Cập nhật mới

Dịch Full Cô Gái Mang Trái Tim Đá

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 60


Khoảng thời gian giữa Giáng sinh và lễ Valentine là lúc Marianne Engel ngừng tạc tượng. Chỉ có đúng một buổi chiều cuối tháng Một là cô đi xuống tầng hầm để hoàn thành nốt gargoyle cô đang tạc dở khi ngất xỉu và được đưa tới bệnh viện. Khi nhiệm vụ nhỏ nhặt này được hoàn tất, nhanh gọn và không chút kịch tính, cô trở lại tập trung nghỉ ngơi dưỡng sức - và quay lại chuẩn bị các bữa ăn.

Kể từ khi tôi được ra viện, cô mới chỉ nấu một bữa ăn cực kỳ thịnh soạn có một lần: đồ ăn Nhật, vào đêm kể câu chuyện của Sei. Nhưng cứ độ ba hay bốn ngày, cô sẽ lại đi chợ và biến mất vào trong bếp hàng giờ liền. Mỗi lần hiện ra, cô lại mang theo cả một lô đặc sản từ một vùng nào đó trên thế giới.

Trong số những món đáng chú ý phải kể đến món ăn Senegal, đặc sản quý hiếm chẳng thuộc châu Á cũng không thuộc châu Âu. Về các món khai vị thì chúng tôi sẽ có thịt rán nhồi đậu đen và quả mã đề nướng, tiếp theo là món xúp sữa gạo gọi là sombi. Các món chính: thịt gà Yassa, thịt gà ướp gia vị để qua đêm rồi được ninh với hành trộn nước xốt mù tạt tỏi chanh; ceebu jen, cá rưới nước xốt cà chua và rau, đặt trên một nắm cơm, món ăn quốc hồn quốc túy của Senegal; mafé, món thịt trộn xốt đậu phộng có thể được chế biến cùng thịt gà, thịt cừu, hoặc thịt bò - thế là, dĩ nhiên, cô làm cả ba loại luôn; và một món hải sản hầm với tôm hùm, cá pecca và chuối xanh. Với món tráng miệng, cô có Cinq Centimes, món bánh quy đậu phộng "năm xu" rất phổ biến ở các siêu thị, và ngalax, cháo đường hạt kê nước thịt. Trong suốt bữa ăn chúng tôi nhấm chút nước xoài, nước bissap và nước cây bao báp, trước khi kết thúc với trà. Và cùng với việc thưởng thức những món ăn thịnh soạn Marianne Engel chuẩn bị, điều làm tôi hạnh phúc nhất là đôi cánh thiên thần xăm trên lưng cô đã bắt đầu trông có da có thịt hơn vì được hấp thụ đủ calo.

Mọi việc đều có vẻ rất tốt đẹp với tất cả mọi người, ít nhất cũng trong thế kỷ này: Marianne Engel đang hồi phục sức khỏe; Sayuri nói chuyện về chuyến thăm tốt đẹp đến nhà bố mẹ Gregor; và Gregor rủ rỉ qua những cốc cà phê là ông ta gần như chắc chắn Sayuri thích mình. Cả Bougatsa cũng rất hài lòng, vì nó lại tiếp tục được đi dạo hằng ngày với cô chủ.

Bình thường vào nửa đêm, Marianne Engel và tôi sẽ cùng nhau đi ra biển. Bất chấp giờ giấc và cái lạnh thấu xương, vẫn luôn có vài đứa nhóc tụ tập trên bãi biển, uống bia và hôn hít. Cô sẽ đốt một đống lửa trại, khêu khêu cho tàn tro bốc lên trời, và lấy thức ăn từ trong chiếc giỏ picnic cô luôn chuẩn bị sẵn, thường là với những món còn lại của bữa tiệc quốc tế thịnh soạn hôm trước. Cô đốt lửa để giúp tôi giảm bớt nỗi sợ lửa; cô nói rằng tôi nên cố hòa mình vào những lực lượng tự nhiên. Xét cho cùng, chúng cũng vẫn cứ tồn tại thôi.

Tôi không thể nhìn vào ngọn lửa mà không nghĩ gì, nhưng tôi ngạc nhiên vì tôi đã nghĩ về số phận của chính mình trong cái xe ô tô đó ít hơn là về phiên bản bị đóng đinh vào tường rồi thiêu trong lửa hồi thế kỷ mười bốn của tôi. Tôi nài nỉ Marianne Engel tiếp tục câu chuyện nhưng cô bắt tôi phải kiên nhẫn, trích thêm những câu vô nghĩa về những tháng ngày đơn độc giữa cõi vĩnh hằng mênh mông. Thay vì thế, cô lại kể cho tôi nghe những câu chuyện khác mà tôi biết chắc là không có thật, huyền thoại trận Armageddon, nhưng tôi không quan tâm. Cô tin chúng có thật, thế là đủ.

Rồi cô sẽ phóng tầm mắt ra giữa đại dương, duỗi chân về phía biển, và than thở trời vẫn chưa đủ ấm để đi bơi. "Ồ, ừ," cô nói, "Tôi nghĩ là mùa xuân cũng sẽ đến nhanh thôi."

Bộ quần áo tạo áp suất của tôi đã được lột ra vào đầu tháng Hai, và cảm giác giống như vừa thoát ra khỏi cái vũng lầy tôi đã phải bơi trong đó suốt gần một năm vậy. Mặt nạ và cái chỉnh hàm cũng được tháo ra và mặt tôi cuối cùng đã trở lại với chủ nhân của nó, dù không thể nào nhận ra được đó là khuôn mặt từng là của tôi trước đây.

Tôi đã trải qua cảm giác rùng mình khiếp đảm khi bắt đầu lại. Chẳng dễ dàng gì với ngoại hình hiện tại của tôi: trong văn hóa quần chúng, người ta chỉ có thể thấy khuôn mặt như của tôi ở Bóng ma trong nhà hát Opera, ở Freddie Krueger từ phố Elm, hay ở Leatherface từ sâu trong lòng Texas. Chắc chắn một điều, một nạn nhân bỏng vẫn có thể "kiếm được một em xinh tươi" - nhưng thường là phải dùng đến dụng cụ hỗ trợ là cái cuốc chim.

Tôi miễn cưỡng coi khuôn mặt này là của mình, nhưng đây chính là lý do tôi phải làm thế: nếu tôi không làm thế, khuôn mặt tôi sẽ coi tôi là của nó. Có một câu sáo ngữ là vào năm hai mươi tuổi thì người ta sẽ sở hữu khuôn mặt mà Chúa ban cho họ, nhưng đến năm bốn mươi tuổi thì người ta sẽ sở hữu khuôn mặt mà người ta đáng được sở hữu. Nhưng nếu khuôn mặt và tâm hồn hòa quyện với nhau để khuôn mặt có thể phản ảnh được tâm hồn, chắc chắn sẽ có cái hệ quả là tâm hồn cũng có thể phản ảnh được gương mặt. Như Nietzsche đã viết: "Các nhà tội phạm học nói cho chúng ta biết rằng loại tội phạm điển hình thì luôn rất xấu xí:monstrum in fronte, monstrum in animo (một con quái vật trong vẻ ngoài, một con quái vật trong tâm hồn).

Nhưng Nietzsche sai rồi. Tôi bẩm sinh đã rất đẹp và tôi đã sống với một diện mạo đẹp trong ba mươi năm tròn, và trong suốt thời gian đó tôi chưa bao giờ cho phép tâm hồn mình biết yêu là gì dù chỉ một lần. Làn da không tì vết của tôi là một chiếc áo giáp lạnh lẽo dùng để quyến rũ phụ nữ bằng vẻ hào nhoáng, trong khi đè nén mọi cảm xúc và cố gắng bảo vệ người mặc nó. Những hành động nóng bỏng nhất chỉ mang tính kỹ thuật: tình dục chỉ là hoạt động thể xác đơn thuần; chinh phục là một sở thích; cơ thể tôi luôn được đem ra sử dụng, nhưng hiếm khi được thưởng thức hạnh phúc đúng nghĩa. Tóm lại, tôi sinh ra với tất cả những lợi thế mà một con quái vật không bao giờ có, và tôi đã chọn việc coi khinh tất cả những thứ đó.

Giờ áo giáp của tôi đã bị tan chảy và thay thế bởi một vết thương lở loét. Lằn ranh đẹp đẽ tôi dùng để ngăn cách mình với mọi người đã biến mất, được thay thế bởi một hàng rào mới - sự xấu xí - khiến tất cả mọi người đều tránh xa khỏi tôi, dù tôi có thích thế hay không. Ai đó có thể nghĩ rằng kết quả cũng y như nhau thôi, nhưng không hẳn thế. So với trước đây, giờ tuy chỉ có rất ít người xung quanh tôi nhưng họ lại là những người tốt đẹp hơn rất nhiều. Khi những người đã từng kết giao với tôi liếc tôi một cái ở phòng điều trị bỏng rồi đi luôn, họ đã mở rộng cánh cửa cho Marianne Engel, Nan Edwards, Gregor Hnatiuk, và Sayuri Mizumoto.

Sự đời xoay chuyển mới bất ngờ làm sao: chỉ sau khi làn da của tôi bị thiêu thì tôi mới có được khả năng cảm nhận. Chỉ sau khi tái sinh trong một hình thù xấu xí thì tôi mới thấu hiểu chút ít những gì trái tim có thể làm được: tôi chấp nhận khuôn mặt ác quỷ và cơ thể quái dị bởi vì chúng bắt tôi phải vượt qua những hạn chế của con người tôi, trong khi cơ thể cũ lại cho phép tôi giấu chúng đi.

Tôi không phải và sẽ không bao giờ là một người anh hùng, nhưng tôi đã trở nên tốt đẹp hơn tôi trước đây. Hay ít nhất đó cũng là những gì tôi tự nhủ; và lúc này đây, thế là đủ.

Marianne Engel bước vào phòng tôi vào hôm mười ba tháng Hai, lúc nửa đêm, và cầm tay tôi dẫn đi. Cô đưa tôi xuống cầu thang và đi ra ngoài qua cửa sau. Ngoài trời tuyết đang rơi khiến những bức tượng quái vật bừa bãi cả sân sau trông như đang đội mũ trùm đầu màu trắng.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 61


Cô mở cánh cổng dẫn chúng tôi ra nghĩa trang phía sau nhà thờ thánh Romanus. Những bia đá trông không khác gì mấy cái lưỡi xám xịt nhô lên khỏi các ụ tuyết nhìn chúng tôi rón rén đi qua chúng để đến điểm trung tâm của nghĩa trang, nơi cô đã trải sẵn một tấm chăn bằng da ngựa. Trên đầu chúng tôi, mặt trăng như một cái mụn rực lên giữa ngàn sao. Marianne Engel cố thắp nến nhưng những ngọn gió cứ thổi tắt hết diêm của cô đi, và cô cười phá lên trước chuyện này. Cô kéo chặt áo khoác quanh người. Tôi ghét cái lạnh nhưng tôi thích được ở gần cô.

"Tôi đưa anh tới đây để nói với anh vài điều," cô nói.

"Điều gì?"

"Tôi sắp chết rồi."

Không, cô sẽ không thế đâu. "Sao cô lại nói vậy?"

"Tôi chỉ còn mười sáu trái tim nữa thôi."

"Cô sẽ sống tới già cơ," tôi trấn an cô.

"Tôi đã già rồi," cô cười mệt mỏi. "Tôi nghĩ lần này, thần chết sẽ mang tôi đi."

"Đừng nói thế. Cô sẽ không chết đâu." Cô sẽ không chết đâu.

Cô đặt tay lên má tôi. "Trái tim cuối cùng của tôi luôn luôn dành cho anh, vì thế tôi muốn anh chuẩn bị sẵn."

Tôi đang định nói với cô rằng cô chỉ toàn nói năng linh tinh, nhưng cô đã đặt một ngón tay lên môi tôi. Khi tôi cố nói bằng mọi giá, cô đã hôn lên đôi môi mỏng dính của tôi và tất cả những từ ngữ định nói ra đã bị đẩy lại vào trong miệng.

"Tôi không muốn chết," cô thì thầm, "nhưng tôi cần phải vứt gánh nặng của hàng trăm trái tim này đi."

"Chỉ là... cô đang gặp phải tình trạng bệnh lý thôi." Tôi băn khoăn không biết mình thương cảm cô ngần nào do cô bị tâm thần phân liệt và yêu mến cô bao nhiêu dù cô có mắc bệnh hay không. "Tôi biết cô không muốn tin vào điều đó, nhưng đó là sự thật...."

"Những điều anh tin mới ít làm sao, và để anh tin mới mất nhiều công sức thế nào," cô nói. "Nhưng anh sẽ tin thôi. Giờ hãy đi vào trong nào."

Cái cách cô nói chúng tôi sẽ đi vào trong đầy cả quyết và chắc chắn, làm tôi không khỏi lo lắng chuyện xấu nhất có thể xảy ra. "Tại sao?"

"Vì ngoài này lạnh như băng ấy," cô nói, và vẻ nhẹ nhõm của tôi rõ đến nỗi có thể nhìn thấy được. "Đừng lo lắng, tôi không định chết tối nay đâu. Chúng ta vẫn còn nhiều việc phải làm."

"Ví dụ?"

"Ví dụ như giúp anh bỏ thuốc kích thích." KHÓ LẮM. Cô nói, "Anh thực sự nghĩ tôi không biết anh đang mua thêm morphine à?"

Buổi sáng hôm đó, ngày Valentine, khi thức dậy, tôi đã nhìn ngay vào cái hộp gỗ nhỏ cất quỹ đen để mua morphine của mình và thấy nó trống rỗng. Tôi lật đật đi vào phòng ngủ của Marianne Engel, nơi cô đang nằm bất động. Tôi lắc mạnh vai cô và khi cô mở he hé mắt ra, tôi liền hỏi hộp thuốc của mình đang ở đâu.

"Trèo lên giường với tôi. Anh sẽ ổn thôi."

"Cô không hiểu. Có một con rắn trong xương sống của tôi..."

"Anh chàng ngốc nghếch," cô nói. "Anh cần biết không nên nghe lời bọn rắn. Chúng toàn nói dối thôi."

"Cô đã không cho tôi đủ thời gian để thích ứng với ý tưởng đó," tôi nài nỉ. "Ngày mai, tôi sẽ bỏ, nhưng cho tôi một ngày..."

TA ĐÃ GẦN ĐẾN ĐÂY RỒI...

"Chịu đựng là một bài tập tốt cho tâm hồn."

"Không phải thế!"

"Nếu anh không thể yêu được nỗi đau" - cô cố xoay chuyển tình thế - "ít nhất anh cũng có thể yêu được những bài học nó dạy cho mình."

... VÀ NGƯƠI CHẲNG THỂ...

Tôi thà cứ vô học còn hơn. "Tôi có thể điền lại đơn thuốc của mình và..."

"Tôi giật nó trôi xuống toilet rồi," cô trả lời, "và bác sĩ Edwards sẽ không điền lại đơn đâu. Tôi cũng đã đóng băng tài khoản của anh rồi, vì thế anh chỉ còn cách cướp tiền của tôi để mua thuốc kích thích ngoài đường, không thì trèo lên giường."

... CẢN ĐƯỢC ĐÂU.

"Ngủ đi," Marianne Engel nói. "Hãy cứ ngủ đi."

Morphine được sản xuất từ cây anh túc, Papaver somniferum, và được chiết xuất lần đầu tiên vào những năm đầu thế kỷ mười chín bởi y sĩ người Đức F.W.A. Serturner. Nó được đặt theo tên của Morpheus, vị thần của những giấc mơ trong thần thoại Hy Lạp, và tôi có thể chứng nhận rằng cái tên đó rất chuẩn xác. Morphine mang lại ảo giác và mê muội cho mọi hoạt động sống kể từ lần đầu được tiêm thẳng vào mạch máu tôi.

Dù chức năng chủ yếu của morphine là giảm đau, nó cũng có thể giảm nỗi sợ hãi và lo lắng, giảm đói và tạo cảm giác hưng phấn. Bất cứ khi nào tôi tiêm morphine vào người, nó cuộn trào trong cơ thể tôi những cảm giác ngọt ngào tuyệt hảo đến nỗi khiến cuộc sống của tôi dễ chịu hơn. Morphine cũng giúp làm giảm khát khao tình dục của tôi, điều mà, trong khi có lẽ không phải là tác dụng mong muốn cho hầu hết số đông, là món quà của thượng đế dành cho một người đàn ông không có dương v*t nhưng vẫn còn duy trì khả năng sản xuất kích thích tố sinh dục nam. Tác dụng tiêu cực, tuy thế, tôi vẫn thường xuyên bị táo bón.

Nhưng điều morphine thực sự giúp tôi - chức năng tối quan trọng của nó - là khóa miệng con rắn lại, ít nhất là một lúc.

Khi mới đến ở với Marianne Engel, tôi đã dùng khoảng một nghìn milligram một ngày. Liều dùng của tôi theo thời gian đã trườn qua cả sức chịu đựng của tôi và cuối cùng, tôi hiện đang dùng morphine với liều lượng gấp bốn lần lúc đầu.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 62


NGƯƠI BIẾT MÌNH ĐANG ĐI ĐÂU ĐẤY CHỨ?

Tôi thức tỉnh giữa bóng tối. Tôi tỉnh ngay lập tức, hai mắt mở thao láo, nhưng tôi chẳng nhìn thấy gì cả. Tôi có thể cảm nhận được nhờ các đặc điểm của thành phần không khí nơi đây (độ ẩm, độ đặc loãng) rằng mình đang ở trong một không gian kín. Không khí nặng nề đến nỗi gần như không thể thở nổi, với mùi gỗ mục, và tôi đang nằm ngửa. Một cảm giác ngột ngạt đáng sợ bao trùm lên tôi.

TA Ở ĐÂY RỒI.

Tôi có thể nghe được - không, cảm nhận được - sự sung sướng trong giọng nói của con rắn; mụ ta đang hạnh phúc với việc ký sinh trong xương sống của tôi hơn bao giờ hết. Morphine đã giúp kiềm chế mụ ta nhưng giờ đây, tại nơi này, cái rào chắn đó đã bị dỡ bỏ. Con rắn cuồng loạn ăn mừng.

NGƯƠI CHẲNG THỂ CẢN ĐƯỢC ĐÂU.

Tôi cố vươn hai cánh tay ra nhưng tay tôi chạm vào những rào chắn ở mọi phía, chỉ cách có độ chục phân. Gỗ phẳng và nhẵn. Gần một mét chiều rộng, gần hai mét chiều dài; kích thước cơ thể tôi. Đối với con người, chỉ có duy nhất một cái hộp có kích cỡ thế này.

NGƯƠI ĐANG NẰM TRONG QUAN TÀI.

Điều này không có thật. Tôi cố nhớ lại mọi thứ. Tôi đã biết chuyện gì sẽ xảy ra nếu ngưng dùng morphine, vì thực sự tôi cũng đang trong tình trạng đó, không phải trong cái mộ tưởng tượng này. Tôi đã nghiên cứu, như một sinh viên khẩn khoản cầu nguyện bài kiểm tra sẽ bị hoãn lại, về việc cai nghiện. Đột ngột bỏ morphine không phải chuyện gì nguy hiểm đến tính mạng, như chuyện hay xảy ra với những loại thuốc gây nghiện khác, nhưng nó có thể gây ra những ảo giác kỳ lạ. Rõ ràng đây là một trong số những ảo giác ấy.

Có quá nhiều lý do để không tin vào chuyện này. Làm sao tôi có thể bị lôi ra từ phòng ngủ rồi bị chôn mà không hề hay biết? Nếu gỗ quan tài đã mục ruỗng đến mức này, làm sao tôi có thể ở dưới đất lâu đến thế? Làm sao trong đây vẫn còn có ôxy? Tất cả những chuyện này đều không thể xảy ra; vì thế, tôi chỉ đang bị ảo giác thôi.

Nhưng liệu những người bị ảo giác có đủ tỉnh táo để nhận ra điều đó không? Không phải tất cả mọi ảo giác đều được mặc định, theo nghĩa thông thường, là rất vô lý sao? Tôi không hề có cảm giác mình đã bị tách rời khỏi hiện thực; thực sự, chuyện này quá giống thực tế. Những người đang bị ảo giác có thể phân biệt chất lượng không khí không? Họ có nghĩ được là gỗ đóng quan tài mất bao lâu để mủn ra không, hay họ có nghĩ được bọn sâu bọ cần bao lâu để chui vào quan tài không? Nếu tôi thực sự đang chịu tác dụng của việc ngừng dùng thuốc đột ngột, tại sao tôi lại không lên cơn thèm thuốc? Vì thế dù tôi biết rằng chuyện này không thể có thật, tôi vẫn phải băn khoăn vì sao tôi lại hỏi cái câu logic đến thế?

Tôi liền nhận ra ngay những con nghiện cố bỏ thuốc sẽ mất tỉnh táo y như kiểu những triệu phú vô lo vô nghĩ mất tiền của: dần dần, rồi độp một cái. Sau khi xem xét mọi thứ cẩn thận, tôi ngay lập tức mất luôn khả năng kiểm soát xem cái gì mới được coi là đối lập hoàn toàn với một khám phá bất ngờ: thay vì tất cả những suy nghĩ của tôi cùng xuất hiện rõ ràng, chúng cùng nhau bật khỏi trí óc tôi như những nạn nhân cố gắng thoát khỏi tâm chấn động đất vậy.

Dù rõ ràng không có chỗ để nạy nắp quan tài lên, tôi vẫn điên cuồng tung những cú đấm của mình ra xung quanh, đập vào miếng gỗ bị đè nặng dưới ba tấc đất. Tôi cào xé cho đến lúc móng tay của mình tứa ra và kêu gào cho tới khi không còn chút hy vọng nào trong cổ họng. Khi còn nằm viện, tôi tin rằng mình đã biết thế nào là sợ hãi khi chờ tới đợt cắt lọc tiếp theo. Nhưng đó chỉ là trò vớ vẩn; tôi chả biết gì cả. Tỉnh dậy trong một cái quan tài và biết rằng mình chỉ còn cách chờ chết? Đó mới là sợ hãi.

Sự chống trả quá khích chẳng thấm vào đâu của tôi đã tỏ ra rất vô dụng, dĩ nhiên. Vì thế tôi ngừng lại. Dù có thể phá được lớp gỗ này ra thì tôi vẫn cứ phải chết thôi, chỉ khác mỗi phương thức: thay vì chết do thiếu ôxy, tôi sẽ bị ngạt thở trong đống đất đang bao kín quan tài. Thiếu không khí còn hơn là bị đất đè cho chết ngạt. Và thế là, yên lặng bao trùm lên cái hộp của tôi như chiếc chăn đắp trên một thây ma. Không có gì để làm ngoài việc chờ đợi, tôi quyết định sẽ làm gì cho ra dáng một chút.

Tiếng thở của tôi vọng lại, như thể cỗ quan tài là một căn phòng tồi tàn nhỏ bé bằng bê tông. Tôi sẽ nghe cho tới khi không còn nghe được nữa, rồi hơi thở yếu ớt cuối cùng của tôi sẽ tan vào bóng tối. Tôi sẽ ra đi thật nhẹ nhàng, tôi hứa với bản thân mình như vậy, bởi vì tôi - sau tai nạn thảm khốc này - đã sống lâu hơn khả năng của mình rất nhiều.

Rồi tôi nhận ra rằng chuyện này ngu ngốc đến thế nào, nghĩ về cái chết khi đang bị ảo giác. Không vấn đề gì. Bình tĩnh tự tin. Tôi đã dạy cho Marianne Engel hồi ở Đức thế nào nhỉ?Mọi bí quyết đều nằm ở cách thở. Hãy giữ chắc vũ khí bằng cách thở chậm lại. Hít vào, thở ra, hít vào, thở ra. Từ tốn. Tôi là vũ khí, tôi tự nhủ; một vũ khí sống, được tôi luyện trong lửa, và không gì có thể cản lại được.

Và rồi. Tôi đã cảm thấy. Một cái gì đó. Và cái gì đó chỉ có thể diễn tả bằng một từ tôi không muốn dùng chút nào: kỳ-bí, một từ ngu ngốc tôi bắt buộc phải đem ra sử dụng vì, rất không may mắn, đó là từ duy nhất chính xác. Tôi cảm thấy một cái gì đó đang hiện hữu. Và nó đang ở ngay bên cạnh tôi. Một người phụ nữ. Tôi không hiểu tại sao mình lại biết đó là một phụ nữ, nhưng sự thật là thế. Không phải là Marianne Engel, vì tiếng thở không giống. Mãi đến lúc ấy tôi mới biết mình có thể nhận ra cô bằng nhịp thở, nhưng tôi đã làm được và đây không phải cô. Tôi đột nhiên nghĩ tiếng thở đó có thể xuất phát từ con rắn. Có lẽ mụ già đã trườn khỏi xương sống của tôi để trực diện đối đầu với tôi. Rốt cuộc thì, chẳng ai có thể cứ nói sau lưng người khác mãi được.

Nhưng không, đây là một cơ thể người đang bình thản nằm cạnh tôi. Thật nực cười, vì quan tài - cái quan tài tưởng tượng - chẳng còn chỗ cho thêm một ai nữa. Tuy nhiên, để chắc chắn, tôi hích nhẹ vào lớp gỗ bên cạnh mình. Hơi thở của cô rất nhịp nhàng, không hiểu sao làm cho tôi cảm thấy rùng rợn.

Một bàn tay chạm vào tôi. Tôi hẩy ngay ra. Tôi ngạc nhiên thấy mình có thể cảm nhận được da thịt cô; tôi đã nghĩ thực thể này là một thứ gì đó phi vật chất. Những ngón tay của cô rất nhỏ nhắn nhưng cô vẫn đủ sức nắm lấy tay tôi.

Tôi cố tỏ ra can đảm trong khi đòi cô nói cho mình biết cô là ai, nhưng giọng tôi đã bị khản đặc. Không có câu trả lời. Chỉ có tiếng thở đều đều của cô. Tôi hỏi lại lần nữa: "Cô là ai?"

Ngón tay cô nắm chặt hơn một chút, đan vào ngón tay tôi. Tôi hỏi một câu khác. "Cô đang làm gì ở đây?"

Vẫn chỉ có tiếng thở nhẹ nhàng, đều đặn của cô. Với những câu hỏi không lời đáp, tôi đã cảm thấy bớt sợ hơn. Cách cô nắm tay tôi không còn đe dọa nữa, mà như đang trấn an tôi, rồi tôi nhanh chóng thấy mình đang bay lên, gần như thế - không, không phải gần như thế, mà chắc chắn là - đang bay lên. Lưng tôi bắt đầu nhấc khỏi đáy quan tài nơi tôi vừa nằm.

Tôi cảm thấy mình là một diễn viên trong trò ảo thuật bay với hai tay được giữ bởi một nhà ảo thuật. Tôi cảm thấy chúng tôi đang xuyên qua nắp quan tài, rồi xuyên qua lớp đất đá. Một quầng sáng màu cam lướt qua mí mắt tôi khi chúng tôi đến gần mặt đất, và tôi thậm chí còn không chắc mình còn thở không nữa.

Đất vỡ ra xung quanh khi tôi nhìn thấy ánh mặt trời, và màu cam đó rừng rực trước mắt. Tôi được nâng lên cao, cách vài phân so với mặt đất. Đất rớt khỏi ngực tôi và tôi có thể cảm thấy nó trượt xuống những dẻ xương sườn, rơi khỏi hông. Tôi đang trôi trong không trung mà không có chỗ nào để bấu víu; người phụ nữ đã không phá huyệt ra cùng tôi. Chỉ có một cánh tay của cô là trồi lên, kết nối tôi với mặt đất như sợi dây gắn với quả bóng bay. Tay cô giữ tôi trong thoáng chốc rồi thả ra và bị kéo lại vào trong mộ. Đó là lúc tôi nhận ra rằng cô không thể rời khỏi đó được: cô không phải là khách đến thăm quan tài của tôi, tôi mới là khách của cô.

Cơ thể tôi nằm trên một đống đất đá. Mắt tôi đã quen dần với ánh sáng. Tôi đang ở trên một ngọn núi và tôi có thể nghe thấy tiếng sông chảy róc rách gần đó. Thật thanh bình, chỉ trong giây lát, cho đến khi mặt đất dưới chân tôi lại bắt đầu rung chuyển. Trong giây phút hoảng loạn, tôi lo rằng người phụ nữ câm lặng đó đã quyết định kéo tôi lại xuống đất, nhưng chuyện xảy ra khác hẳn. Từ tứ phía, đất đá khẽ rung chuyển từng đợt, như những con chuột chũi dùng móng vuốt cào cấu để cố trồi lên mặt đất vậy.

Lúc đầu, chúng chỉ là những tia sáng lóe lên trong nắng. Nhưng rồi hình dạng thật của chúng bắt đầu hiện ra: những bông hoa, với những cánh hoa không màu. Khi nhìn gần hơn, tôi nhận ra rằng chúng được làm từ thủy tinh. Hoa loa kèn. Cả ngàn bông loa kèn thủy tinh nở khắp mọi nơi, với ánh sáng rực rỡ dường như tỏa ra từ chính chúng vậy.

Tôi rướn người bẻ một bông. Ngay khi tôi chạm vào, bông hoa đóng băng lại dưới ngón tay tôi. Biến từ thủy tinh thành băng, cả một nghìn bông hoa - như thể đều được gắn kết với nhau bởi một linh hồn - bắt đầu nổ tung ra thành từng mảnh nhỏ. Mỗi tiếng nổ là một từ được thoát ra, trong giọng thì thầm của một người phụ nữ, và tất cả hợp với nhau thành một bản giao hưởng nghe như tiếng của tình yêu thuần khiết. Aishiteru, aishiteru, aishiteru.

Những bông hoa loa kèn nổ tung rơi xuống núi như những quân cờ domino đổ ập về phía chân trời. Trong niềm hân hoan của câu hát Aishiteru vang vọng khắp bầu trời, ngọn núi rung lên dữ dội rồi sụp đổ, thành những bình nguyên trải ra mọi hướng. Chỉ vài giây sau khi chuyện này xảy ra, khắp xung quanh tôi những bông hoa vụn vỡ đã trở thành một cánh đồng băng trải dài ngút tầm mắt.

Tôi chăm chú nhìn cánh đồng băng hoang dại này và nó cũng tàn nhẫn nhìn thẳng vào tôi. Gió rét buốt như đến từ Nam Cực cứ quật liên hồi vào thân thể đang run bần bật của tôi. Giờ tôi mới nhận ra mình hoàn toàn trần trụi, không có gì trên người ngoài sợi dây chuyền mặt khắc hình thiên thần không bao giờ rời khỏi cổ tôi.

Ngôi mộ đã biến mất - dĩ nhiên, khi giờ đây cả ngọn núi cũng đã biến mất - nhưng có một chiếc áo nhà sư tuềnh toàng đang nằm tại nơi từng là ngôi mộ. Khi tôi nhặt nó lên ướm thử vào người mình, vài hạt đất nhỏ rơi ra rồi bị điệu vũ ba lê mạnh mẽ của gió thổi đi mất. Chiếc áo nhà sư quá nhỏ so với người tôi nhưng vì nó là tất cả những gì tôi hiện có, tôi đã mặc nó vào. Bạn có thể tưởng tượng một người bị bỏng như tôi mặc chiếc áo ni cô bé xíu thì trông lố bịch đến thế nào nhưng khi bạn đang chết rét thì lo lắng về thẩm mỹ chẳng có ích lợi gì đâu.

Chiếc áo giống hệt cái tôi đã thấy người phụ nữ Nhật Bản mặc hôm lễ hội Halloween. Không nghi ngờ gì nữa, cái áo và ngôi mộ này, thuộc về Sei.

Sự trống trải lạnh lẽo của thế giới mới này như nuốt chửng tôi. Địa điểm tồn tại của tôi thay đổi đến chóng mặt: từ cái nơi bé và tối nhất tôi có thể tưởng tượng ra, đến nơi rộng lớn và sáng sủa nhất. Trong hàng dặm quanh đấy, tôi là vật thể cao nhất, trông thật hoành tráng chỉ vì có hai chân để đứng được, thế nhưng tôi vẫn cảm thấy mình thật bé nhỏ giữa bầu trời bao la. Đứng trên một bình nguyên bằng phẳng làm bạn cảm thấy vừa vĩ đại lại vừa nhỏ bé.

Chiếc áo mỏng manh chẳng chống rét được mấy, gió lạnh thấu xương. Tôi nhìn thấy gì đó, tôi đã bắt đầu bị mù tuyết, nhưng vẫn cố nheo mắt để xác định cho rõ vật kia: một sinh vật nặng nề bước đi giữa không gian trống trải ghê hồn. Hình thù đó có vẻ đang đi thẳng về phía tôi, nhưng rất khó nói chắc được giữa một nơi bằng phẳng thế này. Tôi tiến về phía nó. Nó có là gì đi nữa thì cũng không thể tệ hơn việc cứ đứng thế này, đợi đông thành đá được.

Một lúc sau tôi nhận ra cái vật thể đang tiến về phía mình ấy là một người đàn ông. Anh ta hẳn đến cứu tôi, vì nếu không đến cứu tôi thì chắc chỉ để giết tôi mà thôi. Chi tiết đầu tiên tôi nhìn ra là những lọn tóc đỏ và dày của anh ta, nổi bật trên nền tuyết trắng như vết máu đọng trên tấm khăn trải giường. Thứ tôi thấy tiếp theo là anh ta choàng áo lông thú dày cộp và đi đôi ủng cũng dày không kém. Quần anh ta làm bằng da thuộc dày dặn và áo khoác cũng được làm từ da thú. Hình như anh ta mang một chiếc túi da trên vai. Anh ta thở ra khói liên tục. Râu anh ta đọng đầy những hạt tuyết nhỏ li ti. Anh ta ở gần tôi lắm rồi. Khóe mắt anh ta hằn những nếp nhăn và tôi tin anh ta trông già hơn tuổi thật rất nhiều.

Khi đến trước mặt tôi, anh ta giơ cái túi đeo trên vai ra và nói, "Farðu í petta." Tôi hiểu câu đó có nghĩa là gì: Anh mặc những cái này vào.

Tôi mở chiếc túi ra và thấy một bộ quần áo đầy đủ làm bằng da dày phủ lông để bảo vệ tôi. Tôi hối hả mặc quần áo vào, và nhanh chóng cảm thấy người mình ấm lên hẳn. "Hvað heitir pú?" Tên anh là gì? Tôi bất ngờ khi thấy miệng mình cũng phát ra tiếng Iceland.

"Tôi là Sigurðr Sigurðsson, và anh sẽ đi cùng tôi." Câu trả lời đã giúp tôi khẳng định chắc chắn nhân dạng của anh ta mà khi nãy tôi đã đoán ra; nhưng không chắc lắm, bởi vì ở đây - bất kể đây là đâu đi nữa - Sigurðr cũng không bị thiêu cháy dù đó là cách chấm dứt cuộc đời anh. Điều đó làm tôi băn khoăn tại sao thân thể tôi vẫn đầy thương tổn.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 63


"Chúng ta đang đi đâu vậy?" tôi hỏi.

"Tôi không biết."

"Khi nào chúng ta sẽ đến đó?"

"Tôi không biết," anh ta liếc mắt nhìn về phía đường chân trời. "Tôi đã đi được khá lâu, tôi nghĩ chắc cũng gần tới rồi."

Sigurðr đeo một cái vỏ kiếm ở thắt lưng, thứ đã lắc qua lắc lại trên hông Sei khi họ khiêu vũ. Anh ta rút thanh Sigurðrsnautr chuôi chạm hình mãng xà ra, rồi đưa thắt lưng và bao kiếm cho tôi. "Đeo cái này vào, anh sẽ cần đến nó đấy."

Tôi hỏi tại sao. Anh ta trả lời là mình cũng không biết.

Tôi ném áo nhà sư của Sei đi, nghĩ nó đã vô dụng khi giờ đây tôi đã có bộ quần áo bằng da. Sigurðr nhặt nó lên và đưa lại cho tôi. "Dưới Địa ngục, anh sẽ phải dùng đến tất cả mọi thứ mình có."

Tôi buộc chiếc áo lại quanh eo, làm thành chiếc thắt lưng thứ hai cùng với chiếc mà Sigurðr vừa mới tặng cho tôi. Tôi hỏi anh ta tại sao lại biết chúng tôi phải đi theo hướng nào.

"Tôi không biết," anh ta trả lời. Sigurðr là người khá kiệm lời. Anh ta dùng thanh kiếm của mình làm gậy đi đường, mặt băng bị cắt ra dưới mỗi nhát kiếm. Đối với một người không biết mình đang đi về đâu, những bước chân của anh ta thật quyết đoán làm sao.

"Đây có phải chỉ là ảo giác không?" Tôi cảm thấy mình cực kỳ ngớ ngẩn khi đang ở trong một ảo giác mà hỏi xem liệu đó có phải là ảo giác không bằng một ngôn ngữ tôi không hề biết. (Trên thực tế, có bao nhiêu người trên cả thế giới này biết từ "ảo giác" trong tiếng Iceland là ofskynjun?) Sigurðr trả lời rằng anh ta không nghĩ đây lại là một ofskynjun, nhưng cũng không chắc lắm.

Chúng tôi cứ đi. Đi mãi. Hằng ngày trời, nhưng mặt trời không bao giờ lặn. Có lẽ bạn nghĩ đây là một kiểu nói quá, rằng tôi thực sự chỉ muốn nói là hàng giờ, và thời gian ấy dài lê thê như thể bao ngày đã trôi qua mà thôi. Nhưng không, tôi muốn nói là hằng ngày trời. Chúng tôi cứ đi trong trạng thái cực kỳ mệt mỏi nhưng chúng tôi lại không bao giờ cảm thấy cần ngủ, và dù đầu gối tôi chẳng tử tế gì, tôi vẫn cảm thấy mình có thể đi mãi không thôi. Tôi nghĩ về những nơi ở vùng cực Bắc của thế giới, nơi mặt trời mọc liên tục trong suốt sáu tháng liền. Liệu chúng tôi có phải đi xa đến thế không?

Sigurðr vẫn tiếp tục đóng vai người nói ít, và nói tối nghĩa; hầu như trong suốt cuộc hành trình, âm thanh duy nhất phát ra từ người anh ta là tiếng nhạc nhẹ nhàng từ dưới chiếc áo da, quanh vùng cổ. Được một lúc thì tôi dừng nói chuyện với anh ta, trừ việc cố làm anh ta cười. Tôi chưa bao giờ thành công cả. Thỉnh thoảng tôi không đi tiếp chỉ để phá vỡ sự đơn điệu. Tôi nài nỉ Sigurðr chờ chỉ một phút thôi nhưng anh ta luôn nói rằng chẳng có thời gian nghỉ ngơi đâu. Khi tôi hỏi tại sao, anh ta trả lời, "Vì chúng ta cần phải đến đó."

Khi tôi hỏi Sigurðr "đó" là ở đâu, anh ta không biết. Vì thế tôi nói với anh ta rằng, khi anh ta không biết nơi đó là ở đâu, tôi chẳng thấy có lý do gì phải tiếp tục đi theo anh ta cả. Anh ta khịt mũi, nói tôi được phép chọn làm cái việc ngu ngốc ấy, và cứ tiếp tục đi mà không cần có tôi. Ngay trước khi anh ta khuất khỏi tầm nhìn, tôi lại hộc tốc chạy đuổi theo. Vì dĩ nhiên là tôi cần anh ta - một mình tôi thì làm được gì ở cái chỗ này chứ? Và thế là chúng tôi lại nặng nhọc tiến về phía trước, tiến về cái nơi anh ta không thể định nghĩa được còn tôi thì không thể tưởng tượng nổi.

Ảo giác lẽ ra phải đẹp hơn thế này, tôi nghĩ vậy. Đi dọc bình nguyên băng giá trong hằng ngày trời thật là một việc buồn tẻ và tôi phải ngạc nhiên khi thấy mình có thể tưởng tượng ra một thứ vớ vẩn như thế, trong thời gian lâu đến thế. Lạnh cắt da cắt thịt; tuyết cuộn xoáy bay tứ tung; và sự mệt mỏi làm tôi đau đớn đến nỗi nghĩ rằng đây chẳng phải tưởng tượng. Điều duy nhất có vẻ thiếu thực tế ở đây là khả năng đi liên tục mà không cần nghỉ ngơi hay ăn uống gì của tôi.

Dĩ nhiên đây chỉ là ảo giác. Một ảo giác quá thật, quá lạnh lẽo, quá dai dẳng. Việc ngừng dùng thuốc kích thích lẽ ra không gây ra hậu quả thế này. Trừ phi...

"Sigurðr, tôi đã chết chưa?"

Anh ta cuối cùng cũng cười, "Anh chỉ là khách ở đây thôi."

Nếu nơi đây thuộc về Sigurðr, cũng như cỗ quan tài là của Sei, tôi muốn biết nhiều hơn về nó. Về tất cả mọi thứ. Tôi quyết định loại hết tế nhị qua một bên. "Âm thanh phát ra từ cổ anh - có phải là của chiếc vòng cổ đính đá quý từng thuộc về Svanhildr không?"

Anh ta ngừng bước, có lẽ đang quyết định có nên xác nhận hay không. Anh ta chọn có. "Ừ."

"Anh cũng có cả sợi dây gắn đầu mũi tên chứ?"

"Cái đó đã được trao cho Friðleifr rồi."

"Tên cậu ấy đã được đổi thành Sigurðr, anh biết mà."

Anh ta không nói gì một lúc lâu, cho tới khi trả lời với giọng nhẹ nhàng nhất tôi từng được nghe từ miệng anh. "Ừ, tôi biết. Đó là một niềm vinh hạnh lớn."

"Anh có thể kể cho tôi nghe về Einarr chứ?"

Câu hỏi làm anh ta bước tiếp. "Câu chuyện đó không dành cho anh."

"Tôi đã được nghe kể về nó rồi."

Sigurðr quay lại nhìn thẳng vào mắt tôi. "Không. Anh chỉ được nghe phiên bản của Marianne Engel về câu chuyện của tôi thôi. Làm sao anh lại dám nghĩ mình hiểu được trái tim tôi, trong khi anh thậm chí còn không hiểu được trái tim của chính bản thân mình?"

Hãy để một người Viking dạy bạn nghệ thuật nói năng khi bạn ít ngờ đến nhất. Tôi ngậm miệng lại và đi tiếp.

Tôi cứ nghĩ có gì đó ở ngay phía trước, nhưng mãi vẫn chẳng thấy gì, tôi cứ nghĩ là chúng tôi sẽ đi đến một ngọn đồi nhìn xuống một thung lũng, hoặc một thảm rêu mọc trên những mỏm đá granite, nhưng mỗi "đỉnh đồi" chúng tôi gặp đều chỉ là đường chân trời hiện tại được thay thế bằng một đường chân trời mới. Tôi cầu mong sự đơn điệu này được phá vỡ, bởi cái gì cũng được. Một hòn đá tảng. Một vết móng guốc nai sừng tấm Bắc Mỹ. Một con chó kéo xe bị đông cứng. Tên một người được khắc vào băng tuyết với những chữ cái vàng rực trong nắng. Nhưng chúng tôi chỉ gặp thêm nhiều băng, nhiều tuyết. Vào ngày thứ tư (tôi nghĩ đó là ngày thứ tư), tôi dừng lại. Bỏ cuộc.

"Chẳng có gì ở đây cả. Bất cứ cái gì anh nghĩ mình có thể tìm thấy..." Giọng tôi lạc đi. "Sigurðr, anh đã đến "nơi đó" hơn một nghìn năm rồi, vậy mà anh thậm chí còn chẳng biết đó là nơi nào."

"Anh đi cho tới khi nào đến nơi thì thôi," anh ta nói, "và giờ anh đi được đủ xa rồi."

Nơi này chẳng khác bất cứ chỗ nào trên cái bình nguyên này cả. Tôi xoay đủ mọi hướng, vung hai cánh tay lên để nhấn mạnh điểm này. "Anh nói về cái gì vậy?"

"Nhìn lên trời đi."

Tôi ngước mắt lên. Dù sự thật là chẳng có ai trong hàng dặm xung quanh, vẫn có một mũi tên từ đâu phóng thẳng về phía tôi.

Tôi muốn di chuyển nhưng người cứ đông cứng lại, phản ứng duy nhất của tôi là lấy hai tay che đầu. (Mặc dù, sau khi nghe tất cả những câu chuyện của Marianne Engel, quyết định có vẻ logic hơn phải là lấy tay che ngực mới phải.) Mũi tên hụt khỏi tôi độ vài phân, cắm thẳng xuống đất, và mặt đất nứt toác ra như một con quái vật bạch tạng bị gãy móng vuốt. Hàng tảng băng khổng lồ văng lên rồi nứt vỡ, điên cuồng lao vào chúng tôi. Một tảng lớn đập trúng vào vai phải của tôi, hất tôi vào một tảng xù xì khác. Trong giây phút tôi ngộ ra, chuyện này giống y như lúc tôi lái xe lao xuống vực, tất cả mọi thứ chuyển động chậm lại khi tôi nhìn sự cố xảy ra. Nước chậm chạp phun ra từ một vết nứt trên mặt đất, và cuối cùng tôi đã hiểu được tại sao chẳng có điểm gì nổi bật để chúng tôi có thể phân biệt cảnh này với cảnh kia trong suốt quãng đường chúng tôi đi. Chúng tôi có ở trên mặt đất đâu, chúng tôi đang ở trên một khối băng khổng lồ. Những tảng băng nhọn hoắt xoay tròn xung quanh tôi và chẳng mấy chốc tôi đã thấy mình bị trọng lực kéo sụp xuống lòng biển mới vừa được phát hiện.

Tôi cảm thấy lạnh thấu xương. Lớp áo da của tôi đã trở nên vô dụng; vô dụng không để đâu cho hết, thực sự là thế, vì chúng ngấm nước và làm tôi chìm xuống sâu hơn. Lúc đầu tôi còn cố quờ quạng bám vào những tảng băng trôi phía trên, bấu tay vào bất cứ chỗ nào tôi có thể bám được. Tôi cảm thấy hơi ấm nơi bụng mình, nhưng rồi nó cũng nhanh chóng tan đi. Tôi thấy những cử động của mình chậm dần, và tiếng răng tôi va lập cập vào nhau mạnh đến nỗi át cả tiếng băng nứt xung quanh; tôi băn khoăn liệu những cái sẹo lồi trên người tôi có tím tái không.

Chẳng thấy Sigurðr đâu cả. Anh ta hẳn đã bị nuốt chửng giữa những tảng băng nhấp nhô rồi. Một tảng băng quét qua sườn trái tôi và một tảng khác đập bốp vào lưng tôi. Chúng lượn lờ xung quanh tôi, khép chặt vòng vây lại và dìm tôi xuống. Bất cứ nhà khoa học nào cũng sẽ giải thích các tảng băng vỡ sẽ tụ lại trên mặt nước, và đây chính là cách chúng đang làm để lấp lại cái hố mà mũi tên gây ra. Thế là thậm chí cả trong một đại dương ảo giác thì dường như các định luật vật lý cơ bản cũng vẫn được áp dụng; điều này, không nghi ngờ gì nữa, sẽ làm Galileo nở nụ cười hạnh phúc.

Tôi không thể ngẩng mặt lên khỏi mặt nước được nữa, băng đập vào hai cái tai như hai bông súp lơ của tôi, và tôi nhắm mắt lại vì đây là điều mà một người sắp chết chìm phải làm. Tôi cảm thấy thân thể mình đã ngưng hoạt động. Vậy đây là cách mọi thứ kết thúc. Trong nước.Tôi trượt xuống dưới, và thực sự cảm thấy có chút thanh thản. Cách này có vẻ dễ chịu hơn.

Tôi không gặp vấn đề gì với việc nín thở trong hàng chục phút, suốt thời gian đó tôi lịm đi, cho tới khi tôi phát chán với việc chờ phổi mình hết hơi. Tôi mở mắt ra, nghĩ rằng mình sẽ không thể bơi xa được vài phân. Trên mặt băng đã khó xác định khoảng cách rồi, dưới cũng vậy: lại một lần nữa không có gì có thể dùng làm hệ quy chiếu. Không cá, không sinh vật nào khác, không tảo biển, chỉ có làn nước trong veo. Bong bóng nổi lên từ những nếp gấp trên quần áo của tôi và cuộn dọc theo người tôi cho tới khi chúng tụ lại ở góc mí mắt. Thật buồn cười. Trong thế giới thực, tôi không thể tiết ra nước mắt, nhưng trong một thế giới dưới nước thì tôi lại tạo ra nước mắt nhờ không khí.

Một quầng sáng hiện lên, xa xa phía trên đầu tôi. Nó phản chiếu vào trong những giọt nước mắt bong bóng của tôi và khiến tôi băn khoăn, Đây có phải là hành lang ánh sáng dẫn người chết lên Thiên đường không? Chẳng giống chút nào. Cách mọi việc diễn ra giống như một con cá răng nhọn khoe những nếp da phủ lân tinh, dụ con mồi lại để ăn thịt. Tuy nhiên, hóa ra quầng sáng đó chẳng phải con đường dẫn lên Thiên đường mà cũng chẳng phải một con cá ăn thịt. Đó là ánh sáng phát ra từ mũi tên lửa đã đâm vào băng, giờ đang nằm trong bàn tay nắm chặt của Sigurðr khi anh ta trồi lên từ dưới biển và bơi thẳng về phía tôi.

Luồng sáng (lửa không bị tắt trong nước: các định luật vật lý tự nhiên không còn chính xác trong một nơi siêu nhiên như thế này nữa) xuyên qua bộ râu của Sigurðr và hất lên những nếp nhăn quanh mắt anh ta. Mái tóc dài màu đỏ xõa trên đầu anh ta như một vầng hào quang làm từ tảo bẹ, và anh ta đang mỉm cười thanh thản, như thể đã có một chuyện gì đó rất tuyệt vời xảy ra vậy. Anh ta giơ mũi tên ra như một vận động viên Olympic truyền đuốc và, cùng lúc, chúng tôi tiếp tục chìm dần xuống nước. Ngón tay tôi nắm chặt lấy mũi tên, tôi cảm thấy cảm giác ấm áp đầy vinh quang đang truyền khắp người mình, và Sigurðr mỉm cười như một người đàn ông đã hoàn thành nhiệm vụ. Như một người đàn ông sẽ còn được nhớ đến trong ký ức mọi người. Anh ta gật đầu đồng thuận và lặn xuống sâu hơn, để tôi tiếp tục chìm một mình.

Tôi chìm xuyên qua đáy đại dương.

Chỉ còn cách mặt đất vài phân thì tôi rơi xuống. Khi tôi nhìn lên, đáy đại dương - dòng nước lẽ ra là cái trần nhà trên đầu tôi - đã biến mất. Chân tôi đang đặt trên nền đất cứng và ánh sáng đã đổi từ màu xanh ngọc của đại dương sang màu xám xịt chết chóc.

Giờ tôi đang ở giữa một cánh rừng tối tăm đầy những thân cây dị dạng xấu xí.

Tôi nghe thấy tiếng chân chạy vội qua thảm rừng, tới từ ít nhất ba hướng. Tiếng cành cây gãy, tiếng bụi rậm sột soạt. Tôi giơ mũi tên lên làm đuốc. Bóng một động vật bốn chân phóng qua giữa những thân cây, rồi một sinh vật khác thoáng lướt qua. Có bao nhiêu chứ? Hai - không, lại thêm một sinh vật nữa! Ba, ít nhất là thế! Chúng là những thứ gì? Đầu tôi loạn lên với những hình ảnh dã thú: một con sư tử, một con báo, có lẽ một con sói. Nếu chúng tấn công tôi, tôi sẽ tự bảo vệ mình bằng cái gì? Tôi có bao đoản kiếm, nhưng không có thanh kiếm; tôi có chiếc áo nhà sư, nhưng tôi không có đức tin.

Ngay trước mặt là một con đường đi xuyên qua rừng, qua một ngọn đồi nhỏ, và tôi nghe thấy tiếng một con vật nữa, bạo dạn hơn. Kia, hình ảnh nó thoáng hiện giữa những thân cây. Hình như nó đi bằng hai chân, vì thế có lẽ là một loài vượn người thần thoại nào đấy sống trong rừng chăng? Rõ ràng là không. Khi cái bóng đi ra khỏi góc khuất, tôi có thể thấy đó là một người đàn ông ăn vận giản dị, với một cái bụng bự và hàm râu lởm chởm. Khi nhìn thấy tôi, anh ta cười ngoác miệng và dang rộng hai tay như chuẩn bị ôm chầm một người bạn cũ sau bao năm xa cách. "Ciao!"

"Tu devi essere Francesco." Anh hẳn phải là Francesco. Với Sigurðr, tôi biết tiếng Iceland, với người này, tôi hiểu tiếng Ý.

"Sì," anh ta xác nhận, nắm lấy tay tôi. "Il piacere è mio."

"Không, vinh hạnh ấy là của tôi mới phải. Một người bạn chung của chúng ta đã cho tôi xem vài tác phẩm của anh. Chúng thật tuyệt."

"A, Marianna!" Mắt Francesco sáng bừng lên. "Nhưng tôi chỉ là một người thợ thủ công bình thường. Tôi thấy anh có mang theo mũi tên. Tốt. Anh có thể phải cần đến nó."

"Chúng ta làm gì bây giờ? Xin đừng nói với tôi rằng anh không biết nhé."

Francesco cười cho tới khi cái bụng bự rung lên bần bật. "Sigurðr lúc nào cũng hơi bối rối, nhưng tôi biết chắc là chúng ta đang đi đâu." Anh ta dừng lại một chút để gây hồi hộp. "Thẳng xuống Địa ngục."

Bạn phải cảm phục một người đàn ông có thể nói một điều như thế với khuôn mặt nghiêm nghị đến thế, và tôi không thể nhịn được cười. "Vâng, dù sao tôi cũng nghĩ mình đang quen dần với ý tưởng đó rồi."

"Địa ngục này hơi phức tạp hơn một chút, vì thế tốt hơn là anh không nên cười nhiều đến thế." Nhưng, để trấn an tôi sau khi đã cảnh báo, anh ta nói thêm, "Tôi đã được cử đến đây để dẫn đường cho anh, Marianne đã nhờ. Cô ấy luôn cầu nguyện cho anh."
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 64


"Tôi nghĩ đó là hiệu lệnh bắt đầu nhỉ." Thế là chúng tôi bắt đầu chuyến hành trình vào Địa ngục của mình. Tôi có vũ khí phòng thân là một mũi tên lửa, một chiếc áo cà sa quấn quanh thắt lưng, một bộ quần áo chống tuyết của người Viking, một bao kiếm rỗng, và tôi có người dẫn đường là một thợ rèn thế kỷ mười bốn. Tôi không thể được trang bị tốt hơn.

Chúng tôi đi qua một loạt cánh cổng, và chẳng mấy chốc đã đứng trước một dòng sông tôi có thể nhận ra qua những câu chuyện kể trước lúc đi ngủ của Marianne Engel. "Acheron."

Dòng sông thật khủng khiếp, với những tảng băng nhấp nhô giữa rác và những con ác quỷ hình thù quái dị. Những tảng thịt thối lềnh bềnh khắp mặt sông, như thể những cỗ quan tài ngàn năm đã được dốc thẳng xuống dòng sông máu đông này. Mùi hôi thối của xác chết phân hủy nồng nặc. Những sinh vật gần như là người, chỉ giống người ở đặc điểm hình dáng nào đó, vùng vẫy vô vọng giữa dòng nước kinh khủng ấy. Những tiếng hét cầu xin được tha thứ thốt ra từ những cái miệng van nài cầu khẩn; tôi biết những sinh vật này sẽ tiếp tục chìm xuống như thế, không được cứu vớt, mãi mãi.

Một màn sương mù hiện lên từ dưới lòng sông. Trôi bồng bềnh, bình lặng như thể đang bay trên dòng sông, là chiếc đò của Charon, người lái đò bến Mê. Nó/ông ta là một sinh vật nửa người nửa thú hình thù tối đen, cao ít nhất hơn hai mét, mặc một chiếc áo rách như tổ đỉa. Râu ông ta như được làm từ những sợi tảo biển đan lại với nhau và mũi chỉ còn một nửa, với vết sẹo nơi phần còn lại có lẽ đã bị gãy rời trong một trận chiến. Trong cái miệng méo xệch nhô ra hàm răng khấp khểnh, nhọn hoắt, đen xỉn và gãy nát. Da ông ta xám xịt, ướt sượt và thô ráp như da của một con rùa biển bị bệnh, còn bàn tay viêm khớp đang nắm lấy một cái mái chèo bằng gồ sần sùi. Hai hốc mắt của ông ta trống rỗng trừ ánh lửa rực lên bên trong: mỗi con mắt là một bánh xe lửa cháy hừng hực. Vừa lái thuyền vào bờ, ông ta vừa phun ra những từ như sấm rền hơn là tiếng nói. "TÊN NÀY VẪN CHƯA CHẾT."

Dù chẳng phải nhỏ bé gì, Francesco vẫn trông như người tí hon khi đứng trước Charon. Tuy thế, anh ta không chịu cúi đầu chào mà đứng thẳng người lên để trả lời, "Đây là trường hợp vô cùng đặc biệt."

Charon, giờ đã bước lên bờ, lau móng vuốt với vẻ bất hợp tác. "TÊN NÀY KHÔNG QUA ĐƯỢC."

"Anh ấy đã đến tận đây rồi, vì thế hãy nghe chúng tôi nói. Hãy cho chúng tôi ân huệ này, chúng tôi chỉ là những người quá tầm thường so với ngài. Bao lâu rồi ông mới được người sống viếng thăm?"

"ĐỪNG CÓ HÒNG MÀ PHỈNH TA. HẮN KHÔNG ĐƯỢC PHÉP QUA. NGƯƠI CHƯA ĐỦ MƯU MẸO ĐÂU."

"Charon, đừng từ chối nhanh thế chứ. Những thế lực hùng mạnh hơn chúng tôi rất nhiều đã lên kế hoạch chuyến đi này đấy."

Mắt Charon xoáy vào tôi như đang tìm cớ buộc tội, như thể ông ta đang nhìn vào góc tâm hồn xấu xa nhất của tôi vậy. Tôi thu mũi tên lửa lại gần người mình đến nỗi tôi sợ rằng quần áo mình sẽ cháy bùng lên mất, nhưng tôi cần hơi ấm để chống lại cái nhìn lạnh lẽo của ông ta.

Charon chuyển sự chú ý sang Francesco. "NGƯƠI CÓ THỂ NÓI TIẾP."

"Chúng tôi yêu cầu ngài cho chúng tôi qua. Chúng tôi có mang lệ phí theo đây." Francesco hơi cúi đầu và lấy một đồng tiền vàng ra.

"ĐÂY LÀ LỆ PHÍ CHO MỘT NGƯỜI."

"Dĩ nhiên, ngài nói đúng rồi." Khi Francesco ra hiệu cho tôi tiến lên phía trước, tôi liền lắc đầu. Ai mang tiền vào trong ảo giác chứ? Thế là Francesco đập nhẹ tay lên ngực, để nhắc tôi nhớ cái gì đang treo trên cổ tôi.

Tôi gỡ đồng xu khắc hình thiên thần ra khỏi chiếc dây chuyền và đặt nó vào bàn tay đầy móng vuốt của Charon. Ông ta đặc biệt chú ý đến mặt vẽ cảnh đại thiên thần Michael giết rồng. Một biểu hiện kỳ lạ thoáng hiện trên khuôn mặt người lái đò: tôi có cảm giác đó là một nụ cười mà cái miệng xấu xí của ông ta đang cố nặn ra. Ông ta đứng sang một bên và vung tay lên ra dấu bảo chúng tôi lên thuyền. Francesco gật đầu. "Chúng tôi thực sự rất biết ơn lòng hào hiệp của ngài."

Người lái đò nhúng mái chèo xuống dòng nước bẩn thỉu và đưa chúng tôi ra giữa sông Acheron. Con thuyền, trang trí sọ và dây thừng làm từ tóc người, làm từ gỗ mục, nhưng không một giọt nước nào thấm được qua những lỗ thủng trên thuyền. Những xoáy nước nhỏ cuộn lên ở khắp mọi nơi, kéo những kẻ tội đồ sâu xuống đáy. Thỉnh thoảng, Charon dùng mái chèo của mình để đập vào một kẻ tội đồ nào đó.

Hai bóng hình ở đằng xa cố gắng bơi gần về phía chiếc thuyền trông quen thuộc đến lạ lùng. Một người đàn ông và một phụ nữ, nhưng mọi sự chú ý của tôi đều dồn về phía một người đàn ông đang gào thét, chỉ cách thuyền chúng tôi chưa đầy một mét. Ông ta uống phải một ngụm nước của dòng sông thối rữa ấy khi những kẻ tội đồ khác kéo ông xuống dưới. Ông ta quơ cào lấy mọi thứ trong tầm với và lôi một cái chân gãy rời xuống theo mình.

Nhìn vẻ mặt kinh hãi của tôi, Francesco nói, "Không ai ngẫu nhiên bị rơi vào đây cả. Địa ngục chỉ là lựa chọn vì sự cứu rỗi dành cho tất cả những ai đi tìm nó. Những kẻ bị nguyền rủa đã tự chọn số phận của mình, bằng cách cố tình trở nên nhẫn tâm."

Tôi không thể chấp nhận điều đó. "Chẳng ai lại chọn bị nguyền rủa cả."

Francesco lắc đầu. "Nhưng để bị nguyền rủa thì lại quá dễ dàng."

Hai người đó giờ đã đủ gần để tôi có thể chắc chắn (hết mức có thể, rằng đó, cứ nhìn cái thân thể đang phân hủy của họ mà xem) là Debi và Dwayne Michael Grace. Họ đang cầu xin sự giúp đỡ của tôi, giơ những ngón tay - toàn những ngón tay gãy nát - về phía tôi. Những đám tội đồ còn lại cứ bám lấy họ không chịu nhả ra. Debi lẽ ra đã có thể đến được chỗ chiếc đò, nếu Dwayne không điên loạn bấu chặt lấy dì để tránh bị kéo xuống. Dì cũng ăn miếng trả miếng; cả hai đều cố biến kẻ kia thành đòn bẩy để tránh xa khỏi đám đông. Cuộc vật lộn của họ chỉ tổ đảm bảo rằng cả hai sẽ cùng chìm xuống mà thôi.

Chẳng mấy chốc Charon đã thả chúng tôi xuống bờ bên kia và lái đò trở lại nơi xung đột giữa sông. "Tôi nghĩ mình đã làm khá tốt," tôi nói, cố mỉm cười nhưng không được. "Không phải Dante đã ngất xỉu khi ông ta nhìn thấy Charon à?"

Một ngọn núi đứng sừng sững trước mặt chúng tôi, nổi lên bên bờ sông Acheron, và Francesco lại dẫn đường.

Sườn núi lúc đầu thoai thoải nhưng chẳng mấy chốc đã dần dựng đứng lên. Chúng tôi bắt đầu phải bám vào mọi mỏm đá tìm được. Chẳng dễ dàng gì với bàn tay thiếu ngón của tôi, và tôi phải chuyển mũi tên hết từ tay nọ sang tay kia mỗi lần tôi thay đổi tư thế. Càng lên cao, cơn gió ẩm ướt thổi càng dữ dội.

Francesco khuyên tôi cất mũi tên vào trong cái bao kiếm của Sigurðr. Tôi không thấy đây là một ý tưởng hay cho lắm; tôi khá chắc rằng mấy tấm da động vật của mình không thể chống lửa. Tuy thế, tôi vẫn làm theo những gì được bảo. Hông tôi hơi nhột vì vũ điệu của lửa, nhưng quần áo không hề cháy.

Cơn gió thổi quanh chúng tôi mang theo những hình người giật đùng đùng như cá quẫy trong lưới. Tôi biết họ là ai: linh hồn của những kẻ dâm đãng, bị cuốn theo những đam mê tội lỗi trên trần gian để rồi cuối cùng bị tra tấn trong Địa ngục. Tôi nghĩ về nghề sản xuất phim khiêu dâm của mình, chẳng phải chuyện đáng tự hào gì. Tôi hỏi Francesco xem liệu nơi đây có phải điểm đến của tôi không.

"Anh chưa bao giờ biết đam mê là gì," Francesco thét lại, "cho tới khi anh gặp cô ấy."

Anh ta không cần phải nói tên cô; chúng tôi đều biết anh đang nói đến ai.

Tôi cố lờ đi những tiếng rú rít, của cả gió lẫn người, và rồi chúng tôi đã qua được chỗ tệ nhất. Khi cuối cùng tôi cũng thả được tay ra khỏi vách đá, những ngón tay của tôi cụp lại như càng một con tôm hùm đang hoảng sợ.

Con đường dẫn ra khỏi ngọn núi và chúng tôi tiến vào một nơi có vẻ nóng hơn. Tôi khum tay quanh ngọn lửa của mũi tên và những ngón tay của tôi cuối cùng cũng bắt đầu duỗi ra được; ngay khi có thể, tôi vội tháo lớp áo Viking của mình ra. Nhớ lời dặn của Sigurðr, tôi không vứt chúng đi.

Khi gói đống lông thú lại để mang đi cho gọn, tôi nhận ra những ngón tay cụt ngủn của mình dài ra một chút và vài sợi lông mọc trên cẳng tay tôi nơi những nang lông đã bị phá hủy. Tôi sờ lên đầu mình và thấy tóc cũng đang lún phún mọc ra. Sẹo trên người tôi có lẽ đã bớt dày đi một chút, bớt đỏ đi một chút. Tôi đã lướt những ngón tay lên người mình hàng triệu lần, như một người mù đang cố học thuộc một câu chuyện bằng chữ nổi Braille, nhưng giờ đây tôi đang đọc một câu chuyện có cốt truyện khác.

Hãy cố tưởng tượng, nếu bạn có thể, cảm giác của một người bị bỏng khi nhận ra các bộ phận trên cơ thể anh ta đang tái sinh, hay cảm giác của một người đang mọc tóc sau khi đã chấp nhận sống chung với cái đầu hói nhẵn như thịt bò nướng cả đời. Tôi phấn khích thông báo cho Francesco biết về những phát hiện của mình.

"Hãy nhớ anh đang ở đâu," anh ta cảnh báo, "và nhớ rằng anh là ai."

Chúng tôi đến một bìa rừng nơi những thân cây gào thét mọc ra từ những bãi cát cháy rực. Một luồng hơi nóng dữ dội phả lên, làm biến dạng mọi thứ, và những cành cây trông như đang chuyển động vậy. Lũ chim bay xung quanh, mổ vào những cành cây. "Cánh rừng của những kẻ tự sát," Francesco nói.

Tôi nhanh chóng nhận ra đám cây cối ấy thực ra không phải là cây. Những cành cây là chân tay người, đang điên loạn vùng vẫy, máu ứa ra như nhựa cây. Những giọng nói đau đớn thoát ra từ những lỗ thủng bị chim rỉa nát - giờ thì tôi đã thấy thực ra đấy cũng không phải là chim mà là những quái nhân có cánh giống kền kền với khuôn mặt đàn bà nhợt nhạt và móng vuốt sắc nhọn như dao. Cứ mỗi lần có con nào bay gần chúng tôi thì mùi hôi thối lại xông lên.

"Giọng nói từ những cái cây," Francesco nói, "chỉ có thể thoát ra sau khi những con ác điểu rỉa thịt họ và máu họ đã chảy. Những kẻ tự sát chỉ có thể bày tỏ bản thân qua thứ đã hủy diệt mình."

"Quod me nutrit, me destruit." Tôi thầm thì nhỏ đến nỗi Francesco chẳng thể nghe thấy.

Khi đó tôi nhớ ra anh ta đã chủ động hít mầm bệnh của vợ trước khi yêu cầu anh trai bắn mũi tên qua ngực. "Đây có phải Địa ngục của anh không?"

"Quyết định tìm đến cái chết của tôi là tất yếu, và đó là một quyết định vì tình yêu, chứ không phải hèn nhát. Đó là một điểm quan trọng cần phải nhớ." Anh ta ngưng lại một chút, rồi nói thêm, "Dù thế giới bên kia của tôi không phải nơi đây, nhưng cũng có một lý do khiến tôi đưa anh đến đây."

Tôi nghĩ anh ta còn định nói thêm gì nữa, nhưng anh ta chỉ nói với tôi là chúng tôi vẫn còn cả một quãng đường dài phía trước.

Giờ tôi đang cởi trần. Da tôi thực sự đang hồi sinh. Chúng tôi tiếp tục đi qua khu rừng và tôi nghe thấy một tiếng động mà ban đầu có vẻ là tiếng vo ve của một tổ ong sôi động. Khi chúng tôi tiến lại gần hơn, tôi nhận ra đó là tiếng róc rách của thác nước gần bìa rừng. Gió thổi tóc chúng tôi bay ngược ra sau, tóc tôi vẫn tiếp tục mọc.

Thác nước này chẳng đổ xuống từ bất cứ một vách đá nào; nó cứ thế đổ thẳng từ trên trời xuống và cắt xuyên qua nền sa mạc trước mặt chúng tôi. Francesco nói tôi cần phải ném bao kiếm của Sigurðr xuống thác nước, vì nó hẳn là một món quà thích hợp. Tại sao? Và cho ai?

Sau khi tháo mũi tên lửa ra, tôi liền làm theo lời chỉ dẫn. Tôi nhìn cái móc thắt lưng lộn xuống, nẩy lên trong bọt nước, trước khi bị nuốt chửng vào cái miệng giận dữ đang ngoác ra dưới lòng thác.

Gần như ngay lập tức, một hình thù đen ngòm trồi lên và bắt đầu trèo về phía chúng tôi.

Sinh vật này có ba cơ thể cùng chụm lại trên một thân mình duy nhất. Nó có sáu cánh tay dài nhẳng, với sáu bàn tay lông lá thò vào thác nước để tìm chỗ bám, và nó di chuyển như một con nhện bò trên mạng nhện vậy. Lúc đầu tôi nghĩ hẳn phải có một vách đá đằng sau thác nước nhưng khi nó tới gần hơn, tôi có thể thấy thứ trong tay nó chỉ là nước, nó đã xoắn nước lại để làm thành một thứ thay thế sợi thừng. Con quái vật có một cái đuôi nhọn hoắt đâm thẳng vào thác nước, và dù nó vẫn còn ở xa, mùi của nó làm tôi liên tưởng ngay đến hàng đống phù du thối rữa trên bãi biển.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 65


"Greyon," Francesco nói, "từng là một vị vua Tây Ban Nha nhưng giờ chỉ là con quái vật chuyên đi lừa đảo. Nó là kẻ bảo vệ thác nước này, và là kẻ phải đưa chúng ta xuống Địa ngục."

Khi Greyon trèo gần lên mặt đất, sáu cái chân của nó đẩy nước và nó nhảy thẳng về phía chúng tôi, làm một cú hạ cánh hoàn hảo với số điểm tuyệt đối.

Đó là một sinh vật khổng lồ (như hầu hết các sinh vật khác trong Địa ngục), bụng nó sáng lên với những chiếc vảy lấp lánh. Ba cái đầu của nó cao hơn cái đầu duy nhất của tôi tới gần hai mét. Các khuôn mặt đều có những nét giống nhau: tất cả đều lổn nhổn những cục bướu hằn đỏ, những cặp môi to dày che hàm răng rữa nát, và những con mắt như những viên ngọc trai đen trú trong những vỏ sò hé mở. Tuy thế, bất chấp sự xấu xí, những khuôn mặt đó lại không có vẻ lừa đảo. Cả ba cái đầu đồng loạt nói một lúc.

"CÁC NGƯƠI..."

"TẠI SAO CÁC NGƯƠI..."

"SAO CÁC NGƯƠI DÁM..."

"... MUỐN GÌ?"

"... Ở ĐÂY?"

"... QUẤY RẦY TA?"

"Chúng tôi muốn tới tầng Địa ngục tiếp theo," Francesco trả lời.

"KHÔNG, ĐIỀU NÀY KHÔNG THỂ..."

"CHÚNG TA SẼ KHÔNG..."

"TÊN NÀY..."

"... THỰC HIỆN ĐƯỢC!"

"... GIÚP NGƯƠI!"

"... CHƯA CHẾT!"

"Đúng là chúng tôi đã đòi hỏi quá nhiều, và đúng là người này chưa chết," Francesco thừa nhận. "Nhưng anh ấy là một người bạn của Marianne Engel."

Cái tên dường như có ý nghĩa gì đó với Greyon và ba cái đầu lẩm bẩm với nhau. Cuối cùng, chúng quyết định bỏ phiếu - "ĐƯỢC. KHÔNG. ĐƯỢC" - trước khi đồng ý dẫn chúng tôi đi. (Ai có thể nghĩ rằng quái vật chuyên đi lừa lại là một kẻ dân chủ chứ?) Nó quay thân lại để chúng tôi có thể trèo lên cái lưng rộng bản của mình. Francesco giục tôi lên trước, thì thầm, "Tôi sẽ ngồi giữa anh và cái đuôi. Nó có độc đấy."

Khi chúng tôi đã yên vị, con dã thú nhảy vút một cái từ vách đá về phía thác nước. Khi chúng tôi chạm vào mặt nước, tôi thấy tay của Greyon nhúng sâu xuống và nắm lấy dòng nước chảy qua tay nó như nắm lấy những con rắn trong suốt. Trong khi cố xoay xở để bám chắc vào lưng Greyon, tôi nhận thấy tay mình đã khỏe hơn rất nhiều so với lúc mới bị tai nạn. Có lúc ba cái đầu của Greyon đã phải nói là, "BÁM... CHẶT... QUÁ."

Khi chúng tôi gần đến đáy, Francesco hét át cả tiếng rú của dòng nước, cảnh báo tôi chuẩn bị sẵn sàng cho tầng tiếp theo. Khó chịu vô cùng đấy, anh ta nói với giọng buộc tôi phải chú ý.

* * *

Chúng tôi nhảy xuống đất và Greyon lại biến mất vào dòng thác. Tôi kiểm tra xem chính xác những thương tổn của mình đã được chữa lành đến đâu. Da tôi hầu như đã mềm mại trở lại, và vết sẹo mổ lấy tụy trên bụng tôi đã biến mất. Tóc tôi gần như đã mọc lại hết. Môi tôi một lần nữa lại trở nên đầy đặn. Những ngón tay cụt ngủn của tôi đã hồi phục được hơn một nửa và tôi dùng chúng để cọ vào mẩu ớt đang từ từ nhú lên giữa hai chân tôi.

"Giờ chúng ta đang ở Maleboge, nhà của những kẻ trụy lạc. Ở tầng Địa ngục này," Francesco dặn dò, "tôi không thể bảo vệ anh được."

Tôi có thể nghe thấy âm thanh như tiếng súng và tiếng khóc lóc, đến càng lúc càng gần hơn. Chẳng mấy chốc chúng đã ở trước mặt chúng tôi: một hàng dài vô tận đàn ông và đàn bà bị những con quỷ có sừng lùa đi. Thứ tôi nghĩ là tiếng súng thực ra là tiếng roi lửa của những con quỷ, quất xuống chính xác đến nhẫn tâm. Những kẻ trụy lạc sợ hãi còng lưng xuống, cuộn người lại để tránh cú đòn roi dù chỉ trong nửa giây. Tay của họ buông sõng sượt, chỉ giật nẩy lên, phản chiếu vào trong hốc mắt họ khi cái roi hạ xuống. Có lẽ những kẻ trụy lạc đã từng rất đẹp, nhưng không bao giờ còn được thế nữa; giờ đây, họ chỉ như những đống thịt bị quật tả tơi.

Người phụ nữ đứng gần tôi nhất bị đánh đến nỗi miệng phọt ra máu. Khi tôi thở hắt ra, cô đã nhận ra sự có mặt của chúng tôi. Cô nhìn lên và tôi thấy khuôn mặt cô đã bị dòi bọ ăn gần hết. Mắt phải của cô trông như một quả trứng lồi ra, còn mắt trái thì treo lủng lẳng trên dây thần kinh thị giác, cách hốc mắt đến hơn hai centimet. Cô nhìn tôi đầy lẳng lơ với con mắt trứng lồi, và liếm môi. Vì hành vi này cô đã bị cả một đoàn quân quỷ quật tơi bời tới tận khi cô quằn quại đau đớn vẫn không thôi. Da cô cứ toác ra như bị rạch bằng kéo cho tới khi cô gần như bị lột sống. Rắn lúc nhúc trồi lên từ những cái hố trên mặt đất, quấn lấy cô như những sợi xích buộc vào một chuyên gia thoát hiểm.

Sau khi cô bị lũ rắn siết chặt, lại thêm những con nữa xuất hiện - những con rắn đủ loại, với đống răng nanh quá khổ đẫm nọc độc - hiện ra từ những cái hố và sung sướng bò lên người cô. Rồi một con rắn hổ mang bò lên mặt người đàn bà lẳng lơ đó, bất động trong đúng một giây trước khi nó bổ xuống tấn công cái cổ của cô. Máu bắn vọt lên không trung trước khi rơi xuống người cô, mỗi giọt máu nổ tung thành một đốm lửa nhỏ. Ngọn lửa nhanh chóng nuốt chửng cô, và con mắt lồi của cô cứ nở ra cho tới khi nổ tung như một quả bong bóng bị bơm quá căng. Cô gào thét cho tới khi dây thanh quản cháy thành tro; cùng lúc ấy, những con mãng xà vẫn tiếp tục quấn chặt lấy người cô. Da thịt cô rời ra, như những miếng thịt mềm, lộ ra phần xương bên trong. Những chiếc xương của cô vàng rực lên, rồi đỏ, rồi đen, trước khi tan vào trong đất. Theo cách này cô đã biến vào hư không - chỉ còn lại thứ đã từng là xương sống của cô.

Xương sống của cô thực sự cũng không phải xương sống; xương sống của cô là một con rắn nhìn thẳng vào tôi từ trong cái tổ tro của nó. VÀ NGƯƠI KHÔNG THỂ CẢN ĐƯỢC ĐÂU.

Con rắn cứ hả hê nhìn chòng chọc vào tôi dù nó đã bắt đầu run lên và những dải xương sườn mới đột ngột tung ra từ hai bên thân nó như những ngón tay phá tung miếng nhựa căng cứng để thoát ra. Tiếp theo, xương tay và xương chân trồi ra. Tàn tro của con người tội lỗi vừa bị thiêu cháy ấy bắt đầu tái tạo thành các mô trên cơ thể người, đầu tiên là tạo hệ bài tiết, rồi đan thành hệ tuần hoàn. Những dòng chất lỏng màu đỏ chảy ra khỏi mặt đất rồi thấm vào người cô để làm thành các mạch máu mới. Các cơ cuộn lại quanh xương như những dây trường xuân mọc trên hàng rào, và da trồi lên khỏi đất như một tấm chăn căng ra trên cái hình hài xương xẩu.

Tóc mọc lên và hai con mắt mới nhô ra từ hốc mắt. Người đàn bà lẳng lơ đã được tái tạo, không phải trong hình dạng bị đánh thê thảm như khi tôi thấy lúc đầu, mà trong hình dạng hẳn phải là của cô khi cô còn sống trên trần gian. Cô có vẻ đẹp hình thể tuyệt vời như bất cứ người phụ nữ nào tôi từng thấy.

Cô bước khỏi mặt đất và tiến một bước về phía tôi, hai tay cô dang ra để ôm lấy tôi. Cô trông mới quyến rũ làm sao, làn da mềm mại và cặp hông hấp dẫn. Những con quỷ, từ nãy giờ vẫn đang canh những kẻ trụy lạc khác, giờ mới nhận ra sự tái sinh hoàn thiện của cô, liền xông tới quất roi vào người cô trước khi cô có thể chạm được vào tôi. Cô bị lùa lại vào hàng tội đồ và vòng tròn luẩn quẩn giờ đã rõ ràng: cô sẽ lại bị đánh tới lui giật lùi, cô sẽ lại bị lũ rắn trói, và cô lại một lần nữa bị lửa thiêu thành tro. Chuyện này sẽ lặp đi lặp lại, vĩnh viễn, với cô cũng như với tất cả những kẻ tội đồ khác trong tầng giam những kẻ lẳng lơ này.

Tôi giờ đã hiểu vì sao Francesco lại cảnh báo tôi phải cẩn thận với tầng Địa ngục này, bởi trong quá trình ả đàn bà lăng loàn được tái sinh thì quá trình hồi phục của cơ thể tôi cũng hoàn thành. Dòng nham thạch từng là da của tôi đã hoàn toàn bị đẩy lùi và chẳng còn bất cứ dấu hiệu nào chứng tỏ tôi đã bị bỏng. Cơ thể của tôi lại hoàn hảo như cái thời hoàng kim của nó trước vụ tai nạn; vết tích duy nhất còn sót lại là vết sẹo bẩm sinh trên ngực. Tôi, cũng giống như ả lẳng lơ kia, được hồi sinh thành một con người trọn vẹn, đẹp đẽ.

Dù không hề muốn, tôi vẫn quỳ sụp xuống đất và bắt đầu khóc. Và khi đã khóc thì tôi không thể dừng lại được.

Cho tới tận ngày hôm nay, tôi vẫn chưa hiểu được lý do thật sự vì sao tôi khóc. Có phải tôi khóc vì số phận ả quá giống với số phận của chính bản thân tôi không? Có phải bởi tôi đã có lại hình hài mà tôi không bao giờ nghĩ mình có thể lấy lại không? Hay bởi khi ở trong thế giới thực, cơ thể của tôi đang chìm trong ảo giác gây ra bởi đột ngột ngừng dùng morphine?

Tôi không biết câu trả lời là gì. Nhưng rốt cuộc tôi cứ tiếp tục khóc, đơn giản vì tôi sung sướng khi tuyến lệ của tôi đã hoạt động trở lại.

Francesco nhẹ nhàng chạm vào vai tôi. "Styx đang ở phía trước rồi."

Dù đang mất phương hướng, tôi vẫn biết được có cái gì đó không ổn. Xét cho cùng, tôi cũng được nghe Địa ngục trong hai kiếp khác nhau rồi; tôi biết chúng tôi lẽ ra phải đụng độ Styx sớm hơn thế này nhiều. Lau khô nước mắt, tôi nói thế với Francesco.

"Nhưng đây là hành trình của anh," Francesco nói, "chứ không phải của Dante."

Chúng tôi đi về phía bờ sông, nơi một con thuyền đang vun vút lướt tới, như thể nó biết chúng tôi đang đến vậy. "Người lái đò là Phlegyas, con trai của thần chiến tranh Ares. Khi con gái Coronis của ông ta bị Apollo cưỡng hiếp, Phlegyas đã châm lửa đốt ngôi đền của vị thần. Apollo đã bắn tên giết chết ông ta và bắt ông ta phải chịu hình phạt này."

Điểm nổi bật nhất ở Phlegyas là một tảng đá lớn, góc cạnh, bay lững lờ trên cái đầu nhỏ bé của ông, như chực đâm bổ xuống đất bất cứ lúc nào. Vì thế, ông luôn phải ngước đôi mắt khốn khổ của mình lên để xem xét tình hình. Từng mái chèo ngập xuống nước đưa ông tiến lại gần chúng tôi hơn và tảng đá cứ tiếp tục đi theo, không bao giờ rời khỏi vị trí buồn tẻ của nó. Da của Phlegyas đã trở nên vàng vọt vì thiếu ánh nắng; những mạch máu trên mặt ông nổi lên như lưới nhện màu tím và mái tóc ông cứ rụng ra từng búi một. Hai cánh tay dài khẳng khiu thòi ra từ cái áo choàng từ lâu đã đổi màu vì mồ hôi đọng lâu ngày.

"Kẻ này là ai mà dám mang mũi tên đến bờ sông ta cai quản?"

Nỗ lực hăm dọa của Phlegyas không thành do ông còn mải tập trung chú ý vào hòn đá trên đầu. Dù ông đã cố trợn trừng mắt lên, mắt ông vẫn liếc nhìn những cử động nhỏ nhất của hòn đá.

"Ngài hãy tha thứ cho người bạn ngốc nghếch của chúng ta," Francesco nói, "vì anh ấy còn trẻ và vẫn chưa chết."

"Giải thích được khá nhiều đấy." Phlegyas phấp phỏng ngoẹo đầu sang trái một chút, trước khi cho phép nó quay lại vị trí ban đầu ở chính giữa hai vai ông.

"Ngài sẽ đưa chúng tôi qua sông để anh ấy có thể hoàn thành cuộc hành trình của mình chứ?"

"Sao ta phải làm thế chứ? Kẻ này đã chết đâu."

Francesco bắt đầu nói. "Anh ấy là bạn của..."

"Marianne Engel," Phlegyas cắt ngang. "Chẳng liên quan gì đến ta."

Người lái thuyền chống mái chèo xuống đất để xoay thuyền lại, nhưng Francesco đã gọi với theo, "Chúng tôi rất cần sự giúp đỡ của ngài, Phlegyas."

Vì tò mò, có lẽ vậy, Phlegyas đã quay mặt lại đối diện với chúng tôi. "Sao lại thế?"

"Nếu ngài biết Marianne, thì ngài cũng biết đây là một cuộc hành trình vì tình yêu."

"Ta quan tâm gì đến tình yêu?"

"Không phải chính tình yêu dành cho con gái đã đưa ngài đến đây sao? Chẳng lẽ ngài lại muốn để một người nữa bị mắc kẹt mãi mãi trong Địa ngục, nơi không dành cho anh ta sao?"

Lần đầu tiên, Phlegyas có vẻ quan tâm tới tôi hơn hòn đá. "Nói cho ta nghe về tình yêu ngươi dành cho người đàn bà này."

Tôi trả lời thành thật hết mức. "Tôi không thể nói được."

Phlegyas nhíu mày. "Thế thì việc gì ta phải chấp nhận thỉnh cầu của ngươi chứ?"

"Bất cứ người nào nghĩ rằng mình có thể diễn tả được tình yêu," tôi trả lời, "cũng đều chẳng hiểu gì về tình yêu cả."

Câu trả lời này có vẻ đã làm Phlegyas thỏa mãn và ông đã vẫy tay ra hiệu cho chúng tôi lên thuyền mà không đòi lệ phí gì cả. Khi chúng tôi vượt sông Styx, mắt tôi cứ dán chặt vào ba ngọn tháp đỏ cháy rực ở đằng xa.

"Dis," Francesco nói. "Trung tâm của Địa ngục."
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 66


Chúng tôi được thả xuống một nơi có cánh cổng sắt khổng lồ. Cánh cổng này được các thiên thần nổi loạn canh giữ, với đôi mắt thăm thẳm không chút thương xót cứ nhìn chúng tôi như đang phán xét mọi thứ. Họ trần truồng và vô giới tính, với làn da trắng sáng lấp lánh chi chít những cái nhọt lớn; từ lưng họ mọc ra đôi cánh đang tan chảy, và thay vì vòng hào quang, họ có mái tóc rực lửa.

Chỉ huy của những Thiên thần Nổi loạn tiến lên phía trước. "NGƯƠI KHÔNG ĐƯỢC QUA. TÊN NÀY CHƯA CHẾT."

"Tôi nghe thế nhiều rồi," tôi nói.

Francesco ném một cái nhìn khó chịu về phía tôi trước khi chuyển sự chú ý sang người thủ lĩnh. "Anh ấy còn sống hay đã chết cũng không phải việc ngài phải lo. Những luật lệ đó không được áp dụng tại cánh cổng này, vì định mệnh của anh ấy là phải bước qua nơi đây."

"VẬY HẮN LÀ AI?"

"Người được chọn," Francesco trả lời, "người đến Diêm phủ khi còn sống."

Tuy nhiên, dù anh ta có xác định danh tính của tôi thì với họ cũng chẳng có ý nghĩa cả. Với giọng nói như sấm rền và những hành động dữ dội, những thiên thần từ chối tất cả những gì anh ta đề nghị. Rõ ràng người dẫn đường của tôi cuối cùng cũng gặp phải một rào cản mà anh ta không thể dùng lời ngon ngọt để đưa chúng tôi qua được.

Chúng tôi đi ra xa khỏi mấy thiên thần để bàn tính với nhau. Tôi hỏi bây giờ chúng ta có thể làm được gì, và Francesco nhìn tôi cứ như câu hỏi của tôi cực kỳ ngu ngốc ấy.

"Chúng ta sẽ cầu nguyện," anh ta nói.

Khi tôi đáp lại rằng tôi sẽ không cầu nguyện, anh ta đã mắng tôi một trận. "Anh đang ở trong Địa ngục đấy. Anh nên bắt đầu đi là vừa."

Francesco lấy mũi tên lửa ra khỏi tay tôi và cắm mũi nhọn của nó xuống đất, rồi trải bộ áo da thú của người Viking ra để chúng tôi quỳ lên. Tiếp theo, anh ta cởi áo ni cô của Sei ra khỏi thắt lưng của tôi và nhanh chóng xé toạc nó ra. Anh ta buộc một mảnh vải mỏng dài quanh đầu tôi cho tới khi tầm nhìn của tôi hoàn toàn bị che khuất. Khi nghe tiếng vải thắt thắt buộc buộc, tôi đoán chắc là anh ta đang che mặt chính mình.

Đây là lần đầu tiên tôi cầu nguyện trong đời và tôi cảm thấy không tự nhiên lắm, nhưng sau tất cả những gì Francesco đã làm cho tôi, ít nhất tôi cũng phải tôn trọng đề nghị của anh ta một lần. Tôi có thể nghe thấy giọng của Francesco, thì thầm bằng tiếng Latin, khi anh ta đang ca ngợi Chúa và xin Người chỉ dẫn. Về phần mình, tôi cầu nguyện cho ảo giác của mình mau kết thúc. Và cho Marianne Engel được an toàn, dù cô đang ở đâu.

Tôi nghe thấy tiếng bước chân đang đến gần và tiếng lách tách trong không trung. Tiếng ấy đến gần hơn, gần hơn...

"Đừng nhìn," Francesco ra lệnh. "Họ gọi Medusa đến đấy."

Và rồi tôi nhận ra tiếng lách tách phát ra từ đâu: chúng được tạo nên bởi những cái lưỡi của lũ rắn là tóc mụ ta. Chúng đang thò ra để ngửi tôi, sinh vật sống đầu tiên đến thăm Địa ngục trong hàng thế kỷ, và một con rắn dè dặt lấy lưỡi liếm vào má tôi. Rồi một con khác, một con khác, và một con khác nữa. Da tôi, giờ đã lành hẳn, đã hoàn toàn lấy lại cảm giác, và oái oăm thay, tôi lại phải cảm nhận nụ hôn của một trăm con rắn. Chúng cố đẩy cái đầu tam giác của mình luồn xuống dưới cái khăn bịt mắt của tôi, để kéo nó lên, để bắt tôi nhìn vào quái vật đầu rắn, nhưng tôi giữ chắc cái khăn ở nguyên vị trí.

Medusa, gí mặt mình cách mặt tôi chỉ độ vài phân, bắt đầu cất tiếng suỵt suỵt. Hơi thở đầy xú uế của mụ phả ra trước mặt tôi và tôi có thể hình dung ra cái lưỡi rắn của mụ. "Nhìn. Nhìn vào ta. Ngươi biết mình muốn thế mà. Đâyy chỉ làà một ảoo giácc. Ngươi định bỏ đi mà không tận hưởng hết những gì mà giấc mơ của ngươi đem lại sao? Ta chỉ giúpp thỏaa mããn lòng hiếu kỳỳ của ngươi thôii."

Tôi biết quá rõ. Nếu phải biến thành một bức tượng, tôi thà bị biến dưới tay Marianne Engel còn hơn dưới cái nhìn của con quái vật đầu rắn này.

Mặt đất dưới chân tôi bắt đầu rung chuyển như một cơn động đất nhỏ. Tôi có thể cảm nhận được những con rắn trên đầu Medusa đã tản ra khỏi mặt tôi. Cơn chấn động tiếp tục mạnh dần lên và chẳng mấy chốc cả không khí cũng rung chuyển, như thể nó đang tách ra để lấy chỗ cho một cái gì đó được sinh ra vậy. Những cánh cổng sắt bao xung quanh Dis kêu răng rắc như một con quái vật dữ tợn đang vật lộn để thoát ra, và những Thiên thần Nổi loạn rộ lên tràng cười hân hoan sung sướng. Tôi cảm thấy Medusa giật bắn ra, và nghe thấy tiếng chân thoái lui của mụ ta. Tôi nghĩ đây là một trò bịp và hỏi Francesco rằng liệu có thật mụ ta đã đi rồi không.

"Tôi nghĩ vậy, nhưng vẫn phải cẩn trọng. Tốt nhất là cứ giữ nguyên khăn bịt mắt như cũ."

Tôi có thể nghe thấy tiếng cành cây lìa khỏi những thân cây chết, và bụi đất cuộn lên mù mịt làm tôi phát ho. "Chuyện gì đang xảy ra vậy?"

"Tôi đã cầu nguyện xin một Sứ giả của Thần thánh tới đây," Francesco trả lời, "nhưng tôi e rằng lời cầu xin của một người tầm thường như tôi sẽ không được đáp lại."

Dù có thể Medusa vẫn đang ẩn nấp đâu đó, tôi không thể không tháo khăn bịt mắt ra được. Xét cho cùng, mấy khi người ta có cơ hội nhìn một Sứ giả Thần thánh? Bầu trời, kể từ khi chúng tôi bước vào đã luôn rặt một màu đen ngòm, giờ trông như thể Chúa vừa nhỡ tay đánh rơi bảng màu của Thiên đường và tất cả những nét đẹp tuyệt trần của Sự sống đang ào xuống từ trời cao. Trên đỉnh sắc màu ấy, với những dải sáng vàng óng ánh trải dài sau lưng, là Thực thể đẹp nhất tôi từng thấy.

Rõ ràng, bất chấp lời khuyên của chính mình, cả Francesco cũng không để cơ hội trôi qua uổng phí. Anh ta tháo băng ra và cố không nhìn thẳng vào vị Sứ giả, như thể muốn thể hiện lòng thành kính, nhưng không thể không nhìn. Với giọng nói tràn ngập niềm ngưỡng mộ tôn kính, anh ta nói, "Ngài thực linh thiêng."

Tôi choáng ngợp đến nỗi không làm được gì ngoài việc lặp lại lời anh ta nói. "Linh thiêng."

"Michael," Francesco thì thầm. "Đại Thiên thần."

Michael có lẽ cao tới hơn hai mét và mái tóc của thần thả xuống sau lưng như một dòng sông hoang dại vàng óng ả trong nắng. Hai đôi cánh không chút tì vết với sải cánh dài ít nhất bốn mét rưỡi mọc ra từ lưng thần, và thần lướt đi như thể gió tồn tại chỉ để mang thân thể hoàn mỹ của thần đi vậy. Làn da thần tỏa sáng như những tia nắng mặt trời rực rỡ nhất và thần có một đôi mắt to rực lửa. Dù thần có chung đặc điểm này với Charon, nhưng cảm giác mang lại thì hoàn toàn trái ngược: trong khi đôi mắt của người lái đò khiến ông ta trông gian giảo, đôi mắt sáng chói của Michael lại khiến người ta không thể nhìn thẳng vào.

Vị Đại Thiên thần nhẹ nhàng đáp xuống trước cánh cổng dẫn vào Dis. Những Thiên thần Nổi loạn, không dại gì đứng ngáng đường, đã đồng loạt dạt sang hai bên. Những luồng không khí lấp lánh nhảy múa khắp xung quanh Michael, lung linh run rẩy như thể cả chúng cũng không dám chạm vào thần. Tôi có thể miêu tả những màu sắc đó nhưng chẳng thể gọi tên chúng; chúng không tồn tại trong bảng quang phổ của mắt người. Lần đầu tiên tôi nhận ra những người bị mù màu đã nhìn thế giới như thế nào, vì những màu sắc đó làm tôi cảm thấy như thể mình đã luôn luôn nhìn mọi thứ, cho tới tận giây phút ấy, chỉ với một góc nhỏ nhất trong khả năng tiềm tàng của mình.

Vùng đất nơi Michael đang đứng không còn là đống tro bùn của Địa ngục nữa, mà giờ đã xanh tươi mướt mát. Những thân cây cháy rụi phủ bóng lên chúng tôi với những cành cây khẳng khiu trơ trụi giờ đã sum suê tươi tốt. Michael giơ tay lên với một vẻ duyên dáng khó tả và những vệt gỉ sét xấu xí bám trên cánh cổng bị thổi bay ngay lập tức. Ngón tay của thần chỉ lướt nhẹ trên cánh cổng, nó liền bật mở.

Đại Thiên thần quay về phía chúng tôi. Francesco cúi đầu làm dấu thánh. Tôi cứ ngẩng cao đầu, hai mắt tập trung nhìn thẳng. Không giống Francesco, vì tôi chưa bao giờ trông mong được nhìn thấy thần thánh, tôi chẳng phải lo ngại về điều sẽ xảy ra nếu tôi nhìn thấy cả.

Michael mỉm cười.

Trong giây phút ấy, lần đầu tiên tôi nhận ra mình không bị ảo giác. Tôi thực sự đang ở dưới Địa ngục, và tôi thực sự đang đứng trước mặt Thánh thần. Không nghi ngờ gì nữa: tôi quá người để có thể tưởng tượng ra thứ gì như nụ cười ấy. Đó là một nụ hôn lướt lên tất cả những bí mật tồi tệ nhất của tôi, làm chúng tan biến ngay lập tức.

Với một cái đập cánh nhẹ nhàng, Michael lại bay vút lên, như một cơn lốc xoáy quét qua mặt đất. Phía sau thần là những dải sắc màu thần mang đến, vụt bay biến lên theo thần. Màu xanh mướt của cỏ một lần nữa lại bị thay thế bởi màu xám ảm đạm của bùn. Vẻ tốt tươi của những thân cây giờ đã cạn kiệt. Những cánh cổng lại bám đầy gỉ sét, nhưng vẫn đang mở. Những màu sắc biến đi như nước tắm trong bồn chảy xuống lỗ thoát nước, chỉ có điều cái lỗ thoát nước ấy ở tít trên trời. Nơi Michael biến mất, những dải màu sắc cuối cùng đã đi theo thần qua cái lỗ nhỏ tí trên vòm Địa ngục.

Khi Francesco cuối cùng cũng thốt lên được, sau vài phút đông cứng như tượng, anh ta nói, "Anh phải đi qua cánh cổng này một mình thôi."

Tôi bắt tay Francesco. Cảm thấy hành động ấy chưa đủ thể hiện tình cảm, tôi nói với anh ta rằng tôi không biết phải cảm ơn anh ta như thế nào.

"Chính tôi," Francesco nói, "mới là người phải cảm ơn anh. Tôi không chỉ làm chuyện này vì Marianna; tôi còn làm để trả ơn nữa."

"Vì cái gì?"

"Cha tôi là một cung thủ tên Niccolò, ông đã bị giết khi còn trong đội quân condotta của Đức. Nhưng bạn ông là Benedetto đã trốn thoát với sự giúp đỡ của hai cung thủ người Đức, và ông ấy đã mang cây cung của cha tôi tới Firenze." Francesco, khi nói đến đây, đã siết chặt tay tôi. "Cây cung đó là tất cả những gì tôi biết về cha mình."

"Bản Địa ngục của tôi từng là của cha anh sao?"

"Phải. Ông ấy muốn anh giữ nó." Francesco cúi đầu thật thấp. "Grazie."

Những Thiên thần Nổi loạn không dám cản đường khi tôi đi qua cổng. Tôi biết thứ tôi sẽ thấy tiếp theo là gì: tầng Địa ngục thứ sáu, ngôi nhà của những kẻ dị giáo, đầy những nấm mộ và bia đá rực lửa. Nhưng giây phút bước qua cổng, tôi thấy mình không còn ở trong Địa ngục của Francesco nữa. Thay vào đó, tôi thấy mình đang đứng trên một vách đá trông xuống biển. Khi tôi quay người lại để nhìn về phía sau, cánh cổng của Dis đã biến mất.

Chim hải âu cắt mặt nước với những tiếng kêu quác quác đầy hân hoan. Thảm cỏ ướt đẫm sương mát lạnh và tôi có thể cảm nhận được từng ngọn cỏ cù vào da chân mình. Thân thể tôi lúc này hoàn toàn trần trụi, da tôi đã lành lại hẳn; y phục mặc trên người giờ đã biến mất, và tôi cũng không còn sợi dây chuyền có xâu đồng xu nữa. Đang là bình minh, làn gió nhẹ thổi mát lạnh, và tôi cảm thấy mình thực sự đang sống.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 67


Cách tôi khoảng bảy mét về phía bờ vực, một bóng hình đơn độc đang đứng bất động, dõi về phía biển. Dĩ nhiên tôi biết đó là ai. Khi tiến lại gần hơn, tôi thấy cô có vẻ hơn bốn mươi tuổi nhưng có nét gì đó rất già dặn trên vẻ mặt cô, khi cô phóng tầm mắt ra hàng dặm nước phía xa. Mái tóc cô buộc gọn sau gáy, chiếc khăn choàng phủ ngay ngắn trên vai, buộc chặt lại nơi ngực. Gấu váy của cô có những vết sờn nhỏ và đất bám đầy trên ủng cô. Tôi gọi tên cô: "Vicky."

"Vâng." Mắt cô không rời đường ranh nối biển và trời.

"Cô có nhìn thấy anh ấy không?"

"Tôi thấy anh ấy ở khắp mọi nơi."

Tôi nhìn ra phía đường chân trời. Chẳng có con thuyền nào trên khắp đại dương cả. Chỉ có sóng nước đơn độc trải dài vô tận.

Tôi dịu dàng hỏi. "Cô có nghĩ là Tom sẽ quay trở về không?"

"Anh nghĩ đó là lý do tôi đứng ở đây à?"

"Tôi không biết."

Một lọn tóc tuột khỏi búi tóc quấn sau đầu Vicky. Cô buộc nó lại. "Dĩ nhiên rồi."

Ngọn gió quất vạt váy vào chân cô. Sóng đánh vào những tảng đá phía dưới chúng tôi. Suốt một lúc lâu, chúng tôi không nói gì cả. Tôi nghĩ mình đã đi đến cùng chuyến hành trình Địa ngục này rồi. Đây là hồn ma cuối cùng. Chúng tôi đứng đó, cai quản cái góc nhỏ cô đơn ở nơi tận cùng thế giới, mỗi người đợi một thứ mà mình biết rõ là không có quyền hạn gì với nó cả.

"Anh không mang theo mũi tên lửa," cuối cùng Vicky cũng nói. Cô nói đúng. Tôi đã để nó lại ở chỗ những cánh cổng dẫn vào Dis, cắm sâu xuống mặt đất thay cho bệ thờ của tôi. Có lẽ nó vẫn còn đang cháy, một minh chứng cho việc tôi đã đến đó. "Không sao cả. Ở đây anh không cần đến nó."

"Tôi sẽ phải làm gì tiếp theo bây giờ?"

"Có lẽ cũng đến lúc anh phải chờ." Cô giẫm mạnh gót ủng vào lòng đất và chỉnh cho hai vai mình thêm cứng cỏi trước làn gió biển. "Tình yêu là một hành động chúng ta phải lặp đi lặp lại không ngừng nghỉ."

Trong giây phút đó, tôi đã được phép nhìn vào cái hư không bao la trong sự tồn tại của cô: cô thực sự sẽ mãi mãi đứng đó, đợi Tom trở về. Theo như những gì tôi biết, cô vẫn chưa nhận ra sự trần trụi của tôi. Tôi ngờ rằng cô không để ý đến bất kỳ cái gì ngoài lời hứa của dòng nước đang trải dài trước mặt mình.

"Đây không phải nơi dành cho tôi," tôi nói.

"Anh có chắc không?"

"Tôi nghĩ mình sẽ đi vào đất liền."

Cô không hề rời mắt khỏi biển. "Chúc may mắn."

Có gì đó tôi không sao hiểu được trong cái cách cô chúc may mắn - cho tới khi tôi bước những bước đầu tiên. Tôi có cảm giác đất đang rung chuyển như thể chuyện gì đang xảy ra phía sau tôi, phía dưới tôi, xung quanh tôi. Trong giây lát tôi băn khoăn không biết có phải đó là Michael đang trở lại không, cho tới khi tôi nhìn thấy bờ vực đang dịch chuyển. Sợ nó sẽ sụp dưới chân mình, tôi nhảy bật lên. Tiếng đất nứt toác phía sau lưng, và tôi tung chân lên nhanh hết mức. Khi ngoái nhìn lại phía sau, tôi đã nghĩ mình sẽ thấy vách đá đổ sụp sau lưng.

Nhưng vách đá không sụp đổ. Bờ vực đang đuổi theo tôi, luôn luôn giữ một khoảng cách nhất định dù thực tế là tôi đang chạy bán sống bán chết. Tôi cảm thấy tiếng suỵt quen thuộc lại hiện lên trong xương sống của mình. TA Ở ĐÂY RỒI.

Ý nghĩ đầu tiên của tôi là tôi đang chạy theo quán tính, trên một cái cối xay, nhưng không phải thế. Khi tôi nói bờ vực đang đuổi theo tôi, là tôi nói theo nghĩa đen đấy. Những tảng đá liên tục thay đổi hình dạng để bám theo tôi, giữ tốc độ sao cho tôi không thể nào đi xa khỏi vực thẳm được. Khi tôi chạy dạt sang một bên, vách đá xoay tròn như một con chó chăn cừu lão luyện. NGƯƠI CHẲNG THỂ CẢN ĐƯỢC ĐÂU.

Tôi chạy ra xa nhất có thể, vụt sang bên này rồi né sang bên nọ, nhưng vách đá vẫn không chịu buông tha. Tôi đã nhận ra một điều là dù bạn có chạy nhanh đến đâu chăng nữa thì cũng chẳng tích sự gì nếu bạn cứ chạy quanh một chỗ. NGƯƠI KHÔNG THỂ RỜI KHỎI ĐÂY ĐƯỢC. Tôi nhanh chóng nhận ra tình trạng của mình không quá nguy hiểm. Nếu vách đá muốn nuốt chửng tôi, nó đã làm thế từ lâu rồi. Tôi quay trở lại nơi Vicky đang đứng.

"Tôi cũng đã thử rời khỏi đây một lần," cô nói, "và vách đá đã rượt theo tôi."

"Đó là lý do cô cứ đứng ở đây phải không?"

"Không."

"Nếu anh nhảy xuống," Vicky thì thầm, như thể sợ rằng cái tảng đá ở ngay dưới chân chúng tôi sẽ có thể nghe lỏm được, "anh sẽ mất làn da vừa được hồi phục của mình và sẽ về lại với cơ thể chi chít vết bỏng."

"Nhưng đây chỉ là ảo giác thôi. Chẳng có cái gì ở đây là thật cả."

Cô nhún vai. "Đó là điều anh đã học được từ nụ cười của Đại Thiên thần ư?"

NGƯƠI NÊN NHẢY ĐI.

Sao con rắn lại bảo tôi nhảy? Để gây đau đớn cho tôi. Con rắn muốn thế mà, nó luôn sung sướng trước nỗi đau của tôi. Tôi chạm vào làn da mình nơi những đầu dây thần kinh từng bị thiêu rụi.

Nếu mình nhảy xuống, tôi nghĩ, mình sẽ mất thứ này. Mình sẽ mất đi các dây thần kinh, tóc, sức khỏe và vẻ đẹp. Những ngón tay và dương v*t của mình sẽ lại thui chột đi. Mặt mình sẽ lại trở thành tảng đá granite bị sương gió vùi dập. Môi mình sẽ lại khô héo đi, và giọng mình sẽ vỡ vụn như những mẩu đá xấu xí. Mình sẽ lại trở thành con quái vật gargoyle, nhưng lần này là sự lựa chọn của chính mình.

NGƯƠI LUÔN LÀ MỘT GARGOYLE. BỊ ĐÓNG DẤU TRONG LỬA ĐỊA NGỤC TỪ TRƯỚC KHI SINH RA.

Tôi hỏi Vicky chuyện gì sẽ xảy ra nếu tôi cứ tiếp tục đứng trên vách đá.

TA KHÔNG ĐƯỢC NHÉT VÀO TRONG XƯƠNG SỐNG CỦA NGƯƠI TỪ SAU VỤ TAI NẠN. TA ĐÃ LUÔN LUÔN Ở ĐÓ TỪ TRƯỚC RỒI.

"Tôi nghĩ là Marianne Engel sẽ đến đón anh," Vicky trả lời.

CÔ TA SẼ KHÔNG ĐẾN ĐÓN NGƯƠI ĐÂU.

"Sao cô lại nghĩ thế?"

Vicky đáp, "Có những lúc tình yêu còn tồn tại lâu hơn cả cái chết."

SAO CÔ TA CÓ THỂ YÊU ĐƯỢC KẺ NHƯ NGƯƠI CƠ CHỨ?

Tôi nhìn vào những con sóng triều dữ dội trước mặt chúng tôi, cứ đập không thương tiếc vào những tảng đá. NGƯƠI NÊN NHẢY ĐI. Có lẽ Vicky nói đúng. Có lẽ đây là cuộc thử thách lòng kiên nhẫn của mình. NGƯƠI NÊN KẾT THÚC MỌI CHUYỆN ĐI. Marianne Engel đã đến với mình trong bệnh viện khi mình cần cô ấy nhất, và cô ấy giờ sẽ lại đến đón mình. Phải không?

NHƯNG ĐÂY THẬM CHÍ CÒN CHƯA PHẢI ĐỊA NGỤC CỦA NGƯƠI. VẪN CHƯA TỚI ĐỊA NGỤC CỦA NGƯƠI ĐÂU.

Địa ngục là một lựa chọn.

TA TƯỞNG NGƯƠI KHÔNG TIN LÀ CÓ ĐỊA NGỤC CHỨ.

"Vicky," tôi hỏi, "tôi đã chết chưa?"

"Tôi không biết."

"Cô đã chết chưa?"

"Chưa, chừng nào tôi còn đợi Tom."

TA LÀ KẺ DUY NHẤT BIẾT RÕ NGƯƠI.

Ánh mặt trời lấp lánh trên những ngọn sóng. Cả đại dương trải dài ra trước mặt tôi.

NGƯƠI LUÔN MUỐN TIN RẰNG CHÚNG TA KHÁC NHAU...

Tôi nhìn xuống và - dù tôi không hiểu tại sao mình lại có cái cảm giác mạnh mẽ đến thế - tôi đã biết chắc tiếp theo mình phải làm gì.

... NHƯNG NGƯƠI KHÔNG THỂ TỒN TẠI MÀ KHÔNG CÓ TA ĐƯỢC.

Một cảm giác thanh thản bao trùm lấy tôi. Khi nỗi sợ rời bỏ tôi, nó quấn lấy con rắn. Vì con mãng xà biết tôi đã quyết định làm một điều tốt cho tôi, hại cho nó.

NGƯƠI LÀ TA.

Tôi quay sang Vicky hỏi, "Tôi sẽ gửi lời hỏi thăm của cô đến cho Marianne Engel nhé?"

"Rất hân hạnh."

ĐÂY LÀ MỘT SAI LẦM.

Tôi tung mình lên không trung. Khi tôi nhảy về phía mặt trời, tôi cảm thấy con rắn đã trượt xuống khỏi người tôi. Trong khi tôi có thể tiến về phía trước, con rắn không thể làm thế. Nó rơi ra từ hậu môn của tôi, rất vừa vặn, bắn ra như một cái mỏ neo bị giật khỏi con tàu.

Một cảm giác không trọng lượng thoáng qua; một điểm thăng bằng giữa khoảng không và mặt nước đang chực chờ phía dưới. Thật kỳ lạ, tôi nghĩ, vì nó giống biết bao giây phút thiêm thiếp chìm vào giấc ngủ khi tất cả đều đẹp một cách phi thực, không chút trần thế. Giống biết bao cảm giác trôi về với sự hoàn thiện. Có một khoảnh khắc lơ lửng vô trọng lượng đến hoàn hảo ở đỉnh đường vòng cung của cú nhảy. Trong giây phút đẹp đẽ này, tôi đã tưởng tượng rằng mình mãi mãi trôi về phía bầu trời.

Nhưng, luôn luôn là thế, trọng lực vẫn luôn chiến thắng. Tôi bị hút thẳng xuống dưới và xuyên qua không khí như một con dao bị quăng xuống đất, nước chồm lên đón lấy tôi. Cả lúc đang rơi, tôi vẫn luôn biết rằng mình đã làm một điều đúng đắn. Tôi nhắm mắt lại và nghĩ về Marianne Engel.

Chìm, làn nước phẳng lặng ôm lấy tôi. Khi tôi rơi xuống nước, tôi có cảm giác như mình đã trở về nhà và tôi...
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 68


Nhìn vào mắt Marianne Engel.

Thân thể của tôi được bọc trong hàng lớp vải ướt, để hạ sốt. Tôi lại trở về với chiếc giường của cô, về lại nhà của chúng tôi, và tay cô đang đặt lên má tôi. Cô nói mọi chuyện đã kết thúc còn tôi thều thào tôi đã ở trong Địa ngục. Cô bảo đúng vậy và đưa cho tôi một tách trà. Tôi có cảm giác như mình chưa được uống nước hàng năm rồi. "Đã bao lâu từ khi tôi...?"

"Ba ngày, nhưng không gì tốt hơn việc phải chịu đựng thử thách cả. Đó là một chuyến hành trình gian khổ ngắn ngủi nhưng kết thúc trong niềm vui." Vẫn là Marianne Engel.

"Cứ cho như vậy đi."

Cô giúp tôi cầm chiếc cốc được vững hơn, vì nó đang rung khủng khiếp. "Anh cảm thấy thế nào?"

"Như được cứu ra khỏi lửa Địa ngục."

Cô mỉm cười. "Zechariah chương ba tiết hai."

Tôi kiểm tra lại thân thể mình: da tôi đã trở lại trạng thái thương tổn cố hữu; khuôn mặt tôi đã nhăn nhúm lại; môi teo tóp; những ngón tay lại bị cụt mất; đầu gối lại cứng đơ; lông ở cẳng tay trụi sạch và chỉ còn lơ thơ vài nhúm tóc trên đầu.

Bàn tay tôi, theo thói quen, lại đưa lên ngực. Nơi tôi nghĩ sẽ thấy đồng xu thiên thần, nhưng tôi chẳng tìm được gì, mặc dù nó luôn luôn ở trên người tôi từ khi Marianne Engel tặng cho tôi từ gần mười bốn tháng trước.

"Đồng xu của anh đã hoàn thành nhiệm vụ của nó rồi," cô nói.

Tôi tìm lại trên ga trải giường, dưới gầm giường, mọi chỗ xung quanh, nhưng chẳng thấy sợi dây chuyền của tôi đâu cả. Marianne Engel hẳn đã tháo nó ra trong lúc tôi bị ảo giác. Tôi tự nhủ rằng việc cô tháo sợi dây ra trong lúc tôi ảo giác thấy mình đưa nó cho Charon chỉ là một sự trùng hợp lạ lùng.

"Đừng lo," cô nói. "Tôi sẽ thay sợi dây chuyền đó bằng một cái tốt hơn."

Tôi cảm thấy dễ chịu hơn hàng năm trước đó, hơn cả lúc chưa bị tai nạn, chỉ đơn giản là được sở hữu một tâm trí không bị đầu độc bởi thuốc kích thích và những mạch máu không trở nên lờ đờ vì chất gây nghiện. Không phải tôi chưa bao giờ cảm thấy gợn chút khao khát có lại cảm giác ngây ngất xưa cũ - tôi có cảm thấy thế; thói quen đó đã ở bên tôi quá lâu rồi - nhưng giờ nó đã khác. Tôi có thể chịu được việc không dùng morphine; tôi muốn không phải dùng morphine. Tôi luôn mong đợi các buổi tập với Sayuri và càng tiến bộ nhanh hơn sau mỗi bài tập.

Nhưng tuyệt hơn hết thảy, con rắn cái đã thực sự biến mất.

Từ sau vụ tai nạn, giờ tôi đã tự chăm sóc bản thân tốt hơn rất nhiều, và Marianne Engel lại tiếp tục quay lại công việc tạc tượng của cô. Cô bắt tay vào làm từ chính cái chỗ cô đã bỏ dở, lại tiếp tục làm việc ngay lập tức với một tốc độ cực kỳ có hại cho sức khỏe. Tất cả những gì tôi có thể làm là rửa sạch gạt tàn cho cô và cố hạn chế việc cô cứ ăn hàng thìa cà phê. Tôi mang cho cô những đĩa hoa quả mà giờ trở thành tranh tĩnh vật hơn là thức ăn, và khi cô tạc xong một bức tượng, rồi lăn đùng ra trên tảng đá tiếp theo, tôi sẽ tắm rửa cho cô. Tôi tự hứa với bản thân rằng nếu cô lại có nguy cơ bị suy nhược sức khỏe nữa, tôi sẽ làm tất cả mọi thứ cần thiết để ngăn cô lại. Tôi tự hứa với bản thân.

Từ ngày mười chín tháng Hai đến ngày hai mốt tháng Hai, cô đã kéo được tượng số 16 ra khỏi đá. Vào ngày thứ hai mươi hai, cô ngủ thiếp đi và chìm vào giấc mơ với đá; từ ngày hai mươi ba đến ngày hai mươi lăm, cô lôi được số 15 ra. Cô nghỉ một ngày và rồi làm việc tiếp tới tận ngày một tháng Ba, hoàn thành số 14. Người ta chẳng cần phải là một nhà toán học mới có thể nhận ra cô đã làm được quá nửa tổng số hai mươi bảy trái tim cuối cùng: chỉ còn mười ba trái tim nữa là tất cả sẽ kết thúc. Chỉ còn mười ba trái tim nữa cho đến khi cô nghĩ rằng mình sẽ chết.

Việc cô quay lại tạc tượng có vẻ đã ảnh hưởng đến Bougatsa, giờ đã thiếu đi sự hiếu động thường nhật. Khi chúng tôi trở về từ chuyến đi dạo hằng ngày, nó ăn cả một tô thức ăn to tướng trước khi nằm lờ đờ nhỏ dãi ra đôi giày chỉnh hình của tôi.

Vào đầu tháng Ba, tôi có một buổi khám định kỳ với bác sĩ Edwards. Chúng tôi xem xét biểu đồ hồi phục của tôi và bàn về một cuộc tiểu phẫu sẽ được tiến hành vào cuối tháng. Bà có vẻ thực sự rất hài lòng. "Anh đã ra viện được hơn một năm và mọi thứ không thể tiến triển tốt hơn thế này được."

Tôi ngậm miệng lại không nói gì về việc Marianne Engel, chính tại cái thời điểm đó, đang nằm trên một tảng đá mới, chuẩn bị sẵn sàng. Số 13 May Mắn đang đợi.

"Anh biết không," Nan nói thêm, "tất cả đều chứng minh rằng một bác sĩ có thể phạm phải sai lầm nghiêm trọng đến thế nào. Đã có lúc tôi tưởng anh từ bỏ mọi hy vọng, và rồi anh trở thành một trong những bệnh nhân chăm chỉ tập luyện nhất của chúng tôi. Và khi anh rời đi, tôi cứ đoán chắc rằng Marianne Engel không thể chăm sóc được cho anh."

Marianne Engel tạc tượng số 13, 12 và 11 (một bà già có đôi tai lừa; một con quỷ mọc sừng có cái lưỡi nhớp nhúa thè lè ra ngoài; và một cái đầu sư tử có đôi ngà voi đi kèm), chỉ nghỉ có vài giờ trong suốt quá trình làm việc. Cô đã sụt toàn bộ số cân tăng được từ hồi Giáng sinh, và lại ăn nói khó hiểu. Bức tượng số 10 hiện hữu vào khoảng hai mươi tháng Ba.

Tôi được lên kế hoạch nhập viện để mổ vào ngày hai mươi sáu. Trước khi vào viện, tôi cần xem mình phải làm gì với Bougatsa. Không những tôi nghi ngờ khả năng chăm sóc Bougatsa của Marianne Engel trong khi cô không chăm sóc được chính bản thân mình, mà còn cả con chó nữa, có lẽ là một ví dụ của việc động vật có mối liên hệ mật thiết với người, cũng đang sụt cân. Tôi băn khoăn không biết liệu mình có thể dùng việc này để khiến cô cảm thấy có lỗi mà chui ra khỏi tầng hầm hay không, và quyết định liều một phen.

Tôi bắt cô dừng tạc tượng một lúc để giải thích cho rằng nếu cô coi việc tạc tượng quan trọng hơn chăm sóc Bougatsa, tôi sẽ đem tống nó vào trại chó. (Đây chỉ là một mẹo mặc cả mặc lẽ thôi, nhưng nếu già néo thì cũng đứt dây thật đấy.) Marianne Engel nhìn tôi rồi nhìn Bougatsa, và cô nhún vai. Rồi cô quay lại tạc bức tượng số 9.

Có một đống phân to tướng ở trên sàn. Không phải của tôi.

Suốt thời gian tôi sống ở pháo đài, Bougatsa chưa một lần ị bậy trong nhà. Tôi cảm thấy ghê ghê khi phải miêu tả chi tiết về đống phân ấy, nhưng có hai điều cần phải chú ý ở đây. Đầu tiên, đống phân có vẻ khá lỏng. Thứ hai, nó có bã lá cây.

Thực vật duy nhất ở trong nhà là cái cây Jack mang đến. (Có lẽ trước khi tôi đến đây cũng đã có nhiều cây khác, nhưng chúng chắc đều đã chết bởi sự thờ ơ của Marianne Engel khi cô mải tạc tượng.) Khi kiểm tra đống phân kỹ hơn, tôi nhanh chóng phát hiện ra Bougatsa rõ ràng đã ăn lá cây. Hầu hết lá đều đã bị ăn mất, những cái lá còn lại đều có rìa nham nhở vết răng cắn.

Tôi tìm con chó và phát hiện ra nó đang nằm thẳng cẳng trong phòng sách, thở hổn hển. Khi tôi lấy tay vuốt sườn con chó để cố xoa dịu nó, lông nó rụng đầy ra tay tôi. Xương sườn là minh chứng về sự chết đói và tôi đã bị sốc: không hẳn là vì sự gầy gò của nó, mà vì tôi không hiểu nổi vì sao chuyện này lại có thể xảy ra. Trong những tuần gần đây, Bougatsa ăn nhiều hơn bình thường; sự thực là nó chẳng bao giờ có vẻ ngừng ăn cả.

Tôi tiến thẳng xuống tầng hầm để thông báo cho Marianne Engel rằng con chó của cô đang ốm rất nặng, vì tôi muốn làm cô cảm thấy xấu hổ và buộc cô đi với tôi đến bác sĩ thú y. Nhưng mọi việc không được tốt đẹp đến thế. Cô đang gù lưng trên một con quái vật với cặp mắt sắc lẻm dường như cảnh báo tôi tránh xa ra. Tôi cứ nói. "Bougatsa bị làm sao ấy. Nó ốm."

Cô ngước mắt lên nhìn tôi, như thể cô vừa nghe thấy tiếng động kỳ lạ phát ra từ một góc phòng mà lẽ ra cái góc ấy phải trống trơn. Máu chảy ra từ cổ tay cô do cái đục đi lệch hướng và những vệt đỏ dây khắp trán cô khi cô lấy tay lau trán. "Cái gì?"

"Cô đang chảy máu kìa."

"Tôi là một cành gai trong Thánh đường của Chúa."

"Không," tôi vừa nói vừa chỉ. "Cổ tay cô ấy."

"Ồ." Cô nhìn xuống, và một ít máu chảy cả vào lòng bàn tay cô. "Trông như một bông hồng ấy."

"Cô có nghe tôi nói gì không? Bougatsa bị ốm."

Cô cố hất một lọn tóc ra khỏi bộ ngực lem nhem mồ hôi và bụi đá, nhưng những ngón tay cô không thể chạm trúng được. Cô cứ trượt mãi. "Thế thì đi đến trạm xá vậy."

"Cô muốn nói phòng khám thú y hả?"

"Ừ." Máu cứ nhỏ giọt xuống đống đá vụn dưới chân cô. "Phòng khám thú y."

"Để tôi xem nào." Tôi với lấy cổ tay cô.

Marianne Engel, với vẻ sợ hãi đột ngột hiện lên trên mặt, giơ thẳng cái đục về phía tôi. Trước đây cô mới chỉ dùng bạo lực dọa tôi có một lần, khi cô ném bình cà phê vào tôi lúc ở trên tháp chuông. Lúc đó tôi đã chắc chắn rằng cô cố ý ném trượt nhưng bây giờ tôi biết nếu cô quăng cái đục vào tôi, thì cô thực sự muốn ném trúng đấy. Cô trông như thể không biết mình đang ở đâu, hay tôi là ai; cô trông như thể sẵn sàng làm mọi thứ để bảo vệ quyền được tiếp tục làm việc của mình.

Tôi lùi lại một bước, giơ tay lên theo đúng cách mọi người luôn làm để chứng tỏ rằng họ không có ý định xấu. "Nó là con chó của cô, Marianne. Cô không muốn đi với chúng tôi à? Với tôi và con chó của cô, Bougatsa ấy?"

Cái tên dường như đã khuấy động trí nhớ của cô. Đôi vai co rúm của cô giãn ra và cô buông một hơi thở đã nín từ nãy. Quan trọng nhất, cô hạ cái đục khi nỗi sợ đã rời khỏi ánh mắt cô.

"Không."

Không có chút tức giận nào trong giọng nói của cô, nhưng cũng chẳng có chút hối hận nào cả. Giọng cô chỉ trầm đục và rỗng không, chẳng chút thương cảm, như thể những thứ cô nói ra không phải âm thanh mà chỉ là những tiếng vọng.

Khi tôi đặt được chân lên bậc đầu tiên của cầu thang dẫn lên nhà, cô lại dồn hết sự chú ý vào tảng đá trước mặt mình.

Bác sĩ thú y là một phụ nữ đẫy đà tên Cheryl với mái tóc đỏ và đôi mắt sáng, có lẽ là người gốc Ailen. Một trong những điều đầu tiên bà hỏi là tại sao tôi lại sở hữu cái bộ dạng mà tôi đang mang đây, thật là một cách cư xử tốt hơn nhiều so với việc cố giả vờ rằng ngoại hình của tôi chẳng có gì bất thường. "Tại nạn ô tô."

"Tôi hiểu. Vậy anh bắt đầu nhận thấy có chuyện với, à" - bà liếc vào cái bảng mà cô tiếp tân đã điền - "Bougatsa? Bánh ngọt Hy Lạp, là khi nào nhỉ?"

"Phải. Cùng màu. Tôi thấy nó bị ỉa chảy vào sáng nay, và tôi nghĩ nó đã ăn lá cây."

"Tôi hiểu rồi." Cheryl gật đầu. "Lông nó lúc nào cũng thế này à? Có vẻ không được bóng mượt lắm."

"Chị nói đúng," tôi trả lời, "và đợt này lông có vẻ nhờn hơn bình thường. Nó gần đây đã không ổn rồi, nhưng sáng nay dường như mọi thứ đồng loạt rối tung cả lên. Nó chắc chắn đang bị sụt cân."

Bà hỏi là nó có bị uể oải không, và tôi xác nhận là có. Rồi bà kiểm tra nó một chút, chiếu đèn vào mõm và mắt nó, Bougatsa cứ nằm rên ư ử suốt. Tôi hỏi xem bà nghĩ vấn đề của nó là gì.

"Nó có đau ở vùng này không nhỉ?" Bà hỏi trong khi ấn tay vào bụng của Bougatsa, và rồi tự trả lời câu hỏi của mình. "Thực sự là nó có vẻ không có vấn đề gì ở chỗ này lắm. Có dấu hiệu gì của mỡ chưa tiêu trong phân của nó không?"

Ai - ngoại trừ một bác sĩ thú y - biết được mỡ chưa tiêu trong phân chó thì trông như thế nào? Tôi trả lời là tôi đã quên làm một bài phân tích thành phần hóa học trước khi mang nó đến đây, vì thế tôi không thể nói chắc được. Cheryl ném cho tôi một cái nhìn khó chịu trước khi nhấc đuôi Bougatsa lên để kiểm tra hậu môn. "Nó có hay ăn phân của mình không?"

"Chúa ơi." Lại nữa, Cheryl lại mong đợi ở khả năng quan sát của tôi nhiều hơn mức tôi thấy là hợp lý. "Tôi không biết. Có lẽ?"

"Tôi không chắc vấn đề là gì," bà nói, "nếu không làm thêm vài xét nghiệm nữa. Anh có thể để nó ở đây một hai ngày được không?"

Giờ không phải lúc giải thích rằng Bougatsa thực ra không phải là chó của tôi, thế là tôi cứ thế ký giấy để nó ở lại thôi. Khi tôi hỏi liệu việc xét nghiệm có gây đau đớn cho nó không, nữ bác sĩ thú y giỏi giang trông có vẻ bị xúc phạm. "Không, nếu tôi có thể."

Tôi bảo con chó phải ngoan ngoãn ở với bác sĩ Cheryl và nó thè lưỡi ra liếm tay tôi. Vài người có thể nghĩ việc này là một dấu hiệu thể hiện tình cảm, nhưng tôi hiểu rõ rằng chó chỉ làm thế theo bản năng thích liếm láp chải chuốt của chúng mà thôi.

Khi tôi gọi điện đến phòng khám vài ngày sau đó, Cheryl vẫn chưa tìm ra nguyên nhân gây bệnh cho Bougatsa nhưng bà cũng trấn an tôi rằng sắp có kết quả. Bà có vẻ rất lấy làm tiếc về chuyện đó nhưng, nói thật chứ, điều này thực sự đúng ý tôi.

Phòng khám sẽ là trại chó lý tưởng trong thời gian tôi phẫu thuật, vì thế tôi đã giải thích tình thế của mình và hỏi xem liệu Bougatsa có thể tiếp tục ở đó cho tới khi tôi ra viện không. Bà bác sĩ thú y rất tán thành, nói rằng việc đó sẽ giúp bà có thời gian để làm các chẩn đoán và xét nghiệm cẩn thận.

Giờ tôi chỉ còn phải lo chuyện của Marianne Engel. Tôi không muốn để cô ở nhà một mình, nhưng cô là một người đã trưởng thành và tôi sắp phải vào bệnh viện có một đêm thôi, nhiều nhất là hai. Nếu cô cứ làm theo đúng lịch trình của mình, cô sẽ lại tạc tượng suốt thôi. Mà nếu tôi có ở nhà, thì cô cũng sẽ lờ tôi đi.

Ngay khi tôi đã yên vị trong bệnh viện, tất cả những gương mặt quen thuộc lại xuất hiện trong phòng tôi. Cả Connie (vừa mới hết ca) và Beth (mới bắt đầu) đều ghé qua để chào. Nan ở đó, và sau vài phút thì Sayuri cùng Gregor bước vào với một khoảng cách khá tế nhị, chỉ chạm tay khi họ nghĩ là không có ai để ý. Khi tôi nói người vắng mặt duy nhất là Maddy, Beth cho tôi biết cô mới cưới và đã chuyển đi rồi. Giả thiết đầu tiên hiện ra trong đầu tôi là chồng cô hẳn phải là một dạng ăn chơi đàn đúm nào đó - có lẽ là một thành viên của bọn đua xe Thiên thần Địa ngục hay một tên luật sư tầm thường nào đấy - nhưng, trước sự ngạc nhiên bất ngờ của tôi, anh ta là một sinh viên tốt nghiệp ngành khảo cổ và Maddy đang theo anh ta đến đào đất tại một địa điểm nào đó trên bờ biển Sumatra.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 69


Tất cả mọi người đều hỏi thăm Marianne Engel; và tôi đã nói dối, một chút. Tôi nói cô có một cái hẹn lấy tượng gấp, bản thân tự thấy rằng chẳng việc gì phải nói là Ba Vị Chủ Nhân của cô giờ mới là người lên lịch. Tất cả mọi người đều gật đầu nhưng tôi có thể thấy ít nhất cũng có Sayuri không tin vào câu chuyện của tôi. Tôi đã không dám nhìn vào mắt cô, và điều này cũng làm Gregor cảnh giác với lời bịa đặt của tôi một chút.

Khi trong phòng chỉ còn lại tôi và Nan, tôi hỏi - vì tôi vẫn còn vài giờ trước khi cuộc phẫu thuật bắt đầu - liệu bà có muốn cùng tôi đi dạo quanh sân bệnh viện một lúc không. Bà nhìn vào lịch làm việc của mình, kiểm tra giấy tờ và tin nhắn điện thoại, quay số gọi cho phòng y tá trực rồi cuối cùng cũng đồng ý. Trong nửa chặng đường tản bộ của chúng tôi, bà thậm chí còn khoác tay tôi và chỉ vào vài đám mây trên trời làm bà liên tưởng tới một bầy hải mã. Tôi mời bà ăn một cái bánh xúc xích ở một gian hàng gần đấy và chúng tôi cùng ngồi trên ghế băng nhìn dòng người qua lại. Nan bị dính một ít mù tạt lên áo và tôi nghĩ rằng nó làm bà trông rất dễ thương.

Tôi đếm ngược khi mặt nạ hô hấp được áp lên miệng mình. Cho đến lúc này, tôi đã trở thành một chuyên gia thuốc gây mê và biết rằng mình sẽ tỉnh lại trong vài giờ tới. Chắc chắn sẽ vương lại cảm giác nhoi nhói nhưng tôi đã quen với đau đớn và cũng trải qua nhiều cuộc phẫu thuật để biết rằng mình sẽ ổn thôi. Ít nhất là ổn như hiện tại.

Trừ việc nó không diễn ra đúng như thế. Cuộc phẫu thuật định kỳ của tôi đã gặp phải một biến chứng: nhiễm trùng máu. Kiểu nhiễm trùng loại này chẳng lạ gì với những bệnh nhân bỏng, thậm chí với cả những người đã hồi phục được nhiều như tôi đây, nhưng may mắn là nhiễm trùng không quá nặng và cơ thể của tôi - đã trở nên mạnh mẽ nhờ những bài tập vất vả - có thể chống chọi được. Tuy nhiên, tôi vẫn phải nằm lại viện cho tới khi khỏi hẳn.

Sayuri gọi Cheryl để xin gia hạn thời gian cư trú ở đó của Bougatsa, trong khi Gregor tình nguyện đi thông báo cho Marianne Engel biết tình trạng của tôi. Ông ta quyết định lái xe tới pháo đài để trực tiếp nói cho cô biết, vì cô không trả lời điện thoại. Tôi cảnh báo ông rằng nhiều khả năng cô sẽ không ra mở cửa đâu, và hóa ra là tôi đã đúng. Sau mười phút gõ cửa, Gregor đành bỏ cuộc dù ông ta vẫn nghe thấy tiếng Bessie Smith kêu gào với âm lượng cực đại ở dưới tầng hầm.

Jack có một bộ chìa khóa riêng vì thế tôi gọi cho bà để nhờ bà kiểm tra hộ và nấu ăn cho Marianne Engel. Jack hứa với tôi là bà sẽ làm thế, thậm chí còn hỏi xem tôi có cần mang gì đến bệnh viện không. Chẳng có gì cả, vì tôi đã vào viện nhiều lần đến nỗi quá quen với việc chất đầy một túi xách (quần áo ngủ, giấy vệ sinh, sách, vân vân) để chuẩn bị cho cuộc phẫu thuật dù là nhỏ nhất.

Khi những việc nhỏ nhặt này được xếp đặt đâu vào đấy, tôi chẳng còn việc gì khác ngoài nằm yên trên giường (mà, tiện đây nói luôn, không còn tạo cho tôi cảm giác là lồng ngực của bộ xương nữa) và chờ cho lành hẳn. Mỗi buổi tối, Gregor lại mang cho tôi những cuốn sách mới, và có một lần ông ta thậm chí còn lén mang một ít bia vào. Bởi vì, như ông ta giải thích với một cái nháy mắt tinh nghịch, ông ta có hơi hướng nổi loạn một chút. Tôi bảo đảm với ông ta là ông ta rất nổi loạn ấy chứ.

Sau một tuần thì tôi cũng được ra viện, và Gregor xin nghỉ một giờ để chở tôi về nhà. Khi chúng tôi về đến pháo đài, tất cả đều chìm trong yên lặng. Bình thường việc này chẳng có vấn đề gì, có thể Marianne Engel đã đi dạo, hoặc chuẩn bị mua thêm một ít đá mới - nhưng tôi có cảm giác chẳng lành. Tôi không thèm kiểm tra phòng ngủ của cô nữa; tôi chạy thẳng xuống tầng hầm, với Gregor theo sau.

Dù đã ở với cô hơn một năm, tôi vẫn chưa chuẩn bị tinh thần để nhìn thấy cảnh tượng trước mắt. Đầu tiên, có ba bức tượng mới hoàn thành: số 8, 7 và 6. Cứ xét đến việc tôi mới chỉ đi có một tuần mà bình thường phải mất hơn bảy mươi hai tiếng đồng hồ cô mới tạc hoàn chỉnh một bức tượng, bài toán số học đã cho ra kết quả là cô có lẽ không chỉ đã làm việc không ngừng nghỉ mà còn làm việc cuồng nhiệt hơn bình thường rất nhiều. Đây là điều tôi gần như không thể tin được.

Marianne Engel không làm việc cũng chẳng đang ngủ trên một phiến đá mới. Cô đang ngồi giữa ba bức tượng quái vật mới của mình, bụi đá phủ hoàn toàn lấy người cô, khắc họa đậm nét từng chiếc xương khẳng khiu trên cơ thể. Cô đã gầy trơ xương khi tôi rời nhà đến bệnh viện nhưng giờ đây cô còn gầy hơn. Cô chắc chắn đã không ăn uống gì từ khi tôi để cô lại một mình. Ngực cô phập phồng yếu ớt theo mỗi nhịp thở, và làn da của cô, thật rực rỡ khi cô còn khỏe mạnh, giờ trông như bị trát hàng lượt sáp pafaffin hết hạn lên vậy. Khuôn mặt cô chỉ là bản sao xương xẩu so với trước đây, với những quầng thâm đen dưới mắt dễ gây cho người khác ấn tượng về hai hốc mắt mở trừng trừng.

Máu đỏ tươi thấm đẫm lên hình thập giá Trung cổ xăm trên bụng cô, trào ra từ hàng loạt vết cứa sâu trên ngực. Tay phải cô nằm thõng thượt trên sàn nhà, âu yếm một cái đục đẫm máu với những ngón tay trông như của một bà già, sẵn sàng gãy vụn chỉ dưới một áp lực nhỏ nhất.

Hình xăm trái tim rực lửa trên ngực trái của cô, Marianne Engel đã khắc tên tôi sâu vào trong da thịt cô.

Tôi không nghi ngờ gì việc Gregor Hnatiuk là một bác sĩ giỏi nhưng ngành của ông ta chủ yếu liên quan đến nói chuyện với mọi người, cố gắng tìm hiểu xem vấn đề của họ là gì, có lẽ cả kê vài loại thuốc nữa. Ông ta không được chuẩn bị để nhìn những gì Marianne Engel đã làm. Ông ta dường như không thể chấp nhận quang cảnh ấy là sự thật, có lẽ một phần là vì cô từ lâu không còn là bệnh nhân và đã trở thành một người quen thân thiết. Ông ta không thể cử động để tránh khỏi chỗ ấy và cứ đứng chớp mắt như để tĩnh tâm suy nghĩ, mỗi lần mở mắt là một lần ngạc nhiên khi thấy chẳng có gì thay đổi cả.

Marianne Engel xoay khuôn mặt đầy phấn khích của cô về phía tôi, mắt cô tràn đầy những giọt nước mắt hạnh phúc chứ không phải đau đớn. Khuôn mặt cô ngạc nhiên tột độ như thể vừa nhìn thấy một thứ gì đó quá tuyệt vời đến nỗi không thể diễn tả bằng lời lẽ đơn thuần.

"Chúa đã gửi một ngọn lửa khổng lồ vào tâm hồn tôi." Giọng cô run lên vì sung sướng, trong khi máu vẫn cứ tiếp tục chảy từ dòng chữ tên tôi khắc trên ngực cô. "Trái tim của tôi đã hoàn toàn chìm trong lửa tình yêu, và tôi hầu như không cảm thấy đau đớn chút nào."

Dù mới đầu bị sốc, Gregor vẫn là người tĩnh trí lại đầu tiên và chạy thẳng lên cầu thang để gọi điện cấp cứu. Trong khi đó, tôi cố gắng thuyết phục Marianne Engel bình tĩnh lại, nhưng cô cứ tiếp tục nói. "Thứ sống cùng lửa sẽ trở nên trong sạch." Cô chằm chằm nhìn tôi với ánh mắt điên dại, như thể đang mong nhận được sự đồng tình. "Dòng nước chia cách sẽ thanh tẩy."

Gregor đã quay trở lại, mang theo một cái chăn phủ lên thân thể đang run lẩy bẩy của cô. Khi chúng tôi quấn chăn lên người cô, tôi cố hết sức để làm cô trấn tĩnh lại. "Đội cấp cứu đang tới rồi, và mọi chuyện sẽ ổn thôi. Cô chỉ cần nghỉ ngơi."

Marianne Engel chẳng quan tâm gì đến lời tôi nói. "Chúa là một ngọn lửa nuốt chửng mọi thứ." Mười phút sau, khi đội cấp cứu tới và Gregor dẫn họ xuống tầng hầm, cô vẫn tiếp tục nói. "Thứ không thể chịu được lửa sẽ phải chịu nước."

Nữ y tá phụ trách cấp cứu đã hỏi cô có tiền sử lạm dụng chất kích thích không và tôi đã đảm bảo rằng không hề có chuyện ấy; cô ta gật đầu, nhưng tôi không chắc cô ta có tin tôi hay không.

"Những bầu trời đã cất tiếng kêu," Marianne Engel nói, trong khi họ quỳ xuống bên cạnh cô và kiểm tra các cơ quan nội tạng quan trọng, như thể cô đang cố thuyết phục họ vậy. "Những mũi tên đã được giải thoát."

Các nhân viên y tế đặt Marianne Engel lên một cái cáng rồi khiêng cô ra. Tôi được cho phép ngồi cùng xe cấp cứu với cô, trong khi Gregor lái xe theo sau. Tôi nắm lấy tay cô khi họ luồn một ống truyền dịch vào cánh tay cô. "Khi tảng đá được mở ra," cô líu nhíu nói, "những dòng nước sẽ phun trào."

Chỉ vài giây sau, thuốc đã khiến cô chìm vào giấc ngủ. Ngay sau khi cô hôn mê, tôi liền cung cấp thêm tiền sử bệnh án chi tiết hơn - với những gì tôi biết, trong mọi trường hợp - để các nhân viên y tế có thể liên lạc trước với bệnh viện. Khi chúng tôi tới cửa phòng cấp cứu, hai bác sĩ và một chuyên viên tâm thần học tiếp chúng tôi và Gregor đã đảm nhận nhiệm vụ ký giấy nhập viện cho cô. Tôi tiếp tục nắm lấy bàn tay vô thức của cô và nhẹ nhàng nói, nói tất cả những điều tôi muốn nói với cô nhưng vẫn chưa thể khi cô còn tỉnh táo.

Khi cuối cùng tôi cũng quay lại phòng khám thú y, Cheryl mời tôi ngồi xuống và nói, "Anh có biết chứng thiếu dịch tụy là gì không?"

Tôi nói là tôi có biết, nếu nó giống như dịch tụy người.

"Chó cũng có thể bị thiếu dịch tụy nữa, nhưng nó cũng không hẳn là bệnh Bougatsa mắc phải. Chứng thiếu dịch tụy là một bệnh hay gặp ở những giống chó lớn như là chó chăn cừu Đức, và những triệu chứng thường xuất hiện rất nhanh chóng, có vẻ giống với trường hợp này. Nói đơn giản, nó không thể phân hủy thức ăn của mình thành những phân tử nhỏ hơn bởi vì nó thiếu enzyme cần thiết. Kết quả là, nó không hấp thụ được chút dinh dưỡng nào, và đó là lý do lúc nào nó cũng đói. Nó ăn tất cả những gì mình có thể ăn được, thậm chí cả lá, để bù đắp cho sự thiếu hụt, nhưng dù có ăn nhiều đến thế nào đi nữa, nó cũng không hấp thu được chất dinh dưỡng. Cứ thế này mãi đã dẫn đến tình trạng nó gần như chết đói."

"Nhưng đó mới là tin xấu thôi," bà nói. "Tin tốt là anh đã phát hiện sớm và bệnh này hoàn toàn có thể chữa được, hoàn toàn có thể kiểm soát được với chế độ ăn hợp lý. Nó sẽ lại khỏe mạnh như cũ sớm thôi."

Bà đưa tôi đến chỗ cái cũi và tôi gần như có thể thề là mình đã trông thấy một tia sáng lấp lánh trong mắt Bougatsa khi nó nhìn thấy tôi đến. Nhưng có lẽ đó chỉ bởi Cheryl đã cho nó ăn thức ăn mà cuối cùng nó cũng có thể tiêu hóa được.

Các bác sĩ nói với Marianne Engel rằng họ chỉ chữa chứng suy nhược cơ thể của cô thôi, nhưng sự thật là họ cũng đang sát sao theo dõi tình trạng thần kinh của cô nữa. Gregor thường xuyên đến bệnh viện thăm cô, nhưng những chuyến thăm của ông ta là do tình bạn nhiều hơn là mối quan tâm bác sĩ bệnh nhân. Nhờ sự can thiệp của ông, một chuyên gia tâm thần học khác đã được chỉ định theo ca này.

Ngày nào tôi cũng đến và có một lần các bác sĩ thậm chí còn cho phép tôi mang Bougatsa vào. Biện pháp trị liệu với sự giúp đỡ của động vật, họ gọi thế. Marianne Engel được ra ngoài ngồi trên ghế băng tắm mình trong ánh mặt trời và cho con chó ăn một chút. Cô dường như rất sốc trước sự gầy gò của nó, như thể cô không hề nhớ rằng tình trạng sức khỏe của nó đã yếu đi trông thấy ngay trước mắt cô. Con chó, về phần mình, đã tha thứ hoàn toàn việc bị cô chủ bỏ rơi khi nó cần cô nhất. Bọn chó lúc nào cũng ngu thế đấy.

Việc cô ra viện vào cuối tuần đã vấp phải sự phản đối kịch liệt từ phía bác sĩ chỉ định. Tôi cũng khá do dự: tất cả những tổn thương cô tự gây ra cho bản thân, hầu hết đều do việc không quan tâm gì đến cơ thể của chính mình. Khắc tên tôi vào ngực mình là một hành động điên rồ và cực kỳ đáng sợ, điều này làm tôi cảm thấy mình không chỉ bỏ bê cô mà còn là nguyên nhân gây đau khổ cho cô nữa. Vì tình trạng sức khỏe của cô đã hồi phục, bệnh viện cũng không thể giữ cô lại mà không có trát của tòa, và dù tôi có nói thế nào đi nữa thì cũng không thể bắt cô ở lại thêm vài ngày. Khi chúng tôi về đến nhà, Bougatsa chạy nhắng lên khắp chỗ, húc cả vào cái cây mà vài tuần trước đã là thức ăn của nó.

Marianne Engel mới về nhà được hai ngày đã lại bắt đầu cởi quần áo chuẩn bị cho tảng đá tiếp theo. Đến dải băng quấn quanh ngực, cô cũng tháo luôn. "Tôi không thể giao tiếp mà vẫn băng thứ này trên người được."

Tôi sẽ không để cô làm thế nữa đâu. Tôi đã phải nhìn cô đổ gục hai lần rồi. Tôi sẽ không để mặc cô lần thứ ba đâu; tôi sẽ không để tên tôi làm ô nhiễm da thịt cô.

Chuyện xảy ra tiếp theo không thể gọi chính xác là một cuộc tranh luận, bởi vì một cuộc tranh luận cần có sự trao đổi những ý kiến trái ngược nhau. Đây thì toàn tôi nói thôi. Tôi nói nhẹ nhàng; tôi quát tháo; tôi dụ dỗ; tôi đe dọa; tôi nài nỉ; tôi đòi hỏi; tôi nói năng logic; tôi nói chuyện tình cảm; tôi nói đi nói lại mà cô vẫn hoàn toàn lờ tịt. Cô cứ lặp đi lặp lại chỉ một câu trả lời: "Chỉ còn năm bức tượng nữa thôi. Tôi sẽ nghỉ khi tất cả đã hoàn thành."

Khi tôi không thể dùng lời lẽ bắt cô dừng làm việc - logic thật vô dụng khi phải đối mặt với đam mê ám ảnh - tôi sẽ phải tìm cách khác để bảo vệ cô. Tôi quyết định đến thăm Jack, dù bà đã thất hứa trong việc chăm sóc cho Marianne Engel khi tôi đang nằm viện.

Khi bước vào triển lãm, tôi đã thấy một bộ ba bức tượng quái vật quen thuộc, và trên bức tường phía sau chúng là bức ảnh của một Marianne Engel khỏe mạnh. Đục trong tay, mái tóc kỳ dị rối bù đầy nghệ sĩ, cô đang đứng tựa vào một trong những sáng tạo nghệ thuật đầu tay của mình. Chú thích ngắn ngủi phía dưới bức ảnh chẳng đả động gì đến vấn đề thần kinh của cô cả. "Không giống với hầu hết các nghệ nhân tạc tượng hiện đại khác, người nghệ sĩ tỉnh lẻ nổi tiếng khắp thế giới này từ chối sử dụng các dụng cụ bằng hơi, luôn ưa dùng những dụng cụ truyền thống từ thời Trung cổ..."

Một cặp vợ chồng trẻ đi quanh một trong những tác phẩm cỡ lớn, lướt ngón tay lên những đường nét của bức tượng. Họ đang bình phẩm "cảm giác tuyệt vời khi được chạm vào nó" - nhưng rồi họ có thể đặt nó ở đâu? Chẳng có gì làm người ta buồn nôn hơn là việc bọn rửng mỡ chê tiền ngồi bàn luận nghệ thuật. Jack, ngắm thấy một mối lợi tiềm tàng, đã cố đi thẳng qua tôi với chỉ một cái vẫy tay hờ hững và nói, "Tôi sẽ quay lại với anh trong phút nữa."

"Sao bà lại bỏ rơi cô ấy?" tôi hỏi. Lần đầu tiên, tôi cảm thấy hài lòng với cái chất giọng chuông vỡ đùng đục của mình - nó làm lời buộc tội của tôi dành cho bà càng thêm kịch tích hơn.

Jack ngay lập tức bỏ ý định tiến lại chỗ khách hàng và kéo tôi vào một góc phòng để dựng lên một hàng rào phòng ngự chắc chắn trước sự cáo buộc của tôi. Cách bà nói làm tôi nghĩ đến một đoàn tàu trật bánh: tất cả những lời bà nói đều là những toa chở hàng hóa đóng kín, đổ ầm ầm về phía trước, đe dọa sẽ bay khỏi đường ray và nổ tung vào cuối mỗi câu như một đống hoang tàn hỗn độn. Bà bảo rằng mình đã đến pháo đài của cô hàng đêm khi tôi đang nằm viện, cố lách mình qua đống đồ đạc chặn trước cửa chính. Khi đã vào được bên trong rồi, bà đứng giữa Marianne Engel và những bức tượng của cô, không chịu rời đi cho tới khi cô ít nhất cũng ăn được một chút hoa quả.

"Anh thấy cô ấy vào giữa buổi chiều đúng không?" Jack đang nói tới thời điểm tôi và Gregor đến pháo đài. "Tôi phải làm việc, anh biết đấy. Tôi không giống anh - tôi phải tự trả hóa đơn của mình. Tôi không thể cứ thế mà đóng cửa phòng triển lãm để ở bên cô ấy cả ngày. Và nếu anh chịu gọi điện, tôi đã đi thẳng tới bệnh viện rồi. Nhưng không."

Chúng tôi cứ tranh cãi xem ai phải có trách nhiệm về cái gì, cho tới khi cặp vợ chồng trẻ không thể không nhìn trân trối về phía chúng tôi. Tôi ném cái nhìn quái vật nhất của mình về phía họ, cái nhìn sẽ giúp họ biết rằng họ nên quan tâm đến công chuyện chết tiệt của họ thì hơn.

Jack coi đây là một cơ hội tuyệt diệu để chỉ ra rằng khách hàng của bà đã trả tiền cho việc nuôi sống tôi. Tôi phản pháo lại là họ cũng trả cho việc nuôi sống bà nữa đấy, trong khi bà đè đầu cưỡi cổ Marianne Engel. "Bà chắc phải vui lắm khi biết rằng cô ấy lại tiếp tục tạc nữa đấy."

Ngay giây phút ấy, tất cả những giận dữ trên gương mặt Jack đã được thay thế bởi vẻ ngạc nhiên rất thật. "Cô ấy lại cái gì cơ?"

Tôi không thể tiếp tục tấn công bà được nữa: không có cách nào phủ nhận sự quan tâm của Jack cả. "Cô ấy chưa bao giờ lên cơn cùng một lúc thế này trước đây cả. Một lần một năm, có lẽ thế. Hai lần, nếu năm nào không được suôn sẻ cho lắm."
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 70


Chính lúc ấy, tôi cảm thấy ghét Jack vì chuyện bà đã chia sẻ hai mươi năm đời mình với Marianne Engel. Đó là sự ghen ghét tệ hại nhất, được nuôi dưỡng bởi lòng ghen tị, nhưng đó cũng là sự ghen ghét tôi phải gạt sang một bên. Kinh nghiệm của Jack là vô giá, vì thế tôi hạ tông giọng của mình xuống thấp nhất có thể. "Giờ tôi phải làm gì đây?"

"Tôi không biết." Bà lật tấm biển từ "Mở cửa" sang "Đóng cửa", dồn những vị khách còn sót lại ra ngoài, và tôi đi theo bà ra khỏi cửa hàng. "Nhưng chúng ta phải làm một cái gì đó."

Jack biết một luật sư chuyên trị những vấn đề liên quan đến việc nhập viện không tự nguyện. Tôi nghĩ điều này cũng rất tự nhiên khi cả đời bà phải đối phó với những bệnh nhân tâm thần phân liệt - trước nhất là mẹ mình, rồi đến Marianne Engel.

Clandy McRand là một ông già, ngồi sau cái bàn gỗ to tướng đặt chiếc máy tính phủ đầy những tờ giấy ghi chú màu vàng. Ông cứ không ngừng kéo ve chiếc áo khoác của mình xuống, như thể làm thế sẽ giúp ông khép được chiếc jacket vào cái bụng mà ông không chịu thừa nhận kích cỡ thực sự. McRand đằng hắng liên tục, dù tôi mới là người nói hầu như từ đầu đến cuối. Ông hí hoáy viết vào cuốn sổ luật sư bìa vàng của mình, và Jack thỉnh thoảng lại trả lời những câu hỏi của ông mà tôi không có lời đáp. Ông có vẻ đã biết khá rõ về Marianne Engel, nhìn vào chồng hồ sơ dày cộm ông lôi ra trong tủ khi chúng tôi mới đến thì biết. Rõ ràng là hồi xưa Jack cũng có dùng dịch vụ của McRand, có lẽ là để giúp lập quyền bảo trợ.

Khi chúng tôi đã nói cho ông biết mọi chuyện cần thiết, ông bảo chúng tôi có thể lập hồ sơ vụ này nhưng cũng sẽ chẳng dễ dàng gì đâu. Mọi thứ có bao giờ dễ dàng đâu, tôi nghĩ, nếu luật sư có thể có một ngày lương béo bở. Tuy nhiên, khi nghe ông giải thích quy trình, tôi có thể hiểu được là không phải sự tham lam của ông làm chậm trễ mọi việc. Lý do thực sự là do quy chế.

Thông thường thì, một người họ hàng của bệnh nhân sẽ điền các cam kết cho việc nhập viện khẩn cấp. Dù theo luật là ai cũng có thể ký được, McRand giải thích tiếp, nhưng quy trình sẽ bị chậm đi nếu người ký giấy không phải họ hàng gần của bệnh nhân. Vì Marianne Engel không có gia đình, cô sẽ cần phải được hai bác sĩ kiểm tra cẩn thận trước khi người đại diện có thể ký bất kỳ cái gì. Nếu cô từ chối không cho kiểm tra - mà tôi biết chắc là cô sẽ làm thế - tôi sẽ bị buộc phải làm bản cam kết rằng cô "bị tổn thương nghiêm trọng". McRand nhìn tôi dò hỏi để chắc chắn tôi sẽ làm việc đó và tôi bảo đảm với ông rằng tôi sẽ làm thế, nhưng tôi nghĩ ông đã nhận ra sự do dự trong giọng nói của tôi.

"Ừm ừm," McRand dặng hắng một lúc trước khi tiếp tục nói. Một khi bản cam kết của tôi đã được ký xong xuôi, Marianne Engel sẽ bị bắt buộc phải trình diện tại bệnh viện để được bác sĩ chẩn đoán. Nếu cô từ chối - mà, lại nữa, tôi biết cô sẽ làm thế - các nhà luật pháp sẽ bắt buộc cô phải có mặt. Trong trí tưởng tượng của mình, tôi nhìn thấy hai ông cảnh sát bụng bự còng tay cô và kéo khuỷu tay cô dẫn vào tòa.

Nếu các bác sĩ kiểm tra đồng ý với lời khai của tôi rằng cô thực sự bị tổn thương nghiêm trọng, lệnh bắt nhập viện khẩn trong vòng bảy mươi tám tiếng đồng hồ sẽ được thực thi. Khi thời gian này kết thúc, giám đốc bệnh viện có thể làm một bệnh án khác để buộc cô nhập viện lâu hơn. Điều này là rất cần thiết bởi vì - lại một lần nữa, do chúng tôi không có họ hàng gì với nhau - cả Jack lẫn tôi đều không thể tự đứng ra làm việc đó được. Nếu không có sự hợp tác của ngài giám đốc, chúng tôi sẽ không có quyền hợp pháp để tiến hành làm đơn thỉnh cầu.

Cứ cho rằng giám đốc bệnh viện sẽ đồng ý, thì tiếp theo cũng phải ra đối chất trước tòa nữa. Ở đây thì Marianne Engel sẽ bị buộc phải ra để đối chất, như tôi, và như Jack với tư cách là người bảo trợ của cô. Có khả năng là những người khác cũng phải có mặt, những người đã chứng kiến những biểu hiện gần đây của Marianne Engel. Có lẽ là Gregor Hnatiuk và Sayuri Mizumoto, ví dụ thế. Hội đồng sức khỏe tâm thần sẽ chủ tọa phần đối chứng, dù Marianne Engel vẫn sẽ có quyền hợp pháp để dự một phiên tòa có đủ bồi thầm đoàn. Và, nếu chuyện đó xảy ra, cô hoàn toàn có thể thuê luật sư cho riêng mình.

Ở tòa, McRandy cảnh báo, chẳng mấy nghi ngờ gì là tiểu sử của tôi sẽ được mang ra bàn luận. Xét đến nghề khiêu dâm của tôi, việc tôi thú nhận là người nghiện ngập, và việc Marianne Engel đang phải trả mọi hóa đơn y tế của tôi, bất cứ thẩm phán nào cũng sẽ do dự trước việc treo quyền dân sự của cô chỉ vì tôi thấy rằng đó là một ý hay. Nhìn một cách khách quan, cô là công dân hạng nhất, tôi thì không. Bồi thẩm đoàn có khi còn thấy buồn cười là tôi muốn cô tuyên bố rằng cô không có khả năng tự chăm sóc bản thân trong khi mọi người đều thấy rằng cô sống một cuộc sống tốt hơn tôi rất nhiều. Và - McRand có vẻ ngại ngần nêu vấn đề này ra nhưng biết rằng ông sẽ rất cẩu thả nếu không làm thế - Marianne Engel có thể trình diện tòa với một khuôn mặt xinh đẹp. "Anh, trái lại..." Đó không phải là một câu cần có kết thúc.

Tôi chỉ ra rằng cô đã lấy đục khắc chữ vào ngực. Có bằng chứng nào mạnh hơn thế để chứng tỏ cô đang gây nguy hiểm cho chính bản thân mình chứ? McRand thở dài và nói rằng sự việc ấy có thể là "một điểm khởi đầu tốt để đưa trường hợp đó ra trước tòa," nhưng cũng chẳng có bằng chứng nào chứng tỏ cô có thể gây nguy hại cho ai khác cả. "Nếu tự làm hại bản thân là lý do để tống người ta vào bệnh viện, thì giờ viện tâm thần đã đầy chật những người nghiện thuốc lá và khách hàng trung thành của đồ ăn nhanh rồi."

Sao tôi có thể nhờ những người chúng tôi biết để làm chứng chống lại Marianne Engel trong một vụ xử mà chúng tôi gần như cầm chắc thất bại? Hơn nữa, làm sao tôi có thể làm chứng chống lại cô? Với những lý thuyết của cô về âm mưu thì không thể để cô nghĩ rằng những người bạn thân nhất thực ra chính là tay sai của kẻ thù đang cố ngăn cô đem những trái tim của mình đi.

"Vậy đó..." Ngài McRand thở dài thể hiện đã đi đến kết luận, kéo ve áo của ông xuống lần nữa trước khi đặt hai tay lên cái bụng tròn trịa.

Tôi cám ơn ông vì đã dành thời gian cho chúng tôi và Jack nói với ông là cứ gửi hóa đơn đến phòng triển lãm của bà. Khi chúng tôi đã ra khỏi văn phòng, Jack giơ tay lên để quàng vai tôi. Bà nói rất lấy làm tiếc, và tôi tin rằng bà thực sự thấy như vậy.

Niềm an ủi duy nhất của chúng tôi là Marianne Engel chỉ còn năm bức tượng nữa trong bài đếm ngược của cô. Dù nhìn cô tạc chúng là một việc rất đau đớn, ít nhất việc đó cũng không kéo dài lâu nữa. Tất cả những gì tôi có thể làm là cố chăm sóc cô tận tình. Khi cô đập nhát búa cuối cùng xuống bức tượng cuối cùng, cô sẽ nhận ra rằng rốt cuộc những nỗ lực của cô đã không thể giết được cô.

Thực đơn mới của Bougatsa bao gồm một phần tụy bò sống, thứ này giúp nó có thể tiêu hóa các thức ăn khác bằng việc thay thế enzyme tụy mà cơ thể nó thiếu. Dù có thức ăn bổ sung dạng bột chứa đủ enzyme cần thiết, Cheryl và tôi vẫn quyết định là sẽ dùng thịt thật. Thế là tôi trở nên nhẵn mặt mấy bác bán thịt quanh vùng, những người đã rất băn khoăn trước đơn đặt hàng của tôi cho tới khi tôi giải thích tại sao tôi lại cần chúng, và họ đã rất hài lòng khi biết được rằng mình đang giúp đỡ con chó ở cuối sợi dây của tôi đây, vì chẳng mấy khi một ông đồ tể có được cảm giác mình là một bác sĩ. Mỗi ngày Bougatsa lại trông khá hơn một chút và mỗi ngày Marianne Engel lại trông tệ đi một chút.

Cô tái đi vì thiếu ánh sáng, dù thỉnh thoảng cô cũng ra khỏi tầng hầm để lấy thêm thuốc lá hoặc một bình cà phê hòa tan khác. Cô dần trở thành một cái khung xương tạc vĩnh viễn vào bụi đá, da thịt cô cứ khô héo dần dưới áp lực cố gắng quá sức. Cô đang tan biến dần, từng chút từng chút một, như những mẩu đá nhỏ cô đục ra khỏi bức tượng quái vật. Cô đã hoàn thành bức tượng số 5 trước khoảng giữa tháng Tư và ngay lập tức bắt tay vào chuẩn bị cho bức tượng số 4.

Ngày kỷ niệm vụ tai nạn của tôi - ngày "sinh nhật" thứ hai của tôi vào thứ Sáu Tuần Thánh - trôi đi mà cô không hề chú ý. Tôi đến địa điểm xảy ra tai nạn một mình, trèo xuống chỗ gần bờ sông và thấy rằng màu xanh của cỏ giờ đã phủ lên màu đen của vụ cháy. Chiếc chân nến cắm từ lần sinh nhật trước của tôi giờ vẫn đứng nơi chúng tôi để nó lại, xám xịt vì sương gió, một minh chứng cho việc nơi đây chưa hề có ai lai vãng kể từ lần đó.

Tôi đặt một chiếc chân nến xuống, một chiếc khác trong số những tác phẩm được cho là của Francesco, và cắm một ngọn nến vào cái miệng sắt đang há ra chực chờ của nó. Tôi nói vài lời sau khi đã châm nến - không phải một bài cầu nguyện, vì tôi chỉ cầu nguyện khi ở Địa ngục - mà như một lời tưởng niệm những gì đã qua. Nếu không phải vì lý do nào khác, thực sự cuộc sống với Marianne Engel đã làm tôi trở nên thích thú với các nghi lễ.

Cô tiếp tục làm việc đến hết tháng, nhưng tốc độ làm việc của cô đã giảm đi đáng kể. Điều này là không thể tránh khỏi. Khi làm xong bức tượng số 4, cô phải nghỉ hai ngày rồi mới tiếp tục làm tượng số 3. Cô không thể tiếp tục lờ đi những rối loạn cơ thể được nữa. Dù cô đã dành thêm thời gian để chuẩn bị, bức tượng số 3 vẫn mất tới năm ngày mới hoàn thành được.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 71


Tượng số 2 kéo thời gian làm việc của cô đến tận cuối tháng, và chỉ nhờ một ý chí kiên cường đáng sợ mới có thể giúp cô tiếp tục được lâu đến thế. Sau khi xong xuôi, cô bò vào phòng tắm để tắm gội sạch sẽ và rồi (cuối cùng thì cũng) trèo lên giường ngủ liền hai ngày.

Khi cô tỉnh dậy, chỉ còn duy nhất một bức tượng nữa mà thôi. Tôi không chắc là mình nên sợ điều này hay nên sung sướng tột độ nữa; vì lúc nào chẳng thế, Marianne Engel thường làm tôi có cảm giác ấy.

Cô hiện ra từ phòng ngủ vào ngày đầu tiên của tháng Năm và tôi thực sự nhẹ nhõm khi thấy cô đã khá lên nhiều. Tôi trở nên hài lòng gấp đôi dù vẫn còn chút ngờ vực khi thay vì tiến thẳng xuống tầng hầm để bắt đầu làm nốt bức tượng cuối cùng cô lại cùng ăn với tôi. Khi chúng tôi nói chuyện, tất cả từ ngữ đều ở đúng trật tự và sau đó cô còn đi dạo với Bougatsa, con chó cứ lâng lâng khi có lại sự quan tâm mà nó đã mong mỏi từ phía cô chủ. Chúng tôi thay nhau ném một quả bóng tennis cho nó chạy đuổi theo để rồi quay trở về với một mồm đầy nước dãi.

Marianne Engel là người đầu tiên gợi chủ đề ấy ra. "Tôi chỉ còn một bức tượng nữa thôi."

"Ừ."

Tôi đặt một chiếc chân nến xuống, một chiếc khác trong số những tác phẩm được cho là của Francesco, và cắm một ngọn nến vào cái miệng sắt đang há ra chực chờ của nó. Tôi nói vài lời sau khi đã châm nến - không phải một bài cầu nguyện, vì tôi chỉ cầu nguyện khi ở Địa ngục - mà như một lời tưởng niệm những gì đã qua. Nếu không phải vì lý do nào khác, thực sự cuộc sống với Marianne Engel đã làm tôi trở nên thích thú với các nghi lễ.

Cô tiếp tục làm việc đến hết tháng, nhưng tốc độ làm việc của cô đã giảm đi đáng kể. Điều này là không thể tránh khỏi. Khi làm xong bức tượng số 4, cô phải nghỉ hai ngày rồi mới tiếp tục làm tượng số 3. Cô không thể tiếp tục lờ đi những rối loạn cơ thể được nữa. Dù cô đã dành thêm thời gian để chuẩn bị, bức tượng số 3 vẫn mất tới năm ngày mới hoàn thành được.

Tượng số 2 kéo thời gian làm việc của cô đến tận cuối tháng, và chỉ nhờ một ý chí kiên cường đáng sợ mới có thể giúp cô tiếp tục được lâu đến thế. Sau khi xong xuôi, cô bò vào phòng tắm để tắm gội sạch sẽ và rồi (cuối cùng thì cũng) trèo lên giường ngủ liền hai ngày.

Khi cô tỉnh dậy, chỉ còn duy nhất một bức tượng nữa mà thôi. Tôi không chắc là mình nên sợ điều này hay nên sung sướng tột độ nữa; vì lúc nào chẳng thế, Marianne Engel thường làm tôi có cảm giác ấy.

Cô hiện ra từ phòng ngủ vào ngày đầu tiên của tháng Năm và tôi thực sự nhẹ nhõm khi thấy cô đã khá lên nhiều. Tôi trở nên hài lòng gấp đôi dù vẫn còn chút ngờ vực khi thay vì tiến thẳng xuống tầng hầm để bắt đầu làm nốt bức tượng cuối cùng cô lại cùng ăn với tôi. Khi chúng tôi nói chuyện, tất cả từ ngữ đều ở đúng trật tự và sau đó cô còn đi dạo với Bougatsa, con chó cứ lâng lâng khi có lại sự quan tâm mà nó đã mong mỏi từ phía cô chủ. Chúng tôi thay nhau ném một quả bóng tennis cho nó chạy đuổi theo để rồi quay trở về với một mồm đầy nước dãi.

Marianne Engel là người đầu tiên gợi chủ đề ấy ra. "Tôi chỉ còn một bức tượng nữa thôi."

"Ừ."

"Anh có biết nó là gì không?"

"Lại một con quái vật nữa, tôi đoán thế."

"Không," cô nói. "Là anh."

Trong suốt tháng trước, bức tượng của tôi đã đứng đó, phủ một tấm vải trắng như bức biếm họa một con ma, trong góc xưởng của cô. Lúc đầu tôi hơi thất vọng vì nghĩ cô đã chán chẳng động đến nó, nhưng khi thấy cô càng lúc càng gầy đi thì tôi lại hạnh phúc vì đã không phải ngồi làm mẫu cho cô trong khi cô cứ héo dần héo mòn.

Tôi chỉ phải nghĩ một chút trước khi tình nguyện tiếp tục ngồi làm mẫu cho cô. Dù vẫn mong cô sẽ từ bỏ hết ý định tạc bức tượng cuối cùng, thì ít nhất tôi cũng có thể để mắt tới cô khi cô làm việc. Việc này cũng có cái lợi, nếu những lần ngồi mẫu trước đây của tôi có biểu đạt gì, cô sẽ tiến hành tạc tượng với một tốc độ thoải mái hơn rất nhiều. Tôi không phải một con quái vật hoảng sợ gào thét đòi thoát ra khỏi trận tuyết lở của thời gian và đá bụi; tôi sẽ cho cô thời gian rộng rãi hết mức, chẳng bao giờ thúc giục cả.

Tính tò mò đã giục tôi hỏi Marianne Engel xem liệu khi chúng tôi bắt đầu tạc bức tượng đó vài tháng trước, cô có biết đó sẽ là tác phẩm cuối cùng của mình không. Rồi, cô trả lời, cô đã biết thế rồi. Thế là tôi lại hỏi thêm, sao cô lại mất công tạc nó vào lúc ấy, trong khi biết rằng mình sẽ phải tạm để nó sang một bên?

"Đó là một phần trong việc chuẩn bị cho anh," cô trả lời. "Tiền trảm hậu tấu, tôi nghĩ anh khó có thể từ chối. Có vẻ là tôi đã đúng."

Chúng tôi bắt đầu vào chính ngày hôm đó. Trần trụi đứng trước mặt cô luôn làm tôi có cảm giác kỳ cục, nhưng giờ tôi đã cảm thấy ít xấu hổ hơn khi hiện tại cô, cũng như tôi, đã không còn hoàn hảo về mặt thể chất nữa. Trong khi sự gầy gò ốm yếu của cô còn lâu mới kinh khủng bằng những vết thương của tôi, nó ít nhất cũng mang chúng tôi lại gần nhau hơn trong nỗi bất hạnh của mình.

Công việc tạc tượng tôi kéo dài trong khoảng mười ngày, già nửa thời gian đó được đổ vào việc chăm chút những chi tiết nhỏ nhất. Thỉnh thoảng Marianne Engel đi tới bên chỗ tôi ngồi để lướt ngón tay lên người tôi, như thể đang cố nhớ vị trí vết bỏng của tôi để có thể khắc lên bức tượng càng chính xác càng tốt. Cách cô chú ý đến từng đường nét mờ ảo nhất khiến tôi không kìm được vài câu nhận xét; cô đáp rằng việc bức tượng được hoàn thành không chút sai lệch, không chút thiếu sót là cực kỳ quan trọng.

Mọi việc diễn ra cũng gần như tôi mong đợi. Cô không cuồng nhiệt làm việc như các đợt tạc tượng khác, thông thường chỉ làm dưới một giờ mỗi lần dù rằng tôi giờ đã có thể ngồi bao lâu cũng được khi bộ quần áo tạo áp suất đã được tháo ra. Cô dường như đang tận hưởng việc thực hiện bức tượng này, tác phẩm cuối cùng của mình. Cô hút ít hơn, và nắp đậy trên những bình cà phê luôn trong tình trạng kín mít. Cô tựa sát vào tảng đá trong khi tạc, thì thầm vào nó với một giọng nhỏ đến nỗi tôi không thể nghe thấy. Tôi rướn người ra phía trước, căng tai nghe những gì cô đang nói nhưng chẳng bao giờ thành công; thính giác của tôi bị tổn thương quá nặng trong vụ tai nạn khiến tôi chẳng xoay xỏa được gì. Tôi cố tìm hiểu bằng một câu nhận xét bâng quơ, "Tôi nghĩ là tảng đá nói chuyện với cô đấy, chứ không phải ngược lại đâu."

Marianne Engel ngước lên nhìn tôi. "Anh thật biết đùa."

Và mọi việc cứ thế diễn ra, cho tới khi cô lùi lại vài bước sau khi đã giáng nhát đục cuối cùng xuống. Trong một khoảng thời gian dường như kéo dài vô tận, cô chăm chú xem xét phiên bản đá của tôi trước khi nhận định là không có gì khác biệt giữa tượng và người thật nữa. Thỏa mãn, cô nói, "Tôi muốn khắc chữ một mình."

Cô làm việc cho tới tận khuya và, mặc dù sự tò mò của tôi gần như đã vượt quá khả năng kiềm chế, tôi vẫn tôn trọng yêu cầu được riêng tư của cô. Khi chữ cái cuối cùng được khắc xong, Marianne Engel liền đi lên cầu thang. Rất tự nhiên, tôi hỏi mình có thể đọc những chữ ấy không.

"Rồi sau sẽ có rất nhiều thời gian để làm việc đó," cô trả lời. "Ngay bây giờ, chúng ta sẽ đi ra biển để ăn mừng."

Tôi thích ý tưởng đó. Bãi biển luôn làm cô thoải mái và đó là một cách hay để tổ chức ăn mừng sự kiện này. Thế là cô dồn tôi vào xe và chẳng bao lâu sau chúng tôi đã thấy mình ở giữa những khúc gỗ đang trôi dạt vào bờ.

Những con sóng đánh dập dìu vào bãi cát và cơ thể cô ép sát vào tôi mới tuyệt vời làm sao. Bougatsa sung sướng nhảy múa xung quanh, đá cát lên khắp mọi chỗ. Dưới bãi biển, bọn thanh niên uống bia và cố gây ấn tượng với lũ con gái bằng cách làm trò như những thằng dở hơi.

"Thế," tôi nói. "Làm gì bây giờ?"

"Phần cuối cùng câu chuyện của chúng ta. Nếu anh đã quên thì đó là đoạn anh bị bọn condotta thiêu cháy ấy."
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 72


Thở ra. Hít vào. Tôi tập trung vào nhịp thở của mình. Thật điềm tĩnh. Thật tập trung. Nhắm. Trấn tĩnh nào. Tôi gọi tên mục tiêu. "Tim."

Tôi không biết mình đã tưởng tượng mũi tên trông như thế nào khi nó bay khỏi tôi. Tôi ngạc nhiên khi thấy mắt mình thực sự tập trung vào mục tiêu ở phía cuối mũi tên chứ không phải vào bản thân mũi tên.

Xuyên qua cơn bão, mũi tên của tôi bay vút đi như thể nó được một sợi dây thép dẫn đường, không một chút xao động. Tất cả mọi người đều biết câu chuyện một cung thủ bậc thầy có thể chẻ đôi mũi tên đang cắm giữa hồng tâm. Đó là cách mũi tên của tôi xuyên vào ngực anh, chính cái điểm anh bị tên bắn trước đây. Lần đầu tiên khi anh bị bắn, cuốn sách của Dante đã làm chậm tốc độ của mũi tên để cứu mạng anh và anh đã được mang đến với tôi. Lần thứ hai này mũi tên chẳng gặp phải vật cản gì, và anh bị mang đi khỏi tôi.

Đầu anh ngật ra sau vì áp lực của mũi tên và miệng anh thở hắt ra hơi thở cuối cùng với sự ngạc nhiên tột độ. Cằm anh nẩy lên ngực hai lần trước khi đầu anh rủ xuống thân thể không còn sức sống. Anh gục xuống khỏi hai bàn tay bị đóng đinh, và bức tường nhà huynh trưởng Heinrich cứ tiếp tục bốc cháy xung quanh anh. Mũi tên của tôi đã giúp anh không phải chịu thêm bất cứ đau đớn nào nữa, và vì điều này, qua làn nước mắt, tôi thầm cảm tạ Chúa.

Bọn lính đánh thuê gào rú lên không hiểu vì sao và Kuonrat đòi được biết kẻ nào đã cẩu thả đến mức, hoặc ngu đến mức, bắn mũi tên chết người trái với nghiêm lệnh của hắn. Mặt hắn tím ngoét đến nỗi một trong những tên lính của hắn đã tỏ lòng thương hại.

Lẽ ra tôi nên cảm tạ Chúa vào lúc khác và dành thời gian để chạy trốn. Khi xem xét mũi tên, chúng nhanh chóng nhận ra nó không đến từ bất cứ cây cung của tên lính nào, và góc tên cho thấy nó được bắn ra từ đỉnh đồi. Một đội được cử lên, và bọn lính ngay lập tức tiến dần đến chỗ núp của tôi. Chúng vẫn chưa nhìn thấy tôi, nhưng chúng biết tôi đang ở đâu.

Tôi vứt cung tên đi, vì tôi biết mình sẽ không bao giờ bắn thêm một lần nào nữa. Ngựa của tôi ở gần kề, sườn đồi rất trơn và những cành cây thì đủ rậm rạp để làm chậm bước chân người. Khi bọn lính đang lồm còm bò lên đỉnh đồi, tôi đã có thể tháo dây buộc ngựa và biến đi ngay trước khi chúng có thể vươn tay ra bắt. Tôi không có nhiều lợi thế thời gian so với bọn chúng, nhưng chúng cũng phải mất vài phút mới có thể tụt xuống dốc và trèo lại lên ngựa được. Tôi cũng có một lợi thế khác nữa. Tôi đã quen địa thế vùng này từ khi còn nhỏ, còn bọn lính lại không. Với cơn bão tuyết vẫn tiếp tục gầm rú, tôi nghĩ mình sẽ có cơ hội.

Lẽ ra tôi phải nghĩ chín hơn. Khả năng cưỡi ngựa của bọn chúng thảy đều giỏi hơn tôi rất nhiều, và những con ngựa được cho ăn tốt hơn cũng như được nghỉ dưỡng nhiều hơn. Tôi chưa đi được quá vài phút thì bọn chúng đã đuổi theo gần sát nút. Tôi biết rằng nếu mình cứ tiếp tục chạy như thế, bọn chúng sẽ tóm được tôi chỉ trong phút chốc. Con đường dẫn đến một ngã ba, với một hướng đi theo một ngả an toàn, và hướng còn lại chạy thẳng đến một vách đá dựng đứng nhìn xuống sông Pegnitz. Khi còn nhỏ thi thoảng tôi vẫn đi dọc theo gờ đá này, nhưng chỉ là những khi tôi cảm thấy đặc biệt liều lĩnh hoặc muốn kiểm tra cái ý tưởng là Chúa thực sự có một kế hoạch dành cho tôi.

Thời điểm tuyệt vọng cần đến giải pháp liều lĩnh, vì thế, dù biết con đường quá hẹp cho ngựa của mình có thể lách qua, tôi vẫn chọn lộ trình bất trắc đó. Con vật cảm nhận được mối nguy hiểm và tôi đã phải thúc gót chân vào sườn nó để bắt nó đi từng bước một, lẩm nhẩm bài kinh cầu quen thuộc tôi vẫn đọc khi còn nhỏ. Khi con ngựa bắt đầu lồng lên, tôi lại quát nó để nó tiến lên vài bước. Chẳng được bao lâu thì chân nó húc phải một gốc cây cụt đóng băng và cả tôi lẫn nó cùng loạng choạng ngã sang một bên.

Khi chúng tôi trượt xuống dốc, con ngựa cố bám những móng guốc tuyệt vọng vào đá, nhưng chẳng ăn thua gì. Nó chới với ngã sang một bên, hoảng sợ và không biết phải làm gì, quăng tôi xuống đất. Khi tôi đầu hàng cú ngã không thể tránh khỏi đó, tôi cảm thấy mình hoàn toàn không trọng lượng trong giây phút ngắn ngủi. Thật tuyệt vời, như thể tôi đang trôi trong sự cân bằng hoàn hảo giữa tuyết và Thiên đường vậy, và tôi thấy mình đang nhìn thẳng vào mặt con ngựa. Mắt của ngựa thường rất đen và bình lặng - khi tôi còn nhỏ, các nữ tu đã từng đùa rằng ngựa là loài có thể nhìn thấu được mọi bí mật của Chúa, thậm chí cả khi nữ tu viện trưởng không thể - nhưng giờ đây mắt nó đang trắng dã vì sợ hãi. Khoảnh khắc đó lướt qua thật nhanh, và được thay thế bởi vòng xoáy của tuyết và bụi cây khi chúng tôi tiếp tục rơi xuống sâu hơn.

Khi chúng tôi cuối cùng cũng dừng lăn, phải mất một lúc đầu óc tôi mới đủ tỉnh táo để xem xét chúng tôi đã trượt xuống tuyết như thế nào và tôi bắt đầu hốt hoảng với ý nghĩ không biết cú rơi đã ảnh hưởng gì đến con chúng ta. Khi đứa trẻ đạp vào bụng tôi gần như ngay lập tức, có lẽ đang tức giận trước tất cả những chuyện vừa xảy ra, tôi đã coi đó là dấu hiệu chứng tỏ rằng con vẫn còn khỏe và chưa bao giờ cảm thấy hạnh phúc hơn trong cả quãng thời gian gian khổ ấy.

Bọn lính đã không đuổi theo chúng tôi đến bên bờ vực, chúng đủ khôn ngoan để dừng lại nơi đường còn an toàn. Ít nhất một tên trong bọn cũng đã rút cung ra, trước khi nhận định rằng khoảng cách và cơn bão tuyết không thể khiến hắn bắn trúng. Không như tôi, rõ ràng hắn thiếu niềm tin vào Chúa.

Những tên lính đánh thuê sẽ tìm ra một lối đi khác xuống núi, nhưng tôi biết để làm được thế thì chúng cũng phải mất đến mười lăm phút. Có lẽ, tôi nghĩ, cú rơi của mình là cú rơi may mắn giúp cuộc đào thoát của tôi được thành công. Sự phấn khích nhất thời của tôi xẹp xuống khi tôi cố nâng con ngựa lên chỉ để thấy một cái chân của nó đã bị bẻ quặt hẳn sang một bên. Rõ ràng nó sẽ chẳng thể đi được thêm với tôi nữa. Tôi thậm chí còn chẳng có được lựa chọn là giải thoát cho nó bằng cách giết chết nó, vì tôi không còn cung tên nữa rồi. Nhưng dù sao tôi cũng không thể làm việc đó được. Một ngày giết chóc thế là quá đủ rồi.

Đi trước bọn lính mười lăm phút thì lợi lộc gì trong khi bọn chúng có ngựa còn tôi thì không? Một bên là vách đá nơi tôi vừa ngã xuống, và bên còn lại là dòng Pegnitz. Bình thường thì nước chẳng mấy khi đông hoàn toàn, nhưng thậm chí cả khi mặt sông đóng băng thì vẫn không an toàn với sức nặng của một người. Tôi chẳng có cách nào vượt sông, và trèo lại lên vách đá cũng chẳng giúp ích gì. Tất cả những gì tôi có thể làm là chạy dọc theo bờ sông và hy vọng vào những điều tốt đẹp nhất. Nhưng điều này cũng rất lố bịch, bởi vì cuối cùng bọn lính cũng đuổi kịp tôi từ đằng sau. Việc bắt được tôi giờ chỉ còn là vấn đề thời gian.

Kuonrat đã cắt đầu Brandeis khỏi người anh ấy mà không thèm suy nghĩ, và đã vừa cười vừa ra lệnh giết anh. Tôi biết khi mình bị bắt, như anh đã nói từ trước, phải thật may mắn mới có thể chết nhanh chóng. Cưỡng hiếp có vẻ là khả năng dễ xảy ra hơn.

Lớp băng mỏng trên mặt nước bắt đầu trông có vẻ cứng hơn. Khả năng vượt sông an toàn là rất nhỏ, nhưng tôi vẫn phải thử. Nếu tôi có thể vượt qua sông bằng cách nào đó, bọn lính sẽ không thể đuổi theo được. Chúng sẽ buộc phải để tôi đi, bởi vì thậm chí cả tên lính nhỏ nhất trong bọn chúng cũng có thể dễ dàng làm vỡ mặt băng. Tại sao bọn chúng lại phải mạo hiểm? Bọn lính đánh thuê không biết tôi là ai, có chăng chỉ là một ả lẳng lơ sống cùng một cựu lính, và tôi sống hay chết thì hại gì đến chúng? Kuonrat đã chứng minh được quan điểm của hắn, và cái chết của hai kẻ đào ngũ đã là quá sức tưởng tượng của hắn. Hắn hẳn cảm thấy sung sướng lắm rồi.

Cái túi chứa bức tượng Morgengabe và những cuốn sách của tôi sẽ trở thành gánh nặng không cần thiết khi vượt sông, nhưng tôi không thể chịu đựng được việc phải mất đi những đồ vật quý giá đến thế. Vì thế tôi giấu cái túi trong một hốc đá gần đó, tâm niệm rằng nếu còn sống thì tôi chắc chắn sẽ quay lại lấy nó.

Tôi bước bước đầu tiên lên mặt băng và nó có vẻ khá cứng, nhưng băng luôn cứng nhất khi ở gần bờ. Ngay phía cuối dòng sông, tôi có thể nhìn thấy những vùng nước mênh mông trông như những tấm chăn đen ngòm trải trên nền tuyết trắng. Thêm vài bước nữa, và tôi đã nghe thấy một tiếng rắc nhẹ. Tuyết điên cuồng thổi táp vào mặt tôi, giờ tôi đã ở cách bờ được khoảng năm mét rồi, liệu chân tôi có còn chạm đáy được nữa hay không?

Tôi tiếp tục với những bước nhỏ, lướt nhẹ chân nọ trước chân kia. Tôi đi với tốc độ nhanh nhất mà mình dám, nhưng thế vẫn chưa đủ. Tôi nghe tiếng vó ngựa của bọn lính đánh thuê càng lúc càng gần hơn, vì thế tôi đã bắt bản thân phải nhảy thật nhanh đến giữa dòng. Càng xa bờ càng an toàn, tôi tự nhủ, và điều quan trọng nhất và duy nhất lúc này là phải tránh thật xa tầm tên bắn.

Tôi cảm thấy băng đang dần nứt ra, từng chút một, nhiều hơn lúc trước, và hai cánh tay của tôi theo bản năng lập tức vòng quanh bụng. Tôi ngoái lại nhìn và thấy bọn lính đã chạy đến bên bờ sông, ở đó chúng tìm ra con ngựa què của tôi. Khi nhìn thấy tôi, bọn chúng giương cung ngắm về phía tôi và tôi nhận ra mình vẫn chưa đi đủ xa. Vài mũi tên bắn ra nhưng gió rất mạnh nên đều bay tản đi mất. Tôi biết bọn lính sẽ rút kinh nghiệm từ đợt bắn đầu tiên và chỉnh hướng ngắm cho lượt bắn thứ hai. Chẳng mấy nghi ngờ gì là tôi sẽ bị bắn trúng.

Lượt bắn thứ hai chẳng bao giờ tới. Kuonrat ra một hiệu lệnh và những tên cung thủ hạ cung xuống. Chuyện hắn lo lãng phí cung tên rất không hợp với tính cách hắn; hắn nghĩ tôi đáng được sống nếu có thể vượt sông ư, tôi cũng nghi ngờ điều đó. Khả năng hợp lý nhất, hắn chỉ khoái làm khán giả cho trò nhìn phụ nữ đi trên băng mỏng thôi.

Cái cách bọn lính đứng khiến tôi hiểu rõ rằng chúng sẽ đợi tôi đi cho tới khi không thể đi được nữa thì thôi. Biết mình không thể quay đầu lại, tôi bước thêm một bước về phía bờ xa kia. Băng dưới chân tôi lún xuống và tôi quỳ sụp, quăng cả hai tay ra phía trước để giữ thăng bằng, tôi tự nhủ rằng nếu tôi có thể vượt quá nửa sông, tôi sẽ sống, vì đó sẽ là nơi băng mỏng nhất. Tôi tự nhủ rằng nếu tôi có thể vượt qua lằn ranh tưởng tượng đó, đứa con chưa ra đời của tôi sẽ sống.

Câu hỏi đặt ra là làm thế nào thì tốt nhất. Tôi có nên nằm sấp bụng xuống rồi để người mình từ từ trôi đi không? Ý tưởng này, việc phân đều trọng lượng cơ thể, nghe rất hợp lý. Nhưng rồi tôi băn khoăn, nếu điều này chỉ làm tăng nguy cơ gặp phải một chỗ băng mỏng có thể làm toàn bộ băng ở gần đấy sụp xuống theo phản ứng dây chuyền và nuốt chửng lấy toàn bộ người tôi thì sao - và, dĩ nhiên là thế rồi, tôi cũng không dám mạo hiểm để bụng mình phải chịu thêm bất cứ áp lực nào nữa. Cơ thể tôi nói không, nhưng lòng tin của tôi tranh luận rằng tôi nên làm thế. Xét cho cùng, chính hơi thở của Chúa đã đưa mũi tên của tôi tới chính xác ngực anh. Liệu hơi thở đó có lướt trên lưng tôi, đưa tôi ra khỏi hiểm nguy không? Nếu có giây phút nào ta phải nép mình dưới sự che chở của Chúa thì chính là lúc này đây.

Tôi nhìn qua sông tới bờ bên kia, tưởng tượng mình là một mũi tên và con đường trước mặt tôi là đường tên bay. Tôi khẽ rướn người lên và cảm thấy băng tan ra dưới chân. Tôi căng chân ra, ấn gót chân xuống băng để tạo càng nhiều ma sát càng tốt. Tôi giơ một đầu gối lên và dồn vai về phía trước. Tôi đọc một bài kinh ngắn và nhìn về tự do nơi bờ bên kia, tập trung vào nó như mục tiêu của mình vậy. Và rồi tôi thả người ra, hoàn toàn phó mặc bản thân cho Chúa chở che.

Tôi chỉ tiến được vài bước thì băng nứt ra và tôi rơi về phía trước như đang phá cửa sổ xông ra ngoài. Dòng nước lạnh giá thấu tận xương tôi và sức nặng quần áo bị ngấm nước đã kéo tụt tôi xuống. Ý nghĩ đầu tiên của tôi là đứa trẻ, và hai cánh tay tôi đập loạn xạ, cố bám lấy tất cả mọi thứ vớ được. Tôi nghĩ nếu bám được vào thành hố, tôi sẽ có thể trèo lên. Nhưng những tảng băng tôi bám vào cứ thế vỡ ra, và cái hố càng lúc càng rộng ra mỗi lần tôi cố bám lấy nó. Tôi có thể cảm nhận được hơi ấm đang dần rời xa tôi. Khỏi đứa con của tôi. Sau vài phút thì đầu óc tôi vẫn đang bấn loạn, nhưng cơ thể tôi đã ngừng phản kháng rồi.

Dòng chảy của sông kéo tôi trôi ra xa. Dù tôi biết mình mới là người di chuyển, nhưng cái hố dường như đang trôi đi trên đầu tôi cho tới khi chẳng còn mặt hố nào nữa, chỉ có một tảng băng cứng phía trên. Chắc nó không quá cứng, nhưng khi tôi lấy tay đẩy nó, chẳng có gì xảy ra cả. Chẳng có gì bên dưới để tôi đạp chân lấy đà, chỉ có nước. Hy vọng duy nhất của tôi là nín thở cầu nguyện cho dòng nước cuốn tôi đến chỗ khác.

Cảm giác khi cơ thể mình hoàn toàn ngừng hoạt động thật kỳ lạ. Huyết mạch đã nuôi dưỡng bạn, đã phục vụ bạn trung thành suốt cả cuộc đời, giờ không còn đáp lại mệnh lệnh của tâm hồn bạn nữa. Giống như có ai đó ấn nút ngắt điện đi vậy. Tôi nhanh chóng nhận ra dù dòng chảy có mở ra cho tôi một lối thoát, thì cũng đã quá muộn rồi. Tay tôi sẽ không còn đủ sức để bám vào đâu, và dù có bám vào được, tôi cũng không thể nhấc mình ra khỏi dòng nước lạnh giá này nữa rồi.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 73


Điều đáng sợ nhất là tôi nhận ra mình không thể bảo vệ con chúng ta khỏi nguy hiểm nữa. Điều này làm tinh thần tôi hoàn toàn suy sụp. Tôi nhắm mắt lại, bởi vì đây là việc người ta luôn làm khi đang ở dưới nước và sắp chết. Thân thể tôi cứ thế rơi xuống, và mọi nỗi sợ của tôi đã đồng loạt biến mất. Khoảnh khắc khi ta chấp nhận từ bỏ mọi thứ thật đẹp đến nao lòng. Theo cách này thì sẽ dễ dàng hơn, tôi nghĩ vậy và cảm thấy được an ủi một chút, trong những giây cuối cùng trước khi tất cả mọi thứ đều chìm vào bóng tối.

Chuyện xảy ra tiếp theo - tôi có thể nói cho anh nghe, nhưng tôi không thể giải thích được. Không thể giải thích được một cách chuẩn xác, không phải theo cách anh có thể hiểu được. Bẩm sinh, tôi đã được ban cho khả năng ngôn ngữ đặc biệt và tôi đã hoàn thiện nó trong suốt bảy trăm năm, nhưng những từ ngữ có thể dùng để miêu tả chuyện xảy ra ngày hôm đó thì lại không hề tồn tại. Không tồn tại trong tiếng Anh, không tồn tại trong bất kỳ ngôn ngữ nào tôi biết.

Khi tôi tỉnh lại, không có vẻ gì là thức tỉnh cả, vì thực ra tôi có ngủ đâu. Dường như tôi đã rơi vào trạng thái vô thức, và giờ đây tôi đã tỉnh táo trở lại. Nhưng không phải sự tỉnh táo mà chúng ta dùng để hiểu thế giới xung quanh: nó là một thứ vĩ đại hơn, một thứ rộng vô biên và sâu vô độ. Tôi vẫn còn ở dưới mặt băng, vẫn bị dòng Pegnitz cuốn đi, nhưng cùng lúc ấy tôi cũng không ở trong làn nước của chính dòng sông ấy. Tôi đang ở trong dòng nước của cả thế giới, của cả vũ trụ, nhưng thậm chí nói tôi "ở" trong nước cũng không đúng bằng cách nói tôi là một phần của nó. Tôi đã tan vào dòng nước; tôi đã biến thành chất lỏng rồi.

Khi người ta chết đi và có thể quay trở lại bằng cách nào đó, họ luôn luôn nói về một tia sáng cuối đường hầm. Đây không phải chuyện tôi đã trải nghiệm. Có ánh sáng nhưng đó không phải là một đường hầm, ánh sáng ở khắp xung quanh người tôi. Những luồng sáng phản quang nâng đỡ tôi, giúp tôi nổi lên mặc dù chẳng hề có đáy biển để tôi phải thoát ra. Nó ở trong tôi và xuyên qua tôi; tôi là nước và tôi là ánh sáng. Tôi có cảm giác mình là một luồng sáng lỏng đang trôi đi, một quầng sáng bình thản không có sức nóng cũng chẳng lạnh lẽo. Tôi không còn chút cảm giác nào về cơ thể của chính mình nữa.

Thời gian không tồn tại khi cơ thể không còn tồn tại, bởi vì chỉ có cơ thể mới thực sự có ý niệm về thời gian. Chúng ta hiếm khi để ý đến cảm giác bẩm sinh của bản thân về thời gian cho tới khi nó bị lấy đi. Đó là lý do những người bị bệnh mất trí đã bấn loạn đến thế khi họ nhận ra tình trạng mình đang mắc phải. Không phải vì họ đã mất đi ký ức - tất cả chúng ta đều cùng mất đi ký ức; đó là bởi vì họ đã mất đi thời gian.

Tôi bắt đầu nhận thấy những sự hiện diện. Anh không thể gọi đó là những bóng ma hay linh hồn, bởi vì chúng thậm chí còn không có được hình dạng đó nữa. Chúng tồn tại chỉ bởi vì tôi cảm nhận được chúng. Nhưng cảm nhận một lần nữa lại không phải từ chính xác, bởi vì làm sao tôi có thể cảm nhận được thứ không có thực thể? Như ánh sáng và nước, chúng đều ở trong tôi. Tôi có thể cảm thấy chúng rõ rệt đến mức tôi biết rằng chúng không chỉ hiện đang ở trong tôi, mà chúng đã luôn ở đó từ trước rồi. Tôi đã luôn lờ chúng đi, trong cả cuộc đời mình, như một cách tự vệ. Việc đó giống như lắng nghe một cuộc nói chuyện - anh không thể tập trung vào từ ngữ được nói ra nếu anh cũng đang dỏng tai nghe tiếng đồng hồ tích tắc trong phòng và tiếng ô tô ngoài cửa, tiếng bước chân cuối hành lang cùng tiếng thở của người đàn ông ngồi bên cạnh người phụ nữ đang nhấp từng ngụm trà. Anh không thể làm tất cả những việc này cùng lúc, vì thế anh chỉ có thể tập trung vào lời của người đang nói thôi. Đó là cách con người giải quyết với tất cả những giọng nói vô tận họ có thể đón nhận. Anh nghe những suy nghĩ của chính mình, và anh đóng những suy nghĩ khác lại.

Nhưng giờ đây tôi có thể thấu hiểu được tất cả những giọng nói bên trong tôi. Tôi có thể nghe được mọi sự hiện diện đó, và chúng nghe như tiếng của những vòng tròn bằng vàng vậy. Tôi có thể nếm được chúng, và chúng có vị như sự an ủi. Chúng chạm vào tôi, và sự va chạm có cảm giác như âm nhạc.

Thấy không? Tôi ước gì mình có thể diễn tả được nó, nhưng tôi không thể. Nó không thể diễn tả được. Người nào nghĩ rằng có thể miêu tả được Chúa Vĩnh Hằng thì người đó chưa bao giờ thực sự trải nghiệm điều đó cả.

Ba sự vật tách khỏi ra khỏi vật chủ và tiến về phía trước. Dù họ không có hình thù thực sự, tôi vẫn có thể nhận ra họ đã từng là ai, dù trong đời thật tôi mới chỉ gặp một trong số họ, cha Sunder. Người thứ hai là Meister Eckhart và người thứ ba là Mechthild von Magdeburg.

Tôi biết đây không phải trò lừa bịp mà là một món quà đáng được trân trọng. Nó thật tự nhiên, thậm chí còn làm tôi cảm thấy rất thanh thản, khi cha Sunder nói rằng ông rất vui được gặp lại tôi. Không từ ngữ nào nói ra; dường như tôi có thể cảm nhận được những suy nghĩ của ông quyện vào tôi. Meister Eckhart và xơ Mechthild von Magdeburg cũng giao tiếp với tôi cùng bằng cách ấy. Cuộc "trò chuyện" của chúng tôi là một tấm kính vạn hoa với những rung động rực rỡ.

Họ không đến đó để mang tôi đi, họ giải thích như vậy, bởi vì tôi vẫn chưa sẵn sàng. Tôi chưa thực sự chết và vẫn còn nhiều việc phải làm. Họ sẽ giúp tôi đạt đến cái ngưỡng khi tôi sẵn sàng chết, và để thực hiện mục tiêu đó, họ đã được chỉ định làm những Chủ Nhân của tôi.

Tại sao con lại không bị đưa xuống Địa ngục? tôi giao tiếp với họ. Con đã giết người đàn ông con yêu nhất.

Mọi việc không diễn ra như vậy. Tội của Eve là đã ăn trái cấm, và vì điều này cô ấy đã bị trừng phạt bằng sự Sa ngã của Nhân loại. Với tội ác của đời con, phải cần đến sự chuộc tội nào?

Con không được phép quyết định điều này.

Nhưng đó là việc con phải làm. Con đường con chọn đã đưa con ra khỏi Cuộc đời của Chúa và đặt con vào bàn tay Thần Chết. Con có sám hối không?

Không. Thậm chí trước sự hiện diện của Chúa Vĩnh Hằng, tôi vẫn có thể nhớ được khoảng thời gian tôi sống với anh. Đúng là con đã phản lại lời thề nữ tu của mình, phản lại nữ tu viện trưởng và Chúa Tối cao khi làm chuyện đó, nhưng con chưa bao giờ phản bội bản thân. Con vẫn luôn trung thực với trái tim mình, và con sẽ không bao giờ hối cải vì tình yêu của mình. Đó là điều tuyệt vời nhất con từng làm.

Ba Vị Chủ Nhân của tôi hiểu rằng tôi vẫn sẽ giữ vững tình yêu mình dành cho anh, dù cận kề cái chết. Chắc chắn họ đã thấy điều này trước đây, và chắc chắn họ sẽ thấy điều này một lần nữa.

Trái tim của con luôn tự chủ, món quà tuyệt diệu nhất và cũng đáng nguyền rủa nhất của con. Vì vậy con sẽ phải sám hối bằng chính trái tim của mình.

Cứ để vậy đi.

Con đã học được cách trao trọn vẹn trái tim của mình cho người đặc biệt, nhưng con vẫn chưa học được cách chia sẻ trái tim vượt trên cái tôi của mình và người khác.

Con thừa nhận đây là sự thật.

Con sẽ quay trở lại thế giới của mình, và ngực của con sẽ ngập tràn hàng ngàn trái tim mới. Con sẽ phải trao chúng đi, cho tới khi chỉ còn lại một.

Làm sao con có thể làm được điều này?

Những trái tim này phải được lấy ra khỏi ngực con và chết thay con, trong khi đó chúng sẽ đi tìm sự sống ở những người khác. Làm thế con mới có thể vượt được bản ngã trần tục và sẵn sàng đến với Chúa.

Con không biết cách.

Con sẽ học.

Vậy khi nào con chỉ còn lại trái tim cuối cùng?

Trái tim đó con không thể tự trao đi được. Trái tim cuối cùng phải được trao cho người yêu của con. Anh ta phải nhận lấy nó, nhưng anh ta cũng không được giữ nó. Anh ta phải thả nó đi, để giải phóng cho con. Chỉ bằng cách này thì con mới có thể đến được bên Chúa.

Con không hiểu được tại sao người yêu của con lại liên quan đến chuyện này.

Người yêu của con sẽ hiểu được.

Đây là lúc mọi thứ kết thúc. Tôi bị kéo ra khỏi Chúa Thánh Thần, nước và ánh sáng ngừng chảy xuyên qua tôi, và tôi bị ném thẳng lại vào dòng nước lạnh giá tối đen của sông Pegnitz.

Khi tỉnh lại, tôi thấy mình đang nằm ngửa và không thể mở nổi mắt ra được. Mắt tôi bị băng bao kín và phải mất năm phút nỗ lực hết mình thì tôi mới có thể chớp chớp mắt được. Khi đó là sáng sớm và cơn bão đã tan. Tôi cố cất tiếng nói nhưng không thể phát ra được âm thanh nào, vì toàn thân tôi đều bất động. Thân thể tôi lạnh chưa từng thấy.

Tôi bắt đầu rung lắc nhẹ các ngón chân và ngón tay, cho tới khi tôi có thể bắt toàn bộ các chi hoạt động. Tôi cố đứng dậy, loạng choạng. Tôi đang ở phía sau một cái lán nào đó, và cách tôi độ một trăm mét là một trang trại nhỏ. Tôi lật đật chạy về phía đó, loạng choạng không chỉ vì hai chân đông cứng mà còn vì quần áo cũng đang cứng hết vì băng. Khói cuộn lên từ ống khói và tôi không biết mình có thể đi được đến nơi nếu không có sự ấm áp đầy hứa hẹn kia không. Tôi gõ cửa vài lần cho tới khi một bà lão nông dân mở cửa và mắt ấy trợn trừng vì hoảng sợ khi nhìn thấy tôi. Đối với bà, tôi rõ ràng là thây ma đến nhà.

Khi nhận ra tôi vẫn chưa chết, bà gọi chồng mình và bắt đầu cởi chỗ quần áo đông cứng của tôi ra. Ông cho tôi ăn xúp, trong khi bà quấn tôi trong hàng đống chăn và xoa bóp chân tay tôi để giúp máu dễ tuần hoàn. Khi tôi đã hồi phục được kha khá, chúng tôi bắt đầu lắp ghép các mảnh sự kiện đã xảy ra. Tôi đã bị cuốn đi vài dặm trên sông và kẹt lại tại một vùng nước chưa bị đóng băng. Tình cờ một người nông dân già đi qua và kéo tôi lên. Hai mắt tôi mở trừng trừng, tóc tôi cứng đơ dựng ngược cả lên, và thân thể tôi thì không có lấy một dấu hiệu sự sống nào.

Người nông dân nghĩ rằng tất cả mọi người đều xứng đáng được an táng tử tế, và đó là lý do ông kéo tôi ra khỏi dòng sông. Mặt đất quá cứng để có thể xới ra làm mộ được, thế là với quá ít sự lựa chọn, ông đã quyết định để tôi lại phía sau cái lán nhà họ và chôn tôi chỗ gần suối. Ông không thể mang một xác chết vào nhà mình, dĩ nhiên rồi, nhưng vì lý do thực tế hơn là mê tín. Xác tôi rồi sẽ phân hủy và bốc mùi. Chúng tôi đoán, tất cả mọi người đều nghĩ vậy, chắc do nước quá lạnh nên tôi trông như đã chết rồi. Những chuyện như thế vẫn thường xảy ra; có rất nhiều câu chuyện kể về những người bị chìm trong nước và mãi sau khi ai cũng tưởng họ chết rồi thì họ đột ngột sống lại.

Tôi ở lại với họ vài ngày, nhưng không bao giờ nói cho họ biết tại sao tôi lại ngã xuống sông. Tôi chỉ nói với họ rằng tôi đang đi dạo thì băng vỡ ra dưới chân tôi. Chẳng việc gì phải kể lại câu chuyện về Engelthal, hay về những tên lính đánh thuê, hay về Ba Vị Chủ Nhân của tôi. Chỉ riêng việc tôi còn sống sót đã khó tin lắm rồi.

Khi tôi đã đủ khỏe để có thể đi tiếp, tôi trở lại bờ sông Pegnitz để lấy cái túi đã giấu kín của mình, và rồi đi đến Mainz. Tôi còn đi đâu được nữa chứ? Tôi chuyển vào sống trong khu nhà của người Beguine và sống đời mặc niệm và cầu nguyện. Tôi phần nào đã trở lại với cuộc sống trước khi gặp anh, nhưng tôi đã bị thay đổi bởi tình yêu của anh sâu đậm đến nỗi không thể trở lại làm con người cũ được. Tôi không làm sách nữa, dù vào thời điểm ấy tôi đã hoàn thành bản dịch cuốn Địa ngục. Lý do tôi làm việc đó rất ích kỷ - không phải vì tôi nghĩ mình đang sáng tạo một tác phẩm có thể trường tồn cùng thời gian, mà vì dịch nó làm tôi cảm thấy được gần anh hơn.

Đoạn kết câu chuyện của tôi không quan trọng. Những năm tháng cuộc đời tôi được dành để trao tặng những trái tim nhưng tôi không bao giờ nghĩ rằng mình có thể ngừng sám hối cho tới gần đây, bởi vì tôi luôn biết rằng không thể trao trái tim cuối cùng của mình cho tới khi chúng ta lại gặp nhau.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 74


Bao la và đen thẳm, đại dương trải dài từ bờ cát cho tới khi đường chân trời của nó biến mất vào màn đêm. Tôi nói với giọng nhẹ nhàng hết mức. "Tôi biết cô tin câu chuyện đó là có thật, nhưng không phải vậy đâu."

Cô nhìn xuống bãi cát. Hơi thở của cô nghẹn lại trong cổ họng, rồi bật ra để nói lời thú tội. "Con của chúng ta đã không sống được."

Cô nhìn lên, về phía đại dương xa xăm, và rồi lại nhìn xuống bãi cát lần nữa.

"Khi tôi tỉnh lại thì đứa trẻ đã..."

Cô lấy hai tay che mặt; rõ ràng là cô không dám nhìn tôi.

"Đã mất rồi," cô nói. "Như thể nó chưa bao giờ được thụ thai, như thể bàn tay của Chúa đã đi vào trong tử cung của tôi và lấy đứa trẻ đi như một sự trừng phạt."

"Cô không thể tin chuyện đó được."

"Tôi đã cố không tin. Tôi muốn tin đó là một ân huệ. Rằng đứa trẻ..." Giọng cô nhẹ đến nỗi tôi không thể nghe ra. "Rằng đứa trẻ đã chết trong dòng nước lạnh, và Chúa đã tước nó khỏi tôi để tôi không phải đối mặt với sự thật khủng khiếp ấy trong thế giới thực."

"Nếu cô tin vào Chúa," tôi nói, cố kiềm chế thôi thúc tự nhiên muốn nói thêm rằng tôi chẳng tin gì hết, "cô cũng nên tin vào sự độ lượng của Người."

"Tôi vẫn luôn muốn tin rằng đó là một ân huệ," cô cứ nức nở. "Nếu đó là một sự trừng phạt, thì thật quá khủng khiếp."

"Con của chúng ta đã không sống được," cô nhấn mạnh. "Đây không phải chuyện ta có thể quên được, dù có sống lâu đến đâu chăng nữa."

Tôi biết không nên tiếp tục thuyết phục cô rằng đó chỉ do cô tưởng tượng ra. Đây lại là một cuộc tranh cãi nữa mà tôi không thể thắng.

Rõ ràng khi cô tiếp tục, cô không nói chuyện với tôi mà đang nói với chính mình, "Đó là một ân huệ, hẳn thế. Hẳn thế."

Vì tôi không thể thuyết phục cô rằng đứa con thời Trung cổ của cô không hề tồn tại, tôi quyết định tập trung nói về cuộc sống hiện tại của chúng tôi.

"Cô sẽ không chết đâu, Marianne. Chẳng có Ba Vị Chủ Nhân nào cả."

"Tất cả trái tim của tôi đều đã mất rồi."

"Cảm nhận cái này đi." Tôi cầm lấy tay Marianne và áp lên ngực cô. "Tim cô vẫn đập đấy thôi."

"Chỉ bây giờ thôi. Chuyện gì xảy ra tiếp theo là phụ thuộc ở anh." Cô lại phóng tầm mắt về phía đại dương một lúc rồi cuối cùng bắt đầu huýt sáo, dù những người ở gần nhất cũng cách bãi biển hàng trăm mét, "Anh có nhớ điều anh nói khi tôi chuẩn bị rời khỏi nhà huynh trưởng Heinrich trước khi bọn lính đánh thuê tới không? Anh đã hứa rằng tình yêu của chúng ta sẽ không bao giờ chết."

Tôi im lặng, không muốn khuyến khích cô, khi cô tháo sợi dây chuyền gắn đầu mũi tên ra khỏi cổ. "Cái này vẫn luôn luôn là của anh, và một ngày nào đó anh sẽ biết phải làm gì với nó."

"Tôi không muốn có nó," tôi nói.

Cô ấn nó vào tay tôi bằng được. "Tôi đã giữ nó suốt bao lâu nay chỉ để trao nó lại cho anh. Nó sẽ bảo vệ anh."

Tôi có thể thấy cô sẽ không để tôi từ chối, vì thế tôi cầm lấy nó. Nhưng nếu làm thế cô sẽ nghĩ tôi tin câu chuyện của cô, tôi liền nói, "Marianne, tôi không tin cái này được cha Sunder ban phúc đâu."

Cô ngả đầu vào hõm vai tôi, nói, "Anh là một người nói dối tuyệt vời."

Và rồi cô hỏi tôi một câu cô chưa từng hỏi bao giờ.

"Anh có yêu tôi không?"

Cơ thể chúng tôi tựa vào nhau, ngực chạm ngực. Tôi chắc chắn cô có thể nghe tiếng tim tôi đập thình thịch. Vết bớt của tôi đang chạm vào đúng vị trí mà, phía dưới lần áo len, cô đã khắc tên tôi lên ngực mình.

Anh có yêu tôi không?

Tôi chưa bao giờ lớn tiếng thừa nhận bất kỳ cảm xúc nào sâu sắc hơn sự "quan tâm" dành cho cô. Tôi biện bạch dù tôi không nói ra thì cô cũng biết sự thật. Nhưng thực sự, tôi chỉ là một thằng hèn.

"Có."

Từ lâu rồi, tôi đã luôn muốn tự thú.

"Có. Tôi yêu em."

Đã đến lúc không được làm cô thất vọng, vì thế tôi vuốt những lọn tóc rối của cô ra đằng sau và tuôn trào những lời lẽ đã ở trong trái tim ấm nóng của tôi, giờ trở nên thuần khiết, kể từ giây phút đầu tiên tôi gặp cô.

"Tôi đã dành cả đời mình để đợi em, Marianne, và tôi thậm chí vẫn chưa biết điều đó cho tới khi em đến. Bị bỏng là điều tuyệt vời nhất từng xảy ra với tôi vì nó đã mang em đến. Tôi muốn chết nhưng em đã mang đến cho tôi tình yêu vô hạn và tôi không thể không đáp lại tình yêu của em. Tôi đã yêu em trước khi tôi kịp nhận ra và giờ đây tôi không thể tưởng tuợng nổi mình lại không yêu em. Em nói rằng phải mất rất nhiều công sức mới khiến tôi tin bất cứ điều gì, nhưng tôi thực sự đã tin. Tôi tin tình yêu em dành cho tôi là thật. Tôi tin tình yêu tôi dành cho em là thật. Tôi tin mọi nhịp đập còn lại của trái tim tôi đều dành cho em, và tôi tin khi đến lúc tôi phải rời bỏ thế giới này, hơi thở của tôi sẽ mang tên em. Tôi tin từ cuối cùng tôi nói ra - Marianne - sẽ là tất cả những gì tôi cần để biết rằng cuộc đời tôi rất tốt đẹp, trọn vẹn và đáng sống, và tôi tin tình yêu của chúng ta sẽ tồn tại mãi mãi."

Chúng tôi ôm nhau trong giây lát, rồi cô đứng dậy và bắt đầu đi về phía biển. Cô vừa đi vừa cởi bỏ quần áo trên người và ánh trăng làm làn da cô càng thêm trắng mịn. Khi ra đến chỗ nước biển thì cô đã hoàn toàn trần trụi, mờ ảo mà rực rỡ. Cô đứng đó rồi quay người lại để đối diện với tôi trong khoảnh khắc, dưới những vì sao lấp lánh như những giọt sương giá trong cái lạnh cắt da cắt thịt; cô đứng như thể đang cố lưu lại hình ảnh của tôi vào trong trí nhớ, hình ảnh tôi đang đứng nhìn cô.

"Thấy chưa?" Marianne nói. "Chúa thực sự sống trong anh."

Cô quay lưng lại tôi và bình thản lội xuống nước. Dòng nước ngập lên chân rồi lưng cô, nhanh chóng phủ lên đôi cánh thiên thần xăm trên làn da trắng như trứng gà bóc của cô. Cô rướn người về phía trước và bắt đầu sải cánh tay bơi vào đại dương bao la, mái tóc đen rối của cô cuốn về phía sau.

Tôi chẳng làm gì mà chỉ đứng nhìn cô rời khỏi tôi cho tới khi cuối cùng thì dòng nước cũng nuốt chửng đôi vai xanh xao của cô.

Sau chừng mười lăm phút thì Bougatsa bắt đầu kêu gào thảm thiết và giận dữ chạy quanh, khẩn nài yêu cầu tôi làm gì đó. Nhưng tôi cứ đứng đó. Thế là nó chạy về phía những con sóng triều, sẵn sàng nhảy xuống bơi, cho tới khi tôi gọi nó lại. Tôi biết nước hiện rất lạnh và mọi thứ đã quá muộn rồi. Nó tin và nghe lời tôi nhưng vẫn cứ ư ử dưới chân tôi. Tuy thế, đôi mắt nó vẫn ánh lên vẻ hy vọng. Như thể nó tin rằng chỉ cần nó đợi đủ lâu, cuối cùng cô cũng sẽ quay trở lại với chúng tôi, từ đại dương.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 75


Tất cả mọi người đều nhận xét rằng Sayuri trông cực kỳ xinh đẹp trong bộ váy cưới. Mẹ cô, bà Ayako, đứng ở hàng đầu, nức nở trong niềm hạnh phúc còn cha cô, ngài Toshiaki, cứ giơ tay liên hồi để che cái môi trên đang run lên vì sung sướng của mình. Khi Gregor đeo nhẫn cưới vào ngón tay cô, Sayuri nở nụ cười rực rỡ nhất từ trước đến nay.

Đám cưới được tổ chức vào tháng Tám, trong một khu vườn dưới nền trời xanh trong không gợn bóng mây. May là có gió nhẹ; bộ lễ phục tuxedo của tôi không để cho da tôi được thở thoải mái cho lắm. Những sắp xếp đặc biệt đã được tiến hành để bảo đảm rằng anh phù rể, là tôi đây, sẽ đứng được dưới gốc cây du lớn trong suốt lễ kết hôn; đó là một trong rất nhiều hành động tử tế mà đôi cô dâu chú rể dành cho tôi. Dù chúng tôi đã trở nên vô cùng thân thiết, tôi vẫn rất bất ngờ khi họ mời tôi đến dự, nhưng cả Sayuri lẫn Gregor chẳng thèm bận tâm đến việc có một con quái vật xuất hiện trong ảnh cưới của họ.

Theo đúng lễ nghi, cặp với tôi sẽ là cô phù dâu đứng đối diện, nhưng trên thực tế, người đi cùng tôi lại là Jack Meredith. Bà hầu như không khiến tôi phải xấu hổ, dù đã nốc hàng lít rượu Scotch trong suốt buổi tiếp khách. Rõ ràng chuyện bà đi cùng tôi chẳng có tí lãng mạn nào, nhưng chúng tôi đã dành khá nhiều thời gian ở cùng nhau trong những tháng trước. Ở mức độ nào đó, bà đã nhận ra rằng thực sự có thể chịu nổi tôi. Mối quan hệ giữa tôi với bà gần như là tình bạn, dù nói thật ra tôi vẫn chưa đạt được tới mức ấy.

Tôi đã tặng cho Sayuri và Gregor bức tượng Morgengabe. Họ bối rối nhìn nó, không hiểu bức tượng kỳ lạ này có ý nghĩa gì, và hỏi liệu có phải Marianne Engel đã tạc nó không. Tôi chẳng cố thanh minh, rằng thực ra chính tôi mới là người tạc nó; tôi cũng chẳng cố giải thích, rằng bất chấp tuổi thọ và sự dãi dầu sương gió, nó là món quà đẹp nhất tôi có thể trao cho họ.

Ở buổi tiếp đón, Sayuri không cho phép mình uống một chút rượu sâm banh nào, vì cô bắt đầu có dấu hiệu có bầu rồi. Đã có chút thảo luận nho nhỏ về việc lễ cưới nên diễn ra trước hay sau khi sinh em bé, nhưng Gregor thuộc dạng đàn ông hơi cổ hủ. Ông muốn con mình phải được coi là "đứa con hợp pháp", thế là ông và Sayuri bay tới Nhật, thuê một phiên dịch truyền đạt những dự định tốt đẹp của mình đến cho ngài Toshiaki. Sayuri có thể tự làm việc này nhưng Gregor không muốn cô dịch cho cha mình mong muốn được kết hôn với cô. Khi ngài Toshiaki chấp thuận cho đôi trẻ, bà Ayako đã òa khóc và vừa cúi đầu vừa xin lỗi - mặc dù vì lý do gì thì Gregor cũng chẳng hiểu lắm. Sau khi bà Ayako đã lau khô nước mắt, tất cả mọi người cùng ngồi uống trà trong khu vườn phía sau nhà.

Cha mẹ của Sayuri dường như chẳng hề phiền muộn về chuyện cô phải sống ở nước ngoài và cưới một người ngoại quốc, cũng như chẳng bận tâm chuyện cô đã quá tuổi bánh Giáng sinh tươi ngon từ lâu. (Thực tế là, bà Ayako chỉ ra, vì càng ngày càng có nhiều phụ nữ Nhật Bản lấy chồng muộn, tuổi ế chồng giờ đã không còn là hai lăm nữa. Những phụ nữ độc thân tới tuổi ba mốt giờ đây được gọi là mì đêm Giao thừa rồi.) Chuyện duy nhất cha mẹ Sayuri không vừa lòng ở đám cưới này, một chút xíu thôi, là việc cô đã quyết định lấy họ nhà chồng. Họ thầm than thở với nhau là "Sayuri Hnatiuk" nghe chẳng vần gì cả, và dù đã cố hết sức, họ cũng không thể phát âm chuẩn được.

Vào cuối ngày tôi cũng có cơ hội nói chuyện với bà Mizumoto vài phút, với Sayuri làm phiên dịch, Sayuri đã nói với bà về chuyện Marianne Engel mất vào mùa xuân, và bà Ayako gửi đến tôi lời chia buồn sâu sắc nhất. Khi cám ơn bà vì điều đó, tôi có thể thấy bà khá sốc trước cái giọng gầm gừ của tôi nhưng vì lịch sự bà đã không để tâm. Thay vì thế, bà nở nụ cười thật tươi, và ngay trong giây phút đó, tôi hiểu Sayuri đã học cái phong thái thường ngày của cô ở đâu. Chúng tôi nói chuyện vui vẻ với nhau trong vài phút và tôi đảm bảo với bà Ayako rằng con bà chắc chắn sẽ có một cuộc hôn nhân hạnh phúc mặc dù Gregor, ngay cả khi đã mặc một bộ tuxedo lịch lãm, trông vẫn cực kỳ giống một con sóc chuột. Sayuri húc khuỷu tay mình vào cánh tay tôi vì dám nói thế nhưng hiển nhiên vẫn dịch cho mẹ mình từng từ một. Mẹ cô gật đầu lia lịa, tỏ vẻ rất đồng tình: "So,so,so,so,so,so,so!" Trong suốt lúc ấy bà cứ lấy tay che miệng, như thể cố nén cười.

Khi câu chuyện của chúng tôi sắp đến hồi kết thúc, bà Mizumoto cúi đầu chia buồn lần cuối. Khi ngẩng đầu lên, bà nở một nụ cười đầy hy vọng, đặt tay mình lên bụng của Sayuri, và nói,"Rinne tenshou."

Sayuri khá vất vả khi phải dịch câu này, cô gợi ý câu này có thể hiểu là "Tất cả mọi thứ đều quay trở lại" hoặc "Cuộc sống luôn luôn lặp lại." Sayuri nói thêm đây là kiểu nói quen thuộc của các bà già Nhật Bản khi họ nghĩ mình hiểu tư tưởng đạo Phật hơn thực tế. Tôi có thể đoán, từ cái nhìn khó chịu bà ném cho con gái, rằng bà Ayako hiểu nhiều tiếng Anh hơn những gì bà thể hiện.

Nhưng khi quay lưng đi, hai người họ đã ôm chặt lấy nhau. Bà Ayako có vẻ nhanh chóng tha thứ cho con gái về câu nhận xét về các bà già Nhật Bản, và Sayuri cũng mau mắn tha thứ cho mẹ mình về chuyện cười trước cái hình ảnh sóc chuột của Gregor.

Sau khi Marianne Engel biến mất, các nhà chức trách đã tìm kiếm khắp dọc bờ biển trong suốt ba ngày nhưng chẳng tìm được thi thể nào. Chẳng có gì ngoài những ngọn sóng đơn côi giữa đại dương mênh mông. Vấn đề với biển cả là bạn không thể lục tung nó lên được, và như thể là đại dương đã xóa bỏ hoàn toàn mọi bằng chứng về sự sống của cô nhưng lại không đưa ra một xác nhận nào về việc cô đã ch...t hay chưa.

Marianne Engel không có bảo hiểm nhân thọ, nhưng mọi nghi ngờ kiểu gì cũng đổ dồn về tôi. Chẳng trách được: chưa đầy sáu tháng trước khi biến mất, cô đã thay đổi chúc thư và điền tên tôi vào chỗ người thừa kế chính. Tình huống này không làm các ông cảnh sát hài lòng cho lắm, đặc biệt là việc tôi đã ở cùng cô khi cô biến mất. Họ thẩm vấn tôi liên hồi nhưng cuộc điều tra đã chỉ ra rằng tôi chẳng hề biết đến sự tồn tại của bản di chúc ấy, và đám thanh niên ngồi uống bia trên bờ biển cũng làm chứng rằng việc "gã bỏng" và "cô nàng xăm mình có mái tóc kỳ cục" ra biển vào ban đêm là chuyện thường. Cô ấy thường đi bơi, họ xác nhận thế, dù thời tiết có thế nào chăng nữa. Vào cái đêm bất thường ấy, tôi chẳng làm gì ngoài ngồi trên bãi biển nhìn con chó chạy vòng quanh cả.

Jack cũng nói hộ tôi. Lời của bà có trọng lượng đặc biệt vì bà không những là người bảo hộ cho Marianne Engel mà còn là người đã bị tôi thế chân trong bản di chúc. Bất chấp điều này, Jack vẫn nói tốt về tôi và tuyên bố với cảnh sát rằng bà không nghi ngờ gì về tình yêu giữa tôi và Marianne Engel. Dù đã xác nhận là tôi chẳng biết gì về chuyện thay đổi di chúc, bà cũng nói thêm, "Tôi nghĩ mình sẽ có nhiều thời gian để nói chuyện phải trái cho Marianne loại chuyện đó ra khỏi đầu. Tôi không hề nghĩ cô ấy lại ch...t sớm như vậy."

Jack Meredith có thể nói những từ mà tôi không thể viết ra. Những từ như là ch...t. Những từ như là tự tưưử. Những từ ngữ đó làm tôi trở nên hèn nhát. Viết chúng ra chỉ khiến sự thật thêm rõ ràng.

Công việc giấy tờ pháp lý kéo dài gần hết mùa hè, nhưng thực tế tôi chẳng bận tâm chút nào. Tôi chẳng quan tâm việc cảnh sát quyết định gì về trách nhiệm của tôi trong việc Marianne Engel biến mất và tôi cũng không đoái hoài mấy ông luật sư nói gì về bản di chúc. Cuối cùng, Jack đã phải thuê một luật sư đứng ra hộ tôi, bởi vì nếu không được tư vấn, tôi sẽ lại ký tất cả những giấy tờ bày ra trước mặt mình, y như hồi tôi ở trong bệnh viện khi hay tin công ty sản xuất phim của mình đã phá sản.

Marianne Engel đã để lại gần như tất cả cho tôi, bao gồm ngôi nhà và mọi thứ bên trong. Thậm chí cả Bougatsa. Jack, dù đã dành bao năm tháng giúp Marianne Engel quản lý công việc kinh doanh, chỉ nhận được những bức tượng hiện đang ở sẵn trong phòng triển lãm của bà.

Trong một bộ sưu tập hộp giày cất phía sau một cái tủ quần áo, tôi đã tìm thấy những sổ tài khoản ngân hàng cất hàng trăm nghìn đô la, giờ thuộc về tôi. Marianne Engel hoàn toàn không nợ nần gì hết, có lẽ vì không cơ quan hành chính nào dám mạo hiểm cho cô nợ cả. Tôi cũng phát hiện ra một loạt hóa đơn tiết lộ sự thật về căn phòng riêng trong bệnh viện của tôi. Đó không phải, như Nan đã nói lúc ấy, là một "sự ngẫu nhiên may mắn" khi có một phòng trống và bà đã sử dụng nó để nghiên cứu tỷ lệ hồi phục của những bệnh nhân được ở phòng riêng so với những những bệnh nhân ở phòng chung. Và cũng không phải, như tôi đoán hồi đó, là tôi bị tống vào phòng riêng chủ yếu để Nan có thể tách Marianne Engel ra khỏi những bệnh nhân khác. Sự thật là Marianne Engel đã trả tiền thuê cái phòng trống đó để cô có thể kể chuyện cho tôi nghe mà không bị quấy rầy. Cô chỉ không nói với tôi mà thôi.

Không thứ gì tôi được thừa kế thực sự thuộc về tôi cho tới vài năm nữa, bởi vì người ta chưa tìm được thi thể của cô. Chỉ sau một khoảng thời gian thích hợp thì một "giấy chứng t... giả định" mới được cấp cho Marianne Engel, và cho đến khi đó thì mọi tài sản của cô sẽ được giao cho một người thứ ba trông coi. May mắn thay, tòa quyết định tôi có thể tiếp tục sống tại pháo đài vì nó vốn đã là nơi cư trú chính của tôi khi cô mất tích rồi.

Những tờ báo địa phương, và thậm chí cả vài tờ quốc tế, đã đăng những bài ngắn về sự biến mất của một nữ nghệ nhân tạc tượng có vấn đề thần kinh nhưng lại cực kỳ tài năng. "Được xem là đã ch...t," họ đều nói vậy. Vì chẳng có gì giúp nghệ sĩ nổi danh hơn là một kết cục bi thảm, Jack đã bán được những bức tượng còn lại trong phòng triển lãm với một tốc độ kỷ lục. Dù đã phá luật, tôi vẫn đưa cho Jack hầu hết chỗ tượng còn lại ở pháo đài. (Tôi chỉ giữ lại bức tượng của chính mình, và một vài bức tượng tôi thích.) Luật sư của tôi khuyên tôi không nên làm thế, nhưng các ông cảnh sát có vẻ không hề theo dõi mọi hoạt động của tôi. Những chiếc xe tải vẫn luôn đến và đi, vì thế chẳng có ai trong vùng để ý gì đến việc có thêm một vài bức tượng nữa được chở đi cả. Khi Jack mang séc đến trả, trừ đi phần tiền hoa hồng của mình, tôi ấn chỗ tiền lại vào tay bà.

Bà xứng đáng có nó hơn tôi. Và dù tài khoản ngân hàng đã bị đóng băng, tôi vẫn có đủ tiền để sống.

Marianne Engel, dù rất hay nghĩ lung tung, đã thấy trước khả năng có thể mình sẽ không luôn ở bên để trả các hóa đơn cho tôi. Sau khi cô mất tích, tôi đã tìm thấy một phong bì gửi cho tôi, chứa một chiếc chìa khóa mở một két an toàn cô đã sắp xếp để tôi có thể rút tiền được. Khi tôi mở két, tôi phát hiện ra rằng nó chứa nhiều hơn cả số tiền cần thiết để trang trải cho các nhu cầu của tôi cho tới khi chúc thư có hiệu lực.

Có hai thứ nữa ở trong két.

Rốt cuộc thì cảnh sát cũng đi đến kết luận rằng tôi không liên quan gì đến việc Marianne Engel biến mất. Nhưng họ sai rồi.

Tôi đã giết Marianne Engel. Tôi đã giết cô rõ ràng như cầm một khẩu súng hoặc đổ một lọ thuốc độc vậy.

Khi cô đi về phía biển, tôi đã biết cô không định đi bơi. Tôi đã biết cô sẽ không quay trở lại, và tôi sẽ không giả vờ nữa. Tuy thế, tôi đã không làm gì cả.

Tôi đã không làm gì cả, như cô từng yêu cầu tôi làm thế, để chứng tỏ tình yêu của mình.

Tôi có thể cứu cô chỉ bằng vài lời nói. Nếu tôi bảo cô đừng bước xuống nước, cô sẽ không thực hiện kế hoạch của mình. Tôi biết thế. Cô sẽ phải quay lại với tôi, bởi vì Ba Vị Chủ Nhân của cô đã nói rằng tôi cần phải chấp nhận trái tim của cô nhưng rồi sẽ giải phóng cho nó, để giải thoát cho cô. Mọi nỗ lực ngăn cản cô sẽ cấu thành lời từ chối để giải phóng cô, vì thế tất cả những gì tôi phải nói là "Marianne, quay lại đi."

Tôi đã không làm thế, và giờ đây tôi suy sụp khi nhận ra rằng tôi đã không nói ba từ đơn giản có thể cứu mạng cô. Tôi suy sụp vì biết rằng tôi đã không cố đưa cô tới tòa để bắt cô nhập viện, rằng tôi đã không cố hết sức cho thuốc vào thức ăn của cô, rằng tôi đã không còng cô vào giường mỗi khi việc tạc tượng của cô vượt ra khỏi tầm kiểm soát. Thực sự có bao nhiêu hành động có thể ngăn cô khỏi ch...t, tôi đã không làm gì cả.

Marianne Engel tin rằng cô đã giết tôi bảy trăm năm về trước, với mục đích nhân đạo, nhưng đó chỉ là câu chuyện cô hư cấu mà thôi. Sự thực là tôi đã giết cô chính trong kiếp này: không phải vì lòng nhân đạo, mà vì không làm gì cả. Trong khi cô tin rằng mình đang tự giải phóng bản thân khỏi ràng buộc trói chặt những trái tim ăn năn hối cải của mình, tôi đã tỉnh táo hơn. Tôi không bị tâm thần phân liệt. Thế mà tôi vẫn giữ im lặng. Vô dụng. Sát nhân.

Tôi đối mặt với sự thật này vài phút mỗi ngày, nhưng đó là tất cả những gì tôi có thể chịu được. Thỉnh thoảng tôi còn định viết ra giấy trước khi cảm xúc trôi tuột đi, nhưng bàn tay tôi cứ luôn run lên bần bật trước khi tôi có thể để những con chữ thoát ra. Chẳng mấy chốc tôi lại tiếp tục tự lừa dối, cố gắng thuyết phục bản thân rằng quá khứ của Marianne Engel có thật chỉ bởi vì cô đã quá tin vào nó. Quá khứ của tất cả mọi người, tôi cố lý lẽ, chẳng là gì ngoài bộ sưu tập những ký ức người đó chọn để nhớ. Nhưng tận sâu trong tim mình, tôi biết đó chỉ là một cơ chế tự vệ tôi tạo ra để tôi có thể tiếp tục sống.

Tất cả những gì tôi phải nói là, "Marianne, quay lại đi."
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 76


Từ paleography bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp, palais (cổ) và graphia (bản thảo), thế nên chẳng có gì ngạc nhiên khi các nhà nghiên cứu chữ cổ lại đi nghiên cứu văn bản. Họ phân loại sổ sách bằng việc kiểm tra nét chữ (kích cỡ, độ nghiêng cách đưa bút) và cả chất liệu viết nữa (giấy cói hoặc giấy da, giấy cuộn hoặc giấy khâu, các loại mực.) Những nhà nghiên cứu chữ cổ giỏi có thể xác định được số người làm việc trên một bản thảo, có thể đoán định được kỹ thuật của họ, và thậm chí còn có thể xác định bản thảo đó được làm tại vùng nào. Đối với những văn bản tôn giáo, họ không những chỉ ra được một tu viện cụ thể nào đó mà thỉnh thoảng còn có thể chỉ ra đích danh người viết nữa.

Tôi đã nhanh chóng tìm được hai trong số những nhà nghiên cứu chữ cổ giỏi nhất thế giới: một là chuyên gia về các tài liệu thời Trung cổ của Đức và một là chuyên gia về các tài liệu thời Trung cổ của Ý. Tôi thuê họ kiểm tra những thứ tôi đã tìm được, cùng với chỗ tiền, ở trong két an toàn.

Hai bản Địa ngục đều được viết tay nhưng bởi hai người khác nhau: bản đầu tiên bằng tiếng Ý và bản thứ hai bằng tiếng Đức. Cả hai, trước con mắt không chuyên của tôi, đều có hàng trăm năm tuổi.

Trước khi nói cho hai nhà nghiên cứu chữ cổ là tôi muốn kiểm tra cái gì, tôi đã bắt họ ký giấy cam kết tuyệt đối không được tiết lộ bất cứ điều gì. Cả hai người đều thấy đề nghị của tôi rất bất bình thường, thậm chí còn nực cười, nhưng đều đồng ý. Tò mò nghề nghiệp, ta có thể đoán vậy. Nhưng khi tôi đưa hai cuốn sách ra, cả hai người đều nhận ra ngay lập tức rằng họ đã được trao một thứ cực kỳ đặc biệt. Người Ý buột một câu chửi thề, còn góc miệng người Đức thì méo xệch đi. Tôi thì tỏ vẻ hoàn toàn mù tịt trước nguồn gốc của hai cuốn sách, chẳng nói gì về việc có được chúng từ đâu cả.

Bởi vì Địa ngục đã tạo được tiếng vang ngay lập tức với độc giả, nó là một trong những tác phẩm còn lưu lại được nhiều bản nhất từ thế kỷ mười bốn. Nhà nghiên cứu chữ cổ người Ý không mấy nghi ngờ phiên bản của tôi là một trong những bản ra đời sớm nhất, có lẽ được làm trong thập kỷ cuốn sách được xuất bản lần đầu tiên. Ông ta nài nỉ tôi cho phép mình công bố phát hiện đó với những chuyên gia khác, nhưng tôi từ chối thẳng thừng.

Chuyên gia Đức không nhanh chóng xác định tuổi của bản dịch, một phần là vì những kiểm tra ban đầu của ông ta cho những kết quả trái ngược nhau đến khó tin. Đầu tiên, ông ta đã băn khoăn là tại sao một bản thảo được bảo quản tốt thế này lại không được ai biết tới trong một thời gian lâu như vậy. Thứ hai, có vẻ như một người đã dịch toàn bộ tác phẩm ấy, một điều rất bất bình thường với một tác phẩm dài như vậy. Thứ ba, ai đã tạo nên tác phẩm ấy phải là người cực kỳ tài năng. Bản thảo được viết bởi một nét chữ rất đẹp, mà bản thân bản dịch cũng tuyệt vời hơn hầu hết, nếu không nói là tất cả, những phiên bản hiện đại. Nhưng điểm thứ tư mới thật là đánh đố người ta: những thứ có liên quan đến bản thảo - giấy da, mực, nét chữ - đều dẫn đến kết luận là nó được viết tại vùng sông Rhine của Đức, có lẽ sớm nhất là khoảng nửa đầu thế kỷ mười bốn. Nếu điều này là thật - dù rằng rất khó có thể như thế - thì bản thảo của tôi đã tồn tại trước mọi bản dịch Địa ngục bằng tiếng Đức từng được biết tới hàng thế kỷ. "Vậy anh thấy đấy, tôi hẳn là đã nhầm lẫn đâu đó." Ông ta run lên. "Hẳn là thế! Trừ phi... trừ phi..."

Ngài chuyên gia Đức yêu cầu được chiếu xạ lên cả giấy da lẫn mực viết. Khi tôi đồng ý, khuôn mặt ông ta lộ vẻ sung sướng tột đỉnh đến nỗi tôi tưởng ông ta sắp ngất đến nơi."Danke, danke schon, ich danke Ihnen vielmals!"

Khi quá trình kiểm tra đã hoàn tất và các trang giấy được xác định niên đại là vào năm 1335, trên dưới hai mươi năm, tâm trạng của ông người Đức còn phấn khích hơn. "Đây là một khám phá vĩ đại hơn tất cả những gì tôi đã... tôi đã..." Ông ta thậm chí chẳng thể nói hết câu vì ngất ngây sung sướng; bản dịch ra đời trong khoảng vài chục năm sau bản gốc tiếng Ý. Tôi quyết định nghiên cứu thêm chút nữa cũng chẳng hại gì, và tôi thậm chí còn cho ông người Đức manh mối tìm kiếm tiếp: tôi gợi ý là ông ta có lẽ sẽ muốn tập trung điều tra về phòng viết tại Engelthal. Mồm ông người Đức lại méo xệch ra, và ông ta tiếp tục quay lại làm việc.

Khi liên lạc lại với tôi vài tuần sau đó, ông ta dường như đã chịu chấp nhận thực tế là mình đang nghiên cứu một vấn đề không thể hoàn thành được. Phải, ông ta xác nhận, tác phẩm có rất nhiều dấu hiệu cho thấy nó đã được viết tại Engelthal. Và phải, bản thảo có rất nhiều minh chứng cho thấy nó được thực hiện bởi một người chép sách đặc biệt đã có những đóng góp rõ ràng vào những năm khoảng từ 1310 cho tới 1325. Thực tế, người chép sách này luôn là một bí ẩn với những học giả nghiên cứu tôn giáo và những hiện tượng kỳ bí người Đức: dấu vân tay của cô ấy có mặt trên hàng loạt tài liệu quan trọng. Tài năng của cô ấy vượt xa tất cả những người cùng thời, vậy mà tên cô ấy thì chẳng thấy ở đâu cả. Một bí mật như thế chỉ có thể được giữ kín nếu có sự hợp sức của cả nữ tu viện trưởng lẫn nữ trưởng phòng viết tại thời điểm đó, nhưng vì Engelthal cũng là một tu viện nổi tiếng văn chương, câu hỏi lớn ở đây là: người nữ tu này có gì đặc biệt mà lại bị che phủ bởi một màn sương bí mật đến thế?

Ria mép của ông người Đức dường như đang nhảy múa khi ông ta nói tất cả những chuyện này nhưng ông ta cũng thừa nhận là có một số điểm mâu thuẫn với giả thiết Engelthal. Chất lượng những tờ giấy da này khác với giấy của những văn bản khác trong tu viện, và mực cũng có vẻ có những thành phần hóa học khác. Thế nên dù người viết có lẽ xuất thân từ Engelthal, ông người Đức giải thích, chất liệu vật chất thì lại không thế. Và - liệu ông ta có cần phải nói thêm điều này không? - Engelthal hầu như không thể liên quan tới tuyệt tác thơ văn của Dante. "Nó không phải là thứ mà người ở đó hay làm, nếu anh hiểu tôi muốn nói gì. Không chỉ vì nó được viết bằng tiếng Ý, mà còn vì thời bấy giờ nó còn là một thứ cực kỳ báng thánh bổ thần nữa."

Ông người Đức hỏi, có vẻ khá ngây ngô, rằng liệu tôi có chút "gợi ý" nào cho ông ta nữa không? Hóa ra là có. Tôi gợi ý rằng ông từ giờ nên chuyển hướng chú ý của mình từ Engelthal sang thành phố Mainz, đặc biệt chú ý tới những cuốn sách được xuất bản tư nhân từ khoảng giữa những năm 1320. Người viết ấy, tôi nói, có lẽ đã viết sách dưới cái tên là Marianne Engel. Cặp lông mày rậm rì của ông người Đức nhíu lại dưới sức nặng của nguồn thông tin mới này và ông ta nài nỉ được biết tại sao tôi có thể đưa ra những lời chỉ dẫn cụ thể đến thế. Tôi nói rằng đấy chỉ là linh cảm thôi.

Ông ta dành gần hết tháng để tìm những bản thảo nằm trong phạm vi tôi đã đề ra. Ông ta thường xuyên gọi điện, thỉnh thoảng là để cập nhật tiến độ nhưng thường là để phàn nàn về việc hợp đồng tuyệt mật đã làm chậm mọi việc. "Anh có biết là kiếm những tài liệu đó khó thế nào khi tôi không thể nói được là tôi kiếm chúng để làm gì không? Anh nghĩ là tôi cứ thế mà ra thư viện rồi kiếm sách từ thế kỷ mười bốn à?"

Tôi có thể thấy rằng ông ta sắp sửa nói với các đồng nghiệp của mình, dù tôi có đồng ý hay không, vì thế tôi tuyên bố là cuộc điều tra của ông ta nay đã kết thúc. Tôi nghĩ ông ta sẽ đấm cho tôi một cú vào mặt, nhưng thay vào đó là một màn xin xỏ ỉ ôi: "Đây là một trong những phát hiện cực kỳ quan trọng của cả ngành nghiên cứu này... một sự kiện ngoài sức tưởng tượng... thay đổi toàn bộ những gì chúng ta nghĩ về lịch sử dịch sách của người Đức..." Khi tôi tiếp tục từ chối, ông ta liền đổi giọng. Ông ta nài nỉ xin được nghiên cứu thêm vài ngày và tôi thề rằng ông ta thậm chí còn nháy mắt với tôi nữa kia. Tôi cũng chối luôn yêu cầu này, biết chắc là ông ta sẽ dùng khoảng thời gian đó để làm một bản copy chất lượng cao. Khi tôi đòi lấy lại bản thảo của mình ngay giây phút đó, ông ta đã dọa là sẽ công bố tất cả những gì ông ta biết. "Một bản hợp đồng đầy đủ tính pháp lý cũng chẳng là gì so với một món quà tuyệt vời đến thế này cho thế giới văn chương!" Tôi nói với ông ta rằng tôi rất trân trọng cảm xúc của ông ta; tuy nhiên, tôi vẫn có thể kiện cho ông ta phá sản nếu ông ta dám hé nửa lời. Nghe thấy điều này, ông ta đã hậm hực nói rằng lẽ ra Dante phải thêm một tầng Địa ngục cho những kẻ "ghét sách" như tôi đây.

Trong nỗ lực cố làm nguôi ngoai phần nào cái tôi của ông ta, tôi đảm bảo với ông ta rằng nếu có khi nào đó công bố bản dịch tiếng Đức của tác phẩm Địa ngục, tôi sẽ công nhận cho cả thế giới biết những nghiên cứu ông ta đã thực hiện. Thực tế là, tôi sẽ mời ông ta xuất bản những nghiên cứu của mình cùng lúc ấy, thế là ông ta sẽ không hề bị tước quyền công bố những phát hiện mang tính hàn lâm của mình. Và rồi ông người Đức đã làm tôi cực kỳ ngạc nhiên. "Tôi chẳng quan tâm anh có cho thêm thông tin gì của tôi vào hay không. Phát hiện này quan trọng đến mức không thể bị giấu đi được."

Cho tới tận hôm nay, tôi vẫn chưa biết phải làm gì với hai cuốn Địa ngục mà Marianne Engel đã để lại cho tôi. Khi cảm thấy đặc biệt phấn khích, tôi sẽ tự nhủ rằng tôi sẽ mang bản tiếng Đức cùng xuống mồ, phòng khi tôi có thể gặp được Francesco Corsellini lần nữa để trả lại cuốn sách này cho cha anh.

Tôi giữ lại những ngón chân giả nhưng từ chối lắp ngón tay giả; những ngón chân giúp tôi giữ thăng bằng, trong khi những ngón tay chẳng được ích lợi gì. Hơn nữa, với một thân thể như của tôi đây, việc dùng những ngón tay giả cũng y như việc thay đèn pha cho một cái ô tô nát vậy.

Vẫn có một số thủ thuật tôi có thể thực hiện để cải thiện diện mạo của mình, vài cuộc tiểu phẫu hoặc chỉnh hình thẩm mỹ để là phẳng các mô sẹo gồ ghề nhất của tôi. Phẫu thuật thẩm mỹ giúp tái tạo tai tôi bằng cách dùng sụn xương sườn, hoặc cung cấp tai giả giống tai thật. Nhưng, cũng như ngón tay giả, tai giả thiếu mất tác dụng thực tế: sụn hoặc tai nhựa đặc biệt không thể giúp tôi có lại thính giác như trước kia. Trên lý thuyết chúng sẽ giúp tôi trông giống người hơn bằng việc làm tôi trông "bình thường" hơn, nhưng khi tôi thử đeo cái tai giả lên, tôi trông chẳng khác gì Ngài Đầu Khoai Tây cả. Về chuyện phẫu thuật tái tạo dương v*t mới, tôi vẫn chưa có ý định thực hiện. Có lẽ một ngày nào đó tôi sẽ làm, nhưng giờ tôi đã chịu đủ loại phẫu thuật rồi. Tôi mệt. Thế là gần đây tôi nói với bác sĩ Edwards, đơn giản là: "Đủ rồi."

"Tôi hiểu," bà nói. Và rồi cái nhìn ấy lại hiện lên trên gương mặt của Nan, cái nhìn tôi đã quá rõ, cái nhìn bà thể hiện khi đang cân nhắc lợi hại của việc nói thật hay cứ giữ im lặng. Theo thói quen, bà lại chọn sự thật. "Có lần anh đã hỏi tại sao tôi lại chọn làm việc trong khoa bỏng. Tôi sẽ cho anh xem một thứ tôi chưa bao giờ cho một bệnh nhân nào khác xem."
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 77


Bà cởi cái áo choàng trắng ra và kéo áo sơ mi lên, để lộ ra một vết sẹo lồi to tướng trùm cả nửa phải người bà. "Chuyện xảy ra khi tôi mới có bốn tuổi. Tôi đã làm đổ ấm nước khỏi bếp. Những vết sẹo của chúng ta đã làm nên chúng ta ngày hôm nay." Và rồi bà rời phòng làm việc.

Thế là tôi bị bỏ lại với cái đầu lâu giữa vùng cát bụi của thời đại Tuyệt vọng. Đỉnh đầu tôi trông y như những cánh đồng khô cằn sau trận bão, chất đầy những đống đất bùn bẩn thỉu. Có những mảng màu nhạt, ánh lên sắc đỏ và nâu. Tất cả đều khô khốc và nghèo nàn, như thể làn da đã đợi hàng năm trời mà mưa vẫn chưa tới. Vài cọng tóc bướng bỉnh rung rung trên vùng da đầu nhăn nheo sần sùi của tôi, như những cọng cỏ dại cố sống tiếp mà không biết rằng định mệnh của chúng là phải chết.

Khuôn mặt tôi là cánh đồng sau khi những gốc rạ đã bị đem đi đốt. Môi của tôi, từng rất đầy đặn, giờ mỏng dính như những con giun chết khô. Biết thuật ngữ y học miệng nhỏ bất thường cũng chẳng giúp làm môi tôi đỡ xấu xí đi. Tuy thế, tôi vẫn thích đôi môi này hơn đôi môi tôi từng có trước khi nói với Marianne Engel là tôi yêu cô ấy.

Trước vụ cháy, xương sống của tôi cực kỳ khỏe mạnh; sau vụ cháy, nó được thay thế bởi một con rắn. Giờ con rắn đã biến mất và tôi đã bắt đầu có lại xương sống của mình, một khởi đầu tốt. Chân phải của tôi đầy những cái đinh kim loại và tôi có thể coi chúng là những cái xiềng được rèn từ tàn tích của cái ô tô nát bét của mình. Tôi cân nhắc có nên tiếp tục gặm nhấm tai nạn của mình hay không. Tôi sẽ không làm thế.

Tôi đang tập luyện chăm chỉ hơn bất kỳ thời điểm nào trước đây. Vài lần một tuần, Sayuri dẫn tôi tới bể bơi trong vùng, hướng dẫn tôi làm một loạt bài tập rèn luyện cơ thể. Bản thân nước cũng giúp các cơ khớp của tôi được thư giãn và bớt co cứng. Vào những ngày tôi không ra bể bơi, Sayuri dạy tôi tập nhảy ở sân sau. Tôi nghĩ chuyện này sẽ làm bất cứ ai đứng nhìn từ phía nhà thờ Romanus phải ngạc nhiên. Họ nghĩ gì về con quái vật cứ nhảy chồm chồm quanh sân, bị lùa bởi một người phụ nữ Nhật Bản bé tí tẹo? Thỉnh thoảng cha Shanahan thấy tôi và vẫy tay chào, tôi luôn vẫy tay chào lại. Tôi đã quyết định sẽ không ghét ông, bất chấp việc ông là mục sư.

Sau khi tôi tập luyện xong, Gregor đến đón Sayuri và ba người chúng tôi cùng ngồi uống trà. Tại buổi họp mặt gần đây nhất của chúng tôi, tôi đã chia sẻ với họ thông tin cuốn sách này sắp được xuất bản. Họ chẳng biết chút gì về việc tôi đang viết câu chuyện này cả; tôi đã luôn giữ bí mật, bởi vì tôi chẳng biết sẽ làm gì với nó khi nó được xuất bản nữa. Nhưng dù vẫn đang cất giữ hai cuốn Địa ngục, tôi đã quyết định sẽ đưa quyển sách này ra trước cả thế giới. Tôi vẫn không chắc đây có phải một quyết định đúng đắn hay không - suy nghĩ của tôi về vấn đề này rất hay thay đổi - nhưng cứ giữ yên lặng thì thật là một điều quá đau đớn.

Những người bạn của tôi đều rất hào hứng trước thông tin đó, mặc dù Sayuri thú thực rằng cô vẫn chưa đọc tiếng Anh nhanh như cô muốn. Rồi cô phấn khích bấu chặt cánh tay chồng như thể cô vừa nghĩ ra phát kiến vĩ đại nhất trong đời. "Đợi chút! Anh sẽ đọc cho em trước khi chúng ta đi ngủ mỗi tối nhé? Bằng cách đó chúng ta sẽ đọc truyện được cùng một lúc!"

Gregor trông khá ngây ngô trước sự thể hiện tình cảm của Sayuri nhưng tôi bảo đảm với ông rằng đây là một ý kiến rất hay, và nói thêm, "Rồi hai bạn sẽ biết thêm vài điều về món quà cưới của mình."

Tôi không chỉ là những vết sẹo.

Khi trở về nhà sau khi cô biến mất, sau khi bị cảnh sát thẩm vấn lần đầu tiên, tôi đi xuống xưởng tạc tượng và đọc những dòng chữ Marianne Engel đã tạc vào bục bức tượng của tôi.

Dû bist mỵn, ich bin dỵn:

des solt dû gewis sỵn;

dû bist beslozzen in mỵnem herzen,

verlorn ist daz slüzzelỵn:

dû muost och immer darinne sỵn.

"Em là của tôi, tôi là của em: em có thể chắc chắn về chuyện đó. Em đã bị khóa chặt trong trái tim tôi, chìa khóa đã bị ném đi, trong trái tim tôi, em sẽ luôn phải ở lại."

Lebrecht Bachenschwanz đã dịch bản tiếng Đức đầu tiên được biết tới của Thần khúc (Die gottliche Komodie) trong khoảng năm 1767 đến 1769, và bản dịch Địa ngục của tôi ra đời trước đó ít nhất là bốn trăm năm. Dù đây là một điều rất đáng ngạc nhiên, nó cũng hầu như chẳng chứng tỏ được là Marianne Engel đã dịch cuốn sách đó vào nửa đầu thế kỷ mười bốn; nó chỉ có nghĩa là có ai đó đã dịch thôi. Nhưng nếu Marianne Engel không phải người dịch, thì làm sao nó có thể nằm trong két an toàn của cô được? Sao nó có thể tồn tại gần bảy trăm năm mà không có bất cứ ghi chép gì về sự tồn tại ấy? Cũng như với rất nhiều chuyện khác, tôi chẳng biết gì cả.

Tôi đã viết về bản dịch tiếng Đức nhiều đến nỗi các bạn hẳn phải nghĩ là bản tiếng Ý chẳng có gì đặc biệt, trừ cái niên đại của nó. Tôi có thể đảm bảo với bạn là không gì có thể xa rời sự thật hơn cái suy nghĩ đó. Cuốn sách có vài hư hại nhỏ, dù làm giảm giá trị vật chất của nó, nhưng đã thu hút sự chú ý đặc biệt của tôi.

Rõ ràng cuốn sách đã từng bị cháy. Các trang giấy đều bị cháy sém ở rìa, nhưng ngọn lửa không trườn vào đủ sâu để đốt đi bất cứ con chữ nào. Bằng cách nào đó, cuốn sách đã thoát khỏi số phận bị lửa tàn phá nặng nề; thực tế là, có một hư hại khác còn rõ rệt hơn.

Có một vết cắt rộng xuyên qua bìa cuốn sách, gây ra bởi một vật nhọn. Có lẽ là một con dao hoặc một mũi tên gì đó. Vết cắt xuyên sâu vào cuốn sách đến nỗi khi lật trang bìa ra, vết rạch vẫn gần như giữ đúng độ rộng đấy trên trang đầu tiên. Vết cắt này, nằm ngay giữa mỗi trang sách, nhỏ dần mỗi khi bạn lật sâu vào trong. Bìa sau của cuốn sách chỉ có một vết rách rất nhỏ; rõ ràng là vật nhọn đó đã gần như, nhưng không hoàn toàn, bị ngăn lại bởi độ dày của tập bản thảo.

Tôi phải mất một thời gian khá lâu mới có đủ can đảm tháo sợi dây chuyền ra và khớp đầu mũi tên vào vết rách trên bìa cuốn sách. Nó hoàn toàn vừa khít, như một chiếc chìa khóa đã tìm đúng ổ. Tôi ấn mạnh hơn cho tới khi đầu mũi tên ngập vào trong cuốn sách và đầu nhọn của nó chỉ nhú ra một chút xíu ở vết rách trên bìa sau.

Dạo này, tôi rất hay thích tưởng tượng rằng nếu một người có thể đi xuyên qua lỗ hổng trên bìa cuốn sách đó, như thể đó là một cánh cửa, thì anh ta sẽ có thể đi thẳng vào ngay trái tim của Địa ngục.

Có rất nhiều lý do khiến tôi và Jack không làm mộ cho Marianne Engel, nhưng có hai lý do nổi bật hơn tất cả những lý do khác. Thứ nhất, chẳng có thi thể nào mà lại xây mộ thì thật là kỳ cục. Và thứ hai, thực sự thì sẽ có ai tới viếng ngôi mộ đó ngoài tôi và Jack cơ chứ?

Tôi không muốn đi thăm một ngôi mộ.

Hằng ngày tôi đều tỉnh dậy với Bougatsa đang ngủ ngon lành dưới chân. Tôi cho nó ăn tụy sống, và rồi chúng tôi lại nhảy lên xe đi về phía biển.

Tôi nhìn khắp đại dương mỗi khi mặt trời lên. Đó là thời khắc cầu nguyện của tôi, một giờ trong ngày để nhớ tới Marianne Engel, và đó cũng là thời khắc duy nhất tôi có thể để bản thân mình được tắm trực tiếp dưới ánh mặt trời. Quá nhiều nắng sẽ không tốt cho da của tôi, nhưng tôi rất thích được cảm nhận hơi ấm lan tỏa khắp mặt mình.

Bougatsa thường chạy vòng quanh, nhặt những mảnh gỗ nhỏ dạt vào bờ rồi ném xuống chân tôi. Nó nài nỉ tôi ném gỗ cho nó, và tôi luôn làm thế, rồi nó nhảy tưng về phía sóng triều. Nhưng cũng có những buổi sáng nó không thích chạy nhảy mà chỉ nằm dưới chân tôi rồi nhìn ra phía biển. Giống y như cái đêm cô đã ra đi; như thể nó vẫn mong rằng cô sẽ lại trở về với chúng tôi. Tôi nghĩ nó chẳng biết được gì hơn thế đâu. Nó là một con chó ngô nghê mà.

Cùng lúc ấy, tôi vẫn luôn suy nghĩ. Những trang sách mà bạn đang đọc đây, hầu hết đều được hình thành từ chỗ đứng cô độc của tôi ở nơi tận cùng thế giới khi đất chìm vào biển cả. Tôi đã dành quá nhiều thời gian của mình ở đó, trong hư không khổng lồ giữa ký ức và khát vọng, tạo ra đế chế rạn nứt của những từ ngữ mà giờ đây đang là nơi sinh sống của tôi.

Tôi muốn viết cuốn sách này để vinh danh cô nhưng không thể, như bao lần tôi đã làm cô thất vọng trong suốt cuộc đời mình. Tôi biết từ ngữ của mình chẳng là gì ngoài những bóng ma ảm đạm, nhưng tôi muốn Marianne Engel phải tồn tại ở một nơi nào đó.

Cứ đến thứ Sáu Tuần Thánh, ngày kỷ niệm tai nạn mỗi năm một khác của mình, tôi lại đi ra dòng suối nhỏ nơi đã cứu mạng mình và châm thêm một ngọn nến nữa. Tôi nói lời cảm tạ vì hai điều: tôi lại già thêm một tuổi, và tôi lại gần với cái chết thêm một năm nữa.

Khi Marianne Engel đưa cho tôi cái đầu mũi tên, cô nói khi nào đến lúc tôi sẽ biết phải làm gì với nó. Nhưng tôi đã biết rồi. Tôi sẽ luôn luôn đeo nó và tự hào có nó, và khi trở thành một ông lão đã cận kề cái chết, tôi sẽ lấy đầu mũi tên ra khỏi sợi dây chuyền của mình. Tôi sẽ đặt nó lên một cái nỏ, thật thẳng và chắc chắn, và tôi sẽ nhờ một người bạn thân bắn nó vào tim mình. Có lẽ người bạn đó sẽ là Gregor, hoặc Sayuri; mà cũng có thể là một người tôi chưa từng gặp mặt. Mũi tên sẽ xuyên qua ngực tôi và xé toang vết bớt như một cái ấn đang chờ được mở của tôi.

Nó sẽ đánh dấu lần thứ ba một mũi tên đâm vào ngực tôi. Lần đầu tiên đã đưa tôi đến với Marianne Engel. Lần thứ hai đã chia cắt chúng tôi.

Lần thứ ba sẽ lại đưa chúng tôi về với nhau.

A, nhưng đừng nghĩ là tôi nói nghiêm túc nhé. Tôi vẫn còn cả cuộc đời làm việc phía trước cơ mà.

Sau khi Marianne Engel biến mất, tôi bắt đầu tự học tạc tượng. Tôi nghĩ mục đích của mình rất ích kỷ, bởi vì tạc tượng giúp tôi cảm thấy được gần cô hơn. Tôi yêu những cử động của thép lướt trên đá. Người ta thường hay hiểu nhầm đá là vật vô tri, không biết tha thứ, nhưng không phải thế: đá như những dòng nước cuộn chảy, nó như những ngọn lửa nhảy múa. Cái đục của tôi lướt đi như thể nó hiểu được những ước muốn thầm kín của đá, như thể tảng đá đang chỉ dẫn cái đục. Nhưng điều kỳ lạ nhất tôi phát hiện ra là tôi có thể tạc tượng một cách tự nhiên biết bao nhiêu, như thể trước đây tôi đã làm rồi vậy.

Kỹ thuật của tôi còn lâu mới sánh bằng Marianne Engel, và khi tôi tạc được một bức tượng nhỏ thì chẳng mấy khi nó giống với những gì tôi tưởng tượng cả. Nhưng thế là tốt rồi. Thực tế, tôi cũng ít khi tự sáng tạo các bức tượng. Thường thì tôi toàn dùng dụng cụ của cô để đục đẽo bức tượng của tôi mà cô để lại.

Đứng trước phiên bản của mình luôn làm tôi cảm thấy đôi chút xấu hổ, nhưng tôi tự nhắc nhở bản thân rằng đây không phải là một việc phù phiếm. Và tôi nâng cái đục lên và nhằm vào một vùng nhỏ nào đấy - góc khuỷu tay của tôi, một nếp nhăn trên làn da bị bỏng của tôi - và dùng búa đập nó đi. Với mỗi nhát búa, một mảnh của tôi lại rơi đi. Tôi chỉ có thể gọt đi mỗi lúc một mảnh nhỏ bởi vì mỗi lần một miếng đá vụn rơi xuống nền nhà, tôi lại cảm thấy mình gần với hư không hơn một chút.

Ba Vị Chủ Nhân đã nói rằng người yêu của Marianne Engel sẽ biết lý do vì sao anh ta phải giải phóng cho trái tim cuối cùng của cô, để giải phóng cô. Và tôi đã làm thế: khi cô kết thúc việc sám hối của mình thì cũng là lúc tôi bắt đầu. Cho phép cô đi xuống biển mà không hề ngăn cản mới chỉ bước đầu tiên trong nhiệm vụ cả đời của tôi, bởi vì việc giải phóng trái tim của cô không diễn ra trong một khoảnh khắc. Đó là một quá trình sẽ diễn ra trong cả cuộc đời tôi. Và tôi sẽ không cho phép mình chết cho tới khi xóa đi dấu vết cuối cùng trên bức tượng của mình.

Với mỗi mảnh đá rơi khỏi bức tượng, tôi có thể nghe thấy giọng nói của Marianne Engel.Em yêu anh. Aishiteru. Ego amo te. Ti amo. Ég elska þig. Ich liebe dich. Âm thanh ấy lướt qua thời gian, đến với tôi bằng tất cả ngôn ngữ trên thế giới, giống như tiếng gọi của tình yêu đích thực.

HẾT
 
CHÚ Ý !!!
Các đạo hữu nhớ thêm TÊN CHƯƠNG và THỨ TỰ CHƯƠNG ở ô phía trên phần trả lời nhanh. Như vậy hệ thống mới tạo được DANH SÁCH CHƯƠNG.
Cập nhật chức năng ĐĂNG TRUYỆN và THÊM CHƯƠNG MỚI trên web Diễn Đàn Truyện tại https://truyen.diendantruyen.com
Top Bottom