Cập nhật mới

Dịch Full Cô Gái Mang Trái Tim Đá

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 40


Đêm đêm anh lê bước về nhà, nhưng anh dừng lại một chút trước cửa phòng chúng ta. Anh rũ quần áo cho thật thẳng thớm, anh nắm chặt tay lại rồi xòe tay ra vài lần trước khi hắt ra một nụ cười. Tôi biết điều này vì tôi thường nhìn anh qua ô cửa sổ nhỏ. Trước khi anh bước vào, tôi sẽ chỉnh lại tư thế ngồi để anh không thể biết là tôi đã chứng kiến cảnh ấy.

Chuyện tôi khó thích nghi với cuộc sống mới thì lại khác. Tôi cảm thấy bị đè bẹp bởi sức nặng của tự do. Không còn phải cầu kinh theo lịch nữa, tôi đến thăm thú các nhà thờ trong vùng vào những lúc rảnh rỗi, nhưng cầu kinh khi đó rất khác vì tôi thực sự không bị bắt buộc. Tôi bắt đầu tự học nấu nướng, một điều tôi chưa từng làm khi còn ở tu viện. Tôi ngập trong rau xanh và hoa quả, nghĩ mình không thể phạm sai sót, cho tới khi, sau vài tuần, anh nói thích món gì đó "có chất" hơn. Có nghĩa là món gì được nấu chín, món gì liên quan đến thịt thà ấy. Nấu chín quá, nấu chưa kỹ, kết hợp không hoàn hảo cả hai trạng thái, tôi luôn phá hỏng hầu như tất cả mọi thứ tôi châm lửa vào. Anh cười xòa trước những cố gắng của tôi, giấu những mẩu thức ăn thừa vào trong túi áo và nói rằng tôi ngày càng tiến bộ. Anh lại đối xử tốt với tôi nữa rồi. Cuối cùng bà chủ nhà của chúng ta, người không chịu nổi cái mùi phát ra từ trong bếp thêm chút nào nữa, đã chỉ cho tôi đủ ngón nghề để có thể tự xoay xở được.

Nhưng nấu nướng còn khá dễ dàng nếu so với việc thực hiện bổn phận của một người yêu. Chúa ơi, thật khủng khiếp! Nhưng một lần nữa anh lại hết sức kiên nhẫn, rõ ràng còn kiên nhẫn hơn cả những gì tôi có thể mong đợi nữa. Có lẽ một phần là do những vết bỏng của anh; vài đêm anh yếu đến nỗi không chịu được việc bị đụng chạm nữa. Anh không trong sáng gì và tôi phải ngây thơ lắm mới tin vào điều ngược lại, nhưng anh chưa bao giờ xin lỗi việc mình đã gần gũi nhiều phụ nữ trước tôi. Trước và sau khi chúng ta gặp nhau là hai chuyện hoàn toàn khác, thế thôi. Cùng với việc tôi bỏ lại cuộc sống trước kia của mình ở phía sau, tôi phải chấp nhận rằng anh cũng có thể làm thế. Phần lớn thời gian việc đó cũng không quá khó khăn, dù thỉnh thoảng tôi cũng phải tống sự ghen tuông của mình vào tủ quần áo những lúc anh không để ý.

Kinh nghiệm của anh trong chuyện tình dục thực sự có ích. Lạ lùng thay, đó cũng y hệt như chuyện tôi đã dành cả đời để cố gắng, nhưng thất bại, để có thể toàn tâm toàn ý với tình yêu tâm linh. Tôi không bao giờ phải dẫn lối chỉ đường, tôi chỉ cần nhận. Anh mang đến cho tôi một thứ cảm xúc xác thịt tôi chưa từng nghĩ mình có thể sở hữu. Tôi đã phát hiện ra rằng tôi... Nhìn tôi này, bao nhiêu năm đã trôi qua, mà tôi vẫn còn đỏ cả mặt. Tôi vẫn không thể nói về chuyện đó. Cứ cho là tôi đã luôn sống theo đúng lời thề của mình, nhưng sau vài tháng ở cùng anh tôi đã nhận ra một cuộc đời đức hạnh hầu như chẳng phải cuộc sống đích thực.

Dù sao, tôi cũng đã thích nghi được với cuộc sống ngoài tu viện. Tôi vẫn đến nhà thờ thánh Martin nhưng chẳng mấy chốc tôi đã chuyển sang cầu nguyện cho sức khỏe của anh và mong anh chóng tìm được việc làm, nghĩa là giờ đây tôi cầu nguyện cho những gì tôi mong sẽ xảy ra chứ không phải cho những gì Chúa đã mang lại. Ngoài nhà thờ, tôi bắt chuyện với mấy cô Beguine trên phố và kết bạn được với vài người.

Giáo hội về cơ bản coi việc mấy kẻ vô danh tiểu tốt cứ đòi xía vào việc của Chúa là không hợp tí nào, nhưng tôi thì không thấy thế. Những người Beguine làm việc trên phố và thực hiện đúng lời thề sống trong nghèo khó của họ; họ hoàn toàn tương phản với những người sống trong nhà thờ, vì tôi đã phát hiện ra rằng phần lớn các linh mục đều không xứng đáng và thậm chí có người còn biển thủ của công nữa. Người Beguine tự cung tự cấp bằng những đồ thủ công nhỏ và những công việc trong bệnh viện, bằng lòng với những món tiền người dân tự nguyện quyên góp, thay vì áp chế thuế má bắt buộc. Hằng đêm họ sẽ quay trở lại nghỉ tại dãy nhà nhỏ của mình để lại bắt đầu quy trình vào sáng hôm sau, và sự thành tâm của họ thì không có gì phải bàn cãi. Chẳng bao lâu sau tôi đã nhận ra rằng lý do chính để Giáo hội chống lại người Beguine là vì những kẻ vô danh tiểu tốt này biến Giáo hội thành kẻ xấu.

Những người Beguine không thể hiểu tôi thật sự là ai. Tôi có thể nói hàng giờ về Kinh Thánh và tôi có thể đọc được cả tiếng Latin lẫn tiếng Đức. Tôi đã học tất cả sách của các học giả và chuyên gia. Tôi biết về Mechthild von Magdeburg, nữ tu sĩ có tầm ảnh hưởng lớn tới những người Beguine, và tôi cũng chẳng lạ gì kiệt tác của bà, Ánh sáng rực rỡ dịu dàng của Chúa Thánh Thần. Tôi biết tất cả những thứ này nhưng tôi không thể - không bao giờ - nói cho họ biết là bằng cách nào và tại sao. Tôi gây ấn tượng tốt nhưng lại rất khó hiểu. Cái họ quan tâm nhất, tuy thế, lại là tri thức khổng lồ của tôi về việc làm sách. Tôi biết nhiều hơn cả các chuyên gia của họ, những người đang soạn những cuốn Kinh Thánh cho dân nghèo được họ phân phát khắp nẻo đường góc phố.

Mùa đông đang đến gần: anh vẫn chưa tìm được việc làm, và những lời từ chối liên tục đã thành gánh nặng trên vai anh. Những người quản lý thi công ngày một trở nên thù địch với mỗi chuyến viếng thăm của anh, và hằng đêm anh lại lê bước về nhà với vẻ mệt mỏi hơn. Anh bắt đầu cằn nhằn bản thân vì không đủ khả năng để "làm chuyện bất cứ một người đàn ông tử tế nào cũng phải làm được". Tôi lại được thêm một bài học nữa về thế giới bên ngoài, bài học về lòng kiêu hãnh đàn ông. Tôi muốn giúp anh nhưng mọi gợi ý đều chỉ làm anh giận dữ. Dù biết anh giận dữ với chính bản thân mình chứ không phải với tôi, tôi vẫn thấy mọi việc dễ dàng hơn chút nào.

Một trở ngại lớn khác là anh không có giấy tờ tùy thân, lẽ ra là thứ phải có với bất cứ một người thợ nào ở tuổi anh. Đó không phải lỗi của anh, anh đâu có dự liệu chuyện cả cha lẫn mẹ đều mất khi anh còn nhỏ đâu, nhưng như thế cũng chẳng giải quyết được vấn đề. Vấn đề nằm ở chỗ đó. Hội thợ nề rất cứng rắn và anh chỉ đơn giản là không đáp ứng được những yêu cầu của họ. Phải làm một cái gì đó, và phải thật nhanh chóng, vì chỗ tiền tiết kiệm của chúng tôi chẳng thể nào tồn tại mãi được.

Thế là tôi đã ra hai quyết định, và tôi chẳng nói quyết định nào cho anh cả. Điều đầu tiên tôi làm là đề nghị được giúp đỡ những người Beguine. Không phải với tư cách một thành viên, mà là với tư cách một lao động tự do.

Việc soạn Kinh Thánh cho dân nghèo của họ cũng không phức tạp gì, chỉ là những tấm gỗ có in tranh và chữ, nhưng tôi vẫn thấy nó rất ấn tượng. Rất ít người biết đọc nên tranh ảnh là phương thức duy nhất để truyền tải những câu chuyện tôn giáo đến với quần chúng nhân dân. Những câu chuyện trong Kinh Cựu ước và Kinh Tân ước được đặt cạnh nhau để người đọc có thể nghiền ngẫm mối liên hệ giữa chúng: thay vì coi khinh người đọc, những người Beguine đã cố gắng lôi kéo họ vào công cuộc suy nghĩ tìm hiểu tác phẩm. Tuy nhiên, tôi biết mình vẫn có thể cải thiện chất lượng bản thảo và gợi ý phối hợp một số cảnh thích hợp hơn. Những người Beguine không xuôi theo ngay, vì thế tôi đã cung cấp một số bản mẫu và họ đã phải công nhận rằng tôi có thể làm được. Khi họ tiếp tục cảnh giác khi cho một người ngoại đạo tham gia vào công việc của mình, tôi quyết định đây là lúc phải nói với họ về cuộc sống của tôi khi ở Engelthal.

Biết được điều này, họ vẫn chưa thể đưa tôi vào hàng ngũ của mình một cách nhanh chóng được. Họ không nói thẳng ra, dĩ nhiên, nhưng có lẽ họ nghĩ nếu họ từ chối tôi, có lẽ một chút nào đó của Engelthal sẽ tan biến theo. Dù không có khả năng trả công cho tôi, họ vẫn tặng bánh mì và củ cải thay thế. Viêc này thực sự đã làm mọi chuyện trở nên dễ dàng hơn vì khi anh trở về sau chuyến săn việc tôi có thể nói với anh, một cách thành thật, rằng chỗ thức ăn đó là đồ cứu tế nhân đạo. Tôi không phải nói rằng tôi có việc làm trong khi anh thì không.

Việc thứ hai tôi làm, tôi chưa bao giờ nói với anh cho đến tận bây giờ. Hãy nhớ rằng đó là chuyện từ rất lâu rồi, và tôi mong anh sẽ tha thứ cho tôi.

Một buổi sáng nọ, anh thức dậy chuẩn bị cho chuyến đi tìm việc thường nhật của mình. Tôi vô tư hỏi rằng anh định đến những nhà thờ nào, anh bảo sẽ bắt đầu với nhà thờ thánh Christoph rồi tới nhà thờ Poor Clares và nhà thờ thánh Quintin. Sau đó thì, anh thực sự cũng không biết.

Khi anh ra khỏi cửa, gót chân lê nặng nhọc trên nền đá, tôi mặc chiếc áo choàng nữ tu lần đầu tiên kể từ khi rời khỏi Engelthal. Tôi đi đến nhà thờ thánh Quintin, biết rằng phải một lúc lâu nữa anh mới đến đó.

"Đây sẽ là một nhà thờ rất đẹp," tôi nói với người quản lý công trình. "Gian trung tâm có vẻ khá thấp còn lối đi giữa các hàng ghế lại rất cao. Thật là một hiệu ứng thú vị."

Ông ta cảm ơn tôi, nhưng cũng thừa biết rằng tôi đến đó không phải chỉ để nói về kiến trúc. Khá nhã nhặn - vì ai lại muốn sỉ nhục một nữ tu cơ chứ? - ông ta hỏi lý do thực sự của chuyến viếng thăm này là gì. Tôi đến đây vì một người bạn, tôi trả lời, một người đàn ông đang rất cần việc. Một người đàn ông đầy vết bỏng. Người quản lý đảo mắt trả lời, vâng, một người đàn ông như thế ngày nào cũng mò đến đây ăn vạ, thứ lỗi cho cách dùng từ của ông ta, nhưng họ đã có đủ công nhân rồi. Hơn nữa, vẻ ngoài của người đó làm những công nhân khác sợ chết khiếp.

Tôi đã dùng giọng nói ngọt như mía lùi của mình, giọng nói tôi đặc biệt dùng khi nói về Chúa. "Nhưng chắc chắn con người không thể chỉ được đánh giá bởi vẻ bề ngoài đâu. Tôi biết rằng người đàn ông này có cả trái tim tuyệt vời lẫn kinh nghiệm làm thợ nề."

Người quản lý trả lời, lại rất nhã nhặn, rằng kinh nghiệm làm việc của anh dường như đã bị gián đoạn trong nhiều năm khi anh làm một loại lính gì đó, một người lính đánh thuê nếu ông ta không nhầm.

Tôi không xác nhận cũng không phủ nhận sự hoài nghi của người quản lý công trình nhưng tôi đã nói bóng gió, một cách khá bí ẩn, "Có những người lính chiến đấu nhân danh Chúa, làm những việc rất cần thiết nhưng không bao giờ khoe khoang nơi công cộng. Thế tôi muốn hỏi ngài một lần nữa, để xây dựng một nhà thờ to đẹp thế này, chắc chắn phải có chỗ cho một công nhân nữa chứ? Thậm chí cả với những người có lỗ hổng trong tiểu sử chứ? Bản thân tôi có thể đảm bảo cho nhân cách của anh ấy."

Ông ta nhìn tôi từ đầu đến chân và hỏi, chính xác là, tôi từ đâu đến vậy. Tôi trả lời rằng tôi đến từ Engelthal, không hề nói là tôi đã không còn là nữ tu tại đó nữa. Tôi không biết người này có bị ấn tượng bởi việc đó không. Ông ta hẳn có nghe nói về Engelthal, vì cuối cùng ông ta cũng gật đầu. Ông ta nói sẽ cân nhắc xem có giúp được gì không nhưng cũng thêm rằng mình không thể hứa chắc điều gì.

"Tôi thực sự cám ơn sự quan tâm của ngài. Trong trường hợp ngài tìm được một chỗ cho anh ấy thì xin đừng nói với anh ấy rằng tôi đã đến đây. Anh ấy là một người có lòng tự trọng cao và sẽ rất tốt nếu để anh ấy tin rằng sự bền bỉ của mình đã được đền đáp." Tôi cúi đầu chào, và để cho chắc chắn, nói thêm với người quản lý xây dựng rằng tôi sẽ cầu nguyện cho ông ta.

Sau khi thay quần áo bình thường, tôi đi thẳng tới thánh đường thánh Martin. Không phải để cầu nguyện cho linh hồn người quản lý, như tôi đã nói, mà cho chính bản thân tôi. Chuyện tôi giả dạng với bộ quần áo của Giáo hội làm tôi phát buồn nôn. Khi rời thánh đường, tôi không hề có cảm giác mình được tha thứ. Tôi đã cầu xin một dấu hiệu, nhưng chẳng có gì xuất hiện cả.

Cho tới buổi tối hôm ấy, khi anh bước qua ngưỡng cửa kiệt quệ nhưng miệng nở nụ cười và người đầy bụi đất. "Hôm nay một người quản lý đã nhận tôi rồi."

Sau nhiều tuần anh đã tạo được ấn tượng tốt ở nơi làm việc. Khi công việc ở nhà thờ thánh Quintin xong xuôi, người quản lý đã giới thiệu anh tới nhà thờ thánh Stephan. Suốt mùa đông mọi chuyện cứ thế diễn ra, anh chuyển chỗ làm hết từ nhà thờ này tới nhà thờ khác. Anh đã có chút danh tiếng và cũng kết bạn được với vài người, và hằng ngày anh đều vui mừng khôn xiết mang một vốc tiền đầy về nhà. Tôi đun nước và đổ một thùng đầy để tắm rửa cho anh. Anh vẫn còn nhiều sẹo và các cơ vẫn còn khá cứng, tôi đã xoa bóp cho anh đến khi các khớp xương của anh trở nên mềm dẻo. Công việc rất nặng nhọc với bất cứ ai, nhưng những thương tích của anh khiến nó còn nặng nhọc gấp đôi. Tuy thế, mỗi ngày anh cũng trở nên khỏe mạnh hơn. Tôi luôn cố gắng cho anh ăn tất cả những gì chúng ta có, thông thường chỉ là củ cải và bánh mì đen, những miếng thịt lườn rẻ tiền, và tất cả những gì tôi bí mật đem về từ chỗ những người Beguine.

Chúng ta luôn có vừa đủ tiền để tiếp tục ở trọ. Bà chủ nhà vẫn luôn dạy tôi cách nấu nướng và còn giới thiệu tôi với một số người bạn của bà nữa. Cũng phải mất một thời gian thì họ mới chấp nhận tôi, vì những mối liên hệ với người Thiên Chúa luôn gây rắc rối cho những người Do Thái sống ở Mainz - người ta vẫn nhắc đến cuộc thảm sát người Do Thái trong cuộc Thập tự chinh thứ nhất của Emich, và chuyện tổng giám mục đã từng cố đuổi tất cả những người Do Thái ra khỏi thành phố. Nhưng vì họ đều sống và kinh doanh trong cùng một thành phố, việc tránh mặt mọi loại người là không thể. Tôi nghĩ họ đã quyết định rằng vì tôi chưa bao giờ quá câu nệ chuyện tôn giáo với họ, họ có thể chấp nhận tôi với tư cách một công dân bình thường.

Thế là bây giờ tôi đã quen biết vài người Do Thái cùng mấy cộng sự người Beguine, và anh cũng có đồng nghiệp ở khắp các công trình trong thành phố. Tôi đã ngừng cầu nguyện để xin một dấu hiệu cho thấy tôi đã đúng khi rời Engelthal. Tôi biết mình đã có dấu hiệu đó rồi.

Vào mùa xuân, một người bạn thợ đá của anh đã đưa ra một lời đề nghị bất thường và đáng ngạc nhiên. Anh ta nói đã "quá chán ngán cái việc gõ đầu lũ trẻ ranh ngu ngốc rồi" và đang muốn có một anh bạn đồng hành. Nếu anh không phiền mức giá hơi thấp, anh ta sẽ xin Hội Thợ đá một ngoại lệ đặc biệt để nhận anh làm thợ học việc. Anh ta cảnh báo rằng sẽ không dễ dàng gì và thu nhập của anh sẽ giảm sút nghiêm trọng, nhưng cuối cùng anh sẽ có được giấy tờ tùy thân. Chúng ta chỉ bàn bạc vài phút trước khi quyết định rằng một lời đề nghị như thế sẽ không bao giờ có lại lần hai. Có chút khó khăn trong việc thuyết phục Hội Thợ đá nhưng cuối cùng họ cũng đồng ý, và anh đã trở thành người thợ học việc lớn tuổi nhất thành Mainz như vậy đấy.

Anh ngập chìm trong công việc, đến sớm về muộn. Anh làm tất cả những gì được nhờ, không bao giờ phàn nàn, và cẩn thận chú ý tới tất cả những lời chỉ dẫn. Việc anh có một cảm quan bẩm sinh với đá đã không bị bỏ phí. Những bài học của anh từ cha cũng không bị mai một theo thời gian.

Niềm tin vào một tương lai tốt đẹp hơn thật là một món quà kỳ diệu. Chúng ta vẫn chưa có tiền, nhưng chúng ta cũng bắt đầu nói về việc sẽ tìm một nơi ở mới. "Một ngôi nhà nhỏ, có lẽ thế." Niềm tin cho chúng ta cái cớ để mơ mộng và giấc mơ là thứ rất cần thiết vì thu nhập giảm sút đã ảnh hưởng tới mọi mặt đời sống của chúng ta, rõ ràng nhất là trong khẩu phần ăn hằng ngày. Nếu không có mấy món "từ thiện" từ những người Beguine, có lẽ chúng ta đã không thể qua khỏi.

Dù bụng trống rỗng, chúng ta vẫn đi khắp thành phố và chỉ trỏ vào những ngôi nhà sẽ thuộc về chúng ta. Một ngày nào đó.

"Và khi chúng ta đã có nhà," anh nói, "tôi sẽ xin em cho tôi vinh hạnh được lấy em làm vợ."
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 41


Quá khứ của chúng tôi dừng tại đây.

Khi tôi nài nỉ hỏi khi nào thì chúng tôi cưới, Marianne Engel nói, "Anh phải đợi thôi."

* * *

Tôi quay lại bệnh viện để thực hiện thêm mấy cuộc phẫu thuật tái tạo. Cho tới lúc này, đó hầu hết là những ca phẫu thuật chỉnh hình: những nỗ lực để khiến tôi trông, thay vì hoạt động, tử tế hơn. Tôi hỏi Nan những cuộc phẫu thuật phục hồi diện mạo của tôi còn kéo dài đến bao giờ nữa, bà bảo không biết. Tôi hỏi cuối cùng trông tôi sẽ khá hơn đến mức nào, và bà trả lời chuyện đó còn tùy vào mỗi bệnh nhân.

Tôi luôn luôn cảm thấy rằng, dù Marianne Engel có quan tâm đến tôi thế nào đi nữa, những lúc tôi vắng mặt khỏi pháo đài là thời gian cô có thể làm việc mà không bị gián đoạn. Việc tôi đi taxi về nhà sau vài ngày nằm viện và thấy cô kiệt sức nằm dài trên giường, người vẫn bám đầy bụi đất cũng chẳng còn bất thường nữa, và tôi sẽ hé nhìn vào xưởng ở tầng hầm để thấy một con quái vật mới đang gian giảo giương mắt nhìn tôi. Rồi tôi sẽ kiểm tra cái bát nước uống và thức ăn tôi đã để dành cho Bougatsa trước khi rời nhà và chúng luôn luôn sạch trơn; tôi ngờ rằng nó đã nuốt hết tất cả mọi thứ ngay cái giây phút tôi bước chân ra khỏi cửa rồi, nhưng tôi chẳng thể làm được gì hơn. Nói chung thì, những chuyến đi khám bệnh cũng có cái lợi, vì việc cô tạc tượng trong thời gian tôi đi vắng có nghĩa là chúng tôi sẽ có nhiều gian cho nhau hơn khi tôi quay về.

Nhưng vẫn có những lúc cô phải tạc tượng còn tôi thì không vào viện, và tôi đã dần biết tự chăm sóc bản thân - và cô hơn. Dù cô cố ngơi tay để tắm cho tôi, tôi có thể thấy rõ là cô rất khó chịu: cô đục đẽo bức tượng sâu bao nhiêu, cô cọ người tôi mạnh bấy nhiêu. Khi xong việc, cô sẽ lại quay về tầng hầm và tôi sẽ mang thức ăn đến cho cô. "Cô biết đấy, cô sẽ có thể tạc tốt hơn - và nhanh hơn - nếu thỉnh thoảng cô chịu ăn chút gì đó."

"Không phải chỉ có mỗi chuyện giải thoát gargoyle đâu. Tôi còn phải trui rèn tinh thần của mình nữa."

"Thế nghĩa là sao?"

"Thế giới trần tục ru ngủ cơ thể bằng đồ ăn và vật chất tiện nghi," cô nói. "Chúng làm cơ thể thỏa mãn nhưng lại là kẻ thù của tinh thần. Kiêng khem là cái cương giúp tinh thần có cơ hội thắng thế trong cuộc tranh đấu không có điểm dừng với cơ thể."

Lại một cuộc tranh luận mà logic chỉ là kẻ lạ mặt; vì thế, đó lại là một cuộc tranh luận khác mà tôi chắc chắn sẽ thua. Thế là tôi đổ gạt tàn thuốc lá của cô, rót đầy chai nước, và để lại một đĩa hoa quả bổ sẵn mà tôi biết sẽ vẫn nằm chỏng chơ khi tôi xuống lần tới.

Sự cuồng nhiệt của Marianne Engel luôn luôn tàn dần rồi lụi hẳn vài ngày sau. Cô sẽ xin lỗi cho quãng thời gian không ở bên tôi, nhưng tôi biết là mình cũng chẳng có gì đáng phàn nàn, một cách thực tâm, vì nhiều nhất mỗi tháng cô thường cũng chỉ có một - hai đợt làm việc như thế này. Nó thanh toán cho đủ mọi thứ, bao gồm cả các hóa đơn của tôi nữa, và tất cả thời gian còn lại của cô là dành cho tôi: bất cứ ai có một người vợ phải làm việc công sở từ chín giờ sáng đến năm giờ chiều cũng sẽ bảo tôi im cái miệng hay lèo nhèo đi.

Thêm vào đó, mỗi đợt làm việc của cô còn là cơ hội tuyệt vời để tôi gọi cho bạn bè cũ và sắp xếp mua thêm morphine bằng thẻ tín dụng của tôi.

Mọi người trong siêu thị cố không nhìn chúng tôi, nhưng không thể. Marianne Engel vẫy tay chào một bà lão mồm há hốc chạy vội đi như vừa bị bắt quả tang làm điều gì đó thiếu đạo đức lắm, nhưng vẫn không thể không cố ngoái đầu lại tới hai lần.

Về mặt lý trí tôi có thể thông cảm với những biểu hiện thái quá dành cho tôi, nhưng về mặt tình cảm thì tôi lại ghét điều đó vô cùng. Tôi chẳng còn là một kẻ mờ nhạt, vì tôi giờ đã trở nên nổi bật theo đúng nghĩa đen của từ này rồi. Việc mặt tôi bị giấu sau lớp mặt nạ thủy tinh dẻo và những bộ quần áo tạo áp suất chỉ làm tôi, theo một cách nào đó, càng thêm "hấp dẫn" mà thôi. Như trong bất cứ bộ phim kinh dị chất lượng nào, điều bạn phải tưởng tượng luôn luôn đáng sợ hơn những gì bạn thực sự thấy.

Tôi nghe thấy tiếng một bà mẹ ở lối đi số tám bảo con mình đừng nhìn. Cậu bé, năm hay sáu gì đấy, nấp cái thân thể bé nhỏ của mình vào chân mẹ cho an toàn nhưng mắt vẫn không rời khỏi tôi. Người mẹ nói, "Tôi xin lỗi. Nó, ừm, tò mò và, à, rất thân thiện..."

"Chị không nên xin lỗi vì việc đó! Thân thiện mấy cũng không thừa mà!" Marianne Engel cúi xuống để nhìn thẳng vào mắt cậu bé. "Cháu dễ thương quá. Cháu tên gì vậy?"

"Billy."

"Có phải đó là tên gọi tắt của William không?"

"Vâng."

"Đó là một cái tên rất hay." Marianne Engel hất đầu về hướng tôi đứng. "William, cháu có nghĩ bạn cô trông đáng sợ không?"

"Một chút," Billy thì thầm.

"Chú ấy thực sự không tệ đến thế đâu, một khi cháu làm thân với chú ấy."

Tôi không biết Marianne Engel đang làm cho ai cảm thấy bất tiện - Billy, mẹ của Billy, hay là tôi - thế là tôi nói rằng chúng tôi cần phải đi tiếp. Tôi đã quên mất ảnh hưởng của giọng nói như cóc kêu của tôi với những người mới nghe lần đầu. Sau khi Billy giật lùi lại phía sau, cậu bé hỏi với giọng pha lẫn tò mò và sợ sệt. "Có chuyện gì với chú vậy ạ?"

Người mẹ mắng cậu bé, giải thích với cậu ta rằng câu hỏi đó không lịch sự một chút nào. Tôi phẩy tay cho qua, nhưng Marianne Engel lại hỏi xem chị ta có tò mò chút nào về chuyện đấy không. Mẹ Billy lúng búng trong miệng trước khi nhả ra hai từ "Ờ, có..."

"Dĩ nhiên là có rồi. Nhìn cậu bé đi! William chỉ hỏi một câu mà tất cả mọi người ở đây đang nghĩ trong đầu mà thôi." Marianne Engel xoa đầu cậu bé, để nó biết rằng mọi người không hề chỉ trích nó.

"Nó mới đi nhà trẻ thôi," người mẹ nói.

"Tôi bị bỏng trong một vụ cháy." Tôi chỉ muốn cuộc nói chuyện kết thúc cho nhanh để chúng tôi đi tiếp, nhưng Billy lại hỏi thêm câu nữa: "Thế có đau không ạ?"

"Có." Tôi cố kìm nén ham muốn tự nhiên là cảnh báo cậu bé đừng có dại mà nghịch diêm. "Chú đã nằm viện một thời gian dài."

"Oài," Billy nói, "chắc chú rất vui khi không phải ở đó nữa."

Bà mẹ kéo tay con mạnh đến nỗi cậu bé không thể lờ mẹ mình được nữa. "Chúng tôi thực sự phải đi rồi." Chị ta không hề nhìn lại, nhưng Billy quay lại vẫy tay với chúng tôi trong lúc mẹ nó kéo nó xuống lối đi.

Khi chúng tôi rời siêu thị, Marianne Engel dốc toàn bộ số tiền thừa của cô vào tay những người ăn xin dật dờ gần đó. Suốt dọc đường cô toàn nói về những bức tượng dang dở trong xưởng của mình vì, hiển nhiên rồi, Ba Vị Chủ Nhân của cô gần đây lại mới thông báo rằng cô cần phải hoàn thành chúng.

Tôi đang đi rất bình thường cho tới khi chúng tôi ra được chỗ ô tô, nhưng trong khi lên xe, tôi đã quệt mạnh cả một mảng lớn da bỏng vào cửa hành khách. Cơ thể tôi ngay lập tức phản ứng với sai lầm bằng việc truyền những cơn co giật đau điếng người từ bó dây thần kinh này đến bó dây thần kinh khác, và con rắn cái trong xương sống bắt đầu đớp lấy phần sau xương sọ của tôi như thể nó là một con chuột đồng chỉ chực bị nuốt chửng. MẸ KIẾP! MẸ KIẾP! MẸ KIẾP! Tay tôi bắt đầu run lẩy bẩy vì đói morphine khẩn cấp và tôi khẩn khoản xin Marianne Engel tiêm cho tôi một liều càng nhanh càng tốt. Cô lấy dụng cụ ra khỏi hộp đồ nghề của tôi (tôi không bao giờ rời nhà mà thiếu nó cả) và đâm kim tiêm vào người tôi.

Morphine như một kẻ quá khích đang trên đường thực hiện nhiệm vụ; nó len vào mọi ngóc ngách trong cơ thể để chuyển hóa, mang đến những giấc mơ tẩm sữa-và-mật ong chậm chạp chảy qua mạch máu bạn. Con rắn trở nên lờ đờ trong dòng sữa ngọt và từ từ rơi vào trạng thái bất động, nhưng tôi biết mụ ta sẽ trở lại. Con rắn đó luôn luôn trở lại.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 42


Lần cuối cùng máu tôi sạch trong, không nhiễm trùng là khi nào nhỉ? Hồi tôi ngoài hai mươi chăng, tôi nghĩ thế.

Marianne Engel suốt mấy ngày liền cứ đi đi lại lại trong nhà với cốc cà phê và điếu thuốc lá, xỉ vả bản thân vì đã không thể tẩy trần cái dụng cụ là cơ thể cô và nhận được những sự chỉ dẫn mới. Cuối cùng cô cũng chấp nhận rằng đã đến lúc cô phải hoàn thành những bức tượng dang dở đang chật cứng trong xưởng của mình. "Không thể bỏ mãi được, tôi nghĩ vậy. Những Chủ Nhân đã nói thế."

Khi tạc những bức tượng này, cô không bị ám bởi những nguồn năng lượng ma quỷ như khi tạc một bức tượng từ đầu. Cô sẽ đi lên cầu thang để giúp tôi tập luyện hoặc đi dạo với Bougatsa. Khi cô tắm cho tôi vào buổi sáng, tôi cũng không cảm thấy mình là kẻ quấy rầy công việc chính của cô. Sự khác biệt, cô giải thích, không đến từ bản thân cô mà là từ những bức tượng kinh dị. Đã bị ngừng tạc một lần rồi, chúng giờ cũng hiểu rằng chúng có nhiều thời gian hơn chúng vẫn tưởng. "Chúng đã hiểu được dù tôi làm gì với chúng, chúng cũng vẫn sẽ là đá thôi. Chúng biết mình không cần phải gào thét với tôi để có được cái mình muốn."

Vài tuần sau, cô đã hoàn chỉnh được một vài tác phẩm còn dang dở của mình. Đầu con chim, trước đây được đặt chễm chệ trên một đôi vai người mà phần dưới vẫn chưa hề được động chạm đến, giờ đã được cho thêm cái thân người và hai chân sau của con dê. Con quái vật biển cố vùng vẫy khỏi đại dương đá granite đã có phần thân còn lại và những ngọn sóng bạc đầu. Xe tải thi nhau mang chúng đến triển lãm của Jack để bán, vì thuốc lá và quần áo tạo áp suất không thể tự trả tiền cho mình được.

Khá bất ngờ khi sau vài tuần, Marianne Engel đề nghị tôi theo cô vào xưởng, khu vực trong nhà rõ ràng rất riêng tư của cô. Cô đi loanh quanh một lúc, không nói gì cả, không nhìn tôi, cố hết sức để ra vẻ bình thường. Điều này thực sự đối lập với những lúc tôi thấy cô chìm đắm vào công việc. Cô lấy một cái chổi và quét vài cục đá nhỏ vào trong góc nhà, rồi lúng búng, "Tôi mong anh sẽ không tức giận."

Cô đi tới một khối đá được phủ vải trắng. Tôi đã không để mắt đến nó; giữa đống tượng kỳ cục của cô, giấu một tác phẩm nghệ thuật cho tới khi nó được hoàn thành cũng là việc bình thường. Tôi có thể thấy một vật giống như người ẩn dưới lớp vải, nó làm tôi nghĩ đến hình ảnh một đứa trẻ hóa trang thành ma trong lễ hội Halloween. Khi cô giật mảnh vải che ra, cô nói, "Tôi đang tạc tượng anh."

Một bức tượng về tôi mới hoàn thành một nửa. Không, không phải một nửa - chính xác hơn, đó chỉ là những đường nét cơ thể tôi mà thôi. Chưa có chi tiết nào được đục đẽo cả, nhưng cũng không thể không mơ hồ nhận ra dáng hình tôi: hai vai khom xuống y như người thật; cột sống cong vẹo hình con rắn, cái đầu nhìn rất chuẩn, trong sự sai khác về tỷ lệ với những phần còn lại của cơ thể. Giống như soi gương vào buổi sáng, trước khi tỉnh táo mở mắt vậy. Tôi lắp bắp nói tôi không hề tức giận khi cô tạc tượng tôi, nhưng cảm thấy khá bối rối. Tại sao?

"Chúa đang truyền đạt ý chỉ của mình qua tôi," cô nghiêm túc nói, rồi bật cười để tôi biết rằng cô đang đùa. Tôi cũng cười theo, nhưng có vẻ không thuyết phục cho lắm.

"Tôi muốn anh ngồi làm mẫu cho tôi, nhưng hãy nghĩ kỹ trước khi chấp nhận," cô nói, chỉ vào những gargoyle chưa hoàn thành nằm ngổn ngang quanh mình. "Tôi không muốn anh phải chịu chung số phận với những cái này."

Tôi gật đầu - để nói rằng tôi sẽ suy nghĩ về chuyện đó, chứ không phải tôi đã đồng ý - và chúng tôi lại đi lên cầu thang. Tôi cố tập trung bước với dáng chuẩn, nhưng khi tôi ngoái nhìn bức tượng đá trong góc nhà, tôi không thể không nghĩ rằng mình thực sự cần phải chỉnh tư thế thật tử tế.

Jack đâm sầm qua cửa chính, lặc lè dưới sức nặng của một thứ um tùm lá, bà ném thẳng nó vào một góc trong phòng khách. "Lần cuối cùng đến đây, tôi thấy mấy người chẳng có cây cối gì cả. Chẳng có cái gì là sinh vật sống ở đây à?" Jack nhìn tôi, rồi nói thêm, "Lạy Chúa, anh trông vẫn chưa khá lên được chút nào à?" Bà hướng ngay sự quan tâm của mình về phía Marianne Engel, vốn đang vui thích nhìn cảnh bà đi vào. "Cô nữa, tôi đã tìm được vài mối lẻ muốn mua các tác phẩm độc đáo rồi. Họ chẳng thật sự thích tác phẩm nào bày ngoài cửa hàng cả, vì thế họ muốn biết liệu cô có đang sáng tác cái gì đó mới không. Tôi nói với họ là cô luôn luôn tạo ra những thứ mới mẻ."

"Nhà tử tế chứ?" cô hỏi.

"Phải, họ đều là những gia đình tử tế. Tôi luôn luôn tìm những nhà tử tế, và lũ quái vật nhỏ của cô sẽ được chăm sóc rất cẩn thận. Dù chúng chỉ là mấy cục đá vớ vẩn. Cô biết thừa chứ nhỉ, có phải vậy không? Ồ, và đại học Princeton đang có mấy chỗ cần sửa chữa."

Marianne Engel lắc đầu. "Giờ tôi không có hứng thú đi ngay."

"Phải rồi. Bận rộn chăm sóc Khoai Tây Chiên quá mà," Jack nói. "Chúa ơi. Marianne, đó là một khoản lớn và cô đang để nó tuột khỏi tay đấy. Khi nghệ thuật gặp từ thiện, nó đã bị định sẵn là sẽ trở thành thứ không ra gì mà."

Marianne Engel ôm Jack thật chặt, nói vài lời bào chữa cho tôi, nhưng chủ yếu cô chỉ cười khúc khích trước cơn thịnh nộ của Jack. Điều này chỉ làm Jack thêm tức giận. "Nhớ lúc cô mang Bougatsa về chứ?" bà nói. "Nó cũng chỉ là một kẻ đầu đường xó chợ thôi."

Trong cái kiếp trước được cho là của chúng tôi ấy, tôi đã tạc tặng Marianne Engel một bức tượng thiên thần - nó hiện vẫn đang ở trên giá sách của cô - trong khi ở kiếp này cô đã tạc tặng tôi một bức tượng quỷ. Sự tương xứng có vẻ khá giống với sự đảo lộn trong công việc của chúng tôi: thời đó, cô là người làm việc với sách vở còn tôi làm việc với đất đá.

Lời nhận xét đó có vẻ khá hàn lâm, tôi nghĩ thế, nhưng phản ứng của tôi về chuyện cô đang tạc tượng mình thì hoàn toàn mang tính bản năng. Được một nghệ sĩ tạc tượng quả rất đáng phổng mũi, dĩ nhiên, nhưng nó cũng làm tôi cảm thấy xấu hổ khi nghĩ rằng hình dáng xấu xí của mình sẽ mãi mãi bị lưu lại. Lần đầu tiên, tôi hiểu được cảm giác sợ hãi của người man di, rằng những chiếc máy quay sẽ giam cầm cả linh hồn lẫn hình ảnh họ.

"Làm thế nào vậy?" tôi hỏi. "Tôi sẽ phải làm gì?"

"Anh sẽ không phải làm gì cả," cô trả lời. "Anh sẽ chỉ phải ngồi ở đó thôi."

Câu trả lời làm tôi nhớ tới cuộc nói chuyện giữa chúng tôi sau khi cô bắt tôi xin lỗi Sayuri, khi cô nói tôi sẽ "không phải làm gì" để chứng tỏ tình yêu của mình với cô. Tôi không hiểu cô muốn nói gì, nhưng nếu đây là những gì cô muốn nói, làm sao tôi có thể từ chối cô được? "Được thôi, tôi sẽ làm."

"Tạc tượng từ chính cuộc sống để đổi gió cũng hay lắm," cô nói. "Cuối cùng tôi cũng có thể đưa những đường nét vào trong đá, thay vì kéo nó ra."

Cô bắt đầu cởi quần áo ra và tôi hỏi cô đang làm gì. Cô vẫn luôn tạc tượng trong bộ dạng này, cô nói, và cô cũng không có ý định thay đổi thói quen đó lúc này; tôi có khó chịu với việc đó không? Tôi bảo không khó chịu gì hết, nhưng tôi thực sự cũng không chắc lắm. Có gì đó trong cảnh cô ở trần đã tác động đến tôi, diễn viên phim cấp ba kiêm kẻ quyến rũ phụ nữ khét tiếng đã giải nghệ, theo một cách chính tôi cũng không thể lý giải nổi. Có gì đó rất nguyên thủy và quyến rũ trong cái vẻ trần trụi của cô...

Nhưng tôi không thể bắt cô phải làm gì trong nhà cô được. Ngay khi trút bỏ quần áo, cô tháo bộ đồ tạo áp suất ra khỏi người tôi và lướt ngón tay lên những nếp gấp trên khuôn mặt đầy vết bỏng của tôi, như thể những ngón tay của cô đang cố ghi nhớ một con đường. "Tôi yêu màu đỏ của những vết sẹo của anh. Anh có biết rằng hồi xưa những gargoyle thường được sơn màu sắc rực rỡ để làm nổi bật những đường nét của chúng không?"

Cô đi về phía một bức tượng và lướt ngón tay lên đó, đúng cái cách cô đã làm với tôi mấy phút trước. Nhìn những ngón tay cô chuyển động, tôi hình dung ra cảnh một dòng sông dịu dàng chảy qua một tảng đá trong hàng ngàn năm. Cô chỉ vào những nét chạm khắc sâu hoắm dưới mắt một con quái vật của cô. "Anh thấy cách những đường nét này được khắc để làm nổi bóng, để tạo chiều sâu chứ? Cho dù có ngước nhìn lên những gargoyle này, người dân bình thường cũng chẳng thể thấy được các chi tiết này đâu."

"Thế sao còn làm?"

"Chúng tôi làm để Chúa thưởng thức."

Bị đem ra làm mẫu tạc tượng khiến tôi cảm thấy mình còn trần trụi hơn cả việc đóng bất cứ bộ phim khiêu dâm nào, và tôi chỉ có thể chịu nổi lần ngồi mẫu đầu tiên vì độ ngắn của nó. Tôi chỉ có thể bỏ bộ quần áo tạo áp suất của mình ra khoảng mười lăm phút một lúc, một giới hạn mà Marianne Engel luôn tôn trọng. Việc tiến triển nhanh chậm cũng chẳng quan trọng gì; tôi tin chúng tôi sẽ phải mất hàng năm để hoàn thành bức tượng này.

Cuối mỗi đợt chạm khắc cô sẽ khoe thành quả của cô và chúng tôi sẽ nói về bất cứ những gì mình nghĩ. Một dịp nọ, cô nói bâng quơ trong khi dụi một mẩu thuốc lá, "Đừng quên là chúng ta còn một bữa tiệc Halloween sắp đến đấy nhé."

Đây là lần đầu tiên tôi nghe nói về vụ này, tôi nói.

"Không phải thế," cô phản bác. "Năm ngoái ở khoa bỏng tôi đã hứa là chúng ta sẽ tham dự mà, nhớ chứ?"

"Chuyện đó xưa lắm rồi."

"Một năm không phải là dài, nhưng tôi sẽ thương lượng với anh chút vậy. Anh có chịu đi nếu tôi kể cho anh nghe một câu chuyện nữa không?"

"Về cái gì," tôi hỏi.

"Tôi nghĩ anh sẽ rất thích câu chuyện này," cô nói. "Đó là về Sigurðr, người bạn Viking của tôi."
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 43


Đối với một cậu bé có thể trở thành trẻ mồ côi, Iceland vào thế kỷ thứ chín là một trong những nơi tệ nhất. Cha mẹ của Sigurðr Sigurðsson đã đến đây theo làn sóng di dân đầu tiên của người Na Uy và quyết định rằng vùng đất này có một vẻ đẹp kỳ lạ thích hợp với việc gây dựng một gia đình. Nhưng khi Sigurðr mới được chín tuổi, cha cậu đã mất tích trên những tảng băng trôi và, không lâu sau đó, mẹ cậu vĩnh viễn không bao giờ tỉnh lại sau giấc ngủ. Cậu bé tiếp nhận phần đất đai của gia đình và quyết tâm cho đời thấy mình có thể làm được những gì, nhưng cậu đã thất bại: cậu còn bé quá, và chẳng mấy chốc đã phải kiếm sống bằng cách nhặt nhạnh từ những xác cá voi chết dạt vào bờ.

Thực ra, có thể sở hữu kỹ năng đó cũng chẳng phải chuyện không hay: thịt được dùng làm thức ăn, mỡ làm đèn, còn xương thì để làm tất cả những vật dụng gia đình người ta có thể nghĩ ra. Tất cả những thứ này, Sigurðr có thể đem bán lấy tiền tự trang trải cuộc sống. Tuy nhiên, cậu bé vẫn cảm thấy sự tồn tại của mình thiếu một cái gì đó; dù vẫn chỉ là một đứa trẻ, cậu biết cứ sống lay lắt nhờ những xác chết là không đủ, và cậu luôn mong được trở nên mạnh mẽ và can đảm.

Vì thế, những khi không xẻ thịt xác cá voi bị sóng đánh lên bờ, Sigurðr lại lặn. Trên bờ vực trông xuống một cái vịnh hẹp, với cả đại dương bao la trải dài trước mặt, cậu sẽ tận hưởng giây phút cả thế giới xung quanh mình dường như đều tan biến vào hư không. Rồi chân cậu sẽ đẩy cậu bay vào không trung và sẽ có một khoảnh khắc không trọng lượng ngắn ngủi khi trận chiến giữa đại dương và bầu trời bất phân thắng bại, và Sigurðr sẽ - chỉ trong phút giây đẹp đẽ ngắn ngủi này - tưởng tượng bản thân đang trôi dần tới mảnh đất thiên đường Valhalla.

Nhưng đại dương luôn luôn thắng, và cậu sẽ xé gió rơi xuống như một con dao bị thả độp xuống đất. Mặt nước chồm lên chào đón cậu, và khi rẽ sóng lướt qua mặt nước trong veo, cậu sẽ cảm thấy như mình đã trở về nhà. Sâu xuống dưới sẽ là nơi cậu lặn, tìm kiếm gì đó dưới đáy biển, trước khi trồi lên khỏi mặt nước với cảm giác được thanh tẩy. Nhưng cảm giác đó chẳng bao giờ tồn tại đủ lâu cả.

Khi chơi với những cậu con trai khác, vì vẫn còn chút thời gian rỗi cho việc này, cậu luôn luôn cảm thấy bị tách khỏi chúng theo một cách nào đó. Cậu thích chơi đấu vật và chạy thi y như những đứa trẻ khác, và cậu thậm chí còn thích đánh nhau đến rớm máu trong vài cuộc thi đấu nữa, nhưng rồi cũng đến lúc tất cả thanh niên khác đều đã tìm được các thiếu nữ để cùng chơi trò "đấu vật". Sigurðr, Sigurðr tội nghiệp, vẫn chỉ hài lòng với việc đấu vật cùng mấy cậu trai, và chẳng mấy chốc mọi người bắt đầu băn khoăn tại sao cậu lại chẳng có chút hứng thú nào trong việc tìm vợ cả.

Sigurðr quen dần với việc dành cả buổi tối ở những quán rượu trong vùng để cố gắng thể hiện sự nam tính, nhưng dù cậu có cố dán mắt vào bộ ngực của các cô phục vụ đến mấy đi nữa, mắt cậu cuối cùng vẫn cứ lang thang tới những đốt ngón tay lông lá của anh phục vụ quầy rượu. Từ đó, mắt cậu sẽ lướt dần xuống những đường cong mạnh mẽ trên mông của Hodbroddr và rồi, luôn luôn là như thế, ánh mắt cậu sẽ dừng lại nơi một người đàn ông, lớn hơn cậu ấy một chút, tên là Einarr Einarsson.

Einarr là một tảng đá granite được ngụy trang thành người, với bộ ngực nở nang và hai cẳng tay có thể thuần hóa bất cứ người đàn ông nào - đấy là Sigurðr thích tưởng tượng ra thế. Mắt Einarr làm Sigurðr nghĩ tới dòng nước lạnh như băng nơi cậu hay ngụp lặn, và mái tóc rực lửa của anh thì giống như sự cuồng nhiệt trong trái tim chàng trai trẻ vậy. Einarr có nghề thợ mộc, nhưng anh cũng là một Viking.

Hai người quen biết nhau sơ sơ, do dân cư nơi đây khá thưa thớt, nhưng chẳng qua lại gì mấy cho tới buổi tối Sigurðr dồn hết can đảm để đi ra bắt chuyện. Cậu ưỡn ngực cao hơn bình thường, hạ giọng xuống, và chỉ cười tiếng cười đàn ông nhất của mình. Tuy nhiên, Einarr nhận ra ngay ngồi trước mặt anh không phải một người đàn ông mà chỉ là một cậu bé cô độc.

Có gì đó ở Sigurðr, quá đáng thương và cũng quá lạc quan, đã chạm vào góc tâm hồn tốt đẹp của Einarr. Anh biết cậu đã mất cả cha lẫn mẹ, và anh cũng đã thấy cậu lang thang trên bờ biển với những cái túi đựng thịt cá voi. Thay vì đuổi cậu đi, anh đã lắng nghe, và khi Sigurðr nói những chuyện linh tinh vớ vẩn - mà những chuyện đó thì nhiều lắm - Einarr chỉ gật đầu. Anh thấy không nên nói nặng với một người đã phải chịu quá nhiều đau khổ trong đời.

Cái đêm trong quán rượu đó là mở đầu cho rất nhiều đêm khác. Mối quan hệ giữa họ khá lạ lùng, nhưng chẳng hiểu sao khá tốt đẹp, vì Einarr rất yêu mến những nét tính cách của Sigurðr mà những người bạn Viking của anh không có. Chàng trai trẻ, dù không đặc biệt thông minh, luôn có những lúc mong muốn một điều tốt đẹp hơn sẽ đến. Sigurðr không muốn phá hủy, cậu muốn sáng tạo - chỉ là cậu không biết phải làm như thế nào thôi. Cậu thường nói với Einarr rằng nghề mộc của anh thật tuyệt vời. Trong khi Einarr ngoài mặt thì càu nhàu, thâm tâm anh cũng đồng ý như vậy - đó là một nghề kiếm sống khá tốt - và anh cũng nghĩ có lẽ cậu bé này có thể còn làm được tốt hơn, nếu được hướng dẫn đúng cách.

Chẳng mấy chốc Einarr nhờ Sigurðr giúp mình ở cửa hàng đồ gỗ, và lời đề nghị đã được chấp nhận đầy háo hức. Thực ra, đó không phải một quá trình học việc chính thức, vì không có gì cho thấy sau này Sigurðr sẽ trở thành thợ mộc, nhưng đó cũng là một cách hay để giúp cậu bận rộn. Trái tim Sigurðr đập nhanh hơn bình thường khi cậu lần đầu tiên đến căn nhà dài của Einarr.

Ngôi nhà mang đậm phong cách Iceland, xây dựng bằng bất cứ loại vật liệu nào tìm được. Những tảng đá xù xì đặt làm móng cho các cột gỗ thẳng tắp. Các bức tường trát bằng đất trộn than bùn với những kẽ hở được lấp đầy gỗ sồi Iceland. Einarr tự hào khoe một đặc điểm không lẫn với nơi đâu của ngôi nhà: ở trong góc, anh đã đào một cái rãnh dưới bức tường để lấy nước từ dòng suối gần đó. Chẳng cần phải đi xa để lấy nước sạch, vì tất cả những gì anh cần làm là nhấc tấm ván sàn lên và múc một xô nước, thế là xong.

Từng phân của ngôi nhà đều được chất đầy gỗ: một số loại là gỗ Iceland bản địa, một số được nhập từ Na Uy, và một số là gỗ dạt vào bờ. Tất cả đều được giữ trong nhà để luôn trong tình trạng khô ráo sẵn sàng làm việc. Những bức tường treo đầy vật dụng bằng sắt, giũa, nạo, dao và đục, và có hàng giá đựng dầu được dùng cho công đoạn cuối cùng.

Hầu như tất cả các ghế băng, giá để đồ, và thậm chí cả nông cụ đều được khắc những họa tiết tinh xảo. Sigurðr dịu dàng lướt tay lên những vết khía xoắn xuýt lại với nhau của một trong những đồ vật đó, một cái nôi dựa vào tường. Từ bốn góc của nó, những cây cột dựng đứng lên trên; đầu mỗi cây cột đều được chạm trổ hình rồng với cái đầu vừa khít nắm tay của cha mẹ bé để họ có thể đu nôi cho em bé ngủ.

"Nó là cho con trai tôi, Bragi."

Sigurðr biết Einarr đã kết hôn và làm cha. Không cần phải nhắc cậu về chuyện này nữa. "Thật là tốt," cậu trả lời, rồi chỉ về phía một cái thùng đầy ứ những ống mảnh bằng gỗ. "Chúng là gì vậy?"

Einarr rút một cái ống đưa ra trước mặt mình, chiêm ngưỡng độ dài của nó, trước khi đưa cho Sigurðr.

"Tôi không giỏi làm cung tên, nhưng có thể chế một chiếc cung thẳng và chắc chắn thì lại là chuyện khác."

"Einarr lại đang khoe khoang phải không?"

Một phụ nữ bế một đứa bé sơ sinh đang bú mẹ đi vào nhà mà không ai hay biết. Màu xanh da trời trong mắt cô thậm chí còn rực rỡ hơn của Einarr và tóc cô, được buộc gọn bằng một chiếc chun sặc sỡ, có những lọn vàng óng lấp lánh do được cô nhuộm với kiềm.

"Cậu hẳn là Sigurðr. Thật mừng quá, cuối cùng cũng được gặp cậu."

"Đây là Svanhildr," Enairr nói. "Cái mỏ neo của tôi."

"A, cái giữ cho anh được vững vàng phải không?" người vợ hỏi.

"Không," người chồng trả lời, "cái luôn kéo tôi xuống ấy."

Svanhildr đập mạnh vào vai anh một cái, và Einarr giơ tay ra - không phải để đánh lại, mà để đỡ lấy đứa bé để nó không bị mất thăng bằng.

"Cậu nhóc may mắn này," Enairr nói, "là Bragi."

Svanhildr trao đứa bé cho chồng, chỉnh lại chiếc vòng nạm đá quý quanh cổ, và hất vạt chiếc váy tạp dề xuống. Chuỗi chìa khóa đeo bên eo cô đồng loạt kêu leng keng cùng những viên đá trang trí trên dây chuyền, và kết quả là mọi cử động của cô đều ồn ào. Cô lại vỗ yêu chồng một cái nữa, trước khi ôm lấy đứa trẻ. Nhìn nét mặt cô, bất cứ ai cũng có thể thấy rằng đây là người phụ nữ rất hài lòng với cuộc sống hiện tại.

Người đàn ông và cậu bé làm việc suốt buổi chiều - hầu như là thế, Einarr hướng dẫn cách sử dụng các dụng cụ - rồi Sigurðr trở về nhà sau khi đã từ chối lời mời ở lại ăn cơm tối của Svanhildr.

Ngày hôm sau, khi Svanhildr đón cậu nơi ngưỡng cửa nhà dài, Sigurðr đã trao cho cô một cái túi. "Tôi mang ít thịt cá mập đến," cậu nói.

"Cậu thật tốt bụng," cô nói, nhã nhặn cầm chiếc túi sao cho nó trông có vẻ nặng hơn trọng lượng thật. "Tôi sẽ ủ men chỗ này, và khi nào xong xuôi cậu sẽ ăn với chúng tôi nhé."

Sau khi ngập ngừng một lúc, Sigurðr lúng búng, "Tìm được xác cá voi thì rất tốt, nhưng cá mập thì cũng hữu ích lắm."

"Ừ. Thôi vào đi." Cô đá đống gỗ qua một bên. "Ấy là, nếu cậu tìm được chỗ giữa cái đống gỗ này. Thỉnh thoảng tôi cứ có cảm giác là mình đang sống trong rừng ấy."

Một lần nữa hai người đàn ông lại dành cả ngày cùng nhau; lần này là bài học về cách bảo quản dụng cụ. Khi Svanhildr mời Sigurðr ở lại ăn tối, cậu đã chấp nhận. Cô dọn món thịt gà hầm với rong biển, và trong khi hai người đàn ông ăn uống, cô ngồi đưa nôi cho tới khi Bragi ngủ.

Họ ngồi quanh đống lửa trong nhà cho tới tận tối muộn, những cột khói cứ đều đặn bốc qua lỗ thông hơi trên trần nhà. Svanhildr đun một chảo bia nhỏ và khi những cốc bia của họ gần cạn, cô sẽ nhúng chiếc muôi có hình con ngỗng vào chảo để lại đổ đầy cốc. Khi Sigurðr khen ngợi hương vị tuyệt hảo của món đồ uống, Svanhildr giải thích rằng bí mật nằm ở sự kết hợp giữa vị cây bách và hoa mua mọc ở đầm lầy. "Người ta hay nói rằng người đàn ông hạnh phúc hay không là phụ thuộc vào chất lượng thức ăn của anh ta," cô giải thích tiếp, "nhưng trong trường hợp của Einarr thì nó có vẻ phụ thuộc vào chất lượng bia rượu của anh ấy nhiều hơn."

Einarr làu bàu đồng ý rồi lại uống thêm một ngụm đầy nữa.

Đêm đó, khi Sigurðr quay trở lại nhà mình, cậu lơ đãng chùi tay vào tấm da cá mập mà cậu định tặng cho Einarr. Cậu đã cắt nó ra từ lớp vây trên vì cậu biết nó có thể được dùng để làm giấy ráp tốt, nhưng cậu không tìm được lúc nào thích hợp để tặng cả. Khi cậu về đến cái lán xác xơ của mình, những ngón tay của cậu tê cứng đến nỗi cậu không để ý rằng chúng đã nhuốm đầy máu.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 44


Vào các buổi chiều sau đó, Sigurðr nhận ra dù không thực sự yêu thích nghề mộc, cậu lại khá có tài vẽ. Cậu tìm các loại phẩm màu - màu đen từ than đá, màu trắng từ bột xương, màu son từ đất đỏ - và sơn chúng lên các tác phẩm gỗ đã hoàn thành. Sigurðr hài lòng gấp ba: bởi kỹ năng cậu đang học, bởi bản thân những màu sắc đó, và bởi nụ cười trên gương mặt của Einarr.

Einarr cũng cảm thấy rất hài lòng. Không chỉ vì những bức tranh của Sigurðr tôn thêm vẻ đẹp cho tác phẩm của anh, mà còn vì chàng trai trẻ đó thực sự là một người đồng hành tốt - chưa hẳn là một người bạn, nhưng chắc chắn không chỉ là một đồng nghiệp đơn thuần. Để chứng tỏ điều này, một ngày nọ Einarr đưa cho Sigurðr một cái gói dài, được bọc vải len và buộc dây da. Bên trong là một thanh kiếm với chuôi hình rồng chạm trổ tinh tế. "Nếu cậu có một thanh kiếm tử tế thì rất tốt," Einarr nói, "chứ không phải là con dao chặt cá cậu đang dùng bây giờ."

Sigurðr gật đầu, vì cậu cũng chẳng biết phản ứng thế nào. Từ khi cha mẹ mất, đây là món quà đầu tiên cậu được nhận.

"Nào," Einarr nói với Sigurðr, "cậu có muốn học cách sử dụng không?"

Einarr sửa các thiếu sót trong động tác kỹ thuật của Sigurðr, và cậu học sinh rất nhanh chóng thấm nhuần các bài dạy. Einarr cảm thấy rất ấn tượng. "Cơ thể của cậu tự nó đã biết phải chuyển động thế nào rồi, thật tuyệt. Có rất nhiều thứ có thể dạy được, nhưng khả năng đánh hơi nguy hiểm thì không nằm trong số đó đâu."

Sigurðr cúi gằm mặt nhìn xuống chân mình. Cậu không muốn để Einarr thấy khuôn mặt mình đỏ bừng lên vì lời khen.

"Cậu sẽ cần đặt cho nó một cái tên," Einarr nói. "Tôi gợi ý tên là Sigurðsnautr. Vì nếu có lúc nào cậu đâm thanh kiếm này vào ai thì đó sẽ là một món quà anh ta không thể mau quên được đâu."

Khi Sigurðr trở về nhà vào tối hôm đó, cậu lật đi lật lại thanh kiếm trên tay. Cậu rất thích cái tên - "Món quà của Sigurðr." Cậu cẩn thận buộc hai đầu đoạn dây da đã dùng để bó cái gói lại với nhau và đeo vào cổ. Từ ngày đó trở đi, cậu không bao giờ tháo nó ra, nhưng cậu luôn cẩn thận chú ý để sợi dây được giấu kín trong lần áo chùng của mình. Chẳng có lý do nào để khoe nó ra cả; biết rằng thứ đã từng ở trên tay Einarr giờ luôn chạm vào da cậu là vui lắm rồi. Suy nghĩ đó thỉnh thoảng cũng làm Sigurðr nổi da gà, như bị một trận gió phương Bắc quật vậy.

Khi cái ngày Einarr phải cùng đoàn Viking lên đường đột kích những vùng đất khác cuối cùng cũng đến, Sigurðr những tưởng đây là lúc cậu phải quay lại với cuộc sống đơn độc của mình. Nhưng Svanhildr đã mời cậu đến ăn bánh ngọt và uống bia vào mỗi buổi sáng và - chính cậu cũng thấy ngạc nhiên - Sigurðr luôn xuất hiện. Bragi ngày một khôn lớn và chẳng mấy chốc đã cho thêm một cụm từ vào cái vốn từ ngày càng nhiều thêm của cậu nhóc. Cậu biết mẹ, cha và gỗ, nhưng một ngày nọ cậu đã ngước mắt nhìn vào người thanh niên miệng chật ních bánh ngọt và gọi: "Sig Sig."

Dù Einarr là người chất tiền vào mấy cái rương trong nhà, Svanhildr mới là tay hòm chìa khóa. Nếu không có sự trù liệu cẩn thận thì một hộ gia đình Viking sẽ không thể chống chọi nổi với những mùa đông khắc nghiệt, và Sigurðr ngày càng thêm ngưỡng mộ công việc của Svanhildr. Cô biết tất cả những phương thức dự trữ thịt - hun khói, ướp muối, ngâm giấm, và còn nhiều hơn nữa - để chồng mình không chán ngấy vì những bữa ăn ngày nào cũng như ngày nào. Một thời gian sau, Sigurðr bắt đầu phụ giúp cô làm bữa sáng, thái thịt thành những lát mỏng trong khi cô chuẩn bị nước muối để ngâm chúng.

Trong suốt đợt vắng nhà của chồng mình, không một lần nào Svanhildr tỏ vẻ lo sợ anh sẽ không quay về - nhưng khi nghe tin chiếc thuyền đã trở về, cô sẽ chạy thẳng ra bờ biển và nhảy vào vòng tay đang háo hức ngóng trông của Einarr. Cô sẽ hôn anh nồng nàn, véo anh hai cái vào mặt, và rồi nhẹ nhàng hôn bằng hết chỗ máu đọng trên môi anh. Sigurðr không thật sự chắc lắm, nhưng gần như cứ khi nào Svanhildr rút tay lại sau cú véo đầu tiên, Einarr sẽ lại chìa cằm ra để chuẩn bị đón cú tiếp theo.

Sigurðr giúp chồng mang chiến lợi phẩm về nhà dài và sửng sốt trước sự đa dạng của những món đồ: kim loại quý hiếm cùng những túi đầy tiền vàng, đồ trang sức, dụng cụ cướp được từ những công xưởng ngoại quốc, và những chai rượu chưa bị vỡ trên chuyến hải trình trở về nhà. Nhưng trong tất cả những thứ này, hiển nhiên Svanhildr mong đợi một cái gì đó hơn thế kia. Rồi Einarr lấy một bìa sách nạm đá quý anh đã giật ra từ một bản Kinh Thánh ở một tu viện nước Anh, ấn nó vào tay Svanhildr. Cô ngắm nghía nó một lúc trước khi bổ sung món đồ trang sức lòe loẹt ấy vào chuỗi vòng đá quý của mình, và cuối cùng Sigurðr cũng hiểu bộ sưu tập bùa ngải đủ chủng loại của cô đến từ đâu. Khắp mọi nơi.

Họ uống bia và rượu cho tới tận khuya, đến khi Sigurðr say đến nỗi không thể lê về nhà, bất tỉnh nhân sự trên một chiếc ghế băng kê sát tường. Cậu nằm ngủ ở đó, rồi bỗng bị đánh thức bởi tiếng ồn của một trận đánh nhau trong lúc đầu óc quay cuồng - hay ít nhất cậu cũng tưởng thế, rồi mới nhận ra mình đang nghe trộm cuộc vui của chủ nhà.

Einarr hùng hục vào trong vợ mình từ phía sau, tay anh kéo hông cô lại. Có vẻ như Svanhildr đang cố hết sức tìm lối thoát, và cũng đúng là thế thật, nhưng không hẳn: đó là một phần trong cuộc chơi của họ. Khi cuối cùng cô cũng thoát ra được, Einarr tóm lấy hai chân đang đá lung tung của cô rồi lật người cô lại. Khi anh vào trong cô từ phía trên, móng tay cô bấu khắp lưng anh, làm anh chảy cả máu. Cô cắn vào cổ anh mạnh đến nỗi anh phải túm tóc cô lôi ra. Cô gầm lên đau đớn, rồi cười một cách quái lạ và nói chồng mình có mùi như cá ươn và làm tình thì như một cô gái. Enairr gầm gừ lại rằng cô sẽ không thể đi lại tử tế vào sáng hôm sau được đâu.

Phải mất một lúc lâu Sigurðr mới ngủ lại được.

Khi cậu tỉnh dậy, hiển nhiển là Einarr - những vết răng cắn vẫn còn hằn rõ trên cổ họng - đã tắm rửa sạch sẽ ở con suối gần đó rồi. Bragi thì đang chạy lăng xăng, làm quen lại với cha mình, trong khi Svanhildr - với những vết bầm giập dọc hai cánh tay - van nài con nói nhỏ nhỏ thôi trong khi cô kiên nhẫn gỡ đống tóc rối bù của Einarr với chiếc lược làm bằng xương cá voi. Cứ chốc chốc, cô lại quàng tay quanh người anh thầm thì, "Ég elska þig. Ég elska þig. Ég elska þig." Em yêu anh. Em yêu anh. Em yêu anh.

Khi Sigurðr giả bộ ngáp thật lớn cho biết mình đã dậy, Svanhildr buông ngay chồng ra và đi lấy một xô nước mát cho vị khách rửa ráy. Khi cô mang xô nước lại, Bragi đã trèo vào lòng Sigurðr. Bây giờ, vốn từ vựng của cậu bé đã tiến bộ thêm một chút và cậu sung sướng thét lên "Chú Sig!"

Không lâu sau Einarr, lần thứ hai, nêu ra một đề nghị sẽ thay đổi cả cuộc đời Sigurðr: lần này, đề nghị cậu gia nhập đội Viking. Như Einarr giải thích, những chuyến hải trình rất buồn tẻ và anh nhớ cuộc sống quê nhà; có lẽ có một người bạn theo cùng sẽ làm dịu nỗi nhớ đó.

Lời đề nghị đưa ra có phần nài nỉ, vì Sigurðr thường e rằng mình không đủ nam tính. Các buổi sáng, cậu thường lặn ngụp dưới nước để tìm xác động vật; các buổi chiều thì cậu phụ việc, khi cậu cảm thấy cô đơn, cậu lại giúp vợ một người đàn ông khác làm việc nhà. Sigurðr chỉ hứa sẽ xem xét đề nghị đó nhưng cậu đã biết chắc mình sẽ chấp nhận, và lý do lớn nhất là vì Einarr đã coi cậu là một người bạn.

Sigurðr nhanh chóng nhận ra mình bị mấy người Viking soi mói. Có chút khó chịu - những thầm thì đồn thổi về chuyện Sigurðr là fudlogi, một người đàn ông sợ làm tình với phụ nữ - nhưng không ai muốn xúc phạm Einarr. Khi sự tồn tại của một người phụ thuộc vào chiếc thuyền dài, chẳng hay ho gì khi làm phiền lòng người thợ mộc bậc thầy. Hơn nữa, người Viking tin rằng bất luận thế nào, cảm giác khó chịu với kẻ khác cũng không gây ảnh hưởng gì lắm, miễn là kẻ đó biết tấn công. Người đàn ông bất lực trên giường thì cũng thua trong các cuộc đánh nhau, nhưng chẳng có bằng chứng nào cho thấy Sigurðr đã từng đầu hàng một người đàn ông nào khác, người ta chỉ đồn rằng cậu cũng không ngại làm chuyện đó thôi. Sau vài bài kiểm tra sức mạnh cũng như kỹ thuật sử dụng vũ khí của Sigurðr, họ đã đồng ý cho cậu thử đi cùng trong chuyến viễn du dọc bờ biển nước Anh.

Chiến thuyền trông thật đáng ngưỡng mộ, với mặt ngoài phủ da bò và những cánh buồm bằng len dày, phía mũi thuyền là hình một con mãng xà dữ tợn. Họ lái thuyền dưới ánh mặt trời và dưới những vì sao, người Viking ngồi trên những chiếc rương rỗng sẽ đầy khi họ quay trở về nhà. Hiển nhiên có những thành viên của đoàn Viking rất háo hức với trận chiến sắp đến. Họ chuẩn bị cho cuộc bao vây bố ráp với những bài tụng niệm bằng cách tát bôm bốp vào mặt nhau, rạch da của chính họ để làm dịu cơn khát máu của những thanh kiếm. Một số thậm chí còn tưởng tượng ra mình bị các linh hồn động vật nhập vào người, và để trí tưởng tượng bay xa hơn bằng cách dùng thêm chút berserkjasveppur - những cây nấm berserker giúp tăng hưng phấn - trước khi đổ bộ lên bờ biển nước Anh.

Einarr khuyên Sigurðr đừng quan tâm đến mấy cái đó. Anh đã dùng nó trong cuộc tấn công đầu tiên của mình, nhưng chúng chỉ làm anh mất tập trung. Tuy nhiên, anh thú nhận rằng mình thỉnh thoảng cũng dùng trong xưởng gỗ khi muốn tìm cảm hứng làm việc. Sau khi ăn vài cây nấm, anh nói, rất dễ hình dung ra những họa tiết mượt mà mà người ta không thể nghĩ đến trong lúc tỉnh táo.

Sigurðr nhanh chóng nhận ra việc chiến đấu đối với cậu thật dễ dàng và áp đảo người Anh chỉ là một nhiệm vụ đơn giản; họ cứ thế nộp cống vật để cho qua chuyện thôi, đặc biệt là mấy lão thầy tăng ấy. Cuộc tấn công thu được thắng lợi lớn và Sigurðr, với sự giúp đỡ của Einarr, đã làm tròn nhiệm vụ của mình. Cậu được mời tham gia vào cuộc tấn công thứ hai, rồi thứ ba, và sau đó cậu trở thành một thành viên thường trực. Lần đầu tiên trong đời, cậu cảm thấy mình là một phần của cái gì đó. Từ không gia đình, cậu đã có tới hai - gia đình của Einarr và hội những người anh em Viking - và cậu tin rằng tính đàn ông mới được phát huy này của cậu sẽ giúp cậu có thể bước vào thiên đường Valhalla lúc cuối đời.

Mọi việc cứ tiếp diễn trong nhiều năm. Vào những đợt nghỉ giữa các cuộc tấn công, Sigurðr và Einarr cùng trui rèn khả năng sử dụng vũ khí và củng cố kỹ năng mộc của nhau. Tác phẩm chạm trổ của Einarr ngày càng trở nên sáng tạo hơn, có lẽ nhờ những cốc bia anh uống mỗi ngày một thường xuyên hơn hoặc do những cây nấm anh dùng mỗi khi cần tìm cảm hứng. Khả năng sơn vẽ của Sigurðr cũng ngày càng tiến bộ. Hai người ở cùng nhau nhiều hơn, và thường thì, mỗi ngày mới đến họ lại có thiện cảm với nhau hơn hôm trước.

Không thể tránh khỏi, dĩ nhiên rồi, Sigurðr đã yêu Einarr. Không chỉ là sự đam mê đơn thuần lúc đầu, mà là một tình cảm chân thật hơn, sâu đậm và đẹp đẽ hơn. Einarr chắc chắn cũng biết điều này, nhưng anh giả vờ không nhận thấy những ánh mắt thỉnh thoảng lưu luyến nhìn mình của Sigurðr. Đây là cách họ giải quyết vấn đề: vờ như nó không hề tồn tại. Chẳng hay ho gì khi nói về nó cả, vì thế họ quyết định không nói gì hết, và chuyện đó cứ lơ lửng giữa họ như một đêm dài dằng dặc mà bình minh sẽ không bao giờ đến.

Đối với Svanhildr, tình yêu cô dành cho Einarr cũng lớn dần theo năm tháng; tuy nhiên, niềm say mê cuộc sống Viking luôn vẫy gọi anh lên đường bất chấp những ngày vắng nhà, và cô lại đeo bộ mặt ủ rũ vào những tuần trước mỗi cuộc hành trình cướp phá. Đến một hôm tình trạng này trở nên tồi tệ hơn tất cả những lần trước đó. Cô gắt lên mỗi khi Einarr xin lấy thêm một cốc bia tươi, càu nhàu với thánh thần vì những lý do không đâu, và thậm chí còn òa khóc khi Bragi xước đầu gối khi đang nghịch thanh kiếm đồ chơi.

Khi Einarr không thể chịu nổi thêm nữa, anh chộp lấy vai cô và lắc cho tới khi cô không thể im lặng được nữa.

"Vấn đề nằm ở anh ấy," cô nói. "Và những chuyến đi của anh, trong khi em phải ở nhà với con."

Một nụ cười hiện lên trên khuôn mặt Einarr.

"Thôi đi! Em không có ý định chửa đẻ nữa đâu," cô la thét. "Em có tuổi rồi."

"Nhưng không quá già nhỉ," Einarr nói. "Hiển nhiên rồi."

Đêm trước khi những người đàn ông phải rời đi, Einarr đã dọn thịt lợn hun khói và những cốc bia tươi nhất của cô cho họ nhưng chẳng nói năng gì. Sáng hôm sau, cô không ra biển tiễn Einarr. Cô chỉ tát nhẹ vào miệng anh ở ngưỡng cửa thay lời tạm biệt.

Những cuộc tấn công diễn ra như thường lệ. Danh tiếng của người Viking gần như đủ để chiến thắng bất cứ trận chiến nào trước cả khi lưỡi gươm tuốt ra khỏi vỏ và khi họ tới mục tiêu cuối cùng, thuyền họ đã chở nặng lắm rồi. Họ nhiều lần tấn công dễ dàng các ngôi làng nước Anh, nhưng gần đây người dân đã học được vài mánh tự vệ để gỡ gạc chút danh dự. Họ không mong sẽ đánh bại người Viking, nhưng họ thực sự mong muốn ít nhất cũng diệt được vài kẻ.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 45


Khi những người Viking ào ra khỏi thuyền và chạy qua bãi cát, một đợt cung tên bất ngờ xé toạc bầu trời lao về phía họ. Sigurðr rất giỏi quan sát: cậu đã phát hiện ra một mũi tên mang mối nguy hiểm đặc biệt. Cậu đã sẵn sàng tránh khỏi đường bay của nó nhưng rồi nhận ra nếu cậu làm thế, mũi tên sẽ đâm vào người đứng sau cậu.

Einarr.

Và thế là cậu không tránh.

Mũi tên xuyên qua lớp áo da trên ngực cậu, cậu thét lên đau đớn rồi ngã xuống đất, những ngón tay bấu chặt lấy cuống tên.

Sau chút bất ngờ đầu tiên, những người Viking dần lấy lại thế thượng phong và dân làng trở thành mồi ngon cho những kẻ tấn công, như mọi khi. Nhưng trận chiến không còn liên quan gì đến Einarr Einarsson hay Sigurðr Sigurðsson nữa, họ đã quay trở lại bờ biển. Mũi tên cắm sâu vào ngực của Sigurðr, ngập tới ngọn, và không thể rút ra mà không xé toạc vết thương.

Sigurðr biết điều này. Cậu rất sợ nhưng vẫn cố thu hết can đảm kể cả khi cậu cảm thấy ánh mắt Einarr nhìn mình như băng bám trên những mái chèo hờ hững. "Einarr?"

"Ừ."

"Tôi sắp chết rồi."

"Cậu sẽ không chết đâu."

"Hãy nhớ đến tôi."

"Sao tôi có thể quên một người ngốc đến nỗi tin rằng cậu ta sắp chết vì một vết thương phần mềm chứ?" Einarr đáp lại.

"Einarr?"

"Cái gì?"

"Có một điều tôi muốn nói với anh."

"Với một người sắp chết thì cậu nói hơi nhiều đấy."

"Không," Sigurðr khăng khăng tiếp tục. "Ég elska"

Einarr ngắt lời cậu. "Mấy trò lắp bắp này làm cậu cứ như đàn bà ấy. Cố giữ sức đi."

Nét mặt của Einarr cho Sigurðr biết cuộc tranh luận đến đây là chấm dứt, vì thế cậu nhắm mắt lại và để người bạn đưa mình lên lại trên thuyền dài. Ở đó Einarr đã cắt bỏ những phần da xung quanh mũi tên và Sigurðr cứ liên tục rú lên đau đớn với mỗi nhát dao. Khi vết thương bị khoét đủ sâu, Einarr dùng một cái kẹp gắp đầu mũi tên ra và cầm nó lên để Sigurðr, sắp bất tỉnh đến nơi, có thể thấy những sợi thịt đang bám chặt lấy nó.

"Svan hẳn đã chăm cậu rất tốt," Einarr nói, "chỗ gần tim cậu có mỡ bám đấy."

Trong suốt chuyến đi về nhà, Einarr thường xuyên thay băng và kiểm tra xem vết thương của Sigurðr có bị nhiễm trùng không nhưng có vẻ như nếu chưa đỡ hơn thì ít ra nó cũng không nặng thêm. Gần như trước khi Sigurðr kịp nhận ra, cậu thấy mình tỉnh lại, trước mặt là Svanhildr đang cầm một bát xúp hành tỏi tây.

"Đồ nóng sẽ rất tốt cho cậu đấy," cô nói.

"Tôi có thể đi mà. Một người đàn ông ốm yếu ở lại nhà của một phụ nữ đang mang bầu thì chẳng hay gì đâu."

Cô có vẻ buồn cười trước câu nói ấy. "Cậu cũng là người trong nhà cả mà, và chúng tôi sẽ không nghe bất cứ điều gì tương tự như vậy nữa đâu."

"Nhưng em bé..."

"Uống nào. Nếu ngửi được mùi hành ở vết thương của cậu, tôi có thể biết được nội tạng cậu có bị tổn thương hay không."

Trong suốt những ngày tiếp theo, Einarr và Bragi luôn cầu khấn nữ thần chữa trị, và Svanhildr vẫn tiếp tục chăm sóc vết thương của Sigurðr. Thầy pháp địa phương đã ban phước cho một loạt cổ ngữ Rune khắc lên xương cá voi để đổi lấy một trong những rương châu báu quý giá nhất của Einarr và rải xương quanh chiếc ghế băng nơi Sigurðr ngủ.

Việc ấy có vẻ có tác dụng: vết thương của Sigurðr không còn mùi hành. Việc đầu tiên cậu làm, khi chắc rằng cậu sẽ sống, là tiến thẳng tới xưởng để đục một lỗ xuyên qua một chiếc xương trị bệnh. Cái này, cậu đem đưa cho Svanhildr.

"Tôi sẽ cảm thấy rất vinh hạnh," cậu nói, "nếu cô luồn cái này vào cùng những viên đá trên chuỗi vòng cổ. Cô không bắt buộc phải làm thế đâu, nhưng mà..."

Cô ngắt lời cậu bằng việc quàng tay qua cổ cậu, và gật đầu lia lịa.

Việc phục hồi cũng không dễ dàng gì. Sigurðr vẫn chưa thể giơ tay lên thoải mái và thỉnh thoảng cậu vẫn phải chịu những cơn đau nhói bất ngờ, cậu cũng nhanh chóng chán cái cảnh được chăm sóc thái quá rồi. Cậu cùng Einarr hoàn thành công việc mới nhất của anh: một chiếc thuyền dự định đưa Bragi đi câu cá ở vịnh. Cậu đã quyết tâm sơn vẽ toàn bộ con thuyền; dù việc trang trí thực sự không cần thiết. Nhưng cậu thấy rất vui khi lại được cảm nhận cây cọ trong tay mình. Công việc kéo dài đằng đẵng, nhưng Einarr chẳng mảy may phàn nàn về sự chậm chạp của bạn mình.

Svanhildr thai nghén cũng không vất vả lắm, dù tuổi tác của cô không thực sự phù hợp với việc mạo hiểm này. Khi cô đến lúc vượt cạn, Bragi bé nhỏ đã chạy đi mời các bà mụ trong khi hai người đàn ông ở lại an ủi cô. Một cậu bé nữa, khỏe mạnh xinh xắn được đặt tên là Friðleifr, nhanh chóng trở thành thành viên mới trong gia đình.

Khi chắc chắn hai mẹ con đã mẹ tròn con vuông, những người đàn ông quyết định uống mừng may mắn. Thậm chí cả Bragi cũng được cho phép thức khuya và được chuốc vài cốc bia đặc, vì cậu giờ đã phải trông một đứa em, cha cậu thấy rằng đã đến lúc cho cậu uống như một người đàn ông.

Căn phòng được thắp sáng bởi cái lò sưởi dài và những chiếc đèn mỡ cá voi, Einarr cười khi người bạn - giờ, anh tự hào nhấn mạnh, người bạn trưởng thành của anh - loạng choạng đổ ập lên băng ghế kiêm giường ngủ của cậu. "Không, vẫn chưa hẳn là một người đàn ông," anh đùa, trong khi Sigurðr hét lên rằng bia sẽ làm ngực Bragi mọc lông, hay ít nhất lưỡi cậu cũng sẽ mọc lông vào sáng hôm sau.

Chỉ vài phút sau cậu đã ngáy khò khò và Einarr, cảm thấy thỏa mãn khi cả vợ và cậu con mới sinh của mình đều đã chìm vào giấc ngủ, liền quay lại xưởng gỗ. Anh trở vào nhà với một cái túi và ném nó về phía Sigurðr; bên trong rất nhiều nấm khô. "Giờ chúng ta có thể thực sự ăn mừng được rồi. Thần thánh luôn mỉm cười với chúng ta."

Mỗi người ăn một ít berserkjasveppur - Sigurðr không thích món này nhưng cũng ăn một chút vì không muốn từ chối bạn mình điều gì - trước khi Einarr đổ chỗ còn lại vào chảo bia trên bếp lò. "Chúng ta sẽ đun chỗ còn lại. Không ngon lắm, nhưng tác dụng của nó thì..."

Họ uống đến tận khuya, Einarr cố gắng miêu tả vẻ đẹp của những hình ảnh đang tự do bay lượn xung quanh mình, còn Sigurðr cười phá lên trước những nỗ lực của anh. Thỉnh thoảng Svanhildr bối rối ngẩng đầu lên trước những câu nhận xét của Sigurðr, nhưng lại ngủ tiếp mà không nói một lời nào. Hai người đàn ông uống cho đến tận khi bát nấm đã sạch bách, rồi ăn nốt chỗ vụn nấm lép nhép sót lại ở đáy bát.

"Cậu thật tốt khi tặng Svanhildr miếng xương cá voi cổ ngữ để đeo vào vòng cổ của cô ấy," Einarr lè nhè nói. "Tôi nghĩ là mình sẽ luôn nhớ tới việc đó."

"Cô ấy đã chăm sóc tôi," Sigurðr nói. "Anh cũng thế."

"Đã đến lúc cô ấy cần một vật của cậu để đeo quanh cổ rồi."

"Tôi quý cô ấy," Sigurðr nói.

"Tôi biết."

"Bragi," Sigurðr nói thêm. "Bragi, tôi cũng quý cậu bé nữa."

"Tôi có một thứ dành cho cậu." Einarr lại đi vào trong xưởng, và lần này anh quay lại với cái đầu mũi tên đã cắm vào ngực Sigurðr. Anh ngồi phịch xuống, sát Sigurðr hơn trước. "Đưa cái vòng cổ của cậu cho tôi."

"Tôi không biết..." Sigurðr thầm thì. "Tôi không nghĩ anh lại để ý đến nó."

"Tôi để ý nó ngay từ đầu rồi, nhưng tôi đã nhớ lại khi rút cái này" - anh giơ đầu mũi tên ra - "khỏi ngực cậu."

Sigurðr lôi sợi dây da ra, và khi nó đã ở trong tay Einarr, anh xoắn nó lại và nói, "Nó vẫn y như cái ngày tôi dùng nó để buộc Sigurðsnautr."

Sigurðr nhìn chằm chằm vào đống lửa, không dám nhìn bạn mình, trong khi Einarr luồn đầu mũi tên vào sợi dây. Rồi anh đưa cho Sigurðr.

Sigurðr định với lấy nó, nhưng rồi đổi ý và cúi đầu xuống một chút. Einarr hơi do dự, rồi choàng cái vòng cổ qua đầu Sigurðr. Sigurðr có thể cảm nhận bàn tay anh cọ vào tóc cậu, có lẽ thậm chí còn lướt qua cả gáy cậu nữa. Sau bao nhiêu năm tưởng tượng những ngón tay của Einarr ở đó, giờ chúng thực sự đã ở đó rồi.

Họ bất động trong vài giây, mắt nhìn thẳng vào nhau.

Sigurðr rướn lên trước một chút, và Einarr không lùi lại. Họ thật gần nhau. Sigurðr đằng hắng, cảm thấy họng nghẹn lại vì bia sôi và nấm, rồi giọng cậu lạc đi khi thốt ra những từ cậu đã đợi suốt bao nhiêu năm để nói ra. "Ég elska þig."

Mắt Einarr hơi nheo lại, nhưng ngoài đó ra, nét mặt anh không hề thay đổi.

Sigurðr rướn lại gần hơn chút nữa. Và Einarr vẫn không lùi lại. Thế là Sigurðr lấn tới, áp miệng mình lên miệng Einarr, và hôn anh.

Einarr không phản ứng gì. Sigurðr coi đó là dấu hiệu chấp nhận bèn hôn cuồng nhiệt hơn.

Rồi Sigurðr thấy Einarr giật lùi lại, theo sau là một cú đập mạnh vào thái dương cậu. Cú đấm làm cậu văng khỏi ghế và chỉ kịp ngước mắt lên để thấy Einarr lao về trước, chân vung mạnh. Cú đá trúng mạng sườn của Sigurðr và rút hết không khí ra khỏi phổi cậu. Dùng cánh tay cầm kiếm, Einarr đấm thẳng vào giữa bụng của Sigurðr, và cứ đấm liên tục thế. Những đợt tấn công mù quáng, điên cuồng loạn xạ, hầu hết những cú đấm đều trượt.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 46


Sigurðr cố thoái lui nhưng Einarr huých vai anh vào ngực cậu, hất Sigurðr ngã vào một cái đèn, làm nó đổ xuống. Cậu cố lợi dụng lực xoay để lăn đi, nhưng Einarr đã đuổi theo với những cú đấm còn điên loạn hơn. Quá nhiều cú đấm đá, quá nhanh, và ở khắp mọi chỗ - vào quai hàm của Sigurðr, sượt qua vai cậu, thẳng vào cổ họng cậu, và ở chỗ yếu nhất trên ngực cậu nơi mũi tên đã đâm vào. Cậu hầu như không thở nổi, vì sự tấn công hung bạo và cả sự thật đang diễn ra trước mắt nữa.

Em bé sơ sinh Friðleifr, giờ đang gào khóc trong cái nôi rồng, nhận ra có chuyện gì đó vô cùng tệ hại đang xảy ra trong cái thế giới cậu hầu như chưa biết gì. Svanhildr bật dậy và thét gọi chồng mình dừng lại, còn Bragi lăn khỏi cái ghế ngủ của cậu, quay cuồng không hiểu vì sao cuộc đánh nhau lại diễn ra và vì chỗ bia vẫn đang chảy trong huyết quản cậu. Cậu vẫn chưa đứng vững được còn sàn nhà thì chao đảo như một con thuyền trong bão.

Einarr không còn nghe ra bất cứ tiếng kêu thét nào nữa. Ảo giác do berserkjasveppur mang lại khiến anh cứ tưởng tượng ra con quái vật nào là thẳng tay đánh chúng, như thể chúng là những sinh vật duy nhất thực sự tồn tại trong căn phòng.

Sigurðr không hề đánh trả với lý do ai cũng có thể đoán được. Thương tích của cậu đã hạn chế các cử động, đúng thế, nhưng sự thực không chỉ có vậy: khi cậu nhìn thấy Bragi loạng choạng đứng dậy và nghe tiếng thét của Svanhildr, cậu đã hoàn toàn mất hết ý chí chiến đấu. Cậu nhận ra một điều, dù không tỉnh táo nhưng rất rõ rành, rằng phút giây yếu lòng của cậu đã biến cậu thành kẻ phản bội những người gần gũi cậu nhất, với gia đình đã nhận chăm sóc một cậu bé không nơi nương tựa và cho cậu cuộc sống của một người đàn ông. Trong một khoảnh khắc ham muốn, Sigurðr đã vượt qua cái giới hạn bất thành văn mà cậu và Einarr đã mất hơn mười năm gây dựng.

Vì thế Sigurðr cứ nằm bất động; cậu sẽ để Einarr đấm cho cái giới hạn ấy quay lại mới thôi.

Khi thấy Sigurðr không phản kháng, Svanhildr rất lo lắng cho tính mạng của cậu và đổi hướng không đến bên chiếc nôi rồng nữa. Cô giữ chặt cánh tay phải của Einarr khi anh thu tay lại để chuẩn bị cho một cú đấm nữa, và chồng cô theo bản năng đã tung nắm đấm tay trái ra. Cô trúng đòn mạnh, văng ra đập đầu vào đống gỗ.

Bragi biết rõ không nên đối đầu trực tiếp với cha mình; một cậu con trai vẫn còn chơi đùa với kiếm đồ chơi không thể nào địch nổi một Viking. Việc chú Sig bị đánh làm cậu rất hoảng sợ, nhưng Bragi còn thấy một mối nguy hiểm khác nữa: mỡ cá voi đã tràn khỏi cái đèn bị đổ lúc nãy, làm một chồng đồ gỗ mới khắc bắt lửa, và ngọn lửa đang lan rộng ra.

Bragi bắt đầu thét ầm lên rằng nhà đang cháy, nhưng thậm chí cả điều này cũng không đủ làm cha cậu tĩnh trí lại. Những cú đấm của Einarr, dù vẫn trượt nhưng không hề giảm đi, tiếp tục trút như mưa xuống người Sigurðr và trên khuôn mặt kẻ tấn công chẳng biểu lộ gì ngoài cơn thịnh nộ đầy đáng sợ.

Những băng ghế dọc tường cũng bén lửa và ngọn lửa leo dần lên các cành sồi Iceland nhô khỏi mấy bức tường. Chẳng có cách nào ngăn lửa lại và - không thể tệ hơn, Bragi đã thấy - lửa đang hướng về phía mẹ mình, cô đang nằm bất động nơi cô ngã xuống. Máu rỉ ra trên trán cô, chảy xuống cặp mắt nhắm chặt.

Bragi lắc mẹ mình, nhưng mẹ không phản ứng lại. Khi cậu nhận ra không thể lay mẹ dậy, cậu vòng tay xuống nách mẹ và cố đứng vững. Cậu dùng hết bình sinh để kéo, nhưng cậu vẫn còn say và còn quá bé nên chỉ kéo được mẹ ra một chút, vài phân một lần. Tuy thế, cậu vẫn kéo mẹ ra. Cậu phải kéo mẹ ra.

Khi Bragi kéo Svanhildr ra cửa, Einarr vẫn tiếp tục đợt tấn công hung hãn của anh. Cho dù có muốn Sigurðr cũng không còn phản công được nữa: mặt cậu ngập trong vũng máu, xương sườn bị gãy vô số kể, và chân cậu giật lên với mỗi cú đấm trúng đích. Tuy nhiên, cậu vẫn cố nói qua kẽ những chiếc răng gãy.

"Cháy, Einarr," cậu thốt lên. "Vợ! Bragi!"

Cậu cứ lặp đi lặp lại mấy từ đó cho tới khi cuối cùng nó cũng đến tai Einarr. Einarr ngưng đấm đá và bối rối nhìn xung quanh, như một người không biết mình vừa tỉnh dậy tại nơi nào. Anh nhìn thấy Bragi đang đứng ở cửa ra vào của ngôi nhà dài, bên dưới là Svanhildr nhưng không thể đi xa hơn, họ đã bị chặn lại bởi một hàng rào lửa.

Anh chạy vụt đến chỗ họ và đá đổ cánh cửa đang bốc cháy. Anh tóm lấy Bragi và ném cậu ra, nhưng anh không thể làm thế với Svanhildr - không thể khi cô đang bất tỉnh nằm đó được - thế nên anh đã vác cô lên vai và chúi người xuống. Cách duy nhất để thoát là phóng thẳng qua cửa; họ có thể bị bỏng, nhưng họ sẽ sống.

Sigurðr, thương tích đầy mình nằm trên sàn, nhìn Einarr và Svanhildr biến mất sau màn lửa và biết rằng cậu sẽ không thể theo họ được. Cậu không thể tưởng tượng nổi mình có thể lê được một phân nào, nói gì đến cả quãng đường cần thiết để thoát khỏi đám cháy, và nghĩ:Tất cả mọi thứ sẽ kết thúc như thế này đây. Trong biển lửa.

Lửa tí tách nhảy múa quanh cậu như đang cười nhạo, và cậu nghĩ đây sẽ là âm thanh cuối cùng mình nghe thấy. Rồi cậu nghe thấy tiếng đứa bé khóc.

Quần áo Sigurðr đã bắt lửa và cậu cảm thấy da mình đang nổ lộp bộp như bong bóng. Dùng những ngón tay gãy nát của mình, cậu dập hết chỗ lửa đó; cậu có thể làm tay mình cháy rụi khi làm thế, nhưng cậu đã không còn cảm giác gì nữa và điều đó cũng chẳng quan trọng. Máu rỉ từ khóe mắt và đọng lên râu của cậu, nhưng cậu chỉ lau đi và bắt đầu bò về nơi phát ra tiếng khóc của Friðleifr.

Bên ngoài, trong ánh lửa bùng lên từ nhà dài, Svanhildr đã tỉnh lại và điên cuồng ôm chặt lấy Bragi. Khi nhận ra rằng Friðleifr không ở đó với họ, cô buông tay ra và gào khóc thảm thiết. Cô bắt đầu loạng choạng đi về phía ngôi nhà, và Bragi đã phải giữ cô lại; cậu không thể để mẹ mình bước vào cái địa ngục nơi chẳng hy vọng gì thoát ra được.

Einarr, đã tĩnh trí lại, cũng lao về phía ngôi nhà đang chìm trong lửa. Trái tim anh thúc giục anh chạy bổ vào trong, nhưng bản năng gốc không cho phép điều đó. Không làm được gì khác, không thể tiến về phía ngọn lửa hay tránh xa khỏi nó, anh quỳ xuống đất và úp mặt vào đôi bàn tay. Svanhildr tiếp tục gào thét về phía ngôi nhà đang cháy và Bragi tiếp tục giữ chặt cô lại cho tới khi mục tiêu sự cuồng nộ của cô không chỉ nhằm vào ngôi nhà nữa. Cậu thả mẹ mình ra và cô chạy thẳng đến chỗ Einarr, đấm đá anh đến khi kiệt sức gục xuống bên cạnh chồng mình.

Enairr không hề đưa tay lên đỡ cho tới khi cô sụp xuống, rồi anh giơ tay lên với tới chỗ cô. Giây phút lòng bàn tay anh chạm vào cô, cô đã giật mình tránh ra, và anh biết mình không nên thử nữa làm gì.

Buổi sáng hôm sau, nhà dài chẳng còn gì ngoài một nhúm tàn than cháy dở vương vãi trên những tảng đá làm móng nhà. Những người khác đã tới - nông dân, Viking, thương nhân - bắt đầu lục lọi chỗ đổ nát. Einarr không muốn làm việc này chút nào, nhưng vẫn biết mình buộc phải làm thế.

Anh đi về phía chỗ trước kia là cái nôi rồng, nhưng nó đã không còn ở đó nữa: chỉ có một đống cột cháy thành than, và một cái cột đầu rồng chưa bị thiêu trụi cùng những cột khác vẫn âm ỉ cháy.

Có tiếng thét cất lên từ một người trong đội tìm kiếm: xác của Sigurðr đã được tìm thấy. Không phải nơi trận đánh nhau xảy ra, mà có lẽ phải xa chỗ đó đến hơn chục mét. Thi thể bị bám tro khủng khiếp đến nỗi Einarr cũng không thể nhận ra đây là bạn mình; nó có mang hình dạng con người, nhưng đã bị thiêu rụi đến tận xương.

Cảnh đó làm Einarr phát buồn nôn, nhưng địa điểm tìm thấy xác đã làm anh bối rối. Thay vì hướng về phía cửa, Sigurðr đã bò về phía góc nhà chỗ có rãnh nước. Điều này có thể hiểu được nếu chỗ đó đủ rộng để có thể thoát ra - nhưng nó quá nhỏ. Sigurðr còn chẳng nạy tấm ván sàn lên nữa; cậu nằm hẳn lên trên nó.

Có một tiếng động.

Einarr và những người đàn ông đang đứng quanh cái thân xác cháy rụi cứ nhìn nhau hết người này đến người khác, như thể để xác nhận rằng mình không điên, rằng thực sự đang có âm thanh phát ra từ một xác chết.

Yếu ớt. Một tiếng rên rỉ.

Ở bên dưới. Tiếng động phát ra từ bên dưới những tấm ván sàn.

Hai người đàn ông kéo xác Sigurðr qua một bên, một luồng hơi đầy tro bụi bay ra từ cái sọ, và Einarr bắt đầu giật tấm ván lót nền lên. Chúng cháy sém nhưng không bị lửa thiêu rụi; rõ ràng Sigurðr đã dùng thân mình ngăn lửa lại. Khi những tấm ván đã được gỡ ra, Einarr nhìn thấy một thứ đang trôi trên dòng nước, bọc kỹ trong lần chăn ấm và được buộc chặt bằng sợi dây mặt đầu mũi tên của Sigurðr là em bé mới sinh. Cậu bé Friðleifr đang run bần bật và nửa chìm nửa nổi trong làn nước lạnh, nhưng vẫn sống.

Einarr đỡ đứa trẻ lên và ôm chặt lấy nó, chặt hơn bất cứ cái ôm nào trước đó.

Những ngày sau đó, Einarr và Bragi dành hết thời gian ở bên cái vịnh yêu thích của Sigurðr, đào một cái huyệt khổng lồ. Khi cái huyệt đã đủ to, họ nhờ những người Viking khiêng chiếc thuyền của Bragi tới - chiếc thuyền Sigurðr đã sơn với những màu sắc rất rực rỡ. Trong lúc đưa nó xuống huyệt, vài người Viking làu bàu rằng Sigurðr chẳng phải một chiến binh vĩ đại đến mức xứng đáng được hưởng một ngôi mộ là con thuyền đẹp thế này, nhưng chẳng ai dám nói lớn lên cả. Họ cứ để Einarr và gia đình anh vĩnh biệt người đàn ông đã cứu mạng con họ.

Bên cạnh thi thể của Sigurðr trên thuyền, họ đã đặt vào đó cơ man nào là đồ vật: cốc bia ưa thích của cậu và cái muỗng hình con ngỗng trong bếp, cả hai đều được lôi ra từ đống tro tàn; cọ vẽ và phẩm màu của cậu; Sigurðsnautr; và cái đầu rồng duy nhất không bị thiêu trụi từ nôi của Friðleifr. Rồi Svanhildr tháo chuỗi vòng cổ của cô ra và nhẹ nhàng đặt lên bộ ngực tàn tạ của Sigurðr, chỉ giữ lại mảnh có khắc cổ ngữ mà cậu đã tặng cho cô.

Svanhildr và Einarr cũng định đặt cả chiếc vòng cổ có hình đầu mũi tên vào mộ nhưng cuối cùng quyết định không làm thế. Nó sẽ dành cho Friðleifr, làm một lá bùa bảo vệ cậu khi cậu trưởng thành.

Einarr tự tay xúc đất lấp huyệt. Bragi và Svanhildr, với đứa bé bấu chặt lấy ngực cô, đã ở suốt đêm bên cạnh anh. Khi ánh mặt trời đầu tiên xuất hiện, xẻng đất cuối cùng được đổ xuống, Einarr kiệt sức ngồi phịch xuống, nhìn vào đại dương nơi mặt trời đang mọc lên như ánh nhìn phán xét của thần Odin. Bragi đã ngủ thiếp đi và Einarr, không thể cứ tiếp tục giữ cái bí mật khủng khiếp ấy thêm giây phút nào nữa, đã thú nhận với Svanhildr lý do vì sao trận đánh nhau đó lại xảy ra.

Khi anh kết thúc, Svanhildr chạm vào chồng mình lần đầu tiên từ sau khi ngôi nhà dài bị cháy. Cô không thể nói lời tha thứ nào, nhưng cô đã nắm lấy tay anh.

"Anh không hiểu vì sao anh lại làm thế," Einarr nói, nước mắt chảy xuống hai má. "Anh rất yêu quý cậu ấy."

Họ ngồi đó không nói gì trong một lúc lâu, Einarr vẫn khóc, cho tới khi cuối cùng Svanhildr cũng chịu lên tiếng. "Friðleifr là một cái tên đẹp," cô nói, "nhưng có lẽ không đẹp bằng Sigurðr."

Einarr bóp tay cô mạnh hơn và gật đầu, rồi lại tiếp tục khóc.

"Chúng ta không được phép quên," Svanhildr nói, nhìn xuống khuôn mặt đang say ngủ của em bé mới thoát chết đang tựa vào ngực cô ấy. "Kể từ hôm nay, đứa trẻ này sẽ mang tên người bạn của chúng ta."
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 47


Tránh không bị ai chú ý đối với một nạn nhân bỏng lúc thường đã là rất khó khăn, nhưng nó còn trở nên khó khăn gấp bội khi anh ta phải ở trong cửa hàng vải vóc cùng một phụ nữ tóc tai rối bù cứ giơ những mảnh vải trắng ra trước ngực anh ta, đo đạc sao cho đủ để may cho anh ta bộ áo choàng thiên thần.

Khi đến lúc trả tiền, tôi bước tới giữa Marianne Engel và cô thu ngân, chìa thẻ tín dụng của mình ra. Cái cảm giác độc lập về tài chính nó mang lại mới buồn cười làm sao, vì đằng nào tiền trong thẻ cũng lấy từ tài khoản của cô. Tuy nhiên, tôi vẫn có thể sống trong ảo giác một chút.

Sau khi mua sắm xong các đồ hóa trang cần thiết, chúng tôi đến một nhà băng địa phương để làm một việc kỳ lạ. Marianne Engel muốn ghi tên tôi vào danh sách những người có thể sử dụng tài khoản két sắt ngân hàng của cô, và nhà băng cần mẫu chữ ký của tôi để hoàn tất thủ tục. Khi tôi hỏi tại sao cô lại muốn làm thế, cô chỉ trả lời rằng chuẩn bị trước thì tốt, vì có Chúa mới biết được chuyện gì sẽ xảy ra trong tương lai. Tôi lại hỏi là cô có định đưa chìa khóa két sắt cho tôi hay không. Không, cô trả lời, chưa đến lúc. Thế còn ai trong danh sách nữa? Chẳng ai cả.

Chúng tôi đến một quán cà phê để uống cà phê sữa không bọt, ngồi tại một cái bàn ngoài cửa trong khi Marianne Engel dạy tôi đọc phiên bản Địa ngục của Iceland. Hiển nhiên đó không phải một nơi đầy lửa mà là đầy băng: trong khi người Anh nói rằng "nóng như địa ngục", người Iceland sẽ nói là helkuldi, "lạnh như địa ngục". Điều này cũng dễ hiểu thôi: dành cả đời mình vật lộn trong cái khí hậu băng giá khắc nghiệt ấy, làm sao họ có thể sợ cái gì hơn một phiên bản vĩnh hằng của thứ tương tự? Đối với người bị bỏng, tôi xin nói thêm, thật thú vị khi biết rằng ý tưởng này đã đánh đổ quan niệm của cả người Do Thái lẫn Thiên Chúa cho rằng phương tiện tra tấn vĩnh cửu phải là lửa.

Việc coi địa ngục được cấu tạo riêng biệt cho từng đối tượng cũng không hẳn là một ý tưởng mới. Trên thực tế, đó là một trong những sáng tạo nghệ thuật thành công nhất trong tác phẩm Địa ngục của Dante: việc những kẻ tội đồ bị trừng phạt xứng với những gì hắn đã gây ra. Linh hồn của những kẻ dâm đãng, những kẻ cả đời để bản thân bị những trận cuồng phong của ham muốn xác thịt cuốn đi, khi chết sẽ không ngừng bị vùi dập bởi những ngọn gió dữ dội. Linh hồn của những kẻ báng bổ thần thánh, những kẻ cả đời xúc phạm Chúa bằng việc lạm dụng chức vụ tôn nghiêm của mình để tư lợi cá nhân, sẽ bị treo ngược lên thiêu đốt trong lửa để rửa hết tội lỗi. Linh hồn của những kẻ xu nịnh sẽ bị chôn đời đời kiếp kiếp trong phân, cách thức để chúng nhớ tới những lời lẽ thô bỉ chúng nói khi còn sống.

Chuyện này làm tôi băn khoăn không biết phiên bản địa ngục của tôi - nếu tôi tin vào cái thứ như thế, chỉ là nếu thôi - sẽ là gì. Liệu tôi có bị kẹt trong chiếc xe của mình, cứ thế bị thiêu mãi không? Hay địa ngục của tôi sẽ là cái bàn cắt lọc? Hay nhận ra cuối cùng mình cũng có thể yêu thì đã quá muộn?

Khi đang nghĩ về chuyện này, tôi thoáng thấy bóng dáng một người bạn của mình đang đi về cuối phố. Đó là một cảm giác kỳ lạ, lần đầu tiên tôi nhìn thấy một nạn nhân bỏng khác ở nơi công cộng, và chính là một người tôi biết: Lance Whitmore, người đàn ông đã có một bài phát biểu đầy cảm hứng tại bệnh viện. Anh đi thẳng đến chỗ chúng tôi và hỏi xem có phải anh và tôi từng gặp nhau hay không. Tôi không thể trách anh không nhận ra tôi được, vì không chỉ nét mặt tôi thay đổi trong đợt điều trị, chúng còn bị giấu sau lớp mặt nạ nhựa đặc biệt nữa.

"Thật tuyệt khi nhìn thấy một trong số chúng ta ra ngoài vào ban ngày," anh nói. "Không phải chúng ta là những bóng ma, chỉ là chúng ta giỏi giấu mình thôi."

Chúng tôi nói chuyện phiếm trong độ chục phút và có vẻ Lance chẳng thấy phiền gì khi chúng tôi thu hút những ánh nhìn tò mò của hầu hết mọi người đi ngang qua. Tôi chắc Lance cũng thấy, nhưng tôi rất ngưỡng mộ khả năng vờ như không thấy gì của anh.

Tôi mặc áo chùng màu trắng và đeo một đôi cánh làm từ tất giấy căng trên mắc áo, phủ đầy kim tuyến bạc. Marianne Engel chỉnh lại vầng hào quang trên đầu tôi (cái que rửa ống nước, sơn màu vàng) trước khi xắn ống tay áo thiên thần của tôi lên để tiêm một liều morphine, nó chảy vào trong huyết quản tôi như những giọt sữa vón cục của lòng nhân đạo. Bougatsa chạy quanh cắn vào gót chân chúng tôi, và tôi băn khoăn không hiểu sao cái đầu óc bé tí của con chó có thể nghĩ ra một trò như thế.

Cô cũng mặc áo chùng - hay chính xác hơn, một chiếc váy suông thắt eo lỏng đến nỗi trông y như cái áo chùng. Tóc cô hơi rối hơn bình thường, dù đã được buộc gọn lại trước trán bằng một dải ruy băng lớn trùm cả lên thái dương của cô. Một dải vải không bị vướng vào mấy lọn tóc tuột xuống lưng cô. Cô luồn chỗ vải thừa này vào khuỷu tay, để nó phủ lên cẳng tay cô như cách người hầu bàn phục vụ khăn ăn cho khách. Tay còn lại của cô cầm một chiếc đèn lồng kiểu cổ, không có dầu bên trong, và quanh mắt cá chân cô - bên mắt cá chân có hình xăm chuỗi tràng hạt - là một vòng lá. Cô giải thích rằng cái này tượng trưng cho vòng nguyệt quế lẽ ra phải được buộc vào chân cô rồi cứ thế để loẹt quoẹt dưới đất, nhưng nếu làm thế thật thì cô sẽ không di chuyển thoải mái trên sàn nhảy được. Tôi hỏi cô đang hóa trang thành ai.

"Một trong những Trinh nữ Ngốc nghếch," cô trả lời.

Bữa tiệc diễn ra tại một trong những khách sạn cổ và sang trọng nhất thành phố. Một người gác cửa đội mũ chóp cao mở cửa xe taxi và cầm tay Marianne Engel dắt ra. Anh ta gập người chào, trước khi bối rối nhìn tôi như thể đang cố gắng tìm hiểu tại sao những vết bỏng hóa trang của tôi trông lại thật đến thế. "Ngài là Lucifer có phải không ạ?"

"Cái gì cơ?"

"Thiên thần sa đọa duy nhất mà tôi biết, thưa ngài." Anh ta lại lịch sự cúi đầu. "Hóa trang tuyệt quá. Tôi xin phép nói thêm rằng giọng của ngài cũng rất ấn tượng nữa!"
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 48


Vừa tiến vào hành lang, Marianne Engel vừa nắm lấy tay tôi. Ánh đèn ở đây mờ mờ ảo ảo, và những tấm biểu ngữ ma quái cứ xổ xuống từ trần nhà. Mạng nhện giăng khắp bốn góc và hàng tá mèo đen lượn lờ quanh phòng. (Tôi băn khoăn họ kiếm đâu ra lắm thế; có phải cướp ở một trung tâm thú nuôi nào đấy không?) Khách khứa tập trung hết tại phòng khiêu vũ. Có nửa tá xương khô đi lại trong phòng, lúc lắc mấy cái xương sơn trắng hếu trên những bộ quần áo bó sát màu đen. Marie Antoinette, đội tóc giả và đánh phấn trắng xóa với cái cổ áo siêu trễ, đang nói chuyện với Quý cô Godiva, mái tóc vàng óng trải dài xuống bộ quần áo bó sát. Một kỵ binh cảnh sát Canada đang uống whiskey với Al Capone. Một người phụ nữ mặc bộ quần áo cà rốt chúa khổng lồ, vung vẩy cái quyền trượng rau, đứng bên cạnh bạn trai thỏ. Một ông Albert Einstein say xỉn đang tranh cãi với một ngài Jim Morrison tỉnh táo và, ở một góc xa xa, hai con quỷ đang đọ xem đuôi ai xịn hơn. Một người phục vụ lướt qua với chiếc khay bạc trong tay và Marianne Engel điệu nghệ nhấc một cốc martini, nhấp một ngụm trước khi hôn lên cái má đeo mặt nạ của tôi.

Chúng tôi kiếm được một cái bàn phủ khăn đỏ như máu, một cây nến nhô ra giữa bộ sưu tập nhãn cầu bằng thủy tinh. Chúng tôi ngồi cùng nhau: cạnh Marianne Engel là một người đàn ông mặc áo vịt cao su và cạnh tôi là một nữ cảnh sát quyến rũ.

Chẳng mấy chốc tôi đã nhận ra rằng Halloween sẽ là ngày lễ ưa thích nhất của mình. Khi người nữ cảnh sát khen ngợi bộ đồ hóa trang của tôi, tôi đã bịa rằng "trong đời thực" tôi là giáo viên Ngữ văn ở một trường trung học. Sau khi Marianne Engel uống hết ly martini thứ ba - thật thú vị, vì cô rất hiếm khi uống rượu - cô đã kéo tôi lên sàn nhảy. Cô biết rõ là tôi luôn thầm mong được khiêu vũ cùng cô; tôi không tập luyện chăm chỉ với Sayuri chỉ để cả đời làm một bông hoa treo tường.

Ban nhạc chơi một điệu waltz tiết tấu nhanh, và Marianne Engel đứng thẳng người để đỡ lấy tôi bằng đôi tay điêu khắc của cô. Cô chăm chú nhìn vào mắt tôi và, trong giây lát, tôi có cảm giác biển cả như xô ập tới trước mặt mình. Tôi không biết chúng tôi đã bất động nhìn nhau như thế trong bao lâu trước khi cô đưa chúng tôi hòa theo điệu nhạc. Tôi chỉ phải bước theo cô; cô dường như có một trực cảm bẩm sinh về sức mạnh cơ thể hiện tại của tôi. Không một lần tôi phải lo lắng về chuyện cái đầu gối yếu ớt của mình phải chịu sức nặng vượt quá mức chịu đựng khi chúng tôi xoay vòng tròn quanh những cặp Romeo và Juliet, gần mấy đôi Esmeralda và Quasimodo, lướt qua vài cô Uma và anh Travolta. Marianne Engel nhìn thẳng vào mắt tôi, luôn luôn, và những đôi nhảy khác trong phòng nhòa vào một vũ điệu màu sắc không chút quan trọng đối với chúng tôi.

Mọi thứ cứ thế trôi, tôi không biết là trong bao lâu, và nó sẽ còn tiếp tục lâu nữa nếu tôi không bắt gặp hình ảnh, xuất hiện trong khóe mắt của tôi, một đôi nhảy rất thú vị. Lúc đầu, tôi nghĩ đầu óc mình có vấn đề và tự nhủ rằng họ thực sự không thể ở đó được. Họ biến mất khi Marianne Engel kéo tôi vào một vũ điệu nửa vòng tròn, và tôi thực sự mong rằng họ sẽ biến mất ở lượt khiêu vũ tiếp theo. Nhưng họ đã không làm thế.

Lần này tôi không thể coi là không có họ ở đó được: một phụ nữ Nhật Bản mặc một bộ đồ thầy tu với cái đầu trọc tương phản rõ rệt với mái tóc đỏ hoe của người chiến binh Viking cô đang nhảy cùng. Cô thật duyên dáng còn anh thì thật vụng về, chẳng khác gì xem một con chim sẻ cưỡi lên sừng một con bò vậy. Cô mím chặt môi đầy bướng bỉnh khi cái bao kiếm của anh đập vào hông cô và khi cô tìm cách đặt tay lên eo anh để được thoải mái hơn, một chút đất đã rơi ra khỏi ống tay áo cô.

Marianne Engel lại xoay tôi thêm một vòng nữa trước khi chúng tôi quay lại vị trí lúc đầu, cặp nhảy đó đã biến mất. "Cô có thấy họ không?"

"Thấy ai?"

Ngay lúc ấy, tôi lại nhìn thấy một cặp khác. Lần này người phụ nữ mặc quần áo thời nữ hoàng Victoria nhưng rất gọn ghẽ, như một loại quần áo để đi làm đồng chứ không phải khiêu vũ. Nó không phải bộ đồ đáng được ngoái nhìn lần thứ hai ở một vũ hội hóa trang thế này - trừ cái việc nó ướt sũng: nước nhỏ giọt xuống sàn nhà, làm thành vũng dưới chân cô. Người thanh niên trông khá vui vẻ dù tay anh phải ôm một người phụ nữ ướt như chuột lột, không mảy may bận tâm đến chuyện đó. Anh mặc một chiếc áo da thú và có cánh tay to với cái bụng còn to hơn. Cô vừa mỉm cười vừa nhã nhặn nói, nhưng cô cứ ngước nhìn qua vai anh như để tìm kiếm một ai đó khác. Chúng tôi chỉ đủ gần để tôi có thể nghe thấy anh nói bằng tiếng Ý và cô đáp bằng tiếng Anh: "Tom? Em không biết..."

Marianne Engel cố xoay tôi thêm lần nữa, nhưng tôi đã buông ra. Tôi chỉ rời mắt khỏi hai người đó một chút nhưng cũng kịp cho họ biến mất rồi. Tôi điên cuồng nhìn khắp đám đông để tìm xem có dấu hiệu nào của họ không, nhưng chẳng có gì cả.

Tôi quay lại chỗ người phụ nữ thời Victoria để rớt nước ra sàn. Nhưng sàn nhà khô cong. Tôi tìm khắp sàn nhà chỗ đất đã rơi khỏi ống tay áo của người phụ nữ Nhật Bản. Nhưng sàn nhà sạch không chê vào đâu được. Tôi quỳ sụp xuống đất, dùng tay lần khắp nơi trên sàn, và những người khác tránh xa khỏi tôi như thể tôi là một thằng điên. Tôi bò khắp nơi, tìm tất cả mọi thứ có thể tìm được nhưng chẳng thấy gì. Marianne Engel cúi xuống thì thầm vào tai tôi. "Anh đang tìm cái gì vậy?"

"Cô đã nhìn thấy họ. Có phải không?"

"Tôi không biết anh đang nói về cái gì."

"Những hồn ma."

"Ôi. Những hồn ma." Cô khúc khích cười. "Anh không thể cứ chăm chăm đi tìm họ mãi được, anh biết còn gì. Việc đó giống như tóm đuôi lươn vậy. Cứ khi anh nghĩ mình đã tóm được chúng rồi, chúng sẽ tuột khỏi tay anh ngay."

Chúng tôi ở lại đó thêm vài giờ nữa, nhưng tôi dành hết thời gian để tìm mấy con ma. Tôi biết mình đã nhìn thấy một thứ không thể tồn tại: nó không phải là ảo giác đánh lừa. Tôi đã nhìn thấy họ. NGƯƠI CŨNG ĐIÊN NHƯ CÔ TA THÔI. Câm ngay, con rắn thối tha. Ta sẽ tống cho mụ nhiều morphine đến nỗi mụ chỉ muốn lột da cho nhanh mà thôi.

Khi chúng tôi về đến nhà, Marianne Engel mang trà ra để cố làm tôi bình tĩnh lại. Khi thấy trà không có tác dụng, cô quyết định tiếp tục kể câu chuyện của chúng tôi. Có lẽ biết được chúng tôi có cưới nhau hay không, cô nói, có thể làm tôi cảm thấy khá hơn.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 49


Trước khi anh nói là một ngày nào đó anh sẽ cưới tôi, tôi chưa bao giờ thực sự nghiêm túc nghĩ việc đó có thể xảy ra. Tôi thừa nhận mình cũng có chút hy vọng hão huyền về chuyện đó, nhưng tôi đã phá bỏ một loạt lời thề độc rồi và tôi không chắc mình lại muốn thề thêm lần nữa. Một phần trong tôi sợ rằng tôi sẽ phản bội anh như tôi đã phản bội mẹ Christina, vì thế khi anh không nhắc gì về chuyện đó nữa tôi đã nghĩ rằng anh chỉ nói vu vơ thôi, cái cách đàn ông vẫn hay làm khi lãng mạn. Sự thực là, việc đó thậm chí cũng chẳng làm tôi buồn phiền gì, vì cuộc đời tôi giờ đã tuyệt vời hơn tất cả những gì tôi có thể tưởng tượng từ trước đến nay rồi. Tôi đang giúp việc cho mấy người Beguine, cải thiện việc soạn sách của họ, chẳng mấy chốc thì tin tôi được đào tạo tại phòng viết ở Engelthal đã rò rỉ tới tai một số nhân vật giàu có trong vùng.

Có một điều chẳng bao giờ thay đổi. Những kẻ có của luôn muốn khoe khoang những gì họ có mà người khác lại không. Hồi đó, có gì tốt hơn sách chứ? Người ta không chỉ có thể khoe sự giàu có, mà còn có thể khoe cả sự thông minh xuất chúng và khiếu thẩm mỹ cao nữa. Tuy nhiên, tôi vẫn không hay biết về điều đó khi một nữ quý tộc đến gặp tôi và đề nghị giao một nhiệm vụ cho tôi, là xem tôi có thể làm một bản Der gute Gerhard của Rudolf cho sinh nhật chồng bà hay không. Tôi từ chối bà, nghĩ rằng sẽ là sỉ nhục anh nếu tôi thấy cần đóng góp thêm vào thu nhập gia đình. Nhưng lại có một đặc tính khác chẳng bao giờ thay đổi ở người giàu: họ cho rằng người nghèo luôn nghĩ mình có giá. Và sự thật quả đúng như họ nghĩ. Bà quý tộc đưa ra một cái giá vượt xa những gì anh có thể kiếm được trong một năm. Tôi lại bắt đầu từ chối, nhưng... ờ, chúng ta cần khoản tiền đó, vì thế tôi xin được suy nghĩ thêm một chút.

Tôi không biết phải nói với anh thế nào. Chúng ta đã cùng đồng ý rằng chuyện học việc lâu dài của anh là lựa chọn tốt nhất rồi, nhưng tiền lương của anh thì ít đến nỗi anh không thể kiếm đủ tiền để trang trải các khoản thiết yếu nhất của chúng ta. Đôi vợ chồng cho chúng ta thuê nhà cũng hiểu hoàn cảnh của chúng ta, và dù bản thân họ cũng chẳng khá giả gì, họ vẫn tốt bụng giảm bớt một phần tiền thuê nhà. Đây là thứ duy nhất giúp chúng ta tiếp tục trụ lại được, nó làm anh cảm thấy mình đang làm cả họ lẫn tôi phải thất vọng.

Suốt mấy ngày liền tôi cứ đi đi lại lại trong phòng, nói những câu không đầu không cuối. Anh cứ hỏi suốt là có chuyện gì thế, và tôi cứ nói "Không có gì". Cuối cùng khi không thể chịu đựng thêm được nữa, anh gặng hỏi tôi đang nghĩ gì vậy. Tôi thực đã không phải với anh - giảm bớt trách nhiệm của mình bằng cách khiến anh bắt tôi thú nhận. Tôi nói rằng tôi muốn làm sách lần nữa và nói với anh về lời đề nghị của bà quý tộc. Tôi làm ra vẻ anh đang ban ân huệ nếu cho phép tôi được thực thi nhiệm vụ đó vậy.

Anh thoải mái với chuyện đó hơn cả tôi tưởng tượng, anh bảo nếu việc đó làm tôi vui thì tôi nên làm đi. Lý do anh không để tâm đến chuyện đó, dù chẳng bao giờ nói ra, là tôi có thể làm nhiệm vụ ấy miễn là cả hai chúng ta đều giả vờ làm vì sở thích. Nhưng cả hai chúng ta cũng chẳng giả vờ được lâu khi anh mở tròn mắt ngạc nhiên lúc tôi nói được trả bao nhiêu tiền.

Người phụ nữ quý tộc nhanh chóng ứng trước một khoản. Với bà chẳng là gì, nhưng với chúng tôi, đó là một gia tài. Cũng phải mất vài ngày tôi mới có thể dồn hết can đảm để tiêu vài đồng trong số đó, tôi biết là ngay khi tôi làm thế, tôi sẽ không còn đường thoát. Khi đưa đồng tiền đầu tiên cho người thợ làm giấy da, tôi đã có một cảm giác khá thanh thản, và thế là tôi bắt tay vào làm việc.

Tôi hoàn thành cuốn sách đầu tiên đó và người phụ nữ quý tộc có vẻ rất hài lòng với thành quả đạt được. Tôi không biết có phải bà giới thiệu tôi cho bạn bè hay họ tìm được tôi nhờ những kênh thông tin khác, nhưng điều đó thực sự cũng chẳng quan trọng. Dù gì, họ cũng tìm được tôi.

Thợ làm sách ở Mainz còn thiếu năng lực và vì đến từ Engelthal, tôi đã có một sự đảm bảo nhất định. Không ai tin rằng thành phố quê hương của mình có thể sản sinh ra những nghệ sĩ đích thực, nhưng hầu như tất cả mọi người đều chấp nhận rằng ở những nơi khác nhân tài nhiều như lá mùa thu. Tuy nhiên, quan trọng hơn, ai cũng thừa nhận rằng bản thảo tốt nhất phải đến từ phòng viết trong các tu viện, vì thế nếu một người phụ nữ quý tộc không thể đặt sách thẳng từ một tu viện nào đó, tôi sẽ là lựa chọn thay thế tốt nhất. Bà ấy sẽ tự hào khoe là mình đang sở hữu một cuốn sách được viết bởi một nữ tu của tu viện Engelthal - mà dĩ nhiên không hề đả động đến việc người nữ tu đó không còn ở trong tu viện nữa rồi.

Chẳng mấy chốc tôi đã nhận được nhiều đơn đặt hàng không thể làm xuể, và đó là lúc người ta bắt đầu giở trò biếu xén. Khi tôi bâng quơ nói mình thích nấu ăn đến mức nào, một nữ quý tộc đã đáp ngay lập tức rằng bà sẽ cho tôi cả một lô xích xông thịt ngon nhất đủ loại nếu tôi đặt đơn hàng của bà lên đầu danh sách. Tôi chấp nhận và nhanh chóng phát hiện ra các lời đồn thổi của tầng lớp bay nhanh đến thế nào. Không chậm trễ, tôi đã được mời dùng tất cả các thể loại ngon ngọt và, trước khi tôi kịp nhận ra, yến mạch và lúa mạch đã thay thế hạt kê trong bữa ăn hằng ngày của chúng ta. Chúng ta được tặng tất cả các loại hoa quả đang vào mùa - anh đào, mận, táo, lê và mận gai - và cả những thứ đắt đỏ khác như đinh hương và gừng, mù tạt và thì là, đường và quả hạch. Anh không thể tưởng tượng nổi những thứ này có ý nghĩa đến thế nào đâu. Bất cứ lúc nào không dịch hay chép sách thì tôi lại cố thử các công thức khác nhau; tôi cảm thấy mình đang cố đền bù cho tất cả những món chúng ta chưa bao giờ được ăn. Bà chủ nhà cũng giúp tôi vì bà ấy cũng hiếm khi được sử dụng các loại gia vị hảo hạng thế này, và tôi đã phải cười phá lên trước việc tôi đang dần trở thành một tội đồ ẩm thực. Xét cho cùng, chẳng phải Dante đã ném một nữ quý tộc xứ Sienese vào Địa ngục vì phát hiện ra "tội dùng đinh hương lãng phí" hay sao?

Chẳng mấy chốc chúng ta đã sống như ông hoàng bà chúa ở Pháp. Tôi để cửa mở suốt với một nồi thịt hầm lúc nào cũng nghi ngút khói và chúng ta nhanh chóng trở thành đôi vợ chồng nổi tiếng nhất trong vùng. Thậm chí cả những người bạn Beguine của tôi cũng ghé qua, dù họ luôn giả bộ khinh bỉ đồ ăn ngon. Tôi luôn nhắc họ nhớ rằng họ đã thề sống cả đời để làm từ thiện và nếu họ làm trái tim tôi tổn thương thì đó không phải việc thiện đâu. Họ sẽ giả vờ đang ban cho tôi ân huệ bằng việc ăn những món đó, và tôi bắt đầu nhận ra ngay cả các Beguine cũng thích tán hươu tán vượn trong bữa ăn.

Những người phụ nữ Do Thái thỉnh thoảng cũng ghé vào và tôi đã bất ngờ khi biết rất nhiều người trong số họ làm kinh doanh, đặc biệt nếu người chồng đã mất và người vợ phải đứng ra đảm đương việc giao thương của gia đình. Phải nói thật, điều này đã tạo cảm hứng cho tôi. Khi tôi trở nên quá bận rộn không thể nhận các bản thảo mới, một trong những người phụ nữ này đã gợi ý tôi nên thuê công nhân và bắt đầu kinh doanh đi là vừa.

Đến lúc này, lòng tự trọng bị thương tổn của anh đã được tiền chữa lành. Anh nói tôi có thể làm gì tùy thích, vì thế tôi quyết định mở rộng phạm vi làm ăn. Sao lại không chứ? Khi ở phòng viết, tôi đã học được cách nhiều người hợp tác để làm nên một cuốn sách như thế nào, tôi cũng đã có kinh nghiệm làm việc với các thương gia và hiểu mọi ngóc ngách của quy trình. Càng nghĩ nhiều, tôi càng tin chắc mình có thể làm được.

Đầu tiên, tôi tìm một người thợ làm giấy tôi thích. Tôi nhận được sự thán phục của ông khi tôi chỉ cho ông cách làm hỗn hợp đá vôi dùng để ngâm da động vật được nhuyễn hơn. Sau khi ông hết sốc vì được một phụ nữ chỉ dạy, tình bạn của chúng tôi đã nở rộ. Chúng tôi lập một bản giao kèo: hằng tháng ông sẽ mang giấy đến cho tôi, giảm giá nếu tôi lấy nhiều. Mỗi khi hàng được đưa tới, chúng tôi sẽ cùng ngồi xuống nhấm nháp chút thịt hầm và bàn bạc về lượng giấy tôi cần vào tháng tới. Chúng tôi đã trở thành bạn tốt, bạn tốt thực sự ấy, và ông ngày càng thích tài nấu nướng của tôi cũng như việc kinh doanh giữa tôi và ông vậy.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 50


Tiếp theo, tôi tìm được một người vẽ tranh minh họa mà sự tinh tế trong tâm hồn rất hợp với tôi. Thương lượng với cậu khá là dễ dàng vì cậu còn trẻ và đang gặp vận rủi. Hằng tháng tôi sẽ gửi cho cậu vài trang sách để vẽ những bức tiểu họa. Cậu cũng làm người kẻ khung và sắp chữ cho tôi, nghĩa là tôi sẽ đỡ phải quản lý thêm một người nữa. Sự sắp xếp này làm cả hai chúng tôi hài lòng; vì lần đầu tiên trong đời cậu có thể kiếm sống nhờ tài vẽ của mình. Cậu tử tế đến mức vẫn giữ một mức giá phải chăng cho tôi ngay cả khi cậu đã có tiếng và rất nhiều người làm sách khác cũng mời mọc cậu làm cho họ.

Cũng có cả những người làm công khác nữa, chủ yếu là người viết thuê tự do, nhưng tôi sẽ không làm anh mất thì giờ với tiểu tiết đâu. Điều tuyệt vời nhất trong chuyện kinh doanh này nằm ngoài sức tưởng tượng của tôi: đột nhiên tôi lại được làm việc với sách. Khi tôi được thuê làm các bản sao Eneid của Virgil và Giấc mơ của Scipio của Cicero, nhà bảo trợ đã cho mượn các sách gốc để giúp tôi dễ làm việc. Sau đó, tôi làm các tác phẩm anh hùng lãng mạn - Hiệp sĩ Parzival của Wolfram, Hiệp sĩ Iwein của Hartman và Hiệp sĩ Tristan của Gottfreid. Vào buổi tối, tôi sẽ mang chúng đến bên giường và đọc cho anh nghe. Đây là một trong những giờ khắc hạnh phúc nhất trong cuộc đời chúng ta, vì chẳng có gì làm tôi yêu quý hơn là được ngồi với một cuốn sách đặt lên đùi và có anh tựa vào vai tôi. Tôi cố dạy anh học đọc nhưng anh chẳng bao giờ chịu kiên nhẫn. Hơn nữa, anh bảo thích được tôi đọc cho nghe hơn.

Thời gian cứ thế trôi và tôi thấy mình dành nhiều thì giờ hướng dẫn những người chép sách khác hơn là tự mình chép, cho tới khi tôi nhận ra rằng mình đã có đủ năng lượng để các buổi tối tập trung vào bản dịch Dante. Tôi đã buộc phải từ bỏ việc này khi chúng ta mới đến Mainz vì không có giấy viết, rồi khi có những tờ giấy viết đầu tiên thì tôi lại không có thời gian. Giờ tôi có cả hai, và cuối cùng cũng hiểu những gì Gertrud nghĩ về cuốn Kinh Thánh của bà. Tôi sẽ tỉ mẩn soi từng chữ một để đảm bảo bản dịch của tôi phải là một kiệt tác, và sao tôi lại phải vội nhỉ? Anh và tôi còn có cả cuộc đời phía trước cơ mà.

Cuối cùng đợt học việc của anh cũng kết thúc và anh đã có giấy tờ tùy thân. Thông thường theo sau đó sẽ là hành trình Wanderjahre, anh sẽ phải đi hết thành phố này đến thành phố khác để học những người thầy khác nhau, nhưng anh chẳng có ý định đi đâu cả. Anh sẽ tìm việc ở Mainz, nơi hầu hết những người thợ đá đều đã biết anh và hiểu rõ tại sao anh quyết định không đi học đâu nữa. Chẳng ai chê bai người đàn ông đã trở thành thợ học việc lớn tuổi nhất trong thành phố cả.

Chúng ta đã gặp quá nhiều may mắn trong đời đến nỗi hầu như không ai nói gì về một chuyện hiện không được tốt đẹp cho lắm. Có lẽ chúng ta nghĩ mình không có quyền phàn nàn, hoặc có lẽ chúng ta cũng không muốn ám quẻ nhau, nhưng chúng ta đã rất cố gắng trong chuyện ấy rồi mà tôi vẫn chưa thụ thai. Trong sâu thẳm tâm trí, tôi luôn lo lắng rồi anh sẽ nghĩ tôi không phải một người bạn đời thích hợp, vì thế anh không thể hiểu được tôi đã nhẹ nhõm đến mức nào khi vừa cầm giấy tờ trong tay, anh tuyên bố sẽ kết hôn với tôi.

Chúng ta quyết định sẽ chỉ làm một lễ cưới nho nhỏ thôi nhưng ngay khi tin đồn rò rỉ ra ngoài, tất cả những người chúng ta biết đều muốn tham dự. Tôi cho rằng đó là vì chúng ta được yêu mến, nhưng có vẻ mọi người mong đợi một bữa tiệc hoành tráng thì đúng hơn. Tôi chuẩn bị thức ăn, món quà tặng hoành tráng nhất, và nhanh chóng có cả một đội quân giúp sức xuất hiện trong bếp. Khi ngôi nhà của chúng ta trở nên quá nhỏ, việc chuẩn bị đã tràn cả sang những ngôi nhà lân cận. Bà chủ nhà của chúng ta đã điều hành mọi thứ, và thậm chí cả mấy người Beguine cũng đến giúp sức dù họ là những đầu bếp cực kỳ kinh khủng.

Nuối tiếc duy nhất của tôi là tôi không thể mời mẹ Christina, cha Sunder và huynh trưởng Heinrich. Tôi đã nghĩ đến việc gửi lời mời tới Engelthal, nhưng tôi biết họ sẽ buộc phải từ chối thôi, và tôi không muốn đặt họ vào tình cảnh đó. Tôi tự an ủi bản thân với suy nghĩ là nếu có thể thì họ chắc chắn sẽ đến. Còn việc duy nhất khiến anh hối tiếc là chuyện anh đã không thể mời Brandeis.

Anh còn thậm chí không biết bạn mình còn sống hay không. Tệ hơn, anh không thể đi tìm anh ấy mà không để lộ ra rằng mình đã thoát nạn và trốn khỏi đội quân condotta, đội quân mà luật lệ duy nhất là không để ai trốn thoát. Anh không thể tha thứ cho bản thân chuyện Brandeis đã để anh trốn thoát, trong khi anh ấy phải quay lại với họ. Vẫn có những lúc anh giật mình tỉnh khỏi cơn ác mộng về những trận chiến xưa cũ.

Lễ cưới của chúng ta diễn ra rất suôn sẻ và trời thì không thể nào đẹp hơn. Những người thợ đá đứng cùng những người thợ làm sách, người Do Thái với Thiên Chúa giáo, và tất cả mọi người, thậm chí cả những người Beguine nữa, đều ăn cho tới khi bụng no căng. Hầu hết khách khứa đều khật khưỡng về nhà, và rồi chỉ còn lại anh và tôi, dành cho nhau đêm đầu tiên với tư cách là vợ chồng.

Khi chúng ta tỉnh dậy vào sáng hôm sau, anh đã tặng tôi một bức tượng thiên thần nhỏ bằng đá anh mới tạc. Đây là Morgengabe của tôi - món quà buổi sáng anh tặng cho tôi, thể hiện chúng ta đã trở thành vợ chồng hợp pháp của nhau. Chính thức là của nhau. Tôi luôn nghĩ rằng điều đó chẳng quan trọng, chẳng cần phải có nghi lễ gì để chứng tỏ một tình yêu tôi đã biết chắc là tình yêu đích thực, nhưng tôi vẫn không kìm được những giọt nước mắt hạnh phúc.

Anh nhanh chóng tìm được một việc làm ổn định và sức khỏe cũng khá lên. Anh hồng hào khỏe mạnh và luôn thích được làm việc với đá. Tôi làm sách, quản lý nhân viên, và tiếp tục dịch cuốn Địa ngục. Chúng ta vẫn tiếp tục nói chuyện về việc sẽ chuyển đến một ngôi nhà lớn hơn nhưng không hiểu sao chúng ta chẳng còn thực sự hào hứng với việc đó nữa. Chúng ta yêu nơi mình đang ở, chúng ta yêu quý bạn bè mình, và có lẽ việc ở khu người Do Thái rất hợp với chúng ta vì chúng ta cũng chỉ là người ngoài, như họ thôi. Có lẽ một ngôi nhà lớn hơn chỉ là một giấc mơ chúng ta tạo ra khi cần gì đó bấu víu để có thể tiếp tục đi tiếp. Chỉ còn một thứ có thể làm chúng ta trở nên hạnh phúc hơn - và rồi, chúng ta cũng có được nó.

Sau bao nhiêu năm không thành công, cuối cùng tôi cũng có thai. Giây phút hạnh phúc nhất tôi từng có trong đời là khi tôi nói với anh và nhìn thấy nét mặt anh lúc đó. Chẳng có chút sợ sệt hay ngờ vực gì, chỉ có sự háo hức khôn tả. Anh chạy ào ra ngoài để kể với tất cả đồng nghiệp của mình và khi trở lại anh đã ôm tôi thật chặt, nói huyên thuyên về những lợi ích của con gái so với con trai, rồi của con trai so với con gái.

Không lâu sau khi chúng ta cùng ra chợ mua rau quả thì thấy một nhóm thanh niên tranh cãi với một người bán hàng rong về việc mua rẻ bán đắt. Chúng mặc những bộ quần áo rách rưới và cư xử ngông cuồng theo cái cách mà chỉ thanh niên mới làm. Đứng ở một bên, một người đàn ông đứng tuổi đang nhìn cảnh đó với ánh mắt của người đã phải chứng kiến cảnh tượng tương tự hàng trăm lần, nhưng biết chẳng thể làm được gì, đành mặc ra sao thì ra.

Tôi nghĩ mình đã nhìn thấy anh ấy trước đó, nhưng không thể nhớ nổi tên. Tôi nắm lấy tay anh và chỉ về phía người đàn ông, hỏi xem anh có nhận ra anh ấy không. Anh đánh rơi túi rau quả, và mặt anh cắt không còn một giọt máu. Khi cuối cùng cũng có thể nói lại được, anh gần như không thể thốt được tên người đó.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 51


Vào ngày mùng một tháng Mười một, dù tỉnh dậy đầu vẫn còn choáng váng do hậu quả của lễ hội Halloween, Marianne Engel vẫn đi thẳng xuống tầng hầm. Trong vòng hai ngày tiếp theo, bức tượng dang dở cuối cùng của cô - con sư tử/khỉ run sợ - đã được tạc một đôi chân để đứng. Khi nó hoàn thành, cô lại nằm lên một phiến đá mới và ngủ khoảng mười hai tiếng trước khi lao vào tạc một bức tượng mới. Trong lúc đó, tôi ngồi một mình trên gác với ký ức về những bóng ma nhảy múa mà lẽ ra tôi không thể thấy được.

Con quỷ lùn mới của cô (một khuôn mặt người cắm trên thân hình dị dạng của một con chim) mất bảy mươi tư giờ đồng hồ để hoàn thành, trước khi cô đi lên phòng tắm rửa một chút rồi ngấu nghiến tất cả những gì tìm được trong tủ lạnh. Tôi đã nghĩ rằng cô, như bình thường, sẽ quay trở về phòng ngủ một giấc cho lại sức, nhưng không, cô đi thẳng xuống cầu thang để nằm dài lên trên một khối đá nữa. Sau khi mơ thấy giấc mơ đá, cô lại bỏ ra hơn bảy mươi tiếng để ức chế đối tượng mới nhất của cô. Khi cô xong việc, một con cóc mặt đầy mụn cơm với cái mỏ đại bàng đang gào thét đã hiện ra.

Marianne Engel trở lại giường và ngủ rất ngon, nhưng mười tiếng sau cô đã vào bếp uống cả một bình cà phê và ăn nửa cân thịt hun khói. (Khi không phải tạc tượng, cô được phép ăn thịt.) Ngay khi vét sạch cái đĩa, cô lại bước xuống cầu thang tầng hầm. "Một con nữa đang gọi." Khi tôi hỏi làm sao cô có thể ngủ trên đá sau khi đã uống nhiều cà phê như thế, cô đáp chẳng vấn đề gì. "Con này đã nói chuyện với tôi khi tôi đang tạc con cóc rồi."

Dù đó mới chỉ là tuần thứ hai của tháng Mười một, Marianne Engel đã bắt đầu tạc bức tượng thứ ba trong tháng. Sự gia tăng số lượng hình như còn chưa đủ để làm tôi bực mình, giờ còn thêm cả sự thay đổi về độ tập trung nữa: cô say sưa làm việc hơn bất cứ lần nào tôi chứng kiến trước đây. Mồ hôi chảy khắp người cô, đọng lại thành dòng trên bụi đá, và cô phải mở toang những cánh cửa gỗ sồi khổng lồ để đón gió thu mát lạnh. Cô không bao giờ tắt một trăm ngọn nến đỏ cháy rực xung quanh mình và vòng lửa của chúng bập bùng trong gió như những ngọn lúa mì nhảy múa trên cánh đồng. Nhìn đám dụng cụ cứ lướt vun vút của cô, tôi không thể không nghĩ tới hình ảnh một người nông dân đang vung lưỡi hái lên trong nỗ lực chạy đua với mùa đông đang đến gần.

Khi bức tượng thứ ba hoàn thành, Marianne Engel ngay lập tức bắt tay vào làm cái tiếp theo.

Những tiếng búa đục đã dần quen thuộc đến nỗi ngôi nhà trở nên thinh lặng quá đỗi khi cô ngơi tay làm việc. Thỉnh thoảng nó - tiếng ồn ấy, không phải sự yên lặng hiếm hoi đâu - còn làm tôi lao ra khỏi nhà. Tôi không bao giờ đi đâu xa, thường chỉ trốn sau mấy góc pháo đài để nhìn những người dân đến thăm nhà thờ Romanus. Cha Shanahan sẽ đứng trên bậc thềm trước, vui vẻ mời họ vào và nài nỉ họ đến vào tuần sau. Họ đều hứa là sẽ đến, và hầu hết đều làm đúng như thế.

Shanahan có vẻ là một người khá chân thành, theo chuẩn của linh mục, dù tôi phải thừa nhận rằng mình cũng không hẳn là một người đánh giá vô tư cho lắm. Tôi luôn luôn có cảm giác phấn khích/khó chịu với bọn đàn ông mặc áo chùng: vì tôi ghét cái thể chế mà bọn họ bảo vệ. Tôi còn muốn coi thường họ trên tư cách con người nữa. Nhưng tôi thường nhận ra mình không thể ghét người, chỉ ghét cái bộ áo chùng thôi.

Tôi có thể tưởng tượng ra phản ứng tự nhiên của độc giả, họ cho rằng tính vô thần của tôi đã được nuôi dưỡng từ những trải nghiệm cay đắng trong cuộc đời: thời thơ ấu không nơi nương tựa, sự nghiệp khiêu dâm, thói nghiện hút, một vụ tai nạn đã thiêu tôi thành miếng khoai tây chiên. Suy nghĩ đó không hề chính xác.

Chẳng có lý do logic nào để tin vào Chúa. Có những lý do cảm tính, dĩ nhiên, nhưng tôi tin rằng chẳng có gì tồn tại chỉ vì nó làm người ta cảm thấy an tâm. Chuyện tôi tin vào Chúa cũng lố bịch như tôi tin rằng có một con khỉ vô hình sống trong mông tôi; tuy nhiên, tôi sẽ tin cả hai nếu cả hai đều được chứng minh một cách khoa học. Đây là vấn đề cốt lõi của những người theo thuyết vô thần: không thể chứng minh sự không tồn tại của một điều gì đó, nhưng những người theo thuyết hữu thần vẫn có xu hướng đặt chủ đề đó ra trước mặt chúng tôi để chứng minh rằng "Thiếu bằng chứng không phải là bằng chứng thiếu," họ hợm hĩnh nói. Ồ, đúng thôi. Tất cả những gì cần làm là hô biến ra một cây thập tự giá bốc lửa giữa trời, KHÔNG CÒN KHỈ TRONG MÔNG NỮA À? được tất cả mọi người trên thế giới nhìn thấy một lúc, THẾ CÒN RẮN TRONG XƯƠNG SỐNG THÌ SAO? để chứng minh với tôi rằng Chúa thực sự tồn tại.

Marianne Engel tạt lên nhà nhờ tôi pha ít cà phê hòa tan. Tôi nghĩ đây là một yêu cầu khá kỳ cục, vì tầng hầm cũng có một máy pha cà phê thường, nhưng cái nhà này sống được là nhờ tiền của cô, nên tôi khó có thể từ chối được.

Ngay khi tôi quay lại, cô giật cái bình ra khỏi tay tôi, tóm lấy thìa, rồi quay trở lại xưởng. Tôi nghĩ một thoáng, tự nhủ rằng cô không thể nào lại... và rồi ngó xuống từ bậc thang trên cùng để thấy rằng cô thực sự đang làm thế thật.

Vừa rít những hơi thuốc lá dài cô vừa nốc cà phê hòa tan, nhai rào rạo hạt cà phê như một vận động viên bóng chày nghiền nát món thuốc lá nhai, rồi uống cà phê vừa pha trong cái cốc ngoại cỡ để cho trôi hết.

Chuông cửa reo.

Nếu bạn giống hầu hết những người bình thường khác, chuông cửa reo thì bạn sẽ ra mở cửa; nhưng đối với tôi, việc này phức tạp hơn. Đối với tôi, đó thực sự là một bài kiểm tra ý chí. Chuyện gì sẽ xảy ra nếu khách là một nữ hướng đạo sinh bán bánh quy? Chuyện gì sẽ xảy ra nếu cô ấy nhìn tôi một cái, vãi tè và bất tỉnh? Làm sao tôi có thể giải thích được với người ta về việc có một nữ hướng đạo sinh bất tỉnh và ướt hết cả quần nằm trước hiên nhà tôi? Đối với một người có ngoại hình như tôi đây, đó thực sự là một lời mời những người dân địa phương đốt đuốc đuổi đi đến tận cái cối xay gió cũ ấy chứ.

Tôi quyết định thử vận may và đối mặt với thách thức, thậm chí cả khi đó là một nữ hướng đạo sinh chăng nữa. Khi mở cửa ra, tôi nhìn thấy một người đàn ông và một phụ nữ trạc tuổi trung niên, có lẽ là vợ chồng, mặc quần áo lịch sự. Người phụ nữ giật lùi lại như thể cô là ma cà rồng còn tôi là mặt trời ấy. (Thỉnh thoảng tôi thấy việc cho ai đấy vào vai ma quỷ cũng là một trò khá thú.) Người đàn ông theo bản năng nhảy ra trước mặt người vợ ma cà rồng của mình, lấy tay làm lá chắn che chở cho cô. Môi cô vén lên để lộ hàm răng.

"Vâng?"

"Tôi, à... chúng tôi," vị anh hùng lắp bắp, không biết tôi là cái thứ gì, trong khi người phụ nữ mỗi lúc một co rúm lại. Người đàn ông, lấy hết can đảm, lúng búng, "Chúng tôi muốn đến nhà thờ! Có thế thôi!" Phòng trường hợp tôi vừa bị bỏng vừa thiểu năng, anh ta trỏ tay về phía nhà thờ thánh Romanus. "Chúng tôi thấy nó... à, à... đóng cửa, và rồi chúng tôi thấy nơi này có, anh thấy đấy, những bức tượng gargoyle với những thứ, tương tự thế, giống nhà thờ, và... vì thế, anh biết đấy, hiển nhiên là chúng tôi nghĩ nơi này có, à, à, à, liên quan đến nhà thờ. Hay đại loại thế." Anh ta ngừng lại. "Có phải không?"

"Không."

Marianne Engel đang hí hoáy làm trò gì mới với mấy bức tượng đá của mình: trang trí mỗi bức tượng đã hoàn thành bằng một con số. Cái đầu tiên là 27, cái thứ hai là 26, cái thứ ba là 25; cô hiện đang làm cái thứ 24.

Khi tôi hỏi cô về việc đó, cô nói, "Ba Vị Chủ Nhân của tôi gần đây đã nói với tôi rằng tôi chỉ còn hai mươi bảy trái tim nữa thôi. Đây là để đếm ngược."

Tôi đợi cho đến khi thấy những người tham gia lớp học nghiên cứu Kinh Thánh vào tối thứ Năm do cha Shanahan giảng dạy bắt đầu tản ra. Đã tới lúc đến nhà thờ thánh Romanus và than phiền về mấy giáo dân đã nhầm pháo đài là một kiểu chương trình từ xa của Hội thánh.

Tôi bước lên những bậc thang dẫn tới cửa chính nhà thờ, nhìn trái nhìn phải, rồi đi thẳng qua cổng. Tiếng bước chân của tôi vang vọng khắp nơi, nhưng Shanahan - đang đứng giữa các hàng ghế, ngước nhìn lên những ô cửa sổ, chẳng có vẻ gì chú ý cả. Ông đang trầm tư mặc tưởng trước một tấm kính màu vẽ cảnh Chúa Jesus bị đóng đinh trên thập tự giá. Thật lạ khi thấy ai đó lại ngồi ngắm thứ ấy trong đêm, vì chẳng có chút ánh sáng nào rọi vào để Jesus trông tỏa sáng và quyền thế cả.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 52


Ông không mảy may biết đến sự có mặt của tôi cho tới khi tôi cất tiếng, hỏi ông đang nghĩ ngợi gì thế. Cái giọng thảm hại của tôi làm ông giật mình, cái mặt phủ nhựa của tôi cũng mang đến hiệu quả tương tự khi ông quay lại nhìn, nhưng ông đã nhanh chóng lấy lại bình tĩnh. Một nụ cười thoáng hiện trên khuôn mặt, ông nói, ít nhất một lần, ông có thể trả lời trọn vẹn câu hỏi của tôi.

"Thật lạ lùng khi người ta có thể nhìn vào cái này hằng ngày," - ông nói, ám chỉ Chúa - "mà vẫn luôn tìm thấy một điều mới mẻ. Bốn góc của thập tự giá tượng trưng cho bốn nguyên tố trên Mặt đất, dĩ nhiên, nhưng anh có thấy cách Chúa bị đóng đinh, với đôi tay dang rộng và đôi chân Người khép lại với nhau không? Nó tạo thành một hình chạc ba, và ba là số của Chúa. Ba ngôi. Hồi sinh sau ba ngày. Thiên đường, Địa ngục và Luyện ngục. Anh nắm được ý tưởng ở đây rồi đấy. Thế là bốn gặp ba, Mặt đất gặp Thiên đường. Thật là hoàn hảo, dĩ nhiên, vì chẳng phải Jesus là con của cả Chúa lẫn Con người hay sao?"

Ông chỉnh lại kính và nhoẻn miệng cười. "Anh đến đúng lúc tôi đang hơi mơ màng, tôi e là thế. Tôi có thể giúp gì cho anh?"

"Tôi sống ở nhà bên."

"Phải, tôi đã thấy anh rồi."

"Tôi là một người vô thần."

"Phải, Chúa tin vào anh," ông nói. "Anh uống tách trà chứ?"

Ông chỉ vào căn phòng lấp ló đằng sau bục giảng kinh, và vì vài lý do, tôi quyết định đi theo ông. Hai chiếc ghế đặt trước bàn của ông, hiển nhiên là dành cho các đôi nghĩ rằng vài lời vàng ngọc của Chúa sẽ giúp ích được gì đó cho cuộc hôn nhân rắc rối của họ. Trên bàn, bên cạnh cuốn Kinh Thánh, là bức ảnh ông đang quàng vai một người đàn ông. Cạnh họ là một phụ nữ, khá xinh đẹp, và một cậu thiếu niên có vẻ là con họ. Đầu người phụ nữ nghiêng về phía chồng nhưng ánh mắt thì rõ ràng đang nhìn cha Shanahan đăm đăm, ông trông khá không thoải mái trong cái áo cổ trắng. Khi tôi hỏi liệu đây có phải em trai và em dâu của ông không, Shanahan có vẻ bất ngờ vì tôi có thể biết ai là ai nhanh thế. "Trông chúng tôi giống nhau đến thế sao, em tôi và tôi ấy?"

"Vợ cậu ấy là một phụ nữ rất hấp dẫn," tôi nói.

Cha Shanahan đằng hắng khi ông đổ nước vào cái ấm điện. "Phải. Nhưng cô ấy cũng vậy, Marianne ấy."

"Ông đã gặp cô ấy rồi."

"Cô ấy thông hiểu Kinh Thánh, thậm chí còn hơn cả tôi, nhưng cô ấy luôn từ chối lời mời dự đại lễ Mass. Vấn đề lớn nhất với hầu hết những người theo Thiên Chúa giáo là họ đến nhà thờ mỗi tuần một lần để cầu xin thực hiện ý chỉ của Chúa - và khi ý chỉ được thực hiện, họ lại phàn nàn." Ông đặt hai chiếc tách lên mặt bàn, cùng với một bình sữa nhỏ. "Không thể nói rằng tôi hoàn toàn bất đồng với cô ấy."

Ông ngồi trước mặt tôi và chỉnh lại cái kính thêm lần nữa, dù chúng đã tọa lạc trên mũi ông chuẩn lắm rồi. Tôi tưởng ông sẽ nói vài chuyện linh tinh, vì thế tôi rất ngạc nhiên khi ông nói, "Anh có thể bỏ mặt nạ ra khi chúng ta nói chuyện được chứ?"

Cách ông hỏi cho thấy rõ ràng ông không hề ghê sợ cái mặt nạ, mà chỉ tò mò về diện mạo tôi thôi. Tôi giải thích với ông là quá trình trị liệu của tôi bắt buộc phải đeo mặt nạ mọi lúc mọi nơi. Ông gật đầu tỏ vẻ hiểu, nhưng tôi có thể thấy một nét thất vọng thoáng hiện trên khuôn mặt ông. Tôi gợi ý mình có thể bỏ mặt nạ ra một lúc, nếu ông thực sự muốn xem bên dưới nó là cái gì. Ông gật đầu bảo rất muốn thế.

Khi tôi tháo cái mặt nạ ra, ông rướn người về phía trước để nhìn cho rõ. Ông gãi gãi sau tai và quay trái quay phải để có thể nhìn rõ tôi từ mọi góc độ. Khi ông đã săm soi xong, tôi liền hỏi, "Trông tôi có giống những gì ông tưởng tượng không?"

"Tôi chẳng tượng tưởng gì cả. Tôi đã định học nghề thầy thuốc trước khi làm linh mục. Tôi thỉnh thoảng vẫn còn viết bài cho các báo."

Khi ông quyết định chọn nghề, ông giải thích trong lúc rót trà, là khi ông nhận ra rằng các bác sĩ trong phòng cấp cứu được dạy phải coi nạn nhân đau tim mới nhập viện là đã chết rồi. Đó là một phương thức làm việc: nếu bệnh nhân sống, bác sĩ có thể tin mình vừa đưa một người từ cõi chết trở về nhưng nếu bệnh nhân "vẫn" chết, các bác sĩ cũng có thể tin rằng mình không làm gì sai để dẫn đến tình trạng đấy cả.

"Nhưng chỉ Chúa mới có quyền quyết định sự sống và cái chết," cha Shanahan nói. "Trong khi bác sĩ có thể kéo dài sự sống của một người, linh mục có thể giúp anh ta đạt được cuộc sống vĩnh hằng."

"Ông có thực sự tin như vậy không?"

"Đó là yêu cầu bắt buộc của công việc."

"Cho tôi hỏi ông một câu. Liệu có thể tin vào sự tồn tại của những linh hồn nhưng lại không tin vào sự tồn tại của Chúa được không?"

"Với một số người, có thể." Cha Shanahan nhấp một ngụm trà. "Nhưng không phải với tôi."

* * *

Số 24 đã xong. Số 23 đã xong. Số 22 đã xong. Đó là tuần cuối cùng của tháng Mười một, và Marianne Engel cuối cùng cũng chịu lên gác. Có vẻ chuyện thiếu ăn thiếu ngủ tử tế đã làm cô không thể chịu đựng thêm nữa.

Tôi chẳng giỏi nấu ăn lắm, nhưng tôi cũng bắt cô ăn một bữa và đảm bảo bữa ăn đó thật đủ chất. Cô không chỉ kiệt sức, lượng caffeine và nicotine cô nốc vào người đã làm cô suy nhược khủng khiếp. Cô cứ rung bần bật trên ghế, mắt không tập trung được một giây, và liên tục đánh rơi thìa. Khi ăn xong, cô cố đứng dậy nhưng nhận thấy mình không thể. "Anh giúp tôi cái!"

Tôi đã kiếm được cơ hội thể hiện tài leo cầu thang của mình và cố hết sức đỡ cô từ phía sau, gần như là kéo lê cô trên mấy bậc thang. Khi chúng tôi tới được phòng tắm, tôi mở vòi và cô ngồi phịch vào bồn tắm. Chẳng việc gì phải đậy kín lỗ thoát nước cho tới khi chúng tôi xả xong lớp ghét bẩn đầu tiên cả, thế là tôi cứ giúp cô xối nước lên người. Khi cô đã tráng xong người để có thể tắm tử tế, chúng tôi vặn đầy nước vào bồn.

Tôi ngồi bên bồn, kỳ cọ cho cô. Những quầng thâm đen to tướng đã xuất hiện dưới mắt cô. Tôi giội sạch những mảnh đá vụn bám vào mớ tóc rối xù, giờ đang rung rinh như những giàn nho ai đó quên tưới nước. Sự thay đổi tệ nhất chính là số cân cô đã sụt: có lẽ gần năm cân, có thể là mười. Điều đó chẳng tốt đẹp gì cho cô cả, vì cô sụt cân nhanh quá, theo đúng cách tệ nhất có thể. Tôi thề rằng mình sẽ bắt cô ăn tử tế hơn, ăn nhiều hơn. Ngày nào cũng vậy.

Việc tắm rửa làm cô sảng khoải đến mức cô có thể tự về phòng ngủ mà không cần tôi giúp. Ngay khi cô đã yên vị trong chăn thì tôi liền xoay người đi luôn, nghĩ rằng cô sẽ ngủ ngay lập tức. Cô đã làm tôi ngạc nhiên khi gọi tôi lại.

"Mainz. Khu chợ. Anh có muốn biết đó là ai không?"
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 53


Cho tới tận giây phút đó, chúng ta thậm chí còn không chắc anh ấy vẫn còn sống. Anh nói tên anh ấy như thể đang cố tự thuyết phục bản thân rằng anh đang thực sự nhìn thấy anh ấy, sau ngần ấy năm.

"Brandeis."

Anh ấy có vài vết sẹo mới và mái tóc đã điểm nhiều sợi bạc, và anh ấy vẫn ưa dùng cái chân đã từng không cứng đến thế khi tôi gặp anh ấy lần đầu tại Engelthal. Nhưng nhìn chung anh ấy trông rất mệt mỏi. Những tên lính đánh thuê trẻ vẫn tiếp tục nhục mạ người bán hàng và khuôn mặt của Brandeis để lộ ra một ánh nhìn khinh bỉ xen lẫn chẳng chút ngạc nhiên trước cái cảnh ấy.

Anh kéo tôi vào góc khuất sau một quầy hàng. Hầu hết những tên này đều là lính mới và không thể biết mặt anh, nhưng anh cũng không bao giờ có thể cảm thấy thực sự an toàn, không phải với những tên này. Anh đã rút ra một kết luận từ nhiều năm về trước rằng lý do duy nhất sự biến mất của anh không bị điều tra là vì tất cả mọi người, gồm cả Brandeis, đều nghĩ rằng những vết bỏng đã giết chết anh rồi.

Khỏi nói anh khao khát nói chuyện với anh ấy đến thế nào. Anh không thể - và sẽ không để cho cơ hội này cứ thế mà qua được, nhưng vấn đề là làm thế nào tới được chỗ Brandeis mà không bị phát hiện. Khi mấy gã trai bắt đầu đấm đá người chủ hàng, anh đã nghĩ mình có thể lẻn vào giữa đám lộn xộn. Tôi tuyệt đối phản đối ý tưởng đó, dù tôi biết có nói thế cũng không cản nổi anh. Ngay khi anh bước tới trước một bước, một người đàn ông khác đã xen vào cảnh đó, và toàn bộ không khí đã thay đổi. Ngay lập tức bọn lính trẻ tránh khỏi người bán hàng, như thể chúng quá sợ làm gì mà không được phép vậy.

Điều đầu tiên tôi nhận ra ở người đàn ông là nét tàn nhẫn xảo quyệt hiện rõ trong mắt hắn. Chúng dường như đang cháy bừng ngọn lửa thèm khát bạo lực, như thể hắn nghĩ hỗn loạn tồn tại chỉ để cho hắn cơ hội đạt mục đích.

"Hắn là ai?" tôi hỏi.

Anh trả lời với giọng lạnh như băng. "Kuonrat Háo Danh."

Cái cách bọn lính khúm núm trước hắn đã thể hiện rõ rằng giờ hắn là chỉ huy của đội lính. Chỉ vài từ và lưỡi gươm kề sát cổ người bán hàng, vấn đề đã được giải quyết. Bọn lính đánh thuê lấy tất cả những gì chúng muốn, và người chủ được phép giữ lại mạng sống.

Kuonrat là kẻ anh không bao giờ dám xuất đầu lộ diện trước mặt, nhưng tôi không bị bó buộc bởi những điều đó. Trước khi anh kịp cản, tôi đã bước ra khỏi chỗ nấp và đi thẳng đến chỗ đám đông. Tôi biết anh sẽ không thể theo sau tôi được: việc anh lộ diện có thể còn đặt tôi vào tình thế nguy hiểm hơn là cứ để tôi tự ra tay. Tôi kéo cổ áo rộng ra và đi đến chỗ Brandeis.

Đó là một sự liều lĩnh có tính toán. Kuonrat chưa bao giờ nhìn thấy tôi và Brandeis thì khó mà nhận ra tôi, bao nhiêu năm đã trôi qua và tôi không còn mặc quần áo nữ tu. Tôi cố hết sức đóng giả một gái bán hoa, cố cho tất cả mọi người thấy là tôi đang cố mồi chài Brandeis. Đó thực sự là một màn kịch khó đỡ nếu xét đến việc dù không để lộ ra nhưng rõ là tôi đang mang đứa con của anh trong bụng. Vài tên lính rú lên khi tôi ngả người về phía trước để thì thầm vào tai Brandeis - đang ra giá đây, chúng nghĩ. Tôi đã nói thầm hai điều: tên anh, và rằng tôi là nữ tu đã chăm sóc cho anh tại Engelthal.

Brandeis giật lùi ra sau, mắt anh ấy nhíu lại nhìn mặt tôi trong khi đang cố lục lọi trí nhớ của mình về tu viện đó. Sau khi đã bình tĩnh lại, anh ấy thông báo với những người còn lại là mình sẽ gặp lại họ sau, và bóng gió nói về một buổi chiều vui vẻ đang chờ phía trước. Cả Kuonrat cũng gật đầu đồng ý và nói, "Có lẽ sau khi đã xong xuôi với anh ta, cô sẽ quay lại đây với chúng tôi."

Cái ý tưởng đó làm tôi phát buồn nôn nhưng tôi chỉ cất tiếng cười "có lẽ" và lôi Brandeis đi. Để anh đoàn tụ với anh ấy ở chốn đông người sẽ là một hành động quá mạo hiểm nên tôi đưa anh ấy về nhà chúng ta, nơi tôi biết anh đang đợi. Brandeis hầu như không thể tin vào mắt mình khi thấy anh vẫn còn sống. "Tôi đã nghĩ... tôi đã tin chắc là... tôi đã quay lại Engelthal một lần, nhưng chẳng ai nói gì với tôi cả..."

Tôi mang chỗ bia ngon nhất trong nhà ra và bắt tay vào nấu nướng. Tôi muốn tạo ấn tượng tốt, tôi muốn Brandeis thấy tôi đã chăm sóc cho anh tốt đến mức nào. Anh kể với anh ấy tất cả mọi thứ đã xảy ra trong từng ấy năm, và anh ấy rất bất ngờ trước việc anh có thể gây dựng một cuộc sống như thế.

Khi đến lượt mình, Brandeis kể với anh những chuyện xảy đến với đội quân condotta. Rằng nó đã trở nên tồi tệ đến thế nào. Herwald đã bị thương nặng trên chiến trường và Kuonrat là kẻ chém nhát kiếm cuối cùng lên cổ người đàn ông tội nghiệp. Chẳng phải một hành động nhân đạo gì; Kuonrat chỉ đang cố thị uy. Khi hắn thách xem có ai dám phản đối việc hắn làm trưởng đội không, không ai bước ra cả.

Kuonrat chỉ thu nhận những kẻ khát máu nhất. Bản năng chiến đấu của chúng rất ác liệt, nhưng những tên lính mới rất ngu ngốc và không có chút tự trọng nào. Quả thực chúng giết được nhiều hơn, nhưng chúng cũng bị giết nhiều hơn. Chúng đánh nhau với sự hăng máu, chứ không phải với trí thông minh, và Kuonrat thì chăn chúng như một gã chủ chăn bầy chó hoang của mình vậy. Chúng chết thì sao, cả nước này không thiếu bọn choai choai thích tỏ vẻ người lớn. Bảo vệ một nguồn lực có thể tự tái tạo là một việc phí thời gian đối với Kuonrat. Và thêm vào đó, hắn cũng hiểu từ kinh nghiệm bản thân rằng cứ ở trong đội đủ lâu thì thỉnh thoảng sẽ lại có vài kẻ thèm khát quyền lực.

Bất chấp những cách thức dã man, kết quả Kuonrat thu lại không có gì để bàn cãi. Đội quân trở nên khét tiếng tàn bạo kinh dị và khả năng đánh bại cả những lực lượng lớn hơn chỉ bằng vũ khí là sự hung bạo. Thành công làm hắn bạo gan thêm và bắt đầu suy xét lại tính thực tiễn của việc làm lính đánh thuê. Tại sao, hắn tự hỏi, bọn quý tộc lại được sở hữu đất đai trong khi người bảo vệ chúng lại là đội lính condotta? Tiền đối với hắn giờ không đủ. Kuonrat muốn có nhiều quyền lực hơn. Hắn đang chuẩn bị thôn tính lãnh thổ cho riêng mình.

Những năm tháng dưới quyền Kuonrat đã làm khao khát rời khỏi đội lính của Brandeis ngày càng thêm mãnh liệt, nhưng trốn chạy giờ đã gần như là không thể. Vẫn còn đó đạo luật, một khi gia nhập đội, anh sẽ phải ở trong đội đến hết đời, nhưng giờ còn có thêm vài trở ngại nữa. Kuonrat không bao giờ có thể quên được chuyện Brandeis đã đứng lên chống lại hắn như thế nào khi anh bị thương trên chiến trường; hắn luôn tìm cớ để trả đũa. Nếu Brandeis dám cả gan bỏ trốn, Kuonrat sẽ cho những tên truy kích tài ba nhất, những kẻ vừa gan lì vừa độc ác, đi lùng.

Dù đê tiện, Kuonrat cũng không phải thằng ngu. Hắn biết mình không thể tự dưng mà tấn công Brandeis được, vì đội vẫn còn một số người lính từ thời trước, những người vẫn coi trọng Brandeis với tư cách là một cung thủ lẫn một con người. Và vì thế, nói chung, Brandeis luôn được để yên. Nhưng hiểm họa thì vẫn treo lơ lửng trên đầu.

Thật lạ khi thấy anh ở cùng với một người bạn cũ, người đã cùng anh đối mặt với sống chết trên chiến trường không biết bao nhiêu lần. Brandeis đã chia sẻ một phần đời của anh mà tôi không thể nào hiểu được. Có một sự thân thiết kỳ lạ trong cái cách cả hai người đều cố tỏ ra cứng rắn nhưng cũng không thể giấu hết được sự dịu dàng trong lời nói dành cho nhau. Tôi có thể thấy anh nhớ tới những năm tháng xưa cũ - không phải những trận chiến mà là tình bạn bè. Có những ký ức thật ngộ biết bao; sau đêm hôm đó, có một hình ảnh vẫn được lưu giữ mãi trong ký ức của tôi. Trong bữa ăn, Brandeis giơ tay ra với một cử chỉ hầu như không thể hiểu nổi, nhưng anh vẫn biết là cần đưa nước cho anh ấy. Đó hẳn là một hành động các anh đã lặp đi lặp lại hàng nghìn lần trong những bữa ăn bên đống lửa trại và nó đã không bị lãng quên trong ngần ấy năm xa cách. Chẳng ai trong hai anh có vẻ nhận ra điều ấy cả.

Cuối bữa ăn, một sự im lặng nặng nề bao trùm lên hai người. Anh và anh ấy cứ ngồi nhìn nhau chằm chằm, có lẽ đến cả phút, cho tới khi Brandeis nói thành lời. "Tôi không thể tiếp tục sống cuộc sống hiện tại nữa."

"Tôi sẽ giúp anh bằng mọi cách," anh nói.

Nhưng không thể trốn ngay đêm đó được. Nếu Brandeis biến mất, những tên lính đánh thuê sẽ biết phải truy lùng "cô gái bán hoa" đã gặp anh ấy lần cuối. Mọi người quyết định rằng anh ấy sẽ trở về đội condotta và vờ như đã có một khoảng thời gian vui vẻ với tôi rồi. Đội lính sẽ ở lại thành phố thêm vài ngày nữa rồi đi làm nhiệm vụ tiếp theo ở nơi khác. Sau một tháng khi những ngày ở Mainz chỉ còn là một ký ức xa xôi, anh ấy mới có thể đào thoát được.

Nếu tất cả mọi chuyện đều xuôi chèo mát mái, thì đây là một kế hoạch khôn ngoan nhất. Brandeis chẳng có thân thích gì ở Mainz, chẳng có quan hệ ràng buộc với thành phố này theo bất cứ kiểu nào. Ai lại nhớ được buổi chiều anh ấy quan hệ với một ả nào đó cả tháng trước chứ? Thế là kế hoạch được vạch ra.

Tại ngưỡng cửa, hai người bọn anh đã đứng ưỡn ngực đúng như hai người đàn ông. Anh ấy vỗ vai anh còn anh đấm vai anh ấy. Tôi ôm ghì lấy anh ấy và hứa sẽ cầu nguyện cho anh ấy được an toàn. Brandeis nói rằng đó quả là một ý hay, và chúc mừng tôi thêm lần nữa về việc tôi có thai. Khi anh ấy nắm tay tôi, tôi có thể cảm nhận được vết sẹo dài trên tay anh ấy, và chỉ khi đó tôi mới nhớ ra anh ấy đã bị bỏng khi cố rút mũi tên ra khỏi ngực anh. Khi anh ấy đi về phía màn đêm, tôi thực sự nhận ra rằng chúng ta đã nợ anh ấy nhiều đến thế nào.

Tháng tiếp theo cứ thế trôi đi. Chúng ta có nói về Brandeis nhưng chẳng bao giờ nhiều hơn vài từ một lần, gần giống như hồi chúng ta tránh nói về khát khao có con, như thể chúng ta sợ dại mồm dại miệng vậy. Năm tuần. "Anh có nghĩ...?" tôi hỏi. "Rồi sẽ có lúc anh ấy về," anh trả lời.

Sáu tuần, Brandeis không xuất hiện. Tôi không khỏi lo lắng, và tôi nôn suốt các buổi sáng vì ốm nghén. "Rồi sẽ có lúc anh ấy về," anh liên tục nói thế. Tôi đã vượt qua được nỗi lo lắng cho sự an nguy của anh ấy - và của cả chúng ta nữa, khi cuối cùng anh ấy trở về thật. Anh liên tục trấn an tôi rằng mọi thứ sẽ ổn thôi, và tôi đã cố hết sức để tin như vậy.

Bảy tuần. Tôi đang ở nhà soạn một bản thảo, ngồi bên cạnh cửa sổ, thì một bóng người trùm khăn kín mít đi qua những dãy phố về phía ngôi nhà. Tôi nhận ra cái chân cứng đơ và ngay lập tức biết đó là Brandeis dù anh ấy đã che kín mặt. Chiếc áo chùng của anh ấy phủ đầy những lớp tuyết rơi từ sáng sớm, và đó là một ngày hoàn toàn thích hợp để ăn mặc ấm áp mà không bị nghi ngờ. Không ai có thể băn khoăn nghi ngại gì trước việc một người đàn ông chỉ đang cố giữ ấm thân thể. Tôi để anh ấy vào khi đã chắc chắn không có ai lai vãng trên đường.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 54


Anh ấy xì xụp húp xúp và giải thích rằng mình đã đi suốt tám ngày, đi ngược lại rồi đi vòng, tránh các thành phố lớn. Thay vì mua thức ăn, anh ấy giết các động vật nhỏ để không một thương gia nào có thể nhận ra. Anh ấy chắc chắn mình vẫn chưa bị bám theo. Tuy nhiên, tôi và anh ấy không nhắn tin đến chỗ làm cho anh mà đợi anh về nhà như thường lệ. Phải để mọi thứ diễn ra càng bình thường càng tốt.

Những ngày đầu tiên sẽ là lúc nguy hiểm nhất. Kuonrat sẽ có thể phái nhóm truy kích giỏi nhất của hắn ngay khi chúng phát hiện ra Brandeis đã biến mất. Hai người các anh luôn cảnh giác canh chừng cửa sổ, cây cung không lúc nào rời khỏi tầm tay. Brandeis đã mang hai cây cung theo mình, một là của anh ấy và một anh ấy trộm cho anh.

Các anh thay nhau thức canh, và Brandeis thậm chí còn không dám dỡ hành lý ra. Tất cả những chuyện này đều quá đáng sợ, hơn cả những gì tôi có thể tưởng tượng. Nếu xảy ra chuyện gì xấu - dù tôi vẫn luôn mong là không, dĩ nhiên - tôi sẽ phải chịu trách nhiệm không chỉ với bản thân mình mà còn cả đứa con trong bụng nữa. Tôi nói rằng tôi không hiểu vì sao Brandeis lại có thể bị lần ra trong một đất nước rộng lớn như thế. Khi tôi nêu ý kiến này lên, hai người các anh nhìn nhau không nói câu gì. Ánh mắt đã nói lên tất cả.

Nhưng chẳng có gì xảy ra cả. Hàng tuần đã trôi qua mà chẳng có kẻ nào đến lùng sục. Các anh bắt đầu ngủ trong đêm, dĩ nhiên là sau khi đã mắc chuông vào góc cửa ra vào. Cuối cùng anh cũng quyết định là đã đến lúc để Brandeis mạo hiểm đi ra khỏi nhà. Dĩ nhiên là vẫn phải kéo mũ trùm đầu lên.

Không một bóng dáng khả nghi nào ẩn hiện trong bóng tối, vì thế một tuần sau Brandeis đã bắt đầu theo anh đến các công trình xây dựng. Sự giới thiệu của anh đủ để kiếm cho anh ấy việc lao động chân tay. Anh ấy làm việc chăm chỉ và ăn trưa cùng anh nhưng luôn tránh xa những người khác. Không ai hỏi nhiều; với những đồng nghiệp của anh thì anh ấy cũng chỉ là một người thợ không lành nghề khác mà thôi. Chẳng bao lâu sau, chúng ta đã quyết định sẽ tìm cho anh ấy một căn nhà riêng vì tôi bắt đầu giật mình thức dậy trong đêm với những cơn co thắt. Một chút riêng tư sẽ tốt cho tất cả mọi người.

Chúng ta có rất nhiều bạn nên việc tìm nhà chỉ là vấn đề cỏn con, ngôi nhà nằm cách vài con phố bên ngoài khu Do Thái. Tôi cương quyết đòi trả tiền đặt cọc bằng tiền kiếm được từ việc kinh doanh của tôi, và khi tất cả mọi việc đã xong xuôi, chúng ta đã quyết định tự cho phép mình tổ chức một buổi ăn mừng đúng nghĩa. Không phải vì hai người các anh hoàn toàn tin đây là một cuộc đào thoát thành công, mà vì các anh rất mong muốn được coi đây có vẻ như một cuộc đào thoát thành công. Đó là một bữa tiệc hoành tráng, và anh đã rất hạnh phúc vì cuối cùng cũng có thể nghĩ rằng mình đã trả nợ được cho anh ấy.

Sức khỏe của tôi khá tốt và quần áo tôi bắt đầu chật hết cả, việc thai nghén có vẻ diễn ra rất thuận lợi. Có một lần đứa bé đạp bụng tôi trong bữa ăn và anh đã bắt Brandeis phải đặt tay anh ấy lên bụng tôi. Anh ấy hơi do dự nhưng khi tôi trấn an rằng tôi sẽ rất vui nếu anh ấy làm thế, anh ấy đã dè dặt đặt bàn tay lên đó. Khi anh ấy nhận thấy sự chuyển động bên dưới, anh ấy giật ngay tay lại và trợn tròn mắt nhìn tôi đầy ngạc nhiên.

"Tất cả những điều này là nhờ anh," anh nói với Brandeis. "Sinh mạng này có được là vì anh đã cứu tôi."

Nói xong, tất cả chúng ta cùng nâng cốc chúc mừng việc mọi người đều đã thoát khỏi cuộc sống cũ để bước vào một cuộc đời mới tốt đẹp hơn.

Nhưng người ta không bao giờ được phép đếm cua trong lỗ. Ngay ngày hôm sau, trong khi Brandeis đang thu dọn nốt đồ đạc còn lại ở chỗ chúng ta, một người Beguine đã hộc tốc chạy đến. Tôi hiểu đây không phải dấu hiệu tốt lành gì, vì trước đó tôi chưa bao giờ thấy ai trong số họ chạy hết. Cô ấy đặt tay lên đầu gối và thở hổn hển một lúc trước khi đủ sức thốt ra rằng có một toán người - "bọn mọi rợ, nhìn đã biết" - đang tra hỏi quanh chợ để tìm một người đàn ông có nhân dạng giống Brandeis.

Rõ ràng Mainz không rộng lớn như tôi tưởng. Dù chúng ta đã hết sức cẩn thận để giấu tung tích vị khách, ngay cả những người Beguine cũng biết rằng anh ấy đang ở cùng chúng ta. Họ cũng đủ hiểu rằng đưa thông tin này cho những kẻ lạ mặt không phải một việc khôn ngoan gì, nhưng chẳng chóng thì chày ai đó sẽ nói mà không nghĩ đến hậu quả cho coi. Brandeis hỏi vài câu về "bọn mọi rợ", và những câu trả lời của người Beguine đã khẳng định mọi nghi ngờ. Những gã này rõ ràng là toán truy kích được đội quân condotta phái đến. Cho tới tận hôm nay, tôi vẫn không thể biết tại sao bọn chúng có thể tìm được anh ấy, nhưng bằng cách nào cũng chẳng quan trọng. Điều quan trọng duy nhất là Mainz giờ không còn là nơi an toàn nữa rồi.

Brandeis đề nghị sẽ trốn chạy một mình, để lại dấu vết đủ rõ để bọn truy kích bỏ qua chúng tôi. "Chúng chỉ đi tìm tôi thôi. Anh có một cuộc sống tốt đẹp ở đây, vì thế đừng..."

Anh đã không để anh ấy nói hết câu. Danh dự của anh không cho phép việc đó. Anh nói rằng bọn truy kích kiểu gì cũng tìm được chỗ chúng ta dù chúng ta có làm gì đi nữa, và khi - khi chứ không phải nếu nữa, khi - chúng tìm ra, rất có khả năng một trong số chúng sẽ nhận ra anh. Chúng sẽ sung sướng đến phát điên, nếu cử một đội truy lùng đi tìm một kẻ đào tẩu để rồi cuối cùng bắt về được hai. Điều đó sẽ làm Kuonrat cực kỳ thỏa mãn, và thông điệp sẽ trở nên thật rõ ràng: dù một người lính đã thành công trong việc đào tẩu hàng bao năm và đã bị coi là chết rồi đi nữa thì cuối cùng cũng vẫn sẽ bị lần ra.

Cả anh lẫn Brandeis đều cương quyết không cho tôi theo - vì tôi đã có mang gần đến tháng cuối rồi, vì tôi sẽ cản trở các anh, vì đi lại sẽ làm ảnh hưởng đến đứa trẻ. Tôi bác lại rằng ở lại Mainz còn nguy hiểm hơn, nơi bọn truy đuổi sẽ lùng ra tôi và làm mọi cách để moi cho được thông tin. Tóm lại, tôi nói, tranh luận thế nào đi nữa cũng không quan trọng. Tôi sẽ không ở lại đâu, và nếu các anh không chịu cho tôi đi cùng, tôi cũng vẫn sẽ đi theo thôi. Phải, tôi đang có mang, nhưng tôi vẫn có thể tự đi được và tôi cũng nợ Brandeis nhiều như anh nợ anh ấy thôi. Kết luận, nếu tôi và anh lạc nhau lúc này, chúng ta có thể gặp lại nhau ở đâu được chứ? Việc chúng ta sống ở Mainz đã bị bại lộ và chúng ta không thể trở lại sống như cũ được nữa. Tôi nói rằng chính vì tôi đang mang thai nên tôi càng phải ở với anh, còn hơn là chịu cảnh ly biệt mãi mãi.

Tôi bác tất cả ý kiến của các anh đi và thắng thế vì chẳng còn thời gian đâu mà tranh luận. Vì thế chúng ta nhanh chóng sắp dọn đồ đạc, chỉ những thứ đáng giá nhất, và chuẩn bị rời đi càng sớm càng tốt.

Tôi gói cuốn Địa ngục cùng cuốn kinh cầu nguyện của Paolo, và khi anh không chú ý tôi đã luồn vội bức tượng Morgengabe vào túi của tôi. Anh chắc chắn sẽ không cho phép mang một vật nặng như thế, nhưng tôi quá trân trọng nó đến nỗi không nỡ bỏ nó lại. Tôi cũng xếp cả bộ quần áo nữ tu của mình vào nữa, vì tôi đã nhận ra rằng nó có thể dùng làm đồ cải trang rất tốt. Chúng ta cầm theo tất cả số tiền dành dụm cho một ngôi nhà chúng ta đã không bao giờ mua, và anh cùng Brandeis đi mua ba con ngựa tốt. Tôi bán tất cả chỗ gia vị và sách cho bất cứ ai muốn mua, dù do quá gấp gáp nên tôi gần như không thu được gì. Chỉ vài giờ sau khi người Beguine tới nhà, chúng ta đã lên đường rời khỏi Mainz. Tôi đeo cái túi, trong khi hai người các anh chỉ mang theo cung tên và quần áo. Cuộc sống chúng ta bỏ hàng bao năm gây dựng đã kết thúc, chỉ đơn giản như thế.

Ngay cả khi khỏe mạnh tôi cũng không phải người cưỡi ngựa giỏi và việc thai nghén làm tôi càng khó xoay xở. Cả khi chúng ta đã ra khỏi thành phố, anh vẫn không ngừng khuyên tôi nên đi theo lối khác. Ba dấu chân ngựa đi theo cùng một hướng sẽ dễ bị phát hiện hơn những dấu chân đi theo hướng ngược nhau, anh lý luận thế. Tôi chẳng chịu nghe và vặc lại rằng điều tốt nhất chúng ta có thể làm bây giờ là chạy càng xa càng tốt.

Chúng ta đã chạy liên tục cho tới khi những con ngựa kiệt sức không thể đi tiếp được nữa. Lưng tôi đau nhói, những cơn đau chạy dọc suốt sống lưng tôi theo mỗi tiếng vó ngựa, rồi lan khắp bụng dưới. Nhưng tôi kiên quyết không phàn nàn, vì tôi được ở bên anh.

Chúng ta tìm được một nhà trọ nhỏ và tôi được cử đi thương thuyết với người chủ trọ, vì các anh càng ít bị nhìn thấy bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu. Trước khi chúng ta đi ngủ trong cái đêm trốn chạy đầu tiên ấy, tôi có hỏi rằng chúng ta sẽ đi về đâu. Brandeis trả lời, "Không có đích đến thì tốt hơn. Nếu chúng ta biết mình định đi về đâu, những kẻ truy kích cũng sẽ biết." Tôi không hiểu tại sao chuyện đó có thể là thật được, nhưng tôi đã quá mệt mỏi để tiếp tục tranh luận rồi.

Trong những ngày tiếp theo chúng ta sẽ cưỡi ngựa đi càng xa càng tốt miễn là tôi vẫn chịu được và rồi sẽ kiếm một phòng trọ, không ai trong số chúng ta dám mạo hiểm ra ngoài trừ lúc tôi đi tìm thức ăn. Chẳng mấy chốc chuyến đi đã khiến tôi kiệt quệ. Ngực tôi đau nhói và chứng chuột rút ở chân ngày càng nặng thêm, cơ nơi lồng ngực của tôi căng ra làm tôi đau như xé. Tôi biết tôi đang làm chúng ta chậm lại, tất cả chúng ta đều thấy vậy, và chuyện này càng đổ thêm dầu vào những cuộc tranh luận càng lúc càng thường xuyên hơn giữa chúng ta. Anh chỉ ra rằng việc tôi cứ chốc chốc lại đi vệ sinh không những làm chúng ta chậm lại, mà còn giúp bọn chúng dễ lần theo. Anh thậm chí còn dọa sẽ bỏ tôi lại nhưng, dĩ nhiên, anh nào dám làm thế.

Chúng ta đi tắt qua những thung lũng sau lưng các thành phố và trong cơn bấn loạn chúng ta bắt ngựa chạy băng qua những dòng suối băng giá và những vùng đất đá lởm chởm lồi lõm. Những con ngựa cuối cùng đã không thể tiếp tục giữ tốc độ chúng tôi cần, chúng đã hoạt động quá sức mà không được nghỉ ngơi đầy đủ. Khi chúng kiệt sức, chúng ta bán chúng lấy những con ngựa mới. Những kẻ truy kích cũng sẽ buộc phải làm như thế hoặc bị bỏ lại đằng sau thôi.

Dù luôn ngoái lại đằng sau, tôi không bao giờ thấy bọn truy kích. Tôi muốn tin rằng chúng ta đã bỏ xa bọn chúng. Nói thật, tôi nghĩ bọn chúng chẳng thể tiếp tục lần theo dấu của chúng ta, với tất cả những mánh lới chúng ta đã sử dụng trên đường. Nhưng nghĩ lại, chúng đã tìm ra Brandeis ở Mainz. Tôi thực sự không hiểu được khả năng của chúng nhưng hai người các anh đã từng sống với loại người này, vì thế tôi buộc phải tin nỗi sợ của các anh là thật. Các anh cứ không ngừng thúc bản thân và tôi tiến về phía trước với một tốc độ khủng khiếp.

Mỗi ngày trôi qua lại làm tăng thêm nỗi sợ của tôi rằng chuyến đi sẽ ảnh hưởng xấu đến con chúng ta - liệu nó có làm em bé ra đời sớm quá không? Tôi luôn phải tự thuyết phục bản thân, hết giờ này đến giờ khác, rằng việc thoát khỏi bọn truy lùng xứng đáng với bất cứ sự mạo hiểm nào. Trong những giây phút hiếm hoi tôi không lo lắng quá về đứa trẻ, tôi củng cố niềm tin của mình bằng việc nhớ lại cách anh mua cho chúng ta một chỗ ngồi trên chiếc xe chở lợn khi chúng ta mới vừa rời khỏi Engelthal. Tôi cố gắng thuyết phục bản thân rằng tình trạng hiện tại của chúng ta chỉ là một thử thách nữa chúng ta phải vượt qua để được sống một cách trọn vẹn, và ít ra thì cũng không có mùi hôi của lợn.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 55


Nhưng sau một tuần, tôi đã không thể đi thêm được nữa. Anh và Brandeis vẫn chịu đựng được, nhưng tôi cầu xin được nghỉ. Chúng ta đã đi nhiều dặm đến nỗi chắc chắn là nghỉ một ngày cũng không sao. Anh đồng ý. Không phải vì đã an toàn, mà vì đã đến lúc phải lập một kế hoạch. Tôi không quan tâm là tại sao. Tôi sẽ nghỉ với bất cứ lý do gì.

Chúng ta đã đi đường vòng để làm rối bọn bám đuôi nhưng kết quả không như mong đợi, chúng ta chưa đi được bao xa khỏi nơi khởi hành. Chúng ta thấy rằng mình đã gần đến Nürnberg, đó là một điều khá thuận lợi bởi thành phố đó đủ lớn để chúng ta có thể trốn thêm vài giờ nữa.

Chúng ta tìm một quán trọ và hai người các anh lại ngồi xuống để bàn bạc bước tiếp theo. Có lẽ chúng ta sẽ đi lên phía Bắc, tới Hamburg, hoặc có lẽ đi ra phía Đông sẽ an toàn hơn, đến Bohemia hoặc Carinthia. Thậm chí còn bàn cả về việc sẽ đến Ý nữa. Các anh biết vài câu tiếng Ý căn bản, và tôi có thể làm phiên dịch cho hai người. Bọn truy đuổi chúng ta sẽ khó mà đoán ra nơi đó và thậm chí nếu có đoán ra được, Kuonrat cũng sẽ phải bỏ một nguồn nhân lực và vật lực lâu dài nếu muốn tiếp tục săn đuổi chúng ta tới tận một nước khác.

Chúng ta chỉ định ở lại Nürnberg một ngày thôi, nhưng sức khỏe của tôi không cho phép. Trong ba ngày liền, tôi quá đau đớn nên không thể tiếp tục cuộc hành trình. Tim tôi đập thình thịch liên hồi và tôi luôn bị hụt hơi. Tôi thèm ăn đến không thể kiềm chế nổi. Tôi thèm ngủ, nhưng trí óc tôi đã mê man trước cả khi kịp mắt nhắm. Tôi bị động thai và cuối cùng, một cách miễn cưỡng, tôi phải thừa nhận rằng anh đã đúng: tôi quá yếu để có thể tiếp tục. Quyết định được đưa ra; tôi sẽ được đặt vào bàn tay chăm sóc của nhà thờ gần đấy. Anh đưa cho tôi một nắm tiền, đủ để trả cho việc chăm sóc tôi cho đến lúc sinh nở, và khi anh tin rằng mình đã đào thoát thành công, anh sẽ quay lại đón tôi. Kế hoạch đã được lập; anh cho tôi ngủ thêm một đêm nữa trước khi bắt tay vào hành động. Tôi hỏi anh sẽ đi đâu sau khi để tôi ở lại, nhưng thậm chí cả điều này anh cũng không nói với tôi. "Không biết đích đến thì tốt hơn..." Tôi khóc suốt cho tới khi ngủ thiếp đi vào tối hôm đó, với anh ở bên vuốt tóc tôi và an ủi tôi rằng mọi việc rồi sẽ tốt đẹp cả thôi.

Định mệnh, tuy nhiên, lại có một kế hoạch khác. Đến nửa đêm thì có hàng loạt tiếng đập thình thịch vào cánh cửa nhà trọ của chúng ta, làm đống đồ đạc anh dùng để chặn cửa rung lên bần bật, và ngay lập tức mọi thứ trở nên rõ ràng, chúng ta đã bị phát hiện. Đường thoát duy nhất là qua cửa sổ, dù chúng ta đang ở trên tầng hai, cách mặt đất khoảng năm mét.

Tôi cố gắng nâng mình ra khỏi giường nhưng không thể, và anh phải dùng cả hai tay để xốc tôi dậy. Khi tôi đã thở lại bình thường, Brandeis thu dọn chỗ túi xách; anh nghển cổ ngó ra ngoài khung cửa sổ để xem có kẻ nào bên dưới không, và hất tay cảnh báo mọi người lùi lại. "Cung," anh ra lệnh.

Brandeis chộp lấy cây cung và lắp tên sẵn vào cho anh. Ngay khi sợi dây đã được kéo căng, anh ấy đặt nó vào tay anh và anh bắn thẳng mũi tên qua cánh cửa sổ. Tiếng tên xé gió bay vụt đi và rít lên khi nó đâm vào một vật cứng. Anh lại đưa tay ra hiệu rằng đường đã thông và nhảy khỏi cửa sổ trước. Không phải do anh thiếu lịch thiệp, mà vì phải có người đỡ tôi xuống. Phía sau chúng ta, tiếng cánh cửa vỡ ra dưới những nhát rìu.

Dù nguy hiểm đã cận kề ngay trước mặt, tôi vẫn đông cứng lại trước cái cửa sổ. Cú rơi là quá sức của tôi, quá nguy hiểm cho đứa bé. Brandeis đứng giữa tôi và cánh cửa ra vào, thét gọi tôi nhảy xuống. Nhưng tôi cứ đứng yên bất động, nhìn xuống cánh tay dang rộng ở phía dưới của anh, cho tới khi tôi nghe thấy giọng Brandeis vang lên từ phía sau - "Marianne, tôi xin lỗi" - khi anh ấy đẩy tôi qua khung cửa sổ mở toang.

Tôi ôm bụng rơi xuống và anh hứng toàn bộ sức nặng từ cú rơi của tôi bằng cách lăn xuống tuyết khi anh bắt được tôi. Tôi nghe thấy tiếng quát tháo phía trên; vài giây sau, Brandeis bắn ra khỏi cửa sổ.

Cách anh ấy rơi có gì đó rất lạ, nhưng hầu hết tất cả sự chú ý của tôi đều tập trung vào tên lính nằm chết ngắc trên đường. Mặt hắn bị vùi trong một vũng tuyết bẩn, cổ thì ngoẹo thành một góc quái dị vì bị mũi tên cắm xuyên qua. Rồi tôi nhận ra rằng tuyết không hề bẩn, mà đỏ quạch vì dòng máu nóng vẫn còn đang ọc ra từ cổ hắn.

Anh đẩy tôi về phía lũ ngựa và điều tôi biết tiếp theo, chúng ta đang phóng ngựa vụt qua những con phố của Nürnberg. Anh và Brandeis ở bên cạnh tôi, điều khiển ngựa của tôi và quyết định đường đi của tôi. Kiệt sức và sốc trước vụ tấn công, tôi gần như vô dụng.

Tôi nhìn con ngựa của mình vừa thở phì phò vừa hùng hục chạy, suốt dọc đường cứ nghĩ mãi về người đàn ông nằm trên đường không bao giờ có thể hít thở được nữa. Cái cách hắn chết làm tôi cảm thấy bối rối, cái cách anh giết hắn không cần suy nghĩ, không cần ngần ngại. Tôi đã nhìn vào khuôn mặt anh khi anh bắn mũi tên đó, và tôi đã không mảy may nghĩ rằng mục tiêu lại là một con người. Môi anh mím chặt, mắt anh nhíu lại, và những ngón tay của anh không chút do dự. Anh hít nhanh một hơi trước khi kéo dây cung nhưng không phải để vững tinh thần, chỉ để vững tay anh thôi. Tất cả chỉ xảy ra trong... bao lâu nhỉ? Một giây? Ít hơn? Đây thực sự có phải là thời gian vừa đủ để giết một người không?

Chúng ta vừa đến ranh giới thành phố thì tôi để ý đến phía sau lưng con ngựa của Brandeis. Con ngựa thực ra không có vẻ gì là đang hất anh ấy xuống cả; đúng hơn, Brandeis chỉ đang ngồi lệch về phía sau mà thôi. Con vật phì ra một tiếng rên rỉ và cứ xoay đi xoay lại, như thể nó bị mất phương hướng vì người cưỡi không còn ở đó nữa. Máu ở khắp mọi nơi, trên tuyết, ở hai bên sườn con ngựa, dọc suốt chân của Brandeis. Quần anh ấy bị rách toạc một mảnh và có một vết thương ngoác miệng ở phía đùi trên nơi da toác ra như nụ cười của một con quỷ, miệng ngập ngụa máu. Mặt anh ấy tái xanh lại, môi run lên. "Một tên trong bọn chúng ném rìu. Nó trúng vào chân tôi khi tôi đang nhảy ra khỏi cửa. Tôi xin lỗi."

Tôi đặt tay mình lên trán anh ấy, nó lạnh quá, ướt quá. Tôi không thể hiểu nổi vì sao anh ấy có thể ngồi lâu trên lưng ngựa được đến như thế. Anh rửa vết thương bằng một nắm tuyết, và một vũng nước hồng hồng dần bám xung quanh miệng vết thương đang sủi bọt. Anh bảo lấy ít vải, vì thế tôi lấy ra cái đầu tiên tôi tìm được trong chiếc túi xách của mình. Bộ quần áo nữ tu của tôi. Lẽ ra tôi phải tìm một thứ gì đó khác nhưng tôi đang quá sốc, tôi nghĩ thế, mà nó thì ở trên cùng. Anh xé nó thành một dải vải đủ để băng bó và buộc vết thương.

Anh đuổi con ngựa của Brandeis về hướng ngược lại bằng cánh đánh cho nó một phát, hy vọng rằng nó có thể làm mồi nhử, và nhấc Brandeis ra khỏi đống tuyết. Anh nhắc tôi nhớ rằng bọn truy kích vẫn còn ở phía sau, nhưng giờ chắc chúng đang tức giận lắm, rồi anh kéo Brandeis đặt lên ngựa của anh và để anh ấy tựa vào lưng anh. Anh quàng tay anh ấy vào người mình và buộc hai bàn tay anh ấy quanh eo mình. "Engelthal không còn xa nữa. Cả lính đánh thuê cũng phải kính trọng ngôi nhà của Chúa."

Bụng tôi quặn lại vì tôi không hề muốn trở về Engelthal. Nhưng tôi cũng hiểu tình hình nguy ngập đến thế nào và tôi cố nuốt hết mọi câu phản đối có thể tuôn ra khỏi miệng. Brandeis cần phải được chữa trị ngay lập tức, vì thế chúng tôi vội vã chạy về hướng tu viện.

Anh ấy vắt vẻo sau lưng anh như một con bù nhìn bị nhồi quá tay rồi ném ra cánh đồng đuổi quạ. Ngựa của anh khổ sở vì phải chở nặng nên chúng ta không thể đi nhanh được, nhưng anh cố hết sức thúc nó đi càng nhanh càng tốt. Chúng ta bỏ đường vòng và chọn đường chính dẫn thẳng đến tu viện, vì chẳng còn thời gian mà lén lút nữa. Chúng ta không thể dừng lại kiểm tra vết thương của Brandeis và tôi vẫn phải chống chọi với quả tim đang đập thình thịch trong ngực mình. Trong khi cưỡi ngựa, tôi hỏi anh câu hỏi mà tôi không thể đừng được nữa. "Làm sao anh bắn trúng được người đó vậy? Xuyên thẳng qua cuống họng?"

"Anh đã ngắm vào ngực hắn ta." Cách anh nói mới bàng quan làm sao, và giọng anh khiến tôi hiểu rõ rằng cuộc nói chuyện đến đây là kết thúc.

Khi bắt đầu nhận ra đường cũ, tôi chỉ cho anh con đường dễ đi nhất. Đến cổng Engelthal, tôi khó nhọc xuống ngựa và gọi cửa. Thành khẩn xin vào có vẻ tốt hơn cho chúng ta, hơn nữa, để tháo Brandeis ra khỏi người anh cũng mất rất nhiều thời gian.

Xơ Constantia là người ra mở cửa, và ánh mắt bối rối lập tức hiện lên trên khuôn mặt cô. "Xơ Marianne?"

Tôi giải thích tình thế của chúng ta cho cô ấy và tôi có thể thấy cô cứ chốc lại liếc anh, nhận ra rằng anh chính là người lính bị bỏng cô đã chăm sóc nhiều năm về trước. Khi cuối cùng cũng cất tiếng được, xơ Constantia nói, "Bình thường thì... bình thường thì, tôi sẽ để mọi người vào... chuyện này chẳng bình thường chút nào." Ánh mắt cô chúi xuống, gần như là xấu hổ, nhìn vào cái bụng căng phồng của tôi.

Tôi không thể hiểu nổi sự do dự đó là vì sao. Dù người ta có đồn đại gì đi nữa về sự biến mất của tôi, chúng ta cũng phải cần được che chở nếu không Brandeis sẽ chết mất. Tôi ra hiệu về phía anh ấy để thêm phần thuyết phục. Tôi thấy xơ Constantia đã nhận ra đống vải đầy máu buộc xung quanh chân anh ấy là những phần còn lại của bộ áo nữ tu của tôi.

"Nếu chị không thể để chúng tôi vào," tôi nài nỉ, "hãy gọi mẹ Christina. Bà sẽ không để người đàn ông này phải chết đâu."

"Tu viện trưởng đang ở Nürnberg và sẽ không quay trở lại chóng vậy đâu. Xơ Agletrudis đang làm quyền tu viện trưởng thay bà. Tôi sẽ gọi xơ ấy." Trước khi quay vào trong tu viện, xơ Constantia nói thêm một điều nữa. "Nhưng xơ ấy vẫn chưa tha thứ cho việc cô phá hoại phòng viết đâu."

Tôi chẳng hiểu xơ Constantia nói thế là có ý gì, nhưng tôi có thể chắc chắn rằng mình sẽ biết điều đó khi Agletrudis đến.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 56


Tháng Mười một kết thúc với việc hoàn thành bức tượng 21, đưa tổng số lượng đã làm xong trong tháng lên tới bảy.

Bức tượng thứ 20 và 19 được hoàn thành trong tuần đầu tiên của tháng Mười hai. Bức tượng thứ 18 xuất hiện vào tuần thứ hai. Việc chuẩn bị cho các tác phẩm điêu khắc đá ngày càng kéo dài, nhưng giường cô vẫn trống không kể từ cái đêm cô kể cho tôi nghe về Brandeis. Cuộc sống của chúng tôi bây giờ chỉ bao gồm có ba hành động. Cô tạc tượng và quên tất cả mọi thứ, còn tôi thì nhìn.

Tôi nhìn cô bơ Bougatsa đi; cô quên không giúp tôi tắm. Tôi nhìn cô gạt hết các đĩa thức ăn tôi chuẩn bị cho cô sang một bên; cô quên không bỏ quà vào đôi giày đặt trên bậu cửa sổ cho lễ thánh Nick của tôi. Tôi nhìn cô hút hàng trăm điếu thuốc lá một ngày; cô quên không đổi bất cứ album nào trong đĩa. Tôi nhìn cô ăn vã hàng bình cà phê hòa tan; cô quên không lau máu dính trên ngón tay. Tôi nhìn thân thể của cô cứ héo mòn đi, tôi nhìn má cô hóp lại, tôi nhìn mắt cô ngày càng nhiều quầng thâm đen hơn; cô quên cách sắp xếp từ ngữ để nói một câu hoàn chỉnh.

NGƯƠI LÀ Tôi không phải ĐỒ VÔ DỤNG.

Tôi khẩn khoản xin cô nghỉ một chút, nhưng cô cứ khăng khăng nói rằng mình không còn thời gian nữa. Giờ không chỉ những bức tượng mà cả Ba Vị Chủ Nhân của cô cũng đang thúc giục cô làm việc nhanh lên.

Tôi gọi Gregor và Sayuri vì tôi chẳng biết phải làm gì khác. Họ cố gắng nói lý với cô, nhưng họ cũng chỉ như đang nói chuyện với bức tường mà thôi. Tôi thậm chí còn không chắc Marianne Engel biết họ đang ở trong phòng với cô. Khi tôi cầu viện sự giúp đỡ của Jack, bà đã chuyển sang chủ đề chuyện này ảnh hưởng đến bà như thế nào. "Tôi chẳng còn chỗ trống ở triển lãm nữa còn cô ấy thì cứ tiếp tục gửi mấy bức tượng này. Nó chẳng có vẻ gì là hàng chạy mùa Giáng sinh cả, anh cũng biết đấy." Tôi dập mạnh ống nghe xuống rồi đi thẳng tới chỗ hộp morphine để tìm chút thanh thản.

Tôi phải thuê thợ đến khiêng những bức tượng thừa ra để ở sân sau. Tôi phản đối việc này, mong rằng cái xưởng làm việc chật ních sẽ làm Marianne Engel phải dừng lại, nhưng cô cứ cương quyết bắt tôi làm thế. Khi tôi phản đối thì cô bắt đầu thét vào mặt tôi bằng thứ ngôn ngữ tôi chẳng hiểu nổi, và tôi đã thua. Rõ ràng một chuyện gì đó rất khủng khiếp sắp xảy ra.

"Cô không thể cứ tiếp tục làm việc như thế này được."

"Những con quái vật là điềm gở của thần thánh."

"Người cô máu me bê bết hết rồi. Để tôi giúp cô tắm một chút."

"Máu của sự sống."

"Sao cô không ăn cái gì đi?" tôi dụ dỗ. "Cô đang ngày càng yếu đi đấy."

"Tôi đang dần đạt tới sự hư vô tuyệt đối. Đó là vinh quang."

"Nếu ốm bây giờ, cô sẽ không giúp bọn quái vật thoát ra khỏi đá được đâu."

"Nếu ốm bây giờ, tôi sẽ thấy hạnh phúc vì Chúa đã nhớ đến tôi."

Cô không chịu lên tầng trên, để tắm, hoặc để ngủ, vì thế khi cô đang nằm ngủ trên những tảng đá để chờ nhận chỉ dẫn, tôi mang một xô nước ấm và xà phòng xuống tầng hầm. Nếu cô không chịu tắm rửa, tôi sẽ tắm rửa cho cô.

Miếng bọt biển chà lên xương sườn cô như một cái ô tô chạy trên đường gập ghềnh ổ gà. Những giọt nước màu xám rỏ xuống từ thân thể cô, rơi xuống sàn nhà và làm thành những hình thù kỳ dị giữa đám bụi đất. Con Bougatsa gắt nhặng lên ở trong góc. Khi tôi lật cô sang một bên để dễ kỳ cọ phần lưng, hình xăm cánh thiên thần trên lưng gần như chùng xuống trên lớp da bèo nhèo của cô. Jack chẳng làm gì giúp tôi, nhưng bà cũng không thể không để ý đến tốc độ tạc tượng kinh hoàng ấy chứ, cả đống tượng làm ngập hết cả phòng triển lãm của bà rồi còn gì. Jack càng chậm đáp lại đề nghị giúp đỡ mà tôi không thèm nói ra, tôi càng thêm ức chế. Khi không thể nhịn thêm được nữa, tôi bổ nhào vào cửa tiệm của bà, thậm chí chả thèm chào hỏi, bắt bà phải làm gì đó.

"Anh trông mong tôi làm được cái gì cơ chứ?" Jack nói. "Cô ấy quan tâm đến anh nhiều ơn tôi hàng tỷ lần, thế mà anh cũng chẳng bắt cô ấy dừng lại được. Vì thế cứ lo mà dỗ cho cô ấy ăn uống, rồi đợi cho đến khi cô ấy kiệt sức là xong."

"Thế hả?" tôi hỏi. "Bà đang kiếm được hàng đống hợp đồng, và đó là tất cả những gì bà có thể nói đấy hả?"

"Lạy Chúa, anh đúng là một thằng khốn." Jack chọc vào vai tôi bằng cái bút đang cầm. "Cô ấy có uống thuốc không?"

Tôi giải thích rằng tôi đã cố trộn thuốc vào chỗ bột cà phê của cô nhưng cô đã phát hiện ra trò lừa gạt. Cô huỳnh huỵch đi thẳng lên tháp chuông quăng cái bình qua đầu tôi, khiến nó va vào tường vỡ nát. "Bà có biết quét hết bột cà phê ra khỏi giá sách khổ thế nào không?"

Jack gật đầu. "Lần tôi cố lén cho cô ấy uống thuốc, cô ấy đã không nói chuyện với tôi suốt ba tháng trời. Cô ấy tưởng tôi cũng là một phần trong kế hoạch chống lại cô ấy."

Biết rằng Jack cũng đã cố thử cái trò đó làm tôi dịu đi phần nào. Chúng tôi kết thúc cuộc nói chuyện khá lịch sự, và Jack hứa sẽ ghé qua pháo đài tối hôm đó.

Bà mang đồ ăn mà Marianne Engel có thể thấy rõ là không hề trộn thuốc - bánh mì, hoa quả, pho mát, vân vân và vân vân - và cố kéo cô cùng nói chuyện. Chẳng tác dụng gì. Marianne Engel rất tức giận với chúng tôi vì đã làm phiền cô, cô đứng dậy bẻ chỗ bánh mì thành hàng trăm mảnh rồi thả xuống cùng đống vụn đá trên sàn nhà, rồi vặn volume đài lên tới mức chúng tôi không chịu được nữa và phải chạy luôn. Đang trèo lên cầu thang, tôi nghe thấy tiếng cô phấn khích nói một mình bằng tiếng Latin.

Dù chúng tôi chẳng hề làm được gì nhưng mọi nỗ lực cố gắng cũng đã vắt kiệt sức chúng tôi. Jack và tôi ngồi im lặng trong phòng khách đến mười lăm phút. Rốt cuộc tôi cũng nhận ra không phải Jack chẳng quan tâm, đơn giản là vì bà - trước kia từng nếm mùi chuyện này rồi - thực sự biết chúng tôi không thể làm gì để thay đổi tình hình cả. Tuy thế, khi ra về, Jack đã nói, "Mai tôi sẽ quay lại."

Sáng hôm sau, tôi thấy Marianne Engel nằm ườn ra trên bức tượng sắp hoàn thành số 17. Tôi quàng tay quanh người cô còn cô chẳng còn hơi sức đẩy tôi ra nữa dù đã cố hết sức. "Không, tôi còn phải làm cái tiếp theo nữa." Cô thực sự quyết tâm nhưng cô chẳng còn chút sức lực để chống lại tôi nữa, và tôi giúp cô lên cầu thang.

Tôi lại xả sạch bụi, mồ hôi và máu khỏi người cô, trong khi cô mệt mỏi tựa đầu vào thành bồn tắm như một con rối dây không có chủ điều khiển. Cô cứ liên tục nói với tôi, suốt lúc tắm rửa và cả khi tôi giúp cô lên giường, rằng cô phải quay lại xưởng. Nhưng chỉ sau vài giây chạm vào chăn nệm, cô đã ngủ.

Marianne Engel vẫn còn mê man khi Jack đến vào tối hôm đó. Thấy mình lại ở một mình với bà Meredith, tôi khui một chai rượu bourbon mới ra.

Jack kể cho tôi nghe về những khách mua tượng gargoyle. Những cái tên thật ấn tượng: các thương gia thành đạt, chính khách, nhà bảo hộ nghệ thuật lừng danh, kể cả những nhân vật tiếng tăm trong ngành giải trí. Tôi nhận ra một số lượng lớn các tên tuổi đứng đầu bảng xếp hạng âm nhạc và các diễn viên hạng A ở Hollywood, cả một nhà văn gần như được cả thế giới coi là vua của thể loại truyện kinh dị nữa. Một đạo diễn, nổi tiếng với những bộ phim lãng mạn về mấy kẻ bị xã hội ruồng bỏ, đã mua ít nhất là nửa tá tượng. (Với mớ tóc đen bù xù và khuôn mặt nhợt nhạt như xác chết, tôi nghĩ ông ta sẽ rất dễ bị nhầm là người anh cùng cha khác mẹ mắc bệnh thiếu máu của Marianne Engel.) Dù không ngạc nhiên khi thấy nhiều nhà thờ mua các gargoyle của cô, tôi không hề nghĩ rằng nhiều trường đại học cũng là khách hàng quen của cô.

Jack ăn gần hết chỗ đồ ăn Trung Hoa mà chúng tôi đã đặt, nốc hết cốc rượu này đến cốc rượu khác để trôi thức ăn. Bà lau sạch chỗ nước xốt dính trên miệng mình bằng mặt sau của ống tay áo và hỏi có phải cái ấy của tôi đã thực sự mất rồi không. Khi tôi xác nhận rằng nó không còn nữa, bà xin lỗi vì trước kia đã nói đùa về chuyện đó. Tôi chấp nhận lời xin lỗi với tất cả những cử chỉ lịch thiệp nhất tôi có thể nghĩ ra và bà thậm chí đã rơm rớm nước mắt; tôi phát hiện ra rằng rượu - như nó vẫn gây ra cho cả những đệ tử lưu linh kỳ cựu nhất - có thể làm bà trở nên tình cảm hơn. Khi tôi hỏi xem Jack đã chuẩn bị gì cho Giáng sinh chưa, bà trả lời bằng cách thuật lại chuyện đời mình.

Bà có bầu khi vẫn còn là trẻ vị thành niên và đã sinh một cậu con trai. Ted, giờ khoảng ba mươi tuổi. Jack đã cưới cha Ted, một kẻ bạo lực và suốt ngày rượu chè be bét, bà đã sống với ông ta vì có vẻ bà chẳng có sự lựa chọn nào khác. Bà đã cố gắng tốt nghiệp trung học, nhưng đại học thì chẳng cần nói cũng biết. Khi Jack mang bầu lần hai, lão chồng đã buộc tội bà đang cố hủy hoại đời lão: "Cô lại dính lần nữa, dù chúng ta chẳng có tiền. Con khốn!" Ted, lúc ấy sáu tuổi, phải chứng kiến cảnh người mẹ bụng mang dạ chửa bị bố đánh ít nhất một tuần một lần trong suốt thai kỳ.

Vào một buổi tối khi Jack đang ở tháng mang thai thứ bảy, chồng bà đã cho bà một trận thừa sống thiếu chết. Khi lão ta xỉn quắc cần câu, Jack đã sắp ít đồ đạc và mặc quần áo ấm cho bé Ted. Bà đặt thằng bé ra chỗ cửa ra vào rồi quay lại phòng ngủ với một cái chảo rán trong tay, đập thẳng vào đầu chồng. Bà bảo làm thế để chắc chắn lão ta không tỉnh dậy và đuổi theo, nhưng tôi ngờ lý do chủ yếu bà ra tay là bởi nó làm bà dễ chịu. Suốt mấy ngày liền, bà nói, bà đã xem các báo địa phương để biết liệu mình có giết lão không. Khi không có lời cáo phó nào đăng lên, bà cảm thấy nhẹ cả người nhưng cũng thấy hơi thất vọng một chút.

"Sau khi bỏ chồng, tôi thỉnh thoảng cũng lo rằng lão sẽ chực chờ ở bệnh viện của mẹ tôi. Bà ấy bị mắc chứng tâm thần phân liệt," Jack nói. "Nhưng tôi không bao giờ gặp lại lão khốn ấy thêm lần nào nữa. Không có gan làm một kẻ đeo bám, tôi đoán thế."

Việc mẹ Jack là bệnh nhân tâm thần phân liệt đúng là một bất ngờ. Liệu điều đó có quan hệ gì với Marianne Engel không? Thực sự là có.

"Tôi yêu mẹ và phải đến thăm bà ấy, đặc biệt khi không có ai khác làm thế. Cha tôi đã bỏ mẹ tôi đi lâu rồi. Tôi nghĩ ông ấy không thể chịu cảnh phải nhìn người phụ nữ mình yêu trở nên điên loạn."

Tôi đưa ra vài nhận xét nho nhỏ rằng có vẻ cuộc đời bà cũng gặp nhiều trắc trở.

"Quá đúng ấy chứ. Tất cả những gã đàn ông xuất hiện trong cuộc đời tôi đều thối nát đến nỗi khi Ted lớn lên," Jack thú nhận, "tôi đã thầm mong nó sẽ thành một đứa đồng tính."

"Và?"

"Không được may đến thế," bà làu bàu, đổ đầy bourbon vào cốc.

"Ồ, đừng nên từ bỏ hy vọng," tôi nói, cố tỏ vẻ tử tế.

"Phải, thế nào cũng được." Bà lại làm một ngụm tướng nữa. "Dù sao, mọi việc khá vất vả nhưng chúng tôi cũng đều đã vượt qua được. Sinh Tammie, đứa trẻ tôi mang nặng khi tôi bỏ lão chồng. Kiếm được công việc bồi bàn. Được thăng lên làm đầu bếp, rồi trợ lý bán hàng. Một quán ăn nhỏ bẩn thỉu, nhưng còn có thể làm gì hơn? Vài luật sư lần ra tôi sau khi cha tôi mất, và ông già cũng có để lại cho tôi chút tiền. Vì thế tôi nghĩ, xét cho cùng, mấy kẻ thối nát cũng có điểm tốt." Bà nâng cốc hướng lên trời. "Tôi biết tôi không thể nuôi dạy hai đứa con với những gì mình kiếm được ở cái nhà hàng đó, vì thế tôi dùng một chút tiền để theo học một khóa học buổi tối, làm kế toán. Kiếm được bằng khá, và cũng kiếm được một chân tệ hại trong một công ty tử tế."

"Mãi lâu sau bà mới trở thành chủ phòng triển lãm," tôi nhắc, "và trung gian của Marianne Engel."

"Không lâu như anh nghĩ đâu. Tôi tiếp tục đến bệnh viện thăm mẹ mình và một ngày tôi đã để ý đến một bệnh nhân mới, một cô gái trẻ. Hấp dẫn, anh biết đấy, ngồi một mình bên bàn. Đang vẽ. Cô ấy khác với những người còn lại. Có lẽ đấy là do mái tóc và đôi mắt."

"Marianne."

"Trúng rồi," Jack nói. "Trừ việc lúc đó tên cô ấy không phải là thế. Cô ấy là một em Jane Doe cảnh sát tìm thấy bên vệ đường. Marianne Engel chỉ là cái tên mà tự dưng một ngày nọ cô ấy bảo các bác sĩ gọi mình thôi."

Marianne Engel không phải tên thật của cô. Vẻ bất ngờ của tôi trước thông tin đó làm Jack cười khẩy. Bà hài lòng khi biết những chuyện mà tôi không biết về người bạn chung của chúng tôi.

"Các y tá nói với tôi rằng không xác định được danh tính cô ấy, và dấu vân tay thì chẳng khớp với ai. Cô ấy không chịu, hay không thể, nói với họ bất cứ điều gì về quá khứ của mình. Có lẽ cha mẹ cô ấy đã mất hay họ chỉ đơn giản là đã vứt cô ấy đi, ai biết được? Dù sao, sau vài chuyến thăm, tôi đã quyết định chào hỏi. Khi đó cô ấy khá e thẹn. Khi tôi hỏi xem tranh của cô ấy, cô ấy không cho. Nhưng tôi cứ tiếp tục hỏi, và sau vài lần thăm viếng nữa, cô ấy cuối cùng cũng đồng ý. Tôi choáng váng. Tôi những tưởng đó là mấy nét vẽ nguệch ngoạc, nhưng hóa ra lại là những con quái vật, ác thú kỳ lạ xấu xí, nhưng chúng đều có vẻ mỏng manh, yếu ớt. Một vẻ gì đó khiến đôi mắt chúng có hồn."

Jack ngừng lại. Tôi nhìn qua những khe hở trên chiếc mặt nạ nhựa dẻo đặc biệt của mình, và trong phút chốc, tôi lo ngại bà sẽ nói rằng trong mắt tôi cũng ẩn chứa đau thương. Nhưng bà chỉ làm thêm một ngụm rượu nữa và tiếp tục nói. "Cô ấy bảo thực ra cô ấy không phải họa sĩ vẽ tranh ký họa. Cô ấy là thợ điêu khắc và những sinh vật này đang đợi để được giải phóng khỏi đá."

"Vậy," tôi nói, "thậm chí ngay từ khi còn nhỏ..."

"Phải, thậm chí ngay từ khi còn nhỏ," Jack xác nhận lại. "Tôi nghĩ mình khá thích thú trước cái ý tưởng đó, nhưng tôi chẳng biết cóc khô gì về nghệ thuật cả. Có lẽ đến nay tôi vẫn không biết gì hết. Nhưng tôi biết rõ điều này - có gì đó rất đặc biệt ở khả năng tưởng tượng của cô ấy. Tôi thích nó, và hóa ra nhiều người khác cũng thích. Nhưng vào lúc đó, tôi chỉ gật đầu, vì tôi có thể làm được cái quái gì cơ chứ? Nhiều tháng trôi qua, tôi vẫn tiếp tục đến thăm mẹ, còn Marianne Engel vẫn tiếp tục cho tôi xem tranh của cô ấy, và tôi không biết... chỉ là cô ấy ngày càng thân thiện với tôi hơn. Tôi nghĩ mình cảm thấy thương hại cô ấy. Cô ấy còn quá trẻ, và có lẽ tôi cũng hiểu cái cảm giác khi bị kẹt ở một nơi chẳng mang lại điều gì tốt đẹp cho ta. Nhà thương điên là nơi thích hợp cho mẹ tôi, không có gì phải bàn cãi về điều đó, nhưng nó không phải nơi thích hợp với Marianne Engel."

"Thế chuyện gì đã xảy ra?"

"Các bác sĩ cứ chế thuốc cho cô ấy mãi cho tới khi cuối cùng họ cũng tìm được một hợp chất có vẻ có tác dụng và tình trạng của cô ấy đã khá hơn. Marianne có thể cư xử bình thường, anh cũng biết đấy, khi cô ấy uống thuốc. Nhưng cô ấy luôn nghĩ chúng có hại cho những trái tim của mình." Jack ngừng lại. "Phải, cái ảo tưởng đấy cũng chẳng mới mẻ gì. Một lần tôi thậm chí còn nhờ họ chụp X-quang để cô ấy thấy mình chỉ có duy nhất một quả tim thôi, ấy vậy mà cô ấy vẫn không chịu tin tôi."

"Nhưng làm thế nào mà..."

"Tôi sẽ nói đến đoạn đó, nếu anh chịu ngậm miệng lại." Jack xỉa đôi đũa của bà về phía tôi, một mẩu thịt gà Cung Bảo văng ra giữa chúng tôi. "Sau khi các bác sĩ giúp cô ấy bình thường trở lại, họ đưa cô ấy vào một nhà tình thương và cô ấy cuối cùng đã kiếm được việc làm tại một quán cà phê. Rửa bát đĩa, anh có thể tin được không? Khi nghe được chuyện đó, tôi đã đến thăm và thấy khuỷu tay cô ấy ngập trong nước bẩn, và trong đầu tôi chỉ có duy nhất hình ảnh những bức ký họa tuyệt vời đó. Cũng trong thời gian này, cô ấy đã có hình xăm đầu tiên trên cánh tay, một trong những câu tiếng Latin. Khi tôi hỏi tại sao lại làm thế, cô ấy bảo vì không có tiền mua đá, cô ấy sẽ dùng chính thân thể mình để làm khung tranh. Tất cả những hình xăm ấy, cô xăm chúng khi không thể tạc tượng vì một lý do nào đó. Dù thế nào thì, tôi nói, chuyện này thật vớ vẩn. Nếu cô ấy muốn tạc tượng đến thế, tôi sẽ giúp. Vì thế tôi trả tiền cho cô ấy theo học một khóa học buổi tối, dù toàn bộ gia sản của tôi chỉ là số tiền còm cõi bố tôi để lại, mà tôi lại còn hai đứa trẻ phải nuôi nữa chứ. Ngu hết thuốc chữa, nhỉ?"
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 57


Ngu thật, nhưng tôi cũng nghĩ (dù tôi chẳng nói tướng lên làm gì) như thế thật tuyệt. Jack lại lấy thêm một điếu thuốc của Marianne Engel - vì bà không hút, như bà đã nói với tôi không chỉ một lần - và tiếp tục câu chuyện của mình. Cứ khi nào đến đoạn kịch tính, bà lại trỏ điếu thuốc vào không khí như đang cố gắng châm vào những quả bong bóng vô hình vậy.

"Giáo viên hướng dẫn nói rằng Marianne Engel là học sinh tài năng nhất ông từng dạy, rằng cô ấy chỉ vô cùng say mê tạc tượng thôi. Khi tôi không thể bòn thêm được đồng nào để trả tiền học nữa, ông bảo Marianne cứ tiếp tục học. Ông bảo rằng một ngày nào đó ông sẽ có thể tự hào khoe rằng mình đã từng là thầy của cô ấy. Vì thế tôi lại đưa ra một quyết định ngu ngốc khác nữa là gợi ý với Marianne rằng tôi có thể làm đại diện cho cô ấy. Cô ấy đồng ý, dù sau đó tôi có nói rằng mình chẳng biết cái cóc khô gì về việc kinh doanh nghệ thuật cả. Nhưng tôi cũng xoay xở kiếm được cho cô ấy một bộ dụng cụ tạm ổn ở cửa hàng đại hạ giá, nói chung là khá may mắn, và một ít đá. Tảng đầu tiên là thứ đá rẻ tiền, kinh tởm, cứ chực nát ra như cám dưới lưỡi đục của cô ấy, đúng, nhưng cô ấy cuối cùng vẫn lôi được gargoyle ra và nó trông khá ổn. Thế là giờ tôi đã có bức tượng và phải bán được nó trước khi chúng tôi có thể kiếm một tảng đá khác, vì thế tôi đã mượn tạm cái xe tải cà tàng này lái đến các phòng triển lãm khắp nơi mang theo bức tượng vứt trong thùng xe. Cuối cùng tôi cũng tìm được một người muốn trưng bày nó, nhưng họ chỉ đồng ý mua nếu giá thực sự hời, nhưng đến lúc này, chúng tôi chẳng còn lựa chọn nào khác, và thế là tôi đồng ý. Khi cuối cùng nó cũng được bán, anh có tin nổi không, tôi thực sự đã lỗ vốn. Cả quy trình mất hàng tháng trời và suốt khoảng thời gian ấy Marianne Engel cứ liên tục xăm thêm những hình mới, trở nên điên cuồng vì không có đá. Nhưng cuối cùng chúng tôi cũng bán được một cái khác, và một cái khác, rồi tự nhiên có một ít tiền chảy vào túi chúng tôi và mọi chuyện đều diễn ra tốt đẹp."

Tôi rất thích nghe một câu chuyện về Marianne Engel không liên quan gì đến các tu viện thời Trung cổ. Nó làm tôi nhận ra rằng tôi đã chìm đắm đến thế nào trong những câu chuyện thần tiên của cô.

"Khi cô ấy thực sự bắt tay vào làm việc, những bức tượng cứ thế tuôn ra ào ào. Đó là lần đầu tiên tôi thấy cô ấy cuồng nhiệt đến thế, anh cũng biết phải không? Lần đầu tiên cô ấy làm việc đến kiệt sức." Jack nhướng mắt về phía phòng của Marianne Engel. "Hồi đó cô ấy còn trẻ khỏe hơn bây giờ, và tôi đã nghĩ rằng đó chỉ là lửa nhiệt tình của tuổi trẻ mà thôi. Niềm đam mê hưng phấn với những sáng tạo đầu tiên. Tôi không biết mọi việc lại diễn ra như vậy - giờ được bao lâu rồi? Trong suốt khoảng hai chục năm thì phải."

"Cô ấy chắc chắn đã làm việc rất tốt," tôi nói. "Tôi muốn nói là, ngôi nhà và tất cả mọi thứ..."

"Phải, biết cách kiếm tiền, chắc chắn rồi. Marianne làm gì cũng giỏi nhất thế giới, và không chỉ có thế. Làm với nhau năm năm, chúng tôi đã kiếm đủ để mở một phòng triển lãm. Mười năm, chúng tôi kiếm được cho cô ấy chỗ này. Cứ thế mà trả tiền mặt thôi, không phải thế chấp gì hết."

"Bà đã trở thành người giám hộ cho cô ấy như thế nào?"

"Chỉ là chuyện sớm muộn cũng đến mà thôi," Jack trả lời. "Không, khốn kiếp, bao nhiêu việc hành chính và những chuyến thăm tòa án liên miên. Nhưng anh phải nhớ rằng cô ấy chẳng có gia đình gì hết, ít nhất không có loại gia đình mà tôi biết. Cô ấy không bao giờ kể cho tôi nghe về cuộc đời mình trước khi chúng tôi gặp nhau và, thành thực mà nói, tôi cũng chẳng rõ cô ấy có biết hay không nữa."

"Jacqueline," tôi nói, "bà chẳng bao giờ trả lời thẳng vào câu hỏi của tôi cả."

"Đừng gọi tôi như thế, mẹ kiếp, mà tôi còn chẳng nhớ nổi cái câu hỏi chết tiệt của anh là gì."

"Là liệu bà có làm gì vào Giáng sinh này không."

"Không, mẹ tôi mất mười năm trước rồi và bọn trẻ cũng chẳng còn liên lạc gì với tôi nữa." Bà chụp lấy áo khoác và nói rằng đã đến lúc phải về. Đến cửa, bà nói, "Đừng nghĩ chúng ta đã bạn bè gì với nhau đấy. Nếu tôi được phép tự quyết, anh đừng hòng có thẻ tín dụng."

"Hiểu," tôi xác nhận. "Tôi mong là điều tôi sắp nói ra không có vẻ tệ quá, nhưng tôi thực sự mừng rằng Marianne đã bất tỉnh. Ít nhất cô ấy cũng có thể nghỉ một chút."

Jack khịt mũi. "Cô ấy chưa xong đâu."

Khi Marianne Engel thức dậy, cô chứng minh rằng Jack đã đúng. Cô xơi một bữa sáng khổng lồ, rồi đi ngay xuống tầng hầm, giam mình tại đó suốt bốn ngày tiếp theo. Mọi cử động của cô đều rất uể oải, như thể ai đó đã quay phim quá trình làm việc của cô và cho đoạn phim chạy bằng nửa tốc độ bình thường vậy. Cô thiếu năng lượng để có thể làm việc nhanh hơn.

NẾU NGƯƠI TRỘN CHO CÔ TA MỘT ÍT MORPHINE Cái gì? CÔ TA SẼ NGỦ NGAY.

Vào ngày hai mươi tháng Mười hai, Sayuri đến giúp tôi tập bài tập cuối cùng trước kỳ nghỉ lễ. Chúng tôi đã cố hết sức để bơ tiếng búa đập lờ đờ của cô đi.

"Gregor nói với tôi rằng cô sắp đi gặp bố mẹ ông ấy," tôi nói. "Một bước tiến lớn đấy."

"Từ trước đến nay anh ấy chắc chưa làm việc gì như thế này," Sayuri nói, "đưa một người phụ nữ về ra mắt bố mẹ mình."

"Cô cảm thấy thế nào?"

"Tôi không thấy lo lắng lắm, nhưng tôi khá ái ngại cho anh ấy. Tôi nghĩ anh ấy chưa bao giờ thấy mình thỏa mãn được sự kỳ vọng của họ hàng."

"Ông ấy có nghĩ là cô sẽ làm họ thất vọng không?" tôi hỏi với một vẻ rất đỗi ngây thơ.

"Anh ấy lo họ nghĩ rằng anh ấy không xứng với tôi hơn." Sayuri tăng lực ma sát cho cái xe đạp của tôi và bắt tôi phải chiến đấu, chiến đấu, chiến đấu! "Thật nực cười."

"Thế, cô có nghĩ là ông ta định...?" Tôi gõ tay vào ngón áp út của cô, nhiển nhiên là chẳng có cái nhẫn nào trên đó cả.

"Không đâu," Sayuri vội vã trả lời. Cô rụt tay lại, nhưng tôi có thể nhìn mặt cô mà nói rằng cô cũng chẳng ngại cái ý tưởng đó đâu. "Anh ấy chỉ muốn tôi đến thành phố quê hương của mình thôi."

Âm thanh dưới tầng hầm đã có chút thay đổi - tiếng búa đập đều đều đơn điệu không còn nữa. Sống cùng nhau đến lúc này, tôi biết rõ lịch tạc tượng của Marianne Engel để có thể nhận ra rằng cô không thể nào hoàn thành bức tượng hiện tại của mình vào lúc này được. "Tôi phải đi xem cô ấy thế nào."

MORPHINE RẤT TỐT. Với cô ấy thì không.

Tôi không nhìn thấy cô khi tôi bắt đầu đi xuống cầu thang. Tôi gọi to, nhưng không có tiếng đáp lại. Nửa điếu thuốc lá đang cháy dở trong gạt tàn. Rồi tôi thấy cô đằng sau một bức tượng gần như đã hoàn chỉnh, hai tay duỗi ra trong một tư thế rất kỳ cục. Ngón tay cô vẫn đang nắm hờ vào cái búa; cái đục văng ra xa khoảng vài mét.

Khi đến bên tảng đá, tôi thấy cô đã bất tỉnh, với một vết rách lớn trên trán. Tôi nghĩ có lẽ là do cô ngã đập đầu xuống tảng đá khi bất tỉnh.

Bệnh viện giữ Marianne Engel lại bốn đêm. Đầu cô được khâu kín, và một cái ống truyền dịch vào tay cô để chống lại sự mất nước. May mắn làm sao, cô đã quá mệt mỏi để có thể giận dữ vì tôi đã đặt cô vào vòng tay của các bác sĩ thù địch. Tôi để cô lại rồi đi về nhà ngủ một chút. Tôi cho Bougatsa ngủ cùng giường với mình, dù biết Nan sẽ điên lên trước những dị ứng mà lông chó sẽ gây ra cho da người bỏng. NGƯƠI CÒN CHẲNG TỰ CHĂM SÓC ĐƯỢC BẢN THÂN. Sáng hôm sau, tôi quay lại bệnh viện ngay lập tức. SAO NGƯƠI CÓ THỂ CHĂM SÓC CHO CÔ TA ĐƯỢC?

Marianne Engel ra viện vào đêm Giáng sinh. Thành thực mà nói, các bác sĩ phải giữ cô lại lâu hơn, nhưng họ cho cô ra vì nghĩ đến ngày lễ. Khi chúng tôi về đến nhà, cô chỉ đòi ăn mỗi bánh hạnh nhân, nhưng tôi đã thuyết phục cô ăn thêm một ít quýt. Tôi bê cái ti vi và đầu video từ tháp chuông xuống phòng cô và chúng tôi cùng xem Cuộc sống tươi đẹp, vì đó là điều những người bình thường hay làm vào đêm Giáng sinh. Sau khi xem xong, cô cứ đòi tôi ngủ lại trên giường mình, vì cô muốn tỉnh dậy vào ngày lễ Giáng sinh với tôi bên cạnh.

Tôi nằm trên giường với bộ quần áo tạo áp suất thô cứng chạm vào cơ thể trần trụi mềm mại của cô; nhận ra rằng lẽ ra tôi phải cảm thấy vui sướng trước sự gần gũi này mới phải. Nhưng không; tôi chỉ đang nghĩ rằng tại sao cơ thể cô lại có thể mang lại cảm giác mạnh mẽ đến thế cho tôi. Tôi đã dành hầu hết phần đời trai trẻ của mình với những phụ nữ trần truồng - đó là công việc của tôi vào ban ngày, và sở thích của tôi vào ban đêm - nhưng khi ở bên Marianne Engel thì nó luôn có vẻ gì đó khác lạ. Rất khác lạ.

Có nhiều cách khả dĩ để giải thích cho sự bất tiện của tôi. Có lẽ cơ thể cô ảnh hưởng mạnh mẽ đến tôi như vậy vì tôi thực sự thích cô. Có lẽ vì đó là lần đầu tiên trong đời, với việc giải phẫu cắt bỏ dương v*t, tôi không thể từ chối cơ thể một người phụ nữ bằng cách chinh phục nó nữa. Có lẽ những cảm giác của tôi chỉ đơn thuần là kết quả của hoóc môn giới tính. Tất cả những giả thiết này đều rất đáng hoan nghênh, và tới một mức nào đó thì có lẽ chúng đều hợp lý, nhưng vào cái đêm Noel đó, nằm bên cô mà không tài nào ngủ nổi, tôi đã tìm ra được đáp án. Lý do chính, tôi tin vậy, cơ thể cô làm tôi hưng phấn đến thế là vì nó làm tôi cảm thấy đó không chỉ là cơ thể con người mà còn là một thứ gì đó có thể chạm được tới cả ký ức và hồn ma.

Lần đầu tiên tôi nhìn thấy cơ thể cô, một cách trọn vẹn, là ở trong phòng điều trị bỏng khi cô cởi quần áo ra cho tôi xem những hình xăm của mình. Cảnh ấy đã kích thích tôi và làm tôi cảm thấy xấu hổ, rồi khi tôi lướt ngón tay lên những cái lông vũ trên đôi cánh thiên thần của cô thì cơ thể cô đã run lên, và để đáp trả, cũng làm trái tim tôi run rẩy. Lúc đó, tôi không thể hiểu tại sao mình lại có cảm giác như vậy, nhưng nhiều tháng sau, tôi bắt đầu nhận ra đó là vì những ngón tay của tôi cảm thấy không phải chúng đang chạm vào người cô lần đầu tiên mà là vì chúng đang trở lại một nơi chốn quen thuộc. Tôi đã không hiểu ra điều này cho tới tận lần đầu tiên Marianne Engel tắm cho tôi trong pháo đài, khi nhìn cách cô giơ tay ra chạm vào người tôi như thể nó thuộc quyền sở hữu của cô vậy. Cô đã cử động cánh tay mình hệt như khi tôi giơ tay ra chạm vào tấm lưng xăm hình đôi cánh thiên thần của cô lần đầu tiên. Như thể da thịt của người khác đã bị chiếm làm của riêng, và cánh tay đang giơ ra ấy thuộc về một người chủ đi vắng lâu ngày nay đã trở lại. Khi tôi chạm vào cô lần đầu tiên, tôi không có cảm giác đó là lần đầu tiên tôi chạm vào cô.

Giờ đây, nằm trên giường cạnh cô trong đêm Giáng sinh này, cơ thể cô vẫn mang đến cho tôi những cảm xúc đó. Khi nằm bên cô, tôi như thể được sinh ra là để nằm tại đó, cơ thể tôi như thể đã nằm bên cô hàng nghìn lần trước đó rồi. Tôi có cảm giác như mình không chỉ đang nằm cạnh một con người, mình còn đang nằm cạnh ký ức của một con người nữa, trong khi cùng lúc, ký ức ấy được chuyển hóa thành một cái gì đó thậm chí còn vô hình hơn. Cơ thể cô quá người trong cái hoang dại của nó, nhưng nó cũng làm tôi có cảm tưởng rằng nó là một thực thể đang dần biến thành một bóng ma, cứ như cơ thể gầy gò của cô đang biến thành một thứ gì đó còn mong manh hơn. Tôi miết nhẹ ngón tay lên những cái xương sườn nhấp nhô của cô và lướt xuống đỉnh xương chậu nhô lên khỏi bụng cô. Cơ thể cô, xác thịt lẫn ký ức luôn rơi vào trạng thái lẫn lộn mơ hồ và đầy hứng khởi, vẫn mang lại cho tôi cảm giác nó thuộc về tôi nhưng dường như đang dần mất đi. Cô không chỉ mất đi sinh lực khi làm việc, cơ hồ cô đang cố làm việc để mất đi sinh lực; như thể không chỉ những gargoyle mới là nghệ thuật lặp lại, mà cả bản thân người nghệ sĩ là cô nữa, cũng cố gắng đạt đến mức độ vừa vô hình vừa hữu hình hơn lúc bắt đầu.

Đó là cách mà cơ thể cô - thân xác, ký ức và linh hồn - làm tôi không thể chống cự lại được.

Tôi tỉnh giấc, sau khi đã chìm vào một giấc ngủ ngắn chập chờn, trước khi cô dậy. Tôi mang một khay trứng đến cho cô, và lấy hết can đảm để tặng cho cô món quà đầu năm. Một lần nữa đó lại là các sáng tác văn chương, vì hiển nhiên tôi vẫn chưa rút ra được bài học từ sau vụ thơ thẩn năm ngoái. Tôi đã viết lại theo trí nhớ những câu chuyện về bốn người bạn ma mà cô đã kể cho tôi nghe - "Người thợ rèn tài ba," "Người phụ nữ trên vách đá," "Người thợ thổi thủy tinh học việc," và "Quà tặng của Sigurðr" - và tách từng truyện một giữa các trang bìa. Ngoài bìa trước là dòng chữ Những câu chuyện tình yêu, được kể bởi Marianne Engel.

"Đây là một món quà tuyệt vời. Không chỉ cho tôi, mà cho cả Sigurðr nữa. Đối với một người Viking, địa ngục khủng khiếp nhất là bị vùi vào quên lãng." Cô nắm tay tôi và xin lỗi. Cô đã dồn hết tâm sức vào việc tạc tượng suốt mấy tuần qua, và vì vậy cô đã bỏ bê không chuẩn bị cho tôi một món quà xứng đáng.

"Nhưng," cô gợi ý, "tôi giải thích cho anh nghe ý xơ Constantia khi bảo rằng tôi đã hủy hoại phòng viết nhé?"
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 58


Trời đã rạng khi Agletrudis xuất hiện trước cổng Engelthal, với nụ cười hả hê trước sự đau khổ của người khác không hợp chút nào với gương mặt của một nữ tu. Cô ta hất hàm về phía anh, lúc này vẫn còn đang loay hoay trên lưng ngựa với thân thể đầy máu của Brandeis, và nói, "Tôi thấy hình như cô đã mang người tình của mình tới."

Tôi không thể bộc lộ nỗi tức giận của mình nếu chúng ta muốn có bất cứ cơ hội nào vào trong. Tôi cần phải cầu xin lòng trắc ẩn của cô ta; cô ta, xét cho cùng, cũng đã nguyện cống hiến cả đời cho Chúa. "Chúng tôi cần chỗ trú. Nếu không được giúp đỡ, chúng tôi sẽ chết."

"Ái chà," Agletrudis nói, gật gật đầu và đan hai tay lại sau lưng. "Vậy cái linh hồn ham hố phiêu lưu của cô cuối cùng đã tìm được thứ nó dày công tìm kiếm bấy lâu. Có khi còn hơn ấy chứ." Cũng giống như xơ Constantia trước đấy, Agletrudis chăm chú soi mói cái bụng lồ lộ của tôi.

Tôi dằn từng tiếng. "Cô phải hiểu rằng không dễ dàng gì để chúng tôi - để tôi - đến được đây." Hai tay tôi cũng chắp sau lưng, nhưng bởi vì tôi không muốn Agletrudis nhìn thấy chúng co lại thành hai nắm đấm. "Chúng tôi chẳng còn chỗ nào để đi cả."

Agletrudis cố nặn ra một vẻ mặt thông cảm, nhưng chỉ làm nụ cười của cô ta thêm kinh tởm. "Chuyện này đã đặt chúng tôi vào một tình huống vô cùng thú vị. Nhiệm vụ của chúng tôi là nhân từ độ lượng, và chúng tôi được dạy phải tha thứ cho mọi kẻ tội đồ. Tuy thế, vấn đề khó khăn nằm ở chỗ hầu hết các xơ ở đây đều coi cô còn tệ hơn cả một kẻ tội độ bình thường nữa."

Điều này làm tôi cảm thấy đây là một phản ứng thái quá trước việc tôi rời Engelthal. "Khi tôi rời khỏi, tôi không bao giờ có ý nghĩ không tôn trọng tu viện hoặc Chúa."

"Hay mẹ Christina, tôi có thể chắc chắn thế nhỉ." Agletrudis vẫn không mai một khả năng đánh đúng điểm yếu nhất của người khác. "Nếu cô chỉ đơn giản biến mất, sẽ chẳng có ai lại không chịu giúp đỡ cô bây giờ cả. Nhưng vì những hành động của cô vào đêm đó, xơ Gertrud tội nghiệp đã vỡ tim mà chết."

Gertrud sẽ chẳng mảy may quan tâm đến chuyện tôi biến mất, trừ phi việc đó có thể làm chậm tiến trình hoàn thành cuốn Kinh Thánh của bà. "Cô đang nói về cái gì vậy?"

"Chối chả có ích gì đâu, x... - ồ tôi xin lỗi. Marianne. Cô không nhớ rằng tôi đã nhìn thấy cô rời phòng viết vào cái đêm đó sao? Tôi vẫn nhớ việc đó, và tôi vẫn nhớ việc sáng hôm sau, xơ Gertrud tội nghiệp nhìn thấy tất cả công trình của bà đều đã ra tro. Từng chương, từng tiết một." Agletrudis ngưng lại với một tiếng thở dài đầy kịch tính. "Sao cô lại có thể lấy đuốc mà đốt Kinh Thánh của bà chứ?"

Tiếng thở dài đã giải thích tất cả. Cô ta đã đốt Die Gertrud Bibel vào cái đêm tôi rời đi và đổ mọi tội lỗi lên đầu tôi. Và thế là, tôi đã trở thành người nữ tu phá hủy tác phẩm cả đời của Gertrud, người nữ tu đã biến Lời Dạy Của Chúa thành một đống tro và chạy trốn để làm nhân tình của một kẻ giết người.

Mắt Agletrudis sáng lên đầy hằn học. "Mẹ Christina đã ra lệnh xóa tên của cô ra khỏi mọi biên niên ký, và giờ khi cha Sunder đã mất - tôi tin rằng cô biết ông đã chết? - chúng tôi cũng đang tiến hành xóa tên cô khỏi sách của ông ấy đây."

Tôi đã luôn thấy Agletrudis bợ đỡ Gertrud quá thể, nhưng cũng còn lâu mới đến mức phản trắc. Tâm tính con người thay đổi mới nhanh làm sao. Thật bất ngờ khi trong phút chốc hiểu ra Agletrudis có thể độc ác đến mức nào. Tôi biến mất, cô ta có thể thừa kế chức trưởng phòng viết. Nhưng như thế vẫn chưa đủ với cô ta. Cô ta phải hủy hoại tên tuổi của tôi đời đời kiếp kiếp, và để đạt được điều này thì cô ta sẵn lòng hy sinh giấc mơ cả đời của người thầy.

Tôi chẳng tự hào gì khi không thể ngăn nắm đấm của mình lại. Tay phải của tôi đập vào vai Agletrudis, cú đấm đầu tiên tôi quăng ra trong đời. Tôi đã nhằm vào đầu cô ta nhưng tôi nghĩ sự tức giận của tôi đã ảnh hưởng xấu đến mục tiêu. Cú thứ hai và thứ ba có vẻ chính xác hơn, dù mang thai có làm động tác của tôi hơi vụng về lóng ngóng đã hạ cánh lên ngực và cằm của cô ta. Cô ta ngã ngửa về phía sau, dù tôi không chắc bao nhiêu là vì cú đấm và bao nhiêu là vì ngạc nhiên. Khi cô ta bò dậy, cô ta nhe hàm răng đầy máu ra cười.

"Tôi sẽ không hạ nhục bản thân bằng việc đánh một con điếm chửa đâu," Agletrudis nói, "nhưng tôi chắc chắn sẽ gửi lời của cô đến cho mẹ Christina."

Ở lại chẳng ích gì cả, vì giờ đây chúng ta không bao giờ được phép vào trong tu viện nữa, mà bọn truy kích thì vẫn còn đang đeo bám ngay phía sau. Tôi cố trèo lại lên ngựa và anh đã để tôi phóng nước đại cho xả bớt cơn giận của mình trước khi hỏi chúng ta sẽ đi về đâu. Tôi nói là tôi không biết. Anh gợi ý cái lán của cha Sunder. Tôi nói rằng ông đã mất rồi. Anh hỏi là không biết huynh trưởng Heinrich có còn sống không. Tôi không biết. Anh nói rằng chúng ta không có sự lựa chọn nào khác, và ngôi nhà của họ là cái đích mới của chúng ta.

Huynh trưởng Heinrich rất choáng váng khi thấy chúng ta trước cửa nhà mình sau ngần ấy năm, nhưng ông thậm chí chẳng ngần ngại đến một giây. Ông mở toang cánh cửa để cho chúng ta vào, và tôi sẽ luôn nhớ tới ông vì điều đó. Anh đưa Brandeis thẳng đến chỗ cái giường nhỏ mà anh đã nằm khi ở đây trị bệnh.

Huynh trưởng Heinrich trông như đã sức tàn lực kiệt. Ông không còn đi đứng vững chãi được nữa, và ông phải tập tễnh đi lấy nước và dọn chỗ nằm cho chúng ta. Ông giúp chúng ta trị thương cho Brandeis, cố hết sức ghìm anh ấy trong khi anh rửa vết thương cho bạn. Khi Brandeis ngừng vùng vẫy, chính huynh trưởng Brandeis - chứ không phải anh hay tôi - đã nhẹ nhàng vuốt tóc anh ấy, dù ông chưa từng gặp Brandeis trước đó. Khi Brandeis cuối cùng cũng chìm vào giấc ngủ chập chờn, huynh trưởng Heinrich nói rằng sẽ chuẩn bị một chút thức ăn. "Tôi có rất ít khách đến thăm, hãy để tôi được tiếp mọi người..."

Tôi khăng khăng đòi giúp và huynh trưởng Heinrich cảm thấy rất thích thú khi thấy giờ đây tôi cũng đã biết nấu nướng. Khi ông khen ngợi kỹ năng mới của tôi, tôi mới dám nói lời chia buồn trước cái chết của cha Sunder. Huynh trưởng Heinrich vừa thái rau vừa gật đầu một cái. "Anh ấy đã sống một cuộc đời tốt đẹp và ra đi trong giấc ngủ, vì thế không có gì phải tiếc thương đâu. Có một đài tưởng niệm rất đẹp và tất cả các xơ đều nói rằng ác quỷ đã mừng vui trước cái chết của anh ấy. Không phải vì Kẻ Thù Lớn đã chiếm được một linh hồn mới, mà vì Friedrich không bao giờ có thể làm hại Hắn với những lời cầu nguyện của mình được nữa."

Giọng ông run rẩy. Friedrich, ông đã nói vậy. Không phải là huynh trưởng Sunder, như ông vẫn thường gọi khi cha còn sống. Không phải trước mặt tôi, ít nhất là thế. Ông cố mỉm cười nhưng không thể, và tôi đã hiểu vì sao ông lại trông khắc khổ đến như vậy. Huynh trưởng Heinrich đang chờ đến lượt mình.

"Cô có biết là xơ Gertrud cũng mất rồi không? Trái tim của bà ấy dường như đã không thể chịu nổi sau khi..." Giọng của Heinrich trượt đi. Dĩ nhiên, ông muốn nói đến chuyện cuốn Kinh Thánh của bà bị đốt. "Marianne, khi chỗ tro tàn sót lại được tìm thấy, bà ấy nhận ra rằng cả đời này cuốn Kinh Thánh của mình sẽ không bao giờ được hoàn thành. Những chuyện không hay xảy ra giữa hai người chẳng phải bí mật gì, nhưng cô cần biết rằng tôi không bao giờ tin cô đã đốt nó. Và Friedrich cũng vậy. Anh ấy chết với niềm tin tuyệt đối vào sự vô tội của cô."

Đúng lúc đó thì bụng tôi quặn lại, và theo bản năng, tôi đặt ngay tay mình lên đứa trẻ. Tôi không dám ngước lên nhìn vào mặt huynh trưởng Heinrich, lo lắng không biết liệu ông có nghĩ rằng vì tôi rời bỏ Engelthal mà đã xảy ra cơ sự này hay không. Nhưng đây là những điều mà ông đã nói với tôi: "Friedrich hẳn phải rất hài lòng nếu biết được rằng cô đã có mang. Anh ấy luôn tin rằng tình yêu cô dành cho người đó là chân thật."

Ngay chính giữa căn bếp ấy, tất cả những sự kiện xảy ra hàng tuần trước đó đã trở lại với tôi. Đánh mất cuộc sống tôi và anh cùng nhau xây dựng tại Mainz, phát hiện ra mình đã bị đổ cho một tội lỗi khủng khiếp, và biết tin cha Sunder đã mất. Agletrudis đứng cười ở cổng, với tư cách là quyền tu viện trưởng. Việc thai nghén của tôi, tôi đã lo lắng từng giây phút mỗi ngày. Tôi đã gần như kiệt hết ý chí và tinh thần từ khi chúng ta rời khỏi Nürnberg, nhưng ngay trong giây phút ấy thì tất cả mọi sức mạnh còn sót lại của tôi đều cạn sạch. Tôi giải phóng tất cả những giọt nước mắt mình đã cố kìm nén từ trước đến giờ. Tôi gục xuống, người tôi gập lại trong cánh tay của người anh lớn.

Lại được ôm thật là một điều tuyệt vời, chỉ đơn giản là được ôm và được nghe những lời nói ân cần. Anh đã quá bận rộn chiến đấu bảo vệ chúng ta, thúc cho ngựa chạy và lập các bước hành động tiếp theo. Tôi không trách anh, nhưng tôi nhớ những cử chỉ quan tâm ấm áp của anh. Huynh trưởng Heinrich vuốt tóc tôi y như với Brandeis, và ông đặt tôi nằm lên giường của chính mình. Ông đắp chăn cho tôi và nói cho tôi chính xác điều tôi cần được nghe: rằng tất cả mọi việc đều sẽ tốt đẹp cả thôi.

Vài ngày trôi qua và chúng ta không có sự lựa chọn nào khác ngoài cứ ở nguyên tại đó. Tôi hy vọng có lẽ chúng ta đã đánh lừa được bọn truy lùng, nhưng anh đảm bảo với tôi rằng chúng ta chắc chắn không làm được điều đó. Anh nói với một sự tin tưởng tuyệt đối rằng, giờ đây khi một tên truy kích đã chết, những kẻ còn lại sẽ tái hợp và cố gắng tìm hiểu xem chúng ta đang bài binh bố trận thế nào.

Chúng ta luôn cẩn thận rửa vết thương cho Brandeis và mong nó sẽ lành, nhưng chúng ta đã hy vọng quá nhiều. Nó bị nhiễm trùng và anh ấy sốt rất cao, nói mê sảng. Anh đã chứng kiến chuyện này trước đây, trên chiến trường, và biết mình phải làm gì. Huynh trưởng Heinrich giữ hai vai của Brandeis còn tôi giữ hai chân anh ấy, trong khi anh dùng một cái rựa cắt đi một phần đùi của anh ấy. Khi chúng ta làm xong, quần áo mọi người đều dính đầy máu và có cả một tảng thịt trong cái xô. Khi tôi nhìn vào vết thương khủng khiếp trên đùi Brandeis, tôi đã cảm thấy hai điều: xấu hổ vì nỗi sợ rằng vết thương sẽ ảnh hưởng đến tôi theo cách nào đó và làm hại đứa trẻ, và tội lỗi vì lý do gây ra vết thương. Nếu tôi không do dự trước cửa sổ nhà trọ đó, Brandeis đã có thể nhảy ra trước khi cái rìu phóng tới.

Huynh trưởng Heinrich là người đầu tiên nhận thấy sự hiện diện của hai gã đàn ông cưỡi ngựa. Chúng giữ một khoảng cách khá xa ngôi nhà, qua rặng đồi nơi tôi từng chơi đùa khi còn nhỏ, nhưng chắc chắn bọn chúng đang theo dõi chúng ta. Chúng là bọn truy kích, dĩ nhiên. Khi tôi hỏi tại sao chúng không tới thẳng chỗ chúng ta, "Bọn chúng biết là chúng ta có cung tên và có thể sử dụng vũ khí, vì thế chúng đã gọi viện binh."

Có vẻ bọn chúng vẫn chưa phát hiện ra anh, vì chúng chưa nhìn được rõ anh. Mà cho dù có nhìn được, chúng cũng khó mà nhận ra anh - không chỉ vì anh bị bỏng, mà còn vì chúng gia nhập đội condotta sau khi anh đã trốn đi. Chúng không thể biết tôi là ai, dù chúng là những thành viên kỳ cựu đến thế nào, nhưng chúng chắc chắn cũng đoán được hẳn là phải có lý do gì đó thì chúng ta mới không tiếp tục trốn chạy. Chúng có biết về vết thương của Brandeis không? Rất có thể, vì chúng hẳn đã nhìn thấy những vệt tuyết đầy máu bên vệ đường ở Nürnberg. Liệu chúng có phát hiện ra cái bụng bầu giấu dưới lần áo choàng của tôi không? Chắc là không. Nhưng trước tất cả những câu hỏi của chúng về chúng ta, tôi có một câu hỏi lớn hơn dành cho chúng: chuyện gì sẽ xảy ra khi những tên lính đánh thuê khác đến?

Chúng ta đã tranh cãi rất kịch liệt. Huynh trưởng Heinrich nói ông sẽ đi ra với tư cách người phụng sự Chúa để nói chuyện phải quấy với chúng. Anh cười vào cái ý nghĩ đó. Brandeis, trong lúc tỉnh táo, đã tranh luận rằng anh ấy sẽ đối diện với số phận của mình như một người đàn ông, và đây cũng là cách duy nhất giúp những người còn lại thoát chết. Chúng ta phải chạy trốn để bảo toàn tính mạng, anh ấy nói thế, trong khi anh ấy đánh lạc hướng bọn chúng bằng cách phi ngựa theo hướng ngược lại. Nhưng dĩ nhiên chúng ta không thể để anh ấy làm hành động tự sát như thế. Anh muốn đứng lên chiến đấu, ngay bây giờ và tại đây, nhưng ai sẽ chiến đấu cùng anh? Không phải một nữ tu đã giải nghệ và đang mang bầu. Không phải Brandeis, người vẫn chưa tỉnh hẳn khỏi cơn mê sảng. Không phải Heinrich, một ông già. Vì thế điều anh thực sự muốn nói ở đây là anh sẽ một mình chống lại chúng. Lập luận của anh là nếu anh có thể diệt được hai tên lính này, ít nhất tôi và Heinrich cũng có thể trốn thoát trước khi bọn còn lại đến. Anh sẽ đưa Brandeis đi theo hướng ngược lại, dù anh ấy có chịu được hay không. Kế hoạch này, anh nói, giờ là lựa chọn tốt nhất. Chúng ta không thể cứ chờ chết ở đây được.

Cuối cùng, chẳng lập luận nào thành công cả. Khi tất cả những người còn lại đã ngủ và đến lượt anh phải thức canh, anh mang cung tên biến vào bóng đêm. Không ai hay biết anh đã đi cho tới khi anh quay lại đánh thức mọi người dậy.

"Chúng chết rồi," anh nói. "Trời tảng sáng rồi và những kẻ khác sẽ đến chóng thôi, vì thế chúng ta phải nhanh lên."

Tôi đã không thể kìm được sửng sốt trước chuyện anh giết người, khó kiềm chế hơn cả lúc chúng ta chạy trốn khỏi Nürnberg. Lần này, tuy thế, sự ngu ngơ của tôi đã làm anh tức giận. "Em không hiểu sẽ xảy ra chuyện gì nếu chúng tóm được chúng ta à? Chúng sẽ giết Brandeis và anh, nhưng chúng sẽ biến em thành thứ đồ chơi cho đến khi em chỉ muốn được chết thôi. Chuyện em bụng mang dạ chửa chẳng làm mọi việc khác đi được đâu. Chúng sẽ cưỡng hiếp em, và nếu em may mắn, em sẽ chết trước khi hồn em nhỏ máu đấy. Vì thế đừng đứng đấy mà phán xét anh, nghĩ là anh không quan tâm gì đến tính mạng con người. Anh đang làm tất cả mọi thứ để giữ mạng chúng ta đấy."

Cuối cùng tôi cũng phải chấp nhận sự thật là tôi không thể vừa ở bên cạnh anh vừa bảo vệ được con chúng ta. Chúng ta buộc phải tách nhau ra. Tôi sẽ trở lại Mainz và trốn ở chỗ những người Beguine cho đến khi anh quay lại. Anh sẽ đưa Brandeis đi theo hướng ngược lại; giờ đây khi hai tên truy kích giỏi nhất đã chết, có lẽ hai người các anh sẽ có cơ hội trốn thoát.

Huynh trưởng Heinrich sẽ đến Engelthal, vì chắc chắn tu viện đó sẽ cho ông vào nếu ông không đi cùng chúng tôi. Tôi cám ơn ông từ tận đáy lòng, hôn lên trán ông, và nói sẽ cầu nguyện để bọn lính đánh thuê không phá hủy ngôi nhà của ông khi chúng tới.

"Đừng mất thì giờ cầu nguyện những chuyện linh tinh ấy, xơ Marianne," ông nói. "Nó chỉ là một căn nhà thôi. Tôi đã luôn sống trong ngôi nhà của Chúa rồi mà."

"Con của chúng tôi nợ ông mạng sống," tôi nói. "Nếu đó là con trai, chúng tôi sẽ đặt tên con là Heinrich."

"Hai người sẽ làm tôi cảm thấy vinh hạnh hơn nếu hai người đặt tên con mình là Friedrich," người linh mục già nói.

Tôi hứa sẽ làm thế. Thời tiết đang thay đổi, nên có lẽ cuối cùng số phận cũng mỉm cười với chúng ta; kể từ khi rời khỏi Mainz, chúng ta đã luôn cầu nguyện bão tuyết sẽ ập tới để xóa dấu vết. Huynh trưởng Heinrich kéo chặt chiếc áo khoác của mình và trùm chiếc áo tơi của cha Sunder lên ngoài, như một lớp áo phòng thêm để chống lại cái lạnh. Ông tạm biệt chúng ta rồi chìm dần vào trong mưa tuyết, những bước chân loạng choạng không vững; và vài phút sau ông đã đi khuất. Thứ cuối cùng đọng lại trong mắt tôi là hình thêu phía sau chiếc áo tơi của cha Sunder, ấy là cảnh đại thiên thần Michael và các thiên thần khác đang chiến đấu chống lại con rồng trong Khải huyền và bị nuốt chửng trong tuyết trắng.

Cây cung của Brandeis giờ đã trở nên vô dụng với anh ấy, vì thế anh đã ấn nó vào tay tôi dù tôi cự rằng tôi không muốn cầm nó. Anh nói với tôi rằng tôi không phải dùng nó để tấn công ai cả nhưng tôi phải cầm nó, để phòng bất trắc, và anh cương quyết không cho tôi đi mà không cầm nó theo. Tôi chỉ đồng ý vì anh đã quá cứng rắn.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 59


Anh dạy qua cho tôi cách giương cung và ngắm mục tiêu. "Em để nó tựa vào vai mình, thế này này, và đây là cách em đưa mục tiêu vào tầm ngắm. Em giữ chắc vũ khí bằng cách thở chậm lại. Hít vào, thở ra, hít vào, thở ra. Từ tốn. Ngắm. Tin vào mũi tên. Thở ra. Thả tay."

Anh đặt cây cung vào cái bao đeo bên sườn ngựa và mở áo khoác của tôi ra để đặt một tay lên cái bụng đang phập phồng của tôi. Anh dùng tay còn lại luồn sợi dây có xỏ đầu mũi tên lên cổ tôi. "Để làm bùa hộ thân. Và em cần nó nhiều hơn anh. Em có thể trả nó lại cho anh khi chúng ta gặp lại nhau, vì anh hứa rằng tình yêu của chúng ta sẽ không kết thúc như thế này đâu."

Rồi anh phát vào ngựa của tôi để bắt nó chạy đi. Tôi nhoài người lại nhìn anh lần cuối, anh đứng đó nhìn tôi phóng ngựa đi trước khi dồn mọi sự chú ý vào con đường sẽ đưa tôi và đứa con chưa chào đời của chúng ta ra khỏi vòng nguy hiểm.

Tuyết cuộn xoáy trước mặt tôi. Tôi cố hình dung chuyện gì sẽ xảy đến với anh. Có bao nhiêu tên lính đánh thuê sẽ đến chứ? Một tá? Hai tá? Tôi nghĩ rằng điều đó còn phụ thuộc vào việc chúng có đang đánh thuê cho một vị lãnh chúa nào đó, ở một nơi nào đó không. Hay Kuonrat sẽ mang tất cả lính của mình tới, để chúng có thể thấy chuyện gì sẽ xảy ra với những kẻ đào ngũ? Tôi lo lắng không biết liệu có cơ hội nào cho anh trốn thoát không. Tôi đã biết tài bắn cung của anh nhưng với số lượng đông như vậy... Sao anh có thể trốn được khỏi cái quá khứ cứ quyết bắt anh phải trả giá? Gió nổi lên, tuyết trắng đến lóa mắt. Giá rét xuyên qua quần áo, thấu vào tận xương tủy.

Tôi không thể làm thế. Tôi không thể đi mà không có anh. Tôi thật ngốc nghếch khi nghĩ mình có thể rời bỏ anh, ngay khi anh cần tôi nhất. Đi được nửa giờ thì tôi quyết định quay ngựa và dồn hết sức bình sinh phóng thẳng lại nơi tôi đã đi qua. Tôi chỉ mong rằng không quá muộn.

Tìm lại đường giờ là một việc rất khó khăn, nhưng tôi biết tất cả mọi con đường dẫn tới nhà của Heinrich. Tuy thế, khi chỉ còn khoảng hơn trăm mét nữa, tôi không thể thấy được nó trong cơn bão đang cuồng loạn gào thét. Nhưng rồi tôi nghe thấy tiếng của rất nhiều người, theo gió bay đến tai tôi, vậy là tôi biết trong khoảng thời gian mình rời đi, bọn condotta đã tới. Vấn đề duy nhất là không biết anh và Brandeis đã thoát được hay chưa.

Tôi thúc ngựa lên rặng đồi trông xuống ngôi nhà, lẩn vào bụi rậm tôi đã từng dùng làm nơi chơi trốn tìm khi còn nhỏ. Tôi thậm chí không nghĩ rằng có thể sẽ có lính luẩn quẩn ở đó; tôi đã rất may mắn khi chỉ có một mình. Tôi luồn vào một bụi cây nơi có thể buộc tạm con ngựa vào một nhành cây rủ xuống gần đó, và tìm một chỗ có thể nhìn được chuyện gì đang xảy ra ở dưới. Tôi biết với cơn bão tuyết này, tôi chắc chắn sẽ không bị phát hiện.

Gần như ngay lập tức tôi thấy điều tôi lo sợ nhất: anh đã không trốn thoát được, và bọn lính đang lôi anh ra khỏi nhà. Một giọng sang sảng cất lên giữa gió bão. Đó là Kuonrat Háo Danh, cười sung sướng trước sự may mắn của mình. "Không phải một kẻ đào ngũ, mà là hai! Hai cơ đấy!"

Bọn lính bẻ quặt tay anh ra sau lưng rồi đẩy anh quỳ sụp xuống đất. Kuonrat bước tới trước một bước rồi đặt tay lên cằm anh, bắt anh ngẩng đầu lên để buộc anh phải nhìn vào mắt hắn. Vẫn tiếp tục cười, hắn nhìn như thể đang cố thuyết phục bản thân rằng hắn thực sự đã rất may mắn. Một bóng ma được mang đến từ nơi xa xôi nhất trong ký ức của hắn. Một bóng ma hắn có thể dùng để dạy những kẻ còn sống một bài học.

Tôi có thể làm được gì? Tôi nghĩ đến việc lấy cung ra bắn. Trong bão tuyết, bọn lính sẽ không thể biết được có mũi tên đang bay đến cho tới khi quá muộn, và chúng thậm chí cũng không thể biết được nó bay đến từ đâu. Nhưng làm thế thì ích gì? Bọn chúng có ít nhất hai mươi tư tên, đều là những kẻ giết thuê, và tôi chưa bao giờ sử dụng cung tên trong đời. Tôi có thể may mắn hạ được một tên. Nhưng, tôi nghĩ, nếu tôi có thể ngắm thành công, chuyện gì sẽ xảy ra nếu tôi bắn trúng Kuonrat? Liệu bọn lính có tán loạn lên khi chúng thấy thủ lĩnh của mình bị hạ không?

Dĩ nhiên không. Chúng đều là dân chuyên nghiệp và tôi cũng biết mình không có gan giết ai cả, kể cả Kuonrat.

Phải mất mấy tên lính mới ghìm được anh xuống đất, nhưng Brandeis đã yếu đến nỗi chỉ hai tên đã dựng được anh ấy dậy. Khi chúng thả anh ấy ra, anh ấy đổ sụp xuống đất trong khi Kuonrat hất hàm hỏi, "Ngươi có gì để nói không?"

Những trận gió tuyết khắc nghiệt lướt qua chúng, phóng thẳng về phía tôi, mang những lời chúng nói đến nơi trú ẩn của tôi. Có thể nghe được những gì chúng nói là may mắn hay bất hạnh, tôi không chắc được, nhưng lúc đó tôi đã rất biết ơn vì mình không phải lẻn đến nấp gần bọn chúng hơn.

Brandeis mang dáng vẻ của một kẻ tội đồ khốn khổ đang cầu xin tha thứ và cơn gió đã mang những lời anh ấy nói đến tai tôi. "Anh muốn giết tôi kiểu gì tùy thích. Bằng mọi hình thức khủng khiếp anh muốn, bằng mọi hình thức khủng khiếp anh có thể đưa ra. Lấy tôi mà làm gương. Tôi thừa nhận mình đã bỏ trốn khỏi đội condotta. Tôi chỉ là một đứa trẻ run sợ. Tôi chỉ cầu xin anh trừng phạt tôi, và chỉ mình tôi mà thôi."

"Nghe trò ngã giá của những kẻ chẳng có gì để đánh đổi mới thú vị làm sao," Kuonrat vừa cười sằng sặc vừa nói.

Brandeis cương quyết không để tràng cười này ảnh hưởng đến những việc làm cuối cùng của anh ấy trên trần gian. Tên đao phủ đang đứng trước mặt anh nhưng Brandeis không một lần cầu xin cho mạng sống của chính mình. Không, anh ấy dùng những giây phút cuối cùng của mình để tha thiết cầu xin cho mạng sống người bạn thân nhất của anh ấy.

Brandeis chỉ ra rằng khi anh ấy rời đội condotta, đó hoàn toàn là một quyết định sai lầm của chính bản thân anh ấy - nhưng khi anh rời đi, thì đó lại chẳng phải một quyết định gì cả. Ý của Chúa đã làm anh bị trọng thương trên chiến trường, chứ không bị giết. Ý của Chúa đã khiến trận đánh diễn ra quá gần Engelthal và anh đã được đưa đến đó. Ý của Chúa giúp anh lành những vết thương lẽ ra đã có thể lấy mạng anh. Không có bằng chứng nào thể hiện việc Chúa muốn anh sống, Brandeis lý luận, đanh thép hơn cái sự thật là hiện tại anh vẫn sống cả.

Brandeis chỉ về phía anh. "Sinh mạng này còn giữ được là do ý Chúa, vì thế hãy tha thứ cho tội lỗi của anh ấy và nhân đôi tội của tôi. Tôi biết anh là một vị chỉ huy thông thái và công bằng, Kuonrat, và tôi biết rằng anh cũng không muốn kháng lại ý Chúa đâu."

Lặp đi lặp lại rằng việc anh sống sót là do ý Chúa là một chiến thuật rất thông minh. Nếu có bất cứ điều gì có thể giúp anh khỏi bị hành hình, thì đó chính là niềm tin của Kuonrat rằng giết anh sẽ mạo phạm đến mong muốn của Chúa. Rõ ràng hắn chẳng coi con người ra cái gì, nhưng có lẽ Chúa lại là chuyện khác.

Cơn bão quét tuyết bay tứ tán khắp vùng. Theo bản năng, Brandeis quay mặt đi để bảo vệ mắt và tôi thấy một vệt sáng bạc lóe lên, như thể cánh tay Kuonrat đã được kéo dài ra. Một dòng máu đỏ bắn ra khắp nơi trên mặt đất và đầu của Brandeis văng trong không trung vài mét rồi bị lực hấp dẫn kéo rơi độp xuống đất.

Kuonrat lau sạch thanh kiếm của hắn, lưỡi thép vẫn còn bốc khói với dòng máu nóng. "Ý Chúa chẳng là gì. Ý ta mới quan trọng."

Hắn quay lại, vừa nói vừa cười vào khuôn mặt đang choáng váng của anh, rằng hắn có trò hay hơn dành cho anh. Một trò không quá đau đớn và cũng không quá nhanh chóng đâu. Xét cho cùng, sự biến mất của anh cũng lâu hơn của Brandeis rất nhiều.

Kuonrat gọi lũ lính của mình lại và giao nhiệm vụ cho chúng. Một phần ba trong số chúng phải đi vào rừng kiếm củi và cành khô. Một phần ba khác sẽ đến nhà Heinrich để lục lấy bất cứ đồ vật có giá trị nào - thức ăn, tiền bạc, quần áo - mà bọn lính có thể đem đi đổi chác được. Nhóm quân còn lại nhận lệnh chuẩn bị xử anh.

Những tên lính lôi anh qua xác của Brandeis. Máu vẫn rỏ ra từ cổ anh ấy, hòa vào đống tuyết đỏ rực. Bọn lính kéo anh đến chỗ nhà Heinrich, dựng anh dựa vào bức tường. Chúng đá vào mắt cá chân anh cho đến khi anh buộc phải giạng chân ra, và dang hai tay anh đến gần hết chiều rộng của ngôi nhà. Khi anh cố chống cự lại, chúng đã đánh, tát vào mặt anh và cười như thể đây chỉ là một trò đùa quái dị nào đó.

Một tên lính, cao to hơn tất cả những tên còn lại, tiến về phía anh với cái rìu trên tay. Tim tôi như nẩy lên và nghẹn lại trong cổ họng, vì tôi chắc chắn rằng hắn sắp chặt chân tay anh. Nhưng không phải vậy. Những tên lính khác, những tên đang giữ tay anh, cố kéo mấy ngón tay đang nắm chặt thành nắm đấm của anh cho đến khi lòng bàn tay anh lộ ra. Một tên lính đang cầm cái gì đó đâm vào bàn tay phải của anh. Tên lính cao to xoay cán rìu lại, và tôi nhận ra cái vật đó là một cây đinh. Hắn dùng phần cùn của chiếc rìu như một cái búa gõ cây đinh đâm sâu vào lòng bàn tay anh. Dù đã ở xa đến thế, tôi vẫn nghe được tiếng xương bàn tay anh gãy vụn như tiếng xương cổ gà bị bẻ gãy. Anh rú lên và điên cuồng giật tay ra, cố kéo tay ra khỏi bức tường, nhưng nó bị đóng quá chặt. Chúng tiếp tục làm thế với bàn tay trái của anh, một cái đinh nữa đóng xuyên qua lòng bàn tay, một vệt máu nữa lại bắn lên tường. Vai anh run lên yếu ớt và tất cả những mạch máu trên cổ anh trông như thể sắp nổ tung đến nơi.

Tiếp theo, những tên lính cố giữ chặt chân anh, nhưng anh vùng vẫy điên dại vì quá đau đớn. Vì thế tên cầm rìu giơ phần rìu sắc nhọn lên và phang nó thẳng vào đầu gối anh nơi dây chằng nối với xương. Đùi anh vẫn chưa đứt hẳn nhưng cẳng chân anh đã trở nên vô dụng, treo lủng lẳng như thể nó chỉ được gắn vào người anh bằng những sợi dây thừng gần như sắp đứt rời ra. Những tên lính cười phá lên, lại một trò hay ho nữa, và tay anh vẫn tiếp tục nhỏ máu xuống dọc bức tường.

Chúng tóm lấy mắt cá chân anh, việc này giờ đã trở nên dễ dàng một cách kỳ cục, đâm đinh qua bàn chân anh khiến anh bị đóng cứng vào bức tường cách mặt đất tuyết phủ đến hơn hai mét. Tiếng xương bàn chân anh bị gãy, những chiếc xương ấy mới thật mỏng manh yếu đuối làm sao, thật quá sức chịu đựng, và máu, máu ở khắp mọi nơi. Anh trông như đang bay lên, với hai tay làm điểm tựa; giờ anh trông không khác gì một bóng ma, trôi trên nền ngôi nhà. Chúng muốn dùng chính sức nặng của anh để treo anh lên, vì làm thế sẽ gây cho anh nhiều đau đớn hơn. Chúng thích thú nhìn những cây đinh yếu ớt không thể chống đỡ được sức nặng của anh, và chúng thích thú đóng những cây đinh mới vào cẳng tay anh để anh không rơi khỏi bức tường. Máu chảy dần khỏi cơ thể anh còn thi thể không đầu của Brandeis nằm trên tuyết đỏ, vệt máu loang càng lúc càng rộng, và đỏ hơn, còn những cột khói, những cột khói cứ thi nhau bốc lên. Tôi lấy cung tên ra khỏi chỗ giấu trên lưng ngựa và bước một bước về phía cảnh rùng rợn ấy, muốn chạy ngay xuống đồi để đến với anh, nhưng sợi dây rốn của đứa con chưa ra đời của chúng ta đã kéo tôi lại, tôi nhận ra mình chẳng thể làm được gì cả. Cây cung treo lủng lẳng trên tay tôi, thật vô dụng khi ở cạnh tôi, tiếng tim tôi đập lớn đến nỗi tôi tin bọn lính ở xa kia cũng có thể nghe thấy. Cả những tiếng khóc mà tôi không thể nén lại được nhưng một phần trong tôi chẳng thèm quan tâm và một phần khác thậm chí còn muốn bị bắt, muốn được chết, vì giờ đây tôi còn sống để làm gì nữa? Nhưng chúng đã không thể nghe thấy tôi, gió vẫn mang tiếng khóc và tiếng tim đập của tôi đi, nhưng chúng còn đang quá bận cười theo nhịp máu rỏ của anh, và tôi không thể làm được gì nếu không hy sinh mạng sống của con chúng ta.

Giờ những tên lính được cử đi tìm củi đã quay lại và Kuonrat chỉ vào chỗ đất dưới chân anh. Chúng xếp củi ngập lên quá đầu gối của anh. Và tôi biết chuyện gì sẽ xảy ra tiếp theo. Gió giật và tuyết quất làm việc nhóm lửa trở nên rất khó khăn, nhưng lính đánh thuê là những kẻ đã quá quen cuộc sống hoang dã rồi, nên chúng biết cách cúi thấp người để làm hàng rào cản gió. Rất nhanh chóng, một tia lửa lóe lên và những cành củi khô bắt đầu âm ỉ cháy, khói bốc lên và tôi có thể nghe thấy tiếng nhựa cây bén lửa nổ tí tách, nó làm tôi nhớ đến bàn tay cùng bàn chân gãy nát của anh. Những ngọn lửa nhỏ dần trườn về phía các ngón chân anh nhưng anh không thể kéo chúng ra chỗ khác được, chúng vẫn bị đóng đinh chặt vào tường. Rồi Kuonrat ra lệnh cho đám lính cầm cung lên, châm lửa vào mũi tên, bọn chúng liền làm theo, khi những đầu mũi tên đã ngập trong lửa, chúng đứng thành hình bán nguyệt và đồng loạt ngắm về phía anh. Kuonrat nói rằng nhiệm vụ của chúng không phải là bắn chết anh mà ngắm sao cho mũi tên càng gần anh càng tốt, trò chơi là như thế, mục tiêu là châm lửa cho bức tường cháy và dần dần thiêu đốt anh từ mọi phía thay vì chỉ từ dưới lên. Nhưng rồi Kuonrat nghĩ ra một ý hay hơn và đổi ý bảo bọn lính rằng chúng có thể bắn vào anh cũng được, miễn là không vào những chỗ hiểm - xé rách chân tay anh cũng không sao, nhưng bắn vào đầu hay ngực anh thì không được và giọng của hắn tràn ngập sự sung sướng, tự mãn trước sự thông minh xuất chúng của mình, bọn xạ thủ giương cung lên và bắt đầu vừa bắn vừa gọi tên các bộ phận cơ thể anh - "Tay trái!" "Chân phải!" "Đùi trên!" - và chúng đã bắn rất chuẩn, chúng hầu như luôn trúng vào những bộ phận được gọi tên. Khi một mũi tên trúng đích, tất cả bọn chúng reo hò hưởng ứng, và nếu một mũi tên trật mục tiêu, hết thảy đều chửi đổng lên, như thể đó chỉ là một trò chơi trong lễ hội, và lửa dưới chân anh ngày càng lan rộng ra, những ngọn lửa mới bùng lên khắp xung quanh người anh, bốc cháy với mỗi mũi tên được bắn ra.

Giữa những tiếng reo hò sung sướng của bọn lính đánh thuê, Kuonrat gào lên tiếng chào vĩnh biệt dành cho anh. "Tất cả mọi thứ sẽ cháy nếu lửa đủ nóng. Thế giới chỉ là một lò lửa đang hừng hực cháy."

Và rồi tôi đã biết mình phải làm gì.

Tôi lần tay vào trong lớp áo khoác, tìm chiếc vòng cổ của mình, tôi nắm chặt lấy đầu mũi tên đã được cha Sunder ban phước, và tôi cầu xin sức mạnh.

Tôi nâng cây cung lên. Tôi cố gắng nhớ lại bài học anh đã dạy. Mọi bí quyết đều nằm ở cách thở, anh đã nói thế, em hãy giữ chắc vũ khí bằng cách thở chậm lại. Hít vào, thở ra, hít vào, thở ra. Từ tốn. Ngắm. Tôi kiểm tra lại lần nữa xem mũi tên đã được lắp đúng chưa. Tôi biết mình sẽ chỉ có một lần bắn tên duy nhất, lần bắn tên đầu tiên và cũng là cuối cùng của tôi. Cách thở là quan trọng nhất. Tin vào mũi tên. Thở ra.

Tôi cầu Chúa giúp đưa mũi tên bay thẳng và trúng mục tiêu, đâm vào chính giữa ngực anh, xuyên qua cơn bão tuyết và bọn lính condotta.
 
CHÚ Ý !!!
Các đạo hữu nhớ thêm TÊN CHƯƠNG và THỨ TỰ CHƯƠNG ở ô phía trên phần trả lời nhanh. Như vậy hệ thống mới tạo được DANH SÁCH CHƯƠNG.
Cập nhật chức năng ĐĂNG TRUYỆN và THÊM CHƯƠNG MỚI trên web Diễn Đàn Truyện tại https://truyen.diendantruyen.com
Top Bottom