Cập nhật mới

Dịch Full Cuộc Săn Cừu Hoang

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,311
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 20: PHẦN 6: Cuối hè, đầu thu


Vào lúc chiếc xe limousine tới nơi, màu nhàn nhạt của buổi chạng vạng đã lan tỏa trên thành phố. Một làn gió nhẹ thổi giữa các tòa nhà báo hiệu sự kết thúc của mùa hè, làm váy của đám đàn bà con gái trên đường đi làm về kêu sột soạt. Tôi lên trên tầng thượng của khách sạn cao tầng, vào một quầy bar rộng thênh thang, gọi một chai Heineken. Phải mất mười phút bia mới được mang tới. Trong lúc đó tôi chống khuỷu lên tay vịn ghế, tựa đầu lên tay và nhắm mắt lại. Không suy nghĩ gì hết. Mắt nhắm nghiền, tôi có thể nghe hàng trăm con tiểu yêu đang dùng những chiếc chổi bé tí xíu quét dọn trong tâm trí tôi. Chúng cứ tiếp tục quét mãi, quét mãi. Không một con nào có ý nghĩ dùng xẻng hót rác cả.

Khi bia cuối cùng cũng được mang tới, tôi làm hai ngụm hết sạch. Rồi tôi ăn hết cả đĩa lạc để nhắm với bia. Tiếng chổi quét vẫn không dừng lại.

Tôi đi lại quầy điện thoại cạnh bàn tiếp tân và thử gọi cho cô bạn gái tôi, người có đôi tai tuyệt đẹp. Nhưng cô không ở nhà cô mà cũng không ở nhà tôi. Có lẽ cô đã ra ngoài đi ăn. Cô không bao giờ ăn ở nhà.

Tiếp đến tôi thử gọi cho vợ cũ. Tôi nghĩ lại và dập máy sau hồi chuông thứ hai. Xét cho cùng thì tôi chẳng có gì để nói với cô ta, và tôi không muốn gây cho cô ta cảm giác tôi là một thằng đểu.

Sau hai người đó, chẳng còn ai để mà gọi. Ở ngay giữa một thành phố với hàng triệu người đi trên phố mà không có ai để chuyện trò. Tôi từ bỏ ý định gọi điện, đút túi đồng mười yên, rời buồng điện thoại. Sau đó tôi gọi một người hầu bàn đang chạy ngang qua, bảo mang cho hai chai Heineken nữa.

Và thế là kết thúc một ngày. Một ngày không thể vô nghĩa hơn. Ngày cuối cùng của mùa hè, và ngày đó có gì tốt đẹp đây? Bên ngoài, bóng tối của mùa thu sớm đã bao trùm lên mọi thứ. Từng dãy đèn đường nhỏ xíu màu vàng xâu chuỗi phía dưới. Nhìn từ trên này, chúng trông như sẵn sàng để người ta giẫm đạp lên.

Bia được mang tới. Tôi uống cạn một chai rồi đổ đĩa lạc vào lòng bàn tay và bắt đầu nhấm nháp, từng tí một. Bốn người phụ nữ trung niên vừa kết thúc buổi học bơi ở bể khách sạn, ngồi bàn bên cạnh chuyện trò bên mấy ly cocktail nhiệt đới sặc sỡ. Một người hầu bàn khác giải thích thực đơn ột cặp vợ chồng trung niên người Mỹ. Sau đĩa lạc, tôi uống nốt chai Heineken thứ ba. Uống hết rồi, tôi không biết làm gì với tay mình nữa.

Tôi móc chiếc phong bì nơi sau túi quần hiệu Levi"s ra, bóc dấu niêm phong và bắt đầu xếp tiền mười ngàn yên. Trông nó giống như một xấp bài hơn là một cọc tiền mới được xếp chặt. Được nửa chừng, ngón tay tôi bắt đầu mỏi. Đếm đến tờ chín mươi sáu, một người hầu bàn đứng tuổi đến dọn mấy cái chai rỗng, hỏi xem có mang thêm chai khác không. Tôi gật đầu và tiếp tục đếm. Ông ta có vẻ như chẳng thèm đoái hoài gì đến việc tôi đang làm.

Tổng cộng có một trăm năm mươi tờ. Tôi cất chúng vào trong phong bì và nhét vào túi quần sau đúng lúc chai bia mới được mang ra. Tôi lại ăn hết cả đĩa lạc, và chính lúc đó tôi mới chợt nhận ra mình thấy đói. Nhưng tại sao tôi lại đói bụng đến thế? Tôi chỉ ăn một lát bánh hoa quả kể từ sáng đến giờ.

Tôi kêu người hầu bàn, gọi một bánh kẹp pho mát và dưa chuột. Không khoai tây rán, cho gấp đôi dưa chuột muối. Không biết họ có kéo cắt móng tay không? Tất nhiên rồi, họ có kéo cắt móng tay. Quầy bar khách sạn thật sự có tất cả mọi thứ người ta có thể cần tới. Một chỗ còn có cả từ điển Pháp-Nhật khi tôi cần.

Tôi nhấm nha nhấm nháp chai bia còn lại, ngắm khung cảnh buổi đêm thật lâu, thong thả cắt móng tay trên chiếc gạt tàn. Tôi quay qua ngắm khung cảnh, sau đó giũa móng. Và cứ thế đến hết đêm. Tôi đang trên đường trở thành cao thủ về chuyện giết thời gian nơi đô thị.

Một chiếc loa âm trầm gọi tên tôi. Ban đầu nghe có vẻ như không phải tên của tôi. Phải mất vài giây sau khi loa thông báo xong tôi mới nhận thức được tôi vừa nghe những âm tiết đặc biệt của tên mình, và rồi dần dần nhận ra đó chính là tên tôi thật.

Người phục vụ đem ra bàn một chiếc điện thoại không dây.

"Kế hoạch có một thay đổi nhỏ," giọng nói mà tôi biết vang lên từ một nơi nào đó. "Tình trạng của Ông Chủ đột nhiên diễn biến theo chiều hướng xấu. Tôi sợ là không còn mấy thời gian nữa. Vì thế chúng tôi phải giảm thời gian tối đa của cậu."

"Tôi còn bao lâu?"

"Một tháng. Chúng tôi không thể đợi lâu hơn nữa. Nếu sau một tháng cậu không tìm ra con cừu đó, cậu coi như xong. Cậu sẽ không còn nơi nào để quay trở lại nữa."

Một tháng. Tôi suy nghĩ kỹ. Nhưng đầu tôi không có khả năng xử lý khái niệm thời gian. Một tháng, hai tháng, có sự khác biệt thật sự nào không? Hơn nữa đã có ai có bất kỳ ý kiến gì, bất kỳ tiêu chuẩn nào, về việc cần bao nhiêu thời gian để tìm ra một con cừu cơ chứ?

"Làm sao ông biết tìm tôi ở đây?" tôi hỏi.

"Chúng tôi kiểm soát được hầu hết mọi thứ," người đàn ông nói.

"Trừ chỗ ở của một con cừu," tôi nói.

"Đúng như vậy," người đàn ông nói. "Dù sao thì, vào việc đi, cậu để phí quá nhiều thời gian đấy. Cậu nên xem xét đến vị thế hiện tại của cậu. Cậu chỉ có thể đổ lỗi cho chính mình về việc cậu đã dồn bản thân vào chân tường."

Ông ta nói có lý. Tôi dùng tờ bạc mười ngàn yên đầu tiên trong phong bì để trả hóa đơn. Dưới kia trên mặt đất người ta vẫn đi lại trên hai chân, nhưng cảnh tượng không còn an ủi tôi được mấy nữa.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,311
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 21: PHẦN 6: Một trong số năm ngàn


Từ quán bar trở về căn hộ của mình, tôi thấy ba bức thư cùng tờ báo buổi tối trong hộp thư. Bản sao kê tài khoản của ngân hàng của tôi, giấy mời đến dự một bữa tiệc hứa hẹn sẽ chẳng ra gì, và thư quảng cáo trực tiếp từ một hãng buôn bán ô tô cũ. Tờ quảng cáo viết thế này: "HÃY LÀM RẠNG RỠ ĐỜI MÌNH – HÃY NÂNG CẤP LÊN MỘT CHIẾC XE HƠI THƯỢNG HẠNG." Cảm ơn, nhưng mà tôi xin kiếu. Tôi xếp cả ba phong bì lại cùng nhau và xé làm đôi. Tôi lôi chút nước quả ép ra khỏi tủ lạnh và ngồi lại bên bàn ăn. Trên bàn là mẩu giấy nhắn của cô bạn gái: "Em ra ngoài ăn, sẽ quay về lúc 9.30." Chiếc đồng hồ điện tử trên bàn chỉ 9.30. Tôi nhìn nó chuyển sang 9.31, rồi 9.32.

Khi đã phát chán vì nhìn đồng hồ, tôi cởi quần áo, đi tắm gội. Có bốn loại dầu gội và ba loại dầu xả trong buồng tắm. Mỗi lần đi siêu thị, cô lại tích trữ một thứ gì đó. Hễ vào buồng tắm là thế nào cũng có một thứ gì đó mới. Tôi đếm được bốn loại kem cạo râu và năm tuyp thuốc đánh răng. Quả là lắm thứ tích trữ. Ra khỏi vòi hoa sen, tôi mặc sang quần soóc chạy bộ và áo phông. Bụi bặm của một ngày kỳ quặc đã không còn. Cuối cùng tôi cũng cảm thấy nhẹ người.

Lúc 10.20 cô trở về với một túi hàng từ siêu thị. Trong túi là ba chiếc bàn chải cọ, một hộp kẹp giấy và một hộp sáu lon bia ướp lạnh. Vậy là tôi lại làm một lon bia nữa.

"Đó là về chuyện con cừu," tôi nói.

"Em đã nói trước rồi đấy thôi," cô nói.

Tôi lôi mấy cái xúc xích ra khỏi tủ lạnh, rán qua rồi dọn ra để hai đứa chúng tôi ăn. Tôi ăn ba cái còn cô ăn hai. Một làn gió mát thổi qua ô cửa sổ nhà bếp.

Tôi kể cho cô nghe những gì xảy ra ở văn phòng, kể cho cô về chuyến đi trên chiếc xe limousine, về điền trang, về tay thư ký có đôi mắt lạnh như thép, về khối u máu và con cừu chắc nịch với ngôi sao trên lưng. Tôi cứ kể mãi. Đến lúc tôi nói xong thì đã mười một giờ.

Nghe xong chuyện, cô thậm chí không mảy may ngạc nhiên. Cô lau tai trong cả quãng thời gian lắng nghe, thi thoảng lại ngáp.

"Vậy bao giờ anh đi?"

"Đi đâu cơ?"

"Anh phải đi tìm con cừu, đúng không?"

Tôi ngẩng nhìn cô, cái khoen trên nắp lon bia thứ hai vẫn còn trên ngón tay. "Anh không đi đâu hết," tôi nói.

"Nhưng mà anh sẽ gặp rắc rối lớn nếu anh không đi."

"Chả có rắc rối đặc biệt nào hết. Dù sao anh cũng định bỏ công ty từ trước rồi. Lúc nào anh cũng sẽ có khả năng tìm đủ việc để sống qua ngày, cho dù ai có can thiệp đi chăng nữa. Bọn họ sẽ không giết anh đâu. Thật đấy!"

Cô lôi một chiếc tăm bông ngoáy tai ra khỏi hộp và sờ mó nó một hồi. "Nhưng việc đó thật ra hoàn toàn đơn giản. Tất cả những gì anh phải làm là đi tìm một con cừu, đúng không? Chuyến đi sẽ vui mà."

"Sẽ chẳng tìm được gì đâu. Hokkaido rộng lớn hơn em tưởng nhiều. Còn cừu – dễ có đến hàng trăm ngàn con ấy chứ. Làm sao người ta tìm ra một con cừu duy nhất ấy được cơ chứ? Việc đó là bất khả. Ngay cả khi con cừu có dấu ngôi sao trên lưng."

"Năm ngàn con cừu thôi."

"Năm ngàn con ư?"

"Số lượng cừu ở Hokkaido. Vào năm 1947, có hai trăm bảy mươi ngàn con cừu ở Hokkaido, nhưng nay chỉ còn năm ngàn con."

"Làm sao em biết được điều ấy?"

"Sau khi anh đi, em đến thư viện kiểm tra thông tin."

Tôi thốt ra một tiếng thở dài. "Em biết hết mọi thứ, đúng không?"

"Không hẳn vậy. Có nhiều thứ em không biết."

Tôi khụt khịt mũi, rồi mở lon bia thứ hai để hai chúng tôi uống chung.

"Dù sao đi nữa, chỉ còn năm ngàn con cừu ở Hokkaido thôi. Theo thống kê của chính phủ. Thế nào? Anh thậm chí có cảm thấy nhẹ nhõm chút nào không?"

"Cũng vậy cả thôi," tôi nói. "Năm ngàn con, hai trăm bảy mươi ngàn con, chẳng khác nhau là mấy. Vấn đề vẫn là đi tìm một con cừu duy nhất trong cái vùng đất bao la ấy. Thêm vào đó, chúng ta chả có lấy một manh mối nào để bắt đầu."

"Nói chúng ta chả có một manh mối nào là không đúng. Trước hết, có bức ảnh, sau đó có ba ông bạn anh trên đó, đúng không nào? Anh chắc hẳn sẽ tìm ra một điều gì đó không cách này thì cách khác."

"Nói về manh mối thì cả hai đều quá đỗi mơ hồ. Cái phong cảnh trong bức ảnh chắc chắn là quá bình thường, và em thậm chí không đọc nổi dấu bưu điện trên thư của Chuột!"

Cô uống bia của cô. Tôi uống bia của tôi.

"Anh có thích cừu không?" cô hỏi.

"Thích bình thường."

Tôi lại bắt đầu thấy rối tung rối mù lên.

"Với lại," tôi tiếp tục, "anh đã quyết rồi. Ý anh là không đi đâu hết." Tôi định thuyết phục chính mình, nhưng ngôn từ thoát ra cứ nghe thế nào ấy.

"Uống cà phê không?"

"Ý hay đấy," tôi nói.

Cô dọn mấy lon bia và mấy chiếc ly rồi đặt ấm đun nước. Trong khi chờ đợi nước sôi, cô lắng nghe tiếng cat-xet phát ra từ căn phòng khác. Johnny Rivers hát "Midnight Special", tiếp theo sau là "Roll Over Beethoven". Rồi "Secret Agent man". Khi ấm nước reo, cô pha cà phê, hát theo bài "Johnny B. Goode". Trong cả quãng thời gian ấy tôi đọc báo buổi tối. Một khung cảnh gia đình đáng yêu. Nếu không vì chuyện cừu kiếc này, có lẽ tôi đã thấy rất hạnh phúc.

Trong khi băng chạy, chúng tôi uống café và nhấm nháp vái miếng bánh quy trong im lặng. Tôi quay lại đọc báo buổi tối. Khi đọc xong, tôi lại bắt đầu đọc lại lần nữa. Chỗ này là tin đảo chính, chỗ kia là tin một diễn viên điện ảnh đang hấp hối, chỗ kia nữa là tin một con mèo biết làm trò – chẳng có gì liên quan đến tôi. Chẳng có gì liên quan đến Johnny Rivers, người cứ tiếp tục hát. Khi băng hết, tôi gấp tờ báo và nhìn sang chỗ cô.

"Anh không biết phải làm gì nữa. Có lẽ em đúng khi cho rằng nên làm một điều gì đó còn hơn là không làm gì. Thậm chí nếu kết cuộc có vô ích đi chăng nữa, ít nhất chúng ta cũng đã đi tìm con cừu. Nhưng mặt khác, anh không thích bị người khác ra lệnh, dọa dẫm và sai khiến."

"Ở một mức độ nào đó, ai cũng bị người khác ra lệnh, dọa dẫm và sai khiến suốt. Có lẽ sẽ chẳng thứ gì tốt hơn để mà mong đợi."

"Có lẽ là không," tôi nói, sau khi tạm ngưng một lát.

Cô không nói gì và lại bắt đầu lau tai. Thỉnh thoảng, hai chiếc dái tai mềm mại của cô lại thấp thoáng sau mấy lọn tóc dài.

"Lúc này ở Hokkaido thật đẹp. Không có nhiều khách du lịch, thời tiết lại dễ chịu. Hơn thế nữa, bọn cừu lại được thả ra ngoài. Mùa lý tưởng đấy."

"Thì chắc vậy."

"Nếu," cô bắt đầu, nhai rau ráu miếng bánh cuối cùng, "nấu anh muốn đưa em đi cùng, em chắc chắn sẽ giúp được anh".

"Tại sao em cứ khăng khăng muốn đi tìm con cừu?"

"Tại vì bản thân em cũng muốn được trông thấy con cừu đó."

"Nhưng tại sao anh phải vất vả đi tìm con cừu khỉ gió này? Và rồi lại còn kéo em vào cái mớ bòng bong này nữa?"

"Em không ngại gì cả. Rắc rối của anh cũng là rắc rối của em," cô nói với nụ cười thoáng nhẹ dễ thương. "Em phải lòng anh mà."

"Cám ơn em."

"Đó là tất cả những gì anh có thể nói sao?"

Tôi đẩy tờ báo ra chỗ góc bàn. Cơn gió nhẹ thổi qua cửa sổ khiến làn khói thuốc của tôi thoang thoảng đâu đó.

"Nói thật nhé, có điều gì đó trong toàn bộ chuyện này làm anh cảm thấy không ổn. Có cạm bẫy ở đâu đó."

"Ở đâu kia?"

"Ở mọi thứ, mà lại không phải mọi thứ," tôi nói. "Toàn bộ chuyện này thật ngớ ngẩn hết chỗ nói, nhưng lại rõ ràng một cách nhức nhối, và bức tranh lại khớp với nhau thật hoàn hảo. Không có cảm giác yên lành chút nào."

Cô ngừng lại một giây, nhặt chiếc dây thun trên bàn và bắt đầu nghịch sợi dây.

"Nhưng chẳng phải cái anh bạn của anh đã gặp đầy rẫy những rắc rối hay sao? Nếu không, tại sao anh ta lại cất công gửi cho anh cái bức ảnh đó?"

Cô đã khiến tôi không còn nói được vào đâu nữa. Tôi đã bày tất cả các quân bài của mình trên bàn, và chúng đều đã bị chặn. Cô đã nhìn thấu tôi.

"Em thật sự nghĩ chúng ta phải làm việc này. Chúng ta sẽ đi tìm con cừu đó, rồi anh sẽ thấy," cô nói, cười toe toét.

Cô kết thúc trình tự lau tai và bọc mấy chiếc tăm ngoáy tai vào một tờ giấy để vứt đi. Rồi cô nhặt chiếc dây chun trên bàn và buộc tóc lại sau tai.

"Đi ngủ thôi anh," cô nói.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,311
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 22: PHẦN 6: Buổi picnic chiều chủ nhật


Tôi tỉnh dậy lúc chín giờ trên chiếc giường trống trải. Không giấy nhắn. Chỉ có khăn mùi xoa và chiếc quần lót của cô đang phơi khô trên chậu rửa. Có lẽ là đi ra ngoài ăn, tôi đoán vậy, sau đó là về nhà cô. Tôi lấy nước cam ép từ trong tủ lạnh ra và bỏ bánh mì đã để ba ngày vào lò nướng. Bánh mì có vị như vữa tường.

Qua cửa sổ nhà bếp tôi có thể trông thấy cây trúc quỳ của người hàng xóm. Xa xa, ai đó đang tập đàn. Âm thanh nghe cứ như đi ngược chiều thang cuốn. Trên cột điện thoại, ba con bồ câu béo quay gù gù một cách đầy lơ đễnh. Nhất định trong đầu chúng phải đang diễn ra một điều gì đó khiến chúng cứ kêu liên tục như vậy, có thể bị đau vì chai ở chân, ai mà biết được? Theo quan điểm của bồ câu, có lẽ chính tôi mới là kẻ trông lơ đễnh. Trong lúc tôi tọng miếng bánh mì nướng thứ hai xuống thực quản, mấy con bồ câu biến mất, chỉ để lại cột điện thoại và cây trúc quỳ. Đó là vào sáng Chủ Nhật. Mục cuối tuần của báo gồm có một bức ảnh màu hình con ngựa nhảy qua hàng rào. Ngồi dạng chân trên lưng ngựa là một người có nước da ốm yếu, đội mũ đen, đang ném một cái nhìn đe dọa vào trang báo kế bên, nơi đăng tải một bản miêu tả dài dòng về những thứ nên làm và không nên làm khi trồng hoa lan. Có hàng trăm loài lan, mỗi loài có cả lịch sử riêng. Có người trong hoàng tộc đã chết vì lan. Ở lan toát ra một vẻ chết chóc không thể miêu tả bằng lời. Và bài báo cứ tiếp tục như thế. Về đủ thứ, triết học và số phận.

Giờ khi tôi đã quyết định lên đường đi tìm con cừu, tôi cảm thấy tràn đầy năng lượng và háo hức lên đường. Đó là lần đầu tiên tôi cảm thấy như vậy từ khi tôi bước qua ranh giới rộng lớn ngăn cách với tuổi hai mươi. Tôi xếp bát đĩa vào chậu rửa, èo ăn bữa sáng, rồi quay số của người đàn ông mặc lê đen. Sau sáu hồi chuông, ông ta nhấc máy.

"Tôi hy vọng là tôi không đành thức ông," tôi nói.

"Không vấn đề gì. Tôi dậy khá sớm," ông ta nói. "Chuyện gì vậy?"

"Ông đọc tờ báo nào?"

"Tám tờ báo, toàn quốc lẫn địa phương. Nhưng mà báo địa phương phải đến tối mới có."

"Và ông đọc hết các bào a?"

"Đó là một phần công việc của tôi," người đàn ông nói một cách kiên nhẫn. "Tờ nào kia?"

"Ông có đọc bào Chủ nhật không?"

"Nếu cần thiết, có," ông ta nói.

"Ông có thấy bức ảnh con ngựa trong mục cuối tuần không?"

"Có, tôi thấy bức ảnh ngựa," người đàn ông nói.

"Có vẻ như con ngựa và người cưỡi ngựa đang suy nghĩ về hai điều hoàn toàn khác nhau thì phải?"

Qua ống nghe, một sự yên lặng len lỏi vào trong căn phòng. Không nghe thấy cả đến một hơi thở. Đó là thứ yên lặng đến mức làm đau tai người ta.

"Cậu gọi cho tôi về chuyện này phải không?" người đàn ông hỏi.

"Không, chỉ là chuyện phiếm thôi. Một chủ đề trao đổi nho nhỏ thì không sao cả, phải không?"

"Chúng ta có những vấn đề trao đổi khác. Chẳng hạn như, cừu." Ông ta hắng giọng. "Xin lỗi cậu, nhưng tôi không có thời gian rảnh rỗi như cậu. Cậu có thể tiến hành nhiệm vụ của cậu càng nhanh càng tốt được chứ?"

"Đó chính là vấn đề," tôi nói. "Nói một cách đơn giản, kể từ ngày mai tôi sẽ nghĩ đến chuyện lên đường đi tìm con cừu ấy. Tôi đã suy nghĩ nhiều về chuyện này, nhưng cuối cùng thì tôi đã quyết định như thế. Tuy nhiên, tôi chỉ có thể làm việc đó theo tiến độ của chính mình. Khi tôi nói, tôi sẽ nói theo cách tôi muốn. Ý tôi là tôi có quyền nói chuyện phiếm nếu tôi muốn. Tôi không muốn nhất cử nhất động của tôi đều bị theo dõi và tôi không muốn bị những người không danh tính điều khiển. Thế đấy, tôi đã nói xong phần của mình."

"Cậu rõ ràng là không biết vị trí của mình."

"Ông cũng không biết vị trí của mình. Giờ thì ông nghe đây, đêm qua tôi đã suy nghĩ kỹ. Và tôi chợt nhận ra. Tôi có thứ gì đâu mà cảm thấy bị đe dọa? Gần như là không có thứ gì cả. Tôi chia tay với vợ, tôi định bỏ việc vào ngày hôm nay, căn hộ của tôi là đi thuê, và tôi không có đồ đạc gì đáng giá để mà phải lo lắng. Còn về mặt tài sản, tôi có lẽ có hai triệu yên tiền tiết kiệm, một cái ô tô cũ và một con mèo già. Quần áo của tôi tất cả đều lỗi mốt, còn đĩa nhạc của tôi đều tự xửa xưa. Tôi chẳng tạo dựng tên tuổi gì ình, không được xã hội tín nhiệm, không hấp dẫn, không tài năng. Tôi cũng không còn trẻ nữa, và tôi luôn nói ra những điều ngốc nghếch mà sau đó tôi thường lấy làm hối hận. Tóm lại, mượn lời của ông, tôi là một kế toán hoàn toàn tầm thường. Tôi có gì để mất đâu? Nếu ông có thể nghĩ ra tôi có gì thì nhớ cho tôi hay nhé?"

Một sự yên lặng ngắn ngủi đến ngay sau đó. Trong lúc ngắt quãng ấy, tôi nhặt mấy sợi xơ vải từ một chiếc cúc áo sơ mi và dùng bút bi vẽ mười ba ngôi sao trên một cuốn sổ ghi nhớ.

"Ai cũng có một điều gì đó mà họ không muốn mất," người đàn ông bắt đầu. "Kể cả chính cậu. Và chúng tôi là những người chuyện nghiệp trong việc tìm ra thứ đó. Con người chắc chắn phải có một trung điểm giữa khát vọng và lòng tự hào. Giống như tất cả sự vật đều phải có trung tâm của trọng lực. Đây là điểm mà chúng tôi có thể chỉ ra. Chỉ khi điều đó mất đi người ta mới nhận ra nó tồn tại." Ngừng lại. "Nhưng tôi lại cầm đèn chạy trước ô tô mất rồi. Tất cả điều này sẽ tới sau. Hiện tại, hãy cho phép tôi nói rằng tôi không phải không hiểu những gì cậu nói. Tôi sẽ xem xét đòi hỏi của cậu. Cậu có thể làm những gì cậu muốn. Trong vòng một tháng, đã rõ chưa?"

"Rõ," tôi nói.

"Vậy thì, tạm biệt," người đàn ông nói.

Nói đoạn, điện thoại dập xuống đánh cách một tiếng. Nó để lại một dư vị đắng ngắt, cái tiếng cách nơi ống nghe ấy. Để loại bỏ dư vị đắng ấy, tôi chống đẩy ba mươi lần và tập bụng hai mươi lần, rửa bát đĩa đã dồn lại ba ngày. Mấy việc đó hầu như đem cho tôi cảm giác vui vẻ trở lại. Xét cho cùng thì hôm nay là một ngày Chủ nhật tháng Chín dễ chịu. Mùa hè đã nhạt dần thành một ký ức xa xôi hầu như không thể gợi lại được nữa.

Tôi mặc một chiếc áo sơ mi sạch. Một chiếc quần Levi"s không có vết nước sốt cà chua, đi một đôi tất tương xứng. Tôi chải đầu. Mặc dù vậy, tôi không thể nào có lại cái cảm giác tôi từng có vào mỗi sáng Chủ nhật khi tôi mười bảy tuổi. Vậy thì điều gì là mới đây? Có lẽ tôi mang dấu ấn của năm tháng mất rồi.

Sau đó tôi lái chiếc xe hiệu Volkswagen gần như một đống phế liệu ra khỏi bãi đậu xe của khu chung cư, đi tới siêu thị mua một tá thức ăn đóng hộp èo, một gói cát để mèo đi vệ sinh, một bộ dao cạo râu du lịch và quần lót. Tại hiệu bánh, tôi ngồi bên quầy vừa ăn một chiếc bánh vòng vị quế vừa uống thứ cà phê vô vị. Bức tường ngay trước quầy bánh là một tấm gương, cho phép tôi diện kiến toàn bộ dung nhan của chính mình. Tôi ngồi đó ngắm nhìn khuôn mặt mình, nửa chiếc bánh ăn dở vẫn còn trên tay. Điều đó làm tôi tự hỏi không biết người khác nhìn tôi như thế nào. Tất nhiên, tôi không có cách nào biết được. Tôi ăn hết chiếc bánh rồi đi.

Có một đại lý du lịch gần nhà ga, tôi đặt hai vé máy bay tới Sapporo ngày hôm sau ở đó. Rồi tôi đi đến dãy cửa hàng trong sân ga để mua một chiếc túi đeo vai bằng vải bạt và một chiếc mũ đi mưa. Cứ mỗi lần như thế tôi lại móc ra một tờ mười ngàn yên từ cuộn tiền trong túi. Cuộn tiền không cho thấy có dấu hiệu vơi đi cho dù tôi có tiêu bao nhiêu tờ. Chỉ có tôi là có biểu hiện mệt mỏi. Có loại tiền như thế trên thế gian này. Nó trêu người khiến người ta phải có nó, nó khiến người ta khổ sở khi tiêu nó, và người ta căm ghét chính mình, người ta cảm thấy muốn tiêu tiền. Trừ phi không còn tiền để mà tiêu. Và không hy vọng.

Tôi nghồi xuống một chiếc ghế băng trước sân ga và hút hai điếu thuốc, quyết định không nghĩ tới tiền nữa. Khu buôn bán nơi sân ga đầy các gia đình và các cặp nam thanh nữ tú đi chơi sáng Chủ nhật. Hững hờ quan sát tất cả, tôi nghĩ về lời nhận xét của vợ cũ lúc chia tay, rằng lẽ ra chúng tôi nên có con. Chắc chắn ở tuổi tôi có con không phải là điều phi lý, nhưng cái thằng tôi làm bố ư? Trời ạ. Có đứa nhóc nào lại muốn một người bố như tôi?

Tôi hút thêm một điếu thuốc nữa trước khi len lỏi qua đám đông, mỗi tay quàng một túi xách, tới bãi đậu xe của siêu thị. Trong khi cho xe đi sửa, tôi nhảy vào hiệu sách mua ba cuốn sách bìa mềm. Thế là lại đi tong hai tờ mười ngàn yên nữa. Túi tôi đầy ắp tiền lẻ.

Khi về nhà, tôi đổ tất cả đám tiền lẻ vào một cái bát thủy tinh và vã nước lã lên mặt. Từ lúc tôi thức dậy đến giờ đã lâu lắm rồi, vậy mà khi tôi nhìn đồng hồ, vẫn chưa đến trưa.

Lúc ba giờ chiều, bạn gái tôi về. Cô mặc sơ mi kẻ ca rô, quần màu vàng mù tạt và đeo cặp kính râm đen kịt. Cô đeo trên vai một cái túi to bằng vải bạt giống như chiếc túi của tôi.

"Em đã chuẩn bị đồ đạc và sẵn sàng lên đường," cô nói, vỗ vỗ chiếc túi căng phồng. "Chuyến đi có lâu không anh?"

"Chắc sẽ lâu đấy."

Cô nằm dài trên cái sô pha cạnh cửa sổ, nhìn chăm chăm lên trần nhà trong khi vẫn đeo kính râm, hút một điếu thuốc lá đinh hương. Tôi lấy chiếc gạt tàn và đến ngồi bên cạnh cô. Tôi vuốt tóc cô. Con mèo xuất hiện và nhảy lên sô pha, đặt cằm và chân trước lên mắt cá chân của cô. Khi đã hút đủ, cô đặt phần còn lại của điếu thuốc lên môi tôi.

"Em có thích chuyến đi này không?" tôi hỏi.

"À há, rất thích. Đặc biệt vì em được đi cùng anh."

"Em biết không, nếu không thấy con cừu đó, chúng ta sẽ không còn chỗ nào để mà trở về đâu. Rốt cuộc chúng ta có thể sẽ đi lang thang suốt quãng đời còn lại đấy."

"Giống như bạn của anh ư?"

"Chắc vậy. Một mặt nào đó, tất cả chúng ta là những người cùng cảnh ngộ. Điều khác biệt duy nhất là anh ấy trốn thoát theo ý của mình còn anh thì bị đập qua đập lại."

Tôi đặt điếu thuốc lên gạt tàn. Con mèo nghển cổ ngáp dài, tồi lại trở về tư thế cũ.

"Anh đã xếp đồ xong chưa?" cô hỏi.

"Chưa, đã bắt đầu xếp đâu. Nhưng anh không có nhiều đồ để mà xếp. Vài bộ quần áo, xà phòng, khăn tắm. Em thật ra không cần đến cả cái túi đó đâu. Nếu cần thứ gì, đến đó em có thể mua. Mình có sẵn tiền mà."

"Em thích như vậy cơ," cô nói, lại nụ cười nhỏ nhẹ dễ thương. "Em không có cảm giác mình đang đi du lịch trừ phi kéo lê một cái túi to đùng."

"Em đang đùa đấy hả..."

Một tiếng chim kêu lanh lảnh lọt qua ô cửa sổ để mở, âm thanh mà tôi chưa bao giờ nghe trước đó. Một con chim mới của một mùa mới.

Một tia nắng chiều đậu lại trên má cô. Tôi uể oải ngắm một đám mây trắng di chuyển từ bên này thành cửa sổ sang bên kia. Chúng tôi cứ như vậy trong một lúc rất lâu.

"Có chuyện gì không anh?" cô hỏi.

"Anh không biết phải diễn đạt như thế nào, nhưng anh không thể nào nhận thức được rằng hiện tại này thật sự là hiện tại. Hoặc rằng anh chính là anh. Anh vẫn chưa hoàn toàn quen điều đó. Mà lúc nào cũng như thế. Phải rất lâu nữa anh mới quen được. Mười năm qua, cứ như thế suốt."

"Mười năm ư?"

"Chuyện chưa có hồi kết. Vậy đấy."

Cô cười rồi bế con mèo lên đặt xuống nền nhà. "Nào anh?"

Chúng tôi làm tình trên sô pha. Một chiếc sô pha cổ lỗ tôi mua tại cửa hiệu bán đồ cũ. Úp mặt lên đó là người ta có thể cảm nhận được mùi của lịch sử. Thân hình mềm mại của cô hòa quyện với cái mùi đó. Nhẹ nhàng và ấm áp như một kỷ niệm mơ hồ. Tôi đưa tay vuốt tóc cô qua một bên và hôn lên tai cô. Mặt đất rung chuyển. Kể từ lúc đó, thời gian bắt đầu chảy như một làn gió nhẹ bình yên.

Tôi cởi hết cúc áo cô và khum khum bàn tay che ngực cô trong khi thưởng ngoạn thân hình ấy.

"Giờ mới cảm thấy thật sự là mình đang sống," cô nói.

"Em ư?"

"Ừmm, thân thể em, toàn bộ bản thân em."

"Anh cũng thế," tôi nói. "Thật sự đang sống."

Yên tĩnh làm sao, tôi nghĩ. Không một tiếng động xung quanh. Trừ hai đứa tôi, mọi người có lẽ đã đi đâu đó ăn mừng ngày Chủ nhật đầu tiên của mùa thu.

"Anh biết không, em thích thế này lắm," cô thì thầm.

"Ừmm."

"Giống như mình đang đi picnic vậy, dễ chịu lắm."

"Picnic ư?"

"Vâng."

Tôi vòng tay quanh lưng cô và ôm chặt lấy cô. Rồi tôi lách qua đám tóc ngang mái của cô để hôn tai cô lần nữa.

"Mười năm ấy với anh dài lắm nhỉ?" cô hỏi, cúi xuống bên tai tôi.

"Khá dài," tôi nói. "Một quãng thời gian dài, thật dài. Dường như bất tận, anh chẳng hoàn tất được một cái gì."

Cô hơi nghển đầu khỏi tay dựa sô pha và mỉm cười. Một nụ cười tôi đã từng nhìn thấy ở đâu đó, nhưng dù cố gắng đến mấy tôi cũng không thể nào nhớ được ở đâu hoặc của ai. Đàn bà khi lõa thể giống nhau đến đáng sợ. Lúc nào cũng làm tôi phát hoảng.

"Mình đi tìm con cừu thôi," cô nói, mắt nhắm nghiền. "Một khi chúng mình đi tìm con cừu đó, mọi việc sẽ ổn thỏa thôi."

Tôi nhìn vào khuôn mặt cô một lúc, rồi nhìn trân trân vào đôi tai cô. Ánh chiều nhẹ nhàng bao bọc thân thể cô như thể trong một bức tranh tĩnh vật cũ.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,311
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 23: PHẦN 6: Tư tưởng hạn chế nhưng ngoan cường


Lúc sáu giờ, cô thay quần áo, chải đầu, đánh răng, rồi xịt nước hoa. Tôi ngồi trên sô pha và đọc cuốn Những Cuộc Phiêu Lưu Của Sherlock Holmes. Câu chuyện bắt đầu bằng: "Anh bạn Watson của tôi có phần hơi hạn chế về mặt tư duy, nhưng lại sở hữu một tính ngoan cường hết mực." Một câu mở đầu không tồi.

"Tối nay em sẽ về muộn, anh đừng chờ em," cô nói.

"Công việc à?"

"Em e là vậy. Thật ra đáng lẽ hôm nay em được nghỉ làm, nhưng có phải mọi việc lúc nào cũng theo ý mình đâu. Họ ép em vì ngày mai em bắt đầu nghỉ rồi."

Cô ra khỏi cửa, nhưng chỉ được một chốc cửa lại bật mở.

"Này anh, anh định làm gì với con mèo khi mình đi vắng?" cô hỏi.

"Chết, anh quên bẵng mất. Nhưng em đừng lo, anh sẽ lo liệu vụ đó."

Tôi đem sữa và pho mát ra èo. Răng của nó yếu quá, nó phải gắng lắm mới nhai nổi pho mát.

Không có thứ gì trông đặc biệt có vẻ ăn được trong tủ lạnh, vì thế tôi mở một lon bia và xem tivi. Chương trình tin tức chẳng có gì đáng gọi là tin. Vào những tối Chủ nhật như thế này, luôn là cảnh một vườn thú nào đó. Tôi xem mấy cảnh hươu cao cổ, voi và gấu trúc, rồi tắt ti vi và nhấc máy.

"Chuyện về con mèo của tôi," tôi bảo người đàn ông.

"Con mèo của cậu ư?"

"Đúng, tôi có một con mèo."

"Thì sao?"

"Thì nếu không để con mèo lại cho ai, tôi sẽ không thể đi đâu được."

"Có khối nơi nhận chăm sóc mèo gần đó mà."

"Nó già yếu rồi. Chắc chắn nó sẽ chết nếu ở một tháng trong cũi."

Tôi có thể nghe tiếng móng tay gõ gõ trên mặt bàn. "Rồi sao nữa?"

"Tôi muốn ông nhận chăm sóc nó. Ông có một cái vườn rộng thênh thang, chắc chắn ông có thể chăm sóc được một con mèo."

"Không được. Ông Chủ ghét mèo, và khu vườn là để thu hút chim chóc. Có một con mèo thì cả lũ chim đi hết."

"Ông Chủ đang bất tỉnh nhân sự, và con mèo chẳng còn sức đâu để đuổi chim."

"Thôi được rồi. Tôi sẽ cho bác lái xe đến đón con mèo sáng mai lúc mười giờ."

"Tôi sẽ chuẩn bị thức ăn và cát để mèo đi vệ sinh. Nó chỉ chịu ăn thức ăn của một hãng thôi, vì thế nếu hết, phiền ông mua thêm."

"Có lẽ phiền cậu nói giúp lại tất cả những chi tiết này cho bác lái xe. Tôi tin là tôi đã nói cậu rồi, tôi bận lắm."

"Tôi muốn duy trì một kênh thông tin thôi. Điều đó giúp xác định trách nhiệm của từng người rõ ràng."

"Trách nhiệm ư?"

"Nói cách khác, nếu như còn mèo chết khi tôi đi, ông sẽ không lấy được gì ở tôi đâu, ngay cả khi tôi có tìm được con cừu đi chăng nữa."

"Hừm," người đàn ông nói. "Thôi được. Cậu hơi bị ảo tưởng đấy, nhưng dân nghiệp dư như cậu thế là khá rồi. Tôi sẽ ghi lại, vì thế làm ơn nói chậm thôi."

"Đừng cho nó ăn thịt có mỡ. Nó sẽ nôn hết. Răng nó yếu, vì thế đừng cho nó ăn thức ăn cứng. Buổi sáng, nó uống sữa và ăn thức ăn trong hộp, buổi tối nó ăn một nắm cá khô hoặc thịt hoặc pho mát. Làm ơn thay cát vệ sinh cho nó hằng ngày. Nó không thích cát vệ sinh bẩn. Nó thường bị tiêu chảy, nhưng nếu sau hai ngày mà tiêu chảy vẫn không dứt bác sĩ thú y sẽ kê thuốc cho nó."

Đến đó, tôi dỏng tai lắng nghe tiếng bút bi nguệch ngoạc ở đầu dây bên kia.

"Nó bắt đầu có rận ở trong tai," tôi tiếp tục, "vì thế mỗi ngày một lần ông nên rửa tai cho nó bằng gạc bông thấm với một chút dầu ô liu. Nó không thích và sẽ chống cự đó, vì thế cẩn thận đừng làm lủng màng nhĩ nó. Thêm nữa, nếu ông sợ nó cào rách đồ đạc thì cắt bớt móng cho nó mỗi tuần một lần. Bấm móng tay thông thường là ổn. Tôi khá chắc là nó không có rận, nhưng để chắc ăn, tốt nhất là thỉnh thoảng nên tắm cho nó. Ông có thể mua dầu gội chống rận cho nó tại bất kỳ cửa hàng thú nuôi nào. Sau khi tắm cho nó xong, ông nên lấy khăn lau khô và chải lông nó kỹ càng, và cuối cùng là sấy qua một lần bằng máy sấy tóc. Nếu không nó sẽ cảm lạnh."

Nguệch ngoạc nguệch ngoạc nguệch ngoạc. "Còn gì nữa không?"

"Có thế thôi."

Người đàn ông đọc lại những hạng mục từ sổ. Ông ta ghi chép rất kỹ càng.

"Đúng thế không?"

"Đúng rồi đó."

"Thôi nhé," người đàn ông nói. Và điện thoại cắt phụt.

Trời bên ngoài đã tối. Tôi nhét chút tiền lẻ, thuốc lá và bật lửa trong túi, đi giày thể thao, rồi bước ra ngoài. Tại quán rượu tầng hầm gần nhà, tôi uống bia trong khi nghe đĩa nhạc mới nhất của ban Brothers Johnson. Tôi ăn món cốt lết gà trong khi nghe đĩa nhạc của Bill Withers. Tôi uống chút cà phê trong khi lắng nghe bản "Chiến tranh giữa các vì sao" của Maynard Ferguson. Sau tất cả những thứ ấy, tôi vẫn cảm thấy như mình hầu như chưa ăn gì cả. Người ta dọn cốc cà phê của tôi và tôi bỏ ba đồng xu mười yên vào chiếc điện thoại công cộng màu hồng rồi gọi cho tay đối tác. Thằng con trai lớn nhất của hắn, vẫn còn học cấp một, trả lời điện.

"Chào ngày mới," tôi nói.

"Phải là chào buổi tối chứ," thằng bé chữa lại. Tôi nhìn đồng hồ. Tất nhiên, thằng bé đúng.

Sau một lát, tay đối tác đến bên điện thoại.

"Mọi chuyện thế nào?" hắn nói.

"Nói chuyện giờ có được không? Tôi không phá ngang bữa cơm của cậu đấy chứ?"

"Bọn tôi đang ăn, nhưng không sao. Không hẳn là một bữa cơm, mà dù sao chăng nữa chuyện của cậu chắc chắn phải thú vị hơn."

Tôi thuật lại một phần cuộc nói chuyện giữa tôi và người đàn ông mặc plet đen. Rồi tôi kể về chiếc xe limousine khổng lồ và Ông Chủ đang hấp hối. Tôi không đả động gì đến chuyện cừu. Hắn sẽ chẳng tin nổi chuyện ấy đâu, mà như thế này đã là quá dài và quá rắc rối. Vì tôi không kể hết nên đương nhiên làm cho câu chuyện khó hiểu hơn bao giờ hết.

"Tôi chẳng hiểu tí gì cả," tay đối tác nói.

"Chuyện này hoàn toàn bí mật, cậu hiểu chứ. Nếu chuyện này hở ra đồng nghĩa với cậu sẽ gặp rất nhiếu rắc rối. Ý tôi muốn nói là, với gia đình cậu và tất cả..." tôi bỏ dở giữa chừng, hình dung cảnh căn hộ bốn buồng cao cấp của hắn, cô vợ với chứng bệnh cao huyết áp và hai thằng con ngỗ ngược. "Ý tôi là, chuyện như thế đấy."

"Tôi hiểu."

"Dù sao thì mai tôi cũng phải lên đường rồi. Chắc là một chuyến đi dài. Một tháng, hai tháng, ba tháng, tôi thật sự không biết. Có lẽ tôi sẽ không bao giờ quay trở lại Tokyo."

"Ô... ừm."

"Vì thế tôi muốn cậu tiếp quản mọi thứ ở công ty. Tôi sẽ rút ra. Tôi không muốn gây cho cậu bất kỳ rắc rối nào. Công việc của tôi cơ bản đã hoàn thành, và đối với vụ kinh doanh chung của tôi với cậu, cậu vẫn nắm giữ phần quan trọng. Tôi chỉ nửa làm nửa chơi ở đó."

"Nhưng tôi cần cậu ở đó để giái quyết mọi chi tiết."

"Củng cố lại dịch vụ cơ bản, và trở lại mô hình ngày trước. Bỏ tất cả việc quảng cáo và biên tập đi. Chuyển nó trở lại thành văn phòng dịch thuật. Giống như bản thân cậu nói hôm trước. Giữ lại một thư ký và tống khứ hết đám nhân viên bán thời gian còn lại đi. Cậu không cần họ nữa. Sẽ không ai kêu ca gì nếu cậu trả họ hai tháng lương do kết thúc hợp đồng. Còn về văn phòng, cậu có thể chuyển đến một chỗ nhỏ hơn. Tất nhiên là doanh thu sẽ giảm nhưng chi phí sẽ giảm theo. Và trừ phần của tôi đi, phần của cậu sẽ tăng lên, thế nên thật ra cậu sẽ không bị thiệt. Cậu không phải lo về việc bóc lột ai quá đáng, và thuế sẽ không còn là vấn đề nữa. Sẽ là lý tưởng cho cậu đấy."

"Không làm thế được," hắn nói, sau chút yên lặng. "Mọi việc sẽ không ra đâu vào đâu, tôi biết là thế mà."

"Tôi nói với cậu là mọi việc rồi sẽ ổn thôi. Tôi đã từng chinh chiến với cậu, thế nên tôi biết, không vấn đề gì."

"Mọi việc trót lọt bởi vì tôi với cậu cùng sát cánh bên nhau," hắn nói. "Chưa từng có thứ gì tôi tự làm một mình lại thành công cả."

"Cậu nghe này. Tôi không nói chuyện mở rộng kinh doanh. Tôi nói là cậu nên củng cố lại. Vụ kinh doanh dịch thuật hồi trước cách mạng công nghiệp mà chúng ta từng làm ấy. Cậu và một thư ký, cộng với năm hay sáu cộng tác viên tự do mà cậu có thể thuê làm. Chả có lý do gì mà không thành công được cả."

Có một tiếng cách, đồng xu mười yên cuối cùng rơi vào trong máy. Tôi bỏ tiếp ba đồng xu nữa vào máy.

"Tôi không được như cậu," hắn nói. "Cậu có thể thành công bằng chính sức mình. Tôi thì không. Mọi việc chẳng đâu vào đâu trừ phi tôi có ai đó để than phiền hay trao đổi ý kiến."

Tôi đặt tay lên nơi ống nghe và thở dài. Lại vẫn cái vòng lẩn quẩn đó. Con dê đen ăn lá thư chưa đọc của con dê trắng, con dê trắng ăn lá thư của con dê đen...

"A lô, a lô?" tay đối tác nói.

"Tôi nghe đây," tôi nói.

Ở đầu dây bên kia, tôi có thể nghe tiếng hai đứa con hắn đang đánh nhau chí chóe giành ti vi. "Hãy nghĩ đến bọn trẻ nhà cậu," tôi nói. Không thật sự công bằng, nhưng tôi không còn quân bài nào để chơi nữa. "Cậu không được phép yếu đuối. Nếu cậu buông xuôi, sẽ là dấu chấm hết cho tất cả mọi người. Nếu cậu muốn chống lại thế giới, cậu không nên có con. Hãy tu tỉnh lại đi, điều chỉnh lại việc kinh doanh, bỏ rượu chè đi."

Hắn im lặng một lúc lâu. Cô phục vụ đem cho tôi một cái gạt tàn. Tôi lấy tay ra hiệu gọi một ly bia nữa.

"Cậu dồn tôi vào chân tường thế này," hắn nói. "Tôi sẽ cố hết sức. Tôi không tự tin là mọi việc sẽ đâu vào đấy, nhưng..."

Tôi rót bia ra ly và nhấp một ngụm. "Mọi việc sẽ ổn thôi. Nghĩ lại sáu năm trước mà xem. Tiền không mà quan hệ cũng không, nhưng rồi mọi thứ đều trót lọt, đúng không nào?" tôi nói.

"Tôi sẽ gọi cho cậu sau."

"Ờ."

"Cám ơn về mọi thứ. Trong suốt thời gian qua mọi thứ đều tuyệt," tôi nói.

"Khi nào cậu xong việc phải làm và quay trở lại Tokyo, ta hãy hợp tác cùng nhau nhé."

"Tất nhiên rồi."

Tôi dập máy.

Cả hắn và tôi đều hiểu khả năng tôi quay trở lại làm việc ít đến thế nào. Làm với nhau sáu năm và hiểu quá rõ về nhau.

Tôi bê ly bia lại bàn mình.

Giờ đây khi công việc không còn là mối quan tâm nữa, tôi cảm thấy như trút được gánh nặng. Một cách từ từ nhưng chắc chắn, tôi đang khiến mọi thứ trở nên đơn giản hơn. Tôi đã đánh mất quê hương, mất thời niên thiếu, mất vợ, trong ba tháng nữa tôi sẽ đánh mất những năm tháng tuổi đôi mươi của mình. Tôi không hình dung được tôi sẽ còn lại gì khi sáu mươi tuổi. Không nghĩ đến những chuyện này. Thậm chí cũng không sao biết được điều gì sẽ xảy ra trong vòng một tháng nữa.

Tôi về nhà và chui vào giường với tập truyện Sherlock Holmes. Đèn tắt lúc mười một giờ và tôi nhanh chóng thiếp đi. Tôi không hề tỉnh giấc lấy một lần trước khi trời sáng.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,311
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 24: PHẦN 6: Một chương cho cá trích


Lúc mười giờ sáng, cái ô tô lố bịch to như tàu ngầm ấy đợi tôi bên ngoài khu chung cư. Từ cửa sổ tầng ba nhà tôi, chiếc limousine trông giống như một cái máy cắt bánh quy bằng sắt lộn ngược hơn là một cái tàu ngầm. Người ta có thể cho ra một cái bánh khổng lồ mà ba trăm đứa trẻ phải mất hai tuần mới ăn hết. Cô và tôi ngồi trên bậu cửa sổ nhìn xuống chiếc xe.

Bầu trời trong một cách đáng sợ. Bầu trời từ một bộ phim theo chủ nghĩa biểu hiện thời tiền chiến. Hoàn toàn không một gợn mây, giống như một con mắt đồ sộ với mí mắt bị cắt. Nhìn từ xa, chiếc trực thăng bay tít trên cao kia trông bé xíu.

Tôi khóa tất cả cửa sổ, rút điện tủ lạnh và kiểm tra vòi khí ga. Thu quần áo vào, trải giường, tráng sạch gạt tàn, và xếp theo thứ tự cẩn thận một số lượng vô lý các khoản thuốc men bên chậu rửa. Tiền thuê nhà được trả trước hai tháng, phiếu đặt báo đã hủy. Từ cửa ra vào, tôi nhìn lại căn hộ không sinh khí của mình. Trong một thoáng, tôi nghĩ về bốn năm của quãng đời vợ chồng ở đó, nghĩ về những đứa con mà tôi và vợ không bao giờ có.

Cửa thang máy bật mở, và cô gọi tôi. Tôi đóng cánh cửa thép lại.

Người lái xe miệt mài lau kính chắn gió bằng một miếng vải khô trong lúc đợi chúng tôi. Chiếc xe không một tì vết, lóe sáng trong ánh mặt trời đến mức chói lọi và siêu tự nhiên. Chỉ cần chạm nhẹ tay vào là người ta có thể bị bỏng.

"Chào cô cậu," người lái xe nói. Vẫn người lái xe sùng đạo hai hôm trước.

"Chào bác," tôi nói.

"Chào bác," cô bạn gái tôi nói.

Cô ôm con mèo. Tôi ôm thức ăn và túi cát vệ sinh èo.

"Trời đẹp quá nhỉ?" người lái xe nói, ngẩng nhìn trời. "Trời – tôi biết nói thế nào nhỉ – trong văn vắt ấy."

Tôi gật đầu.

"Khi trời trong thế này thông điệp của Chúa sẽ thông suốt không gặp phải bất cứ vấn đề gì bác nhỉ," tôi dạm hỏi.

"Không có chuyện đó đâu," người lái xe nói, ngoác miệng cười. "Thông điệp đã được ghi trong tất cả mọi thứ. Trong hoa, trong đá, trong mây..."

"Cả xe hơi nữa ư?"

"Trong cả xe hơi nữa."

"Nhưng xe hơi do nhà máy chế tạo ra mà." Đúng là tôi, không lẫn đi đâu được.

"Dù bất cứ ai sản xuất ra nó thì ý nguyện của Chúa vẫn được cài đặt trong nó."

"Như trong rận ở tai ư?" cô chen vào.

"Như trong chính bầu không khí này vậy." người lái xe chỉnh lại.

"Vậy thì, tôi cho rằng xe hơi sản xuất tại Ả Rập Saudi chúa Thánh Allah trong đó."

"Người ta không sản xuất xe hơi tại Ả Rập Saudi."

"Thật vậy sao?" Lại là tôi.

"Thật."

"Vậy xe hơi sản xuất tại Mỹ để xuất khẩu sang Ả Rập Saudi thì sao? Trong xe đó sẽ có chúa nào," cô bạn gái tôi hỏi.

Một câu hỏi khó.

"Xem nào, chúng ta phải nói cho bác ấy biết về con mèo," tôi thả một cái phao cứu sinh.

"Con mèo dễ thương, ha?" người lái xe nói, cũng cảm thấy nhẹ cả người.

Con mèo còn xa mới gọi là dễ thương. Hơn thế, nó còn gầy dơ xương, lông bẩn như một tấm thảm sờn rách cũ rích, đầu đuôi cong một góc sáu mươi độ, răng vàng khè, mắt phải mưng mủ từ một vết thương ba năm trước nên giờ đây nó hầu như không trông thấy gì. Không chắc là nó có thể phân biệt giữa một chiếc giày thể thao và một củ khoai tây. Gan bàn chân nó nhăn nheo đầy vết chai, tai nó đầy rận, và vì đã già, nó đánh rắm ít nhất hai mươi lần một ngày. Trước đây nó là một chú mèo đực bảnh trai khi vợ tôi tìm thấy nó dưới ghế đá công viên và mang nó về nhà, nhưng mấy năm vừa qua nó xuống dốc nhanh chóng. Giống như một quả bóng bowling lăn về phía rãnh. Thêm nữa, nó không có tên. Tôi chẳng rõ việc không có tên giảm bớt hay góp phần vào thảm kịch của con mèo.

"Miu xinh ghê," người lái xe nói, tay không duỗi ra. "Tên nó là gì?"

"Nó không có tên."

"Vậy cậu gọi chú ta bằng gì?"

"Tôi không gọi nó," tôi nói. "Nó đã sờ sờ ra đấy rồi."

"Nhưng nó không phải là một cục thịt chỉ biết ngồi đó. Nó di chuyển theo ý mình, đúng không? Có vẻ khá lạ khi một thứ gì đó di chuyển theo ý chính mình lại không có tên."

"Cá trích bơi theo ý của chúng, nhưng có ai đặt tên cho chúng đâu?"

"Xem nào, trước hết, không có mối dây tình cảm nào giữa cá trích và con người, ngoài ra, nếu có nghe thấy chúng cũng chẳng biết được đó là tên mình."

"Có nghĩa là con vật nào không những có thể di chuyển theo ý mình và chia sẻ tình cảm với con người mà còn sở hữu khả năng nghe nhìn thì xứng đáng được đặt tên?"

"Đó, cậu nắm trúng vấn đề rồi," người lái xe gật đầu lia lịa, mãn nguyện. "Hay thế này đi?! Cậu nói sao nếu tôi đặt cho cu cậu một cái tên?"

"Rất hoan nghênh. Nhưng tên gì?"

"Hay là tên "Cá Trích"? Ý tôi là xét cho cùng cậu từng đối xử với nó như một con cá trích."

"Không tồi đâu," tôi nói.

"Cậu thấy chưa?" người lái xe nói.

"Em nghĩ sao?" tôi hỏi cô bạn gái.

"Không tồi," cô nói. "Cứ như chứng kiến sự hình thành của trời và đất."

"Thống nhất là cá trích đi," tôi nói.

"Lại đây nào, Cá Trích," người lái xe nói, bế con mèo lên. Con mèo hoảng sợ, cắn ngón tay cái bác ta, rồi đánh rắm.

Người lái xe đưa chúng tôi ra sân bay. Con mèo ngồi lặng lẽ trên ghế trước cạnh bác ta. Thỉnh thoảng lại đánh rắm. Chúng tôi biết vậy vì người lái xe liên tục mở cửa sổ. Trong lúc đó, tôi nhanh chóng đưa ra hướng dẫn cho người lái xe về con mèo. Rửa tai cho nó như thế nào, cửa hàng nào bán thuốc khử mùi hôi cho hộp vệ sinh của mèo, èo ăn bao nhiêu, đại loại thế.

"Cậu đừng lo," người lái xe nói. "Tôi sẽ chăm sóc cu cậu cẩn thận. Cậu biết đấy, tôi là cha đỡ đầu của nó."

Đường vắng đến kinh ngạc. Chiếc xe lướt ra sân bay như một con cá hồi bơi ngược dòng để đẻ trứng.

"Tại sao thuyền có tên, mà máy bay lại không?" tôi hỏi người lái xe. "Tại sao lại chỉ là Chuyến bay 971 hoặc Chuyến bay 326, mà không phải là Hoa chuông hay Hoa Cúc?"

"Có lẽ bởi vì có nhiều chuyến bay hơn thuyền. Sản xuất hàng loạt mà."

"Cũng không hẳn. Nhiều thuyền được sản xuất hàng loạt, và chúng có thể còn nhiều hơn máy bay."

"Tuy vậy...," người lái xe cất lời, rồi không nói gì trong vài giây. "Nói một cách thực tế, không ai đi đặt tên cho tất cả các xe buýt trong thành phố."

"Em nghĩ nếu mỗi xe buýt trong thành phố mà có một cái tên thì thật tuyệt," cô bạn gái tôi nói.

"Nhưng như thế liệu có dẫn đến cảnh hành khách chọn xe buýt mình muốn đi không? Đi từ Shinjuku đến Sendagaya, xem nào, họ sẽ chọn xe Linh dương chứ không phải xe Lừa."

"Em thấy sao?" tôi hỏi cô bạn gái.

"Chắc chắn em sẽ nghĩ kỹ trước khi em đi xe Lừa," cô nói.

"Nhưng này, hãy nghĩ đến tay lái xe đáng thương của xe Lừa," người lái xe lên tiếng cho lái xe ở khắp mọi nơi. "Tay lái xe Lừa không có lỗi."

"Bác nói hay đấy," tôi nói.

"Có lẽ vậy," cô nói, "nhưng em sẽ vẫn đi xe Linh dương."

"Đấy cô cậu xem," người lái xe nói. "Đó là cái lẽ thường. Đặt tên cho tàu vốn là chuyện quen thuộc từ trước thời sản xuất hàng loạt. Về nguyên tắc, nó cũng giống như đặt tên ngựa. Vì thế máy bay được đối xử như ngựa thì trên thực tế cũng được đặt tên. Có máy bay tên Linh hồn St. Louis và Enola Gay. Chúng ta đang xem xét đến một sự định danh có ý thức đầy đủ."

"Có nghĩa rằng ở đây sự sống là yếu tố cơ bản."

"Chính xác."

"Và rằng mục đích chỉ là nhân tố thứ yếu trong việc đặt tên."

"Chính xác. Nếu chỉ vì mục đích thôi thì dùng số là đủ. Hãy chứng kiến việc đối xử với người Do Thái tại Auschwitz."

"Bác nói đến đây vẫn ổn," tôi nói. "Vậy hãy giả dụ rằng nền tảng của việc đặt tên là cái hành động tự đồng nhất một cách có ý thức với sinh vật. Vậy thì tại sao ga tàu và công viên cũng như sân vận động bóng chày có tên, trong khi chúng không phải sinh vật?"

"Tại sao ư? Bởi vì nếu nhà ga mà không có tên thì sẽ hỗn loạn."

"Không, chúng ta không nói trên khía cạnh mục đích. Tôi muốn bác hãy giải thích cho tôi trên nguyên tắc."

Người lái xe suy nghĩ khá lung về chuyện này. Bác ta không để ý đèn giao thông đã chuyển sang màu xanh. Chiếc xe tải nhỏ đằng sau chúng tôi bắt đầu bóp còi theo khúc dạo đầu của phim Bảy tay súng oai hùng.

"Tôi đoán bởi vì chúng không thay thế được cho nhau. Ví dụ, chỉ có một nhà ga Shinjuku và người ta không thể thay thế nó bằng nhà ga Sendagaya. Sự không thay thế được cho nhau này nói lên rằng chúng không được sản xuất hàng loạt. Chúng ta đã rõ về hai điểm này chưa?"

"Dù sao thì cũng sẽ thú vị nếu có nhà ga Shinjuku ở Ekoda," cô bạn gái tôi nói.

"Nếu nhà ga Shinjuku ở Ekoda, nó phải là nhà ga Ekoda," người lái xe phản đối.

"Nhưng nó vẫn nằm trong tuyến Odakyu," cô nói.

"Hãy quay trở lại chủ đề cuộc thảo luận," tôi nói. "Nếu nhà ga thay thế được cho nhau, điều đó có ý nghĩa gì? Chẳng hạn, nếu tất cả mọi nhà ga trên toàn quốc đều được sản xuất hàng loạt theo kiểu những tòa nhà gấp và nhà ga Shinjuku và nhà ga Tokyo hoàn toàn thay thế được cho nhau?"

"Khá đơn giản. Nếu nó ở Shinjuku, nó sẽ là nhà ga Shinjuku; nếu nó ở Tokyo, nó sẽ là nhà ga Tokyo."

"Vì thế những gì chúng ta nói ở đây không phải là tên của một vật thể vật chất, mà là tên của một chức năng. Một vai trò. Đó có phải là mục đích không?"

Người lái xe im lặng. Chỉ có điều lần này bác ta không giữ yên lặng lâu.

"Cô cậu biết tôi nghĩ gì không?" người lái xe nói. "Tôi nghĩ chúng ta nên có một cái nhìn ấm áp hơn về đề tài này."

"Nghĩa là sao hả bác?"

"Tôi muốn nói là thị trấn rồi công viên rồi đường phố rồi nhà ga rồi sân bóng chày rồi rạp chiếu phim tất cả đều có tên, đúng chưa? Chúng đều được đặt tên để thưởng công cho sự cố định của chúng trên mặt đất."

Một giả thuyết mới.

"Vậy thì," tôi nói, "giả dụ tôi xóa sạch ý thức của mình và trở nên hoàn toàn cố định, liệu tôi có xứng với một cái tên mỹ miều không?"

Người lái xe liếc nhìn mặt tôi trong giây lát qua gương chiếu hậu. Một cái nhìn đầy hoài nghi, như thể tôi đang gài bẫy đang bác ta. "Cố định ư?"

"Ví như tôi đóng băng một chỗ, đại loại thế. Như Công chúa ngủ trong rừng ấy."

"Nhưng cậu đã có tên rồi."

"Bác nói đúng," tôi nói. "Suýt nữa thì tôi quên."

Chúng tôi nhận thẻ lên máy bay tại quầy đăng ký rồi tạm biệt người lái xe. Bác ta hẳn đã muốn tiễn chúng tôi, nhưng vì phải một tiếng rưỡi nữa mới đến giờ khởi hành, bác ta không đợi nổi và đi mất.

"Cái ông đó, thật là một nhân vật lập dị," cô nói.

"Anh biết một chỗ có toàn những người như thế," tôi nói. "Ở đó, bò đi loanh quanh để tìm kìm."

"Nghe cứ như "Home on the Pampas" ấy."

"Có lẽ vậy," tôi nói.

Chúng tôi vào một tiệm ăn trong sân bay và ăn trưa sớm. Tôm tẩm bột và pho mát cho tôi, mì ống cho cô. Tôi nhìn những chiếc 747 và Tristars cất cánh và sà xuống đất với một trọng lực dường như là định mệnh. Trong lúc đó cô kiểm tra từng sợi mì cô ăn một cách đầy ngờ vực.

"Em tưởng là họ lúc nào cũng phục vụ bữa ăn trên máy bay," cô cằn nhằn.

"Không," tôi nói, đợi miếng bột nóng trong miệng nguội đi, rồi uống ực chút nước. Nóng không còn nhận biết được vị gì. "Người ta chỉ phục vụ ăn uống trên chuyến bay quốc tế. Họ ình ăn gì đó trên các tuyến nội địa đường dài hơn. Nhưng đó không hẳn là một bữa thịnh soạn đâu."

"Còn phim thì sao?"

"Không có đâu. Thôi nào, chỉ mất một tiếng là đến Sapporo thôi mà."

"Vậy họ không ình thứ gì ư?"

"Không có gì hết. Ta ngồi trên ghế, đọc sách, rồi đến nơi. Giống như xe buýt vậy."

"Nhưng không có đèn giao thông."

"Thật tuyệt chưa," cô nói với một tiếng thở dài. Cô đặt nĩa xuống, không động đến nguyên nửa phần mì.

"Vấn đề là mình đến đó sớm hơn. Nếu đi tàu thì sẽ mất mười hai tiếng."

"Vậy cái thời gian phụ này đi đâu?"

Tôi bỏ dở khi ăn được nửa chừng và gọi hai cốc cà phê. "Thời gian phụ ư?"

"Anh nói là máy bay sẽ tiết kiệm cho anh hơn mười tiếng. Vậy toàn bộ quãng thời gian ấy đi đâu?"

"Thời gian không đi đâu cả. Nó chỉ cộng thêm thôi. Chúng ta có thể dùng mười tiếng ấy theo ý chúng ta, ở Tokyo hay ở Sapporo. Với mười tiếng chúng ta có thể xem bốn bộ phim, ăn hai bữa ăn, bất cứ chuyện gì. Đúng chưa?"

"Nhưng nếu em không muốn đi xem phim hay đi ăn thì sao?"

"Đó là vấn đề của em. Đó không phải là lỗi của thời gian."

Cô cắn môi trong lúc chúng tôi nhìn ra cái thân bè bè của những chiếc 747 trên đường băng rải nhựa. Những chiếc 747 luôn gợi cho tôi đến hình ảnh một bà già mập ú, xấu xí khu phố tôi từng ở. Ngực to đùng chảy xệ, chân phồng tướng, cổ khô nhăn nheo. Sân bay, một chốn tụ tập thích hợp cho những bà già. Hàng tá bà già, đến rồi đi, cứ hết chiếc này đến chiếc khác. Phi công và chiêu đãi viên đi đi lại lại oai vệ trong tiền sảnh, đầu ngẩng cao, trông họ có vẻ bẹp dí một cách kỳ quặc, giống những con búp bê bằng bìa của các bé gái. Tôi không khỏi nghĩ sao mọi thứ không giống như cái thời những chiếc DC-7 và Friendship-7 nhưng có lẽ nó vẫn giống vậy thôi.

"Này," cô tiếp tục, "thời gian có giãn ra không anh?"

"Không, thời gian không giãn ra," tôi trả lời. Tôi cất tiếng, nhưng sao nghe như không phải giọng tôi? Tôi húng hắng ho và uống cà phê. "Thời gian không giãn ra."

"Nhưng thời gian thực sự tăng lên, đúng không? Chính anh nói là thời gian cộng thêm mà."

"Đó là bởi vì thời gian cần cho di chuyển được rút xuống. Tổng số lượng thời gian không thay đổi. Chỉ có điều là em có thể xem thêm phim."

"Nếu em muốn xem phim," cô thêm vào.

Ngay khi chúng tôi đến Sapporo, quả thật chúng tôi đi xem phim suất đúp.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,311
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 25: PHẦN 7 - CÔNG CỤ Ở KHÁCH SẠN CÁ HEO: Dịch chuyển hoàn thành tại rạp chiếu phim; đến khách sạn Cá Heo


Trong cả chuyến bay, cô ngồi cạnh cửa sổ ngắm phong cảnh bên dưới. Tôi ngồi cạnh cô đọc cuốn Những Cuộc Phiêu Lưu Của Sherlock Holmes. Không hề có lấy một gợn mây trong suốt quãng thời gian, máy bay bay trên bóng của nó trên mặt đất. Hay nói chính xác hơn, vì chúng tôi ở bên trong máy bay, bóng chúng tôi cũng hiện ra bên trong bóng máy bay đang lướt qua núi non và cánh đồng kia. Thế có nghĩa là chúng tôi cũng được in vào đất.

"Em thật sự thích cái ông đó," cô nói sau khi uống nước cam.

"Cái ông nào?"

"Người lái xe."

"Hừm," tôi nói, "anh cũng thích ông ấy."

"Và thật là một cái tên hay, "Cá Trích"."

"Chắc chắn rồi. Tên hay. Có lẽ con mèo ở với bác ta sướng hơn là ở với anh."

"Đừng có "con mèo", mà là "Cá Trích"."

"Đúng vậy. "Cá Trích"."

"Tại sao anh không đặt tên cho con mèo suốt bấy lâu nay?"

"Quả vậy, tại sao nhỉ?" tôi bối rối. Rồi tôi châm thuốc bằng chiếc bật lửa khắc hình con cừu. "Chắc tại anh không thích tên. Về cơ bản, anh không thấy có gì là sai khi gọi anh là "anh" hay em là "em" hay chúng ta là "chúng ta" hay họ là "họ"."

"Hừm," cô nói. "Dù vậy, em thật sự thích từ "chúng ta". Nó có một vẻ gì đó của Kỷ Băng hà."

"Kỷ Băng hà ư?"

"Như "Chúng ta đi về phía Nam" hay "Chúng ta đi săn voi ma mút" hay..."

Khi chúng tôi bước ra ngoài sân bay Chitose, trời lạnh hơn chúng tôi tưởng. Tôi mặc một cái áo bò bên ngoài áo phông, cô áo gi lê len bên ngoài áo sơ mi. Mùa thu đã đến trên vùng đất này trước Tokyo cả một tháng.

"Chúng ta không phải đi vào Kỷ Băng hà, đúng không?" cô hỏi tôi trên xe buýt đến Sapporo. "Anh đi săn voi ma mút, em nuôi con."

"Nghe khá là hấp dẫn đấy," tôi nói.

Chẳng bao lâu cô ngủ thiếp đi, để mặc tôi trông qua khung cửa sổ xe, nhìn đăm đăm những dải rừng sâu nối dài bất tận hai bên đường.

Khi tới thành phố, đầu tiên chúng tôi nhảy vào một tiệm cà phê.

"Ngay bây giờ, chúng ta hãy lên lịch hành động," tôi nói. "Mình sẽ phải chia nhau ra. Thế tức là, anh đi tìm phong cảnh trong bức ảnh. Em đi tìm con cừu. Làm thế sẽ tiết kiệm được thời gian."

"Rất thực tế."

"Ấy là nếu mọi việc tiến triển tốt," tôi bổ sung. "Dù sao thì, em có thể tìm những trang trại nuôi cừu chủ yếu ở Hokkaido trước đây và tìm hiểu các giống cừu. Em có thể tìm những gì mình cần tại một cơ quan chính quyền hoặc thư viện địa phương."

"Em thích thư viện," cô nói.

"Vậy thì tốt."

"Em bắt tay vào việc ngay chứ?"

Tôi nhìn đồng hồ. Ba giờ rưỡi. "Thôi, cũng muộn rồi. Hãy bắt đầu vào ngày mai. Hôm nay mình cứ thư thả thôi, kiếm một chỗ nghỉ, ăn tối, tắm táp và ngủ một chút."

"Em sẽ không từ chối đi xem một bộ phim," cô nói.

"Một bộ phim ư?"

"Mình tiết kiệm được bao nhiêu thời gian do đi máy bay mà."

"Ý hay đó," tôi nói. Thế là chúng tôi tạt vào rạp chiếu phim đầu tiên mình thấy.

Rốt cuộc chúng tôi xem một suất đúp phim hình sự – siêu nhiên. Hầu như không có một mống nào trong rạp. Lâu lắm rồi tôi không vào một rạp chiếu phim vắng như vậy. Tôi đếm số người trong rạp để giết thời gian. Tám, gồm cả chúng tôi. Trong phim còn nhiều nhân vật hơn.

Hai bộ phim này là ví dụ điển hình của phim tồi. Loại phim làm người ta cảm thấy muốn quay ra khỏi rạp ngay lúc đầu đề hiện ra sau tiếng gầm của con sư tử MGM. Thật đáng kinh ngạc là phim như thế vẫn còn tồn tại.

Phim đầu là phim siêu nhiên. Con quỷ, sống trong căn hầm dột nát ẩm thấp của nhà thờ thị trấn và thao túng mọi thứ qua nhà thuyết pháp yếu đuối, đã chiếm thị trấn. Nhưng câu hỏi thật sự ở đây là tại sao con quỷ lại muốn chiếm thị trấn cơ chứ. Cả thị trấn chẳng có gì ngoài mấy khối nhà thảm thương bao quanh là cánh đồng ngô.

Tuy nhiên, con quỷ này bị cái thị trấn ấy ám ảnh khủng khiếp và nổi cơn thịnh nộ khi một bé gái duy nhất không chịu khuất phục bùa mê của nó. Khi con quỷ điên lên, thân thể nó lắc lư như đám thạch màu xanh run rẩy. Phải thú thật là có một vẻ gì đó đáng yêu trong cơn giận dữ đó.

Ngay đằng trước chúng tôi là một người đàn ông trung niên ngáy như còi báo hiệu sương mù. Ở phía tận cùng bên phải đang diễn ra màn hôn hít sờ soạng nặng đô. Đằng sau, người nào đó đánh một cái rắm to đùng. To đến mức khiến người đàn ông trung niên dừng ngáy mất một lúc. Một cặp nữ sinh trung học cười khúc khích.

Theo phản xạ, tôi nghĩ đến Cá Trích. Và chỉ khi đó tôi mới chợt nhận ra chúng tôi đã thực sự rời Tokyo và hiện đang ở Sapporo.

Đó mới thật buồn cười.

Giữa những ý nghĩ này tôi thiếp đi. Trong giấc mơ tôi gặp con quỷ xanh đó, nhưng nó không đáng yêu chút nào. Nó yên lặng mãi và tôi chỉ quan sát mưu đồ của nó.

Trong khi đó, bộ phim kết thúc, đèn bật lên, và tôi thức dậy. Mỗi khán giả đều ngáp như thể theo thứ tự được định trước. Tôi đến quầy bán đồ ăn nhẹ mua kem cho chúng tôi. Kem cứng như đá, có lẽ còn thừa lại từ mùa hè trước.

"Anh ngủ trong suốt bộ phim à?"

"À há," tôi nói. "Phim thế nào?"

"Khá thú vị. Cuối cùng, cả thị trấn nổ tung."

"Ái chà chà."

Rạp chiếu phim yên lặng một cách chết chóc. Hoặc đúng hơn là mọi thứ quanh chúng tôi yên lặng một cách chết chóc. Không phải là một việc hay xảy ra.

"Này," cô nói, "có vẻ như cơ thể ta đang ở trong trạng thái dịch chuyển hay sao ấy?"

Giờ khi cô nói ra, nó đúng là như vậy.

Cô cầm tay tôi. "Hãy cứ ở yên như thế này nhé. Em sợ."

"Được thôi,"

"Nếu không ở yên như thế này, chúng ta có thể bị chuyển đến một nơi nào khác. Một chỗ điên rồ nào đó."

Trong khi bên trong rạp lại tối dần và bộ phim mới tiếp tục, tôi vén tóc cô qua một bên và hôn tai cô. "Không sao đâu. Đừng sợ."

"Có lẽ anh đúng," cô nói khẽ. "Xét cho cùng, em nghĩ lẽ ra chúng ta nên đi lại trên phương tiện vận chuyển có tên."

Trong một giờ rưỡi sau đó, từ lúc bắt đầu cho đến lúc hết phim, chúng tôi ở trong trạng thái di chuyển yên lặng trong bóng tối. Đầu cô dựa trên vai tôi suốt cả quãng thời gian ấy. Vai tôi trở nên ấm và ẩm vì hơi thở của cô.

Chúng tôi ra khỏi rạp chiếu phim và tản bộ dọc con phố trong ánh chạng vạng, tay tôi khoác vai cô. Chúng tôi cảm thấy gần gũi nhau hơn bao giờ hết. Sự hối hả của khách bộ hành đem lại cảm giác khuây khỏa; những ngôi sao mờ nhạt chiếu sáng trên bầu trời.

"Liệu hai chúng ta có thật sự đang ở đúng thành phố không?" cô hỏi.

Tôi nhìn lên trời. Sao Bắc Đẩu ở đúng vị trí, nhưng không hiểu sao trông nó giống như sao Bắc Đẩu giả. Quá lớn, quá sáng.

"Anh cũng không biết," tôi nói.

"Em cảm thấy như mình ở không đúng chỗ," cô nói.

"Đó là cảm giác khi đến một thành phố mới. Cơ thể người ta chưa hoàn toàn quen với nó."

"Nhưng sau một hồi người ta sẽ quen với nó, đúng không anh?"

"Sau hai ba ngày em sẽ ổn thôi," tôi nói.

Khi đã mệt vì đi bộ, chúng tôi vào tiệm ăn đầu tiên mình thấy, uống bia hơi, gọi cá hồi và khoai tây. Chúng tôi bước vào đó tình cờ không hoạch định gì và gặp may. Bia thật vừa ý tôi và thức ăn thật ngon.

"Xem nào," tôi nói sau chầu cà phê, "em nói sao nếu chúng mình kiếm một chỗ nghỉ?"

"Em đã hình dung ra chỗ ấy rồi," cô nói.

"Như thế nào?"

"Đừng bận tâm. Hãy lấy ra danh sách khách sạn và đọc tên theo thứ tự."

Tôi nhờ người hầu bàn mang ra cuốn danh bạ và bắt đầu đọc những cái tên liệt kê trong mục "Khách sạn, Quán trọ". Sau bốn mươi tên, cô ngắt lời tôi.

"Chính nó đó."

"Cái nào?"

"Cái anh vừa đọc."

"Khách sạn Cá Heo," tôi nói.

"Đó là nơi chúng ta sẽ nghỉ."

"Chưa bao giờ nghe đến."

"Nhưng em không thể hình dung chúng ta ở bất cứ khách sạn nào khác."

Tôi trả lại cuốn danh bạ điện thoại, rồi gọi tới khách sạn Cá Heo. Một người đàn ông với giọng nói không có gì đặc biệt trả lời, cho biết họ còn phòng đôi và phòng đơn. Thế có loại phòng nào khác ngoài phòng đôi và phòng đơn không? Không. Chỉ có phòng đôi và phòng đơn thôi. Rối tung rối mù, tôi đặt một phòng đôi. Giá: rẻ hơn bốn mươi phần trăm giá tôi dự tính.

Khách sạn Cá Heo nằm cách rạp chiếu phim chúng tôi đến xem ba khối nhà về phía Tây và một khối nhà về phía Nam. Một chỗ nhỏ thôi, hoàn toàn không có gì nổi bật. Sự thiếu nổi bật của nó rất siêu hình. Không đèn hiệu neon, không bảng hiệu lớn, thậm chí không có một lối đi vào thật sự. Cánh cửa kính đằng trước trông như lối bếp cho nhân viên, cạnh nó chỉ là một tấm bảng bằng đồng khắc chữ KHÁCH SẠN CÁ HEO. Thậm chí không có lấy một hình cá heo.

Tòa nhà cao năm tầng, nhưng nom chẳng khác gì một hộp diêm khổng lồ dựng thẳng lên. Nó không đặc biệt cũ kỹ; tuy vậy nó vẫn ọp ẹp một cách đáng báo động. Nhiều khả năng nó đã ọp ẹp từ lúc mới xây.

Đây là khách sạn Cá Heo của chúng tôi.

Tuy vậy, có vẻ như cô yêu thích chốn này ngay từ lúc nhìn thấy nó.

"Không phải một khách sạn tồi, anh nhỉ?" cô nói.

"Không tồi ư?" tôi đáp lại lời cô.

"Ấm áp, không điệu đàng kiểu cách."

"Không điệu đàng kiểu cách," tôi nhắc lại. "Khi nói điệu đàng kiểu cách, anh chắc là em có ý khăn trải giường sạch sẽ hay bồn rửa không bị rò rỉ hay máy điều hòa hoạt động hay giấy vệ sinh mềm một cách hợp lý hay xà phòng mới hay rèm cửa chống say nắng."

"Anh lúc nào cũng nhìn vào mặt trái của vấn đề," cô cười. "Dù sao thì mình đến đây có phải để du lịch đâu cơ chứ."

Khi mở cửa, tôi nhận ra tiền sảnh rộng hơn tôi tưởng. Ở giữa sảnh là bộ bàn ghế phòng khách và một chiếc ti vi màu lớn đang có một chương trình thi đố trên ti vi. Chẳng thấy một ma nào.

Những chậu cây cảnh lớn nằm hai bên cửa trước, lá cây đã héo, gần ngả màu nâu. Tôi đứng đó quan sát mọi thứ. Tiền sảnh thật ra chật hẹp hơn nhiều so với cảm nhận ban đầu. Trước nó có vẻ lớn vì có quá ít đồ đạc. Bộ bàn ghế dùng cho phòng khách, đồng hồ quả lắc và một tấm gương.

Không còn gì hết.

Tôi lại gần xem xét kỹ chiếc đồng hồ và tấm gương. Cả hai đều là quà kỷ niệm nhân một sự kiện nào đó. Đồng hồ sai bảy phút; tấm gương làm đầu tôi vặn vẹo trên thân.

Bộ bàn ghế dùng cho phòng khách cũng ọp ẹp như bản thân khách sạn vậy. Chiếc xô pha màu cam không chút quyến rũ, loại màu cam có được khi ta bỏ mặc vải dệt bị nắng thiêu đốt một cách có chủ đích ra ngoài trời mưa trong một tuần, rồi quẳng vào hầm cho tới khi nó bị mốc lên. Đây là loại màu cam từ những ngày đầu của phim màu.

Nhìn kỹ hơn thì thấy một người đàn ông trung niên đang trên đà hói, nằm thẳng đuột như con cá khô, ngủ trên chiếc ghế tựa dài của bộ bàn ghế. Thoạt tiên, tôi nghĩ ông ta đã chết, nhưng mũi ông ta giật giật. Có cả vết lõm của kính mắt trên sống mũi ông ta, nhưng không thấy kính đâu. Điều đó có nghĩa ông ta không ngủ thiếp đi khi xem ti vi. Thế sẽ không hợp lý.

Tôi đứng ở bàn tiếp tân mà nhìn qua quầy. Không có ai ở đó. Cô rung chuông. Tiếng chuông vang khắp tiền sảnh.

Chúng tôi đợi ba mươi giây nhưng không ai trả lời. Người đàn ông trên chiếc ghế tựa dài không hề cựa quậy.

Cô rung chuông lần nữa.

Giờ thì người đàn ông trên chiếc ghế tựa dài cằn nhằn. Một kiểu cằn nhằn tự tố cáo. Rồi ông ta mở mắt và nhìn chúng tôi một cách vô hồn.

Cô rung chuông lần thứ ba, một hồi chuông ra trò.

Người đàn ông nhảy bật dậy và lao qua tiền sảnh. Ông ta đi ngang tôi và đến sau quầy. Ông ta là lễ tân.

"Tôi thật tệ quá," ông ta nói. "Tôi thật sự tệ quá. Ngủ thiếp đi trong lúc đợi anh chị."

"Xin lỗi đã đánh thức ông," tôi nói.

"Không sao cả," người lễ tân nói. Ông ta mang ra một thẻ đăng ký và một chiếc bút bi. Tay trái ông ta bị khuyết đầu ngón út và ngón giữa.

Tôi điền tên mình lên tấm thẻ nhưng nghĩ lại liền vo tròn tấm thẻ đút vào túi. Tôi lấy một tấm thẻ khác rồi điền một cái tên và địa chỉ giả. Một cái tên và địa chỉ bình thường thôi, nhưng không đến nỗi nào đối với một cái tên và địa chỉ tạo nên do-tình-thế-bắt-buộc. Nghề nghiệp thì tôi ghi là kinh doanh nhà đất.

Người lễ tân nhặt cặp kính gọng celluloid dày cộp bên cạnh điện thoại lên rồi nhìn kỹ tấm thẻ đăng ký.

"Suginami, Tokyo,... 29 tuổi, kinh doanh nhà đất."

Tôi lấy một tờ giấy lau trong túi ra chùi mực ở ngón tay.

"Anh đến đây công tác à?" người lễ tân hỏi.

"Ờ, đại loại thế," tôi nói.

"Anh ở bao nhiêu đêm?"

"Một tháng," tôi nói.

"Một tháng?" Ông ta ném cho tôi một cái nhìn ngạc nhiên. "Anh sẽ ở đây cả một tháng ư?"

"Thế có gì không ổn không?"

"Không, à, không có gì không ổn cả, nhưng mà, chúng tôi muốn anh trả tiền ba ngày một lần."

Tôi đặt túi xuống sàn, đếm hai mươi đồng mười ngàn yên, đặt lên quầy.

"Còn nữa nếu số đó hết," tôi nói.

Người tiếp tân vốc tiền lên bằng ba ngón tay trái và đếm chúng bằng tay phải. Rồi ông ta viết hóa đơn. "Anh có yêu cầu đặc biệt gì về phòng ốc không?"

"Nếu được thì một phòng trong góc xa thang máy."

Người lễ tân quay đi và nheo mắt nhìn bảng treo chìa khóa. Sau một lúc chần chừ, ông chọn phòng 406. Bảng treo chìa khóa hầu như còn đầy. Một câu chuyện thành công thật sự, khách sạn Cá Heo.

Không có thứ gọi là người trực tầng, thế là chúng tôi khiêng túi ra thang máy. Như cô nói, không điệu đàng kiểu cách. Thang máy lắc lư như con chó già bị bệnh phổi.

"Nếu ở dài ngày, không gì tốt hơn một khách sạn nhỏ, cơ bản."

"Khách sạn nhỏ, cơ bản" – một lối diễn đạt không đến nỗi nào. Giống như được lấy ra từ trang du lịch của một tạp chí thời trang cho phụ nữ: "Sau một chuyến đi dài ngày, một khách sạn nhỏ, cơ bản chính là điều bạn cần."

Tuy thế, việc đầu tiên tôi làm khi mở cửa phòng khách sạn nhỏ, cơ bản của chúng tôi là nhặt một chiếc dép để đập con gián đang bò trên khung cửa sổ. Rồi tôi nhặt hai chiếc lông mu cạnh chân giường lén thả vào sọt rác. Nhìn thấy gián ở Hokkaido là một trải nghiệm mới cho tôi. Trong lúc đó, cô điều chỉnh nhiệt độ nước trong buồng tắm. Và tin tôi đi, cái vòi nước ấy ồn kinh khủng.

"Anh đã bảo mà, chúng ta nên ở một khách sạn tốt hơn," tôi mở cửa buồng tắm và nói tướng lên với cô. "Chúng ta có thừa tiền mà."

"Đây không phải vấn đề tiền nong. Cuộc săn tìm cừu của chúng ta bắt đầu ở đây. Không tranh luận gì nữa, nó phải là ở đây."

Tôi nằm duỗi dài trên giường, hút một điếu thuốc, bật ti vi lên, thử tất cả các kênh rồi tắt đi. Thứ duy nhất tử tế ở đây là sóng thu. Lúc này đây, tiếng nước chảy vào bồn tắm ngừng và quần áo cô bay vèo ra ngoài, theo sau là âm thanh của vòi hoa sen cầm tay.

Kéo rèm cửa sang hai bên, tôi nhìn ra một nhóm lô xô những tòa nhà bẩn thỉu cũng khó hiểu như khách sạn Cá Heo của chúng tôi. Tòa nhà nào cũng có màu xám tro dơ dáy và chỉ nhìn thôi cũng biết chúng sặc mùi nước đái. Mặc dù đã chín giờ, tôi có thể trông thấy những người trong vài khung cửa sổ sáng đèn đang bận rộn làm việc. Tôi không thể đoán được đó là loại công việc gì, nhưng không một ai trông thật sự hạnh phúc. Tất nhiên, trong mắt họ, có lẽ trông tôi cũng hơi đau khổ.

Tôi kéo rèm lại và quay về giường, lăn tròn trên tấm khăn trải giường được hồ cứng như nhựa đường, nghĩ về cô vợ cũ. Tôi nghĩ về người đàn ông hiện cô ta đang sống cùng. Tôi biết hầu hết mọi thứ cần biết về hắn ta. Xét cho cùng hắn từng là bạn tôi, vậy sao tôi không biết chứ? Hai mươi bảy tuổi. Một tay ghi ta nhạc jazz không nổi tiếng lắm, nhưng đủ chuyên nghiệp so với những tay ghi ta nhạc jazz không nổi tiếng lắm. Một thằng cha không đến nỗi nào. Dù không có phong cách gì. Năm nay hắn trôi giạt giữa Kenny Burrell và B.B.King, năm tới đã lại giữa Larry Coryell và Jim Hall.

Tại sao cô ta bỏ tôi để theo hắn, tôi không hiểu được. Phải thừa nhận là người ta có thể chọn ra những tính cách đặc biệt của cá nhân. Tuy nhiên điều duy nhất hắn hơn tôi là hắn biết chơi ghi ta và điều duy nhất tôi hơn hắn là tôi có thể rửa bát đĩa. Hầu hết những tay chơi ghi ta không thể rửa bát đĩa. Nó làm hỏng ngón tay và mọi thứ sẽ đi tong.

Rồi tôi chợt nhận ra mình đang nghĩ đến chuyện làm tình với cô ta. Vậy là một cách tự nhiên tôi cố thử đếm số lần chúng tôi quan hệ trong bốn năm lấy nhau. May mắn lắm thì tôi sẽ có một con số xấp xỉ, và phải thú nhận là một con số xấp xỉ có nghĩa lý gì đâu? Lẽ ra tôi nên ghi nhật ký. Hoặc ít nhất là đánh dấu gì đó vào trong sổ. Nếu làm thế tôi đã có thể có được con số chính xác. Số chính xác đem lại ọi thứ một cảm giác hiện thực.

Vợ cũ tôi lưu giữ những ghi chép chính xác về tình dục. Nói thế không có nghĩa cô ta ghi nhật ký theo nghĩa thông thường. Cô ta chép vào một cuốn sổ mọi thông tin chính xác về các kỳ hành kinh của cô ta ngay từ năm đầu tiên và ghi cả chuyện sinh hoạt tình dục để tham khảo thêm. Tổng cộng có đến tám cuốn sổ như thế, tất cả đều được giữ trong ngăn kéo có khóa cùng với những giấy tờ và bức ảnh quan trọng. Cô ta không cho ai xem những thứ này. Tôi chỉ biết cô ta lưu giữ những ghi chép về tình dục. Cô ta viết như thế nào và bao nhiêu, tôi không hề biết. Và giờ đây khi chúng tôi không cùng nhau nữa, tôi có lẽ sẽ không bao giờ biết.

"Nếu em chết," cô ta từng nói với tôi, "hãy đốt những cuốn sổ này đi. Hãy tẩm xăng và để chúng cháy thành tro bụi, rồi đem chôn. Em sẽ không bao giờ tha lỗi cho anh nếu còn sót lại một từ."

"Nhưng anh là người ngủ với em. Anh biết rõ gần như từng centimet trên người em. Đã đến lúc này thì việc gì phải xấu hổ?"

"Tế bào cơ thể tự thay thế mỗi tháng. Ngay cả chính lúc này đây," cô ta nói, ấn mạnh mu bàn tay gầy guộc trước mắt tôi. "Hầu hết mọi thứ anh nghĩ anh biết về em chỉ là kỷ niệm."

Người phụ nữ đó – trừ khoảng thời gian một tháng trước khi ly dị – đã đặc biệt ngăn nắp trong suy nghĩ. Cô ta nhận thức một cách hoàn toàn thiết thực về cuộc đời mình. Điều đó có nghĩa không có cánh cửa nào từng đóng lại mà lại còn mở ra nữa, cũng như theo quy tắc không có cánh cửa nào hoàn toàn mở rộng.

Giờ đây, tất cả những gì tôi biết về cô ta chỉ còn là kỷ niệm. Và những kỷ niệm này ngày càng nhạt nhòa trôi xa dần như những tế bào bị thay thế. Điều này chỉ thuần túy sinh học thôi sao?
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,311
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 26: PHẦN 7: Giáo sư Cừu xuất hiện


Chúng tôi thức dậy lúc tám giờ sáng hôm sau, mặc quần áo, đi xuống thang máy, ra quán cà phê gần đó ăn sáng. Không, khách sạn Cá Heo không có quán cà phê.

"Như anh nói hôm qua, chúng ta sẽ chia nhau ra," tôi nói, đưa cho cô bản chụp bức ảnh con cừu. "Anh sẽ tận dụng núi non ở hậu cảnh để tìm ra chỗ đó. Em sẽ nghiên cứu các nơi người ta nuôi cừu. Em biết phải làm gì rồi đấy. Bất kỳ manh mối nào, bất kỳ thứ gì, dù nhỏ nhặt đến đâu, đều tốt. Bất kỳ thứ gì cũng tốt hơn lùng sục một cách mù quáng khắp cả hòn đảo Hokkaido này."

"Em lo được. Để việc đó cho em."

"Được, mình gặp lại nhau tại khách sạn tối nay nhé."

"Anh đừng lo lắng quá," cô nói, đeo kính râm lên. "Rồi anh sẽ thấy việc này dễ như ăn bánh thôi mà."

Tất nhiên, nó không hề dễ như ăn bánh. Mọi việc không bao giờ xảy ra theo cách đó. Tôi đến Cục Du lịch Địa phương, vòng qua các trung tâm thông tin du lịch và đại lý du lịch khác nhau, hỏi han Hiệp hội Leo núi. Nói chung, tôi đã kiểm tra tất cả mọi chỗ liên quan đến du lịch và núi non. Không ai nhớ đã từng trông thấy dãy núi như trong bức ảnh.

"Dãy núi đó trông quá đỗi bình thường," họ đều nói vậy. "Ngoài ra, bức ảnh chỉ cho thấy một phần nhỏ thôi."

Cả ngày hỏi han, thế mà thông tin đó lại là thứ gần với tiến triển nhất mà tôi có được. Nghĩa là, tôi nhận ra rằng sẽ khó mà xác định dãy núi trong khi không có gì để phân biệt nó, đã vậy lại chỉ có ảnh chụp một phần của chúng mà thôi.

Tôi dừng chân tại một hiệu sách, mua cuốn Những ngọn núi ở Hokkaido và một tập bản đồ, rồi vào một quán cà phê, gọi hai ly bia vị gừng và xem qua những gì mua được. Về núi non thì ở Hokkaido có nhiều núi đến không thể tin được, tất cả đều có cùng một màu sắc và hình dáng. Tôi cố sánh những ngọn núi trong bức ảnh của Chuột với từng ngọn núi trong cuốn sách; sau mười phút, tôi nhức hết cả đầu. Chẳng khuây khỏa gì khi biết rằng số lượng núi trong cuốn sách đại diện ột phần vô cùng nhỏ bé tất cả các ngọn núi ở Hokkaido. Sự việc càng thêm phức tạp bởi một ngọn núi nhìn ở mỗi góc cạnh khác nhau cho ta một ấn tượng hoàn toàn khác nhau.

"Núi non là sinh vật," tác giả trong lời đề tựa của cuốn sách viết. "Núi non, tùy theo góc nhìn, mùa, thời gian trong ngày, tâm trí người ngắm nhìn, hoặc bất kỳ thứ gì, có thể thật sự thay đổi hình dạng. Vì vậy, nhất thiết phải nhận ra rằng chúng ta không bao giờ biết hơn một mặt, một khía cạnh nhỏ của một ngọn núi."

"Thật tuyệt chưa," tôi nói to. Một nhiệm vụ bất khả thi. Lúc chuông điểm năm giờ, tôi đi ra ngoài ngồi trên ghế đá công viên và ăn ngô với lũ chim bồ câu.

Nỗ lực thu thập thông tin của cô khả quan hơn tôi nhiều, nhưng rốt cuộc thì cũng thành vô ích. Chúng tôi sánh ghi chép về những thử thách và gian nan của nhau trong ngày hôm đó bên bữa tối giản dị tại một tiệm ăn đằng sau khách sạn Cá Heo.

"Phòng Chăn nuôi của Chính quyền Địa phương hầu như không biết gì," cô nói. "Họ đã thôi không theo dõi cừu nữa. Nuôi cừu không được lợi lộc gì. Ít nhất là không lợi lộc đối với trang trại diện rộng hoặc chăn thả tự do."

"Về một mặt, điều đó khiến cuộc tìm kiếm dễ dàng hơn."

"Không hẳn vậy. Các chủ trại nuôi súc vật vẫn duy trì chăn nuôi cừu và thậm chí còn có hẳn nghiệp đoàn riêng, việc này được nhà chức trách kiểm át. Tuy nhiên, với việc nuôi cừu diện trung bình và diện nhỏ, khó có thể biết được chính xác số lượng cừu. Ai cũng nuôi vài con cừu cũng gần giống như người ta nuôi chó mèo vậy. Dù sao em cũng đã ghi lại địa chỉ của ba mươi người nuôi cừu mà họ có danh sách, nhưng giấy tờ đã bốn năm rồi, mà trong bốn năm thì người ta di chuyển nhiều lắm. Anh biết không, chính sách nông nghiệp của Nhật Bản cứ ba năm thay đổi một lần như thế đấy."

"Thật tuyệt chưa," tôi thở dài vào ly bia. "Có vẻ như mình rơi vào ngõ cụt rồi. Phải có hơn một trăm ngọn núi giống như vậy ở Hokkaido, còn về tình trạng nuôi cừu thì hoàn toàn chẳng có thông tin gì."

"Đây là ngày đầu tiên. Chúng ta mới chỉ bắt đầu thôi mà."

"Thế đôi tai em đã nhận được thông điệp gì chưa?"

"Hiện tại thì không có thông điệp gì," cô nói giữa khi đang ăn cá ninh và súp mi. "Em chỉ biết đến thế. Em chỉ nhận được thông điệp tuyệt vọng khi em bối rối hoặc cảm thấy dằn vặt về mặt tinh thần. Nhưng lúc này thì em không như thế."

"Có phải dây cứu đắm chỉ tung ra khi người ta sắp chết đuối không?"

"Đúng thế. Hiện tại em hài lòng với việc trải nghiệm tất cả những điều này cùng anh, và chừng nào em còn hài lòng, em không nhận được thông điệp. Vì vậy việc tìm ra con cừu đó là tùy thuộc vào chúng mình."

"Anh cũng không biết nữa," tôi nói. "Hiểu theo nghĩa nào đó, nếu không tìm ra con cừu ấy chúng ta sẽ gặp rắc rối to. Rắc rối gì thì anh không thể nói, nhưng nếu mấy người đó nói họ sẽ truy ra chúng ta, họ sẽ truy ra thôi. Bọn họ là dân chuyên nghiệp mà. Cho dù Ông Chủ có chết, tổ chức vẫn tồn tại và mạng lưới của họ sẽ mở rộng đến bất cứ nơi nào trên nước Nhật, giống như cống rãnh vậy. Họ sẽ tóm cổ được hai ta. Nghe thật ngu ngốc, nhưng đúng là như vậy."

"Nghe cứ như phim Những kẻ xâm lấn vậy."

"Nghe rất nực cười, anh biết thế. Nhưng sự thật là chúng ta tự mình dấn sâu vào vụ này rồi, và khi nói "chúng ta" anh muốn nói anh và em. Ban đầu chỉ có mình anh nhưng giờ đây em cũng cùng hoàn cảnh. Em vẫn chưa cảm thấy mình sắp chết đuối sao?"

"Này anh, đây chính là thứ em yêu thích. Để em nói anh nghe, nó còn thú vị hơn là ngủ với người lạ hoặc phải để lộ tai hoặc sửa bản in những cuốn từ điển danh nhân. Đây mới là sống chứ."

"Nói vậy nghĩa là," tôi xen vào, "chúng ta sẽ không chết đuối do đó chúng ta không có dây cứu sinh nào."

"Đúng vậy. Việc tìm ra con cừu đó tùy thuộc vào chúng ta. Cả anh lẫn em đều không có gì để mà phải hối tiếc, thật đấy."

Có lẽ không.

Chúng tôi quay trở lại khách sạn và ăn nằm với nhau. Tôi thích từ đó, ăn nằm với nhau. Nó chỉ cho phép rất ít khả năng.

Ngày thứ ba và thứ tư của chúng tôi ở Sapporo trôi qua vô ích. Chúng tôi dậy lúc tám giờ, ăn sáng, ngày chia nhau ra, tối đến trao đổi thông tin trong bữa tối, trở về khách sạn, ăn nằm với nhau, rồi ngủ.

Tôi quẳng đôi giày thể thao cũ rích đi, mua giày mới và đi loanh quanh đưa bức ảnh cho hàng trăm người xem. Cô lên một danh sách dài những người nuôi cừu dựa trên nguồn từ các cơ quan chính quyền và thư viện, và bắt đầu gọi ọi người trong số đó. Kết quả là con số không. Không ai có thể xác định vị trí ngọn núi, không một người nuôi cừu nào nhớ được con cừu có ngôi sao trên lưng. Một ông già nói ông nhớ đã trông thấy ngọn núi đó ở vùng phía Nam Sakhalin trước chiến tranh. Tôi không tin là Chuột đã đến Sakhalin. Người ta lại không thể gửi một lá thư chuyển phát đặc biệt từ Sakhalin tới Tokyo.

Dần dần, tôi trở nên kiệt sức. Khả năng định hướng của tôi tan biến vào ngày thứ tư. Khi hướng Nam trở thành hướng Đông, tôi mua một chiếc la bàn, nhưng đi loanh quanh với chiếc la bàn chỉ khiến thành phố trông càng kém thật hơn. Các tòa nhà bắt đầu trông giống như những tấm phông của ảnh viện, người đi lại trên phố như những hình người cắt ra từ bìa các tông. Mặt trời mọc từ một phía của mảnh đất vô vị, bắn lên cao theo đường đạn đại bác hình cung, rồi lặn trên phía kia.

Ngày thứ năm, rồi ngày thứ sáu trôi qua. Tháng Mười đè nặng lên thành phố. Mặt trời khá ấm nhưng gió càng lúc càng mạnh, và đến cuối ngày tôi phải mặc một chiếc áo gió bằng vải cotton mỏng. Phố xá ở Sapporo rộng và thẳng đến sầu người. Cho đến lúc đó, tôi không hề biết là đi bộ quanh một thành phố không có gì ngoài những đường thẳng có thể làm người ta mỏi mệt đến nhường nào.

Tôi uống bảy tách cà phê mỗi ngày, cứ mỗi tiếng đi giải một lần. Và hầu như không muốn ăn uống gì.

"Sao anh không đăng rao vặt trên báo?" cô đề xuất. "Anh biết đấy, "Bạn cần liên lạc" hay đại loại như vậy."

"Không phải ý tồi," tôi nói. Có kết quả hay không cũng chẳng quan trọng; còn hơn là không làm gì hết.

Thế là tôi đăng một mẩu rao ba dòng trên số buổi sáng của bốn tờ báo ngày hôm sau.

Gửi: Chuột

Hãy liên lạc. Khẩn!

Khách sạn Cá Heo, Phòng 406

Hai ngày sau đó, tôi đợi bên điện thoại. Ngày quảng cáo đăng có ba cuộc gọi. Một là từ một người địa phương.

"Cái "Chuột" này là gì vậy?"

"Tên lóng của một người bạn tôi," tôi trả lời.

Ông ta cúp máy, hài lòng.

Một cuộc gọi khác là để chơi khăm.

"Chít, chít," giọng nói từ đầu dây bên kia nói. "Chít, chít."

Tôi cúp máy. Thành phố này là chốn kỳ quặc chết tiệt. Cuộc gọi thứ ba là của một người đàn bà có giọng the thé.

"Ai cũng luôn gọi em là Chuột," cô ta nói. Một giọng nói khiến người ta hầu như có thể nghe thấy đường dây điện thoại đung đưa trong gió xa.

"Cám ơn cô đã mất công gọi điện. Tuy nhiên, người tên Chuột mà tôi tìm là đàn ông," tôi giải thích.

"Em cũng phần nào nghĩ vậy," cô ta nói. "Nhưng dù sao thì, vì em cũng là Chuột, em nghĩ em nên gọi cho anh."

"Thật lòng cám ơn cô nhiều."

"Không có gì. Anh đã tìm thấy bạn anh chưa?"

"Chưa," tôi nói, "tiếc là chưa."

"Giá như em là người anh đang tìm... nhưng không, không phải em."

"Mọi việc diễn ra như vậy. Tiếc quá."

Cô ta yên lặng. Trong lúc đó tôi lấy ngón tay út gãi gãi mũi.

"Thật đấy, em chỉ muốn nói chuyện với anh," cô ta quay trở lại.

"Với tôi ư?"

"Em không biết phải diễn đạt thế nào, nhưng em phải cố cưỡng lại một sự thôi thúc kể từ khi em đọc mẩu rao vặt của anh trên báo buổi sáng. Em không có ý làm phiền anh..."

"Vậy là chuyện cô được gọi là Chuột là chuyện bịa."

"Đúng thế," cô ta nói. "Chưa ai từng gọi em là Chuột cả. Em thậm chí không có bạn bè. Đó là lý do tại sao em muốn gọi anh đến vậy."

Tôi thở dài thườn thượt. "Thôi, dù sao cũng xin cảm ơn."

"Tha lỗi cho em. Anh quê ở Hokkaido à?"

"Tôi ở Tokyo," tôi nói.

"Anh lặn lội từ Tokyo đến để đi tìm bạn anh?"

"Đúng thế."

"Anh bạn này bao nhiêu tuổi?

"Mới tròn ba mươi."

"Còn anh thì sao?"

"Hai tháng nữa tôi sẽ ba mươi."

"Độc thân?"

"Phải."

"Em hai mươi hai tuổi. Em đoán là mọi thứ trở nên khá hơn cùng với thời gian."

"Xem nào," tôi nói, "ai biết được? Có thứ trở nên tốt hơn, có thứ không."

"Nếu chúng ta có thể gặp nhau vừa ăn tối vừa bàn chuyện thì thật hay quá."

"Cô phải thứ lỗi cho tôi, nhưng tôi phải ở đây đợi điện thoại."

"Ồ, vâng," cô ta nói. "Xin lỗi vì mọi chuyện."

"Dù sao cũng xin cảm ơn vì đã gọi."

Tôi cúp máy.

Thông minh, rất thông minh. Gái gọi, có lẽ vậy, đang đi tìm mối. Đúng, cô ta có thể chỉ là một cô gái cô đơn. Cách nào thì cũng giống nhau thôi. Tôi vẫn chẳng có lấy một manh mối nào.

Ngày hôm sau chỉ có một cuộc gọi, từ một người đàn ông bị rối loạn thần kinh. "Anh nói là chuột đúng không? Để nó cho tôi." Ông ta lải nhải mười lăm phút về chuyện đánh đuổi chuột tại một trại tập trung ở Siberia. Một câu chuyện thú vị, nhưng không manh mối.

Trong khi đợi điện thoại reo, tôi ngồi trên chiếc ghế lò xo cạnh cửa sổ và dành cả ngày quan sát điều kiện làm việc trên văn phòng tầng ba phía đối diện. Dù có nhìn cả ngày tôi cũng không thể hiểu được công ty ấy làm gì. Công ty có mười nhân viên, người ta liên tục chạy tới chạy lui như trong một trận bóng rổ. Một người đưa giấy tờ ột người, một người đóng dấu chúng, rồi một người sẽ nhét chúng vào phong bì và chạy vội ra cửa. Trong lúc nghỉ ăn trưa, một cô thư ký có bộ ngực đồ sộ rót trà cho tất cả mọi người. Vào buổi chiều, vài người gọi cà phê tới. Điều này khiến tôi cũng muốn uống chút cà phê, thế là tôi nhờ người lễ tân ghi lại tin nhắn trong khi tạt qua quán cà phê. Trên đường về tôi mua hai chai bia. Khi tôi quay lại chiếc ghế bên cửa sổ, chỉ có bốn người còn ở lại văn phòng. Cô thư ký có bộ ngực đồ sộ đang nói đùa với một nhân viên cấp dưới. Tôi uống một chai bia và quan sát hoạt động của văn phòng, nhưng cái chính là cô ta.

Tôi càng nhìn bộ ngực của cô ta, nó lại càng có vẻ to lớn một cách không bình thường. Cô ta hẳn đã lồng gọng thép ở Cầu Cổng Vàng vào cái nịt vú. Một vài nhân viên cấp dưới có vẻ đang có mưu đồ gì đó với cô ta. Nhu cầu tình dục của bọn họ mạnh đến mức nó xuyên qua hai ô cửa kính và con phố nằm ở giữa. Thật buồn cười khi cảm nhận thấy nhu cầu tình dục của ai đó. Sau một hồi, người ta tưởng nhầm đó là của mình.

Lúc năm giờ, cô ta thay sang một chiếc váy đỏ rồi về nhà. Tôi kéo rèm cửa lại và xem một bộ phim chiếu lại về thỏ Bugs Bunny trên ti vi. Và thế là ngày thứ tám tại khách sạn Cá Heo trôi qua.

"Thật tuyệt chưa," tôi nói. Cái vụ "thật tuyệt chưa" này đang dần trở thành một thói quen. "Một phần ba tháng đã trôi qua mà chúng ta vẫn chưa đi đến đâu."

"Có vẻ như vậy," cô nói. "Không hiểu Cá Trích như thế nào rồi nhỉ?"

Sau bữa tối, chúng tôi nghỉ ngơi trên chiếc xô pha màu cam xấu xí tại tiền sảnh khách sạn Cá Heo. Không có ai quanh đó ngoại trừ người lễ tân có ba ngón tay. Ông ta bận rộn suốt, leo lên thang thay bóng điện, lau cửa sổ, gấp báo. Có lẽ còn có những người khách khác ở chỗ này; có lẽ họ đều ở lì trong phòng như những xác ướp được giữ không cho tiếp xúc với ánh sáng ban ngày.

"Công việc thế nào anh?" người lễ tân dè dặt hỏi trong lúc tưới cây trong chậu cảnh.

"Không có gì đáng kể mấy," tôi nói.

"Có vẻ như anh đăng rao vặt trên báo."

"Đúng thế," tôi nói. "Tôi đang cố tìm một người về chuyện thừa kế đất đai."

"Thừa kế ư?"

"Đúng vậy. Vấn đề là người thừa kế biến mất, chỗ nào thì không biết."

"Xin anh hãy kể tiếp. Nghe có vẻ như một chuyện thú vị."

"Không hẳn vậy đâu."

"Tôi không biết nữa, có vẻ gì đó rất Moby Dick ở chuyện ấy."

"Moby Dick ư?"

"Tất nhiên. Cái cảm giác hồi hộp khi săn lùng ai."

"Ví dụ như, một con voi ma mút?" bạn gái tôi nói.

"Tất nhiên. Tất cả đều liên quan đến nhau," người lễ tân nói. "Thật ra, tôi đặt tên cho khách sạn này là khách sạn Cá Heo là vì trong Moby Dick có một cảnh cá heo."

"Ô hô," tôi nói. "Nhưng nếu đúng như vậy, đặt tên nó là khách sạn Cá Voi có hay hơn không?"

"Cá voi không phải một hình tượng hay cho lắm," ông ta thú nhận với đôi chút hối tiếc.

"Khách sạn Cá Heo là một cái tên hay," bạn gái tôi nói.

"Xin cám ơn chị nhiều," người lễ tân mỉm cười. "Bỗng nhiên tôi chợt nhận ra có anh chị ở đây dài ngày như thế này là điềm rất lành, nên tôi muốn mời anh chị chút rượu để bày tỏ lòng cám ơn."

"Chúng tôi rất vui lòng," cô nói.

"Chúng tôi hết sức cảm kích," tôi nói.

Ông ta đi vào phòng sau, một lúc sau xuất hiện trở lại với một chai vang trắng ướp lạnh và ba chiếc ly.

"Nâng cốc nào. Tôi vẫn đang làm việc nên chỉ nhấp một ngụm thôi."

Chúng tôi uống rượu. Rượu không đặc biệt ngon, nhưng là một loại rượu nhẹ, nguyên chất, dễ chịu. Thậm chí cả ly cũng đẹp.

"Ông hâm mộ Moby Dick à?" tôi nghĩ ra chuyện để hỏi.

"Anh có thể nói vậy. Từ nhỏ tôi đã luôn muốn đi biển."

"Và đó có phải là lý do hiện nay ông ở trong ngành kinh doanh khách sạn?" cô hỏi.

"Đó là lý do tôi mất ngón tay," ông ta nói. "Thật ra thì, chúng bị cắt đứt trong ố́ng cuộn dây cầu tàu khi dỡ hàng dưới tàu lên."

"Thật khủng khiếp làm sao!" cô thốt lên.

"Lúc đó mọi thứ đều đen tối. Nhưng cuộc sống thì hay thay đổi. Bằng cách này cách kia, cuối cùng thì tôi cũng có được cái khách sạn này ở đây. Không hẳn là một khách sạn, nhưng tôi cũng ổn thỏa nhờ nó. Tôi có nó đã mười năm rồi."

Thế có nghĩa ông ta không phải lễ tân mà là chủ.

"Tôi không thể hình dung một khách sạn tốt hơn," cô động viên.

"Xin cảm ơn chị nhiều," người chủ khách sạn nói, rót thêm rượu cho chúng tôi.

"Chỉ trong vòng mười năm mà tòa nhà đã mang nhiều, ừm, đặc trưng," tôi đánh bạo nói một cách không hề bối rối.

"Vâng, nó được xây ngay sau chiến tranh. Tôi thật may mắn đã mua được nó rẻ đến vậy."

"Nó được dùng làm gì trước khi thành khách sạn?"

"Nó có tên là Tòa nhà Cừu Hokkaido. Chứa mọi loại giấy tờ và nguồn tin liên quan đến..."

"Cừu ư?" tôi nói.

"Cừu," ông ta nói.

"Tòa nhà từng là tài sản của Hiệp hội Cừu Hokkaido, thế đấy, cho đến mười năm trước. Nhưng do số cừu nuôi trong vùng giám sát, Tòa nhà bị đóng cửa," ông ta nói rồi nhấp rượu. "Thật ra, quyền giám đốc lúc bấy giờ là cha tôi. Ông không thể chịu được ý nghĩ Tòa nhà Cừu yêu quý của ông bị đóng cửa, thế nên với lý do bảo quản các nguồn tài liệu về cừu ông thuyết phục Hiệp hội bán cho ông lô đất và tòa nhà với giá rẻ. Vì thế, cho đến ngày nay cả tầng hai tòa nhà là phòng tư liệu về cừu. Tất nhiên, với tư cách tài liệu nghiên cứu thì hầu hết số đó đều cũ và vô dụng. Ông già lẩm cẩm mà. Phần còn lại chốn này là cho tôi kinh doanh khách sạn."

"Thật là trùng hợp," tôi nói.

"Trùng hợp ư?"

"Nếu đúng như sự thật, người chúng tôi đang kiếm có liên quan gì đó đến cừu. Và manh mối duy nhất chúng tôi có là một bức ảnh chụp cừu mà cậu ta gửi."

"Anh không đùa chứ," ông ta nói. "Tôi xem bức ảnh đó được chứ?"

Tôi rút bức ảnh cừu kẹp giữa các trang sổ ghi chép ra đưa cho ông ta. Ông ta cầm cặp kính trên quầy lên và xem xét bức ảnh.

"Có vẻ như tôi nhớ ra được khung cảnh này," ông ta nói.

"Nhớ ra ư?"

"Chắc chắn rồi." Nói đoạn, ông ta lấy chiếc thang vừa bỏ lại dưới ngọn đèn đem dựa vào bức tường đối diện. Ông ta mang xuống một bức ảnh được đóng khung. Rồi ông ta phủi bụi và đưa bức ảnh cho chúng tôi.

"Đây có phải là cùng một cảnh không?"

Bản thân cái khung đã cũ, nhưng bức ảnh trong đó thậm chí còn cũ hơn, đã ngả màu. Và đúng, ảnh có cừu trong đó. Tất cả khoảng sáu mươi con. Hàng rào, rừng cây bu lô, núi non. Rừng cây bu lô có hình dáng khác so với rừng cây trong bức ảnh của Chuột, nhưng dãy núi ở nền bức ảnh là một. Thậm chí bố cục ảnh cũng giống.

"Thật tuyệt chưa," tôi nói với cô. "Ngần ấy thời gian chúng ta đi ngang qua ngay dưới bức ảnh này."

"Đó là lý do tại sao em nói với anh nó phải là khách sạn Cá Heo," cô buột miệng.

"Vậy thì," tôi hỏi người đàn ông, "chính xác chỗ này là chỗ nào?"

"Tôi không biết chắc," ông ta nói. "Bức ảnh đã được treo ở đó từ những ngày còn Tòa nhà Cừu."

"Hừm," tôi cằn nhằn.

"Nhưng có cách để tìm ra."

"Cách nào vậy?"

"Hỏi ông cụ tôi. Ông có một phòng trên gác và ở đó cả ngày. Ông hầu như không ra ngoài, chỉ nghĩ đến đám tài liệu về cừu thôi. Đã nửa tháng nay tôi không nhìn thấy ông. Tôi chỉ để cơm nước trước cửa cho ông, và khay rỗng không sau ba mươi phút, vì thế tôi biết ông còn sống."

"Liệu cha ông có thể cho chúng tôi biết chỗ trong bức ảnh là ở đâu không?"

"Có thể lắm. Như tôi nói lúc trước, ông là cựu giám đốc Tòa nhà Cừu, và dù sao thì ông biết tất cả những gì cần biết về cừu. Mọi người gọi ông là Giáo sư Cừu."

"Giáo sư Cừu ư," tôi nói.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,311
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 27: PHẦN 7: Giáo sư Cừu ăn hết, kể hết


Theo lời người con trai – chủ khách sạn Cá Heo, cuộc đời Giáo sư Cừu không hề hạnh phúc.

"Cha tôi sinh năm 1905 tại Sendai, con trai cả của một gia đình địa chủ," người con trai giải thích. "Tôi sẽ nói theo lịch Tây, nếu anh chị không phiền."

"Xin ông cứ tự nhiên."

"Họ không thật giàu có, nhưng họ sống trên đất của chính mình. Một dòng họ lâu đời, trước kia được chủ nhân lâu đài địa phương ban ột thái ấp. Thậm chí họ còn sản sinh ra một nhà nông học đáng kính về cuối thời kỳ Giang Hộ.

"Giáo sư Cừu ngay từ sớm đã xuất sắc về mặt học vấn, một thần đồng mà ai ở Sendai cũng biết. Và không chỉ chuyện học hành. Ông vượt tất cả ở tài chơi vĩ cầm và khi học cấp hai ông thậm chí còn biểu diễn một bản xô nát của Beethoven cho Nhật hoàng khi Người đến thăm vùng đó. Vì thế ông được thưởng một chiếc đồng hồ vàng.

"Gia đình cố hướng cho ông theo ngành luật, nhưng Giáo sư Cừu thẳng thừng từ chối. "Con không quan tâm đến luật," Giáo sư Cừu trẻ tuổi nói.

" "Vậy hãy đi theo đường âm nhạc" cha ông nói. "Gia đình nên có ít nhất một nhạc sĩ."

" "Con cũng không quan tâm đến âm nhạc." Giáo sư Cừu đáp lại.

Một khoảng yên lặng.

" "Vậy thì," cha ông nói lớn, "mày muốn đi theo hướng nào?" "

" "Con quan tâm đến nông nghiệp. Con muốn học về quản trị nông nghiệp."

" "Tốt thôi," cha ông nói một giây sau. Còn biết nói gì hơn? Giáo sư Cừu cẩn trọng và trung thực, loại thanh niên đã nói là làm. Cha ông không xen vào được lời nào.

"Năm sau, đúng như mong muốn của mình, Giáo sư Cừu trúng tuyển vào Khoa Nông nghiệp Đại học Hoàng gia Tokyo. Niềm yêu thích học hành từ hồi nhỏ của ông không có dấu hiệu suy suyển ngay cả ở đó. Mọi người, gồm cả các giáo sư của ông, đều dõi theo ông. Về mặt học tập, ông luôn luôn vượt trội như mọi khi, và ông rất được lòng mọi người. Nói tóm lại, ông là một trong số ít những người được Chúa lựa chọn. Không bị sự phóng đãng làm cho hư hỏng, ông đọc sách bất cứ lúc nào rảnh. Nếu mệt vì đọc sách, ông chơi vĩ cầm ở sân trong của trường, chiếc đồng hồ vàng luôn ở trong túi bộ đồng phục sinh viên.

"Ông đỗ đầu lớp và vào làm tại Bộ Nông Lâm vì là một trong những người ưu tú nhất. Luận văn tốt nghiệp của ông nói một cách đơn giản, là kế hoạch thống nhất nông nghiệp hóa trên diện rộng cho Nhật Bản, Triều Tiên và Đài Loan, vốn bị một số người chê là hơi bị lý tưởng hóa quá. Tuy nhiên, nó trở thành đề tài bàn tán thời đó.

"Sau hai năm trong Bộ, Giáo sư Cừu đến bán đảo Triều Tiên để tiến hành nghiên cứu trồng lúa. Bản báo cáo của ông, xuất bản với cái tên Nghiên cứu về trồng lúa tại bán đảo Triều Tiên, được chính phủ thông qua.

"Vào năm 1934, Giáo sư Cừu được triệu tập về Tokyo và được giới thiệu với một viên sĩ quan quân đội trẻ. Để phục vụ cho chiến dịch Bắc Trung Hoa sắp tới, Giáo sư Cừu được yêu cầu thành lập một chương trình tự cung tự cấp dựa trên cừu. Đây là cuộc gặp gỡ đầu tiên của Giáo sư Cừu với cừu. Giáo sư Cừu tập trung phát triển một cơ cấu tổ chức chung cho để tăng năng suất cừu tại Nhật Bản, Mãn Châu và Mông Cổ. Mùa xuân sau đó, ông bắt đầu một chuyến quan sát thực địa.

"Mùa xuân năm 1935 trôi qua không biến động. Sự việc xảy ra vào tháng Bảy. Đang cưỡi ngựa, không ai đi cùng, trên chuyến quan sát địa hình, Giáo sư Cừu biến mất. Ở đâu thì không ai biết.

"Ba ngày, bốn ngày trôi qua. Vẫn không thấy Giáo sư Cừu. Đội quân tìm kiếm của quân đội tuyệt vọng lùng sục địa hình, nhưng không ai tìm thấy ông đâu. Có lẽ ông bị sói tấn công hoặc bị người bộ lạc bắt cóc. Rồi vào lúc chạng vạng một tuần sau đó, khi không ai còn hy vọng gì, một Giáo sư Cừu đầu tóc quần áo vô cùng xộc xệch đi lang thang trong trang trại. Mặt ông hốc hác, vài chỗ bị xước, nhưng mắt ông vẫn còn sáng. Ngựa của ông không còn, đồng hồ của ông cũng không còn. Lời giải thích của ông, mà dường như ai cũng sẵn lòng chấp nhận, là ông bị lạc đường và ngựa của ông ngã bị thương.

"Chưa đầy một tháng sau, một tin đồn kỳ dị lan ra khắp các cơ quan chính phủ. Lời đồn là ông đã có một mối quan hệ đặc biệt với cừu. Cái quan hệ đặc biệt này là gì thì không ai biết. Và thế là cấp trên triệu tập ông đến văn phòng và tiến hành một cuộc thẩm vấn để làm rõ sự việc. Các tin đồn không được tha thứ trong xã hội thuộc địa.

" "Cậu có đúng là đã có quan hệ đặc biệt với cừu không?" Cấp trên ông căn vặn.

" "Tôi có ạ," Giáo sư Cừu trả lời.

"Cuộc thẩm vấn diễn ra như thế này:

Hỏi: Khi nói quan hệ đặc biệt, cậu muốn nói là cậu đã có quan hệ tình dục với cừu phải không?

Trả lời: Dạ không, không phải vậy.

Hỏi: Hãy giải thích.

Trả lời: Đó là một quan hệ tinh thần.

Hỏi: Đó không phải lời giải thích.

Trả lời: Thưa ngài, thật khó tìm được từ thích hợp, nhưng có lẽ mối liên hệ tâm linh là gần nghĩa nhất.

Hỏi: Cậu nói với tôi là cậu có mối liên hệ tâm linh với cừu ư?

Trả lời: Đúng vậy ạ.

Hỏi: Cậu nói với tôi là trong suốt tuần cậu biến mất cậu có mối liên hệ tâm linh với cừu ư?

Trả lời: Đúng vậy ạ.

Hỏi: Cậu có nghĩ rằng chừng đó là đủ lý do để sa thải cậu khỏi cơ quan không?

Trả lời: Thưa ngài, phòng tôi nghiên cứu cừu.

Hỏi: Mối liên hệ tâm linh với cừu không phải một chương trình nghiên cứu được công nhận. Vì lẽ đó, tôi yêu cầu cậu sửa đổi lại cung cách của mình. Hãy xem xét việc cậu đỗ bằng danh dự Khoa Nông nghiệp Đại học Hoàng gia Tokyo, hồ sơ làm việc xuất chúng khi cậu vào Bộ. Cậu được kỳ vọng sẽ thành người định ra chuẩn mực cho ngành quản lý nông nghiệp của Đông Á trong tương lai.

Trả lời: Tôi hiểu ạ.

Hỏi: Vậy thì hãy quên cái mối liên hệ tâm linh vô nghĩa này đi. Cừu là vật nuôi. Đơn thuần là vật nuôi.

Trả lời: Tôi không thể quên được ạ.

Hỏi: Cậu sẽ phải giải thích lại hoàn cảnh đó.

Trả lời: Thưa ngài, lý do là có một con cừu trong tôi.

Hỏi: Đó không phải lời giải thích.

Trả lời: Giải thích thêm là không thể.

"Tháng Hai năm 1936. Giáo sư Cừu được triệu về Nhật Bản. Sau khi trải qua hàng loạt cuộc thẩm vấn tương tự, vào mùa xuân ông bị chuyển sang Bộ Lưu trữ Tham khảo, ở đó ông kê thành mục lục các tài liệu tham khảo và sắp xếp giá sách. Nói cách khác, ông đã bị thanh trừng khỏi hàng ngũ ưu tú cốt lõi của ngành quản lý nông nghiệp Đông Á.

" "Con cừu đã không còn trú trong tôi nữa," Giáo sư Cừu nói với một người bạn thân hồi ấy. "Nhưng nó từng trú trong tôi."

"Năm 1937. Giáo sư Cừu ra khỏi Bộ Nông Lâm và dùng một khoản vay của Bộ theo chương trình Mô hình Cừu Nhật Bản-Mãn Châu do ông từng quản lý, chuyển đến Hokkaido và trở thành người chăn cừu. 56 đầu cừu.

"Năm 1939. Giáo sư Cừu lấy vợ. 128 đầu cừu.

"Năm 1942. Con trai cả ra đời (người hiện là chủ kiêm điều hành khách sạn Cá Heo). 181 đầu cừu.

"Năm 1946. Lực lượng chiếm đóng Mỹ sung công trang trại nuôi cừu của Giáo sư Cừu làm trại huấn luyện. 62 đầu cừu.

"Năm 1947. Giáo sư Cừu vào làm tại Hiệp hội Cừu Hokkaido.

"Năm 1949. Vợ chết vì viêm phổi.

"Năm 1950. Giáo sư Cừu nhận chức giám đốc Hiệp hội Cừu Hokkaido.

"Năm 1960. Con trai cả mất ngón tay tại cảng Otaru.

"Năm 1967. Tòa nhà Cừu Hokkaido đóng cửa.

"Năm 1968. Khách sạn Cá Heo khai trương.

"Năm 1978. Một người buôn nhà đất trẻ tuổi hỏi thăm về bức ảnh cừu.

Nói cách khác, là tôi.

"Thật tuyệt chưa," tôi nói.

"Tất nhiên rồi, tôi rất muốn được gặp cha ông," tôi nói.

"Tôi không phản đối anh gặp ông cụ tôi, nhưng vì ông cụ tôi không thích tôi, anh thứ lỗi cho tôi nếu tôi đề nghị anh đi một mình," con trai Giáo sư Cừu nói.

"Không thích ông ư?"

"Vì tôi mất hai ngón tay và đang trên đà hói."

"Tôi hiểu," tôi nói. "Một người lập dị, cha ông ấy."

"Con cái mà nói thế này thì thật không phải, nhưng đúng vậy, đúng là một người lập dị. Một người thay đổi hoàn toàn từ khi ông gặp cừu. Cực kỳ khó khăn, thậm chí đôi khi tàn ác. Tận sâu thẳm trái tim ông là người tử tế. Nếu anh nghe ông chơi vĩ cầm, anh sẽ thấy điều đó. Cừu đã làm tổn thương cha tôi, và qua cha tôi, cừu đã làm tổn thương tôi."

"Ông yêu cha mình, đúng không?" bạn gái tôi nói.

"Vâng, đúng thế. Tôi yêu ông lắm," người chủ khách sạn Cá Heo nói, "nhưng ông không thích tôi. Ông chưa bao giờ ôm tôi từ ngày tôi ra đời. Chưa bao giờ có một lời tử tế với tôi. Và vì tôi mất hai ngón tay và bắt đầu hói, ông không làm gì ngoài việc chế nhạo tôi."

"Tôi chắc chắn cha ông không có ý chế nhạo ông," cô nói.

"Tôi cũng không tin là ông ấy có ý đó," tôi nói.

"Anh chị thật tử tế quá," người chủ khách sạn nói.

"Vậy, chúng tôi nên đi gặp trực tiếp ông ấy chứ?" tôi hỏi.

"Tôi không biết," người chủ khách sạn nói. "Mặc dù tôi chắc chắn ông ấy sẽ gặp anh chị nếu anh chị nhớ hai điều. Một là nói rõ rằng anh chị muốn hỏi về cừu."

"Còn điều kia?"

"Đừng nói tôi kể cho anh chị về ông ấy."

"Được thôi," tôi đáp.

Chúng tôi cảm ơn con trai Giáo sư Cừu và tiến thẳng lên cầu thang. Không khí nơi đầu cầu thang lạnh và ẩm. Ánh sáng mờ mờ, hầu như không để lộ đám bụi trong góc hành lang. Cả chốn đó bốc lên mùi không lẫn vào đâu được của giấy tờ cũ và mùi hôi cơ thể lâu ngày. Chúng tôi bước dọc hành lang, theo chỉ dẫn của người con trai và gõ lên cánh cửa cổ lỗ cuối hành lang. Một tấm biển nhựa cũ gắn vào cửa viết VĂN PHÒNG GIÁM ĐỐC. Không tiếng trả lời. Tôi gõ lần nữa. Lại không tiếng trả lời. Đến tiếng gõ thứ ba, có một tiếng rên, rồi là một lời đáp – "Đừng làm phiền tao. Đi đi."

"Chúng tôi đến hỏi ông mấy điều về cừu, nếu có thể."

"Ăn cứt ấy!" Giáo sư Cừu la lên từ bên trong. Một giọng nói cực kỳ mạnh khỏe so với một ông già bảy mươi ba tuổi.

"Chúng tôi thật sự phải nói chuyện với ông," tôi hét qua cửa.

"Đừng có cho tao nghe cái đống cứt mày-muố́n-nói-chuyện-về-cừu ấy," Giáo sư Cừu nói.

"Nhưng đó là việc có lẽ cần được thảo luận," tôi nói ngọt. "Đó là về một con cừu mất tích vào năm 1936."

Yên lặng một lát, rồi cánh cửa mở tung. Đứng trước chúng tôi là Giáo sư Cừu.

Giáo sư Cừu tóc dài, trắng như tuyết. Lông mày ông cũng trắng, buông xuống qua mắt như những cột băng. Ông cao khoảng một mét bảy tám. Thần thái bình tĩnh. Xương cốt cứng cáp. Mũi ông thò ra từ mặt tại một góc độ thách thức, trông giống như vật chướng ngại trượt tuyết.

Mùi cơ thể của ông lan khắp căn phòng. Không, tôi do dự không biết có nên gọi đó là mùi cơ thể. Khi đã qua một điểm nhất định, nó không còn là mùi cơ thể mà quyện với thời gian, hòa với ánh sáng. Những gì có lẽ từng là một khoảng không gian rộng lớn giờ lèn chặt đầy sách và giấy tờ cũ đến độ khó mà trông thấy sàn nhà. Hầu hết các ấn bản đều là những quyển sách uyên thâm bằng tiếng nước ngoài. Không ngoại lệ, tất cả đều bị hoen ố. Bên phải, dựa vào tường là một cái giường bẩn thỉu, và trước cửa sổ là một chiếc bàn bằng gỗ gụ to tướng cùng một chiếc ghế xoay. Mặt bàn khá ngăn nắp, giấy tờ xếp gọn gàng và được chặn bởi một cái chặn giấy hình con cừu. Căn phòng tối tăm, ánh sáng duy nhất là từ chiếc đèn sáu mươi oát phủ đầy bụi. Giáo sư Cừu mặc sơ mi xám, áo khoác len đen và quần hoa văn dích dắc đã mất hết dáng. Dưới ánh đèn trong phòng, chiếc sơ mi xám và áo len đen có thể bị nhầm tưởng là áo trắng và áo len xám. Có lẽ đó chính là màu nguyên thủy, khó nói được.

Giáo sư Cừu ngồi bên bàn, chỉ tay cho chúng tôi ngồi xuống trên giường. Chúng tôi tiến về đó, xoạc chân qua sách vở như thể vượt qua bãi mìn rồi ngồi xuống. Giường rõ ràng là đầy cáu ghét đến mức tôi sợ chiếc quần Levi"s của tôi sẽ dính chặt vào khăn trải giường mất. Giáo sư Cừu gập ngón tay trên mặt bàn mà nhìn chằm chằm vào chúng tôi. Ngón tay ông chắc mập với lông đen ở khắp đốt ngón. Màu đen hoàn toàn tương phản với màu trắng rực rỡ của mái đầu.

Bỗng nhiên, Giáo sư Cừu nhấc điện thoại và hét vào trong ống nghe, "Mang bữa tối lên đây, nhanh lên!"

"Xem nào," Giáo sư Cừu nói. "Cậu nói cậu đến để bàn luận về con cừu mất tích vào năm 1936."

"Đúng thế ạ," tôi nói.

"Hừm," ông nói. Rồi đột ngột, ông hỉ mũi rõ to vào một nùi giấy. "Cậu muốn kể điều gì không? Hay cậu muốn hỏi điều gì?"

"Cả hai ạ."

"Trước hết, hãy cho tôi nghe điều cậu muốn kể."

"Chúng tôi biết con cừu thoát khỏi ông năm 1936 đã trở thành gì."

Giáo sư Cừu khịt khịt mũi. "Cậu nói với tôi là cậu biết tôi vứt bỏ mọi thứ tôi đã có vì một con cừu mà tôi đang cố kiếm trong bốn mươi hai năm?"

"Chúng tôi có biết điều đó," tôi nói.

"Cậu có thể bịa ra chuyện này."

Tôi lôi chiếc bật lửa bạc từ trong túi ra đặt lên bàn ông cùng bức ảnh cừu của Chuột. Ông thò một tay đầy lông ra, nhặt chiếc bật lửa và bức ảnh, rồi xem xét chúng cẩn thận dưới ánh đèn. Các phân tử yên lặng trôi trong phòng một lúc lâu. Cửa sổ kính trượt ngăn tiếng ồn của thành phố; chỉ có tiế́ng phù phù của chiếc đèn cũ kỹ chốc chốc lại ngắt quãng sự yên lặng.

Ông già, sau khi đã xem xét chiếc bật lửa và bức ảnh, tắt đèn đánh tách một cái và lấy những ngón tay chuối mắn dụi dụi mắt. Như thể ông đang cố nhét cầu mắt vào trong hộp sọ. Khi ông bỏ tay ra, mắt ông đỏ quạch, như mắt thỏ.

"Tha lỗi cho tôi," Giáo sư Cừu nói. "Tôi đã bị vây quanh bởi bọn ngốc lâu quá, tôi trở nên mất lòng tin vào mọi người."

"Không sao cả ạ," tôi nói.

Bạn gái tôi mỉm cười lễ phép.

"Cậu có hình dung nổi cảm giác khi chỉ còn lại một tư tưởng duy nhất sau khi hiện thân của nó đã bị kéo tận gốc ra từ dưới ta?" Giáo sư Cừu hỏi.

"Dạ không, tôi không thể."

"Đó là địa ngục. Một mê cung địa ngục dưới đất thậm chí một tia sáng hay một giọt nước cũng không khiến cái địa ngục ấy bớt kinh khủng. Đó là cuộc sống của tôi bốn mươi hai năm qua."

"Vì con cừu này ư?"

"Đúng, đúng, đúng. Tất cả vì con cừu này. Con cừu đã bỏ tôi mắc kẹt giữa mọi thứ. Vào mùa xuân năm 1936."

"Và để đi tìm con cừu này mà ông đã rời Bộ Nông Lâm, tôi nói đúng không?"

"Những thằng cha chỉ biết có giấy tờ đó toàn là lũ điên. Bọn chúng không biết tí gì về giá trị thật sự của mọi thứ. Có lẽ chúng sẽ không bao giờ hiểu được ý nghĩa vĩ đại của con cừu ấy."

Rồi có một tiếng gõ cửa, theo sau là một giọng phụ nữ. "Tôi mang thức ăn lên cho ngài đây."

"Cứ để đấy," Giáo sư Cừu nói.

Tiếng chiếc khay ăn được để trên sàn theo sau bởi tiếng vọng bước chân rời xa dần.

Bạn gái tôi mở cửa và bưng khay thức ăn đến bàn Giáo sư Cừu. Trên khay là xúp, xa lát, bánh mì cuộn và thịt băm cho Giáo sư Cừu, cộng thêm hai cà phê cho chúng tôi.

"Cô cậu ăn rồi à? Giáo sư Cừu hỏi."

"Dạ rồi, cám ơn ông," tôi nói.

"Cô cậu ăn gì?"

"Cừu xốt vang," tôi nói.

"Tôm nướng," cô nói.

Giáo sư Cừu cằn nhằn. Rồi ông ăn xúp và nhai rau ráu bánh mì nướng. "Xin lỗi tôi ăn khi cô cậu nói chuyện. Tôi đang đói."

"Tất nhiên rồi ạ," chúng tôi nói.

Giáo sư Cừu ăn xúp và chúng tôi uống cà phê. Trong khi ăn Giáo sư gục đầu nhìn chăm chăm vào trong bát.

"Ông có biết nơi trong bức ảnh là ở đâu không?" tôi hỏi.

"Thực ra là có. Tôi biết nơi đó rõ lắm."

"Ông sẽ nói cho tụi tôi biết chứ?"

"Đợi đã," Giáo sư Cừu nói, đặt sang bên chiếc bát giờ đã rỗng không. "Mỗi lúc nói một thứ thôi. Hãy bắt đầu bằng các sự kiện năm 1936. Tôi sẽ nói trước, rồi đến cậu." Tôi gật đầu.

Giáo sư Cừu bắt đầu. "Đó là vào mùa hè năm 1935 khi con cừu nhập vào tôi. Tôi bị lạc đường trong một chuyến điều tra các cánh đồng cho gia súc ăn cỏ gần biên giới Mãn Châu – Mông Cổ, rồi tôi bất chợt thấy một cái hang. Tôi quyết định qua đêm ở đó. Đêm ấy tôi mơ thấy một con cừu hỏi tôi, liệu nó có thể vào trong người tôi không? Tại sao không? tôi nói. Lúc ấy, tôi không nghĩ nhiều về chuyện đó. Rốt cuộc, nó là một giấc mơ thôi mà." Ông già cười như nắc nẻ khi chuyển qua món xa lát.

"Ấy là một giống cừu tôi chưa từng thấy trước đó. Do công việc nên tôi đã quen với mọi giống cừu trên thế giới, nhưng con này độc đáo lắm. Sừng nó cong một góc kỳ lạ, chân nó mập lùn và bè bè, mắt nó trong như nước mùa xuân. Lông nó trắng tinh, trừ một ngôi sao hơi nâu trên lưng. Không hề có con cừu nào như vậy trên thế gian này. Đó là lý do tôi nói với con cừu nó có thể nhập vào người tôi. Là một chuyên gia về cừu, tôi không định để một con vật hiếm như thế đi mất."

"Vậy ông cảm thấy thế nào khi có con cừu trong cơ thể mình?"

"Không có gì đặc biệt, thật đấy. Chỉ cảm thấy như có con cừu này trong tôi. Tôi cảm thấy nó vào buổi sáng. Tôi thức dậy là đã có con cừu này trong tôi. Một cảm giác hoàn toàn tự nhiên."

"Ông có bị nhức đầu gì không?"

"Không một lần từ cha sinh mẹ đẻ đến giờ."

Giáo sư Cừu tấn công sang món thịt băm, chấm đẫy vào nước xốt trước khi hăng hái tọng vào miệng. "Ở những vùng thuộc lãnh thổ Bắc Trung Hoa và Mông Cổ, chuyện cừu nhập vào cơ thể người không phải chuyện hiếm. Dân bản địa tin rằng cừu nhập vào cơ thể là phúc lành được các đấng thần linh ban phát. Chẳng hạn, một cuốn sách xuất bản vào triều đại nhà Nguyên có viết rằng một con cừu trắng mang hình ngôi sao nhập vào cơ thể Thành Cát Tư Hãn. Thật thú vị, cậu có thấy thế không?"

"Khá thú vị ạ."

"Con cừu nhập vào cơ thể ấy được cho là bất tử. Và người chứa con cừu cũng được cho là bất tử. Tuy thế, nếu con cừu thoát ra, sự bất tử cũng biến mất. Tất cả là tùy vào con cừu. Nếu con cừu thích người chủ, nó sẽ ở hàng thập kỷ. Nếu không – vèo! – nó đi mất. Những người bị cừu bỏ được gọi là những người không cừu. Nói cách khác, những người như tôi."

Chóp chép, chóp chép.

"Kể từ khi con cừu ấy nhập vào cơ thể tôi, tôi bắt đầu đọc những nghiên cứu dân tộc học và văn hóa dân gian liên quan tới cừu. Tôi đi quanh phỏng vấn dân địa phương và kiểm tra các bản viết cổ. Chẳng bao lâu lời đồn lan ra là tôi bị cừu nhập, và những lời đồn đó đến tai ông sĩ quan chỉ huy của tôi. Ông sĩ quan chỉ huy không nương nhẹ chuyện đó. Tôi bị gắn mác không đủ khả năng về mặt tinh thần và nhanh chóng bị chuyển về Nhật. Một "trường hợp thuộc địa" điển hình."

Sau khi ăn hết ba viên thịt băm, Giáo sư Cừu chuyển sang món bánh mì cuộn.

"Sai lầm cơ bản của nước Nhật hiện đại là chúng ta không học hỏi được tí gì từ mối quan hệ với các dân tộc châu Á khác. Điều đó cũng đúng khi nói đến cách đối xử của chúng ta với cừu. Việc chăn nuôi cừu ở Nhật Bản thất bại chính vì chúng ta coi cừu đơn thuần là nguồn lấy len và lấy thịt. Cấp độ cuộc sống thường nhật biến mất khỏi suy nghĩ của chúng ta. Chúng ta giảm đến mức tối thiểu yếu tố thời gian để tăng tối đa kết quả. Với tất cả mọi thứ chúng ta đều như vậy. Nói tóm lại, chúng ta không khôn ngoan chút nào. Chúng ta đã thua trận không phải là không có lý do."

"Tôi suy ra là, con cừu đó đã theo ông về Nhật," tôi nói, quay trở lại đề tài.

"Đúng thế," Giáo sư Cừu nói. "Tôi trở về bằng tàu từ Pusan. Con cừu đi cùng với tôi."

"Vậy ông cho là mục đích của con cừu là gì?"

"Tôi không biết," Giáo sư Cừu làu bàu. "Con cừu không nói tôi biết. Nhưng đúng là con vật có một mục đích chủ yếu. Điều đó thì tôi biết. Một kế hoạch vĩ đại nhằm thay đổi nhân tính và thế giới loài người."

"Một con cừu có kế hoạch làm tất cả những việc đó ư?"

Giáo sư Cừu gật đầu trong khi tọng nốt mẩu bánh mì vào trong miệng và phủi phủi vụn bánh mì khỏi tay. "Không việc gì phải quá hốt hoảng. Hãy xem Thành Cát Tư Hãn đó."

"Ông nói đúng," tôi nói. "Nhưng tại sao lại là bây giờ? Tại sao lại là nước Nhật?"

"Tôi đoán là tôi đã đánh thức con cừu. Nó lẽ ra đã có thể tiếp tục ngủ vùi trong cái hang ấy hàng trăm năm. Và tôi thật ngu ngốc lại đi đánh thức nó dậy."

"Không phải lỗi của ông," tôi nói.

"Không," Giáo sư Cừu nói. "Đó là lỗi của tôi. Lẽ ra tôi nên hiểu được điều đó từ lâu rồi. Lẽ ra tôi nên góp một tay. Nhưng tôi mất một thời gian dài mới hiểu được. Và đến lúc tôi hiểu được, con cừu đã chạy mất."

Giáo Sư Cừu trở nên yên lặng. Ông lấy tay dụi dụi cặp lông mày trắng như băng. Như thể sức nặng của bốn mươi hai năm đã lan tỏa đến mọi ngóc ngách cơ thể ông.

"Một buổi sáng tôi thức dậy và con cừu đã đi mất. Đến lúc đó tôi mới hiểu "không cừu" nghĩa là gì. Hoàn toàn là địa ngục. Con cừu đi mất chỉ để lại một tư tưởng. Nhưng không có con cừu thì không cách nào tống khứ tư tưởng ấy đi được. Đó chính là những gì "không cừu"."

Giáo sư Cừu lại hỉ mũi vào nùi giấy. "Nào giờ đến lượt cậu nói."

Tôi bắt đầu bằng lộ trình con cừu đã đi sau khi nó rời khỏi Giáo sư Cừu. Con cừu đã nhập vào cơ thể của một thanh niên cánh hữu trong tù. Ngay sau khi ra khỏi nhà tù, người thanh niên này đã trở thành một nhân vật cánh hữu chủ chốt. Sau đó ông ta đến Trung Hoa đại lục và xây dựng một mạng lưới tình báo và đồng thời cả một gia tài. Ông ta bị gắn mác tội phạm chiến tranh Loại A nhưng được thả ra để đổi lấy mạng lưới tình báo trên đại lục. Và, sử dụng gia tài mang từ Trung Hoa về, ông ta đã đặt nền móng cho cả mạng lưới ngầm chính trị, kinh tế, thông tin, vân vân.

"Tôi có nghe về người này," Giáo sư Cừu nói một cách cay đắng. "Bằng cách nào đó con cừu có khả năng phán đoán kỳ lạ mục tiêu có nhiều khả năng nhất."

"Nhưng mùa xuân năm nay, con cừu đã bỏ cơ thể ông ta mà đi. Bản thân ông ta đang trong cơn hôn mê, sắp chết. Cho đến tận bây giờ, có vẻ như một cơn rối loạn chức năng não đang thay thế cho con cừu."

"Thật hạnh phúc biết bao. Chẳng thà cái "không cừu" ấy đừng có cái vỏ tỉnh thức nửa vời này."

"Ông nghĩ tại sao con cừu bỏ cơ thể ông ta mà đi – sau ngần ấy thời gian gây dựng nên một tổ chức đồ sộ?"

Giáo sư Cừu thở dài thườn thượt. "Cậu vẫn không hiểu sao? Những gì xảy ra với người đó cũng giống như với tôi. Ông ta đã sống lâu hơn cái sự hữu dụng của mình. Con người có giới hạn, và con cừu không dùng đến những người đã đạt đến giới hạn của mình. Tôi đoán là ông ta không hiểu hết những gì con cừu đã dành cho ông ta. Vai trò của ông ta là xây dựng một tổ chức đồ sộ, và một khi điều đó đã hoàn tất, ông ta bị vứt bỏ. Giống như con cừu dùng tôi như một phương tiện vận chuyển."

"Vậy kể từ đó con cừu đã làm gì?"

Giáo sư Cừu nhặt bức ảnh trên bàn và lấy ngón tay búng nhẹ. "Nó đi lang thang khắp nước Nhật để tìm một người chủ mới. Đối với con cừu, hẳn điều đó có nghĩa là lên kế hoạch để đưa một người mới lên đỉnh của tổ chức."

"Và con cừu đang tìm kiếm gì?"

"Như tôi đã nói trước, tôi không thể diễn đạt điều đó bằng lời một cách chính xác. Những gì con cừu tìm kiếm là hiện thân của ý nghĩ cừu."

"Như thế có hay không?"

"Đối với suy nghĩ của con cừu, tất nhiên như thế là tốt."

"Còn đối với ông thì sao?"

"Tôi không biết," ông già nói. "Tôi thật sự không biết. Kể từ khi con cừu bỏ đi, tôi không thể nói được trong tôi bao nhiêu phần là tôi, còn bao nhiêu phần là cái bóng của con cừu."

"Ban nãy, ông có nói về việc góp một tay. Thế nghĩa là gì?"

"Tôi không định nói cho cậu biết." Giáo sư Cừu lắc đầu.

Một lần nữa, yên lặng lại bao phủ căn phòng. Bên ngoài, một trận mưa nặng hạt bắt đầu rơi. Cơn mưa đầu tiên kể từ khi chúng tôi đến Sapporo.

"Một việc cuối cùng: ông có thể cho chúng tôi biết nơi trong bức ảnh ở đâu không?" tôi hỏi.

"Ở khu trang trại nơi tôi từng sống trong chín năm. Tôi từng nuôi cừu ở đó. Bị Quân đội Mỹ sung công ngay sau chiến tranh, và khi họ trả nó lại tôi bán nó ột tay lắm tiền nào đó để làm nhà nghỉ dưỡng có đồng cỏ. Có thể vẫn là cùng một người chủ."

"Liệu ông ta vẫn còn nuôi cừu chứ?"

"Tôi không biết. Nhưng nhìn bức ảnh thì đúng là có vẻ ông ta đang nuôi cừu. Dù sao đi nữa, nó ở rất xa mọi khu dân cư. Không còn căn nhà nào khác trong tầm mắt. Đường sá không thể đi được vào mùa đông. Tôi chắc chắn là người chủ dùng chỗ đó chỉ hai, có lẽ ba tháng trong năm. Ở đó dễ chịu và yên tĩnh."

"Có ai chăm sóc chốn đó khi người chủ không có ở đó không?"

"Tôi ngờ là chẳng ai ở đó qua mùa đông. Ngoài tôi ra, tôi không thể hình dung lại có người ở đó qua mùa đông. Người ta có thể thuê những người chăn cừu tại thị trấn dưới chân đồi trông nom đàn cừu. Mái nhà nghiêng cho nên tuyết theo tự nhiên sẽ trượt xuống đất, và không phải lo lắng gì về trộm cướp. Ngay cả nếu có ai ăn cắp thứ gì ở đó thì vác về thị trấn cũng khó. Lượng tuyết rơi ở đó kinh khủng lắm."

"Vậy giờ ở đó có ai không?"

"Hừm, có thể không phải bây giờ. Tuyết sắp rơi rồi và gấu sẽ lang thang kiếm ăn trước khi chúng ngủ đông. Cậu không định lên đó đấy chứ?"

"Có lẽ chúng tôi sẽ phải đi. Chúng tôi không có manh mối nào khác."

Giáo sư Cừu ngồi một lúc không nói gì. Nước sốt cà chua từ thịt băm dính nơi khóe miệng.

"Cậu nên biết rằng trước cậu cũng có một người khác đến đây hỏi về trang trại. Khoảng tháng Hai. Tuổi và hình dáng, chà, có vẻ giống cậu. Cậu ta nói cậu ta quan tâm đến bức ảnh trong tiền sảnh khách sạn. Lúc đó tôi đang chán, thế là tôi kể cho cậu ta điều này điều kia. Cậu ta nói đang tìm kiếm tư liệu ột cuốn tiểu thuyết cậu ta viết."

Tôi rút trong túi ra ảnh Chuột và tôi chụp cùng nhau. Ảnh chụp tám năm trước trong J"s Bar. Tôi nhìn nghiêng, hút thuốc, Chuột nhìn về phía máy ảnh, giơ ngón cái làm hiệu đồng ý. Cả hai chúng tôi đều trẻ và rám nắng.

"Người này là cậu, đúng không?" Giáo sư Cừu nói, giơ bức ảnh dưới ánh đèn. "Trẻ hơn giờ."

"Đúng."

"Người kia chính là cậu thanh niên đó. Cậu ta trông già hơn ảnh này và có ria, nhưng đúng là cậu ta."

"Ria ư?"

"Một bộ ria nhỏ khá gọn gàng, phần còn lại thì râu mọc lởm chởm."

Tôi cố gắng hình dung Chuột có ria, nhưng không thể hình dung được.

Giáo sư Cừu vẽ cho chúng tôi một tấm bản đồ chi tiết tới trang trại. Phải đổi tàu gần Asahikawa tới một đường nhánh và đi ba tiếng đồng hồ để đến thì trấn chân đồi. Từ đó mất ba tiếng đi xe đến trang trại.

"Xin chân thành cám ơn ông vì mọi thứ," tôi nói.

"Nếu cậu thực sự muốn biết sự thật, tôi nghĩ càng ít người liên quan đến con cừu đó càng tốt. Tôi là một ví dụ điển hình. Không một ai lại hạnh phúc hơn một khi đã bị quấn vào với nó. Giá trị bản thân một cá nhân không thể chống đỡ trước sự hiện diện của con cừu. Nhưng thôi, tôi đoán là cậu có lý do của mình."

"Đúng như thế đấy."

"Giờ hãy cẩn thận," Giáo sư Cừu nói. "Và làm ơn đặt bát đĩa cạnh cửa hộ tôi."
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,311
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 28: PHẦN 7: Tạm biệt khách sạn Cá Heo


Chúng tôi mất một ngày chuẩn bị cho chuyến đi.

Chúng tôi mua đồ leo núi và thực phẩm gọn nhẹ tại một cửa hàng thể thao, mua áo len dày cộp dành cho ngư dân và tất len tại cửa hàng bách hóa. Tại hiệu sách, chúng tôi mua một tấm bản đồ tỷ lệ 1:50000 của khu vực chúng tôi sắp đến và một cuốn sách về lịch sử địa phương. Chúng tôi cũng mang ủng lông đế đinh và đồ mặc loại có lót nhiệt.

"Tất cả những áo áo quần quần này không có bất cứ ích lợi nào cho loại công việc nào của em," cô nói.

"Khi ra ngoài trời tuyết, em không có thời gian để mà nghĩ đến chuyện đó đâu," tôi nói.

"Anh định ở lại đến khi tuyết rơi nhiều sao?"

"Không nói được. Nhưng anh biết tuyết bắt đầu rơi vào cuối tháng Mười. Tốt hơn là hãy chuẩn bị đầy đủ. Không biết được chuyện gì sẽ xảy ra."

Chúng tôi lôi những gì mua được về khách sạn, nhét vào một chiếc ba lô lớn, rồi chúng tôi tập hợp tất cả những đồ phụ chúng tôi mua từ Tokyo, để lại nhờ chủ khách sạn Cá Heo giữ hộ. Thật ra, hầu như tất cả những gì cô mang trong túi mình là đồ lặt vặt. Một hộp trang điểm, năm cuốn sách và sáu băng cát xét, một túi đầy tất dài và đồ lót, áo phông và quần soóc, một đồng hồ báo thức du lịch, một cuốn sổ ký họa và một bộ hai mươi tư bút chì màu, văn phòng phẩm và phong bì, khăn tắm, túi đồ cứu thương nhỏ, máy sấy tóc, bông gạc.

"Nhưng tại sao em lại mang theo váy đầm và giầy cao gót?"

"Em biết làm gì nếu chúng ta đi dự tiệc?" cô nài nỉ.

Không dùng lý lẽ được với cô. Cô gắng cho cái váy, gấp gọn gàng và giày cao gót vào trong ba lô của chúng tôi cùng với các vật dụng đã được loại bớt. Với đồ trang điểm, cô chuyển sang một chiếc hộp trang điểm bỏ túi mua ở cửa hàng gần đó.

Người chủ khách sạn lịch sự đón nhận túi hành lý. Tôi trả tiền cho cả ngày hôm sau và nói với ông chúng tôi sẽ trở lại sau một hai tuần.

"Ông cụ tôi có giúp gì được cho anh không?" ông hỏi đầy lo lắng.

Tôi nói là ông ấy đã giúp nhiều lắm.

"Tôi thỉnh thoảng mong mình có thể đi tìm kiếm một thứ gì đó," ông tuyên bố, "nhưng trước khi đi xa đến mức ấy, bản thân tôi không hề biết được là đi tìm cái gì. Còn cha tôi, ông ấy là người đi kiếm tìm một điều gì đó suốt cả đời. Đến tận bây giờ ông vẫn đang tìm kiếm. Ngay từ khi tôi còn bé, cha tôi đã kể cho tôi nghe về con cừu trắng đến với ông trong giấc mơ. Vì thế tôi luôn nghĩ đó chính là cuộc sống. Một cuộc tìm kiếm không ngừng nghỉ."

Tiền sảnh khách sạn Cá Heo lặng như tờ. Một bà phục vụ già đi lên đi xuống cầu thang với chiếc giẻ lau.

"Cha tôi giờ đã bảy mươi ba tuổi rồi mà vẫn không thấy cừu đâu. Tôi không biết liệu thứ đó thậm chí có tồn tại hay không. Tôi không khỏi nghĩ rằng cuộc đời ông đã không hạnh phúc, nhưng ông chế nhạo tôi và không lắng nghe một lời nào tôi nói. Đó là bởi vì tôi không có mục đích trên đời."

"Nhưng ông có khách sạn Cá Heo," bạn gái tôi nói dịu dàng.

"Ngoài ra, cha ông đã để cuộc tìm kiếm cừu cho người khác," tôi thêm vào. "Chúng tôi đảm đương phần còn lại."

Người chủ khách sạn mỉm cười.

"Nếu đúng như thế, tôi không còn biết nói gì hơn. Hai chúng tôi nên sống hòa thuận hạnh phúc."

"Tôi rất hy vọng thế," tôi nói.

Lát sau, khi chúng tôi còn lại một mình, cô hỏi tôi, "Anh có thật sự nghĩ rằng hai người đó xứng đáng có nhau không?"

"Họ đã cùng nhau lâu thế này... Họ sẽ ổn thôi. Ít nhất là, sau một khoảng trống bốn mươi hai năm. Giờ thì chúng ta phải truy tìm con cừu đó."

"Em thích hai người đó."

"Anh cũng thích hai người đó."

Chúng tôi xếp đồ xong rồi ăn nằm với nhau, sau đó ra ngoài xem phim. Trong bộ phim cũng có nhiều đàn ông và đàn bà ăn nằm với nhau. Rốt cuộc thì xem người khác ăn nằm với nhau chẳng có gì sai cả.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,311
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 29: PHẦN 8 - CUỘC SĂN CỪU HOANG III: Sự ra đời, hưng thịnh và suy vong của huyện Junitaki


Chúng tôi bắt đầu chuyến tàu sớm từ Sapporo đến Asahikawa. Tôi mở một chai bia rồi ngồi xuống đọc cuốn Lịch sử chính thức huyện Junitaki to tướng đóng trong hộp. Junitaki là huyện nơi trang trại Giáo sư Cừu tọa lạc. Đọc lịch sử của huyện có lẽ không có giá trị thực tiễn nào, nhưng nó cũng chẳng hại gì.

Tác giả sinh năm 1940 tại Junitaki và, sau khi tốt nghiệp khoa văn trường đại học Hokkaido, hoạt động với tư cách một sử gia địa phương, ấy là bìa sách nói thế. Được cho là người hoạt động hăng hái, song ông ta chỉ viết mỗi một cuốn sách, được xuất bản tháng Năm năm 1970. Lần xuất bản đầu tiên, có lẽ là lần duy nhất.

Theo tác giả, những người định cư đầu tiên đến nơi mà ngày nay gọi là Junitaki vào đầu mùa hè năm 1881. Cả thảy mười tám người, tất cả đều là nông dân nghèo xơ xác từ Tsugaru, nông cụ,quần áo, giường chiếu, xoong nồi và dao rựa sơ sài là tất cả tài sản của họ.

Họ đi qua một ngôi làng của người Ainu gần Sapporo và với chút tiền ít ỏi, họ thuê một thanh niên Ainu gầy gò, mắt đen làm người dẫn đường. Tên người thanh niên tiếng Ainu được dịch là"Trăng tròn đang khuyết đần" (gợi ý là anh ta có xu hướng trầm cảm, tác giả đặt giả thuyết vậy).

Có lẽ người thanh niên không sinh ra để làm người dẫn đường; tuy nhiên, cậu chứng tỏ mình khá hơn rất nhiều so với người ta tưởng lúc đầu. Hầu như không hiểu một tí tiếng Nhật nào, cậu dẫn mười tám người nông dân dữ tợn đáng ngờ lên phía Bắc, dọc theo sông Ishikari. Cậu có ý tưởng rõ ràng trong đầu rằng phải đi đâu để tìm đất đai màu mỡ.

Ngày thứ tư, cả đoàn đến địa điểm này. Được phú cho sông nước rộng lớn, phong cảnh nơi đây sống động với hoa lá tươi đẹp.

"Nơi này tốt đấy," người thanh niên nói. "có ít thú hoang, đất đai màu mỡ, nhiều cá hồi."

"Không ăn thua," người đứng đầu đám nông dân nói. "Chúng tôi muốn đi sâu hơn."

Người thanh niên hiểu rằng đám nông dân tin họ sẽ tìm được đất đai màu mỡ hơn nếu đi sâu hơn. Tốt thôi. Nếu đó là những gì họ muốn, sẽ đi sâu hơn.

Thế là cả đoàn tiếp tục cuộc hành trình lên hướng Bắc trong hai ngày nữa. Ở đó người thanh niên tìm được một chỗ dốc, nơi đây nếu đất đai không màu mỡ đúng như chỗ đất trước thì ít nhất cũng không phải lo lũ lụt.

"Chỗ này thế nào?" người thanh niên hỏi. "Ở đây cũng tốt."

Đám nông dân lắc đầu.

Cảnh này cứ lặp đi lặp lại cho đến khi cuối cùng họ đến địa điểm mà ngày nay là Asahikawa. Cách Sapporo bảy ngày đường và một trăm dặm.

"Ở đây thì sao?" người thanh niên hỏi, chưa bao giờ cảm thấy không chắc chắn như thế.

"Không được," đám nông dân trả lời.

"Nhưng từ đây chúng ta phải trèo núi," người thanh niên nói.

"Chúng tôi không ngại," đám nông dân hân hoan nói.

Và thế là họ vượt đèo Shiokari.

Khỏi cần phải nói, có lý do khiến những người nông dân bỏ qua đám đất đai màu mỡ phía dưới và khăng khăn đi sâu hơn vào vùng hoang vu. Sự thật là, họ đang lẩn trốn. Họ đã bỏ thị trấn, bỏ nợ nần chồng chất, và muốn tránh khỏi chốn văn minh càng xa càng tốt.

Tất nhiên, người thanh niên Ainu không có cách nào biết được điều này. Vậy là, một cách tự nhiên, sự ngạc nhiên ban đầu của cậu khi đám nông dân từ chối những vùng đất màu mỡ chẳng bao lâu chuyển sang hoang mang, kiệt sức và mất tự tin.

Tuy nhiên, tính cách của người thanh niên đủ phức tạp đến lúc đoàn người vượt qua đèo Shiokari, cậu đã phó mặc mình ột số phận không thể hiểu nổi, dẫn họ ngược lên mãi, lên mãi phía Bắc. Cậu bỏ công sức chọn con đường gồ ghề nhất, bãi lầy nguy hiểm nhất, để làm vừa lòng những người thuê mình.

Bốn ngày phía Bắc đèo Shiokari, đoàn người đến một con sông chảy theo hướng Tây. Theo nhất trí chung, mọi người quyết định họ nên đi về hướng Tây.

Chiến thuật này đã khiến họ giáp mặt những con đường khủng khiếp qua những địa hình khủng khiếp. Họ chật vật tìm đường qua những rừng tre, chặt cỏ cao đến vai để qua những cánh đồng cỏ mỗi lần mất nửa ngày, lội bì bõm qua bùn cao tới ngực, trèo lên núi đá dốc lởm chởm, bất cứ thứ gì để tiến xa hơn về phía Đông. Đêm đến, họ rải vải bạt không thấm nước bên bờ sông và canh chừng tiếng hú của đàn sói khi ngủ. Cánh tay họ, bị tre quẹt cho rớm máu, luôn luôn bị bao vây bởi đám ruồi nhuế và muỗi sẵn sàng rúc sâu vào trong tai họ để hút máu.

Năm ngày đi về hướng Đông, họ thấy đường đi bị núi chặn lại và không thể tiến xa hơn. Vùng đất ở sâu hơn không phù hợp cho người đến lập nghiệp, người thanh niên tuyên bố. Nghe vậy, đám nông dân dừng chân. Đó là ngày mùng 8 tháng bảy, năm 1881, cách Sapporo 240 cây số.

Việc đầu tiên là họ khảo sát vị trí của vùng đất, thử nước, kiểm tra đất. Đất khá tốt để trồng cấy. Rồi họ chia đất cho nhau và dựng một túp lều công nhỏ bằng gỗ ở giữa.

Người thanh niên Ainu gặp một toán thợ săn Ainu đi qua khu vực. "Vùng này gọi là gì?" cậu hỏi họ.

"Mày nghĩ rằng cái chỗ đất như lỗ đít này xứng đáng có tên sao?" Họ trả lời.

Vậy là hiện tại khu vực hoang vu này không có tên. Vì chẳng có nhà dân nào khác (hoặc ít ra là một nhà dân mong muốn tiếp xúc với loài người) trong bán kính sáu mươi lăm cây số nên khu đất không cần có tên. Trên thực tế, vào năm 1889 khi một nhân viên điều tra dân số do Chính quyền địa phương cử xuống thúc ép đám nông dân phải có tên, những người định cư vẫn thờ ơ không dao động. Cuốc liềm trong tay, họ họp mặt trong túp lều công và quyết định không đặt tên cho vùng đất. Tay viên chức đúng là không biết xoay xở ra sao. Tất cả những gì ông ta có thể làm là đếm số thác nước của con sông kế bên, mười hai, và báo cáo cái tên Junitaki-buraku hay Khu Định Cư Mười Hai Thác Nước cho Chính quyền địa phương. Từ đó trở đi, khu định cư mang tên chính thức Junitaki-buraku (và sau đó Junitaki-mura, Ngôi Làng Mười Hai Thác Nước).

Khu vực trải một hình cung sáu mươi độ giữa hai ngọn núi và được cắt ngang ở giữa bởi một con sông sâu. Chắc chắn là một dáng đất lỗ đít rồi. Đất đai phủ kín rừng tre trong khi những cây xanh quanh năm khổng lồ trải rễ rộng và sâu. Sói, nai sừng tấm, gấu, chuột xạ, chim chóc tranh nhau chút thức ăn ít ỏi trong vùng đất hoang vu. Khắp nơi nhung nhúc những ruồi và muỗi.

"Các vị đều muốn sống ở đây à?" người thanh niên Ainu hỏi.

"Chắc chắn rồi", đám nông dân trả lời.

Không rõ vì sao mà người thanh niên Ainu, thay vì về nhà, lại chọn ở lại với những người định cư. Có lẽ cậu ta tò mò, tác giả đặt ra giả thuyết (Tác giả thích đặt giả thuyết). Dù với bất cứ lý do nào, nếu cậu ta không ở lại, người ta ngờ rằng họ có thể sống qua mùa đông. Người thanh niên dạy họ cách trồng rau mùa đông, cách chống chọi với tuyết, cách bắt cá ở sông đóng băng, cách đặt bẫy sói, cách tránh sự chú ý của gấu trước khi ngủ đông, cách xem thời tiết qua hướng gió, cách tránh cước ở chân tay vì bị rét, cách nướng măng tre làm thức ăn, cách đốn cây xanh quanh năm theo hướng định sẵn. Chẳng bao lâu, mọi người nhận ra được giá trị của người thanh niên, và bản thân người thanh niên lấy lại được tự tin. Cuối cùng cậu ta lấy tên Nhật và cưới con gái của một người định cư, với người vợ này cậu có ba đứa con. Không còn "Trăng Tròn Đang Khuyết Dần" nữa.

Tuy thế, thậm chí với khối kiến thức thực tiễn của người thanh niên Ainu, hoàn cảnh của những người định cư vẫn thật khốn khổ. Đến tháng Tám, mỗi gia đình đều dựng được lều, chỉ là những thanh gỗ chẻ túm lại với nhau quấy quá vội vàng hầu như không ngăn nổi gió đông. Thức dậy mà thấy một đống tuyết cao đến ba mười centimet cạnh gối cũng chẳng có gì là lạ. Hầu hết các gia đình chỉ có một bộ giường chiếu, vì thế đám đàn ông con trai thường phải ngủ co quắp bên bếp lửa. Khi thức ăn dự trữ đã cạn, những người định cư đi ra ngoài kiếm cá và bất cứ cây dại héo quắt nào họ có thể kiếm dưới tuyết. Đó là một mùa đông đặc biệt lạnh. Tuy thế, không ai chết cả. Không cãi nhau, không nước mắt. Sức mạnh của họ là cái nghèo bẩm sinh.

Mùa xuân tới. Hai đứa trẻ ra đời và số người định cư tăng lên hai mươi hai. Hai giờ trước khi trở dạ các bà mẹ còn đang làm việc ngoài đồng, và sáng hôm sau khi sinh con họ ra đồng làm việc.

Nhóm nông dân trồng ngô và khoai tây. Cánh đàn ông đốn cây và đốt rễ để phát quang thêm đất. Cuộc sống mới sinh sôi trên mặt đất, cây non kết quả, nhưng ngay khi những người định cư đang thở phào nhẹ nhõm, họ lại bị hàng đàn châu chấu bao vây.

Châu chấu lướt quanh núi. Đầu tiên, trông chúng như một đám mây đen khổng lồ. Rồi sau đó là một tiếng ầm ầm. Không ai biết được điều gì đang xảy ra với họ. Chỉ có người thanh niên Ainu biết. Cậu hạ lệnh cho cánh đàn ông nhóm lửa trên đồng. Tẩm giọt dầu cuối cùng vào đồ đạc cuối cùng, đám đàn ông đốt tất cả những gì họ có thể động tay vào. Cánh phụ nữ gõ chày vào xoong nồi. Họ làm hết sức mình, nhưng tất cả đều không đủ. Hàng trăm ngàn con châu chấu xà xuống trên mùa màng của họ và tàn phá hết. Không còn gì sót lại sau đó.

Khi đàn châu chấu bay đi rồi, người thanh niên ra đồng mà khóc. Không một người định cư nào nhỏ một giọt nước mắt. Họ nhặt chỗ châu chấu chết rồi đốt, và ngay sau khi chúng đã thành tro, những người định cư tiếp tục phát quang đất.

Họ trở lại ăn cá và rau dại cả mùa đông sau. Vào mùa xuân, ba đứa trẻ nữa ra đời. Mọi người trồng cấy trên đồng. Vào mùa hè, châu chấu trở lại tấn công. Và tất cả cây trồng lại bị nhai đến tận gốc. Tuy nhiên lần này, người thanh niên Ainu không khóc.

Cuối cùng, trận tấn công dữ dội của châu chấu kết thúc nào năm thứ ba. Một đợt mưa dài giết sạch chỗ trứng châu chấu. Nhưng mưa kéo dài đã làm hại cây trồng. Năm sau gặp phải sự phá hoại bất bình thường của bọ cánh cứng, và mùa hè sau đó lạnh bất bình thường.

Đọc đến đó, tôi gấp sách, mở một chai bia nữa và lôi hộp ăn trưa có trứng cá hồi ra khỏi túi.

Cô ngồi đối diện với tôi khoanh tay, ngủ say sưa. Nắng sớm thu xen nghiên qua khung cửa sổ tàu, trải một lớp chăn bằng ánh sáng lên lòng cô. Một con nhậy tí hon bay lên từ đâu đó và đập cánh như một mảnh giấy nhỏ. Cuối cùng thì con nhậy đậu lên ngực cô và ở đó trước khi bay đi mất. Khi con nhậy đã bay, cô trông già đi chút xíu.

Tôi hút một điếu thuốc, rồi đọc tiếp cuốn Lịch sử chính thức huyện Junitaki.

Đến năm thứ sáu, khu định cư đã có thể tự mình tồn tại. Mùa màng sinh sôi, các túp lều được sửa lại, và ai nấy đều đã thích nghi với khí hậu lạnh. Những căn nhà gỗ cưa thế chỗ đám lều gỗ, họ đắp lò sưởi, treo đèn. Mọi người chất lên thuyền những gì ít ỏi còn lại, chỗ rau quả thừa rồi cá khô và sừng nai tấm, đi hai ngày tới chợ thị trấn gần nhất, mua chuối, quần áo và dầu. Một số người học cách làm than củi từ gỗ đốn trong cánh đồng đã phát quang. Một số khu định cư tương tự mọc lên xuôi dòng sông và giao thương được xác lập.

Trong khi việc vỡ đất tiếp diễn, họ thấy rõ là khu định cư đặc biệt thiếu người, thế là nhóm triệu tập hội đồng làng, và sau hai ngày họ quyết định kêu gọi sự tăng viện từ quê cũ. Câu hỏi về khoản nợ không trả được đặt ra, nhưng xét qua câu trả lời đáp lại những dò hỏi được gói ghém cẩn thận ttrong những bức thư gửi về nhà, họ biết rằng các chủ nợ đã từ lâu thôi không cố đòi nợ nữa. Người cao tuổi nhất trong số những người định cư gửi thư cho đám bạn cũ, hỏi xem họ có muốn cùng những người định cư làm việc ở vùng đất mới hay không. Năm 1889, điều tra dân số được tiến hành, cùng năm khu định cư được chính thức đặt tên.

Năm sau đó, sáu gia đình mới, gồm chín người định cư mới, đến khu định cư. Họ được chào đón bởi các túp lều gỗ đã được nâng cấp. Tất cả đều nghẹn ngào nước mắt ngày tái ngộ. Cư dân mới được cấp đất, và với sự giúp đỡ của những người định cư đầu tiên họ trồng cấy và xây nhà riêng.

Năm 1893, thêm bốn gia đình mới đến, với mười sáu người. Năm 1987, thêm bảy gia đình mới đến với hai mươi bốn người.

Số lượng người định cư mới tăng dần một cách ổn định. Túp lều công được mở rộng thành phòng họp trang trọng hơn, và ngay cạnh đó họ xây một miếu thờ nhỏ. Khu định cư chính thức trở thành làng. Từ Junitaki-buraku thành Junitaki-mura. Người đưa thư bắt đầu xuất hiện, dù không đều đặn. Tuy hạt kê vẫn là món ăn chính của dân làng nhưng giờ đây thi thoảng họ trộn nó với cơm trắng thật.

Tất nhiên, không phải hộ không phải chịu những điều không may. Các viên chức đến đánh thuế và bắt lính. Người thanh niên Ainu, giờ đã ba mươi lăm tuổi, đặc biệt phiền lòng bởi những diễn biến này. Anh không thể hiểu được tại sao những thứ như thuế má và nghĩa vụ quân sự lại cần thiết.

"Đối với tôi có vẻ mọi thứ cứ như trước thì hay hơn," anh nói.

Dẫu vậy, làng vẫn tiếp tục phát triển.

Năm 1903, họ phát hiện một khu đất cao hơn gần làng phù hợp với việc nuôi thả súc vật, thế là làng lập đồng cỏ chung. Một viên chức chính quyền địa phương hướng dẫn họ dựng rào, cung cấp hệ thống thoát nước và dựng lều trại cho vật nuôi, tiếp đó, lao động nhà tù được gọi đến để xây dựng một con đường dọc theo sông, và cùng với thời gian, hàng đàn cừu mua rẻ của chính phủ được chăn thả bên đường. Những người nông dân không hề biết tại sao chính phủ lại hào phóng như vậy. Mà, tại sao không nhỉ? Họ nghĩ. Sau một cuộc chống trả khó khăn, đây là sự đền bù được hoan nghênh.

Tất nhiên, chính phủ hào phóng cung cấp cho họ những con cừu này không phải là không có lý do. Bị hối thúc bởi mục tiêu quân sự là phải tự túc len nhiệt cho chiến dịch sắp tới trên đại lục, chính phủ đã ra lệnh cho Bộ Nông nghiệp và Kinh doanh nỗ lực chăn nuôi cừu hơn,và bộ đã ép chính quyền Địa phương phải thực thi các kế hoạch này. Chiến tranh Nga-Nhật sắp tới gần.

Trong khắp cả làng, lại chính người đàn ông Ainu, nay không còn là chàng thanh niên nữa, tỏ rõ sự quan tâm đến cừu nhiều nhất. Ông học phương pháp chăn nuôi cừu từ các quan chức địa phương và đảm nhận trách nhiệm phụ trách đồng cỏ của làng. Không ai biết chính xác tại sao ông ta lại hết mình với cừu nhường ấy. Có thể là vì những phức tạp của cuộc sống do số lượng dân làng bỗng nhiên tăng vọt.

Đồng cỏ trở thành nhà cho ba mươi sáu đầu cừu Southdown và hai mươi mốt đầu cừu Shropshire cộng với hai con chó cô li giống Border. Người đàn ông Ainu trở thành người chăn cừu giỏi, và số lượng cừu và chó tăng lên mỗi năm. Ông dần dà yêu đàn cừu và đàn chó của mình tha thiết. Các viên chức thì vô cùng hài lòng. Chó con được bán cho các trang trại cừu tương tự được thành lập gần đó để rồi trở thành những con chó chăn cừu giỏi nhất.

Khi chiến tranh Nga-Nhật bùng nổ, năm trai làng bị bắt đi lính và điều ra tiền tuyến ở Trung Hoa. Hai người hy sinh và một bị mất một cánh tay trái khi một quả lựu đạn của quân địch nổ tung trong cuộc giao tranh nhỏ trên một ngọn đồi nhỏ. Khi cuộc giao tranh kết thúc sau ba ngày, hai người kia thu thập các mảnh xương nằm rải rác của những người bạn thanh niên cùng làng. Tất cả là con trai của những người định cư đợt một và đợt hai. Một trong những người chết là con trai cả của người thanh-niên-trở-thành-người-chăn-cừu Ainu. Cậu chết khi mặc một cái áo khoác len do quân đội cấp.

"Tại sao lại điều bọn con trai ra trận tại một miền đất lạ?" người chăn cừu Ainu đi quanh hỏi mọi người. Lúc đó ông bốn mươi lăm tuổi.

Không ai có thể trả lời ông. Người chăn cừu Ainu tuyệt giao với làng và ở luôn bên ngoài đồng cỏ, tỉnh thức cùng đàn cừu. Vợ ông đã qua đời vì bệnh viêm phổi năm năm trước, và hai con gái ông đã lấy chồng. Để trả công trông nom đàn cừu, làng cấp cho ông chút lương ít ỏi và thức ăn.

Sau khi mất con trai, người chăn cừu Ainu trở nên cay đắng. Ông qua đời khi sáu mươi hai tuổi. Một sáng mùa đông, cậu bé giúp việc cho ông tìm thấy xác ông nằm chết sóng soài trên sàn trại cừu. Đông cứng. Hai con chó đời cháu của hai con cô li giống Border đầu tiên mắt buồn thương cảm rên rỉ bên cạnh ông. Đàn cừu, không hề biết gì, đang gặm cỏ tại khu chăn thả của mình. Nhịp nhai khe khẽ của răng cừu nghe giống như một dàn đồng ca catanhet.

Lịch sử Junitaki tiếp tục, nhưng lịch sử của người thanh niên Ainu kết thúc tại đó. Tôi đứng dậy đi vệ sinh và đái ra hết số bia trong hai chai. Khi tôi quay lại chỗ ngồi, cô đã thức giấc và đang lơ đãng nhìn ra ngoài cửa sổ. Cánh đồng lúa trải dài tít tắp. Thi thoảng là một hầm ủ tươi thức ăn cho vật nuôi. Sông chạy lại gần, rồi chạy ra xa. Tôi hút một điếu thuốc, cảm nhận khung cảnh cùng với dáng ngồi nghiêng của cô trong đó. Cô không nói một lời. Khi hút hết điếu thuốc, tôi quay lại với cuốn sách. Bóng một cây cầu sắt sáng lóe lên qua trang sách.

Sau câu chuyện bất hạnh của người thanh niên Ainu sau trở thành người chăn cừu, già đi, rồi qua đồi, lịch sử còn lại khá nhàm chán. Một trận viêm đường ruột cướp đi mười đầu cừu, một đợt lạnh khủng khiếp giáng đòn chí tử cho đám hoa màu, nhưng ngoài ra thì mọi thứ trong làng đều diễn ra trôi chảy. Vào thời Đại Chính, làng được hợp nhất thành huyện và được đổi tên mới là Junitaki-cho. Junitaki-cho phát triển tốt, xây thêm nhiều cơ sở vật chất, một trường tiểu học, một tòa thị chính, một điểm bưu điện. Đến lúc này, việc định cư ở Hokkaido gần như hoàn tất.

Khi đất đai trồng trọt được đã gần cạn kiệt, một vài thanh niên rời Junitaki-cho đi tìm vận may ở những thế giới mới như Mãn Châu và Sakhalin. Vào những năm 1937, Giáo sư Cừu xuất hiện ở thị trấn.

Lịch sử viết: "Người quản lý kỹ thuật của Bộ Nông Lâm được công nhận rộng rãi vì các nghiên cứu ở Triều Tiên và Mãn Châu. Giáo sư________(tuổi 32) rời vị trí của mình do hoàn cảnh đặc biệt và lập trang trại cừu riêng của mình tại thung lũng núi phía Bắc Junitaki-cho."

Chuyện về ông chỉ được viết có thế.

Bản thân tác giả có vẻ như cũng chán các sự kiện những năm ba mươi, việc ghi chép của ông ta trở nên không đồng nhất và chắp vá. Ngay cả văn phong cũng sa sút, mất đi sự mạch lạc khi ông thảo luận về người thanh niên Ainu.

Tôi bỏ không đọc ba mươi năm giữa 1938 và 1969 và nhảy đến phần có tựa đề "Junitaki ngày nay". Tất nhiên, "ngày nay" trong sách là vào năm 1970, hầu như không phải "ngày nay" của ngày nay. Tuy vậy, khi viết lịch sử của một thị trấn hiển nhiên cần phải đưa cái "ngày nay" ra. Và thậm chí nếu một ngày nay chẳng mấy chốc không còn là ngày nay nữa, không ai có thể chối cái được nó thật sự là một ngày nay. Vì nếu như ngày nay thôi không còn là ngày nay, lịch sử không thể tồn tại như lịch sử.

Theo cuốn Lịch sử chính thức huyện Junitaki, năm 1969 dân số giảm xuống còn 15.000, giảm 6.000 so với mười năm trước, hầu như vì sự sa sút của nghề nông. Sách nói rằng, tỷ lệ không còn làm nghề nông cao bất bình thường là phản ứng trước những thay đổi của cơ sở hạ tầng quốc gia trong thời kỳ phát triển công nghiệp nhanh chóng, cũng như bản chất kỳ lạ của nghề nông trong khí hậu của Hokkaido.

Vậy những nơi đất đai trồng cấy đã trở thành gì? Chúng được trồng cây gây rừng lại. Mảnh đất mà cha ông họ đã đổ máu phát hoang, những người hậu duệ giờ đây trồng cây. Thật trớ trêu khi sự việc trở nên như thế.

Nói vậy nghĩa là ngành nghề chính ở Junitaki ngày nay là lâm nghiệp và cán gỗ. Ngày nay thị trấn tự hào có một vài nhà máy gỗ nhỏ nơi họ sản xuất tủ đựng ti vi, bàn trang điểm, những bức tượng nhỏ hình gấu và người Ainu bán cho khách du lịch. Túp lều công cụ ngày xưa trở thành Bảo tàng Người tiên phong, nơi nông cụ và các đồ dùng ăn uống từ những ngày đầu định cư được trưng bày. Có cả vật lưu niệm về những thanh niên làng đã chết trong Chiến tranh Nga-Nhật. Và thậm chí cả bức thư gửi về quê hỏi về những người chủ nợ.

Nhưng sự thật Junitaki ngày nay là một thị trấn hết sức buồn tẻ. Dân thị trấn, khi đi làm về, xem ti vi trung bình bốn tiếng trước khi đi ngủ mỗi tối. Số phiếu đi bầu cử luôn cao, nhưng không ai ngạc nhiên trước việc ai là người trúng cử. Khẩu hiệu của thị trấn là "Nhân tính Rộng rãi trong một thiên nhiên Rộng rãi". Hay tấm biển trước cửa ga nói thế.

Tôi gấp sách, ngáp, rồi ngủ thiếp đi.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,311
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 30: PHẦN 8: Lần suy vong tiếp theo của Junitaki và lượng cừu của nó


Chúng tôi bắt tàu chuyển tiếp tại Asahikawa và đi về hướng Bắc qua đèo Shiogari, chủ yếu đi chính con đường mà người thanh niên Ainu và mười tám người nông dân nghèo xơ xác đi một thế kỉ trước.

Mặt trời mùa thu chói sáng xuyên qua tàn tích cuối cùng của rừng hoang và lá cây thanh lương trà đỏ rực. Không khí tĩnh lặng và trong lành. Tới mức chỉ nhìn phong cảnh thôi cũng khiến người ta đau mắt.

Chuyến tàu lúc đầu vắng vẻ, nhưng tới giữa đường, một đám học sinh trung học đi vé tháng chen chúc nhau lên và thế là náo loạn vô cùng, những tiếng la hét, gầu tóc, mùi cơ thể, những cuộc chuyện trò không tài nào hiểu được và thôi thúc tình dục không có chỗ nào thoát ra. Cứ thế trong khoảng ba mươi phút cho đến khi tất cả bọn chúng biến mất tại cùng một nhà ga. Một lần nữa, đoàn tàu lại trống vắng, không nghe một tiếng nói.

Chúng tôi chia nhau nhấm nháp một thỏi sô cô la trong lúc phong cảnh diễu ra trước mắt. Ánh nắng thanh bình đổ lên mặt đất. Mọi thứ dường như xa xôi làm sao, như thể chúng tôi đang nhìn qua đầu kia của kính thiên văn. Cô huýt sáo mấy đoạn trong bài "Johnny B. Goode". Đây có lẽ là lần lâu nhất chúng tôi không nói với nhau câu nào.

Buổi chiều, chúng tôi xuống tàu. Đứng trên sân ga, tôi hít một hơi thật sâu và vươn vai. Không khí trong lành đến mức tôi cảm thấy phổi mình sắp nổ tung. Ánh mặt trời trên cánh tay tôi ấm áp và đầy nhục cảm, ngay cả khi không khí ở đó lạnh hơn không khí ở Sapporo ba bốn độ.

Một dãy nhà kho xây bằng gạch cũ kỹ xếp hàng dọc đường ray, cạnh đó là một chồng gỗ xếp theo hình kim tự tháp dài hơn hai mét rưỡi, đen sẫm và đẫm nước từ trận mưa đêm trước. Sau khi chuyến tàu chờ chúng tôi đến đã rời khỏi nhà ga, chẳng còn ai trong tầm nhìn, chỉ có một bụi cúc vạn thọ đung đưa trong gió lạnh.

Từ sân ga, chúng tôi trông thấy một đô thị khu vực quy mô nhỏ điển hình. Có đầy đủ phố chính, các cửa hàng bách hóa khiêm nhường, bến xe buýt, trung tâm thông tin du lịch. Nếu ấn tượng ban đầu là đúng thì đó là một thành phố cực kì tẻ nhạt.

"Đây là đích đến của chúng ta ư?" cô hỏi.

"Không, không phải ở đây. Chúng ta đi tàu tiếp từ đây. Đích đến của chúng ta là một thị trấn nhỏ hơn thế này nhiều, rất nhiều."

Tôi ngáp và thở một hơi sâu nữa.

"Đây là điểm quá giang của chúng ta. Đây là nơi mà những người định cư đầu tiên rẽ sang hướng Đông."

"Những người định cư đầu tiên ư?"

Trong thời gian trước khi tàu chuyển tiếp đến, chúng tôi ngồi trước máy sưởi trong phòng đợi, và tôi thuật lại kiến thức vụn vặt của mình về lịch sử Junitaki-cho. Bảng niên đại trở nên hơi lẫn lộn, thế là tôi dùng một trang giấy từ cuốn sổ để vẽ một bảng thời gian đơn giản hóa dựa trên phần tóm tắt phía sau cuốn Lịch sử chính thức. Bên trái trang giấy, tôi liệt kê ngày tháng và các mốc phát triển trong lịch sử Junitaki-cho, bên phải là các sự kiện chủ yếu của lịch sử Nhật Bản trong cùng thời kỳ. Một bảng niên đại khá đáng nể.

Chẳng hạn, vào năm 1905, Cảng Arthur sụp đổ và con trai người thanh niên Ainu hy sinh. Và nếu như trí nhớ tôi chính xách, đó cũng là năm Giáo sư Cừu ra đời. Dần dà, lịch sử kết nối.

"Nhìn sự việc kiểu này," cô nói, so sánh bên trái và bên phải của bảng niên đại, "người Nhật chúng ta dường như sống từ cuộc chiến này qua cuộc chiến khác."

"Đúng là có vẻ như vậy," tôi nói.

"Làm sao mà mọi việc lại trở nên thế này?"

"Chuyện đó phức tạp. Anh thật sự không nói được. Không phải chỉ như vậy."

"Hừm."

Phòng đợi, giống như hầu hết các phòng đợi, vắng vẻ và không có gì đáng chú ý. Ghế băng không thoải mái đến mức thảm hại, gạt tàn đầy những mẩu thuốc lá sũng nước, không khí bốc mùi chua. Trên tường là các tấm áp phích du lịch và danh sách tội phạm đang bị truy nã. Những người duy nhất ở đó là một ông già mặc áo len màu vàng nhạt và một bà mẹ với đứa con trai bốn tuổi. Ông già ngồi dính vào một chỗ, mải mê nghiên cứu tạp chí văn học. Ông lật trang chậm rãi như thể đang bóc băng dính. Mười lăm phút từ trang này qua trang khác. Bà mẹ và đứa bé trông như một cặp vợ chồng hôn nhân đang trục trặc.

"Thực ra ai cũng nghèo, nhưng chúng ta muốn tin rằng nếu mọi thứ ổn thỏa, chúng ta sẽ thoát khỏi cái nghèo."

"Như người dân ở Junitaki-cho."

"Chính xác. Đó là lý do họ làm quần quật đến chết để vỡ thêm đất. Ngay cả như vậy, hầu hết những người định cư đều chết trong cảnh nghèo."

"Tại sao?"

"Tại khu vực thôi. Hokkaido là xứ lạnh, cứ mấy năm lại có một trận sương giá khủng khiếp. Nếu mùa màng chết hết thì sẽ không có gì ăn, không có thu nhập để mua dầu. Họ thậm chí không thể mua nổi hạt giống cho năm sau. Thế là họ cầm cố đất và vay nặng lãi. Nhưng không một nền nông nghiệp nào ở bất kỳ khu vực nào lại sinh lợi đủ để trả số lãi đó, thế nên cuối cùng họ bị tước đoạt đất đai. Điều đó khiến nhiều nông dân phải đi trồng cấy thuê."

Tôi giờ qua mấy trang cuốn Lịch sử chính thức và đọc cho cô: "Vào năm 1930, số lượng nông dân tự cày cấy trên đất của mình giảm xuống còn 46% dân số Junitaki-cho. Họ bị giáng cho hai đòn chí tử, một thị trường đình trệ và một trận sương giá khủng khiếp."

"Vậy là sau bao nhiêu nhọc nhằn để phát quang thêm đất trồng cấy cho chính mình, họ chỉ càng lún sâu hơn vào nợ nần." cô kết luận.

Vì vẫn còn bốn mươi phút nữa tàu mới đến, cô quyết định một mình đi bộ quanh thị trấn. Tôi ngồi lại phòng đợi, uống một lon Coke và đọc tiếp phần bỏ dở ở một cuốn sách khác. Chẳng bao lâu tôi chán đọc và cất sách đi. Tôi không thể tập trung. Đầu tôi đầy những con cừu Junitaki-cho nhai chóp chép tất cả đám chữ nghĩa tôi có thể cho chúng ăn. Tôi nhắm mắt lại thở dài. Một đoàn tàu chở hàng đi ngang qua đổ một hồi còi.

Vài phút trước giờ đi, cô trở về với một túi táo. Chúng tôi ăn táo thay bữa trưa, rồi lên tàu.

Con tàu chắc chắn đã từng dãi dầu bao ngày tháng. Những phần gỗ ọp ẹp nơi sàn tàu oằn xuống và mòn vẹt. Đi dọc theo lối đi giữa các dãy ghế cũng đủ khiến người ta đung đưa từ bên này qua bên khác. Bọc ghế mất hết lớp tuyết còn nệm ghế như bánh mì để lâu một tháng. Một không khí chết chóc, trộn lẫn mùi nhà vệ sinh và mùi dầu lửa, lan tỏa trong toa tàu. Tôi mất mười phút cố mở cửa sổ để không khí từ bên ngoài vào, nhưng vừa mới mở được thì một đám cát mịn thổi vào và tôi lại mất từng ấy thời gian để đóng cửa sổ.

Tàu có hai toa. Có cả thảy mười lăm hành khách, bị gộp lại với nhau bởi một mối ràng buộc chung là sự thờ ơ và chán nản. Ông già mặc áo len vàng nhạt vẫn đang đọc tạp chí. Xét tốc độ đọc đó, số báo ấy có thể đã ra từ cách đây ba tháng. Một bà trung niên trông nặng nề đang nhìn chằm chằm vào một điểm xa bên ngoài, như thể nhà phê bình đang nghe một bản xô nát của Scriabin.

Bọn trẻ con cũng lặng lẽ. Chúng ngồi yên lặng nhìn trân trân ra ngoài cửa sổ. Thi thoảng, ai đó phát ra tiếng ho khan khò khè nghe cứ như xác ướp bị một cái cặp gõ lên đầu.

Mỗi lầu tàu vào một nhà ga là lại có ai đó xuống tàu. Cứ khi nào có người xuống tàu, người soát vé lại xuống thu vé rồi quay trở lại. Người soát vé hoàn toàn không chút biểu cảm gì, đến độ ông ta có thể đi cướp nhà băng mà không phải che mặt. Không hành khách mới nào lên tàu.

Bên ngoài, con sông trải dài bất tận, nổi màu nâu bùn do các trận mưa. Lấp lánh trong ánh nắng thu, trông dòng sông giống như một cái đập tràn toàn cà phê sữa. Con đường được nâng cấp dọc theo bờ sông lúc ẩn lúc hiện, và thỉnh thoảng một chiếc xe tải khổng lồ chở đầy gỗ phóng ầm ầm về phía Tây. Nhưng nhìn chung thì con đường dường như không được thực sự sử dụng. Các biển hiệu quảng cáo bên đường không truyền được thông điệp của nhà tài trợ cho ai, đến đâu. Tôi đẩy lui sự buồn chán bằng cách nhìn từng biển hiệu quảng cáo mới, nhận thấy ở chúng có vẻ lôi cuốn thành thị, sắc nét. Một cô gái có làn da rám nắng tuyệt đẹp mặc bikini chun môi trên một chai Coca, một diễn viên đứng tuổi nheo mày nhìn ly rượu Scotch nghiêng nghiêng, một chiếc đồng hồ thợ lặn được hào phóng té nước vào, một cô người mẫu ở giữa đám nội thất tinh tế, bóng mượt đang làm móng. Những người đi tiên phong mới của ngành quảng cáo đang khoét một vết sâu đồi bại vào trong vùng thôn quê.

Sau hai tiếng bốn mươi phút, chúng tôi tới Junitaki-cho, điểm dừng cuối. Vào một thời điểm nào đó trên đường chúng tôi đã ngủ gà gật, có vẻ như không nghe thấy thông báo của nhà ga. Động cơ diesel đã thở hắt ra hơi cuối cùng rồi mọi thứ rơi vào tĩnh lặng. Tôi giật mình tỉnh dậy, sự yên lặng râm ran trên da tôi. Khi tôi nhìn quanh, không hành khách nào còn lại trên tàu.

Tôi lôi túi xách từ trên giá xuống, gõ nhẹ lên vài cô vài lần để đánh thức cô dậy, rồi chúng tôi xuống tàu. Cơn gió thổi dọc chiều dài sân ga đã se sẽ chút lạnh cuối thu. Bóng dãy đồi tối đen trườn qua mặt đất như những vết ố chết người. Ngay cuối phố xá, hai dãy đồi ở hai bên thị trấn dường như gặp nhau, gọn gàng ôm cả thị trấn như hai bàn tay khum lại chắn gió ột ngọn lửa diêm. Hai dãy đồi sừng sững phía trên sân ga chật hẹp.

Chúng tôi đứng đó, lúng túng một lúc, nhìn chăm chăm vào khung cảnh đến vài phút.

"Trang trại cũ của Giáo sư Cừu ở đâu anh?" cô hỏi.

"Tít trên núi. Cách đây ba tiếng đi xe."

"Mình có đi thẳng đến đó không?"

"Không," tôi nói. "Nếu mình đi ngay bây giờ thì quá nửa đêm mới tới nơi. Hãy qua đêm ở đây và khởi hành vào buổi sáng."

Trước cửa nhà ga là một giao lộ nhỏ, vắng tanh. Không ai đi vòng quanh. Không taxi đón khách hoặc thả khách. Ở giữa, chỉ có một vòi phun nước hình chim nhưng chẳng có tí nước nào. Con chim lơ đãng nhìn lên bầu trời, miệng há ra mà không có gì để nói. Quanh vòi phun nước trồng một bồn cúc vạn thọ hình tròn. Chỉ liếc qua người ta cũng có thể thấy thị trấn tiêu điều hơn nhiều so với một thập kỷ trước. Hầu như không có ai ngoài phố, còn số ít ỏi đang ở ngoài phố thì dường như cũng có vẻ tiêu điều đãng trí của một thị trấn đang tàn lụi.

Bên trái giao lộ là khoảng nửa tá nhà kho cũ, từ những ngày còn vận tải đường sắt. Được xây bằng gạch theo kiểu cổ, chúng có mái rất dốc và cửa ra vào bằng thép được sơn đi sơn lại không biết bao lần, cuối cùng chỉ để bị bỏ hoang. Những con quạ to cồ cộ đậu thành dãy dọc theo mái ngói, lặng lẽ quan sát thị trấn. Tiếp đến là một bãi đất trống phủ đầy cỏ dại có thể khiến người ta bị phát ban đến tận vai, ở giữa đó là tàn tích của hai chiếc xe cũ bị bỏ mặc ưa nắng tàn phá. Cả hai chiếc xe đều thiếu lốp, các bộ phận bên trong lòi hết ra từ bên dưới ca pô để mở.

HƯỚNG DẪN ĐẾN THỊ TRẤN được dán ngay cạnh giao lộ vắng ngắt, bị gió mưa bào mòn đến mức hầu như không đọc nổi. Những chữ có thể được được là JUNITAKI-CHO và GIỚI HẠN PHÍA BẮC CỦA TRỒNG LÚA DIỆN RỘNG.

Ngay trước giao lộ là một con phố nhỏ, dọc hai bên là các cửa hàng. Một con phố không khác gì với những con phố tương tự ở Nhật, chỉ trừ một điểm là đường rộng một cách vô lý, đem lại cho thị trấn ấn tượng càng thêm thưa thớt và lạnh lẽo. Hai bên đường là những hàng cây thanh lương trà, tán lá rực rỡ nhưng không hiểu sao vẫn không bớt phần lạnh lẽo. Đó là sự lạnh lẽo ngấm vào mọi sinh vật, chưa kể vận mệnh con người. Những sự kiện ngày qua ngày thiếu sức sống của cư dân thị trấn - tất cả - đều bị nhấn chìm trong cái lạnh lẽo ấy.

Tôi xốc ba lô lên vai và đi về phía cuối khu vực thương mại dài năm trăm thước ấy, tìm một chỗ để nghỉ. Không có bất kì quán trọ nào. Một phần ba số cửa hiệu kéo cửa chớp xuống. Tấm biển rách tơi tả trước một hiệu đồng hồ đập qua đập lại trong gió.

Ở nơi con phố có các cửa hiệu đột ngột bị ngắt quãng, có một bãi đậu xe, lại đầy cỏ dại. Trong bãi là một chiếc Honda Fairlady màu kem và một xe thể thao, chiếc Toyota Celica màu đỏ. Cả hai đều mới. Tình trạng tinh khôi của chúng ở ngay giữa cái thị trấn rệu rã này tạo nên một khung cảnh mới kỳ cục làm sao.

Đi quá các cửa hiệu, con đường đổ dốc thoai thoải tới bờ sông, ở đó nó tách sang trái và phải theo hình chữ T. Dọc theo con đường này là những ngôi nhà khung gỗ một tầng nhỏ, với những hàng cây màu xám bụi đâm thẳng lên trời những cành nhánh đầy gai. Tôi không biết đó là cây gì, nhưng cành nào cành nấy đều mang hình dáng hết sức kì quái. Trước mỗi cửa nhà đều có thùng phuy đựng xăng lớn giống hệt nhau với các hộp đưa sữa kèm theo. Và trên mỗi mái nhà là những cột ăng ten ti vi cao không tưởng. Những cái xúc tu bằng bạc này mò mẫm trong không trung, bất chấp những ngọn núi tạo thành phông nền của thị trấn.

"Nhưng mà không có quán trọ nào," cô nói lo lắng.

"Đừng lo, thị trấn nào chẳng phải có một quán trọ."

Chúng tôi trở lại nhà ga và hỏi hai người phục vụ ở đó xem có thể tìm được chỗ trọ ở đâu. Tuổi cách xa nhau đến mức có thể cho là bố con được, họ rõ ràng là đang chán và giải thích địa điểm nhà trọ tỉ mỉ đến đáng ngại.

"Có hai nhà trọ," người phục vụ lớn tuổi hơn nói. "Một cái đắt hơn, cái kia khá rẻ. Cái đắt tiền là nơi chúng tôi sắp xếp mấy vị viên chức quan trọng của Chính quyền địa phương và mở tiệc đặc biệt."

"Thức ăn ở đó không tồi chút nào," người phục vụ trẻ tuổi hơn nói.

"Cái kia là nơi mà đám khách thương gia hay đám thanh niên đi du lịch hay, xem nào, nơi khách thông thường nghỉ trọ. Bề ngoài thì có thể khiến anh mất hứng, nhưng không bẩn gì đâu. Phòng tắm khá ấn tượng đấy."

"Mặc dù tường có mỏng," người trẻ hơn nói.

Đến đó hai người lao vào một cuộc tranh luận về độ mỏng của bức tường.

"Chúng tôi sẽ đi tìm cái đắt tiền," tôi nói. Không việc gì phải tiết kiệm. Còn đó chiếc phong bì, vẫn nhét đầy tiền.

Người phục vụ trẻ tuổi hơn xé một tờ từ sổ ghi nhớ và vẽ bản đồ chính xác đường đến quán trọ.

"Cám ơn nhé," tôi nói. "Tôi đoán trước không có nhiều người qua đây như mười năm về trước."

"Không, điều đó thì chắc chắn," người lớn tuổi hơn nói. "Giờ chỉ còn một nhà máy gỗ và không còn ngành nghề nào đáng nói. Nông nghiệp đã sụp đổ. Dân số cũng đã giảm xuống quá nhiều."

"Chết tiệt, không còn có đủ học sinh để mở lớp học tử tế ở trường nữa," người trẻ hơn góp chuyện.

"Dân số là bao nhiêu vậy?"

"Người ta nói khoảng bảy nghìn, nhưng thực ra chắc phải ít hơn thế. Tôi nghĩ năm nghìn thì chính xác hơn."

"Hãy đi tuyến đường này, cậu ơi, trước khi họ đóng cửa cái ga này, có lẽ là bất cứ lúc nào. Dù gì xảy ra đi nữa, chúng tôi vẫn là tuyến xếp hàng thứ ba từ dưới lên trong cả nước," người lớn tuổi kết luận.

Tôi ngạc nhiên khi biết rằng có những chuyến tàu khác còn xuống cấp hơn cả tuyến này. Chúng tôi cảm ơn họ rồi đi.

Quán trọ nằm dưới sườn dốc, về bên phải con phố buôn bán, khoảng gần ba trăm mét dọc bờ sông. Một quán trọ cũ, khá đẹp, le lói chút duyên dáng hẳn đã có từ thời huy hoàng của thị trấn. Quán nhìn ra sông, có một khu vườn được chăm sóc cẩn thận. Ở một góc vườn, một chú cún chăn cừu sục mũi vào đĩa thức ăn, ăn tối sớm.

"Đi leo núi phải không?" người phục vụ đưa chúng tôi về phòng hỏi.

"Đúng là đi leo núi," tôi trả lời đơn giản.

Chỉ có hai phòng trên gác. Mỗi phòng được bố trí rộng rãi, nếu bước ra ngoài ban công, có thể thấy cùng cảnh dòng sông cà phê sữa chúng tôi đã nhìn thấy trên tàu.

Bạn gái tôi muốn đi tắm, vậy nên tôi đi xem tòa thị chính. Tòa thị chính nằm trên con phố vắng tanh cách phố buôn bán hai dãy nhà về hướng Tây. Vậy nhưng tòa nhà lại mới và đẹp hơn nhiều so với những gì tôi trông đợi.

Tôi đi tới phòng chăn nuôi trong tòa thị chính, tự giới thiệu mình bằng tấm danh thiếp của một tạp chí từ hai năm trước khi tôi còn là phóng viên tự do, và bắt đầu thao thao về chuyện tôi cần hỏi một số câu về chăn nuôi cừu, nếu họ không ngại. Khá là gượng gạo khi một tuần san cho phụ nữ lại cần một bài báo về cừu, nhưng viên quan chức phụ trách chăn nuôi tin tôi ngay và dẫn tôi vào văn phòng anh ta.

"Hiện tại huyện chúng tôi có khoảng hai trăm con cừu, tất cả đều là giống Suffolk. Nghĩa là, cừu thịt. Thịt được chia thành từng phần đưa đến các nhà nghỉ và tiệm ăn gần đó, và rất được ưa chuộng."

Tôi lôi sổ ra ghi nhanh những ghi chép phù hợp. Chắc chắn người đàn ông đáng thương này sẽ mua tạp chí phụ nữ trong vài số tới. Phải thú nhận điều đó khiến tôi cảm thấy ngượng.

"Chắc là một bài báo về ẩm thực hả anh?" anh ta ngừng lại để hỏi sau khi đã trình bày chi tiết hiện trạng chăn nuôi cừu.

"Ừm, tất nhiên đó là một phần của bài báo," Tôi nói. "Nhưng hơn thế nữa, chúng tôi muốn vẽ lên một bức tranh toàn cảnh về cừu."

"Một bức tranh toàn cảnh ư?"

"Anh biết đấy, tính cách, thói quen của chúng, đại loại thế."

"Ồ," người cung cấp thông tin của tôi nói.

Tôi gấp sổ và uống nước trà vừa được dọn ra. "Chúng tôi nghe nói có một trang trại cừu cũ ở đâu đó trên núi."

"Vâng, quả có thế. Nó được Quân đội Mỹ sung công sau chiến tranh, nay thì không còn dùng nữa. Trong khoảng mười năm sau khi người Mỹ trao trả, một tay giàu có từ đâu tới sử dụng nó làm biệt thự, nhưng nó ở xa bất tiện cho việc đi lại quá nên ông ta thôi không lên đó nữa. Giờ thì ngôi nhà hầu như bị bỏ hoang. Đó là lý do tại sao trang trại được thị trấn thuê. Chúng tôi nên mua lại và biến chỗ đó thành trang trại du lịch. Nhưng tôi e là tài chính của huyện không cho phép làm như vậy. Đầu tiên, chúng tôi sẽ phải nâng cấp đường..."

"Cho thuê ư?"

"Vào mùa hè,trang trại cừu thuộc thị trấn chúng tôi dẫn khoảng năm mươi đầu cừu trên núi. Đồng của thị trấn không đủ cỏ, mà nói về đồng cỏ thì đồng trên đó khá tốt. Khi thời tiết bắt đầu trở nên xấu hơn vào khoảng nửa sau tháng Chín, người ta lại đưa cừu xuống."

"Anh có tình cờ biết khi nào cừu lên đó không?"

"Tùy từng năm, nhưng nói chung từ đầu tháng Năm đến nửa sau tháng Chín."

"Và có bao nhiêu người đưa cừu lên đó?"

"Một người. Vẫn người làm công việc đó suốt mười năm qua."

"Liệu có thể gặp người này không?"

Viên quan chức gọi điện thoại đến trang trại cừu thuộc thị trấn.

"Nếu đi đến đó bây giờ, anh có thể gặp ông ấy", anh ta nói. "Chúng ta lái xe đến đó chứ?"

Đầu tiên tôi lịch sự từ chối, nhưng ngay sau đó tôi biết mình không thể đến trang trại cừu bằng cách khác. Không có taxi hay hay xe cho thuê ở thị trấn này, và nếu đi bộ sẽ mất một tiếng rưỡi.

Viên quan chức phụ trách vật nuôi lái một chiếc xe mui kín nhỏ. Anh ta đi qua quán trọ của chúng tôi và hướng về phía Tây, đi trên một cây cầu bê tông dài để vượt qua một vùng đầm lầy lạnh lẽo, rồi leo lên dốc núi. Lốp xe quay tít trên sỏi.

"Từ Tokyo đến, chắc anh nghĩ đây là một thịt trấn ma?"

Tôi nói câu gì đó vô thưởng, vô phạt.

"Thực ra chúng tôi đang hấp hối. Chúng tôi cầm cự được chừng nào còn có đường xe lửa, nhưng nếu nó không còn chúng tôi chăc chắc sẽ chết. Thật kỳ lạ, một thị trấn hấp hối. Một người hấp hối thì tôi có thể hiểu được. Nhưng cả một thị trấn hấp hối thì..."

"Điều gì sẽ xảy ra nếu thị trấn này chết?"

"Điều gì sẽ xảy ra ư? Không ai biết được. Tất cả họ sẽ cao chạy xa bay trước lúc đó, không muốn biết. Nếu dân số xuống dưới một ngàn - điều hoàn toàn có khả năng - chúng tôi chắc chắn sẽ mất việc, và chúng tôi có thể là những người phải chấm dứt mọi thứ ở đây."

Tôi mời anh ta một điếu thuốc và châm lửa cho anh ta bằng chiếc bật lửa Dupont khắc hình con cừu.

"Có khá nhiều việc tốt ở Sapporo. Tôi có một cậu lãnh đạo một công ty in ấn ở đó, và ông ấy cần thêm nhân công. Công ty nhận đặt hàng của các trường cho nên việc kinh doanh khá ổn định. Thật ra, chuyển đến đó là tốt nhất. Ít ra còn hơn là quản lý việc chuyên chở cừu và gia súc ở đây."

"Có lẽ vậy," tôi nói.

"Nhưng khi phải thực sự gói ghém đồ ra đi, tôi lại không có can đảm. Anh hiểu ý tôi không? Nếu thị trấn thực sự hấp hối, thì nỗi thôi thúc ở lại mà chứng kiến ngày tận vong của thị trấn vẫn mạnh hơn."

"Anh sinh ra ở đây à?" tôi hỏi.

"Vâng", anh ta nói, rồi im lặng. Một mặt trời nhuốm màu sầu muộn đã lặn một phần ba sau đồi.

Hai cây cột dựng ở lối vào trang trại cừu, ở giữa treo một tấm biển: TRANG TRẠI CỪU THUỘC THỊ TRẤN JUNITAKI-CHO. Con đường chạy dưới tấm biển rồi leo lên dốc, mất hút vào trong rừng thu rậm rạp.

"Ở sau rừng là trại cừu và đằng sau đó là nơi ở của người trông nom trại. Anh sẽ ở lại thị trấn thế nào được nhỉ?"

"Xuống núi mà. Tôi có thể đi bộ được. Cám ơn anh vì tất cả."

Chiếc xe biến khỏi tầm mắt, và tôi đi giữa hai cây cột rồi lên dốc. Những tia nắng cuối cùng thêm chút màu cam vào đám lá cây thích đã nhuộm sắc vàng. Cây cao vút, những mảng nắng lọc qua cành cây chiếu lung linh trên con đường rải sỏi.

Ra khỏi rừng, tôi tình cờ gặp một tòa nhà hẹp trên mặt đồi, cùng với nó là mùi gia súc. Chuồng cừu lợp bằng tôn sóng đỏ với ba ống thông gió.

Có một chuồng chó tại cửa trại. Tôi vừa mới trông thấy chuồng chó thì một con chó cô li giống Border bị xích xổ ra sủa hai tràng. Đó là một con chó già có cặp mắt buồn ngủ và tiếng sủa của nó chẳng dọa nạt được ai. Khi tôi xoa cổ nó, nó bình tĩnh lại ngay. Hai chiếc bát nhựa màu vàng đựng thức ăn nước uống đặt ngay trước cửa chuồng. Ngay sau khi tôi thả tay ra, con chó quay trở lại cửa chuồng, mãn nguyện, xếp chân cho thẳng với cửa, rồi nằm xuống sàn.

Bên trong trại cừu tối mờ mờ. Không có ai quanh đó. Một lối đi lát bê tông rộng trải ra ở giữa, hai bên là chuồng cừu. Dọc theo lối đi là rãnh nước để tiêu nước đái cừu và nước rửa. Đây đó những ô cửa sổ trổ trên tường ghép ván gỗ cho thấy các ngọn đồi lởm chởm. Ánh hoàng hôn hắt màu đỏ lên đám cừu bên phải, đẩy đám cừu bên trái vào trong bóng tối xanh thẫm.

Ngay khi tôi bước chân vào chuồng cừu, tất cả hai trăm con cừu quay về phía tôi. Một nửa đàn cừu đứng, nửa kia nằm trên đám cỏ khô rải xuống sàn chuồng. Mắt chúng xanh một màu không tự nhiên, trông giống như những nguồn suối bé tí tẹo chảy ra từ hai bên mặt. Chúng tỏa sáng như mắt thủy tinh phản chiếu ánh sáng trực tiếp. Tất cả bọn chúng nhìn chằm chằm vào tôi. Không con nào nhúc nhích. Một vài con, đầu nhô ra khỏi chuồng, ngừng uống nước và đứng chôn chân tại chỗ, dán mắt nhìn tôi. Chúng dường như suy nghĩ theo nhóm. Không biết việc tôi đứng giữa cửa có tạm thời làm gián đoạn suy nghĩ thống nhất của chúng không? Mọi thứ dừng lại, mọi phán xét bị gián đoạn. Một chuyển động của tôi khiến đám cừu bắt đầu lại suy nghĩ của mình. Chúng bắt đầu chuyển động, trong tám cái chuồng riêng biệt. Những con cừu cái đứng quanh con cừu đực hạt giống trong chuồng cừu cái; trong chuồng chỉ dành cho cừu đực, những con cừu đực ganh đua vị trí thống trị. Chỉ có một vài con tò mò đứng ở hàng rào nhìn chằm chằm vào tôi.

Gắn vào những đôi tai dài, phẳng và đen thò ra từ hai bên mặt là những thẻ nhựa. Một số con mang thẻ màu xanh, một số màu vàng, một số màu đỏ. Chúng cũng có đốm màu trên lưng.

Tôi đi nhón chân để không làm chúng hoảng sợ. Giả bộ không quan tâm, tôi đến một chuồng và thò tay chạm vào đầu một con cừu đực non. Nó do dự nhưng không quay đi. Căng thẳng, mắt mở to, cứng nhắc. Có lẽ nó là thước đo đánh giá sự xâm nhập của tôi.

Trước tiên phải nói là giống cừu Suffolk khá đặc biệt. Chúng có màu đen hoàn toàn, tuy thế lông chúng lại trắng. Tai chúng to và dẹt, vểnh ra ngoài như cánh bướm đêm, và đôi mắt sáng xanh rực cùng chiếc mũi dài xương xẩu khiến chúng có vẻ ngoại lai. Những con suffolk này không từ chối cũng không chấp nhận sự hiện diện của tôi, xem tôi như một sự hiện hình nhất thời. Một vài con đái nghe xè xè. Nước đái chảy qua sàn, dưới chân chúng, xuống rãnh.

Tôi ra khỏi chuồng cừu, vuốt ve con chó cô li giống Border lần nữa rồi hít một hơi thật sâu.

Mặt trời đã lặn sau núi. Một màu tím nhạt u ám lan trên những sườn đồi như mực lan trong nước. Tôi vòng ra phía sau trại cừu, vượt cây cầu gỗ bắc qua suối, rồi đi thẳng đến khi nhà người trông nom trại cừu. Một ngôi nhà một tầng nhỏ ấm cúng, trông càng có vẻ nhỏ hơn khi ngay cạnh nó là nhà kho khổng lồ chứa cỏ khô và nông cụ.

Người trông nom trại cừu ở cạnh nhà kho, đang chồng những túi ni lông đựng thuốc tẩy trùng bên cạnh cái máng bê tông cao và rộng gần một mét. Khi tôi tiến lại, ông ta ngước nhìn một lần, rồi quay lại công việc đang làm, không hề bị ảnh hưởng bởi sự có mặt của tôi. Phải tới khi tôi ở ngay trước mặt ông ta thì ông ta mới dừng lại và lau mặt bằng chiếc khăn vắt quanh cổ.

"Ngày mai là ngày tẩy trùng cho cừu," ông ta nói, lôi ra một bao thuốc lá nhàu nát rồi châm lửa. "Đây chính là nơi chúng tôi đổ chất lỏng tẩy trùng và bắt bọn cừu bơi từ đầu nọ tới đầu kia. Nếu không thì chúng sẽ bị đủ loại rệp do ở trong chuồng suốt mùa đông."

"Bác làm toàn bộ việc này một mình ư?"

"Cậu có đùa không đấy? Tôi có hai người giúp việc. Họ và tôi với lại con chó. Tuy thế, con chó làm chủ yếu mọi việc. Bọn cừu tin tưởng con chó. Nó đã không phải là chó chăn cừu nếu như bọn cừu không tin nó."

Người đàn ông thấp hơn tôi vài centimet, thân hình chắc nịch. Ông ta cỡ bốn tám bốn chín tuổi, tóc cắt ngắn cứng và thẳng như bàn chải. Ông ta tháo đôi găng tay cao su ra như thể đang lột một lớp da. Tự vỗ bồm bộp vào quần, ông ta đứng đút tay trong túi. Ông ta còn hơn một người trông nom cừu, ông ta giống một viên trung sĩ huấn luyện tại một trường quân sự hơn.

"Vậy cậu đến để hỏi điều gì đó, hở?"

"Dạ, đúng thế."

"Vậy thì cậu hỏi đi."

"Bác làm nghề này đã lâu rồi đúng không?"

"Mười năm," ông ta nói. "Tôi không biết như thế có phải là lâu không, nhưng tôi hiểu đàn cừu của mình. Trước đó tôi ở trong tự vệ quân."

Ông ta vắt chiếc khăn lau tay quanh cổ và ngước nhìn trời.

"Bác ở đây qua mùa đông à?"

"À, ừ, " ông ta ho, "Tôi chắc vậy. Làm gì có chỗ nào mà đi. Vả lại, có nhiều việc bận rộn cần giải quyết vào mùa đông. Chúng tôi có tuyết cao tới gần hai mét ở vùng này. Tuyết chất đống và nếu mái sụp xuống, ta sẽ có mấy con cừu bẹp dí. Với cả tôi cho chúng ăn, cọ rửa chuồng, việc này việc kia."

"Khi hè tới, bác dẫn nửa số cừu lên núi phải không?"

"Đúng thế."

"Dắt nhiều cừu như thế khó lắm nhỉ?"

"Dễ thôi. Đó là việc người ta vẫn làm suốt đấy thôi. Chỉ mấy năm gần đây người ta mới có khái niệm người giữ cừu, chứ không phải là người chăn cừu. Ngày trước người ta dắt chúng đi suốt năm. Ở Tây Ban Nha vào thế kỷ thứ mười sáu, họ có các con đường trên khắp đất nước mà không ai, ngay cả nhà vua, có thể sử dụng ngoài người chăn cừu."

Người đàn ông khạc đờm xuống đất, lấy giày dụi dụi đờm vào trong đất.

"Dù sao, chừng nào chúng không thấy sợ thì cừu là sinh vật rất biết hợp tác. Chúng cứ thế theo con chó mà không hỏi bất cứ câu nào."

Tôi lấy bức ảnh cừu của Chuột đưa cho người chăn cừu. "Đây là nơi trong bức ảnh, đúng không?"

"Chắc chắn rồi," người đàn ông nói. "Không nghi ngờ gì nữa: cũng là đám cừu của tụi tôi."

"Con này thì sao?" tôi lấy bút bi chỉ vào con cừu chắc nịch có ngôi sao trên lưng.

Người đàn ông nheo mắt nhìn bức ảnh trong một giây. "Không, đó không phải là một trong những con cừu của chúng tôi. Nhưng lạ nhỉ. Nó không thể lọt vào đây được. Cả chỗ này được rào chắn bằng dây thép, và mỗi sáng mỗi tối tôi đều kiểm tra từng con một. Con chó sẽ biết ngay nếu có cừu lạ lọt vào. Đám cừu cũng sẽ làm ầm ĩ lên. Nhưng cậu biết đấy, tôi chưa từng nhìn thấy giống cừu này trong đời."

"Có gì lạ xảy ra trong năm nay khi bác ở trên núi với cừu không?"

"Không có gì hết," ông ta nói "Hết sức thanh bình."

"Thế bác ở trên đó một mình suốt mùa hè à?"

"Không, tôi không ở trên đó một mình. Cứ hai ngày một lần mấy người nhân viên từ thị trấn lại lên đó, và rồi cả mấy người quan sát chính thức nữa. Tuần một lần tôi xuống thị trấn, và một người thay thế chăm nom đàn cừu. Cần tích trữ thực phẩm và mọi thứ."

"Vậy bác không ẩn trên đó một mình suốt quãng thời gian đó chứ?"

"Không. Mùa hè vẫn còn chừng nào tuyết không quá sâu, và chỉ mất một tiếng rưỡi đến trang trại bằng xe jeep. Cũng chẳng hơn một buổi tản bộ là mấy. Tất nhiên, một khi có tuyết thì xe không thể đi qua, người ta sẽ chết dí trên đó cả mùa đông."

"Vậy là bây giờ không có ai trên núi chứ?"

"Không ai ngoài người chủ biệt thự."

"Người chủ biệt thự ư? Nhưng tôi nghe nói chỗ đó không ai sử dụng từ lâu lắm rồi."

Người chăn cừu búng điếu thuốc trên mặt đất rồi giẫm chân lên. "Nó đã không được sử dụng trong nhiều năm, nhưng hiện nó đang được sử dụng. Nếu chỉ mong muốn vừa phải, không có lý do gì người ta không thể sống trên đó. Tự bản thân tôi cũng sửa sang ngôi nhà tí chút. Điện đóm, khí đốt và điện thoại đều đang hoạt động. Không có một ô cửa kính nào bị vỡ."

"Cái anh làm việc tại tòa thị chính nói không có ai trên đó."

"Có nhiều chứ các ông đó không biết. Tôi nhận việc làm thêm từ người chủ suốt, không bao giờ hở một lời cho bất cứ ai. Cậu ta bảo tôi kín mồm kín miệng."

Người đàn ông muốn một điếu thuốc nữa, nhưng bao thuốc của ông ta rỗng không. Tôi mời ông ta bao Larks hút hết nửa của mình, kẹp tờ mười ngàn yên vào đó. Người đàn ông cân nhắc một thoáng về khoản tiền, rồi đưa một điếu thuốc lên môi và đút túi mọi thứ khác, "Cám ơn cậu nhiều," ông ta nói.

"Vậy người chủ có mặt khi nào?"

"Vào mùa xuân. Mùa xuân chưa đỡ giá rét, vậy phải vào tháng Ba. Có lẽ đã năm năm kể từ khi cậu ta lên đó. Tôi không thật sự biết tại sao cậu ta cứ lên đó suốt thế, nhưng mà thôi, đó là việc của người chủ không phải việc của tôi. Cậu ta bảo tôi đừng nói cho ai biết. Cậu ta hẳn phải có lý do của mình. Dù sao thì, cậu ta ở trên đó suốt từ bấy đến giờ. Tôi bí mật mua thức ăn và chất đốt cho cậu ta rồi chở từng ít một lên bằng xe jeep. Với tất cả những gì cậu ta có, cậu ta có thể tồn tại trong một năm, dễ dàng."

"Anh ta trạc tuổi tôi, có ria mép, đúng không bác?"

"À há," người chăn cừu nói. "Chính cậu ta đó."

"Thật tuyệt chưa," tôi nói. Không cần đưa cho ông ta xem bức ảnh.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,311
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 31: PHẦN 8: Đêm ở Junitaki


Việc dàn xếp với người trông nom trại cừu diễn ra suôn sẻ nhờ có tiền làm chất bôi trơn. Người trông nom trại cừu sẽ đón chúng tôi tại quán trọ vào tám giờ sáng, rồi lái xe đưa chúng tôi lên trại cừu trên núi.

"Tôi nghĩ việc tẩy trùng cho cừu có thể đợi đến mai." Người trông nom trại cừu nói. Một người theo chủ nghĩa thực dụng triệt để.

"Còn một điều nữa khiến tôi băn khăn," ông ta nói. "Đất sẽ trở nên mềm hơn vì trận mưa hôm qua, và có một chỗ xe có thể không qua được. Vì vậy tôi có thể sẽ phải yêu cầu cậu đi bộ từ điểm đó. Không phải lỗi của tôi mà."

"Được mà bác," tôi nói.

Đi bộ xuống đồi, tôi bỗng nhớ ra bố của Chuột có một căn biệt thự nghỉ dưỡng ở Hokkaido. Nghĩ lại mới thấy nhiều năm trước Chuột đã nói vậy mấy lần. Tít trên núi, đồng cỏ rộng lớn, ngôi nhà hai tầng cổ. Xưa nay tôi toàn vậy, những chi tiết quan trọng mãi sau mới nhớ ra. Đáng lẽ tôi phải nghĩ đến điều đó ngay khi nhận được thư Chuột. Nếu tôi nghĩ ra trước, chắc hẳn đã có nhiều cách để theo đuổi.

Bực bội với chính mình, tôi lê bước trở lại thị trấn theo con đường trên núi càng lúc càng trở nên tối hơn. Trong một tiếng rưỡi đi bộ ấy; tôi chỉ gặp ba chiếc xe động cơ. Hai chiếc là xe tải diesel lớn chất đầy gỗ, một chiếc máy kéo nhỏ. Cả ba đều đi xuống núi, nhưng không ai hô lên cho tôi đi nhờ. Về phần tôi mà nói, như vậy càng tốt.

Đến lúc tôi về tới quán trọ đã quá bảy giờ, đêm đã đen mịt. Người tôi lạnh thấu đến xương. Chú cún chăn cừu thò mũi ra khỏi chuồng chó và rên rỉ theo hướng tôi.

Cô mặc quần bò và áo len cổ lọ của tôi, hoàn toàn chìm đắm vào trò chơi điện tử trong phòng giải trí gần cửa quán trọ. Có vẻ giống một phòng khách cổ được tu sửa, căn phòng vẫn có một lò sưởi tuyệt đẹp. Một lò sưởi đốt củi thật sự. Thêm vào đó, có bốn trò chơi máy tính và hai bàn lăn bi ghim của Tây Ban Nha rẻ tiền, loại người ta không bao giờ tìm thấy ở bất cứ đâu.

"Em đói ngấu rồi," cô nói.

Tôi đặt bữa tối và đi tắm nhanh. Lau khô người, lần đầu tiên trong một thời gian dài, tôi cân xem mình nặng bao nhiêu. Sáu mươi cân, giống như mười năm về trước. Chút mỡ thừa quanh bụng đã được cắt bớt một cách gọn ghẽ sau tuần vừa rồi.

Khi tôi quay lại phòng, bữa tối được bày ra. Múc từng miếng ra khỏi nồi thịt và khoai tây đang bốc hơi rồi vừa ăn vừa uống bia, tôi kể cho cô về trại chăn cừu thị trấn và người trông nom trại cừu được đào tạo trong Tự vệ quân. Cô rất bực mình vì đã để lỡ cơ hội xem đàn cừu.

"Tuy vậy," cô nói, "em nghĩ chúng mình chỉ còn cách mục tiêu có một bước."

"Anh hy vọng là em đúng," tôi nói.

Chúng tôi xem một bộ phim Hitchcock trên TV, bò vào giường rồi tắt đèn. Đồng hồ dưới nhà điểm mười một giờ.

"Có lẽ không phải là đêm nay," tôi nói. "Chúng mình phải dậy sớm mà."

Cô không nói gì. Cô đã ngủ say, thở đều đều. Tôi lên dây chiếc đồng hồ báo thức du lịch và hút thuốc trong ánh trăng. Âm thanh duy nhất là tiếng cuồn cuộn của dòng sông.

Sau một ngày chạy loanh quanh, tôi cảm thấy mệt mỏi về thể xác, nhưng trí óc tôi đang chạy với tốc độ một cây số rưỡi một phút. Tôi không tài nào ngủ được. Âm thanh của dòng sông chỉ là một tiếng ồn khác đối với tôi, và nó đang gắn chặt vào óc tôi.

Nín thở trong bóng tối, tôi để hình ảnh thị trấn tan ra và biến mất quanh mình. Những ngôi nhà mục rữa dần, đường tàu han gỉ và biến mất, cỏ dại lấn áp đất trồng trọt. Thị trấn đã kết thúc lịch sử một trăm năm ngắn ngủi và chìm vào lòng đất. Thời gian đi ngược trở lại như một bộ phim quay ngược. Một lần nữa, con hươu Ainu, những con gấu đen, rồi bầy sói lại trở nên sống động trên đồng bằng, hàng đàn châu chấu dày đặc phủ kín bầu trời, một biển cỏ tre đung đưa trong gió thu, và những cây xanh quanh năm lộng lẫy che khuất mặt trời.

Tất cả những công trình của loài người mờ dần vào hư không, tuy nhiên lũ cừu vẫn còn. Chúng đứng đó, nhìn chằm chằm vào tôi, mắt sáng rực trong bóng tối. Không nói gì, không nghĩ gì, chúng cứ nhìn mãi nhìn mãi - thẳng vào tôi. Hàng vạn con cừu. Tiếng răng lách cách đều đều của chúng bao phủ trái đất.

Đồng hồ điểm hai tiếng và chúng biến mất.

Rồi tôi ngủ thiếp đi.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,311
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 32: PHẦN 8: Một khúc ngoặt không may trên đường


Buổi sớm mù sương và lành lạnh. Tôi thông cảm với những con cừu đó. Bơi qua thuốc tẩy trùng lạnh lẽo vào một ngày như thế này có thể thật là ác nghiệt. Có lẽ cừu không cảm thấy lạnh chăng? Có lẽ chúng không cảm thấy gì hết.

Mùa xuân ngắn ngủi ở Hokkaido sắp qua. Những đám mây xám dày phía Bắc là điềm báo tuyết sắp đến. Bay từ tháng Chín Tokyo đến tháng Mười Hokkaido, tôi đã mất hẳn mùa thu. Có lẽ bắt đầu và kết thúc, nhưng không có giữa thu.

Tôi thức dậy lúc sáu giờ rồi rửa mặt. Tôi ngồi một mình ở ban công, nhìn ra ngoài cửa sổ cho tới khi bữa sáng được dọn ra. Nước sông đã rút xuống đôi chút kể từ ngày hôm trước và đang dần trong hơn. Cánh đồng lúa trải dài bên bờ đối diện, nơi những cơn gió bất thường buổi sớm thổi qua đồng lúa chín cao tạo thành những đợt sóng chạy xa hút tầm mắt. Một chiếc máy kéo đi ngang qua cây cầu bê tông, hướng về phía đồi, thoảng nghe trong gió tiếng đầu máy lọc xọc. Ba con quạ bay ra từ trong cây bu lô giờ đã chuyển màu vàng. Lượn một vòng trên sông và sà xuống rào chắn của tòa nhà. Đậu ở đó, lũ quạ đóng vai những người ngoài cuộc hoàn hảo trong một vở kịch đương đại. Tuy nhiên, chẳng bao lâu chúng đã chán cái vai đó, liền bay đi từng con một và biến mất theo hướng ngược dòng.

Đúng tám giờ, chiếc xe jeep của người trông nom trại cừu đỗ ngoài quán trọ. Chiếc jeep có nóc hình hộp, hình như được lắp thêm vào nếu xét đến số đăng ký của Tự vệ quân đọc được trên tấm cản xóc.

"Cậu biết không, có điều gì kỳ quặc đang diễn ra," người trông nom trại cừu nói ngay khi trông thấy tôi. "Tôi đã thử gọi điện lên núi trước, nhưng không sao gọi được."

Cô và tôi trèo vào trong ghế sau. Nó bốc mùi xăng. "Lần cuối bác thử gọi là lúc nào?" Tôi hỏi.

"Xem nào, chắc là khoảng ngày hai mươi tháng trước. Kể từ đó tôi chưa lần nào liên lạc lại. Thường thì cậu ta gọi cho tôi bất cứ khi nào cậu ta cần thứ gì. Danh sách mua sắm hay đại loại vậy."

"Bác có nghe thấy chuông điện thoại reo không?"

"Thậm chí không có lấy một tín hiệu báo bận. Chắc hẳn đường dây hỏng ở đâu đó. Không phải không có khả năng có một trận tuyết lớn."

"Nhưng đâu hề có tuyết đâu."

Người trông nom trại cừu nhìn lên nóc xe jeep và xoay cổ răng rắc. "Vậy thì chúng ta sẽ phải đi xem thế nào, đúng không?"

Tôi gật đầu. Khói xăng bắt đầu làm tôi khó chịu.

Chúng tôi vượt qua cây cầu bê tông và bắt đầu đi lên đồi theo con đường tôi đi hôm qua. Đi ngang qua Trại cừu Thị trấn, cả ba quay sang nhìn hai cây cột với tấm biển trên lối vào. Trang trại vô cùng tĩnh lặng. Tôi có thể hình dung thấy bọn cừu: con nào con nấy nhìn chằm chằm vào khoảng yên lặng của chính mình với đôi mắt xanh trong veo.

"Bác để việc tẩy trùng đến chiều à?"

"Ừ, mà thôi chẳng có gì phải gấp. Miễn là xong trước khi tuyết rơi."

"Bao giờ tuyết bắt đầu rơi hả bác?"

"Sẽ chẳng có gì ngạc nhiên nếu tuyết rơi vào tuần sau," Người trông nom trại cừu nói. Một tay đặt lên tay lái, ông nhìn xuống rồi ho. "Mặc dù vậy, phải đến tháng Mười một thì tuyết mới bắt đầu chất đống. Đã bao giờ biết mùa đông ở vùng này thế nào chưa?"

"Dạ chưa," Tôi nói.

"Đấy, một khi tuyết bắt đầu dồn lại, nó chất đống không ngừng như thể một con đập vừa vỡ tung. Đến lúc đó thì không thể làm gì hơn là quanh quẩn trong nhà và chán chết đi được. Lẽ ra ngay từ đầu người ta không bao giờ nên sống ở vùng này."

"Nhưng bác sống mãi ở đây đấy thôi."

"Đó là bởi tôi yêu thích cừu. Cừu là loài vật có bản chất hiền hậu. Chúng thậm chí ghi nhớ ta qua khuôn mặt. Ngoảnh đi ngoảnh lại một năm chăm cừu đã qua lúc nào không hay, rồi thì cứ thế mãi. Vào mùa thu chúng kết đôi, mùa xuân chúng sinh con, mùa hè chúng gặm cỏ. Khi lũ cừu non lớn lên, vào mùa thu chúng lại kết đôi. Cứ quay vòng như thế. Tất cả cứ lặp đi lặp lại như vậy. Bọn cừu thay đổi mỗi năm, chỉ có tôi là già đi. Và càng già tôi lại càng không muốn sống ở thị trấn."

"Cừu làm gì vào mùa đông hả bác?" bạn gái tôi hỏi.

Tay vẫn còn trên vô lăng, người trông nom trại cừu quay lại nhìn chằm chằm vào cô, gần như say sưa ngắm khuôn mặt cô, như thể trước đó ông ta không để ý đến cô. Con đường được lát, thẳng tắp và không hề có chiếc xe nào trong tầm mắt; tuy thế, tôi vẫn sợ toát mồ hôi.

"Chúng ở trong chuồng suốt mùa đông," người trông nom trại cừu nói, cuối cùng đã quay lại quan sát con đường.

"Chúng không thấy chán ư?"

"Cậu có thấy chán ngấy cuộc đời của chính mình không?"

"Tôi thật tình không thể nói được."

"Vậy thì với cừu cũng vậy thôi," người trông nom trại cừu nói. "Chúng không nghĩ về những thứ như thế, mà nếu chúng có nghĩ thế thì cũng chẳng ích lợi gì. Chúng cứ qua đông bằng cách ăn cỏ, đái, cãi nhau lặt vặt, nghĩ về bọn cừu con trong bụng."

Đồi ngày càng trở nên dốc hơn, và con đường bắt đầu uốn thành hình chữ chi. Phong cảnh đồng quê dần dần nhường chỗ cho rừng nguyên sinh tối tăm dựng đứng như bức tường ở hai bên đường. Thi thoảng lại có một khoảng trống thấp thoáng đồng bằng phía dưới.

"Nếu có tuyết, chúng ta sẽ không thể đi qua đây," người trông nom trại cừu nói. "Nói thế không có nghĩa người ta có nhu cầu đi qua."

"Có khu trượt tuyết hay đường leo núi nào không bác?" tôi hỏi.

"Không phải ở đây, không có gì hết. Đó là lý do tại sao không có khách du lịch. Đó là lý do tại sao thị trấn tàn lụi nhanh thế. Đến tận đầu những năm sáu mươi, thị trấn vẫn còn hoạt động theo mô hình nông nghiệp vùng khí hậu lạnh. Nhưng kể từ khi dư thừa gạo, mọi người mất hứng thú trồng trọt trong một cái tủ ướp lạnh. Có lý thôi."

"Điều gì đã xảy ra với nhà máy gỗ?"

Không có đủ nhân công để đáp ứng nhu cầu, thế là họ chuyển đến những chỗ thuận tiện hơn. Ngày nay người ta vẫn có thể tìm thấy những nhà máy nhỏ ở một vài thị trấn, nhưng không nhiều. Hiện nay, cây đốn trong núi ở đây chuyển ngay qua thị trấn rồi được đưa tới Nayoro và Asahikawa. Đó là lý do đường sá cực tốt trong khi cả thị trấn kiệt quệ. Một xe tải lớn có lốp chạy tuyết sẽ đi qua được gần như bất kỳ đống tuyết nào."

Tôi đưa một điếu thuốc lên môi một cách vô thức, nhưng trước khi châm lửa tôi nhớ đến khói xăng dầu nên lại đút nó vào bao. Thay vì hút tôi ngậm một viên kẹo chanh. Kết quả: vị xăng pha chanh kỳ dị.

"Cừu có cãi nhau không bác?" bạn gái tôi hỏi.

"Chắc chắn chúng cãi nhau rồi," người trông nom trại cừu nói. "Giống như bất cứ loài vật nào đi theo nhóm. Con cừu nào cũng có trật tự phân hạng trong xã hội cừu. Nếu có năm mươi con trong chuồng thì sẽ có con cừu số một cho tới con cừu số năm mươi. Và con nào con nấy đều biết đích xác mình ở đâu."

"Lạ lùng thật," cô nói.

"Điều đó cũng khiến việc quản lý chúng dễ dàng hơn cho tôi. Chỉ cần dắt con cừu số một ra, thế là cả lũ cừu theo sau, không thắc mắc gì."

"Nhưng nếu tất cả chúng đều biết vị trí của mình, tại sao chúng đánh nhau?"

"Chẳng hạn một con cừu bị đau và mất đi sức mạnh, vị trí của nó trở nên lung lay. Thế là con cừu dưới nó trở nên hăng máu hơn và cố vươn lên vị trí tốt hơn. Khi điều đó xảy ra, chúng đánh nhau trong ba ngày."

"Tội nghiệp."

"Ôi dào, huề cả làng thôi mà. Xét cho cùng, con cừu bị đá đít ấy khi còn trẻ cũng đã đá đít một con cừu khác. Và đến khi lên phản làm thịt không có số một hay số năm mươi. Chỉ là một cuộc liên hoan ngoài trời có cừu nướng quay cả con thôi."

"Hừ," cô nói.

"Nhưng con đáng thương thật sự là con cừu đực hạt giống. Cô cậu biết hết về hậu cung lũ cừu, đúng không?"

"Không, tôi không biết," tôi đáp.

"Khi nuôi cừu, điều quan trọng nhất người ta cần chú ý là việc phối giống. Thế là người ta giữ chúng tách biệt, cừu đực với nhau, cừu cái với nhau. Rồi người ta ném một con đực vào chuồng lũ cừu cái. Nói chung thì nó là con đực khỏe nhất. Nói cách khác, người ta phối giống tốt nhất. Sau một tháng, khi mọi việc đã xong, con cừu đực giống này trở về chuồng toàn cừu đực. Nhưng trong thời gian con cừu đực giống bận rộn, những con đực khác đã thiết lập nên một trật tự phân hạng mới. Và do cái việc phối giống đó mà con cừu đực giống giảm cân tới một nửa nên không thắng nổi một trận đánh nhau. Thế là tất cả các con đực khác đánh hội đồng nó. Thế mới buồn."

"Cừu đánh nhau như thế nào hả bác?"

"Chúng đập đầu nhau. Trán cừu cứng như thép và rỗng không bên trong."

Cô không nói gì, nhưng có vẻ đang chìm trong suy nghĩ. Có lẽ đang thử hình dung cảnh những con cừu giận dữ đập đầu nhau.

Sau ba mươi phút đi xe, mặt đường lát bỗng nhiên biến mất, con đường hẹp lại chỉ còn một nửa. Từ hai bên, những cánh rừng nguyên sơ tối tăm đổ xô tới chiếc xe jeep của chúng tôi như những con sóng khổng lồ. Nhiệt độ hạ xuống.

Đường sá thật kinh khủng. Nó đẩy chiếc jeep bật qua bật lại như kim máy ghi địa chấn, lắc mạnh xăng trong thùng xăng bằng nhựa dưới chân chúng tôi. Xăng phát ra những âm thanh đáng ngại, như thể óc ai đó đang lắc qua lắc lại ọc ạch, sẵn sàng bắn tung ra khỏi hộp sọ. Tôi có lo ngại về điều đó không? Chắc chắn rồi.

Con đường tiếp tục như vậy trong khoảng hai ba mươi phút. Tôi không thể ngồi vững, dù chỉ để xem đồng hồ. Trong cả quãng thời gian đó không ai nói lời nào. Tôi nắm chặt đai an toàn gắn ở ghế, trong khi cô bám chặt tay phải tôi. Người trông nom trại cừu tập trung vào việc giữ tay lái.

"Bên phải," người trông nom trại cừu bỗng nhiên nói to. Không biết phải trông đợi điều gì, tôi quay sang thì thấy một bức tường rừng cây tối tăm mở rộng ra, đất dần biến mất. Thung lũng mênh mông, cảnh tượng thật ngoạn mục. Nhưng thiếu vẻ ấm áp. Mặt đá dựng đứng, lột bỏ hết từng chút sự sống. Ta có thể ngửi thấy hơi thở đe dọa.

Chắn ngay trước mặt con đường là một ngọn núi trơn, hình nón. Tại đỉnh núi, một sức mạnh kinh khủng đã vặn xoáy hình nón thành ra không còn hình thù gì nữa.

Nắm chặt tay lái, người trông nom trại cừu hất cằm ra phía trước về hướng cái hang hẹp bên bờ đá.

"Chúng ta vừa đi vòng qua mặt kia của nó."

Cơn gió mạnh từ thung lũng tràn qua leo lên sườn núi bên phải, thổi tung đám lá cây dày đặc, bắn nhẹ cát lên cửa sổ xe.

Tại một điểm gần đỉnh núi, con đường hình chữ chi kết thúc, sườn núi bên phải biến thành những khối đá núi lửa cao lởm chởm, rồi cuối cùng thành một mặt đá dốc đứng. Len qua một gờ đá hẹp được tạc thành một khối đá không ra hình thù gì, chiếc jeep di chuyển chậm chạp.

Bỗng nhiên, thời tiết chuyển hướng xấu. Những mảng xanh điểm xuyết trên bầu trời xám nhạt đã chán nét phảng phất hay thay đổi của mình mà chuyển sắc u ám, trộn lẫn một màu đen như bồ hóng không đều. Đem lại cho núi non một vẻ ảm đạm.

Trong ngọn núi chẳng khác gì cái vạc này, gió xoay tít, thổi vù vù và rền rĩ đến khiếp. Tôi lau mồ hôi trên lông mày. Dưới tấm áo len, người tôi cũng toát mồ hôi lạnh.

Người trông nom trại cừu mím môi mỗi khi ngoặt tay lái, ngoặt sang phải, rồi lại sang phải. Rồi ông cúi người về phía trước như thể đang cố căng tai nghe gì đó, đồng thời điều khiển chiếc jeep chạy chậm lại cho đến khi, nơi con đường hơi rộng ra, ông hãm phanh. Ông tắt máy, rồi chúng tôi ngồi đó, bị ném vào giữa sự yên lặng ớn lạnh. Chỉ có gió đang nghiên cứu tìm hiểu vùng đất này.

Người trông nom trại cừu để cả hai tay trên vô lăng. Dường như phải đến nửa tiếng trôi qua, rồi ông mới ra khỏi xe và gõ nhẹ đế giày lên mặt đất. Tôi theo ông trèo ra khỏi xe và đứng cạnh ông, nhìn xuống mặt đường.

"Không tốt đâu," người trông nom trại cừu nói. "Trời mưa to hơn tôi tưởng."

Con đường không có vẻ ẩm ướt đến thế đối với tôi. Ngược lại là khác, trông nó cứng đơ và khô khốc.

"Bên trong ẩm," ông giải thích. "Nó đánh lừa tất cả mọi người. Mọi thứ đều khác biệt ở vùng này."

"Khác ư?"

Thay vì trả lời, ông lôi một điếu thuốc ra khỏi túi và châm lửa. "Đi với tôi chút nhé?"

Chúng tôi đi bộ khoảng gần hai trăm mét tới khúc ngoặt kế tiếp. Tôi có thể cảm thấy cơn giá lạnh khó chịu. Tôi kéo khóa áo gió lên tận cổ rồi dựng cổ áo lên, nhưng vẫn lạnh.

Ngay ở chỗ con đường bắt đầu uốn khúc, người trông nom trại cừu dừng lại. Hướng về vách núi bên phải, thuốc vẫn trên môi, ông nhăn nhó. Nước, một màu nâu đất nhạt, đang chảy nhỏ giọt từ giữa vách núi, tràn xuống đá, và chậm rãi chảy qua đường. Tôi đưa ngón tay quệt ngang mặt đá. Nó xốp hơn vẻ ngoài, chỉ chạm nhẹ mà bề mặt đã vỡ vụn.

"Chỗ này đúng là khúc quanh khủng khiếp," người trông nom trại cừu nói. "Bề mặt xốp, nhưng đó thế chưa hết đâu. Thôi, đó là vận rủi. Ngay cả lũ cừu cũng sợ."

Người trông nom trại cừu ho rồi ném điếu thuốc lên mặt đất. "Tôi không muốn làm thế này với cậu, nhưng tôi không muốn mạo hiểm."

Tôi gật đầu.

"Cậu nghĩ mình có thể đi bộ nốt quãng đường còn lại không?"

"Đi bộ không thành vấn đề. Vấn đề là độ rung." Người trông nom trại cừu lấy giày giẫm mạnh lên đất lần nữa. Ngay sau một tích tắc là một câu trả lời chán ngắt và đáng nản. "Đi bộ được."

Chúng tôi trở lại xe jeep.

"Chỗ đó cách đây quãng gần năm cây số," người trông nom trại cừu nói. "Chỉ mất một tiếng rưỡi là đến nơi thôi, kể cả khi có cô kia đi cùng. Đường thẳng, không dốc mấy. Xin lỗi là tôi không thể đưa cậu đi hết quãng đường."

"Không sao bác ạ. Cám ơn bác vì mọi thứ."

"Cậu định ở lại trên đó à?"

"Tôi không biết. Tôi có thể quay lại vào ngày mai. Cũng có thể mất một tuần. Còn tùy sự việc thế nào."

Ông đưa một điếu thuốc nữa lên môi, nhưng lần này chưa kịp châm lửa ông đã húng hắng ho. "Dẫu vậy cậu cũng nên cẩn thận. Trông tình hình thế này thì có lẽ sẽ có tuyết sớm đấy. Và một khi trời tuyết, cậu không đi đâu được đâu."

"Tôi sẽ cẩn thận," tôi nói.

"Có một hộp thư ngay cửa ra vào. Chìa khóa nhét ở dưới. Nếu không ai ở đó, hãy dùng nó."

Chúng tôi dỡ đồ trên xe jeep xuống dưới bầu trời xám như chì. Tôi cởi áo gió và mặc chiếc áo khoác có mũ trùm dày cộp dành cho người leo núi. Tôi vẫn lạnh.

Phải khó khăn lắm người trông nom trại cừu mới quay được xe, liên tục đụng vào vách đá. Mỗi lần ông đâm, vách đá lại vỡ thêm ra. Cuối cùng ông cũng quay hẳn được xe, bóp còi, rồi vẫy tay. Chúng tôi cũng vẫy lại. Chiếc jeep ngoặt ở khúc quanh rồi biến mất.

Chúng tôi hoàn toàn một mình. Như thể chúng tôi bị bỏ lại bên rìa thế giới.

Chúng tôi đặt ba lô xuống đất và đứng đó không nói một lời, cố xác định vị trí. Dưới chúng tôi là một dải sông bạc thanh thoát uốn khúc qua thung lũng, hai bên bờ là rừng xanh rậm rạp. Bên kia thung lũng nổi lên dãy đồi thấp nhuốm sắc thu và xa xa là cảnh đồng bằng mờ mờ. Những cột khói mỏng bốc lên từ cánh đồng người ta đang đốt gốc rạ sau vụ gặt. Một quang cảnh đẹp đến sững sờ, nhưng điều đó không làm tôi cảm thấy dễ chịu hơn. Mọi thứ dường như thật xa cách, thật... xa lạ.

Bầu trời bị đè nặng xuống bởi một màu xám ẩm ướt đồng nhất – những đám mây dường như hòa làm một, che phủ toàn bộ ánh sáng. Phía dưới, những mảng mây đen dày đặc bay qua ở khoảng cách hầu như có thể chạm tới được. Những đám mây lao về phía Đông từ hướng lục địa châu Á, cắt ngang qua biển Nhật Bản tới Hokkaido trên đường tới biển Okhotsk với tốc độ phi thường. Tất cả đều góp phần khiến chúng tôi nhận thức được sự may rủi hoàn toàn của nơi chúng tôi đứng. Một cơn gió mạnh tình cờ lướt qua, thế là cả cái khúc quanh đang rụn ra dần dính vào vách đá này có thể dễ dàng lôi chúng tôi xuống vực thẳm.

"Mình đi tiếp thôi," tôi nói, xốc chiếc ba lô khổng lồ lên vai. Một điều gì đó khủng khiếp, mưa hoặc mưa tuyết, đang hiện diện đâu đây, và tôi muốn ở gần một chỗ nào đó có mái che. Tôi chắc chắn không muốn ướt sũng ở đây trong trời lạnh.

Chúng tôi mau chóng cuốc bộ khỏi cái "khúc quanh tử thần" đó. Người trông nom trại cừu nói đúng: chỗ này là vận rủi. Có một cảm giác chết chóc thoạt đầu chiếm lĩnh thân thể tôi, rồi sau đó đột ngột đưa ra tín hiệu cảnh cáo trong đầu tôi. Cái cảm giác người ta bắt gặp khi đang vượt qua sông và bỗng nhiên sa chân vào đám bùn có nhiệt độ khác.

Chỉ sau ba trăm thước cuốc bộ, tiếng bước chân của chúng tôi trên mặt đường trải qua bao nhiêu lần thay đổi. Những con lạch được dòng suối cung cấp nước liên tục chảy ngoằn ngoèo qua đường.

Ngay cả khi đã qua khúc quanh, chúng tôi cũng không đi chậm lại, cố tạo ra khoảng cách càng xa càng tốt khỏi chỗ đó. Chỉ ba mươi phút sau chúng tôi mới bớt căng thẳng khi vách đá trở nên ít dốc hơn và cây cối hiện ra.

Đi xa được đến mức này, chúng tôi không gặp khó khăn gì với quãng đường còn lại. Con đường trải phẳng, và núi non mất đi những gờ đá nhọn. Dần dần, chúng tôi ở giữa một phong cảnh cao nguyên thanh bình.

Ba mươi phút sau đó, hình chóp nón hoàn toàn ở sau chúng tôi, và chúng tôi đến bên một cao nguyên có núi non vây quanh trông giống như hình cắt bằng giấy. Như thể nửa trên của ngọn núi lửa khổng lồ bị sụp xuống. Một rừng cây bu lô với đám lá thu trải dài bất tận. Giữa đám bu lô là những bụi cây và tầng cây thấp màu sắc rực rỡ, đây đó một cây bu lô bật gốc, màu nâu và mục nát.

"Có vẻ như một chỗ khá dễ chịu," bạn gái tôi nói.

Sau khúc quanh đó, quả thực trông nơi đây có vẻ như một chỗ khá dễ chịu.

Con đường dẫn thẳng chúng tôi xuyên qua rừng cây bu lô. Nó hầu như không đủ rộng để xe jeep qua và thẳng tăm tắp. Không khúc ngoặt, không dốc đứng. Nếu ta nhìn về phía trước, mọi thứ bị hút vào một điểm. Ngay cả những đám mây đen cũng bay thẳng qua điểm đó.

Và thật tĩnh lặng. Bản thân tiếng gió bị khoảng rừng rộng lớn nuốt chửng đi. Không khí bị cắt ngang bởi tiếng hót của một con sáo đen béo ụ. Một khi con chim biến ra khỏi tầm mắt, yên lặng lại dội về, một chất lỏng nhơn nhớt lấp đầy mọi lỗ hổng. Lá cây rơi trên mặt đường ướt đẫm nước mưa từ hai ngày trước. Con đường dường như vô tận, giống như rừng cây bu lô quanh đó. Những đám mây bay là là, chỉ trước đó chút ít trông đáng sợ, giờ khi nhìn xuyên qua rừng lại có vẻ siêu thực.

Mười lăm phút sau, chúng tôi đến bên một con suối trong vắt. Có một cây cầu bằng thân gỗ bu lô chắc chắn có tay vịn, và ở gần đó, một khoảng rừng trống nhỏ. Chúng tôi đặt ba lô xuống, xuống suối uống nước. Đó là thứ nước có vị tuyệt vời nhất mà tôi từng uống. Đủ lạnh để làm tay tôi ửng đỏ, và ngọt, có vị đất thoang thoảng.

Những đám mây vẫn tiếp tục bay theo hướng đã định, nhưng kỳ quặc thay, thời tiết không trở nên tệ hơn. Cô chỉnh lại dây giày leo núi, tôi ngồi tựa vào tay vịn hút thuốc. Tôi có thể nghe tiếng thác nước ở hạ nguồn. Dựa vào âm thanh ấy thì thấy con thác cũng không lớn lắm. Một ngọn gió tinh nghịch thổi từ bên trái qua, khiến các tán cây gợn sóng lăn tăn và lá bay tung tóe.

Tôi hút hết điếu thuốc rồi lấy giày di qua di lại trên đất, chỉ để tìm thấy một mẩu đầu lọc khác ngay cạnh chân tôi. Tôi nhặt nó lên. Một điếu Seven Stars đã bẹp dí. Không ướt, vậy là nó ở đó từ sau trận mưa. Có nghĩa là hoặc hôm qua hoặc hôm nay.

Tôi thử nhớ xem Chuột thường hút loại thuốc nào. Nhưng tôi không thể nhớ được là hắn thậm chí có hút thuốc hay không. Tôi thôi không nghĩ nữa và quăng mẩu đầu lọc xuống suối. Ngay lập tức, dòng nước cuốn nó đi.

"Gì thế anh?" cô hỏi.

"Anh tìm thấy một mẩu đầu lọc còn mới, vậy là người nào đó hẳn đã ngồi lại đây hút thuốc như anh cách đây không lâu."

Đúng như người trông nom trại cừu nói, chìa khóa ở đáy hộp thư. Một chiếc chìa khóa bằng đồng kiểu cổ, chỗ tay hay chạm vào có màu trắng xỉn.

"Anh có nghĩ là họ hơi bất cẩn khi để chìa khóa như thế không?" bạn gái tôi hỏi.

"Em biết có thằng trộm nào lần mò đến tận đây, ăn trộm thứ gì đó rồi chở đồ xuống dưới không?"

Chìa khóa khớp vừa khin khít với lỗ khóa. Tôi xoay chìa, có một tiếng cách to, và then cửa mở ra.

Trong nhà tối mờ mờ, tối một cách không tự nhiên. Cửa chớp đã được đóng suốt một quãng thời gian dài, phải mất một lúc mắt tôi mới điều chỉnh được. Chỗ nào cũng tối mò mò.

Căn phòng rộng rãi. Rộng rãi, yên tĩnh, và bốc mùi như một cái chuồng bò cũ. Cái mùi tôi nhớ được từ thuở thiếu thời. Đồ đạc cũ và thảm bỏ đi. Chúng tôi đóng cánh cửa sau mình lại, khiến tiếng gió ngoài kia ngưng bặt.

"Xin chào!" tôi hét lên. "Có ai ở nhà không?"

Tất nhiên là không rồi. Rõ ràng là không ai ở đó. Chỉ có sự hiện diện của chiếc đồng hồ quả lắc đang kêu tích tắc cạnh lò sưởi.

Trong giây lát, tôi có cảm giác chóng mặt. Ở đó trong bóng tối, thời gian bị đảo ngược. Thời khắc chồng chéo nhau. Ký ức tan thành mây khói. Rồi cảm giác ấy qua đi. Tôi mở mắt và mọi thứ lại trở về như cũ. Trước mắt tôi là một khoảng không gian màu xám đơn thuần, không gì hơn.

"Anh có sao không?" cô hỏi một cách lo lắng.

"Không sao đâu," tôi nói. "Mình lên kiểm tra trên gác đi."

Trong khi cô tìm công tắc điện, tôi kiểm tra chiếc đồng hồ quả lắc. Đó là loại có ba quả lắc, lên dây cót bằng xích. Mặc dầu cả ba đều xuống mức thấp nhất, chiếc đồng hồ vẫn cố gắng nhích thêm chút chuyển động cuối cùng. Xét độ dài của dây xích, có lẽ phải mất khoảng một tuần để quả lắc xuống mức thấp nhất. Có nghĩa là vào một lúc nào đó trong tuần ai đó đã ở đây để lên dây đồng hồ.

Tôi chỉnh ba quả lắc lên mức cao nhất rồi ngồi duỗi dài chân trên xô pha. Một cái xô pha cũ rích từ thời tiền chiến, nhưng ngồi khá dễ chịu. Không quá êm, không quá cứng và có mùi như lòng bàn tay.

Một tiếng tách, rồi đèn bật sáng. Cô từ trong bếp đi ra, ngồi trên ghế dài, rồi châm một điếu thuốc đinh hương. Tôi châm một điếu ình. Tồi dần dà yêu thích chúng qua cô.

"Có vẻ như bạn anh chuẩn bị qua đông ở đây," cô nói.

"Có một đống chất đốt và thực phẩm cho cả mùa đông trong bếp. Một siêu thị thông thường."

"Nhưng không có dấu hiệu gì của cậu ta."

"Trên gác thì sao?"

Chúng tôi trèo lên cầu thang cạnh bếp. Nửa đường lên, cầu thang nghiêng về một góc. Lên đến tầng hai, chúng tôi dường như bước vào một tầng khí quyển khác.

Có ba phòng ngủ trên tầng hai. Một phòng lớn bên trái hành lang và hai phòng nhỏ hơn bên phải. Phòng nào cũng chỉ có ít đồ đạc tối thiểu, phòng nào cũng u ám. Phòng lớn có giường đôi và một tủ gương trang điểm. Giường chỉ còn trơ lại khung. Thời gian chết trong không trung.

Chỉ có căn phòng nhỏ xa hơn là phảng phất mùi người ở. Giường được dọn gọn ghẽ, gối hơi có vết lõm, và một bộ quần áo ngủ màu xanh được gấp ở đầu giường. Một ngọn đèn kiểu cổ đặt trên chiếc bàn nhỏ cạnh một cuốn sách bị lật ngược. Một cuốn tiểu thuyết của Conrad.

Cạnh giường là một chiếc tủ có ngăn kéo làm bằng gỗ sồi nặng trịch. Trong đó là một lô vật dụng gồm áo len nam, sơ mi, quần, tất và đồ lót. Áo len và quần đã cũ, chỗ này chỗ kia bị sờn, nhưng vẫn còn tốt. Tôi thề là trước đây đã trông thấy một số quần áo đó. Chúng thuộc về Chuột, đúng thế đấy. Áo sơ mi có vòng cổ ba mươi tám centimet, quần có vòng eo khoảng bảy mươi tư.

Cạnh cửa sổ là một cái bàn cũ và một cái ghế có kiểu dáng đơn giản độc nhất vô nhị ngày nay không thường gặp nữa. Trong ngăn kéo bàn, một chiếc bút máy rẻ tiền, ba hộp mực ống, và một bộ đồ dùng để viết thư, văn phòng phẩm chưa dùng đến. Trong ngăn kéo thứ hai, một lượng dự trữ kẹo ngậm ho đã dùng được một nửa và các thứ đồ nhỏ lặt vặt khác nhau. Ngăn kéo thứ ba, trống không. Không nhật ký, không sổ ghi chép, không gì hết. Hắn đã bỏ hết mọi thứ phụ. Mọi thứ đã được cất đi. Quá ngăn nắp. Tôi quệt ngón tay lên mặt bàn, kết quả là ngón tay tôi trắng vì bụi. Không nhiều bụi lắm. Có lẽ lượng bụi sau một tuần.

Tôi kéo cửa sổ lên và mở tung cửa chớp. Mây đen bay là là đang sà xuống. Gió đã tập hợp sức mạnh, hầu như có thể thấy được gió nhảy chồm chồm qua đồng cỏ như một con thú hoang. Xa xa là rừng cây bu lô và bên kia rừng là núi. Khung cảnh hệt như trong bức ảnh. Chỉ khác là không có cừu.

Chúng tôi đi xuống tầng dưới rồi ngồi trên xô pha. Chiếc đồng hồ quả lắc đổ một hồi chuông gióng giả, rồi đánh mười hai tiếng. Chúng tôi yên lặng cho tới khi tiếng chuông cuối cùng bị nuốt chửng vào không khí.

"Chúng mình làm gì bây giờ anh?" cô hỏi.

"Chúng mình đợi thôi. Biết làm gì nữa?" tôi nói. "Chuột ở đây một tuần trước. Đồ đạc của cậu ta vẫn còn đây. Cậu ta sẽ phải quay lại thôi."

"Nhưng nếu tuyết rơi trước khi cậu ta quay lại, chúng mình sẽ phải ở đây cả mùa đông và thời gian của chúng mình sẽ hết."

Quả vậy.

"Tai em không nói với em điều gì à?"

"Chúng hiện không hoạt động. Nếu em mở tai ra, em bị nhức đầu."

"Thế thì, anh nghĩ chúng mình cứ nghỉ cho khỏe và đợi Chuột thôi," tôi nói.

Thế nghĩa là chúng tôi không còn cách lựa chọn nào khác.

Trong khi cô vào bếp pha cà phê, tôi đảo nhanh một vòng quanh phòng khách lớn, kiểm tra từ góc nọ tới góc kia. Lò sưởi, một lò sưởi thật vẫn đang hoạt động đặt ở giữa bức tường chính, sạch và sẵn sàng để sử dụng. Nhưng mới đây nó không được sử dụng. Một vài chiếc lá sồi rơi vào qua đường ống khói, nằm trong lòng lò sưởi. Một chiếc máy sưởi lớn chạy bằng dầu đặt gần đó. Dụng cụ đo mức dầu cho thấy dầu còn đầy.

Cạnh lò sưởi là một giá sách âm tường bằng kính, đầy những sách cũ. Tôi lôi ra mấy cuốn lật qua. Tất cả đều là sách xuất bản trước chiến tranh, hầu như không cuốn nào có giá trị. Địa lý, khoa học, lịch sử, triết học và chính trị. Cả đống sách hoàn toàn vô dụng, có chăng là những đầu sách phải đọc của một nhà trí thức bốn mươi năm về trước. Cũng có cả sách xuất bản sau chiến tranh, có giá trị tương tự. Chỉ có những cuốn Những cuộc đời của Plutarch và Bi kịch Hy Lạp chọn lọc cùng vài cuốn tiểu thuyết là còn sống sót được qua sự bào mòn của năm tháng. Đây là một kinh nghiệm mới mẻ với tôi: tôi chưa từng trông thấy một bộ sưu tập toàn những cuốn sách vô dụng mà lại khổng lồ đến thế.

Bên cạnh giá sách là một giá trưng bày, cũng âm vào tường, trên đó là một dàn máy hifì âm thanh nổi – loa nhỏ, ampli, bàn quay – loại thông dụng vào những năm sáu tư, sáu nhăm. Khoảng hai trăm đĩa hát cũ, cái nào cũng bị xước đến không nhận ra nổi, nhưng ít nhất không đến nỗi vô giá trị. Gu âm nhạc không bị xói mòn như hệ tư tưởng. Tôi bật ampli đèn chân không và hạ kim xuống. Bài Phía Nam biên giới của Nat King Cole. Bỗng nhiên căn phòng có cảm giác như được đưa trở về những năm 1950.

Bức tường đối diện có bốn cửa sổ trượt cao hơn mét tám đặt cách đều nhau. Có thể thấy lúc này mưa đang trút xối xả. Một màn mưa màu xám, che khuất những dãy núi phía xa.

Căn phòng lát ván gỗ, ở giữa là một tấm thảm rộng hai mét tư nhân ba mét sáu, bên trên đặt một bộ bàn ghế phòng khách và một ngọn đèn cây đặt trên sàn. Một cái bàn ăn đặt ở một góc phòng, phủ bụi.

Một căn phòng trống rỗng từng có người ở.

Một cánh cửa được lắp kín đáo vào trong tường mở vào một phòng chứa đồ khá rộng. Căn phòng xếp chật ních các đồ đạc dư thừa, thảm, bát đĩa, một bộ gậy chơi gôn, một cây đàn ghi ta, một tấm đệm, áo khoác, ủng leo núi, tạp chí cũ. Thậm chí cả sách tham khảo thi cử cho học sinh cấp hai và một chiếc máy bay điều khiển bằng vô tuyến. Hầu hết đều là sản phẩm của thập kỷ năm mươi và sáu mươi.

Ngôi nhà lưu giữ mạch thời gian riêng, giống như chiếc đồng hồ quả lắc trong phòng khách. Những người tình cờ đi qua nâng quả lắc, và chừng nào quả lắc được lên dây, chiếc đồng hồ tiếp tục kêu tích tắc. Nhưng khi mọi người đi hết và quả lắc không được ngó ngàng tới, cả khối thời gian bị bỏ lại để góp nhặt dần những gì còn sót lại của một cuộc sống đang mất dần trên sàn.

Tôi mang mấy cuốn tạp chí điện ảnh cũ vào phòng khách. Ảnh tiêu điểm trong một cuốn là từ bộ phim Trận chiến Alamo. Bộ phim đầu tiên do John Wayne đạo diễn với sự ủng hộ hết mình của John Ford. John Wayne nói, tôi muốn làm một đại sử thi tồn tại mãi trong trái tim người Mỹ. Ông ta trông sến hết sức khi đội cái mũ làm bằng lông hải ly.

Bạn gái tôi trở lại cùng cà phê, rồi chúng tôi đối diện nhau uống cà phê. Những giọt mưa thỉnh thoảng lại gõ nhẹ lên cửa sổ. Thời gian trôi qua chậm chạp trong khi khí lạnh tràn khắp căn phòng. Ánh sáng vàng của ngọn đèn trôi quanh phòng như phấn hoa.

"Anh mệt à?" cô hỏi.

"Chắc vậy quá," tôi nói, ngó lơ đãng ra ngoài cửa sổ. Chúng mình chạy quanh tìm như điên cả ngần ấy thời gian, và giờ đây chúng mình phải ngừng lại. Chưa thể hoàn toàn quen với điều đó. Rốt cuộc thì chúng mình đã tìm được cảnh trong bức ảnh, không có Chuột mà cũng chẳng có cừu."

"Anh ngủ chút đi. Em sẽ nấu bữa tối."

Cô mang từ trên gác xuống một cái chăn và đắp cho tôi. Rồi cô khởi động máy sưởi chạy dầu, đặt một điếu thuốc lên môi tôi rồi châm lửa.

"Vui lên chút đi nào. Mọi việc rồi sẽ ổn thôi."

"Cảm ơn em," tôi nói.

Đến đó, cô biến mất vào trong bếp.

Hoàn toàn một mình, tôi cảm thấy người nặng trĩu. Tôi làm hai hơi rồi dập thuốc, trùm chăn đến tận cổ, và nhắm mắt. Chỉ mất có vài giây là tôi thiếp đi.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,311
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 33: PHẦN 8: Nàng rời núi, cơn đói hành hạ


Đồng hồ điểm sáu tiếng và tôi thức dậy trên xô pha. Đèn đã tắt, căn phòng chìm trong bóng tối dày đặc. Mọi thứ, từ sâu trong bản thể tôi đến các đầu ngón tay tôi đều tê liệt. Bóng tối lan lên da tôi như mực.

Mưa đã ngớt, chim ăn đêm kêu ngoài kính cửa sổ. Ánh lửa từ máy sưởi đổ bóng mờ nhạt, chập chờn, kéo dài lên bức tường trắng của căn phòng. Tôi đứng dậy bật công tắc ngọn đèn cây trên sàn, vào bếp, uống hai cốc nước lạnh. Một nồi ninh, vẫn còn ấm, nằm trên bếp. Một chiếc gạt tàn đựng hai điếu thuốc đinh hương đã dụi tắt.

Ngay lập tức, theo bản năng, tôi biết cô đã đi mất.

Tôi đứng đó, tay trên mặt bếp, cố sắp xếp ý nghĩ của mình.

Cô không còn đó nữa, điều này là chắc chắn. Không phải tranh luận hay đoán già đoán non gì. Trên thực tế, cô đã không còn ở đây. Bầu không khí trống vắng của ngôi nhà là không thay đổi được nữa, không chối cãi được nữa. Đó là một cảm giác tôi đã biết quá rõ trong vòng mấy tháng từ khi vợ tôi bỏ tôi cho đến khi tôi gặp bạn gái tôi.

Tôi lên gác kiểm tra. Tôi mở các cửa tủ. Không có dấu hiệu gì của cô. Chiếc túi khoác vai và áo khoác nhồi lông của cô biến mất. Cả đôi ủng trong hành lang cũng vậy. Không còn nghi ngờ gì nữa, cô đã đi mất. Tôi lục tìm tất cả những nơi cô có thể đã để lại thư, nhưng không thấy gì hết. Có lẽ cô đã xuống núi.

Tôi không thể chấp nhận sự thật là cô đã biến mất. Tôi hầu như chưa tỉnh ngủ, nhưng kể cả khi tôi hoàn toàn tỉnh táo, điều này – cũng như tất cả mọi thứ đang xảy đến với tôi – vẫn vượt xa tầm lĩnh hội của tôi. Hầu như người ta không thể làm gì hơn ngoài việc để sự việc xảy ra theo ý nó.

Ngồi trên ghế, tôi bỗng nhiên thấy đói. Mà cũng không phải một cơn đói thông thường.

Tôi đi từ bếp vào hầm dự trữ thực phẩm, mở một chai rượu vang đỏ. Quá lạnh nhưng uống được. Quay trở lại bếp, tôi cắt mấy lát bánh mì, rồi gọt một quả táo. Trong khi đợi cho nồi ninh nóng lên, tôi làm ba ly rượu.

Khi nồi ninh đã sẵn sàng, tôi chuyển qua chiếc bàn trong phòng khách và ăn tối trong lúc nghe dàn nhạc của Percy Faith chơi bản "Perfidia". Sau bữa tối, tôi uống cà phê còn lại trong bình, và với xấp bài nằm trên mặt lò sưởi, tôi tự chia ình một ván solitaire. Một trò chơi được phát minh rồi thành mốt ở Anh vào thế kỷ mười chín, sau đó được quần chúng ưa chuộng do luật chơi đơn giản. Một nhà toán học từng tính tỷ lệ thành công trong trò này là một trên hai mươi lăm. Tôi thử ba lần – tất nhiên là không thành công. Tôi dọn đám bài và bát đĩa. Rồi tôi làm nốt chỗ rượu còn lại.

Đêm xuống. Tôi đóng cửa chớp rồi nằm trên xô pha nghe những đĩa nhạc cũ đầy vết xước.

Liệu Chuột có bao giờ quay trở lại không?

Giả sử là hắn sẽ quay lại. Xét cho cùng, hắn tĩch trữ một lượng xăng dầu và thực phẩm cho cả mùa đông kia mà.

Nhưng đó là giả sử. Chuột có thể đã bỏ chỗ này và trở lại thị trấn. Hoặc có thể hắn cặp với một người đàn bà nào đó. Trên thực tế, bất cứ điều gì cũng có thể.

Điều đó có nghĩa là tôi ở trong một mớ bòng bong thực sự. Thời hạn một tháng của tôi, giờ chính xác đã quá nửa, chẳng mấy chốc sẽ hết. Không Chuột, không cừu, chỉ có người đàn ông mặc bộ lê đen kéo lê tôi vào trận chiến hủy diệt cuối cùng của các thần linh. Dù tôi chẳng là cái thá gì, ông ta cứ kéo. Tôi không nghi ngờ gì về điều đó.

Ở thành phố, tuần thứ hai của tháng Mười là thời điểm tao nhã nhất của năm. Nếu tất cả những việc này không xảy ra thì giờ tôi đang ăn trứng ốp lết và uống whisky. Một thời điểm đẹp của một mùa đẹp, vào buổi tối khi mưa tạnh, những cục đá và mặt quầy bar bằng gỗ vững chắc, thời gian trôi chậm chạp, dễ dàng, như một dòng suối dịu dàng.

Đảo ngược toàn bộ cảnh này trong đầu, tôi bắt đầu tưởng tượng một thằng tôi khác ở đâu đó, ngồi trong một quầy bar, nâng niu ly whisky, không mảy may bận tâm đến điều gì. Càng nghĩ đến điều đó, cái tôi khác kia càng trở nên thực hơn, khiến cái tôi này đây không thực một chút nào.

Tôi lắc đầu cho tỉnh.

Bên ngoài, những con chim ăn đêm vẫn tiếp tục kêu gù gù nho nhỏ.

Tôi lên gác và dọn giường trong căn phòng nhỏ mà Chuột đã không dùng đến. Đệm, khăn trải giường và chăn, tất cả đều được xếp gọn gàng nơi tủ tường cạnh cầu thang.

Đồ đạc giống hệt như đồ đạc trong phòng Chuột. Bàn nhỏ cạnh giường, rồi bàn ghế và đèn. Lỗi mốt, nhưng là sản phẩm của cái thời mà mọi thứ làm ra đều bền chắc và hoạt động tốt. Không màu mè.

Đúng như dự đoán, khung cảnh từ cửa sổ đầu giường nhìn ra đồng cỏ. Mưa đã tạnh, màn mây dày đặc đang bắt đầu tan ra. Một vầng trăng khuyết tuyệt đẹp thi thoảng lại tỏa sáng trên đồng cỏ. Như một ngọn đèn pha đang quét trên thứ rất có thể là mặt biển.

Chui vào trong chăn, vẫn còn mặc nguyên quần áo, tôi nhìn chằm chằm vào khung cảnh thoắt ẩn thoắt hiện. Hiện lên trong tâm trí tôi là hình ảnh nhạt nhòa về cô bạn gái đi vòng qua khúc ngoặt không may trên đường, một mình xuống núi. Rồi hình ảnh đó biến mất, nhường chỗ ột đàn cừu và Chuột đang chụp ảnh chúng. Mặt trăng lại trốn sau một đám mây, và khi nó hiện ra, cả cừu lẫn Chuột biến mất.

Tôi đọc Sherlock Holmes bên ánh đèn.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,311
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 34: PHẦN 8: Khám phá trong gara, những ý nghĩ giữa đồng cỏ


Những con chim thuộc một loài tôi chưa từng thấy trước đây bám chặt vào cây sồi đỏ trước cửa ra vào như đám đồ trang trí Giáng sinh, hót líu lo. Thế giới sáng một cách ẩm ướt trong nắng sớm.

Tôi nướng bánh mì trong cái lò nướng cổ lỗ sĩ, loại phải dùng tay để trở bánh. Tôi cho bơ vào chảo, rán vài quả trứng kiểu ốp la một mặt, uống hai ly nước nho. Tôi thấy cô đơn khi không có cô, nhưng việc tôi còn có thể cảm thấy cô đơn đã là một sự an ủi. Cô đơn không phải là một cảm giác xấu. Nó giống như sự tĩnh lặng của cây sồi đỏ sau khi những con chim bé bỏng đã bay đi.

Tôi rửa bát đĩa, rồi súc miệng cho sạch lòng đỏ trứng và đánh răng trong nguyên năm phút. Sau một hồi cân nhắc kỹ, tôi quyết định cạo râu. Có một hộp kem cạo râu hầu như còn mới và một dao cạo râu hiệu Gillette tại bồn rửa. Bàn chải và kem đánh răng, xà phòng, nước thơm, thậm chí cả nước hoa. Mười chiếc khăn lau tay, mỗi chiếc một màu, được gấp ngay ngắn trên giá. Không một vết bẩn trên mặt gương hay bồn rửa. Đúng như ý thức ngăn nắp của Chuột.

Buồng vệ sinh và buồng tắm cũng ngăn nắp như vậy. Lớp vữa giữa những viên gạch đã được cọ bằng bàn chải và chất tẩy rửa. Tất cả trắng lóa, một công trình nghệ thuật. Túi bột thơm trong buồng tắm tỏa mùi rượu gin chanh ta uống ở một quán bar sang trọng.

Tôi vào phòng khách hút thuốc buổi sáng. Tôi còn ba bao Lark trong ba lô. Khi mấy bao thuốc này hết, tôi sẽ không còn gì để hút xách nữa. Tôi châm điếu thứ hai và ngẫm nghĩ không biết sẽ như thế nào nếu không có thuốc. Mặt trời buổi sáng đem lại cảm giác tuyệt vời, và ngồi trên cái xô pha ôm trọn lấy cơ thể mình là một điều hoàn toàn xa xỉ. Trước khi tôi nhận ra, cả tiếng đồng hồ đã trôi qua. Chiếc đồng hồ trễ nải điểm chín giờ.

Tôi bắt đầu hiểu tại sao Chuột lại giữ ngôi nhà ngăn nắp đến nhường ấy, cọ rửa giữa các viên gạch, là áo sơ mi, rồi cạo râu, dù chắc chắn là hắn chẳng có ai để mà gặp. Ở đây, nếu không vận động chân tay, người ta sẽ mất hết khái niệm thời gian.

Tôi đứng dậy khỏi xô pha, khoanh tay, đi một vòng quanh phòng, nhưng không tìm được bất cứ việc gì cần làm. Chuột đã lau chùi bất cứ thứ gì có thể lau chùi. Hắn thậm chí còn cạo cả lớp bồ hóng trên trần nhà.

Thế là tôi quyết định đi dạo một vòng. Thời tiết tuyệt đẹp. Bầu trời điểm vài vệt mây trắng, không gian tràn ngập tiếng chim.

Phía sau ngôi nhà là một ga ra lớn. Một mẩu đầu lọc nằm trên mặt đất trước cánh cửa đôi cũ kỹ. Seven Stars. Lần này đầu lọc có vẻ khá cũ. Giấy đã bung hết, lòi cả phần lõi lọc.

Gạt tàn. Tôi chỉ trông thấy một chiếc trong nhà, và nó không cho thấy dấu vết sử dụng. Chuột không hút thuốc! Tôi vê phần lõi lọc trong lòng bàn tay rồi vứt xuống đất.

Tôi kéo chốt cửa nặng trịch rồi mở cửa ga ra để thấy bên trong thật rộng lớn. Ánh mặt trời chiếu xiên qua các kẽ hở nơi lớp ván gỗ ngoài, tạo nên một loạt những đường song song trên nền đất tối. Có mùi đất và xăng.

Một chiếc Toyota Land Cruiser nằm đó. Không một vết bùn trên thân hay lốp xe. Bình xăng gần như còn đầy. Tôi sờ tay dưới bảng đồng hồ nơi Chuột thường giấu chìa khóa. Đúng như dự đoán, chìa khóa ở đó. Tôi tra chìa vào bộ phận đánh lửa và khởi động. Ngay lập tức đầu máy chạy vo vo thật êm. Vẫn là Chuột ngày nào, luôn giỏi chỉnh sửa xe. Tôi tắt máy, cất chìa khóa vào chỗ cũ, rồi nhìn quanh ghế người lái. Không có gì đáng kể – bản đồ đi đường, khăn mặt, nửa thanh sô cô la. Ở ghế sau, bẩn thỉu một cách không bình thường đối với Chuột, là một cuộn dây và một chiếc kìm lớn. Tôi mở cửa sau và gạt những mảnh vụn vào tay, giơ lên chỗ ánh mặt trời xuyên qua mắt gỗ ở lớp ván gỗ. Thứ để nhồi đệm. Hay lông cừu. Tôi lôi một mảnh giấy từ trong túi ra, bọc những mảnh vụn lại, rồi đút vào trong túi ngực.

Tôi không hiểu được tại sao Chuột lại không lấy xe đi. Việc chiếc xe vẫn còn trong ga ra có nghĩa là hắn đã đi bộ xuống núi hoặc hắn không đi đâu cả. Cách nào cũng không hợp lý. Ba ngày trước con đường vách đá hẳn vẫn dễ lái qua. Liệu hắn có bỏ ngôi nhà để hạ trại trên núi không?

Lòng đầy băn khoăn, tôi đóng cửa ga ra và đi ra ngoài đồng cỏ. Không có một lời giải thích hợp lý khả dĩ nào cho tình huống vô lý đến nhường ấy.

Khi mặt trời lên cao hơn, hơi nước từ đồng cỏ bốc lên. Núi có vẻ mù sương, và mùi cỏ tràn ngập.

Tôi đi bộ qua đám cỏ ẩm ướt đến giữa cánh đồng. Ở đó nằm lăn lóc một chiếc lốp cũ bỏ đi, cao su màu trắng và rạn nứt. Tôi ngồi lên đó và tìm hiểu địa hình xung quanh. Từ đây ngôi nhà trông giống như một tảng đá trắng nhô ra khỏi bờ biển.

Trong lúc một mình thế này, ký ức về những lần bơi thi trên biển từng tham gia khi còn bé tràn về trong tôi. Những lần bơi từ đảo này sang đảo khác, tôi thỉnh thoảng ngừng lại giữa đường để nhìn quanh. Tôi cảm thấy buồn cười nhất khi thấy mình ở chính giữa hai điểm. Ý nghĩ rằng trên đất liền mọi người vẫn đang hoạt động bình thường cũng khá là kỳ cục. Tôi thấy bối rối khi nghĩ cái xã hội ấy có thể tiếp tục một cách hoàn toàn trôi chảy mà không có tôi.

Tôi ngồi đó trong mười lăm phút trước khi thong thả đi bộ về lại ngôi nhà. Tôi ngồi trên xô pha ở phòng khách và tiếp tục đọc cuốn Sherlock Holmes.

Lúc hai giờ, Người Cừu tới.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,311
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 35: PHẦN 8: Người Cừu tới


Lúc đồng hồ điểm hai tiếng, có một tiếng gõ cửa. Ban đầu là hai tiếng, tạm nghỉ sau hai hơi thở, rồi ba tiếng.

Tôi phải mất một lúc mới nhận ra được đó là tiếng gõ cửa. Tôi chưa từng nghĩ đến chuyện có ai gõ cửa. Chuột không gõ cửa, đó là nhà của hắn. Người trông nom trại cừu có thể gõ, nhưng chắc chắn ông ta không đợi trả lời trước khi bước vào. Có lẽ bạn gái tôi – không, cô hẳn sẽ lẻn vào qua cửa bếp và tự pha ình một cốc cà phê. Cô không phải dạng quen gõ cửa.

Tôi mở cửa, và đứng đó, cách tôi hai thước, là Người Cừu. Rõ ràng hắn không mấy bận tâm đến việc cửa mở hay tôi là người mở cửa. Hắn cẩn thận xem xét hộp thư như thể nó là một mẫu vật hiếm có, lạ lùng. Người Cừu không cao hơn hộp thư là mấy. Cùng lắm là khoảng một mét bốn mươi bảy. Vai lại còn thõng xuống và chân đi vòng kiềng.

Ngoài ra, khoảng cách giữa bậu cửa ra vào, nơi tôi đứng, và mặt đất, nơi hắn đứng là khoảng mười lăm centimet, vì thế cứ như tôi đang nhìn xuống hắn từ cửa sổ xe buýt. Như thể phớt lờ khiếm khuyết rõ ràng của mình, hắn tiếp tục xem xét kỹ lưỡng hòm thư.

"Tôi vào được không?" Người Cừu nói nhanh như súng liên thanh, quay người sang một bên suốt trong khi nói. Giọng hắn giận dữ.

"Vâng mời anh vào," tôi nói.

Hắn cúi xuống cẩn thận cởi dây đôi ủng leo núi. Đôi ủng đóng một lớp bùn dày như vỏ bánh mì ngọt. Người Cừu dùng cả hai tay nhấc ủng lên và, với kỹ thuật điêu luyện, đập mạnh chúng vào nhau. Bùn đã đóng cứng rơi tới tấp xuống đất. Rồi để chứng minh cho kiến thức tuyệt vời về sơ đồ bố trí của ngôi nhà, hắn xỏ dép vào, đi đến xô pha và ngồi xuống.

Thật tuyệt chưa, tôi nghĩ.

Người Cừu mặc nguyên cả một tấm da cừu che hết qua đầu. Tay chân hắn là đồ giả và được ráp vào, nhưng bộ đồ thật vừa vặn với thân hình chắc nịch của hắn. Mũ trùm cũng làm giả, nhưng cặp sừng uốn quăn trên đỉnh đầu hoàn toàn thật. Đôi tai, có lẽ được dây kim loại giữ cho chắc thêm, thò ra ngang nhau từ hai bên mũ trùm. Chiếc mặt nạ che khuất nửa trên khuôn mặt hắn, đôi găng tay và tất, mọi thứ đều màu đen. Có một khóa kéo từ cổ đến đũng quần.

Trên ngực hắn là một túi áo, cũng có khóa kéo, hắn lôi từ đó ra thuốc và bật lửa. Người Cừu ột điếu Seven Stars lên miệng, châm lửa, và thở dài thườn thượt. Tôi lấy trong bếp ra chiếc gạt tàn đã được rửa sạch.

"Tôi muốn uống chút rượu," Người Cừu nói. Tôi đi vào bếp mang ra nửa chai Four Roses và hai chiếc ly có đá.

Hắn rót whisky lên đá, tôi cũng làm như vậy, chúng tôi uống mà không chúc tụng gì. Trong khi uống, Người Cừu lẩm bẩm với chính mình. Chiếc mũi tẹt quá to đối với cơ thể hắn, và mỗi lần thở vào, lỗ mũi hắn phồng tướng lên. Hai con mắt lộ ra sau tấm mặt nạ đảo qua đảo lại không ngừng quanh căn phòng.

Khi Người Cừu uống whisky xong, hắn có vẻ thoải mái hơn. Hắn dập thuốc và dùng hai tay dụi mắt dưới tấm mặt nạ.

"Lông rơi vào mắt tôi, " Người Cừu nói.

Tôi không biết phải phản ứng ra sao nên không nói gì cả.

"Anh đến đây chiều hôm qua phải không?" Người Cừu nói, dụi mắt thêm chút nữa. "Tôi quan sát anh suốt thời gian." Người Cừu ngừng lại để rót một ngụm whisky lên đá đã tan một nửa và làm một ngụm hết sạch.

"Và người phụ nữ đã một mình ra đi vào chiều nay."

"Anh cũng quan sát điều đó, đúng không?"

"Quan sát cô ta ư? Chúng tôi chở cô ta đi."

"Chở cô ấy đi ư?"

"Chắc chắn rồi thò đầu qua cửa bếp nói cô nên về nhà thì hơn."

"Tại sao vậy?"

Điều đó khiến Người Cừu khó chịu. "Tại sao" hiển nhiên không phải là cách để diễn đạt một câu hỏi với hắn, nhưng tôi chưa kịp nói gì khác thì mắt hắn đã từ từ chuyển sang một tia nhìn khác.

"Cô ta quay lại khách sạn Cá heo," Người Cừu nói.

"Cô ấy nói vậy à?"

"Không nói gì hết. Nhưng cô ta ở khách sạn Cá heo."

"Làm sao anh biết được?"

Người Cừu lại từ chối nói thêm. Hắn đặt cả hai tay lên đầu gối và nhìn trừng trừng vào tấm kính trên bàn.

"Nhưng cô ấy quay lại khách sạn Cá Heo thật chứ?" tôi nói.

"À há khách sạn Cá heo là một khách sạn tốt. Ngửi như mùi cừu," Người Cừu nói.

Lại yên lặng.

Quan sát kỹ hơn, tôi có thể thấy bộ lông của Người Cừu bẩn thỉu, lông cứng đơ đầy đầu.

"Cô ấy có nói hay nhắn nhủ gì khi đi không?"

"Không," Người Cừu nói, lắc đầu. "Cô ta không nói gì và chúng tôi không hỏi."

"Khi anh khuyên cô ấy nên đi, cô ấy đứng dậy đi không nói một lời à?"

"Đúng vậy. Chúng tôi nói cô ta nên đi vì cô ta muốn thế."

"Cô ấy đến đây vì cô ấy muốn như thế."

"Sai rồi!" Người Cừu la lên.

"Cô ta muốn thoá tra nhưng bản thân cô ta lại hoang mang. Đó là lý do chúng tôi xua đuổi cô ta về nhà. Anh khiến cô ta hoang mang."

Người Cừu đứng dậy và đập tay phải xuống bàn đánh rầm. Ly whisky của hắn trượt đi khoảng năm centimet.

Người Cừu giữ nguyên tư thế đó cho đến khi đôi mắt dần dần mất đi vẻ nóng nảy và hắn ngã quỵ xuống chiếc xô pha, không còn sức lực.

"Anh khiến người đàn bà đó hoang mang." Người Cừu nói, lần này điềm tĩnh hơn. "Không hay chút nào. Anh không biết gì hết. Anh chỉ biết nghĩ đến mình thôi."

"Anh muốn nói với tôi là cô ấy không nên đến đây ư?"

"Đúng thế. Cô ta không hề có ý định đến đây. Anh không nghĩ đến gì khác ngoài bản thân mình."

Tôi đứng đó lặng thinh, nhấm nháp ly whisky.

"Nhưng thôi những gì đã qua thì không lấy lại được nữa. Dù sao đi nữa đối với cô ta thế là xong."

"Xong ư?"

"Anh sẽ không bao giờ gặp lại người đàn bà đó nữa."

Bởi vì tôi chỉ biết nghĩ đến mình thôi ư?"

"Đúng thế. Bởi vì anh chỉ biết nghĩ đến mình thôi. Đáng đời anh lắm."

Người Cừu đứng dậy đi đến bên cửa sổ, dùng một tay mở tung cửa, rồi hít hà làn không khí trong lành. Một sự thể hiện sức mạnh không hề tầm thường.

"Phải mở cửa sổ voà những ngày đẹp trời như thế này," Người Cừu nói. Rồi Người Cừu đảo nhanh một vòng quanh nửa căn phòng và dừng lại trước tủ sách, khoanh tay xem xét kỹ lưỡng gáy sách. Từ mông của bộ phục trang thò ra một cái đuôi bé tẹo. Trong tư thế này, trông hắn giống như một con cừu đang đứng bằng hai chân sau.

"Tôi đang đi tìm một người bạn," tôi đánh bạo nói.

"Thế à?" Người Cừu đáp lại tôi với vẻ hết sức thờ ơ.

"Cậu ta đã sống ở đây. Cho tới một tuần trước."

"Tôi chưa biết gì hết."

Người Cừu đứng trước lò sưởi tráo xấp bài lấy trên mặt lò sưởi.

"Tôi cũng đang đi tìm một con cừu có ngôi sao trên lưng," tôi tiếp tục.

"Tôi không trông thấy nó," Người Cừu nói.

Nhưng rõ ràng là Người Cừu biết một điều gì đó về Chuột và con cừu. Sự thiếu quan tâm của hắn quá giả tạo. Thời điểm đưa ra câu trả lời của hắn quá nhanh, giọng hắn không thật.

Tôi thay đổi chiến thuật. Giả bộ không quan tâm nữa, tôi ngáp, lấy sách trên bàn và lật nhanh những trang sách. Người Cừu hơi cáu kỉnh, bèn quay lại xô pha và lặng lẽ quan sát tôi đọc sách.

"Đọc sách có thú không?" Người Cừu hỏi.

"Hừm," tôi trả lời.

Người Cừu chờ cơ hội. Tôi tiếp tục đọc để chọc tức hắn.

"Xin lỗi đã la hét om sòm," Người Cừu nói khẽ. "Thỉnh thoảng con cừu và con người trong tôi xung khắc nhau nên tôi mới cư xử như vậy. Không có ý gì cả khi la lối như vậy không có ý gì cả. Vả lại anh cứ nói những điều đe dọa chúng tôi."

"Không sao đâu," tôi nói.

"Thật tiếc là anh sẽ không bao giờ gặp người đàn bà đó nữa. Nhưng đó không phải lỗi của chúng tôi."

"Hừm."

Tôi lấy ba bao Lark ra khỏi ba lô và đưa cho Người Cừu. Người Cừu sửng sốt.

"Cám ơn nhé. Tôi chưa từng thử hiệu này. Nhưng anh không cần à?"

"Tôi bỏ thuốc," tôi nói.

"Đúng thế là khôn đấy," Người Cừu gật đầu vô cùng nghiêm túc. "Thuốc lá thật sự có hại cho anh."

Hắn cẩn thận cất mấy bao thuốc vào cái túi trên cánh tay. Bộ lông cừu phồng lên một cục hình chữ nhật.

"Tôi nhất định phải gặp được bạn tôi. Tôi đã đi một quãng đường rất, rất dài đến đây để gặp cậu ấy."

Người Cừu gật đầu.

"Cũng tương tự như vậy vì con cừu đó."

Người Cừu gật đầu.

"Nhưng theo tôi hiểu thì anh không biết gì về họ cả?"

Người Cừu lắc đầu vẻ buồn bã. Đôi tai giả của hắn đưa lên đưa xuống. Lần này sự phủ nhận của hắn yếu ớt hơn trước "Chỗ này thật đẹp," Người Cừu đổi chủ đề. "Cảnh đẹp không khí tốt và trong lành. Anh sẽ yêu thích nơi này."

"Đúng, chỗ này đẹp," tôi nói.

"Mùa đông còn đẹp hơn. Khắp nơi không có gì ngoài tuyết, mọi thứ đóng băng. Tất cả thú vật ngủ đông không có ngư ời."

"Anh ở đấy suốt mùa đông à?"

"À há."

Tôi không hỏi gì nữa. Người Cừu giống như một con thú. Tiến đến gần hắn thì hắn sẽ lảng đi, đi chỗ khác thì hắn sẽ lại gần hơn. Chừng nào tôi không đi đâu cả thì không cần phải vội vàng làm gì. Tôi cứ thong thả thôi.

Người Cừu lấy tay trái rút chiếc găng đen ra khỏi mấy ngón tay phải, từng ngón một. Sau mấy lần giật mạnh, chiếc găng tuột ra, để lộ một bàn tay đen đen đang tróc vảy. Nhỏ nhưng núng nính những thịt, một vết sẹo bỏng cũ kéo dài từ phần dưới ngón tay cái đến giữa mu bàn tay.

Người Cừu nhìn chằm chằm vào mu bàn tay, rồi lật ngược lại để nhìn lòng bàn tay. Cái cử chỉ đó hệt như cách Chuột thường làm. Nhưng Người Cừu không thể là Chuột được. Có sự chênh lệch về chiều cao đến hai mươi centimet giữa hai người.

"Anh sẽ ở lại đây chứ?" Người Cừu hỏi.

"Không, ngay sau khi tôi tìm thấy bạn tôi hoặc con cừu, tôi sẽ đi. Tôi đến đây vì họ."

"Mùa đông ở đây thật đẹp," Người Cừu nhắc lại.

"Trắng xóa lấp lánh. Mọi thứ đều đóng băng."

Người Cừu cười khúc khích với chính mình, lỗ mũi hắn phồng tướng lên. Hàm răng xỉn thò ra từ miệng, hai chiếc răng cửa không còn. Có gì đó không đồng đều trong nhịp suy nghĩ của Người Cừu, điều này khiến cả căn phòng dường như nở ra rồi co lại.

"Tôi phải đi thôi," Nguời Cừu đột ngột nói. "Cám ơn vì mấy bao thuốc."

Tôi gật đầu.

"Hy vọng anh sẽ mau chóng tìm thấy bạn anh và con cừu đó."

"Hừm," tôi nói. "Nếu anh biết gì thì hãy báo cho tôi."

Người Cừu cứ ấp a ấp úng, không thoái mái. "Ừm mà được rồi chắc chắn rồi."

Tôi cố nén cười. Người Cừu là một kẻ không giỏi nói láo.

Hắn đeo găng tay vào và đứng dậy đi. "Tôi sẽ quay trở lại. Không nói được là bao nhiêu ngày nữa nhưng tôi sẽ quay trở lại." Rồi mắt hắn mờ đi. "Không làm phiền anh chứ?"

"Anh đùa đấy à?" tôi vội lắc đầu. "Tất nhiên là không rồi, tôi muốn gặp lại anh."

"Chúng tôi sẽ quay trở lại." Người Cừu nói, rồi đóng sầm cánh cửa sau mình. Đuôi hắn suýt nữa bị kẹp, nhưng nó lách qua bình an vô sự.

Qua một khe cửa chớp, tôi quan sát Người Cừu đứng nhìn chằm chằm vào cái hộp thư quét vôi trắng bong tróc, hệt như khi hắn xuất hiện lần đầu tiên. Rồi hơi ngọ nguậy chút để chỉnh lại bộ đồ cho vừa với cơ thể, hắn nhanh chân băng qua đồng cỏ tới khu rừng phía Đông. Đôi tai chĩa ngang của hắn trông như cầu nhảy ở bể bơi. Càng lúc càng xa. Người Cừu trở thành một chấm trắng mờ nhạt, cuối cùng hòa với màu trắng của rừng cầy bu lô.

Ngay cả sau khi Người Cừu đã mất hút, tôi vẫn cứ nhìn chằm chằm vào đồng cỏ và rừng bu lô. Người Cừu có phải là một ảo ảnh không?

Tuy nhiên vẫn còn một chai whisky và đầu mẩu thuốc lá Seven Stars trên bàn, và ở đó trên xô pha là mấy sợi lông cừu. Tôi so sánh chúng với lông cừu từ ghế sau của chiếc Land Cruiser. Giống hệt nhau.

Như một cách để tập trung suy nghĩ, tôi vào bếp làm món bò nướng kiểu Salisbury. Tôi băm nhỏ một củ hành tây rồi phi hành trên chảo. Trong lúc đó, tôi rã đông một miếng thịt bò từ ngăn đá, rồi xay thịt bằng cối xay loại vừa. Căn bếp có thể được gọi là nhỏ gọn, nhưng dù vậy nó không phải chỉ có những đồ dùng và gia vị thông thường.

Giá như họ làm đường đến đây, người ta có thể mở một nhà hàng kiểu nhà gỗ nhỏ trên núi. Sẽ không tồi đâu, cửa sổ mở rộng, nhìn ra đàn cừu, trời xanh ngắt. Các gia đình có thể để bọn trẻ chơi với cừu, tình nhân có thể tản bộ trong rừng bu lô. Chắc chắn sẽ thành công.

Chuột có thể quản lý nhà hàng, tôi có thể nấu nướng. Người Cừu cũng có thể phù hợp ột việc gì đó. Bộ quần áo của hắn sẽ hoàn hảo đối với chốn núi non này. Và để thêm chút thực tế, không viển vông, người trông nom trại cừu có thể hợp tác với chúng tôi; người ca cần một người có óc thực tế. Cả con chó nữa. Ngay cả Giáo sư Cừu cũng có thể tạt vào thăm.

Trong khi bác trứng bằng một chiếc xẻng gỗ, tôi điểm qua điểm lại những ý nghĩ này trong đầu.

Nhưng cô bạn gái có đôi tai tuyệt đẹp của tôi – liệu tôi có vĩnh viễn mất cô? Ý nghĩ này khiến tôi buồn, mặc dù những gì Người Cừu nói có thể đúng. Lẽ ra tôi nên đến đây một mình. Lẽ ra tôi không nên... Tôi lắc đầu. Rồi tôi nối lại tiếp tục ý nghĩ dang dở về nhà hàng.

Mà, nếu như chúng tôi có thể kéo được J đến đây, tôi chắc chắc mọi thứ sẽ ổn thôi. Anh sẽ là trung tâm của kế hoạch này. Trong khi đợi hành nguội, tôi ngồi cạnh cửa sổ nhìn chăm chăm ra đồng cỏ.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,311
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 36: PHẦN 8: Con đường lớn rất riêng của gió


Ba ngày trôi qua không có biến cố gì. Không một điều gì xảy ra. Người Cừu không đến. Tôi nấu nướng, ăn uống, đọc sách, và khi mặt trời lặn, tôi uống whisky rồi đi ngủ.

Không khí buổi sáng nơi đồng cỏ ngày càng lạnh hơn. Ngày qua ngày, đám lá bu lô vàng rực trở nên lốm đốm khi những cơn gió đông đầu tiên lách qua những cành cây khô héo và băng qua cao nguyên sang phía Đông Nam. Dừng bước giữa cánh đồng, tôi có thể nghe thấy rõ ràng tiếng gió. Không quay lại, chúng tuyên bố vậy. Mùa thu ngắn ngủi đã qua.

Không tập luyện và không hút thuốc, tôi nhanh chóng tăng ba cân. Thế là tôi bắt đầu dậy lúc sáu giờ và chạy bộ nửa vòng theo hình trăng lưỡi liềm quanh đồng cỏ. Nhờ vậy mà tôi giảm mấy cân. Không thuốc thì cũng gay đấy, nhưng không có một cửa hàng nào trong bán kính ba mươi hai cây số thì biết làm gì đây? Mỗi lần thèm thuốc, tôi nghĩ đến cô và đôi tai cô. So với mọi thứ tôi đã mất đến nay, không có thuốc hút chỉ là chuyện vặt. Và trên thực tế đúng như vậy.

Rảnh rỗi thế nên tôi bày ra nấu nướng đủ món. Tôi làm món bò nướng. Tôi rã đông một con cá hồi rồi ướp gia vị. Tôi tìm trên đồng cỏ những rau cỏ ăn được rồi ninh những gì tìm được với cá ngừ khô và nước tương. Tôi muối bắp cải theo cách đơn giản. Tôi chuẩn bị nhiều thức ăn nhẹ phòng khi Người Cừu đến uống rượu. Tuy nhiên, Người Cừu không bao giờ đến.

Hầu hết các buổi chiều tôi giết thời gian bằng cách nhìn ra đồng cỏ. Chẳng bao lâu tôi bắt đầu thấy ảo ảnh. Một bóng hình xuất hiện từ rừng cây bu lô và chạy thẳng về hướng tôi. Thường thì đó là Người Cừu, nhưng thỉnh thoảng đó là Chuột, đôi khi là bạn gái tôi. Những lần khác đó là con cừu có ngôi sao trên lưng.

Nhưng rốt cuộc, không ai xuất hiện cả. Chỉ có gió thổi qua đồng cỏ. Như thể đồng cỏ là con đường lớn rất riêng của gió. Gió lướt nhanh qua đồng cỏ, không bao giờ ngoái lại như đang thực hiện một nhiệm vụ cực kỳ khẩn cấp.

Vào ngày thứ bảy sau khi tôi lên núi, tuyết rơi lần đầu tiên. Gió lặng một cách bất thường vào buổi sáng, bầu trời âm u với những đám mây dày đặc xám như chì. Sau khi chạy và tắm sáng, tôi ngồi uống cà phê và nghe đĩa, thế rồi tuyết bắt đầu rơi. Một trận tuyết khắc nghiệt. Tuyết nện thình thịch tới tấp vào ô kính cửa sổ. Gió trở nên mạnh hơn, khiến tuyết rơi chéo một góc ba mươi độ. Giống như những đường xiên chéo của một mẩu giấy bọc quà ở cửa hàng bách hóa. Chẳng bao lâu bão mạnh hơn và mọi thứ bên ngoài ngập trong màu trắng. Cả rặng núi và khu rừng bị che khuất. Đây không phải là thứ tuyết thảm hại như thỉnh thoảng vẫn rơi ở Tokyo. Đây mới đúng là trận tuyết thật sự, một trận tuyết đích thực nơi đất Bắc. Một trận tuyết bao phủ mọi thứ và làm đông cứng tận sâu trong lòng đất.

Tuyết trắng lóa cả mắt. Tôi kéo rèm và nằm cuộn tròn bên máy sưởi đọc sách. Đĩa hát kết thúc, kim nhích lên, rồi tất cả chìm trong yên lặng. Loại yên lặng theo liền sau cái chết của mọi sự sống. Tôi đặt sách xuống bàn và không hiểu sao cảm thấy mình phải đi quanh ngôi nhà. Từ phòng khách vào trong bếp, kiểm tra buồng kho, buồng tắm và hầm rượu, lên gác mở cửa tất cả các phòng. Tất nhiên là không có ai. Chỉ có sự yên lặng như dầu chảy vào trong mọi ngóc ngách. Chỉ có sự yên lặng hầu như không thay đổi gì từ phòng này qua phòng khác.

Tôi thấy đơn độc. Có lẽ đơn độc hơn bất cứ lúc nào trong cả đời mình.

Tôi thèm thuốc đến chết được đã hai ngày nay, nhưng vì không có thuốc, tôi uống rượu suông. Cứ thế này suốt mùa đông thì tôi rốt cuộc sẽ thành thằng nghiện rượu mất. Nói vậy không có nghĩa có đủ rượu quanh đây để mà nghiện ngập. Ba chai whisky, một chai brandy, mười hai thùng bia lon, vậy thôi. Rõ ràng Chuột cũng từng nảy ra ý nghĩ tương tự.

Liệu tay đối tác của tôi, đúng hơn là, đối tác cũ của tôi, có còn rượu chè be bét? Liệu hắn có gắng tổ chức công ty một cách hiệu quả, chuyển nó thành một công ty dịch thuật hồ như tôi đã gợi ý? Có thể hắn đã làm y như thế. Nhưng liệu hắn có thể thành công mà không có tôi, như hắn đã lo ngại không? Thời gian chúng tôi làm việc cùng nhau đã hết. Sáu năm cùng nhau, và giờ không lại hoàn không.

Đến đầu giờ chiều tuyết ngừng rơi. Ngừng đột ngột, hệt như lúc bắt đầu. Màn mây dày đặc bị xé toạc lỗ chỗ khi các cột ánh sáng lớn đâm thẳng xuống lấp lánh trên đồng cỏ. Cảnh tượng thật lộng lẫy.

Tuyết cứng nằm rải rác trên đất như kẹo. Chúng đông đặc lại thành cục nhỏ như thể từ chối không chịu tan. Tuy vậy, lúc đồng hồ điểm ba tiếng, tuyết đã tan hết. Mặt đất ướt nhẹp, hoàng hôn bao phủ khắp cánh đồng trong màn ánh sáng dịu nhẹ. Chim hót như được xổ lồng.

Sau bữa tối, tôi mượn hai cuốn sách trong phòng Chuột, cuốn Làm bánh mì và cuốn tiểu thuyết của Conrad, rồi thư giãn trên xô pha trong phòng khách. Đọc được một phần ba cuốn tiểu thuyết, rồi bắt gặp một mẩu báo cỡ khoảng mười centimet vuông Chuột dùng để đánh dấu sách. Không ngày tháng, nhưng nhìn màu giấy thì thấy chắc hẳn đó là tờ báo mới đây. Đó là tin tức địa phương, một hội nghị chuyên đề về lão hóa và xã hội được tổ chức tại khách sạn Sapporo, một cuộc tập hợp biểu tình tại nhà ga gần Asahikawa, một buổi thuyết trình về khủng long Trung Đông. Không gì thu hút sự chú ý của Chuột, hay của tôi. Mặt sau, rao vặt quảng cáo. Tôi ngáp, gấp sách lại, đi hâm nóng chỗ cà phê còn thừa.

Tôi bỗng nhận ra đây là lần đầu tiên, trong quãng thời gian tưởng chừng như bao nhiêu năm, tôi mới lại nhìn thấy một tờ báo, và tôi đã bị tụt lại đằng sau cả một tuần liền không biết đến những gì đang xảy ra trên thế giới. Một tên lửa hạt nhân có thể đã tàn phá Tokyo, một cơn bệnh dịch có thể đã quét sạch cả thế giới, người sao Hỏa có thể đã chiếm đóng nước Úc, tôi cũng không hay biết. Tất nhiên chiếc Land Cruiser trong ga ra có đài, nhưng tôi phát hiện ra rằng rốt cuộc tôi không hề có ham muốn thôi thúc đi nghe đài. Nếu có điều gì đó xảy ra thật mà tôi không hay biết thì cũng chẳng sao. Tôi không thật sự cần biết. Dù sao tôi cũng còn khối việc phải bận tâm rồi.

Một cái gì đó khiến tôi bứt rứt. Một cái gì đó đã diễu qua trước mắt tôi mà tôi ngu ngốc không nhận thấy. Dẫu vậy, trên bình diện vô thức, nó vẫn được ghi nhớ. Tôi đặt cốc cà phê vào chậu rửa rồi quay lại phòng khách. Tôi xem lại mẩu báo. Ở đó trên mặt sau ghi:

Gửi: Chuột

Hãy liên lạc. Khẩn!

Khách sạn Cá Heo, Phòng 406

Tôi kẹp mẩu báo vào trong cuốn sách rồi ngồi thụt xuống xô pha.

Vậy là Chuột biết tôi đi tìm hắn. Câu hỏi là: làm sao hắn tìm thấy mẩu tin? Do tình cờ chăng, khi hắn xuống núi? Hay có thể hắn đã tìm kiếm cái gì đó qua mấy tuần báo liền?

Vậy tại sao hắn không liên lạc với tôi? Có phải tôi đã rời khách sạn Cá Heo khi hắn tình cờ đọc được mẩu tin? Có phải đường dây điện thoại của hắn bị cắt đứt?

Không. Chuột đã có thể liên lạc lại nếu hắn muốn, chỉ là hắn không muốn thôi. Vì tôi ở khách sạn Cá Heo, hắn đã đoán là tôi sẽ tìm đường lên đây, vì thế nếu hắn muốn gặp tôi, hắn chỉ phải đợi thôi, hoặc ít nhất cũng để lại lời nhắn.

Chung quy là thế này: vì lý do nào đó Chuột không muốn giáp mặt tôi. Dù vậy, hắn cũng không từ chối tôi.

Nếu hắn không muốn tôi ở đây, hắn đã có thể không cho tôi vào bằng nhiều cách. Xét cho cùng, đây là nhà của hắn.

Trong khi đánh vật với hai định đề trên, tôi nhìn chiếc kim dài chậm chạp bò quanh mặt đồng hồ. Sau một hồi quanh đi quẩn lại, lập luận của tôi không tiến triển được đến đâu. Tôi không thể hiểu được cốt lõi của tất cả điều này là gì.

Người Cừu biết gì đó. Điều đó là chắc chắn rồi. Người nào đã theo dõi cảnh tôi đến đây thì chắc chắn cũng biết Chuột sống ở đây trong sáu tháng.

Thực ra, có vẻ như hành vi của Người Cừu phản ánh ý nguyện của Chuột. Người Cừu đã lái xe đưa bạn gái tôi rời núi và để tôi lại đây một mình. Việc hắn có mặt ở đây rõ ràng là báo hiệu điều gì đó. Một điều gì đó đang được xúc tiến quanh tôi. Ta có thể linh cảm thấy ở khắp nơi. Một điều gì đó sắp diễn ra.

Tôi tắt đèn rồi đi lên gác, trèo vào giường, nhìn ra ánh trăng và đồng cỏ. Những vì sao hé nhìn qua một vết rạch trong mây. Tôi mở cửa sổ và ngửi mùi không khí ban đêm. Trong đám lá cây xào xạc tôi có thể nghe một tiếng kêu xa xa. Một tiếng kêu kỳ lạ, không phải chim cũng không phải thú.

Tôi tỉnh dậy rồi chạy trên đồng cỏ, đi tắm, rồi ăn sáng. Một buổi sáng như những buổi sáng khác. Bầu trời âm u như ngày hôm trước, nhưng nhiệt độ đã tăng lên một chút, ít khả năng sẽ có tuyết.

Mặc quần bò, áo len và áo khoác, rồi đi giày thể thao, tôi băng qua đồng cỏ. Hướng về khu rừng phía Đông nơi tôi trông thấy Người Cừu biến mất, tôi đi vào một bụi cây. Không có con đường thật sự nào đáng nói, không dấu hiệu nào của cuộc sống loài người. Thi thoảng, có một cây bu lô già bị đổ.

Nền rừng phẳng, trừ một đường trũng rộng gần một mét, giống như nền suối đã cạn khô hay một con mương bị bỏ hoang. Đường trũng này chạy ngoằn ngoèo qua rừng đến mấy cây số. Có chỗ xuống thấp sâu, có chỗ nông choèn, thành một lớp sâu đến mắt cá chân lá rụng.

Đường trũng dẫn đến một lối đi ngoằn ngoèo trên núi, hai bên đường dốc thoai thoải xuống những thung lũng nhỏ khô cạn. Những con chim béo múp lệt quệt trên đám lá để qua đường, biến mất trong tầng cây thấp. Đây đó, những bụi đỗ quyên cháy lên một màu đỏ rực.

Tôi đi loanh quanh một tiếng đồng hồ và mất hết cảm giác phương hướng. Cứ thế này thì tôi sẽ không tìm thấy Người Cừu mất. Tôi lang thang quanh đáy một thung lũng nhỏ khô cạn cho tới khi nghe thấy tiếng thác nước. Tôi tìm ra dòng sông, rồi đi xuôi dòng. Nếu tôi nhớ đúng thì có một thác nước, và gần đó là con đường chúng tôi đã đi lên.

Sau khoảng mười phút, tôi gặp thác nước. Nước bắn tung tóe khi đập vào những tảng đá trong hẻm núi bên dưới, đổ ụp xuống thành những vực nước đông cứng. Không có dấu hiệu nào là có cá, mặc dù vài chiếc lá rụng vẽ ra những vòng tròn tỏa nhè nhẹ trên mặt các vực nước. Tôi nhảy từ hòn đá này qua hòn đá khác, đi dưới ngọn thác, rồi bò lên phía bờ trơn tuột đối diện. Tôi đã lên tới đường.

Ngồi trên thành cầu, đang quan sát tôi, là Người Cừu. Một túi củi lớn bằng vải buồm treo trên vai hắn.

"Cứ đi lang thang nhiều như thế anh sẽ thành mồi cho gấu đấy," Người Cừu nói. "Anh biết đấy chắc chắn có một con ở những nơi như thế này. Chiều hôm qua tôi thấy dấu vết nó. Nếu anh phải đi thì anh nên buộc một cái chuông lên hông như chúng tôi."

Người Cừu rung một cái chuông nhỏ được cài vào hông bằng kim băng.

"Tôi đi tìm anh mãi," tôi nói sau khi nghỉ lấy hơi.

"Tôi biết," Người Cừu nói. "Tôi thấy anh đi tìm."

"Vậy sao anh không gọi?"

"Anh là người muốn đi tìm tôi. Vậy nên tôi phải kìm nén lại."

Người Cừu lôi một điếu thuốc ra khỏi túi rồi hút với vẻ đầy khoái chí. Tôi ngồi xuống cạnh hắn.

"Anh sống ở gần đây à?"

"Hừm." Người Cừu nói. "Nhưng đừng cho ai biết. Không ai biết được."

"Nhưng bạn tôi biết hết về anh."

Yên lặng.

"Và nếu anh là bạn của bạn tôi, điều đó có nghĩa chúng ta là bạn, đúng không?"

"Chắc vậy," Người Cừu thận trọng đáp. "Có lẽ là như vậy."

"Và nếu anh là bạn tôi, anh sẽ không nói dối tôi, đúng không? Cứ nghĩ mà xem."

"Ô không," một Người Cừu bối rối trả lời. Hắn liếm đôi môi khô nẻ. "Tôi không thể nói cho anh được tôi thật sự xin lỗi tôi không thể nói cho anh được tôi không thể. Tôi không được phép nói."

"Ai đó đã đề nghị anh phải giữ yên lặng à?"

Người Cừu im thin thít. Gió rít qua những hàng cây không hoa trái.

"Làm gì có ai ở quanh đây mà nghe," tôi thì thầm.

Người Cừu nhìn thẳng vào mắt tôi. "Anh không biết tí gì về đường sá của chúng tôi ở đây đúng không?"

"Không, tôi không biết."

"Vậy thì nghe này đây không phải là nơi thông thường để mà lui đến đâu. Điều đó anh nên ghi nhớ."

"Nhưng mới hôm nọ anh còn nói với tôi đây là một nơi thật đẹp mà."

"Đối với chúng tôi thì đúng thế," Người Cừu nói. "Đối với chúng tôi đây là nơi duy nhất để sinh sống. Nếu chúng tôi bị đuổi khỏi đây chúng tôi không biết đi đâu."

Đến đó Người Cừu ngừng lại. Hắn không nói thêm lời nào về chủ đề đó. Tôi nhìn túi củi bằng vải buồm của hắn. "Cái đó là để làm chất đốt trong mùa đông à?"

Người Cừu gật đầu lặng lẽ.

"Nhưng tôi không trông thấy tí khói nào."

"Chưan hóm lửa đâu. Phải đợi đến khi tuyết rơi nhiều. Nhưng ngay cả sau khi tuyết rơi nhiều anh cũng không thể trông thấy khói từ ngọn lửa của chúng tôi. Chúng tôi có cách nhóm lửa đặc biệt." Hắn ngoác miệng cười tự mãn.

"Vậy khi nào tuyết bắt đầu chất đống ở quanh đây?"

Người Cừu nhìn trời, rồi nhìn tôi. "Năm nay tuyết sẽ tới sớm. Có thể trong mười ngày tới."

"Trong mười ngày tới đường sá sẽ đóng băng à?"

"Có thể lắm. Không ai đi lên và cũng không ai đi xuống. Thời gian tuyệt vời trong năm."

"Vậy anh sống ở đây bao lâu rồi?"

"Lâu rồi," Người Cừu nói. "Lâu lắm rồi."

"Anh ăn những gì?"

"Thì củ măng quả hạnh chim chóc bất cứ thứ cua cán hỏ gì tôi có thể bắt được."

"Anh không lạnh à?"

"Mùa đông thì phải lạnh rồi."

"Nếu anh cần thì tôi sẵn lòng chia sẻ với anh bất cứ thứ gì tôi có."

"Cám ơn nhưng giờ tôi vẫn ổn"

Người Cừu bỗng nhiên đứng dậy và bắt đầu đi về hướng đồng cỏ. Tôi liền đứng dậy theo hắn.

"Tại sao anh phải trốn tránh ở tận đây?"

"Anh sẽ cười nếu tôi nói anh biết," Người Cừu nói.

"Không, tôi thề là sẽ không cười," tôi nói. "Tôi không thể hình dung có gì để mà cười."

"Anh sẽ không nói với ai chứ?"

"Tôi sẽ không nói với ai."

"Tôi không muốn ra chiến trận."

Mấy phút sau đó, chúng tôi bước đi mà không nói với nhau một lời nào.

"Chiến trận với ai?" tôi hỏi.

"Không biết nữa," Người Cừu ho húng hắng. "Nhưng tôi không muốn đi. Dù sao chăng nữa đó là lý do tôi là cừu. Một con cừu ở lại đúng chỗ của nó ở đây."

"Anh quê ở Junitaki-cho à?"

"À há nhưng đừng nói với ai đấy."

"Tôi sẽ không nói," tôi nói. "Anh không thích thị trấn à?"

"Thị trấn ở dưới kia ấy à?"

"Đúng thế."

"Không thích chút nào. Cũng đầy những lính là lính," Người Cừu lại ho tiếp. "Anh quê đâu?"

"Tokyo."

"Cóng he nói về chiến tranh không?"

"Không."

Đến đó Người Cừu có vẻ không quan tâm đến tôi nữa. Hắn giữ yên lặng cho tới khi chúng tôi đến cổng vào đồng cỏ.

"Anh muốn ghé qua ngôi nhà không?" tôi hỏi Người Cừu.

"Phải đi kiếm dự trữ ùa đông đây," hắn nói. "Bận lắm. Có lẽ để lần sau."

"Tôi muốn gặp bạn tôi," tôi nói. "Tôi có việc bắt buộc phải gặp anh ấy vào tuần tới."

Người Cừu lắc đầu một cách buồn bã. Tai hắn đập phần phật. "Xin lỗi nhưng như tôi đã nói trước điều đó không phụ thuộc vào chúng tôi."

"Thôi, vậy thì, nếu có thể thì nhờ anh chuyển lời."

"Hừm." Người Cừu nói.

"Cám ơn nhiều nhé," tôi nói. Tôi quay bước đi.

"Nếu anh đi ra ngoài," Người Cừu gọi với theo trong lúc bỏ đi, "nhớ đừng quên cái chuông."

Tôi quay thẳng lại ngôi nhà trong lúc Người Cừu biến mất vào khu rừng phía Đông, hệt như lúc trước. Một đồng cỏ xanh tĩnh lặng của mùa đông tối tăm trải dài giữa hai chúng tôi.

Chiều hôm đó tôi làm bánh mì. Cuốn Làm bánh mì của Chuột chứng tỏ là một cuốn sách dạy nấu ăn được viết cẩn thận. Trên bìa sách ghi: "Bạn biết đọc thì bạn cũng biết làm bánh mì." Không hề phóng đại. Mùi bánh mì tỏa khắp nhà, khiến căn nhà ấm hơn. Đối với một người lần đầu nướng bánh thì bánh có vị cũng không đến nỗi nào. Có khối bột mì và men trong bếp, đủ để làm bánh cả mùa đông dài, nếu rốt cuộc tôi phải ở lại. Và nhiều gạo và mì ống đến độ tôi chẳng cần phải bận tâm.

Tối hôm đó tôi ăn bánh mì, xa lát, thịt muối hun khói và trứng, tráng miệng bằng món đào đóng hộp, tảo biển và nấm.

Bữa trưa thì có bánh pho mát trong ngăn đá tủ lạnh và trà sữa đặc.

Vào bữa ăn nhẹ, tôi tự thưởng ình kem hạt phỉ rưới rượu Cointreau.

Vào buổi tối, thịt gà nướng và một hộp xúp hiệu Campbell.

Tôi lại tăng cân.

Vào đầu buổi chiều ngày thứ chín, trong khi đang xem qua tủ sách, tôi chú ý đến một cuốn sách có vẻ mới được đọc gần đây. Đó là cuốn sách duy nhất không có bụi, gáy sách hơi thò ra ngoài một chút so với số sách còn lại.

Tôi lôi nó ra và ngồi trên ghế dài phòng khách giở nhanh cuốn sách. Di sản chủ nghĩa Liên Á. Xuất bản thời chiến tranh. Giấy rẻ tiền và bốc mùi hôi khi tôi lật các trang. Nội dung thì, như ta có thể đoán trước về một ấn phẩm thời chiến, phiến diện khủng khiếp. Lại chán chết nữa; cứ ba trang lại có một cái gì đó đáng để mà ngáp. Trên một số trang có những từ đã bị gạch đi. Không một dòng nào nói về sự kiện ngày 26 tháng Hai.

Nhét gần cuối sách là một tờ giấy vở trắng. Sau những trang sách ngả vàng, tờ giấy màu trắng ấy xuất hiện như một điều kì diệu. Nó đánh dấu, trên lề phải, một bản phụ lục cho cuốn sách. Một danh sách tên, ngày tháng năm sinh, địa chỉ thường trú của tất cả những người nổi tiếng lẫn vô danh đi theo cái được gọi là chủ nghĩa Liên Á. Tôi đọc lướt danh sách từ đầu chí cuối, và ở khoảng giữa là Ông Chủ. Chính cái Ông Chủ bị "cừu nhập" mà tôi đã được mang đến đây nhân danh ông ta. Địa chỉ thường trú của ông ta, Hokkaido – Junitaki-cho.

Quá kinh ngạc, tôi đặt cuốn sách lên lòng. Đầu óc tôi thậm chí không thể nghĩ ra được từ ngữ nào. Như thể người nào đó, hoặc một cái gì đó, vừa giáng cho tôi một đòn chí mạng từ đằng sau.

Làm sao tôi lại không luận ra được kia chứ? Lẽ ra tôi phải nghĩ đến điều đó ngay từ đầu. Ngay khi biết được Ông chủ xuất thân từ tầng lớp nông dân nghèo ở Hokkaido đáng lẽ ra tôi phải kiểm tra chi tiết đó. Cho dù Ông Chủ có cố gắng giũ bỏ quá khứ của mình khéo léo đến mấy, chắc hẳn phải có cách nào để tìm ra sự thật. Tay thư ký mặc bộ lê đen chắc chắn sẽ tìm thông tin đó cho tôi.

Mà không, có thể là không.

Tôi lắc đầu.

Đời nào có chuyện ông ta không tự mình kiểm tra thông tin đó. Ông ta đâu có bất cẩn đến thế. Ông ta hẳn đã phải kiểm tra mọi góc độ có thể, dù có phức tạp hay không. Hệt như cách ông ta đã nghiên cứu về tôi.

Vậy là ông ta đã biết tất cả mọi thứ.

Điều đó là không thể bàn cãi. Tuy vậy, ông ta đã bỏ bao công sức để thuyết phục tôi, hoặc đúng hơn là hăm dọa tôi, để tôi lên đây. Tại sao kia chứ? Nếu đó là một việc cần làm, chắc chắn ông ta ở vào một vị thế tốt hơn để thực hiện nó và thực hiện một cách xuất sắc. Và nếu vì một lý do nào đấy tôi là một con tốt, tại sao ông ra không nói cho tôi biết tên của chỗ này ngay từ đầu?

Trong lúc xem xét tỉ mỉ nỗi băn khoăn của mình, tôi bắt đầu giận điên lên. Càng lúc chuyện này càng biến thành một vở hài kịch lố bịch kỳ cục đầy những rủi ro, và tôi không nghĩ nó đáng cười. Chuột biết nhiều đến mức nào? Và nhân tiện hỏi luôn, người đàn ông mặc bộ lê màu đen đó biết nhiều đến mức nào? Cái thằng tôi đây, ở ngay trung tâm của mọi thứ mà không có lấy một manh mối. Khắp mọi nơi mọi lúc, tôi đã quá sai lầm, quá sơ suất. Tất nhiên, người ta cũng có thể nói như vậy về cả cuộc đời tôi. Theo nghĩa đó, tôi cho rằng tôi không thể đổ lỗi ột ai. Dẫu vậy, ai cho bọn họ cái quyền đối xử với tôi như thế này? Tôi đã bị lợi dụng, bị đánh cho tơi bời, bị vắt kiệt sức.

Tôi sẵn sàng cao chạy xa bay khỏi ngọn núi này, nhưng vì một lý do nào đó việc ấy không làm tôi thỏa mãn. Tôi đã bị lún quá sâu. Giá mà tôi có thể khóc được thì thật dễ dàng biết bao. Nhưng khóc lóc để làm gì cơ chứ, vì tôi có cảm giác rằng sắp tới đây còn có việc đáng than khóc hơn.

Tôi vào bếp lấy ra một chai whisky. Tôi không thể nghĩ đến gì khác ngoài uống rượu.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,311
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 37: PHẦN 8: Những điều gương phản chiếu, những điều không


Vào buổi sáng ngày thứ mười, tôi quyết định quên đi mọi thứ. Tôi đã quên đi những gì nên quên.

Tôi đang chạy nửa chừng thì tuyết lại rơi. Lần này là một màn tuyết mờ đục, một thứ mưa tuyết nhớt nhớp nháp, ướt nhèm gần như những tinh thể băng. Không giống như thứ tuyết xốp mềm lần đầu tiên, tuyết lần này bẩn khiếp. Nó dính chặt vào người. Tôi bỏ dở không chạy nữa, về nhà mở nước vào bồn tắm. Trong khi nước ấm dần lên, tôi ngồi phịch xuống trước máy sưởi, nhưng vẫn không thấy ấm. Một cơn gió lạnh ẩm ướt đã thấm vào người tôi. Tôi không thể co ngón tay lại, tai tôi nóng rẫy và có cảm giác giòn tan, như thể chúng sẽ gãy ra bất cứ giây nào. Da dẻ toàn thân có cảm giác như thứ giấy bột rẻ tiền.

Ba mươi phút ngâm mình trong bồn tắm cùng trà nóng pha chút brandy cuối cùng khiến cơ thể tôi trở lại bình thường, mặc dù hai tiếng sau đó tôi phải chịu lạnh từng cơn. Vậy ra mùa đông trên núi là thế này đây.

Tuyết tiếp tục rơi mãi cho đến lúc tối, phủ màu trắng lên cả cánh đồng. Tuyết chỉ ngừng rơi khi màn đêm bao trùm thế giới trong bóng tối, và một lần nữa một sự im lặng lan tỏa như sương mù. Một sự im lặng tôi không làm gì để chối bỏ được. Tôi đặt máy hát ở chế độ tự động chơi lại và lắng nghe bản Giáng sinh Trắng hai mươi sáu lần.

Tuyết không lưu lại trên mặt đất lâu. Đúng như Người Cừu dự đoán, phải một thời gian nữa mặt đất mới đóng băng. Ngày hôm sau, ngày thứ mười một của tôi, sáng sủa và rõ ràng. Mặt trời hào phóng chờ đợi cơ hội, để lại trên đồng cỏ những mảng tuyết nằm đây đó, lấp lánh trong nắng. Tuyết tích tụ trên đầu hồi mái nhà rơi xuống thành những tảng băng vỡ tan trên mặt đất kèm những tiếng thình thịch nghe đến là bực bội. Mọi thứ đều lấp lánh. Mỗi một giọt nhỏ bám ở đầu mỗi chiếc lá sồi đều sáng lóa.

Tôi thọc tay vào túi áo đứng cạnh cửa sổ, nhìn chăm chăm ra ngoài. Ngoài kia, mọi thứ trải ra hoàn toàn cách biệt khỏi tôi. Không hề liên quan đến sự tồn tại của tôi – không hề liên quan đến sự tồn tại của bất cứ ai – mọi thứ đến rồi đi. Tuyết rơi, tuyết tan.

Tôi quyết định đi lau dọn nhà đôi chút, nhạc nền là tiếng tuyết rơi và đổ. Lẩn tránh trong nhà vì tuyết, cơ thể tôi cần phải làm gì đó; ngoài ra, chẳng phải tôi là khách trong nhà người khác đó sao? Tôi chưa bao giờ là người không thích lau dọn và nấu nướng.

Tuy vậy, lau dọn một ngôi nhà lớn hóa ra lại là công việc nặng nhọc hơn tôi tưởng nhiều. Chạy bộ mười lăm cây số còn dễ hơn. Tôi phủi bụi mọi ngóc ngách, rồi đẩy máy hút bụi đi vòng quanh. Tôi lau ẩm sàn gỗ, rồi bò ra đánh bóng sàn bằng sáp. Việc này khiến tôi mệt đến gần đứt hơi, nhưng nhờ bỏ thuốc lá, tôi vẫn còn thở được. Không còn tiếng khò khè khọt khẹt kinh khủng trong cổ họng nữa.

Tôi vào bếp uống một ly nước nho lạnh và hoàn thành việc sắp xếp cho ngăn nắp những gì còn lại trong một đợt lau dọn trước buổi trưa. Tôi mở toang cửa chớp, thế là sàn nhà mới đánh sáp sáng bóng lên. Hương đất nồng nơi miền quê quyện với mùi sáp tạo nên sự hòa hợp tuyệt vời và gợi nhắc quá khứ.

Tôi giặt những miếng giẻ dùng để đánh bóng sàn, rồi đun nước. Để nấu món mì ống, tôi trộn trứng cá tuyết, kha khá bơ, rượu vang trắng và nước tương. Một bữa trưa thật ngon, lại có cả tiếng kêu của một con chim gõ kiến từ cánh rừng gần đó.

Tôi ăn nhanh món mì ống, rửa bát đĩa, rồi quay trở lại công việc. Tôi cọ bồn tắm và chậu rửa, lau nhà vệ sinh, đánh bống đồ đạc. Trước hết, nhờ Chuột, không có gì quá bẩn; chỉ cần xịt ít thuốc đánh bóng là đủ. Sau đó lôi ống nước dài ra và rửa qua cửa sổ với cửa chớp. Nhờ vậy, cả ngôi nhà trở nên gọn gàng mát mẻ hơn. Sau khi rửa qua cửa sổ, việc lau dọn của tôi kết thúc. Tôi dành hai tiếng còn lại trước khi trời tối để nghe nhạc.

Khi đi đến phòng Chuột để mượn một cuốn sách khác, tôi để ý đến tấm gương đứng soi được cả người ở chân cầu thang. Tôi đã bỏ sót nó, và nó rất bẩn thỉu. Tôi dùng một miếng vải lau, nhưng có tốn bao nhiêu công lau chùi và nước rửa kính thì cái gương vẫn không sạch. Tôi không thể hiểu tại sao Chuột lại để chiếc gương này bẩn thỉu đến vậy. Tôi xách đến một xô nước ấm và dùng bàn chải bằng ni lông cọ đi hết lớp dầu nhờn đã đóng cứng. Bụi bẩn trên gương biến nước trong xô thành màu đen sì.

Bằng vào chiếc khung gỗ chạm trổ, có thể thấy tấm gương là đồ cổ, có lẽ khá đáng giá, vì thế tôi cẩn thận không lau chùi quá mạnh.

Tấm gương phản chiếu hình ảnh tôi từ đầu đến chân, không hề sai lạc, hầu như nguyên vẹn. Tôi đứng ngắm chính mình. Không có gì mới. Tôi là tôi, với vẻ mặt không có gì đặc biệt xưa nay. Tuy nhiên hình ảnh tôi lại rõ nét một cách không cần thiết. Đó không phải hình phản chiếu phẳng của tôi. Tôi đang không nhìn vào chính mình; trái lại, cứ như thể tôi mới là hình phản chiếu trong gương và cái hình ảnh phẳng của tôi này đang nhìn vào cái thằng tôi thật sự. Tôi đưa tay phải lên trước mặt và lau miệng. Thằng tôi trong tấm gương cũng đưa ra cử động tương tự. Nhưng có lẽ chính tôi đang bắt chước những gì thằng tôi trong gương đã làm. Tôi không thể tin chắc được là mình đã tự ý lau miệng.

Tôi sắp xếp từ "tự ý" trong đầu vào dùng tay trái véo tai mình. Thằng tôi trong gương làm y hệt. Có vẻ như hắn đã sắp xếp từ "tự ý" trong đầu hắn hệt như cách tôi đã sắp xếp.

Tôi ngừng lại rồi bỏ đi. Hắn cũng bỏ đi.

Vào ngày thứ mười hai, tuyết rơi lần thứ ba. Tuyết rơi trước khi tôi tỉnh dậy. Một trận tuyết yên lặng khủng khiếp, lần này không cứng cũng không ướt nhớp nháp. Xoay tròn chậm chạp từ trên trời xuống, tan ra trước khi tạo nên bất cứ cái gì. Loại tuyết rơi lặng lẽ khiến ta nhắm mắt, thật nhẹ nhàng.

Tôi lôi cây ghi ta khỏi phòng chứa đồ và, sau khi mất bao khó khăn lên dây, thử chơi mấy bản nhạc cũ. Tôi tập bản Thư đặc biệt đường hàng không của Benny Goodman, và chẳng mấy chốc đã đến đúng ngọ. Tôi làm món bánh mì gồm những lát thịt lợn hun muối dầy cộp kẹp trong bánh mì tự làm giờ đã cứng như đá, rồi mở một lon bia. Sau khi tôi tập ghi ta thêm ba mươi phút nữa, một người xuất hiện, còn ai vào đây nữa, ngoài Người Cừu.

"Nếu anh thấy phiền thì tôi sẽ đi," Người Cừu nói với qua cửa ra vào mở toang.

"Không, không phiền chút nào cả. Dù sao thì tôi cũng đang chán đây," tôi nói, đặt cây ghi ta dưới sàn.

Người Cừu đập cho bùn rơi khỏi ủng hệt như lần trước, rồi bước vào. Cơ thể hắn có vẻ mập ra trong bộ quần áo lông cừu dày cộp. Hắn ngồi trên xô pha đối diện tôi, tay đặt lên thành ghế và chỉnh lại tư thế cho thoải mái.

"Tuyết chưa lưu lại trên mặt đất à?" tôi hỏi.

"Chưa đâu." Người Cừu trả lời. "Có thứ tuyết lưu lại trên mặt đất và có thứ tuyết không. Đây là loại tuyết không lưu lại trên mặt đất."

"Hừm."

"Thứ tuyết lưu lại trên mặt đất sẽ đến vào cuối tuần tới."

"Anh uống bia không?"

"Cám ơn. Nhưng tôi thật ra muốn uống một ly brandy."

Tôi vào bếp, lấy cho hắn một ly brandy và mình một lon bia, rồi mang cả vào phòng khách cùng với bánh mì kẹp pho mát.

"Anh đang chơi ghi ta." Người Cừu Nói thích thứ. "Chúng tôi cũng yêu âm nhạc. Dù vậy tôi không biết chơi nhạc cụ gì."

"Tôi cũng thế. Chẳng chơi gì đã gần mười năm."

"Không sao đâu à chơi bản gì cho tôi đi."

Tôi không muốn làm Người Cừu mất vui, vì thế tôi chơi hết giai điệu bản Thư đặc biệt đường hàng không, chơi ngẫu hứng đoạn đồng ca rồi chơi thêm một đoạn ngẫu hứng, sau đó không đếm kịp nhịp nên bèn dừng lại.

"Anh chơi khá đấy," Người Cừu nói có vẻ vô cùng nghiêm túc. "Chắc hẳn chơi một loại đàn phải thích lắm nhỉ?"

"Nếu chơi tốt. Nhưng nếu muốn chơi tốt, ta phải luyện tai. Và khi đã luyện tai rồi, ta lại trở nên thất vọng với việc chơi đàn của mình."

"Thôi nào thật thế sao?" Người Cừu nói.

Người Cừu nhấm nháp từng ngụm rượu nhỏ một cách thanh nhã từ cốc brandy nhỏ, trong khi tôi uống bia lon.

"Tôi không thể chuyển lời nhắn của anh." Người Cừu nói.

Tôi gật đầu.

"Tôi đến đây chỉ để thông báo thế thôi."

Tôi liếc nhìn cuốn lịch trên tường. Chỉ còn ba ngày nữa là đến hạn chót, ngày đến hạn đánh dấu mực đỏ. Nhưng điều đó có nghĩa gì nữa đâu?

"Mọi thứ đã thay đổi," tôi lớn tiếng. "Tôi, giận giận lắm. Chưa bao giờ trong đời tôi lại giận dữ như thế này."

Người Cừu ngồi đó, cốc rượu nhỏ trong tay, và không nói gì.

Tôi cầm đàn ghi ta lên đập mạnh mặt sau đàn vào những viên gạch lò sưởi. Cùng với cú đập là một tiếng tưng vang to chói tai của dây đàn. Người Cừu bay ra khỏi xô pha, tai hắn vẫn còn run lẩy bẩy.

"Tôi có quyền giận dữ," tôi nói, nhấn mạnh sự thật ấy với chính mình hơn là với Người Cừu. Thôi nào, tôi đúng là có quyền giận dữ.

"Tôi cảm thấy khó nghĩ khi không thự chiện việc được anh nhờ. Nhưng anh phải hiểu cho. Chúng tôi thật sự quý mến anh."

Hai chúng tôi đứng đó. Chúng tôi nhìn tuyết. Tuyến mịn mượt như bông nhồi rơm ra từ trong đám mây bị xé rách.

Tôi vào bếp lấy một lon bia nữa. Mỗi lần tôi đi qua cầu thang, chiếc gương vẫn ở đó. Cái thằng tôi kia có vẻ cũng đi lấy một lon bia nữa. Chúng tôi nhìn thẳng vào mặt nhau và thở dài. Sống trong hai thế giới tách biệt, chúng tôi vẫn cùng nghĩ về mọi thứ. Cứ như Groucho và Harpo trong bộ phim Xúp Vịt.

Phòng khách đằng sau tôi được phản chiếu trong gương. Hay là phòng khách đằng sau hắn nhỉ? Phòng khách đằng sau tôi và phòng khách đằng sau hắn là một. Cũng cùng một chiếc xô pha, cùng một tấm thảm, cùng một chiếc đồng hồ và tủ sách, mọi thứ giống hệt nhau. Xét theo nghĩa phòng khách thì không đặc biệt bất tiện, nhưng không thể nói là có gu thẩm mỹ tinh tế nhất. Tuy vậy có gì đó khang khác. Hoặc có thể đơn giản là tôi cảm thấy có điều gì đó khác.

Tôi vơ lấy một lon Löwenbrau xanh khác và trên đường quay lại phòng khách, lon bia trong tay, tôi nhìn thêm lần nữa vào phòng khách trong gương, rồi nhìn lại phòng khách. Người Cừu trên xô pha, lơ đãng nhìn ra ngoài tuyết.

Tôi kiểm tra Người Cừu trong gương. Nhưng không có Người Cừu nào trong gương! Không có ai trong phòng khách cả, chỉ có chiếc xô pha trống không. Trong thế giới trong gương, tôi có một mình. Nỗi khiếp sợ chạy dọc sống lưng tôi.

"Trông anh xanh xao đấy," Người Cừu nói.

Tôi ngồi thụp xuống xô pha và không nói gì, kéo khoen ở nắp hộp bia và làm một ngụm.

"Có lẽ bị lạnh. Mùa đông nơi này có thể làm ta khó chịu nếu ta không quen. Không khí cũng ẩm ướt. Hôm nay anh nên đi ngủ sớm."

"Không", tôi nói. "Hôm nay tôi sẽ không đi ngủ. Tôi sẽ đợi bạn tôi ở đây. Nếu anh gặp cậu ấy, nói với cậu ấy thế. Mặc dù tôi không nghĩ điều đó cần thiết".

Người Cừu gật đầu một cách hiểu biết. "Chắc chắn sẽ cô đơn khi anh đi rồi. E rằng đành phải chấp nhận thôi. Tiện thể anh cho tôi xin cái bánh mì kẹp pho mát ấy được không?".

"Chắc chắn rồi".

Người Cừu bọc cái bánh mì kẹp vào trong khăn giấy, nhét vào trong túi, rồi đem găng vào.

"Hy vọng chúng ta sẽ gặp lại nhau", Người Cừu nói trong lúc ra đi.

"Chúng ta sẽ gặp lại," tôi nói.

Người Cừu băng qua đồng cỏ về phía Đông. Cuối cùng, màn tuyết nuốt chửng hắn. Sau đó tất cả là yên lặng.

Tôi đổ khoảng một đốt tay rượu brandy vào cốc nhỏ của Người Cừu và uống một hơi hết sạch. Cổ họng tôi bỏng rát, và dần dần dạ dày tôi bỏng rẫy, nhưng sau ba mươi giây cơ thể tôi ngừng run. Chỉ có tiếng tích tắc của chiếc đồng hồ quả lắc đang đập trong đầy tôi.

Có lẽ tôi cần ngủ đôi chút.

Tôi lấy chăn trên gác xuống và ngủ trên xô pha. Tôi cảm thấy hoàn toàn kiệt sức, như một đứa bé đi lang thang trong rừng đã ba ngày. Tôi nhắm mắt và ngay lập tức thiếp đi.

Tôi có một giấc mơ kinh hoàng. Một giấc mơ quá kinh hoàng để có thể gợi nhớ lại.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,311
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 38: PHẦN 8: Và thế là thời gian trôi đi


Bóng tối rón rén bò qua tai tôi như dầu. Ai đó đang cố dùng một cây búa đồ sộ đập vỡ quả cầu trái đất đã bị đóng băng. Chiếc búa bổ lên quả đất đúng tám lần. Nhưng quả đất không chịu vỡ. Nó chỉ bị rạn một chút.

Đã tám giờ, tám giờ tối.

Tôi lắc đầu hốt hoảng thức dậy. Có thể tôi tê dại đi, đầu tôi đau nhức. Liệu có phải ai đó đã đặt tôi vào một cái bình trộn rượu cocktail với đá nghiền rồi lắc qua lắc lại như điên để khiến tôi thức tỉnh?

Không có gì tồi tệ hơn là thức dậy trong bóng tối hoàn toàn. Giống như phải quay lại sống từ đầu. Khi tôi mới mở mắt ra, cứ như thể tôi đang sống cuộc đời của một người khác. Sau một lúc thật lâu, cuộc đời ấy mới bắt đầu khớp với cuộc đời của tôi. Thật là một sự chồng chéo kỳ cục, cuộc đời tôi như cuộc đời của một ai đó. Tôi thậm chí còn không chắc là một người như bản thân tôi lại đang tồn tại.

Tôi đi đến bên chậu rửa trong bếp, vã nước lên mặt, rồi uống nhanh vài ly nước. Nước lạnh như đá, nhưng mặt tôi vẫn nóng rẫy. Tôi ngồi xuống xô pha trong bóng tối, yên lặng, rồi từ từ bắt đầu tập hợp lại những mảnh đời mình. Tôi không thu thập được nhiều lắm, nhưng ít ra đó là cuộc đời tôi. Tôi trở về với chính mình một cách chậm rãi. Thật khó giải thích trở về với chính mình là thế nào, và chắc chắn có giải thích thì rồi cũng sẽ làm người ta mất hết hứng thú.

Tôi có cảm giác ai đó đang quan sát mình, nhưng tôi không thèm để ý. Đó là cảm giác người ta có khi một mình trong căn phòng rộng lớn.

Tôi nghĩ về tế bào. Như vợ cũ tôi nói, rốt cuộc thì mọi tế bào cuối cùng trong ta sẽ mất đi. Thậm chí chính bản thân ta cũng biến mất. Tôi áp lòng bàn tay lên má. Tôi nghĩ khuôn mặt mà bàn tay tôi đang chạm vào trong bóng tối không phải khuôn mặt tôi. Đó là khuôn mặt của một người khác mang hình dáng khuôn mặt tôi. Nhưng tôi không thể nhớ được chi tiết. Mọi thứ – tên, cảm giác nơi chốn – tan biến và bị nuốt chửng vào bóng tối.

Trong bóng tối đồng hồ điểm tám giờ rưỡi. Tuyết đã ngừng, nhưng màn mây dầy đặc vẫn còn bao phủ bầu trời. Không ở đâu có ánh sáng. Một lúc lâu, tôi nằm vùi trong xô pha, miệng ngậm ngón tay. Tôi không thể thấy tay mình. Máy sưởi đã tắt nên căn phòng lạnh giá. Nằm cuộn tròn trong chăn, tôi thẫn thờ nhìn chằm chằm ra ngoài. Tôi đang thu mình dưới đáy giếng sâu.

Thời gian. Những hạt bóng tối sắp xếp nên những mẫu hình bí ẩn trên võng mạc mắt tôi. Những mẫu hình tan biến không một tiếng động, rồi lại được thay thế bằng những mẫu hình mới. Bóng tối và chỉ có bóng tối mà thôi đang chuyển dịch, như thủy ngân trong không gian bất động.

Tôi thôi không nghĩ ngợi gì và để thời gian trôi qua. Hãy để thời gian mang tôi đi. Mang tôi đến nơi mà một bóng tối mới đang sắp xếp nên những mẫu hình mới hơn nữa.

Đồng hồ điểm chín giờ. Khi hồi chuông thứ chín lắng dần, sự yên lặng len vào thế chỗ nó.

"Cho phép tớ nói một lời được không?" Chuột nói.

"Được thôi." tôi nói.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,311
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 39: PHẦN 8: Những kẻ sống trong bóng tối


"Được thôi," tôi nói.

"Tớ đến sớm một tiếng trước giờ hẹn," Chuột nói như biết lỗi.

"Không sao đâu. Cậu thấy đấy, tớ có đang làm gì đâu."

Chuột cười lặng lẽ. Hắn ở sau tôi. Như thể chúng tôi hầu như đang quay lưng vào nhau.

"Cứ như ngày xưa nhỉ," Chuột nói.

"Tớ đoán chúng mình không bao giờ nói chuyện thẳng thắn với nhau trừ phi chúng mình có thời gian," tôi nói.

"Đúng là có vẻ như thế." Chuột mỉm cười.

Ngay cả trong bóng tối đen như mực, ngồi quay lưng vào nhau, tôi có thể đoán được hắn đang mỉm cười. Người ta có thể đoán được nhiều thứ chỉ qua thay đổi nhỏ nhất trong không khí. Chúng tôi từng là bạn. Lâu lắm rồi, dù tôi không còn nhớ được là tự bao giờ.

"Có phải ai đó từng nói, "Một người bạn để cùng giết thời gian là một người bạn tuyệt vời"?"

"Chính cậu nói câu đó, đúng không?"

"Giác quan thứ sáu, lúc nào cũng sắc bén. Cậu đúng đó."

Tôi thờ dài. "Nhưng lần này, với tất cả những gì đang diễn ra, giác quan thứ sáu của tớ đã sai lầm. Sai đến mức đáng hổ thẹn. Dù cậu đã đưa cho tớ không biết bao nhiêu gợi ý."

"Đành phải chấp nhận thôi. Cậu khá hơn hầu hết mọi người."

Chúng tôi yên lặng. Chuột dường như đang ngắm tay mình.

"Tớ thật sự bắt cậu phải chịu đựng nhiều quá, đúng không?" Chuột nói. "Tớ không có ai khác để nhờ cả. Như tớ đã nói trong thư."

"ĐÓ là điều tớ muốn hỏi cậu. Vì tớ không chấp nhận mọi thứ đơn giản như thế được."

"Tất nhiên là không rồi," Chuột nói, "không thể được khi tớ chưa tường trình chính xác việc đó. Nhưng trước đó, hãy làm một lon bia đã."

Chuột ngăn tôi trước khi tôi có thể đứng lên.

"Để tớ đi lấy," Chuột nói. "Xét cho cùng, đây là nhà tớ mà."

Tôi nghe thấy tiếng Chuột đi theo lối hắn thường đi đến bếp trong bóng tối hoàn toàn và lôi một ôm bia ra khỏi tủ lạnh, tôi mở rồi nhắm mắt trong suốt lúc ấy. Bóng tối căn phòng chỉ hơi khác đôi chút về sắc độ với bóng tối khi tôi nhắm mắt.

Chuột mang bia quay lại, để lên bàn. Tôi quờ quạng tìm một lon, mở khoen ở nắp hộp rồi uống một nửa.

"Hầu như chả phải là bia nếu không trông thấy nó," tôi nói.

"Cậu phải tha lỗi cho tớ, nhưng bắt buộc phải trong bóng tối."

Chúng tôi không nói gì trong khi uống.

"Xem nào," Chuột nói, hắng giọng. Tôi đặt lon bia rỗng lên bàn và ngồi yên, cuộn trong chăn. Tôi đợi hắn lên tiếng, nhưng không có lời nào sau đó. Tất cả những gì tôi nghe được là tiếng Chuột đang lắc lắc lon bia của hắn để xem còn bao nhiêu. Một thói quen cũ của hắn.

"Xem nào," Chuột nói lần thứ hai. Rồi uống ực một hơi hết chỗ bia cuối cùng, hắn đặt lon bia lên bàn đánh cách một tiếng. "Trước hết, hãy bắt đầu bằng việc tại sao tớ đến đây. Được không?"

Tôi không trả lời. Chuột tiếp tục nói.

"Ông già tớ mua chỗ này khi tớ năm tuổi. Tớ không biết vì lý do gì ông ấy cất công mua bất động sản tận đây. Có lẽ ông mua được một món hời qua đường quân sự Mỹ nào đó. Như cậu thấy đấy, đến chỗ này cực kì bất tiện, và ngoài mùa hè ra, đường sá vô dụng một khi tuyết kéo đến. Lực lượng chiếm đóng hắn đã có kế hoạch nâng cấp con đường và sử dụng chỗ này để làm trạm ra-đa hay đại loại thế, nhưng thời gian và chi phí liên quan hiển nhiên đã thay đổi quyết định của họ. Còn thị trấn thì quá nghèo nên cũng chẳng thể làm gì với con đường. Họ cũng chẳng được lợi lộc gì khi nâng cấp con đường. Tất cả khiến cái cơ ngơi này như một kế hoạch nhất định thất bại, bị quên lãng từ lâu."

"Thế còn Giáo sư Cừu thì sao? Chẳng phải ông ấy định sẽ trở về nhà tại đây sao?"

"Giáo sư Cừu đang sống trong hoài niệm. Ông ấy đâu có nhà để mà về."

"Có lẽ là không."

"Uống thêm bia đi." Chuột nói.

"Tớ uống đủ rồi," tôi nói. Vì máy sưởi đã tắt, tôi gần như lạnh cóng. Chuột mở một lon bia nữa rồi uống một mình.

"Ông già tớ đâm ra thích cái cơ ngơi này, tự mình đứng ra nâng cấp đường sá một chút, sửa sang ngôi nhà. Tớ tin là ông đã bỏ khối tiền vào đó. Nhờ thế, nếu có xe, người ta có thể sống một cuộc sống khá thoải mái ở đây, ít ra là trong mùa hè. Khí đốt, bồn cầu giật, vòi hoa sen, điện thoại, máy phát điện khẩn cấp. Tôi không biết làm thế nào Giáo sư Cừu sống được ở đây trước đó."

Chuột gây ra một âm thanh không ra ợ cũng không ra thở dài.

"Cho đến năm tớ mười lăm tuổi, hè nào nhà tớ cũng đến đây. Ông và già tớ, chị gái và tớ, rồi cả bà giúp việc trong nhà nữa. Nghĩ mới thấy đó có lẽ là những năm tháng đẹp nhất trong đời tớ. Nhà tớ cho thị trấn thuê đồng cỏ – thực ra đến nay vẫn cho thuê – vậy nên khi mùa hè đến, cả chốn đến này đầy cừu của thị trấn. Cừu ngập đến tận mang tai. Đó là lý do những kỷ niệm mùa hè của tớ luôn gắn liền với cừu.

Sau đó, gia đình tớ hầu như không bao giờ lên đây nữa. Một phần vì chúng tớ có một nhà nghỉ khác gần nhà tớ hơn, phần khác vì chị tớ đi lấy chồng. Tớ không còn coi mình như một phần của gia đình nữa, công ty của ông già tớ gặp khó khăn, và rồi, đủ thứ chuyện xảy ra. Dù sao thì cái cơ ngơi này cũng bị bỏ hoang. Lần cuối cùng tớ lên đây là cách đây mười một năm. Và lần đó tớ lên một mình. Một mình trong một tháng."

Chuột nấn ná trong một giây, như thể đang nhớ lại.

"Cậu có cô đơn không?" tôi hỏi.

"Tớ ấy à, cô đơn á? Cậu đùa đấy à. Nếu có thể, tớ đã ở lại trên này. Nhưng không đời nào điều ấy xảy ra. Xét cho cùng, đó là nhà của ông già tớ. Cậu sẽ không bao giờ thấy tớ giúp ông già ấy làm gì đâu."

"Nhưng giờ thì sao?"

"Cũng vậy thôi," Chuột nói. "Tớ phải nói đây là chỗ sau chót tớ muốn quay trở lại. Tuy nhiên khi trông thấy bức ảnh chỗ này trong Khách sạn Cá Heo, tớ muốn thấy nó một lần nữa. Vì lý do tình cảm. Ngay cả cậu thỉnh thoảng cũng cảm thấy như thế, đúng không?"

"Đúng," tôi nói. Với tôi thì có cái bờ biển đã bị lấp kia.

"Đó là khi tớ nghe thấy chuyện của Giáo sư Cừu. Về con cừu trong mơ với ngôi sao trên lưng, Theo tớ hiểu thì cậu biết chuyện đó đúng không?"

"Quả thật tớ có biết."

"Vậy thì nói một cách đơn giản," Chuột nói. "Tớ nghe chuyện đó và vội vàng đến đây, muốn ở cả mùa đông. Tớ không thể giũ bỏ được thôi thúc đó. Ông già hay không đối với tớ không quan trọng nữa. Tớ thu xếp đồ đạc và lên đây. Giống như tớ bị kéo lên đây vậy."

"Đó là lúc cậu gặp con cừu à?"

"Đúng vậy," Chuột nói.

"Những gì xảy ra sau đó khó nói lắm," Chuột nói.

Chuột cầm chiếc lon rỗng thứ hai vài bóp nó lõm vào.

"Có lẽ cậu có thể hỏi tớ chăng? Cậu đã biết khá nhiều thứ cần biết, đúng không?"

"Được, nhưng nếu điều đó đối với cậu không quan trọng thì không cần bắt đầu từ đầu cũng được."

"Hỏi đi."

"Cậu đã chết rồi, đúng không?"

Tôi không biết phải mất bao lâu để Chuột trả lời. Có thể là mấy giây, có thể là... Đó là một yên lặng kéo dài. Bên trong miệng tôi khô ngắt.

"Đúng vậy," cuối cùng thì Chuột nói. "Tớ đã chết rồi."
 
CHÚ Ý !!!
Các đạo hữu nhớ thêm TÊN CHƯƠNG và THỨ TỰ CHƯƠNG ở ô phía trên phần trả lời nhanh. Như vậy hệ thống mới tạo được DANH SÁCH CHƯƠNG.
Cập nhật chức năng ĐĂNG TRUYỆN và THÊM CHƯƠNG MỚI trên web Diễn Đàn Truyện tại https://truyen.diendantruyen.com
Top Bottom