Cập nhật mới

Dịch Full Cuộc Săn Cừu Hoang

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,372
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
[Diendantruyen.Com] Cuộc Săn Cừu Hoang

Cuộc Săn Cừu Hoang
Tác giả: Murakami Haruki
Tình trạng: Đã hoàn thành




Người dịch: Minh Hạnh

Khi mà con người sống trong cuộc đời này giống như một sự tồn tại để tìm kiếm ý nghĩa, dường như chính họ cũng không hiểu mình sống vì cái gì, để làm gì

Cứ như hiện diện trong một giấc mơ rất chân thực hoặc cũng như đang sống một cuộc đời mà cứ như trong mộng

Trong thời cuộc năm 80 ở Nhật, có một con người như thế, hay đúng hơn là những con người như thế, sống hay là tồn tại, cuối cùng cũng không thể phân rõ

Một không khí hững hờ và uể oải theo người đọc vào cả một thế giới hoang đường, và không rời bỏ ngay cả khi câu chuyện diễn tiến đến những tình tiết gay cấn nhất của cuộc săn săn cừu hoang kỳ lạ, hay những đoản khúc gợi cảm u sầu với cô gái có đôi tai đẹp khác thường. Murakami đã hư cấu ngay trên nền thế giới thực và tạo nên một tiểu thuyết như mơ. Có lẽ tiểu thuyết nên được đọc theo cách ấy: như mơ một giấc thật sâu, đến mức dẫu phần lý trí trong ta vẫn biết là nó không có thật, nhưng khi tỉnh lại và tiếp tục sống đời mình, đâu đó trong tim ta vẫn vương vấn khôn nguôi.

Tác giả nổi tiếng vì nhiều tập truyện được dịch ra nhiều thứ tiếng và cũng được giới phê bình đánh giá cao, Rừng Na-Uy, Biên Niên Ký Chim Vặn Dây Cót, Kafka Bên Bờ Biển... Nhưng tập truyện đầu tiên này cố nhiên sẽ không thể đạt đến hỏa hầu như những tập truyện sau, chỉ là nó cũng có một nét rất riêng và đặc sắc, ở Cuộc săn cừu hoang, chúng ta thấy một thế giới chứa đầy bi kịch nhân sinh, một nơi "rất không ổn, nhưng không thoát ra được"

Trong cuốn tiểu thuyết này, không có chuyện tôi hay ai đó phải sống theo cái gì mà chỉ đơn giản là tôi muốn sống như thế nào.

Đơn giản là bạn muốn sống theo cách nào?
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,372
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 1: PHẦN 1 - KHÚC DẠO ĐẦU: Picnic chiều thứ tư


Đó là mẩu tin chỉ gồm một đoạn ngắn ngủn trên tờ tin tức buổi sáng. Một thằng bạn gọi điện và đọc mẩu tin đó cho tôi. Chẳng có gì đặc biệt cả. Chỉ là một mẩu tin do tay phóng viên non tay mới ra trường tập tọe viết cho quen.

Ngày tháng, tên góc phố, một người lái xe tải, một người đi bộ, một người chết, một cuộc điều tra về khả năng tai nạn xảy ra do bất cẩn.

Nghe giống như một bài thơ in ở tay gấp một cuốn tạp chí.

"Đám tang tổ chức ở đâu?" tôi hỏi.

"Ai biết được," hắn đáp. "Nó có gia đình không?"

Tất nhiên là nàng có gia đình.

Tôi gọi điện đến đồn cảnh sát để tìm số điện thoại và địa chỉ nhà nàng, rồi tôi gọi điện đến nhà nàng để hỏi thêm chi tiết về đám tang.

Gia đình nàng sống trong một khu phố cổ ở Tokyo. Tôi lấy bản đồ ra đánh dấu dãy phố bằng mực đỏ. Chỗ nào cũng có đường tàu điện ngầm, tàu hỏa, xe buýt, tất cả chồng chéo lên nhau như một tấm mạng nhện méo mó, tạo thành một mê cung chằng chịt những con phố hẹp và rãnh nước thải.

Ngày đưa tang nàng, tôi bắt tàu điện đến Waseda. Gần đến bến cuối, tôi xuống tàu. Tấm bản đồ tôi mang theo chẳng giúp được gì mấy. Rốt cuộc, tôi phải mua hết bao thuốc này đến bao thuốc khác, mỗi lần mua thuốc là một lần hỏi đường.

Nhà nàng là một ngôi nhà gỗ có hàng rào gỗ màu nâu bao quanh. Trước khoảng sân nhỏ là một chum gốm đựng đầy nước mưa tù đọng. Nền đất tối tăm ẩm thấp.

Nàng bỏ nhà đi năm mười sáu tuổi. Đó có lẽ là lý do tại sao đám tang nàng lại thê lương đến thế. Chỉ có mấy người trong gia đình có mặt, đa số là người lớn tuổi. Anh trai nàng, mà cũng có khi là anh rể, trạc ba mươi tuổi, đứng ra làm chủ tang.

Cha nàng, một người đàn ông tầm thước trạc năm tư năm lăm, đeo băng tang đen trên cánh tay. Ông đứng cạnh lối vào, hầu như bất động. Ông khiến tôi nhớ đến hình ảnh một con phố sạch bong sau trận mưa tầm tã.

Lúc về, tôi lặng lẽ cúi đầu chào. Ông cũng cúi chào đáp lễ, không nói một lời.

Tôi gặp nàng vào mùa thu chín năm về trước, khi tôi hai mươi còn nàng mười bảy.

Hồi đó, gần trường đại học có một quán cà phê nhỏ nơi tôi thường tụ tập với bạn bè. Quán cà phê không có gì đặc biệt, nhưng nó phục vụ vài thứ không đổi: nhạc rock nặng và cà phê tồi.

Nàng luôn ngồi tại một chỗ cố định, khuỷu tay chống lên mặt bàn, đọc sách. Cặp kính cận của nàng – trông giống như cái niềng răng – và đôi tay gầy guộc khiến cho nàng có một vẻ gì đó thân thương. Lúc nào cốc cà phê của nàng cũng nguội ngắt, lúc nào gạt tàn của nàng cũng đầy đầu lọc.

Thứ duy nhất không luôn như cũ là mấy cuốn sách. Một lần, tôi thấy nàng đọc Mickey Spillane, lần khác là Kenzaburo Oe, lần khác nữa là Allen Ginsberg. Không quan trọng cuốn nào, miễn sách là được. Tụi sinh viên đến quán uống cà phê cho nàng mượn sách, nàng nghiến ngấu không sót một cuốn nào từ đầu đến cuối, kể cả bìa sách. Đọc ngấu đọc nghiến, như người ta gặm ngô. Ngày đó, người ta cho nhau mượn sách như một lẽ tất nhiên, và nàng chẳng bao giờ phải cố công đi lùng mua sách cả.

Đó là thời của những ban nhạc như The Door, The Stones, The Byrds, Deep Purple và The Moody Blues. Không gian tràn đầy nhựa sống, cho dù mọi thứ dường như đang ở bên bờ vực sụp đổ, chỉ đợi một cú hích mạnh nữa thôi.

Nàng và tôi thường cho nhau mượn sách, nói mãi không hết chuyện, cùng nhau uống thứ rượu whisky rẻ tiền, rồi làm tình với nhau, thứ tình dục chẳng có gì đáng nói. Bạn biết đấy, chuyện thường nhật ấy mà. Trong lúc đó, tấm màn khép vở đang rệu rã buông xuống những bước chân lê thê của thập kỷ sáu mươi.

Tôi không tài nào nhớ nổi tên nàng.

Tôi có thể lôi mẩu cáo phó ra để xem tên nàng, nhưng giờ thì việc đó có nghĩa gì đâu. Tôi đã quên tên nàng rồi.

Giả sử tôi có gặp mấy thằng bạn cũ và giữa chừng câu chuyện có nhắc đến nàng. Chắc cũng chẳng ai còn nhớ tên nàng. Ví dụ như một đứa nói, mày còn nhớ con nhỏ ngày xưa không, con nhỏ sẵn sàng lên giường với bất cứ thằng nào ấy, tao nhớ mặt nhưng quên béng tên nó rồi, mà tao ngủ với nó ối lần đấy, không biết con nhỏ đó giờ ra sao rồi, bây giờ mà bỗng nhiên gặp lại nó giữa đường thì chắc kỳ lắm.

"Con nhỏ ngày xưa sẵn sàng lên giường với bất cứ thằng nào". Đó là tên nàng.

Nói cho đúng ra thì không phải ai nàng cũng ngủ cùng. Nàng có tiêu chuẩn riêng.

Nhưng, sự thật là, chỉ cần kiểm tra qua chút ít bằng chứng, người ta cũng thấy ngay là nàng thường sẵn sàng lên giường với hầu như bất cứ gã trai nào.

Có một lần, và chỉ một lần duy nhất, tôi hỏi nàng về mấy thứ tiêu chuẩn đó.

"Thôi được, nếu anh cứ khăng khăng muốn biết...", nàng bắt đầu. Ba chục giây ngẫm nghĩ trôi qua. "Việc đó không giống như những người khác làm đâu. Đôi khi ý nghĩ lên giường với ai đó khiến em khó chịu. Nhưng anh biết không, có lẽ em muốn hiểu thêm về nhiều người khác nhau. Hoặc cũng có thể đó là cách giúp em nhận thức thế giới của mình".

"Bằng cách ngủ với một ai đó ư?"

"À há".

Giờ thì đến lượt tôi phải ngẫm nghĩ về điều nàng nói.

"Vậy cách đó có giúp em hiểu thêm điều gì không?" tôi hỏi nàng.

"Có chút chút", nàng trả lời.

Đông qua rồi hè tới, tôi hầu như không gặp nàng nữa. Trường đại học bị phong tỏa và đóng cửa mấy lần. Về phần mình, tôi phải lo giải quyết mấy chuyện cá nhân.

Mùa thu năm sau, khi tôi quay trở lại quán cà phê cũ, đám khách quen đã hoàn toàn thay đổi. Nàng là khuôn mặt duy nhất tôi còn nhận ra được. Quán vẫn bật thứ nhạc rock xưa, nhưng không khí phấn khích ngày xưa giờ đã tan biến. Chỉ còn nàng và thứ cà phê dở tệ là vẫn thế. Tôi buông mình xuống chiếc ghế đối diện nàng, và chúng tôi nói chuyện về đám bạn cũ.

Hầu hết bọn họ đã bỏ học, đứa thì tự sát, đứa thì lặn mất tăm. Cứ nói những chuyện đại loại như vậy.

"Anh làm gì suốt cả năm qua?" nàng hỏi tôi.

"Linh tinh đủ thứ", tôi đáp.

"Có khôn lên chút nào không?"

"Chút xíu thôi".

Đêm đó, tôi ngủ với nàng lần đầu tiên.

o O o

Tôi hầu như chẳng biết gì về thân thế nàng. Những gì tôi biết có lẽ do ai đó kể cho, hay có lẽ nàng đã kể cho tôi khi chúng tôi bên nhau trên giường. Năm đầu trung học, nàng cãi vã với bố một trận kịch liệt rồi bỏ nhà đi (bỏ cả học nữa). Chuyện này thì tôi khá chắc. Còn chuyện chính xác nàng sống ở đâu, hoặc đã sống sót bằng cách nào thì chẳng ai biết.

Nàng thường ngồi lì cả ngày ở một quán cà phê nhạc rock nào đó, nhâm nhi hết tách cà phê này đến tách cà phê khác, hút hết điếu thuốc này đến điếu thuốc khác, lật giở từng trang sách, chờ ai đó đến trả tiền cà phê và thuốc lá ình (một khoản không nhỏ với những đứa như tụi tôi ngày ấy) rồi cuối cùng lên giường với gã ta.

Vậy đấy. Đó là tất cả những gì tôi biết về nàng.

Kể từ mùa thu năm đó tới mùa xuân năm sau, tối thứ Ba tuần nào nàng cũng ghé qua căn hộ của tôi ở ngoại ô Mitaka. Nàng ăn hết sạch bất cứ món gì tôi nấu, vứt đầy đầu lọc thuốc lá trong gạt tàn của tôi rồi làm tình với tôi trong tiếng nhạc rock của chương trình FEN trên đài phát thanh to hết cỡ. Sáng thứ Tư, sau khi tỉnh dậy, hai đứa tôi đi bộ qua rừng đến khu học xá ICU rồi ăn trưa tại nhà ăn. Buổi chiều, chúng tôi uống một cốc cà phê loãng ở phòng sinh hoạt chung cho sinh viên, và nếu trời đẹp chúng tôi sẽ nằm dài trên bãi cỏ ngắm nhìn bầu trời.

Nàng gọi đó là những buổi picnic chiều thứ Tư của riêng hai đứa

"Mỗi lần mình đến đây, em đều có cảm giác như mình đang đi picnic"

"Vậy sao? Picnic ấy à?"

"Anh thấy đấy, mặt đất thì cứ trải dài tít tắp, mọi người ai trông cũng vui vẻ cả..."

Nàng ngồi dậy, phải quẹt mấy que diêm mới châm được thuốc.

"Mặt trời lên đỉnh bầu trời, rồi bắt đầu lặn xuống. Mọi người đến rồi đi. Thời gian cứ thế lướt qua. Cứ y như một buổi picnic vậy, anh thấy không?"

Ngày đó, tôi đã hai mốt và sắp bước sang tuổi hai mươi hai. Tôi không có cơ may tốt nghiệp sớm, mà cũng chẳng có lý do gì để bỏ học. Tôi bị mắc kẹt trong một tình huống tuyệt vọng kỳ quặc. Hàng tháng trời tôi sa lầy, không tài nào tìm nổi một hướng đi mới ình. Vạn vật đều vận động, riêng mình tôi vẫn đứng yên. Vào mùa thu, mọi thứ đều nhuốm màu tàn úa, trong chốc lát màu sắc bỗng nhạt phai trước mắt tôi. Ánh mặt trời, mùi hương cỏ, những tiếng tí tách dù là nhỏ nhất của làn mưa, mọi thứ đều khiến tôi không sao yên ổn.

Đã bao lần tôi mơ thấy mình đáp một chuyến tàu đêm? Bao giờ cũng là giấc mơ về một chuyến tàu đêm. Chuyến tàu mà trên đó không gian ngột ngạt vì khói thuốc và mùi hôi thối của nhà vệ sinh. Tàu đông nghẹt đến nỗi chẳng còn chỗ đứng. Mấy đống nôn mửa đóng cục trên ghế ngồi. Việc duy nhất tôi có thể làm là đứng lên, xuống tàu ở ga kế tiếp. Nhưng chẳng hề có ga tàu nào. Chỉ là một cánh đồng bất tận, không một ngọn đèn le lói trong màn đêm. Không hề có lấy một người trưởng ga, đồng hồ, hay bảng giờ tàu, không gì hết – giấc mơ của tôi là như vậy đó.

Tôi vẫn còn nhớ rõ buổi chiều kỳ lạ ấy. Buổi chiều ngày 25 tháng Mười một. Cơn mưa tầm tã trước đó đã làm lá bạch quả rụng đầy đường, biến lối đi thành một lòng sông vàng khô cạn. Hai đứa tôi đi dạo, tay đút túi áo. Không gian yên tĩnh đến bất ngờ. Chỉ có tiếng lạo xạo của đám lá dưới chân chúng tôi và tiếng kêu nhức óc của đàn chum.

Nàng đột ngột hỏi tôi. "Anh đang nghĩ gì vậy?"

"Đâu có gì đâu," tôi đáp.

Nàng đi mấy bước nữa trước khi ngồi lại bên vệ đường và hít một hơi thuốc thật dài.

"Anh lúc nào cũng gặp ác mộng à?"

"Anh thường xuyên gặp ác mộng. Thường là ác mộng về máy tự động bán đồ lặt vặt ăn tươi nuốt sống không trả lại tiền thừa cho anh."

Nàng cười và đặt tay lên gối tôi, nhưng rồi lại rụt ngay tay lại.

"Anh không muốn nói về chuyện đó hôm nay phải không?"

"Hôm nay thì không. Hôm nay anh không muốn nói chuyện."

Nàng búng nhẹ điếu thuốc hút dở xuống đất rồi lấy giày di qua di lại. "Anh không thể nói ra những điều anh muốn nói, có đúng vậy không?"

"Cũng chẳng biết nữa", tôi đáp.

Hai cánh chim vụt liệng qua rồi chợt mất hút trên bầu trời không một gợn mây. Chúng tôi nhìn theo cho đến khi chúng biến mất. Nàng bắt đầu lấy một cành cây vẽ nguệch ngoạc mấy nét không ra hình thù gì trên mặt đất.

"Đôi khi ngủ với anh em cảm thấy thật cô đơn."

"Xin lỗi đã làm em có cảm giác ấy", tôi đáp.

"Anh không có lỗi gì cả. Em không nghĩ là anh mơ tưởng đến đứa con gái khác khi mình làm tình với nhau. Mà cho dù anh có mơ tưởng đến ai đó thì cũng có khác gì đâu? Chỉ là..." Nàng ngừng lại giữa chừng và chậm rãi vạch ba đường thẳng trên mặt đất. "Ôi, em cũng chẳng biết nữa."

"Em biết đấy, anh không có ý xa lánh em", tôi ngắt lời sau một lát. "Anh không biết cái gì đã vận vào người anh nữa. Anh đang cố hiểu điều gì đang xảy ra với mình. Anh không muốn thổi phồng mọi chuyện nhưng anh cũng không muốn né tránh vấn đề. Mọi chuyện cần có thời gian."

"Cần bao nhiêu thời gian?"

"Ai biết được. Có thể một năm, có thể mười năm."

Nàng quẳng nhánh cây đi, đứng lên, phủi phủi mấy sợi cỏ khô vướng trên áo. "Mười năm ấy à? Thôi nào anh, nghe cứ như là mãi mãi vậy?"

"Cũng có thể lắm", tôi đáp.

o O o

Chúng tôi băng qua rừng đến khu học xá, ngồi trệu trạo nhai bánh mì xúc xích tại phòng sinh hoạt chung. Đã hai giờ chiều, hình Yukio Mishima cứ vụt qua vụt lại trên chiếc ti vi trong phòng. Núm âm thanh của ti vi bị hỏng nên chúng tôi chẳng hiểu họ đang nói cái gì, mà chúng tôi cũng chẳng quan tâm lắm. Một cậu sinh viên đứng lên tìm cách sửa núm âm thanh nhưng không được, cuối cùng cậu ta bỏ cuộc và đi mất.

"Anh muốn em", tôi nói.

"Được thôi", nàng đáp.

Tay thọc trong túi áo khoác, hai đứa tôi chậm rãi đi về căn hộ của tôi.

Tôi thức dậy thấy nàng đang thút thít khóc, tấm thân mảnh dẻ của nàng run rẩy dưới lớp chăn. Tôi bật máy sưởi lên và nhìn đồng hồ. Đã hai giờ sáng. Vầng trăng trắng sáng đến ngỡ ngàng giữa bầu trời.

Tôi đợi cho đến khi nàng thôi khóc rồi mới đặt ấm pha trà. Tôi pha một gói trà cho cả hai đứa. Trà nóng, không đường, không chanh. Tôi châm hai điếu thuốc rồi đưa cho nàng một điếu. Nàng rít vội rồi nhả khói, ba hơi liên tiếp, rồi húng hắng ho.

"Nói em biết đi, anh có bao giờ có ý định giết em không?" nàng hỏi.

"Em ư?"

"Ừ."

"Tại sao em lại hỏi anh câu đó?"

Điếu thuốc vẫn còn trên môi, nàng lấy đầu ngón tay gãi nhẹ nơi mí mắt.

"Chẳng có lý do gì đặc biệt cả."

"Không, chưa bao giờ", tôi đáp.

"Thật không?"

"Thật. Anh muốn giết em để làm gì?"

"Ồ, có lẽ anh nói thật," nàng đáp. "Trong một giây, em chợt nghĩ có lẽ là cũng chẳng tệ quá nếu em bị giết. Trong lúc em đang ngủ say chẳng hạn."

"Anh e là mình không phải loại sát nhân."

"Vậy sao?"

"Ít ra là cho đến giờ."

Nàng cười. Rồi nàng dập thuốc, uống hết tách trà, châm thuốc.

"Em sẽ sống cho đến năm hai mươi lăm tuổi", nàng nói, "rồi chết."

Tháng Bảy, tám năm sau, nàng qua đời lúc hai mươi sáu tuổi.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,372
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 2: PHẦN 2 - THÁNG BẢY, TÁM NĂM SAU: Mười sáu bước


Tôi đợi nghe tiếng xì xì của không khí bị nén khi cửa thang máy đóng lại sau lưng mình rồi mới nhắm mắt lại. Cố gắng tĩnh trí, tôi bắt đầu bước đúng mười sáu bước từ chỗ thang máy về phía cửa căn hộ mình. Mắt nhắm nghiền, tôi đếm chính xác mười sáu bước, không hơn, không kém. Đầu óc tôi mụ đi vì rượu, miệng tôi đắng nghét mùi thuốc.

Cho dù có say đến cỡ nào, tôi bao giờ cũng có thể bước đúng mười sáu bước thẳng tắp từ cửa thang máy về phía căn hộ mình. Thành quả của bao năm nhọc công rèn giũa thứ kỷ luật tự giác vô nghĩa. Cứ khi nào say, tôi lại ưỡn vai, cố giữ cho cột sống thật thẳng, ngẩng cao đầu, rồi hít một hơi thật dài làn không khí mát lành của buổi sáng trong hành lang bê tông. Sau đó, tôi nhắm mắt và bước đúng mười sáu bước qua làn sương mờ mờ ảo ảo của rượu whisky.

Trong phạm vi nhỏ nhoi của thế giới mười sáu bước chân ấy, tôi được phong danh hiệu "Kẻ Say Phong Nhã Nhất". Một thành tích giản đơn thôi. Ta không có cách nào khác ngoài việc phải chấp nhận sự thật sờ sờ ra đó là ta đang say.

Không có và vủng, nhưng nhị, giả sử giả dụ gì hết. Chỉ một câu "Ta say", đơn giản và dễ hiểu.

Cái thái độ bất cần đó giúp tôi đạt được danh hiệu Kẻ Say Phong Nhã Nhất, Kẻ Dậy Sớm Nhất, Toa Chở Hàng Cuối Cùng Qua Cầu.

Năm bước, sáu bước, bảy bước....

Đến bước thứ tám thì tôi dừng lại, mở mắt và thở một hơi thật sâu. Có tiếng gì kêu vù vù trong tai tôi. Nghe cứ như một làn gió biển thổi qua tấm màn sắt gỉ. Ngẫm nghĩ lại không biết lần cuối tôi đi biển là bao giờ nhỉ?

Xem nào. Ngày 24 tháng Bảy. 6:30 sáng. Thời khắc lý tưởng trong một năm, thậm chí trong cả một ngày, để đi biển. Bãi biển vẫn còn tinh không không một bóng người. Dấu chân chim nằm rải rác bên mép sóng giống như lá thông rụng đầy sau một cơn gió mạnh.

Bãi biển, hừm...

Tôi lại bước tiếp. Biển đã lùi xa. Mọi thứ đã quá xa rồi.

Đến đúng bước thứ mười sáu, tôi dừng lại, mở mắt, đứng sừng sững ngay trước cửa nhà như mọi khi. Lôi từ trong hộp thư ra mấy tờ báo của hai ngày qua và hai bì thư, tôi cặp chúng dưới nách. Tôi lục lọi tìm chìa khóa trong túi áo rồi ngả người về trước, trán tựa trên tấm cửa sắt sắc lạnh. Từ đâu đó sau tai mình, tôi nghe một tiếng cách nhẹ. Cái thằng tôi, một nùi bông đẫm rượu. Hầu như không còn làm chủ được mọi cảm giác nữa.

Thật chẳng còn gì hay hơn.

Tôi lách người qua cánh cửa hé mở rồi đóng cửa lại phía sau. Hành lang yên ắng như tờ. Yên ắng hơn mức cần thiết.

Tôi bỗng chú ý đến đôi giày đỏ dưới chân mình. Tôi đã từng nhìn thấy đôi giày này. Đôi giày xếp giữa đôi thể thao dính đầy bùn và đôi xăng đan rẻ tiền của tôi trông như một món quà Giáng sinh muộn. Một sự yên lặng thoảng nhẹ như làn khói bao trùm lên đôi giày.

Cô ta ngồi gục bên bàn bếp, tay chống trán, mái tóc đen thẳng che khuất khuôn mặt nhìn nghiêng. Khoảng da cổ trăng trắng hiện sau mấy lọn tóc, dây áo lót thấp thoáng nơi ống tay sát nách của chiếc váy đầm in hoa tôi chưa từng nhìn thấy trước đây.

Tôi cởi áo khoác, cà vạt, rồi đồng hồ, trong cả quãng thời gian ấy, cô ta không ngầng đầu liếc tôi lấy một giây. Tấm lưng cô ta gợi cho tôi nhiều kỷ niệm. Những kỷ niệm trước khi tôi quen cô.

"Sao nào?" tôi nói bằng giọng cứ như đi mượn của ai, giọng tôi bỗng lạc đi.

Đúng như tôi đoán, cô ta không đáp lại lấy một câu. Hay là cô ta đang ngủ, đang khóc, hay thậm chí đã ngoẻo rồi cũng nên.

Tôi ngồi xuống chiếc ghế đối diện và dụi mắt. Một tia nắng mong manh chia mặt bàn làm hai, tôi ở phía ánh sáng, cô ta ở phía bóng tối. Một bóng tối không màu. Trên mặt bàn là chậu hoa phong lữ héo khô. Bên ngoài là ai đó đang dội nước rửa đường. Nước bắn tung tóe trên vỉa hè, đâu đó thoảng mùi nhựa đường ẩm ướt.

"Uống cà phê không?"

Không một lời đáp.

Tôi đứng dậy, xay cà phê đủ pha hai cốc. Xay xong rồi tôi mới nhận ra mình thèm trà đá chứ không phải cà phê. Thế đấy, tôi luôn nhận thức được mọi việc khi sự đã rồi.

Đài đang phát một lô những bản nhạc pop chẳng có gì đặc sắc. Nhưng chúng lại quá hợp cho buổi sáng. Thế giới hầu như chẳng thay đổi gì trong mười năm. Chỉ có tên ca sĩ và bài hát là khác. Còn tôi thì già đi.

Nước bắt đầu sôi. Tôi tắt bếp, để nước nguội trong ba mươi giây rồi đổ nước pha cà phê. Nước bắt đầu ngấm vào cà phê, hạt cà phê xay nở dần, hương thơm lấp đầy căn phòng.

Cầm ấm nước trên tay, tôi hỏi cô ta, "Cô đến đây tối qua à?"

Một cái gật đầu khẽ khàng.

"Cô đợi tôi từ đêm qua tới giờ à?"

Không trả lời.

Hơi nước từ ấm cà phê và ánh mặt trời gay gắt làm căn phòng bắt đầu nóng lên. Tôi đóng cửa, bật điều hòa rồi đặt hai cốc cà phê lên bàn.

"Uống đi", tôi lấy lại giọng.

Yên lặng.

"Cô sẽ cảm thấy đỡ hơn nếu uống chút gì đó".

Ba mươi giây trôi qua, rồi cô ta từ từ ngẩng đầu, lơ đãng nhìn trân trân vào chậu hoa héo. Mấy sợi tóc mai bết lại trên má, ở cô ta toát ra một mùi ẩm ướt.

"Anh đừng để ý đến tôi", cô ta nói, "Tôi không định khóc lóc như thế này."

Tôi đưa cho cô ta hộp khăn giấy. Cô ta lặng lẽ xì mũi rồi vuốt mấy sợi tóc khỏi má.

"Thật ra tôi định đi trước khi anh về nhà. Tôi không muốn gặp anh."

"Nhưng tôi thấy là sau đó cô đã đổi ý."

"Không phải. Tôi chẳng biết đi đâu cả. Nhưng anh đừng lo, tôi đi ngay bây giờ đây."

"Vậy thì uống chút cà phê đã."

Tôi chỉnh đài sang kênh tường thuật lưu lượng xe cộ, nhấm nháp cà phê, mở hai phong bì. Một lá thư thông báo đang có đợt khuyến mãi hai mươi phần trăm tại một cửa hàng nội thất. Lá kia là của một người tôi chẳng hề muốn nghĩ đến, huống hồ là đọc thư. Tôi vò nát, quẳng hai lá thư vào sọt rác rồi nhấm nháp mấy chiếc bánh quy pho mát còn sót lại. Cô ta ủ tay quanh cốc cà phê và nhìn chằm chằm vào tôi, làn môi cô ta lướt nhẹ quanh viền cốc.

"Có xa lát trong tủ lạnh đó", cô ta nói.

"Xa lát gì?"

"Cà chua với đậu hũ. Ngoài ra không còn gì hết. Tôi quẳng mấy quả dưa chuột hỏng đi rồi."

"Ừm."

Tôi lại tủ lạnh, lấy bát thủy tinh Okinawa xanh đựng xa lát ra rồi rắc chút nước trộn còn sót lại lên. Cà chua và đậu đũa nguội ngắt. Không có vị gì. Cả cà phê lẫn bánh quy cũng vô vị nốt. Có phải ánh nắng buổi sớm đã phân hủy mọi thứ. Tôi bỏ dở cốc cà phê, lôi trong túi ra điếu thuốc quăn queo, quẹt mấy que diêm tôi chưa từng nhìn thấy trước đây. Đầu thuốc cháy tanh tách khô khốc, làn khói xanh làm thành một hình thù ngoằn ngoèo trong nắng sớm.

"Tôi đi dự một đám tang. Khi đám tang xong, tôi đến Shinjuku, một mình."

Con mèo không biết từ đâu hiện ra, ngáp một cái rõ dài, sà vào lòng cô ta. Cô ta lấy tay khẽ gãi tai mèo.

"Anh không phải giải thích gì cho tôi", cô ta nói. "Tôi biết tôi đã không còn là gì trong anh nữa rồi."

"Tôi đâu có giải thích gì đâu. Chỉ nói chuyện thôi mà".

Cô ta nhún vai, kéo dây chiếc áo lót vào trong váy. Khuôn mặt cô ta không chút biểu cảm, như hình ảnh một thành phố đang chìm dần trên mặt đại dương.

"Một người quen cũ cách đây nhiều năm rồi. Cô không biết người ấy".

"Ồ vậy sao?"

Con mèo duỗi dài chân rồi thở hắt ra.

Tôi liếc nhìn đầu mẩu thuốc cháy dở mình đang hút.

"Vậy người quen anh làm sao lại chết?"

"Bị xe tải cán. Gãy mười ba cái xương".

"Nữ à?"

"Ừ."

Bản tin bảy giờ và chương trình tường thuật lưu lượng xe cộ kết thúc, một bản rock nhẹ được phát lại. Cô ta đặt cốc cà phê xuống và nhìn thẳng vào tôi.

"Nói cho tôi biết đi, nếu tôi chết anh có đi uống say khướt như thế không?"

"Việc tôi say chẳng có gì liên quan đến đám tang cả. Mà nếu có cũng chỉ vài cốc đầu thôi."

Một ngày mới lại bắt đầu. Lại một ngày nắng nóng. Một loạt nhà cao tầng sáng lóa qua khung cửa sổ.

"Cô có muốn uống chút gì lành lạnh không?"

Cô ta lắc đầu.

Tôi lấy một lon Coca trong tủ lạnh ra, làm một hơi hết sạch.

"Cô ấy là loại người sẵn sàng ngủ với bất kỳ thằng đàn ông nào". Một lời cáo phó mới kỳ làm sao: người chết là loại gái sẵn sàng ngủ với bất cứ thằng đàn ông nào.

"Sao anh lại kể chuyện này cho tôi?"

Tại sao ư? Tôi cũng không biết nữa.

"Vậy đấy", cô ta gợi lại câu chuyện giữa chừng bỏ dở, "cô ta là loại người có thể ngủ với bất kỳ ai, đúng không?"

"Đúng thế."

"Nhưng không phải với anh chứ?"

Có chút gì đó gờn gợn trọng giọng nói cô ta. Tôi ngẩng lên từ bát xa lát, liếc nhìn cô ta.

"Cô nghĩ là không à?"

"Có lẽ là không", cô ta nói khẽ. "Anh ư, anh không phải loại người đó."

"Loại nào?"

"Không biết nữa. Ở anh có một cái gì đó đặc biệt. Giá thử như có một cái đồng hồ cát: cát chảy sắp hết. Anh là người sẽ quay ngược lại cái đồng hồ đó để cát chảy lại."

"Vậy sao?"

Cô ta khẽ mím môi, rồi chùng người lại.

"Tôi đến lấy mấy thứ đồ của tôi. Áo khoác, mũ mãng, mấy thứ còn sót lại. Tôi xếp chúng vào thùng rồi. Khi rảnh, anh mang ra bưu điện gửi cho tôi được không?"

"Tôi có thể mang chúng đến chỗ cô mà."

Cô ta khẽ lắc đầu. "Khỏi cần đi. Tôi không muốn anh đến chỗ tôi. Anh hiểu chứ?"

Tất nhiên là tôi hiểu. Tôi đã không thèm nghĩ trước khi mở miệng nói.

"Anh có địa chỉ chưa?"

"Có rồi."

"Thôi, có vậy đó thôi. Xin lỗi anh là tôi đã ngồi đây hơi lâu."

"Còn giấy tờ thủ tục thì sao, có vậy thôi phải không?"

"À há. Mọi thứ đều thu xếp xong rồi."

"Tôi không ngờ là thủ tục lại đơn giản đến vậy. Tôi cứ nghĩ là nó phải rắc rối hơn nhiều."

"Mấy người ngoài không biết gì thì nghĩ vậy nhưng thật ra thì cũng đơn giản thôi. Một khi đã quyết định ly dị thì thủ tục quá đơn giản". Cô ta vừa nói vừa gãi đầu con mèo. "Sau hai lần ly dị là ai cũng kinh nghiệm đầy mình."

Con mèo lại duỗi lưng, nhắm mắt rồi nhanh chóng rúc đầu vào khuỷu tay cô ta. Tôi quẳng hai cốc cà phê và bát xa lát vào chậu rửa bát, rồi lấy một tờ hóa đơn cũ phủi phủi mấy vụn bánh trên bàn. Ánh mặt trời chói chang khiến tôi như muốn nảy đom đóm mắt.

"Tôi đã soạn ra một danh sách chi tiết. Đại loại như chỗ cất mấy tờ giấy quan trọng là chỗ nào, ngày đổ rác là ngày nào. Có thắc mắc gì anh cứ gọi tôi."

"Cảm ơn nhé."

"Anh đã bao giờ muốn có con chưa?" cô ta bất ngờ hỏi tôi.

"Không, tôi không nghĩ là tôi từng muốn có con."

"Tôi cũng đã nghĩ khá lâu về chuyện đó. Nhưng mà khi nhìn sự thể thế này, có lẽ không có con lại là điều tốt. Mà cũng có thể nếu mình có một đứa con thì sự thể có lẽ không đến nỗi này, anh nghĩ sao?"

"Nhiều cặp vợ chồng có con rồi vẫn ly dị đó thôi".

"Có lẽ anh nói đúng", cô ta nói, tay nghịch nghịch chiếc bật lửa của tôi. "Tôi vẫn còn yêu anh. Nhưng điều đó cũng chẳng quan trọng gì nữa rồi, phải không? Bản thân tôi đã hiểu điều đó quá rõ".
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,372
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 3: PHẦN 2: Chiếc váy ngủ


Khi cô ta đi rồi, rôi uống hết một lon Coca nữa, đi tắm nước nóng dưới vòi hoa sen rồi cạo râu. Tôi sắp dùng hết sạch mọi thứ – xà phòng, dầu gội đầu, kem cạo râu.

Tôi bước ra khỏi vòi hoa sen, lau khô tóc, xoa sữa dưỡng thể, lấy ráy tai. Rồi tôi vào bếp hâm lại chỗ cà phê còn thừa. Chỉ để thấy rằng: không một ai ngồi ở phía đối điện chiếc bàn. Nhìn trân trân vào chiếc ghế không ai ngồi ấy, tôi cảm thấy mình như là một thằng bé con trong bức họa của De Chirico, bị bỏ rơi đơn độc tại một đất nước xa lạ. Tất nhiên là tôi chẳng còn bé bỏng gì nữa. Tôi quyết định thôi không nghĩ về hình ảnh đó nữa mà dành thời gian nhâm nhi cà phê và thuốc lá.

Mặc dù không hề chợp mắt trong vòng hai mươi tư tiếng đồng hồ nhưng tôi thấy tỉnh táo một cách kỳ lạ. Cơ thể rã rượi đến tận xương tủy nhưng trí óc tôi cứ mải miết bơi vun vút qua những đường nước xoắn xít của ý thức tôi, như một sinh vật nước không ngưng nghỉ.

Chiếc ghế trống trước mặt khiến tôi nhớ đến một cuốn tiểu thuyết Mỹ mà tôi từng đọc cách đây đã lâu. Sau khi người vợ bỏ đi, người chồng vẫn giữ nguyên chiếc váy ngủ choàng hờ hững trên ghế. Giờ đây nghĩ lại, câu chuyện đó bỗng trở nên có nghĩa. Đúng thật, chiếc váy có lẽ không giúp sự việc trở nên sáng sủa hơn, nhưng có nó còn hơn là chậu hoa phong lữ héo nhìn trân trân vào tôi. Ngoài ra, có lẽ con mèo cũng cảm thấy thoải mái hơn khi biết rằng mấy thứ đồ của cô ta vẫn còn đâu đây.

Tôi kiểm tra phòng ngủ, mở tất cả ngăn kéo tủ của cô ta, mọi thứ đều rỗng không. Chỉ còn lại một chiếc khăn đã bị mối xông, ba cái mắc áo và một gói thuốc chống mối. Đồ trang điểm, đồ vệ sinh cá nhân, lô uốn tóc, bàn chải đánh răng, máy sấy tóc, thuốc men đã được sắp xếp thành từng loại, bốt, xăng đan, dép, mấy chiếc hộp đựng mũ, mấy thứ đồ phụ tùng, túi xách tay, túi đeo vai, va li, ví đầm, đám quần lót lúc nào cũng được xếp gọn ghẽ, tất dài, tất ngắn, thư từ, tất cả mọi thứ với chút mùi đàn bà phảng phất đều không còn. Cô ta có lẽ đã xóa hết cả dấu vân tay cũng nên. Một phần ba số sách vở và đĩa nhạc cũng đã biến mất – mọi thứ cô ta tự bỏ tiền ra mua hoặc tôi mua tặng.

Trong cuốn album ảnh, mọi bức ảnh có hình cô ta đã bị bóc đi. Những bức ảnh có cả hai đứa chúng tôi đều đã bị cắt bỏ, phần có hình cô ta được cẩn thận cắt đi, phần có hình tôi được để lại. Những bức ảnh chụp tôi một mình hoặc ảnh chụp núi sông, hươu hiếc, mèo miếc đều được để nguyên. Ba cuốn album ảnh đã biến thành một quá khứ được sửa đổi. Mọi thứ như thể tôi sinh ra đã cô độc rồi, cô độc suốt quãng đời, và sẽ tiếp tục cô độc mãi.

Một chiếc váy ngủ! Lẽ ra ít nhất cô ta cũng có thể để lại một chiếc váy ngủ.

Đó là lựa chọn của cô ta, và lựa chọn này là không để lại một dấu vết gì. Tôi có thể hoặc chấp nhận nó hoặc, như tôi hình dung đó là chủ ý của cô ta, có thể khiến mình tin rằng cô ta chưa từng tồn tại. Nếu cô ta chưa bao giờ tồn tại thì chiếc váy ngủ cũng vậy.

Tôi dập thuốc vào gạt tàn, nghĩ một chút về chiếc váy ngủ của cô ta, rồi thôi không nghĩ nữa và đi ngủ.

Một tháng trôi qua kể từ khi tôi đồng ý ly dị và cô ta dọn ra ngoài. Một tháng của những số không. Không tập trung và không cảm giác, một tháng khởi tạo những thờ ơ.

Không gì thay đổi từ ngày này qua ngày khác, không một thứ gì. Tôi thức dậy lúc bảy giờ, nướng bánh và pha cà phê, đi làm, ăn tối ở ngoài, làm một hai ly, về nhà, đọc sách trên giường độ một tiếng, tắt đèn, rồi đi ngủ. Thứ Bảy và Chủ nhật, thay vì làm việc, tôi ra ngoài giết thời gian từ sáng, đảo một vòng qua các rạp chiếu phim. Sau đó tôi ăn tối, uống vài ly, đọc và đi ngủ, một mình. Vậy đó, tôi lay lắt qua ngày đoạn tháng giống như cách người ta gạch bỏ ngày trên lịch, hết ngày này đến ngày kia.

Theo một nghĩa nào đó, sự biến mất của cô ta là do tình hình vượt quá tầm kiểm soát của tôi. Những gì đã qua là qua luôn, kiểu như thế. Chúng tôi sống với nhau thế nào trong bốn năm qua chẳng còn quan trọng nữa. Giống như những tấm ảnh bị bóc mất khỏi cuốn album.

Hoặc cũng chẳng quan trọng gì khi cô ta ngủ với một thằng trong đám bạn tôi suốt một thời gian dài, vào một ngày đẹp trời, cô ta dọn đến ở với gã đó. Tất cả những điều này hoàn toàn có thể xảy ra. Những chuyện như thế diễn ra khá đều đặn, vậy thì làm sao tôi có thể nghĩ việc cô ta bỏ tôi là một điều gì đó không bình thường. Tóm lại là mọi việc tùy cô ta.

"Tóm lại là mọi việc tùy cô thôi", tôi nói.

Đó là một chiều Chủ nhật, tôi đang nhẩn nha mở nắp lon bia thì cô ta nói ra điều đó. Nói là cô ta muốn ly hôn.

"Với anh thì thế nào cũng được đúng không?" cô ta hỏi, dằn từng từ một cách chậm rãi.

"Không, với tôi thì thế nào cũng không được", tôi nói. "Tôi chỉ nói là mọi việc tùy cô".

"Nếu anh muốn biết sự thật, thì tôi không muốn bỏ anh", cô ta nói, sau một lúc.

"Được rồi, vậy thì đừng bỏ tôi", tôi nói.

"Nhưng tôi chẳng đi đến đâu khi ở lại với anh".

Cô ta không nói thêm, nhưng tôi biết cô ta muốn nói gì. Mấy tháng nữa tôi sẽ tròn ba mươi tuổi; cô ta hai mươi sáu. Và nếu tính đến độ dài quãng đời còn lại của chúng tôi thì cái nền tảng chúng tôi xây đắp hầu như không có gì. Tất cả những gì chúng tôi làm trong suốt bốn năm chung sống là phung phí số tiền tiết kiệm được.

Tôi cho rằng phần lớn lỗi là do tôi. Có lẽ tôi không bao giờ nên lấy vợ. Ít ra là không bao giờ lấy cô ta.

Lúc đầu, cô ta nghĩ mình là kẻ không hợp với xã hội và biến tôi thành kẻ hợp với xã hội. Với vai trò riêng của mình, chúng tôi khá hợp nhau. Tuy vậy, ngay khi chúng tôi nghĩ mình đã đạt tới một sự sắp đặt vĩnh viễn thì một thứ gì đó bỗng tan vỡ. Một chút xíu nhỏ nhất của một thứ gì đó, nhưng không bao giờ lấy lại được. Chúng tôi đã sánh bước một cách êm đềm dọc theo một con ngõ cụt dài thăm thẳm. Đó là kết cục của chúng tôi.

Với cô ta, tôi đã không là gì nữa. Ngay cả nếu cô ta vẫn còn yêu tôi, cũng chẳng quan trọng gì nữa rồi. Chúng tôi đã khá quen với vai trò của người kia. Cô ta hiểu điều đó bằng bản năng; tôi biết điều đó từ kinh nghiệm. Không còn hy vọng gì.

Vậy là cô ta và chiếc váy ngủ đã biến mất vĩnh viễn. Một thứ gì đó đã bị lãng quên. Một thứ gì đó biến mất, một thứ gì đó chết đi. Nhưng rốt cuộc thì người ta khó có thể gọi cái thứ ấy là tấn thảm kịch.

Tháng Bảy, ngày 24, 8:25 sáng.

Tôi kiểm tra mấy con số trên chiếc đồng hồ điện tử, nhắm mắt rồi thiếp đi.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,372
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 4: PHẦN 3 - THÁNG CHÍN HAI THÁNG SAU: Dương vật cá voi và người đàn bà làm ba nghề


Ngủ với một người đàn bà: một điều có vẻ như quan trọng nhất trong đầu bạn, hoặc có thể tưởng như chẳng là gì hết, điều đó chỉ để nói rằng có thứ tình dục như liệu pháp (liệu pháp tự kỷ, vậy đó) và có thứ tình dục như một thú vui.

Có thứ tình dục để tự hoàn thiện mình từ đầu đến cuối và có thứ tình dục để giết chết thời gian từ đầu đến cuối; thứ tình dục bắt đầu như một liệu pháp để rồi chỉ kết thúc như một việc chẳng-có-gì-hay-hơn-để-làm, và ngược lại. Đời sống tình dục của con người chúng ta – tôi biết nói như thế nào nhỉ? – khác một cách cơ bản với đời sống tình dục của cá voi.

Chúng ta không phải là cá voi – và điều này tạo nên chủ đề lớn xuyên suốt đời sống tình dục của chúng ta.

Khi tôi còn nhỏ, có một công viên hải dương cách chỗ tôi ở ba mươi phút đi xe đạp. Một sự yên lặng lạnh lẽo như thủy tinh luôn bao phủ chốn đó, thảng hoặc chỉ nghe được tiếng nước bắn tung tóe. Tôi hầu như có thể cảm thấy được con Quái vật từ Phá Đen[1] đang thở trong một góc tối lờ mờ nào đó.

Hàng đàn cá ngừ lượn vòng quanh chiếc bể lớn. Cá tầm lượn qua lượn lại luồng nước hẹp, cá piranha cắm hàm răng sắc như dao cạo vào từng mảng thịt, loài lươn điện phát ra âm thanh lốp bốp và những tia lửa như bóng đèn bị cháy.

Bể cá cũng đầy những loài cá khác không đếm xuể, với những tên gọi, những vảy cá và vây cá khác nhau. Tôi không hiểu nổi tại sao trên thế gian lại có lắm loài cá đến thế.

Tất nhiên là không có con cá voi nào trong công viên hải dương. Một con cá voi sẽ là quá lớn, ngay cả khi người ra phá tường và biến toàn bộ cái công viên đó thành một chiếc bể. Thay vào đó, công viên trưng bày một chiếc dương v*t cá voi. Nói là như một biểu tượng cũng được.

Thế là chính những năm tháng dễ bị tác động nhất trong tuổi niên thiếu của tôi được dành không phải để ngắm một con cá voi mà là một chiếc dương v*t cá voi: Bất cứ khi nào tôi mệt mỏi vì đi bộ dọc theo những lối đi lạnh lẽo của công viên, tôi lại lẻn đến chỗ của riêng mình trên chiếc ghế băng trong sự tĩnh lặng của phòng trưng bày có trần cao, dành hàng giờ ở đó ngẫm nghĩ về cái dương v*t cá voi này.

Có lúc nó làm tôi nhớ đến một cây cọ quăn queo nhỏ xíu, những lúc khác là một bắp ngô khổng lồ. Thực ra, nếu không có tấm biển đề – CƠ QUAN SINH DỤC CÁ VOI: GIỐNG ĐỰC – không ai có thể nghĩ đó là một cái dương v*t cá voi. Nó có lẽ giống một di vật khai quật được từ sa mạc Trung Á hơn là một sản phẩm của Bắc Băng Dương. Nó không hề giống dương v*t của tôi hay của bất cứ dương v*t nào tôi từng nhìn thấy. Tệ hơn nữa, chiếc dương v*t đã bị cắt rời toát ra một vẻ buồn bã khác thường, hầu như không diễn tả nổi.

Tôi nhớ đến nó, cái dương v*t cá voi khổng lồ ấy, sau lần đầu tiên giao hợp với một đứa con gái. Sự trớ trêu nào của số phận, con đường quanh co nào đã mang nó đến căn phòng trưng bày giống như một cái hang ấy. Tim tôi thắt lại khi nghĩ đến điều đó. Tôi cảm thấy mình như không có chút hy vọng nào trên thế gian này. Nhưng tôi mới chỉ mười bảy tuổi và rõ ràng là quá trẻ để từ bỏ mọi thứ. Chính khi ấy, tôi nhận ra một điều mà từ đó tôi luôn ghi tâm khắc cốt.

Rằng, tôi không phải một con cá voi.

Lúc này đây tôi đang trên giường cùng cô bạn gái mới, đưa tay vuốt tóc cô, tôi ngẫm nghĩ về cá voi thật lâu.

Trong công viên hải dương của trí nhớ tôi, trời luôn vào cuối thu. Tấm kính thành bể lạnh lẽo. Tôi mặc áo len dày. Qua ô cửa sổ lớn của phòng trưng bày, biển tối như chì, những bọt sóng không đếm xuể gợi nhớ đến chiếc cổ bằng đăng ten trên áo váy thiếu nữ.

"Anh đang nghĩ gì vậy?" cô hỏi.

"Một chuyện ngày xưa thôi", tôi đáp.

Cô hai mươi mốt tuổi, với một thân hình mảnh mai hấp dẫn và một đôi tai đầy quyến rũ có hình dáng hoàn hảo nhất. Cô làm nghề sửa bản in bán thời gian ột nhà xuất bản nhỏ, một người mẫu chụp quảng cáo chuyên về các bức ảnh chụp tai, và gái gọi ột câu lạc bộ kín tiếng chỉ-dành-cho-bạn-thân-thiết-mà-thôi. Tôi không biết cô coi đâu là nghề chính trong ba nghề ấy. Cô cũng không biết nữa.

Tuy nhiên, qua đánh giá những thuộc tính cơ bản của cô, tôi phải nói tài năng thiên bẩm của cô nghiêng về làm người mẫu tai. Cô đồng ý. Nghề này cũng tạm chấp nhận được nếu không tính đến việc cơ hội cho người mẫu quảng cáo chuyên về tai cực kỳ hạn chế đến mức nào, địa vị và mức lương thấp ra sao. Đối với một tay làm nghề P.R, nghệ sĩ trang điểm hay người quay phim thông thường, cô chỉ là "người mang tai", một ai đó có tai. Tinh thần và thể xác cô, ngoài đôi tai, hoàn toàn không được đếm xỉa đến, bị coi thường, xem như không hề tồn tại.

"Nhưng anh biết đấy, đó không phải con người thật của em", cô sẽ nói vậy. "Em là tai em, tai em là em".

Cái tôi làm nghề sửa bản in hay cái tôi làm nghề gái gọi của cô chẳng bao giờ cho người khác thấy tai của mình.

"Đó là bởi chúng không thực sự là em", cô giải thích.

Văn phòng câu lạc bộ gái gọi của cô, bề ngoài đăng ký như một "câu lạc bộ tài năng", có trụ sở tại Akasaka và do một bà tóc bạc người Anh mà ai cũng gọi là bà X quản lý. Bà sống ở Nhật đã ba mươi năm, nói tiếng Nhật trôi chảy và đọc được hầu hết các Hán tự cơ bản.

Bà X mở một trường gia sư tiếng Anh cho phụ nữ cách văn phòng gái gọi không đầy năm trăm thước và dùng nơi đó để tìm kiếm các gương mặt triển vọng cho văn phòng gái gọi. Ngược lại, một vài cô gái gọi cũng đi học tại trường dạy tiếng Anh. Tất nhiên với mức học phí được miễn giảm.

Bà X gọi tất cả các cô gái là "cưng". Mềm mại như một buổi chiều xuân, những "cục cưng" của bà.

"Nhớ mặc đồ lót điệu đà, nghe cưng. Và không mặc quần tất". Hoặc "Cưng uống trà với sữa, phải không cưng?". Bà có sự am hiểu chắc chắn về thị trường của mình. Khách hàng quen của bà là những doanh nhân giàu có trong độ tuổi bốn mươi và năm mươi. Hai phần ba là khách ngoại quốc, số còn lại là người Nhật. Bà X không ưa đám chính trị gia, các ông già, bọn tình dục lệch lạc và người nghèo.

Bà có một tá người đẹp chân dài sẵn sàng đi khách bất kỳ lúc nào, nhưng trong cả bó hoa ấy cô bạn gái mới của tôi là bông hoa ít hương sắc nhất. Với tư cách gái gọi, có vẻ như cô ở dưới mức trung bình. Thực tế là, khi che tai đi, cô không có gì đặc sắc. Tôi không hiểu tại sao bà X lại chọn cô. Có lẽ bà đánh hơi thấy trong sự tầm thường của cô một vẻ rực rỡ đặc biệt, hoặc có thể bà nghĩ một cô gái tầm thường sẽ là của hiếm. Dù cách nào đi nữa, tầm nhìn của bà X đã trúng mục tiêu, bạn gái tôi nhanh chóng có một số lượng khách quen nhất định. Cô mặc quần áo bình thường, trang điểm bình thường, mặc quần áo lót bình thường và xức một loại nước hoa bình thường khi cô tới khách sạn Hilton, Okura hay Prince để ngủ với một hai gã đàn ông mỗi tuần, thế là kiếm đủ để sống cho cả một tháng.

Một nửa các đêm khác cô ngủ với tôi miễn phí. Nửa còn lại tôi không biết cô qua đêm thế nào.

Cuộc sống của cô với tư cách người sửa bản in cho nhà xuất bản thì bình thường hơn. Ba ngày một tuần cô đáp xe đến Kanda, tới tầng thứ ba của một tòa nhà văn phòng nhỏ, và từ chín giờ đến năm giờ cô đọc và sửa các bản in thử, pha trà, chạy xuống dưới gác (không có thang máy trong tòa nhà) mua tẩy. Cô là người được sai làm chân chạy vặt, không phải vì ai đó có gì chống lại cô, mà bởi vì cô là gái chưa chồng duy nhất trong công ty. Như một con tắc kè hoa, cô thay đổi cùng với môi trường và hoàn cảnh, có khả năng tùy ý tập trung hoặc kiềm chế vẻ rực rỡ của mình.

Tôi biết cô (hay đúng hơn là, tai cô) lần đầu tiên ngay sau khi tôi chia tay vợ. Đó là vào đầu tháng Tám. Tôi đang thực hiện một hợp đồng phụ về viết quảng cáo ột công ty phần mềm máy tính, bên đã đưa tôi mặt đối mặt, ấy là nói như vậy, với đôi tai cô.

Giám đốc công ty quảng cáo đặt bản dự thảo chiến dịch và ba bức ảnh đen trắng lớn trên bàn tôi, nói tôi chuẩn bị ba thông điệp cho các bức ảnh trong vòng một tuần. Cả ba bức là ảnh khổng lồ chụp cận cảnh một cái tai.

Một cái tai ư?

"Tại sao lại là một cái tai?" tôi hỏi.

"Ai biết được? Có gì khác kia chứ? Thì là một cái tai thôi. Cậu có một tuần để suy nghĩ về tai".

Thế là tôi ngắm những cái tai trong cả một tuần liền. Tôi dán ba cá tai khổng lồ lên trên tường trước bản làm việc, và cả ngày trong khi hút thuốc, uống cà phê, cắt móng tay, tôi trầm ngâm suy nghĩ về mấy cái tai.

Tôi hoàn thành công việc đó trong một tuần, nhưng mấy bức ảnh chụp tai vẫn được dán trên tường. Một phần vì hạ chúng xuống quá phiền toái, một phần vì tôi đã trở nên quen thuộc với mấy cái tai ấy. Nhưng lý do chính để tôi không hạ mấy bức ảnh xuống là vì mấy cái tai đó đã mê hoặc tôi. Chúng là hình ảnh lý tưởng của một cái tai. Sự tinh túy, tuyệt phẩm của tai. Chưa bao giờ bất cứ một bộ phận được phóng to nào của cơ thế (tất nhiên là gồm cả bộ phận sinh dục) lại có một sức hút mạnh mẽ đến như vậy đối với tôi. Chúng như một vòng xoáy lớn lao nào đó của số phận hút tôi vào trong.

Một đường cong táo bạo bất ngờ cắt xéo một cách rõ ràng ngang qua mặt phẳng bức ảnh, những đường cong khác như đường chạm tinh tế uốn lượn quanh những vũng tối huyền ảo, trong khi những đường cong khác nữa lại như một bức tranh tường cổ, lần theo những huyền thoại của một thời quá khứ. Nhưng phần thịt mềm mại nơi dái tai vượt lên trên tất cả, vượt lên trên mọi vẻ đẹp và ham muốn.

Mấy ngày sau, tôi gọi tay nhiếp ảnh gia để xin tên và số điện thoại của đôi tai ấy.

"Có việc gì đấy?" tay nhiếp ảnh gia hỏi.

"Chỉ tò mò thôi mà. Thật là đôi tai quá ấn tượng".

"Ồ, xét riêng về khoản tai thì quả đúng vậy, nhưng bản thân con bé đó chả có gì đặc biệt. Nếu cậu muốn một em non tơ, tôi có thể giới thiệu cho cậu một em người mẫu đồ tắm tôi chụp hôm trước".

Tôi từ chối, ghi lại tên và số điện thoại của những cái tai, cảm ơn gã, rồi cúp máy.

Hai giờ, sáu giờ, mười giờ, tôi cố gọi vào số điện thoại của cô, nhưng không ai trả lời. Rõ ràng là cô đang mải tận hưởng cuộc sống của mình.

Phải đến mười giờ sáng hôm sau tôi mới gặp được cô trên điện thoại. Tôi tự giới thiệu mình một cách vắn tắt, rồi nói thêm là tôi phải nói chuyện công việc liên quan tới quảng cáo và liệu cô có thể dùng bữa tối với tôi chăng.

"Nhưng người ta bảo tôi là công việc đã xong", cô nói.

"Đúng là công việc đã xong", tôi nói.

Dường như cô hơi ngạc nhiên, nhưng không hỏi gì thêm. Chúng tôi hẹn nhau buổi tối hôm sau.

Tôi gọi đặt chỗ tại một nhà hàng Pháp sang trọng nhất mà tôi biết. Trên đại lộ Aoyama. Sau đó tôi lấy ra một chiếc sơ mi mới tinh, dành thời gian lựa cà vạt, rồi mặc một chiếc áo vest tôi mới chỉ mặc có hai lần trước đó.

Đúng như lời cảnh báo của tay nhiếp ảnh gia, cô gái chẳng có gì đặc biệt. Quần áo bình thường, vẻ ngoài bình thường. Cô có vẻ như là thành viên dàn đồng ca của một trường nữ sinh hạng hai. Nhưng điều đó không thành vấn đề với tôi. Điều khiến tôi thất vọng là cô giấu tai dưới làn tóc thẳng.

"Cô đang che tai của mình đi", tôi nói một cách hờ hững.

"Đúng thế", cô nói một cách hờ hững.

Chúng tôi đến sớm hơn dự kiến và là những người khách đến ăn tối đầu tiên tại nhà hàng. Đèn mờ mờ, người hầu bàn đem một thanh diêm dài để châm cây nến nhỏ màu đỏ trên bàn chúng tôi, và viên quản lý ném một cái nhìn soi xét lên đám khăn ăn và chén bát để đảm bảo mọi thứ đều đúng quy cách. Ván sàn gỗ sồi lắng bóng được sắp xếp theo hình chữ chi, người hầu bàn đi đi lại lại, giày phát ra tiếng lách ca lách cách. Giày của anh ta trông đắt tiền hơn giày của tôi nhiều. Nụ hồng tươi rói trong lọ, và tranh sơn dầu hiện đại, bản gốc, treo trên tường.

Tôi liếc qua danh sách rượu và chọn loại vang trắng tinh khiết, rồi chọn món nguội khai vị gồm pa tê vịt, cá trap và gan cá vây chân sốt kem tươi. Sau khi nghiên cứu kỹ thức đơn, cô gọi món canh rùa, xa lát và cá bơn lá mít, trong khi tôi gọi món canh nhím biển, bê quay với mùi tây và xa lát cà chua. Nửa tháng lương đi tong.

"Chỗ này dễ thương ghê", cô nói. "Anh có hay đến đây không?"

"Chỉ thỉnh thoảng vì công việc thôi", tôi trả lời, "Sự thật là tôi không thường đi nhà hàng khi tôi một mình. Tôi hay lui tới các quán bar, ở đó tôi ăn uống bất cứ thứ gì họ có. Như vậy tiện hơn. Đỡ phải có những quyết định không cần thiết".

"Vậy anh thường xuyên ăn gì tại quán bar?"

"Thì đủ thứ. Thường là trứng ốp lết và bánh mì kẹp".

"Trứng ốp lếp và bánh mì kẹp", cô nhắc lại. "Ngày nào anh cũng ăn trứng ốp lếp và bánh mì kẹp tại quán bar?"

"Không phải hàng ngày. Cứ cách ba ngày thì tôi lại tự nấu ăn một lần."

"Vậy là cứ ba ngày thì hai ngày anh ăn trứng ốp lếp và bánh mì kẹp?"

"Chắc vậy quá", tôi nói.

"Tại sao lại là trứng ốp lếp và bánh mì kẹp?"

"Vì một quán bar tương đối có thể có trứng ốp lếp và bánh mì kẹp khá ngon".

"Hừm", cô nói. "Khá lạ đấy."

"Không lạ chút nào cả".

Tôi không biết thoát ra khỏi tình thế này như thế nào, vậy là tôi ngồi đó lặng lẽ ngắm nghía đám tro trong gạt tàn.

Cô khuấy động không khí. "Hãy nói chuyện công việc đi".

"Như tôi đã nói với cô ngày hôm qua, công việc đã hoàn thành. Không khúc mắc gì cả. Vậy nên tôi không có gì để nói."

Cô rút ra một điếu thuốc lá đinh hương mảnh từ trong túi xách, châm lửa bằng diêm của nhà hàng và nhìn tôi với một vẻ như muốn nói, "Rồi sao nữa?"

Tôi đang định nói thì viên quản lý tiến lại bàn chúng tôi. Ông ta chỉ cho tôi mác chai rượu, mỉm cười hạnh phúc như thể đang khoe với chúng tôi ảnh đứa con trai duy nhất của mình. Tôi gật đầu. Ông ta mở nút chai với một tiếp bốp nhẹ, rồi rót một chút vào ly của tôi. Ngụm rượu có vị như giá của cả bữa tối.

Viên quản lý rút lui và thế chỗ ông ta là một người hầu bàn đặt ba món nguội khai vị và một chiếc đĩa nhỏ trước mặt mỗi người chúng tôi. Khi người hầu bàn đi, để chúng tôi một mình, tôi buột miệng, "Tôi phải nhìn thấy tai của cô."

Không nói một lời nào, cô tiếp tục dùng món pa tê và gan cá vây chân. Cô nhấp một ngụm rượu. "Xin lỗi đã khiến cô phải chịu đựng," tôi tìm lời thoái thác.

Cô cười rất khẽ, "Món ăn Pháp ngon thế thì đâu có phải chịu đựng gì đâu."

"Cô có bực mình không khi đôi tai của mình bị đem ra làm đề tài nói chuyện?"

"Có sao đâu. Điều đó phụ thuộc và cách nói chuyện." Cô lắc đầu trong khi đưa đĩa lên miệng. "Hãy cứ nói thẳng với tôi, vì đó là cách tôi thích nhất."

Chúng tôi lặng lẽ nhấp rượu và tiếp tục dùng bữa.

"Tôi rẽ ở một góc phố," tôi ướm lời, "ngay khi người đi trước tôi rẽ ở góc phố tiếp theo. Tôi không thể thấy người đó trông như thế nào. Tất cả những gì tôi nhìn ra được là cái đuôi áo trắng tinh thấp thoáng trong giây lát. Nhưng màu trắng của cái đuôi áo ấy hằn sâu mãi mãi trong tâm thức tôi. Cô đã bao giờ có cảm giác đó chưa?"

"Có lẽ rồi."

"Ừm, đó là cảm giác của tôi khi nhìn thấy tai cô."

Chúng tôi lại cắm cúi ăn trong yên lặng. Tôi rót rượu cho cô, rồi ình.

"Cái lưu lại trong tâm trí anh không phải là cảnh tượng," cô hỏi, "mà là cảm giác, đúng vậy không?"

"Đúng thế."

"Trước đó anh đã bao giờ có cảm giác ấy chưa?"

Tôi suy nghĩ một chút, rồi lắc đầu. "Chưa, tôi nghĩ là chưa."

"Nghĩa là tất cả đều do tai tôi."

"Tôi không thể khẳng định điều đó. Tôi không dám chắc chắn. Tôi chưa bao giờ nghe nói hình dáng của tai lại khêu gợi người ta như thế này."

"Tôi biết có người hắt hơi mỗi lần trông thấy mũi của Farrah Fawcett. Anh biết không, có cả một yếu tố tâm lý lớn liên quan đến hắt hơi. Một khi có đường nối nhân quả thì không còn thoát đi đâu được."

"Tôi không phải chuyên gia về mũi của Farrah Fawcett," tôi nói, nhấp một ngụm rượu. Rồi tôi quên mất điều mình định nói.

"Đó không hẳn là điều anh muốn nói, đúng không?" cô nói.

"Không, không hẳn," tôi nói. "Cái cảm giác tôi đang có, nó mông lung khủng khiếp, tuy vậy lại rất chắc chắn." Tôi diễn đạt, nắm hai tay cách người một thước, rồi dồn khoảng cách đó lại thành năm centimet. "Tôi e là tôi không diễn đạt điều này cho đúng được."

"Một hiện tượng tập trung dựa trên những động cơ mơ hồ."

"Chính xác," tôi nói. "Cô thông minh hơn tôi ít nhất là bảy lần."

"Tôi theo học mấy lớp từ xa."

"Lớp học từ xa ư?"

"Đúng vậy, lớp tâm lý học qua đường thư."

Chúng tôi chia nhau miếng pa tê cuối cùng. Giờ thì tôi hoàn toàn mất phương hướng.

"Anh vẫn chưa hiểu sao? Mối quan hệ giữa tai tôi và cảm giác của anh?"

"Nói tóm lại là chưa," tôi nói. "Nghĩa là, tôi không hiểu rõ liệu tai cô quyến rũ tôi một cách trực tiếp, hay là liệu có một cái gì đó trong cô quyến rũ tôi thông qua tai cô."

Cô đặt cả hai tay lên bàn rỗi khẽ lắc đầu. "Cái cảm giác này của anh là thuộc diện tốt hay xấu vậy?"

"Không tốt cũng chẳng xấu. Hay có lẽ cả hai. Tôi không nói được."

Cô nắm chặt ly rượu giữa hai lòng bàn tay và nhìn thẳng vào mặt tôi. "Có vẻ như anh cần nghiên cứu thêm về phương diện thể hiện cảm xúc."

"Tôi cũng tệ cả khoản mô tả cảm xúc nữa," tôi nói.

Đến đó cô mỉm cười. "Không sao cả. Tôi nghĩ tôi hiểu rõ anh định nói gì."

"Vậy thì, tôi nên làm gì đây?"

Cô không nói gì một lúc thật lâu. Dường như cô đang chìm trong suy nghĩ về một điều gì đó khác. Năm chiếc đĩa nằm trống trơn trên bàn, một chòm năm hành tinh đã bị hủy diệt.

"Này anh," cô kết thúc sự yên lặng. "Tôi nghĩ chúng ta nên trở thành bạn bè. Tất nhiên là nếu anh đồng ý."

"Tất nhiên là tôi đồng ý rồi."

"Và tôi muốn nói là những người bạn rất thân," cô nói.

Tôi gật đầu.

Và thế là chúng tôi trở thành những người bạn rất thân. Chưa đầy ba mươi phút sau lần đầu gặp mặt.

"Với tư cách là bạn thân, có một vài điều anh muốn hỏi em," tôi nói.

"Anh hỏi đi."

"Trước hết là tại sao em không để lộ tai? Hai là, đã bao giờ tai em có ảnh hưởng đặc biệt đến ai ngoài anh ra không?"

Không một lời, cô chăm chăm nhìn đôi bàn tay đang đặt trên bàn.

"Có vài người," cô nói khẽ.

"Vài người ư?"

"Ừ. Nhưng nói một cách khác, em quen với cái tôi không để lộ tai của mình hơn."

"Nghĩa là cái tôi để lộ tai của em khác với cái tôi không để lộ tai của em."

"Đúng."

Hai người hầu bàn dọn đĩa ăn của chúng tôi và mang món xúp ra.

"Em có thể kể cho anh về con người để lộ tai của em được không?"

"Đã lâu quá rồi, em e không kể cho tường tận được. Sự thật là, em không hề để lộ tai mình lấy một lần kể từ khi em hai mươi tuổi."

"Nhưng khi em làm người mẫu tai, em để lộ tai của mình đấy thôi?"

"Đúng thế," cô nói, "nhưng không phải tai thật của em."

"Không phải tai thật của em ư?"

"Đó là đôi tai đã bị bịt kín."

Tôi ăn hai thìa xúp đầy và ngẩng nhìn cô.

"Kể cho anh nghe thêm về "đôi tai đã bị bịt kín" của em đi."

"Đôi tai đã bị bịt kín là đôi tai đã chết. Em đã giết chính đôi tai của mình. Nghĩa là, em cắt đường thông tai một cách có ý thức... Anh vẫn hiểu em nói gì đấy chứ?"

Không, tôi không hiểu cô.

"Vậy thì anh hỏi em đi," cô nói.

"Khi nói giết chính đôi tai của mình, có phải ý em là em tự làm ình bị điếc?"

"Không, em có thể nghe khá rõ. Nhưng ngay cả khi đó, tai em đã chết. Anh cũng có thể làm thế."

Cô đặt thìa xúp xuống, ngồi thẳng lưng, nâng cao vai năm centimet, đẩy hàm ra phía trước, giữ nguyên tư thế đó trong cả mười giây, và đột nhiên hạ vai xuống.

"Thấy chưa. Tai em đã chết. Giờ anh thử đi."

Tôi lặp lại động tác cô đã làm ba lần. Một cách chậm rãi, cẩn thận, nhưng không gì cho tôi cảm giác là tai tôi đã chết. Rượu đang nhanh chóng luồn lách trong cơ thể tôi.

"Anh tin là tai mình đã không chết đúng cách," tôi nói, thất vọng.

Cô lắc đầu. "Không sao đâu. Nếu tai anh không cần chết thì chả có gì sai khi chúng không chết cả."

"Anh có thể hỏi em một điều không?"

"Anh hỏi đi."

"Nếu tổng kết lại tất cả mọi thứ em kể cho anh, có vẻ như thế này: em để lộ tai cho đến khi hai mươi tuổi. Rồi một ngày kia em che tai đi. Và từ ngày đó trở đi, em không một lần nào để lộ tai. Nhưng vào những lúc em bắt buộc phải để lộ tai, em chặn đường thông nối giữa tai em và ý thức em. Có đúng thế không?"

Một nụ cười rạng rỡ trên khuôn mặt cô. "Đúng thế đấy."

"Điều gì đã xảy đến với tai em khi em hai mươi tuổi?"

"Anh đừng có hối thúc mọi thứ," cô nói, với tay phải qua bàn, chạm nhẹ vào bàn tay trái tôi. "Em xin anh đó."

Tôi rót nốt chỗ rượu còn lại vào ly hai chúng tôi và chậm rãi uống ly của mình.

"Trước tiên, em muốn biết thêm về anh," cô bắt đầu.

"Điều gì về anh nào?"

"Mọi thứ. Anh được nuôi dạy ra sao, anh bao nhiêu tuổi, anh làm nghề gì, đại loại như vậy."

"Chuyện anh thường lắm. Quá mức bình thường, có lẽ em sẽ ngủ gật giữa chừng mất."

"Em thích những câu chuyện bình thường."

"Chuyện của anh là loại chuyện bình thường mà không ai muốn nghe."

"Không sao cả, kể cho em trong mười phút thôi."

"Anh sinh năm 1948, vào ngày 24 tháng Mười hai, đêm Giáng sinh. Nào, đêm Giáng sinh không phải là một ngày sinh nhật hay ho gì. Anh muốn nói là người ta không nhận được quà sinh nhật và quà Giáng sinh tách biệt. Mọi người đều nghĩ họ sẽ tiết kiệm được tiền bằng cách đó. Sao chiếu mệnh của anh là sao Ma Kết và nhóm máu anh là nhóm máu A – một sự kết hợp hoàn hảo cho nghề giao dịch viên ngân hàng và công chức. Anh không hợp với những người sao Nhân Mã, Bảo Bình và Thiên Bình. Một cuộc đời tẻ nhạt, em có nghĩ thế không?"

"Em đang bị thu hút đây."

"Anh lớn lên tại một thị trấn nhỏ bình thường, đi học ở một trường bình thường. Anh là một đứa bé lặng lẽ, nhưng rồi lớn lên thành một thằng nhỏ mau chán. Anh gặp một cô bạn gái bình thường, có một mối tình đầu bình thường. Năm mười tám tuổi, anh đi học đại học ở Tokyo. Khi ra trường, anh và một người bạn mở một dịch vụ biên dịch nho nhỏ, và bằng cách này cách khác bọn anh sống lần hồi. Ba năm trước, bọn anh bỏ vốn kinh doanh vào các bản tin PR và các công việc liên quan đến quảng cáo, việc đó tiến triển khá tốt. Anh có quan hệ với một trong những người phụ nữ làm trong công ty. Bọn anh cưới nhau bốn năm trước và ly dị hai tháng trước. Anh không thể nói tóm gọn lại vì lý do duy nhất nào. Anh có một con mèo đực làm vật nuôi trong nhà. Hút bốn mươi điếu thuốc mỗi ngày. Có vẻ như không thể bỏ được. Anh có ba bộ lê, sáu chiếc cà vạt, cộng với một bộ sưu tập năm trăm đĩa nhạc đã lỗi thời hết thuốc chữa. Anh nhớ tất cả tên của những kẻ giết người trong mọi truyện trinh thám từng được Ellery Queen viết ra. Anh có trọn bộ cuốn Đi tìm thời gian đã mất, nhưng mới chỉ đọc có một nửa. Anh uống bia vào mùa hè, whisky vào mùa đông."

"Và cứ ba ngày thì hai ngày anh ăn trứng ốp lết và bánh mỳ kẹp tại quán bar, đúng không?"

"À há," tôi nói.

"Thật là một cuộc sống thú vị."

"Đến giờ thì vẫn tẻ nhạt thôi. Có lẽ từ giờ trở đi nó cũng sẽ vẫn mãi như thế. Nói vậy không có nghĩa điều đó làm anh bận tâm. Ý anh là, anh chấp nhận những gì đến với mình."

Tôi nhìn đồng hồ. Chín phút, hai mươi giây.

"Nhưng những gì anh vừa kể em nghe không phải là tất cả, đúng không?"

Tôi nhìn chằm chằm vào tay mình trên bàn. "Tất nhiên đó không phải là tất cả. Không bao giờ kể hết chuyện về cuộc đời một ai đó, cho dù nó có tẻ nhạt đến mức nào."

"Em có thể nhận xét không?"

"Tất nhiên rồi."

"Bất cứ khi nào em gặp mọi người lần đầu tiên, em gợi cho họ nói chuyện trong mười phút. Sau đó em đánh giá họ từ khía cạnh đối ngược hoàn toàn với tất cả những gì họ kể cho em. Anh có nghĩ điều đó điên rồ không?"

"Không," tôi nói, lắc dầu, "anh đoán là phương pháp của em có hiệu quả đấy."

Một người hầu bàn tiến lại, bày ra những chiếc đĩa mới, một người hầu bàn khác dọn món chính trên những chiếc đĩa ấy, và một người khác nữa rưới nước xốt lên. Một tình huống phòng ngự kiểu kép nhanh gọn, chặn ngắn tới chốt hai, chốt hai tới chốt một.

"Áp dụng cách thức này đối với anh, em rút ra dược một điều," cô nói, đặt con dao lên trên món cá bơn. "Rằng cuộc đời anh không buồn tẻ. Anh ước cuộc đời mình buồn tẻ. Em suy luận có sai không?"

"Có lẽ không. Có lẽ cuộc đời anh không buồn tẻ, có lẽ anh không thật sự đi tìm một cuộc đời buồn tẻ. Nhưng kết quả cũng giống nhau cả thôi. Cách nào đi chăng nữa anh cũng biết được điều gì sẽ xảy ra. Hầu hết mọi người cố thoát ra khỏi sự nhàm chán, nhưng anh lại cố rút vào sâu bên trong cái sự nhàm chán ấy. Đó là lý do tại sao anh không than vãn khi nói cuộc đời mình tẻ nhạt. Dù sao thì nó cũng đủ làm vợ anh bỏ đi."

"Đó có phải lý do anh và vợ anh chia tay?"

"Như anh đã nói trước, anh không thể tóm gọn lại trong một lý do duy nhất nào. Nhưng như Nietzche nói, "Đấu tranh chống lại sự nhàm chán, ngay cả thần thánh cũng phải đầu hàng.""

Chúng tôi nhẩn nha ăn. Cô thêm nước xốt, tôi thêm bánh mì. Sau đó đĩa bát được dọn đi, chúng tôi ăn món kem việt quất, và đến lúc họ đem cà phê ra tôi châm một điếu thuốc. Khói thuốc lơ lửng giây lát trước khi hệ thống thông gió không tiếng ồn lặng lẽ cuốn nó đi.

Mọi người bắt đầu lục tục đến các bàn bên. Một bản concerto của Mozart phát ra từ dàn loa trên cao.

"Nếu có thể, anh muốn được hỏi thêm về đôi tai của em," tôi nói.

"Anh muốn hỏi liệu tai em có sở hữu một thứ quyền lực đặc biệt nào đó chăng?"

Tôi gật đầu.

"Đó là điều anh phải tự mình kiểm tra lấy," cô nói. "Nếu em kể cho anh nghe điều gì, có lẽ anh sẽ không hứng thú nữa. Có thể còn làm cản trở anh đó."

Tôi gật đầu lần nữa.

"Với anh, em sẽ cho anh xem tai mình," cô nói, sau khi dùng cà phê xong. "Nhưng em không biết điều đó có thực sự có lợi cho anh hay không. Có lẽ cuối cùng anh sẽ hối tiếc vì điều đó."

"Nghĩa là sao?"

"Cái sự tẻ nhạt của anh có lẽ không thâm căn cố đế như anh nghĩ."

"Đó là cơ hội mà anh phải nắm bắt," tôi nói.

Cô với tay qua bàn và đặt tay lên tay tôi. "Còn điều này nữa: tạm thời – cứ cho là trong mấy tháng tới – đừng rời xa em. Được chứ?"

"Chắc chắn rồi."

Đến đó, cô lấy trong túi xách ra một chiếc dây buộc tóc màu đen. Giữ nó giữa hai môi, cô đưa hai tay vén tóc ra đằng sau, xoắn một vòng, rồi nhanh chóng buộc tóc lại đằng sau.

"Thế nào?"

Tôi nín thở và nhìn chằm chằm vào cô, sững sờ. Miệng tôi đắng ngắt. Tôi không thể thốt nên lời. Trong thoáng chốc, bức tường trát thạch cao trắng dường như gợn sóng. Âm thanh của những người khách đến ăn tối và tiếng lách cách của tiếng dao dĩa nhỏ dần đi, rồi trở lại bình thường. Tôi nghe thấy tiếng sóng, nhớ lại mùi hương của buổi tối đã bị quên lãng từ lâu. Tuy vậy mọi thứ đơn thuần là những mảnh vụn của những cảm giác chạy qua người tôi trong mấy phần trăm giây ấy.

"Tinh túy," tôi cố gắng lắm mới nói được một câu. "Anh không thể tin được đó lại là cùng một người."

"Hiểu điều em nói chưa?" cô nói.

Chú thích

[1] Creature of the Black Lagoon (1954), một bộ phim về quái vật của Mỹ do Jack Arnold đạo diễn.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,372
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 5: PHẦN 3: Đôi tai không bịt kín


"Hiểu điều em nói chưa?" cô nói.

Cô trở nên vô cùng xinh đẹp, vẻ đẹp vượt trên mọi sự hiểu biết. Chưa bao giờ mắt tôi được say mê thưởng thức một vẻ đẹp đến nhường vậy. Loại vẻ đẹp tôi chưa bao giờ mơ tưởng sẽ tồn tại trên đời. Rộng mở như cả vũ trụ, nhưng đồng thời cũng dày đặc như một dòng sông băng. Dư thừa một cách không hề bối rối, nhưng đồng thời cũng được rút gọn đến phần cốt lõi. Nó vượt lên trên mọi khái niệm trong tầm hiểu biết của tôi. Cô với đôi tai là một, lướt bay qua mặt cắt của thời gian như một luồng sáng thay đổi liên tục.

"Em thật đặc biệt," tôi nói, sau khi lấy lại hơi thở.

"Em biết," cô nói. "Đó là tai em trong trạng thái không bị bịt kín."

Lúc này, một vài vị khách quay sang chúng tôi, mồm há hốc ra nhìn chằm chằm vào cô. Người hầu bàn mang thêm cà phê không tài nào rót được đúng cách. Không một ai thốt được lời nào. Chỉ có cuộn băng trên đầu từ cứ tiếp tục quay chậm rãi.

Cô rút ra một điếu thuốc lá đinh hương trong ví đưa lên môi. Tôi lập cập châm lửa cho cô bằng bật lửa của mình.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,372
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 6: PHẦN 3: Những cuộc phiêu lưu tiếp theo của đôi tai không bịt kín


Tuy vậy tôi phải mất công đợi cô bộc lộ vẻ rực rỡ chói lọi của mình. Hai ba ngày sau đó, cô chỉ thỉnh thoảng để lộ tai, rồi lại giấu kỳ công của tạo hóa ấy sau tóc và trở về với vẻ bình thường.

Đối với cô, việc ấy cũng như thể cố cởi áo khoác trong giá rét đầu tháng Ba. "Em cho là giờ vẫn chưa phải lúc để lộ tai", cô nói. "Em chưa hoàn toàn thoải mái với chúng."

"Thật ra anh không phản đối đâu," tôi nói. Ngay cả khi che tai đi, cô cũng xinh ra phết.

Cô thỉnh thoảng cho tôi xem tai; hầu hết vào những lúc gần gũi nhau. Gần gũi cô khi cô để lộ tai là một trải nghiệm tôi chưa từng biết đến. Khi trời mưa, mùi mưa biểu lộ vô cùng rõ ràng. Khi chim hót, điệu nhạc của chúng nghe cực kỳ sáng rõ. Tôi không biết phải diễn đạt như thế nào, nhưng đúng là như thế đó.

"Em không để lộ tai khi ngủ với những người đàn ông khác ư?" một lần tôi hỏi cô.

"Tất nhiên là không," cô nói. "Có lẽ họ còn chẳng biết là em có tai nữa."

"Chuyện ấy như thế nào với em khi em không để lộ tai?"

"Một nhiệm vụ. Khô khan và vô vị, như nhai giấy báo vậy. Nhưng như thế cũng chẳng sao. Anh biết đấy, hoàn thành một nhiệm vụ chẳng có gì xấu cả."

"Nhưng khi tai em lộ ra chuyện ấy tốt hơn ngàn lần, đúng không?"

"Tất nhiên rồi."

"Vậy thì em nên để lộ chúng ra," tôi nói. "Không cần phải chịu đựng những lúc buồn tẻ ấy một cách vô cớ."

Vô cùng nghiêm túc, cô nhìn chằm chằm vào tôi và nói, "Anh không hiểu gì hết."

Tất nhiên, có nhiều thứ tôi không hiểu gì hết.

Chẳng hạn, lý do tại sao cô đối xử với tôi một cách đặc biệt. Tôi không bao giờ có thể tin rằng mình lại hay hơn hoặc khác biệt với bất kỳ người nào khác.

Nhưng khi tôi kể điều đó cho cô, cô chỉ cười.

"Thật ra rất đơn giản," cô nói. "Anh cất công đi tìm em. Đó là lý do lớn nhất."

"Và giả sử một người nào khác đã cất công đi tìm em?"

"Ít nhất trong thời điểm hiện tại, anh là người muốn em. Hơn nữa, anh tốt hơn nhiều so với những gì anh nghĩ về mình."

"Vậy tại sao anh lại cứ nghĩ như vậy?" tôi bối rối.

"Đó là vì anh chỉ sống có một nửa," cô nói nhanh. "Nửa kia vẫn còn ngủ yên đâu đó."

"Hừm."

"Theo nghĩa đó, anh không khác em. Em đang che giấu tai mình, còn anh chỉ có một nửa con người mình là đang thật sự sống. Chắc có vẻ như vậy quá đúng không?"

"Ngay cả khi đúng như vậy, cái nửa còn lại của anh không thể nào sánh được với tai em."

"Có lẽ là không," cô mỉm cười. "Anh đâu có biết được, đúng không?"

Và vẫn giữ nụ cười đó, cô hất tóc ra sau và cởi khuy áo.

Buổi chiều tháng Chín gần về cuối hè ấy, tôi nghỉ phép một ngày và nằm trên giường với cô, vuốt tóc cô và ngẫm nghĩ về cái dương v*t cá voi. Biển, một màu chì xám sẫm. Một cơn gió lộng quật vào cửa sổ khu hải dương. Trần nhà cao ngất, phòng trưng bày vắng tanh. Cái dương v*t bị cắt rời mãi khỏi con cá voi, ý nghĩa của nó với tư cách là dương v*t cá voi đã bị mất đi vĩnh viễn.

Rồi tôi lại nghĩ đến chiếc váy ngủ của vợ tôi. Không có chiếc váy ngủ thật nào. Chỉ có điều, vương vấn trong đầu tôi là hình ảnh mơ hồ về một chiếc váy ngủ vắt hờ trên ghế. Tôi không thể nhớ được chiếc váy đã có ý nghĩa như thế nào với tôi. Liệu có phải một ai đó khác đã sống cuộc đời tôi trong cả quãng thời gian ấy.

"Nói anh nghe, em không mặc váy ngủ phải không?" tôi hỏi bạn gái tôi.

Cô nhấc đầu khỏi vai tôi và nhìn tôi một cách hững hờ.

"Em không có chiếc nào."

"Hừm," tôi nói.

"Nhưng nếu anh nghĩ anh sẽ hứng thú hơn nếu em..."

"Không, không phải như vậy," tôi nhanh chóng cắt lời. "Đó không phải là lý do tại sao anh hỏi."

"Không, thật đấy, anh không cần phải ngượng. Em hoàn toàn quen với mấy thứ đó do công việc của mình. Em không hề ngượng chút nào."

"Anh không đòi hỏi bất cứ thứ gì," tôi nói. "Nói thật nhé, mọi thứ anh cần là em và đôi tai em, không hơn."

Cô bĩu môi lắc đầu và dụi trán vào vai tôi. Chưa đầy mười lăm giây sau, cô ngẩng lên.

"Này anh, sẽ có một cuộc điện thoại quan trọng trong mười phút nữa."

"Một cuộc điện thoại ư?" Tôi liếc nhìn chiếc điện thoại bên giường.

"Đúng thế, chuông điện thoại sắp reo."

"Em có thể đoán được à?"

"Em đoán được."

Cô châm ình một điếu thuốc, đầu dựa trên ngực tôi. Một lát sau, tàn thuốc của cô rơi cạnh rốn tôi và cô chun môi thổi tắt đi. Tôi sờ tai cô giữa những ngón tay mình. Đó là một cảm giác thật tuyệt vời. Đầu óc tôi trống rỗng với những hình ảnh không ra hình thù gì buông trôi lơ lửng.

"Một điều gì đó liên quan đến cừu," cô nói. "Rất nhiều cừu và đặc biệt một con cừu."

"Cừu ư?"

"À há," cô nói, đưa điếu thuốc hút dở một nửa cho tôi. Tôi rít một hơi, rồi dụi thuốc vào gạt tàn. "Và đó sẽ là khởi đầu ột cuộc phiêu lưu hoang dại."

Ngay sau đó chuông điện thoại reo. Tôi nhìn cô, nhưng cô đã ngủ gật trên ngực tôi. Tôi để chuông điện thoại reo bốn lần mới nhấc máy.

Đó là tay đối tác. "Cậu có thể đến đây ngay được không?" hắn nói. Có một vẻ gì giận dữ trong giọng hắn. "Tôi có một việc cực khẩn muốn bàn với cậu."

"Khẩn như thế nào?"

"Cứ đến đây rồi cậu sẽ thấy," hắn nói.

"Có trời mới biết việc này liên quan đến cừu," tôi nói, thử xem phản ứng của hắn thế nào. Đó là điều tôi không nên nói. Ống nghe trở nên lạnh băng.

"Làm sao cậu biết được?" tay đối tác hỏi.

Cuộc rượt đuổi cừu hoang bắt đầu.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,372
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 7: PHẦN 4 - CUỘC SĂN CỪU HOANG I: Trước người đàn ông lạ mặt


Có vô vàn lý do giải thích tại sao một cá nhân lại có thể thường xuyên tiêu thụ một khối lượng rượu lớn, nhưng thực tế thì tất cả đều rút lại thành một điều.

Năm năm trước, tay đối tác của tôi là một gã say vui vẻ. Ba năm sau, hắn trở thành một gã say ủ rũ. Và đến mùa hè vừa rồi hắn dò dẫm ở ngưỡng cửa nghiện ngập. Với hầu hết những kẻ uống rượu thường xuyên, hắn là loại người khá tử tế, bình thường, nếu không muốn nói là đặc biệt sắc sảo khi tỉnh táo. Tất cả mọi người đều nghĩ về hắn như một người khá tử tế, bình thường, tuy không hẳn là đặc biệt sắc sảo. Hắn cũng nghĩ vậy. Đó là lý do tại sao hắn uống rượu. Vì có vẻ như khi có tí cồn trong cơ thể, hắn có thể hoàn toàn trở thành hiện thân của cái ý tưởng loại người như trên.

Lúc đầu mọi việc đều ổn. Nhưng cùng với thời gian và lượng rượu tăng dần lên, những thay đổi rất nhỏ xuất hiện, và những thay đổi rất nhỏ dần dần tạo thành một rãnh sâu. Cái sự bình thường và khá tử tế của hắn đã vượt hắn một quãng xa. Một trường hợp điển hình. Tuy nhiên thường thì người ta không nghĩ về mình như là một trường hợp điển hình. Và loại người không-hẳn-là-đặc-biệt-sắc-sảo lại càng nghĩ ít như vậy hơn. Cố gắng tìm lại những gì đã mất, hắn chỉ càng lang thang trong một màn sương cồn thậm chí còn dày đặc hơn.

Tuy thế, ít ra là trong lúc này đây, hắn là một gã đàn ông bình thường cho tới khi mặt trời lặn. Và vì từ nhiều năm nay tôi đã cố gắng một cách có ý thức không gặp hắn sau khi mặt trời lặn, đối với tôi hắn cũng đủ bình thường. Ngay cả như vậy, tôi biết quá rõ là sau khi mặt trời lặn hắn trở nên không còn bình thường nữa, và bản thân hắn cũng biết thế. Vì không ai trong hai người chúng tôi từng động chạm đến đề tài này, chúng tôi vẫn ăn ý với nhau như trước. Chỉ có điều chúng tôi không còn là bạn như xưa.

Tuy thế không thể nói tôi hiểu hắn một trăm phần trăm (thậm chí bảy mươi phần trăm cũng là tốt rồi), nhưng dù gì đi nữa, hắn vẫn là người bạn duy nhất thời đại học của tôi, và không dễ dàng gì khi chứng kiến hắn trở nên sa ngã từ một góc độ gần. Rốt cuộc, có lẽ đó là sự tàn phá của thời gian.

Lúc tôi đến văn phòng thấy hắn đã làm một ngụm whisky. Chừng nào chỉ là một ngụm, hắn có thể là người bình thường, nhưng không thể nào biết được khi nào hắn sẽ tăng cái bình thường đó lên thành hai. Khi điều đó xảy ra, tôi biết chúng tôi sẽ phải ai đi đường nấy.

Tôi đang đứng trong luồng khí lạnh từ máy điều hòa để cho ráo mồ hôi, miệng nhấp một ly trà lúa mạch mát lạnh. Tôi không nói gì, hắn không nói gì. Mặt trời buổi chiều gay gắt đổ lên tấm vải sơn lót nhà những tia nắng đầy ảo giác. Dưới kia, trên khoảng đất xanh tươi của công viên, mọi người nằm dài trên cỏ tắm nắng. Tay đối tác của tôi gõ gõ đầu cây bút bi lên lòng bàn tay phải.

"Tôi nghe nói cậu ly dị," hắn mở đầu.

"Đó là tin cách đây hai tuần rồi," tôi nói, vẫn còn nhìn chằm chằm ra cửa sổ. Tôi bỏ kính râm ra, và mắt tôi thấy đau.

"Thế tại sao cậu lại ly dị?"

"Lý do cá nhân thôi."

"Tôi biết," hắn nói. "Chưa bao giờ nghe nói đến ly dị vì lý do khác ngoài lý do cá nhân."

Tôi không nói gì. Chẳng phải chúng tôi đã có một thỏa thuận không lời từ trước đến giờ là không bao giờ động chạm đến chuyện riêng tư của nhau đó sao?

"Tôi không có ý soi mói," hắn nói, "nhưng cô ấy cũng là bạn tôi. Tin đó đến bất ngờ quá. Tôi cứ nghĩ hai người lúc nào cũng thân thiết."

"Chúng tôi lúc nào cũng thân thiết. Có phải chúng tôi chia tay nhau một cách hằn học đâu."

Tay đối tác của tôi cười kiểu cách, tiếp tục gõ bút lên lòng bàn tay. Hắn mặc áo sơ mi xanh thẫm, đeo cà vạt đen, mái tóc chải gọn gàng, xức nước hoa. Trong khi đó tôi mặc áo phông in hình Snoopy đang vác ván lướt sóng, quần bò cũ hiệu Levi"s đã giặt nhiều đến mức không còn màu gì nữa, và đi giày thể thao bẩn. Đối với bất kỳ ai, rõ ràng hắn mới là kẻ bình thường.

"Cậu nhớ khi cô ấy và hai ta làm việc cùng nhau chứ?"

"Tôi nhớ rất rõ," tôi nói.

Tôi đi khỏi chỗ máy điều hòa, đến giữa phòng, ngồi phịch xuống chiếc xô pha Thụy Điển bọc nhung lông xanh da trời. Tôi rút một điếu Pall Mall đầu lọc khỏi hộp thuốc lá dành cho khách đặc biệt và châm thuốc bằng chiếc bật lửa nặng đặt bàn.

"Thì sao?" tôi nói.

"Tôi nghĩ chúng ta đã làm việc quá sức mình."

"Cậu muốn nói đến công việc quảng cáo và tạp chí?"

Tay đối tác của tôi gật đầu, mặc dù có lẽ phải khó khăn lắm hắn mới thú nhận điều đó. Tôi nâng chiếc bật lửa trong tay, vặn núm điều chỉnh ngọn lửa và cảm thấy thương hại hắn.

"Được rồi, tôi biết cậu muốn nói gì," tôi nói, để lại chiếc bật lửa vào chỗ cũ trên bàn, "những hãy nhớ rằng tôi không phải là người đem lai việc kinh doanh này, và làm công việc này cũng không phải ý tưởng của tôi. Là cậu tự dấn vào. Cậu là người muốn thử nghiệm."

"Do hoàn cảnh bắt buộc. Chúng ta không có gì..."

"Việc đó kiếm ra tiền."

"Tất nhiên là việc đó kiếm ra tiền. Cho phép chúng ta dọn đến một văn phòng rộng hơn và tuyển thêm nhân viên. Tôi mua xe mới, tậu một căn hộ, cho hai đứa con nhỏ học tại một trường đắt tiền. Tôi nghĩ là không tồi đối với người ba mươi tuổi."

"Cậu xứng đáng được hưởng những điều đấy. Chả có gì phải xấu hổ cả."

"Ai xấu hổ?" tay đối tác của tôi nói, lấy lại cây bút bi đã bay qua bàn hắn và chọc chọc bút vào giữa lòng bàn tay. "Nhưng cậu biết đấy, điều đó có vẻ không thật. Ngày trước hai thằng chúng mình tay trắng nợ nần chồng chất, cố nẫng được mấy vụ dịch dọt, phát tờ rơi quảng cáo dọc sân ga."

"Giờ thì điều gì ngăn cản chúng ta phát tờ rơi quảng cáo nếu chúng ta muốn?"

Tay đối tác ngẩng lên nhìn tôi. "Này, tôi không đùa đâu."

"Tôi cũng vậy."

Yên lặng bao trùm lấy chúng tôi.

"Nhiều thứ đã thay đổi," tay đối tác của tôi nói. "Tốc độ cuộc sống, tư duy của chúng ta. Trên hết, chúng ta thậm chí không biết được chúng ta thực sự kiếm được bao nhiêu. Nhân viên kế toán thuế đến lo hết mấy vụ giấy tờ kinh khủng ấy, nào là miễn thuế, trừ thuế, xóa nợ và còn gì gì nữa."

"Giống như những chỗ khác thôi."

"Tôi biết, tôi biết. Đó là những thứ chúng ta phải làm và đang làm. Nhưng ngày xưa làm thấy thích hơn."

"Trông kìa bóng tối của nhà tù chưa bao giờ nhắc đến. Giờ nhân lên gấp bội quanh những tháng ngày của ta." Những vẫn thơ của một bài thơ bỗng nhiên buột ra khỏi miệng tôi.

"Lại gì nữa thế?"

"Không có gì cả, xin lỗi nhé. Cậu đang nói cái gì kia?"

"Tôi cứ cảm thấy như chúng ta đang dính líu vào một dạng bóc lột."

"Bóc lột ư?" Tôi ngẩng lên ngạc nhiên.

Khoảng cách giữa hai chúng tôi là hai thước, và do độ cao khác nhau của hai chiếc ghế, đầu hắn nhô cao hơn đầu tôi khoảng hai mươi lăm centimet. Một bức thạch bản treo phía sau hắn. Bức thạch bản mới tôi chưa bao giờ thấy trước đây, có hình một con cá có cánh. Con cá trông không mãn nguyện với đôi cánh. Có lẽ nó không chắc phải dùng đôi cánh như thế nào.

"Bóc lột ư?" tôi lẩm bẩm với chính mình.

"Bóc lột."

"Và ai, xin làm ơn cho biết, đang làm cái công việc bóc lột ấy?"

"Những kẻ có những mối quan tâm khác nhau, từng chút một."

Tôi vắt tréo chân trên xô pha màu xanh da trời và nhìn chằm chằm vào màn biểu diễn kịch tính của bàn tay hắn với cây bút bi, giờ đang nằm ở đúng tầm mắt tôi.

"Dù sao thì, cậu có nghĩ là chúng ta đã thay đổi?" tay đối tác của tôi hỏi.

"Chúng ta vẫn vậy thôi. Không ai hay cái gì thay đổi hết."

"Cậu thật sự nghĩ thế sao?"

"Tôi thật sự nghĩ thế. Bóc lột không tồn tại. Đó chỉ là chuyện cổ tích. Ngay cả cậu cũng không tin là tiếng kèn của Cứu Thế Quân[1] trên thực tế có thể cứu rỗi thế giới, đúng không? Tôi nghĩ là cậu cả nghĩ quá thôi."

"Thôi được rồi, có lẽ tôi đã cả nghĩ quá," tay đối tác của tôi nói. "Tuần trước cậu – ý tôi là chúng ta – viết lời quảng cáo cho loại bơ thực vật ấy. Và đó không phải một lời dẫn tồi. Mọi thứ nói chung đều ổn. Nhưng nói tôi nghe, cậu đã lần nào ăn bơ thực vật trong mấy năm qua chưa?"

"Không, tôi ghét bơ thực vật."

"Tôi cũng vậy. Đó là ý tôi muốn nói. Ít ra thì, ngày trước chúng ta làm công việc chúng ta tin, và chúng ta tự hào về nó. Giờ không còn như thế nữa. Chúng ta chỉ cho ra những thứ ngớ ngẩn."

"Bơ thực vật tốt cho ta. Đó là chất béo thực vật, có độ cholesterol thấp. Nó phòng chống các bệnh về tim và gần đây vị của nó không tồi. Lại rẻ và giữ được lâu nữa."

"Vậy ăn thứ đó đi."

Tôi ngồi thụp sâu trong chiếc xô pha, duỗi dài chân tay.

"Điều đó không quan trọng," tôi nói. "Cho dù chúng ta có ăn bơ thực vật hay không thì cũng thế thôi. Việc dịch dọt chán ngắt hay một lời dẫn quảng cáo lừa lọc, về cơ bản là giống nhau. Tất nhiên là chúng ta cho ra những thứ ngớ ngẩn, nhưng nói tôi nghe, chỗ nào người ta làm việc với con chữ một cách thực chất? Thôi đi nào, không ở đâu có chuyện làm việc trung thực hết. Cũng giống như không có chuyện thở trung thực hay đái trung thực."

"Ngày xưa cậu ngây thơ hơn."

"Có lẽ vậy," tôi nói, dập điếu thuốc vào gạt tàn. "Và chắc chắn ở đâu có một thị trấn ngây thơ nơi có một tay hàng thịt ngây thơ xẻ một miếng thịt hun khói ngây thơ. Vậy nếu cậu nghĩ nốc whisky vào giữa buổi sáng là ngây thơ thì cứ tiếp tục đi, muốn nốc bao nhiêu thì tùy,"

Căn phòng bị bao trùm tiếng bút bi gõ cộp cộp lên bàn một lúc lâu.

"Xin lỗi, tôi không có ý muốn nói vậy,"

"Không sao," tay đối tác của tôi nói. "Tôi chắc chắn không thể phủ nhận điều đó."

Bộ điều chỉnh nhiệt của máy điều hòa phát ra âm thanh kỳ lạ. Buổi chiều hôm nay đặc biệt yên tĩnh.

"Tự tin chút đi," tôi nói. "Chẳng phải chúng ta đã tự mình tiến xa đến mức này ư? Chỉ với hai đứa chúng ta. Chúng ta chỉ khác những câu chuyện thành đạt hay ho ấy một điểm thôi: họ thì có người ủng hộ và danh hiệu."

"Nghĩ mà xem, chúng ta từng là bạn," tay đối tác của tôi nói.

"Chúng ta vẫn là bạn của nhau," tôi nói. "Chúng ta đã đi cả quãng đường cùng nhau."

"Tôi không muốn thấy cậu ly dị."

"Tôi biết," tôi nói. "Nhưng chúng ta bắt đầu nói chuyện về cừu được chưa?"

Hắn gật đầu. Hắn đặt chiếc bút bi lại trong khay và dụi mắt.

"Người đàn ông ấy tới lúc mười một giờ sáng nay," tay đối tác của tôi bắt đầu.

Chú thích

[1] Cứu Thế Quân, hay Đạo quân Cứu thế (1865) là một giáo phái Tin lành thuộc cộng đồng Kháng Cánh, nổi tiếng với các hoạt động từ thiện quốc tế, trụ sở đặt tại London, Anh.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,372
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 8: PHẦN 4: Giờ là người đàn ông lạ mặt


Người đàn ông ấy tới lúc mười một giờ sáng nay. Nào, có hai loại mười-một-giờ-sáng đối với một công ty quy mô nhỏ như công ty chúng tôi. Nghĩa là, hoặc vô cùng bận rộn hoặc vô cùng rảnh rỗi. Không có chuyện vừa nọ vừa kia. Vậy là vào lúc mười một giờ sáng, chúng tôi hoặc đang bận quýnh lên không để ý đến thứ gì hoặc là đang mơ mộng linh tinh không để ý đến thứ gì. Những việc lỡ cỡ, nếu có một thứ gọi như vậy, chúng tôi để đến chiều mới giải quyết.

Đang mười một giờ sáng thuộc loại thứ hai thì người đàn ông ấy tới. Thêm nữa lại là một cái mười một giờ rảnh rỗi một cách lạ thường. Nửa đầu tháng Chín bận như điên, rồi sau đó công việc chậm thê thảm. Ba người trong công ty đi nghỉ một kỳ nghỉ hè đã bị hoãn lại một tháng, nhưng ngay cả khi ấy đám nhân viên còn lại vẫn được giao nhiệm vụ gọt bút chì và những việc thú vị khác. Bản thân tay đối tác của tôi ra ngân hàng rút tiền, trong khi ai đó chạy qua phòng trưng bày thiết bị nghe nhìn gần đó để nghe những đĩa nhạc mới ra. Cô thư ký ở lại trực điện thoại trong lúc giở mấy trang "Mẫu tóc ùa thu" của một tạp chí dành riêng cho phụ nữ.

Người đàn ông mở cửa văn phòng không một tiếng động, và cũng đóng không một tiếng động. Không phải là ông ta cố gắng một cách có ý thức phải đi lại gượng nhẹ. Nó như là bản năng thứ hai của ông ta vậy. Đến độ cô thư ký không hề nhận biết sự hiện diện của ông ta. Người đàn ông đi đến bàn cô thư ký và chăm chú cúi nhìn cô trước khi cô chú ý đến ông.

"Tôi có một việc muốn bàn với sếp của cô," ông ta lên tiếng. Ông ta nói như thể người ta lướt bàn tay đeo găng trắng trên mặt bàn.

Điều gì xảy ra mang ông ta lại đây? Cô ngước nhìn người đàn ông. Đôi mắt ông ta quá soi mói để là một khách hàng, trang phục ông ta quá tinh tế để là một thanh tra thuế, diện mạo ông ta quá tri thức để là một viên cảnh sát. Tuy vậy cô không thể nghĩ ra ông ta làm nghề gì. Người đàn ông này, một mẩu hung tin tao nhã giờ đang đe dọa cô, không biết từ đâu hiện ra.

"Tôi e là lúc này ông ấy đi ra ngoài," cô nói, đóng sập cuốn tạp chí lại. "Ông ấy nói sẽ quay trở lại trong vòng ba mươi phút nữa."

"Tôi sẽ đợi," người đàn ông tuyên bố không chút do dự. Có vẻ như một kết luận đã được định trước.

Cô tự hỏi có nên hỏi tên ông ta. Cô quyết định không hỏi mà chỉ đưa ông ta ra chỗ tiếp tân. Người đàn ông chọn một chỗ ngồi trên chiếc xô pha màu xanh da trời, bắt tréo chân, ngó trân trân chiếc đồng hồ điện tử treo tường thẳng trước mặt mình, ngồi im. Ông ta không hề nhúc nhích lấy một ly. Khi cô mang cho ông ta một ly trà lúa mạch một lát sau đó, ông ta vẫn ở tư thế cũ.

"Ngay tại chỗ cậu đang ngồi đấy," tay đối tác của tôi nói. "Ông ta ngồi đó nhìn chằm chằm vào chiếc đồng hồ ở cùng một tư thế trong suốt ba mươi phút."

Tôi nhìn chiếc xô pha mình đang ngồi, rồi lại nhìn chiếc đồng hồ, rồi nhìn lại tay đối tác của tôi.

Mặc dù thời tiết cuối tháng tách dòng bên ngoài nóng bất thường, người đàn ông ăn mặc khá trang trọng. Một cách hoàn hảo. Cổ tay áo sơ mi trắng của ông ta thò ra chính xác là một centimet rưỡi từ tay áo của bộ lê màu xám may rất khéo. Chiếc cà vạt sọc tông nhạt, thêm phần nổi bật với một chút bất đối xứng, được thắt vô cùng cẩn thận. Đôi giày đen được đánh sáng bóng.

Khoảng ba mươi lăm tới bốn mươi tuổi, cao độ một mét bảy mươi lăm, không có chút mỡ thừa nào, bàn tay mảnh dẻ không lộ chút nếp nhăn. Những ngón tay thon dài của ông ta gợi nhớ đến một đoàn xiếc thú vẫn giữ những ký ức sâu đậm từ thời sơ khai bất chấp bao nhiêu năm tháng luyện tập và kiềm chế. Móng tay của ông ta được chăm chút tỉ mỉ, một hình cung sạch sẽ, hoàn hảo cuối mỗi ngón tay. Đôi bàn tay đẹp thật sự, nhưng không hiểu tại sao lại tạo cảm giác không yên bình. Chúng chứng tỏ mức độ chuyên môn hóa cao độ trong một lĩnh vực hiếm hoi nào đó – nhưng lĩnh vực đó là gì thì không ai thật sự biết.

Khuôn mặt ông ta thậm chí còn khó đoán định hơn. Đó là khuôn mặt thành thật nhưng vô cảm, một phiến đá trống trơn. Mắt mũi ông ta sắc cạnh, nghĩ lại thì trông chúng như thể được rạch bằng dao rọc giấy, môi ông ta nhợt nhạt và mỏng dính. Ông ta hơi rám nắng, mặc dù rõ ràng không phải vì vui thú nơi bãi biển và sân quần vợt. Nước da rám nắng đó chỉ có thể là kết quả của một vầng mặt trời lạ kỳ nào đó chiếu sáng ở một bầu trời lạ kỳ nào đó.

Ba mươi phút trôi qua rất chậm chạp. Một cách lạnh lẽo, đặc quánh, cứng ngắc. Vào lúc tay đối tác của tôi trở lại từ ngân hàng, bầu không khí trong phòng đã trở nên nặng nề rõ rệt. Người ta thậm chí có thể nói là mọi thứ trong phòng gần như bị đóng đinh xuống sàn nhà.

"Tất nhiên, chỉ là có vẻ vậy thôi," tay đối tác của tôi nói.

"Tất nhiên," tôi nói.

Cô thư ký bị bỏ lại một mình kiệt sức vì bồn chồn. Đầy hoang mang, tay đối tác của tôi đến chỗ tiếp tân và tự giới thiệu là người quản lý. Chỉ khi ấy người đàn ông mới động đậy, ngay lúc đó ông ta lôi trong túi ra một điếu thuốc mảnh dẻ, châm thuốc, và với một vẻ mặt đau đớn thổi ra một hơi khói ngắn. Bầu không khí loãng ra tí chút.

"Chúng ta không có nhiều thời gian, vậy nên hãy nói chuyện này ngắn gọn thôi," người đàn ông nói rất khẽ. Ông ta lôi trong ví ra một tấm danh thiếp cạnh sắc như dao cạo đặt trên bàn. Tấm danh thiếp được ép kín, trắng một cách không tự nhiên, được in dạng chữ nhỏ xíu, đen đậm. Không chức danh hay chi nhánh, không địa chỉ, không số điện thoại. Chỉ có tên. Chỉ nhìn thôi cũng đủ để làm đau mắt người ta. Tay đối tác của tôi lật tấm danh thiếp, thấy mặt sau hoàn toàn trống, liếc mặt trước lần nữa, rồi nhìn lại người đàn ông.

"Tôi tin là cậu biết tên của người đó?" người đàn ông nói.

"Tôi biết."

Người đàn ông nhô cằm ra khoảng vài milimet và gật đầu ngắn gọn. Tuy vậy hướng nhìn của ông ta không hề dịch chuyển chút nào. "Xin hãy đốt nó đi."

"Đốt nó đi ư?" Tay đối tác của tôi chết lặng, nhìn chằm chằm vào người đàn ông.

"Cái tấm danh thiếp ấy. Đốt nó đi. Ngay lập tức," người đàn ông nói sắc lạnh.

Tay đối tác của tôi vội vàng cầm chiếc bật lửa trên mặt bàn mà châm lửa đốt một góc danh thiếp. Hắn cầm cạnh của nó cho tới khi một nửa đã cháy hết, rồi đặt nó vào trong chiếc gạt tàn pha lê lớn. Cả hai người nhìn tấm danh thiếp cháy. Đến lúc tấm danh thiếp đã cháy thành tro trắng, căn phòng bao bọc trong yên lặng nặng nề như thể vừa có một vụ thảm sát.

"Tôi đến đây mang đầy đủ thẩm quyền của người đó," người đàn ông nói, phá vỡ sự yên lặng kéo dài. "Có nghĩa là mọi thứ tôi phát biểu từ nay trở đi đại diện cho toàn bộ ý muốn và mong ước của người đó."

"Mong ước...," tay đối tác của tôi nói to.

""Mong ước", một từ tao nhã để diễn đạt một vị trí cơ bản với một mục tiêu được xác định," người đàn ông nói, "Dĩ nhiên, có những phương cách khác để diễn đạt cùng một điều. Cậu hiểu chứ?"

Tay đối tác của tôi nhanh chóng diễn dịch trong đầu, "Tôi hiểu."

"Tuy vậy, đây không phải là một vấn đề mang tính nhận thức hay một vụ thông đồng chính trị; đây hoàn toàn là một lời đề nghị kinh doanh," Kin doanh, người đàn ông phát âm, cho thấy ông ta là một người Nhật sinh ra tại hải ngoại; hầu hết người Nhật sinh ra tại Nhật đều nói kinh doanh.

"Cậu là một nhà kin doanh, và tôi là một nhà kin doanh," ông ta nói tiếp. "Trên thực tế chúng ta chẳng có việc gì để bàn ngoài chuyện kin doanh. Hãy để những cuộc thảo luận liên quan tới những gì không thực tế cho người khác. Chúng ta thống nhất thế chứ?"

"Tất nhiên rồi," tay đối tác của tôi nói.

"Vai trò của chúng ta là lấy những yếu tố không thực đang tồn tại mà nhào nặn thành một hình thức tinh vi hơn để chúng có chỗ trong tổng thể hiện thực. Hành động của con người hướng đến những điều không thực. Tại sao lại như vậy?" người đàn ông dùng một câu hỏi tu từ. Ông ta sờ chiếc nhẫn đá xanh trên ngón giữa bàn tay trái của mình. "Bởi vì làm thế có vẻ đơn giản hơn. Thêm vào đó, có những hoàn cảnh trong đó những gì không thực lại có thể tạo ra ấn tượng lấn át hiện thực. Tuy nhiên, kin doanh không hề có chỗ trong thế giới không thực. Nói cách khác," người đàn ông nói, tiếp tục sờ nhẫn, "chúng ta là một loài mà chỉ riêng việc tồn tại đã đồng nghĩa với việc biến chuyển những khó khăn. Vì vậy, từ giờ trở đi nếu bất kỳ điều gì tôi nói đòi hỏi những công việc hay quyết định khó khăn từ phía cậu, tôi xin cậu hãy chịu khó chấp nhận. Đó là bản chất của vạn vật."

Giờ thì tay đối tác của tôi hoàn toàn không hiểu gì, dù vậy hắn vẫn gật đầu.

"Vậy thì tốt lắm, tôi sẽ trình bày mong ước của bên liên quan. Thứ nhất, chúng tôi mong muốn rằng cậu ngừng xuất bản bản tin quan hệ công chúng cậu thực hiện cho Công ty Bảo hiểm Nhân thọ "P"."

"Nhưng mà..."

"Thứ hai," người đàn ông ngắt lời, "chúng tôi mong muốn sắp xếp một cuộc nói chuyện với người thực sự chịu trách nhiệm thực hiện trang này."

Lôi từ trong túi ra một chiếc phong bì trắng, người đàn ông lấy ra một tờ giấy gấp làm tư và đưa cho tay đối tác của tôi. Tay đối tác của tôi mở tờ giấy. Đúng như hắn đoán, đó là bản sao bức ảnh ột bản tin PR mà văn phòng chúng tôi đã thực hiện. Một bức ảnh thông thường chụp phong cảnh Hokkaido thanh bình – mây, núi, đồng cỏ và cừu, viết đè lên trên là mấy dòng thơ về đồng quê không có gì nổi bật. Có vậy thôi.

"Mặc dù chúng tôi có hai mong muốn, nhưng mong muốn thứ nhất lại là một việc đã rồi hơn là một mong muốn. Chính xác hơn, một quyết định phù hợp với mong muốn của chúng tôi đã được thông qua. Nếu cậu có nghi ngờ gì, xin gọi cho trưởng phòng Quan hệ Công chúng của công ty bảo hiểm nhân thọ."

"Tôi hiểu," tay đối tác của tôi nói.

"Tuy thế, chúng tôi có thể dễ dàng thấy được rằng đối với một công ty cỡ như của cậu, thiệt hại do những thứ bất tiện như thế này gây ra là rất lớn. May mắn thay chúng tôi ở vào vị trí – như cậu rõ ràng nhận thấy – có ảnh hưởng không nhỏ trong lĩnh vực này. Do đó, sau khi thực hiện mong muốn thứ hai của chúng tôi, với điều kiện báo cáo của người chịu trách nhiệm ấy phải làm chúng tôi hài lòng, chúng tôi sẵn sàng bồi hoàn toàn bộ thiệt hại cho cậu. Tôi thiết nghĩ chúng tôi sẽ bồi hoàn thật hậu hĩnh."

Yên lặng bao trùm khắp phòng.

"Nếu cậu không thực hiện được mong muốn của chúng tôi," người đàn ông nói, "cậu sẽ không kiếm được việc gì trong lĩnh vực này hoặc bất kỳ lĩnh vực nào khác, và do đó, thế giới sẽ không có chỗ cho cậu, không bao giờ."

Lại yên lặng.

"Cậu có câu hỏi gì không?"

"Vậy thì, ừm, vấn đề nằm ở bức ảnh phải không?" tay đối tác của tôi lắp bắp.

"Đúng thế," người đàn ông nói, chọn lựa từ ngữ rất cẩn thận, như thể đang lựa chọn phương án trên lòng bàn tay mở rộng. "Thật tình đúng là như thế. Tuy nhiên, tôi không được tự do thảo luận vấn đề sâu hơn với cậu. Tôi không có thẩm quyền ấy."

"Tôi sẽ điện thoại cho người mà ông muốn gặp. Cậu ấy sẽ có mặt ở đây lúc ba giờ," tay đối tác của tôi nói.

"Tuyệt," người đàn ông nói, liếc nhìn đồng hồ đeo tay của mình. "Tôi sẽ cho xe đến đây đón cậu ta lúc bốn giờ. À, điều này quan trọng đây: cậu không được phép nói chuyện này với bất cứ ai. Cậu hiểu chưa?"

Đến đó hai người họ chia tay theo đúng phong cách của các nhà kinh doanh.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,372
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 9: PHẦN 4: Ông chủ


"Đầu đuôi câu chuyện là như thế," tay đối tác của tôi nói.

"Tôi chả hiểu đầu cua tai nheo ra làm sao," tôi nói, môi ngậm một điếu thuốc chưa châm. "Trước hết, tôi không biết người trong tấm danh thiếp là ai. Thứ hai, tôi không tưởng tượng được tại sao ông ta lại lo ngại về một bức ảnh chụp cừu. Cuối cùng, tôi không thể hiểu nổi làm thế nào ông ta lại đình chỉ được việc xuất bản của chúng ta."

"Người trong danh thiếp là một nhân vật cánh hữu lớn. Tên tuổi và mặt mũi ông ta hầu như không bao giờ được công bố, vì thế ông ta không được biết đến rộng rãi, nhưng cậu có lẽ là người duy nhất trong lĩnh vực của chúng ta lại không biết đến ông ta là ai."

"Tôi mà, thờ ơ với mọi chuyện," là lời bào chữa yếu ớt của tôi.

"Ông ta là người cánh hữu, nhưng không phải cái được gọi là cánh hữu. Hoặc cậu có thể nói, thậm chí không phải là cánh hữu."

"Tôi không hiểu ý cậu."

"Nghĩa là không ai biết được ông ta nghĩ gì. Ông ta không có tên ở bất kỳ bài báo nào, không phát biểu trước công chúng. Ông ta không bao giờ cho ai phỏng vấn mình và không bao giờ cho chụp ảnh. Thậm chí còn không chắc là ông ta còn sống. Năm năm trước, một tay phóng viên tạp chí nắm được tin riêng ông ta dính líu vào mấy vụ làm ăn đầu tư mờ ám nào đó, nhưng câu chuyện không bao giờ được in ra."

"Tôi thấy là cậu đã nghiên cứu kỹ vụ này."

"Tôi quen biết tay phóng viên đó."

Tôi cầm chiếc bật lửa và châm thuốc. "Tay phóng viên đó giờ đang làm gì?"

"Bị chuyển sang bộ phận hành chính. Xếp tài liệu từ sáng đến tối. Truyền thông đại chúng là một thế giới nhỏ đến kỳ quặc, và tay đó nêu một tấm gương điển hình. Giống như cái sọ người treo ở lối vào một làng châu Phi vậy."

"Hiểu rồi," tôi nói.

"Nhưng chúng ta biết được thân thế thời trước chiến tranh của ông ta. Ông ta sinh ra tại Hokkaido năm 1913, đến Tokyo sau khi tốt nghiệp một trường bình thường, liên tục đổi nghề, và có chiều hướng ngả sang cánh hữu. Tôi tin là ông ta bị cầm tù một lần. Khi được thả, ông ta đến Mãn Châu, tại đó ông ta dính líu đến thành phần cấp cao của Đội quan Quan Đông và tham gia vào một mưu đồ nào đó. Người ta không biết gì nhiều về tổ chức đứng đằng sau, nhưng ông ta bỗng chốc trở thành một nhân vật bí hiểm trong khoảng thời gian này. Người ta đồn là ông ta buôn bán ma túy, rất có thể là thật. Ông ta tung hoành kiếm chác khắp Trung Hoa đại lục chỉ để cuối cùng lên một tàu khu trục hai tuần trước khi quân đội Liên Xô tới nơi, nhanh chóng rút lui về Nhật Bản. Mang theo chiến lợi phẩm – một lượng vàng bạc khổng lồ, gần như không bao giờ cạn kiệt."

"Người ta có thể nói ông ta đã lựa chọn thời điểm chính xác đến lạ kỳ," tôi thêm vào.

"Chứ lại còn. Anh chàng của chúng ta quả thực có biệt tài nắm bắt cơ hội. Một cách bản năng, ông ta học được khi nào tấn công khi nào rút lui. Thêm nữa, ông ta luôn tập trung vào những mục tiêu đúng đắn. Ngay cả khi ông ta bị lực lượng chiếm đóng tống giam như một tội phạm chiến tranh hạng A, vụ xử ông ta bị ngắt nửa chừng và không bao giờ mở lại. Bề ngoài vì lí do sức khỏe, nhưng sự việc đến đây trở nên khó hiểu. Có lẽ là một cuộc thương lượng đã được dàn xếp với người Mỹ, vừa lúc MacArthur nhắm đến Trung Hoa đại lục."

Tay đối tác của tôi lôi một cây bút bi khác ra khỏi khay bút và bắt đầu quay quay giữa các ngón tay.

"Khi được thả ra khỏi nhà tù Sugamo, ông ta lấy nửa số vàng trả lương cho toàn bộ một phe cánh của đảng bảo thủ. Nửa kia được dùng để mua ngành quảng cáo. Nên lưu ý rằng việc này xảy ra vào cái thời quảng cáo chẳng là gì ngoài mấy tờ rơi rẻ tiền."

"Tài nhìn xa trông rộng. Nhưng phải có khiếu nại về việc che giấu quỹ chứ?"

"Không hề có chuyện đó. Hãy nhớ ông ta đã mua toàn bộ phe cánh của đảng bảo thủ."

"À."

"Quay lại câu chuyện, ông ta dùng tiền để lũng đoạn thị trường cả về chính trị lẫn quảng cáo, lập nên một nền tảng quyền lực còn phát triển đến tận ngày nay. Ông ta không bao giờ xuất đầu lộ diện vì ông ta không cần làm vậy. Chừng nào ông ta còn nắm giữ được một số nhân vật trung tâm nhất định của bên cầm quyền chính trị và những mảng cốt lõi của nghành quan hệ công chúng, không có gì mà ông ta không làm được. Cậu có hiểu kiểm soát nghành quảng cáo có nghĩa gì không?"

"Chắc là không."

"Kiểm soát ngành quảng cáo có nghĩa là nắm trong tay gần như toàn bộ các ngành xuất bản, truyền thanh và truyền hình. Không có một chi nhánh xuất bản hay đài truyền thanh nào lại không phụ thuộc cách này hay cách khác vào quảng cáo. Vì như thế sẽ giống như bể cá không có nước. Tại sao, vì chín mươi lăm phần trăm thông tin đến được với cậu đã được chọn lọc và trả tiền trước."

"Có một điều tôi vẫn không hiểu," tôi nói. "Tôi hiểu đoạn cậu nói người đàn ông của chúng ta nắm trong tay các ngành truyền thông, nhưng làm thế nào ông ta lại đình chỉ được bản tin PR cho một công ty Bảo hiểm nhân thọ? Bản tin thậm chí không qua tay bất kỳ người đại diện chủ yếu nào cơ mà. Đó là một hợp đồng trực tiếp."

Tay đối tác của tôi ho húng hắng, rồi uống cạn chỗ còn lại của tách trà lúa mạch giờ chỉ còn âm ấm. "Cổ phiếu. Đó là nguồn doanh thu chủ yếu của ông ta. Thao túng thị trường, cưỡng chế người khác, kiểm soát công ty bằng cách mua đa số cổ phần, mọi thứ. Đám nhân viên phụ trách thông tin thu thập tất cả thông tin cần biết để ông ta tùy ý lựa chọn. Chỉ một phần nhỏ xíu của những gì đang thật sự diễn ra được công bố. Tất cả những tin khác được để dành cho Ông Chủ. Tất nhiên, không hề có sức ép lộ liễu, nhưng có lúc sự việc trở nên gần giống như hăm dọa. Và nếu như hăm dọa không ăn thua, ông ta rỉ tai đám con buôn chính trị để thúc đẩy vụ việc."

"Công ty nào mà chẳng có một hai điểm yếu."

"Công ty nào cũng có bí mật mà họ không muốn nổ ra ngay giữa cuộc họp cổ đông hàng năm. Trong hầu hết trường hợp, họ nghe theo lời phán quyết. Tóm lại, Ông Chủ ngồi chễm chệ trên nền tảng tam giác quyền lực gồm chính trị gia, dịch vụ thông tin, và thị trường cổ phiếu. Vậy là như cậu có lẽ đã đoán ra, đối với ông ta xóa sổ một bản tin PR và là chúng ta phá sản dễ như bóc trứng vậy."

"Hừm, vậy thì nói tôi nghe tại sao một nhân vật quyền lực không muốn rời cái cương vị ấy lại nổi giận vì một bức ảnh phong cảnh Hokkaido?"

"Câu hỏi hay đấy," tay đối tác của tôi nói. "Tôi cũng đang sắp sửa hỏi cậu câu đó."

Tôi chỉ biết nhún vai.

"Vậy nói xem, làm thế nào cậu biết toàn bộ việc này liên quan đến cừu?" tay đối tác của tôi hỏi. "Có điều gì kỳ cục diễn ra sau lưng tôi không?"

"Có đám tiểu yêu không tên trong rừng đang bận quay bánh xe ấy."

"Làm ơn giải thích cho tôi nghe được không?"

"Giác quan thứ sáu."

"Thôi đi nào," tay đối tác thở dài. "Mà thôi, để tôi cho cậu biết hai diễn biến mới nhất. Chỉ để điều tra tí chút, tôi gọi điện cho tay cựu phóng viên tờ nguyệt san kia. Có tin đồn Ông Chủ đang nằm bẹp một chỗ vì bệnh xuất huyết não, nhưng tin này chưa được chính thức xác nhận. Mẩu tin còn lại liên quan đến người đàn ông tới đây. Hóa ra hắn là thư ký riêng cho Ông Chủ, nhân vật thứ hai của ông ta, người ông ta giao phó thật sự quản lý cả tổ chức. Người Mỹ gốc Nhật, tốt nghiệp Stanford, làm việc cho Ông Chủ mười hai năm nay. Bản thân hắn ta cũng là người bí hiểm. Hiển nhiên là người khôn ngoan sắc sảo. Đó là tất cả những gì tôi tìm hiểu được."

"Cám ơn nhé," tôi nói, thật sự có ý như thế.

"Không có gì," tay đối tác thậm chí không liếc về phía tôi.

Dù có nhìn theo góc độ nào, khi tay đối tác của tôi không uống rượu hắn là kẻ bình thường hơn tôi nhiều. Hắn ngây thơ hơn, chu đáo với người khác hơn, và suy nghĩ có tổ chức hơn. Nhưng trước sau gì hắn sẽ tự làm ình say mèm mà thôi. Không phải là một ý nghĩ an ủi được ta chút nào rằng những người hơn mình lại sụp đổ trước mình.

Ngay sau khi tay đối tác của tôi rời phòng, tôi lôi một chai whisky ra khỏi ngăn kéo của hắn mà rót ình một ly.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,372
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 10: PHẦN 4: Đếm cừu


Chúng ta có thể lang thang không mục đích trên lục địa của sự tùy hứng, nếu chúng ta chọn thế. Không gốc rễ như mấy hạt giống có cánh được một ngọn gió xuân tình cờ thổi đi khắp nơi.

Tuy nhiên, chúng ta có thể phủ nhận ngay sau đó rằng không có thứ gọi là ngẫu nhiên. Những gì đã qua là đã qua, những gì chưa tới thì hiển nhiên chưa tới. Nói cách khác, bị kẹp giữa "mọi thứ" đằng sau chúng ta và "số không" phía trước chúng ta, sự tồn tại của chúng ta là phù du, trong đó không hề có sự ngẫu nhiên cũng chẳng có khả năng.

Tuy nhiên, trong thực tế, sự khác biệt giữa hai cách giải thích hết sức ít ỏi. Một tình thế (như hầu hết các cuộc đấu giữa các cách giải thích) chẳng khác nào gọi cùng một loại thức ăn bằng hai tên.

Thôi đủ rồi ẩn dụ ơi.

Việc tôi đưa bức ảnh cừu vào trong bản tin PR của công ty bảo hiểm nhân thọ có thể được nhìn nhận từ một góc độ, (a) ngẫu nhiên, nhưng từ một góc độ khác, (b) không có sự ngẫu nhiên nào hết.

(a) Tôi đang tìm một bức ảnh thích hợp cho bản tin PR. Rất ngẫu nhiên, tôi tình cờ có một bức ảnh cừu trong ngăn kéo. Tôi quyết định dùng bức ảnh đó. Một bức ảnh ngây thơ trong một thế giới ngây thơ.

(b) Bức ảnh cừu trong ngăn kéo đã đợi tôi ngần ấy thời gian. Nếu không được dùng trong bản tin ấy thì cũng sẽ dùng cho một việc khác tại một thời điểm nào đó sau này.

Càng nghĩ về điều đó, tôi càng thấy công thức này áp dụng cho tất cả mọi thức thuộc mọi phương diện mà tôi đã trải nghiệm cho đến lúc này trong đời. Chỉ cần luyện tập một chút, tôi chắc chắn mình có thể điều khiển, (a) một cuộc đời với tay phải và, (b) một cuộc đời với tay trái. Nói vậy không có nghĩa điều đó làm nên cái gì khác biệt. Nó giống như cái lỗ trong bánh vòng. Liệu người ta coi cái lỗ trong chiếc bánh vòng như một khoảng trống hay như một thực thể là chính bản thân nó, đó đơn thuần là một câu hỏi siêu hình và không ảnh hưởng chút nào đến vị bánh vòng.

Ngồi trên xô pha uống whisky, được máy điều hòa không khí thổi khẽ khàng như một hạt bồ công anh đưa đẩy theo cơn gió nhẹ, tôi nhìn chằm chằm vào chiếc đồng hồ điện tử treo tường. Chừng nào tôi còn nhìn vào chiếc đồng hồ, ít ra là thế giới vẫn còn chuyển động. Chẳng phải một thế giới ý nghĩa gì, nhưng dẫu sao vẫn đang chuyển động. Và chừng nào tôi biết là thế giới vẫn chuyển động, tôi biết là tôi tồn tại. Không phải một sự tồn tại có ý nghĩa gì, nhưng vẫn là một sự tồn tại. Tôi chợt thấy dường như ai đó nên xác nhận sự tồn tại của chính mình chỉ bằng kim giờ kim phút của chiếc đồng hồ điện tử treo tường. Phải có một phương thức xác nhận mang tính nhận thức hơn. Nhưng dù cố đến mấy tôi cũng chẳng nảy ra được cách gì dễ dàng hơn.

Tôi từ bỏ và làm một ngụm whisky nữa. Một cảm giác rát bỏng truyền qua cổ họng tôi, xuống đến thành thực quản vào trong lõm thượng vị. Bên ngoài cửa sổ, bầu trời mùa hè xanh rực rỡ và những đám mây trắng trôi bồng bềnh. Một bầu trời đẹp đẽ song cũ kỹ báo trước sự hao mòn. Tôi làm một ngụm whisky nữa để chúc cho cái bầu trời mới tinh khôi trước kia. Rượu Scotch không đến nỗi nào. Bầu trời cũng không đến nỗi nào, một khi người ta đã quen với nó. Một chiếc máy bay phản lực lớn bay ngang qua bầu trời từ trái qua phải như con bọ lập lòe.

Khi vừa uống cạn ly whisky thứ hai, tôi chợt nghĩ: mình đang làm cái quái gì ở đây thế này?

Cừu.

Tôi đứng dậy khỏi xô pha, nhặt bản sao của bức ảnh từ bên bàn tay đối tác rồi quay trở về ghế. Trong hai mươi giây tôi nhìn chằm chằm vào nó, mút những viên đá có vị whisky, vắt óc suy nghĩ tìm xem điều gì đang diễn ra trong bức ảnh.

Bức ảnh cho thấy một đàn cừu trên đồng cỏ. Trên một cạnh, đồng cỏ dính liền với một rừng cây bu lô. Loại cây bu lô khổng lồ người ta tìm thấy ở tận Hokkaido, chứ không phải loại bé teo còi cọc trồng bên lối ra vào văn phòng ông nha sĩ nào đó. Đây là loại cây bu lô mà bốn con gấu có thể mài vuốt lên thân cây cùng một lúc. Tuyết vẫn còn sót lại trên đỉnh núi sau nền bức ảnh, cả trên khe núi nữa. Tháng Tư hoặc tháng Năm. Khi mặt đất ướt át đầy tuyết tan. Bầu trời xanh (hay đúng ra là tôi nghĩ nó màu xanh từ bức ảnh tuyền màu xám – cũng rất có thể là màu hồng nhạt), với mây trắng nhẹ nhàng bay qua đỉnh núi. Sau khi đã cân nhắc mọi điều, bầy cừu chỉ có thể được nhìn nhận như một bầy cừu, rừng bu lô chỉ có thể được nhìn nhận như rừng bu lô, mây trắng chỉ có thể chỉ được nhìn nhận như mây trắng. Đơn giản như vậy và không có gì hơn.

Tôi quẳng bức ảnh lên bàn, hút một điếu thuốc rồi ngáp. Sau đó tôi cầm bức ảnh lên, cố đếm đàn cừu. Đồng cỏ rộng mênh mông, những con cừu rải rác thành đốm lớn như những người đi picnic, đến nỗi khó có thể nói được những đốm trắng ở đằng xa là cừu hay chỉ là những đốm trắng. Càng nhìn kỹ bao nhiêu tôi càng khó đoán bấy nhiêu, liệu những đốm trắng có thật sự là những đốm trắng hay là mắt tôi đang giở trò với tôi, cho tới khi cuối cùng tôi không thể chắc về bất kỳ điều gì nữa. Tôi cầm một cây bút bi trong tay đánh dấu mọi chỗ tôi có thể chắc là cừu. Tổng số là ba mươi hai. Ba mươi hai con cừu. Một bức ảnh dễ hiểu một cách hoàn hảo. Không có gì khác lạ về bố cục, không gì đặc biệt về phong cách.

Tuy thế lại có một cái gì đó trong ảnh. Một cái gì đó khang khác. Tôi nghĩ mình đã cảm được điều đó lần đầu tôi trông thấy bức ảnh cách đây ba tháng, và lúc này cảm giác ấy quay trở lại.

Tôi lăn mình trên xô pha, giơ bức ảnh qua đầu, tôi đếm lại tổng số một lần nữa.

Ba mươi ba.

Ba mươi ba sao?

Tôi nhắm mắt và lắc đầu. Trí óc tôi trống rỗng. Tôi cố đếm số cừu một lần cuối, rồi trôi vào giấc ngủ sâu của buổi-chiều-hai-ly-whisky. Điều cuối cùng tôi nhớ là mình đã nghĩ về đôi tai của cô bạn gái.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,372
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 11: PHẦN 4: Chiếc limousine và người lái xe


Chiếc xe đến lúc bốn giờ, như đã hẹn. Chính xác đến từng giây, như một chiếc đồng hồ chim cúc cu. Cô thư ký lay tôi dậy khỏi giấc ngủ sâu. Sau đó tôi đi tới phòng vệ sinh vã nước lên mặt. Cơn buồn ngủ của tôi không hề giảm đi chút nào. Tôi ngáp ba lần trong thang máy lúc đi xuống. Ngáp đến mức người ta có thể kiện tôi được. Nhưng mà ai ở đó mà kiện cáo chứ? Ai đáng bị kiện ngoài chính tôi?

Hiện ra lờ mờ trước cửa tòa nhà chúng tôi là chiếc limousine trông như một chiếc tàu ngầm khổng lồ. Cả một gia đình nghèo khó có thể sống dưới mái xe ấy chứ, nó mới lớn làm sao. Cửa sổ màu xanh đục, bằng kính phản quang để không ai thấy được gì bên trong. Thân xe toàn màu đen đến phát sợ, không hề có lấy một tì vết, cả trên cái hãm xung, cả trên nắp đậy trục bánh xe.

Đứng bên cạnh chiếc xe trong tư thế luôn sẵn sàng là người lái xe đã đứng tuổi, mặc chiếc áo trắng tinh sạch bong và đeo cà vạt màu cam. Một người lái xe thật sự. Tôi buộc phải tiến về phía bác ta, và bác ta mở cửa xe không nói một lời. Mắt bác ta dõi theo tôi cho đến khi tôi đã ngồi yên vị trên ghế, rồi bác ta đóng cửa xe lại. Bác ta trèo lên ghế lái và đóng cửa xe. Tất cả đều không một tiếng động nào to hơn tiếng lật quân bài. Và ngồi trong chiếc limousine này, so với cái xe Con bọ hiệu Volkswagen đã đi được mười lăm năm mà tôi mua lại của một người bạn, thật yên tĩnh như ngồi dưới đáy hồ mà đeo ống bịt tai vậy.

Nội thất trong xe được trang bị hoàn hảo đến tận răng. Người ta có thể trông mong điều này trong một chiếc limousine, nhưng cho dù gu thẩm mỹ của hầu hết các phụ kiện được cho là xa xỉ đều rất đáng ngờ song nội thất chiếc xe này thì lại không đáng ngờ một chút nào. Ở giữa chỗ ngồi to như cái xô pha của tôi là chiếc điện thoại ấn phím sang trọng, cạnh đó là một hộp dựng thuốc lá bằng bạc, một bật lửa, một gạt tàn. Gắn sau ghế lái là một chiếc bàn gấp nhỏ. Máy điều hòa không phô trương mà tự nhiên, thảm xe lộng lẫy. Trước khi tôi chưa kịp nhận ra, chiếc limousine đã chuyển động rồi, như một chiếc chậu giặt lướt trên biển thủy ngân. Tổng số tiền đổ vào cục cưng này chắc phải kinh khủng lắm.

"Tôi bật chút nhạc được không cậu?" người lái xe hỏi.

"Có lẽ là chút gì đó thư giãn."

"Vâng, thưa cậu."

Người lái xe cúi xuống dưới ghế, chọn một băng cát xét, và chạm vào một nút trên bảng điều khiển. Một bản xô nát thanh bình dành cho đàn viôlôngxen dường như không biết từ đâu lan tới. Một bản nhạc không chê vào đâu được, độ trung thực không chê vào đâu được.

"Họ luôn cho bác đến chở mọi người trên chiếc xe này à?" tôi hỏi.

"Đúng vậy đấy," người lái xe trả lời một cách dè dặt. "Thời gian gần đây tôi chỉ phải làm có thế."

"Tôi hiểu rồi."

"Ban đầu chiếc limousine này được dành riêng cho Ông Chủ," người lái xe nói ngay sau đó, vẻ e ngại lúc trước đã bớt đi. "Tuy nhiên, mùa xuân này, với tình trạng hiện này, ông ấy không dám đi ra ngoài nhiều. Nhưng mà cứ để cho chiếc xe này nằm lì một chỗ thì cũng được gì đâu? Như tôi chắc cậu cũng biết, xe ô tô phải được lái thường xuyên chứ không thì chạy kém hay ngay."

"Tất nhiên rồi," tôi nói. Nếu vậy thì có vẻ như việc Ông Chủ bị bệnh không còn là bí mật của tổ chức nữa. Tôi lấy một điếu thuốc ra khỏi hộp, xem xét, đưa lên mũi. Một loại thuốc lá cắt khô được làm một cách đặc biệt không có nhãn hiệu gì, thơm giống như mùi thuốc lá Nga. Tôi đấu tranh tư tưởng không biết nên hút hay nên đút túi, nhưng cuối cùng thì đặt nó lại chỗ cũ. Được chạm giữa chiếc bật lửa và hộp thuốc lá là một hình biểu tượng tinh xảo. Một biểu tượng cừu.

Cừu ư?

Tôi lắc đầu và nhắm mắt. Toàn bộ chuyện này thật quá sức tôi. Dường như kể từ khi bức ảnh cừu hiện hữu trong đời tôi, mọi thứ bắt đầu chạy trốn khỏi tôi.

"Còn bao nhiêu lâu nữa chúng ta đến nơi?" tôi hỏi.

"Ba mươi hoặc bốn mươi phút, tùy vào giao thông."

"Vậy có lẽ bác có thể giảm điều hòa xuống một chút? Tôi muốn tranh thủ ngủ một lát."

"Tất nhiên là được, thưa cậu."

Người lái xe điều chỉnh máy điều hòa, rồi bật một núm trên bảng điều khiển. Một tấm thủy tinh dày nhẹ nhàng kéo lên, ngăn khoang hành khách khỏi ghế lái xe. Tôi được bao bọc trong một sự yên lặng gần như tuyệt đối, chỉ trừ đoạn nhẹ nhàng của Bach, nhưng cho tới thời điểm này hầu như không gì làm tôi ngạc nhiên. Tôi dụi má vào ghế sau mà thiếp đi.

Tôi mơ về một con bò sữa. Một con bò khá hiền lành và nhỏ nhắn, loại trông giống như đã trải qua nhiều gian truân. Chúng tôi đi qua nhau trên một cây cầu lớn. Đó là một buổi chiều xuân dễ chịu. Con bò đang mang một chiếc quạt điện cũ trên móng guốc, và nó hỏi liệu tôi có muốn mua lại chiếc quạt với giá rẻ không.

"Tôi không có nhiều tiền đâu," tôi nói. "Thật mà, tôi không có nhiều tiền."

"Vậy thì," con bò nói, "tôi có thể đổi nó cho ngài lấy một chiếc kìm."

Thế cũng không tồi. Vậy là tôi và bò đi về nhà cùng nhau, và tôi lục tung cả nhà lên để tìm chiếc kìm. Nhưng không biết kìm đặt chỗ nào.

"Kỳ thật," tôi nói. "Chiếc kìm còn ở đây hôm qua mà."

Tôi vừa mới lôi ghế ra để trèo lên tìm trên mặt tủ thì người lái xe vỗ nhẹ lên vai tôi. "Chúng ta tới nơi rồi," bác ta nói ngắn gọn.

Cửa xe mở và ánh sáng yếu ớt của buổi chiều mùa hè chiếu qua mặt tôi. Hàng ngàn con ve đang kêu inh ỏi như tiếng lên dây cót của chiếc đồng hồ. Có cả mùi đất màu mỡ.

Tôi ra khỏi xe limousine, duỗi chân duỗi tay và thở một hơi sâu. Tôi cầu sao giấc mơ khi nãy không tượng trưng một điều gì đó.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,372
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 12: PHẦN 4: Nơi vũ trụ loài sâu


Có những giấc mơ tượng trưng – những giấc mơ tượng trưng hóa một hiện thực nào đó. Và rồi có những hiện thực tượng trưng – những hiện thực tượng trưng hóa một giấc mơ. Biểu tượng là cách người ta có thể gọi những thành viên danh dự hội đồng thị trấn trong vũ trụ của loài sâu. Trong vũ trụ của loài sâu, không gì bất thường khi một con bò sữa đi tìm một chiếc kìm. Một con bò chắc chắn sẽ tìm được chiếc kìm vào một lúc nào đó. Chuyện ấy không liên quan gì tới tôi.

Tuy thế, việc con bò chọn tôi để lấy chiếc kìm làm thay đổi mọi thứ. Điều này đẩy tôi vào cả một vũ trụ của những điều cân nhắc khác nhau. Và trong cái vũ trụ của những cân nhắc khác nhau này, vấn đề chủ yếu là mọi thứ trở nên kéo dài lê thê và phức tạp. Tôi hỏi bò, "Tại sao mày muốn kìm?" Và bò trả lời, "Tôi rất đói." Vậy là tôi hỏi, "Tại sao mày muốn kìm nếu như mày đói?" Bò trả lời, "Để gắn kìm vào cành đào." Tôi hỏi, "Tại sao lại là cây đào?" Đến đó bò trả lời, "Xem nào, đó là lý do tại sao tôi đổi chiếc quạt, đúng không ngài?" Vân vân và vân vân. Sự việc không bao giờ được giải quyết, tôi bắt đầu oán giận bò, và con bò bắt đầu oán giận tôi. Đó là thế giới quan của loài sâu. Cách duy nhất để thoát ra khỏi vũ trụ của loài sâu là mơ một giấc mơ tượng trưng khác.

Nơi mà cái xe bốn bánh khổng lồ chở tôi đến vào buổi chiều tháng Chín ấy chắc chắn là tâm điểm vũ trụ của loài sâu. Nói cách khác, lời cầu nguyện của tôi đã bị chối từ.

Tôi nhìn quanh và nín thở. Đây là thứ đáng làm ta kinh ngạc.

Chiếc xe limousine đỗ trên một ngọn đồi cao. Đằng sau chúng tôi là con đường rải sỏi mà chúng tôi vừa đi lên, dần nhập vào một con đường đẹp như tranh đầy những khúc lượn quanh co tới cổng trước ở đằng xa. Có lẽ sẽ phải mất mười lăm phút đi bộ lận, nếu đi thong thả. Dọc theo hai bên đường là cây tuyết tùng và những ngọn đèn hơi thủy ngân, đứng xếp hàng cách nhau đều đặn như những ống đựng bút chì. Bám chặt vào từng thân cây là vô vàn những con ve sầu đang gào lên thảm thiết, như thể ngày tận thế đang tới gần.

Mỗi hàng tuyết tùng nằm ven thảm cỏ đều được xén tỉa gọn ghẽ, trải xuống thành bờ dốc điểm những bụi tú quyên và tú cầu cùng những loài cây cỏ khác ngoài khả năng nhận biết của tôi. Một bầy chim sáo nhào tới, cả một đàn, liệng qua liệng lại trên cỏ, giống như một đụn cát di chuyển không mục đích.

Bậc thang bằng đá dẫn xuống hai bên đồi: các bậc bên trái dẫn đến một khu vườn Nhật Bản với đèn lồng đá và một cái ao, các bậc bên phải dẫn đến một sân gôn nhỏ. Bên rìa sân gôn là một vọng lâu có màu nho sẫm, và ngang đó đứng sừng sững một pho tượng Hy Lạp cổ bằng đá. Bên cạnh là ga ra khổng lồ nơi một người lái xe khác đang rửa một chiếc limo khác. Tôi không thể nhận ra chiếc xe hiệu gì, nhưng nó không phải là một chiếc Volkswagen cũ.

Tôi khoanh tay nhìn quanh mình lần nữa. Một khung cảnh vườn tược không chê vào đâu được, chắc chắn rồi, nhưng ôi chao, một cảnh ấn tượng thế nào cơ chứ.

"Thế hộp thư ở đâu hả bác?" tôi hỏi không ăn nhập vào đâu. Ý tôi là ai đó phải đi lấy báo mỗi sáng mỗi tối chứ.

"Hộp thư ở cạnh cổng sau," người lái xe nói. Một khám phá đột ngột. Tất nhiên phải có cổng sau rồi.

Sau khi xem xét đất đai vườn tược xong xuôi, tôi quay ra đối diện với con đường và thấy mình đối diện với một công trình kiến trúc đồ sộ, cao ngất ngưởng.

Đó là – biết phải nói thế nào nhỉ – một tòa nhà cô độc một cách đau đớn. Hãy để tôi giải thích. Ví dụ chúng ta có một khái niệm. Khỏi phải nói, sẽ có đôi chút ngoại lệ cho cái khái niệm đó. Vậy là, cùng với thời gian những ngoại lệ này sẽ lan ra như những vết bẩn cho tới khi cuối cùng chúng tạo nên một khái niệm riêng biệt. Từ đó lại mọc lên những ngoại lệ khác. Nó là loại tòa nhà kiểu ấy, một công trình cổ nào đó được phát triển một cách mù quáng, đến một kết cục mà không ai biết sẽ thế nào.

Ở hiện thân đầu tiên, có vẻ như nó từng là một trang viên theo kiểu phương Tây ở thời Minh Trị. Chiếc cổng có trần cao dẫn vào một ngôi nhà hai tầng màu kem. Cửa sổ cao, khung kính trượt theo phong cách thật sự cổ, sơn được quét đi quét lại không biết bao lần. Mái nhà, như bạn đã đoán được, lợp bằng ván lợp đồng, và máng xối vững chắc như hệ thống cầu máng thời La Mã. Một ngôi nhà đẹp, toát ra vẻ duyên dáng cổ kính.

Nhưng rồi một tay kiến trúc sư thích đùa nào đó xuất hiện để gắn một chái nhà khác có cùng phong cách và nguyên tắc phối màu vào bên phải của công trình kiến trúc ban đầu. Ý đồ không tồi, nhưng hiệu quả thì không thể chấp nhận được. Giống như dọn món nước quả đóng đá và súp lơ xanh trên cùng một chiếc đĩa bạc.

Sự kết hợp bất hạnh này được giữ nguyên trong vài thập kỷ cho tới khi ai đó lại xây thêm một tòa tháp bằng đá vào một bên. Tại đỉnh tháp gắn một cột thu lôi có tính chất trang trí. Một sai lầm. Sét như được sắp đặt để đánh cháy rụi cả căn nhà.

Giờ là một lối đi có mái vòm uy nghiêm che phủ nối thẳng tòa tháp tới một chái nhà khác. Chái nhà này lại là một thực thể cách biệt, mặc dù ít ra nó hoàn tất một chủ đề thống nhất. Chúng ta hãy tạm gọi chủ đề ấy là "sự chống đối lẫn nhau của các ý thức hệ". Nó chứng tỏ một cảm hứng chủ đạo nhất định, giống như con lừa khi đặt giữa hai thùng cỏ khô giống hệt nhau sẽ chết đói trong khi cố quyết định xem ăn thùng nào trước.

Bên trái của công trình kiến trúc ban đầu, không kém phần đối chọi đối với các yếu tố đã tồn tại trước đó, một tòa biệt thự một tầng kiểu Nhật truyền thống chạy dài. Các dãy hành lang tuyệt đẹp chạy thẳng như đường chơi bowling, bao quanh là bờ giậu và hàng thông được chăm sóc kỹ càng.

Cái mớ hỗn độn ba-phong-cách-có-dư này đậu chênh vênh trên đỉnh đồi không phải là một cảnh tượng thường gặp. Giả sử đây là một kế hoạch vĩ đại của ai đó được xây dựng trong nhiều năm để cố rũ bỏ trạng thái sững sờ hoặc để xua đuổi cơn buồn ngủ, thì nó là một thành công đáng khâm phục. Không cần phải nói, ấy là một giả thuyết khó xảy ra. Cái vật quái dị này là đại diện cho tiền, hàng núi tiền, theo đó là một danh sách dài những tài năng hạng hai từ thời này sang thời khác đã lợi dụng cơ hội để kiếm lời.

Chắc hẳn tôi đã nhìn chằm chằm vào cái ảo ảnh này một lúc lâu trước khi nhận ra người lái xe đứng cạnh đang nhìn đồng hồ. Trông bác ta có vẻ quen với tư thế ấy. Có lẽ bác ta đã quen đứng ở cùng vị trí đó với bất kỳ ai bác ta lái xe đến đây. Tất cả bọn họ hẳn đã trố mắt nhìn khung cảnh xung quanh theo cùng một cách.

"Xin cậu cứ ngắm cho thỏa thích. Cậu còn thời gian mà," bác ta nói. "Chúng ta còn tám phút nữa."

"Khu này lớn quá," tôi không muốn nói thêm gì không thích hợp.

"Gần ba héc ta đấy ạ," người lái xe nói.

"Tôi sẽ chẳng ngạc nhiên nếu các vị có cả một ngọn núi lửa đang hoạt động trong đó," tôi cười, cố làm mọi thứ trở nên nhẹ nhõm hơn. Nhưng câu nói đùa không được hưởng ứng. Không ai đùa ở đây.

Thế là tám phút trôi qua.

Tôi được dẫn qua lối vào tới một căn phòng lớn theo phong cách phương Tây ngay bên phải. Trần nhà cao khác thường, được viền quanh bởi những đường gờ chạm trổ tinh xảo. Có một bộ xô pha cổ đẹp đẽ và một bàn uống trà; trên tường là một bức tranh tĩnh vật theo trường phái hiện thực. Táo, một cái bình và một con dao. Có lẽ ý tưởng là dùng chiếc bình đập đống táo, rồi sau đó dùng dao gọt táo. Hạt và lõi táo có thể bỏ vào bình.

Bên cửa sổ là những tấm rèm dày chồng một lớp đăng ten, được vén qua một bên bằng dây buộc rèm cùng chất liệu. Qua khoảng trống giữa các tấm rèm, người ta có thể nhìn thấy một phần tương đối tĩnh lặng của khu vườn. Sàn nhà gỗ sồi đánh bóng láng. Một tấm thảm lông dày tuyết dù màu đã nhạt phủ một nửa sàn nhà.

Một căn phòng không đến nỗi nào. Một căn phòng hoàn toàn không đến nỗi nào.

Một bà phục vụ đứng tuổi mặc kimono bước vào phòng, đặt xuống một ly nước nho, rồi rời phòng không nói một lời. Cánh cửa ra vào đóng lại với một tiếng cách. Rồi mọi thứ lặng yên như tờ.

Trên bàn uống trà là một hộp đựng thuốc lá bằng bạc, bật lửa và gạt tàn giống hệt như những thứ trong xe limousine. Được trạm biểu tượng cừu giống nhau. Tôi lôi trong túi quần ra một điếu đầu lọc, châm thuốc bằng chiếc bật lửa bạc, và phả một làn khói lên trần nhà cao vút. Rồi tôi nhấp một ngụm nước nho.

Mười phút sau, cánh cửa mở ra và một người đàn ông cao ráo mặc lê đen bước vào. Người đàn ông không nói "Xin chào" hay "Xin lỗi đã để ngài phải đợi." Tôi cũng không nói gì. Ông ta kéo ghế ngồi đối diện tôi, hơi nghiêng đầu, và nhìn tôi.

Thời gian đang thật sự trôi qua.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,372
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 13: PHẦN 5 - NHỮNG LÁ THƯ CỦA CHUỘT VÀ CÁC KỶ NIỆM TẠP NHAM: Lá thư thứ nhất của chuột


(Đóng Dấu Bưu Điện Ngày 21 Tháng Mười Hai, Một Năm Trước)

Sao, mọi thứ như thế nào?

Có vẻ như đã quá lâu rồi tớ không gặp cậu. Đã bao nhiêu năm rồi nhỉ? Đó là vào năm nào vậy?

Tớ nghĩ tớ đã dần dần mất đi cảm giác về thời gian. Giống như có một con chim đen dẹt không hề tồn tại đang đập cánh trên đầu tớ và tớ không thể đếm quá ba. Cậu phải thứ lỗi cho tớ, nhưng sao cậu không đếm đi?

Tớ bỏ thị trấn đi mà không nói với ai và có lẽ cậu phải chịu rắc rối vì điều đó. Hay có lẽ cậu giận tớ đã bỏ đi mà không nói một lời nào với cậu. Cậu biết đấy, tớ muốn thẳng thắn với cậu nhiều lần, nhưng tớ đã không thể. Tớ đã viết nhiều thư và xé hết. Điều đó lẽ ra hiển nhiên, nhưng tớ không cách nào có thể giải thích cho người khác điều mà tớ thậm chí đã không thể giải thích cho chính mình.

Tớ đoán vậy.

o O o

Tớ chưa bao giờ giỏi khoản viết thư. Mọi thứ tớ viết ra cứ đảo ngược hết cả. Tớ toàn dùng từ sai. Cứ như thế chưa đủ tệ, viết thư còn làm tớ thêm lộn xộn. Và vì tớ không có óc hài hước, tớ nản lòng với chính mình.

Thường thì những người giỏi viết thư không có nhu cầu viết thư. Họ có vô khối thứ để sống trong hoàn cảnh của họ. Đây, chỉ là ý kiến riêng của tớ, tất nhiên. Cũng có thể ta không thể sống trong hoàn cảnh được.

Lúc này trời lạnh khủng khiếp và tay tớ tê cóng. Cứ như thể không còn là tay của tớ nữa. Đầu óc tớ chúng cũng không còn là đầu óc tớ nữa rồi. Giờ đây tuyết đang rơi. Tuyết giống như những mảnh đầu óc của ai đó. Và nó sẽ chất đống giống như đầu óc của ai đó. (Mà tớ đang nói cái thứ chết tiệt gì ấy nhỉ?)

Dù vậy, ngoài việc trời lạnh ra, tớ vẫn ổn. Cậu thì sao? Tớ sẽ không cho cậu biết địa chỉ của tớ, nhưng đừng giận tớ làm gì. Không phải tớ đang cố giấu cậu điều gì. Tớ muốn cậu biết điều đó. Điều này, cậu biết đấy, là một vấn đề tế nhị đối với tớ. Chỉ là cái cảm giác tớ đang có này, rằng nếu tớ cho cậu biết địa chỉ, ngay lúc ấy một điều gì đó trong tớ sẽ thay đổi. Tớ không biết diễn đạt điều đó như thế nào.

Dù sao thì, dường như với tớ cậu luôn hiểu rất rõ những điều tớ không thể nói rõ. Điều rắc rối là tớ rốt cuộc trở nên càng tệ hơn cái khoản diễn đạt mọi thứ rõ ràng. Chắc là một tật bẩm sinh.

Đương nhiên ai mà chẳng có tật.

Tật lớn nhất của tớ là mỗi năm những cái tật bẩm sinh của tớ cứ ngày càng lớn hơn. Cứ như tớ đang nuôi gà bên trong mình vậy. Gà đẻ trứng và trứng nở thành gà khác, gà khác lại đẻ trứng. Đây có phải là cách để sống một cuộc đời không? Sống mà phải chịu tất cả những cái tật này ư, tớ phải tự hỏi thế. Đương nhiên, tớ vẫn tồn tại. Nhưng rốt cuộc thì, đó không phải là vấn đề đúng vậy không?

Bất kể thế nào, tớ đã quyết định sẽ không cho cậu biết địa chỉ. Tớ chắc chắn như vậy sẽ tốt hơn. Cho cả tớ và cậu.

Có lẽ chúng ta sẽ khá hơn nếu sinh ra ở Nga vào thế kỷ mười chín. Tớ đã có thể là một chàng Hoàng tử nào đó và cậu là một tay Bá tước nào đó. Chúng mình sẽ đi săn cùng nhau, tranh luận, là tình địch của nhau, than phiền về những thứ siêu hình, vừa uống bia vừa ngắm hoàng hôn trên Biển Đen. Trong những năm tháng về sau của chúng mình, hai đứa dính líu vào cuộc Nổi loạn nào đó và bị đày đi Siberia rồi chết ở đó. Tuyệt vời, cậu có nghĩ vậy không? Tớ ấy à, nếu tớ sinh ra vào thế kỷ mười chín, chắc chắn là tớ đã có thể viết nên những cuốn tiểu thuyết hay hơn. Có thể không phải cỡ Dostoyevsky của cậu, nhưng là một tiểu thuyết gia hạng hai có tiếng. Và cậu sẽ làm gì nhỉ? Có lẽ cậu sẽ chỉ là một tay Bá tước nào đó từ đầu đến cuối. Như vậy cũng không tồi, chỉ là Bá tước nào đó. Như vậy cũng tốt và như vậy mới là thế kỷ mười chín.

Nhưng thôi, vậy là đủ rồi. Trở lại thế kỷ hai mươi thôi.

Để tớ kể cậu nghe về những thị trấn tớ đã từng qua.

Không phải thị trấn nơi tớ sinh ra mà là những thị trấn khác nhau.

Thật sự có rất nhiều thị trấn khác nhau trên thế gian này. Mỗi thị trấn có những nét riêng, những điều không thể hiểu được đã thu hút tớ. Đó là lý do tại sao tớ đã qua khá nhiều thị trấn mấy năm vừa qua.

Bất cứ nơi nào tớ đến, tớ xuống xe, và có một bùng binh nhỏ nơi người ta treo bản đồ thị trấn và một dãy phố toàn cửa hiệu. Cái đó ở đâu cũng thế. Ngay cả lũ chó trông cũng giống nhau. Việc đầu tiên tớ làm là đảo một vòng qua nơi đó trước khi tới chỗ người kinh doanh nhà đất để tìm chỗ trọ rẻ tiền. Tất nhiên tớ là người ngoài và không ai trong cái thị trấn nhỏ ấy tin tưởng tớ ngay lập tức, nhưng cậu biết đó, tớ có thể đủ tử tế nếu tớ để nửa tâm trí vào đó. Cho tớ mười lăm phút là tớ nói chung có thể gây thiện cảm với hầu hết mọi người. Xong việc đó rồi, tớ tìm ra nơi nào tớ có thể hòa nhập và thu thập đủ kiểu thông tin về thị trấn.

Kế tiếp, tớ đi kiếm việc. Điều này cũng bắt đầu bằng việc tạo quan hệ tốt với nhiều người khác nhau. Tớ chắc là điều này đã có thể là một thất bại đối với một ai đó như cậu (và tin tớ đi, tớ đã thấy đủ thất bại cho cả đời rồi) vì cậu biết dẫu sao cậu cũng chỉ nấn ná ở đó có bốn tháng thôi. Nhưng lập quan hệ tốt với mọi người đâu có khó khăn gì. Cậu tìm một quán rượu địa phương nơi tụi choai choai tụ tập (thị trấn nào cũng có một chốn như thế – nó giống như cái rốn của thị trấn vậy), cậu trở thành khách quen, gặp gỡ mọi người, được giới thiệu ột việc nào đó. Tất nhiên, cậu nghĩ ra một cái tên thích hợp và một câu chuyện đời nào đó. Vậy là đến giờ tớ có một lô tên và chuyện đời mà cậu không tin nổi đâu. Đôi khi tớ quên mất ban đầu mình là người như thế nào.

Về khoản công việc, tớ đã làm đủ thứ nghề. Hầu hết là nhàm chán, nhưng tớ vẫn ham thích công việc đó. Thường là việc ở trạm xăng. Kế tiếp là trông coi một quán bar tồi tàn nào đó. Tớ đã từng trông coi hiệu sách, thậm chí làm việc tại một đài phát thanh. Tớ đã được thuê làm công nhật. Đã từng là người bán mỹ phẩm. Nói cho cậu biết nhé, tớ khá có tiếng với tư cách là người bán mỹ phẩm đấy. Và tớ đã ngủ với khối đàn bà. Ngủ với đàn bà mỗi lần với một cái tên và chuyện đời khác nhau cũng không đến nỗi quá tệ.

Cậu thấy được toàn cảnh chứ, với tất cả những biến dạng của nó.

Vậy là giờ đây tớ hai mươi chín tuổi, chín tháng nữa là tròn ba mươi.

Tớ vẫn không biết mình có phù hợp với cái kiểu sống này không. Tớ không biết mong muốn làm một kẻ lang bạt có phải là điều phổ biến hay không. Nhưng như một ai đó từng viết ở đâu đó, người ta cần một trong ba thứ cho cuộc sống lang thang lâu dài – khí chất tôn giáo, hoặc khí chất nghệ sĩ, hoặc khí chất siêu linh. Nếu người ta có một thứ nhưng có in ít thôi thì không thể làm kẻ lang bạt lâu dài được. Về phần mình, tớ không thấy mình có bất cứ khí chất nào trong số đó. Trong trường hợp cần thiết, tớ có thể nói... thôi, tốt hơn hết là không lang bạt nữa.

Mặt khác, rốt cuộc một ngày nào đó tớ có thể sẽ mở nhầm cánh cửa, chỉ để nhận thấy tớ không thể rút lui. Dù thế nào đi nữa, nếu cánh cửa đã mở, tớ nên gắng mà thành công. Ý tớ là tớ không thể cứ mãi than phiền suốt quãng đời còn lại của mình, đúng không?

Đầu đuôi câu chuyện là như thế đấy.

Như tớ nói lúc đầu (có đúng là tớ đã nói thế không nhỉ?), khi tớ nghĩ đến cậu, tớ cảm thấy đôi chút bứt rứt. Bởi vì cậu gợi cho tớ nhớ đến thời tớ còn là một gã trai tương đối bình thường.

Bạn cậu,

Chuột

T.B: Tớ gửi kèm một cuốn tiểu thuyết tớ viết. Nó không còn ý nghĩa gì với tớ nữa, vậy nên cậu làm gì với nó thì tùy. Tớ gửi chuyển phát đặc biệt để chắc chắn cậu nhận được nó trước ngày hai mươi tư tháng Mười hai. Hy vọng nó đến nơi đúng ngày.

Dù sao đi nữa, chúc mừng sinh nhật nhé.

Và tiện đây, chúc cậu Giáng sinh vui vẻ.

Gói bưu phẩm của Chuột được nhét nhàu nát vào hòm thư căn hộ tôi vào ngày 29 tháng Mười hai. Đính kèm là một tấm giấy gửi chuyển tiếp. Nó đã được gửi đến địa chỉ trước của tôi. Không có cách nào để báo cho hắn biết tôi đã chuyển đi.

Bốn trang giấy viết thư màu nâu nhạt đầy kín những chữ. Tôi đọc kỹ lá thư ba lần trước khi mang chiếc phong bì ra để kiểm tra dấu bưu điện đã mờ. Đó là một nơi tôi chưa bao giờ nghe đến. Tôi lấy tập bản đồ từ trên giá sách xuống tra tìm nơi đó.

Lời của Chuột đã đến với tôi từ một thị trấn nhỏ trên mũi phía Bắc Honshu, nằm chính giữa tỉnh Aomori. Theo cuốn bảng giờ tàu của tôi, chỗ ấy cách thành phố Aomori khoảng một tiếng đi tàu. Năm chuyến tàu dừng ở đó mỗi ngày, hai chuyến sáng, một chuyến trưa, hai chuyến tối.

Tôi đã tới Aomori vài lần vào tháng Mười hai. Lạnh. Tín hiệu giao thông đóng băng.

Tôi đưa lá thư cho vợ tôi, đúng hơn là vợ tôi vào thời điểm đó, xem. Tất cả những gì cô ta có thể nói là "tội nghiệp anh ấy". Những gì cô ta thật sự muốn nói là tội nghiệp các anh. Rõ khỉ, giờ thì điều đó cũng không còn quan trọng nữa.

Tôi quẳng cuốn tiểu thuyết, khoảng hai trăm trang, vào ngăn kéo bàn mà không thèm đọc đầu đề. Tôi không biết tại sao, chỉ là tôi không thấy muốn đọc nó. Lá thư là đủ.

Tôi kéo ghế ra trước lò sưởi và hút ba điếu thuốc.

Lá thư tiếp theo của Chuột đến vào tháng Năm năm sau.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,372
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 14: PHẦN 5: Lá thư thứ hai của chuột


(Đóng Dấu Bưu Điện Tháng Năm, Năm Nay)

Thư trước chắc có lẽ tớ đã hơi dong dài một chút. Dù vậy, tớ quên hết những gì mình nói rồi.

Tớ lại đổi địa chỉ. Một chỗ khác hẳn với bất cứ chỗ nào tớ đã từng qua tính đến nay. Ở đây thật sự yên tĩnh. Có lẽ là hơi quá yên tĩnh.

Theo một nghĩa nào đó, tớ đã tới một nơi tớ có thể coi là điểm đến cuối cùng. Tớ cảm thấy như tớ đã đến được nơi số phận sắp đặt mình phải đến. Hơn nữa, tớ cảm thấy tớ đã bơi ngược dòng để đến được đây. Nhưng đó không phải chuyện tớ có thể phán xét.

Viết lách mới tệ làm sao! Nó thật mơ hồ đến mức có lẽ cậu chẳng hiểu tớ đang nói cái gì. Hoặc có lẽ cậu nghĩ tớ đang gắn quá nhiều ý nghĩa vào số phận của mình. Nếu đúng như vậy, tớ là người đáng chịu mọi trách nhiệm.

Tớ muốn cậu biết là tớ càng cố giải thích với cậu những gì đang diễn ra trong đầu mình, tớ lại càng bắt đầu đi lạc đề như thế này. Tuy nhiên, tớ vẫn ổn, có lẽ ổn nhất từ trước đến giờ.

Hãy để tớ viết cụ thể mọi thứ.

Quanh đây, như tớ đã nói trước, thật yên tĩnh khủng khiếp. Không có gì để làm ở đây, vì thế tớ đọc sách (tớ có đủ sách ở đây để có thể đọc trong một thập kỷ) hoặc nghe nhạc FM hoặc nghe đĩa (cũng có cả một lô đĩa ở đây). Đã mười năm rồi tớ không nghe nhiều nhạc đến thế. Điều làm tớ ngạc nhiên là, The Rolling Stones và Beach Boys vẫn còn sung lắm. Thời gian thật sự là một tấm vải lớn dài vô tận, phải không? Chúng ta quen cắt từng mảnh thời gian để vừa với mình, vì thế chúng ta thường tự đánh lừa mình rằng thời gian vừa khớp với mình, nhưng thật ra nó kéo dài mãi.

Ở đây, không có gì vừa với tớ cả. Không có ai ở đây tự biến mình thành thước đo mọi thứ, ca ngợi hay lên án người khác vì kích cỡ của họ.

Thời gian cũng cứ thế trôi như một dòng sông trong vắt. Thỉnh thoảng, chỉ cần ở đây thôi tớ cũng cảm thấy mình không một chút ràng buộc, và tớ lại trở về với trạng thái nguyên thủy của mình. Chẳng hạn như, nếu tớ trông thấy bóng một chiếc ô tô, tớ phải mất đến mấy giây để nhận ra đó là một chiếc ô tô. Đương nhiên, tớ phải sở hữu một loại nhận thức cơ bản rằng đó là một chiếc ô tô, nhưng nó không thật sự nhập vào ý thức tức thời của tớ. Gần đây những trường hợp như thế xảy đến với tớ ngày một nhiều hơn. Có lẽ đó là vì đã lâu rồi tớ sống một mình.

Thị trấn gần nhất mất khoảng một tiếng rưỡi đi xe. Không, nó thậm chí không phải là một thị trấn nữa. Hãy tưởng tượng một thị trấn nhỏ nhất, rồi rút xuống chỉ còn cái khung thôi. Tớ ngờ là cậu không thể hình dung ra cảnh đó. Tớ đoán là người ta dù sao vẫn phải gọi nó là một thị trấn. Mình có thể mua quần áo, thực phẩm, xăng dầu. Và nếu mình có nhu cầu trông thấy loài người thì nhu cầu ấy sẽ được đáp ứng ở đó.

Suốt cả mùa đông, đường sá đóng băng và hầu như không xe cộ nào có thể chạy qua đây. Những chỗ không là đường thì ẩm ướt, vì thế mặt đất đóng băng như nước quả đóng đá. Khi có tuyết rơi, không thể nói được đâu là đường đâu không là đường. Đó là một khung cảnh có thể coi là tận cùng thế giới.

Tớ đến đây vào đầu tháng Ba. Lái xe qua lúc thời tiết và đường sá tệ nhất, xích buộc quanh lốp xe jeep. Cứ như bị đi đày đến Siberia. Nhưng giờ là tháng Năm và tuyết đã tan hết. Kể từ tháng Tư trở đi, núi non rung chuyển vì tuyết lở. Cậu đã bao giờ nghe thấy tuyết lở chưa? Ngay sau khi tuyết lở là khoảng yên lặng hoàn hảo nhất. Một sự yên lặng trọn vẹn, hoàn toàn. Người ta hầu như mất đi cảm giác mình đang ở đâu. Yên lặng đến mức đó.

Bị cô lập trong núi non ngần ấy thời gian, tớ không hề ngủ với một mống đàn bà nào trong ba tháng qua. Thực ra điều này không hề tệ chút nào. Tương tự, nếu tớ cứ ở vậy như thế lâu hơn nữa, tớ biết mình sẽ không còn quan tâm đến mọi người nữa, đó không phải là điều tớ muốn. Vì vậy tớ đang nghĩ là khi thời tiết ấm hơn chút tớ sẽ đi loanh quanh tìm ình một người đàn bà. Tớ không muốn khoe khoang đâu, nhưng tìm đàn bà chưa bao giờ là chuyện khó đối với tớ. Chừng nào tớ không quan tâm – và việc ở đây là bằng chứng sống rằng tớ không quan tâm – thì khả năng hấp dẫn giới tính thật dễ dàng, không thành vấn đề. Đối với tớ tán tỉnh đàn bà không có gì là khó. Vấn đề là, tớ không thấy thoải mái với cái khả năng này của mình. Nghĩa là, khi sự việc đạt đến một mức nào đó, tớ không còn biết được khi nào bản thân mình dừng lại và khi nào khả năng hấp dẫn giới tính của mình bắt đầu. Giống như khi nào Olivier[1] ngừng lại và Othello bắt đầu? Vậy nên giữa chừng khi tớ thấy mình không thu được gì từ công sức tớ bỏ ra, tớ tung hê tất cả. Điều này gây rắc rối ọi bên liên quan. Cả cuộc đời tớ cho đến lúc này không là gì ngoài sự lặp lại liên tục điều này.

Nhưng lần này tớ cảm thấy may mắn (thật vậy đó) là tớ không có gì để vứt bỏ cả. Một cảm giác tuyệt vời. Thứ duy nhất tớ có thể vứt bỏ là chính bản thân mình. Vứt bỏ chính bản thân mình không phải là một ý tồi. Không, thế thì nghe chừng có vẻ lâm ly thống thiết quá. Dẫu sao thì bản thân ý tưởng đó không hề lâm ly thống thiết chút nào. Tớ không cảm thấy thương hại chính mình. Chỉ là nghe có vẻ như vậy khi tớ viết ra.

Than vãn và rên rỉ.

Tớ đang kể lể về cái quái gì ấy nhỉ?

Đàn bà, đúng rồi.

Mỗi một người đàn bà đều có một ngăn kéo đánh dấu "đẹp", chất đủ loại đồ tạp nhạp vô nghĩa. Đó là chuyên môn của tớ. Tớ lôi từng mảnh đồ tạp nhạp ấy ra, phủi sạch bụi, và tìm một ý nghĩa nào đó cho chúng. Tớ nghĩ đó chính là khả năng hấp dẫn giới tính. Nhưng như vậy thì đã sao nào? Để làm gì cơ chứ? Muốn làm vậy thì không có cách nào khác là phải sống khác với bản thân mình.

Vì vậy giờ đây tớ nghĩ về tình dục một cách thuần túy và đơn giản. Nếu tớ chỉ chú trọng đến tình dục mà thôi thì không cần phải đau khổ về việc liệu tớ có cảm thấy thương hại mình hay không.

Giống như uống bia bên bờ Biển Đen ấy.

Tớ vừa soát lại những gì mình đã viết. Đây đó có đôi chỗ không thống nhất, nhưng theo tiêu chuẩn của tớ thì khá thành thực. Càng thành thực hơn bởi vì nó thật nhàm chán.

Tớ thậm chí có vẻ như không viết là thư này cho cậu. Có lẽ hòm thư cũng xa xôi như ý nghĩ của tớ vậy. Nhưng đừng có giận tớ về việc đó. Mất một tiếng rưỡi đi xe jeep mới đến hòm thư gần nhất.

Từ đây trở đi, lá thư này được gửi cho cậu.

Tớ có hai việc muốn nhờ cậu. Không có việc nào là gấp cả, vì thế cậu có thể giải quyết chúng lúc nào cũng được. Tớ thật sự cám ơn cậu. Ba tháng trước đây tớ có lẽ đã không thể cho phép mình nhờ vả cậu bất cứ điều gì. Nhưng giờ thì tớ có thể. Vậy là tiến bộ rồi, tớ đoán vậy.

Việc đầu tiên là một lời đề nghị về mặt tình cảm. Có nghĩa là nó liên quan tới "quá khứ". Năm năm trước khi tớ bỏ thị trấn đi, tớ ra đi vội vã lộn xộn quá, tớ quên không nói lời từ biệt đến một số người. Cụ thể là, cậu và anh J và một người phụ nữ cậu không biết. Tớ cho là tớ có thể trực tiếp gặp cậu để nói lời từ biệt, nhưng với hai người kia tớ biết tớ sẽ không bao giờ có cơ hội. Vì thế nếu cậu có bao giờ trở lại nơi đó, cậu có thể tạm biệt họ hộ tớ được không.

Tớ biết đó là một lời đề nghị ích kỷ. Tớ nên tự mình viết thư cho họ. Nhưng nói thật nhé, tớ thà để cậu trở lại đó và thay mặt tớ thăm họ. Tớ biết là cảm xúc của mình sẽ được diễn tả rõ ràng hơn theo cách đó. Tớ gửi kèm theo đây địa chỉ và số điện thoại của cô ấy. Nếu cô ấy đã chuyển đi hoặc giờ đã lấy chồng, không sao cả, cậu không phải đến gặp cô ấy. Thôi cứ để mặc thế. Nhưng nếu cô ấy vẫn ở địa chỉ cũ, chuyển lời hỏi thăm của tớ đến cô ấy.

Và nhớ chuyển lời hỏi thăm của tớ đến anh J nữa nhé. Hãy uống một ly bia cho tớ.

Đó là một việc.

Việc thứ hai muốn nhờ cậu có lẽ hơi kỳ quặc một chút.

Tớ gửi kèm theo đây một bức ảnh. Một bức ảnh cừu. Tớ muốn cậu đặt nó ở một nơi nào đó, tớ không quan tâm nơi nào, miễn là một chỗ người ta có thể thấy nó. Tớ nhận thấy mình đề nghị cậu điều này khá đường đột, nhưng tớ không còn ai để mà nhờ. Tớ sẽ cho cậu hết đến từng gam hấp dẫn giới tính cuối cùng của tớ nếu cậu giúp tớ chuyện này. Tuy vậy, tớ không thể nói cho cậu lý do tại sao. Bức ảnh này quan trọng đối với tớ. Một lúc nào đó sau này, tớ sẽ giải thích mọi việc với cậu.

Tớ kèm theo một tấm séc. Hãy dùng nó cho bất kỳ khoản chi phí nào. Cậu không phải lo chuyện tiền nong. Tớ thậm chí còn thấy khó mà tiêu tiền ở đây, với lại dù sao thì lúc này chuyện đó nằm trong giới hạn những điều tớ có thể làm cho cậu.

Nhớ là đừng quên uống một ly bia cho tớ.

Bạn cậu,

Chuột

Tôi tìm thấy bức thư trong hộp thư khi rời căn hộ và đọc nó tại bàn làm việc ở văn phòng.

Dấu bưu điện bị xóa không đọc nổi. Tôi xé phong bì. Bên trong là một tấm séc một trăm ngàn yên, một mẩu giấy đề tên và địa chỉ của một người phụ nữ, và một bức ảnh đen trắng chụp cừu. Bức thư được viết trên giấy viết thư xanh lá cây nhạt cùng loại với lá thư trước và tấm séc được rút ra từ một ngân hàng ở Sapporo. Điều đó có nghĩa là Chuột đã tiến xa hơn về phía Bắc Hokkaido.

Đoạn thư nói về tuyết lở không khiến tôi để ý, nhưng như Chuột đã nói, bức thư cho tôi cảm giác đó là một bức thư thành thật. Ngoài ra, không ai lại gửi một tấm séc một trăm ngàn yên để đùa cả. Tôi mở ngăn kéo bàn rồi quẳng thư từ và mọi thứ vào.

Có thể vì cuộc hôn nhân của tôi lúc bấy giờ đang tan vỡ nên mùa xuân năm ấy không đem lại cho tôi niềm vui nào. Vợ tôi không về nhà đã bốn ngày rồi. Bàn chải đánh răng của cô ta bên chậu rửa đóng bánh và nứt như một mảnh hóa thạch. Sữa trong tủ lạnh bốc mùi chua, và con mèo lúc nào cũng đói. Mùa xuân rót thứ ánh nắng lờ mờ vào khung cảnh này. Ít ra là ánh mặt trời lúc nào cũng không mất tiền mua.

Một ngõ cụt kéo dài thăm thẳm – có lẽ đó chính là thứ mà cô ta muốn nói.

Chú thích

[1] Diễn viên, đạo diễn sân khấu người Anh, nổi tiếng với các vai diễn trong kịch Shakespears như Othello và Richard III.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,372
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 15: PHẦN 5: Bài hát đã chấm dứt


Tôi về quê vào tháng Sáu.

Tôi bịa ra lý do để xin nghỉ ba ngày và bắt chuyến tàu siêu tốc sớm thứ Ba. Áo thể thao ngắn tay màu trắng, quần cotton xanh lá cây đã sờn nơi đầu gối, giày thể thao trắng, không hành lý. Tôi thậm chí quên cả cạo râu sau khi thức dậy sáng hôm ấy. Đó là lần đầu tiên sau nhiều năm tôi đi giày thể thao và gót giày mòn vẹt do bị uốn cong. Tôi hẳn đã luôn đi lệch trọng tâm mà không hề hay biết.

Đi một chuyến tàu xa không mang theo hành lý cho tôi một cảm giác vui vẻ. Như thể trong khi đi tản bộ thư giãn, tôi bỗng nhiên như một chiếc máy bay ném bom bổ nhào bị mắc vào trạng thái sai lệch không gian-thời gian. Ở đó không có gì hết: không cuộc hẹn với nha sĩ, không vấn đề tồn đọng trong ngăn bàn, không quan hệ con người phức tạp không thể thoát ra, không yêu cầu nhờ vả. Tôi đã để thứ đó lại phía sau, một cách tạm thời. Tất cả những gì tôi có là giày thể thao với gót cao su vẹo vọ không ra hình thù gì. Chúng bám chặt vào chân tôi như những kỷ niệm mơ hồ của một không gian-thời gian khác. Nhưng điều đó hầu như không quan trọng. Một lon bia và bánh mì kẹp thịt xông khói khô như ngói có thể làm tôi gạt bất kỳ chuyện gì ra khỏi tâm trí.

Đã bốn năm rồi. Bốn năm trước, tôi về thăm nhà là để giải quyết giấy tờ liên quan đến hộ khẩu khi tôi kết hôn. Nghĩ lại mới thấy thật là một chuyến đi vô nghĩa! Dù ai khác có nghĩ thế nào thì tất cả chỉ là chuyện giấy tờ. Rốt cuộc cũng chỉ là thế mà thôi. Những gì là kết thúc với người này lại không phải đã chấm hết với người kia. Đơn giản vậy đấy. Sau đó, con đường lại rẽ làm hai nhánh khác nhau.

Từ điểm đó trở đi, tôi không còn quê hương nữa. Không có nơi đâu để trở về. Thật nhẹ cả người! Không ai muốn tôi, không ai muốn gì ở tôi.

Tôi làm một lon bia nữa và tranh thủ chợp mắt ba mươi phút. Khi tôi thức dậy, cái cảm giác nhẹ nhõm vô tư lúc đầu tan biến. Tàu vẫn chạy, và trong lúc đó, bầu trời trở nên xám xịt. Dưới bầu trời ấy trải dài một khung cảnh nhàm chán đơn điệu. Cho dù chúng ta có tăng tốc độ lên bao nhiêu, sự đơn điệu vẫn không trốn đi đâu được. Ngược lại, tốc độ càng tăng, càng tiến gần đến sự đơn điệu. Đó, bản chất của sự đơn điệu là thế đó.

Ngồi cạnh tôi là một tay doanh nhân trạc hai nhăm hai sáu tuổi, mê mải đọc báo, hầu như không động đậy trong ngần ấy thời gian. Com lê mùa hè màu xanh nước biển, không một vết nhăn. Áo sơ mi trắng hồ cứng, vừa lấy từ tiệm giặt là về. Giày đen bóng lộn.

Tôi ngước nhìn trần toa tàu và hút một điếu thuốc. Tôi nhẩm liệt kê trong đầu tất cả các bài hát của Beatles đã từng ghi âm. Đến bảy mươi ba tựa đề thì tôi không còn nghĩ thêm được gì nữa. Tôi tự hỏi liệu Paul McCartney có thể nhớ được bao nhiêu bài. Tôi nhìn chằm chằm ra ngoài khung cửa sổ một lúc, rồi lại nhìn lên trần toa tàu.

Tôi lại về đây, quê hương. Thời gian trôi đi nhanh quá. Đã một thập kỷ kể từ hồi tôi sống ở đây. Một khoảng trống to tướng. Tôi đã không rút ra được điều gì có giá trị từ đó, tôi đã không làm được điều gì có ý nghĩa. Hoàn toàn là một sự đơn điệu.

Mọi thứ trước đó thế nào? Chắc chắn là phải có một điều gì đó tích cực. Phải chăng đã có điều gì đó thật sự làm tôi cảm động, điều gì đó thật sự làm ai đó cảm động? Có lẽ là có, nhưng tất cả giờ đây đã không còn nữa. Đã biến mất, có lẽ trời sắp đặt cho biến mất. Tôi không thể làm gì được, đành phải để chuyện đó trôi đi.

Ít ra thì tôi vẫn còn đây. Nếu người da đỏ tốt bụng duy nhất đã chết, số phận tôi buộc tôi phải sống.

Để làm gì chứ?

Để kể chuyện ột bức tường đá ư?

Thật vậy, lúc này đây.

"Tại sao chú lại ở khách sạn?" J nhăn mặt hỏi khi đưa tôi bao diêm. "Chú có nhà ở đây cơ mà? Sao chú không ở đó?"

"Không còn là nhà của em nữa rồi," tôi nói.

J không nói gì về điều đó.

Trước mặt tôi bày ba đĩa đồ ăn nhẹ, tôi uống nửa vại bia của mình, rồi lôi bức thư của Chuột ra đưa cho J. Anh chùi tay lên một chiếc khăn, đọc qua hai lá thư thật nhanh trước khi cẩn thận đọc lại, từng từ một.

"Hừm, cái thằng ấy vẫn vui sống khỏe ra phết nhỉ?"

"Nó vẫn sống, thế thôi," tôi nói, làm một ngụm bia nữa. "Nhưng anh biết đấy, trước khi em làm bất cứ điều gì, em phải đi cạo râu đã. Anh cho em mượn con dao cạo và kem cạo râu được không?"

"Có đấy," J nói, mang ra một bộ dao cạo du lịch từ sau quầy. "Chú có thể dùng nhà vệ sinh, nhưng không có nước nóng đâu."

"Nước lạnh cũng được mà," tôi nói. "Chừng nào không có một cô say khướt nằm sóng soài trên sàn nhà. Như thế cạo râu cũng khó."

J"s Bar đã hoàn toàn thay đổi.

Quán bar cũ là một chốn ẩm ướt trong tầng hầm một tòa nhà cũ cạnh đường cao tốc. Vào những đêm mùa hè với máy điều hòa chạy suốt, một làn sương mỏng tích tụ lại. Sau một chầu say bí tỉ, thậm chí cả áo sơ mi cũng sẽ ẩm.

Tên thật của J là một từ tiếng Hoa đa âm tiếng không thể phát âm nổi. Cái tên lóng J được một vài gã lính Mỹ trên căn cứ gán cho khi anh làm việc ở đó sau chiến tranh. Người ta nhanh chóng quên béng tên thật của anh.

Năm 1954, J bỏ việc ở căn cứ quân sự mà mở một quán bar nhỏ. J"s Bar đầu tiên. Quán kinh doanh khá thành công. Phần lớn khách hàng đến từ trường sĩ quan không quân, và bầu không khí không đến nỗi nào. Sau khi mở quán, J lấy vợ, nhưng năm năm sau đó vợ anh qua đời. J không bao giờ nhắc đến nguyên nhân cái chết của vợ.

Năm 1963, khi Chiến tranh Việt Nam bắt đầu leo thang, J bán quán bar và chuyển đến thị trấn quê tôi. Ở đó anh mở J"s Bar thứ hai.

Anh nuôi một con mèo, hút một bao thuốc mỗi ngày, không bao giờ động đến một giọt rượu. Đó là tất cả những gì tôi biết về J.

Cho đến khi tôi gặp Chuột, tôi luôn đến J"s Bar một mình. Tôi uống từng hớp bia một cách chậm rãi, hút thuốc, và nhét xu vào chiếc máy hát tự động. Đây là lúc quán bar của J thường vắng khách, thế là tôi ngồi ở quầy nói đủ thứ chuyện với J, mặc dù chuyện gì thì tôi không nhớ chính xác. Liệu một thằng học sinh trung học mười bảy tuổi nhút nhát và một gã đàn ông Tàu góa vợ có thể nói với nhau chuyện gì?

Khi tôi mười tám tuổi và rời thị trấn, Chuột xuất hiện và thế chỗ của tôi ở quầy bar ngồi uống bia. Năm năm trước, khi Chuột rời thị trấn, không ai thế chỗ của hắn. Sáu tháng sau, khi người ta mở rộng đường, J lại phải đổi quán, và J"s Bar thứ hai chỉ còn là truyền thuyết.

J"s Bar thứ ba cách đó khoảng gần nửa cây số, cạnh bờ sông. Nó không lớn hơn chỗ cũ là mấy, nhưng nó nằm ở tầng ba một tòa nhà bốn tầng mới xây có cả thang máy. Đi thang máy lên J"s Bar khiến tôi có cảm giác mình bị lộn địa chỉ. Cũng giống như lúc ngồi quầy bar mà chiêm ngưỡng những thị trấn lên đèn.

Quán mới này có cửa sổ lớn ở hướng Tây và Nam, trông ra dãy đồi và khu vực từng là biển. Cách đây vài năm bờ biển đã được san lấp, và cả một cây số rưỡi giờ đây đầy những nhà cao tầng trông như hàng bia mộ.

"Chỗ kia từng là nước," tôi nói.

"Đúng thế," J nói.

"Em từng đi bơi nhiều lần ở đó."

"Ừ," J nói, đoạn đưa một chiếc bật lửa không nhãn hiệu châm điếu thuốc trên môi, "họ san phẳng dãy đồi để dựng nhà, chở đất ra san lấp biển và xây ở đó nữa. Thế là họ cứ nghĩ rằng như thế là ổn thỏa và đúng đắn."

Tôi uống bia của mình. Loa trên trần nhà đang phát một bản nhạc ăn khách mới nhất của Boz Scaggs. Tôi không thấy một máy hát tự động nào. Hầu hết khách hàng ở đây là các cặp sinh viên đại học, ăn mặc chỉnh tề và lịch sự uống whisky pha soda. Không cô nào sắp sửa say đến mức bất tỉnh không biết đến trời đất gì, không có các cuộc ẩu đả kịch liệt sắp nổ ra. Người ta có thể đoán được là khi về nhà họ sẽ mặc quần áo ngủ, đánh răng, lên thẳng giường. Điều đó không có gì là sai. Dễ chịu và chỉnh tề thì tuyệt thôi. Không có gì trong quán bar hay trong thế giới rộng lớn kia nói là mọi thứ phải theo một quy cách nhất định.

J không rời mắt khỏi tôi trong suốt quãng thời gian ấy.

"Vậy là, mọi thứ khác đi và chú cảm thấy lạc lõng?"

"Không hẳn vậy," tôi nói. "Chỉ là sự hỗn loạn đã thay đổi hình dạng. Hươu cao cổ và gấu đổi mũ cho nhau, và gấu đổi khăn cho ngựa vằn."

"Vẫn như ngày nào," J cười.

"Thời thế đã thay đổi," tôi nói. "Nhiều thứ đã thay đổi. Nhưng điều quan trọng là, vậy cũng tốt. Mọi người đều đổi chỗ. Không phàn nàn."

J không nói gì.

Tôi làm một cốc bia nữa, J hút một điếu thuốc nữa.

"Cuộc sống của chú ra sao rồi?" J hỏi.

"Không đến nỗi nào."

"Vợ chú thế nào rồi?"

"Em thật sự không biết. Anh biết chuyện hai người thì như thế nào rồi đấy. Có những lúc em nghĩ mọi thứ đều ổn và có những lúc em không nghĩ vậy. Có lẽ đó mới thật sự là cuộc sống vợ chồng."

"Ồ có thể vậy lắm," J nói, lấy ngón tay út gãi gãi lên chóp mũi. "Anh quên mất cuộc sống vợ chồng là như thế nào. Đã lâu quá rồi."

"Con mèo thế nào rồi?"

"Chết bốn năm trước. Ngay sau khi chú lấy vợ. Bệnh đường ruột... Nhưng thật tình, nó đã hưởng một cuộc sống lâu dài dễ chịu. Sống mười hai năm. Lâu hơn cả quãng thời gian anh và vợ anh sống cùng nhau. Mười hai năm không phải là một cuộc sống nhỏ nhoi tồi tệ, phải vậy không?"

"Chắc là không rồi."

"Có một cái nghĩa trang dành cho thú vật trên đồi, thế là anh chôn nó ở đó. Trông ra mấy tòa nhà cao tầng. Quanh đây chỗ nào cũng chỉ thấy toàn nhà cao tầng thôi. Nói thế không phải điều đó có ý nghĩa gì đối với một con mèo."

"Anh buồn chứ?"

"Tất nhiên rồi. Nhưng không phải buồn nếu có người nào chết. Nghe có buồn cười không?"

Tôi lắc đầu.

J chuẩn bị pha một ly cocktail cầu kỳ nào đó và một đĩa xa lát kiểu Caesar cho khách hàng. Trong lúc ấy, tôi nghịch trò ghép hình kiểu Scandinavi trên quầy. Người ta phải ghép một bức tranh có ba con bướm bay trên cánh đồng cỏ ba lá, tất cả bên trong một chiếc hộp thủy tinh. Tôi bỏ dở sau mười phút và đặt trò chơi ghép hình sang một bên.

"Không con cái gì à?" J quay lại hỏi tôi. "Chú đang bước sang cái tuổi phù hợp để có con đấy, chú biết không."

"Em không muốn có con."

"Thế à?"

"Ý em là người như em thì biết làm gì nếu có con chứ."

J cười khùng khục và rót thêm bia vào ly của tôi. "Chú lúc nào cũng nghĩ xa."

"Không, không phải thế. Ý em là, em thật sự không biết đó có phải là việc nên làm không, sản sinh ra một cuộc sống mới. Tụi trẻ lớn lên, các thế hệ nối tiếp. Tất cả những thứ đó dẫn đến cái gì? Nhiều quả đồi sẽ bị san phẳng và nhiều bãi biển sẽ bị san lấp? Xe ô tô chạy nhanh hơn và nhiều mèo bị xe cán hơn? Ai cần đến thứ đó?"

"Đó là mặt trái của vấn đề. Những điều tốt đẹp cũng xảy ra đấy chứ, những người tốt có thể làm mọi thứ có ý nghĩa."

"Thế hả? Anh liệt kê ba điều xem nào," tôi nói.

J nghĩ một lúc, rồi cười. "Điều đó là để cho thế hệ con cháu quyết định, không phải chú. Thế hệ chú..."

"Đã qua và đã hết thời?"

"Theo một nghĩa nào đó," J nói.

"Bài hát đã chấm dứt. Nhưng giai điệu vẫn còn văng vẳng."

"Chú lúc nào cũng có cách diễn đạt mọi thứ rất riêng."

"Chỉ là làm màu thôi mà," tôi nói.

Lúc chín giờ, J"s Bar bắt đầu đông khách, vì thế tôi tạm biệt J rồi rời quán. Mặt tôi vẫn còn ngưa ngứa ở những chỗ tôi đã cạo râu bằng nước lạnh. Có thể vì tôi đã vã nước chanh pha vodka thay vì kem cạo râu. J nói là như thế cũng đạt kết quả tương tự, nhưng giờ đây cả mặt tôi bốc đầy mùi vodka.

Đêm ấm một cách bất ngờ, mặc dù bầu trời vẫn đầy mây u ám như thường. Một cơn gió ẩm ướt chậm rãi và dễ chịu thổi từ hướng Nam tới. Vẫn như ngày trước. Hương vị biển trộn lẫn với một chút mùi mưa. Côn trùng kêu râm ran từ những lùm cỏ dọc bờ sông. Mọi thứ đều ngập tràn nỗi niềm hoài cổ trì trệ. Dường như trời có thể mưa bất kỳ lúc nào. Và mưa thật, mưa đổ giọt rích rắc nhẹ đến nỗi người ta không thể biết được trời có mưa hay không, nhưng dù sao mình mẩy tôi vẫn ướt sũng.

Tôi hoàn toàn có thể nhìn ra con sông đang cuộn chảy trong làn ánh sáng trắng của ngọn đèn đường hơi thủy ngân. Nước trong như vẫn luôn vậy. Nước chảy thẳng từ trên đồi, không có gì làm nó ô nhiễm dọc đường đi. Dòng sông bị sỏi và những tảng đá nhỏ cuốn từ trên đồi xuống chặn nghẽn lại, tạo nên những dòng thác nhỏ đó đây. Dưới mỗi dòng thác hình thành một vũng sâu nơi những con cá nhỏ quần tụ.

Vào những khi khô hạn, cả dòng sông thường khô cạn thành lòng sông đầy cát, chỉ để lại một vệt trắng hơi ẩm ướt. Nhiều năm trước, khi đi dạo, tôi đi ngược dòng theo vệt đó, truy tìm nơi dòng sông đã qua.

Con đường dọc bên sông là một trong những thứ tôi yêu nhất. Tôi có thể đi bộ nhanh ngang vận tốc của dòng sông. Tôi có thể cảm thấy dòng sông thở. Dòng sông sống. Hơn hết thảy, đó là dòng sông chúng tôi phải mang ơn vì nó đã tạo nên thị trấn này. Vì đã bào mòn ngọn đồi trong không biết bao nhiêu trăm ngàn năm, vì đã chở đất, vì đã lấp biển, và khiến cây cối sinh sôi. Thị trấn thuộc về dòng sông từ ngay lúc ban đầu, và sẽ muôn thủa như vậy.

Vì lúc bấy giờ là mùa mưa, dòng sông không ngừng chảy ra biển. Cây cối trồng dọc bên bờ tỏa hương, đâm chồi nẩy lộc. Cả một màu xanh bao trùm khắp không gian. Từng đôi trai gái tay trong tay tản bộ, các cụ già dắt chó đi dạo, đám học sinh trung học tụ tập quanh xe máy hút thuốc. Một buổi tối đầu hè điển hình.

Tôi dừng ở một tiệm bán rượu, mua hai lon bia, đựng trong một túi giấy rồi đi ra biển. Nơi dòng sông hòa với biển nay trở thành một con lạch, hay đúng hơn là một kênh đào bị lấp một nửa. Đây là dải bờ biển duy nhất còn sót lại nguyên vẹn, khoảng bốn mươi lăm mét. Thậm chí còn có dấu hiệu của bãi biển ngày xưa. Từng đợt sóng nhỏ vỗ bờ để lại những mảnh gỗ trôi dạt trơn mượt. Trên đê chắn sóng bê tông, những mẫu đinh cũ và hình vẽ phun sơn vẫn còn.

Bốn mươi lăm mét bờ biển thật sự. Nếu người ta bỏ qua thực tế là nó bị bao quanh bởi bức tường bê tông cao hơn chín mét. Và bức tường ấy tiếp tục chạy thẳng mấy cây số nữa, ôm chặt lấy biển. Rồi các tòa nhà cao tầng đứng xếp hàng hai bên. Bốn mươi lăm mét bờ biển. Phần còn lại đã trở thành quá khứ.

Tôi rời dòng sông và đi bộ theo hướng Đông dọc theo nơi từng là đường bờ biển. Thật đáng ngạc nhiên, con đê chắn sóng cũ vẫn còn đó. Một con đê chắn sóng mà không có biển thì quả thực là một thứ kỳ cục. Tôi dừng ở đúng điểm nơi tôi thường đậu xe để nhìn ra biển, đi lại ngồi trên con đê chắn sóng và uống một lon bia. Thật là một cảnh ấn tượng! Thay vì biển, một dải đất mới lấp rộng mênh mông và các khu nhà ở đập vào mắt tôi. Những khối nhà vô diện mạo, nền tảng đáng thương của nỗ lực xây dựng một khu dân cư.

Những con đường rải nhựa len lỏi qua các khu nhà, chỗ này là bãi đậu xe, chỗ kia là bến cuối xe buýt. Một trạm xăng rồi một công viên lớn rồi một trung tâm cộng đồng tuyệt vời. Tất cả đều mới toanh, tất cả đều không tự nhiên. Ở một bên, hàng đống đất chở từ trên đồi xuống để lấp biển hiện ra lù lù tàn nhẫn xám xịt cạnh khu vực vốn không nằm trong cái kế hoạch vĩ đại ấy và bị cỏ dại bén rễ nhanh chóng lấn chiếm. Ở bên kia, những hàng cây và thảm cỏ bé ti ngu ngốc mà người ta trồng cây vào đang cố hết sức để hòa nhập vào khung cảnh...

Thật buồn nôn.

Nhưng biết nói gì hơn đây? Nó là cả một trò chơi mới được chơi theo luật mới. Không ai có thể chặn nó lại.

Tôi uống nhanh hai lon bia và ném mạnh hai chiếc lon rỗng qua dải đất mới lấp, về phía nơi từng là biển. Tôi nhìn chúng biến mất vào trong rừng cỏ dại dạt theo hướng gió thổi. Rồi tôi hút một điếu thuốc.

Tôi đang rít hơi cuối cùng thì bỗng thấy một người đàn ông tay cầm đèn pin tiến về phía tôi. Khoảng bốn mươi tuổi, áo xám, quần xám, mũ xám. Có lẽ là một người bảo vệ khu vực.

"Cậu vừa mới quăng một cái gì đó, đúng không?" người đàn ông nói.

"Đúng, tôi quăng một thứ."

"Cậu quăng cái gì?"

"Vật tròn, bằng kim loại, có nắp."

Người bảo vệ mang một bộ mặt cáu kỉnh. "Tại sao cậu quăng chúng đi?"

"Không vì lý do đặc biệt nào. Tôi đã quen quăng đủ thứ từ mười hai năm trước. Có lúc tôi quăng cả nửa tá một lúc mà không ai nói một lời nào."

"Đó là trước đây," người bảo vệ nói. "Nơi đây bây giờ là đất của thành phố, vứt rác lên đất của thành phố là vi phạm luật pháp."

Tôi nuốt nước bọt. Trong thoáng chốc, một cái gì trong tôi run rẩy, rồi ngừng lại. "Vấn đề thật sự ở đây là," tôi nói, "điều ông nói có lý."

"Đó là luật," ông ta nói.

Tôi thở dài rồi lôi bao thuốc trong túi ra.

"Vậy tôi nên làm gì?"

"Thôi, tôi không thể yêu cần cậu nhặt chúng lên được. Trời tối quá và lại sắp mưa. Vậy nên làm ơn đừng vứt thứ gì nữa."

"Tôi sẽ không vứt gì nữa," tôi nói. "Tạm biệt."

"Tạm biệt," người bảo vệ nói rồi đi mất.

Tôi duỗi chân duỗi tay trên con đê chắn sóng và ngước nhìn bầu trời. Như người đó nói, trời sắp mưa. Tôi vừa hút một điếu thuốc nữa vừa nghĩ ngợi về cuộc chạm trán với người bảo vệ. Nếu là mười năm trước, tôi đã tỏ ra cứng rắn hơn. Mà có lẽ không. Dù sao thì cũng khác gì kia chứ?

Tôi quay lại con đường bên sông, và lúc tôi bắt được taxi thì mưa đã rơi lác đác. Cho về khách sạn, tôi nói.

"Cậu đến đây du lịch à?" người lái xe già hỏi.

"À há."

"Lần đầu tiên đến mấy khu này à?"

"Lần thứ hai," tôi nói.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,372
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 16: PHẦN 5: Cô ta uống một ly Salty Dog, nói chuyện về tiếng sóng


"Tôi có thư cho cô," tôi nói.

"Cho tôi ư?" cô ta nói.

Đường dây trục trặc, vì thế chúng tôi gần như phải hét lên, một việc không có ích lắm cho việc truyền tải những cung bậc tình cảm tinh tế. Giống như nói chuyện trên một quả đồi lộng gió qua cổ áo bẻ dựng lên.

"Thật ra thì thư đề tên tôi, nhưng dường như nó được dành cho cô thì đúng hơn."

"Dành cho tôi sao?"

"Vâng, đúng thế," tôi nói. Ngay sau khi nói câu đó, tôi biết cả cuộc trao đổi ngốc nghếch này sẽ không nhanh chóng đi đến đâu cả.

Cô ta không nói gì một lát. Trong khi đó đường dây rõ dần lên.

"Tôi không biết chuyện gì đã diễn ra giữa cô và Chuột. Nhưng cậu ấy có nhờ tôi đến gặp cô, cho nên tôi mới gọi cô. Ngoài ra, tôi nghĩ sẽ tốt hơn nếu cô đọc thư cậu ấy."

"Và đó là lý do tại sao anh lặn lội từ Tokyo đến đây?"

"Đúng vậy."

Cô ta húng hắng ho, xin lỗi rồi nói, "Vì anh ấy là bạn anh?"

"Tôi nghĩ vậy."

"Anh có biết tại sao anh ấy không viết trực tiếp cho tôi không?"

Cô ta nói có lý.

"Tôi không biết," tôi nói một cách thành thực.

"Tôi cũng không biết. Ý tôi là, tôi nghĩ mọi thứ đã kết thúc. Có đúng vậy không?"

Tôi không biết và tôi nói với cô ta thế. Tôi nằm trên giường khách sạn, ống nghe trên tay, mắt nhìn lên trần nhà. Tôi có thể đang nằm dưới đáy đại dương đếm cá, tôi nghĩ. Liệu tôi phải đếm bao nhiêu con thì mới có thể nói là đã xong?

"Anh ấy biến mất năm năm trước. Tôi lúc đó hai mươi bảy tuổi," cô ta nói, giọng xa xăm nghe như tiếng vọng từ đáy giếng. "Nhiều thứ có thể thay đổi trong năm năm."

"Đúng thế," tôi đáp.

"Và thật sự là, ngay cả khi không có điều gì thay đổi, tôi cũng không nhìn sự việc theo cách ấy. Tôi không muốn chấp nhận điều đó. Nếu vậy tôi sẽ không thể vác mặt đi đâu hết. Vậy là với riêng tôi, mọi thứ hoàn toàn thay đổi."

"Tôi nghĩ là tôi hiểu," tôi nói.

Một khoảng im lặng ngắn ngủi bao trùm lên chúng tôi.

Chính cô ta là người phá vỡ sự yên lặng. "Lần cuối anh gặp anh ấy là lúc nào?" cô hỏi.

"Mùa xuân, năm năm trước, ngay trước khi cậu ấy bỏ đi."

"Và anh ấy có nói gì với anh không? Ý tôi là tại sao anh ấy lại rời thị trấn...?"

"Không."

"Vậy là anh ấy đi mà cũng không báo trước cho anh?"

"Đúng thế."

"Và anh nghĩ sao? Ý tôi là, ngay lúc đó."

"Về việc cậu ấy bỏ đi như thế ư?"

"Vâng."

Tôi ngồi thẳng dậy rồi tựa lưng vào tường. "À, tôi cứ nghĩ chắc chắn là cậu ấy sẽ từ bỏ và quay trở lại sau sáu tháng. Tôi chưa bao giờ nghĩ cậu ấy thuộc loại người theo đuổi lâu dài cùng một thứ."

"Nhưng anh ấy không trở lại."

"Đúng, cậu ấy không trở lại."

Có một chút ngập ngừng ở đầu dây bên kia.

"Giờ anh đang nghỉ ở đâu?" cô ta hỏi.

Tôi nói cho cô ta tên khách sạn.

"Tôi sẽ gặp anh ngày mai lúc năm giờ. Quán cà phê trên tầng tám được chứ?"

"Được thôi," tôi nói. "Tôi sẽ mặc áo thể thao trắng và quần cotton xanh lá cây. Tôi tóc ngắn và..."

"Tôi hình dung ra rồi," cô ta nói, vui vẻ ngắt lời tôi. Rồi cô ta cúp máy.

Tôi đặt ống nghe xuống. Cô ta muốn nói gì, cô ta hình dung ra được tôi ư? Tôi thì không hình dung ra được, nhưng mà nghĩ lại, có nhiều thứ tôi không biết tí gì. Năm tháng đương nhiên đã chẳng khiến tôi khôn ngoan hơn. Tính cách có thể thay đổi, nhưng sự tầm thường thì không, như một nhà văn Nga đã nói. Người Nga biết cách dùng cách ngôn. Có lẽ họ đã dành cả mùa đông mới nghĩ ra được chúng.

Tôi đi tắm vòi hoa sen, gội mái tóc đẫm nước mưa, thế rồi, khăn tắm quấn quanh eo, tôi xem một bộ phim Mỹ cũ trên ti vi nói về tàu ngầm. Cốt truyện có nhiều lỗ hổng, tay thuyền trưởng và thuyền phó liên tục đấu đá nhau. Cái tàu ngầm là một vật cổ lỗ, và có một thằng cha mắc chứng sợ không gian đóng kín. Nhưng tất cả đều không ngăn cản được việc cuối cùng mọi thứ đều kết thúc tốt đẹp. Bộ phim thuộc loại mọi-thứ-đều-kết-thúc-tốt-đẹp-vì-thế-có-lẽ-rốt-cuộc-thì-chiến-tranh-không-đến-nỗi-quá-tệ. Một ngày nào đó họ sẽ làm một bộ phim mà cả nhân loại bị hủy diệt trong cuộc chiến tranh hạt nhân, nhưng cuối cùng mọi thứ đều kết thúc tốt đẹp.

Tôi tắt ti vi, trèo vào giường và ngủ thiếp đi sau mười giây.

Năm giờ chiều hôm sau, cơn mưa phùn vẫn chưa dứt. Trước cơn mưa là cả bốn năm ngày bầu trời đầu hè trong lành mát mẻ, khiến mọi người cứ tưởng mùa mưa đã kết thúc. Từ cửa sổ tầng tám, mặt đất trông tối tăm và ẩm ướt đến từng centimet vuông, dòng xe cộ bị nghẽn kéo dài mấy cây số trên làn phía Đông của con đường cao tốc trên cao.

Trong lúc tôi không ngừng nhìn trân trân, mọi thứ bắt đầu tan trong mưa. Trên thực tế, mọi thứ trong thị trấn đang tan ra. Đê chắn sóng, cần trục, các dãy nhà, những thân hình dưới những chiếc ô đen, mọi thứ. Ngay cả cây cỏ cũng đang chảy từ trên đồi xuống. Nhưng khi tôi nhắm mắt trong vài giây rồi mở mắt ra, cả thị trấn lại quay trở về trạng thái ban đầu. Sáu chiếc cần trục sừng sững trong khói bụi mù mịt, tàu hướng về phía Đông như thể động cơ vừa mới khởi động lại, từng đám ô len lỏi đi tới đi lui qua các dãy phố đầy cửa hiệu, những ngọn đồi xanh thấm đầy mưa tháng Sáu.

Ở khu trũng giữa quán cà phê, một phụ nữ mặc váy hồng tươi bên chiếc đại dương cầm màu xanh nước biển đang chơi các bản nhạc trong-quán-cà-phê-khách-sạn tinh tế đầy những hợp âm rải và nhấn lệch. Thật ra thì không tồi, dù không một tiếng vọng nào còn lưu lại trong không gian ngoài nốt cuối cùng của mỗi bản nhạc.

Đã quá năm giờ chiều mà cô ta vẫn chưa tới. Vì không có gì khá hơn để làm, tôi uống một tách cà phê nữa và ngắm người chơi đàn. Cô trạc hai mươi tuổi, mái tóc ngang vai tạo dáng không chê vào đâu được như lớp kem trên mặt bánh. Mái tóc được tạo dáng ấy lắc lư đầy hứng khởi, qua trái rồi qua phải, theo điệu nhạc, rồi vụt trở về vị trí trung tâm khi bản nhạc kết thúc. Rồi bản nhạc tiếp theo bắt đầu.

Cô gái khiến tôi liên tưởng đến một cô bé tôi từng biết hồi học lớp ba, khi tôi đang theo học đàn dương cầm. Cùng tuổi, cùng lớp. Chúng tôi thỉnh thoảng phải chơi đôi với nhau. Nhưng tên và khuôn mặt cô bé, tôi hoàn toàn quên mất. Tất cả những gì tôi nhớ về cô bé là đôi tay xanh xao nhỏ tí xíu, mái tóc đẹp và chiếc váy đầm bồng bềnh.

Thật đáng ngại khi nhận ra điều này. Tôi đã tước lột của cô đôi bàn tay, mái tóc và chiếc váy đầm ư? Phần còn lại của cô vẫn còn sống không bị trói buộc ở đâu đó chứ? Tất nhiên, điều này là không thể. Không có tôi thì thế giới vẫn tiếp diễn. Mọi người sang đường mà không hề có sự can thiệp của tôi, gọt bút chì, di chuyển bốn lăm mét một phút từ Tây sang Đông, lấp đầy quán cà phê bằng thứ âm nhạc đã được tinh lọc thành hư không.

"Thế giới" – cái từ luôn khiến tôi liên tưởng đến một con rùa và những con voi đang đỡ một cái đĩa khổng lồ mà không hề biết mệt. Những con voi không hề biết đến vai trò của con rùa, và con rùa không thể trông thấy những con voi đang làm gì. Và cả voi lẫn rùa đều không hề nhận thức được cái thế giới trên lưng chúng.

"Xin lỗi đã để anh phải đợi," một giọng phụ nữ vang lên từ phía sau tôi. "Công việc muộn, tôi không thể dứt ra được."

"Không vấn đề gì. Dù sao thì hôm nay tôi cũng có gì để làm đâu."

Cô ta đặt chìa khóa lên mặt bàn và gọi một ly nước cam mà không thèm nhìn đến thực đơn. Tuổi cô ta không dễ đoán. Nếu cô ta không nói trước với tôi qua điện thoại, có lẽ tôi sẽ không biết được. Nếu cô ta nói cô ta ba mươi ba tuổi, cô ta hẳn sẽ trông như người ba mươi ba tuổi đối với tôi. Nếu cô ta nói cô ta hai mươi bảy tuổi, cô ta hẳn sẽ trông như người hai mươi bảy tuổi đối với tôi. Nhìn qua thì thế.

Gu ăn mặc của cô ta đơn giản một cách tinh tế. Quần cotton trắng rộng, áo ca rô màu cam và vàng, tay áo xắn đến khuỷu tay, và một chiếc túi khoác vai bằng da. Không có gì mới, nhưng ít nhất là đều được giữ gìn cẩn thận. Cô ta không đeo nhẫn hay dây chuyền hay vòng tay hay khuyên tai. Tóc mái cô ta ngắn và được hất nhẹ sang bên.

Những nếp nhăn nhỏ xíu nơi đuôi mắt cô ta có thể đã nằm sẵn đó từ thuở lọt lòng hơn là dần có cùng với thời gian. Chỉ có cần cổ trắng trẻo, mảnh mai lộ ra từ cổ áo mở khuy và mu bàn tay cho thấy tuổi cô ta. Mọi người bắt đầu già đi từ sớm, rất sớm. Dần dần nó sẽ làm ra toàn thân như một vết ố không thể tẩy được.

"Loại công việc gì vậy?" tôi đánh bạo hỏi.

"Vẽ phác thảo tại một văn phòng kiến trúc sư. Tôi làm ở đó đã lâu rồi."

Câu chuyện bị bỏ dở nửa chừng. Tôi chậm rãi lấy ra một điếu thuốc rồi châm hút. Người chơi đàn đã ngừng chơi, đậy nắp đàn đi nghỉ giải lao đâu đó. Tôi ghen tị với cô.

"Anh chơi với anh ấy được bao lâu rồi?" cô ta hỏi.

"Mười một năm, chắc vậy. Còn cô?"

"Hai tháng, mười ngày," cô trả lời ngay. "Từ khi tôi lần đầu gặp anh ấy cho đến lúc anh ấy biến mất. Hai tháng và mười ngày. Tôi nhớ vì tôi ghi nhật ký."

Nước cam đến và tách cà phê trống trơn của tôi nhanh chóng được dọn đi.

"Tôi đợi ba tháng sau khi anh ấy biến mất. Tháng Mười hai, tháng Một, tháng Hai. Lúc lạnh nhất trong năm. Có lẽ năm đó là năm có mùa đông lạnh?"

"Tôi không nhớ," tôi nói, dù cái lạnh của mùa đông năm năm về trước dường như mới hôm qua.

"Anh đã bao giờ đợi một người đàn bà như thế chưa?"

"Chưa," tôi nói.

"Người ta chăm chăm đợi một ai đó và sau một khoảng thời gian thì chuyện gì diễn ra cũng hầu như không quan trọng nữa. Có thể là năm năm hay mười năm hay một tháng. Cũng giống nhau cả thôi."

Tôi gật đầu.

Cô ta uống nửa ly nước cam.

"Sự việc diễn ra theo cách đó khi tôi mới lấy chồng," cô ta nói. "Tôi luôn là người phải đợi, cho đến khi tôi mệt mỏi vì chờ đợi, và cuối cùng tôi không còn quan tâm nữa. Lấy chồng lúc hai mươi mốt tuổi, ly dị lúc hai mươi hai. Sau đó tôi đến đây."

"Giống như vợ tôi."

"Giống cái gì kia?"

"Lấy chồng lúc hai mươi mốt tuổi, ly dị lúc hai mươi hai."

Cô ta săm soi khuôn mặt tôi một lúc. Rồi khuấy nước cam bằng que khuấy. Có vẻ như tôi đã nói ra một cách không cần thiết.

"Khi người ta trẻ, thật khó khi lấy chồng rồi ly dị ngay sau đó," cô ta nói. "Thực tế là người ta tìm kiếm một điều gì đó hai-chiều và không có thật. Cái đó không bao giờ kéo dài được lâu. Nhưng người ta cũng không thể trông mong một điều không thật lại kéo dài được, đúng không?"

"Chắc vậy."

Trong vòng năm năm từ lúc tôi ly dị đến khi gặp anh ấy, tôi một thân một mình ở cái thị trấn này. Sống một cuộc sống, xem nào, khá là không thật. Tôi hầu như không biết một ai, hầu như không ra ngoài, không một mối tình vắt vai. Sáng ra tôi thức dậy, đến văn phòng, vẽ các đồ án, ghé qua siêu thị mua sắm trên đường về nhà, rồi ăn tối một mình ở nhà. Tôi nghe đài FM, đọc, viết nhật ký, giặt tất trong buồng tắm. Căn hộ của tôi gần biển, vì thế luôn có tiếng sóng. Nó lạnh lẽo và cô đơn."

Cô ta uống nốt ly nước cam.

"Có vẻ như tôi đang làm anh chán ngấy."

Tôi lắc đầu.

Quá sáu giờ. Đèn trong văn mờ bởi lúc này là giờ cocktail. Đèn trong thị trấn bắt đầu nhấp nháy. Đèn đỏ bật sáng trên cần trục. Có thể nhìn rõ những hạt mưa bụi bay bay qua bóng tối đang thẫm dần.

"Cô muốn uống chút rượu không?" tôi hỏi.

"Người ta gọi vodka với nước bưởi là gì ấy nhỉ?"

"Là salty dog."

Tôi vẫy người hầu bàn, gọi một ly salty dog và một ly Cutty Sark pha đá.

"Chúng ta nói chuyện đến đâu rồi?"

"Cuộc đời lạnh lẽo và cô đơn của cô."

"Xem nào, nếu anh thật sự muốn biết, không phải lúc nào nó cũng lạnh lẽo và cô đơn," cô ta nói. "Chỉ là tiếng sóng thôi. Chỉ riêng cái đó là đủ khiến mọi thứ trở nên hơi u buồn. Khi tôi dọn đến, người quản lý nói tôi sẽ quen với nó nhanh thôi, nhưng tôi vẫn chưa quen được."

"Biển không còn đó nữa."

Cô ta khẽ mỉm cười. Một chút chuyển động ở những nếp nhăn nơi đuôi mắt cô. "Đúng vậy. Như anh nói, biển không còn đó nữa. Nhưng dù vậy, tôi thề là thỉnh thoảng tôi vẫn còn nghe thấy tiếng sóng. Nó có lẽ đã hằn sâu trong tai tôi qua từng ấy năm."

"Rồi Chuột xuất hiện."

"Vâng. Mặc dù tôi chưa bao giờ gọi anh ấy bằng cái tên đó."

"Vậy cô gọi cậu ấy là gì?"

"Bằng tên anh ấy. Như mọi người khác."

Họ mang đồ uống ra. Cô ta nhấp một ngụm salty dog rồi lấy khăn ăn lau muối trên môi. Chiếc khăn ăn có chút dấu vết son môi. Rồi cô gấp chiếc khăn có vết son lại một cách khéo léo và đặt xuống.

"Anh ấy, tôi biết nói thế nào nhỉ... còn hơn là phi thực. Anh hiểu tôi muốn nói điều gì chứ?"

"Chắc là hiểu."

"Tôi đoán phải có một ai phi thực như anh ấy để làm tan vỡ cái sự phi thực nơi tôi. Tôi nhận ra điều đó ngay lần đầu tôi gặp anh ấy. Đó là lý do tại sao tôi thích anh ấy. Hoặc có thể tôi chỉ nghĩ vậy sau khi tôi đã thích anh ấy. Nhưng cách nào thì cũng giống nhau cả thôi."

Người chơi đàn quay trở lại sau khi nghỉ giải lao và bắt đầu chơi những bản nhạc phim cũ. Hoàn hảo: nhạc nền sai bét ột cảnh sai bét.

"Thỉnh thoảng tôi nghĩ, có lẽ rốt cuộc thì tôi chỉ lợi dụng anh ấy. Và có lẽ anh ấy cảm nhận được điều đó suốt cả thời gian ấy. Anh nghĩ sao?"

"Tôi không biết được," tôi nói. "Việc đó là giữa cô và cậu ấy."

Cô ta không nói gì.

Sau hai mươi giây im lặng, tôi nhận ra cô đã hết chuyện để nói. Tôi uống cạn chỗ whisky và lấy trong túi ra mấy bức thư của Chuột, đặt giữa bàn. Chúng nằm ở đó một lúc lâu.

"Tôi có phải đọc thư ở đây không?"

"Xin hãy mang về nhà mà đọc. Nếu cô không muốn đọc, thì muốn làm gì với chúng cũng được."

Cô ta gật đầu. Cô ấy bức thư vào túi, cài móc lại đánh tách một cái. Tôi châm điếu thuốc thứ hai và gọi một ly whisky nữa. Ly whisky thứ hai luôn là thứ tôi thích nhất. Từ ly thứ ba trở đi, nó không còn vị gì nữa. Nó chỉ là một thứ gì đó để đổ vào dạ dày mà thôi.

"Anh lặn lội từ Tokyo đến đây chỉ vì việc này thôi sao?" cô ta hỏi.

"Gần như vậy."

"Anh thật tốt quá."

"Tôi không bao giờ nghĩ về chuyện này theo cách đó. Chỉ là thói quen thôi. Ở hoàn cảnh ngược lại, tôi chắc chắn cậu ấy sẽ làm điều tương tự cho tôi."

"Anh đã bao giờ nhờ anh ấy trong việc tương tự thế này chưa?"

Tôi lắc đầu. "Chưa, nhưng chúng tôi quen nhau đã khá lâu rồi và cứ áp đặt lên nhau những thứ không có thực. Còn chúng tôi có gắng giải quyết vấn đề một cách thực tế được hay không lại là chuyện khác."

"Có lẽ không ai có thể."

"Có lẽ không."

Cô mỉm cười đứng dậy, lấy nhanh tấm hóa đơn. "Chuyện này hãy để tôi. Dù sao thì tôi cũng muộn bốn mươi phút."

"Nếu cô muốn thì được thôi," tôi nói. "Nhưng còn một điều, không biết tôi có thể hỏi cô một câu không."

"Tất nhiên rồi."

"Trên điện thoại cô nói cô có thể hình dung ra tôi trông như thế nào."

"Ý tôi là tôi có thể cảm nhận được điều gì đó ở anh."

"Và thế là đủ để cô nhận ngay ra tôi?"

"Tôi có thể biết được ngay lập tức."

Mưa vẫn tiếp tục rắc nhè nhẹ. Từ cửa sổ khách sạn, qua bảng hiệu neon của tòa nhà kế bên, hàng trăm ngàn hạt mưa rơi xuống đất qua một màn ánh sáng xanh. Nếu tôi nhìn xuống, mưa dường như rơi thẳng vào một điểm cố định trên mặt đất.

Tôi ngồi phịch xuống giường và hút vài điếu thuốc nữa, rồi gọi lễ tân để đặt vé tàu sáng hôm sau. Tôi không còn gì để làm ở thị trấn này nữa.

Mưa tiếp tục rơi cho đến tận nửa đêm.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,372
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 17: PHẦN 6 - CUỘC SĂN CỪU HOANG II: Câu chuyện kì lạ của người đàn ông kì lạ


Tay thư ký mặc bộ lê đen lấy ghế rồi nhìn tôi không nói một lời. Ông ta không có vẻ như đang đánh giá tôi, mắt ông ta cũng không để lộ vẻ khinh khỉnh, ánh nhìn sắc nhọn của ông ta cũng không xuyên thấu tôi. Không lạnh hay nóng, hay thậm chí ở tầm trung bình. Cái nhìn chăm chăm ấy không mang bất kỳ một sắc thái tình cảm nào đối với tôi. Người đàn ông chỉ đang nhìn tôi. Ông ta có lẽ đang nhìn bức tường phía sau tôi, nhưng vì tôi ở trước bức tường, nên kết quả là ông ta đang nhìn tôi.

Người đàn ông nhấc chiếc hộp đựng thuốc lá trên bàn, mở nắp lôi ra một điếu thuốc cắt thô, dùng móng tay búng búng đầu điếu thuốc vài lần, châm lửa bằng chiếc bật lửa để bàn và nhả khói ra theo một góc tù. Rồi ông ta đặt lại bật lửa trên bàn và vắt chéo chân. Ông ta nhìn chăm chăm không một lần chớp mắt trong cả quãng thời gian đó.

Đây là người mà tay đối tác của tôi đã kể. Ông ta ăn mặc quá chải chuốt, những ngón tay ông ta quá tao nhã. Nếu không vì đường cong mí mắt sắc nét và con ngươi lạnh băng như hạt thủy tinh của ông ta, tôi hẳn đã nghĩ ông ta là kẻ đồng tính. Nhưng, không thể là kẻ đồng tính với đôi mắt đó. Vậy trông ông ta giống gì? Ông ta không giống bất kỳ thứ gì.

Nếu nhìn kỹ mắt ông ta, ta sẽ thấy chúng có màu kỳ lạ. Nâu đậm với một chút sắc xanh, chẳng những thế, màu mắt trái còn khác màu mắt phải. Mỗi mắt dường như tập trung vào một chủ thể hoàn toàn khác nhau.

Những ngón tay ông ta động đậy đôi chút trên lòng. Một cách đầy ám ảnh, như thể chúng tách rời khỏi bàn tay ông ta, tiến về phía tôi. Những ngón tay bồn chồn, hấp dẫn, căng thẳng, đẹp đẽ. Chậm rãi với qua bàn để dập điếu thuốc hút chưa đến một phần ba. Tôi nhìn đá tan trong ly, nước đá trong vắt hòa lẫn với nước nho. Một sự pha trộn màu sắc không cân bằng.

Căn phòng yên lặng như tờ. Đó là sự yên lặng người ta gặp phải khi bước vào một trang viên lớn. Và đó là sự yên lặng khi ta có quá ít người trong một không gian quá rộng. Nhưng đây là một thứ yên lặng hoàn toàn khác. Một yên lặng nặng nề, ngột ngạt. Một sự yên lặng khiến ta liên tưởng đến, mặc dù tôi phải mất một lúc để nhận ra, sự yên lặng bao quanh một bệnh nhân giai đoạn cuối. Một sự yên lặng mang linh cảm về cái chết. Không khí thoáng mùi ẩm mốc và điềm gở.

"Ai cũng phải chết," người đàn ông nói nhẹ nhàng trong khi mắt nhìn xuống. Thật kỳ lạ, ông ta dường như nắm bắt được ý nghĩ của tôi. "Tất cả chúng ta, bất kể ai, cũng phải chết vào lúc nào đó."

Nói xong, người đàn ông lại chìm vào trong yên lặng nặng nề. Chỉ có tiếng kêu inh ỏi đến phát điên của đàn ve sầu bên ngoài. Những thân xác sắp chết kêu gào cuồng nộ trước một mùa sắp kết thúc.

"Hãy để tôi nói hết sức thành thật với cậu," người đàn ông lên tiếng. Lối nói của ông ta nghe có vẻ như dịch trực tiếp từ một văn bản theo công thức. Cách chọn cụm từ và ngữ pháp của ông ta khá đúng, nhưng không có cảm giác gì trong lời ông ta nói.

"Nói thành thật và nói sự thật là hai điều hoàn toàn khác nhau. Thành thật đối với sự thật như thể mũi tàu đối với đuôi tàu. Thành thật xuất hiện trước và sự thật xuất hiện sau. Sự cách biệt giữa hai điều tùy thuộc trực tiếp vào kích cỡ con tàu. Với con tàu lớn thì phải mất một lúc lâu mới tới được sự thật. Đôi khi nó chỉ hiện lên sau khi chết. Vì thế, nếu tôi không cho cậu hay bất kỳ sự thật nào trong tình hình này, không phải lỗi của tôi. Cũng không phải lỗi của cậu."

Người ta biết đáp lại câu nói này thế nào đây? Ông ta chấp nhận sự yên lặng của tôi và tiếp tục nói.

"Cậu có lẽ đang tự hỏi vì lý do gì tôi bắt cậu phải lặn lội đến đây. Đó là để cho tàu chạy lên phía trước. Cậu và tôi sẽ giúp tàu chạy lên phía trước. Bằng cách bàn bạc vấn đề một cách thành thật, tại mỗi thời điểm chúng ta sẽ tiến một bước gần hơn đến sự thật." Đến đó, ông ta ho húng hắng và liếc nhìn bàn tay tôi đang tựa trên thành xô pha. "Nhưng nói trừu tượng thế này đủ rồi, chúng ta hãy bắt đầu bằng mối lo ngại thật sự. Vấn đề ở đây là cái bản tin cậu tạo ra. Tôi tin là cậu đã được thông báo đủ về việc này."

"Tôi đã được thông báo."

Người đàn ông gật đầu. Rồi sau khi ngừng một lúc, ông ta tiếp tục, "Tôi chắc chắn là việc này đến với cậu khá đột ngột. Ai cũng sẽ khổ sở khi thành quả lao động vất vả của mình bị phá hỏng. Càng nghiêm trọng hơn nếu đó là một mắt xích sống còn cho kế sinh nhai của mình. Nó có thể đồng nghĩa với một sự tổn thất thật to lớn. Đúng như vậy không?"

"Đúng thế đấy," tôi nói.

"Tôi muốn cậu nói tôi nghe về những tổn thất thật ấy."

"Trong ngành chúng tôi, tổn thất thật là một phần của việc kinh doanh. Không phải là khách hàng không bao giờ từ chối những gì được sản xuất ra. Nhưng đối với một doanh nghiệp nhỏ như chúng tôi, nó có thể là mối đe dọa cho sự sống còn của chúng tôi. Vì vậy để ngăn chặn việc đó, chúng tôi tôn trọng quan điểm khách hàng một trăm phần trăm. Trong những trường hợp đặc biệt, điều này có nghĩa là phải kiểm tra lại toàn bộ bản tin từng dòng một cùng với khách hàng. Cách đó khiến chúng tôi tránh được mọi rủi ro. Không phải là việc dễ dàng, nhưng đó là số phận của một con sói cô độc."

"Ai cũng phải bắt đầu từ đâu đó," người đàn ông thông cảm. "Trong trường hợp đó, tôi có thể diễn giải điều cậu nói là công ty cậu phải chịu tổn thất tài chính nặng nề do bản tin của cậu bị đình chỉ?"

"Đúng thế, tôi đoán ông có thể nói vậy. Nó đã được in và đóng quyển, vì thế chúng tôi phải trả tiền giấy và tiền in trong tháng này. Còn chi phí cho những người viết bài mà chúng tôi đã thuê. Về tài chính thì khoản đó lên đến năm triệu yên, và nếu mọi chuyện còn tệ hơn thì chúng tôi sẽ phải vay tiền để trả. Hơn nữa, chúng tôi đã quá tay đầu tư vào cơ sở vật chất của văn phòng mới được một năm."

"Tôi biết," người đàn ông nói.

"Rồi lại còn vấn đề hợp đồng đang được tiến hành với khách hàng. Vị thế của chúng tôi rất yếu, một khi có vấn đề với một hãng quảng cáo, khách hàng sẽ tránh xa mình. Chúng tôi đang có hợp đồng một năm với công ty bảo hiểm nhân thọ, nếu nó bị hủy bỏ vì việc này thì công ty chúng tôi sẽ phá sản. Chúng tôi nhỏ và không có quan hệ, nhưng chúng tôi có uy tín tốt qua truyền miệng. Nếu một lời nói xấu lan ra, chúng tôi coi như đi đời."

Ngay cả khi tôi đã nói xong, người đàn ông vẫn nhìn chằm chằm vào tôi không một lời nhận xét. Rồi ông ta lên tiếng. "Cậu nói rất thành thật. Hơn nữa, những gì cậu kể cho tôi trùng hợp với điều tra của chúng tôi. Tôi khen ngợi cậu về điều đó. Cậu thấy sao nếu tôi đề nghị thanh toán không điều kiện cho những bản tin của công ty bảo hiểm đã bị hủy và thông báo họ rằng sẽ tiếp tục hợp đồng hiện tại?"

"Thế thì còn gì để nói nữa. Chúng tôi sẽ quay lại công việc hàng ngày nhàm chán của mình, tự hỏi tất cả những chuyện này là vì cái gì."

"Và thêm vào đó là một phần thưởng? Tôi chỉ cần viết một từ trên mặt sau tấm danh thiếp là cậu sẽ có sẵn việc làm phù hợp trong mười năm tới. Và không còn những bản quảng cáo phát tay vô tích sự nữa."

"Nói một cách khác, một phi vụ làm ăn."

"Một vụ giao dịch thân thiện. Xuất phát từ thiện chí của mình, tôi đã làm ơn cho đối tác của cậu bằng cách thông báo cho cậu ta biết bản tin PR đã bị đình chỉ xuất bản. Và nếu cậu cho tôi thấy thiện chí của mình, tôi sẽ giúp đỡ cậu bằng việc bày tỏ nhiều hơn thiện chí của mình. Cậu có nghĩ cậu làm được điều đó không? Được tôi giúp có thể là có lợi lắm đấy. Tất nhiên cậu không mong tiếp tục làm việc suốt đời với một kẻ nghiện ngập chậm hiểu chứ?"

"Chúng tôi là bạn bè," tôi nói.

Tiếp sau đó là một khoảng yên lặng thoáng qua, một viên sỏi rơi xuống một cái giếng không dò được. Mất ba mươi giây để hòn sỏi chạm tới đáy.

"Tùy cậu thôi," người đàn ông nói. "Đó là chuyện của cậu. Tôi đã xem kỹ lý lịch của cậu. Cậu có một quá khứ khá thú vị. Mà con người ta nói chung có thể chia làm hai hoặc những kẻ thực tế tầm thường và những kẻ mơ mộng tầm thường. Cậu rõ ràng thuộc loại thứ hai. Số phận cậu đang và sẽ luôn là số phận của một kẻ mơ mộng."

"Tôi sẽ nhớ kỹ điều đó," tôi nói.

Người đàn ông gật đầu. Tôi uống một nửa cốc nước nho đã loãng toẹt.

"Tốt lắm vậy thì, chúng ta hãy đi vào việc cụ thể," người đàn ông nói. "Việc cụ thể về cừu."

Người đàn ông đổi tư thế để lôi ra bức ảnh đen trắng từ một chiếc phong bì, đặt trên bàn trước mặt tôi. Hơi thở cực nhẹ của hiện thực dường như len lỏi vào trong căn phòng.

"Đây là bức ảnh cậu dùng trong bản tin của mình."

Đối với một bức ảnh phóng to trực tiếp mà không dùng phim âm bản thế này thì hình ảnh rõ đến đáng ngạc nhiên. Có lẽ là một công nghệ đặc biệt nào đó.

"Theo chúng tôi biết, bức ảnh này cậu trực tiếp có được và sau đó được dùng trong bản tin. Có đúng thế hông?"

"Đúng như vậy."

"Theo điều tra của chúng tôi, bức ảnh được chụp trong vòng sáu tháng qua bởi một tay máy hoàn toàn nghiệp dư. Máy ảnh, loại bỏ túi rẻ tiền. Cậu không phải người chụp bức ảnh. Cậu có một chiếc Nikon SLR và chụp ảnh đẹp hơn. Thêm nữa cậu chưa tới Hokkaido trong vòng năm năm qua. Đúng thế không?"

"Ông nói tôi nghe," tôi nói.

Người đàn ông hắng giọng, rồi im lặng. Đây là một sự yên lặng đích thực, người ta có thể dựa vào đó để đánh giá chất lượng của những sự yên lặng khác. "Dầu sao chăng nữa, những gì chúng tôi muốn là một vài thông tin cụ thể, cậu đã nhận được bức ảnh đó từ đâu, từ ai, và ý định của cậu khi sử dụng cái hình ảnh tồi tàn như thế trong bản tin ấy."

"Tôi e là tôi không được phép nói ra," tôi buông lời ấy với vẻ lạnh lùng đến nỗi bản thân tôi cũng phải ấn tượng. "Nhà báo có đầy đủ quyền không tiết lộ nguồn tin của mình."

Người đàn ông nhìn chằm chằm vào mắt tôi và lấy ngón giữa bàn tay phải vuốt nhẹ môi. Sau mấy hồi vuốt qua vuốt lại, ông ta đặt tay vào lòng. Cứ yên lặng như thế một lúc. Tôi không thể không nghĩ sẽ thật là một thời khắc hoàn hảo nếu đúng lúc đó một con chim cúc cu cất tiếng hót. Nhưng, dĩ nhiên là không có tiếng chim cúc cu nào. Chim cúc cu không hót vào buổi tối.

"Cậu là người tử tế," người đàn ông nói. "Cậu biết không, nếu muốn, tôi có thể chặn tất cả công việc đến với cậu. Điều đó sẽ đặt dấu chấm hết cho cái quyền báo chí của cậu. Tất nhiên với giả thiết là những tờ rơi và bản quảng cáo phát tay khốn khổ của cậu đủ tư cách được coi là báo chí."

Tôi ngẫm nghĩ thêm. Tại sao chim cúc cu không hót vào buổi đêm nhỉ?

"Hơn nữa, có nhiều cách để bắt những người như cậu nói."

"Tôi cho rằng có," tôi nói, "nhưng sẽ mất thời gian và tôi sẽ không nói gì cho đến phút cuối cùng. Mà dù có nói, tôi cũng sẽ không kể hết mọi thứ. Ông sẽ không có cách nào biết được bao nhiêu là tất cả. Tôi nói sai không?"

Nói thế chẳng qua để dọa thôi, nhưng làm vậy là hợp lý trong hoàn cảnh này. Khoảng yên lặng không chắc chắn theo sau đó chứng tỏ tôi đã ghi thêm ình được vài điểm.

"Nói chuyện với cậu rất buồn cười," người đàn ông nói. "Kịch bản của cái kẻ mơ mộng là cậu thống thiết một cách thú vị. À mà này, chúng ta hãy nói chuyện gì khác đi."

Người đàn ông rút trong túi ra một chiếc kính lúp đặt lên bàn.

"Hãy xem xét bức ảnh hết sức cẩn thận."

Tôi cầm bức ảnh trong tay trái và kính lúp trong tay phải, kiểm tra bức ảnh một cách có phương pháp. Vài con cừu đang nhìn về hướng này, vài con nhìn theo hướng đối diện, vài con cắm cúi ăn cỏ. Một cảnh gợi cho ta nhớ đến một buổi họp lớp cũ tẻ nhạt. Tôi kiểm tra từng con cừu một, xem xét vị trí cỏ, rồi từng cây bu lô ở hậu cảnh, đám núi non đằng sau đó, những đám mây mỏng nhẹ trên trời. Không có điều gì bất bình thường. Tôi ngẩng lên khỏi bức ảnh và kính lúp.

"Cậu có thấy điều gì bất bình thường không?"

"Không chút nào," tôi nói.

Người đàn ông không tỏ ra mảy may thất vọng.

"Tôi nhớ mang máng cậu theo chuyên ngành sinh học tại trường đại học," người đàn ông nói. "Cậu biết được bao nhiêu về cừu?"

"Hầu như không biết gì. Chủ yếu tôi học toàn mấy thứ chuyên ngành vô dụng."

"Nói tôi nghe những gì cậu biết."

"Thuộc bộ guốc chẵn, ăn cỏ và sống thành bầy. Tôi nghĩ là được du nhập vào Nhật đầu thời Minh Trị. Được sử dụng làm nguồn lấy lông và thịt. Chỉ có vậy thôi."

"Tốt lắm," người đàn ông nói. "Dù sao tôi cũng muốn có một đính chính nhỏ: cừu không được du nhập vào Nhật đầu thời Minh Trị, mà trong triều An Chính. Tuy nhiên, trước đó, như cậu nói: không hề có cừu ở Nhật Bản. Đúng là có một số ý kiến cho rằng chúng được mang từ Trung Hoa sang trong thời Bình An, nhưng ngay cả nếu đúng là thế thì chúng đã chết hết trong khoảng giữa hai thời kỳ. Vì thế cho đến thời Minh Trị, chỉ vài người Nhật đã từng trông thấy cừu hoặc nhận thức được cừu là con gì. Cho dù cừu khá nổi tiếng với tư cách là một trong mười hai con giáp trong lịch cổ Trung Hoa, song không ai biết đích xác nó là loại vật gì. Nói vậy có nghĩa, nó có lẽ cũng là một con vật tưởng tượng như rồng hay phượng hoàng. Trên thực tế, những bức tranh cừu do người Nhật trước thời Minh Trị vẽ giống như những con vật quái dị được hư cấu hoàn toàn. Có thể nói là kiến thức người ta biết về cừu cũng tương tự như H. G. Wells biết về người sao Hỏa.

"Thậm chí ngày nay, người Nhật hiểu biết hết sức ít ỏi về cừu. Nói thế có nghĩa cừu là một loài vật không hề có mối liên hệ lịch sử nào với đời sống thường ngày của người Nhật. Cừu được nhập khẩu từ Mỹ ở cấp quốc gia, được nuôi trong một khoảng thời gian ngắn, rồi nhanh chóng bị bỏ quên. Đó là con cừu của cậu đấy. Sau chiến tranh, khi việc nhập khẩu len và thịt cừu từ Úc và New Zealand được tự do hóa, giá trị của việc nuôi cừu ở Nhật tụt xuống số không. Một con vật thảm thương, cậu có nghĩ thế không? Đây, như thế đó, chính là hình ảnh của nước Nhật hiện đại.

"Nhưng tất nhiên tôi không có ý lên lớp với cậu về tính dương dương tự đắc của nước Nhật hiện đại. Có hai điều tôi muốn cậu nhớ kỹ: một là, trước khi kết thúc thời kỳ phong kiến có lẽ không có một con cừu nào trên toàn nước Nhật, hai là, một khi được nhập khẩu, cừu chịu sự kiểm soát nghiêm ngặt của chính phủ. Và hai điều đó có nghĩa là gì?"

Đó không phải là câu hỏi tu từ; nó được đặt ra cho tôi. "Rằng nguồn gốc mỗi một loại cừu ở Nhật đều được ghi lại," tôi đáp.

"Chính xác. Tôi có thể thêm vào điểm đó là việc gây giống cừu cũng quan trọng như với ngựa đua, khiến vấn đề truy tìm phả hệ trở nên đơn giản. Nói cách khác, ở đây chúng ta có một con vật được quản lý chặt chẽ. Việc lai tạo với các giống khác có thể được kiểm tra dễ dàng. Không có chuyện buôn lậu. Không ai điên muốn chuốc lấy vạ vào thân mà đi nhập khẩu cừu. Nói về các giống cừu, ở Nhật có giống Southdown, Corriedale, Cheviot, Romanovsky, Ostofresian, Border Leicester, Romney Marsh, Lincoln, Dorset Horn, Suffolk, và chừng đó thôi. Sau khi ghi nhớ những điều đó," người đàn ông nói, "tôi muốn cậu nhìn lại bức ảnh."

Một lần nữa tôi cầm bức ảnh và kính lúp trong tay.

"Nhớ nhìn cẩn thận con cừu thứ ba từ phải sang ở hàng đầu."

Tôi cầm kính lúp săm soi trên con cừu thứ ba từ phải sang ở hàng đầu. Nhìn nhanh sang con cừu cạnh nó, rồi quay trở lại con cừu thứ ba từ phải sang.

"Và giờ thì cậu có thể nói được điều gì đây?" người đàn ông hỏi.

"Nó là một giống khác, đúng vậy không?" tôi nói.

"Đúng thế. Ngoài con cừu đặc biệt đó ra, tất cả các con khác đều là cừu giống Suffolk thông thường. Chỉ mình con cừu ấy là khác. Nó chắc nịch hơn con cừu giống Suffolk nhiều, và lông nó màu khác. Và mặt nó không màu đen. Có gì đó ở nó cho người ta ấn tượng là nó có uy quyền hơn. Tôi đưa bức ảnh này ột chuyên gia nghiên cứu về cừu, ông ấy kết luận là con cừu này không tồn tại ở Nhật Bản. Hay thậm chí ở bất cứ đâu trên thế giới. Vì thế những gì cậu đang nhìn đây là một con cừu đúng ra không nên tồn tại."

Tôi vớ chiếc kính lúp xem xét lần nữa con cừu thứ ba từ phải sang. Khi xem xét kỹ, ở đó, giữa lưng con cừu, trông có vẻ như có một vết ố màu cà phê nhạt. Mờ mờ không rõ ràng, nó có thể là vết xước trên phim. Có thể là mắt tôi lại đang giở trò với tôi. Hay có lẽ ai đó đã thật sự đánh đổ cà phê lên lưng con cừu.

"Có một vết ố mờ trên lưng nó."

"Đó không phải là vết ố," người đàn ông nói, "Đó là một dấu chàm hình ngôi sao. Hãy so sánh nó với cái này."

Người đàn ông lôi một trang photo từ trong phong bì ra đưa thẳng cho tôi. Đó là bản sao một bức vẽ cừu. Có vẻ như được vẽ bằng bút chì đậm, với những vết ngón tay màu đen trên khắp phần giấy còn lại. Vẽ như trẻ con, tuy thế ở bức vẽ có một vẻ gì đó bắt người ta phải chú ý. Các chi tiết được vẽ hết sức cẩn thận. Hơn thế, con cừu trong bức ảnh và con cừu trong tranh rõ ràng là một. Dấu chàm hình ngôi sao chính là vết ố.

"Giờ hãy nhìn cái này," người đàn ông vừa nói vừa lôi một chiếc bật lửa từ trong túi ra đưa cho tôi. Đó là một chiếc bật lửa hiệu Dupont được chế tạo đặc biệt, nặng, chắc nịch, bằng bạc, được khắc cùng một biểu tượng cừu tôi thấy trong xe limousine. Không còn nghi ngờ gì nữa, dấu chàm hình ngôi sao trên lưng con cừu, rõ như ban ngày.

Tôi bắt đầu thấy đau đầu.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,372
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 18: PHẦN 6: Câu chuyện kì lạ của người đàn ông kì lạ tiếp diễn


"Chỉ mới ban nãy, tôi có ám chỉ đến sự tầm thường của cậu," người đàn ông nói, "Điều này không hề có ý chỉ trích cậu chút nào. Hoặc nói đơn giản hơn, bởi vì bản thân thế giới thật tầm thường đến mức cậu cũng tầm thường như thế. Cậu có đồng ý không?"

"Xin lỗi?"

"Thế giới tầm thường. Về chuyện đó thì không thể nhầm được. Nhưng vậy thì, liệu thế giới có tầm thường từ thời thượng cổ? Không. Thủa ban đầu, thế giới hỗn mang, mà hỗn mang thì không phải tầm thường. Sự tầm thường hóa bắt đầu khi người ta tách biệt công cụ sản xuất ra khỏi cuộc sống thường nhật. Khi Karl Marx thừa nhận giai cấp vô sản, ông vì thế đã củng cố sự tầm thường của họ. Và cũng chính bởi điều này, chủ nghĩa Stalin có mối liên hệ trực tiếp với chủ nghĩa Marx. Tôi coi trọng Marx, ông là một trong những thiên tài hiếm hoi có trí nhớ mở rộng đến tận thời hỗn mang tiền sử. Và tương tự như vậy, tôi đánh giá cao Dostoyevsky. Tuy vậy, tôi không tán thành chủ nghĩa Marx. Nó quá tầm thường."

Người đàn ông nén lại một âm thanh khe khẽ phát ra từ sâu trong cổ họng.

"Tôi, ngay lúc này đây, đang nói cực kỳ thành thật. Tôi coi điều này như một cử chỉ trả ơn đối với sự thành thật lúc trước của cậu. Hơn nữa, tôi sẽ đồng ý làm sáng tỏ bất cứ nghi ngại nào gọi là thành thật của cậu. Nhưng hãy hiểu rằng khi tôi nói xong, quyền lựa chọn để ngỏ cho cậu sẽ trở nên cực kỳ giới hạn. Xin hãy hiểu trước điều này. Nói đơn giản hơn, cậu đang đánh bạc với chính bản thân mình đó. Chúng ta đồng ý chứ?".

"Tôi có lựa chọn gì?" tôi hỏi.

"Ngay lúc này đây, một ông già đang nằm chờ chết trong trang viên này," ông ta bắt đầu. "Nguyên nhân rất rõ ràng. Đó là một khối u khổng lồ trong não ông. Một khối u đủ lớn để làm biến dạng chính hình dạng bộ não của ông. Cậu biết đến đâu về thần kinh học?"

"Hầu như không biết tí gì."

"Vậy thì, nói đơn giản, đó là một quả bom máu. Lưu thông máu bị tắc dẫn đến não sưng lên bất thường. Giống như một con rắn nuốt quả bóng chơi golf. Nếu nó nổ tung, bộ não sẽ ngừng hoạt động. Tuy thế hoàn toàn không thể mổ. Một sự kích thích nhỏ nhất cũng có thể khiến nó nổ tung. Nói một cách thực tế, chúng tôi chỉ có thể chờ đợi và nhìn ông ấy chết. Ông ấy có thể chết trong vòng một tuần nữa, hoặc cũng có thể một tháng nữa. Không ai có thể nói được."

Người đàn ông nói từ từ và thở ra.

"Không có gì kỳ quặc về việc ông ấy đang nằm chờ chết. Ông ấy già rồi, bệnh tình của ông ấy đã được xác định rõ. Điều kỳ quặc là ông ấy đã sống lâu đến thế này."

Tôi không thề có chút khái niệm mơ hồ nhất về những điều ông ta đang cố diễn đạt.

"Sự thật là, nếu ông ấy chết ba mươi hai năm trước thì cũng chẳng có gì sai," Người đàn ông tiếp tục. "Hoặc thậm chí bốn mươi hai năm trước. Cái khối u ấy lần đầu tiên được các bác sĩ quân y Mỹ phát hiện khi tiến hành kiểm tra sức khỏe tội phạm chiến tranh Loại A. Chuyện này là vào mùa thu năm 1946, trước Tòa án Tội phạm Chiến tranh Tokyo. Viên bác sĩ phát hiện ra nó khá hoảng khi trông thấy bản chụp X-quang. Có một khối u khổng lồ như thế trong não mà vẫn sống – lại còn năng động hơn người bình thường ấy là chuyện thách thức tất cả lẽ thường của y học. Ông ấy được chuyển từ Sugamo đến bệnh viện quân y ngày đó, St. Luke, để làm xét nghiệm đặc biệt.

"Các xét nghiệm kéo dài trong một năm, mặc dù rốt cuộc họ không làm được gì hết. Chỉ có điều nếu ông ấy có chết thì cũng không ai ngạc nhiên, vì việc ông ấy vẫn sống sờ sờ ra đó hoàn toàn là một bí ẩn. Tuy vậy ông ấy không cho thấy dấu hiệu ốm yếu tàn tật gì sau đó, ông tiếp tục sống với một sinh khí phi thường. Hơn nữa, tất cả các hoạt động của não đều bình thường một cách vượt bậc. Họ không biết phải giải thích thế nào. Bế tắc. Đây là một người mà theo lý thuyết đã phải chết rồi, tuy vậy vẫn sống và đi lại bình thường.

"Tất nhiên họ làm sáng tỏ một số triệu chứng đặc biệt. Ông ấy bị nhức đầu kéo dài ba ngày, cơn nhức đầu cứ đến và đi theo chu kỳ bốn mươi ngày. Theo miêu tả của ông, những cơn nhức đầu bắt đầu từ năm 1936, họ phỏng đoán đấy là thời gian khối u lần đầu xuất hiện. Ông nhức đầu không chịu đựng được, đến nỗi ông phải cần thuốc giảm đau. Tóm lại là, thuốc ngủ. Thuốc ngủ làm giảm các cơn đau nhưng lại gây ra ảo giác. Ảo giác bị đè nén ở mức độ cao. Chỉ có mình ông ấy biết chính xác những gì ông ấy trải qua, nhưng dường như chúng không dễ chịu chút nào. Quân đội Mỹ vẫn còn lưu giữ bản miêu tả tỉ mỉ các trải nghiệm ảo giác này. Các bác sĩ hiển nhiên đã quan sát vô cùng tỉ mỉ. Tôi có được những thứ này qua một kênh đặc biệt và đã đọc chúng vài lần, mặc dù dùng ngôn ngữ lâm sàng nhưng các bản này miêu tả một chuỗi hiện tượng làm cho người ta kiệt sức. Tôi ngờ rằng ít người có thể chịu đựng như ông ấy đã từng chịu các trải nghiệm lặp đi lặp lại của thứ ảo giác đó.

"Không ai biết được tại sao những ảo giác này lại xuất hiện. Có lẽ khối u tiết ra năng lượng theo chu kỳ và những cơn nhức đầu là phản ứng của cơ thể. Vì thế khi cái thứ đệm phản hồi ấy bị dỡ bỏ, năng lượng trực tiếp kích thích những phần nhất định của não, gây ra ảo giác. Tất nhiên, đây chỉ là một giả thuyết, nhưng đó là một giả thuyết khiến người Mỹ quan tâm. Đủ để họ bắt đầu những xét nghiệm kỹ lưỡng. Những cuộc xét nghiệm tối mật của Cục Tình báo. Ngay cả bây giờ chúng ta cũng không rõ tại sao Cục Tình báo Mỹ lại nhảy vào điều tra một khối u của một người; tuy nhiên, chúng ta có thể đưa ra vài khả năng.

"Khả năng thứ nhất, liệu có thể họ đã tiến hành các cuộc thẩm vấn tinh vi nào đó dưới vỏ bọc xét nghiệm y học? Tức là, đảm bảo các đường dây gián điệp và các đường thuốc phiện trên đại lục Trung Hoa. Hãy nhớ rằng thất bại cuối cùng của Tưởng Giới Thạch có nghĩa là Mỹ mất đi mối quan hệ với Trung Hoa. Nhưng không cần phải nói cũng biết những cuộc tra hỏi này không thể để lộ ra công chúng. Trên thực tế, sau chuỗi xét nghiệm này, Ông Chủ được thả mà không phải hầu tòa. Có thể hiểu là một cuộc dàn xếp đã được bí mật thỏa thuận. Chúng ta có thể gọi đó là trao đổi thông tin lấy tự do.

"Khả năng thứ hai là họ muốn bóc trần mối quan hệ qua lại giữa tính lập dị rõ rệt của ông với tư cách là nhà lãnh đạo cánh hữu và khối u. Tôi sẽ đi sâu vào khả năng này với cậu sau, nhưng đó là một hướng tư duy kỳ lạ hơn. Dù tôi ngờ là họ chưa bao giờ khám phá được bất kỳ thứ gì. Liệu có thật họ tưởng rằng mình có thể khám phá một điều gì đó thuộc loại đó khi cái sự thật cơ bản hơn rằng ông vẫn sống vẫn còn là điều bí ẩn? Nếu không mổ xác khám nghiệm thì họ không có cách nào để tìm thấy bất kỳ thứ gì. Vậy nên, đây lại là một tình trạng bế tắc nữa.

"Khả năng thứ ba liên quan đến tẩy não. Có lẽ, ý tưởng là bằng cách phát ra một loại sóng kích thích đã được định sẵn vào trong não bộ, họ có thể khơi gợi được một phản ứng đặc biệt. Ngày đó họ đang thực hiện các thí nghiệm dạng đó. Người ta mới biết là trên thực tế có một nhóm nghiên cứu về tẩy não tại thời điểm đó.

"Không rõ hướng tư duy nào trong ba hướng trên đại diện cho chỉ thị chủ yếu của Cục Tình báo. Cũng không rõ là liệu các cố gắng của họ, chúng ta cứ tạm gọi thế, dẫn đến kết quả gì. Mọi thứ đều bị chôn vùi trong lịch sử. Những người duy nhất biết được sự thật là một nhóm số ít các thành viên ưu tú trong Quân đội Mỹ và bản thân Ông Chủ. Cho đến nay, Ông Chủ chưa bao giờ nói một lời nào về chuyện này với bất kỳ ai, kể cả với tôi, và không chắc rằng ông ấy sẽ có lúc nói ra."

Khi nói xong, người đàn ông hắng giọng. Tôi quên mất không biết bao nhiêu thời gian đã trôi qua kể từ khi bước vào phòng.

"Vào mùa đông năm 1932, Ông Chủ bị cầm tù về tội đồng lõa trong kế hoạch ám sát một nhân vật chủ chốt. Ông bị cầm tù cho đến tháng Sáu năm 1936. Sổ sách chính thức của nhà tù và y bạ vẫn còn, và ông thi thoảng có đề cập đến chuyện này. Nhìn thoáng qua cho thấy: hầu hết cả quãng thời gian trong tù, Ông Chủ bị chứng mất ngủ trầm trọng. Hoặc có lẽ còn tệ hơn chứng mất ngủ thông thường. Đây là chứng mất ngủ đã được nâng đến mức độ đặc biệt nguy hiểm. Có lúc cứ ba hoặc bốn ngày liền, thậm chí có lúc gần một tuần, ông không thể nhắm măt lấy một lần. Hồi đó cảnh sát buộc tội phạm chính trị phải khai nhận bằng cách không cho họ ngủ. Đối với trường hợp của Ông Chủ, các cuộc hỏi cung càng khắc nghiệt hơn nữa bởi ông có liên quan đến phe đối lập chống lại quân phiến loạn ủng hộ phái bảo hoàng và bên cầm quyền. Nếu tù nhân cố ngủ, họ sẽ hắt nước lên anh ta, đánh anh ta bằng gậy tre hoặc chiếu anh đèn sáng lóa mắt anh ta, bất cứ thứ gì hòng đập vỡ cái lịch ngủ ra thành từng mảnh. Hầu hết người ta suy sụp nếu chế độ đó duy trì trong vòng vài tháng. Trí óc điều khiển giấc ngủ của họ bị hủy diệt một cách hiệu quả. Họ chết hoặc phát điên hoặc trở thành những kẻ mất ngủ cực độ. Ông Chủ đi theo hướng cuối cùng. Mùa xuân năm 1936, ông hồi phục hoàn toàn khỏi chứng mất ngủ. Đó cũng là khoảng thời gian khối u xuất hiện. Cậu nghĩ như thế nào về chuyện đó?"

"Mất ngủ cực độ vì một lý do nào đó phá vỡ dòng máu lưu thông trong não, do đó tạo nên khối u, đúng vậy không?"

"Đó dường như là một giả thuyết hợp lý nhất, có nghĩa nhất. Và vì một người không phải chuyên gia còn nghĩ vậy nên cậu có thể chắc chắn rằng các bác sĩ Quân đội Mỹ cũng nghĩ vậy. Tuy nhiên, chỉ riêng lời giải thích đó thì không hoàn toàn đầy đủ. Có gì khiếm khuyết ở đây. Tôi không khỏi nghĩ rằng hiện tượng khối u là biểu hiện thứ yếu của một nhân tố quan trọng hơn. Ví dụ, chú ý là trong số vài người được biết mang một khối u tương tự, không ai có triệu chứng giống như vậy. Hơn nữa, lời giải thích không đưa ra nguyên nhân tại sao Ông Chủ tiếp tục sống."

Không còn nghi ngờ gì nữa, những gì người đàn ông nói là hoàn toàn logic.

"Có một điều còn kỳ lạ hơn về khối u. Bắt đầu từ mùa xuân năm 1936, Ông Chủ, nói theo cách ngôn, như được tái sinh, thành một người mới. Trước đó, Ông Chủ nói thẳng ra chỉ là một nhà hoạt động cánh hữu tầm thường. Là con trai thứ ba trong một gia đình nông dân nghèo ở Hokkaido, ông rời nhà khi mười hai tuổi rồi đến Triều Tiên, nhưng cũng không tìm được chốn dung thân ở đó, vì thế ông trở lại quê hương và gia nhập một nhóm cánh hữu. Có vẻ như hồi đó ông là một thanh niên nổi giận, không ngớt vung kiếm samurai. Rất có thể ông hầu như không biết đọc. Tuy vậy, vào mùa hè năm 1936, khi ông được thả khỏi nhà tù, ông đã leo đến đỉnh phe cánh hữu, với tất cả mọi nghĩa của từ này. Ông có sức lôi cuốn quần chúng, một ý thức hệ vững vàng, sức mạnh diễn thuyết khiến ta đáp lại đầy nhiệt huyết, có sự khôn khéo về mặt chính trị, quyết đoán, và trên hết, khả năng định hướng xã hội bằng cách sử dụng điểm yếu của đám đông để làm động lực đòn bẩy."

Người đàn ông thở một hơi và hắng giọng lần nữa.

"Tất nhiên, với tư cách là một nhà tư tưởng cánh hữu, lý thuyết và khái niệm về thế giới của ông hơi trẻ con. Tuy nhiên, điều đó hầu như không quan trọng. Câu hỏi thật sự là ông có thể tổ chức đội ngũ đằng sau những lý thuyết ấy đến mức độ nào. Hãy nhìn cách thức Hitler lấy những khái niệm nửa vời như không gian sống (lebensraum) và thượng đẳng chủng tộc để tổ chức chúng trên bình diện quốc gia.

Tuy nhiên, Ông Chủ không đi theo con đường đó. Con đường ông chọn kín đáo hơn – một lối đi trong bóng râm. Ông thao túng xã hội từ phía sau hậu trường, không bao giờ lộ ra giữa thanh thiên bạch nhật. Và vì lý do đó, vào năm 1937, ông qua Trung Hoa đại lục. Nhưng ngay cả như vậy – mà thôi, chuyện này tạm dừng ở đây đã. Trở lại chuyện khối u, những gì tôi muốn nói là thời gian khối u xuất hiện trùng khớp chính xác với thời gian ông ấy trải qua một sự thay đổi bản thân kỳ diệu."

"Trong giả thuyết của ông," tôi nói, "không có mối quan hệ nhân quả nào giữa khối u và sự thay đổi bản thân; thay vào đó hai thứ chịu sự quản lý song song của một nhân tố có quyền lực cao hơn bí ẩn nào đó."

"Cậu nắm bắt nhanh đấy," người đàn ông nói. "Chính xác và đi thẳng vào vấn đề."

"Vậy thì khi nào con cừu xuất hiện trong chuyện của ông?"

Người đàn ông lấy điếu thuốc thứ hai từ chiếc hộp trên bàn và dùng móng tay búng nhẹ trước khi đưa nó lên môi. Ông ta không châm thuốc. "Chúng ta hãy xem xét mọi thứ tuần tự," ông ta nói.

Một sự yên lặng nặng nề bao trùm.

"Chúng tôi đã xây dựng một vương quốc," người đàn ông lại bắt đầu. "một vương quốc ngầm hùng mạnh. Chúng tôi lôi kéo mọi thứ vào trong vương quốc đó. Chính trị, tài chính, truyền thông đại chúng, bộ máy quan liêu, văn hóa, tất cả những thứ cậu chưa bao giờ dám mơ tới. Chúng tôi thậm chí còn kiểm soát cả các bên thù địch với chúng tôi. Từ tổ chức đến phi tổ chức, tất thảy mọi thứ. Thậm chí ít người, nếu không muốn nói là không có ai, nhận ra điều đó. Nói cách khác, chúng tôi tự mình nắm trong tay một tổ chức cực kỳ tinh vi. Tất cả những thứ đó đều được một tay Ông Chủ tạo dựng nên sau chiến tranh. Tóm lại, ông nắm toàn quyền thống trị trong khoang ngầm của chiếc tàu khổng lồ mà người ta gọi là Nhà nước. Nếu ông tháo nút ra, cả con tàu sẽ chìm. Hành khách và tất cả, sẽ mất tích trong đại dương, và chắc chắn trước khi bất cứ ai nhận thức được sự thật đó."

Đến đó người đàn ông châm thuốc.

"Tuy nhiên, tổ chức này có giới hạn của nó. Đó là, cái chết của ông vua. Khi vua chết, vương quốc sụp đổ. Cậu thấy đấy, vương quốc được xây dựng và duy trì trên sự tài trí của một người đàn ông này. Theo đánh giá của tôi, chính để nói rằng nó được xây dựng và giữ vững bởi cái nhân tố kỳ bí ấy. Nếu Ông Chủ chết, điều đó có nghĩa kết thúc mọi thứ, vì tổ chức của chúng tôi không phải bộ máy quan liêu, mà là một cỗ máy được vận hành hoàn hảo với một trí tuệ tột đỉnh. Đây chính là sức mạnh và cũng là điểm yếu của tổ chức chúng tôi. Hoặc đúng ra, đã là. Cái chết của Ông Chủ không chóng thì chày sẽ làm tổ chức vỡ ra từng mảnh, và giống như một lâu đài Valhalla[1] bị lửa thiêu rụi, nó sẽ rơi vào biển tầm thường. Không ai có thể thay thế Ông Chủ. Tổ chức sẽ tan rã – một cung điện huy hoàng bị phá trụi để lấy chỗ ột khu chung cư. Một thế giới của sự đơn điệu và chắc chắn. Mặc dù có lẽ người ta sẽ nghĩ đó là phù hợp và đứng đắn. Phân chia công bằng và mọi thứ. Nhưng hãy nghĩ mà xem. Cả nước Nhật bị san bằng núi non, bờ biển hay hồ, ngổn ngang những dãy nhà chung cư giống hệt nhau. Liệu như thế có đúng không?"

"Tôi không biết," tôi nói. "Tôi thậm chí còn không biết là bản thân câu hỏi có nghĩa không nữa?".

"Một câu trả lời thông minh," người đàn ông nói, gập những ngón tay trên lòng. Đầu ngón tay gõ nhẹ một nhịp điệu chậm rãi. "Cậu biết đấy, tất cả câu chuyện về chung cư này, chỉ để tranh luận mà thôi. Chính xác hơn, tổ chức chúng tôi có thể được chia làm hai yếu tố. Bộ phận dịch chuyển lên phía trước và bộ phận chèo lái nó lên phía trước. Theo tự nhiên, có các bộ phận khác quản lý các chức năng khác. Tuy nhiên, nếu tạm chia, tổ chức chúng tôi được tạo thành bởi hai bộ phận này. Các bộ phận khác hầu như không đáng kể. Phần ở phía trước là Ý chí, và phần hỗ trợ cho phần ở phía trước là Lợi ích. Khi người ta nói về Ông Chủ, họ chỉ chăm chăm nói về phần Lợi ích của ông. Và sau khi Ông Chủ chết, chính là phần Lợi ích này sẽ khiến mọi người ầm ĩ lên tranh nhau chiếm phần. Không ai muốn phần Ý chí, vì không ai hiểu được nó. Ở đây chúng ta thấy được ý nghĩa thật sự của những gì có thể và không thể sẻ chia. Ý chí không thể sẻ chia. Nó hoặc sẽ được chuyển giao hoàn toàn, hoặc mất đi hoàn toàn."

Ngón tay người đàn ông tiếp tục gõ nhẹ nhịp điệu chậm rãi ấy trên lòng. Ngoài điều đó ra, mọi thứ ở ông ta vẫn giữ nguyên không thay đổi từ đầu. Vẫn cái nhìn chằm chằm ấy, vẫn đôi con ngươi lạnh băng, vẫn bộ mặt nhẵn nhụi, vô cảm ấy. Bộ mặt quay về phía tôi với cùng góc độ trong suốt quãng thời gian.

"Cái ý chí này là như thế nào?", tôi hỏi

"Một khái niệm điều khiển thời gian, điều khiển không gian, và điều khiển khả năng."

"Tôi không hiểu."

"Tất nhiên, chỉ vài người hiểu. Chỉ có Ông Chủ là hiểu nó một cách gần như bản năng. Người ta thậm chí có thể nói ông ấy phủ nhận sự tự nhận thức, do đó ông nhận ra ở cùng một sự việc một điều gì đó hoàn toàn mang tính cách mạng. Nói đơn giản cho cậu hiểu, cuộc cách mạng của ông ấy là một cuộc cách mạng lao động sáp nhập tư bản và tư bản sáp nhập lao động."

"Một ảo tưởng."

"Hoàn toàn ngược lại. Chính sự nhận thức mới là ảo tưởng," người đàn ông cắt ngang. "Cứ cho là như vậy, mọi điều tôi nói với cậu bây giờ chỉ đơn thuần là lời nói. Cho dù tôi có sắp xếp và bố trí lại chúng, tôi sẽ không bao giờ có thể giải thích cho cậu hình thức của Ý chí mà Ông Chủ sở hữu. Lời giải thích của tôi sẽ chỉ cho thấy mối liên hệ giữa bản thân tôi và cái ý chí đó thông qua liên hệ trên bình diện ngôn từ. Sự phủ nhận nhận thức vì thế tỷ lệ với sự phủ nhận ngôn ngữ. Và khi hai cột trụ của chủ nghĩa nhân văn phương Tây, nhận thức cá nhân và tính liên tục biến hóa, mất đi ý nghĩa, thì ngôn ngữ mất đi ý nghĩa. Cá thể như chúng ta vẫn biết sẽ không còn tồn tại, và tất cả trở nên hỗn độn. Con người ta thôi không còn là một thực thể độc đáo không thể lặp lại nữa, mà tồn tại đơn thuần như một hỗn độn. Và không chỉ bản thân mình là sự hỗn độn; sự hỗn độn của người này cũng chính là sự hỗn độn của người kia. Tóm lại, tồn tại là giao tiếp, và giao tiếp là tồn tại."

Bỗng nhiên căn phòng trở nên lạnh, và tôi có cảm giác không thể diễn tả nổi là một cái giường ấm áp dễ chịu đã được chuẩn bị sẵn ở một bên cho tôi. Ai đó đang vẫy tay ra hiệu cho tôi dưới tấm chăn.

Một ảo ảnh, tất nhiên rồi. Giờ vẫn còn là tháng chín. Bên ngoài, hàng ngàn con ve sầu không đếm xuể đang kêu ra rả.

"Việc mở rộng nhận thức mà thế hệ cậu trải qua hoặc ít nhất mong muốn trải qua vào cuối thập kỷ sáu mươi kết thúc thất bại một cách trọn vẹn và hoàn toàn bởi vì nó vẫn còn bắt rễ chặt ở cá nhân. Nghĩa là, nếu chỉ cố gắng mở rộng riêng nhận thức mà thôi, không tính đến bất kỳ thay đổi nào về lượng cũng như về chất ở cá nhân, rốt cuộc tất phải thất bại. Tôi nói tầm thường là muốn nói về cái đấy. Làm sao tôi có thể khiến cậu hiểu được điều này? Không phải là tôi đặc biệt mong cậu hiểu. Chỉ là tôi đang cố gắng nói chuyện một cách thành thật...

"Về bức tranh tôi đưa cậu xem lúc trước," người đàn ông nói. "Đó là bản một bức tranh từ hồ sơ bệnh án bệnh viện quân y Mỹ. Nó đề ngày 27 tháng Bảy, năm 1946. Bức tranh do Ông Chủ chính tay vẽ theo yêu cầu của bác sĩ. Như một mắt xích trong quá trình chứng minh bằng tư liệu các trải nghiệm ảo giác. Trên thực tế theo hồ sơ bệnh án, con cừu này xuất hiện với tần suất cao đáng kể trong ảo giác của Ông Chủ. Nói về mặt con số, con cừu xuất hiện xấp xỉ khoảng tám mươi phần trăm trong ảo giác của ông ấy, hay bốn lần trong số năm ảo giác. Mà không phải bất kỳ con cừu nào. Chính là con cừu có màu hạt dẻ với hình ngôi sao trên lưng.

"Vậy là Ông Chủ bắt đầu sử dụng con cừu này, nó được khắc trên bật lửa, như gia huy cá nhân từ năm 1936 trở đi. Tôi tin là cậu để ý thấy con cừu này giống hệt con cừu trong hồ sơ bệnh án. Mà cũng lại chính là con cừu trong bức ảnh của cậu. Kỳ lạ vô cùng, cậu có nghĩ thế không?"

"Trùng lặp đơn thuần thôi," tôi nói vội. Tôi cố ý làm ình nghe có vẻ ngầu, nhưng không hoàn toàn thành công.

"Còn nữa," người đàn ông tiếp tục. "Ông Chủ là một nhà sưu tập nhiệt thành tất cả các tư liệu tra cứu có thể liên quan đến cừu, trong nước hay nước ngoài. Mỗi tuần một lần, ông xem xét kỹ các bài báo cắt ra liên quan đến cừu được thu nhặt từ mọi tờ báo và tạp chí xuất bản tuần đó ở Nhật. Tôi luôn giúp ông một tay trong chuyện này. Ông Chủ nhấn mạnh tầm quan trọng của các bài báo ấy. Cứ như thể ông đang tìm kiếm một điều gì đó. Và kể từ khi Ông Chủ lâm bệnh, tôi tiếp tục cố gắng này trên bình diện cá nhân. Tôi thực tế đã rất quan tâm đến việc này. Ai biết được điều gì sẽ được làm sáng tỏ? Đó là cách cậu liên quan đến sự việc. Cậu và con cừu của cậu. Dù có nhìn nhận vấn đề dưới góc độ nào thì đây cũng không phải là một sự tình cờ."

Tôi giữ bật lửa thằng bằng trong tay. Cảm giác ấy thật tuyệt vời. Không quá nặng; không quá nhẹ. Thử nghĩ mà xem trên đời lại có một trọng lượng hoàn hảo như vậy.

"Cậu nghĩ tại sao Ông Chủ cứ kiên quyết đi tìm con cừu đó? Co ý kiến gì không?"

"Không có ý kiến gì hết," tôi nói. "Hỏi Ông Chủ sẽ nhanh hơn."

"Nếu tôi có thể hỏi ông, tôi đã hỏi rồi. Ông Chủ đang trong trạng thái hôn mê đã hai tuần qua. Rất có thể ông sẽ không bao giờ tỉnh lại. Và nếu Ông Chủ chết, bí ẩn về con cừu với ngôi sao trên lưng sẽ bị chôn vùi cùng ông mãi mãi. Chắc chắn tôi sẽ không đứng nhìn và để diều đó xảy ra. Không phải vì lý do mất mát cá nhân, mà là cho lợi ích lớn hơn của mọi người."

Tôi nghiêng mở nắp bật lửa, đánh lửa, rồi đóng nắp lại.

"Tôi chắc chắn cậu nghĩ rằng tất cả những điều tôi đang nói là một mớ vô nghĩa. Và có lẽ đúng thế. Có thể chúng đúng là hoàn toàn vô nghĩa. Nhưng hãy thử nghĩ coi, đây có thể là toàn bộ những gì còn sót lại cho chúng tôi. Ông Chủ sẽ chết. Cái ý chí ấy sẽ chết. Rồi mọi thứ quanh cái ý chí ấy sẽ tàn lụi. Tất cả những gì còn lại sẽ là những gì có thể cân đo đong đếm. Không còn sót lại gì nữa. Đó là lý do tại sao tôi muốn tìm con cừu đó."

Lần đầu tiên ông ta nhắm mắt lại vài giây, không nói gì trong chốc lát. Rồi: "Nếu tôi có thể đưa ra giả thuyết của mình – một giả thuyết và không có gì hơn, hãy quên là tôi từng nói nó nếu nó không có ý nghĩa gì với cậu – tôi không thể không cảm thấy rằng con cừu của chúng ta ở đây đã tạo nên cái khung cơ bản của Ý chí của Ông Chủ."

"Nghe cứ như là bánh quy hình thú vật," tôi nói.

Người đàn ông không thèm để ý đến lời bình luận của tôi.

"Rất có thể con cừu đã tìm được cách nhập vào người Ông Chủ. Đó hẳn là năm 1936. Và trong khoảng 40 năm sau đó, con cừu vẫn tiếp tục trú bên trong Ông Chủ. Bên trong đó, nó chắc đã tìm được một đồng cỏ, một rừng cây bu lô. Giống như trong bức ảnh. Cậu nghĩ sao?"

"Nột giả thuyết cực kỳ thú vị," tôi đáp.

"Nó là một con cừu đặc biệt. Một con cừu rất đặc biệt. Tôi muốn tìm nó và vì thế cần sự giúp đỡ của cậu."

"Vậy ông định làm gì với nó một khi ông đã tìm được nó?"

"Không làm gì cả. Có lẽ tôi không thể làm gì. Quy mô mọi chuyện quá lớn lao để tôi có thể làm bất cứ điều gì. Mong ước duy nhất của tôi là cuối cùng được tận mắt nhìn thấy nó. Và nếu con cừu đó mong muốn bất cứ thứ gì, tôi sẽ làm cho nó trong tất cả quyền hạn của mình để tuân theo ý nó. Dù thế nào đi nữa, một khi Ông Chủ qua đời, đời tôi sẽ mất đi hầu hết mọi ý nghĩa."

Đến đó ông ta lặng thinh. Tôi cũng im lặng. Chỉ có lũ ve sầu là vẫn tiếp tục kêu. Ve sầu và lá cây trong vườn xào xạc trong làm gió lúc chạng vạng. Bản thân ngôi nhà yên lặng một cách đau đớn. Như thể mầm chết đang lơ lửng đâu đây trong sự lây lan không thể ngăn chặn nổi. Tôi cố hình dung cánh đồng cỏ trong đầu Ông Chủ. Một đồng cỏ hoang vắng và bị bỏ bê, cỏ héo úa, tất cả cừu đều bỏ đi mất.

"Tôi sẽ hỏi cậu một lần nữa: nói cho tôi nghe bằng cách nào cậu có được bức ảnh," người đàn ông nói.

"Tôi không thể nói được," tôi nói.

Người đàn ông thốt ra một tiếng thở dài. "Tôi đã cố nói chuyện với cậu một cách thành thật. Vì thế tôi cứ hy vọng cậu cũng sẽ nói chuyện với tôi một cách thành thật."

"Tôi không ở vào vị thế có thể nói được. Nếu tôi nói ra có thể gây rắc rối cho người cung cấp ảnh."

"Điều đó có nghĩa là," người đàn ông ngắt lời, "cậu có cơ sở hợp lý để tin rằng một số rắc rối có thể sẽ đến với cái người có liên hệ với con cừu."

"Không có cơ sở nào hết. Tôi chỉ linh cảm thôi. Nhất định phải có một cái bẫy. Tôi cảm thấy điều đó trong suốt thời gian nói chuyện với ông. Giống như có một cái cạm bẫy ở đâu đó. Gọi đó là giác quan thứ sáu."

"Và vì thế cậu không thể nói."

"Đúng thế," tôi nói. Suy nghĩ thêm về tình thế, tôi tiếp tục. "Tôi thuộc loại chuyên gia gây rắc rối. Có thể nói tôi không kém cạnh ai trong cung cách và cách thức tạo nên rắc rối cho người khác. Tôi sống cả đời cố gắng hết sức tránh mọi thứ xảy đến như thế. Vậy mà rốt cuộc chỉ tạo thêm nhiều rắc rối hơn. Kết quả giống nhau cả thôi. Mọi thứ cứ đi xuống theo cách ấy. Tuy thế, dù tôi biết rồi sẽ giống nhau cả thôi thì vẫn không có gì thay đổi. Không gì trở thành như thế ngay từ đầu. Nó chỉ là cái cớ thoái thác."

"Tôi không chắc tôi hiểu ý cậu."

"Ý tôi là sự tầm thường có nhiều khuôn dạng."

Tôi ột điếu thuốc lên môi, châm thuốc bằng chiếc bật lửa trên tay và nhả một hơi ngắn. Tôi cảm thấy dễ chịu hơn chút ít.

"Cậu không phải nói nếu cậu không muốn," người đàn ông nói. "Thay vào đó, tôi sẽ cử cậu đi tìm con cừu. Đây là điều khoản cuối cùng giữa chúng ta. Nếu trong vòng hai tháng kể từ bây giờ cậu tìm được con cừu, chúng tôi sẵn sàng thưởng công cậu bất cứ thứ gì cậu muốn. Nhưng nếu cậu không tìm được nó, sẽ là chấm hết cho cậu và công ty của cậu. Đồng ý chứ?"

"Tôi có lựa chọn nào khác không?" tôi hỏi. "Và điều gì sẽ xảy ra nếu ngay từ đầu con cừu với ngôi sao trên lưng chưa bao giờ tồn tại?"

"Vẫn thế thôi. Đối với cậu và tôi, chỉ có một câu hỏi: liệu cậu có tìm ra con cừu hay không. Không có khoản nửa nọ nửa kia. Xin lỗi phải nói như thế này, nhưng như tôi nói chúng tôi sẽ chấp nhận đề xuất của cậu. Cậu có bóng, cậu nên cố ghi bàn vào khung thành. Thậm chí ngay cả khi hóa ra không có khung thành nào."

"Vậy quan điểm hiện tại là thế?"

Người đàn ông lôi từ trong túi ra một chiếc phong bì dày cộp đặt trước mặt tôi. "Hãy dùng số tiền này mà chi tiêu. Nếu hết tiền, gọi cho chúng tôi. Còn nhiều hơn từ nguồn tiền này. Cậu hỏi gì không?"

"Không hỏi gì, chỉ nhận xét thôi."

"Gì vậy?"

"Toàn bộ câu chuyện này chắc là chuyện nực cười nhất, khó tin nhất mà tôi từng nghe. Khi thốt ra từ miệng ông, nó có vẻ thật, nhưng tôi ngờ rằng chẳng ai tin tôi nếu tôi nói cho họ biết những gì xảy ra hôm nay."

Người đàn ông nhếch mép rất nhẹ, hầu như không thể nhận thấy. Có thể hiểu là ông ta đang mỉm cười. "Kể từ ngày mai, cậu bắt đầu vào việc. Như tôi đã nói, cậu có hai tháng kể từ hôm nay."

"Công việc hóc búa đấy. Hai tháng có thể không đủ. Tôi muốn nói là ông đang đòi hỏi tôi tìm một con cừu từ khắp các vùng thôn quê kia đấy."

Người đàn ông nhìn chằm chằm vào mặt tôi mà không nói gì. Khiến tôi cảm thấy như mình là một hồ bơi trống vắng. Một hồ bơi bẩn thỉu, vỡ rạn, trống vắng mà có lẽ sẽ không được sử dụng thêm một năm nào nữa. Ông ta nhìn tôi không chớp mắt suốt ba mươi giây đồng hồ. Rồi ông ta chậm rãi mở miệng.

"Đã đến lúc cậu phải lên đường," ông ta nói.

Quả có vẻ như thế thật.

Chú thích

[1] Lâu đài trong thần thoại Bắc Âu, nơi vị thần tối cao Odin tiếp đãi linh hồn của những anh hùng tử trận.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,372
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 19: PHẦN 6: Lại chuyện chiếc xe limousine và người lái xe


"C ậu quay trở lại văn phòng chứ? Hay đến một nơi nào khác?" người lái xe hỏi. Vẫn là người lái xe chở tôi tới đây, nhưng thái độ của bác ta giờ đây có vẻ dễ gần hơn một chút. Tôi đoán là bác ta dễ có cảm tình với mọi người.

Tôi duỗi thẳng tay chân trên chiếc ghế sau rộng thênh thang và cân nhắc xem nên đi đâu. Tôi không có ý định trở lại văn phòng. Đúng ra thì tôi vẫn còn nghỉ phép, và tôi không định cố gắng giải thích tất cả chuyện này cho đối tác của tôi. Tôi cũng không định về thẳng nhà. Ngay lúc này tôi cần một lượng kha khá những người bình thường đi trên hai chân một cách bình thường ở một chốn bình thường.

"Ga Shinjuku, cửa ra phía tây," tôi nói.

Đường chật cứng xe cộ hướng tới Shinjuku. Giờ cao điểm buổi tối, giữa vô số thứ khác. Qua một điểm nào đó xe cộ dường như dính chặt vào một chỗ, không nhúc nhích. Thỉnh thoảng một đợt sóng tràn qua các xe, làm chúng nhúc nhích được khoảng vài centimet. Tôi nghĩ về tốc độ quay của trái đất. Không biết mặt đường này quay tròn trong không trung bao nhiêu dặm một giờ? Tôi tính nhẩm nhanh trong đầu ra một con số mà có lẽ không nhanh hơn trò Tách Trà Quay tại lễ hội. Có nhiều thứ chúng ta không thật sự biết. Thật là ảo tưởng khi cho rằng chúng ta biết bất cứ điều gì. Nếu một nhóm người ngoài hành tinh có chặn tôi lại hỏi. "Này anh bạn, Trái đất quay quanh xích đạo bao nhiêu dặm một giờ?" tôi sẽ lúng túng. Chết tiệt, tôi thậm chí còn không biết tại sao thứ Tư lại sau thứ Ba. Tôi sẽ là trò cười xuyên Ngân hà mất.

Tôi đã đọc hết cuốn Sông Đông Êm Đềm và Anh Em nhà Karamazov ba lần. Tôi thậm chí còn đọc Hệ tư tưởng Đức một lần. Tôi thậm chí có thể đọc giá trị số pi tới mười sáu chữ số thập phân. Liệu tôi có vẫn sẽ là trò cười? Có thể lắm. Bọn người ngoài hành tinh sẽ cười cho thối mũi.

"Thưa, cậu có muốn nghe chút nhạc gì không?" người lái xe hỏi.

"Ý hay đấy," tôi đáp.

Và ngay lúc đó một khúc ballad của Chopin lan tỏa trong xe. Tôi có cảm giác mình đang ở trong phòng thay đồ tại một đám cưới.

"Này bác," tôi hỏi người lái xe, "Bác có biết giá trị của số pi không?"

"Cậu muốn hỏi cái số 3,14 gì gì đó ấy à?"

"Chính nó đấy. Bác biết bao nhiêu số thập phân?"

"Tôi biết đến ba mươi chữ số thập phân," người lái xe nói nhanh. "Ngoài đó ra, thì..."

"Ba mươi chữ số ư?"

"Có cả mẹo cho vụ đó, nhưng mà đúng vậy đấy. Tại sao cậu hỏi tôi thế?"

"Ồ, thật ra thì không có gì đâu," tôi nói, tiu nghỉu. "Không sao cả."

Vậy là chúng tôi nghe nhạc Chopin trong khi chiếc xe limousine nhích được chục mét. Mọi người trong các xe xung quanh nhìn cái xe khổng lồ của chúng tôi một cách thù địch. Không có gì là quá thoải mái, khi mình là tâm điểm của quá nhiều chú ý, ngay cả khi có cả cửa kính chắn sáng.

"Giao thông tệ quá," tôi nói.

"Đúng thế, nhưng chắc chắn là rạng sáng mai thôi giao thông sẽ đỡ hơn."

"Thì đành là thế, nhưng bác không thấy khó chịu à?"

"Tất nhiên rồi. Tôi cáu tiết, tôi bực mình. Nhất là khi tôi đang vội đi đâu. Nhưng tôi coi đó như một phần của việc rèn luyện chúng ta. Nổi cáu với đồng nghĩa chịu thất bại trên đời này."

"Nghe cứ như một lý giải theo quan điểm tôn giáo về nạn tắc xe nếu như từng có lý giải kiểu đó."

"Tôi là người Cơ Đốc. Tôi không đi nhà thờ, nhưng tôi luôn theo đạo Cơ Đốc."

"Thật vậy sao? Bác không thấy việc là người theo đạo Cơ Đốc với việc làm tài xế ột nhân vật cánh hữu lớn có gì mâu thuẫn à?"

"Ông Chủ là người đáng kính. Sau Chúa, người đáng kính nhất mà tôi từng gặp."

"Bác đã gặp Chúa ư?"

"Tất nhiên rồi. Đêm nào tôi cũng gọi điện cho Ngài."

"Sao cơ?" tôi lắp bắp. Mọi thứ lại bắt đầu lộn xộn trong đầu tôi. "Nếu ai cũng gọi cho Chúa thì chẳng phải đường dây lúc nào cũng bận liên tục? Giống như tổng đài ngay giữa trưa."

"Không vấn đề gì. Chúa là sự hiện diện đồng thời của cậu. Vậy nên ngay cả khi triệu người cùng gọi cho Ngài cùng một lúc, Ngài vẫn có thể nói chuyện đồng thời với tất cả mọi người."

"Tôi không phải chuyên gia gì, nhưng cách giải thích như thế có chính thống không? Ý tôi là, nói về mặt thần học."

"Tôi là người có quan điểm cấp tiến. Đó là lý do tại sao tôi không đi nhà thờ."

"Tôi hiểu rồi," tôi nói.

Chiếc limousine nhích lên được năm mươi mét. Tôi đưa một điếu thuốc lên môi, và khi bắt đầu châm lửa thì tôi nhận ra mình đã cầm chiếc bật lửa trong tay suốt cả quãng thời gian ấy. Tôi đã cầm theo chiếc bật lửa bạc hiệu Dupont có khắc hình con cừu mà không hề hay biết. Cảm giác nó vừa như đúc cùng khuôn với lòng bàn tay tôi một cách tự nhiên như thể tôi sinh ra đã có nó rồi. Sự cân bằng và cảm giác nó mang lại thật tuyệt vời. Sau khi suy nghĩ vài giây, tôi quyết định nó thuộc về tôi. Ai hơi đâu mà đi nhớ hoài đến một hai chiếc bật lửa. Tôi mở đóng nắp vài lần, châm thuốc rồi đút chiếc bật lửa vào túi. Bù lại, tôi lén thả chiếc bút bi Bic dùng một lần vào ngăn để đồ ở cửa xe.

"Ông Chủ đưa nó cho tôi mấy năm trước." Người lái xe bỗng nhiên lên tiếng.

"Đưa cho bác cái gì kia?"

"Số điện thoại của Chúa."

Tôi bật lên một tiếng rên lớn đến mức nó lấn át mọi thứ khác. Hoặc là tôi đang phát điên hoặc là bọn họ đều mất trí hết.

"Ông ấy bí mật nói ình bác nghe ư?"

"Đúng thế. Chỉ mình tôi, một cách bí mật. Ông ấy là người tinh tế. Cậu có muốn biết thêm về Ngài không?"

"Nếu được," tôi nói.

"Xem nào, đó là số Tokyo 9-4-5-..."

"Đợi chút đã," tôi nói, rút sổ tay và bút ra. "Nhưng bác thật sự nghĩ là kể cho tôi chuyện này sẽ không sao chứ?"

"Tất nhiên rồi, không vấn đề gì. Tôi không đi rêu rao vô tội vạ đâu. Mà cậu có vẻ như một người tử tế."

"Ồ, cám ơn bác," tôi nói. "Nhưng liệu tôi biết nói với Chúa về chuyện gì? Tôi lại không phải người theo đạo Cơ Đốc."

"Không vấn đề gì. Tất cả những gì cậu cần làm là nói một cách thành thực về bất cứ điều gì làm cậu băn khoăn hay lo lắng. Cho dù cậu nghĩ chuyện đó có nhỏ nhặt đến mức nào. Chúa không bao giờ thấy chán và không bao giờ cười nhạo cậu."

"Cám ơn bác. Tôi sẽ gọi cho Ngài."

"Đó mới đúng tinh thần chứ," người lái xe nói.

Dòng xe cộ bắt đầu trôi suôn sẻ và tòa nhà chọc trời khu Shinjuku bắt đầu hiện ra trong tầm mắt. Chúng tôi không nói gì trong cả quãng đường còn lại.
 
CHÚ Ý !!!
Các đạo hữu nhớ thêm TÊN CHƯƠNG và THỨ TỰ CHƯƠNG ở ô phía trên phần trả lời nhanh. Như vậy hệ thống mới tạo được DANH SÁCH CHƯƠNG.
Cập nhật chức năng ĐĂNG TRUYỆN và THÊM CHƯƠNG MỚI trên web Diễn Đàn Truyện tại https://truyen.diendantruyen.com
Top Bottom