Chào mừng bạn đến với Diễn Đàn Truyện !

Xin vui lòng Đăng ký hoặc Đăng nhập mới có thể sử dụng đầy đủ chức năng diễn đàn. Việc Đăng ký hoàn toàn miễn phí!

Đăng ký ngay!

Dịch Trương Công Án

Dịch Trương Công Án
Chương 60


Sáng ngày hôm sau, Trần Trù vận một cái áo bào đẹp nhất rồi đem đồ và thư mà Trương Bình nhờ cậy đi vào trong Kinh Thành.

Gã may mắn gặp được xe la chở cải vào thành, chưa đến trưa đã vào đến chợ phía Đông Kinh Thành, rồi đi bộ đến cửa Lan phủ. Còn chưa đến gần cửa lớn đã có hai gia đinh tiến đến chặn lại: “Kẻ nào dám đến quấy rầy phủ đệ của Lễ bộ Thị lang đại nhân?”

Trần Trù vội đáp: “Tiểu sinh Trần Trù, là bạn hữu của Trương Bình, nhận được uỷ thác của Trương Bình đến cầu kiến Lan đại nhân, có thư hàm trình lên.” Hai tay dâng lên danh thiếp.

Gia đinh xua tay: “Rõ là, cút cút cút! Đùa gì vậy chứ! Đây không phải là nơi để cho hạng người như ngươi đến đâu! Mau cút đi!”

Trần Trù nín nhịn cơn giận, mặt dày cười hoà, móc một ít tiền từ trong tay áo ra, để dưới danh thiếp, rồi lại dâng lên: “Tiểu sinh…”

Gia đinh hất tay đẩy gã một cái: “Cút!”

Nếu không phải vì Lan Thị lang nhiều lần giúp đỡ Trương Bình, đối với Trần Trù gã cũng xem như có ơn thì Trần Trù đã mắng chửi một tiếng ‘đám cẩu quan đứng cửa ức hiếp người quá đáng’ rồi. Đúng lúc này, có một người tay để trong ống tay áo, bộ dạng như môn phòng ở cổng lớn nheo mắt nhìn gã: “Cái gì đó, mới nãy ngươi nói Trương Bình ấy hả? Trương nào? Bình nào thế?”

Trần Trù đáp: “Chính là Trương Bình mà Lan Thị lang các người quen biết, còn từng ở trong quý phủ nữa. Kỳ thi năm nay đậu tiến sĩ. Hiện tại làm quan ở Huyện Nghi Bình.”

Ánh mắt của người kia loé sáng, Trần Trù phát hiện có hy vọng, bèn nói tiếp: “Tôi là bạn tốt của ngài ấy, ngài ấy có chút đồ nhờ tôi chuyển tới cho Lan đại nhân.”

Người kia chà chà tay, nhếch miệng nói: “Ồ, thất lễ thất lễ quá. Cuối năm rồi, thường có mấy kẻ chẳng ra làm sao đến trước cửa làm càn, không thể mất cảnh giác được, công tử đừng trách móc nhé, thế công tử có danh thiếp không?”

Trần Trù dâng danh thiếp lên, bên dưới vẫn còn kẹp một chút tiền. Môn phòng của Lan Giác nào thèm mấy đồng lẻ này, nhưng vì Trương Bình là người Lan Giác xem trọng, nể tình cảm này nên mới tạm thời nhận lấy, hắn cười khoe hàm răng hỏi: “Công tử đang trọ ở đâu? Lão gia nhà tôi có thể đến tối mới trở về.”

Trần Trù ngừng một chút, nói: “Quán trọ Hồng Xương.”

Quán trọ Hồng Xương là quán trọ lớn cách phủ Lan Thị lang gần nhất, rất đắt. Trần Trù sợ làm Trương Bình mất mặt nên mới nói thế, chứ thực ra hiện tại tình hình kinh tế của gã đang eo hẹp, chỉ nội uống một buổi trà chiều rẻ nhất ở đại sảnh tầng một ở quán trọ Hồng Xương thôi cũng khiến gã nhức nhối túi tiền rồi. Thế là gã lanh trí nghĩ ra được một ý, rời khỏi cửa trước của phủ Lan Thị lang, trước tiên đi lòng vòng trên con đường mà từ Lễ bộ đến phủ Lan Thị lang bắt buộc phải đi qua, đi đến khi trời tối, hai bên đường dọn dẹp cũng là lúc Lan Thị lang về phủ. Trần Trù vội vàng chạy đến quán trọ Hồng Xương, rồi lại từ cửa quán trọ Hồng Xương đi tản bộ.

Hôm nay tuy là ngày đẹp trời, vẫn lạnh hơn so với hôm qua. Trời tối càng thêm lạnh, hàm răng Trần Trù đánh cầm cập, gã mua một cái bánh bao nóng, vừa để ủ tay vừa đợi, vì luyến tiếc hơi ấm nên không nỡ cắn ăn, thế là bánh bao nguội rồi mới bắt đầu ăn, nghẹn đến nỗi ợ hai cái. Một mặt dạo bước để làm ấm người, một mặt lại thấp thỏm Ly Quán ở nhà, không biết nàng ấy có phải đang sốt ruột ngóng trông hay không.

Đến nửa đêm, Trần Trù thiếu chút nữa lạnh đến đóng băng thành cây cột cũng chẳng thấy người của phủ Thị lang đến quán trọ gọi. Gã cắn răng chống đỡ qua canh ba, thiếu chút nữa dựa vào góc tường mà ngủ luôn rồi, bèn nhéo đùi miệng lẩm nhẩm, không được ngủ, không được ngủ, nếu mà ngủ là ngươi tiêu luôn đó.

Sắp đến canh tư, biết rằng người của phủ Lan Thị lang tuyệt đối sẽ không đến vào lúc này nên Trần Trù mới đi vào một con ngõ nhỏ, tìm một tiệm cơm nhỏ mở suốt đêm, gọi một bình rượu nóng, một tô mì nóng, hơi nóng ấm áp tỏa ra khiến gã như được sống lại.

Đến rạng sáng, gã lại đến trước cửa phủ Lan Thị lang, lần này đã đổi sang mấy gia đinh khác, lại một trận đuổi đi không nể mặt nhau, may mà có một gia đinh biết Trương Bình, nghe gã nói xong, cuối cùng đáp: “Nếu lão gia đã xem qua danh thiếp, muốn gặp ngươi nhất định sẽ phái người đi gọi ngươi, cứ đợi đi.”

Trần Trù một trận buồn phiền. Phải chờ đến khi nào đây hả? Nghĩ đến Ly Quán ở nhà thấy gã cả đêm không về không biết sẽ thế nào, vì thế lại càng thêm khó chịu.

Muốn về nhà lại do dự. Vẫn là tiếp tục cắn răng, tiếp tục lượn qua lượn lại trong thành.

Cứ thế đến tối, Trần Trù khiễng chân ngồi đối diện với quán trọ Hồng Xương, run rẩy đợi đến tối khuya, cuối cùng cũng nhìn thấy một cỗ xe ngựa chừng như là của phủ Lan Thị lang, vài người ăn vận như gia đinh bước vào quán trọ. Trần Trù vội vã nhào tới, chỉ nghe một người trong đám nói: “Xin hỏi có người khách nào họ Trần ở quán trọ này không?”

Trần Trù vội vã chạy đến gần, rồi giả bộ như vô ý nghe thấy, dừng bước nghiêng người chắp tay: “Tại hạ Trần Trù, các vị là…?”

Dẫn đầu là môn phòng ngày hôm qua, hắn nhếch miệng nói: “A, Trần công tử, lão gia của chúng tôi sai tiểu nhân đến mời công tử vào phủ nói chuyện.”

Trần Trù bước lên xe ngựa, đến phủ Lan Thị lang. Xe chạy đến cửa hông phía sau, môn phòng và hộ vệ giữ cửa nói với nhau vài câu rồi xe ngựa chạy vào trong, dừng lại ở trong sân. Trần Trù xuống ngựa, lần này lại đổi sang một đầy tớ nam và hai nữ tì cầm đèn dẫn gã đi qua tầng tầng lớp lớp ngõ ngách, bước lên những hành lang quanh co uốn lượn.

Rõ ràng đương đông nhưng Trần Trù lại ngửi thấy mùi hương ngào ngạt của hoa. Đi được hồi lâu, gã bước vào nhã sảnh, cảm giác ấm áp xông vào mặt, Trần Trù liền chảy nước mũi, vội vàng giả vờ ho vài cái rồi lau đi dấu tích.

Đầy tớ nói Trần Trù ngồi đợi ở đây rồi lui ra. Trên bàn bày đủ loại điểm tâm tinh xảo và hoa quả tươi, bụng Trần Trù kêu ục ục. Dưới ánh đèn sáng chói, gã bất động, dửng dưng không để ý đến.

Qua một hồi lại có một đầy tớ vào sảnh: “Trần công tử, đã để chờ lâu rồi, mời.” Rồi dẫn Trần Trù ra khỏi sảnh, tỳ nữ cầm đèn dẫn đường cũng đổi sang người khác, biến thành bốn người. Đi một hồi lại vào một căn phòng, đầy tớ nói: “Trần công tử xin chờ trong giây lát.” Rồi lui ra ngoài.

Một lúc sau lại đổi một đầy tớ khác vào phòng, so với hai người trước thanh tú hơn, ăn vận cũng đẹp đẽ hơn: “Đã để công tử chờ lâu.” Rồi lại dẫn Trần Trù ra khỏi phòng, bên ngoài cửa có sáu tỳ nữ xinh đẹp tay cầm đèn lồng, nhất tề cúi chào, dẫn Trần Trù tiếp tục đi vào sâu bên trong.

Trong lòng Trần Trù không nhịn được thầm nói, rốt cuộc Lan Thị lang đã vơ vét được bao nhiêu thứ béo bở mà cái phủ đệ này lại có nhiều người đến vậy, chỉ việc nuôi nhiêu đây người hầu chẳng biết đã tốn bao nhiêu tiền rồi!

Cuối cùng lại đến tiền sảnh, đầy tớ đi vào trước: “Lão gia, Trần công tử đến rồi.”

Trần Trù thở một cái nhẹ nhõm, cuối cùng cũng không cần phải đi nữa rồi.

Vào trong sảnh, người ngồi ở ghế chủ nhà chính là Lan Giác, một thân cẩm bào sắc trầm hương, nhìn Trần Trù khẽ mỉm cười: “Xin lỗi, để ngươi phải chờ lâu, mới nãy không may lại có một vị khách đến trước nên phải lùi lại một chút.”

Chẳng biết tại sao, một bụng uất ức bực bội của Trần Trù bay biến đâu sạch rồi.

Thôi đi, người ta là quan to như thế, có thể chịu gặp một tên dân đen như ngươi, còn lịch sự như vậy, ngươi còn muốn sao nữa đây?

Trần Trù lập tức làm lễ chào hỏi, rồi lại nói rõ lý do đến đây, lấy ra bức thư và cái túi kia dâng lên.

Tuỳ tùng đón lấy thư và bao nải từ tay Trần Trù, Lan Giác khẽ phất tay, tỏ ý đem đồ ra sau bình phong trước rồi mỉm cười nói với Trần Trù: “Hiện giờ ngươi đang ở trong Kinh Thành à?”

Trần Trù đáp: “Tôi có thuê một tiểu viện ở ngoại thành, trong Kinh Thành rất đắt, hơn nữa ở nơi yên tĩnh có thể tập trung đọc sách học hành.”

Lan Giác nói: “Ngày xưa ta cũng từng ở ngoại thành, không khí tốt hơn nhiều so với trong kinh, quả thật yên tĩnh hơn nhỉ.”

Rồi cả hai lại nói dăm ba câu, sau đó Trần Trù đứng dậy cáo lui. Đầy tớ dẫn gã đi ra, đưa đến trước cổng nguyệt,  rồi có một đầy tớ khác đón, tiếp tục dẫn gã ra ngoài, lại đến trước một đạo môn, lại đổi một đầy tớ khác, lần này chính là người đã đón Trần Trù, rồi dẫn gã đi xuyên qua sân đi dọc hành lang, đến trước cỗ xe ngựa.

Trần Trù vội nói: “Không cần nhọc công đưa tiễn, tự tôi đi về là được rồi.”

Đầy tớ cười bảo: “Công tử không cần khách sáo, công tử là khách quý, bọn tiểu nhân lỡ thất lễ thì lão gia nhất định sẽ trách phạt mất.”

Trần Trù thầm nói, tôi thế này làm sao có thể xem như là được đối xử như khách quý chứ? Rồi leo lên xe ngựa.

Lan Giác sai người đem thư và đồ mà Trần Trù đem đến đưa đến thư phòng, rồi bóc thư ra dưới ánh đèn.

Trên thư là nét chữ vuông vức của Trương Bình:

“Học trò ở Nghi Bình đã mấy tháng nhưng vẫn thường nhớ lời dạy bảo của đại nhân. Vào đông trời lạnh, mong đại nhân giữ gìn sức khoẻ…”

Lan Giác không nhịn được khẽ cười nói: “Tên Trương Bình này, xem như học được cách đối nhân xử thế rồi nhỉ.”

Rồi lại xem đồ được gửi đến, là một hộp bơ, còn có sáu loại như nhân hạt dẻ, nhân hạt thông…

Đầy tớ nói: “Lão gia, đã kiểm tra qua, không có độc.”

Lan Giác nói: “Đồ Trương Bình gửi đến, làm sao có thể có độc.”

Đầy tớ cúi người: “Tiểu nhân chỉ sợ trên đường đi…”

Lan Giác cười cười: “Các ngươi cũng đừng thần hồn nát thần tín như thế, giống như ta đã làm nhiều chuyện xấu lắm không bằng.” Rồi tiện tay bốc một miếng bơ bỏ vào miệng.

Xe ngựa dừng trước cửa quán trọ Hồng Xương, gã vừa xuống xe thì mấy tiểu nhị trong quán trọ đã cúi chào Trần Trù nói: “Công tử trở về rồi.”, “Công tử mời…”

Người đầy tớ kia nói với Trần Trù: “Tiểu nhân không làm phiền công tử nghỉ ngơi nữa, xin cáo lui trước.”

Trần Trù chắp tay tạm biệt hắn, làm tư thế đi vào quán trọ. Đang nghĩ chờ mấy người này đi rồi lại tìm cớ rời khỏi quán trọ. Thế nhưng tiểu nhị quán trọ lại cúi người chào gã nói: “Công tử muốn đi tắm trước hay dùng bữa trước?”

Trần Trù ngỡ ngàng: “Tôi chưa từng đặt phòng ở quý điếm, có phải…”

Tiểu nhị nói: “Mới nãy phủ Lan đại nhân vừa phái người đến dặn dò qua, phòng trọ đã sắp xếp qua cho công tử rồi, mời Trần công tử lên lầu.”

Trần Trù lơ mơ theo tiểu nhị lên lầu, hai tiểu nhị mở cửa phòng số một chữ Thiên, mời Trần Trù bước vào trong. Thảm hoa nỉ trải dưới đất, màn gấm bình phong xanh biếc, một cảm giác xa hoa ngập tràn khắp phòng. Trần Trù chỉ cảm thấy mồ hôi lạnh túa ra khỏi lỗ chân lông.

Quán trọ đưa bồn nước ấm lên trước, phục vụ Trần Trù tắm rửa, thay sang y phục mới, rồi bài một bàn tiệc bên ngoài, sơn hào hải vị lũ lượt bưng lên như nước chảy. Còn hỏi Trần Trù có muốn ca cơ góp vui không, Trần Trù vội vàng khéo léo từ chối. Ban đêm ôm cái bụng tròn ũm nằm trên giường to, nhưng lại không ngủ được. Sáng ngày thứ hai, ăn uống xong xuôi, vừa ra khỏi cửa lớn đã thấy vài đầy tớ đứng ở cửa hành lễ với gã, rồi đưa gã lên xe ngựa.

Trần Trù xuống xe trước cửa nhà, lúc này mới phát hiện phía sau còn có một xe đi theo nữa. Từ trong xe đi xuống mấy nô bộc, nhấc xuống một đống rương hòm đưa vào trong nhà của Trần Trù, Trần Trù vội ngăn lại. Đầy tớ đứng đầu nói: “Đại nhân nhà tôi vô cùng cảm kích công tử, mấy thứ nhỏ nhặt này không đủ thành ý, mong công tử không chê chút tâm ý của đại nhân nhà tôi.”

Đã nói thế này rồi, Trần Trù cũng không thể từ chối được. Sau khi đợi người của Lan phủ rời đi, gã đứng giữa đống đồ hai mắt đăm đăm. Ly Quán từ nhà trong bước ra, ngỡ ngàng nói: “Trần lang, thế này là sao?”

Trần Trù lẩm bẩm nói: “Nàng cứ coi như từ trên trời rớt xuống cái bánh to đi.”

Ngày thứ hai vẫn là một ngày đẹp trời. Sau khi bãi triều, Lan Giác vịn lan can, một mình từ từ đi xuống bậc thềm bằng ngọc. Từ phía sau Vương Nghiên đi tới: “Bội Chi, huynh sao thế? Bước đi cà rề thế này có phải trong người khó chịu không?”

Lan Giác đáp: “Cảm tạ đã quan tâm, không phải khó chịu gì chỉ là có chút mệt mỏi. Cứ đến đông là tôi lại dễ mệt.” Vừa nói đến đây, không nhịn được nâng ống tay áo che miệng, ngáp một cái.

Vương Nghiên nhíu mày nhìn y: “Thật không sao chứ? Tôi thấy sắc mặt huynh không tốt chút nào.”

Lan Giác cười nói: “Thật sự không có gì đâu.”
 
Chương 61


“Đại nhân, gần đây công vụ nặng nề, mong ngài bảo trọng quý thể.”

Lan Giác vừa xem xong công văn, đóng sổ lại, nhấc tay xoa xoa mi tâm. Tiểu lại bưng trà đến trước bàn công văn, liền nói thế.

Lan Giác vừa mới bưng tách trà lên nhấp một ngụm thì Thượng quan Lang trung của Chủ Khách ty đã đến đưa danh mục quà tặng dự kiến cho các nước chư hầu vào cuối năm. Lan Giác đặt tách trà xuống, nuốt vội ngụm trà, không tránh được bị sặc, bất giác ho vài tiếng. Thượng quan Lang trung lập tức nhìn y với vẻ lo lắng nói: “Đại nhân, trời lạnh gió hàn không dễ tránh, hôm nay ngài nên trở về nghỉ ngơi sớm đi, sức khoẻ vẫn là trên hết.”

Lan Giác khẽ cười đáp: “Chỉ là bị sặc mà thôi, không phải bị cảm mà ho đâu. Cảm tạ đã quan tâm.” Rồi nhận sổ trong tay của Thượng quan Lang trung. Thượng quan Lang trung nhìn sắc mặt của y, trong mắt ngập tràn lo lắng.

Tối đến, Lan Giác trở về phủ, gia nhân phục vụ y tắm rửa, nói: “Lão gia, tối nay đừng thức khuya nữa, nghỉ ngơi sớm đi ạ.”

Lan Giác gọi Lan Huy đến xem bài tập của nó, Lan Huy đu trên đầu gối của cha mình nói: “Cha à, cha ngủ sớm đi, Huy Nhi không làm ồn đâu.”

Sáng ngày hôm sau thức dậy, Lan Giác cảm thấy đầu nặng trịch còn cơ thể thì bải hoải, không kìm được ngáp liền hai cái. Gia nhân giúp y chỉnh trang phục ngẩng đầu nhìn y, sau khi đứng dậy nhỏ tiếng nói: “Lão gia, tối nay gọi Thôi thái y đến xem bệnh nhé?”

Lúc lên triều sớm, trong đại điện hình như không ấm như hồi trước nữa thì phải. Lan Giác ra khỏi hàng tấu việc, ánh mắt tiểu hoàng đế nhìn y tràn đầy quan tâm: “Lan ái khanh, có phải mấy hôm nay không nghỉ ngơi tốt không? Sau khi bãi triều trẫm gọi ngự y đến bắt mạch cho khanh.”

Lan Giác vội vã hành lễ nói: “Thần khấu tạ thánh ân, thần tuyệt đối không có bệnh gì. Trên điện thất lễ, lại khiến hoàng thượng lo âu, thần cảm động vô cùng.”

Tiểu hoàng đế nói: “Chúng ái khanh là rường cột của triều đình, phải biết quý trọng sức khoẻ. Công việc không cần gấp gáp, ngộ nhỡ làm thành bệnh, trẫm phải dựa vào ai đây? Vậy là lợi bất cập hại.”

Chúng bề tôi đều cảm tạ hoàng thượng quan tâm yêu thương. Sau khi bãi triều, Vương Nghiên kéo Lan Giác lại ở ngoài điện: “Bội Chi à, hay là huynh xin cáo nghỉ một ngày đi, mời đại phu xem thế nào, uống thuốc nghỉ ngơi cho khoẻ đi. Lễ bộ một ngày không có huynh cũng không sập đâu.”

Lan Giác bất đắc dĩ nói: “Sao hai ngày nay ai ai cũng nói tôi có bệnh vậy, chẳng lẽ sắc mặt tôi khó coi lắm sao?”

Vương Nghiên nghiêm túc nhìn sắc mặt y nói: “Mặt mang vẻ chán chường, quầng mắt xanh đen, so với mấy cái xác nằm ở phòng khám nghiệm tử thi ở Hình bộ bọn tôi thì đỡ hơn một chút.”

Lan Giác đáp: “Đa tạ so sánh quá hay của Vương Thị lang, Lan mỗ cảm thấy bản thân thần thanh khí sảng, có thể đi tới trăm dặm, cơm có thể ăn cả chục cân đấy.”

Vương Nghiên lại nhìn y chằm chằm, một lát sau thành khẩn nói: “Đừng ngang bướng nữa.”

“Đại nhân, hôm nay cáo nghỉ một ngày đi.” Đợi Lan Giác ra khỏi cung, lúc đang lên kiệu, gia nhân mang vẻ mặt khẩn thiết nói.

Lan Giác phất tay áo lên kiệu: “Tinh thần bản bộ viện tốt lắm, đi đến nha môn.”

Khi đã đến nha môn Lễ bộ, đám đồng liêu thuộc hạ nhìn thấy Lan Giác đều liên tiếp nói: “Lan đại nhân, về nghỉ ngơi sớm đi.”, “Sức khoẻ quan trọng lắm”, “Lễ bộ không thể không có đại nhân, do đó đại nhân càng phải yêu thương bản thân mình hơn.”…

Đến cả Cung Thượng thư hôm nay phá lệ đến nha môn làm việc cũng gọi Lan Giác đến nói một cách đầy yêu thương: “Lan Thị lang, mau về nằm nghỉ đi. Ngài tuy vẫn còn trẻ, nhưng cũng không thể xem nhẹ sức khoẻ như vậy. Lúc bản bộ đường còn trẻ cũng giống như ngài bây giờ vậy, cho rằng cái gì cũng chống đỡ được. Đợi đến khi ngài đến tuổi ta bây giờ mới biết lúc còn trẻ quý trọng bản thân thật sự vô cùng quan trọng đấy.”

Lan Giác cúi người đáp: “Đa tạ đại nhân quan tâm, hạ quan thực sự rất tốt, không hề cảm thấy bệnh tật gì.”

Cung Thượng thư thở dài một bận, rồi bảo Lan Giác cùng uống một chén trà dưỡng sinh do chính tay ông vừa mới ngâm.

Trong trà dưỡng sinh của Cung đại nhân có nhân sâm tự nhiên trăm tuổi. Sau khi Lan Giác uống xong có ra chút mồ hôi. Dưới ánh mắt yêu thương của mọi người, y xem công văn được một canh giờ thì chợt có dụ lệnh dưa đến nha môn, bảo y lập tức vào cung kiến giá.

Công công chuyển dụ lệnh nhìn Lan Giác, vẻ mặt không đành lòng, lén chuyển cho y một tin tức.

Lan Giác lại bị tố cáo rồi.

Cuối năm khó tránh lễ vật tới lui, một vài thứ bắt buộc phải biểu hiện, một số thứ khác quả thật không thể từ chối, tự nhiên sẽ có một chút hai chút lọt vào những cặp mắt đang ghim chặt lấy y.

Đến cả bọc dạt dẻ y mua kia cũng trở thành một tội danh, buộc tội y thân là Lễ bộ quan viên lại mua hàng ở chợ, thật nhục nhã không ra thể thống gì cả.

Lan Giác sớm đã da dày thịt thô, nghe thế còn có chút vui mừng, cuối cùng cũng có thứ để xem y là người bình thường rồi.

Y vội vàng tiến cung, đến Ngự thư phòng. Vĩnh Tuyên đế thở dài nói: “Lan ái khanh, trẫm biết rõ sự cực khổ của khanh. Mấy sổ con này, khanh xem đi, nếu như là bịa đặt trẫm sẽ nghiêm trị.”

Lan Giác nhận lấy sổ tội trạng của mình, phục người nói: “Thần…”

Đầu vừa cúi xuống, mặt đất trước mắt đều chao đảo cả.

Vĩnh Tuyên đế gọi: “Lan khanh?”

Lan Giác từ từ thẳng người dậy: “Thần thất lễ, mới nãy…” Mọi thứ trước mắt lại mơ hồ lắc lư, rồi một tấm màn đen từ trên phủ chụp xuống mắt y.

Lúc Lan Giác tỉnh dậy thì phát hiện bản thân mình đang nằm trên giường trong phòng ngủ.

Một bộ áo quan đập ngay vào tầm mắt, nhìn kỹ lại thì là Vương Nghiên đang ngồi ở đầu giường, mặt vô biểu tình nói: “Bội Chi, chúc mừng huynh đã tỉnh lại. Nếu ngộ nhỡ huynh cứ thế mà ngủ luôn thì có thể huynh sẽ chiếm nguyên phần đầu trong quyển sách huynh giúp Cung đại nhân biên soạn đấy.”

Lan Huy đu trên mép giường, nắm lấy ống tay áo khóc thút thít: “Cha ơi…cha ơi…”

Lan Giác động đậy khoé miệng, cười khổ nói: “Hoá ra tôi thật sự bị bệnh à, thật hối hận vì không nghe khuyên bảo.”

Y đón ánh nắng, khẽ nheo mắt lại. Trong phòng ngoại trừ Vương Nghiên ra còn có rất nhiều người mặc quan phục khác nữa, những người đang chuyển động kia, hình như là đang…dọn đồ đạc ở trong góc phòng.

Sắc mặt Lan Giác thoáng thay đổi, y muốn trở người dậy: “Vậy là bản bộ viện bị tịch biên rồi à?”

Vương Nghiên đè y xuống, ngồi xuống bên giường: “Bội Chi, đừng lộn xộn. Không phải huynh bị bệnh mà là bị kẻ khác hạ độc. Huynh nghĩ kỹ lại đi, mấy ngày nay huynh có chạm qua đồ gì kỳ quái hay không, hoặc có ăn thứ gì khả nghi không?”

Kẻ nào muốn giết Lan Giác?

Sau khi từ phòng Lan Giác đi ra, Vương Nghiên đứng dưới hành lang, suy nghĩ rất lung câu hỏi này.

Sau khi được vài thái y bắt mạch, cuối cùng cũng rút ra được kết luận chính xác là Lan Giác đã bị trúng độc. Thời gian hạ độc áng chừng hai ba ngày trước. Loại độc này phát tác rất chậm, người bị hạ độc không cảm thấy gì bất thường, chỉ là sắc mặt có chút giống nhiễm phong hàn hoặc lao lực quá độ mà thôi. Nếu như Lan Giác không uống qua tách trà dưỡng sinh của Cung Thượng thư, khiến độc tính bị kích thích phát nhanh thì có thể lúc bị mất mạng cũng chẳng hay biết gì.

Nghĩ đến đây, Vương Nghiên bất giác siết chặt tay, rồi lại ép buộc bản thân bình tĩnh lại, phân tích tình tiết vụ án.

Lan Giác đã làm quan được nhiều năm, kẻ thù không ít, nhưng y luôn là một ty bộ hoà nhã của Lễ bộ nên chưa từng kết huyết hải thâm thù với ai. Nhiều lần bị tố cáo cũng đều không phải vì vấn đề tác phong.

Hạ nhân trong nhà Lan Giác bình thường vô cùng cẩn thận, đến nước súc miệng còn kiểm tra qua nữa là.

Nói đến việc duy nhất Lan Giác đã từng làm khiến người ta phải nghiến răng căm giận chính là nhiều năm về trước đã lừa gạt ái nữ của Liễu lão đầu.

Người Liễu gia…sau nhiều năm trời mới hạ độc báo thù?

Trên nguyên tắc không thể bỏ qua bất cứ đầu mối nào cả, Vương Nghiên còn gọi tổng quản của phủ Lan Giác đến hỏi chuyện.

“Gần đây có người nhà Liễu gia nào đến không?”

Tổng quản đáp: “Thường thì nhiều năm cũng chưa từng qua lại, nhưng từ khi Liễu tiểu công tử đỗ trạng nguyên, vào Đại lý tự rồi thì thường đến đây. Nhưng…” Tổng quản trộm nhìn Vương Nghiên, “Liễu tiểu công tử chưa từng đem tới đồ ăn gì cả, ngược lại lão gia còn giữ cậu ấy lại ăn vài bữa cơm.”

Gia nhân thân cận của Lan Giác nức nở nói: “Tiểu nhân nhớ lại một chuyện, mấy ngày trước, có người gửi cho lão gia hộp bơ, lão gia còn ăn hai miếng nữa.”

Vương Nghiên liền biến sắc: “Cái gì? Sao không sớm nói cho bản bộ viện?”

Gia nhân run rẩy nói: “Vì hộp bơ đó đã được kiểm tra qua, hơn nữa đó là…”

“Đại nhân.” Một tên thuộc hạ vội vàng chạy đến hành lang, “Người của Đại lý tự đến rồi, nói án này tính chất trọng đại nên do bọn họ phụ trách…”

Con ngươi của Vương Nghiên hằn tia đỏ, phất ống tay áo nói: “Bảo bọn chúng cút! Có giỏi thì kêu đích thân Đặng Tự đến đây mà giành! Ngọc hoàng đại đế có đến vụ án này lão tử ta cũng không nhường đâu! Canh cho tốt mọi lối đi và bên ngoài tường, không cho bọn họ đến gần dù chỉ một bước!!”

Thuộc hạ hăng hái hô vâng, chạy như bay rời đi. Vương Nghiên giơ tay túm lấy cổ áo của tên gia nhân: “Nói, hộp bơ đó do ai đưa tới?”

Hai hàm răng của tên gia nhân đánh cầm cập: “Bẩm, bẩm Vương đại nhân…hộp bơ đó là do Trương Bình gửi tặng lão gia, lúc lão gia ăn còn nói, tuyệt đối không thể nào có độc…”

Trương.Bình.

Vương Nghiên thả tên gia nhân ra, ánh mắt ánh lên màu lục quang: “Hộp bơ đó đâu? Ngoài nó ra còn gửi đến gì nữa?”

“Trương Bình hạ độc?” Lan Giác ngơ ngác rồi lại ngồi dậy, “Làm sao có thể chứ?”

Vương Nghiên lại ấn y nằm lại dưới chăn: “Tôi đã sai người kiểm tra rồi, độc nằm trong đống đồ tên đó gửi đến, nhưng không phải là hộp bơ, mà là bức thư kia.”

Độc được hạ vào trong bức thư, độc tính cực mạnh, cho dù sao đó có rửa tay đi chăng nữa độc vẫn còn sót lại, rồi theo thức ăn vào trong miệng.

Vương Nghiên gằn giọng chậm rãi nói: “Tôi biết, dù trời có sập thì cũng không phải là do tên tiểu tử đó làm. Việc này chắc chắn là có người hãm hại. Nhưng ai lại biết rõ quan hệ giữa huynh và tên nhóc đó chứ, hiểu rõ đồ tên đó gửi đến huynh sẽ không phòng bị, tranh thủ thời cơ ra tay?”

Mấy ngày nay Trần Trù rất phiền não. Nên cất đồ do Lan Thị lang tặng ở đâu đây. Đống tơ lụa thì nhét không vừa hòm, cũng không thể cứ thế ném xuống đất. Đồ trang trí bằng sứ càng không biết phải đặt ở đâu, mà đem đi bán đổi lấy tiền xài cũng không hay lắm. Đúng là thói nghèo hưởng không nổi phú quý.

Trần Trù thở dài một hơi, Ly Quán nhẹ giọng gọi: “Trần lang, cơm xong rồi đây.”

Trần Trù đứng dậy, đi đến trước bàn cơm. Ly Quán đang bưng tô canh đặt lên bàn, trong khói trắng mờ mịt, gò má của cô khẽ ửng đỏ, kiều diễm như cánh hoa.

Trần Trù đưa tay giúp cô lau đi bột mì dính trên gò má, Ly Quán cười rực rỡ.

Ầm!!!!

Cửa lớn bị đẩy ngã, gió lạnh thốc vào. Một đám quan sai tay cầm binh đao, lật đổ bàn ghế, tay vác xiềng xích túi trùm đầu hướng về phía Trần Trù và Ly Quán.

“Bắt lấy nghi phạm Trần Trù và những kẻ có liên quan!”

Trần Trù vừa bị đẩy vừa bị kéo ra khỏi phòng, vùng vẫy trong mờ mịt. Phục sắc của đám quan sai này sao quen mắt quá, tình này cảnh này càng quen thuộc biết bao nhiêu.

“Ly Quán…Ly Quán….các vị quan gia, tiểu sinh phạm vào tội gì, sao lại bắt người vô cớ như vậy!”

Đám quan sai này rất giống người của Hình bộ.

Sao lại thế này…sao lại thế này chứ?

Trong cơn hỗn loạn, Trần Trù giãy dụa tìm kiếm Ly Quán, một bàn tay bắt lấy cằm gã, nhét vào miệng gã một miếng vải.

“To gan dám hạ độc hại Lễ bộ thị lang đại nhân, muốn nói gì thì đợi lên công đường hãy nói!”

Cái gì? Cái gì? Cái gì???

Mẹ ơi, sao lại là tôi dính phải mấy chuyện này?

Trần Trù căm uất ú ớ vật lộn, sau lưng là tiếng loảng xoảng, là âm thanh của ngôi nhà bị đập phá.

Ly Quán bị lôi đi, Trần Trù kêu khóc, đang vùng vẫy thì bị kéo đến xe ngựa kế bên đường.

Đột nhiên, tiếng vó ngựa vang lên dồn dập, một đám huyền y nhân thúc ngựa nhào đến.

“Vụ án này do Đại lý tự điều tra, mau bỏ nghi phạm ra!”

Đầu mục tiến lên một bước, đứng chắn trước đường: “Đây là án của Hình bộ bọn ta, ai dám tự ý đến cướp?”

Đám huyền y nhất tề ghìm ngựa, chỉ duy có một người chậm rãi thúc ngựa ra khỏi đám đông, vuốt vuốt bộ râu ngắn trên mép.

“Tiểu tử, ngươi xem bản tự có tư cách không?”

“Đại nhân!” Sai dịch đâm bổ vào phòng, “Nghi phạm giữa đường bị Đại lý tự giành lấy rồi!”

Vương Nghiên đập bàn đứng dậy: “Khốn nạn! Tên vương bát đản nào làm hả?”

“Là…Đặng Tự đại nhân đích thân ra tay.”
 
Chương 62


Vương Nghiên xông cửa bước ra, thiếu chút nữa đụng phải người bên ngoài cửa, người đó vội vã thụt lùi hai bước, khom người xuống.

Vương Nghiên nén nhịn nhìn lại thì phát hiện ra là Vưu thái y.

“Vương đại nhân…độc của Lan Thị lang có chút…” rồi trộm nhìn gương mặt đen thui của Vương Nghiên.

Khổng lang trung đứng kế bên vốn biết Vương Nghiên ghét nhất là người ấp a ấp úng, nên vội vàng thấp giọng nói trước khi Vương Nghiên nổi sùng: “Đại nhân, tình hình của Lan Thị lang sợ rằng không ổn rồi.”

Vương Nghiên ngẩn ra: “Không phải độc đã được giải rồi sao?”

Vưu thái y lau mồ hôi trên trán: “Hôm trước đã dịu đi rồi nhưng không biết tại sao lại trở nặng lại…”

Mọi người xung quanh nhìn thấy bộ dáng như muốn nhào đến túm lấy Vưu thái y của Vương Nghiên liền vội vàng đứng vây phía trước chặn lại. Khổng lang trung nói tiếp: “Mới nãy Lan Thị lang lại bất tỉnh nhân sự rồi, còn nôn ra máu nữa.”

Trần Trù bị hộ vệ Đại lý tự cướp khỏi tay của bộ khoái Hình bộ, đầu bị một cái túi đen trùm lại. Trong lúc mò mẫm, không biết đã trải qua bao nhiêu lần xóc nảy, kéo đẩy, lảo đảo, đến khi bị ấn quỳ xuống đất, cái túi được tháo ra, mắt lại được nhìn thấy ánh sáng thì phát hiện bản thân đang ở trong một gian thạch thất. Bốn bức tường đuốc cháy rừng rực, không phân rõ là ngày hay đêm. Ly Quán cách gã vài bước. Lòng Trần Trù đau đớn khôn cùng, gã khóc hai tiếng, bổ nhào về phía Ly Quán.

Quán nhi, đều là lỗi của ta, đều tại ta xấu số, mệnh phạm hình họa, làm liên luỵ đến muội rồi!

Ly Quán nhìn Trần Trù, hai con ngươi trong suốt tĩnh mịch, hệt như muốn nói, muội không trách huynh.

Hai mắt Trần Trù cay cay. Cửa thạch thất ình ình mở ra, Đặng Tự cùng vài tuỳ tùng thong thả bước vào.

Trần Trù vội vã bổ nhào về trước nhưng bị thị vệ giữ lại, chỉ có thể nhìn chằm chằm Đặng Tự ưm ư không thôi. Đặng Tự phất tay, thị vệ gỡ miếng giẻ trong miệng gã ra. Trần Trù vội gào thét một tràng: “Đại nhân, học trò bị oan! Đại nhân ngài biết học trò mà, học trò là người lương thiện!”

Đặng Tự ngồi xuống một cái ghế, hỏi: “Phong thư mà ngươi đưa Lan Thị lang tại sao lại có độc?”

Trần Trù gấp đến độ đầu như muốn phình ra, bên tai vang tiếng ong ong: “Đại nhân, học trò thực sự không biết! Bức thư đó là do Trương Bình, bạn hữu của học trò nhờ học trò đưa cho Lan đại nhân. Lan đại nhân là quý nhân của Trương Bình, Trương Bình tuyệt đối không thể hại ngài ấy, học trò càng không thể mưu hại Lan đại nhân được! Học trò chỉ là một thư sinh nghèo, mưu hại Lan đại nhân thì được ích lợi gì chứ?”

Đặng Tự nghe gã nói xong lại hỏi: “Vậy cô gái bên kia là ai?”

Trần Trù run rẩy, vội vã trả lời: “Cô ấy, cô ấy là biểu muội của học trò, lúc ra đời đã được đính ước với học trò! Sau đó, sau đó thì thất lạc nhau, rồi lại gặp nhau…cô ấy chỉ là đàn bà con gái, làm sao có thể biết Lễ bộ thị lang, chuyện này tuyệt đối không liên quan đến cô ấy…”

Hai mắt Đặng Tự khẽ nheo lại: “Ồ, biểu muội à. Họ? Quê quán?”

Miếng giẻ trong miệng Ly Quán được gỡ ra, cô mở miệng đáp: “Bẩm đại nhân, dân nữ tên gọi Ly Quán. Trần lang, đừng bao che cho muội trước mặt đại nhân, nếu không sẽ gặp họa đấy.” Rồi khẽ ngẩng đầu lên, “Đại nhân, dân nữ không phải là biểu muội của Trần lang, là người của thôn Hạnh Tử, trấn Song Toàn, quận Phủ Lâm. Về sau quê nhà bị lũ lụt, cha mẹ đều đã qua đời, chỉ còn lại một mình dân nữ, lưu lạc phong trần. Vốn bị mẹ bán cho Tào viên ngoại ở phủ quận Mộc Thiên, trên đường đi tình cờ gặp Trần lang rồi nảy sinh tình cảm…”

Đặng Tự liếc sang Trần Trù: “Ngươi mua lại cô gái này từ tay Tào viên ngoại à?”

Trần Trù nghẹn lời.

Đặng Tự tựa tiếu phi tiếu nói: “Bản tự hiểu rồi. Bắt cóc cơ thiếp của người ta, theo luật phải chịu hình phạt. Nhưng đây không thuộc về quyền hạn của Đại lý tự, đợi án này xong rồi xem xem phủ Mộc Thiên có quản hay không.”

Trần Trù nằm phục xuống đất.

Đặng Tự quét mắt qua Ly Quán nhưng tầm nhìn vẫn rơi xuống người Trần Trù: “Lúc bản tự vi phục ở huyện Nghi Bình từng nhìn thấy ngươi ở trên phố.”

Trần Trù nói luôn miệng: “Vâng! Vâng! Học trò ở tạm trong nhà của Trương Bình Trương Huyện thừa, lúc đại nhân vi phục có coi mệnh qua cho học trò, học trò…”

Đặng Tự nhướng mày: “Ngươi thường hay đi loanh quanh trên phố?”

Trần Trù đáp: “Bởi vì bình thường học trò không có việc gì làm, uống rượu không tồi, nên thường…”

Đặng Tự cắt ngang gã: “Sau đó sao lại không ở Nghi Bình nữa rồi?”

Việc này, nếu nói ra chuyện kia của Cao Tri phủ hình như không thích hợp lắm.

“Học trò muốn ba năm sau lại đi thi tiếp nên ở kế bên Kinh Thành khá là…”

Đặng Tự lại cắt ngang gã: “Trương Bình bảo ngươi đưa thư cho Lan Thị lang, là nhờ ai chuyển đến?”

Trần Trù đáp: “Là Chu Thừa, nha dịch ở Huyện Nghi Bình.”

Đặng Tự lại hỏi: “Lúc ngươi đến phủ Lan Thị lang đưa thư, ở trong kinh tổng cộng mấy ngày?”

Trần Trù đáp: “Hai ngày. Sau khi học trò đưa danh thiếp xong thì cũng không gặp Lan Thị lang ngay lập tức. Sợ để lỡ lệnh gọi đến nên không dám quay về nhà, nên cứ thế mà chờ.”

Đặng Tự khẽ gật đầu: “Đã đưa danh thiếp lên rồi, sao không gửi thư và đồ cho người của Lan phủ luôn thể?”

Trần Trù đáp: “Việc này…học trò cảm thấy thư rất quan trọng, vẫn nên đích thân chuyển đưa vẫn tốt hơn.”

Hai mắt của Đặng Tự khẽ nheo lại: “Ngươi nói với hạ nhân của Lan phủ rằng ngươi ở quán trọ Hồng Xương nhưng bản tự điều tra thấy sau khi ngươi đưa thư xong thì mới vào ở trong quán trọ đó, trước đó thì hoàn toàn không có.”

Trần Trù cả kinh: “Đại nhân, đó là, đó là do học trò sợ mất mặt, vì để giữ thể diện nên mới nói bản thân ở trong quán trọ Hồng Xương…chứ thật ra kinh tế học trò eo hẹp, làm sao ở nổi chỗ đó…”

Đặng Tự nhìn gã: “Vậy đêm đó ngươi ở đâu?”

Trần Trù đáp: “Cũng không ở quán trọ nào cả…chỉ là đi lung tung trên phố hết một đêm. Đại nhân, lời học trò nói toàn bộ đều là sự thật. Đại nhân, học trò thực sự bị oan mà đại nhân…”

Đặng Tự vẫn không lý giải nổi nhưng cũng không hỏi nữa, chỉ đứng dậy, dặn dò hộ vệ giam riêng Trần Trù và Ly Quán ra.

Từ lúc Lan Giác lại rơi vào hôn mê thì cho đến tối muộn vẫn chưa tỉnh lại lần nào.

Vương Nghiên đứng ở trước giường nhìn gương mặt xám nghoét của Lan Giác, cố kìm nén cơn sốt ruột trong lòng, gọi Vưu thái y đến chỗ hành lang, hỏi dứt khoát: “Độc của Lan Thị lang rốt cuộc có thể giải được không?”

Vưu thái y do dự đáp: “Lão phu và mọi người đang cố hết sức để chữa trị, chỉ xem trong hai ba ngày này nếu có chuyển biến tốt đẹp thì…”

Vương Nghiên lạnh lùng quay người đi. Ánh trăng sáng mỏng tựa lưỡi câu treo nghiêng lưng trời, chiếu ngân quang lạnh lẽo xuống lớp tuyết đọng trên mái ngói.

“Vương công tử tương lai có thể trở thành thần thám của bản triều đấy.”

Nhớ năm đó, y vì muốn cho Lan Giác biết nhập bọn chung với Vương thiếu đây sẽ có biết bao lợi ích nên đã cố ý dắt y ta đến câu lan Triều Triều Các lớn nhất Kinh Thành để mở mang tầm mắt. Tú bà dắt lên mấy nữ tử biết bập bẹ mấy câu bằng giọng điệu êm ái của vùng Giang Nam, còn bảo là người mới vừa tuyển từ Giang Nam về, nhưng Vương Nghiên chỉ bằng vào mấy câu đã bóc tách chỉ ra ngay sơ hở trong lời nói, cử chỉ, khẩu âm, tướng mạo của mấy cô này. Tú bà nằm phục dưới đất thỉnh tội, Lan Giác kế bên lại khá kinh ngạc nhìn y: “Không ngờ Vương công tử lại có nhãn lực thế này, sau này có thể làm thần thám của bản triều rồi.”

Kỳ thực Vương Nghiên trong lòng hiểu rất rõ, sau khi Lan Giác bị cái tên nghèo kiết xác kia bỏ rơi mới qua lại với y, giọng điệu thường có chút ngọt nhạt, thỉnh thoảng phụ hoạ y hai ba câu cũng giống như cam chịu vậy, có lệ vô cùng. Chỉ là Vương Nghiên không thèm so đo tính toán, khí phách của Vương thiếu y, người tiếp xúc lâu rồi tự nhiên sẽ tự lĩnh hội được thôi.

Câu này của Lan Giác khiến cho Vương Nghiên ngay lập tức mở cờ trong bụng.

Này xem như đã lĩnh hội được một hai phần rồi đấy nhỉ.

Cái này chỉ là một phần xíu xiu trên bề mặt mà thôi.

Về sau còn nhiều thứ khiến tâm ngươi mắt ngươi không thể giả vờ được nữa đâu.

Vương Nghiên quạt nhè nhẹ, cười nhàn nhạt với tú bà: “Nghĩ lại thì đây hẳn là câu đố đặc biệt dành cho bản thiếu ta. Thôi, đã giải ra được rồi, mau gọi người thật lên đi.”

Tú bà như được ân xá, liên tục dập đầu, rồi bò ra ngoài, dâng lên rất nhiều quà tạ lỗi.

Lan Giác lại nói: “Không ngờ Vương công tử lại độ lượng như vậy.”

Vương Nghiên lại quạt nhè nhẹ cười khà khà, đến kẻ như ngươi gây sự với người bản thiếu, bản thiếu còn hạ mình kết giao, mở mang trí tuệ, chẳng lẽ không phải sớm đã cảm nhận được rồi sao?

Gió lạnh thổi qua hành lang, Vương Nghiên cảm thấy ống tay áo bị kéo căng, cúi đầu nhìn xuống thì thấy Lan Huy mũi đỏ ửng đang nắm lấy ống tay áo y.

“Vương bá phụ, cha của con…”

Đứa trẻ này chỉ có mũi và trán là giống Lan Giác, còn lại đều giống mẹ như đúc, đặc biệt là dung mạo.

Nhìn thấy nó, Vương Nghiên không khỏi nhớ lại những lời phỉ báng Lan Giác phải chịu nhiều năm về trước.

Kỳ thực rõ ràng là khuê nữ của Liễu lão đầu bám dính lấy Lan Giác.

Kỳ thực theo tính toán của Vương Nghiên, Lan Giác y ta vốn phải là muội phu của y.

Năm đó khi Lan Giác đỗ thám hoa, Vương Nghiên liền nảy sinh ý nghĩ này. Tướng mạo của muội muội y là Uẩn Khởi rất xứng đôi với Lan Giác, chỉ là tính tình lợi hại hơn một chút, đã từng có ý cho nó nhập cung nhưng bị Vương Cần tìm cớ thoái thác, chỉ sợ một ngày nào đó nó không vui lại bộc phát tính tình, đem cả nhà lão Vương gia treo cổ thì nguy.

Vương Cần thường nói, tốt nhất là đừng gả nó đi, tìm một người ở rể, con dâu ở lại nhà mẹ đẻ sống là được rồi.

Vương Nghiên suy nghĩ, Lan Giác là thích hợp nhất, xuất thân kém một chút nhưng vừa hay lại có thể ở rể. Với tính cách của Lan Giác cũng sẽ không để muội muội dễ dàng bắt chẹt, nói không chừng còn có thể chống lại tính cách la sát của muội muội nữa. Tướng mạo của y ta lại đúng kiểu muội muội thích nhất. Uẩn Khởi còn hỏi thăm y: “Ca, nghe nói tân thám hoa năm nay rất tuấn tú, đẹp đến nỗi trạng nguyên cũng không bằng. Ca, có phải huynh quen với người đó không, bữa nào kêu người đó đến nhà xem mặt nhé?”

Vương Nghiên trưng mặt nghiêm túc nói: “Không biết xấu hổ, tiểu thư khuê các sao có thể nói mấy lời này.” Nhưng trong lòng lại vui vẻ khấp khởi hy vọng, nhân lúc An vương phi mừng thọ, bèn dẫn Lan Giác cùng dự tiệc, giả vờ ăn uống no say đi nhầm đường, xông nhầm vào nội hoa viên của nữ quyến ở.

Vốn theo sắp xếp, Uẩn Khởi phải đang đứng bên bờ ao tay vịn lan can đối diện với nguyệt môn ngắm cá, với dung mạo của Uẩn Khởi, nhìn nghiêng nửa mặt là đẹp nhất. Hơn nữa tư thế vịn lan can cũng toát lên nét nhã nhặn, chỉ cần liếc mắt một cái là hai người có thể đối mắt nhau, xem như là thành công rồi.

Ai mà biết được khi vượt qua trùng trùng điệp điệp trạm gác, đến trước nguyệt môn, bên bờ hồ có một thiếu nữ mang theo vài tiểu tuỳ đang cho cá chép ăn, thiên tư tuyệt sắc, Vương Nghiên nhìn thấy mắt đều nhìn thẳng. Nhưng sau đó mới tá hỏa, không phải Uẩn Khởi, Uẩn Khởi đi đâu mất rồi?

Đang kinh ngạc thì tiểu tỳ liếc ra cửa thấy có đàn ông, hét lên một tiếng kinh hãi, vị thiếu nữ kia liền đảo mắt lại nhìn.

Sau đó…

Sau đó thì bắt gặp ánh mắt của Lan Giác.

Thiếu nữ tuyệt sắc này là ái nữ của Liễu Tiễn. Uẩn Khởi vì đi bắt bướm với thiên kim của Vân Tướng, cãi vả hai ba câu mà để lỡ sự.

Chỉ vì một con bướm mà để mất một người tướng công, thiệt là ngu xuẩn quá thể!

Mới đầu Lan Giác cũng không có ý gì với con gái của Liễu Tiễn, nhưng Liễu tiểu thư lại vì một ánh mắt kia liền nảy sinh tình thâm ý nặng với Lan Giác, nghe nói còn nữ cải nam trang đến tìm Lan Giác, khăng khăng không phải y thì không gả. Nề nếp nhà Liễu gia liền trở thành trò cười, Liễu lão đầu cũng bị chọc cho tức chết đi được.

Cũng may là hôn sự sau này của Uẩn Khởi cũng không nỗi nào.

Liễu tiểu thư sau khi gả cho Lan Giác chưa tới hai năm thì qua đời, để lại cho Lan Giác một Lan Huy, cộng thêm cái danh dụ dỗ thiên kim thái phó.

Vương Nghiên xoa xoa đầu của Lan Huy, cứng cỏi đáp: “Yên tâm, cha con chỉ cần nghỉ ngơi là sẽ khoẻ lại thôi. Vương bá phụ nhất định sẽ bắt cho được kẻ đã hại cha con thành ra thế này!”

Lan Huy khóc thút thít gật đầu, Ngô Sĩ Hân và vài hạ nhân dỗ nó đi ngủ.

Vương Nghiên gọi tuỳ tùng thuộc hạ: “Đi, về nha môn.”

Đợi ở nơi này chỉ hao phí tinh lực, điều tra ra hung thủ mới là việc cấp bách lúc này.

Bắt được hung thủ rồi, nói không chừng có thể tìm ra thuốc giải độc.

Tuỳ tùng sợ hãi nói: “Đại nhân, hay là trở về phủ nghỉ ngơi trước đi? Không phải vụ án đều đã bị Đại lý tự…”

Vương Nghiên cười lạnh nói: “Quan to tam phẩm bị mưu hại, vụ án lớn thế này, Đại lý tự sao có thể một mình xử lý? Hình bộ phải trợ giúp.”

Trần Trù bị giam trong một phòng lao nhỏ tối thui, dường như trải qua mấy ngàn vạn năm thì một âm thanh vang lên từ phía cánh cửa. Trần Trù kinh hỉ bò về phía cửa.

Chẳng lẽ là Trương Bình đến?

Trương Bình đến rồi, việc này khẳng định có thể tìm ra lời giải!

Cửa mở ra, hai lính canh ngục bước vào, đặt cặp lồng xuống, từ bên trong lấy ra một dĩa đậu hũ cải trắng, một dĩa bột mì xào hoàn tử, một tô canh giá đỗ, một tô cơm.

“Ăn đi, ăn xong thì đi theo chúng ta.”

Cả người Trần Trù run rẩy, hai mắt tối sầm, nước mắt chảy xuống: “Các vị đại nhân, các vị lão gia, đừng như thế này mà! Án vẫn còn chưa thẩm vấn! Tôi bị oan mà! Đây là án oan! Tôi muốn báo lên trên! Tôi…”

Lính canh ngục sốt ruột nói: “Mau ăn đi, Đại lý tự bọn ta từ trước đến nay chưa từng xử oan án. Đại nhân đang muốn hỏi chuyện ngươi đấy!”

Ơ? Hoá ra không phải là bữa ăn cuối cùng.

Ngồi đại lao ở Đại lý tự đều được ăn ngon thế này ư.

Trần Trù phi như bay lại chỗ cơm, gặp họa ngục tù này quả thực ăn uống chẳng thấy ngon lành gì. Trong bột mì xào với hoàn tử có mùi của vụn tỏi xào rất thơm, ăn hết cơm canh cũng no căng bụng rồi.

Trần Trù nuốt xuống cọng giá cuối cùng trong bát, đứng dậy: “Đã để hai vị sai gia đợi lâu, đi thôi.”

Lính ngục còng tay gã lại, rồi trùm bao bố lên đầu gã, dẫn gã ra khỏi lao ngục. Sau khi đi hồi lâu thì dừng lại, đợi đến khi mắt đã quen với ánh sáng, Trần Trù mới phát hiện mình vẫn đang ở trong gian thạch thất lần trước.

Ly Quán cũng bị giải đến, quỳ ở một chỗ không xa.

Đặng Tự vẫn đang ngồi ở cái ghế đã ngồi lần trước, ánh nhìn sắc bén ghim lên người Trần Trù.

“Bản tự vừa nhận được tin tức do người được phái đến Nghi Bình điều tra gửi bồ câu đưa đến, mấy ngày trước Chu Thừa đột nhiên mất tích, một tiều phu đã phát hiện ra xác chết của hắn ở trong rừng. Phủ Mộc Thiên cũng gửi tin đến, Trương Bình đang ở chỗ Cao Tri phủ, y chưa từng gửi thư cho ngươi hay Lan Thị lang gì cả. Kết quả khám nghiệm tử thi cho thấy, Chu Thừa chết bởi một nhát đao, hơn nữa là chết trước khi Trương Bình khởi hành đi Phủ nha Mộc Thiên. Ngươi nói cho bản tự biết, một kẻ đã chết nhiều ngày trước làm sao có thể đem một đống đồ cùng thư mà Trương Bình chưa từng viết qua đến tận nhà ngươi?”
 
Chương 63


Việc này…

Việc này…

Việc này…..!!!!

Trần Trù choáng váng đầu óc, gan ruột lạnh đi, hai mắt hoa lên, hai lỗ tai ong ong, ba hồn sáu phách như đã bay ra khỏi cơ thể gã vậy.

Việc này…làm sao có thể cơ chứ!

Rõ ràng…

Trần Trù há hốc miệng, cổ họng ú ớ vài tiếng, giống như cơn đại hồng thuỷ đâm sầm vào con đê mà đổ ào xuống vậy.

“Đại nhân, việc này không thể nào, việc này tuyệt đối là giả, Chu Thừa đó Chu Thừa đó Chu Thừa đó…”

Rõ ràng tên Chu Thừa đó có đến mà, còn mang theo một đống đồ lớn, còn nói cả một tràng nữa là!

“…Bức thư đó quả thực là bút tích của Trương Bình viết mà, tôi quen với y bao nhiêu năm như vậy làm sao đến cả chữ viết của y cũng không nhận ra cơ chứ! Đại nhân, học trò quả thật bị oan mà đại nhân!”

Sao có thể, rốt cuộc chuyện này là sao?

Chẳng lẽ là mình đang nằm mơ, chẳng lẽ tất cả chuyện này đều là một cơn ác mộng?

Trần Trù nhích đầu gối lên hai bước: “Đại nhân, hai bức thư kia vẫn còn, đại nhân có thể đối chứng, quả thực là chữ viết của Trương Bình!”

Đặng Tự khẽ gõ vào tay ghế: “Trần Trù, những việc ngươi làm quả thực có rất nhiều điểm đáng nghi. Đột nhiên rời khỏi Huyện Nghi Bình, giữa đường bắt cóc cơ thiếp của người ta, rồi đến Kinh Thành. Nói là đến đưa thư nhưng lại không chịu đưa thư và đồ cho hạ nhân giữ cửa chuyển giúp. Lưu lại Kinh Thành hai đêm, nhưng không ai có thể làm chứng việc ngươi tá túc ở đâu, đã làm những gì. Bản tự cũng muốn hỏi ngươi, Trương Bình chưa từng viết qua bức thư này, vậy thư có bút tích của y, ngươi từ đâu có được? Một kẻ đã chết làm sao có thể đi đến nhà ngươi đưa thư?”

Trần Trù sốt ruột đến độ răng đánh vào nhau cầm cập, những điều cần phân trần quá nhiều, thế nhưng lại nói không ra lời. Ly  Quán ở bên cạnh đột nhiên ngẩng đầu nói: “Đại nhân nói như thế không phải là quá thiên lệch rồi sao?”

Đặng Tự đảo mắt sang nhìn cô: “Ồ?”

Trần Trù vội nói: “Ly Quán, chuyện này muội đừng nhúng vào.” Rồi lại nhìn Đặng Tự, “Đại nhân, chuyện này không liên quan đến cô ấy!”

Ly Quán và Đặng Tự đối mắt với nhau, trong ánh mắt không hề có tia sợ hãi: “Những điều Trần lang nói, mỗi câu đều là sự thật, dân nữ có thể làm chứng cho huynh ấy. Hôm đó người đó quả thật có đến, đồ và thư được đem đến đều ở trong nhà, đại nhân có thể sai người đến kiểm tra. Vật chứng nhân chứng đều có đủ, sao đại nhân còn nghi ngờ Trần lang làm giả?”

Đặng Tự sờ sờ ria mép: “Ngươi quen biết Chu Thừa?”

Ly Quán đáp: “Dân nữ không quen biết.”

“Ngươi đã không quen biết thì làm sao có thể chứng minh Chu Thừa đã đến chỗ ngươi và Trần Trù sống chung đưa đồ?”

Ly Quán không nhanh không chậm mà đáp: “Dân nữ không quen với người tên Chu Thừa đó nhưng quả thật có người đến đưa đồ và thư, việc này chính mắt dân nữ nhìn thấy.”

Đặng Tự nói: “Trần Trù khai, người đưa thư đó chính là Chu Thừa.”

Ly Quán đáp: “Vậy thì đại nhân càng không nên nghi ngờ Trần lang, nếu Trần lang biết Chu Thừa sớm đã chết rồi vậy thì hà tất gì cần phải bịa ra lời nói dối này, ngoài việc chuốc hoạ vào thân thì còn có ích lợi nào khác ư?”

Đặng Tự cười: “Giỏi cho một nữ tử thông minh nhanh miệng.”

Ly Quán ngửa đầu nhìn thẳng Đặng Tự: “Dân nữ chỉ nói sự thật, Trần lang có nhân chứng vật chứng, đại nhân vẫn cứ nghi ngờ. Người tên Trương Bình kia chỉ nói một câu y chưa từng viết qua bức thư đó đại nhân liền tin. Không khỏi thiếu công bằng rồi.”

Trần Trù sợ Ly Quán rước hoạ vào thân, liên tục lên tiếng cùng ra dấu cho cô đừng nói nữa. Đặng Tự khép mắt lại: “Bản tự xử án nhiều năm, há có thể bị một nữ nhi nghi ngờ sự công bằng ư?” Rồi lại nhìn Trần Trù, “Bản tự sớm đã phái người gọi Trương Bình đến kinh rồi, có lẽ ngày mai y sẽ đến đây. Đến lúc đó hai người các ngươi trực tiếp đối chất nhé.”

Rồi ông đứng dậy, dặn dò mọi người giải Trần Trù và Ly Quán về nhà lao.

Lúc sắp bị đội bao bố lên đầu, Trần Trù gọi một tiếng Ly Quán, nhìn cô chằm chằm, Ly Quán giao mắt với gã, khẽ mỉm cười, dường như đang dùng ánh mắt mà nói, không sao đâu, nhất định sẽ không sao đâu.

Bóng tối lại phủ chụp xuống đầu gã, có một dòng nước âm ấm chảy xuống hai gò má của Trần Trù.

Vương Nghiên đem theo bộ khoái xuyên đêm đến viếng thăm Đại lý tự. Đại môn nha môn Đại lý tự đóng chặt, tối như hũ nút. Tiểu lại trông cửa nói, chạng vạng Đặng đại nhân và các vị đại nhân khác đều đã về nhà cả rồi.

Vương Nghiên tựa tiếu phi tiếu quay đầu nhìn đám bộ khoái sau lưng nói: “Bọn các ngươi không may vào nhầm nha môn rồi, đi theo bản bộ viện quanh năm suốt tháng xử án cả ngày lẫn đêm, nếu như vào Đại lý tự thì đâu phải thế này đâu nhỉ?”

Tiểu lại trông cửa cong thắt lưng cười hi hi nói: “Vương đại nhân nói đúng lắm, bọn tiểu nhân cũng thường buồn bực lắm, Đặng đại nhân ăn ngon ngủ ngon như thế mà sao trong nháy mắt có thể phá được án rồi.”

Vương Nghiên hừ lạnh một tiếng, mang theo đám bộ khoái phất tay áo rời đi.

Tiểu môn lại nhìn theo bóng dáng bọn họ rồi đi vào trong.

Một lát sau, hộ vệ bẩm báo lại Đặng Tự: “Đại nhân dự đoán không sai, tên Vương Nghiên kia lại đến rồi. Đã bị đuổi đi ở cửa trước rồi, nhưng chỉ sợ hắn sẽ không dừng lại.”

Đặng Tự cười khà khà nói: “Kệ hắn đi, tên tiểu tử này, trên đầu hắn còn có một lão Châu, muốn đấu với bản tự hãy còn sớm đấy. Chuyện trước kia cũng không muốn so đo với hắn làm chi.”

Thị vệ trưởng xoa tay cười nói: “Đúng vậy, lần nào đó không phải Hình bộ bọn họ sơ suất khiến Đại lý tự chúng ta phải thay họ sửa chữa sao, đều do đại nhân phúc hậu nếu không thì đã mạnh tay khiến Ngự sử đài làm bọn chúng sụp đổ rồi!”

Đặng Tự rờ rờ bộ râu: “Ai, lão Châu cũng là một người nhân hậu, nể mặt ông ấy, bản tự cũng không thể không giúp một chút.”

Lão tiểu tử Bốc Nhất Phạm cũng là loại để cho đám người dưới trướng ông ta bắt chẹt gây khó dễ với Lan Giác, nào dám động đến con trai của Vương Cần.

“Vương tiểu tử làm việc có hơi ngang ngược một chút nhưng là người làm việc thực tế.”

Vương Nghiên xem hồ sơ hết một đêm, đến ngày hôm sau thì đi tìm Đào Châu Phong. Vụ án này do Hình bộ phát hiện ra trước tiên. Lan Giác trúng độc, mấy kẻ nghi phạm, chứng cứ trọng yếu đều do Hình bộ điều tra ra trước cả, Đại lý tự chỉ việc tiếp nhận, manh mối còn thiếu sót, mạch suy nghĩ không ăn khớp với nguyên do, mong suy xét cho hai bộ cùng hợp tác xử án, tam ty hội thẩm.

Đào Châu Phong nói vụ án này vô cùng quan trọng, nhưng việc các ty bộ hợp tác với cũng quan trọng không kém. Đặng Tự trước nay làm việc rất cẩn thận chặt chẽ, vụ án này nhất định đã được hoàng thượng gật đầu, hơn nữa những liên can hệ trọng mới nãy đã được chuyển giao đi rồi. Cho dù có như thế đi nữa, thì dựa vào sự hợp tác và tình cảm giữa các ty bộ trong triều đình cũng chỉ tạo nên một đống bùn nhão mà thôi.

Vương Nghiên ráng nhịn dữ lắm mới giữ được dáng vẻ đang lắng nghe, không hất tung cái bàn trước mặt Đào Châu Phong lên. Đợi Đào Châu Phong nói xong mới đáp: “Lan Thị lang trúng độc đợi chữa trị, thái y bó tay bất lực, bắt được hung thủ mới có thể tìm ra thuốc giải độc, tính mạng quan trọng, không thể cứ lần lữa mãi được! Rõ ràng Đại lý tự điều tra sai hướng rồi.”

Đào Châu Phong kinh ngạc nói: “Ố?”

Vương Nghiên mặt không biểu tình nói: “Theo những gì thuộc hạ biết, mấy ngày nay Đặng đại nhân cứ thẩm tra rồi lại thẩm tra, đều chỉ thẩm tra tên Trần Trù kia. Nhưng hạ quan cho rằng, cô gái bên cạnh Trần Trù mới đáng nghi hơn, dốc hết sức thẩm tra nhất định có thể đào ra điểm mấu chốt.”

Đào Châu Phong có chút trầm ngâm: “Bản bộ đường sẽ lập tức đem ý kiến của ngươi nói cho Đặng đại nhân biết.” Rồi tiếp tục vui mừng nhìn Vương Nghiên, “Vương Thị lang, ngài xem, đây mới chính là sự hợp tác giữa các ty bộ. Cần gì mấy thứ hình thức chứ? Ta tin ngài đã lĩnh hội được điều này rồi.”

Trong lòng Vương Nghiên sớm đã đem Đào Châu Phong băm thành thịt viên, rồi chém hàng tỉ tỉ nhát dao, y miễn cưỡng nói: “Hạ quan thụ giáo.” Rồi sải bước ra ngoài.

Thuộc hạ bên ngoài nhìn thấy sắc mặt y không tốt cũng không dám lại gần, chỉ có Khổng lang trung do dự mấy lần, rồi hùng hồn tiến lại: “Đại nhân…”

Vương Nghiên dừng phắt lại, xoay nghiêng lại, Khổng lang trung thụt lùi hai bước, cúi đầu: “Bẩm, bẩm đại nhân, Lan đại nhân đã tỉnh rồi…”

Tại sao? Tại sao? Tại sao chứ?

Trần Trù co rúc lại trong phòng giam tối thui, cảm thấy tim mình chừng như đã chìm xuống một chỗ còn tối tăm chật hẹp hơn nữa.

Một kẻ đã chết đến đưa cho gã một đống đồ vào một buổi sáng sớm trời đổ tuyết to, nói là do Trương Bình gửi đến.

Nhưng Trương Bình lại nói, không phải do hắn gửi.

Rốt cuộc là tại sao?

Trần Trù đột nhiên sực nhớ ra, sau khi rời khỏi Nghi Bình, trên đường đi có hàng loạt chuyện…

Ma quỷ trong quán trọ, áo lông cừu, ngôi miếu đổ nát đó.

Còn cả giấc mơ kia nữa, trong giấc mơ gã bị một thứ gì đó có lông lá xồm xoàm đè lên người, hai mắt màu xanh lục, cái lưỡi ướt sũng…

Quỷ…

Chẳng. Lẽ. Mình. Thật. Sự. Bị. quỷ. Ám. Rồi. Ư?

Mẹ ơi! Sao lại là mình? Sao lúc nào cũng là mình thế hả?

Trần Trù ôm đầu, một ý nghĩ lướt qua đầu gã, nhưng gã vẫn chưa kịp bắt lấy thì cửa phòng lao lại mở ra. Vài lính ngục cầm gông xiềng bước vào, không nói một lời liền xích gã rồi trùm bao bố lên đầu, dẫn ra ngoài.

Vẫn là gian thạch thất lớn đó, Ly Quán cũng bị dẫn tới. Trần Trù vừa mới tính bò về phía cô thì cửa lao lại lần nữa mở ra, một thân ảnh quen thuộc cùng vài thị vệ bước vào.

Trần Trù dụi mắt thật mạnh. Không sai, là Trương Bình!

Trương Bình!!

“Trương huynh! Trương huynh!” Đầu lưỡi Trần Trù quíu lại rồi, “Huynh, cuối cùng huynh cũng đến rồi! Huynh mau nói với bọn họ…”

Đúng rồi, nói cái gì đây?

“Bức thư đó, rồi đồ gửi đến chỗ của tôi, rốt cuộc là sao hả?”

Trương Bình bước đến trước mặt Trần Trù, một thân quan phục Huyện thừa toát ra hàn ý, đôi mày nhíu chặt, thần sắc đông cứng, ánh mắt nhìn Trần Trù vô cùng phức tạp.

“Trần huynh, tôi chưa từng viết thư nào cả, cũng không gửi đồ gì cho huynh.”

Cái này…

Trần Trù sửng sốt, thái độ của Trương Bình hình như có chút lạnh lùng, không giống Trương Bình mà gã quen biết trước kia.

“Rõ ràng đó là chữ của huynh mà! Rõ ràng…”

Lại một trận ầm ĩ vang lên, đám thị vệ vây quanh Đặng Tự bước vào.

Trương Bình quay người, lưng đối diện với Trần Trù, hành lễ với Đặng Tự, Đặng Tự vẫn ngồi xuống cái ghế kia.

“Tốt, cuối cùng ngươi cũng đến rồi, có thể cùng nghi phạm Trần sinh đối chứng rồi. Thư và đồ có phải do ngươi phái người gửi đi không?”

Trương Bình vẫn quay lưng về phía Trần Trù, trả lời ngắn gọn: “Hạ quan chưa từng gửi thư và đồ gì cả.”

“Nhưng bản tự đã xem qua bức thư kia, đúng là bút tích của ngươi.”

Đặng Tự phất tay một cái, thị vệ đứng bên cạnh lập tức đem bức thư trong khay đến trước mặt Trương Bình.

Trương Bình cầm lấy bức thư, cẩn thận xem qua: “Đại nhân, chữ viết trong bức thư này quả thực rất giống chữ của hạ quan nhưng hoàn toàn không phải do hạ quan viết.”

Đặng Tự nhướng mày: “Chứng minh thế nào?”

Trương Bình đáp: “Chữ viết nhìn thì thấy rất giống, hạ quan có thể viết vài chữ để so sánh. Lực độ của nét mác vẫn có chút khác biệt. Ngoài ra, mấy câu rườm rà trong thư như là ‘Quân Sách huynh, rét đậm hàn trọng, phải nhớ mặc thêm áo, chú ý giữ gìn sức khoẻ’ hạ quan không viết được. Hạ quan thường gọi Trần Trù là Trần huynh, không gọi tự của y.”

Đặng Tự lại nhướng nhướng mày: “Xưng tự không phải càng thêm thân thiết sao, câu này bản tự thấy đã quá đơn giản rồi, nếu là ngươi, ngươi sẽ viết thế nào?”

Trương Bình đáp: “Trần huynh, trời lạnh, nhớ giữ ấm, giữ gìn sức khoẻ.”

Đặng Tự hỏi: “Bản tự hỏi thêm một câu, ngươi có mấy người bạn?”

Trương Bình đáp: “Nếu tính bạn tốt, chỉ có một mình Trần huynh.”

Đặng Tự liếc nhìn Trần Trù: “Xem ra, phẩm cách khí lượng của ngươi quả không tồi nhỉ.”

Trần Trù vội vàng gật đầu: “Đại nhân, học trò đúng là dân lương thiện mà!”

Tầm mắt của Đặng Tự lại chuyển về hướng Trương Bình: “Nếu thư không phải do ngươi viết, đồ không phải do ngươi gửi, tại sao lại có kẻ mạo danh thay thế gửi mấy thứ này cho Trần sinh?”

Trương Bình đáp: “Hạ quan không biết.”

Đặng Tự lại hỏi: “Ngươi cảm thấy lời của Trần sinh có đáng tin không?”

Trần Trù nín thở chờ đợi.

Trương Bình vẫn quay lưng về phía gã, khẽ cúi người: “Hạ quan không biết.”

Trong tim, trước mắt Trần Trù là một mảng trắng xoá lạnh lẽo. Thân ảnh của người đang quay lưng lại với gã kia sao mà xa lạ vô cùng.

Thanh âm của Đặng Tự lại vang lên: “Ngươi không biết là ý gì?”

“Thư không phải do hạ quan viết, đồ không phải do hạ quan gửi, đại nhân nên thẩm vấn Trần Trù.”

Ha…

Ha ha ha…

Trương Bình, Trương Bình, đây là lời mà huynh muốn nói ư?

Trần Trù đột nhiên phát hiện gã chẳng còn cảm giác gì nữa cả, phía dưới ngực trái không đau cũng chẳng ngứa, tựa như chẳng có gì.

“Trương đại nhân.” Giọng mềm mại của nữ giới vang lên, Ly Quán ngẩng đầu lên, nhìn thẳng vào Trương Bình, “Ngài nói câu này liệu có còn lương tâm không. Trần lang đã xem ngài là người bạn tốt nhất, ngài lại có thể trơ mắt nhìn huynh ấy bị oan ư?”

Trương Bình quay người lại, mặt vô biểu tình nói: “Ta chỉ nói sự thật.”

Đặng Tự lần lượt nhìn ba người bọn họ, đứng dậy: “Thế này vậy, bản tự đi ra ngoài một lát. Ba người các ngươi nói chuỵên đi, nếu bất thình lình có chuyện gì cần báo thì ra ngoài cửa gọi thị vệ.”

Thế là dẫn theo đám thị vệ đi ra ngoài, trong thạch thất chỉ còn lại ba người là Trương Bình, Trần Trù và Ly Quán.

Ánh lửa trên tường phát ra tiếng tanh tách, bóng của Trương Bình hắt lên tường khẽ lay động. Hắn không nói gì cả, rồi tiến hai bước về phía Trần Trù, Trần Trù cười lạnh, xoay người lại nói: “Trương đại nhân, thảo dân và ngài chẳng có gì để nói cả, mời đại nhân mau rời khỏi đây đi, để tránh ngài nhiễm phải xú khí của thảo dân, rồi vướng vào vụ án này nữa.”

Trương Bình nhíu mày nhìn gã, Trần Trù không nói gì nữa, vẫn ngồi quay lưng lại với hắn.

Trương Bình đứng nhìn lưng gã hồi lâu rồi im lặng xoay người đi ra phía cửa. Ly Quán đột nhiên bổ tới, nắm chặt lấy tay áo của Trương Bình: “Trương đại nhân, Trần lang chỉ là nói trong lúc tức giận thôi. Trương đại nhân phải là người biết rõ ngọn nguồn chuyện này nhất, rõ ràng có người mạo danh Trương đại nhân ngài viết thư hại người, Trần lang chỉ bị lợi dụng thôi! Trương đại nhân chẳng lẽ ngài không nghĩ ra được người nào hay chuyện nào đáng nghi ư? Người có thể cứu Trần lang chỉ có ngài mà thôi. Cầu xin ngài như vì bản thân mình…”

“Ly Quán!” Trần Trù gào lên, “Đừng cầu xin hắn! Trần Trù ta hiểu rõ rồi, không cần phải cầu xin bất cứ ai đến làm chứng cả! Cho dù có làm quỷ chết oan cũng là số mệnh của ta, không liên quan gì đến ai cả!”

Ly Quán mặt đầy nước mắt, từ từ thả tay áo của Trương Bình ra: “Trần lang…”

Trần Trù lại cứng giọng nói: “Nếu như trong lòng muội còn có ta thì đừng cầu xin hắn!”

Ly Quán khóc không thành tiếng.

Trần Trù vẫn ngồi quay lưng lại: “Trương đại nhân, chuyện này không liên quan gì đến Ly Quán cả. Ngài nên biết rõ, kẻ làm giả thư, bất luận là vì mục đích gì đều chỉ muốn vu oan tôi hoặc ngài mưu hại Lan đại nhân. Nếu như ngài vẫn còn chút tình nghĩa ngày xưa thì đừng để chuyện này liên luỵ đến cô ấy.”

Trương Bình đáp: “Vụ án này sẽ được xét xử công bằng, điều tra rõ ngọn ngành, mọi thứ sẽ tự khắc sáng tỏ.” Rồi xoay người đi ra khỏi phòng đá.

Lan Giác tỉnh lại rồi, tỉnh lại không lâu sau thì Vương Nghiên đã chạy đến Lan phủ.

Những người xung quanh Lan Giác đều đi ra ngoài, y chỉ nói chuyện với mình Vương Nghiên hồi lâu. Sau khi Vương Nghiên ra khỏi phòng, thần sắc vô cùng âm u, trong lòng mọi người ở Lan phủ đều lạnh đi một phần.

Tình hình của lão gia không tốt, chẳng lẽ đã phó thác chuyện hậu sự cho Vương Thị lang rồi sao?

Lan Huy chạy xộc vào phòng của Lan Giác, sống chết bám vào thành giường, vùi đầu vào trong chăn. Lan Giác xoa lớp chăn trên đầu nó bảo: “Ngoan, cha sẽ không bỏ con đâu, yên tâm đi.” Rồi sai đám người Ngô Sĩ Hân dắt Lan Huy ra ngoài.

Tiếng khóc của Lan Huy xa dần, Lan Giác dựa vào gối, phất tay: “Thay đồ cho ta.”

Đám người đứng canh ở trước giường đều cứng đờ, sau đó nhũn cả chân rồi quỳ sụp xuống đất.

“Lão gia…”

“Hu hu…lão gia…”

“Lão gia, thái y nói nhất định sẽ khoẻ lại mà…”

“Lão gia là người hiền lành, nhất định có ông trời phù hộ…nhất định sẽ có cơ xoay chuyển…hu hu…”

Lan Giác bất đắc dĩ phải ngồi thẳng dậy một chút: “Đừng khóc nữa, ta không chết nổi đâu. Khụ khụ…mau thay đồ cho ta, mời Ngự sử Lưu Tri Hội đại nhân đến phủ một chuyến, nói ta có chuyện cực kỳ quan trọng muốn thông báo.”

Ly Quán bất lực nhìn bóng lưng rời khi của Trương Bình: “Trương đại nhân!”

Trần Trù nói: “Ly Quán, đừng kêu nữa, chuyện này muội đừng can dự vào, nghe lời ta đi.”

Ly Quán khóc không ra tiếng nói: “Trần lang…huynh đừng như thế…Ly Quán và huynh cùng sống cùng chết…tuyệt không chia lìa…”

Trần Trù bò về phía cô: “Ly Quán, muội đừng ngốc như thế. Trên thế gian này người tốt nhiều lắm, muội…muội…”

Ly Quán cũng vươn tay về phía gã: “Trần lang…kiếp này của Ly Quán chỉ muốn ở cạnh huynh…”

Khi hai ngón tay của hai người sắp chạm vào nhau thì Ly Quán đột nhiên kêu lên một tiếng rồi té về phía sau. Trần Trù chưa kịp sửng sốt thì bị một lực đạo ném về sau. Vài cái bóng đen từ trên đỉnh đầu đánh xuống, bổ nhào về phía Ly Quán, tựa như ánh chớp phong bế vài huyệt đạo của cô, rồi nhét vải vào miệng cô.

Đặng Tự đẩy cửa bước vào, cùng với Trương Bình đi đến chỗ Ly  Quán.

Thị vệ huyền y tóm chặt lấy cánh tay của cô, mở bàn tay cô ra, từ những kẽ ngón tay lòi ra hai cây ngân châm nhỏ xíu.

Trần Trù há hốc miệng, mở to mắt, hoàn toàn biến thành một con cóc bằng đá.

Đặng Tự nheo mắt nhìn hai cây ngân châm: “Đúng là một người vợ độc ác!” Rồi liếc sang Trần Trù, “Tiểu tử, suýt chút nữa ngươi đi chầu trời rồi, có biết không hả?”

Một bước, hai bước, ba bước.

Từ xa đến gần, không nhanh không chậm.

Lan Giác khép hai mắt lại, nghe tiếng bước chân tiến vào phòng, phất tay ra lệnh cho những người xung quanh lui ra.

Sau đó là tiếng cửa khép lại, mùi thuốc tràn ngập khắp phòng, một bề yên tĩnh.

“Lan đại nhân, nghe nói ngài bị kẻ khác ám toán, đã khoẻ lên chưa?”

Lan Giác mở hai mắt ra nhìn người trước mặt.

“Lưu đại nhân, đã phiền tôn giá đến tệ phủ, tha lỗi cho sự đường đột này. Lan mỗ cảm thấy, có lẽ Lưu đại nhân rất muốn nhìn thấy bộ dạng của Lan mỗ vào giờ phút này.”

Trong nét nghiêm nghị của Lưu Tri Hội mang theo sự quan tâm lo lắng: “Nghe nói Lan đại nhân bị trúng độc, Lưu mỗ ngạc nhiên và đau xót vô cùng, nhưng sợ mạo muội đến lại quấy rầy Lan đại nhân nghỉ ngơi nên mới chưa đến thăm.”

Lan Giác cười nói: “Được rồi Lưu đại nhân. Đã đến nước này rồi, tôi và ngài đừng làm bộ làm tịch nữa. Tôi biết, độc là do ngài hạ.”
 
Chương 64


Lưu Tri Hội không trả lời.

Lan Giác tiếp tục: “Lưu đại nhân yên tâm, trong phòng này chỉ có ngài và tôi. Nghĩ lại thì Lưu đại nhân văn võ song tuyệt, nếu âm thầm gài gián điệp thì thật khó mà tránh được pháp nhãn của ngài. Lan mỗ chỉ muốn hỏi Lưu đại nhân một câu, độc mà tôi trúng có phải cùng một loại với độc năm đó ngài đã dùng để giết Sơ Lâm?”

Nét mặt Lưu Tri Hội vẫn bình thản như không, chỉ riêng khắp người toả ra sự khinh miệt và xem thường.

Lan Giác làm quan ở Lễ bộ Thị lang, hoàng đế hay kẻ thù có thể khinh bỉ y nhưng sẽ không xem thường y. Nhưng sự miệt thị này của Lưu Tri Hội lại tựa như kẻ nọ là kẻ cao cao tại thượng toạ trên đám mây, còn Lan Giác chỉ là thứ giun dế bò dưới mặt đất, không đáng để nhìn, cũng không đáng để lọt vào mắt.

Lan Giác còn nhớ, lần đầu tiên y gặp Lưu Tri Hội là khi cùng Cô Thanh Chương tham gia vào một văn hội, do người kế bên dẫn đến giới thiệu. Lúc gặp nhau đôi bên chẳng qua chỉ chắp tay, hàn huyên khách sáo vài câu, nhưng lúc đó y vừa nhìn thấy Lưu Tri Hội trong lòng đã cảm thấy khó chịu. Y từng cho rằng đó là vì bản thân đố kỵ phẩm chất tài năng của Lưu Tri Hội, hoặc do thấy Cô Thanh Chương và y ta quan hệ ngày càng tốt thì nảy sinh bực tức thôi.

Nhưng kỳ thực, chẳng qua khi đó Lưu Tri Hội cũng dùng chính sự miệt thị khinh rẻ này nhìn y. Nhưng y không có ánh mắt tinh tường như ngày hôm nay, nên không phát hiện ra được, chỉ luôn cảm thấy không thoải mái mà thôi.

Mấy năm nay, thái độ của Lưu Tri Hội vẫn cứ luôn như thế.

Lan Giác là một thứ không đáng để nhìn, là cặn bã không lọt vào mắt.

Giờ phút này, khi Lan Giác nói những lời này, Lưu Tri Hội cũng không thèm để ý tới, lời vào tai nhưng không đến được tâm.

“Lan đại nhân, nghỉ ngơi cho khoẻ, Lưu mỗ không tiện làm phiền nữa.”

Lan Giác nói: “Sơ Lâm biết ngài sẽ giết y, trước khi y chết đã đưa cho tôi một thứ.”

Lưu Tri Hội giống như chẳng nghe thấy gì, vẫn tiếp tục bước ra cửa.

Lan Giác nói tiếp: “Thứ Sơ Lâm đưa cho tôi chính là dây chuyền y đeo bên người, một miếng hoàng ngọc hình quả hạnh.”

Lưu Tri Hội mở cửa phòng, bước ra ngoài.

Đại lý tự, trong thạch thất.

Ánh lửa chập chờn, Trần Trù té ngã trên mặt đất, các khớp xương trên người kêu răng rắc.

Là mơ? Hay không phải mơ?

Trên đời này rốt cuộc cái gì mới là thật, cái gì là ảo mộng?

Gã không biết.

Một đôi tay đỡ gã dậy, hình như là tay của Trương Bình.

Thị vệ cởi xiềng xích trên người gã ra, ánh nhìn của Trần Trù vẫn cứ hướng về trước.

Ly Quán bị trói lại thật chặt, bỗng nhiên mí mắt giật giật rồi từ từ mở mắt ra.

Cả người Trần Trù chấn động, ánh mắt của Ly Quán giao với gã, hai con ngươi vẫn trong veo tinh khiết vô cùng.

Khoé môi Trần Trù không kìm được mấp máy vài cái.

Thị vệ lấy miếng vải ra khỏi miệng Ly Quán, Đặng Tự nói: “Trần sinh, nữ tử này đã khống chế, lừa dối ngươi rất lâu, suýt chút nữa còn hại ngươi vạn kiếp bất phục. Bản tự sẽ thẩm tra ả trước, ta cho phép ngươi hỏi ả vài câu trước đấy.”

Muội rốt cuộc là ai?

Tại sao chứ?

Rốt cuộc tất cả những chuyện này là…?

Yết hầu Trần Trù giật giật, chỉ ú ớ mấy chữ không ăn nhập gì với nhau: “Muội…kim châm đó…”

Ly Quán vẫn nhìn gã bằng cặp mắt không thay đổi đó: “Trần lang, Ly Quán đã nhận lời cùng sống cùng chết với huynh, quyết không nuốt lời.”

Người Trần Trù chao đảo một cái.

Đặng Tự nói: “Ngươi dắt mũi tên tiểu tử này đi vòng vòng, rồi thay ngươi gánh tội, không để hắn cùng chết với ngươi, vậy làm sao được xem là đại công cáo thành?”

Ly Quán vẫn nhìn Trần Trù, dường như không nghe thấy Đặng Tự nói gì.

Đặng Tự nhìn Trần Trù, nói: “Trần sinh, bản tự khuyên ngươi đừng nhìn ả nữa. Đứa con gái này đã được huấn luyện nhiều năm, đã quen với việc điều khiển nhân tâm, lúc này chẳng qua vẫn muốn khống chế ngươi thôi.”

Trần Trù rối bời một trận, nhưng tầm mắt vẫn không sao rời khỏi người Ly Quán. Trương Bình bước lên trước một bước, vừa hay chắn ngang tầm nhìn của Trần Trù.

“Sao lại là Lan đại nhân?”

Ly Quán cụp mắt xuống.

“Tại sao không phải là Cao Tri phủ mà lại là Lan đại nhân?”

Ly Quán uyển chuyển nói: “Nô nghe không hiểu đại nhân đang nói gì cả.”

Đặng Tự nói: “Băng đảng của ngươi có bao nhiêu người, mau mau khai báo ra đi để còn được khoan hồng.”

Ly Quán vẫn đáp: “Nô nghe không hiểu đại nhân đang nói gì cả.”

Cơ thể Trần Trù đột nhiên xuất hiện một luồng sức mạnh, gã đẩy Trương Bình sang bên: “Nói thật đi, mấy chuyện trong thôn năm ấy ta vốn không tin, nhưng…mấy chuyện này rốt cuộc là sao hả???”

Ly Quán ngước mắt lên, ánh mắt vẫn tinh khiết tĩnh lặng như vậy: “Trần lang, huynh từng nói, chỉ cần chúng ta ở cạnh nhau thì sẽ không hỏi bất cứ điều gì mà.”

Trần Trù sững lại, trong đầu lại là một mảng trắng xoá.

Trương Bình lại xoay người, lần thứ hai chắn trước mặt gã: “Trần huynh, đừng nghe, đều là bẫy đấy.”

Trần Trù thật chậm thật chậm nhìn vào mặt Trương Bình.

Đặng Tự cười khà khà hai tiếng: “Tiểu tử, sau khi ngươi rời khỏi huyện Nghi Bình, chắc đã gặp không ít chuyện cổ quái kỳ ảo rồi nhỉ. Thần thần quỷ quỷ, khiến ngươi cảm thấy trong âm phủ gì gì đó vốn đã có an bài hết thảy rồi nhỉ? Sau đó thì ngươi gặp cô gái này?”

Trần Trù vô thức lại đảo mắt nhưng tầm nhìn không lọt qua được dáng người Trương Bình đứng chắn, đành phải dừng lại, rồi lại há hốc miệng.

Ngài…sao lại biết?

Đặng Tự chậm rãi nói: “Quả nhiên không ngoài dự đoán của bản tự.”

Là có ý gì?

“Các người biết tôi sẽ tình cờ gặp Ly Quán?” Giọng của Trần Trù run rẩy, “Có phải…việc tôi tình cờ gặp Ly Quán đều đã được sắp xếp hết cả?”

Trương Bình cụp mắt nhìn gã: “Không chỉ như thế. Ngay từ đầu đã là một cái bẫy.”

Trần Trù run run nói: “….khi tôi rời khỏi Nghi Bình?”

Miếu hoang, ác mộng, quán trọ có quỷ, hoàn toàn là do có người sắp đặt?

Trương Bình đáp: “Không phải. Từ nhiều năm trước, từ khi huynh bước vào cái thôn đó.”

Trần Trù hoàn toàn đờ đẫn rồi.

Trương Bình lại xoay người nhưng lần này là nhìn Ly Quán.

“Phu nhân và những cô gái khác được nuôi dưỡng trong thôn đó, từ khi sinh ra đã được những người đứng phía sau đào tạo, để những người được chọn rơi vào bẫy tuỳ ý bọn họ sử dụng.”

Những người trẻ lòng ôm hoài bão đầy chán nản, vô tình gặp gỡ một mỹ nữ. Tự cổ chí kim vốn luôn là truyền kỳ thường hay gặp nhất.

Có chí khó thực hiện, có tài khó dùng đến, đâu đâu cũng gặp khó khăn, người người đều có thể lừa gạt.

Trong thôn vắng, trong miếu hoang, trong quán trọ, đột nhiên xuất hiện một giai nhân, như tiên tựa quỷ, đưa đẩy gợi tình, chỉ cầu một đêm nhân duyên.

Đoá hoa kiều diễm lưu lạc chốn câu lan phàm trần, nghìn vàng khó mua được một nụ cười nhưng chỉ vì một cái liếc mắt vô tình, đã nguyện lấy thân báo đáp.

Rõ ràng là kỳ ngộ thường hay khát cầu trong mộng, thế nhưng nay đã xuất hiện, kẻ nào có thể kháng cự lại?

“Kế hoạch này đã được thực hiện nhiều năm. Rất nhiều người bị khống chế, đến chết vẫn không hay biết gì, bản thân sớm đã trở thành con cờ thí.”

Giai nhân giỏi đoán ý người, khiến người khó tránh dốc hết phiền não trong lòng ra giãi bày một lượt. Nhưng chưa từng xem xét đến lúc khuây khoả dịu giọng, tư duy, hành động bất tri bất giác đã bị khống chế rồi.

Lúc công thành danh toại, giai nhân hoặc cam nguyện làm thiếp hoặc sớm đã chẳng thấy đâu nữa. Nhiều năm về sau lại lần thứ hai tương phùng.

Cho dù lòng như sắt đá nhưng có mấy ai dám nghi ngờ mối tình thuần khiết đẹp đẽ nhất kiếp này?

“Ví dụ như nhiều năm về trước, Độ Cung Thái thú Tiêu Châu chết do chiến tranh là bị các ngươi mưu hại nhưng chưa từng hay biết gì.”

“Lúc Độ Thái thú còn trẻ, có một nữ tử tựa như phu nhân đây giả thần giả quỷ, giả vờ tình cờ gặp gỡ ông. Nhiều năm sau, Độ Thái thú lại lần nữa gặp lại cô gái ấy, nhưng không ngờ rằng cô gái đã nương nhờ ông lúc hai bàn tay trắng lần thứ hai xuất hiện là vì muốn lấy bản bố trí phòng thủ của Châu quận để bán cho phiên bang.”

Ly Quán vẫn nói: “Nô không biết đại nhân đang nói gì.”

Trương Bình tựa như chẳng nghe thấy, tiếp tục nói: “Cô gái đó đánh cắp bản bố trí phòng thủ của Châu thành, bán cho kẻ thù, nhưng sau khi Độ Thái thú chết đi lại mai táng thi thể cho ông. Nghĩ lại có lẽ phu nhân cũng dự định làm như thế với Trần huynh.”

Trần Trù kinh ngạc, làm sao có thể, tuyệt đối không thể nào!

“Là do tôi ngẫu nhiên lạc đường nên mới tới…”

Trương Bình gật đầu: “Là ngẫu nhiên lạc đường nhưng sau đó thì bị chọn.”

“Sao lại chọn tôi?” Trần Trù này quả thực đâu phải người tài hoa hơn người, có đất dụng võ chi cam.

“Vì huynh là người đọc sách.”

Lúc trước Trần Trù đánh bậy đánh bạ chui vào hay có người dẫn đường dụ dỗ, do chứng cứ không đủ nên Trương Bình không cách nào kết luận được.

Nhưng quả thực Trần Trù đã lọt vào tầm khống chế của đám người này.

Sau đó gã lại leo lên thuyền, hoặc là gã chợp mắt hoặc là có người chuốc mê.

Sau nữa có người đã kiểm tra qua văn điệp cá nhân gã mang theo bên người.

Gia cảnh rõ ràng, hơn nữa kỳ thi năm sau sẽ là thí sinh ứng thí, chính là người mà bọn chúng cần.

“Làm sao thuyền có thể trôi vào chỗ đó chứ?”

“Thuyền rời khỏi bờ, theo dòng nước mà trôi xuống, khu vực phía dưới có khả năng là có người.”

“Vậy…”

Trần Trù còn chưa nói hết, Trương Bình đã trả lời trước.

“Ngay từ lúc đầu, Trần huynh đã được phân cho vị phu nhân này, ngoài ra còn một người nữa để thử thách.”

Những chuyện trong thôn Hạnh Hoa đều chỉ là một vở kịch, một đám quả phụ áo trắng cùng nhau đốt vàng mã, cũng là bởi vì đã trồng một loại hạt giống sau này sẽ nảy mầm trong bụng Trần Trù.

Ly Lung xinh đẹp chính là thử thách. Trần Trù đối với một tuyệt sắc giai nhân đề nghị lấy thân báo đáp cũng không động lòng là bởi vì tình cảm của gã đối với Ly Quán đã vô cùng kiên định.

Có thể thả cho gã đi rồi.

“Chuyện này…chuyện này thật khó mà hiểu được…” Trần Trù càng thêm rối bời, “Theo lời huynh nói, bọn họ chẳng phải là thần tiên gì cả, làm sao có thể đoán được tôi sẽ quen biết Lan đại nhân, quen biết huynh, sau đó còn mạo danh huynh viết thư để tôi đưa đi?”

Đặng Tự lắc đầu: “Thật là một tên hồ đồ! Đám nữ nhân này tất nhiên sẽ không tính được tới bước này rồi, chẳng qua là lúc bản tự phá vụ án kia ở Nghi Bình, làm cho đám phản tặc này nhận ra vừa hay có thể dùng ngươi, hiểu ra chưa hả?”

Trong đầu của Trần Trù vẫn là một mảng lộn xộn.

Đặng Tự đành phải giải thích rõ ràng thêm một chút: “Lúc bản tự ở Nghi Bình có điều tra một đám phản tặc, đám nữ nhân này cùng một giuộc với lũ phản tặc đó. Giờ hiểu chưa hả?”

Phản…phản tặc…?

Đặng Tự trưng ra bộ mặt đương nhiên: “Nếu không ngươi nghĩ đám giặc này hao tổn tâm cơ để làm gì? Chẳng lẽ đi thăm từng nhà à? Đầu tiên bọn họ lợi dụng ngươi đưa thư có độc hãm hại Lan Thị lang, sau đó để ngươi chịu tội, giá họa cho Trương Bình, thế là nhất tiễn song điêu. Đứa con gái này đợi ngươi và Trương Binh đối chất xong sẽ thủ tiêu ngươi đi, rồi lại đẩy tội cho Trương Bình. Lúc ả nắm lấy tay áo của Trương Bình đã nhét độc mà ả dùng để giết ngươi vào trong tay áo hắn. Nếu giá hoạ thành công thì là Trương Bình giết người diệt khẩu. Giá hoại không thành thì xem như ngươi sợ tội tự vẫn. Đại quan tam phẩm bị ám sát, vụ án này nhất định sẽ do Đại lý tự xử lý, chứng cứ xác thực, bản tự chỉ đành phải theo đó mà định án. Cứ thế bản tự đã xử một vụ án oan, sau đó nữa…”

Nói đến đây Đặng Tự ngừng lại, không nói tiếp nữa. Hai mắt Trần Trù nhìn chăm chú nhưng không hề phát hiện ra Đặng Tự đã dừng lời.

Trương Bình nhíu mày nhìn Trần Trù, Đặng Tự phẩy tay với đám thị vệ: “Đem một cái ghế vô cho hắn ngồi đã, để tiêu hoá thông tin. Chuyện này đối với hắn mà nói quả thực quá dữ dội.” Rồi bước hai bước về phía Ly Quán.

“Đám các ngươi đã dẫn dụ Trần sinh suốt một thời gian, có lẽ đã tốn không ít tâm tư nhỉ. Thư giả kia nhất định là do một người quen thuộc với bút tích của Trương Bình ngụy tạo, kẻ Chu Thừa đưa thư kia có lẽ là người của các ngươi. Xem ra hạ thủ thật không ít nhỉ. Nếu như thành thật khai báo, bản tự có thể khoan hồng độ lượng cho ngươi.”

“Nô không biết đại nhân đang nói gì.” Ly Quán vẫn là biểu tình đó, câu trả lời đó.

Đặng Tự chà chà tay: “Tốt lắm, vậy bản tự đổi câu hỏi khác. Đám các ngươi dọc đường dẫn dắt Trần sinh, vốn là đi Đan Hoá, mục tiêu là Cao Kham, sao đột nhiên lại chuyển thành Kinh Thành, đổi thành Lan Giác?”

“Nô không biết đại nhân đang nói gì.”

Đặng Tự cười cười: “Vậy bản tự lại đổi câu khác vậy, kẻ đứng sau xúi giục đám các ngươi rốt cuộc là ai?”

“Nô không biết đại nhân đang nói gì.” Ly Quán vẫn là biểu tình đó, câu trả lời đó.

“Cô…từ ban đầu đã muốn giết tôi?” Trần Trù bị thị vệ dẫn sang ngồi một bên đột nhiên lên tiếng.

Ánh mắt của Ly Quán loé sáng, con ngươi cuối cùng cũng di chuyển, nhìn sang hướng Trần Trù, khoé miệng nhếch lên nở ra nụ cười thản nhiên xinh đẹp.

“Trần lang, không phải huynh đã nói, sống chết cùng với nhau là chuyện hạnh phúc nhất sao?”

Trần Trù đờ đẫn nhìn cô ta.

Trương Bình nói: “Cô ta nói, giá hoạ cho huynh giết người, dùng kim độc giết chết huynh rồi cô ta tự vẫn là việc rất hạnh phúc.”

Trần Trù đột nhiên đứng dậy, mắt hằn tia đỏ: “Câm miệng!”

Trương Bình mặt vô biểu tình nhìn gã, hai tai Trần Trù ù ù, mạch trên cổ đập loạn xạ, rồi lại nhìn Ly Quán.

Ly Quán vẫn cười nhìn gã: “Trần lang, từ lần đầu tiên Ly Quán nhìn thấy huynh thì tấm lòng này đối với huynh chưa từng thay đổi.”

Trương Bình nói: “Khống chế huynh, khiến cho huynh chết tâm, từ đầu đến cuối như…”

Trần Trù hung hăng nhảy bổ về phía Trương Bình, bốn năm thị vệ giữ gã lại, Đặng Tự phẩy tay: “Bịt mắt lại giải đi, đừng để hắn bị ả này mê hoặc nữa.”

Trần Trù vùng vẫy chống lại, thị vệ trùm bao bố lên đầu gã rồi giải ra ngoài thạch thất.

Ly Quán đảo mắt nhìn Trương Bình, cuối cùng trong mắt cũng hiện ra một tia ác liệt.

“Tình cảm tôi dành cho Trần lang không cần kẻ khác đánh giá là đúng hay sai.”

Trương Bình cũng nhìn cô ta: “Có tâm lợi dụng, có ý hãm hại không phải là tình.”

Ly Quán vẫn vô cùng bình tĩnh nhìn hắn, từ khoé miệng một tia máu chậm rãi chảy xuống. Thị vệ vội vã chạy đến, sắc mặt đại biến.

“Không hay, nghi phạm tự vẫn rồi!”

Vẻ mặt Đặng Tự như đã biết trước: “Khám nghiệm tử thi.”

Nửa canh giờ sau nha sai lại báo, ở dưới nách của cái xác có một hình xăm, là hình ba quả hạnh nằm trong bốn cái lá.

Đặng Tự cười: “Quả nhiên, Cô Gia Trang.”

Đêm khuya, nội viện của Lan phủ đột nhiên vẳng ra tiếng khóc.

Tiếng khóc xé rách đêm đen, tổng quản nội phủ run rẩy đi đến dưới hành lang rồi ngồi bệt xuống bậc thềm.

“Lão gia…lão gia…”

Tiếng khóc tràn ra giữa những tiếng bước chân dồn dập và ánh đèn chập choạng.

Lão gia, đi rồi.

Trước cửa phòng ngủ của Lan Giác, đầy tớ nghẹn ngào đỡ vai tổng quản đứng dậy: “Thiếu gia…còn nhỏ …không thể thay áo cho lão gia…để bọn nô tài làm cho ạ…cơ thể của lão gia…đang lạnh đi rồi…”

Tổng quản gật đầu nhưng không thể đứng dậy.

Vài gia nhân còn trẻ cố nén đau buồn, đi lấy chậu khăn áo liệm rồi rửa người thay áo cho Lan Giác.

Gia nhân Trường Do nức nở nói: “Đúng rồi…lão gia từng nói, ngài có một khối hoàng thạch, bất luận lúc nào cũng mang theo bên mình, vừa hay có thể ngậm trong miệng.”

Gia nhân thân cận Trường Tu nói: “Vậy khối ngọc đó không rời lão gia nửa bước rồi, có lẽ là đeo bên người.”

Trường Do đi đến bên giường, quỳ xuống lạy ba cái rồi mới mở cổ áo Lan Giác ra, tháo hoàng ngọc xuống bỏ vào trong bát lưu ly để rửa sạch. Đột nhiên cổ hắn tê rần, trước mắt tối đen rồi ngã phịch xuống đất.

Bát lưu ly vỡ nát vụn, nhưng trước cửa phòng dưới hành lang lại không có động tĩnh gì. Đám hạ nhân khóc lóc đau thương nằm ngổn ngang trên mặt đất.

Một cái bóng đen bước vào trong phòng, cúi người xuống nhặt miếng ngọc trong đống lưu ly đó.

Tay của hắc y nhân khựng lại một chút, đang tính nhét miếng ngọc quả hạnh kia vào ngực thì đột nhiên ánh sáng tràn đến.

Ánh sáng từ ngoài hắt vào phòng, hắc y nhân đạp chân một cái tung người nhảy lên xà nhà. Tấm lưới đen phủ chụp xuống đầu, leng keng, vài sợi dây thừng từ xà nhà quăng xuống trói chặt gã lại.

Dây thừng run lên, cả người lẫn lưới đều rớt xuống đất, nhưng gã lại bật người nhảy lên! Đúng lúc này vài lưỡi dao sắc bén sáng loá đã kề ngay cổ gã.

Đèn trong phòng được thắp lên, Đặng Tự cùng Liễu Đồng Ỷ bước ra từ sau tấm màn của Lan Giác.

“Lưu đại nhân, muốn mời ngài đến Đại lý tự nói chuyện thật không dễ dàng gì nhỉ.”
 
Chương 65


Canh tư vẫn chưa qua, sương đọng trên nha hốt, Ngự sử đài Đô đại phu Bốc Nhất phạm xuống kiệu trước cửa Chiêu Vĩnh, đợi tiếng chuông lâm triều.

Một đoàn xe ngựa vừa lúc đó trờ tới, dừng lại cách kiệu quan của Bốc Nhất Phạm vài bước, là xe kiệu của Hình bộ Thị lang Vương Nghiên.

Bốc Nhất Phạm không kìm được thầm cười trong lòng. Cả triều đều biết, đêm hôm trước Vương Nghiên dẫn theo cả đám người chạy đến Đại lý tự giành án, đến cửa lớn cũng không bước qua được, bị sai nha đứng coi cửa của Đại lý tự bật lại không dám nói tiếng nào, chán nản bực bội rút đi hết. Phỏng chừng Phùng Thai khoái trá đến mức muốn lập bài vị trường sinh cho Đặng Tự luôn rồi, không biết có bắn pháo hoa trong vườn Kinh triệu phủ hay không.

Bốc Nhất Phạm ngồi yên mà lòng thầm cười thản nhiên, có một cảm giác thoải mái vô cùng.

Bên này Vương Nghiên đã xuống kiệu, liền lại gần Bốc Nhất Phạm hành lễ. Bốc Nhất Phạm nâng tay hoàn lễ, nhưng thần sắc trên mặt vô cùng trầm trọng.

“Vương đại nhân có biết Lan Thị lang…”

Về chuyện Lan Giác trúng độc, trong triều cũng bàn tán vô cùng sôi nổi. Đương lúc nước sôi lửa bỏng Cung Thượng thư sắp về hưu, Lan Thị lang đầu tắt mặt tối vừa phải biên soạn sách, vừa phải tổ chức tiệc mời chúng quan, thật hao tổn sức lực. Ngự sử đài cũng mài sắc hai mắt dán chặt vào nhất cử nhất động của y. Đột nhiên Lan Giác bị người ta hạ độc, nghe nói tình hình không được khả quan cho lắm.

Bốc Nhất Phậm thổn thức vô cùng, Ngự sử đài cũng cảm thán sao báo ứng của Lan Giác lại đến sớm như thế, cáo già cả một đời, sao lại vào thời khắc quan trọng nhất lại giống như bị trúng thuật giáng đầu vậy, hí ha hí hửng, không biết tiết chế một chút, biểu hiện hăng hái như vậy nên mới tự rước họa vào thân.

Mấy năm nay, vì có Lan Giác mà chiết tự trong Ngự sử đài lúc nào cũng đầy ắp. Đám Ngự sử đối với lý lịch của y có thể nói là quen thuộc tới mức có thể đọc từ xuôi tới ngược, sớ vạch tội của y đều có những quy cách cố định, bút nhấc lên liền có thể thoải mái vung vẩy, cũng không cần phải đắn đo về cấu tứ hay lo rằng bí ý cùng lời. Lúc nào cũng có thể đem ra để công kích. Cửa ải cuối năm đã đến, đương là mùa dâng sớ, mất đi Lan Giác, Ngự sử đài không khỏi tiếc nuối và hiu quạnh.

Bốc Nhất Phạm sớm đã chuẩn bị tiền cúng điếu, xem như là thành ý mấy năm nay của Ngự sử đài đối với Lan Giác. Đám Ngự sử cũng đã thảo luận sẽ đốt giấy thiếp vàng nguyên bảo nhiều nhiều chút cho Lan Giác, sổ gấp trong tay còn chưa làm xong, đem mấy đoạn vạch tội xoá đi, chỉ lấy đoạn viết về cuộc đời, vừa hay có thể sửa lại làm điếu văn hồi tưởng.

Trước khi lên triều, Bốc Nhất Phạm nhận được hồi báo, đêm qua phủ Lan Thị lang tiếng khóc long trời lở đất, sợ rằng đã…

Nhưng hôm nay, Vương Nghiên lại lên triều. Lan Giác trước giờ luôn ôm chặt lấy phủ Thái sư, Vương Nghiên thường qua lại với y nhưng lúc này vẫn lên triều, có thể vẫn chưa… Hay Vương Nghiên đến để thông báo tin buồn?

Bốc Nhất Phạm không chắc lắm nên cố ý dò hỏi y.

Mấy vị quan trước cửa cũng đều nghiêng đầu, dỏng tai lắng nghe.

Dưới ánh sao kim sáng rọi, trong ánh sáng của ngọn đèn lồng, thần sắc Vương Nghiên không nhìn thấy rõ ràng, cũng không trả lời, rồi lại có tiếng xe ngựa từ từ tiến đến, trên ngọn đèn đang đến gần kia, hình như có một chữ ‘Lan’ rất to!

Tiếng ồn đến gần, người tới, xe kiệu dừng lại.

Tuỳ tùng vén rèm kiệu lên, đỡ một con quỷ mặc quan bào chỉnh tề, tay cầm hốt bản.

Bốc Nhất Phạm và các vị quan khác đều sững sờ, con quỷ đó thong thả tiến đến Chiêu Vĩnh môn, hành lễ chào hỏi bọn họ: “Các vị đại nhân đến sớm quá.”

Đến cả Bốc Nhất Phạm cũng không khỏi ngơ ngác một hồi rồi mới hoàn lễ nói: “Lan Thị lang, lâu rồi không gặp, hôm nay đến tảo triều có phải hết bệnh rồi không?”

Lan Giác cúi người: “Hạ quan đã không sao, cảm tạ đại nhân quan tâm.”

Các vị quan khác cũng sực tỉnh lại, lần lượt hỏi thăm Lan Giác. Vương Nghiên thấp giọng nói với Lan Giác: “Huynh nên nghỉ ngơi hai ba ngày nữa, hôm nay không cần phải lên triều đâu.”

Bốc Nhất Phạm nhíu mày, xem ra Vương Nghiên biết nội tình. Chẳng lẽ việc Lan Giác trúng độc, bên trong còn có ẩn tình khác?

“Bốc đại nhân.” Một âm thanh từ bên cạnh truyền tới, Bốc Nhất Phạm hồi tỉnh quay đầu lại nhìn thấy Đại lý tự Thiếu khanh Thẩm Trọng đang cúi người hành lễ, “Thuộc hạ phụng mệnh của Đặng đại nhân đến bẩm truyền với đại nhân một việc. Không biết có thể mời đại nhân dời bước đến nơi khác để tiện nói chuyện không?”

Ngự sử trung thừa Lưu Tri Hội đã bị Đại lý tự bắt giữ. Tất cả vật phẩm, công văn liên quan trong Ngự sử đài đều là vật chứng, ngoài Đại lý tự ra những người khác đều không được đụng vào, kẻ nào vi phạm sẽ bị trừng phạt nên đặc biệt đến thông báo.

Hai chân của Bốc Nhất Phạm nhũn ra, mang theo tâm trạng nơm nớp lo sợ dự buổi triều sớm.

Buổi lên triều chẳng có gì bất thường, đối với việc lên triều của Lan Giác, Vĩnh Tuyên đế chỉ quan tâm hỏi thăm vài câu rồi lại bàn luận chính vụ.

Điều này cho thấy hoàng đế sớm đã biết.

Bốc Nhất Phạm mồ hôi lạnh rơi lã chã, sau khi bãi triều liền quỳ trong Ngự thư phòng.

Vĩnh Tuyên đế nói: “Bốc ái khanh sao lại thỉnh tội? Lưu Tri Hội phạm vào vụ án này, khanh tất nhiên không biết. Thậm chí khi trẫm nghe nói cũng vô cùng kinh hãi. Vụ án này do tam ty hội thẩm, nhưng liên đới quá hệ trọng nên chỉ có thể mật thẩm. Khanh đi đến Đại lý tự cùng nghiên cứu với Đặng khanh đi, nhớ kỹ là vụ án này ngàn vạn lần không được để lộ ra ngoài nhé.”

Bốc Nhất Phạm nhận lệnh lui ra. Đợi đến khi ra khỏi Tuyên Hoa môn thì thấy Thẩm Thiếu khanh đang đợi bên đường. Kiệu bên ngoài Chiêu Vĩnh môn đã chuẩn bị xong, đưa Bốc Nhất Phạm đi về hướng Đại lý tự.

Kiệu dừng lại ở nội viện của Đại lý tự. Thẩm Thiếu khanh dẫn Bốc Nhất Phạm đi qua hành lang rồi lại qua sân, tiếp đó qua một thông đạo dài ngoằng tiến vào một căn phòng lớn.

Bốn bức tường, trần nhà và mặt đất của gian phòng này đều được xây nên từ đá tảng, do vô cùng cao lớn rộng rãi nên dù kín bưng vẫn không cảm thấy bí bách.

Phía trên gian phòng có ba cái bàn, Đào Châu Phong đang đứng trong phòng, nhìn thấy Bốc Nhất Phạm tiến đến liền trưng ra vẻ mặt vui vẻ. Bốc Nhất Phạm hàn huyên với Đào Châu Phong vài câu, phát hiện Vương Nghiên vẫn chưa đến.

Qua một lúc sau, một đám thị vệ nhanh nhẹn tiến vào phòng một cách trật tự, lẳng lặng hành lễ với Bốc Nhất Phạm và Đào Châu Phong, rồi phân ra đứng hai bên trái phải. Đặng Tự cũng từ một cửa khác vào theo sau, chắp tay với Bốc Nhất Phạm và Đào Châu Phong.

“Vụ án này rất quan trọng nên phải xử như thế này, đã khiến hai vị đại nhân nhọc công rồi.”

Đào Châu Phong và Bốc Nhất Phạm đều nói khách khí, Bốc Nhất Phạm than thở: “Không ngờ lại là…ai, Bốc mỗ không còn mặt mũi nào đứng trên công đường nữa rồi.”

Đào Châu Phong nói: “Bốc đại nhân đừng nói như thế, chuyện này chắc có ẩn tình nào khác, suy cho cùng vẫn chưa tra ra manh mối mà.”

Đặng Tự nói: “Tên giặc này tâm tư kín đáo, xảo trá ác độc vô cùng, ẩn nấp bao nhiêu năm nay cũng không để lộ tung tích, những người cùng triều đều không phát hiện ra, không phải chỉ có mình Bốc đại nhân đâu. Thời gian không còn sớm nữa, hai vị đại nhân đã đến rồi cũng phải mau thẩm vấn thôi, mời.”

Ba người vòng đến sau bàn, rồi lại nhường qua lại vị trí ngồi một hồi. Cuối cùng Đào Châu Phong ngồi ghế trái, Bốc Nhất Phạm ngồi ghế phải, Đặng Tự ở vị trí chính giữa chủ thẩm.

Ba người ngồi xuống xong, Thẩm Thiếu khanh lại dẫn một người đến công đường, không ngờ lại là Lan Giác.

Bốc Nhất Phạm hơi kinh ngạc, nhưng vẫn không nói gì. Lan Giác trúng độc vốn có liên quan đến vụ án này. Vụ án này quả là ngày càng vượt xa sức tưởng tượng của ông.

Đặng Tự lập tức đứng dậy: “Lan Thị lang, lần này quả thật quá vất vả rồi, khiến ngài phải lấy thân nếm độc, bản tự cảm kích vô ngần. Sức khoẻ của Lan Thị lang đã khá lên chưa?”

Lan Giác đáp: “Đặng đại nhân khách khí rồi, tinh thần của hạ quan rất tốt. Có thể góp sức để thúc đẩy vụ án phát triển một hai phần là phúc của hạ quan. Vụ án này có liên quan đến cố nhân năm xưa của hạ quan, lúc trước hạ quan đã quá máy móc, kỳ thực có rất nhiều mê muội khó giải thích, rất nóng lòng muốn biết chân tướng. Đặng đại nhân chuẩn cho hạ quan tham dự án này, hạ quan cảm kích không thôi.”

Bốc Nhất Phạm như đang ở trong mây mù nhưng sực tỉnh, đây không phải là một vụ án bình thường, nếu làm không tốt sẽ…

Đặng Tự sai người bố trí một cái ghế bên hông phòng cho Lan Giác ngồi.

Đúng vào lúc này, Bốc Nhất Phạm dường như nghe thấy âm thanh khe khẽ, rồi nhận ra một mùi hương quen thuộc.

Chỉ thoảng qua, là âm thanh chỉ phát ra khi cử động được phối hợp với nhau một cách riêng biệt.

Rất nhạt, chỉ có…mới có thể dùng loại hương này.

Thạch bích sau lưng ba người rỗng không, phía sau vẫn còn có người.

Lòng bàn tay của Bốc Nhất Phạm rịn một lớp mồ hôi mỏng. Thị vệ im lặng tản ra, cánh cửa bên hông tường nơi lúc nãy Đặng Tự đi ra lại xuất hiện thêm hai người, một người là tân khoa trạng nguyên, cháu đích tôn của Liễu Thái phó Liễu Đồng Ỷ.

Y mặc sắc phục ngũ phẩm, chừng như là Thôi thừa hoặc Đoạn thừa, sao có thể vào công đường được?

Rồi ông lại nhìn sang người kia. Lông mày Bốc Nhất Phạm bất giác nhíu lại. Người này ông có nhớ, hình như là tên Trương gì đấy, là ái đồ của Đào Châu Phong, lúc trước chính hắn là người đã tìm ra mấu chốt vụ án tiến sĩ bị giết, khiến Vương Nghiên nghẹn họng vô cùng. Chỉ là, người này thân vận quan phục…là Tòng thất phẩm? Quan địa phương?

Bốc Nhất Phạm đột nhiên tỉnh ngộ vụ án này rốt cuộc liên quan đến cái gì rồi.

Khủng khiếp quá…

Sau khi Liễu Đồng Ỷ và Trương Bình hành lễ với cấp trên và Lan Giác xong thì im lặng đứng ở bên bàn.

Đặng Tự nghiêm túc ngồi ngay ngắn: “Áp giải nghịch tặc Lưu Tri Hội lên!”
 
Chương 66


Lông mày của Bốc Nhất Phạm giật một cái.

Chấp pháp luật, chưởng hình phạt, nghiêm minh công bằng, làm theo quy định gạt bỏ cá nhân, sau khi định tội mới có danh. Cho dù là hung đồ tội ác tày trời, trước khi kết án định tội chỉ có thể gọi một tiếng nghi phạm. Với những người chức quan thấp như huyện nha dịch cũng phải ghi nhớ.

Đặng Tự thân là Cửu khanh, chấp chưởng Đại lý tự bao nhiêu năm nhưng lúc khai đường thẩm án, mở miệng ra đã gọi luôn nghi phạm là “nghịch tặc.”

Mà nghi phạm này lại là Ngự đài trung thừa tam phẩm.

Trong tình cảnh này, Bốc Nhất Phạm cũng nên lên tiếng.

Nhưng Bốc Nhất Phạm nghĩ đến người ngồi phía sau bức tường…

Đặng Tự có thể mở miệng ra là phạm sai lầm sao?

May mà đương lúc Bốc Nhất Phạm cân nhắc có nên mở lời hay không thì Đào Châu Phong đã nói thay ông: “Đặng đại nhân, mặc dù bản bộ đường không biết ngọn ngành vụ án này nhưng …án vẫn chưa định, tạm thời gọi hắn là nghi phạm, như thế không phải thoả đáng hơn sao?”

Đặng Tự đáp: “Nghịch tặc Lưu Tri Hội, tội mưu phản đã xác định cho nên bản tọa mới gọi hắn như thế.”

Xác thực rồi, quả nhiên.

Tội mưu phản Đặng Tự không thể tuỳ tiện mà định được. Nhất định là…

Ở bên cửa hông lẳng lặng xuất  hiện một người làm động tác tay về phía Đặng Tự, Đặng Tự lại nói: “Thế nhưng Đào đại nhân nói đúng lắm, án vẫn chưa thẩm, gọi thế cũng không ổn, sửa lại gọi là nghi phạm vậy. Cảm tạ Đào đại nhân đã chỉnh lại.” Rồi lại cười nhìn Bốc Nhất Phạm, “Bốc đại nhân nhớ ghi lại cái sai này của bản tự nhé.”

Bốc Nhất Phạm vội cười khà khà.

Đúng vào lúc đó, thị vệ áp giải Lưu Tri Hội vào.

Người bị trói lại, gông xiềng khoá chặt, thị vệ tháo túi vải đen trên đầu ông ta xuống, để lộ ra gương mặt, trên miệng vẫn còn bị nhét khăn.

Đào Châu Phong thất kinh, nín nhịn rồi lại muốn mở miệng nhưng Đặng Tự đã nói trước: “Hai vị đại nhân có thể không biết, nghi phạm Lưu Tri Hội kỳ thực võ công rất cao cường, hơn nữa những kẻ đồng đảng khác của hắn sau khi bị bắt đều tự sát trốn tội nên bản tự không thể không đề phòng.”

Bốc Nhất Phạm chỉ có thể im lặng.

Đào Châu Phong sầu não thở dài nói: “Bản bộ đường thật sự càng ngày càng không hiểu những người trẻ nữa rồi.”

Đặng Tự gật đầu: “Đúng vậy, đều đa tài đa nghệ, quả thật khiến người ta phải bất ngờ.”

Lưu Tri Hội đứng dưới công đường, tư thế ung dung.

Ông ta chẳng buồn liếc nhìn Lan Giác đang ngồi bên hông. Tuy mặt nhìn thẳng lên công đường nhưng chừng như chẳng hề nhìn lấy ba người Đặng Tự.

Ông ta đứng trong thạch đường nhưng tất thảy mọi thứ trong đây đều như không để lọt vào mắt.

Giữ mình trong sạch, phong thái lỗi lạc.

Lan Giác vẫn nhớ năm đó những người thi đồng khoá đã dùng tám chữ này nhận xét về Lưu Tri Hội.

Đây là tám chữ không có duyên với Lan Giác ở kiếp này.

Tình cảnh của ngày đó nhiều năm về trước bất giác hiện ra trước mắt y. Y vì Cô Thanh Chương, lần đầu tiên tham gia văn hội của sĩ tử cùng khoá thi. Trong hoa viên của một tư dinh ở thành Nam, một người vẫy gọi Cô Thanh Chương: “Sơ Lâm lão đệ, đệ vẫn chưa làm quen với Lưu huynh nhỉ. Vị đó là tài tử nổi bật, đám người chúng ta đều cho rằng y có thể trở thành trạng nguyên năm nay đấy, hai người nhất định sẽ nói chuyện hợp ý nhau.”

Lưu Tri Hội ngồi dậy, gương mặt hoà nhã chắp tay hành lễ với Cô Thanh Chương: “Tôn huynh nói quá rồi, mỗ xấu hổ không có chỗ trốn rồi đây. Tại hạ Lưu Tri Hội.”

Lan Giác sớm đã biết Lưu Tri Hội nhưng người như Lưu Tri Hội đây đương nhiên sẽ không bắt chuyện với y. Cho dù có tình cờ gặp nhau cũng sẽ ai đi đường nấy, chạm vai rồi lướt qua nhau mà thôi, trước nay chưa từng có cuộc chào hỏi chính thức nào với nhau. Do đó cho dù người kế bên chỉ giới thiệu Cô Thanh Chương gặp gỡ Lưu Tri Hội, Lan Giác cũng không thể không đứng thẳng, cũng chào hỏi hàn huyên với Lưu Tri Hội.

Lưu Tri Hội chỉ đáp lễ qua loa rồi lại tiếp tục nói chuyện với Cô Thanh Chương.

Xem qua thì lễ nghĩa chu toàn, không hề thất lễ nhưng kỳ thực đã biểu hiện rõ rành rành ra là y ta không hề để Lan Giác vào mắt.

Khi đó vì chuyện này mà Lan Giác rất bực bội.

Sau đó là nâng rượu liên cú[1], Lưu Tri Hội vừa ngâm ra một câu thì tất thảy đều kêu hay. Lan Giác cảm thấy, kỳ thực chẳng hay được như mọi người nói. Sau đó là tới câu thơ của Cô Thanh Chương, so với của y ta thì linh động hơn nhiều. Đương muốn lớn tiếng khen ngợi Cô Thanh Chương thì Lưu Tri Hội đã đứng dậy vỗ tay: “Tuyệt vời, Lưu mỗ thật hổ thẹn.”

Người ngồi cùng nói: “Câu của Lưu huynh và Cô huynh như châu như ngọc, không cần phải quá khiêm tốn làm gì.”

Lan Giác âm thầm khịt mũi phản đối, Cô Thanh Chương cũng đứng dậy: “Khen nhầm rồi, kỳ thực tôi không giỏi ngâm thơ, Bội Chi giỏi hơn tôi nhiều.”

Dựa theo quy củ của văn hội, Lưu Tri Hội đứng dậy hoan hô là biểu thị y ta muốn đối tiếp câu thơ của Cô Thanh Chương. Mọi người tán thưởng như châu như ngọc là muốn hùa theo để Lưu Tri Hội và Cô Thanh Chương tiếp tục đối câu. Nhưng Cô Thanh Chương lại nói câu này, mọi người không thể không bảo Lan Giác đối tiếp. Trong tình cảnh này, đáng lẽ Lan Giác nên viện lý do tài hèn học ít mà từ chối, sau khi nhún nhường hai ba câu xong thì Lưu Tri Hội sẽ miễn cưỡng mà khiêm nhường đối tiếp.

Nhưng khi đó Lan Giác vẫn rất xốc nổi, không từ chối mà lại mở miệng ngâm tiếp một câu.

Hội trường nhất thời yên lặng. Chỉ có Cô Thanh Chương nói: “Tuyệt vời, tuyệt vời. Câu mới nãy của tôi có chút khô cứng, câu tiếp theo của Bội Chi làm cho câu của tôi sinh động hẳn ra. Quả nhiên với khoảng liên cú tôi còn phải trông vào Bội Chi rồi.”

Lưu Tri Hội cười nhàn nhạt: “Lan huynh tuyệt cú.” Rồi ngồi xuống. Những người khác cũng khen qua loa, ngượng ngạo một hồi thì người kế bên Lan Giác mới miễn cưỡng đối tiếp câu này.

Đến khi tan hội, Lưu Tri Hội lại đến cáo biệt với Cô Thanh Chương, cũng thuận đà nói lời tạm biệt khách khí với Lan Giác, cũng xem như chu toàn lễ nghĩa.

Trên đường về Lan Giác buồn bực chỉ nói vài câu, vẫn là Cô Thanh Chương áy náy mở lời nói với y trước: “Bội Chi, xin lỗi nha, là tôi không biết cư xử.”

Lan Giác ương bướng nói: “Không sao cả, chỉ là tôi và y ta không phải cùng một loại người, ở cạnh nhau có chút gượng gạo. Mấy chuyện thế này sau này tôi sẽ không đi nữa đâu.”

Cô Thanh Chương nói: “Tôi cũng cảm thấy chẳng có gì vui cả, sau này cũng từ chối luôn.”

Lan Giác nói: “Huynh hà tất gì phải từ chối. Bọn họ rất muốn kết giao với huynh. Kỳ thực, huynh vẫn không nên qua lại với tôi, đáng lẽ huynh phải trở thành tri kỷ với Lưu Tri Hội mới phải.”

Nếu như huynh thật sự coi tôi là bạn thì đừng để ý đến Lưu Tri Hội.

Dấu hiệu rõ ràng như thế, thật giống như đứa trẻ ba tuổi.

Không biết sao khi Lan Giác nhớ lại bản thân mình như thế, ngoài tức cười ra còn có chút hoài niệm.

Nét mặt lúc đó của Cô Thanh Chương chợt hiện ra trước mắt. Từ ngày hôm đó về sau, y thường hay trưng ra biểu cảm đó, sau đó gọi: “Bội Chi…”

Sơ Lâm, Sơ Lâm, huynh của khi đó có thật là lần dầu tiên quen biết với Lưu Tri Hội không?

Huynh và Lưu Tri Hội rốt cuộc có quan hệ gì?

Quả hạnh đó lại có bí mật gì?

Tại sao huynh lại giao nó cho tôi?

Đặng Tự nghiêm nghị nói: “Nghi phạm đã tới, bản tự trước tiên sẽ nói sơ lược qua ngọn nguồn của vụ án này.”

Đào Châu Phong và Bốc Nhất Phạm đang trong cơn mê nghe đến đây thì tinh thần liền phấn chấn.

“Nhiều tháng trước, Đại lý tự nhận được tin báo, trong nhân gian có kẻ tung lời đồn nhảm, có ý đồ gây rối. Sau khi âm thầm điều tra căn nguyên, bản tự và tân nhậm Đoạn thừa Liễu Đồng Ỷ đã đến điều tra Huyện Nghi Bình, Quận Mộc Thiên. Được sự giúp đỡ của Tri phủ Cao Kham Quận Mộc Thiên và Huyện thừa Trương Bình Huyện Nghi Bình, đã phát hiện ra được đám gian tặc loạn đảng ẩn núp trong dân gian cũng như trong huyện nha Nghi Bình. Đây là băng nhóm rất lớn, chi nhánh khắp nơi, còn giả làm thường dân trăm họ, trà trộn vào xã hội; có kẻ đạt được công danh vào làm quan trong triều; có nữ tử tuyệt sắc và kẻ giả thần giả quỷ, mê hoặc nhân tâm. Đã bắt được mấy chục người nhưng chỉ là lắt nhắt vụn vặt. Kẻ chủ mưu vẫn chưa lộ diện. Bản tự bèn cùng với Lễ bộ Lan Thị lang, Cao Tri phủ, Trương Bình bày ra cạm bẫy dẫn dụ, truy nã nữ thích khách Ly Quán về quy án, từ đó lần ra đượcc hung đồ đứng phía sau đã ẩn nấp trong triều đình nhiều năm, là Lưu Tri Hội.”

Bốc Nhất Phạm tán thưởng nói: “Bản đài thật sửng sốt, Đặng đại nhân bố trí thật tinh diệu. Lúc trước chỉ biết Đặng đại nhân vi phục đến Nghi Bình, bắt được một đám loạn đảng, còn cho rằng án đã kết xong rồi, không ngờ sau vụ án này còn có vụ án khác. Cách làm này của Đặng đại nhân đã dẫn rắn ra khỏi hang. Bái phục, bái phục! Lan Thị lang thân là Lễ bộ, chuyện trúng độc này không ngờ lại là lấy thân mạo hiểm, trợ giúp phá án. Thánh thượng thường hay dạy bảo, các bộ các ty các chức trong triều phải hợp tác giúp đỡ nhau mới có thể phát triển hài hoà, đem lại lợi ích cho xã tắc. Hành động này của Lan Thị lang thật hợp với thánh huấn, bản đài chỉ có thể hổ thẹn tán thưởng mà thôi!”

Đào Châu Phong cũng vuốt râu hùa theo vài câu, nhưng sau đó quả không phụ sự chờ đợi của Bốc Nhất Phạm mà nói: “…chỉ là, có vài tình tiết trong này bản bộ đường vẫn chưa hiểu. Như là…Lưu Tri Hội sao lại làm ra loại chuyện này. Xuất thân trạng nguyên, phong nhã hào hoa, thánh thượng và triều đình rất trọng hậu ngài ta, rõ ràng con đường tiến thủ rất rộng mở tốt đẹp, sao lại đi tạo phản?” Rồi lại dùng ánh mắt đau lòng nhìn Lưu Tri Hội, “Kẻ tạo phản cũng chỉ là kẻ cướp mà thôi. Đọc sách thánh nhân, đứng vào hàng quân tử, hà cớ chi phải chìm đắm trong trụy lạc thế này? Đặng đại nhân bắt được y ta ở đâu, y ăn vận thế này hình như trong dân gian gọi là dạ hành y nhỉ, quan to tam phẩm vậy mà lại mặc đoản y, đây, đây…có hay không…”

Đặng Tự cắt ngang câu nói của Đào Châu Phong: “Bản tự bắt được nghi phạm trong nhà của Lan Thị lang, nửa đêm nghi phạm vượt nóc băng tường, dùng thuốc mê đánh gục các gia đinh trong nhà Lan Thị lang, rồi tiếp tục đột nhập vào phòng ngủ của Lan Thị lang.”

Đào Châu Phong càng thêm kinh hãi, thêm đau lòng nhìn Lưu Tri Hội: “Ngài thực sự đã luyện qua võ công? Vậy bộ dạ hành y này vì lý do đó nên mới mặc rồi. Nửa đêm đi vào phòng ngủ của Lan đại nhân là có mục đích gì? Ngài và Lan đại nhân là quan cùng triều, có chuyện gì không thể đóng cửa cùng nhau giải quyết sao, sao cứ phải như vậy chứ? Lúc đó Lan Thị lang đang nằm trên giường à? Lưu Tri Hội muốn …”

Lan Giác đứng dậy: “Hồi đại nhân, Lưu Tri Hội vào phòng ngủ của hạ quan không phải là vì hạ quan mà là vì một sợi dây chuyền. Lúc đó hạ quan giả vờ mình đã chết rồi.”

Đào Châu Phong vuốt râu: “Dây chuyền?”

Đặng Tự ra dấu cho Lan Giác ngồi xuống, nói: “Một miếng ngọc hình quả hạnh, có liên quan đến vụ án này, cũng là mấu chốt vạch trần thân phận của hung thủ thật sự.”

Đào Châu Phong khẽ gật đầu, lại nói: “Mới nãy bản bộ đường nhìn thấy mí mắt của nghi phạm khẽ giựt, hình như có điều muốn nói. Nếu cứ không mở miệng thì thẩm án cũng rất bất tiện, hay là gỡ cái khăn trong miệng y ra đi?”

Đặng Tự phẩy tay với đám thị vệ, thị vệ rút cái khăn trong miệng của Lưu Tri Hội và gông gỗ ra, nhưng tay chân vẫn còn bị xích lại.

Lưu Tri Hội chắp tay khẽ khom lưng về phía Đào Châu Phong: “Đa tạ Đào đại nhân.”

Đào Châu Phong lại than: “Ai, ngàn vạn lần đừng phí hoài bản thân như thế. Triều đình không xử án oan, nếu muốn biện bạch gì thì cứ nói thẳng ra đi.”

Lưu Tri Hội nói: “Tạ đại nhân, hạ quan quả thực là bị oan. Hạ quan thân là quan Ngự sử, có trách nhiệm giám sát, bởi vì Lan Thị lang bị tố nhận của hối lộ, rồi đột nhiên trúng độc, lại trùng hợp vào dịp cuối năm, chỉ sợ có liên quan đến việc đút lót. Lan Thị lang là trọng quan Lễ bộ, điều tra vụ này là trọng vụ của Ngự sử đài, hơn nữa sự việc lại liên quan đến vụ án giết người nên không thể khinh suất giao cho thuộc hạ làm. Hạ quan bèn đích thân nửa đêm đến Lan phủ, vốn nghĩ xem xem có để lại manh mối nào hay không. Không ngờ lúc đó Lan Thị lang và người nhà thông đồng giả vờ trúng độc mà chết, hạ quan cho rằng Lan Thị lang đã thật sự qua đời, kinh hãi vô cùng, rồi nghe gia nhân thân cận của y nhắc đến sợi dây chuyền hình quả hạnh mà Lan Thị lang luôn mang theo bên mình nên mới vào phòng ngủ của Lan Thị lang.”

Lan Giác không kìm được cơn vui.

Người làm ra vẻ, không chỉ có y của ngày xưa, mà còn có một Lưu Tri Hội từ bấy đến giờ.

Lưu Tri Hội vẫn tiếp tục.

“Hạ quan không biết Lan Thị lang đã đưa ra lý do thoái thác nào với Đặng đại nhân, có sắp xếp bố trí gì. Nhưng miếng ngọc quả hạnh này quả thực đóng vai trò quan trọng, hạ quan mới thu lấy làm vật chứng. Những điều hạ quan vừa nói mỗi câu đều là sự thật, có thể gọi hạ nhân của Lan phủ đến để đối chất với hạ quan.”

Đặng Tự nhướng mày: “Ô, vậy ngươi nói thử xem, miếng ngọc quả hạnh này có bí mật gì to lớn?”

Lưu Tri Hội nhìn quanh bốn phía: “Bí mật quan trọng này hạ quan thực sự có thể nói hết ra?”

Đặng Tự nói: “Thẩm vấn ngươi tại đây, trên công đường này không có gì không thể nói cả. Nói đi.”

Lưu Tri Hội nói: “Hạ quan đã từng nhậm chức Tri phủ Qụân Mộc Thiên, cũng từng biên tu địa phương chí. Cô Gia Trang trong Huyện Nghi Bình, tin rằng đại nhân biết bí mật ẩn chứa trong nó. Cô Gia Trang là gia tộc còn sót lại của tiền triều, nhiều năm trước do dịch bệnh nên diệt vong cả thôn, lúc hạ quan biên tu địa phương chí, phụng lệnh âm thầm điều tra lai lịch của thôn này. Nếu đại nhân không tin, có thể đi hỏi Tăng tướng.”

Đặng Tự gật đầu: “Điều này không cần hỏi, đúng là vậy, bản tự có biết.”

Lưu Tri Hội nói: “Vậy đại nhân có lẽ cũng biết, kí hiệu của Cô Gia Trang là hình bốn lá và ba quả hạnh. Hạ quan đồng niên với Lan Thị lang, lúc tham gia kỳ thi có một thí sinh đồng khoá tên gọi Cô Thanh Chương, chính là nhân sĩ Cô Gia Trang, về sau không may bệnh mất. Kẻ đó có qua lại rất thân mật với Lan Thị lang. Kỳ thực, trước hôm hạ quan đến thám thính Lan phủ một ngày, Lan Thị lang có kêu hạ quan đến phủ y nói chuyện, rồi đột nhiên nhắc đến Cô Thanh Chương rồi còn nói trong tay y có miếng ngọc quả hạnh.”

Đặng Tự đảo mắt sang hướng Lan Giác: “Lan Thị lang, chuyện này có thật không?”

Lan Giác đứng dậy nói: “Là thật. Nhưng lúc đó hạ quan còn nói với Lưu Tri Hội một câu, tôi biết, người hạ độc là ngài.”

Lưu Tri Hội nói: “Hạ quan nghe lời nói này của Lan Thị lang, nhất thời nảy sinh hai ý nghĩ, một là Lan Thị lang trúng độc quá nặng, thần trí mơ hồ, hai là việc Lan Thị lang trúng độc có liên quan trọng đại đến Cô Gia Trang.”

Đặng Tự nói: “Vậy ngươi ngã theo phỏng đoán nào?”

Lưu Tri Hội nói: “Cả hai đều có, bằng không Lan Thị lang sẽ không cố ý nói chuyện này cho tôi biết. Cũng bởi vì nghi ngờ chuyện này nên đang đêm hạ quan mới đột nhập vào phủ Lan Thị lang.”

Đặng Tự cười khà khà: “Nói hay lắm, còn có thể nói mượt mà, nói đầy đủ thế kia. Theo suy đoán của ngươi thì Lan Thị lang và Cô Gia Trang có liên quan với nhau?”

Lưu Tri Hội ung dung nói: “Hạ quan không biết Lan Thị lang và Đặng đại nhân đã bố trí bẫy ra sao để dẫn dụ hạ quan vào. Nghĩ lại thì những vụ án đại nhân điều tra đều có liên quan đến Cô Gia Trang, Lan đại nhân sợ bị liên luỵ cũng là chuyện hiển nhiên. Còn về phần tại sao lại chọn trúng hạ quan, hạ quan cũng không biết.”

Đặng Tự nheo hai mắt nói: “Thân là một kẻ bị oan nhưng quả thực ngươi quá bình tĩnh đi.”

Lưu Tri Hội cúi người: “Hạ quan tin rằng, trời xanh có mắt, có ba vị đại nhân chủ thẩm nhất định sẽ không xử oan người vô tội.”

Thần sắc Đặng Tự lạnh lùng: “Thôi đi, xảo biện đến đây được rồi! Nhà của ngươi đã bị lục soát, lệnh đường sợ tội tự vẫn, ngươi còn lời gì để nói?”

Thần sắc Lưu Tri Hội đại biến: “Thân mẫu tôi lại…”

Đặng Tự đập bàn, cắt ngang câu nói của ông ta: “Thôi đi, vở kịch đứa con có hiếu khóc lóc đau đớn không cần phải diễn đâu. Thị vệ vừa vào nhà, lệnh đường liền đập đầu vào cột mà chết, ra đi cũng nhanh lắm đấy! Đám các ngươi cho rằng không dùng chung một cách chết là có thể qua mắt được người khác sao? Ngươi phải biết vì sao Nam cam Bắc chỉ, một phương thuỷ thổ một phương người chứ? Đám các ngươi từ nhỏ đã bị bọn loạn đảng kia nuôi dưỡng, bắt thêm vài tên tự nhiên có thể phát hiện sự tương đồng bên trong thôi. Cho rằng trong móng tay có giấu ám khí là độc châm liền không giống với kẻ khác. Thân pháp giẫm lên nóc vào nhà, hành động thiếu thận trọng, đâu đâu cũng có dấu tích có để lần theo.”

Một Trương Bình nãy giờ vẫn im lặng đứng cạnh bàn đột nhiên nhíu mày nhìn chăm chú Lưu Tri Hội, lẩm bẩm: “Nhầm rồi.”

Liễu Đồng Ỷ phát hiện ra, nhỏ giọng nói: “Trương huynh, sao thế? Đang trên công đường đấy.”

Lưu Tri Hội chậm rãi nói: “Chỉ dựa vào hành động để suy đoán rồi định tội cho người ta, bức chết người nhà. Thiên lý ở chỗ nào?”

Trương Bình thấp giọng nói: “Có chuyện muốn nói với Đặng đại nhân.”

Lan Giác vẫn luôn để ý đến động tĩnh của Trương Bình, vừa nãy nghe hai chữ “nhầm rồi” không khỏi khẽ ngạc nhiên.

Bốc Nhất Phạm cũng phát hiện thấy, nhíu mày: “Hai người bên bàn thì thầm to nhỏ chuyện gì đấy?”

Bàn tay đương muốn đập bàn của Đặng Tự ngừng lại, nhìn sang phía Trương Bình.

Trương Bình cũng nhìn sang hướng Đặng Tự, Bốc Nhất Phạm nói: “Đặng đại nhân, hình như cậu thanh niên kia đang ra dấu với ngài đấy.”

Đặng Tự nói: “Có gì cứ nói thẳng ra ở đây đi, không sao đâu.”

Trương Bình liền tiến lên trước thi lễ: “Đại nhân, hạ quan muốn kiểm tra hai tay của nghi phạm, hình như đã nhầm một chuyện.”

Đặng Tự trầm mặc một lát, đột nhiên một người lẳng lặng xuất hiện bên cửa hông, Đặng Tự chậm rãi đặt kinh đường mộc xuống, nghiêm mặt nói: “Được.”

Lan Giác không kìm được nhìn chằm chằm vào Trương Bình, lòng thầm nói, ngàn vạn lần đừng xảy ra chuyện gì, ngươi có biết những người trên công đường đang nhìn không? Đặng Tự tin ngươi nên mới bắt giữ Lưu Tri Hội, nếu giờ khắc này ngươi nói bắt nhầm người rồi, lật án cho hắn, thì đến cả bản bộ viện cũng phải chết chung với ngươi đấy.

Câu ‘được’ của Đặng Tự vừa dứt, thị vệ hai bên Lưu Tri Hội đã lập tức tóm lấy hai tay ông ta, hai tiếng răng rắc giòn tan vang lên, các khớp trên hai cánh tay ông ta được gỡ ra, rồi họ lại nhét miếng vải vào miệng Lưu Tri Hội.

Bốc Nhất Phạm khẽ sáp lại gần Đặng Tự: “Đặng đại nhân, cậu thanh niên dưới công đường kia sao lại nói nhầm rồi?”

Đặng Tự không trả lời.

Trương Bình tiến tới kiểm tra hai tay của Lưu Tri Hội, quả nhiên móng tay có hơi vểnh lên, không ăn khớp với bên cạnh, nhưng nếu không kiểm tra kỹ sẽ rất khó phát hiện. Rồi lật tay ông ta lại, nhìn sát hơn nữa, hai mày nhăn gắt lên, hắn quay người lại rồi thi lễ: “Hạ quan muốn một tờ giấy trắng và chút mực.”

Đặng Tự chỉ đơn giản nói: “Chuẩn.”

Có người đem lên.

Trương Bình tóm lấy tay trái của Lưu Tri Hội, cầm lấy ngón trỏ của ông chấm vào mực rồi ấn lên tờ giấy.

Mọi người trong công đường đều biến sắc, Đào Châu Phong nói: “Trương Bình à, trên công đường không cho phép làm mấy chuyện bức cung ép buộc nhận tội đâu!”

Trương Bình đáp: “Không phải nhận tội mà là lấy chứng cứ.” Rồi cầm tờ giấy đó lên xem.

Thị vệ cũng dõi theo động tác của Trương Bình, cúi người bẩm báo: “Đại nhân, trên dấu vân tay của nghi phạm hình như có ký hiệu.”

Đặng Tự lệnh cho Trương Bình đem tờ giấy đó lên, nhíu mày xem: “Phần bụng của ngón tay mềm quá, dùng mực lấy vết sợ không rõ, đổi sang dùng mực đóng dấu thử xem.” Rồi lại quay sang nhìn Đào Châu Phong và Bốc Nhất Phạm ở hai bên, “Hai vị đại nhân làm chứng, đây chỉ là lấy vật chứng, không phải là ép nhận tội.”

Thị vệ lại đem mực đóng dấu lên, rồi lại ấn ngón trỏ bàn tay trái của Lưu Tri Hội vào mực một lần nữa. Lần này ký hiệu quả nhiên rõ ràng hơn rất nhiều, thị vệ bẩm: “Giống như chữ của phiên bang.” Ba người Đặng Tự trên công đường mắt đều loé sáng, vội vàng sai đem tờ giấy lên.

Trương Bình nhíu mày: “Hạ quan không hiểu ý nghĩa của ký hiệu này.” Rồi nhìn sang Lưu Tri Hội. Thị vệ gỡ miếng vải trong miệng Lưu Tri Hội ra, Lưu Tri Hội cười lạnh nói: “Đúng là không từ bất cứ thủ đoạn hèn hạ nào. Đây là vết sẹo trong một lần bị bỏng hồi nhỏ thôi, Lưu mỗ cũng không biết có từ khi nào, bản thân do tình cờ mà phát hiện ra. Nếu như tôi là loạn đảng há còn có thể khắc dấu trên ngón tay để biểu lộ thân phận à?”

Đặng Tự săm soi nói: “Quả thật là giống một vết bỏng.” Bốc Nhất Phạm nói: “Cũng…có chút giống chữ Phạn. Giống ngũ tử của chữ Phạn.”

Trương Bình liền quay lại nhìn Lưu Tri Hội.

Đào Châu Phong và Đặng Tự đều đồng loạt khen Bốc Nhất Phạm thật uyên bác, Bốc Nhất Phạm cười khà khà nói: “Do có ở Tây Cương một khoảng thời gian nên cũng biết chút ít.”

Trương Bình khom người về phía công đường: “Đại nhân, quả nhiên đã phỏng đoán nhầm một điểm.”

Thần sắc Đặng Tự lại cả kinh: “Chỗ nào?”

Trương Bình cụp mắt xuống nói: “Hạ quan vốn cho rằng, Cô Thanh Chương đã phát giác ra thân phận của Lưu Tri Hội nhưng trong lúc vẫn chưa chắc chắn đã bị Lưu Tri Hội giết hại. Nhưng bây giờ nghĩ lại, có lẽ không phải như thế. Cô Thanh Chương che giấu việc này cho Lưu Tri Hội, có thể vào lúc y ta chưa nói ra đã bị hạ độc nên mới chọn cách im lặng đến cùng.”

Lòng Lan Giác khẽ đông lại.

Đặng Tự âm thầm thở dài, vẫn giữ giọng điệu giống hệt ban nãy nói: “Tại sao?”

Trương Bình lại nghiêng người nhìn Lưu Tri Hội: “Lưu đại nhân vốn không phải họ Lưu, mà là họ Độ. Tri phủ Độ Cung bị đám đồng đảng ám hại nhiều năm về trước chính là cha ruột của Lưu đại nhân. Vì Lưu Tri Hội, Cô Thanh Chương đã giấu nhẹm đi hai chuyện. Một là chuyện này, hai là thân phận của y ta. Lưu đại nhân nghe nói đến hoàng ngọc quả hạnh liền biết mình nhầm rồi, lúc này mới đi đến phủ Lan đại nhân cướp ngọc. Y đã giết nhầm người quan trọng, hành động này là chuộc tội. Kỳ thực đã đoán được đây là chui đầu vào rọ, vu cáo Lan đại nhân cũng giống như hạ độc Lan đại nhân, phần nhiều đều là hận thù riêng tư chứ không phải là điều cần phải làm. Lưu đại nhân đã biết, Cô Thanh Chương vốn không phải họ Cô, cũng không phải họ Dịch, y ta là huyết mạch tiền triều được Dịch thị giữ lại.”

Là quả hạnh được cành lá xung quanh vây lại.

Không biết tại sao nhưng trong lòng Lan Giác đột nhiên lại cảm thấy rất thoải mái.

Hoá ra là như vậy, Cô Thanh Chương, Cô chỉ là họ giả, hai chữ Thanh Chương này mới là họ thật.

Thanh Chương, thanh hoa chi chương[2], viết lên trên giấy, tên giấy là Tuyên.

Sơ Lâm, hoá ra là huynh họ Tuyên.

“Cô Thanh Chương ứng thí, vốn đã ôm quyết tâm chịu chết. Sở dĩ y mạo hiểm như vậy chỉ vì muốn tìm ra Lưu đại nhân hoặc đồng tộc, nhưng ngay từ đầu y đã tìm nhầm người là Lan đại nhân rồi.”

——

[1] Hình thức làm thơ ngày xưa, gồm hai hay nhiều người tham gia, mỗi người làm một câu thơ rồi ghép lại thành một bài thơ.

[2] Bài văn tài hoa xuất chúng
 
Chương 67


Đặng Tự không thể không cắt ngang câu nói của Trương Bình: “Chậm đã, làm sao ngươi biết nghi phạm là huyết mạch của Độ đại nhân? Độ đại nhân hy sinh đã mấy chục năm về trước. Chỉ là một dấu vân tay, làm sao có thể chứng minh?”

Trương Bình cúi người: “Quả thật là phải đợi chứng thực nhưng ý nghĩa của ấn ký trên ngón tay của Lưu đại nhân ứng với ‘Ngô thạch tử’.”

Ta là con của đá.

Đào Châu Phong nói: “Bản bộ đường vẫn thường nghe ân sư nói, một đời của Độ Cung đại nhân gắn với chữ thạch này rất nhiều. Chỉ là…Trương Bình à, giải thích thế này mặc dù nghe rất suông nhưng vẫn có chút gượng ép đó.”

Liễu Đồng Ỷ đột nhiên tiến lên trước, nói với quan xử án: “Bẩm các vị đại nhân, hạ quan từng nghe nói, lúc còn sống Độ đại nhân thường đi Thạch Lâm thiền tự. Nếu con dấu là chữ Phạn thì đi đến đó chắc có thể tìm ra được manh mối.”

Đặng Tự nhíu mày, tầm nhìn lại lướt đến chỗ cửa hông. Lát sau lại quay sang nhìn Đào Châu Phong và Bốc Nhất Phạm: “Thạch Lâm thiền tự cách Đại lý tự cũng không xa, cũng đã gần trưa, không ngại tạm thời bãi đường chứ?”

Đào Châu Phong và Bốc Nhất Phạm đều đồng ý.

Thị vệ mang Lưu Tri Hội đã được trói lại giải xuống, trước khi bị trùm đầu, Lưu Tri Hội lướt mắt nhìn Trương Bình.

Đặng Tự cùng Đào Châu Phong, Bốc Nhất Phạm và Lan Giác bước vào cửa hông, rồi trở lại nội đường nói với Trương Bình và Liễu Đồng Ỷ: “Hai người các ngươi mau đến Thạch Lâm thiền tự đi. Tìm thấy hay không thấy chứng cứ đều phải gửi tin về. Nếu không tra thấy gì thì tạm thời bỏ suy luận này ra khỏi vụ án.”

Trương Bình và Liễu Đồng Ỷ nhận lệnh.

Đặng Tự lại bước vào cửa hông, nhìn đám người Bốc Nhất Phạm cười nói: “Các vị đại nhân dùng bữa trưa giản tiện nhé?”

Bốc Nhất Phạm liếc ngang, trên bức tường thông đạo có một cánh cửa nhỏ đã bị đóng chặt. Bốc Nhất Phạm giả vờ không nhìn thấy gì cả, thu lại ánh nhìn cười đáp: “Vậy thì làm phiền Đặng đại nhân một bữa rồi.”

Lan Giác nói: “Hạ quan là nhân chứng, cùng dùng bữa với ba vị đại nhân liệu có hợp phép tắc không?”

Đặng Tự nói: “Đành phải để Lan Thị lang chịu thiệt rồi. Lần này đã nợ Lan Thị lang một ân huệ lớn, đợi kết án, bản tự làm chủ nhất định sẽ mời Lan Thị lang ăn một bữa đã đời!”

Lan Giác cười nói: “Đại nhân khách khí rồi, vậy hạ quan sẽ chờ thật đấy.”

Đặng Tự cùng Đào Châu Phong và Bốc Nhất Phạm vào nội viện phía trước, Thẩm Thiếu khanh và vài thị vệ dẫn một mình Lan Giác vào một căn phòng yên tĩnh khác.

Trương Bình và Liễu Đồng Ỷ ngồi xe ngựa rời khỏi Đại lý tự, thị vệ cưỡi ngựa mở đường phía trước, xe chạy như bay trên đường, chưa tới một giờ sau đã đến Thạch Lâm thiền tự.

Quan truyền lệnh đã đến trước, tự tăng mời những người thắp hương lui ra, để Trương Bình, Liễu Đồng Ỷ và các thị vệ bước vào.

Kỳ thực Trương Bình cũng không chắc chắn.

Đã là chuyện của mấy chục năm về trước, cho dù có chứng cứ, liệu có ở nơi này hay không?

Nhưng ánh mắt trước khi rời đi của Lưu Tri Hội đã cho Trương Bình biết, Lưu Tri Hội quả thật không biết thân thế của mình.

Đi lòng vòng trong Thiên Vương điện, Liễu Đồng Ỷ đột nhiên vui sướng giơ ngón tay chỉ về mé trước: “Trương huynh, mau lại xem!”

Trương Bình cũng nhìn theo, bất giác nheo mắt lại, Trên thạch bích chạm khắc câu kinh và ký hiệu loằng ngoằng.

Tự tăng dẫn đường nói: “Mấy chục năm trước, tệ tự và Hư Nguyên quán, Minh Luân thư viện cùng mở hội tam giáo Thích, Nho, Đạo. Tham dự hội này, một vị Độ Hàn Lâm đã viết tay thiên ‘Quang minh vô lượng’ trong ‘Phật nói A di đà phật Kinh’, Thanh Nhiên đạo trưởng của Hư Nguyên quán viết chương ba mươi của ‘Trung dung’, Không Viễn trụ trì của tệ tự lấy số từ một đến chín trong sách Phạn văn, chia thành ba hàng rồi đề thêm câu trong ‘Đạo đức kinh’, đạo sinh một, một sinh hai, hai sinh ba, ba sinh vạn vật. Lấy đó để biểu thị cho tình hữu nghị của tam giáo. Sau đó dựa theo bút tích của họ mà khắc lại trên bức tường này.”

Độ Hàn Lâm, Độ Cung.

Trương Bình và Liễu Đồng Ỷ cùng nhìn nhau rồi đi đến trước bức thạch bích.

Trương Bình đưa tay ấn vào chữ “ngũ” (5) được viết bằng chữ Phạn kia nhưng không có gì bất thường. Liễu Đồng Ỷ cẩn thận xem xét câu kinh phật mà Độ Cung đã viết.

“Xá Lợi Phật. Ư nhữ ý vân hà. Bỉ Phật hà cố hiệu A Di Đà? Xá Lợi Phất. Bỉ Phật quang minh vô lượng, chiếu thập phương quốc, vô sở chướng ngại, thị cố hiệu A Di Đà.” [1]

Hắn gõ nhẹ lên chữ “thập” kia, đè xuống, cà xát cũng không thấy gì bất thường.

Trương Bình nhíu mày.

Độ Cung và Trần Trù đều giống nhau ở chỗ bị tà phái kia chọn trúng. Đối với Độ Cung đã dùng mỹ nhân kế cài mỹ nữ vào đánh cắp bản đồ thủ thành, hại chết Độ Cung, rồi lại mang xác Độ Cung đi an táng, nhất định là đã nảy sinh chân tình với Độ Cung.

Cô ta sinh ra con của Độ Cung, để lại một ấn ký trên tay đứa trẻ này, chắc chắn đã biết bản thân sẽ chết.

Vậy nếu cô ta có để lại thứ gì đó thì sẽ giấu thế nào?

Lưu Tri Hội được tà phái đó nuôi dưỡng, nếu ấn ký trên tay bị phát hiện, người của giáo phái đó sẽ sinh nghi, cũng sẽ đoán ra được. Thạch Lâm thiền tự mà Độ Cung thường đến, chữ ngũ trong văn Phạn giống như ấn ký đó, bài kinh mà đích thân Độ Cung viết, có chữ “thạch” đọc đồng âm với “thập”, đều có thể nghĩ đến ngay lập tức, quá rõ ràng rồi…

Vậy thì…

Ngô, thạch, tự.

Phạn văn ngũ, thạch bích, còn có…

Trương Bình đột nhiên quay phắt lại, chạy bổ đến chỗ bài “Trung dung” do Thanh Nhiên đạo trưởng viết.

“Trọng Ni tổ thuật Nghiêu Thuấn, hiến chương Văn Võ, thượng luật thiên thời, hạ tập thủy thổ. Thí như thiên địa chi vô bất trì tải, vô bất phúc đảo. Thí như tứ thời thác hành; như nhật nguyệt chi đại minh.Vạn vật tịnh dục nhi bất tương hại. Đạo tịnh hành nhi bất tương bội. Tiểu đức xuyên lưu; đại đức đôn hoá. Thử thiên địa chi sở vi đại dã.”[2]

Trương Bình mượn bội kiếm của thị vệ, dùng chuôi kiếm gõ nhẹ lên hai chữ “Trọng Ni”, ánh mắt sáng rực.

Ừm, diện tích của hai chữ vừa hay có thể giấu được nhiều đồ một chút.

Đặng Tự, Đào Châu Phong, Bốc Nhất Phạm, ba người dùng cơm xong thì im lặng uống trà. Bên ngoài cửa vang lên tiếng bước chân vội vã, Đặng Tự đặt tách trà xuống, một thị vệ xông đến trước cửa.

“Bẩm đại nhân, bồ câu ở Thạch Lâm thiền tự báo tin, có thu hoạch rồi!”

Đặng Tự lập tức đứng dậy: “Tốt, chiều nay tiếp tục thăng đường.”

“Tử nói thiên mệnh, Phật nói luân hồi nhân quả, Đạo gia nói mờ mịt nhưng trong vẫn có tinh (tinh hoa của Đạo). Có ba chứng này, thiên ý vân vân, hoặc giả có thể tin. Con ta nếu như có thể nhìn thấy lá thư này, sau khi thân thiếp chết đi ngộ nhỡ có thiên tất hối hận khôn cùng. Nhưng thiếp sa vào địa ngục vạn vạn năm, tội này liệu có biến mất?”

Đào Châu Phong thở dài: “Đúng là một nữ tử có tình cảm tinh tế, vẫn chưa đánh mất lương tri.”

Bốc Nhất Phạm gật đầu: “Còn thông thạo kinh văn nữa.”

Đặng Tự đặt lá thư trở lại bàn: “Độ đại nhân là người có học vấn uyên bác, nếu không có tài hoa làm sao có thể mê hoặc được ông ấy?”

Lưu Tri Hội nhìn chăm chăm vào lá thư trên bàn. Đặng Tự lật hộp gỗ ở trước mặt: “Nữ tử này quả thật đã để lại vật chứng vô cùng quan trọng.”

Hầu kết của Lưu Tri Hội chuyển động liên tục.

Bốc Nhất Phạm nói: “Đặng đại nhân, nhưng bản đài vẫn…có chút không hiểu. Rốt cuộc vụ án này là sao? Lưu Tri Hội cùng với đám Cô Gia Trang đó mưu phản à? Còn nữa…di tộc tiền triều là sao?”

Đặng Tự ra hiệu cho Trương Bình: “Ngươi nói đi.”

Trương Bình cúi người: “Hồi Bốc đại nhân, Cô Gia Trang không hề mưu phản, là họ bị vu tội. Nhất cử nhất động của Cô Gia Trang đều nằm trong tay triều đình thì làm sao có thể mưu phản được?”

Bốc Nhất Phạm khẽ gật đầu: “Ý của ngươi là, Lưu Tri Hội và đồng đảng của hắn có ý đồ mưu phản, giá hoạ cho Cô Gia Trang. Trong Cô Gia Trang có di tộc của tiền triều, chính là người tên Cô Thanh Chương mà Lan đại nhân cũng quen biết. Nhưng sau đó Cô Thanh Chương vì một lý do nào đó mà bị Lưu Tri Hội giết. Trong tay của Lan đại nhân có đồ vật của Cô Thanh Chương đưa cho ngài ấy, liên quan trọng yếu tới sự việc, do đó Lưu Tri Hội mới muốn hại Lan đại nhân. Nhưng sự thật là Lan đại nhân đã bàn bạc xong xuôi với Đặng đại nhân rồi, dùng vật này dể dụ Lưu Tri Hội lộ hành tung. Có phải vậy không?”

Trong cổ họng của Lưu Tri Hội phát ra âm thanh khanh khách. Đào Châu Phong vuốt râu nói: “Bốc đại nhân tóm tắt như thế, bản bộ đường cũng hiểu ra rồi. Ai, thật là rối rắm mà…hình như nghi phạm có điều muốn nói. Nhìn ánh mắt của y ta, có phải là muốn xem lá thư thân mẫu để lại không? Ai, mẫu tử thiên tính, cho dù đã trở thành phản tặc hung đồ nhưng tình thân ruột thịt vẫn còn. Cho y xem đi.”

Đặng Tự nói: “Chứng cứ đã có, có phải dùng vật này để dụ hắn mở miệng khai ra hay không cũng không quan trọng. Không gấp.”

Bốc Nhất Phạm nói: “Chỉ là bản đài vẫn không hiểu lắm. Tên Cô Thanh Chương kia nếu đã là di tộc tiền triều vậy sao còn đến ứng thí, Lưu Tri Hội đã giết y như thế nào, sao lại liên luỵ đến Lan đại nhân? Đồng đảng Lưu Tri Hội đã khổ công thực hiện như vậy, cho thấy loạn đảng có quy mô rất lớn.”

Trương Bình đáp: “Kỳ thực không thể xem là loạn đảng, mà cũng không thể nói là mưu phản.”

Trên công đường nhất thời im lặng như tờ.

Lan Giác câm nín liếc nhìn Trương Bình. Đúng thật là đầu óc vừa thông ở đây ở kia đã bít đặc rồi. Loạn đảng mưu phản là tội cực kỳ nặng, há có thể nói giọng nhẹ tênh phải hay không phải ư. Lời nói không khéo, đầu cũng theo đó mà đi luôn. Cho rằng chuyện này là đùa sao?

Một lát sau Đặng Tự lạnh lùng nói: “Loạn đảng mưu phản đã không thể phân biệt nữa rồi.”

Đào Châu Phong lặng lẽ nhìn Trương Bình nhướng nhướng mày, ra dấu hắn mau hùa theo câu nói đó rồi trả công đường lại cho Đặng Tự.

Nhưng Trương Bình không thể lĩnh hội được, lại mở miệng nói: “Giáo phái mà Lưu đại nhân tham gia còn cao hơn cả loạn đảng nữa.”

Bốc Nhất Phạm phì cười: “Cao hơn loạn đảng? Thế là gì nào?”

Trương Bình quay người lại nhìn Lưu Tri Hội: “Âm dương ngang dọc, biến hoá vô cùng, thảy có chốn về, hoặc nhu hoặc cương, hoặc mở hoặc đóng, hoặc trì hoặc trương.”

Ánh mắt của Lưu Tri Hội loé sáng. Trương Bình lại quay người về phía trên công đường: “Đại nhân, có thể tạm thời rút giẻ ra khỏi miệng nghi phạm không?”

Đặng Tự mặt vô biểu tình phất phất tay, thị vệ rút miếng giẻ trong miệng Lưu Tri Hội ra.

Lưu Tri Hội lạnh lùng nhìn Trương Bình: “Trong bức thư mà ngươi tìm thấy có viết à?”

Trương Bình đáp ngắn gọn: “Không. Đoán thôi. Xem ra đúng rồi.”

Lưu Tri Hội lại nhìn hắn một hồi rồi nhìn về phía trên công đường: “Bức thư này có thể cho tôi xem qua được không?”

Bốc Nhất Phạm nói: “Quả thật càng lúc càng rối bời rồi.”

Đặng Tự nhíu mày: “Cứ kiểu đây một câu kia một câu thì đến bản tự cũng rối tinh rối mù. Thế này đi, Trương Bình, ngươi cứ nói hết suy đoán và ngọn nguồn ra đi, rồi sau đó cứ thế mà tiếp tục. Lưu Tri Hội đã khẳng định câu mới nãy ngươi nói rồi, tạm thời cũng không cần hắn phải khai gì cả.”

Thị vệ lập tức nhét giẻ vào trong miệng của Lưu Tri Hội.

Trương Bình chỉ đành phải quay lại hướng công đường: “Bẩm đại nhân, tổ chức Lưu Tri Hội tham gia hạ quan cũng không biết nên gọi thế nào cho chuẩn xác, thôi thì trước cứ gọi là giáo phái đi. Sở dĩ không thể gọi là loạn đảng vì họ không chỉ gây tai hoạ cho bản triều không thôi. Thành viên giáo phái này rải khắp mọi nơi, mượn thuyết Âm dương ngang dọc thời Đông Chu để lập giáo, đến nay đã được mấy trăm năm, trải qua ít nhất ba triều đại rồi.”

Đông Chu Quỷ Cốc Tử, thiên cổ kỳ sĩ, biết âm dương, thạo mưu lược, cơ trí thông thiên.

Đệ tử Tô Tần, Trương Nghi, Tôn Tẫn, Bàng Quyên, mỗi người đều chọn chủ cho mình, mỗi người làm việc của họ, đều gọi là Chiêu sử sách.

“Âm dương ngang dọc nhất phái, xem xét thời thế, không trung với chủ nào. Giáo phái này cũng vậy, họ xem thế sự như một ván cờ, còn bản thân là kẻ nắm giữ con cờ và cục diện.”

“Vây cánh của giáo phái mở rộng khắp nơi, từ những người buôn bán cho đến triều thần quý tộc.”

Thậm chí là cả đế vương.

“Họ không chỉ vì một ngôi vị hoàng đế, mà là muốn nắm giữ giang sơn mấy đời.”

Phế lập đế vương, triều đại thay đổi, tất thảy đều phải nằm trong tay họ.

Ầm! Hình như phía trên công đường vừa có tiếng động vang lên.

Trương Bình khẽ ngước mắt lên. Đặng Tự, Đào Châu Phong, Bốc Nhất Phạm đều cứng đờ người, thần sắc ngưng đọng.

Một lát sau, Đặng Tự quét mắt sang bên hông, cứng giọng nói: “Nói tiếp đi.”

Trương Bình bèn tiếp tục: “Dương động thì đi, âm ngừng thì ẩn. Thế không thể chống đỡ, ẩn kỹ đợi thời; thời có thể chống, thì bèn lập mưu. Vào cảnh thái bình, họ thu quân dưỡng sức, âm thầm sắp đặt. Lựa chọn những người thích hợp để bồi dưỡng.”

Giống như những nữ tử trong thôn nữ nhi, là những người được huấn luyện để tiếp cận và khống chế người mà họ chọn. Những đứa trẻ do đám nữ tử này sinh ra đã trở thành con cờ của giáo phái ngay từ giây phút lọt lòng.

Lưu Tri Hội cũng như thế.

Cứ thế sinh sôi nảy nở, khuếch trương lớn mạnh.

“Lúc thái bình thịnh thế, bọn chúng cũng vì để làm loạn sau này mà mai phục lót đường trước như tung những tin đồn nhảm, hoặc cử ra những kẻ biết bói toán, tiên đoán số mệnh, thiên cơ chi nhân. Đợi khi thời cơ thích hợp thì nổi dậy làm loạn. Những lời đồn nhảm, ca dao lúc trước kết hợp với những hành động gây rối sẽ khiến cho mọi thứ càng thêm huyền diệu khó giải thích, tựa như bọn họ thực sự có thể biết rõ thiên mệnh.”

Kỳ thực chẳng phải thiên mệnh gì, mà là do người làm ra.

Cũng giống như việc bọn họ mượn những câu chuyện ma quỷ, khống chế những kẻ được chọn vậy.

Người phàm tục mãi mãi không thể ngờ tới sẽ có những kẻ phí bao nhiêu sức lực để làm bao nhiêu chuyện thế này.

Ngươi ngồi trên hoàng vị thì thế nào? Kỳ thực triều cục đã do ta nắm giữ.

Giang sơn nhất thời mang gia họ ngươi thì thế nào? Ta có thể tạo ra triều đại của ngươi, cũng có thể khiến nó lụi tàn.

Đây chính là truy cầu.

Đứng trên cả hoàng đế mang lại cảm giác giống như một vị thần vậy.

“Tuyên thị tiền triều chính là được giáo phái này phù trợ lập quốc. Hoàn, Dịch, Khánh ba nhà đều là người của giáo phái này. Nhưng sau khi phù trợ tiền triều lập quốc, có lẽ Dịch thị đã nảy sinh nghi ngờ với giáo phái này, về sau có thể thấy gia tộc này đã không muốn nghe lời giáo phái này khống chế Tuyên thị nữa, mà thật tâm muốn trở thành bề tôi trung thành. Cho nên hoàng đế tiền triều bị giáo phái, Hoàn thị và Khánh thị giựt dây mới mượn chuyện tranh đoạt vây cánh để diệt trừ cả tộc. Nhưng Dịch thị vẫn còn lưu lại huyết mạch về sau.”

Hoàn thị và Khánh thị theo sắp xếp của giáo phái dần dần làm tan rã triều đình một cách thầm lặng.

“Về sau tiền triều loạn đảng mâu thuẫn khởi dậy, dân họa không ngừng, nạn mất nước có lẽ đã nằm trong tầm khống chế của giáo phái. Nhưng người của Dịch thị đã đi trước giáo phái một bước, đã tìm đến Thái tổ hoàng đế.”

Bốc Nhất Phạm nghiêm nghị nói: “Thái tổ hoàng đế là chốn thiên mệnh trở về, chân long lâm thế. Cho nên vì thế mà năm xưa tà đảng cũng phải quy thuận, xây dựng thiên triều thiên thu vạn thế. Tuyên thị kia rốt cuộc chỉ là rồng nhép cho nên mới bị giáo phái gì đó khống chế, trách sao mới bảy đời đã mất nước.”

Đặng Tự hắng giọng, gục gặt: “Lời này của Bốc đại nhân rất tuyệt!”

Đào Châu Phong gật đầu: “Quá tuyệt vời!”

Lan Giác cũng thuận theo gật đầu chắc nịch.

Cổ họng Lưu Tri Hội lại phát ra tiếng khanh khách, chừng như đang cười chế giễu.

Trương Bình an tĩnh chờ bọn họ gật đầu xong hết mới nói tiếp: “Dịch thị thừa biết mưu mô sắp xếp trước sau như một của giáo phái đó cho nên đã hiến dâng cho Thái tổ hoàng đế cách phá giải. Rồi lại lén giữ lại huyết mạch Tuyên thị, sửa lại tên cư ngụ trong Cô Gia Trang.”

Chuyện của Cô Gia Trang, kỳ thực Đặng Tự, Đào Châu Phong, Bốc Nhất Phạm đều đã biết.

Nhưng điều bọn họ biết chỉ là Dịch thị khi tiền triều bị tiêu diệt đã hiến kế cho Thái tổ hoàng đế, nhưng lại khước từ con đường quan lộ, ở trong một thôn trang cách Kinh Thành không xa. Vì họ đã từng là thần tử của tiền triều, rồi lại giúp kết thúc tiền triều, nên triều đình không thể yên tâm được, cũng có ý nghi ngờ có phải bọn họ đang che giấu gì không. Dịch thị tự nguyện nằm dưới sự giám sát của triều đình, trồng trọt nộp thuế, không xuất đinh, không ra làm quan cũng không thông hôn với thôn lân cận. Triều đình cũng đúng hạn chọn ra vài thiếu nữ xứng đôi kết hôn với đàn ông trong thôn đó.

Huyện nha Nghi Bình cũng có người do triều đình sắp xếp để quản lý Cô Gia Trang.

“Ngoài việc lưu lại hậu nhân tiền triều ra, Dịch thị cũng không nói cho Thái tổ hoàng đế biết về giáo phái này.”

Bốc Nhất Phạm nói: “Nghĩ lại thì họ vẫn còn chút lòng trung với tiền triều và giáo phái đó, như thế là lừa gạt quân vương.”

Đặng Tự và Đào Châu Phong cũng hùa theo ừ hai tiếng, Lan Giác cũng gật gật đầu. Nhưng kỳ thực mọi người đều hiểu rõ, nếu như Dịch thị nói ra sự tồn tại của giáo phái đó thì Thái tổ hoàng đế nhất định sẽ tiêu diệt sạch sẽ bọn họ và giáo phái kia, chứ đừng nói gì đến việc bảo vệ huyết mạch của Tuyên thị.

“Dịch thị biết những việc này chắc chắn không qua mắt được giáo phái nên đơn giản thể hiện sự biết điều.”

Khắc tô tem bốn lá ba quả hạnh ở trong thôn, dùng những đoạn ngắn trong quán sử của giáo phái làm truyền thuyết của thôn.

“Giáo phái này ở trong bóng tối, bản triều chưa bị họ khống chế, nên họ ẩn nấp mở rộng, giằng co với Cô Gia Trang. Cho đến mấy chục năm về trước, có lẽ đã xảy ra một chuyện. Hạ quan không có chứng cứ chỉ dựa vào sự thật để phỏng đoán…đại loại là giáo phái này đã phát hiện ra trong Dịch thị có huyết mạch của tiền triều bèn phái người đến hoà đàm hữu hảo, dụ dỗ họ giúp giáo phái hoàn thành một âm mưu. Hoặc là, một âm mưu lớn nào đó của giáo phái này đã bị Dịch thị biết được thông qua con đường nào đó. Cô Thanh Chương thân là huyết mạch Tuyên thị sau khi biết rõ ngọn ngành đã muốn dùng sức của mình ngăn việc này lại.”

Cô Thanh Chương lén rời khỏi thôn, tham gia thi cử. Đợi đến khi Dịch thị phát hiện thì đã không thể ngăn cản được nữa. Nhưng cũng sợ triều đình phát hiện ra thân phận của y nên đã làm mấy việc như trục xuất y ra khỏi thôn, kỳ thực đều là vì muốn bảo vệ Cô Thanh Chương mà thôi.

“Cô Thanh Chương biết trong kỳ thi lần này có người do giáo phái cài vào. Y lấy mình ra làm mồi, muốn dụ kẻ đó ra, một lần nữa tìm hiểu mọi chuyện rồi bóc trần giáo phái này trước bàn dân thiên hạ. Người y nghi ngờ đầu tiên chính là Lan đại nhân.”

Lan Giác thần sắc không đổi ngồi ngay ngắn trên ghế.

Trương Bình nhìn y, hồi lâu, rồi cụp mắt xuống.

Bốc Nhất Phạm hỏi vô cùng hăng hái: “Sao lại nghi ngờ Lan Thị lang?”

Lan Giác mỉm cười nói: “Có thể là do hạ quan không giống người lương thiện chăng?”

Trương Bình đáp: “Là do phụ thân Lan đại nhân đã mất sớm.”

Những đứa trẻ do các nữ tử được giáo phái đó huấn luyện sinh ra đều chỉ có mẹ, không có cha.

“Sau khi ở chung với Lan đại nhân một thời gian, Cô Thanh Chương phát hiện bản thân đã nhầm rồi, Lưu Tri Hội mới là người y muốn tìm. Cô Thanh Chương tiếp cận Lưu Tri Hội là vì muốn tìm kiếm chứng cứ vạch trần thân phận của y ta. Y tính lấy lòng tin của Lưu Tri Hội trước, nhưng lại sợ thân phận hoàng tộc tiền triều của mình sẽ bị giáo phái dùng ngược lại để uy hiếp Dịch thị, cho nên đã lấy thân phận Dịch thị tiếp cận với Lưu Tri Hội. Hạ quan đoán rằng, có thể sau khi y lấy được lòng tin rồi thì sẽ nói ra thân phận của mình, tiến thêm một bước thu được nhiều thông tin hơn.”

Nhưng ngay từ đầu Lưu Tri Hội đã không chút nương tình mà đầu độc y.

“Cô Thanh Chương phát hiện bản thân trúng độc bèn quyết định giấu tiệt thân phận của mình, đem hoàng ngọc quả hạnh đại diện cho thân phận mình tặng cho Lan Giác. Vừa sợ bị lợi dụng liên lụy đến Dịch thị, nhưng cũng vừa là vì Lưu Tri Hội.”

Ánh mắt Lưu Tri Hội loé sáng.

Trương Bình nhìn hai mắt ông ta: “Hoàng tộc tiền triều đối với giáo phái quan trọng thế nào không thể điều tra tường tận được, giết nhầm người sẽ phải chịu hình phạt gì khẳng định Lưu đại nhân biết rất rõ, cho nên mới đến chỗ Lan đại nhân trộm quả hạnh. Lúc trước hạ quan cứ mãi không hiểu tại sao Cô Thanh Chương chưa bắt được Lưu Tri Hội đã bị sát hại rồi. Rõ ràng y đã định sẽ lấy cái chết của mình như là một chứng cứ vạch trần Lưu Tri Hội và giáo phái đứng sau kia. Hạ quan còn cho rằng là do Lưu đại nhân ra tay quá nhanh. Nhưng lúc này mới biết rằng, chắc chắn là do Cô Thanh Chương đã phát hiện ra thân phận của Lưu Tri Hội nên mới do dự.”

Hoặc cũng có thể y muốn tìm ra chứng cứ, đợi thời cơ cách thức thích hợp mới nói cho Lưu Tri Hội biết chuyện này, để ông ta thành đồng minh với mình.

Nhưng điều ngoài ý muốn đã kéo dài kế hoạch ban đầu của y.

Còn chưa nói ra thì độc phát thân vong.

Hay là lúc độc phát thân vong đã lựa chọn không nói ra?

Kỳ thực đáp án đã quá rõ ràng rồi.

Nếu như nói ra rồi, Lưu Tri Hội sẽ như thế nào?

Thế đạo sẽ bình yên hơn hay là khiến một người sống thanh thản hơn lâu hơn một chút nữa?

Lan Giác còn nhớ, có lẽ là trước lúc Cô Thanh Chương mất không lâu, y vừa kiếm được chút tiền từ chỗ Vương Nghiên trở về, tình cờ gặp Cô Thanh Chương trên đường.

Lúc đó y hơi run một chút nhưng sau giả vờ bình thản tiến lại: “Cô huynh, thật trùng hợp quá. Lưu huynh không đi cùng huynh à?”

Cô Thanh Chương cười cười: “Bội Chi, kỳ thi không còn xa nữa, ôn thi thế nào rồi?”

Lan Giác cũng đáp cho có lệ: “Cũng hòm hòm.”

Cô Thanh Chương nhìn y nói: “Bội Chi, huynh nhất định đậu.”

Lan Giác nhướng mày: “Tôi tin đấy, không trúng thì đi tìm huynh nha?” Lời vừa thốt ra mới phát hiện đây là những câu lúc trước thường hay nói đùa với Cô Thanh Chương, bây giờ không nên thân thiết như thế nữa chứ.

Cô Thanh Chương vui vẻ đến cười toét miệng, Lan Giác gượng gạo nhìn lảng đi chỗ khác, không tiếp xúc với ánh mắt của y ta nhưng lại nghe Cô Thanh Chương hỏi tiếp: “Đúng rồi Bội Chi, giả dụ như huynh vào triều làm quan, thì huynh lấy tế thế làm trọng hay là cứu người làm trọng?”

Lan Giác đáp: “Cứu mình là quan trọng nhất.”

Cô Thanh Chương ngẩn ra.

Lan Giác cười nói: “Ai, tôi không có cao thượng như huynh hay Lưu huynh đâu, nếu có vào triều cũng chỉ là một tham quan thôi.” Rồi nói qua loa hai ba câu thì chia tay.

Sơ Lâm, bây giờ nhìn lại, thì huynh đã chọn cái thứ hai rồi.

———-

[1] Xá Lợi Phật. Thầy nghĩ sao? Đức Phật kia tại sao lại có tên là A Di Đà? Xá Lợi Phất. Tại vì Đức Phật ấy là ánh sáng vô lượng có thể chiếu soi được tất cả các cõi nước trong mười phương mà ánh sáng ấy không hề bị ngăn cách. Vì vậy nên ngài đựoc gọi là A Di Đà. (Theo trang ‘nguoiphattu.com’)

[2] Đức Trọng Ni (Khổng Tử) truyền lại đạo Nghiêu Thuấn đời trước, làm sáng tỏ luật pháp của Văn Vương, Võ Vương, trên thì giữ luật thời trời, dưới thì thuận theo thuỷ thổ. Ví như trời đất, không gì không giữ gìn nâng đỡ, không gì không che chắn bao trùm. Ví như bốn mùa luân phiên vận hành; ví như mặt trời mặt trăng thay nhau chiếu sáng. Muốn vật đều phát triển mà không làm hại nhau. Đạo lý đều lưu hành mà không chống lại nhau. Đức nhỏ như dòng sông chảy khắp; đức lớn thì dày dặn sinh hoá. Đó là cái chỗ làm cho trời đất lớn lao.
 
Chương 68


Đào Châu Phong thổn thức nhìn Lưu Tri Hội: “Nghi phạm à, hai mắt ngươi đỏ ngầu rồi, sắc mặt tím trướng, cổ họng run rẩy, ánh mắt sáng quắc, có phải có điều gì muốn nói không?”

Từ trong cổ họng của Lưu Tri hội phát ra những tiếng mơ hồ.

Đặng Tự hừ nói: “Phàm là hung đồ, khi hành vi tội ác bị vạch trần đều cố cưỡng từ đoạt lý. Nghi phạm này cũng vậy. Lúc trước mưu toan giá hoạ cho Lan Thị lang, không biết lần này lại muốn nói những lời mê hoặc nào nữa đây.”

Bốc Nhất Phạm gật đầu, rồi lại nhìn chăm chú vào Trương Bình: “Cậu thanh niên này là môn sinh của Đào đại nhân phải không? Trong vụ án tiến sĩ Mã Liêm bị giết lần trước, bản đài đã có ấn tượng sâu sắc về ngươi. Lần này trợ giúp Đặng đại nhân, phá được một âm mưu to lớn thế này. Mới ở tuổi này mà đã có khả năng suy đoán và quan sát tốt. So sánh với ngươi, bản đài thật xấu hổ vô cùng, đã bao nhiêu tuổi rồi, chỉ lãng phí quân lộc. Cơ thể hủ bại, thật thẹn với cành mới xanh ươm.”

Đặng Tự nói: “Bốc đại nhân đừng tự trách mình như thế. Lưu tặc làm việc trong Ngự sử đài, cùng tôi ngài đứng cùng hàng trong triều, nhưng mấy năm nay không ai nhìn ra. Há chỉ một mình Bốc đại nhân sơ xuất ư? Nhưng lời khen của Bốc đại nhân dành cho Trương Bình thật không nói quá. Thư sinh này tuổi vẫn còn trẻ nhưng đã thông hiểu trò đời, đối với sự xấu xa của con người lại có sự quan sát sắc bén đáng ngạc nhiên. Chuyện Lưu Tri Hội giết Cô Thanh Chương là do hắn phát hiện ra, nói một tiếng xấu hổ thì bản tự cũng không thể ngờ tới.”

Trương Bình quay về phía trên công đường nói: “Đa tạ đại nhân khen ngợi, tất cả mọi chuyện đều do hạ quan theo lý mà đi, theo tình mà đẩy thôi.”

Lưu Tri Hội liếc nhìn Trương Bình, cổ họng khẽ hừ một tiếng, ánh mắt đầy vẻ khinh miệt.

Đào Châu Phong lại than thở: “Nhìn bộ dạng của nghi phạm chắc sốt ruột lắm rồi. Hay là cho hắn nói vài câu đi nhỉ? Chứ cứ bịt mồm nghi phạm trên công đường mãi, không cho lên tiếng cũng không ổn lắm.”

Đặng Tự nhướng mày: “Được rồi, lấy khăn ra khỏi miệng hắn. Trương Bình trình bày chặt chẽ không một kẽ hở, lại hợp tình hợp lý. Bản tự muốn xem xem hắn còn lời gì để biện minh hay không!”

Thị vệ lại lấy khăn ra khỏi miệng của Lưu Tri Hội.

Khăn vừa ra khỏi miệng, Lưu Tri Hội đã bật cười một tràng dài: “Nực cười! Nực cười hết sức! Chặt chẽ không một kẽ hở? Hợp tình hợp lý? Ha ha, rõ ràng là suy đoán vô căn cứ, toàn lời hàm hồ! Vậy là lại dõng dạc nói to tự nhận theo lý mà đi, theo tình mà đẩy! Cô Thanh Chương vốn không phải là do ta giết!”

Đặng Tự xoắn tay áo, nhìn sang Đào Châu Phong: “Đào đại nhân, là ngài mềm lòng muốn để hắn nói vài câu. Nhìn xem, bị bản tự nói trúng rồi đi. Lưu tặc này đã điên loạn thế này, cho dù tội ác đều rõ rành rành cũng không chịu nhận tội.”

Bốc Nhất Phạm than thở: “Ai, Lưu Tri Hội, bản tự cho rằng mặc dù ngươi đại nghịch bất đạo, tội không thể xá nhưng cũng còn một hai phần tự tôn của con người. Việc đã đến nước này hà tất chi còn chối cãi?”

Lưu Tri Hội ngạo nghễ nhìn lên công đường: “Đám người các ngươi mặc quan y nhưng lại đi tin một thằng nhóc vô căn vô cứ, thuận miệng nói bừa mới là vô liêm sỉ không có tự tôn! Nếu sớm biết đám các ngươi là lũ hồ đồ thế này thì chẳng mấy năm nữa triều đại này cũng tự sụp đổ thôi, ta hà tất gì phải phí sức vào cái triều này!”

Đặng Tự quát: “To gan!”

Lưu Tri Hội đứng đầy hiên ngang: “Thế nhưng các ngươi cũng không đến nỗi hoàn toàn hồ đồ. Không sai, thân phận của ta đã bị các ngươi đoán đúng. Toàn bộ thôn Cô Gia Trang đó cũng là do ta giết. Nhưng ta tuyệt đối không giết Cô Thanh Chương. Chỉ là một mạng người nhỏ nhoi, ta hà tất gì phải chối cãi?”

Ba người Đặng Tự trên công đường đều không nói gì.

Lưu Tri Hội lại quay sang liếc nhìn Trương Bình: “Ngươi bao nhiêu tuổi? Gặp qua bao nhiêu người, trải qua bao nhiêu việc? Dám to tiếng không biết xấu hổ, tự cho mình thấu suốt thế đời? Ngươi là Huyện thừa Nghi Bình? Một tiến sĩ bên ngoài đến tiểu huyện làm phó nhất định bị cấp trên ghen ghét nên huyện lệnh đó mới để ngươi biên tu huỵên chí hả? Biết đến chuyện Cô Gia Trang, ngươi sinh lòng nghi ngờ rồi sau đó điều tra mà biết Cô Thanh Chương, vừa hay ngươi vốn trước nay lại có cấu kết với Lan Giác bèn viết thư hỏi, Lan Giác nói cho ngươi biết mọi thứ, chắc không thể thiếu việc nói về ta còn nhiều hơn. Thế là ngươi sinh nghi ta giết Cô Thanh Chương, rồi sau đó Cô Gia Trang phát hiện ra chân tướng bèn diệt khẩu cả một thôn, có đúng không?”

Trương Bình nhìn lại ông ta, vẻ mặt khẳng định: “Ừm.”

Lưu Tri Hội nheo mắt nói: “Ngươi suy đoán ra được ngần này tất nhiên tự nhận mình rất thông minh, thấy rõ được ngọn ngành. Đặng Tự cũng ở Nghi Bình, đại khái chắc lúc đi loanh quanh bị ngươi tình cờ nhìn thấy, ngươi liền vội vã đem suy nghĩ này nói cho Đặng Tự nghe, rồi cũng có trợ giúp Đặng Tự điều tra, lập được công lao lớn. Đặng Tự liền nhận ngươi làm trợ thủ, có đúng không?”

Trương Bình vẫn đối mắt với ông ta, không lên tiếng.

Lưu Tri Hội ngửa mặt cười dài: “Trời ơi là trời, ta mà lại bại trong tay cái thứ này, chính là ngươi muốn giết ta thì có!” Rồi lại liếc nhìn Trương Bình, ánh mắt vô cùng khinh thường, “ngươi đúng là có số phận cứt chó, cộng thêm Đặng Tự cũng không hoàn toàn hồ đồ, sau đó lại mông muội đánh bậy đánh bạ. Ngươi cũng đã biết, kỳ thực phán đoán của ngươi ngay từ đầu đã sai rồi.”

Trương Bình nói: “Ồ?”

Đặng Tự nhàn nhạt lên tiếng: “Trương Bình, đừng nghe lời mê hoặc của tên phản tặc này, ngươi hoàn toàn đúng, đừng để trúng kế mà dao động.”

Lưu Tri Hội cười khùng khục: “Đáng tởm! Người giết Cô Thanh Chương là Cô Gia Trang!”

Trương Bình nhíu mày.

Lưu Tri Hội nhếch mép đầy khinh bỉ: “Đồ con nít ranh, chưa ngụp lặn vào đời bao nhiêu, ngẫu nhiên biết bề nổi của sự việc đã tự cho mọi việc là vậy. Chỉ thấy cả thôn Cô Gia Trang không còn một ai là nghĩ kẻ chết tuyệt đối vô tội. Còn cái gì mà bọn họ tự nguyện mai danh ẩn tích chứ? Miễn cưỡng phụ họa, tự cho là đúng! Năm đó bị Tuyên thị diệt hết cả nhà mà vẫn còn trung thành tận tâm, âm thầm bảo vệ huyết mạch của họ? Nếu có loại tình cảm sâu đậm này thì đã thăng thiên hết rồi, há còn lại ở nhân gian sao?”

“Năm đó Dịch thị bị tiêu diệt là vì muốn làm trung thần? Càng thêm tức cười! Thâu tóm triều cương, vây cánh khắp triều, đây là hành động của trung thần? Năm xưa, Môn trung có ba trưởng lão cùng phù trợ Tuyên thị nhưng Dịch thị lại có tâm tự lập, cảm thấy hành sự của Môn trung không phù hợp với tài chí của họ. Thế tục phú quý, dù sao thần cũng không bằng quân. Rõ ràng vẫn phải lễ bái xưng thần với Tuyên thị, âm thầm chờ chỉ thị của Môn trung, nhưng lại có ý tung hoành bèn muốn quét sạch môn phái giết đế đoạt thiên hạ. Môn Trung phát hiện ra âm mưu của ông ta nên đã sai hai vị trưởng lão Hoàn, Khánh và Tuyên thị cùng diệt trừ ông ta. Nhưng hai vị trưởng lão Hoàn, Khánh là cộng sự nhiều năm của ông ta nên hạ thủ lưu tình, để cá lọt lưới. Ẩn núp đất man, bí mật nuôi dưỡng nhiều đời, lựa chọn Cảnh Đồ, mánh cũ lần nữa xài lại.”

Đặng Tự đột nhiên biến sắc, đập mạnh bàn một cái: “To gan, dám gọi thẳng thánh huý của Thái tổ hoàng đế!”

Thần sắc của Lưu Tri Hội vẫn thản nhiên như không, nhướng mày nhìn Đặng Tự.

Thị vệ rút bội đao, Đặng Tự liếc nhìn sang cửa hông, mặt bình tĩnh lại từ từ ngồi xuống: “Ghi lại tội của tên đại nghịch bất đạo này, lúc kết tội sẽ tính chung luôn.”

Lưu Tri Hội nghe mà như không nghe thấy, tiếp tục: “Vốn mưu toan của Dịch thị chính là mượn thế loạn lạc, dựa vào binh mã Cảnh Đồ để lập triều, triệt tiêu Môn Trung, rồi lại phế bỏ Cảnh thị tự lập quốc. Nhưng Thái tổ của triều các ngươi cũng không phải là nhân vật bình thường. Ông ta đã nhìn thấu toan tính của kẻ kia, đợi đại cục đã định liền cướp quyền của Dịch thị. Dịch thị lần thứ hai trộm gà không thành lại mất luôn nắm gạo, Thái tổ triều các ngươi lại muốn để lại đức, sợ giết công thần bị người đời dị nghị nên mới giam lỏng bọn chúng lại. Người trong tộc này bị giam cầm trong dã thôn, không được ra vào, không được tuỳ ý kết hôn, đây rõ ràng là giam lỏng vậy mà lại bị tên tiểu tử nhà ngươi phán đoán là do tự nguyện. Cách nghĩ thật là ngây thơ thoát tục quá đi!”

Trương Bình cụp mắt xuống, không nói gì.

Lưu Tri Hội cười hai tiếng, tiếp tục: “Tất nhiên Dịch thị không cam lòng, người trong tộc này giỏi nhất nhẫn nhịn, bèn giả vờ nhận lệnh nghe theo. Kỳ thực lại giấu huyết mạch Tuyên thị trong thôn dưới mắt triều đình của các ngươi, lại tiếp tục tính toán lập mưu. Qua mấy đời vẫn không tìm được cơ hội. Đến mấy năm trước, Ưng Xương bệnh nặng, mắt thấy không còn bao nhiêu ngày nữa. Hoàng tử tuổi còn nhỏ. Hoài vương đã qua đời, con trai ông kế thừa Vương hàm, nhưng do chân có tật, binh quyền trong tay không nhiều, ngoài ra còn không hợp với các vị Vương khác nên không thể là mối hoạ lớn, bèn cân nhắc hành động.”

Lúc ông ta nói từ đầu đến cuối đều không nhìn  qua Lan Giác. Nhưng lúc này đây lại liếc Lan Giác một cái rồi lại nhìn Trương Bình.

“Những suy đoán của ngươi về Cô Thanh Chương lại càng xấc láo vô căn cứ. Một đứa nhóc quê mùa như ngươi thì hiểu cái gì! Y không muốn bị Dịch thị khống chế nên tìm thời cơ trốn ra ngoài. Y biết mình khó thoát khỏi tầm tay họ, nên dứt khoát lấy lui làm tiến, tham gia ứng thí. Triều đình không hiểu nổi ý đồ của y nên trước tiên bất động quan sát hành vi của y. Nhất thời Dịch thị rơi vào tình cảnh tiến thoái lưỡng nan. Nam đinh Tuyên thị, bọn họ chỉ dám lưu lại một đứa sống đến trưởng thành, y vẫn chưa thành gia, giết thì đáng tiếc, hơn nữa làm bừa có khả năng bị triều đình phát hiện, nhưng không giết cũng e sợ không dám dùng. Sau khi cân nhắc, họ lại nghĩ ra một cách, đó là giả vờ hữu hảo với Môn Trung, đem thân phận của y nói cho Môn Trung biết. Cho nên ngay từ đầu ta đã biết y là ai.”

“Y tiếp cận ta quả thật là có mục đích, đã bị ngươi đoán đúng rồi. Dầu rằng y thông minh nhưng lúc đó vẫn còn quá trẻ, chưa trải sự đời, y dự tính gì cũng không khó đoán.”

Lưu Tri Hội lại cười nhẹ một tiếng, trong nụ cười lại mang nét cay đắng.

“Muốn dùng sức của mình, cuối cùng lại bị Dịch thị và Môn trung mưu toán. Sao có thể chứ. Sơ Lâm, y…rốt cuộc vẫn còn rất trẻ.”

Một Lan Giác nãy giờ vẫn luôn trầm mặc, cuối cùng cũng quay sang nhìn Lưu Tri Hội.

“Y cho rằng ta không biết sự tình, kỳ thực ta sớm đã biết rồi. Ta mà muốn giết y thì có thể ra tay bất cứ lúc nào, bị tai nạn ngoài ý muốn, uống rượu xong thì té xuống nước…cái nào mà không thể chứ hả? Hà tất chi phải qua lại với y bao nhiêu ngày? Rồi còn hạ độc từ từ nữa? Ta rảnh chắc? Nếu đúng như ngươi suy đoán thì quả thật là ngu đến cực điểm rồi!”

“Ta qua lại với y chỉ vì muốn y được sống. Môn trung làm sao có thể tin Dịch thị đã quy hàng. Một mặt tương kế tựu kế, quan sát hư thực; mặt khác, quả thật thân phận của y có lợi cho Môn trung. Ngay từ đầu y đã nghĩ ta chẳng biết gì. Sau đó, Dịch thị thấy Môn trung không giết y, sợ y đã phản bội họ thực sự nương nhờ Môn trung nên ra tay hạ độc y, còn để y nghĩ rằng độc đó là do ta hạ. Như thế, nếu ngộ nhỡ trong tay y nắm được nhược điểm của ta còn có thể vì thế mà phơi trần ra hết. Trước phút lâm chung y còn nói với ta, trên đời này có vài việc không thể nào lựa chọn được, mong muốn ta bất cứ chuyện gì cũng nên nghĩ thoáng, không cần phải vì chuyện hôm nay đã làm mà hối hận tự trách…Ta cứ nghĩ y vẫn không tin kẻ hạ độc y là Dịch thị, vẫn đem lòng nghi ngờ ta hại y, rõ ràng ta đang giúp y giải độc mà, chỉ là không cách nào giải được mà thôi! Giờ này khắc này ta mới hiểu rõ, thì ra y đã biết ta rốt cuộc là ai rồi.”

Biết Lưu Tri Hội chính là con của Độ Cung.

Biết Lưu Tri Hội và Cô Thanh Chương đều giống nhau, đều là con cờ được kẻ thù nuôi dưỡng.

Kết quả của Cô Thanh Chưong có thể cũng là tương lai của Lưu Tri Hội.

Nhưng Cô Thanh Chương càng hiểu rõ hơn, nếu như Lưu Tri Hội biết thân thế của mình thì chỉ càng nhanh chóng có kết cục như y mà thôi.

Lưu Tri Hội lại lạnh lùng nhìn Lan Giác: “Trước khi y chết còn nói với ta, ngươi quả thật không biết gì cả, y sợ ngươi bị y làm cho liên luỵ, bắt ta đồng ý tuyệt đối không được làm hại ngươi. Nếu không ngươi sớm đã trở thành quỷ rồi.”

Lan Giác chậm chạp nói: “Đa tạ Lưu huynh đã giữ lời hứa, thủ hạ lưu tình, cho Lan mỗ được yên ổn làm người.”

Lưu Tri Hội cười lạnh một cái.

Đặng Tự nói: “Ngươi đã xuống tay với Lan đại nhân rồi mà còn nói lời này, không thấy có mâu thuẫn à?”

Lưu Tri Hội mặt vô biểu tình, lại nhìn Lan Giác: “Vì ta luôn nghi ngờ Lan Giác là người của Dịch thị đang núp trong bóng tối. Nhưng Sơ Lâm nói không phải là hắn. Ta đã hứa, thì không thể dễ dàng phá thệ như vậy. Ta cũng điều tra qua lai lịch của Lan Giác, quả thật không giống. Cho nên mấy năm nay vẫn ở trong tối mà quan sát hắn.”

Lan Giác than nhẹ: “Hoá ra Lưu huynh luôn nhất mực thầm lặng quan tâm đến Lan mỗ. Vậy mà tôi lại hoàn toàn không phát giác ra, đã phụ hậu ý của huynh rồi.”

Lưu Tri Hội lại cười giễu cợt một tiếng, đảo mắt không nhìn y nữa: “Rồi đến hôm trước, Môn trung bị điều tra, Lan Giác đột nhiên lại bắt đầu những lời không rõ ràng, nói bóng nói gió, nhiều lần ám chỉ này nọ. Nói những chuyện mà người không liên quan không thể biết. Ta không khỏi cho rằng mấy năm nay đã nhìn nhầm rồi. Cho đến khi y bất ngờ nhắc đến chuyện hoàng ngọc quả hạnh, ta càng nghi ngờ năm đó người giết Sơ Lâm chính là y. Tộc Dịch thị vẫn chưa triệt hết, con cá lọt lưới còn đang ở trước mắt. Ta cũng không nghĩ ngươi đã thật sự tắt thở, nhưng có thể đây là kế tàn ác của Dịch thị, không nghĩ tới lại là sắp xếp của triều đình. Là do ta tính sót rồi.” Rồi liếc nhìn Đặng Tự, “Kế hoạch này cũng xem như cao minh, làm sao có thể thiết kế được ván cờ này?”

Trương Bình mở miệng nói chậm rì: “Cô Gia Trang rõ ràng có ẩn tình. Không phải do triều đình gây nên.”

Nếu quả thật do triều đình ra tay, sẽ không liên luỵ đến nhiều người vô tội thế này.

“Có tô tem giống với thôn nữ nhi, suýt chút nữa đã cho rằng là cùng một giuộc nhưng sau đó phát hiện là không phải.”

Cô Gia Trang cách rất xa thôn nữ nhi, hơn nữa bị triều đình quản chế nhiều năm, cho dù là bí mật hành động cũng không đến mức lấy nguyên cái hình khắc rành rành trong thôn làm dấu hiệu.

“Là giá họa, có thù.”

Mà sau đó là Cô Thanh Chương.

“Cô Thanh Chương nhất định là bị hại, trước và sau khi chết đều gần gũi với Lưu đại nhân nhất.”

Xem ra hung thủ có khả năng chính là Lưu Tri Hội.

“Nhưng…”

Lưu Tri Hội đột nhiên thay đổi sắc mặt: “Mới nãy là các ngươi trá cung!”

Trương Bình nhìn ông, chớp hai mắt một cái.

Thị vệ hai bên chế ngự Lưu Tri Hội. Ông vùng vẫy một hồi rồi khàn giọng cười dữ dội: “Lưu mỗ nhất thời không tra xét, thế mà lại trúng kế trá cung của các ngươi! Các ngươi vốn không có chứng cứ gì cả, nên mới dùng chuyện của Sơ Lâm khích tướng gạt ta bước vào tròng! Ha ha, Hình bộ Thượng thư, Đại lý tự khanh, Ngự sử đài Đô đại phu và tên tiểu tốt thấp kém này thông đồng, xướng tác câu giai, lừa gạt lấy khẩu cung của Lưu mỗ, đúng là buổi thẩm vấn thanh bạch mà!”

Bốc Nhất Phạm ho hai tiếng.

Đặng Tự vân vê cằm cười nói: “Đừng nói mấy lời khó nghe thế chứ. Chỉ là một kiểu hỏi án thôi mà. Có vài chi tiết không chắc chắn lắm nên mới muốn đích thân ngươi nói ra thôi.”

Trương Bình nghiêm túc nói: “Lưu đại nhân giết hại Cô Gia Trang, chứng cứ xác thực. Không cần phải gặng hỏi.”

Lưu Tri Hội lại giãy dụa một lúc, gắt gao nhìn Trương Bình: “Được, ngươi nói đi, ngươi nói tiếp đi! Phía sau ‘nhưng’ là cái gì?”

Trương Bình nói: “Nhưng, nếu như thôn nữ nhi là đồng lõa với Lưu đại nhân, Cô Thanh Chương họ Dịch, sau khi giết y vài năm lại diệt Cô Gia Trang thì không hợp tình lý.”

Hàng loạt những hành động tạo phản của loạn đảng đều vì giá hoạ cho Cô Gia Trang. Sau khi thôn này bị diệt thì vẫn bị gán ghép như vậy. Nếu thôn này còn sống thì sẽ càng tiện cho việc vu hoạ hơn, hơn nữa có thể mượn tay triều đình trừng trị họ. Cần gì phải mạo hiểm diệt cả toàn thôn?

Song, nếu thôn nữ nhi và loạn đảng Huyện Nghi Bình không cùng một giuộc, thì một người trước đây chưa từng bước chân ra khỏi thôn là Cô Thanh Chương, với mọi người xung quanh đều vô cùng hoà nhã thì làm sao có thể rước lấy hoạ sát thân.

Rồi Lưu Tri Hội sao lại diệt hết cả toàn thôn Cô Gia Trang?

“Cô Gia Trang quả thật là do Lưu đại nhân giết hại. Ngài đã dùng chuột trùng.”

Người Cô Gia Trang hành sự cẩn thận, không dễ gì ra tay. Cho nên Lưu Tri Hội đã hạ độc lên chuột và trùng, chuột trùng phát điên cắn người, người trúng độc, bọn họ lại tiếp xúc với vết lở loét trên người người khác cũng sẽ trúng độc. Một cách thức vô cùng độc ác.

Chuột và trùng bị điên sẽ chạy đến thôn lân cận hoặc chết trong nước, làm nguồn nước bị nhiễm độc, đã hại rất nhiều người vô tội xung quanh.

Người hạ lệnh quan binh phong toả thôn này lại cũng chính là Lưu Tri Hội.

“Lúc trước, Lưu đại nhân từng lấy cớ chỉnh đốn đường xá mà hạ lệnh bắt chuột diệt ruồi, chứng cứ vẫn còn được ghi chép lại.”

Lưu Tri Hội đã giấu rất nhiều chuột sống, nhưng điều này cũng cho thấy ông làm việc này một mình, chừng như không có ai giúp sức.

Tại sao?

“Để lý giải thắc mắc này tôi đã nhờ sự giúp đỡ của Lan đại nhân.”

Liễu Đồng Ỷ tìm đến Lan Giác, nhờ y nói bóng nói gió tương trợ kiểm chứng việc này.

“Lan đại nhân đã nói đến hoàng ngọc quả hạnh.”

Quả hạnh vừa xuất hiện, thân phận của Cô Thanh Chương liền có bước biến chuyển.

“Ba quả hạnh trong bốn cái lá là hoàng đế được môn phái phù trợ. Hình dáng quả hạnh của Cô Thanh Chương là quả thứ hai, hơn nữa dùng hoàng ngọc. Y chính là di mạch của tiền triều.”

Đến lúc này chân tướng về cái chết của Cô Thanh Chương càng khó kết luận rồi.

“Lúc này chứng cứ vẫn chưa đủ, cũng không thể liên hệ Lưu đại nhân với loạn đảng.”

Vì điều tra Lưu Tri Hội và loạn đảng ở hai tuyến thông tin khác nhau. Mấy tên nhãi nhép bắt được ở Nghi Bình hoặc đã chết hết, hoặc không thể thẩm tra ra nguyên nhân. Đặng Tự bèn nhờ Cao Tri phủ giúp đỡ hỗ trợ, bức Trần Trù bỏ đi, dẫn dụ Ly Quán ra mặt, vốn cho rằng bọn chúng sẽ hành khích Cao Kham, nên muốn nhân cơ hội đó bắt hết cả lũ loạn đảng.

Còn bên phía Lan Giác lại tung tin hoả mù, vốn muốn đợi Lưu Tri Hội ngồi không yên, tự mình để lộ sơ hở rồi lần theo đó mà điều tra.

Nhưng phản ứng của Lưu Tri Hội quả thật vượt xa sự tưởng tượng của họ.

“Lưu đại nhân lại ra tay giết Lan đại nhân, thật đúng là thu hoạch ngoài dự liệu.”

Lúc này, Lưu Tri Hội có liên quan đến loạn đảng đã rõ ràng. Càng khiến mọi người không hiểu là ông ta làm sao giết sạch cả thôn Cô Gia Trang. Cái chết của Cô Thanh Chương cũng càng thêm khó bề hiểu nổi.

“Nhưng theo lời Lưu đại nhân nói, nếu đại nhân muốn giết Cô Thanh Chương thì không cần phải phiền phức như vậy.”

Vậy thì, kẻ xuống tay là Cô Gia Trang?

Đây là đáp án duy nhất cho hành động của Lưu Tri Hội.

“Lúc đó chứng cứ đã không còn tồn tại nữa, chỉ có thể đoán mà thôi, hoặc do người biết sự tình kể ra.”

Nếu Lưu Tri Hội vì Cô Thanh Chương mà diệt Cô Gia Trang, vậy thì cứ sống chết bảo ông ta giết Cô Thanh Chương thì tuyệt đối có thể khích tướng ông ta mở miệng.

“Đã xác nhận Lưu đại nhân có quan hệ với giáo phái kia rồi. Cũng có bằng chứng xác thực việc giết cả Cô Gia Trang. Trước khi Cô Gia Trang bị diệt vong cũng có để lại chứng cứ, chính là nằm ở dưới thạch đài.”

Dịch thị không thể nào tin tổ tiên hồ ly gì đấy, cái thạch đài tượng thần to tướng kia nhất định có cơ quan. Thôn bị diệt vong, thạch đài khó bề di chuyển có cơ quan đã bị hỏng là chỗ giấu lý tưởng nhất.

Lúc Trương Bình đến, chứng cứ đã bị Đại lý tự đào lên, là một con chuột chết được niêm phong trong một cái hộp và bí mật của giáo phái kia.

“Định tội Lưu đại nhân rất dễ. Chỉ là muốn biết chân tướng mà Cô Thanh Chương đáng được biết.”

Lưu Tri Hội lặng im bất động.

“Còn nữa, trên tô tem, bốn lá ba quả, Hoàn, Dịch, Khánh là ba lá bên ngoài, vậy còn một cái lá nữa là ai? Tiền tiền triều và sau đó là tiền triều, quả thứ ba ở đâu?”

Từ các truyền thuyết na ná nhau xem xét, truy ngược lại những sự kiện giống nhau, môn phái đó ít nhất cũng được ba triều đại. Phù trợ hai triều quân vương.

Dịch thị đem tô tem chói lọi kia khắc trong thôn để uy hiếm giáo phái kia, quả hạnh của Cô Thanh Chương là quả thứ hai, đây cho thấy giáo phái đó sớm đã lên kế hoạch phù trợ triều tiếp theo.

Nhưng triều đại Cảnh thị không nằm trong tầm khống chế của họ.

Tô tem vốn nên sớm đổi lại, sự tình nhất định là thật rồi.

Giáo phái đó làm ra hàng loạt chuyện, có lẽ đã chuẩn bị xong quân cờ rồi, sẽ là ai đây?

Lưu Tri Hội đáp: “Tất nhiên ta không thể là nhân vật quan trọng đó rồi, cũng không biết đáp án.”

Đặng Tự khẽ nheo mắt: “Lưu Tri Hội, bất luận là ngươi, hay là Cô Thanh Chương đều bị giáo phái này hãm hại. Chắc chắn còn có rất nhiều người gặp phải cảnh ngộ giống như các ngươi. Vì bản thân ngươi cũng được, vì linh hồn của Cô Thanh Chương cũng được, vì đừng để những người vô tội sau này giẫm lên vết xe đổ này cũng được, đều cần phải khiến tà phái này dừng lại ở đây. Ngươi đã phạm những tội này, không thể đặc xá được rồi. Bản tự cũng sẽ không hứa bất cứ việc gì không thể làm được để lừa dối ngươi. Rốt cuộc làm thế nào thì xem bản thân ngươi, vấn lương tâm của ngươi đi.”

Lưu Tri Hội lạnh lùng nhìn lại Đặng Tự: “Lúc này rồi Đặng đại nhân đừng cố mê hoặc nữa. Những gì ta nói đều là thật. Bây giờ Lưu mỗ có thể xem bức thư của mẹ mình để lại được chưa?”

Đặng Tự phất tay kêu thuộc hạ đem thư đến trước mặt Lưu Tri Hội.

Thư không dài lắm, chỉ ghi chép lại những chuyện đã xảy ra với Độ Cung.

Lưu Tri Hội xem xong thì khép hai mắt lại, lại mở mắt lướt qua đám thị vệ đang chờ lệnh, rồi nhìn lên công đường: “Các vị yên tâm, Lưu mỗ nhất định sẽ nhận tội, sẽ không tự vẫn để tháo chạy đâu. Những gì tôi làm thì tôi phải chịu trách nhiệm. Chuyện của Môn trung, tôi sẽ cố hết sức nói hết. Nhưng…cho dù tôi có biết chỗ môn chủ đang ở, chuyện lá và quả vừa nãy quả thật tôi cũng không biết. Có thể là ở trong triều của các người, hoặc là các người điều tra ra, hoặc đợi đến khi bắt được môn chủ, thì xem xem ông ta nói hay không nói.”

Đặng Tự nhìn ông ta chăm chú, không nói gì chỉ khẽ gật đầu.

Lưu Tri Hội bình thản để thị vệ giải xuống.

Lan Giác thở dài một hơi, đương muốn đứng dậy thì trên công đường đột nhiên truyền đến tiếng động.

Thạch bích sau lưng ba người Đặng Tự ình ình mở ra hai bên, lộ ra người ngồi phía sau là Vĩnh Tuyên đế.

Bên cạnh Vĩnh Tuyên đế còn có cả Hoài Vương nữa.

Những người trên công đường liền quỳ xuống dưới đất.

Vĩnh Tuyên đế chậm rãi đứng dậy: “Chúng khanh bình thân. Vụ thẩm án này xuất sắc vô cùng. Đặng ái khanh, Đào ái khanh, Bốc ái khanh, Lan ái khanh và các vị ái khanh khác cực khổ rồi.”

Mọi người vội tạ ân.

Đặng Tự nói: “Chỉ là chỗ then chốt nhất vẫn chưa tra xét ra.”

Vĩnh Tuyên đế chắp tay: “Là chuyện trong triều vẫn còn yêu đảng hay Lưu Tri Hội trá xưng?” Y cười nhìn sang bên cạnh, “Hoàng thúc thấy thế nào?”

Tầm mắt Hoài vương khẽ hạ xuống: “Thần cảm thấy, vì yêu đảng mà nghi quần thần thật không đáng. Nếu dựa theo đó thì cựu thần trung thành, dòng dõi cương trực, như gia tộc Liễu lão thái phó chẳng hạn, chẳng phải là đứng mũi chịu sào rồi sao?”
 
Chương 69


Hoài vương nói xong rồi lại nhìn xuống Liễu Đồng Ỷ bên dưới công đường, thoáng mỉm cười: “Ô, ngươi là cháu của Liễu Tiễn, tân khoa trạng nguyên năm nay nhỉ. Mới nãy chẳng qua tiểu vương chỉ so sánh thôi, không có ý gì đâu. Ngàn vạn lần đừng hiểu lầm đấy.”

Liễu Đồng Ỷ mỉm cười thi lễ: “Thần hiểu.”

Vĩnh Tuyên đế nói: “Hoàng thúc nói có lý lắm, đã nhắc nhở trẫm. Các khanh trong triều đều là rường cột quốc gia, là những người trẫm phải dựa vào. Cho dù có người phụ trẫm, trẫm cũng tuyệt đối không phụ chúng khanh.”

Mọi người trong công đường lại nhao nhao quỳ xuống, cảm động khấu tạ thánh ân.

Vĩnh Tuyên đế bãi giá hồi cung, mọi người cung tiễn, đi đến trước cửa thì đột nhiên Hoài vương quay người lại nói: “Đúng rồi Lan Thị lang, ngươi có thể nhớ kỹ lại những lời Cô Thanh Chương kia đã từng nói với ngươi không. Nếu hắn đã từng lầm ngươi là đồng đảng của Lưu Tri Hội thì nhất định trong lời nói sẽ có ý thâm dò, có thể từ đó mà tìm được điểm mấu chốt đấy.”

Lan Giác ngừng lại.

“Huynh đừng không tin, trong ba vị trí tam giáp tất có phần huynh.”

“Bội Chi, kỳ thi năm nay huynh nhất định có thể đậu…”

Thi hội bình quyển, người chọn Lưu Tri Hội chính là Liễu…

Lan Giác cúi người: “Thần sẽ suy nghĩ thật kỹ, đã cách vài năm, quả thật đã không nhớ rõ nữa.”

Vĩnh Tuyên đế khẽ cười: “Hoàng thúc cũng phá án rồi kìa.”

Hoài vương nheo mắt lại: “Thần ngồi xem thẩm tra, bất giác cũng nổi hứng tay ngứa ngáy. Không nhịn được đã múa rìu qua mắt thợ trước mặt ba chuyên gia của tam ty rồi. Hoàng thượng và các vị đừng cười nhé.”

Bốc Nhất Phạm lạy một cái: “Hoài vương điện hạ vừa hỏi cũng chính là sơ sót của chúng thần lúc thẩm tra, đa tạ điện hạ chỉ điểm.”

Vĩnh Tuyên đế hai mắt khẽ cong: “Hoàng thúc hỏi rất đúng chỗ, Lan ái khanh, nếu nhớ lại được gì thì nhớ, dù không báo cho Đặng đại nhân cũng phải nói cho Hoàng thúc biết đấy.”

Hoài vương nhướng nhướng mi: “Thôi, thôi, đừng tiếp tục làm xấu mặt nữa. Chẳng qua thần nhất thời nhanh nhẩu đoảng, vụ án này đành để Đặng khanh và các vị chuyên gia đây tiếp tục phí tâm rồi. Thần được thánh ân, ngồi xem thẩm án, xem xong thì mê quá thôi.” Ánh mắt lại lướt tới chỗ Lan Giác, rồi lại rơi trên người Liễu Đồng Ỷ, rồi lại khẽ cười: “Nói ra thì, Lan Thị lang là dượng của Liễu Đoạn thừa nhỉ? Lan Thị lang khí chất cao quý, Liễu đoạn thừa dung mạo thanh nộn, tuy không cùng họ cùng huyết mạch nhưng đều sáng ngời như ngọc, có thể nói lan tư liễu phương.”

Đám Đặng Tự một bề câm nín.

Sở thích của Hoài vương ai cũng biết cả. Nhưng không ngờ giờ này khắc này, ngay trước mặt hoàng thượng cư nhiên lại thèm muốn lộ liễu như vậy. Quả thật làm người ta không còn gì để nói.

Lan Giác cúi lạy: “Điện hạ quá khen, thần thẹn không dám nhận.”

Liễu Đồng Ỷ cũng hành lễ theo: “Tạ điện hạ, thần bỉ lậu khó xứng lời khen này.”

Hoài vương ngậm cười, chừng như còn muốn tiếp tục nói thì Vĩnh Tuyên đế đã ho nhẹ một cái, thần sắc nghiêm túc hẳn lên: “Trẫm thật sự hy vọng, chỉ có một vụ án này thôi, từ đây thiên hạ sẽ không còn vụ thứ hai nữa.”

Mọi người đều cúi đầu.

Đào Châu Phong nói: “Hoàng thượng thương xót thiên hạ, bốn bề thanh bình, chúng thần tận tuỵ vất cả chỉ mong có một ngày, đất nước không còn hình phạt nhà tù, thế gian không còn khói mù.”

Trương Bình cũng cúi người theo, Vĩnh Tuyên đế lên xe khởi giá.

Đào Châu Phong và Bốc Nhất Phạm cũng theo đó rời đi. Tình tiết vụ án sau này sẽ do Đại lý tự bí mật tự điều tra. Trước khi Lan Giác rời đi, Đặng Tự đã mời y vào trong một gian phòng yên tĩnh, nói: “Vật của cố nhân của Lan Thị lang là chứng cứ quan trọng, sợ rằng sẽ phải để lại Đại lý tự.”

Lan Giác cười nói: “Quả hạnh đó Đặng đại nhân có đưa lại cho hạ quan, hạ quan cũng không dám giữ đâu.”

Vật chứng chẳng qua chỉ là vật chứng, trong lòng có là được, hà tất chi phải cố chấp vật này.

Đặng Tự nghiêm mặt nói: “Đặng Tự tôi là người thẳng thắn, có gì đều nói thẳng, mong Lan Thị lang cứ yên tâm, vụ án mưu phản này quả thật hóc búa, nhưng từ đây về sau chắc chắn sẽ không ảnh hưởng đến Lan Thị lang. Nếu như không có Lan đại nhân, án này tuyệt đối không thể phá, Đặng mỗ và Đại lý tự cảm kích không thôi, những lời sáo rỗng không cần nói nhiều, nhất định sẽ cố sức đáp đền.”

Lan Giác đáp: “Đặng đại nhân nói thế này quá nặng nề rồi. Lần này hạ quan chẳng giúp được gì cả, kỳ thực là Đặng đại nhân giúp hạ quan mới đúng. Mấy năm nay chuyện của Cô Thanh Chương luôn đè nặng trong lòng hạ quan, cuối cùng cũng có thể tháo xuống được rồi, chấm dứt một nỗi tiếc nuối.”

Trương Bình rời khỏi đại đường, cầm theo lệnh bài Đại lý tự do Đặng Tự sai Liễu Đồng Ỷ đưa cho hắn đi tìm Trần Trù.

Trần Trù vẫn còn ngồi trong tĩnh thất của Đại lý tự, thị vệ Thẩm Thiếu khanh dẫn Trương Bình đến trước cửa, mở cửa ra. Trần Trù đầu tóc rối bù ngồi trong góc phòng, không cử động gì.

Thẩm Thiếu khanh nói: “Trần sinh, án đã thẩm xong, do yêu nữ mê hoặc ngươi là tay sai của loạn đảng, sợ đồng đảng của ả sẽ hại ngươi nên mới để ngươi chịu ấm ức ở trong này. Bây giờ ngươi có thể theo Trương Huyện thừa rời khỏi đây rồi. Ngươi có công giúp Đại lý tự phá án, lúc kết án dâng tấu nhất định sẽ xin thưởng công trạng xứng đáng cho ngươi.”

Trần Trù vẫn ngồi thất thần trong góc tối, không động đậy cũng không lên tiếng.

Trương Bình đi đến trước mặt gã: “Trần huynh, đi thôi.”

Trần Trù lại im lặng một hồi rồi mới đứng dậy.

Thẩm Thiếu khanh lại nói: “Hậu viện có chuẩn bị rượu thịt, có thể đi rửa mặt chải đầu trước.”

Trần Trù không nói gì, đi vòng qua Thẩm Thiếu khanh, theo Trương Bình ra khỏi tĩnh thất.

Ra khỏi hành lang, bước vào trong viện, Trần Trù dừng bước: “Ly Quán ở đâu?”

Trương Bình  nhìn gã, đáp: “Chết rồi.”

Trần Trù run rẩy một hồi, mặt vô biểu tình, tầm mắt trong đám tóc rối bắn về phía Trương Bình.

“Trương huynh, việc tôi rời khỏi Huyện Nghi Bình là do huynh sắp xếp?”

Trương Bình gật gật đầu.

“Cao Tri phủ vốn chẳng để mắt gì đến Trần Trù tôi cả, càng không phải muốn lấy tôi ra để bắt chẹt huynh, tất cả chỉ là một vở kịch phải không?”

Trương Bình lại gật gật đầu: “Huynh đã bị thôn đó nhắm trúng, sớm muộn gì đều sẽ…”

Trần Trù cắt ngang câu nói của hắn: “Trương huynh, huynh biết phá án, liệu việc như thần, thực sự quá thông minh rồi.  Đem Trần Trù tôi so sánh với huynh, thật đúng ngu không gì bằng, tầm thường không chịu nổi. Người như Trương huynh nên kết giao với những người thông minh có thân phận, có phẩm cách như Lan Thị lang, Đặng đại nhân. Một kẻ ngu dốt như Trần Trù tôi không xứng để làm bạn cùng huynh. Giao tình của chúng ta chấm dứt ở đây vậy.”

Trương Bình ngẩn ra.

Trần Trù xoay người bỏ đi.

Trương Bình nhanh chóng đuổi theo, giữ tay Trần Trù lại.

“Trần huynh, xin lỗi.”

Trần Trù rũ mạnh tay hắn ra, con ngươi đỏ thẫm dưới mái tóc rối bù.

“Trương Bình, tôi huynh đừng nói nhiều lời vô ích nữa. Kiều quy kiều, lộ quy lộ[1], chỉ đành giả vờ chưa từng quen biết nhau.”

Khoé miệng Trương Bình giật giật, cuối cùng hắn cụp mắt xuống, lùi về sau một bước.

“Cổng ở bên này.”

Trần Trù dời tầm mắt, không nhìn Trương Bình nữa, đi nhanh qua mặt hắn.

Trương Bình vẫn đứng nguyên chỗ cũ, nhìn theo hướng Trần Trù rời đi.

Ngày hôm sau Lan Giác lên triều, không ít đồng liêu đã nhìn y bằng ánh mắt có chút khang khác.

Lan Giác trúng độc là để bí mật giúp Đại lý tự phá một vụ án lớn. Trong triều đều đã biết, những người vốn tưởng rằng y hết hy vọng với chức Thượng thư cũng cảm thấy, chuyện này chưa chắc đâu.

Ai đã từng nghĩ Lan Giác lại có thể vứt mạng xuất đại chiêu, đột phá tạo nên kỳ công?

Đúng thật là cầu vinh hoa trong hiểm nguy, không sợ thì vô song.

Sau khi bãi triều, Vương Nghiên bước thong thả đến bên cạnh y: “Lan đại nhân, nói không chừng không bao lâu sau, Vương mỗ ở trước mặt ngài phải tự xưng hạ quan rồi.”

Lan Giác bất đắc dĩ nói: “Thôi đi, Vương đại nhân, đừng lấy mấy lời khó tin như mặt trời mọc từ đằng Tây để đùa chứ.”

Vương Nghiên nhếch miệng cười, sáp lại gần thấp giọng nói: “Huynh đem chuyện huynh đóng kịch nói cho tôi nghe đi. Lão Đặng sẽ không vì thấy tôi đột nhiên không có động tĩnh gì mà sinh lòng nghi ngờ chứ hả?

Lan Giác nói: “Lúc này Đặng đại nhân đang bận túi bụi, có lẽ sẽ không chú ý điều này đâu. Ồ, tôi chỉ hy vọng vụ án này sẽ không khiến tôi gặp phải chuyện gì.”

Vương Nghiên nói: “Yên tâm, bây giờ mắt lão Đặng sáng lắm, huynh chỉ có công thôi. Mà nếu không phải vì huynh, vụ án kiểu này tôi cũng chẳng muốn dính vào.” Rồi đưa mắt nhìn về phía trước, phẩy phẩy tay, “Nghe nói dạo này lão Phùng vui vẻ lắm, hô hô, tôi chuẩn bị tặng cho lão một bất ngờ đây.”

Lan Giác nhướng nhứơng mày: “Mặc Văn huynh, nhịn xuống chút đi. Cẩn thận hoàng thượng sợ Phùng đại nhân khóc lóc sập cả bàn trong Ngự thư phòng sẽ thật sự dạy cho huynh một bài học đấy.”

Vương Nghiên nói: “Cũng có phải giành công gì với lão đâu. Án do tôi xử, công lao đưa cho Kinh triệu phủ bọn họ, cho lão hời như thế lão còn khóc cái gì? Các ty bộ đều nên vì xã tắc đồng tâm hợp lực, đây là giáo huấn của Đào đại nhân bọn tôi đấy.”

Lan Giác không còn gì để nói nữa, phía trước một tiểu Hoàng môn rảo bước tiến đến: “Lan Thị lang mau đến Ngự thư phòng một chuyến.”

Vương Nghiên ý vị thâm trường nhìn Lan Giác rồi rời đi trước.

“Vương công tử, triều lên tắc rút, trăng tròn tắc khuyết, thế sự như ngôi sao luân chuyển, minh minh tự có thứ tự. Vương công tử vinh thịnh chi thế, thật giống con sóng thuỷ triều, lúc này đang khởi, thịnh niên có thể đạt đến cực hạn, song càng cao càng hiểm, sợ rằng khó qua bốn mươi.”

Lan Giác nhìn bóng lưng Vương Nghiên một hồi.

Tiểu Hoàng môn cúi người: “Lan Thị lang mời đi bên này.”

Lan Giác thu ánh mắt lại: “Phiền tiểu công công chỉ đường.”

Vào trong Ngự thư phòng, đầu tiên Vĩnh Tuyên đế quan tâm hỏi han sức khoẻ của Lan Giác, rồi lại khen công lao giúp đỡ Đại lý tự của y, rồi nói: “Lan ái khanh vì xã tắc lập được công này, trẫm vẫn không nghĩ ra nên thưởng cho khanh thế nào mới xứng với công sức lần này.”

Lan Giác lập tức nói: “Thần là người hiểu rõ tình hình. Theo luật pháp phải phối hợp tra án, chỉ làm đúng phận sự sao dám nói là công?” Dừng lại một chút lại cúi người, “Nhưng thần cả gan khẩn cầu hoàng thượng một chuyện.”

Vĩnh Tuyên đế mỉm cười: “Lan ái khanh chỉ việc nói ra.”

Lan Giác nói: “Thần bất hiếu, mộ của tiên từ[2] đã lâu rồi không sửa sang quét dọn. Thần xin năm sau được nghỉ mấy ngày để bái tế tiên từ.”

Vĩnh Tuyên đế đáp: “Việc này hoàn toàn chính đáng, ái khanh là nhân sĩ Kinh Giao nhỉ, một tháng đủ không?”

Lan Giác cúi người tạ ân.

Trong lòng Vĩnh Tuyên đế thở hắt ra một cái. Việc lựa chọn người tiếp nhận Lễ bộ thượng thư sớm đã quyết xong. Nhưng Lan Giác đột nhiên lại lập được công lớn, song không thể thăng chức. Vĩnh Tuyên đế sợ y trách móc, hơn nữa lại khiến các viên quan khác chỉ trích nên cố ý gọi Lan Giác đến, an ủi khen thưởng cũng như dò xét ý của y.

Lan Giác vô cùng thức thời xin nghỉ làm việc hiếu, cáo nghỉ một tháng, tránh được thời khắc quan trọng trước và sau khi tân Thượng thư nhậm chức. Lúc Thượng thư đến nhậm chức y vẫn đang trong kỳ nghỉ, chuẩn bị cho bản thân một chút, lại nhượng tân thượng thư một bước. Thức thời hiểu biết như vậy khiến Vĩnh Tuyên đế vô cùng vui mừng.

Lan Giác rời khỏi Ngự thư phòng, vừa mới qua cầu nổi trong Ngự hoa viên đã nhìn thấy Hoài vương đối diện đi đến. Y bèn lách người sang bên đường hành lễ.

Hoàng vương nói một tiếng bình thân rồi dừng lại trước mặt Lan Giác: “Đúng rồi Lan khanh, mặc dù cô đã nói với hoàng thượng không nhiều chuyện nữa nhưng vẫn không nhịn được hiếu kỳ, chuyện hôm qua đã nói ở Đại lý tự ấy, khanh đã nhớ ra gì chưa?”

Lan Giác khẩn thiết đáp: “Điện hạ, thần quả thật đã cố hết sức nhớ lại rồi nhưng…vẫn chưa nhớ ra được gì cả. Thần sẽ tiếp tục cố gắng.”

Hoài vương chừng như tiếc nuối thở dài, rồi lại nở một nụ cười nhạt: “Cô chỉ là tuỳ tiện hỏi thôi, Lan khanh đừng lấy làm quan trọng quá nhé.”

Lan Giác đợi y đi khỏi rồi tiếp tục bước về trước. Đi không bao xa lại gặp Thái phó Vân Đường từ phía trước đi đến.

Vân Thái phó chừng như có việc gấp, chỉ nói vài ba câu thân thiết với Lan Giác rồi vội vàng đi đến Ngự thư phòng.

Lan Giác quay lại đường cũ, một câu nói của ngày cũ đột nhiên hiện lên trong lòng.

“Huynh đừng không tin, trong ba vị trí tam giáp tất có phần huynh.”

Mặc dù Lưu Tri Hội là do Liễu Tiễn chọn, nhưng chủ khảo Hội thi khoá đó là…

Lan Giác dừng bước quay người lại, Vân Đường đã đi lên cầu nổi, một bóng sắc tím lọt vào khoé mắt, Lan Giác giật mình, là Hoài vương đang đứng bên cột trên hành lang nhìn sang hướng này.

Lan Giác đương muốn giả vờ nhớ lại một chuyện đuổi theo hỏi Thái phó. Hoài vương đã bước xuống hành lang, cười đi về hướng Vân Đường, nhưng không phát hiện Lan Giác quay người lại.

Lan Giác âm thầm quay đi, tiếp tục bước về trước.

Cho dù Đặng Tự có thể hốt trọn ổ môn phái đó nhưng vẫn có một số chuyện nhất định trong thời gian ngắn không thể nào hiểu được.

Ai, không nên dây dưa chuyện cố nhân nữa, việc đã rồi thì không liên quan gì nữa.

Nước đục chớ giẫm vào, lo tốt cho bản thân là được rồi.

Chạng vạng tối, Lan Giác vẫn như trước nay rời khỏi Lễ bộ nha môn, lệnh tuỳ tùng chuẩn bị một chiếc xe ngựa, thay quan phục ra, chỉ mang theo hai ba tuỳ tùng đi về phía Nam thành.

Trời cũng sập tối, bên đường đầy ắp nhà trọ quán xá như cũ, trong cái rét lạnh sực nức mùi thơm ngọt lịm của hạt dẻ ngào đường.

Lan Giác khẽ nhấc rèm xe lên, giữa sắc chiều u tối tựa như nhìn thấy chính mình nhiều năm về trước, trong tay áo cất một bọc hạt dẻ ngào đường đứng bên vệ đường.

Hoàng hôn đèn lên, nhìn không thấy đường phía trước, hạt dẻ trong tay áo trở nên nguội lạnh, cũng sẽ không có người tiến đến.

“Bội Chi, huynh đi đâu vậy, làm tôi tìm mãi.”

Không nhìn, không nghĩ nữa, vờ như không có câu chuyện đó. Dù cho có đứng đó mỗi ngày đi nữa, người kia cũng sẽ không thể nào trở lại.

Tất yếu có một ngày phải bỏ hạt dẻ trong tay áo ra, tiếp tục tiến về phía trước.

Tất yếu có một ngày, phải biết nói với bản thân rằng, người kia đã chết rồi, không thể nào gặp lại nữa đâu.

Mà y phải nương theo dòng người ngược xuôi, ở nơi thế tục đèn đuốc này tiếp tục bước từng bước, tiếp tục đi về phía trước.

Lan Giác đang muốn bỏ rèm xuống thì chợt thấy một bóng người quen thuộc.

Y khẽ gõ vách xe để phu xe chạy chậm lại, rồi chong mắt nhìn kỹ. QUả đúng là Trương Bình, ngồi một mình phía sau bàn gỗ cạnh đường, mắt cụp xuống nhìn cái bát, chậm rãi nhai từng muỗng mì một.

Lan Giác không nhịn được bật cười.

Trần Trù ở Đại lý tự đoạn nghĩa tuyệt giao với Trương Bình, y đã nghe nói.

Rốt cuộc vẫn còn quá trẻ đi.

Nhất định phải muốn mọi chuyện rõ ràng, mọi thứ phân minh.

Nếu là năm đó thì y sẽ như thế nào?

Giữa đám tuyết bay tán loạn, một thiếu niên đi về phía trước sạp.

Hai con ngươi trong trẻo dưới tán ô, nụ cười trong vắt.

“Chữ của huynh đài thật đẹp, bài thơ này cũng là do huynh viết à?”

Nhìn như ngẫu nhiên, kỳ thực cố ý.

Lan Giác bảo phu xe dừng lại, xuống xe bước về phía tiệm mì kia.

Một hậu sinh chà tay nghênh đón: “Vị lão gia này muốn dùng gì?”

Lan Giác ngồi xuống đối diện chỗ Trương Bình: “Ăn mì gì thế?”

Trương Bình ngậm đũa mì nhìn Lan Giác, Lan Giác nhìn thấy thần sắc hắn cứ ngơ ngơ một hồi, không nhịn được lại cười.

Hậu sinh nhiệt tình giới thịêu: “Mì mà vị khách quan này đang ăn là mì thịt dê, lão gia cũng muốn một tô chứ?”

Lan Giác gật đầu: “Cho một tô.”

Trương Bình nuốt mì trong miệng xuống, chậm rãi mở miệng: “Đại…”

Lan Giác cắt ngang lời còn trong họng của hắn: “Ở chỗ này thì nên ăn mì thôi, không cần những lời vô nghĩa khác.”

Gặp gỡ rồi thật là tốt. Bất luận là y cố ý hay vô tình, đều từ đó mà bắt đầu.

Sơ Lâm, có thể gặp được huynh, quả thật rất tốt.
 
Chương 70


QUYỂN 4 – GIẾNG CỔ BÀ BÀ

Vụ án của Lưu Tri Hội đã đi được một chặng đường. Đặng Tự cố ý nói cho Trương Bình biết, bảo hắn tạm thời đừng trở về Nghi Bình, ở lại trong Kinh Thành. Ông bảo Thẩm Thiếu khanh sắp xếp cho Trương Bình ở trong hành quán Thuần Hòa kế bên nha môn của Đại lý tự.

Hành quán nhìn bên ngoài vô cùng mộc mạc, tấm hoành phi trên cửa chỉ ghi độc nhất hai chữ “Thuần Hoà”, tường trắng ngói đen, cột xà mái hiên đều không tô vẽ, cửa sổ hành lang thiết kế đơn giản.

Thẩm Thiếu khanh và Quán thừa dẫn Trương Bình đến một gian tiểu viện nhỏ nằm ở góc đông nam – một gian sảnh be bé, phòng ngủ liền kề, một thư phòng, giường mành ghế bàn đều có đủ cả nhưng tất thảy đều rất giản tiện. Do dưới đất có đường ống nhiệt nên vừa bước vào phòng đã cảm thấy ấm áp vô cùng. Trong vườn vừa đúng lúc mai đang nở hoa.

Quán thừa nói: “Trong quán không tuỳ tiện để người khác ở, nên cực kỳ yên tĩnh.”

Trương Bình ừm một tiếng, xách đồ đạc bỏ vào trong phòng ngủ.

Thẩm Thừa khanh nhìn bộ dạng Trương Bình như thế thì âm thầm khâm phục, ở nơi này mà còn bình tĩnh như vậy, quả nhiên là một người không quan tâm thiệt hơn. Chẳng trách sao Đặng đại nhân lại xem trọng hắn như thế.

Quán thừa nói: “Tuỳ tùng có thể ở phòng kế bên.”

Trương Bình đáp: “Chỉ có mình tôi.”

Quán thừa cười nói: “Quét dọn các thứ đã có người trong quán làm, ngày ba bữa cơm cũng sẽ đem đến đây, không có tùy tùng cũng không sao.”

Trương Bình chắp tay nói tiếng cảm ơn với Quán thừa, Thẩm Thiếu khanh cũng đi báo cáo với Đặng Tự.

Trương Bình ngồi trong phòng một lúc rồi cũng đi ra ngoài hành quán, lang thang trên đường tiếp tục tìm kiếm Trần Trù.

Hắn đã tìm ở những nơi mà trước kia Trần Trù thích đến nhưng đều không có manh mối nào cả. Trương Bình luồn lách trong đám người mua đồ Tết. Năm ngoái, hắn cùng với Trần Trù, và cả mấy sĩ tử ở chung với nhau cùng đón Tết đến, góp tiền mua vài cân thịt dê, lấy nồi ra hầm, thêm rau cải bún miến đồ, vừa nhúng vừa ăn.

Vừa lúc đó có mấy người đàn ông ăn vận như người Hồ đẩy một xe thịt dê sống đi đến, Trương Bình không khỏi khựng chân dừng lại nhìn về phía đó.

Xe thịt dê đã đi xa, đột nhiên cạnh bên vang lên tiếng nói: “Trương đại nhân, đại nhân nhà chúng tôi có lời mời.”

Trương Bình quay đầu lại, nhìn thấy một người thanh niên đầu đội mũ da tròn, chân đi giày nỉ đen, phía ngoài áo bào màu xám tro ống tay túm là áo khoác lông cừu trông như áo giáp.

Tuỳ tùng.

Dân có tiền.

Ăn vận như thị vệ thân cận của quan võ.

Trương Bình theo chân tuỳ tùng vào một tửu lâu kế bên đường, vừa mở cửa gian nhã phòng tầng hai quả nhiên đã thấy Vương Nghiên ngồi đó.

Vương Nghiên nhìn hắn gật đầu: “Ngồi đi.”

Tuỳ tùng kéo ghế ra cho Trương Bình, Trương Bình bèn ngồi xuống.

Trên bàn không có đồ ăn nhưng trong phòng lại có mùi rượu. Trên khoé miệng của Vương Nghiên bóng loáng, chén dĩa đũa thìa hệt như vừa mới thay, cho thấy đã ăn qua một lượt rồi. Tuỳ tùng dâng rượu ấm lên, theo sau là hai tiểu nhị đem một con dê nướng bóng ngậy lên.

Mặc dù dê là nguyên con nhưng khi nhìn gần thì thấy vết dao xẻ dọc nghiêng, đã được cắt thành từng miếng nhỏ nhưng da và thịt đều dính liền với nhau, có thể thấy kỹ thuật cắt rất điêu luyện.

Vương Nghiên nhìn Trương Bình nói: “Ăn đi.”

Trương Bình gắp một đũa, Vương Nghiên nhấc ly rượu lên nói: “Ngươi vẫn chưa đi à?”

Trương Bình bất đắc dĩ nhất thời không thể cắn miếng thịt thứ hai: “Vâng.” Đương sáp lại gần miếng thịt dê thì Vương Nghiên lại nói: “Đặng Tự muốn ngươi ở lại Kinh Thành ăn Tết à?”

Trương Bình gật đầu: “Phải.” Hắn nhét miếng thịt vào trong miệng, rồi lại gắp một miếng khác.

Vương Nghiên nhướng mày: “Đặng Tự vẫn chưa sắp xếp chỗ ở cho ngươi?”

Trương Bình nuốt miếng thịt vào trong bụng: “Sắp xếp rồi.”

“Là phòng trống trong nha môn Đại lý tự à?”

“Không phải, hành quán, không xa lắm.”

Vương Nghiên nhíu mày: “Hành quán nào?”

Trương Bình đáp: “Thuần Hoà.”

Vương Nghiên đặt ly rượu xuống.

Trương Bình ngẩng đầu lên khỏi miếng thịt, Vương Nghiên xua xua tay với hắn: “Không có gì đâu, ăn tiếp đi.”

Buổi chiều Vương Nghiên trở về nha môn Hình bộ, đợi khi gặp Đào Châu Phong liền nói: “Đặng đại nhân quả thật rất xem trọng học trò Trương Bình của đại nhân rồi, sắp xếp cho hắn ở trong Thuần Hoà hành quán đấy.”

Thuần Hoà hành quán nằm kề Đại lý tự, và cũng cách Lại bộ không xa.

Kinh Thành có lục đại hành quán, bát đại dịch trạm, Thuần Hoà hành quán không nằm trong số đó, thường có rất ít người đến ở.

Chỉ có những viên quan được đặc biệt triệu vào Kinh mới có thể ở thôi. Còn những chức vị khác, những người đến ở cũng để tiện cho Lại bộ, Lễ bộ tra xét hồ sơ, Đại lý tự, Ngự sử đài lựa chọn xem xét.

Tra xét xuất thân như thế, tất nhiên là muốn trao cho chức vị quan trọng rồi.

Cho nên, quan viên trong triều ai nấy đều biết, nếu như có một vị quan địa phương nào đó đến ở trong Thuần Hoà hành quán thì chắc chắn vận may đã tìm đến y rồi.

Cho dù là quan lớn biên cương cũng mong khi vào Kinh có thể được ở trong Thuần Hoà hành quán. Một Huyện thừa tòng thất phẩm như Trương Bình vào quán ở là chuyện trước nay chưa từng có. Khẳng định tâm tư sức lực của Đặng Tự đều phí không ít đâu.

Nhưng nhìn bộ dạng đần độn có phần hồn nhiên không biết gì của Trương Bình, Vương Nghiên dám kết luận rằng, cái tên ngáo đó vẫn không biết ất giáp gì cả, ý tốt của Đặng Tự đổ lên mình chó rồi. Vương Nghiên không kìm được có chút vui sướng.

Kỳ thực từ sớm lúc Đặng Tự đem Trương Bình đi phá án thì Đào Châu Phong đã nhìn ra được ý đồ của Đặng Tự rồi.

Suy nghĩ cho tiền đồ của Trương Bình thì, nếu có thể phá được vụ án này, vào Đại lý tự, đi theo Đặng Tự thì quả thực quá tốt.

Nhưng…Đào Châu Phong phải xấu hổ mà thừa nhận rằng, rốt cuộc bản thân mình vẫn chỉ là một kẻ phàm tục…

Vẫn là muốn tự bản thân mình dẫn dắt đứa học trò này.

Vương Nghiên lại nói: “Nghĩ lại thì tên Trương Bình đó giúp Đại lý tự phá án, tất phải trọng thưởng. Hình bộ đang thiếu người, đại nhân có thể thừa dịp thánh ý chưa quyết, thượng tấu thử xem.”

Tên tiểu tử Trương Bình này, mặc dù vẫn không hiểu tại sao Lan Giác lại để ý hắn nhiều như thế, nhưng quả thật bản lĩnh cũng có ba bốn phần, hơn nữa trước kia lại có thể may mắn nhìn ra điểm mấu chốt của vụ án, cũng xem như có mệnh chó đấy.

Nếu như cứ ở cái hốc bò tó nào đó ở địa phương thì không sao, nhưng bị Đại lý tự nhặt được thì quá tiện cho bọn họ rồi.

Vương Nghiên tiếp tục nhìn Đào Châu Phong, Đào Châu Phong tiếp tục do dự.

Không phải là ông không dám mở miệng, mà là ngộ nhỡ Đặng Tự thật sự có ý đó thì ông tuyệt đối giành không lại.

Vương Nghiên tấm lòng rộng lớn cười nói: “Nếu đại nhân lo lắng cho học trò của mình, e là sẽ bị nói mượn cớ thì để hạ quan tấu thỉnh. Nếu không làm nhanh chút thì chỉ e tên tiểu tử đó sẽ theo Đại lý tự mất.”

Lan Giác vốn nghĩ Trương Bình không vội vã rời đi, không có chỗ ở, tính để hắn ở trong phủ hai ngày, ăn Tết xong rồi đi cũng được. Nhưng nghe tin hắn ở trong Thuận Hoà hành quán rồi, nhất thời cũng không nhiều lời nữa.

Y cũng chẳng có hơi sức đâu đi quản chuyện của Trương Bình.

Mỗi khi ăn Tết, y lại rầu rĩ tự hỏi bản thân sao lại ở trong cái ti bộ càng gần đến tết càng bận rộn thế này chứ. Y trúng độc nằm bẹp dí mấy ngày, công vụ chồng chất một đống. Cung đại nhân sắp rời đi rồi, cảm giác quyến luyến bịn rịn cứ dâng trào, lúc ở nha  môn thường hay gọi Lan Giác đến, cùng ôn lại những kỷ niệm xa xưa năm nào.

Lan Giác cùng Cung đại nhân lúc khóc lúc cười lúc thổn thức dòng chảy của tháng năm xong, vừa ra khỏi cửa đã đâm đầu vào đám công văn chất cao như núi ở sát vách. Về phủ còn phải thức đêm thức hôm để viết quyển khuyến học kia. Lúc còn ngơ ngác chưa hiểu gì thì đã là ngày ba mươi rồi.

Sáng ngày ba mươi, Lan Giác vừa múa bút đem Tiền Ngự sử – người đã vạch tội y không dưới ba trăm lần – chạm  khắc thành một gốc ngạo tuyết hàn mai hăng hái mạnh mẽ, vừa suy nghĩ xem có nên tự làm mất mặt mình, đem lời thề không cho Lan Huy bước chân vào cổng nhà Liễu gia nuốt vào bụng hay không.

Lúc đó máu nóng bốc cao lên não, quên mất việc bản thân là Lễ bộ thị lang khổ cực bức bách, từ đêm ba mươi đến mồng một không thể ở nhà.

Đợi một lúc nữa y phải tiến cung, kiểm tra đại tế mồng một và tất cả công việc của triều hội.

Liễu gia hẳn vẫn cứ băn khoăn về cảm giác của Lan Giác, nên không cho người qua đón Lan Huy.

Chẳng lẽ đang khoanh tay chờ mình đưa đến à?

Ây, hai chữ thể diện vốn là hư ảo. Lan Giác gác bút, đương lúc muốn gọi người hầu thì Trường Tu đến bên cửa nhỏ giọng nói: “Lão gia, Liễu…người Liễu phủ đến rồi, nói là thái phu nhân nhớ thiếu gia, đại niên hạ…”

Lan Giác đứng dậy thật mạnh, Trường Tu run rẩy nói: “Lão gia, để tiểu nhân bảo bọn họ về.”

Lan Giác lập tức nói: “Khoan đã.”

Trường Tu chớp chớp mắt.

Lan Giác nhíu chặt mày, trầm ngâm giây lát rồi thở dài nói: “Dù sao cũng là máu mủ ruột rà…thôi, thu dọn đồ cho thiếu gia đi.”

Đào Châu Phong đón Trương Bình đến phủ mình cùng đón đêm giao thừa.

Sau đó ông vẫn không cho Vương Nghiên mở miệng đòi Trương Bình, nhân lúc Vĩnh Tuyên đế nhắc đến vụ án này, trước tiên cứ khéo léo thâm dò ý tứ của Vĩnh Tuyên đế đã.

“Trương Bình có thể được Đặng đại nhân xem trọng, quả thật là phúc phần của hắn.”

Lời nói này của Vĩnh Tuyên đế khiến Đào Châu Phong có chút khó hiểu.

“Quả thực Trương Bình không khiến trẫm thất vọng khi đã xếp hắn vào khoa thi năm nay. Trong vụ án này, công lao của hắn không ít, theo lý phải trọng thưởng.”

Đào Châu Phong vội nói: “Hắn vẫn còn trẻ, lần này Đặng đại nhân cho hắn theo học hỏi cũng xem như là phần thưởng rồi.”

Vĩnh Tuyên đế cười nói: “Hy vọng hắn cũng có thể nghĩ như thế. Đặng Tự hết mực khen ngợi hắn, trẫm cảm thấy nếu học hỏi nhiều hơn, ngày sau có thể trở thành rường cột.”

Thế này rốt cuộc là muốn thăng chức hay không thăng chức cho Trương Bình đây?

Đào Châu Phong không hiểu, lúc đón Trương Bình đến ăn tết, một chút ý tứ cũng không lộ ra. Ông chỉ khuyên nhủ hắn, lúc còn trẻ không nên sợ cực khổ thiệt thòi, đợi đến sau này sẽ phát hiện ra, những gì trải qua đều là kinh nghiệm. Cần phải phấn chấn hơn nữa, đền đáp cho triều đình.

Trương Bình rất chăm chú lắng nghe, Đào Châu Phong cũng vui vẻ an tâm.

Ăn xong cơm tất niên, Trương Bình mang theo hộp sủi cảo Đào phu nhân cho, đi dưới bầu trời nở rực pháo hoa, đạp lên tiếng pháo mà trở về hành quán.

Sáng mồng một, Trương Bình nhóm bếp củi nhỏ trong nhà bếp, bỏ sủi cảo vào trong nồi. Đương ngồi ăn một mình thì đột nhiên có người đập vội vào cửa viện hắn: “Trương đại nhân, Trương đại nhân, người trong cung đến, mau thay y phục tiếp chỉ.”

Dưới tiền sảnh hành quán, lão thái giám đứng đầu híp hai mắt nói: “Có phải là Huyện thừa Nghi Bình Trương Bình?”

Trương Bình chỉnh y phục quỳ xuống, lão thái giám mở quyển trục ra.

Huyện thừa Nghi Bình Quận Mộc Thiên Trương Bình, được thăng lên làm Tri huyện Huyện Phong Lạc Kinh triệu phủ, trước ngày mười sáu tháng ba đến nhậm chức.
 
Chương 71


Trưa mùng một, Lan Giác dự xong ngự yến thì xuất cung, hai mắt nhoè mờ, hai chân mỏi nhừ. May mà lần này mọi thứ đều viên mãn. Trong buổi ngự yến, lúc Vĩnh Tuyên đế nói “Cung ái khanh và các ái khanh còn lại của Lễ bộ đã cực khổ rồi”, nói đến hai chữ “còn lại” ánh mắt lại rơi xuống người y.

Lan Giác cũng ở phía sau theo Cung Thượng thư tạ ơn, khiêm nhường không tranh, những lời tán dương công lao vô hạn đều dành cho Cung Thượng thư, trong lòng của Cung Thượng thư cũng cảm động vô cùng.

Sau khi rời khỏi tiệc, chúng Vương và một vài cựu thần vẫn còn nói chuyện với Cung Thượng thư, vì thế Lan Giác đi trước một bước, nhìn thấy xa xa phía trước Vương Nghiên đang đối mặt chắp tay với Phùng Thai, hình như đôi bên đang chúc nhau tân xuân như ý. Cho đến khi Lan Giác đi đến gần bên, cả hai người họ vẫn đang cười cười nói nói.

Lan Giác cũng cùng Phùng Thai chúc qua lại mấy câu, đợi Phùng Thai đi rồi mới cười nói: “Xem ra thâm tình giữa Hình bộ và Kinh triệu phủ cũng đổi thay khi năm mới đến nhỉ.”

Vương Nghiên nhếch mép: “Cái lão Phùng này ấy lúc nói mấy lời này với ta không biết trong lòng đã đốt cho ta mấy xấp giấy rồi ấy. Nếu không có bản bộ viện, dưới trướng ông ta há lại có thể tăng thêm một tên tốt sao? Không cảm ơn ta thì thôi. Đúng rồi, Bội Chi huynh vẫn chưa biết gì à?”

Lan Giác khẽ nhướng mày.

Vương Nghiên nói: “Chính là tên tiểu tử họ Trương mà huynh và Thượng thư đại nhân của chúng ta đều hết mực yêu thương đấy. Lần này hắn với huynh cùng giúp Đặng Tự phá một vụ lớn, vốn Đặng Tự muốn hắn vào Đại lý tự nhưng lại không thành. Hoàng thượng đưa hắn cho Phùng Thai rồi, phái đến Huyện Phong Lạc. Có lẽ trong hai ngày này sẽ hạ chỉ.”

Lan Giác hơi bất ngờ.

Vương Nghiên nhìn nhìn y, khẽ nói: “Chuyện này nói ra thì cũng có một phần công lao của ta, ta cũng là vô tình mà thôi.”

Hình bộ và Kinh triệu phủ vì giành án mà chất chứa oán hận, tình cảnh như nước với lửa. Hằng ngày mỗi bên bố trí thuộc hạ đi tuần khắp Kinh Thành đều cố gắng không bỏ qua bất cứ cọng lông sợi tơ nào của mỗi một vụ án, thậm chí hai bên còn cài mật thám nằm vùng ở những khu vực gần nha môn của đối phương.

Vương Nghiên đến Đại Lý tự giành án, sau đó bị khước từ, Phùng Thai biết được thì vô cùng vui vẻ, cho rằng tiếp theo Vương Nghiên nhất định sẽ bám chân cha mình, từ tay Đặng Tự đoạt lại danh dự và vụ án, thế là khoanh tay ngồi xem, sự đề phòng không khỏi lơi lỏng.

Vào trưa một ngày trời trong nắng ấm nọ, một bộ khoái của Hình bộ mặc thường phục, ngẫu nhiên đi đến trước cửa Kinh Triệu phủ. Vì gã đơn thuần chỉ muốn uống một chén trà, thế là rẽ vào sạp trà nằm đối diện hơi chếch với cửa Kinh Triệu phủ, vô tình nhìn thấy một ông già đứng từ xa nhìn về phía cửa Kinh Triệu phủ, cứ do dự đi qua đi lại.

Tiểu bộ khoái là một người nhiệt tình, bèn đi về phía trước. Ông già níu gã lại hỏi thăm, ông muốn biết là muốn đến Kinh triệu phủ báo án thì phải làm thế nào, cứ trực tiếp hỏi nha sai trước cửa hay phải đánh trống trước.

Tiểu bộ khoái nhanh chóng đỡ ông đến bên đường, hỏi thăm ông cụ muốn báo quan chuyện gì.

Ông cụ nói, ông là người nhà của Diêu viên ngoại huyện Phong Lạc, tiểu công tử của Diêu viên ngoại mất tích rồi, Tri huyện lão gia cuối năm đã lên Kinh, nha sai huyện nha lại không đủ sức, tiểu công tử đã mất tích mấy ngày cho nên sai ông đến Kinh triệu phủ báo quan.

Tiểu bộ khoái nói, Phùng đại nhân của Kinh Triệu phủ là thanh thiên nổi tiếng, nhất định có thể phá được vụ này. Ông cụ cứ yên tâm, mau đến nói với nha sai trước cửa là đến báo quan, bọn họ sẽ hỏi ông vài câu. Nếu giờ này người của hình phòng còn trong nha môn thì có thể dẫn ông đến hình phòng ghi lại vụ án. Nếu như không còn ai thì phải chờ đến ngày mai rồi. Sau khi ghi chép vụ án xong, hình phòng sẽ xem xét tình tiết vụ án, xem cuối năm bọn họ có bận hay không, nếu như bận quá thì phải đợi thêm hai ba hôm, còn nếu không bận thì có lẽ khoảng hai ba ngày là có thể quyết định tra án hay không tra. Rồi lại xem phía bên Hình bộ có bận hay không. Nhanh thì chỉ khoảng ba bốn ngày sẽ xuống huyện của ông điều tra. Còn nếu như nhân lực không đủ thì phải đợi lâu hơn rồi…

Vương Nghiên nói với Lan Giác: “Lời này đều là thật hết đấy.”

Lan Giác im lặng.

Ông cụ đếm đầu ngón tay, đại kinh thất sắc, vậy đợi đến lúc quan gia tra án thì nhỡ tiểu công tử nhà tôi không tìm thấy, sớm đã…

Tiểu bộ khoái nói, cũng hết cách rồi, nha môn làm việc đều phải có quy trình. Viên ngoại nhà ông cụ có thể quen biết với người của Kinh triệu phủ, nếu có người quen thì có thể nhanh hơn chút, cũng dễ xử lý hơn.

Ông cụ nói, không quen ai cả, rồi lại vội vàng níu lấy tiểu bộ khoái hỏi, tiểu ca có quen ai không, viên ngoại nhà tôi nhất định sẽ trọng tạ, rồi liên tục chắp tay.

Tiểu bộ khoái vội vã nói thật, vãn bối nếu có thể giúp được gì thì nhất định sẽ giúp, há cần đáp tạ hay sao. Chỉ là người của Kinh triệu phủ cháu quen thì cũng có quen nhưng quan hệ không tốt, không phải là bạn bè. Nếu như bọn họ biết ông quen biết cháu, thì xem chừng lại chẳng xử đàng hoàng vụ của ông đâu. Cho nên cháu mới đứng sau bức tường nói chuyện với ông nè.

Ông cụ nhất thời không biết làm sao. Tiểu bộ khoái nhìn ông lão tuổi cao thế này, nước mắt sắp chảy ra thì thực lòng chịu không nổi, bèn nói, thực ra thì ngoài Kinh triệu phủ ra, ông có thể đến Hình bộ báo án, nơi đó nhanh hơn.

Vương Nghiên nói: “Cái này cũng là thật, nhanh hơn bọn họ.”

Lan Giác tiếp tục nghe.

Ông cụ hỏi, Hình bộ sẽ lo vụ này chứ?

Tiểu bộ khoái đáp, Hình bộ là nơi chuyên xử lý các vụ án.

Ông cụ vừa khóc vừa hỏi: “Nhưng Hình bộ có phải cũng phải quen biết với người trong đó mới làm nhanh hơn không? Còn kéo dài phút nào thì tính mệnh của tiểu công tử nhà tôi sẽ…”

Tiểu bộ khoái lập tức an ủi: “Yên tâm ông ơi, cháu quen với người Hình bộ. Cháu là người của Hình bộ đấy.”

Vương Nghiên nói: “Hình bộ bọn ta, trước giờ bất luận là án to hay nhỏ đều xem xét cẩn trọng. Vụ án này ban đầu là vụ án mất tích. Kết quả đến Diêu gia kia đều tra thì tên thiếu gia mất tích kia đã tự quay về. Người của nhà đó không biết ất giáp gì, khóc lóc náo loạn thần thần quỷ quỷ gì đó. Trong cái huyện Phong Lạc đó có miếu mụ mụ gì đó, nói là thiếu gia mất tích bị mụ mụ bắt đi. Ta còn cho rằng có liên quan đến vụ án Đặng Tự điều tra nên đích thân đi một chuyến.”

Lan Giác cười nói: “Ô, cái miếu mụ mụ đó tôi có biết. Quê nhà tôi ở Huyện Cửu Hoà, cách Huyện Phong Lạc không xa. Lúc nhỏ có nghe nói miếu mụ mụ ở Huyện Phong Lạc linh nghiệm vô cùng. Các huyện gần bên, thậm chí cả phu nhân trong kinh cũng đến miếu đó để cầu con.”

Vương Nghiên nói: “Ầm ĩ tà ma gì quá trời, còn nói lúc trước, cứ cách ba năm dâng lên một cặp nam đồng sáu tuổi làm toạ tiền đồng tử, chín tuổi thì thả về. Đến những năm gần đây mới bỏ hủ tục này đi.”

Người Diêu gia nói, thiếu gia nhà họ cửa lớn còn không bước qua một bước, ngày ngày chỉ biết ở trong nhà đọc sách, đột nhiên lại biến mất, đáng sợ là mấy năm nay mụ mụ không có đồng nam, quá cô đơn rồi.

Sau khi Diêu tiểu công tử đột nhiên tự quay về thì hốc mắt trũng xuống, dung mạo tiều tuỵ, cứ im lặng không nói, cả ngày ngơ ngơ ngẩn ngẩn, cứ như thiếu hồn thiếu phách vậy.

Vương Nghiên cười lạnh: “Thật là chẳng ra sao. Mười chín tuổi rồi, còn có thể kêu gào là bị bắt đi làm đồng nam. Ở cái tuổi này, ngay cả nữ tử cũng tim đập nhộn nhạo, âm thầm xáo động, này lại đường đường là một nam tử có thể ngoan ngoãn ở trong nhà sao? Vừa nhìn đã biết, yêu quái hút khô hắn nhất định ở trong phủ. Quả nhiên, điều tra một chút là ra ngay vú em của bà vợ nhỏ.”

Cô vú em kia lớn hơn Diêu tiểu công tử mười tuổi. Diêu tiểu công tử bị cô ta mê hoặc đến thần hồn điên đảo, còn tính mang ả bỏ trốn. Vú em biết tất nhiên sẽ không thể kéo dài chuyện này, nhân lúc thôi việc đã vui vẻ cùng với Diêu tiểu công tử mấy hôm, rồi lao vào dự tính bán gạo to lớn của mình.

“Vụ án thế này, chưa đầy hai canh giờ đã phá xong. Vấn đề lớn hơn là chuyện này bị Phùng Thai biết được, thế là lão lại hu hu híc híc chạy đi báo với ngự trạng.”

Phùng Thai dâng tấu lên Vĩnh Tuyên đế, một vụ án nhỏ ở địa phương một huyện nha là đủ rồi, Hình bộ thị lang lại đích thân đi tra án, quả thực không đếm xỉa đến kỷ cương triều đình, vượt quyền lộng hành.

“Nực cười. Rõ ràng do thuộc hạ ông ta không làm tròn trách nhiệm, dân có án mà không ai lo, bất đắc dĩ phải vào thành báo án. Hơn nữa nghe ông lão đó nói, vô cớ mất tích, rồi lại dính tới mấy chuyện thần thần quỷ quỷ, ai biết lớn hay nhỏ chứ? Ta liền nói với hoàng thượng, vụ án này cứ cho là bên Kinh triệu phủ phá đi, một chút công lao ta cũng không cần. Đúng như những gì Đào đại nhân chúng ta nói, giữa các ti bộ với nhau cần phải hợp tác trợ giúp.”

Lan Giác có thể tưởng tượng được nét mặt và cõi lòng của Phùng Thai lúc đó.

Vương Nghiên cười hì hì: “Huynh có biết lúc đó Phùng Thai phản ứng thế nào không? Ông ta lại, lại trưng ra bộ dạng như Tây Thi lo lắng, sắp ngất xỉu tới nơi vậy. Đến độ hoàng thượng phải sai hai tiểu thái giám đứng đỡ hai bên. Sau đó ông ta nói, vì ta mà ông ta không biết phải làm một Kinh triệu doãn thế nào nữa, ông ta muốn từ quan. Ta lập tức nói, chức vụ Kinh triệu doãn quan trọng vô cùng, chuyên quản lý hình tụng, cũng không phải Hình bộ bọn ta xem một hai vụ án là chuyện gì lớn lao, có đáng không. Cùng chia sẻ hợp tác, đều không phải vì triều đình sao.”

Lan Giác càng có thể tưởng tượng được vẻ mặt lúc đó của Phùng Thai.

Vương Nghiên giễu cợt nói: “Sau đó Phùng Thai chẳng thèm làm Tây Thi nữa, bộ dạng đó…ầy…”

Vĩnh Tuyên đế bất đắc dĩ phải an ủi Phùng Thai, nói rằng, vụ án này là do Tri huyện Huyện Phong Lạc thất trách mà ra, trẫm sẽ đích thân thay Phùng ái khanh lựa chọn một Tri huyện khác.

Vương Nghiên nói: “Lúc ta nghe hoàng thượng muốn đích thân lựa chọn Tri huyện, mà không để Lại bộ làm, thì liền nghĩ có khả năng là tên Trương Bình kia. Vừa nãy nhìn thấy thần tình của Phùng Thai bèn biết chắc không sai rồi. Hắn đã từng may mắn phá được án trước ta, xem ra Phùng Thai nhất định sẽ không đối xử tệ với hắn đâu.”

Trong lòng Lan Giác thầm nghĩ, chưa chắc.

Vương Nghiên cười khà khà nói: “Kỳ thực ta thì chẳng sao, chỉ lo Đặng Tự và Đào đại nhân chúng ta sẽ cảm thấy hụt hẫng. Thôi, chuyện của một kẻ nhỏ nhặt không nên nói nhiều làm gì. Đúng rồi Bội Chi, ta mới kiếm được mấy món hiếm lạ, còn có chút rượu ngon nữa. Hôm nay với mồng hai huynh phải nghỉ ngơi, tối mồng ba rảnh không? Mời huynh uống rượu.”

Lan Giác mỉm cười nói cám ơn và đồng ý rồi cùng Vương Nghiên ra khỏi cổng cung, ai nấy về phủ mình.

Vừa bước vào ngưỡng cửa, Lan Giác đã sai người đến Liễu phủ đón Lan Huy. Rồi tranh thủ cơ hội này về phòng ngủ nghỉ ngơi chốc lát. Lúc đang cởi áo lại nói với người hầu: “Sai người đến Thuần Hoà hành quán xem thử, nếu Trương Bình có ở đó, hỏi hắn đã có sắp xếp gì chưa, rảnh rỗi thì bảo hắn đến đây ăn cơm nhé.”
 
Chương 72


Lúc Lan Giác tỉnh dậy thì trời đã tối. Gia nhân đến báo đã đón Lan Huy về, Trương Bình cũng đã đến.

Lan Giác bước ra khỏi phòng ngủ, vừa lúc đó Lan Huy bổ nhào đến kêu cha ơi. Lan Giác bế nó ngồi lên đùi mình, nhưng Lan Huy cứ vùng vẫy tỏ ý không vui. Lúc trước khi nó còn ở nhà Vương Nghiên thường bị con của Vương Nghiên cười cợt, bảo rằng “Cậu không ngồi trên đùi cha mình mà khóc lóc sụt sịt cả ngày đâu nhỉ?”. Bây giờ nó đã thêm một tuổi, càng ra dáng người lớn hơn rồi, rõ ràng không thích hợp với việc ngồi trên đùi cha mình thế này nữa.

Lan Giác xoa đầu nó nói: “Tết năm nào cha cũng không thể cùng đón giao thừa với con, thật sự có lỗi với con quá.”

Lan Huy ưỡn ngực, nói đầy chững chạc: “Phụ thân nên lấy công việc làm trọng. Cho dù con một mình ở nhà, phụ thân ở trong cung, nhưng đồng tâm đồng niệm cũng xem như cùng đón giao thừa rồi.”

Lan Giác cười bảo: “Nói hay quá nhỉ, xem ra mấy ngày nay con học được khối điều từ cửu cửu và biểu ca rồi.”

Lan Huy không thấy Lan Giác vui mừng nhìn nó nói “Lời con ta nói đúng lắm” thì có chút thất vọng, rồi chỉ dạ một tiếng.

Lan Giác lại hỏi: “Ở nhà ngoại công ăn có ngon không? Đồng biểu ca có dẫn con đi chơi không? Cửu cửu, cửu mẫu có lì xì cho con không?”

Vẫn chỉ là những câu hỏi dành cho trẻ con, Lan Huy miễn cưỡng đáp lại: “Ngon lắm, có lì xì cho con.”

Kỳ thực Lan Giác đã nghe gia nhân nói rồi. Lần này Liễu gia lì xì cho Lan Huy rất nhiều, còn gửi thêm nào rương nào hộp về nhà nữa. Lan Giác cũng không hỏi rốt cuộc Lan Huy được bao nhiêu tiền mừng tuổi, chỉ đoán chắc nó đã giấu tiền đi đâu rồi.

Kể từ lúc Lan Huy biết đi đến nay, mấy chỗ nó hay giấu tiền Lan Giác đều biết cả. Dưới giường, dưới chân bình phong, trong bình hoa đào cổ mảnh trong phòng ngủ, trong hộp sách ở thư phòng, còn từng lén chạy đến chợ, bí mật mua một cái hộp sành hình dáng y hệt như cái bô, bên trong có giấu mấy thỏi vàng, còn chôn ở chỗ mấy tảng đá cạnh Thái Hồ trong hoa viên, vẽ vẽ ký hiệu gì đấy ở trên hòn đá.

Lúc Lan Giác vui vẻ sẽ moi mấy chỗ giấu ra, bỏ vào đấy một thỏi vàng y đúc rồi lấp lại. Mấy ngày trôi qua lại bỏ vào hai thỏi, lại mấy ngày sau bỏ vào ba thỏi. Đợi đến khi đã bỏ vào sáu thỏi, tối đó Lan Giác đang chong đèn xem công văn thì Lan Huy người mặc áo ngủ mở cửa thư phòng, đu ở mép bàn hỏi: “Mỗi ngày cha đều rất mệt phải không?”

Lan Giác đáp: “A, cha phải nuôi cả nhà mà.”

Lan Huy đu trên cánh tay y: “Nếu cha mệt thì không cần phải đi làm nữa, Huy nhi có thể nuôi cha!”

Lan Giác vui không nổi nữa, biết không thể tiếp tục nữa rồi, ngày hôm sau để lại tờ giấy mà y dùng tay trái viết vào chỗ đã thêm vào bảy thỏi vàng – thiên cơ đã tiết lộ, duyên phận đã tận. Đã làm mất cái hộp sành.

Trưa hôm đó, Lan Giác bắt gặp Lan Huy ngồi bên hồ nước rất lâu. Tối đó, Lan Huy với hai con mắt sưng to đầy nước đẩy cửa bước vào thư phòng Lan Giác: “Cha ơi…”

Lan Giác xoa đầu nó nói: “Ngoan nào, mau đi ngủ đi. Con còn nhỏ, đợi cha già rồi thì tới lượt con nuôi cha. Bây giờ cha phải làm quan cho thật tốt đã.”

Lan Huy cúi đầu vâng một tiếng.

Năm kia khi Lan Huy bắt đầu thay răng, từng nuốt nhầm phải cái răng cấm bị rụng, còn tưởng bản thân sắp chết liền nhét một bức di thư đầy dấu tích nước mắt nước mũi của mình vào trong quyển sách Lan Giác đang đọc, trong bức thư Lan Huy giao hết mấy chỗ giấu tiền của mình cho cha, còn cả mấy con búp bê xấu đến mức Lan Giác chả dám nhìn và mấy thứ đồ lặt vặt nó lén lút giấu được vào trong một cái tráp, còn bảo Lan Giác lúc nhớ nó thì lấy ra mà xem.

Lan Giác cạn lời, kêu Ngô Sĩ Hân đến, dặn y ta giả vờ vô tình nói cho Lan Huy biết, răng ở trong bụng rồi sẽ đi ra, chết không nổi đâu. Sau đó thì vờ như không phát hiện ra Lan Huy đã âm thầm lấy lại thư và đồ.

Nhưng Lan Giác vui mừng mà phát hiện ra rằng, con của mình là một đứa rất thận trọng. Mặc dù cho rằng Lan Giác vẫn chưa xem qua thư nhưng nó đã đổi chỗ giấu tiền và đồ. Lần này được nhiều tiền mừng tuổi như vậy, không biết có tìm ra chỗ giấu nào mới chưa.

Nghĩ đến đây, ý cười trên mặt Lan Giác bất giác càng thêm rõ. Rồi y sai người bảo Trương Bình đến tiểu đình.

Lần này Trương Bình đến, đem theo mấy món quà chúc tết chẳng qua chỉ là vài loại hoa quả nhưng Lan Giác lại vui vẻ vô cùng. Xem ra càng ngày càng hiểu chuyện rồi.

Y cười nói với Trương Bình: “Sĩ Hân về quê ăn tết rồi, lúc nãy không có ai nói chuỵên với ngươi, có chút sơ suất rồi.”

Trương Bình đáp lại: “Học trò đọc sách, không thấy buồn. Đại nhân khách sáo rồi.”

Ầy, phải chi biết ăn nói hơn thì tốt rồi.

Lan Giác âm thầm dặn dò bản thân, không nên yêu cầu quá nhiều.

Y đang cân nhắc, có nên nhắc nhở Trương Bình đến bái kiến Phùng Thai hay không. Chuyện này theo lý là đương nhiên, hơn nữa Trương Bình lại là tri huyện do thánh thượng ngự phong, càng phải đi bái kiến ông ta.

Nhưng Phùng Thai người này xưa nay vốn rất tỉ mỉ. Nếu như Trương Bình nói năng không hợp, lễ vật không đúng, thì chi bằng không đi.

Lan Giác nghĩ một hồi, vẫn là đợi sau bữa tối đã, rồi nói với Trương Bình: “Nghe nói qua Tết ngươi sẽ đến Huyện Phong Lạc nhậm chức Tri huyện?”

Trương Bình gật đầu: “Vâng.”

Lan Giác mỉm cười nói: “Đây là chuyện đáng chúc mừng đấy, nhưng sau này ngươi sẽ bận rộn hơn rồi. Khi nào nhậm chức?”

Trương Bình đáp: “Trung tuần tháng Ba.”

Thôi, khỏi bảo hắn đi bái kiến Phùng Thai đi.

Lan Giác tiếp tục khe khẽ mỉm cười, nói: “Lúc Cung đại nhân trí sĩ về hương, có lẽ là sau khi ngươi nhậm chức, chắc chắn phải đi qua huyện Phong Lạc. Đến lúc đó…”

Trương Bình cầm đũa, chăm chú nhìn Lan Giác, Lan Giác bỗng nhiên cảm thấy mệt mỏi vô cùng.

Thượng thư từ nhiệm hồi hương, đường xá xa xôi rồi đón tiếp thế nào, sắp xếp chỗ ở ra sao, tiệc tùng món ăn, người đón kẻ tiễn…tất cả đều phải làm cho đến nơi đến chốn.

Nhưng cứ nhìn bộ dạng Trương Bình lúc này xem, hồn nhiên vô cùng, nội phun ra được chữ “a” cũng được xem là tâng bốc lắm rồi.

Lan Giác cười nói: “Thôi thôi, nói chuyện này còn sớm quá, đến lúc đó sắp xếp thế nào sẽ báo ngươi sau. Ngươi cứ dựa theo những gì được ghi mà làm là được.”

Trương Bình lại gật gật đầu.

Còn một chuyện khiến Lan Giác có chút lo lắng. Khi dùng bữa, Lan Huy cứ nhìn Trương Bình miết, đã thế hai mắt còn phát sáng lấp lánh.

Đợi đến lúc dùng canh, Lan Huy lại nhìn sang chỗ Trương Bình, bắt đầu hỏi: “Vụ án mà huynh giúp Đại lý tự ấy, là vụ gì vậy? Đồng biểu ca không chịu nói cho ta biết.”

Lan Giác hơi khiêm khắc nói: “Huy nhi, nói chuyện với trưởng bối sao không dùng kính xưng? Không phải đã dạy cho con rồi sao. Mau mau xin lỗi đi.”

Lan Huy khẽ cúi đầu.

Trương Bình đáp: “Điều tra một nhóm lừa đảo thôi.”

Trong chốc lát, hai mắt Lan Huy lại phát ra ánh sáng: “Hả?”

Trương Bình nghiêm mặt: “Nhưng không thể kể chi tiết được.”

Lan Huy gật đầu thật mạnh: “Hiểu rồi.” Rồi lại sáp tới chỗ Trương Bình, “Trương tiên sinh, bọn tội phạm đó đã bị bắt hết chưa?”

Trương Bình đáp: “Bắt hết rồi, những kẻ chưa bắt được cũng chạy không thoát nổi.”

Lan Huy hướng đôi mắt đầy mong chờ nhìn hắn: “Cha cũng giúp mọi người đúng không? Mấy ngày trước cha nói người bệnh rồi, nhưng thật ra chỉ là giả bộ. Việc này sau này con mới biết.”

Khoé miệng Trương Bình khẽ nhướng lên: “Đúng.”

Lan Huy lại hỏi: “Vậy…”

Lan Giác khẽ lên tiếng: “Huy nhi, ăn cơm không được nói chuyện.”

Lan Huy bất mãn dịch trở về chỗ cũ, còn khẽ lầm bầm: “Nhưng lúc nãy cha là người  nói nhiều nhất còn gì.”

Lan Giác khẽ nhướng mày, giả vờ chẳng nghe thấy.

Rốt cuộc tối đó, Lan Huy lại đu bám ở cửa phòng ngủ Lan Giác: “Cha ơi.”

Lan Giác đặt quyển sách xuống nhìn nó: “Chuyện gì thế?”

Lan Huy đi đến trước mặt Lan Giác, vẻ mặt vô cùng trịnh trọng: “Cha à, con muốn sau này lớn lên sẽ theo đuổi công lý, rửa sạch án oan, giải quyết hết các vụ bế tắc.”

Lông mày Lan Giác nhảy dựng.

Chẳng biết tại sao mà trước mắt Lan Giác lại hiện lên nhìn ảnh Lan Huy sau này, mi mắt khẽ cụp, giọng nói u ám: “Cha, người ăn bát mì xong thì ngủ đi nhé, con phải trở về nha môn, không thể cùng người đón năm mới được.”

Không được, tuyệt đối không được.

Con trai của Lan Giác ta, không thể trở thành như thế.

Lan Giác hoà nhã nói: “Không phải con từng nói muốn giống như cha sao?”

Lan Huy ưỡn ngực lên nói: “Đại trượng phu phải nên bình thiên hạ, bình chuyện bất công.”

Lông mày Lan Giác lại giựt mấy cái, y đứng dậy, xoa xoa đầu Lan Huy: “Ừ, lập chí hướng như vậy rất tốt. Nhưng bất luận chí hướng thế nào, nếu không chăm chỉ đọc sách thì cũng chỉ là nói suông. Sau mùng năm, tiếp tục cố gắng nhé.”

Mùng hai, Đặng Tự bảo Liễu Đồng Ỷ rủ Trương Bình đến Đặng phủ ăn bữa cơm.

Đặng Tự nói với Trương Bình: “Tiểu tử, ta cũng không muốn giấu ngươi. Vụ án lần này khiến bản tự cảm thấy ngươi quả thật rất có thiên khiếu, bản tự muốn ngươi vào Đại lý tự nhưng thánh thượng lại điều ngươi đến Huyện Phong Lạc. Tạm thời ngươi với ta không có duyên phận đồng liêu. Nhưng mà, bản tự nhìn người trước giờ không sai. Tương lai của ngươi sau này vẫn phải ăn bữa cơm này thôi.” Ông lấy ra một tấm lệnh bài, “Bản tự không nói suông, nếu có chuyện gì cần sự giúp đỡ của Đại lý tự thì hãy cầm tấm lệnh bài này đến Đại lý tự, có thể trực tiếp vào nha môn, nói cho ta biết.”

Trương Bình nhận tấm lệnh bài, thành tâm nói lời cảm ơn với Đặng Tự. Vào Đại lý tự hay Hình bộ, đối với hắn mà nói đều là chuyện tốt đẹp nhất rồi.

Thế nhưng, khoảng thời gian ở Nghi Bình khiến hắn cảm thấy làm Tri huyện thật ra cũng không tệ.

Mùng ba, Trương Bình trở về Nghi Bình. Trước khi đi, hắn lại nói lời từ biệt với Đào Châu Phong và Lan Giác.

Đào Châu Phong đầy yêu thương mà dặn dò hắn, làm Huyện thừa được vài tháng mà được thăng lên làm Tri huyện thì có thể thấy thánh ân mênh mông vô cùng. Nhất định phải làm việc thật tốt, không phụ thánh thượng, không phụ bá tánh xã tắc.

Trương Bình đáp ứng từng điều một.

Cuối cùng Đào Châu Phong  hỏi: “Đã gặp Phùng đại nhân chưa?”

Trương Bình đáp: “Vẫn chưa ạ.”

Đào Châu Phong xoa xoa râu trầm ngâm một lát: “Được rồi, lúc nhậm chức rồi bái kiến sẽ trang trọng hơn.”

Trương Bình cũng đã từng cân nhắc có nên đi bái kiến Phùng Thai hay không.

Nhưng, một là hắn không quen biết Phùng đại nhân, không biết đi thế nào; hai là, hắn thực sự không biết nên tặng cái gì đây.

Đợi đến lúc nhậm chức sẽ có nghi thức bái kiến thượng ti, chắc chắn sẽ có người hướng dẫn, lúc đó sẽ không thể xảy ra chuyện gì được.

Nghĩ như thế nên Trương Bình liền xoá bỏ suy nghĩ đi bái kiến, đi thẳng đến Lan phủ từ biệt.

Lan Giác nói: “Hôm trước ta đã muốn hỏi rồi, Nghi Bình cách Phong Lạc không xa, cuối tháng Hai ngươi từ nhiệm rồi đi Phong Lạc à?”

Trương Bình đáp: “Vâng, học trò muốn làm cho xong huyện chí, đầu tháng Ba cũng được. Học trò cũng không có đồ đạc gì, không cần phải thu dọn nhiều.”

Lan Giác khẽ cười nói: “Ước chừng cuối tháng Hai ta cũng bắt đầu khởi hành, xin nghỉ một tháng để về quê tảo mộ. Quê ta ở Huyện Cửu Hoà, nằm ngay cạnh Huyện Phong Lạc luôn đấy. Nói không chừng có khi lúc đó còn thuận đường đến thăm ngươi.”

Trương Bình lập tức đáp: “Học trò chờ đại nhân.”

Lan Giác nhìn hắn, ý cười càng thêm rõ: “Còn không chắc mà. Nếu như có thể qua…”, bản thân đang muốn nói ‘thì ngươi phải mời khách đấy’, nhưng lại cảm thấy mấy chuyện đùa này có thể nói với Vương Nguyên, còn với vãn bối cấp dưới như Trương Bình thì lại chẳng thể nói ra được.

Trương Bình nhìn Lan Giác, lặp lại: “Học trò chờ đại nhân.”

Sau khi rời khỏi Kinh Thành, Trương Bình lại đến căn nhà tranh nơi Trần Trù và Ly Quán đã từng ở.

Căn nhà tranh đã bị Đại lý tự phá huỷ, thậm chí mặt đất còn bị xới tung lên. Trương Bình đứng ở nơi đó một hồi rồi mới leo lên xe ngựa.

Xe ngựa này là do Đặng Tự bảo người chuẩn bị cho hắn. Vốn Trương Bình còn định đến Huyện Phong Lạc xem thử, đến đó quan sát tình hình, làm quen một chút nhưng lại không tiện mở miệng nên cũng đành bỏ qua.

Về đến Nghi Bình, Thiệu Tri huyện đối đãi Trương Bình nhiệt tình vô cùng. Trương Bình đã được điều nhiệm, hơn nữa ở vụ án trước, Thiệu tri huyện cũng được tuyên dương, không còn gian nan khổ cực nữa, tình càng thêm sâu, ý càng bịn rịn.

Thiệu Tri huyện hối hận vô cùng, không đối xử tốt với Trương Bình hơn. Vĩnh Tuyên đế để Trương Bình làm đến tháng Hai, cũng như để hắn ngồi ở vị trí Huyện thừa này gần tròn nửa năm, hai tháng dư ra này chỉ là thêm vào. Thiệu Tri huyện tự hiểu rõ, chỉ hận không thể đốt nhang cúng cho Trương Bình. Nhiều lần khẩn cầu Trương Bình đừng biên huyện chí nữa, lại phái vô số người đến hỗ trợ. Nhưng trong hai tháng đó, Trương Bình đã hoàn thành xong huyện chí.

Tháng Hai càng qua càng nhanh, Thiệu Tri huyện chỉ biết thở dài trách thời gian không đợi người.  Từng người nắm lấy bàn tay Trương Bình, hai mắt rơm rớm nước mắt.

“Trương đại nhân à, sau này ngài sẽ còn nhớ cái chốn nhỏ Nghi Bình này chứ?”

Trương Bình chỉ có thể đáp lại: “Sẽ nhớ mà.”

Cuốn sách khuyến học của Lan Giác, dưới sự đồng tâm hiệp lực của các quan trong Lễ bộ cũng đã hoàn thành trong tháng Hai. Sau khi khắc bản ấn, phát ra các nơi, Cung Tụng Minh chính thức từ quan về hưu vào ngày hai tháng Ba. Theo lệ sẽ từ ba lần, sau đó Vĩnh Tuyên đế sẽ ân chuẩn. Dự tính cuối tháng Ba, tân thượng thư sẽ nhậm chức.

Người được chọn làm tân thượng thư Lan Giác đã biết là ai, chính là Hàn lâm Học sĩ, Thông nghị Đại phu Cừu Hộ.

Cừu đại nhân không trẻ hơn Cung Tụng Minh bao tuổi, là người chính trực đầy khát vọng tốt đẹp. Luận tư cách, học vấn hay hành sự, Lan Giác đều cảm thấy ông xứng đáng làm Lễ bộ Thượng thư hơn mình gấp nhiều lần.

Vĩnh Tuyên đế trẻ tuổi, hành động này của y cho thấy tuy y còn trẻ nhưng vẫn xem trọng lão thần.

Trước khi Cung thượng thư chính thức từ quan, là cuối tháng Hai, Lan Giác sẽ xin nghỉ phép một tháng.

Năm trước năm sau lăn lộn đến sức cùng lực kiệt, Lan Giác ngửi mùi mực của cuốn Khuyến học vừa được in, tưởng tượng đến việc sẽ được ngủ đẫy giấc, đi đạp thanh, đi chèo thuyền, tận hưởng những ngày xuân tươi đẹp, thật sướng làm sao.

Nhưng Lan Giác cũng không biết là bản thân xui xẻo hay vận số Cung Thượng thư quá xấu, ngày 22 tháng Hai là ngày Lan Giác dự định dâng đơn xin nghỉ thì xảy ra chuyện.

Đại vương Khải Đàn rình coi thái tử nước Tháp Xích là Sát Bố Sát Lý Khắc tắm rửa ở điện Thanh Tư, bị đánh tại trận.
 
Chương 73


Lúc người truyền lệnh cầm lồng đèn đến gõ cửa Lan phủ, Lan Giác đã đi ngủ. Lát sau, khi đã tỉnh táo lại y mới hỏi: “Hay là Đại vương điện hạ lỡ đi nhầm chỗ nên gây ra hiểu lầm gì chăng?”

Quách công công thở dài lắc đầu.

Hôm nay vẫn chưa sắp xếp để Đại vương đến tiếp kiến hoàng tử Tháp Xích, mà cho dù Đại vương có tiếp kiến thì cũng phải ở trong cung chứ.

Thanh Tư điện nằm trong Bửu Hoa cung, vốn là nơi Thái tổ Hoàng đế cho người tu sửa lại để cho Thánh từ Nhân trang Thái hậu tĩnh dưỡng nghỉ ngơi. Tới thời Đồng Quang đế thì sửa lại làm hành cung cho khách quý phiên di ở.

Phủ đệ của Đại vương ở đường Trường Lạc, đến được Bửu Hoa cung nhanh nhất cũng phải gần một canh giờ. Giờ Tuất hoàng tử đi tắm, luận về trời về thời về chốn thì Đại vương tuyệt đối không nên xuất hiện ở nơi đó.

Sau khi sự việc xảy ra, Thượng quan Lang trung và Hồng Lư Tự khanh liền lập tức chạy đến cung Bửu Hoa, trấn an hoàng tử và sứ thần tháp tùng.

Hoàng tử Sát Bố Sát Lý Khắc cảm thấy xấu hổ và sợ hãi vô cùng, trước mắt vẫn còn cực kỳ hoảng loạn. Sứ thần nói, thật ra ngay từ đầu Đại vương đã có ý dâm tà rồi. Lần đầu tiên nhìn thấy hoàng tử, ánh mắt của Đại vương nhìn y ta đã thể hiện rành rành ra, lời nói đầy tính trêu ghẹo. Đại vương còn hẹn uống rượu cùng hoàng tử. Trên bàn tiệc nói với hoàng tử rằng, dựa theo quy tắc của thiên triều, uống một ly phải cởi một lớp quần áo. Hoàng tử đã đọc qua sách vở thiên triều, hoàn toàn không nhìn thấy tập tục này nên không tuân theo. Đại vương lại mưu tính chuốc say hoàng tử, mời mọc hoàng tử ngủ chung giường với mình, còn nói đây cũng là một tập tục của thiên triều. Hoàng tử thầm cảm thấy vị Đại vương này có chút quái lạ nhưng vì tình hữu nghị giữa hai nước nên chỉ âm thầm chịu đựng không phản kháng, chỉ đành tránh mặt Đại vương. Nhưng ai ngờ Đại vương không gặp được hoàng tử lại khống chế không nổi thú tính của mình, ban đêm ban hôm lại mò vào Thanh Tư điện, gây nên chuyện khiến người ta căm phẫn thế này.

Lan Giác nghe xong cũng không biết phải nên phản ứng thế nào.

Đại vương năm nay mười ba, Sát Bố Sát Lý Khắc hoàng tử năm nay ba mươi tuổi.

Bởi vì chuyện này mà trong cung đã hoá thành một nồi nước sôi ùng ục. Hoài vương cùng các vị vương khác bị triệu vào cung. Thái hậu trong lúc tức giận, khóc lóc nói: “Ai gia chẳng còn mặt mũi nào đi gặp Tiên đế nữa rồi! Là do ai gia không biết dạy dỗ, đã quá yêu thương chiều chuộng nó mà khiến nó nhỏ tuổi như vậy đã nhiễm bệnh của Hoài vương…”

Hoàng thượng và các vị khác sợ Hoài vương đang ngồi trên ghế không nhịn được nữa liền vội vàng khuyên can.

Hoài vương đáp: “Đúng, đều là lỗi của thần. Là do thần nuông chiều Đại vương, để nó học theo mình. Thần luôn nói, dạy dỗ trẻ nhỏ không nên quá nghiêm khắc. Tục ngữ nói, thiếu cái gì thì muốn cái đó. Cái tuổi này cũng chính là tuổi hiếu kỳ nhất. Cả ngày cứ sợ nó học cái xấu cái dở nên kè kè chăm sóc nó chỉ toàn một lũ đầu trâu mặt ngựa gần đất xa trời. Cái tên Sát cái gì đó Khắc cái gì đó có hơn gì cái bánh nướng rắc kiều mạch qua đêm đâu, nó đều nhìn thấy rồi, nếu nhìn quen thì tốt rồi, hà tất gì phải đến nông nỗi này?”

Lúc Lan Giác vội vã chạy vào cung kiến giá thì vừa hay Đại vương bị dẫn đến Ngự tiền. Sau khi Lan Giác hành lễ xong thì lui sang bên, Vĩnh Tuyên đế nhìn Đại vương nói: “Đàn đệ, nói trẫm nghe, Sát Bố Sát Lý Khắc rốt cuộc có chỗ nào khiến đệ mê mệt đến mức làm ra việc hạ lưu như vậy?”

Hoài vương mang vẻ mặt đau lòng nói: “Lần sau có muốn xem thì nói với thúc, thúc dẫn cháu đi xem cho đã.”

Sắc mặt các vị vương ngồi kế bên đột nhiên u ám hẳn đi, Gia vương khẽ ho nhẹ một tiếng.

Đại vương phồng má đáp: “Hoàng huynh, hiểu lầm rồi, thần đệ không có hạ lưu, thần đệ không có giống tiểu hoàng thúc! Chỉ là thần đệ muốn xem xem con sói trên người Sát Bố Sát Lý Khắc có đúng là sói thật hay không thôi.”

Người của nước Tháp Xích nói, hoàng tử Sát Bố Sát Lý Khắc là do sao Thiên Lang hạ phàm, khi sinh ra sau lưng có hình một con sói. Đầu tiên chỉ là một con sói con, sau đó theo đà phát triển của hoàng tử mà cũng dần to lên, đến nay đã trở nên oai hùng mạnh mẽ. Nhưng càng thần kỳ hơn là, khi hoàng tử tỉnh dậy thì mắt của con sói cũng mở ra, hoàng tử đi ngủ thì mắt sói cũng khép lại.

Hoài Vương nói: “Mấy chuyện truyền kỳ này nghe đã biết là xạo, cháu đúng là ngốc mới cho là thật mà đi kiểm chứng.”

Đại vương lầm bầm nói: “Biết rõ là xạo rồi, lần trước đi săn có liếc nhìn rồi, hoa văn thì giả, y như cái đầu chó, mắt sói còn nhuộm màu xanh lá nữa chứ.”

Vĩnh Tuyên đế hỏi: “Vậy mà tối qua đệ còn đi làm gì?”

Đại vương ấp úng một hồi, dưới sự chất vấn của Vĩnh Tuyên đế và các vị vương, cuối cùng cũng phải đầu hàng khai ra: “Thì là cái đồ chơi kia, bày đặt thần thần bí bí, làm như người ta muốn xem lắm không bằng. Chỉ cần dùng nước tẩy màu là có thể lột nó ra.”

Gương mặt của Vĩnh Tuyên đế và các vị vương càng thêm khó coi.

Đại vương khịt khịt mũi: “Đều là đàn ông, nhìn thì có sao đâu, có cần phải làm ầm ĩ khóc lóc như vậy không?”

Vĩnh Tuyên đế thở dài nói: “Đàn đệ, đệ có biết mình đã làm chuyện gì không? Đệ không những đã nhìn trộm Sát Bố Sát Lý Khắc tắm rửa mà còn bỏ thuốc vào bồn tắm của hắn.”

Lan Giác và Cung Thượng thư đang run rẩy đứng một bên không biết là nên cười hay nên khóc.

Nếu như y không liên quan gì đến chuyện này thì nhất định sẽ cảm thấy rất buồn cười. Nhưng chuyện ngỡ như trò đùa này lại ảnh hưởng đến quan hệ láng giềng giữa hai nước.

Nước Tháp Xích và bổn triều xưa nay có xung đột biên giới, Sát Bố Sát Lý Khắc tranh đoạt Hãn vị với người huynh Đô Nhĩ Cổ Đô, có phần lép vế nên mới bị sai đi sứ. Sát Bố Sát Lý Khắc đã thông qua thị thần mà gửi tín hiệu cho triều đình, nếu như triều đình trợ giúp hắn thành Khả Hãn, nguyện hữu hảo cùng thiên triều, triều cống mỗi năm.

Trong sứ đoàn cũng có tâm phúc của Đô Nhĩ Cổ Đô, cũng truyền đạt tín hiệu y như thế.

Sau khi triều đình cân nhắc, vốn quyết định trước sẽ không nghiêng về bên nào, để chúng tiêu diệt lẫn nhau, sau đó xem tình hình rồi mới quyết.

Việc Đại vương rình trộm bị phát giác ra, Sát Bố Sát Lý Khắc rõ ràng mượn việc này làm to lên, có ý muốn triều đình phải ủng hộ hắn.

Tình hình đã trở nên khó xử như vậy, trước phải trấn an bên Sát Bố Sát Lý Khắc, sau bắt đầu thương lượng. Để làm dịu tình hình, trong thời gian này có thể lại phải cách chức một hai quan viên chủ đàm.

Dựa theo tính cách trước nay của Hồng lư Tự khanh, nhất định sẽ đá bóng sang cho bên Lễ bộ, hơn nữa Hồng lư Tự khanh Tiết Mộc Lâm chỉ là quan tứ phẩm, xem như cũng giống bên Lễ bộ, không thể là chủ đàm.

Giây phút Lan Giác nghe tin bị triệu vào cung, trong lòng liền đã hiểu ra.

Làm quan trong triều, luôn luôn là vậy, không phải đi sai bước nhầm, cũng không phải bại dưới tay đối thủ, đơn giản chỉ là chết trong chữ “cấp bậc”.

Xui xẻo rồi.

Dạo gần đây lúc nào cũng nghĩ tới tháng ngày nghỉ ngơi thoải mái, lần này tốt rồi, có kẻ ôm thời gian chờ cất cao giọng hát ở nơi cô lĩnh hoang mạc rộng lớn.

Vĩnh Tuyên đế bắt đầu đi vào trọng tâm rồi: “….hiện giờ, chỉ có thể tạm thời xoa dịu bên Sát Bố Sát Lý Khắc hoàng tử và sứ đoàn Tháp Xích.”

Cung Thượng Thư run rẩy cúi người xuống, cho dù chuyện tồi tệ này không rành rành rơi xuống đầu y nhưng Lan Giác cũng không thể làm con rùa rụt cổ để một Cung Thượng thư già yếu như thế này đứng ra gánh chịu, bèn nhân lúc trước khi Cung Thượng thư hành động đã bước ra một bước, cúi người nói: “Chủ khách ti Thượng quan Lang trung và Hồng lư Tự trung thừa đã đến Bửu Hoa cung trấn an.”

Vĩnh Tuyên đế khẽ gật đầu: “Trẫm biết, nhưng hoàng tử Sát Bố Sát Lý Khắc đã quá sợ hãi, chỉ sợ hai người thượng quan khanh khó bề trấn an.”

Kỳ thực sứ đoàn Tháp Xích đã phản ánh lên, nói rằng phái hai vị quan đến thái độ quá miễn cưỡng rồi, sao có thể có tác dụng gì chứ.

Lúc này Lan Giác chỉ có thể đánh cược, cược rằng Vĩnh Tuyên đế tuổi hãy còn nhỏ, vẫn chưa mất đi tâm tính thuần hậu.

“Nếu như hoàng thượng tín nhiệm, thần nguyện đi trước. Chỉ là thần vụng về ngốc nghếch, chỉ có thể tạm ổn định, e khó lòng hoá giải. Nếu hoàng thượng ân chuẩn, thần liền tạm thời chịu tội.”

Vĩnh Tuyên đế đáp: “Lan ái khanh có thể đi trước, quả thật không còn gì tốt hơn. Đại vương làm bậy, rước lấy mầm hoạ này, phiền các vị ái khanh chu toàn, trẫm hỗ thẹn với chúng khanh. Lan ái khanh lại nói chịu tội gì đó, trẫm sao có thể. Lan ái khanh làm việc, xưa nay trẫm rất yên tâm. Sứ đoàn Tháp Xích nhất thời sẽ không chịu làm dịu xuống. Ngày mai ái khanh hãy qua đó cùng Tiết khanh, trước chỉ thăm dò ý muốn của bọn chúng thôi.”

Lan Giác tuân lệnh, khẽ thở ra một hơi nhẹ nhõm.

Vĩnh Tuyên đế lại nói: “Mặc dù người của sứ đoàn Tháp Xích có thể đọc được văn tự triều ta, đã đọc qua vài bộ sách nhưng tính cách thô bạo vẫn chưa mất hoàn toàn. Ngày mai Lan ái khanh phải cẩn thận một chút.”

Lan Giác lại tạ ân lần nữa.

Vĩnh Tuyên đế như thể đang cam đoan với y, tuyệt đối sẽ không lấy y ra để gánh trách nhiệm.

Thế nhưng, giờ phút này, giờ khắc khác, lời cam đoan này có thể thật bao nhiêu, lâu bao nhiêu, quả thật quá khó nói.

Chỉ có thể khép chặt hai mắt tiến về phía trước.

Vĩnh Tuyên đế liếc nhìn Đại vương, lại nói: “Cung ái khanh và Lan ái khanh nửa đêm đến thảo luận chuyện này đã cực khổ rồi. Cứ quay về phủ nghỉ ngơi trước đi.”

Lan Giác biết vị hoàng thượng này và các vị vương muốn đóng cửa dạy bảo Đại vương, nên bèn cùng Cung Thượng thư cáo lui.

Ra khỏi điện Cần Chính, Cung Thượng thư quay sang Lan Giác nói, đã vất vả rồi.

Lan Giác cười nói: “Đã là quan thần, theo lý phải nên làm. Đêm khuya lạnh lẽo, sau khi đại nhân về phủ nhớ phải uống trà ẩm nhiệt thang nhé.”

Trong lòng Cung Thượng thư tràn đầy hoài cảm. Mấy năm lại đây, cảm giác ông đối với Lan Giác không phải tốt cũng chẳng phải xấu. Trong đám quan trẻ tuổi Lan Giác leo lên rất nhanh, làm việc khôn khéo, mấy việc rối ren của Lễ bộ đa phần do y đảm trách. Mặc dù có vài việc Cung Thượng thư không đồng tình nhưng cũng nhắm mắt cho qua. Nhưng năng lực thế này, cách thức làm việc thế này, tất phải có chí hướng, chức Thị lang trong mắt y có lẽ chỉ là một bước đệm mà thôi. Cung Thượng thư trước kia không thể nói không đề phòng, thậm chí trước khi về hưu, khi tuyển chọn đề cử người kế tục, có tên Lan Giác trong danh sách ông cũng chỉ nói qua loa, thậm chí còn nhắc đến việc y thường bị buộc tội tố cáo.

Mãi cho đến những ngày tháng trước khi về hưu này, Cung Thượng thư mới cảm thấy Lan Giác thật sự làm việc rất chu toàn. Bất luận là có xuất phát từ chân tâm hay không, nhưng có thể làm đến mức này quả thật hiếm thấy vô cùng.

Trương Bình nhân những ngày rảnh rỗi giữa khoảng thời gian từ nhậm và nhậm chức nên đã đi Huyện Phong Lạc một chuyến.

Tri huyện là chủ của một huyện, so với chức Huyện thừa chức trách khác nhau vô cùng. Trương Bình học hỏi được một chút từ huyện nha Nghi Bình, nhưng những việc Tri huyện nên làm thì rất nhiều, hắn cảm thấy bản thân còn rất kém cỏi. Sắp phải phụ trách một huyện lị hàng trăm bá tánh, đi đến trước xem qua trong lòng cũng thấy vững dạ hơn một chút.

Gần đây nhân lúc rảnh rỗi Trương Bình cũng đã học cưỡi ngựa. Chuyến này liền cưỡi một con ngựa già lông vàng rất đáng tin cậy, không mang theo người hầu, một mình tiến vào Huyện Phong Lạc.

Cỏ mới phủ đầy đồng ruộng, hoa xuân sớm nở điểm xuyết trên những cành cây, gió nhẹ thổi qua thật khiến người ta vui vẻ. Dù sao cũng là địa giới của Kinh Triệu phủ, cảnh vật quả là khác hẳn. Giữa rừng núi đồng ruộng ẩn núp những trang viên thanh tịnh u nhã, người đi kẻ lại trên đường nhiều vô kể, xe ngựa của quan lại nhân gia du ngoạn đạp thanh uốn lượn ngoằn ngoèo, giữa cánh đồng bát ngát, thiếu niên vận khinh sam phóng ngựa thả ưng, những cánh diều hình dáng mới lạ chao liệng trên trời cao.

Trương Bình đi sát mép đường, thong thả mà đi. Đến chiều thì hắn vào huyện thành Phong Lạc. Từ cổng thành cho đến nhà cửa đường xá, thậm chí cả y phục của những người trên đường đều tốt hơn Huyện Nghi Bình rất nhiều.

Trương Bình ghé vào một sạp trà bên đường, bát trà ở đây mắc hơn ở Nghi Bình hai văn.

Trương Bình uống trà ngồi nghe bàn kế bên tám chuyện, rốt cuộc cũng có người nhắc đến chuyện thay Tri huyện, họ đều cảm thấy thương xót cho Tạ Tri huyện quá sức xui xẻo. Kỳ thực Tạ Tri huyện là một vị quan rất tốt, mỗi cuối năm vào Kinh báo cáo đều là thông lệ hàng năm. Tri huyện của vài huyện ở Kinh Triệu phủ đều không xử án trong huyện thành mà lại đặt nha môn ở trong kinh thành. Tạ Tri huyện cần mẫn nhiều năm, cố gắng có được thành tích nhưng không ngờ rằng lại trở thành vật hy sinh trong trận tranh giành vụ án giữa Kinh Triệu phủ và Hình bộ.

Trương Bình nghe họ bàn luận xong mới biết, càng cảm thương hơn nữa chính là Tạ Tri huyện không phải bị sa thải, cũng chẳng phải bị thuyên chuyển mà thẳng tay bị hạ xuống làm Huyện thừa, trở thành trợ thủ cho tân tri huyện là Trương Bình đây.

Có vẻ như dạo gần đây những người bên cạnh Tạ Tri huyện đều để mắt trông chừng ông, sợ ông ta nghĩ không thông lại làm quẫn.

Diêu viên ngoại hổ thẹn tự trách bản thân mình vô cùng, nhiều lần đến tạ lỗi với Tạ Tri huyện, càng cảm thấy bản thân chẳng còn mặt mũi nào ở lại Huyện Phong Lạc nên có ý dọn đi.

Trương Bình uống hớp trà mà cảm thấy đắng chát nguội ngắt.

Rời khỏi sạp trà, Trương Bình dắt con ngựa già tiếp tục đi trên đường, hắn nhìn thấy trên cửa trước của nhiều quán trọ đều treo những chữ “hai chín, ba mươi, mùng một, ba ngày này đều đã có khách đặt phòng”. Ngoài chợ, không ít sạp đều có bán giấy xếp hình búp bê, trước các cửa tiệm hương nến cũng có bán, bày ra thành từng cặp từng cặp một, nhưng chỉ có bé trai, không có bé gái.

Trương Bình dừng chân trước một sạp bán búp bê hỏi: “Cúng bái dùng cái này có linh không?”

Chủ sạp đáp: “Tất nhiên linh rồi, lúc thắp hương cho bà mụ nhất định phải mời một cặp kim đồng đốt, ước gì được nấy.”

Trương Bình hỏi: “Sao không có đồng nữ?”

Chủ sạp cười nói: “Lão nhân gia không phải thích cháu trai hơn sao?”

Trương Bình ngoảnh đầu nhìn các sạp búp bê kéo dài tít tắp hai bên: “Nhiều thế này, có thích nổi không?”

Sắc mặt chủ sạp liền thay đổi: “Khách quan à, nếu ngài không tin thì bỏ đi, sao lại đi nói mấy lời này.” Ông ta nói xong liền quay sang tiếp đón những người khác, không thèm đếm xỉa đến Trương Bình nữa.
 
Chương 74


Trương Bình liền động tâm, muốn đi đến miếu Mụ Mụ đó xem thử.

Hắn lại đi đến trước một tiệm bán hương nến, hỏi xem miếu Mụ Mụ nằm ở chỗ nào. Chủ tiệm cho biết, ngôi miếu đó nằm trên núi Thọ Niệm ở ngoại thành.

Trương Bình cảm ơn chủ tiệm, đương muốn đi tiếp thì đột nhiên nhớ đến Đào Châu Phong đã từng dặn dò qua với hắn rằng: “Quản lý một huyện không giống như việc xử một vụ án, đừng chỉ chú tâm một khía cạnh mà phải lấy đại cục làm trọng. Vừa phải chu toàn mọi mặt, lại phải luôn chú ý cẩn trọng.”

Trương Bình ngẩng đầu nhìn trời, quyết định hôm nay cứ đi lòng vòng quanh huyện đã.

Huyện Phong Lạc nằm ở phía Tây của kinh thành, con đường đông đúc phồn hoa nhất chính là đường Ân Long nối liền đến cổng thành Đông Tây. Quán trọ, quán ăn, tiền trang, mấy tiệm trang sức tơ lụa lớn… đều nằm trên con đường này cả. Cả quan dịch cũng nằm trên con đường Ân Long Tây, trung gian liên lạc với phía thuỷ vận cũng nằm ở đây. Đa phần cửa tiệm là về hàng da, gỗ, sơn, gốm sứ, các vật dụng cho ngựa như yên, dây thừng, sắt thép, giường phản,… còn có tiệm cơm khách điếm chuyên chiêu đãi các vị khách Hồ, Thương, Man. Trước cửa tiệm viết mấy hàng chữ Khải và chữ Hồ ngoằn ngoèo giới thiệu trong tiệm có suất ăn đặc biệt, chén dĩa sạch sẽ, còn cung cấp những món ăn chay thượng hạng, tuyệt đối không có mỡ lợn…

Đường Ân Long Đông ngược lại đa phần là tiền trang, hiệu tơ lụa, tiệm cầm cố, tiệm châu báu, tiệm trà… Chi nhánh Phong Lạc của tiền trang lớn nhất bản triều Đại Chính Thăng cũng nằm ở đường này. Biển hoành phi trước cửa, khẩu hiệu vẫn giống hệt như ở kinh thành, sách viết “hối thông vạn quốc”, trên tường có đóng một phê văn Hộ bộ đúc bằng đồng, cửa hông dưới hành lang có đặt một cột thông báo, trên đó dán tỉ giá tiền bạc ngày hôm nay, mức chênh lệch khi đổi ngân phiếu sang vàng bạc, phiên tệ của các nước lớn ở phiên bang như A Bạc Sĩ.

Khách điếm, quán rượu ở đường Ân Long Đông so với đường Ân Long Tây thì càng xa hoa hơn, tất nhiên giá cả cũng cao hơn chút rồi.

Trương Bình ở đường Đông Tây đều nhìn thấy một môn liễm có dấu hiệu quan phủ, bên trong có người mặc quan phục ngồi ngay ngắn hoặc đi qua đi lại.

Đường Ân Long người đi qua lại, xe ngựa tấp nập phồn hoa, nhưng phố xá lại sạch sẽ gọn gàng. Lúc Trương Bình vào thành, binh lính giữ thành có phát cho hắn một cái túi, bảo hắn trùm lên mông ngựa. Lúc Trương Bình đi trên đường Đông Tây, trước mặt có một con la không trùm cái túi ở mông lúc la lúc lắc, đột nhiên đuôi vung vung vài cái, xoẹt một tiếng rơi xuống đất một bãi phân trộn nước tiểu. Một ông lão từ bên đường lập tức đi đến, đổ một chút tro từ trong cái rương cầm trên tay xuống ngay đống phân. Rồi vớ tay lấy xẻng và chổi ở sau lưng, nhanh tay hốt đống phân đó vào trong một cái sọt.

Trương Bình chỉ đi qua lại trên con đường này. Khi trời sắp tối, hắn mới chuyển sang một con đường khác, tìm một quán trọ tá túc.

Sau khi vào trong tiệm thì hắn hỏi han giá cả, quán trọ này bày trí tương tự như mấy quán ở đường Ân Long nhưng giá cả cũng không chênh lệch lắm, mắc hơn chút đỉnh so với Nghi Bình nhưng ở một nơi như thế này mà nói, giá như thế là hợp lý rồi.

Chưởng quầy cười nói với Trương Bình: “Nếu như khách quan đi kinh thành thì đến trọ ở đường Ân Long sẽ tiện hơn. Ở đó tiểu tiệm cũng có chi nhánh, đều cùng một giá. Huyện chúng tôi không có chuyện vì vị trí đất mà nâng giá đâu.”

Tiểu nhị dẫn Trương Bình đi lên phòng ở lầu hai. Phòng không lớn lắm nhưng vô cùng sạch sẽ. Nếu không dùng rượu thịt, sáng tối khách ở phòng sẽ được tặng một bát cháo một cái bánh bao, hai dĩa dưa muối nhỏ.

Huyện Phong Lạc có không ít những sĩ tử trụ không nổi ở kinh thành. Tiểu nhị thấy Trương Bình còn trẻ, hơn nữa cũng giống người đọc sách nên đã hỏi hắn có phải tính ở tạm lại Phong Lạc hay không. Gã có thể giới thiệu chỗ nhà giá rẻ cho hắn.

“Không phải tiểu nhân khoác lác, nhưng mà ở các huyện của Kinh Triệu Phủ này, Phong Lạc chúng tôi có thể xem như đứng nhất nhì đấy. Quan lớn trong thành đều mua nhà sắm cửa ở chỗ Phong Lạc chúng tôi, không chỗ nào ở thoải mái hơn. Đồ đạc gì ở kinh thành cũng đều có thể mua được ở huyện chúng tôi, tất nhiên là không thể to hơn ở kinh thành rồi. Đường lớn Ân Long khách quan đi rồi chưa? So với đường kinh thành chả kém bao nhiêu đâu.”

Trương Bình đáp: “Phải, nhộn nhịp, sạch sẽ.”

Tiểu nhị cười nói: “Còn không phải sao, đường xá đều mới sửa mấy năm nay thôi, mấy huyện ở Kinh Triệu Phủ cũng chẳng có chỗ nào được như huyện chúng tôi đâu. Bố cục chỉnh tề thế này mà. Ban đầu cũng không được sạch sẽ nề nếp như bây giờ, đều là do quan đương…a, phải nói là tiền nhiệm rồi nhỉ, Tri huyện đại nhân chỉnh lý lại hết đấy.”

Trương Bình hỏi: “Tạ Tri huyện?”

Tiểu nhị đáp: “Xem ra khách quan cũng nghe rồi nhỉ. Ai da, người ta gặp xúi quẩy cũng hết cách. Tạ Tri huyện làm ở đây được mấy năm, làm việc rất chăm chỉ nghiêm túc. Lúc trước nội thành không lớn thế này đâu, đều nhờ sau khi Tạ đại nhân đến đã mở rộng ra thế này đấy. Bố cục các nơi trong huyện đều chỉnh sửa lại hết, hai đường lớn Nam Bắc cực kỳ ngăn nắp gọn gàng.”

Ngày xưa, đường Ân Long được gọi là đường Kinh Thông, người đến kẻ đi rất nhiều, cực kỳ rối loạn mất trật tự. Tiệm xá không theo quy tắc nào. Tạ Tri huyện đổi tên con đường, mở rộng gấp đôi, dựa vào mặt hàng bán mà phân ra hai đường.

Con đường nối liền với cổng thành Nam Bắc xưa tên là Đại Nhai Thị, sau Tạ Tri huyện đổi lại thành đường Chính Dương, cũng được tu sửa lại như đường Ân Long.

Vốn tiền trang Đại Chính Thăng không có đặt chi nhánh trong huyện thành, Tạ Tri huyện hứa hẹn với các họ tộc lớn trong huyện, đích thân đến kinh thành mời về, thậm chí còn xin Phùng phủ doãn ra mặt. Sau khi có chi nhánh của tiền trang Đại Chính Thăng, cứ như tài lộc ùa đến, các cửa hiệu lớn như Hằng Hợp cũng ùn ùn kéo đến lập chi nhánh ở bản huyện.

Hai con đường này chính là gương mặt của huyện ngày nay. Thương gia hay vãng lai bởi Phong Lạc giàu đẹp hơn huyện họ, đi lại khắp nơi, cũng có người khi đi qua đây ngủ lại qua đêm.

Trương Bình lại hỏi, thì ra môn liễm có ký hiệu huyện nha trên hai đoạn đường Đông Tây trên đường lớn Ân Long là do Tạ Tri huyện đặt. Trụ sở ở đường Tây quản lý việc tranh chấp đường ống, lừa gạt, lũng đoạn thị trường… Trụ sở bên đường Đông thì chủ yếu quản lý lừa gạt trong buôn bán, mất văn điệp, bị trộm tài sản… Không cần phải chạy đến huyện nha, gần bên là có ngay.

Phố phường trong huyện cũng được quy hoạch lại từ đầu, đường xá ngay ngắn thẳng tắp, những căn nhà cũ xập xệ đều được phá bỏ hoặc sửa sang lại, khắp nơi đều tươm tất gọn gàng.

Những người hành khất đều bị quan phủ bắt đi đăng ký, những người còn khả năng lao động thì được phân công làm những việc vặt như quét dọn trong thành, dọn dẹp rác rưới, trông nom cắt tỉa cây xanh…có thể kiếm được chút tiền sống qua ngày.

Nhờ có Tạ Tri huyện quản lý nhiều năm nay mà bách tính trong Huyện Phong Lạc mới có thể sống ở nơi đẹp đẽ lại trật tự thế này.

“Hiềm là, ở chỗ này sạch sẽ đẹp đẽ quen rồi, đến nơi khác lại ở không quen.”

Trương Bình nhìn bát cháo trắng đến chói mắt trước mặt, lòng thầm biết lời này không phải giả dối.

Sáng sớm ngày hôm sau, Trương Bình rời khỏi quán trọ, bộ lông của con ngựa vàng được chải chuốt sáng bóng, yên ngựa cũng được chà rửa bóng loáng. Tiểu nhị lại tặng cho Trương Bình một cái túi mới.

Đường lớn sạch sẽ vừa được vẩy nước, gió sớm tươi mát mang theo mùi hương dìu dịu.

Núi Thọ Niệm nằm ở phía Nam huyện thành, Trương Bình băng qua đường Chính Dương ra khỏi thành.

Đường Chính Dương cũng được phân thành hai đoạn, đường Bắc và Đường Nam. Đường Bắc gồm những tiệm gia vị như tiệm gạo, tiệm dầu, tiệm giấm tương, hồi hương vỏ quế… và cả những cửa tiệm bán dụng cụ làm bếp, chén bát đũa thìa. Đường Nam là khoảnh chợ bán thức ăn, được chia thành từng sạp bán rau, hành gừng, thịt tươi, gà vịt, hải sản, trứng… Mọi thứ đều được sắp xếp gọn ghẽ, có người đi tuần tới lui, dọn sạch mặt đất. Đường Bắc Nam cũng có môn liễm của huyện nha, có thể tính toán trọng lượng của đồ vật, còn có những tiền trang nhỏ, tiền lẻ tiền chẵn lúc nào cũng đi đổi được.

Ở đường Nam có một con ngõ nhỏ, trong ngõ chuyên bán đồ ăn. Mì xào, vằn thắn, cháo trắng, chè trà dầu, đậu hũ thối, bánh nướng, bánh bao, màn thầu, đủ các loại đồ nước chiên xào và đều được phân khu buôn bán thành hàng.

Trương Bình mua vài cái bánh bao, nheo mắt nhìn đám cờ hiệu dài trắng dày mảnh chỉnh tề phía bên đường, lại nhìn sang phía hàng cây thẳng tít tắp sát mép đường, rồi lại so sánh màu sắc kích cỡ của hai miếng gạch cuối cùng ở cuối lề đường. Hắn hỏi binh sai ở cửa thành: “Tạ Tri huyện khi nào sẽ từ nhiệm?”

Binh sai ngẩn ra, dò xét Trương Bình một lát rồi đáp: “Để xem khi nào Tân tri huyện đến nữa đã.”

Lan Giác cùng Hồng lư Tự khanh Tiết Mộc Lâm mang lễ trọng đến Bảo Hoa cung, tạ lỗi với sứ đoàn nước Tháp Xích. Chỉ có một tên tuỳ tùng thân phận thấp nhất trong sứ đoàn ra nghênh tiếp, sắc mặt âm trầm, thái độ cao ngạo, đối diện với đám vàng bạc bảo khí mà mí mắt cũng chẳng giật một cái.

Lan Giác ôn hoà nói, Đại vương địên hạ hãy còn trẻ tuổi, nhất thời lỗ mãng nên đã khiến vương tử hiểu lầm mà hoảng sợ. Hoàng thượng cũng vô cùng sửng sốt, đặc biệt lệnh cho Lễ bộ và Hồng lư tự cùng đến đây để chuyển lời tạ lỗi đến vương tử. Liệu có thể gặp vương tử, gửi đến người lời hỏi thăm của hoàng thượng hay không?

Tên sứ thần kia nói tiếng Hán ngắc ngứ: “Không được, không được, hiện giờ vương tử không gặp các ngươi, không thể gặp các ngươi!”

Tiết Mộc Lâm hỏi: “Dám hỏi, tại sao lại không thể gặp?”

Sứ thần lắc đầu hai cái, chòm râu run run: “Đi đi, đi đi, các ngươi, về đi. Không có ích gì đâu. Vương tử, không thể gặp các ngươi!”

Lan Giác nói: “Đại nhân Ôn Mộc Lý có ở đây không?”

Sứ thần xua tay: “Đi, đi, đại nhân Ôn Mộc Lý, đại nhân Sa Hốt Hán, bọn họ đều, không thể, gặp các ngươi! Đi, đi mau, các ngươi!”

Tiết Mộc Lâm có chút bực bội khó chịu, tên sứ thần này chẳng qua cũng chỉ là kẻ dắt ngựa cầm khiên trong sứ đoàn vậy mà lại xua đuổi Lễ bộ Thị lang và Hồng lư Tự khanh đại diện cho hoàng thượng đến như xua heo vậy, sứ đoàn nước Tháp Xích quả thật có chút vuốt mặt không nể mũi rồi.

Lan Giác cũng có chút không vui nhưng làm mấy việc này, khẳng định phải mặt dày rồi, y bèn nói đầy thắm thiết: “Bệ hạ lệnh cho đám bản bộ viện nhất định phải truyền đạt lời hỏi thăm của người đến vương tử, phiền ngươi thông báo giúp.”

“Cút đi, lũ này!” Tên sứ thần đó rống lên một tiếng, hai mắt đỏ ngầu chứa đầy nước mắt, “Vương tử, người sắp rời xa bọn ta rồi!  Người sắp trở về bên cạnh thần Thái Dương rồi!”

“Sứ thần Tháp Xích bảo…” Lan Giác đứng trong Cần Chính điện, truyền báo lại cho Vĩnh Tuyên đế, “Vương tử Sát Bố Sát Lý Khắc bản tính cương liệt, chuyện lần này đã khiến ngài ấy có ý định trở về bên cạnh thần Thái Dương. Đám người Ôn Mộc Lý đang khuyên can vương tử nên cũng không xuất hiện để gặp chúng thần.”

Các vị vương như Hoài vương với vai vế là thúc bá của Vĩnh Tuyên đế và Đại vương đều ở trong điện, thậm chí cả thái hậu cũng ngồi sau bình phong buông rèm chấp chính. Tôn vương, người lớn tuổi nhất hỏi: “Thần Thái Dương là chức quan gì ở nước Tháp Xích? Chẳng lẽ là chỉ quốc vương à?”

Lan Giác và Tiết Mộc Lâm nhanh chóng liếc nhìn nhau. Tiết Mộc Lâm không thể nói nổi lời nào nên đành để Lan Giác giải thích vậy.

Lan Giác liền khom người bẩm báo: “Thần Thái Dương là vị thần mà nước Tháp Xích thờ phụng. Ở nước Tháp Xích truyền nhau rằng, Sát Bố Sát Lý Khắc là chuyển thế của sao Thiên Lang, sao Thiên Lang chính là con trai của thần Thái Dương.”

Từ sau bức bình phong thái hậu vội vàng nói: “Vậy vị vương tử kia đã mất rồi? Không thì phải an táng trọng thể?”

Lan Giác chưa kịp trả lời thì Hoài vương đã cười bảo: “Hắn làm thế quái nào mà chịu đi chết cho. Một khóc lóc hai ầm ĩ ba đòi chết, vương tử phiên bang cũng biết mấy trò của đám đàn bà nhỉ.”

Tôn vương ho một tiếng, liếc nhìn Hoài vương.

Thái hậu hừ nói: “Ai gia cũng là đàn bà đây, vậy phải nói, mấy trò này thật quá bỉ ổi rồi.”

Hoài vương tủm tỉm cười đáp lại: “Thái hậu cốt phụng mình ngọc, há có thể so đo với đám đàn bà bình thường sao.”

Thái hậu dịu dàng nói: “Hoài vương đừng quá để tâm, ai gia biết người không có ý đó.”

Vĩnh Tuyên đế nhìn Lan Giác: “Lan ái khanh và Tiết ái khanh có thăm dò được mục đích của bọn người đó không?”

Lan Giác và Tiết Mộc Lâm xưng tội thưa không biết.

Hoài vương lên tiếng: “Hét toáng lên muốn chết nhưng lại không chết, là đợi bên chúng ta ra giá đây mà. Lòng tham cũng không nhỏ nhỉ.”

Vĩnh Tuyên đế nhíu mày: “Hoàng thúc và hai vị ái khanh xem nên phải giải quyết thế nào đây?”

Các vị vương và hai người Lan Giác đều trước thỉnh tội, sau thưa không có chủ ý tốt nào cả.

Lan Giác lại nói: “Thần ngu kiến, tạm thời giám sát cung Bửu Hoa thật kỹ, khiến cho Sát Bố Sát Lý Khắc vương tử không có cơ hội trở về bên thần Thái Dương. Rồi lại đến an ủi thăm hỏi nhiều hơn, khéo léo đàm phán, cẩn trọng từng bước.”

Làm ầm muốn chết, ngược lại cũng sẽ không chết, đơn giản chỉ là muốn kéo dài dây dưa, xem ai sẽ là kẻ xuống nước trước.

Suy cho cùng không chết, vậy sẽ không kêu gào lâu được.

Vĩnh Tuyên đế lộ vẻ đắn đo suy nghĩ, lát sau gật đầu, thở dài một hơi nói: “Trẫm cũng không có kế nào, chỉ còn cách làm theo lời khanh vậy.”

Các vị vương cũng thở dài gật đầu: “Trước mắt đành phải vậy thôi.”

Lan Giác và Tiết Mộc Lâm thở một hơi nhẹ nhõm, toan tính cáo lui thì sắc mặt Vĩnh Tuyên đế đã đanh lại: “Nhưng, trừng phạt Đại vương nhất định phải có, xem như là trao đổi.”

Y lập tức truyền Trung thư Thị lang, ra chỉ, đến Đại vương phế tước, thu hồi phủ đệ phong ấp, phế làm thứ dân, trục xuất khỏi kinh thành, lưu đày tứ xứ.

Thái hậu nghẹn ngào, các vị vương biến sắc, Lan Giác, Tiết Mộc Lâm và Trung thư Thị lang nằm phục dưới đất, luôn miệng nói Đại vương tuổi còn nhỏ, xử phạt như thế quá nặng, mong Vĩnh Tuyên đế khai ân.

Vĩnh Tuyên đế nhắm mắt nói: “Trẫm là huynh trưởng của Khải Đàn, lỗi của Khải Đàn cũng là lỗi của trẫm. Bình thường mọi người đã quá nuông chiều nó, gây ra tội lớn nhưng xử phạt không nghiêm, khiến nó không biết tự xét lại mình.”

Chỉ ý đã hạ. Ngày hôm sau Lan Giác và Tiết Mộc Lâm lại đến cung Bửu Ngọc thăm hỏi. Lần này bước ra tiếp đón là một kẻ trông giống sứ thần hơn của sứ đoàn nước Tháp Xích, nhưng vẫn cứ là bộ mặt nặng nề đau khổ kia: “Vương tử vẫn khăng khăng muốn trở về bên cạnh thần Thái Dương. Đã bị tổn thương rồi, không cách nào quay lại được như ban đầu.”

Lan Giác và Tiết Mộc Lâm dịu dàng an ủi hồi lâu rồi cáo lui rời đi.

Ra khỏi cung Bửu Ngọc, Tiết Mộc Lâm thở dài nói: “Hy vọng sớm có kết quả.”

Lan Giác không trả lời, cũng chỉ âm thầm thở dài trong lòng. Đột nhiên mí mắt phải giựt giựt hai cái.

Sau khi về cung phục lệnh, đương muốn cùng Tiết Mộc Lâm xin cáo lui thì Vĩnh Tuyên đế bất thình lình lên tiếng: “Lan ái khanh, lưu lại thêm lát nữa đã.”

Trong lòng Lan Giác bất giác trỗi dậy dự cảm không lành.

Sau khi Tiết Mộc Lâm rời đi, Vĩnh Tuyên đế cười bảo: “Vốn Lan ái khanh đã xin nghỉ phép nhưng vì việc này mà cứ trì hoãn mãi. Trẫm thật sự rất áy náy.”

Lan Giác lập tức nói mấy lời như đây là việc thần phải làm.

Vĩnh Tuyên đế lại nói: “Trẫm nhớ quê nhà của Lan ái khanh là huyện nào đó của Kinh Triệu phủ thì phải?”

Lan Giác đáp: “Quê của thần là Huyện Cửu Hoà, Kinh Triệu phủ.”

Hai con ngươi của Vĩnh Tuyên đế lóe sáng: “Ô? Thật trùng hợp. Trẫm đã lệnh cho Phùng Thai chọn một chỗ để lưu đày thứ dân Cảnh Khải Đàn đến làm gia nhân, làm nông cảnh tỉnh lỗi lầm. Phùng Thai có giới thiệu một chỗ tên là xã Niệm Cần, thuộc huyện giới của Phong Lạc, cách quê nhà của Lan ái khanh có xa không?”

Lan Giác khẽ ngẩng cái đầu hơi choáng váng của mình lên: “Nằm… liền với  tiểu huyện của thần.”

Vĩnh Tuyên đế cười toe: “Quá tốt rồi, Lan ái khanh. Thứ dân Khải Đàn trước sau như một vẫn cứng đầu ương bướng. Ái khanh có thể thay trẫm quản thúc kèm cặp nó hay không?”
 
Chương 75


Bụng Lan Giác thót lại, lập tức cúi đầu nói: “Cảm tạ đức ân hoàng thượng gửi gắm, thần tài sơ lại thấp hèn, chỉ sợ…”

Vĩnh Tuyên đế chặn câu nói của y lại: “Tài học lẫn cách hành sự của Lan ái khanh trẫm trước giờ rất tin tưởng. Thứ nhân Khải Đàn lưu vong tứ xứ, trẫm chỉ sợ nó vẫn không biết hối cải, ngày càng sa đoạ. Tuyển chọn hiền sư dạy dỗ, có lẽ chỉ có thể chấn chỉnh được một hai phần. Trẫm vốn cảm thấy Lan ái khanh là lựa chọn thích hợp nhất, nhưng ái khanh làm việc ở Lễ bộ, chức trách quan trọng, trẫm không thể vì một Khải Đàn mà bỏ mặc việc triều chính không lo. Vừa hay ái khanh xin nghỉ phép, trẫm mới hỏi ý ái khanh. Chỉ là trong kỳ nghỉ mà ái khanh vẫn phải cực khổ, thứ dân Khải Đàn lại làm người ta chán ghét như vậy, trẫm phải mở lời với ái khanh quả thực xấu hổ vô cùng.”

Lan Giác vội cúi đầu đáp: “Thần tư chất tầm thường thế này nhưng có thể được hoàng thượng phó thác, đó là phúc phần của thần, cũng là ân điển của hoàng thượng đối với thần. Thần nhất định phải cố gắng hết sức mình. Chỉ sợ hầu hạ Đại vương không chu đáo lại phụ lời dặn của vua.”

Chuyện này…quả thực khó giải quyết, mà quả thực cũng là một cơ duyên.

Chắc chắn chẳng qua bao lâu Đại vương sẽ được khôi phục vương hàm, có được kinh nghiệm phụng chỉ vua dạy bảo Đại vương thế này, lý lịch bản thân tất nhiên sẽ thay đổi rất lớn. Đợi đến sau này khi có hoàng tử, lúc tuyển chọn thầy giáo thì sẽ càng có nhiều khả năng được chọn.

Việc này cho thấy điều gì tất không cần phải nói nhiều.

Từ góc độ này mà nói, đích thực Vĩnh Tuyên đế đã trọng thưởng cho y.

Chỉ là phần thưởng này thật không dễ lấy.

Đại vương vốn tính kiêu căng, đi tiểu tiện vô pháp vô thiên, ruồi nhặng trong ngự xí nhìn thấy nó còn phải đi đường vòng. Đối với Hoài vương người mà hoàng thượng và thái hậu phải kính nể ba phần mà cũng dám hô to gọi là hoàng thúc què quặt, gào xong thì nhào đến ôm chân đòi thứ này thứ nọ. Hoài vương cũng chẳng để bụng, muốn cái gì thì cho cái đó. Trong đám hoàng tử yêu thương nó nhất, đồ trong phủ mặc nó tuỳ ý lấy đi.

Một Đại vương như thế này, lại đương tuổi trẻ trâu. Nếu như những đứa trẻ khác là khoai lang mới ra lò thì nó chính là củ khoai lang được vớt lên từ chảo dầu.

Thế này thì làm sao mà dạy bảo với quản giáo?

Nếu quản nghiêm quá thì lại đắc tội với Đại vương, những ngày sau này nhất định không ổn.

Nếu cứ bỏ mặc, cỏ dài chim bay, ruộng đồng thẳng cánh, được dịp tung cánh, Đại vương chắc chắn sẽ gây chuyện.

Xảy ra chuyện thì phải bị liên luỵ rồi gánh tội.

Mà được Đại vương yêu thích quá cũng chẳng phải chuyện hay ho gì.

Phải thật đúng mực, quản chắc mọi sự, chỉ một sai lệch nhỏ như mấy chấm sao trên trời thôi cũng sẽ gặp hiểm nguy trùng trùng.

Huyệt thái dương của Lan Giác đập loạn xạ, chẳng biết nên đốt hương hay đốt giấy cho bản thân mình đây.

Hơn nữa, còn có…Lan Huy.

Lan Giác không thể không nói: “Chỉ là…chuyến này thần cúng mộ gia đình, nên có mang theo liệt tử…”

Y vốn muốn nhân kỳ nghỉ này làm tròn trách nhiệm của một người cha, dẫn Lan Huy đi chơi, đi chèo thuyền, câu cá này, cưỡi ngựa này, còn cả thả diều nữa.

Lan Huy đã vô cùng mong đợi chuyến đi này, mấy ngày nay đều quên béng làm ra vẻ người lớn, thường hay leo lên đùi Lan Giác hỏi cách câu cá thế nào, rồi lên núi có khi nào gặp cọp hay không. Ngô Sĩ Hân nói với Lan Giác rằng, Lan Huy dạo này hay len lén luyện quăng đầu đạn ném phi tiêu, còn lấy quyển “Sơn hà dị thú chí” trong thư phòng của Lan Giác ra nghiên cứu nữa.

Đùng một cái lại bị chuyện này phá hỏng, biết phải ăn nói thế nào với Lan Huy đây?

Vĩnh Tuyên đế hỏi: “Con trai của Lan ái khanh có phải sàng tuổi với Khải Đàn không?”

Lan Giác đáp: “Liệt tử của thần năm nay mới chín tuổi.”

Vĩnh Tuyên đế cười nói: “Kém bốn tuổi nhỉ, không nhiều lắm, có thể chơi cùng được. Chỉ cần Lan ái khanh đừng lo việc con mình bị Khải Đàn làm hư là được.”

Lan Giác thật sự rất muốn nói, hoàng thượng người quá anh minh.

Học hành cùng với hoàng tử không phải là chuyện dễ dàng gì. Lan Huy chỉ là con của một tiểu quan tam phẩm mà thôi.

Lỡ như nó học được trò gì đó từ Khải Đàn, rồi sinh ra sự hiếu kỳ quái dị với thế giới này, tỉ dụ như lén chui ra hoa viên nhìn lão Tống rửa mặt chẳng hạn…

“Liệt tử ngu dốt, chỉ sợ không thể cùng với Đại vương…”

“Đại vương gì chứ, chỉ là thứ dân Cảnh Khải Đàn thôi.” Vĩnh Tuyên đế nghiêm nghị nói, “Trẫm muốn nói với Lan ái khanh rằng, đành phải uỷ khuất ái khanh tạm thời làm thầy của nó rồi. Trẫm ban cho khanh một cây thước, có chỗ nào không đúng, đáng phạt thì phạt, đáng đánh thì đánh.”

Lan Giác ôm cây thước được ban tặng lui ra khỏi ngự thư phòng. Trước lúc sắp rời đi, Vĩnh Tuyên đế lại nói: “Lan ái khanh bắt đầu nghỉ phép là đầu tháng ba nhỉ?”

Lan Giác đáp: “Dạ vâng.”

Lời này đã biến thành mệnh lệnh, trước tháng ba phải giải quyết triệt để vấn đề Sát Bố Sát Lý Khắc…

Lan Giác thầm thở dài một cái, ngẩng đầu nhìn bầu trời xanh trải dài phía trên tầng tầng lớp lớp cung điện nguy nga.

Trương Bình ra khỏi thành Nam, men theo con đường đi thẳng lên núi Thọ Niệm.

Đường lên núi Thọ Niệm được sửa sang lại rộng không kém gì đường cái quan. Cây cối hai bên đường được cắt tỉa ngay ngắn thẳng hàng. Đi không bao xa đã thấy một tấm bảng gỗ chỉ hướng đi, trên bảng còn khắc hình vẽ một đồng tử đang chắp hai tay cười hi hi, điệu bộ vô cùng vui vẻ.

Dưới chân núi có một miếu thờ, trên viết bốn chữ “Linh Từ Phúc Địa”, hai bên miếu thờ cũng có hình đồng tử được tạc đá, tượng bên trái ôm cá chép, tượng bên phải bưng như ý, tóc chẻ ngôi giữa, cổ đeo vòng, yếm đỏ quần xanh lá, cổ tay cổ chân đều có một bộ vòng vàng, chân trần đạp trên hai đám mây.

Nhìn độ mới cũ của miếu thờ và hai bức tượng đồng tử thì thấy có lẽ đã được xây khoảng bốn, năm năm rồi.

Màu sắc trên người đồng tử, phấn vàng phủ lên vòng đeo cổ và ở chân tay đều mới được sơn phết lại, khi đến gần có thể ngửi thấy mùi.

Đi qua miếu thờ sẽ thấy một đỉnh hương lớn bằng đồng, ở phần bụng có khắc tám chữ “Ân cảm hiếu niệm, Thiện tâm giáng phúc”. Những chữ này bị khách hành hương sờ đến sáng bóng lên. Ngoài ra còn khắc đầy các con chữ nhỏ, trên bia đá ở hương đỉnh của miếu quan thường hay khắc tên những người quyên tặng, nhưng cái được khắc trên bia đá ở nơi này dường như lại là tên của các hiệu buôn: Đại Phúc Duyên, Thiên Hương Đường, Công Đức Cư,…

Trương Bình nhìn hai bên trái phải, quả nhiên, ở hai bên chỗ trống dưới bậc thềm đá đều là các phòng xá được dựng thành dãy, xây những mặt tiền be bé để ngăn cách nhau, treo đầy các cờ xí môn biển to nhỏ khác nhau: Công Đức Cư, Thiên Hương Đừơng, Đại Phúc Duyên,…

Phía bên trong là đủ các bó nhang, đấu hương, đèn dầu, búp bê bằng giấy.

Trên góc trái có cờ xí và môn biển, còn có chữ Lễ to màu đỏ thắm.

Mé trái cạnh bên dãy hàng quán đó còn có một gian phòng nhỏ, không có môn biển, chỉ đóng độc nhất một cái bảng, trên đó viết chữ Lễ. Trương Bình đi đến đó, chỉ thấy bên trong có hai người đàn ông mặc áo bào xanh đang ngồi, y phục giống như của quan Lại, trước bàn có đặt vài cái khay sơn, trong đó đựng những bảng chữ Lễ đỏ thắm to nhỏ khác nhau.

Trương Bình hành lễ hỏi thăm, một người đàn ông nói, mua bài phù ở đây thì có thể đi đến bất cứ tiệm nào có ký hiệu chữ Lễ để đổi lấy nhang. Một bài nhỏ đổi một bó nhang hoặc một xâu pháo, một bài vừa đổi một búp bê giấy hoặc chén đèn hương, còn bài to thì đổi đấu hương.

Mua bài phù rồi đến trước miếu ở trên núi đổi lấy nhang, tiết kiệm được đoạn đường lên núi, đỡ phải phí sức.

Ở miếu Mụ Mụ có thể quyên góp bài phù để đổi lấy bữa cơm chay. Quyên hai bài nhỏ thì được một bữa cơm, bốn món một canh, ngồi tuỳ ý trong đại đình, một bàn mười người. Quyên bài cỡ trung thì được bữa cơm sáu món một canh, tám người một bàn. Quyên bài cỡ lớn thì được ngồi trong nhà trong dùng bữa, sáu người một cỗ, mười hai món hai canh, trước bữa cỗ còn có bánh kẹo đã dâng qua cho Mụ Mụ.

“Đây là bài phù đặc chế của Lễ phòng Huyện nha, dùng khuôn đúc của quan, không thể làm giả được. Hai người chúng tôi là người của Lễ phòng, túc hạ có thể yên tâm đi đổi, không cần phải lo lắng. Bài phù chưa dùng hết có thể đem đi đổi thành tiền, cũng có thể để dành lần sau dùng. Trên núi cũng có đồng liêu của tôi, nếu hương được đổi có đốm hay gì, hoặc chủ quán không chịu đổi cho, có thể đến nói với chúng tôi. Vì mấy ngày nữa là ngày một tháng Ba, nên người đổi sáu miếng bài nhỏ trở lên, hoặc một cặp bài cỡ trung hoặc một bài cỡ lớn sẽ được tặng một cái túi hương hoặc túi gút đầu để đeo khi hành hương lên núi.”

Nói xong người đàn ông đem túi hương ra cho Trương Bình xem, trên túi vải có hoa văn chữ Phúc màu nâu bạc viết hai hàng chữ lớn:

“Bái lạy Mụ Mụ trên núi, càng thêm tôn kính chư lão trong nhà – Lễ phòng Huyện nha Phong Lạc.”

Góc phải sau lưng còn có một hàng chữ nhỏ: “Cẩm Xương Bố trang quyên chế.”

Trương Bình cẩn thận suy xét một lúc, có nên lên núi hay không đây.

Dù sao đến thì cũng đã đến rồi.

Trương Bình liền lấy tiền ra đổi lấy hai tiểu bài rồi cưỡi ngựa đi lên núi.

Bậc thang dẫn lên núi cũng được tu sửa lại vô cùng chỉnh tề, mỗi bậc đều không quá cao. Đi hết sáu bậc thì có một chiếu nghỉ, sau đó lại lên sáu bậc nữa, chiếu nghỉ không một bóng rêu xanh, có thể nhìn thấy những chỗ bằng phẳng để bước lên đều có dấu vết được mài giũa qua. Dọc theo con đường có vài sạp trà, vô cùng gọn gàng sạch sẽ. Chỗ lưng chừng núi còn có một dòng suối động, nước trong veo chảy cuồn cuộn, trên vách núi khắc ba chữ lớn “Phúc Thọ Tuyền”. Người lên núi tranh nhau đến dòng suối vốc nước lên mà uống.

Cạnh bên dòng suối là con cóc bằng đá đang há to miệng. Mọi người đều chen nhau đến ném tiền xu vào miệng con cóc. Ngay cạnh suối còn có một cái lều nhỏ, ông lão trong lều bày bán ống trúc và những quả hồ lô to lớn có khắc chữ Phúc chữ Thọ, còn có tiền Như Ý đã được làm phép trong miếu Mụ Mụ dùng để ném vào miệng con cóc. Một tấm bài chữ Lễ có thể đổi lấy hai đồng tiền Như Ý hoặc một ống trúc. Hai tấm bài chữ Lễ đổi lấy hồ lô Phúc Thọ.

Ông lão nói với Trương Bình, trước miếu Mụ Mụ có cầu Phúc Lai, tiền Như Ý đổi ở đây cũng có thể ném vào bức tượng dơi vàng ở trên cầu và tượng cóc bằng ngọc dưới chân cầu.

Trương Bình lặng lẽ quay người, tiếp tục cưỡi ngựa về trước.

Ở nơi này đã có thể ngửi thấy mùi nhang khói trên núi và tiếng chuông mơ hồ vọng lại từ xa. Trước mặt Trương Bình có một cặp già trẻ dường như là mẹ chồng nàng dâu, người nữ dậm chân: “Muộn rồi, muộn rồi, chắc chắn không giành được linh lộ rồi!”

“Mới có một hồi chuông, nhanh chút nữa chắc kịp mà.”

Hai người họ cố sức tiến về trước.

Lại có một nhóm phụ nữ trẻ con vượt qua Trương Bình, ào lên đỉnh núi.

Trương Bình cũng theo họ vội bước nhanh hơn.

Lúc lên tới đỉnh núi liền nghe thấy chín tiếng chuông vang lên. Trương Bình lập tức nhìn thấy một bầy ong đông nghìn nghịt lao vào một thạch đài, trên thạch đài có một bức tượng đồng tử được đúc bằng đồng trên đầu có một cái chén lớn, vài nha dịch và đạo nhân cao giọng bảo mọi người xếp thành hai hàng ngay ngắn. Một vị Tiểu lại người mặc bào xanh đội mũ ô sa và một đạo nhân tay cầm phất trần, mỗi người đứng một bên bức tượng đồng tử.

Tiểu lại cất cao giọng nói: “Chư vị đừng chen lấn, cái gọi là linh lộ chẳng qua chỉ là thiên cảm giáng hoá thành, gọi là sương sớm, tin ắt có, không tin ắt không có, không cần phải điên cuồng như vậy.”

Đạo nhân cũng nói: “Thành tâm tự khắc có thần tiên bảo hộ, thành tâm ắt linh nghiệm.”

Đám người bên dưới lại gào khóc thúc giục. Vài nha dịch bắt thang lên bức tượng đồng tử rồi đỡ thang cho một đạo nhân leo lên, người này múc nước từ trong cái chén trên đầu bức tượng đồng tử rồi chia ra cho vài đạo nhân khác phân phát cho mọi người.

Trương Bình nhìn thấy, cách tượng đồng tử không xa có một gian phòng nhỏ cũng treo bán mấy ống trúc hồ lô y hệt như sạp bên cạnh dòng suối.

Hắn đi lòng vòng bên ngoài miếu trước, tìm vài người hỏi thăm. Quả nhiên ánh mắt mấy kẻ đó đều sáng quắc, mặt mũi hồng hào nói, miếu Mụ Mụ thật sự rất linh đấy! Cầu phúc thêm phúc, cầu thọ thêm thọ, cầu nam được nam, cầu nữ được nữ!

Trương Bình lại hỏi: “Tại hạ lần đầu tiên đến quý huyện, không biết sự tình, dám hỏi Mụ Mụ rốt cuộc là thượng tiên phương nào?”

Những người được hỏi đều đồng loạt chỉ một tấm thạch bích: “Này, ở đó có ghi hết đấy.”

Trương Bình thong thả đến chỗ thạch bích, trên đó khắc một bài văn:

“Từ Thọ Mụ Mụ, thần tích lần đầu xuất hiện ở ngoại ô huyện Phong Lạc. Gửi thân nơi thạch cữu, ẩn hiện trong lòng giếng, nông phu lo lắng u sầu, dời nơi mai táng, phụng dưỡng lập miếu, người cầu xin đều cảm thấy vô cùng linh nghịêm, hương khói ngày càng dày…”

Trăm con chữ phong phú đa dạng. Người viết hoá ra lại chính là danh sĩ kinh thành Mộ Diệp Sinh.

Xem niên đại thành văn, là của bốn năm trước.
 
Chương 76


Khi nước trong chén của tượng đồng tử đã phân phát xong hết thì tiếng chuông lại vang lên. Tất cả mọi người đều đổ xô vào trong miếu. Trương Bình đợi mấy nha dịch và đạo sĩ đi rồi mới tiến tới chỗ tượng đồng tử nhìn ngó. Bức tượng này giống hệt như bức tượng ở dưới chân núi, cũng đã được đúc khoảng bốn, năm năm, hai chân, bụng và vành tai của đồng tử đều bị người ta rờ đến nhẵn bóng cả lên.

Tên chính xác của miếu Mụ Mụ là Từ Thọ quan, điện các tuy tráng lệ lộng lẫy nhưng cũng giống như bức tượng đồng tử, hoàn thành chưa đến mấy năm.

Trương Bình thả bước vào trong miếu, ở chính tiền viện lại có một hương đỉnh lớn bằng đồng, một đám người đang chen chúc đốt hương cúng bái. Chính điện tên gọi Phúc Thọ điện, một pho tượng lão bà với nụ cười hiền hoà, mày mỏng mắt thiện ngồi ngay ngắn trên điện, đầu đội thái chân bảo quan, chân mang giày như ý, váy nâu áo tím, người quấn áo tơi có hoa văn kiểu chữ Phúc làm từ gấm đỏ do khách hành hương dâng cúng, trái phải mỗi bên một đồng tử đứng hầu, trái ôm cá chép, phải ôm như ý.

Trên cờ gấm rủ ở hai bên thần đài thêu hình hạt sen táo đỏ.

Chái nhà ngoài điện có bán chuỗi hạt đeo tay làm từ hạt táo đã được làm phép, hai miếng bài chữ Lễ đổi được một vòng tay.

Trương Bình dạo một vòng trong miếu rồi lại ra ngoài miếu, nhìn thấy bên trong tiểu phòng bán hương cúng có một biển hiệu vẫn chưa có hoa văn chữ Lễ, đồ đạc so với các tiệm xung quanh cũng ít hơn rất nhiều. Ông chủ ngồi trong tiệm ngủ gà gật.

Trương Bình bèn đi đến trước tiệm đó, móc ra một miếng bài chữ Lễ nói: “Ông lão, đổi một bó nhang.”

Ông lão mở to mắt, cười bảo: “Khách quan, chỗ này vẫn chưa thông qua với nha môn, không thể lấy bài đổi đồ được, mời đi sang bên cạnh.”

Trương Bình nhìn thấy trên quầy có vài cái hồ lô hoa văn sặc sỡ mà những chỗ khác không có, bèn lấy xem: “Cái này giá bao nhiêu?”

Ông lão nói: “Sáng sớm vẫn chưa mở hàng, thôi thì tính cho cậu mười văn vậy.” Trương Bình lấy ra mười văn tiền, lại lựa qua một lượt khắp đống hồ lô, lấy cái viết chữ Thuận, ông lão cười bảo: “Khách quan hình như là trên đường đi qua đất này, những người đi đường rất thích điềm tốt thế này.”

Trương Bình gật đầu, lại nói: “Nghe nói chỗ này linh nghiệm nên mới đến cúng hương. Có vinh dự được đọc qua thạch bích đó, vô cùng cảm động. Thạch cữu của Mụ Mụ hoá ra lại hiện hữu trên mặt nước. Đá lại lướt trên nước, quả nhiên là thần tích!”

Ông lão cười bảo: “Những điều được viết trên thạch bích là do Tri huyện đại nhân mời người đến viết đấy, thiên chân vạn xác, là từ trong giếng mà ra. Trước thần miếu lão già ta không dám nói láo đâu.”

Trương Bình vái chào: “Mong được ông chỉ giáo thêm.”

Ông lão nhìn Trương Bình vẻ đánh giá, cười khà khà nói: “Khách quan hẳn là văn sĩ đến từ kinh thành, muốn đem chuyện này viết thành kịch? Nếu thật sự có ý này thì có thể đi đến chỗ Lễ phòng huyện nha hỏi quan gia, văn chương thơ ca viết về phong tục của bản huyện đều viết rất hay, đặc biệt là những người từ kinh thành đến, từ trước đến nay trong huyện đều có trả tiền nhuận bút cả, nhưng Tri huyện đại nhân xui xẻo bị giáng cấp, không biết chuyện này có còn được áp dụng nữa hay không.”

Trương Bình nói: “Vãn bối không viết văn gì cả, chỉ là hiếu kỳ.”

Ông lão đáp: “Vậy khách quan có thể đi nghe ngóng thêm, về chuyện miếu này linh nghiệm thì có rất nhiều, nếu không có thì hương khói cũng chẳng nhiều thế này đâu. Đến mấy người đi kinh thành làm ăn, ngang qua nơi này cũng đến thắp nén hương đấy.”

Trương Bình cầm hồ lô, lại lên núi đi một vòng, sáp lại gần đám khách hành hương thì liền có thể nghe thấy mấy sự tích linh nghiệm nọ.

Một người sinh liền một mạch sáu cô khuê nữ, sau khi uống xong bát linh lộ, chưa đầy hai tháng đã có thai rồi sinh ra một đứa con trai.

Người nọ thì toàn sinh con trai, muốn có một đứa con gái, ngày mười lăm đốt một đấu hương, tối về liền thấy mộng, trong mơ nhìn thấy mặt trăng trên trời, vừa to lại vừa tròn. Không bao lâu sau thì biết chắc đã có thai, bé gái lên hai ba tuổi đã biết giúp mẹ thêu thùa may vá, vừa giỏi giang lại vừa thông minh lanh lợi.

Con gái nhà kia đã mười chín tuổi nhưng vẫn chưa gả đi được, đã lên tới kinh thành cầu từ đường Nguyệt Lão nhưng cũng không có tác dụng gì, thế là thân mẫu bèn đến dâng hương cho Mụ Mụ. Dập đầu xong, ra khỏi đại điện thì liền gặp một phu nhân tướng tá phúc hậu tuổi lại sàng nhau, vừa nhìn đã thấy thân thiết vô cùng, giống như đã quen nhau ở kiếp trước rồi vậy. Thế là liền đến hỏi han nhau, phu nhân từ đâu lại, đến đây làm gì. Người nữ kia nói, là đến cầu nhân duyên cho con trai, không biết tại làm sao mà bên nhà gái đều không chịu. Thế phu nhân đến đây làm chi? Đáp, tôi đến cầu duyên cho con gái mình. Rồi coi ngày sinh tháng đẻ, vừa hay lại hợp nhau! Lập tức quyết định, hành lễ lựa ngày thành hôn. Hai bên nhà đều có cửa tiệm ở kinh thành, cô gia trung thực, cô nương điềm đạm nho nhã, quả đúng là ông trời tác hợp cho.

Làm ăn mà cứ thua lỗ suốt, đến kinh thành nhờ thầy xem giúp cho, thầy bảo trúng phải năm hạn. Ngày một tháng ba năm trước đến thắp hương cho Mụ Mụ, sáu ngày tế rượu, đốt ba mươi ba cặp đồng tử đã làm được làm phép. Đêm đó nằm mộng thấy một nhóm đồng tử béo tốt tay cầm nguyên bảo chạy nhảy vui vẻ ở khoảnh đất trống. Chưa đến hai hôm đã nhận làm công cho quan nha, vừa lúc Thượng thư đại nhân bên hành dinh của công bộ tuần tra bờ sông yêu cầu số lượng lớn bình phong, lượng vải bố tích trữ trong kho lại đột nhiên tăng lên, từ đó thường hay cung cấp hàng hoá cho quan phủ.

….

Trương Bình cưỡi ngựa lặng lẽ trở xuống núi.

Lan Giác và Tiết Mộc Lâm lại đi đến cung Bửu Hoa, vẫn chưa gặp được vương tử Sát Bố Sát Lý Khắc, tuỳ tùng sứ thần cũng cà kê dê ngỗng nửa ngày mới thong dong xuất hiện.

Tiết Mộc Lâm thấp giọng nói bên tai Lan Giác: “Đám phiên tử này, nhường chúng ba phần thì thực sự cho rằng thiên triều ta xem trọng bọn chúng rồi.”

Lan Giác ngậm cười đứng thẳng dậy, khẽ nói qua kẽ răng: “Đám man di vẫn chưa được giáo hoá, làm sao hiểu được chữ lễ.”

Vĩnh Tuyên đế trách phạt Đại vương nặng nề, cũng đồng nghĩa rằng, không chỉ vì chuyện này, mà ở những phương diện khác đều nhượng bộ rất nhiều. Nhưng đám phiên tử này lại không biết điều, còn cho rằng bản thân đã chiếm thế thượng phong, cứ một mực vênh vênh váo váo.

Đợi mấy sứ thần ngồi yên ổn rồi, Lan Giác và Tiết Mộc Lâm đều hoà nhã nói vài câu an ủi.

Cuối cùng Lan Giác nói: “Lễ bộ cũng sẽ biên sách tạ lỗi với Khả Hãn. Xin vương tử cứ an tâm tĩnh dưỡng. Tâm trạng cần phải hồi phục từ từ.”

Người đứng đầu sứ thần là Ôn Mộc Lý được xem là người am hiểu khôn khéo về cách hành xử của thiên triều trong sứ đoàn Tháp Xích, nhìn thấy thái độ Lan Giác và Tiết Mộc Lâm chậm rãi thản nhiên, lại nghe thấy câu nói này, biết có ý nghĩa sâu xa.

Khả Hãn không đoạt được rồi, cái gọi là gửi thư cho Khả Hãn chính là gửi thư cho đại vương tử Đô Nhĩ Cố Đô.

Ôn Mộc Lý bèn nói đầy kiên định: “Mấy ngày nay điện hạ đã không ăn gì, không biết cơ thể của ngài ấy có chịu nổi không.”

Lan Giác đáp: “Tinh thiện ti sẽ chọn đầu bếp chuẩn bị thức ăn cho vương tử, thực đơn ngày mai đã quyết định xong, bản bộ viện đã mang đến để các vị cùng tham khảo.”

Một vị sứ thần khác, mắt đỏ lên nói: “Lỡ như vương tử không trụ được đến ngày mai…”

Lan Giác đáp lại: “Y quan của Nội y viện lát nữa sẽ đến bắt mạch cho vương tử, không cần phải thấy mặt vương tử.”

Tiết Mộc Lâm nói tiếp: “Bi lự quá độ sẽ ảnh hưởng đến cơ thể, tuỳ tiện ăn uống cũng sợ không ổn. Cứ chậm rãi là được.”

Hai người liền cáo từ rời đi.

Lan Giác đã hiểu được biểu cảm của Ôn Mộc Lý trước khi rời đi, lòng thầm nghĩ có lẽ không bao lâu nữa, vương tử có thể khỏi bệnh rồi.

Sau khi Trương Bình xuống núi, hắn lấy ra tấm bản đồ huyện chí đã mua ở hiệu sách trong thành, lật tìm vị trí rồi lại đi về hướng Nam. Hắn phóng ngựa đi được mười dặm hơn thì nhìn thấy thôn xóm ruộng vườn, hỏi thăm chú bé mục đồng thì đây chính là địa giới của thôn Từ Thọ.

Trương Bình chuyển sang đường lớn, đi được vài dặm lại nhìn thấy nhà cửa từng cụm, khói bếp lượn lờ, đã đến địa giới của thôn xóm gần thôn Từ Thọ.

Trương Bình chọn một con đường bằng phẳng tiến về phía thôn đó. Đương quan sát nhà dân ở bên đường thì nhìn thấy phía trước, ở đằng xa có một lá cờ, trên viết chữ Trà, dưới lều chỉ có một ông cụ đang ngồi quạt cạnh bếp trà.

Trương Bình bỗng cảm thấy vui vẻ bất ngờ, khi đến trước sạp trà liền xuống ngựa: “Ông lão, cho một bát trà.”

Ông cụ cười bảo: “Vừa hay mới pha trà xong, ba văn tiền một bát, mời công tử vào trong ngồi.”

Trương Bình vào sạp, ngồi xuống chỗ bàn con.

Ông cụ rót trà nóng cho hắn, nói: “Chỉ có một mình công tử đi du ngoạn à?”

Trương Bình đáp: “Cháu vừa đi đến miếu Mụ Mụ thắp hương, nên cũng muốn đến thôn Từ Thọ xem một chút.”

Ông cụ nói: “Vậy thì công tử đi lố đường rồi, phải vòng lại đi mấy dặm mới thấy thôn Từ Thọ, còn chỗ này là thôn Đại Hồ Lô.”

Trương Bình liền phì cười. Hắn lớn lên với gương mặt không ưa cười. Cái cười này thật khiến ông cụ cảm thấy bất ngờ, liền hỏi: “Công tử cười gì thế?”

Trương Bình chắp tay: “Xin ông đừng trách, chỉ là tên của hai thôn đều rất thú vị.”

Ông cụ cười khà khà bảo: “Thôn Đại Hồ Lô của bọn ta tên độc quá hả, không bằng thôn Từ Thọ có điềm lành nhỉ? Thật ra Tri huyện đại nhân đã tính đổi tên thôn của bọn ta thành thôn Phúc Lộc, nhưng còn chưa thảo luận xong thì ngài ấy lại gặp vận rủi rồi. Hồ lô trong kinh thành đa phần là do nơi này cung cấp, nuôi dế mèn cũng giỏi nhất nên được gọi là thôn Đại Hồ Lô, đừng xem qua quýt, vừa nghe đã liền biết.”

Trương Bình đáp: “Vâng.”

Lần này hắn không cười nữa, ông cụ cảm thấy hắn rất thành khẩn, bèn nói tiếp: “Thôn Từ Thọ ấy hả, lúc trước không phải gọi thế này đâu, gọi là thôn Đại Uyển (Bát to) vì nơi đó trước đây hơi bị lõm xuống, địa thế rất giống hình cái bát. Kế tiếp lại đổi tên lần nữa, vì vị Mụ Mụ kia được đem từ dưới giếng ra nên thế là đổi tên thành thôn Cổ Tỉnh (giếng cổ). Sau này Tạ đại nhân nhậm chức, chỉnh lý chỗ này chỗ kia, hương khói trên núi dần thịnh rồi bèn theo đó đổi tên lần nữa là thôn Từ Thọ. Mấy đứa trẻ trẻ đều không biết tên ban đầu của nó đâu. Công tử đi đến đó làm gì? Đốt hương bái Mụ Mụ thì đi miếu là được rồi.”

Trương Bình đáp lại: “Cháu muốn đi xem cái giếng nơi thần tích linh quan của Mụ Mụ đã trồi lên có còn hay không.”

Ông cụ trả lời: “Còn, ban đầu đã niêm phong, còn xây một cái miếu nhỏ nữa. Năm ngoái khi dâng một đôi đồng nam lên núi cũng khởi hành từ cái miếu nhỏ đó. Không biết Tạ đại nhân dự định xây cái gì, nói là muốn dỡ ra, đào một cái giếng mới, nhưng ông ấy còn chưa bắt tay làm thì gặp họa rồi, nên việc này đành gác lại. Công tử có thể đi xem xem có coi được không, hình như người ngoài đến coi phải đóng mười hai quan tiền.” Nói đoạn liền cười hai tiếng khà khà.

Trương Bình nói: “Cháu nghĩ chắc cái giếng đó phải to lắm, nếu không thì cái quan tài đá sao có thể nổi lên chứ? Cho dù là dựng đứng thì…” Rồi hắn giơ tay hoạch vài đường.

Ông cụ hừ một tiếng: “Gì mà nổi lên, cái đó là do Tri huyện đại nhân mời văn sĩ kinh thành đến viết trau chuốt hơn thôi. Đá thì làm sao mà nổi lên được, đúng ra là móc lên thì có.” Ông cụ nheo mắt nhìn Trương Bình, “Chắc công tử không phải là người từ kinh thành đến để viết truyền kỳ kịch hát đâu nhỉ.”

Trương Bình đáp: “Không phải, chỉ là hiếu kỳ mà thôi. Nghe cách ông nói dường như ông biết rõ ngọn nguồn. Ông có thể kể chi tiết được không?”

Ông cụ lại nheo mắt đánh giá Trương Bình một lát rồi mới nói tiếp: “Hỏi về lai lịch ngôi miếu này, công tử hỏi đúng người rồi. Ở trong huyện này không ai biết nhiều như lão đây đâu. Đúng rồi, già đây tệ họ là Quách.”

Trương Bình nói hắn không phải là người viết truyền kỳ kinh kịch nhưng dường như ông cụ không tin lắm lời hắn nói, cho nên mới cố ý xưng danh như thế. Ngộ nhỡ Trương Bình thực sự viết thành sách rồi thì không chừng trong sách sẽ đề, ngày này tháng này năm này, lục hương tẩu Quách ông có nói…, cũng xem như có cái mà phỏng mũi.

“Những lời già đây nói tuyệt đối không phải quá lời đâu. Nhà ngoại già là người của thôn Đại Uyển, là hàng xóm cũ của Tiêu gia. Lúc Tiêu lão nhị móc cái quan tài đó lên, già cũng ở đó xem tới xem lui. Nói ra thì là chuyện của năm Đồng Quang rồi. Lúc đó già đây cũng chỉ là một tiểu hậu sinh thôi. Năm đó Tiêu gia là một họ lớn trong thôn, Tiêu nhị sinh ra là một người què, không thể làm được mấy việc tốn sức lực, chỉ có một người anh.”

Tiêu nhị là con của vợ kế. Đợi sau khi cha ông ta qua đời, chị dâu của ông ta mới tố lên huyện, bảo lúc sinh ông ta, cha đã quá sáu mươi, có khả năng không phải con ruột, ngoại hình cũng chẳng giống người Tiêu gia, nói không chừng là do mẹ ông ta thông dâm với tên lái buôn nào đó rồi đẻ ra. Rồi lấy lý do này đuổi ông ta ra khỏi nhà, một xu cũng chẳng cho.

Nhà mẹ đẻ của Tiêu nhị cũng chẳng có nhiều tiền, cha vợ mẹ vợ đều đã qua đời, không nhà không đất, thân không xu dính túi, lại không thể vào thành làm công. Thôn trưởng tội nghiệp ông ta nên đã đem vài mẫu đất dưới danh nghĩa trưởng làng cho ông trồng trọt, rồi cho ông ít tiền. Vợ của Tiêu nhị vào thành làm việc lặt vặt, qua vài năm tích cóp được chút tiền. Cạnh cánh rừng đầu thôn có hai ba gian nhà rách, không chủ cũng chẳng có dấu tích người ở, đợi quan phủ thu hồi, thôn trưởng đã nói giúp cho, xin huyện bán mấy gian này cho Tiêu nhị nương thân.

Tiêu nhị có chỗ ở rồi thì vô cùng vui mừng, lấy cỏ tranh quấn lại sửa sang tu bổ nhà cửa. Sau nhà vốn có một cái giếng cạn, Tiêu nhị muốn vét giếng để có nước dùng.

“Nhưng chẳng biết sao, vét cỡ nào cái giếng đó cũng không trào ra nước, rồi lại vét lại móc, cuối cùng móc ra một cái quan tài đá.”

Quan tài đá rặc một màu đen, có những vân lộ mảnh mảnh như sợi mây, cũng không biết rốt cuộc là đá gì. Cái hoa văn đá giống như mây ấy còn khắc thành hình nào là điện các, nào là tiên hạc nữa.

“Tiêu nhị sợ hãi vô cùng, thông báo cho thôn biết, nhờ thôn quyết định.”

Trương Bình hỏi: “Tiêu nhị tự mình kéo cái quan tài đó ra khỏi giếng ư?”

Ông cụ lắc đầu: “Tất nhiên không phải rồi, lúc đó ông ta đào được một cái quan tài. Trong thôn cử vài người khoẻ mạnh cùng đào mới có thể lôi nguyên cái quan tài lên. Tiêu nhị hoảng hồn, muốn bảo thôn hãy mang đi đi nhưng vài họ lớn trong thôn Đại Uyển thấy quan tài này ghê gớm nên không ai dám để nó vào trong từ đường của nhà mình. Thôn Đại Uyển có Diêu lão quải biết chút môn đạo, nói rằng tốt nhất đừng xê dịch, cứ để nguyên vị trí cũ. Lúc đó già cũng đi theo xem, dựng một cái lều trước nhà của Tiêu nhị, để quan tài vào trong đấy. Náo động vô cùng, rất nhiều người thôn Đại Hồ Lô cũng qua xem.”

Thôn trưởng thôn Đại Uyển báo chuyện này cho xã biết, người trong xã cũng đến, cảm thấy quan tài này có chút thần đạo nên đã mời một vị tiên sinh trong huyện đến đoán định.

“Vị tiên sinh đó xem xong rồi nói, văn lộ khắc ở đầu và cuối quan tài này là chữ, chữ ở đầu quan tài là ngộ giả khai (gặp thì mở), chữ cuối quan tài là kiến giả bái (thấy thì bái), phải mở quan tài này ra.”

Trước tiên thôn mời vài pháp sư đến để niệm kinh, rồi lựa ngày lành giờ lành mới mở quan tài ra. Trong quan tài đá có một người phụ nữ đang nằm, tóc bạc trắng, da như thiếu nữ, dung nhan nhược sinh. Người vận áo gấm la quần, cổ tay đeo vòng ngọc kim xuyến, trên đầu là đồ trang sức quý hiếm.

“Nhìn thì thấy y như người sống đang say ngủ vậy, ai cũng không dám động chạm gì. Nắp quan tài còn viết mấy câu thơ, nói vốn là thần tiên gì gì đấy, hạ phàm kinh qua kiếp nạn, thần kỳ hơn là, đến việc cái quan tài đó bị Tiêu nhị đào lên cũng có viết nữa. Những người trong thôn sống hơn trăm tuổi đều nói chưa từng nghe qua chuyện gì giống như thế này.”

Trương Bình hỏi: “Chữ lớn hay nhỏ? Là thể chữ gì? Viết bằng mực hay được khắc lên?”

Ông cụ đáp: “Màu đỏ, cong cong quẹo quẹo, giống như chữ trên quan tài ấy. Vị tiên sinh kia nói là viết bằng chu sa. Vị Mụ Mụ này vốn là thần tiên trên trời, đầu thai hạ thế, là vật tiên thoát xác dưới lòng đất để lại. Lần này Tiêu nhị thật có duyên, do ông ta đào lên được, để cho thế nhân chiêm ngưỡng cung phụng.”

Thôn Đại Uyển lại chọn ngày lành tháng tốt, mời thầy pháp đến làm phép rồi đem Mụ Mụ lên núi nhập táng.

Trương Bình thắc mắc: “Sao lại là trên núi?”

Hắn lớn lên trong đạo quán, biết một chút môn đạo phong thuỷ. Điều cấm kỵ lớn nhất của mộ táng chính là chôn cất trên đỉnh núi trơ trụi.

Ông cụ đáp: “Là do tự Mụ Mụ chọn lấy.”
 
Chương 77


Sau khi nói dứt câu này, ông cụ bỗng dừng lại.

Câu chuyện này, nhiều năm về sau ông vẫn luôn cảm thấy thật quá đỗi khó tin. Nói đến chỗ mấu chốt, ông cụ rất thản nhiên muốn giở chiêu úp úp mở mở, để Trương Bình nóng lòng đến nỗi phải mở miệng truy hỏi.

Thế nhưng…ông cụ lại nhìn thấy gương mặt tỉnh bơ như không của tên thiếu niên này…

Và cả ánh mắt có chút trống rỗng của hắn…

Chẳng lẽ là đang thất thần ư?

May thay, Trương Bình chỉ trầm lặng một chốc rồi ánh mắt lại loé sáng, thần trí tập trung một lần nữa, bật ra một tiếng “Hả?”

Tâm trạng đang chùng xuống trong sự hụt hẫng của ông cụ kịp thời quay trở lại, dưới ánh mắt chăm chú của Trương Bình, ông cụ tự rót cho mình một bát trà, hớp một ngụm, vuốt vuốt chòm râu rồi mới nói: “Chuyện này kể ra càng thêm kỳ quặc. Bên ngoài thôn Đại Uyển có vài nơi phong thuỷ rất tốt, vốn là muốn lấy đó làm nơi mai táng cho Mụ Mụ. Nhưng chẳng ngờ rằng dù có cố cỡ nào cũng chẳng nhấc nổi cái quan tài đó lên. Mọi người sợ đến nỗi lại phải chạy đi mời thầy pháp về tụng kinh rồi thắp nhang thêm lần nữa.”

Tiêu Nhị cảm thấy, có thể Mụ Mụ thích nhà của ông ta, dù sao ông ta cũng chẳng dám ở lại cái nơi đã đào lên một cỗ quan tài, thôi thì để cho Mụ Mụ vậy, không nên làm phiền đến lão nhân gia thì tốt hơn.

Nhưng tiên sinh trong huyện lại nói, Mụ Mụ vốn đã chọn Tiêu Nhị là người đào bà ấy lên, nhất định sớm đã an bài xong xuôi mọi thứ. Chỗ đó trong thôn không hợp ý lão nhân gia nên bà ấy không muốn đi. Thế là lập đàn lên đồng xin chữ, mời lão nhân gia người đích thân chỉ bảo.

Thế nhưng mời hết người này đến người nọ, thậm chí để cả Tiêu Nhị đi mời, cuối cùng đều chỉ mời đến những kẻ lên đồng viết bậy viết bạ. Tiên sinh trong huyện mới bừng tỉnh, có thể Mụ Mụ chê đám người này không sạch sẽ nên không thèm giáng lâm. Thế là liền đi tìm hai nữ đồng nhưng cũng không thành. Hết cách lại tìm đến hai nam đồng, cũng không nghĩ thế mà lại xin được chữ.

“Lúc đó già đây cũng ở quanh đó, tận mắt nhìn thấy hương khói trong lưu hương cùng bay về một nơi, chuyển động theo con chữ!”

Hai đứa bé trai trong buổi lên đồng đều là trẻ em trong thôn, cả hai đều không biết chữ, nhưng rõ ràng có mấy hàng chữ được viết lên trên mặt cát…

“Tọa cao sơn, nhìn sông dài, trên mây dưới tùng giấu huyền diệu;

Nghiệp kính hứa cần thiện dưới tọa, tự có phúc báo thế vô song.”

“Lão đây từ nhỏ không thích đọc sách, thơ rồi từ càng không thể nhét nổi vào đầu. Nhưng kỳ lạ thay, mấy câu này sau khi nhìn thấy lần đó thì suốt cả đời không cách nào quên được, một chữ cũng không nhớ sai. Có lấy dao khắc vào trong tim thì cũng chỉ nhớ dai được thế này thôi.”

Lần này ánh mắt của Trương Bình vô cùng chú tâm, gật gật đầu: “Vâng.”

Ông cụ có chút hài lòng, lại hớp một ngụm trà, tiếp tục kể chuyện.

Vị tiên sinh trong huyện kia với mấy vị pháp sư đồng đạo cùng nhau phân tích nghiền ngẫm mấy câu này, đoán là Mụ Mụ muốn ở trên núi, hơn nữa còn là núi có cây tùng lớn.

Người trong thôn liền nhớ đến trên đỉnh núi Bánh Bao Lớn ở ngoài thôn có mấy cây tùng cổ. Sau đó nhiều người khác lại đột nhiên phát hiện ra, hướng mà hương khói trong lư bay đến chính là chỉ nơi có ngọn núi Bánh Bao Lớn kia.

Hóa ra Mụ Mụ đã thầm gợi ý từ sớm, chỉ là mọi người ngu dốt, không lĩnh hội được.

Sau khi thôn Đại Uyển làm xong pháp sự liền cung kính đưa quan tài Mụ Mụ lên núi Bánh Bao Lớn mai táng. Cứ như chuyện thần kỳ, người trong huyện trong xã cũng đã đến hết cả. Lần này quan tài của Mụ Mụ nhấc một cái nhẹ là lên. Mấy hậu sinh vác quan tài lên núi xong cũng không cảm thấy mệt gì.

Sau khi mai táng Mụ Mụ xong, mọi người đều cảm thấy, nếu cứ gọi núi Bánh Bao Lớn là núi Bánh Bao Lớn thì có vẻ không kính trọng Mụ Mụ gì cả. Trước kia vì hình dáng ngọn núi này tròn tròn đôn lên giống như cái bánh bao nên cứ thế mà gọi luôn. Nhưng bây giờ núi này là nơi an táng Mụ Mụ, chẳng lẽ lại để Mụ Mụ làm cái núm trên đầu bánh bao? Hay là làm hạt đậu xanh trên đầu cục xíu mại thân thiết của màn thầu?

Quá sức thất kính rồi.

Thế là những người trong thôn quanh đấy đầu tiên sửa lại gọi núi này là núi Mụ Mụ. Đợi sau khi Tạ Tri huyện nhậm chức mới có cái tên là núi Thọ Niệm như ngày nay.

Trương Bình nghe ông cụ kể xong câu chuyện, trên mặt lại hiện lên nét trầm tư. Ông cụ xem vẻ tư lự chìm trong suy tư của hắn, vô cùng vui mừng.

Trương Bình lại uống thêm một chén trà, cáo biệt ông cụ, leo lên ngựa hướng về phía thôn Từ Thọ.

Nơi quan tài được đào lên rất dễ tìm. Những người muốn đến nơi đầu tiên tìm thấy thần tích của Mụ Mụ giống như Trương Bình đây thật không ít, người trong thôn sớm đã nhìn quen mắt, liếc thấy Trương Bình mặt mày lạ hoắc mặc trường sam liền chủ động dừng lại bên đường, chào hỏi Trương Bình, lập tức chỉ đường cho hắn.

Khi Trương Bình đến nơi, quả nhiên nhìn thấy một miếu quán nho nhỏ đúng như lời cụ Quách nói. Bốn phía ngôi miếu được bao quanh bởi cọc trúc nhưng nếu sải bước đi qua những khe hở vẫn có thể vào trong được. Xem ra không ít người đều làm như thế rồi. Trúc sậy xiêu xiêu vẹo vẹo, chỗ này cao chỗ kia lại thấp.

Trước hết, Trương Bình lượn mấy vòng bên ngoài vòng rào trúc, bị vây lại như thế này, có lẽ là tính xây sửa lại, rất nhiều gạch được chất trong cái lều ngoài khu đất trống, cửa sổ bị gãy được cố định lại tạm thời, hai cánh cửa sổ hai bên cửa chính méo mó vặn vẹo, hệt như gương mặt nhát ma là minh chứng cho sự xuống cấp của ngôi miếu nhỏ. Dưới mặt đất còn có dấu vết do dùng sơn vẽ, dự tính xây một ngôi miếu mới to gấp ba lần ngôi miếu cũ này.

Trương Bình lại chen vào bên trong vòng rào trúc, đi đến cạnh bên đống đất trước mặt đạo quán.

Quả nhiên sau đống đất đó là một cái mép giếng hình tròn.

Mép giếng loang lỗ cũ kĩ, được đắp thêm một lớp đất mới lên, lòng giếng cũng lộ ra vết tích bùn đất. Nhìn dấu tích mép giếng, phía trên và bốn phía, có lẽ lúc trước có một phiến đá đậy lại, gần đây mới lấy ra mà thôi, dự là muốn đào lại lần nữa.

Trương Bình dùng cánh tay ước lượng kích cỡ miệng giếng, rồi lại nhặt một cành cây chọt chọt vào đống đất, nhưng vẫn chưa tìm ra dưới lớp đất có chôn cái gì không.

Có thể lúc phiến đá bị nhấc lên đã bị người ta chuyển đi rồi.

Trương Bình lại đi vài bước trước miếu quán, quan sát xung quanh nhưng chưa vào trong đạo quán đó đã chui ra khỏi vòng rào gậy trúc.

Hắn lại cẩn thận xem xét bốn phía rồi dắt ngựa quay người rời đi. Vừa mới đi được vài trượng, phía trước giao lộ đột nhiên xuất hiện một tên hậu sinh chống một cái xiên bằng sắt to tướng, nhe ra hàm răng đã ngả màu về phía hắn.

“Công tử kia ơi, quan phủ đã có lệnh, đất này không được tự ý đi vào.”

Trương Bình dừng ngựa: “Ố?”

Hậu sinh bước ra giữa đường nói: “Nhưng vừa nãy công tử vào mất rồi, làm sao bây giờ?”

Trương Bình đáp: “Chỉ xem thôi.”

Hậu sinh xăn cổ tay áo: “Xem? Chính là không muốn cho xem nên mới rào lại đấy. Mới nãy huynh chui rào vào phải không?”

Trương Bình đáp: “Ừ.”

Hậu sinh di chuyển cái xiên trong tay: “Quan phủ có lệnh, hễ có người dám tự tiện xông vào thì lập tức trói gô lại giải về nha môn trọng phạt.”

Trương Bình đáp: “Ồ.” Rồi trưng ra bộ mặt thản nhiên mời đến trói tôi đi.

Hậu sinh chờ một hồi, chẳng thấy hắn có phản ứng gì nữa mới lại làm ra vẻ đang đánh giá hắn: “Tôi thấy công tử hình như là người đất khác nên không biết quy tắc.”

Trương Bình nghiêm túc đáp: “Tội đã phạm rồi, bất kể biết hay không.”

Tên hậu sinh kia trợn mắt nhìn hắn, hồi sau mới nhếch mép nói: “Nhưng mà muốn tôi bắt công tử rồi cứ thế này giải đến quan phủ, chẳng phải rất không hợp với đạo làm người hay sao.”

Trương Bình lại nghiêm túc đáp: “Không cần tự trách, giải lên quan là việc hợp lẽ thường.”

Hậu sinh một lần nữa trợn mắt ngó Trương Bình, trong lòng không cầm được mà chửi như tát nước. Mẹ nó, có cần phải vậy không? Nhìn bộ dạng cũng đâu có nghèo, chỉ là mười hai mươi văn tiền thôi mà làm tới nước này luôn hả trời! Bà mẹ cái thằng không biết từ xó xỉnh nào chui ra đây.

Cho hắn một thẹo?

Hậu sinh hung hăng nhìn Trương Bình. Loại người này, đáng cho ông đây tốn công tốn sức ư?

Không đáng dính một thẹo của ông đây nhá!

Hậu sinh phun một bãi nước bọt: “Được rồi, đi đi!”

Trương Bình đầy vẻ chân thành chắp tay với gã: “Đa tạ” rồi chậm rãi leo lên ngựa.

Con ngựa thong dong thả bước về trước, tên hậu sinh cố kìm cơn kích động muốn lấy cái xiên xiên lên mông ngựa một cái mà nhổ một bãi nước bọt nữa, nhìn bóng dáng Trương Bình dần đi xa, lại hận không thể moi bọc tiền từ trong ngực ra nện vào cái lưng của hắn.

Mẹ kiếp, chưa từng gặp qua kẻ nào như vậy!

Trương Bình trở lại huyện thành nghỉ một đêm rồi trở về Huyện Nghi Bình.

Bản mặt của Trương Bình cũng xem như quá quen thuộc đối với Huyện Nghi Bình rồi. Trước khi hắn vào đến cổng thành thì đã có người chạy xồng xộc vào trong huyện nha báo cho Thiệu Tri huyện biết.

Thiệu Tri huyện vui mừng đến nỗi giàn giụa cả nước mắt nước mũi, đích thân đứng trước đại môn nghênh đón, báo cho Trương Bình biết, Lại bộ phái người đến, đã ở trong hành quán của huyện nha chờ Trương Bình hai ngày rồi.

Đại vương bị lưu đày đến Huyện Phong Lạc, nếu thời gian lưu đày lại rơi vào lúc hai vị Tri huyện thay chức thì thật không ổn. Lại bộ bèn vội vàng phái người đến báo cho Trương Bình đến nhậm chức trước.

Tiểu lại đến báo tin phụng mệnh nhất định phải chính miệng mình thông báo với Trương Bình, sau lập tức đưa hắn đến kinh thành. Nhưng ai ngờ đến Huyện Nghi Bình rồi, Trương Bình lại không có, chẳng biết đã đi đâu mất, tiểu lại chờ đã hai hôm, bứt rứt đến độ bụng sắp phát hỏa.

Thời khắc nhậm chức vô cùng quan trọng, ấy vậy mà lại tự tiện rời vị trí cũ bỏ đi chơi xuân. Sống nửa cuộc đời rồi, thật chưa bao giờ nhìn thấy ai làm quan như tên này!

Tiểu lại cố dằn cơn tức giận lại, chưa bộc lộ ra, đợi khi trở về ti bộ rồi sẽ báo cáo việc Trương Bình thất trách sau vậy. Chuyện của Đại vương, hoàng thượng thánh dụ, khó tránh quan lại địa phương vì thân phận của Đại vương mà sinh ra việc thiên tư, không thể để lộ ra được. Cho nên tiểu lại cũng không nhắc đến, chỉ đơn giản báo với Trương Bình lập tức lên đường. Đi suốt đêm vào thành.

“Nghỉ một ngày cũng không được à?” Thiệu Tri huyện xin giúp cho Trương Bình, “Trương đại nhân tuy đến Nghi Bình chưa lâu nhưng rất được bá tánh yêu quý. Mọi người cũng muốn tiễn Trương đại nhân lắm.”

Tiểu lại xụ mặt nói: “Nhậm lệnh khẩn cấp, không thể trì hoãn được, nếu không bị trách phạt thật khó lòng gánh nổi.” May mà mấy ngày này, Thiệu Tri huyện dâng đồ ăn thức uống khiến gã vô cùng vừa ý, nên cũng nhân nhượng cho Trương Bình uống ngụm trà.

Trương Bình cũng không nói nhiều, công vụ mà hắn phải chuyển giao đều đã được sắp xếp giao đâu đấy xong xuôi. Lúc này rất nhanh chóng gom đồ đạc lại thành một bọc đồ nhỏ, rồi cáo biệt với Thiệu Tri huyện và các đồng liêu trong huyện nha, sau đó cùng với người của Lại bộ rời đi.

Thiệu Tri huyện dẫn các đồng liêu trong huyện nha tiễn hắn đến ngoài cổng thành, rất nhiều bá tánh nối đuôi theo đi xem, nên cảnh tượng đưa tiễn lại có vài phần oai nghiêm.

Trương Bình vái chào Thiệu Tri huyện, chúng đồng liêu và bá tánh, lại ngước mắt nhìn ba chữ “Huyện Nghi Bình” trên cổng thành, sau đó quay người thúc ngựa tiến về phía trước.
 
Chương 78


Vào lúc trời nhập nhoạng tối ngày thứ ba sau khi rời khỏi Nghi Bình, cuối cùng Trương Bình và vị Tiểu lại Lại bộ kia cũng tới kinh thành.

Tiểu lại không cho Trương Bình nghỉ ngơi đã khởi hành ngay vốn là muốn làm khó dễ hắn, bắt hắn phải chịu tội. Nhưng chẳng ngờ được Trương Bình xuất thân là con nhà nghèo, chịu khổ quen rồi, bắt hắn đi bộ đến kinh thành, hắn cũng chẳng cảm thấy có gì ghê gớm cả, huống chi là cưỡi ngựa.

Do Trương Bình đã đi một chuyến đến Phong Lạc nên khả năng cưỡi ngựa của hắn đã vô cùng thành thạo. Tiểu lại thúc ngựa đi nhanh một chút, gã quả thật cứ im lìm phóng ngựa chạy trước, không uống nước, không kêu đói. Cuối cùng lại chính là vị Tiểu lại kia chịu không nổi nữa trong khi Trương Bình đây vẫn trưng ra bộ dạng vững vàng có thể chạy đến cùng trời cuối đất luôn. Tiểu lại bắt đắc dĩ phải kêu ngừng lại rồi ghé quán ăn. Lúc ăn cơm, Tiểu lại nói: “Trương đại nhân, triều đình có lệnh quan viên bên ngoài ăn ở phải liêm khiết, cá lớn thịt rừng sơn hào hải vị đều không thể gọi, rượu càng không thể uống nhiều.”

Trương Bình gật gật đầu, lập tức gọi hai bát cháo loãng, vài cái màn thầu, rồi cầm cái mâm không đi đến bên bàn ở đầu đại đường tự lấy dưa muối tặng không.

Tiểu lại quáng mắt, ngồi đếm số hạt gạo trong tô cháo, miễn cưỡng nuốt xuống bụng mấy miếng màn thầu, ăn xong Trương Bình trả tiền. Tiểu lại cũng không thể mất mặt đến mức giả vờ tranh trả với hắn mấy đồng xu này bèn đi theo với hắn.

Lúc đợi đặt phòng, Tiểu lại đã phát hiện Trương Bình là một kẻ rất đáng sợ, thực sự có chút lo sợ hắn sẽ ra tay đặt một giường ghép lớn cho hai người nên bèn cướp lời trước: “Phòng sạch sẽ bình thường còn trống không?”

Chưởng quầy đáp: “Còn.”

Tiểu lại còn đang muốn hỏi giường chiếu thế nào, có cho nước tắm hay không…thì Trương Bình đứng kế bên đã móc túi tiền ra nói: “Cho một phòng.”

Chưởng quỹ cười hỏi: “Giường đôi hay giường đơn?”

Trương Bình nghiêng đầu nhìn nhìn Tiểu lại, Tiểu lại dùng ánh mắt sâu xa nhìn lại hắn, bỗng nhiên rùng mình một cái. Thằng nhãi này, hơn hai mấy tuổi rồi còn chưa thành thân, đừng nói là có sở thích khác người gì nha.

Tiểu lại tuy đã quá ba mươi tuổi nhưng lại có gương mặt trẻ con, không lớn lắm, cộng thêm da mặt lại trắng mịn hơn cả phụ nữ, gã lại họ Tiết tên Giảo (Có nghĩa trắng sáng), bình thường lúc cùng các đồng liêu đùa giỡn thường hay bị trêu gọi là Tuyết Kiều, tuyết tuyết kiều kiều, phẫn uất vô cùng liền dốc hết công sức nuôi dưỡng một bộ râu dày ơi là dày, ở một số phương diện càng đặc biệt lưu ý hơn. Gã liền vội vàng nói: “Giường đôi.”

Chưởng quỹ lấy phòng bài ra, gọi tiểu nhị dẫn hai người họ đến phòng khách, rồi lại nói với Trương Bình: “Lúc khách quan trả phòng rồi trả tiền cũng được. Trong phòng sáng chiều sẽ tặng một bình trà mới, nước sôi thì có thể gọi tiểu nhị. Chỉ cho một thùng nước nóng tắm rửa, nếu muốn thay nước mới hoặc thêm nước thì phải thêm…”

Tiểu lại vội vàng cắt ngang nói: “Trời vẫn còn chưa ấm mà, tắm sợ sẽ lạnh lắm, đem chậu và khăn sạch đến, rửa mặt ngâm chân là được rồi.”

Chưởng quỹ và tiểu nhị sớm đã phát hiện giày Tiểu lại mang là giày của quan lại, lại còn là kiểu dáng của quan trong kinh nên tiếp đón vô cùng nhiệt tình, không ngờ hai người này lại keo kiệt như vậy. Nhưng liên quan đến nha môn, có thể nể mặt được thì cứ nể mặt, bèn vẫn cứ giả lả như cũ.

Kết quả là, sau khi vào trong phòng, Tiết Giảo vì không muốn cho Trương Bình dùng chung dụng cụ rửa mặt mà đòi bốn cái chậu, bốn khăn tay mới tinh, hơn nữa cứ liên tục kêu tiểu nhị đem nước sôi đến. Tiểu nhị chạy ngược chạy xuôi, đến nỗi nụ cười giả lả trên mặt đã rớt xuống từ lúc nào, vừa khép cửa lại đã chạy đi tìm chưởng quỹ kêu ca, hai người này rốt cuộc là muốn làm cái quái gì vậy, dùng đồ đạc còn phí phạm và khó hầu hạ hơn đàn bà sinh con nữa.

Tiết Giảo càng thêm bực bội, vốn gã nghĩ sau khi vào đến phòng rồi có thể gọi tiểu nhị đem rượu thịt đến làm bữa khuya, chẳng ngờ rằng ở chung một gian với Trương Bình, bữa khuya đã không có, còn chẳng được tắm với chả rửa nữa.

Sau khi Trương Bình ngâm chân xong, lại thêm một chút bồ kết rửa tay vào phần nước nóng còn thừa để giặt vớ, sau đó phơi trên cây sào nhỏ ở trên cửa sổ. Tiết Giảo chỉ cảm thấy, cơn gió đêm thổi qua vớ của Trương Bình đang phả thẳng vào mặt mình, thật là một trận buồn nôn, cơn nóng hừng hực trong lòng do đói bụng mà sinh ra xộc thẳng lên đỉnh đầu, cả đêm chẳng thể nào ngủ ngon nổi.

Bữa sáng ngày hôm sau, Trương Bình lại tiếp tục gọi hai bát cháo, vài cái bánh bao lớn. Tiết Giảo ngửi mùi hẹ trong bánh bao mà thái dương nhức ong ong, cố gắng ăn chút cháo. Trương Bình quan tâm hỏi có phải gã không thích bánh bao hay không, có muốn gọi thêm trứng lá trà không, huyệt khí hải (Một trong 36 đại huyệt trên cơ thể con người. Đôi khi người ta gọi là Đan Điền vì nó là một phần của vùng hạ Đan Điền) của Tiết Giảo như muốn nổ tung, gã lãnh đạm đáp, không cần.

Trương Bình cũng không nói nhiều, cầm bánh bao Tiết Giảo ăn thừa lại, chừng như muốn để dành để trưa ăn.

Cuối cùng Tiết Giảo cũng chịu hết nổi, đợi đến khi mặt trời đứng bóng, liếc thấy một chỗ giống như cửa tiệm nhỏ liền quay người xuống ngựa, xông vào trong tiệm, gọi một loạt các món ăn, bao nhiêu món nóng mà trong tiệm có thể làm được đều mang ra, rồi thêm một bình rượu ngon.

Trương Bình đang ngồi bên bàn, cũng không biểu hiện bất cứ điều gì, trưng ra bộ dáng vui vẻ hưởng thụ. Tiết Giảo hung hăng nhủ thầm, nhãi con, có lý nào đi ra ngoài lão đây lại ngồi gặm bánh bao của ngươi chứ? Ta chính là đợi đến giây phút này đấy! Được, ngươi cứ giả vờ đi! Đợi đến khi vào kinh rồi xem lão đây hành ngươi tơi tả thế nào!

Đêm đó hai người họ trú ở dịch quán quan phủ, mỗi người một phòng. Bữa sáng bữa tối đều có người đem đến tận phòng. Tiết Giảo cũng không khách sáo, ở trong phòng ăn, đỡ phải nhìn mặt Trương Bình thêm nữa. Chịu đựng bữa trưa ngày hôm sau nữa, đến chập choạng tối thì đã vào đến kinh thành. Tiết Giảo nói với Trương Bình: “Giờ này thì bên nha môn cũng chẳng còn ai nữa cả.” Rồi lại nâng tay áo lên, “Trương đại nhân, hẹn sáng mai gặp ở nha môn Lại bộ.” Rồi cũng không nói cho Trương Bình biết việc ăn vận thế nào và nhất định phải mang theo văn thư, càng không sắp xếp cho hắn đến dịch quán, cứ thế tuyệt tình mà bỏ đi, để mặc Trương Bình bơ vơ bên vệ đường.

Trương Bình tự thúc ngựa đi đến Lại bộ. Lại bộ nằm ở hướng Đông hoàng thành, Đại lý tự, Tôn chính phủ cũng ở khu đó cả. Quán trọ khá đắt đỏ, nhưng Trương Bình biết phường Minh Hoa cách khu đó không xa có vài con hẻm, có mấy nhà trong hẻm cho thuê phòng trống, có thể thuê theo tháng hoặc thuê ở một hai đêm cũng được, giá tiền cũng hợp lý.

Trương Bình chọn thuê một phòng trống trong hẻm Thuỷ Bào Nhi gần Lại bộ nhất. Sáng hôm sau hắn thức dậy rất sớm, ra ngoài ngõ ăn sáng, sau đó về phòng súc miệng rửa mặt, thay quan phục. Hắn không biết phải mang theo cái gì, bèn cầm theo tất cả văn thư, văn điệp mà bản thân cảm thấy cần thiết đi cùng, cho vào một túi nhỏ rồi cầm theo đi về hướng Lại bộ.

Nơi Trương Bình ở cách Lại bộ không xa, hơn nữa hắn cũng không biết có chỗ nào buộc ngựa hay không nên quyết định đi bộ. Kinh thành tuy là chốn tuỳ tiện ném ra vài cục gạch cũng có thể nện chết mấy vị quan nhưng bộ dạng như Trương Bình thế này, thân mặc phục sắc tiểu quan địa phương tòng tứ phẩm, tay cầm một cái túi nhỏ đi trên đường cũng thuộc hàng hiếm thấy. Một mình đi trên đường, tự dưng thành phong cảnh.

Khi đã đến trước cửa lớn Lại bộ, Trương Bình lên tiếng hỏi môn lại: “Tôi là Huyện thừa Nghi Bình, điều đến nhậm chức Huyện Phong Lạc, phụng mệnh đến đây. Nên đi ti nào đây?”

Môn lại ngồi yên nhìn nhìn Trương Bình: “Đến đây làm gì? Có mang theo văn thư không?”

Trương Bình đáp: “Là phụng lệnh đến đây.” Rồi giở bao nải ra, “Văn thư ở trong này.”

Môn lại thầm vui mừng trong lòng, hoá ra là một tên ngốc. Một tên quan nhãi nhép ở cái huyện nhỏ bé lại tưởng rằng bản thân được điều đi nhậm chức, có tư cách mà bước vào cửa lớn của Lại bộ. Gã cũng lười biếng để ý đến hắn, khoanh tay tính bỏ đi. Trương Bình đuổi theo một bước, thị vệ trước cửa ngăn hắn lại, hắn đành phải lôi văn thư ra nói với theo bóng lưng của Tiểu lại: “Văn thư ở đây, cảm phiền…”

Tiểu lại cũng không quay lại, đi thẳng vào trong phòng uống trà.

Trong đám môn vệ ngăn Trương Bình lại có một người nhiệt tình nói với hắn: “Văn thư được nói đến là văn thư vào cửa này cơ. Kêu ngươi đến thì phải đưa cho ngươi tờ văn thư làm bằng chứng thì mới có thể vào.”

Tờ văn thư đó Trương Bình có nhưng đã để ở chỗ Tiết Giảo. Tiết Giảo chưa từng nhắc qua nên Trương Bình không biết.

Tên môn vệ kia nhìn thấy gương mặt Trương Bình mù mịt, bèn cười nói: “Lại bộ tuy là nơi quản lý quan lại nhưng cũng không phải là nơi thành quan thì có thể vào. Lúc muốn gọi thì tự khắc sẽ có người gọi. Không cần phải đến đây.”

Trương Bình nói: “Có một vị đại nhân họ Tiết tên Giảo đã dẫn tôi đến kinh thành, bảo hôm nay đến Lại bộ.”

Tiết Giảo, hai môn vệ đều biết gã ta nhưng đang lúc canh cửa không thể rời đi. Môn vệ nhìn vào bên trong, môn lại trong phòng cũng không đi ra. Tên môn vệ đó bèn nói: “Giờ này vẫn còn sớm, có nhiều vị đại nhân vẫn chưa đến. Tôi vẫn chưa thấy Tiết đại nhân vào cửa, có lẽ vẫn chưa đến. Ngài cứ đợi một canh giờ nữa xem.”

Trương Bình định đi qua bên cạnh đứng nhưng do có nhiều người thường đứng ở bên tường trước cửa Lại bộ, nên sau đó lại bị thủ vệ đuổi đến đứng bên dưới cái cây lớn ở đường đối diện.

Đợi cũng đã hai, ba giờ, kiệu quan nườm nợp tấp nập, Trương Bình chuyên chú quan sát, nãy giờ vẫn không nhìn thấy Tiết Giảo. Kiệu quan dần bớt đi, Trương Bình bèn lựa một chỗ trống sáp đến gần cửa trước, hỏi môn vệ: “Tiết đại nhân đã đến hay chưa?”

Đang lúc các vị đại nhân vào nha môn, môn vệ sợ lây nhây với mấy kẻ rỗi hơi như Trương Bình đây sẽ bị xử phạt liền đanh giọng nói: “Không có, không có, chờ tiếp đi ha.”

Trương Bình đành phải quay trở lại chỗ đối diện bên đường.

Kỳ thực Tiết Giảo đã đến rồi. Gã biết Trương Bình nhất định sẽ đến rất sớm, lúc đi đến giao lộ đã nhìn thấy từ xa một dáng người cứng ngắc mặc quan phục tòng thất phẩm liền lập tức đi vào nha môn bằng cửa hông.

Lang trung Lai Thâm của Nghiệm phong ti (Hay Nghiệm phong thanh lại ti là một cơ quan thuộc Lại Bộ dưới thời Minh, Thanh. Đảm trách các việc như phong tước các quan viên, khen thưởng, bổ nhiệm viên Lại các quan địa phương ở khu vực có dân tộc thiểu số… Trong đó, Lang trung 2 người (1 Mãn, 1 Hán), Viên ngoại lang 3 người (2 Mãn, 1 Hán), chủ sự 3 người ( Mãn, Mông, Hán 1 người), kinh thừa 7 người) cũng đã đến. Việc một Huyện thừa như Trương Bình được thăng lên làm Tri huyện vốn là thuộc quyền quản lý thuyên chuyển của Văn tuyển ti (Hay văn tuyển thanh lại ti là một cơ quan thuộc Lại bộ thời Minh, Thanh. Đảm trách các việc khảo hạch chức quan, tuyển chọn bổ nhiệm thăng điều, và chính lệnh tuyển chọn hàng tháng. Trong đó, Lang trung 7 người, Viên ngoại lang 6 người, chủ sự 5 người,, kinh thừa 31 người), nhưng chức Tri huyện này của Trương Bình vốn do hoàng thượng hạ chỉ thân phong, có sự tham gia của thánh chỉ, chuyện này liền quy về cho Nghiệm phong ti. Người đi đón hắn là Tiết Giảo là Thừa điển của Nghiệm phong ti.

Những việc mà Nghiệm phong ti thường quản đều là phong sắc tước, thông báo sắc chỉ… Việc một tiểu quan tòng thất phẩm được thăng lên thất phẩm bé cỏn con như hạt vừng lọt qua kẽ tay này thật sự quá hiếm lạ. Lai lang trung liền có chút hiếu kỳ, rất muốn xem xem tiểu huyện quan có thể lọt vào trong mắt rồng của hoàng thượng rốt cuộc tròn méo ra sao. Sau khi đến nha môn, trước khi đến phòng làm việc, vô tình liếc thấy Tiết Giảo đang uống trà bèn dừng lại trước cửa.

Chư lại trong phòng lập tức đứng dậy hành lễ. Lai lang trung nhìn Tiết Giảo nói: “Người được thăng chức Tri huyện Trương Bình đã đến chưa? Bảo hắn vào trong sảnh đi.”

Tiết Giảo vốn muốn để cho Trương Bình phơi nắng cho đã. Dù sao chuyện cỏn con như thế này, các vị đại nhân nhất định cũng sẽ không để tâm đâu. Để hắn phơi nắng đến trưa rồi kêu hắn vào. Các vị đại nhân đều bận rộn với công vụ, có lẽ chẳng hơi đâu để ý đến chuyện nhỏ nhặt này. Thế thì bảo hắn ta mai lại đến, cứ thế lặp đi lặp lại cho hắn phơi nắng mấy ngày luôn.

Thế nhưng không ngờ Lai lang trung lại nhớ chuyện này, chủ động hỏi gã. May mà Tiết Giảo sớm đã chuẩn bị câu trả lời đâu ra đấy, gã trơn tru đáp lại: “Bẩm đại nhân, tên Trương Bình đó chưa từng cùng thuộc hạ đến đây. Hắn phóng túng chơi bời, lúc thuộc hạ đến Nghi Bình, hắn cũng chẳng ở trong huyện, đang ở nơi khác đi chơi xuân ấy ạ. Thuộc hạ chờ hắn hai hôm, hắn mới trở về, do đó dù có ra roi thúc ngựa cũng chỉ có thể đến được đây tối hôm qua. Hắn cũng không ở trong dịch quán, thuộc hạ không biết hắn ở đâu. Thuộc hạ có nói hắn sáng nay đến đây sớm, đợi rồi lại đợi cũng chẳng thấy người đâu.”

Lai Thâm nhíu mày thật chặt nói: “Có lẽ không quen với kinh thành nên đi lạc đường cũng không biết chừng.”

Tiết Giảo vội vàng khom lưng nói: “Vậy để thuộc hạ chạy ra cửa xem thử, không được nữa thì sẽ ra đầu giao lộ đón, hoặc đi tìm hắn.” Rồi lại nghi hoặc thấp giọng lẩm bẩm, “Không đến mức đó đâu nhỉ, hình như vị Trương đại nhân này đã từng ở kinh thành cũng khá lâu, đều thuộc lòng các nơi.” Vừa nói vừa nhanh chân bước ra khỏi phòng làm việc, vội vàng men theo hành lang ra tiền viện nhưng rồi lại đánh vòng một cái đi ra từ cửa hông.

Mà thôi, cứ đi lòng vòng trên phố, uống chút trà vậy.

Trương Bình đứng ở dưới cây chờ rồi lại chờ, không biết bao nhiêu lần đến cửa hỏi rồi lại bị đuổi về chỗ cũ.

Hắn người vận quan phục, đứng nghiêm túc chỉnh tề, không thể tuỳ tiện ngồi xuống được. Mặt trời dần lên cao, chân Trương Bình sắp tê đến nơi thì chợt nhìn thấy đỉnh của một kiệu quan trong đám nghi trượng từ xa đi đến, vô cùng quen thuộc.

Trương Bình bất giác đi dọc theo con đường.

Môn vệ mở cửa ra, kiệu quan kia liền đi thẳng vào trong.

Trương Bình liếc nhìn, tuy rằng nhìn không thấy nhưng có thể tưởng tượng được hình dáng của người xuống kiệu kia.

Hắn tin chắc bản thân không nhận nhầm người.

Cửa lại bị đóng lại, Trương Bình lại đi về phía cửa lớn nhưng hắn còn chưa lại gần đã bị môn vệ xua tay nói: “Không có không có, đợi tiếp nữa đi.”

Trương Bình ngẩn người ra, sau khi nha môn đã điểm qua giờ mão mà Tiết Giảo vẫn chưa ló đầu ra thì hắn đã biết, tám chín phần là cố ý rồi.

Hắn không cảm thấy trên đường đi đã có chỗ nào đắc tội với Tiết Giảo, hai bên mời nhau ăn uống ở trọ. Tuy rằng những thứ Tiết Giảo mời đều có hơi đắt tiền, khiến hắn cảm thấy hơi ngại nhưng nói không chừng đều là chi phí công vụ. Trên đường đi rất là hoà thuận.

Vậy thì có lẽ là lúc ở Nghi Bình, bắt Tiết Giảo phải chờ đến hai hôm, làm gã có chút khó chịu rồi.

Nhưng Trương Bình nghĩ, đã có chuyện này, Lại bộ đã bảo Tiết Giảo đến đón hắn thì bản thân nhất định phải bước vào trong cánh cửa này.

Đợi, tiếp tục đợi vậy.

Trương Bình liền quay người, nghĩ có nên đi tìm sạp trà nào gần đây ngồi hay không.

Còn chưa quay trở lại chỗ cái cây to thì đột nhiên hắn nghe thấy một âm thanh: “Trương huynh?”

Trương Bình quay người lại, bỗng nhìn thấy Liễu Đồng Ỷ ngồi trên lưng ngựa không xa lắm đang nhìn hắn.

Trương Bình vừa quay đầu lại Liễu Đồng Ỷ đã lập tức xuống ngựa, gương mặt tươi cười kinh ngạc đến nghênh đón: “Trương huynh, quả nhiên là huynh. Sao huynh lại ở đây? A, có phải vì chuyện thăng chức mà đến không?”

Trương Bình gật gật đầu.

Liễu Đồng Ỷ lại hỏi: “Thế sao lại không vào?”

Trương Bình đáp: “Không có văn thư, vị đại nhân hướng dẫn chưa đến nên đứng chờ ở đây.”

Liễu Đồng Ỷ cười nói: “Ồ, Đặng đại nhân bây giờ chẳng có việc gì làm cứ thường xuyên nhắc đến Trương huynh mãi đấy. Đúng lúc hôm nay nha môn có việc nên tôi chạy đến đây một chuyến. Hay là Trương huynh vào cùng tôi đi. Người hướng dẫn chưa đến nhưng ti bộ phụ trách việc của huynh đâu thể nào đến một người cũng không có. Đi vào trong hỏi vẫn tốt hơn là cứ đứng ở đây.”

Trương Bình bèn nhìn thủ vệ, Liễu Đồng Ỷ lập tức chắp tay nói với thủ vệ: “Các vị, vị Trương đại nhân đây là Tri huyện mới nhậm chức của Huyện Phong Lạc Kinh triệu phủ, quả thực là phụng mệnh đến để nhận văn thư nhậm chức. Không biết có thể cho ngài ấy đi vào cùng tôi hay không?”

Đám người phụ trách đại môn của Lại bộ ai ai cũng đều biết Liễu Đồng Ỷ cả.

Cháu ruột của Bản bộ Thị lang Liễu Viễn đại nhân, cháu đích tôn của Tiên Liễu lão Thái phó, trạng nguyên khoa năm nay, hiện giờ đang nhậm chức ở Đại lý tự cách đây không xa.

Lúc Liễu Đồng Ỷ và Trương Bình chào hỏi nhau thì trong lòng mấy tên hộ vệ sớm đã đánh bình bịch, xem ra tên tiểu quan này thực sự có ô dù đây.

Đến cả môn lại cũng từ trong phòng gấp gáp chạy ra, không đợi mấy tên thủ vệ mở miệng đã vội cười nói: “Tự nhiên tự nhiên, hai vị mời vào.” Rồi lại cười thân thiết với Trương Bình, “Vị đại nhân đây đến là vì chuyện lên chức? Vậy là thuộc về bên Văn tuyển ti rồi, sau khi đi vào rẽ về bên trái, chính là nội viện đầu tiên. Thăng điệu khoa là cửa thứ hai hướng Đông ở trong viện, trước cửa có biển. Nếu tìm không thấy thì cứ hỏi người nào đó là được.” Bộ dạng như thể chỉ mới nhìn thấy hắn vậy.

Thủ vệ dắt ngựa cho Liễu Đồng Ỷ, Trương Bình cùng Liễu Đồng Ỷ bước vào bên trong. Liễu Đồng Ỷ nói: “Vừa hay tôi đi đến Kê huân ti, là tầng nằm sau viện của Thăng điệu khoa, vậy là có thể đi cùng Trương huynh rồi.”

Vừa nói vừa đi vào trong, vừa mới vòng qua tiền viện Liễu Đồng Ỷ bỗng nhiên thốt lên: “Ủa?”

Trương Bình cũng nhìn về hướng đó, chỉ nhìn thấy ba người đang đứng dưới hành lang không xa nói chuyện với nhau.

Nhìn thấy dáng nhìn nghiêng của một người trong số đó, Trương Bình không khỏi dừng bước lại.

Ừ, đúng là không nhận lầm người.

Liễu Đồng Ỷ buột miệng lẩm bẩm: “Bác ở đây, sao dượng cũng đến rồi?”
 
Chương 79


Thượng quan đang nói chuyện không thể mạo muội quấy rầy. Trương Bình nhìn Lan Giác dưới hành lang thêm lần nữa, đang muốn cùng Liễu Đồng Ỷ đi vào trong nội viện thì Lang trung Kê huân ti Phan Huyến đang nói chuyện với Liễu Viễn và Lan Giác đã nhìn thấy hai người họ, bèn nói: “Bên kia hình như là hiền chất Liễu Đoạn thừa của hai vị đại nhân thì phải.”

Liễu Viễn và Lan Giác cùng quay người lại nhìn. Tiểu lại dưới bậc liền vội vàng đánh mắt, ra hiệu với Trương Bình và Liễu Đồng Ỷ.

Trương Bình theo Liễu Đồng Ỷ dừng bước, hành lễ với ba người kia. Liễu Viễn nói: “Đã gặp rồi còn đứng ở đó làm gì?”

Lúc này Liễu Đồng Ỷ mới bước lên một bước: “Ba vị đại nhân nói chuyện, không dám đường đột làm phiền, do đó vẫn chưa chào hỏi, mong được thứ tội.” Trương Bình làm theo y, lại hành lễ với ba người kia.

Phan Huyến cười nói: “Đúng rồi, Đại lý tự đã thông báo qua, hôm nay vì một số việc mà đến tìm bản ti. Hoá ra lại để Liễu Đoạn thừa qua đây. Vừa hay Lan đại nhân cũng ở đây, thật quá khéo đi.” Rồi lại liếc nhìn Trương Bình đứng phía sau Liễu Đồng Ỷ, ông có chút hoài nghi, một Huyện thừa địa phương tòng thất phẩm sao lại xuất hiện trong Lại bộ? Đương muốn tính hỏi thì Lan Giác đã cười mở lời: “Thật quá trùng hợp.” Tia nhìn lướt qua Liễu Đồng Ỷ, rơi xuống Trương Bình: “Càng trùng hợp hơn nữa là hôm nay ngươi cũng ở đây. Hai người các ngươi cùng đến à?”

Trương Bình khom lưng đáp: “Hạ quan đến nhận văn thư điều nhiệm.”

Liễu Đồng Ỷ cũng khom lưng: “Hạ quan gặp Trương Huyện thừa ở bên ngoài, thế là cùng ngài ấy vào đây luôn.”

Liễu Viễn nói: “Ồ, ngươi chính là Tri huyện tân nhậm của Huyện Phong Lạc Trương Bình à?”

Lần này vì chuyện Vương Nghiên và Phùng Thai vì giành án mà cự cãi lẫn nhau, hoàng đế đã điều ái đồ của Đào Châu Phong đến làm Tri huyện Kinh triệu phủ để giảng hoà, Liễu Viễn có nghe nói đến. Nghe đến cái tên Trương Bình này, ông luôn cảm thấy thật quen tai.

Sau đó hoàng đế lại vì việc thăng chức cho một Tri huyện mà hạ thánh chỉ, Đại lý tự lại gửi công trạng tham gia phá một vụ án phản nghịch nào đó của Trương Bình đến Lại bộ, thêm vào trong hồ sơ của Trương Bình, minh chứng hắn xứng đáng với sự phong thưởng của thánh chỉ. “Biết phá án” – từ khoá quan trọng cuối cùng cũng làm Liễu Viễn nhớ lại. Tên Trương Bình này chính là kẻ đã tham gia trợ giúp phá vụ án tiến sĩ khoa thi năm nay bị giết hại, lật lại án cũ Trần Tử Thương, nhờ đó mà được công danh, trở thành môn sinh của Đào Châu Phong – ái đồ của phụ thân.

Hoá ra chính là hắn ta.

Vừa mới lên nhậm chức, Đại vương liền bị lưu đày đến địa phận hắn quản lý. Lúc Cung Thượng thư rời kinh cũng sẽ đi qua huyện giới của hắn ta.

Vì lý do này nên Liễu Viễn không thể không đích thân dặn dò thuộc hạ, nhất định phải lấy danh nghĩa đến nhận văn thư nhậm chức mà bảo hắn đến Lại bộ một chuyến.

Liễu Viễn quan sát Trương Bình một lát, thấy hắn vẫn rất bình tĩnh.

“Chưa có người dẫn ngươi vào đây à?”

Trương Bình lại khom người: “Nhận được truyền triệu hướng dẫn vào thành, trên đường đi đã được chiếu cố rất nhiều. Hôm nay là hạ quan tự đến.”

Liễu Viễn khẽ gật gầu: “Ồ, mặc dù là Văn tuyển ti của bộ ta thăng điệu nhưng ngươi nên đi đến Nghiệm phong ti.”

Trương Bình lạy một cái: “Đa tạ đại nhân chỉ điểm, hạ quan sẽ đi qua đó.”

Liễu Viễn lại hỏi: “Ngươi ở hành quán có quen hay không?”

Kỳ thực việc Trương Bình được Liễu Đồng Ỷ dẫn vào, đến một người dẫn đường cũng không có thì ba người Lan Giác, Liễu Viễn và Phan Huyến nhìn qua một cái liền đã biết. Với thân phận của ba vị đại nhân đây, chuyện nhỏ nhặt vặt vãnh này không đáng để vào mắt. Nhưng Liễu Viễn là thanh quan, rất xem trọng danh dự. Lan Giác có mặt ở đây, mới nãy lại chừng như có mà lại như không thoáng nhắc qua, nên chuyện này ông nhất định càng phải hỏi xem.

Hoá ra Liễu Thị lang lại là người ân cần hoà nhã thế này, còn quan tâm mình ăn ở có tốt hay không nữa. Trương Bình cúi đầu nói: “Hạ quan vẫn chưa ở hành quán, hiện đang ở tạm một căn nhà cho thuê ở phường Minh Hoa.”

Hai mày Liễu Viễn khẽ nhíu lại. Liễu Đồng Ỷ quay đầu nhìn Trương Bình: “Hả? Vậy tốt quá. Tôi đang ở đường Nghi Hoà, cách phường Minh Hoa không xa. Nếu Trương huynh không chê phòng xá sơ sài, vậy hai ngày này đến chỗ tôi ở đi. Một mình tôi ở cảm thấy quạnh quẽ lắm.”

Lan Giác khẽ cười nhìn Liễu Đồng Ỷ: “Ngươi không ở trong đại trạch nữa rồi à?” Thuận thế đỡ Liễu Viễn bước xuống một bậc.

Liễu Đồng Ỷ cười hi hi đáp: “Dạ, chỗ đó gần nha môn hơn, sáng có thể ngủ trễ một tẹo.”

Liễu Viễn nhíu mày: “Hơn nữa cũng không có ai quản, tha hồ mà làm trò quậy phá, dù sao cũng đã có bổng lộc rồi.”

Liễu Đồng Ỷ cúi đầu. Phan Huyến nói: “Nếu tiểu Liễu Đoạn thừa đây mà còn bị gọi là nghịch ngợm thì trên đời này chẳng còn thiếu niên nào nghiêm túc nữa rồi.”

Liễu Đồng Ỷ chắp tay vái: “Đa tạ Phan bá phụ khen ngợi.”

Liễu Viễn mặt lạnh nói: “Cả bá phụ mà cũng gọi ra khỏi miệng, có còn chút quy tắc nào của nha môn không hả? Mau nhận lỗi với Phan đại nhân đi.”

Liễu Đồng Ỷ lập tức lạy một cái nữa: “Hạ quan nhất thời quá khích, mong Phan đại nhân tha tội bất kính này.” Phan Huyến vội vã nói không sao. Liễu Đồng Ỷ lại lạy nói: “Lúc các vị đại nhân đang nói chuyện lại mạo muội xuất hiện, sau đó lại nói mấy chuyện cá nhân, nhiều lần làm trái nghi quy, mạo phạm quá nhiều, không dám cầu tha thứ. Tạm thời xin được phép cáo lui trước, sau đó sẽ lại đến nhận tội.”

Liễu Viễn sầm mặt nói: “Tha cho ngươi lần này, lui xuống đi.”

Trương Bình cùng Liễu Đồng Ỷ hành lễ lui xuống. Trước khi rời đi lại nhìn nhìn Lan Giác, Lan Giác khẽ cười với hắn một cái, cũng không nói gì.

Đi đến một chỗ khác của hành lang, một Tiểu lại đứng đón hắn, sau dẫn Trương Bình đến Nghiệm phong ti. Liễu Đồng Ỷ phải đến Kê huân ti chờ Phan Lang trung trở về, không thể đi cùng nên cáo biệt với Trương Bình, rồi lại hỏi hắn rốt cuộc ở chỗ nào của phường Minh Hoa, hẹn buổi trưa cùng nhau đi uống rượu, ăn uống.

Trương Bình nói cám ơn rồi tạm biệt Liễu Đồng Ỷ, cùng với Tiểu lại đi đến Nghiệm phong ti trước.

Tiết Giảo uống một tuần trà ở ngoài phố, cảm thấy thoải mái vô cùng, nhìn mặt trời, chuẩn bị ban ân xá, không tính toán với Trương Bình nữa, dẫn hắn vào nha môn thôi.

Khi gã ra bên ngoài đại môn lại không thấy bóng dáng Trương Bình đâu. Không lẽ chờ lâu quá sốt ruột nên bỏ đi rồi? Không ngu xuẩn đến thế chứ?

Tiết Giảo nhìn trái nhìn phải, môn vệ nói: “Thừa điển có phải đang tìm tên tiểu huyện quan kia không? Đã làm xong việc về rồi.”

Tiết Giảo ngơ người. Làm xong việc về rồi?

Môn phòng khoanh tay thong thả đi lại nói: “Tiết Thừa điển, tên tiểu huyện quan kia có lai lịch thế nào thế? Hình như cũng khá quảng giao đấy. Đầu tiên là đi vào cùng với người cháu đang làm ở Đại lý tự của Liễu Thị lang. Lúc đi ra lại được Đàm Thư lệnh tiễn, còn chuẩn bị cho hắn xe ngựa nữa. Nghe nói lúc vào trong có nói chuyện với Liễu Thị lang, Lan Thị lang bên Lễ bộ dường như cũng có quen hắn ta.”

Tiết Giảo ứng phó qua quýt vài câu rồi vội vàng đi vào trong. Vừa mới vào trong viện thì một đồng liêu đã đi đến trước mặt, trong ánh mắt tràn ngập vẻ cảm thông: “Lai đại nhân bảo sau khi ngài trở về thì lập tức đến gặp ngài ấy.”

Đầu óc Tiết Giảo kêu ù ù, hai chân nhũn ra.

Trương Bình ngồi xe ngựa của Lại bộ về ngõ Thuỷ Bào, phu xe ngàn vạn lần không nghĩ một quan huyện vào kinh lãnh phong lại ở cái nơi thế này. Trương Bình phải quả quyết hai ba lần “chính là chỗ này” thì xe mới chịu dừng lại.

Mấy người bán hàng rong rảnh rỗi ngồi ở đầu ngõ nhìn thấy một cỗ xe quan, còn cho rằng chắc là đến bắt phạm nhân. Sau khi ló đầu ra quan sát hồi lâu, nhận ra quan vân phục sắc của Lại bộ thì sự hào hứng giảm đi hơn nửa. Họ nhìn tiếp thì thấy một tiểu quan vận phục sắc không biết là bao nhiêu phẩm từ trong xe đi xuống. Giống hệt như lúc nghểnh cổ chờ xem vũ hí, trên sân khấu đột nhiên nhảy ra một tên mũi trắng tóc đuôi sam ngước lên trời, vốn đã thất vọng nhưng cũng không khỏi  thích thú.

Vài người bán hàng lúc sáng này đã nhìn thấy Trương Bình đi ra khỏi ngõ, cũng đã sang chỗ chủ trọ dò la lai lịch của hắn liền thì thầm kháo nhau với những người khác.

Tình này cảnh này, quả thật phu xe không cách nào mở miệng ra nói với Trương Bình rằng, mấy ngày này sẽ phục vụ hắn, cứ tuỳ ý sai khiến. Trương Bình chắp tay nói cảm ơn, rồi mời gã quay về. Phu xe bèn thuận nước đẩy thuyền, quay đầu ngựa lại, biến mất không dấu vết.

Trương Bình về phòng cởi quan phục ra, vừa mới bước ra cửa liền nhìn thấy hai hạ nhân của Liễu phủ đi đến, nói phụng mệnh của tiểu công tử đến lấy hành lý của Trương Bình.

Hai gia bộc đi xe ngựa đến, nói là chở Trương Bình đến tửu lâu trước, rồi sau đó sẽ đem đồ của hắn đưa đến tiểu trạch của Liễu Đồng Ỷ sau. Trương Bình khéo léo từ chối, cách giờ hẹn với Liễu Đồng Ỷ vẫn còn chút thời gian, đủ để gã đi bộ đến.

Xe giá mà hai gia bộc sử dụng vốn là xe người ở hay dùng. Trương Bình không muốn ngồi họ cũng không làm khó. Trương Bình đợi họ đi rồi, tính tiền phòng xong mới rời khỏi tiểu viện.

Trời trong văn vắt, Trương Bình đón nắng chậm rãi thả bước, trong lòng cũng vô cùng thoải mái.

Hắn cảm thấy chuyến này vào kinh vô cùng tốt đẹp. Ngoại trừ việc Tiết Giảo dường như không được vui vẻ lắm thì những người hắn gặp đều vô cùng ân cần. Mới nãy ở Nghiệm phong ti, Lai Thị lang đích thân cầm văn thư, quan phục đưa cho hắn, còn dặn đi dặn lại sau khi nhậm chức nhất định phải thận trọng, bảo đảm an ổn thái bình.

Sự quan tâm hỏi han này khiến Trương Bình cảm thấy lòng mình ấm áp dào dạt như mặt trời trên cao vậy.

Bên đường có xe hàng rong bán cam quýt màu đỏ au trông rất ngon mắt, được để trong từng sọt nhỏ một. Trương Bình nhìn nhìn, bất giác suy nghĩ có thể ngày mai phải rời kinh rồi, có nên mua ít trái cây, tối nay đến thăm Lan Giác và thầy hay không.

Nhưng mà, chỗ ở của Liễu Đồng Ỷ đều cách rất xa phủ đệ của Lan Giác và phủ đệ của Đào Châu Phong. Ở chỗ của Liễu Đồng Ỷ thì không tiện về trễ.

Trương Bình cứ suy nghĩ, đứng hồi lâu ở chỗ xe bán cam quýt. Chủ sạp xe nhìn bộ dáng thư sinh nghèo khổ của hắn liền nói: “Công tử, có mua không? Sẽ tính rẻ cho cậu một chút.”

Trương Bình liền mua một sọt trước, ngẫm nghĩ nên mua thêm cái gì nữa để tặng Liễu Đồng Ỷ coi như cảm ơn.

Đương lúc tính tiền, chủ sạp xe chợt nói với Trương Bình: “Công tử, thối tiền cho cậu này, mau đi đi, bằng không thì cứ quẹo ở chỗ kia.”

Trương Bình ngẩng đầu lên, chỉ nhìn thấy vài người đang tiến đến xe cam quýt này, điệu bộ vô cùng gấp gáp.

Trương Bình lùi sang một bên, nhìn thấy mấy người đó đã đi đến chỗ xe cam quýt, khoa tay múa chân gì đó với chủ sạp, hình như bọn họ muốn mua hết quýt trên xe, vừa nói vừa móc túi tiền từ trong ngực ra, quả thực đúng là muốn mua rồi.

Nhìn kỹ lại thì mấy người này ăn mặc như gia bộc, mí mắt hơi sưng, thần sắc sợ hãi, chắc tám chín phần chủ nhân trong nhà bạo vong, không kịp trở tay nên tạm thời chạy đi mua hoa quả dùng trong đám tang. Chủ sạp nhất định cũng nhìn ra được, sợ Trương Bình chê xui xẻo nên mới bảo hắn đi đi hoặc đi đường vòng.

Nếu là gia đình trong kinh thành thì cũng không đến mức thế này. Nhưng khẩu âm lại không khác mấy so với giọng quan thoại của kinh thành.

Là người ở vùng lân cận kinh thành.

Chủ sạp nói với mấy người đó: “Quýt nhiều lắm, sợ các vị không tiện cầm về, để tôi trực tiếp đưa đến tận chỗ vậy.”

Người trả tiền ôm quyền nói: “Đa tạ, đa tạ. Nhà ở ngõ Ý Nam, đường lớn Song Thành ở phía trước, viên ngoại lão gia họ Diêu, hôm qua vừa mới đến kinh thành thế mà đột nhiên lại…” rồi nhất thời nghẹn ngào.

Chủ sạp nói: “Đời người vốn rất nhiều chuyện vô thường, lão viên ngoại đã về miền cực lạc, vạn mong đừng quá đau buồn. Kẻ hèn này ở thành Đông Giao, trong nhà có mấy phòng lớn, có trữ các loại trái cây khô hoa quả tươi của các vùng Nam Bắc. Những người bán trái cây ở chợ lớn trong thành đều lấy của tôi bán cả. Hôm nay do rảnh rỗi nên mới tự mình kéo xe quýt đem bán chơi chơi. Nếu còn muốn hoa quả gì chỉ cần nói với tôi là được.”

Tên gia bộc kia cảm kích nói: “Vậy thì thật quá tốt rồi.” Vừa tính rời đi thì Trương Bình đột nhiên bước lên một bước, chặn lại một người trong đám đó.

“Dám hỏi chư vị là nhân sĩ Huyện Phong Lạc?”

Người đàn ông kia ngẩn ra hỏi: “Sao túc hạ lại biết?”
 
CHÚ Ý !!!
Các đạo hữu nhớ thêm TÊN CHƯƠNG và THỨ TỰ CHƯƠNG ở ô phía trên phần trả lời nhanh. Như vậy hệ thống mới tạo được DANH SÁCH CHƯƠNG.
Cập nhật chức năng ĐĂNG TRUYỆN và THÊM CHƯƠNG MỚI trên web Diễn Đàn Truyện tại: https://hoinhieuchu.com
Back
Top