Cập nhật mới

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
601,786
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
[Diendantruyen.Com] Săn Đuổi

Săn Đuổi
Tác giả: Gordon Thomas
Tình trạng: Đã hoàn thành




Ông là nhà văn Anh, hiện sống tại Cộng hòa Ai len. Với tư cách là một ký giả, ông đã có mặt trên khắp các nước vùng Trung Đông kể từ cuộc khủng hoảng kênh đào Suye năm 1956. Là một tác giả đã dựa vào thực tế để hình thành hơn 30 tác phẩm của mình, ông đã được nhiều giải thưởng văn chương có giá trị.

Ngay cả người Trung Hoa cũng không biết David Morton đã vào đươc lãnh địa Trung Quốc nữa. Ông ta theo con đường đã có từ một ngàn năm trước - con Đường Mòn của giới Buôn Lậu được hình thành vào cái thời vị Đệ nhất Hoàng Đế dẹp tan lục quốc phân tranh để thống nhất đất nước.

Ông vào nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa từ sáu hôm nay, hiện đang ở một khu rừng nhiệt đới để theo dõi 4 người Ả Rập đã ra khỏi nơi ẩn náu của họ. Cặp núm nghe nhỏ bằng đồng xu nhét vào lỗ tai, đeo vòng qua đầu, ăn thông ra ngoài qua hai lỗ thông hơi trên chiếc nón trận đi rừng của Morton, đã giúp ông theo dõi mấy người Ả Rập nói chuyện với nhau. Xa xôi quá, được về nhà thì hay biết mấy.
 
Sửa lần cuối:

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
601,786
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 1


Người dịch: Văn Hòa - Kim Thùy

Nhà xuất bản: NXB Thanh Niên

Shared by: Ankay -

Ngay cả người Trung Hoa cũng không biết David Morton đã vào được lãnh địa Trung Quốc nữa, Ông ta theo con đường đã có từ một ngàn năm trước, con đường mòn của giới buôn lậu được thành hình vào cái thời vị Đệ nhất Hoàng đế dẹp tan lục quốc phân tranh để thống nhất đất nước.

Ông vào nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa từ sáu hôm nay, hiện đang ở trong một khu rừng nhiệt đới để theo dõi bốn người A Rập đã ra khỏi nơi ẩn náu của họ.

Cặp núm nghe nhỏ bằng đông xu nhét vào lỗ tai, đeo vòng qua dầu, ăn thông ra ngoài qua hai lỗ thông hơi trên chiếc nón trận đi rừng của Morton, đã giúp ông theo dõi mấy người A Rập nói chuyện với nhau, Xa xôi quá, được về nhà thì hay biết mấy.

Hình ảnh của bọn họ đã khiến ông nghĩ đến những con cáo ngoài sa mạc, bồn chồn nôn nóng, mũi khịt khịt đánh hơi, mắt láo liên nhìn quanh.

Thế mà họ lại không thấy được hai đứa bé, Không khí ẩm ướt trong rừng đã làm cho họ ngột ngạt, Cô bé và cậu bé ở dưới làng cách đường mòn một dặm, cũng đang theo dấu vết mấy người A Rập.

Morton đã phát hiện hai đứa bé một lúc rồi, ông thấy chúng luồn qua đám cây rừng ở phía bên phải của ông, Chú bé không quá mười tuổi, còn cô bé thì còn nhỏ hơn, Hai đứa nhóc cùng đi rình rập khách lạ.

Ông tìm hiểu học hỏi về bản chất con người đã từ lâu, Ông biết rõ những qui luật để sống còn trong rừng núi, trong tuyết và trong sa mạc, Phải tập sống đơn giản, chỉ cần những nhu câu tối thiểu cho cơ thể là được.

Ngay cả trong rừng cây cao hàng mấy chục thước, vóc dáng của ông vẫn rất hấp dẫn, cái đầu lớn với mái tóc đẹp đẽ chưa có một sợi bạc.

Người ta phải lấy làm ngạc nhiên khi thấy ông không hề có dấu hiệu nào của tuổi già, Da dè láng mướt không nhăn nheo, thị lực hoàn hảo, cơ thể mảnh mai rắn chắc, Trông ông, không ai nghĩ 'rằng ông đã đến tuổi bốn chín rồi.

Áo quần ông toàn bằng vải ka ki, để dẽ xếp vào va li mang đi khi cần đến, cả mùa hè lẫn mùa đông.

Quân hàm của ông là Trung tá, nhưng ông không mấy khi lưu tâm đến, Ai cần biết mới tìm hiểu mà thôi.

Nét đáng quý này đã hiển hiện nơi chiếc cằm nhô ra của ông, như sẵn sàng đương đầu với mọi thử thách.

Đôi mắt màu xám sắc bén mà bình tĩnh, Chỉ phản ứng lại khi gặp trường hợp có ai không thật lòng với ông hoặc khi ông gặp khó khăn.

Đôi mắt còn toát ra lòng khao khát tìm kiếm sự thật, đôi mắt vừa thăm dò vừa cảnh giác khi nhìn ai, Ông luôn giữ khuôn mặt bình tĩnh trong mọi tình huống, chẳng khác nào loài thú biết cách thay hình đổi dạng, khi nằm bất động để người ta tưởng Tâm là khúc gỗ.

Ba người A Rập trông có vẻ dẻo dai, mặt mày người nào cũng đằng đằng sát khí, Người thứ tư ngồi xổm trên mặt đất trông hắn rắn chắc, đầu hói hết, Hắn tỏ ra không hòa đông với bọn kia, hắn nắm chặt một cái cặp mới láng bóng, Đó là kẻ chủ chốt trong nhóm.

Cả bọn đêu bị ướt mèm vì cơn mưa đầu mùa trút xuống vào buổi chiều, Cơn mưa trút xuống khi ánh nắng mặt trời vẫn tiếp tục chiếu sáng trong vòng một phút, Không khí nặng nề chẳng khác nào một miếng xốp nóng nhúng vào nước đang bốc hơi.

Tiếng sột soạt di động của hai đứa bé vang lên trong máy nghe của ông, Morton nghe chúng thì thào với nhau, Bé gái muốn quay về, Bé trai lại giục :

— Chưa về được, Đến gần tí nữa xem.

— Được rồi, Nhưng đừng gần lắm đấy nhé,Bé gái miễn cưỡng nghe theo lời cậu trai.

Chúng nói giọng Quảng Đông, nhẹ mà the thé, Morton không có cách nào để xua chúng đi được, Chúng làm cho nhóm A Rập này biết được mất, Thật không đáng chút nào hết.

Những máy liên lạc mà ông đã ra lệnh thiết lập ở miên Nam Li Băng đả báo cho ông biết về những người A Rập này, Và qua những cuộc điện đàm bí mật họ gọi đến Bangkok, họ cho biết đã chuyển đi một số tiền lớn khiến cho ông phải nghi ngờ.

Hai triệu đô la Mỹ, Không có ý kiến gì, Ông phải tìm hiểu thứ gì đáng giá như thế, Và phải ngăn chặn ngay,Ông đã kiên nhẫn đi theo mấy người A Rập từ Beirut đến đây, đã cùng họ bày trên chiếc Tristar đến Bangkok, Họ không hề để ý đến ông, không ai để ý hết.

Những người A Rập đã chơi bời thỏa thuê suốt một ngày ở Pattani, họ đi từ nhà thổ này qua nhà thổ khác, tìm cho được các bé trai và gái còn nhỏ tuổi, vì đây là một mốt

ăn chơi hiện hành, Gã mang xách cũng đã mua cái cặp và Morton thấy mình chẳng phí thời giờ chút nào cả.

Những người A Rập đã đến một chi nhánh của Ngân hàng Hoàng gia Thái Lan ở Bangkok, Tối đó họ đáp xe hỏa đi lên phía bắc đến Udon.

Ông vào ngồi trong một buồng gần họ và xuống tàu trước họ, Từ Udon, một hướng dẫn viên người Thái dẫn họ theo đường bộ đến Chiang Rai, thủ đô miền đôi núi của các băng nhóm buôn bán ma túy Châu Á, một nơi xa xôi mà có thể lực như các trung tâm ma túy Medellin ở Columbia vậy.

Morton đi theo họ, giờ thì ông đã biết chắc nơi họ đến rồi, đến Chiang Rai gã dẫn đường người thái chuyển giao người A Rập cho một người Trung Hoa,

Anh này thuộc dân tộc Dao, người thấp, da trắng trẻo, bộ lạc này thuộc dân tộc ít người cua Trung Hoa, từ lâu họ nổi tiếng buôn lậu.

Anh này dẫn mấy người A Rập vào nội địa Trung Hoa, Đoàn người đi nhanh, chỉ vào làng để nghỉ ngơi ăn uống, Dân ở đây sống bằng nghề đốt rẫy làm nương, mọi người đều quen biết anh chàng dẫn đường này, Họ không lạ gì những người khách thường đến để tìm mua hêrôin và côcain.

Tuy nhiên, Morton không bao giờ xuất hiện mà chỉ đợi những người khách ở mép rừng, Ông ăn thực phẩm giàu chất dinh dưỡng đã được đặc chế ở Tel Aviv.

Morton có đủ thức ăn suốt hai tuần lễ, Sau đó, ông sẽ ra khỏi nơi đây, Lúc ấy thì ông đã biết đầy đủ mọi việc rồi, Khi hướng dẫn viền dẫn những người A Rập đến một quãng trống, anh ta cho họ biết họ đã đến nơi.

Một giờ sau, họ vẫn còn ngồi xổm trên mặt đất, Những người A Rập mặc quốc phục Li Băng, còn hướng dẫn viên thì mặc quần ống rộng và áo cài nút cao tận cổ theo phong

tục cổ truyền.

Thỉnh thoảng anh liếc nhìn chiếc cặp, Người xách cặp đặt một bàn tay trên tay xách, Như những người khác, gã hút thuốc liên hồi.

Morton thấy người xách cặp đưa mắt nhìn anh dẫn đường, Tiếng ho của người A Rập chan chát dội vào cặp núm nghe trong tai của Morton, Ông nghe tiếng gã xách cặp hỏi bằng tiếng Anh :

— Còn lâu không ?

— Không lâu nữa đâu , Người dẫn đường trả lời , Họ đi đường xa lắm.

Gã xách cặp càu nhàu rồi châm một điếu thuốc khác, Một tên hộ vệ lôi một khẩu súng nhỏ ra, y làm ra vẻ xem xét khẩu súng rồi lại nhét vào thắt lưng.

— Bọn bất lương , Giọng nói thì thào của bé gái vang lên trong máy nghe của ông , Chúng ta đi thôi.

— Không ! - Bé trai năn nỉ , Mày cứ đi đi, tao ở lại đây.

Morton đoán chắc hai đứa bé ở đâu gân phía trước ông, Mấy tên hô vệ nói chuyện nho nhỏ với nhau bằng tiếng A Râp, không thèm đếm xỉa đến tên dẫn đường.

Một tên nói :

— Khi về khỏi biên giới rồi, chúng ta giết hắn đi.

— Có lẽ hắn có bạn bè đợi ở đấy , tên thứ hai bác lại

- Chúng ta giết hắn ở đây, chẳng ai biết hết.

Tên thứ ba năn nỉ nói :

— Chúng ta cần hắn để dẫn ta ra khỏi đây đã.

Dù cách một đoạn, Morton vẫn nghe giọng nói giận dữ của gã mang chiếc cặp bỗng vang lên :

— Không có chuyện giết chóc, nếu không có lệnh tôi !

Mấy tên hộ vệ bèn im lặng, nhưng vẫn tỏ ra phật ý, Morton không dám cựa quậy khi một đàn kiến bò qua hai bàn tay ông, cả hàng triệu con bò trước mặt ông trong khi ông úp mặt dưới một đống lá ẩm mục.

Ông nhắm mắt lại và cố nghiến chặt răng khi đàn kiến bỗng đổi hướng, Mặc dù ông đã thoa kem chống côn trùng, đàn kiến vẫn bò lên nhau qua đầu của ông, may mà nhờ lớp bông thấm kem chống côn trùng nhét trong mũi đã ngăn được chúng bò vào người ông, Khi đàn kiến đã bò hết, ông mới mở mắt ra.

Lời thì thào năn nỉ của em bé gái lại vang lên trong núm nghe :

— Chúng ta đi thôi.

— Không ! - Chú bé cương quyết đáp lại.

Ông lại nghe tiếng thở dài của bé gái, rồi nghe tiếng di động nhẹ nhàng của chúng luồn lách để đến gần chỗ trống hơn.

Chúng thành thạo biết lợi dụng bóng im và âm thanh của rừng để đến gân hơn mà không bị phát hiện, Bỗng chú bé thở hổn hển, rồi chúng đứng yên lại.

Cả Morton, những người A Rập, người dẫn đường và cả hai đứa bé đều thấy hai người đàn ông xuất hiện ở bên kia quãng trông.

Người dẫn đường vụt đứng dậy, cười khoan khoái, Một người A Rập bước đến bên cạnh gã xách cặp, hai người kia tách xa nhau ra, sắn sàng nhả đạn, Những người mới đến làm ra bộ không nhận ra ý đò của họ.

Morton nhắm họ qua kính nhắm trện khẩu súng trung liên của ông, Người Hán da ngăm đen, áo quần mặc theo kiểu phu phen làm thuê làm mướn của dân miên núi thường mặc để khai hoang làm rẫy.

Ngoài súng máy M.16 trên tay, họ còn đeo dao to bản bên thắt lưng, Mỗi người lại còn đeo trên thắt lưng dụng cự đào hầm.

Người Hán nào đi đâu cũng đều mang theo dụng cụ này, Họ đứng lại một chốc rồi lại đi thụt lùi vào rừng, vẻ lúng túng vụng về, họ lấy súng vạch ra lối đi.

Họ trở lại dẫn theo một người thứ ba, Người này tuổi trung niên, ngực ưỡn ra như vì đã đi từ xa tới, Hắn ta mặc bộ đô màu cháo lòng, tay xách một cái cặp như cặp của người mang túi xách.

So với người Trung Hoa thì hắn cao ráo hơn, Hắn cao gân một mét tám, cơ thể cân đối, mạnh khỏe, Hắn thuộc tầng lớp có thừa mứa cơm thịt.

Loại người được ưu đãi, Hai bàn tay nắm cái cặp chưa bao giờ làm công việc nặng hàng ngày, Mặt hắn trắng ngà, Một người có lẽ chưa bao giờ phải đầm mưa dái nắng.

Hắn nheo mắt lại nhìn những người A Rập, Thế rồi hắn giữ hơi thở bình thường, đi ra quăng trống, hai tay nắm chật chiếc cặp vẻ như chiếc cặp nặng lắm.

Khi hắn nói với người hướng dẫn, Morton nghe những tiếng lẹt xẹt do điện gây ra trong tai, Máy nghe trục trặc rồi, Có lẽ vì nước, Trận mưa bóng mây đã làm cho ông ướt mèm như đã mặc cả áo quần lội vào nước vậy.

Hắn nhìn người hướng dẫn quay qua gã xách cặp, anh ta chỉ vào chiếc cặp, rồi nói :

— Vui lòng mở cặp ra đi...

Morton thấy mắt của gã xách cặp lóe lên ánh hận thù, Ông nghe giọng hắn nói chen với tiếng kêu lẹt xẹt trong máy :

— Tiền cả mà...

— Vui lòng mở ra đi... - Người Trung Hoa tuổi trung niên lặp lại - Za đã nói rồi mà...

Morton rướn người lên, Ông nín thở, thầm rủa cái máy nghe. Tuy nhiên, mặc dù máy phát tồi tệ và tiếng Anh của gã đàn ông sai bét, nhưng ông cũng đã nắm được đầu mối gã Trung Hoa đã nói... Za đây.

Chỉ có một tên có âm cuối như thế làm cho Morton chú ý, Đó là tên Raza.

Trong suốt thời gian chiến tranh Vùng Vịnh xảy ra, Khalil Raza và Abu Nidal đua nhau tranh chức lãnh tụ phong trào khủng bố trên toàn cầu.

Thế rồi, trong một trận kèn cựa khốc liệt để đời, Raza đã giành được vị trí kẻ tàn bạo nhất thế giới, Chuyện xảy ra đã in sâu vào ký ức của Morton.

Raza đã đích thân gài trong một nhà hộ sinh Do Thái ở Jérusalem chất nổ Semtex để sát hại sáu mươi ba trẻ sơ sinh cùng mẹ các cháu, giết luôn ba mươi mốt nữ điều dưỡng và bác sĩ chăm sóc trong nhà hộ sinh.

Một trong số các nhân viên đó có em gái của Morton, đó là Ruth.

Cô ta là người còn sống gợi nhớ đến cả gia đình họ đã bị chết hết trong những năm khắc nghiệt dưới chủ thuyết Stalin khi những phong trào bài trừ người Do Thái xảy ra ở Liên Xô, tương tự như những phong trào đàn áp người Do Thái của Đức quốc xã vây.

Ruth và ông nằm trong số những người Do Thái đầu tiên được phóng thích khi có chính sách thay đổi ở điện Kremli, Khi bay về đến Israel, hai anh em được gia đình Vaughan nhận là con nuôi.

Steve là một học giả chuyên về Luật Do Thái cổ, Dolly thì là một bà mẹ nhân hậu, Nhiều năm sau, Morton mới biết Steve đã thay đổi họ cho hai anh em Morton vì có thế mới ít ai hòng thanh trừng được một người mang họ Morton.

Hai ông bà đêu nhân hậu và dịu hiền, họ biết Morton đã hết sức che chở cho Ruth, Ông đã khích lệ cô khi học ở trung học, rồi lên cao đẳng, lên đại học, ông đã bay qua nửa vòng địa cầu để tham dự lễ tốt nghiệp của em, đã đến thăm bệnh viện hôm nàng bắt đầu làm việc, đi khắp hành lang để xin các nhân viên trong bệnh viện cho phép gặp "Bác sĩ" Ruth.

Sáu tháng sau, ông lại có mặt ở đây khi Ruth dẫn Benjy về nhà chơi, anh ta cũng là một bác sĩ làm cùng bệnh viên với cô, người họ Sabra, trẻ đẹp.

Ruth cho biết hai người sẽ làm lễ kết hôn, và Steve đã rót rượu vang để uống mừng hạnh phúc hai trẻ, Hôm sau, Raza tấn công, Người ta tìm thấy Ruth và Benjy nằm dưới đống đổ nát của bệnh viện.

Khi người ta báo cho ông biết Ruth đã chết, ông thấy tâm trạng của mình giống cái hôm Steve dẩn ông vào thăm Viện bảo tàng hủy diệt, Lúc ấy, ông cũng lặng cả người.

Ông không bao giờ đến xem nữa, Không bao giờ đến xem một nơi nào gợi nhớ lại cảnh sáu triệu người bị hủy diệt nữa, Ông không muốn học lịch sử bằng cách đó.

Hôm làm lễ an táng Ruth thì trời mưa, khiến cho mặt đất trơn trượt, Ông thấy những người khiêng quan tài rất lo âu, họ đã siết chặt tay nhau khi khiêng quan tài.

Họ là bạn bè của Ruth làm trong bệnh viện, ông đã hết sức xúc động vì thấy họ còn trẻ quá và tình cảm của họ dạt dào quá, làm cho những người lớn tuổi phải rơi lê.

Khi ông bước lên để đọc lời cầu nguyên, giọng ông lạnh lùng và khúc chiết, Ông không hề tỏ ra phiên muộn hay giận hờn, Tuy nhiên, khi đất đá phủ kín quan tài, ông biết rằng ông sẽ hết sức cô đơn trống vắng, không có gì khỏa lấp được, Chôn Ruth xong, nhưng đám tang của nàng vẫn mãi mãi nằm trong tâm khảm ông.

Khi Steve và Dolly dẫn những người khác ra về, ông vẫn còn đứng nhìn ngôi mộ mới đắp, chiếc khăn cầu nguyên đè nặng trên vai, cuốn sách nguyện khép lại trong hai bàn tay.

Trong trí ông hiện ra một câu mà Steve đã đọc từ trong Kinh Thánh ra cho hai anh em nghe vào những đêm Thứ Sáu, câu mà ông vẫn còn nhớ mãi.

Câu này do nhà tiên tri EZEKIEI viết : "Kẻ thù sẽ biết ta là chúa tể khi ta giáng trả những đòn chí tử vào chúng".

Ông lẩm bẩm đọc lại câu đó như là muốn thề với Ruth, Thế rồi ông cất khăn nguyện và vội vã bước đi, cố quên những tiếng thì thào xúc động, những lời kết án cứ ấm ức trong lòng, Ông không có thì giờ để phiền muộn trong cái thế giới vời vợi giá buốt của mình nữa.

Steve bước đến sau lưng ông, hỏi ông sẽ hành động như thế nào, Ông nhìn thẳng vào mặt ông già, rồi nhỏ nhẹ cho biết ông sẽ giết chết những kẻ đã sát hại Ruth.

Từ đó ông không gặp hai ông bà già nữa, Ông viện cớ bận bịu công việc, viện cớ này cớ nọ, Ông không muốn nhìn thẳng vào mắt những người cứ tưởng câu trả lời của ông chỉ là lộng ngôn mà thôi.

Ông tiếp tục săn lùng Raza, Ông cho nhân viên tỏa ra hàng chục mạng lưới, Khi ông đọc trên tò báo ở Beirut cho biết rằng Raza đã treo một phần thưởng 100.000 đô la cho ai giết chết hoặc bắt sống được ông, thì ông đáp lại rằng ông chỉ trả cho cái đầu của Raza bằng một đồng Israel mà thôi, đấy là giá mua một viên đạn ở Israel.

Hầu như suốt một năm rồi, Raza đã mất tăm dạng sau hai vụ thất bại đắng cay của hắn, Kế hoạch của hắn là bắn đầu đạn Stinger từ một nhà kho bên này sông Thames vào tòa nhà Quốc hội ở bên kia sông, cùng lúc đó hắn cho nổ một quả bom trong tòa nhà Thị Trưởng Chứng Khoán của Nhà nước Đức mới xây dựng ở Berlin, cả hai vụ đêu bị các lực lượng chống khủng bố phá tan, đông bọn của Raza kẻ thì bị giết kẻ thì bị bắt.

Raza bị những nhóm đỡ đầu A Rập hết tin tưởng, Xét soát toàn bộ thì Raza đã nối bước các bậc tiền bối tiếng tăm của hắn như là gã chó rừng Carlos, như là Abu Nidal, hắn bị rơi vào quên lãng chua cay.

Nay thì cái bóng ma của Raza lại hiện ra trong ánh sáng mờ ảo của khu rừng trống, Hai đứa bé vẫn cãi nhau, Khi Morton đưa tay vặn lại cái máy nghe, thì ông ngửi thấy có mùi khét.

Một cơn sét đã truyền điên vào đày cả hai núm nghe, Mùi khét lẹt tăng thêm, Morton tháo nó ra, Một làn khói mỏng từ hai núm nghe thoát ra, Ông lấy một nám đất để dập tắt luồng khói đi.

Trong quãng rừng trống, gã mang túi xách mở cặp ra, có bọn hộ vệ canh chừng, người Trung Hoa lôi ra những bó đô la Mỹ, hắn đếm rất thành thạo.

Thấy đủ, hắn hài lòng ra mặt rồi trao chiếc cặp của hắn cho tên A Rập, cái cặp vẫn đóng chặt, Gã xách cặp xách cả hai tay để thử xem trọng lượng của cái cặp.

Morton nghĩ rằng hắn làm như thế để xem trọng lượng cái cặp có xứng với hai triệu đô la không, Ông nâng nhẹ khẩu súng lên vai, Khẩu súng ông đã lấy ở chỗ của Phân đội châu Á ,giấu nó đã được bọc một lớp giấy sáp và chôn gần một ngối làng chiến lược ông sẽ qua đó.

Ông chỉnh lại máy nhắm cho hợp với trọng lượng của bô phận giảm thanh gắn trên súng như thói quen ông thường làm.

Trời bắt dầu tắt nắng, Mấy đứa nhóc đâu rồi ? Thôi thì kệ chúng, Bọn ấy đang chia tay nhau, Gã trung niên xách cặp đang đi lui về phía bên kia khu rừng trống, bọn hô vệ bước lui để đề phòng có kẻ bắn sau lưng.

Những tên A Rập và người dẫn đường bước nhanh qua khỏi khu rừng trống theo hướng chéo nhau, tạo thành một hình ,khó đoán cho ra chúng sẽ đi lối nào.

Morton chuyển hướng khẩu súng tự động : chỉ năm giây ông nhả hết cả ổ đạn hai mươi viên cỡ 7.67mm, ba giây sau là ông đã nạp đạn lại rồi.

Thế rồi ông thấy hai đứa bé, Chú bé vùng dậy khỏi mặt đất, chập choạng chạy về phía mấy người A Rập, nó cười và chỉ vào cái cặp, Bé gái chạy theo, dang hai tay ra cố kéo thằng bé trở lui.

Nhìn qua chiếc kính gắn trên súng, Morton thấy nét sợ hải trên mắt cô bé, Ông thấy thằng bé chạy đến phía gã xách cặp.

Ông thấy gã A Rập giáng cái cặp lên đầu thằng bé, Ông nghe tiếng xương gãy răng rắc, Ông thấy thằng bé bị đánh gục bằng rìu, Ông cảm thấy, nghe thấy tiếng tức tưởi giận dữ trong họng mình.

Đứa con gái thét lên, Ông thấy nó há miệng ra, hàm răng trắng lóa kinh ngạc, Rồi ông thấy khi nó quay bỏ chạy thì một tên A Rập đã bắn theo nó.

Nó khựng lại nửa chừng, rồi máu tuôn ra ướt đẫm vạt áo trước khi nó đổ sụm vào một tay súng khác, Tên này hất cái thi thể cứng đờ, bất động đi.

Morton nổ súng, ông cảm thấy báng súng dội mạnh vào vai, Làn đạn không nghe tiếng nổ quét qua thi thể cô bé giết chết ba tay súng tức khắc, Gã xách cặp và tên dẫn đường lẩn mất.

Lăn người qua vị trí bắn khác, Morton lẩm bẩm chửi thề, Tên A Rập bị đạn chết đã đẩy cô bé vào đạn đạo ông đã bắn ra, cho nên gã xách cặp đã thoát được.

Đạn găm trên mặt đất ở chỗ Morton đang nằm, Những người Trung Hoa đã thấy ông, Ông bắn chết một tên với viên đạn cuối cùng, rồi lôi kẹp đạn không ra, gắn vào một kẹp đạn mới.

Không thấy bóng dáng gã trung niên đâu hết, Một loạt đạn mới làm tung tóe lá và cành cây trên đầu Morton, Tên hộ vệ kia đang ẩn núp đâu đấy về phía bên phải của ông, Tiếng cò súng gõ không phá tan bầu không khí im lặng, rồi tiếp tục là tiếng ổ đạn lách cách tháo ra, lắp vào.

Co gập người lại, Morton bò rất yên lặng, rất nhanh

đến chỗ tên Trung Hoa, Hắn đã đi chỗ khác.

Morton nhặt lên một cành cây nhỏ, ông ném ra giữa khoảng trống, Một làn đạn quét khắp mặt đất, Có dấu hiệu hoảng hốt rồi đấy.

Ông chợt thấy có sự di động ở phía bên trái, liền bò về hướng đó, súng một tay, dao một tay, Ông nghe tiếng lá sột soạt ở phía gã đàn ông đang nằm.,Ông ngửi thấy mùi hơi người đang trườn tới.

Morton nằm ngửa người ra, kẹp súng một bên, dao trong tay, Ông nhặt lên một miếng gỗ rồi ném cao lên cây, Miếng gỗ rơi xuống đánh lách cách trên các cành cây.

Gã Trung Hoa đứng dậy, chĩa khẩu M.16 lên.

Morton chụp con dao lớn ở trên mặt đất rồi đá khẩu M.16 văng khỏi tay của gã, Gã Trung Hoa rút dao nhỏ ra, Morton đâm cây dao thật mạnh, cắt toạc áo và thịt trên cánh tay của gã.

Gã hét lên, thả cây dao ra, rồi nhảy vào ông, Cây dao lớn tuột khỏi tay ông, gã bấu mấy ngón tay vào cổ họng ông, Ông dộng đầu gối vào háng gã thật mạnh rồi dùng cùi chỏ thúc vào mũi gã, Gã thét lên và buông cuống họng ông ra.

Morton đứng thẳng dậy, Gã Trung Hoa lồm còm đứng lên, lắc lư cái xẻng trong tay, Morton đá mạnh, cái xẻng văng ra, Ông chụp lấy, thọc mũi nhọn cái xẻng vào họng gã, Gã Trung Hoa chụp lấy cán xẻng, hai người vật lộn nhau giành cái xẻng.

Morton ngửi thấy hơi thở của gã chua loét, rồi ông thấy bọt máu ứa ra nơi miệng gã, Hai mắt gã tươm máu, Morton đẩy mạnh, Ông nghe một tiếng toạc khi lưỡi thép giáng vào đầu gã.

Sau đó, Morton mới được rảnh tay ngồi nghỉ.

Khi ngực đã bớt đau, ông đứng dậy, Máu trên mũi gã Trung Hoa đã đông lại, thẫm đen, Bầy kiến đã bu quanh cánh tay bị thương của gã.

Hắn phục vụ cho ai đây ? Trong hai túi quần hắn chẳng có gì hết, Ông lật sấp người hắn lại, Trong cái đẫy hắn đeo sau lưng, ông thấy tấm thẻ chứng minh.

Phải chăng hắn là một cảnh binh Trung Hoa ? Thấy khẩu súng M.16 gãy nòng nằm dưới một gốc cây, ông lượm lên rồi ném vào bụi cây.

Morton bước giữa quãng rừng trống, lục tìm trên xác tên hộ vệ kia, Ông lấy thẻ chứng minh lên xem.

Mấy người A Rập không có giấy tờ gì hết, nhưng Morton không cần lưu tâm đến, Biệt kích là thế, Ông ném mấy khẩu súng nhỏ của họ vào bụi cây, rồi lôi mấy thây ma vào bụi, Ống để thi hài hai đứa trẻ nằm riềng ra khỏi chỗ mấy tên giết người, để tỏ lòng yêu mến chúng.

Morton xem dồng hồ, Đã mười lăm phút trôi qua từ lúc gã xách cặp bỏ chạy, Đi khoảng một phần tư dặm sẽ gặp những con đường mòn đi Miến Điện, đi Thái Lan, Ân Độ, Pakixtan. Ông thừa biết rằng việc đuổi theo bọn buôn lậu là một chuyền ảo tưởng.

Morton bèn ngồi tựa vào một thận cây, xem xét mấy tấm thẻ chứng minh, Lớp nhựa mỏng bọc lấy khuôn mặt và chiếc dấu nổi chẳng quan trọng là bao.

Nhưng chính cái huy hiệu in trên góc phải của tấm thẻ chứng minh mới khiến cho ông hiểu ra ngay, Hai cái hình vuông màu đỏ trang trí một cái ống nghiệm và cái chày cái cối đan chéo nhau là huy hiệu của Viện nghiên cứu quốc gia ở Quang Du nằm trong tỉnh Quảng Tây Trung Quốc.

Các nhà khoa học ở đây đã thiết lập cho nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc một nhà máy sản xuất vũ khí hóa sinh đứng hàng đầu thế giới.

ở Quang Du vừa rồi họ đã chế tạo ra mồt loại vũ khí mới nhất và nguy hiểm cho tính mệnh nhất, đó là vi rút bệnh than B.c. - Chữ "B" để phân biệt với các loại bênh than khác, Còn chữ "C" là để tôn vinh nước Trung Hoa, kỷ niệm sự ra đời của loại vũ khí lợi hại này.

Vi rút bệnh than B.c. có thể 'mang đi và sử dụng vô hại nếu nó ở trong trạng thái đông đặc, Nhưng chỉ cần vài lạng ở trong trạng thái hòa tan, là nó có thể sát hại hàng ngàn người.

Khi các nhà khoa học nói đến vấn đê giải độc, họ thường thêm vào chữ "nếu" : Nếu nạn nhân được định bệnh kịp thời... Nếu nạn nhân được cho uống một liều lượng trụ sinh đúng mức... Nếu nạn nhân có thể lực tốt, Nhưng với loại vi rút này, ngay có được các điều kiện như thế cũng ít hy vọng cứu sống lắm.

Vi rút bệnh than B.c này nguy hiểm như thế cho nên Công hòa Nhân Dân Trung Hoa không chịu cung cấp cho IRắc, vốn là quốc gia trao đổi hàng hóa với họ, nước mà họ đã lén lút cung cấp vũ khí sinh hóa khác để dùng vào trận chiến ở vùng Vịnh.

Morton tin chắc người Trung Hoa hiên vẫn còn duy trì cái luật cấm vận ấy, nhưng nếu khi luật ấy được bỏ đi thì thế giới sẽ đen tối hơn biết'bao, Sợ Saddam Hussein tìm cách sao chép được loại vi rút bênh than B.c.

Morton đã dẫn một lực lượng nhỏ vào IRắc trong đêm trước khi xảy ra chiến tranh để hủy diệt nhà máy chính gần Bagdad. Nhà máy bào chế nằm sâu dưới lòng cát, ngay cả vũ khí nguyên tử chiến thuật của Hoa Kỳ đóng ở bên lánh địa của Saudi Arabia cũng bó tay.

Để hợp tác với lực lượng Delta và những đơn vị không quân đặc biệt (SAS), Morton đã chọn riêng người của ông, Họ là những người đã được rèn luyện nhiều qua các cuộc chiến tranh vừa xảy ra.

Mỗi người đêu đã đối diên với tử thần và họ đã biết đê phòng, Họ đêu giống ông : Lou Panchez với đôi mắt tinh anh. Wolfie, người không bao giờ cười, trừ khi có Michelle bên cạnh.

Cô ta bình tĩnh và khi nắm vũ khí rồi thì cô không còn thương xót nữa, và kẻ thù khó mà thoát chết, Matti Talim trông giống tài tử Montgomeri Clift.

Vì thế mà nhiều người thoạt tiên gặp anh đã tưởng lầm, Sai Tâm thứ hai là họ hiểu sai về anh, Nhưng với Danny Nagier thì không ai sai Tâm hết.

Anh rất có tài khi đặt những đài truyền tin siêu âm và chế tạo những hộp đen để nghe lén, hay là khi cần đến, thì cho chúng nổ tung gây thiệt hại cho đối phương rất lớn.

Ngay từ đầu, đoàn phải tạo nên mối liên hệ chặt chẽ có tình thương yêu mến mộ nhau, tôn trọng lẫn nhau, Lou Panchez phải thân thiết với giới CIA ở Li Băng.

Wolfie với cơ quan an ninh mạnh nhất của châu Âu, đó là cơ quan BND của Tây Đức, Michelle xuất thân từ cơ quan tình báo Pháp, cơ quan SDECE, Matti và Danny là những người con ưu tú nhất của Mossad.

Mặc dù là người Do Thái và là hàng nhân viên cao cấp của Mossad, Morton vẫn luôn cho mình là một người Anh thôi, Học vấn của ông, học trường Clifton và Cambridge, cùng cách phát âm nhẹ nhàng đã bảo đảm tính chất ấy cho ông.

Những người kể trên là nhân viên thuộc hàng thân

cận của Morton, Họ đã trải qua những cuộc trắc nghiệm do ông thử sức, không nệ vào sách vở.

Họ phải bình tĩnh trước mọi tình huống, phải hăng hái đi đầu, nhưng không phải bất cứ lúc nào cũng thế, Ông không muốn những ai ồn ào, Họ còn trải qua những cuộc trắc nghiệm gian khổ nhất để thử thách về lòng trung thành với Tổ quốc.

Ông yêu cầu sự trung thành không xuất phát từ trong sách vở mà ở hành động, Sau vụ IRắc, ông đã nói với họ là thời gian đã đến để cho họ chứng tỏ lòng trung thành của mình, Bản năng cho biết những thẻ chứng minh ông đang giữ đây đã đem vấn đề lại gân hơn.

Saddam đã thua, Nhưng mối đe dọa vẫn còn đấy.

Morton nhìn qua những hàng cây, Bầu trời đã ngả màu tím, Những vì sao đầu tiên đã xuất hiện, Không khí đã yên tĩnh lại.

Chẳng bao lâu nữa những con thú ăn thịt sẽ từ trong rừng bò ra các thi thể, Đến sáng thì chỉ còn lại những xương trắng nhỏ, bị róc hết thịt, Ông lại nghĩ đến Raza.

Trước khi rút vào bí mật, hắn đã cấu kết với bọn trùm buôn lậu ma túy ở khu Tam Giác Vàng và với những công ty chế biến tiêu thụ ma túy Medellin ở Columbia, hắn bảo đảm những đường dây cung cấp qua ngõ Trung Đông để phân phối lại trong những trụ sở an toàn ở Bắc và Nam Mỹ, ở châu Phi và châu Á.

Phải chăng Raza đã phái những tên cướp này đến tiếp xúc với người Trung Hoa để buôn bán ma túy ? Phải chăng anh chàng trung niên kia đã dùng tiện nghi của Quang Du để tinh chế ma túy ? Bản năng trong người ông báo cho ông biết đây không phải là vụ mua bán ma túy bình thường.

Đây là việc có dính dáng đến tập đoàn tu sĩ Hồi giáo., Từ cuộc chiến vùng Vịnh, họ đã vươn lên thành một thế lực có uy quyền, với mục đích rõ ràng, Từ đó, họ kiểm soát hoàn toàn những giếng dầu hỏa và những mỏ khoáng sản dã phát hiên ra trên sa mạc.

Nhờ thế, tập đoàn tu sĩ không những chỉ thống trị những nước trong khối A Rập mà thôi, họ lại còn trở nên giàu mạnh về kinh tế như bất kỳ một cường quốc nào, Muốn được thế, họ phải chọn con đường khủng bố.

Chính người Xi Ri đã nói cho ông biết tập đoàn tu sĩ đã ở trong tư thế leo thang.

Người Xi Ri là một sĩ quan tình báo quan trọng của khối A Rập, anh ta biết rất nhiều chuyện bí mật, Morton đã lăn lộn ở trong vùng Tây Beirut để tuyển mộ anh ta.

Nhưng những tu sĩ Hồi giáo thì lại muốn có một cuộc thánh chiến chống lại những ai không theo Hồi giáo, họ đã phái người đi gây sóng gió khắp các nước theo Hồi giáo và gây cảnh hãi hùng khiếp đảm cho khắp thế giới.

Chủ thuyết phiêu lưu của Saddam Hussein cũng không bằng khi so sánh với hành động của họ, Họ đã làm cho nhân loại đảo lộn rối bời chưa từng bao giờ có trong lịch sử.

Trong buổi gặp mặt mới đây, người Xi Ri đã cho ông biết tin là nhóm tu sĩ đã chuyển đến Bangkok hai triệu đô la Mỹ. Mọi việc đều xuất phát từ đấy.

Phải chăng các vị tu sĩ đã phái anh chàng xách cặp lặn lội vào rừng để mua một lượng vi rút bênh than B.c, và phải chăng họ đã thấy Raza là người có khả năng làm nên được việc này ?

Khi Morton đi quãng đường dài để ra khỏi lãnh thổ Trung Hoa, ông nhất quyết phải gặp mặt người Xi Ri trong vòng ba hôm nữa như kế hoạch ông đã vạch ra.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
601,786
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 2


Người dịch: Văn Hòa - Kim Thùy

Nhà xuất bản: NXB Thanh Niên

Shared by: Ankay -

Người dẫn đường dẫn gã xách cặp vào nội địa Miến Điện, đến chỗ con sông Mê Kông xuôi dòng về phía nam.

Chỉ đến lúc này họ mới bớt sợ, Người dẫn đường cho biết, chắc thế nào cũng có nhóm buôn bán ma túy khác phục kích họ, Quyền cạnh tranh lãnh địa mà, Gã xách cặp hiểu vấn đề này lắm, Giống như ở Li Băng thôi.

Tại thủ đô Ranggon của Miến Điện, địa điểm an toàn đầu tiên đã được báo để đón gã xách cặp.

ơ đây gã thực hiện công việc đã diễn tập nhiều lần dưới sự chứng kiến của Raza, Gã lấy chiếc chìa khóa mắc trong dây chuyền đeo nơi cổ, để mở cái cặp ra, Gã quay chiếc chìa theo hướng ngược kim đông hồ, Raza đã cho biết nếu quay theo hướng bình thường sẽ làm cho cái cặp nổ tung liền.

Gã xách cặp lấy lớp nhựa bọc ở trên ra, để lộ một cái khuôn đúc vừa vặn để đặt vào đấy một cái hình trụ bằng thép không rỉ, có bề dài sáu inh và đường kính hai inh, khối trụ có nắp vặn ở trên, Khối trụ trông giống một cái phích nước và được ướp lạnh ngắt, Raza đã dặn dò, cái hộp khuôn đúc này phải luôn luôn giữ cho lạnh.

Đế bảo đâm độ lạnh, gã xách cặp đã để cả hộp khuôn cùng khối hình trụ vào tủ lạnh, Lại một lần nữa làm theo lời dặn, gã đợi suốt hai giờ rồi mới cẩn thận bỏ lại vào cặp,

Thế rồi tên chỉ huy nhóm ở địa phương hộ tống gã ra phi trường, để gã lên máy bay đi Mandalay.

Trong một chuyến bay, gã xách cặp cứ mai phân vân tự hỏi cái gì trong khối hình trụ ấy mà đáng giá đến hai triệu đô la ? Một loại chất nổ mới ư ? Một quả bom chỉ cần chuẩn bị là dùng ư ? Quả bom mạnh hơn tất cả những đầu đạn Scud để bắn xuống Israel trong thời chiến tranh vùng Vịnh ư ? Gã A Rập tưởng tượng đến thứ khí giới mạnh nhất chưa từng có.

Lúc đến trụ sở an toàn ở Mandalay, gã không nén được tính hiếu kỳ, Gã lấy cái khối trụ ra khỏi hộp khuôn, rồi cứ quay mãi cái khối trụ trong hai bàn tay.

Nó không giống một quả bom chút nào hết, Không có chỗ nào để mắc một cái máy định giờ vào cái bề mặt trơn láng, lấp lánh, lạnh ngắt ấy được, Và gã cũng không hề nghe nói đến một quả bom cần phải giữ cho đông lạnh như thế bao giờ, Gã để lại cái khối trụ vào khuôn, rồi đặt tất cả lại vào tủ lạnh.

Từ Mandalay, gã xách cặp bay đến Patna ở Ấn Độ, ở đây, gã ở trong một ngôi nhà an toàn bên bờ sông Ganges, sự hiếu kỳ đã làm cho gã trở nên mù quáng, Gã mở nắp cái khối trụ ra, Khi gã mở, một chuyện bất ngờ đã xảy ra.

Khối hình trụ tách làm hai để lộ ra một ống chất lỏng trong veo đã đông cứng lại, Không có gì lạ trong cái thể lỏng này hết, Gã kinh ngạc vô cùng, Rõ ràng là không phải bom biếc gì hết.

Thế mà Raza lại cho gã biết cái khối trụ này sẽ thay đổi cả thế giới, Gã xách cặp đưa cái ống lên mũi ngửi, Ống nước đã tỏa ra mùi thơm thoang thoảng, giống như mùi thơm nơi các cô gái điếm ở Beirut vậy.

Gã đưa một ngón tay sờ vào ống rồi đưa lên liếm, Không có mùi vị gì hết ? Gã bắt đầu cảm thấy bất an, Gã vội vã khép khối trụ lại, để lại vào hộp khuôn rồi đặt tất cả lại vào tủ lạnh, Cái gì không có mùi vị thế này, mà lại thay đổi toàn cầu được ?

Gã bay từ Patna đến Delhi, Đến đây, gã bắt đầu thấy khó chịu trong người, gã thấy đau ê ẩm, có triệu chứng như bệnh cúm nhiệt đới.

Cứ mỗi chuyến bay rồi đến một trạm ngừng, gã lại tê thêm, Gã bắt đầu ho, khạc ra đờm đặc quánh, Chuyến bay cuối cùng từ Damascus đến Tripoli, thì gã xách cặp run lẩy bẩy đến nỗi hai hàm răng đánh vào nhau lập cập.

Đến phi trường ở Li Bi, nhân viên của Raza đón gã, Họ lái xe chạy theo xa lộ Muammar Qaddafi, con đường trải nhựa rộng đến sáu làn xe, chạy quãng một ngàn dặm về hướng Nam, đến một vị trí bí mật ngoài, sa mạc Li Bi.

Anh tài xế nhìn gã xách cặp ngồi ủ rũ bên cạnh một cách ái ngại, Gã bệnh nặng, Nhưng anh chưa hề thấy những mụn nhọt trông kỳ lạ như thế mọc quanh miệng và mũi gã.

Vượt qua chín mươi dặm đường trải nhựa rắn chắc, anh tài xế rẽ sang phía khác, vượt qua giữa những cuộn thép gai rỉ sét.

Qua khỏi, một cái chòi gác trơ trọi báo hiệu đã đến vùng sa mạc, Một căn lều bạt của dân Bedouin nằm trong một chỗ khuất gió có một đàn cừu.

Anh chăn cừu ngồi trước cửa lều đưa khẩu súng Kalashnikov lên vẫy chào, Xong, anh với tay lấy máy điên thoại trong khu vực lên, anh nói vắn tắt đôi lời.

Mặc dù bệnh hoạn mệt mỏi, gã xách cặp vẫn cố nở một nụ cười khi chiếc xe jeep nhảy nhót vào vùng ảm đạm buồn bã này Gã đả về đến nhà.

Cái chòi nhắc người ta nhớ lại những ngày đất nước Li Bi còn nằm dưới chế độ quân chủ vào thập niên năm mươi, nhà vua đả cho phép người Mỹ dùng sa mạc này làm căn cứ đậu máy bay ném bom.

Khi Qaddafi phế truất nhà vua, ông ta trục xuất những người Mỹ đi và đóng cửa tất cả các căn cứ, chỉ để lại một căn cứ mà thôi.

Căn cứ này biến thành một trại huấn luyện, đã huấn luyện được nhiều thế hệ khủng bố. Arafai, Nidal và Carlos đã từng hoạt động ở đây cho đến lúc họ phải ra đi cùng với vị đại tá hay thay đổi.

Kết quả của chiến tranh vùng Vịnh là vị lãnh đạo tối cao đã thay thế Qaddafi, ông ta tuyên bố nước Li Bi không còn cho phép bất kỳ phe nhóm nào cư ngụ nữa hết, Ông ta mời báo chí quốc tế đến để làm chứng việc ông trục xuất mặt trận PLO ra khỏi nước Li Bi.

Một tháng sau, sau khi Raza đã thất bại não nề ở Luân Đôn và Berlin, thì thế giới A Rập đã quay lưng lại với y, y buộc lòng phải từ giã IRắc khi Saddam Hussein không còn che chở cho y được nữa, vị lãnh đạo tối cao đã cho y nơi ẩn nấu an toàn này.

Một chiếc máy bay, ngay khi bay xuông thấp đi nữa cũng không thấy được những pháo đài và những nơi đóng quân được che giấu rất khéo' léo trong những đụn cát.

Họ có thấy chăng là thấy một ngôi nhà cỡ bình thường mà có lẽ đã do số công chức ở Tripoli khi rút lui khỏi sa mạc đã để lại.

Có một số nhà cửa như thế xây rải rác trong vùng, ở đây dùng làm nơi tá túc cho những người đã lớn lên ở sa mạc, nay sống ở thành phố có dịp trở về để nhớ cội nguồn.

Trong suốt năm vừa qua, gã xách cặp đã trông thấy hàng ngàn người được tuyển mộ đến đây huấn luyện rất căng, rồi được gởi về các trại tỵ nạn để chờ, Raza đã bí mật đi thăm các trại ấy, Sau lần thăm viếng cuối cùng, y đã chọn gã xách cặp để phái đi Trung Quốc.

Chiếc xe jeep tiếp tục chạy qua vùng khô cằn rộng lớn hướng đến ngôi nhà, Quang cảnh ngôi nhà thấp, tường sơn trắng làm cho gã xách cặp lại rối bời lo lắng.

Giả sử có kẻ nào trong ngôi nhà an toàn ấy trông thấy gã mở cái khối trụ ấy, rồi báo cho Raza biết... Nhưng gã tự trấn an là không có chuyện ấy đâu, chẳng qua là vì con bệnh đã làm cho gã hồi hộp như thế.

Tên lính canh đứng gác trước ngôi nhà đã quan sát gã xách cặp rất kỹ, Gã ho, gã cảm thấy người quá yếu, tưởng chừng không xách nổi chiếc cặp nữa, Gã bước vào nhà.

Một người phụ tá mặc quân phục đến đón gã, Đôi mắt anh ta buồn bã và anh ta cứ quen tay vuốt bộ râu rậm rạp dưới cằm.

Gã xách cặp kể lại cho anh ta nghe những gì xảy ra ở Trung Quốc. Thỉnh thoảng gã ho một hồi thật dài, gập cả người lại, Khi gã tường trình xong, viên phụ tá nhìn gã một cách ái ngại.

— Anh bệnh rồi đấy, Nên đi đến phòng khám bệnh

thôi.

Gã xách cặp lắc đầu, đáp :

— Không có gì đâu.

Người phụ tá nắm lấy cái cặp, hỏi chìa khóa mở cặp, Anh ta đi theo hành lang đến gõ vào một cánh cửa, đứng đợi một chốc rồi bước vào trong phòng.

Gã xách cặp đứng tựa người vào một bức tường, Ngay ở trong nhà mát mẻ như thế này, gã cũng thấy nóng ran, Những mụn nhọt hình như lớn thêm ra, Có cái gì trong hình trụ ấy đã làm cho gã như thế này đây, Bỗng gã thấy khiếp sợ.

Cửa mở, người phụ tá bước ra, Anh ta cầm một khâu súng tự động Taurus cỡ 9mm.

— Ổn cả chứ ? -,Gã xách cặp hỏi.

— Ổn !

Gã xách cặp gắng cười, Tội bất tuân rành rành của gã không bị phát hiện, Nhưng gã cảm thấy nguy.

— Nào, ta ra ngoài đi .Viên phụ tá nói.

— Có lẽ tôi phải đến phòng khám bệnh.

Viên phụ tá lắc đầu, nói :

— Chỉ cảm sốt thường thôi, Anh đã nói thế mà !

Họ bước vào doanh trại, Vào giờ đứng bóng này, trời

nóng bức nên chẳng có ai, Gã xách cặp run cả người.

— Nào ta đi ngả này . Viên phụ tá chỉ về hướng bìa bãi tập, gần dãy nhà cầu, Một cơn ho dữ dội làm cho gã xách cặp co người lại.

Viên phụ tá đi sau gã một bước, Anh ta không thèm để ý đến nỗi đau đớn của gã xách cặp hay mùi hôi thối, Cả hai lặng lẽ đi cho đến khi tới dãy nhà cầu.

— Tại sao anh lại mở cái khối trụ ra ? Viên phụ tá hỏi gã xách cặp bằng giọng ân cần như lần đầu tiên anh ta đề nghị gã đi đến phòng phát thuốc.

Gã xách cặp quay lại, lắc đầu :

— Anh lầm rồi, Tôi không bao giờ làm thế .Như thói thường, gã chối một cách ngọt xớt.

Viên phụ tá có vẻ buồn bã, như một người anh thất vọng về một đứa em hư hỏng - Anh ta nói :

— Anh đã mở mà, Vì thế mà anh mắc bệnh đấy.

Anh ta ấn ngón tay cái lên chốt khóa của khẩu súng, cái nắp sắt nặng trượt tới trước, rồi kéo cò, Viên đạn làm cho gã xách cặp giật lùi mấy tấc, đến mép cửạ dãy nhà cầu, Viên phụ tá dùng đôi giày trận đá cái thi thể nhào xuống cống, Hắn vuốt râu rồi lại thủng thỉnh vào nhà.

Raza đứng ở cửa sổ , y nhìn cái xác từ từ chìm xuống ống cống cho đến khi mất tăm, Y nghĩ đây là nạn nhân đầu tiên chết vì vi rút bệnh than B.c.

Tiếng súng vang lên rất rõ đến tận cái pháo đài nằm ở đằng sau ngôi nhà, Sau hai giờ ngồi đợi lấy cái khối hình trụ ở trong tủ lạnh ra mà hai bàn tay của Faruk Kudumi vẫn còn run lẩy bẩy.

Cho dù ông đã chứng kiến nhiều cảnh tượng như vậy, ông cũng không quen được cảnh chết chóc tàn bạo như thế được, Dù sao thì việc này cũng đối nghịch với nghề nghiệp của ông.

Ông lại còn biết chắc rằng những người đã biết ông từng đạt thành công to lớn, thì nay đều khó mà nhận ra ông, thời ông còn là một nhà phẫu thuật mảnh mai giải phẫu cho giới giàu có và tiếng tăm ở châu Âu.

Khuôn mặt của ông đã bị sưng phù lên, thô tháp, chiếc mũi một thời xinh xắn nay đã bị u lên và cong queo vì một tai nạn lái xe hơi vừa mới xảy ra, Người ông bây giờ giống một con cóc xấu xí bệnh hoạn, do bộ đô chống ô nhiễm cồng kềnh trên người ông gấy nên.

Bộ áo quần đã được , thiết kế để chống lại các chất hóa sinh gây bệnh, vải được phủ lên một lớp than, Vải cọ xát làm da thịt ông sưng rộp lên, và cặp găng tay, bao bảo vệ hai bàn chân đã làm cho ông đi đứng khó khăn, khó điều khiển mọi vật.

Cái mũ trùm dầu với ống thở, có bộ phận lọc chế bằng chất xương động vật nấu ra, khiến cho ông cảm thấy muốn nôn mửa và choáng váng.

Ông đã biết mình không thể mặc bộ áo quần ấy quá một giờ đồng hồ, Sau mỗi đợt làm việc, ông phải hít một hơi ê te nơi cái bình nhỏ ông thường mang theo bên người.

Ông thấy việc hít hơi này vừa làm cho mình thư thái, lại vừa kích thích ông, Ông còn biết ông khó mà bỏ được thói quen đã làm tiêu vong sự nghiệp vinh quang của mình.

Ống bị treo giò ngay sau hôm ồng làm chết một bệnh nhân do ông phẫu thuật, sau khi đã hít hơi này, Đồng nghiệp của ông biết tiếng ông, cố tình che giấu cho ông , nhưng những người điều hành đã buộc ông phải từ nhiệm.

Ông chưa đến bốn mươi tuổi, Trong vòng một năm, cuộc hôn nhân không con cái của ông đã chấm dứt, ông quay về Algiers, ngậm đắng nuốt cay hận thù nghề nghiệp và nước Pháp.

Tại Algiers, ông sẵn sàng chữa cho các tội phạm ở trong thành phố, Ông nổi tiếng, rồi chẳng bao lâu, ông chữa cho một cảm tử quân của Raza bị thương khi thi hành nhiệm vụ.

Raza đã trả công cho ông rất hậu, và bây giờ thì Faruk Kadumi đã trở thành triệu phú trong bất cứ loại tiền tệ nào, Nhưng ông cũng rõ là ông phải gắn bó keo sơn với Raza cũng như với thói nghiện ngập này của ông, Raza đã nói với ông rằng ông muốn gì được nấy, miễn là biết vâng lời.

Việc làm ăn béo bở nhưng bất chính của Faruk Kadumi đã đưa ông đến cái pháo đài ngầm để thực hiện một thí nghiệm về vi rút bệnh than B.c.

Khi ông thực hiện một công trình nghiên cứu nào khó khăn và nguy hiểm hết sức quan trọng, ông đêu chuẩn bị rất cẩn thận, say sưa với công việc mà Raza đã giao cho ông về vũ khí sinh hóa.

Faruk Kadumi đã hết sức chú ý đến tập chỉ dẫn tối mật đã được lén đưa ra khỏi Trung Quốc, Điều quan trọng cho sinh mạng là phải tạo nên những điều kiện để ông có thể làm việc an toàn.

Một phòng thí nghiệm hoàn toàn, vô trùng và một phòng vô nhiễm đã được xây đựng lên ở trên pháo đài, Đến được đó phải qua những cánh cửa có khóa bằng hơi.

Bên trong không khí cung cấp cho phòng thí nghiệm được lọc sạch, Phòng thí nghiệm được trang bị giống như những phòng thí nghiệm ở Viện nghiên cứu quốc gia ở Quang Du, nơi đã chế ra vi rút bệnh than B.c.

Gặp trường hợp khẩn cấp, đã có một hệ thống tự hủy xây ở trong phòng, Hàng ngàn lít xâng tồn trử trong một cái thùng để trên trần nhà giả của phòng thí nghiệm, Chỉ xây ở trong phòng.

Chỉ bấm một cái nút là trần nhà sụp xuống, đổ nhiên liệu ra, Trong tường đã có những tia lửa điện tự động phát hỏa và cả phòng thí nghiệm sẽ trở thành một khối lửa chỉ trong nháy mắt, Cuốn chỉ dẫn đã ghi chỉ có nhiệt độ đến một ngàn độ bách phân mới hủy được vi rút bệnh than B.c.

Hình ảnh bị thiêu hủy ra tro đã làm cho Faruk Kadumi nhiêu lần toát mồ hôi khi ông chụp cái mũ trùm đầu lên, Mùi hăng hắc nơi hệ thống lọc của máy lọc không khí tỏa đầy cả mũi cả miệng ông.

Faruk Kadumi trách nhìn nhiều nút bấm phá hủy gắn trong tường ngay với tằm tay, ông đưa mắt nhìn cái bàn thí nghiệm bằng thép chống rỉ kê ở giữa phòng.

Mỗi lần làm thí nghiệm, ông lại bày dụng cụ ra một cách hết sức gọn gàng như thế, ở cuối bàn có hai cái chai chứa đầy nước hoa, Nhiều chai trống nhỏ sắp hàng ngăn nắp bên cạnh.

Faruk Kadumi đưa bàn tay đeo găng nặng trịch lấy lên một cái chai, Ồng đã làm vỡ nhiều cái trước khi định tâm được để nắm lấy nó, Ông đưa cái chai sát vào tấm kính che mắt, Cái chai có hình dáng rất hấp dẫn, hình bát giác, được chế bằng thủy tinh màu xanh, Trên nhãn một hàng chứ đặc biệt thật bay bướm.

Raza đã cho ông biết y mất mấy tuần bác bỏ những mẫu mã trước khi bằng lòng mẫu chai này, Chai được đặc biệt chế tạo ở Hồng Kông, Những gã làm chai không sống để hưởng thụ nguồn lợi tức của mình được, Tập đoàn cạnh tranh địa phương đã được lệnh của Raza giết chết gã.

Faruk Kadumi nhớ lại cảnh Raza khoái chí khi kể câu chuyện đó cho ông nghe, Ông cảm thấy mồ hôi rịn ướt cả người, Ông nhìn lên chiếc đồng hồ treo trên tường, Đã đến giờ mở tủ lạnh kế bên chiếc bàn.

Có tiếng kêu xuỵt xuỵt khi chiếc áo khóa hơi tách ra rồi cửa mở, Ba phụ nữ bước rào phòng, Tất cả đều mặc áo quần khử trùng.

Ồng chú ý đến hai cô gái trẻ, vì họ rất hấp dẫn, đã tham gia vào công việc của Raza rất nghiêm túc và hăng hái, Faruk Kadumi được biết họ là người Hy Lạp.

Đi theo họ là Lila, Đến nay trông nàng cũng hấp dẫn lắm, Mái tóc dày, đỏ, xõa xuống, quanh mặt sau tấm kính chắn trên mủ trùm, và mặc dù bộ áo quần cồng kềnh, cô ta di đông vẫn nhẹ nhàng duyên dáng.

tuần vừa qua, cô ta đã ở cùng với Raza trong phòng phát thanh trang bị rất tối tân ở cuối đằng kia pháo đài.

Faruk Kadumi đã biết, chỉ nên hỏi cái gì đáng làm mà thôi, Raza rất tức giận khi cứ bị hỏi đến, cái này cái nọ, Sau khi niêm cái khóa hơi lại, Lila quay qua phía các cô gái Hy Lạp, nói :

— Hãy quan sát cho thật kỹ, Điều gì không hiểu, cứ

hỏi.

Chiếc micrô gắn trong bộ phận hít thở khiến cho giọng nói của cô trở nên khô khan, Lila quay qua Faruk Kađumi :

— Thua bác sĩ, ông bắt đầu được rồi đấy.

Faruk Kadumi ra dấu cho họ đứng sang phía bên kia chiếc bàn, Chiếc micrô của ông đã làm cho giọng nói của ông nghe như hơi ợ từ ruột phát ra, Ông nói :

— Tôi muốn dặn dò các cô trước đã, Chúng ta tập trung ở đây để thí nghiệm một loại vũ khí tối nguy hiểm, Sản xuất lại rẻ, Mà không cần đến những kỹ thuật hay các trang thiết bị phức tạp tốn kém.

Và bảo đảm sẽ rất thành công, Ông thấy họ chăm chú nghe ông, như một thời ông đã giảng dạy y khoa cho các sinh viên cần mẫn ngưỡng mộ mình.

Ồng nói tiếp, Vũ khí mà chúng ta có ở đây là tinh hoa của kiến thức nhân loại trong hàng ngàn năm nay, đế tìm cách sử dụng sức mạnh của thiên nhiên nhằm mục đích cuối cùng của mình.

Đã ba ngàn năm rồi, tổ tiên chúng ta ném những xác súc vật mục rữa vào nguồn nước uống của quân thù, Sau đó, họ đã tính đến cách gây bệnh dịch cho tù nhân rồi thả họ về với quân thù, Người Spartan đã làm như thế khi họ bao vây Athens.

Trong thành phố có mười ngàn người chết trong một ngày, Từ đó, có nhiều người bị giết chết bằng cách này hơn bất cứ phương pháp nào khác, Tử Thần Đen đã giết chết người ta ở châu Âu vào thời trung cổ, nhiều gấp một ngàn lần số , người chết ở Hiroshima.

Con người đã trải qua một đoạn đường dài, và bây giờ với vũ khí sinh hóa, đã có trên hai trăm bệnh có thể giết người hay là làm mất hết khả năng làm việc...

— Thưa bác sĩ, ông vào đê đi chứ ? Lila ngắt lời, ông ta một cách đột ngột.

Faruk Kadumi cố nén giận, Đây không phải là lần đầu Lila nhắc nhở ông, quyền hạn của cô là một phụ tá lâu nhất của Raza, Ông gượng cười sau tấm kính gắn ở mũ trùm đầu rồi nói tiếp :

— Raza mong muốn các cô phải tuyệt đối thông suốt sức mạnh của vũ khí mà ông ấy đã đặc biệt tin tưởng vào các cô, Cho nên các cô phải nghe cho rõ những gì tôi nói, Kể cả cô nữa, Lila à.

— Thưa bác sĩ, chúng ta đừng để phí thời giờ vào việc tranh cãi như thế này nữa

- Lila đáp.

— Tốt thôi Vi rút bệnh than B.c, đã được chế ra để giết người bằng cách va chạm vào da, hít vào người hay là thả vào nước uống.

Trong mỗi trường hợp vi rút nhiễm vào cơ thể rồi, những bào tử vi rút tỏa ra nhiêt độ thật cao, Cuống họng sưng lên, ho dữ dôi, hô hấp rất khó khăn và nội tạng bị hư hỏng.

Sốt xông lên óc khiến cho bệnh nhân mê sảng và thấy ảo giác, Khi chết, những thi thể đen đi, giống như Tử Thần Đen vậy...

— Vào vấn đề đi, thưa bác sĩ.

- Lila nói nhanh

- ông chỉ nói cho chúng tôi biết cách rải thứ ấy mà thôi.

Cô ta bỗng trở nên giận dữ, khiến cho các cô gái Hy Lạp phải kinh ngạc, và làm cho Faruk Kadumi biến sắc.

Ông ta lấy lên một cái chai, rồi nói :

— Phương pháp tốt nhất là rải vào trong hệ thống giao thông dưới đường hầm, như là hệ thống đường hầm ở Luân Đôn hay là ở Pari.

Cơ quan CIA đã tạo cơ hội tốt cho ta, vì họ đã cử một nhân viên vô hại xem hê thống điều hòa không khí trong đường hầm ở New York cách đây mấy năm rồi, Nếu quả thật như vậy, thì sẽ có hàng triệu người nhiễm trùng.

Faruk Kadumi hài lòng khi nghe hơi thở hổn hển của các cô gái Hy Lạp , Cô thấp người cất tiếng hỏi :

— Khi đổ chai ra, chúng tôi phải đê phòng ra sao ?

Faruk Kadumi thở dài, Raza đã ra lệnh cho ông đừng lo sợ chuyện nguy hiểm khi gieo rắc vi rút, Ông chỉ đáp :

— Các cô chỉ cần lấy gì che mặt và đeo găng tay vào là được.

Lila lên tiếng :

— Ta dùng một cái máy định giờ tự động nhỏ hằng điện tử để làm vỡ cái chai, sau khi đã đưa nó vào đúng vị trí được không ?

Faruk Kadumi gật đầu :

— Như thế có lẽ tốt đấy, nhưng có điêu là ít có hiệu nghiệm, Làm vỡ cái chai, tất cả vi rút trong chai sẽ đổ ra một lần mà thôi, Để có hiệu quả tối ưu, tốt nhất là rải ra từ từ.

— Cho vào nước thì sao ?

- Lila nói nhanh.

Faruk Kadumi nhìn , vào cái chai, ông đáp :

— Đổ vào trong một thùng chứa nhỏ, là đủ gây cảnh chết chóc rồi.

— Tốt, chúng tôi hiểu rôi, Ông nói tiếp đi

- Lila gắt gỏng nói.

Faruk Kadumi đỏ mặt trong chiếc mũ trùm.

Ông ta đặt cái chai xuống bàn, quay người đi khập khiễng đến chiếc tủ đá, Ông lấy cái khối trụ ra để lên bàn, Ông vặn mở nắp, khối trụ kim loại tách ra, Ống vi rút bênh than B.c đông cứng lóng lánh dưới ánh đèn sáng choang ở trên đầu.

Ông cố tình chần chừ trước khi tiếp tục công việc.

— Ở dưới bốn mươi độ không, bào tử bệnh than ngủ yên, Khác với những vi rút khác, vi rút bệnh than có thể hòa tan rồi đông lại mãi, mà không mất tiềm năng của chúng đi.

Trên lý thuyết, ta có thể tiếp tục làm như thế suốt một trăm năm, Điều quan trọng cần phải ghi nhớ, là chỉ cần đến một độ dương là bệnh than đã trở thành nguy hiểm cho tính mạng con người rồi.

Và nó không có dấu hiệu gì cho biết nó hoạt động hết, Tìm ra bênh và nhận ra được bênh cần phải có nhiều thì giờ và cần phải có bác sĩ chuyên khoa chẩn đoán.

Sở dĩ như vậy là vì bác sĩ thường thấy các triệu chứng của chúng giống như bệnh sưng phổi, Đến lúc họ thấy mình sai, thì bệnh nhân đã sắp chết rồi.

— Thưa bác sĩ, ông chuẩn bị cho một chai đi chứ ?

- Lila nói.

Faruk Kadumi mím chặt môi, Mồ hôi rịn ướt cả người ông, Càng xong việc sớm, càng chóng được cởi cái bộ áo quần cồng kênh này ra.

Ông lấy lên cái kim, rồi cẩn thận kẹp cái khối đông cứng ra khỏi khối trụ, Ông đặt giữa hai khối thép gắn trên bàn có đinh ốc để siết lại cho chặt, Từ từ ông siết đinh ốc lại cho đến khi cái khối đông ấy bị ép cứng lại vừa phải, đến độ không dỡ ra được.

Không nhìn ai hết, Faruk Kadumi nói :

— Kỹ thuật đơn giản thôi, Điều quan trọng là đừng

vội.

Ông với tay lấy chiếc cưa điện chạy tốc độ nhanh dùng trong phẫu thuật, Tiếng cưa chạy ì ì vang lên trong phòng, ông cưa trên đầu ống một lát mỏng, nguyên vẹn.

Ông tắt máy cưa rồi lấy một cặp thìa, dùng lưỡi thìa rộng bản bằng thép xúc cái lát cưa ấy lên, rồi để vào một tấm thớt.

Faruk Kadumi đưa mắt nhìn hai cô gái Hy Lạp, Cả hai đều mở to mắt nhìn cái lát vừa cắt ra ấy.

Ông ta lấy một cây dao phẫu thuật lưỡi dài, cắt cái lát ấy ra thành nhiều lát bằng nhau.

Dùng một cái nhíp, ông thả miếng nhỏ vào chai nước hoa, Trong một chốc, ông đã thả hết những miếng ấy vào chai.

Nắm chặt cái chai đầu tiên trong tay, Faruk Kadumi quay qua một cái chum, Đưa cái chai cho Lila, ông ta nói :

— Này, nắm cái này đi.

Cô ta nắm chặt cái chai giữa hai ngón tay có lót đô đêm, Faruk Kadumi lấy một cái ống tiêm rồi hút nước hoa trong chum đầy ống tiêm, Chất nước hoa có màu mật tai tái, và trông có vẻ lầy nhầy, Ông ta giải thích :

— Đây là cốt của loài hoa đinh hương và đầu lô hội, Cái hương thơm cần thiết này vẫn còn mải cho đến khi vi rút bệnh than đã loãng ra.

— Loãng ra à ? Cô Hy Lạp cao cất tiếng hỏi.

Faruk Kadumi từ chum nước hoa quay lại với ống tiêm

đây :

— Khi trộn với một dung dịch muối đúng tiêu chuẩn, loại mua trong các kho y dược, vi rút bệnh than B.c giữ được tám mươi phần trăm tiềm năng nguyên thủy của nó.

Ông gật đầu ra dấu cái chai trong tay Lila, Ông ta

nói :

— Các cô có thể làm loãng lượng nước trong chai này ra thành bốn mươi chai, có thể năm mươi chai, Mỗi chai như thế vẫn còn khả năng làm chết hàng trăm người Theo lý thuyết.

chúng ta có thể tiếp tục làm loãng ra nữa và kết quả vẫn bảo đảm chắc chắn sẽ gây bệnh nặng cho nhiều người, Dĩ nhiên là quý vị không cần phải làm thế, Rồi người ta sẽ biết được tiềm năng của loài vũ khí này thôi.

Faruk Kadumi đổ đây nước hoa vào chai.

Cô giá Hy Lạp cao cất tiếng hỏi :

— Thứ này có truyền từ người này sang người khác không ?

Ông ta không rời mắt khỏi ống tiêm và cái chai, đáp :

— Không, bệnh này không giống dịch hạch, Ta không thể đổ vào ống cống để nhờ chuột làm thay công việc của mình được.

Vi rút này sẽ giết chúng trước khi chúng ra khôi Ống cống, Nhưng không như tất cả những vi rút sinh học khác, những loại nấm và những độc tố khác, loại vi rút bệnh than B.c không còn hoạt động trong những thi thể quá hai mươi bốn giờ, Trong thời gian này, trừ một số trường hợp, vi rút sẽ chết.

Ông ta để cái ống tiêm xuống bàn.

— Trừ những trường hợp nào ?

- Cô Hy Lạp thấp giọng hỏi.

Faruk Kadumi nhún vai rồi đáp :

— Trường hợp cô không thể gặp được đâu, đó là trường hợp mổ tử thi, Nếu có người chạm đến máu bị nhiễm trùng hay là nước trong cơ thể chảy ra trong vòng hai mươi bốn giờ ấy, thì có thể nguy hiểm đấy.

Nhưng thoạt kỳ thủy, vi rút bênh than B.c được chế ra để dùng ngoài chiến trường, có tác dụng nhanh trong một thời gian giới hạn.

Ông ta lấy cái chai Lila đang cầm, đóng nút lại rồi niêm phong bằng cách để cổ chai trong một cái khuôn có sáp đỏ nóng chảy.

Faruk Kadumi đưa cái chai lại cho Li la, Trong lúc đó những cô gái Hy Lạp tiếp tục nhìn ông ta cắt lát thứ hai.

Lila bước tới chiếc cửa dẫn đến gian phòng,vô nhiễm nhỏ, Cô ta quay cái bánh xe bằng sắt để mở cánh cửa, bước vào trong phòng thông hơi rồi đóng cửa lại.

Cô ta xoay một bánh xe khác để khóa cửa cho an toàn, Dùng phương pháp như thế, cô ta mở cánh cửa để vào căn phòng.

Đặt cái chai lên kệ, cô ta cởi bộ áo quần ra, chỉ mặc quần lót thôi, Cởi quần lót ra, cô để chung với bộ áo quần trên một chiếc cầu trượt rồi kéo một cái cần ở trên vách.

Một tếm ván ô mở ra nơi bức vách, chiếc cầu trượt chạy vào đấy, Một luồng hơi nóng phả vào người Lila, rồi tấm ván ô đóng lại, áo quần của cô đã được đưa vào một lò điện xây dưới cát ở phía sau pháo đài.

Thế rồi cô ta tắm vòi sen nhiều lần, kỳ cọ với một dung dịch đất sét để tẩy giặt, một loại phấn chống ô nhiễm chế bằng đất sét, Sau đó, cô ta sấy khô dưới một máy sấy cực mạnh gắn dưới trần nhà.

Nắm cái chai, cô ta mở khóa hơi ở phía bên kia căn phòng để vào phòng thay áo quần, Cô ta mặc áo quần dùng đi xa quần Jean, đôi giày ống bó lấy bắp chân có những hình chạm trổ, và mặc chiếc áo chật phô bộ ngực lớn nhọn hoắt lên với cặp mông hẹp trẻ trung.

Cô ta ngắm nhìn một chút trong chiếc gương soi gắn trên tường, Nước da của cô ta còn xuân sắc lắm, Không ai tin được chỉ còn một năm nữa là cô ta đã ăn sinh nhật thứ bốn mươi rồi.

Cô ta mặc chiếc áo khoác bằng vải thông thường có nhiều túi để bỏ phim, một cái thước đo ánh sáng và những dụng cụ của một nhiếp ảnh gia chuyên nghiệp.

Cô ta tìm trong túi áo trong xem lại cho chắc tấm giấy thông hành Mỹ, tấm giấy chứng minh của tờ Time, và bức thư của tạp chí này xác nhận cô ta là một người hành nghề tự do đi làm nhiệm vụ, Những thứ này đều được tổ chức lo liệu theo yêu cầu của Raza.

Cất cái chai vào túi xách cùng với chiếc máy ảnh, Lila bước ra khỏi phòng.

Chiếc xe jeep chở một gã xách cặp đang đợi ở bên ngoài, Người tài xế đã xếp vào ghế sau chiếc túi xách lớn đi đường cô ta mang đến khi nảy.

Khi anh ta định lấy cái túi xách để sắp bên cạnh cái túi xách lớn, cô ta lắc đầu, Cô ta cẩn thận để bên người cô ở chỗ ngồi phía trước.

Một giọng nói dịu dàng bằng tiếng A Rập cất lên từ trong bóng tối ở hành lang của ngôi nhà :

— Chúc may mắn, Lila ! Tôi trông chờ vào cô đấy.

Cô ta mỉm cười, Raza không bao giờ quên nhắc những lời nhắn nhủ quan trọng ấy cả.

— Anh cứ tin vào em đi

- Cô ta đáp lại, vừa lấy cùi chỏ hích vào anh tài xế.

Chiếc xe jeep phóng băng qua sa mạc, Hình như khi máy đã nguội, tiếng nổ nghe giòn giã hơn, Lila cũng nhận thấy cô ta đang lắng nghe tiếng tim mình đập rộn rã trong lồng ngực.

...

Morton thấy Walter Bitburg không tài nào làm chủ được đôi mắt như mọi lúc, Đôi mắt màu xám của ông giám đốc cơ quan mật vụ Mossad, cũng như những thứ khác trên người ông, lại láo liên lên ngay sau khi Morton bước vào căn phòng có cửa sổ, nằm sát bên văn phòng của Bitburg.

Căn phòng giống thư viện của một nhà giàu có, tường đầy cả sách giáy bọc da, chễm chệ một chiếc bàn của thế kỷ 17 từ khi Bitburg trốn khỏi nước Đức năm Hitler lên cầm quyền.

Căn phòng nhỏ ảm đạm này được xem như là pháo đài của Bitburg, tường và trần nhà quét màu xám, ba người đàn ông đang ngồi quanh chiếc bàn thiếc và ghế ngồi cũng xám xịt.

Đôi mắt của ông giám đốc nhắc nhở cho Morton nghĩ đến những điều hoài nghi cố hữu trong óc Bitburg, Cái gì khiến cho ông ta cứ hoài nghi mãi như thế ? Phương pháp của Bitburg là cứ để yên mọi việc ra đấy, cái gì cũng phải có bằng chứng cái đã.

Khi Bitburg thấy không có đủ bằng chứng, đôi mắt ông ta đã biểu lộ sự hoài nghi của ông, Đôi mắt cứ láo liến khi ông nghe Morton trình bày.

— Khi tôi về đến Bangkok thì vết tích của tất cả bọn A Rập đêu đã được xóa hết, Walter à, Dấu vết về đăng ký ở khách sạn, đăng ký vé máy bay.

Ngay cả tên tuổi của chúng cũng được xóa hết ở các máy vi tính ghi những người nhập nội, Chỉ có tập đoàn tu sĩ Hồi giáo mới làm được việc này, Những tên tu sĩ Hồi giáo này chỉ làm như thế nếu việc này có tâm quan trọng.

Bitburg chồm người tới trước, ánh đèn nê ông lóng lánh trên cặp kính dày cộm của Ông ta. Ông ta hỏi :

— Còn chuyện tiền nong ? Có bằng chứng gì về việc ngân hàng trả ra hai triệu đô la không ?

Morton không tỏ ra nôn nóng ma cũng không giận dữ, ông đáp :

— Tôi thấy gã ấy đếm tiền.

— Không chắc chắn được số tiền chứ ? Đếm xong số tiền ấy phải mất một giờ đấy.

Morton phân vân, phải chăng cặp kính của Bitburg đeo trên mắt có khả năng rất đa dạng ? Ông bèn đáp.

— Tôi không biết chắc phải đếm bao lâu mới xong, Cả đời có bao giờ tôi đếm đến hai triệu đô la đâu ?

Lại im lặng, càng làm cho họ xa cách nhau hơn, Có cái gì rộng lớn hơn, Ông ấy lên tiếng :

— David này, điều mà tôi cần có là bằng chứng xác đáng. Cái gì sờ mó được kia. Thiếu chúng, tôi sợ lắm.

Morton cứ nhìn chằm chằm Bitburg, ông nhớ lại những gì đã xảy ra ở quãng rừng trống ấy, từng chi tiết rõ ràng, minh bạch, không thể nào quên được.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
601,786
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 3


Người dịch: Văn Hòa - Kim Thùy

Nhà xuất bản: NXB Thanh Niên

Shared by: Ankay -

Bitburg lật xem mấy cái thẻ chứng minh, ông ta xem xét kỹ rồi hỏi :

Theo tôi thì những gì anh vừa có ý kiến đều do những cái thẻ này mà ra phải không ?

— Còn hơn cả một ý kiến nữa, Walter à.

Bitburg để mấy cái thẻ lên bàn. Ông ta nói :

— David này, nếu tôi có sai lầm, xin anh hãy sửa chữa giúp, Khi lần đầu anh đem chuyện Quang Du nói cho tôi biết, tôi nhớ là anh đã quả quyết cái nhà máy nằm ở gần con đường mà bọn buôn lậu ma túy ở Trung Hoa sử dụng đế vào ra khu Tam Giác Vàng, Và ít ra đã có hai hay ba phòng điều chế côcain đang hoạt động gần nhà máy,Tôi nhớ thế có đúng không,David ?

— Bây giờ đã có đến bốn phòng rồi.

Bitburg chúm môi lại :

— Bốn à ? Thì ra thế !

Ông ta vội nhìn mấy tấm thẻ, rồi nói :

— Bốn à ? Thì ra thế !

Ông ta vội nhìn mấy tấm thẻ, lồi nói :

— Tôi cũng còn nhớ anh có nói rằng một số nhân viên ở Quang Du có thể đã tham gia làm thêm bất chính với những phòng điêu chế này, Họ giúp kỹ thuật cho những phòng này.

— Đúng thế. Nhưng lần này thì không phải thế.

Bitburg lại nhặt mấy tấm thẻ lên. Ông ta nói :

— Mấy tấm thẻ này chứng tỏ hai người đàn ông làm viêc cho nhà máy, Không có gì chứng minh họ lén đưa ra cái gì hết, Hay là không có gì chứng minh người đàn ông kia làm việc ở đây nữa.

Và hắn có thể là một tay buôn lậu ma túy lắm chứ, Hắn có thể là ai đấy thôi, Và không có gì để chứng minh việc này dính dáng đến Raza hết.

— Tôi đã nghe một tên nói đến hắn, Walter à, ngay trước khi cái máy nghe mắc dịch trên đầu tôi bị hỏng.

Bitburg nhìn vào chồng hồ sơ trước mặt ông ta, Khi ông ta nhìn lên, ông nói bằng giọng khô khan, chính xác :

— Vâng. Tôi đã đăng ký nhờ bên Viện Nghiên cứu và Phát triển giải quyết những thắc mắc của tôi rồi, Nhưng theo tôi thì chuyện này xảy ra khi người ta quá hăng hái, nên không chứng minh được gì hết.

Đôi mắt của ông lại láo liến, ông nói :

— David này, anh chỉ nghe có ...Za. Báo cáo của anh chỉ nói có "Za" mà thôi, Có thể chỉ đến Raza đấy, Có hàng trăm tên người và địa danh của A Rập tận cùng bằng ...Za. Bố anh sẽ nói cho anh biết điều này.

Bitburg nhìn xuống, làm như chồng giấy tờ kia sẽ xác nhận tất cả chuyện này, Morton cứ nhìn mãi cái dầu hói của ông giám đốc.

Trong vòng ít hôm nữa sẽ đến ngày sinh nhật thứ bảy mươi của Steve, Ông thường làm cho cụ ngạc nhiên khi đột ngột xuất hiện, mua quà tặng ông cụ, điều này làm cho ông hài lòng vô cùng.

Lần đến thăm vừa rồi là ngày giỗ đầu của Ruth, Sau bữa cơm tối, Steve ngồi trong ghế bành, ông cụ nói đã có sự phục thù và báo oán.

Cái này được kinh sách cho phép, cái kia lại không, Morton để mặc ông cụ nêu luật lệ ra, nêu các học giả ra, ông không muốn tranh cãi rằng Raza không hành động theo luật lê của môn phái Mainonides hay của Rashi.

Bitburg nhìn lên :

— Za, David à, chỉ có thế Có thể nó nói ,đến ai đấy,

đến chỗ nào đấy, đến cái gì đấy.

— Thật tình ông tin như thế à, Walter ? Morton

hỏi nhỏ nhẹ, mắt không rời khỏi Bitburg Phải chăng ông

nghĩ rằng tôi không biết khi nào thì nó nói về Raza à ?

Ông cho tôi không biết bọn A Rập kia là người của hắn à ? Ổng thực nghĩ như thế sao ?

Bitburg đặt mấy cái thẻ xuống, ông ta nói :

— Nhưng tôi cần nhiều thứ hơn nữa trước khi tôi đi gặp Thủ tướng.

Người thứ ba ngồi nơi bàn nhún vai, Morton luôn luôn thích cái lối Danny Nagier tỏ vẻ khinh khi bằng cách nâng một bên vai lên như thế. Ông ta nói :

— Thưa ông giám đốc, tin chặn được của chúng tôi rõ ràng cho biết đã có hai triệu đô la chuyển đến ngân hàng Thái đấy.

- Đối với một người bao giờ cũng nghe tiếng thì thào, thì giọng của Danny lớn thật.

Đôi mắt của Bitburg trở lại bình thường hơn, ông ta đáp lại :

— Nhưng nguồn tin chặn được của anh không cho biết số tiền dùng để làm gì hết.

— Nhưng nguồn tin chặn được của anh không cho biết số tiền dùng để làm gì hết.

— Đúng, chúng tôi không biết, Nhưng tôi cam đoan là David đúng đấy.

- Danny nói sang sảng.

Trong trận chiến tranh Yom Kipper, ông đã mất một con mắt, hốc mắt được che bằng một miếng bông băng, Tuy vậy, năng lực điêu khiển mạng giám sát điện tử của cơ quan Mossad vần không giảm sút, ở tuổi năm lăm, ông vẫn còn chỉ huy từ ngoài tiền tuyến.

Danny quay qua nói với Morton :

— Anh cho là có bao nhiêu vi rút bênh than B.c chứa trong cái túi xách ấy ?

Morton đã nghĩ đến chuyện đó khi ông rời khỏi khoảng rừng trống.

— Tôi đoán khoảng một cân Anh, Chỉ cần hai lạng thôi, nếu rải chính xác, có thể giết chết hàng ngàn người, Một cân, giết đến hàng chục ngàn người, mà có thể nhiều hơn nữa.

— Lạy Chúa !

- Danny buột miệng kêu lên.

Cặp mắt của Bitburg lại láo liên lên :

— Nhưng mà chúng ta không biết, Cái cặp ấy có thể đựng cái gì đấy chứ ! Theo tin tình báo cho biết thì hắn ta không làm những công viêc đặc biệt như thế đâu.

Việc xảy ra ở Luân Đôn và ở Berlin đã làm cho hắn đau đớn quá rồi, Nơi nhờ cậy của hắn là Saddam cũng hết rồi,và nhiều chuyện như thế nữa, Nếu Raza có làm gí thì hắn cũng chỉ che chở cho bọn buôn lậu ma túy mà thôi.

Bitburg ngồi tựa lưng vào ghế,nhìn Morton rồi nhìn Danny, nhưng không bao giờ để cho cặp mắt được yên ổn, Ông ta nói tiếp :

— Người Mỹ, người Anh, đêu nói như nhau. Hai vụ thất bại đã bó tay Raza rồi. Còn những vị tu sĩ Hồi giáo kia, nếu chỉ,có được một nửa khả năng như các anh nghĩ thôi, họ cũng không muốn giao tiền cho Raza.

Morton lắc Đầu, Ông Walter, hắn là một thằng khủng bố mà, Hắn ráng hết sức hành động, Hắn cam đoan việc leo thang nếu những yêu cầu của hắn không đạt được, Và hắn bỏ qua hết lời chê bai dè bỉu, Việc tôi biết chắc là hắn sắp làm một vố khác.

— Phải có bằng chứng, David à, Bằng chứng của anh đâu đã chứ ? Cứ cho tôi thấy bằng chứng, tôi sẽ đến gặp Thủ tướng ngay.

Danny lại nhún vai, Morton vòng hai tay, nhìn Bitburg lại tiếp tục đọc.

Sau khi Morton đi Bangkok bay về Tel Aviv, ông dã dành một buổi sáng để viết báo cáo rồi nói tóm tắt lại như mọi khi, Người luật sư trẻ trong ban đánh giá công tác đã nêu những câu hỏi rất hay.

Cô ta khiến cho ông nhớ đến Shola. Sáu tháng sau ngày Ruth mất, ông đi tìm những tên làm bom của Raza ở Beirut. Shola đang còn mới mẻ ở ban đánh giá công tác, và ông đã định vị trí chính xác cho cô ta biết những chỗ bọn khủng bố đang hoạt động.

Những chiếc máy bay ném bom Mirage đã đến giội bom tiêu diệt những nhà máy, Trong lúc ông dẫn Shola đi ăn tối, ông mới biết cô ta cũng là một kẻ sống sót trong các trại tập trung thời Stalin, chuyện bắt đầu đơn giản như thế.

Bốn tháng sau họ cưới nhau, Ông tự nhủ đây là khởi đầu cho một bình minh mới, Ông đã tin tưởng như thế, cũng như ông không nghi ngờ có gì sai lầm hết, cho đến ngày ông ra khỏi nước IRắc và thấy Shola đã đi rồi, cô ta đến ở với cô em gái ở New York.

Cô ta để giấy lại nói rằng cô không thể Sống như thế này nữa, Sáu tuần sau, một luật sư ở Bronx viết thư cho ông, báo Shola muốn ly dị.

Ông không chống đối, chỉ gởi đến cho cô ta những thứ cô ta yêu cầu, Mười hai thùng, mỗi thùng sắm trong một tháng, trong thời gian họ sống chung.

Bitburg ngước mắt nhìn :

— Xem đây thì chẳng có gì để làm cho tôi thay đổi ý kiến được đâu.

— Chả có gì nữa hết, ông Walter à. Trừ phi ông muốn có những cuộc tấn công xảy ra.

Bitburg không thích những chuyện về bạo động, những chuyện này với những học thuyết hay ho về chính trị trên toàn cầu làm cho ông bực bội, Ông ta đáp :

— Cám ơn anh, không phải thế.

Lại im lặng nặng nề tràn ngập căn phòng, chẳng khác nào bộ áo quần màu đen sẫm đắt giá của Bitburg hết, Ông ta lên làm giám đốc sau một đợt thanh lọc xảy ra như bao nhiêu lần đã xảy ra trong cơ quan mật vụ Mossad.

Morton nghĩ ông ta thật như một chủ ngân hàng, Cái gì cũng trên giấy tờ, Cái gì cũng cần giấy tờ để kèm vào hồ sơ,

Bitburg đằng hắng giọng, ông ta bị cảm nắng, Ông nhì Morton :

— Nếu tôi có sai, xin cứ góp ý, Tôi nghĩ là nếu chữa trị kịp thời thì chất pênixilin cũng có thể dùng để chữa trị bệnh than được chứ ?

Morton trả lời một cách chính xác và chắc chắn :

— Người Trung Hoa đã quả quyết rằng không có thuốc gì trị được vi rút bệnh than B.c này hết.

Các chất trụ sinh làm hủy diệt hê thần kinh, atropine và prelidoxine cũng vô dụng, Đó là chưa kể đến những thứ thuốc trị các vũ khí hóa sinh khác, Nhưng có khả năng chất men hóa học PEG trị được vi rút này.

Chất men này là một phó sản khi nghiên cứu thuốc trị bệnh AIDS hiên nay, Theo lý thuyết thì nếu phát hiên ra vi rút bệnh than B.c vài giờ khi mới nhiễm phải, thì có cơ may dùng men này trị được.

Cứ cách sáu giờ lại dùng một liều lớn trong vòng bốn mươi tám giờ liền, Còn thực tế, thì chưa ai biết rõ, Nhưng tôi vẫn yêu cầu các phòng thí nghiệm của tôi sản xuất ra chất men này một số tạm đủ dùng, ít ra thì với cách này chúng ta cũng chuẩn bị sẵn sàng để đối phó, Tôi lại còn yêu cầu các đồng minh của ta tích trữ chất men này nữa.

Đôi mắt Bitburg lại láo liến làm như ông ta sắp giành dược thắng lợi vậy, Ông ta nói :

— Rồi chúng ta sẽ được gì? Một phương thuốc ma túy có thể thắng mà cũng có thể thua chứ ? Vả lại hết sức tốn kém để sản xuất ra, có phải thế không ?

Từ nét mặt cho đến giọng nói của Morton đều dứt khoát :

— Rất tốt, Và đúng thế đấy, công việc không hoàn toàn đảm bảo.

Giọng của Bitburg trở nên nhẹ nhàng như mái tóc của ông ta.

— Thế mà anh vẫn muốn mọi người lao vào sản xuất chất này à ?

— Vì đây là việc làm duy nhất hợp lý mà thôi.

— Việc làm duy nhất hợp lý ? Bitburg lặp lại David à, thỉnh thoảng tôi ước chi anh đừng có vẻ là dân Anh quá như thế.

Anh đã đi quá xa khỏi nơi chôn nhau cắt rốn và xa đức tin của anh rồi, bố tôi thường nói thế đấy, và anh đi xa những điều quan trọng rồi.

— Ông Walter, đi học ở Cambridge không làm cho tôi kém thua một người Do Thái đâu, Có điều là việc đi học cho tôi ý thức được rằng, đức tin không phải là một nhà tù thì có.

Bitburg gượng cười :

— Anh lý luận như một tín đô Cơ Đốc.

— Tôi hy vọng tôi nói giống như kẻ nào đó muốn ông hành động theo yêu cầu của tôi thôi.

Bitburg nhìn xuống đống giấy tờ, nơi trú ẩn của ông

ta. Danny quay sang phía Morton, Ông hỏi :

- Muốn bao lâu để sản xuất ra đủ lượng chất men ấy?

Nếu các phòng thí nghiệm làm suốt ngày đêm thì mất mười ngày, Danny à. Chừng ấy sẽ đủ dùng cho mọi người, đàn ông, đàn bà và trẻ em trong nước, Tôi không biết các đồng minh sẽ làm trong bao lâu ?

Bitburg ngước mặt lên :

Ở đây chẳng có gì để phải ủng hộ cho cái hành động cực kỳ cấp thiết này hết, Nhìn xa thấy rộng là một viêc rồi, nhưng những vấn đê anh nêu ra đây còn thuộc vào những vấn đề hóc búa khác nữa, David à, Những ai nhìn vấn đê cũng đêu cho rằng anh đã ngăn chặn một vụ buôn bán ma túy ở trong khu rừng trống hết.

Morton im lặng một Hôi mới đáp :

— Tại sao chúng ta không đem việc này đến trình với Karshov, Hãy để cho ông ta quyết định, ông Walter à.

— David, Thủ tướng đợi "tôi" quyết định mà.

Ánh sáng chói chang trên đầu làm nổi rõ mạch máu trên trán của Bitburg đang nhảy.

Chiếc đồng hồ trong văn phòng của Bitburg đánh báo nửa giờ, Ông đã được tặng chiếc đông hồ tủ đứng nậy nhân kỷ niêm sinh nhât thứ sáu mươi của ông, thảo nào mà Bitburg cứ mại say sưa trong những quyết đoán của mình.

Ông giám đốc đằng hắng giọng, rồi nói :

— Còn những đứa bé, không có cách nào báo đông cho chúng biết à ?

— Không, không có cách nào hết, ông Walter à.

— Ra thế, Hy vọng chúng ta không chịu trách nhiệm về cái chết của chúng, Việc này chắc sẽ gây...

— Tôi không giết chúng đâu, ông Walter.

Danny phá tan bầu không khí yên lặng :

— Có thể một nhà khoa học ở Quang Du đã được hối lộ, thưa ông Giám đốc...

— Tại sao nhân viên của anh không bắt được tên xách cặp — Bitburg nhanh nhẩu hỏi lại ông ấy.

Danny nhún vai rồi đáp :

— Nhân viên của tôi tuyệt lắm, Nhưng chỉ Chúa mới có phép lạ mà thôi.

— Tên xách cặp có hàng trăm cách về nhà, ông Walter à, Morton đáp:

- Không có một hệ thống giám sát nào kiểm soát cho xuể đâu, Và Danny nói đúng đấy : Chắc có lẽ chúng đã mua một khoa học gia.

Bỗng đôi mắt của Bitburg đăm đăm như bất động.

— Chắc có lẽ à, David ? Nhưng vẫn không có bằng cớ phải không ?

Morton nhìn Bitburg chằm chằm, không nói gì.

Ông giám đốc lại nói, giọng hết sức nhẹ nhàng :

— Muốn đem chất ấy ra ngoài chắc là người ta phải hối lộ cho rất nhiều người, Và như thế chuyện rất dể bị tiết lộ, Mà theo chỗ tôi biết thì Quang Du nổi tiếng là nơi bảo mật rất cao.

Morton thở dài, đáp :

- Cũng vì thế mà họ không muốn để lộ ra ngoài, Hai tên đi gác ấy chắc là người của nhà khoa học kia, Chắc ông ta phái họ đi để xem nhân viên của Raza có hành động đúng theo thỏa ước không.

— Đấy chỉ là suy đoán mà thôi, Nhưng cứ cho là anh không chấp nhận ý kiến cho đây là một vụ buôn ma túy, thì anh hãy suy nghĩ về ý kiến của tôi đi.

— Dĩ nhiên là tôi không có bằng chứng xác đáng để đưa cho ông, ông Walter à..

Nhưng nếu tôi có quả quyết trong việc này thì đấy là do linh cảm của tôi mà ra, Linh cảm cho tôi biết chắc Raza có thể đã có một lượng vi rút bệnh than B.c rồi.

Bitburg giật nẩy người lên :

— Có thể đã có à, David ? Anh muốn tôi đến gặp Thủ tướng để nói là Raza "có thể đã có" chất này à ? Rồi Thủ tướng sẽ báo cho Washington, cho Luân Đôn, và cho các đồng minh rằng "Thưa quý Ngài, chúng tôi "có thể đã có" một tay khủng bố "có thể đã có" loại vi rút bệnh than mới" này ư ? Rồi người ta sẽ phái nhân viên đến Negev một cách vô lối ư ?

Tôi cần nhiều bằng chứng có giá trị hơn thế, David à, "nhiều" hơn thế, Anh biết là, tất cả chúng ta đêu biết, mối quan hệ của ta với đông minh không còn như xưa nữa.

— Ông Walter này, đường lối chính trị tôi xin nhường cho ông và Thủ tướng, Tôi chỉ biết là mối đe dọa dùng vi rút bệnh than của Raza chắc là không chỉ nhắm vào chúng ta mà thôi đâu, Cả thế giới đêu đang bị đe dọa đấy.

— Anh muốn phổ biến cho thế giới biết ư ?

Morton ngồi yên lặng một hồi lâu, rồi ông đáp, giọng bình tĩnh :

— Khi lão điên Khomeini được hoan hô nhiệt liệt, thì lão ta muốn IRan địch cả thế giới, Nhưng khi vụ Saddam xảy ra, thì những kẻ thừa kế Khomeini mới rút ra được một bài học, Đó là phương pháp để chiến thắng không phải mặt đối mặt, mà phải ném đá giấu tay.

Morton nhìn Danny, hỏi :

— Hai nguồn tin chặn được ở Li Băng ấy điều xuất phát từ Teheran phải không ?

— Đúng, từ giới tu sĩ Hồi giáo cả, của Ali Akbar Muzwaz. Để thu xếp việc chuyển hai triệu đô la sang Bangkok

- Danny đáp.

Morton quay sang nói với Bitburg :

— Chuyến đến Teheran vừa rồi của tôi, Muzwaz đã được bầu làm lãnh tụ của tập đoàn tôn giáo này, Bây giờ chúng đang kiểm soát số tiền dùng vào chiến tranh của Khomeini để gây rối thế giới.

Số tiền có thể lên đến một trăm triệu đô la, Một nửa các ngân hàng ở Geneve hiện đang cất giữ số tiền ấy, Và tất cả chúng ta đêu biết rất khó mà moi được tin tức ở các ngân hàng Thụy Sĩ, ông Walter à.

Bitburg miễn cưỡng phải khẽ gật đầu để xác nhận cơ chế trên thế giới này mà ông ta đã biết rất rõ. Morton nói tiếp :

— Những kẻ chủ trương học thuyết chính thống tàn bạo này không chịu bỏ cuộc dễ dàng như thế đâu, Họ đã biết cách không dùng đao to búa lớn nữa, mà lặng lẽ hành động.

Dĩ nhiên là khi chúng ta nói lên điều này ở Washington hay ở Luân Đôn, không kể đến Pari, thì chúng ta sẽ bị lên án là những kẻ chủ trương cứng rắn.

Danny gật đầu lia lịa, Morton lại nói tiếp :

— Tập đoàn tôn giáo biết cách khai thác vấn đề này, Làm sao để có hai trăm triệu đô la mới đáng kể, Tất cả những ai đặt hết tin tưởng vào vị lãnh tụ Hồi giáo đều ngóng chờ ở ngoài sa mạc hàng trăm năm, rồi đợi cái giờ phút truyền bá tinh hoa của đạo Hồi.

Những tu sĩ Hồi" giáo giảng cho tín đô biết lãnh tụ của họ chỉ làm được như thế nếu có một trận tắm máu, Nghĩa là trước khi vị lãnh tụ Hồi giáo trở về thì nước Israel "phải" bị tiêu diệt.

Nghĩa là người Do Thái cuối cùng phải bị đuổi ra khỏi đất nước này, Nhưng khi chiến tranh vùng Vịnh xảy ra, các tu sĩ Hồi giáo mới biết rằng phương Tây không bao giờ cho phép họ làm điêu này.

Cho nên tập đoàn tôn giáo cần phải tuyển mộ người nào có khả nảng làm cho phương Tây khiếp sợ, hết sức khiếp sợ,khiến cho cả Hoa Kỳ cũng phải ra sức thuyết phục chúng ta tự ý từ bỏ mảnh đất này, Tôi có linh cảm những tay tu sĩ này đã quay lại với Raza.

— Hắn sẽ được cái gì ? Danny hỏi nhỏ.

— Chắc là để được kính nể, Để được xác nhận có tài khủng bố, Nhân danh Thánh sứ mà giết người, là được Thánh hóa, Hắn sẽ được xem như một trong những vị anh hùng ghi trong kinh Coran, Raza sẽ được xem là một nhà đại ái quốc, hùng ghi trong kinh Coran.

Bitburg đằng hắng giọng hơi lâu hơn thường khí, Ông ta nói :

— Anh nhắc lại cho chúng ta nhớ cũng hay đấy, Nhưng chúng ta hãy trở lại công việc ở Trung Hoa đi, Những tin tức tôi nhận được từ cơ quan tình báo CIA, tình báo của Đức và Anh, những cơ quan này hoạt động rất nhiêu ở Trung Hoa, thì họ đêu cam đoan là họ không nghe một tin gì cho hay có vi rút bênh than đã lọt ra khỏi Quang Du hết.

Và mặc dù họ đã cố gắng hết sức, họ vẫn không tìm ra vết tích của tên xách cặp này , ông ta lấy lên một tờ giấy Theo yêu cầu đặc biệt của tôi, cơ quan CIA đã phái một toán đến khu rừng trống,Họ không tìm ra cái gì hết, Ngay cả một chiếc vỏ đạn.

— Tại sao ông lại yêu câu CIA tham gia vào việc này ?

- Giọng của Morton bình tĩnh đến rợn người.

— Vi họ là nhửng người thân cận với ta nhất, Vi tôi định...

— Ồng không được làm thế, ông Walter à, Không bao giờ được làm như thế hết, Ông không được làm công việc gì có dính dẩng đến công việc của "tôi" mà không tham khảo ý kiến của tôi trước.

Morton ngồi yên lặng, mắt dán vào Bitburg.

Khi cơ quan tình báo Mossad cử người sang tuyển ông vào năm ông đang học năm cuối ở Cambridge, thì ông đáp ứng liền lời kêu gọi lòng yêu nước, lúc ấy cơ quan đang được hoạt động trong vòng bí mật, hoạt động trên nhiều mặt trận và rất hiện đại hơn bất cứ cơ quan nào hết.

Nhưng ông cũng giao hẹn mình sẽ không nhận một công việc ở bàn giấy, Người đi tuyển mộ trả lời vấn đề sẽ dduoc bnf thảo sau.

Morton đã hoạt động ở bất cứ nơi nào quyền lợi của Israel bị đe dọa, Cuối cùng ông được mời làm một chức giảng dạy để truyền kinh nghiệm của mình, đông thời tạo cơ hội cho ông điều hành những cuộc hành quân.

Ông nhận cả hai nhiệm vụ với diêu kiện không nằm dưới quyền của ai hết, Những nhân vật tiền nhiệm của Karshov, thường là rất cứng rắn và rất thực dụng, đã bằng lòng, Nhiều vị Thủ tướng liên tiếp đã bằng lòng như thế.

Cuối cùng Bitburg đã gượng cười, ông ta nói :

— Tôi không có ý đồ xúc phạm đến anh đâu, David à.

Danny nhún vai.

Bỗng Morton cảm thấy mệt mỏi, mệt mỏi và vô bổ. Ông muốn kết thúc câu chuyện vô nghĩa này cho rồi, Ông nói :

— Cơ quan CIA phải biết rằng Raza là một tên tôi tớ

rất giỏi mới phải chứ, ông Walter, Nhân viên tại địa phương của hắn chắc đã dọn dẹp sạch sẽ chỗ ấy rồi.

— Rất đúng, Tôi sẽ gởi bản báo cáo của anh lên Thủ tướng, Nhưng tôi sẽ có ý kiến là chúng ta án binh bất động cho đến khi nào chúng ta có đây đủ chứng cứ rõ ràng.

Morton xô ghế đứng dậy, Bitburg lại có tác phong của một chủ ngân hàng, Không nói thêm một lời, ông bước ra khỏi căn phòng xám, Đã đến lúc ông đi gặp người Xi Ri rồi.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
601,786
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 4


Người dịch: Văn Hòa - Kim Thùy

Nhà xuất bản: NXB Thanh Niên

Shared by: Ankay -

Chiếc máy bay trực thăng được mệnh danh là Cỗ xe ngựa hai bánh của Morton bay thật thấp đã khuấy lên một lớp bụi mù ngoài sa mạc ở phía sau đuôi.

Morton hy vọng với độ cao như thế này, các đài ra đa của Jordan và IRắc sẽ lầm chiếc Long Ranger là một đàn lạc đà chạy đi tìm một, bãi cỏ khác để gặm.

Chiếc trực thăng được phủ một lớp sơn phản xạ lại sóng ra đa, và các bô phận chứa vũ khí hạng nặng được thay vào đấy bằng những thùng chứa nhiên liệu phụ để máy bay có thể bay được xa vào tận những vùng rộng mênh mông ở phía Bắc của IRắc.

Bảo vệ cho chiếc Long Ranger chỉ có hai may bay ném bom Eagles và Tornadors, Morton thoáng thấy đường bay ngược lại của hai chiếc này ở trên cao sáu dăm, Nhưng khi chiếc Long Ranger đến tận dãy Dead Mountains thì các may bay hộ tống phải quay về, Đến đây, không có cách để cho họ bảo vệ được chiếc "Cỗ xe ngựa" của Morton nữa.

Morton mải nhìn ra ngoài cửa sổ ở ca bin máy bay, ống giả vờ không nghe những lời trao đổi chuyên môn của phi hành đoàn ở trước buồng lái, Hai người phi công đã nói cho ông nghe chính xác khi máy bay bắt đầu cất cánh ở căn cứ tại phía bắc Tel Aviv.

Một lớp mù xám đã phủ khắp thành phố, Người ta nói rằng đấy là do một lớp khói xe hơi trộn với khí Ô-zôn ở biển tạo nên, Ông đã biết rõ hơn nữa, Lớp mây độc hại này là do hơi thở dơ bẩn của những tên Bitburg trên thế gian này thải ra mà tạo nên.

Chúa thừa biết Morton không phải là người theo chủ nghĩa phục quốc Do Thái, Ông, không tìm lấy niêm tin của mình bằng cách tiêu diệt niềm tin của kẻ khác, hay là bám vào niềm tin mù quáng.

Bốn năm học ỏ Cambridge đã cho ông thấy rằng có cái gì đó quan trọng hơn điều này, họ đã dạy cho ông ý nghĩa của sự tự do chân chính, Và cũng bao gồm cả quyền được sống và đề cho người khác có quyền được sống.

Ông có thể qua mặt Bitburg để đi thẳng đến Thủ tướng, Nhưng làm như thế, ông lại sợ có nguy cơ sinh ra cảnh gây bè gây phái, vì cũng có nhiêu người ủng hộ Bitburg và những người này lại ra sức để bảo vệ cho người của họ.

Nhưng Bitburg cũng đúng khi ông ta nói mối liên hê giữa Israel với Phương Tây đã bị lỏng lẻo, Mặc dù cuộc chiến ở vùng Vịnh đã rành rành ra thế, nhưng Phương Tây vẫn cứ nhất quyết tin tưởng rằng họ có thể hợp tác sống chung với phe Hồi giáo chủ trương quân sự được.

Khi George Bush và John Major đang tại chức, hai vị còn cứng rắn, nhưng đến nay thì người ta đã thấy một người A Rập ngoi ở đại lộ Dovvning và nhiều người A Rập khác xuất hiện trong tòa Nhà Trắng để cai quản chiến lược và sách lược của chính quyền hiên tại.

Họ cho rằng Hồi giáo phải được hòa đồng vào thế giới, Trong lúc đó, người Israel không nên ngăn cản, Họ cảnh cáo rằng cơ quan Mossad nên để yên tình hình như thế.

Trong lúc này thì những người ngang trang lứa với ông ở Phương Tây cứ đòi cho được bằng chứng, Cho nên đã xày ra biết bao nhiêu vụ đáng tiếc, Họ cứ đòi cho được bằng chứng mới ra tay hành động, mặc cho ông mất công cảnh cáo họ, Cơ quan tình báo nào cũng có loại người như Bitburg cả.

Morton lo sợ những chuyện sẽ xảy ra, nếu Phương Tây không cảnh giác về Raza, Phải có nhiêu cuộc họp với nhau đã, Phải cử người đi sang Trung Hoa đã.

Người Trung Hoa thế nào cũng chối bai bải họ không chế ra thứ ấy, Họ đã chối hết những gì họ làm, vì đấy là sách lược của họ, Rồi sẽ có một buổi họp kết thúc, Và ý kiến đưa ra là : Phải đợi cho có bằng chứng bảo đảm rồi mới hành động Đó là giải pháp của Bitburg.

Bốn mươi phút sau khi vào không phận IRắc, chiếc Long Ranger bay trên những quả dồi thấp đẳu tiên : Bên kia xuất hiện sườn đá của dãy Tử Sơn (Dead Mountains), những đỉnh núi đá lởm chởm chen chúc nhau vươn lên, lộn xộn, xấu xí, như là ý Chúa muốn tạo nên dãy núi này để hình thành cái khác có giá trị hơn, Những ngọn núi sẫm đen, hiểm trở lồ lộ dưới ánh trời chiếu nóng bức.

— Lực lượng bảo vệ không phận của chúng ta đã quay về Giọng của viên phi công vang lên trong tai Morton.

Ông đứng dậy, thò đầu vào trong buồng lái, Trên màn ảnh ra đa, những đốm sáng cuối cùng cũng đã biến mất, Màn ảnh trống trơn một hồi lâu.

— Trong vòng hai giờ nữa, họ sẽ trở lại tìm chúng ta

- Morton nói trong micrô để cho họ an tâm, Trong những giây phút như thế này, không tránh khỏi có cảm giác lo âu, trông mong có sự giúp đỡ từng giây từng phút.

— Chúng ta hy vọng thời tiết ổn định, Người phi công lên tiếng nói vừa đưa mắt nhìn lên màn ảnh ra đa, Có dấu hiệu rối loạn trên đầu chúng ta chừng hai trăm dặm, Trông có vẻ một cơn bão lớn đang thành hình.

Morton ngẩng dầu lên. Bầu trời trong sáng, nhưng màu xanh đậm đã ngả sang màu trắng và nhiều nơi đã nhuộm màu vàng, Bên kia núi, có nơi gió đã thổi mạnh, tung lên trời những luồng cát khổng lồ.

— Dãy núi có thể làm lệch hướng gió về phía chúng ta Người phi công nói.

— Hy vọng như thế, Người phụ lái đáp, Có lần tôi gặp một cơn cuồng phong trong sa mạc Sinai...

— Các anh đã thấy dấu hiệu gì của thung lũng hẹp chưa ?

- Morton thình lình nói để cắt ngang lời của người phụ lái Không phải lúc kể chuyên hãi hùng.

Người phi công phụ quay lại nhìn bản đồ ở trên đầu gối, Bên kia thung lũng hẹp, người Xi Ri đang đợi Morton.

Không bao giờ người ta hẹn gặp ông một địa điểm đến hai lần, Nhưng việc hẹn gặp thì vẫn giống nhau, Hôm trước ngày gặp nhau theo kế hoạch đã được ấn định, người Xi Ri đăng một mục quảng cáo bí mật có kèm một câu thơ trên tờ nhật báo Ai Cập, tờ Al Abram, Câu thơ nói đến nỗi đau khổ của con người, khiến cho Morton tìm đến dãy Tử Sơn.

Vùng hoang địa thê lương toàn là những khe rãnh khô cằn, những đường nứt nẻ sâu hoắm này sẽ chứng kiến cảnh họ gặp nhau.

Vị hoàng đế đầu tiên của Babylon đã phát điên lên ở đây, Người Philistine, người Phoenicie và người La Mã, Đả chứng kiến vị sư tổ quân đội của họ tại vùng đất cháy khô nẻ này.

Dân tộc của Morton khi bị xua đuổi ra khỏi vung Đất Hứa đã sống lang thang ở đáy, hàng ngàn người đã chết đói chết khát, Rồi mấy thế kỷ sau, những chiến sĩ Thập Tự Chinh cũng đã thất bại, không chinh phục được những vùng đất hoang vu, toàn đá, cằn cỗi này.

Người Xi Ri đã tìm một pháo đài để làm chỗ gặp gỡ, Pháo đài nằm tít dằng xa của rặng núi.

Khi họ đến gần hơn, Morton thấy đá màu đỏ thẫm rắn chắc vỡ ra để lộ những thung lũng hẹp, những hẻm núi, những miệng hang tối om ghê rợn chạy sâu vào trong núi.

— Các anh tìm một đường rãnh từ một sườn núi đá chạy lên, có lẽ cách mặt đất chừng một trăm rưỡi thước

- Morton nhắc phi hành đoàn.

Dãy núi bắt đầu tỏa bóng đêm dài, cho nên khó tìm cho ra miệng hang.

— Xin cho tôi lại tọa độ đi

- Viên phi công nói.

Morton nhắc lại những chỉ dẫn mà người Xi Rị đã cho, Viên phi công kiểm tra lại tọa độ trên hê thống phi hành mà anh đã thảo ra trước đây, Chiếc Long Ranger đổi hướng, bắt đầu băng qua vách đá.

— Kia kìa !

- Morton la lên

- Bên trái kìa !

Chiếc Long Kanger từ từ bay về phía một triền đá và cát. Dãy núi nằm sát đấy, che khuất cả bầu trời.

— Đúng rồi đấy

- Viên phi công xác nhận.

Trước mặt là một lỗ nứt trong vách đá, vách đá chạy từ sườn núi đá thẳng lên, Miệng hang rộng chưa đày ba mươi thước, lỗ hổng thật quá chật đối với chiếc Long Ranger.

Morton nắm chặt một thanh chống khi chiếc Long

Ranger bay vào hẻm núi, Chong chóng máy bay tạo nên những luồng gió, xoáy từ bên này hẻm núi qua bên kia hẻm, Viên phi công điều khiển van bướm để giảm bớt tốc đô.

— Bật máy dò đường lên

- Người phụ lái nói.

Từ đấy, chiếc trực thăng chỉ còn lệ thuộc vào hai hộp đèn gắn ở hai bên hông máy bay để thấy đường trong những vách núi cao.

Trời mờ tối trong hẻm núi, Morton cảm thấy hai người phi công rất căng thẳng khi họ lắng nghe tiếng dội lanh lảnh liên miên trong vách đá và chăm chú nhìn máy vi tính hiện số ghi khoảng rộng trong hang.

Khi hẻm thu hẹp lại và gặp chỗ ngoằn ngoèo trong núi thì khoảng rộng thường không quá mười thước, Mỗi lần quẹo, ánh sáng mờ hơn, họ lại cứ nghĩ đến chuyện hẻm hẹp lại và mắc kẹt trong hẻm mất.

— Chúng ta cần đèn sáng

- Người phụ lái lên tiếng.

— Không đèn đuốc gì hết

- Morton đáp

- Một phi cơ tuần tra không phận của IRắc cách đây hàng dặm đường sẽ phát hiện chúng ta ngay.

Tiếng dội của động cơ đã làm cho những tảng đá chênh vênh và những phiến đá sứt rơi xuống, Từng đám đất đá nhỏ từ trên miêng hẻm rơi xuống hai bên thân chiếc Long Ranger.

Một tảng đá không lớn lắm rơi mạnh vào chong chóng, Morton nghĩ thầm : "Thế là xong !" Ông đã cố ý không để lại bản đồ tham khảo ở Tel Aviv, đội tìm kiếm chốc là không biết họ ở đâụ.

— Chúng ta ra khỏi hẻm rồi !

- Viên phi công la lên.

Trước mặt họ, những tảng đá nhẵn nhụi vươn cao lên thẳng đứng.

— Bay hạ xuống

- Morton ra lệnh

- Đường hầm chắc là ở phía dưới.

Khi nghe ông tóm tắt chuyến hành trình này, hai viên phi công nhìn nhau, không tin nổi, Khi viên phi công lên tiếng, giọng của anh ta cũng thế :

— Chúng tôi không biết đường hầm dài, rộng ra sao, và có bị tắc nghẽn không ? Không chứ ?

— Không nghẽn !

- Morton đáp một cách chắc nịch.

— Tôi cũng đã nghĩ ông sẽ trả lời như thế

- Viên phi công lắc đầu và cho máy bay hạ thấp xuống.

— Tôi đã nghe nói anh bay sát mặt đường vào phía tây Beirut, rồi bay ra mà, Còn chuyến bay này dễ ợt thôi

- Morton khuyến khích.

— Còn tôi thì đã từng nghe tiếng ngài rồi, thưa đại tá, Ai cũng phải thi hành ngay lệnh của ngài.

— Đúng thế.

Chiếc Long Ranger tiếp tục xuống thấp, Người phụ lái báo cáo :

— Khoảng trống dưới đất rộng chừng một trăm thước.

— Quá rộng rãi rồi

- Morton đáp

- Ông nhận thấy người phụ lái có vẻ căng thẳng, Chàng trai này chắc không quá hai mươi.

Khi bằng tuổi này, ông đã dẫn một trung đội tiến vào Cao nguyên Golan, Ông cũng sợ chứ, Ông chồm người tới, vỗ vào vai viên phụ lái :

— Cứ nhìn vào máy là anh yên tâm ngay.

— Thưa ngài, vâng

- Viên phụ lái đáp.

Morton cảm thấy nhỏ nhoi trước cảnh bốn bề núi đá chập chùng.

— Còn rộng bảy mươi lăm mét

- Giọng người phụ lái còn căng thẳng hơn.

— Mạnh dạn lên, con trai !

- Morton dịu dàng nói qua micrô ở gần môi ông

- Anh làm việc tuyệt đấy !

Bỗng một khối sinh vật xuất hiên trước chiếc Long Ranger, Người phụ lái hất đầu lui, Morton nói một cách chắc chắn :

— Dơi đấy mà, Anh chàng Xi Ri không nói đến có dơi ở đây.

— Hy vọng là dơi, thưa đại tá

- Viên phi công bình tĩnh nói

- Chúng ta sẽ xuống đến mức mỗi bên rộng sáu mét.

— vẫn còn rộng chán

- Morton nói.

Còn rộng sáu mươi mét

- Viên phụ lái lên tiếng.

— Kìa ! ngay trước mặt kia kìa !

- Morton reo lên.

Họ đã đến miệng hầm.

— Đến thật gần rồi, hảy bật đèn lên

- Morton ra lệnh.

Viên phi công cho chiếc Long Ranger bay lọt vào miệng hầm đá xong liền bật đèn pha cực mạnh lên.

— Khốn kiếp thật !

- Viên phi công la lên

- Còn cái gì đây nữa ?...

— Lại dơi nữa !

- Morton cáu kỉnh đáp.

những con vật giống chuột đeo trên nóc, trên vách hầm, Những con còn nhỏ chưa có lông nằm la liệt trên nên hầm, tạo thành một tấm thảm thịt dày cộm nhúc nhích gớm ghiếc.

Những dơi con rớt xuống chất thành đống khổng lồ rải rác khắp nơi.

Chiếc trực thăng đây ngập cả mùi hôi thối, những khuôn mặt của phi hành đoàn trông xanh lơ trong ánh sáng của máy móc trên máy bay.

— Chúng ta không thể nào vào được đâu

- Viên phi công phụ lầm bầm.

— Vào được mà, con trai !

- Morton cương quyết nói

- Trông gớm ghiếc thế thôi.

Đám dơi tán loạn nhào vào chiếc Long Ranger, Một con đâm vào kính chắn gió, Một vệt máu đỏ sẫm chảy xuống mặt kính.

— Cho gạt nước mưa chạy đi

- Morton ra lênh.

Hàng ngàn con vật liệng quạnh chiếc Long Ranger, Tiếng kêu đinh tai nhức óc vang khắp đường hầm, Tấm kính chắn gió đầy cả máu.

— Chúng bay lui !

- Morton nói

- Chúng ta cứ vào đi.

Đàn dơi bay lui, mang theo con Mắt của chúng đỏ rực như hãng triệu đốm than dỏ li ti.

Viên phi công phụ có vẻ khổ sở. Anh ta nói :

— Thưa ngài, xin vui lòng...

— Im đi, con trai, Lo mà làm nhiệm vụ đi !

- Morton nói the thé, Không đời nào đã đến đây mà ông lại quay về.

— Tôi vẫn để đèn sáng chứ ?

- Viên phi công lên tiếng.

— Chắc chắn rồi !

Chiếc Long Ranger vào đường hầm.

— Ôi, lạy Chúa !

- Viên phi công rít lên.

Morton cảm thấy da thịt sởn gai ốc, Hàng triệu mảnh

xựơng vụn của dơi nằm la liệt khắp các rìa đá, các ngóc ngách, các đường nứt trong hầm, Dưới nền hầm là cả một lớp xương vụn dày cộm.

— Nhện độc kìa !

- Người phụ lái la lên

- Nhung nhúc khắp nơi.

— Chúng không thể làm hại được anh đâu

- Morton nói, giọng khàn khàn.

Ánh sáng làm cho những con nhện thân hình càng phồng, đen thui tụt xuống đứng sắp dãy trên mặt hầm, những chân dài, có đốt lớn, chen chúc vào nhau, ngẩng cái hàm dưới lên thăm dò trong khoảng không.,Chúng nhai ngấu nghiến những miếng thịt dơi từ máy bay rơi xuống.

Những con vật này lại còn nhảy vào tấn công máy bay và chúng bị các cánh quạt xé xác ra.

— Chúng bám quanh cả máy dò đường mất, thưa ngài !

— Tăng nhịp nhảy lên xuống để hất chúng ra - Viên phi công nói.

Chiếc Long Ranger bay nhanh hơn, Tiếng ồn càng lớn.

— Làm thế được đấy

- Morton la lên.

Những con dơi lại đua nhau nhào vào chiếc Long Ranger.

— Tắt hết đèn đi

- Morton ra lênh

- Để chúng bớt sợ, Chỉ để ngọn đèn hiệu là được rồi.

Chỉ còn lại ngọn đèn đỏ báo hiêu trong đường hầm, Tiếng kêu hoảng hốt của bầy dơi vang khắp nơi.

— Khoảng cách bên hông máy bay chỉ còn một mét rưỡi thôi - Viên phi công phụ la lên.

— Bình tĩnh đi con trai. Chúng ta sắp đến rồi đấy

- Morton đáp.

Chiếc máy bay lảo đảo rồi rơi xuống vài tấc.

— Chắc cánh quạt bị trục trặc gì rồi

- Viên phụ lái la lên.

— Tôi sẽ cho máy bay trồi lên trụt xuống nhanh thêm

- Viên phi công đáp.

Chiếc máy bay bèn bay nhanh hơn, đàn dơi cứ liên tục nhào dầu vào máy bay.

— Nhìn kìa !

- Morton la lên, đưa tay chỉ ra phía trước, Trước mặt họ, lờ mờ có ánh sáng.

— Tiến lên !

- Morton lại la lên.

Chiếc Long Ranger chồm lên, băng qua bầy dơi rồi ra khôi hầm.

— Các anh muốn rủa tôi, cứ rủa đi

- Morton lặng lẽ nói.

Hai chàng phi công nhìn nhau, không nói, Họ lặng lẽ bay theo hẻm núi khoảng nửa dặm đường, rồi đến một mặt bằng toàn đất đá vụn trải dài đến tận chân trời, Pháo đài của đoàn Thập Tự Quân đứng bên mép dải đất đá này.

Viên phi công để cho chiếc máy bay lơ lửng trên không, anh ta nói :

— Không có cách nào chúng ta trở về theo lối ấy được.

Morton gật đầu :

— Chúng ta sẽ trở về qua đỉnh núi, Người IRắc không ngờ chúng ta đến theo ngõ này đâu, Chúng ta sẽ đi trót lọt trước khi chúng phát hiên ra mình.

Ông lấy cặp Ống nhòm trên giá ở phía sau viên phi công phụ, quan sát pháo đài, Chiếc pháo đài được xây bằng đá đẽo ngay trong núi, nên trông nó đã hòa đông với cảnh vật chung quanh.

— Ta xem thử nào,

- Ông nói.

Chiếc Long Ranger từ từ liệng quanh pháo đài, ngang tầm với các vị trí phòng thủ, Mái pháo đài đã mất, nhưng các bức tường thành vẫn còn rất kiên cố.

Những lan can phòng thủ ở phía đông vươn lên trên mép một vực sâu, Đường khe này trông như đã có từ ngày khai thiên lập địa đến giờ, và nó rất rộng đến nỗi ngựa không thể nhảy qua được.

Chỉ có một con đường vào pháo đài là một lối đi bắc qua vùng Tây lội, chỉ hẹp vừa một con ngựa đi qua mà thôi, Đằng sau pháo đài, núi đã tạo thành một dãy lũy che chắn thiên nhiên rất kiên cố, Ngoài súng đạn ra, khó có thể xâm nhập vào pháo đài.

— Cơn bão đang thành hình rồi đấy

- Người phụ lái quay lui khỏi máy ra đa, lên tiếng báo cáo

- Chưa dầy một trăm dặm và đang di chuyển về hướng chúng ta.

— Khi cơn bão đến đây thì anh đã được an toàn rồi

- Morton nói cho anh ta yên tâm.

— Ông muốn cho máy bay hạ ở đâu ?

- Viên phi công hỏi khi chiếc máy bay giáp vòng khu pháo đài.

Morton chỉ ra phía sau pháo đài, ông dáp :

— ĐỖ ở đấy !

Một nhà nghỉ mát được đục sâu vào trong đá khá rộng, vừa đủ chố trú cho một chiếc máy bay 747.

Khi họ bay ngang qua pháo đài, Morton trông thấy một con lạc đà ở sân phía dưới, Ngoài ra tất cả đêu chìm trong cảnh hoang hóa.

Viên phi công lái chiếc máy bay qua sân rồi lòn vào dưới một mái núi nhô ra, Những bức tường của nhà nghỉ mát khuất vào núi đá, Khi những cánh quạt ngừng quay, tất cả đêu im phăng phắc.

Morton nhìn đông hô :

— Tôi cần một giờ.

Ông quay lại lấy khẩu súng UZI, đẩy cửa cabin máy bay rồi nhảy xuống đất.

Mùi hôi thối làm cho ông muốn ói mửa. Chiếc Long Ranger có vẻ như vừa bay qua một lò sát sinh, Da và xương dơi bám dãy cả máy bay, ngoại trừ bộ máy, vì nhờ có lớp lưới báo quanh che chắn cho, Hai bên ở phía dưới máy bay đêu phủ một lớp lầy nhầy trắng bệch do xác hàng ngàn con nhên độc bám vào.

Morton bước ra phía trước chiếc Long Ranger, Hai viên phi công vẫn ngồi yên tại chỗ, Nhưng ông không để cho họ nghỉ ngơi, Họ phải hăng hái lên để chuẩn bị cho chuyến trở về.

— Các anh nên lau chùi cho sạch đi

- Ông nói to, rồi bước ra khỏi hang.

Băng qua một triền đá đen, tường của pháo đài vươn lên cao ngất, mặt đá còn nguyên vẹn và trơn tru vì đã được gió và ánh sáng mặt trời bào mòn.

Morton nhìn lên bầu trời, màu xám nhợt nhạt âm u đã giăng khắp, cát tung lên mờ mịt xa xa, Có lẽ gió ở đằng kia đang nổi lên, Còn ở đây, gió chỉ thoảng qua.

Ông đến pháo đài, vẫn không có bóng dáng ai hết không có ai ở cửa trên tường thành cao chót vót kia hết ở cánh cửa này, xưa kia những Thập Tự quân đã kéo thang lên, rồi bắn tên, rồi phóng lao xuống như mưa vào quân địch.

Người Xi Ri chắc đã nghe tiếng máy bay, Nhưng ông ta chỉ xuất hiện khi biết chắc chỉ có mình Morton.

Morton đi dọc theo bức tường, Bức tường cao như bức tường phía tây của pháo đài Herod ở Núi Đền tại jerusalem, và cũng được xây theo một kiểu cách như nhau : mỗi tảng đá khổng lồ đâu vào nhau mà không cần hồ vữa, Steve đã cho biết kỹ thuật xây dựng ở đây đã lâu đời như nước Isarael vậy.

Bầu trời bên trên đã ngả sang màu chì, Ông nhìn lui về phía chiếc Long Ranger, Một sườn đá nhô cao đã che khuất tầm mắt.

— Xin chào !

- Ông la to lên bằng tiếng A Rập.

Vẫn không có tiếng trả lời, Ông ghé miệng vào khe hở của đá rồi gọi to lên, Tiếng gọi của ông dội qua tường vang lên ở trong pháo đài, rồi tắt đần, Lại im lặng.

Ông đi vòng một góc pháo đài, đến một cánh cửa, Có một bãi phân lạc đà còn mới gần lỗ tường hổng, Ông bước qua cửa, vào trong sân.

Sân lát bằng đá phiến, mỗi tấm rộng đến một mét vuông, Nên sân thoai thoải lên đến một cánh cổng vòm, Hẳn đây là một kho chứa đồ.

Morton bước qua cửa vòm, Bên kia lại một phòng khác cũng lát bằng đá phiến, trống trải giữa trời, Không khí ở đây, từng quá yên lặng, nay đang nổi gió tung cát trên mặt đá phiến lên, Nhìn lên trên pháo đài về phía khoảng trống xa xa, bầu trời đã ngả màu đen ảm đạm.

Con lạc đà ở trong phòng kho thứ ba, buộc dây ở chân,

Morton lại gọi bằng tiếng A Rập, vẫn không có tiếng trả lời, Con lạc đà bước đi khó khăn, nó nhe rãng với Morton vừa đi về phía cánh cửa vòm khác.

Bên kia là một lối đi hẹp.

Ông hầu như không trông thấy một con rắn hổ mang ở sa mạc, Nó có màu đá, đang nằm cuộn tròn bên mép một lỗ vuông vức đen sì trên nền nhà.

Nó vùng dậy rất nhanh, vươn mình lền cao đến tận mặt ông rồi trườn tới, Cái lưỡi thè ra thè vô lia lịa, và từ trong họng phát ra tiếng rít nho nhỏ như là tiếng hơi nước phì ra.

Chỉ một phát súng, con rắn bay cái đầu, Nó vẫn vùng vẫy rồi rơi xuống hố, Ông nghe tiếng thân mình nó va vào thành giếng, Rồi có tiếng nước tung tóe lên từ dưới cái giếng thiên nhiên đã từng cung cấp nước cho pháo đài.

Morton tiếp tục leo lên đến một lối đi hẹp, Những bậc cấp trong lối đi này dẫn đến đỉnh pháo đài có lỗ châu mai, những lỗ hổng hẹp cách đều nhau dùng làm chỗ cho xạ thủ bắn cung.

Ngay phía trước, có một ngưỡng cửa trống, rộng hơn và uy nghi hơn những cửa khác, Đây là cửa vào một tiền sảnh nơi những Thập Tự quân để vũ khí trước khi vào phần thánh đường.

Morton bước vào tiền sảnh, ông dừng lại nhìn những hình khắc vào mặt đá, những hình đã có trên một ngàn năm nay, Những hình chạm sư tử, thiên thần, những cây kè và những hình người mặc áo choàng hai tay chắp trên ngực hay là đang cùng nhau cầu nguyên.

Và hình Chúa Cứu Thế khắp nơi : Chúa ở Gethsemane, Chúa ở Calvary, Chúa phục sinh...

ở bên kia, người Xi Ri ngồi ngay tại gian giữa của thánh đường, Ông ta mặc chiếc áo dài rộng thùng thình đài

các của bậc vua chúa ở ngoài sa mạc, Ông quấn cái khăn trùm đầu, vải trắng xõa quanh mặt.

— Xin chào Morton. Rất sung sướng được gặp anh.

Giọng của người Xi Ri nhẹ nhàng khiến ta phải ngạc nbiên vì thân hình của ông ta rất to lớn, Mặc dù chiếc áo xếp nếp nhiều nơi, nhưng người ta vẫn thấy được thân hình đô sộ cường tráng của ông, Khi còn sinh viên, ông từng là võ sĩ quyền Anh hạng trung của trường Đại học Yale, Dù đã trải qua nhiều nãm ở đây, nhưng tiếng Anh của ông vẫn chưa được thuần phục.

Morton bước đến.

— Ông thật khéo chọn nơi gặp gỡ.

Người Xi Ri cười :

— Không ai ngờ sẽ gặp một người Do Thái và một người Hôi giáo ở đây hết.

— Ngoại trừ một con rắn

- Morton nói cho ông ta nghe về con rắn hổ mang.

Người Xi Ri lôi trong áo ra một con dao găm.

— Tôi thích thứ này hơn

- Ông ta bỏ con dao lại vào áo.

Morton bước vào thánh đường, Mái nhà hư hỏng rơi vương vãi trên riên đá cẩm thạch, Những hốc tường dùng làm lò hương đã đầy cả cát, Chỉ các trụ chống bàn thờ là còn khá nguyên vẹn mà thôi.

Bên trên bàn thờ có một cửa sổ nhỏ trống trải, hai bên có nhiều hình chạm vào tường, hình của Chúa Cứu Thế và thánh Madonna, 'và hình Chúa Cứu Thế trên Thánh giá. ,

Bỗng Morton cảm thấy mình đã xúc phạm đến chốn

linh thiêng đang bị tàn phá thê thảm này, Người Xi Ri lên tiếng ;

— Anh đã đỗ chiếc máy bay kín đảo đấy, Cơn "Shua" sẽ thổi đến đây ngay bây giờ

- Ông ta đã dùng tiếng lóng của người Badouin để ám chỉ đến cơn bão cát.

Morton gật đầu, Bên ngoài cửa sổ, mây đen đã giăng khắp bầu trời, bên dưới lốm đốm những vết đỏ quạch, như màu rượu chát đỏ.

— Đến đây

- người Xi Ri nói

- Đây là chỗ tránh bão an toàn nhất.

Ông ta lại bước ra ngoài tiền sảnh, rồi ngồi xổm xuống trước một bức hình Chúa Cửu Thế và một cặp sư tử đứng chồm lên, Ông ta lấy trong áo ra một điếu xì gà rồi loay hoay châm lửa.

Morton ngồi xuống bên cạnh ông ta đợi, Có những việc không nôn nóng được. Chỗ hai người ngồi khuất trong bóng tối, Một cơn gió nổi lên làm điếu thuốc lóe sáng và một làn khói mỏng cuộn lên.

Morton cười nhẹ.

— Ông làm phí điếu thuốc rồi đấy, Ông hút không đến nửa điếu thì cơn "Shua" ập đến cho mà coi.

Một cơn gió khác nổi lên, thổi vào má vào tóc ông ta, điếu thuốc lại lóe sáng lên.

— Tôi biết

- Người Xi Ri thở dài, rồi hít một hơi thật dài, Chốc chốc ông lại nhìn Morton, vừa hít thuốc Tin xấu lắm, Raza đã có vi rút bệnh than B.c rồi.

Một cơn gió mạnh thổi vào pháo đài rôi lại biến mất.

— Raza hiện ở đâu ?

Người Xi Ri lại hít một hơi thuốc dài.

— Không ai, biết ngoại trừ Ayatollah Muzwaz, Mà lão ta thì lại không nói.

— Raza sẽ dùng vi rút B.c khi nào và ở đâu ?

Người Xi Ri khẽ lắc đầu.

— Không đơn giản như thế đâu, Morton à.

— Cứ cho tôi biết đi.

Người Xi Ri hít một hơi thuốc nữa rồi nhắm mắt lại một chốc, Một cơn gió mạnh khác thổi vào pháo đài, Ông ta mở mắt ra.

— Giới tu sĩ đang bất đồng ý kiến về việc này, Có người biểu Raza dùng ngay vũ khí này, Lối này phù hợp với phương pháp chiến tranh Hồi giáo.

Có kẻ lại cho rằng hắn ta phải chứng minh cho được thành quả đã, vì hắn đã thất bại hai lần ở Luân Đôn và Bá Linh rồi, Họ nói vũ khí này quá quý, không thể để cho thất bại được nữa.

Một cơn gió mạnh thổi lên, kéo dài hơn, thổi thấp xuống mặt đất, rên rỉ, dai dẳng, lần đầu tiên cát cuồn cuộn xuất hiên, cát này đã được gió mang đến từ nơi cách đây hàng trăm dặm, tạt vào mặt Morton.

— Tập đoàn tu sĩ giống như cơn "Shua" này

- Người Xi Ri nói

- Rất mạnh, Họ đầu tư rất nhiều vào Raza, Cho nên họ cũng mong nhận lại thật nhiêu thành quả.

— Raza sẽ chứng tỏ ra sao và ở đâu ?

Người Xi Ri thở dài, ông ta lấy điếu thuốc trên miệng ra, Tro thuốc đã xoáy quanh đầu ông, Ông dụi tắt hai phần ba điếu thuốc còn lại xuống mặt đất.

— Raza không cho biết, Morton à, Chỉ biết là hắn sẽ cho thực hiện liền đây thôi.

— Khi nào ?

— Không ai biết.

Cơn gió nổi lên, gào rú quanh pháo đài, Tiếng ầm âm vang lên khắp nơi.

— Cơn bão đến rồi đấy

- Người Xi Ri la lên, nép người sát vào Morton Cát, sỏi, sạn, đá tung đây trời, Một cơn "Shua" lớn có thể mang đi cả những tảng đá nhỏ.

— Sau khi thử thách bao lâu hắn mới dùng vi rút ?

- Morton hét lớn bên tai.

Người Xi Ri.

— Không quá bảy ngay, Giới dung hòa ở trong tập đoàn tu sĩ cho rằng thời gian một tuần lễ là hợp lý, đủ để cho thế giới phải đáp ứng thỏa đáng những yêu cầu của họ.

Tiếng kêu ầm ầm càng lúc càng to, Bầu trời chỉ còn lại một màn đen tối om, Người Xi Ri nép mình vào trong một góc, kéo Morton theo với mình,

— Chúng có yêu cầu cái gì mới mẻ không ?

- Morton la lên.

— Chúng yêu cầu thêm về sách báo, phim ảnh khiêu dâm, Chúng muốn khắp thế giới phải cấm chỉ hết loại này, Bất kỳ hình thức nào, Ngay cả những thứ đơn giản nhất.

— Sẽ có rết nhiều người ủng hộ cho việc này, Người Xi Ri kéo khăn trùm đầu che lấy mặt.

— Đấy là những thứ họ yêu cầu, ông Morton ạ, Họ lại còn yêu cầu những điều cực kỳ lạ lùng nữa, như là phải loại Israel đi, và có quyền kiểm soát hoàn toàn những khu vực dầu lửa, những khu mỏ kim loại ngoài sa mạc Sahara và các vùng sa mạc rộng lớn nữa, rồi còn những điều tỏ ra ôn hòa hơn, Ví dụ họ muốn có một luật cấm ma túy khắp thế giới và họ muốn sự trừng phạt phải theo luật của Hồi giáo.

Morton lắc đầu.

— Không ai lại đi đồng ý luật chặt đầu tội nhân trước công chúng vào thời đại bây giờ hết, hay là xích tay cho đến chết ở trong ngục thất cả.

— Thế rồi những kẻ bảo thủ trong tập đoàn tu sĩ còn nói rằng, để làm trong sạch thế giới, không có cách nào thay thế cho biện pháp dấy lên một cuộc chiến Hồi giáo.

Họ rêu rao trong quần chúng của họ rằng, những giá trị cổ truyền và đức tin của họ đã bị hủy diệt, Những tu sĩ Hồi giáo cho là vãn minh vật chất Tây Phương và sự suy đôi đạo đức, là những thứ đang tấn công vào thế giới A Rập, những thứ này nhằm làm suy yếu A Rập, cũng như chúng đã làm suy yếu châu Phi và châu Á vậy.

— Phương Tây cũng có nhiều thứ sai.

- Morton đáp.

- nhưng người ta vẫn có quyền tìm hiểu để chọn lựa, Chứ còn bọn tu sĩ Hồi giáo này chỉ có việc dùng gươm để buộc người ta phải nghe theo mà thôi ! Chúng là bọn điên !

Morton quay mặt qua phía vai của người Xi Ri, ông kéo cái đuôi khăn trùm đầu phủ trên mũi và miệng của ông ta ra, rồi nhìn vào mắt ông ta Ông ta đáp :

— Hàng chục triệu người không nghĩ như vậy đâu, Morton ! Họ chỉ còn việc đợi châm ngòi nữa mà thôi, Và họ cũng như con bão này, không thể nào ngăn chặn được, Sỏi sạn bắn tung vào khắp người, Như muốn lột da người ta ra.

— Nếu tôi chặn được Raza...

- Morton nói.

Câu chuyện phải bị gián đoạn, vì cơn bão đã điên cuồng đổ sầm xuống pháo đài như một trận đại pháo bắn

vào, Những cơn cuồng phong mang theo sỏi đá tuông vào tiền sảnh, đổ vào thánh đường, nhào lên rồi bắn lui trở lại.

Một tia sáng xẹt vào khóe mắt của Morton, tiếp theo là một tiếng sét nổ ngay trên đầu, Những lằn sáng ngoằn ngoèo chiếu sáng những mảnh vụn đang quay cuồng trong không gian màu tía.

Những tiếng sét khác nổ lên vang trời dậy đất khắp pháo đài, những cơn sấm sét tiếp tục nổ tung đá làm cho pháo đài bị tách biệt khỏi thế giới bên ngoài, ' Mỗi luồng sáng màu tím chứa rất nhiều điện năng đó lóe lên, và tiếp theo một tiếng nổ ầm, rồi như thể là pháo đài đang bị một cơn pháo kích dữ dội vậy.

Morton và người Xi Ri ôm chặt lấy nhau khi cơn gió xoáy đang cố lôi tách hai người, như muốn kéo họ đi theo luồng gió, Cơn gió xé áo quần họ ra, làm rát cả da thịt.

Thế rồi bỗng cơn gió ngừng thổi vừa lúc ánh sáng lóe ra, Trong cảnh tịch mịch rợn người như thế, một tiếng kêu cất lên : tiếng kêu như vừa la hét vừa gầm rú của một con vật đang khiếp đảm.

— Con lạc đà của tôi !

- Người Xi Ri thét lên.

Trước khi Morton kịp đứng dậy thì người Xi Ri đã ra khỏi tiền sảnh, chạy theo lối đi xuống cầu thang rồi biến mất.

Thế rồi cơn bão trở lại khủng khiếp hơn trước nữa, Bất kể Morton tránh né như thế nào, sỏi đá vẫn liên tục đập vào ông, làm ông nghẹt thở, như muốn giết chết ông vì đã cả gan dám đến nơi này, Ông áp mặt vào tường, ông cảm thấy mình thiu thiu ngủ tại chỗ, không nghe tiếng gió thổi, tiếng sấm sét vang trời nữa.

Khi ông tỉnh dậy, bầu trời đêm dây sao hàng triệu đốm sáng in trên màu đen mịn như nhung.

Ông vùng khỏi cả một đống cát ngập đến nửa người, Miệng ông khô và sưng phồng, Đưa ngón tay sờ môi, những vết sưng phồng bám đầy cát.

Cố đứng dậy, ông cảm thấy quá mệt mỏi, rã rời tay chân, Khi ông cất tiếng gọi người Xi Ri bằng tiếng A Râp, giọng ông nghe khàn khàn, lo âu vô cùng, Ông gọi lại, gọi lại, vẫn không có tiếng trả lời.

Ông bò quanh tìm khẩu UZI, khẩu súng bị chôn vùi dưới một lớp cát, Ông lượm lên, thử xem súng còn hoạt động được không.

Ánh sao đủ sáng cho ông tìm đường bước xuống pháo đài, Thỉnh thoảng ông gọi người Xi Ri, vẫn không có tiếng trả lời.

Morton đến lối đi ông đã giết con rắn bãy Khi cơn bão trở lại khủng khiếp hơn trước, người Xi Ri đã nhào đầu vào bể nước, Ông ta bị gãy cổ, đầu xoay ngược lại ra phía sau.

Hai mắt người Xi Ri mở to, vô Hồn, trên khuôn mặt hiện ra nét kinh ngạc lạ lùng, Hàm ông ta vướng vào thành giếng khiến cho thân hình không rơi xuống giếng được.

Morton quỳ xuống, hai tay ôm lấy đầu ông ta rồi nhẹ nhàng nâng người Xi Ri lên, Thế rồi ông thả ông ta ra, Ông ta biến mất, thân hình va vào hai bên thành giếng rồi rơi tõm vào nước, tiếng nước tung tóe nghe to hơn tiếng của con rắn gây ra khi nãy.

về đến kho chứa hàng, Morton tháo dây cho con lạc đà, dẫn nó xuống dưới pháo đài, rồi thả nó ra, Chắc rồi sẽ có một gã chăn cừu người Bedouin nào đấy bắt gặp con vật, và anh ta sẽ không thắc mắc tại sao đấng Ala lại quảng đại với anh ta như thế.

Morton thấy hai người phi công đang đứng trước cửa nhà nghỉ mát đào trong núi, Phía sau họ, chiếc Long Ranger vẫn bình an vô sự, Ông gọi họ hỏi bằng tiếng Do Thái xem thử họ có bình an không, Họ trả lời bình an.

Đó là những lời trao đổi duy nhất giữa họ trên đường về nhà.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
601,786
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 5


Người dịch: Văn Hòa - Kim Thùy

Nhà xuất bản: NXB Thanh Niên

Shared by: Ankay -

Đã đến giờ phút trời tối nhất ở sa mạc Li Bi, Những vì sao cuối cùng đã biến mất, Ánh sáng lờ mờ chưa thấy xuất hiện ở chân trời.

Bóng tối mù mịt bao trùm xuống đầu Nadine, trời lạnh ngắt, Dân Bedouin gọi giây phút này là thời khắc của tử thần, lúc ma quỷ vẫn còn gieo rắc những nỗi kinh hoàng trong đêm, trước khi rút về mồ mả dưới cát, Chị biết sa mạc nằm lòng, cũng như chị đã biết rõ về mẹ chị, và cũng như Raza biết rõ về chị.

Chị cảm thấy sự hiện diện của hắn ta ở đây, Hắn chắc đang đứng một mình đâu đó, thu mình lại như một con báo ngoài sa mạc đang rình mồi, cái đầu của hắn như tạc ra từ đá cứng đang nghiêng nghiêng tới trước để nghe ngóng, cặp mắt đen nhánh lim dim để thấy rõ những gì không ai thấy nổi.

Năng lượng trong người hắn tỏ ra trong bóng tối như một vật có thể sờ mó được, có sức lôi cuốn người ta, như là hắn đang đứng trước đám đông kêu gọi, xách động mọi người vậy, Chị thấy hắn như có một năng lực thật siêu phàm, Raza hiện đang sử dụng năng lực này để làm cho những người lính mới phải khiếp sợ.

Hắn lặng lẽ đếm chúng khi chúng chạy vào vị trí, cứ mười hàng gôm, năm mươi tên, không có tên nào quá hai mươi tuổi, vài đứa chưa đến mười bốn tuổi, Số này mới tuyển ở các trại tỵ nạn tại Li Băng, Có vài đứa đã từng giết người, tất cả đêu tỏ ra hăng hái trong việc giết chóc này lắm.

Hắn đã hứa với chúng rằng trong trại huấn luyện này chúng sẽ học được cách giết người mà chúng không bao giờ tưởng tượng ra được, Nhưng vấn đê là không phải giết bằng dây thắt cổ, bằng dao, bằng đặt bảy mìn, bằng bom hay bằng súng đạn, mà chủ yếu là chúng phải giết người với tinh thần hoàn toàn có kỷ luật, Và như thế lậ khi đứng nơi thao trường, chúng không được động đậy.

Trong tuần lễ khi mới đến, những anh lính mới này đã phải đứng im lặng chú ý hàng giờ rồi, Những ai nhúc nhích là sẽ bị phạt bằng cách mang bao cát nặng trên vai đi giữa nắng trưa.

Những ai gục xuống, sẽ bị kéo đầu dậy, buộc phải tiếp tục đi, Nếu gục nữa, sẽ bị đánh đập rất tàn nhẫn, Đêm qua, Raza đã nói cho chúng biết rằng những hình phạt nhẹ nhàng đã qua.

Những anh lính mới về trại với tâm trạng ấm ức bết an, Bây giờ hắn đang chờ đợi có ai vi phạm đầu tiên, Tiếng giày di động trên sườn đá,tay thay đổi vị trí trên khẩu Kalashnikov, miệng mím chặt lại để khỏi run, Hắn có thể nghe những tiếng động nhẹ nhàng nhất, Chờ đợi, hắn thích thú trước nỗi run sợ của mọi người do hắn gây nên, hắn thích thú vì hắn đã có quyền, thích chi được nấy.

Raza liếc nhìn về phía Nadine đang đứng, Chị cao so với phụ nữ người Palestine, mái tóc dày màu hung quấn chặt dưới chiếc mũ lưỡi trai biệt kích, và thân hình kín đáo dưới bộ áo quần lao binh, Khuôn mặt chị, nước da tai tái và có

nét xinh xắn như một công chúa của vua Ai Cập.

Chắc chị đang chăm chú nhìn tới trước, Mặc dù không thấy được chị, nhưng hắn chắc thế nào chị cũng đứng như thế, vì hắn đã nói cho chị biết chị phải đứng như thế nào ngoài thao trường rồi, Nadine vẫn răm rắp tuân lệnh hắn.

Người em gái của chị, cô Shema, đã từng làm công việc rhư chị, Vì thế mà hắn đã chọn cô để mang những lệnh bí mật nhất của hắn đến cho các tên đứng đầu các chi bộ ở khắp châu Âu.

Hắn đã cho Shema ăn mặc đúng vai, ra lệnh cho cô ở tại những khách sạn hạng nhất và đi máy bay hạng nhất, Cô ta đã đóng vai cô con gái có học được cưng chiều của một triệu phú A Rập rất hoàn hảo, Cô ta đã chuyển giao những chỉ thị của hắn ở trong các bảo tàng viện và trong những phòng trưng bày hội họa.

Thế rồi cô gái đã quên mất vai trò của mình, cô xía vào các khẩu phần ăn uống kham khổ của những "Cảm tử quân" khi cô về lại căn cứ, cô phàn nàn về nhiệm vụ đứng quân anh gác và làm những công việc lặt vặt khác.

Vì Shema làm tốt công việc, cho nên hắn chỉ cảnh cáo cô ta, cho cô biết với tư cách như thế, cô sẽ không được tha thứ đâu, Thế rồi, khi hắn thấy cô ta tỏ ra kiêu ngạo với hắn trước những người khác, hắn bèn trừng phạt cô ta bằng phương pháp hắn đã dùng đối với các phụ nữ dưới quyền hắn.

Hắn giao Shema cho một phụ tả của hắn để ngủ đêm, anh chàng phụ tá này là người Sudan, đen nhẻm, anh ta rất sợ bản tánh tàn bạo và tính bạo dâm của hắn.

Sáng hôm sau, Shema đến tìm hắn để xin tha thứ, Hắn lặng lẽ, lạnh lùng nhìn cô ta, Cô ta đứng yên trước mặt hắn như một kẻ biết ăn năn hối lỗi, Sau một hồi, hắn nói với cô rằng hắn cho cô một dịp may cuối cùng nữa.

Sự thực là hắn không có người để chuyển những lệnh

mới đến cho một tổ chức đánh bom ở Đức, Hắn bảo Shemai bay từ Cairo thẳng đến Munich, Nhưng cô ta lại bay đến Franfurt.

Khi cơn giận về việc bất tuân của cô đã giảm bớt hắn mới nhớ ra Sheme rất thích khung cảnh những đồng quê trù phú, vì cô ta là một cư dân ngoài sa mạc, cho nên hễ có dịp là cô lại thích đi xe lửa để ngắm cảnh.

Điều mà cô ta không ngờ đến, là một tên trong toán của Nidal đã giết một tùy viên văn hóa của Israel ở Bonr, một giờ trước khi chuyến bay của cô hạ cánh.

Mạng lưới mật vụ của Đức đứng ở ga xe lửa Munich, khi xe lửa đến, họ bắt ngay cô ta, Máy vi tính của họ liền nhận diện ra cô ta ngay, Shema bị buộc tội, kết án tòng phạm vào vụ sát nhân, mà thật ra cô ta không dính dáng gì tới vụ này hết, Người Đức kết án cô năm mươi năm tù, Như thế cô còn phải ở tù thêm bốn mươi tám năm nữa.

Khi Raza nói cho Nadine biết những gì đã xảy ra, chị hết sức sững sờ, Hắn nhún vai rồi cho biết, làm cách mạng thực sự thì phải chấp nhận hình phạt như thế, Hắn thoáng thấy nét căm hờn trong đôi mắt to màu xanh lơ của chị, Nhưng rồi tất cả đêu qua mau, Hắn lại đề bạt chị lên, nhắc cho chị nhớ chị phải thi hành những gì hắn yêu cầu.

Khi biết chắc Nadine vẫn còn đứng như thế, Raza lại, càng thấy phấn khích thêm, hắn đưa mắt quan sát những hàng lính mới, Hắn đã nói với họ rằng chỉ có rắn, thằn lằn, bò cạp mới có thể không tuân lệnh hắn ở đây mà thôi.

Nadine cảm thấy uy tín của hắn tỏa ra khắp nơi, như đang cọ xát vào người chị, Và bỗng nhiên chị thây người nổi hứng lên, Ngoài thằng con trai đã hiếp chị năm chị 12 tuổi, thì chỉ có Raza là người duy nhất chị biết mà thôi, Lần đầu tiên hắn sờ mó chị tính đến nay đã sáu tháng rồi.

Sau khi hắn đã nói cho chị biết chuyện xảy ra cho Shema, Raza đã đi xa thêm một chuyến khác, Trước khi đi, hắn bố trí cho chị công việc trong bệnh viện của trại ở đây ít có việc làm, vì những "Cảm tử quân" hết sức khỏe mạnh, Chị dành thì giờ đọc sách trong thư viện, thư viện này nằm trong tòa vila, có rất nhiều sách về cách mạng.

Một buổi tối, chị đến đấy, đang đọc lướt một số sách thì chị quay lại, thấy Raza đang đứng sau chị, cúi người nhìn chị, Hắn mỉm cười, hỏi chị có tìm ra cái gì hay ho không, vừa hỏi hắn vừa sờ vào cánh tay chị.

Không có người đàn ông nào sờ chị như thế, hắn cố ý sờ, thật lâu và rất dâm dật, Chị đứng trân người ra, không biết làm gì, Hắn vẫn cười vừa áp sát vào người chị, thoa hai cánh tay, thoa cổ chị, Chị nhắm mắt lại, thấy hơi thở tăng nhanh Rồi không nói một lời, hắn đè chị xuống nền nhà, cơ thể nặng nê của hắn như muốn đè bẹp cả người chị.

Và khi hắn đã cưỡng đoạt được chị, chị lại tự nhủ phải làm như thế để có thể cứu Shema, Khi đã thỏa mãn thú tính xong, hắn nằm lăn sang một bên trên sàn nhà lát gạch men mát lạnh, rồi hắn nhìn chị, Hắn nói rất dịu dàng rằng kể từ lúc ấy chị là vợ hắn.

Kể từ đó hắn làm tình với ,chị bằng những phương pháp chị không tưởng tượng ra nổi, Thoạt tiên khi hắn cưỡng đoạt chị, chị cảm thấy bị hành hạ quá thể, Rồi cơn đau đớn qua đi, chị thấy như mình phải thi hành một nhiệm vụ, mà nếu chị iàm hắn được thỏa mãn,thì chị có thể thuyết phục được hắn dùng quyền lực của hắn để cứu được Shema.

Khi tên làm bom của hắn bị bắt ở Paris, Raza liền giữ ba nhà ngoai giao ở Tòa Đại sứ Pháp tại Beirut, Trong khi Paris đang thăm dò, thì Raza đưa ra một con tin, Ngày hôm sau tên làm bom trở về, Tuy nhiên, hể bất cứ khi nào chị hỏi hắn có thể cứu được Shema không, thì Raza chỉ nhún vai từ chối.

Nadine định sẽ hỏi lại hắn khi hắn thật bình tĩnh, Khi người hắn còn căng thẳng thì hắn như kẻ bị ma ám vậy.

Bóng tối đang tan đi, Trời vẫn chưa hoàn toàn sáng, nhưng vẫn đủ cho Raza thấy anh lính mới đổi tay cầm súng, Anh ta sắp hàng ở sau cùng, và chắc vì thế mà anh tưởng không ai thấy, Raza bước qua sườn núi đá, đi băng qua các hàng lính mới, Hắn lôi anh thanh niên ra phía trước rồi xô nhào anh ta xuống đất.

— Chấn chỉnh lại hàng ngũ !

- Raza la lên.

Những anh lính mới vội vã sắp lại hàng ngũ.

Nadine thấy bầu trời chuyển sang màu xám, màu của đá phiến, Anh thanh niên quỳ chống hai tay trên mặt đất trông như con vật, đầu anh nhìn qua nhìn lại như muốn tìm cách để thoát, hay là tìm ai để nhờ họ cứu, Hàng trăm con mắt nhìn đăm đăm ra phía trước, Không khí im lặng nặng nề bao trùm lên mọi vật.

Raza lôi anh ta đứng dậy, hắn nắm đàng sau cổ áo của anh lôi mạnh lên cho đến khi người anh chới với khỏi mặt đất, Anh lính mới vùng vẫy vì nghẹt thở, Raza từ từ quay quanh để cho mọi người đêu thấy khuôn mặt hãi hùng khốn khổ của anh thanh niên.

Anh ta e không quá mười sáu tuổi, Nadine nghĩ thế, Chị nhìn thấy có cái gì đấy trong đôi mắt của Raza, và mặc dù đã cố trấn tĩnh, chị vẫn thấy người run lên.

— Hãy nhìn vào nó, hỡỉ cấc bạn, hãy nhìn vào nó !

- Raza ra lệnh.

Hắn nắm cái mặt của cậu bé, quay ngược lại để xem một chốc, rồi hắn thả mấy ngón tay ra như là hắn vừa chạm vào vật dơ bẩn, Hắn nhìn ra đoàn quân, những hàng người im phăng phắc, họ nhìn chãm chú vào hắn, Hắn hỏi lớn :

— Luật lệ thứ nhất ở thao trường này là gì ?

— Không ai động đậy cho đến khi có lênh !

- Cả thao trường đông thanh đáp, chậm rãi, sợ sệt.

— Và tại sao lại thế ?

— Để tập cho chúng ta có kỷ luật !

- Tiếng la lớn thêm, cả quyết.

— Và tại sao nữa ?

— Để đánh bại kẻ thù !

- Hàng trăm giọng nói đồng thanh la lên.

— Kẻ thù của chúng ta là ai ?

- Raza hỏi với giọng sôi nổi vì hận thù chồng chất.

— Là những tên phục quốc Do Thái ! Và những kẻ ủng hộ chúng !

- Tiếng trả lời vang lên như sấm dậy khắp thao trường.

Nadine thấy nỗi khiếp sợ hiện rõ trên khuôn mặt anh thanh niên, Môi anh mấp máy, nhưng không thốt được nên lời.

— Chúng ta phải làm gì với kẻ thù ?

- Raza phồng mang trợn mắt vẻ rất giận dữ.

— Giết chúng ! Giết chúng ! Giết chúng !

- Cả thao trường la lên.

Raza cảm thấy hết sức căng thẳng, hết sức kích đông, Hắn phải ra vẻ mặt sắt đá để duy trì trật tự, Anh lính mới treo tòn ten trong nắm tay của hắn.

Raza thả anh ta xuống đất, mở rộng lòng bàn tay, đưa

cao lên, Cả thao trường im phăng phắc, Hắn đưa mũi giày trận gí lên người lính mới, đưa mắt nhìn hàng quân.

— Một người động đậy khi hắn được lệnh đứng yên, xem như nguy hiểm hơn cả kẻ thù nữa, vì chúng ta đã đặt hết sinh mạng vào tay hắn

- Mặt Raza trông thật man rợ

- Một kẻ phản bội người đã tin tưởng hắn, tất sẽ phản bội tất cả chúng ta !

- Hắn lại đá nhẹ vào anh lính mới

- Nói đi !

— Dạ đúng, thưa đồng chí chỉ huy ! Ngài đã nói đúng. Nhưng tôi chỉ ao ước nắm vững tay súng để phục vụ ngài mà thôi

- Chú bé lắp bắp nói.

Raza lại đá chú, Chú bèn im lặng.

Nadine âm thầm van xin : đừng xin xỏ, Dù sao thì cũng đừng xin.

— Xin ngài vui lòng, thưa đông chí chỉ huy

- Chú bé van xin

- xin hứa là sẽ không bao giờ bất tuân lênh nữa.

Tôi sẽ là "Cảm tử quân" ưu tú nhất của ngài, Tôi xin ngài, xin ngài hãy tin đi.

Raza bước lui, Hắn tháo khẩu UZI trên vai xuống, ấn nòng súng vào đầu chú bé rồi kéo cò, Han bắn hết cả ổ đạn cho đến khi cái đầu của chú ta nát bét.

Khi Raza bắn xong, mặt trời cũng vừa lên, Hắn quay mặt lại nhìn ánh hồng đang lóe lên ở phương đông, trải ánh sáng lên cát và đá chạy dài bất tận, rồi mặt trời lên rất nhanh trên bầu trời.

Những đụn cát khô cằn và những mương rãnh nguy hiểm chạy dài hàng chục cây số là nơi hắn dùng để thử nghiệm, ơ đây hắn đã huấn luyện những người khác theo ước muốn của hắn.

Hàng ngàn người đã trải qua trong những căn Têu được giấu kín trong trại nằm xa khỏi thao trường.

Hàng tấn chất nổ Semtex được chở đến chất ở pháo đài dưới cát, rồi chở đi chất nổ được cất ở hầm sâu dưới cát, có cửa sắt nặng khóa kín.

Vào một ngày nào đó, hắn sẽ có đủ chất nổ để phá hủy cả một thành phố nhỏ hay tiêu diệt hết cả phi cơ trên thế giới, Những tên chế tạo bom cho hắn làm việc rất giỏi.

Nhưng rồi ra tài năng của họ cũng không được dùng nữa, vì có thứ đã được chế tạo trong Hầm ngầm gần một bén tòa vila. ở đây, vi rút bệnh than B.c đã được chế tạo sẵn sàng rồi.

Nghĩ đến điều đó, hắn thấy kích thích cả người hơn cả, sự kích thích của nhục dục nữa, Hắn cảm thấy quá tuyệt vời, hắn mong mỏi đến cái ngày hắn sẽ lao vào hành động không chút ngân ngại, Cái viễn cảnh đó làm cho hắn điên cùông lên, Chỉ có giết chóc mới làm cho hắn hả dạ mà thôi.

Raza quay người lại, hắn cố tình đứng lên trên xác chết. Hắn yên lặng khiến cho cả thao trường đều hướng về hắn, Khi hắn cất tiếng nói, giọng hắn bay đến tận người đứng xa nhất cũng nghe rõ.

— Kẻ thù của các bạn rất nhiều và rất mạnh, Một số là anh chị em của các bạn, Nhưng chúng đã bị những lời hứa hẹn hão huỳên mua chuộc, hứa sẽ có tiền bạc, sẽ có một cuộc sống dễ dãi hơn, Lại còn đồ giải khát và thịt băm viên, video để xem radio rẻ tiền để nghe những lời láo khoét và những điều dơ bẩn.

Hắn hước qua xác chết, rôi bắt đầu rảo bước, Những vị tu sĩ đã dặn rằng nói năng chỉ đơn giản thôi vì cuộc chiến Hồi giáo vốn là đơn giản, một cuộc thánh chiến là lao vào cõi chết, Đó là con đường đi đến chốn tử đạo vinh quang.

Hắn không tin họ, Nhưng hắn đã trả nợ miệng rồi, hắn đã nói láo rồi, Tiền bạc họ tung ra cho hắn, hắn có thể hoàn

tất những mục tiêu mà ngay cả hắn, hắn cũng thấy khó khăn.

— Kẻ thù của chúng ta muốn hủy hoại những giá trị của các bạn, Làm giảm sút đức tin của các bạn, Để cầm tù các bạn, Để làm cho đạo Hồi suy yếu.

Ayatollah Muzwaz đã nói : phải cá nhân hóa cuộc chiến đấu này ra, Phải làm cho mỗi người cảm thấy bản thân họ bị đe dọa, phải làm cho mỗi người cảm thấy đấy là cuộc chiến của họ.

Raza cười trông thật lễ phép, Hắn biết cách xử sự không thua gì các tu sĩ Hồi giáo, Hắn biết tâm lý của đám đông, biết cách làm cho họ có lý tưởng, và biết cách thúc đẩy thái độ một mất một còn nơi họ để họ không còn thái độ lưng chừng, mà phải dứt khoát. Hắn lại nói tiếp :

— Các bạn phải chiến đấu chống kẻ thù không như trước nữa ! Các bạn phải tỏ ra cho chúng thấy các bạn không có lòng trắc ẩn, vì chúng không có lòng trắc ẩn ! Hãy tiêu diệt chúng trước khi chúng tiêu diệt các bạn ! Các bạn phải được chuẩn bị để nhân danh công lý mà giết người ! Và các bạn phải chuẩn bị để mà chết !

Raza nhìn vào mặt họ, ánh mắt cảnh cáo họ, Mặt trời đã xua tan mùi đêm của sa mạc hết rồi, đã làm cho bầu không khí được trong sạch như đấng Ala đã muốn rồi.

Hắn nói tiếp với đám lính mới :

— Mỗi bạn ở đây đêu có một điểm chung, Đó là các bạn điều là nạn nhân, Nạn nhân của bọn theo chủ nghĩa phục quốc Do Thái.

Nạn nhân của bọn phản bội đã ủng hộ chúng, Mỗi bạn điều có một quyền hạn, có một bổn phận thiêng liêng, là phải chống lại tên bạo chúa để bảo vệ gia đình mình, nhà cửa mình, đất đai mình.

Nadine nghe những lời giận dữ nổi lên từ trong đám

lính mới, Trong những giờ khắc yên lặng trong tối tăm, khi hai người đã mệt nhoài vì làm tình, hắn nói với chị rằng việc khơi dậy lòng căm giận là rất cần thiết, Một người giận dữ không suy nghĩ, mà chỉ làm theo lệnh mà thôi.

Raza chỉ vào cãnh tượng trước mắt, Mới trước đó một chốc, trời đang còn mờ nhạt, Nay đã biến sang cảnh rất sinh động, một chiếc cầu vồng ngũ sắc ấm áp vui tươi bắc ngang bầu trời.

- Nadine biết mỗi một trò bịp trong bản tiết mục của hắn, Nhưng không hiểu sao đã bao nhiêu lần lồi, hể hắn bày trò ra là chị lại bị sức mê hoặc của hắn cuốn hút.

— Đấng Ala đã cho chúng ta

- mặt trời để sưởi ấm

- hắn lại nói

- và để giữ cho đức tin của chúng ta nóng hổi, sinh động, ngay cả trong đêm trường lạnh lẽo.

— Nhờ ơn đấng Ala !

- Cả thao trường dồng thanh đáp lời.

— Nhờ ơn đấng Ala !

- Cả thao trường đông thanh đáp lời.

Hắn thấy những cặp mắt của đám lính sáng quắc, những khuôn mặt của chúng đằng đằng sát khí.

— Đấng Ala đã cho chúng ta thực phẩm, Những kẻ thù chúng ta lại không muốn thế, Chúng cướp đất của chúng ta và đuổi dân tộc chúng ta đi, Chúng đã dựng nên những con rối để cai trị những vùng đất chúng ăn cướp dần của chúng ta.

Khi chúng ta chống lại thì chúng phái tàu thủy và máy bay giội bom để hăm dọa chúng ta, chúng gởi lính tráng đến để bảo về bọn phục quốc Do Thái ! Bây giờ thì đấng Ala đã cho biết viêc này phải chấm dứt ! Chọ nên các bạn phải nhân danh ngài để chấm dứt việc này.

Đám lính mới lại dồng thanh ngợi ca đấng Ala, Lời lẽ của hắn nói ra như là thuốc kích thích tình dục, đã hứa hẹn họ chốn thiên đàng ở bên kia chốn khó khăn trước mắt này.

Như Nadine đã biết công việc của hắn sẽ làm, lại một lần nữa Raza quay mặt nhìn vào chốn mênh mông hoang dã, chạy dài tới tận chân trời, Hắn kéo cái khăn trùm đằu che mặt hắn, cái "Kaffiyeh" bằng vải ca rô.

Hắn nhắc chị nhớ đến một lời tiên tri xuất phát từ cửa miệng của đấng Ala, Hắn đã nói với chị rằng đức tin là chính, Không phải đức tin ôn hòa trong các nhà thờ Hồi giáo, mà là tín điều cực đoan không khoan nhượng của hắn, theo tín điều này thì giết chóc là con đường dẫn đến tự do, dẫn đến công lý.

Và hắn cũng thuyết phục chị phải chấp nhận việc đem thanh niên đi vào chỗ chết là rất cần thiết, Raza quay lại, mặt hắn bình tĩnh và quả quyết, Hắn thả cái "Kaffiyeh" xuống, Cái khăn trùm dầu là đặc ân duy nhất cho hắn theo tục lệ của sa mạc này, Trong lúc mọi người mặc áo quần lao binh, thì hắn mặc áo len đen cổ tròn, mặc quần đen, ống bỏ vào giày trận.

— Các bạn hãy ghi nhớ ngày hôm nay

- Raza la lên

- Vì hôm nay là ngày trước giờ phán xét.

Ngày mai kẻ thù của chúng ta sẽ thấy được sức mạnh của chúng ta, Ngày mai chúng sẽ biết khả năng của chứng ta, biết được công lý của chúng ta, Chúng ta sẽ trả thù những gì chúng đã lãm cho chúng ta, Và ngày mai sẽ là mới bắt đầu mà thôi !

Raza quay lại nhìn thẳng vào Nadine, Chị gật đầu, nhìn vào mắt hắn, Ngày mai chắc sẽ có "chuyện" xảy ra, Không phải gã nói khoa trương đâu, mà thực đấy.

Raza bắt đầu đi từ từ vào trong đám lính mới, thỉnh thoảng dừng lại nhìn vào mặt người này rồi nhìn vào người khác, Chị đã thấy hắn làm như thế nhiều lần rồi, Như thế mới làm cho họ gắn bó với hắn thêm lên, Chị nhìn hắn dừng lại trước hai cô gái Hy Lạp, Cô Anna và Zelda, đang đứng riêng ra ngoài đám lính mới và nhân viên thường trực của trại.

Suốt một tuần rồi, hai cô không rời khỏi chiếc hầm xây dưới đất đã được dùng làm phòng thí nghiệm và phòng phát sóng, Mặt cô Hy Lạp nữa là Lila luôn luôn ở trong phòng phát sóng.

Nadine rất ngạc nhiên, Lila nói năng đâu có trôi chảy ? Cô ta nói năng rất lúng túng khi gặp phải trường hợp bị kích thích hay đang lúc giận dữ, Sao cô ta làm xướng ngôn viên được nhỉ ? Khi chị hỏi Raza thì hắn cười một cách bí hiểm, Nadine đã thừa biết nụ cười ấy rồi, Nụ cười là một lời cảnh cáo cho chị biết đừng hỏi nữa.

Lila đã đi khỏi trại hai hôm nay rồi, Từ La Mã, chị ta gọi về cho biết chị đã gởi cho Al Najaf mấy cuộn băng rồi.

Trong số nhân viên của Raza, Nadine ghét Al Najaf nhất, Những người khác cục cằn thô bạo đấy, Còn Al Najaf thì lại độc ác, Bất cứ khi nào hắn đến trại, là phải cũng cấp cho hắn một cô gái.

Raza đã nói rằng, vì Al Najaf làm việc giỏi nên đời tư của hắn phải được tôn trọng.

faruk cũng tỏ ra ưu ái Faruk Kadumi như thế, Vào ngày trước khi hắn rời trại, họ đã họp trong phòng thư viện mấy giờ liền, Khi bước ra, Raza rất vui vẻ, hắn đã mời,Faruk Kadumi ăn tối.

Trong bữa ăn, nhà phẫu thuật đã yêu cầu Raza cung cấp cho lão một phụ nữ, Raza cười, trả lời lão ta có thể chọn bất cứ cô gái nào ngoài người của hắn.

Faruk Kadumi chọn một cô hầu bàn, Trước khi dẫn cô ta vào phòng, lão đã nằng nặc xin hôn hai má của Nadine cho được, Chị ngửi thấy mùi ê te trong hơi thở của lão, Nhưng về sau, khi chị cố nói cho Raza biết rằng kẻ nào nghiện ma túy đều rất nguy hiểm, hắn lại nhìn chị mỉm cười một cách khó hiểu.

Sáng hôm sau, Faruk Kadumi bay đi Luân Đôn.

Nadine nhìn hai cô gái Hy Lạp quay về căn hầm dưới cát, cặp mắt long lanh, Shema cũng có cặp mắt như thế khi cô ấy đi làm nhiệm vụ.

Raza bước nhanh đến một nhóm thanh niên đã huấn luyện xong, đang chuẩn bị để trở về các trại tị nạn, tuyển một số những người khác.

Hắn muốn có một đạo quân lớn hơn cả đạo quân của Saladin nữa, hơn cả đạo quân Giáo hội yêu cầu nữa, Hắn ra lệnh cho nhóm người này sắp thành một vòng tròn, và đám lính mới sắp thành một hình vuông ở bên ngoài, Đứng ở vòng trong, Raza chen vai thích cánh với mọi người, hắn nói giọng hùng hồn :

— Các bạn hãy nhìn những chàng trai này !

- Hắn chỉ những người sắp vòng tròn

- Các bạn hãy noi gương họ.

Từ đây, họ sẽ đến thẳng bờ Tây và dải Gaza, Quân thù của chúng ta đang ở đấy, Họ sẽ nhân danh đấng Ala để tiêu diệt chúng ! Họ sẽ xé xác quân thù như ...

Hắn làm điệu bộ giơ tay chỉ hai người đang xách gà sống từ ngoài băng qua vòng, tròn đi vào, Mỗi cô gái xách trên tay nhiều con gà còn sống, nắm ở chân.

— ... như những con gà này ! Như thế này đây !

Raza nắm một con gà xé ra làm hai, xé chân rồi xé cánh và cuối cùng bứt đầu ra khỏi thân, Vừa xé hắn vừa đi quanh vòng tròn, đút những miếng thịt gà sống vào miệng họ, giọng hắn vang lên.

— Kẻ thù của chúng ta yếu ! Chúng ta mạnh ! Lạy đấng Ala ! - Raza đưa những con gà khác cho vòng người,Họ xé gà ra từng mảnh, thịt sống và máu gà dính khắp người khi họ ăn ngấu ăn nghiến chúng.

— Kẻ thù chúng ta yếu ! Lạy đấng Ala ! Chúng ta mạnh ! Lạy đí g Ala ! - Họ đồng thanh la lên, vung tay múa chân.

Raza đứng nhìn họ, gật đầu sung sướng, mắt sáng long lanh, Rồi hắn đưa tay ra dấu im lặng.

— Hãy làm cho chúng bị động và bất ngờ, Hãy khiến chúng phải van xin, Các bạn phải giết chúng !

— Giết !

- Tiếng la vang lên

- Giết ! Giết ! Giết !

Tiếng kêu gào thú vật của vòng người lan ra cho đến lúc đám người sắp hàng hình vuông cũng la theo.

— Giết !

— Thôi !

- Raza ra lệnh cho tất cả im lặng, Hắn quay lại đám người sắp vòng tròn.

— Bây giờ các bạn là cảm tử quân,rồi ! Các bạn hãy nhớ lấy !

Raza bước nhanh đến hầm xây dưới đất, nơi hai cô gái Hy Lạp vào khi nãy, Nadine cũng đã đến tòa nhà vila để chuẩn bị, Chị đã biết quá rõ những nhu cầu của hắn.

Biết cách làm cho hắn thỏa mãn, chỉ có việc kích thích hắn, Càng cố công tìm cách để hắn giúp giải thoát cho Shema, chị càng phải có óc sáng tạo trong tình dục, Hắn chưa bao giờ gặp một phụ nữ như chị, luôn luôn làm cho hắn sướng điên lên.

Phòng phát thanh là một buồng cách âm nằm trong một góc của phòng thí nghiệm, Mấy giờ ở trong phòng này với Lila, hắn chỉ còn để lại những tàn thuốc trong đĩa gạt tàn và những cuộn bãng cát xét hắn để loại ra trước khi được thỏa mán.

Lila đã gàn như phản đối, vì hắn cứ buộc chị ta đọc lại mãi một từ ngữ, Giọng đọc của chị còn hạn chế, nhưng bù vào đó, tính của chị cũng bạo tàn như hắn.

Faruk Kadumi đã xong việc, chiếc khóa hơi ở phòng thí nghiệm đã mở ra, Anna và Zelda đang bỏ những chai nước hoa vào những cái bao hiệu Gucci mang trên vai.

Hắn đã chọn bao, cũng như hắn đã chọn tên cho nước hoa 'Đêm Hy Lạp’’ - và y phục cho hai cô gái mặc khi họ đem đi quảng cáo.

Hắn chọn hết, Lúc hắn đứng ở ngưỡng cửa để nhìn hai cố gái đi thi hành nhiệm vụ, hắn biết hai cô là hình ảnh của một năm tổ chức chu đáo của hắn.

Bây giờ mỗi khi nhớ đến việc này, mắt Raza lại sáng lên, Kế hoạch của Saddam biến IRắc thành cường quốc hàng đầu của khối A Rập có mòi vinh quang lắm, và Raza định đã dùng nước này để làm nơi ẩn náu đời đời của hắn.

IRắc đánh chiếm Kuwait chỉ trong vòng mấy giờ, và quân lực của Saddam đã tràn ngập vùng biên giới với nước Saudi Arabia, Những tên tôi tớ trung thành với Phương Tây ở Riyadh lấy làm lo sợ, Thế là Israel nhảy vào, Morton đã hủy diệt nhà máy ở Samara.

Xem trên màn ảnh truyền hình, cảnh chiến tranh quả thật quá tàn khốc, Nhưng người ta đâu được đến tận chỗ để xem cảnh Saddam ra đi, Raza buộc phải rời đất nước IRắc với nhân viên của hắn, phải đến tìm nơí trú ẩn tại Libya.

Càng nghĩ đến điều đó, Raza càng thấy quả thật Sadđam đã cận kề với thành công biết bao, Chỉ cần mở nùi một chai vi rút bệnh than, là đủ gây nên một cảnh kinh hoàng cho tất cả kẻ thù rồi.

Thế rồi hắn được mời sang thăm Teheran để gặp Ayatollah Muzwaz và những tu sĩ Hôi giáo khác, Raza lễ phép lắng nghe những lời lẽ kiêu ngạo của họ bàn về việc cần thiết phải phát động một cuộc chiến Hồi giáo.

Cuối cùng, hắn nói cho họ nghe rằng cuộc chiến này sẽ thành công được, và... phải tốn kém khá đậm, Chỉ trong vòng hai mươi bốn giờ sau đó, mười triệu đô la đã được chuyển sang một ngân hàng ở Geneve để hắn sử dụng.

Nhưng vào lúc việc thu xếp ở Trung Quốc đã yên ổn, thì tập đoàn tu sĩ lại bất đồng ý kiến, Một số đông mạnh dạn yêu cầu hắn phải "chứng tỏ" là hắn sẽ không để cho thất bại nữa, Họ đã lịch sự, nhưng lạnh lùng yêu cầu hắn phải chứng minh việc này dứt khoát thành công.

Hắn đã biết họ nhiêu rồi, hắn đành nén giận, trả lời cho họ hay hắn rất sung sướng được trưng bằng chứng cho họ thấy.

Raza nhớ lại hắn đã cùng Al Najaf rảo bước trong căn hầm dài kín đáo này để bàn cách ám sát Đức Tổng Giám mục Thiên Chúa Giáo ở Li Băng, Đức cha đã ngang nhiên đứng trên bục giảng lên tiếng ủng hộ cuộc chiến tranh vùng Vịnh, ngài đã cho rằng cuộc chiến này là chính nghĩa.

Vài ngày nữa, Đức Hồng y sẽ có mặt ở La Mã để tham dự một buổi họp do Đức Giáo Hoàng triệu tập để bàn chuyện khả dĩ giáo hội đứng ra làm trung gian hòa giải giữa Hồi Giáo và Thiên Chúa Giáo không, chuyện này cũng không làm giảm được quyết định ám sát Đức Hông y ngay trước mặt Đức Giáo Hoàng.

Việc chuẩn bị ám sát ít mất thời giờ, và ít tốn kém hơn việc chứng minh thứ hai mà Raza đã định thực hiện cho tập đoàn tu sĩ thấy, Một triệu đô la đã được tung ra để mua chất nổ tại chỗ, Năm mươi khách sạn được đem ra nghiên cứu, và mười hai khách sạn được chọn, những tay đánh bom giỏi nhất đã được gởi đến Luân Đôn, Paris và New York, Họ đã xác nhận công việc chuẩn bị chu đáo rồi.

Trước khi ra thao trường, Raza đã gọi điện thoại ở trong phòng phát thanh để báo tin cho Ayatollah Muzwaz biết, hán đã dùng hệ thống điên thoại trực tiếp để gọi đến vân phòng của ông ta ở Beirut.

Thùng máy, được mệnh danh là hộp phát thanh, đã được mua lại của cơ quan tình báo Cộng hòa Dân chủ Đức khi cơ quan này giải thể, Baza đã trả cho một tay trung gian ở Geneve hết năm trăm ngàn đô la, tay này là một chuyên viên về thiết bị diện tử siêu âm, chỉ mấy tuần sau đó cái thùng này được gởi đến trong một cái túi xách của giới ngoại giao Libya, Cái thùng nặng chưa dầy hai mươi kilô, đâ được thiết kế để cho người ta có cảm giác rằng người gọi cách đấy hàng ngàn dặm.

Trong lời nhắn bằng mật má, hắn gọi cho các nhà lãnh đạo của tập đoàn tôn giáo, Raza không đả động đến việc chứng minh thứ ba mà hắn định thực hiện cho họ thấy, Hắn muốn chứng tỏ cho họ thấy rằng hắn không những có tài khủng bố, mà hắn còn cho họ thấy rằng không ai ra lệnh cho hắn phải khi nào thì làm và làm ở đâu, Cũng vì thế mà hắn đã phái Lila đến Nam Phi.

Hắn biết rằng nhờ tài xoay xở của hắn mà chị ta đã trung thành với hắn, Đàn ông hay đàn bà, già hay trẻ, đẹp hay xấu, phức tạp hay đơn sơ, tất cả đêu rất dễ bị lộ tẩy vì xúc động, Tài xoay xở này của hắn là một tài thiên phú và là một vũ khí của hắn.

Hắn luôn luôn thỏa mãn vì xuất thân là con của một người chăn cừu du mục, mà nay đã trở thành một người có thể vận dụng tài năng tổng hợp của mình để điều khiển nhiêu người có học, Trước mắt, hắn đang làm việc ấy đấy..

— Nói cho tôi nghe lại khi rời khỏi đây các cô sẽ làm cái gì nào ?

- Raza vừa đi bách bộ trong phòng thí nghiệm vừa ra lệnh.

Hai cô gái thay nhau lặp lại 'những bài học của họ, Trong khi họ nói, hắn quan sát mặt họ để xem có chút do dự nào không, Cuối cùng, hắn hài lòng, Hắn bước lui, cặp mắt long lanh dữ tợn.

— Các cô hiểu rằng ước mong, nhu cầu, và ngay cả chính mạng sống của các cô, điều không quan trọng cả chứ ? Các cô không được để cho bất cứ cái gì ngăn cản các cô hoàn tất nhiệm vụ cả.

— Chúng tôi hiểu

- Zelda đáp, giọng rành mạch tự hào.

— Chúng tôi sẽ không làm cho ông thất vọng đâu

- Anna hứa hẹn.

Raza nhắc nhở lần cuối, vẫn giọng trầm, kể cả :

— Tôi chọn các cô vi tôi tin tưởng các cô, Tôi luôn

luôn tin các cô, Các cô đừng làm tôi thất vọng đấy.

Ngay lúc đó, hắn thấy rõ sự trung thành của họ hiện trong mắt, Hắn quay lại, bước ra khỏi phòng thí nghiệm, Bước về phía tòa nhà lớn, Raza cảm thấy toàn thân đang kích thích, Chắc Nadine đang đợi hắn ở đấy, Nhưng không biết chị sẽ có ngón nào đặc biệt cho xứng với tình trạng hiện nay của hắn không ?

Nadine nhìn hắn đến gần, hắn nhìn thẳng tới trước, Nhưng chắc là hắn thấy hết : những người lính mới bò lên

nhau, lao vào nhau, cố kẹp chặt nhau.

Những người khác ở dưới một con mương, học cách lấy bom, đặt bom, Tiếng súng tập bắn ngoài bãi bắn, Trong một lớp học cách tấn công, thanh niên thiếu nữ mặc đồng phục đen đêu ướt đẫm mồ hôi và run sợ khi họ nhảy từ trên tháp cao xuống dưới làn đạn thật của huấn luyện viên.

Trong vila, không khí vẫn còn mát lạnh, ơ cuối hành lang, một chính trị viên trong trại đang bắt dầu dạy, Mãi cho đến chiều tối, những toán lính mới này sẽ được nhồi sọ về cách’ mạng, ở cuối hành lang đàng kia, một tu sĩ Hồi giáo ở Iran đến dạy về chủ nghĩa chính thống Hồi giáo, Hàng tháng lại có một giáo sĩ mới đến, nhưng lời dạy vẫn như nhau : Đạo Hồi sẽ thắng.

Nadine rời khỏi cửa sổ, Chị mặc một cái áo lụa dài mỏng tang, mát rượi như tấm khăn trải giường, Tiếng chân Raza dừng lại ngoài cửa, Hắn đang cởi giày, Hắn không quên hắn là người có giáo dục.

Cửa mở, Raza bước vào, Nadine bước đến rồi một tay đóng cửa, chị đưa lưỡi liếm má hắn, liếm mũi liếm mắt, vừa cởi chiếc khăn đội trên đầu ra.

Chị nói rất khêu gợi :

— Em thèm anh ghê quá !

Những gì đã xảy ra ngoài kia khiến cho chị thèm muốn thêm lên, Hắn càng cư xử như một con thú, thì chị thấy người càng hứng thú lên, Chị bèn áp vào ngực hắn.

Raza đẩy chị ra.

— Cô có để ý thấy có gì xảy ra không ?

Chị cười, vừa mở nút áo của hắn.

— Em đã học cách chờ xem thôi, Mà có gì xảy ra à ?

Hấn đứng yên lặng, bất động trước mặt chị, cảm thấy

chị đang thèm muốn, nhưng không có hành động nào đáp

lại, Và lại một lần nữa, hắn đẩy chị ra.

— Nói cho tôi biết cô đã suy nghĩ ra sao ?

Nadine không đáp, Trước hết, họ phải chơi cái trò này đã, Cái trò cọ xát vào nhau là hắn nổi hứng lên thôi, Sau đó,chị sẽ hỏi hắn về chuyện Shema.

Nadine nắm tay hắn dẫn hắn đến giường, Hắn nằm ngửa người ra nhìn chị, Chị đứng dạng chân trên người hắn, cười, dịu dàng nói :

— Lần này anh sẽ tấn công bọn Phục quốc Do Thái qua bạn bè của chúng, phải không ?

Hắn cười nhạt :

— Nhưng mà tấn công ra sao ?

— Bằng bom chứ gì ?

Raza lại cười nhạt.

Nadine lấy hai đùi chân kẹp cứng lấy hắn.

— Có phải Lila sẽ đánh bom bằng hệ thống điều khiển vô tuyến không ?

— Không

- Hắn nhìn chị, Chị không nói, Hắn bắt đầu cảm thấy người kích thích

- Cô đã quên Al Najaf rồi à.

Nadine lắc đầu.

— Làm sao quên được

- Chị định nói nữa, nhưng rồi thấy nét mặt của hắn, chị bèn im lặng.

Người chị nhẹ, cho nên chị biết chị có thể nằm cả người trên hắn cũng không sao, Nếu hắn thấy khoái, hắn có thể nằm yên như thế hàng giờ.

— Còn ông bác sĩ, cô cũng không ưa à ?

- Hắn hỏi.

— Em không biết, Em chỉ hy vọng Faruk Kadumi phục vụ cho anh thật tốt mà thôi.

— Cô đừng lo

- Hắn thở ra khoan khoái, thích thú vì hắn có tài kéo dài lạc thú ra

- Còn mấy cô gái Hy Lạp, họ sẽ làm gì ?

Nadine im lặng, chị suy nghĩ : Hắn ta không muốn mình biết, Nếu mình cứ tìm hiểu, hắn ta sẽ nổi cáu lên, Và mình sẽ mất dịp may để hỏi về Shema.

— Hai cô ấy sẽ đem tin tức đến cho các lãnh đạo ở các chi bộ chứ gì ?

Raza cười khục khục, hắn vui vẻ.

— Không phải. Không giống Shema đâu.

Hắn nằm mắt nhắm lim dim.

— Xin anh... anh giải thoát cho nó được không ? Vì em, anh cứu nó được không ? Xin anh vui lòng.

Hắn đứng dậy rồi cởi nhanh áo len và quần ra, Như mọi khi, hắn không mặc đô lót, Hắn nằm ngửa ra giường.

— Xin anh vui lòng vì em mà cứu nó được không ?

— Chị thoa khắp người hắn, thoa vết sẹo dưới lồng ngực và thoa bên trong hai đùi hắn...

— Xin anh vui lòng giúp em

- Chị lại lên tiếng.

— Không !

- Bỗng cơn giận bùng lên, hắn ngồi dậy

- Đừng nói đến cô em gái của cố ! Cô hiểu không. ?

— Vâng

- Chị hiền lành đáp

- Em xin lỗi

- Không phải lúc để xin xỏ cho Shema nữa, Chị lại tiếp tục mơn trớn hắn.

Chị bày trò dằn hai tay hắn xuống, làm như chị đủ sức để chế ngự hắn, Hắn cũng giả vờ chống lại mà không nổi như mọi khi, giả vờ vùng khỏi chị mà không được đành nằm yên.

Nhưng thay vì hắn nằm để đợi cơn cực khoái đến, thì hắn lại đẩy chị ra và đến đứng ở cửa sổ, Bên ngoài hầm ngâm, hai cô gái Hy Lạp đang bước lên chiếc xe jeep để đến Tripoli, ơ đây, hai cô sẽ bay sang Athens, Mãi đến khi chiếc jeep đã xa khỏi tầm mắt, hắn mới quay lại với Nadine.

— Chắc đấng Ala sẽ che chở cho những người làm ra nước hoa — hắn nói nho nhỏ, vừa quay lại giường nằm.

Nadine nhìn vào mặt hắn và lại một lần nữa chị cảm thấy chị đã thấy nét điên cuồng nơi mặt hắn, Thế rồi những ham muốn nhục dục chị mong thỏa mãn biến đi đâu mất.

Chỉ khi hắn đã xong xuôi và nằm bên cạnh chị, hơi thở hắn bắt đầu điều hòa lại, người hắn nằm yên, chị mới hỏi hắn cái gì mới xảy ra, Và cuối cùng hắn nói cho chị biết, chị mới thấy hắn không điên mà chị thấy vẻ tin tưởng tuyệt đối vào sự thành công sắp đến của hắn mà thôi.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
601,786
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 6


Người dịch: Văn Hòa - Kim Thùy

Nhà xuất bản: NXB Thanh Niên

Shared by: CCG -

Morton lái xe ra khỏi Tel Aviv. Trước khi đi, ông đã báo động cho các trạm mật vụ Mossad biết rằng Raza đang sẵn sàng tấn công. Ông đã gởi bản sao đến cho cơ quan an ninh nội địa Israel và đến các chỉ huy trưởng các đơn vị biên phòng. Ông đã chuẩn bị cho cả nước chu đáo hết sức mình.

Vì ở xa Danny, cho nên ông không nói cho ai biết về cái chết của người Xi Ri. Ông không gởi cho Bitburg bản báo cáo nào hết. Ra ngoài ranh giới thành phố là đường chạy thẳng đến nơi cắm trại đầu tiên của người Bedouin. Những tấm lều đen, những khuôn mặt đen cứng cỏi, giọng nói của họ mất hút vào trong tiếng ồn ào của xe cộ.

Vào giờ phút này, con đường chạy đến Jerusalem giống như con đường đua xe : xe quân đội, xe chở hàng, xe taxi, xe môtô. Không đầy một giờ nữa thôi, trời sẽ tối và những tay Ả Rập bắn tỉa sẽ từ trong những ngọn đồi xuất hiện, chọn những đối tượng để bắn. Mỗi người chết, là hận thù càng chồng chết thêm.

Đằng trước, một đoàn lừa chậm chạp băng qua xa lộ, những người chăn lừa bất cần tiếng còi xe đang inh ỏi vang lên. Đoàn lừa sẽ đến nghỉ đêm trong trại đóng nơi trạm cảnh sát đã bị đánh sập, trạm này đã có từ bốn mươi năm cho đến khi một đơn vị cảm tử của Raza xuất hiện từ bờ biển đã đánh phá. Morton trước đó đã cảnh cáo sự việc sẽ xảy ra. Bitburg gởi một tờ phúc đáp cho biết ông đã cho canh phòng theo lời cảnh cáo. Bản phúc đáp đến sau khi cuộc tấn công đã xảy ra.

Vì thế cho nên ông đã không nói cho Bitburg biết về chuyến hành quân ở La Mã. Thế nào rồi Bitburg cũng viết báo cáo để kiện ông, ông ấy sẵn sàng kiện ông nếu việc không trôi chảy. Và một việc trừ khử kẻ thù có thể không được trôi chảy lắm chứ, nhất là việc vạch kế hoạch để giết Mahamoud Al Najaf.

Michelle vừa mới gọi ông xin phép cho nàng được hoãn lại hai ngày nữa. Ông bằng lòng ngay. Công việc thanh toán kẻ thù không thể ấn định giờ giấc chính xác được. Địa điểm rõ ràng và giờ ra tay cần phải mềm dẻo. Đối với Wolfie và Michelle thì để cho họ hai ngày nữa tốt hơn là đến sớm.

Khi đến trại định cư đầu tiên của người Ả Rập ở bờ Tây, Morton giảm bớt tốc độ. Một hàng rào chắn ngang giữa đường, một tiểu đội lính trong lực lượng phòng vệ, hai chiếc xe jeep và một chiếc xe chỉ huy đậu trong một khúc quẹo để yểm trợ.

Ông trình thẻ chứng minh cho họ xem, họ để cho ông qua. Ông từ từ lái một đoạn ngắn, tránh những ổ gà trên mặt đường, cố tránh những viên đá nằm rải rác khỏi chạm vào bánh xe. Những tên phá hoại đã phá đoạn đường này. Ông giả vờ không trông thấy những bô mặt gớm ghiếc thù hằn.

Al Najaf đã đến từ một ngôi làng như thế này đây. Tại một nơi như thế này, hắn đã học được bài học vỡ lòng về nghệ thuật bạo tàn, và hắn đã giúp cho người ta viết lên được một chương trình nghị sự về thuật khủng bố hiện đại. Trên bất kỳ danh sách những tên đáng được trừ khử nào, cũng đều có tên hắn và Raza cả. Bây giờ thì ông cảm thấy nhẹ nhõm trong người khi biết được Al Najaf đang có mặt tại một nơi khá lâu để phanh phui săn lùng. Dùng luật trời là tuyệt nhất. Những tác phẩm của Steve viết đã dạy cho Morton điều đó.

Gió chiều nóng bức thổi phần phật vào cánh tay áo của ông và luồn vào cái gói hàng để bên chỗ ngồi cạnh ông. Mấy tháng trước đây, ông đã mua bộ sách đóng gáy da viết về lịch sử của Triều đại thứ nhất của Ai Cập, để làm quà sinh nhật nhằm lễ thất tuần của Steve. Bộ sách này thêm vào cho vừa đủ tủ sách lịch sử thế giới cổ đại của ông cụ.

Những bộ sách này, và phương pháp làm sống lại lịch sử của Steve, đã khiến cho Morton say mê môn khảo cổ học và say mê môn tôn giáo để đối chiếu, vì thế mà những giáo sư của ông tại trường Cambridge đã yêu cầu ông đi vào con đường nghiên cứu của trường đại học.

Một chiếc taxi chở khách rồ máy qua mặt ông. Morton giữ cho xe chạy năm mươi dặm một giờ. Xăng nhớt quý hơn vàng, cho nên ông đã có thời gian tiết kiệm chúng.

Phía trước mặt ông, một đoàn xe quân sự rẽ vào dãy đồi Du Đà. Ông biết nơi đến của đoàn xe - đấy là căn cứ mà ông đã dùng trực thăng để đi Li Băng nhiều lần vào năm ngoái.

Hai bên đường đã xuất hiện cảnh hoang vu thuộc địa phận của Du Đà. Khi còn đi học, ông đã nghe giảng rằng Đức Chúa Jesus thường ra đây để trầm tư. Ông thừa hiểu lý do của Ngài, vì nơi đây chẳng có gì để làm cho người ta phải phân tâm hết.

Ông tự hỏi không biết Raza sẽ chờ đợi bao lâu mới ra tay ? Khi lần đầu tiên hắn có chất nổ Semtex trong tay, hắn không để lâu quá một tuần mới gây nên bao cảnh tội ác. Ông chắc chắn là hắn đang hết sức nôn nóng vì nỗi thất bại nhục nhã vừa rồi của hắn đã khá lâu rồi.

Một ngôi làng Ả Rập khác xuất hiện. Lại những ngôi nhà tường sơn trắng và những khuôn mặt thiếu thiện cảm đang nhìn. Bên kia ngôi làng, nắng chiều đang tắt dần. Morton bật đèn lên.

Ánh đèn bắt đầu sáng trong những ngọn đồi, đèn trong lều của dân chăn cừu Bedouin. Mặt trăng tròn đang vươn lên để gặp những vì sao. Ruth đã thường nói rằng những giờ phút đầu tiên của đêm, dường như thời gian ngừng trôi.

Lên đến đỉnh một con dốc, Morton lái xe ra khỏi đường chính. Không biết bao nhiêu lâu rồi, đứng nơi đây nhìn xuống thành phố Jerusalem, ông vẫn thấy nó không giống bất kỳ một thành phố nào khác cả. Không có nơi nào trên thế giới mà so được với cảnh những đụn đá, những tháp xoắn ốc và những tháp lớn nổi lờ mờ trong bầu trời đêm. Một lần nữa ông cảm thấy mộ đạo và thành phố Jerusalem là một nơi độc đáo : một nơi phi thời gian, nơi cùng tồn tại của Thiên Chúa giáo và Hồi giáo. Thế nhưng cũng là nơi người ta xâu xé nhau quyết liệt hơn bất cứ nơi nào.

Bên phía trái ông, nằm nép dưới chân đồi khuất gió, những ngọn đèn dầu đỏ lung linh. Từ lần trước đến đây, nay đã mọc lên thêm một ngôi làng Ả Rập nữa, thêm một nơi dung thân nữa cho Raza. Ông cảm thấy những đôi mắt thù hận đang nhìn ông, những đôi mắt của đoàn người đang lên dốc. Ông vội cho xe nhập vào đoàn xe đang chạy, rồi hướng về Jerusalem.

Ông cho xe đậu gần cổng Damoscus, và những người bán cao đơn hoàn tán ùa đến. Mặc dù bây giờ đang là thời gian không có những ngày lễ hội, nhưng họ vẫn kiếm cớ để bán nào là hạt linh lấy từ Gethsemane, nào là nước thánh lấy từ Jordan, đất thiêng lấy từ Calvary. Ông xua họ đi bằng tiếng Anh. Ở đây, người ngoại quốc vẫn còn được tôn trọng, nhưng là dân Do Thái thì khó ổn lắm.

Thế nhưng Steve và Dolly sống ở thành phố cổ này đã trên năm mươi năm. Căn hộ của hai người nằm trên khu Dolorosa đã chứng minh hùng hồn rằng sự sống chung vẫn còn thực hiện được.

Ở bên trong những bức tường thập tự quân, những người bán đồ dạo lại chìa ra những Thánh giá thật, những móng tay móng chân của Chúa Cứu Thế phục sinh, lông đuôi của con thú thiêng, những mảnh vỡ lấy trong đền Herod.

Khi còn bé, ông rất yêu thành phố này: ông từng nói chuyện với những ông già ngồi trước những ngưỡng cửa còn già hơn họ nữa, đi theo những người phụ nữ trùm kín người, đầu đội bình nước hay giỏ đựng hàng hóa, và theo những ông giáo sĩ Do Thái giáo, những vị linh mục của Giáo hội Hy Lạp và Nga chính thống, cứ giữ tình trạng đạo hạnh trong sáng, đã sống cuộc sống lạc lõng với thế giới trước mắt vì mải hướng về quá khứ.

Những con đường ở đây rất nguy hiểm. Thanh niên lởn vởn trước ngưỡng cửa, yên lặng và dòm ngó, múa may đe dọa. Âm nhạc oang oang khắp nơi : Những bản tình ca Ả Rập, giọng hát trẻ trung the thé ; lại thêm nhạc Hy Lạp chói tai. Và khắp nơi nhạc Beattles, nhạc Rolling Stones vang lên ầm ĩ. Loại nhạc này trường tồn ở đây hơn nơi nào hết.

Ông đã đi khỏi nơi đây lâu lắm rồi. Steve đã nói phải học ngay ở trường trung học công lập Anh. Năm năm học ở Clifton đã làm cho ông trưởng thành ra, rắn rỏi lên. Mỗi lần nghỉ lễ ông trở về, Dolly lại reo lên : Anh chóng lớn quá, anh nói tiếng Anh nghe hay quá ! Ruth lại chọc ghẹo ông về các cô gái. Steve cười rạng rỡ, nụ cười của người cha kiêu hãnh.

Khi Morton đi Cambridge để học, Steve đã đưa ra môt danh sách dài tên những giáo sư để giới thiệu. Hầu như ông cụ đã quen hết phân nửa số giáo sư kèm cho ông. Cho đến lúc ấy, ông mới nhận ra người cha danh tiếng của ông đã rất nổi tiếng trong giới học giả.

Môt toán tuần tra quân đội chạy dọc theo đường phố, hai chiếc xe jeep đã ép người ta vào chân tường. Morton cảm thấy nét giận dữ nơi họ do những người lính đã gây ra, ông thấy mắt họ nẩy lửa. Nhóm tuần tra vội nhìn ông. Một người lính nói bằng tiếng Do Thái :

— Tên ngoại quốc hiếu kỳ !

Morton giả vờ không nghe thấy, rồi ông đi vào khu Dolorosa. Ngày ông rời Cambridge trở về, trên tờ giấy thông báo ghi ông đạt hạng nhất hai môn, đó là lịch sử và khoa học chính trị, và ghi ông đã gia nhập cơ quan Mossad, Steve nhìn ông một hồi lâu rồi hỏi có thật ông muốn thế không. Ông trả lời tức khắc : Vâng. Vấn đề này không bao giờ đề cập đến nữa.

Căn hộ nằm trong tòa nhà được xây từ thời đế quốc Thổ Nhĩ Kỳ. Mặt tiền xây bằng đá trơn tru cao đến đầu người, do hàng triệu người đi hành hương đã tựa người vào đứng nghỉ khi họ đi tìm lại dấu chân của Chúa Cứu Thế; Morton dừng lại một chốc, cảm thấy như ông chưa bao giờ rời xa chốn này. Rồi ông leo lên các bậc cấp đá để vào tầng nhất.

Ông có chìa khóa riêng, ông tra vào ổ khóa, cánh cửa trước nặng nề, đóng bằng đinh sắt lớn. Ông cầm gói quà dấu sau lưng. Ông muốn làm cho họ ngạc nhiên, muốn nghe Dolly reo lên vì sung sướng, muốn thấy Steve đứng bật dậy khỏi ghế, đưa hai tay niềm nở chào đón ông. Morton nhẹ nhàng mở cánh cửa ra.

Căn nhà chìm trong bóng tối. Nhờ ánh sáng ở đầu cầu thang chiếu vào hành lang mà khung cảnh bớt thê lương. Ông bèn bật đèn ở phòng trước lên, đóng cửa lại, rồi đi từ phòng này qua phòng nọ, bật đèn lên. Tất cả cửa sổ cửa chớp, màn trong nhà đều đóng kín mít.

Ông quay trở lại phòng khách. Đồ đạc trong phòng đều y nguyên như trước. Chiếc bàn ăn bằng gỗ sồi nặng, với bốn chiếc ghế dựa kê ở cuối phòng. Chiếc bàn và cái giá thắp nến bằng đồng đều được Dolly chùi bóng láng. Chiếc ghế bành của Steve kê trong một góc, chiếc của Dolly kê ở góc kia. Giữa hai chiếc ghế là một cái tủ quân đội, có ngọn đèn đọc sách. Họ đã mang cái tủ từ bên châu Âu về.

Cái ghế dài mà Morton và Ruth thường ngồi khi còn nhỏ, kê sát chân tường, nơi họ ngồi để xem ti vi, cái ti vi đen trắng. Khi lãnh tháng lương đầu tiên, ông đã mua một cái ti vi màu. Dolly đã sung sướng rầy ông hoang phí.

Những kệ sách cao đến trần nhà, đầy cả sách không còn một khoảng trống. Những sách bình luận về tín đồ Cơ đốc, về người Ả Rập, một cuốn kinh Koran, một cuốn Phúc Âm nguyên bản, một cuốn tiểu sử bằng tiếng Nga viết về Alexander Đại đế nằm giữa những bản dịch bằng tiếng Xi Ri. Thư viện chạy vào tận trong phòng ngủ của Steve và Dolly, những kệ sách choán cả ba mặt tường, bao quanh chiếc giường bằng đồng rộng lớn.

Ông đi theo một hành lang ngắn dẫn đến phòng của Ruth và phòng trước đây của ông. Ngày ông còn ở đây, hành lang cũng đã kê các kệ chất đầy sách. Morton bước đến phòng của Ruth. Cái bảng ghi tên của cô ấy còn đóng trên cửa. Ông nhớ cái hôm ông đã đóng tấm bảng lên. Khi ấy Ruth đã mười hai tuổi.

Phòng của ông vẫn y nguyên kể từ khi ông ngủ ở đây lần cuối. Chiếc giường khung bằng gỗ sồi kê sát một bức tường, một tủ nhỏ và tủ áo quần kê sát bức tường kia. Ông vẫn còn một ít áo quần ở đây. Chiếc kệ sách, chất đầy sách về anh hùng thời thơ ấu : Just William, Biggles, Rockfist Rogan.

Morton trở về lại phòng khách, để xem có dấu hiệu gì cho thấy Steve và Dolly đã đi xa. Trên cái giá để đồ ở dưới điện thoại, ông thấy một chồng sách và tập san quảng cáo du lịch. Steve luôn luôn hứa với Dolly rằng hai ông bà sẽ đi du lịch một chuyến cuối cùng sang châu Âu. Sang Luân Đôn để xem một vở kịch. Đến Paris để thưởng thức thực phẩm và rượu vang đúng theo cách nấu và cách phục vụ. Về Đức, để mà nhớ.

Ông cũng nhớ, tại sao hai ông bà không gọi điện thoại báo cho ông biết họ đi đâu. Ông luôn luôn nói khó có cách để tìm cho ra ông - ngoại trừ gặp khi có chuyện hết sức quan trọng. Cũng vì thế mà ông đã đưa cho hai ông bà số điện thoại của Danny. Lúc nào Danny cũng biết ông đang ở đâu. Và Danny thế nào cũng gọi báo cho ông biết.

Để gói quà trên bàn, Morton đi vòng quanh rồi tắt đèn. Trở lại phòng ngoài, ông lại để ý nhìn một mảng tường nhỏ trên cửa không sơn quét. Đấy là dấu để tang nhắc nhở những ai còn sống hãy nhớ đến cảnh tàn phá ngôi đền Jerusalem cách đây đã hai thiên niên kỷ. Ông đã may mắn được những người mộ đạo và có lòng tốt như thế này nuôi dưỡng. Bỗng ông muốn nói cho họ biết thế quá.

Morton chợt nghe có tiếng động ở bên ngoài cửa. Có hơi người thở, như là có một ai đó đang áp tai vào gỗ, nghe ngóng. Morton nhẹ nhàng lấy khẩu Browning ra khỏi bao súng đeo ở vai, rồi nép người đi ra cửa. Ông tắt đèn ở phòng ngoài rồi quỳ xuống. Ông cúi người chờ đợi, một tay sẵn sàng trên nắm cửa, tay kia đưa khẩu súng lên ngang vai. Hơi thở khò khè to hơn. Rất nhanh và rất gọn, ông giật mạnh cánh cửa rồi chĩa súng ra.

Một bà già to mập co rúm người lại vì hốt hoảng, hai tay che lấy mặt, chiếc chìa khóa rơi khỏi tay rớt xuống đất. Bà nhìn ông sững sờ, lắp bắp muốn nói. Khi bà ta nói nên lời thì giọng của bà lai đủ thứ tiếng Do Thái, tiếng Do Thái Quốc tế và tiếng Anh.

— Davey ! Xin Chúa tha tội cho anh ! Anh chĩa súng vào mặt tôi kìa !

Ông thở phào. Hannah Meir là bạn thân nhất của Dolly. Bà là người đầu tiên và là người duy nhất mà Ruth và ông đã gọi bằng "dì". Bà cũng là người duy nhất vẫn còn gọi ông là Davey.

— Dì Hannah, cháu thành thật xin lỗi dì - Ông đứng lên, cất súng vào bao - Chỉ vì... cháu thật không ngờ là dì .. - Morton lượm chiếc chìa khóa lên, đưa cho bà.

Bà lắc đầu :

— Vậy cháu nghi là ai ? Một tên khủng bố à ? Bộ cháu tưởng có ai đến giết ba mẹ cháu à ?

Morton cười :

— Dì nói đúng. Nếu có hai người Do Thái nào được bình an trên thế giới, thì đấy chính là ba mẹ cháu. Mà cháu cứ tưởng mẹ cháu đang ở dưới bếp, chuẩn bị bữa ăn mừng sinh nhật đấy.

Ông vẫn gọi Dolly là Mẹ và Steve là Ba. Hai ông bà thích thế.

Bà già liếc xéo ông. — Anh muốn đứng đây nói chuyện hay là vào trong ?

— Xin lỗi, dì Hannah - Morton đứng sang một bên.

— Xin lỗi, đủ rồi - Bà vừa nói vừa bước qua trước mặt ông - Tôi mong là anh không có cơ hội như thế này nữa. Mẹ anh nói công việc của anh rất nguy hiểm, anh phải cẩn thận.

— Mẹ cháu quá lo đấy thôi - Ông đóng cửa lại.

Bà bước vào phòng khách. — Mẹ anh thương anh. Ba anh lại còn thương anh hơn nữa. Đương nhiên là họ phải lo cho anh.

Ông theo bà vào phòng, bà quay lại nhìn ông, nhìn như ông còn là một chú bé. Bà thở dài.

— Dì đã nói hai ông bà nên gọi điện thoại cho cháu biết.

Bà lôi trong túi áo ra một mảnh giấy, vuốt cho thẳng. Morton nhận ra nét chữ của Steve, nét chữ của một học giả, nhỏ, ngay ngắn, cách đều nhau. Hannah đọc to lên:

— Ngày đầu tiên và ngày thứ hai, ở Luân Đôn. Tại khách sạn Connaught - Ngày thứ ba, thăm quê hương Shakespeare. Ngày thứ tư, đáp máy bay tốc hành Phương Đông đi Paris. Ở tại khách sạn Maurice.

— Hôm nay là ngày mấy, thưa dì Hannah ? - Ông hỏi.

— Hôm nay vẫn còn là ngày đầu tiên, Davey à. Hai người đi sáng nay, ăn mặc khỏi chê, chi phiếu du lịch đầy đủ để cho ba cháu thỏa mãn một ao ước lớn lao là thết mẹ cháu sâm banh trong mấy bữa ăn. Ông ấy còn hứa đem về biếu dì một chai để trả công dì trông nhà nữa đấy.

Hannah bỏ tờ giấy ghi lịch trình vào túi áo. Bà thấy món quà của Morton, bèn bước đến cầm lên xem.

— Của cháu à ?

— Dạ. Một cuốn sách.

Bà gật đâu.

— Năm nào dì cũng nói hãy tặng ba cháu một chiếc áo sơ mi mới nhưng ba cháu chỉ muốn sách thôi. Cháu biết ba cháu đã có cả một đống sách rồi chứ ? Ông ấy vẫn muốn đọc hàng trăm cuốn nữa - Bà để cuốn sách xuống bàn trở lại - Dì đã nói cháu sẽ đến. Không có đứa con nào lại quên ngày sinh của ba mẹ mình hết.

Hannah dường như định nói thêm gì đấy. Nhưng rồi bà quay đi. Bà đã mất người con trai duy nhất trong trận Yom Kippur. Năm sau, chồng bà cũng mất. Bà con thân thích đều mất đã lâu. Ông cảm thông bà cố che giấu nỗi đau khổ của mình. Hannah là con người rất can đảm, khiến cho ông phải khâm phục. Bà quay lại nhìn thẳng vào ông, rồi cười nói :

— Mẹ cháu đã để sẵn mọi thứ trong tủ lạnh. Bà ây biết thế nào cháu cũng về. Xúp đấy, xúp khoai, gan, hành và bánh rán. Đều là những thứ cháu thích cả. Những thứ vợ cháu không quen làm.

Bà kéo một cái ghế dưới bàn ra, ngồi xuống.

— Xin lỗi cháu. Dì không cố ý gợi lại những kỷ niệm của người đã khuất.

Ông kéo một cái ghế đối diện với bà, rồi ngồi xuống.

— Shola không chết, dì Hannah à.

Bà lắc đầu :

— Cô ấy đã sống ở trong nhà này, Davey à. Cô ấy đã làm cho ba mẹ cháu khổ sở chưa từng thấy.

— Không phải hoàn toàn do lỗi của Shola đâu.

Hannah buông một tiếng thở dài nhè nhẹ.

— Thế cháu cho là mẹ cháu sai à, Davey ?

— Không phải thế. Không có gì trầm trọng để mà phải nói là ai sai hay đúng. Họ có gây gổ nhau gì đâu ? Không có gì hết ! Mà chỉ... Chỉ vì cháu đi luôn. Shola bực là vì thế.

Hannah nhìn ông.

— Nhưng cô ấy phải hiểu chứ. Mẹ cháu không hiểu đã đành. Còn cô ấy "đã biết" công việc của cháu mà.

Ông nhìn khuôn mặt, nhăn nhúm, mái tóc bạc buộc túm ra đằng sau của dì. Bà là người mẹ đã mất con. Ông không muốn làm cho bà đau khổ.

— Davey - bà lại lên tiếng - Cháu và cô ấy đều cùng chung một chiến tuyến, chắc là hai người tâm đầu ý hợp lắm!

— Không phải khi nào cũng thế đâu, dì Hannah à.

— Hai người cần có thời gian để hiểu nhau hơn.

— Có lẽ dì nói đúng.

Im lặng một hồi lâu, rồi bà lại nói : — Không có cách nào tái hợp được à ?

— Chúng cháu đã ly dị nhau hai năm nay rồi. Mới đây cháu nghe nói cô ấy đã có người khác rồi.

— Cháu vẫn quan tâm đến cô ấy à ?

Ông cười : — Dạ không. Tình cờ mà cháu được tin thôi.

Bà nhìn thẳng vào ông.

— Còn cháu ? Không có ai hết ư ?

Ông cười lớn :

— Dì lưu tâm đến cháu quá nhỉ ? Bộ dì muốn làm mai cho cháu ư ?

Hannah đưa hai tay lên giả vờ phản đối.

— Nói thế thì thật tội trời. Nhưng mà này, dì cũng quen biết một hai cô rất đẹp có thể là vợ hiền được đấy. Đã đẹp lại tân tiến chẳng thua gì gái Luân Đôn hay là Paris đâu.

— Như thế này là cháu hạnh phúc lắm rồi, dì Hannah à.

Bà nghiêm nghị nhìn ông.

— Đàn ông nào cũng đều phải lấy vợ hết. Ba mẹ cháu chắc là rất muốn cháu đi bước nữa. Và muốn có cháu nội là một thằng con trai...

— Dì Hannah, dì vẫn y như ngày xưa !

Bà rạng rỡ cả mặt mày.

— Dì biết, dì biết. Dì còn pha cà phê rất ngon được mà.

— Chắc là cháu thèm cà phê rồi đấy.

Bà vội vã đi xuống bếp. - Tel Aviv ra sao cháu ? - Bà vừa hỏi vừa quay lại với khay đựng tách và bình cà phê.

Họ uống cà phê kiểu Ả Rập, cà phê đen không bơ không đường.

— Dì biết đấy... Tel Aviv là Tel Aviv... thay đổi hàng ngày. Một số chúng ta bắt đầu chấp nhận quan điểm của thế giới cho rằng anh chàng IRan là ngon lành nhất trong khu vực này.

Bà đưa cho ông một tách.

— Rồi có được yên ổn không, Davey ?

Câu hỏi của bà thật giản dị khiến ông thấy bối rối trong lòng. Ông thành thật đáp : — Có lẽ một ngày nào đấy sẽ yên ổn. Nhưng ngày ấy vẫn còn lâu.

Bà nhìn thẳng vào Morton. Đôi mắt bà bối rối.

— Nhưng nước chúng ta quá nhỏ. Khi IRắc chiếm Kuwait, cả thế giới đều cho rằng anh chàng Kuwait "bé nhỏ". Mà chúng ta còn bé hơn nữa.

Ông nhấp cà phê. — Cà phê thật tuyệt - Ông để tách cà phê xuống bàn - Chúng ta có tầm cỡ sức mạnh mà kẻ thù không hiểu nổi. Có nhiều vũ khí và có đông người không hẳn đã mạnh. Vấn đề là quyết tâm. Chừng nào mà chúng ta còn có quyết tâm, chúng ta sẽ sống còn, dì Hannah à !

— Nhưng họ đang mạnh lên đấy. Cháu chắc cũng thấy trên tivi hằng ngày. Dì nghe radio thế. Rồi ra sẽ mệt đấy, Davey à. Dì cảm thấy như thế. Mẹ cháu cũng nghĩ vậy.

Ông uống hết tách cà phê, rồi rót thêm tách khác. Tiếng đồng hồ kêu tích tắc trên kệ bên trên máy sưởi.

— Dân tộc này muốn tạo nên một cuộc thánh chiến, dì Hannah à, và họ muốn thực hiện khắp nơi. Nhưng họ biết rằng trước hết họ phải loại chúng ta đi đã. Chúng ta đứng ở giữa họ với thế giới. Vì thế mà người Mỹ sẽ ủng hộ chúng ta, và tất cả những nước ở châu Âu nữa. Chúng ta là vật đệm cho họ.

Mặt bàn gỗ láng bóng phản chiếu ánh sáng ngọn đèn. Hễ mỗi lần Morton ngồi ở đây là ông lại thấy bóng ngọn đèn in dưới lớp gỗ láng bóng do bà Dolly lau chùi.

— Mẹ cháu thường nói Chúa đem chúng ta đến đây cũng nhằm mục đích ấy đấy, Davey à. Để chúng ta chịu trận thay cho thế giới.

Ông đẩy tách cà phê ra, rồi nói tiếp : — Vì chúng ta nhất quyết không chịu thua bằng vũ lực, cho nên kẻ thù đã dùng cách khác. Chúng đe dọa thế giới để họ đừng ủng hộ chúng ta nữa. Chúng còn làm cho một số bạn bè của chúng ta phải kinh hoàng để họ xa lánh chúng ta. Rồi chúng sẽ đến.

Hai người im lặng một hồi lâu rồi bà hỏi :

— Khi nào, Davey ? Khi nào thì chúng sẽ đến ?

— Ước gì mà cháu biết được, dì Hannah - Morton đáp.

Bà gượng cuời : — Mẹ cháu nói nếu cái gì mà cháu không biết, thì không đáng cho cháu biết - Bà rót cho mình một tách cà phê mới pha - Ước gì ba cháu nghe được những gì cháu vừa nói.

— Thật không, dì ?

— Thật chứ - Bà uống nhanh tách cà phê rồi để cái tách xuống - ít khi dì tranh cãi với ba cháu, Davey à. Dì chưa bao giờ nghe ai giảng giải về lịch sử của chúng ta hay hơn ba cháu. Đáng ra thì ông ấy nên in sách nhiều hơn kia. Mà không chỉ là in bằng tiếng Do Thái. Ông nên in nhiều ở Mỹ hơn. Ông ấy nên đi diễn thuyết khi họ yêu cầu.

— Ba cháu không muốn rời xa chúng ta.

Bà vội vẫy tay. — Ấy, không phải đâu. Ông ấy không thích đi mà thôi... bây giờ thì... -Bà có vẻ bối rối.

Ông đợi cho bà tìm ra ý. Rồi bà nói tiếp : - Ông thường nói chúng ta phải học cách để thương yêu kẻ thù. Dì hỏi ông đoạn nào trong kinh Torah nói thế ? Trong sách nào của ông ta ? Nhưng ông ấy chỉ đáp chúng ta phải học để thương yêu họ.

— Ba cháu là người thiếu thực tế rất đáng mến, dì Hannah à. Nếu mọi người đều như ba cháu hết, thì thế giới sẽ tuyệt biết bao !

Bà đưa tách lên môi, nhìn ông, bà hỏi :

— Lần chót cháu gặp ba mẹ cháu là khi nào, Davey ?

Ông ngẫm nghĩ rồi đáp ; — Cách đây cũng mười tháng rồi.

— Còn nói chuyện bằng điện thoại ?

— Cũng năm, sáu tuần rồi. Mà sao dì lại hỏi thế ?

Bà nhìn chăm chăm vào ông. — Thế mà cháu không biết à ?

— Biết cái gì, dì Hannah ?

Bỗng ông cảm thấy lo. Rồi dì nói thật nhanh :

— Ba cháu bệnh nặng, Davey à. Rất, rất nặng.

Ông nhìn bà.

— Ba cháu bệnh sao ạ ? Sao lại bệnh được ? Ba cháu đi nghỉ phép mà !

— Các bác sĩ nói ông ấy còn đi du lịch được.

— Các bác sĩ nào ?

— Các bác sĩ ở bệnh viện Brai Nith.

Ông nhìn bà không thốt nên lời, Brai Nith là bệnh viện mới của Israel chuyên trị bệnh ung thư. Hannah để cái tách xuống.

— Ba cháu đã đến đấy một tháng rồi. Họ phát hiện thấy ung thư ở gan và bao tử. Vì biết ba cháu là ai, cho nên họ nói hết cho ba cháu nghe. Không chữa chạy được nữa. Chỉ kéo dài thêm thời gian của ba cháu mà thôi.

— Nhưng ở đây người ta đã có máy bắn điện tử mà. Chắc là họ có thể bắn...

Hannah lắc đầu. — Đã quá nặng rồi, Davey à...

— Bao lâu ? - Ông hỏi nho nhỏ - Ba cháu bị đã bao lâu rồi ?

— Họ không biết.

Ông nhìn khuôn mặt khổ sở của bà dì, cảm thấy lòng mình quặn đau, và bỗng ông thấy ngạt thở. Ông đứng dậy.

— Cháu muốn nói chuyện với ba cháu.

Bà lấy ra tờ giấy ghi lịch trình du lịch, rồi đưa số điện thoại khách sạn Connaught cho ông. Ông bước đến điện thoại, bấm số gọi thẳng đến Luân Đôn. Nhân viên điều phối điện thoại ở khách sạn cho biết ông bà Vaughan đã nghiêm ngặt căn dặn rằng phải để cho hai ông bà được yên tĩnh cho đến sáng mai. Ông để điện thoại xuống, đứng yên một lúc, mắt nhìn đăm đăm vào kệ sách.

Bà già bước đến bên ông, ôm lấy ông như mẹ ôm con.

— Ở lại đây đêm nay đi, Davey ! Sáng mai gọi lại cho ba mẹ cháu. Rồi ra giáo đường cầu nguyên. Mẹ cháu chắc là thích thế.

Morton gật đầu, không hứa, rồi ông bước ra ngoài ban công nhỏ. Khi ông còn nhỏ, ông thường đứng ở đây hàng giờ trong khi Steve chỉ lên những vì sao. Morton nhìn ra cổ thành rồi nhìn qua đồi Gethsemane. Không khí mát lạnh. Chắc rồi trời sẽ lạnh lắm.

Khi ông bước vào lại phòng, bà Hannah đã đi rồi. Tháo điện thoại ra, ông đem vào phòng mình rồi nối điện thoại vào ổ cắm ở bàn bên cạnh giường ngủ. Ông đã cho thiết kế ở đây để nhận nghe điện thoại bất cứ vào giờ nào khi ông ở nhà sau ngày Shola bỏ đi.

Ông tháo súng và bao ra để trên bàn. Ông nhắm mắt lại, nghĩ đến Ruth rồi Shola, đến Dolly và Steve... rồi cuối cùng nghĩ đến Nan. Bỗng ông có ý nghĩ nói cho Hannah nghe về chuyện hai người gặp nhau, Nan giống như cảnh lâu ngày mở một cánh tủ, tìm thấy một cái sơ mi mình ưa ý và mặc còn vừa vặn. Nhưng rồi ông lại không muốn tâm sự với ai về chuyên Nan hết. Ông tự hỏi không biết những người khác khi yêu có như thế không ?

Ngày ông gặp Nan đến nay đã một năm qua rồi, cái ngày mà ông bước lên bục để đọc bảng tường trình hằng năm về chứng tâm động do khủng bố gây ra trước giới trí thức của trường Đại học Harvard. Khi mọi người nói xong, nàng bèn đứng dậy đến tự giới thiệu với ông : "Tôi là Tiến sĩ Nan Cooper, nhà vi rút học", rồi nàng hỏi ông nhiều câu hỏi đã suy nghĩ rất cẩn thận, và yêu cầu ông trả lời cũng cho thật chính xác. Ông mời nàng đi ăn tối. Ông chắc là cơ quan Mossad sẽ nhận thêm được một nhân tài mới đáng chú ý. Khi uống cà phê nàng trả lời bằng lòng rất giản dị, nàng muốn giúp ông.

Trên xe trở về nhà, nàng nói cho ông nghe đầy đủ về O’Hara, nhà bệnh lý học đã cùng chung sống không được êm đẹp, cuối cùng họ chia tay nhau và O’Hara bỏ đi New York. Ông bán tín bán nghi, vì từ ngày Shola bỏ đi, ông tránh không để cho vướng vào con đường tình cảm. Nàng chìa má cho ông hôn, nụ hôn tạm biệt chân thành.

Nan đã sang Luân Đôn sáu tháng rồi, nàng giữ chức Trưởng đoàn Nghiên cứu một thời gian tại bệnh viện Các Bệnh Lây Nhiễm. Trong chuyến thăm Luân Đôn vừa qua, ông đã gặp lại nàng.

Ông sang Luân Đôn để báo cáo trước Bộ Nội vụ Anh, về các tội phạm chiến tranh của Đức quốc xã, mà cơ quan Mossad đã phát hiện chúng đang sống bình an phè phỡn tại những nơi như là Hastings và Torquay. Đêm đó ông đến căn hộ của Nan, định mời nàng đi ăn tối như sáu lần trước hai người đã gặp nhau. Nhưng khi nàng mở cửa ra thì trên người nàng chỉ có chiếc áo mặc ở nhà bằng lụa mỏng. Ông còn thấy nàng không mặc đồ lót.

Nàng dẫn ông đến chiếc đi văng, rót sâm banh ra hai ly lớn có chân, rồi với giọng dịu dàng, nàng nói muốn làm tình với ông. Nàng nói nàng đã muốn làm tình với ông ngay từ khi nàng mới gặp ông. Ông thấy người bị kích thích ghê gớm. Ông đã quên bẵng cảm giác khi đụng chạm một cơ thể xa lạ rồi, nhưng lần này khi ông hôn nàng, ông cảm thấy như là lần đầu tiên ông được yêu. Ông cởi áo quần, môi vẫn không rời người nàng. Khi nàng cong người lại, nàng như muốn ông yêu nàng thật nồng nhiệt hơn nữa. Sau đó, nàng nằm yên dưới người ông một hồi lâu, không nói năng gì.

Sau lần làm tình thứ mười vào hôm cuối tuần đó, ông nói với nàng là ông đã yêu nàng. Nàng nhìn ông mỉm cười tinh nghịch, rồi nói ông không nên quá lo về tuổi tác của mình. Một người bằng nửa số tuổi của ông cũng không thể yêu một cách cuồng nhiệt như thế.

Buổi sáng hôm ông về Tel Aviv, hai người cùng nằm trong bể tắm cổ lỗ sĩ, mà ông vẫn thấy vừa đủ cho cả hai người. Hai cơ thể áp vào nhau rồi họ làm tình thêm lần nữa. Ông lại thì thào bên tai nàng là ông yêu nàng. Nàng bước ra khỏi bể tắm, rồi vừa lau mình nàng vừa nói một cách tinh nghịch :

— Davey, đừng có trẻ con như thế. Em không muốn tình yêu. Em chỉ muốn làm tình thôi. Đừng làm rắc rối thêm lên. Nhé ?

Vì ông yêu nàng, nên ông chấp nhận. Ông biết ông không biết rõ quá khứ của nàng, khi hai người dan díu nhau thì nàng đã nói cho ông biết. Ông không hề tìm hiểu. Ông chỉ nhớ nàng khoảng ba mươi lăm tuổi, và ông đừng hy vọng nàng còn trinh. Trong vòng một tháng nữa, Nan sẽ trở về lại Boston, như thế càng xa thêm. Nhưng chắc ông sẽ tìm cách để đến thăm nàng.

Điện thoại reo.

— David - Danny nói - Chúng tôi đã chặn được một tin.

— Phải chăng anh đã nghe giọng nói, Danny ? - Morton hỏi, đáng ra ông không cần phải hỏi làm gì.

— Chính xác lắm. Giọng Raza.

— Tôi về ngay đây.

Hai mươi phút sau, ông rời Jerusalem, phóng nhanh về Tel Aviv, ông nhắc thầm thế nào cũng phải gọi Steve.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
601,786
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 7


Người dịch: Văn Hòa - Kim Thùy

Nhà xuất bản: NXB Thanh Niên

Shared by: CCG -

Lila tiếp tục chụp ảnh đoàn người đến tham gia buổi lễ ăn thịt nướng ngoài trời. Cả thành phố Trekfontein hầu như đều kéo đến sân vận động ở dưới chân dẫy núi đá trên thảo nguyên Nam Phi vươn lên như những cái tháp nhọn xám xịt. Quanh sân vận động san sát xe jeep, xe tải, xe con từ thành phố cách đấy nửa dặm ùa đến, băng qua một vùng đất cát bằng phẳng.

Đứng từ xa mà nhìn, Trekfontein trông cũng giống như các thành phố khác trong vùng Transvaal : những tòa nhà tường trắng, nhiều nhà lợp tranh để cho mát vào thời tiết mùa hè nóng bức ở đây; những hành lang rộng im mát và những căn phòng sáng sủa. Vươn lên cao trong đám nhà cửa là Giáo đường của Giáo hội cải cách Hà Lan. Trông những hàng cột trắng lóng lánh, mới hiểu được giọng nói ở đây khàn khàn mang màu sắc Phi châu đang ồn ào quanh Lila.

Họ tụ tập ở đây để ăn mừng lễ chiến thắng hằng năm, vì đã đấu tranh thắng lợi. Những đổi thay đang diễn ra khắp Nam Phi. Chủ nghĩa phân biệt chủng tộc đã cáo chung, ngoại trừ ở Trekfontein. Ở đây, người ta vẫn tiếp tục bảo vệ người da trắng, ngay cả những khi họ phạm lỗi lầm. Không người da đen nào được có công ăn việc làm trong thành phố hết. Không người da đen nào có quyền vượt qua ranh giới của thành phố để vào trong pháo đài phân biệt chủng tộc vĩ đại cuối cùng này của Liên bang hết.

Tên Trekfontein đã nổi tiếng khắp thế giới, khiến cho Raza chú ý đến. Hắn đã nói với Lila rằng thành phố này sẽ cung cấp được một bức tranh minh họa hoàn hảo về tín điều đang bao trùm lên cả hai mặt đời sống của hắn : thứ nhất hắn tin rằng sự hủy diệt là hành động duy nhất để kiến tạo, và sự bạo tàn là hành động tái tạo của chính con người; thứ hai là hễ một kẻ thù ngã xuống là một người tự do sẽ vươn lên để truyền bá cách mạng.

Dưới những hàng rào chắn ghi hàng chữ "Trekfontein là Trái tim của Tổ quốc”, "Da Trắng và Tự hào", có nhiều phụ nữ mặc áo quần mùa hè, cầm dù để chống lại cơn nắng nóng bức của Phi châu. Nhiều thanh niên mặc áo quần cụt, kiểu áo quần vùng thảo nguyên. Trẻ em đều mặc y phục kiểu vùng Voortrek, con gái thì váy dài, mũ có quai vòng dưới cằm. Con trai thì

áo sơ mi hồ cứng, đồng phục.

Khi Lila đi vào trong đám đông, mọi người đều vẫy tay chào chị, miệng cười niềm nở. Trong hai ngày ở Trekfontein, chị đã trở thành khuôn mặt quen thuộc của phần lớn số cư dân đông năm ngàn bốn trăm bảy mươi hai người ở đây, chị đã chụp ảnh họ khi làm việc và bây giờ đang giải trí.

Họ mừng đón chị, mời vào nhà hàng, vào nhà riêng, vào bệnh viện và nhà thờ. Khi nghe chị hỏi, họ đều chỉ vào hai nơi quan trọng của Trekfontein : đó là những ngọn núi đá màu xám vươn cao như ngọn Núi Bàn thu nhỏ đang nhìn xuống Cape Town vậy; thứ hai là bể chứa nước đã cung cấp cho Trekfontein nước sạch nhất chưa từng thấy.

Lila đã đi thăm cả hai nơi, chị bèn loại ngay dãy núi đá. Ngọn gió đang thổi từ hướng ngược lại, cho nên chị phải chú trọng đến bể nước.

— Cô đã thấy loại linh dương đầu bò ở ngoài ấy chưa ? - Một ông già đội mũ rơm, mặc bộ đồng phục nút cài cao tận cổ cất tiếng hỏi to.

— Dạ chưa.

— Vậy thì ráng tìm xem cho biết, cô bé - Ông cười khục khục.

Chị cười và bỏ đi. Lão già điên tưởng chị không biết chẳng có con vật nào đáng chụp ảnh ở trong vòng cách đây một trăm dặm. Có lẽ chị biết về đời sống hoang dã ở vùng này còn rành hơn lão ta nữa. Raza đã tạo điều kiện cho chị đọc đủ thứ sách. Đó là phương pháp của hắn... và chị đã khâm phục hắn về phương diện này. Nhưng chị vẫn vui đùa với lão già cũng như chị đã vui đùa với tất cả bọn họ. Đấy là phần quan trọng trong công việc của chi.

Sáng sớm hôm sau, chị lại ra bể nước để chụp ảnh cảnh mặt trời mọc. Rồi khi thấy không có ai theo dõi, chị bèn thử xem tốc độ nước chảy. Như lần trước, chị lại dùng một miếng gỗ nhẹ thả cho trôi theo dòng nước. Chị buộc vào mảnh gỗ một chai rượu nhỏ lấy nơi quầy rượu mini trong phòng chị tại khách sạn có cái tên rất kêu là Đại khách sạn Trekfontein. Lại một lần nữa phải mất bốn giờ cái chai mới trôi đến cửa ống cống dẫn nước từ bể. Chị thấy cái chai va vào cổng sắt vỡ toang, rượu trong chai bắn tung tóe lên đập chắn nước rồi chảy vào trong phòng bơm nước, rượu hòa tan vào nước trước khi được bơm vào thành phố Trekfontein cách đấy ba dặm. Chị thử nhiều lần, kết quả đều giống nhau.

Lila lấy làm sung sướng khi nghĩ đến giờ phút cái chai nước hoa trong túi xách đựng camêra, sẽ trôi đến cửa ống cống cũng trong chừng ấy thời gian. Đến đây, chắc phải mất thêm hai giờ nữa, vi rút bệnh than B.c mới được bơm vào thành phố Trekfontein.

Thế là sáu giờ. Mất ba giờ đi xe qua thảo nguyên để đến phi trường quốc tế Johannesburg. Thêm hai giờ nữa để chuẩn bị ra đi. Chị có thể đến Nairobi trước khi những nạn nhân đầu tiên lên chầu trời. Và có thể có mặt ở Athens trước khi người cuối cùng về cõi Diêm Vương.

Một nhân viên cảnh sát mặc áo sơ mi ka ki, quần soóc, dừng lại trước mặt chị. Ông ta nói, giọng nặng trịch :

— Bây giờ cô chụp ảnh chúng tôi là tuyệt đấy. Cô cho thế giới biết rằng họ nghĩ sao, chúng tôi cũng cóc cần.

Chị vẫy một bàn tay, mắt vẫn nhắm ở điểm ngắm của máy ảnh. — Ông đặt tay lên súng đi, ông đại úy.

Ông ta đặt bàn tay lên bao súng đeo trên thắt lưng da hiệu Sam Browne bóng láng.

— Tôi chưa bao giờ rút súng ra một lần - Viên sĩ quan nói tiếp - Cô biết tại sao không ? Vì chúng tôi gặp chuyện khó khăn với bọn Kaffir, không có bọn da đen là không có tội ác. Chỉ đơn giản như thế.

Ông ta nhìn ngực chị môt chốc, rồi lại nhìn mặt chị.

— Phụ nữ ở đây rất yên ổn. Đến vũ trường hay rạp chiếu bóng nào họ cũng không sợ phải gặp bọn da đen quấy rầy hết. Càng có tự do, chúng càng phá phách. Cô hãy nói cho ông Mandela biết thế.

— Tôi sẽ ghi nhớ điều này - Lila nói, chị lên phim máy ảnh.

Ông đại úy cảnh sát chạm tay lên chóp mũ chào rồi bỏ đi. Lila đi về phía xa đằng kia sân vận động, chỗ đang quay thịt. Chị dừng lại chụp ảnh một nhóm con trai vị thành niên mặc áo thun có in hàng chữ rất thời danh : "Quyết Bảo Vệ Dân Da Trắng".

— Báo của chị có bênh bọn Kaffir không ? - Một thanh niên hỏi. Chị nhớ ra anh ta là người hầu bàn phục vụ chị tại khách sạn. Chị cười đáp :

— Tờ "Time" phi chính trị.

Anh ta liếc xéo chị - Như thế là đứng về phe tự do rồi.

Những thanh niên khác phá lên cười. Một cô gái cao, tay chân dài, mái tóc vàng rám nắng, chỉ vào cái túi xách đựng camêra, nói :

— Tôi mang cái xách cho cô. Giá không cao hơn một thằng da đen cô thuê mang ở Johannesburg đâu.

Cả nhóm lại cười phá lên.

— Chắc là tạp chí của tôi không cho phép tôi mướn một cô gái mang túi xách đâu - Lila lễ phép nói. Khi thời gian tiêu diệt bọn heo phân biệt chủng tộc này đến, thì thật là thú vị hết sức. Chị sửa lại cái túi xách đựng camêra, rồi băng qua sân vận động. Để bảo đảm, chị lại đưa tay sờ sờ vào trong túi xách. Cái chai "Đêm Hy Lạp" vẫn còn đấy.

Một người đàn ông thấp, mập, tuổi trung niên chặn chị lại. Ông ta mặc bộ đồ mùa hè vải mỏng, thắt chiếc cà vạt rộng bản cổ lỗ, đội nón rơm. Ông ta đi với vợ. Bà vợ mặc áo màu hồng phấn, đội chiếc mũ hoa và đeo găng tay vải màu trắng.

— Xin chào người đẹp. Cô đã thỏa mãn chưa ? - Ông ta lên tiếng.

— Xin cám ơn ông thị trưởng.

Người công dân số một thành phố Trekfontein hãnh diện ra mặt. — Thật là một vinh dự được đón tiếp tờ Time đến đây.

— Chính nỗi khát vọng đạt cho được ý tưởng của ông, đã khiến ông chủ biên của tôi phải lưu tâm tới.

Người đàn bà nhìn chằm chằm qua vành mũ. Khi bà ta cất tiếng nói, giọng bà rất dịu dàng:

— Nhưng liệu khi về cô có viết không tốt về chúng tôi không ? Liêu cô có công kích chúng tôi vì chúng tôi không chịu trao thành phố thân yêu này cho một đám mọi rợ không ?

Lila cố cười làm lành. — Nhưng đây là pháo đài cuối cùng "chỉ có người da trắng thôi" mà !

Ông thị trưởng gật đầu.

— Và chúng tôi rất tự hào về chuyện này. Chúng tôi bất cần các chính trị gia ở Cape Town dọa tẩy chay quyền đại biểu cho những ai chủ trương phân biệt chủng tộc và màu da, Trekfontein sẽ vẫn đi theo con đường như trước.

— Cô hãy nhìn quanh đi, thưa cô - Vợ ông thị trưởng vung tay nói. - Không ai ở đây cảm thấy khốn khổ vì mình là da trắng hết. Nếu Chúa muốn chúng ta tất cả đều cùng một màu da, thì chắc Ngài đã sắp đặt ra rồi. Đằng này, Ngài tạo ra chúng ta đen và trắng, như đêm và ngày vậy, thì chắc là Ngài đã muốn phân biệt rồi. Vì thế mà chúng tôi yêu cầu... phải phân biệt ra.

Ông thị trưởng lại gục gặc đầu.

— Chúng tôi không muốn đánh họ. Chúng tôi chỉ không muốn họ có mặt ở đây, ở trong thành phố "của chúng tôi", ở trên vừng đất "của chúng tôi", cùng ở với dân tộc "của chúng tôi".

Vợ ông thị trưởng nhìn chằm chằm Lila, bỗng có vẻ lo lắng. — Theo cô thì thế giới sẽ hiểu chúng tôi không ?

Lila cố mỉm cười. — Chồng bà đã giải thích cương vị của quý vị rất rõ ràng rồi.

Vợ ông thị trưởng gật đầu, quả quyết nói :

— Nhưng người ngoại quốc lại thường bóp méo sự thật, họ cho ông là kẻ chống Kaffir. Ông ấy không hề đánh đập người da đen nào - Bà ta nhìn Lila chăm chú, nước mắt lưng tròng - Xin phép hỏi cô một câu : Nước Mỹ có trở thành một nơi tốt đẹp hơn không, sau những gì Martin Luther King đã làm ?

— Tôi chỉ là một nhiếp ảnh gia, thưa bà - Lila cười và nói. Chị đã biết từ lâu rằng nụ cười là phương pháp duy nhất chỉ dùng để dẹp hận thù. Ông thị trưởng nắm lấy cánh tay vợ rồi thuyết giáo một bài mà Lila đã nghe nhiều lần kể từ khi chị đến Trekfontein.

— Thưa cô. Chúa đã chọn nơi chốn này cho chúng tôi. Ngài đã dẫn những đoàn xe của tổ tiên chúng tôi đến đây, ngài bảo vệ tổ tiên chúng tôi chống lại những cái lao của người Zulu và chống lại những cái rìu của người Matabele. Một thế kỷ sau, Ngài vẫn bảo vệ chúng tôi. Cho nên những gì mà chúng tôi làm đều cho Chúa cả. Nếu Chúa không chấp nhận những gì chúng tôi làm, chắc Ngài đã tỏ ý bất bình rồi.

— Cũng như Ngài đã làm cho dân Israel vậy - Vợ ông thị trưởng nói thêm.

— Tất cả đều có trong kinh thánh - Ông chồng giảng giải - Nếu mình làm theo con đường Chúa muốn, thì mình sẽ được ban ân. Nếu không, mình sẽ bị đày đọa xuống lửa địa ngục và bị mắc phải bệnh dịch đang hoành hành.

Lila gật đầu vui vẻ : — Tôi sẽ nhớ điều đó, thưa ông Thị trưởng.

Chị bước tiếp đến những nơi quay thịt. Raza đã nói đúng. Những người này là những con quái vật làm ra vẻ mộ đạo. Một nửa thế giới sẽ vui mừng khi nghe chúng chết. Còn một nửa kia thì họ bất cần. Dân ở Trekfontein quả thật đáng đem hy sinh : họ kiêu ngạo và không có thiện cảm.

Trẻ con chạy giữa những lò nướng thịt đang chảy mỡ xèo xèo, đầy cả thịt bò ngon và những thứ thịt khác. Kế đó, những chiếc bàn chất đầy rau đủ loại. Những thùng bia và nước chanh chất cao nghệu. Lila tính ra thức ăn thức uống có thể nuôi đủ cả một trại tị nạn suốt một tuần. Những thức ăn thừa đã đổ đầy các thùng rác.

Chị bèn chụp ảnh cảnh tượng này.

— Chúng ta đã có được những con heo nuôi nấng đầy đủ nhất Liên bang rồi.

Lila quay lại, thấy ngài mục sư Chủ tịch Giáo hội Trekfontein. Ông nhìn chị bằng cặp mắt xanh lơ. Chị đoán ông chưa quá ba mươi, nhưng bộ râu đỏ rậm làm cho ông trông già hơn.

— Tại sao cô chụp những cảnh ấy ? - Giọng ông nhã nhặn đầy vẻ trí thức.

— Đây là cảnh thuộc đời sống.

Ông bước đến gần hơn. Chị ngửi thấy mùi xà phòng thơm trên người ông.

— Cô không phải là người Mỹ chứ ?

— Người nhập quốc tịch Mỹ. Giống như nhiều người Mỹ vậy - Chị thận trọng đáp.

— Gốc là người nước nào ?

— Hy Lạp.

— Cô làm cho báo "Time” bao lâu rồi ?

Lila cười rồi bước lui. — Ngài đứng yên thế nhé ? Để tôi chụp một tấm.

Đàng sau Ngài Chủ tịch là một đám con gái đang ăn thịt băm. Lila bận bịu bật cái máy này rồi bật cái khác. Tại sao ông ta hỏi câu ấy ?

— Cô đã chụp đủ để đăng cả một số báo rồi - Ngài Chủ tịch nói.

— Tôi chụp một ngàn tấm Lễ Đăng quang của Nhật Hoàng mà họ chỉ dùng có một tấm. Tờ ''Time'' là thế đấy.

Lại một lần nữa, ông ta bước đến gần hơn.

— Tôi biết. Tôi có một người anh họ làm việc tại văn phòng của tờ báo này ở Cape Town.

Lila cảm thấy hồi hộp. — Tôi sẽ đến đó rửa một số ảnh đã chụp để thử xem. Tôi sẽ chuyển lời chào giúp Ngài.

Chị cố trấn tĩnh.

— Tôi đã cố liên hệ để nói chuyện với anh ấy. Anh ấy đang đi công tác ở Lusaka. Nhưng không có ai ở đấy tỏ ra biết cô được phái tới đây.

Lila cố hết sức giữ bình tĩnh.

— Tôi đang làm tại Luân Đôn thì được phái đi. Giờ phút chót. Có ai đấy chợt có sáng kiến muốn điều tra xem chuyến viếng thăm của Mandela ra sao.

Hai tháng trước đây, Nelson và Winnie Mandela đã đến Trekfontein để trao đổi chính sách. Họ thấy thành phố hoàn toàn cửa đóng then cài. Không cửa hàng nào mở cửa. Màn cửa trong mọi nhà kéo kín bưng cho đến khi cặp vợ chồng vị nguyên thủ da đen ra về, quá thất vọng vì cảnh tượng yên lặng một cách kỳ lạ.

— Theo chúng tôi thì vợ chồng Mandela không phải là những người duy nhất bực tức về chuyện này. Mahatma Gandhi cũng giống như họ. - Ông mục sư nói nhỏ nhẹ - Còn tờ "Time" thì dĩ nhiên là công kích chúng tôi.

Chị cười khoan khoái. — Tôi không tin ngài có một người anh họ làm trong Ban biên tập của báo này.

Ông ta chạm vào cánh tay chị.

— Thực ra thì tôi không ưa anh ta. Hắn là một người Thiên Chúa Giáo bỏ đạo, thân Cộng.

Lila gật đầu, từ từ thở ra.

— Chúng ta có quá nhiều loại người như thế này. Tôi thích những người có đức tin như ông thị trưởng của ngài ấy.

Ông ta lại chạm tay chị, lần này ông cười với chị :

— Tôi rất sung sướng khi nghe cô nói thế. Chúng ta cần phải thương mến tất cả những bạn bè mà ta có.

Vị Chủ tịch Giáo hội quay đi. Lila rủa thầm. Raza gọi càng sớm càng hay.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
601,786
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 8


Người dịch: Văn Hòa - Kim Thùy

Nhà xuất bản: NXB Thanh Niên

Shared by: CCG -

Morton cứ giả vờ không chú ý đến ông thiếu tá quân đội Sam Goodman, không chú ý đến mười một học viên đang ngồi trong lớp học. Ông đăm đăm nhìn ra cửa sổ. Ánh sáng mặt trời chiếu yếu ớt qua những lớp kính phủ đầy bụi. Mỗi lần đến đây ông lại tự nhủ phải lau cửa kính cho sạch.

Ông nghe những tiếng thì thào nho nhỏ cất lên ở cuối phòng. Chắc là giọng của ông chỉ huy trưởng xe tăng. Ông này nổi tiếng là chủ động và quả quyết. Nhưng ông chỉ huy trưởng này không làm nhà phân tích được. Ông ta quá nóng nảy.

Mới gần đây, Goodman tỏ ra có năng lực. Nhưng những câu hỏi về các vấn đề lệch lạc do ông nêu ra khó giải quyết quá. Lại còn những câu hỏi không được rõ ràng lắm của anh chàng phi công lái máy bay chiến đấu đang ngồi cạnh ông chỉ huy trưởng. Anh chàng phi công đã có những thành tích vẻ vang, nhưng anh lại hay bị bí. Thật khó mà làm một nhà phân tích tâm lý được.

"Saddam Hussein đã khiếp vía trước hành động của chúng ta. Rồi sẽ có người thay hắn mà không hành động như hắn.

Nhưng dù là ai thì kẻ ấy cũng sẽ đánh hai con bài chủ yếu : đó là tôn giáo và chính sách khủng bố. Nếu hắn phối hợp tài tình, hắn sẽ tạo nên một cuộc hủy hoại khác như đã xảy ra ở vùng Vịnh vào chiều thứ bảy hôm ấy".

Tựa người vào bàn, Morton đặt hai bàn tay giữa máy điện thoại và chai nước khoáng. Ông sẽ loại luôn anh chàng trung úy bộ binh và hai anh đại úy biệt kích. Bài phân tích của họ về nguyên nhân gây nên cuộc chiến vùng Vịnh đã miêu tả Saddam Hussein thật quá đơn giản. Một nhà phân tích tâm lý phải thật sâu sắc, phải thật chi li mới được.

Máy điện thoại có hai bóng đèn. Ông đã nói với cả lớp học rằng nếu ngọn đèn xanh bật lên, ông có thể tiếp tục bài giảng hay không. Nhưng khi ngọn đèn đỏ bật lên, ông buộc phải nghỉ. Còn chai nước là vì ông thích chốc chốc lại hớp một ngụm trong lúc giảng dạy. Theo ông, một nhà phân tích sáng suốt luôn luôn phải tìm cho ra nguyên nhân thật minh bạch.

— Có ai muốn khai triển câu hỏi của Sam không ?

Vẫn im lặng, không ai lên tiếng. Ngay cả Golan là người rất muốn nói... để giúp Morton đi đến quyết định có nên đưa ông đại úy nhảy dù vào một trong ba chỗ còn trống ở phòng Tình báo Trung Đông của cơ quan Mossad hay không ?

Phòng tình báo rất cần những nhà phân tích tâm lý như con lạc đà cần bộ da của nó. Họ phải suy nghĩ liên tục để đoán xem những kẻ của Damascus hay là ở Teheran đang suy tính gì. Và có lẽ câu hỏi của Goodman cần phải có thì giờ suy nghĩ thêm. Rồi ông sẽ tìm ra cách trả lời thôi.

"Hằng ngày chúng ta chứng kiến rất nhiều hạn chế nguy hiểm của Phương Tây trong việc họ hiểu người Hồi giáo đang võ trang. Người Phương Tây cứ luôn luôn coi thường đức tin của họ, coi thường lý tưởng và giá trị của ý thức hệ này".

Ông bước ra khỏi bàn, từ từ đến trước mặt họ, xem thử ai đang theo dõi ông. Một nhà phân tích là phải theo dõi đủ thứ.

"Hồi giáo cực đoan làm ngơ không để ý đến quy luật phản hồi, quy luật này rành rành ra rằng kẻ nào có phương tiện giết người hàng loạt, đều phải lo sợ kẻ khác có cùng vũ khí như thế sẽ trả đũa lại. Hồi giáo cực đoan cứ chuẩn bị theo đuổi những mục đích chiến lược của họ, ngay cả khi họ đang đứng trước nguy cơ bị hủy diệt. Bởi vì họ đã bị những đức tin và hình ảnh kẻ tử vì đạo đè nặng, làm cho mù quáng".

Ông đã giảng dạy cho họ những điều rút ra từ kinh nghiệm bản thân, những mánh khóe mà kẻ thù đã dùng đến. Morton dừng lại trước bàn của Goodman.

— Để trả lời cho câu hỏi của anh, thì Sam này, những vấn đề mệnh lệnh như thế hẳn là phải có mặt hay của nó. Hàng chục người Hồi giáo trước đây chưa bao giờ nhích lên một ngón tay, thì bây giờ họ nao nức nghĩ đến một cuộc Thánh chiến. Thế nhưng họ không phải là vấn đề khó khăn trước mắt của chúng ta. Anh có muốn cho biết, thế thì ai gây khó khăn và gây khó khăn gì cho ta không, Sam ?

Goodman cựa mình trên ghế rồi đáp :

— Những người lãnh đạo của họ. Bọn điên này đã dùng những đêm thứ Sáu để thuyết giảng về thuyết diệt chủng trong giáo đường. Nếu chúng nói "đã đến lúc" là đám đông "sẽ" đứng lên. Bao giờ họ cũng sẵn sàng.

Morton nhìn Goodman. Đôi mắt màu nâu, hơi lồi ra ấy, đôi mắt kinh ngạc đang nhìn thấu suốt được sự xảo trá của người đời, chính là đôi mắt của một nhà phân tích giỏi. Ông bước đi khỏi bàn của Goodman.

— Rất đúng đấy, Sam à. Nhưng chắc chắn là bọn tu sĩ Hồi giáo kia không điên đâu. Chúng thừa hiểu những gì mà các vị bác sĩ tâm thần thường gọi là cơn cuồng loạn khi đã ngấm thuốc.

Ông nhìn chằm chằm vào Goodman :

— Anh có muốn nhắc cho cả lớp nghe đấy là cái gì không ?

Goodman không do dự đáp :

— Một nhu cầu thúc bách buộc phải trả thù. Cứ cho điều đúng là sai hết một cách mù quáng và không kể đến tốn kém.

— Đúng. Tôi cũng thấy như thế đấy. Sâu sắc lắm, Sam à - Morton nói với cả lớp - Trong số hàng chục triệu con người ấy, được cả hay ngã về không. Thế đấy. Đối với họ, không có chuyện lưng chừng. Như thế là Thiện và Ác. Họ xem họ là Thiện, còn ngoài ra mọi người đều là Ác. Và họ đồng hóa những ai không theo họ đều là nguồn gốc sinh ra những vấn đề khó khăn của họ, họ bèn lý luận rằng con đường loại trừ những vấn đề khó khăn là phải hủy diệt nguồn gốc đó đi. Hủy diệt hết chúng ta. Tôi muốn các anh ghi nhớ điều này. Và tôi muốn các anh tìm ra một từ có thể bao hàm hết sức mạnh cuồng tín của hàng triệu người này. Một từ thôi, không nhiều.

Morton bước đến bàn, uống nước trong chai. Rồi ông bước đến cái bản đồ treo trên tường, quay lưng về phía lớp học, ông lại nghĩ đến Raza.

Sau khi trở lại Tel Aviv, ông đã nghe cái tin chặn được nhiều lần. Máy tình báo của Danny gài một chỗ gần văn phòng của Raza tại Beirut, văn phòng đã nhân danh hắn phát đi lời công bố sau một vụ khủng bố thành công.

Ban phân tích giọng nói tức khắc xác nhận đấy là giọng của Raza. Nhưng không có cách nào tìm cho ra lời kêu gọi ấy xuất phát ở đâu, hay là phải chăng lời kêu gọi đã được ghi băng. Không tìm ra được giờ giấc và địa điểm. Raza đã mất mười một giây để đọc lời trích dẫn : "Người không thấy Chúa đã tiếp xúc với Ad, tại đền Iram, không thấy sở thích của kẻ sinh ra không có quê hương ư ?".

Morton liền nhận ra lời thơ trích trong kinh Koran, cuốn 87, dòng 7. Nhóm giải mã của Danny cho biết cần phải mất nhiều ngày mới tìm ra được nội dung tiềm ẩn trong đó, nếu quả có điều gì tiềm ẩn trong đó thật. Ông cảm thấy họ đang hoài nghi.

Ông và Danny đem sách ra xem, tìm số của câu thơ. Số bảy : chỉ tháng thứ bảy ư ? Nhưng tháng bảy đã qua rồi. Ngày thứ Bảy ư ? Raza định tấn công vào chủ nhật sao ? Như thế tức là Raza đã tính toán bằng lịch của Thiên Chúa giáo rồi. Chắc là hắn dùng Hồi lịch hay Du đà lịch thôi. Như thế thì chắc là vào thứ Sáu hay thứ Bảy.

Có lẽ con số 8 và số 7 cộng lại chăng ? Ngày thứ mười lăm à ? Ngày mười lăm là ngày qua rồi. Tháng sáu thì còn những ba tuần nữa. Raza không muốn để lâu như thế đâu. Tất cả các con số cộng lại xem sao ? Được số hai mươi hai phải chăng sẽ có chuyện xảy ra vào ngày hai mươi hai tháng này ?

Morton không cần Danny phải đến lật lịch trên tường để xem nữa. Ngày mai là ngày hai mươi hai. Nhưng ông không thể tìm đến Bitburg hay Thị trưởng để báo cho biết ông đã đoán ra ngày rồi. Bitburg lại sẽ nói ông cứ để cho linh tính chi phối cho mà coi. Gặp Thủ tướng chắc là thoải mái hơn nhiều.

Morton quay lại khỏi cái bản đồ.

— Còn ai nữa không ?

— Sam đã mở máy rồi. - Golan nói - Chúng ta ai cũng biết thế. Chỉ có Sam là mau mồm mau miệng mà thôi.

Mọi người cười rộ lên. Giọng của Goodman kéo rề rề là do anh ta đã sống một năm trên cánh đồng cỏ ở Canada.

— Tốt lắm, Sam - Morton nói - Tiếp tục xem anh có chủ động được vấn đề không nào.

— Được thôi - Goodman tập trung hết tư tưởng để nói - Đối với hàng triệu con người này, bọn khủng bố luôn luôn là hình ảnh mơ ước của họ. Chúng mang nét huyền thoại qua giới truyền thông đại chúng của Ả Rập. Báo chí và truyền hình xem chúng như những vị anh hùng. Tàn phá giết chóc càng nhiều, danh tiếng của chúng càng lớn. Bọn không tặc được chào mừng trên đường phố Beirut. Làm nổ tung phi cảng được đăng ảnh khen ngợi khắp Damascus và Tripoli. Phá hoại ở trong nội cảnh Israel, Arafat sẽ mời đến bắt tay.

Morton cười. Tài ăn nói dí dỏm của Goodman xem ra chua chát.

— Hàng triệu con người ấy - Viên thiếu tá nói tiếp - thường gọi những vị anh hùng của họ một tên thôi. Họ thường gọi là Saddam hay là Nidal. Bây giờ thì Raza. Bất cứ chúng làm việc gì, người ta cũng đều tưởng tượng thêm để thổi phồng lên.

— Tốt lắm, Sam - Morton nói giọng đều đều - Nhưng chúng ta hãy nhìn vào mục đích của những điều tưởng tượng ấy xem. Xã hội không có gì thay đổi hết. Những gì bọn khủng bố làm đều xuất phát từ Khomeini mà ra hết. Họ muốn tạo nên cái gì tốt đẹp hơn. Sự thật thì hàng ngàn vụ khủng bố riêng rẽ đó đều không dẫn xã hội đến chỗ nào cải tiến cả. Nhân dân ở Beirut vẫn bần cùng như trước khi quả bom gài trong xe hơi nổ lần đầu tiên. Thế thì chiến dịch khủng bố nhằm vào mục đích gì ?

Morton đưa mắt nhìn Goodman.

— Để làm nhục à ? Mỗi hành động khủng bố thành công làm cho chúng ta lại cảm thấy nhục nhã thêm. Chúng đã đánh vào niềm tự tôn, tự ái của chúng ta - Goodman đáp.

— Cho một ví dụ đi ?

— Vụ khủng hoảng con tin của tòa Đại sứ Hoa Kỳ ở Teheran. Bốn trăm bốn mươi bốn ngày làm cho Hoa Kỳ phải điêu đứng trong bàn tay của bọn khủng bố. Buộc dải vải màu vàng trên cây cũng tệ mạt như đứng ngoài tòa Nhà trắng hò hét thách đố Mỹ dội bom hạt nhân vào Baghdad vậy. Lối ứng xử như thế cho thấy bọn khủng bố đã cao tay hơn.

Morton lại đi quanh trong phòng. — Tôi chắc quý bạn đều đồng ý với Sam chứ ?

Cả lớp đồng thanh đồng ý. Morton cười, rồi ông nín lặng một chút. — Bây giờ tôi xin hỏi như thế này. Như ta đã nghe một số câu chuyện rồi đấy, ta thử hỏi sẽ có quyền pháp lý nào cho mỗi chúng ta đuổi theo bọn khủng bố đã được phép ẩn náu trong bất kỳ nước nào được không ?

Morton quay lại, đứng tựa người vào bàn, nhìn Goodman đang nhíu mày suy nghĩ, nhìn Golan trề đôi môi ra, nhìn cả lớp đang cố tìm cho ra ý nghĩa của câu hỏi. Hôm đầu tiên ông đã dặn dò cả lớp phải xem mỗi câu hỏi là một bẫy đặt mìn. Nó có thể nổ tung vào mặt mình.

— Quyền pháp lý à ? - Goodman hỏi - Tôi không biết... chúng ta sẽ có được quyền hạn nào không ? Hay là ta phải chơi luật rừng đây.

Morton không đáp, ông im lặng một hồi. Mossad đã có một chương trình khởi tố chính thức. Môt tòa án quân sự bí mật đem một tên ra xét. Ba ông quan tòa xem xét các bằng chứng, nghe lời khởi tố và nghe vị luật sư biện hộ do Tòa chỉ định. Một tên khủng bố bị kết án vắng mặt đã bị hành hình khi cơ hội đến. Raza đứng đầu sổ kể từ khi hắn đánh bom bệnh viện hộ sinh. Al Najaf đứng thứ hai.

Môt ngày nào đó Goodman có thể đắn đo để tìm cho ra một tên để thêm vào danh sách. Đã đến lúc thử sức anh ta thêm nữa.

— Ta đợi luật rừng à, Sam ? - Morton lại lên tiếng, vừa bước ra khỏi bàn - Chúng ta có quyền hạn gì không à ? Vấn đề khó khăn càng ngày càng trầm trọng ra. Máy vi tính đã xác nhận bọn khủng bố nhiều hơn trước đây. Hàng năm số nạn nhân do bọn khủng bố gây ra tăng hơn hai mươi phần trăm. Như thế năm nay số người chết vì khủng bố sẽ tăng hơn năm ngoái là ba ngàn người. Giống như một bệnh dịch vậy. Hễ mỗi lần chúng ta tưởng đã kiểm soát được cơn bệnh, thì nó lại bùng lớn lên.

Morton bước tới bên cửa sổ. Quan niệm về luật rừng của Goodman cũng là quan niệm cũ dùng để chống lại chủ trương khủng bố mỗi khi đạo đức suy đồi, đó là luật ăn miếng trả miếng. Lập luận nghe cũng hợp lý. Vấn đề khó khăn là những kẻ như Raza không bao giờ nghe đến đạo đức.

Trước khi đến đây, Morton đã điện thoại đến cho các học giả trong ban Tôn giáo đối chiếu của Israel để nhờ họ suy đoán ý nghĩ trong câu thơ trích của kinh Koran này. Họ đều cho biết phải mất nhiều ngày. Ông cũng còn nhớ Steve, bố ông thường bỏ ra cả tháng trời để nghiền ngẫm một câu thơ mà.

Ông cũng đã gọi đến khách sạn Connaught. Cô trực điện thoại khách sạn cho biết giáo sư và bà Vaughan đã đi khỏi rồi. Ông hỏi khi nào thì hai ông bà về, cô ta lại cho biết luật không cho phép cô ta nói ra. Ông để tên lại rồi nói sẽ gọi lại sau, rồi bỗng nổi hứng ông gọi cho Nan, số điện thoại ở nhà hàng. Máy điện thoại tự động báo cho biết hãy gọi đến bệnh viện. Ông gọi đến bệnh viện Lây Nhiễm Quốc gia thì được báo là bác sĩ Cooper đã đi nước ngoài rồi. Ông bèn hỏi số điện thoại nơi đến của nàng và được trả lời bệnh viện không cho phép nói. Thế giới hình như đầy dẫy cả điện thoại viên giữ bí mật tin tức.

Morton rời cửa sổ quay lui, ông lại rảo bước trong phòng.

— Nào. Ai cho rằng không bao giờ, "không bao giờ" vĩnh viễn... có một phiên tòa xử bọn khủng bố nào ? Và các bạn hãy nhớ là bọn người mà chúng ta gọi là khủng bố đó đã được nhiều người khác gọi là chiến sĩ đấu tranh cho tự do. Chắc có bạn còn nhớ chúng ta cũng đã gọi những người Do Thái chiến đấu để buộc người Anh rút ra khỏi nơi đây để thành lập Quốc gia Israel cũng bằng tên gọi như thế đấy. Người Anh nói chúng ta đã có những hành động khủng bố. Còn dân tộc chúng ta đã phá hủy nền cai trị của họ và giết nhân dân của họ. Vậy thì giữa hành động của cha ông chúng ta với hành động của bọn người gây thiệt hại cho chúng ta hiện nay có gì khác biệt nhau ?

Ông gật đầu với Golan. - Teddy trả lời được không ?

— Trong việc làm của cha ông chúng ta, dân tộc ta đã biểu lộ ý thức của mình về tính thiêng liêng của kiếp người đúng theo lời giảng dạy của Chúa. Còn bọn khủng bố hiện nay thì không hợp với ý Chúa, vô đạo đức - Golan đáp.

Morton nhớ bố của Golan là một thầy tu Do Thái. Ông cụ đã từng chống lại người Anh vào năm 1948.

— Như thế anh cho rằng sự khác nhau bắt nguồn từ tôn giáo ư, Teddy ? Khác nhau vì đức tin của chúng ta dạy rằng sử dụng quyền tấn công là đúng để rồi mọi việc đi đến chỗ tốt đẹp ư ? Chấp nhận quyền tự vệ trước sức bành trướng của bọn tấn công, có chắc làm cho chúng tôn trọng quyền sống của chúng ta không ? Hay là cần phải có biện pháp gì đem ra ứng dụng đây ?

— Phải chăng thầy đang nghĩ đến Grynspan ? - Golan hỏi.

— Anh nhắc lại cho cả lớp nghe đi - Morton sung sướng nói.

— Herschal Grynspan là một người Do Thái Ba Lan học tại Paris năm 1938. Ông thấy trước những việc sắp xảy ra, bèn đến Tòa Đại sứ Đức, bắn chết tên trưởng ban Mật vụ. Việc này dẫn đến cuộc tàn sát trả thù chống lại người Do Thái ở Đức. Hàng ngàn người chết và đi đến trại tập trung.

Morton đứng trước mặt Goodman. Ông hỏi :

— Phải chăng Grynspan là một kẻ khủng bố ? Một kẻ khùng, chắc thế. Nhưng một tên khủng bố - hay là một chiến sĩ bảo vệ tự do thì ra sao ? Điều khác biệt là ở đâu ? Có điểm khác biệt phải không, Sam ?

— Dạ thưa có - Goodman đáp - Hành động của Grynspan là hành động của người chiến sĩ bảo vệ tự do. Ông ấy đã chọn mục tiêu hợp pháp. Vì thế mà ông là chiến sĩ bảo vệ tự do. Những chiến sĩ bảo vệ tự do không đánh phá xe đò chở thường dân. Bọn khủng bố mới làm thế. Người chiến sĩ bảo vệ tự do không tàn sát dân lành. Bọn khủng bố mới làm thế. Người chiến sĩ chân chính không cướp máy bay, cầm giữ đàn ông đàn bà, trẻ con vô tội để làm con tin. Bọn khủng bố mới làm thế. Theo tôi thì thật quá trơ trẽn khi người ta nhân danh nền dân chủ, mà lại cho phép bọn người này dùng đến từ "Tự do". Không, không có trường hợp khoan nhượng nào dành cho bọn khủng bố hết.

Morton gật đầu nhiều lần. Ông sẽ không dùng Goodman được. Một nhà phân tích phải luôn luôn ý thức được rằng không có một chân lý. Chắc là phải đưa Golan vào phòng Tình báo Trung Đông, còn những người khác thì cho trở về đơn vị cũ. Khi ông cất tiếng nói, giọng ông rắn như đá ngoài sa mạc.

— Các bạn hãy quên những nét dị biệt trong đạo đức đi. Điều cơ bản là bọn khủng bố hoàn toàn tin tưởng, chúng tuyệt đối và mù quáng tin tưởng, rằng khủng bố là vũ khí hợp pháp còn lại. Đối với chúng, tiến trình chính trị hoặc là vô bổ hoặc là chậm chạp khi có kết quả khả quan. Chắc các bạn đã nghe những chuyện xảy ra ở Bắc Ai Len, ở Li Băng, ở tất cả những nơi nào quy tụ được hai hay nhiều tên khủng bố lại. Đối với chúng, chính sách khủng bố bảo đảm một sự hồi âm rất nhanh. Hễ mỗi lần chúng cho nổ một trái bom, chúng cướp một chiếc máy bay hay là nắm giữ một đàn con nít trên một chiếc xe đò để làm con tin, là chúng đã tạo ra được một cơ hội để thương thuyết. Vì chúng biết rằng chúng rất tin tưởng vào kết quả của công việc, vì...

Ngọn đèn đỏ trên điện thoại bật sáng, Morton vội ngưng nói. Người thư ký của Thủ tướng đã gọi đến ông.

oOo

Khi Morton đến trình diện tại văn phòng của Isaac Karshov thì trời đã tối. Một đội xe mô tô cảnh sát đi hộ tống đã dẹp đường, chạy băng qua cả ngã tư đèn đỏ.

Bitburg đã có mặt ở đấy, ông ta đang đứng nơi cánh cửa sổ lớn chỉ có một tấm kính. Vật duy nhất trang hoàng trên tường là một bản đồ Israel và những lân bang Ả Rập.

Karshov là con người cao lớn, khoảng một mét chín mươi, dáng dấp như một võ sĩ quyền Anh đang còn phong độ. Hai mắt ông đều có vết sẹo như các phù hiệu ở trong văn phòng vậy.

Thủ tướng đứng sau chiếc bàn mạ kền trên mặt lót kính. Ông mặc áo sơ mi cộc tay, cổ hở để lộ cái áo lót tổ ong cổ lỗ. Đám lông ngực đen, đang ngả sang hoa râm, loăn xoăn chồm ra ngoài áo lót. Karshov bước nhanh đến bắt tay Morton. Bàn tay ông ta rắn như thép.

— Chào anh, David - Giọng của Karshov nghe như tiếng dũa mài trên thép.

— Xin chào ngài Thủ tướng.

Một cái bàn họp kê giữa phòng. Trên mặt bàn, trải môt tấm nỉ màu lục, có vài ba cái gạt tàn thuốc. Ngay ở giữa bàn, để một giỏ đựng trái cây. Morton không biết có ai sờ đến trái cây không.

Bitburg rời khỏi cửa sổ.

— Người của Nagier đã nhận được tin này cách đây một giờ.

Ông ta đưa cho Morton một tờ giấy, rồi bước đến tấm bản đồ.

Morton đọc to hàng chữ : "Hạt sẽ kết trái lành". Ông nhìn Bitburg.

— Nhân viên của Danny gặp khó khăn ư, Walter ?

Bitburg chỉ một ngón tay vào Beirut. — Nagier cho biết là tin này ở quận Bir Abed.

Morton càu nhàu. Tập đoàn tu sĩ ở Teheran mới đây đã mở một phòng tình báo ở ngoại ô Beirut. Thêm một văn phòng nữa cho máy móc tình báo của Danny nghe lén. Morton đọc lại một lần nữa. Tại Beirut, bọn đánh bom thường thường nói đến việc gieo hạt.

— Anh nghĩ sao, David ?

— Chính của Raza đây. Và đây là dấu hiệu chúng phát động một chiến dịch đánh bom mới.

— Tại sao anh lại nói thế ?

Morton nói cho họ nghe về chuyện đi thăm người Xi Ri, ông không bỏ sót một chi tiết nào hết. Khi nghe ông nói xong, cặp mắt của Bitburg lại bắt đầu láo liên.

— Cái anh chàng Xi Ri bí mật của anh có thể sai lắm chứ.

— Anh ta không sai đâu, Walter à. Anh ta đã nói đúng về chuyện Kuwait. Đúng về chuyện âm mưu ám sát Tổng thống Ai Cập... và đúng với hàng tá hoạt động khủng bố. Và bây giờ anh ấy cũng đúng cho mà xem. Linh tính cho tôi biết chắc như thế.

Bitburg cười nhạt. — À, đúng... linh tính của anh. Rất tiếc là anh chàng Xi Ri đã chết, cho nên không có cách nào cho chúng ta hỏi hắn thêm đôi điều nữa.

Morton nhìn Bitburg một cách nghiêm nghị.

— Ông muốn biết cái gì ?

Bitburg ho rồi nhìn đi nơi khác. — À, thì trước hết là muốn biết hiện Raza đang ở đâu ?

— Tôi đã nói với ông rồi. Chỉ có Ayatollah Muzwaz biết mà thôi.

— Thế nhân viên của Nagier không thể gài máy nghe gần hắn để chúng ta có thể nghe được những gì rõ ràng... hơn là cái thứ phế thải này được ư ? - Bitburg hỏi.

— Danny đang gắng làm như thế đấy. Trong công việc này, anh ấy đã chịu mất hai nhân viên rồi - Morton đáp.

Bitburg đằng hắng.

— Tôi vẫn giữ ý kiến là cho dù người Xi Ri của anh có nói gì đi nữa tôi cũng không tin Raza sắp hành động. Tôi chỉ có thể tin là hắn đi hộ tống cho chuyến hàng ma túy khác mà thôi.

Cặp mắt của Karshov hình như sâu vào khi ông nhíu cặp lông mày sát vào nhau. Bitburg ra dấu chỉ tờ giấy trong tay Morton.

— Theo sự phán đoán của tôi thì cái tin chặn được này thật sự không chứng minh được cái gì hết. Tôi chấp nhận với anh tin nói về hạt giống có thể là nói đến bom đấy, nhưng cũng có thể không - Cặp mắt ông ta bất động. - Theo quan điểm của tôi, tiên đoán quá trớn một việc gì thường rất nguy hiểm. Tôi tin là anh đã nói với học viên của anh như thế. David à. Đấy cũng là lời khuyên rất tốt - Bitburg nghĩ một chút rồi nhìn vào Karshov - Tôi có ý kiến là khi chưa có bằng chứng xác thực thì chúng ta phải hết sức thận trọng. Bây giờ mà chỉ cần một sai sót thôi là rất tai hại cho chúng ta. Chúng ta đã biết chúng ta gần như trên đà bị hủy diệt khi xảy ra vụ vùng Vịnh.

Morton gật đầu.

— Những gì xảy ra ở đó đã thay đổi rất nhiều việc, Walter à. Tất cả những việc đổi thay này không những tệ hại cho chúng ta, mà cả cho thế giới nữa. Nó đã cấp cho bọn chủ trương khủng bố một tờ giấy phép mới để chúng khủng bố.

Karshov thở dài.

— Tôi đã đọc tờ báo cáo của anh, David. Đây là một tờ báo cáo đáng sợ nhất kể từ khi tôi ngồi vào văn phòng này.

Morton bắt gặp đôi mắt của Thủ tướng đang nhìn mình.

— Thưa Thủ tướng, hoàn cảnh đáng sợ đấy. Vì thế mà tôi xin yêu cầu ngài ra lệnh cho các phòng thí nghiệm ưu tiên chế và tồn trữ nhiều chất men kích thích PEG, đồng thời thông báo cho các đồng minh biết.

Mắt của Bitburg lại bắt đầu láo liên.

— Làm thế là nguy hiểm lắm và chúng ta sẽ mang tiếng rất nhiều. Chúng ta còn nhớ hậu quả vụ chúng ta phát động việc đeo mặt nạ chống hơi độc trước khi Saddam phóng đầu đạn Scud chứ ? Không có đủ mặt nạ để đeo, và chúng ta đã tạo ra cảnh hỗn độn ngoài đường phố. Cảnh này sẽ tái diễn khi mọi người nghe chúng ta sản xuất hàng loạt chất này.

Karshov lại thở dài. — Mời ngồi, mời ngồi, ở đâu cũng được.

Thủ tướng ngồi phịch xuống một trong những chiếc ghế kê quanh bàn họp, Bitburg ngồi hai tay tréo trước ngực. Morton quay cái ghế lại để khi ngồi ông tựa cằm vào lưng ghế được.

— Tôi xin phép được vào đề - Karshov lên tiếng - Nếu chúng ta báo động mà không có gì xảy ra, chúng ta sẽ gặp phải hoàn cảnh rất khó khăn. Luân Đôn và Washington đã tin tưởng rằng chúng ta sẽ không làm gì đế phá vỡ kế hoạch về Trung Đông của họ. Những kế hoạch "của họ" mà "chúng ta" buộc phải hợp tác. Tiếp xúc với một nhóm khủng bố. Để cho chúng muốn chi được nấy. Bờ Tây, khu định cư của chúng ta, ngay cả Jerusalem. Bất cần chuyện chúng ta đã xây dựng tất cả những nơi này từ số không, hay là bất cần đến chuyện chúng ta đã được mảnh đất này hợp pháp. Đó là chuyện hôm qua. Hôm nay thì Luân Đôn, Paris và Washington nói đã đến lúc phải trả nó lại. Như thế "họ" mới có hòa bình được. Sẽ không có nước Ả Rập nào dọa sẽ cắt nguồn dầu hỏa "của họ" đi. Không còn những vấn đề khó khăn nữa. Đó là đối với "họ". Còn chúng ta thì sao ? Đó là vấn đề khó khăn "của chúng ta".

— Cho nên bây giờ chúng ta gọi họ và nói : "Này, theo chúng tôi thì như thế này sẽ loạn đấy", họ sẽ nói sao quý vị biết không ? "Chính các anh Do Thái khát máu ở Tel Aviv bày trò ra đấy". Vậy thì chúng ta không gọi nữa, nhưng loạn vẫn đến, rồi họ nói : "Chính mấy anh Do Thái khát máu lại bày trò ra nữa đấy". Cách nào thì chúng ta cũng bị trách, nếu chúng ta hành động chúng ta sẽ bị nguyền rủa. Vậy thì, chúng ta phải làm gì đây ?

Ông nhìn vào mặt họ, vẻ lo lắng lộ ra mặt.

Bitburg lại đằng hắng giọng. — Nếu có một sự hăm dọa nào thì chắc là nó sẽ nhắm vào chúng ta.

Morton nhìn Bitburg. — Lần này chúng sẽ cố khủng bố các đồng minh của ta để họ buộc chúng ta phải chiều theo ý muốn của chúng.

Bitburg từ từ lắc đầu, cặp mắt lại láo liên.

Karshov lấy tay vuốt mặt. — Chúng ta uống một cái gì đi. - Ông đứng dậy bước đến chiếc tủ rượu - Chắc là tôi quên cho lấy nước đá rồi.

— Thưa Thủ tướng, cho tôi nước khoáng - Morton nói.

— Còn Walter ?

— Uýchki Scot, xin ngài để nguyên thế - Bitburg để lại bàn tay lên đầu gối - Thưa Thủ tướng, quân đội tuần tra đã phát hiện những hoạt động dọc theo biên giới. Shin Bet cho biết vùng dải Gaza và bờ Tây lại lộn xộn. Nhân viên của Nagier báo có nhiều tên khủng bố từ Damascus đổ đến Beirut trong tháng vừa qua nhiều hơn năm ngoái. Annan đã hứa không ủng hộ chúng, nhưng chắc ông ta vẫn chơi trò bài ba con.

— Có thể chúng làm như thế để đánh lạc hướng chúng ta - Morton nói.

Bitburg nói nhanh :

— Nếu để đánh lạc hướng thì mục tiêu chính là phải ở đâu đó. Rồi sẽ có người phải gặp chuyện khó khăn đấy.

— Ông nói đúng đấy, ông Walter à - Morton đáp.

Karshov bưng mấy ly trong một tay, đưa mắt nhìn Morton : — David này, anh cứ tin chắc là chuyện sẽ xảy ra ở đâu đó và cho người khác, chứ không phải cho ta đâu.

Morton uống một hớp nước khoáng. Karshov nói như lời phán quyết trong Cựu ước. Nhưng ông ta là một chính khách, ông cần phải có những câu trả lời thật súc tích.

— Thưa Thủ tướng, những nước Ả Rập vẫn chưa sẵn sàng đế tấn công trực tiếp vào chúng ta được ; cần phải có sự nhất trí giữa Cairo với Damascus thì họ mới dám làm, còn Hoa Kỳ thì họ thấy rõ sự thật nhất trí này sẽ không bao giờ xảy ra. Nhờ thế Washington mới bám chân vào khu vực này được.

Karshov gật đầu. — Nhờ thế mà chúng còn xài Raza, David à.

— Khi hắn đã chứng minh được khả năng của hắn cho tập đoàn tu sĩ thấy, hắn sẽ dùng vi rút bệnh than... đế chống đồng minh của ta.

Mắt của Bitburg lại láo liên. — Lại "nếu" mãi, David. "Nếu" hắn có thứ ấy. "Nếu" hắn biết cách sử dụng thứ ấy. "Nếu" hắn thực hiện được trước khi hắn bị phát hiện. Quá nhiều chữ "nếu” rồi, tôi sợ lắm.

Ngài Thủ tướng uống hết ly rượu. — Tôi hoàn toàn đồng ý với anh, David à. Vậy theo anh thì chúng sẽ đánh vào đâu ?

Morton thoáng cười. Karshov có tiếng là nhận ra vấn đề khó khăn rất tài.

— Những công việc làm trì hoãn hắn lại, là chúng ta phải có những kế hoạch hành quân để thu lấy chất vi rút bệnh than tại chỗ. Còn hắn sẽ dùng ở đâu à. Theo tôi thì chín phần mười là hắn sẽ dùng ở châu Âu. Còn một vài chỗ khác nữa thì xa hơn. Với chúng ta thì hắn sẽ dùng tại gốc.

Karshov nhìn cả hai người. — Thế đấy. Vậy chúng ta báo động cho dân mình, hay là cho tất cả thế giới biết ?

Bitburg trề môi.

— Nếu cần phải báo động, thì theo tôi, chúng ta nên giới hạn vào một số rất nhỏ. Như vậy, chúng ta mới còn giữ được uy tín.

Karshov nhìn Bitburg một cách nghiêm khắc.

— Từ lâu tôi không có chủ trương cho thế giới biết những gì mình nói là thật. - Ông nói, rồi quay qua Morton - Sao, David ?

— Tất nhiên là chúng ta phải nói cho dân chúng của ta biết.

— Còn các đồng minh ?

Vẻ bất mãn hiện ra trong đôi mắt của Bitburg.

— Thưa Thủ tướng, chúng ta phải có bằng chứng đã. Với tư cách là một giám đốc, tôi nhất quyết sự thể phải...

— Walter, xin ông đừng xem đây là một buổi họp của ban điều hành trong nhà băng - Karshov nói lớn lên - Chúng ta cần có cái linh cảm của David, và tôi rất tin tưởng vào bản năng của anh ấy - Ông quay sang Morton - Có ý kiến gì nữa khồng ?

— Cho tôi thành lập một tổ.

Karshov đứng dậy.

— Anh muốn ai cũng được. Anh muốn gì cũng được. Nhớ cho tôi biết cái gì sắp xảy ra, và khi nào thì xảy ra.

Ngài Thủ tướng bắt tay Morton thật chặt, nhìn chằm chằm vào mắt ông. Bỗng Morton muốn nói cho họ biết nỗi lo sợ của ông về chuyện sẽ xảy ra vào ngày mai. Nhưng nhìn sắc mặt của Bitburg, ông lại thôi.

oOo

Số ít bạn bè mà ông cho phép đến căn hộ của mình thường chọc ghẹo ông rằng ông rất khoái cuộc sống đạm bạc. Nhưng phòng khách của ông đã nhìn ra cảnh đẹp tuyệt trần của dãy đồi Samaria qua một khung cửa sổ. Và qua cánh cửa sổ kia, sẽ nhìn thấy bãi biển chạy dài bất tận.

Rời khỏi văn phòng của Karshov, ông đi thẳng về nhà. Ông muốn ở một mình để suy nghĩ. Suốt một thời gian, ông nhớ lại những chuyện đã xảy ra. Bằng chứng mà Bitburg đòi hỏi vốn chưa cỏ, và có thể không có. Loại bằng chứng này chỉ xuất hiện về sau mà thôi.

Sau cùng, ông gọi đi. Trước hết là gọi cho Danny. Ông ta đang làm việc với những nhân viên giải mã, cố tìm ra ý nghĩa bí mật trong câu thơ ở kinh Koran. Danny sẽ là một thành viên trong tổ, chuyên lo máy móc điện tử để nghe ngóng.

Tại New York, máy trả lời của Matti Talim hoạt động. Morton để lại lời nhắn cho chủ nhân gọi sau. Matti rồi sẽ có ít thì giờ để mà tính chuyện yêu đương lãng mạn đây. Nhìn ảnh, ông thấy cũng xinh đẹp ; mái tóc nâu dầy phủ quanh khuôn mặt trái xoan và nụ cười xinh xắn. Không phải cái típ người thường đâu. Mà là bác sĩ Miriam Cantwell, phó giám đốc phòng cấp cứu tại bệnh viện Trung Ương thành phố New York.

Morton gọi đến Washington. Bill Gates, giám đốc hành quân CIA, cho biết Lou Phanchez đi khỏi Columbia rồi. Morton giải thích hoàn cảnh rồi yêu cầu Lou tạm thời được thuyên chuyển sang công tác khác. Gates trả lời không sao. Gặp trường hợp như thế này thì việc hợp tác tình báo quốc tế vẫn tốt đẹp cả. Chỉ có mấy ông chính khách mới nhiều chuyện thôi. Gates còn nói thêm Lou đi New York, có lẽ để thăm cô em. Morton đã gặp Liza Panchez một lần rồi. Chị ta là chủ bút tờ Associated Press. Ông nhớ là chị ta thân thiện nhưng khó tính.

Không có cách nào để gọi đến La Mã được... Wolfie và Michelle chắc là không tiếp xúc được cho đến sau khi đã xong việc trừ khử.

Bây giờ ông chỉ còn việc đợi đến giờ gọi đi Luân Đôn nữa mà thôi. Ở đây đã mười một giờ đêm rồi. Steve và Dolly chắc đã về. Ông có thể mường tượng ra hai ông bà, ngồi trong phòng bàn chuyện trong ngày, như họ thường bàn hằng đêm. Ông bèn bấm số gọi khách sạn Connaught.

Trên truyền hình kê ở bên kia phòng đang chiếu một chương trình gia chánh. Một cô gái người Sabra xinh đẹp đang giảng giải về một món ăn Ả Rập. Cô ta cứ nhấn mạnh đến mối liên hệ nấu nướng giữa hai dân tộc. Giá mà có ai có thể hàn gắn tất cả những mối liên hệ khác đã bị đổ vỡ được nhỉ!

Như nghe nhân viên giữ điện thoại khách sạn lên tiếng, ông hỏi phòng của ông bà Vaughan. Im lặng một chốc, rồi giọng nói dè dặt của Steve cất lên :

— Alô, giáo sư Vaughan nghe đây.

— Ba mạnh khỏe chứ, thưa ba ?

— Davey, sao mà con lại tìm ra ba mẹ nhanh thế ? - Nỗi vui sướng ở Steve thật thơ ngây.

Morton cười đáp : — Dì Hannah cho biết.

— Ây... ai thế ? - Ông nghe giọng Steve gọi - Này, Dolly. Davey đây mà. Davey, để mẹ con kể cho con nghe ba mẹ đã sống qua một ngày tuyệt vời ra sao nhé...

Ngay lúc đó, một tiếng nổ xé tai vang lên trong máy điện thoại. Rồi im lặng hoàn toàn.

— Ba ! - Ông la lên - Ba !

Nhưng đường dây đã cắt. Morton gầm lên một tiếng, tiếng gầm của ông không phải là tiếng gầm của một con người, tiếng gầm pha trộn giữa tiếng Do Thái và tiếng Ả Rập.

Một thoáng trôi qua, quá khứ và tương lai lẫn lộn hiện ra trong óc ông, câu thơ trong kinh Koran hiện ra trước mắt, ông thấy mẩu tin chặn được mà Bitburg đã đưa cho ông, ông thấy dì Hannah đang đọc lịch trình chuyến đi của Steve và Dolly. Đấy là tất cả những công việc mà Raza sẽ làm vào ngày mai.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
601,786
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 9


Người dịch: Văn Hòa - Kim Thùy

Nhà xuất bản: NXB Thanh Niên

Shared by: CCG -

Suốt buổi chiều, mây mù từ vùng sông Đông kéo lên phủ kín cả các hẻm núi. Matti Talim thấy khí lạnh khó chịu trên đại lộ Park Avenue làm cho người ta đâm ra bẳn gắt. Cảnh tuôn đi tìm taxi trông thật quá ngán, người ta nổi điên lên như cứ muốn đập nát mấy ngọn đèn giao thông.

Matti lại thích sương mù. Mình có thể lẻn đi dễ dàng trong lớp sương mù. Morton đã nói với anh như thế khi anh nhận công tác đầu tiên sang Luân Đôn. Vào một đêm giá rét, đầy sương mù vào tháng mười một, họ đã gài máy nghe lén trong tòa đại sứ của một nước châu Phi đang giúp đỡ cho bọn khủng bố. Kể từ hôm đó, anh là một trong những người tín cẩn của Morton. Sau vụ IRắc, Morton đã chuyển anh qua New York. Nhiệm sở mới này quả là một nơi đáng giá, vì New York với số cư dân Trung Đông đang gia tăng, đã thay thế cho Washington, là nơi được cơ quan Mossad quan tâm hàng đầu ở Bắc Mỹ. Sương mù trên đại lộ Park này làm cho mọi người hốt hoảng. Có lẽ họ sợ bị mắc kẹt. Miriam đã nói vì thế mà người da đỏ đã chịu đổi lấy một vài thứ trang sức rẻ tiền để đi khỏi Manhattan, họ đã lấy bất cứ thứ gì để đánh đổi vùng này. Anh chỉ biết nàng là người New York độc nhất không ngán cảnh sương mù của thành phố này.

Quanh Matti, mọi người đi lại với dáng vẻ mệt mỏi, ít người quay nhìn anh lần thứ hai. Nếu có ai nhìn thì họ sẽ thấy một người dong dỏng cao, tóc nâu, người hơi rám nắng, mặc chiếc áo gió và quần trượt tuyết.

Matti rất có sức khỏe, nhưng trong cuộc chạy Maratông ở New York hồi năm ngoái, anh thay vì dẫn đầu, lại cố tụt ra sau. Anh cần phải ẩn vào bóng tối.

Khi anh nói cho nàng biết anh là ai, vì anh thấy không có cách nào giữ kín được nếu muốn giữ mối liên hệ giữa hai người tốt đẹp. Miriam hỏi anh phải chăng vì thế mà anh quá đa nghi. Anh đáp nghề anh đã dạy cho anh biết về tật xấu của người đời.

Nàng đã gọi anh là anh chàng hoài nghi ba mươi bốn tuổi của nàng. Miriam có tài đánh giá mọi thứ. Anh nghĩ nhờ nghề thuốc mà nàng đã có cái tài này.

Matti thấy trước mặt cảnh chen lấn để ăn cắp đang diễn ra. Bốn tên nói tiếng Tây Ban Nha đang cố chen lấn để tách một cặp vợ chồng già người da trắng ra, trông họ biết chắc là khách du lịch... Lần lượt từng thằng đi qua vượt lên, cố nhìn xem đồ trang sức trên cổ người đàn bà. Bà đang nắm cái ví xách trên tay. Khi cặp vợ chồng chuẩn bị qua đường, tên cướp bắt đầu hành động.

Matti chen lấn qua đám đông, anh bước nhanh lên. Cặp vợ chồng nhìn thấy đèn đỏ. Chỉ có du khách mới dừng lại chờ đèn đỏ. Tên cướp bước lên ngang hàng với họ, chuẩn bị trượt nhào cản lối đi của họ khi họ bắt đầu băng qua đường. Những tên nói tiếng Tây Ban Nha khác áp đến gần. Khi tên chặn đường nhào xuống, hắn sẽ kéo luôn cặp vợ chồng té bổ xuống. Những thằng trong băng cướp ập đến để giúp. Trong lúc lộn xộn, một thằng sẽ giật cái ví xách tay của bà già. Chuyện như thế này đã xảy ra trong thành phố năm mươi ngàn lần hàng năm.

Talim bước đến kịp cặp vợ chồng, đúng lúc thằng cướp ra tay. Hắn quay người và bước lảo đảo trên đường. Không ngừng bước, Matti nắm chặt cánh tay của hắn, kéo hắn sang một bên. Cả toán xông đến, chúng ngần ngại.

— Lần này thì dẹp - Matti nói nho nhỏ, anh đẩy tên cướp đi.

Cặp vợ chồng già nhìn anh mỉm cười và Matti cười đáp lại. Anh đi sát bên cạnh họ để băng qua đường, cho đến tận khách sạn Drake, lại thêm hai người nữa chỉ tin chuyện xảy ra cho ai đó mà thôi. New York đầy dẫy cả người không bao giờ chịu nghe người khác. Họ như Bitburg.

Đã một tuần rồi, Bitburg đã gởi đến một lệnh khẩn cho biết những người Xi Ri đang dùng Tòa nhà Liên Hiệp Quốc để ký kết mua vũ khí mới với Trung Quốc. Matti không tin người Xi Ri lại làm chuyện như thế này, nhưng anh không dám cãi lệnh khẩn được.

Anh đã được một số nhân viên trong Ban "Cải Tổ Nhanh" chi một số tiền lớn và đã khéo léo gài nhiều máy nghe lén trong văn phòng đại biểu của Xi Ri và Trung Hoa.

Morton đã cho thiết lập một tổ chức để điều hành những công việc thiết yếu của Mossad tại Hoa Kỳ, nhân viên của tổ chức này đều là chuyên gia các ngành nghề để cải tạo lại một ngôi nhà an toàn hầu yểm trợ cho các cuộc trừ khử. Nhưng cốt yếu nhất là canh chừng. Matti biết có nhiều cảnh sát mật ở New York hay là những người gác cổng đã nhận được tiền hối lộ rất hậu hĩ để canh chừng các mặt khác trong khi những kỹ thuật viên của ban Cải Tổ Nhanh bận công việc của họ.

Khi những máy nghe lén đã gài xong, anh trải qua một ngày ngồi trong chiếc xe tải đậu gần tòa nhà Liên Hiệp Quốc, lắng nghe những người Xi Ri và người Trung Hoa nói chuyện. Có nhiều chuyện khá hấp dẫn, nhưng tuyệt không có chuyện buôn bán vũ khí.

Matti ngờ rằng đây là mưu mô của Bitburg bày ra để chứng tỏ ông ta biết chuyện gì đang xảy ra. Một giờ trước đây, khi anh ký vào bản lịch canh gác, anh đã nói nhân viên trong ban Cải Tổ Nhanh tiếp tục canh chừng.

Đi ngược theo đại lộ Park, Matti mải suy nghĩ về tờ báo cáo mà anh đã gởi cho Bitburg. Nhiều chi tiết lắm vì Bitburg thích thế. Nhưng anh không có gì quan trọng để nói, và anh cho biết công việc canh chừng vẫn đang tiếp tục. Anh cũng báo cáo rằng nhân viên của ban Cải Tổ Nhanh hoạt động rất tốt, và các máy móc nghe lén vẫn hoạt động hoàn hảo. Anh đang tiếp tục theo dõi những tin quan trọng.

Cũng may là khi anh được những tin đáng giá này thì chắc cũng mấy tuần nữa Bitburg mới biết được vài điều. Bước tới ngôi nhà 510 ở đại lộ Park, Matti định gởi cho Morton một bản sao, mong sao ông ấy đọc chắc sẽ hiểu. Matti bước qua tiền sảnh, xem thùng thư. Thùng thư đầy cả các thư tạp nham hàng ngày. Anh đã đọc đâu đó viết rằng, một người dân trung bình ở New York mỗi năm nhận đến mười bốn cân Anh thư rác. Trong số tạp nham đó có một phong bì đựng những cái vé vào xem hòa nhạc của Pramoggia tại Madison Square Garden vào đêm sau. Anh đã chọc Miriam rằng, nếu nàng điện thoại báo không đi được, anh sẽ đến phòng cấp cứu đế lôi nàng đi. Anh tự hỏi không biết cặp vợ chồng già ở khách sạn Drake có biết chăng họ đang ở cùng chỗ với anh chàng ca sĩ có giọng nam cao danh tiếng kia không. Nhưng họ biết gì được nỗi đam mê của Pramoggia đối với cô bé vị thành niên nọ?

Pramoggia đã định trình diễn nhạc khắp thế giới với một đám điệp viên gài vào. Một trong số đó có một cô bé người Sudan mà Morton đã tuyển một năm nay rồi. Trước khi Pramoggia đến Los Angeles, Matti đã gặp cô gái, cô ta nói cho anh biết về những người mà anh chàng ca sĩ giọng nam cao đã gặp tại New York. Pramoggia nổi tiếng là người đã ủng hộ Mặt Trận giải phóng Palestine (PLO), cho nên Mossad đã xem hắn là mục tiêu hợp pháp để theo dõi.

Cánh cửa phòng số 103 trông cũng giống như những cánh cửa ô phòng khác, cũng đóng bằng gỗ gụ. Nhưng bộ khóa loại Ingersoll đã được thay bằng một bộ khóa mộng, chìa do một người thợ khóa của Mossad làm. Trước hôm Matti vào ở một ngày, một nhân viên trong ban Cải Tổ Nhanh đã ráp bộ khóa vào khi họ thay bộ nguyên thủy đi. Giữa bộ cửa mới thay là một tấm sắt dày một inh, đủ sức chịu đựng sức nổ của một quả lựu đạn hay là một trái bom lửa.

Anh mở cửa, và theo thói quen, anh khóa cửa lại ngay. Anh bật đèn. Căn hộ rộng và thoáng khí. Gồm có một phòng khách, hai phòng ngủ, một phòng trống, và nhà bếp trang bị rất lộng lẫy. Anh chỉ dùng nhà bếp để rang bắp và pha cà phê. Đi ăn ở ngoài là một phần của công tác, vì anh phải đến chỗ nào có kẻ thù ăn.

Khi anh mới dọn đến ở, anh có cảm tưởng là ban Cải Tổ Nhanh chắc đã trang bị đồ đạc trong nhà theo trường phái nghệ thuật Ba-rốc thuộc thế kỷ 16. Cái gì cũng được mạ vàng hết, giấy dán tường có in hình nổi và bàn ghế đều đóng chân thấp. Trông gian nhà giống như điện Versailles, chỉ thiếu cảnh vườn tược mà thôi.

Nhưng anh thích ngôi nhà khi anh thay những tấm thảm hài hòa rất đẹp với cảnh giàu sang này. Anh đã mua những tấm thảm trong một khu chợ trời ở Tunis, chúng đã theo anh đi khắp các nhiệm sở cùng với bộ sách quý anh thích. Từ một kệ sách, bây giờ sách anh đã chiếm hết một bức tường. Miriam lại nhét thêm sách vở của nàng vào nữa.

Hai người đã ngủ với nhau chín tháng nay, từ ngày cả hai người đều cảm thấy thích thế, thỉnh thoảng ngủ ở nhà nàng tại đại lộ Thứ Ba, thỉnh thoảng tại đây. Cả hai đều muốn mối liên hệ của họ không có gì thúc ép hết.

Matti bước đến cái giá đặt điện thoại đế xem máy nhắn tin ra sao. Miriam đã gọi đến, nàng nhắn khi hết ca nàng sẽ rảnh, và hỏi anh có gọi mua bánh bột nhân thịt được không? Sau đó, họ sẽ xem phim trên tivi, như bất cứ cặp vợ chồng nào. Thật là một ý kiến rất hay, một ý kiến mà anh chưa được sống với những phụ nữ anh đã cặp bồ khác. Tin tiếp theo là của Liza Panchez. Hai người đều nhận thấy mối liên hệ của họ vẫn chưa thắm thiết lắm. Liza đã tuyên bố cô mãi mãi là bạn của anh mà thôi. Thỉnh thoảng một người bạn còn tốt hơn một người yêu, cô ta đã nói thêm như thế. Miriam thì lại muốn anh đóng cả hai vai luôn.

Nhân viên của Brentano gọi điện thoại đến báo cho anh biết bản sao của anh viết về việc cơ quan Mossad bị người ta phát hiện mới đây đã đến rồi. Từ một năm rồi có người đã viết một cuốn sách nói về việc lộ tẩy này. Thật tức cười khi thấy được sai lầm của mình.

Anh của Liza, Lou, đã gọi anh từ khách sạn Kennedy. Anh ấy nói anh sẽ gọi lại khi đến ở khách sạn Roosevelt. Hai người không gặp nhau từ khi rời IRắc đến nay. Morton đã thu xếp để Lou tách ra khỏi cơ quan CIA và hoạt động chung với anh, vì Lou biết rất rõ những việc tiếp xúc của bọn khủng bố Ả Rập ở đất Hoa Kỳ.

Matti nhận ra Lou có cùng sở thích về thức ăn ngon và thích nhạc Jazz hay như anh. Hai người trở nên rất thân nhau, và Lou đã tâm sự với anh rằng mình đồng tính luyến ái. Đêm đó, họ uống nhiều rượu vang, nhưng không vì thế mà Matti không tỏ vẻ quá ngạc nhiên. Anh hỏi cơ quan CIA có biết không. Lou trả lời không và có : Không vì ở Langley người ta không biết, có, đúng là họ có nghi ngờ. Matti lại càng thích anh ta hơn, vì anh ta chân thật và cao quý. Hôm sau, anh đã dẫn Lou đến ăn ở nhà hàng Plaza. Cả hai đều thích không khí của Phòng Gỗ sồi, vì nó nhắc họ nhớ đến không khí của châu Âu.

Cuối cùng là cuộc gọi của Morton. Ông không nhắn gì hết : Morton luôn luôn nói điện thoại rất vắn tắt. Matti định đi làm cái gì uống, rồi hãy gọi lại. Anh cởi áo khoác ra, để lộ bao súng đeo trên vai, thật sít sao giống như sợi dây đeo quần ở phía sau. Matti đi ra bếp, pha một ly uýchki sôđa. Anh đã quen khẩu vị ở Luân Đôn rồi. Bỏ nước đá vào ly, anh nhẹ nhàng bước ra phòng khách, đến đứng bên cửa sổ, đưa mắt nhìn xuống đại lộ Park.

Anh nhìn không được rõ lắm. Ban Cải Tổ Nhanh đã phủ lên mặt kính cửa sổ một lớp mỏng chất chống lại máy nghe lén. Họ lại còn lót thêm một cánh cửa sổ thứ hai vào bên trong khung cửa nữa. Kính của lớp cửa này chịu đựng được đạn của loại súng UZI.

Một ngọn gió nhẹ thổi đến đã làm tan sương mù đi. Xe cộ đông đúc. Bên ngoài khách sạn Drake, một hàng cảnh sát đuổi lui những người hâm mộ nhạc kịch cuồng nhiệt. Ngoài Pavarotti và Domigora, Pramoggia là ca sĩ nhạc kịch duy nhất yêu cầu một việc làm như thế. Có lẽ anh ta đã được báo động cho biết, đi theo PLO là chơi với lửa. Hay có thể tốt hơn là anh ta đã bị chiêu hồi rồi cũng có. Morton đã từng chiêu hồi người phụ tá thân cận nhất của Yasser Arafat đấy. Và trong mười năm trời, anh ta đã khai ra tất cả những kế hoạch của PLO cho Mossad, cho đến khi anh ta chết vì môt tai nạn giao thông.

Tiếng máy Fax hoạt động phá tan bầu không khí yên lặng trong phòng. Buồng ngủ thứ hai đã được đổi thành phòng mật, và cũng giống như những phòng bí mật trong các căn hộ trước đây, phòng được trang bị cách âm và chống nghe lén. Tin nhắn hiện ra nơi máy : "Tin khẩn của Hắc Hổ". Mỗi vị Thủ tướng của Israel đều có bí danh lấy tên một con vật. Tin của Karshov chỉ vỏn vẹn như sau : "Báo động cho danh sách A về khả năng tấn công của địch".

Danh sách gồm tên tuổi của người Do Thái và các tổ chức danh tiếng ở New York. Matti có thể dùng máy sử dụng đường điện thoại để nối hai máy vi tính thông báo cho họ trong nháy mắt. Nhưng trước hết anh gọi cho Morton đã. Anh nhấc điện thoại bên máy Fax, bấm số.

011 - Mã số gọi đi quốc tế. Anh đã nói cho Morton biết rằng ý kiến chung ở Washington là nếu Raza có tấn công, thì chắc hắn sẽ tấn công ở châu Âu.

972 - Mã số Israel. Chắc khoảng nửa khuya ở đấy rồi. Việc báo danh sách A vừa rồi đã từng thực hiện vào tuần lễ trước ngày IRắc xâm lược Kuwait.

3 - Mã gọi Tel Aviv. Anh bấm số nhà Morton.

Ngay lúc ấy, căn phòng bỗng chao đảo. Chỉ trong nháy mắt, Matti biết ngay không phải động đất. Chỉ một lượng chất nổ thật lớn loại Semtex là có thể tạo nên tiếng gầm như thế rồi. Anh thả điện thoại xuống giá, chạy đến cửa sổ.

Hàng ngàn tấn bê tông cốt sắt, đã dùng để xây mặt tiền khách sạn Drake trên đại lộ Park, đang đổ nhào xuống mặt đường, chôn vùi cả nhà hát nhạc kịch ở phía sau dãy hàng rào cảnh sát và xe taxi đang chạy vào chạy ra khách sạn. Một khối lớn bê tông rơi xuống một chiếc xe tải, đập bẹp dí chiếc xe. Trong một thoáng, tòa nhà đổ xuống đã tạo nên một hàng rào chắn ngang đại lộ Park cao đến sáu mét. Một đám khói lớn mù trời bốc lên từ khách sạn Drake như một cái nấm khổng lồ. Matti nghĩ đến cô gái Sudan, đến cặp vợ chồng nọ, đến những người hâm mộ nhạc kịch và đến Pramoggia, rồi anh lặng lẽ cầu nguyện cho họ. Không ai đáng phải chết một cách thê thảm như thế.

Thế rồi anh trở về với nghề nghiệp chuyên môn. Khói trắng tức là quả bom rất mạnh, nó đã hút hết khí oxy trong không khí. Anh bèn loại ngay mặt trận IRA ra ngoài vụ này. Không có lý do gì họ phải làm như thế. Giới buôn lậu ma túy Columbia ra tay ư ? Chúng đã từng đánh phá khách sạn. Nhưng chỉ ở Nam Mỹ thôi. Chỉ có một nhóm Ả Rập mới có lý do để đánh phá tại trung tâm New York mà thôi.

Điên thoại reo. Khi Matti chạy đến trả lời, thì một hồi nổ thứ hai vang rền cả bầu trời.

— Matti đấy à ? - Giọng Lou Panchez vang bên tai anh - Khách sạn Plaza sập rồi.

Talim nghe giọng la hét vang lên trong ống nghe, rồi anh nghe tiếng còi inh ỏi. Anh cố giữ bình tĩnh. — Cậu ở đâu đấy, Lou ?

— Ở đại lộ Năm. Mình đang trên đường đến thăm Liza.

Tờ Associated Press đặt ở khu Rockefeller Plaza, gần khách sạn Plaza.

— Mình sẽ gặp cậu ở đấy - Matti nói. - Tầng dành cho báo chí ở đấy sẽ là một nơi lý tưởng để nhìn được bao quát toàn cảnh.

— Tốt ! - Lou cất cao giọng. - Matti, mình đã hiểu tại sao Morton tách mình ra khỏi CIA.

Cũng vì thế mà Morton đã gọi đến cho anh. Chắc chắn là do bọn Ả Rập rồi.

— Chào mừng cậu đến với tổ, Lou.

— Chào mừng ! Chúng sắp điên cả rồi.

Một tiếng nổ thứ ba vang lên trong ống nghe của Matti. Rồi anh nghe tiếng la của Lou.

— Lạy Chúa Jesus. Trông như khách sạn Pierre ! Cả khu vực đều chìm trong khói. Chắc là khách sạn Pierre đã bị đánh...

— Mình sẽ gặp cậu ở chỗ của Liza - Matti nói, gác máy. Anh không cần bàn thảo nữa vì anh đang ở gần hiện trường quá rồi. Việc Karshov thông báo, việc Morton tuyển Lou, đều nhắm vào vụ này. Việc ông ta biết trước làm cho anh run cả người, không phải run vì bị kích thích, vì sợ, mà là vì ngoài tầm hiểu biết của anh.

Bên ngoài cửa phòng, anh nghe có tiếng người hoảng hốt, giọng một người đàn ông, rồi tiếp theo là giọng đàn bà, rồi giọng nhiều người hoảng loạn. Khắp thành phố chắc đều thế. Anh gọi thẳng đến cho Miriam. Một giọng đàn ông trả lời điện thoại, rồi bảo anh giữ điện thoại chờ. Anh nghe tiếng hoạt động ồn ào gần đấy, rồi tiếng nàng qua lần vải che miệng để giải phẫu.

— Cantwell đây.

— Miriam, công việc chắc là bết lắm phải không ?

— Bết lắm, Matti. Bọn em vừa được mật mã Số Một cho biết. Tức là sắp tiếp nhận một trăm bệnh nhân.

Bệnh viện Trung tâm Thành phố là bệnh viện ở gần các khách sạn bị đánh sập nhất.

— Bọn em sẽ rút tất cả bác sĩ và y tá khắp nơi về đây. Ngay cả bác sĩ ở các bệnh viện tư giá cả đắt đỏ ở đại lộ Năm và đại lộ Park nữa. Thầy thuốc, sinh viên, bất kỳ ai cầm được kim khâu. Bây giờ, chúng em đang ở tại trung tâm của cơn hỗn loạn. Mười phút nữa, nơi này sẽ loạn lên cho mà coi.

Tuy nhiên, mọi người đều di chuyển quanh nàng với vẻ kính nể. Nàng ra lệnh rất tự nhiên.

— Lạy Chúa Jesus, Matti này, sao lại có chuyện dơ bẩn như thế này ? - Bỗng giọng nàng trở nên giận dữ.

— Bọn người làm việc này có mặt khắp nơi.

— Tại sao lại ở dây ? Đất nước này làm gì cho cam ?

— Đấy là cái giá của nền dân chủ. Cái giá của sự chủ trương bành trướng chủ nghĩa sen đầm quốc tế.

— Vậy thì đã đến lúc chúng ta bỏ đi, mà chỉ lo việc của chúng ta thôi. Nếu chúng ta làm thế, chắc là chuyện như thế này sẽ không bao giờ xảy ra đâu.

— Có thể được, mà cũng có thể không - Anh thông cảm cho sự giận dữ của nàng. Anh nghe đâu đấy có tiếng gọi nàng trên loa phóng thanh của bệnh viện.

— Matti, em phải đi làm việc. Em sẽ gặp anh khi thuận tiện.

Nàng gác máy không nói lời từ biệt. Đây cũng là một trong những phong cách của nàng. Sau khi gác máy, anh nghe thêm một tiếng nổ thứ tư nữa vang rền cả bầu trời đêm. Anh chạy lui đến cửa sổ. Đây là khách sạn Mayfair House nằm xa hơn trên đại lộ Park. Anh đứng sững người nhìn những tầng trên cùng đang đổ nhào xuống mặt đường. Hai chiếc xe chữa lửa và một chiếc xe cứu thương đến tiếp cứu cho khách sạn Drake đã bị chôn vùi dưới mảnh đổ. Đây không phải là khủng bố nữa, mà là chiến tranh quy mô.

Matti bước đến điện thoại gọi cho Morton. Đường dây đã bị cắt. Anh kéo dây kéo áo gió rồi mở cửa bước ra ngoài hành lang. Sự chấn động đã làm cho anh hoang mang. Khóa cửa xong, anh bước ngang qua một bà già đang ca cẩm là chính Chúa đã trừng phạt New York, đi qua một gã đàn ông nói to lên rằng Nostradamus đã tiên đoán cảnh này rồi, anh vượt qua những người đàn ông, đàn bà lo sợ, giận dữ, choáng váng. Một người nắm lấy tay Matti, hỏi anh đi đâu. Anh giật mạnh rồi đẩy cửa đi vào cầu thang cấp cứu. Có đến một ngàn lẻ bảy mươi lăm cấp xuống mặt đất. Anh đã đếm từ hôm anh dọn đến ở.

Matti xuất hiện trên tầng đặt văn phòng tòa báo AD. Anh vẫn thở dễ dàng mặc dù anh đã chạy suốt cả đoạn đường, lại còn phải tránh né những chiếc xe cấp cứu nữa. Khi anh đến khu Rockefeller Plaza, đã có nhiều xe ủi đất khổng lồ xúc dọn trên đại lộ Năm. Những chiếc trực thăng có máy xúc treo bằng dây xích đang bay thấp trên bốn khách sạn. Đội Vệ binh quốc gia biệt phái đầu tiên đã đến để giúp cảnh sát đẩy lui những người không có phận sự chen vào. Anh chưa bao giờ thấy thành phố lại đáp ứng với tai nạn một cách nhanh chóng như vậy. Miriam chắc sẽ nói vì New York là một thành phố luôn gặp cảnh như vậy.

Matti đứng lại một chốc, nhìn cảnh tượng trong tòa báo. Cảnh tượng trong tòa báo rộng lớn, quang đãng trông giống như cảnh tượng của những lần đã xảy ra biến cố khác mà anh đã chứng kiến ở đây : Cuộc tàn sát ở công trường Thiên An Môn tại Bắc Kinh, cuộc kết thúc đẫm máu của chế độ độc tài Ceausescu, cuộc sụp đổ của bức tường Bá Linh, khởi đầu trận chiến vùng Vịnh.

Thế nhưng hiện tại không khí có vẻ yên lặng hơn. Những phóng viên đều giống những nhân viên hoạt động tình báo, họ đã được phái đi, bất kể chuyện xảy ra có khủng khiếp đến đâu. Vì thế mà Morton đã tuyển họ để làm nhân viên tình báo. Matti định sẽ gọi cho ông tại văn phòng của Liza, chắc cô ta sẽ giả vờ không nghe. Cô ấy thừa biết đây là chuyện có liên quan đến Lou.

Matti thấy anh ta ở trong văn phòng của Liza nằm đằng cuối tầng lầu. Liza đang nghe điện thoại như mọi khi, còn Lou đứng sau lưng chị đang đọc những hàng chữ hiện ra trên màn máy hiện hình, người anh to lớn, dáng đứng nghênh ngang. Lou có vẻ mệt mỏi và lo âu. Liza trông thấy anh, cô vẫy tay chào mời vào.

Bước qua tầng lầu, anh cảm thấy không khí căng thẳng đang bao trùm cả văn phòng.

Tại khách sạn Plaza, vụ nổ quá mạnh, khiến cho những mảnh vỡ đã văng ra xa đến hàng trăm thước. Đã tìm thấy ở xa được ba mươi sáu thi thể. Số người bị thương lên đến trên năm mươi người. Nhà hàng ăn uống La Forret danh tiếng trong khách sạn Pierre đã bị thiệt hại về nhân mạng lớn nhất, sáu mươi thực khách và nhân viên bị chết.

Nhiều nhân chứng đã miêu tả cảnh ngôi vườn trên mái khách sạn Mayfair House đã bị tung lên cao trên bầu trời Manhattan, rồi họ thấy một làn ánh sáng gay gắt lan ra, tiếp theo là tiếng nổ và cảnh sụp đổ của khách sạn. Người ta đã tìm ra hai mươi tử thi. Số tử vong ở khách sạn Drake được xác nhận là hai mươi chín. Trong số này có Pramoggia.

Matti lần tay vào túi lấy ra những cái vé xem nhạc kịch, anh ném vào thùng rác rồi bước vào văn phòng của Liza. Cô ta là Tổng biên tập trực đêm. Nhìn vẻ non nớt hiền từ trên mặt cô, người ta khó mà tin được như thế. Cô ta đang đánh chữ trên máy hiện hình. Điện thoại kẹp dưới cằm, lắng nghe. Cô vẫy tay chào Matti, rồi gõ vào phím chữ trên máy hình.

Lou quay lại phía Matti. — Chúng cũng tấn công vào Luân Đôn và Paris. Mỗi nơi bốn khách sạn - Anh nói, không mào đầu.

— Chó thật ! - Matti nói - Nặng không ?

Lou lấy tay vuốt mặt, như là rửa mặt không có nước.

— Số chết hả ? - Gần bốn trăm, và còn gia tăng. Ít ra cũng đến một ngàn người bị thương. Liza đang nói chuyện với nhân viên được phái đến tòa Nhà trắng. Tổng thống cho triệu tập nội các khẩn cấp. Ông muốn trả miếng ngay. Trả miếng thật đậm.

— Có ai tuyên bố nhận vụ này chưa ?

— Chưa thấy.

— Chắc là của Raza, Lou à. Không ai có nguyên nhân hết.

— Mình cũng nghĩ thế.

— Rồi Tổng thống sẽ làm gì vậy ? Dội bom vào kẻ nào đã dung dưỡng hắn chứ ?

Lou lắc đầu. — Không giống như ngày xưa đâu, Matti. Mấy tên Ả Rập của ông ấy có một cái nhìn tổng quan hết mọi việc. Và lại có những bàn tay bên ngoài Trung Đông thường góp phần tạo nên việc này nữa.

— Có lẽ vụ này sẽ làm cho họ mở mắt ra chứ ?

— Chưa chắc.

— Mình cũng nghĩ thế.

Lou đưa mắt nhìn vào phòng nhận tin. Người ta khó mà tin anh và Liza lại là anh em song sinh được. Trông anh ít ra cũng già hơn đến mười tuổi. Là vì đôi mắt của anh luôn luôn bị quầng đỏ quanh mắt, áo quần thì không hợp thời trang như cách anh để tóc mai và râu mép kiểu Rapata. Nhưng anh không phải là người lưu tâm đến dư luận. Anh quay lại phía Matti.

— Bây giờ sao đây, Matti ?

— Trước hết là tôi gặp Morton cái đã.

Liza đã gọi xong, cô quay lại phía hai người. — Anh nghĩ sao về vụ này đây, Matti ? Anh cho chỉ là vụ tấn công của Raza mà thôi, hay đây mới mở màn ?

Anh hiểu cái nhìn của cô ta. Đấy là cái nhìn thấu suốt.

— Mười hai khách sạn mà, Liza. Nhiều tử vong và thương tích hơn tổng số cả một năm khủng bố. Tôi thấy Raza đã hài lòng trước những khát vọng khát máu của hắn rồi.

— Morton vẫn theo dõi thành tích của hắn chứ ?

Anh thoáng cười.

— Cô muốn hỏi ông ấy à ?

— Anh định hỏi ông ấy cái gì đấy chứ ? Ước gì anh đừng hỏi.

— Tôi gọi điện thoại được không ?

Cô ta vẫy tay chỉ cái điện thoại trên ghế dài. — Anh chào Morton giúp tôi với.

Liza trả lời điện thoại khi Matti quay số gọi. Lou đứng bên cạnh anh. Số điện thoại ở nhà ông ấy không trả lời. Matti định bấm số ở tổng đài của cơ quan Mossad tại Tel Aviv, thì anh bỗng liếc mắt thấy Liza khựng người lại rồi ra hiệu cho anh dừng lại. Anh bỏ máy xuống.

— Chúng ta sắp nghe một lời tuyên bố - Cô ta nói, vừa bấm một cái nút trên máy thu âm để trên bàn của cô, - Tôi sẽ cho phát lại.

Bên ngoài tầng lầu, Matti thấy các phóng viên bắt đầu tụ tập quanh cái bàn ở chính giữa, ở đây một người có phận sự ghi lại, đeo máy nghe trên đầu, sẵn sàng đánh lại lời phát ra trên máy trong khi lời công bố được ghi âm. Một số nhân vật trong ban điều hành báo chí đã tụ tập quanh văn phòng của Liza. Họ đều nhìn lên chiếc máy phóng thanh ở trên tường nằm sau bàn làm việc của cô. Một tiếng rít lên, rồi một giọng nữ vang lên trong phòng.

— Tôi xin nhân danh Raza, người chiến sĩ bảo vệ tự do của tất cả nhân dân Hồi giáo bị áp bức để công bố như sau : Những gì vừa xảy ra trong ba thành phố thiêng liêng của chủ nghĩa phát xít và chủ nghĩa đế quốc của các người, không phải điều hăm dọa để các người không lắng nghe những yêu cầu của chúng tôi.

Matti thấy giọng nói mang màu sắc tôn giáo cực đoan, mang tính cuồng nhiệt giữa tỉnh táo và điên cuồng.

— Yêu cầu thứ nhất của chúng tôi là mỗi thành viên trong hội đồng thường trực của Liên Hiệp Quốc, nhân danh toàn thể Hội đồng Liên Hiệp Quốc, hứa rằng bọn Phục quốc Do Thái phải rời khỏi đất nước của chúng tôi, mà chúng gọi là Israel. Lời hứa này phải được đưa ra trong vòng hai mươi bốn giờ.

Matti chửi thề nho nhỏ. - Không có cách nào được đâu, cô nương ơi. Không có cách nào được đâu.

— Yêu cầu thứ hai là trước khi hết tồn tại, quốc gia của bọn Phục quốc Do Thái phải thỏa thuận phá hủy hết vũ khí nguyên tử đi. Đồng thời, tất cả những vũ khí chiến thuật khác đã được đồng minh của chúng thiết đặt để giúp bảo vệ sự sống còn của bọn Phục quốc Do Thái đều phải được hủy bỏ hết.

Liza hồi hộp : — Cô ta lột lỗ Israel rồi.

Giọng nói lại vang lên.

— Thứ ba, tất cả những nguồn lợi do dầu hỏa và khoáng sản cung cấp chạy từ nước Nigeria cho đến vịnh Ba Tư phải được chia chác lại. Hiện tại, những dân tộc ở trên những vùng đất này chỉ hưởng lợi có bốn mươi phần trăm. Bây giờ họ phải được hưởng tám mươi phần trăm. Hơn nữa, các công ty khai thác dầu và khoáng sản vừa nói trên phải đóng một tỷ đô la để chia cho các nước bị họ áp bức để khai thác từ lâu nay.

Lou Panchez nghiến chặt quai hàm. — Nó lại dùng ngôn ngữ của giới không tặc trên thế giới !

— Thứ tư, mỗi thành viên của Liên Hiệp Quốc phải ký một nghị định thư chính thức hữu hiệu bảo đảm sẽ không có sách báo phim ảnh khiêu dâm hay là ma túy tiếp tục làm ô uế đến sự thanh khiết của Hồi giáo. Các người làm gì trong nước các người là quyền của các người. Chúng tôi không muốn để các thứ văn hóa đồi trụy của các người, hay là để cho sự đồi bại thối nát của các người ảnh hưởng đến những giá trị tinh thần của chúng tôi.

Giọng nói dừng lại một chốc, rồi nói tiếp : — Những yêu cầu thứ hai, thứ ba và thứ tư phải được thực hiện trong vòng bảy ngày, quý vị có hai mươi bốn giờ để suy nghĩ chấp nhận những yêu cầu này. Không có chuyện thương lượng hay thay đổi các điều khoản, và các người sẽ nhận thêm những bằng chứng cho thấy chúng tôi có đủ phương tiện để tiêu diệt cái xã hội phát xít bạo tàn đã đàn áp chúng tôi !

Trong cảnh im lặng trong phòng, một ngọn đèn trên máy liên lạc của Liza bật sáng. Đây là một số không đăng ký trong danh sách. Liza nhấc ống nghe lên nghe một hồi.

— Anh ta có đây rồi - Cô ta gật đầu ra dấu cho Matti rồi đưa điện thoại cho anh.

— Vâng, tôi nghe đây - Matti nói, anh đã biết ai ở đầu đây rồi.

— Đi với Lou đến tòa lãnh sự và đợi đấy - Morton ra lệnh.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
601,786
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 10


Người dịch: Văn Hòa - Kim Thùy

Nhà xuất bản: NXB Thanh Niên

Shared by: CCG -

Không có ai ở Trekfontein thấy anh chàng người Bantu đến cả. Anh ta đến từ phía tây, để giữ cho hướng gió thổi vào mặt và át bớt tiếng nổ rầm rầm của xe gắn máy anh ta đang lái. Đảng Đại hội Dân tộc Phi đã mua chiếc xe cho anh, cũng như họ đã mua bao sơn phun mà anh ta đang đeo trên vai.

Anh chàng Ban tu đỗ xe trong một đám rừng gỗ mun nằm dưới chân dãy núi đá hình tháp. Ngay khi cúi người xuống, trông anh ta cũng cao, hai cẳng chân thật khỏe của nòi giống chạy giỏi bẩm sinh. Anh ta đã giữ hoàn toàn yên lặng suốt mấy giờ liền trong lùm cây, nhìn cảnh chè chén trong sân vận động.

Đêm càng khuya, đám nhảy múa càng thưa thớt, tiếng người càng lè nhè. Khi người cuối cùng ra về băng qua thảo nguyên thì trời đã quá nửa đêm. Khi ánh lửa tắt hết, người Bantu chờ thêm một giờ nữa. Rồi với cái bình sơn tòn teng trên vai, hắn đi chân trần băng qua thảo nguyên.

Trời tối thui và nóng bức. Mặt trăng đã khuất sau những đám mây đen dày kịt. Hắn hy vọng cơn mưa giông sẽ ào đến, khi hắn đã làm xong công việc mưa sẽ xóa hết dấu vết của hắn đi. Hắn đến và đi như một tên đạo chích. Người phụ tá của ông Nelson Mandela đã nói với hắn là không được ăn trộm, nhưng anh chàng Bantu đã ăn trộm từ nhỏ để ăn, để sống.

Hắn đến khuôn viên ngôi nhà đầu tiên, dừng lại để liếm ngón tay rồi đưa lên trời. Hắn thay hướng đi để giữ cho ngọn gió nhẹ thổi vào trước mặt, như vậy chó sẽ không đánh hơi được hắn. Hắn lấy trong bao ra một lon sơn và xịt lên một bức tường mới quét vôi trắng toát mấy chữ : ANC (Đảng Đại hội Dân tộc Phi).

Trong vòng hai mươi phút, anh chàng Bantu sơn vào những bức tường quay vào hướng thành phố, xịt sơn lên khoảng hai mươi tòa nhà với nhiều khẩu hiệu của Đảng Đại Hội Dân tộc Phi. Anh mỉm cười khi tưởng tượng cảnh tức giận của bọn say ngủ như chết kia khi chúng thức dậy, mở cửa sổ phòng ngủ ra, trông thấy hàng chữ anh xịt. Dần dần thấy chắc là chẳng có ai thấy được mình, anh chàng Bantu bèn liếc nhanh vào trong nhà, mắt tìm kiếm xem có cái gì xoáy được không. Một đồ trang sức rẻ tiền nho nhỏ cũng có thể giúp hắn mua được bánh mì ăn, còn dư để uống vài chai bia ở Soweto. Nhưng xem ra chẳng có gì để với tay cho đến được.

Hắn phết sơn lên hàng cột của giáo đường Cải cách Hà Lan xong, bèn dừng lại để tìm mục tiêu khác. Mắt hắn dừng lại trên một tòa nhà uy nghi nằm bên kia đường. Cách đấy một khu phố, ánh đèn trên cổng một trạm cảnh sát đang sáng.

Anh chàng Bantu băng nhanh qua con đường rộng, đã được xây lên để những xe cộ do bò kéo có thể quay lui được, hắn đến trước tòa nhà. Trong bóng tối lờ mờ, hắn cũng đọc được mấy chữ ở trước hành lang : Đại Khách sạn. Mái của hành lang bằng phẳng. Trên mái là khách sạn chính, một dãy tường quét vôi trắng rải rác nhiều cửa sổ của phòng ngủ. Tất cả cửa sổ đều đóng, chỉ trừ một cánh còn mở.

Đứng trên lan can ở hành lang, anh chàng Bantu đu người lên trên mái phẳng. Hắn ngồi xổm một chốc, nghe ngóng. Bên kia thành phố, có tiếng chó sủa. Chắc là nó đã đánh hơi được. Chắc đã đến lúc phải rút thôi. Hắn lấy sơn xanh và sơn vàng rồi xịt lên tường nhan đề bài quốc ca của ANC : "Nkasi Sikedel! Africa".

Lại một lần nữa, mặt trăng từ trong đám mây đen hiện ra giúp cho chàng Bantu làm nhanh hơn. Cánh tay hắn đưa lên đưa xuống để xịt hết mặt tiền khách sạn một hàng chữ cao hai thước. Khi xịt đến chữ thứ hai, hắn đến ngang cánh cửa sổ đang mở. Hắn nhìn vào, hắn không tin nổi may mắn đang đến với hắn. Ánh trăng cho hắn thấy một cái túi xách da đắt tiền nằm bên giường ngủ. Chỉ thẩy vào chợ đen ở Soweto là hắn có thức ăn, có bia suốt một tháng trời. Cái túi xách đang mở ra, trong ánh sáng nhàn nhạt, hắn thấy mấy thứ làm cho tim hắn đập thình thịch. Không chỉ một máy camêra, mà nhiều cái. Mỗi cái là cả một gia tài. Hắn để máy phun sơn xuống.

Đây là lần đầu tiên hắn thấy một phụ nữ da trắng nằm ngủ trên giường. Cô ta không đắp chăn và nằm sấp, quay lưng về phía hắn, mái tóc rậm xõa xuống gối. Da thịt chị trong ánh trăng trông có màu ngà. Gã Bantu vừa thấy kích thích cả người, vừa thấy bất an trong lòng. Luật lệ rành rành ra đấy rồi. Bất kỳ người da đen nào bước vào phòng ngủ của phụ nữ da trắng, đều bị xem như có ý để hiếp dâm. Hắn có thể bị kết án hai mươi năm lao dịch.

Nhưng cái túi xách đựng những máy ảnh kia, gã Bantu biết chắc chắn sẽ nuôi sống hắn trong một thời gian dài. Hắn bèn trổ tài đạo chích và nhanh nhẹn trèo qua cửa sổ. Tiếng chó vẫn còn sủa. Lila trở người trên giường. Trời đêm nóng nảy cùng với công việc căng thẳng suốt ngày đã làm cho giấc ngủ của chị chập chờn, tâm thần bất định, đã khiến chị chú ý đến những chuyên nhỏ nhặt nhất đang xảy ra. Tại sao chó lại sủa ? Lão đại úy cảnh sát, con heo phát xít, đã nói rằng chó ở Trekfontein đã được huấn luyện chỉ sủa khi có mặt bọn Kaffir mà thôi. Tại sao chúng lại sủa khi không có bọn Kaffir ở đây ? Cũng không phải chỉ có tiếng chó sủa mới đánh thức chị dậy, mà còn cái tiếng xì xì nghe nho nhỏ nhưng rõ ràng là tiếng của máy xịt sơn của nhóm viết bậy trên tường đang hoạt động trong đêm tối.

Lila quay lại vừa khi gã Bantu leo qua khung cửa sổ. Chị thấy mặt hắn toát mồ hôi vì sợ. Không có vũ khí trong tay hắn. Chị ngửi thấy mùi chua trên người hắn. Chị cũng không có vũ khí : chị không bao giờ mang vũ khí khi thi hành nhiệm vụ. Mang vũ khí chỉ là chuốc lấy tai họa mà thôi.

Hắn đứng yên như trời trồng, thở nhè nhẹ. Một con thú sắp vồ mồi. Lila gồng người lên. Nếu chị thộp được động mạch cổ của hắn, chị chắc sẽ cản được hắn, mà còn giết được hắn nữa.

Hắn không động đậy.

Lila mò mẫm tìm nút báo động, nút này gắn trong thành ngang bên cạnh giường, dùng để bật đèn trong phòng, mở ti vi và radiô. Ông quản lý đã dặn dò cặn kẽ rằng cái nút có đường dây nối trực tiếp đến đồn cảnh sát, những người da trắng cần dùng đến nó vì họ đang ở vào một vùng thường xuyên bị đe dọa. Lila ấn mạnh vào nút. Một ngọn đèn đỏ bật sáng trên thành ngang.

Hắn nhảy phóc đến hai bước, chụp lấy cái túi xách đựng máy ảnh rồi nhảy qua cửa sổ.

Lila nhảy ra khỏi giường để đuổi theo. Chạy đến cửa sổ, chị đã thấy hắn chạy theo mái hành lang rồi trèo xuống một trụ điện ở góc nhà. Hắn nhẹ nhàng nhảy xuống như một con mèo rồi chạy hết tốc lực.

Lila chồm ra khỏi cửa sổ, chị la lên : — Bắt lấy nó ! Ăn trộm ! Ăn trộm ! Bắt lấy nó !

Nhiều tiếng chó sủa lên. Đèn bật sáng. Một bóng người mặc đồng phục từ đồn cảnh sát chạy đến. Chị nhận ra viên đại úy cảnh sát. Nhưng gã Bantu đã biến vào bóng đêm, mang theo cái túi xách đựng chai vi-rút bệnh than B.c.

Trong lúc Lila mặc áo quần thì viên đại úy hiện ra ở cửa phòng ngủ. Đi theo ông ta là ông quản lý khách sạn. Ông ta chạy xộc đến cửa sổ.

— Cái gì xảy ra thế, thưa cô ? - Ông ta hỏi.

Lila kể cho ông ta nghe. Chị run cầm cập. Đúng ra chị nên cất cái chai vào tủ. Đúng ra chị nên đóng cửa sổ lại. Đó là những đề phòng cơ bản nhất. Thế mà chị lại làm như kẻ mới đảm nhận nhiệm vụ lần đầu, thiếu suy nghĩ. Nhiều kẻ ở Beirut đã bị giết chết vì thế rồi. Raza chắc sẽ giết chị mất.

Viên đại úy nói vào máy bộ đàm. — Có một tên Kaffir đang chạy trốn. Tất cả mọi người phải đi tìm nó. - Ông ta quay lại phía Lila, cười trấn an chị. — Chỉ vì những cái máy ảnh của cô thôi. Thật là một vố quá bậy.

Ngoài đường phố, có tiếng gọi người ta chú ý đến những câu khẩu hiệu. Chiếc Land Rover cảnh sát đầu tiên đã đến. Ánh đèn cực sáng chiếu vào những hàng chữ nguệch ngoạc bê bết ở trước khách sạn. Viên đại úy chạy ra cửa. Lila cùng ông quản lý chạy theo.

Khi họ ra đến đường, thêm ba chiếc Land Rover nữa của cảnh sát chạy đến. Trên mỗi chiếc, hai sĩ quan cảnh sát trang bị súng tiểu liên ngồi sẵn. Dọc theo đường phố, nhiều bóng người xuất hiện trên cửa sổ . Viên đại úy lấy cái loa phóng thanh, nói lớn :

— Cảnh sát thông báo đây. Có một tên Kaffir xuất hiện trong vùng. Có thể hắn có vũ khí. Quý vị hãy ở trong nhà ! Nếu ai trông thấy hắn, hãy gọi cho đồn cảnh sát biết.

— Ông sẽ không tìm ra hắn trong bóng tối được đâu, - Lila nói.

— Chúng tôi sẽ tìm ra hắn ! - Viên đại úy đáp, giọng bực tức. Y quay lại chiếc Land Rover gần đấy.

Lila nắm cánh tay ông ta. — Tôi muốn đi theo các ông. Để biết chắc máy ảnh của tôi còn nguyên vẹn. Cả một đống tiền đấy.

— Được rồi, thưa cô. Cô bước vào đi.

Viên đại úy ra lệnh cho nhân viên, môt chiếc Land Rover đi theo hướng ra bể nước, chiếc thứ hai chạy theo đường đi Johannesburg. Chiếc thứ ba được lệnh lục soát khu vực quanh dãy núi đá.

— Cho bật đèn thật sáng. Gây tiếng ồn ào nhiều càng tốt. Thằng Kaffir sẽ hoảng hồn lên. Hắn sẽ đâm đầu vào tay chúng ta - Viên đại úy nói. Y cười gằn - Hắn sẽ ân hận vì dám bén mảng đến gần chúng ta.

Lila ngồi chen giữa viên đại úy và anh tài xế. Đoàn xe Land Rover gầm rú chạy theo con đường chính trong thành phố Trekfontein, rồi chia tay nhau ở cuối đường.

— Thằng Kaffĩr chắc là đến đây bằng loại xe nào đấy - viên đại úy giải thích khi chiếc xe phóng qua thảo nguyên.

- Nhưng có thể hắn hoảng sợ mà bỏ chạy. Bọn Kaffir này có thể chạy một hơi năm mươi dặm như chơi. Như giống linh cẩu vậy.

— Khi bắt được hắn ông sẽ làm gì ? - Lila hỏi. Chị nắm chặt lấy bảng đồng hồ trên xe trong khi xe chạy nhanh.

— Trước hết là bắt cho được nó cái đã - Viên đại úy cười.

Họ chỉ chạy được vài dặm nữa thì máy truyền thanh dưới tấm bảng đồng hồ kêu lên ò ò.

"Đây là Bravo - Một gọi các đơn vị. Chúng tôi đã tìm thấy chiếc xe gắn máy của hắn ở cuối vùng Im-pi-Kop".

Viên đại úy nói vào máy micrô. — Đây là chỉ huy gọi các đơn vị. Bravo-Một hãy lục soát dãy núi. Hắn có thể quay lại lần hai sau khi anh đi qua rồi. Bravo-Hai hãy từ bể nước quay lui. Bravo-Ba, khi các anh đi theo đường đến Johannesburg được năm dặm thì quay lui. Thằng Kaffir không chạy xa hơn nữa được đâu. Chúng ta sẽ đi theo phía nam dãy núi đá để phòng hắn chọn con đường này để về.

Đèn rọi liên tục lục lọi trong bóng đêm, chiếc Land Rover tung lên một đám bụi ở sau xe khi chạy qua thảo nguyên. Mặt trăng đã lặn. Xa xa về phía Đông, ánh sáng lờ mờ đang ló ra. Qua thảo nguyên, ánh đèn những xe khác lóe lên rồi hạ xuống. Thỉnh thoảng, máy truyền thanh lại báo cáo đã thấy. Rồi lại đính chính không có.

— Phải nhanh lên, các cậu ! - Viên đại úy la lên - Tôi muốn bắt cho được thằng Kaffir trước khi trời mưa.

Chiếc xe chạy lên một con dốc. Viên đại úy quay qua nhìn Lila, cười hết cỡ. — Trông cô khốn khổ quá, thưa cô.

Lila gượng cười. — Ông chủ biên sẽ đuổi tôi nếu mất những cái máy ảnh ấy.

Viên đại úy vỗ vỗ cánh tay của chị.

— Tôi sẽ cho cô một bản báo cáo đầy đủ để đưa cho ông ta xem. Ông ấy không có cách nào để khiển trách cô vì một thằng Kaffir đã gây nên cho cô cả.

Khi Raza biết, hắn sẽ phái một người tới. Chắc là sẽ không có chỗ nào để nấp hết. Chị sẽ bị săn lùng. Trước đây chị đã thấy cảnh này rồi... khi chị làm kẻ đi săn lùng.

— Cái gì thế kia ? - Viên đại úy la lên, y cho rọi ánh đèn lên. Trước mặt, thảo nguyên trải dài ra, nhiều bụi cây và cỏ cao bị đạp dập xuống. Ánh đèn rọi thấy một đàn trâu đang chạy ở phía trước chừng một phần tư dặm đường. Chúng chen lấn nhau để chạy, miệng kêu toáng lên.

— Có cái gì làm cho chúng sợ đấy - Viên đại úy la lên. Ông ta nhấc máy micrô lên - Ban chỉ huy ra lệnh cho các đơn vị hay. Bao vây lấy Im-pi-Kop.

Lila ngồi yên lặng, đờ người bên cạnh ông ta, hai tay bấu chặt lấy mặt đồng hồ trên xe để giữ cho vững khi chiếc xe Land Rover xóc lên xóc xuống, phóng nhanh qua thảo nguyên. Họ vòng qua phía sau đàn trâu. Phía trước họ xuất hiện một con dốc hai bên có cây cối chạy dài lên tận đỉnh dốc. Viên đại úy nói :

— Ông cố tôi đã tống cổ cả một bộ lạc dân Kaffir đi khỏi vùng này đây. Chỉ có mình ông với một nhóm thiếu niên. Ông cụ khi ấy mới mười sáu tuổi, nhưng ông có thể bắn chết một thằng Kaffir cách xa một trăm mét, và ông lại chạy rất nhanh.

— Kìa ! Kìa ! Kìa ! - Lila la lên. - Tôi thấy có cái gì động đậy kia kìa !

Viên đại úy rọi ánh sáng về hướng hàng cây. Gã Bantu đang cố chạy trối chết. Đầu hắn tụt sâu dưới vai, hai cánh tay đung đưa như máy, để giúp cho hắn chạy nhanh trên mặt đất. Lila thấy cái xách đựng máy đeo trên vai hắn đang nhảy lên nhảy xuống nhịp nhàng sau lưng hắn.

— Cô thấy tài quá, thưa cô - Viên đại úy nói, rồi ông ta gọi vào máy micrô - Chỉ huy ra lệnh cho các đơn vị. Tên Kaffir đang ở Im-pi-Kop. Chuẩn bị tiến xa hơn nếu chúng tôi không bắt được nó.

Để ánh đèn chiếu sáng cả vùng, viên đại úy với tay lấy khẩu các bin gác trên giá ở sau chỗ ngồi. Ánh sáng quét khắp cả vùng. Lila quay qua viên đại úy.

— Nếu ông bắn nó, ông sẽ làm hư hại máy ảnh của tôi mất.

Một loạt đạn sẽ làm vỡ cái chai. Như thế chị cũng đủ chết rồi. Chiếc Land Rover đã đến hàng cây. Không ngờ khu vực này lại rậm rạp như thế. Những thân cây cao vươn lên trên một đám cây cối chằng chịt trên mặt đất. Người tài xế dừng xe lại, nhảy xuống khỏi xe. Anh ta lấy một khẩu súng khác trên giá.

Viên đại úy lại cười : — Chúng ta phải chạy bộ để săn bắt thằng Kaffir.

Ông ta chỉnh đèn chiếu sáng tự động xoay trên trục, chiếu ánh sáng được khắp cả ngọn đồi. Trên thảo nguyên, ánh sáng của những chiếc Land Rover đều chiếu về phía đám rừng.

— Thằng Kaffir, ra mau đi - Viên đại úy la lên - Mày không thoát được đâu.

Đi vài mét, ông ta lại la lên như thế. Bỗng ở phía bên trái của Lila, một bụi cây động đậy, rồi khuôn mặt chị đã thấy trong phòng ngủ bỗng hiện ra. Hắn đưa hai tay cao lên trời. Hắn lo sợ nhìn hai khẩu súng.

— Được rồi, thưa ông chủ, tôi xin đầu hàng - Gã Bantu nói.

Viên đại úy gật đầu.

— Mày lấy cái túi xách ấy ra, thằng Kaffir.

Tên Kaffir lấy cái túi xách ra. Viên sĩ quan bước đến lấy cái túi xách đi. Anh ta đưa nó cho Lila. Chị bèn lục xem. Viên đại úy gật đầu với gã Bantu :

— Mày có lấy gì không, thằng Kaffir kia ?

Gã Bantu lắc đầu quầy quậy. — Không, thưa ông chủ, không lấy gì hết.

Tay Lila chạm phải cái chai. Chị thấy nguyên vẹn. Mặt chai không động chạm đến. Chị bỗng thấy run cả người.

— Còn nguyên vẹn chứ, thưa cô ? - Viên đại úy lo lắng hỏi.

Lila giả vờ kiểm tra lại máy ảnh. Chị quay lại cười nói với viên đại úy.

— Không hư hại gì hết.

— Rất tốt, thưa cô. Bây giờ cô hãy bước vào xe Land Rover đi - Viên đại úy bình tĩnh nói.

Lila gật đầu, bỗng chị hiểu ra. Chị quay bước. Đằng sau chị, viên đại úy nói với tên Kaffĩr cũng giọng như thế.

— Nào, thằng Kaffir kia, mày biết rõ việc mày phải làm rồi đấy. Và nếu mày không làm, thì ông Mandela và nhân dân của ông ấy chắc sẽ nói cho mày biết mà làm.

— Thưa ông chủ. Ông dẫn tôi về đồn cảnh sát chứ ? - Gã Bantu sợ sệt hỏi.

Bình minh đã đến ở phía bên kia ngọn đồi, những chiếc Land Rover khác đang chạy đến. Lila nghe giọng ông đại úy ra lệnh :

— Quay lưng lại, tên Kaffir.

Chị quay lại vừa lúc thấy viên đại úy lấy súng thúc mạnh tới trước, nòng súng đẩy vào lưng anh ta. Gã Bantu nhào sấp tới trước khi viên đạn xuyên vào lưng hắn. Viên đại úy và anh sĩ quan lôi cái thây đến chiếc Land Rover rồi ném hắn vào phía sau xe.

— Phiền một nỗi là bọn Kaffìr thường tìm cách để thoát - viên đại úy thở dài, lễ phép ra dấu cho Lila bước vào xe - Luật lệ đã rõ ràng rồi. Chúng tôi được quyền dùng bất kỳ thứ vũ lực gì cần thiết để giam giữ chúng, nhất là khi có kẻ nguy hiểm như bọn Kaffir. Nếu cô không bấm nút kêu cứu, thì có thể hắn đã hiếp cô rồi giết cô luôn. Khi một thằng Kaffir như thế cố trốn chạy, thì chắc cô cũng phải cương quyết thôi.

Sau đó, họ lặng lẽ lái xe về Trekfontein. Người ta đã ra ngoài lau chùi sạch những chữ viết lên tường và họ đã reo hò chào mừng khi đoàn xe cảnh sát đi qua. Khi Lila bước vào tiền sảnh của khách sạn, ông quản lý đang đứng đợi. Ông đang nắm trong tay một tờ điện tín. Trông thấy cái túi xách máy ảnh, ông rạng rỡ mặt mày.

— Chắc cô sắp từ giã chúng tôi rồi đây - Ông quản lý nói. Ông ta nhìn tờ giấy. - Vì ông chủ bút của cô gọi. Ông ta muốn cô đáp chuyến máy bay sắp đến để đi Athens. Tôi đã hỏi xem rồi, có một chuyến bay vào lúc mười giờ đêm nay cất cánh tại Johannesburg. Cô sẽ đến ăn sáng tại đấy.

— Xin cám ơn ông - Lila nói. Bỗng chị cảm thấy đói quá sức. Raza gọi, tức là mọi việc phải tiến hành theo kế hoạch đã định. Giờ ra tay đã kề bên rồi.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
601,786
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 11


Người dịch: Văn Hòa - Kim Thùy

Nhà xuất bản: NXB Thanh Niên

Shared by: CCG -

Morton ngồi trong chiếc ghế dựa có lót đệm ở trong "Phòng Điều Hành" không có cửa sổ kế bên văn phòng của Karshov! Gặp lúc khủng hoảng, Thủ tướng thường làm việc quan trọng trong phòng này để được ở gần bên văn phòng của ông. Đã hai mươi hai giờ trôi qua kể từ khi Raza đưa ra các yêu sách.

Trong phòng chỉ có một cái bàn thật rộng và các ghế dựa mà thôi. Ngoài ra đều là những thiết bị thông tin và nghe nhìn. Căn phòng này giống như "Phòng Chiến tranh" nằm phía bên kia văn phòng của Thủ tướng. Từ khi xảy ra vụ đánh bom, phòng Chiến tranh đã được một toán chiến lược gia sử dụng để làm việc. Trong lúc Morton giám sát công việc của họ qua máy truyền hình mạch kín, thì ông một mình làm việc trong căn phòng chật hẹp này.

Trên một bức tường là một dãy máy giám sát. Những máy này có thể giúp Morton theo dõi những diễn biến ở Luân Đôn, Paris và Washington, và cả Liên Hiệp Quốc đóng ở New York nữa. Những màn hình khác tiếp vận tin tức ở hãng Interpol và những lực lượng cảnh sát ở châu Âu có nhiệm vụ truy lùng bọn đánh bom.

Hai chi bộ của Mặt trận IRA ở Hà Lan đã bị phá vỡ cùng với nhà máy chế tạo bom phục vụ cho bọn khủng bố Thổ Nhĩ Kỳ ở Đức. Nhưng vẫn không tìm ra dấu vết của bọn đánh bom khách sạn.

Tại Liên Hiệp Quốc, Hội đồng thường trực sau khi đã tham khảo ý kiến nhau, họ nhất trí bác bỏ những yêu cầu đòi Israel phải từ bỏ quyền làm chủ lãnh thổ của họ và phá hủy hết vũ khí nguyên tử. Quyết định này đã được đem ra toàn thể Hội đồng để biểu quyết. Hội đồng tranh cãi suốt mười giờ. Đại đa số đều ủng hộ Hội đồng Thường trực : tám nước Ả Rập không bỏ phiếu.

Ở Washington, Paris và Luân Đôn, nội các đều họp sau khi đã ra những bản thông cáo giống nhau tuyên bố rằng bọn đánh bom sẽ được săn bắt.

Nhiều quốc gia khai thác dầu và khoáng sản đều nhất loạt bác bỏ những yêu cầu của chúng.

Bitburg đã xuất hiện trên một màn hình mạch kín để tuyên bố rằng đây là lần đầu tiên kể từ sau chiến tranh vùng Vịnh toàn cả thế giới đều đứng lên chống lại chủ trương khủng bố. Ông cũng kín đáo xác nhận ông đã sai lầm trong việc xử sự với Raza.

Kể từ khi ấy, kim đồng hồ trên bàn của Morton đã trôi qua hai mươi bốn giờ, nay đã nhích thêm một giờ nữa. Dưới chiếc đồng hồ, Morton đã ghi đậm lên một tấm cạc hai chữ : "Hạn cuối lần thứ nhất". Hàng chữ để nhắc nhở mãi cho ông nhớ thời gian còn lại trước khi Raza tấn công lần hai như hắn đã hăm dọa. Bây giờ hắn còn hai giờ nữa.

Trong mấy phút vừa rồi, trên màn ảnh máy giám sát đã xuất hiện lời tuyên bố của Ayatollah Muzwar có nhan đề : "Phản ứng của người Ả Rập".

Lời tuyên bố kêu gọi thế giới Hồi giáo hãy thận trọng trước hình ảnh khiêu khích của bọn ngoại đạo. Muzwaz cứ lặp lại lời kêu gọi tấn công vào Israel, Phương Tây, vào chủ nghĩa đế quốc và vào tư bản chủ nghĩa.

Khuôn mặt Bitburg xuất hiện ở phía sau màn hình. Đôi mắt của ông ta nhìn thẳng, thái độ chững chạc. — Chỉ là gây tiếng vang mà thôi, David à ! Muzwaz đã biết Raza tính toán hết sức sai lầm trong việc đánh sập những khách sạn ấy. Nếu trước đây hắn ủng hộ Raza thì nay chắc là hắn không tiếp tục nữa đâu.

— Tôi thì không tin thế đâu, ông Walter à. Chuyện hắn kêu gọi nhân dân hắn thận trọng trước sự khiêu khích có thể là Muzwaz đang chuẩn bị nhân dân hắn bước qua giai đoạn hai đấy. Đấy chính là cái trò của Saddam rêu rao lên là chính chúng bị tấn công. Khi Raza sắp hành động chuyện gì, Muzwaz làm như hắn cần phải có quyền tự vệ trước.

— Anh lầm rồi, David à ! Muzwaz chắc sẽ nổi cáu lên vài hôm nữa, vì hắn phải làm thế. Nhưng nay thì mọi người đã cương quyết đứng lên rồi, hắn biết rằng bất kỳ Raza có hành động gì, hắn cũng sẽ không thành công được. Cho nên hắn chỉ muốn giữ chất nổ lại để chờ thời cơ khác thôi. Và Raza chắc không ngờ phản ứng của mọi người trước hành động đánh bom của hắn lại mạnh như thế. Anh nhìn vào máy giám sát đi. Cả thế giới đều vũ trang. Tốt hơn hết cho Raza là hắn phải lo mà biến đi.

Morton nhìn chằm chằm vào màn hình có Bitburg. Tại sao một con người như thế này lại leo cao đến như thế được nhỉ ?

— Ông Walter, hắn vẫn còn vi rút bệnh than trong tay mà.

— Anh vẫn tiếp tục nói thế à ? Tại sao hắn lại không dùng thứ này đi ? Thứ này chắc sẽ có tác dụng nhiều hơn những lời yêu cầu điên cuồng của hắn chứ ?

— Tôi đã nói cho ông nghe câu chuyện người Xi Ri nói rồi.

Bitburg lắc đầu một cách từ tốn. — Anh ta đâu có xác định chính xác những khách sạn này, David. Thì cũng giống như lời đe dọa của Raza về việc hắn sẽ hành động thêm nữa mà thôi. Mơ hồ lắm. Và bất kỳ chuyện gì hắn đã hoạch định, bây giờ thế nào chắc hắn cũng phải dẹp đi mà thôi.

— Chúng ta hãy chờ xem thôi, Walter !

Bitburg thở dài thườn thượt. — David, David, tại sao anh cứng đầu thế ?

— Vì linh tính tôi báo cho tôi biết như thế, ông Walter à.

Bitburg vẫn còn lắc đầu khi mặt ông ta biến dần trong màn hình. Morton nhìn vào màn hình trống một lúc, rồi ông bấm máy gọi Harry Fuller. Fuller là trợ lý cho ủy viên chính phủ đặc trách về tội phạm tại vùng New Scotland Yard. Ông đã cùng với anh ta thực hiện nhiều cuộc hành quân truy lùng bọn tội phạm rồi.

Fuller trả lời ông bằng máy điện thoại ở trên xe, ông nghe rõ cả tiếng ồn ào náo nhiệt ở khách sạn Connaught. Ông lắng nghe, không hề ngắt lời, rồi bình tĩnh nói rằng cũng có phần an ủi vì Steve và Dolly chắc không thấy đau đớn gì hết. Chắc cả ba mươi bốn nạn nhân đều cũng thế.

Morton gọi cho bà Hannah. Bà ta khóc như mưa. Khi ông báo cho Karshov biết, Thủ tướng la lối một hồi lâu bằng tiếng Ba Lan. Morton nhớ Steve và Karshov đã từng cầu nguyện với nhau tại giáo đường Do Thái và cùng nhau tham dự nhiều lễ hội. Thủ tướng nói ông sẽ cho chiếc Concorde duy nhất của Do Thái đến Luân Đôn mang thi thể hai người về.

Rồi Morton quay qua làm việc bình thường. Ông đã nhận được bản ghi âm của báo AP nhận được, do Matti chuyển đến, rồi ra lệnh cho Lou trở lại Washington để liên lạc với CIA và FBl.

Morton đã ra lệnh cho Lester Finel, người điều hành máy vi tính của Mossad tuyển những chuyên viên lập chương trình máy tính, để nhận diện cho ra những tên đánh bom. Chantal Bouquet, Trưởng phòng tình báo hải ngoại, đã được vời đến để sưu tra xem vì chỉ có mình nàng mới biết được mạng lưới rộng lớn của bọn đánh bom. Tại sao tình báo Anh, Pháp, Mỹ lại không tìm ra được một manh mối nào nhỉ ? Nhân viên tồi ư ? Hay là có gì đây chứ? Trước vụ Lockerbie, người Đức đã ém nhẹm những tin tức sống động về bọn đánh bom, và cả tin tức có đề cập đến những hoạt động của chính họ.

Ban tâm lý chiến đã được lệnh chuẩn bị bản báo cáo về khả năng chọn lựa của những nhà lãnh đạo Ả Rập chính thống. Họ có ủng hộ Muzwaz không ? Và tập đoàn tôn giáo đã cảm thấy thời cơ mở một cuộc chiến đã đến chưa ?

Ban mật vụ đã được chỉ thị đưa ra danh sách một số ít ứng viên để lồng vào trong tổ.

Trong lúc đó thì Fuller đã gọi về ba lần nữa, để báo cáo các vụ nổ ở các khách sạn Savoy, Claridge’s và Berkeley. Đây là vụ bị tàn phá nặng nhất ở Luân Đôn sau vụ ở Blitz.

Lacouste, phó giám đốc cơ quan tình báo Pháp, đã cho biết đầy đủ các chi tiết về cảnh hư hại ở Paris. Năm tầng lầu của khách sạn Maurice đã sập, đã tìm ra được bốn mươi tử thi. Tại khách sạn Georges V. đã tìm thấy hơn năm mươi tử thi. Mặt tiền khách sạn Grant đã rơi đúng vào hai chiếc xe lớn chở khách đi tham quan trong thành phố vừa mới trở về. Một trăm người đã được xem như bị chết. Số thương vong tại khách sạn Crillon đã lên đến bảy mươi và sợ còn tìm ra nhiều hơn nữa.

Lacouste cho biết đấy là cái giá, vì đã cho phép nước Pháp biến thành nơi trú ngụ cho bọn khủng bố. Morton hiểu được nỗi giận dữ của ông ta.

Khi máy giám sát cảnh tượng ở Paris lại hiện hình ảnh ra, nét mặt khắc khổ thanh cao của Lacouste vẫn toát ra nét giận dữ ấy. — Chúng tôi đã hạn chế việc miêu tả bọn đánh bom của các nhân viên ở khách sạn còn ghi nhớ, là bọn Ả Rập ăn mặc thật sang, đăng ký vào ở với hành lý thật đắt tiền - Ông ta nói.

— Ông Fax hết đến cho Finel được không ? Chúng tôi sẽ so với những hình ảnh chúng tôi đang có tại đây. Điều chắc chắn là bọn khủng bố của Raza luôn luôn biết cách hòa đồng với môi trường tại chỗ.

Lacouste càu nhàu. — Chúng tôi đã gặp một người gác cửa, ông ta nhớ có một người Ả Rập đi ra mấy giờ trước đó thì xảy ra vụ nổ ở khách sạn Maurice - Một chị lao công cho biết chị nhớ có trông thấy có hàng chữ "xin đừng quấy rầy" gắn trước cửa phòng của người Ả Rập ấy. Chị ấy nói có cái gì đó kỳ lạ lắm đang xảy ra ở trong phòng.

— Nhiều chuyện như thế đã xảy ra ở những khách sạn khác, Pierre à. Những tên đánh bom đăng ký vào ở, gài dây điện trong phòng để làm nổ vào giờ giấc đã định trước, rồi chúng lẻn đi. Cơn ác mộng của các chủ khách sạn đã thành hiện thực. Chuyện kỳ lạ là trước đây có bao giờ xảy ra như thế đâu.

Lacouste lại càu nhàu. — Cuộn băng có giúp gì được không ?

Ông ta và Fuller đã chuyển bản sao đến cho Morton những cuộn ghi băng do Hiệp hội báo chí Press Association ở Luân Đôn thu, và ở Paris thì do cơ quan báo chí Pháp Agence France Presse thu. Những bản này đều giống bản do Associated Press gởi về. Morton đã nghe nhiều lần. Ông đã gởi tất cả sang cho Ban Phân Tích Tiếng Nói. Các kỹ thuật gia của ban này đều rất giỏi về mặt này.

— Chưa có tin tức gì. Khi có tin, tôi sẽ báo cho anh hay - Morton đáp.

— Cám ơn anh, David - Khuôn mặt nhăn nheo của Lacouste có vẻ trầm tư - Ông có nghĩ là Raza sẽ tấn công lại không ?

— Có chứ.

— Tôi cũng thế. Mà ở đâu ?

— Anh cho là ở đâu đây ?

Cả hai đều cười nhạt, căm tức.

Một lát sau máy giám sát nhờ vệ tinh để liên lạc với Washington kêu bíp bíp. Morton đè một nốt khóa trên tủ máy điện tử và mặt của Lou Panchez hiện ra trên màn hình ; anh đang nhìn xuống tờ ghi chép.

— Cơ quan FBI xác nhận nhịp âm của lời gọi đến tại trụ sở AP, họ nói lời kêu gọi này nằm ở ngoài lục địa Hoa Kỳ. Địa điểm gọi cách vào khoảng từ năm đến tám ngàn dặm.

Morton quay sang bên nhìn vào bản đồ trên tường ở sau lưng ông. Ông quay trở lại nhìn vào màn hình.

— Như thế có lẽ nằm vào khoảng giữa Philippins ở Thái Bình Dương và cả khu vực Nam Âu và sâu vào nội địa châu Á. Chúng không thể nào phát ra nghe rõ hơn nữa chứ, Lou ?

— Tôi đang tìm hiểu đây.

— Nói cho họ biết người Pháp và người Anh tin rằng chúng đã gọi đi trong nội địa châu Âu đấy.

— Tôi sẽ cho họ biết thế.

— Có nghe tin gì ở tòa Nhà Trắng không, Lou ?

— Không có gì cụ thể. Nhưng ở đấy hình như người ta đều nhất trí cho rằng Raza chắc sẽ rút lui, vì hắn đã động đến tổ ong vò vẽ rồi.

— Họ sai rồi, Lou à - Morton quả quyết nói rồi ông tắt máy.

Đồ Bitburg mắc dịch. Anh chàng này quá thụ động trước một tình trạng rất sôi động như thế này ư ? Morton quay lại máy vi tính. Ông đã yêu cầu hệ thống máy cho một danh sách những mục tiêu có khả năng bị Raza tấn công. Máy đưa ra trên mười lăm ngàn mục tiêu ở châu Âu, Bắc Mỹ, châu Phi, châu Á và châu Úc. Morton loại ra những mục tiêu xem ra quá lộ liễu hay không có tầm quan trọng, hay không có đủ nét đặc biệt nào để dùng làm nơi cho chúng đánh bom ở khách sạn trong đợt tấn công sắp đến đây.

Ông gõ vào một phím máy vi tính Honeywell để ra lệnh tìm các mục tiêu bất thường bậc trung nhưng có tầm quan trọng, rồi ông đi gặp Thủ tướng.

Karshov đang ở một mình, ông đọc lướt nhanh nhiều tin nhắn để trên bàn làm việc. Từ phòng ngoài văn phòng của ông, có tiếng của những nhân viên phụ tá lễ phép từ chối những lời gọi đến. Ngài Thủ tướng nhìn lên.

— Bỗng nhiên cả thế giới đều muốn trấn an tôi rằng mọi việc rồi sẽ tốt đẹp thôi. Và Walter cũng thế. Còn anh thì sao, David ? Anh có muốn làm cho một ông già hạnh phúc không ?

Morton nhìn vào khuôn mặt có sẹo. Ông đáp : — Ước chi tôi làm được, thưa Thủ tướng.

Khuôn mặt của Karshov có vẻ hoang mang. Ông nói :

— Anh biết họ bắt đầu nói sao không ? Nếu chúng ta biết điều, thì mọi việc sẽ tốt đẹp hết. Họ bắt đầu rỉ tai, này, xén đi một dúm đất được không ? Có thể cắt dải Gaza đi ? Hay là bờ Tây lại tốt hơn ? Trao cho người Ả Rập một miếng, hay cả hai đi. Họ nói cứ làm như thế đi, chúng tôi sẽ bảo đảm Raza không còn gây khó khăn cho quý vị nữa đâu. Không có chuyện khủng bố xảy ra ở các nơi ủng hộ ta nữa. Không có chuyện đánh bom xảy ra nữa đâu. Họ nói : thôi, hãy quên đi! Vẫn còn tùy thuộc vào chúng ta đã chứ. Luôn luôn thuộc quyền chúng ta đã chứ, David. Luôn luôn mà.

Morton đã quên không biết ông đã đứng ở đây bao nhiêu lần, chia sẻ cùng Thủ tướng nỗi giận dữ khi thấy thế giới cứ chực chờ để trách Israel.

— Còn Luân Đôn và Washington thì sao ?

— Họ muốn trao đổi qua điện thoại trong vòng hai giờ nữa. Tổng thống Mỹ cần có thì giờ để tham khảo ý kiến nội các. Ít ra thì Thủ tướng cũng không cần làm như thế - Karshov nói lớn.

Việc truyền thanh sẽ được nối thẳng từ phòng thu thanh đến văn phòng của Thủ tướng. Karshov bước ra cửa sổ. Ông đưa mắt nhìn lên bầu trời đêm. Sao giăng đầy trời, li ti, lấp lánh, xa xôi, khó với tới quá.

— Anh có biết không, David, tại buổi thảo luận ở Liên Hiệp Quốc, có môt nước ở châu Phi nói rằng giải pháp đơn giản nhất là đưa người Do Thái ra ngoài không gian ? - Ông quay lại nhìn Morton - Nhưng nơi đây thật sự là quê hương duy nhất của chúng ta từ lâu rồi. Tôi đã chiến đấu trong ba trận giặc để bảo vệ đất nước này. Tôi đã chứng kiến nhiều người tốt đã hy sinh cho mục đích ấy. Điều mà tôi biết chắc là bất kể Raza sẽ làm gì, nước Israel vẫn tồn tại.

— Tôi rất sung sướng khi nghe ngài nói thế, thưa Thủ tướng. Nhưng áp lực vẫn còn gia tăng. Như ngài đã nói đấy. Mọi người đều muốn ngài phải nhượng bộ.

Giọng nói của Karshov bỗng vang lên đầy giận dữ . — Chúng ta sẽ không nhượng bộ một tấc đất. Chúng ta đã đổ biết bao xương máu. Dân tộc ta. Máu của ta. Đất đai của ta. Nhưng không còn nữa !- Ông ta đi rảo bước, mỗi bước đi, ông càng thêm giận dữ - Raza và bọn người như hắn đã hăm dọa chúng ta hơn bốn mươi năm nay rồi. Trong suốt thời gian ấy, chúng ta đã mất người vì chiến dịch khủng bố này nhiều hơn cả các nước trên thế giới gộp lại. Trong một năm đã có nhiều người Do Thái bị giết chết nhiều hơn là mười năm ở Bắc Ai Len, Munich, Vienna, La Mã, Paris.... không có một thành phố nào mà lại không có máu của người Do Thái đổ ra. Và mỗi lần như thế, chúng ta lại nói chúng ta sẽ không bao giờ để cho ai đẩy ra khỏi nơi đây hết. Đây là mảnh đất của Chúa, của tôn giáo chúng ta, của dân tộc ta. Không ai giành mảnh đất này được hết. Không có ai hết.

Morum đứng yên lặng. Không những ông đã hiểu và đồng ý với những gì mà Thủ tướng vừa nói ra, mà ông còn hoàn toàn biết chắc rằng Karshov sẽ ủng hộ những gì ông sẽ nói ra.

— Thưa Thủ tướng - Ông thận trọng nói - Chúng ta phải khuyến khích Raza tin vào điều này. Có thế, hắn mới xuất đầu lộ diện. Sau đó chúng ta mới kết liễu đời hắn được.

Karshov chăm chăm nhìn ông một hồi. — Tại sao anh lại dám nói chắc chắn như thế ?

— Những gì tôi biết về Raza là hắn có yếu điểm, hắn quá tự tin. Hắn đã tỏ ra như thế tại Luân Đôn và Bá Linh. Những kẻ khủng bố khác không bao giờ dám làm như thế. Raza thì phải thế ... vì hắn buộc phải chứng minh cho người ta thấy thế. Những trận đánh bom khách sạn này đã cho người ta thấy thế. Bây giờ thì hắn lại còn muốn làm cái gì phi thường hơn nữa kia.

— Như cái gì ? Đánh sập điện Vatican sao ? Đánh sập lâu đài Buckingham à ? Phá sập cầu Golden Gate ư ?

— Có thể lắm. Nhưng tôi không nghĩ đến những nơi ấy. Có khả năng hắn sẽ làm những chuyện bất thường lắm. Và việc có thể thắng hắn là phải bí mật tìm cho ra những nơi hắn hoạt động.

— Nhưng bằng cách nào ? - Karshov lập lại.

Morton lắc đầu. — Ngay bây giờ thì tôi không biết. Nhưng tôi đã yêu cầu máy vi tính Honeywell rà tìm rồi.

— Trong lúc đó, anh cần tôi phải làm gì ?

— Ngài phải luôn luôn cương quyết như mọi khi. Ngài cứ ở trong tình trạng báo động quyết chiến. Ngài hãy tuyên bố cho mọi người biết rằng nước Israel không bao giờ chịu khuất phục. Như thế là đủ lôi Raza chường mặt ra rồi. Một người xuất đầu lộ diện ra như thế sẽ dễ cho ta hạ hắn hơn.

Không khí trong phòng trở nên im lặng kéo dài từ lúc Karshov quay nhìn ra cửa sổ cho đến khi ông quay lại nhìn thẳng vào mặt Morton.

— Được rồi. Tôi sẽ làm những gì anh đã nói. Walter không thích thế đâu, nhưng tôi sẽ làm việc với Walter. Nhiều người sẽ không thích thế đâu. Nhưng tôi cũng sẽ cư xử với họ như thế.

— Xin cám ơn Thủ tướng.

Karshov dừng lại một chốc. Morton lắng nghe ông nói tiếp :

— Tôi cũng đã ra lệnh cho các phòng thí nghiệm bắt đầu chế tạo nhiều chất men PEG rồi. Nhưng ta phải giữ bí mật để tránh gây ra cảnh hoảng sợ - Karshov vuốt một bàn tay lên mặt - Và tôi cũng muốn anh có mặt ở đây để nghe điện đàm thượng đỉnh luôn.

— Dĩ nhiên là tôi sẽ có mặt ở đây.

Morton bước về phòng họp khẩn lại. Máy Honeywell vẫn đang dò tìm. Ông điều chỉnh máy vi tính để máy báo động vào máy bíp của ông khi nó làm xong nhiệm vụ, rồi một lần nữa ông lại bước ra khỏi phòng.

oOo

Lila đứng trên bờ của bể nước, chị nhìn chai nước hoa chị buộc vào một mảnh gỗ nhẹ đang từ từ trôi theo dòng nước đến cửa ống cống. Khi chị không còn thấy cái chai nữa, chị bèn bước lui, leo lên chiếc xe thuê, lái băng qua thảo nguyên hướng về Johannesburg.

Trời đã xế chiều, và chị vẫn còn dư thì giờ đến phi trường để đáp chuyến bay mười giờ đi Nairobi. Từ đây, chị sẽ đi tiếp trên chiếc Luthansa đến Athens. Việc thay đổi chuyến bay một mạch của hãng Olympic này như người quản lý khách sạn đã nói, chỉ là một đề phòng theo thường lệ mà thôi. Gặp trường hợp này thì cũng chả sao. Chỉ trong vòng vài giờ nữa thôi, sẽ không còn ai sống sót ở Trekfontein để có thể miêu tả hình dạng của chị cho thế giới biết nữa.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
601,786
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 12


Người dịch: Văn Hòa - Kim Thùy

Nhà xuất bản: NXB Thanh Niên

Shared by: CCG -

Sau khi rời dinh thự của Thủ tướng khoảng hai mươi phút, Morton đi qua ba trạm kiểm soát an ninh để vào Tổng hành dinh cơ quan Mossad, một tòa nhà cao sơn màu nâu xám nhìn xuống con đường chạy vào Jerusalem. Ông chuồi cái thẻ nhựa màu dùng làm mật mã vào khe cửa thang máy, cửa thang mở ra, ông bước vào, và cửa đóng lại ngay. Một lát sau, một giọng nói đã được thu băng báo cho ông biết đã lên đến tầng bảy và cửa thang máy từ từ mở ra.

Ngay trước mặt Morton là một cánh cửa sắt nặng nề. Ông nói vào một thiết bị gắn trong hộp ở trên tường, hộp phát ra một giọng nói the thé. Hộp nối liền với một máy vi tính, và máy vi tính xác nhận mật khẩu hiện hành. Morton thay đổi mật khẩu hàng ngày, từ không giờ đến mười hai giờ khuya.

Lập tức cánh cửa mở ra, để lộ một căn phòng rộng lớn, thoáng đãng. Không khí trong phòng yên tĩnh, âm u thêm do ánh sáng của hàng chục máy hiện hình đang hoạt động. Những chuyên gia đang làm việc ở đây, họ thảo kế hoạch, đánh giá...

Morton liền đưa mắt nhìn vào một trong hai bản đồ nổi trên hai bức tường nối nhau. Hệ thống đèn xác định những điểm trọng yếu. Đèn đỏ chỉ những căn cứ không quân của Ả Rập rải từ Morocco cho đến IRan. Đèn vàng chỉ những căn cứ có đầu đạn. Đèn xanh chỉ những kho vũ khí. Không có đèn nào bật đỏ hết. Kẻ thù của Israel không chuẩn bị gây chiến.

Chiếc bản đồ kia cho thấy nước Israel đang ở trong tình trạng báo động. Các căn cứ từ Bắc Galilee cho đến vùng Ghor đều ở trong tình trạng báo động. Ở đâu có Saddam và Gomorrah thì ở đấy những căn cứ chứa đầu đạn đều chờ đợi, sẵn sàng. Hỏa tiễn đặt dọc theo Biển Chết đều sẵn sàng phóng đi. Rải rác trong các căn cứ này là những khẩu đội pháo của lực lượng Yêu Nước, lực lượng này đã giáng trả những đòn chí tử vào đầu đạn Scud của Saddam. Gần với Jerusalem, lực lượng Tạo hoà bình chuẩn bị sẵn sàng trong các hầm phóng đầu đạn hạt nhân, đây là lực lượng hỏa tiễn hùng mạnh nhất của Israel.

Ở Negev, một bóng đèn hồng bật sáng. Căn cứ chế tạo vũ khí nguyên tử của Israel đang được báo động.

Trưởng ban mật vụ bước đến. Ông ta là người còn sót lại trong tổ lùng bắt Adolf Eichmann vào năm 1960, tổ này đã đem hắn từ Argentina về Israel để đưa hắn ra tòa về tội diệt chủng, rồi hành quyết hắn ngay.

— Tôi đã tìm được mười người để sung vào tổ của anh. Tất cả đều là đàn ông. Anh có muốn có một phụ nữ không ?

— Tôi nhận một phụ nữ nếu có người như Michelle.

Người lãnh đạo mật vụ thở dài, đáp : — Tôi không có một Michelle thứ hai. Nhưng có một người khác cũng giỏi như thế. Được không ?

Ông gật đầu, đi sang phòng Đánh giá Tâm lý. Vị giáo sư xục mấy ngón tay vào mái tóc rối bù khi ông đang đọc bản báo cáo.

Morton nói, — Xin ngài góp ý cho tôi thôi, thưa giáo sư.

—Vâng, vâng, vâng - Vị giáo sư có thói quen lặp lại một từ. Morton đã không lầm. Đằng sau vẻ kỳ quặc của con người học rộng này là một đầu óc sắc sảo. Bỗng ông ta quay qua Morton.

- Vụ đánh bom khách sạn đã chứng minh rõ ràng câu ngạn ngữ : "Càng nhiều gian ác, càng nhiều truân chuyên". Trước cảnh tượng xảy ra, rồi ra mọi người sẽ cho rằng chính sách khủng bố sẽ thắng. Vì thế chính sách này sẽ dẫn đến chỗ nên thương lượng. Dĩ nhiên là không công khai. Mà sẽ do sau hậu trường sân khấu. Do bọn chuyên hoạt động bí mật thực hiện.

— Do người Pháp lãnh đạo phải không ?

Vị giáo sư gật đầu liên hồi.

— Họ bào chữa cho việc này bằng cách nói rằng chính sách khủng bố có thể dễ dẫn đến những giải pháp chính trị. Rất Pháp !

— Nêu ra thế, những tu sĩ Hồi giáo sẽ làm gì ?

— Những tu sĩ Hồi giáo biết sự nguy hiểm khi họ tiến hành công việc quá xa quá nhanh. Nhiều người vẫn còn thận trọng. Ngay cả Muzwar cũng không muốn nâng số tiền cược lên cho đến khi họ thấy chắc chắn có cơ may thắng thật sự. Hắn ta sẽ cùng đứng vào phe những người chờ xem hậu quả những vụ đánh bom khách sạn được dư luận của dân theo Hồi giáo cho ra sao đã, có phải những vụ đánh bom này sẽ được chấp nhận là một hành động hợp pháp trong mặt trận giải phóng không ?

— Ông có cho là sẽ được chúng chấp nhận không ?

— Cái này còn tùy vào Raza, David à. Theo tôi thì tập đoàn tu sĩ vẫn còn chia rẽ vì hắn. Giới ôn hòa thực sự không muốn tắm trong máu chúng ta, họ vẫn lo lắng một ngày nào đó hắn sẽ phản lại họ.

— Hắn sẽ phản lại họ là cái chắc, thưa giáo sư. Nhưng theo ông thì hắn sẽ làm gì tiếp theo đây ? Có tin cho rằng hắn đe dọa sẽ gây nên những cảnh khủng khiếp hơn nữa phải không ?

— À ! - Vị giáo sư kéo những ngón tay dài, mảnh khảnh. Ngón tay của nhạc sĩ dương cầm. - Morton nghĩ thế, - Raza là một kẻ thù phức tạp nhất. Nidal, Arafat, tất cả những người khác đều tương đối ít rắc rối. Phương châm của họ là đánh thành công, là đánh lại tức khắc. Nhưng Raza thì không. Hắn đã vắng bóng một thời gian dài. Bây giờ hắn trở lại để phục hận, có thể hắn đã khoa trương hơn. Chúng ta chắc là phải nghĩ rằng hắn sẽ thực hiện những vụ khác tiếp theo liền. Nhiều nguồn tin cũng đều cho như thế. Nhưng trong khi đó thì hắn lại dừng lại.

— Tôi sợ ngài lầm rồi, thưa giáo sư - Morton đáp - Thật sự tôi sợ ngài lầm rồi.

Vị giáo sư liếc nhanh nhìn ông. — Anh muốn hắn tấn công à ?

— Tôi muốn hắn phạm phải sai lầm - Morton chỉnh lại nhẹ nhàng.

— Lạy Chúa, thật tôi không hiểu nổi anh, David ? Thật tôi không hiểu tí nào hết.

— Ngài cứ suy nghĩ đi thì sẽ hiểu - Morton từ tốn trả lời cho ông. Ông đóng cửa lại, trả lại cho vị giáo sư ở lại một mình trong cảnh im lặng.

Trở về phòng Hành quân, Morton thấy những ngọn đèn trên các bản đồ vẫn không thay đổi. Ông đi dến phòng Máy vi tính. Khi vừa mở cửa ra, hơi mát trong phòng bỗng phả vào người ông. Lester Finel luôn luôn giữ nhiệt độ trong phòng là năm mươi lăm độ F. Ông ta nói rằng như thế máy vi tính mới chạy chính xác được. Ông ta cũng chọn một đội lập trình viên toàn câm điếc. Finel nói vì ông không muốn thấy cảnh nhân viên của ông nói chuyện tầm phào.

Việc này đã gây cho Morton nhiều ấn tượng cũng như quá trình học tập của Finel, về IBM, Ampex, Honeywell. Trên hai mươi năm, anh ta đã dẫn dắt cả ba công ty trên đường thương mại thành công, trước khi anh tách ra khỏi họ.

Một buổi chiều, Morton ngồi với Finel tại San Francisco, bàn về khát vọng thật sự của người Do Thái. Sau đó, Finel quyết định về điều hành máy vi tính cho cơ quan Mossad.

Anh đứng dậy khỏi bàn làm việc kê ở cuối phòng, rồi bước ra đón Morton. Người anh gân guốc, gần bốn mươi mà tóc bạc sớm, anh mặc cái áo khoác thể thao bằng vải ca rô đơn giản, và mặc chiếc quần bằng vải len sọc của dân chơi gôn. Bàn tay trái của Finel đang làm một động tác kỳ lạ. Morton phải mất một lúc mới nhận ra anh đang bắt chước một cuộn băng đang quay.

— Chào anh, Dave. Chúng tôi đã cho đi tìm rồi. Tìm ra kẻ ăn khớp với những chi tiết của Cụ Gù đưa ra. Vấn đề khó khăn đấy. Phải cho khớp cũng khó đấy.

Ý kiến của Morton về phương pháp tách từng từ của Finel thì hoặc là phải nghe kỹ trên máy vi tính ngôn ngữ ký hiệu với nhân viên của anh ta.

— Bệnh nói lịu của cô ả cũng giúp ta được việc đấy. Nhưng không nhiều. Khó đấy. Chúng ta có mười ngàn âm lịu trong cuốn băng. Chúng ta sẽ tìm cho ra một người có giọng lịu như thế. Một kẻ ma lanh. Người Hy Lạp sống ở Beirut. Nhưng phải loại Hy Lạp gốc Ship cơ. Khó đấy. Có hàng ngàn người như thế.

— Những thẻ chứng minh của Lacouste có giúp gì không ?

— Đang nghiên cứu, Dave. Khó đấy. Không có dấu vết gì để lộ chân tướng của chúng ra hết. Có sẹo thì hay biết mấy. Tuy nhiên, có con mắt trông kỳ lạ, cũng đáng phấn khởi. Chúng tôi có danh sách năm ngàn tên có mắt trái kỳ lạ, cũng có nhiều tên có mắt phải đặc biệt. Khó đấy. Tất cả những tên chúng ta hiện có danh sách đều là mặt Ả Rập cả. Ngay cả các nhân viên ở khách sạn đã được huấn luyện để nhớ mặt, họ cũng đều chỉ thấy dân Ả Rập.

Khi hai người bước lui qua căn phòng, mắt Finel lướt từ máy vi tính này sang máy khác. Anh ta dừng lại bên cạnh một người câm. Mấy ngón tay anh chàng câm hoạt động thật nhanh nhẹn. Finel quay lại với thiết bị nối hai máy tính bằng đường dây điện thoại và cắt nghĩa cho ông biết.

— Anh ta đang kiểm soát những danh sách hành khách đi máy bay ra khỏi nước Anh, châu Âu và Bắc Mỹ. Để tìm ra bọn khủng bố còn sống sót mà chúng ta đã ghi băng. Khó đấy, danh sách có trên bốn mươi lăm ngàn tên, Dave à.

Finel chỉ những người câm khác. Một người đang kiểm soát những danh sách do Lacouste fax đến gồm khách đăng ký vào bốn khách sạn ở Paris. Một người khác đang kiểm soát những danh sách do Fuller gởi đến. Cuối danh sách ghi số khách ở khách sạn Connaught, Morton thấy tên của Steve và Dolly.

Ông quay mặt đi.

— Có tin gì ở New York không ?

— Talim có một danh sách khách của FBI. Không hoàn toàn đầy đủ. Nhưng cũng dùng khởi đầu được. - Finel liếc nhìn Morton - Nhìn những tên này, anh chắc là đau đớn lắm.

— Dĩ nhiên rồi.

Ông dừng lại trước một hệ thống máy tính khác. Finel quay qua nhìn Morton, anh nói :

— Anh ta đang tìm ra những tên giả. Thật lạ là rất nhiều tên khủng bố cùng dùng tên giả giống nhau. Chắc ông giáo sư đã nghĩ ra được một biện pháp rồi chứ ?

Morton thoáng cười. Ông cứ để cho phòng Đánh giá Tâm lý và phòng Máy vi tính ganh đua nhau. Ông khích lệ bất cứ cái gì có ích.

— Lester này, nhân viên của anh làm việc giỏi đấy.

Morton đi đến phòng Tình báo Hải ngoại, đến phòng của Chantal Bouquet nằm trong góc của tầng bảy. Khi ông bước qua cửa văn phòng của nàng, nàng chỉ tay mời ông ngồi ở ghế bành.

— Để trả lời cho câu hỏi của anh, xin đáp là không có gì thiệt hại cho chúng cả. Suông sẻ hết - Chantal nói.

Morton chăm chú nhìn nàng.

— Cô nói là TẤT CẢ mười hai tên đánh bom của Raza đều yên ổn ra đi cả à ? Và những nhân viên ưu tú nhất ở Phương Tây cũng không nắm được tí manh mối nào cả à ?

Chantal sửa lại cặp kính gọng màu ngọc lam trên mắt. — Tôi muốn nói thế đấy.

Ông đã bổ nhiệm nàng phụ trách Công tác Tình báo Hải ngoại đã ba năm rồi, sau khi nàng đã phục vụ tại Luân Đôn, Paris, Bonn và Washington.

— Ý kiến thiên hạ ra sao, Chantal ?

— Ngoài mặt thì có vẻ đoàn kết lắm. Mọi người như chung lưng đấu cật với nhau. Cơ quan CIA phân phát ra nhiều tài liệu viết về tiểu sử tâm sinh của Raza nhiều hơn là họ đã làm như trước đây với Nidal hay là Arafat. Người Anh thì lại cung cấp cho bất kỳ ai cần biết bản báo cáo của họ về vụ ở Westminster. Chỉ một năm trước đây thôi, họ đã giấu kín ta về bản báo cáo này.

— Bản báo cáo nói về việc Raza đã có đầu đạn Stinger tại chỗ một cách quá dễ dàng chứ gì ?

— Bản ấy đấy. Đúng là cái thời đại rối ren ở Luân Đôn. Ở Đức cũng thế. Cơ quan Tình báo BND bỗng đưa ra những tài liệu về Raza mà không ai biết đến. Người Pháp, người Ý, cơ quan tình báo nào cũng nhân danh hắn ta để đưa ra tài liệu hết.

— Cô không thấy giật gân à ?

Chantal viết nguệch ngoạc trên tập giấy để trên bàn. — Một canh bạc đấy, David. Họ chơi cái trò quỷ quyệt trút trách nhiệm lên đầu người khác đấy mà. Họ tung tin ra rồi ngồi yên.

— Để làm gì mới được chứ ? - Ông thừa biết, nhưng ông lại muốn để nàng nói cho ông hay.

— Để cho chúng ta lo liệu. Họ muốn chúng ta phải thương lượng với Raza. Nếu không thành thì họ coi như phủi tay, hết trách nhiệm. Họ có thể nói, rất thành thật, rằng họ đã cho chúng ta đủ thứ rồi, mà chúng ta lại lộn xộn.

Morton ngồi im lặng. Đây không phải là lần đầu tiên cơ quan Mossad gặp phải cảnh khó xử như thế này.

— Họ có nêu ra giới hạn nào không, Chantal ?

Nàng lắc đầu. — Bình thường thôi. Chúng ta vẫn hợp tác mật với nhau, đến rồi đi tùy tiện. Chúng ta bố trí địa điểm cho họ. Và đừng để cho họ bị lộ ra.

Ông gật đầu. — Ý kiến chung thì bây giờ Raza ở đâu ?

Chantal đung đưa hai ống chân.

— Theo nguồn tin mới đây thì người Pháp nói hắn hiện hoạt động bên ngoài Afghanistan. Người Đức thì cho rằng hắn ở tại mũi Horn ở Phi châu. Người Anh và Mỹ cho là hắn đang ở Nam Mỹ.

— Tại sao lại không ở Bắc Phi ?

Nàng nhìn lên.

— Washington cho biết vệ tinh của họ đã chụp ảnh cả toàn vùng mà không thấy có dấu hiệu gi hết.

Morton càu nhàu :

— Họ có xem ở Li Bi không ?

— Cơ quan NSA, cơ quan an ninh quốc gia, đã lục soát từng tấc đất bằng máy mới loại đa camêra K.12 - vẫn không thấy gì.

— Còn phần lục soát của chúng ta có gì không ?

Vệ tinh gián điệp loại mới của Israel vừa được đặt vào quỹ đạo hai mươi bốn giờ qua để chụp ảnh toàn bộ khu vực Địa Trung Hải.

— Không có gì, nên Bitburg đã ra lệnh cho không lực thu hồi vệ tinh về.

— Tôi có linh tính Raza không ở xa như thế đâu. - Morton nói.

Máy bíp đeo bên thắt lưng ông phát tín hiệu khẩn cấp. Máy Honeywell đã hoàn thành việc tìm kiếm các mục tiêu đáng ngờ.

*

Ở bể nước tại Trekfontein, miếng gỗ mà Lila buộc cái chai đã trôi đến cửa miệng cống.

Sau một trận mưa hồi đêm, rác rưởi trôi lều bều khắp mặt nước. Có một vài mảnh gỗ hình thù kỳ dị trông hấp dẫn. Chính vì những mảnh gỗ này mà có hai chú bé trong thành phố đã ra ngồi đợi ở cửa ống cống để vớt lên. Chúng chạm những mảnh gỗ này thành thú vật để rồi bán cho du khách làm kỷ niệm.

Ống cống trơn trợt ; nước chảy nhanh hơn thường ngày. Hai chú bé cứ nhúc nhích, thay đổi thế ngồi trên cánh cửa cao, chúng bất kể đến việc xảy chân rơi xuống nền bê tông bên dưới cách mười thước. Hai chú bé cùng thấy cái chai. Thay vì đợi cái chai đến gần cánh cửa, một chú quăng lưới để bắt mảnh gỗ và cái chai. Chú kia nắm cái cần lưới để giúp bạn.

Bỗng cả hai loạng choạng đung đưa. Rồi chúng thét lên hãi hùng, cả hai rơi khỏi cánh cửa, nhào xuống con đường đắp qua cống nước. Một chú gãy lưng, một chú gãy cổ. Một mảnh chai vỡ bắn vào mắt của một chú bé. Trong lúc đó vi rút bệnh than B.c hòa hết vào nước, trôi vào trạm bơm để cung cấp cho cả thành phố Trekfontein.

*

Đồng hồ chỉ ba mươi phút đã trôi qua khi Morton trở về phòng Điều Hành. Ông bấm nút trên thiết bị nối hai máy tính bằng dây điện thoại của máy Honeywell, màn hình của máy hiện lên danh sách những mục tiêu có khả năng Raza chọn tấn công. Morton rà khắp cả châu Âu. Ông không thấy Raza tấn công kịch trường Passion ở Oberammergau hay là tấn công đền thờ Sistine ở Vatican. Chắc Raza muốn thấy nhiều máu hơn chứ không nhắm vào đền đài. Morton rà xem khắp Bắc Mỹ. Không có mục tiêu nào phi thường hấp dẫn cả. Nhưng có điều gì đó đã cho ông biết lần này không phải quyền của Raza.

Ông kiểm soát châu Úc và Nhật Bản. Vẫn không có âm mưu khủng bố ở hai nơi này. Linh tính lại cho ông biết Raza không có quyền chọn lựa địa điểm.

Trên màn hình xuất hiện danh sách các mục tiêu ở Nam Phi. Đứng đầu danh sách là Trekfontein.

Ngay lúc đó, giọng của Karshov vang lên ở loa phóng thanh được ráp vào thùng máy điện tử.

— Đã đến giờ điện đàm thượng đỉnh rồi.

— Tôi đến ngay đây - Morton đáp. Ông nán lại nhìn vào màn hình thêm một chốc nữa, rối ấn vào một nút khác. Trên màn hình hiện ra cảnh thành phố Trekfontein. Ông bấm vào nút khác, lại cảnh thành phố được máy tính thu vào đầy đủ hơn. Một bên rõ ràng là cảnh dãy núi có hình tháp. Bên kia màn hình là cảnh bể nước lờ mờ hiện ra. Morton vội gõ vào bàn phím, một hàng chữ xuất hiện "Báo động khẩn! Báo cho các vị có thẩm quyền biết Trekfontein có khả năng là mục tiêu cho Raza tấn công".

Ông bấm nút chuyển lời nhắn này đến cho điệp viên của Mossad ở Cape Town. Morton biết chính là do linh tính báo cho ông, chứ không có gì hơn nữa.

— David ! - Karshov la lên trong loa.

*

Phòng thu hình nằm kế bên văn phòng của Karshov đều giống như bao nhiêu phòng khác. Có hai mươi cái ghế dựa êm ái kê thành hình bán nguyệt. Mỗi ghế là chỗ của một thành viên trong Hội đồng, tức là những chiến lược gia nổi tiếng của Israel. Đó là các vị tướng không quân và lục quân cùng những thành viên chủ chốt trong ban tham mưu của họ, là vị ngoại trưởng với các cố vấn, là vị chưởng lý cùng các phụ tá cao cấp, là Trưởng cơ quan an ninh quốc nội.

Những người này nhắc cho Morton nhớ lại một bức tranh in từ bản khắc gỗ mà Steve đã đưa cho ông xem, bức tranh vẽ cảnh tòa án Tối cao của Nhà nước Do Thái cổ đại đang họp tại đền thờ ở Jerusalem. Hội đồng cũng phô trương thái độ kiêu kỳ như thế. Sự thể vẫn không thay đổi trong hai ngàn năm nay : quyền hiện hữu cúa Israel vẫn tùy thuộc vào tính bất thường của kẻ khác.

Morton ngồi một bên Karshov, Bitburg ở bên kia. Thinh thoảng ông giám đốc nói nho nhỏ bên tai Karshov về hình ảnh của ai đấy xuất hiện trên ba màn hình giám sát lớn kê trước dãy ghế hình bán nguyệt, chỉ ông giám đốc cơ quan CIA, ông Trưởng ban tình báo Pháp, ông giám đốc cơ quan FBI, những ông trưởng cơ quan M15 và M16 của Anh. Bitburg biết hết. Bitburg quay qua Karshov.

— Đầy đủ cả rồi, thưa Thủ tướng. Dấu hiệu khả quan lắm.

Karshov càu nhàu trong miệng rồi tiếp tục xem cảnh tượng đang xảy ra ở Luân Đôn, Paris và Washington. Một cái điện thoại gắn vào tay dựa trên chiếc ghế ngồi của ông.

Trong phòng nội các tại số mười đại lô Downing, trong phòng Bầu dục, và trong phòng Tổng thống tại điện Elysée, các bộ trưởng và cố vấn đang cẩn thận ngồi quanh một chiếc ghế còn bỏ trống ở mỗi nơi. Chỗ còn trống đó dành cho Tổng thống Hoa Kỳ, Thủ tướng Anh và Tổng thống Pháp.

Morton thờ ơ nhìn những màn hình. Những anh chàng Ả Rập chắc đang ở bên cánh gà, lo việc báo cáo cho chủ, nhắc nhở chủ những gì đã thỏa thuận rồi. Mấy anh chàng Ả Rập này không bao giờ xuất hiện trước công chúng, nhưng ảnh hưởng của họ thì quá rõ rồi.

Trong vòng chưa đầy một năm nữa, cả hai vị Tổng thống chắc sẽ ra tranh cử đợt hai và Thủ tướng chắc có lẽ cũng cho lập thủ tục bầu cử quốc hội trong cùng thời gian. Những quốc gia họ lãnh đạo đã thay đổi một cách kỳ lạ kể từ khi họ đắc cử. Tiếp theo vụ chiến tranh vùng Vịnh là đợt suy thoái toàn cầu với những vụ khan hiếm thực phẩm mà trong đó có cả Liên Xô.

Tổ chức NATO bị cụt tay vì Hoa Kỳ rút lực lượng ở châu Âu về. Lực lượng Tân Quốc Xã Đức diễu hành ở Luân Đôn và Paris. Những tiếng kêu la uất hận âu lo của đông đảo quần chúng trải qua nhiều thế hệ nay rồi. Dân Do Thái bị trách móc vì đã gây ra chiến tranh vùng Vịnh, gây ra lạm phát và gây ra cảnh thất nghiệp đông đảo. Morton thấy những thứ ấy trên những khuôn mặt no đủ béo tốt trên màn hình, những con người có tài thỏa hiệp và ích kỷ.

Tiếng nói chuyện thì thào trong đám Hội đồng. Rồi mọi người bỗng yên lặng khi một tiếng nói vô hình phát ra trên màn hình :

— Tổng thống Hoa Kỳ.

Morton nhìn dáng người cao quen thuộc có mái tóc khiến ông nhớ đến John F. Kennedy, bước ra đi đến chỗ ngồi trên màn hình.

Tiếng nói vô hình lại vang lên : — Thủ tướng Anh quốc.

Năm tháng đã làm cho cả khuôn mặt lẫn vóc dáng của nhà lãnh đạo nước Anh trở nên hiền từ ra, nhưng vẫn không làm dịu được ánh mắt sắc như dao của ông. Như mọi khi, Thủ tướng không nhìn đến ai cả.

— Tổng thống Pháp.

Mặc dù cơ thể đã nhão rồi, nhưng theo Morton thì ông ta vẫn cố làm ra vẻ mình đang còn cường tráng lắm. Người ta thấy được điều này khi nhìn cách ông ngồi với hai tay nắm chặt vào nhau làm như cả Chúa cũng không gỡ ra được nữa. Điều này còn thể hiện trên đôi môi của ông, đôi môi mím chặt thành một đường gạch ngang thẳng băng. Nhưng đặc biệt nhất là đôi mắt. Chỉ có anh thợ nhồi bông vào da thú mới có thể tạo nên được một cặp mắt vô hồn như thế mà thôi.

— Quý vị ở Tel Aviv có nghe chúng tôi không ? - Giọng nói từ Luân Đôn hỏi.

— Nghe rất rõ, thưa Thủ tướng - Karshov trả lời - Và chúng tôi cũng nghe Washington và Paris rất rõ.

— Rất sung sướng được gặp ông, Isaac - Tổng thống Hoa Kỳ nói, đưa tay vẫy chào - Ước gì gặp hoàn cảnh chúng ta vẫn thế. Và nhất là vào giờ phút trọng đại như thế này.

Ở Washington trời đã khuya, ở châu Âu thì quá mười hai giờ đêm. Khoảng hai giờ nữa, trời sẽ lờ mờ sáng ở Tel Aviv.

— Tôi nhớ ba tôi đã nói rằng cái giờ phút đáng kể nhất chính là giờ phút chúng ta từ giã cõi trần này để làm những việc mà chúng ta không làm được - Karshov đáp.

— Kinh điển quá thế, Isaac ? - Giọng Tổng thống ngân nga. Từ màn hình Luân Đôn, giọng đằng hắng quen thuộc vang lên :

— Thì giờ là vàng bạc, chúng ta bắt đầu thôi.

Thủ tướng Anh đợi cho Washington và Paris gật đầu rồi mới nói tiếp : — Ông Karshov à, những chiến hữu của tôi yêu cầu tôi tổ chức buổi họp này. Nhưng tôi ao ước ông hiểu cho rằng những gì tôi sắp nói ra đây đêu là quan điểm chung của chúng ta.

Karshov nhíu mày. Giọng nói từ Luân Đôn nói tiếp : Trước hết là chúng tôi mong ông hiểu cho rằng ông không đứng một mình đuợc....

Karshov nghiêng đầu.

— Chúng tôi cũng mong ông hiểu cho rằng chúng tôi nhận thấy một hành vi phản ứng bằng quân sự đáp lại những gì đã xảy ra đều bất khả thi và không ai mong muốn cả. Bất kỳ một việc can thiệp bằng quân sự nào cũng đều được xem không phải là một cuộc trả đũa, mà là một cuộc trả thù dã man. Tóm lại, tất cả những gì cần làm là chúng ta phải tìm hiểu dân tộc này.

Karshov nhíu cặp mắt thật sít.

— Vậy thì các ông có ý kiến gì đây ?

Thủ tướng Anh không để ý đến câu hỏi cắt ngang lời ông ta. Ông nói tiếp:

— Rõ ràng là ta không thể buộc tội các nước Ả Rập vào những sự việc vừa xảy ra. Không có gì để chứng minh những hành vi ác độc này là nằm trong sách lược đỡ đầu chính sách khủng bố của các quốc gia này.

Khi Karshov lên tiếng, sự giận dữ đã tiêu tan đâu hết, mà giọng ông nghe thật lạnh lùng, cương quyết :

— Xin báo cáo cho quý vị biết nước Israel có quyền đương đầu với sự đe dọa theo phương pháp mà chúng tôi thấy thích hợp. Như thế có nghĩa là chúng tôi sẽ hành động theo cách mà chúng tôi thấy cần thiết.

Karshov lại nhìn vào từng máy giám sát.

— Những người này muốn tiêu diệt quý vị cũng như họ muốn xóa sổ chúng tôi. Xin các ngài vui lòng hiểu cho điều đó.

Giọng của vị Thủ tướng nước Anh lại càng lạnh lùng hơn và xa cách hơn nữa :

— Chúng ta đều biết rằng hôm qua là khủng bố, hôm nay là chính khách. Chúng ta thấy rõ điều này ở Shíp và châu Phi. Và dĩ nhiên kể cả vị tiền nhiệm của ngài nữa, đấy là ông Menachem Begin. Nếu chúng tôi bắt được tên khủng bố, chúng tôi sẽ treo cổ nó ngay. Nhưng khi anh ta đã lên làm Thủ tướng nước Israel rồi, thì chúng tôi phải ngồi bàn thảo với anh ta thôi. Chính trị là thế đấy.

Karshov lắc đầu.

— Không ai thúc ép tôi được. Tôi sẽ không nhượng bộ. Chúng tôi sẽ không rời khỏi mảnh đất này. Chúng tôi sẽ không đầu hàng. Và để cho quý vị hiểu tại sao, tôi muốn tất cả quý vị, mỗi vị, phải biết chính xác thực chất của mối đe dọa mà chúng ta đang gặp đây.

Mọi người nhìn nhau trên màn hình.

Karshov quay qua Morton : — Nói cho các quý vị ấy nghe đi, David. Nói cho họ nghe về vi rút than B.c. đi.

Giọng nói lạnh lùng từ Luân Đôn đã trấn át lên tất cả sự huyên náo :

— Có thật cần thiết...

— Cần lắm - Karshov nói - Nhân danh Chúa, xin quý vị lắng nghe cho ! Xin quý vị im lặng và nghe cho !

Trong cảnh im lặng nặng nề, Morton đứng dậy. Ông thọc tay vào túi, lấy ra một cái chai nhỏ có đậy nút. Cái chai chứa đầy nước không màu sắc. Ông đưa ra trước camêra. Karshov đã đưa cho ông cái chai khi hai người bước vào phòng máy.

— Chất vi rút bệnh than B.c. này có thể gây thương vong cho người ta nhiều hơn tất cả những vụ dội bom khách sạn nữa. Biết cách rải ra, nó sẽ giết chết hàng ngàn người một lúc.

Cả hội đồng lẫn khán giả của ông trên thế giới đều thở hổn hển khi ông mở nút chai và rải chất lỏng ra. Morton thoáng cười.

— Nước máy ở Tel Aviv - Ông đậy nút chai lại - Một ngàn chai nhỏ như thế này sẽ biến cả đất nước này thành một bãi tha ma. Nhưng sẽ không có ai chôn cất chúng tôi đâu, và sẽ không có ai dám bén mảng đến đây để làm chuyện này được.

Suốt ba mươi phút tiếp theo, ông nói cho họ nghe chuyến đi sang Trung Quốc của ông, và về Raza. Ông nói rất bình tĩnh. Ông giải thích cho họ biết cần phải tích trữ thật nhiều chất men PEG. Ông nhấn mạnh rằng không ai biết chắc chất thuốc này hoạt động ra sao, nhưng không còn thứ gì đáng giá hơn nữa. Khi nói xong, ông ngồi xuống trong cảnh im lặng nặng nề của mọi người.

Vị Thủ tướng Anh là người đầu tiên lên tiếng :

— Ông Karshov, nhân viên tình báo của tôi đã cho tôi biết cơ quan CIA đã thông báo cho ông giám đốc cơ quan Mossad biết rõ nội vụ việc này rồi. Nói trắng ra là họ không có bằng chứng nào chứng tỏ vi rút bệnh than B.c đã ra khỏi Trung Hoa. Cơ quan tình báo đều nhất trí rằng người xách cặp mà ông Morton đã giết hụt đấy đã được cơ quan mật vụ Trung Hoa biết rất rõ thành tích.

Morton nhìn Bitburg. Ông giám đốc gật đầu. Những người Ả Rập bao quanh Thủ tướng Anh gật đầu. Tổng thống Pháp cũng gật đầu. Tổng thống Hoa Kỳ xem ra cũng như muốn gật đầu, nhưng ông thấy không nên.

— Nhân viên của ngài sai lầm rồi - Karshov chậm rãi nói.

Thủ tướng Anh chồm người tới trước.

— Vậy thì xin ngài hãy chứng minh cho chúng tôi xem đi. Ai sẽ làm việc này giỏi hơn ông Morton của ngài ?

Ở Paris và Washington, hai vị Tổng thống gật đầu đồng ý.

Morton nghĩ : Ruth đã nói đúng. Họ đều cá mè một lứa. Thủ đoạn, chỉ điểm, được phép giết người. Cuối cùng đều giống nhau, đều sa vào vũng bùn dơ bẩn.

— Nếu không - Giọng nói từ Luân Đôn lại vang lên - Chúng tôi cứ đợi xem ông Morton nghĩ ra được điều gì cái đã, rồi chúng tôi mới đua nhau sản xuất ra số lượng thuốc đắt tiền như chúng tôi được yêu cầu.

— Tôi thấy đúng đấy - Tổng thống Hoa Kỳ lên tiếng.

— Tôi đồng ý - Tổng thống Pháp nói.

— Trong trường hợp này, ông hãy chứng minh đi, ông Morton - Thủ tướng Anh thúc - Ông không còn thì giờ nữa đâu. Giới hạn thời gian mà họ đưa ra đã hết rồi !

— Thưa Thủ tướng, chúng tôi không để cho ai ra lệnh hết... - Karshov đáp, vừa khi điện thoại trên tay dựa ghế bành reo lên lanh lảnh, ông nhấc lên với vẻ khoan khoái ra mặt. Khi nghe xong, mặt ông biến sắc.

— Xin vui lòng đợi cho một chút, thưa ngài - Giọng của Karshov bỗng nghẹn ngào.

Ông hạ ống nghe xuống rồi nhìn vào những bộ mặt nhăn nhó ; chăm chú của những người trong Hội đồng, rồi nhìn vào những khuôn mặt trên màn hình, ông nói :

- Thưa quý ngài - Giọng Karshov hơi run - Tôi đang nói chuyện với Tổng thống Nam Phi trên điện thoại.

Tiếng xì xào kinh ngạc vang lên quanh ông và trên các màn hình.

— Ông ấy thông báo cho tôi hay một tai họa chết người vừa xảy ra trong một thành phố của nước ông, một nơi mà nhiều người trong chúng ta đều biết. Đó là Trekfontein.

Tiếng ồn ào như muốn át hẳn những lời sau đó của Karshov.

— Ông ấy nói rằng tất cả nam phụ lão ấu và súc vật đều bị giết chết bằng một thứ mà nghe ra rất giống vi rút bệnh than này !

Khi Karshov quay lại điện thoại để nghe thêm các chi tiết khác nữa, thì Morton đã đứng dậy, ông bước nhanh ra khỏi phòng thu hình.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
601,786
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 13


Người dịch: Văn Hòa - Kim Thùy

Nhà xuất bản: NXB Thanh Niên

Shared by: CCG -

Morton ngồi trước dãy màn hình trong Phòng điều hành suốt ba giờ đồng hồ liền để theo dõi những câu đối đáp với Tổng thống Nam Phi. Liên bang đã đóng cửa biên giới và đã mở một cuộc truy lùng lớn nhất trong lịch sử của nước này. Thành phố châu Phi nào cũng ra lệnh giới nghiêm ; hàng trăm vụ bắt bớ những người bị tình nghi đã xảy ra. Những vụ chống đối chống lại chính sách trả đũa tàn bạo này đã bị đàn áp ngay cả ở các nước da đen lân cận. Cũng như các nước khác trên thế giới, những quốc gia này đều rất sửng sốt trước những hành động tàn bạo đã xảy ra.

Những báo cáo đầu tiên từ thành phố đau khổ này thật ít ỏi, ngay cả Morton cũng phải đợi cho đến khi những hình ảnh trực tiếp trên màn hình do những đoàn quay phim của cảnh sát ở trên mặt đất và ở trên không tại Trekfontein chuyển về.

Máy camêra quay về đâu là ở đấy thây người nằm la liệt, nhiều xác đã đen thui. Những ngọn đèn gắn trên trực thăng đang lượn lờ trên không, và đèn xe hơi đã rọi đường dẫn những toán nhân viên chống lây nhiễm mặc áo quần chống khí độc cồng kềnh đang đi khắp các đường phố. Nhiệm vụ của họ là đặt các xác người vào bao rồi chất lên xe tải.

— Vừa nghe ông báo động là chúng tôi đến đây liền, ông Morton à. Thế mà vẫn trễ đấy. Gồm năm ngàn rưỡi người bị giết, để làm gì đây ? Vì mục đích gì của chúng đây ?

Giọng nói phát ra từ màn hình bên cạnh. Piet Vorag, Bộ trưởng Quốc phòng của Liên bang, đang ở trong một chiếc trực thăng chỉ huy bay trên bầu trời Trekfontein. Máy bay có trang bị máy quay phim truyền hình và được nối thẳng đến một vệ tinh bay trên xích đạo.

— Dĩ nhiên là chúng có ý đồ rồi, thưa ông Bộ trưởng, đây là một hành động lưu manh của Raza, hắn chọn Trekfontein để chứng tỏ cho chúng ta thấy con đường hắn sẽ theo đuổi. Tôi không thích nói thế, nhưng có nhiều người trên thế giới, khi họ đã thấy chuyện đau thương này rồi, sẽ vui mừng trong bụng vì Trekfontein không còn tồn tại nữa.

— Ông muốn nói họ sẽ cho việc này là một hành động anh hùng à ? Việc này khác với việc đánh bom khách sạn à ?

Morton đợi cho Vorag bình tĩnh lại. Ông đã gặp ông ta tại nhiều cuộc họp quốc tế và chống khủng bố. Ông Bộ trưởng này thường làm cho ông chú ý vì giọng nói từ tốn đặc biệt của những người da trắng theo Đảng Tự do mới ở Nam Phi.

— Những người ấy thật kỳ lạ, ông Bộ trưởng à. Họ chống lại những gì họ vừa thấy vừa nghe. Ngay bây giờ, ông gặp thêm khó khăn vì chuyện này nữa đấy.

— Bất kỳ kẻ nào làm việc này đều không phải đơn thương độc mã. Người của tôi đã tìm thấy dấu vết những khẩu hiệu của đảng Đại Hội Dân tộc Phi (ANC) viết khắp Trekfontein. Thật đúng như những gì họ hăm dọa, đó là tàn sát chúng tôi ngay trong nhà.

Morton nhận thấy ông Bộ trưởng rất căng thẳng, và ông thông cảm với ông ta. Nhưng ông phải nói sự thực cho ông ta biết.

— Thưa ông Bộ trưởng, không có dính líu gì giữa Raza với đảng Đại Hội Dân tộc Phi hết. Đúng ra là không có dính líu gì giữa hắn với những phe nhóm khác ở nước ông hết. Đối với hắn, những phe nhóm này quá nhu hoà.

— Chúng tôi chỉ dựa trên những gì nhân viên của tôi và tôi thấy mà thôi, ông Morton à - Vorag nói, cơn giận dữ làm cho giọng Phi châu lơ lớ của ông ta nặng nề khó nghe thêm.

Một máy camêra quay cảnh một đường phố có những bãi cỏ cắt xén gọn ghẽ, dẫn đến những ngôi nhà có xây đầu hồi, theo kiểu những ngôi nhà xây dựng từ ngày mới định cư, trông rất đẹp mắt. Người ta đang mang những xác người từ trong nhà ra. Nhiều xác đàn ông đang trần truồng.

Giọng nói gay gắt của Vorag cứ oang oang lên : — Nhiều người chết khi đang tắm trong bể hay dưới vòi sen sau khi làm việc xong. Vợ và con gái họ chết ngay trong bếp khi đang nấu ăn. Thật kinh khủng, ông à, thật kinh khủng. Bọn này giống bọn hạ đẳng ở Phương Tây không ?

Morton nhìn Vorag. Ông ta giận dữ là phải. Trên màn hình, xuất hiện cảnh nhiều thây người nổi trên mặt một hồ bơi.

— Ít ra cũng sáu mươi xác chết... hầu hết là thiếu niên. Trong phòng tắm vòi sen thì nhiều hơn... và chúng tôi tìm thấy ít ra cũng đến hàng trăm thây người chết trong những hồ tắm tư nhân.

Một máy camêra dừng lại bên ngoài một tòa nhà cao có nhiều cột, rồi máy tiến dần về phía cánh cửa đang mở.

— ... và nhà thờ. Một đám đông dự lễ rửa tội. Gồm có năm cháu, thêm cha mẹ và bà con thân thích. Tất cả đều chết hết.

Máy lại quay sang cảnh một nhân viên trong đội tìm kiếm hiện ra, tay nắm một thi hài nhỏ mình đang mặc áo lễ. Người nhân viên mặc bộ đồ may như kiểu phi hành gia, trông anh ta như con quỷ giết người trong một bộ phim kinh dị rẻ tiền.

Chiếc trực thăng của Vorag hạ thấp xuống, bay trên một con đường mà Morton đoán là con đường chính ở Trekfontein. Ánh đèn pha chiếu vào một ống nước đang phun lên. Rải rác quanh đấy là một số thây người và nhiều xe tải nhỏ cùng xe Land Rover.

— Chúng tôi đang xem lực lượng cảnh sát toàn thành phố đây... Khi chuyện xảy ra chắc họ đang đi điều hành việc giao thông... Khi họ té nhào xuống, những nhân viên khác chạy đến giúp - Vorag nói tiếp.

Morton thấy vẻ kinh ngạc hiện trên mặt một viên đại úy và nhiều sĩ quan cảnh sát khác, như thể khi chết họ không thể nào tin nổi những chuyện đã xảy ra.

— Tại sao họ lại chết nhanh như thế, ông Morton ? - Vorag rít lên - Tôi chắc là chất độc đã hòa tan trong nước.

— Không phải nước trong vòi đâu. Xem ra thì đã có vi trùng gây nhiễm lan tràn khắp nơi nhanh lắm. Kết quả giống như nhiễm phải chất Xy-a-nuya. Một giọt thôi là đủ chết.

— Theo tôi thì một người không làm nổi việc này đâu, ông Morton à - Vorag nói lớn - Một người không giết được nhiều như thế này đâu.

— Tôi biết chuyện khó tin đấy, nhất là ở chỗ của quý vị. Nhưng chuyện này chắc chắn là chỉ do một người gây nên thôi, một người đến làm một công việc gì mà không gây mối nghi ngờ nào hết, rồi hắn bỏ vi rút bệnh than vào nơi cung cấp nước cho thành phố.

— Lúc nào cũng có người đến mà, ông Morton. Khi mình đã nổi tiếng thì quả thật là một vấn đề khó khăn vì ai cũng muốn đến thăm mình hết.

Khi Morton bắt đầu hỏi lại Vorag, thì một hình ảnh mới hiện lên cả màn hình, có một hàng chữ ghi : "Trường tiểu học Trekfontein". Chiếc camêra cầm tay chuyển qua khỏi tấm bảng hiệu.

— Thưa ông Bộ trưởng, khả năng bể nước thành phố chứa được dung lượng bao nhiêu ? - Vorag nhìn ra phía sau, ông lặp lại câu hỏi rồi quay ra phía màn hình - Họ cho tôi biết bể chứa được hai trăm năm mươi triệu ga lông nước.

Morton gật đầu.

— Những hóa học gia của chúng tôi cho biết chỉ cần nửa ký vi rút thả vào đấy là đủ...

— Chúng tôi tìm thấy hai đứa bé ở cửa ống cống. Ở đấy thật là chỗ lý tưởng - Vorag bỗng ngắt lời ông.

— Có thể hai đứa bé đã thấy ai đấy, cho nên chúng đã bị giết chăng ?

— Chúng tôi đã kiểm soát cả vùng. Không có dấu chân ai cả, ngoài dấu chân của chúng... - Ôi lạy Chúa, nhìn này...

Trên màn hình, hiện ra những thi thể của các em bé trong những phòng giữ mũ áo của nhà trường. Chúng nằm vắt trên bồn nước rửa tay và áp người vào những bồn đi tiểu. Sau một hồi, máy camêra rời khỏi cảnh hãi hùng đó.

— Trường học có trên ba trăm em... - Vorag nói nho nhỏ.

Hình ảnh thay đổi trên màn hình. Camêra lướt nhanh qua một tấm bảng, mang hàng chữ màu vàng: "Trường trung học Trekfontein". Bên kia tấm bảng hiệu của trường, những thi thể học sinh nằm chết, mình mẩy ướt mèm do nước ở vòi dài phun ra. Nhiều vòi dẫn nước nằm chơ vơ trên mặt cỏ từ chân tường của tòa nhà hai tầng.

— Chúng đang tập chữa cháy đấy. Mỗi trường học đều phải tập chữa cháy mỗi tuần một lần sau khi xẩy ra vụ nhân viên của phe chống đối đốt trường học ở Pretoria. Ông còn nhớ chứ ? Năm chục em đã chết.

— Ở đây có bao nhiêu em chết, thưa ông Bộ trưởng ?

Lại một lần nữa, Vorag hỏi một người đứng phía sau. Ông quay lại, môi dưới run run :

— Trên bảy trăm em - Tại sao thế ? Thưa ông Morton ? Nhân danh Chúa, xin hỏi tại sao thế ? - Giọng của Vorag gần như mất bình tĩnh - Mẹ kiếp, chỉ toàn là thiếu niên ! Nam lẫn nữ, không có em nào quá mười sáu tuổi !

— Tôi thông cảm tâm trạng của ông lắm, thưa ông Bộ trưởng - Morton nói nhanh.

Vorag hít một hơi thật dài, ông nín một chốc, rồi từ từ thở ra. — Thật giống cảnh tượng Chúa trừng phạt...

— Không ! - Giọng Morton bỗng gay gắt - Đừng nói như thế nữa. Không có dính dáng gì đến Chúa cả. Chính là tội của Raza đấy. Ông có hiểu không, thưa ông Bộ trưởng ?

— Tôi chỉ hiểu là vì ông ở xa cách đây đến sáu ngàn dặm cho nên ông dễ nói. Ngoài ra ông lại còn là một chiến sĩ...

— ... Và phải chăng vì vô cớ mà nghề lính đã dạy cho tôi căm thù cảnh dã man ? - Morton không để cho ông ta nói hết.

Ông nhìn tiếp màn hình với cảnh chết chóc khủng khiếp mà ông thường thấy. Không có dấu vết gì trên những người này hết. Không giống những nạn nhân trong vụ nổ ở nhà hàng mua bán tại Paris. Ông đã có mặt ở đấy khi họ chuyển những nạn nhân cuối cùng bị banh thây ra xe cứu thương. Ông cũng đã chứng kiến một vụ nổ ở Amsterdam, hai gia đình bị chết hết vì vụ này. Ông đã chứng kiến cả thảy hai mươi lần, mà lần nào ông cũng đau khổ vô cùng. Nhưng ông thấy không cần thiết phải nói cho Vorag biết những điều đó.

Một camêra quay cảnh bệnh viện của thành phố. Cảnh khủng khiếp đầu tiên là hai y tá nằm chết ngay trong tiền sảnh bên cạnh thùng nước ướp lạnh. Vào trong, ở phòng phát thuốc, nhiều y tá nằm chết. Họ đang rót nước vào cốc cho bệnh nhân uống thuốc. Một số bệnh nhân nặng chết ngay trong phòng khám. Nhiều người khác nằm chết trên giường. Trong phòng giải phẫu, cả toán phẫu thuật viên bị chết khi họ đang lau chùi dụng cụ, còn bệnh nhân thì chết ngay trên bàn.

— Cả thảy một trăm giường bệnh... đều có bệnh nhân... bảy mươi nhân viên - Vorag thốt lên nho nhỏ.

Morton nhìn tiếp cảnh hãi hùng tiếp tục hiện ra trên màn hình. Tại rạp chiếu bóng Trekfontein, thây người chất cao trước ngưỡng cửa khi khách xem chen lấn nhau cố thoát. Vorag nói khàn khàn :

— Rạp có một hệ thống điều hòa không khí cổ lỗ dùng nước ở bể nước để làm mát rạp. Ít ra trong rạp cũng có đến hai trăm người.

— Thưa ông Bộ trưởng, còn khách sạn thì sao ?

— Một khách sạn có năm mươi nhân viên đều chết hết.

— Còn khách ở tại đó ?

— Cám ơn Chúa, không có ai hết. Người khách cuối cùng ra đi sớm hơn...

Morton nghi vấn ngay, như con chó đã đánh hơi thấy :— Ông có biết tại sao không ?

Vorag nhìn xuống tấm bảng kẹp giấy tờ để trên đầu gối. — Bảng phân công các nữ bồi phòng ở khách sạn cho thấy một phòng được lau chùi sạch sẽ sau khi khách ra đi.

— Không còn gì nữa à ? Không có chứng tích gì cho thấy khách là đàn ông hay đàn bà à ? Nhân viên của ông có kiểm tra rác rưởi trong phòng không ? Có cái dao cạo râu hay miếng xốp đánh phấn chẳng hạn ? Không có gì như thế hết à ?

— Nhân viên của tôi nói không có gì hết.

— Còn về danh sách đăng ký thì sao ?

Vorag mỉm cười đau khổ. — Một nơi như khách sạn Grand này thì đừng hòng tìm ra những thứ ấy. Nơi đấy làm ăn rất tùy tiện.

Chiếc trực thăng chỉ huy bay đi khỏi rạp chiếu bóng. Trên màn hình xuất hiện hình ảnh những con thú nuôi ở Trekfontein. Rất nhiều chó, mèo, chim ở trong lồng chất đống trên một xe tải.

— Ông phải cho đốt hết đi. Trước hết phải xối dầu hỏa vào đã. Và phải bảo đảm đào hố cho thật sâu - Morton nói - Đốt hết tất cả.

— Ông muốn nói chó mèo...

— Tôi muốn nói đốt hết cả súc vật lẫn người, thưa ông Bộ trưởng. Không có thì giờ để làm lễ an táng đâu. Loại vi rút này gây nguy hiểm cho tính mạng trong vòng hai mươi bốn giờ. Đốt càng nhanh càng tốt. Khi chất đầy một hố rồi, ông phải cho phủ kín rồi rải một lớp dầu Creozot. Phải phủ một lớp tối thiểu dày đến sáu inh.

Morton đợi cho Vorag quay lại ra lệnh cho nhân viên. Những hình ảnh từ Trekfontein cho thấy từng đoàn xe cứu thương, xe cấp cứu nối đuôi nhau đậu bên kia hàng rào cảnh sát, bác sĩ và y tá đứng ngây người, yên lặng. Có người khóc nức nở.

— Còn gì nữa không ? - Vorag quay lưng lại nhìn Morton.

— Cho xe xăng dầu đến bơm xăng vào bể nước. Rồi châm lửa đốt. Đốt cả thành phố luôn. Đốt hết cao ốc đi.

— Trời đất, ông yêu cầu gì mà kỳ vậy ? - Vorag hỏi, giọng khản lại.

— Đúng thế, đây là phương pháp duy nhất ngăn vi rút lan tràn. Tốt hơn là đừng để cho chúng tràn đến Johannesburg.

Vorag từ từ quay lại ra lệnh, rồi một lần nữa từ màn hình ông nhìn ra. Morton nói tiếp:

— Bây giờ hãy trở lại người khách ở khách sạn đi. Có thể ngẫu nhiên hắn đi vào hôm xảy ra việc này. Nhưng tôi không tin như thế , vì Raza thường cho một tên khủng bố hoạt động mà thôi. Như thế giữ được bảo mật hơn cho hắn.

Mặt Vorag lại trở nên giận dữ khi camêra quay cảnh một chiếc xe tải chất đầy xác người đang chạy dọc theo con đường chính của thành phố. Ông ta chồm người tới, đưa một ngón tay lên thách thức :

— Thế giới sẽ tố cáo là chúng tôi diệt chủng đấy nhé ! Họ nên đến đây mà xem cho biết !

Morton từ tốn nói chen vào : — Thưa ông Bộ trưởng, theo tôi thì chúng ta đã chứng kiến cảnh chết chóc đủ rồi. Hãy để tâm theo dõi người khách này đi - Ông ngồi lọt vào giữa chiếc ghế lót nệm, tập trung tư tưởng để trình bày tiếp: - Trekfontein vừa rồi được báo chí đề cập đến nhiều. Cho nên có thể đã có một phóng viên, hay một kẻ giả dạng phóng viên đến đấy. Tôi nhớ trước đây Raza đã từng làm như thế. Như thế sẽ dễ che đậy tung tích. Người ta cho phép họ nói chuyện, và hắn có thể đi đây đi đó thăm viếng chụp hình mà không bị ai nghi ngờ...

— Thưa ông Morton - Vorag lên tiếng. Ông ta quay lại lắng nghe ai đấy đang nói sau lưng ông, ông gật đầu, rồi quay lại nói với Morton - Một nhân viên của tôi đã có mặt tại trạm cảnh sát. Anh ta đã xem bảng trực ban ở đấy. Có một nhiếp ảnh gia có mặt trong thành phố. Một tên Bantu đã ăn trộm cái xách đựng máy ảnh của cô ta. Hắn đã bị bắn chết vì cố chạy trốn. Người ta đã phân vân không biết hắn có định hãm hiếp cô gái khi hắn lấy cái túi xách trong phòng cô ta không !

- Này! Có nhớ được tên của cô ta không ?

— Không.

— Hãy gọi đến các cơ quan báo chí để hỏi xem họ có phái ai đến công tác ở đấy không ?

— Chúng tôi đã làm thế rồi. Chúng tôi cũng đang kiểm tra các phi trường, các đường băng qua biên giới. Nhưng vẫn chưa tìm thấy ai hết.

Morton quá hiểu tâm trạng của Vorag, ông ta muốn hành động ngay. Tìm ra kẻ thù, tiêu diệt kẻ thù mới làm cho ông ta hả dạ. Ông thấy không cần nói cho Vorag biết chắc có lẽ cô nàng đã cao chạy xa bay rồi. Bỗng Morton nhớ đến những gì Cụ Gù và Finel đã nói với ông, rồi thêm với những kinh nghiệm ông từng tìm hiểu về nhân viên của Raza, ông nói :

— Ông phải tìm một người Hy Lạp có giọng nói lịu. Cô ta vào khoảng từ ba mươi lăm đến bốn mươi tuổi. Có lẽ cô ta sẽ đi một mình thôi. Nếu đi máy bay, cô ta sẽ đi hạng nhất hay hạng đặc biệt. Nếu đi xe hơi, cô ta sẽ đi loại có tốc độ nhanh và đắt tiền.

— Tại sao ông biết rõ những chuyện này ? - Ông Bộ trưởng nghi ngại hỏi.

— Nghề của tôi, tôi phải biết chứ, thưa ông Bộ trưởng.

— Bất cứ khi nào ông muốn...

Morton cắt âm thanh trên màn hình của Vorag đi khi ông thấy máy giám sát ở tít đàng xa kêu bíp bíp. Mặt Danny hiện ra.

— Chúng tôi chặn được ba tin trong vòng mấy phút vừa rồi. Một phụ nữ. Cụ Gù cho bết giọng cô ta không giống giọng trên cuộn băng đưa ra yêu sách. Nhân viên của tôi đoán lời gọi xuất phát từ đâu đó quanh đường xích đạo. Có lẽ Nairobi. Nó gọi đến số của Raza ở Beirut.

— Nó nói cái gì ?

— Như thế này đây : "Nước đã được hòa nước hoa rồi". Danny dừng lại một chút, rồi nói tiếp. — Cuộc gọi lần hai quan trọng hơn. Cũng lại giọng phụ nữ, chính thức tuyên bố thắng lợi ở Trekfontein...

— Cho tôi nghe lời tuyên bố chính thức đi.

Danny bèn đọc :

"Nhân danh Raza, người Chiến sĩ Bảo vệ tự do, yêu cầu tất cả kẻ ngoại đạo hãy ghi nhớ cho kỹ những điều sau đây. Các người đã được cảnh cáo rằng nếu các người không đáp ứng đầy đủ tất cả những yêu cầu đã nêu ra nhân danh những kẻ bị áp bức của Hồi giáo, thì các người sẽ thấy nhiều bằng chứng hơn nữa về khả năng tiêu diệt các người của chúng tôi. Một chiến sĩ Biệt kích của chúng tôi đã thực hiện việc này rồi. Bọn phân biệt chủng tộc ở Trekfontein đã được chọn làm mục tiêu để thực hiện lời cảnh cáo này. Các người hãy tin rằng Raza có đủ vi rút bệnh than B.c để tiêu diệt bất kỳ thành phố quỷ quái nào của các người. Chúng tôi sẽ không ngần ngại thực hiện công việc này trừ phi những yêu cầu của chúng tôi được đáp ứng thỏa đáng đúng giờ. Bây giờ chúng tôi để cho các người sáu ngày nữa”.

Danny nhìn lên. — Thế đấy. Thật là đồ vô lại. Tin này vẫn còn giữ kín.

Morton cảm thấy lạnh cả người. Ông đã biết trước việc sẽ xảy ra như thế này mà. — Còn tin chặn được thứ ba ?

Danny nhìn vào một tờ giấy khác ở trong tay.

— Cũng lại giọng phụ nữ, nhưng không phải con kia. Giọng nghe trẻ hơn. Cụ Gù cho biết nó cũng là người Hy Lạp. Nhân viên của tôi cho là lời gọi ở nơi cách Beirut khoảng năm trăm dặm...

— Đọc cho tôi nghe đi, Danny.

— Tôi đọc đây. "Đấng chí tôn đã đem người em gái của Nàng Hương về với Ngài". Chỉ có thế.

— Cám ơn Danny. Gửi cho tôi mấy bản sao nguyên bản nhé.

Morton bấm nút và màn hình biến mất. Ông nhìn những hình ảnh mới nhất ở Trekfontein một lát, những chiếc máy xúc đất đang đào cái mồ tập thể đầu tiên. Ông quay qua nói với Vorag :

— Con ấy đã trốn được về nhà rồi, thưa ông Bộ trưởng. Theo chúng tôi thì nó đến tận Nairobi, như thế là nó đi máy bay về. Nếu nhân viên của Ngài gài ở phi trường có phát hiện ra ai có dáng gần sự miêu tả của tôi, thì ngài cho tôi biết.

Morton cúp máy khỏi cảnh ở Nam Phi. Một lát sau, những bản sao nguyên tác đã được fax đến cho ông. Ông xé ra xem. Rồi ông với tay nhấc điện thoại gọi cho Karshov.

— Thưa Thủ tướng, tôi mới có cảm giác là Raza đang gặp phải chuyện khó khăn.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
601,786
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 14


Người dịch: Văn Hòa - Kim Thùy

Nhà xuất bản: NXB Thanh Niên

Shared by: CCG -

Mặc dù đã nhiều lần chứng kiến tính tình của Raza thay đổi đột ngột, nhưng Nadine vẫn thấy kinh ngạc một cách lạ lùng trước thái độ này của hắn.

Chuyên này đã xảy ra vào lúc trời còn tờ mờ sáng, vào lúc sương giá đang còn lấp lánh trên mặt cát ở bên ngoài cửa sổ như những cục nước đá vụn trong cái xô ngâm rượu sâm banh để trên nền nhà, bên cạnh giường ngủ của họ.

Sau khi nghe Faruk Kadumi từ Luân Đôn điện thoại về báo tin những vụ đánh bom khách sạn, Raza đã mở chai rượu ăn mừng. Sau khi uống xong, hắn bèn làm tình với chị. Nadine cảm thấy mỗi lần như thế chị đều sung sướng hơn lần trước.

Nhưng hai người đã bị một cú điện thoại khác ở Paris làm gián đoạn, báo cáo về những vụ đánh bom ở đấy, rồi sau đó là điện thoại từ Hoa Kỳ báo cáo về. Chị đã nhận ra được giọng nói của anh chàng này. Đó là Rachid Harmoos, nhà triệu phú Ả Rập, đã tung tiền ra cho Raza để hắn lo lót chạy chọt cho những tên trùm buôn ma túy ở Columbia. Raza đã đưa cho chị xem những tấm ảnh chụp cảnh ngôi biệt thự của Rachid ở vùng quê tiểu bang Connecticut. Ngôi nhà tọa lạc gần một chỗ có cái tên xinh đẹp : Mỹ Sơn. Raza đã hứa một ngày nào đó họ sẽ sống ở một vùng phụ cận như thế. Thỉnh thoảng hắn cũng lãng mạn lắm chứ !

Sau cùng thì Lila gọi về. Sau đó, Raza đứng dạng chân trên người Nadine, người hắn lờ mờ lấp lánh trong ánh sao từ cửa sổ rọi vào. Trông hắn như được đúc bằng đồng đen vì chị đã bôi lên người hắn một lớp sáp bóng nhẫy. Thế rồi hắn gia tăng nhịp độ làm tình khiến chị quằn quại, rên khóc, khiến chị ao ước cứ mãi mãi như thế này.

Thế rồi đến cuộc gọi từ Beirut tới. Nadine thấy hắn tỏ vẻ kinh ngạc khi điện thoại bên giường reo vang. Hắn có mong ai gọi đâu. Khi Raza nhấc điện thoại lên nghe, mặt hắn đã căng thẳng rồi. Nghe xong, hắn không hỏi han gì hết mà chỉ dằn máy điện thoại xuống giá thật mạnh đến nỗi làm vỡ cái giá luôn.

Raza vẫn còn chồm người trên chị, ánh mắt tươi vui hoan lạc đã biến mất, mà thay vào đấy là nét cuồng loạn rợn người.

— Có việc gì vậy ? - Chị hỏi nho nhỏ.

Hắn tảng lờ như không nghe.

— Nói cho em biết đi ! - Chị năn nỉ hắn.

Lỗ mũi hắn bắt đầu phồng lên, hơi thở hổn hển.

— Hãy cho em biết đi - Chị đưa hai tay ôm lấy người hắn.

Hành động của chị làm cho hắn điên lên. Raza đẩy chị ra rồi vùng đứng dậy, chửi thề. Hắn chụp chai rượu trong xô nước đá quăng ngang phòng. Chai rượu đập vào bức họa cảnh dân chăn cừu Bedouin trong thung lũng ở Li Băng. Chị đã mua bức tranh này cho hắn trong chuyến chị đến Beirut vừa rồi.

— Chuyện gì xảy ra thế ? - Nadine lại hỏi nho nhỏ. Chị sợ khiếp lên rồi, nhưng chị cần phải biết. Thấy chị sợ, hắn càng giận dữ thêm.

Raza quay lại nhìn chị, hắn luôn mồm chửi thề. Hắn gần như nói sảng. Chị chưa bao giờ thấy hắn điên lên như thế. Chị thấy mình không nên rời khỏi hắn. Rời hắn có thể khiến cho hắn nổi điên lên thêm nữa. Hắn vẫn nói như điên. Chốc chốc mệt quá, hắn yên lặng, hắn chỉ lờ mờ thấy chị.

Nadine lại thử một lần nữa : — Nói cho em nghe đi, em có giúp gì được cho anh không ?

Cặp mắt hắn như điên loạn, chị lại càng sợ, không phải sợ cho chị, mà là sợ cho hắn.

— Con ấy ! - Hắn rú lên - Con ấy chết rồi !

— Con nào ? - Chị hỏi, vừa quấn cái chăn quanh người, chị run lên, không phải vì lạnh mà vì giọng hắn quá dữ dằn.

— Cái con Hy Lạp chứ con nào ! - Raza gầm lên. Hắn chụp cái xô nước đá, ném tung ra cửa sổ phòng ngủ, làm vỡ toang cả khung cửa kính.

Có tiếng chân người chạy ở bên ngoài, và lính gác gọi nhau ơi ới. Khi thấy Raza đứng nơi cửa sổ, họ bèn quay lui. Hắn vẫn đứng đấy, miệng lải nhải chửi bới.

Nadine vẫn ngồi im thin thít, đợi cho cơn giận của hắn qua đi. Một cơn điên cuồng như thế không bao giờ kéo dài lâu. Thường thì hắn sẽ tỉnh táo lại, rồi hắn tảng lờ đi, làm như là không có gì xảy ra. Và vì chị yêu hắn, cho nên chị cố chịu đựng.

Sau một hồi lâu, hắn bắt đầu bình tĩnh lại, hắn nói năng đã rõ ràng và nét mặt hết nhăn nhó kỳ dị. Khi ấy chị mới dám hỏi lại xem chuyện gì đã xảy ra. Raza quay đi khỏi cửa sổ.

— Một cô gái anh phái đi Athens đã chết - Giọng hắn nghe run run trong hơi lạnh ùa qua khung cửa sổ vỡ.

— Em giúp gì được không ?

Hắn bước về phía chị, miệng mấp máy. Chị ngồi yên không nhúc nhích, chỉ chăm chú nhìn hắn một cách trìu mến. Hẳn rảo bước từ cửa sổ cho đến cửa lớn, rồi quay lại. Thỉnh thoảng hắn lại nhìn chị, nhưng không có ý đến gần. Bỗng hắn bước đến cái rađiô ở trên bàn, gần bên giường. Hắn dò tìm băng tầng, dừng lại mỗi băng để lắng nghe một chốc rồi chuyển qua đài mới.

— Tìm cho anh đài Hy Lạp - Raza ra lệnh cho Nadine. Hắn tiếp tục đi lại.

Chị bước ra khỏi giường, vẫn giữ chặt tấm chăn quanh người, cố dò sóng trên rađiô. Trong góc buồng ngủ, máy fax bỗng hoạt động. Raza chạy đến, đọc những hàng chữ trên tờ giấy vừa bung ra.

— Cô gái lớn tuổi, cô Zalda, đã chết. Bị giết trong lúc đang trinh sát. Bị chết cháy !

Lần này thì hắn nói năng thiếu mạch lạc, nhưng không đến nỗi điên loạn. Hắn chửi bới thô lỗ thêm một hồi lâu nữa. Đài phát thanh Athens phát ra bản tin mới nhất tường thuật lại rằng một chiếc xe tải chở xăng dầu đã vô ý để bắt lửa tại trung tâm thành phố, đã phát nổ, ngọn lửa bùng lên phủ ngập ít ra cũng hai chục người. Raza không nghe tiếp nữa, hắn quay lại nhìn máy fax, hai tay run lẩy bẩy.

— Nó mang theo hầu hết các chai ! Con đĩ ngựa ấy đã mang theo các chai bên người ! Tất cả mất sạch ! Tất cả bị hủy hết ! Chỉ vì con đĩ ngựa ấy thôi !

Raza đứng ở cửa sổ, không nghĩ gì đến trời lạnh, không thiết đến cái gì hết mà chỉ thấy cảnh tai họa đang đến trước mặt mà thôi. Người hắn toát mồ hôi lạnh. Hắn nắm chặt hai bàn tay cho khỏi run. Hắn không đứng yên một chỗ được nữa, mà nhấc chân này đổi chân khác liên tục. Tâm trí hắn hoang mang không thốt nên lời được.

Những năm tháng dài chuẩn bị, bây giờ tiêu tan ! Bao nhiêu mơ ước nay thành số không! Ta phải nói ra sao với Muzwaz đây ! Chính cái con đĩ ngựa ấy đã phá hỏng hết ư ? Làm sao có thể thuyết phục lại ông ta được ? Làm sao thiên hạ tin mình được khi mình tuyên bố mình sẽ thay đổi thế giới ? Hắn không biết mình đã đứng như thế bao lâu cho đến khi nghe Nadine hỏi hắn cái gì đấy.

— Họ có nói còn lại bao nhiêu chai không ? - Chị hỏi.

— Còn gì nữa đâu ? Tất cả đều bị thiêu hủy. Vũ khí mạnh nhất đã tiêu ra tro trong đống lửa rồi. Đáng ra con đĩ ngựa ấy đừng đến gần đó mới phải chứ.

Raza quay lại nhìn Nadine. Hắn nhìn tờ giấy. Rồi lại nhìn chị. — Năm chai ! Đúng là năm chai! Tất cả đều ra tro ! - Hắn nói nho nhỏ.

Chị cố giữ giọng bình tĩnh : — Tất cả vẫn còn.

Hắn bước đến bên chị : — Cô nói sao ? Cô không hiểu hả ? Đồ ngốc...

Nadine vội nói : — Chúng sẽ không bao giờ biết anh chỉ còn có năm chai. Mà anh đã nói chỉ cần một chai thôi là đủ giết nhiều ngàn người. Với năm chai, anh phóng ra năm trăm chai, năm ngàn chai. Chắc là chúng sẽ tin anh ! Chúng sẽ khiếp vía lên ! Anh có thể bịp chúng...

Nadine ngập ngừng rồi im lặng. Nét mặt hắn không biến sắc. Chị đã thấy nhiều người không dám nói năng khi trông thấy nét mặt hắn như thế.

— Xin lỗi anh. Em không muốn khuyên anh làm gì - Chị cuốn chặt cái chăn quanh người như để che chở - Xin lỗi, em không muốn...

— Không ! - Raza gầm lên, hắn bước đến gần hơn. Giọng hắn vang bên tai chị - Không! Cô nói đúng !

Rồi hắn cười vang. Chị đã từng thấy hắn như thế này rồi. Khi cơn giận đã qua, hắn thường cười như thế.

Chị mở to mắt nhìn hắn, lòng hân hoan. Chị thấy cần phải nói hay làm cái gì hơn nữa. Chị phải suy nghĩ giúp hắn. Hai người đứng nhìn nhau một hồi, không nói năng gì. Rồi khi Raza rảo bước trở lại, hắn đã bình tĩnh. Giọng hắn đã gần như bình thường.

— Chắc là phải thế. Thằng phục quốc Do Thái Morton đã tính toán số lượng vi rút bệnh than B.c. Chắc hắn biết ta chỉ mới dùng một lượng rất ít để giết cái bọn phân biệt chủng tộc kia. Hắn thế nào cũng lo ta có thể giết dân của hắn trong bất kỳ thành phố lớn nào của bọn Do Thái.

Hắn quay lại cười với Nadine.

— Em nói đúng đấy. Không có gì làm cho Morton nghĩ khác đi được. Những cái chai chắc đã bay hơi theo cái con Hy Lạp ấy rồi. Còn năm chai ở con kia chắc sẽ được việc ! - Hắn bước đến nắm chắc hai vai Nadine. Hắn nhìn chị, nói nho nhỏ : — Chắc phải làm thế thôi !

Chị nhón người lên, hôn nhẹ vào môi hắn. Chị dịu dàng nói : — Nhưng anh cũng cần phải thay chỗ của cô Hy Lạp ấy.

Raza nhíu mày nhìn chị. Hắn lại rảo bước, vừa nói to lên, nhắc nhở chị tiếp tục công việc.

Khi Lila đã làm xong nhiệm vụ ở Athens, cô ấy phải đi tìm gặp Rachid. Giọng hắn trên điện thoại nghe căng lắm. Có lẽ hắn lo những việc này sẽ ảnh hưởng đến công việc của hắn. Lila biết cách để nhắc hắn nhớ đến nhiệm vụ của mình. Bây giờ chỉ còn một ít chai thôi, chuyện này thật hết sức quan trọng.

— Để em đi Athens cho ! - Nadine mạnh dạn nói.

Raza nhìn thẳng vào mặt chị. — Em đi à ?

Nadine bỗng cảm thấy lo sợ, bất an.

— Em đi à ? - Hắn lại hỏi. Lại một lần nữa chị làm cho hắn ngạc nhiên.

— Vâng ! Chắc anh sẽ cần người. Nếu anh cần hai người thì bây giờ anh vẫn còn cần. Để em đi cho !

Điện thoại bên phòng làm việc nằm bên cạnh phòng ngủ reo vang. Rất ít người biết số này. Chỉ có kẻ nào dám gọi vào giờ này mới biết số ấy. Raza chạy vào văn phòng, nhấc điện thoại lên.

Giọng nói của Ayatollah Muzwaz vang lên như mọi khi. — Salaam Alaikum.

— Salaam Alaikum - Hắn đáp lại.

Vị tu sĩ nói : — Chúng tôi đã nghe được tin tức rồi. Tôi báo cho anh biết tôi đã gặp phải lắm khó khăn với một số đồng sự cho rằng anh đã bất tuân lệnh họ khi anh dùng vi rút mà không có lệnh cấp trên.

Raza cảm thấy mồ hôi thấm ướt cả người,

— Thưa Ngài chí kính, hành động như thế là điều quan trọng cần phải thi hành ngay. Giết bọn heo phân biệt chủng tộc ấy là việc làm cả hai chúng ta đều thấy rất cần. Xin ngài thưa lại với những vị chí kính khác, tôi không dám bất tuân lệnh của quý ngài. Tôi chỉ muốn chứng tỏ cho quý ngài thấy tôi rất xứng đáng với lòng tin cậy của quý ngài về việc tất cả chúng ta đều mong muốn... đó là ngày tận thế của bọn ngoại đạo kia.

Vị lãnh đạo Hồi giáo cười khục khục trong cổ.

— Anh nói năng như một vị tu sĩ thực thụ ! Hãy bình tĩnh đi. Tôi đã nói với các đồng sự của tôi rằng anh hành động rất giỏi. Chúng tôi sẽ ban ân cho những kẻ anh đã lấy mạng sống. Chắc là đấng chí tôn sẽ dìu dắt họ đến chỗ an lành.

— Họ sẽ được hưởng niềm an lạc trong thế giới của ngài, thưa Đấng chí kính - Raza nói đều đều như một vị tu sĩ Hồi giáo đã thoát tục đang tụng niệm.

Ngay khi ấy, những tên đánh bom đã đến trong một trang trại của giới buôn lậu ma túy Madellin ở Columbia. Chúng sẽ ở tại đấy cho đến khi cuộc truy lùng quốc tế đã xẹp xuống.

Giọng nói đều đều lại tiếp tục : — Người Mỹ đã treo giải một triệu đô la cho ai bắt được họ. Cũng giống người Anh, người Mỹ đã tung ra một lực lượng săn lùng không giống những người khác. Đài BBC và Đài Tiếng nói Hoa Kỳ thông báo rằng bất kỳ cảnh sát viên nào có năng lực đều được đưa vào lực lượng này. Gián điệp rải khắp nơi. Lực lượng quân sự của chúng đều ở trong tình trạng báo động.

— Chỉ để trình diễn thôi - Raza tin tưởng nói - Đây chỉ là đòn để trấn an quần chúngvif bọn chúng không có bụng dạ nào để chiến đấu hết. Chúng ta đã thấy rõ khi chúng đánh nhau với người anh em của chúng ta, đồng chí Saddam đấy. Bây giờ thì chúng lại không muốn chiến tranh chút nào hết.

Bỗng giọng của lão già trở nên gay gắt. — Chúng tôi đã nghe đài phát thanh của bọn Do Thái. Đài ấy nói rằng bọn phục quốc Do Thái vẫn cương quyết tiếp tục chiến tranh, và chúng vẫn giữ tình trạng báo động.

— Rồi chúng sẽ phải sợ thôi, thưa Đấng chí kính !

— Đừng đánh giá sai chúng - Câu trả lời gay gắt - Chúng tôi cũng đã nghe người của chúng ta ở Paris cho biết rằng bọn Đại quỷ đã họp bàn thảo với nhau rồi. Chúng đã bằng lòng giao hết trách nhiệm cho bọn Do Thái, cho thằng Morton đấy.

Raza cố dằn cơn giận lại.

— Thưa Ngài chí kính, xin ngài nhớ lại cho là tôi đã tiên đoán điều này rồi. Bao giờ chúng cũng sẽ dùng thằng Do Thái này để làm việc cho chúng. Nhưng vẫn không thay đổi được gì đâu. Cả tình trạng báo động lẫn Morton vẫn không thể che chở cho chúng được. Xin ngài cứ tin ở tôi.

— Chúng tôi rất mừng khi nghe anh nói thế - Im lặng một lát, rồi giọng nói gay gắt lại cất lên - Bọn quỷ Pháp có vẻ lơ là hơn. Chúng thường cố dùng tiền dể mua hòa bình. Chúng ta không cần đồng Franc của chúng nữa. Việc này chắc sẽ làm cho chúng bực tức lên đấy. Anh lợi dụng ngay điều này đi.

— Tôi hoàn toàn ghi nhận lời dạy của Ngài, thưa Đấng chí kính.

— Tiếp tục theo dõi chúng và chúng tôi hy vọng sẽ được hài lòng về anh.

Cuộc nói chuyện chấm dứt. Không ai dám làm thế ngoại trừ ông già ở Teheran này. Nhưng khi công việc đã xong rồi, khi mọi người đều biết ai là kẻ đã mang lại vinh quang, thì hắn cũng sẽ được nể vì như ai. Cả thế giới sẽ nể vì hắn.

Raza tiếp tục suy nghĩ. Hắn vui mừng vì thấy nước Pháp suy yếu. Cuộn băng tiếp theo mà Al Najaf sẽ cho phát đi có nội dung yêu cầu nước Pháp thả ngay tức khắc ba mươi hai cảm tử quân mà họ đang giam giữ. Và khi nước Pháp đã làm theo, thế là bắt đầu được việc rồi, viên đá sẽ làm sụp lở cả một trái núi, làm vỡ tình đoàn kết của bọn Đại quỷ. Thế là bọn phục quốc Do Thái sẽ đơn độc, Morton sẽ suy yếu. Bọn chúng sẽ phải thương lượng thôi. Thù xưa sẽ được rửa.

Khi Raza trở lại phòng ngủ, ngoài cửa có tiếng gõ nhè nhẹ.

— Chúng tôi đã sẵn sàng rồi - Một giọng nói kính cẩn cất lên.

Nadine đã ra đứng ở vị trí với toàn thể nhân viên trong trại. Ra ngoài, hắn không phân biệt chị với những người khác. Tất cả bọn họ đều là công cụ của hắn, đều được hắn sử dụng hợp theo ý đồ của hắn. Nhưng hắn không quyết định được là có nên đưa chị đi Athens hay không.

Raza mặc vội áo quần rồi bước ra khỏi phòng ngủ, không để ý đến chương trình phát thanh của đài Athens còn tiếp tục miêu tả tai nạn có cơ phá hỏng kế hoạch của hắn.

Hắn bước ra khỏi tòa nhà, trời đã tờ mờ sáng. Hắn đứng yên một lát, nhìn khắp cả khu vực. Từng hàng tân binh đứng im phăng phắc trước một khán đài. Mỗi bên khán đài là nhân viên huấn luyện thường trực của trại, lính gác và tài xế. Nadine đứng trong số họ, nhìn thẳng về phía trước. Bên cạnh chị là một cái bàn có máy cátxét ở trên.

Hắn bước từ từ qua sân trại, suy nghĩ mãi về lời đề nghị của chị. Chị đã nói như một nhà cách mạng thực sự, sẵn sàng dấn thân vào cảnh chông gai. Nhưng chị làm được không ? Raza chưa quyết được, hắn dừng lại trước khán đài.

Hắn nhìn ánh sáng màu hồng nhạt đang dần dần phả hơi ấm lên mọi vật chung quanh. Ánh nắng rọi lên cái ngai đóng sơ sài kê ở giữa bệ, khiến cho khung cảnh trở nên uy nghi, và cảnh uy nghi này đã khiến cho mọi người phải đưa mắt nhìn đến một người đàn ông đang đứng cách khán đài một đoạn ngắn.

Y ăn mặc và đội mũ như một Giám mục Giáo hội Thiên Chúa Giáo La Mã. Chiếc áo dài làm nổi rõ vóc dáng to lớn của y. Cặp mắt láo liên nhìn quanh với vẻ sợ sệt. Bên cạnh y, là một hàng người mặc áo quần linh mục màu đen. Họ chắp hai tay, đầu cúi xuống như đang cầu nguyện. Y quay lại nhìn Raza với vẻ cầu khẩn.

— Xin ngài cho tôi giải thích đã - Giọng y nghe nhẹ nhàng, ngân nga một cách lạ lùng.

Raza vờ như không nghe. Một tuần trước đây, gã đã có ý đồ lừa đảo một cuộc mua bán vũ khí ở Damacus. Raza đã ra lệnh cho y bay về ngay.

Y liếm môi rồi nói : — Tại sao ngài lại bắt tôi ăn mặc như thế này ? Thế này là xúc phạm đến đức tin của tôi mà, ngài biết không ?

Raza quay lại nhìn vào khuôn mặt bự thịt tai tái của gã đàn ông, ánh mặt trời ban mai chưa đủ sức làm cho mặt y thêm chút màu sắc nào. Y bỗng quỳ xuống đất van xin. Tên cảm tử quân đứng bên cạnh phải xốc nách y lên, y bật khóc, rồi cứ thút thít mãi, mặt giàn giụa nước mắt.

— Im lặng ! - Giọng ra lệnh của Raza vang lên như phát súng. Raza quay lại nhìn hàng quân.

— Cuộc chiến đấu của chúng ta đã bắt đầu - Hắn nói to như thét - Trong đêm vừa qua, những đồng chí của chúng ta đã mở màn cuộc chiến rồi.

Hắn nói cho tất cả nghe vụ đánh bom khách sạn và vụ rải độc ở Trekfontein. Khi hắn nói xong, giọng la hét quen thuộc lại vang lên. Hắn để cho họ la hét ; để cho họ bày tỏ niềm vui trước mỗi chiến công là điều rất quan trọng.

— Tạ ơn Đấng Ala ! Hãy tiêu diệt hết kẻ thù !

Khi thấy họ đã hoan hô quá sức rồi, hắn đưa tay lên. Tất cả đều im lặng tức khắc. Hắn nhìn vào Nadine. Đôi mắt chị sáng lên vì kiêu hãnh.

— Kẻ thù của chúng ta tin tưởng rằng đức tin của chúng mạnh hơn đức tin của các bạn ! - Raza nói tiếp - Chúng có nhiều tu sĩ, nhưng không có tên nào lại ác độc hơn tên Hồng Y ở Li Băng hết ! Tôi ghét tất cả những kẻ nào tin tưởng vào hắn ! Hơn ai hết, hắn là kẻ thù của các bạn !

Tiếng reo lại vang dậy khắp nơi. — Tạ ơn Đấng Ala ! Hãy giết hết kẻ thù !

Raza lại ra dấu cho họ yên lặng. Hắn quay lại phía một người đàn ông, rồi gật đầu. Tên cảm tử quân vừa lôi vừa đẩy anh chàng ăn mặc như vị giám mục bước mấy bậc cấp lên bệ khán đài, hắn đánh đập y không thương tiếc khi y cố ý trì lại. Họ đẩy y đến chiếc ngai tạm thời rồi trói hai tay y vào hai tay ghế dựa, trói hai chân y vào hai chân ghế. Rồi chúng bỏ đi.

Mặt trời đã lên cao, chiếu ánh nắng vào bộ áo mũ giám mục của y. Raza gật đầu ra hiệu cho Nadine. Chị ấn nút máy cátxét. Tiếng đám đông đồng thanh ca hát vang lên. Al Najaf đã thu băng cảnh đám đông tụ tập dự lễ vào chiều thứ tư thường lệ của Đức Giáo Hoàng tại Quảng trường St. Peter ở La Mã.

Gã đàn ông càng trở nên khiếp hãi hơn.

Hàng người mặc áo thày tu đứng thẳng người lên. Hai tay chắp lại trong ống tay áo chùng thâm, người đầu tiên bước đến chiếc bệ. Tiếng hát của đám lính mới vang to át hẳn cả tiếng ca hát trong cuộn băng. Người mặc áo linh mục dừng lại trước mặt gã đàn ông đang quằn quại khóc than, hắn kính cẩn quỳ xuống rồi bước đi. Gã đàn ông vùng vẫy quá lâu nên đã mệt mỏi, đành phải ngồi yên tấm tức khóc.

Giọng của Raza cất cao lên át hẳn tất cả.

— Kẻ thù của chúng ta phải đau khổ như chúng ta đã từng đau khổ! Chúng phải đói rách như chúng đã gây nên cho chúng ta! Chúng phải nếm mùi sắt lửa của chúng ta như chúng ta đã nếm của chúng. Chúng phải run lên khiếp sợ như chúng đã gây cho chúng ta!

Một bóng người mặc áo tu sĩ khác tiến lên, kính cẩn quỳ xuống rồi bước đi. Tiếng ca hát lại vang dậy như sấm.

Một lần nữa giọng của Raza át hẳn tiếng hát :

— Hãy giải phóng đất nước chúng ta ! Hãy giết hết kẻ thù của chúng ta ! Nhân danh Đấng Ala, chúng ta đòi hỏi được như thế !

Những vị tu sĩ Hồi giáo luôn luôn thường lên tiếng hứa hẹn sẽ giải phóng được đất nước. Raza nhìn một bóng người mặc áo thầy tu thứ ba cúi người xuống khi hắn đi qua khán đài. Ở La Mã, nghi thức khai mạc buổi lễ chắc đạt được đỉnh cao tại Quảng trường St. Peter khi từng vị linh mục tiến lên nhận phép lành, đi ngang trước mặt Đức Giáo Hoàng và các Đức Hồng y đang tụ tập quanh khán đài.

Cả đám đông nam nữ giận dữ la hét vang trời dậy đất quanh Raza đã làm cho hắn phấn chấn lên.

— Đừng sợ chết ! Chết sẽ được lên Thiên đàng !

Hắn không tin thế. Hắn đã từng sợ chết rồi, hắn không nhớ khi nào, nhưng hắn đã có lần sợ chết. Không ai biết việc này của hắn.

Một tên mặc áo thầy tu khác kính cẩn quỳ xuống rồi bỏ đi. Đám đông reo hò điên cuồng. Raza thấy thái độ của họ dễ làm cho hắn kích động họ lên. Họ sẽ chết vì hắn, giống như cái anh chàng đang đi đến gần khán đài kia. Gã đi như những người khác đã đi trước gã, mắt chỉ nhìn vào con người trên bệ đang quá sợ hãi gần như điên cuồng lên rồi.

Nadine cảm thấy cả người run lên, từng làn da từng sợi tóc rờn rợn. Chị đã thấy cặp mắt của gã đàn ông đó. Tất cả những người của Raza đã từng sát nhân đều có nét mặt như thế.

Raza đã tính toán thời điểm để lên tiếng rất tài tình. — Chỉ có một vị Chúa đích thực mà thôi và Muhammad là sứ giả của Ngài...

Hắn dừng lại nhìn về phía vị đại diện cho tập đoàn tu sĩ Hồi giáo ở trong trại. Vị tu sĩ Hồi giáo có khuôn mặt rắn rỏi đang yên lặng đứng một bên khán đài.

— ... và vị lãnh đạo Hồi giáo Muzwaz là người lãnh đạo đích thực trên trái đất này, là người vĩ đại hơn những vị khác.

Nadine thấy vị tu sĩ gật đầu, thấy Raza đưa tay ra hiệu cho đám lính mới im lặng, thấy anh chàng mặc áo linh mục kính cẩn quỳ xuống, thấy cái miệng của gã đàn ông mập mở ra hét thật lớn. Nhưng chị không thấy anh chàng hành quyết đã rút súng trong áo chùng thâm ra nhanh như chớp, bắn liền bốn phát.

Nadine chỉ thấy cái mũ Giáo chủ trên đầu gã đàn ông và những mảnh sọ bay tung lên không, ánh mặt trời chiếu sáng những tia máu. Khi bắn xong, máu vẫn tiếp tục phun ra như một vòi nước.

Tên hành quyết nghiêng đầu chào Raza, ra dấu thế là xong. Trong cảnh im lặng nặng nề, Raza chỉ nói bình thường cho tất cả mọi người nghe :

— Tôi đã tuyên chiến với kẻ thù.

Hắn quay lại với tên hành quyết. — Làm lễ truy điệu cho hắn, để hắn sớm về La Mã giết kẻ thù của chúng ta. Rồi tên hắn sẽ được ghi công khắp các đền thờ Hồi Giáo.

Môt hồi reo lớn khác vang lên khắp đám lính mới : — Tạ ơn Đấng Ala ! Hãy giết hết kẻ thù đi !

Ra lệnh cho đám lính mới giải tán, Raza bước nhanh về văn phòng để gọi Al Najaf, báo cho hắn biết buổi tổng duyệt ám sát Đức Hồng y đã tiến hành hoàn hảo.

Khi về đến phòng làm việc, hắn xem đồng hồ rồi thở dài. Al Najaf chắc đang ra ngoài tập chạy bộ buổi sáng rồi. Raza ngồi ở bàn, mải miết suy nghĩ xem có nên phái Nadine đi Athens không.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
601,786
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 15


Người dịch: Văn Hòa - Kim Thùy

Nhà xuất bản: NXB Thanh Niên

Shared by: CCG -

Vừa cuồng tín lại vừa là một thành viên trung thành của phong trào khủng bố, Mahamoud Al Najaf lo chuẩn bị kế hoạch để ám sát Đức Hồng y ở Li Băng.

Trong căn phòng nhìn ra quảng trường trải dài nằm sau điện Pantheon tại thành phố La Mã, hắn cẩn thận sửa soạn tấm thảm cầu nguyện hướng về phía Mecca. Cởi đôi giày được hắn thuê thợ đóng đặc biệt ra, đôi giày hắn rất quý trong cuộc sống đạm bạc của hắn, hắn quỳ xuống và cúi người lạy ba lần, mỗi lần hắn đều để cho trán chạm đất. Hắn bắt chước cha hắn trong cách cầu nguyện, giọng cầu nguyện trầm nhưng rõ ràng, mạnh mẽ.

— Lạy Đấng Ala, vị chúa tể trần gian, vị Đại trí Đại từ, vị Pháp quan tối cao phán xét cuối cùng, xin Ngài chứng giám cho lòng thành của kẻ tôi tớ Ngài. Chúng con chỉ thờ phượng Ngài. Chúng con chỉ xin Ngài giúp đỡ. Xin Ngài chỉ cho chúng con con đường giải thoát.

Hắn trích lời đọc trong bộ kinh "Ummul Quran", Bản Thể của kinh Koran, những lời cầu nguyện thiêng liêng nhất mà kẻ ngoại đạo Hồng y ở Li Băng kia đã dám gọi là lời nguyện cầu Chúa của dân Hồi giáo. Thằng cha quỷ sứ kia đã nói như vậy trong lời kêu gọi liên minh tôn giáo của hắn.

Khi Al Najaf đã đọc xong bảy câu thơ, hắn dừng lại. Bằng giọng thật trầm, hắn cầu nguyện tiếp :

— Nhân danh Đấng Ala. Bậc Đại Nhân, Đại Từ. Alif, Cam, Mim.

Một lần nữa hắn dừng lại sau khi đã đọc ra ba chữ trong mẫu tự Ả Rập có ý nghĩa biểu lộ sức mạnh thần bí ấy. Thế rồi hắn tuôn ra một hơi :

— "Xin Ngài hướng dẫn bàn tay kẻ tôi tớ của Ngài để bàn tay quý giá của Ngài bịt mõm kẻ thù của Ngài khỏi phát ngôn độc địa cố làm dơ bẩn sự thanh khiết của Ngài".

Al Najaf nằm sấp một hồi lâu, nhắm hai mắt, trong đầu nhớ lại cảnh đi hành hương của hắn đến thánh địa Mecca, hắn đã quỳ với hàng triệu người khác truớc Thánh thất, đã nguyền rằng thà chết chứ không chịu để cho quyền năng của Ngài suy giảm. Khi hắn cầu nguyện ở đấy, hắn đã cảm thấy chắc chắn Đấng Ala đang nghe lời hắn, như các vị tu sĩ Hồi giáo đã hứa chắc chắn như vậy.

Bây giờ, khi hắn nặng nề đứng dậy và cuốn tấm thảm cầu nguyện lại, hắn lại càng tin chắc như thế. Đấng Ala đã muốn tên ngoại đạo Hồng Y kia phải chết. Đúng là sự trừng phạt mà kinh Koran đã nói đến.

Al Najaf bước quanh trong phòng khách, từ đây hắn có thể nhìn thấy những tháp hình đụn, hình xoắn ốc, những tháp có mái vòm của La Mã. Người hắn to lớn nặng nề, có dáng đi rất kỳ dị. Chân hắn như có gắn lò xo. Mặt hắn trơn tru từ trán cho đến cằm, trông hắn có vẻ hiền từ chân chất.

Suốt nhiều năm trôi qua, vẻ người hiền lành đã giúp cho hắn hoạt động dễ dàng. Khi hắn di chuyển không mấy ai nghi ngờ. Rồi một năm nay, Raza báo cho hắn biết bọn Do Thái đã lên án tử hình hắn. Từ đó, hắn phải cẩn thận khi hoạt động. Nhưng vì vụ này quá phức tạp khiến hắn phải ở lại La Mã lâu hơn là hắn mong muốn. Như thế rất nguy hiểm vì có khả năng người Do Thái sẽ phát hiện ra hắn. Nhưng cũng như mọi khi, hắn đã chọn cách che giấu để giảm thiểu tối đa sự nguy hiểm đi.

Căn phòng làm ra vẻ là nơi ở của một nhà báo nước ngoài đi làm phận sự thuê ở tạm. Từng chồng báo chí chất khắp phòng. Trên bàn có một máy chữ đánh tay, nằm khuất một nửa dưới những ấn bản báo chí. Một máy in vô tuyến thuê để đưa tin kê trong một góc phòng, đang chạy rào rào sao chép giấy tờ. Những bản tin đánh đi bằng máy viễn ký treo đầy trong phòng như áo quần mới giặt treo phơi trên dây. Hắn cẩn thận nói cho mọi người ở trong tòa nhà biết hắn là một phóng viên cho một tờ nhật báo ở Cairo, đến La Mã để viết bài tường thuật hội nghị thượng đỉnh về tôn giáo sắp đến giữa Đạo Hồi và Đạo Thiên Chúa do Đức Giáo Hoàng triệu tập.

Một lần nữa hắn dừng lại ở máy in vô tuyến. Những vụ đánh bom khách sạn và vụ ở Trekfontein vẫn là tin tức hàng đầu, thế nhưng không có một lời nào nói về những yêu cầu mà hắn đã gởi đến ba cơ quan đánh điện tín hết. Cuộn băng sau cùng - Cuộn đã ghi trước về việc Lila tuyên bố thành phố Trekfontein bị tàn phá - vẫn còn ở trong máy trả lời, máy này hắn đã biến thành một máy phát tin.

Chắc là bọn ngoại đạo đã ra lệnh cho báo chí không đăng rồi. Cũng không cần thiết cho lắm. Rồi thế giới của bọn không có đức tin cũng sẽ biết sự thực thôi.

Hắn đứng một lát nơi cửa sổ chỉ có một tấm gương lớn. Thấy thế, con chó của chủ nhà sủa lên. Không sao : rồi sẽ đến lúc nó và hàng triệu người như nó đã từng bóc lột người Ả Rập sẽ phải trả giá. Không có hương đèn cúng bái nào sẽ cứu chúng ra khỏi lưỡi gươm trừng phạt được hết. Và thành phố này sẽ đưa ra một khung cảnh điển hình cho chúng thấy bất kể chúng có cầu nguyện đến đâu đi nữa thì bàn tay chân lý cũng vươn tới, để cho chúng thấy ý nghĩa đích thực của niềm tin.

Al Najaf đã chuẩn bị một vở kịch để chứng minh việc này rất hoàn hảo.

Trước khi tên biệt kích của Raza đến quảng trường St. Peter, Al Najaf sẽ đưa ra cho hắn một viên Xya-nuya. Sau khi đã ám sát tên Hồng y ở Li Răng rồi, tên hành quyết sẽ quay mặt nhìn đám đông kinh ngạc, đọc những lời mở đầu của bộ kinh Ar Ra’d, bộ kinh cầu nguyện về luật nhân quả. Tên biệt kích sẽ nuốt viên thuốc vào miệng để chứng tỏ cho bọn ngoại đạo biết rằng một chiến sĩ Hồi giáo không sợ chết.

Al Najaf sẽ không có mặt ở đấy để chứng kiến giờ phút xảy ra. Đêm trước đó hắn sẽ rời xa thành phố thù địch này, bay đi Tripoli. Hắn sẽ được Raza khen ngợi và được thưởng cho một cô gái. Những tuần bị bắt buộc phải sống độc thân này đã làm cho hắn không chịu đựng nổi. Hắn phải xả hơi sau chương trình quá nhọc nhằn mà Raza đã ép hắn phải làm này.

Al Najaf vào phòng ngủ, mặc vội bộ áo quần rộng màu tía dể tập thể dục và mang giày tập chạy vào. Sau khi đã duỗi người, nghiêng qua vẹo về cho giãn gân cốt, hắn bước ra phòng khách, đi đến máy trả lời để trên bàn. Hắn lấy cuộn băng ra rồi mở cái tủ sắt nhỏ hắn đã mua, cái tủ được kê sát bên bàn làm việc. Hắn bấm số trên khóa số rồi mở cửa ra.

Trong tủ sắt có vé máy bay của hắn, thẻ thông hành giả của Ai Cập, và tờ quyết toán tiền bạc hắn được cấp cho để ghi những chi tiêu. Bên cạnh một chồng giấy tờ ghi chú, có hai cuộn băng cátxét. Hắn lấy một cuộn và để cuộn đang nằm trên tay thay vào đó, hắn đóng cửa và xóa số trên ổ khóa đi. Hắn chọn những con số 3 - 10 để làm mật mã an toàn vì những con số này là số hên ở trong kinh Koran huy hoàng. Khi hắn quay số, hắn lại đọc to những từ được tiết lộ lần đầu tiên của vị sứ giả tại Al Madinah, nơi chôn nhau cắt rốn của Al Najaf.

"Cả bọn giàu có lẫn con cháu của bọn vô tín ngưỡng đều không có ích gì cho Đấng Ala. Chúng phải làm mồi cho ngọn lửa hết”.

Hắn đứng thẳng người lên rồi quay qua máy trả lời. Hắn nhét cuộn băng vào rồi mở máy, giữ cho âm lượng nho nhỏ, để nghe giọng của Lila.

"Nhân danh Raza, người chiến sĩ chiến đấu cho tự do, Chính phủ Pháp cần ghi nhớ điều này. Các người đã cầm tù ba mươi hai chiến sĩ cảm tử quân ưu tú của chúng tôi. Cũng như những yêu cầu đã được nêu ra nhân danh các dân tộc Hồi giáo bị áp bức. Yêu cầu các người thả tự do cho tất cả những vị anh hùng cách mạng này trong vòng hai mươi bốn giờ đồng hồ kể từ khi cuộn băng này được văn phòng tuyên truyền láo khoét của các người nhận được. Không làm đúng yêu cầu này, các nguời sẽ nhận hình phạt ngay tức khắc"

Al Najaf cho cuộn băng quay lại, tay hắn hơi ngần ngại. Những yêu cầu không những lần này mà còn cả những lần khác đều rất phi thường chưa từng xảy ra trước đây, thế mà tại sao chúng làm ngơ nhỉ ?

Hắn lấy cuộn băng ra rồi bỏ vào túi. Chắc hắn sẽ thấy được hứng thú trong người khi đi khắp các đường phố với cuộn băng cátxét này. Chắc là đấng chí tôn cũng đã có cảm nghĩ như thế vào hồi hắn bí mật đi vào thành phố Jerusalem của bọn phục quốc Do Thái, hắn đã long trọng thề ngay trong đất địch rằng một ngày nào đấy hắn sẽ tiêu diệt hết chúng.

Khóa cửa phòng xong, trên cửa có gắn một tấm bảng bằng đồng mang hàng chữ "Cơ quan báo chí Ả Rập", Al Najaf bước vào cái thang máy cổ lỗ xuống tận tầng trệt, rồi hắn bước ra ngoài quảng trường. Hắn bắt đầu chạy, không để ý đến chiếc Peugeot đang đậu ở tít tận phía bên kia của quảng trường.

— Hắn giống như Chúa, điệu bộ di chuyển thật bí mật, - Wolfie nói nho nhỏ, cười với Michelle ngồi ở ghế trước xe. Anh vỗ nhẹ mấy ngón tay trên tay lái. Ánh sáng sớm mai làm nổi rõ cái dải vải trắng thắt quanh cổ chiếc áo chùng đen của Linh mục Giáo hội La Mã trên người anh.

— Có khá nhiều thằng khờ đi nhầm chỗ lắm - Michelle đáp rồi cô đưa tay sờ tấm khăn trùm của nữ tu sĩ được sửa lại, khâu vào mái tóc giả trên đầu. Chiếc khăn phù hợp với cái váy màu xám dài đến bắp chân và cái áo rộng trên người. Có hàng ngàn nữ tu ăn mặc như cô trong giáo phái Cách Tân.

— Chắc em đã cho là hắn vì quá bề bộn công việc mà không thèm tập chạy sáng nay đấy - Wolfie nói.

Chiếc rađiô trong xe cứ tường trình mãi về vụ ở Trekfontein, về các vụ đánh bom khách sạn và về vụ nổ xe bồn dầu ở Athens.

Michelle nhíu mày. — Em không nghĩ Raza lại đi đánh môt chiếc xe bồn dầu như thế. Trò của hắn là phải cả một nhà máy lọc dầu cơ.

Wolfìe thấy Al Najaf mất dạng ở cuối đường, anh bèn nổ máy cho xe chạy.

- Morton vừa cho biết hết rồi - Michelle nói, vừa đưa tay vào trong cái túi xách đeo vai lớn, loại túi xách các nữ tu thường mang trong năm nay. Cô vặn ống giảm thanh vào nòng khẩu súng nhỏ Tiệp Khắc.

— Trời hôm nay chắc đẹp đấy - Wolfie vừa nói vừa cho chiếc xe chạy vào quảng trường điện Pantheen. Những quán cà phê bắt đầu mở cửa.

Chiếc Peugeot chạy về phía khu Largo Argentina. Một chiếc xe tải giao bánh mì chặn cả lối đi. Wolfie nhoài người ra khỏi xe, anh nói to với người tài xế bằng tiếng Ý rất sõi :

— Thưa ông, tôi cần đến kịp giờ làm lễ.

— Không sao, thưa Cha - Anh tài xế nói. Anh de chiếc xe lui để cho Wolfie chạy vào một con đường hẹp đến khu Santa Chiara. Chiếc Peugeot chồm lên chúi xuống trên nền đá cuội đã được lát cho xe tứ mã của Caesar chạy.

Wolfie cho xe đỗ ở bên kia lối vào nhà thờ "Our Lady of Hope" (Đức Bà Hy Vọng). Anh để cho máy xe nổ nho nhỏ. Mang túi xách lên vai, Michelle bước vào nhà thờ. Wolfie ngồi yên bên tay lái, đưa tay lấy cuốn sách lễ ở dưới mặt đồng hồ xe. Bên cạnh anh, trên ghế ngồi, có một khẩu súng nhỏ loại Luger. Khẩu súng cũng có gắn ống hãm thanh.

Vào trong cửa giáo đường, Michelle nhúng một ngón tay vào chậu nước thánh ở trên tường. Rồi cô kính cẩn quỳ xuống trước bàn thờ, đưa mấy ngón tay còn ướt làm dấu thánh giá. Cô ngồi trên chiếc ghế cầu nguyện đối diện ngay với cửa vào.

Anh nắng ban mai đã chiếu lấp lánh trên các cửa sổ của giáo đường. Ánh sáng làm cho hình Chúa ở trên khung kính màu giống như ngài đã bị đóng đinh vào môt bầu trời màu tía, đượm màu đỏ sẫm hơn là màu máu. Michelle chú ý thấy có vài người đi dự lễ sớm đã ngồi trong giáo đường rồi. Hai lần đến viếng trước đây chỉ có một vài bà già ngồi gần bàn thờ, cũng như hôm nay vậy.

Để cái túi xách bên cạnh, Michelle lấy một cuốn sách nguyện, mở ra lúc cuộc lễ bắt đầu. Cô có vẻ để hết tâm trí vào buổi lễ. Khi các bà già xưng tội thì Michelle đứng dậy, bước ra cửa, cái túi xách đeo vai của cô vẫn để mở.

Cô đứng bên trong ngưỡng cửa hình vòng cung, lắng tai nghe ngóng. Ngoài tiếng máy chiếc Peugoet nổ nho nhỏ đều đều, cô còn nghe thêm một tiếng nữa, tiếng hổn hển như tiếng một con thú hòa lẫn với tiếng lê chân. Âm thanh ấy đến từ hướng cô đã mong đợi, hướng bên trái của cô, đang tiến đến chỗ Wolfĩe đang ngồi, anh vẫn mải miết đọc cuốn sách lễ.

Trước mặt chiếc xe khoảng hai mươi thước Anh là đoạn đường vòng. Bên kia chỗ quẹo, tiếng thở hổn hển càng lúc càng to. Bây giờ cô đã phân biệt được tiếng thở với tiếng lê chân, đặc biệt nhận ra tiếng thở phì phò nặng nhọc và đôi chân sắp quỵ sau khi đã rán chạy trên sỏi đá.

Al Najaf xuất hiện. Mồ hôi ướt đẫm cả mặt, miệng há ra. Dường như hắn cũng bị hành hạ như Đấng Cứu Thế trên khung kính màu vậy.

Michelle thấy Wolfie đưa tay mở cánh cửa phía trước ra. Anh nhìn về phía Al Najaf cười khoan khoái.

Cô thấy nét mặt hắn có vẻ hốt hoảng, rồi hắn chạy ngang qua cô, mắt vẫn nhìn về phía chiếc xe. Bây giờ thì cô không thấy rõ nét mặt của hắn nữa.

Michelle bước ra ngoài đường.

— Mahamoud Al Najaf - Cô gọi bằng tiếng Ả Rập rất rõ ràng - Quay lại đi !

Hắn chạy thêm một hay hai mét nữa. Cô lại gọi : — Quay lại !

Al Najaf chỉ còn thấy loáng thoáng một nữ tu chĩa súng vào hắn, hai chân dạng ra hai bàn tay nắm chặt khẩu súng.

Michelle bắn hắn năm phát, hai phát vào tim và ba phát vào đầu. Khi hắn nhào xuống, cuộn băng cátxét ở trong túi quần văng ra ngoài.

Michelle chạy đến chiếc xe vừa lúc chiếc Peugeot cũng chuyển bánh, cánh cửa phía trước mở rộng. Cô nhanh nhẹn cúi xuống nhặt cuốn băng, ném vào cái túi xách cùng với khẩu súng. Không dừng lại một giây, cô nhảy vào chiếc xe đang di chuyển. Chín phút sau, Wolfie đỗ xe gần khu Spanish Steps (Những bậc cấp Tây Ban Nha). Anh và Michelle buớc vào khách sạn Hassler.

Hai người đã chọn khách sạn Hassler, vì ở đây người ta bớt tiền rất nhiều cho những khách mộ đạo, và không nhận thẻ tín dụng. Chuyện một nữ tu sĩ và một linh mục đến ở chi trả bằng tiền mặt là một chuyện rất bình thường.

Mười lăm phút sau họ trả phòng khách sạn.

Chiếc Volvo đã đậu đúng chỗ Morton đã nói, ở trên khu Condotti, chùm chìa khóa trong túi xách của Michelle mở được cửa xe. Dưới sự chỉ đường của Wolfie, cô lái thật nhanh ra xa lộ dẫn đến Florence. Cô lái cẩn thận, kiểu nữ tu sĩ lái xe. Wolfie ngồi bên cạnh ngay thẳng nghiêm trang, với dáng điệu các linh mục thường ngồi.

Hai người im lặng một hồi lâu.

— Chúng ta nghe cuộn băng xem - Michelle nói khi họ ra khỏi ranh giới thành phố Roma.

Wolfìe lấy cuộn băng trong túi xách, đút vào trong khe ở dưới rađiô trong hộp đồng hồ xe. Họ lặng lẽ nghe. Anh cho băng quay lại và nghe thêm một lần nữa. Anh nhìn Michelle.

— Không biết những yêu cầu kia ra sao rồi ?

— Raza chắc là bể dĩa rồi - Michelle nói.

— Anh hy vọng Chính phủ nước em không nhượng bộ. - Wolfìe không che giấu sự hoài nghi khi nói thế.

Michelle nhíu mày.

— Thường thì họ nhượng bộ. Rồi những nước khác sẽ làm theo. Morton gọi kiểu này là ván bài đôminô. Chắc ông ấy muốn nghe chuyện này lắm.

— Chắc thế rồi! - Wolfie bắt chước giọng nói của Morton rất giống.

Cô cười. Giọng nhạỉ của Wolfie đã nhiều lần làm cho công viêc của họ được nhẹ nhàng hơn. Anh cho cuộn băng chạy lại một lần nữa. Wolfie nói :

— Theo anh thì bất kỳ nước nào cũng phải lo nghĩ đến chuyện các khách sạn bị đánh phá hay chịu cảnh như Trekfontein, và lo việc thả ra cả một loạt bọn khủng bố như thế.

— Tại sao không thả chúng ra, rồi săn lùng chúng và hạ chúng ?

Anh nhìn cô rồi cười vang. — Lạy Chúa, Michelle. Có nhiều người như em ở nước em không ?

— Nhiều lắm. Cả những kẻ xấu cũng nhiều. Mẹ em chắc không bận tâm đến việc thả chúng nó đâu.

Hai người im lặng suốt trong khoảng đường dài hơn hai cây số. Hai bên đường, người ta đang hái nho, vụ hái cuối cùng để ép làm rượu.

Ra khỏi thành phố chừng mười sáu cây số, họ rời xa lộ để lái vào giữa những cánh đồng ô liu và chanh. Michelle cho xe chạy chầm chậm trên con đường gồ ghề. Sau một dặm đường, Wolfie trông thấy cái ụ đá hình tháp nhỏ dẫn vào một rừng chanh.

Cô dừng xe lại, rồi cả hai bước ra khỏi xe. Wolfie duỗi hai tay, còn Michelle thì lục lọi tìm trong túi xách đeo vai. Cô lấy ra một miếng giấy.

— Năm và chín - cô nói - một vết khắc hình chéo trên thân cây.

— Đặc trưng của Bitburg - Wolfie đáp - Có lẽ chưa bao giờ ông ta thấy một cây chanh nữa.

Cả hai đều cười rồi họ đi vào trong rừng chanh. Gần đây Bitburg thích dùng các loại dấu thông tin như dân Hướng Đạo thế này lắm. Vừa đi, họ vừa đếm. Cây thứ năm hàng thứ chín, họ thấy một vết nứt nơi vỏ cây.

— Anh đi ra xe lấy xẻng và cái túi lớn - Wolfie nói.

Khi anh trở lại, Michelle đã tháo bộ tóc giả ra và cởi áo khoác ngoài. Cô có một cơ thể lực sĩ, rám nắng và dẻo dai.

— Em còn có việc phải làm nữa đấy nhé - Giọng Wolfie trầm, rõ, phát âm rất chuẩn, không ra vẻ người nước ngoài.

Cô tiến đến gần anh hơn. — Thì anh cũng thế.

Cô ngửa người ra sau, áp hông vào anh một cách khêu gợi.

— Anh còn phải đáp một chuyến bay nữa - Wolfie nói nho nhỏ.

— Em biết rồi - Cô nói thì thào, không để ý đến lời anh, cứ nảy hông tới trước.

— Morton không thích thế đâu - Anh ghẹo.

Cô cười : — Chắc chắn rồi !

Anh để mặc cho cô cởi áo quần anh ra một cách từ từ như sở thích của anh. Cô áp môi vào ngực anh, thích thú. Anh nhẹ nhàng đẩy cô nằm xuống, áp mặt vào ngực cô. Hai người lặng lẽ làm tình.

Sau đó, họ lấy áo quần thể thao trong cái túi xách lớn ra, mặc vào. Michelle gói bộ áo quần tu sĩ vào một gói, thả vào hố. Wolfie lấp đất lại rồi lấy xẻng đầm mặt đất cho đều. Nhân viên của Morton ở La Mã sẽ đến để lấy áo quần đem đốt đi, rồi thu xếp cho một gara đến thu hồi chiếc Peugeot mà không hỏi han thắc mắc gì.

Ở phi trường Florence, Wolfie trả lại chiếc Volvo cho công ty thuê xe. Họ đưa giấy thông hành Thụy Sĩ cho một nhân viên di trú xem, anh chàng này có vẻ mặt thật u sầu. Từ phi cảng, Michelle điện thẳng tới Tel Aviv.

— Đợt nghỉ hè mỹ mãn - Cô nói - Và tôi có kiếm được mấy thứ mà chắc ông thích nghe lắm.

— Tuyệt lắm. Tôi có vài công việc ở Luân Đôn. Chúng ta hãy gặp nhau ở đấy nhé - Morton đáp xong, ông cúp máy.

Khi Michelle nói cho Wolfie nghe, anh cười. Họ được kết nạp vào tổ rồi.

oOo

Sau khi nghe Michelle gọi xong, Morton lái xe đến phi trường Lod. Một giờ sau, qua lớp kính màu, sáng bóng trên đài không lưu, ông nhìn thấy chiếc Concorde xuất hiện trên bầu trời. Mũi chiếc máy bay có hình nón đang chúc xuống khi bay qua bầu trời Tel Aviv rồi bay dọc theo đường băng. Một kiểm tra viên không lưu thông báo chiếc máy bay chở thi hài của Steve và Dolly về nhà.

— Nairobi, Addis Ababa, rồi bây giờ đang đâu đó ở Nam Kabul - Danny ngồi bên cạnh ông vừa để điện thoại xuống vừa lên tiếng nói - Đúng là dấu vết của con ấy.

Morton quay lại khỏi cửa sổ. — Có khả năng Raza đang ở tại Afghanistan.

— Chúng tôi chưa nhận được tin chính xác. Cụ Gù cho biết mỗi lần đọc đều giống như giọng trong các cuộn băng đòi yêu sách. Và cả hai máy Comint cùng Elint đều xác nhận địa điểm nơi nó gọi.

Morton biết Danny rất tin tưởng vào các kỹ thuật gia điều khiển máy Comint, máy tình báo viễn thông, và máy Elint, máy tình báo điện tử. Nhờ hai máy này, họ có thể tung ra một mạng lưới trên nhiều trăm dặm vuông khắp nơi trên mặt đất.

Từ tin chặn được đầu tiên ấy ở Nairobi, họ mò mẫm tìm kiếm trên không để phát hiện ra những nơi khác. Họ đã bắt được giọng phụ nữ ở vùng ngoại ô của phi trường đổ nát Addis Ababa, rồi nhiều giờ sau, họ lại bắt được tiếng nói khoảng gần Kabul.

— Công việc tốt đấy, Danny. Nhưng không được thừa nhận à ?

— Không. Tôi không chấp nhận loại tin như thế. Mỗi lần nó báo cáo là lúc ở trên đường đí. Nó tinh khôn và nhanh nhẹn, nó sẵn sàng đổi hướng bay giữa đường nếu ông chủ nó ra lệnh.

— Còn con kia thì sao ?

— Cũng không biết rõ hơn.

Morton nhìn ra ngoài cửa sổ. Mấy bánh xe đã hiện ra duới hai cánh chiếc Concorde.

— Con vịt con xấu xí của chúng ta kìa - Danny nói nho nhỏ.

Không phải con vịt con đâu, mà là con chim cắt, Morton nghĩ thế. Cái mũi khoằm ấy trông ác liệt lắm đấy. Tel Aviv đi Luân Đôn rồi trở về chưa đầy năm giờ. Trọng tải gần hai trăm nghìn ký mà bay với vận tốc gần bằng vận tốc viên đạn, từ đây đến Jerusalem trong ba mươi giây.

Từ khi họ có mặt ở đây, người viên chức hãng tống táng El Al nói đủ thứ chuyện với họ. Ai cũng cố xua đuổi cảnh chết chóc đi.

Morton nhìn Danny.

— Raza chắc đã dùng hộp phát âm đấy. Chắc hắn ngồi ở Beirut truyền lệnh đi mà thôi.

— Có thể hắn làm thế, nhưng chắc chắn là máy Elint và Comint đã thu được lời hắn từ văn phòng của hắn ở Beirut truyền đến khu vực nào đấy quanh Kabul.

— Hắn nói gì ?

— Chỉ là lặp lại chuyện về Đấng chí tôn nhận lại người đàn bà ấy với nước hoa của nó.

Danny liếc mắt nhìn Morton. — Anh có nghĩ là chúng có thể đã ướp nước hoa vào vi rút để đánh lừa người ta không ?

Morton nhìn chằm chằm vào mặt Danny.

— Anh có thể đã thấy được vấn đề rồi đấy. Người đàn bà ở Nairobi đã nói đến nước hoa. Nó có thể đã mang vi rút bệnh than vào Trekfontein trong một chai nước hoa. Con đàn bà ấy có thể đã làm thế để khỏi bị nghi ngờ. Có thế vì thế mà nó đã nói nước đã pha nước hoa. Chúng ta lại còn biết là Raza dùng phụ nữ nhiều hơn bất cứ tên khủng bố nào khác. Phải chăng hắn đã phái một con nào sắp thả nhiều vi rút và bỗng đã xảy ra chuyện gì đây ? Có thể con ấy đã bị chết trong một tai nạn hay là bị giết rồi ? Và nó đã mang theo vi rút bên mình. Thế mới đúng với ý nghĩa câu Đấng chí tôn đã đem cô ta về... và đem theo cả vi rút bệnh than luôn.

Danny lắc đầu. — Nếu Bitburg nghe anh nói, mắt ông ta chắc nổ luôn ! Rồi tìm đâu cho ra con mắt như thế. Và chúng ta biết nhìn ở đâu đây ?

— Nhân viên của anh cho biết cuộc gọi xuất phát đâu đó trong vùng cách Beirut năm trăm dặm. Cũng đáng lạ lắm. Chúng ta chắc là phải nơi nào gần hơn.

— Chắc nguồn gọi đi vẫn có thể là ở khu vực quanh Kabul. Cách phía đông Beirut chưa đầy năm trăm dặm - Danny nói.

— Thì chắc chắn là thế. Nhưng linh tính cho tôi biết chúng ta nên lục soát ở phía Tây Beirut. Bây giờ hắn đang hoạt động đấy, Raza đang nôn nóng hành động đấy. Tôi đoán chắc là hắn ở đâu đó tại châu Âu.

Một viên chức bước đến, mặt đầy trang trọng :

— Ngài có muốn vào xem đưa hòm xuống không ?

— Không, xin cám ơn anh.

Người kiểm soát không lưu hướng dẫn chiếc Concorde sơn màu trắng hạ cánh xuống đất. Giới báo chí đặt tên cho chiếc máy bay là bồ câu. Hiện tại, nó được dùng hầu hết thì giờ để chở những nhà lãnh đạo Israel đi Liên Hiệp Quốc để bàn thảo về việc dàn xếp hòa bình. Morton lại nghĩ khác. Chiếc Concorde trông giống một con cò hơn, với cặp chân dài đang chạy trên đường băng.

Người viên chức vẫn đứng yên bên cạnh ông : — Hầu hết thân nhân của người đã khuất đều muốn nhận các quan tài khi người ta mới đem ra khỏi máy bay.

Morton nhìn anh ta. Trông hắn gớm ghiếc quá, một gã nông dân đã được bố trí làm một công việc nhàn nhã. Việc bố trí lại công việc thật tức cười. Một thư ký của Bitburg đã đi lái tàu hỏa ở Nga. Gã viên chức này lại còn kỳ hơn nữa. Morton đáp :

— Tôi thích ở đây.

— Dạ tốt, tốt thôi.

Chiếc Concorde chạy về phía nhà kho lớn. Một xe bốc xếp hàng hóa và một chiếc xe tải của hãng El Al đang đợi sẵn trên sân bay.

— Ngài có muốn tôi... ? - Người viên chức lại lên tiếng.

Danny nắm lấy tay người viên chức lôi anh ta ra cửa. — Đi lo làm việc của anh đi - Danny từ tốn nói, đẩy nhẹ anh ra khỏi phòng.

Morton nhìn cánh cửa ở khoang chất hàng của chiếc Concorde mở ra. Chiếc xe bốc xếp chạy dọc theo máy bay để lấy hai chiếc quan tài. Hai chiếc quan tài trông nhỏ nhoi quá. Sau khi quan tài đã được đưa vào xe rồi, Morton rời khỏi cửa sổ. Có lẽ Steve và Dolly đã bỏ qua cho Raza khi hai người về đến quê nhà. Morton thấy ông vẫn không chấp nhận cái chết của hai người. Bởi thế mà ông không buồn phiền, ông không cảm thấy một cái gì lạ hết.

Hai giờ sau, ông bước theo hai quan tài ra giáo đường. Trên mỗi quan tài có phủ một lá cờ Israel. Hannah đi bên cạnh ông, cặp mắt bà sưng vù lên vì khóc quá nhiều cho đến khi không còn nước mắt để khóc nữa, chiếc áo dài rách tươm vì bà vật vã khóc thương. Bà nhìn đăm đăm về phía trước.

Karshov có mặt trong số những người khiêng quan tài, họ đều là những học giả tiếng tăm của Israel, đàn ông mặc cômlê đen, quàng khăn nguyện, họ khiêng quan tài trên vai đi đến huyệt gần bên ngôi mộ của Ruth.

Phía sau Morton là đại điện của chính quyền, của phe phái đối lập, và các thành viên trong Ban Hội đồng. Thấy thế, người ta mới biết ảnh hưởng của Steve sâu xa biết dường nào. Bạn bè thân thiết của Dolly đều có mặt ở đấy, những bà già đoan trang trùm khăn đen, nét mặt đầy đau khổ.

Bithurg có đến, ông nhìn vào đám chuyên viên truyền hình ra vẻ hài lòng. Đám tang những người chết vì bạo động thường thường được đưa lên hàng tin tức quan trọng. Bitburg đã nói rằng tin này nhắc nhở cho cả nước ghi nhớ.

Chantal và Laster Finel cũng có mặt, họ cùng đi với Cụ Gù và ông Giáo sư. Họ đến dự vì Morton.

Khi đã đến nghĩa trang, Danny bước tới trước, quàng hai tay ôm lấy vai Hannah. Morton nhìn Danny, ông nghĩ ông ta làm thế là đúng. Ông ta yêu mến dì Hannah cũng như yêu mến Steve và Dolly. Nhưng ông chỉ mải miết nghĩ đến câu thơ trong Thánh Kinh và Steve đã đọc cách đây nhiều năm rồi : "Rồi kẻ thù sẽ biết ta là Chúa tể khi ta giáng trả thù hận lên chúng".

Sau khi quan tài đã hạ huyệt, vị chủ lễ cất tiếng hát. Tiếng hát nhịp nhàng vút lên bao trùm lấy những người đi đưa đám, ru họ vào quá khứ, nhưng Morton thì không xao xuyến. Thầy chủ lễ quay qua nhìn ông. Mọi người đều im lặng.

Morton bước ra mép huyệt, và cũng như ông đã làm trước đây cho Ruth, ông đọc kinh Kadish cho Steve và Dolly, cuối cùng ông đọc cho ông, đọc cho bóng ma hiện ra trong ông đã lâu rồi.

Đọc xong đoạn kinh ngắn, Morton quỳ xuống nhặt lên một nắm đất thả vào trong huyệt.

Thế rồi, cũng như khi đi dự đám tang của Ruth, không nhìn ai, ông quay mình lại và lặng lẽ bỏ đi.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
601,786
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 16


Người dịch: Văn Hòa - Kim Thùy

Nhà xuất bản: NXB Thanh Niên

Shared by: CCG -

Trong phòng phát thanh ở dưới hầm, Raza ngồi cúi người trên hộp máy phát âm để chuẩn bị phát đi hai cuốn băng sau cùng mà hắn định sẽ làm cho kẻ thù của hắn phải bối rối. Mặt hắn trông lạnh như tiền, mắt hắn chằm chằm nhìn vào các nút bấm, nút bật.

Từ khi hắn cho phát bản tin vừa rồi, tin điều động Lila đến vùng Kabul, người Mỹ chắc đã phóng một vệ tinh lên trời rồi. Chắc họ cũng biết hắn đã rất rành về phương pháp của họ. Nhờ biết rành như thế mà hắn có thể có nhiều mưu mô hơn họ nhiều.

Hắn cũng rất sung sướng trước kết quả của các vụ đánh bom khách sạn và vụ Trekfontein, bọn Do Thái và đồng minh của chúng chắc sẽ điều khiển những người máy trên trời hướng những con mắt, những lỗ tai cơ khí để nghe ngóng và chụp hình từng tấc đất ở nơi mà hắn có thể đang trú ẩn.

Họ luôn luôn tin tưởng vào khả năng vô song của kỹ thuật và chính đấy là yếu điểm của họ. Khả năng tuyệt vời của máy móc là chúng có thể chụp được những vết nhăn trên mặt người từ ngoài không gian cách trái đất đến sáu mươi ngàn dặm, nhưng chúng phải có mục tiêu để nhắm mới chụp được. Còn mọi người trong trại đều được lệnh ở dưới hầm. Tất cả những vết tích hoạt động đều được xóa hết. Hình ảnh con người duy nhất mà vệ tinh chụp được là một vài người dân chăn cừu đang chăm sóc đàn cừu quanh ngôi nhà của họ mà thôi. Không có tay nhiếp ảnh gia tài ba nào có thể chứng tỏ những người chăn cừu kia là huấn luyện viên của hắn cả.

Đã nhiều tháng trời, hắn chăm chú đọc nhiều tài liệu viết về những bí mật của ngành gián điệp trên không. Hắn biết rằng khi một vệ tinh phát hiện ra một vùng, thì nó không có khả năng quay lại nữa.

Để khuyến khích mọi người đề cao cảnh giác, hắn đã cho thiết lập một mạng lưới điệp viên. Một điệp viên như thế được trang bị một máy điện thoại, máy này được nối với một máy chuyển tiếp nhỏ luôn luôn phát về hộp phát âm. Trong lúc Lila bay thẳng từ Nairobi đến Athens, hộp này đã ra lệnh cho chị ta gọi về từ Addis Ababa và Kabul. Lời gọi phát ra từ Beirut cũng xuất phát từ hộp phát âm.

Bây giờ đã đến lúc để Lila vào trong núi sâu ở Afghan. Kẻ thù chắc đã gài máy camêra do thám và máy thăm dò âm thanh vào quãng giữa từ trái đất đến mặt trăng để lục soát cả khu vực. Chúng muốn tìm ra những căn cứ quân Hồi giáo Mujaheddin. Những cuốn băng chắc thế nào cũng làm cho quân thù tin hắn đang ở đâu đó trong rừng núi xa xôi.

Raza đeo máy nghe vào tai rồi để cả hai băng cátxét trên hai bộ ghép của thùng máy. Rồi hắn bấm số máy chuyển tiếp đặt tại căn cứ đóng cách phía bắc Kabul bảy mươi dặm. Vừa lúc hắn nghe con số cuối cùng kêu một tiếng "cách", hắn liền bật nút cho cuốn băng thứ nhất chạy. Cuốn băng liền phát ra giọng nói của Lila.

"Các bạn đừng quan tâm lo lắng nhiều quá. Tôi được bình an cùng với vị lãnh tụ thân yêu của chúng ta. Người ước ao các bạn biết được chuyến hành động tiếp theo của chúng ta là chống lại kẻ thù chúng ta ở Phương Đông".

Raza tính thời gian để cho máy ngừng một hồi lâu rồi ấn xuống một nốt trên bàn phím của máy. Lại một lần nữa Lila cất tiếng, giọng chị ta bỗng gay gắt : "Không, đừng hỏi ! Các bạn sẽ được biết".

Raza tính thời gian nghỉ lần nữa, rồi lại ấn vào một nốt máy. Lần này giọng Lila mạnh và the thé : " Ơn Đấng Ala ! Hãy giết hết kẻ thù đi !"

Hắn cho cuốn băng dừng lại, nhưng cứ để cho máy thông với máy chuyển tiếp. Tiếp theo, hắn bấm số máy chuyển tiếp tại văn phòng của hắn ở Beirut. Khi đường dây đã nối được rồi, hắn mở máy cho cuốn băng thứ hai chạy. Giọng nói nhẹ nhàng dịu ngọt của Al Najaf cất lên trong máy micrô đeo ở tai hắn.

"Chúng tôi gởi lời chúc mừng đến vị lãnh đạo của chúng tôi và vui sướng khi thấy người được bình an để tiếp tục lãnh đạo chúng tôi đánh tan bọn áp bức bóc lột. Nhưng chúng ta còn nhiều kẻ thù ở tại Phương Đông. Tốt nhất là nên biết kẻ nào trong bọn chúng sẽ bị tiêu diệt trước hết".

Raza tính giờ nghỉ trước khi mở máy cho Al Najaf nói tiếp. "Chúng tôi sẵn sàng tấn công bất kỳ nơi nào chúng tôi được phái đến. Ơn Đấng Ala ! Hãy giết hết kẻ thù đi !".

Raza tắt máy cuộn băng rồi quấn lại cả hai cuộn, hắn ngồi yên một hồi lâu, mấy ngón tay sẵn sàng trên bàn phím, như một nhạc sĩ dương cầm chuẩn bị đàn. Rồi mấy ngón tay hắn bấm nốt trên máy rất chính xác, rất nhanh. Qua micrô đeo ở tai, hắn nghe máy chuyển tiếp ở Afghanistan tự động làm cho chuông điện thoại ở đấy làm reo chuông điện thoại ở Beirut. Tiếp theo có tiếng ở máy chuyển tại Beirut ra lệnh cho điện thoại ở đây nhận lời gọi đang gọi đến. Có một tiếng "kịch" phát ra ứng với tiếng ống nghe cất lên. Một lát sau, giọng Lila cất lên cho biết, chị ta được bình yên. Rồi tiếng trả lời đầu tiên của Al Najaf phát ra.

Câu chuyện rời rạc do Raza thu băng đã hơn một tuần, nay phát ra nghe rất mạch lạc. Đố ai mà biết được hắn đang ở đâu.

Ba mươi giây sau khi hắn phát tin, những việc trao đổi đã xong xuôi. Cả hai máy chuyển tiếp đóng giả tiếng của người nhận tin đã được thay thế. Lần đầu tiên Raza quay lại nhìn Nadine, chị ta đang đứng cạnh cửa vào. Chị bình tĩnh hỏi:

— Anh đã quyết định em có đáng được đi Athens không ?

Hắn cười ranh mãnh, rời khỏi máy phát tin mà không đáp. Hắn thích thú khi thấy chị ta căng thẳng.

*

**

Từ các màn hình trên tường trong phòng Điều hành, các khuôn mặt đều nhìn chằm chằm vào Morton. Dưới chiếc đồng hồ hai mươi bốn giờ đã có một tấm cạc mới. Tấm cạc mang hàng chữ : "Hậu Đáo Hạn". Kim đồng hồ đã chỉ hai giờ qua rồi kể từ khi người đàn bà của Raza đưa ra lời tuyên bố Trekfontein bị tiêu diệt.

Những khuôn mặt trên màn hình là đại diện cho các cơ quan tình báo châu Âu cũng như của Hoa Kỳ, Canada và Ai Cập. Mỗi người đều được Morton xác nhận bằng một tấm cạc viết tay gắn vào dưới máy phát hình. Thêm nữa có Danny, Matti và Lou, Wolfie và Michelle, Lacoutste và Fuller, trợ tá ủy viên chính phủ đặc trách tội phạm (ACC) đều có mặt trên màn hình.

Morton chính thức tuyên bố : — Xin cám ơn quý vị có mặt ở đây. Quý vị biết cho đây là buổi họp mặt để tôi tham khảo ý kiến của quý vị.

Nhiều người trên màn hình gật đầu. Ai cũng đã nhận được văn bản cách đây một giờ xác nhận sự chỉ định Morton làm Trưởng Lực lượng tiêu diệt Raza và vi rút bệnh than B.c của hắn. Văn bản đã được Tổng thống Hoa Kỳ, Thủ tướng Anh và Tổng thống Pháp, cũng như Thủ tướng Karshov ký tên.

— Một số trong chúng ta đã cùng nhau hợp tác trong quá khứ rồi. Còn một số khác thì đây là lần đầu tiên - Morton nói tiếp, rồi ông dừng lại đưa mắt nhìn màn hình có tấm nhãn ghi: K.G.B - Moscou.

Một khuôn mặt nung núc thịt gật mạnh đầu. Tướng Igor Yertzin là Giám đốc thứ nhất của cơ quan KGB. Mãi cho đến gần đây, ông ta đã lãnh đạo chỉ huy một cuộc chiến bí mật tàn bạo chống lại nhiều người trên các màn hình khác trong phòng này. Vị kế nhiệm Gorbachev, lo lắng tỏ cho thế giới thấy lòng mong muốn của Xô Viết là hoàn toàn hợp tác với Tây Phương để đổi lấy thực phẩm và nguyên liệu cứu đói cho hàng triệu người dân của mình, đã ra lệnh cho KGB tham gia tích cực săn lùng Raza.

— Chúng tôi thật lấy làm xấu hổ vì đã góp công huấn luyện con vật này - Yertzin ấm ức nói.

— Thưa Thiếu tướng, các ngài đã tạo nên rất nhiều bọn quái vật - Morton nói nhanh. Ông thấy không có thì giờ để bàn thảo những chuyện bí mật nằm ngoài đề tài nữa.

Trên màn hình kế bên là ông Anwar Salim, Giám đốc cơ quan Tình báo Ai Cập, gật đầu đồng ý.

— Xin thưa với quý ngài, hôm nay chúng ta đã họp nhau lại để quyết định tìm cách loại trừ Raza và mối đe dọa hắn đưa ra.

Từ các màn hình đều phát ra lời đồng thanh nhất trí.

— Xin cám ơn quý ngài. Vì đây là buổi họp đầu tiên, cho nên việc thảo ra chương trình làm việc là rất quan trọng. Chúng tôi không muốn chúng ta giẫm chân lên nhau. Cho nên mỗi người sẽ hoạt động trên vùng lãnh thổ của mình trong giai đoạn điều tra. Mọi việc xin được thông qua tôi hay là qua người phụ tá của tôi, đó là Thiếu tá Daniel Nagier. Tổ của chúng tôi sẽ báo cáo trực tiếp với tôi. Vì một số trong quý vị chưa biết họ, cho nên tôi xin giới thiệu họ với quý vị đây.

Matti, Lou, Wolfie và Michelle gật đầu nhanh khi Morton gọi tên họ. Morton dừng lại nhìn lên một tờ giấy ông đã ghi chú.

— Ông Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc đã cảnh cáo nước nào bao che cho Raza. Như thế có nghĩa là nước ấy sẽ bị trục xuất ra khỏi tổ chức này và bị trừng phạt.

— Những việc trước đây không làm được, thì bây giờ cũng không làm được đâu ! - Đại diện cơ quan Mật vụ Ý cắt ngang lời ông.

— Chắc là các nhà lãnh đạo chính trị của ngài lần này cũng nghĩ thế - Morton gay gắt nói - Người Ý đã có những hành động dung túng nổi tiếng nhất thế giới.

Morton lại nói với mọi người có mặt trên các màn hình :

— Ông Tổng thư ký đã chính thức tiếp xúc với nước Cộng Hòa Nhân dân Trung Hoa. Bắc Kinh cho biết không có vi rút bệnh than B.c bị mất. Họ nhất quyết rằng Raza chắc đã nhận vi rút ấy ở đâu đấy.

— Bao nhiêu nước có thứ này ? - Một người đàn ông tuổi trung niên to lớn lên tiếng trên màn hình có nhãn hiệu CSIS - OTTAWA. Norm Stratton là Trưởng lực lượng chống khủng bố của cơ quan Mật vụ Canada.

— Không có cách nào biết được. Saddam Hussein đã có thứ ấy. Có thể hắn đã cho Raza một ít. Nhưng người Trung Hoa cho biết họ sẽ cứu xét việc cho chúng ta một ít mẫu để các nhà khoa học gia của chúng ta nghiên cứu hữu hiệu hơn.

Nhiều tiếng thì thào vì kinh ngạc phát ra trên nhiều màn hình. Morton đợi cho đến lúc im lặng trở lại. Ông bèn báo cáo tóm tắt rõ ràng cho mọi người nghe. Việc săn lùng những tên đánh bom khách sạn và tên tiêu diệt dân thành phố Trekfontein hiện đang lan khắp thế giới. Cơ quan Interpol đã bố trí lực lượng cảnh sát khắp trên một trăm nước. Nhiều nước, quân đội cũng tham gia vào. Trọng tâm cuộc tìm kiếm không tiền khoáng hậu này là mối dây liên hệ với các tập đoàn buôn lậu ma túy của Raza trước đây. Cuộc truy lùng đã gặp phải sự chống đối quyết liệt cùa các tập đoàn buôn lậu này.

Khi ông quay qua những tin tức chặn được, mọi người đều lắng nghe hết sức chăm chú. Ông lập lại giả thuyết cho rằng Raza có thể đang có kế hoạch dùng vi rút bệnh than B.c được ngụy trang dưới dạng nước hoa và hắn chắc đã dùng đàn bà để đi rải chất này. Ông nói cho họ nghe về khả năng có một phụ nữ đã chết.

— Có hai vấn đề cơ bản chúng ta nên bàn thảo ở đây. Phải chăng tất cả những tin chặn được này là một phần kế hoạch gây hoang mang của Raza, ngay cả tin chặn được vừa qua giữa người phụ nữ nói chuyện với người đàn ông tại văn phòng của Raza ở Beirut ? Từ đó nảy sinh vấn đề thứ hai. Phải chăng Raza hiện đang ở Afghanistan ? Nếu thật thế thì hắn có thể bị cô lập được. Và chúng ta đến đấy để bắt hắn ư ?

Ông đưa mắt nhìn lên từng màn hình. Từ màn hình ở giữa, một khuôn mặt nhăn nheo tai tái, đang hút ống vố.

— Chúng ta đã có môt tổ K.12 ở Kabul. Một tổ chức ở Beirut. Máy dò tìm của hai tổ này, theo chỗ tôi biết, hoạt động rất tốt, đánh hơi được cả những hoạt động bí mật của chúng. Cả hai tổ đều đã kiểm chứng lời gọi mới rồi là đúng. - Đô đốc Edwin Burness lên tiếng. Ông ta là giám đốc lâu đời của cơ quan Mật vụ quốc gia Mỹ, NSA, là một tổ chức chuyên nghe lén tinh vi nhất thế giới.

Morton nhìn vào màn hình có Danny. Danny gật đầu.

Một người cao, đầu tròn hói, đeo kính cận nhoài người ra trong một màn hình. — Raza chắc là vẫn sử dụng hộp phát âm đây. Cơ quan Stasi đã chứng minh loại máy này rất hữu hiệu, ông Morton à. - Hans Dieter Muller là Trưởng cơ quan BND, cơ quan Mật vụ Đức, ngồi bên cạnh Fuller. Ông ta là người được Morton tín cẩn nhất trong số những cơ quan an ninh ở Châu Âu.

— Không có cách để phát hiện ở đâu à ?

— Không có cách nào hết, thưa ông Morton.

Yertzin nói lớn : — Chúng tôi sẵn sàng phái một tổ vào trong vùng núi ấy để xem Raza có ở đấy hay không ? Trong vòng một tuần, chúng tôi sẽ biết.

— Xin ngài làm ngay cho, thưa thiếu tướng. Nhưng một tuần lâu quá. Tối đa là hai ngày thôi.

— Vâng - Yertzin đáp - Hai ngày, được rồi.

— Chúng ta yêu cầu các chính phủ của mình cố làm trong hạn định mà Raza đã nêu ra. - Một giọng nói nhẹ nhàng cất lên trên màn hình ở bên trái Morton. Đó là giọng của Percival West, trưởng nhánh E cơ quan M15, có trách nhiệm chống khủng bố.

Morton nhún vai để giấu nỗi lo lắng của mình.

— Theo tôi, chúng ta đều biết khi Raza nói điều gì là hắn sẽ làm đấy.

Màn hình bên cạnh West, có tiếng nói lúng túng cất lên :

— Ta dẹp chuyện vớ vẩn đi. Tôi có sáu trăm người đóng ở đây, và không ai lại không phát hiện ra được hành tung của hắn sắp tới đây. Cứ để yên hắn đấy! Tôi sẽ gởi một số lính của tôi vào núi cùng với lính của tướng Yertzin. Nhưng theo tôi, giống như những tin chặn địch cho biết, thì đợt tấn công sắp đến, có thể chúng sẽ nhắm vào Phương Đông. Raza có thể cho thả vi rút ở Tokyo, hoặc Hồng Kông, hoặc Sydney.

Bill Gates ngồi tựa ngửa người ra, hai tay vòng trước ngực, đôi mắt buồn bã nhìn ra khỏi màn hình, có vẻ tự phụ. Ông ta là giám đốc hành quân, trưởng chi phân mật vụ ở cơ quan CIA, dưới ba đời Tổng thống. Morton kính nể Gates vì ông ta rất thành thạo công việc. Nhưng lần này thì ông ta lầm rồi.

— Chúng đang chọn mục tiêu đấy, Bill à. Nhưng để chọn ra được một mục tiêu, Raza cần phải có nơi để hắn nương tựa. Hắn đã bị bọn Mafia Nhật buôn lậu ma túy tẩy chay. Ngay cả những tập đoàn buôn lậu cũng không giúp hắn nữa. Bọn tội phạm Trung Hoa cũng thế. Trước khi hắn ra tay, hắn đều đòi cho được hai triệu đô la Mỹ. Bây giờ thì hắn cố ý trả lại tiền. Nhưng vẫn không có ai giúp đỡ hắn đâu, cụ thể là vụ tàn sát của hắn tại Hồng Kông. Còn Sydney, theo tôi chỉ là một mục tiêu quá nhỏ. Tôi cho là mục tiêu của hắn sẽ ở Luân Đôn, ở những thành phố lớn của châu Âu hoặc ở Bắc Mỹ.

Gates càu nhàu :

— Thế thì rộng quá, David. Tôi không biết bên châu Âu ra sao, nhưng tôi chắc là ở đây không có đủ bằng cứ để kiểm soát trên cả một địa bàn rộng lớn ở các thành phố lớn cả ngày lẫn đêm được.

- Chúng ta sẽ bàn thảo trong vòng ít hôm nữa, Bill à - Morton nhắc nhở ông ta.

— Tôi biết, tôi biết - Gates đáp - Nhưng chúng tôi chưa làm được đâu. Chúng tôi còn bận rải người để giữ an ninh cho các đại hội đảng họp lần cuối nữa.

Đô đốc Burness lên tiếng nói qua làn khói thuốc :

— Tôi không tin Raza có khả năng để tiêu diệt những nơi lớn như L.A. được. Trekfontein là một chuyện. Nhưng ở L.A. thì hắn phải dùng đến cả một đạo quân. Không có luồng gió cố định. Không có nơi trữ nước để cung cấp.

Yetzin nói oang oang trên màn hình :

— Thưa ngài Đô đốc, ngài quên vụ xảy ra trong một thành phố lớn của ngài vào năm 1950 rồi. Đúng vào thời điểm quý ngài tin tưởng chúng tôi sẽ đến đấy.

Nhiều màn hình phát ra tiếng cười.

— Ngài vẫn có thể đến một ngày nào đấy ! - Burness cười nói.

Yertzin cười ha hả. — Chỉ đến như khách du lịch thôi.

— Thế thì chuyện gì xảy ra vào nãm 1950 thế ? - Anwar Salim hỏi, vẻ ngạc nhiên.

— Lầu Năm Góc đã thí nghiệm chơi ở San Francisco - Yertzin nói tiếp - Điệp viên của lầu đã rải một loại vi khuẩn vô hại vào Vịnh để khi tiếp xúc với cơ thể con người làm cho người đỏ lên. Một triệu người đỏ như tôm hùm đi loanh quanh mấy giờ liền. Chuyện không tin được là chẳng ai phàn nàn hết. Họ nói với nhau đã trải qua một ngày tuyệt vời.

Khi mọi người hết cười, Morton nói với Salim : — Ngài có thể cho chúng tôi biết ý định của tập đoàn tu sĩ Hồi giáo ra sao được không ?

Người Ai Cập trề môi : — Những tu sĩ Hồi giáo rất bực Raza. Hắn đã đi quá xa và quá nhanh.

— Họ có bỏ rơi hắn không ?

— Không, ít ra thì chưa mà thôi. Nhưng họ sẽ nghe theo những gì nhà lãnh đạo Hồi giáo Muzwaz nói - Salim đáp.

— Tại sao không loại hắn ra ? - Lacouste bình tĩnh hỏi. Những khuôn mặt trên các màn hình căng thẳng ra - Nếu chúng ta loại Khomeini ngay từ đầu, thì chắc chúng ta không có cảnh bê bối như bây giờ. Cũng giống như với Saddam.

Morton lắc đầu :

— Theo tôi thì đã trễ quá rồi, Pierre à. Và lại còn dấy lên cảnh mà chúng ta muốn tránh, đó là cuộc Thánh chiến.

Nhiều người gật đầu. Morton đợi cho đến khi Lacouste tỏ thái độ chấp nhận sẽ không dùng biện pháp ám sát vị lãnh đạo Hồi giáo, ông ta chỉ nghiêng nghiêng mái đầu.

Norm Stratton trở lại vấn đề ông ta đã đề cập đến hồi đầu :

— Còn loại men PEG ra sao ? Những phòng thí nghiệm của chúng ta có rất ít men này. Không đủ dùng cho một nửa thành phố Toronto nữa.

— Sự thực là, thưa ông Stratton, hiện không ai có đủ chất men này - Morton trả lời - Nhưng chúng ta sẽ để dành chất này dùng vào đâu ? Ở Paris à ? Rồi nó sẽ tấn công Luân Đôn thì sao ? Hay ngược lại ? Ở New York, nó chọn Boston hay Chicago ? Trong một tháng sẽ có đủ chất men để bảo vệ cho các mục tiêu chính có thể bị tấn công ở châu Âu và Bắc Mỹ. Nhưng bây giờ thì với tất cả các phòng thí nghiệm đều ra sức hoạt động, chúng ta phỏng chừng là với hạn sáu ngày của Raza nêu ra, chúng ta tạm thời sẽ có đủ dùng cho nơi nào cần đến.

— Chúng tôi không có thuốc giải độc tại nước chúng tôi. Những nhà khoa học của chúng tôi cho biết phải cần một tháng, mà chỉ dùng cho Moscou thôi đấy - Yertzin nói lớn.

— Tình trạng của chúng tôi cũng thế - Salim nói thêm vào.

— Tôi sẽ yêu cầu ông Tổng thư ký xem thử có một cơ sở nào hoạt động nhanh để cung cấp đủ cho phụ nữ và trẻ em, người già và người bệnh trước tiên đã - Morton nói.

Gates càu nhàu nói :

— Ông bạn có nhớ vụ tàu Titanic chứ ? Giành nhau mà xuống phao cứu hộ ! Kể từ vụ ấy, thế giới đâm ra tệ mạt. Được rồi, chúng tôi sẽ cho lính gác có vũ trang quanh các phòng thí nghiệm và họ sẽ được lệnh bắn bỏ kẻ nào lộn xộn - Ông Giám đốc hành quân của cơ quan CIA thẳng thắn nói trên màn hình - Ông David này, ông cần gì chúng tôi ? Tôi đã được ủy quyền để xin nói với ông rằng bất kỳ cơ quan tình báo nào của Hoa Kỳ cũng đều đặt dưới quyền ông.

— Xin cám ơn quý ngài một lần nữa - Morton nói - Ngay bây giờ những điều trước mắt rất là giản dị. Tìm Raza và nguồn cung cấp vi rút của hắn. Tìm người đàn bà đã tiêu diệt Trekfontein. Tìm người đàn bà đã chết kia. Tìm bọn đánh bom khách sạn.

Từ màn hình của West có tiếng ho cố nín lại, rồi người ta nghe giọng ông nói :

— Người đàn bà đã chết này ? Chúng ta sẽ nói đến hàng ngàn người chết nữa đấy.

— Vậy thì chúng ta nên bắt đầu càng sớm càng tốt - Morton đáp giọng đều đều.

Lần lượt từng máy phát hình tắt đi. Cuối cùng chỉ còn lại Hans Dieter Miiller ở trên màn hình.

— Tôi đã thu xếp những gì ông yêu cầu rồi, ông Morton à.

— Xin cám ơn, Hans Dieter.

— Khi nào thì ông đến ?

— Sau khi đến Luân Đôn. Cô ta có ý kiến gì không ?

— Không.

— Thế thì tốt - Morton nhẹ nhàng nói.

Hình của Muller biến nhanh, các màn hình khác đã đen thui.

*

**

Raza lái chiếc xe jeep ra đằng sau đám lính mới. Cát mềm mại, chân họ lún đến giữa bắp chân. Gió đã ngừng thổi, chỉ còn lại hơi nóng như lò lửa khiến cho mặt cát gợn sóng lên.

Đi năm dặm ra ngoài sa mạc, rồi về lại năm dặm. Đủ để trắc nghiệm sức chịu đựng của một người. Raza biết thế, vì hắn đã làm thế. Ra ngoài sa mạc, chỉ có sức mạnh của ý chí mới giữ vững bước đi, sức mạnh của ý chí và hận thù. Đám lính mới mệt nhoài ngoài sức chịu đựng, đến nỗi họ không điều khiển được hai chân nữa. Rồi hắn sẽ nói cho họ biết rằng sự đau đớn họ chịu đựng ở đây chẳng nghĩa lý gì so với nỗi khổ đau phải chịu đựng khi rơi vào tay của kẻ thù.

Một giờ sau, có ba người gục xuống. Hắn ra lệnh cứ để họ nằm đấy. Nếu họ còn sống thì khi những người khác trở về sẽ lôi họ về trại. Bằng không, người ta sẽ lột áo quần của họ ra và để họ làm mồi cho chó rừng.

Máy bộ đàm bên cạnh hắn kêu tích tích. Họ đang ở trong khe, cho nên phát sóng nghe không rõ.

— Chỉ hu.... y căn cứ - Giọng Nadine cất lên - qu...ay về... ngay... quan... tr.... Tripol...

Hắn đã bố trí chị ta làm việc thường trực trong phòng liên lạc với tòa biệt thự. Lại một lần nữa, chị ta làm cho hắn ngạc nhiên về khả năng của chị. Nhưng hắn vẫn không quyết có nên để cho chị đi Athens hay không.

Raza từ từ lái xe qua mặt đám lính mới, hắn cố tình đưa cái chai nước lên miệng uống. Hắn ra lệnh cho tên huấn luyện viên tăng thêm nửa dặm nữa để luyện tập. Hắn muốn thử xem mọi người có răm rắp tuân lệnh hắn hay không.

Hắn quay xe lui về trại.

Nadine đang đứng đợi ở cửa tòa nhà. Hắn bèn nhận ra có dấu hiệu không ổn.

— Họ từ Bộ gọi về hai lần.

Hắn đã nói với chị là hắn rất ghét những tên hèn nhát ở trong Bộ Ngoại giao, nhóm này cứ muốn ngăn cản nhiệt tình cách mạng của vị Lãnh tụ Tối cao.

— Họ muốn cái gì đây ? - hắn gay gắt hỏi.

— Al Najaf... đã chết rồi - Chị nói thẳng ra.

Hắn đứng chết sững một hồi. Rồi hắn mấp máy miệng. Cơn giận làm cho mặt hắn trở nên điên dại. Hắn chạy vào văn phòng, Nadine chạy theo, như bị quyền năng của hắn thu hút, như bị giọng hét của hắn trong điện thoại kéo vào.

— Tại sao hắn chết ? - Raza hét lên.

Viên chức ở Bộ là một tên thông thái rởm, y đủng đỉnh trả lời hắn. Y giải thích việc một mật vụ Roma đã gọi đến phòng Tình báo Nhân dân Li Bi trong thành phố ra sao. Tên mật vụ đã nhận một nghìn đô la bất kỳ khi nào hắn ta cho biết tin tức, số tiền này phải chuyển vào tài khoản ở ngân hàng New York...

— Tôi không cần biết anh đã nhận tin ra sao ! - Raza la lớn - Tại sao Al Najaf chết ?

Im lặng một hồi lâu, viên chức mới nói lại : — Tôi báo cho ông biết, chúng tôi phải trả giá cao như vậy để có tin tức, là để ông hiểu cho chúng tôi đánh giá tin này rất quan trọng.

— Ông chỉ cần nói tại sao anh ta chết thôi - Raza rít lên. Hắn muốn yêu cầu vị Lãnh đạo Tối cao chuyển anh chàng khùng này đến Chad, đến đâu đó quách cho rồi. Nhưng rồi hắn nhớ ra gã khùng có nhiệm sở này được là vì y có bà con với Tổng thống.

— Cảnh sát Ý cho biết việc giết người này rất bài bản, chứng tỏ hung thủ là một tay chuyên nghiệp - Giọng nói lại cất lên rất kiểu cách.

Đúng là Mossad rồi. Không thể ai khác. Tâm trí Raza bấn loạn lên. Chắc là Morton rồi. Giọng nói lại vang lên đều đều bên tai hắn.

— Cảnh sát đã lục soát phòng hắn ở. Họ tìm ra bằng chứng cho thấy Al Najaf đã dính líu đến một âm mưu ám sát Đức Hồng y ở Li Băng.

Không thể lại có chuyện xảy ra như thế được ! Phải chăng toàn bộ kế hoạch đã được tiết lộ ra ngoài ? Morton đã có mặt ở Trung Hoa. Bàn tay Morton lại xuất hiện ở Roma. Chưa bao giờ đầu Raza lại đau như thế này. Hắn lắc lắc đầu cho bớt đau. Anh chàng khùng lại nói cái gì đây ?

— Người Ý còn tìm ra một chiếc vé máy bay, một vé đi Tripoli. Họ đã hỏi những câu hỏi rất hóc búa. Tại sao chúng ta lại cho phép một người như thế vào nước chúng ta ? Đáng ra với cương vị của chúng ta, chúng ta phải tẩy chay tên này không cho phép hắn đáp xuống đây mới phải.

Mossad chắc đã biết chiếc vé rồi. Trước đây đã từng xảy ra như thế. Thật đúng là Al Najaf đã quá bất cẩn. Nhưng kế hoạch vẫn phải tiến hành thôi.

Tên thông thái rởm nói thêm :

— .... và đương nhiên, chúng ta không hề biết tí gì về thằng điên muốn giết Đức Hồng y này hết. Tuy nhiên, Tổng thống đã yêu cầu ông phải bảo đảm với ngài là ông sẽ không có một hành động nào gây hại cho ngài trong tương lai hết.

Raza cố dằn cơn giận lại :

— Tôi bảo đảm với Tổng thống như thế. Cảnh sát Ý có tìm ra những cuộn băng không ?

Im lặng một hồi lâu. Cuối cùng anh chàng thông thái rởm mới nói :

— Người ta đã tìm ra những cuộn băng.

— Bao nhiêu cuộn ?

— Hai. Cuộn đưa ra yêu sách và cuộn công bố vụ Trekfontein.

— Còn cuộn ba ra sao rồi, cuộn gởi cho người Pháp ấy ?

Anh chàng ngốc lại thao thao nói :

— Phản ứng của thế giới quá mạnh hơn chúng ta tưởng. Vì vậy tôi được lệnh phải báo cho ông biết Lãnh tụ Tối cao rất lo lắng...

— Tôi sẽ báo cáo rõ cho ngài biết - Raza cắt ngang.

— Đừng để cho ngài bị phiền phức. Ngài yêu cầu tôi hỏi ông để ông trả lời cho ngài biết.

— Vậy thì anh hãy báo cáo với vị Lãnh đạo Tối cao là ngài không việc gì phải lo sợ. Tôi xin hứa như vậy.

Im lặng một hồi lâu. Anh chàng thông thái rởm lại lên tiếng :

— Thôi được. Tôi sẽ báo cáo lại với ngài.

Raza gác máy điện thoại. Bất kể chuyện gì đã xảy ra, hắn cũng vẫn phải tiến hành công việc đã định. Nếu hắn chờ đợi, chỉ tổ giúp cho Morton có thì giờ hành động. Hắn quay lại, thấy Nadine đang đứng nơi ngưỡng cửa.

— Có cách nào em giúp được anh không ? - Chị dịu dàng nói.

Hắn nhìn chị chằm chằm rồi gật đầu nói :— Đi với anh.

Chị theo hắn đến phòng phát sóng. Hắn nhét vào tay chị một tờ giấy rồi ra lệnh cho chị đọc nội dung trong cuốn băng, yêu cầu thả hết những cảm tử quân ra.

Giọng Nadine bình tĩnh, uy nghiêm, Lila không đạt được như thế. Hắn mở máy để thu âm. Lại một lần nữa, giọng chị hoàn hảo thông suốt, xong một cuộn, hắn thay cuộn khác.

— Em đọc rất hay - Hắn dịu giọng.

— Với một cô giáo giỏi, thì việc này dễ thôi.

Hắn chằm chằm nhìn chị. Cuối cùng hắn hài lòng, bèn quyết định.

— Chúng ta đem cuộn băng này đến Athens.

Hán thường dùng một đài phát thanh ở thành phố để phát đi lời tuyên bố. Đài nào thường phát đi một cuộn băng trước đây chưa được phát hành, sẽ chuyển tin đến cho các cơ quan báo chí khác biết.

Nadine giương to mắt nhìn hắn.

— Chúng ta... ?

Những gì hắn nói đã làm cho chị quá tự hào.

Mặt hắn dịu lại.

— Khi chúng ta đến đấy, em không chỉ là vợ anh, mà em còn là một chiến sĩ "Cảm tử quân" nữa.

Nadine gật đầu, nghẹn ngào không nói nên lời trong một lát. Khi chị nói, giọng chị chứa chan lòng cương quyết.

- Em xin hứa với anh, em sẽ không làm phụ lòng anh đâu.

Chị biết chị không làm thế vì Shema nữa. Mà chị làm thế cho chính chị, vì chị thèm muốn hắn, vì chị yêu hắn.

— Chúng ta sẽ ra đi trong vòng một giờ nữa - Raza vừa lấy cuộn băng lên, vừa nói với chị.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
601,786
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 17


Người dịch: Văn Hòa - Kim Thùy

Nhà xuất bản: NXB Thanh Niên

Shared by: CCG -

Morton cảm thấy bánh xe trước mũi chiếc Concorde nâng bổng lên khỏi đường băng và thấy đôi cánh bay nghiêng, vút lên không trung. Một lát sau, các bộ phận máy móc dùng hạ cánh đều co lên đưa vào bụng máy bay, và chiếc mũi khoằm nằm vào vị trí bay theo đường thẳng. Vị trí này giữ yên cho đến khi máy bay vào không phận nước Anh.

Bốn giờ đã trôi qua sau buổi họp điện đàm thượng đỉnh, chuyến bay này cất cánh.

Bên trong chiếc Concorde đã được thiết kế để tạo nên một tổng hành dinh mặt trận trên không. Ở đây, Thủ tướng Israel và những thành viên chủ chốt trong Hội đồng sẽ tiến hành cuộc chiến cuối cùng của Israel. Karshov đã dành cho Morton chiếc máy bay trong suốt chiến dịch này.

Ở sau buồng lái là cabin của Thủ tướng. Trong cabin có một giường ngủ. Tiếp theo đó là chỗ ngồi cho các phụ tá, rồi phòng họp và toalét. Phần còn lại của máy bay dùng làm trung tâm truyền tin, với thiết bị trên tám mươi triệu đô la gắn gọn gàng vào phần từ giữa máy bay cho đến đuôi.

Chiếc Concorde nghiêng bốn mươi độ khi máy tính điều khiển máy bay hướng về phía bắc. Với tốc độ bốn trăm cây số/giờ chiếc máy bay quành trên bờ bể Tel Aviv rồi nhanh nhẹn bay lên, băng qua Địa Trung Hải. Trong lúc máy bay cất cánh, những máy bay kỹ thuật nối chiếc Concorde với vệ tinh viễn thông quốc phòng đã được đặt vào vị trí cao mười nghìn dặm trên sa mạc Nagev.

— Chúng ta đã nối đường dây với Thủ tướng rồi đấy - Người sĩ quan trung tâm viễn thông nói với Morton.

Trên máy bay, chỉ có Morton mới vượt quá quyền hạn của người mặc đồ bay có bộ râu mép, người chỉ huy ba mươi chuyên viên điện tử này.

Morton quay chiếc ghế có lưng dựa cao để nhìn những màn hình cao sáu inh gắn vào vách ngăn với phòng lái. Điện bật sáng trên một màn hình rồi mặt của Karshov hiện ra. Không khí yên lặng.

— Chào anh, David.

— Xin chào Thủ tướng.

— Thủ tướng Kunzler vừa gọi điện cho tôi hay là ông ấy rất lo lắng sợ những gì anh làm có thể khiến cho Raza thù hằn nước Cộng hòa Liên bang đấy.

Kunzler đang nắm giữ chức vụ cao nhất của nước Đức thống nhất.

— Ngài đã nói gì với ông ta ? - Morton hỏi.

— Tôi nói ông ta cứ làm những gì tôi đang làm, cứ làm ngơ đi và tôi thề rằng anh không hề nói cho tôi biết - Karshov cười khúc khích.

— Xin cám ơn ngài.

Bỗng Karshov trang trọng nói :

— Hiện anh đang ngồi ở chỗ của tôi đấy, David. Anh có thấy miếng thiếc nhỏ ở bên trái của anh đấy không ? Nâng nó lên đi.

Morton nâng một miếng thiếc sơn đen áp sâu vào trong một ô vuông kiểm tra. Bên dưới hộp có hai chìa khóa sơn đỏ.

— Chìa khóa mở cửa địa ngục đấy, David à. Nếu một ngày nào đó có cơ nguy dân tộc ta bị tiêu diệt, tôi sẽ ngồi vào chỗ anh đang ngồi và vặn chìa khóa đấy. Chúng không thể nào ngăn được kho vũ khí nguyên tử của chúng ta nổ tung được. Cho dù tôi ngồi hàng giờ trên ghế ấy, tôi vẫn chưa hề nghĩ đến trận chiến cuối cùng nằm kề gang tấc với mình cả.

Morton nhẹ nhàng hạ cái nắp xuống. — Tôi hy vọng Ngài sẽ không bao giờ đóng vai Chúa cả, thưa Thủ tướng.

— Anh bây giờ rất có khả năng đóng đấy.

Sau khi khuôn mặt của Karshov đã biến mất rồi, Morton vẫn ngồi yên, lắng nghe nhân viên của ông tìm băng tần và kiểm tra tần số. Một lát sau, người sĩ quan truyền tin báo :

— Thiếu tá Nagier đang gọi trên đường dây tiếp vận số hai.

Morton quay qua màn hình.

— Có gì mới không, Danny ?

— Lính của Yertzin đã tiến vào, sáu mươi lính biệt kích tinh nhuệ, tất cả đều là cựu chiến binh ở Afghan. Họ nhờ hai nhân viên của Đô đốc đi theo để liên lạc với vệ tinh của cơ quan An ninh quốc gia NSA.

— Vệ tinh nào ?

— Vệ tinh GWEN.

Morton nhìn viên sĩ quan truyền tin. Vệ tinh "Mạng lưới Địa Ba Khẩn" (GWEN - Ground Wave Emergencywork) là một vệ tinh mới nằm trong kho vũ khí của cơ quan An ninh quốc gia NSA. Vị sĩ quan truyền tin gật đầu. Chiếc Concord đã được trang bị máy móc để nhận tin từ vệ tinh này.

— Chúng ta sẽ ráp nối với vệ tinh ấy, Danny à.

— Tôi đã yêu cầu họ nối với vệ tinh Milstar rồi.

Hệ thống trên vệ tinh này rất bí mật và rất phức tạp khi sử dụng. Nó bay quanh trái đất và liên lạc được rất nhanh, rất bảo đảm giữa các cấp chỉ huy với nhau. Danny nói tiếp :

— Chúng ta đã nghe cuộn băng của Michelle lấy được. Cũng chính người phụ nữ này nói trong những cuộn băng khác. Ngoại trừ giọng lịu trong cuộn này có phần dễ chú ý hơn. Tôi đã sao gởi một cuộn đến cho Lacouste rồi. Cuộn băng đem thẳng đến cho Nội các nghe.

— Ông ấy có nghĩ là họ sẽ nhượng bộ không ?

— Ông ấy đang cố gắng thuyết phục họ vững tâm đấy.

— Có dấu hiệu gì ở Nam Phi giúp Lester tìm ra con đàn bà này không ?

— Hoàn toàn không có. Có một toán du lịch Hy Lạp trở về vào đêm đó. Máy vi tính bị hỏng khiến cho chuyến bay hoãn lại hai giờ. Vorag cho biết người Hy Lạp phản đối ghê lắm. Theo tôi thì họ rất cầu an. Athens lại thiếu thiện chí nữa, lần thứ ba trong tháng này. Còn chuyện nữa, một máy nghe lén gài trong máy vi tính của Phòng Nhập cư cho biết các máy bay đã bị dồn ứ lại giữa La Mã và Damascus.

— Còn gì nữa không ?

— Percy West cho biết ông ta đã cho xe ra đón anh. Nhưng ông ta không đi được. Ông ấy bận báo cáo tại đại lộ Downing. Vì vậy Fuller sẽ ra đón anh. Sau đó họ sẽ gặp anh tại đại lộ Foley.

Đại lộ Foley là nơi cơ quan Mossad đặt trụ sở mật tại Luân Đôn.

— Anh đã chấm dứt công tác của Costas chưa ?

Costas Calcanis, nhân viên mật vụ của Mossad tại Athens, là người được Bitburg chỉ định đầu tiên. Vì thế mà Calcanis thường không hoàn thành nhiệm vụ của Morton giao phó. Anh ta làm việc cũng tốt đấy, nhưng nhiều lúc anh ta có phần trình diễn và hầu như ngỗ ngược. Có lẽ vì thế mà Bitburg lại thích, ông ta dùng để kiểm tra người nào đối nghịch lại với mình.

— Tôi đã mật gởi đến cho anh ta những tin chặn được. Thêm những chi tiết do Steve và Cụ Gù cho biết về người đàn bà ấy.

Mỗi nhân viên mật vụ Mossad đều có máy nghe tí hon để nhận được những lời nhắn qua vệ tinh viễn thông quốc phòng. Vì là đang trong giai đoạn thí nghiệm cho nên Calcanis cũng là người đầu tiên có máy nhỏ bỏ túi ấy để trắc nghiệm trong vùng. Danny cười toe toét.

— Lần trước chúng tôi gọi đến anh ta, máy cứ hoạt động, còn Costas thì không tắt đi. Lúc ấy anh ta đang đi xem hát, anh ta đóng vai một bác sĩ đeo máy bip bên người phòng có trường hợp khẩn gọi đến.

— Cho anh ta nghỉ việc càng sớm càng tốt. Tôi cảm thấy an tâm hơn khi Athens không còn là nơi phải lo lắng nữa.

Sau khi Danny đã biến mất trên màn hình, Morton ngồi nhìn vào đồng hồ hiện số chỉ tỉ lệ số Mac (số tỉ lệ giữa vận tốc với vận tốc âm thanh) gắn trên vách ngăn với buồng lái, con số tiến dần đến một ngàn Mac khi chiếc Concorde vượt bức tường âm thanh. Thế rồi ông lại một lần nữa nghĩ đến cách trả lời những điều người ta sẽ hỏi ông ở Đức. Cô ta đã ra sao rồi sau hai năm bị cầm tù đây ?

*

**

Còn cách khoảng năm mươi dặm và ở độ cao khoảng một ngàn rưỡi mét, chiếc Airbus của hãng Hàng không Pháp bay từ Tripoli đến Athens đã trễ mất ba mươi phút vì máy vi tính ở phòng nhập cư đã bị hỏng.

— Thưa quý bà quý ông, bất kỳ ở phi trường nào, cảnh chậm trễ như thế này cũng là một vấn đề khó khăn sẽ được giải quyết chóng vánh thôi - Tiếng xin lỗi trong buồng lái cất lên - Nhưng hiện dưới đất báo cho chúng tôi biết phi đạo đang kẹt cứng, cho nên họ muốn chúng tôi bay thêm ít vòng nữa. Tôi chắc quý ngài sẽ thông cảm cho hoàn cảnh của họ.

Raza quay về phía Nadine, chị ta ngồi ở bên cửa sổ vé hạng nhất, hắn bóp chặt hai tay chị trong tay mình. Chị cười với hắn, hai mắt long lanh vì kích động.

Trước khi rời trại, hắn đã điện thoại cho người liên lạc của tập đoàn tu sĩ Hồi giáo ở Tripoli, nói cho người này biết hắn muốn gì. Người này gọi đến Athens và ngay sau đó máy vi tính gặp phải trục trặc. Máy tiếp tục không hoạt động được thêm một giờ nữa sau khi chuyến bay đến Tripoli đã hạ cánh. Raza ngước mắt nhìn lên. Cô tiếp viên hàng không đang đứng bên cạnh hắn, tay cầm chai sâm banh, miệng cười tự nhiên.

— Ông dùng một ly khi chúng ta lượn quanh nhé ?

Hắn lắc đầu và cười để xua cô ta đi. Raza chọn Nadine để đóng cặp với hắn rất cẩn trọng. Hắn cho chị ta ăn mặc để đóng vai cô dâu mới. Chị không cần phải hóa trang. Hắn không thể làm cho chị mất nét thơ ngây được.

Trong thời gian hắn ở Moscou, người huấn luyện viên KGB đã nói rằng hóa trang càng giản dị càng tốt. Chỉ thay đổi cái chính yếu thôi, luôn luôn làm cho mình già hơn thì tốt. Raza nhuộm tóc và lông mày cho bạc ra rồi hóa trang khuôn mặt cho thành một gã trung niên. Hắn đeo cặp kính gọng màu xám. Dưới áo sơ mi, hắn mặc chiếc áo dài mỏng độn hai vai cho rộng thêm và độn bụng cho phệ ra như một tay cự phú. Mấy chiếc răng, hắn tô cho vàng ra. Hắn đeo trên ngón tay chiếc nhẫn cưới mới lóng lánh so với cái nhẫn cưới của Nadine. Cả hai đều đi du lịch bằng giấy thông hành của Pê Ru.

Tựa người qua Nadine, Raza nhìn nhiều chiếc máy bay khác đang lượn quanh trên không. — Tuyệt - hắn nói nho nhỏ - Thiên hạ sẽ nổi điên lên hơn thường ngày ở các phòng nhập cư và quan thuế. Rồi sẽ xảy ra cảnh gắt gỏng vì máy móc bị hư hỏng, cố giữ cho mọi người tiếp tục di chuyển, tránh gây phiền nhiễu. Athens quả là phi trường hắn ưng ý nhất.

Cô tiếp viên hàng không trở lại để thu hồi báo chí. Tất cả báo chí đều nằm yên trong túi bọc ở ghế ngồi trong suốt chuyến bay, Raza đưa tay lấy hết ra. Tờ International Herald Tribune rơi xuống và mở ra, tất cả các nhan đề đều viết về Trekfontein, những vụ nổ ở khách sạn và tai họa ở Athens. Raza lấy tờ báo lên, rồi vẫy tay xua cô tiếp viên đi với vẻ khó chịu.

Những bài tường trình từ Luân Đôn, Paris và Washington đều cho thấy cuộc săn lùng đang ráo riết. Cứ để cho chúng săn lùng đi. Nơi nào bị săn lùng là nơi ấy đi lại được an toàn hơn. Hắn quay sang câu chuyện viết về vụ nổ ở Athena. Chỉ có một thi thể được nhắc đến mà thôi. Bác sĩ pháp y tin rằng thi hài không nhận diện ra là một thiếu nữ mang một số chai lọ theo ; những mảnh chai đã tìm thấy lẫn lộn trong đám xương vụn. Một phát ngôn viên của cảnh sát nói rằng cô ta có thể là một người bán thuốc dạo thường thấy rất nhiều ở Athens.

Raza xếp tờ báo đưa cho Nadine. Hắn vỗ vỗ vào tay chị rồi áp miệng vào sát tai chị : — Không cần lo lắng lắm. Hơi nóng chắc đã tiêu hủy hết cả rồi.

Nadine cảm thấy hắn đã cố gắng hết sức để giữ bình tĩnh, nhưng vẻ điên loạn vẫn còn đấy, hiện trên mắt trên môi hắn, rồi biến mất. Chị đưa tay âu yếm vuốt mặt hắn.

Cô tiếp viên trở lại, mang theo khăn lau ấm. Raza đưa tờ báo cho cô ta. Hắn và Nadine lấy khăn ấm lau tay rồi đưa lại cho cô tiếp viên. Không ai nói chuyện với cô ta trong suốt chuyến bay. Raza học được một bài học ở Moscou nữa, là tránh những cuộc tiếp xúc không cần thiết.

Ba mươi phút sau, họ đã qua được hai trạm nhập cư và thuế quan trót lọt. Raza đưa giấy thông hành qua quầy. Giấy thông hành được đóng dấu và trả lại cho hắn. Một viên chức thuế quan viết phấn lên hành lý hắn mà không yêu cầu mở mấy chiếc cặp da đắt tiền ra khám xét. Raza đã nghe theo lời khuyên của KGB, hắn mua loại cặp thật đắt tiền để tăng thêm vẻ sang trọng lên.

Ra ngoài phòng khách của phi trường, Raza nhanh nhẹn, khôn khéo nhìn vào đám đông. Chỉ có Cairo hay Mexico mới hấp dẫn nhiều khách đến đón máy bay thôi. Mùi thuốc lá và mùi mồ hôi nhắc Nadine nhớ đến không khí hôi hám ở vùng ngoại ô Beirut. Raza trông thấy Lila. Hắn chen qua đám đông tiến đến phía chị ta.

— Xin chào - Lila nói nho nhỏ, vừa hôn cả hai má Raza.

— Anh rất vui sướng được gặp lại em - Hắn trả lời. Hắn bỏ đi và nhìn Anna. Hắn không bước đến để ôm hôn cô ta. Cô ta cười, vẻ xanh xao buồn bã.

Sau khi Nadine đã chào hỏi lấy lệ hai người phụ nữ, họ đều bước ra khỏi phi trường, không ai nói gì với nhau hết. Chỉ có mình Nadine mới biết được sự giận dữ của Raza đang sắp bùng ra mà thôi. Anna đã nhắc cho hắn nhớ lại cảnh thất bại ấy.

Tập đoàn tu sĩ Hồi giáo đã dành cho hắn một chiếc Mercedes tại Athens. Trong lúc Anna chất va li vào thùng xe, Raza vào ngồi ở phía sau xe với Nadine. Hắn nhìn ra cửa xe, hai tay đan mấy ngón vào nhau để trong lòng. Nadine biết đấy là dấu hiệu cho thấy hắn đang lo âu.

Anna ngồi vào tay lái, chị lái xe theo hướng về Athens. Tất cả đều im lặng, không khí thật nặng nề đáng sợ. Khi vào thành phố, Lila đang ngồi ở ghế trước quay lại nhìn Raza. Chị ta nói :

— Zelda chết hoàn toàn do tai nạn.

— Đúng thế, đúng thế - Anna hăng hái đáp.

Raza rít lên trong miệng : — Chúng ta sẽ nói đến chuyện này khi tôi hỏi cô.

Hắn quay nhìn ra cửa xe. Nadine thấy Anna lo sợ ra mặt. Họ lặng lẽ lái xe về căn hộ của tập đoàn tu sĩ Hồi giáo. Căn hộ nằm ở tầng trệt, gồm ba phòng tiếp khách, năm phòng ngủ, mỗi phòng đều có phòng tắm riêng. Lại còn có một nhà bếp và một phòng ăn rộng rãi thông với hành lang rộng. Đồ đạc trong phòng nhắc cho Nadine nhớ đến vila : cũng toàn đồ gỗ chạm trổ, nặng nề, sẫm đen, và ghế dựa toàn bọc da lạc đà. Raza quay qua Anna :

— Đi pha trà đi. Khi nào xong báo cho tôi biết.

Không nói một lời, hắn bước ra hành lang, hai tay nắm chặt thanh sắt tròn trên lan can, ngẩng đầu lên nhìn mặt trời, đôi môi mấy máy không thành lời.

— Tôi biết anh ấy không hề cầu nguyện mà - Anna nôn nóng nói.

Nadine lạnh nhạt nhìn cô ta.

— Anh ấy không cầu nguyện. Anh ấy nguyền rủa những gì đã xảy ra. Tất cả kế hoạch của anh gần như hoàn toàn thất bại vì sự ngu ngốc của Zelda.

Chị đem va li của mình vào căn phòng chính dành cho chủ nhà. Phòng kê một cái giường đôi lớn, chung quanh giường kê nhiều ghế dài bọc nệm. Tủ áo quần chạy dọc theo một bức tường. Phòng tắm lát bằng đá thạch anh màu đỏ. Bỗng giọng Lila cất lên :

— Buồng tắm thường làm cho tôi tưởng tượng nhiều cảnh hấp dẫn.

Nadine quay lại. Lila đang đứng bên cạnh giường, mỉm cười. Nadine nhìn chị ta rồi nhíu mày. Lila bước đến phía chị, vẫn tươi cười. Chị ta đang mở nút áo chiếc áo khoác dài.

— Đừng cau có, cưng ! - Cô ả nói nho nhỏ. Á bước đến gần hơn, đưa tay sờ vào mặt Nadine.

— Dừng lại ! - Nadine nắm cổ tay Lila, đẩy ra.

Hai người đứng yên một lát, lượng sức nhau và chờ xem.

— Đừng cau có, cưng à - Lila lại nói.

— Tao đâu có cau có - Nadine đáp, rồi đẩy mạnh cô ta ra xa.

Lila cười tinh quái nhìn chị. Cô ả rất cần xả hơi sau những ngày quá căng thẳng vừa rồi. Tuy có Anna, nhưng khó làm cho cô ả hài lòng được. Cô ta nói nho nhỏ :

— Mày thật quá đẹp cho đàn ông đấy.

— Lila, tao yêu anh ấy - Nadine đi qua mặt Lila, chị đặt chiếc va li lên giường. Chị mở va li ra.

— Này cưng, Raza không biết yêu là gì đâu. Còn mày thì có tin thật rằng mày là người duy nhất không ? Anh ấy không bao giờ thỏa mãn đâu.

Nadine quay phắt người lại. Chị nắm trong tay con dao găm chị mang theo trong quần áo. Chị đung đưa cán dao trong tay, rồi nhanh như chớp, phóng mạnh cây dao.

Cây dao găm vào khung cửa, cách đầu Lila môt inh.

Nađine quay lại, lấy trong va li ra một con dao khác.

— Đừng nói về chồng tao như thế - Nadine gằn giọng nói. Chị bước đến lôi con dao ra khỏi khung gỗ, rồi bước lui nhìn vào mặt Lila - Mày tránh xa anh ta ra ! Và xa cả tao nữa !

Không nói một lời, Lila bước ra khỏi phòng ngủ.

Nadine lại soạn đồ tiếp trong va li ra. Chị đã học cách phóng dao khi còn nhỏ. Không ai địch nổi với chị ngoài Shema.

Shema! Từ khi rời Tripoli, chị không hề nghĩ đến người em mình. Chị biết chị vẫn còn mong muốn cho em chị được tự do, nhưng chị không muốn Shema lại đẩy chị vào hậu trường thêm một lần nữa. Chị lấy làm lạ là chị không hề thấy tội lỗi về chuyện này.

Khi Raza gọi to, kêu chị vào phòng khách với hắn, thì chị đã thấy Lila và Anna ngồi bên nhau trên một ghế dài. Tách trà nhỏ và một bình thủy tinh đầy nước trà có pha lá bạc hà tươi đã để ở trên bàn.

Bên cạnh đó là năm chai "Đêm Hy Lạp" còn lại, chứa đầy vi rút bệnh than B.c. và một thùng bìa cứng đựng hai tá chai nước hoa không.

Raza đứng dưới một bức tranh lồng trong khung mạ vàng họa hình một người có khuôn mặt hồng hào đội chiếc khăn trùm và mặc áo dài đen.

Nadine đến ngồi trong một ghế nệm, khép hai chân lại, hai bàn tay để trên bụng. Raza thích chị ngồi như thế trước công chúng. Chị thấy mạch máu hai bên thái dương hắn nhảy mạnh. Chắc là hắn đang đau đầu như búa bổ rồi. Chị đứng dậy, đến bàn rót một tách trà, đưa cho hắn.

Hắn uống trà nóng từng hớp, nuốt ừng ực, mắt nhìn Anna rồi nhìn qua mấy chai nước hoa. Tại sao con đĩ ngựa ấy lại không cố cứu lấy mấy chai nước ấy chứ ?

— Anh uống nữa không ? - Nadine vừa đỡ lấy chiếc tách trên tay hắn, vừa hỏi.

Hắn gật đầu, cặp mắt vẫn không rời Anna, ánh mắt hắn thật dữ tợn. Nadine rót cho hắn hai tách trà nữa, hắn uống hết nhưng vẫn không nói một lời. Sau khi uống hết tách thứ ba, Nadine thấy mạch máu trên thái dương hắn bớt đập. Hắn vẫy tay xua chị đi, chị trở lại ngồi vào chỗ cũ.

— Ân nhân của chúng ta - Bỗng Raza lên tiếng, vừa đưa mắt nhìn bức chân dung - Ayatollah Muzwaz tin tưởng tôi sẽ thực hiện kế hoạch của ngài thành công. Ngài tin tôi vì tôi luôn luôn nói cho ngài biết sự thực.

Hắn quay lại nhìn chiếc ghế dài, một lần nữa hắn nhìn An na. Cặp mắt hắn lúc ấy trông thật vô cảm. Khi hắn cất tiếng nói, giọng hắn bỗng dịu dàng, như hắn đang nói với một đứa bé.

— Cô có biết con ấy mang mấy cái chai đi không ?

Nadine thấy mặt cô gái có vẻ ngạc nhiên trước sự thay đổi thái độ của hắn. Anna gật nhẹ đầu, mắt nhìn xuống.

— Cô có cản nó không ?

Anna vẫn nhìn xuống, lắc đầu.

— Tại sao lại không cản ? - Raza hỏi, giọng hắn vẫn dịu dàng - Tại sao lại không ?

Anna ngẩng đầu lên. Nước mắt cô giàn giụa. — Em không nghĩ là...

Hắn nhìn cô gái, gật gù :

— Không, cô không hề nghĩ đến.

— Em xin lỗi - Anna nói nho nhỏ.

Nadine thấy nét dữ tợn lại xuất hiện trên mặt hắn. Raza quay phắt đi, nhìn vào bức chân dung. Cô ta phải bị trừng phạt. Nhưng chưa phải lúc này. Trừng phạt bây giờ chỉ tổ gây nguy hiểm cho công việc mà thôi.

Khi Raza quay lại, Nadine thấy hắn bình tĩnh trở lại.

— Đừng có mắc sai lầm thêm nữa - Hắn bình tĩnh nói.

Anna vội gật đầu. Lila và Nadine cũng gật theo.

— Rất tốt ! Vì sự việc tồi tệ đã xảy ra, nên công việc phải thay đổi - Hắn nói tóm tắt công việc, rồi bước đến bên đống chai lọ.

*

**

Ở phía đông của thành phố Paris, chiếc Concorde đang hạ cánh.

— Nội các chia làm hai phe - Lacouste nói ở trên màn hình - Một nửa muốn thả chúng ra. Nửa kia muốn giữ bọn cảm tử thêm một thời gian lâu Hơn, họ hy vọng sẽ ngăn chặn Raza mở thêm đợt tấn công nữa vào Paris.

Morton xoay người trong ghế ngồi.

— Trước đây có bao giờ xảy ra như thế đâu ? Bây giờ cũng nên thế. Nếu dân tộc ông suy yếu, thì đại sự sẽ sụp đố đấy. Tôi thấy khó mà đoàn kết họ lại quá.

— Còn những người Ý thì sao ?

— Cũng như người Đức và Hà Lan. Những chính khách của các nước này bắt đầu chống lại hiện tượng kiểm soát chặt chẽ của chính quyền. Chậm trễ vài giờ ở phi trường và ở biên giới là đủ cho họ quấy động cử tri lên rồi. Cử tri bèn kêu gọi các nghị sĩ. Nghị sĩ kêu gọi Thủ tướng. Thủ tướng ra lệnh cho cơ quan an ninh tìm cách dàn xếp. Chuyện như thế này đã xảy ra ở Roma và ở Hague. Nếu dân tộc ông cứ để tự do cho bọn khủng bố, thì chúng ta lại sẽ rơi vào tình trạng ngày xưa. Châu Âu sẽ giống như miếng phó mát, miếng phó mát có đủ chỗ trú ẩn cho người của Raza đến rồi đi tùy thích !

Laaouste thở dài. — Thật chó má ! Chó má ! Chó má ! Tôi sẽ đến thúc đẩy họ thêm nữa xem sao.

Khuôn mặt ông ta biến mất. Morton quay sang chiếc màn hình bên cạnh, Matti đang đợi để nói chuyện với ông tại tòa Lãnh sự Israel ở New York.

— Mạnh khỏe không, Matti ?

— Dạ, mạnh khỏe - Anh đáp - Ngay bây giờ chúng tôi đang lo công việc này đây : Năm trăm tên đầu tiên trên danh sách tôi đưa cho họ đã được Trung tâm Dò tìm và Phân tích bọn khủng bố (TRAC - Terrorist Research and Analytical Center) điều tra phân tích. Họ cho biết không hề có một con tem bưu điện nào có dấu để chứng tỏ có sự liên kết giữa bất kì người nào với Raza.

Trung tâm Dò tìm và Phân tích bọn khủng bố (TRAC) đã được cơ quan FBI thành lập sau khi những vụ cướp máy bay đầu tiên đổ đến Beirut. Nhiệm vụ đầu tiên của họ là theo dõi những sự tiếp xúc của chúng.

— Họ còn tiếp tục dò bao nhiêu tên nữa ?

— Trên bốn ngàn. Họ dự trù phải mất ba ngày nữa - Matti nói.

— Lâu quá. Họ nên làm trong hai ngày thôi, hai ngày là tối đa.

— Tôi sẽ nói với họ như thế. Tôi đã phân chia nhân viên trong nhóm Cải Tổ Nhanh để nghe lén đủ thứ, và đặt trọng tâm vào Liên Hiệp Quốc và những tòa Đại sứ Ả Rập ở Washington. Họ đã gài máy điện thoại nghe lén khắp nơi. Nhưng lại vẫn không phát hiện được gì cả.

Matti dừng lại, nhìn vào những lời ghi chú. — Bill Gates, cũng không có gì. Ông Đô đốc cũng thế. Lou cho biết ai cũng chờ vào mạng lưới điện tín...

— Còn Tòa Nhà Trắng thì sao ?

Matti nhún vai.

— Appleton vẫn không đáng tin như hồi nào.

Brent Appleton là cố vấn an ninh quốc gia của Tổng thống. Từ ngày được chỉ định vào chức vụ này, ông ta không giấu giếm cảm tình thân Ả Rập của mình chút nào hết.

Matti nhăn mặt.

— Vấn đề thế nào cũng xấu thêm vào tháng mười một sắp đến, khi Tổng thống vận động nhiệm kỳ hai cho mà coi.

— Appleton sẽ làm gì ?

— Ông ta hành động rất mị dân, tuyên bố huỵch toẹt ra hết. Ông muốn có Hải quân à, ông ta giao cho ông đấy. Ông ta sẽ giao cho ông bất cứ thứ gì miễn là ông đừng có kế hoạch chống lại nước Ả Rập nào cả.

Natti dừng lại, lắc đầu. — Khi ngồi riêng với Tổng thống, ông ta sẽ rỉ tai Tổng thống rằng đụng đến Iran và Iraq là tương lai chính trị sẽ trở thành mây khói ngay.

Jimmy Carter đã chấm dứt nhiệm kỳ Tổng thống vì không cứu được những con tin Mỹ đầu tiên bị bắt giữ ở Trung Đông, các nhân viên Tòa Đại sứ Mỹ ở Teheran. Tám năm ở trong tòa Nhà Trắng của Ronald Reagan đã bị hoen ố vì vụ tai tiếng về việc lén lút bán vũ khí cho Iran để đổi lấy tự do cho những con tin Mỹ khác ở Beirut. Chiến tranh vùng Vịnh đã chấm dứt nhiệm kỳ Tổng thống của George Bush khi mà đất nước chia rẽ trầm trọng kể từ chiến tranh Việt Nam.

Morton bèn quyết định nhanh.

— Tôi sẽ nói chuyện với Appleton. Trong lúc đó anh cứ tiếp tục kiểm tra xem hai ngàn tên tôi vừa chuyển cho anh, những tên ấy do máy tính Honeywell đưa ra đấy. Những tên ấy chắc cũng toàn là những trí thức và thương nhân cả, nhưng cũng có thể có một tên mấu chốt.

Khi hình dáng nghiêm khắc của Brent Appleton hiện ra trên màn hình thì chiếc Concorde vừa đến bờ biển nước Pháp. Trông ông lùn tịt trong chiếc ghế bành. Morton biết Appleton trông không hấp dẫn mấy nhưng lại rất thông minh.

— Xin chào đại tá - Appleton lạnh lùng cười phớt - Tôi có thể giúp gì cho ông được không ?

Morton nói cho ông ta biết về sự rạn nứt trong nội các Pháp và những diễn biến trong nội các Ý và Hà Lan.

— Tôi biết rồi - Appleton hói, ông ta đan mấy ngón tay được trau chuốt vào nhau. - Trong bối cảnh chính trị rộng rãi, tôi hiểu, và còn thông cảm nữa về phản ứng của họ. Người Ý và Hà Lan luôn luôn có mối liên hệ tốt đẹp với người Ả Rập. Trong nhiều phương diện, tất cả chúng ta nên bắt chước họ thực hiện nhiều việc như thế. Dĩ nhiên trên thực tế, công việc xảy ra với Raza đã làm khó khăn công việc giao hảo mới mẻ với thế giới Hồi giáo. Sở dĩ tôi là người đầụ tiên cho rằng ta phải hòa hoãn với Raza, là vì tôi hy vọng những cuộc thương thảo vốn mong manh giữa chúng ta và người Ả Rập có cơ đi đến kết quả thành công được.

— Nếu tôi không loại Raza ra thì không có cách nào để thương thảo được. Ngay bây giờ, tôi chỉ lo có chuyện ấy - Morton bình thản nói.

— Nhưng tôi lại thấy vấn đề rộng lớn hơn - Appleton gay gắt nói - Tổng thống không những chỉ muốn đàm thoại với Damascus thôi, mà ông còn muốn mở những cuộc đàm thoại mới với cả Teheran và Baghdad nữa.

— Thế lại càng nên loại Raza đi.

— Dĩ nhiên rồi - Appleton vội vã cướp lời - Nhưng rất nhiều người trong vùng này lại xem hắn là một anh hùng. Họ cho rằng hắn đã hành động đứng đắn. Tất cả chúng ta có thể không đồng ý chuyện này. Nhưng chúng ta phải xem xét vấn đề cho kỹ. Quan điểm của Damascus hay của Teheran rất khác biệt với quan điểm của Washington, hay của Tel Aviv.

Morton cảm thấy giận tím cả người. Ông hỏi :

— Phải chăng ông sẽ nói với Tổng thống của ông như thế ? Phải chăng thực tế không có sự khác biệt nào giữa một quốc gia buộc lòng phải tự vệ hay đã bị tấn công, và bị tàn sát và nỗi kinh hoàng khủng khiếp do Raza gây ra ?

Mấy ngón tay của Appleton duỗi ra. Khi ông ta nói, giọng ông ta nghe thật lạnh lùng như không khí ngoài máy bay :

— Thưa đại tá, chuyện tôi nói là chuyện giữa Tổng thống với tôi. Nhưng tôi xin thưa với ngài như thế này : chúng tôi sẽ làm theo khả năng của chúng tôi trong công việc ủng hộ ngài. Nhưng tôi sẽ lưu ý Tổng thống tuyệt đối không làm việc gì phương hại đến tương lai của đất nước chúng tôi.

Mặt của Morton cũng đanh lại như giọng nói của ông :

— Ông không muốn bảo đảm cho Tổng thống tái đắc cử hay sao ?

— Tôi chỉ bảo đảm Tổng thống không dấn thân vào việc xung đột vô bổ giữa ông với người Ả Rập mà thôi. - Appleton nói nhanh.

Morton thấy Appleton nhìn đồng hồ Rolex trên tay.

— Xin thưa với ông như thế này, ông Appleton. Nếu tôi phát hiện ra những gì ông nói hay ông làm có liên quan đến việc của tôi, thì ông phải chịu trách nhiệm với tôi đấy.

— Ông hăm dọa tôi đấy ư, ngài đại tá ?

— Không phải, tôi chỉ nhắc ông nhớ những gì phải dành ưu tiên. Tất cả những phương cách nào để Tổng thống của ông tái đắc cử. Nhưng đừng có hòng tôi phải trả giá đắt. Xin chúc ông môt ngày tuyệt hảo, ông Appleton.

Morton quay lưng lại trên màn hình trước khi màn hình tắt.

Ba mươi phút sau. Morton bước xuống theo đường dốc ở căn cứ không quân Hoàng gia Anh ở Northolt, chiếc Concorde phải hạ xuống đây để tránh cảnh kẹt xe ở phi trường Heathrow do những biện pháp kiểm soát an ninh nghiêm nhặt gây ra.

Wolfie đến đón ông trong chiếc xe của Chính phủ do Percy West phái đến. Morton ném cái túi xách lớn vào chỗ ngồi ở phía trước, bên cạnh anh tài xế nhà binh, rồi ông bước lên ngồi ở ghế sau xe.

Wolfie chạm nhẹ vào vai Morton. Anh nói : — Tôi chia buồn với ông, David. Fuller đã nói cho tôi biết.

— Cám ơn Wolfie - Morton vội nắm cánh tay Wolfie, - Rất sung sướng gặp anh.

Chiếc xe chạy ra khỏi sân bay, cổng ngoài phi trường có nhiều binh sĩ điều khiển chó đứng canh gác. Wolfie nói :

— Fuller nói đây là vụ nổ lớn nhất kể từ sau vụ đánh bom khách sạn Brighton của mặt trận IRA.

— Tôi chắc bọn đánh bom đi rồi. Nhưng Raza thế nào cũng còn để người lại đây.

Morton nhìn ra cửa xe, rồi quay sang Wolfie. — Michelle khỏe chứ ?

— Cô ấy khỏe. Người Ý lại phàn nàn đây. Họ lại kêu ca như mấy lần trước là cứ làm việc qua mặt họ, không xin phép họ.

Morton càu nhàu : — Nếu mình nói cho họ biết, thì tin tức lại lọt ra ngoài ngay, như lần đã xảy ra với Nidal đấy.

Hai năm trước, ông phát hiện ra chỗ nấp của Nidal ở La Mã, tại khu Trastevere. Bitburg cứ nằng nặc đòi báo cho đội Digo, đội chống khủng bố của Ý biết. Khi họ tấn công căn hộ hắn ở, Nidal đã biến mất. Chắc là đã có kẻ báo cho hắn biết.

— Bitburg lại nói xin lỗi rồi hoà thôi, Wolfie à.

Rời khỏi căn cứ không quân, xe băng qua những đường phía sau. Wolfie nói : — Có nhiều dữ kiện nhưng không rõ ràng về người phụ nữ đã chết ấy. Tôi đã đưa vào máy vi tính.

— Costas đã báo cáo gì chưa ?

— Anh ta gởi đến một bức fax cách đây một giờ. Anh ta có tin về những tên đánh bom trở về Beirut qua ngõ phía bắc Hy Lạp, anh ta đang đi theo dõi.

— Rồi sao nữa?

— Chẳng có gì. Hiện giờ anh ta đang theo dõi vụ nổ xe dầu. Một tai họa hy hữu. Bây giờ đã thấy bốn mươi người chết. Cũng may là vào đêm khuya, không thì số thương vong cũng gần bằng con số ở khách sạn.

— Có nhíều phụ nữ không ?

— Costas cho biết khoảng trên một chục người. Toàn là các bà nội trợ. Có hai cô gái điếm. Và theo họ thì có một số là dân lang thang. Anh ta bảo là có lẽ họ không nhận diện ra được con ấy.

— Tại sao họ biết con ấy là kẻ lang thang ?

Wolfie lấy trong túi ra một mảnh giấy.

— Cảnh sát Athens cho rằng con ấy là kẻ đi bán đồ dỏm bên vỉa hè, vì các bác sĩ pháp y đã tìm thấy nhiều mảnh chai vỡ nằm bên thi thể của nó.

— Loại mảnh chai gì ?

Wolfie nhìn vào tờ giấy. — Costas không cho biết. Nhưng có lẽ là những mảnh vỡ của đồ trang sức rẻ tiền. Vừa qua khi tôi đến đây, đã xảy ra tình trạng có nhiều dân đi bán hàng dỏm này, họ bán đủ thử.

— Kể cả nước hoa nữa chứ ?

Wolfìe nhìn Morton rồi lắc đầu. — Lạy Chúa Jesus, ông có nghĩ là con ấy đã mang theo thứ ấy không ?

Morton gượng cười.

— Không. Chúng ta đâu may mắn như thế.

Ông lấy tờ giấy Wolfie đưa, cẩn thận xếp lại rồi bỏ vào túi áo trong. Rồi ông nhìn ra cửa xe. Trời bắt đầu mưa. Mỗi lần ông đến Luân Đôn là trời lại mưa. Nan đã nói đấy là một điềm báo trước. Ông nhớ ông đã hỏi nàng điềm hên hay điềm xui, nàng chỉ cười bí ẩn. Đến nhà bí mật, ông sẽ gọi cho nàng.

Michelle vui vẻ đón hai người ở nhà. Ngôi nhà bí mật là một căn hộ kín đáo rộng chiếm hai tầng. Đồ đạc trang bị trong nhà trông rất đạm bạc, không có gì quý giá. Có vài bức tranh của Israel lồng khung đơn sơ treo trên tường.

Michelle ôm hôn Morton, rồi cô nói nho nhỏ :

— Em rất buồn, rất buồn về chuyện nhà không may của ông.

— Cám ơn cô.

Họ đứng yên một lát, rồi Morton bước đến thang lầu. — Tôi lên phòng nhé. - Ông nói.

Morton bước lên cầu thang, ông bước từng hai bậc một, mong chóng được ở một mình. Ngoài Ruth ra, ông không biết tìm nguồn an ủi ở ai hết.

Buồng ngủ kê một chiếc giường cũ kỹ chân cao, vải trải giường sờn cũ như thảm trải nhà. Trên bàn, ngay đầu giường có một máy điện thoại. Một cái ghế dựa gỗ cứng, một cái tủ áo đứng chơ vơ trong phòng. Một tấm màn kéo che cánh cửa sổ. Một cánh cửa thông với buồng tắm. Qua một cánh cửa khác, ông bước vào phòng mật.

Trong phòng mật, có một máy vi tính và một máy hiện hình VDU, nhiều điện thoại, một máy nghiền hủy giấy, hai máy fax và một cái tủ khóa số mật. Mấy cái ghế nhựa kê vừa đủ cho ba người ngồi trong phòng.

Cả hai máy fax đang nhận tin. Trạm ở Madrid báo cáo hải quân Tây Ban Nha đang lục soát tàu bè chạy ven bờ biển để tìm Raza. Nữ nhân viên mật vụ của Mossad ở Lisbon cho biết người Bồ Đào Nha cũng đang lục soát như thế. Gates gởi tin cập nhật của CIA : không có gì mới. Văn phòng của Đô đốc Burness báo cáo cho biết vệ tinh đã liên lạc với toán biệt kích của Yertzin rất hoàn hảo. Nhưng chưa có tin gì lạ để báo cáo hết.

Chantal đã gởi đến một tin nhắn. Lou Panchez đã gọi đến báo rằng Appleton đang bực tức, làm ồn lên về vụ ông ta bị đe dọa. Y muốn Tổng thống gọi cho Karshov. Morton xé tờ nhắn tin, vò nát rồi ném vào máy nghiền giấy.

Anwar Salim gởi một bản tường trình dài nói đủ việc về các điệp viên Ai Cập trong một nửa tá thủ đô của các nước Ả Rập hoạt động ra sao, nhưng họ vẫn chưa tìm ra tung tích của Raza. Bản tường trình này xác nhận những tờ tường trình riêng rẽ của các điệp viên Mossad trong những thành phố ấy.

Lester Finel đã gởi một báo cáo cập nhật trong ngày. Những chuyên viên câm của ông đã mở rộng phạm vi dò tìm kể cả Nhật Bản và những đồng minh châu Á của bọn khủng bố Ả Rập. Vẫn khó khăn. Loại thêm vào danh sách đáng ngờ mười bảy ngàn tên nữa.

Morton xem tờ trình tiếp theo.

Cụ Gù đang tiến hành theo một hướng mới, tìm xem cuốn băng thành hình khi nào, tìm xem thời gian Al Najaf ở tại La Mã là bao lâu, và tìm xem khoảng cách giữa khi thu băng và vụ xảy ra ở Trekfontein và những vụ đánh khách sạn là bao lâu.

Vị giáo sư thì báo cáo cho biết phản ứng của người Ả Rập đối với vụ Trekfontein và vụ đánh bom. Họ đều lên án vụ này. Phản đối mạnh mẽ nhất là ở Li Bi. Giáo sư cho rằng vị Lãnh đạo Tối cao muốn làm áp lực với Muzwar từ bỏ lời kêu gọi một cuộc thánh chiến đi.

Báo cáo sau cùng là tên tuổi và hình dạng của hàng trăm phụ nữ bị chết trong những ngày vừa qua quanh Beirut với vòng bán kính khoảng 500 dặm. Wolfie đã nói đúng. Không có ai trong số này giống người thiếu nữ bán nước hoa đã về với Đấng tối cao của chị ta.

Và không có ai chứng minh được nơi ở của Raza hết.

Khi Morton bước đi khỏi mấy máy fax thì có tiếng điện thoại reo. Danny gọi đến.

— Chúng ta đã lầm rồi ! - Ông ta không kiềm được vẻ kích động khi nói - Tôi đã thử nhiều lần trong hai mươi bốn giờ qua. Nhân viên giỏi nhất của tôi đã kiểm tra đuợc giọng nói trong lời gọi ấy.

— Về người phụ nữ chết ấy phải không ?

— Đúng thế. Chúng tôi so sánh giọng ấy với những giọng trên các điện thoại khác trong vòng bán kính ấy. Nghĩa là tôi thu hết tất cả những cuộc điện thoại trong các thành phố các thị xã trong khu vực này so với âm thanh trong lời nhắn gọi về Beirut, chúng tôi trắc nghiệm so sánh nhiều lần. Không có nơi nào có dấu hiệu tương tự...

— Vậy lời gọi ấy xuất phát từ đâu ? - Morton ngắt lời.

— Ở Athens. Chúng tôi đã kiểm tra hàng chục lần rồi. Lần nào cũng giống nhau. Cũng cái nhịp âm ấy. Rất chính xác.

— Báo cho Costas biết chuyện này nhanh đi.

Giọng thở dài của Danny nghe rất rõ từ Tel Aviv. Ông ta đáp :

— Tôi đã báo đến rồi. Anh ta không trả lời qua máy MRT.

Morton ra lệnh ngay :

— Báo cho ban mật vụ gởi một tổ đến Athens để thay thế hắn ngay. Gọi Gates báo cho nhân viên của ông ấy ở đấy biết để hợp tác với họ. Ông ấy có hai nhân viên rất giỏi ở đấy. Cứ theo dõi Costas. Tôi sẽ cho anh ta nghỉ việc.

— Tuân lệnh.

Khi Morton nói tiếp, giọng ông dịu dàng hơn : — Danny này. Nhắc nhở mọi người làm cho tốt. Và anh cũng thế.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
601,786
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 18


Người dịch: Văn Hòa - Kim Thùy

Nhà xuất bản: NXB Thanh Niên

Shared by: CCG -

Nadine và Anna đến Công trường Hiến pháp vào lúc đã xế chiều, đây là lúc công trường lớn nhất này ở Athens rất đông du khách. Cả hai cô đều mặc đồng phục màu xanh da trời, gồm váy ngắn xếp nếp, áo khoác bô-lê-rô ngoài áo lót trắng. Một cái băng vắt chéo qua áo khoác màu hồng có in hàng chữ vàng "Đêm Hy Lạp".

Mỗi cô đều mang trên tay một tấm bảng để kẹp giấy tờ. Anna lại còn mang một máy Camera hiệu Instamatic qua sợi dây da quanh cổ, còn Nadine thì mang một cái túi vải lớn qua sợi dây da đeo ở vai. Túi có hai ngăn. Trong ngăn nhỏ có năm chai vi rút bệnh than B.C còn lại. Ngăn lớn đựng những chai mà Nadine và Anna đã đổ đầy nước hoa do họ pha chế, loại nước hoa của Raza dùng để cạo râu và nhiều chai nước trong toalét họ đã lấy tại nhà. Họ đã pha thêm vào đó ít nước trà bạc hà thơm.

Anna kiểm tra lại máy hình, lo lắng nhìn Nadine.

— Cô sẽ ổn thôi - Nadine trấn an - Cứ nhớ là chụp sao cho bức hình có một tên có vẻ mặt ngu đần với tôi là được.

Hai người bắt đầu đi quanh công trường, cố tìm du khách nào vô tâm mang được những chai chứa vi rút đem vào đất Mỹ và đất Anh là đạt yêu cầu.

— Cô cũng nên nhớ - Nadine nhắc Anna - Chúng ta chỉ chú ý đến những tên ngu ngốc người Anh và Mỹ nào sẽ bay về nước trong vòng hai mươi bốn giờ sắp đến mà thôi.

— Raza thật quá thông minh - Anna thở dài - Chị có nghĩ là anh ấy còn giận em không ?

— Không đâu, dĩ nhiên là không rồi - Nadine nói dối ngọt xớt.

— Em rất mừng vì Lila đã đi rồi - Anna nói tiếp - Chị ấy... đòi hỏi quá. Trước đây chưa bao giờ em làm tình với phụ nữ hết. Thật kỳ quặc quá !

— Chị ta sẽ không còn quấy rầy cô nữa đâu - Nadine hứa.

Mới trước đây hai giờ, Lila đã phải bái phục cuộn băng thay thế do Nadine thực hiện ở phòng thu băng. Rồi chị tiếp tục ra phi trường để bắt đầu chuyến du hành qua châu Á rồi qua Thái Bình Dương để vào Hoa Kỳ.

— Kìa, xem kìa ! - Anna nói, vừa hích vào người Nadine.

Tại một bàn ăn kê ngoài trời, một cặp vợ chồng già đang xem một bản lịch trình du lịch. Nadine nhìn liếc qua họ, chị lắc đầu.

— Không được. Họ là dân Đức.

Chi đã nhờ Shema dạy cho tiếng Đức đủ để đọc được hàng chữ in ở mặt sau tờ chương trình : Reiseburo.

— Tìm những kẻ nói tiếng Anh cơ.

Hai người đi quanh công trường. Chỉ có Nadine mới biết Raza ở đâu đó gần họ, đang theo dõi hai người. Cho nên chị quyết thi hành nhiệm vụ xuất sắc để làm hắn vui lòng. Khắp nơi đều có dân bán đồ dỏm, bán đủ thứ đồ kỷ niệm hoa hòe hoa sói.

— Thằng cha ấy được không ? - Anna hỏi, hất đầu về phía gã đàn ông lùn, rắn chắc đang đi về một quầy rượu lộ thiên gần khách sạn Grande Bretagne.

Nadine phải buột miệng cười. — Ngay cả tôi cũng nhận ra hắn là người Hy Lạp. Đừng nôn nóng. Chúng ta sẽ tìm ra thôi. Chúng ta thử qua phía bên kia xem.

Chị dẫn Anna qua phía khách sạn Vua George cùng lúc với Costas Calcanis đang bước về phía quầy rượu.

Anh chàng Israel này rất tự hào mình giống người Hy Lạp nhờ bộ comlê, áo sơ mi và giày đã được đóng cao thêm gót để làm cho Costas chỉ có một mét sáu mươi lăm được cao thêm chút nữa. Vì thấp, cho nên anh ta đã chải mái tóc bờm xờm lên như bờm sư tử và cố tạo một nụ cười thật tươi.

Bây giờ thì nụ cười biến đâu mất, mà chỉ thấy mặt mày anh ta đầy vẻ mệt mỏi và có phần cau có. Trong suốt hai mươi bốn giờ vừa qua, anh ta lái xe không ngừng trên những con đường xấu nhất ở phía nam châu Âu. Không có dấu hiệu gì về bọn đánh bom khách sạn trong những thị trấn và làng mạc anh ta đi kiểm soát. Và môt lần nữa cái máy MRT mới lạ này lại làm anh bực bội. Thoạt tiên là nó kêu ồn ào quá trong quán cà phê, rồi sau đó nhằm vào khi anh đậu xe bên lề đường để chợp mắt một chút, nó lại réo lên.

Trở về thành phố, anh tắt máy luôn. Rồi luôn tiện, anh đã gởi về Tel Aviv một tờ báo cáo sốt dẻo về phẩm chất của chiếc máy này. Chiếc máy MRT vẫn nằm trong túi áo vét tông của anh ta, nằm bên cạnh khẩu súng cỡ 38 ở trong bao da đen trên vai.

Vê đến Athens, anh nhận được lệnh khẩn của Danny hỏi đầy đủ chi tiết về các phụ nữ chết ở trong vùng trong thời gian mấy ngày qua. Sau khi đã fax tên tuổi những người bị chết trong vụ nổ xe dầu, anh ta bèn thuê người đi làm cái công việc tẻ nhạt là đi kiểm tra ở các bệnh viện, nhà xác và ở ông chủ lễ các buổi tống táng, để so với công việc tiếp xúc với sở cảnh sát của anh. Anh chàng thấy sung sướng vô cùng, vì đã nhận được một tuần lương mà chỉ làm việc chưa đầy một ngày.

Sau khi đã báo cáo cho ông ta rồi, Costas bèn ra công trường để làm một ly bia, ngồi nhìn con gái đi qua lại. Anh ta có tài thiên bẩm của một kẻ độc thân nhanh chóng tìm ra cô nào có thể uống được bia mời đi ăn và rồi lên giường ngủ với cô ta. Anh ta biết nhờ nét duyên dáng của mình, nhờ vốn hiểu biết nhiều chuyện ly kỳ trong thời gian hai năm sống ở Athens, mà anh ta đã nổi tiếng là một người hào hoa phong nhã trong thành phố này. Anh ta cũng ngại hành vi của mình sẽ làm cho Morton bực tức. Nhưng chừng nào anh còn hoàn thành công việc và còn làm cho người đỡ đầu của mình là Bitburg hài lòng, thì Costas vẫn tin anh còn sống được.

Ngồi vào bàn xong, Costas gọi rượu Pernod, rồi xem tờ báo do anh bồi bàn vừa mang ra.

Vụ tai nạn xe dầu vẫn là đầu đề chính cho báo chí bàn tán. Thi thể không nhận diện được bây giờ được đăng tải nhiều cách. Hầu hết các trang đầu của báo chí đều đăng hình một phụ nữ lắp ghép gượng ép để cho độc giả nhận diện. Costas cho rằng hình trong tờ báo hao hao giống cô gái đang ngồi ở cuối quán rượu. Hai người có mái tóc đen dày xõa ra đàng sau, và hai gò má cao giống nhau. Nhưng khuôn mặt trong ảnh có quai hàm vuông hơn, còn người phụ nữ đang nhâm nhi ly cà phê lại có nét thanh tú hơn quanh miệng.

Costas nghĩ chắc cô ta là một du khách người Mỹ. Cái người đàn bà mà anh vừa mới ngủ chung đã tỏ ra rất có tài trong việc làm tình. Anh nhìn cô gái này một hồi lâu, rồi cuối cùng mỉm cười.

Nancy Carson khuấy thêm đường vào ly, nàng tự hỏi làm sao tránh khỏi ánh mắt của anh chàng này đây. Nàng liếc nhìn anh ta một lần rồi quay nhìn đi chỗ khác. Anh ta khiến nàng nhớ đến Rob, vì thế mà nàng phải lánh đi.

Mối tình của hai người kéo dài một năm, cho đến một buổi chiều nàng về nhà thì bắt gặp anh ta đang nằm trong giường với cô bạn thân nhất của mình. Nancy không ngờ lại có việc dối trá tồi tệ như thế. Nàng bỏ đi trong vòng một giờ sau đó. Một tháng sau, học kỳ chấm dứt nàng đi nghỉ hè hai tuần trên quần đảo Hy Lạp này, đợt nghỉ hè nàng đã định đi với Rob.

Nàng quá đỗi ngạc nhiên thấy mình quá vui thú khi sống tự do một mình như thế này, khi tự do quyết định cuộc sống, xua đuổi hình ảnh Rob ra khỏi tâm trí của nàng.

Nàng sẽ trở về đi dạy lại với biết bao chuyện mới mẻ phải giải quyết. Việc sau cùng nàng muốn là lại dan díu với một người khác giới như Rob.

Vừa nhấp rượu, Costas vừa chiêm ngưỡng nàng. Quả thật nàng rất hấp dẫn. Chiếc áo rộng cổ cho thấy da thịt nàng săn chắc, rám nắng, và bộ ngực đầy đặn. Chiếc váy bình dị, hai ống chân dài. Anh mỉm cười nâng ly chào nàng.

Nàng lại cảm thấy hai má bừng nóng. Nàng luôn luôn thấy nóng mặt trong những hoàn cảnh bất ngờ như thế này. Nàng đã hai mươi sáu tuổi và nàng biết cách để lánh xa một gã đàn ông. Nhưng đây không phải là New York, đây là chuyến du lịch ra nước ngoài đầu tiên. Và mặc dù nàng cảm thấy thích thú, nàng vẫn thấy lẻ loi trong suốt hai tuần vừa qua. Thế nhưng nàng không thể ngồi đây để cho cái thằng cha đĩ đực kia liếc mắt đưa tình được. Anh chàng cứ nhìn nàng chằm chằm. Nancy nhìn quanh để xem có cách gì giúp nàng tránh khỏi cặp mắt, nụ cười của anh chàng này.

Costas gọi một ly khác rồi yêu cầu anh bồi bàn đem đến bàn của Nancy một ly sâm banh hảo hạng. Anh ta thường làm như thế. Anh ta ngồi đợi, phân vân không biết mình có mời cô ta đi ăn tối được không ?

*

**

— Kia kìa - Anna nói - Em chắc cô ta là người Mỹ ! Cứ nhìn cách ngồi ngạo mạn của cô ta thì biết. Mà cô ta lại còn đẩy cái ly đi nữa chứ. Chỉ có bọn Mỹ mới gọi sâm banh rồi chê dở đẩy đi mà thôi.

Nadine quay về phía Nancy, nàng đang uống cà phê.

Khi anh bồi đem ly rượu đến, Nancy cho trả lui. Anh bồi bàn mỉm cười từ chối, giải thích rằng luật của nhà hàng là rượu gọi rồi không được trả lui. Nàng đẩy cái ly sang một bên rồi quay lưng lại.

Costas thở dài. Anh chưa bao giờ đeo đuổi một phụ nữ nào hết. Anh sẽ không bao giờ làm thế. Anh gọi một ly Pernod khác rồi nhìn quanh cố tìm xem có ai hợp nhãn mình không.

Anh trông thấy hai cô gái mặc đồng phục rất hấp dẫn. Anh loại cô gái thấp hơn, có khuôn mặt tai tái đi. Còn cô kia thì quá hấp dẫn. Anh lại thở dài. Anh không bao giờ ve vãn dân địa phương. Thế nào rồi cũng gặp khó khăn với chồng họ, với bồ họ, hay gặp một người không biết tung tích. Bỗng anh thắc mắc không biết họ đi chào hàng gì đây, rồi anh quay qua nhìn du khách từ khách sạn Crande Bretagne đang đổ xô đi đến.

— Tôi nghĩ là lần này cô nói đúng rồi đấy, Anna - Nadine nói, và chị thấy nôn nao, phấn khởi.

Những du khách nói tiếng Anh mà họ đã đến gần thì hoặc là có người phẩy tay xua họ đi, hoặc có người là người Úc hay người Ailen. Hai người đưa cho họ xem vài chai đựng nước pha chế.

— Cô ta gọi mình kìa - Anna bước về phía bàn Nancy.

— Đợi chút - Nadine ra lệnh. Raza đã dặn đừng có vội vã lắm. Vội vã quá sẽ làm cho lũ ngu nghi ngờ.

Chị dẫn Anna đến gần bàn của Nancy. Bàn đầy một tốp du khách ồn ào đang ngồi uống.

— Chào quý ông quý bà buổi tối - Nadine lên tiếng - Chúng tôi xin giới thiệu một loại nước hoa tốt nhất ở Hy Lạp vừa mới sản xuất. Chúng tôi mong muốn quý vị dùng thử sản phẩm mới ra lò của chúng tôi.

Chị lấy trong ngăn túi xách lớn ra một chai.

— Quý vị ở nước nào đến ? - Chị hỏi.

— Hà Lan ! - Có nhiều tiếng đồng thanh đáp.

— Tuyệt quá - Nadine cười - Loại nước hoa này sẽ nhập sang nước quý vị vào sang năm. Nhưng hôm nay tôi xin biếu quý vị chai này. Ấy, thưa ngài, xin ngài vui lòng !

Một gã đàn ông ngồi trong bàn chộp lấy cái chai rồi đưa dưới mũi của một phụ nữ ngồi bên cạnh. Khi Nadine cố lấy lại cái chai thì gã kia lại càng đưa chai ra xa.

— Xin ngài vui lòng cho xin lại ! - Nadine tha thiết nói - Trước tiên ngài phải trả lời một số câu hỏi đã.

Gã cười rồi đưa cái chai qua cho người đàn bà khác ở bên kia bàn. Bỗng cái chai rớt xuống một ly bia, vỡ ra. Tất cả bỗng im lặng. Gã kia ngượng ngùng nhìn Nadine, rồi đưa tay vào túi lấy cái ví căng phồng ra. Gã lôi ra một cọc tiền Hy Lạp.

— Đây - Gã vừa nói vừa đưa tiền cho Nadine - Tôi đền cái chai vỡ cho cô đây.

Bạn bè quanh bàn y lên tiếng đồng ý.

— Và tôi mua cho mọi người một chai ! - Gã nói thêm. Nadine bước lui.

— Ông không mua được - Chị cười nói - Đây là hàng quảng cáo.

Raza đã dặn luôn luôn phải tươi cười. Gã đàn ông lượm lên môt mảnh chai rồi đưa lên mũi ngửi. — Loại nước hoa rẻ++ tiền ! - Gã nói xong, cất lại ví tiền vào túi.

Nhóm bạn gã cười vang. Vẫn tươi cười, Nadine quay đi, chị dẫn Anna sang bàn Nancy.

Chuyện xảy ra khiến cho Costas chú ý. Cô gái cao ấy đẹp đấy, nhưng không phải người Hy Lạp. Có lẽ là dân Levantine, còn cô kia có lẽ là dân Beirut rời thành phố để tha phương cầu thực. Anh ngẩng đầu đọc hàng chữ trên tấm băng chéo. Có thể cô ta biết rõ cô gái mất tích trong vụ tai nạn xe dầu này lắm. Có thể anh cần biết tên tuổi để đến hỏi với cảnh sát cho biết. Đợi cho đến khi việc mua bán xong xuôi, anh sẽ đến gặp họ.

— Hai cô giải quyết công việc giỏi quá - Nancy nói. Khi Anna và Nadine bước đến bàn của nàng - Gặp một bầy say cũng mệt cho hai cô đấy.

Nadine cố mỉm nụ cười thật tươi.

— Người Mỹ của cô có cách nhận xét thật tuyệt.

Nancy lắc đầu.

— Thực ra tôi là người Canada. Tôi ra đời và lớn lên tại Toronto.

— Ồ ! - Anna không tài nào giấu được vẻ thất vọng.

— Nhưng tôi sống ở New York - Nancy cười - Sống qua ngày. Chỉ là chỗ cho ta sống tạm qua ngày.

Bỗng nàng cảm thấy muốn thấy lại cái thành phố nàng đang cư ngụ, muốn thấy lại căn phòng, muốn gặp lại bà góa phụ già đã cho nàng thuê phòng.

Nadine lại cười tươi tắn.

— Tôi muốn có ngày đi New York. Muốn thấy nhà chọc trời và xem những buổi trình diễn tuyệt vời ở đây.

— Còn em thì em thích món thịt bằm viên ! - Anna nói liến thoắng theo lời dặn của Raza - và sữa lạnh.

Ba cô cùng cười, tỏ ra tâm đầu ý hợp.

— Cô đi nghỉ hè à ? - Nadine hỏi.

— Tôi sắp về nhà rồi.

— Cô có thích đất nước chúng tôi không ? - Anna lễ phép hỏi.

— Thích lắm - Nancy đáp - Có những thứ khiến cho người ta đâm ra say mê như thực phẩm và rượu vang. Rồi đàn ông thì...

— A ! - Anna cười nói - Khi nào cũng đàn ông ! Đàn ông Hy Lạp như bò đực.

Lại một lần nữa, cả ba cùng cười.

— Mời các chị dùng cà phê với tôi đi ? - Nancy hỏi.

— Cám ơn cô, chúng tôi còn phải làm việc - Nadine nói. Raza dặn đừng bao giờ thân thiết quá với một đứa ngu. Cho nên chị giải thích về việc tìm kiếm thị trường. Nancy nói nàng rất lấy làm sung sướng được giúp họ.

Nadine ngồi xuống, chị lấy ra một chai đựng vi rút bệnh than B.c, cẩn thận để lên bàn. Nadine nói tiếp :

— Điều chúng tôi muốn cô giúp là xin cô trả lời chúng tôi một số câu hỏi đơn giản về hình thức của loại nước hoa này.

Nancy cầm cái chai lên, xoay quanh trong tay rồi để xuống lại.

— Tôi thử một tí được không ?

Nadine cúi người xuống rồi đưa ra một chai nước hoa tự chế. Chị nhanh nhẹn khui nút ra, rảy một vài giọt lên mu bàn tay của Nancy.

Nancy đưa bàn tay lên mũi ngửi. Nàng nhìn Nadine và Anna. — Mùi loãng quá.

— Như nước trong núi của chúng tôi không ? Anna hỏi nhanh.

Nancy cười đáp : — Tôi lấy chai đó.

Anna ghi vào cái kẹp giấy tờ.

— Một hôm sau, không khí mới làm cho mùi hương đượm hơn - Nadine giải thích.

Nancy hít thêm một lần nữa.

— Thơm dịu chứ, thưa cô ? - Anna lễ phép hỏi.

Nancy gật đầu : — Đúng như cô nói.

Nàng không muốn làm mếch lòng họ khi nói thật ra là mùi nước hoa rất rẻ tiền.

Anna nhin vào tấm kẹp giấy rồi hỏi :

— Theo cô thì hình thức cái chai ra sao ?

Nancy ngẫm nghĩ. Trong những hòn đảo nàng đã đến thăm, thì những hình thể đã làm cho nàng thích thú nhất. — Trông giống một mũi đất ở Rhodes - Nàng đáp.

— Rất tuyệt - Nadine nói.

Anna lại ghi chép vào bảng kẹp giấy.

— Còn màu sắc ? - Cô ta hỏi.

Nancy cười đáp :

— Màu biển ở Thessaloniki.

— Tuyệt ! - Nadine nói - Cả ngày hôm nay chúng tôi mới có được những câu trả lời tuyệt diệu như thế này.

— Không đùa đấy chứ ? - Nancy cười hỏi - Nàng đưa tay lấy cái chai còn đóng nút - Tôi giữ chai này được chứ? Để làm kỷ niệm nhớ đến Hy Lạp.

Anna nhìn Nadine. Raza dặn khi đồ ngu đã cắn câu rồi thì phải giải quyết rất cẩn thận.

— Được... mà cũng khó khăn đấy - Anna nói.

— Cô hiểu cho - Nadine tiếp lời - Chúng tôi chỉ được phép tặng mẫu cho những ai rời khỏi nước chúng tôi trong vòng mười hai giờ sắp đến mà thôi.

— Không sao - Nancy đáp, nàng nhìn cái chai. Ngay khi đổ nước hoa đi, cái chai vẫn còn dùng để làm đồ trang trí trong phòng tắm cũng đẹp lắm. Nàng nhìn Nadine :

- Trong vòng mười hai giờ nữa là tôi đã ở đâu đó trên bầu trời Đại Tây Dương, hướng về phi trường Kennedy.

Nadine có vẻ hoài nghi. — Công ty của tôi rất nghiêm khắc về vấn đề này. Tôi muốn xem vé máy bay của cô.

— Không sao - Nancy lại nói, nàng mở ví lấy ra chiếc vé máy bay.

Anna viết tên của Nancy và số chuyến bay TWA lên bảng kẹp giấy. Cô ta trả lại chiếc vé.

— Tất cả yên ổn rồi chứ ? - Nancy hỏi, chuẩn bị bỏ cái chai vào túi xách.

Nadine lại cười :

— Xin cô thực hiện cho hai yêu cầu nữa. Thứ nhất, theo quy định thì chai không được mở ra cho đến khi đã qua khỏi Hải quan Hoa Kỳ. Thứ hai, cô phải mang cái chai theo hành lý xách tay cho dễ kiểm soát. Điều này đã được hai nước quy ước với nhau rồi.

Raza đã cho Nadine tập luyện nói năng cho đến lúc đã nhuần nhuyễn.

— Không sao - Nancy hứa - Còn gì nữa không ?

Nadine cười, chị sung sướng vì công việc trôi chảy.

— Vì những câu trả lời của cô tuyệt quá cho nên chúng tôi muốn cô chụp một tấm hình để đăng vào tờ tạp chí của công ty tại quê nhà.

— Thật chứ ? - Nancy cười, nàng đứng dậy - Vậy hãy chụp đi !

Nàng cầm cái chai còn nút kín lên và đưa ra như vật kỷ niệm trong tay. Nadine bước đến bên cạnh chị, còn Anna thì nhắm máy ảnh. Raza đã dặn chụp nhiều tấm cho chắc ăn. Sau dó, Nancy bỏ cái chai vào trong xách tay. Cái chai có hình dáng đẹp thật.

Nadine và Anna nhìn nhau mỉm cuời.

Nancy nhìn hai người :

— Tôi xin hai cô một ân huệ nữa nhé ? Tôi giữ cái chai này rồi, nhưng bà chủ nhà của tôi chắc là thích lắm. Tôi muốn mua một chai để biếu bà ấy được không ? Các cô đừng ngại chuyện tiền bạc.

Nadine nhìn Anna gật đầu. Vận may đang đồn dập đến. Một con lừa mang hai chai khi đến phi trường Kennedy lại càng thuận tiện hơn. Nadine nhìn Nancy cười.

— Không, không - Nadine lắc đầu nói, - Chúng tôi không bán. Xin biếu cô chai thứ hai vì chúng tôi nghĩ thế nào những câu trả lời của cô cũng sẽ giúp cho nước hoa của chúng tôi thành công mỹ mãn.

Nadine đưa cho Nancy thêm môt chai đựng vi rút B.c.

— Thật tuyệt - Nancy vừa nói vừa bỏ chai vào xách tay - Thật tuyệt !

— Cám ơn cô ! - Nadine bắt chước giọng của nàng.

Một lần nữa, họ cùng cười vang.

Nancy nhìn qua bên kia quán rượu. Anh chàng Hy Lạp vẫn nhìn nàng. Nàng quay qua Nadine :

— Này cô, cô giúp tôi lần cuối nhé ? Có thằng cha ngồi đằng kia cứ nhìn tôi mãi. Tôi sẽ rất sung sướng nếu cô đưa tôi ra khỏi công trường này.

Nadine nhìn Costas, rồi quay qua Nancy :

— Được thôi, tôi sẽ giúp cô !

Rất thình lình, Nancy để ly sâm banh xuống đất. Sau khi đã trả tiền cà phê, nàng đi giữa Nadine và Anna ra khỏi quán bar. Costas nhún vai. Chỉ có dân Mỹ mới chịu đựng được thái độ ấy mà thôi. Nhưng anh vẫn muốn nói chuyện với mấy cô gái quảng cáo hàng kia. Anh để thêm tiền dưới ly rồi đứng dậy đi theo.

Từ trên cửa sổ căn phòng trong khách sạn Grande Bretagne, Raza thấy hết những gì đã xảy ra. Các cô gái đã làm việc tốt, nhưng tại sao con lừa kia lại đổ rượu đi ? Và tại sao cô ta lại đi với hai cô gái ? Việc này đâu nằm trong lệnh của hắn ban ra? Một lát sau, bỗng cơn giận của hắn tan biến ngay mà thay vào đó là nỗi bồn chồn lo lắng. Mấy cô gái đã bị theo dõi. Cái thằng Hy Lạp kia là một điệp viên rồi, nhìn cái cách hắn giữ khoảng cách đủ biết hắn là một tên gián điệp rồi.

Raza bước ra khỏi khách sạn, bám theo.

*

**

Trong căn hộ ở đại lộ Foley, Morton lắng nghe Fuller và West. Cả hai người đều đã đến tham dự buổi nói chuyện của Thủ tướng Anh tại đại lộ Downing.

— Chỉ có một vấn đề thôi - Fuller nói - là phải chăng Raza hay người của hắn đã có một phương pháp đột nhập vào nước nào đó với vi rút bệnh than. Chúng tôi có thể chắc chắn xác nhận là không. Chúng tôi đã có nhiều người ở các phi cảng và hải cảng. Chúng tôi đã bít cả ngả sau đi qua Ailen. Chúng tôi đã hướng tất cả những máy bay tư nhân sang Stansted để kiểm soát một cách đặc biệt hơn. Chúng tôi cũng đã cho tuần tra bờ biển.

— Thưa ông anh, nói tóm lại thì - West nói với Morton, - Chúng tôi đã kiểm tra rất chặt chẽ.

Morton bước khỏi cái lò sưởi xây theo kiểu thời Victoria, xấu xí, trống trải trong phòng khách. Ông dừng lại trước hai người đang ngồi trong ghế bành nhồi nệm. Michelle ngồi trên thang lầu. Morton nghe tiếng Wolfie trong phòng mật ở trên lầu đang nói chuyện với Danny, cho biết anh vẫn chưa chấm dứt công tác của Costas được. Morton nói :

— Bây giờ thì Raza sẽ không để cho người của hắn vượt qua hàng rào phòng vệ của quý vị đâu. Hắn thừa biết quý vị rất giỏi trong việc ngăn chận hắn. Hắn sẽ giữ người của hắn tại chỗ hàng tuần, có thể là hàng tháng.

— Bây giờ làm sao hắn điều động chất vi rút này ? - West hỏi.

— Hắn sẽ lợi dụng một kẻ khờ khạo nào đây. Có thể một sinh viên chẳng hạn. Trước đây hắn đã làm thế rồi. Hay là hắn sẽ dùng một tên chở ma túy. Kẻ nào quen biết đường đường dây mối nhợ - Morton đáp.

Fuller gật đầu lia lịa :

— Chúng tôi hiểu ý ông rồi, David. Chúng tôi sẽ chặn một trong bốn hành khách đến ở các phi trường dân sự để lục soát thật kỹ. Chúng tôi cũng sẽ làm thế với bất kỳ ai đến Stansted. Lại còn tách máy bay riêng ra nữa.

— Nhân viên của tôi bắt đầu kiểm tra những chuyến bay đã có lịch trình xuất phát từ Trung Đông - West nói - Phân chi đặc biệt và Phân chi Sáu tham gia vào việc này. Lực lượng không quân đặc biệt cũng tham gia vào. Cuối tuần chúng tôi sẽ có người kiểm soát mỗi chuyến bay vào nội địa. Những vị cảnh sát trưởng không phận chịu trách nhiêm sẽ làm báo cáo thường xuyên.

Morton gật đầu rồi nói với Fuller :

— Một trong bốn người được kiểm tra, vậy là vẫn còn ba nguời không được kiểm tra. Tại sao lại không kiểm tra hai trong số bốn người ?

Vị sĩ quan cảnh sát cao cấp thở dài :

— Khách dân sự họ sẽ rất phàn nàn. Nhất là những thương nhân. Tôi sợ sẽ bị các ông Nghị chất vấn ở Quốc Hội.

— Mặc xác họ - Morton thẳng thừng nói.

— Đây không phải là Israel đâu, ông bạn già ơi ! - West nói chen vào - ở đây khó làm thế lắm.

— Chắc chắn là như thế rồi, Percy - Morton đợi một lát mới nói tiếp - Bây giờ xin thưa với ông là tôi muốn công việc phải thực hiện ở đây như thế. Tôi muốn lục soát một trong hai người những hành khách nào từ Roma và Teheran tới. Nói với nhân viên của ông khám xét các loại chai lọ. Khám xét tất cả những khu vực khách đến. Ở Tel Aviv, nhân viên của tôi đã học nhiều về cách nghe ngóng.

— Chúng ta sẽ phải cần đến rất nhiều người, nhiều tiền. Ai sẽ trả chi phí đây ? - West hỏi - Ông biết mỗi giờ có bao nhiêu chai người ta mang qua các phi cảng không ? Hải quan cho tôi biết mỗi ngày họ tịch thu khoảng một trăm ngàn chai, hầu hết là rượu và nước hoa. Cứ hai mươi bốn giờ đồng hồ là có hàng triệu chai.

Morton thoáng nhếch mép cười :

— Ông phải tìm cách thôi, Percy à, làm cho bảo đảm đi.

Vị sĩ quan cơ quan M15 lắc đầu ; — Chúng ta không thể tịch thu hết chai để kiểm soát được. Chúng ta phải tiên đoán trước...

— Ông đã xem phim chiếu cảnh Trekfontein rồi đấy Percy - Morton cắt ngang - Chỉ có một viễn cảnh tôi lo mà thôi, đó là ngăn chặn không cho điều đó tái diễn nữa.

Fuller gật đầu nhìn West. — David nói đúng đấy.

Ông quay qua Morton.

— Chúng tôi sẽ rút lực lượng thuộc đội quân truy lùng ở Ulster. Chỉ trong vòng hai mươi bốn giờ là mọi người đã vào vị trí.

— Anh phải gắng làm sớm hơn, hai mươi bốn giờ là tối đa - Morton xen ngang - Chúng ta phải làm trong thời hạn của Raza nêu ra. Nếu hắn không đưa chất ấy vào nơi đã định được, thì hắn sẽ hành động trong hai mươi bốn giờ tiếp theo liền.

Vị trợ lý ủy viên Chính phủ phụ trách tội phạm gật dầu, ông bước đến điện thoại trên giá, ra lệnh ngay. Ông cương quyết ra lệnh - mười hai giờ, với bất cứ giá nào, phải làm cho xong.

Ông để điện thoại xuống, quay qua Morton : — Khó đấy, nhưng chúng tôi sẽ thực hiện đúng kế hoạch.

— Tốt. Bây giờ để tôi cho anh biết hiện tình.

Morton cho ông biết Danny đã định vị được lời gọi đó là ở Athens.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
601,786
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 19


Người dịch: Văn Hòa - Kim Thùy

Nhà xuất bản: NXB Thanh Niên

Shared by: CCG -

Sau khi đưa Nancy về khách sạn ở sau Công trường Hiến pháp, Nadine và Anna đi taxi đến phi trường Athens.

— Nhỡ nó mở chai ra thì sao nhỉ ? - Anna hỏi khi hai người đi vào phòng chờ khởi hành.

— Nó không mở đâu - Nadine đáp - Người Mỹ thường rất dễ bảo. Raza thường nói rằng, nói sao là họ nghe vậy. Anh ấy rút kinh nghiệm khi cướp máy bay của chúng.

Họ kiểm tra quang cảnh trong phòng khách. Hành khách đợi làm thủ tục để ra đi đầy cả phòng. Nadine chằm bẳm nói :

— Bọn này không được. Chúng chỉ tổ làm bực mình như bọn Hòa Lan khi nãy thôi. Lần này chúng ta phải tìm một thương gia.

Họ bèn theo những hành khách đi đến quầy đăng ký. Costas đứng một chỗ thuận lợi trong phòng trưng bày nhìn bao quát cả phòng khách, anh tiếp tục theo dõi hai cô gái. Dần dần anh cảm thấy có cái gì bất thường nơi hai cô gái này. Khi anh đi qua khách sạn của cô gái người Mỹ ở, anh đã nghe cô gái Levantine dặn dò người Mỹ cách thức mang cái chai rất kỹ. Những người bán hàng rong đâu cần quan tâm đến những chi tiết này, mà họ chỉ lo bán cho được hàng thôi. Nhưng hai cô gái lại rời nơi công trường đông đúc du khách để ra đây. Anh cũng nhớ ra là không có công việc đi quảng cáo nào mà chỉ có hai cô gái thôi. Thông thường một sản phẩm mới ra lò, cả hàng mấy chục người đi phân phát giấy quảng cáo và cho hàng mẫu khắp các ngã tư đường. Ngoài ra, cô gái Levantine này lại quá hấp dẫn, cô nàng không thể nào lại phí thì giờ đi quảng cáo hàng như thế này. Nét người và dáng đi của cô ta phải là người mẫu mới xứng.

Anh lấy làm ngạc nhiên lắm, máu nghề nghiệp lại nổi lên. Vừa theo họ ra phi trường, anh đã dùng điện thoại trong xe hơi để tiếp xúc với tổ chức lãnh đạo ngành quảng cáo trong thành phố. Cô nhân viên trả lời sẽ gọi cho anh trong một giờ nữa.

Bây giờ anh đến một máy điện thoại công cộng trong phòng trưng bày để gọi lại cho cô .

— Có gì may mắn không, Susie ?

— Không có gì hết - một giọng Úc vui vẻ đáp.

Khi Susie từ Sydney đến Athens và dừng lại ở đây, hai người đã dan díu với nhau trong một thời gian ngắn cách đây đã một năm rồi. Khi chị quyết định ở lại thì anh lại chấm dứt mối liên hệ với chị, nhưng vẫn giữ tình bạn với nhau.

— Nhóm này không phải là khách hàng của chúng tôi. Tôi đã gọi các hãng khác, cũng không có hãng nào quảng cáo nước hoa. Tôi kiểm tra những kỹ nghệ gia hàng đầu, vẫn không có ai hết.

— Còn những xí nghiệp nhỏ hơn ?

— Tôi cũng gọi nhiều xí nghiệp rồi. Không có nơi nào quảng cáo nước hoa. Còn như bộ đồng phục theo anh cho biết thì cả những tư gia nhỏ cũng không có đâu.

— Có thể nào họ ở ngoài thành phố vào không ? - Costas gặng hỏi.

— Cũng có thể. Công việc này ở ngoài thành phố cũng rất phát đạt.

— Cám ơn, Susie. Tuần sau đi ăn tối được chứ ?

— Quá được !

Costas gác máy, anh tiếp tục dò xét Nadine và Anna. Raza trông thấy anh vừa khi hắn mới bước vào phòng khách. Phòng trưng bày cũng chính là nơi hắn chọn làm nơi giám sát. Hắn bèn chọn một gian hàng bán đồ kỷ niệm để theo dõi. Có lẽ anh chàng này là một thám tử hay một nhân viên điều tra ở Bộ chăng ? Nhưng mấy cô gái đâu có trái luật, Nadine đã mang theo giấy phép cần thiết để hoạt động ở chỗ công cộng tại Athens cơ mà. Nhân viên của tập đoàn tu sĩ Hồi giáo tại địa phương đã thu xếp đầy đủ giấy tờ mà. Dù hắn là ai đi nữa, thì sự hiện diện của hắn cũng đáng ngờ lắm. Raza bèn rời khỏi gian hàng và đi qua đám đông trong phòng lớn.

Anna nhìn thấy hắn và quay qua Nadine. — Tại sao anh ấy có mặt ở đây ? Phải chăng anh ấy kiểm tra em ?

— Đừng có điên. Đừng để ý đến anh ấy - Nadine nói một cách bực bội - Lo mà làm việc của mình đi !

Từ phòng trưng bày, Costas bỗng trông thấy nét sợ hãi trên mặt cô gái trẻ, và vẻ giận dữ trong dáng điệu cô Levantine, rồi anh thấy cô ta chụp cánh tay cô bạn lôi đi. Có một cái gì đấy, hay có một người nào đấy, đã làm cho cô gái sợ hãi ? Anh đưa mắt nhìn quanh một lượt trên đám đông. Anh không thấy có gì bất thường. Costas vội bước nhanh ra khỏi phòng trưng bày, anh bước xuống nền nhà thấp hơn.

— Kia, thằng cha trông được lắm ! - Nadine nói nho nhỏ, gật đầu về phía bàn đăng ký.

Anna tỏ ra nghi ngại. — Chuyến bay đi Luton. Chúng ta đã định tìm một ai đó đi Luân Đôn cơ mà ?

Nadine cố giữ bình tĩnh, chỉ đáp :

— Luton là Luân Đôn đấy. Cũng như Gatwich hay là Stansted. Tất cả đều dùng để chỉ Luân Đôn hết.

— Chúng ta đến chứ ?

Nadine nhìn quanh. Không thấy Raza đâu. Chị nhìn về phía cửa vào phòng kiểm soát thông hành. Phòng này ngăn cách phòng khách bằng một tấm màn. Hành khách đi nhanh qua người cảnh sát kiểm soát giấy lên máy bay.

— Không. Chúng ta chỉ gặp hắn trước khi hắn qua đây mà thôi. Hắn sẽ không có đủ thì giờ để suy nghĩ nữa.

Chị cứ nhìn anh chàng đẹp trai, có mái tóc đẹp đang đưa vé để làm thủ tục.

Bill Hardman vui vẻ gật đầu chào người nhân viên sau quầy, anh bỏ túi chiếc vé soát thông hành. Trong suốt tuần vừa rồi, anh đã đi năm ngàn dặm. Sau năm đầu tiên, bây giờ anh đã quá quen thuộc với thức ăn, với nhiều khuôn mặt, với nhiều khách sạn, nhiều phi trường lắm rồi. Chỉ có hợp đồng mới khó thực hiện mà thôi.

Chưa đầy bốn mươi tuổi, anh ta đã được bầu làm trưởng ban kinh doanh của Công ty trong năm, hai lần trong vòng ba năm. Anh làm việc cho hãng Bio Grow, hãng sản xuất thuốc trừ sâu bán chạy nhất thế giới cho nên gia đình anh đã có mức sống khiến cho bạn bè phải ganh tỵ. Hai con gái là Debra và Kate đã đi học trường tư rất tốn kém, mà anh lại còn dành tiền tiết kiệm cho chúng vào các trương mục ngân hàng hàng tháng nữa. Bạn đồng sự thường đùa rằng nếu có một phần thưởng dành cho đức phu quân hạnh phúc nào trong năm, thì chắc Bill năm nào cũng đoạt giải.

Vì thế cho nên anh cảm thấy bực tức khi phải đi đến phòng khởi hành. Chuyến đi này rất tất bật khiến cho anh không có thì giờ để mua quà cho vợ con nữa. Lệ thường anh hay mua quà từ phương xa về cho gia đình.

— Xin lỗi ngài...

Bill quay lại.

— Xin lỗi ngài - Nadine lại nói, nụ cười rất tươi - xin làm phiền ngài một lát được không ?

— Chỉ xin hỏi ngài vài câu thôi, thưa ngài - Anna cũng tươi cười, nói thêm vào.

Bill nhìn hai cái băng chéo quảng cáo. — Các cô bán gì ?

Nadine lắc đầu.

— Không bán, thưa ngài. Chúng tôi chỉ tìm thị trường cho một loại nước hoa mới. Thưa ngài, nếu ngài giúp được chúng tôi, chúng tôi sẽ rất sung sướng được biếu ngài một chai mẫu.

Biil đưa tay nhìn đồng hồ. Chỉ còn vài phút nữa thôi. Anh để va li xuống đất :

— Được rồi. Các cô muốn gì nào ?

Anna nhìn vào tấm bảng kẹp giấy.

— Xin ngài vui lòng cho biết số chuyến bay của ngài và nơi đến của ngài.

Bill móc cái thẻ lên máy bay trong túi áo ra.

— Hàng không Britania 16 đến Luton.

— Ngài sống ở Luân Đôn à, thưa ngài ? - Anna hỏi.

— Vâng, tại Poutney.

— Tên đẹp quá - Nadine nói - Ngài cho biết tên và địa chỉ chính xác của ngài được chứ ?

Bill ngần ngừ vì lệnh của Bộ ngoại giao cấm các thương nhân không được làm như thế. Nhưng lần này chắc cũng chẳng sao đâu.

Cô gái cao lớn hơn nhìn anh cười. Cô ta có vẻ tháo vát hơn. Nadine giải thích.:

— Nếu những câu trả lời của ngài được Công ty của chúng tôi đánh giá cao, ngài sẽ được mời đến đây lại để dự lễ phát hành loại nước hoa của chúng tôi, mọi chi phí do chúng tôi đài thọ.

Chị không hề rời mắt khỏi Bill. Raza đã dặn rằng không có thằng đàn ông nào có thể chống lại, hay là nghi ngờ ánh mắt ấy được.

Bill đáp :

— William Hardman, 21 River Walk, Putney, London SW15.

Anna ghi chép.

— Thưa ông Hardman - Nadine nói tiếp - bây giờ thì xin hỏi ông vài câu. Nước hoa Hy Lạp có nhắc ông nhớ đến bờ biển hay núi non của chúng tôi không ?

Bill đáp liền : — Có chứ ! Nó gợi nhớ đến cả hai !

— Tuyệt ! - Nadine cười.

Anna ghi chép vào bảng kẹp giấy.

Nadine lại nhìn Bill :

— Nước hoa có nên tỏa thơm cả ngày lẫn đêm không ?

Bill nhớ Fiona đã nói với anh nàng thích loại nước hoa như thế nên đáp: - Rất cần.

— Tuyệt - Nadine nói - Ngài quả thật đã giúp những người đi chào hàng như chúng tôi rất nhiều.

Anna lại ghi chép thêm.

— Còn cái tên : Đêm Hy Lạp. Cái tên có gợi cho ngài hình ảnh gì không, thưa ngài Hardman ?

Bill cười.

— Âm nhạc nhẹ, thức ăn và rượu ngon, ánh trăng trên mặt biển.

— Câu trả lời thật rất thú vị.

Anna lại ghi chép.

— Tuyệt diệu quá - Nadine thở phào - Hình ảnh thật là tuyệt vời, thưa ngài Hardman.

Bill gật đầu, vẫn tươi cười.

— Tôi rất sung sướng được giúp đỡ quý cô.

Anna nhìn lên. Raza đang đứng gần đấy, nhìn máy truyền hình báo tin các chuyến bay. Hắn quay đi rồi biến mất trong đám đông. Nadine tiến đến gần Bill hơn, nhìn sát vào mặt Bill.

— Ông giúp chúng tôi rất nhiều. Chúng tôi hứa là thế nào Công ty chúng tôi cũng mời ông.

Bill cười to. Chuyện thật lạ lùng khó tin quá. Anh hỏi :

— Tôi có thể đem theo vợ tôi được không ? - Fiona chắc thích lắm.

— Dĩ nhiên là được.

— Tôi có hai con gái nữa - Anh thử vận may ra sao.

— Không sao - Nadine đáp - Công ty chúng tôi rất rộng rãi.

Họ cùng cười vang. Bill nhìn đồng hồ.

— À, mẫu nước hoa biếu ngài đây - Nadine nói, chị lấy trong túi xách ra một chai đựng vi rút bệnh than B.C.

— Ông phải giữ nguyên lành cho đến khi đã qua khỏi Hải quan Anh. Đây là quy định. Tôi còn muốn ông cho phép chúng tôi chụp một tấm hình để đăng vào tạp chí của chúng tôi - Nadine nói.

Bill ngần ngừ. Anh từng nghe hình ảnh có thể được đem ra sử dụng vào các mục đích phi pháp.

— Tôi hứa không mở chai cho đến khi về nhà mà ! - Bill nói - Nhưng thực tôi không muốn chụp hình.

Nadine có vẻ tiu nghỉu.

— Thưa ông Hardman, tôi xin lỗi, tôi chỉ biếu ông chai nước hoa nếu ông bằng lòng chụp ảnh mà thôi - Chị nói nhanh lên - Bức ảnh sẽ không đem dùng nếu không có sự thỏa thuận trên giấy tờ của ông.

Chị nhìn anh ta vẻ thành khẩn.

— Àh - Bill nói, vẫn chưa quyết - Tôi không hiểu phải chăng...

Nadine bèn quyết định dứt khoát ngay. Chị nói nhanh :

— Nếu ông để chụp ảnh, tôi sẽ biếu ông thêm hai chai nữa cho hai cháu gái của ông.

Bill bèn gật đầu. Mỗi người một chai, vậy tốt quá còn gì ! Chuyện quà cáp coi như ổn thỏa. Một bức hình chụp cho tờ tạp chí nội bộ cũng chẳng có hại gì.

— Được rồi. Các cô muốn chụp hình ở đâu ?

Nadine cười khoan khoái, đưa mắt tìm vị trí thuận lợi. Bill nhìn quanh và thấy người cảnh sát đang kiểm tra thẻ lên máy bay ở nơi cửa bức màn ngăn phòng kiểm tra giấy thông hành. Bỗng anh nảy ra một ý. Anh hỏi :

— Ở đây có được không ?

— Được thôi - Nadine đáp. Chụp hình đồ heo thì ở đâu lại không được. Raza chỉ dặn cần chụp cái mặt nó là được.

Bill đưa tay ra.

— Xin cái chai, thưa cô,

Nadine đưa cho anh một chai. Bill bỏ vào vali.

— Xin hai chai kia luôn - Bill nói.

Nadine tươi cười lấy ra hai chai vi rút còn lại rồi đưa cả cho anh. Anh bỏ hết vào vali.

— Vợ ông chắc không ngại khi thấy ông chụp hình với tôi chứ ? - Nadine hỏi ghẹo anh.

— Không ngại đâu - Bill vui vẻ đáp, hai người cùng đi đến cửa ngăn.

Bỗng Nadine điếng cả người. Gã đàn ông trong quán rượu ở Công trường Hiến pháp đang đứng trước cửa ngăn. Ngay lúc ấy, chị thấy Raza. Hắn đứng bên cạnh một ki ốt bán nước ngọt, hắn chỉnh đồng hồ trên tay với đồng hồ treo tường của phi trường. Đấy là dấu hiệu báo trước cho hai người biết đang gặp nguy hiểm.

— Cô chụp nhiều ảnh không ? - Bill hỏi Anna.

— Nhiều.

— Nhưng lần này thì không được rồi !

Bill chìa thẻ lên máy bay ra, rồi vội bước nhanh qua người cảnh sát và mất tăm sau quãng hở giữa vách ngăn.

— Ê, thưa ông, trở lại đi ! — Anna la lớn, chạy theo anh ta.

Người cảnh sát chặn lại, nói cho cô ta biết không ai vào được nếu không có thẻ lên máy bay.

— Nhưng tôi phải chụp ảnh ông ấy mà - Anna la lên. Người cảnh sát nhún vai.

Anna rơm rớm nước mắt :

— Xin ngài làm ơn, ngài sĩ quan, cho tôi vào chụp hình ông ta. Việc này rất quan trọng.

Người cảnh sát đẩy cô ta sang một bên.

— Bước đi, không thì tôi sẽ bắt cô đấy !

— Đừng điên nữa ! - Nadine vội nói, kéo Anna đi - Chúng ta phải đi ngay thôi.

*

**

Trong phòng mật, Morton lấy cái điện thoại ở bàn ngủ đem sang giường. Ông lắng nghe Hans Dieter Muller đang ở trong văn phòng của ông ta tại Wiesbaden. Muller nói :

— Những bác sĩ tâm thần cho biết có rất nhiều biến chuyển tốt. Như là một tình trạng cải tà quy chính vậy. Sáu tháng trước, cô ta hiếm khi tỏ ra có cảm xúc lắm. Bây giờ thì cô ta hoàn toàn nói năng bình thường rồi.

— Bác sĩ kết luận ra sao ?

— Thoạt tiên họ cho là cô ta bị đau đớn nội tâm. Bước đầu họ đã cử một chuyên viên thật giỏi theo dõi cô ta, ông ta báo cáo là cô ấy nhất quyết không hé môi, cho nên chúng tôi dù cố gắng mấy cũng không đến gần cô được. Cho nên khi cô ta bắt đầu nói năng, vị chuyên gia về hành vi thấy đã đến lúc tìm hiểu được phần nội tâm bị ám ảnh quá nặng nề của cô ta. Trong giai đoạn cô ta bắt đầu nói năng lại, tính tình cô ta rất bẳn gắt, nóng nảy và buồn bã. Rồi bỗng cô ta tiến đến tình trạng mà chúng tôi gọi là "sóng tràn", nghĩa là nói quá mức.

— Một loại bị ức chế phải không ? - Morton hỏi.

— Đúng thế. Ông đã nghe những cuộn băng của cô ta đọc vào thời ấy rồi, thì nay ông sẽ như nghe những đoạn thu ấy tách ra vậy. Ông sẽ có cảm giác cô ta bị những ý tưởng ấy đang đè nặng lên cô ta, như là những ý tưởng ấy đang tuôn từ trong đầu cô ta ra vậy.

— Nhân viên của ông làm thế nào để đạt được như thế ?

Im lặng một hồi. Rồi Muller nói :

— Gây tác động sinh hóa trong người cô ta. Họ đã cho cho cô ta uống loại men chống chứng trầm cảm trong suốt sáu tuần.

Người Đức thường rất giỏi trong việc dùng thuốc hỗn hợp để chữa trị bệnh tâm thần. Morton nói :

— Nhân viên của ông chắc là quá hài lòng khi thấy việc thay đổi tính nết của cô ta, không có gì phải đặt ra cho môn dược lý học ư ?

— Tuyệt đối không. Cô ta đã thôi uống thuốc trọn hai tháng rồi mà vẫn thấy không có gì thay đổi hết. Khi tính tình cô ta thay đổi, họ tin rằng sự việc đã tốt đẹp. Và sẽ kéo dài lâu.

Có tiếng máy fax trong phòng mật phát ra. Wolfie đang cho thêm nhiều tên của những phụ nữ bị chết nữa vào máy tính.

— Cô ta có nhắc nhở gì đến cô chị không, Hans Dieter ?

Muller dừng lại một hồi lâu mới đáp :

— Đây là một việc mà cô ta vẫn rất dè dặt. Sở dĩ như thế vì khi cô ta đến đây lần đầu, những nhân viên thẩm vấn đã khẳng định với cô ta rằng, đến lúc cô ta được thả, chắc chị cô ta đã chết từ lâu rồi.

— Thật bậy !

Tại Wiesbaden, vị trưởng an ninh đằng hắng giọng. Khi nói lại, giọng ông có vẻ ân hận.

— Chắc ông cũng hiểu rồi chứ ? Ngay từ đầu, ông đã dùng mọi biện pháp cố đập tan sào huyệt của chúng nó mà.

— Cô ta nghĩ gì về Raza ?

— Cô ta đã thất vọng , về chủ nghĩa tôn sùng anh hùng, cô ta đã bất bình lắm rồi. Ngay bây giờ thì cô hoàn toàn khinh thường hắn. Nhưng cô ta vẫn còn tinh thần quốc gia rất mạnh. Tình cảm với dân Ả Rập vẫn nóng bỏng trong người cô.

— Tốt lắm, Hans Dieter. Rất tốt - Morton nhẹ nhàng nói - Sáng nay ông có đến đấy không?

Muller cười vang. — Tôi sẽ đến phi trường để giải quyết công việc giấy tờ. Chuyện này không có tiền lệ đâu. Vì vậy người Đức sẽ giải quyết như cũ lại. Cả môt đống giấy tờ. Thủ tướng phải ký kết. Ông ta chắc phải nhắm mắt nhắm mũi mà ký kết.

— Xin ông báo cho Thủ tướng biết tôi rất cám ơn - Morton nói, ông gác máy.

Ông bấm số máy ở nhà của Nan. Đường dây vẫn bận. Ông bước ra khỏi giường, sang phòng mật.

— Vẫn không có gì - Wolfie nói, mắt anh chăm chú nhìn vào máy phát hình VDU. Tên tuổi những phụ nữ bị chết trong vòng cách Beirut năm trăm dặm tiếp tục hiện ra rồi biến mất trên màn hình.

— Theo Danny đã định vị nơi xuất phát lời gọi ấy, thì chắc là con ấy chết tại Athens - Morton nói.

— Tôi vẫn đang đợi tin của Costas đây - Wolfie đáp.

Morton càu nhàu rồi ông bước vào phòng ngủ lại. Ông bấm số gọi Nan. Chuông reo lần thứ ba thì nàng trả lời.

— Xin chào Nan.

— David à ! Thật quá bất ngờ, thú vị làm sao ! Em vừa ở phi trường về đây.

Số điện thoại của nàng bận rộn suốt một giờ nay.

— Buổi hội nghị ra sao ?

— Toàn chuyện đâu đâu. Không hiểu tại sao em lại đi dự - Nàng thở dài - Anh ở đâu đấy, Tel Aviv à ? Em đã nhận lời nhắc của anh.

— Không, anh ở Luân Đôn.

Anh cảm thấy nàng có vẻ kinh ngạc.

— Có phải vì chuyện đánh bom và vụ ở Trekfontein không ?

— Phải.

— Khiếp thật. Em đã nghe tin tức trong buổi hội nghị rồi.

— Steve và Dolly có mặt tại khách sạn Connaught, Nan à.

Ông nghe nàng nín thở.

— Ôi, David, khiếp thật. Em giúp gì được không ?

— Cám ơn em - rồi ông kể cho nàng nghe chuyện đám tang.

— Ôi, David ! - Nàng lại nói.

Ông cảm thấy nàng bỗng trở nên lúng túng hốt hoảng. Cả hai im lặng một hồi lâu, rồi nàng lên tiếng :

— Anh có mặt ở đây em rất sung sướng, David à. Em phải gặp anh ngay để trò chuyện...

— Chúng ta đi ăn tối được chứ ?

Lại một lần nữa nàng có vẻ ngần ngừ.

— Dạ, được.

— Nhà hàng Pháp hay Ý ?

Ông nhớ lần vừa rồi hai người ăn ở nhà hàng Ý.

— Nhà hàng Pháp chắc ngon hơn - Nan đáp.

Có cái gì không ổn rồi đây. Ông cố giữ giọng bình thản.

— Công việc suông sẻ chứ ?

Lại có dấu hiệu ngần ngừ.

— Chúng ta sẽ nói chuyện trong bữa ăn.

— Nhà hàng La Touche được chứ ? - Ông cảm thấy nhớ nàng quá.

— Được. Ở đấy không đông đúc lắm. Tám giờ nhé ? Ông thấy nàng nói năng có vẻ dân Anh quá.

— Tám giờ thì tuyệt.

— Hẹn anh đến giờ ấy - Nàng nói, rồi cúp máy.

Điện thoại reo ở phòng kế bên. Morton nghe giọng của Wolfie.

— Giữ điện thoại nhé, Matti. Tôi sẽ đi gọi ông ấy.

Morton bước nhanh vào phòng, cầm lấy điện thoại.

— Cái gì thế ?

— Rachid Harmoos. Cơ quan tình báo Mỹ cho biết hắn nằm trong danh sách bị tình nghi có dính líu đến bọn buôn lậu ma túy Columbia. Và cơ quan FBI cho biết nhân viên đặc trách về ngân khố đã làm việc mấy tháng trời để cố tìm cho được mối liên hệ giữa Harmoos với nhiều nhà băng ở Thụy Sĩ. Hai nhà băng có trương mục của Muzwaz.

Harmoos nằm trong danh sách điều tra của Morton đã một năm nay. Cho đến bây giờ vẫn chưa có gì cụ thể.

— Có gì liên hệ giữa Harmoos với Raza không ? - Motton hỏi.

— Không có gì rõ ràng hết.

— Có gì liên hệ giữa Harmoos với tập đoàn tu sĩ không ?

— Không có gì, ngoại trừ việc cùng gởi tiền vào cùng những ngân hàng với nhau. Có thể đấy là việc trùng hợp mà thôi. Giống như thời chúng ta phát hiện ra Arafat đã gởi tiền vào cùng ngân hàng với Liên Minh phòng vệ Do Thái vậy.

— Có phải cơ quan FBI và CIA gài điện thoại nghe lén Harmoos không ? - Morton hỏi gắt.

Giọng Matti nghe rất giận dữ :

— Tòa kiểm tra cơ quan tình báo hải ngoại (FISC) không chịu cho biết. Họ nói không đủ bằng chứng.

Morton chửi thề bằng tiếng Do Thái. Tòa kiểm tra Cơ quan Tình báo Hải ngoại Hoa Kỳ được thiết lập ra nhằm mục đích xác nhận việc nghe lén ở máy điện thoại của những người nước ngoài khả nghi có mối liên hệ với Hoa Kỳ. Cơ quan đóng tại Washington hoàn toàn giữ bí mật khi đang điều tra các tình huống.

— Tất cả bảy ông quan tòa đều biểu quyết không - Matti nói tiếp - Như mọi khi, họ cho không có bằng chứng. Và dĩ nhiên là không có việc chống lại họ. Gates cho biết, chỉ có cơ may là nếu ông ta trở về có nhiều bằng chứng hơn mới được.

— Chúng ta không thể đợi lâu được - Morton nói - Cho các nhân viên trong Ban Cải Tổ Nhanh hoạt động. Cho họ theo dõi quanh nhà của Harmoos và những kẻ hợp tác với hắn.

— Tôi đã làm như thế rồi, David à. Nhưng Gates lại bảo đừng làm thế. Ông ấy cho là Appleton có thể nghe được. Rồi thì lại ồn ào lên. Harmoos đã giúp hai triệu đô la để tranh cử Tổng thống đợt vừa qua. Hắn đã hứa sẽ tăng gấp đôi số tiền lên vào dịp tranh cử tháng mười một sắp tới đây.

Morton khẽ thở dài.

— Thôi được rồi, anh sẽ làm như thế này này. Tôi sẽ ra lệnh cho Danny thành lập một tổ để bay vào đấy. Anh cho Appleton biết nhân viên trong Ban Cải Tổ Nhanh đã được lệnh hành động.

— Thế cũng nguy hiểm lắm, David à - Matti nghi ngại nói.

— Thì bao giờ cũng phải nguy hiểm thôi, Matti - Morton đáp.

Sau khi gác máy, Morton lại gọi cho Danny ở Tel Aviv để nói cho ông ta biết về Harmoos.

— Tôi sẽ cho một tổ đi vào chuyến bay sắp đến - Danny hứa.

— Costas đã xuất đầu lộ diện chưa ?

— Đồ quỷ thật, chưa thấy gì hết. Tôi đã gởi tin bảo hắn phải gọi về ngay. Tôi sẽ trị cho hắn một trận.

— Thế mới được. Rồi bảo hắn gặp tôi. Tôi muốn biết hắn làm cái trò quái quỷ gì ở đấy.

*

**

Costas đi sau hai chiếc xe chạy sau chiếc Mercedes khi nó rẽ sang phải ở con đường cắt ngang thứ hai khi qua khỏi điện Acropolis. Hai cô gái ngồi phía sau xe.

Bước theo hai cô gái ra khỏi phòng khởi hành, anh thấy cô nhỏ hơn gần như muốn khóc, còn cô Levantine thì cứ nhắc cô ta nhiều lần hãy bình tĩnh đi. Cả hai người đều như sợ sệt cái gì đó, hay là sợ ai đó. Không chụp được ảnh của một hành khách mà khiếp sợ đến thế ư ? Tai sao họ lại cần chụp ảnh đến thế ? Và tại sao họ lại chọn lựa kỹ thế ? Họ không thèm quan tâm đến những người Hà Lan say rượu và những người khác mà anh thấy họ đến gần ở Công trường Hiến Pháp. Chỉ có cô gái Mỹ với anh chàng thương nhân kia. Rõ ràng là họ có kế hoạch phải làm việc với ai đó - Dù kế hoạch ra sao không biết, nhưng chắc chắn việc này không phải là công việc quảng cáo bình thường. Và trông hai người rất hồi hộp khi họ đợi ở trên vỉa hè. Khi chiếc Mercedes dừng lại, họ liền nhảy vào chỗ ngồi ở sau xe như hai con mèo hoảng sợ. Nhưng anh vẫn còn thì giờ để nhìn người tài xế. Hắn ta khoảng tuổi trung niên, ăn mặc rất lịch sự, đeo nhiều vàng trên người, là một người Ả Rập.

Thế là đủ cho Costas hăng hái theo dõi họ rồi. Anh không cảm thấy hăng hái như thế này kể từ dạo anh theo dõi anh chàng Tunisie mang chất nổ Semtex trong cái xách bác sĩ của hắn. Khi Costas đi với cảnh sát đến căn hộ của ông bác sĩ, thì họ tìm ra lượng chất nổ đủ phá tan cả thành phố Athens.

Điện thoại trên xe reo lên. Trước khi rời khỏi phi trường, anh đã hỏi nhân viên tiếp xúc với cảnh sát kiểm tra xem số đăng ký chiếc Mercedes.

— Costas - nhân viên của anh nói - Anh sẵn sàng chưa ?

— Nói đi.

— Chiếc xe đăng ký tên của người Iran anh mến yêu đấy, đó là Ali Akbar Muzwaz. Hắn có nhiều xe đăng ký tên của hắn. Chắc là hắn có nhiều gara lắm. Xe đều đăng ký cùng một địa chỉ.

Chiếc Mercedes chạy về hướng gần đến khu ngoại giao đoàn.

— Cám ơn, Taki.

— Còn chuyện nữa, Costas, tôi nghe người anh họ của anh đang tìm anh ấy.

Taki thường gọi trưởng trạm CIA là ông anh họ của anh, bây giờ anh không còn nhớ trạm hoạt động ra sao nữa. Lời gọi chắc là có gì đây. Rồi anh sẽ gọi ông trưởng trạm sau.

— Hơn hai trăm năm mươi người.

— Tôi sẽ lấy tên sau.

Khi thay lại điện thoại, Costas lấy máy MRT ra, anh bật nút lên. Một tiếng "cắc" phát ra, rồi một giọng Do Thái từ trong loa vang lên.

— Đây là Gabriel - Gọi Ha Zoafim. Đây là Gabriel gọi Ha Zoafim. Đây là...

Costas tắt cái nút phát ra lệnh đã được ghi băng của Danny truyền cho anh gọi về Tel Aviv. Ha Zoafim là mật mã trong tuần này gọi cho Mossad ; Gabriel, mật mã hiện hành của Danny.

Bây giờ thì anh đã chắc chắn chiếc Mercedes đi đâu rồi, Cosats bèn chạy chậm lại. Anh định sẽ gọi cho Danny sau, ở trong phòng mật của mình. Rồi anh có thể nói cho ông ấy nghe nhiều về hai cô gái đi chào hàng rất kỳ lạ trong chiếc xe đăng ký tên của một trong những kẻ thù lớn nhất của Israel.

*

**

Sau khi đã hỏi kỹ Nadine, Raza im lặng lái xe. Chị đã kể lại hết những chuyện xảy ra không bỏ sót một chi tiết. Lần thứ hai, hắn nhìn chiếc xe của gã đàn ông kia. Có thể hắn nằm trong cơ quan An ninh Hy lạp ư ? Nhưng tại sao một sĩ quan tình báo lại đi dò xét mấy đứa con gái ? Hay là hắn theo dõi người Mỹ đây, ? Phải chăng mấy con đĩ ngựa đang ngồi sau xe đây đụng phải một con lừa đã bị tình nghi ? Có thể hắn là thằng chạy hàng ma túy không ? Vụ này có liên quan gì đến cái chết của con đĩ ngựa kia không ? Raza lắc đầu quầy quậy. Giả sử hắn là dân của Mossad thì sao nhỉ ? Biết đâu chúng đã có hồ sơ ? Một tấm hình của Nadine chẳng hạn ? Đáng ra hắn nên hóa trang cho cô ta mới phải. Hắn lại lắc đầu. Hắn tin là bọn Do Thái chắc không theo dõi được đâu. Nhưng hắn vẫn không yên tâm.

Raza nhìn vào tấm kính. Chiếc xe đã mất dạng, hắn lái qua phải rồi lại qua phải, cho đến khi hắn đi quành đủ vòng sang đến con đường hắn đã đi trước đó. Không thấy có chiếc xe của gã đàn ông ở trước mặt.

Raza lái thêm nửa dặm nữa, rồi hắn lại làm động tác như trước. Hắn làm như thế nhiều lần trước khi đến đại lộ có căn hộ hắn ở. Đại lộ này rộng rãi, cây cối trải dài hai bên đường, vắng vẻ. Hắn lại chạy dọc theo đường rồi quay lại. Vẫn không thấy bóng dáng gã đàn ông trên xe.

Hắn cho chiếc Mercedes đậu vào lề đường, rồi để phá tan bầu không khí im lặng căng thẳng đã lâu, hắn nói :

— Tôi đi đậu xe. Về lo pha trà đi.

Costas đã để xe cách đấy hai con đường và tìm chỗ đứng trong hành lang của một khu chung cư ngay trước mặt chiếc Mercedes. Anh dùng máy MRT để đọc số khóa điện tử trên những cánh cửa.

Anh nhìn chiếc Mercedes chạy đi và mấy cô gái bước vào khu nhà ở bên kia đường. Khi thấy những cánh cửa trên hành lang đóng lại rồi, Costas đợi thêm vài phút nữa. Tên tài xế chiếc Mercedes không trở lại.

Costas rời hành lang, anh vội vã bước xuống đường.

Cửa nhà chỉ mở ra được bằng cách bấm vào khóa số gắn ở trên ô cửa. Anh ấn máy MRT vào tấm bảng số và bấm nút phát. Một hồi tiếng kêu lích kích phát ra, máy đọc được mã số các cô gái vừa dùng. Anh đẩy cửa bước vào trong, đóng cửa lại.

Hành lang dài, tối tăm. Cửa các căn hộ nằm dọc hai bên hành lang, cuối hành lang có một thang máy. Costas bước theo lớp thảm dài lót ở giữa. Anh bấm nút cầu thang máy. Tấm ván trên ô cửa mở ra tức khắc. Hai cô gái không lên lầu. Anh dừng lại nghe ngóng các cửa. Không có tiếng động ở đằng sau hai cánh cửa đầu tiên. Đằng sau cánh thứ ba phát ra tiếng nói.

Anh tìm trong túi lấy ra một núm nghe nối với một nút kim loại nhỏ bằng một sợi dây điện cách ly. Anh nhét núm nghe vào tai rồi cẩn thận áp nút kim loại vào cửa. Qua núm nghe, anh nghe giọng nói của cô gái Levantine. Cô ta đang nói về chuyện những tấm ảnh.

Thế rồi Costas cảm thấy có cái gì cứng rắn dí sát vào hông.

— Hãy gõ vào cửa đi - Raza nói nho nhỏ, hắn đang ấn mạnh nòng súng vào người Costas.
 
CHÚ Ý !!!
Các đạo hữu nhớ thêm TÊN CHƯƠNG và THỨ TỰ CHƯƠNG ở ô phía trên phần trả lời nhanh. Như vậy hệ thống mới tạo được DANH SÁCH CHƯƠNG.
Cập nhật chức năng ĐĂNG TRUYỆN và THÊM CHƯƠNG MỚI trên web Diễn Đàn Truyện tại https://truyen.diendantruyen.com
Top Bottom