Cập nhật mới

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
[Diendantruyen.Com] Trương Công Án

Trương Công Án
Tác giả: Đại Phong Quát Quá
Tình trạng: Đang cập nhật




Giới thiệu:

Lan Giác lễ bộ thi lang tình cờ gặp phải Trương Bình tên học trò nghèo đi thi, dẫn đến một đống chuyện rối tung khiến Trương Bình từ một thư sinh nghèo đến một viên quan nhỏ rồi cuối cùng thành luôn thừa tướng triều đình.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 1


QUYỂN 1: HOÀNG THỬ LANG MÙA XUÂN NĂM ĐÓ

Trời Kinh Thành trong xanh, chưa có mưa phùn, sắc trời dịu nhẹ. Lễ bộ Thị lang Lan Giác ra khỏi phủ đệ từ cửa ngách.

Mấy ngày gần đây Lan thị lang bực bội muốn chết, kỳ thi càng đến gần thì mấy kẻ cầm thứ này đem thứ nọ đến phủ y cũng ngày càng đông, nhưng dịp này triều đình đang muốn chỉnh đốn lại tác phong của quan lại, trong sớ vạch tội của mấy vị quan liêm khiết trong Ngự Sử Đài, cuốn nào cuốn nấy cũng chễm chệ tên y. Đương nhiên là nói y nhận hối lộ, khoa trương hơn thì bảo y luồn cúi, ăn hối lộ phá kỷ cương thành thói, chuyên lấy việc công thu lợi riêng; nếu như đảm trách kỳ thi nhất định sẽ làm mấy chuyện có lỗi này nọ với hoàng thượng và xã tắc, là gốc rễ của sự thối nát của quốc gia, đục khoét rường cột của triều đình.

Hôm nay có người bỏ bớt tên người trong nội dung chi tiết của mấy quyển tấu chương, chép thành một chồng, gửi đến Lan Giác, mặt trên cùng còn dán một tờ giấy viết bằng mực đỏ chói: “Trẫm tin Lan khanh, nhất định chọn ra nhân tài cho triều đình, xử lý tốt kỳ thi tuyển này.”

Nét bút sắc gọn, nhưng vẫn còn vương vài nét trẻ con, là đích thân hoàng thượng ngự bút.

Lan Giác bê nguyên chồng giấy này chỉ cảm thấy đau cổ tay.

Cơ bản mà nói thì tội trạng trong mấy bản sớ vạch tội này y đều phạm qua hết, nhưng cụ thể mà nói thì thổi phồng quá rồi.

Nhưng phàm đã khoác lên mình áo quan, chuyện này ai lại không dính chút ít cơ chứ, cho dù là mấy kẻ được gọi là quan liêm cao ngạo khoác lác kia cũng không biết sạch sẽ được bao nhiêu.

Chỉ có điều đã cầm cái đống này rồi, thì kỳ thi lần này nhất định phải rõ ràng sạch sẽ, không thể để dính chút mùi tanh hôi nào.

Tiểu hoàng thượng còn chưa qua mười lăm tuổi, vừa mới đích thân chấp chính, bản lĩnh đã từ từ lộ ra, từ nay về sau phải càng phải đề cao cảnh giác.

Lan thị lang đem đống giấy để lên bàn, bên phải đầu cũng bắt đầu nhưng nhức.

Vàng bạc châu báu đồ chơi quý giá nườm nượp dâng lên tận mắt thế mà không được cầm. Bỏ đi, cẩn thận chút mà lấy lòng người vậy.

Trong lòng Lan thị lang ấm ức vô cùng, y thay bộ thường phục, một mình đi ra ngoài để giải tỏa bớt sự khó chịu này.

Khi đi ra khỏi con hẻm dài, Lan Giác nhìn thấy một người đang đứng dưới gốc cây to bên đường nhìn chòng chọc vào Lan phủ.

Người đó khoảng chừng hai mươi tuổi, vóc người khá cao, gầy trơ xương, mặc một bộ trường bào cũ rách màu xám, sắc mặt vàng vọt, hai má hóp lại, lông mày nhăn nhăn, đôi mắt như chim đại bàng chết đói nhìn chòng chọc vào cổng nhà Lan đại nhân.

Lan đại nhân cảm thấy người này nhất định không phải đến để tặng quà cho y. Y lập tức nhớ lại một lượt mấy chuyện thất đức mà mình đã làm, không nghĩ là có chuyện nào lại liên quan đến con người này.

Y lại nhớ mấy chuyện phong lưu hồi trẻ mình từng làm qua, cứ cho là y làm chuyện phong lưu đầu tiên vào năm mười sáu tuổi thì cũng không thể chui ra đứa con trai lớn thế này.

Nhưng cái bộ dáng nhìn chăm chăm vào Lan phủ của người thiếu niên kia quả thực khiến Lan đại nhân vô cùng hoảng sợ, đúng lúc đó y nhìn thấy đối diện đường có ba bốn thư sinh đi ngang qua. Mấy người họ quay đầu nhìn người kia thì cười vài tiếng, bàn tán mấy câu nhỏ to gì đó.

Lan Giác đi qua đường, mấy tên thư sinh đó đến trước một quán trà, còn đang khách sáo nhường nhau vào trong thì Lan Giác đã tiến lên trước, chắp hai tay nói: “Các vị huynh đài đây cũng tham gia kỳ thi năm nay ư?”

Hai bên chào hỏi nhau một bận rồi cùng bước vào quán, lựa bàn ngồi xuống uống trà, bàn tán mấy chuyện về cuộc thi. Thư sinh áo xanh lam trong đám nói: “Nghe nói năm nay cháu của Liễu lão thái phó cũng tham gia, xem ra một chỗ trong tam giáp đã có chủ rồi, chỉ còn hai chỗ để tranh thôi.”

Một vị thư sinh mặc áo xanh lục nói: “Tôi tự lượng sức mình, chỉ mong có tên trong top ba mươi, dù cho đứng cuối cũng vui lòng, vị trí tam giáp đó tôi không dám mơ tưởng tới, kẻ nào đỗ cũng chẳng quan tâm.”

Thư sinh áo xanh lam cười như không cười: “Chỉ tiếc là chúng ta không thể đầu thai, không mang được họ Liễu và họ Vương, cũng không có tiền tài quyền thế gì để có thể bước vào cổng phủ của Lan thị lang.”

Lan Giác xuôi theo lời hắn nói: “Cái vị Lan thị lang ấy, nói không chừng cũng chẳng giàu có gì như lời đồn đâu, mới nãy tôi nhìn thấy có một anh bạn gầy gò đen đúa đứng trước cổng của phủ thị lang, nhìn tới lui cũng không giống loại có tiền có thế.”

Mấy vị thư sinh đều cười phá lên, thư sinh áo xanh lam nói: “Ông anh à, người huynh nhìn thấy không phải là kẻ cao ốm mặc áo xám rách rưới, trông có vẻ quê mùa cục mịch đấy chứ?”

Lan Giác gật đầu: “Đúng rồi, đúng rồi.”

Thư sinh áo xanh lam cười ha ha: “Tên đó dù có muốn vào phủ Thị lang thì sợ rằng mấy con sư tử đá cũng không cho hắn vào. Xem ra ông anh đúng là mới tới Kinh Thành rồi, chưa nghe qua tiếng tăm của kẻ đó. Gã tên là Trương Bình, là sĩ tử quận Tây Xuyên, nghe nói không cha không mẹ, lớn lên trong miếu Hoàng Thành, học trong một trường miễn phí do thân sĩ nông thôn quyên góp, nhưng lại có thể lọt vào danh sách những người được tiến cử vào Kinh Thành dự thi của quận Tây Xuyên. Chỉ tiếc là do dính vào một chuyện xấu mà hủy hoại cả danh tiếng. Buồn cười nhất ấy là gã lại mở một sạp mì trong chợ, làm mất hết mặt mũi của người đọc sách chúng ta. Các sĩ tử trong Kinh tính cả những đồng hương của gã cũng chẳng có mấy người qua lại với gã.”

Lan đại nhân lắng nghe cảnh đời hẩm hiu này, trong lòng có chút trống rỗng, lại không nhịn được mà nhớ lại những chuyện đã làm sau lưng.

Có lẽ chưa từng khiến ai phải tan nhà nát cửa… Lan đại nhân nghĩ ngợi đầy phân vân.

Thư sinh áo lam nhìn thấy y sững người, liền nói tiếp: “Ông anh cũng cảm thấy chuyện bán mì là không thể tưởng tượng nổi ư?”

Lan Giác nói: “Quả thật không nghĩ học trò sẽ làm chuyện này.”

Thư sinh áo nâu tiếp lời, bởi vì tên Trương Bình này đã đi đến bước đường cùng, nghe nói gã vừa đến Kinh Thành thì thuê một gian phòng trọ tồi tàn, chủ trọ làm nghề bán mì, cảm thấy Trương Bình là kẻ thật thà chân chất nên không thu tiền trọ, còn cho gã ngày ba bữa cơm, chỉ yêu cầu gã ngồi tính sổ trong quán. Chủ tiệm đó có một cô con gái, cũng đi ra đi vào quán với Trương Bình. Ông chủ tiệm có ý muốn Trương Bình ở rể nhưng ai ngờ gã lại nằng nặc không chịu, còn cô gái kia suýt chút nữa là tự vẫn rồi.

Lan Giác nói: “Chuyện này ai đúng ai sai không tiện nói, tuy chủ quán có ơn với Trương Bình nhưng nếu người ta không thích con gái ông ta mà cứ ép buộc cưới cũng không được rồi.”

Thư sinh áo xanh lam nói: “Ông anh thật nhân hậu, Trương Bình là chê chân của cô gái đó có tật, hắn nghĩ nếu như bản thân có ngày đỗ cao thì người vợ như vầy chẳng phải quá mất thể diện sao. Lúc cô gái đó tự vẫn hắn cũng chẳng thèm đến thăm. Chuyện này truyền đi khắp nơi, từ đó mọi người đều xem thường nhân cách của gã, danh tiếng của gã coi như tiêu rồi. Còn có mấy kẻ nhiều chuyện rảnh rỗi vãi, bảo là nếu như gã đỗ cao thì sẽ bóc trần chuyện này trước mặt Hoài Vương. Chỉ nói gã chế nhạo người thọt thì cả đời này của gã cũng đừng mong ngóc đầu lên được.”

Lan Giác ngậm cười ngồi nghe, Hoài Vương vốn là hoàng thúc của đương kim hoàng thượng, trong tay nắm binh quyền to lắm, trước khi hoàng thượng tự mình chấp chính thì ông ta đã từng tạm nắm quyền. Lúc Hoài Vương còn trẻ, cưỡi ngựa bị ngã gãy chân nên chân phải hơi thọt tí.

Giữa các sĩ tử trước giờ luôn có sự đấu đá tranh giành kịch liệt, xem ra tên Trương Bình này đụng phải cục xui to rồi, thiên hạ tính mượn chuyện này chèn ép hắn đây mà.

Trong chốc lát Lan Giác hơi do dự, nói: “Có thể Trương huynh này có nỗi khổ bất đắc dĩ nào đó, không dám vướng víu chuyện gia đình thì sao.”

Mấy tên thư sinh kia đều cười: “Xem ra ông anh thích xem mấy quyển truyền kỳ đang nổi của Hồng Diệp Sinh ở Tây Sơn viết quá đi, đoán trúng thắc mắc của giang hồ rồi.”

Sau khi nói lời từ biệt với mấy cậu học trò và ra khỏi trà quán, Lan Giác thong thả trở về phủ, suy nghĩ có nên sai người điều tra lai lịch của tên Trương Bình này không, nhưng cũng cảm thấy làm như vậy thì hơi đa nghi quá.

Hắn không còn đứng dưới bóng cây ngoài Lan phủ nữa, Lan Giác hướng mắt về phía cái cây, quyết định trước hết cứ đợi xem sao.

Sau khi vào phủ, Lan Giác hỏi qua loa tổng quản nội phủ dạo này có người nào đáng nghi không. Tổng quản đáp, đều là những người đến tặng lễ vật, không có gì đáng nghi.

Nói như vậy, Lan Giác lại cảm thấy đáng nghi rồi.

Những người gác cổng ở phủ y rất cẩn thận, chỉ một con ruồi lượn lòng vòng trước cửa họ cũng nghi liệu trên chân con ruồi có tẩm độc của thích khách hay không, không có lý gì lại không chú ý đến Trương Bình.

Tổng quản lại nói: “Lúc lão gia đi ra ngoài, chúng tôi có canh chừng ở phía sau, nhìn thấy một thư sinh nghèo đứng trước cổng, cho nên đặc biệt chú ý một lúc, đoán chỉ là một thằng nghèo rớt mồng tơi không tặng nổi quà, đứng một lúc thì cũng đi mất.”

Lan Giác ồ một tiếng rồi không nhắc đến chuyện này nữa.

Kỳ thi càng đến gần thì Nha Môn Ti Bộ lại càng thêm đủ thứ chuyện, trong triều liên tiếp có nhiều chuyện lớn, Hoài Vương sắp cưới vợ, sắp đến thọ thần của Thái Hậu, mấy ngày liền Lan Giác bận đến nỗi tối khuya mới về đến phủ.

Chạng vạng hôm nay y về phủ khá sớm, cởi bỏ quan phục ra rồi khoác lên mình bộ áo hơi cũ, thong thả ra khỏi phủ.

Trên đường, người đi qua đi lại phần lớn đều là áo dài khăn xếp, một cảnh tượng thường thấy lúc sắp đến gần ngày thi. Lan Giác rẽ vào một con đường nhỏ, đến chỗ một cái lều sơ sài dựng từ bốn cây sào trúc dưới bức tường cũ, thấy khói trắng bốc lên nghi ngút từ bếp lò trong lều.

Một thiếu niên gầy gò đang mở nắp nồi, cầm muỗng to khuấy khuấy bên trong, bên ngoài bộ áo dài thô xám là cái tạp dề cũ nát, giống như cô hồn chui ra từ mấy truyện ma quỷ vậy.

Lan Giác đi đến trước lều nói: “Ông chủ, cho một tô mì.”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 2


Người thanh niên kia nhướng mí mắt: “Chỉ có mì chay thôi.”

Lan Giác liếc nhìn một lượt, thấy một cái sọt nông đặt trên bàn, bên trong rõ ràng còn bốn năm quả trứng gà.

“Cho thêm một quả trứng luộc nhé, luộc chín một chút.”

Thanh niên ờ một tiếng, có vẻ không thích cho thêm trứng vào nhưng cũng chẳng muốn nhiều lời.

Cả dãy bàn thấp trống không cho thấy việc buôn bán của quán mì này không được đắt khách cho lắm. Lan Giác chọn bừa một cái bàn ngồi xuống, trên bàn có một lọ giấm, một đĩa ớt, còn có một đĩa nhỏ đựng mấy tép tỏi ngâm đường.

Lan Giác nói: “Anh chủ là người vùng Tây Bắc à, ở đó ăn mì lúc nào cũng thêm giấm vào, ở Kinh Thành rất ít khi ăn như vậy.”

Người kia ừ một tiếng, rắc bột mì lên thớt: “Người huyện Nam Trì quận Tây Xuyên.”

Lan Giác cười nhẹ: “Huyện Nam Trì, chính là nơi sản xuất trà Đại Diệp ấy hả? Nghe nói trà ấy đun trong sữa bò rồi thêm ít muối vào là ngon nhất, trước đây một số người Hồ rất thích cách uống như vậy đấy.”

Thanh niên kia cầm lấy cái chày cúi đầu cán bột, lạnh nhạt đáp: “Chỗ đó mùa đông rất lạnh, gió còn rắn hơn dao, uống loại trà Hồ đó có thể chống rét. Lúc lạnh nhất, còn phải thêm vài giọt rượu vào nữa.”

Lan Giác nói: “Đúng, rượu miền Tây mạnh lắm, không giống như rượu Kinh Thành chỉ được cái thơm thôi”.

Người kia không tiếp lời, cứ cúi đầu cắt mì, tiếng dao chạm xuống bàn nghe lạch cạch.

Mì vừa mới được cho vào nồi thì một cậu học trò vội vã chạy ập vào quán, kêu um lên: “Trương Bình của tôi ơi, huynh vẫn còn bán mì à. Đã nói hôm nay có chuyện hay ho muốn giới thiệu cho huynh mà, mau mau thu dọn đi, vẫn còn nửa canh giờ nữa, người ta sắp đến rồi đấy.”

Trương Bình rắc rau cắt thành sợi vào trong nồi, rồi lau hai tay vào tạp dề: “Đợi bán xong tô mì này đã.”

Cậu học trò kia lại kêu lên: “Đến nửa văn tiền huynh còn tiếc không nỡ bỏ à.”

Trương Bình thản nhiên: “Bỏ thì lấy gì mà ăn.”

Cậu bạn than thở rồi kéo một cái ghế đẩu ngồi xuống: “Vì mấy đồng bạc lẻ này mà huynh lại bỏ món tiền lớn, đó mới gọi là lợi bất cập hại đấy.”

Lan Giác ngồi kế bên nhìn ngó, đợi cậu học trò kia ngồi yên xong mới bắt chuyện: “Ông anh đây là…”

Vị thư sinh kia trưng ra một bộ mặt thân thiện dễ gần, lập tức chắp tay nói: “Cảm ơn đã quan tâm, tiểu đệ Trần Trù, dám hỏi họ tên huynh đài là gì, huynh cũng đến tham dự kỳ thi năm nay à?”

Lan Giác cười: “Đúng vậy, tiểu đệ Tào Ngọc, đến từ Quận Nam, vừa mới tới Kinh Thành không bao lâu.”

Kỳ thực Lan đại nhân cũng không còn trẻ nữa, nhưng do chăm sóc bản thân quá kỹ nên trong triều các đồng liêu cứ luôn khen y nhanh nhẹn như thanh niên đôi mươi, thành thử khi cùng tán chuyện với mấy cậu học trò non này, y tự xưng tiếng đệ cũng chẳng đổi tí sắc mặt nào.

Trần Trù quả nhiên không hề nghi ngờ, vui vẻ nói: “Thật là trùng hợp, không biết Tào huynh ở đâu. Tiểu đệ và Trương huynh đây là sĩ tử của quận Tây Xuyên, sau này gặp gỡ nhau nhiều, cùng bàn luận đạo lý văn chương nha.”

Lan Giác ngạc nhiên hỏi: “Hả? Ông chủ quán đây hóa ra cũng là sĩ tử à?”

Trần Trù sững lại, nhìn Trương Bình, sắc mặt lộ ra vẻ ngượng ngùng hết hồn: “À, vâng… gia cảnh Trương huynh nghèo lắm, cơ mà học vấn của huynh ấy rất cao, trong cuộc thi tuyển của quận Tây Xuyên chúng tôi huynh ấy đứng thứ ba đấy, có mấy người thường hay khinh huynh ấy, Tào huynh đừng tin nhé.”

Lan Giác nói: “Sĩ nông công thương đều là nền tảng của xã tắc, vốn không có địa vị cao thấp. Nghe nói mấy đại quan trong triều, lúc chưa giàu có đã từng bán chữ bên đường, ở trong miếu rách đình hoang. Bán mì và bán chữ có khác biệt gì đâu cơ chứ? Có rất nhiều người viết được chữ đẹp nhưng vẫn không làm được tô mì ngon như Trương huynh đây nè.”

Những lời nói này của Lan Giác phần nhiều đều là thật lòng, bởi trong số những người ngày xưa phải bán chữ bên đường kia cũng có y mà. Lúc trẻ Lan Thị Lang phải trải qua nhiều cơ cực thành ra bản thân cũng đồng cảm với mấy thanh niên nghèo khổ này. Đáng tiếc hiện tại nhiều người lại nói y nịnh hót, thật ra đều chỉ là hiểu lầm của thế gian thôi.

Trần Trù lại cười: “Đúng vậy đúng vậy, Tào huynh đây mới chính là hiểu biết nhất đấy, đáng tiếc là mọi người lại không thấu tình đạt lý như huynh.”

Lan Giác lại nói thêm đầy vẻ biết điều: “Đến thần tiên trong miếu còn bị người mắng, nói chi là kẻ phàm tục như tôi. Người ta nói gì cứ kệ đi, ai làm chuyện người ấy, thân ai người nấy lo.”

Trần Trù xoa tay gật gật đầu: “Tào huynh nói hay lắm!”, rồi gặp Trương Bình bưng tô mì nóng nghi ngút đến thì nhanh nhẹn né sang bên, “Đáng tiếc hôm nay tiểu đệ và Trương huynh có việc gấp nên không thể cùng Tào huynh nói chuyện lâu hơn. Nếu như Tào huynh rảnh thì đến con hẻm nhỏ tên Hao Tử, tôi và Trương huynh ở cuối tiểu viện có cửa hướng về phía Bắc ấy.”

Lan Giác gật đầu, cầm đũa lên nhưng bất giác không thể ăn.

Trần Trù đứng dậy, chắp tay nói: “Trương huynh, thời gian không còn sớm nữa, hay là tôi đi trước chờ huynh đến nhé, là quán trà trong ngõ hướng về Đông ấy, đã đặt phòng ở lầu hai rồi, huynh nhớ thay bộ đồ khác rồi mau đến nhé.”

Trương Bình cắm cúi nhặt rau, chỉ ừ một tiếng.

Trần Trù lại áy náy nhìn Lan Giác nói: “Tào huynh, thật xin lỗi, không có ý hối thúc huynh đâu, huynh cứ từ từ ăn nhé, tôi đi trước đây. Nếu như huynh thấy mì này ngon thì sau này nhớ đến ủng hộ Trương huynh…”

Người kia liên tục nói lời từ biệt rồi đi mất.

Lan Giác đứng lên tiễn, lúc ngồi xuống giả vờ vô ý, choang một cái, cả tô mì rơi xuống đất, nước lèo văng tứ tung, cả tô cũng vỡ thành mấy mảnh. Quả trứng luộc dính đầy đất cát, nằm lăn trên mảnh tô vỡ.

Lan Giác than thở: “Sao tay lại trơn thế này, phí cả tô mì ngon của Trương huynh, lại còn làm vỡ tô của huynh nữa, thật là ngại quá.” Y móc túi tiền ra, lấy bừa một nắm bỏ lên bàn.

Trương Bình không biểu cảm gì bước đến bàn, cụp mắt nhìn xuống đất, từ từ ngồi xuống, nhặt quả trứng lên.

Hắn cầm quả trứng bước đến thùng nước sạch, múc một gáo nước rửa thật sạch quả trứng rồi bỏ vào tô, sau đó lấy chổi hốt sạch mì và mảnh vỡ trên đất.

Đang lúc Lan Giác tính bỏ đi thì Trương Bình cầm hót rác đứng dậy, bất chợt nói: “Lan đại nhân, tô mì này không có độc đâu.”

Lan Giác dừng bước, quay người lại. Trong sắc tối, Trương Bình chống chổi đứng đó, giống như một nấm mộ giữa đồng không mông quạnh, một cây táo chua đơn độc, mang theo cảm giác mênh mông thăm thẳm, nhìn thẳng vào Lan Giác.

“Lan đại nhân, tôi đến nhà ngài không phải là do có thù với ngài. Người nhà ngài ăn mì của tôi không trả tiền nên hôm đó tôi đến đòi thôi.”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 3


Lan Giác đứng sững hồi lâu rồi mới mở miệng hỏi: “Sao huynh biết tôi nhìn thấy huynh?”

Trương Bình đáp: “Lan đại nhân nhìn thấy tôi thì tôi cũng nhìn thấy ngài thôi.”

Lan Giác lại hỏi: “Làm sao huynh đoán ra được tôi là ai?”

Trương Bình đáp: “Gần đây Lan đại nhân bị tố cáo, không dám nhận lễ lạt nữa. Ngài mặc thường phục từ Lan phủ đi ra, lại chẳng giống với gia đinh tổng quản.”

Lan Giác đơ người một lúc, không biết sao tự nhiên lại thấy buồn cười: “Vậy ra ngày đó huynh đã đoán ra được tôi là ai, sao không nói luôn với tôi đi.”

Trương Bình rủ mắt: “Thì cũng chẳng phải là chuyện gì to tát, chỉ là tí tiền lẻ, là nợ nần giữa tôi với đánh lính gác, chẳng liên quan đến Lan đại nhân. Hơn nữa, nếu như tôi nói chuyện này với ngài, bọn họ sẽ ôm hận rồi gây chuyện với tôi, tôi chỉ buôn bán nhỏ mà thôi.”

Lan Giác nhướng mày, nhất thời không biết nên nói gì.

Trương Bình đặt hót rác xuống, rồi lại đi đến bàn, nhặt ra tám đồng từ trên bàn: “Mì ba đồng, tô sáu đồng nhưng cũ rồi lấy năm đồng thôi.”

Ngón tay khẳng khiu, thanh âm ngay thẳng.

Lan Giác nhìn hắn bỏ tiền vào túi áo, nói: “Lúc tôi mới đến, huynh chỉ tính bán mì chay, chính là vì nghĩ tôi sẽ không ăn mì của huynh hả?”

Trương Bình không trả lời, lấy khăn lau sạch bàn.

Lan Giác khoanh tay đứng bên cạnh, không khỏi nghĩ chuyện này thật giống như chuyện cười, nhưng lại gặp được một hậu sinh thú vị trong đám sĩ tử năm nay cũng xem như không tệ.

Mỗi một kỳ thi chính là chuyện lớn trong đời của đám đọc sách cầu công danh trong thiên hạ, và cũng chính là chuyện vui của đám quan trong triều. Đặc biệt là những vị quan cũng dựa vào thi cử tiến thân như Lan đại nhân đây, dùng cặp mắt cú già sành sỏi quan sát những con chim ngờ nghệch liều mạng tranh nhau lao vào chốn rừng sâu, dự đoán tương lai của bọn họ cũng là một thú vui của người từng trải.

Nhiều năm như thế quan sát nhiều người như thế, Lan đại nhân đối với con mắt nhìn người của mình cũng tự tin được vài phần.

Nhìn hành vi lời nói của Trương Bình, nếu như có thể đỗ bảng vàng, bước chân vào triều, đứng trong hàng ngũ quan thanh liêm, sẽ trở thành một mầm non tươi mới tài hoa xuất chúng đấy nhé.

Y bật cười, quay người rời khỏi, trước khi đi còn bảo: “Thôi được, chuyện hiểu nhầm này đúng là do ta nhất thời lo xa. Ngươi tên Trương Bình hả? Nếu như ngươi học hành cũng tinh tế thế này thì nói không chừng không lâu nữa ngươi có thể cùng bản quan đồng điện xưng thần đấy. Trước mắt nếu như có dịp, ta sẽ lại đến ăn thử mì ngươi nấu.”

Lúc Trương Bình xếp xong mấy cái ghế thì bóng của Lan Giác cũng đã rẽ ở góc đường, chiếc bóng dài quét qua bức tường gạch cũ kỹ rồi biến mất.

Trương Bình thu dọn lều, chất lên xe, trở về nhà.

Khi về đến nhà, hắn bán lại mấy hũ tỏi ngâm đường, rửa qua loa cái mặt, thay một bộ trường bào xem chừng là chỉn chu nhất rồi đến quán trà Cát Khánh ngoài ngõ.

Trần Trù đang đi qua lại dưới chân cầu thang trong quán trà, vừa nhìn thấy Trương Bình đã nhảy xổ lại: “Ông chủ Trương của tôi ơi, cuối cùng huynh cũng đến rồi đấy, hai ông chủ thực kia đã đến cả rồi, trà cũng chuẩn bị xong xuôi hết, nhanh lên nào!”

Hắn túm lấy áo, kéo Trương Bình lên lầu, lôi vào căn phòng nhỏ cuối tầng hai.

Trong phòng, người hầu trà đang dâng trà lên, một nam một nữ ngồi cạnh bàn, người nam chừng năm mươi mấy tuổi, tai to mặt lớn, khuôn mặt thân thiện hòa nhã. Người phụ nữ nhìn mặt cũng chưa đến bốn mươi, gương mặt nhã nhặn, trát phấn đến trắng bệch, hai bên tai đeo đôi hoa tai bằng vàng khảm ngọc, cặp lông mày lá liễu được vẽ ngược lên trên một cách tỉ mỉ.

Trần Trù cúi người cười với hai người họ: “Kim lão gia, Kim phu nhân, thật vô cùng xin lỗi, Trương huynh nhất thời chậm trễ, đã thất lễ với hai vị rồi, tôi xin thay huynh ấy tạ lỗi với hai vị.” Rồi quay mặt lại nhìn Trương Bình: “Đây là Kim lão gia, là trưởng đoàn của đoàn kịch Lai Hỉ đình đám đấy, mau chào hỏi đi.”

Kim lão gia đứng dậy cười ha ha: “Không dám không dám, chỉ là người của một đoàn kịch, làm sao bằng những người đọc sách nho nhã như các cậu chứ.”

Trương Bình lúc này đã biết, chuyện làm ăn tốt mà Trần Trù muốn giới thiệu với mình là gì.

Kinh thành vật giá rất cao, chi phí ăn ở thi cử cũng chót vót, những sĩ tử gia cảnh không giàu có đều tìm vài cách kiếm ít tiền trợ cấp.

Những cách này cũng phân ra vài cấp.

Cấp một, bán thơ bán phú; cấp hai, bán chữ bán tranh. Hai cấp này đều phải tranh giành nhau, nhưng cần phải có chút danh tiếng mới làm được, làm được rồi, chút hư danh cỏn con này mà lọt vào trong triều, mấy câu thơ mấy bức tranh đó nếu như được quan lớn chú ý đến thì rất có ích cho thi cử.

Nếu không làm được hai việc trên thì chỉ còn cách thứ ba: lặng lẽ tìm vài cửa khác. Trước kỳ thi, mấy hiệu sách trong kinh thành đều sẽ cho xuất bản rất nhiều tiểu thuyết thịnh hành, trong cái đống mờ ám đó, xuân cung sống động mới tinh, các đoàn kịch lớn trong kinh thành hàng tháng đều biểu diễn các vở kịch mới, các chị em trong Câu Lan truyền miệng hát đủ loại thơ ủy mị hữu tình thi vị.

Trương Bình biết, gần đây Trần Trù mới đảm nhiệm công việc viết kịch, lại viết một vở bi kịch, kể về một cô gái trong một ngày thu tình cờ biết yêu là gì đã bỏ trốn với một thư sinh như thế nào, song lại bị lính tóm được bắt về làm thiếp, sau khi sinh hạ hai đứa con lại gặp lại cậu học trò kia, sau đó phân vân không biết có nên bỏ con chạy trốn theo người tình hay không.

Trương Bình đã từng nói với Trần Trù, cảnh nửa đêm leo tường phải chú ý mấy cái chi tiết nhỏ ấy, dùng cách nào mới leo nhanh được.

Trương Bình rất cảm kích ý tốt muốn giúp hắn tìm công việc của Trần Trù, nhưng khi Trương Bình làm việc, trước nay đều rất thực tế. Đối với mấy chuyện tình cảm, hắn tạm thời không muốn dính vào, không thể cứ vô căn vô cứ viết bừa bãi được, cho nên cảm thấy bản thân không hợp mấy.

Chào hỏi xong xuôi, mọi người ngồi xuống. Kim lão gia nói thẳng vào vấn đề là gần đây đoàn kịch của ông ta muốn dựng một vở kịch mới, cần người viết kịch bản.

Kim lão gia nói: “Nhất định phải gay cấn! Không những gay cấn mà còn phải thú vị nữa!” Hai mắt sáng lên, Trương Bình đoán ra được cái thú vị mà ông ta đề cập là gì, bèn nói thẳng: “Tại hạ không…”

Trần Trù nhanh tay tinh mắt chặn hắn lại, đè lời hắn xuống: “Tôi dám dùng đầu bảo đảm Trương Bình là người thích hợp nhất với vở kịch mà Kim lão gia muốn! Huynh ấy là cao thủ về thể loại này, hồi trước có lúc tối tôi không ngủ được thế là đòi huynh ấy kể chuyện cho tôi nghe, mấy chuyện mà huynh ấy kể ấy hả, khiến tôi không dám nhắm mắt suốt ba đêm liền đấy!”

Kim lão gia vỗ đùi nói: “Quá tốt quá tốt! Trương công tử thật đúng là nhân tài khó kiếm! Tôi chính là muốn thế này đấy, phá sập sân khấu của đám Khánh Viên luôn!”

Kim phu nhân cắn hạt dưa, híp mắt nhìn Trương Bình cười: “Trương công tử, nếu như cậu có thể viết ra một vở kịch hấp dẫn hơn vở của đoàn Khánh Viên, thì cậu là tài tử có thể sánh ngang với Hồng Diệp Sinh của Tây Sơn rồi, kỳ thi này nói không chừng có thể đậu Trạng Nguyên đấy!”

Trương Bình bình thản đáp: “Mấy quyển sau tác phẩm “Biên cương khói lửa” của Tây Sơn Hồng Diệp Sinh đều là giả cả, theo tại hạ đoán, người này có lẽ đã qua đời lâu rồi.”

Tây Sơn Hồng Diệp Sinh là người đương triều đầu tiên viết thể loại tiểu thuyết truyền kỳ, nghe nói những truyện ông viết đến cả Hoàng Thượng và Hoài Vương đều rất thích đọc, lúc đương kim thái hậu đọc tác phẩm thành danh của ông là “Loạn thế đạo hiệp”, đến đoạn Ngụy Xương công chúa tự tử vì đạo hiệp đã từng khóc không thành tiếng. Thân thế người này luôn không rõ ràng, nhiều năm về trước, sau khi viết xong “Biên cương khói lửa” thì đã tuyên bố treo bút, từ đó về sau quy ẩn giang hồ.

Kim lão gia nói: “Tây Sơn Hồng Diệp Sinh khẳng định đã qua đời lâu rồi, mọi người đều biết, cái đám tiểu tử của đoàn Khánh Viên ấy cũng biết, cho nên mới dám to gan hốt tiền của người đã chết, bà nó chứ, không phải là giỡn đâu!”

Đoàn Lai Hỉ và đoàn Khánh Viên là hai đoàn kịch khá nổi tiếng trong kinh thành, trước nay luôn cạnh tranh với nhau, bày đủ thủ đoạn đào bới giành giật kịch bản.

Ông chủ Kim nhận được tin đoàn Khánh Viên muốn dựng lại đoạn tình giữa đạo hiệp và công chúa trong vở “Loạn thế đạo hiệp” của Tây Sơn Hồng Diệp Sinh, nghe đâu sẽ ra mắt sớm thôi.

Đoạn tình cảm này đã khiến thái hậu phải bật khóc, đoàn Lai Hỉ cảm thấy có một nỗi đe dọa thầm lặng, cho nên mới vội vàng cần một vở kịch mới có thể lấn át đoàn Khánh Viên kia.

“Chúng tôi muốn tất thảy phải thật dữ dội, bằng không sẽ không thể đè bẹp được bọn chúng!” Ông chủ Kim nghiến răng nghiến lợi nói, “Nếu như có thể tìm thấy một đoạn dữ dội nào đó, mặc cho không ai dám sửa lại, như kịch tài tử giai nhân, hay chuyện Lễ Bộ Lan đại nhân từng làm với người vợ trước của mình, hoặc tiểu thúc và chị dâu góa chồng, ví dụ như Hoài…”

Kim phu nhân vội vàng nghiêm mặt ho mấy tiếng, át lời của Kim lão gia: “Cho nên chúng tôi đã nghĩ tới nghĩ lui, chọn lấy đoạn có sẵn này, Trương công tử cứ dựa theo viết là được. Nhưng còn có một chuyện tôi muốn nói trước với cậu…” Nét mặt Kim phu nhân hơi khó coi, “Công tử cũng biết, danh tiếng của Tây Sơn Hồng Diệp Sinh, thế nhân tầm thường không thể so sánh, chúng tôi bất đắc dĩ…”

Trần Trù ho một tiếng: “Trương huynh, là thế này, Kim lão gia đã nói với mọi người rằng vở kịch này là do Đông Hồ Cư Sĩ viết, chính là thằng nhóc Mã Liêm, hắn cũng đã nhận tiền đồng ý rồi, huynh xem…”

Mã Liêm cũng là sĩ tử dự thi năm nay, nhân sĩ quận Thục, nhưng khó có thể dựa vào việc viết kịch mà thành danh, hôm nay đã vào hàng ngũ thơ phú rồi, gã đã từng công khai miệt thị Trương Bình không xứng là người đọc sách, cùng là sĩ tử với hạng người như Trương Bình là điều sỉ nhục to lớn đối với gã.

Trương Bình đáp một cách khô khan: “Với tôi chẳng sao cả, chỉ cần Mã huynh đồng ý…”

Kim lão gia không chờ hắn nói hết câu đã cười nói: “Trương công tử quả nhiên là người độ lượng, vậy quyết định như thế nhé! Đoạn mà chúng tôi đã chọn là nói về ma quỷ. Thời buổi này phải đề cập đến mấy chuyện yêu ma quỷ quái mới đủ kinh dị chứ. Bọn họ có đạo chích hào hiệp và công chúa thì chúng ta có tiểu thư và đại tiên!”

Trần Trù vỗ tay một cái đánh đét: “Thấy chưa Trương huynh, tôi đã nói là huynh được mà, chuyện ma quỷ thì huynh là nhất rồi. Kẻ nhát gan như tôi lỡ mà viết vở kịch này, viết được đoạn đầu chắc đã tự mình dọa chết mình rồi.”

Trương Bình nói: “Tôi luôn cho rằng, trên đời này vốn không có ma quỷ.”

Trần Trù vội vã kéo tay áo hắn, may mà Kim lão gia và Kim phu nhân hoàn toàn không để ý, cũng có thể cảm thấy tìm một kẻ không tin vào ma quỷ mới dám cả gan viết kịch về ma quỷ nên cứ tiếp tục vui vẻ bừng bừng khí thế nói chuyện với Trương Bình thôi.

Kim phu nhân nói: “Trương công tử, mấy thứ yêu ma này thật ra vẫn có đấy, tôi kể cậu nghe chuyện này là bởi vì nó có thật. Mười hai mươi năm trước, có một con chồn tinh say mê em họ nhà tôi…”

Mồng Một tháng Năm, Lan Giác có việc gấp muốn đến Hình Bộ tra lại hồ sơ cũ.

Y tự mình ngồi kiệu đến Hình Bộ, vừa mới vào cửa đã nhìn thấy vài sai dịch đang áp giải hai người đi về hướng khác, Lan đại nhân cảm thấy hai phạm nhân này trông quen ghê.

Một người hình như là Trương Bình, người còn lại hình như là Trần Trù…

Y bèn hỏi Lưu Điển Lại bên cạnh: “Lại có vụ gì nữa vậy?”

Lưu Điển Lại nói: “Vẫn chưa thẩm tra, cụ thể thì hạ quan cũng chẳng rõ, nghe đâu tên thư sinh họ Trương có ý muốn giết ông chủ của đoàn kịch nào đó.”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 4


Không ngờ là chưa tới một tháng, tên Trương Bình này thực sự lại dính đến tội giết người, Lan Giác có hơi bất ngờ, tiện miệng hỏi xem rốt cuộc là mưu sát như thế nào.

Lưu điển lại cũng chẳng rõ là bao, chỉ lấp lửng nói mấy câu, kiểu như là dùng hung khí, ông chủ kia giờ đang hấp hối tựa như chỉ mành treo chuông, không biết có sống nổi hay không, nếu như mà không qua nổi thì án này thật sự là giết người rồi.

Viên quan họ Lưu vừa nói đến đó thì hai người cũng đã đi đến trước Vụ Chính Điện, Hình bộ Thị lang Vương Nghiên chào ngay ở cửa, chắp tay với Lan Giác: “Lan đại nhân, khách quý hiếm có đây. Hôm nay có công vụ gì gấp mà phải đích thân đến đây thế này?”

Lan Giác chào lại: “Còn gì ngoài việc Lưu Tri Hội được phong thưởng nữa, Sử bộ nói án Hộ bộ trả về cho bọn họ, rồi đổ án đang điều tra của Hình bộ lên đầu bọn Lễ bộ chúng tôi. Mặc dù đây chỉ là làm theo thông lệ thôi, nhưng nếu cứ tùy tiện cử một quan văn đến làm thì rõ ràng thật thất kính với Lưu đại nhân, cho nên tôi phải đích thân đi một chuyến, đành phiền Mặc văn huynh mở hồ sơ giúp tôi rồi.”

Theo quy chế thời Ung, hễ là quan viên thăng chức phong thưởng, đều phải tra xét rõ ràng lai lịch xuất thân. Gần đây, Trung thư xá nhân Lưu Tri Hội được phong làm Ngự sử Trung thừa, ngoài ra còn được thưởng thêm mấy thứ khác. Văn thư phong chức và tặng thưởng trước phải được gửi đến Lễ bộ và Sử bộ, đợi tra xong hồ sơ, chắc chắn Lưu đại nhân có thân thế trong sạch, không phải kẻ phạm tội hay nịnh bợ để được vào triều, lúc đó mới chính thức ban thưởng thăng chức.

Lan Giác cảm thấy mớ quy tắc này thật thừa thãi, lần đầu tiên đạt được công danh hoặc thăng quan tấn chức thì xem xét cũng được đi, nhưng cứ mỗi lần thăng chức lại phải tra xét, cuối cùng việc này lại biến thành hình thức, mấy vị quan thăng chức nhanh như thế, Sử bộ và Lễ bộ có thể thay đổi lý lịch của họ hay sao, quá là không cần thiết.

Nhưng Lan Giác không phải là người thích ý kiến này nọ, làm tại Lễ bộ, chủ yếu là phải dĩ hòa vi quý, nếu có ý kiến miết với các gián quan thì cũng không ổn lắm, chỉ nghĩ trong lòng vậy thôi.

Vương Nghiên cười nói: “Tôi cũng nghĩ là chuyện này, nhưng đồng cấp đồng bộ muốn điều tra hồ sơ hình sự đã được phê chuẩn của Thượng thư đại nhân, tôi cũng không thể tự ý được. Vừa vặn hôm nay Đào đại nhân của chúng tôi gặp phải một vụ án giết người, chỉ sợ ngài phải chờ ngài ấy xử xong đấy.”

Đương nói thì từ bên ngoài truyền đến tiếng động ầm ầm. Vương Nghiên nheo mắt nói: “Nhìn kìa, Thượng thư đại nhân đã thăng đường rồi. Vụ này cần phải thẩm vấn, ở đây tôi đã pha xong trà, nếu được thì ngài tạm thời ngồi đây uống đợi nhé, tôi xin thất lễ trước, Đào đại nhân thăng đường tra xét, chúng tôi cần phải ngồi một bên lắng nghe học hỏi.”

Lan Giác thầm cười trong lòng. Hình bộ Thượng thư Đào Châu Phong là môn sinh của nhạc phụ y, là một vị thanh quan đúng nghĩa, và cũng là một người tốt hàng thật giá thật; Tính tình ôn hòa, có khí chất của người học hành, nếu như vào Hộ bộ, những nơi như Hàn Lâm Viện, với tính cách hòa nhã và trong sạch ấy, nhất định sẽ trở thành một vị quan tốt, thế nhưng người ta lại cứ làm Hình bộ Thượng thư cơ.

Nghe nói Đào đại nhân làm Hình bộ Thượng thư là di nguyện trước lúc lâm chung của Liễu Tiễn, Lan Giác nghi ngờ rằng nhạc phụ của mình trước lúc ra đi đã nói không rõ ràng, khiến cho đám môn sinh nghe “Đào Châu Phong chỉ có thể vào nhàn bộ” thành “Hình bộ” rồi. Lúc đó tiên đế cũng đã lâm bệnh nặng, tay run một cái liền phê chuẩn luôn, thế là Đào Châu Phong liền làm Hình bộ Thượng thư luôn.

Mấy năm sau, những vụ án đẫm máu trong Hình bộ giảm đi rất nhiều, hoặc là án treo chưa quyết, hoặc là bị người của Đại Lý Tự xét xử. Đào đại nhân vui vẻ viết vào trong tấu sớ: “Mấy ngày nay lại có một vụ án, do tranh giành buôn bán mà ra, thần mượn lời thánh nhân cùng sự phúc hậu của tiên đế và hoàng đế giáo hóa phạm nhân, phạm nhân hối hận đến rơi nước mắt, có thể thấy sự hưng thịnh của vương triều, kẻ khát máu cũng có thể giáo hóa được…”

Lúc đó hoàng thượng vẫn chưa tự mình chấp chính, Hoài Vương và Vân Đường cùng mấy đại quan phụ chính đọc xong bản tấu thì chuyển lên cho hoàng thượng, Trung thư thay hoàng thượng trả lời: “Phạm nhân là ai, xử phạt như thế nào?”

Đào đại nhân bẩm báo: “Trước khi thẩm tra phạm nhân đã nhận tội, là con út của nạn nhân, là con của tiểu thiếp nạn nhân lén lút ngoại tình sinh ra. Thân thế không rõ ràng, tâm trí lại bị uất ức làm cho mê muội nên mới làm ra chuyện xấu xa như thế, quả thật rất tội nghiệp. Lúc thần nhấc bút kết án tử hình, hắn đã không cầm được nước mắt khóc như mưa, nếu tâm được thánh nhân giáo hóa thì đâu đến nỗi này, tiếc thay…”

Chưa hết, bản tấu sớ được trả lời, một hàng chữ đỏ thắm rồng bay phượng múa: “Ôi, hung đồ giết cha, tội ác tày trời, không giết hắn thánh nhân cũng rơi lệ, trảm!”

Đào đại nhân kiềm nước mắt phán hung thủ tội tử hình, không lâu sau, y lại dâng tấu sớ muốn trồng hoa dựng liễu ở bên ngoài thiên lao, để các phạm nhân tội ác tày trời có thể lắng nghe tiếng mưa rơi, tiếng chim hót, từ đó cảm nhận thế thái nhân tình, rồi còn cho in tập sách hướng thiện, phát cho mỗi phạm nhân một quyển, giáo hóa chúng sinh.

Hoài Vương, Vân Đường, Vương Cần, mấy vị đại quan phụ chính chịu đựng Đào Châu Phong rất lâu, nhưng không ai muốn làm trái lại di huấn của Tiên đế và Liễu lão thái phó, nên đều cắn răng chờ đợi đến khi hoàng thượng đích thân chấp chính rồi mới chỉnh đốn y sau. Đào đại nhân dường như cũng cảm thấy điều này, khoảng thời gian sau khi hoàng thượng đích thân chấp chính thì tinh thần luôn hăng hái phấn chấn, hết mực xử án, mỗi vụ đều do y đích thân thăng đường, bảo các quan viên thuộc hạ ngồi kế bên nghe, xem xét quyết định thay y.

Vương Nghiên – quan viên thuộc hạ của Hình bộ, sau lưng gọi Đào đại nhân là “Đào thiện nhân” – lại càng nghe không ít những lời than trách của phụ thân Vương Cần đối với Đào Châu Phong, không tránh khỏi đối với y có một sự tôn trọng nhất định.

Lan Giác nói: “Lúc tôi vừa mới đến, có nhìn thấy nha sai đang áp giải hai thư sinh đi, bộ dáng rất giống sĩ tử, họ là nghi phạm của vụ án cần thẩm vấn à? Tiếc nhỉ, Hình bộ các người xử án, ta không tiện đến nghe rồi.”

Vương Nghiên nhướng mày: “Nếu ngài muốn nghe thì tôi dẫn ngài đi là được, cũng chẳng phải vụ án liên quan đến triều đình, có nghe cũng chẳng hại gì. Đào đại nhân không chấp nhất mấy chuyện này đâu. Hơn nữa hai tên này quả thực chính là sĩ tử kỳ thi năm nay, ngài nghe cũng tốt.”

Lan Giác mỉm cười nói: “Vậy thì tôi đi nghe nhé, làm quan lâu như thế này rồi mà đúng là chưa được nhìn thấy mấy cuộc thăng đường thẩm tra luôn.”

Vương Nghiên dẫn y đi qua một cửa hông nhỏ đến đại đường Hình bộ, lúc này, trên công đường đã bắt đầu tra án. Lan Giác đứng sau bình phong, chỉ nhìn thấy Đào đại nhân ngồi trước bàn, vẻ mặt đau khổ hỏi: “Hai người các ngươi là sĩ tử khoa thi năm nay, cũng là người đọc sách thánh hiền, sao lại có thể hành động hung ác đến thế?”

Trần Trù khóc lóc run rẩy tâu: “Đại nhân, học trò bị oan! Tối qua hai người bọn con ngủ ở nhà, không có đi đâu hết, càng không đến sát hại Kim lão gia!”

Đào đại nhân than thở nói: “Nếu như không phải hai người các ngươi làm, tại sao bà Kim Lý cứ một mực khẳng định là các ngươi hả?”

Trần Trù cao giọng: “Không thể cứ bà ta nói là học trò làm thì là học trò làm, xin đại nhân minh giám, quả thực không phải là chúng con đâu!”

Đào đại nhân nói: “Nghi phạm đang nói là Trần Trù phải không? Theo lời bà Kim Lý nói, đúng là không phải do hai người làm, bà ta nói là, tên Trương Bình đứng cạnh ngươi mới là chủ mưu, còn ngươi chắc hẳn là đồng phạm rồi…”

Trần Trù run giọng: “Học trò không phải là tòng phạm! Trương Bình càng không phải là chủ mưu! Hôm qua chúng tôi ở nhà ngủ, làm sao có thể chạy đến thành Tây giết Kim lão gia chứ.”

Đào đại nhân lại thở dài một cái: “Ngươi nói, hai người các ngươi ở nhà ngủ, các ngươi ngủ cùng một phòng hay ngủ hai phòng khác nhau? Nếu như là cùng phòng, là ngủ cùng một giường hay hai giường? Nếu như ngủ cùng giường thì trong các ngươi ai ngủ ngoài ai ngủ trong? Ngủ say hay nông? Có thể chứng minh là khi ngươi đi ra thì hắn tỉnh, hắn đi ra thì ngươi tỉnh không?”

Trần Trù run lẩy bẩy nói: “Bẩm đại nhân, học sinh và Trương Bình một người ngủ mạn Tây, người ngủ mạn Đông, nhưng bên ngoài nhà chúng tôi có nuôi một con chó, ban đêm chỉ cần nghe tiếng bước chân là nó đã sủa rồi, tối qua nó đâu có sủa, đại nhân không tin thì có thể cho gọi hàng xóm đến để hỏi!”

Đào đại nhân im lặng giây lát, nói: “Chó sủa hay không, bổn quan tự biết tra…”

Khổng lang trung đứng kế bên len lén thì thầm vào tai Thư lệnh, Thư lệnh lại thì thầm vào tai Đào đại nhân, Đào đại nhân nói tiếp: “Cứ cho là chó không sủa đi cũng chẳng có nghĩa lý gì. Bổn quan biết, trên thế giang có một loại thuốc tên là thuốc bay hồn, còn gọi là bột mê man, trộn vào trong thịt, cho chó ăn thì nó sẽ ngủ mê, không sủa gì cả…”

Thư lệnh lại rỉ tai Đào đại nhân, Đào đại nhân lại nói: “Và loại thuốc này, trước khi chuốc ngủ chó còn có thể chuốc ngủ con người. Có thể nói, ngươi ngủ, hắn có thể thức, ngược lại cũng vậy.”

Trần Trù nhất thời hốt hoảng: “Đại nhân, chuyện gì cũng cần phải có chứng cứ, có chứng cứ gì chứng minh học trò và Trương Bình có thuốc bay hồn chứ?”

Đào đại nhân im lặng chốc lát, nói: “Các ngươi cũng không có chứng cứ để chứng minh mình không có.”

Nụ cười của Lan Giác đứng sau bình phong dường như đã tắt ngấm, Thư lệnh khẽ ho một tiếng, nói chen vào: “Đại nhân, hay là cứ cho truyền bà Kim Lý vào trước?”

Đào đại nhân chậm rãi đập bàn một cái: “Truyền bà Kim Lý.”

Lan Giác nhìn Trương Bình qua khe hở của bức bình phong, chỉ thấy hắn từ nãy giờ vẫn im im đứng đó, mí mắt cụp xuống, vẻ mặt vô cảm, rất hợp làm nền cho đại đường Hình bộ, Lan Giác không khỏi nghĩ trong lòng…

Rốt cuộc có phải là hắn hay không?
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 5


Một lát sau, một người đàn bà tuổi trung tuần bước vào công đường, bà ta quỳ xuống dàn dụa nước mắt: “Cầu xin thanh thiên đại lão gia làm chủ cho, cái thằng Trương Bình này đã giết chồng con, dân phụ suýt chút nữa là thành góa phụ mất rồi hu hu hu… Đại nhân nhất định phải bắt hắn nợ máu trả bằng máu đi hu hu hu…”

Đào đại nhân nhẹ nhàng nói: “Kim Lý à, giết người không phải tội nhỏ đâu, nếu như ta xét xử nhầm, chẳng phải hai rường cột quốc gia tương lai của triều đình đây sẽ bị vặn gãy trên công đường hay sao? Chồng bà Kim Lễ Phát ban đêm bị hành hung, tại sao bà cứ khăng khăng kẻ giết người là Trương Bình thế? Có nhân chứng vật chứng gì không? Đêm hôm tối mù, nhân chứng có nhìn thấy rõ ràng không đấy?”

Bà Kim Lý khụt khịt mũi: “Bẩm ông lớn, chồng con trước giờ là người lương thiện hiền lành, chưa từng gây thù với ai, mọi người trong đoàn kịch, hàng xóm sống cạnh có thể làm chứng. Chỉ đến mấy ngày trước, có cái thằng Trần Trù này giới thiệu Trương Bình viết một vở kịch cho đoàn chúng con, vở kịch không thể diễn được, không trả đủ tiền như đã hứa với hắn ta. Kiểu gì hắn cũng ghim rồi, mới ra tay độc ác như thế…”

Bà Kim Lý nắm chặt khăn tay, vừa khóc vừa nói, đêm hôm trước ông Kim Lễ Phát ăn đồ bị đau bụng nên chạy miết vào nhà xí, hình như vào khoảng canh ba, Kim Lễ Phát lại đi nhà xí lần nữa, bà ta ở trong phòng nghe thấy một tiếng hét thất thanh, lúc chạy tới nơi thì nhìn thấy Kim Lễ Phát rơi tõm vào hố xí rồi, lúc vớt lên thì đã hôn mê bất tỉnh, cũng chỉ nghĩ là do ngạt thở, nhưng sau khi tắm rửa xong mới phát hiện trên ngực của ông ta có một vết thương, hình như là ở chỗ hõm vai ấy, không đến nỗi mất mạng. Nhưng vết thương bị nhiễm trùng, lại cộng thêm mất máu, nên đến giờ vẫn còn hôn mê, đã bước nửa bước đến điện Diêm Vương rồi.

Đào đại nhân cảm thán: “Xem ra hung thủ đã mai phục trước trong nhà xí, đợi Kim Lễ Phát bước vào thì ra tay. Ẩn nấp náu mình ở nơi hôi thối bẩn thỉu như thế, tên hung thủ này thật nhẫn nại quá đi mà.”

Nha sai lại dẫn một học trò của đoàn kịch tên Tiểu Ngũ lên đối chứng, Tiểu Ngũ nói lúc đó nó đang bị sư phụ phạt buộc ngựa dưới gốc cây, sau khi nghe Kim Lễ Phát hét lên thì thoáng nhìn thấy một bóng người vụt qua, dưới ánh trăng không nhìn rõ lắm, chỉ nhớ vóc dáng cao gầy.

Đầu mục dưới sảnh đường bẩm báo, nói đã sai người kiểm tra vết thương của Kim Lễ Phát, hung khí là một con dao sắc bén dáng dài. Bà Kim Lý nói, hiện giờ chỉ có mâu thuẫn với thư sinh Trương Bình, đám sai nha đi tra xét bên phía Trương Bình cũng phát hiện trong tiệm mì của hắn mới đổi một con dao mới, dựa theo lời nói của khách đến ăn mì thì đúng là lúc trước hắn có một con dao phay dài bén nhọn dùng để xắt rau gọt trái cây.

Đám sai nha lại đi khám xét nhà Trương Bình, phát hiện trong nhà có một cái áo lót, một cái quần cũ, bốc mùi hôi gớm lắm.

Đào đại nhân khép hờ hai mắt: “Cũng có thể nói, nghi phạm Trương Bình sau khi hành hung xong liền đem vứt hung khí và áo ngoài có dính máu đi, nhưng còn cái áo trong không dính máu, do hắn mai phục quá lâu trong nhà vệ sinh nên đã bị ám mùi rồi trở thành manh mối… Ừm, Trương Bình, nhân chứng vật chứng đều có, ngươi có gì để nói không hử?”

Trương Bình giương mắt, từ tốn nói: “Đại nhân, học sinh cho rằng, mấy cái này không thể xem là chứng cứ. Thêm nữa, lời nói của Kim phu nhân cũng không hoàn toàn là đúng sự thật. Không phải bọn họ không đưa đủ số tiền đã định cho tôi mà là hoàn toàn không đưa tiền. Còn về vở kịch kia không phải là không thể diễn, mà là đoàn kịch của Kim lão gia đã diễn rồi.”

Đào đại nhân híp mắt: “Nếu như lời ngươi nói, chẳng phải ngươi sẽ càng có thêm lý do chính đáng để giết Kim Lễ Phát sao?”

Trương Bình nói: “Bẩm đại nhân, trước khi vụ án xảy ra hai ngày thì con dao phay của học sinh đã mất rồi, có người có thể làm chứng.”

Trần Trù kế bên gật đầu: “Đúng đúng, khách quen đến ăn mì đều biết, con dao mới là do Trương Bình nhờ tôi đến chỗ thợ rèn Hoàng mua giúp, ông ấy có thể làm chứng. Trương Bình có bán một rổ trứng gà vịt bị thối vài quả nên đã tự mình ăn, tôi cũng ăn hai trứng, bọn Đặng, Nhạc, Tào, Cầm ở cùng viện với chúng tôi cũng có ăn, đều có thể làm chứng cả. Trương Bình ăn xong còn bán rổ trứng đó, rồi còn có hũ tỏi ngâm đường, quần áo hôi là chuyện thường thôi… Hơn nữa, Trương Bình chưa từng đến nhà Kim lão gia, mọi người đều biết, Kim lão gia ở chung với đoàn kịch, đoàn kịch Lai Hỉ diễn tập thâu đêm suốt sáng, Trương Bình làm sao có thể dễ dàng đột nhập vào viện, sát hại Kim lão gia ở nhà xí rồi lại chuồn đi thuận lợi như thế chứ?”

Tên Tiểu Ngũ kia rống to họng nói: “Bởi vì có ngươi làm tòng phạm cho tên Trương Bình! Hồi bẩm Thượng thư đại lão gia, tên Trần Trù này thường lảng vảng đến chỗ bọn tôi, hắn còn từng thích chị Hương Hà của đoàn chúng tôi nữa, nhất định là hắn chỉ đường cho Trương Bình rồi!”

Trần Trù cũng đột ngột to tiếng: “Ngươi ngậm máu phun người nhé…”

Tiểu Ngũ gào lại: “Chính là ngươi! Chính là ngươi!” Thêm vào đó là tiếng khóc than của Bà Kim Lý, cộng thêm tiếng gầm bảo im lặng của nha sai, thành ra công đường ỏm tỏi như cái chợ.

Lan Giác đứng sau bình phong xoa xoa hai bên thái dương.

Màu vàng, trước mắt chỉ có một màu vàng…

Trong cơn hôn mê, Kim Lễ Phát vùng vẫy dữ dội.

Màu vàng dần tan đi, phảng phất ngang mũi là một mùi hương dịu nhẹ. Mùa xuân, lúc này cả ngọn núi nở đầy hoa, hoa rừng trải đầy đất, trong làn gió thổi đến luôn quanh quẩn mãi mùi hương này.

Ông bước đi trong núi hoang, bùn sình trên mặt đất bị sương làm ẩm, mũi giày gót giày lấm đầy bùn bẩn.

Ông đi một cách vội vã, bởi vì đang gấp…

Ánh mặt trời chiếu rọi vào mắt, ông khép mắt lại, trong mơ hồ, ông nhìn thấy…

Ông ta nâng tay áo che ánh sáng đi, vì muốn nhìn rõ hơn, ông há hốc miệng…

Đó là…đó là…

Dù ông ta có muốn nói cũng không thể thốt ra nổi…

Ầm! Đào đại nhân đập bàn một cái: “Trật tự, trên công đường không được ồn ào.” Y nhìn hai người thanh niên vốn tiền đồ vô hạn dưới sảnh đường, lắc đầu đầy tiếc nuối: “Bản bộ đường cũng muốn tin lời các ngươi nói, nhưng thật quá khiêng cưỡng, mấy bằng chứng lời khai này nhìn một cách đơn thuần quả thực có vẻ như không đủ, nhưng tại sao cứ một mực chỉ vào ngươi, khăng khăng ngươi và vợ chồng Kim Lễ Phát có mâu thuẫn, bản bộ đường không thể không…”

Từ bên hông, một tiểu lại vội vàng xuất hiện từ bình phong phía sau, thì thầm vào tai Khổng lang trung, lang trung họ Khổng hối hả bước lên một bước nói: “Thượng thư đại nhân xin đợi chút đã, ti chức có tình tiết mới muốn bẩm báo, ông Kim Lễ Phát kia vừa mới nói sảng trong cơn hôn mê, có thể là manh mối của vụ án này.”

Đào đại nhân nói: “Ô? Ông ta nói gì?”

Sắc mặt của lang trung họ Khổng có chút kỳ quặc: “Kim Lễ Phát không ngừng lặp lại ba chữ… Hoàng Đại Tiên.”

Đào đại nhân nhíu mày: “Hoàng đại tiên, là con chồn thành tinh trong truyền thuyết dân gian phải không? Con đó thì có liên quan gì đến cái vụ này?”

Dưới công đường, Trương Bình trầm giọng: “Đại nhân, Hoàng Đại Tiên và vở kịch mà ông chủ Kim muốn tôi viết có liên quan đến nhau. Kim phu nhân nói, mười hai mươi năm trước, biểu muội của bà ta đột nhiên chết bất đắc kỳ tử, lúc đó mọi người đều cho rằng nguyên nhân cô ta chết là bởi vì bị một con chồn thành tinh hút hết hồn phách. Kim phu nhân muốn học sinh sửa câu chuyện này thành một vở kịch, nhưng nói con chồn nghe có hơi dở nên muốn học sinh đổi thành hồ ly đấy mà.”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 6


Đào đại nhân lặng thinh giây lát rồi tỏ vẻ đã hiểu: “Bản bộ đường hiểu rồi, có phải ngươi không chịu sửa lại theo yêu cầu của chủ rạp Kim, dẫn đến việc ông ta thậm chí trong cơn hôn mê vẫn canh cánh trong lòng? Ba chữ Hoàng Đại Tiên chính là ám chỉ ngươi hả. Trương Bình à, xem ra tất cả bằng chứng trước mắt có được đều chống lại ngươi rồi. Ngươi còn gì để nói không hả?”

Trương Bình lại cụp mí mắt: “Học sinh không còn gì để nói.”

Kim phu nhân dập đầu bình bịch: “Xin đại nhân mau chóng kết án, giải oan cho chồng của dân phụ ạ.”

Đào đại nhân vuốt râu, lắc đầu, thở dài. Vương Nghiên cuối cùng chịu không nổi nữa đành bước lên một bước: “Đại nhân, vụ án này vẫn còn nhiều điều đáng ngờ, hay là cứ tra xét thêm một hai ngày nữa, biết đâu lại tìm được bằng chứng xác đáng hơn.”

Đào đại nhân gật nhẹ đầu: “Cũng được, hôm nay tạm thời bãi đường, bà Kim Lý, bà yên tâm đi, bản bộ đường nhất định sẽ đòi lại công đạo cho bà mà.”

Rồi ông sai người tạm thời nhốt Trương Bình vào trong đại lao, do chứng cứ chứng minh Trần Trù là tòng phạm không đủ nên được thả ra, bà Kim Lý khóc lóc sướt mướt ra về cùng với mấy người trong đoàn kịch.

Đào đại nhân chỉnh quần áo rời khỏi công đường, Lan Giác nhân cơ hội này nói rõ với ông lý do mình đến đây, sau khi có được sự đồng ý của Đào đại nhân liền đến kho hồ sơ xem xét.

Mặc dù chuyến đi tra xét này chỉ là hình thức nhưng cũng không thể làm qua loa được. Khi trời vừa chập choạng tối, Lan Giác mới rời khỏi kho hồ sơ, đi báo kết quả cho Vương Nghiên.

Lan Giác ngồi cạnh bàn sách viết lại ghi chép về đợt điều tra, Vương Nghiên ngồi cạnh bên nhìn tô nước trà mà day huyệt thái dương.

Lan Giác bất giác cười nói: “Vương thị lang sao lại thở dài suốt thế?”

Vương Nghiên ỉu xìu: “Ôi dào, cùng các đồng liêu bàn về bản án trưa nay với Thượng thư đại nhân đau hết cả đầu.”

Lan Giác chấm mực: “Thượng thư đại nhân dường như đã nhận định Trương Bình kia là hung thủ rồi, sao huynh lại còn đau đầu chứ?”

Vương Nghiên nói: “Vị Đào đại nhân đây của chúng tôi trước nay vô cùng cẩn thận tỉ mỉ, tiếc người hiền tài thương kẻ hèn mọn, ngài ấy cũng sợ bản thân kết án oan sai, cho nên cứ do dự mãi chẳng chốt.”

Lan Giác không nói gì, hôm nay việc Đào thượng thư dừng cuộc thẩm tra vụ án đã khiến y mở rộng tầm mắt, đáng tiếc tên Trương Bình kia lại rơi vào tay ông ta, không biết có biến thành cô hồn dã quỷ xui xẻo lượn lờ nơi phố chợ hay không nữa.

Vương Nghiên nhấp một ngụm trà: “Tôi thì thấy ấy à, vụ án này kỳ quặc lắm, chưa chắc hung thủ là tên Trương Bình kia đâu.”

Lan Giác vẫn không tiếp lời. Chờ y viết xong ghi chép, nét mực khô ráo, Vương Nghiên đóng dấu rồi thu về phòng hồ sơ, đột nhiên nói: “Bội Chi, tối nay rảnh không?”

Lan Giác nói: “Về Ti bộ trả hồ sơ xong thì không còn việc gì nữa, không lẽ Mặc Văn định mời tôi đi ăn cơm chăng?”

Vương Nghiên khoanh tay cười nói: “Còn ngon hơn ăn cơm nhiều ấy chứ, xem một vở kịch mới, đi không?”

Lan Giác nói: “Vương thị lang, nếu như huynh muốn điều tra vụ án hôm nay thì tôi đi có hơi không hợp phép tắc.”

Vương Nghiên nói: “Nói như thể giống như Lan thị lang huynh có nhiều phép tắc lắm vậy, yên tâm đi, tôi nhất định sẽ không khiến huynh gặp rắc rối đâu, chỉ là xin huynh giúp tôi một chuyện, vở kịch tối nay tôi mời, nhưng có thể hát trong phủ huynh không?”

Buổi tối, thủy tạ phủ Lan thị lang treo một tấm rèm, đèn đuốc sáng trưng, gió nhẹ lùa vào màn, trăng thanh gió mát, nối tiếp không khí lúc này chính là một thư sinh đang kéo một tiểu thử hát miên man trên sân khấu: “Tỷ tỷ yêu quý của ta ơi, mấy ngày hôm nay nhớ tỷ đến ruột gan rối bời, trà uống nhạt nhẽo cơm ăn vô vị, mỗi ngày lên đình các ngắm nhìn tỷ, không biết tỷ có từng nhớ ta không…”

Răng hàm phía sau của Lan Giác va lập cập, Vương Nghiên phe phẩy cái quạt nói: “Úi chao, quả nhiên là một nơi thích hợp để nghe hát.”

Nữ tì khom người rót trà, ánh mắt Lan Giác quét về một nơi cách đó không xa, nhìn thấy phía sau cây cột trong hành lang thò ra một góc áo.

Lan Giác trầm giọng: “Ra đây đi.”

Một dáng người bé nhỏ ngượng ngùng bước ra khỏi cây cột, cúi đầu: “Cha.” Rồi hành lễ với Vương Nghiên.

Vương Nghiên cười nói: “Lâu không đến phủ chơi, lệnh lang đã cao lớn quá nhỉ. Ta còn nhớ hình như tên là Lan Huy phải không, nào, nào, đến đây xem kịch đi.”

Lan Huy vui mừng ngẩng đầu lên, nhìn thấy sắc mặt của Lan Giác lại vội cụp mi xuống.

Lan Giác từ tốn nói: “Tuổi con giờ vẫn còn nhỏ, xem mấy vở kịch yêu đương nhăng nhít này không hợp, về phòng đọc sách đi, đến giờ thì đi ngủ.”

Lan Huy dạ một tiếng, hậm hực rời đi, Lan Giác lại hỏi: “Ăn cơm chưa?”

Lan Huy nhỏ giọng nói: “Con ăn rồi.” Rồi lại đưa mắt nhìn Lan Giác: “Cha ơi, đại thúc thúc nói tết Đoan Ngọ sẽ dẫn con qua nhà ăn bánh chưng.”

Lan Giác nói: “Vậy thì con đi đi, Đồng biểu ca của con năm nay thi cử, cha phải tránh mặt nó, không thể đi cùng con được.”

Lan Huy lại dạ một tiếng, hành lễ với Lan Giác và Vương Nghiên rồi cùng tổng quản trở về phòng.

Vương Nghiên cười chế giễu: “Bội Chi, huynh dạy con cũng nghiêm khắc quá đấy, lệnh lang năm nay đã bảy tám tuổi rồi, xem kịch thì sao đâu nào. Ba thằng ranh nhà tôi lúc biết nhận thức thì đã xem kịch cùng ông nội chúng nó rồi, có gì mà chưa xem qua chứ. Cả ngày nhảy nhót tứ tung, xém chút nữa làm sập cả tường nhà luôn, không hề ngoan ngoãn nhã nhặn như lệnh lang đây đâu nhé”

Lan Giác nhấc tách trà gạt lá trà nổi bên trên: “Tôi trước nay không cấm nó xem kịch, nhưng phải xem mấy vở kịch lành mạnh, đoàn kịch thế này, vở kịch phóng túng thế này, chẳng lẽ huynh lại mời về phủ hát cho các lệnh lang xem sao?”

Vương Nghiên chắp tay nói: “Xem như tôi sai rồi, lần này quả thật có lỗi với Lan thị lang, nếu như vụ án này có biến chuyển, tại hạ nhất định sẽ hậu tạ nha.”

Cứ nói chuyện miết, vở kịch trên sân khấu cũng đã hát xong, một người phụ việc cúi đầu chào nói: “Tiểu nhân chúc sức khỏe Lan đại nhân và vị lão gia đây, không biết vở kịch vừa nãy có vừa mắt hai vị đại lão gia không ạ. Bẩm báo hai vị, vở tiếp theo sẽ là “Hẹn thề dưới trăng” ạ.”

Lan Giác nhíu mày: “Vở kịch hồi nãy tầm thường quá, không cần hát vở tiếp theo nữa, lấy sổ ghi chép ra đây, chọn một vở khác vậy.”

Người phụ việc hoảng hốt lùi xuống, một lát sau cùng với một người đàn ông trung niên đi đến. Người đàn ông đó diễn vai tiểu sửu, mặt đã thoa phấn, xoa trát cái mũi trắng bệch, dâng lên danh sách tên các vở kịch, cẩn thận nói: “Nếu hai vị lão gia không thích Nam hí, chúng tiểu nhân sẽ diễn võ hí ạ.”

Lan Giác thong thả lật mở cuốn sổ: “Ta vốn rất thích nghe Nam hí, buổi tối mà nghe võ hí thì ồn lắm. Nhưng, đều là tài tử giai nhân, nghe phát chán rồi, có cái nào mới mẻ hơn không?”

Người đàn ông đó vội vàng gật đầu: “Có ạ, có ạ! Không biết đại nhân có thích nghe mấy kịch thần tiên yêu quái hay không? Có một vở tên là “Cổ tỉnh nương tử”, là giữa thư sinh và quỷ nước, còn có một vở là “Tiên nữ oán”, nói về Ngưu Lang Chức Nữ, còn một vở nữa là “Mị nương”, là giữa hồ tiên…”

Lan Giác nói: “Hóa ra cũng có nữ hồ tiên à, thư sinh tình cờ gặp gỡ nữ hồ tiên, cũng hơi quen đấy, còn có cái nào mới mẻ hơn không, như tiểu thư gặp nam hồ tiên chẳng hạn…”

Thần sắc của người đàn ông sáng lên, lắp bắp nói: “Có thì cũng có một vở, nhưng…”

Lan Giác nhướng mày nói: “Hay là diễn trong phủ của ta không hợp?”

Người đàn ông vội vàng nói: “Không dám, không dám, có thể đến diễn trong phủ của Lan đại nhân là phúc phần mấy đời của đám tiểu nhân. Chỉ là, đây là vở kịch mới, ở trên sổ vẫn chưa có viết, vừa mới diễn tập vài hôm, sợ lời mới, hát không hay, đại nhân lại trách.”

Vương Nghiên ở bên nói: “Không trách, không trách, có kịch mới nghe là được rồi.”

Lan Giác đóng cuốn sách lại: “Hát thử cho ta nghe đi, nếu hát sai cũng không sao.”

Người đàn ông gật đầu liên tục, miệng đáp dạ vâng, rồi cùng cậu phụ việc lui xuống.

Không lâu sau, màn kịch lại mở ra, vở này tên là “Hồ lang”, Vương Nghiên nói: “Hồ lang, hồ lang, vốn phải gọi là chồn chứ.”

Trên sân khấu, một cô gái ăn mặc chải chuốt đang nằm trên sạp, cầm một cây quạt tròn, hát một cách yếu ớt: “Lại một năm nữa xuân lại đến, hoa xuân ý xuân nhộn nhạo hết cả vườn, mắt ta trông chờ xuân, quang ý mệt mỏi chán chường, cầm lên lăng hoa kính, người trong gương chưa từng có chút xuân sắc nơi chân mày…”

Răng của Lan Giác lại bắt đầu ê ẩm cả lên, tên Trương Bình đó vẻ ngoài ngô nghê vậy mà lại viết được một đoạn tình thiếu nữ tư xuân sống động thế này, quả nhiên là không thể trông người mà bắt hình dong.

Vị tiểu thư trong vở kịch tên là Ngọc Điệp, tâm tư mong mỏi xuân tình, khi đi chùa đốt nhang, bức tượng thần trên điện đột nhiên mở miệng nói: “Ta vốn là một tán tiên trên thiên đình, thỉnh thoảng lại hạ giới xuống chốn phàm trần, ta thấy ngươi tình cảm chân thành ý niệm kiên định nên ban cho ngươi một đoạn nhân duyên tốt, vào nửa đêm canh ba hãy ra hậu hoa viên…”

Sau khi Ngọc Điệp trở về nhà, thầm suy nghĩ trong lòng: “Một bức tượng đất vô tri vô giác, ngôn từ không lịch sự nhã nhặn, chỉ sợ trên đời này vốn không có thần tiên, có kẻ giả thần giả quỷ để lừa bịp ta.”

Vương Nghiên nói: “Cô gái này đột nhiên tỉnh ngộ rồi, nhưng đã hiểu ra như vậy, làm sao có kịch xem tiếp nữa.”

Lời y vừa nói xong, Ngọc Điệp trên sân khấu bỗng nhiên lại hát khác đi: “Ta nghĩ thế này, không cần thiết phải cẩn thận, thần tiên đều có tấm lòng tốt muốn phổ độ chúng sinh, có lẽ muốn điểm hóa ta, ta làm sao có thể không đi gặp lang quân như ý mà trời ban cho chứ…”

Thế là Ngọc Điệp liền đi ra hậu hoa viên, nhìn thấy một người thanh niên trẻ tuổi mang mặt nạ, cả người toát ra mùi hương kỳ lạ, tuy Ngọc Điệp không nhìn thấy mặt mũi y nhưng lại bị mùi hương này làm say mê đến mềm nhũn người, thế là ngã vào lòng y ta.

Sau một trận mây mưa, Ngọc Điệp trở về khuê phòng, rồi lại bắt đầu hát: “Khi lòng tĩnh lặng, nghĩ kỹ lại thì, không cảm thấy cả người chàng lạnh ngắt, người quỷ đến cùng vẫn không phân định được, thật giả lại chẳng phân tường, mùi hương đó tựa như mê hồn thang, khiến ta không kiềm được mà vứt bỏ sự trong sạch, rốt cuộc là ta…”

Sau tấm rèm, ló ra một cái đầu, thấp giọng nói: “Sai rồi, sai rồi…”

Lan Giác giơ tay ra hiệu dừng diễn, nói to với người trong đoàn kịch: “Sao lại sai?”

Người đàn ông có mũi trắng bệch kia ấp úng hồi lâu, lắp bắp nói: “Đại nhân, thật không dám giấu, vở kịch này về sau đã sửa lại, ông chủ kịch nói, kịch bản đầu tiên thất bại rồi, thế là lại sai người sửa, vừa nãy là hát sai lời ạ, đó là lời chưa sửa, chúng tiểu nhân thật đáng chết!”

Lan Giác nói: “Đoạn đầu tiên sau khi Ngọc Điệp đi chùa về cũng hát sai rồi, đó là lời bản cũ, đoạn tiếp theo và đoạn vừa mở màn mới là lời đã sửa, có đúng không?”

Người đàn ông mũi trắng nằm rạp xuống nói: “Vâng, vâng ạ…”

Từ sớm Lan Giác đã nhìn ra, Ngọc Điệp luôn nâng cây quạt tròn có dán lời trong tay mình lên, sợ là nhất thời dán nhầm kịch bản cũ lên mất rồi, cho nên mới hát nhầm. Y thầm cười nói: “Được rồi, vốn là do ta ép các người diễn, cũng có chút gây khó dễ cho mọi người, có sai cũng không sao, cứ tiếp tục diễn đi.”

Người đàn ông mũi trắng tạ ân rồi rời đi, Ngọc Điệp trên sân khấu đổi một cây quạt tròn khác, bắt đầu hát lại từ đầu, giai điệu vẫn là giai điệu nhưng lời đã hoàn toàn khác.

“Tâm đã tịnh, suy nghĩ kỹ, nghĩ đi nghĩ lại cũng là lang quân của ta. Hồ lang ơi, chàng nhất định là tiên, mới có thể giam giữ trái tim của thiếp, Hồ lang ơi, thiếp ước mong sao ngày mai ngày hãy biến thành đêm, để có thể gặp lại chàng…”

Ngọc Điệp và Hồ lang bí mật ân ân ái ái nhiều ngày, nàng Ngọc Điệp đột nhiên phát hiện Hồ lang có gì đó kỳ quặc.

Lại một đêm dài, Ngọc Điệp hỏi: “Lang quân, tại sao chàng lại có đuôi?”

Hồ lang cuối cùng cũng thừa nhận rồi: “Ta không nên dối gạt nàng, kỳ thực ta là hồ ly, không phải là thần tiên.”

Hồ lang nói, nó là một con hồ ly muốn tu luyện thành tiên, cảm mến dung nhạo hoa nhường nguyệt thẹn của Ngọc Điệp cho nên mới muốn cùng cô gặp gỡ mỗi đêm. Hồ lang còn nói, trên người nó có mùi hương nồng nặc là do muốn che giấu mùi của hồ ly.

Ngọc Điệp nâng quạt tròn lên trước mắt, thấp giọng hát: “…hương mê hồn, dùng lý do này cũng được mà, nhưng tại sao, chàng cứ nhất quyết không cho thiếp nhìn thấy gương mặt thật của mình, không phải là luôn lừa dối thiếp…”

Ngọc Điệp đột ngột dừng lại, lùi nhanh về sau hai bước đến chỗ cạnh tấm màn, giả vờ trách móc rồi quay người đi, lúc Hồ lang vịn vai xoay người cô lại, cây quạt tròn có hình bướm nô đùa trên mẫu đơn đã hóa thành chuồn chuồn đậu trên hoa sen.

Lan Giác bất giác bật cười.

Ngọc Điệp thâm tình nhìn Hồ lang hát: “Chàng không nên dối gạt thiếp, cho dù chàng là hồ ly, thì tình cảm của thiếp dành cho chàng vẫn không hề đổi thay…”

Ngày thứ hai, chị gái đã xuất giá của Ngọc Điệp trở về nhà, Ngọc Điệp nói với chị, cô đem lòng yêu một vị tiên, sẽ cùng chàng rời khỏi đây, cô còn nói, chị à, nếu như em không thể chăm sóc cha mẹ đến trọn đời, thì chị thay em tạ lỗi với họ, xin đừng oán trách em.

Người chị chỉ cho rằng cô em gái đang nói mơ, mấy ngày sau, người nhà đột nhiên phát hiện không thấy Ngọc Điệp đâu nữa, chỉ để lại một lá thư, một túi hương.

Trong chốn núi rừng, Ngọc Điệp và Hồ lang ôm lấy nhau trước một rừng hoa.

Kịch diễn xong cũng đã đến canh tư, Lan Giác sai người ban thưởng hậu hĩnh cho đoàn kịch, Vương Nghiên lẩm bẩm: “Chỉ sợ vụ án này, thực sự không phải do Trương Bình gây ra.”

Lan Giác không nói gì nhiều, chỉ cầm tách trà đã hơi nguội lạnh lên, nói với tổng quản: “Bảo người đứng đầu đoàn kịch đến đây, nói là ta cảm thấy vở kịch này rất hay, rất muốn xem kịch bản chưa sửa chữa của họ.”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 7


Tổng quản đáp lại một tiếng dạ rồi tính đi thì Lan Giác gọi giật lại: “Khoan, chưa nói chuyện kịch bản này vội, chỉ cần bảo vở kịch vừa rồi diễn rất tốt, vất vả cho họ rồi, dẫn mấy diễn viên ban nãy và cả tổng quản đến tiểu hoa đình nhận thưởng đi.”

Tổng quản nhận lệnh rồi vội vàng đi khỏi, Lan Giác và Vương Nghiên đến tiểu hoa đình đầu tiên, không lâu sau thì người đàn ông diễn tiểu sửu ban nãy cùng hai diễn viên đóng vai Ngọc Điệp và Hồ lang đi vào. Trên mặt người đàn ông đã lau sạch son phấn, nhưng hai nam nữ diễn viên trong “Hồ lang” vẫn chưa kịp tẩy trang.

Lan Giác sai nô bộc đem mấy phong bao đỏ ra thưởng cho họ, cả ba rối rít cảm ơn rồi nhận lấy, Lan Giác lại nói: “Vừa rồi nghe hai kịch bản hát chung với nhau, tuy có hơi rối nhưng cũng hay. Không biết ta có thể xem qua bản trước khi sửa và sau khi sửa hay không?”

Ba người trong đoàn kịch nhìn nhau, vẫn là người đàn ông cười nói: “Lan đại nhân, thật xin lỗi, ông chủ chúng tôi có dặn, không thể để người ngoài xem kịch bản được…”

Lan Giác phất tay, nô bộc hai bên đều lui xuống, cửa đình đóng lại, trong tiểu hoa đình lúc này chỉ còn lại mình Lan Giác, Vương Nghiên và ba người bọn họ.

Lan Giác nói: “Trời cũng không còn sớm, ta và Vương đại nhân còn phải thượng triều, chi bằng nói thẳng không vòng vo nữa. Các ngươi cố tình trộn hai kịch bản lại hát, là do đã nhận ra ta mời vị Vương thị lang trong Hình bộ này đến, nên cố tình hát cho y nghe. Giờ phút này có điều gì muốn nói cứ việc nói thẳng ra đi.”

Sắc mặt ba người họ thay đổi hẳn, người đàn ông trung niên vội vã quỳ xuống đất, dập đầu nói: “Quả nhiên mánh khoé cỏn con này của tiểu nhân không qua nổi pháp nhãn của hai vị đại nhân. Đại nhân, ông chủ chúng tôi bị hại rất kỳ lạ, Lý tiểu thư năm xưa cũng chết quái gở như vậy. Tiểu nhân vừa nãy to gan, mong thanh thiên đại nhân minh xét!”

Vương Nghiên chỉnh lại y phục, ngồi ngay ngắn: “Lý tiểu thư là ai, ông chủ đoàn kịch các ngươi bị giết thì có gì kỳ lạ?”

Người đàn ông trung niên đáp: “Bẩm đại nhân, chuyện này kể ra thì dài. Đoàn kịch Lai Hỉ này vốn tên là Lý Gia Ban, tiểu nhân tên là Lý Thất, hai người diễn vở “Hồ lang” này, một đứa là cháu của tiểu nhân tên Tinh Thư, đứa còn lại là cháu ngoại tên Hương Hà, đều là người của Lý Gia Ban năm xưa.”

Hoá ra, đoàn kịch này vốn là của nhà mẹ đẻ Kim phu nhân Kim Lý thị, ông ngoại Lý thái công của Kim Lý thị thời trẻ diễn kịch, sau đó tự mình làm ông chủ, thành lập nên một đoàn kịch.

Dưới trướng ông có một nam một nữ, trưởng nam, cũng là chú của Kim Lý thị không thích học diễn kịch, thế là quay sang buôn bán vải vóc, Lý thái công liền cho một môn sinh mình rất tâm đắc ở rể, lấy mẹ của Kim Lý thị, sinh hạ một đứa trẻ theo họ Lý, vẫn là cơ ngơi của Lý gia.

Nhưng không ngờ rằng, người tính không bằng trời tính, vốn Kim Lý thị có một người anh, hơn mười tuổi thì người này không may bị bệnh đậu mùa chết yểu, cha bà cũng bị nhiễm bệnh, không lâu sau thì qua đời. Tướng công của Kim Lý thị là Kim Lễ Phát hồi trước cũng từng làm ông chủ của một đoàn kịch nhỏ, thế là nhân cơ hội này tiếp quản Lý Gia Ban, nhưng sợ từ Lý Gia Ban đổi thành Kim Gia Ban thì khiến nhiều người không vừa lòng nên đổi lại thành Lai Hỉ Ban. Đoàn kịch lớn mạnh dần, sau đó đến Kinh Thành làm ăn.

Vương Nghiên nói: “Thật là thú vị, vậy là cha và anh trai của Kim Lý thị đều qua đời cả, người mẹ goá không đủ chức chèo chống đoàn kịch, bà ta vẫn còn một người chú, đoàn kịch này vốn là của chú bà ta, sao lại có thể họ Kim?”

Lý Thất nói: “Vâng, chuyện này nói ra thật đáng buồn, Lý thái công quả thực là một người lương thiện, nhưng không biết nhà họ Lý của ông làm sao nữa, con nối dõi không vượng. Lý đại thiếu gia cưới rất nhiều thê thiếp, cuối cùng chỉ có một đứa con gái, mười hai mươi năm trước đã qua đời rồi. Sau đó nhận một đứa trẻ làm con thừa tự, chỉ là vì mấy chuyện làm ăn buôn bán kia, rốt cuộc cũng không phải là ruột thịt, cũng không coi đoàn kịch này ra gì, cho nên đã quay về bên ngoại của chồng tiểu thư.”

Vương Nghiên gật nhẹ đầu: “Vậy vị tiểu thư đã chết kia, chính là Ngọc Điệp trong vở kịch này à. Tại sao ngươi lại nói cô ta chết một cách quái gở?”

Lý Thất nói: “Bẩm đại nhân, sau khi ra riêng, đại thiếu gia ở trong ngôi nhà cũ của Lý gia gần bên, cho nên chuyện nhà cậu tiểu nhân biết rõ vô cùng. Tôn tiểu thư quá cố tên gọi Ly Nương, được nuôi trong khuê phòng từ nhỏ, không khác gì mấy so với những tiểu thư gia đình quyền quý, gia phong lại nghiêm khắc vô cùng.”

Ly Nương vốn chưa từng bước ra khỏi cửa lớn, ngoại trừ việc thỉnh thoảng đến chỗ cô chơi ra thì hầu như chưa từng gặp người lạ nào khác.

Nhưng đột ngột một ngày nọ, Ly Nương bỗng lăn đùng ra chết, quần áo chỉnh tề, nằm chết trên giường, nét mặt bình thản, tựa như đang ngủ vậy.

Người nhà không hiểu tại sao cô lại chết, bí mật mời một bà đồng đến để hỏi, bà đồng nói, tiểu thư Ly Nương bị yêu ma hút hết hồn phách rồi.

Vương Nghiên đập nhẹ vào bàn: “Hoang đường, hết sức hoang đường, vô cớ mà chết, sao lại không đi báo quan?”

Lý Thất cúi đầu nói: “…Tiểu nhân vốn không nên nói lời này, năm đó, lúc một mình, tiểu nhân từng nghe ai nói… lý do không đi báo quan là bởi vì sau khi kiểm tra thi thể của tiểu thư Ly Nương thì họ phát hiện ra cô ấy đã có thai mấy tháng rồi…”

Vương Nghiên đập mạnh một cái vào tay ghế: “Đây rõ ràng là cưỡng gian rồi giết người, càng phải nên đi báo quan, mấy dân thường ngu muội, vì mớ thể diện chẳng ra gì đó mà đã để tên hung thủ nhởn nhơ ngoài vòng pháp luật gần hai mươi năm trời!”

Lý Thất nói: “Nhưng rõ ràng là tiểu thư Ly Nương hoàn toàn không có cơ hội tiếp xúc với nam nhân, cho dù cô ấy có tới bản trạch thì cũng là từ cửa nhỏ đi vào nội viện, mấy kẻ không phận sự hết cách tiếp cận. Bà đồng nói, tiểu thư nhất định đã bị yêu ma hớp hồn, thế là bí mật làm hậu sự cho cô, đến …đến xác cũng đốt thành tro, rồi lại hạ táng…”

Vương Nghiên nhíu mày không nói gì, lát sau tiếp: “Sau đó?”

Lý Thất nói: “Sau đó… sau đó không nhắc đến chuyện này nữa, chuyện này sớm đã qua rồi, không ngờ là ông chủ lại tìm người viết kịch, phu nhân lại kêu người dựa vào vụ này mà viết thành kịch. Sau khi viết xong, ông chủ không vui chút nào, bảo chúng tôi không cần tập, rồi lại tìm người viết lại.”

Vương Nghiên nhăn mày: “Ông chủ của các ngươi không vui à?”

Lý Thất nói, vâng, lúc vở kịch này viết xong, Kim ban chủ có việc nên không ở Kinh Thành, Kim phu nhân bảo bọn họ diễn tập, kết quả là ngày hôm sau ông chủ trở về, xem vở kịch thì không vui tí nào, nói tuyệt đối không được, rồi tìm người viết lại, cho nên trong tay họ mới có hai bản kịch bản.

“Tiểu nhân xem lại kịch bản đầu tiên, đột nhiên nghĩ đến chuyện kỳ quái này, ông chủ lại đột nhiên gặp nạn, tiểu nhân cảm thấy quả thực quá sức quái lạ. Lúc đến phủ Lan đại nhân diễn kịch, Tiểu Ngũ nhận ra Vương đại nhân, tiểu nhân to gan cố tình để bọn họ nhào hai kịch bản lại với nhau mà diễn, hy vọng đại nhân chú ý đến. Mong đại nhân đừng trách.”

Lan Giác chỉ ngồi bên uống trà dỏng tai nghe, Vương Nghiên nói: “Được rồi, các ngươi thú nhận như vậy ta cũng đã nghĩ đến rồi, các ngươi cố ý không nhớ lời, nhưng cũng không nên đem hai bản mới cũ dán lên trên quạt chứ, làm một trận như thế này không khéo lại phản tác dụng làm lộ chân tướng đấy.”

Lý Thất dập đầu nói: “Đại nhân thật anh minh sắc sảo! Đã nhìn rõ tận chân tơ kẽ tóc!”

Vương Nghiên xoè quạt ra, cười ha ha nói: “Thôi đi, thôi đi, bản bộ viện ghét nghe những lời nịnh hót này nhất. Ngươi cảm thấy cái chết của Lý tiểu thư nhiều năm trước và chuyện Kim ban chủ gặp nạn hôm nay có liên quan với nhau, là do Trương Bình viết vở kịch đó mà ra, nhưng vô căn vô cứ, chuyện này phải điều tra kỹ càng. Nhưng ngươi cứ yên tâm, nếu như có ẩn khuất gì thì nhất định sẽ bị bóc trần ra thôi. Lý gia có một nô tài như ngươi cũng xem như là có một nô bộc có tình có nghĩa rồi.”

Lý Thất lại liên tục khấu đầu.

Trước khi ông ta cùng hai người kia rời đi, Vương Nghiên lại gọi giật Lý Thất lại, giống như thuận miệng mà hỏi: “Đúng rồi, lúc Lý tiểu thư chết, Kim Lý thị và Kim Lễ Phát đã thành hôn chưa?”

Lý Thất nói: “Vừa mới thành hôn không bao lâu, lúc đó phu nhân đang mang thai, dưỡng thai nhà mẹ ruột, tiểu thư Ly Nương thường đến bầu bạn với bà, nghe nói…”

Sắc mặt Lý Thất chợt sáng lên một chút.

Vương Nghiên nói: “Nghe nói thế nào?”

Lý Thất ngập ngừng nói: “Đây chỉ là chuyện tầm phào không liên quan gì, nghe nói năm đó người mà lão gia đoàn kịch chúng tôi muốn cưới không phải là phu nhân nhà tôi, mà chính là tiểu thư Ly Nương, nhưng do gia đình ông chủ đã từng lập qua đoàn kịch nên mới chuyển sang cưới phu nhân.”

Vương Nghiên cười nói: “Nếu như không cưới phu nhân của các ngươi, sợ rằng sẽ không có đoàn kịch như ngày hôm nay, đây điều đã do số mệnh quyết định.”

Lý Thất nói: “Vâng ạ, sau khi phu nhân sanh con không bao lâu thì anh trai của bà bị đậu mùa mà chết, có thể cũng không phải là mệnh số gì.”

Nói rồi Lý Thất thở dài một cái.

Sau khi ba người trong đoàn kịch rời đi, Vương Nghiên bưng chén trà thần người ra rất lâu, nói: “Bội Chi, huynh thấy vụ án này thế nào?”

Lan Giác ngáp một cái: “Tôi cũng không làm việc trong Hình bộ, có thể thấy thế nào chứ, chỉ là đứng bên xem trò vui thôi. Vương đại nhân đừng lo nghĩ quá nhiều về vụ án này, mau tắm rửa thay y phục, sắp phải thượng triều rồi đấy.”

Vương Nghiên đứng dậy: “Đúng vậy, đúng vậy, may mà tôi dự liệu trước, kiệu quan phục gì đều đem hết đến phủ huynh, nếu không thì thật sẽ lỡ việc thượng triều rồi.”

Lan Giác sai người pha trà đậm, sắp xếp một gian phòng cho Vương Nghiên tắm rửa thay y phục, bản thân cũng vội vàng tắm táp, ăn uống qua loa, thay quan phục rồi lên triều trước.

Sau khi bãi triều, Lan Giác không dám nán lại lâu, y lại đến Tư bộ nha môn làm việc, bận rộn đến chiều, bất giác thấy hoa mắt chóng mặt nên về phủ sớm, lúc ra khỏi Hoàng Thành chỉ nhìn thấy Vương Nghiên từ nơi nào đó vội vàng đi tới, sải bước thật rộng, nét mặt hồng hào.

Vương Nghiên nắm tay áo Lan Giác kéo y đến chỗ một gốc cây to, ánh mắt sáng ngời, thấp giọng nói: “Bội Chi, tôi đã nghĩ ra sơ sơ manh mối của vụ án này rồi, nhưng chỉ sợ tin đồn lộ ra lại không thể đi tra hỏi Kim Lý thị, đợi tôi hỏi xong Trương Bình thì có thể sẽ tra ra manh mối rất nhanh.”

Lan Giác ngậm cười nói: “Vậy thì tốt rồi.”

Vương Nghiên vỗ vai y nói: “Bội Chi, gặp được huynh thật là may mắn làm sao! Mấy lời của Lý Thất hôm nay quả thật là tin vui bất ngờ!”

Lan Giác nói: “Chỉ là tiện tay mà thôi, không dám lãnh công, chỉ cần sau khi vụ án này kết thúc Vương đại nhân nhớ đãi tôi một chầu rượu là được rồi.”

Vương Nghiên nói: “Tất nhiên, tất nhiên rồi! Tôi còn có việc phải làm, cáo từ trước vậy.”

Lan Giác cuối cùng vẫn nhắc nhở đôi chút: “Lời của Lý Thất, tôi nghe thì thấy vẫn còn có chút…tóm lại là, xem chừng Vương đại nhân ngài sẽ phải cực nhọc rất nhiều đấy.”

Vương Nghiên híp mắt cười nói: “Tôi biết rồi, lời của Lý Thất vẫn chưa rõ ràng, còn nhiều chỗ khó hiểu, thôi, không nói nữa, tôi đi Tư bộ trước đây.” Y chắp tay cáo từ.

Lan Giác nhìn y đi xa, rồi chậm rãi ra khỏi Hoàng Thành.

Trên đường trở về phủ, Lan Giác vô tình vén rèm kiệu lên, thoáng nhìn thấy Trần Trù tay cầm giỏ trúc, đi về hướng Hình bộ.

Lan Giác về đến phủ, cũng không chợp mắt được tí nào, y thay bộ đồ cũ, ngồi kiệu nhỏ ra ngoài, lựa chỗ khúc đường yên tĩnh cách đại lao Hình bộ không xa xuống kiệu. Y tìm một trà quán, lựa một gian phòng có cửa sổ sát đường ngồi xuống, kêu một bình trà, chậm rãi thưởng thức.

Vừa uống trà, y cũng vừa thấy có chút mắc cười, đã bao lâu rồi chưa từng làm qua cái việc nhất thời bốc đồng này chứ. Thích bới móc hỏi cặn kẽ đến cùng là thiên tính của con người, một bản án nhỏ như vậy, cư nhiên lại khơi gợi tâm trí của y.

Đến cùng là bởi vì tình tiết vụ án, hay là bởi vì Trương Bình, Lan Giác cũng không rõ.

Khoảng hai khắc trôi qua, chỉ thấy Trần Trù cầm cái giỏ từ Hình bộ phía xa đi lại. Lan Giác trả tiền trà, ra khỏi quán, vừa lúc đón Trần Trù đi đến trước cửa quán, Trần Trù cười ngượng với y nói: “Tào huynh, thật là trùng hợp, sao huynh lại ở đây?”

Lan Giác xem xét thần sắc của hắn, xem ra bản thân đã đoán không sai, Trương Bình không có nói cho Trần Trù biết thân phận thực sự của y là gì.

Y cười cười nói: “Tôi đến đây thăm một người bạn, thế là tiện thể đến uống chút trà. Trần huynh…chẳng lẽ là đi thăm Trương huynh à?”

Trần Trù xệ mặt xuống, thở dài một cái: “Ôi, hoá ra Tào huynh cũng nghe rồi à, quả thật là chuyện xấu truyền đi rất nhanh. Đều là lỗi của tôi cả, giới thiệu việc làm ăn cho Trương Bình, nhưng trái lại lại rước hoạ vào thân.”

Lan Giác nói: “Tôi nghe nói Đào đại nhân ở Hình bộ là một thanh quan, ông ta đích thân điều tra án này, nhất định có thể trả lại sự trong sạch cho Trương huynh.”

Trần Trù nói: “Cũng hy vọng được như lời Tào huynh nói, nhưng tôi cảm thấy…” Hắn ngó dọc ngó ngang, thấp giọng nói: “Tôi luôn cảm thấy hình như Trương Bình đã biết hung thủ thật sự là ai. Hôm nay, Vương thị lang của Hình bộ đến đại lao thẩm tra huynh ấy, hỏi huynh ấy một loạt câu hỏi về phhu nhân của ông chủ Kim, Trương Bình ngoan ngoãn trả lời từng câu, nhưng lại dám to gan nói với Thị lang đại nhân rằng, Thị lang đại nhân sai rồi. Vương thị lang tái mặt ngay tại chỗ, lập tức bỏ đi, mấy người trong lao nói huynh ấy không biết tốt xấu, Thị lang đại nhân rõ ràng đến giúp huynh ấy, nhưng huynh ấy lại nói đại nhân sai rồi. Tôi cứ suy nghĩ mãi, có phải Trương Bình đã biết hung thủ thật sự là ai không, nhưng không biết vì lý do nào đó, huynh ấy không dám nói ra…”

Chuyện này quả thật là thú vị, Lan Giác chợt cảm thấy quả nhiên không uổng công đi một chuyến.

Y cân nhắc một lúc, nói: “Trần huynh, khi nào huynh đi gặp Trương huynh thì nói với huynh ấy câu này, có thể nói là của Tào Ngọc tôi. Huynh ấy chỉ cần nhớ, nếu như huynh ấy quả thực biết hung thủ thật sự là ai thì ngàn vạn lần cũng không được nói cho kẻ khác biết, trước khi không có chứng cứ, không được nói rõ cho đại nhân Đào thượng thư nghe. Nhất định phải nhớ kỹ.”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 8


Đào đại nhân nhiều đêm không ngủ ngon giấc.

Ông nằm mơ thấy mình đã kết án, lập tức trảm Trương Bình, Trương Bình biến thành ma, toàn thân đẫm máu nhìn chằm chằm vào ông, giọng nói xa xôi: “Tôi bị oan…”

Đào đại nhân giật mình bật người dậy, cả người đẫm mồ hôi, con gà trống choai do vợ ông nuôi ngoài cửa sổ gáy ò ó ó, trời vẫn chưa sáng, chắc cũng đã gần đến giờ lên triều.

Đào phu nhân xoay người, nói: “Lão gia, hay là ông đi nói với hoàng thượng thôi không làm thượng thư bộ Hình gì nữa đi. Cả đời ông đến chuyện ma quỷ còn không dám nghe, sao lại làm cái chuyện điều tra phá án này chứ, bổng lộc chẳng đủ sống, hằng đêm lại mơ thấy ác mộng, râu cũng bị dọa cho bạc hết cả rồi. Hàn Lâm Viện sướng biết bao nhiêu, Tần phu nhân nói với tôi, lão gia nhà bà ấy ngày ngày nhàn nhã vô cùng.”

Đào đại nhân không nói gì, bước xuống giường, đi đến cửa, mở cửa ra thì nhìn thấy một màn đêm đen thẳm.

Đến Tư bộ nha môn, tâm tình Đào đại nhân vẫn chưa bình tĩnh lại, ông suy nghĩ hồi lâu, cảm thấy tên Trương Bình này quả thật có thể bị oan, một sĩ tử đang chuẩn bị tham gia thi cử, sao lại bỏ cả tiền đồ tốt đẹp phía trước đi giết một ông chủ đoàn kịch chứ, đây không phải là hành vi của người đọc sách.

Ông lật hồ sơ ra xem, rồi lại thấy mọi chứng cứ rõ ràng đều chống lại Trương Bình.

Đào đại nhân thở dài, rầu rĩ, bước đi chầm chậm.

Buổi trưa, Đào đại nhân đích thân đi đến nhà lao thăm Trương Bình, đúng lúc Trương Bình ngồi ăn cơm trong góc tường, hắn cẩn thận bỏ nửa cái bàn thầu vào lại trong chén rồi mới đứng dậy hành lễ với Đào đại nhân. Trong lòng Đào đại nhân thầm nghĩ, đây quả thật là một chàng trai tốt.

Đào đại nhân ôn hoà nói: “Ở trong lao chắc cũng cực khổ rồi. Ngươi ở trong này đừng lo lắng hoang mang, có oán hận bản bộ đường không?”

Trương Bình nói: “Học trò không phải hung thủ, tin rằng nhất định sẽ được trả lại công bằng.”

Đào đại nhân càng thêm hoà nhã nói: “Vương thị lang nói với bản bộ đường, y cảm thấy ngươi không phải là hung thủ đã sát hại Kim Lễ Phát, nhưng lúc Vương Thị lang đến tìm ngươi hỏi những điểm đáng ngờ, tại sao ngươi lại chọc giận y? Ngươi giúp Vương Thị lang tìm ra điểm đáng ngờ của những người khác, không phải càng có hy vọng được giải tội hay sao?”

Trương Bình cụp mắt: “Chỗ Vương Thị lang nghi ngờ hoàn toàn chẳng có gì đáng ngờ, học trò không thể nói thành đáng ngờ được.”

Đào đại nhân vuốt vuốt râu: “Sao ngươi lại chắc chắn không đáng ngờ?”

Trong ngục tăm tối, lính canh cầm bó đuốc sáng rực, Trương Bình đứng trong ánh lửa lập loè, thần sắc và ánh mắt giống y hệt con ma chết oan trong giấc mơ của Đào đại nhân: “Nếu như đại nhân tin tưởng, học trò có thể tìm ra chứng cứ và nhân chứng.”

Bà Kim Lý cũng nằm mơ thấy ác mộng, bà mơ thấy Ly Nương biểu muội của mình đang đứng ở đầu giường, gọi bà: “Tỷ tỷ… Tương Uyển tỷ tỷ…”

Bà Kim Lý tinh thần bất ổn, ngồi trong phòng đầy khó nhọc.

Hình bộ phái người đến nói với bà, lưỡi dao của hung thủ có thể có độc, hoặc do Kim Lễ Phát rơi xuống hố xí bị xú khí thấm vào người quá nhiều, vết thương vô cùng nguy kịch, nhưng mấy câu Kim Lễ Phát ú ớ trong lúc hôn mê chính là mấu chốt của vụ án. Hình bộ đã dốc hết sức lực chữa trị cho ông ta, cũng điều rất nhiều danh y đến, còn dán cáo thị, treo thưởng cho đại phu cứu được Kim Lễ Phát.

Bà Kim Lý khẩn cầu gặp mặt tướng công nhưng bị từ chối.

Cả ngày bà như ngồi trên lò lửa, các đệ tử im lặng trong sân có thể cảm thấy được bà vô cùng phiền muộn, tâm thần bất định. Lúc bà ngồi mò mẫm may vá cạnh cửa sổ, vụt một cái, giống hệt như nhiều năm về trước, bà có thai đứa con đầu lòng, ngồi may yếm cạnh bên cửa sổ, Ly Nương đẩy cửa nhìn bà mỉm cười: “Tỷ tỷ.”

Những ngày đó Ly Nương rất khác so với mọi ngày, người khác không để ý nhưng bà lại nhận ra.

Da dẻ cô mềm mại hơn so với trước, giống như là trét son phấn vậy, hồng hào tươi tắn. Bình thường cô không trang điểm gì, có vẻ như bị bệnh, giờ lại thích cắn môi ngậm cười, đuôi mắt cong cong, sóng mắt có chút mơ màng, không biết là đang nghĩ gì.

Bà nắm lấy tay của Ly Nương nói: “Cô nhóc nhà muội, chẳng lẽ không nhờ cha mẹ tìm cho ý trung nhân hay sao?”

Hai mắt của Ly Nương long lanh sóng nước, hỏi: “Tương Uyển tỷ, tỷ có tin có thần tiên không?”

Bà nói: “Tin, tin có một ông tiên râu tóc bạc phơ, đã cột một sợi dây vào tay muội từ lâu, đầu còn lại thì cột vào tay của công tử Phan An.”

Ly Nương cúi đầu cười: “Tỷ à, tỷ có còn nhớ không, con chồn mà lúc nhỏ chúng ta đã từng cứu ấy?”

Bà nghĩ một lúc, hình như là có chuyện này. Lúc nhỏ, sau vườn nhà có một con chồn ăn cắp gà, một chân sau của nó bị kẹt trong bẫy, quằn quại chạy qua trước mặt bà và Ly Nương.

Bọn họ nghe người lớn nói, chồn đánh rắm hôi không tả nổi, bèn lùi về sau ba bước, mở to mắt nhìn nó chui qua chuồng chó chạy mất.

Bà ngẩn người một lát, nói: “Chẳng lẽ con chồn đó hoá thành tinh, đến quấn muội à?”

Ly Nương nắm chặt khăn tay, không nói lời nào, bà nắm chặt tay Ly Nương: “Muội muội tốt, muội đừng có hù ta, chồn chỉ là loài hôi thối, mấy cái ma quỷ ấy không thể nào gặp được, con gái trong nhà, tuyệt đối không thể bị mắc lừa.”

Ly Nương cười: “Tỷ tỷ, muội biết rồi. Nhưng huynh ấy không có hại muội, huynh ấy là tiên, muội không nhìn thấy mặt huynh ấy, mùi hương trên người huynh ấy chỉ có trên trời mới có. Những kẻ phàm trần chúng ta mới là hôi là dơ bẩn trong mắt huynh ấy.”

Ngoài cửa vang lên mấy tiếng rầm rầm, tay bà Kim Lý run một cái, kim đâm vào tay, bà xé một mảnh vải quấn quanh đầu ngón tay, hai ba nha sai bên Bộ hình đi vào phòng.

“Bà Kim Lý, Thượng thư đại nhân muốn thăng đường thẩm vấn vụ án này, bà đi cùng chúng tôi một chuyến.”

Lần thứ hai thăng đường cũng dữ dội như lần đầu vậy, chỉ là bên cạnh Thượng thư đại nhân lúc này là một vị quan mặc quan phục Thị lang đỏ thẫm.

Bà Kim Lý nhận ra người này, ông ta chính là trưởng tử Vương Nghiên của Vương Thái sư đương triều, bà nghe Tiểu Ngũ nói, lúc đoàn kịch đến diễn ở nhà Lễ bộ Lan Thị lang, chính vị Vương Thị lang này cũng có mặt, gọi Lý Thất, Tinh Thư và Hương Hà đến hỏi mấy câu.

Trong lòng Bà Kim Lý có dự cảm không lành, trên công đường lúc này chỉ có mình bà ta quỳ, Trương Bình và Trần Trù không thấy đâu. Đào Thượng thư hắng giọng, nói: “Hôm nay tái thẩm tra bản án này là bởi vì đã tra ra những manh mối quan trọng có liên quan đến tình tiết vụ án. Bà Kim Lý, bản bộ đường hỏi ngươi, ngươi nói mình nghe thấy tiếng la của chồng là Kim Lễ Phát mới đi ra nhà xí, có người làm chứng không?”

Bà Kim Lý sững sờ trong giây lát, run rẩy nói: “Đại nhân… chẳng lẽ ngài nghi ngờ dân phụ sát hại chồng mình? Oan quá đại nhân ơi… dân phụ sống với chồng hai mươi năm luôn hoà thuận vui vẻ, sao lại muốn sát hại ông ấy kia chứ, xin đại nhân minh giám! Hung thủ rõ ràng là tên Trương Bình kia mà!”

Đào đại nhân nói: “Hiện tại vẫn chưa tìm ra hung khí, Trương Bình tuy đáng nghi, nhưng không có chứng cứ xác thực. Bản bộ đường đã xử qua vài vụ án rồi, hung thủ luôn luôn là người có mặt đầu tiên ở hiện trường, ngươi cũng không có nhân chứng, nên cũng không thể không nghi ngờ.”

Bà Kim Lý quỳ nhích lên hai bước, khóc nói: “Đại nhân, dân nữ và tướng công vợ chồng yêu thương nhau, tất cả mọi người trong đoàn kịch đều biết, dân phụ làm sao lại có thể sát hại chồng cơ chứ, đây rõ ràng là tên Trương Bình đó hàm oan tôi!”

Đào đại nhân thở dài một cái, phẩy tay, vài tên nha sai dẫn một người vào công đường, quỳ xuống cạnh Bà Kim Lý, không ngờ lại là Lý Thất.

Lý Thất nói: “Phu nhân, mười mấy năm trước, lúc tiểu thư Ly Nương chết, chính bà đã ra làm chứng, nói tiểu thư Ly Nương đã từng nói với bà, cô ấy có qua lại với một con chồn tinh, đại lão gia và đại phu nhân mới cho rằng tiểu thư Ly Nương bị chồn tinh hút mất hồn phách mà chết, không sai chứ?”

Đào đại nhân nói: “Bà Kim Lý, dựa theo điều tra có được, biểu muội Ly Nương của ngươi, năm đó rõ ràng là bị cưỡng hiếp rồi giết chết chứ không phải là do yêu quái thành tinh gì cả, ngươi thật sự không biết sự tình sao?”

Cả người Bà Kim Lý run cầm cập: “Đại nhân, biểu muội của dân phụ quả thật là bị chồn tinh hút hồn phách mà chết, hơn nữa nó đã chết gần hai mươi năm rồi, có liên quan gì đến chuyện chồng tôi bị sát hại chứ?”

Đào đại nhân chầm chậm nói: “Theo điều tra, biểu muội Ly Nương của ngươi được nuôi lớn trong khuê phòng, vốn không cách nào tiếp xúc được với nam nhân, có chuyện này không?”

Bà Kim Lý gật đầu, vừa khóc vừa tiếp tục nói: “Đại nhân…cho nên cái chết của Ly Nương chính là do yêu quái gây ra, năm đó nó quả thực có nói qua với tôi, một con chồn thành tiên đến tìm nó…”

Đào đại nhân nói: “Vậy tại sao ngươi lại không nói với cha mẹ cô ta?”

Bà Kim Lý khóc nói: “Về sau nó lại nói với dân phụ chỉ là đùa thôi…chị em chúng tôi thường hay đùa giỡn với nhau, tôi cũng không cho đó là thật…đến khi nó chết rồi, tôi mới hiểu ra, mới biết đó là thật…”

Vương Nghiên kế bên Đào Thượng thư lạnh lùng nói: “Một cô gái trẻ tuổi chưa kết hôn, lại ở trong khuê phòng, quả thực là rất khó gặp gỡ nam nhân nhưng cũng có một số người lại dễ dàng gặp gỡ cô ta vô cùng. Ví dụ như cha và đại ca, lại ví dụ như tỷ phu…”

Tiếng khóc của Bà Kim Lý ngưng bặt, Đào đại nhân lại thở dài: “Bà Kim Lý, nghe nói, tướng công ngươi Kim Lễ Phát năm đó muốn cưới biểu muội Ly Nương của ngươi, sau đó mới đổi sang cưới ngươi, có chuyện này không?”

Trên công đường im lặng như tờ, vài phút trôi qua, vài nha sai dẫn Trương Bình chậm rãi vào công đường, Đào Thượng thư gật đầu tỏ ý với Vương Nghiên, Vương Nghiên dời mắt nhìn xuống công đường: “Bà Kim Lý, ngươi có thể nói cho Thượng thư đại nhân và bản bộ viện biết sao ngươi lại muốn Trương Bình viết vở kịch ‘Hồ lang’?”

Răng Bà Kim Lý đánh cầm cập: “Dân phụ, dân phụ thỉnh thoảng lại nằm mơ, cho nên dân phụ nhất thời nổi lòng tham…”

Vương Nghiên lạnh lùng nói: “Ngươi bảo Trương Bình viết vở kịch này, chính là vì chồng ngươi Kim Lễ Phát!”

Trong bóng tối, Kim Lễ Phát vùng vẫy kịch liệt, ông ngửi thấy một mùi hương quen thuộc.

Là hắn, hắn đến rồi…

Tay Kim Lễ Phát giật giật hai cái, cổ họng ú ớ, hơi thở gấp gáp.

Hoàng Đại Tiên…hắn… 

“Bà Kim Lý, bà biết ẩn tình sau cái chết của Ly Nương năm đó, bà cũng thầm đoán ra được hung thủ là ai, nhưng đã giấu kín gần hai mươi năm trời, không chịu nói ra. Bà có ý muốn Trương Bình viết vở kịch này, trong lúc viết đã vô ý tiết lộ sự thật của sự việc năm đó. Mê Hương và cố ý che giấu khuôn mặt đều là dấu hiệu cho thấy hung thủ là người mà Ly Nương quen biết. Hơn nữa, phản ứng của Kim Lễ Phát khi nhìn thấy kịch bản đã chứng thực cho suy đoán của bà, thế là bà bèn nhân cơ hội này, nửa đêm ra tay giết gười, rồi vu oan cho Trương Bình!”

Bà Kim Lý liều mạng dập đầu, dập đến mức trán đã bắt đầu chảy máu: “Thượng thư đại lão gia, Thị lang đại lão gia, dân phụ không có giết chồng mình, càng không biết ẩn tình gì trong cái chết của biểu muội, dân phụ nếu có nói dối thì sét đánh năm lần!”

Trương Bình nhướng mi mắt nhìn Vương Nghiên, Vương Nghiên nheo mắt: “Trương Bình, nhìn sắc mặt của ngươi, có vẻ vẫn không phục lập luận của bản bộ viện?”

Trương Bình nhìn y, không nói gì.

Vương Nghiên cười lạnh một cái, dời mắt đi: “Lý Thất, ngươi nói lập luận của bản bộ viện có đúng hay không?”

Lý Thất cúi rạp mình xuống: “Thượng thư đại nhân anh minh, Thị lang lão gia anh minh, thảo dân chỉ là một đào kép, không dám nhận xét bừa bãi.”

Vương Nghiên khoanh tay: “Ngươi đâu chỉ không dám nhận xét, lúc này ngươi nhất định đang nhủ thầm trong lòng, tên Vương Thị lang này quả thật là một tên ngốc, nói gì hắn cũng tin, hoàn toàn đi theo con đường mà lão tử đã vẽ ra, có đúng không?”

Lý Thất hoảng hốt, ngẩng đầu lên, Vương Nghiên quay người đi, cúi mình nói với Đào Thượng thư: “Thượng thư đại nhân.”

Đào Thượng thư hô to một tiếng, chỉnh lại y phục, đập bàn một cái: “Lý Thất, tại sao ngươi lại vu cáo phu nhân Kim Lễ Phát giết người, chân tướng hai vụ án này rốt cuộc là gì, mau mau thành thật khai ra!”

Lý Thất xụi lơ tại chỗ, run lẩy bẩy.

Vương Nghiên nhìn xuống chỗ hắn, cười nhàn nhạt: “Nếu như Kim Lễ Phát và Bà Kim Lý có liên quan đến cái chết của Ly Nương, tuyệt đối sẽ không kêu người khác viết chuyện này thành kịch. Ngươi cư nhiên là một đầy tớ lại biết quá nhiều chuyện bí mật như vậy, thiết nghĩ tất có thể vào trong nội trạch. Mười mấy năm trước, ngươi dụ dỗ Ly Nương, có lẽ bị Kim Lễ Phát vô tình bắt gặp, lúc đó ông ta không nghĩ chuyện mình thấy có liên quan đến vụ giết người, nhưng không ngờ sau khi vở kịch này được viết xong lại nhắc đến mấu chốt của vụ án năm xưa.

Ngươi sợ Kim Lễ Phát nhớ lại chuyện năm đó, phát hiện ra đầu mối nên giết người diệt khẩu, dàn dựng sự việc như thể Trương Bình giết người, tiêu diệt tận gốc mấy người Kim Lễ Phát, Bà Kim Lý và Trương Bình – kẻ đã hư cấu câu chuyện nhưng vô tình nhắc đến điểm mấu chốt này. Về sau, theo điều tra của sai dịch, lúc vở kịch này viết xong rõ ràng Bà Kim Lý và Kim Lễ Phát đều không ở Kinh Thành, ngươi lại sửa nó đi, dùng nó để khiến bản bộ viện cho rằng Kim Lễ Phát có quỷ, trong từng lời nói đều có mưu kế, có ý muốn biến bản bộ viện thành con cờ. Quả nhiên là xảo quyệt vô cùng. Đáng tiếc, thông minh lại bị thông minh làm hại, những hành vi của ngươi lại trở thành bằng chứng chứng minh ngươi chính là kẻ giết người!”

Lý Thất cúi rạp mình xuống đất, nước mắt đầm đìa gào thét mình bị oan, Vương Nghiên khoanh tay đi xuống công đường, đứng trước mặt Trương Bình: “Trương Bình, lúc đó ngươi luôn miệng nói bản bộ viện sai rồi, bây giờ còn muốn nói câu đó với ta hay không?”

Trương Bình vẫn không nói gì, Vương Nghiên đi vòng quanh hắn, đột nhiên có một sai nha xông vào công đường, quỳ một chân xuống: “Thượng thư đại nhân, đã đến rồi.”

Đào Thượng thư vẫy tay: “Nhanh, mau đem lên công đường!”

Sai dịch vội vã rời đi, một lát sau, bốn năm sai dịch dẫn một người tiến vào.

Người đó độ khoảng bốn mươi, thân hình cao gầy, sắc mặt vàng vọt, râu lưa thưa, đầu đội khăn vuông, người mặc trường y không cũ không mới, lưng đeo giỏ thuốc, nhìn bộ dáng rất giống lang trung.

Trương Bình tiến lên trước một bước, cúi mình về phía trên cao: “Thượng thư đại nhân, người ngày chính là hung thủ cưỡng hiếp rồi giết chết Ly Nương mười mấy năm trước, và cũng là người sát hại Kim Lễ Phát vài ngày trước đây.”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 9


Bà Kim Lý nhìn tên lang trung kia, giọng run rẩy nói: “Ông…ông…”

Mặt lang trung không biểu lộ cảm xúc gì, cứ tuỳ ý để sai dịch ấn mình quỳ xuống đất. Kế đến, nha sai ôm một con thỏ sống đến, Ngưu Y Linh luôn chữa trị cho Kim Lễ Phát cầm kim ngân của lang trung đâm vào một vị trí phía sau tai của con thỏ, mấy giây sau hai mắt thỏ bỗng trở nên mơ màng, nằm phịch ra đất, bất động tựa như đang ngủ.

Đào đại nhân nói: “Trên kim ngân rõ ràng có tẩm thuốc, tại sao lại không có màu đen?”

Ngưu Y Linh hồi bẩm: “Kim ngân đúng là có tẩm thuốc nhưng không phải là độc, chỉ là một loại thảo dược. Hạ quan đã đặc biệt đến Thái Y Viện thỉnh giáo, trong quyển “mười loại thảo dược bốn phương” có ghi, ở vùng Lục Nam Sơn có một vùng đất nọ, đem mấy loại thảo dược nơi đó như răng heo, tai ngựa, sừng dê nấu thành nước có thể khiến người và súc vật vô tri vô giác.”

Đào đại nhân nói: “Chỉ là vô tri vô giác, không đến nỗi mất mạng, tại sao lại nhận định hắn ta cố ý muốn mưu sát Kim Lễ Phát?”

Ngưu Y Linh nói: “Thuốc tẩm trên kim ngân sau khi làm cho người ta vô tri vô giác, mạch đập vô cùng yếu, khí tức hoàn toàn biến mất, gần như đã chết vậy. Hắn ta lại dùng kim phong toả hết các đại mạch quan trọng của Kim Lễ Phát, nếu như hạ quan không kịp thời cứu chữa, Kim Lễ Phát chết là điều chắc chắn.”

Tên lang trung kia nằm bò dưới đất không cựa quậy được, Bà Kim Lý liên tục kêu lên: “Đại nhân, ông ta là La Lĩnh, cố hương của dân phụ và chồng. Hai tháng gần đây ông ta đến Kinh Thành, ở trong một con ngõ, nghĩ là cố hương sẽ tiện hơn nên mọi người trong đoàn kịch, đến cả dân phụ và chồng hở nhức đầu nóng người đều kêu ông ta đến xem, mọi việc đều rất quan tâm chăm sóc, chúng tôi không thù không oán với La Lĩnh, ông ta sao lại có thể…”

Lang trung chỉ nằm phục xuống đất, không nói lời nào, Đào đại nhân đập xuống bàn: “La Lĩnh, ngươi có ý muốn mưu sát Kim Lễ Phát, tội chứng rành rành, đêm đó ngươi dùng dao đâm Kim Lễ Phát, sau đó đẩy ông ta xuống hố phân, còn nữa, mười mấy năm trước việc Lý Ly Nương bị cưỡng hiếp rồi giết chết, có phải cũng do ngươi gây ra?”

La Lĩnh chậm rãi ngồi thẳng người dậy: “Đại nhân, thảo dân chỉ là thấy bảng cáo thị thì đến chữa trị cho Kim lão gia thôi, nghĩ muốn giúp Kim lão gia bớt đau đớn nên mới tẩm chút thuốc lên kim châm, Y Linh đại nhân cũng đã nói, thuốc đó chỉ khiến con người ta hôn mê, thảo dân chưa gặp qua chuyện đời to tát, thân ở Hình bộ, xung quanh lại có nhiều quan lão gia như vậy, khó tránh sợ hãi, nhất thời hồ đồ, châm nhầm huyệt vị, suýt chút nữa hại chết Kim lão gia, đó là do y thuật của thảo dân không tinh thông. Nhưng tuyệt đối không liên quan đến hai chữ mưu sát, còn chuyện cưỡng hiếp giết người gì đó, càng làm thảo dân thêm phần mơ hồ. Đúng như những gì Kim phu nhân đã nói, Kim lão gia và Kim phu nhân có ân với thảo dân, thảo dân sao lại phải hại họ chứ?”

Đào Châu Phong sờ râu không nói gì.

La Lĩnh lại nói tiếp: “Thượng thư đại nhân nếu không tin, có thể đi đến nhà thảo dân lục soát, thử xem có tìm ra tội chứng hay không. Vả lại thảo dân chỉ là một tên lang trung, thân trói gà không chặt, trong khi đó nhà Kim lão gia lại lập đoàn kịch, lúc trẻ có tập võ công, vóc dáng cường tráng to cao, dù cho thảo dân có mai phục ở nhà xí lén ám toán Kim lão gia cũng chưa chắc đã thành công. Nhà xí nhỏ hẹp, Kim lão gia trúng dao, lúc vùng vẫy không biết chừng có thể đẩy thảo dân ngã xuống hố phân. Đêm đó ánh trăng sáng rõ, xung quanh nhà xí chẳng có chỗ nào để ẩn nấp cả, mọi người trong đoàn kịch đều biết thảo dân, ra tay xong rồi bỏ trốn, rất dễ bị lộ chân tướng. Nếu như thảo dân muốn sát hại Kim lão gia, chỉ cần bỏ độc vào thuốc của ông ta là được rồi, cần chi phải làm ra cái trò này?”

Đào đại nhân tiếp tục vuốt râu, vẫn không nói gì.

Vương Nghiên khà khà cười lạnh hai tiếng: “Trương Bình, ngươi nói với Thượng thư đại nhân, La Lĩnh là hung thủ thật sự đã sát hại Kim Lễ Phát và cưỡng hiếp rồi giết chết Ly Nương, còn có chứng cứ nào khác không?”

Trương Bình khom mình, vẫn không đáp lại.

Vương Nghiên lại cười nhạt nói: “Vậy tức là không có? Thật là tức cười! Đây là sĩ tử muốn vào triều làm quan sao, đến phép tắc lề thói của bản triều còn không thuộc, mồm mép đảo một cái đã dám khẳng định hung thủ là ai rồi.” Y chắp tay về phía công đường, nói, “Thượng thư đại nhân, theo hạ quan thấy, lập luận của La Lĩnh có lý, chứng cứ không đủ, nhiều nhất chỉ xử tội không đủ tư cách hành nghề y, sơ suất hại người. Trương Bình vu cáo người lương thiện có tội, hung thủ của vụ án này chính là Lý Thất!”

Lý Thất nãy giờ im lặng ngồi nghe, nghe đến lời này thì ngẩng phắt đầu lên: “Đại nhân, thảo dân bị oan, đại nhân nói thảo dân là hung thủ, cũng không có chứng cứ xác đáng…”

Vương Nghiên nói: “Bản bộ viện đã đoán ra được động cơ gây án của ngươi, chẳng lẽ lại không tìm ra được chứng cứ? Sai dịch đã tra ra, gần đây ngươi từng ra yêu cầu tăng lương với vợ chồng ông chủ Kim, vở kịch ‘Hồ lang’ này trước sau tập qua hai lần, ông chủ Kim bắt các ngươi gấp rút tập luyện, vốn ngươi cũng đã có rất nhiều điều bất mãn rồi. Lập luận mới nãy của La Lĩnh càng chứng minh hung thủ tấn công Kim lão gia là người trong đoàn kịch.”

Đào đại nhân nói: “Không sai, theo kinh nghiệm phán đoán nhiều năm của bản bộ đường, trực diện tấn công nạn nhân phần lớn thường là người quen. Đối với kẻ xa lạ từ đâu đâm bổ tới, người bình thường đều sẽ cảnh giác.”

Vương Nghiên nói: “Đại nhân anh minh. Ngoài ra, thật ra hạ quan đã tìm thấy hung khí rồi.”

Y nháy mắt một cái, một sai dịch bưng một cái khay phủ vải lên, mùi xú khí âm thầm toả ra. Đào đại nhân vén tấm vải lên, bên trong khay là một con dao, thân dao nhỏ dài, cán dao đã cũ.

Vương Nghiên nói: “Con dao này là hạ quan sai người tìm kiếm trong hố phân của đoàn kịch Lai Hỉ, sau khi so sánh qua, quả nhiên là con dao của hung thủ.”

Đào đại nhân thở ra một hơi dài: “Trương Bình này, đây là con dao của ngươi à?”

Trương Bình nói: “Chính là con dao mà học trò đã làm mất.”

Lý Thất lạc giọng nói: “Dao là của hắn ta, tại sao lại nói hung thủ là thảo dân chứ?”

Sắc mặt Vương Nghiên biến đổi, quát lên: “To gan, tên gian xảo này, trộm dao giết người, nghĩ rằng có thể lừa dối giấu giếm sao? Lại còn ngông cuồng nguỵ biện! Bản bộ viện đã tra hỏi qua rồi, trước lúc Kim Lễ Phát bị hại, có đệ tử đã nhìn thấy ngươi ra khỏi phòng. Kim Lễ Phát sắp tỉnh lại rồi, hung thủ là ai ông ta chắc chắn biết. Ta khuyên ngươi mau mau nhận tội, đừng đợi đến khi dùng tra hình!”

Cả người Lý Thất run lên cầm cập, mồ hôi lạnh tuôn xuống từng giọt từng giọt, hắn tất nhiên biết, trên công đường này, Đào đại nhân là thứ yếu, kẻ khó đối phó thực sự chính là trưởng tử Vương Thị lang của vị Thái sư đương triều kia. Cứ cho là Vương Thị lang tuỳ tiện kéo một cái xác đến nói là do hắn giết, lập tức sẽ chém đầu hắn ngay, chỉ sợ hắn cũng chỉ có thể thừa nhận mà thôi.

Việc đã đến nước này, không thể không nói thật, Lý Thất cắn răng, nhắm chặt hai mắt, giọng run rẩy nói: “Đại nhân, thảo dân nhận tội, chuyện này không phải do thảo dân chủ mưu, kẻ chủ mưu chính là La Lĩnh!”

La Lĩnh sợ hãi nói: “Lý Thất ca, trước đây tôi với huynh không có oán, hiện giờ chúng ta cũng không có thù, sao huynh lại vu cáo tôi?”

Lý Thất cười lạnh nói: “Ngươi nghĩ ta là tên ngốc à, ngươi chỉ ta làm chuyện này, ta tất nhiên phải lưu lại chứng cứ rồi, chẳng lẽ tội trạng sau cùng để mình ta chịu, còn ngươi thì sạch sẽ vô can?” Hắn dập đầu về phía công đường, nói: “Thượng thư đại lão gia, Thị lang đại lão gia, trong phòng của thảo dân có một nơi cất giấu những lá thư do La Lĩnh gửi cho tôi, hắn bảo tôi tìm người mô phỏng lại bút tích của Kim Lễ Phát, lại dùng cách thức cũ, giả làm chứng cứ như thể năm xưa Kim Lễ Phát dụ dỗ Ly Nương.”

Sai dịch đến phòng Lý Thất, quả nhiên tìm thấy mấy bức thư đó.

Lý Thất cũng chẳng hiền lành gì cho cam, để phòng ngừa việc mấy lá thư La Lĩnh đưa hắn không phải là do đích thân gã viết, nên đã nói dối là mình không nhớ được thứ tự, bảo La Lĩnh đánh dấu thứ tự lên mấy bức thư trước mặt hắn.

Nét bút sạch sẽ, không có vết ố nào.

Chứng cứ đưa lên công đường, dâng lên cho Đào đại nhân xem. Đào Châu Phong than thở nói:  “La Lĩnh à, xem ra hung thủ chính là ngươi, năm xưa giết hại Ly Nương, có phải cũng là ngươi, cho nên ngươi mới giết Kim Lễ Phát diệt đầu mối? Tại sao ngươi lại làm ra mấy chuyện này? Thèm muốn sắc đẹp của phu nhân ư? Đã phạm những tội ác tày trời thế này, ngươi có dám đối mặt với ông trời, với thế gian, có dám đối mặt với cha mẹ mình không hả?”

Sắc mặt La Lĩnh xanh mét, hai mắt đầy những lằn đỏ, cao giọng nói: “Tôi không có giết Ly Nương! Tôi muốn báo thù cho Ly Nương! Chính bọn họ đã giết Ly Nương! Lại còn đem chuyện này viết thành kịch công diễn!” Bỗng nhiên lại xổ về phía Trương Bình, “Vị thư sinh này, tôi phải cám ơn cậu! Nếu không phải cậu thì tôi sẽ không biết kẻ đầu sỏ giết hại Ly Nương là Bà Kim Lý, tôi cứ luôn nghĩ bà ta chỉ là người đàn bà đanh đá!”

Vài sai dịch ấn cổ La Lĩnh xuống, Trương Bình cụp mắt nhìn gã, mặt không biểu tình, nhưng ánh mắt lại có chút bi thương.

“Kẻ giết Ly Nương thật ra vẫn là ông. Nếu như tại hạ đoán không nhầm, ông sợ cô ấy không muốn đi cùng mình, cho đến cuối cùng vẫn không nói sự thật với cô ấy, lúc cô ấy không biết sự tình bị ông hạ thuốc mê, nhưng lại bị cả nhà cho là bị yêu quái làm hại, rồi đốt xác. Nghe ông nói lúc nãy, cái chết của mẹ và em trai Bà Kim Lý có phải cũng liên quan đến ông?”

La Lĩnh trầm mặc trong giây lát, thần sắc biến đổi thất thường, rồi đột nhiên cười thê lương: “Ha ha, không sai, là do ta làm! Bà già đó, chính là bà ta, cầm đầu vụ mời bà đồng về, nói cái gì mà bị thần tiên yêu quái mê hoặc không thể để lại thân xác tội lỗi này… Bọn họ thiêu sống Ly Nương! Đầu tiên giết chết con cô ấy, sau đó lại giết chết cô ấy! Đều do ta nhất thời nương tay, lại tha cho một kẻ đáng chết! Sau hai mươi năm, ta lại quay về báo thù!”

Khi vụ án kết thúc thì cũng đã hết đêm.

La Lĩnh đã thẳng thắn nhận tội, khai hết chuyện từ đầu đến cuối.

Lúc gã còn học nghề, đã học chẩn bệnh từ sư phụ, trong một lần vô tình gã nhìn thấy dung mạo của Lý Ly Nương, về sau thì không cách nào quên được. Nhưng một kẻ như gã lại muốn lấy Ly Nương làm vợ thật đúng là hy vọng hão huyền. Gã lớn lên nơi chợ búa, học qua mánh khoé mở khoá trèo tường bèn nhân đó đột nhập vào viện, cải trang trá hình, giả làm yêu quái thành tinh, gặp gỡ Ly Nương hàng đêm.

Về sau, gã phát hiện Ly Nương đã có thai, chuyện này sớm muộn gì cũng sẽ bị bại lộ, nên muốn bỏ trốn cùng Ly Nương, nhưng lại sợ cô ấy biết thân phận thật sự của gã lại làm lớn chuyện lên, lại không thu xếp được. Thế là gã hạ thuốc Ly Nương, đợi nửa đêm lúc không có người sẽ đào mộ đem Ly Nương ra, nhưng ai ngờ Ly Nương lại đem chuyện gặp gỡ hoàng đại tiên nói với biểu tỷ của mình là Lý Tương Uyển, Lý Tương Uyển sau khi biết Ly Nương chết thì kinh hãi vô cùng, không dám nói với thúc thúc, thúc mẫu chuyện này, bà ta nói với mẹ mình, mẹ bà ta lại nói với anh trai và chị dâu. Rồi lại mời bà đồng đến khám qua, Ly Nương vừa lúc có thai, cộng thêm chuyện bịa đặt của bà đồng, Lý gia cư nhiên lại đem xác Ly Nương vội vàng đi thiêu trong đêm.

Vì chuyện này mà Lý gia loạn xì ngầu, hậu sự bí mật chủ yếu do con rể Kim Lễ Phát của nhà họ Lý lo liệu. Lúc sáng sớm đi mua bài vị giấy tiền vàng bạc, Kim Lễ Phát lại nhìn thấy La Lĩnh châm hương đốt giấy tiền bên bờ sông.

Cha mẹ của La Lĩnh đã qua đời từ sớm, sư phụ tuy tuổi già bệnh tật nhưng vẫn còn sống, Kim Lễ Phát nhìn thấy chuyện này thì có chút ngờ hoặc nhưng cũng không kịp suy nghĩ gì.

Về sau La Lĩnh lại mượn cớ mời ông đi uống rượu, nói dối ngày đó cúng tế cho cha mẹ đã mất của mình, đợi khi Kim Lễ Phát uống say rồi mới moi ra ai là kẻ thiêu chết Ly Nương từ miệng ông.

Lý Tương Uyển giữ bí mật cho Ly Nương, trước giờ không nói sự thật cho Kim Lễ Phát biết, do đó Kim Lễ Phát chỉ nói, là do mẹ vợ mời bà đồng đến, bà đồng làm chủ.

La Lĩnh quyết định báo thù cho Ly Nương, vừa lúc em trai Lý Tương Uyển cảm lạnh, gã thó tay vào trong thuốc, làm cho hắn ta giống như mắc bệnh đậu mùa mà qua đời.

La Lĩnh rất cẩn thận, gã ẩn nấp một khoảng thời gian, tận hưởng thoả thê nỗi thống khổ mà mẹ Lý Tương Uyển phải chịu, đợi khi sư phụ bệnh lâm chung mới thần không biết quỷ không hay hạ độc chết Lý thị.

Sau đó La Lĩnh rời khỏi thị trấn, phiêu bạt giang hồ gần hai mươi năm.

Trời xui đất khiến làm sao, lúc gã đến kinh thành thì vừa hay tình cờ gặp được Kim Lễ Phát và Bà Kim Lý, mà hai người này lại lựa đúng lúc này đem chuyện của Ly Nương viết thành kịch.

“Tôi cho rằng, đây chính là linh hồn của Ly Nương trên trời muốn nói cho tôi biết kẻ sát hại cô ấy thực sự là ai.”

Lúc La Lĩnh đến đoàn kịch Lai Hỉ chữa bệnh cho mọi người, gã nhìn thấy kịch bản này, cảm thấy vô cùng hoảng sợ, trong vở kịch lại tiết lộ sự thật năm xưa gã đã làm.

Gã bắt đầu hoài nghi có phải năm xưa Lý Tương Uyển cố tình muốn hại chết Ly Nương, Kim Lễ Phát nhìn thấy kịch bản này, nói không chừng có thể sẽ nhớ lại chuyện đã gặp năm đó.

Kim Lễ Phát nhìn thấy kịch bản này, vô cùng giận dữ, tìm người khác viết lại, La Lĩnh càng cảm thấy vợ chồng Kim thị này có tật giật mình.

Kim Lễ Phát và Bà Kim Lý đều không thể giữ lại.

Vừa lúc lại xảy ra chuyện khúc mắc tiền công vở kịch này, Trương Bình và Kim Lễ Phát nảy sinh mâu thuẫn, tướng người Trương Bình và La Lĩnh lại từa tựa nhau, La Lĩnh bèn nghĩ đến việc lấy Trương Bình làm bình phong. Lý Thất trong đoàn kịch trong lòng sớm cũng đã nảy sinh bất mãn với vợ chồng Kim Lễ Phát, sau khi xem xong vở kịch này cũng nảy sinh nghi ngờ với sự việc năm xưa, thậm chí còn tìm gã trao đổi. La Lĩnh bèn có ý dẫn dắt, khiến cho Lý Thất nghĩ Kim Lễ Phát mới là hung thủ thật sự, càng có ý cướp đoạt tài sản nhà Lý gia.

Gã trộm dao của Trương Bình, bỏ thuốc xổ vào, bảo Lý Thất ra tay, còn cố ý dưới ánh trăng sáng chạy vụt qua trước mặt đệ tử của đoàn kịch Lai Hỉ, không ngờ là Kim Lễ Phát lại mạng to, vẫn không chết.

Bà Kim Lý khóc lóc dập đầu trên công đường, cảm tạ thanh thiên đại lão gia đã bắt hung thủ giúp chồng bà, và đã làm sáng tỏ án oan của Ly Nương hai mươi năm trước.

“Ly Nương muội muội mệnh khổ, sau khi qua đời nói không chừng đã thật sự trở thành thần tiên, mấy đêm đó, không biết tại sao, tôi luôn cứ nằm mộng gặp nó, mới nghĩ đến việc viết vở kịch này. Có lẽ nó biết tên La Lĩnh này đã đến, muốn dân phụ minh oan cho nó…”

Trong ánh nắng ban sớm, Trương Bình bước ra khỏi cửa Hình bộ, có người ở phía sau gọi giật lại: “Khoan đã.”

Trương Bình quay đầu lại, chỉ nhìn thấy Vương Nghiên đứng trên cao, chắp tay cau mày nói: “Ngươi, lại đây.”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 10


Trương Bình đi cùng Vương Nghiên vào một căn phòng yên tĩnh, Vương Nghiên sai người đem trà lên, binh lính hai bên đều rời đi cả, cửa phòng khép lại.

“Lập luận của bản bộ viện trong vụ án này không giống ngươi, dù sao thì ngọn nguồn sự việc ngươi lại biết nhiều hơn ta. Nhưng ngươi tìm ra một hung thủ, ta tìm ra một hung thủ, chung quy cũng không kém nhau là bao.”

Trương Bình nói: “Trên công đường hôm nay, nếu như Vương đại nhân không hù doạ Lý Thất thì sợ rằng vụ án này chờ Kim Lễ Phát tỉnh dậy mới có thể phá được.”

Vương Nghiên bước vài bước: “Đúng vậy, đúng vậy, thật ra chứng cứ lời khai của Lý Thất không đủ, chẳng qua bị bản bộ viện gạt nên mới khai ra.”

Trương Bình nói: “Y phục phạm tội của Lý Thất có lẽ ở trong phòng hắn, trên xà nhà hoặc dưới ngói.”

Vương Nghiên nhíu mày nhìn kĩ Trương Bình: “Ý ngươi là, ngươi đã đoán ra Lý Thất chính là hung thủ?”

Trương Bình chậm rãi nói: “Kim Lễ Phát bị đâm trực diện, học trò chỉ đoán, kẻ ra tay là người trong đoàn kịch, Lý Thất là do đại nhân tra ra.”

Vương Nghiên hừ một tiếng, kéo ghế ngồi xuống: “Bản bộ viện không cần ngươi giữ thể diện cho đâu, ta cũng không tin lời ấy. Ngươi làm sao nhận diện được thân phận của hung thủ, nói ra ta nghe xem nào.”

Vương Nghiên phất ống tay rót trà, trong khói trà mờ ảo, Trương Bình rủ mi nhìn xuống.

“Chỉ là học trò cảm thấy trên đời này người biết dùng thuốc không nhiều lắm.”

Nếu có ai đó tuỳ tiện đi ra tiệm thuốc mua một liều thuốc mê hoặc dược liệu kỳ quái nào đó nhất định sẽ bị để ý.

Nhưng vụ án của Ly Nương, điểm mấu chốt chính là thuốc, cô ta bị chuốc thuốc rồi bị cưỡng hiếp, sao đó cũng bị thuốc làm hại mà chết.

Tay của Vương Nghiên hơi khựng lại: “Hoá ra là vậy, ừm, trên đời này bịt mặt gây án, lại hiểu mê hương, đại khái có hai dạng người.”

Một dạng là hái hoa đạo tặc quen hành tẩu giang hồ, nhưng lại ân ái cùng Ly Nương nhiều tháng liền, không giống tác phong của hái hoa đạo tặc.

Còn một dạng nữa, chính là lang trung.

Lang trung có thể đột nhập vào sâu trong nội viện, nhìn thấy được dung mạo của Ly Nương, trên người hắn có mùi dược liệu cho nên mới dùng một mùi hương nồng để át đi.

Vụ án này giống như mạng nhện phủ lớp tro bụi, Trương Bình chỉ là may mắn nhìn thấy sợi dây chứa đựng điểm mấu chốt thực sự  mà thôi, không có gì đáng để ngưỡng mộ cả.

Vương Nghiên nhấc chén trà lên: “Kim Lễ Phát bị hại, ngươi lại đoán ra là do hung thủ giết chết Ly Nương làm, bởi vì vở kịch kia của ngươi ư? Thật ra cũng có thể là báo thù, dựa theo kinh nghiệm nhiều năm của bản bộ viện, vài vụ án nhìn thì có vẻ liên quan nhưng chẳng qua chỉ là gặp may mà thôi, ngoài ra nội tình bên trong còn rất nhiều điều. Lần này vừa vặn bị ngươi đoán ra.”

Trương Bình nói: “Đại nhân nói rất đúng, không thể đoán ra được hai bản án này có liên quan đến nhau ngay từ đầu, vì không có chứng cứ. Hung thủ cố ý mưu sát Kim lão gia có hai người, không phải dễ dàng nhận ra. Kẻ ra tay chắc chắn là người trong đoàn kịch, còn kẻ còn lại phụ trách tung hoả mù. Nhưng, ai là kẻ chủ mưu, ai là tòng phạm, rồi còn động cơ ra tay, đều không rõ ràng.”

Vương Nghiên xoay tách trà: “Mặc dù không rõ ràng, nhưng tại sao ngươi lại gộp nó với vụ của Ly Nương?”

Trương Bình bày bộ dáng sắp chết mà Vương đại nhân chẳng tài nào ưa được nói: “Học trò có hai bằng chứng. Một là, lúc Kim lão gia hôn mê có nói Hoàng Đại Tiên.”

“Hắn bị ngạt trong hố xí, lời nói lúc hôn mê không đáng tin.”

“Hai là, lúc đại nhân đến thẩm vấn tại hạ, có hỏi đến chuyện năm xưa. Lúc trước không có hỏi, đột nhiên giờ lại hỏi tới, rõ ràng hung thủ đã có ý tiết lộ chút dấu vết cho đại nhân.”

Vương Nghiên đặt mạnh ly trà xuống: “Ý ngươi là, bản bộ viện tin lời nói hoang đường của hung thủ, trái lại lại đưa manh mối cho ngươi?”

Trương Bình không nhanh không chậm nói: “Học trò chỉ cảm thấy, đối với chuyện của Ly Nương hung thủ biết rất nhiều, lại quá quan tâm, nếu không có liên quan mật thiết với việc này, chỉ sợ sẽ không như thế. Hơn nữa học trò biết, đoàn kịch từng mời lang trung đến để khám cổ họng, đêm mà Kim lão gia bị đau bụng nhất định là do thuốc xổ…”

Vương Nghiên chặn lời hắn, vẫy tay: “Được rồi được rồi được rồi, ngươi đi đi.”

Rõ ràng cũng không phải là vụ án nhỏ, thế mà dưới lời nói của tên Trương Bình này giống như chẳng phải chuyện to tát gì vậy.

Vương Nghiên cẩn thận suy xét, quả thật đúng là không phải chuyện phức tạp gì. Nhưng vụ án thế này, y lại chẳng nhìn rõ tường tận, trong lòng Vương đại nhân phiền lòng vô cùng. Y nhìn tên Trương Bình, càng cảm thấy bực bội kinh.

Mặt dù rất bực mình, nhưng khi Trương Bình sắp nhấc chân ra khỏi cửa Vương Nghiên lại nói tiếp: “Đúng rồi, kỳ thi này, tốt nhất là ngươi nên có tên trên bảng vàng đi. Bản bộ viện muốn xem xem khi ngươi vào triều rồi sẽ là một nhân vật thế nào đây.”

Trương Bình nói: “Học trò sẽ cố gắng không phụ lòng kỳ vọng của Thị lang đại nhân, sẽ cố sức có tên trên bảng vàng.” Hắn cung kính hành lễ rồi ra khỏi phòng.

Ra khỏi Hình bộ, trên chợ đã rộn ràng náo nhiệt, Trương Bình sờ trường sam, từ trong mối nối của bộ đồ lôi ra mấy đồng tiền, là lúc hắn bị Bộ hình bắt đi vội vàng giấu được. Vào trong lao phải thay áo tù, trường sam bị treo rách rồi nhưng tiền thì vẫn còn.

Trương Bình lấy mấy quan tiền đến một quán ven đường, ăn một tô cháo, nửa cái bánh.

Cái tốt của Kinh Thành chính là chỗ này rất lớn, người lại nhiều, ai cũng không để ý đến hắn, thậm chí khi hắn từ nhà lao đi ra.

Ăn sáng xong, Trương Bình thuận theo dòng người ra khỏi cổng thành, lau sậy dọc theo con lạch ngoài thành đã bị nhổ sạch sẽ, những cây sậy dựng đứng dưới ánh mặt trời, trụi nhẵn hết cả.

Trương Bình men theo con sông đi về hướng Đông, hắn biết có một cái ao mà vùng núi hẻo lánh cạnh bên có một khoảnh sậy cao ngất vẫn chưa bị nhổ.

Xế chiều, Trương Bình ôm một vạt lá sậy trở về nhà, Trần Trù sớm đã biết vụ án kết thúc, vui mừng khôn xiết, còn ra phố mua rượu đồ nhắm về ăn mừng.

Sau khi tắm rửa xong Trương Bình không uống rượu, trái lại lại ở trong sân lúi cúi đem lá sậy đi rửa sạch sẽ, rồi lấy từng quả trứng đã ướp muối trong ang ra, cẩn thận lựa chọn từng quả một.

Xế chiều, Lan Giác từ nha môn Ti bộ trở về phủ, kiệu vừa tới cửa phủ đột nhiên tốc độ có chút khác lạ.

Tuỳ tùng nói: “Lại có tên thư sinh nào đó muốn nịnh bợ đại nhân, cứ thế mà đứng trước cửa tặng quà, người phía trước đang đuổi hắn đi, đã kinh động đại nhân rồi.”

Lan Giác vén rèm nhìn qua khe hở, nhìn thấy từ xa một bóng dáng quen thuộc.

Lan Giác nói: “Đem đồ hắn tặng đến cho ta xem thử.”

Tuỳ tùng ngớ người một cái, lập tức vâng một tiếng, lát sau đã dâng đồ lên. Là một cái giỏ trúc có nắp đậy.

Lan Giác mở nắp ra, nhìn thấy bên trong nửa sọt bánh trưng được xếp ngay ngắn, thoảng hương thanh thanh của lá sậy, vẫn còn âm ấm.

Lan Giác đậy nắp lại, đưa qua cho tuỳ tùng, hờ hững nói: “Vứt đi.”

Ngày hôm sau là Đoan Ngọ, buổi sớm không cần phải thượng triều, Lan Huy đã đến Liễu phủ, cái phủ to như thế chỉ còn lại mỗi Lan Giác và đám hạ nhân.

Lan Giác cảm thấy có chút hứng thú, mấy dịp lễ tết thế này thường chỉ có mình y, dù bánh chưng trong bếp làm có ngon đến đâu, ăn một mình cũng chẳng có mùi vị gì.

Nhàn rỗi vô sự, y thay một bộ sam mỏng, tay áo giắt quạt, ra khỏi phủ.

Dừng kiệu nhỏ ở gần chợ, Lan Giác xuống kiệu lơ đễnh nhìn xung quanh. Ánh nắng mặt trời rất độc, y bèn men theo chỗ bóng râm bên đường mà đi, đi qua tiệm bán túi hương sợi màu, dưới góc tường cũ phía trước, vẫn là cái lều đó, bàn ghế dưới lều trống không, không có lấy một mống khách. Tên thư sinh bán mì kia cũng không đứng bên bếp lò mà ngồi trong chỗ mát, cầm sách đọc.

Lan Giác đi đến trước quán, Trương Bình ngẩng đầu lên nhìn, chậm rãi đứng dậy.

Lan Giác nói: “Còn mì không?”

Trương Bình mặt không biểu cảm nói: “Hết mì rồi, còn cháo với bánh chưng.”

Lan Giác bước vào trong lều, ngồi xuống một bàn trống. Trương Bình bưng tô cháo, hai cái bánh chưng đặt lên bàn.

Là cháo ngô, nấu khá sệt, bên trong còn có mấy miếng vụn trắng trắng tô điểm, Lan Giác ăn thử, là trứng gà muối.

Lan Giác thuận miệng hỏi: “Đúng rồi, Trần Trù vẫn ổn chứ?”

Trương Bình đáp yếu ớt: “Không ổn lắm, ăn nhiều bánh chưng quá, no quá cỡ nên ngủ rồi.”

Lan Giác lột cái bánh chưng ra, nhưng lại là nhân táo nhỏ.

“Trong cháo có lòng trắng trứng, vậy sao không phải là bánh chưng lòng đỏ?”

Trương Bình buồn bực nói: “Bánh chưng lòng đỏ ăn hết rồi.”

Vừa nãy Lan Giác có ngó sơ qua, trong cái sọt nông cạnh bàn dài còn có mấy quả trứng vịt.

“Vậy thì cho thêm một miếng trứng muối đi, phải là vỏ xanh đấy.”

Trương Bình ừm một tiếng, quay người đi, trên bàn dài vọng lại mấy tiếng gõ bịch bịch.

Lát sau, một đĩa sứ trắng đặt trước mặt Lan Giác, y không nhịn được bật cười.

Trong đĩa là hai miếng lòng đỏ trứng ngập trong lớp dầu rán vàng.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 11


Lan Giác ăn xong bánh chưng, trả tiền rồi trở về phủ, không nói gì với Trương Bình nữa.

Trương Bình lặng lẽ lấy tiền, cũng chẳng nói gì với y.

Chạng vạng tối, Lan Huy từ Liễu phủ trở về, mặt tèm lem nước mắt, nói với Lan Giác: “Cha ơi, sau này con có thể không qua nhà cậu cả được không ạ?”

Mặc dù Lan Giác quản Lan Huy rất nghiêm, nhưng ngày thường bận rộn với công việc không ở trong phủ, thầy giáo Tây Tịch được mời đến lại tốt tính, Lan Huy được thả rong trong nhà quen rồi, đến Liễu phủ đầy phép tắc quy củ thế kia liền cảm thấy vô cùng gò bó, lần nào cũng làm um lên không chịu đi.

Lan Giác nghiêm khắc dạy dỗ nói: “Mẹ con mất sớm, bà, chú, dì nhìn thấy con như thấy mẹ con, mọi người đều rất yêu thương con, dù cho con đã khôn lớn rồi cũng phải nhớ hiếu thuận với họ. Đồng biểu ca của con học vấn đầy mình, con phải học hỏi người ta nhiều hơn nữa đấy.”

Lan Huy bĩu môi, tủi thân ngẩng đầu nhìn Lan Giác, rồi lại cúi đầu xuống, mặt mếu máo bỏ đi.

Nửa đêm, Lan Giác đang ngủ say chợt nghe thấy tiếng la thất thanh, y bật dậy chạy ngay sang phòng kế bên, Lan Huy ôm tấm chăn mỏng ngồi trốn trong góc giường, cả người run rẩy. Mấy hạ nhân vây quanh giường an ủi nó.

Lan Giác nhìn thấy nó khóc đờ cả mặt thì lấy khăn mặt từ trong tay một tiểu đồng bên cạnh, nhúng nước ấm, vắt ráo rồi đi đến bên giường.

“Đường đường là nam nhi, mới gặp ác mộng đã sợ khóc um lên, sau này làm chuyện lớn thế nào được?”

Lan Huy vùi mặt vào chăn, không nói lời nào.

Lan Giác nhíu mày cầm khăn mặt đưa đến trước mặt nó: “Cầm đi, lau mặt rồi ngủ tiếp nào.”

Lan Huy không cựa quậy cũng chẳng hé môi, lông mày Lan Giác càng nhíu chặt hơn, tiểu đồng bên cạnh vội vàng nói: “Lão gia, không thể trách thiếu gia được, hôm nay thiếu gia ăn lễ ở Liễu phủ, nghe được chuyện quái gở, cho nên mới sợ hãi. Đến đại lão gia nhà bên đó cũng nói chuyện này quái lạ. Tiểu thiếu gia còn nhỏ, tâm hồn thuần khiết, tối ngủ dễ sinh ác mộng, chuyện gì cũng có nguyên cớ ạ.”

Lan Giác cười cười: “Trên thế gian này làm gì có yêu ma quỷ quái tác oai tác quái chứ, chỉ là do lòng người nghĩ xằng nghĩ bậy mà ra. Hơn nữa, ngoài cửa trồng đầy ngải ra đấy, trên người lại có hùng hoàng, sao còn sợ yêu ma?”

Vai Lan Huy run run, nó từ từ ngẩng đầu lên, hai mắt đỏ au: “Con nhìn thấy nó bò đến ạ.”

Lan Giác hết cách nói: “Vậy con đến phòng chính với cha, để cha nhìn xem con yêu quái nó tròn méo ra sao.”

Lan Huy phi vèo xuống giường, cầm lấy khăn mặt trong tay Lan Giác lau mặt, rồi đến phòng chính với y. Nó đứng bên cạnh giường, lại sợ hãi đưa mắt nhìn Lan Giác.

Lan Giác nhíu mày: “Con ngủ ở trong, con ma đó có đến thì sẽ bò qua người cha trước tiên.”

Lan Huy lục cục chui vào giường, dính chặt vào bức tường.

Lan Giác nằm trên giường, bảo đám hạ nhân tắt đèn lui đi, lúc đèn nến tắt hết, cửa phòng khép lại, Lan Huy lại run một lúc.

Lan Giác nhắm mắt lại, Lan Huy vẫn cứ dán mình vào tường, im thin thít, Lan Giác thở đều, không lâu sau, Lan Huy sột soạt quay mình, nhích khẽ lại chỗ Lan Giác, vươn tay nắm lấy góc áo y, lát sau hơi thở đều đều, ngủ mê say.

Nhưng Lan Giác ngủ không ngon lắm, mơ màng một chập, đoán chừng đã sắp đến giờ thượng triều bèn nhẹ nhàng ngồi dậy. Lan Huy ngủ say vô cùng, Lan Giác rút tay áo từ tay nó ra, nó chỉ cựa quậy một tẹo rồi lại nắm lấy cái chăn ngủ tiếp.

Sau khi bãi triều, Lan Giác đi thẳng đến Lễ bộ nha môn, ăn sáng ở trong Ti bộ, rồi bận rộn suốt đến tối mới về phủ.

Khi vào trong sảnh, Lan Huy xuất hiện từ sau bình phong, vấn an y, Lan Giác nhíu mày nhìn nó: “Hết sợ ma rồi à?”

Lan Huy cúi đầu không đáp.

Lan Giác ngồi xuống ghế giữa: “Rốt cuộc hôm qua đến nhà cậu cả nghe thấy chuyện gì rồi, kể ta nghe xem.”

Lan Huy đưa mắt nhìn Lan Giác, nhỏ giọng nói: “Cậu cả mua một cái ống bút, cậu ấy nói, được nung từ xương cốt của người chết, có ma trong đó.”

Lan Giác nhíu mày, nhạc phụ y, tiên Thái phó Liễu Tiễn trước giờ không tin có ma quỷ thần tiên gì, người trong Liễu phủ nào giờ không dám nhắc đến chữ ma này. Mấy cô nương trong nhà đi miếu thắp nén nhang cũng phải lén ông ấy mà đi, còn cẩn thận hơn ăn trộm nữa là. Mặc dù Liễu Tiễn đã qua đời nhiều năm, nhưng cái uy vẫn lởn vởn mãi trong phủ, thậm chí mỗi dịp lễ tết người trong phủ muốn đốt hương giấy cho ông trước tiên còn phải lầm bầm trong miệng rằng: “Con biết lão nhân gia không thích việc này, nhưng mong người nhận tấm lòng hiếu kính của đám con cháu” vân vân. Có thể khiến cậu cả – người được nhạc phụ đích thân nuôi dạy thốt ra chữ ma, chứng tỏ việc này đúng là không tầm thường.

Lan Giác nói: “Vậy là con nhìn thấy cái ống bút đó rồi à?”

Lan Huy lắc lắc đầu, vành mắt lại đỏ: “Còn nhìn thấy ống bút đặt trên bàn của cậu cả, thế là lại rờ, kết quả mợ lại khóc toáng lên, mợ nói đó là oan hồn đến tìm cậu con báo thù, còn bảo con đến phật đường lấy tro rửa tay, bảo con mấy ngày này không được ăn thịt.”

Lan Giác nói: “Vậy cái ống bút đó hình dáng ra sao?”

Lan Huy nói: “Là một cái ống bút bằng sứ trắng, không có hoa văn gì cả, nứt rồi, phía trên còn có ấn.”

Lan Giác hỏi: “Chẳng lẽ là một cái ấn hình dáng như chạc cây?”

Lan Huy chu môi gật đầu.

Lan Giác xoa đầu nó nói: “Hiểu rồi, cha con nhất định sẽ điều tra gốc gác lai lịch của con ma này. Con vào phòng đọc sách tiếp đi.”

Lan Huy chớp đôi mắt thỏ nói: “Cha à, con đọc một ngày rồi, con sợ lắm.”

Lan Giác nghiêm mặt nói: “Tại sao cha lại luôn nói với con rằng trên đời này không có thần tiên ma quỷ hả? Quỷ yêu là thứ tà ma, nếu lòng còn không xao động, không tin không nghĩ không nghe không hỏi, nó sẽ không thể đến gần hại con. Hiện giờ con không nghe theo lời dạy bảo, nhiễm phải tà môn ma đạo, đến cậu cả của con cũng sợ, tạm thời cha cũng không cách nào hàng phục được nó, chỉ có trước tượng thánh nhân, đọc sách thánh hiền, dùng chính khí cương trực chống lại, sẽ không bị nhiễm tạp niệm nữa, còn không thì…”

Mặt Lan Huy tái mét, quay người cắm đầu chạy vào thư phòng.

Lan Huy ngủ trong thư phòng một đêm, đến ăn cũng ăn luôn trong đó. Đến ngày thứ hai, Lan Giác bãi triều, tình cờ gặp Vương Nghiên, Vương Nghiên cười ha ha nói: “Nghe nói đại thúc của Lan đại nhân huynh bị oan hồn tìm đến hả.”

Lan Giác bất lực nói: “Đừng nhắc đến chuyện này nữa, đến con của tôi cũng bị doạ đây này, cứ khóc nói là có quỷ. Tôi đang nghĩ nên mua pháp khí gì để dỗ dành nó đây.”

Vương Nghiên cười nói: “Lệnh đại thúc cả đời chưa làm qua chuyện gì trái với lương tâm, xử một vụ án oan cả đời liền quên không được. Theo tôi thấy, hoặc là ngài ấy nghĩ nhiều hoặc là có kẻ giả thần giả quỷ.”

Lan Giác nói: “Sáu năm trước, tôi vẫn còn là tiểu lại trong Trung thư nha môn, chỉ đại khái nghe có một sĩ tử tham gia kỳ thi bị người khác vu oan, triều đình lúc đó không tra xét, phán sai án. Nhưng cũng không rõ sự tình, tôi luôn cảm thấy nghi hoặc, phụ trách án lúc đó đều là những người cẩn trọng kỹ tính, làm sao lại có thể phán sai án kia chứ?”

Vương Nghiên chắp tay thở dài nói: “Ôi, tôi đã xem qua hồ sơ vụ án đó rồi, nếu như là bây giờ thì sẽ không đi vào vết xe đổ đó đâu. Rơi vào tay đám cổ hủ đó, không biết chừng có thể phán sai án. Ban đầu chỉ là một vụ án bình thường, khởi nguồn từ Văn hội quyên tiền làm từ thiện kia.”

Lan Giác gật đầu, vụ Văn hội sáu năm trước không ai là không biết. Năm đó vài quận phía Tây Bắc đại hạn, triều đình nhân kỳ thi diễn ra, chúng văn sĩ tụ tập ở kinh thành bèn liên kết vài đại thương hội do Hộ bộ dẫn đầu, tổ chức một buổi Văn hội nửa công nửa tư, lấy tình hình thiên tai làm đề tài, chiêu mộ thơ văn hoa phú, mỗi người một bài. Chọn ra bài hay nhất, do thương hội tổ chức đấu giá, lấy tiền đó cứu trợ thiên tai.

Đảm nhiệm làm giám khảo là những thân sĩ nổi tiếng đức cao vọng trọng hoặc là văn sĩ tài danh vang xa.

Nếu đứng đầu ở kỳ văn hội này cũng đồng nghĩa có nhiều cơ hội có một chân trên bảng vàng trong kỳ thi năm đó, thậm chí có thể được chọn vào tam giáp. Cho nên các sĩ tử đều chen chúc nhau tham gia.

Cuối cùng, đoạt giải nhất là bài “Mai Phú” của sĩ tử Giang Tây Trần Tử Thương.

Đến ngày hôm sau, một đám thư sinh cùng ký tên kiện cáo nói bài “Mai Phú” của Trần Tử Thương kỳ thực không phải do y làm, mà là của một thư sinh nhà nghèo tên Mã Hồng.

Mã Hồng nói, hắn khổ tâm khổ tứ nhiều ngày, đột nhiên nằm mộng nghĩ được mấy câu đắt giá, liền đêm khuya bật dậy sáng tác ra bài phú này, tâm tàn lực kiệt, bệnh đến nằm giường, lỡ mất thời hạn nộp bài. Không ngờ Trần Tử Thương nhân lúc đến thăm bệnh đã lén lấy bài văn của hắn.

“Do thời gian quá sát sao, không thể đoán được bài phú của ai trước ai sau dựa vào vết mực trên giấy, Hình bộ và Lễ bộ cùng nhau tra xét cẩn thận hai sĩ tử này. Xử án này là Hình bộ Thượng thư Đậu Phương và lệnh đại thúc đây, tức Liễu Viễn Lễ bộ Thị lang lúc đó.”

Thông qua điều tra, Mã Hồng là sĩ tử được tuyển ra từ Quận Cam Lương, Tây Bắc, gia cảnh nghèo khó, cả nhà chắt chiu từng đồng cho hắn đi học, chăm chỉ mộc mạc, cẩn thận nhã nhặn. Trái lại, Trần Tử Thương gia cảnh giàu có, tổ phụ từng làm qua Tri phủ, cha là cường hào phú quý ở miền Phú Giáp Quận Giang Tây, mẹ y cũng thuộc danh môn khuê các. Trần Tử Thương kiêu căng phóng túng, sau khi đến Kinh Thành, ở trọ trong một hào trạch, ngày ngày uống rượu hát ca, các sĩ tử thân thế đàng hoàng cùng đợt thi đều không qua lại với y, y cũng thường dè bĩu xuất thân của những người nghèo khổ.

Mười mấy sĩ tử cùng ký tên kiện cáo, làm chứng cho Mã Hồng, nói lúc Mã Hồng viết bài phú đã từng nhiều lần thảo luận câu từ với họ, mọi người đều có thể làm chứng, Trần Tử Thương hoàn toàn không giống kẻ có thể viết ra áng văn như thế này.

Hình bộ lại tra các bài văn thơ lúc trước cùng bài thi Châu và Quận của Trần Tử Thương, phát hiện văn của y lúc trước bình thường, so với văn phong trong “Mai Phú” cách biệt rất xa. Bài thi Châu và Quận của y đều có nhiều thiếu sót, sau đó, khi tiếp tục điều tra, lại tra ra khi kỳ thi Châu và Quận diễn ra, cha của Trần Tử Thương đã từng tặng lễ vật hậu hĩnh cho các viên quan chủ khảo.

Vương Nghiên nói: “Vân thái phó hay Thừa tướng năm xưa, y luôn nghi ngờ vụ án này có điểm đáng ngờ, chuyện Trần Tử Thương đạo văn, rõ ràng chứng cứ không đủ, cha hắn tặng lễ cáp cho quan chủ khảo là trái với quy định nhưng chưa chắc là hối lộ, cũng có thể chỉ là cảm ơn, không phải gian lận, còn phải tra hết các bài thi của hai kỳ thi, đối chiếu xong mới kết luận được.”

Lan Giác nói: “Nếu như nghe lời Vân đại nhân thì cũng sẽ không có oan khúc về sau rồi.”

Vương Nghiên cười lạnh nói: “Đúng vậy, nhưng mấy vị xét xử chính năm đó, bao gồm cả lệnh đại thúc, đều nói một kẻ ăn chơi trác táng dựa vào của hối lộ đi thi để đạt công danh làm sao có thể viết ra được bài “Mai Phú” bần hàn ngạo nghễ này, lại nói có người biết, cha của Trần Tử Thương từng sai người gián tiếp đến cửa nhà Vân đại nhân. Tiên đế bèn ra lệnh cho Vân đại nhân không được tham gia vào vụ này nữa.”

Thế là, Lễ hộ huỷ tư cách tham gia kỳ thi của Trần Tử Thương, Trần Tử Thương thân bại danh liệt, người thế gian đều phỉ nhổ y là kẻ trộm văn, Hình bộ ra lệnh Quận Giang Tây điều tra kỹ càng án gian lận của kỳ thi Châu và Quận, cha của Trần Tử Thương bị bắt đến quan phủ thẩm vấn. Thậm chí họ còn tra ra lúc ông nội của Trần Tử Thương làm Tri phủ, đã từng bị nghi ngờ nhận hối lộ. Trần phủ một đêm sụp đổ.

Tất nhiên, danh hiệu văn khôi “Mai Phú” được chuyển sang cho Mã Hồng. Trong Kinh Thành, ai ai cũng vỗ tay vui mừng.

Trần Tử Thương nhảy xuống hồ tự vẫn, trước khi chết còn dùng máu viết đầy trong đình giữa hồ chữ oan.

Lúc đó cha của Trần Tử Thương bị nhốt trong đại lao, mẹ y Trần Bạch thị lên Kinh thu nhặt hài cốt của y, lúc đến Kinh Thành, đã khóc mù cả mắt.

Thi thể Trần Tử Thương rữa nát trong hồ, đã được hoả táng, những người qua lại với y, sợ tình hình lúc bấy giờ, không dám công khai thu lượm hài cốt cho y, chỉ lén lút giữ lại tro cốt của y, giấu trong một ống bút bằng sứ trắng.

Trần Bạch thị đánh trống kêu oan cho con, bị quan phủ xua đuổi, liền đập đầu chết trước cửa Hình bộ nha môn. Cha của Trần Tử Thương ở trong lao trúng gió, chưa bao lâu thì bệnh qua đời.

Lúc này, kết quả đối chiếu bài thi của hai kỳ thi Quận Giang Tây đã có, phát hiện ra trong bài văn của Trần Tử Thương tuy có sai sót, nhưng trong đám thí sinh đồng khoá, quả thật có tư cách có tên trong danh sách thi hội.

Cũng có người chịu không được đã đứng lên làm chứng cho Trần Tử Thương, nói ngày mà Trần Tử Thương đến thăm Mã Hồng, quả thật là sau khi y đã nộp bài “Mai Phú” rồi, hơn nữa chỉ đứng bên ngoài không có vào phòng, để đồ ở nhà chính liền đi về.

Triều đình mở lại vụ án này, chuyển sang cho Thừa tướng Vân Đường chủ thẩm, qua nhiều ngày tra xét, so sánh các loại bằng chứng, phát hiện quả nhiên Trần Tử Thương bị oan.

Mười mấy sĩ tử ban đầu làm chứng cho Mã Hồng đều đã nhận tội, bình thường bọn họ giao hảo rất tốt với Mã Hồng, lại luôn ngứa mắt Trần Tử Thương, cho nên mới đứng ra làm chứng giả.

Bài phú “Mai Phú”, quả thực chính là do Trần Tử Thương viết, y viết bài phú này là bởi vì mẹ của mình.

Trần Tử Thương là con một trong nhà, thuở nhỏ kiêu căng phách lối nhưng lại là đứa con có hiếu. Sau khi mẹ y vào nhà họ Trần, nhiều năm không có thai, chịu biết bao lời chì chiết của mẹ chồng, tỷ muội cũng cười chê bà. Về sau sinh được đứa con trai mới được hưởng những ngày tháng tốt đẹp ở nhà chồng. Trần Tử Thương đọc sách thi công danh, hy vọng có thể để mẹ làm cáo mệnh phu nhân, nở mày nở mặt với chị em trong nhà.

Năm đó lúc Trần Bạch thị bị thoá mạ, đã thiêu đoá hoa mai, bà là tiểu thư danh môn khuê các tất nhiên có chút tài hoa, còn làm qua mấy bài thơ về hoa mai, trong bài “Mai Phú” của Trần Tử Thương có biến đổi vài câu trong thơ của bà.

Sau khi sự thật của vụ án được công bố, hội thi cũng đã qua, Mã Hồng đậu Tiến sĩ, được phong quan hàm. Hình bộ lập tức phán trảm Mã Hồng, đến lúc chết hắn vẫn một mực khẳng định, là Trần Tử Thương ăn cắp văn của hắn.

“Sau khi kết án, uy tín của Vân đại nhân càng tăng lên, Đậu Phương tự vẫn tạ tội, lệnh đại thúc cáo quan, lòng vẫn còn áy náy đến tận hôm nay. Cái gọi là thanh sạch đã thấm đến tận xương cốt, cho nên triều đình mới có cục diện như ngày hôm nay. Kỳ thực đám người Mã Hồng cùng nhau vu oan vốn chỉ là vụ án bình thường mà thôi, trong lịch sử vẫn thường hay gặp, thủ pháp hoàn toàn tầm thường, nhưng chính vì Trần Tử Thương là công tử con nhà giàu có, Mã Hồng lại nghèo khổ, cho nên nhiều người mới cảm thấy, là kẻ giàu có ức hiếp người nghèo khổ. Cộng thêm bình thường Trần Tử Thương không biết cách làm người, những thư sinh nghèo vu oan y rất nhiều. Người ta nói ba người thành hổ, miệng nhiều xói chảy cả vàng, lại biết cách kích động tạo ra cái thế cho mình. Lão bách tính bị kích động không hiểu chuyện đều nói Trần Tử Thương phạm tội, triều đình cũng thuận theo ý dân, nhưng lại phán nhầm án oan.”

Lan Giác hỏi: “Những kẻ tham gia vu oan, sau đó bị xử thế nào?”

Vương Nghiên nói: “Mấy kẻ chủ mưu bị trảm hoặc thích chữ lên mặt, nhưng về sau do rất nhiều người chỉ là thuận theo dòng chảy giậu đổ bìm leo, nên xử khá nhẹ, hoặc cả đời không được có công danh, hoặc nhẹ nữa thì xoá bỏ công danh, cấm không được tham gia thi cử nhiều năm… Triều đình còn lập một đền thờ nơi hồ mà Trần Tử Thương đã tự vẫn, phong hàm cho cha mẹ y, Trần trạch ở Giang Tây cũng được xây lại thành đền thờ. Người đã chết cả, mấy cái này cũng chỉ là làm tượng trưng mà thôi.”

Nói xong chuyện này thì cũng vừa đến Đoan Thuỵ Môn, Lan Giác và Vương Nghiên chắp tay tạm biệt nhau. Y tiến về phía Ti bộ nha môn, sắc trời âm u, phía chân trời khói bụi lơ lửng một đám mây đen, tựa như oan khí quét hoài không tản.

Đến Ti bộ nha môn, thuộc hạ bẩm báo với Lan Giác, Lễ bộ nha môn nhận được một bức thư nặc danh.

Bức thư này đến cũng thật kỳ quái, tối qua Lan Giác rời khỏi Ti bộ cuối cùng, hoàn toàn không nhìn thấy bức thư này, mới sáng hôm nay, thư lại nhìn thấy nó trên khoá cửa trong nội viện.

Giấy viết thư là loại giấy thô bình thường, nét chữ xấu xí, đã bị nhoè đi, viết nghuệch ngoạc rằng:

“Sĩ tử Mã Liêm là văn tặc, đạo văn mạo danh, không có tư cách tham gia thi cử.”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 12


Thuộc hạ hỏi Lan Giác, nên xử lý bức thư này thế nào.

Lan Giác thả lá thư vào trong ngăn kéo, nói: “Coi như chưa nhìn thấy đi.”

Thuộc hạ nói: “Nhưng tại sao bức thư này lại được gài trên cánh cửa nhỉ? Ngài thấy có nên báo Hình bộ…”

Lan Giác xua tay: “Có khi đây chỉ là trò đùa thôi, không nên làm to chuyện lên. Kẻ có bản lĩnh gài lá thư này lên cửa của Lễ bộ tất phải hiểu rõ, một sĩ tử có tư cách tham gia khảo thí hay không đâu phải chỉ dựa vào điểm này là có thể quyết định. Lễ bộ chúng ta chỉ phụng mệnh hoàng thượng lo liệu kỳ thi này. Mấy chuyện to tát như định đoạt tư cách thi cử này dù là Thượng thư đại nhân cũng không thể làm chủ được.”

Lan Huy ngủ hai đêm ở thư phòng, đến tối ngày thứ ba khi Lan Giác trở về phủ thì đưa cho thằng bé một hộp gấm nói: “Đây là pháp khí cha đặt mua cho con, đeo bên mình như ngọc bội thì không sợ con ma kia nữa.”

Lan Huy vui vẻ mở ra xem, bên trong hộp gấm là một con lợn rừng được đẽo từ bạch ngọc, hai răng nanh nhô ra, sống lưng có một cái lỗ, ở đó buộc một sợi dây màu đỏ.

Lan Giác đeo con lợn rừng lên cổ Lan Huy, xoa xoa đầu nó, đầy thương yêu bảo: “Lúc con ở nhà cậu cả đã lỡ chọc vào một con ma cây, lợn rừng có tài ủn cây, chính là khắc tinh của yêu quái kia.”

Lúc Lan Huy vừa nhìn thấy lợn rừng, lòng vẫn mang nỗi hồ nghi, nhưng khi nghe Lan Giác nói liền phấn chấn trở lại, tay lật qua lật lại con lợn rừng xem mấy bận, còn sờ sờ cái răng nanh của nó: “Cha ơi, ăn nhiều thịt heo cũng có tác dụng như vậy đúng không?”

Lan Giác nghiêm nghị nói: “Không sai, nhưng ăn heo nhà bình thường không có tác dụng, phải ăn lợn rừng. Con nghe theo lời mợ nói, mấy ngày qua chỉ ăn chay. Ta sẽ bảo nhà bếp tối nay làm món giò lợn rừng thái lát. Ăn nhiều một chút, không được kén chọn nữa.”

Lan Huy gật đầu lia lịa, ra khỏi tiền sảnh liền tung tăng chạy đến hoa viên chơi.

Sau Đoan Ngọ, Trương Bình cũng không làm ăn gì nữa, Kim phu nhân tạ ơn hắn lễ vật rất hậu nhưng Trương Bình chỉ từ chối được một phần, phần còn lại buộc phải nhận, nhưng số đó vẫn đủ cho hắn cơm no áo ấm đến ngày yết bảng, Trần Trù cũng được hưởng sái một chút.

Trải qua vụ án Kim gia, tên tuổi của Trương Bình nổi lên như cồn, thậm chí đến các sĩ tử thanh cao từng nói không muốn cùng hạng người như hắn kết giao cũng phải thừa nhận, người này cũng có chút tài năng, chỉ tiếc là nhân phẩm quá tệ. Tài năng như thế mà ông trời lại ban tặng cho kẻ tệ bạc như hắn, thực sự khiến mọi người tiếc rẻ.

Trần Trù tức giận nói: “Tên Mã Liêm kia giờ gặp ai cũng nói tiếc cho nhân phẩm và tài năng của huynh, còn cái đám con cháu giả thanh cao kia nữa, kỳ thực chính là không muốn nhìn thấy người khác tài giỏi, còn gián tiếp vu cáo hãm hại. Thực tế thì bọn chúng mới chính là đám không biết xấu hổ nhất, ngày ngày nói nhân phẩm người ta tệ hại, bản thân thì làm vô số chuyện xấu sau lưng đếm không hết. Chỉ là người bình thường không giống bọn chúng thôi, hai mắt cứ dán chặt vào người ta, làm chuyện thiếu đạo đức đi khắp nơi thoá mạ kẻ khác, sớm muộn gì cũng có ngày chúng ta nhìn thấy cái đám ấy cắn xé lẫn nhau. Nói đến cái tên Mã Liêm kia nữa, danh tiếng cỏn con của hắn đều do ăn cắp cả, mấy chuyện nhận tiền mạo danh viết kịch bản đều đã bại lộ, vậy mà còn không biết xấu hổ. Sao ông trời không bắt hắn đi nhỉ!”

Trương Bình không nói lời nào chui vào chuồng gà, vốn hắn định nói với Trần Trù, chuyện này cũng không thể trách Mã Liêm được, vốn là do Kim lão gia và Kim phu nhân tìm Mã Liêm, nhờ gã đứng tên chứ không phải Mã Liêm gã tìm người viết thay. Mã Liêm đồng ý, chỉ có thể nói gã tham tiền mà thôi.

Nhưng trước giờ Trần Trù luôn vô cùng gai mắt với Mã Liêm, nói rồi sợ Trần Trù lại càng dậm chân dậm tay, thành ra Trương Bình chọn cách im lặng, dồn hết tâm trí giúp thím Phương tra xem con gà con nhà thím là con mèo đen của Vương bá hay là con tam thể nhà Mã thọt ăn mất.

Trần Trù dậm chân cạnh chuồng gà: “Nhưng mà, chắc chắn bây giờ Mã Liêm hận tôi với huynh thấu xương rồi, chuyện kia lộ ra, buộc hắn phải thừa nhận vở kịch là do huynh viết thay hắn, cứ cho là hắn đi rêu rao khắp nơi là do huynh mạo danh, còn hắn hoàn toàn không biết rõ sự tình. Đoán chừng những người sáng suốt sẽ không tin lời hắn đâu, hà hà…”

Chớp mắt ngày thi đã đến. Theo quy định, sau khi ra đề xong thì những quan viên đã ra đề thi và biết đề mục như đám Lan Giác đều bị nhốt lại, chờ cho kỳ thi kết thúc mới được thả ra.

Như vậy, những ngày sắp tới Lan Giác sẽ không về nhà, y không yên tâm để Lan Huy ở một mình trong phủ, trưởng tôn của Liễu gia là Liễu Đồng Ỷ cũng tham gia kỳ thi lần này, để tránh hiềm nghi, cũng không thể đưa Lan Huy qua đó. Lan Giác suy nghĩ rất lâu, đành mở miệng cầu cứu Vương Nghiên.

Vương Nghiên nhận lời vô cùng vui vẻ, Lan Giác liền kêu người chuẩn bị đồ đạc cho Lan Huy, đích thân đưa con đến Vương phủ.

Lan Giác luôn cảm thấy tâm trạng Lan Huy cứ ỉu xìu rầu rĩ. Cho nên y mới cố ý đưa Lan Huy đến Vương gia, cũng mong thằng bé sẽ phấn chấn tinh thần lên một chút. Nhi tử của Vương Nghiên tuy rằng bướng bỉnh nhưng lại rất hoạt bát, sôi nổi.

Phủ Thị lang của Vương Nghiên nằm ở đường Vinh An, thành Bắc. Lan Giác dắt Lan Huy đến phủ Vương Nghiên, vừa mới vào nội viện đã nhìn thấy trên chạc cây to trong viện ló ra mấy cái đầu đang săm soi dòm ngó, làm mặt quỷ trêu hai cha con Lan Giác và Lan Huy, còn ném đá xuống.

Cây cổ thụ đó cũng không chắc chắn lắm, chạc cây cứ run lên bần bật.

Vương Nghiên giận dữ vô cùng rống to về phía cái cây, bảo tụi nhỏ leo xuống đến làm lễ với Lan bá phụ. Mấy đứa nhóc nháy mắt với nhau tuột xuống đất, lúc nha lúc nhúc hô một tiếng bái kiến Lan bá phụ. Vương Nghiên xách lỗ tai hai đứa lớn nhất trong đám, ái ngại nói với Lan Giác: “Mấy thằng oắt con nhà tôi thật chẳng biết phép tắc gì, khiến huynh phải chê cười rồi.”

Lan Giác mỉm cười liếc mắt nhìn năm đứa trẻ trước mặt, nói: “Mạc Văn huynh, không phải huynh chỉ có ba vị công tử thôi sao, hai vị đây là…”

Vương Nghiên ho một tiếng, thả một cái tai, chỉ vào hai đứa mặt hề lùn lùn nói: “Còn có hai khuê nữ nữa.”

Vừa nghe nói có con gái, mặt Lan Huy liền đỏ lên, lắp ba lắp bắp chào hỏi, hai vị tiểu thư bĩu môi, thằng nhóc lớn chọi viên đá nhỏ về phía nó.

Vương Nghiên nhăn mặt quát to: “Ê, làm loạn hả!” Rồi lại hét vào trong hành lang, “Các bà cũng không quản cho tốt cái đám này nữa, làm tôi mất mặt với khách đây này!”

Trong lương các nơi hành lang nãy giờ vẫn vọng ra tiếng trộn bài loạt xoạt cùng tiếng cười nói của các nữ quyến. Tiếng xào bài ngừng lại trong chốc lát, một giọng nữ điềm nhiên vang lên đâu đó: “Lão gia nói như thế làm như bình thường người ngăn không cho dạy bảo tụi nó là bọn thiếp không bằng ấy.”

Mặt Vương Nghiên chuyển sang màu tím, Lan Giác vội vàng tìm chủ đề nào đó để lãng chuyện đi thì đột nhiên nhìn thấy một thiếu niên đứng nơi hành lang xa xa, vận bộ sam y giản đơn, mày mục phong lưu, hoa lệ vô song. Thiếu niên từ xa cười với Lan Giác, chắp tay làm lễ rồi quay người đi vào sương phòng. Lan Giác cũng đáp lễ lại, nói với Vương Nghiên: “Hoá ra lệnh đệ cũng ở trong phủ, nhiều năm trước có gặp qua một lần, lúc đó y hãy còn nhỏ, bây giờ lại hào hoa phong nhã như thế.”

Vương Nghiên nói: “Thằng dở người A Tuyên càng lớn càng giống cha tôi, sao có thể được như thế chứ. Người đó là thứ tử của Vân Dục Thái phó, mấy hôm nay A Tuyên ở đây nên hẹn y đến cùng uống trà thôi.”

Lan Giác cười nói: “Hoá ra là thứ tử của Vân Thái phó, quả thực đúng là thiếu niên anh tuấn kiệt xuất. Xem ra không bao lâu nữa là có thể vào triều rồi. Đúng là hậu sinh khả uý.”

Lan Giác gửi Lan Huy lại trong phủ Vương Nghiên, rồi yên tâm để bị nhốt lại.

Ngày thi cuối cùng cũng đã đến, Trương Bình và Trần Trù thức dậy sớm, đến bên ngoài trường thi, đứng xếp hàng chờ kiểm tra đồ đạc, lấy giấy hướng dẫn thi và phòng thi.

Sĩ tử tham gia kỳ thi lần này do mười một quận và Kinh Thành chọn ra, tổng cộng có ba trăm sáu mươi người. Đề thi chia ra làm bốn phần là Điển, Luân, Nhã và Hiền. Cứ chín mươi sĩ tử sẽ thi cùng một bộ đề, số phòng thi và đề thi được sắp xếp liên quan với nhau, những phòng thi gần nhau sẽ khác đề để phòng việc gian lận.

Trần Trù nhón gót nhìn lên trước, thở phào nhẹ nhõm nói: “Tốt quá, chúng ta đến sớm, vẫn có thể rút đề, mấy người xếp hàng phía sau chỉ có thể chọn những đề còn sót lại mà thôi.”

Sau khi kiểm tra đồ đạc xong, lúc đứng đợi rút đề thi và phòng thi, phía trước có trận huyên náo nho nhỏ, Trần Trù lại nhón gót dòm, cười khà khà: “Nè nè Trương huynh, Mã Liêm gặp đen rồi, hắn rút trúng phòng có mà, số mười bốn. Cái phòng đó cực kỳ xui xẻo, nghe nói năm xưa có một thí sinh do không làm được bài đã gấp đến độ chết ngay trong đó, người nào vào đó liền trở thành ma chết thay. Hình như hắn đòi đổi phòng với khảo quan, sao có thể được chứ.”

Trương Bình nói: “Ma chết thay chỉ là chuyện nhảm nhí, không đáng tin.”

Sĩ tử đứng xếp hàng trước bọn họ quay người xuống cười cười: “Vị huynh đài này nói rất đúng, ma vốn không hình không bóng, người thế gian sao có thể thấy? Cái gọi là ma quỷ, chẳng qua chỉ là suy nghĩ xằng bậy trong lòng người mà thôi.”

Trần Trù nói: “Mấy người chưa gặp qua chuyện kỳ lạ nên đương nhiên không tin. Nhưng mấy thứ tà tính đúng thực là có, nói không chừng có ngày mấy người sẽ gặp đấy.”

Trương Bình không nói gì, người kia mỉm cười đáp: “Huynh đài nói cũng có lý.”

Tuổi tác của y xem ra vẫn còn trẻ, y phục đơn giản, phong thái tao nhã vốn bình thường Trần Trù chưa thấy qua bao giờ. Trần Trù thấy y ngôn từ hoà nhã khiêm tốn, có ý muốn kết giao với y, liền bắt chuyện: “Tại hạ Trần Trù, người kế bên tại hạ tên gọi Trương Bình, chúng tôi là sĩ tử quận Tây Xuyên, huynh đài quý danh là gì?”

Hai mắt người kia phát sáng: “Chẳng lẽ là Trương công tử người đã phá vụ án Hoàng Đại Tiên giết người ư? Tại hạ ngưỡng mộ đã lâu…”

Lời còn chưa dứt người đứng trước đã vào trường thi. Cậu sĩ tử kia áy náy cười cười, quay người đi rút đề thi phòng thi. Khảo quan kiểm tra tên của y xong chỉ lấy ra ba bộ đề thi cho y rút. Trần Trù có hơi thắc mắc, chờ cho sĩ tử kia đi vào bên trong trường thi, Trương Bình bắt đầu rút đề mới lẩm bẩm: “Rõ ràng cả bốn bộ đề thi đều chưa rút hết, tại sao chỉ đưa hắn có ba bộ?”

Xung quanh bỗng chốc im lặng, người phía sau nhẹ nhàng kéo áo y, nhỏ giọng nói: “Hoá ra huynh không biết cậu ta à, cậu ta chính là Liễu Đồng Ỷ, cháu của tiên Thái phó Liễu Tiễn, bộ đề thi Điển là do Lan Giác dượng cậu ta ra đề, tất nhiên cậu ta không thể rút rồi.”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 13


Trương Bình bốc trúng phòng ba trăm năm mươi tám, đề Luân.

Trần Trù đề Nhã, phòng bốn mươi ba.

Trường thi vô cùng rộng lớn, phân làm mười hai dãy, mỗi dãy sáu mươi gian, tổng cộng bảy trăm hai mươi gian.

Bức tường ngăn cách giữa hai gian thi gần nhau không phải được xây bằng gạch, mà bằng những phiến đá nguyên khối, hai dãy phòng lưng đối lưng được cách nhau bằng một con lạch, chính giữa lạch trồng hoa sen, tường sau lưng có cửa sổ. Trong tiết trời này, quang cảnh hoa sen nở rộ bên ngoài cửa sổ sẽ giúp tinh thần sĩ tử thư thái hơn phần nào.

Để phòng tránh gian lận, cứ một dãy có người sẽ cách một dãy trống, như vậy phòng thi trước mặt và sau lưng đều không có người. Hai gian thi nằm gần nhau cũng không cùng đề, vậy là có thể tuyệt đối ngăn chặn hành vi giúp đỡ lẫn nhau của các sĩ tử.

Trương Bình bước vào phòng thi số ba từ dưới đếm lên của dãy thứ mười một.

Phòng không lớn lắm, bên trong có một cái sạp nhỏ, một bàn một ghế, một bàn con, một cái ghế đẩu hình vuông, trên bàn có để giấy mực bút nghiên đồng bộ, kỷ trà và ghế đẩu dùng lúc ăn cơm, tránh việc sĩ tử ăn trên bàn làm bẩn bài thi. Trong góc phòng còn có một cái kệ, trên kệ có chậu rửa mặt, dưới là một thùng nước sạch.

Mỗi phòng đều có một cái chuông đồng đặt nơi cửa, dây thừng buộc chuông đồng luồng qua bức tường treo cạnh cửa, nếu như có vấn đề gì, có thể rung chuông gọi hộ vệ đến bất cứ lúc nào.

Trong phòng thi còn có một vách ngăn nhỏ, dùng để làm chỗ vệ sinh.

Trương Bình cẩn thận đánh giá một lượt căn phòng, mái được che lại bằng tấm ván gỗ, không nhìn thấy xà, sạp nhỏ không có thanh giường, trên tường cũng không có đinh, tránh việc sĩ tử nghĩ không thông liền làm bậy.

Dưới đất có trải một tấm chiếu mịn, Trương Bình dùng tay móc móc rờ rờ, chiếu được dán xuống nền đất, có lẽ để sau khi thi xong thì tháo ra luôn, đỡ phải sửa chữa lại sàn nhà.

Tường đều được sơn phết lại, cả bàn ghế cũng được quét sơn qua. Thật nhìn không ra vết tích còn sót lại của kỳ thi trước.

Trên bàn con có để một cây đèn dầu, trên bàn là đá lửa, ngoài ra còn có nhang muỗi.

Ngoài cửa, tiếng chân hộ vệ đi qua lại tuần tra rồi dừng hẳn trước cửa, một gương mặt đầy vẻ cảnh giác nhìn Trương Bình. Hắn cũng không tiện xem tiếp nữa, ngồi trên sạp, lấy cây quạt quạt quạt vài cái, hộ vệ dừng chân một lát rồi mới bỏ đi.

Ban đêm, Trương Bình giải đề có chút mệt mỏi nên dừng bút nghỉ ngơi, hắn nằm trên sạp, đột nhiên phát hiện vài thanh trúc trên đầu sạp có thể tháo ra được.

Hắn tháo mấy thanh trúc ra, chỉ nhìn thấy sau lưng mấy thanh này có vết khắc. Hắn xáo trộn thứ tự tháo ráp, rồi xếp lại, vết khắc cư nhiên lại nối thành một hàng chữ cong cong vẹo vẹo.

Trương Bình lớn lên ở đạo quán, hắn nhớ đây là bùa chú, có lẽ là do một sĩ tử nào đó của mấy đợt thi trước muốn nhờ sự giúp đỡ của quỷ thần hoàn thành bài thi, thế là khắc bùa chú lên trên sạp, trước lúc rời đi y sợ bị phát hiện bèn tháo hết mấy thanh trúc ra rồi lắp lại. Mấy nét khắc này trông không giống với chữ viết nên không bị mấy người tu sửa trường thi để ý tới.

Chỉ là, những sĩ tử muốn làm như thế thường hay vẽ Văn Xương phù, Khôi Tinh phù…. Thế nhưng phù chú này lại là phù chú mời quỷ hiển linh, không những thế lại thỉnh quỷ chết oan.

Trương Bình nhìn mấy thanh trúc này, suy tư trong chốc lát, ngọn đèn dầu chập chờn lay động, từ khe hở của cửa và cửa sổ bất chợt lọt đến âm thanh bi thảm khe khẽ.

Thanh âm đó lúc gần lúc xa, Trương Bình mở cửa sổ nghe ngóng, nhìn thấy từ cửa sổ phòng đối diện có ánh đèn nhỏ nhoi chớp động.

Âm thanh thê thảm kia chính là từ cửa sổ đó vọng tới, một bóng đen thoáng qua lớp giấy trên cửa sổ, ánh đèn đột nhiên tắt ngấm, âm thanh thảm thương kia cũng chìm trong đêm tối.

Gian phòng thi nằm cách một con lạch kia vẫn tĩnh mịt trong màn đêm, tựa như những việc vừa xảy ra chỉ là ảo tưởng trong giấc mộng mà thôi.

Sáng ngày hôm sau, sĩ tử cách Trương Bình một phòng nằm trên cáng cứu thương được khiêng ra khỏi trường thi.

Sáng hôm đó khi phục vụ trường thi đến đưa cơm, trong phòng không có ai đáp lời, thế là gã đẩy cửa bước vào, chỉ nhìn thấy tên sĩ tử này miệng sùi bọt mép nằm lăn quay ra đất, bất tỉnh nhân sự.

Y quan đến xem tình hình trước, nói là bệnh động kinh tái phát, hên là vẫn chưa cắn trúng lưỡi nhưng không thể tiếp tục thi cử gì nữa rồi, chỉ có thể để y nộp bài, kêu người khiêng ra trường thi.

Sĩ tử kia nằm trên cáng, hai tay co giật nhẹ, rồi đột nhiên ngồi bật dậy thật mạnh, hét to lên: “Có ma! Có ma!”

Vài hộ vệ ấn y nằm xuống cáng, vội vàng chạy đi, quan tuần tra nhìn thấy Trương Bình cùng mấy người khác đứng ở cửa thì nhăn mặt xua xua tay: “Đi vào hết đi, năm nào khoa thi chẳng có một hai người như thế. Ai bước ra khỏi cửa, sẽ cho là nộp bài hoặc gian lận mà xử phạt.”

Trương Bình và đám sĩ tử đều trở vào trong phòng.

Trương Bình còn nhớ, căn phòng có ánh đèn đêm qua, lại chính là căn phòng trống đối diện với phòng ba trăm năm mươi sáu.

Sau sự việc này, trường thi chìm trong cảnh thái bình, cho đến khi cuộc khảo thí kết thúc cũng không có chuyện kỳ quái nào xảy ra nữa.

Ba ngày thi cuối cùng cũng trôi qua, Lan Giác được phóng thích khỏi tiểu viện. Một cái kiệu nhỏ đưa y đến Quan Văn Các trong Hoàng Thành, y cùng các vị quan chấm thi tiếp tục bị nhốt lại trong này, cho đến khi bài thi được chấm hết.

Nghe nói kỳ thi lần này diễn ra vô cùng thuận lợi, ngoại trừ việc một thí sinh bị khiêng ra khỏi trường thi, số còn lại đều hoàn thành bài thi.

Lan Giác cùng các vị quan khi nghe tin này đều rất vui vẻ. Thế nhưng vào lúc này, sếp của Lan Giác, cũng là trụ cột chính của kỳ thi tuyển lần này, Lễ bộ Thượng thư Cung Tụng Minh do bị trúng gió lại thêm bệnh kiết lỵ nên đã được đưa về phủ nghỉ ngơi, không thể tham gia công cuộc chấm bài.

Sau khi Cung đại nhân gục ngã, hai vị đại nhân khác vốn cũng cao tuổi như ông cũng không chống đỡ nổi nữa. Triều đình không thể không điều người khác đến chấm thay, tạm thời phái hai đại học sĩ trẻ tuổi từ Hàn Lâm Viện đến nhưng vai vế cấp bậc lại kém hẳn Cung đại nhân, người thay thế cần tìm ít nhất cũng phải đồng cấp với ông. Lan Giác và các vị quan khác đoán mò, e rằng phải mời Vân thái phó đến áp chế rồi, thế nhưng không ngờ tiểu hoàng đế lại ra chỉ, mời Hình bộ Thượng thư Đào Châu Phong đến thay vị trí của Cung Tụng Minh, chủ trì việc chấm thi.

Theo tình mà nói, Đào Châu Phong là người có học vấn giỏi nhất trong các môn sinh của tiên Thái phó Liễu Tiễn, có thể nói là một nhà thông thái của đương triều, đảm nhiệm vị trí này so với ở Hình bộ thích hợp hơn rất nhiều. Hơn nữa tính tình Đào Châu Phong rất tốt, trước nay không thích tự quyết định, ưa để thuộc hạ làm chủ, quyền hạn chấm bài của các quan cũng thoáng hơn, cho nên tất cả các quan đều vui lòng nghe theo, hân hoan phấn khởi, cảm thấy tiểu hoàng đế thật anh minh thần vũ.

Quan Văn Các ở góc Tây Nam của Hoàng Thành, Lan Giác cùng tám vị quan chấm thi mỗi đêm ngủ trong góc điện, ban ngày thì chấm bài ở chủ điện. Chủ điện chia làm bốn gian, mỗi gian có hai vị quan chấm một đề, Đào Châu Phong ngồi bên ngoài uống trà trấn giữ.

Lần chấm thứ nhất, với bốn đề Điển, Luân, Nhã và Hiền, mỗi đề tiến cử mười bài. Lần chấm thứ hai, do Đào Châu Phong chủ thẩm, từ bốn mươi bài thi chọn ra ba mươi bài, cũng chính là danh sách trúng tuyển trong kỳ thi năm nay, dâng lên ngự tiền, chuẩn bị cho kỳ thi Đình.

Lan Giác ra đề Điển, cháu vợ y là Liễu Đồng Ỷ bốc trúng đề Hiền, cho nên y chỉ có thể chấm đề Luân hoặc đề Nhã. Lan Giác vốn muốn chấm đề Luân nhưng đại học sĩ Lý Phương Đồng, người từng tố cáo y cũng muốn chấm đề này. Lý Phương Đồng là cháu trai của Trung thư lệnh Lý Nguyệt, con gái Lý Nguyệt lại sắp trở thành Hoài Vương Phi, nói cách khác, Lý Phương Đồng sắp sửa trở thành cháu ruột của nhạc phụ của thúc thúc của hoàng thượng, tính ra thì cao hơn hoàng thượng một vế.

Lan Giác thầm nghĩ không nên dây vào vị hoàng thân này, Lý đại nhân tính tình sắc bén, căm ác như thù, cách xa y một chút xem chừng cũng tránh được việc dễ gây hiềm khích với y, việc này đối với mọi người cũng tốt, cho nên Lan Giác chọn đề Nhã.

Sự thật chứng minh rằng, lựa chọn của Lan Giác vô cùng thông minh. Mấy ngày sau, Lý đại nhân và người cùng chấm bài với y là Lưu đại nhân cứ cấu véo lẫn nhau, cấu đến tận trước mặt Đào Châu Phong.

Lan Giác thận trọng đứng trong góc cửa phòng chấm đề Nhã quan sát, Lý Phương Đồng và Lưu đại nhân vì hai bài thi mà đấu đá nhau không ngừng, bên đề Luân số người được tiến cử chỉ còn lại một, Lưu đại nhân ưng ý một bài thi, Lý Phương Đồng lại chấm một bài thi khác, gây ầm ĩ muốn Đào Châu Phong làm trọng tài. Đào Châu Phong ôn hoà nói: “Thánh dụ của hoàng thượng có nói, kỳ thi này là để tiến cử người tài, cho nên không cần phải câu nệ mấy nguyên tắc cổ hủ. Mặc dù chọn ra bốn mươi bài là quy tắc từ xưa, nhưng cũng có ngoại lệ chứ, ví như tuy bản bộ đường là Hình bộ Thượng thư, nhưng cũng có thể ngồi đây vậy. Nếu như hai vị đã khó bề quyết định, có thể thấy hai vị sĩ tử này đều có chỗ tài giỏi hơn người. Luân bộ chọn ra mười một bài thi, rồi quyết định lại lần nữa từ bốn mốt bài. Ta sẽ viết sớ tâu hoàng thượng.”

Đào Châu Phong ngay trong đêm viết sớ tấu dài hơn năm ngàn chữ, tiểu hoàng thượng phê đúng năm chữ: “Khanh tự quyết định đi.”

Đào Châu Phong phụng theo lời phê, ba mươi chín bài thi còn lại đã chọn ra, bắt đầu chấm lại từ đầu.

Lúc chấm lại, Đào Châu Phong cầm lên một bài thi đề Hiền, thích đến nỗi không bỏ xuống, tấm tắc khen ngợi, hai vị chủ thẩm đề Hiền cũng khen ngợi không dứt bài thi này, bảo rằng có khí phách thánh hiền, văn chương rực rỡ, nhất định sẽ là trạng nguyên năm nay, liền lập tức chọn ngay.

Sau khi chấm xong, Lan Giác cũng đi qua xem bài thi kia.

Quả là nét bút xuất sắc, đối đáp xuất thần, văn chương minh tường, không có chỗ nào để bắt bẻ cả. Khi mở niêm phong bài thi ra, quả nhiên là cái tên nằm trong dự liệu – Liễu Đồng Ỷ.

Hai mươi tám bài thi được chọn ra rất nhanh, sau đó, đến bài thứ ba mươi lại mắc kẹt ở hai bài đã khiến Lý Phương Đồng và Lưu đại nhân cãi nhau. Lý Phương Đồng và Lưu đại nhân mỗi người một ý. Đào Châu Phong đứng giữa hai bài thi cũng do dự không thể quyết, hai mươi chín bài kia đã mở niêm phong, chép xong danh sách, chuẩn bị yết bảng rồi, thế nhưng Đào Châu Phong mãi cứ phân vân.

Trong hai mươi chín cái tên đã được chọn xong, Lan Giác không nhìn thấy tên Trương Bình, lòng y chợt có cảm giác tiếc nuối mơ hồ. Có thể tên hậu sinh trẻ tuổi này tuy đầu óc thông minh, nhưng không hợp với thi cử. Đối với triều đình mà nói, lại là một sự đáng tiếc vô cùng.

Nghĩ đến đây, Lan Giác lại có chút buồn cười, tên Trương Bình kia mà vào triều, có thể sẽ về phe Lý Nguyệt, Lý Phương Đồng, rồi cũng đâu can dự gì với mình. Không biết tự lúc nào y lại dấy lên cảm giác thanh thản thế này.

Về phía bên kia, Lý Phương Đồng và Lưu đại nhân, hai bên đã bắt đầu công kích lẫn nhau, nghi ngờ lẽ nào đối phương đã nhận của hối lộ từ thí sinh mình đã chọn hay không.

Cuối cùng Đào Châu Phong nói: “Hay là thế này, trước tiên cứ mở niêm phong hai bài thi này ra, công bố danh tính, sau đó mọi người sẽ cùng thẩm duyệt để quyết định.”

Hai bài thi được mở giấy niêm phong, Lan Giác nhìn thấy tên tuổi, nhất thời ngẩn người ra y như Đào Châu Phong, tiếp theo vui rồi đây.

Người Lý Phương Đồng lựa chọn, lại chính là Trương Bình.

Người Lưu đại nhân tiến cử, tên trong bài thi đề hai chữ Mã Liêm.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 14


Lan Giác cầm hai bài thi lên xem một lượt.

Bài thi của Trương Bình đối đáp kiên định cứng cỏi, cách phá đề rất độc đáo mới lạ, phân tích mạch lạc rõ ràng, kết hợp với nét chữ Tiểu Khải cứng ngắc, giống như một cục gạch góc cạnh vuông vức, có sức nặng nhưng lại quá gai góc.

Lưu Bính cười lạnh nói: “Nếu như liệt kê ra thành từng mục có thể sẽ thành bài văn hay, vậy thì các vị viết hộ cáo trạng trong nha môn đều trở thành văn hào hết cả.”

Lý Phương Đồng nói: “Bài văn của người học trò này mặc dù quá cứng nhắc, tài năng vẫn chưa tới nhưng từ cách đối đáp trong bài thi có thể thấy tư tưởng của người này trong sạch rõ ràng, tính cách nghiêm túc cẩn thận, ý kiến lại độc đáo. Bài văn Lưu đại nhân chọn lại ngược lại, rõ ràng là một bài văn rực rỡ gấm hoa, từng câu từng chữ đều có lai lịch, từ các bậc thầy của các triều đại trước đến danh sĩ đương triều ngày nay, tôi đều nhìn thấy bóng dáng họ hết rồi, chỉ là không thấy hắn ta ở đâu mà thôi. Một người đến nhìn cũng không thấy, sau này khi vào triều rồi thì làm sao xử lý chính vụ, làm sao mưu cầu hạnh phúc cho bá tánh, chia sẻ phiền não cùng thánh thượng? Không cần nói nhiều, chỉ nhìn chữ viết của hắn, cũng biết là mô phỏng của Lan đại nhân, phù hoa trống rỗng, y hệt như văn hắn ta!”

Lưu Bính phe phẩy nói: “Lý đại nhân, câu này của ngài rốt cuộc là đang nói chữ viết của người học sinh này không tốt hay là đang nói Lan đại nhân?”

Thần sắc của Lý đại nhân sững lại, sượng sùng chắp tay hướng về phía Lan Giác: “Thất lễ, nhất thời nhỡ miệng, chữ viết của Lan đại nhân bản thân tôi vô cùng bái phục, chỉ là tên học sinh này chỉ mô phỏng được vẻ ngoài, cố ý làm dáng mà hoàn toàn không có thần thái bên trong.”

Lan Giác mỉm cười: “Không sao không sao, Lan mỗ biết Lý đại nhân đang tán dương Lan mỗ, cảm tạ cảm tạ.”

Y nhìn bài thi của Mã Liêm, chữ Hành Khải trên bài nhìn qua thì đúng là có nét giống bút tích của y thật, nhưng đáng tiếc là chữ viết quá nhẹ, tựa như cánh bèo trôi nổi trên mặt giấy. quả đúng như Lý Phương Đồng vừa nói, vô cùng rỗng tuếch.

Bản thân Lan Giác vốn giỏi thư hoạ, nhìn người trước luôn nhìn chữ, huống chi Mã Liêm lại mô phỏng nét chữ của y, không khỏi càng thêm hà khắc, ngay từ chữ viết đã cảm thấy con người này có chút kiêu ngạo.

Sau lại xem tiếp phần đối đáp và bài văn của Mã Liêm, vừa xem qua, cảm thấy rất nắn nót diễm lệ, bình phẩm tinh tế, mỗi câu mỗi chữ tựa như đã từng biết nhau. Câu này hình như đã đọc qua ở chỗ này, câu kia dường như đã thấy qua ở chỗ kia. Từ trong bài viết, Lan Giác nhìn thấy tư tưởng chính trị của Liễu Tiễn, thấy văn phong của Vân Đường, cả mấy câu trong mấy bài thơ phú có chút hư danh của Lan Giác cũng cùng góp mặt.

Thế nhưng tên học sinh này rất khéo, hắn tách mấy câu này ra, bồi chỗ này một chút đắp chỗ kia một tẹo, đặt xen kẽ nhau. Hắn làm như thế, hãy còn dụng tâm làm các quan khảo thí vui vẻ. Nhưng giả sử như gặp phải vị quan tính tình cứng ngắc như khúc gỗ, chỉ sợ không những tiếp nhận, mà còn nghi ngờ phẩm chất của hắn.

Tuy nhiên, xem ra tên học trò này cũng có vài phần tâm trí, đem văn tuý của hai người khác nhau như trời với đất là Liễu Tiễn và Vân Đường hoà trộn lại với nhau rồi biên soạn thành một thể, vậy mà cũng ra thành một bài văn.

Tên học trò này nếu như vào được triều, có lẽ so với Trương Bình thì sẽ sống tốt hơn.

Bất giác Lan Giác nhớ lại lá thư tố cáo được nhét trên cửa Lễ Bộ ngày hôm trước~

“Sĩ tử Mã Liêm là văn tặc, đạo văn mạo danh, không có tư cách tham gia thi cử.”

Lý Phương Đồng nói: “Tên Mã sinh này rất biết cách đầu cơ trục lợi, văn chương cũng giống như làm người, cần phải có tinh thần cốt cách của riêng mình, từ chữ viết và văn phong của tên học trò này, ta không nhìn ra được phẩm chất nào cả.”

Lưu Bính cười nói: “Lý đại nhân chụp mũ to quá đấy. Dẫn văn trích điển, vốn là chuyện thường tình, thường chỉ nghe nói biết vận điển là có học thức tốt, sao đến Lý đại nhân lại thành ra biết đầu cơ trục lợi, phẩm chất thấp kém rồi? Chẳng lẽ khi tập viết chữ Lý đại nhân không tập viết thiếp sao, viết văn chưa từng dùng câu chữ của người xưa sao? Ta thì cảm thấy người này linh hoạt nhạy bén, có thể trở thành người tài. Lý đại nhân thà rằng cất nhấc một sĩ tử như con ngươi của cá chết chứ không chọn Mã sinh, có phải vì trong văn hắn có nhắc đến câu từ của Liễu lão thái phó nên Lý đại nhân không vui ư? Học trò này biết dùng cả câu từ của ân sư Vân thái phó, ta cảm thấy cậu ấy làm rất hay, nếu như ân sư nhìn thấy, tất sẽ tán dương.”

Mặt Lý Phương Đồng xanh mét, Đào Châu Phong vội vàng khuyên can giảng hoà: “Ôi, hai vị vì hoàng thượng mà chọn ra nhân tài, đều là những tấm lòng trung thành. Hai vị sĩ tử này ấy à… quả thật là thật khó quyết định. Trương Bình này, bản bộ đường có biết, chẳng trách sao mà nhìn chữ y có chút quen quen. Mấy ngày trước có thẩm vấn qua trong một vụ án, đầu óc tên học trò này lanh lẹ, đã giúp Hình bộ phá vụ án treo nhiều năm về trước. Văn chương tuy cứng nhắc, nhưng bản bộ đường cảm thấy con người y lại không như thế…”

Mấy vị khảo quan nghe xong lời này liền biết trong lòng Đào Châu Phong đã chọn Trương Bình.

Ngô học sĩ của Hàn Lâm Viện, người chấm cùng đề với Lan Giác vội nói: “Hoá ra học sinh này còn có thiên chất phá án nữa à. Chẳng trách văn chương hắn lại cẩn thận như vậy. Hoàng thượng, Thái Hậu nương nương, Hoài Vương điện hạ đã từng nói, triều đình ta cần nhiều nhân tài cẩn trọng đĩnh đạc, người học trò này vừa hay lại phù hợp.”

Lưu Bính nói: “Đúng là như vậy, tên Trương Bình này tuyệt đối không thể chọn. Tư duy người này máy móc, một là không biết ứng biến, hai là lúc hắn luận chứng ngoài việc dùng nhiều Nho học còn có trích dẫn điển câu: Pháp luật được lập ra là để trị dân chúng, chính sách được lập ra phải phù hợp với nhiệm vụ thực tế. Câu này ở đâu ra? Pháp gia vốn trọng hình nghiêm khắc, đến “Thương quân thư” tên học sinh này cũng dùng đến rồi, nếu để vào triều, nói không chừng sẽ thành ác quan như Thương Ưởng. Lan đại nhân, ngài nói đúng hay không?”

Thúc phụ của Lý Phương Đồng, Lý Nguyệt và Đào Châu Phong là môn sinh của Liễu Tiễn, cùng thuộc một phe, tuy Lan Giác là con rể của Liễu Tiễn nhưng trước giờ Liễu Tiễn chưa bao giờ cho phép y bước qua cửa Liễu gia một bước. Lan Giác luôn gần gũi với bên Vương thái sư, Vương thái sư và Vân thái phó liên hệ mật thiết. Lúc này Lý Phương Đồng đang chiếm thế thượng phong, theo tình mà nói Lan Giác nên nói đỡ cho Lưu Bính vài câu mới phải.

Nhưng dĩ nhiên là Lan Giác nhắm chọn Trương Bình, tên tiểu tử có chút thông minh Mã Liêm kia thực sự cũng không quá xuất sắc. Lưu Bính tiến cử hắn như thế, tám chín phần đã nhận chút lợi ích gì rồi.

Lan Giác nhớ lại bức thư tố bí mật kia, thầm cảm thấy có chút hoài nghi, nói: “Chỉ nhìn bài thi, cả hai sĩ tử này đều có chỗ đáng chọn, câu từ của Mã Liêm sống động, Trương Bình tuy thua về tài văn chương nhưng kiến giải của hắn lại độc đáo, dù Pháp gia nhiều ác quan, nhưng Quản Trọng, Hàn Phi đều là thánh hiền, chỉ là một câu trong “Thương quân thư”,… thì… thực sự là khó quyết định…”

Đào Châu Phong hớn hở nói: “Lan thị lang nói đúng lắm!”

Lý Phương Đồng không ngờ rằng Lan Giác cư nhiên lại ngã về phía Trương Bình, cho nên ánh mắt nhìn y có chút bối rối.

Lưu Bính cười ha ha nói: “Ô, Lan đại nhân, chỉ sợ là Lý đại nhân sẽ vì hai cái bánh chưng đó mà không nhận ý tốt của ngài đâu.”

Lý Phương Đồng nhướn mày nói: “Bánh chưng gì?”

Lan Giác nói: “À, thật ra Lan mỗ cũng có biết tên sĩ tử Trương Bình này, cũng đã từng ăn qua hai lần ở gánh hàng rong của hắn, một lần ăn mì, một lần ăn bánh chưng, có lẽ chuyện Lưu đại nhân nhắc đến là chuyện này chăng?”

Thần sắc của Lý Phương Đồng thoáng thay đổi: “Tên sĩ tử này lại bán đồ ăn ở ngoài đường à?”

Lưu Bính cười ha ha nói: “Đâu chỉ thế, nghe nói hắn còn đến phủ Lan đại nhân tặng lễ vật nữa, đúng chứ Lan đại nhân?”

Lan Giác nói: “Đúng vậy, là một sọt bánh chưng, Lan mỗ tất nhiên không dám nhận nên đã vứt đi rồi.”

Đào Châu Phong giải thích hộ Lan Giác: “Việc Lan thị lang biết hắn, bản bộ đường tất nhiên có biết, lần đó khi bản bộ đường thẩm tra án, Lan đại nhân cũng ở Hình bộ cho nên có gặp qua…”

Sắc mặt của Lý Phương Đồng đã hoá đen thui, Lưu Bính tiếp tục nói: “Nghe nói tên học sinh này còn gây ra mấy chuyện bội tình bạc nghĩa nữa, còn cả mấy chuyện cãi vả yêu đương. Nhưng mà, chấm bài thi thì phải lấy bài thi làm chính, không thể lấy nhân cách ra mà bình…”

Đào Châu Phong nói: “Ô, quái lạ, nhìn chữ của người này, thật không giống với loại người đó nhỉ?”

Lý Phương Đồng lạnh lùng nói: “Đào đại nhân, là do hạ quan tài sơ học thiển, tiến cử nhầm bài rồi. Bài thi này của Trương Bình, xin hãy xem như hạ quan chưa từng tiến cử.”

Đào Châu Phong cầm bài thi của Trương Bình, than ngắn thở dài nói: “Lý đại nhân, ngài đã suy nghĩ kỹ càng chưa? Nếu như ngài không tiến cử, bài thi này sẽ không đến được chỗ bản bộ đường, xem như lần thi này Trương Bình rớt bảng đấy.”

Sắc mặt Lý Phương Đồng tái mét, lạy một cái thật sâu: “Là do hạ quan vô năng, nhất thời hoa mắt. Xin đại nhân cho phép hạ quan rút lại tiến cử, nhân phẩm như kẻ này Lý Phương Đồng tôi bất luận giá nào cũng không thể tiến cử!”

Đào Châu Phong thở dài một cái thật mạnh, cuộn bài thi của Trương Bình lại, vuốt ve một hồi lâu rồi đặt qua một bên. Nhấc bút đánh một vòng tròn trên bài thi của Mã Liêm.

Lưu Bính ngậm cười nói: “Lý đại nhân không cần phải nghiêm trọng vậy đâu, đối với mấy việc này Lưu mỗ cũng chỉ là nghe nói mà thôi. Ối dào, nói ra là do ta đã cản trở hắn, nếu như không mở niêm phong bài thi ra, xem chừng hắn đã trúng rồi. Đáng tiếc Lý đại nhân đã bỏ lỡ một môn sinh,”

Lý Phương Đồng cứng rắn nói: “Lý mỗ còn phải cám ơn Lưu đại nhân mới phải, nếu không thì lỡ nhận loại người này làm học trò, nhất định là điều ô nhục trong cuộc đời của Lý mỗ.”

Lan Giác đứng cạnh bên không nói câu nào chỉ cười cười, rồi y quay người trở vào phòng chấm đề Nhã.

Buổi sáng yết bảng ngày hôm ấy, Trương Bình và Trần Trù đứng trong đám đông, hình như xem đi xem lại bảng danh sách rất nhiều lần mới dám chắc trên đó không có tên của hai người.

Trương Bình lặng lẽ quay người tách ra khỏi đám đông, Trần Trù thất vọng chán nản bước đi bên cạnh hắn.

Một con ngựa trắng vội vàng phi đến, suýt chút nữa là đâm sầm vào Trương Bình. Trương Bình và Trần Trù né sang bên đường. Người trên ngựa ghì dây cương, từ trên cao ngó xuống nhìn hai người bọn họ, nhướn mày cười nói: “Trương huynh, Trần huynh, thật là có duyên.”

Trương Bình nhướn mí mắt nhìn, hoá ra lại là Mã Liêm.

Thần thái Mã Liêm hồng hào tươi tốt, đầu mày đuôi mắt đều lộ vẻ đắc chí: “Trương huynh, Trần huynh, trên bảng có tên hai người chứ?”

Trần Trù cứng rắn nói: “Tên xếp dưới Tôn Sơn, thật là ngưỡng mộ cái tên ngựa chết nhà huynh!”

Mã Liêm cười nói: “Đâu dám đâu dám, danh sách cuối cùng còn phải chờ thi Đình, sợ rằng chỉ là bét bảng, gặp may mà thôi. Hai vị nhân huynh tài cao kỳ thi sau chắc chắn có thể đề tên lên bảng vàng!”

Gã giật cương một cái, cuốn bụi mà đi.

Trần Trù hừ giọng nói: “Tiểu nhân đắc chí! Hừ, đáng tiếc, người ta còn có cái để mà đắc chí… Trương huynh, huynh có dự tính gì không? Tôi thì tính vẫn ở lại Kinh Thành.”

Trương Bình nói: “Tôi trở về huyện Nam Trì, vật giá Kinh Thành cao quá, tôi trụ không nổi.”

Trần Trù đáp: “Huynh và tôi đều giống nhau, đều là kẻ không mẹ không cha, ở đâu mà không được hả? Tuy vật giá Kinh Thành cao nhưng lúc trước huynh bán mì không đủ sống sao? Đợi sau này hai ta giúp đỡ lẫn nhau, trước kia chẳng phải chúng ta vẫn sống tốt vài tháng đấy sao. Ba năm, không phải chỉ như cái chớp mắt à? Trừ phi huynh không muốn thi tiếp nữa thôi… vậy thì thật đáng tiếc… Đến Mã Liêm mà còn đậu, tôi thấy thi cử chẳng khó khăn gì cả, lần tới tôi với huynh chắc chắn sẽ đậu!”

Trương Bình không nói tiếng nào, trở về nhà, ngả đầu đánh một giấc thật say.

Trần Trù với mấy sĩ tử thi rớt cùng nhau uống rượu thâu đêm không về, đến sáng ngày hôm sau mới say bí tỉ mò về tới cửa.

Trương Bình đặt gã nằm ngay ngắn trên giường, lôi cái xe hàng đã lâu không đụng tới, lại kéo ra đầu ngõ bán hàng.

Lúc chạng vạng, hắn nhìn thấy một bóng người quen thuộc từ đường bên kia đi tới.

Người đó đi đến trước gánh hàng, nói với hắn: “Cho tô mì.”

Trương Bình đập một quả trứng luộc vào tô mì, luộc chín qua. Lúc hắn bưng mì lên, Lan Giác cười cười: “Ta không muốn thêm trứng vào đâu.”

Trương Bình chà tay vào tạp dề, buồn bực nói: “Coi như tặng đi.”

Lan Giác cầm đũa lên nhìn hắn: “Sau khi rớt bảng, có dự tính nào chưa?”

Trương Bình đáp: “Muốn trở về quê, cho nên mới bán hàng kiếm chút lộ phí.”

Lan Giác ngẩng mặt lên, thản nhiên nói: “Nếu như ngươi muốn tiếp tục ở lại Kinh Thành, nhà ta đương lúc thiếu một chưởng quỹ. Nhưng mà như thế thì lần sau nếu ngươi ứng thí, bất luận là ai tiến cử bài của ngươi, ngươi xem như cũng đã là môn sinh của ta rồi.”

Trương Bình trầm mặt một lúc, đáp lại: “Đa tạ cất nhắc của đại nhân nhưng học trò vẫn muốn trở về quê nhà.”

Lan Giác cười cười: “Ta chỉ nói thế thôi, tất nhiên vẫn phải theo lựa chọn của ngươi.”

Ăn mì xong, Lan Giác đứng dậy trả tiền. Từ đầu kia của con đường đột nhiên xuất hiện một đám nha sai tay cầm binh khí xiềng gông đi về phía này.

Hùng dũng oai vệ dẫn đầu đám bổ khoái ấy hóa ra lại là Vương Nghiên. Bộ quan bào màu đỏ cực kỳ chói mắt dưới ánh tà dương.

Ánh mắt Vương Nghiên quét qua Lan Giác rồi dừng lại ở Trương Bình, phất tay: “Áp giải về Hình bộ!”

Vài nha dịch đeo gông vào người Trương Bình, Vương Nghiên nhìn hắn thật lâu: “Ngươi cầm tinh sao chổi hay sao thế?”

Lan Giác không kìm được hỏi: “Rốt cuộc xảy ra chuyện gì vậy?”

Vương Nghiên lại nhìn sang Lan Giác, thần sắc phức tạp, ánh mắt tỏ vẻ hết cách: “Một sĩ tử trúng bảng trong kỳ thi lần này, tên là Mã Liêm, đã chết rồi. Trương Bình lại tiếp tục trở thành nghi phạm.”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 15


Lúc yết bảng thì danh sách ba mươi sĩ tử được lựa chọn thi Hội đã dâng lên ngự tiền. Đợi một tháng sau khi kỳ thi Đình kết thúc, chọn ra được tam giáp, lúc đó mới ban thân phận Tiến sĩ cho ba mươi sĩ tử này.

Lúc này Vĩnh Tuyên Đế đã xem xong bài thi cùng danh sách các sĩ tử, liền cho gọi mấy quan chấm thi đến Ngự thư phòng hỏi chuyện.

“Trẫm nghe nói, trong kỳ thi năm nay có một thí sinh tên Trương Bình đã giúp Hình bộ giải quyết vụ án treo nhiều năm trước. Trong bản sớ của Đào ái khanh cũng có nhắc qua người học trò này, hết lời tán dương. Nhân tài như thế, tại sao lại không có trong danh sách ba mươi người này?”

Bệnh kiết lỵ của Lễ bộ Thượng thư Cung Tụng Minh đã đỡ phần nào, nhưng sức khoẻ vẫn chưa hồi phục hoàn toàn nên ông cứ đứng run lẩy bẩy. Ông ta không tham gia việc chấm thi nên không cách nào trả lời được, bèn để Hàn lâm Học sĩ Lý Phương Đồng trả lời.

Vĩnh Tuyên Đế quét mắt xuống dưới, nói: “Cung ái khanh, sao Lan ái khanh lại không đến, lại để Lý ái khanh đến giải thích với trẫm?”

Cung Tụng Minh thở dài nói: “Bẩm báo hoàng thượng, trong ba mươi sĩ tử được chọn ra lần này, có một người vừa bị sát hại, Hình bộ hiện đang thẩm tra vụ án này. Sĩ tử bị sát hại đó tên gọi là Mã Liêm. Lúc chấm thi, vài quan khảo vì Mã Liêm và Trương Bình, người hoàng thượng vừa nhắc đến, mà khắc khẩu nhau, hãy còn dẫn đến tranh cãi. Vài đại nhân như Đào đại nhân, Lan Thị lang và Lý Học sĩ đều ưng Trương Bình, nhưng Lưu Học sĩ lại tiến cử Mã Liêm. Sau đó, vì một vài nguyên do nên Lý Học sĩ đã rút lại không tiến cử Trương Bình nữa. Thế là Mã Liêm trúng tuyển. Vào tối đêm yết bảng, Mã Liêm lại bị sát hại, Hình bộ đã giải Trương Bình về Nha môn. Hình như lúc trước Lan thị lang cũng có quen biết với Trương Bình nên cũng có chút đáng ngờ, không tiện đến diện kiến, cho nên đã không đến, thỉnh hoàng thượng thứ tội. Không lâu nữa, Hình bộ sẽ tường trình chi tiết việc này, nhanh chóng dâng lên cho Hoàng thượng.”

Vĩnh Tuyên Đế nghe xong, khẽ nhíu mày: “Ý của Cung ái khanh là Lan ái khanh đã lén lút tiết lộ đề thi cho Trương Bình à?”

Cung Tụng Minh vội vàng quỳ xuống: “Hoàng thượng, thần vạn lần không dám. Đây là phỏng đoán của Hình bộ.”

Vĩnh Tuyên Đế đứng dậy, vui vẻ hoà nhã nói: “Cung ái khanh mau đứng dậy đi, trẫm chỉ là thuận miệng hỏi vậy thôi, hoàn toàn không có ý gì khác. Khanh bệnh nặng mới khỏi, không nên lao lực quá.” Rồi sai tiểu thái giám đem ghế ra cho Cung Tụng Minh.

Cung Tụng Minh vừa tạ ân xong, ngồi xuống ngay ngắn thì Vĩnh Tuyên Đế lại nói: “Vụ án này vẫn do Đào ái khanh thẩm tra? Vụ hoàng đại tiên giết người lần trước, y dâng sớ trình trẫm tán dương tên Trương Bình đó không ngớt.”

Trong chốc lát chúng quan không hiểu ý của Vĩnh Tuyên Đế là gì, Cung Tụng Minh mơ hồ nói: “Việc này thần cũng không rõ. Có thể… Đào đại nhân vì muốn tránh hiềm nghi nên sẽ chuyển giao vụ án này lại cho bên Đại lý tự.”

Vĩnh Tuyên Đế cười cười: “Vậy trẫm sẽ lập tức viết thủ dụ cho Đào ái khanh, nói y ta không cần phải kiêng kị gì hết. Trẫm tin nhân phẩm của Đào ái khanh. Các triều đại trước, việc vương công, quan viên tiến cử nhân tài luôn nhận được nhiều tán thưởng. Nếu như tại bổn triều, quan viên chỉ quen biết thí sinh liền bị nghi ngờ, chẳng phải sẽ bị hậu thế chê cười sao? Các quan viên chấm thi đến ngày thứ hai sau khi yết bảng mới được ra khỏi Hoàng Thành. Tối đêm yết bảng ấy, Mã Liêm lại bị sát hại, do đó trước mắt Lan ái khanh không có gì đáng ngờ mới phải.”

Rồi lại gọi tiểu thái giám, lệnh Lan Giác lập tức nhập cung.

Khoảng nửa canh giờ sau, Lan Giác đã có mặt ở Ngự thư phòng. Vĩnh Tuyên Đế nói: “Lan ái khanh, nghe nói lúc Đào ái khanh và khanh chấm thi đều có ý chọn bài thi của Trương Bình. Trẫm cũng muốn xem xem bài thi của người học trò này thế nào. Khanh mang bài thi của hắn đến cho trẫm.”

Lý Phương Đồng bước lên trước: “Hoàng thượng, tên Trương Bình đó phẩm chất không tốt, lại là nghi phạm của vụ án lần này, làm thế này không phải có chút không thoả đáng sao?”

Vĩnh Tuyên Đế nói: “Trẫm chỉ muốn xem bài thi của hắn thôi, khanh không cần phải lo lắng thế đâu.”

Lý Phương Đồng còn muốn nói thêm gì nữa nhưng Lan Giác đã quỳ ngay xuống đất: “Cung Thượng thư ngã bệnh, Đào đại nhân chủ thẩm kỳ thi xong liền quay về Hình bộ, là do thần nhất thời lơ là, chưa nhận được chỉ ý của Hoàng thượng đã cho yết bảng. Thỉnh hoàng thượng trị tội.”

Vĩnh Tuyên Đế mỉm cười nói: “Lan ái khanh mau đứng dậy đi, ba mươi người được chọn lần này là do các khanh tuyển ra. Đây là lệ cũ, trẫm tín nhiệm chúng khanh cho nên không can thiệp vào. Thế nhưng, không qua phê duyệt đã cho yết bảng trước, trẫm cũng tin vào nhãn quang của chúng khanh. Lần sau không được thế này nữa.”

Cung đại nhân đầu đổ mồ hôi lạnh, nằm phủ phục dưới đất, các vị quan khác cũng quỳ theo xuống cả, lúc này mới nhìn thấy vấn đề là đây.

Tiểu hoàng đế cứ dây dưa chuyện Trương Bình nãy giờ, hoá ra còn có dụng ý khác. Dựa theo quy định của bổn triều, ba mươi người được chọn làm tiến sĩ, vốn trước phải dâng danh sách và bài thi lên để hoàng thượng xem qua, sau đó mới cho yết bảng. Nếu có vài người được chọn mà hoàng đế cảm thấy không phù hợp thì có thể kịp thời thay đổi.

Nhưng bởi tiên đế sức khoẻ không tốt, lúc hoàng đế đăng cơ tuổi hãy còn nhỏ, nên mọi việc đều do Thái phó thay mặt chủ trì, nhiều năm trôi qua đã thành lệ.

Lần này sau khi ba mươi người được chọn lựa xong, Vân thái phó muốn Cung đại nhân đưa danh sách cho mình duyệt qua lần nữa. Cung đại nhân cho rằng vẫn cứ theo lệ cũ mà làm. Sau khi Vân Thái phó kiểm lại lần cuối thì ông trực tiếp cho yết bảng, thế là quên béng luôn tiểu hoàng đế vừa mới đích thân chấp chính kia.

Mồ hôi của Cung đại nhân thấm ướt cả áo.

Mặc dù Lan Giác đã chủ động gánh hết trách nhiệm lên người, nhưng lúc yết bảng, y vẫn còn bị nhốt trong Hoàng Thành, việc yết bảng này do ai làm chủ, chắc chắn trong lòng tiểu hoàng đế biết rõ hơn ai hết.

Vĩnh Tuyên Đế lại đứng lên, ân cần nói: “Chúng ái khanh mau mau bình thân, trẫm chỉ là hỏi thăm chút thôi, không có ý trách cứ chúng khanh đâu. Cung ái khanh, mặc dù khoa cử vừa qua, nhưng khanh lại phải vất vả hơn rồi, đại hôn của Hoài Vương hoàng thúc sắp đến, Cung ái khanh nhất định phải bảo trọng sức khoẻ, nếu không hoàng thẩm của trẫm bước không qua cửa nổi đâu.”

Cung đại nhân dập đầu liên tục.

Ra khỏi Ngự thư phòng, chúng quan đều thở phào nhẹ nhõm.

Cung đại nhân bắt tay Lan Giác, nói: “Vẫn là đầu óc của Lan thị lang nhanh nhạy, may mà ngài đến, nếu không thì ta mãi vẫn cứ ở trong đám sương mù, chẳng biết đâu mà lần.”

Lan Giác đáp: “Đại nhân quá khen rồi, hạ quan cũng chỉ là nhất thời hiểu ra mà thôi.”

Lưu Bính nói: “Đúng rồi Lan đại nhân, ngài bị mời đến Hình bộ thẩm vấn, không sao chứ?”

Lan Giác đáp qua loa: “À, cám ơn Lưu đại nhân đã quan tâm, chỉ là do lúc Trương Bình bị Hình bộ bắt giải, Lan mỗ vừa hay ở chỗ hắn ăn mì cho nên Vương Thị lang theo lệ cũng kêu tôi đến Hình bộ hỏi vài câu ấy mà.”

Lưu Bính nói: “Xem ra tên Trương Bình đó quả thực có chút tài năng, chỉ với tài nghệ nấu mì thôi đã có thể khiến Lan đại nhân nhớ mãi không quên rồi. Ôi, hy vọng hắn không phải là hung thủ giết người. Đúng rồi, Hình bộ đã điều tra ra manh mối nào chưa?”

Lan Giác đáp: “Hình bộ điều tra vụ án, Lan mỗ làm sao dám vượt quyền dò hỏi chứ. Chỉ biết là Mã sinh ngày thường đã gây thù chuốc oán với nhiều người, chỉ riêng nghi phạm thôi bên Hình bộ cũng đã bắt đến vài người. Chao ôi, đáng tiếc cho một nhân tài, Lưu đại nhân vậy là đã mất đi một môn sinh ưu tú rồi, nên kiềm chế đau buồn, thuận theo thực tế.”

Lý Phương Đồng tằng hắng một tiếng thật to, Lưu Bính thở một cái thật dài, Lan Giác cười cười rồi chắp tay từ biệt mấy người Lưu Bính.

Trương Bình ngồi chồm hổm trong góc phòng giam của đại lao Hình bộ, lẳng lặng ăn cơm tù.

Đại lao Hình bộ nằm dưới sự cai quản của Đào đại nhân nên cơm tù không đến nỗi nào, màn thầu không cứng lắm, còn có cháo có đồ ăn mặn. Trương Bình ăn cũng thấy khá hài lòng.

Trần Trù ngồi cạnh Trương Bình, tay cầm màn thầu mặt mày rầu rĩ vô cùng.

“Trương huynh, sau khi chúng ta ra khỏi đây, có muốn đi chùa thắp vài nén hương không? Thi rớt không nói đi, đằng này cứ vào ngục mà ăn cơm tù miết… Trời ơi…”

Vài học sinh đã từng có xích mích với Mã Liêm ngồi một đống căm phẫn khóc mắng.

“Cái tên Mã Liêm này, chết rồi cũng không để yên cho người ta!”

“Loại người này, giết hắn còn bẩn tay tôi nữa là!”

“Hình bộ có ý gì đây chứ? Không có chứng cứ chứng minh chúng ta không giết hắn, cũng chẳng có bằng chứng chúng ta giết hắn, sao lại bắt cả lũ giam vào đại lao thế này? Tôi muốn báo lên Đại Lý tự, tôi muốn báo lên Hoàng thượng!”

“…”

Vương Nghiên đứng ở khúc quanh của hành lang, im lặng quan sát tình hình trong phòng giam.

Tôn lang trung khẽ nói: “Vương đại nhân, trong một lát đã bắt giam nhiều nghi phạm như thế, có chút không hợp với quy định lắm. Ý của Thượng thư đại nhân chính là, chỉ giữ lại một hai tên thôi, còn mấy tên khác cứ thả ra hết đi. Sao đại nhân lại bắt giam hết bọn họ rồi lại đứng đây nhìn?”

Vương Nghiên mặt lạnh tanh nói: “Có thể tất cả bọn họ đều không phải là hung thủ thật sự, nhưng cứ xem xét hành vi lời nói của họ trong nhà lao đi, biết đâu lại phát hiện ra manh mối nào đó. Vụ án này có lẽ không phải là vụ án giết người bình thường đâu.”

Trong lòng Tôn trung lang khó tránh có chút không đồng tình, vụ án này nhìn nghiêng nhìn dọc nhìn kiểu gì cũng thấy giống như án giết người báo thù bình thường. Ông ta vẫn tò mò hỏi Vương Nghiên: “Vậy thì đại nhân có nhìn ra gì chưa?”

Vương Nghiên không đáp, trong phòng giam một thư sinh nhỏ giọng nói: “Theo tôi thấy, Mã Liêm bị ma bắt làm thế thân rồi, chẳng phải hắn bốc trúng phòng thi kia sao?… Đêm đầu tiên của kỳ thi, trong căn phòng trống có tiếng khóc than, các người có nghe thấy không?…”

Vài ba thư sinh run lập cập, lặng lẽ gật đầu.

Một thư sinh khác hắng giọng nói: “Các người không phải bị điên hết rồi chứ. Tôi chẳng nghe thấy gì cả. Nếu muốn nói chúng ta đáng nghi, cái tên Phong Nhược Kỳ kia há chẳng phải đáng nghi hơn sao? Ân oán giữa hắn ta và Mã Liêm vốn chẳng phải bình thường, lại từng làm chung cái nghề kia…”

Vương Nghiên lập tức sai bổ đầu đi kiểm tra lai lịch của người đang nói và cả tên Phong Nhược Kỳ kia, bổ đầu vội vàng rời đi.

Lại thêm một thư sinh nói: “Cũng phải, Mã Liêm bốc trúng căn phòng nọ, vốn đã từng có người treo cổ chết trong đó, muốn tìm thế thân thì cũng phải là ma treo cổ mới đúng, đằng này Mã Liêm là chết ngộp mà…”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 16


Vương Nghiên lật mở hồ sơ, cẩn thận xem xét vụ án của Mã Liêm.

Mã Liêm, năm nay hai mươi lăm tuổi, người quận Thục, không cha mẹ họ hàng, sống ở Kinh Thành đã được năm năm, trước khi tham gia kỳ thi Hội gã đã dùng bút danh Đông Hồ Cư Sĩ để viết kịch bản mưu sinh, cũng có chút danh tiếng.

Mã Liêm chết ngạt trong thùng tắm tại nhà, trên người còn có nhiều vết thương do dao đâm. Khám nghiệm mấy vết thương, đoán Mã Liêm trước bị hung thủ đâm trọng thương, sau đó mới bị nhấn chìm trong thùng tắm cho đến chết. Có thể thấy người này có thâm thù đại hận với gã.

Mã Liêm rất giỏi luồn cúi dựa dẫm, kết giao với không ít người và cũng vì hai chữ danh lợi mà từng lăng mạ không ít kẻ. Sáu người hiện đang bị giam trong đại lao Hình bộ đều có thù với Mã Liêm và cũng có khả năng giết người vào đêm hôm đó.

Một trong những nghi phạm là Trương Bình, người Huyện Nam Trì Quận Tây Xuyên, hai mươi mốt tuổi, tháng Giêng năm nay đến Kinh Thành. Mã Liêm đã từng công khai sỉ nhục hắn nhân phẩm hèn hạ, cảm thấy hổ thẹn khi cùng là người đọc sách giống hắn. Trong vụ án Hoàng Đại Tiên, vở kịch mà Trương Bình viết vốn đề tên Đông Hồ Cư Sĩ, sau đó vụ giết người gây ra ồn ào, chuyện này mới truyền ra ngoài, làm Mã Liêm lo sợ người khác xì xầm hầu hết vở kịch của gã đều do kẻ khác viết thay. Thế là gã đi khắp nơi rêu rao Trương Bình mạo danh giả dạng. Kỳ thi Hội lần này, bài thi của Mã Liêm lại trên cơ bài của Trương Bình, trở thành người cuối cùng được chọn. Nhưng vẫn chưa có đủ chứng cứ chứng minh Trương Bình biết chuyện này.

Lúc vụ giết người xảy ra, Trương Bình khai hắn đang ngủ ở nhà. Vương Nghiên tra hỏi hắn, tại sao ở cả hai vụ án, ngươi đều là nghi phạm mà lúc nào cũng ở nhà ngủ vậy hả?

Trương Bình đáp lại, bởi vì hai vụ án này đều xảy ra vào ban đêm, mà học sinh thì ngủ một mạch suốt đêm đến sáng.

Vương Nghiên vung bút vạch một vòng tròn trên tờ khai của Trương Bình rồi để qua một bên.

Nghi phạm thứ hai là Cao Dương Quý, người Huyện Tô An Quận Giang Nam, ba mươi hai tuổi, ở Kinh Thành đã sáu năm. Hắn đã nhiều lần thay Mã Liêm viết kịch. Khi nhận tiền thù lao, Mã Liêm lấy chín phần, chỉ đưa hắn một phần, Cao Dương Quý ấm ức trong lòng, có lần sau khi uống rượu say đã đến đập phá cửa nhà Mã Liêm.

Cao Dương Quý nói, đêm vụ án xảy ra, vợ hắn bị đau bụng, thế là hắn túc trực ở bên vợ suốt, nha đầu duy nhất trong nhà có thể làm chứng việc này. Thế nhưng khi Hình bộ kiểm chứng thì thật ra đêm hôm đó Cao Dương Quý không hề ở nhà, đến canh năm mới trở về, ở trước ngõ còn bị chó hoang cắn một cái, trên chân có dấu răng còn mới.

Cao Dương Quý cứ úp úp mở mở không chịu khai rốt cuộc hắn đã đi đâu, thế là bị Hình bộ giải về đại lao.

Vương Nghiên nhìn tên Cao Dương Quý kia, sắc mặt vàng vọt u ám, tinh thần uể oải ủ rũ, phát quan cài tóc, vớ đeo trên chân tất cả đều còn mới, lính canh lục soát trên người hắn tìm thấy một cái đồng tâm kết, trên y phục còn có dấu son phấn của phụ nữ và mùi của dầu bôi tóc. Chắc tám chín phần tên Cao Dương Quý này có tình nhân, khả năng chính là thê thiếp của gia đình giàu có nào đó nên hắn mới không dám nói ra.

Vương Nghiên viết một chữ không lên tờ khai của Cao Dương Quý rồi vứt vào sọt.

Nghi phạm thứ ba là Hàn Duy Quyển, người Huyện Cao Bưu Quận Giang Nam, hai mươi tư tuổi, vừa đến Kinh Thành vào tháng Hai, là thí sinh đã rớt kỳ thi Hội lần này. Từng là nhân tình của gái nhảy Ảnh Liên thuộc sàn diễn Dương Liễu Thuý, sau đó Ảnh Liên được Mã Liêm bao nên từ chối tiếp tục gặp gỡ Hàn sinh. Hàn Duy Quyển xông vào sàn diễn, đã từng xung đột trực diện với Mã Liêm, bị Mã Liêm chế nhạo Hàn Duy Quyển đã nghèo kiết xác còn đòi đi chơi gái. Hàn Duy Quyển mắng chửi Mã Liêm sẽ không được chết yên. Sau khi yết bảng, Mã Liêm trúng tuyển, còn Hàn Duy Quyển thi rớt, Hàn sinh điên cuồng la hét nói trời cao không công bằng, loại người như Mã Liêm rõ ràng đáng chết, tại sao vận mệnh gã lại tốt như thế.

Hàn Duy Quyển nói, lúc vụ án xảy ra, hắn đang cùng hai sĩ tử thi rớt là Trần Trù và Lữ Trọng Hoà uống rượu bên bờ hồ. Nhưng bởi vì cả ba người họ đều có thù với Mã Liêm, không loại trừ khả năng là đồng phạm nên không thể làm chứng cho nhau, thế là cả lũ cùng ngồi chồm hổm trong tù.

Nghi phạm thứ tư là Lữ Trọng Hoà, người Hoài Thánh Châu Quận Lỗ, hai mươi sáu tuổi, tháng Chạp năm ngoái đến Kinh Thành, là một trong những sĩ tử rớt bảng kỳ thi lần này. Lữ sinh năm mười mấy tuổi bị mắc bệnh rụng tóc, chưa quá tam tuần đầu đã trọc lóc không còn cọng tóc, ngày thường phải đội tóc giả lên che đi, không dám cho ai biết. Có lần hắn lén đi gặp lang trung, vừa đúng sao lại gặp Mã Liêm, thế là bị gã tóm được bí mật này. Lữ Trọng Hoà còn có một cái bệnh, hễ hoảng là nói lắp. Trong một văn hội nọ, lúc Lữ Trọng Hoà thi ngâm thơ với người ta, bài “Vịnh Xuân” ngâm đến câu thứ ba, một lúc gấp quá thành tật cà lăm, ngâm thành: “Nghi tự Thường Nga đạp đạp đạp đạp đạp trăng đến.” Thế là thành chuyện cười truyền tai khắp nơi.

Mã Liêm rất thích dùng câu chữ của người khác trong bài văn mình, bài thơ này của Lữ Trọng Hoà bị gã sửa đi vài chữ, đưa vào một vở kịch. Trong vở kịch gã còn viết một anh hề, mũi trét trắng bóc, đầu bóng loáng, cố ý đội một cái khăn trên đỉnh đầu, lên sân khấu hát: “Ngay kia có một tiểu cô nương cưỡi lừa lừa lừa lừa lừa đến.”

Kết quả là, những người quen biết Lữ Trọng Hoà đều biết chuyện thật ra hắn ta là một gã trọc. Đáng ra Lữ Trọng Hoà ở Kinh Thành đã bàn xong hôn sự, nhưng bên nhà vợ chê hắn nghèo mà còn trọc nên đã từ hôn. Lữ sinh bị đả kích, đổ bệnh nặng một trận, lúc kỳ thi diễn ra còn chưa hết bệnh, mười phần năng lực chỉ phát huy được ba phần, tên sau Tôn Sơn (ý là thi rớt). Cho nên hắn hận Mã Liêm thấu xương.

Nghi phạm thứ năm Trần Trù, người Tiết Thành Quận Tây Xuyên, hai mươi ba tuổi, không cha mẹ thân thích, đến Kinh Thành cùng lúc với Trương Bình, là thí sinh thi rớt kỳ thi năm nay. Trần Trù là người có ít thù hằn với Mã Liêm nhất trong số sáu người. Hắn cũng từng viết mấy vở kịch kiếm tiền nuôi thân, từng viết thay cho Mã Liêm, cũng từng vài lần muốn tự mình nhận mấy vở kịch nhưng tranh không lại Mã Liêm. Bình thường Trần Trù rất thích khoác lác, lúc thì nói vốn gia đình mình rất giàu có, lúc thì nói đã từng đến một đất nước thần kỳ, nơi đó mỹ nữ như tiên tử, nữ quốc vương ở đó còn muốn hắn làm vương phu. Thường ngày Mã Liêm chế nhạo hắn, lúc ăn uống nhập tiệc, lại dẫn mấy lời khoác lác của hắn ra nói, làm hắn trở thành tên hề bị khinh rẻ, lấy hắn ra làm trò mua vui.

Mặc dù đây chỉ là những chuyện nhỏ nhặt, nhưng ngày dài tháng rộng tích luỹ lại cũng có thể trở thành thù sâu hận lớn. Vương Nghiên chấm một chấm lên ba cái tên Hàn, Lữ, Trần, rồi đem mấy hồ sơ này để qua một bên.

Nghi phạm thứ sáu tên Củng Tần Châu, chính là người đã nhắc đến cái tên Phong Nhược Kỳ trong đại lao kia. Hai mươi hai tuổi, người Kinh Thành. Lúc hắn mười sáu tuổi đã bắt đầu viết kịch, dùng bút danh Thiên Bắc Tán Nhân, có gốc rễ rất mạnh ở Kinh Thành. Lúc Mã Liêm viết kịch luôn tranh không nổi với hắn. Nhà in Tư Hiền ở Kinh Thành cho xuất bản một tập kịch bản, danh tiếng của Củng Tần Châu nổi hơn Mã Liêm, đãi ngộ cũng hơn Mã Liêm, cho nên gã cảm thấy Củng Tần Châu ngáng đường của mình, luôn tìm cơ hội để đối phó với hắn.

Năm ngoái, một đám người Hồ nước La Căn uống rượu quậy phá ở Kinh Thành, đốt cháy mấy căn nhà, còn đánh sai dịch của phủ Kinh Triệu. Người Kinh Thành hết sức phẫn nộ. Mã Liêm biết Củng Tần Châu thích một cô nàng người La Căn trong một sàn diễn nọ, thường đến nhảy múa cùng cô ta, còn từng có ý muốn mua cô ta về phủ. Thế là gã đem chuyện này kể cho mấy người xung quanh biết, còn mướn vài người giả làm mấy tên căm hận người La Căn, chọi rau thối, hắt nước tiểu vào cửa nhà Củng Tần Châu.

Mã Liêm luôn chủ động kết giao với Củng Tần Châu, cả hai thường uống rượu cùng nhau, Củng Tần Châu không tin Mã Liêm sẽ hại mình, nhưng người biết được hắn xem Hồ cơ chỉ có Mã Liêm. Mấy việc lẻ tẻ như hắn thích ăn bánh vừng đều bị truyền ra bên ngoài. Sau khi làm mấy chuyện này xong Mã Liêm bắt đầu công khai viết mấy bài thơ ngầm chỉ trích Củng Tần Châu.

Người chửi bới Củng Tần Châu càng lúc càng nhiều, Củng Tần Châu vì biết được chân tướng sự việc, đã dứt khoát không thèm đếm xỉa đến. Lúc đó hắn và Mã Liêm đều thuê một chỗ trong nhà in để sửa chữa bản thảo của mình, chỗ đó chỉ có hắn và Mã Liêm đi ra đi vào. Hắn có ý muốn viết một trường thi châm biếm tầng lớp bốc đồng, chia ra viết trên bức tường mà hắn và Mã Liêm dùng chung, ở trong nhà và trên một trà quán.

Thơ ở ba nơi này, tên và mấy câu mở đầu đều giống nhau, chỉ là độ dài của toàn bài thơ và cách dùng chữ có hơi khác nhau.

Tối ngày hôm đó, Củng Tần Châu biến thành Hồ nô người người muốn đánh, mấy câu trích dận hiệu triệu đầu tiên trong bài hịch mà mọi người phê phán hắn đều là những câu hắn viết ở trong nhà in.

Trải qua việc này, danh tiếng Củng Tần Châu bị huỷ hoại nghiêm trọng. Mã Liêm nhân cơ hội đó đi tán dương bản thân mình khắp đường lớn ngõ nhỏ, đồng thời chỉ đứng sau lưng giẫm đạp lên Củng Tần Châu. Ngoài chuyện mấy câu thơ ngầm đả kích của gã khiến Củng Tần Châu tức giận ra, gã hoàn toàn không hề công khai tham gia vào chuyện nào khác. Vào dịp lễ Tết, Mã Liêm gửi tặng lễ vật cho nhà in, cũng không quên thêm một phần cho Củng Tần Châu, nói rằng Củng Tần Châu vì mấy câu thơ gã viết mà hiểu nhầm gã, không thăm viếng nói năng với gã nữa, nên phiền nhà in thay gã gửi đến hắn… Nhà in cảm thấy tính tình Mã Liêm biết kềm chế hơn Củng Tần Châu, thế là Mã Liêm thuận lợi kết thành tri kỷ với mấy gã văn sĩ đã cùng chà đạp Củng Tần Châu. Hai bên thường xuyên tâng bốc lẫn nhau, văn sĩ các nơi viết văn khen ngợi Mã Liêm tài hoa hơn người, còn phong tặng hắn danh hiệu “Đông Hồ Thần Bút.”

Sau khi nghe xong mấy lời khai này của Củng Tần Châu, Vương Nghiên bèn nói: “Vậy thì ngươi có oán hận rất sâu đậm với Mã Liêm.”

Củng Tần Châu cười lạnh: “Chưa nói đến việc hận hay không, tôi chỉ cảm thấy con người này vô cùng ác độc, càng không thể vì loại người này mà đi báo thù để bản thân phải trở thành kẻ giết người. Tôi trước giờ không hiểu đạo lý đối nhân xử thế, trải qua chuyện này, coi như nhận một bài học cho mình, bản thân cũng gặt hái được vài thứ. Hơn nữa, những thủ đoạn mà Mã Liêm dùng để đối phó với tôi, so với năm xưa hắn đã dùng với Phong Nhược Kỳ thật sự không đáng nhắc đến. Nghĩ đến Phong Nhược Kỳ, tôi cảm thấy bản thân mình vẫn còn may mắn lắm.” Không ngừng nhắc đến Phong Nhược Kỳ, cũng không biết là thật lòng đồng tình, hay là có ý muốn làm y mắc bẫy.

Vương Nghiên vẽ hai vòng tròn trên tờ khai của Củng Tần Châu, chuẩn bị đi thăm Phong Nhược Kỳ.

Người tên Phong Nhược Kỳ này không thể tuỳ tiện sai nha dịch đến bắt. Bởi vì ba năm trước anh ta đã đậu tiến sĩ, Cung Tụng Minh Lễ bộ Thượng thư, sếp trực tiếp quản lý Lan Giác, chính là thầy của anh ta.

Phong Nhược Kỳ làm quan ở Vu Châu Quận Giang Nam, khả năng không tới vài năm y sẽ có thể được phong chức làm Tri phủ. Trước đây mấy lần y có đến Kinh Thành để thăm ân sư Cung đại nhân. Lúc vụ án xảy ra, vừa đúng y cũng ở Kinh Thành.

Vương Nghiên thật không mong Phong Nhược Kỳ là hung thủ thật sự, nếu như vị quan có cấp bậc như Phong Nhược Kỳ mà dính dáng đến vụ án này, thì lập tức sẽ bị Đại lý tự bốc đi ngay.

Vương Nghiên suy đoán, Phong Nhược Kỳ sẽ không vì thù xưa hận cũ mà tự làm hại chính mình, mạo hiểm đi giết một kẻ trước mắt vẫn chưa chạm đến cửa quan.

Thế nhưng, lúc chấm thi, ái đồ của Vân thái phó là Lưu Bính đã kịch liệt đề cử Mã Liêm, Mã Liêm quả thực đã leo lên được cành cao, lại bị Phong Nhược Kỳ biết được, chuyện cũng không thể nói chắc.

Chuyện gì cũng không chắc chắn được…

Vương Nghiên lại đến đại lao xem thử, mấy cậu học trò kia, kẻ tức giận người la hét, riêng Trương Bình ngồi trong góc xó, lại đang ăn, lần này là ăn tối.

Trần Trù nuốt không nổi cơm, Trương Bình ăn sạch sẽ giùm y cái màn thầu. Vương Nghiên nhìn thấy hắn, lòng lại rầu rĩ rời khỏi đại lao, rồi lệnh người mang danh thiếp đến chỗ Phong Nhược Kỳ đang ở, nói rằng ngày hôm sau sẽ đến viếng thăm y.

Đêm khuya, Lan Giác bị tiếng hét của Lan Huy làm giật mình tỉnh giấc. Lan Huy hai mắt đỏ au nhìn cha nói: “Cha ơi, ma…”

Lan Huy từ phủ Vương Nghiên trở về nhà, trở thành một cục than đen nhẻm, trên cơ thể có nhiều chỗ bị trầy xước, nhưng ánh mắt sáng ngời, tinh thần phấn chấn. Lan Giác còn đương mừng thầm thì ngờ đâu lại xảy ra chuyện này, bất đắc dĩ nói: “Chẳng phải cha đã đưa con lợn rừng cho con hộ thân rồi sao? Sao lại còn sợ ma nữa?”

Lan Huy chầm chậm lôi từ trong ngực ra con lợn rừng đó, hoá ra lúc nó chơi đánh trận với mấy đứa con của Vương gia đã làm gãy răng nanh của con lợn.

“Cha ơi, ma lại đến rồi, có phải vì răng con lợn gãy rồi cho nên không ủn được cây nữa không?”

Lan Giác đành phải để cho Lan Huy đến phòng y ngủ một đêm, Lan Huy cứ thì thầm nói mãi, toàn thân con ma đó toàn máu là máu, từ dưới nước trồi lên. Không phải là quỷ cây mà là quỷ nước, lợn rừng không có tác dụng rồi.

Ngày hôm sau, sau khi Lan Giác bãi triều, lập tức đến tiệm đồ ngọc đặt cho Lan Huy một con mèo ngọc.

Cạnh tiệm đồ ngọc là một ngôi chùa. Lan Giác ra khỏi tiệm ngọc, đang muốn lên kiệu thì nhìn thấy một cái bóng quen thuộc vội vàng ra khỏi chùa, nhanh chóng leo lên cỗ kiệu nhỏ mộc mạc.

Bóng người đó áng chừng là Liễu Viễn, anh vợ của y.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 17


Vương Nghiên ngồi kiệu đến nhà của Phong Nhược Kỳ.

Phong Nhược Kỳ có một ngôi nhà ở Kinh Thành, nằm ở hẻm Thái Dung Thành Tây. Con hẻm nhỏ hẹp, kiệu của Vương Nghiên đi quanh co vòng vèo rất lâu rồi mới dừng lại trước cửa nhà nằm sâu tít trong cùng.

Tuỳ tùng của Vương Nghiên gõ lên cánh cửa cũ kỹ, chốc lát sau có một người đàn ông ra mở cửa. Người đó mặc trường y xanh nhạt, trên đầu buộc khăn vuông đã cũ, tuổi chừng tam tuần. Tuỳ tùng của Vương Nghiên bước lên trước nói: “Dám hỏi Phong đại nhân có…”

Lời chưa nói dứt đã bị Vương Nghiên cắt ngang: “Ngươi đứng đợi ở đây đi”, rồi trực tiếp mở cửa đi vào bên trong viện.

Người đàn ông đó đóng cửa viện lại, Vương Nghiên chắp tay cười nói: “Phong đại nhân thật mộc mạc khiêm tốn, ở trong tiểu viện nhỏ thế này, đến một kẻ hầu người hạ cũng không có.”

Người kia cúi người đáp lễ: “Vương Thị lang khen nhầm rồi, nơi đây là nhà cũ của hạ quan, lần này tới Kinh cũng không nán lại bao lâu nên ở nhà mình vẫn tiện hơn nơi khác. Hạ quan được biết hôm nay Vương Thị lang sẽ đến, cho nên đã bảo những người khác lui đi, để tiện đại nhân hỏi việc.”

Vương Nghiên vòng qua tường chắn, cùng với Phong Nhược Kỳ bước lên con đường mòn rải đầy những viên đá màu li ti. Phong Nhược Kỳ dẫn Vương Nghiên vào tiền đình, mời ngồi ở ghế đầu.

“Hạ quan biết hôm nay Vương Thị lang đến là vì chuyện của sĩ tử Mã Liêm bị giết. Trước đây hạ quan và Mã Liêm có chút ân oán với nhau, nhưng dù sao đó cũng đã là những chuyện nhỏ nhặt quá khứ. Hơn nữa, đêm Mã Liêm bị giết, hạ quan đang ở nhà ân sư Cung đại nhân, nói chuyện suốt đêm với thầy.”

Vương Nghiên đón tách trà Phong Nhược Kỳ đưa tới, nhấp một ngụm, nước trà được chuẩn bị từ sớm, không nóng không lạnh, uống rất vừa miệng.

Vương Nghiên khen một tiếng trà ngon rồi đặt tách trà xuống, nói: “Lúc trước Cung Thượng thư sinh bệnh, bản bộ viện cũng từng thay gia phụ đi thăm ngài ấy, cũng may chỉ là bệnh vặt, nhưng vẫn phải điều dưỡng cẩn thận, tránh quá lao lực.”

Phong Nhược Kỳ thở dài một tiếng: “Tuổi tác ân sư đã cao, nhiều lần có ý muốn cáo lão hồi hương nhưng hoàng thượng, thái hậu và Hoài vương điện hạ cứ níu giữ nên vẫn chưa được như ước nguyện. Bản thân thầy cũng cứ lo lắng suốt, mãi không buông được. Giống như lần này hạ quan đi thăm thầy, nhiều lần khuyên thầy đi ngủ sớm, vậy mà cuối cùng cũng thức nói chuyện với thầy thâu đêm.”

Vương Nghiên nói: “Những hậu bối như tôi đều nên học tập tấm gương một lòng một dạ báo đáp triều đình của Cung đại nhân. Phong đại nhân, bản bộ viện nhận được đơn tố cáo, nói rằng giữa ngài và Mã Liêm từng có ân oán, chuyện này chỉ nói mà không có bằng chứng. Bản bộ viện nói việc này cho Phong đại nhân nghe, có chỗ nào bịa đặt, ngài cứ nói với tôi.”

Phong Nhược Kỳ nói: “Thị lang đại nhân quá khách khí rồi, đại nhân dù có nghi ngờ hạ quan, bắt giải hạ quan về Hình bộ cũng là chuyện hợp lý mà. Hạ quan cũng muốn sớm làm rõ, gỡ bỏ hiềm nghi, mời đại nhân cứ nói.”

Mấy thư sinh trong đại lao than thở, gào thét cả đêm đều đã mệt, chờ hoài đợi mãi mà không thấy thẩm vấn, Củng Tần Châu than thở: “Hy vọng trong số chúng ta không xuất hiện oan hồn. Đào Thượng thư là người tốt, nhưng Vương Thị lang kia lại cố chấp tự cho mình là đúng, không phân phải trái trắng đen đã bắt chúng ta vào đây, tới nay không hỏi cũng chẳng tra, chẳng biết ra sao nữa.”

Trần Trù nói: “Củng huynh à, tôi nhiều chuyện nói với huynh câu này, tại sao huynh lại ở trước mặt Vương Thị lang nói người tên Phong gì đó khả nghi? Tôi và Trương huynh đã biết cách ngài ấy xử án, ai mà càng chỉ người khác, ngài ấy càng nghi ngờ người đó hơn.”

Củng Tần Châu nói: “Phong Nhược Kỳ là mệnh quan triều đình, nếu không phải hắn ta và Mã Liêm thực sự có thâm thù đại hận, tôi cũng sẽ không nói hắn ra đâu. Phong Nhược Kỳ còn có một cái tên khác, có lẽ mọi người đã từng nghe qua rồi, chính là Mộ Diệp Sinh.”

Trần Trù biến sắc nói: “Hoá ra chính là Mộ Diệp Sinh, người viết truyền kỳ, danh tiếng của người này chẳng ra sao cả.”

Trương Bình lật người trên miếng đệm cỏ, tất cả mọi người đều vểnh tai lắng nghe.

Củng Tần Châu cười nhạt nói: “Tác phẩm làm nên danh tiếng của Mã Liêm là sao chép từ một tập truyện truyền kỳ của Mộ Diệp Sinh. Danh tiếng của Mộ Diệp Sinh cũng bị huỷ hoại trong tay Mã Liêm, đến mức không cầm bút viết được nữa. Các người nói xem hắn có hận Mã Liêm hay không?”

Từ bé Phong Nhược Kỳ đã thích đọc truyện truyền kỳ, đặc biệt ngưỡng mộ mấy người như Tây Sơn Hồng Diệp Sinh, Phong Tửu Khách, thế là cũng cầm bút viết truyền kỳ, còn tự đặt cho bản thân một bút danh là Mộ Diệp Sinh.

Phong Nhược Kỳ viết được mấy truyện truyền kỳ, hành văn cứng đơ, tình tiết cường điệu, nhưng do viết rất nhanh lại viết nhiều nên cũng có chút danh tiếng.

Lúc Mã Liêm mới bắt đầu viết kịch, đã dùng tình tiết và câu chữ trong truyện của Phong Nhược Kỳ. Vở kịch đó được Thôi ban chủ của đoàn Bách Hà chấm trúng, thế là đem lên diễn, ông chủ Thôi còn giới thiệu vở kịch này với chủ tiệm in Tư Hiền, in ra đem bán.

Thôi ban chủ mời một số văn sĩ đến tiến cử giới thiệu cho vở kịch này, Phong Nhược Kỳ cũng được mời.

Mã Liêm công khai bày tỏ do ngưỡng mộ Phong Nhược Kỳ cho nên mới dùng văn của y, Thôi ban chủ cảm thấy nếu Phong Nhược Kỳ tiến cử gã, vừa hay lại là cách tốt, như thế danh tiếng cả hai sẽ được nâng lên.

Nhưng Phong Nhược Kỳ lại là một kẻ lòng dạ hẹp hòi, không chịu tiến cử Mã Liêm. Vở kịch dựng xong tập thử, có người nói Mã Liêm đã biến thứ văn chương như gỗ mục của Phong Nhược Kỳ thành mỹ ngọc. Hơn nữa, kịch Mã Liêm viết là vở ái tình, nhân vật chính là một nữ tử vùi thân chốn giang hồ, hầu hết nam nhân yêu nàng ta như si như dại. Mã Liêm đã dùng câu từ đoạn văn mà Phong Nhược Kỳ viết về đám hiệp khách nhà y chuyển sang cho nhân vật nữ nhi mê đảo chúng sinh của mình.

Phong Nhược Kỳ giận tím tái mặt mày, mắng, một ả đàn bà cợt nhả lẳng lơ phóng túng mà cũng dám huênh hoang hai chữ đại hiệp. Đây là cái loại gì chứ! Đúng là làm ô uế văn chương của ta!

Mã Liêm bị làm cho mất mặt. Vài kẻ ghen ghét vì kịch bản của hắn được ban chủ của một đoàn kịch lớn chọn, nên nhân cơ hội đó mượn lời của Phong Nhược Kỳ mắng gã. Thôi ban chủ cũng giận dữ vô cùng, ngồi ở tiệc rượu cùng Mã Liêm mắng Phong Nhược Kỳ một hồi.

“Tên Mộ Diệp Sinh nghèo kiết xác kia đúng là không biết xấu hổ, hắn viết truyền kỳ cả đời này cũng đừng mong được đăng lên mấy nơi thanh nhã. Vở kịch này mà diễn, cả thiên hạ đều biết, lúc đó hắn há chẳng phải sẽ trở thành đống bùn dưới chân của Đông Hồ Cư Sĩ hay sao? Nể mặt hắn mới dùng văn của hắn, hắn còn cho rằng bản thân là Lý Bạch, Đỗ Phủ à? Thơ Lý Bạch, Đỗ Phủ ngày nào chả ai không dùng, cũng có thấy bọn họ nhảy ra khỏi quan tài đến cắn người đâu.”

Sau khi vở kịch công diễn, danh tiếng Mã Liêm nổi lên rất nhiều, nhưng cũng không ít người không ngừng nói gã ăn cắp văn của Phong Nhược Kỳ.

Mã Liêm rất đau đầu. Lúc gã chưa nổi tiếng, Mộ Diệp Sinh là hòn đá lót đường hữu dụng, nhưng nay gã có danh có tiếng rồi, Mộ Diệp Sinh lại hoá thành cái gai trong mắt nhất định phải loại bỏ. Gã đã đạp lên Mộ Diệp Sinh để đi lên, tuyệt đối không thể để bị đạp lại, vì tiền đồ tương lai, nhất định phải xử lý sạch sẽ Mộ Diệp Sinh. Nếu như Phong Nhược Kỳ phong bút, văn chương mai một không tung tích, thế là những câu chữ kia sẽ trở thành của Mã Liêm. Cho dù không thể khiến Mộ Diệp Sinh phong bút, cũng phải huỷ hoại danh tiếng của hắn, tốt nhất nên khiến người khác gào mắng muốn đánh, như thế dù có dùng văn của hắn cũng là thay trời hành đạo. Những câu chữ đó, vốn nên để Mã Liêm gã dùng mới không bị thui chột trong tay của Mộ Diệp Sinh.

Thế là, Thôi ban chủ vung tiền, Mã Liêm mướn người, mua lại hết tác phẩm của Phong Nhược Kỳ, nghiên cứu kỹ càng, cho dù là trong trứng gà cũng phải tìm cho ra xương cá. Nhưng Phong Nhược Kỳ cẩn thận vô cùng, trong tác phẩm tuy có trích dẫn nhưng đều là điển tích mấy trăm ngàn năm trước, hoàn toàn tìm không ra chỗ sơ hở nào.

Đúng lúc này, ông trời lại ban cho Mã Liêm một cơ hội tốt. Thì ra gia cảnh Phong Nhược Kỳ vốn nghèo khó, tiền nhuận bút viết truyền kỳ của y rất thấp, thế là y giúp hiệu đính chỉnh sửa bản in trong nhà in Tụng Thế – nơi xuất bản tác phẩm của mình để kiếm thêm chút tiền. Chủ nhà in Tụng Thế có đứa cháu vợ, cũng viết một truyện truyền kỳ, thế là để Phong Nhược Kỳ chỉnh sửa, rồi giới thiệu giúp nó.

Phong Nhược Kỳ giúp đứa cháu của ông chủ gọt giũa lại câu văn, viết lời giới thiệu, nhưng y lại không biết câu chuyện này lại ăn cắp của một người khác.

Sách của thằng cháu sau khi xuất bản chẳng bán được cuốn nào, cũng không ai phát hiện hắn đạo văn người khác, nên khi việc này bị phát giác ra phải đến một năm sau. Do Mã Liêm không tìm thấy nhược điểm của Phong Nhược Kỳ, nên bèn lật xem mấy tác phẩm y đề tên giới thiệu, trùng hợp sao lại lật đúng cuốn này.

Mã Liêm vui mừng vô cùng, lập tức sai người đi tìm khổ chủ bị đạo văn, nói cho khổ chủ biết chuyện này, còn chỉ dạy hắn, truyện truyền kỳ này do Phong Nhược Kỳ chỉnh sửa giới thiệu, sao lại không nhìn ra là đạo văn chứ? Nói không chừng còn do Phong Nhược Kỳ giựt dây, cho nên chẳng cần tìm thằng cháu, không cần tìm nhà in, cứ nhắm vào tên Phong Nhược Kỳ đó.

Khổ chủ muốn dựa vào đám người “đồng đạo nhiệt tình” như Mã Liêm đòi lại công bằng cho hắn, liền y lời mà làm, chỉ cắn một mình Phong Nhược Kỳ, làm um trời lên. Phong Nhược Kỳ có nỗi khổ không nói ra được, cảm thấy bản thân oan ức vô cùng, nhưng cũng không thể dâng thằng cháu của ông chủ ra, chỉ đành nghiến răng làm bia đỡ đạn.

Mã Liêm tìm vài kẻ là bậc thầy mô phỏng chữ viết, mạo danh bút tích của Phong Nhược Kỳ, viết một bài thanh minh, hăm doạ khổ chủ không biết tốt xấu, lại dám đối đầu với Phong Nhược Kỳ y. Trong nha môn có người của Phong Nhược Kỳ, y chuẩn bị báo lên nha môn, tìm một trăm trạng sư và thầy kiện, kiện cho khổ chủ không ngẩng mặt lên nổi.

Bài thanh minh này được truyền đi rộng rãi, văn sĩ của nhà in Tư Hiền chế ra vài bài hịch, sau khi ném đi ngoài, rất nhiều người sôi nổi hưởng ứng. Thôi ban chủ cũng sai đoàn kịch diễn mấy vở kịch nhỏ, hát hát múa múa, châm biếm Mộ Diệp Sinh có người trong nha môn và trăm kẻ đại cáo trạng. Có một khoảng thời gian, ba chữ “Mộ Diệp Sinh” bị người người mắng chửi, người người chỉ trích. Đến đứa trẻ ba tuổi trên phố cũng biết hát – “Mộ Diệp Sinh, không tầm thường, lưng thẳng quá, lưỡi dài quá, thích nhất dạy người trộm văn chương, ai dám nói hắn kiện chết ngươi, người ta có đường vào nha môn, lại có trăm thầy cãi…”

Củng Tần Châu nói: “Thực không giấu giếm, năm đó trong các bài đả kích Mộ Diệp Sinh có một bài là do tôi viết, chủ quán nhận uỷ thác của Thôi ban chủ, còn dặn dò chúng tôi, phải mắng sao cho Mộ Diệp Sinh không dám ngẩng mặt lên mà sống nữa, khiến hắn phải nghĩ quẩn, chết là hay nhất. Lúc đó tôi mắng Mộ Diệp Sinh, vài năm sau, người bị Mã Liêm ám hại lại trở thành tôi, đây có lẽ là báo ứng chăng.”

Mộ Diệp Sinh trải qua chuyện này, từ đó về sau mai danh ẩn tích, không bao giờ xuất hiện nữa. Ngày nay nếu mọi người nhắc đến y, vẫn sẽ nhớ đến chuyện cười trong nha môn có người quen và trăm thầy cãi kia.

Vương Nghiên nói với Phong Nhược Kỳ: “Chuyện mà bản bộ viện đã nghe chính là như vậy, Phong đại nhân xem có sai lệch gì hay không?”

Phong Nhược Kỳ nói: “Có chút không đúng lắm, kỳ thực chuyện đứa cháu vợ của ông chủ không phải do Mã Liêm chủ mưu. Hôm đó hạ quan ở nhà in chỉnh sửa bản thảo, có một người viết luận sử, do bình thường không thạo việc nên đắc tội với người trong nhà in, vừa đúng lúc đó anh ta có một tập bản thảo phạm chút lỗi nhỏ thế là bị nắm thóp, do đó không được đem đi in. Do tôi với người đó có mâu thuẫn lợi ích, rồi có mấy người có hiềm khích với tôi, nói là tôi ghen ghét anh ta, có ý muốn loại trừ, cũng là kế một mũi tên trúng hai đích. Thật ra tôi chỉ chỉnh sửa truyện truyền kỳ, vốn không dính líu đến luận sử. Nhưng người này lại tin thế, chuyện đứa cháu vợ của ông chủ đạo văn là do anh ta biết được, là người nhắc đến chuyện này đầu tiên, Mã Liêm chỉ là mượn gió bẻ măng. Nhưng thế lực người này không mạnh bằng Mã Liêm, về sau thì quả thực Mã Liêm ra tay rất nhiều. Ha ha, bây giờ nghĩ lại, lúc đó thế gian chỉ to như miếng đậu phụ khô thế mà lại ác liệt không kém gì quan trường.”

Vương Nghiên lại uống một ngụm trà, nói: “Phong đại nhân đã chịu đả kích lớn như thế, sao lại dễ dàng buông bỏ mọi chuyện vậy?”

Phong Nhược Kỳ nói: “Lúc đó trong lòng hạ quan quả thực vừa hận vừa oán, hận không thể thuê một chiếc xe đến bên Hoàng Hà nhảy xuống chết luôn cho rồi. Sau đó có một ngày, tôi đi ra ngoài thành, nghe thấy tiếng chuông vọng đến từ một ngôi chùa trên núi, tôi đột nhiên nghĩ, người sống ở đời cùng lắm cũng chỉ mấy chục năm, mọi thứ tựa như mây trôi, chớp mắt một cái là tan biến hết. Thế là tôi buông bỏ, sau đó tham gia thi cử, vậy mà lại đậu, coi như có được có mất đi.”

Vương Nghiên khều khều lá trà: “Đó là vì Phong đại nhân thấu hiểu cái gì gọi là độ lượng. Nhưng, trước khi Phong đại nhân buông bỏ mọi thứ, có phải đã làm chuyện gì rồi không? Thật sự là đã buông hết rồi à?”

Phong Nhược Kỳ sững người một lát, cười nói: “Hiểu được rồi thì tự khắc sẽ buông bỏ thôi. Giờ nghĩ lại, chỉ là chuyện nhỏ như hạt vừng, vì nó mà phiền não quả thật là không đáng.”

Vương Nghiên cười cười, rút từ trong tay áo ra một cuốn sách cũ, bìa màu xanh mực.

“Quyển Cửu tùng sơn kiếm khách này là do bản bộ viện vô tình mà có được, vị hiệp khách trong này tự tay đâm chết kẻ thù của mình, quả thực rất thống khoái! Nhưng sao bản bộ viện cảm thấy, những oan ức mà vị kiếm khách này phải chịu đựng có nét gì đó giống với những ngày xưa cũ của Phong đại nhân nhỉ… Ừm, người viết quyển truyền kỳ này, tên gọi Hàm Thái Sinh (dưa muối), quả thật là thú vị…”

Sắc mặt Phong Nhược Kỳ thoáng thay đổi, húng hắng nói: “Hình bộ quả nhiên là lợi hại, chỉ trong thời gian ngắn đã tìm thấy quyển sách này. Quả nhiên chuyện gì hạ quan cũng không giấu được Thị lang đại nhân. Hàm Thái Sinh… chính là một bút danh khác của hạ quan… Quyển sách này, chính là do hạ quan viết…”

Vương Nghiên cười cười nói: “Ồ? Chẳng phải Phong đại nhân đã buông bỏ hết mọi thứ rồi sao? Sao lại vẫn còn quyển sách này vậy? Phong đại nhân viết quyển sách này là để kêu oan? Rửa tội? hay là…”

Phong Nhược Kỳ nói: “Lúc viết cuốn này tôi còn chưa quyết định buông bỏ, không phải là vì kêu oan, càng làm sao có thể rửa tội chứ. Mã Liêm ám hại như thế, tôi không thể làm bẩn tay mình bằng cách đi báo thù hắn, cho nên trong cuốn sách này, tôi biến hắn thành một xác chết để xả giận đấy.”

Vương Nghiên hạ tầm nhìn, đập đập vào quyển sách: “Ừm, xả giận xong, Phong đại nhân liền từ bỏ hết?”

Phong Nhược Kỳ nói: “Thật ra là sau đó còn một đoạn nữa, vì để xả giận hạ quan mới viết quyển sách này. Có một ngày tôi đi đến quán trà, gặp một thanh niên trẻ tuổi cùng một thiếu niên đang bàn luận về tác phẩm này. Người thanh niên trẻ tuổi kia nói, thật đáng tiếc làm sao, quyển này vốn có thể là một tác phẩm hay nhưng tâm người viết lại chứa đầy oán hận, cái viết ra không phải là hiệp khách, hoàn toàn không có tinh thần kiếm hiệp. Thiếu niên kia liền nói, nếu như chuyện gì cũng so đo tính toán, thì làm sao có thể nhìn thấy thiên hạ? Hạ quan nghe mấy lời này, liền sáng tỏ thông suốt, rồi mới đi ra ngoài thành đạp thanh. Về sau, hạ quan mới biết, người mà ngày đó hạ quan gặp trong trà quán, lại chính là đương kim thánh thượng và Hoài vương điện hạ. Trong lúc vô tình, hạ quan lại được hoàng thượng và Hoài vương điện hạ chỉ dạy! Từ đó hạ quan cố gắng đọc sách, tham gia thi cử, quyết tâm đền đáp cho quốc gia!”

Vương Nghiên thở dài: “Bản bộ viện thật ngưỡng mộ Phong đại nhân, bản bộ viện nhận được sự che chở của gia phụ, làm quan tới ngày hôm nay rồi mà vẫn chưa được hoàng thượng hoặc Hoài vương điện hạ đích thân chỉ dạy, thật sự là phúc phần bạc bẽo. Bữa nào bản bộ viện cũng viết một câu chuyện truyền kỳ, lấy bút danh là Oa Đầu Sinh (bánh ngô), Phong đại nhân thấy thế nào?”

Phong Nhược Kỳ đứng dậy cúi người nói: “Vương thị lang nói đùa rồi.”

“Tóm lại, trong chuyện này rõ ràng kẻ đáng nghi nhất là Phong Nhược Kỳ.” Củng Tần Châu ngồi xuống bên cạnh chiếu rơm, “Quyển Cửu Tùng sơn kiếm hiệp ám chỉ việc năm đó, nhất định là hắn dùng bút danh khác để viết, tên tiểu nhân nham hiểm Lữ Đầu trong truyện bị ám khí của ma giáo gây thương tích đầy mình, cầu cứu kiếm khách, kiếm khách sau khi kéo hắn tới bên vách núi, hắn còn muốn đẩy kiếm khách xuống núi, ngay sau đó liền bị vị kiếm khách này một chưởng kình phong đánh rơi xuống dưới. Cách này với cách chết của Mã Liêm có phải hơi giống nhau không? Trương huynh, đầu óc huynh nhạy bén, biết phá án, huynh xem việc này không phải quá trùng hợp rồi sao?”

Trương Bình suy nghĩ giây lát, thận trọng nói: “Chứng cứ không đủ.”

Cao Dương Quý thấp giọng nói: “Theo tôi thấy, có khả năng không phải Phong Nhược Kỳ làm đâu. Mã Liêm, hừ, chết rất kỳ quặc. Theo những gì tôi biết, vì để đậu kỳ thi này mà hắn đã sử dụng tà môn ma đạo. Các người chưa nghe qua việc thỉnh linh phù à?”

Vương Nghiên trở về Hình bộ, thư lệnh nghênh đón y, hỏi chuyến đi này có kết quả gì hay không.

Vương Nghiên nói: “Có.”

Y có hơi phiền não, trước mắt xem ra vụ án này nghi phạm lớn nhất chính là Phong Nhược Kỳ. Vốn Vương Nghiên muốn tìm chứng cứ chứng minh y vô tội, nhưng sau khi nghe lời phân trần của y, càng nghe càng thấy đáng ngờ. Lời nói của Phong Nhược Kỳ úp úp mở mở, còn đem thầy của y là Cung Tụng Minh ra để chứng minh bản thân không có khả năng giết Mã Liêm. Đến hoàng thượng và Hoài vương đều lôi ra cả, ý muốn chứng minh rằng, y sẽ không đố kị việc Mã Liêm nương nhờ Vân thái phó mà sau này có khả năng sẽ vượt qua y trên con đường quan lộ. Y liều mạng rửa sạch nghi ngờ thế này, càng rửa lại càng thêm đáng nghi.

Hơn nữa, thầy y là Cung Tụng Minh, trong Lễ bộ có đồng môn của y, tất nhiên có cơ hội để nhét tờ giấy kia lên cửa của Lễ bộ.

Thư lệnh nói: “Vừa nãy có một vụ án được trình báo, Thượng thư đại nhân đích thân nhận vụ này, là nhà của Liễu Viễn Liễu đại nhân xảy ra một chuyện rất cổ quái.”

Trong đầu Vương Nghiên chỉ toàn nghĩ về vụ án này, nên thuận miệng ừm một tiếng.

Thư lệnh nhìn quanh, thấp giọng nói: “Vụ này có thể nói đích thực là do ma quỷ gây nên. Mấy ngày trước Liễu đại nhân có một ống bút, nói là mua được ở chợ ma, sau khi đem về nhà thì liên tục xuất hiện những chuyện kỳ lạ. Sáng sớm hôm nay, cái ống bút đó tự nhiên lại biến thành một đống tro cốt…”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 18


Vương Nghiên nói: “Cái gì mà ma quỷ lộng hành, chắc chắn là có kẻ giả thần giả quỷ.”

Mặt mũi Kiều thư lệnh cứng đờ lại: “Nhưng mà đại nhân ơi, nghe nói ống bút đó bị khoá lại trong một căn phòng trống, cửa sổ của phòng cũng bị khoá chặt lại rồi! Là phòng kín đó! Nếu như có người giả ma giả quỷ, vậy làm sao người đó làm được chứ ạ?”

Vương Nghiên cười giễu cợt: “Kín cái khỉ gì phòng đó! Người ta đã vào đổi ống bút thành tro cốt mà còn gọi là phòng kín à? Thủ thuật che mắt này không cần phải hiểu đâu, chỉ cần biết tại sao hắn phải làm như thế thôi.”

Kiều thư lệnh nói: “Đại nhân nói đúng quá, tại sao kẻ đó phải làm như thế nhỉ?”

Vương Nghiên đáp: “Chắc tám chín phần là có kẻ muốn mượn vụ án năm xưa của Trần Tử Thương để gây sóng gió. Không biết Thượng thư đại nhân sẽ điều tra thế nào đây.”

Kiều thư lệnh chợt thức tỉnh: “Điều này… hạ quan cũng không biết nữa…”

Vương Nghiên cười, Kiều thư lệnh vốn là cái loa phóng thanh của Đào Châu Phong. E rằng Đào Châu Phong cũng không có ý tưởng gì với vụ án này nên mới phái Kiều thư lệnh đến thăm dò ý tứ như vậy.

Quả nhiên đến trưa Đào Châu Phong gọi Vương Nghiên đến, nói bên Đại lý tự đang có một vụ án lớn, cần tam ti bao gồm Đại lý tự, Hình bộ và Ngự sử đài cùng thẩm tra, Đào Châu Phong đang vướng phải vụ đó nên không có thời gian để điều tra vụ bên nhà Liễu Viễn, bèn chuyển sang cho Vương Nghiên.

Vương Nghiên vui vẻ tiếp nhận, nói với Đào Châu Phong: “Trong tay hạ quan vẫn còn vụ án Mã tiến sĩ bị giết chết, có thể trong lúc điều tra sẽ hơi thất lễ hay vội vã, hy vọng Liễu đại nhân sẽ không trách Vương mỗ đường đột.”

Đào Châu Phong nói: “Cứ yên tâm, tính tình Liễu Viễn đại nhân rất tốt, nếu ngươi điều tra ra sớm, ông ấy sẽ càng thêm an tâm. Tác phong như vũ bão này chính là điểm mạnh của ngươi, nên cố gắng mà phát huy.”

Vương Nghiên đáp: “Đa tạ đại nhân khen ngợi, hạ quan nhất định sẽ phát huy hết mình.”

Vừa mới ra khỏi Vụ chính điện, Vương Nghiên lập tức căn dặn thuộc hạ: “Nói Tất bộ đầu dẫn người đến Liễu phủ một chuyến, đem cái ống bút biến thành tro cốt kia về đây, giải hết tất cả những hạ nhân làm chưa tới bảy năm trong Liễu phủ về Hình bộ. Rồi sai người đến Lễ bộ, chỉ cần nói bản bộ viện cần gấp rồi mang hồ sơ của Mã Liêm và Trần Trù về đây!”

Bên này các sai dịch của Hình bộ chạy về hướng Liễu phủ, bên kia Kiều thư lệnh đến Lễ bộ lấy hồ sơ.

Đích thân Lan Giác lấy hồ sơ đưa cho Kiều thư lệnh. Vương Nghiên chỉ lấy hồ sơ của Mã Liêm và Trần Trù, Lan Giác có thể đoán ra, quả nhiên Vương Nghiên muốn điều tra xem việc Mã Liêm bị giết có liên quan gì đến vụ án Trần Tử Thương sáu năm về trước hay không.

Sáu năm trước Trần Tử Thương bị án oan, kẻ đầu sỏ gây nên là Mã Hồng. Sáu năm sau, Mã Liêm bị giết, trong số nghi phạm có kẻ gọi Trần Trù.

Đều là hai cái họ Mã và Trần này, nếu như chỉ là trùng hợp thì thật khiến người ta phải sinh nghi.

Chỉ là Lan Giác ngầm thấy có chút kỳ quặc. Nếu như Liễu Viễn không đồng ý, Đào Châu Phong sẽ không chuyển vụ án này lại cho Vương Nghiên. Triệu doãn kinh thành Phùng Thai và Đại lý tự khanh Đặng Tự đều có giao tình với nhà họ Liễu, cũng có sở trường phá án, đặc biệt là Đặng Tự. Chỉ là chuyện ống bút quỷ cũng không phải to tát gì, tại sao Liễu Viễn lại đưa vụ này đến Hình bộ, để Vương Nghiên điều tra đây?

Sai dịch áp giải đám người làm Liễu phủ thành một hàng dài đông như kiến bò về Hình bộ, thu hút rất nhiều ánh nhìn của những người đi đường. Đám đông ríu rít bàn luận: “Vương Thị lang không hổ danh là công tử của Thái sư, nhà học có nguồn, bắt phạm nhân y như thân phụ y đi chiêu binh, bắt một lần là bắt cả đàn!”

Đám Trương Bình ngồi chồm hổm trong đại lao, chỉ thấy đám sai dịch giải một đám người đông nghìn nghịt đi vào, chia ra giam ở các phòng khác nhau. Trần Trù kinh ngạc nói: “Ôi mẹ ơi, vụ án nào thế này mà có nhiều nghi phạm thế?”

Có vài người bị giam ở phòng sát vách họ. Trần Trù sáp lại gần bắt chuyện với mấy người đó: “Các vị sao lại bị bắt? Dính phải vụ án nào vậy?”

Một người trong đám ỉu xìu đáp: “Chúng tôi là nô bộc trong nhà của Thị lang Lại bộ Liễu đại nhân. Lão gia nhà chúng tôi mấy hôm trước có mua về một cái ống bút, thấy nhát ma mãi. Lão gia Hình bộ nghi ngờ là do chúng tôi giả quỷ nên bắt chúng tôi nhốt vào đây.”

Tinh thần của Trần Trù nhất thời phấn chấn lên: “Ống bút thì làm sao có thể nhát ma?”

Người đó nhìn quanh rồi khẽ nói: “Chuyện này chúng tôi cũng không rõ. Nhưng nghe nói, lão gia nhà chúng tôi năm xưa phán sai án, khiến một thư sinh bị chết uổng mạng. Ống bút này chính là tro cốt của y. Oan hồn của y trở về báo thù đấy…”

Mấy vị thư sinh cứ ngó chằm chằm về bên đó, Trương Bình cũng từ bát cháo ngước đầu lên, Trần Trù lấy làm lạ hỏi: “Chẳng lẽ là nói vụ án của Trần Tử Thương sao?”

Hạ nhân của Liễu phủ vào thiên lao không bao lâu, kiệu của Lại bộ Thị lang Liễu Viễn cũng dừng trước cửa Hình bộ.

“Vương thị lang, ngài hành sự như sấm vang chớp giật vậy, thật khiến ta khâm phục, nhưng bắt nhiều hạ nhân của tệ phủ vào thiên lao như vậy, có phải là có chút không thoả đáng không?”

Vương Nghiên bỏ hồ sơ trong tay xuống: “Vô cùng thoả đáng. Tôi nghi ngờ vụ án này có liên quan đến vụ án Trần Tử Thương sáu năm trước, hơn nữa một vụ án khác trong tay tôi cũng có chút liên quan. Để phá được vụ án sớm, bắt buộc phải đẩy nhanh một chút. Vừa hay Liễu đại nhân đích thân đến đây. Tôi đang định đến bái kiến Liễu đại nhân, có điều quan trọng muốn hỏi… Liễu đại nhân đã có được ống bút đó bằng cách nào?”

Liễu đại nhân thở dài một tiếng: “Quả thực là do vô tình… Mấy ngày trước, vì công vụ nên tôi đã đi đến chợ ma một chuyến…”

Hiện nay thánh thượng vừa mới đích thân chấp chính, cần phải chỉnh đốn lại triều chính. Triều đình nhận được bẩm báo, có một số quan chức nhận của hối lộ, trong phủ chất đống không hết bao nhiêu là báu vật quý giá, rồi lén lút đem bán.

Bên ngoài Kinh Thành có chợ ma, vốn do con cháu của những gia đình giàu có lụn bại đem mấy đồ trong nhà ra bán, nhưng vì muốn giữ thể diện nên chờ cho đêm tối xuống mới bày sạp bán trong chợ. Trên sạp chỉ có một ngọn đèn dầu chiếu sáng, người mua không nhìn thấy rõ mặt người bán. Về sau chợ tập trung kiểu này dần dần được hình thành, trở thành chợ đen mặc định, thường thì bắt đầu từ canh ba canh tư, đến canh năm trời gần sáng thì dọn hàng.

Ngự sử đài nghe được tin đồn, chợ đen này đã trở thành nơi chủ yếu để các quan viên tẩu tán của hối lộ, sau lưng có hẳn một thế lực điều khiển. Liễu Viễn cùng với hai vị quan thuộc Ngự sử đài, Đại lý tự bèn cải trang thành thường dân, đến chợ ma lượn một vòng, thám thính tình hình.

Để cải trang cho giống, ba vị quan đều mua mấy thứ rẻ tiền ở sạp nào đó. Liễu Viễn tiện tay mua được ống bút này.

Vương Nghiên hỏi: “Liễu đại nhân có nhớ tướng mạo của kẻ đã bán ống bút cho ngài không? Tại sao lại cứ phải chọn ống bút này?”

Liễu Viễn miễn cưỡng nói: “Chủ sạp ở chợ ma, tất thảy đều không nhìn thấy rõ mặt. Nghe giọng thì là đàn ông đã trưởng thành. Vốn bình thường ta thích sưu tập văn phòng tứ bảo, lúc đó lại nghe hắn đang rao thế là đi xem.”

Vương Nghiên nhíu mày: “Trên sạp có những thứ gì?”

Liễu Viễn nói: “Bút, giá bút, nghiên mực, quạt… dưới ánh nến rất khó phân biệt đồ tốt đồ xấu. Chỉ có ống bút đó là làm bằng sứ, cũng còn nguyên vẹn, giá lại không cao cho nên ta liền mua nó.”

Vương Nghiên nói: “Lúc nào thì Liễu đại nhân phát hiện ra ống bút đó bất thường?”

Liễu Viễn nói: “Ống bút mà ta mua rõ ràng trên mặt có hình sơn thuỷ, sau khi về nhà thì liền biến thành ống bút sứ trắng, còn có một lằn nứt.”

Lúc đó Liễu Viễn trả tiền, chủ sạp lấy một mảnh vải màu đen bọc cái ống bút lại cho ông, sau khi về nhà, Liễu Viễn mở bọc ra thì nó đã trở thành như vậy.

Vương Nghiên nhướn mày: “Lằn nứt đó, Liễu đại nhân cảm thấy giống cái gì?”

Liễu Viễn nói: “Hình dáng hơi giống cành cây.”

Sau khi nhìn thấy ống bút sứ trắng đó, Liễn Viễn không khỏi nhớ lại vụ án Trần Tử Thương năm xưa. Mẫu thân của Trần Tử Thương đập đầu chết trước Hình bộ, vậy mà ống bút sứ trắng chứa tro cốt của Trần Tử Thương trong ngực bà ta lại không bị vỡ, lăn dưới đất, tro cốt rơi vãi ra đất. Ống bút và tro cốt thấm máu bà Trần. Mỗi ngày Liễu Viễn đều mơ thấy ác mộng, luôn mơ thấy cảnh này, mồ hôi lạnh đầm đìa.

Nhưng trước mặt Vương Nghiên, ông hoàn toàn không nhắc đến chuyện này, chỉ nói phu nhân ông cảm thấy chuyện này có chút không lành, đàn bà trong nhà không hiểu biết nên đã đem ống bút đó vào Phật đường.

Vương Nghiên lại hỏi: “Phật đường đó, bình thường thì ai có thể vào?”

Liễu Viễn đáp: “Phật đường nằm trong nội viện, chỉ có nữ quyến có thể vào trong nội viện. Xưa nay việc thắp nhang bên trong cũng do phu nhân làm, rồi một hai a hoàn hầu cận phụ trách quét dọn.”

Vào đêm thứ hai sau khi ống bút này được đặt trong Phật đường, hai a hoàn vừa khóc vừa nói với Liễu đại nhân, trong Phật đường có ánh lửa. Bọn họ nhìn qua cửa sổ thấy có bóng dáng của một người đàn ông, còn nghe thấy tiếng than thở của hắn ta nữa.

Liễu Viễn đích thân dẫn gia đinh vào trong Phật đường xem xét. Trong Phật đường không có bất kỳ dấu tích nào cả, cũng chẳng có mùi hương của nến vừa mới thắp.

Liễu Viễn bèn nói đây là chuyện bịa đặt vô căn cứ, rồi dạy bảo đám a hoàn một trận. Ai ngờ một ngày nọ, Liễu phu nhân đang ngồi tụng kinh trong Phật đường thì nghe thấy tiếng thở than của một người đàn ông. Liễu phu nhân bị doạ đến nỗi ngồi bệt dưới đất, sau đó lại nghe thấy tiếng thở dài của một bà lão. Liễu phu nhân mời cao tăng của chùa đến đọc kinh chiêu độ, còn thỉnh cả bùa trấn áp, khoá kín phật đường lại. Cho đến sáng hôm nay, ống bút đột nhiên lại biến thành tro cốt.

Đống tro đem từ Liễu phủ về, Vương Nghiên đã sai bên pháp y kiểm tra qua, quả thực là tro cốt.

Vương Nghiên đóng hồ sơ lại, nhìn Liễu Viễn nói: “Liễu đại nhân, bước đầu Vương mỗ đoán có lẽ việc này có liên quan đến vụ án Trần Tử Thương sáu năm trước. Chuyện kỳ quái xảy ra ở trong phủ là do có kẻ giả thần doạ quỷ, nhưng hung thủ không hề tổn thương Liễu đại nhân hay bất kỳ ai khác, vẫn chưa rõ còn có dụng ý nào khác không, cho nên tôi mới bắt hết tất cả những người làm nhập phủ trong suốt vụ án của Trần Tử Thương của quý phủ giải đến Hình bộ. Mong Liễu đại nhân suy nghĩ thật kỹ, từ vụ án Trần Tử Thương đến giờ này phút này, ngoài việc ống bút nhát ma nhát quỷ ra, trong phủ có người nào đáng ngờ, có chuyện nào kỳ quái hay không?”

Liễu Viễn nói: “Sau vụ án mấy năm trước đó, Liễu mỗ nhận lỗi từ quan, nhưng nhờ thánh thượng không vứt bỏ lại trọng dụng lần nữa. Mọi việc trong nhà đều do phu nhân và quản gia lo liệu. Việc mà Vương đại nhân vừa hỏi, Liễu mỗ phải trở về phủ kiểm tra mới có thể trả lời.” Ông đứng dậy chắp tay nói: “Nhưng Vương đại nhân suy nghĩ nhạy bén, hành động nhanh gọn, Liễu mỗ bái phục vô cùng. Vụ này phải trông cậy vào Vương đại nhân rồi.”

Đám thuộc hạ của Liễu phủ bị bắt nhốt vào đại lao nhưng lại không thấy thẩm vấn tra hỏi gì. Trần Trù thở dài nói: “Xem ra sở thích của Vương thị lang là bắt người bỏ tù đứng ngắm cho vui nhỉ.”

Đang ngồi oán trách thì vài cai ngục vây quanh một vị quan mặc áo màu xanh lam đi đến trước ngục bọn họ, mở cửa phòng giam ra.

Trần Trù còn nhớ vị quan này là Khổng lang trung.

Khổng lang trung giơ một mảnh giấy lên đọc: “Cao Dương Quý, Củng Tần Châu, Trương Bình, Thị lang đại nhân có lệnh, các ngươi có thể ra khỏi đây rồi.”

Vài thư sinh vẫn còn ngơ ngác, Trần Trù bật dậy từ đệm cỏ: “Vậy còn tôi? Tôi, Trương huynh, Lữ huynh, tại sao lại không được thả ra?”

Khổng lang trung mặt không biểu tình nói: “Mấy người các ngươi không thể đi được tất nhiên là có nguyên do rồi.” Rồi xua tay với đám Trương Bình nói: “Mau đi đi.”

Trương Bình bò dậy, Trần Trù nắm góc áo hắn mặt đẫm nước mắt: “Trương huynh, lần trước là huynh, lần này là tôi. Sau khi huynh ra khỏi đây rồi, nhớ giúp tôi tra rõ vụ án này nhé, ngàn vạn lần đừng bỏ rơi tôi! Vương Thị lang thả Củng Tần Châu ra, thế mà không thả bọn tôi đi, tôi thấy không thể trông cậy vào Hình bộ được rồi!”

Mặt Khổng lang trung đen xì, chỉ giả vờ không nghe thấy gì, không thèm chấp nhất với y. Củng Tần Châu cười nói: “Thị lang đại nhân thấu rõ mọi việc, trong đầu tất nhiên hiểu rõ hơn Trần huynh, biết Củng mỗ đây vô tội. Tôi cáo từ trước đây, Trần huynh cũng bảo trọng nhé!”. Gã vỗ vỗ vai Trần Trù, nghênh ngang mà đi.

Trương Bình trấn an Trần Trù vài câu, sau đó đi ra khỏi đại lao.

Thời tiết nóng ẩm, Trương Bình bị nhốt trong đại lao lâu ngày, từ lâu cả người hôi không chịu được. Đám ruồi nhặng ngoài đường buông uế vật trên tường đồng loạt bu sang hắn.

Trương Bình vòng qua cửa chính của Hình bộ, lưỡng lự một hồi, nhớ lại những lời mà đám hạ nhân Liễu phủ đã nói trong nhà lao.

“Lão gia chúng tôi có thể không sợ sao, năm đó mẹ của người chết oan Trần Tử Thương đập đầu chết ngay trước cửa Hình bộ, kiệu của đại nhân chúng tôi cũng vừa đến nơi. Lúc đó thiệt là thảm làm sao, chính mắt tôi nhìn thấy… Người phụ nữ đó lúc chết vẫn còn ôm tro cốt của con trai mình, đựng trong một cái ống bút sứ màu trắng, giống y như đúc cái lão gia mua về nhà. Nó lăn vào trong vũng máu, tro cốt hoà trộn vào máu… Lúc đó chân của tôi mềm nhũn, lão gia mãi cũng không bước ra khỏi kiệu được…”

Trương Bình vừa ra khỏi thiên lao, Trần Trù, Lữ Trọng Hoà, Hàn Duy Quyển liền bị Vương Nghiên gọi đi thẩm vấn.

Bổ khoái dẫn ba người đến một căn phòng yên tĩnh, lại mang ghế cho họ ngồi, còn đem lên ba tách trà.

Ba người Trần Trù lo sợ ngồi xuống, Vương Nghiên ngồi ở ghế đầu sau bàn, vẻ mặt ôn hoà nhìn bọn họ.

“Bản bộ viện đã xem qua lời khai của các ngươi, có một việc mãi vẫn không hiểu. Ba người các ngươi thi rớt, đi uống rượu giải sầu, nhưng sao lại chọn nơi nằm cạnh bên cái hồ mà sĩ tử Trần Tử Thương hàm oan tự vẫn sáu năm về trước?”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 19


Trương Bình trở về nhà, sau khi tắm rửa sạch sẽ liền đánh một giấc thật đẫy cho đã người.

Sáng ngày hôm sau, hắn đi đến bờ hồ thành Nam, hồ này năm xưa gọi là hồ Thu Đường. Sáu năm trước, sau khi Trần Tử Thương nhảy xuống hồ tự vẫn, người ta bèn đổi tên gọi nó là hồ Tích Tài. Cạnh hồ còn có từ đường tiến sĩ Trần. Triều đình truy tặng thân phận tiến sĩ cho Trần Tử Thương, lập cả từ đường thờ cúng.

Bậc thềm dẫn vào từ đường bóng loáng, miếng đồng đính ở ngưỡng cửa được mài sáng bóng. Trong từ đường hương nhang vấn vít, trên cao là bức tượng Trần Tử Thương mặc áo quan đội mũ tiến sĩ, tay cầm quyển sách, thần thái tường hoà.

Trên bức tường bên hông có gắn hai phiến đá, trên một phiến có khắc minh văn, viết Trần Tử Thương tài tử Giang Tây, có tài kinh thế, không may bị tiểu nhân nịnh thần hãm hại, triều đình đau đớn mất đi một anh tài, xem ra thế gian không thể có được nhân tài như thế này rồi…

Người viết bài minh văn này chính là thừa tướng năm đó, cũng chính là Thái phó Vân Đường ngày nay.

Còn khắc trên mặt phiến đá kia chính là bài “Mai phú” đã khiến Trần Tử Thương mắc hoạ năm nào.

Dưới bức tượng có một cái bàn, sau bàn có một lão đạo sĩ đang ngồi. Trước mặt ông bày đầy các thứ như hương nến giấy vàng, mắt lim dim gật gà gật gù. Trương Bình nhìn bức tượng rồi tới hai phiến đá, hồi lâu mới bước đến trước bàn: “Đạo trưởng, thỉnh hương.”

Đạo sĩ hé mí mắt: “Có loại hai mươi văn một bó, loại mười tám văn một bó, loại mười văn một bó, muốn loại nào?”

Trương Bình móc từ trong tay áo ra mấy đồng: “Mua lẻ, chỉ thỉnh ba cây.”

Lão đạo sĩ lấy ra ba cây nhang: “Sáu văn.”

Trương Bình nhìn qua mấy loại nhang kia nói: “Đạo trưởng, loại rẻ nhất chỉ có mười lăm văn một bó, sao lại lấy loại đắt tiền nhất cho học sinh, rồi ba cây những sáu văn?”

Lão đạo sĩ sốt ruột nói: “Hương bán lẻ chỉ có loại này, giá tiền này. Ngươi là học trò, tốt xấu gì cũng mặc trường bào, sao đến mua hương mà cũng trả giá thế hả?”

Trương Bình chắp tay bói: “Học trò gia cảnh nghèo khó, mong đạo trưởng thương cảm.”

Lão đạo sĩ xua xua tay: “Được rồi, được rồi.” Rồi từ chỗ hương rẻ tiền nhất móc ra ba cây, ném lên bàn: “Ba văn tiền. Không thể giảm được nữa.”

Trương Bình cầm mấy cây nhang trong tay, mắt lại liếc về hai loại nhang kia, vẻ mặt do dự.

“Học trò vốn đến để thắp hương, chẳng phải nên chọn loại tốt hơn hay sao, cũng là để tỏ chút lòng thành?”

Rồi lại rờ rờ bó mười tám văn tiền, cuối cùng để sáu văn tiền xuống bàn: “Học trò vẫn nên chọn loại tốt nhất thì hơn.”

Lão đạo sĩ nhướn nhướn mí mắt, nhặt lấy sáu văn tiền. Trương Bình lấy ba nén nhang, đốt nhang, khom lưng trước pho tượng của Trần Tử Thương lạy vài cái, cắm nhang vào lư hương để trên bàn. Hắn lại bước đến trước bàn của lão đạo sĩ nói: “Đạo trưởng, không biết trong từ đường có chuẩn bị sẵn bút mực không? Học trò muốn làm một bài thơ để bày tỏ lòng thương tiếc.”

Lão đạo sĩ hất ống tay áo: “Từ đường không được viết chữ lên tường, muốn làm thơ thì về nhà mà làm.”

Trương Bình vẫn không chịu bỏ cuộc: “Các chùa cổ đều cho phép đề câu tưởng niệm mà, sao chỗ này lại không được, đạo trưởng không thấu tình đạt lý cho lắm đấy.”

Lão đạo sĩ cười lạnh nhạt: “Ngươi muốn nói đạo lý thì đi nói với triều đình ấy, lão đạo đây chỉ là kẻ trông coi từ đường thôi. Ngươi xem tường vách trong ngoài từ đường, có sạch sẽ hay không? Hễ khi có kẻ viết trộm, bần đạo đều phải sơn lại. Không cho ngươi viết chính là không muốn ngươi phí công vô sức.”

Trương Bình lặng lẽ rời đi, đến bên bức tường, từ ống tay áo móc ra một tờ giấy, để lên trên phiến đá trên tường, rồi lại móc ra một thỏi mực.

Lão đạo sĩ nhỏm người dậy: “Ê! Làm cái gì thế?”

Trương Bình nghiêm túc nói: “Học trò chỉ muốn phỏng lại bài tế của Vân thái phó và bài phú này mang về nhà để tham khảo thôi.”

Lão đạo sĩ hụt chân nói: “Bần đạo ở đây trông coi từ đường này đã mấy năm mà chưa gặp người nào lì lợm như ngươi. Mười văn tiền, phỏng xong rồi thì lượn.”

Trương Bình chần chừ hỏi: “Tám văn được không? Học trò gia cảnh nghèo khó.”

Trương Bình đem hai bản sao chép rời khỏi từ đường, đi một vòng quanh hồ. Chùa chiền bên hồ vốn đã được sửa xây thành từ đường, ở một góc khác của hồ lại xây một tiểu đình viện khác, đặt tên là đình Tu Đạo. Đêm Mã Liêm bị giết, ba người Trần Trù, Hàn Duy Quyển và Lữ Trọng Hoà đã ở đình viện này uống rượu.

Trương Bình đi đến cạnh đình thì nhìn thấy một người chắp tay đứng bên trong, trên bàn đá cạnh bên có đặt một cái sa lậu (Dụng cụ lọc nước bằng cát, cho nước nhỏ từng giọt qua cát). Y cũng liếc mắt thấy Trương Bình, bất giác nhíu mày lại.

Trương Bình hành lễ với y: “Thị lang đại nhân.”

Vương Nghiên nheo mắt nhìn hắn: “Ngươi muốn rửa tội cho Trần Trù?”

Trương Bình đáp: “Học trò chỉ là đi lung tung.”

Vương Nghiên hừ một tiếng, không đoái hoài đến hắn nữa. Từ đằng xa một bộ khoái thở hồng hộc chạy đến đình tự, quỳ xuống bên đình, thở hổn hển.

Vương Nghiên trầm ngâm nhìn cái đồng hồ cát trên bàn.

Trương Bình nói: “Thị lang đại nhân, từ ngõ Tiểu Hao Tử chỗ học trò và Trần Trù ở đến hồ này, nếu không cưỡi ngựa, ít nhất cũng chừng bốn mươi lăm phút. Từ ngõ Trúc Âm chỗ Mã Liêm ở đến đây cũng phải một canh giờ, giả sử nếu cưỡi ngựa thì có thể giảm ít nhất được phân nửa thời gian.”

Vương Nghiên lạnh lùng nói: “Cút.”

Trương Bình rời khỏi bờ hồ, trở về nhà. Hắn làm một nồi mì xào, gửi đến cho Trần Trù.

Trần Trù khóc lóc kể lể với hắn, hôm qua bị Vương Thị lang gọi lên thẩm vấn một hồi. Vương Nghiên chất vấn bọn họ, hỏi tại sao lại đến hồ chỗ Trần Tử Thương tự sát mà uống rượu.

Trần Trù vừa khóc vừa nói, không phải đi đến đó uống rượu sẽ càng phù hợp với tâm trạng lúc bấy giờ sao. Trước khi thi cử sợ dính phải vận xui nên không dám lại gần cái hồ đó. Sau khi thi xong đến đó uống rượu, không ngờ vẫn bị vạ ập đầu.

Hàn Duy Quyển và Lữ Trọng Hoà đều cầm tô mì thút thít than thở.

Sau khi ra khỏi đại lao, Trương Bình đi đến sân ngoài trường thi hôm đó. Hắn quanh quẩn một hồi, vài sai dịch giữ cửa nói với hắn: “Những người không có nhiệm vụ không được lại gần, đi mau.”

Trương Bình đáp: “Học trò chỉ muốn vào trong xem một lát, các vị có thể giúp đỡ được không?”

Sai dịch nói: “Vì có mấy kẻ như ngươi mà bọn ta ngày ngày phải đứng đây gác cửa, trời tối cũng không được về nhà! Có nhìn trường thi mười lần thì rớt vẫn cứ là rớt, ba năm sau lại đến đi!”

Trương Bình bị xua đuổi qua một bên, tiếp tục lượn lờ ở đường đối diện. Qua một hồi sau thì nhìn thấy một cỗ kiệu màn xanh từ bên trong đi ra, một người mặc phục sức tiểu lại bước lên kiệu, cỗ kiệu lắc lư đi về phía Bắc thành.

Trương Bình ngồi xuống sạp mì vằn thắn bên đường, một mặt gọi tô vằn thắn, một mặt hỏi chủ sạp: “Không biết vị đại nhân nào vừa mới rời khỏi?”

Chủ sạp cười nói: “Nhìn huynh đài có tướng công tử đọc sách, ở Kinh Thành lâu như thế đến quan phục cũng nhận không ra ư? Vị vừa rời đi chính là Chưởng lại Tôn đại nhân của thí viện. Mặc dù không tính là quan nhưng một vị Huyện thái gia thực sự cũng không bì được ngài ấy.”

Trương Bình nói: “Vị đại nhân này xem ra cũng không dễ gặp mặt.”

Chủ sạp soi xét hắn, nói: “Mấy kẻ bình thường thì khó đấy. Vị Tôn đại nhân này có một vị thúc phụ làm quản gia ở nhà Lễ bộ Lan Thị lang, mấy kẻ mặt mũi tầm thường hắn không nhận.”

Trương Bình gật đầu, cúi đầu im lặng ăn vằn thắn.

Lúc trời vừa sập tối, Lan Giác từ nha môn trở về nhà, kiệu vừa đến cửa phủ, tiểu tư đã đến kiệu nói: “Lão gia, cái tên nghèo kiết xác lần trước tặng bánh chưng lại đến rồi, có muốn đuổi hắn đi không ạ?”

Lan Giác thản nhiên nói: “Để hắn vào phủ luôn đi.”

Lan Giác vào trong phủ, thay quan phục rồi mới đến thiên sảnh. Trương Bình ở giữa sảnh, vái chào: “Học trò bái kiến Lan đại nhân.”

Lan Giác khẽ gật đầu, chỉ vào một cái ghế: “Không cần quá câu nệ đâu, ngồi đi.” Sau khi y ngồi xuống ghế đầu, lúc này Trương Bình mới kéo một cái ghế ngồi xuống theo.

Thị tỳ dâng trà lên, Lan Giác nói: “Hôm nay ngươi đến tìm ta, rốt cuộc là có chuyện gì, cứ nói thẳng ra đi.”

Trương Bình cụp mắt nói: “Học trò muốn hỏi Lan đại nhân, vị trí chưởng quỹ trong quý phủ, không biết còn trống hay không nhỉ?”

Lan Giác không nhịn được cười: “Lần trước ngươi không chịu đến, cho nên đã tìm người cho vị trí chưởng quỹ rồi. Trước mắt chỉ còn lại chỗ trong nhà bếp, ngươi làm được không?”

Trương Bình ngước mắt nhìn y: “Học trò biết nấu ăn.”

Lan Giác nhịn cười nói: “Ta biết ngươi biết nấu ăn, nhưng nhà bếp vốn không phải là nơi để người đọc sách bước vào, ta cũng sẽ không làm bẩn người ngươi đâu. Thế này đi, đứa con bướng bỉnh Lan Huy của ta, một ông thầy quản không nổi nó, trước tiên ngươi giúp Ngô Sĩ Hân mấy ngày, ta sẽ sắp xếp việc khác cho ngươi, được không?”

Trương Bình đứng dậy, cúi người đáp: “Tạ ơn Lan đại nhân.”

Lan Giác lại nói: “Nếu như không phải chữ viết và tri thức của ngươi có chút cứng ngắc thì để ngươi dạy Lan Huy cũng không phải là không được. Kỳ thực bất luận là học hành hay làm việc, linh hoạt một chút vẫn tốt hơn.”

Trương Bình cúi đầu đáp: “Học trò cảm tạ Lan đại nhân chỉ dạy.” Giọng điệu vẫn cứ cứng đơ cứng đờ.

Lan Giác cười nhẹ nói: “Ngươi về thu dọn đồ đạc đi, bất cứ lúc nào cũng có thể dọn đến đây.”

Trương Bình trở về nhà, thu dọn hết vật dụng, ngày hôm sau dọn vào Lan phủ ở.

Trước khi Lan Giác đến Ti bộ nha môn đã dặn dò mọi chuyện với tổng quản. Tôn tổng quản mặt mày hoà nhã dẫn hắn đến sương phòng đã chuẩn bị đâu ra đó, còn đem dụng cụ may vá đến đo người hắn, để may quần áo mới.

Tây Tịch tiên sinh Ngô Sĩ Hân, thầy của Lan Huy, lớn hơn Trương Bình ba bốn tuổi, là người miền Nam, trắng nõn trắng nà, tính khí cực kỳ tốt. Y dạy Lan Huy vốn cũng chẳng có việc gì nhiều, cho nên chỉ để Trương Bình giúp y sửa bài tập của Lan Huy.

Ngô Sĩ Hân dẫn Trương Bình đến gặp Lan Huy. Cha con Lan thị ngoại hình đều vô cùng hút mắt, nhưng Lan Huy không giống Lan Giác cho lắm, ngược lại có chút giống với Liễu Đồng Ỷ, người Trương Bình có duyên gặp mặt qua một lần. Lan Huy đánh giá Trương Bình một lát, chán ngán tiếp tục vùi đầu dán mắt vào quyển sách. Ngô Sĩ Hân giảng bài cho nó, nó uể oải lắng nghe, sách trong tay hồi lâu vẫn không lật sang trang mới.

Giảng bài xong một hồi, Ngô Sĩ Hân nhẹ nhàng nói với Trương Bình, Huy thiếu gia mấy ngày trước gặp ma trong Liễu phủ, cho nên gần đây không có tinh thần, trên người thường hay có vết xanh vết tím, quả thật có chút kỳ quái.

Ngô Sĩ Hân đi nhà xí, để Trương Bình trông coi Lan Huy làm bài tập. Lan Huy nằm bò lên giấy viết loạn xạ. Trương Bình nắm lấy bàn tay nó, chỉnh lại tư thế cầm bút cho đúng: “Tập võ cần phải tiến hành theo tuần tự, vội vã mà cầu thành ngược lại dễ bị tẩu hoả nhập ma lắm.”

Tay Lan Huy run một cái, ngẩng phắt đầu lên nhìn hắn: “Sao huynh lại biết?”

Tầm mắt Trương Bình bình thản lướt qua vết xanh lộ ra khỏi tay áo trên cánh tay sưng phù của nó, không trả lời, nhìn hai quầng thâm đen dưới mắt Lan Huy, nói: “Cả đêm luyện nội công, càng không thể được, tinh thần kiệt quệ, bất luận là chuyện gì cũng không thành.”

Lan Huy chớp chớp mắt, nắm chặt lấy tay áo hắn: “Đừng, đừng nói cho cha ta biết…”

Trương Bình xoa xoa đầu nó: “Tạm thời không thức khuya, chém gạch, luyện khinh không.”

Lan Huy lập tức gật đầu.

Buổi tối, Lan Giác trở về phủ, phát hiện không ngờ Lan Huy lại cực kỳ cam tâm tình nguyện để thêm một Trương Bình dạy mình, không khỏi có chút bất ngờ.

Lan Giác dùng xong cơm tối, tắm rửa xong xuôi, đến hậu viện tản bộ, nghe thấy sau giả sơn có tiếng nói lầm rầm, hình như là Tôn tổng quản đang thở dài: “…cảnh ngộ của ngươi thật là tội nghiệp nhưng tế bái trong phủ vạn nhất bị lão gia biết được thì bát cơm của ngươi xem như tiêu rồi. Thôi được, ta có một đứa cháu, làm việc ở thí viện, để ta xem có thể nhờ nó đưa ngươi vào không…”

Một giọng nói khác chứa đầy cảm kích nói: “Đa tạ Tôn thúc”, không ngờ lại là Trương Bình.

Lan Giác im lặng đánh vòng đến tiểu sảnh, sau hai tách trà mới kêu người gọi Trương Bình đến, rồi cho người lui ra, ngậm cười nói: “Bản bộ viện lúc trước nói ngươi cứng ngắc, thế mà lại nhìn nhầm ngươi rồi. Để phá án, ngươi lại đến nhà bản bộ viện để tìm đường đi.”

Trương Bình cụp mí mắt, không lên tiếng.

Hai mắt Lan Giác nhướn lên: “Cái sự linh hoạt khi dụ dỗ Tôn tổng quản của ngươi đâu mất rồi? Nhà ngươi có vị nào muốn đến trường thi bái tế thế hả?”

Trương Bình ủ rũ nói: “Học trò không dám lừa gạt đại nhân, học trò muốn biết hung thủ thật sự giết chết Mã Liêm rốt cuộc là ai nên mới muốn vào trường thi xem xét.”

Lan Giác đặt tách trà xuống: “Vụ án của Mã Liêm tự có Hình bộ đang điều tra. Ngươi không tin Vương Thị lang, muốn tự mình điều tra thì thôi đi. Bản bộ viện có nhớ, Mã Liêm là bị báo thù, có liên quan gì đến trường thi?”

Trương Bình đáp: “Có một việc học trò cảm thấy rất kỳ quái. Ngày đó khi vào trường thi, Mã Liêm rút trúng phòng số mười bốn, còn tranh chấp với quan coi thi. Hắn nói vì phòng thi đó từng có người chết nên cảm thấy không may mắn cho lắm, muốn đổi sang phòng khác. Điều này không giống với cách hành sự bình thường của hắn.”

Theo cách làm người ngày thường của Mã Liêm, gã tuyệt đối không thể nào đắc tội với quan coi thi.

“Học trò cảm thấy, giống như hắn đang muốn báo cho ai biết là mình ở phòng số mười bốn vậy.”

Lan Giác nói: “Ngươi nghi ngờ hắn trước đó đã thông đồng với người khác gian lận? Nếu như hắn thực sự gian lận, chắc chắn đã thông đồng với quan coi thi. Cho rằng không thông đồng đi, người giúp hắn gian lận chắc chắn cũng có khả năng bày trò với số phòng thi của hắn. Hắn hà tất gì phải vẽ thêm chuyện?”

Trương Bình không đáp.

Lan Giác nhấp một ngụm trà, Trương Bình lại nói: “Lúc thi, căn phòng trống đối diện phòng tôi có tiếng người khóc. Đến ngày thứ hai, thí sinh ở phòng ba trăm năm mươi sáu lại phát bệnh động kinh.”

Mặt Lan Giác hiện lên nụ cười: “Ngươi muốn nói rằng, thí sinh đó phát bệnh động kinh là do bị ma nhát ấy hả?”

Trương Bình nói chắc nịch: “Không phải là ma.”

Lan Giác khều khều lá trà: “Cứ cho là vậy đi. Nếu như ngươi thực sự nhàn rỗi đến mức muốn phá án, trước tiên giúp ta một việc. Chuyện Huy nhi gặp phải ma chắc ngươi đã nghe rồi, chính là do cái ống bút quỷ ở nhà Liễu đại nhân quậy phá. Ngày mai, ngươi giúp ta đi Linh Giác tự hỏi trụ trì đại sư, Liễu đại nhân đích thân đến chỗ ông ấy đã thỉnh bùa chú gì, ta cũng muốn thỉnh y chang thế.”

Vương Nghiên ở Ti bộ nha môn xem hồ sơ đến chập tối, thuộc hạ vội vàng đi đến trước mặt bẩm báo: “Thị lang đại nhân, lệnh đệ đến rồi.”

Chỉ nghe ngoài cửa tiếng bước chân lộp cộp, quả nhiên Vương Tuyên vừa cười ha ha vừa nói: “Ca, huynh lại vì công vụ mà đến nhà cũng không chịu về. Đại tẩu còn cho rằng huynh ở ngoài nuôi một tiểu ca kỹ nữa đấy, đặc biệt kêu đệ đến túm huynh về đây.”

Vương Nghiên đóng hồ sơ lại, đứng dậy nhìn Vương Tuyên rảo bước đi đến ngưỡng cửa, ấn ấn vào huyệt thái dương: “Bình thường đệ luôn chê Hình bộ xúi quẩy, sao hôm nay lại đến đây thế?”

Vương Tuyên nói: “Phụng lệnh của mẹ, mẹ hai và đại tẩu, cho dù là nơi xúi quẩy hơn nữa đệ cũng phải đến. Cha có lệnh, tối nay ai cũng phải về nhà ăn cơm, chiều nay đại tẩu đến rồi đấy, mẹ và mẹ hai đích thân xuống bếp hầm canh cho huynh bồi bổ sức khoẻ, mau mau theo đệ về nhà ăn đi.”

Vương Nghiên bất đắc dĩ nói: “Đệ mang một thượng thư bảo kiếm to thế này đến đây, ta làm sao dám không quay về chứ. Nếu như cứ trì hoãn, mẹ cả và mẹ hai há không băm ta ra hầm canh sao.”

Vương Tuyên cười híp mắt nói: “Huynh biết thế là tốt rồi”, xong dắt Vương Nghiên ra khỏi cửa.

Sáng ngày hôm sau Vương Nghiên vừa mới tới nha môn Hình bộ, Tôn lang trung thần sắc nghiêm trọng đi vào Vụ chính điện, chen vào cửa phòng trong, khẽ giọng nói với y: “Thị lang đại nhân, có chuyện rồi. Hai a hoàn của Liễu phủ đã chết trong nhà lao rồi.”
 
CHÚ Ý !!!
Các đạo hữu nhớ thêm TÊN CHƯƠNG và THỨ TỰ CHƯƠNG ở ô phía trên phần trả lời nhanh. Như vậy hệ thống mới tạo được DANH SÁCH CHƯƠNG.
Cập nhật chức năng ĐĂNG TRUYỆN và THÊM CHƯƠNG MỚI trên web Diễn Đàn Truyện tại https://truyen.diendantruyen.com
Top Bottom