của lũ trẻ, mỗi em đều được nhận một món quà dưới gốc cây thông Noel bằng nhựa. Hiển nhiên Marianne Engel không được phép mang cây thông thật vào nhưng một cây thông giả đã quá đủ rồi. Nếu hoa có thể giết người, cứ tưởng tượng xem một cây họ tùng bách có thể làm gì.

Trong buổi chiều ấy, tôi đã trở thành ngôi sao của bệnh viện khi người ta xì xào bàn tán rằng bạn tôi là người tổ chức tất cả mọi thứ. Một người đàn ông đi đến nói chuyện với tôi, nở nụ cười rạng rỡ đến nỗi tôi bị sốc khi nghe ông nói rằng người vợ suốt sáu mươi năm chung sống của mình vừa mới qua đời. Khi tôi nói rất tiếc khi biết chuyện đó, ông lắc đầu và đập mạnh tay lên vai tôi. "Đừng uổng công thương cảm tôi, cậu nhóc. Tôi cũng khá ổn rồi, tôi nói cậu nghe điều này nhé. Cậu vớ được một người phụ nữ như thế thì đừng hỏi xem mình đã làm gì để xứng đáng với điều đó. Hãy chỉ hy vọng rằng cô ấy sẽ không tự nhiên tỉnh trí lại mà thay đổi ý định thôi."

Trong suốt bữa tiệc, một cảm giác thanh thản lạ lùng trào dâng trong tôi. Ngay từ lần gặp gỡ đầu tiên, Marianne Engel đã thể hiện một thứ tình cảm cuồng nhiệt mê muội với tôi đến nỗi tôi nghĩ rằng nó sẽ biến mất đột ngột như khi đến vậy. Mọi mối quan hệ cuối cùng rồi cũng đổ vỡ, lẽ tự nhiên là thế. Chúng ta chẳng thấy gương tày liếp hàng ngàn lần rồi còn gì, thậm chí cả với những cặp chắc chắn "sẽ cùng nhau vượt qua tất cả."

Tôi từng biết một người phụ nữ cứ thích tưởng tượng ra Tình yêu trong lốt một con chó to khỏe, một con chó sẽ luôn chạy theo bắt cái que mỗi khi nó được ném đi rồi trở về vẫy tai đầy sung sướng. Trung thành tuyệt đối, hoàn toàn vô điều kiện. Và tôi đã cười vào mặt cô, thậm chí cả tôi cũng biết tình yêu không phải như thế. Tình yêu là một thứ gì đó rất mỏng manh luôn cần được nâng niu bảo vệ. Tình yêu không mạnh mẽ và tình yêu cũng không cứng cỏi. Tình yêu có thể vỡ nát chỉ bởi vài từ ngữ nặng nề, hoặc bị ném đi không thương tiếc bởi những hành động bất cẩn. Tình yêu không giống một con chó trung thành chút nào; tình yêu giống một con vượn cáo chuột hơn.

Phải, đó chính xác là tình yêu: một loại động vật có vú nhỏ bé, dễ bị kích động với đôi mắt luôn mở to sợ hãi. Đối với những người không hình dung nổi một con vượn cáo chuột, hãy thử tưởng tượng ra hình ảnh thu nhỏ của danh hài Don Knotts hoặc Steve Buscemi đang mặc áo lông thú. Tưởng tượng ra một con vật dễ thương hết mức sau khi bị bóp mạnh đến nỗi tất cả ruột gan đều dồn lên trên cái đầu ngoại cỡ và mắt thì lòi hết cả ra. Con vượn cáo trông yếu ớt đến nỗi bạn không thể không lo ngại rằng một con dã thú có thể bất thình lình xông tới vồ nó đi mất.

Tình yêu của Marianne Engel dành cho tôi dường như được xây dựng dựa trên một nền tảng mong manh đến nỗi tôi nghĩ nó sẽ sụp đổ ngay giây phút chúng tôi bước qua cánh cửa bệnh viện. Làm sao tình yêu dựa trên một quá khứ giả tưởng có thể tồn tại trong tương lai thực chứ? Không thể nào. Thứ tình yêu đó đáng bị vồ lấy và nghiền nát trong bộ hàm của cuộc sống thực tại.

Đó là nỗi sợ của tôi, nhưng ngày Giáng sinh đã chỉ ra cho tôi thấy rằng tình yêu của Marianne Engle không hề yếu đuối. Nó mạnh mẽ, vững chãi và vĩ đại. Tôi tưởng nó chỉ có thể lấp đầy căn phòng trong khoa điều trị bỏng của tôi, nhưng nó đã bao trùm cả bệnh viện. Quan trọng hơn, tình yêu của cô không chỉ dành riêng cho tôi; nó được hào phóng chia sẻ với cả người lạ - những người cô không nghĩ là bạn từ thế kỷ mười bốn của mình.

Cả cuộc đời tôi đã phải nghe biết bao câu chuyện dớ dẩn về tình yêu: rằng anh càng cho nhiều, anh càng nhận được lắm. Điều này đối với tôi không hơn một sự vi phạm các nguyên tắc toán học cơ bản. Nhưng nhìn Marianne Engel phóng khoáng chia sẻ tình yêu của cô đã làm thức tỉnh trong tôi những cảm xúc lãng mạn kỳ cục nhất: sự đối lập của ghen tuông.

Tôi thấy ấm lòng khi nhận ra tình yêu là bản chất tự nhiên của tâm hồn cô chứ không phải một phút lầm lạc do ảo tưởng. Tình yêu của cô không phải con vượn cáo chuột, một loài động vật được đặt tên như thế vì những nhà thám hiểm Bồ Đào Nha khi đến Madagascar đã thấy những đôi mắt to sáng lấp lánh ló ra từ rừng rậm khi họ đang ngồi quanh đống lửa trại. Tin rằng những đôi mắt đó thuộc về linh hồn những người đồng hành đã khuất, họ đặt cho loài động vật cái tên Latin "lemur," nghĩa là "linh hồn của người chết."

Khi cái đùi gà tây cuối cùng đã yên vị trong dạ dày thực khách, Marianne Engel cảm ơn và trao cho những người phục vụ những chiếc phong bì có ghi "chỉ là chút tiền công cho việc làm thêm ngày lễ." Vừa đẩy tôi về phòng, cô vừa nói rằng đây là lễ Giáng sinh tuyệt vời nhất của cô. Tôi bảo cô đó đúng là một lời tuyên bố ra trò, nếu cho là cô đã trải qua tới bảy trăm lễ Giáng sinh thật.

Sau khi giúp tôi lên giường, Marianne Engel ngồi phịch xuống đầy thỏa mãn. Tôi nói rằng bữa tiệc đã tốn của cô một khoản kha khá; cô phẩy tay phản đối và lôi chiếc va li bạc từ dưới gầm giường của tôi lên. "Mở ra đi."

Chiếc va li chật cứng những cọc tiền năm mươi và một trăm đô la. Trong quãng đời đóng phim khiêu dâm và nghiện ngập, tôi thỉnh thoảng cũng thấy những túi đầy tiền, nhưng chẳng cái nào giống thế này cả. Tôi nhẩm tính trong đầu, cố gắng ước lượng. Rất khó khăn trong việc tính toán - tôi vẫn còn đang quá sửng sốt vì sự tồn tại của chỗ tiền đó - thế là Marianne Engel liền giải vây giùm tôi. "Hai trăm nghìn đô la."

Hai trăm nghìn đô la. Cô để cái va li cả ngày dưới gầm giường. Bất cứ ai cũng có thể xách đi. Tôi bảo cô là đồ ngốc; cô cười đáp rằng thậm chí cả thánh cũng có lúc sai lầm. Và thực sự thì, cô hỏi, ai có thể lục tìm một va li tiền dưới gầm giường trong ngày lễ Giáng sinh chứ?

"Anh nghĩ tôi không cưu mang nổi anh," cô nói cứ như thể cô chẳng thể sai về điều đó được. Cô không sai thật. Khi tôi gật đầu, cô liền thêm, "Tôi sẵn sàng nhận quà của mình rồi đây."

Trong suốt mấy tuần qua tôi đã cố nặn ra hàng tá phiên bản khác nhau cho cùng một bài phát biểu ngắn ngủn, như một cậu học sinh trung học đang bàn mưu tính kế mời cô bạn gái của mình tới buổi vũ hội, nhưng khi phút giây trọng đại đến, tôi chỉ cảm thấy bất an. Rụt rè. Xấu hổ. Tôi muốn tỏ ra thật khéo léo, nhưng y như cậu học sinh trung học đó, tôi cứ câm như hến. Quá muộn để trốn chạy, và tôi biết rằng món quà của mình - có ba thứ - là quá riêng tư. Quá ngu ngốc. Hàng giờ lao động của tôi đã thành vô ích: ảo tưởng kiêu hãnh nào đã thuyết phục tôi chuẩn bị những món quà ấy chứ? Cô sẽ nghĩ chúng thật trẻ con; cô sẽ nghĩ tôi quá sấn sổ, hoặc còn e dè. Tôi mong sét sẽ đánh xuống phòng tôi, xuyên qua chiếc tủ đầu giường nơi những món quà nhỏ ngốc nghếch của tôi được giấu trong ngăn kéo.

Tôi đã viết ba bài thơ cho cô. Con rắn ký sinh trong xương sống cười chế nhạo những nỗ lực quá ngạo mạn của tôi.

Cả cuộc đời, tôi đã từng làm thơ, nhưng tôi chưa bao giờ cho ai xem. Tôi giấu những gì mình viết, và giấu cả bản thân trong những trang viết mà tôi đã giấu - chỉ một con người không đủ sức đối diện với thế giới thực mới tạo ra một thế giới ảo để trốn tránh. Thỉnh thoảng khi tôi nhận ra mình không thể thôi viết lách dù rất muốn, cơn rùng mình chạy dọc sống lưng tôi, như thể có một người đàn ông khác đang đứng quá gần mình ở nhà vệ sinh công cộng vậy.

Thỉnh thoảng tôi cũng cảm thấy có gì đó cực kỳ thiếu nam tính trong việc viết lách, và thơ ca là thứ tồi tệ nhất. Khi bị chìm đắm trong những ảo giác do cocaine tạo ra, tôi luôn đốt hết những tập thơ của mình và nhìn những trang giấy cháy rụi hết tập này đến tập khác, nhìn ngọn lửa khạc tàn tro xám xịt vào không trung. Khi những con chữ đã thành tro than của tôi cuộn lên Thiên đường, tôi cảm thấy rất hài lòng vì biết rằng nội tâm mình lại được an toàn: đội ngũ các nhà khoa học pháp y giỏi nhất của FBI cũng không thể ráp nối những cảm xúc của tôi lại nữa. Vẻ đẹp của việc giữ cảm xúc thật nhất của mình trong những trang viết nằm ở chỗ tôi có thể đốt nó đi ngay lúc nào mình muốn.

Tán tỉnh để đưa một phụ nữ lên giường là một chuyện an toàn, vì những lời nói của tôi sẽ biến mất cùng lúc với hơi thở thoát ra; viết một bài thơ tặng một người phụ nữ là chế cho cô ấy thứ vũ khí mà sau này cô sẽ dùng để tấn công mình. Đem tặng những bài viết của mình có nghĩa là nó sẽ được phơi bày mãi mãi trước cả vũ trụ, sẵn sàng quay lại trả thù mình bất cứ lúc nào.

Vì thế tôi đã gạt nó ra khỏi đầu. Hôm nay là Giáng sinh, tôi đang bị kẹt trong chiếc giường xương, tôi nợ Marianne Engel một món quà, và tôi không có món quà thay thế nào cả. Tôi chỉ có những nét nguệch ngoạc trẻ con làm bẩn cả sự trong sáng của tờ giấy trắng mà thôi. Từ ngữ của tôi là những chữ tượng hình của Ai Cập cổ đại trước khi người ta phát hiện ra hòn đá Rosetta, từ ngữ của tôi là những anh lính bị thương tập tễnh trở về nhà, không còn chút đạn dược, từ một trận chiến thất bại; từ ngữ của tôi là những con cá hấp hối, quẫy đạp điên cuồng khi cái lưới được đổ ra và cá chất trên boong tàu như một ngọn núi trơn nhẫy cố vươn thành thảo nguyên.

Từ ngữ của tôi trước đây, và bây giờ, không xứng đáng được đem tặng cho Marianne Engel.

Nhưng tôi không có sự lựa chọn nào khác, thế là tôi với tay ra chỗ ngăn kéo và - ĐỒ THUA CUỘC - dồn hết lòng can đảm giả tạo yếu ớt của mình. Tôi lôi ba tờ giấy ra, nhắm tịt mắt lại, và chìa mấy bài thơ về phía Marianne Engel, mong chúng đừng mủn ra trên tay tôi.

"Đọc cho tôi nghe đi," cô nói.

Tôi bảo rằng mình không thể. Đây là những bài thơ, và giọng tôi là sản phẩm của một cuộc thương lượng thất bại thảm hại nơi ngã tư đường(24). Một con chó Địa ngục dữ tợn đã xé toác cổ họng tôi và để lại phía sau một chiếc ghi ta vỡ vụn với những dây đàn hoen gỉ. Giọng của tôi đã - đang - cực kỳ không phù hợp cho thơ với ca rồi.

"Đọc cho tôi nghe đi,".

Giờ đã rất nhiều năm trôi qua. Bạn đang cầm cuốn sách này trong tay, vì thế hiển nhiên tôi đã vượt qua được nỗi sợ không dám cho người khác đọc những gì mình viết ra. Nhưng ba bài thơ tôi viết cho Marianne Engel vào ngày Giáng sinh đó sẽ không được ghi lại trong câu chuyện này. Bạn đã có đủ bằng chứng buộc tội tôi rồi.

Khi tôi đọc xong, cô trườn lên giường. "Thật là tuyệt vời. Rất cám ơn anh. Giờ tôi sẽ kể anh nghe chúng ta đã gặp nhau như thế nào nhé."

Chú thích

(23) Guglielmo Marconi là tên một nhà vật lý nổi tiếng người Ý.

(24)Truyền thuyết Hy Lạp kể rằng vào đêm trăng sáng, nếu bạn mang đàn ghi ta ra ngã tư đường, vừa đánh vừa cầu mong ác quỷ đến thì ác quỷ sẽ xuất hiện thật và cho bạn khả năng chơi được bất cứ loại nhạc cụ nào, làm được bất cứ việc gì trên thế giới này. Nhưng để đổi lại, bạn phải trao linh hồn vĩnh hằng của mình cho nó.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 24


Sau khi tôi bắt đầu đọc những tác phẩm của Meister Eckhart, một luồng suy nghĩ mới xuất hiện trong đầu tôi. Nó không quá mạnh mẽ nhưng cũng đủ gây ảnh hưởng đến tôi, và cuối cùng tôi cũng bắt đầu hiểu được một số điều mà mẹ Christina đã nói về việc xóa bỏ sự phàm tục trong tâm hồn để có thể đến gần hơn với Chúa Thánh Thần. Nhưng tôi luôn bí mật giữ cuốn sách, vì những xơ như Gertrud sẽ không bao giờ chấp nhận nổi những ý tưởng còn cấp tiến hơn những gì bà đã từng biết. Và dù Eckhart là chất xúc tác, người làm dấy lên những băn khoăn trong tôi lại là một người khác. Khi một trong những bà xơ có tuổi ở tu viện chúng tôi qua đời, Gertrud đã bổ nhiệm tôi vào vị trí của bà ấy, bao gồm cả việc giao thiệp với thương gia cung cấp giấy da cho chúng tôi nữa.

Người buôn giấy da này thô lậu hơn hết thảy những người đàn ông tôi từng biết, vì thế việc chúng tôi trở nên thân thiết với nhau thật đáng ngạc nhiên. Điều đầu tiên ông ta muốn tôi làm là cầu nguyện cho ông. Ông giải thích rằng bà xơ tiền nhiệm thường làm như thế, và đó là bài học đầu tiên của tôi về việc có qua có lại. Nếu tôi làm thế, ông sẽ giảm giá cho tu viện. Ông thú nhận là ông đã phạm tội, nhưng kèm thêm một nụ cười giả lả rằng ông "chưa phạm tội đến mức phải cầu xin được ân xá."

Ông thích nói mọi chuyện trên trời dưới bể và tôi rất ấn tượng với những hiểu biết của ông về chính trị, nhưng có lẽ chỉ vì tôi không biết rằng những điều ông phàn nàn đều là chuyện tầm phào trong bất cứ quán rượu cuối ngày nào. Trong hàng tháng trời làm việc cùng nhau, tôi biết thêm nhiều điều về một nước Đức tồn tại bên ngoài những bức tường tu viện. Đức Giáo hoàng John ôm mối thâm thù với Louis vùng Bavaria. Chiến tranh nổ ra, và những lãnh chúa địa phương đã phải viện đến sự trợ giúp của đám lính đánh thuê gọi là condotta; nhà ngôn ngữ học trong tôi nhận ra ngay đó là một từ vay mượn tiếng Ý. Cái chết được đem ra bán lấy lãi, hoàn toàn không có chút lý tưởng hay lòng tin nào tồn tại, và điều này làm tôi buồn nôn. Tôi không hiểu nổi vì sao con người có thể làm những chuyện như thế, và người buôn giấy da chỉ nhún vai nói với tôi rằng những chuyện như thế xảy ra ở khắp mọi nơi.

Ở trong phòng viết, Gertrud bắt chúng tôi làm việc thâu đêm với cuốn Die Gertrud Bibel, và những nỗ lực đang được đền đáp xứng đáng. Dù bà để tâm đến từng chi tiết, dù chúng tôi vẫn phải làm biết bao công việc khác nữa, tôi vẫn có thể thấy rằng tác phẩm chỉ mất vài năm nữa là hoàn thành. Bà đã lớn tuổi, nhưng tôi biết bà sẽ ép bản thân tiếp tục. Dù ngoan đạo như vẫn luôn tuyên bố, bà hẳn đã phải tranh luận với chính Chúa Jesus xem liệu Người có dám cả gan mang bà đi trước khi mọi sự xong xuôi hay không.

Đó là vào lúc nửa đêm, như bất cứ nửa đêm nào khác, khi một trong những bà xơ đi đến phòng viết và thì thầm về sự xuất hiện của hai người đàn ông, một người đầy vết bỏng nặng đến nỗi trông anh ấy như thể "vừa có một trận chiến với Kẻ thù!" Nghe có vẻ khá thú vị, nhưng tôi vẫn còn việc phải làm.

Buổi sáng hôm sau, xơ Mathildis, y tá của tu viện, đánh thức tôi dậy khi tôi còn đang ngủ trong phòng mình và nói tôi buộc phải có mặt ở bệnh xá, theo lệnh của mẹ Christina. Tôi khoác vội chiếc áo choàng rồi hai người chúng tôi cùng nhau băng qua khu vườn của tu viện trong khi bà thông báo cho tôi rằng bà và những xơ khác phụ trách bệnh xá - xơ Elisabeth và Constantia - đã thức suốt đêm để chăm sóc cho nạn nhân bỏng. Tất cả mọi người đều ngạc nhiên khi thấy anh ta có thể chịu đựng được lâu đến như vậy.

Mẹ Christina đón chúng tôi ở cửa bệnh xá. Trong phòng, cha Sunder và các xơ y tá đang chăm sóc một người đàn ông nằm đắp một tấm chăn trắng. Một binh sĩ đã kiệt quệ, vẫn còn khoác trên người bộ quần áo lính tơi tả, đang ngồi ủ ê ở góc phòng. Khi nhìn thấy tôi, anh ta liền nhảy ngay tới và đề nghị, "Xin cô giúp anh ấy với."

"Xơ Marianne, đây là Brandeis, anh ấy đã mang người bị bỏng đến chỗ chúng ta. Chúng ta đã tham khảo tất cả sách y khoa hiện có" - mẹ Christina hất đầu về phía những cuốn sách đang lật mở nơi góc bàn - "nhưng không có đủ thông tin để áp dụng với những vết thương kiểu này."

Tôi không biết họ cần gì ở mình. "Thế bệnh viện Thánh thần ở Mainz thì sao ạ? Con nghe kể đó là một trong những nơi tốt nhất."

Cha Sunder liền tiến lên phía trước. "Chúng ta cũng đã xem xét khả năng đó, dĩ nhiên là thế, nhưng tình trạng sức khỏe của anh ấy quá nguy kịch nên không thể liều lĩnh đi một quãng đường xa như thế. Tất cả những gì có thể làm được đều phải được làm ở đây."

"Nếu có ai đó biết mọi thứ trong phòng viết, thì đó là con," mẹ Christina nói. Sau khi cân nhắc thiệt hơn, bà thêm, "Và xơ Gertrud, dĩ nhiên. Nhưng bà ấy hiện có rất nhiều nhiệm vụ cần kíp khác, đúng với vị trí của mình, vì thế ta sẽ phải nhờ con tìm tòi trong thư viện bất cứ thông tin nào có thể hữu ích cho việc chữa trị."

Có hai điều trở nên rõ ràng ngay lập tức. Điều đầu tiên, biện pháp này được thực hiện chủ yếu để làm yên lòng Brandeis; hầu như chẳng có chút hy vọng rằng mấy cuốn sách của chúng tôi có thể chứa những thông tin thực sự hữu ích. Điều thứ hai, mẹ Christina không tin Gertrud có thể toàn tâm toàn ý nghiên cứu tìm tòi. Dù chỉ có chút hy vọng nhỏ nhoi là có thể tôi sẽ tìm thấy gì đó, méo mó có hơn không, rõ ràng mẹ Christina đã quyết định rằng mạng sống của một con người quan trọng hơn lòng kiêu hãnh của Gertrud. Điều này, tôi phải thú nhận, làm tôi cảm thấy rất thích thú. Nhưng để lộ ra thì thật thất lễ, vì thế tôi chỉ nhũn nhặn cúi đầu mà nói rằng tôi rất sẵn lòng phục vụ tu viện trưởng của tôi trước Chúa. Yêu cầu duy nhất của tôi là cho phép tôi được xem qua những vết thương của người lính, để tôi có thể biết được mình cần tìm những phương thuốc như thế nào.

Khi lại gần chiếc bàn, tôi đã nhìn thấy khuôn mặt anh lần đầu tiên. Khi đó mặt anh đã bị bỏng nặng, như bây giờ, dù đỡ khủng khiếp hơn, và có một ụ máu lớn trên ngực anh, thấm qua tấm chăn trắng. Tôi không thể không nghĩ nó trông như một bông hồng bật lên khỏi tuyết. Dù chỉ trong giây lát, tôi cũng biết đó là một suy nghĩ không đúng đắn chút nào. Cha Sunder nhìn mẹ Christina, bà gật đầu đồng ý, thế là ông nhẹ nhàng kéo tấm chăn lên. Tôi có thể nghe thấy một tiếng xoẹt nhẹ khi tấm vải đầy máu tách ra khỏi người anh.

Phản ứng của tôi lúc đó đã làm chính bản thân tôi bất ngờ. Tôi đã bị anh cuốn hút hơn bất cứ thứ gì khác, và chắc chắn tôi sẽ không thoái lui. Trong khi tất cả mọi người trong phòng, thậm chí cả người lính tên Brandeis, đều lùi lại một bước, tôi lại tiến lên một bước.

Có những vùng da bị cháy, dĩ nhiên, và cơ thể anh chảy nhiều máu hơn khả năng thấm hút của những dải băng. Tôi xin một mảnh vải để lau chỗ máu rỉ ra. Máu đen, đỏ lẫn xám chảy lẫn vào nhau, nhưng khi lau những vết máu đọng, tôi đã có một phát hiện bất ngờ. Có một vùng hình chữ nhật trên ngực anh không hề bị bỏng. Nó ở bên trái, ngay phía trên trái tim anh, và nổi bật lên giữa những vùng da thịt bị hủy hoại xung quanh. Ngay giữa tâm của nó là một vết thương độc nhất, một vết rạch nơi vật nhọn nào đó đã cắt vào thịt anh. Tôi hỏi Brandeis về chuyện này, và anh ta trả lời rằng đó là điểm đầu mút của mũi tên đã đâm vào anh. Anh ta nói rằng mũi tên không đâm sâu lắm nhưng chính ngọn lửa đã gây nên những thương tổn nặng nề nhất.

Tôi hỏi xem thực sự chuyện gì đã xảy ra. Khuôn mặt của Brandeis chùng xuống, vì anh ta đã kể câu chuyện này cho những xơ y tá rồi và không muốn kể lại nữa. Nhưng anh ta tự trấn an bản thân và bắt đầu nói.

Anh và Brandeis thuộc về một nhóm lính condotta, đội cung thủ đánh thuê. Và anh ta nhìn xuống sàn nhà với vẻ xấu hổ khi thừa nhận công việc mình làm trong ngôi nhà của Chúa. Hôm trước đó đã có một trận đánh. Vừa mới đây hai người các anh còn cầm cung tên bên cạnh nhau, giây tiếp theo anh đã bị trúng một mũi tên lửa. Brandeis phản ứng hết sức nhanh nhạy, nhưng ngọn lửa đã kịp lan ra. Vì mũi tên cắm thẳng vào ngực anh, anh không thể lăn lộn trên đất để dập lửa được, nên Brandeis đã bẻ đoạn gần đầu mũi tên đi. Nói đến đoạn này, anh ta giơ lòng bàn tay cho chúng tôi xem vết bỏng khá nặng của mình. Anh ta cố xé bộ quần áo bén lửa của anh ra nhưng đã quá muộn. Anh đã phải chịu những thương tổn quá nặng nề rồi.

Anh ta ở bên cạnh anh trong suốt trận chiến, dùng cây cung của mình hạ gục tất cả những những kẻ dám mon men đến gần. Khi đối phương đã rút lui, các đồng đội của anh bắt đầu rà soát chiến trường để tìm người sống sót.

Có một luật lệ mà tất cả mọi người đều hiểu rõ. Nếu quân địch bị thương bị tìm thấy, anh ta sẽ bị xử tử. Nếu quân ta bị thương nhưng vẫn có thể chữa lành, anh ta sẽ được chữa trị. Nhưng nếu quân ta vẫn còn sống nhưng vết thương không thể cứu chữa được, anh ta cũng sẽ bị giết. Đây được coi là một hành động vì mục đích nhân đạo cũng như lợi ích kinh tế. Để một người tốt phải chịu cái chết từ từ thì thật không hay chút nào, và cũng rất phi thực tế nếu cứ lãng phí nhân lực và lương thực để giữ lại mạng của một người lính vô dụng.

Khi anh và Brandeis được đám lính đánh thuê tìm thấy, tất cả những người còn lại nhanh chóng đi đến quyết định. Anh đã bị thương quá nặng và anh sẽ được giải thoát khỏi mọi khổ sở. Họ cũng vậy.

Một chiến binh trẻ tuổi tên là Kuonrat bước tới đề nghị được chém nhát chém cuối cùng, mà không hề nghĩ lấy một giây rằng đây là nhiệm vụ sau này sẽ làm hắn ta hối hận. Kuonrat là một gã háo danh và khát máu chẳng chút lương tri; hắn ta đã để mắt đến vị trí cao nhất, và cái chết của anh đơn giản là loại bỏ một kẻ kỳ cựu ngáng chân hắn trên con đường tới chức condottiere, đội trưởng đội lính mà thôi.

Nhưng ngày đó Herwald vẫn là chỉ huy, và mối quan hệ của anh với ông khá lâu dài và bền vững. Thực ra, ông chính là người đã đưa anh vào đội khi anh còn là một cậu thiếu niên. Anh là một trong những người lính thân cận với ông nhất, và qua năm tháng ông ngày càng trân trọng anh hơn. Ông không hề muốn ra lệnh xử tử anh, nhưng không có lựa chọn nào khác, anh cũng quyết không giao trách nhiệm cho một kẻ như Kuonrat. Vì thế Herwald đã đề nghị Brandeis, người bạn thân nhất của anh làm việc đó. Nếu Brandeis từ chối, Herwald sẽ phải đích thân ra tay.

Brandeis không muốn nghe bất cứ một câu nói nào về việc giết anh hết. Anh ta đứng thẳng người và rút thanh kiếm của mình ra. "Tôi sẽ chém tất cả những ai dám bước tới dù chỉ một bước. Tôi sẽ không để bạn mình bị giết như một con ngựa què đâu."

Tại sao Brandeis không thể đưa anh tới một nơi nào đó và tự tay chăm sóc anh? Lý do nằm ở phương châm của nhóm lính đánh thuê condotta. Một khi đã là lính, anh ta sẽ mãi mãi là một người lính. Đã như thế, vẫn như thế, và sẽ luôn luôn như thế. Một người lính cần phải biết rằng mình có thể trông cậy vào người bên cạnh mình, cũng như biết rằng mình sẽ không bị bỏ rơi trong lúc nguy nan. Để củng cố luật lệ này, tất cả những ai cố gắng bỏ trốn sẽ bị truy đuổi và bị giết hại dã man, không có ngoại lệ. Nếu Brandeis được phép rời vị trí để chăm sóc anh, ai biết được sau này sẽ có ai khác đòi quyền lợi như thế nữa?

Brandeis đứng nhìn xuống anh, thanh kiếm của anh ta giơ lên chống trả cả đội quân và chống lại cả một truyền thống không thể bị phá bỏ. Thật là một việc làm cực kỳ can đảm nhưng cũng không kém phần ngu ngốc. Nhưng, có lẽ, những người lính khác cũng cảm thấy trong lòng dấy lên cảm giác kính trọng khó tả trước một người dám liều cả mạng sống của mình để bảo vệ một người bạn. Tình thế tiến thoái lưỡng nan chỉ có thể được giải quyết nếu Brandeis đưa ra được một giải pháp khả dĩ, và thật ngạc nhiên, Brandeis đã làm được thế.

Brandeis biết được khoảng cách giữa Engelthal và nơi vừa diễn ra trận chiến, và anh ta cũng biết tu viện nổi tiếng là nơi thường xảy ra những điều kỳ diệu. Brandeis đã thề, trên danh dự của anh ta, rằng anh ta sẽ quay lại với đội quân trước trận chiến sắp tới nếu anh ta được phép đưa anh tới tu viện. Anh ta nhấn mạnh rằng - vì tất cả mọi người đều tin kiểu gì thì anh cũng chết - ít nhất anh cũng nên được chết dưới sự bảo vệ của Chúa.

Herwald chấp nhận lời đề nghị, một sự nhượng bộ hiếm có của ông. Về cả lý và tình, đây quả là một quyết định đúng đắn. Nó thể hiện rằng những người lính trung thành sẽ được trọng thưởng, đồng thời giúp ông khỏi phải ra lệnh xử tử một người bạn lâu năm. Và không ai có thể buộc tội ông cho phép một người lính còn khỏe mạnh rời bỏ vị trí, vì anh ta đã hứa sẽ quay lại.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 25


Kuonrat Háo Danh biết rõ là không nên công khai đả kích Herwald khi bầu không khí thiện chí đang lên cao, nhưng hắn cũng không bỏ lỡ cơ hội thì thào với tất cả những ai chịu lắng nghe rằng thực sự đây là lần thứ hai quy định không thể phá vỡ của đoàn quân bị xem thường. "Không ai nhớ chuyện về tên cung thủ người Ý Benedetto à? Chúng ta đã để hắn trốn thoát mà không hề đem quân đi truy đuổi. Herwald một lần nữa lại phản bội chúng ta vì ông ta quá yếu đuối. Chúng ta còn để chuyện này tiếp diễn tới bao giờ nữa?"

Chỉ vài người chịu nghe. Hầu hết mọi người đều tán thành rằng sau bao nhiêu năm phục vụ, anh nên được phép chết bên cạnh Chúa, trong sự chăm sóc của các xơ ở Engelthal.

Khi Brandeis kết thúc câu chuyện, anh ta lấy tay vuốt khuôn mặt mệt mỏi của mình. Có lẽ tôi đã thấy một giọt nước mắt, nhưng cũng có thể chỉ là một giọt mồ hôi. Và đó là cách anh đến với tu viện. Đó là cách anh đến với tôi.

Câu chuyện của Brandeis làm tất cả mọi người trong phòng xúc động, cả những người đã nghe câu chuyện đó từ trước cũng vậy. Cuối cùng cha Sunder phá vỡ bầu không khí tĩnh lặng, cất lời ca ngợi anh ta vì những hành động đúng đắn. Mẹ Christina nói rằng dù bà không thiện cảm với lính đánh thuê nhưng cũng đã nhận ngay ra tình anh em chân thật khi gặp các anh. Bà trấn an Brandeis một lần nữa rằng chúng tôi sẽ làm tất cả những gì có thể, và các xơ y tá cũng gật đầu đồng ý. Đây đều là những lời lẽ tốt đẹp, dĩ nhiên, nhưng mọi khuôn mặt trong phòng đều chung một vẻ tiếc thương. Tất cả mọi người đều nghĩ rằng anh sẽ chết.

Tôi thì không. Tôi muốn lướt ngón tay mình lên những vết thương của anh; tôi muốn máu anh tưới lên người tôi. Nơi mọi người nhìn thấy một người đàn ông đang hấp hối, tôi chỉ thấy một con người đang chờ được tái sinh. Tôi nghĩ đến những vết thương của Chúa trong những giây phút đẹp nhất của Người.

Brandeis vươn thẳng người, theo đúng cách đàn ông hay làm khi nghĩ rằng làm thế sẽ cho họ nhiều sức mạnh hơn những gì họ đang thực sự sở hữu. Anh ta cúi đầu, nói phải giữ lời hứa của mình và quay trở lại đội quân. Anh ta tin tưởng vào khả năng của chúng tôi, anh ta nói, và vào sự tốt đẹp của Chúa. Đến bên cửa anh ta còn quay đầu lại nhìn anh lần cuối.

Sau khi Brandeis đi, tôi dành cả ngày lùng sục tất cả các cuốn sách trong phòng viết để tìm mọi thứ có thể giúp anh chữa trị. Nhưng dù nhiệm vụ có cấp thiết đến mức nào, tôi cũng không thể tập trung được. Tôi cố hình dung cảnh hai người trên chiến trường, nhưng không thể. Brandeis dường như quan tâm đến sinh mạng của anh tới nỗi không thể là một kẻ giết người, và nét bình thản trên khuôn mặt anh khi anh nằm trên bàn cứ luôn ám ảnh tôi. Lúc đó tôi không hề để ý, nhưng anh đã yếu lắm rồi. Khi ấy, dường như tôi có cảm giác là linh hồn anh đã rời khỏi thân xác rồi. Là một tu sĩ, tôi cảm thấy vô cùng rối bời. Tôi đã không thể tập trung suy xét để nhận ra rằng mình chưa hề hỏi Brandeis tại sao cái vùng hình chữ nhật trên ngực anh lại không bị bỏng, giữa những tổn thương khủng khiếp đã gây ra cho cả thân người anh như thế.

Sách của chúng tôi không hề có một tài liệu nào chỉ ra cách chữa những vết bỏng đáng sợ của anh. Không chút ánh sáng xuyên qua ô cửa sổ chiếu rọi một trang sách khả dĩ, cũng không một luồng gió thổi qua khung cửa sổ lật một cuốn sách đến trang thích hợp. Vào buổi tối, tôi thấy mình buộc phải quay trở lại bệnh xá, chỉ để thông báo cho các xơ y tá rằng tôi đã không tìm được bất cứ điều gì.

Quang cảnh khác biệt rõ rệt so với lúc trước. Tôi chưa từng thấy ai gào thét điên cuồng như anh. Những năm tháng yên lặng trong tu viện đã làm tôi không tưởng tượng nổi một con người có thể phát ra những tiếng động kinh dị đến vậy. Các nữ tu đều đang cố ghìm anh lại, nhưng đó quả là một cuộc chiến không cân sức. Xơ Elisabeth vui vẻ tột độ khi nhường vị trí của cô cho tôi. Người anh thấm đẫm chất dịch mỗi lúc một rịn ra nhiều hơn, đôi mắt anh đảo hết bên này sang bên kia như để tìm một con quỷ chỉ anh mới có thể nhìn thấy. Tôi đặt một bàn tay lên đầu anh để giúp anh trấn tĩnh, nhưng anh vẫn không ngừng quẫy đạp. Tôi vuốt tóc anh và nói những lời an ủi nhẹ nhàng trong khi những người khác đổ nước lên người anh. Mỗi gáo nước lạnh lại làm người anh giật nẩy lên. Tôi cũng lấy một bình nước và cố hết sức đổ xuống họng anh. Khi anh cuối cùng cũng chịu mở miệng ra đón lấy, trong một khoảnh khắc mắt anh đã chớp một cái rồi lại nhắm chặt.

Một phút yên lặng kỳ dị trôi qua, và tôi có thể thấy trong cách họ liếc nhìn nhau, tất cả mọi người đều chắc chắn rằng anh đã chết. Những cô y tá rụt rè tự cho phép bản thân ngồi xuống, quá mệt mỏi vì phải chăm sóc anh rồi.

Và rồi anh hổn hển bật dậy, mắt anh ngập tràn nỗi kinh sợ như thể anh đã thấy mọi thứ phải biết về cái chết. Anh lại bắt đầu gào thét, vì thế tôi tát vào mặt anh và cố làm anh tập trung, nhưng đôi mắt anh lại tiếp tục đảo tìm con quái vật lần nữa. Tôi dùng hết sức để giữ chặt anh và gí sát mặt vào anh, thét lên ầm ĩ. Khi cuối cùng anh cũng có thể tập trung nhìn tôi, nỗi sợ của anh dường như tan biến.

Ánh nhìn của anh cho thấy rõ anh đã nhận ra điều gì đó. Chúng ta chăm chú nhìn nhau. Tôi không biết bao nhiêu phút giây đã trôi qua. Anh cố nói gì đó, nhưng nhỏ nhẹ đến nỗi tôi nghĩ mình đang tưởng tượng ra giọng nói của anh. Tôi ghé sát tai vào miệng anh. Những nữ tu khác đã lùi lại mấy bước và không thể nghe anh thều thào vài từ.

"Trái tim của tôi... Bị khóa... Chìa khóa."

Rồi anh nhắm mắt lại và chìm vào hôn mê.

Tôi không hiểu những từ anh nói có ý nghĩa gì, nhưng chẳng hiểu sao chúng đã củng cố niềm tin rằng tôi có sứ mệnh giúp anh. Một nữ tu không bao giờ được phép chấp nhận ý tưởng là trái tim của một con người đã bị khóa, đặc biệt khi đó là trái tim của một người đàn ông không lâu nữa sẽ đến ngưỡng cửa Thiên đường - hay, dù bản thân tôi cũng không muốn thừa nhận điều đó, Địa ngục. Người ta phải thấy rõ điểm đến cuối cùng của một người lính đánh thuê là Địa ngục.

Tôi ở bên anh suốt đêm và lau những chất dịch nhầy trên ngực anh, tôi cố gắng nhẹ nhàng hết sức, nhưng da thịt anh vẫn cứ giật lên dưới tay tôi. Dù quả là khó khi phải nhìn những vết thương của anh, tôi đã chắc chắn - lần đầu tiên trong đời - rằng Engelthal chính xác là nơi dành cho tôi. Sự thiếu ảo giác thần bí, thiếu khả năng giao tiếp với Chúa Thánh Thần Vĩnh Hằng, tất cả những điều này hoàn toàn không quan trọng.

Sáng hôm sau, trên lối quay về phòng, tôi đụng độ Gertrud. Bà hỏi, với một giọng ngọt ngào giả tạo, rằng khi nào "tôi có thể thu xếp thời gian chăm sóc kẻ giết người" để trở lại với nhiệm vụ phòng viết và tiếp tục công việc của Chúa. Tôi thông báo với bà rằng mẹ Christina đã đặc biệt giao trọng trách chăm sóc bệnh nhân bỏng cho tôi, và rằng đó là nhiệm vụ chính của tôi bấy giờ. Tôi cũng lỡ miệng nói rằng mẹ Christina nghĩ tôi có khả năng độc nhất vô nhị trong việc tìm kiếm bất cứ tài liệu cần thiết nào trong phòng viết. Tôi có thể thấy mặt Gertrud phừng phừng giận dữ, nhưng chỉ đúng trong một khoảnh khắc thôi.

Khi đã lấy lại bình tĩnh, Gertrud nói, "Mẹ Christina thật tốt bụng khi dành cả người lẫn của để cứu giúp một người đàn ông. Tuy nhiên, ta nghĩ con cũng nên thông minh một chút để nhớ rằng chỉ có Chúa mới cứu được người đàn ông này. Một đứa con hoang bị vứt ngoài cổng thì chẳng làm được cái gì đâu."

Đây là những từ ngữ nặng nề nhất bà từng nói với tôi. Tôi đã bị sốc, nhưng cũng kịp bảo rằng bà nói rất đúng, dĩ nhiên rồi. Tuy thế, tôi cũng nói thêm rằng tôi nên xin phép đi đọc kinh tạ ơn rồi chợp mắt một chút, phòng trường hợp Chúa thực sự quyết định ban cho đứa con hoang như tôi khả năng giúp đỡ một người trong cơn hoạn nạn.

Lát sau khi tôi quay lại bệnh xá, tôi nhận thấy anh đã phải trải qua một quãng thời gian rất khó khăn khi tôi vắng mặt. Anh đang lắp bắp những từ vô nghĩa và trở mình dữ dội. Mẹ Christina và cha Sunder đang ở đó, thảo luận với y tá, nhưng không ai biết phải làm gì tiếp theo.

Không hề báo trước, anh giơ tay lên chỉ thẳng vào tôi. Tất cả những lời lẽ rối rắm của anh đã rơi đi đâu hết và anh dõng dạc nói to: "Người này."

Tất cả mọi người đều sững sờ. Trừ vài từ chỉ mình tôi nghe thấy lúc trước, đây là lần đầu tiên anh nói chuyện. Một sự ngưng đọng kịch tính đến hoàn hảo bao trùm cả căn phòng trước khi anh nói thêm, "Tôi đã có ảo giác."

Những nữ tu há hốc mồm còn mẹ Christina thì mấp máy cầu nguyện Chúa chỉ dẫn ngay lập tức. Một binh sĩ có ảo giác: Engelthal thực sự là một nơi linh thiêng và tuyệt vời biết bao! Nhưng tôi không tin điều đó. Anh mới ở trong tu viện được một thời gian ngắn, nhưng bằng cách nào đó anh đã biết được thứ duy nhất có ý nghĩa vào thời điểm này là thiên khải.

Mẹ Christina do dự bước thêm một bước nữa. "Anh đã thấy ảo giác nào?"

Anh lại chỉ tay vào tôi lần nữa và thì thầm, "Chúa nói rằng người này sẽ chữa lành cho tôi."

Mẹ Christina bấu chặt lấy cánh tay của cha Sunder. "Anh chắc chứ?"

Anh nhẹ nhàng gật đầu và nhắm mắt lại, theo đúng cái cách những nữ tu vẫn làm để thể hiện họ đang trầm tư mặc tưởng đến mức nào.

Những xơ y tá siết chặt tay trong nỗi sợ hãi thần thánh và quỳ lạy với sự tôn kính vô bờ, cha Sunder và mẹ Christina thì rút vào một góc hội ý với nhau. Ngay sau đó, mẹ Christina đặt tay tôi vào tay bà. "Đây là một điều rất kỳ lạ, xơ Marianne, nhưng chúng ta phải tin những lời anh ấy nói. Chẳng phải ta vẫn luôn nói với con rằng mọi chuyện không đơn giản như vẻ bề ngoài hay sao?"

Có lẽ mẹ Christina, Chúa phù hộ bà, đang ngóng trông một chương mới trong biên niên sử về Engelthal của mình. Tôi là ai mà dám làm bà thất vọng chứ? Tôi gật đầu, như thể cái vỏ bọc một y sư được lựa chọn là gánh nặng đối với một nữ tu chẳng xuất chúng gì như tôi đây, nhưng đó cũng là trách nhiệm tôi phải gánh vác cho tu viện. Phía sau mẹ Christina, anh dường như lại rơi vào trạng thái bất tỉnh, nhưng môi anh nở một nụ cười.

Những nữ tu khác hầu như cho tôi toàn quyền quyết định cách chữa trị cho anh sau thiên khải của Chúa. Không nghi ngờ gì, họ không hề muốn những lỗi lầm trần tục của mình làm kinh động đến những phương thuốc của thánh thần. Tôi dùng nước sạch lau vết thương và thay băng cho anh, nhưng tôi cũng bắt tay vào việc cắt những phần thịt thối rữa của anh, một quy trình vấp phải sự phản đối của những người xung quanh cho tới khi tôi nhắc họ về ảo giác của anh. Có lẽ họ không có gan phản đối việc đó, hoặc có lẽ họ nghĩ mình không có quyền làm mạo phạm một cơ thể được Chúa tạo nên, dù sao, họ luôn luôn rời phòng mỗi khi tôi làm đến công đoạn ấy.

Vì sao tôi lại cho rằng việc cắt bỏ phần hoại tử là một hành động đúng đắn, tôi sẽ không bao giờ có thể biết được. Từ khi sinh ra đến giờ, tôi luôn tâm niệm làm người phải biết phân biệt tốt xấu, thế nên có lẽ tôi chỉ áp dụng ý tưởng này theo ý nghĩa trần tục nhất. Và lý do tại sao anh lại để tôi cắt da thịt mình, tôi cũng không rõ, nhưng anh thì biết. Anh gào lên, tỉnh rồi lại mê, nhưng không một lần bảo tôi dừng con dao lại. Tôi đã vô cùng sửng sốt trước lòng can đảm của anh.

Trong suốt tuần đầu tiên, anh luôn ở trong trạng thái mê sảng. Đến ngày thứ bảy, anh hạ sốt và cuối cùng cũng thức tỉnh đón chào thế giới. Tôi đang lau mồ hôi trán cho anh thì anh ngước nhìn tôi và bắt đầu cất tiếng hát yếu ớt.

Dû bist mỵn, ich bin dỵn:

des solt dû gewis sỵn;

dû bist beslozzen in mỵnem herzen,

verlorn ist daz slüzzelỵn:

dû muost och immer darinne sỵn.

Chẳng vấn đề gì, cái việc anh vừa ho vừa hát ấy. Đơn giản đó là tiếng ca cất lên từ cổ họng của một người đang dần bình phục, nó hay hơn mọi bài tụng ca Chúa mà tôi từng nghe các nữ tu cất giọng hát.

Tin anh tỉnh lại đã lan khắp Engelthal. "Bàn tay xơ Marianne thực sự đã làm nên điều kỳ diệu!" Tôi nghĩ rằng đó chỉ là những kiến thức thông thường, nhưng anh không thể nào tranh luận với những nữ tu đang hân hoan vui sướng được đâu. Thậm chí Gertrud và Agletrudis cũng thôi thầm thì vào tai mẹ Christina rằng tôi cần quay về làm nhiệm vụ tại phòng viết.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 26


Thế bài hát ấy có nghĩa gì?"

"Thật lạ là anh không còn nhớ cả tiếng mẹ đẻ của mình," Marianne Engel trầm ngâm suy nghĩ. Em là của tôi, tôi là của em: em có thể chắc chắn về chuyện đó. Em đã bị khóa chặt trong trái tim tôi, chìa khóa đã bị ném đi; trong trái tim tôi, em sẽ phải ở lại mãi mãi. Đó là một bài dân ca về tình yêu."

"Sao lại là bài này?" tôi hỏi.

"Anh là một chiến binh, chứ không phải một ca sĩ. Có lẽ đó là bài hát duy nhất anh biết."

Chúng tôi nói chuyện thêm một lúc nữa - hầu như toàn là cô nói, giải thích cho tôi nghe lịch sử truyền đời của những Minnelieder - những bài tình ca thời Trung cổ - cho tới khi cô phải ra về. Sau khi thu dọn đồ đạc của mình, cô bảo tôi nhắm mắt lại.

Khi tôi nhắm mắt, cô luồn qua đầu tôi một sợi dây da mảnh, mặt dây là một đồng xu treo lủng lẳng. "Tên chính xác của vật này là "thiên thần". Chúng được lưu hành ở Anh vào thế kỷ mười sáu. Hãy cho phép tôi tặng anh."

Ở một mặt của đồng xu là cảnh một người đang giết rồng. Marianne Engel giải thích lịch sử của hình ảnh đó như sau. "Đó là Đại Thiên thần Michael, xuất hiện trong Khải huyền. Có một trận chiến nổ ra trên Thiên đường, Michael và các thiên thần khác đã chiến đấu chống lại con rồng... Và cuối cùng rồng hung ác đã bị diệt trừ."

"Cám ơn," tôi nói.

"Khi thời cơ đến, anh sẽ biết mình phải làm gì với đồng xu ấy."

Những lời nhận xét kiểu đó của Marianne Engel, nhẹ nhất là vô nghĩa và tệ nhất là quái gở, đã quá nhiều đến nỗi tôi cũng chẳng buồn hỏi xem chúng có nghĩa gì. Cứ cố bắt cô giải thích thì sẽ chỉ đặt dấu chấm hết cho cuộc nói chuyện của chúng tôi và, quan trọng là, có bao giờ cô chịu giải thích đâu cơ chứ.

Marianne Engel báo rằng sau mấy ngày Tết cô mới trở lại vì cô có cả một tầng hầm đầy ắp những gargoyle bị bỏ bê. Trước khi đi ra cửa, cô không quên vỗ nhẹ vào cái va li chứa hai trăm nghìn đô la. "Đừng quên, anh sẽ đến sống với tôi đấy."

NGƯƠI CHO RẰNG CÔ TA CHỊU DỌN MẤY CÁI TÚI DẪN LƯU NƯỚC TIỂU CỦA NGƯƠI Ư?

Tôi tập trung nghĩ về căn phòng trống trải. Tôi sẽ không để con rắn cái tra tấn tôi đâu.

KHÔNG HIỂU CÔ TA CÓ MANG NHỮNG THẰNG ĐÀN ÔNG ĐẦY ĐỦ HÀNG HỌ VỀ NHÀ KHÔNG NHỈ?

Lợi ích lớn nhất của việc nghiện ngập trước kia là khả năng quên sầu suốt cả một ngày trời. Tôi khao khát có được cảm giác ngất ngây mà cocaine và đồ uống có cồn đã luôn mang lại.

ĐÀN BÀ CÓ NHỮNG NHU CẦU MÀ NGƯƠI KHÔNG THỂ NÀO THỎA MÃN ĐƯỢC ĐÂU.

Bác sĩ Edwards bước vào phòng, mặc một chiếc áo len đỏ rực đón chào lễ Giáng sinh. Tôi chưa bao giờ nhìn thấy bà mặc gì ngoài áo blu. "Tôi nghe nói bữa tiệc rất vui."

Tôi rất hài lòng khi được thấy Nan, vì sự hiện diện của bà có thể làm con rắn biến mất trong chốc lát. Con rắn có vẻ khoái gây sự với tôi khi chỉ có mình tôi với nó. "Thật buồn vì chị đã không ở đó."

Bà kiểm tra phác đồ điều trị của tôi. "Có thể là sang năm."

"Chị có vất vả lắm không?" tôi hỏi. "Ý tôi là, chắc phải ký rất nhiều giấy tờ. Văn bản pháp luật, quyền từ chối, đại loại thế."

"Bệnh viện sẽ xem xét quan điểm của mình," Nan thừa nhận. "Và cũng đòi quyền được miễn trừ có liên quan tới rất nhiều vấn đề. Giả sử ai đó bị ngộ độc thực phẩm thì sao?"

"Tôi không tưởng tượng nổi Marianne Engel có thể tự xoay xở các loại giấy tờ."

"Tôi đã làm trung gian giữa cô ấy và hội đồng luật pháp," Nan nói, "nhưng chỉ vì tôi nghĩ làm thế sẽ tốt cho tất cả các bệnh nhân khác, chứ không chỉ vì mình anh đâu."

"Cám ơn. Tôi biết chị cũng không thích cô ấy lắm."

Bác sĩ Edwards khẽ ưỡn thẳng người. "Tôi nghĩ cô ấy là người tốt."

"Chị chỉ hồ nghi về khả năng chăm sóc thôi."

"Suy nghĩ của tôi thì quan trọng gì chứ."

"Dĩ nhiên là có chứ," tôi nói. "Áo len của chị đẹp nhỉ. Chị định đi đâu chơi à?"

Bà nhìn xuống, như thể đã quên mất mình đang mặc nó, nhưng màn kịch câm tệ quá. "Tôi không muốn nói chuyện riêng tư."

"Được thôi," tôi nói. "Thế tại sao chị lại trở thành bác sĩ?"

"Đó là một câu hỏi riêng tư."

"Không," tôi chỉnh bà. " Đấy là về nghề nghiệp của chị."

Bà ngả đầu sang một bên. "Cũng cùng một lý do như tất cả những người khác thôi, tôi đoán thế. Để giúp đỡ mọi người."

"Còn tôi nghĩ rằng một vài bác sĩ chỉ làm vì tiền," tôi nói. "Sao lại là khoa bỏng? Có nhiều khoa khác nhẹ nhàng hơn mà."

"Tôi thích không khí ở đây."

"Tại sao?"

"Khi mọi người rời khỏi đây, có một..." Nan dừng lại, tìm từ thích hợp nhất. "Khi tôi còn là bác sĩ nội trú, họ đã ghim vào đầu tôi nếp nghĩ phải coi tất cả những người đến đây đều là những kẻ chết rồi. Đó là một ngón nghề, anh biết đấy, vì có rất nhiều bệnh nhân bỏng đã chết ngay trong mấy ngày đầu nhập viện. Nhưng nếu khi người bệnh đến đây ta coi họ như đã chết, và rồi bằng cách nào đó họ nỗ lực..."

"Đó là một cách để nghĩ bạn chỉ cứu người và không bao giờ để mất họ," tôi nói. "Nó có hiệu quả không?"

"Thỉnh thoảng tôi ghét cuộc sống nơi đây."

"Tôi cũng thế mà." Tôi muốn vươn người nắm lấy tay bà, nhưng tôi kìm được. Thay vì thế tôi nói, "Tôi nghĩ chị là một bác sĩ tuyệt vời."

"Tôi rất ích kỷ. Tôi chỉ thích cảm giác khi một bệnh nhân xuất viện." Bà ngước mắt lên và lại nhìn vào mắt tôi. "Đã ai nói với anh là tim anh ngừng đập hai lần trong suốt những ca cấp cứu của mình chưa?"

"Không. Tôi nghĩ có thể đoán được kiểu gì nó cũng đập lại thôi."

"Không phải lúc nào cũng thế đâu."

"Tôi sắp đến sống với Marianne."

"Tôi chỉ không muốn anh mắc sai lầm khi anh đã cố gắng được đến mức này."

"Nếu không đến với cô ấy, tôi sẽ không hiểu vì sao chị lại phải cứu mạng tôi."

Nan ngẫm nghĩ một chút, trầm ngâm giây lát trước khi nói tiếp. "Tôi không thể cứu mạng ai. Tôi chỉ có thể giúp một số người khỏi phải chết không đúng lúc thôi, mà tôi cũng chẳng thường xuyên làm được việc đó."

"Ồ," tôi nói. "Tôi vẫn ở đây này."

"Ừm, anh vẫn ở đây." Bà cúi xuống chạm vào người tôi, nhưng chỉ trong thoáng chốc. Rồi bà quay người rời khỏi phòng, nhưng khi ra đến cửa bà ngoái lại nói thêm, khá hấp tấp, "Tôi có hẹn uống rượu với chồng cũ. Vậy nên tôi mới mặc cái áo này."

"Tôi không biết chị đã kết hôn."

"Đã, còn hiện tại thì không." Bà mân mê tay nắm cửa, xoay xoay vài lần. "Chồng tôi là người tốt nhưng chúng tôi không hợp nhau. Thế là chuyện gì phải đến cũng đến."

Sang năm mới, Marianne Engel càng tích cực tham gia vào những bài tập vật lý trị liệu của tôi. Tôi được hướng dẫn cách đánh răng, cài cúc áo, sử dụng đồ dùng gia đình, tập luyện những sinh hoạt hằng ngày... để chuẩn bị cho thời điểm xuất viện. Mỗi lần tôi dùng cánh tay lành lặn để thực hiện các động tác này, Sayuri lại mắng tôi một trận. Dù làm thế có thể dễ dàng cho tôi trong một thời gian ngắn, cô lý luận, nhưng cánh tay bị thương của tôi sẽ teo tóp. Cả những hành động đơn giản cũng đều là "bài tập".

Tôi được lên lịch học tắm, lại thêm một điều nữa phải học lại từ đầu, và tôi cảm thấy vô cùng khó chịu trước ý nghĩ Marianne Engel sẽ tham gia vào bài tập này. Dù đã giúp tôi tập hầu hết những bài phục hồi chức năng khác, cô vẫn chưa có mặt khi tôi thay băng toàn thân. Cô đã biết là cái ấy của tôi không còn nữa; cô chỉ chưa nhìn thấy thôi. Khi tôi chuyển đến nhà cô, cô sẽ là người giúp tôi tắm, và hiển nhiên việc đó sẽ không thể thực hiện được nếu tôi cứ mặc quần áo trên người. Tuy nhiên, tôi vẫn chưa sẵn sàng để cô chứng kiến khiếm khuyết rất cơ bản về thể chất của tôi.

Một thỏa hiệp đã được ký kết. Dù Sayuri nghĩ rằng tốt nhất cứ để Marianne Engel tham gia luyện tập ngay từ những buổi đầu tiên, chúng tôi vẫn sẽ tập tắm mấy lần đầu mà không có cô, để tôi có thêm thời gian cố thích nghi với ý tưởng đó.

Gregor rất phấn khích với buổi tối xem phim của Akira Kurosawa bên Sayuri Mizumoto.

Ông ta nhồi vào đầu tôi chuyện họ đã mua gì ở quầy phục vụ (bỏng ngô + cam thảo); Sayuri không thích cam thảo đến thế nào (hiển nhiên đây là một vấn đề văn hóa, vì hầu hết người Nhật đều nghĩ nó có vị như thuốc bắc mốc); những ngón tay của họ tình cờ chạm vào nhau khi cùng với tay lấy bỏng ngô; họ nắm tay nhau sau khi hết bỏng ngô; rồi chuyện tất cả những gì ông ta có thể nghĩ trong đầu là những vệt bơ còn dính trên ngón tay; chuyện ông ta cầu nguyện cô đừng nghĩ bơ nhờn là mồ hôi tay ông; chuyện ông ta cố lau tay vào quần để không làm cô khó chịu vì bàn tay nhớp nhớp của ông; chuyện bốn vệt ngón tay đầy bơ dính trên quần ông ta suốt cả buổi tối; chuyện ông ta tin chắc cô sẽ coi những vệt ấy là dấu hiệu cho thấy ông ta kém vệ sinh đến mức nào; vân vân. Thật dễ thương. Gregor kể tôi nghe mọi chuyện trừ tên phim, một khía cạnh tôi cho là kém quan trọng nhất trong cả sự kiện vĩ đại này.

Vào cuối buổi hẹn hò của hai người, Sayuri đã đồng ý đi ăn tối với Gregor tại nhà hàng Rasputin vào cuối tuần sau.

Marianne Engel đẩy tôi vào căn phòng có một nhóm đông thực tập sinh đang đợi. Sayuri giới thiệu tôi với tất cả mọi người rồi hỏi một câu có vẻ rất ngây thơ: "Thế nhiệm vụ của tôi là gì nào?"
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 27


Những thực tập sinh đưa mắt nhìn nhau, cảm thấy đang có trò gì đấy đáng ngờ. Một thanh niên đứng phía sau lên tiếng, bảo rằng, rõ quá, Sayuri là chuyên gia vật lý trị liệu. Nụ cười tươi tắn của cô càng tươi tắn hơn khi cô lắc đầu. "Hôm nay tôi chỉ là cô thợ may thôi. Việc đo đạc này cực kỳ quan trọng, vì bộ đồ chúng ta chuẩn bị thiết kế đây sẽ được mặc hai mươi tư giờ một ngày, trong một năm trời đấy."

Cô lấy cái thước dây ra và hỏi liệu có ai muốn giúp một tay không. Hai thực tập sinh bước về phía trước và nhanh chóng trải những mảnh vải - loại dùng làm trang phục tạo áp suất - dọc theo cơ thể tôi. Công đoạn này tốn thời gian hơn tôi tưởng, chủ yếu vì họ không được tự tin cho lắm. Sayuri kiên nhẫn giải đáp mọi thắc mắc và cô rõ ràng không chỉ là một giáo viên giỏi mà còn thực sự rất thích làm việc đó nữa. Khi lấy xong số đo, cô nhiệt tình giải thích những việc tiếp theo - lấy dấu khuôn đầu tiên cho cái mặt nạ bằng thủy tinh plexi tôi sẽ phải đeo - một công đoạn còn nhiều thách thức hơn nữa.

"Anh ấy đã trải qua hầu hết các phẫu thuật vùng đầu và các vết phồng rộp trên mặt cũng bớt sưng đi nhiều, vì thế chức năng chủ yếu của chiếc mặt nạ là giảm thiểu nguy cơ tạo sẹo. Thế chúng ta phải làm gì đầu tiên nhỉ?"

"Chúng ta sẽ làm một cái khuôn âm bản của khuôn mặt anh ấy," một sinh viên trả lời.

"Không đâu," Sayuri nói, giơ máy ảnh lên. "Chúng ta sẽ chụp ảnh tư liệu trong khi chuẩn bị phần bên trong của chiếc mặt nạ. Làm sao bạn có thể đeo một chiếc mặt nạ không vừa với mình trong suốt một năm được chứ?"

Sayuri tự chụp ảnh, từ mọi góc độ để lưu từng nét đặc trưng trên khuôn mặt tôi. Tôi ghét chuyện cô làm một hồ sơ dài hạn về diện mạo tôi. Khi đặt máy ảnh xuống, cô nói, "Giờ đã đến công đoạn làm khuôn. Chúng ta sẽ làm gì trước nhỉ?"

Ít nhất cũng có một sinh viên đã đọc đúng chương cần đọc trong sách. "Chúng ta sẽ đổ GelTrate lên khắp mặt, rồi đắp thạch cao lên."

"Rất xuất sắc. Cậu lên giúp tôi một tay nhé." Sayuri kéo tấm khăn trắng phủ trên chiếc bàn gần đấy ra; phía dưới là toàn bộ vật liệu cần thiết để hoàn thành nhiệm vụ. Hai miếng vải nhỏ hình tròn đặt lên mắt tôi, và hai ống nhỏ được nhét vào lỗ mũi để giúp tôi thở. Các sinh viên bóp một ít GelTrate ra tay và bắt đầu quệt khắp mặt tôi. "Đây là chất được dùng để tạo khuôn răng đấy. Nên nhớ thế, vì chẳng ai thích nó cả. Làm nhẹ tay thôi nhé."

Những ngón tay của cậu thực tập sinh thật gượng gạo so với tay Sayuri, nhưng dù sao cô cũng khen ngợi cậu ấy, rồi cô đề nghị vài người nữa "bước lên thử một chút". Cảm giác có quá nhiều đôi tay sờ vào mặt mình làm tôi choáng ngợp. Sayuri không ngừng giải thích khi làm, "Việc lấy được khuôn tự nhiên của đầu, xương gò má, vùng quanh mắt... là rất quan trọng. Hãy nhớ phải thật nhẹ nhàng..."

Sau khi bôi GelTrate, các thực tập sinh nẹp cổ tôi để cố định trong khi đặt những dải thạch cao vào vị trí. Sayuri chỉ dẫn cho họ về các góc chuẩn, thỉnh thoảng sửa vài lỗi sai nhưng chủ yếu chỉ nhắc họ cẩn thận. "Đây không phải da bình thường đâu, mà là da bỏng đấy. Nhớ nhé."

Khi các dải thạch cao cuối cùng đã yên vị, chúng tôi phải ngồi chờ nó khô lại. Sayuri tận dụng khoảng thời gian này để trả lời các câu hỏi về quá trình hồi phục của tôi; với cái đầu bó bột, tôi chẳng thể thêm được câu nào vào cuộc hội thoại. Để tránh làm phiền các thực tập sinh, Marianne Engel thì thầm rằng cô sẽ đọc nốt khổ cuối của Địa ngục cho tôi nghe. Lời đề nghị làm tôi cực kỳ sung sướng; tôi luôn muốn nghe giọng cô trong bóng tối.

Cô bắt đầu:

"Tiến lên hỡi những ngọn cờ của Diêm vương,"

chủ nhân của tôi nói, "Về phía chúng tôi. Nhìn thẳng phía trước:

ngươi có nhận ra hắn nơi tâm điểm của ngục băng không?"

Satan, vua của Địa ngục, bị nhốt trong một xà lim băng nơi lòng Địa ngục: một hình ảnh mới hợp làm sao, tôi trầm ngâm khi cũng đang nằm trong cái xà lim thạch cao của chính mình. Thầy của Dante là nhà thơ Virgil, dẫn ông về phía trước, trong khi người đưa đường của tôi là Marianne Engel. Cô đọc chệch sang tiếng Ý hai lần, rồi nhớ ra và cười lớn trước khi đọc lại cho tôi nghe bằng tiếng Anh. Giọng nói lí nhí của các thực tập sinh - lúc đó vẫn đang học về các khó khăn trong việc điều trị bỏng - văng vẳng bên tai. Khi Sayuri quyết định đã đến giờ tháo mặt nạ, tôi có thể cảm nhận những ngón tay cô đang bóc lớp thạch cao đi. Ngay khi tôi lại được nhìn thấy ánh sáng căn phòng, Marianne Engel khẽ đọc nốt câu cuối cùng của Dante vào bên tai lành lặn của tôi:

... Và chúng ta lại đi dưới những vì sao.

"Chỉ được mặc áo cotton trắng ngắn tay thôi đấy," bác sĩ Edwards nói, "và giặt kỹ bằng nước lã nhé. Xà phòng sót lại rất có hại cho da đang lành đấy."

Tôi đã được lên kế hoạch xuất viện; tôi đã tiến bộ đến mức sẽ được ra viện vào giữa tháng Hai, sớm hơn dự định gần hai tháng. Nan chỉ vào cuốn sách hướng dẫn phục hồi chức năng trong tay Marianne Engel. "Bồn tắm phải được khử trùng trước mỗi lần tắm, và phải nhớ thêm các hóa chất cần thiết vào nước tắm đấy. Danh sách hóa chất đều được liệt kê trong sách rồi. Chúng tôi sẽ cung cấp cho cô một lượng đủ cho tuần đầu tiên, nhưng sau đó cô phải tự mua đấy nhé. Cũng có cả một danh sách các loại xà phòng thích hợp nữa. Đừng quên bôi thuốc mỡ sau khi tắm, và nhớ thay băng mới. Quần áo tạo áp suất cho anh sẽ xong trong khoảng một tháng tới, nhưng từ giờ đến lúc ấy thì anh vẫn phải quấn băng thôi. À, nếu anh đã từng dùng nước hoa và nước khử mùi trước tai nạn thì nhớ rằng giờ chúng bị cấm tiệt rồi nhé."

"Còn gì nữa không?" Marianne Engel hỏi.

Nan nghĩ một chút. "Cẩn thận với côn trùng đấy. Một vết đốt thôi là có thể gây nhiễm trùng nặng. Không có con côn trùng nào trong nhà cô chứ?"

"Dĩ nhiên là không," Marianne Engel nói, trước khi thêm, "nhưng mà một người bạn của tôi từng bị ong bắp cày đốt tưởng chết ấy chứ. Thật khủng khiếp."

Cuộc hội thoại đột ngột dừng lại khi cả tôi và bác sĩ Edwards cố gắng hình dung ra Marianne Engel đang nói về cái gì. Chúng tôi nhìn nhau và đi đến một thỏa hiệp ngầm là có hỏi cũng chẳng tích sự gì, thế là Nan chỉ nói rằng sốc do quá mẫn cảm khá phổ biến trong các trường hợp đó rồi tiếp tục hướng dẫn cách chăm sóc tôi. Bà nhắc tôi chú ý đến cả những tổn thương tiềm ẩn cũng như những vết thương bên ngoài. Da là cơ quan điều hòa thân nhiệt, giảm nhiệt qua mồ hôi trong những ngày nóng nực hoặc trong khi chơi thể thao, và cơ thể của tôi đã mất phần lớn khả năng đó. Vì tuyến mồ hôi và lỗ chân lông của tôi bị tổn thương, bộ não sẽ phải đối mặt với những thử thách cam go trong việc kiểm soát các trung khu thần kinh và cơ quan nội tiết. Về mặt lý thuyết, cơ thể tôi có thể nổi loạn và nướng chính mình từ trong ra ngoài; nếu không cẩn thận, tôi có nguy cơ trở thành cây đuốc sống tự cháy bất cứ lúc nào.

"Chúng tôi đã giữ mọi thứ ở nhiệt độ thích hợp cho anh trong căn phòng này," bác sĩ Edwards nói, "nhưng anh có lẽ sẽ phải thử với điều hòa nhiệt độ để xem thế nào là hợp lý nhất. Cô cũng có điều hòa nhiệt độ chứ, Marianne?"

"Tôi sẽ cho lắp càng sớm càng tốt."

"Tốt. Còn câu hỏi chốt nào không?"

Tôi hỏi họ sẽ cung cấp bao nhiêu morphine nữa. (Tôi chắc chắn con rắn cái ấy sẽ không trườn khỏi xương sống của tôi khi tôi xuất viện đâu.)

"Đủ cho một tháng," Nan trả lời, "nhưng cẩn thận đấy. Một chút đau đớn bây giờ còn hơn là nghiện cả đời. Anh đã thông chưa nhỉ?"

"Dĩ nhiên rồi," tôi nói. Nhưng tôi đang THÈM KHÁT liều thuốc thơm ngon sắp tới.

Sau khi nghe hướng dẫn điều trị xong, tôi được đặt vào xe lăn, theo nội quy bệnh viện, rồi Nan đẩy tôi ra cửa chính. Marianne Engel chả buồn cự nự rằng cô mới là người được đẩy; có lẽ cô nghĩ bác sĩ Edwards cần làm việc đó cho bệnh nhân của mình, như một nghi lễ trước khi để họ đi.

Tại cửa chính, tôi đứng dậy khi Nan nói lời cảnh báo cuối cùng. "Mọi người nghĩ rằng khi một bệnh nhân bỏng được về nhà, giai đoạn tồi tệ nhất đã qua. Trên thực tế, các bạn sẽ phải đối mặt với việc thiếu đi hệ thống hỗ trợ hằng ngày của bệnh viện. Nhưng chúng tôi vẫn luôn ở đây, vì thế đừng ngại gọi cho chúng tôi nếu mọi người cần gì."

Không giống Howard, tôi không có cả một phái đoàn bạn bè, gia đình và vợ chưa cưới cũ đến đưa tiễn. Nhưng tôi hầu như chẳng có gì phải phàn nàn; không như Thérèse, tôi rời viện mà vẫn còn sống. Nhân viên bệnh viện và Marianne Engel xúm xít xung quanh để trao nhau những lời chúc chân thành "Cám ơn" và "Chúc may mắn". Connie ôm chầm lấy tôi. Beth bắt tay tôi thật chặt, và dù Maddy không có mặt, tôi chắc chắn nếu cô mà ở đấy thì hẳn sẽ lắc mông dữ lắm. Sayuri hứa sẽ sớm ghé qua để tiếp tục giúp tôi tập đi và xin lỗi thay Gregor đã vắng mặt tại buổi chia tay. Ông ta phải cấp cứu bệnh nhân, cô giải thích.

Tôi mong Nan sẽ chìa tay ra, nhưng bà không làm thế. Bà ôm Marianne Engel, nói với cô hãy chăm sóc tôi cẩn thận. Rồi bà hôn lên má tôi và dặn tôi cũng phải chăm sóc cho Marianne Engel.

Họ để bệnh nhân tâm thần phân liệt lái xe sao? Có vẻ thế. Marianne Engel sở hữu một chiếc xe đua đời 70, thứ mà tôi chẳng bao giờ hình dung nổi sẽ dành cho cô; thế nên, tôi thấy thật tuyệt. Cô khoe rằng nó từng thuộc về người chiến thắng trong cuộc thi Hoa hậu Quý bà Ngành Y 1967.

NGƯƠI THẬM CHÍ CÒN CHẲNG THỂ NGỒI CÙNG XE VỚI CÔ TA...

Trong suốt những giây cuối cùng trước khi bị tống vào bệnh viện, tôi đã được lôi ra từ một cái xác ô tô nghi ngút khói. Giờ đang đứng đây, điều đầu tiên tôi làm khi xuất viện là leo lên một phương tiện giao thông bốn bánh. Tôi biết mình không thể đi bộ được nhưng tôi vẫn ước giá mà có cách nào khác.

... MÀ KHÔNG BĂN KHOĂN CÔ TA CÓ NÊN LÁI XE HAY KHÔNG.

Động cơ chuyển mình như một con gấu cáu kỉnh ngáp dài thoát khỏi giấc ngủ đông. Máy nghe nhạc kiểu cổ bật lên, và thế là để lái xe thật thoải mái, Marianne Engel hát. Lúc đầu, Edith Piaf bay khỏi miệng cô như một con sẻ nhỏ bị thương mà vẫn duyên dáng, sau đó, cô lẩm nhẩm hai từ "quá dài" trong bài hát của Leonard Cohen.

Ở cột đèn giao thông, chúng tôi đỗ cạnh một đôi đi xe Ford cũ. Người phụ nữ ngồi trên ghế hành khách nhìn thấy tôi - tôi vẫn đang quấn băng, và sẽ quấn thế cho tới khi trang phục tạo áp suất được làm xong - và cô ta khẽ thét lên trước khi quay ngoắt lại nhìn đường, cố vờ như chưa hề phản ứng.

Người phụ nữ đó đã nhìn chúng tôi và nghĩ rằng Marianne Engel là người bình thường.

CHẲNG AI TRONG BỌN NGƯƠI BÌNH THƯỜNG CẢ.

Chuyện như thế này sẽ xảy ra thôi, và tôi nghĩ lẽ ra mình nên được chuẩn bị trước. Nhưng tôi đã không có cái may mắn đó.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 28


Lẽ ra tôi không nên quá ngạc nhiên khi tòa nhà đầu tiên đập vào mắt lúc chúng tôi rẽ vào đường Lemuria Drive là một nhà thờ. Nhà thờ thánh Romanus xứ Conrat là một khối kiến trúc đồ sộ cố ra vẻ đáng kính hơn thực tế. Trông nó không có vẻ bị bỏ bê, mà đúng hơn là dường như tiền đã cạn kiệt. Lớp sơn bong tróc, gạch đá sứt mẻ, và những vết nứt trên cửa sổ thì được dán lại bằng băng dính trong. Có một biển báo bên cạnh con đường bê tông hướng ra cửa chính, viết chữ đen trên nền bảng trắng rằng cha Shanahan mời tất cả mọi người đến dự lễ Mass vào ngày Chủ nhật. Phía sau nhà thờ Romanus là một khu nghĩa trang đổ nát với những phiến đá xám bạc màu nối đuôi nhau trồi lên khỏi mặt đất như những viên sủi giảm đau Alka-Seltzer rơi xuống rìa đất vậy. Cỏ héo vàng trông như mái tóc lởm chởm còn hoa tưởng niệm người quá cố thì thối rữa trên đất. Một vài tấm bia lớn hơn có tạc tượng các thiên thần đưa người đã khuất lên Thiên đường. Tôi hỏi Marianne Engel có tạc bức tượng nào ở đây không. Không, cô nói, cô không chế tác những công trình kiểu ấy.

Ngôi nhà của cô, ở lô đất tiếp theo nhìn từ phía nhà thờ thánh Romanus, thực sự trông giống một pháo đài hơn: một thành trì bằng đá vĩ đại khiến người ta không khỏi nghĩ nó có thể chống chọi cả một cuộc vây ráp của quân Hung Nô. Cô có thể thấy rõ mặt tôi thộn ra thế nào trước sự kiên cố đó, nên đã giải thích ngay rằng cô không thể tưởng tượng được việc phải sống trong một tòa nhà không thể đương đầu với dòng chảy thời gian.

Khi cô giúp tôi ra khỏi xe, tôi hỏi liệu cô có thấy sợ khi sống cạnh một nghĩa trang không. Cô chỉ nhún vai và nhắc tôi để ý những phiến đá lát đường vì vài viên đã long ra. Cô lầm bầm giải thích về cái cây vươn lên trên chiếc xe cút kít như một chậu cây cảnh, bánh trước gỉ sét của nó ngập trong đất mùn. Một hòm thư được cấu tạo sao cho thư được nhét vào cái miệng há hốc của một con rồng.

Ở hông nhà là hai cánh cửa gỗ sồi to tướng với bản lề bằng thép nặng trịch mở lối xuống xưởng chế tác dưới tầng hầm, được lắp đặt đặc biệt để những tảng đá tạc tượng có thể lọt qua. "Cải tiến được nhiều như thế này là nhờ vào việc giảm thuế. Nhân tiện, đó là những gì Jack nói với tôi." NGƯƠI VẪN CHƯA QUÊN CHUYỆN CỦA JACK, ĐÚNG KHÔNG?

Một con chó màu nâu sữa chạy ra từ sân sau, con Bougatsa nổi tiếng đây mà. Marianne Engel cúi xuống xoa xoa cái đầu to bự ngu ngốc của nó, kéo tai nó ra sau. "Boogie!" Chỉ cần mất một giây là có thể xác định ngay con cẩu này đã củng cố tất cả những gì tôi ghét về loài chó. Nó trông đần độn theo đúng kiểu của chó, cái lưỡi lờ đờ liếm hết bên này đến bên khác, cái đầu lúc lắc xung quanh như một vũ nữ Hawaii bằng nhựa õng ẹo ngồi trên bảng điều khiển xe ô tô của một tay ma cô.

TA CƯỢC RẰNG JACK LÀ MỘT NGƯỜI ĐÀN ÔNG BÌNH THƯỜNG. CÓ NHIỀU THỨ ĐẦY HỨA HẸN.

"Chúng ta hát cho chàng trai dễ thương này một bài nhé?" Marianne Engel rên lên như một dã nhân chân to rít thuốc hết điếu này đến điếu khác, và Bougatsa hùa vào, cố bắt chước. Tôi đã biết rõ là cô hát rất hay, thế nên rõ ràng cô chỉ hát kiểu này để chơi với con cún của mình thôi. Giờ đây tai tôi chỉ còn là mấy mẩu thịt be bé, từa tựa như quả mơ khô nhú ra từ cái đầu đặc kín bé tí thôi. Tai phải hầu như đã điếc hẳn nhưng tai trái vẫn còn đủ thính để nhận ra những âm thanh ấy khủng khiếp đến mức nào. Hai cái đầu nghiêng ngả khiến người ta nghĩ rằng hai kẻ chủ tớ đang tưởng tượng ra những nốt thăng lượn lờ trên đầu mình, chờ họ nhảy lên vồ lấy. Họ trượt. Chẳng có gì ngạc nhiên khi Marianne Engel lại sống cạnh một nghĩa trang: ngoài người chết ra còn ai có thể chịu nổi cô cơ chứ?

MỘT CÔNG VIỆC CHẲNG HẠN. Con rắn cái. HAY LÀ MỘT TƯƠNG LAI.

Trong khi chủ tớ bọn họ chơi trò chó sủa mèo kêu, tôi mải mê ngắm nhìn ngôi nhà kỳ dị của cô. Những bậu cửa sổ được làm bằng gỗ dày, còn cửa sổ gắn kính pha chì dày tới mức một quả bóng rổ đi lạc chỉ có nước bật ngược trở lại. Những phiến đá tảng trông như thể đã được đám đàn ông lông lá bụng bự lần lượt đặt vào vị trí rồi đập cho ngay hàng thẳng lối bằng những cái vồ nặng trình trịch. Dây trường xuân xanh mướt lan trên những bức tường hướng về phía điểm nổi bật nhất của toàn bộ chỗ này: những con quái vật chạm khắc dọc theo máng xối. Để kéo Marianne Engel khỏi trò chơi hò la, tôi nhận xét rằng bình thường chẳng thấy nhiều tượng gargoyle ở nhà riêng như thế này.

"Anh mà thấy thế thì tôi đã giàu lâu rồi. Chúng rất được ưa chuộng đấy, tôi còn được lên báo nữa cơ. Hơn nữa, tôi còn có nhiều cậu bé đến nỗi chưa biết làm gì với chúng đây."

Lũ quỷ liếc nhìn xuống, đôi mắt lồi to đùng của chúng trân trối nhìn tôi dù tôi bước sang phải hay trái. Những cơ thể xoắn vặn của chúng mê hoặc tôi: phần thân trên của một người đàn ông nối với cái đuôi cá nhưng vẫn không biến ông ta thành một nam nhân ngư thực thụ được; cái thân khỉ lủng lẳng trên hông ngựa; cái đầu bò thò ra từ thân một con sư tử có cánh. Một con rắn mọc ra từ một con dơi. Một khuôn mặt phụ nữ giận dữ khạc ra đầy những cóc. Trên tất cả những thân thể được khắc chạm ở đây, những con quái vật tạp nham cùng tồn tại với nhau; thật khó có thể xác định chỗ kết thúc và điểm bắt đầu tiếp theo, và cũng không thể biết được rằng con dã thú nào - hay phần nào của con dã thú - là tốt hay xấu.

"Ta cần đặt chúng trên đó," Marianne Engel nói.

"Để làm gì?"

"Để đuổi những linh hồn xấu xa đi." Cô nắm tay tôi dẫn tôi qua cửa chính. Tôi hỏi sao cô không xây cầu kéo và đào hào nữa cho đủ bộ. Luật trong vùng, cô giải thích.

Tôi cứ nghĩ nội thất trong nhà sẽ toàn thảm và ngai vàng phủ nhung, nhưng tất cả chỉ là một khoảng không trống rỗng. Những cây cột gỗ vuông vắn chống đỡ mái nhà, còn sàn nhà thì lát ván cỡ đại. Cô treo áo khoác lên cái giá bằng sắt ngay phía sau cửa, thế rồi nhận thấy sự hứng thú của tôi với các đồ gỗ trong nhà, cô bèn nói "Xà nhà là gỗ tuyết tùng còn rui là gỗ linh sam."

Cô bắt đầu dẫn tôi tham quan nhà cửa, bắt đầu từ phòng khách sơn đỏ. Có một chiếc lò sưởi khổng lồ với họa tiết hình thiên thần và ác quỷ đan xoắn vào nhau quanh cửa lò bằng đáù. Có hai cái ghế bành, với một tấm thảm lớn đặt ở giữa, như thể đang chờ các vị nhiếp chính quan ngồi vào bàn chuyện đại sự.

Phòng ăn treo rất nhiều tranh trên tường, hầu hết đều có những vệt sẫm màu quệt qua các hình ảnh bay lượn. Chúng trừu tượng hơn tôi nghĩ; và nếu phải đoán thì tôi sẽ cho rằng cô có những bức tranh vẽ đề tài tôn giáo. Nhưng không phải thế. Có một chiếc bàn gỗ sồi lớn với những họa tiết hoa màu tím tươi sáng ở chính giữa, và những cây nến đặt chỉn chu trong chân nến bằng thép ở hai bên bàn. "Francesco đã làm những thứ này đấy. Khi anh thấy những đồ kim loại trong ngôi nhà này, anh có thể biết đó là do anh ấy làm." Tôi gật đầu: Chắc chắn rồi, sao lại không chứ? Nhà nào chẳng được vài con ma Ý trang bị đồ đạc?

Nhà bếp có một bếp lò tròn ủng màu bạc, một cái tủ lạnh kiểu cổ và hàng ấm đồng treo trên trần. Lọ thủy tinh đựng mì sợi và gia vị xếp dọc trên giá, lớp sơn màu hoa hướng dương làm căn phòng rạng rỡ khôn tả. Tất cả mọi thứ đều ở đúng vị trí, và dấu hiệu lộn xộn duy nhất là một cái gạt tàn đầy tràn. Ngôi nhà của cô một lần nữa lại làm tôi bất ngờ: không phải vì cái gạt tàn, mà là vì sự ngăn nắp của nó.

Phòng viết của cô bị chiếm hữu bởi một cái bàn gỗ to tướng mà theo lời cô thì từng là vật sở hữu của một ông vua Tây Ban Nha. Tôi cũng chỉ gật đầu thêm cái nữa: Chắc chắn rồi, sao lại không chứ? Mấy con ma Ý có phải cái gì cũng làm được đâu. Đằng sau bàn là một cái ghế cực kỳ chắc chắn, bên phải ghế là một chiếc đi văng bọc da trông như đang đợi một bệnh nhân của nhà tâm lý học Freud.

Giá sách, nặng trịch sách về các chủ đề nghiêm túc, chiếm trọn ba bức tường. Spenser, Milton, Donne, Blake và Đức ngài Bede đại diện dân Anh. Tác giả người Đức gồm có Hartman von Aue, Wolfram von Eschenbach, Ulrich von Turheim. Walther von der Vogelweide và Patrick Suskind. Tác phẩm văn học Nga gồm có Cuộc đời của đại tư tế Avvakum, Ác quỷ của Mikhail Lermontov và Những linh hồn chết của Nicolai Gogol. Tây Ban Nha cung cấp các kiệt tác của thánh Teresa xứ Avila: Lâu đài nội tâm và Đường đến hoàn thiện. Người Hy Lạp cũng không để bị lãng quên: Homer, Plato, Aristotle, Euripides và Sophocles chiếm hầu hết ngăn cuối cùng, như thể từ lâu chúng đã quyết định rằng giá sách sẽ không thể hoàn thiện nếu mọi cuốn khác không chịu đứng lên vai chúng vậy. Chiếm nửa bức tường là sách Latin, nhưng chỉ có độc hai cuốn thu hút tôi là Giấc mơ của Scipiocủa Cicero và Những biến thái của Ovid. Trông hơi lạc lõng, nhưng không hề muốn bị bỏ rơi khỏi trường quốc tế, là một lượng lớn sách đến từ châu Á. Tôi không thể phân biệt nổi chữ Trung Quốc với chữ Nhật Bản, và thậm chí cả những nhan đề được dịch sang tiếng Anh nhiều khi cũng chẳng giúp tôi đoán được nguồn gốc của cuốn sách. Cuối cùng là bản in của tất cả các tài liệu tôn giáo trọng yếu trên thế giới: Kinh Thánh Thiên Chúa, kinh Do Thái, kinh Koran, bốn bộ kinh Vệ Đà, vân vân.

Điểm nổi bật nhất của bộ sưu tập này là mỗi cuốn sách ngoại văn đều có hai bản, đứng cạnh nhau: bản gốc và bản dịch tiếng Anh. Rất tự nhiên, tôi hỏi Marianne Engel về điều này.

"Bản tiếng Anh là cho anh," cô nói. "Như thế ta có thể cùng bàn luận về chúng."

"Thế còn bản gốc?"

"Tôi đọc bản dịch làm gì?"

Marianne Engel lướt qua chồng sách và chọn ra hai cuốn trông có vẻ không phải được in bởi một nhà xuất bản chuyên nghiệp, mà được viết tay trên những tờ giấy dày đóng xộc xệch bằng chỉ thêu. Nét chữ là của cô và bản viết, may mắn làm sao, là tiếng Anh thay vì tiếng Đức. Khải huyền của Christina Ebner và Ân điển-cuộc đời của Friedrich Sunder.

"Tôi nghĩ anh có thể muốn đọc mấy cuốn này," cô nói, "nên tôi dịch chúng."

Có một vật thể khá thú vị nữa trên giá sách: một bức tượng thiên thần bằng đá nhỏ với đôi cánh dang rộng về phía Thiên đường. Tôi hỏi có phải cô tạc bức tượng này không nhưng câu hỏi ngây thơ của tôi có vẻ đã làm tổn thương cô. Cô chớp mắt vài lần, như thể cố kìm nước mắt, và mím chặt môi để làn môi dưới run bần bật của mình bình tĩnh lại. "Anh đã tạc cái đó cho tôi," cô thổn thức nói. Đó là Morgengabe(25) của tôi.

Thế là kết thúc chuyến thăm tầng trệt của tòa nhà. Xưởng tạc tượng của cô nằm ở tầng hầm, nhưng chân tôi chẳng còn sức mà đi nữa. Ngày đầu rời bệnh viện đối với tôi thế là đã quá đủ rồi, và sự thật là, tôi thấy choáng ngợp trước cảm giác tự do. Tôi đã dần quen với việc thuộc từng phân ngoại cảnh và từng phút lịch trình, vậy mà giờ tôi đang phải đối mặt với những cảm giác mới lạ bất tận. Chúng tôi ngồi tại phòng khách chuyện trò trong thời gian còn lại của buổi chiều, nhưng cô vẫn không lấy lại được nụ cười đã tắt vì câu hỏi của tôi về bức tượng thiên thần.

CHUYỆN NÀY CHẲNG KÉO DÀI LÂU ĐÂU, NGƯƠI CŨNG BIẾT ĐẤY. Con rắn quấn đuôi quanh ruột tôi. NGƯƠI SẼ LÀM TỔN THƯƠNG CÔ TA BẰNG SỰ THIẾU NHẠY CẢM CỦA MÌNH CHO MÀ XEM.

Vào đầu buổi tối, tôi leo cầu thang lên tầng trên với sự hộ tống của Marianne Engel, phòng tôi bị trượt chân. Tôi khao khát một mũi morphine để bịt mồm con rắn cái khốn kiếp. Tôi được chọn hai phòng: một là phòng dành cho khách, đã dọn sẵn, một là cái góc nhỏ trông chẳng khác gì gác xép trông ra khu nghĩa trang đằng sau nhà thờ thánh Romanus. Marianne Engel khá lo lắng về cấu trúc kỳ dị của căn phòng, lép kẹp vào góc mái, có thể quá khó chịu cho tôi sau hàng tháng trời nằm viện, nhưng tôi ngay lập tức thấy thích nó. "Nó giống như một cái tháp chuông nhà thờ ấy. Rất tuyệt."

Morphine cô tiêm cho tôi giờ ngọt ngào hơn cả cơn mưa đầu mùa trên sa mạc, và con rắn lặng lẽ trườn lại vào cái ổ của mụ. Tôi cứ nghĩ mình có thể ngủ một mạch đến tận sáng hôm sau, nhưng đời không đẹp như tôi tưởng. Đang là tháng Hai và ngoài trời vẫn chưa ấm lắm, nhưng vì một vài lý do nào đó trong nhà lại nóng một cách quái gở. Có lẽ một phần là do ảnh hưởng tâm lý, tôi có hơi căng thẳng vì lần đầu tiên ngủ ở một nơi xa lạ sau mười tháng trời.

Làn da chết của tôi nóng bừng lên trong cái đêm ngây ngấy sốt ấy và tôi đã mơ về những trại tập trung, về những lò thiêu người và những cơ thể gầy rộc. Cơn đói biến họ thành những sinh vật gầy guộc đến nỗi không còn ra hồn người. Mắt họ lồi ra buộc tội; họ săn đuổi tôi với ánh nhìn như ăn tươi nuốt sống. Ai đó nói bằng tiếng Đức, "Alles brennt, wenn die flamme nur heik genug ist. Die Welt ist nichts als ein Schmelztiegel." Tất cả sẽ cháy nếu lửa đủ nóng. Thế giới chỉ là một lò lửa đang hừng hực cháy. Đó là câu tôi đã nghe thấy trong cơn ác mộng về chiếc giường xương bùng cháy giữa những tấm vải liệm khi còn nằm viện.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 29


Tôi giật mình bật dậy dưới những tấm chăn mỏng, ước sao có thể đổ mồ hôi. Tôi nghe con rắn ngân nga từ DIỆT CHỦNG. DIỆT CHỦNG. DIỆT CHỦNG... "Holocaust" - từ này, tôi được dạy, nghĩa đen là "thiêu cháy tất cả mọi thứ". Cái tháp chuông nhà thờ đang nướng tôi lên; bác sĩ Edwards nói đúng, chúng tôi cần phải lắp điều hòa nhiệt độ. TA ĐANG TỚI ĐÂY VÀ NGƯƠI CHẲNG THỂ CẢN ĐƯỢC ĐÂU... Không thể phủ nhận con rắn này đeo bám người dai như đỉa đói; cứ như là có một thành viên của tổ chức Nhân chứng của Chúa đang ký sinh trong xương sống tôi vậy. TA ĐANG TỚI ĐÂY VÀ NGƯƠI CHẲNG THỂ CẢN ĐƯỢC ĐÂU.

Tôi nhìn cuốn Gnaden-vita của Friedrich Sunder (nghĩa là Ân điển-cuộc đời) trên chiếc bàn đầu giường. Tôi quyết định mình chẳng có tâm trạng đâu mà đọc sách, nhất là những thứ khó đọc như vậy. Tôi cố ngồi dậy trên đôi chân bất hợp tác, và với một chút dỗ dành, cuối cùng nó cũng chịu xoay về hướng phòng ngủ của chủ nhà, nơi mà - khá bất ngờ - không hề có sự hiện diện của Marianne Engel. Tôi lắng nghe âm thanh của ngôi nhà. Từ phía dưới, tôi nghe văng vẳng tiếng nhạc cổ điển, tôi không nhận ra giai điệu nhưng không hiểu sao nó lại làm tôi nghĩ đến những người nông dân. Tôi vất vả đi xuống hai tầng cầu thang, từ tháp chuông nhà thờ xuống tầng trệt, rồi từ tầng trệt xuống xưởng tạc tượng dưới hầm.

Có hàng trăm ngọn nến, hàng trăm đốm lửa sáng bừng trong hầm. Tôi không thích chúng. Những dòng sáp đỏ chảy tràn xuống chân nến sắt; những tia lửa tí tách phản chiếu xuống nền nhà trông như vòm trời sao màu hồng ngọc bị lật úp. Tôi có thể nhìn thấy cái bóng khổng lồ của cánh cửa gỗ sồi ở một góc phòng và một băng ghế gỗ nặng trịch ở góc bên kia. Một hàng dụng cụ trên móc treo tường, có cả một cái máy pha cà phê ở trên giá cạnh chiếc đài đang phát nhạc. Một cái chổi rơm tựa vào bức tường gần đống đá vụn vun cẩu thả. Nhưng đây chỉ là những chi tiết vớ vẩn thôi.

Khắp nơi la liệt những con quái vật chưa thành hình. Hầu như những bộ phận chưa hoàn thành là phần dưới của những bức tượng grotesque, cứ như có một đám mafia yêu tinh đã cho chúng những đôi giày xi măng tượng trưng vậy. Một con quỷ biển bán thân đang dùng những ngón tay có màng cố thoát ra khỏi đại dương đá granite. Phần thân trên của khỉ đang hoảng sợ tột độ đâm ra từ mình một con sư tử chưa tạc xong đôi chân. Đầu chim đặt trên vai một con người, nhưng tất cả những gì bên dưới ngực chỉ là một khối cẩm thạch chưa hề được đụng đến. Ánh nến lung linh chỉ làm tăng thêm độ rùng rợn cho những đường nét vốn đã kinh dị của lũ quái vật.

Cả xưởng làm việc là một bản giao hưởng bất toàn, với những bức tượng grotesque nằm giữa lằn ranh tồn tại và không tồn tại. Khó mà nói chúng đang vui hay buồn, sợ hãi hay chẳng chút sợ sệt, đầy sức sống hay vô hồn; có lẽ ngay chính bản thân chúng cũng chưa biết được. Vẫn chưa đủ ánh sáng để đánh giá chúng đẹp đẽ hay kinh tởm. Và giữa cái đống tượng ngổn ngang này, Marianne Engel đang nằm ngủ trên một tảng đá lớn, chẳng mặc gì trừ cái vòng cổ với mặt mũi tên trên khe ngực, phập phồng theo nhịp thở của cô. Nhà cô là ở đây, bóng tối và ánh sáng nhảy nhót trên cơ thể trần truồng, mái tóc cô quấn quanh người như những đôi cánh dệt từ thừng bện màu đen. Cô bám lấy tảng đá như đám rêu chờ được tắm trong mưa, và tôi không thể rời mắt khỏi thân hình rực rỡ ấy. Tôi không muốn cứ chằm chằm nhìn thế; chỉ có điều tôi không đừng được.

Tôi biết mình đang xâm phạm một thứ gì đó rất đỗi riêng tư; có gì đó giữa quang cảnh ấy còn mong manh hơn trạng thái trần trụi của cô. Tôi có cảm giác mình đang xen vào một cuộc trò chuyện riêng tư, và tôi biết mình cần phải rời đi ngay lập tức.

Tôi trèo lên tầng trệt và quyết định sẽ ngủ lại trong phòng viết vì nó có vẻ mát hơn tháp chuông. Tôi đặt mấy tấm khăn lên ghế da vì tôi vẫn còn đang trong thời kỳ thay da, rồi nằm xuống. Tôi cho mình một liều morphine nữa, vì thuốc độc đối với người này lại là sữa ấm với người kia mà. Thế là đêm đó tôi chả mơ mộng gì về diệt chủng nữa.

Tôi tỉnh dậy thì thấy Marianne Engel, trong tấm áo chùng trắng, đang đứng trước mặt. Chúng tôi nói chuyện với nhau vài phút thì cô lôi tôi vào phòng tắm, bồn tắm đã được chuẩn bị sẵn sàng với các hóa chất cần thiết và có cả một chiếc cặp nhiệt độ treo phía trên thành bồn nữa. "Anh cởi quần áo ra đi."

Tôi đã tránh được mấy bài tập tắm rửa với Marianne Engel hồi còn ở bệnh viện nhờ may mắn và lừa gạt, nhưng giờ thì vận may của tôi hết rồi. Nhà hảo tâm cưu mang tôi giờ đang đề nghị nhìn cái thân thể trần trụi của tôi, thế là tôi tung đại con bài cuối cùng ra: tôi bảo cô rằng tôi ngại phô thân thể mình ra trước mặt cô lắm, và hỏi liệu cô có hiểu cho không. Cô nói là có thể, nhưng điều đó cũng chẳng thay đổi được thực tế là tôi phải đi tắm đâu, tôi nói cô cần phải tôn trọng sự riêng tư của tôi. Cô cười phá lên và kể cho tôi nghe một giấc mơ cực kỳ sinh động về việc tôi đứng giữa xưởng tạc tượng, nhìn chằm chằm vào cơ thể trần trụi của cô.

Tôi chẳng đối đáp được câu nào. Điều khá khẩm nhất tôi có thể làm lúc này là mặc cả mặc lẽ: tôi đồng ý để cô tắm cho nếu cô chịu tăng liều lượng morphine lên cho tôi trước. Thỏa hiệp được ký kết. Rất nhanh chóng tôi đã đứng trần như nhộng giữa phòng, trông như được làm từ cao su chưa đổ vào khuôn, trong khi cô tìm khắp cái thân thể xấu xí của tôi một cái ven háu đói thích hợp để tiêm morphine vào.

Tay cô đặt trên hông tôi và cánh tay trái của tôi chìa ra nhận thuốc, nhưng cánh tay phải thì cứ đong đưa có mục đích trước vùng háng.

Cô chuẩn bị kim tiêm, hướng đầu nhọn về vị trí sắp đâm, và hỏi: "Chỗ này được chưa?" CÔ TA CÓ THỂ VÀO TRONG NGƯƠI... Tôi gật đầu. Mũi kim xuyên qua da nhưng tôi thậm chí còn chẳng buồn nghĩ về lượng morphine đang chảy vào cơ thể; tôi chỉ đang nghĩ... NHƯNG NGƯƠI KHÔNG THỂ VÀO TRONG CÔ TA rằng tôi phải chắc chắn không chuyển động cánh tay phải bằng mọi giá.

"Vào bồn nào," cô nói. Nhưng tôi không thể trèo vào bồn mà không cử động cánh tay phải được. Thế là tôi cứ đứng đó, giấu giếm chỗ trống không giữa hai chân.

"Tôi sẽ giúp anh tắm rửa hằng ngày," cô dịu dàng nói. "Khó mà che giấu mãi được."

Tôi có che giấu gì đâu, tôi nghĩ.

"Tôi đã biết nó bị mất rồi."

Tôi không nói gì hết.

"Anh nghĩ tôi sẽ mất hứng," Marianne Engel tiếp tục nói, "hoặc là tình cảm của tôi dành cho anh sẽ thay đổi."

Cuối cùng tôi cũng thốt ra. "Phải."

"Anh sai rồi."

Tôi thả tay xuống như thách thức cô, như mong đợi phản ứng trái ngược với những gì cô nói. Tôi muốn cô giật lùi kinh hãi trước vết sẹo, nhìn vào đó người ta có thể hình dung cơ thể tôi bị tách ra, dương v*t thụt vào, rồi khe hở lại được khâu kín miệng. Tôi muốn cô giật lùi kinh hãi trước cái bìu đơn côi của tôi, trông giống hệt đám cỏ dại trên con phố bỏ hoang ở một thành phố ma.

Nhưng cô không nao núng chút nào; trái lại, cô còn quỳ xuống trước thân thể trần trụi của tôi, ngả người vào đó. Đầu cô đặt ngang tầm với háng của tôi, mắt cô nheo lại xem xét những đường khâu mờ nhạt đã kín miệng từ lâu, che khít nơi từng là dương v*t của tôi. Cô giơ tay lên rồi lại rụt về, nhưng không phải vì ghê sợï: cô dường như hành động theo bản năng, rằng cơ thể tôi là của cô nên cô cứ tự nhiên đụng chạm trước khi nhận ra không phải thế, ít nhất cũng không phải trong thế kỷ này. Thế là cô ngước mắt lên xin phép tôi.

Tôi đằng hắng, một lần, hai lần, và rồi yếu ớt gật đầu.

Marianne Engel lại giơ tay ra lần nữa, những đầu ngón tay của cô lướt trên vùng hoang mạc nhăn nheo xơ xác của tôi. Tôi không hề cảm nhận được sự đụng chạm, vì mật độ sẹo quá dày đặc, quá kín kẽ; tôi chỉ biết những đầu ngón tay cô đang đặt trên người tôi vì tôi có thể nhìn thấy chúng ở đó.

"Dừng lại đi," tôi nói.

"Anh đau à?"

"Không." Đằng hắng lần thứ ba. "Cô nhìn đủ chưa?"

Cô rụt tay lại và đứng dậy. Cô nhìn thẳng vào mắt tôi, hôm nay mắt cô có màu xanh lục, và chúng lại khiến tôi cảm thấy bối rối như đôi khi vẫn thế. "Tôi không có ý làm anh thấy thiếu thoải mái."

"Cô có đấy," tôi nói. "Thỉnh thoảng."

"Anh có thật sự tin," cô hỏi, "rằng tôi từng yêu anh vì cơ thể của anh không?"

"Tôi không..." Lần thứ tư, lần thứ năm, cái cổ họng chết tiệt của tôi. "Tôi nghĩ là không." Và để chứng tỏ mình thực sự nghĩ thế, tôi tự động trèo vào bồn tắm mà không tranh cãi thêm bất cứ câu nào nữa.

Bồn tắm trông thật hoành tráng với bốn chân hình móng sư tử và Marianne Engel nhanh chóng bắt tay vào cạo lớp da chết bên ngoài của tôi. Đó là một quá trình cực kỳ đau đớn, vì thế cô cố làm tôi phân tán tư tưởng - và chứng minh rằng cô luôn sẵn sàng tiếp chuyện với tôi - bằng việc hỏi tại sao tôi lại khó ngủ đến thế. Tôi giải thích rằng phòng hơi nóng nên tôi gặp ác mộng. Rồi tôi hỏi lý do gì mà cô lại nằm dài trên tảng đá. "Nhận chỉ dẫn hả?"

"Tôi nghĩ một con grotesque đã sẵn sàng," cô thú nhận, "nhưng tôi đã nhầm."

"Cô từng nói với tôi rằng cô luôn phải tạc càng nhanh càng tốt để giúp những con grotesque mau được thoát ra khỏi tảng đá, nhưng tầng hầm lại đầy những bức tượng dang dở."

"Thỉnh thoảng tôi làm được nửa chừng rồi chúng mới nhận ra rằng mình chưa sẵn sàng. Vì thế chúng tôi dừng lại một thời gian." Cô vốc một chút nước vào lòng bàn tay rồi đổ lên đầu tôi. "Khi tôi lại nghe thấy tiếng gọi, tôi sẽ hoàn thành chúng."

"Thế nếu mà," tôi hỏi, "cô bắt buộc phải từ chối khi chúng gọi?"

"Tôi không thể làm thế. Tôi chạm trổ để làm vui lòng Chúa."

"Sao cô biết được?"

Cô chà miếng bọt biển lên vùng da thô nhám của tôi mạnh hơn nữa. "Vì Chúa cho tôi đôi tai có thể nghe được giọng nói cất lên từ trong đá."

"Thế chính xác chuyện đó diễn ra như thế nào?"

Cô nói vấp váp, với tất cả năng lực ngôn ngữ có được cô vẫn không thể diễn tả chính xác mình muốn nói gì.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 30


"Tôi chỉ thanh lọc bản thân. Tôi từng khao khát nhận được những chỉ dẫn từ Chúa đến nỗi không thể làm được điều này. Nhưng giờ tôi đã có thể làm bản thân thanh tịnh, và đó là lúc những con gargoyle có thể nói chuyện với tôi. Nếu tâm hồn không thanh tịnh, tôi sẽ luôn dựa vào những suy nghĩ của chính mình, mà suy nghĩ của tôi thì lúc nào cũng sai cả. Bọn quái vật làm việc này dễ dàng hơn, anh thấy đấy, vì chúng đã tự thanh lọc hàng triệu năm nay rồi. Chúa đã nhập vào những tảng đá và thông báo cho chúng những gì cần làm. Rồi chúng thông báo cho tôi những dự định của Chúa với chúng tôi. Tôi phải" - cô dừng đúng năm giây - "tôi phải thanh lọc bản thân tới mức có thể làm được những hành động thuần khiết nhất. Nhưng chỉ có Chúa mới làm chủ được những hành động thuần khiết."

Tôi không định giả vờ rằng mình hoàn toàn hiểu chuyện này, nhưng đây là cách hiểu tốt nhất tôi có thể đưa ra: Chúa tác động đến "những gargoyle bị chôn vùi" (ám chỉ những gargoyle vẫn còn kẹt trong đá) bằng việc thông báo cho chúng hình dạng chúng cần phải có. Rồi những gargoyle bị chôn vùi sẽ tác động đến Marianne Engel, hướng dẫn cho cô cách tạo hình. Thế là Marianne Engel trở thành trung gian tác động, đẽo gọt tảng đá. Bằng cách này, cô để cho những gargoyle tự hình dung ra hình dạng Chúa đã định cho chúng. Những gargoyle thành hình (tác phẩm chạm trổ hoàn thiện) vì thế trở thành bằng chứng cho sự hiện thực hóa những chỉ dẫn của Chúa. Chúng không phải những sáng tạo của Marianne Engel, vì cô không phải người tạc; Chúa mới là người tạc. Cô chỉ là một công cụ trong tay Người.

Cô vẫn tiếp tục kỳ cọ khắp người tôi trong khi giải thích. Khi cuối cùng cô cũng xong, tôi có thể thấy rõ những vảy da của mình nổi lềnh phềnh trong nước bồn tắm.

Chẳng mấy chốc một đám thợ đã đến lắp điều hòa nhiệt độ và giờ tôi có thể thoái mái ngủ trong cái tháp chuông nhà thờ rồi. Tôi đã cho lắp vài cái giá trong phòng - một để sách, một để con grotesque nhỏ và bông loa kèn bằng thủy tinh tôi được tặng trong bệnh viện. Có một bàn làm việc trong góc phòng, được tôi trang bị hộp dụng cụ văn phòng phẩm Gregor đã tặng tôi. Ở góc phòng khác là một chiếc ti vi và một chiếc đầu video mà Marianne Engel đã mua cho tôi, dù bản thân cô luôn dị ứng với những món đồ quá hiện đại.

Ngay sau ngày hôm đó, cảnh tượng dưới tầng hầm không còn tái diễn nữa, và chúng tôi cũng nhanh chóng hình thành một thông lệ. Buổi sáng khi tôi thức dậy, cô sẽ tiêm cho tôi trước rồi mới tắm cho tôi. Tiếp theo đó là một loạt bài tập mà Sayuri đã đề ra. Đầu giờ chiều tôi sẽ ngủ một chút, và trong khi tôi ngủ, Marianne Engel sẽ đi mua sắm các dụng cụ hỗ trợ hồi phục sức khỏe cho tôi hoặc dẫn Bougatsa đi dạo. Sẩm tối khi tôi tỉnh lại thì chúng tôi sẽ chơi bài, hoặc uống cà phê và nói chuyện. Thỉnh thoảng, nếu cô có việc, tôi sẽ gọi cho Gregor và chúng tôi sẽ nói chuyện với nhau vài phút qua điện thoại. Tôi dần thấy mình nhớ những cuộc viếng thăm của ông ta bên giường bệnh và mỗi khi kết thúc cuộc nói chuyện, cả hai lại hứa với nhau sẽ mau chóng gặp lại. Tuy thế, chẳng dễ dàng gì vì lịch làm việc của ông ta rất bận rộn và dường như có chút thời gian rảnh nào là ông ta lại dành hết cho Sayuri.

Cuối mỗi buổi tối, Marianne Engel sẽ đi ngủ trước tôi, còn tôi sẽ thức đọc Friedrich Sunder hay xơ Christina.

Cuốn Ân điển-cuộc đời khá thú vị, mặc dù, vì vài lý do tôi không thể hiểu nổi, bản ghi chép thỉnh thoảng lại có vài bận người viết thay đổi giới tính. Sunder viết theo đúng phong cách nam giới và rồi - ô la la! - ông trở thành một phụ nữ. Những sai lệch này có thể bắt nguồn từ các biên tập viên nữ sau khi Friedrich qua đời, hoặc bởi vô số các nhà sao chép bản thảo nữ trong suốt bao năm qua, hoặc thậm chí bởi Marianne Engel khi cô dịch bản thảo này sang tiếng Anh. (Thử tưởng tượng ra sự rạo rực sung sướng trong mắt quỷ Titivillus xem!) Tuy nhiên, tôi khá nghi ngờ chuyện đó có thể xảy ra, vì những đoạn đầy nữ tính không chỉ được tìm thấy ở những lỗi viết sai đơn thuần, chúng còn dính cả vào nội dung nữa.

Một ví dụ nổi bật nằm ở đoạn Friedrich Sunder miêu tả đám cưới của ông với Chúa. Ý tưởng về một sự hòa hợp như thế có vẻ - đối với đầu óc hiện đại của tôi - khá kỳ cục, nhưng rõ ràng việc "kết hôn" với Chúa khá phổ biến trong giới đàn ông kiểu như Friedrich. Tuy thế, ngay cả khi chấp nhận vấn đề này, ta cũng không thể phủ nhận bản chất tình dục dữ dội của hình ảnh cô dâu chú rể. Cảnh động phòng diễn ra trên một chiếc giường lộng lẫy phủ đầy hoa, chính giữa cung điện, và được chứng kiến bởi rất nhiều nhân vật tầm cỡ đến từ Thiên đường, có cả Đức Mẹ Mary. Sunder viết rằng Chúa đã ôm hôn ông, và họ đã vui vẻ cùng nhau. (Bạn đọc không sai đâu.) Khi Chúa hành sự xong xuôi với Friedrich, Người lệnh cho các thiên thần nâng nhạc cụ tấu lên những khúc ca đầy hoan lạc như Người đã tấu cho người vợ đáng yêu của mình. Chúa thậm chí còn tuyên bố rằng đêm động phòng sẽ giải phóng hàng loạt linh hồn đang bị giam giữ dưới Luyện ngục, thực sự đã gợi ý rằng đây quả đúng là một đêm tân hôn.

Tôi thoáng nghĩ Marianne Engel trong quá trình dịch có lẽ đã thêm đoạn này vào chỉ để cười vào mặt tôi. Bởi vì - thôi nào! - cái chương này hiển nhiên không thể tồn tại trong bản thảo gốc của Sunder được, đúng không nào? Nhưng khi rỗi rãi tôi đã kiểm tra những nguồn khác và nhận thấy đó đúng là sự thật.

Một điểm hấp dẫn khác, đáng chú ý hơn, đó là việc cuốn Ân điển-cuộc đời chẳng có đoạn nào viết về một xơ Marianne bị bỏ rơi trước cổng Engelthal khi còn là một đứa bé sơ sinh cả. Khi tôi nói chuyện này, Marianne Engel đảm bảo với tôi rằng việc cô bị xóa khỏi cuốn sách của Sunder sẽ được giải thích sau khi cô kể xong về tiền kiếp của chúng tôi.

"Tôi biết anh không thích đến nơi công cộng," cô nói, "thế giờ chúng ta đi nhé, trong bóng đêm bao phủ."

Tôi kháng cự như lệ thường, nhưng lại tò mò muốn biết một buổi đi dạo lúc nửa đêm với Marianne Engel (và Bougatsa) sẽ dẫn đến đâu. Thế là chúng tôi nhanh chóng ngồi trong xe của cô, hướng ra bãi biển, một chuyến đi tôi chẳng muốn dừng lại chút nào. Tôi băn khoăn không biết liệu có ai ở đó không và cuối cùng đi đến kết luận là có lẽ không, ai lại ra biển vào một đêm giá rét cuối tháng Hai thế này chứ. Nhưng tôi đã nhầm. Bờ biển cát trắng bập bùng ánh lửa trại nơi đám thiếu niên ngồi lai rai uống rượu. Những đống lửa cách đều nhau trong bóng tối, khiến tất cả mọi người đều phần nào không rõ hình rõ dạng. Tôi thích thế.

Marianne Engel lôi một cái chăn mỏng ra. Tôi muốn cởi đôi giày dính đầy cát, nhưng ngay cả trong bóng tối tôi cũng cảm thấy rất xấu hổ về bàn chân mất ngón của mình. Cô mong tôi có thể đi bơi cùng cô, hay ít nhất cũng lội nước đến đầu gối, nhưng cô đâu biết nước biển mặn sẽ tác động ra sao lên da tôi. Tôi có cảm giác đó sẽ là tác động không dễ chịu gì. Cũng chẳng thành vấn đề, vì từ bé tôi cũng có biết bơi đâu. "Thật tệ," cô nói. "Tôi rất yêu nước."

Tôi gối đầu lên lòng cô và cô kể tôi nghe chuyện một con sói lớn tên là Skưll hằng ngày đuổi theo cố gắng ăn mặt trời. Người ta nói rằng tại Ragnarưk, trận chiến cuối cùng của thế giới, cuối cùng nó cũng sẽ nuốt chửng được mặt trời trong khi người em Hati của nó ăn mặt trăng, rồi những ngôi sao sẽ biến mất khỏi bầu trời. Cô kể tôi nghe về những trận động đất khủng khiếp có thể xé toạc trái đất khi Miðgarðsormur, con Mãng xà sống ở Cõi người, cuộn thân hình khổng lồ của nó dưới lòng đại dương và gây nên những cơn sóng thần. Tất cả thần thánh sẽ bị cuốn vào một cuộc chiến đáng sợ, rồi những ngọn lửa man rợ sẽ lan ra khắp mọi nơi. Thế giới, Marianne Engel nói, sẽ cháy rụi trước khi những phần tro bụi sót lại chìm vào biển cả. "Ít nhất đó là những gì người bạn Sigurðr của tôi tin tưởng."

Cô bật dậy khỏi chiếc chăn và bắt đầu cởi quần áo. "Tôi đi bơi đây."

Dù thường quen chấp nhận thói leng keng của cô, tôi vẫn bị sốc bởi lời tuyên bố dõng dạc này. Rõ là nguy hiểm, và tôi bác rằng trời đang quá lạnh.

"Ổn mà," cô khăng khăng. "Mọi người toàn làm thế, anh thấy còn gì, ở lễ hội nhảy xuống nước lạnh ấy."

Tôi cũng đã nghe về mấy vụ đó rồi - người ta nhảy xuống biển lạnh giá trong vài phút, thường là để làm từ thiện - và cũng biết rằng đám người ấy được bao nhiêu tình nguyện viên, cả bác sĩ nữa, để ý từng li từng tí. Bất cứ ai trong đoàn người tham gia sự kiện ấy cũng đều có thể cứu một thành viên gặp nạn, nhưng ở đây, cô chỉ có một mình.

"Tôi rất thích khi anh quá lo lắng cho tôi," cô nói, "nhưng tôi đã làm thế hàng bao nhiêu lần rồi."

"Thế cơ à?" tôi vặn. "Ở đâu? Khi nào?"

"Ở Phần Lan. Rất thường xuyên."

Phần Lan. "Cũng chẳng làm ý tưởng hôm nay khá khẩm hơn chút nào." Chúng ta đâu có ở Phần Lan.

"Anh thật dễ thương. Tôi sẽ chỉ ở dưới nước vài phút thôi, và tôi sẽ không bơi sang vùng nước sâu quá tầm đứng đâu." Quần áo cô giờ đã cởi hết ra rồi, xếp thành đống trên bãi biển, tôi lại đề nghị cô đừng đi. "Chỉ vài phút thôi. Không bơi chỗ nước sâu đâu."

TA CHẮC CHẮN LÀ KHÔNG SAO ĐÂU.

"Tôi thực sự cảm động vì sự quan tâm của anh đấy," cô nói thêm, "nhưng anh không cần phải lo đâu."

Cô bình thản đi ra biển. Mặt trăng dịu dàng tỏa sáng lên những ngọn sóng. Cô không hề dừng lại, không hề run rẩy, không hề té nước, không hề hất nước lên bụng để cơ thể quen dần với cái lạnh. Không, cô cứ đi cho tới khi nước ngập đến ngực và rồi ngả người về phía trước để THẾ LÀ CÔ TA ĐÃ ĐI chìm vào làn nước.

Phía cuối bãi, tôi nghe giọng vài đứa nhãi con cười bảo sao lại có người ngu ngốc đến mức đi bơi vào cái lúc RÉT CĂM CĂM trong năm thế này. Tôi dõi theo những con sóng nhỏ gợn lên phía sau cô khi cô càng lúc càng rời xa tôi, nhưng vẫn song song với đường bờ biển. Ít nhất cô cũng giữ lời hứa không bơi quá xa vào vùng nước sâu. Tôi đi theo cô, tập tễnh dọc bờ biển để nắm được tình hình. Dù tôi chẳng biết mình có thể làm được gì nếu cô gặp rắc rối trong bất cứ trường hợp nào. NÓI "TẠM BIỆT" ĐI NÀO. Thét gọi lũ thanh thiếu niên, tôi nghĩ thế; vì vụ tai nạn đã tước hết mọi cơ hội chống chọi với nước biển lạnh giá của tôi.

Cô nhẹ nhàng rẽ sóng; hiển nhiên là cô rất giỏi việc này, và dù cô thường hút thuốc nhưng cơ thể cô cũng rất khỏe mạnh nhờ việc tạc tượng. Thỉnh thoảng cô cũng nhìn về phía bờ, về phía tôi. Tôi nghĩ mình nhìn thấy cô mỉm cười, nhưng cô đang ở xa đến nỗi tôi chẳng thể biết chắc được. Tôi hồi hộp bấu lấy đồng xu khắc hình thiên thần đeo trên cổ cho tới khi thấy cô quay người trở lại nơi cô bắt đầu xuống nước.

Khi cô trở vào bờ - chỉ vài phút sau khi rời đi, tôi nhẹ cả người - cô rời khỏi làn nước theo đúng cách cô bước vào. Cô không vội vã chạy ra, cô cũng không lắc người cho khô. Cô chỉ từ tốn hiện lên và đi về phía tôi, lúc này đang run rẩy vì hơi lạnh buổi tối, có điều đỡ lạnh hơn tôi đã tưởng tượng.

"Anh có biết phần tuyệt nhất của lần bơi vừa rồi là gì không?"

"Không."

"Là biết rằng anh đang ở trên bờ đợi tôi." Cô dùng một cái khăn tắm để vắt nước khỏi tóc - không hề đơn giản chút nào, xin các bạn biết thế - rồi mặc lại chỗ quần áo tôi rụt rè ném cho, châm thuốc, và nói rằng đã đến lúc kể thêm cho tôi về câu chuyện của hai người.

Mỗi lần cô dừng lại, có lẽ để thêm chút kịch tính cho câu chuyện, tôi đều lo rằng đó là dấu hiệu muộn của tình trạng nhiệt độ cơ thể giảm dưới mức bình thường.

Chú thích

(25) Món quà buổi sáng, do người chồng tặng vợ sau đêm tân hôn.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 31


Bấy giờ khi anh đã qua khỏi tình trạng nguy kịch, sức khỏe của anh tiến triển từng ngày. Vẫn còn nhiều thương tổn cần chữa trị, nhưng tôi không còn lo anh sẽ đột ngột ra đi mỗi khi tôi rời căn phòng đó nữa.

Lúc đầu, anh không muốn nói chuyện về cuộc đời mình. Tôi không chắc đó là bởi anh cảm thấy xấu hổ vì cuộc đời làm lính đánh thuê của mình hay vì trận đánh đó đau đớn đến nỗi khó có thể nhớ lại. Nhưng vì không được bàn tán gì cuộc đời anh, tôi bèn lôi cuộc đời tôi ra làm chủ đề trò chuyện. Anh dường như bị cuốn hút vì nó, vì tôi, một điều tôi không tài nào lý giải nổi. Cuộc đời trong tu viện thì có thể có gì hay ho chứ? Nhưng mắt anh sáng lên khi tôi kể cho anh nghe về công việc của tôi trong phòng viết, và anh đã hào hứng hỏi về quần áo của mình. Tôi lấy chúng ra khỏi tủ. Dù chúng hầu như chỉ còn là những mảnh rách rưới, các xơ không thể vất đi những thứ không thuộc về họ.

Mũi tên đã đâm xuyên qua ngực chiếc áo giáp không tay của anh và vùng xung quanh gần như đã bị cháy sém hết, nhưng tôi vẫn có thể cảm thấy một vật khá nặng hình chữ nhật nằm trong túi áo khâu ngược vào trong. Anh rút vật này ra, nó được gói trong những lần vải. Mũi tên gãy vẫn kẹt ở phần trước của vật này, đầu mũi tên hầu như không xuyên qua phía sau. Anh lật vật ấy trên tay vài lần, ngạc nhiên vì tấm khiên bất ngờ này đã ngăn không cho mũi tên đâm sâu hơn vào ngực mình. Sau khi rút đầu mũi tên ra, anh ấn nó vào tay tôi và bảo tôi làm gì với nó cũng được.

Tôi chẳng cần phải suy nghĩ gì; tôi nói ngay lập tức là mình đã biết phải làm gì với nó rồi.

"Thế đó là gì vậy?"

"Tôi sẽ đưa nó lại cho anh," tôi trả lời, "sau khi tôi nhờ cha Sunder ban phước lành cho nó. Rồi ngực anh sẽ chấp nhận nó như một lá bùa bảo vệ chứ không phải một thứ làm hại mình."

"Tôi rất trông chờ đến ngày đó," anh nói khi đưa cái gói cho tôi. "Tôi có thứ này từ một người bạn đã qua đời."

Tôi mở cái gói ra, bên trong là một cuốn sách viết tay với những vệt cháy sém ở phần rìa dây cả bụi than ra tay tôi. Tôi tự hỏi làm sao cuốn sách có thể nguyên vẹn không bị ngọn lửa nuốt chửng chứ?

Tôi đặt nó lại vào ngực anh, và nó vừa khít với những vết bỏng. Phần da không bị cháy chính là nơi cuốn sách đã bị mũi tên găm vào, và nó cũng giải thích cho vết cắt nhỏ ở chính giữa cái hình chữ nhật không bị lửa viếng thăm đó.

Tôi lật qua cuốn sách, nhận thấy càng về cuối vết rạch trên những trang giấy càng nhỏ dần, và tôi hỏi anh về người đã mất. Anh trả lời, "Có hai người Ý trong đội của chúng tôi. Một bị giết trên chiến trường, một người rất tốt tên Niccolò. Cuốn này là của anh ấy."

Việc các đội quân condotta thuê người ngoại quốc cũng là bình thường, miễn là họ có năng lực đặc biệt. Đội lính đánh thuê của anh đã tuyển các cung thủ người Ý và đó thực ra là lý do ngay từ đầu đội quân các anh lại gọi là condotta; đó là thuật ngữ Ý chỉ các đội lính đánh thuê, và các binh lính rất thích cách phát âm đó.

Người Ý là một trong những cung thủ giỏi nhất anh từng thấy, và họ rất thân thiện với anh và Brandeis. Anh không thông thạo tiếng của họ lắm nhưng cả Benedetto - anh người Ý còn lại - và Niccolò đều có khả năng xoay xở với tiếng Đức, và trong suốt những năm tháng sống cùng nhau, anh dần cảm phục họ với tư cách là cung thủ cũng như những người đàn ông chân chính. Các anh tin tưởng lẫn nhau tới mức tâm sự với nhau rằng mình đều dần trở nên quá chán ghét chiến tranh.

Khi Niccolò chết, Benedetto nhận thấy mình chịu đựng thế là quá đủ. Vì anh ấy đã suốt ngày phải liều mạng trên chiến trường rồi, có liều mình đào ngũ thì cũng đâu là gì. Nỗi sợ hãi bị truy đuổi cuối cùng đã bị lấn át bởi nỗi sợ phải tiếp tục ở lại. Thay vì cứ thế bỏ đi không lời từ biệt, Benedetto cho Brandeis và anh cơ hội nhập bọn.

Anh đã cân nhắc ý tưởng đó, nhưng cuối cùng quyết định không. Herwald có thể cho qua chuyện một người nước ngoài tự dưng biến mất, nhưng nếu cả ba cung thủ cùng biến mất một lúc thì không thể tránh khỏi hậu quả cực kỳ khủng khiếp. Nhưng, quan trọng hơn hết thảy, cả anh lẫn Brandeis đều không dám làm như Benedetto. Thật ra các anh sợ đội quân của chính mình còn hơn sợ kẻ thù. Tuy thế, hai người vẫn rất ngưỡng mộ Benedetto và thấy cần phải giúp anh ấy, phần vì tình bạn, phần vì cảm giác hồi hộp khi làm việc đó.

Benedetto thấy cũng là chuyện đúng đắn nếu cố mang tất cả những gì có thể đến cho vợ và hai con trai của Niccolò ở Firenze. "Bọn cần phải giữ thứ gì đó thuộc về cha chúng khi chúng lớn lên." Thế là, trong bóng đêm, ba người các anh đã xếp hết di vật của người chết ra xem xét cẩn thận. Có một túi tiền, quần áo, một đôi ủng, một cuốn sách và một cây cung. Benedetto giữ túi tiền, một món đồ giá trị để trao cho người vợ, và cây cung, anh ấy nghĩ đây là món quà xứng đáng cho những người con của một chiến binh.

Mặc dù thực sự không cần cuốn sách, anh cũng ấn vào tay Benedetto một chút tiền để mua nó. "Người cha không còn nữa, họ sẽ cần cái này hơn vài lời nói suông."

Benedetto gật đầu, nói rằng không hiểu tại sao bạn mình lại có một cuốn sách. "Có vẻ như nó được viết bởi một nhà thơ nổi tiếng xứ Firenze, nhưng tôi đã luôn trêu Niccolò về chuyện đó. Đàn ông như chúng ta cần thơ ca làm gì chứ?"

Buổi sáng hôm sau, anh và Brandeis phải giả vờ bất ngờ như tất cả những người khác trước chuyện Benedetto biến mất. Kuonrat Háo Danh sốt sắng đòi tiến hành cuộc truy lùng quy mô lớn để "tìm giết kẻ phản bội!" Herwald thì suy nghĩ chín chắn hơn. Ông ấy đã quyết chỉ để cho một nhóm nhỏ đuổi theo Benedetto, và chỉ trong một thời gian ngắn thôi.

Herwald lý luận, "Anh người Ý đó sẽ trở về quê thôi. Cứ để anh ấy đi. Anh ấy không phải người Đức; anh ấy không phải một trong số chúng ta. Nhưng đừng có nghĩ việc này sẽ gợi ý một sự thay đổi trong đường lối hoạt động của đội. Nếu một binh lính Đức trốn chạy, chúng ta sẽ không ngừng truy đuổi cho tới khi tìm giết được kẻ đó. Dù có mất bao nhiêu năm đi nữa."

Bài phát biểu này xoa dịu cả đoàn quân, hầu hết đều chẳng ưa gì việc mấy tay nước ngoài cứ lố nhố giữa bọn họ. Đối với họ, sự ra đi của cả hai tay người Ý, cách này hay cách khác, là quá đủ rồi. Kuonrat Háo Danh vẫn còn tức giận trước sự biến mất của Benedetto, nhưng lời đe dọa nóng hổi về cái chết dành cho những kẻ đào ngũ người Đức đã mang lại một nụ cười đểu cáng trên khuôn mặt hắn. Tuy thế, hắn vẫn kịp nhận ra đây là một cơ hội hoàn hảo để thì thầm những lời vu khống. "Ông già Herwald đã dần trở nên mềm yếu rồi."

Đúng lúc này thì anh đột ngột dừng câu chuyện, rồi nhìn xuống sàn bệnh xá Engelthal với vẻ bối rối đến nỗi tôi phải hỏi ngay là có chuyện gì không.

"Cuốn sách này," anh nói, "có gì đó rất lạ lùng. Khi tôi nhìn thấy nó lần đầu tiên, nó dường như đang gọi tôi. Như thể nó muốn tôi nhận lấy nó vậy."

"Cũng chẳng có gì quá kỳ lạ đâu. Những cuốn sách lúc nào chẳng làm tôi có cảm giác đó."

"Nhưng xơ Marianne," anh thú nhận, "tôi không biết đọc."

Tôi không hiểu vì sao anh nghĩ tôi trông chờ anh biết đọc. Tôi ý thức rõ khả năng đọc của mình rất khác thường, không phải ai cũng làm được. Nếu như anh không lấy quyển sách, tôi chỉ ra, mũi tên đã có thể đâm xuyên tim và giết chết anh rồi. "Chắc chắn anh nhận ra nhiều giá trị của cuốn sách này," tôi nói, "hơn bất cứ thứ gì tôi từng đọc."

Anh đã biết, hoặc ít nhất anh cũng đoán ra được, cuốn sách đó được viết bằng tiếng Ý chứ không phải tiếng Đức. Tôi xác nhận lại điều đó, nhưng cũng nói thêm là tôi có thể dịch được. Anh khá ấn tượng, vì anh không nghĩ là ai đó có thể đọc được một ngôn ngữ, nói gì đến hai. Tôi hứa sẽ nghiên cứu kỹ khi quay trở về phòng, và sẽ cho anh biết nó viết về cái gì. Điều này làm anh hài lòng, nhưng anh vẫn muốn xin tôi một ân huệ nữa.

"Hãy cầu nguyện cho linh hồn người bạn đã chết Niccolò của tôi và vợ con anh ấy. Và cho cả Brandeis nữa. Tôi có thể tự làm việc đó, nhưng tôi sợ những lời cầu nguyện của tôi không có giá trị như của xơ."

Tôi đảm bảo với anh rằng lời cầu nguyện của tất cả mọi người đều có giá trị như nhau, nếu được nói ra với một trái tim chân thành, nhưng chắc chắn tôi sẽ làm theo yêu cầu của anh.

Buổi tối hôm đó, tôi bắt tay vào dịch sách. Cuốn sách có rất nhiều hình ảnh tôn giáo, vì thế cuốn kinh cầu nguyện của Paolo thực sự rất hữu ích, nhưng nó dường như được viết bởi một giọng văn đặc địa phương, một thách thức đối với tôi. Ngay từ đầu nó rõ ràng không giống với bất cứ cuốn sách nào tôi từng đọc. Đây cũng sẽ là một cuốn sách cần được giữ kín khỏi mọi tai mắt của các nữ tu khác. Địa ngục, bìa sách viết, của Dante Alighieri.

Dù Dante rõ ràng là một người rất sùng đạo, nhưng ông cũng chẳng mấy coi trọng các hoạt động thường nhật của Giáo hội. Tôi há hốc mồm khi đọc đến đoạn miêu tả khu giam giữ những Giáo hoàng dị giáo dưới Địa ngục. Một trong những Giáo chủ đó là Đức ngài Boniface, Giáo hoàng đương nhiệm. Gertrud và thậm chí cả mẹ Christina đều rất coi trọng ông.

Đêm tôi dịch khẩn trương, và ngày tôi lại chăm sóc anh. Khi các xơ y tá đi ra ngoài cầu kinh theo lịch, tôi đọc cho anh nghe những gì tôi vừa dịch đêm hôm trước. Tôi cảm thấy chúng ta đang chia sẻ với nhau một cái gì đó rất xấu xa, nhưng xấu xa một cách tuyệt vời. Câu chuyện đã đưa chúng ta tới những nơi khác nhau. Thứ ngôn ngữ bình dân không trau chuốt và những hình ảnh thô cứng đã mang tôi đến với thế giới của anh, nhưng những ý tưởng về tôn giáo lại mang anh đến cuộc sống tâm linh của tôi. Bằng cách nào đó chúng ta đã gặp nhau trong cuốn sách.

Tôi luôn được dạy rằng mình có thể tìm thấy Chúa ở khắp mọi nơi, trong tất cả tạo vật, nhưng chẳng bao giờ tôi thực sự làm được. Tôi được dạy rằng nếu tôi không tìm thấy Chúa, tôi sẽ phải cầu nguyện để nhận được thêm nhiều chỉ dẫn, hoặc để làm bản thân thanh khiết hơn sao cho Người có thể đến với tôi. Vì thế hãy tưởng tượng tôi đã bất ngờ thế nào khi tôi bắt đầu hiểu rõ hơn về Chúa Thánh Thần thông qua giọng nói của Dante, và sau cả cuộc đời chìm đắm trong những lời chỉ dạy của Thiên đường, cuối cùng tôi đã có thể tìm được Chúa sau khi nhìn thấy thế nào là Địa ngục.

Những giây phút riêng tư giữa hai chúng ta không bao giờ là đủ. Các nữ tu rồi cũng quay trở lại và chúng ta sẽ phải chuyển chủ đề sang những thứ không liên quan đến cuốn sách đó. Thời gian trôi qua và anh dần hé lộ về cuộc đời làm lính đánh thuê của mình. Tôi bị mê hoặc bởi tất cả những gì anh kể, kể cả lý do anh trở thành lính đánh thuê.

Khi còn nhỏ, anh luôn nghĩ mình sẽ theo bước cha trở thành thợ nề. Anh được cha chỉ dạy và cuộc đời anh dường như đã được định đoạt cho tới những năm đầu niên thiếu, khi cha anh bị đá đè khi chuyển đá xây dựng, và mẹ anh cũng mất không lâu sau đó, vì một căn bệnh không ai biết nổi tên, nói gì đến chữa trị.

Thế là từ con trai của một gia đình tử tế, anh trở thành một đứa trẻ mồ côi không nơi nương tựa. Thành phố tịch thu nhà của anh, và vì chẳng có người thân thích nào khác, anh đã tự dạy mình cách sinh tồn trên đường phố. Trộm cắp vặt dường như không phải tội lỗi gì ghê gớm lắm khi nó là cách kiếm cơm duy nhất của anh.

Một ngày nọ anh đã cố trộm một chút tiền từ ví của Herwald, lúc đó ông đang vào thị trấn để kiếm đồ tiếp tế. Khi bắt quả tang anh, ông đã bị ấn tượng bởi nghị lực hơn là khó chịu vì hành động sai trái của anh. Ông đã đề nghị anh gia nhập đội quân của mình, và anh cũng thấy chẳng việc gì phải từ chối cả. Anh rất hào hứng trước lời đề nghị, và cứ xét một cách đơn giản thôi, anh lúc đó cũng không thể tưởng tượng nổi còn có giải pháp nào tốt hơn nữa.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 32


Gia nhập đội quân condotta thực ra cũng không hẳn là một lựa chọn quá tệ, hay ít ra nó cũng có vẻ như thế. Việc tranh giành quyền lực giữa Giáo hoàng và Hoàng đế Louis khiến tất cả những hoàng thân quốc thích còn sót lại trên khắp đất nước rơi vào cảnh rối loạn. Khi quân đội Đức cuối cùng cũng trở nên kiệt quệ, các lãnh chúa quý tộc bắt đầu lập những đội quân cho riêng mình. Tình thế đã trở nên phức tạp đến nỗi chính họ cũng chẳng biết đâu là bạn đâu là thù và điều chắc chắn duy nhất là những đội lính đánh thuê chả bao giờ thiếu việc. Khi tôi hỏi anh đứng về phe nào - Giáo hoàng John hay Hoàng đế - anh trả lời rằng một khi đã tham gia vào chiến tranh thì ở bất cứ phe nào cũng đều sai cả. "Tiến trình lịch sử chỉ xoay quanh việc người này cố giành lấy một thứ gì đó từ một người khác, và thường thì thứ gì đó ấy thực ra cũng chẳng phải của bất cứ bên nào."

Quan điểm này của anh giải thích tại sao anh có thể xoay xở qua ngày với cây cung trên tay. Đó chỉ là vì anh thực tế. Tôi chưa từng nghe ai nói thẳng thừng như anh, thậm chí cả người buôn giấy da cũng không nói với tôi những điều như thế. Tôi không thích mình cảm thấy thích thú vì điều đó, nhưng sự thực là thế. Tôi luôn thấy thanh thản khi tưởng tượng lính tráng chỉ là những cỗ máy giết người vô tri không hơn không kém, nhưng anh đã chứng minh ngược lại. Tôi có lý do để mà phần nào có thể tự cao tự đại về cuộc đời nghiên cứu sách vở của mình, nhưng tôi cũng phải thừa nhận có nhiều điều anh biết mà tôi lại không hay.

Phần thịt nơi ngực anh ngày càng rúm lại khi vết thương dần lành miệng. Anh đã nhờ tôi khoét hở ngực để nó có thể phát triển. Tôi không muốn làm thế, và phải nhìn anh chịu đau đớn vì con dao trong tay tôi là điều tôi không thể chịu nổi. Nó khác với lúc tôi cắt bỏ phần thịt thối rữa của anh, vì hồi đầu, tôi vẫn còn có khả năng kiềm chế cảm xúc của mình.

Nhưng anh cố đòi bằng được. Anh cảm thấy điều này rất cần thiết, anh có thể cảm nhận được điều đó dựa trên nỗi đau đớn khi phải giơ tay lên. Vì thế cứ vài ngày anh lại ngậm một miếng vải cuộn gọn ghẽ trong miệng và tôi sẽ rạch vài vết trên ngực anh để làm giảm sự co rúm. Việc ấy thật kinh khủng và tôi phải vừa làm vừa tránh nhìn, nhưng những tiếng thét nghẹn ứ của anh thì vẫn còn đó. Anh không thể biết tôi ngưỡng mộ lòng can đảm của anh đến mức nào đâu. Cách điều trị này có vẻ mang lại kết quả tốt: cuối cùng anh cũng có thể rời giường bệnh để đi lại vài bước ngắn, và thỉnh thoảng tay chúng ta lại vô tình chạm vào nhau.

Những lời đồn thổi không thể tránh khỏi rốt cuộc cũng bắt đầu lan khắp Engelthal. Các xơ y tá, khi trở về từ buổi cầu nguyện, đã tìm mọi cách gián đoạn câu chuyện Địa ngục để tìm hiểu bí mật giữa chúng tôi. Và không ai không nhận ra có gì đó sâu đậm hơn quan hệ y tá và bệnh nhân trong cách chúng tôi nhìn nhau. Thời gian chúng tôi ở bên nhau không còn được lý giải chỉ để cho việc điều trị nữa.

Tôi chắc chắn Gertrud và Agletrudis đứng đằng sau tất cả mọi chuyện. "Tên lính đánh thuê đã làm vấy bẩn xơ Marianne đáng yêu của chúng ta." Tôi nghĩ điều này cũng chẳng có gì sai, vì tôi đã nhận ra mình hoàn toàn có thể yêu nhiều hơn chỉ một vị Chúa. Thực tế, tôi đã nhận ra rằng yêu nhiều hơn chỉ một vị Chúa thực ra còn tốt hơn ấy chứ.

Chuyện gì đến cũng phải đến. Mẹ Christina quyết định tống anh đi, nhưng vì anh vẫn chưa hoàn toàn bình phục, bà bèn gửi anh đến chỗ cha Sunder và huynh trưởng Heinrich. "Để giúp anh dần quay lại với cuộc sống," bà nói. "Mọi thứ đã lo liệu xong cả rồi."

Tôi chẳng thể nói gì, vì tôi đã thề dành cả đời tận tâm phục vụ nữ tu viện trưởng của mình. Vậy là anh thu dọn chút đồ đạc ít ỏi của mình và cám ơn tất cả chúng tôi, cám ơn những cô xơ y tá khác nhiều như cám ơn tôi vậy, vì đã quan tâm chăm sóc anh tử tế. Cách chia tay của anh quy củ đến mức làm tim tôi nhói đau, nhưng tôi nghĩ những người lính giỏi nhất biết rõ những trận đánh nào cần phải tránh xa. Cứ thế, anh bị đưa ra khỏi cuộc đời tôi rồi được đặt vào bàn tay chăm sóc của những người khác. Tôi tự nhủ làm thế là tốt hơn cả, và tôi thậm chí còn quyết tâm bắt mình phải tin điều đó.

Đã đến lúc tiến về phía trước. Chúa không ban cho tôi năng lực ngôn ngữ kỳ diệu để dịch những tác phẩm báng thánh bổ thần của các nhà thơ Ý, thế nên tôi đã khóa kín Địa ngục vào trong rương của mình. Tôi tự nhủ tình cảm tôi dành cho anh thực sự chẳng hơn gì một thử thách, để tôi có thể vượt qua mọi ham muốn thế tục và vì thế có thể phụng sự Chúa hết lòng hết dạ hơn. Tôi dự tất cả các buổi cầu nguyện và làm việc cho tới tận khuya tại phòng viết, tập trung vào Die Gertrud Bibel. Gertrud đã bắt đầu thiết kế bìa cho cuốn sách và đôi khi lớn tiếng băn khoăn liệu trang sức đính kèm có nhiều quá không. Tôi trấn an bà rằng để tôn vinh Chúa thì chẳng có gì là quá xa xỉ cả.

Chuyện này kéo dài được một tuần rồi tôi cũng ngộ ra vài điều. Tôi không thể cứ khóa kín Địa ngục trong rương mãi được, vì nó thực ra có phải của tôi đâu. Trả nó lại cho anh thì mới đúng đạo. Cũng như chuyện các nữ tu không được phép hủy quần áo tư trang của anh, tôi cũng chẳng có quyền giữ sách của anh. Thế này cũng là một dạng trộm cắp, và tôi biết chắc Chúa không hề mong tôi trở thành một tên trộm.

Tôi quyết định lẻn đi gặp cha Sunder, sao lại không chứ? Tôi đã đi đêm đến nhà ông bao lần rồi, vậy tại sao mọi thứ lại phải thay đổi chỉ vì anh ở đó? Nếu tôi tránh không thực hiện thói quen hằng ngày của mình thì có khác nào cho phép sự hiện diện của anh thay đổi nếp sống của tôi - chính là điều mà tu viện trưởng đang cố ngăn cản. Cách duy nhất khiến anh không gây ảnh hưởng đến cuộc sống của tôi nữa là lén lút viếng thăm ngôi nhà anh đang ở.

Cha Sunder ra mở cửa và hất đầu về phía góc nhà nơi anh đang ngồi. "Cái người này," ông nói, "cả tuần nay đã cố hết sức không đả động gì đến tên con rồi."

Khuôn mặt anh trông hồng hào hơn nhiều so với khi tôi gặp anh lần cuối, và khi anh đứng lên thì tôi có thể thấy rõ phần thân trên của anh đã cử động được dễ dàng hơn. Chẳng mấy chốc anh sẽ khỏe lại rồi rời nơi này, tôi nghĩ, và ngay trong giây phút đó, tim tôi như ngừng đập. Tôi quay về phía cha Sunder hốt hoảng hỏi, "Thế con phải làm gì bây giờ?"

Ông nhìn về phía huynh trưởng Heinrich và họ như trao đổi với nhau điều gì đó, một cái nhìn hay một ký ức, trước khi ông lại hướng sự chú ý về phía tôi mà ngọt ngào nói, "Xơ Marianne. Con sẽ rời Engelthal, dĩ nhiên."

Theo như tôi nhớ, cha Sunder đã luôn than trách về những tội lỗi thời trai trẻ của mình, vậy mà giờ đây ông lại đang khuyên tôi bỏ trốn khỏi Engelthal để dấn bước vào cái thế giới tội lỗi ấy sao? Do chẳng bao giờ dám nghĩ tới điều này nên tôi đã thì thầm, nhỏ đến nỗi anh chẳng thể nghe thấy, "Tại sao chứ?"

"Ta đã ở cùng mẹ Christina vào cái đêm con được tìm thấy ngoài cổng," cha Sunder thì thầm đáp lại, "và ta đã tranh luận với mọi người rằng sự hiện diện của con là một dấu hiệu của Chúa. Khi đó ta đã nghĩ rằng Chúa có một dự định đặc biệt nào đó cho con, và ta vẫn luôn nghĩ vậy. Nhưng ta không còn tin rằng những dự định đó có thể được thực hiện tại Engelthal."

Vẫn chưa đủ, tôi muốn ông giải thích thêm nữa.

"Khi người đàn ông này xuất hiện, một lần nữa ta lại có mặt để chứng kiến. Ta đã thấy tình trạng của anh ta, và lẽ ra anh ta đã chết rồi - nhưng anh ta lại sống sót. Không ai có thể nghi ngờ chuyện con là nguyên do của điều kỳ diệu này. Ta không thể không nghĩ rằng cuộc hành trình của con với anh ta vẫn chưa kết thúc, và đó là một cuộc hành trình được Chúa mỉm cười đồng thuận."

"Nhưng chối bỏ lời thề của con là một tội lỗi."

"Ta không tin vào một vị Chúa coi tình yêu là tội lỗi," cha Sunder thì thầm.

Những lời đó chính là sự cho phép tôi cần, và tôi không biết phải nói gì để cảm ơn ông. Tôi vòng tay ôm chặt lấy ông, chặt đến nỗi ông phải xin tôi nới lỏng tay ra.

Tôi quay trở lại phòng và thu dọn chỗ đồ đạc ít ỏi của mình. Vài bộ áo chùng, đôi giày tốt nhất và cuốn kinh cầu của Paolo: tôi chẳng còn gì đáng mang theo nữa. Trời đổ mưa khi tôi bắt đầu quay trở lại nhà cha Sunder, băng qua vườn. Như tất cả các xơ khác khi đi theo lối vườn, tôi đọc kinh Cầu hồn để cầu nguyện cho linh hồn những xơ đã khuất được chôn phía dưới, nhưng những lo nghĩ của tôi về tương lai đã làm tôi run lên, vì cả sợ hãi lẫn hy vọng. Thật tốt vì trời mưa, tôi nghĩ, như thể cơn mưa đó được gửi đến để rũ sạch mọi thứ liên quan đến tu viện khỏi người tôi.

"Trông cô tay xách nách mang quá, xơ Marianne." Đó là giọng nói của xơ Agletrudis. "Ít ra cô cũng đã nói lời tạm biệt với người bảo hộ của mình, tu viện trưởng rồi chứ nhỉ?"

Đó quả là một cú đánh hoàn hảo. Tôi chẳng quan tâm việc Agletrudis và Gertrud sẽ nghĩ gì, nhưng tận trong sâu thẳm trái tim tôi cảm thấy mình đang phản bội mẹ Christina. Nhưng tôi có thể nói gì với bà chứ? Tôi làm sao có thể chịu đựng nổi nỗi đau trong mắt bà. Bà đã luôn tin tôi, thậm chí ngay cả khi tôi chẳng có chút lòng tin vào chính bản thân mình, và bà sẽ không bao giờ ngờ được tôi lại bất trung với bà thế này.

Tôi cứ thế đi thẳng qua Agletrudis mà không thèm trả lời, và cô ta gọi với theo tôi. "Đừng lo gì về mẹ Christina. Tôi sẽ bảo đảm bà ấy không bao giờ quên cô."

Suýt nữa tôi đã quay người lại để hỏi xem cô ta nói thế là ý gì, nhưng làm thế thì được gì chứ? Thế là tôi cứ tiếp tục đi. Tôi biết Agletrudis sẽ không rung chuông thông báo vụ bỏ đi của tôi ngay đâu. Cô ta chẳng thích để tôi ra đi âm thầm lặng lẽ và lấy lại cái ghế trưởng phòng viết đang chờ sẵn quá ấy chứ.

Khi đến được nhà cha Sunder thì tôi đã hoàn toàn rũ bỏ mọi suy nghĩ về Gertrud và Agletrudis ra khỏi đầu. Khuôn mặt mẹ Christina, tuy thế, vẫn còn vương vấn trong tâm trí tôi. Huynh trưởng Heinrich gói cho tôi chút thức ăn và dù cha Sunder đã gần bảy mươi, ông vẫn khăng khăng đòi tiễn chúng tôi một đoạn. Tôi lấy lý do trời mưa, nhưng ông cứ khoác áo tơi lên rồi đi.

Khi chúng tôi đi, cha Sunder ở giữa, tôi không nghĩ gì về tương lai mà là về những gì tôi đã bỏ lại phía sau. Dù được những lời lẽ ân cần của cha Sunder động viên, tôi cũng chẳng thể bác lại sự thật trần trụi và đáng nguyền rủa rằng việc phá vỡ giao ước thiêng liêng của tôi là một tội lỗi. Tôi đã cố lý lẽ này nọ và, sau một nỗ lực đáng kể, tôi thậm chí còn chế ra được một bài tranh luận ra vẻ chính đáng.

Trong tất cả các nữ tu tại Engelthal, tôi là người duy nhất không hề quyết định sẽ sống một cuộc đời như vậy. Dù đến đó khi còn trẻ, họ cũng đã từng biết đến một cuộc sống ngoài những bức tường tu viện; họ đã sống cuộc sống thế tục và biết mình đã mất những gì khi bước chân vào đời sống tu sĩ. Tôi chưa từng có cơ hội đó. Vì thế nếu tôi rời Engelthal cùng anh, và trở lại sau đó, cuộc sống tâm linh sẽ có giá trị hơn. Cuối cùng, ít nhất đó cũng là sự lựa chọn của tôi chứ không phải của ông bố bà mẹ nào đấy đã vứt tôi trước cổng: để biết được rằng liệu cuộc sống tu viện có phải là định mệnh dành cho tôi không, tôi phải rời bỏ nó đã.

Sau khi chúng ta đi được khoảng một dặm, tôi thấy anh rất mệt. Cũng dễ hiểu thôi, vì thương tích của anh rất trầm trọng và từ sau tai nạn đó thì anh mới chỉ vận động chút đỉnh, nhưng anh đã quyết tâm thể hiện sự yếu đuối của mình càng ít càng tốt - để thuyết phục bản thân anh hay tôi rằng anh sẽ ổn, tôi cũng không rõ nữa. Tuy thế, cha Sunder là người dừng lại đầu tiên vì tuổi cao sức yếu. Ông nắm lấy tay anh và nhắc anh chăm sóc tôi thật tốt, và rồi ông kéo tôi qua một bên để chúng tôi có thể chuyện trò riêng tư một chút.

Ông lấy một chiếc vòng cổ cất trong lần áo lễ và nhét vào tay tôi. Mặt dây là đầu mũi tên được lấy ra từ cuốn Địa ngục, rồi ông nói, "Ta đã làm những gì con yêu cầu, xơ Marianne, và cũng đã chúc phúc cho nó rồi."

Tôi định cám ơn nhưng ông đã giơ tay lên. "Ta vẫn còn có thứ muốn trao cho con." Ông lại lần tay trong chiếc áo lễ và lấy ra vài mẩu giấy. "Mẹ Christina không mù cũng chẳng ngốc đâu. Bà ấy không nghĩ con sẽ ra đi thật, nhưng bà cũng liệu trước khả năng đó. Bà ấy đã nhờ ta giữ những thứ này, phòng khi cần đến."

Ông trao cho tôi hai mẩu giấy mà cha mẹ tôi đã để lại trong chiếc giỏ đựng tôi trước cổng. Trên đó, được viết bằng tiếng Đức và tiếng Latin, là những dòng chữ đã đi cùng tôi đến Engelthal. Một đứa trẻ của định mệnh, đứa con thứ mười trong một gia đình tử tế, được đem tới như món quà dành cho Chúa Cứu thế và tu viện Engelthal. Xin hãy đối xử với con bé như Chúa mong muốn.

Chỉ khi đó tôi mới tuôn những giọt nước mắt đã cố giấu suốt từ khi ra quyết định. Trong một thoáng ngờ vực, tôi hỏi cha Sunder ông có thực sự tin rằng tôi đã lựa chọn đúng đắn hay không.

"Marianne, con yêu thương nhất của ta," ông nói, "ta tin chắc rằng nếu không nghe theo tiếng gọi của trái tim mình trong chuyện này, con sẽ mãi mãi phải hối tiếc đấy."
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 33


Nhân lúc ở nhà một mình khi Marianne Engel đi chợ mua tạp phẩm, tôi quyết định dành trọn buổi chiều để đọc tác phẩm Ân điển-cuộc đời. Tôi đang ngồi đọc trong nhà bếp thì nghe tiếng ai đó đi qua cổng chính pháo đài, bước những bước chân như của một con tê giác mẹ hùng hục đi tìm con.

"Marianne?" Giọng một phụ nữ bắn những âm tiết như một khẩu súng khạc ba viên đạn một lúc. Vừa xuất hiện trước cửa phòng ăn, bà lùi ngay lại trước sự hiện diện của tôi. "Anh là người đó hả? Lạy Chúa tôi! Thế này còn tệ hơn tôi tưởng."

Thấp, nhưng thấp kiểu Napoleon; cái kiểu thấp mà luôn kiễng chân lên để cố trông có vẻ cao hơn. Mập, nhưng mập kiểu một quả bóng nước; da thịt không nhão nhoét, nhưng cứ tròn ung ủng như đang tìm chỗ để nổ tung lên. Tuổi tác sao, năm mươi chăng? Rất khó nói chính xác, nhưng có lẽ vậy. Bà chưa có nếp nhăn; khuôn mặt quá tròn mà. Tóc ngắn cũn, má hồng rực; bộ âu phục đen với áo sơ mi trắng, ve áo rộng hất ra phía trước; giày đánh xi bóng lộn; tay chống hông. Mắt bà đầy vẻ hiếu chiến, như thể đang thách tôi đập một cú vào cằm bà ấy. Bà nói, "Anh đúng là một đống bầy nhầy không hơn không kém."

"Bà là ai?"

"Jack," bà trả lời. Cuối cùng tôi đã đứng trước mặt người đàn ông luôn làm tôi cảm thấy bất an, chỉ để thấy rằng đó là một người đàn bà. Nhưng rõ ràng Jack Meredith trông cũng chẳng khác típ phụ nữ luôn mong mình là đàn ông.

"Người môi giới của Marianne phải không?"

"Anh cứ yên tâm là không bao giờ sờ được một xu nào của cô ấy đâu." Bà một tay tự pha cà phê cho mình, một tay cứ không ngừng xỉa xỉa vào tôi. "Cô ấy nói anh được sống ở đây hả?" Có vẻ như Jack biết câu trả lời rồi, vì bà chẳng thèm cho tôi cơ hội trả lời. "Cô ấy định chăm sóc anh kiểu gì? Nói tôi nghe coi!"

"Tôi không cần cô ấy chăm sóc mình," tôi nói, "và tôi cũng chẳng quan tâm gì đến tiền bạc của cô ấy."

"Thế thì là gì? Tình dục à?" Bà bật ra cái từ đó đầy khinh khi để tôi hiểu rằng bà coi tình dục chẳng là gì ngoài một cuộc vật lộn ghê tởm giữa hai cơ thể khác biệt.

"Tôi chẳng có cái ấy đâu."

"Ồ, ơn Chúa vì chuyện đó." Bà bỏng cả môi khi nhấp ngụm cà phê đầu tiên. "Chúa rất yêu những kẻ khờ."

Bà vớ lấy một nắm giấy ăn để lau vệt cà phê dây ra cằm, vừa làm vừa soi tôi với vẻ coi khinh xen lẫn tò mò. "Thế thực ra là đã có chuyện gì xảy ra với anh?"

"Tôi bị bỏng."

"Ồ, tôi có thể thấy thế mà, anh tưởng tôi ngốc chắc?" Bà vo tròn mấy tờ giấy ăn lại rồi ném thẳng vào thùng rác. Bà ném trượt và bực tức với bản thân vì chuyện đó, bà bước vài bước cần thiết để nhặt cục giấy ăn lên thả vào thùng. "Bị bỏng hả? Tệ quá."

"Bà lúc nào cũng cứ thế mà đi thẳng vào nhà à?"

"Tôi đã vào cái nhà này từ khi anh còn là một thằng nhóc ăn trộm đồ uống ở các buổi khiêu vũ trung học cơ," Jack quát ầm lên, "và tôi cũng chẳng thích thú gì cái việc anh ở lại đây cả. Anh có thuốc lá chứ?"

"Tôi không hút."

Bà với lấy gói thuốc lá Marianne Engel để trên quầy. "Trong tình trạng anh hiện nay thì đó có vẻ là một ý hay đấy."

"Thế bà là người môi giới của Marianne à?" Tôi vẫn chưa có được câu trả lời cho câu hỏi lúc đầu.

"Thế và hơn nữa, cậu trai, nên hãy cư xử cho cẩn thận." Jack hít một hơi thật sâu rồi chĩa điếu thuốc về phía tôi vẻ buộc tội. "Cái kẻ chẳng biết gọi là gì này, anh sống ở đây à, thật là một ý tưởng siêu tồi tệ. Tôi sẽ thuyết phục cô ấy bằng được, đồ quỷ nhỏ."

Có lẽ bạn cũng có thể đoán được là tôi rất thích Jack Meredith. Trước hết bởi bà là người duy nhất nói đủ to để tôi không phải bảo bà lặp lại cho tôi nghe. Nhưng hơn thế, tôi đã bị hớp hồn bởi cá tính mạnh bạo của bà: bà cứ như một con gà tây béo tròn nhân hóa được chọn làm nhân vật chính cho tiểu thuyết trinh thám kỳ bí của Raymond Chandler vậy. Tuy nhiên, điểm làm tôi cảm kích bà nhất là bà chẳng có chút cảm thông nào với bệnh nhân bỏng. Chúng tôi nhìn nhau vài phút qua cái bàn. Bà vừa cuộn điếu thuốc lá giữa ngón cái và ngón trỏ vừa nheo nheo mắt, vẻ rất khó chơi, trước khi nói: "Cậu nghĩ mình đang nhìn cái quái gì đấy hả, đồ Khoai Tây Chiên?"

Vài ngày sau, Marianne Engel và tôi ngồi ở hiên sau nhà đợi người ta chở một chuyến đá phiến mới đến, cô bảo với tôi rằng cô đã nhờ Jack lập một tài khoản ngân hàng cho tôi. Khi tôi nói tôi chả tưởng tượng được Jack lại vui vẻ chịu làm việc ấy, Marianne Engel nói, "Bà ấy sẽ làm những gì được nhờ thôi. Jack chỉ giỏi dọa chứ không làm gì đâu."

TA BIẾT CHÚNG TA CÓ THỂ LÀM ĐƯỢC NHỮNG GÌ VỚI MỘT CÁI THẺ TÍN DỤNG ĐẤY.

Cuộc nói chuyện của chúng tôi lan man đôi chút, trước khi tôi quay lại hỏi cô về đoạn kết câu chuyện của chúng tôi: Tôi muốn biết áo tơi là cái gì. Marianne Engel giải thích đó là một loại áo mưa mà các tu sĩ hay dùng, được trang trí với những cảnh trong kinh Tân ước. Tôi lại hỏi thế áo mưa của cha Sunder có hình gì không. Cô xác nhận là có. "Và tôi sẽ nói cho anh biết đó là hình gì," cô ngập ngừng nói như trêu ngươi, "khi câu chuyện tiếp tục."

Khi xe tải đến nơi, cô vỗ tay cuồng nhiệt như một đứa trẻ được đi dự hội và chạy biến ra chỗ cửa tầng hầm để tra chiếc chìa khóa to tướng vào ổ khóa khổng lồ. Cô đặt những con lăn sắt xuống đất để đẩy đá vào nhà. Nhìn những tảng đá biến mất qua khung cửa, tôi lại liên tưởng đến một giáo dân đói khát đang ngửa tay ra nhận cứu trợ. Cô đứng lùi sang một bên, khẩn khoản nhắc mấy người vận chuyển nhẹ tay với những bạn nhỏ của mình. Họ nhướng mắt nhìn như thể cô là kẻ điên nhưng vẫn tiếp tục công việc. Ngay khi họ đi khỏi, cô nhanh chóng cởi quần áo rồi thắp nến. Sau khi bật một đĩa thánh ca do nhóm Gregorian trình bày, cô nằm dài ra trên một phiến đá mới và chìm vào giấc ngủ mê mệt đến tận sáng hôm sau.

Cô ào vào phòng tôi, miệng toe toét cười và tuyên bố đã nhận được những chỉ dẫn tuyệt vời, nhưng cô sẽ tắm cho tôi đã rồi mới bắt tay vào việc. Khi cô kỳ cọ cho tôi, tôi có thể cảm nhận cô chẳng có chút hứng thú nào - ngón tay cô muốn những phiến đá, chứ không phải da thịt - nhưng cô vẫn thấy cần phải làm vì đó là nhiệm vụ của mình. Vừa tắm cho tôi xong, cô liền chạy ngay xuống tầng hầm. Tôi ngồi trong phòng khách ở tầng giữa ngôi nhà, cố tập trung đọc sách, nhưng bị phân tán bởi tiếng đục đẽo của cô. Tôi chuyển lên tháp chuông để nghiền ngẫm những thứ khác - video, đọc sách, trêu con Bougatsa với cái khăn treo trên dây - nhưng chỉ được vài tiếng, nỗi tò mò của tôi đã trở nên quá lớn rồi. Tôi mở cửa dẫn xuống tầng hầm và nhón vài bước xuống cầu thang để rình Marianne Engel.

Tôi không cần lo lắng cô sẽ phát hiện sự xuất hiện tự tiện của tôi, vì cô chăm chú làm việc đến mức chẳng nhận ra tôi có mặt ở đó. Trước sự ngạc nhiên của tôi, cô ở trần mà tạc tượng; tôi cảm thấy hơi bối rối khi nhìn cô tạc tượng thoăn thoắt với những dụng cụ kim loại sắc nhọn. Đống dụng cụ giận dữ lướt qua lướt lại nhưng đôi tay cô vẫn trông thật chắc chắn, tôi cứ ngồi đó ngơ ngẩn trước vũ điệu của kim loại, của đá, và của da thịt.

Nói Marianne Engel "tạc" thôi vẫn chưa đủ: còn nhiều hơn thế nữa kia. Cô cứ vuốt ve tảng đá cho tới khi nó không thể chịu hơn được nữa và phải nhả con grotesque ở bên trong ra. Cô đã dụ dỗ những gargoyle ra khỏi hang đá của chúng. Cô yêu việc đưa chúng ra khỏi đá.

Khi đã hàng giờ trôi qua mà cô vẫn không hề để ý đến tôi, tôi càng lúc càng ngạc nhiên trước sự bền bỉ của cô. Cô vẫn tiếp tục làm việc cho tới tận lúc tôi đi ngủ, và còn làm xuyên đêm. Ngày tiếp theo cô cũng làm việc như vậy, cũng đẽo tạc thâu đêm. Tổng cộng, cô đã lao động hơn bảy mươi tiếng đồng hồ, uống hàng lít cà phê, hút hàng trăm điếu thuốc lá. Đây chính là phong cách làm việc mà cô từng nói - tạc không ngừng nghỉ suốt mấy ngày liền - nhưng tôi chưa bao giờ tin cô có thể làm được như thế. Tôi đã nghĩ đó chỉ là lời nói phóng đại về cách làm việc nghệ sĩ của cô mà thôi. Nhưng không phải thế. Kẻ đa nghi có thể nghĩ rằng cô chờ tôi đi ngủ rồi tự cho mình đánh một giấc, nhưng những tiếng búa đập liên hồi của cô đã làm tôi trằn trọc suốt đêm. Vào buổi sáng đầu tiên, cô cũng cố ép mình rời khỏi công việc một lúc để tắm rửa cho tôi, nhưng tôi có thể thấy - có thể cảm nhận cô chỉ miễn cưỡng làm việc đó. Mắt cô ánh lên nét lo lắng bồn chồn, gần như điên cuồng, khi cô chà miếng bọt biển lên người tôi.

Khi đã làm việc được khoảng sáu mươi tiếng, cô nhờ tôi đặt hai cái pizza chay cỡ lớn. Bình thường thì cô cũng chẳng phản đối việc ăn thịt, nhưng tôi nhanh chóng nhận ra khi đang đục đẽo, cô sẽ điên cuồng từ chối món thịt. "Không thịt! Không động vật!" Khi tôi mang mấy chiếc pizza xuống, cô lại đi về phía góc phòng để xin phép Ba Vị Chủ Nhân của mình - "Jube, Domine benedicere" - và không chịu ăn cho đến khi họ cho phép. Cô ngồi vắt vẻo giữa đống đá vụn và ngốn ngấu như một con quái thú, hầu như chẳng để ý gì đến sự có mặt của tôi. Một vệt pho mát chảy dài từ miệng cho tới ngực trái cô, và tôi thực sự muốn lướt tay như một lính đặc công pho mát để cào cấu bộ ngực đáng yêu của cô. Ánh nến nhảy nhót trên làn da trắng như trứng gà bóc, làm ánh lên những dòng mồ hôi chảy xuống những hạt bụi đá phủ đầy đôi cánh thiên thần trên lưng cô. Sự hòa quyện của những hình xăm và vẻ xuất thần của cô làm cô nửa giống nữ tu thông thái Hildergard von Bingen, nửa chẳng khác gì mafia Nhật.

Cái đài của cô hàng giờ qua chơi đủ mọi thể loại, từ những tác phẩm của Carl Orff; Symphonie Fantastique của Berlioz, tổ khúc giao hưởng thứ chín của Beethoven; Poe (ca sĩ Poe, chứ không phải nhà văn Allan Poe đâu nhé); album đầu tay của Milla Jovovich; toàn bộ album của The Doors; nhạc của Robert Johnson; Cheap Thrills của Big Brothers và ban Holding Company (chơi tới bốn lần một lúc); và tuyển tập ca khúc của Bessie Smith, Howlin" Wolf và Son House. Thời gian cứ thế trôi, nhạc cứ thế to lên và càng lúc cô càng lựa chọn những giọng ca trầm đục hơn. Dù tai tôi chẳng còn thính nhạy, cuối cùng tôi cũng phải thoái lui về cái tháp chuông nhà thờ với đôi bông bịt tai.

Khi xong việc, cô hầu như không đứng nổi. Con quái vật vừa được hoàn thiện là một cái đầu người có sừng, đặt trên thân một con rồng đang quỳ, thế rồi cô hôn đôi môi lạnh lẽo của nó trước khi bò lên cầu thang rồi đổ ập xuống giường, người vẫn đầy bụi và mồ hôi.

"Ồ, rõ ràng khủng hoảng tinh thần là bệnh thường gặp của các nghệ sĩ," Gregor vừa nói qua bàn vừa rót một ly bourbon ông ta mới mua cho chúng tôi. Mặt trời đang lặn dần và chúng tôi ngồi trên hiên sau; Marianne Engel vẫn đang ngủ cho lại sức. Sau khi đã nhắc đi nhắc lại rằng ông ta không thể tiết lộ bất kỳ điều gì cụ thể về việc điều trị trước đây của cô, ông ta cũng nói mình rất vui nếu được trả lời những câu hỏi chung chung.

"Sau khi đọc hết chỗ sách ấy," tôi nói, "tôi đã rút ra một kết luận rằng những triệu chứng của cô ấy có vẻ giống của người bị bệnh tâm thần phân liệt hơn là của người bị khủng hoảng tinh thần."

"Ừm. Có lẽ. Có thể cả hai ấy." Gregor trả lời, "hoặc không cái nào cả. Tôi chẳng biết được. Có lẽ đó là hội chứng rối loạn thần kinh chức năng. Cô ấy có bao giờ nói vì sao mình phải làm liên tục đến mức thế chưa?"

"Cô ấy nghĩ mình đang làm theo những chỉ dẫn của Chúa. Cô ấy nghĩ cô ấy đang trao những trái tim còn thừa trong ngực mình cho chúng."

"Ồ, thật là kỳ lạ." Gregor nhấp môi. "Ê, cái này hay đấy. Nó cho tôi hiểu thêm về tình trạng của Marianne."

"Không phải việc của ông là biết những thứ này sao?"

Gregor nhún vai. "Những điều tôi không biết có thể chất đầy cả một cái nhà kho to đùng. Cô ấy có uống thuốc không?"

"Không. Cô ấy ghét thuốc còn hơn ghét bác sĩ ấy. Không có ý gì đâu nhé."
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 34


Tôi hỏi xem liệu cô có thể bị ép uống thuốc bởi một quy định gì đó không. Gregor giải thích chỉ người giám hộ hợp pháp mới có thể sử dụng biện pháp đó. Tôi gợi ý Jack, người tôi mới phát hiện vừa là bảo hộ vừa là quản lý cho cô, nhưng Gregor giải thích người bảo hộ thì chỉ có quyền hạn với tài sản của cô, chứ không có quyền gì với các quyết định tự thân của cô cả. Không ai có thể bắt một bệnh nhân phải vào bệnh viện trừ quan tòa, Gregor nói, và cũng chỉ được trong vài ngày thôi. Tôi cắt ngang là tôi không hề muốn cô phải vào viện, tôi chỉ muốn cô dùng thuốc thôi. Gregor nói rằng tất cả những gì tôi có thể làm là nhã nhặn đề nghị cô thôi. Rồi ông ta hỏi tôi xem liệu chúng tôi có thể ngừng nói về bệnh trạng của cô được không; dù ông ta thấy mình vẫn chưa xâm phạm quyền bảo mật của bệnh nhân, nhưng rõ ràng ông ta lo ngại mình đang tiến quá gần lằn ranh đó.

Chúng tôi đã bỏ dở chủ đề đó như thế. Tôi hỏi ông ta về Sayuri và ông ta kể với tôi rằng hai người họ ngày càng gặp nhau nhiều hơn. Mới có một cuộc hẹn tối qua, nói thật là thế. Rồi ông ta phản pháo rằng sao tôi cứ tọc mạch chuyện tình cảm của ông ta, trong khi chẳng bao giờ hé lộ chuyện riêng. Tôi cười xòa - Chuyện tình cảm nào chứ? - nhưng ông ta đã trả đòn. "Anh chẳng lừa được ai đâu."

Một khoảng lặng xen vào cuộc chuyện trò, nhưng đó là một khoảng lặng giàu ý nghĩa. Gregor lại uống một ngụm bourbon nữa và chúng tôi cùng nhau nhìn về phía mặt trời lặn. "Một đêm đẹp nhỉ," ông ta nói.

"Cô ấy chạm vào tôi," tôi bật ra.

Điều này làm Gregor bất ngờ. "Anh nói thế là ý gì?"

"Lần đầu tiên khi cô ấy tắm cho tôi và nhìn thấy... háng của tôi" - Gregor, nhờ vị trí của ông ta ở bệnh viện, đã biết về mất mát của tôi - "cô ấy kiểm tra nó. Lướt những ngón tay của mình lên khắp chỗ sẹo."

"Cô ấy đã nói gì?"

"Rằng cơ thể tôi có thế nào cũng không ảnh hưởng gì đến cô ấy."

"Anh có tin cô ấy không?" ông ta hỏi.

"Tôi không biết." Tôi lắc lắc chỗ rượu bourbon trong ly của mình. "Dĩ nhiên là có ảnh hưởng chứ. Nó có còn nữa đâu."

Gregor chau mày. "Tôi thất vọng đấy."

Giờ ông ta lại làm tôi bất ngờ. "Vì cái gì chứ?"

"Câu trả lời của anh," ông ta trả lời. "Vì tôi tin cô ấy, và tôi nghĩ anh cũng nên thế."

Lại một khoảng lặng nữa trong cuộc đối thoại, lần này người phá vỡ lại là tôi. "Đêm đẹp nhỉ?"

Ông ta gật đầu. Tôi đã không nói với ông ta rằng nhãn rượu bourbon Gregor mua cùng loại với chai rượu đã đổ lên đùi tôi, lấy mất cái vật đang là chủ đề nóng hổi hiện tại. Gregor mang rượu đến làm quà là có ý tốt, thế nên ích lợi gì đâu nếu làm ông ta phải nghĩ ngợi vì chuyện đó cơ chứ?

Tôi đã tưởng tượng cốc rượu bourbon đó sẽ chất đầy vị của những ký ức tồi tệ; ngược lại, nó chỉ có vị rượu ngon mà thôi. Và uống thật tuyệt: Marianne Engel cứ hay bám lấy cái suy nghĩ kỳ cục là morphine và bia rượu mà trộn với nhau thì thật tệ, nhưng tôi ngờ rằng Gregor đang cố cho tôi thấy con người hoang dại của ông ta bằng cách cho phép tôi làm một hai cốc.

Vài ngày sau, khi cô đã hồi phục, tôi hỏi Marianne Engel tại sao cô nghe đài trong lúc tạc tượng. Cô nhắc tôi nhớ rằng thời gian tạc càng lâu thì những gargoyle càng gào thét dữ dội hơn, và bật nhạc to là cách hiệu quả để át đi tiếng thét của chúng. Cô giải thích rằng khi cô đẽo xuyên qua những lớp đá thừa để tìm hình dạng thật sự của gargoyle, cách duy nhất để biết cô đã chạm đến lớp ngoài của bức tượng hay chưa là cứ đẽo thẳng vào nó. Nếu gargoyle gào thét trong đau đớn. Marianne Engel sẽ biết là mình đã đẽo đủ sâu.

Tôi hỏi liệu cô có sợ mình sẽ làm át cả những chỉ dẫn quan trọng của Chúa không. Cô cười trấn an tôi rằng trong cả thế giới này, chẳng đâu có được thứ âm nhạc đủ lớn để át những tiếng chỉ dẫn của Người cả.

Vấn đề chủ yếu mà các bệnh nhân bỏng phàn nàn là phía bảo hiểm chỉ chi trả độc có một bộ quần áo tạo áp suất, bất chấp việc những bộ áo quần này tốn hàng ngàn đô la và phải mặc lên người suốt hai mươi ba tiếng mỗi ngày. Thời gian còn lại, người bệnh sẽ được tắm rửa, và nếu người chăm sóc đang bận tắm cho người bệnh rồi, thì làm sao người ấy có thể cùng lúc giặt cái bộ áo áp suất đó chứ? Đây là lý do tại sao bắt buộc phải có ít nhất hai bộ. "Nhưng giá cả!" những công ty bảo hiểm khóc thét lên khi họ từ chối chi trả. Hơn nữa, dù có được giữ gìn cẩn thận đến đâu chăng nữa thì những chất liệu tạo áp suất này cũng chỉ bền được độ ba tháng mà thôi.

Những công ty bảo hiểm không thành vấn đề với tôi, vì mọi chi phí của tôi đã được Marianne Engel bao hết rồi. Nhưng tôi vẫn phải băn khoăn về va li tiền dưới gầm chiếc giường xương, làm sao cô có thể cáng đáng nổi tất cả những thứ này chứ? Cô luôn luôn trấn an tôi rằng khả năng tạc tượng tuyệt vời của cô đã nhận được những phần thưởng xứng đáng và rằng cô cũng chẳng muốn tiêu tiền vào việc gì cả. Tôi vẫn không thấy chắc chắn lắm, nhưng nếu cố tranh cãi thì tôi sẽ ra sao đây? Những vết thương của tôi sẽ không được chữa trị ư?

Bộ quần áo và mặt nạ tạo áp suất của tôi cuối cùng cũng hoàn thành vào giữa tháng Ba. Khi Sayuri trao chúng cho tôi, tôi thấy cảm kích tức thì trước tâm sức của tất cả mọi người. Chiếc mặt nạ đã được đánh giấy ráp để có thể nhẹ nhàng bám lấy khuôn mặt tôi. Sayuri cũng cho tôi biết đám sinh viên thực tập đã nghiên cứu kỹ lưỡng những phần sẹo lồi trên mặt tôi, theo đó mà chuẩn bị tấm mặt nạ nhựa tương ứng.

"Anh cũng cần dùng cả cái này nữa," cô lôi một thiết bị kỳ cục có gắn lò xo ra. Tình trạng bỏng của khuôn mặt đã làm tôi trở nên cực kỳ nhạy cảm với khóe môi - mô sẹo quanh mép tôi - những phần ấy, nếu không được chú ý cẩn thận, sẽ làm tôi ăn nói khó khăn trong tương lai. Sau khi đặt cái banh miệng vết thương vào miệng theo đúng quy cách, tôi bắt đầu kéo mặt nạ lên mặt. Chiếc mặt nạ phải ở nguyên vị trí ấy mọi lúc mọi nơi, chỉ trừ khi tắm rửa và chăm sóc da, thậm chí cả lúc tôi ngủ. Tôi hỏi Marianne Engel trông tôi thế nào (trong lúc đó tôi phát hiện ra cái banh miệng vết thương đã làm chất giọng méo mó của tôi trở nên tệ hơn) và cô đáp tôi trông giống như một người đàn ông sẽ sống rất thọ.

Tôi soi gương. Như thể một địa đồ sẹo chằng chịt trên khuôn mặt tôi vẫn chưa đủ, giờ tôi còn phải chịu cảnh địa đồ ấy bị chiếc mặt nạ nhựa trong đè dẹp lép. Vùng da bình thường đỏ tấy giờ đã chuyển trắng bệch dưới áp suất và cái banh miệng vết thương đã khiến miệng tôi vều ra thành một nụ cười gằn đáng tởm. Mọi khiếm khuyết đều được phóng đại tối đa, và tôi trông chẳng khác nào thằng con hoang của bác sĩ ăn thịt người Hannibal Lecter và Ma nữ trong nhà hát Opera.

Sayuri trấn an tôi rằng phản ứng tiêu cực lúc đầu là rất bình thường, vì tất cả những bệnh nhân bỏng - gồm cả tôi nữa, dù đã được thông báo rõ ràng - vẫn cứ đinh ninh chiếc mặt nạ sẽ giúp họ che giấu khuôn mặt mình. Nhưng thực tế thì ngược lại. Nó sẽ không che chắn cho tôi và giúp tôi đối mặt với mọi thứ; nó là cái đĩa thí nghiệm dưới kính hiển vi của thế giới.

Sayuri giải thích các trình tự chuẩn của việc mặc bộ quần áo tạo áp suất và chỉ cho Marianne Engel cách buộc các sợi dây lại với nhau. Trong khi họ đang rối rít với các chi tiết kỹ thuật, tôi một mình tận hưởng cảm giác mới lạ, như trượt vào nắm tay siết chặt của một vị thần cuồng nộ nào đó. Đó chỉ là vải thôi mà, tôi tự nhủ. Đó không phải là chính bản thân mình. Dù sao tôi vẫn thấy lạnh xương sống.

DỄ CHỊU THẬT ĐẤY NHỈ? NHƯ THỂ NGƯƠI ĐANG BỊ CHÔN SỐNG VẬY. Con rắn sung sướng cười nhạo tôi. TA ĐANG TỚI ĐÂY.

Tôi thấy Marianne Engel đang chờ mình ở phòng ăn, mặc một bộ kimono lụa màu xanh ngọc. Họa tiết thêu cảnh, đứng dưới cây anh đào nở hoa gần dòng sông cá chép tung tăng bơi lội, mũi thêu trau chuốt. Trên nền trời đầy sao của bộ áo ấy, ánh trăng tròn chiếu sáng đôi tình nhân như thể đó không chỉ là nguồn sáng mà còn là người bảo vệ tình yêu của họ nữa.

Cô hỏi tôi đã sẵn sàng ăn chưa. Tôi trả lời rằng rồi. Tôi khập khiễng bước ra, phát hiện thực đơn hôm nay là món Nhật.

"So desu ne.(26) Anh giỏi quan sát thật," cô khẽ cúi xuống nói. Vẻ sóng sánh trên bộ kimono của cô tan vào chiếc khăn xanh da trời thắt ngang eo, được kết thành một cái nơ obi sau lưng. "Tôi đang đọc Makura no soushi."

"Ừm, tôi đã thấy nó trên giá sách của cô. Gối-cái gì đó, có phải không?"

"Sách gối đầu giường của Sei Shounagon. Một tác phẩm văn học rất nổi tiếng của Nhật Bản, viết vào thế kỷ thứ mười, và cũng là cuốn tiểu thuyết đầu tiên trên thế giới. Hay ít nhất cũng là những gì họ nói, ai mà biết chắc được? Tôi đang tính làm gì đó với nó. Anh sẽ phải ngạc nhiên khi biết rằng rất nhiều tác phẩm vĩ đại của Nhật Bản không có bản dịch tiếng Latin chuẩn xác."

"Không, tôi chẳng ngạc nhiên đâu."

Marianne Engel nhanh nhẹn bước những bước ngắn vào trong bếp, cô thậm chí còn đi cả geta, guốc mộc truyền thống của Nhật. Cô trở lại với một khay sushi đầy màu sắc: những lát cá trắng (và cam và bạc) nằm gọn trên lớp cơm nắm; những hạt trứng cá đỏ rải trên lớp tảo biển; tôm hùm cuộn vào nhau; cứ như đang ôm nhau thắm thiết trong những giây phút cuối cùng trên trái đất ấy. Có cả inarizushi, cơm nắm được bọc trong lát đậu phụ vàng óng ngọt ngào. Gyoza, sủi cảo làm từ thịt bò hoặc thịt lợn, đẫm nước xốt đen tuyền cay nồng. Yakitori, những dải thịt gà và thịt bò nướng trên xiên gỗ. Rồi thì onigiri, cơm nắm hình tam giác gói trong tảo biển; mỗi nắm cơm, cô giải thích, lại có nhân khác nhau, rất ngon: mận chín, trứng cá, gà, cá ngừ hay tôm hùm.

Chúng tôi lau tay với o-shibori, một loại khăn ướt, rồi cô đập hai lòng bàn tay vào nhau. Cô nói, "Itadakimas!" (câu mời trước khi ăn của người Nhật), trước khi khấn thêm bài kinh bằng tiếng Latin quen thuộc.

Cô chỉ tôi cách khuấy xúp miso đúng kiểu và tuyên bố rằng ăn mì ramen thì phải xì xụïp to vào vì nó không chỉ làm mì nguội mà còn làm mì có vẻ ngon hơn nữa ấy. Dù cô uống rượu sake, cô cứ khăng khăng bắt tôi uống mỗi trà ô long; cô vẫn không bỏ được cái suy nghĩ là rượu và morphine không được uống cùng nhau. Cứ khi nào cốc của tôi vơi quá nửa, cô lại trang trọng nghiêng đầu đổ đầy cốc. Khi tôi cắm đôi đũa vào bát cơm để chúng có thể đứng thẳng như hai cái cây mọc trên đỉnh núi tuyết, cô ngay lập tức lôi chúng ra. "Như thế là không tôn trọng người chết."

Khi cuối cùng cũng ăn xong, cô sung sướng xoa hai tay vào nhau. "Tối nay tôi sẽ kể cho anh nghe câu chuyện về một người phụ nữ khác cũng tên là Sei, dù người này phải sinh sau cuốnSách gối đầu giường hàng trăm năm cơ."
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 35


Ngày xửa ngày xưa ở Nhật Bản, có một cô bé tên là Sei, con người thợ thổi thủy tinh Yakichi. Lúc đầu cha cô rất thất vọng khi thấy cô không phải con trai, nhưng nỗi thất vọng của ông tan biến ngay khi ông ôm cô vào lòng. Kể từ giây phút đó, ông luôn hết lòng vì cô và cô cũng vậy.

Yakichi hãnh diện chứng kiến Sei từ một cô bé hiếu động trở thành một thiếu nữ thông minh tuyệt vời. Vẻ xinh đẹp của cô là điều không phải bàn cãi, và trong nét đẹp ấy, Yakichi có thể nhìn thấy hàng lông mi và gò má người vợ đã khuất của mình. Người mẹ mất khi Sei còn nhỏ và điều này càng làm tình cha con giữa họ thêm sâu nặng.

Trước ngưỡng cửa trưởng thành, Sei quyết định sẽ theo bước cha mình. Yakichi cảm thấy cực kỳ vui sướng trước quyết định của con gái và niềm hạnh phúc của ông giờ đã trọn vẹn: cuối cùng thì những tri thức của ông cũng không phải theo ông xuống mồ. Sei nhận lấy chức danh Thợ Thổi Thủy Tinh Học Việc và thể hiện năng lực nổi trội cũng như luôn có những tiến bộ vượt bậc. Cô có đôi bàn tay tinh tế và quan trọng hơn, cô có thể hình dung ra vật đó trước cả khi nó được thổi. Kỹ năng thì lúc nào cũng có thể học được, Yakichi biết thế, nhưng Sei được ban cho khả năng tưởng tượng ngay từ khi mới sinh. Cô có thể nhìn thấy những vật đẹp đẽ ở nơi người khác chỉ thấy hư không.

Sei học hành nghiêm túc dưới sự chỉ dẫn của cha mình, biết cách đốt lò sao cho đủ nóng và thổi thế nào cho đủ mạnh. Cô học cách đọc chỉ dẫn từ những đốm sáng rực rỡ của mảnh thủy tinh được đốt nóng. Cô chăm chỉ học cách phát triển khả năng điều khiển hơi thở của mình; vì cô biết rằng với hơi thở, mình có thể sáng tạo cả thế giới. Cô tưởng tượng mình đang thổi sự sống vào thủy tinh, và cứ mỗi tuần trôi qua, Sei càng cảm thụ rõ hơn vẻ đẹp của những đồ vật mà cô có thể vẽ nên trong trí tưởng tượng.

Yakichi bắt đầu đưa Sei đến chợ phiên cuối tuần trong vùng, ở đó ông có một quầy hàng bán những món đồ họ làm ra. Đàn ông bắt đầu bu lại như kiến. Họ nói muốn xem đồ thủy tinh nhưng thật ra, dĩ nhiên, họ đến để ngắm người thiếu nữ quyến rũ ấy. "Bản thân cháu mới giống thủy tinh làm sao," một ông lão không thể kìm được đã nói thế, rồi chạy biến đi như một con cua bò ngang trên bờ biển khi nhận ra rằng những từ đó thật sự đã vuột khỏi mấy cái càng của mình.

Rất nhanh chóng, hàng của họ đã bán hết veo trước giờ ăn trưa. Hầu hết những món đồ ở đó đều được cánh đàn ông mua - thậm chí để làm quà tặng vợ - đơn giản vì họ muốn được sở hữu chiếc bình chứa hơi thở của Sei.

Yakichi rất hài lòng. Công việc kinh doanh phát đạt hơn bao giờ hết, tài chính cũng tốt, và Sei dần trở thành một thợ thổi thủy tinh giỏi. Nhưng dù thành công như vậy, Yakichi chỉ ước kiếm được một người chồng cho con gái mình. Dù là một người cha cưng con hơn trứng, ông vẫn muốn hưởng tất cả những gì cuộc đời ban tặng, và ông nghĩ, một đám cưới "ra tiền" sẽ củng cố thêm lợi ích dòng họ.

Thế là ông bắt đầu sàng lọc trong đám đàn ông hay qua lại gian hàng của mình. Họa sĩ, chủ đất, ngư dân, nông dân, binh lính và samurai, đủ cả. Chắc chắn rồi, ông mỉm cười nghĩ thầm, chẳng thiếu gì người đến cầu hôn. Xét cho cùng, Sei có nhan sắc, tài năng, sức khỏe và một nhân cách tốt đẹp, lại còn chung thủy nữa. Cô sẽ trở thành một người vợ đảm và một người mẹ tốt, bất cứ ai cũng có thể thấy thế, và việc dàn xếp một đám cưới có lợi là quá dễ dàng.

Khi Yakichi đến gần con gái để gợi ý điều đó, cô đã rất choáng váng. "Con biết truyền thống là như thế," cô khóc nấc lên, "nhưng con chưa bao giờ nghĩ cha lại đòi hỏi điều đó ở con. Con sẽ kết hôn vì tình yêu, và chỉ vì tình yêu mà thôi."

Sức mạnh trong lời buộc tội của con gái đã làm Yakichi bất ngờ, vì từ trước đến nay cô chưa bao giờ làm trái ý ông. Cưới xin là để củng cố địa vị gia đình, ông lão nghĩ vậy; cưới xin không phải vì tình yêu. Nhưng Sei cứ khăng khăng tin như vậy, và vì rất yêu quý cô, Yakichi cũng chấp thuận. Nhưng ông vẫn lo ngại vì chưa có ai trong trái tim con gái mình cả.

Nhưng, như thường thấy trong các chuyện tương tự, Sei nhanh chóng gặp một thanh niên và toàn tâm toàn ý yêu anh. Lúc đầu, Yakichi rất bất mãn khi thấy Sei chọn Heisaku, một anh nông dân chân chất không tiền chẳng tương lai. Tuy nhiên, cậu trai ấy lại có một trái tim trong sáng, chân thật. Vì thế, biết đâu...

Yakichi nhớ về người vợ đã khuất của mình. Dù đám cưới của họ là do hai bên gia đình sắp đặt, họ vẫn rất may mắn và Sei sinh ra là kết tinh của tình yêu hai người. Hạnh phúc khi nghĩ đến sự may mắn của chính bản thân, Yakichi quyết định không thể để con gái chịu bất hạnh. Ông chúc phúc cho Sei và Heisaku.

Chính lúc này một trong những tác phẩm đẹp nhất của Sei - một bông hoa bằng thủy tinh - được một tên đầy tớ của daimyo, chúa đất địa phương, tặng cho hắn. Mọi người trong vùng đều căm ghét và kinh sợ tên chúa đất này vì tính khí tàn độc của hắn. Hắn chẳng hơi đâu mà quan tâm đến hoa thủy tinh và tức giận truy vấn hàm ý của đồ vật vớ vẩn này.

Tên đầy tớ, luôn luôn chớp thời cơ để tìm kiếm ân sủng của chủ, đã nói, "Con nghĩ ngài có lẽ muốn biết, thưa chủ nhân, rằng bông hoa thủy tinh này được tạo nên bởi người phụ nữ đẹp nhất thế gian." Tai tên daimyo dựng đứng lên và tên đầy tớ mau mắn thêm thắt, "Và cô ấy vẫn chưa kết hôn." Tên đầy tớ, anh thấy đấy, gần đây đã nghe lỏm được chuyện tên daimyo nói về khát vọng sinh con đẻ cái của hắn, hắn đã nói rằng chỉ người phụ nữ đẹp và tài năng nhất mới có thể xứng đáng mà thôi.

Tên daimyo nhanh chóng lập kế hoạch hành động. Hắn gửi một thông điệp rằng hắn muốn có một bức tượng thủy tinh lớn, và hắn nghe đồn Sei và cha cô là những người thợ thổi thủy tinh lành nghề nhất Nhật Bản. Vì lý do này, bức thông điệp cho biết, hắn muốn triệu tập họ.

Tên daimyo coi việc đặt làm tượng thủy tinh cũng hão huyền như đặt làm thang bắc lên mặt trăng vậy. Hắn chỉ khoái sở hữu đất đai lâu đài với gia súc, đồng ruộng mà thôi. Và một người phụ nữ đẹp. Phải, điều đó rất hấp dẫn hắn. Nhưng Sei và Yakichi chẳng mảy may biết, trong đầu họ chỉ có niềm hân hoan vui sướng mà thôi. Họ tưởng tượng ra đây có thể là một trong những nhiệm vụ vinh quang đầu tiên của mình - nói ngắn gọn, giấc mơ thành hiện thực của họ. Vì thế hai cha con chất hành lý lên cái xe hàng nhỏ và hướng về phía lâu đài của tên chúa đất.

Họ được đưa vào chính điện, nơi tên chúa đất đang sốt ruột đợi, và hàng lông mày của hắn nhướng cao lên khi nhìn thấy Sei. Ánh mắt hắn dõi theo cô khắp căn phòng; với Sei, hắn như một con gián trườn trên da cô vậy. Cô có thể thấy ngay đây chẳng phải người tử tế, khi hắn ngồi đó lật qua lật lại bông hoa thủy tinh của cô trên bàn tay nhớp nhúa. Nhưng cảm giác của mình đâu có quan trọng, cô tự nhủ, và tất cả những gì cô có thể làm là cố gắng hết sức để thể hiện mình.

Cha con Sei trình cho tên daimyo những tác phẩm đẹp nhất của họ và giới thiệu chi tiết cho hắn. Cô cho hắn xem mấy con sếu pha lê và cá gai bong bóng thủy tinh với làn da trong suốt. Cô trưng ra những cốc rượu sake nhuộm màu và những chiếc ly nặng trịch. Cô bày những cái đĩa cùng ngựa đồ chơi và những chiếc chuông gió cứ ngân lên thánh thót mỗi khi gió nhẹ thổi qua. Khi hai cha con đã xong xuôi, các tác phẩm thủy tinh bảy sắc cầu vồng hiện ra trước mặt tên chúa đất.

Tên chúa đất rất ấn tượng, chắc chắn rồi, nhưng bởi người nghệ sĩ, chứ không phải những tác phẩm nghệ thuật. Sei là một trong những cô gái hấp dẫn nhất hắn từng thấy. Hắn vỗ hai tay vào nhau khi Sei và cha mình cúi gập người xuống. "Ta đã quyết định rồi," hắn thông báo.

Hai cha con nín thở, một việc rất bất thường đối với thợ thổi thủy tinh. Họ hy vọng, chờ đợi nhưng những lời được nói ra lại nằm ngoài sự mong đợi của họ. Vừa chỉ tay vào bông hoa thủy tinh, tên chúa đất vừa nói, "Sei rất thích hợp trở thành vợ ta và sinh con cho ta. Cô ta phải thấy mình may mắn và hạnh phúc đến chừng nào."

Sei biết đây là một kẻ rất quyền thế và chống lại hắn là việc không hề đơn giản. Tuy nhiên, cô cũng không thể kiềm chế. "Nhưng tôi đã yêu người khác rồi."

Yakichi ngay lập tức xin thứ lỗi về sự bất nhã của con gái mình. Tuy thế, khi bị ép phải khai, ông cũng xác nhận những lời cô nói là sự thật. Tên chúa đất giận điên lên và vô tình bông hoa thủy tinh vỡ nát trong nắm tay hắn. Ai dám đọ với một vị lãnh chúa cơ chứ? Hắn ra lệnh phải nêu tên của "kẻ kia" ra.

Sei cất tiếng, "Anh ấy chỉ là một nông dân, nhưng tình yêu tôi dành cho anh ấy thì rất chân thành."

Tên chúa đất hỏi, "Tên hắn là gì?"

Cô sợ rằng nếu mình nói ra, Heisaku sẽ bị truy sát. Cô nhìn xuống chân mình trong giây lát rồi ngẩng đầu lên đối mặt với ánh nhìn của tên chúa đất. "Tên của một người quê mùa không xứng làm lãnh chúa bận tâm."

Tên chúa đất choáng váng trước sự mạnh bạo của cô gái. Rồi hắn cười phá lên, thật chướng tai và hiểm ác. "Một tên nông dân? Ngươi dám coi một tên nông dân hơn ta sao? Ngươi dám giấu tên của hắn sao?" Tên chúa đất nhìn xuống thấy tay mình đang chảy máu do vết cắt của bông hoa thủy tinh. Dòng máu làm hắn trấn tĩnh lại vì nhớ ra mình là ai.

"Ngươi sẽ không cưới gã nông dân đó đâu," hắn tuyên bố chắc nịch, "và ngươi phải cám ơn ta đã cứu vớt đời ngươi. Ngươi sẽ kết hôn với ta."

Sei nói với giọng cũng chắc nịch không kém. "Tôi sẽ không kết hôn với ngài, tôi sẽ kết hôn với người nông dân đó hoặc sẽ không kết hôn với ai cả."

Cú phản đòn của tên chúa đất thật nhanh gọn và tàn nhẫn. "Tốt lắm. Thế cứ cưới đi. Cưới tên nông dân này thì ta sẽ xử tử cha ngươi. Nhưng cưới ta thì cha ngươi sẽ sống."

Sei đứng như trời trồng, vì cô chưa bao giờ tưởng tượng mình rơi vào tình thế này. Chưa bao giờ cô tưởng tượng lại có một gã đàn ông đê tiện đến thế. Tên chúa đất nói tiếp, "Trong vòng một tuần, ngươi phải trở lại đây và nói một từ thôi. "Có" nghĩa là ngươi sẽ kết hôn với ta và cha ngươi sẽ sống. "Không" nghĩa là ngươi từ chối ta và cha ngươi sẽ chết. Một từ thôi. Nghĩ kỹ đi, Sei." Nói xong những lời này, tên chúa đất ném những vụn hoa xuống chân Sei rồi hùng hục lao ra ngoài sân điện.

Hai cha con người thổi thủy tinh được thả khỏi lâu đài để có thời gian suy nghĩ về câu trả lời của mình. Chẳng có chỗ nào cho họ trốn cả; họ không thể cứ thế thu vén đồ đạc rồi rời đi được; vì họ sẽ bị truy ra đến cùng ở bất cứ nơi đâu. Yakichi khẩn nài xin Sei hãy nói không. Ông đã có tuổi và chắc cũng chỉ sống được vài năm nữa, ông lý luận, trong khi cô lại có cả cuộc đời trước mặt. Người cha chấp nhận ra đi để cô con gái không phải sống đời khổ hạnh.

Sei cương quyết không nghe. Cô từ chối ra quyết định có thể hại chết cha mình. Tuy thế, cô biết đời mình sẽ hoài phí nếu phải sống với tên chúa đất hung bạo.

Đêm đó, Sei không tài nào ngủ được. Cô trằn trọc mãi trên giường, xem xét vấn đề từ mọi khía cạnh, nhưng dường như chẳng có lối thoát nào khả dĩ cả. Rồi, ngay trước khi bình minh ló rạng, một ý tưởng chợt đến và cô biết mình phải làm gì. Khi Yakichi thức dậy, ông thấy con gái mình đã đi mất, và trong phòng của cô, một lời nhắn viết rằng cô sẽ trở lại vào tuần tới để đối mặt với tên chúa đất.

Đầu tiên, Sei đến chỗ anh nông dân giải thích tình hình. Cô nói với Heisaku rằng anh là tình yêu đích thực của cô nhưng cô sẽ không thể nói thêm lời nào với anh được nữa. Những lời cuối cùng cô nói với anh là, "Nếu lắng nghe tiếng gió thật kỹ, anh sẽ nghe thấy em thì thầm tiếng yêu anh." Rồi cô đi mất.

Nhiều ngày trôi qua, và Yakichi bắt đầu cho rằng con gái mình đã bỏ trốn. Dù rất đau lòng vì không thể nói lời tạm biệt, ông vẫn cảm thấy thanh thản vì cô sẽ sống. Khi một tuần đã hết, người cha đến trước mặt tên chúa đất nói rằng con gái mình đã biến mất và ông sẵn sàng nộp mạng thay cô.

Tên chúa đất đang chuẩn bị ra lệnh hành quyết người cha thì hai người phụ nữ, cạo trọc đầu và khoác áo cà sa giản dị, bước vào sân điện. Cả Yakichi cũng phải mất một lúc mới nhận ra người phụ nữ trẻ hơn là Sei. Ông bật khóc khi thấy Sei quay trở lại để cưới kẻ xấu xa này.

"Cái gì thế này?" tên chúa đất lớn tiếng hỏi. "Sao ngươi lại cạo đầu? Người đàn bà đi cùng ngươi là ai?"

Nhưng cả Sei và người phụ nữ đều không nói một lời nào.

Tên chúa đất nổi điên lên, "Thái độ xấc xược này là sao hả? Ta ra lệnh cho các ngươi phải nói."

Tuy nhiên, Sei và người phụ nữ vẫn tiếp tục im lặng.

"Câu trả lời của ngươi là gì? Ngươi có định trở thành vợ ta và cứu mạng cha ngươi không? Hay ta sẽ giết hắn vì tính ích kỷ của ngươi? Trả lời câu hỏi của ta - có hay không, ngươi có chịu cưới ta không?"

Vẫn thế, cả Sei và người phụ nữ đều không chịu trả lời.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 36


Tên chúa đất giậm chân thình thịch. "Xử trảm lão già này!" hắn ra lệnh. Nhưng Sei đã giơ tay ra ngăn hai tên lính đang tiến đến chỗ cha mình. Cô bước về phía tên chúa đất và đưa một mẩu giấy ra.

Hắn ra hiệu cho viên cận thần trong điện cầm lấy tờ giấy, như thể tự tay cầm sẽ hạ thấp giá trị của hắn vậy, và gầm gừ, "Đọc to vào, để tất cả mọi người có thể nghe thấy những lời lẽ của con ranh hỗn xược nhất thế gian này!"

Viên cận thần liếc qua lời nhắn trên giấy và đằng hắng. Ông không muốn đọc. Nhưng ông chẳng có lựa chọn nào khác:

Một tuần trước, ngài bắt tôi làm vợ ngài. Câu trả lời có sẽ báo hiệu cuộc hôn phối của chúng ta còn câu trả lời không sẽ đưa cha tôi vào chỗ chết. Tôi sẽ không nói một lời nào, vì giờ tôi đã trở thành một mugon no gyo no ama-san.

Những từ cuối cùng nghẹn lại trong cổ họng viên cận thần. Ông biết từ này làm tên chúa đất khó chịu đến thế nào, vì mugon no gyo có nghĩa là "lời thề câm lặng" và ama-san nghĩa là "ni cô".

Người cận thần đằng hắng lần nữa và tiếp tục đọc:

Tôi đã thề sẽ mãi mãi sống trong câm lặng và nghèo khổ, và tôi cũng đã cạo đầu mình để thể hiện sự cống hiến trọn vẹn. Tôi đã chuyển tới sống tại một ngôi đền trên ngọn núi cao nhất trong vùng. Đó là nơi chúng tôi cảm thấy mình được gần với Phật tổ nhất. Tôi không thể cưới ngài vì tôi đã thuộc về Vạn vật rồi. Tôi không thể trả lời câu hỏi của ngài vì lời thề của tôi không cho phép tôi làm việc đó. Vì thế, không nhận được một câu trả lời nào, ngài phải thả cha tôi ra và tôi sẽ quay trở về đền thờ trên núi để trọn đời cống hiến cho Thần Phật.

Tên chúa đất choáng váng. Đầy quyền uy là thế, hắn vẫn biết là không nên mạo phạm Phật tổ. Hắn nghĩ một lúc rồi trả lời.

"Ta phải chúc mừng ngươi vì sự kiện này," hắn nói. "Ta sẽ không cản ngươi quay lại đền đâu. Cứ làm thế đi."

Sei cúi đầu để giấu nụ cười có thể để lộ vị ngọt chiến thắng.

"Nhưng trước khi để ngươi đi," tên chúa đất tiếp tục, "ta muốn ngươi khẳng định, một lần nữa, lời thề im lặng suốt đời của mình."

Sei lại cúi đầu lần nữa ám chỉ mình sẽ giữ lời. "Tốt," tên chúa đất nói thêm, "vì nếu ngươidám nói, mạng cha ngươi sẽ tàn, và ngươi sẽ trở thành vợ ta. Còn nếu tên nông dân của ngươi dám lai vãng lại gần ngôi đền để thăm ngươi, ta sẽ giết cả hắn lẫn cha ngươi và bắt ngươi làm vợ ta. Rõ rồi chứ?"

Tên chúa đất để lời tuyên bố chìm vào khoảng không trong giây lát. "Liệu ta có thể tin lời ngươi, tin Lời thề Thiêng liêng của ngươi, rằng ngươi sẽ không bao giờ nói, không bao giờ gặp lại tên nông dân ấy nữa được chứ?"

Sei đứng lặng yên một lúc, rồi gật đầu. Tên chúa đất bèn nói, "Ta đã xong."

Trên lối ra khỏi cung điện, Sei nhìn thấy Heisaku nấp chỗ rui mái nhà. Phải yêu cô đến nhường nào anh mới liều mạng làm một việc ngốc nghếch đến thế. Heisaku nhìn xuống với ánh mắt buồn bã vô hạn, vì giờ anh đã thực sự hiểu được tình huống ngặt nghèo mà họ gặp phải. Sei nhìn về phía anh và thầm nói Aishiteru, "Em yêu anh." Hơi thở thợ thổi thủy tinh của cô mang những lời đó đến tai người nông dân, và đúng như những gì Sei đã hứa: nếu anh lắng nghe thật kỹ, anh sẽ có thể nghe thấy tiếng cô thì thầm trong gió.

Yakichi và Sei được hộ tống trở lại ngôi đền. Cha cô chào tạm biệt, nhưng Sei, dĩ nhiên, không thể nói gì cả. Cô chỉ khóc những giọt nước mắt thầm lặng và Yakichi hứa sẽ gửi quà cho cô sớm nhất có thể. Rồi ông cũng đi mất.

Món quà cuối cùng cũng tới: một bộ dụng cụ thổi thủy tinh đầy đủ. Những vị ni cô khác rất vui vẻ để cô sử dụng những món đồ này, vì họ thực sự yêu cái đẹp và cũng vì họ xem những tác phẩm của Sei như một cách thờ phụng Phật tổ. Hơn nữa, những đồ vật đó sẽ là nguồn thu nhập để đáp ứng các nhu cầu thiết yếu của họ. Thậm chí cả các ni cô cũng biết rằng dù nghèo khó là một đức hạnh, nó cũng vô cùng bất tiện.

Sei được phép dùng một phòng trống trong ngôi đền, và hằng ngày cô làm việc chăm chỉ để tạo nên tất cả các loại đồ vật, từ đồ dùng cho bữa ăn đến những tác phẩm nghệ thuật. Ngày nối ngày thành tuần, tuần nối tuần thành tháng. Những tác phẩm của cô ngày càng tinh xảo khi kỹ thuật của cô trở nên điêu luyện hơn. Và trong suốt thời gian ấy, cô chậm rãi thổi một bức tượng thủy tinh mang hình hài của Heisaku.

Sei tạc bức tượng đó mỗi khi cô thấy cần phải nói, như một cách thể hiện tình yêu của mình. Điều này có nghĩa là ngày nào cô cũng tạc tượng. Cô dồn hết tình yêu thương vào nó, từng chút từng chút một. Bức tượng bắt đầu với cổ chân phải của anh. Dần ra đến gót chân. Rồi những ngón chân. Cứ thêm được chút nào - mắt cá chân, bắp đùi dưới, bắp đùi trên, cẳng chân dưới, cẳng chân trên, đầu gối - cô sẽ thì thầm khi đang thổi phần đó. Aishiteru. Âm thanh ấy được gói trọn trong những bong bóng thủy tinh. Aishiteru. "Em yêu anh."

Hàng dặm xa, Heisaku có thể cảm thấy những từ ngữ đó trong tai mình. Chúng lướt dọc sống lưng anh rồi khắc sâu vào trái tim anh. Anh ngừng đường cày ngước mắt nhìn về phía ngọn núi xa xa. Và cứ thế hàng năm trôi qua. Mỗi lần Sei thấy cần phải cất lên tiếng yêu thương của mình, cô sẽ thổi một phần của bức tượng, gửi hơi thở thầm thì của cô dành cho Heisaku vào xương hông, vào ngón tay, vào vai, vào tai... của anh. Aishiteru, aishiteru, aishiteru.

Khi bức tượng chàng thanh niên hoàn thành, tình yêu của cô vẫn còn dang dở. Vì thế cô bắt đầu tạc phong cảnh xung quanh anh, đầu tiên là một cánh đồng hoa loa kèn bằng thủy tinh làm chỗ đứng cho anh. Sau đó, khi những bông hoa loa kèn đã được thổi xong, cô sẽ phải tìm tiếp thêm những thứ khác. Có lẽ, cô nghĩ, mình sẽ làm một cái cây che bóng cho người yêu dấu của mình... Tạo những chiếc lá không thôi cũng đủ làm mình cảm thấy cuộc đời dễ chịu hơn rồi.

Cuộc đời cô cứ thế trôi đi cho đến một buổi sáng, như những buổi sáng khác, khi Sei đang tắm rửa tại một con suối trên núi. Dòng nước lạnh làm da cô cảm thấy thật sảng khoái nhưng khi cô bắt đầu gội đầu, cô thấy cổ đau nhói. Còn chưa kịp phản ứng gì, tay chân cô đã bắt đầu co cứng lại.

Sei đã bị côn trùng đốt rất nhiều lần, nhưng đây là lần đầu tiên cô bị loại ong bắp cày kỳ dị này đốt, và như số phận đã sắp đặt, cô bị dị ứng nặng. Cổ họng nghẹn lại, cơ thể không chịu phản ứng, và cô không thể cử động được nữa. Cơ thể tê liệt của cô trôi theo dòng suối cho đến khi bị một tảng đá lớn chặn lại. Hai tiếng liền cô nằm đó, để cho dòng nước lạnh giá của dòng suối trườn khắp da thịt mình.

Cuối cùng, một ama-san khác tìm thấy và lôi cô ra khỏi nước. Mắt Sei không chớp lấy một lần và làn nước lạnh băng đã làm tim cô đập yếu đến mức không thể nhận thấy được. Thêm nhiều ama-san nữa được gọi đến nhưng không ai thấy một dấu hiệu sự sống nào, và bất chấp lời thề câm lặng của họ, buổi sáng ấy tiếng khóc nức nở vang động cả ngọn núi tĩnh lặng.

Sei bị liệt toàn thân nhưng cô vẫn có thể nhìn thấy mọi thứ, cho tới khi những ni cô khác vuốt mắt cô lại vì tưởng cô đã chết. Thậm chí ngay cả khi cơ thể cô đã ấm lại một chút, chất độc vẫn làm cô bất động. Trong suốt ba ngày, các ama-san lặng lẽ cầu nguyện cho cô. Yakichi nhận được thông báo đã đến để chôn cất con gái mình, người đã hy sinh cả tính mạng để ông có thể tiếp tục sống.

Tên daimyo cũng đến, để chắc chắn đây không phải trò bịp. Hắn đã nghe tin Sei sẽ được chôn cất nên lấy làm nghi ngờ vì mọi người đều biết các nhà sư đều phải được hỏa táng để ngọn lửa thanh tẩy tâm hồn. Nếu xác thịt còn ở lại, linh hồn sẽ tiếp tục nhớ thương sự tồn tại của nó trên dương gian và không thể thanh thản sống trên Thiên giới. Dù vậy nguyện ước của Sei là được địa táng, vì cô muốn tiếp tục tồn tại mãi mãi như một phần của mảnh đất nơi Heisaku sẽ luôn cày cấy.

Yakichi cũng đưa Heisaku đến cùng mình, nhưng nói rằng anh là một thợ thổi thủy tinh học việc mới. Nỗi sợ tên chúa đất buộc ông phải nói dối. Ai biết được hắn sẽ làm gì nếu hắn nhận ra đây chính là chàng trai đã đánh bại hắn để giành được tình cảm của Sei?

Tên chúa đất chính là kẻ đóng nắp quan tài sau khi đã chắc chắn người ở bên trong là Sei. Không thể cử động được, Sei nằm đó nghe giọng nói kinh tởm của hắn. "Được, ta rất hài lòng. Cô ta đã thực sự chết rồi." Sei vô cùng biết ơn Trời Phật vì mắt cô đã được vuốt cho khép lại, vì thật khủng khiếp nếu cảnh tượng cuối cùng cô nhìn thấy lại là bộ mặt của kẻ ghê tởm này.

Sei nghe tiếng những sợi thừng kéo căng khi quan tài của cô được vùi vào trong đất và cơ thể cô trở về với đất mẹ. Yakichi xúc xẻng đất đầu tiên đổ vào huyệt mộ và Heisaku đổ xẻng thứ hai. Trong lúc ấy, Sei vẫn nghe tiếng đất đá đập vào nắp quan tài của mình.

Và rồi một điều kỳ diệu đã xảy ra. Cô cảm thấy chất độc trong mạch máu tan dần và cơ thể cô bắt đầu thả lỏng. Cô có thể mở mắt nhưng chỉ nhìn thấy bóng tối. Cô có thể duỗi ngón tay ngón chân nhưng vẫn chưa đủ khỏe để nâng tay chân lên để đập vào nắp quan tài. Nhưng cô biết nếu mình thét gọi, những người ở trên có thể nghe thấy tiếng cô. Cô cảm thấy mình sắp nói được trở lại, và hân hoan vì cuối cùng mình đã không chết. Tất cả những gì cô phải làm là thét gọi...

Rồi Sei nhớ đến lời hứa của mình. Chỉ cần cô thốt ra một câu thôi để cứu mạng mình, cô sẽ trở thành vợ của tên chúa đất. Cha cô sẽ bị xử tử, Heisaku cũng vậy. Tên chúa đất ở ngay cạnh họ, vì thế không thể phủ nhận việc cô đã phản bội lời hứa của mình. Sẽ chẳng thể phủ nhận việc Heisaku đã đến đền thờ.

Và thế là, Sei đành ngậm miệng lại chấp nhận bị chôn sống. Cô lắng nghe tiếng đất đổ lên mộ mình, âm thanh ngày một xa dần với mỗi xẻng đất chất chồng phía trên. Khi tất cả những âm thanh cùng ngừng lại một lúc, cô biết rằng huyệt mộ đã bị lấp kín và mình đã nằm sâu dưới ba tấc đất.

Phía trên mặt đất, Yakichi và Heisaku khóc than trước cuộc đời nghiệt ngã của Sei. Cô đã hy sinh quá nhiều để bảo vệ những người mình yêu thương và phần thưởng dành cho cô là thế này đây. Về phần tên chúa đất, hắn chẳng quan tâm gì đến người phụ nữ vừa được chôn trước mắt; hắn chỉ thấy thỏa mãn vì cô ta không bao giờ có thể lừa hắn thêm lần nào nữa.

Vì tên chúa đất chưa từng đến ngôi đền đó bao giờ và có thể sau này sẽ không bao giờ quay lại, hắn quyết định thám hiểm xung quanh trước khi trở về lâu đài của mình. Các ama-san cố dẫn hắn đi theo con đường cách xa xưởng thủy tinh của Sei nhưng không thành. Khi vào trong xưởng, hắn choáng váng trước bức tượng thủy tinh mang hình dáng "người thợ học việc" mới của Yakichi đứng giữa cánh đồng hoa loa kèn còn dang dở. Tên chúa đất chẳng ngu dại gì: hắn nhận ra ngay lập tức đây là bức tượng của tên nông dân Sei hết mực thương yêu, và hắn cũng biết thằng nhãi giả làm thợ học việc chính là tình yêu cả đời của Sei.

Ánh sáng tràn qua những ô cửa sổ của ngôi đền và đổ nắng lên bức tượng. Vẻ đẹp thuần khiết của nó, sự quan tâm và tỉ mỉ, tất cả đều như đang cười nhạo tên chúa đất. Hắn nhặt một thanh củi trên bàn dụng cụ và thề sẽ phá hủy bức tượng trước, rồi diệt trừ tên nông dân bằng xương bằng thịt sau. Tên chúa đất nhào tới, vung thanh gỗ như cái lưỡi hái để chém xuyên qua những bông hoa thủy tinh bao quanh bức tượng. Đòn ra thật mạnh mẽ, và hàng chục bông hoa đã bị vỡ với chỉ một cú chém.

Một tiếng nổ lớn phát ra khi những cánh hoa và cành hoa thủy tinh bắn tung tứ phía, tạo nên một làn sóng âm thanh khủng khiếp. Tất cả những lời thì thầm yêu thương Sei gửi gắm trong những bông hoa loa kèn cùng đồng loạt ào ra. Áp lực mạnh đến nỗi những mảnh thủy tinh như cưỡi trên ngọn gió lốc. Chúng cứa khắp người tên chúa đất, làm hắn biến dạng đến nỗi không ai có thể nhận ra được nữa. Âm thanh như sấm rền đến nỗi tai của hắn điếc đặc còn lông tóc thì bạc trắng ngay lập tức.

Âm thanh chấn động cả xưởng thổi thủy tinh và lan ra khắp bầu trời Nhật Bản. Người ở khắp mọi nơi trên đất nước đều có thể nghe thấy, và rồi tất cả mọi người đều đồng ý rằng đó là thanh âm đẹp nhất họ từng nghe. Nó giống như tiếng nói của tình yêu đích thực.

Tên chúa đất vẫn sống, nhưng chỉ còn là một kẻ quặt quẹo người chẳng ra người ngợm chẳng ra ngợm, sẹo và thương tích chằng chịt. Sự giận dữ và ghen tuông của chính hắn đã hủy hoại hắn. Hắn chẳng còn uy hiếp ai được nữa và cũng chẳng còn lòng dạ nào làm hại Heisaku hay Yakichi.

Heisaku và Yakichi, về phần họ, chất bức tượng lên xe và mang nó trở lại làng. Heisaku chuyển đến sống cùng nhà với ông lão với tư cách là người con trai ông chưa từng có, và họ dần trở thành bạn tốt. Xét cho cùng, họ cũng được gắn kết lại bởi tình yêu của người phụ nữ họ cùng đánh mất.

Suốt những tháng năm còn lại trong cuộc đời hai người, bức tượng thủy tinh đứng sừng sững giữa ngôi nhà của họ. Heisaku phần nào cảm thấy hơi kỳ cục khi hằng ngày cứ nhìn thấy bản thân mình, nhưng nó có tác dụng rất lớn. Mỗi khi nỗi tiếc thương Sei trở nên quá sức chịu đựng, Heisaku vàYakichi sẽ bẻ một mảnh của bức tượng - một ngón tay, một lọn tóc, một cánh hoa loa kèn còn sót lại.

Aishiteru, aishiteru, aishiteru. Từ mỗi mảnh thủy tinh vỡ, tiếng thì thầm của Sei sẽ làm nguôi ngoai nỗi đau buồn của họ.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 37


Dù rõ ràng đã biết câu trả lời, Marianne Engel vẫn cứ vờ vịt hỏi tôi xem hôm nay là ngày gì.

"Thứ Sáu Tuần Thánh," tôi trả lời.

"Theo tôi." Chúng tôi trèo vào xe của cô và chưa đầy nửa tiếng sau tôi đã nhận ra chính xác nơi chúng tôi định đến: ngọn đồi nơi tôi đã gặp tai nạn. Khi chúng tôi đến nơi, chẳng dấu hiệu gì cho thấy nơi đây từng xảy ra một vụ tai nạn. Cây cối không còn che giấu cả một toán lính đánh thuê được gửi tới để tiêu diệt tôi nữa. Những cây cột gỗ đã thay mới, dây cáp cũng chăng lại, và giờ cũng bạc phếch chẳng khác gì những cái còn lại. Chẳng có vết bánh xe hay đất cát bị xới tung lên; chỉ là một khúc cua khác mà thôi. Khi tôi hỏi tại sao cô biết chính xác địa điểm này, Marianne Engel chỉ mỉm cười và cho Bougatsa nhảy ra khỏi ghế sau. Nó khoái chí nhảy vòng quanh, và cô đã phải quát lên khi nó ra quá gần rìa đường.

Cô lấy một chiếc túi nhỏ bằng da trong cốp xe và cầm tay dẫn tôi tới dải phân cách giữa mặt đường và vách đá. Nơi đây tôi thấy dấu hiệu đầu tiên chứng tỏ tai nạn của tôi đã thực sự xảy ra. Vẫn còn một vùng đất cháy sém ở dưới đáy vực, một chấm đen nhỏ chẳng khác gì dấu chấm bạn có thể thấy ở cuối câu này, ngay bên cạnh con suối nhỏ đã cứu mạng tôi.

Những chiếc mô tô phóng vụt qua, rõ ràng họ rất băn khoăn không hiểu chúng tôi đang nhìn gì. "Xuống đi nào," cô nói rồi dẫn tôi qua những chiếc cọc gỗ mới. Bougatsa chạy trước chúng tôi, sung sướng tìm thấy một lối đi xuống đáy vực nơi chúng tôi có thể dễ dàng theo sau, và xa phía bên góc đường tôi thấy một miếng nhựa đỏ vỡ vụn, một cái vỏ đèn xi nhan gãy rời khỏi chiếc ô tô. Chiếc xe ô tô của tôi. Bụng tôi thót lại.

Khi chúng tôi trèo xuống, có hàng chục bậc đá nhỏ giúp đôi giày chỉnh hình của tôi dễ bám, nhưng tôi vẫn khó giữ thăng bằng. Tôi cố bắt chân mình cử động như trước vụ tai nạn, nhưng có vẻ không khả thi: đầu gối mới phục hồi của tôi quá yếu ớt. Khi tôi nói với Marianne Engel mình không thể xuống được, cô kiên quyết không chấp nhận. Cô đứng ngay phía trước tôi, hai chân giẫm mạnh xuống sườn dốc để tôi có thể đặt tay mình lên lưng cô. Tư thế này thừa sức chứng minh rằng tôi có thể xuống dốc được và không có làu bàu gì nữa hết.

Khi chúng tôi xuống tới chỗ đất cháy sém, tôi thấy một vài cụm cỏ, vừa lún phún mọc lên.Một ngày nào đó vùng đất này sẽ tươi tốt trở lại, tôi thầm nghĩ.

"Gì đấy?" cô hỏi.

"Không có gì," tôi nói. "Chỉ là tôi chưa bao giờ nghĩ mình lại quay lại chỗ này, thế thôi."

"Cũng tốt khi quay lại nơi mình đã từng phải chịu đau đớn mà."

"Cô sai rồi." Tôi có thể nhớ lại toàn bộ: những mảnh kính vỡ văng tung tóe; cần tay lái lướt vụt qua tôi; tiếng động cơ gầm rú, những bánh xe quay tròn mãi cho tới khi dừng hẳn; ánh lửa xanh xẹt qua trần xe; cách những ngọn lửa bùng lên; mùi khét của tóc tôi; và cả việc da thịt tôi bắt đầu nổ lốp bốp và phồng rộp lên nữa. Tôi có thể nhớ tất cả những thứ đã biến tôi từ một con người thành tôi bây giờ.

"Anh có tán thành hay không cũng không quan trọng. Người ta không thể trở nên hoàn thiện nếu cứ phớt lờ những bất hạnh của mình đi." Marianne Engel mở túi lấy một cái chân nến bằng sắt mà cô nói rằng đã được Francesco chế tác rồi cắm một ngọn nến vào cái miệng đang há hốc của nó. Cô đưa cho tôi một bao diêm và bảo tôi châm nến lên. "Nhưng việc kỷ niệm năm nay anh vẫn sống thì rất quan trọng đấy."

Tôi bảo thực ra đây không phải lễ kỷ niệm một năm: dù đúng là tai nạn của tôi đã xảy ra vào ngày thứ Sáu Tuần Thánh, nhưng hiển nhiên là ngày lễ đó mỗi năm lại rơi vào một ngày khác nhau.

"Anh không nên nghĩ về thời gian theo cái nghĩa đen ấy," Marianne Engel vừa nói vừa hôn lên khuôn mặt thủy tinh dẻo của tôi. "Chỉ một ngày thì có gì quan trọng trong cả thời gian vĩnh hằng chứ?"

"Tôi nghĩ là mọi ngày đều quan trọng," tôi nói. "Đặc biệt là những ngày khi ta gần chết."

Câu ấy lẽ ra nghe có vẻ đầy kịch tính, tôi nghĩ thế, nếu đúng vào lúc đó, con Bougatsa không nhảy tưng lên trên không trung để vồ như điên mấy con bọ vo ve quanh đầu nó.

"Nhưng anh đã chết đâu," Marianne Engel nói. "Nói tôi nghe nào, thế cuộc sống của anh trước khi bị tai nạn có tốt không?"

"Cũng không hẳn."

"Thế thì việc bắt đầu lại từ đầu sẽ là một món quà đáng trân trọng đấy."

Cô thực tâm tin rằng tôi đang bắt đầu lại từ đầu và tôi cũng nghĩ thế, nhưng không hoàn toàn, và tôi cảm thấy lương tâm cắn rứt khi nghĩ đến việc tôi sắp làm với số tiền vừa rút từ tài khoản Jack lập cho mình.

Vài hôm sau, khi Marianne Engel đã rời khỏi pháo đài, dẫn con Bougatsa đi dạo, là lúc tôi quyết định tiến hành nhiệm vụ bí mật của mình. Tôi trùm một chiếc áo mưa màu xám dài thượt lên bộ quần áo tạo áp suất, và dù không được phép làm thế, tôi cũng tháo mặt nạ và cái banh miệng ra. Tôi đội mũ và đeo kính đen, dựng cổ áo lên bằng đôi tay đeo găng trông chẳng khác tội phạm, rồi tôi nhìn vào gương để thấy một bức tranh biếm họa về một tên biến thái đang ngó lại mình. Tôi nghĩ thế là quá hoàn hảo rồi, so với cái nơi mà tôi sắp đến.

"Tới hiệu đồ chơi tình dục gần nhất." Giọng tôi, rú lên như tiếng động cơ của một cái mô tô gỉ sét, làm người lái xe taxi phải xoay gương chiếu hậu để nhìn tôi được rõ hơn. Ông ta dường như đang suy nghĩ lại xem có nên cùng đi với một người đàn ông không xác định được nhân dạng tới nơi đồng không mông quạnh hay không, nhưng đã đổi ý ngay khi tôi giơ thẻ tín dụng ra. Người lái xe khởi động ô tô và chúng tôi phóng qua mặt tiền của nhà thờ thánh Romanus, nơi cha Shanahan đang đổi tấm bảng nhựa trắng thành: "Ngày Thứ Sáu Của Bạn Có Tốt Đẹp Như Lẽ Ra Nó Phải Thế Không?"

Khi chúng tôi tới Triple-XXX Velvet Palace, tôi bảo người lái xe đợi một chút. Ông ta gật đầu; ông ta đã thấy tôi tập tễnh nhảy vào xe và biết tôi chẳng chạy xa được. Bước vào cửa hiệu cứ như là được về nhà vậy. Mùi cao su tổng hợp latex, mùi da, mùi chất bôi trơn quen thuộc dậy lên. Bên tay phải tôi là bộ sưu tập dụng cụ kích thích hậu môn và dương v*t nhân tạo khổng lồ, bên tay trái tôi là tập hợp các bộ đồng phục của nữ phục vụ người Pháp và nữ sinh trung học Nhật. Hàng dãy tạp chí treo đầy trên tường, nhưng thứ tôi thực sự muốn tìm là chồng đĩa video ở phía sau kia. Liếc qua mấy cái vỏ, tôi nhanh chóng thấy một đĩa phim của chính mình: Doctor Giving Bone, I Presume (Tôi đoán bác sĩ đang cho xương). (Tôi đã luôn coi đây là một trong những tên phim thú vị nhất của mình.) Tôi đặt nó trước mặt ông thu ngân hói đầu đeo mục kỉnh. "Một lựa chọn hoàn hảo," ông ta nói bằng giọng không chút hào hứng.

Trở về tháp chuông, tôi nhét cái đĩa vào đầu video. Màn hình ti vi màu xanh dương ấm áp hiện lên và theo sau là logo công ty sản xuất phim cũ của tôi. Kịch bản, như mọi phim khiêu dâm khác, luôn đọng lại một cái gì đó đầy khao khát; thậm chí cả tôi - tác giả, diễn viên, đạo diễn, kiêm nhà sản xuất - cũng không rõ nó là cái gì. Bộ phim mở ra với cảnh một người phụ nữ, Anne, đang chuẩn bị đến lượt kiểm tra sức khỏe. Khi không tự mình mặc đồng phục khám bệnh được, cô nhờ mấy cô y tá giúp, và như bình thường, theo sau sẽ là các cảnh đồng tính nữ nóng bỏng. Vị bác sĩ (tôi) tình cờ bắt gặp mấy trò này, và không mảy may lo lắng về những hành động trái luân thường đạo lý hay dễ dẫn đến bệnh hoa liễu, đã quyết định liệu pháp trị liệu thích hợp nhất cho Anne là quan hệ qua đường hậu môn mà không dùng các biện pháp bảo vệ.

Tôi nghĩ về cái ngày bộ phim được bấm máy. Đồ ăn được đặt ở tiệm đồ ăn nhanh Trung Hoa của Sun Lee, ngay cuối phố, và người ta đã đưa đồ ăn đến khá muộn. Boyce Burgess phụ trách máy quay còn Irdman Dickson lo phần âm thanh, ấy thế mà, dù chúng tôi sẽ phải quay tất cả các cảnh trong buổi chiều hôm đó, Irdman lại say bí tỉ. Với tư cách đạo diễn, lẽ ra tôi đã khiển trách anh ta nặng nề nếu tôi lúc đó không phê cocaine. Thực ra, nếu coi kỹ phim, bạn sẽ thấy một cái thìa vàng trên dây chuyền của tôi nảy ra khỏi cổ áo bác sĩ khi tôi vỗ mông Anne qua cái bàn khám bệnh. Vì sự cố say xỉn của Irdman, âm thanh khá tệ và ở vài chỗ còn chả nghe ra cái gì. Thỉnh thoảng cũng có thể nghe được vài câu: gì đó về việc đo nhiệt độ của Anne bằng cái "cặp nhiệt độ cỡ bự của tôi". Tôi nghĩ việc hầu hết các đoạn hội thoại đều không nghe được có khi lại là điều hay.

Cái cảnh mở màn này, đáng tiếc làm sao, lại là phần thông minh nhất trong cả bộ phim. Từ đoạn này trở đi, câu chuyện trở nên cực kỳ ngớ ngẩn. Một trong những cô tình nhân của tôi là bác sĩ tâm lý, cứ suốt ngày lải nhải về chứng thù địch với phụ nữ của tôi mỗi khi tôi đét đít cô. Trong khi đó, Anne dần mắc chứng hoang tưởng về các loại bệnh tật/cuồng dâm, luôn tin rằng bệnh dị ứng mèo của cô chỉ có thể trị dứt bởi hàng loạt liều dương v*t.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 38


Tất cả những trò này sẽ rất hài hước nếu không nói gì đến hình ảnh của tôi lúc ấy. Tóc tôi hất lên hất xuống với mỗi cú huých của vùng xương chậu, da tôi bừng sáng rực rỡ khi những giọt mồ hôi trườn từ cổ xuống ngực. Cơ tay của tôi cuộn lên mỗi khi tôi phát vào mông cô tình nhân ngu ngơ đáng yêu của mình, cho cô ta ra rồi lại lôi cô ta vào. Nụ cười của tôi kéo dài tới tận mép của cái miệng không phải đeo thiết bị banh hàm và mặt tôi căng ra trong trạng thái đợi chờ tuyệt diệu khi tôi chuẩn bị lên đỉnh.

Tôi phải tắt bộ phim đi: tôi muốn phát bệnh khi phải nhìn thân thể đẹp đẽ từng là của mình, rồi đem so với cái thứ khốn nạn tôi đã trở thành. Tôi muốn phát bệnh khi thấy, mãi mãi được đóng khung trong những thước phim, những giọt mồ hôi trên làn da mượt mà của tôi. Tôi, người không bao giờ có thể đổ mồ hôi được nữa. Đây có phải những gì Fred Astaire cảm thấy khi trở thành một ông già không còn khả năng nhảy múa không? Hình ảnh trai tráng của một con người sẽ trở thành thứ tra tấn họ không dứt khi họ về già; hình ảnh đó đã xử tử cả Fred Astaire lẫn tôi.

Khi tôi ấn nút thoát, cái đĩa õng ẹo trượt khỏi đầu video như một cái lưỡi lè ra trêu tức tôi. Tôi mang nó xuống lò sưởi trong phòng khách, đặt nó lên trên một chồng báo. Châm một que diêm, tôi đứng nhìn ngọn lửa bùng lên nuốt chửng cái đĩa phim.

Đó là lần cuối cùng tôi xem một bộ phim cũ của mình.

Sayuri đến chỗ chúng tôi một hoặc hai lần mỗi tuần, luôn luôn mỉm cười khi giúp tôi tập những bài tập với độ khó ngày càng tăng. Kết quả không có gì phải bàn cãi: các cơ co cứng trên cơ thể tôi bắt đầu thư giãn, lưng tôi bắt đầu chuyển dần từ hình dấu hỏi sang dấu chấm than. Tâm điểm của liệu pháp điều trị này là kiềm chế ham muốn sử dụng những cơ khỏe nhất thay vì những cơ thích hợp của cơ thể tôi. Sayuri tập trung giúp tôi đi đúng cách và đi bên cạnh với hai tay đặt lên mạng sườn tôi, bắt tôi giữ thẳng đầu. Cô sửa cách tôi vung tay, giúp tôi tăng khả năng giữ thăng bằng và luôn nhắc tôi nhớ dồn đều sức nặng xuống cả hai chân. Việc này trở nên cực kỳ khó khăn mỗi khi phải đi lên đi xuống cầu thang.

Đã thành thục những chuyển động cơ bản, chúng tôi bắt đầu lập kế hoạch đi bộ với tốc độ nhanh hơn và với quãng đường xa hơn. Bougatsa cũng đòi theo, vừa chạy quanh vừa sủa ăng ẳng. Sayuri ném cho nó một quả bóng để nó chạy đuổi theo, nhưng chủ yếu là để tống khứ nó đi cho cô có thêm thời gian để ý đến tôi. Khi quay trở về nhà, chúng tôi tập bằng các dụng cụ Marianne Engel đã mua cho tôi. Có một ghế tạ, một máy Nautilus và một chiếc xe đạp tại chỗ. Sayuri tự quyết định món nào sẽ được áp dụng vào quá trình hồi phục của tôi.

Cô luôn luôn kiểm tra quần áo bảo vệ của tôi mỗi khi đến và thỉnh thoảng lại tìm được vài chỗ cần sửa chữa. Khi những vết sẹo trên mặt tôi dần lành lại dưới tác dụng liên tục của áp suất, cái mặt nạ của tôi cũng phải chỉnh lại theo. Sayuri sẽ đánh giấy ráp cho phù hợp, và cũng phải mang đến bệnh viện mấy lần để sửa lại. Một lần, cái mặt nạ được sửa xong nhưng lại sai sót; khi tôi chỉ cho Sayuri xem, cô mấp máy vài từ bằng tiếng Nhật: "Saru mo ki kara ochiru." Khi tôi hỏi câu ấy nghĩa là gì, cô trả lời, ""Thậm chí cả khỉ cũng có lúc rơi khỏi cây." Nó nghĩa là..."

Tôi cắt ngang. "... nghĩa là thậm chí cả các chuyên gia cũng có lúc mắc sai lầm. Ừm, tôi đã nghe thấy câu này trước đây rồi."

Khi cô hỏi là ở đâu, tôi bảo cô nên hỏi bạn trai mình ấy. Cần phải nói là, tôi không tin mình đã gặp ai khi đỏ mặt lại có thể đáng yêu đến như Sayuri.

Có một khía cạnh của câu chuyện thời Trung cổ luôn làm tôi thắc mắc hơn bất cứ chuyện gì: việc Gertrud dịch một bản tiếng Đức của Kinh Thánh. Chuyện này, xin nhớ giùm tôi, xảy ra đúng hai trăm năm trước khi Martin Luther bắt tay thực hiện bản dịch nổi tiếng của mình. Nhà thờ đã phản đối kịch liệt tác phẩm của Luther, thế thì sao họ lại có thể cho phép xơ Gertrud làm thế chứ?

Tôi tiếp cận vấn đề theo cách tôi vẫn luôn làm, và kết quả bất ngờ đầu tiên trong nghiên cứu của tôi là phát hiện ra khi cuốn Die Luther Bibel xuất hiện, đã có hàng loạt bản dịch Kinh Thánh bằng tiếng Đức rồi; Luther chỉ đơn giản là người đầu tiên dịch sang ngôn ngữ của lớp người bình dân mà thôi. Những bản dịch trước là những bản dịch bám sát nguyên tác với các thành ngữ khó hiểu và hầu như chỉ những độc giả có thể đọc bản tiếng Latin mới hiểu được.

Bản Kinh Thánh bằng tiếng Đức cổ nhất là một bản dịch theo phong cách Gothic của Ulfilas hồi thế kỷ thứ tư, ra đời trước bản tiếng Latin hàng chục năm. Là một người xuất chúng, Ulfilas nhận thấy cần phải lập cả một bảng chữ cái để viết cuốn sách của mình nên ông đã sáng tạo rất nhiều thuật ngữ Thiên Chúa giáo bằng tiếng Đức đương thời. Chỉ một phần một bản viết tay của cuốn Kinh Thánh này, được biết đến với tên Codex Argenteus hay Silver Bible, là còn tồn tại, hiện được lưu tại Thư viện Quốc gia Uppsala. Sau đó là bản viết vào thế kỷ thứ chín ở Fulda, với bản dịch bốn cuốn đầu tiên trong Kinh Cựu ước bằng tiếng Đức thời Thượng cổ và một bản đầy đủ hơn, nhưng không chính quy, dịch Kinh Thánh vào khoảng năm 1260. Một vài đoạn trong Kinh Thánh, ví dụ như Kinh cầu Chúa, từ lâu đã được dịch sang tiếng Đức, nhưng chẳng có bằng chứng nào xác thực có người đã hoàn chỉnh cả bản Kinh Thánh bằng tiếng Đức tại thời điểm Gertrud được cho là đang dịch nó cả - dù người ta cũng nói rằng không lâu sau đó, vào năm 1350, một bản Kinh Tân ước hoàn chỉnh đã xuất hiện tại Augsburg.

Đến đây mọi thứ đều logic: có lẽ thời điểm đầu thế kỷ mười bốn rất thích hợp cho người ta bắt tay vào thực hiện cả một dự án đồ sộ, vậy tại sao đó không phải là xơ Gertrud của tu viện Engelthal nhỉ?

Thực sự thì, có rất nhiều lý do, nhưng có lẽ không gì bằng sự sùng đạo cuồng nhiệt của chính Gertrud - hay ít nhất, là nỗ lực hết mình tỏ ra ngoan đạo. Bà không muốn tiến hành dưới bất cứ hình thức nào có thể bị coi là báng bổ thánh thần, và hành vi dị giáo cũng chỉ dừng ở mức dịch Kinh Thánh trái phép. Trước khi khởi sự một nhiệm vụ kinh thiên động địa thế này thì Gertrud bắt buộc phải được sự cho phép của cấp trên, và có thể nói việc đề nghị đó được chấp thuận là gần như không thể. Nhưng đó mới chính là cốt lõi của vấn đề - "gần như là không thể" chứ có phải "không thể" đâu.

Tu viện trưởng của Engelthal là một phụ nữ đã có tuổi; liệu sự từng trải của bà có cho phép bà chấp nhận một bản dịch mà bất cứ một nhà chức trách có đầu óc nào cũng sẽ từ chối không? Những chuyện kỳ lạ vẫn hay xảy ra. Tuy nhiên, nói thế thì có người sẽ nghĩ là Gertrud phải được phép của tu viện, mà thực ra điều đó cũng chẳng cần thiết. Có lẽ bà đã ra ngoài để tìm một quan chức giáo hội có kế hoạch của riêng mình; nên nhớ rằng Nhà thờ khét tiếng với những trò thao túng chính trị sau cánh gà. Có thể một nhân vật quyền cao chức trọng nào đó đã thông qua công trình của Gertrud với tư cách là một phần của kế hoạch lớn hơn, và Gertrud hẳn rất vui mừng bỏ qua việc bà chỉ là một con tốt thí miễn là được phép thực hiện tác phẩm của mình. Đó thực sự là một canh bạc đầy bất trắc, nhưng lách luật với sự giúp đỡ của một vị tai to mặt lớn thì bao giờ chẳng dễ dàng hơn.

Tất cả chỉ là giả thiết mà thôi, hiển nhiên rồi. Lý do Gertrud cho rằng bà có thể thực hiện dự án đó vẫn là một câu hỏi chưa có lời giải đáp thỏa đáng, nhưng tôi có thể đưa ra một khả năng khác: có lẽ tôi đã đánh giá thấp khát vọng được đời sau nhớ đến của bà. Hư danh vừa là một nguồn động lực mạnh mẽ vừa là một kẻ lừa gạt tài tình, và cái ý tưởng để lại một di sản vĩnh cửu có thể khiến người cẩn trọng nhất cũng trở nên liều lĩnh. Có lẽ bà đã tự thuyết phục bản thân rằng mình chẳng làm gì sai trái dù không được cho phép. Xét cho cùng, bà đã dịch từ bản tiếng Latin được viết vào thế kỷ thứ tư, và niềm tin vững như kiềng ba chân vào bản dịch tuyệt vời của mình có lẽ đã đẩy bà tới mức rốt cuộc đánh cược vào việc cuốn Kinh Thánh của bà sẽ hay đến độ không thể bị phạt. Ta có thể hình dung bà lý luận rằng sự tồn tại của cuốn Die Gertrud Bibel đủ để miễn tra cứu nguồn gốc bí ẩn của nó, và vì tác phẩm phải kéo dài cho tới cuối đời, có lẽ bà cũng sẵn lòng chấp nhận mạo hiểm. Các nhà chức trách còn làm gì được với một bà già biết chỗ của mình trên Thiên đường đã được sửa soạn xong cả rồi chứ?

Khi cuối cùng tôi cũng hỏi Marianne Engel việc dịch cuốn Die Gertrud Bibel là do ai thông qua, tôi đã mong nhận được một câu trả lời chắc chắn hoặc một lời đáp đầy mâu thuẫn có thể vùi dập câu chuyện đó một lần và mãi mãi. Nhưng câu trả lời của cô chẳng hề trùng khớp.

"Hồi đó tôi còn quá nhỏ nên chẳng mảy may thắc mắc gì, mà Gertrud cũng chẳng bao giờ nói. Bà lúc nào cũng giữ bí mật về chuyện đó và không một nữ tu nào được hé lộ câu gì ngoài phòng viết cả."

"Chẳng lẽ họ không phản kháng à," tôi hỏi, "nếu họ tin là có gì đó không chính đáng?"

"Có lẽ họ sẽ phải đối chất trên Thiên đường vì những gì mình đã làm," cô nói, "nhưng tôi nghĩ ở đây trên mặt đất này thì họ sợ Gertrud và Agletrudis hơn."

Marianne Engel có vẻ rất hài lòng về chuyện tôi thực sự quan tâm đến mọi khía cạnh của câu chuyện cô kể, và điều đó đã thúc đẩy cô hỏi liệu tôi có muốn nghe tiếp không.

"Dĩ nhiên," tôi nói.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 39


Sau lưng tôi là cuộc sống duy nhất tôi từng biết, và trước mặt tôi trải ra một cuộc sống tôi chẳng thể nào tưởng tượng nổi. Vừa đi, tôi vừa ngoái lại nhìn hình bóng cha Sunder dần khuất trong màn đêm. Ông đã luôn hiện diện trong cuộc đời tôi từ những hồi ức đầu tiên, vậy mà giờ ông không còn bên tôi nữa. Chỉ khi đó tôi mới nhận ra là cả tôi lẫn anh đều không có chút ý tưởng nào về nơi chúng ta sẽ đến cả.

Anh dẫn đường, vờ như biết mình đang làm gì, đưa chúng ta ra xa khỏi Engelthal. Tôi ngờ rằng anh đang lo lắng không biết liệu có một toán nữ tu đang chạy theo truy lùng chúng ta không; có lẽ điều anh bận lòng hơn cả là tôi có thể nhụt chí mà quay trở lại. Thế nên anh cứ tiếp tục tiến về phía trước, dù thực tế anh vẫn phải chịu đau đớn vì những vết bỏng, và tôi đã phải hộc tốc để theo kịp anh. Chân tôi ngập trong bùn nhưng tôi quyết tâm cho anh thấy dù anh đi nhanh thế nào, tôi cũng bắt kịp được. Tôi nghĩ điều đó rất quan trọng với mình vì chính tôi cũng không biết đó có phải sự thật không.

Tôi có thể thấy chiến tranh đã dạy anh quên đi những đau đớn thể xác và tiến bước chỉ bằng ý chí bản thân. Tôi đã giúp đỡ quá trình hồi phục của anh, tôi biết những nỗ lực này còn vượt xa tất cả những gì anh đã làm khi được đưa đến Engelthal, và tôi rất ngưỡng mộ sức chịu đựng của anh - cho tới khi, sức chịu đựng ấy bất thình lình suy kiệt.

Anh trượt chân xuống bùn và loạng choạng ngã. Anh cố đứng ngay dậy nhưng không được: ngay khi đứng lên được, anh lại mất thăng bằng một lần nữa. Lần này, khi ngã xuống, anh lấy tay chống, nhưng vùng da co rúm trên ngực đã làm anh rên lên đau đớn. Theo bản năng, anh thu tay lại và chúi mặt xuống bùn.

Tôi cúi xuống đỡ anh và hành động tức thì của anh là đẩy tôi ra. Rồi, có lẽ nhận ra để tiếp tục tiến bước thì chúng ta phải phối hợp cùng nhau, anh để tôi giúp anh đứng dậy. Anh nói, cố ra vẻ đùa cợt, "Tôi nghĩ một con quỷ đã cố kéo tôi xuống đấy."

Một lúc sau, anh đã hồi phục nên chúng ta có thể rời tới trú dưới một gốc cây. Rồi chúng ta ngồi đó, thân lấm đầy bùn, chờ mưa tạnh. Chúng ta rúc vào nhau để lấy hơi ấm và đây là lần đầu tiên tôi ở gần một cơ thể khác, nói gì đến cơ thể một người đàn ông, nhưng nó lại chẳng giống với những gì tôi từng tưởng tượng. Tôi biết giây phút này thế nào cũng đến và từng nghĩ nó sẽ hồi hộp khủng khiếp, nhưng tôi chỉ cảm thấy một nỗi sợ mơ hồ rằng mình đã sai lầm khi quyết định rời khỏi Engelthal.

Đây là điểm khởi đầu của cuộc sống chung giữa hai chúng ta: trong làn mưa lạnh giá, không thể tiến lên phía trước, đợi buổi sáng đến và có lẽ - có lẽ - mặt trời sẽ mang tới chút nắng ấm. Có lẽ, tôi nghĩ, đây là dấu hiệu để tôi quay lại. Tôi sẽ trở lại trước khi bất cứ ai biết là tôi đã biến mất, và tôi sẽ giả ốm trong phòng. Một hay hai ngày gì đấy, tôi sẽ trở lại làm việc, và đời cứ thế trôi đi như trước.

Nhưng không. Agletrudis còn lâu mới ỉm hành động của tôi đi, và tôi cũng không thể để mặc một người đàn ông đang đau yếu bên vệ đường được, đặc biệt lại là một người tôi cảm thấy thực sự phải có trách nhiệm. Tuy nhiên, tôi vẫn không thể không nghĩ tới sự bình lặng của tu viện và vị trí của tôi ở đó. Nhà tôi là ở phòng viết, giữa những cuốn sách. Nhưng dưới một cái cây, trong cơn bão, với một người đàn ông tôi hầu như không biết nhưng cũng là người tôi đã đặt cả tương lai vào: sao đó có thể là kim chỉ nam của đời tôi cơ chứ?

Và chẳng có cách nào khác ngoài việc đợi cho đêm tối qua đi.

Rồi mặt trời cũng mọc nhưng vẫn chưa thể xuyên qua những đám mây xám xịt, cơn mưa thưa dần nhưng vẫn chưa chịu tạnh hẳn. Chúng ta bắt đầu đi tiếp, nhưng vẻ mạnh mẽ của anh đã tan biến. Mọi nỗ lực bước đi đều là sự thách thức, và mọi bước đi thành công đều là một niềm hân hoan lớn. Tôi luôn ở cạnh anh với mỗi thắng lợi nhỏ bé này, tôi quàng tay qua người anh, lo ngại rằng nếu lại ngã xuống thì anh sẽ không đứng dậy được nữa.

Rồi may mắn cũng đến với chúng ta, dưới hình dạng một chiếc xe bò. Tiếng chân bò gõ lọc cọc trước mặt chúng ta, anh bèn vẫy tay ra hiệu cho người đàn ông dừng lại. Anh hỏi người đó đang đi về đâu - câu trả lời là Nürnberg, tới chợ - nhưng khi anh xin được đi nhờ, người nông dân đã thẳng thừng từ chối. Có chỗ nào để ngồi giữa một đống lợn thế này cơ chứ, ông ta nói, chỉ vào chỗ hàng đang chở.

"Hai con giá bao nhiêu?" anh hỏi.

Người nông dân ra giá và anh lấy số tiền tương ứng trao cho ông ta, rồi chậm rãi trèo lên chiếc xe bò. Anh cố nâng một con lợn lên nhưng không đủ sức bèn gọi tôi và cả hai ta hợp lại đủ để làm việc đó. Ngay khi con lợn chạm chân xuống đất, nó vội rú lên eng éc và chạy biến vào rừng, và chúng ta lại cho con thứ hai một kết cục tương tự. Anh quay về phía người lái xe đang há hốc mồm và nói, "Giờ đã có chỗ cho chúng tôi rồi đấy."

Người nông dân càu nhàu thừa nhận rằng ông ta nên làm thế. Tôi có thể thấy ông ta chẳng vui vẻ gì khi có bạn đồng hành là người, nhưng ông ta cũng thừa biết anh sẽ không cho ông ta cứ thế lái đi mà bỏ chúng ta lại đâu. Vì ông ta đã nhận tiền rồi, tặc lưỡi đồng ý có vẻ dễ dàng hơn là tiếp tục tranh cãi.

Những con lợn chen lấn nhau trong suốt chuyến đi, đâm bổ vào chúng ta với vẻ tò mò, dò la chúng ta với mấy cái mũi khụt khịt của chúng. Lúc đầu tôi còn cố xua chúng đi, nhưng những nỗ lực cuối cùng cũng nguội đi vì tôi nhận ra chúng chẳng còn chỗ nào để đi cả. Nếu tôi đẩy được một con ra, ngay lập tức một con khác sẽ nhảy vào thế chỗ. Chúng kêu eng éc liên tục nhưng tiếng ồn cũng chẳng là gì so với mùi hôi, và khi cuối cùng chúng ta cũng tới được ngoại ô Nürnberg, tôi tin chắc Chúa đã viện đến phân lợn để gửi thông điệp của Người.

Người nông dân thả chúng ta xuống một nhà trọ, tôi đoán có lẽ ông ta có thâm thù gì đó với người chủ. Chúng ta hiển nhiên là hai người lạ, lại bốc mùi, đang cố xin thuê một phòng. Chủ nhà trọ có vẻ do dự, chẳng biết xử trí thế nào với một người đàn ông bị bỏng và một nữ tu đi cùng một bầy gia súc, lại còn định thuê chung một phòng nữa chứ. Nhưng anh đã dúi cho ông ta thêm một ít tiền và tôi đề nghị sẽ cầu Chúa chúc phúc cho ông ta, đảm bảo với ông ta rằng dù trông tôi có thế nào thì Chúa cũng vẫn cứ nghe lời cầu nguyện của tôi như bình thường. Ông ta cuối cùng cũng dè dặt kiếm cho tôi và anh một phòng cuối dãy, biệt lập khỏi những phòng trọ khác, và chúng ta chỉ được phép vào ở nếu chịu tắm rửa giặt giũ tại một con suối gần đó trước.

Chỉ có một chiếc giường duy nhất trong phòng và điều này đã nhấn mạnh chuyện tôi đang cố gắng hết sức để không nghĩ tới. Hiển nhiên là có tính nhục dục trong những cuộc trò chuyện giữa chúng ta tại Engelthal. Tôi biết tôi không bỏ đi chỉ để sống như em gái anh, nhưng tôi chẳng biết chút gì về quan hệ nam nữ cả. Những gì tôi nghĩ hẳn đã lộ hết trên mặt. Anh đi ra giữa phòng và trải vài mảnh vải ra, nói rằng anh đã quen nằm đất từ những ngày ở trong đội lính đánh thuê rồi. Anh chẳng nhìn tôi lấy một lần khi tôi cởi bộ đồ ướt nhoẹt của mình ra và trèo lên giường, và tôi vẫn luôn luôn ghi tâm sự tốt bụng đó của anh.

Dù thực sự rất mệt mỏi, tôi vẫn không tài nào ngủ được. Có lẽ anh nghe thấy tiếng chân tôi cứ cọ vào giường bồn chồn lo lắng, hoặc có thể là do hơi thở của tôi không được thoải mái. Dù vì lý do gì đi nữa, sau vài phút anh gọi, "Marianne?"

Tôi gần như hoảng sợ đến nỗi không dám trả lời nhưng cuối cùng cũng đáp lại. "Vâng."

"Không phải một khởi đầu thực sự tốt đẹp, nhưng dù gì đi nữa nó vẫn là một khởi đầu," anh nói. "Tôi hứa nó sẽ trở nên tốt đẹp hơn. Còn tối nay thì cứ ngủ đi và biết rằng em đã an toàn rồi."

Anh không thể tưởng tượng được những lời đó đã làm tôi trấn tĩnh đến mức nào đâu, và để đáp lại, tôi đã làm điều tôi có thể. Tôi đưa cho anh sợi dây có mặt là đầu mũi tên - không đủ can đảm để tự tay đeo nó vào cổ anh - và nói rằng cha Sunder đã ban phúc để nó luôn bảo vệ anh.

"Thế thì tôi sẽ đeo nó mãi mãi, và sẽ đeo nó đầy kiêu hãnh," anh nói, "và tôi cám ơn em."

Chúng ta ngủ cho tới tận tảng sáng hôm sau và quyết định ở lại thêm một đêm nữa để hồi phục trước khi tiếp tục cuộc hành trình. Chúng ta phải tự quyết định tương lai của mình và thậm chí cả điều này cũng làm tôi lo sợ, vì chúng ta đã có thể tự do chọn lựa điều gì sẽ xảy ra tiếp theo trong cuộc đời mình. Tự do lựa chọn là việc anh không thể làm từ khi gia nhập đội quân condotta, và là điều tôi chưa từng biết tới.

Người chủ nhà trọ chuẩn bị bữa tối cho chúng ta và tôi thực sự ngạc nhiên khi thấy thức ăn có thể ngon đến thế. Hãy nhớ, các nữ tu luôn được dạy rằng sự khiêm tốn của họ được đo đếm bởi sự đạm bạc trong việc nấu nướng. Anh và tôi nói chuyện luôn miệng khi ăn. Chúng ta đều muốn tới một nơi nào đó rộng lớn một chút, để hòa vào đám đông càng nhiều càng tốt, vì những lý do rất hiển nhiên. Hai thành phố lớn nhất vùng là Nürnberg, nhà trọ của chúng ta nằm ven nơi này, và Mainz. Có rất nhiều công trình đang được xây dựng tại Mainz, phần lớn là các nhà thờ mới, vì thế đó là một điểm lợi cho chúng ta. Ngoài nghề cung thủ ra thì nghề duy nhất anh được đào tạo bài bản là thợ xây, thế nên đó là việc anh định làm để kiếm sống. Sẽ chẳng dễ dàng gì, vì anh đã bỏ nghề hơn chục năm rồi và vẫn còn chưa hồi phục khỏi những vết bỏng, nhưng chúng ta chẳng còn lựa chọn nào tốt hơn cả. Anh để dành được chút tiền từ hồi còn làm lính và huynh trưởng Heinrich cũng đã dúi vào tay tôi ít tiền trước khi chúng ta rời đi, vì thế chúng ta cũng có thể chống chọi được một thời gian.

Có một lý do nữa cho việc chọn Mainz: nó có một sự cân bằng lạ lùng giữa đời sống tâm linh và thế tục. Những cư dân ở đó đã giành được quyền tự bầu chính quyền của mình và tự điều hành các vấn đề tài chính, thay vì để cho Nhà thờ gánh toàn bộ trách nhiệm. Dù vị trí của tôi ở Engelthal chẳng quan trọng cho lắm, tôi vẫn cảm thấy khá hơn nếu chúng ta tới sống ở một thành phố có chút tự trị. Nürnberg quá gần Engelthal cả về địa lý và lịch sử - xét cho cùng, chính từ Nürnberg mà Adelheit Rotter đã lãnh đạo những người Beguine thành lập tu viện đấy thôi.

Đã quyết định lựa chọn Mainz, giờ chúng ta sẽ phải tìm cách đến đó. Tôi không thể đi xa hơn trong bộ quần áo nữ tu của mình, vì tôi sẽ lại có cảm giác mình đang lừa dối mọi người. Dù vẫn chưa biết phải gọi mình là gì, nhưng tôi cũng hiểu mình không còn là nữ tu nữa. Chúng ta tìm được một cửa hàng bán loại quần áo thịnh hành thời đó, và đó cũng là nơi tôi học thêm được về trang phục. Tôi thử một chiếc áo choàng kiểu Pháp với ống tay áo rộng thùng thình, loại áo tôi đã được dạy là "cửa sổ dẫn tới Địa ngục" vì chúng cám dỗ đàn ông khám phá bên trong. Kiểu quần áo như thế không dành cho tôi. Cuối cùng tôi quyết định mặc quần bó và một chiếc áo thụng giản dị. Tôi gói mấy cái áo choàng nữ tu của mình rồi cất vào trong túi đeo vai thay vì ném chúng đi. Dù có muốn đi nữa, tôi cũng chẳng thể nào ném chúng đi như một đống rác được.

Chúng ta tiến vào Mainz từ hướng Đông, qua những cánh cổng mở ra phía sông Rhine. Anh không thể tưởng tượng nổi điều đó đã cuốn hút tôi đến thế nào đâu. Mọi người cứ hò hét ầm ĩ! Tôi biết cũng không hẳn là thế, nhưng hãy nhớ rằng tôi đã sống cả đời trong tu viện. Chúng ta luồn qua đám đông gần chỗ những sạp bán thức ăn, và đi qua đám người say xỉn loạng choạng bước ra khỏi mấy quán rượu. Chẳng một ai cúi chào tôi như cách họ luôn làm nếu tôi mặc áo choàng tu sĩ. Tôi chỉ là một công dân khác mà thôi.

Chúng ta tiến về phía khu dân nghèo của thành phố, tìm kiếm những chỗ trọ rẻ hết mức. Cuối cùng chúng ta cũng tìm được một nhà trọ nhỏ ở khu định cư cho người Do Thái đằng sau cửa hàng của một cặp vợ chồng đã có tuổi. Họ hơi bối rối vì không hiểu tại sao chúng ta lại muốn sống ở đó, vì người phụ nữ đã nhận ra ngay tôi là người theo Thiên Chúa giáo. Tôi đảm bảo với họ rằng tôi không bao giờ muốn cải đạo, và thế là quá đủ. Tôi nghĩ sự chân thành của chúng ta là rất rõ ràng và họ có thể thấy chúng ta chỉ là một đôi trẻ đang yêu. Chúng ta có thực sự như thế hay không thì lại là chuyện hoàn toàn khác - tôi vẫn chưa chắc chắn lắm - nhưng ít nhất đó cũng là những gì chúng ta cho bà chủ nhà thấy. Chúng ta trả trước vài tháng tiền thuê nhà và họ thậm chí còn cho chúng ta ít bánh mì làm quà nữa.

Chúng ta đi thám thính thành phố một lúc, vì anh vẫn chưa thực sự sẵn sàng bắt tay vào công cuộc tìm việc. Tôi đã luôn chắp tay cầu nguyện trong suốt tuần đầu tiên, cầu mong chúng ta sẽ có tình cảm với thành phố này, và quan trọng hơn, cầu mong chúng ta sẽ tiếp tục có tình cảm với nhau. Mainz chỉ rộng độ một đến hai kilomet, không quá lớn, nhưng cũng phải có đến hai mươi nghìn dân. Một mật độ khá lớn vào thời đó. Có một khu dân cư trung tâm với một cái chợ ở góc Đông Bắc thành phố, và khi đến đó lần đầu tiên chúng ta đã lạc vào một lễ hội sôi động chưa từng thấy. Tòa thị chính đặt ở đó, cùng với một bệnh viện được dựng lên để tôn vinh các thánh thần, tôi đã từng gợi ý chuyển anh đến đó khi anh mới bị bỏng. Có một vườn cây ăn quả ở góc phía Tây, và cả một trại nuôi lợn do các tăng lữ dòng Antonite điều hành nữa. Vì lý do nào đó, họ tin rằng chăn lợn là sự bổ sung hoàn hảo cho việc chăm lo người ốm của mình.

Số lượng các hội thánh ở Mainz quả là đáng ngạc nhiên. Có các tu sĩ dòng Franciscan, dòng Augustinian. Dòng Teutonic, dòng Carthusian, dòng Magdalen, và... tôi không biết, nhiều đến nỗi không thể nhớ nổi. Nhưng tôi hứng thú nhất với dòng Beguine, những nữ tu thực thụ mà chẳng cần theo một hội thánh đặc thù nào. Cứ xem hoàn cảnh của tôi thì rõ, anh có thể thấy tôi cảm thấy có gì đó rất gần gũi với họ - họ không thực sự thuộc về Giáo hội nhưng cũng chẳng thuộc về giới trần tục. Họ dường như có mặt ở khắp nơi trên phố và điều đó làm tôi cảm thấy thoải mái hơn một chút. Dù đã rời bỏ Engelthal, tôi không hề có ý định rời bỏ Chúa.

Thánh đường của thánh Martin vượt trội hơn hẳn những nhà thờ khác trong thành phố. Nó được xây dựng dưới sự chỉ đạo của Tổng giám mục Willigis vào khoảng năm 1000, vì ông cần một nơi tôn nghiêm sau khi quyền được tấn phong tại Mainz của các vị vua Đức đã được củng cố. Nhưng ngay trước hôm chính thức khánh thành, nhà thờ thánh Martin bị cháy. Từ đó nó hình như trở nên khoái lửa, vì trên thực tế, đến khi chúng tôi tới thì nó đã bị lửa thiêu hai lần rồi. Tôi luôn nghĩ rằng chuyện ấy có gì đó rất hợp lý. Bị thiêu ba lần, hồi sinh ba lần.

Nhà thờ thánh Martin mang một vẻ đẹp diệu kỳ. Nó có những cánh cửa bằng đồng sáng loáng với một bức tượng đẹp mê hồn tạc cảnh Chúa bị đóng đinh, có cả những cánh cửa sổ trang trí họa tiết gân lá khiến cả gian giữa thánh đường ngập tràn những sắc màu kỳ ảo trong những ngày nắng rực rỡ. Bục chính cho dàn đồng ca được đặt sau cánh ngang còn bục phụ đặt ở hướng Đông. Mộ của một số vị Tổng giám mục như - Siegfreid von Epstein, tôi nghĩ thế, và Peter von Aspelt đặt tại đây. Trong thời gian chúng ta ở Mainz, nhà thờ còn được đặt thêm ngôi mộ của Tổng giám mục xứ Bucheck. Ta không thể nào bước chân vào nơi đây mà không cảm thấy sức nặng của lịch sử.

Sau khi chúng ta kết thúc cuộc hành trình khám phá thành phố, anh liền bắt tay vào tìm việc. Anh biết mình sẽ phải bắt đầu lại từ con số không, nhưng anh luôn tin chắc mình có thể xoay xở tất cả. Mỗi buổi sáng anh dậy thật sớm để đi đến những nhà thờ đang xây dựng, và mỗi ngày anh đều bị bọn họ từ chối. Rồi anh bắt đầu đi đến những ngôi nhà tư nhân đang xây dựng dở dang, nhưng những công trình này cũng từ chối anh nốt. Anh đã trở thành một con chó săn ngộ nghĩnh nổi tiếng quanh khu công trình xây dựng, nhưng dù anh có làm gì đi nữa, cũng chẳng ai chịu nhận anh cả.

Vấn đề đầu tiên là tại anh không chịu nói dối. Khi những người quản lý hỏi kinh nghiệm, anh luôn thật thà nói rằng mình đã không làm thợ xây một thời gian rồi. Khi họ hỏi anh làm gì trong khoảng thời gian đó. Anh trả lời rằng anh đi lính. Nếu bị vặn hỏi chính xác là kiểu lính nào, anh sẽ giữ im lặng. Nhưng lý do thật sự khiến anh bị từ chối, hết lần này đến lần khác, là vì những vết bỏng của anh. Chúng không nhiều như bây giờ đâu, nhưng cứ thử hình dung ra độ mê tín ở cái thời đó thì biết. Ai biết một người bị bỏng đã dính líu đến cái gì, đặc biệt là nếu anh ta không chịu nói rõ ra? Hẳn là anh ta đã làm một chuyện gì đó rất xấu xa, hiển nhiên rồi.
 
CHÚ Ý !!!
Các đạo hữu nhớ thêm TÊN CHƯƠNG và THỨ TỰ CHƯƠNG ở ô phía trên phần trả lời nhanh. Như vậy hệ thống mới tạo được DANH SÁCH CHƯƠNG.
Cập nhật chức năng ĐĂNG TRUYỆN và THÊM CHƯƠNG MỚI trên web Diễn Đàn Truyện tại https://truyen.diendantruyen.com
Top Bottom