Chào mừng bạn đến với Diễn Đàn Truyện!

Diễn Đàn Truyện là diễn đàn chuyên về truyện, văn, thơ và giải trí. Để có thể sử dụng đầy đủ chức năng diễn đàn vui lòng bạn đăng ký thành viên, việc đăng ký hoàn toàn miễn phí và dễ dàng!

Đăng ký!
Chương 20


Người dịch: Văn Hòa - Kim Thùy

Nhà xuất bản: NXB Thanh Niên

Shared by: CCG -

Morton bước vào nhà hàng La Touche qua cánh cửa sơn mài màu đen, người quản lý trịnh trọng mở cửa, mái tóc anh ta chải láng mướt như các đồng nghiệp.

Bên trong nhà hàng, ánh sáng lờ mờ, nền nhà trải thảm hoa và tường nhà sơn trắng. Một cặp ngồi yên lặng ăn trong góc phòng. Một nhóm khác, nói tiếng Thụy Điển, ngồi đầy cả một chiếc bàn dài ở giữa phòng. Morton đã để lại cho Wolfie số điện thoại của nhà hàng.

Vừa ngồi vào bàn, ông gọi một chai Dom Perignon.

Nàng đến, ông gọi bồi rót sâm banh cho nàng. Mái tóc nàng cắt ngắn trước trán. Chiếc áo dài bằng lụa hoa, bước đi tự tin của con người được mến phục.

Ông vừa dợm đứng dậy thì nàng vội vẫy tay ra dấu ông ngồi xuống.

— Rót cho em một ly - nàng tươi cười nói.

Morton rót đầy ly cho nàng trong khi đó người phục vụ kéo ghế mời nàng ngồi, đặt khăn ăn, đưa thực đơn ra.

— Chúng tôi sẽ gọi sau - Morton nói, vừa đưa ly rượu cho nàng.

Người bồi bàn cúi đầu chào, bước lui, Morton nói :

— Gặp em thật tuyệt. Đã bốn tháng qua rồi.

— Ước gì sẽ có lúc sung sướng hơn, David - Nan đáp. Nàng với tay qua bàn chạm nhẹ lên tay ông - Em rất buồn, rất buồn vì Steve và Dolly.

Ông bóp tay nàng. — Gặp em ở đây là tuyệt quá rồi.

Nàng cười rồi rút tay lại. Im lặng một hồi như khi hai người nói chuyện trên điện thoại.

— Công việc ra sao ? - Ông nhìn nàng, hỏi.

— Tốt đẹp. - Còn anh ? Nàng lại ngần ngừ như khi nói trên điện thoại.

— Công việc này khiến mọi người phải căng thẳng.

Nàng để ly xuống bàn.

— Anh biết ai gây ra không ? - Nàng hỏi nhỏ.

— Raza.

Lần này thì nàng không ngần ngại nữa. — Ôi, lạy Chúa. Không thể để tái diễn nữa.

Một tràng cười vang lên từ bàn của nhóm người Thụy Điển. Morton đợi cho đến lúc tiếng cười dứt, ông bèn chồm người tới trước, hạ thấp giọng, nói cho Nan nghe chuyện Raza hăm dọa sẽ thả hết vi rút bệnh than B.C nếu những yêu sách của chúng không được đáp ứng.

Morton thấy nét kích động, hãi hùng hiện ra trên mặt nàng. Ông nhận ra ông đã ít chia sẻ ngọt bùi cùng nàng, ông thấy nhớ nàng; và mong muốn được cùng chịu gian khổ với nàng biết bao.

- Anh hạn ra năm ngày phải khử cho được hắn Nan à. Có thể sớm hơn nữa - Ông nói thêm.

— Không ai có đủ chất men PEG hết - Nan nói - Chúng ta chỉ có đủ chữa trị cho năm mươi người. Nếu Raza làm đúng như lời hắn nói, thì chúng ta phải cần đến số lượng nhiều hơn gấp trăm lần hiện có.

— Chắc là thế. Chúng ta đã có chương trình sản xuất hàng loạt chất men này rồi. Chính phủ nào có khả năng đều được yêu cầu sản xuất.

— Không phải là vấn đề có đủ thuốc hay không, David à, mà em thấy vấn đề chuyên môn mới quan trọng. Em nghĩ có lẽ không có nổi một tá người trong đất nước này có khả năng định bệnh kịp thời.

Người phục vụ lại đến, anh ta đọc những món đặc biệt của nhà hàng. Nan gọi cá hồi lát xông khói với tôm, trứng cá muối và cá đối chiên. Morton gọi thịt vịt nướng và thịt bê chiên bơ.

Ông nhớ hai người đã gọi thức ăn giống như hôm đầu tiên họ cùng đi ăn tối với nhau.

— Ngài vẫn dùng sâm banh chứ, thưa ngài ? - Người bồi bàn hỏi nhỏ.

- Vâng.

Morton nhìn anh bồi bàn đi vào nhà bếp, rồi ông quay qua Nan. — Phải học lớp đặc biệt mới đi được như thế.

Nàng mân mê cái ly trong tay.

— Anh thật nhớ em, Nan à !

Nàng lắc nhẹ mái đầu.

— Anh nói thế thôi, chứ anh bận bịu công việc biết bao nhiêu.

Nàng có vẻ ngần ngại, làm như nàng đang muốn nói gì thêm.

— Còn em thì sao ? Em có nhớ anh không ?

Nan gật đầu. — Dĩ nhiên là nhớ. Em nhớ anh như... đang thấy cảnh chúng mình đi mua sắm ở nhà hàng - Nàng vội cười để làm cho câu chuyên tươi vui lên - Như thế là bây giờ chúng ta lại gặp nhau ở đây... lại đi mua sắm. Thực ra,thì em cũng chẳng cần...

— Em lại than vãn rồi đấy - Morton nói - Anh hỏi em chuyện này nhé. Em có nghĩ những điều em suy nghĩ không ?

Nàng từ từ gật đầu, không cười nữa. Ông cố giữ giọng nói bình tĩnh nhẹ nhàng.

— Em hẳn là đã biết anh nghĩ gì rồi đấy - Ba tháng truớc đây ông đã có ý kiến nàng đến Tel Aviv ở với ông.

— Em không giải quyết được, David à.

Nàng để ly xuống bàn và nhìn ông. Khi nàng nói, giọng của nàng đã quả quyết rồi, không như trước đó.

— Em xin lỗi anh, David à. Thực sự xin lỗi đấy. Nhưng tình thế không cho phép.

Ông nhìn nàng một hồi lâu. Cuối cùng, ông lại nói :

— Nếu cả hai ta đều muốn...

— David, em không yêu anh đủ để bỏ hết tất cả mà theo anh qua sống ở Tel Aviv được.

Ông để ly xuống. Ông đã đọc đâu đó viết rằng cật vấn người yêu thường sẽ làm cho vấn đề đổi ngược lại và người yêu sẽ thú nhận những điều mình không thích nghe tí nào hết.

— Em đã có ai ư ?

Lần này thì nàng ngần ngừ một hồi lâu mới đáp : — Có.

— Anh hiểu rồi... Mà có nghiêm túc không đấy ?

Nàng với tay qua bàn, chạm nhẹ vào tay ông : — Em xin lỗi. Em không muốn làm anh đau khổ, David à !

— Em phải thế thôi. Em biết là anh yêu em mà.

— Chúng ta vẫn là bạn bè với nhau. Em thích thế, David !

Ông trưởng bồi bàn cùng môt anh bồi bàn khác mang thức ăn ra, anh ta rót đầy sâm banh vào ly hai người. Morton đăm chiêu nhìn bọt sâm banh sủi tràn ra miệng ly. Đợi cho đến khi những người bồi bàn đi hết, ông lại hỏi :

— Em quen biết anh ta lâu chưa ?

— Ba tháng.

— Không lâu lắm mà !

Nan cắt cá hồi ra ăn , — Đủ lâu để hiểu nhau, David. Khi em cần anh ấy là có anh ấy liền. Chứ không phải gọi điện thoại.

Nàng lấy nĩa, xiên miếng cá.

— Anh nghĩ là em thích thế. Không ràng buộc. Không thúc ép.

— Em cũng nghĩ thế. Hóa ra là em lầm. Em không muốn ai thúc ép em hết.

— Thì anh có bao giờ thúc ép em đâu, Nan ?

Nàng nhìn thẳng vào ông, cái nĩa đưa lên ngang miệng.

— Có thúc ép đấy chứ, David. Không biết khi nào mới lại gặp anh. Không thể nào vạch ra kế hoạch cho được. Rồi bỗng anh hối thúc em đến Tel Aviv ở. Rồi ở đây em lại lâm vào tình trạng như thế, lại tự hỏi không biết anh ở đâu. Em muốn cái gì chắc chắn kia. David à - Nàng thoáng cười - Có lẽ như thế thì không hấp dẫn đấy, nhưng sống với anh, em thấy quá nguy hiểm.

Nan ăn miếng cá.

— Em muốn thành hôn với anh ta à, Nan ?

Nàng cắt miếng cá khác.

— Anh ấy hỏi em. Nhưng em chưa quyết định. Em cũng như anh, không phải loại người muốn ràng buộc vào hôn nhân.

Nan ăn miếng cá nữa.

— Anh vẫn muốn cưới em, Nan.

Nàng lắc đầu, vừa lấy mép khăn lau miệng.

— David, anh đã gắn chặt với công việc rồi. Anh là một kẻ cô đơn, anh mãi mãi như thế mà. Anh chỉ say mê công việc.

Nụ cười tắt trên môi Morton, mặt ông trở nên nghiêm trang vô cùng.

— Anh không thay đổi nguyên tắc được, Nan à. Nhưng anh sẽ cố gắng chung sống với em nhiều hơn là như trước đây anh sống với Shola.

— Em biết. Em không yêu cầu anh thay đổi nguyên tắc. Em chỉ yêu cầu anh hiểu cho, và chấp nhận cho là tại sao những nguyên tắc ấy của anh lại không hợp với em.

Morton phết ba tê lên bánh mì nướng.

— Anh không muốn để cho em đi đâu, Nan à.

Nàng đẩy cái dĩa sang một bên rồi chồm người qua bàn :

— Sẽ không có gì thay đổi trong mối liên hệ chuyên môn của chúng ta hết. Em vẫn muốn được giúp đỡ anh. Anh cứ thường xuyên gọi em. Và khi anh đến, em vẫn đón anh. Em sẽ tranh thủ thì giờ mà. David. Em hứa đấy. Chúng ta vẫn là bạn.

Ông uống ; nhưng bỗng rượu sâm banh nhạt thếch.

— Anh thấy như thế không dễ dàng gì đâu. Anh chưa bao giờ nghĩ về ai như anh nghĩ về em hết, Nan à - Morton để ly xuống, nhìn nàng - Anh rất sung sướng khi em vẫn tiếp tục giúp anh. Nhưng nếu chúng ta cứ thẳng thắn chia tay nhau thì mọi việc chắc sẽ dễ dàng cho hai ta hơn.

Nan nắm tay ông, nàng thoa nhẹ lưng bàn tay ông.

— Có phải anh thật muốn thế không ? - Nàng nhẹ nhàng hỏi.

Ông nhớ những khoái cảm trước đây, nhớ hơi ấm của da thịt nàng áp vào da thịt mình, nhớ mùi vị đôi môi nàng.

— Thật.

Nàng rút bàn tay về, nhìn đăm đăm vào mặt ông, vào mắt ông. Nàng đành chấp nhận như thế mà thôi.

— Cho em xin thêm sâm banh đi - Nàng nói.

Ông rót rượu vào ly, xong ông thấy người bồi bàn tiến đến bên bàn ông. Morton vẫy tay xua anh ta đi.

— Uống đế nhớ những kỷ niệm đã qua - Nan nói, nâng ly lên.

— Nhớ những gì đáng nhớ - Morton không nâng ly lên.

Anh bồi bàn trưởng lại bước đến, thì thầm bên tai ông. — Thưa ngài, ngài có điện thoại.

Morton đứng dậy, xin lỗi Nan. Cặp vợ chồng yên lặng trong góc phòng đã ra về. Những người Thụy Điển đang cụng ly khi ông nhấc điện thoại trên một cái bàn kế bên cạnh cửa vào phòng treo áo quần.

— Xin lỗi đã làm gián đoạn tối vui của ông - Wolfie nói - Nhưng Danny vừa mới nhận được một tin phát từ Athens. Đây là một trong những trạm đã phát sóng cuộn băng yêu cầu nước Pháp trả tự do cho những "Cảm tử quân" của Raza. Danny cho biết nội dung rất giống trong một cuộn mà Michelle đã lượm được. Nhưng lại là một giọng phụ nữ khác. Con này nói lịu và giọng của nó trẻ hơn.

— Danny đã tiếp xúc với Costas để nói về chuyện này chưa ?

— Chưa, Danny cho biết anh ta đã được lệnh phải trả lời rồi. Ban mật vụ phải mất một giờ nữa mới phái người tới được. Trong lúc đó thì Danny nhờ nhân viên của Gates đi lục soát quanh vùng.

Morton bèn quyết định ngay. — Có cái gì không ổn rồi đấy. Tôi về đây. Báo động cho lực lượng "Dove" đi.

Chiếc Concorde có thể chở ông đến Athens trong vòng hai giờ nữa. Ông quay lại bàn, đứng bên Nan, hơi cúi xuống nhìn nàng. — Anh xin lỗi...

— Em biết rồi - Nàng nói - Anh phải về.

— Anh đưa em về nhé ... - Ông lại nói.

— Em ngồi lại đây đã. Không nên cả hai chúng ta đều làm buồn lòng ông đầu bếp.

Nàng ngẩng lên nhìn ông. Ông cúi xuống, nàng hôn nhẹ lên má ông.

— Hãy cẩn thận, David.

— Em cũng thế.

Morton trả tiền rồi bước ra khỏi nhà hàng, cố giữ không nhìn lại Nan đang ngồi uống sâm banh. Thế là hết.

*

**

Costas ngồi trong chiếc ghế bành ở phòng khách, cố gắng lấy lại bình tĩnh.

Cô gái Levantine đứng cách anh khoảng một bước, chĩa khẩu súng vào anh. Mặt chị bình tĩnh, cương quyết. Chị sẽ giết anh mà không ân hận chút nào. Cô gái kia nhìn anh, nét mặt hằn học, lo âu.

Khi cô ta vừa mở cửa ra thì Raza đánh mạnh vào anh. Trong lúc bất tỉnh, anh đã bị lột quần áo, chỉ còn mặc quần lót, và bị trói vào chiếc ghế bành.

Hắn đứng quay lưng lại với Costas. Bỗng trong phòng vang lên lệnh gọi của Danny yêu cầu gọi về Tel Aviv.

Raza quay lại, nắm trong tay cái máy MRT, tay kia nắm khẩu súng của Costas. Hắn biết tiếng Do Thái, cho nên nhận ra lệnh trong máy là tiếng Do Thái cổ. Hắn quá nghi ngờ. Con heo này hoặc là một thằng phục quốc Do Thái, hoặc là một tên cộng tác với hắn. Một thằng nguy hiểm.

Raza đưa máy MRT lên :

— Cái gì đây ?

Costas cố gắng giữ bình tĩnh, anh đáp :

— Máy liên lạc. Tôi là một thám tử, chuyên phụ trách về các vụ ly dị. Vì vậy mà tôi mang súng. Chuyện ngoại tình cũng là chuyên nguy hiểm lắm.

Anh nhìn Raza. Hắn không trả lời, không tỏ dấu hiệu nghi ngờ lời anh nói ra có đúng không. Giọng Danny lại vang lên một lần nữa. Raza tắt máy MRT.

Khi hắn nói, giọng hắn dữ tợn, lạnh lùng. — Gabriel là ai ?

— Là một tên Do Thái ! - Anna la lên.

Nadine nâng khẩu súng lên, chỉ ngay vào đầu của anh. Chị liếc nhìn Raza, thấy mặt hắn tím lại.

— Mày làm việc cho ai, hở thằng Do Thái ?

Mặc dù đau đớn, Costas cũng thấy được sự giận dữ dang bùng lên trong người hắn ta. Sự giận dữ và nóng nảy, thật nguy hiểm. Hắn không bình tĩnh. Anh bèn đáp.

— Tôi hành nghề tự do. Và tôi không phải Do Thái. Nếu ông thả tôi ra, tôi sẽ gọi về văn phòng và ông có thể hỏi cô thư ký của tôi thì biết. Cô ta sẽ xác nhận những điều tôi nói với ông.

Nếu anh nhấc được điện thoại, anh có thế gọi được số không đăng ký của Tòa đại sứ Israel. Có một lần, người sĩ quan mật vụ nghe anh yêu cầu nói chuyện với cô thư ký, ông ta đã phanh ra được cuộc gọi. "Thư ký" là mật mã hiện hành của Mossad để báo động khi gặp nguy hiểm.

Raza nói bằng giọng trầm, đanh : — Mày tưởng tao ngu hả ? Đã từ lâu, không bao giờ tao tin một thằng Do Thái cả. Lời nói của một thằng Do Thái không giá trị gì hết. Không giá trị gi hết ! Nào... mày làm cho ai ?

Không quay đầu lại, Nadine nói :

— Ha-Zoafim là dấu hiệu gọi từ ngọn núi đá lớn của bọn Do Thái, hòn núi đá nhìn xuống đền thờ Đấng Tiên tri ở Jerusalem.

Costas cố làm ra vẻ không sợ sệt. Anh đáp :

— Đấy là tên nơi sinh của người đàn ông mà bà vợ của khách hàng của tôi đã dan díu. Anh ta hiện ở trong ngôi nhà này. Tôi đang cố công đi tìm anh ta...

— Đừng nói láo với tao, thằng Do Thái ! Mày làm việc cho bọn khủng bố Do Thái phục quốc !

Giọng Raza cất cao, hắn đã nổi điên lên rồi. Costas nhìn vào mặt hắn. Anh đã từng thấy nét mặt như thế. Đấy là nét mặt của kẻ đang muốn giết người.

— Tôi không làm cho bọn khủng bố Do Thái.

— Tại sao mày theo dõi mấy cô gái này ? - Raza hét lên.

Costas lắc dầu. Chỉ cần cử động nhẹ cũng đủ làm cho anh đau đớn. — Tôi không theo dõi.

— Mày theo dõi họ từ Công trường cho tới phi trường. Tại sao ?

Costas cảm thấy hy vọng tiêu tan như sương giá tan dưới ánh mặt trời.

— Ông lầm rồi. Tôi không theo dõi họ. Tôi đi tìm người đàn ông đã ngủ với vợ ông khách hàng của tôi. Thỉnh thoảng hai người gặp nhau ở Công trường hay là ở phi trường.

— Hắn nói láo ! - Bỗng Nadine nói - Hắn theo dõi chúng tôi.

Costas nhìn vào mặt chị ta. Mấy phút kinh hoàng vừa qua chỉ là dấu hiệu khởi đầu cho sự lo sợ của anh. Chị ta muốn anh phải chết.

— Hắn là một thằng phục quốc Do Thái - Anna lại nói, - Chỉ có một thằng Do Thái phục quốc mới khiếp sợ như thế.

— Tôi là người Hy Lạp ! - Costas chống chế - Đúng thế, tôi đang sợ khiếp lên đây. Ai cũng phải sợ chứ - Anh cất cao giọng - Xin ngài vui lòng hãy cho tôi gọi về văn phòng.

— Mày tưởng tao là thằng ngu hả, thằng Do Thái ? - Raza la lên - Mày tưởng mày coi thường được tao và dân tộc tao hả ? Mày tưởng mày đến đây để dò thám được tao hả ?

— Thưa ngài, ngài vui lòng...

— Câm mồm, thằng Do Thái !

Raza quay đi. Bây giờ thì Costas biết chắc rồi. Ngay cả con đĩ ngựa kia cũng thấy được anh là thằng Do Thái đang khiếp sợ nữa mà. Khi Raza cất tiếng nói lại thì giọng của hắn quả quyết hết sức khô khốc :

— Tại sao Morton gởi mày đến đây ?

Costas cảm thấy nôn nao muốn ói. Anh cố gắng đáp. — Tôi không bao giờ nghe người nào có tên như vậy thế. Hắn là ai thế ?

Raza bước đến gần hơn, đứng bên cạnh Anna : — Mày có biết tao là ai không ?

Costas lắc đầu. — Không, thưa ngài. Tôi chưa khi nào gặp ngài...

Raza nhìn Costas, ánh mắt hắn độc ác, vô cảm. Trong phòng hoàn toàn im lặng. Rồi hắn hét lên :

— Tao là Raza !

Tiếng mở chốt khóa an toàn trên khẩu súng của Raza đã phá tan bầu không khí yên tĩnh ở trong phòng. Hắn gật đầu. Con heo này đã nhận ra tên hắn.

Nadine thấy mắt Raza long lên nét điên cuồng. Bây giờ thì không có gì ngăn hắn được nữa rồi. Anna nhìn chằm chằm vào Costas, miệng cô ta mấp máy để cố trấn tĩnh. Cô ta thấy Raza nâng khẩu súng lên. Hắn nhẹ nhàng nói :

— Anna, mày giống con heo nào đây ? Mày rất ngu xuẩn.

Raza bắn hai phát, cả hai viên đạn đều xuyên từ bên tai trái sang tai phải. Cô ta đứng thẳng như thế một chốc, một vòi não lẫn máu phụt ra theo một hình vòng cung lên trần nhà. Tuy đã chết, cặp mắt cô ta vẫn nhấp nháy như mắt của một con búp bê, rồi cô ta sụm xuống nền nhà. Cô ta cố vùng lên một lần nữa, bàn tay giật giật, nắm sờ vào tấm vải chéo đeo trên người, mấy ngón tay lướt trên hàng chữ vàng. Cơn chấn động qua đi, cô ta nằm yên.

Raza nhìn theo Nadine. — Nó chết nhanh quá, không xứng chút nào hết.

Hắn vẫn còn điên cuồng, mắt hắn vẫn long lên. Hắn lại hỏi Costas một lần nữa : — Tại sao Morton gửi mày đến đây ?

Costas không đáp. Anh cảm thấy nước tiểu đang chảy xuống hai đùi chân.

— Chả cần thiết nữa - Raza nói - Mày phải đền mạng cho Al Najaf.

Hắn đưa súng lên, bắn liên tiếp ba phát vào ngực Costas. Anh nảy người lên rồi gục xuống.

Raza quay lại nhìn Nadine. Chị đã hạ súng xuống. Bỗng chị thấy mắt hắn bình thường trở lại. Khi hắn lên tiếng nói, giọng hắn trở nên bình thường. Chị thấy vừa kinh hoàng vừa phấn khởi. Một người đàn ông thay đổi thái độ như thế là một người hoàn toàn tự chủ.

— Nào, ta phải làm việc thôi - Hắn nói.

Cả hai bước vào nhà bếp. Máy ảnh của Anna và những tấm hình Polaroid nằm bên cái túi xách của Nadine, tất cả ở trên kệ bếp. Cái túi vẫn còn chứa mấy chai nước hoa.

— Vứt hết đi ! - Raza ra lệnh.

Chị đổ hết nước vào bồn rửa rồi ném chai vào thùng rác. Raza trải hết ảnh Nadine chụp với Nancy trên chỗ nấu ăn.

— Đấy, em lựa lấy đi một tấm ! - Raza vui vẻ nói. Hắn hoàn toàn thay đổi tính tình.

Nadine lựa ra một tấm. Raza thu lại hết rồi xé vụn. Hắn bảo Nadine xả hết vào bồn rửa. Trong lúc chị lo xả nước, thì hắn mở tủ lấy ra một máy fax. Hắn gắn vào một ổ cắm điện trên tường. Dùng băng dán lấy trong hộc tủ, hắn dán tấm ảnh vào một tờ giấy ảnh. Hắn bấm số trên máy fax, đồng thời đút tờ giấy vào máy. Máy đã liên lạc được, phát ra tiếng kêu lanh lảnh và tờ giấy chạy qua máy.

Một lát sau, bản sao ở máy fax trong nhà của Rachid Harmoos ở Connecticut hiện ra.

Khi đã nhận tin máy fax đã nhận được, Raza bèn sử dụng bộ máy để gọi đi nhiều nơi trên thế giới.

— Vâng - Faruk Kadumi trả lời ở Luân Đôn.

Raza đưa cho y số chuyến bay của Bill Hardman đến Luton rồi ra lệnh cho y. — Anh phải dùng cách nào đó để đánh tráo đi - Hắn nói.

Raza gọi cuộc cuối cùng, thu xếp để người đại diện tại địa phương của tập đoàn tu sĩ Hồi giáo lo việc di chuyển các thây ma đi.

— Để thằng ấy tại chỗ nào cho chúng tìm ra hắn được. Xem như cảnh cáo chúng luôn. Còn con kia thì để chỗ nào không ai tìm ra được - Hắn ra lệnh.

— Xin tuân lệnh - Giọng nói bên kia đầu dây hứa với hắn.

Hai giờ sau, Raza và Nadine bay khỏi Athens.

*

**

Khi Morton đi quanh trong căn hộ thì bình minh bắt đầu xuất hiện qua các cửa sổ.

Chiếc Concorde đã bay từ Northolt đến đây mất một trăm phút. Ông đã dùng toàn bộ số thì giờ này để giám sát cuộc săn lùng Raza và những tên giết Costas. Thi thể của anh đã được tìm thấy bên ngoài văn phòng của Cơ quan El Al ở thành phố Athens một giờ trước khi chiếc máy bay hạ cánh.

Vừa lúc Morton đến căn hộ ; những kỹ thuật viên cảnh sát Athens ở hiện trường đã khám phá ra nhiều điều. Nhờ Danny đã fax toàn bộ dấu tay của Raza từ Tel Aviv đến mà nhân viên trong ban dấu tay đã tìm ra được một số dấu tay của Raza ở trong phòng.

Những kỹ thuật viên khác đã xác định rằng có hai người chết trong phòng khách. Phân tích máy cho thấy một người đúng Costas. Còn người kia, nhờ mẫu tóc, họ khẳng định là một phụ nữ.

Thỉnh thoảng Morton dừng lại nhìn xem các kỹ thuật viên làm việc. Họ làm rất giỏi, tranh thủ thời gian, không bỏ sót gì hết. Hai nhân viên đồng phục đã hạ ảnh của nhà lãnh đạo Hồi giáo Muzwaz xuống. Toàn bộ đồ đạc trong phòng đều được xê dịch một cách khéo léo để tìm ra bằng chứng.

Morton dừng lại trước một cửa sổ. Mới mấy giờ trước đó, Raza hẳn đã đứng ở đây. Hầu như ông còn ngửi thấy mùi của hắn ở đây. Có tiếng nói sau lưng ông cất lên.

— Tôi đã cho đóng các cửa khẩu. Chẳng lẽ hắn thoát ra qua ống cống ? - Zak Constantine cam đoan như thế.

Morton quay lại nhìn ông Giám đốc An ninh Quốc gia Hy Lạp.

— Bây giờ thì hắn đã đi rồi, Zak. Hắn ra đi trước lệnh ông phong tỏa.

Constantine gật đầu, nhận ra đã năm mươi tuổi đầu mà ông vẫn còn non nớt, thiếu kinh nghiệm.

— Ông đã kiểm tra danh sách hành khách đi tàu chưa ? - Morton hỏi.

— Dĩ nhiên là có. Không ai có dấu hiệu khả nghi cả.

Morton gật đầu, ông thấy kỹ thuật của ông ta còn quá nhiều hạn chế.

Constantine tức tối nói : — Đêm ấy, tên lính canh chậm chạp quá !

Người lính gác Israel ở văn phòng cơ quan El Al không giữ lại được chiếc xe hay là ghi lại số đăng ký xe.

— Từ ngày mai, hắn sẽ có nhiều thì giờ để hành động, chắc chắn thế, cứ canh chừng lạc đà ở sa mạc Sinai - Morton nói.

Hai người bước sang một bên khi hai binh sĩ lôi đi một cái ghế bành. Những vết máu đen bám lên vải bọc, — Thoạt tiên là chúng bắn Costas với súng của anh ấy. Rồi chúng cắt bộ phận sinh dục của anh. Thật là đồ mọi rợ. - Constantine nói.

Vị bác sĩ cảnh sát đã xác nhận rằng đạn từ trong súng của Costas, và anh đã chết trước khi bộ phận sinh dục bị xẻo rồi bị tống vào miệng anh.

Sau khi đã chính thức nhận diện ra Costas, Morton đã thăm đài phát thanh với Constantine. Ban nhân viên cho biết cuộn băng được tìm thấy trong thùng yêu cầu chương trình ở trong hành lang. Không ai thấy kẻ nào đã bỏ cuộn băng vào đấy. Morton đã lấy một cuốn. Cuộn băng được truyền về Tel Aviv qua trung tâm truyền thông trên chiếc Concorde. Ông thẩm vấn người liên lạc với cảnh sát của Costas hết một giờ. Anh chàng này đang trình bày sự việc khi thi thể của Costas được mang vào. Anh chàng Hy Lạp đã làm việc đúng theo yêu cầu được giao. Theo nguồn tin anh ta cho biết Costas đang đi đâu. Constantine đã phái nhiều người đến căn hộ này đủ sức để đánh nhau một trận nhỏ.

— Tôi đã huy động một lực lượng lớn liên lạc từ những nơi xa xôi nhất đến chỗ này - Constantine cau có nói - nhưng có lẽ chúng tôi không liên lạc xa hơn được nữa.

— Thế cũng hết sức rồi đấy, Zak. Nhưng rủi thay cho ta là Muzwaz đã che giấu tông tích của nó. Lão này rất giỏi ngón này.

Một kỹ thuật viên từ dưới bếp bước ra đem theo bao rác. — Ngài xem cái này thì biết.

Người kỹ thuật gia đổ cái bao rác lên nền nhà. Một nửa tá chai nằm lăn lóc. Morton cúi xuống kiểm tra. Ông lấy lên một cái chai, ngửi miệng chai. Có mùi thơm loại nước hoa rẻ tiền. Ông đứng dậy, cầm cái chai trong tay.

— Xem thử đây có phải là loại nước hoa ta chế tạo ra không Zak ?

Constantine liếc nhìn nhãn chai.

— Đêm Hy Lạp à ? Chưa bao giờ nghe đến. Nhưng chúng ta sẽ biết ngay thôi. Vì chúng tôi đã gia nhập vào Khối Cộng đồng Kinh tế Âu châu, tất cả nhãn hiệu sáng chế các sản phẩm cao cấp đều phải đăng ký hết - Ông gọi một phụ tá, ra lệnh cho ông ta kiểm tra cái chai.

Morton lấy một chai khác. Ông nói cho Constantine biết về tin chặn được của Danny khi theo dõi tin tức đánh đến Athens.

- Tôi muốn ông nhờ nhân viên pháp lý thử nước hoa trong này ra sao, và đối chiếu mảnh chai vỡ họ đã tìm thấy vụ nổ xe dầu với chai này xem thế nào.

Constantine có vẻ đắn đo :

— Ông dò la người phụ nữ đã mang vi rút bệnh than trong chai giống chai này khi cô ta bị chết cháy à ?

— Thì cứ để xem nhân viên của họ nghĩ sao, Zak à.

— Tôi sẽ đích thân đem theo mấy cái chai đến đó.

— Để lại cho tôi một cái, Zak.

Morton cầm cái chai vào nhà bếp.

Một kỹ thuật viên đang tìm dấu tay trên máy fax. Một người khác đang kiểm tra cái máy ảnh Instamatic. Anh ta dừng lại, nhìn Morton. Ông đưa cái chai lên, nói : — Tôi muốn lấy cái nhãn này.

Anh ta nhún vai rồi lại tiếp tục công việc. Mùi trong bồn rửa ngửi giống như mùi trong những cái chai. Tại sao có ai lại đổ nước trong chai ra ? Raza không cần làm trắc nghiệm lần nữa sau vụ Trekfontein à ? Hắn không muốn phí chất vi rút quý giá khi đem đi đổ vào ống cống ở Athens đâu. Chắc thế rồi.

Có vật gì bị mắc kẹt trong ống dẫn nước bên dưới bồn rửa. Morton yêu cầu một kỹ thuật viên khơi thông ra. Anh ta dùng một cái nhíp có cán dài để lôi giấy bị mắc kẹt trong ống. Đấy là một tấm ảnh chụp khuôn mặt của ai đó.

Morton mở cái nút ở dưới bồn rửa, rồi cho nước tuôn ra chảy vào cái xô. Những mảnh giấy ảnh xé vụn nằm dưới đáy nút rơi vào xô. Anh kỹ thuật viên nhìn Morton cười. Ông cười đáp lại rồi đem những mảnh giấy trải ra trên quầy bếp. Ông ghép những mảnh lại với nhau.

Khi Constantine trở về thì Morton đã ghép được nhiều tấm ảnh của hai thiếu nữ. Một người cầm một chai nước hoa. Morton thấy cái chai giống cái chai ông để trên quầy ở bên cạnh bức hình ông vừa ghép.

— Mảnh chai giống với mảnh tìm thấy lẫn lộn trong thi hài của người bán hàng dỏm - Constantine nói khi vừa bước vào nhà bếp - Nhân viên tòa án đã kiểm nghiệm chất nước trong chai đều xác nhận chai nào cũng chứa loại nước hoa xức sau khi cạo râu, nước hoa ô-đờ-cô-lôn và một chất mà họ cho là trà bạc hà.

Constantine lắc đầu rồi nói tiếp :

— Tại sao lại có nước trà pha bạc hà không biết ? Những nhân viên pháp lý cho biết tin mừng là họ không tìm ra dấu vết nào nguy hiểm hết.

— Chúng có thể dùng nước trà để đánh lạc hướng đi. Có lẽ chúng đã chế rất nhiều chai - Morton nói.

Constantine nhìn vào những tấm hình đã được ghép lại :

— Ông có cái gì thế này ?

Morton nói cho ông ta biết những hình ở đâu ra. Constantine chăm chú nhìn những tấm hình.

— Hình bên trái giống người Li Băng quá. Còn hình kia là một du khách.

— Và không ai trông có vẻ dân bán hàng rong cả, ông Zak à.

— Có thể bọn này đã cấu kết với Raza và con bán đồ dỏm trên một vài mặt nào đấy - Constantine nói - Rồi sau khi con này chết, Raza đã cố hủy hết bằng chứng. Vì thế mà hắn dã đổ hết nước trong chai đi.

Morton gật đầu.

— Tôi không biết có phải một trong các con này là người đã chết trong vụ nổ không ? Nhưng theo tin chặn được và theo việc so các mảnh chai của nhân viên ông, thì tôi thấy là có thể con đàn bà chết ở vụ nổ xe dầu đã mang theo một lượng vi rút bệnh than B.C, nhưng đã bị tiêu hủy với nó luôn. Không có cách nào chúng ta biết được lượng là bao nhiêu. Nhưng Raza chắc còn để lại một ít. Có thể hắn đã đổ chất pha chế trong chai đi để đổ vi rút vào. Nhưng phài chăng hắn đã để mất một số trong vụ nổ xe dầu, nên hắn không có đủ để đổ vào chai, vì thế phải vứt bớt chai dư đi ?

Constantine lắc đầu.

— Nhưng chắc chắn hắn phải có phòng thí nghiệm mới có thể thay chai được chứ ? Ở đây không có dấu hiệu gì về việc chúng đã làm như thế.

— Có thể hắn đã làm tại đâu đó. Còn đây có lẽ là một trung tâm phân phối mà thôi - Morton nói.

Người phụ tá giám đốc an ninh đi kiểm tra những nhà sản xuất nước hoa trở về, báo cáo rằng không có hãng nào là Đêm Hy Lạp hết. Constantine ra lệnh cho ông ta lục soát tất cả các phòng thí nghiệm trong vùng để tìm bằng chứng.

— Tôi cần gọi điện thoại, Zak - Morton nói-

— Ông dùng cái này đi - Người kỹ thuật viên đã lấy dấu tay xong máy fax lên tiếng.

Morton gọi cho Danny ở Tel Aviv.

— Nghe đây, Danny. Tôi thấy chúng ta đã nắm được mấu chốt rồi. Đó là những chai nước hoa có nhãn hiệu Đêm Hy Lạp. Báo cho Wolfie báo động với Fuller cho người lùng sục để thu hết những chai có nhãn ấy. Báo cho họ đừng mở chai. Nói Matti và Lacouste báo cho nhân viên Hải quan biết. Tôi sẽ fax cho anh một mẫu nhãn và một tấm ảnh. Nói cho mọi người biết phải chú ý xem giấy chứng minh của phụ nữ. Anh hãy báo động khẩn cho các nơi biết để mọi người đề phòng loại chai như thế.

— Tuân lệnh - Danny trả lời - Có Costas ở đấy với anh không ? Nếu có, anh làm việc luôn. Đã đến lúc trị anh ta rồi.

— Trễ rồi, Danny - Morton buồn rầu nói. Ông kể hết sự tình cho Danny nghe.

Sau khi gác máy, Morton lấy chai nước hoa nhúng vào bồn nước để lột cái nhãn ra. Ông lau khô cái nhãn rồi dán vào một tờ giấy ảnh. Ông dán một tấm ảnh đã ghép khi nãy trên một tò giấy khác, rồi fax cả hai cho Danny. Đoạn, ông bấm số đường dây điện thoại trực tiếp đến phòng lái chiếc máy bay Concorde, ra lệnh cho anh phi công thu xếp để chuẩn bị bay đi Frankfurt.
 
Chương 21


Người dịch: Văn Hòa - Kim Thùy

Nhà xuất bản: NXB Thanh Niên

Shared by: CCG -

Chín phút sau khi Morton gọi đến Danny thì ngôi nhà mật ở Foley nhận được lệnh khẩn, bản phô tô nhãn hiệu Đêm Hy Lạp và bức hình ghép lại. Lúc ấy đúng bốn giờ mười hai phút sáng ở Luân Đôn. Còn chưa đầy bốn ngày sẽ hết thời hạn Raza đưa ra.

Michelle ngồi trực phòng mật, còn Wolfie đi làm việc lúc nửa khuya.

Đèn trên máy fax bật sáng. Tướng Yertzin gởi tin cho biết quân "Biệt kích” của ông đã vào trong núi sâu, đã kiểm soát được nửa tá trại quân của Mujaheddin và không thấy dấu hiệu của Raza cũng như người của hắn. Thời tiết rất lạnh khiến cho công việc gặp nhiều khó khăn.

Sau đó, văn phòng của Đô đốc Burness fax đến báo cho biết việc liên lạc giữa vệ tinh với nhóm biệt kích đối phương bị gián đoạn vì trời đang nổi cơn bão tuyết. Vệ tinh thời tiết của cơ quan NSA bay trên Afghanistan tiên đoán cơn bão kéo dài hai mươi bốn giờ.

Finel tường trình những nhân viên câm đang tiếp tục theo dõi những kẻ hợp tác với Raza ở Nhật và Á châu. Chưa khám phá ra ai cả.

Cụ Gù gởi báo cáo viết tay cho biết những chuyên viên của ông đã cho biết thời gian những cuốn băng thu nằm trong khoảng thời gian từ mười cho đến mười bốn ngày mà thôi.

Michelle xếp tất cả những tờ báo cáo vào tập hồ sơ của Morton, cùng với những báo cáo khác của Interpol, của CIA, FBI và hai chục cơ quan cảnh sát khác.

Lệnh khẩn làm cho chuông trên máy fax reo vang khiến cho Wolfie đang nằm trong phòng ngủ đối diện với phòng mật giật mình thức dậy. Anh chạy sang vừa lúc tin chạy ra khỏi máy. Anh đọc tin, chửi thề nho nhỏ khi biết về Costas.

— Hãy giải quyết cho mau lên thôi - Michelle nói to, giọng chị thật bất thường. Đấy là phản ứng của chị khi nghe tin Costas chết.

Wolfie xóa tên của Morton và Danny trên lệnh khẩn đi, anh thay vào đấy hàng chữ đầu như trên những lời nhắn gửi đi các cơ quan : "Thượng cấp ở Tel Aviv." Rồi anh đánh lời nhắn vào máy vi tính cùng ảnh nhãn chai và tấm hình, rồi cho fax đến máy fax cá nhân của Fuller.

Máy để bên giường ngủ tại cơ quan của Fuller đóng ở tầng bảy của cơ quan New Scotland Yard. Lệnh phát ra đã đánh thức anh dậy liền khi mới thiu thiu ngủ sau một ngày làm việc suốt hai mươi bốn giờ liền.

Fuller vùng dậy, bật đèn lên. Ông đọc văn bản rồi nhìn vào bức ảnh lờ mờ ; thật khó mà phanh phui cho ra lắm. Ba mươi năm trong nghề cảnh sát đã dạy cho ông bài học là chỉ nhờ vào may mắn mới tìm cho ra được cái chai như thế này. Mặc dù Morton đã nhất quyết phải tìm cho người và hành lý, nhưng cái điệu phái người kiểm tra tất cả những hành khách đến Anh, thì việc tìm ra cái chai quả không phải dễ.

Tại các địa điểm nhập nội, nhân viên quan thuế đã rải khắp nơi. Nhiều người làm việc gấp đôi thời gian, một số đã mệt rã rời vì nhiệm vụ. Gay nhất là họ phải đương đầu với cảnh du khách bực tức vì nhiều biện pháp an ninh làm cho họ chậm trễ chuyến đi.

Vị trợ lý ủy viên An ninh Quốc gia nhìn lại bản tin thêm một lần nữa. Tin không nói gì đến việc chai sẽ được xách tay hết. Chai có thể được khách cất kín vào hành lý lắm chứ. Vào một ngày bình thường thôi, cũng có đến hai mươi bảy triệu thứ hàng hóa nhập vào Anh qua đường hàng không và đường thủy. Kiểm tra từng thứ như thế này sẽ gây phiền phức cho giới thương mại trong nước lắm. Công việc này phải có lệnh của cấp chính phủ mới dám làm những việc chưa hề xảy ra như thế này, đó là chưa kể đến phải có nhiều nhân viên kiểm soát giàu kinh nghiệm đế tiến hành một cuộc săn lùng như vậy. Đã có nhiều vị Bộ trưởng phản đối phương pháp an ninh gây phiền nhiễu như thế rồi.

Rồi sẽ có chuyện khó khăn đặt ra khi hàng chục triệu chai như thế bị tịch thu. Ngay cả khi huy động các nhà khoa học và các phòng thí nghiệm để kiểm tra các chai này, cũng phải mất hàng tuần mới làm xong. Đã có ý kiến đem chúng đốt hết đi. Nhưng phải đợi cho Bộ Môi trường xác nhận mức độ ô nhiễm có nguy hại không đã, rồi mới thi hành được. Giấy tờ xong xuôi cũng mất bốn ngày, hết thời gian hạn định của Raza.

Fuller lại xem kỹ văn bản. Ông rất nể phục tài năng của Morton. Nhưng việc báo động này là của ai đấy ở cơ quan Mossad. Ở đây có người thường suy đoán quá trớn. Bản tin cũng không nói gì đến việc chai có chứa vi rút bệnh than B.C. Mà cũng không có bằng chứng gì là chất này đang trên đường đến nước Anh.

Fuller gọi cô thư ký đang trực, đọc cho cô tóm tắt bức fax, với đầu đề : "Đề nghị thi hành". Sau khi cô đánh máy xong, ông ghép tờ phô tô cái nhãn chai vào rồi bảo cô ta mang tất cả đến cho vị sĩ quan cao cấp trực ở Trung tâm Hành quân Yard.

Vị sĩ quan cao cấp xem xong liền chuyển qua cho viên phụ tá. — Việc này sẽ làm phiền lòng nhiều người rồi đây - Vị thanh tra tiên đoán - Vì hải quan sẽ gây nhiều chuyện phiền toái mà chúng ta không đủ người để cùng họ duy trì trật tự công cộng.

— Ai không biết, chứ Fuller và tôi thì cứ mặc họ - Vị sĩ quan cao cấp nói - Cứ xem đây như lệnh phải thi hành thôi.

Vị thanh tra chuyển tờ giấy qua cho một trung sĩ để sao thành nhiều bản với tiêu đề in bằng chữ đậm màu đỏ :

"Scotland Yard : Lệnh Thi Hành”.

Những bản sao này cũng đồng thời được fax đến Bộ Nội vụ : Tổng hành dinh cơ quan Mật vụ đóng tại Tòa Thế kỷ bên kia sống đối diện với lâu đài Westminster ; Tổng hành dinh cơ quan M15 ở Marylebone ; đến mười bốn Tổng hành dinh Đội Hình sự Tự trị : đến sở Quan thuế ở Heathrow, phi trường mới của thành phố Gatwich và Luân Đôn tại Trung Tâm cùa vùng Docklands.

Những phi trường khác thuộc thủ đô, Luton và Stansted, sẽ nhận lệnh của những lực lượng cảnh sát của khu vực riêng : Bedforshire coi khu phi trường Luton, và cảnh sát ở Essex Constabulary coi khu vực phi trường Stansted.

Lệnh đến ban giám đốc phi trường Luton và được chuyển qua cho vị quản lý ban đêm. Đây là lần thứ ba vị quản lý này gánh chịu rất nhiều lời ta thán của hành khách vì họ bị Hải quan kiểm tra nghiêm ngặt quá.

Vị quản lý đã biết công việc này có liên quan đến bọn khủng bố. Nhưng công việc kiểm soát đã làm cho người ta cảm thấy quá đáng, đến nỗi không ai muốn trả lời câu hỏi của ông về chuyện chai lọ hết. Cơ quan Hải quan phi trường tịch thu chai lọ đã chất đầy cả phòng. Viên quản lý nhìn vào tờ lệnh. Ông thấy đây là việc ưu tiên hàng đầu. Ông bèn nhớ đến chuyến bay cuối cùng thuộc phiên trực của ông, chuyến Britania 16 cất cánh từ Athens.

Chiếc máy bay bị trục trặc máy móc đã hạ xuống Frankfurt, nên trễ mất bốn giờ. Ông quản lý nghĩ chắc thế nào cũng có trên hai trăm hành khách mỏi mệt, giận dữ đến Hải quan. Nếu lục soát chai lọ chắc thế nào cũng làm cho họ lâu thêm, và chắc chắn là sẽ khiến chọ họ phàn nàn thêm nữa. Ông để các tờ lệnh vào đống giấy tờ của quản lý trong ngày. Ông đã quyết định phải làm gì rồi.

Trong phòng khách đến cửa phi trường, nhân viên Hải quan đã nhìn kỹ từng hành khách trên chuyến bay mười sáu. Tâm trạng phổ biến của nhân viên Hải quan là muốn tránh khỏi thái độ thù nghịch của khách, họ phải hết sức thận trọng trong việc tịch thu các chai lọ của khách.

Ở dưới căn phòng chứa đồ tịch thu âm u, những ca làm ban đêm thường do người châu Á hay Ả Rập đảm nhiệm, vì chỉ có những người này mới muốn làm việc cả đêm để được lãnh thêm lương.

Một người trong số này là Saleem Arish. Trong thời gian một năm trời làm việc ở đây, y nhận thấy rằng y có thể thu nhập thêm bằng cách ăn cắp. Y rất thành thạo ngón ăn cắp đồ đạc rồi thu giấu trong người. Y đã tìm được thị trường để bán những thứ này, đó là trong giới buôn lậu ngày càng gia tăng ở Luân Đôn.

Sáu tháng trước đây, một người môi giới đã giới thiệu y với một người đàn ông mà y chỉ biết tên là Effendi. Hắn đã hỏi Arish rất cặn kẽ những thứ dễ ăn cắp nhất, rồi hắn hứa trả cho y một trăm bảng Anh hàng tuần để y điện thoại cho hắn hàng ngày trước khi đi làm trong trường hợp Effendi muốn ăn cắp thứ gì.

Suốt mấy tháng trời, Arish lãnh lương mà không làm gì hết. Thế rồi một tuần trước Effendi yêu cầu y ăn cắp một chai nước hoa Pháp, rồi giao cho người môi giới ở bãi đỗ xe trên xa lộ M1 đến Luton.

Nhờ việc này, y được nhận thêm một trăm bảng nữa. Y làm thêm hai lần nữa và cũng được trả thêm số tiền như thế.

Anh bạn Ả Rập của y có cơ thể dị dạng, mặt mày sưng phồng với sống mũi vặn vẹo. Tuy nhiên hắn lại nói năng rất dịu dàng, có văn hóa. Arish không cần lưu tâm đến anh chàng này, cũng như không cần biết tại sao Effendi lại trả cho y một số tiền khá cao như vậy để lấy mấy chai nước hoa mà hắn có thể mua rất dễ dàng trong bất cứ nhà hàng nào.

Đêm qua khi y gọi đến thì Effendi nói hắn sẽ trả cho y hai trăm bảng để lấy một trong ba chai nước hoa mà hắn chắc là đã nằm trong số chai lọ bị tịch thu trên chuyến bay Britannia 16.

Effendi cẩn thận miêu tả cho y nhớ hình dáng đặc biệt cùa chai và bảo Arish nhắc lại nhiều lần tên trên nhãn chai : Đêm Hy Lạp. Khi đến làm việc, Arish đã tình nguyện vác những cần xé hàng bị sung công. Đây là công việc quá nhọc nhằn nên chẳng ai muốn làm.

*

**

Vừa đến phòng Hải quan, cơn giận của Bill Hardman vì chuyến bay đến trễ này lại biến thành nỗi kinh ngạc khi anh được hướng dẫn vào một phòng kiểm soát nhỏ. Fiona chắc đang lo lắng không biết anh ở đâu. Nàng chưa hề quen cảnh máy bay thay đổi bất ngờ như thế này bao giờ. Càng ra khỏi cảnh chậm trễ này nhanh chừng nào tốt chừng ấy. Một nhân viên Hải quan đứng tuổi đang đứng bên cạnh môt dãy giỏ bằng dây thép ở trước một vành đai di động chuyên chở hàng hóa để kiểm soát. Bill cười chào ông ta.

— Lần đầu tiên tôi bị chặn lại đây.

— Không phải chận lại hết, thưa ngài. Cứ hai người tôi kiểm soát một mà thôi.

Người nhân viên yêu cầu Bill mở hành lý để trên bàn. Bill làm theo. Ông ta thành thạo đưa tay lần trên những lớp áo quần sắp xếp ngay ngắn.

— Ngài tự thu xếp áo quần hay sao ?

— Vâng.

— Chắc là ngài có vợ rồi. Chỉ có bà nội tướng mới dạy cho ngài làm công việc như thế này được.

— Chuyện này có vẻ bất thường quá, phải không ? - Bill hỏi.

Viên sĩ quan nhìn anh.

— Chúng ta đang sống trong thời đại bất thường mà, thưa ngài. Chuyện bọn chó đẻ ở Nam Phi và những khách sạn bị đánh sập đã chứng minh cho chúng ta thấy đấy.

Bill có vẻ kinh ngạc: — Xin lỗi ông, tôi không biết ông muốn nói gì. Từ ba ngày nay tôi không đọc báo.

Người sĩ quan nói cho anh biết chuyện xảy ra ở Trekfontein và những vụ nổ bom ở khách sạn.

— Lạy Chúa, bây giờ tôi mới vỡ lẽ. Xin ngài cứ lục đi.

Người sĩ quan mỉm cười ; Được một hành khách thông cảm cho, quả thật là một điều quý hóa vô cùng.

— Vậy xin ngài cho phép tôi xem qua va li, rồi ngài đi thôi.

Bill mở va li ra. Người sĩ quan lấy ra ba chai Đêm Hy Lạp rồi nhìn Bill.

— Tôi phải giữ lại ba chai này, thưa ngài. Trước hết là ngài sẽ được bồi hoàn tiền lại, và chúng tôi sẽ tịch thu hết mấy chai này. Vì số chai này có liên quan đến những việc vừa xảy ra.

Suốt những năm xuôi ngược trên thế giới, Bill đã biết rõ bằng cách duy nhất giải quyết vấn đề với nhân viên hải quan là giữ lễ phép với họ, nói thật với họ. Cho nên anh đã kể lại tường tận việc anh có mấy chai nước hoa này. Bill năn nỉ :

— Ông cho tôi giữ lại một chai. Nếu không vợ tôi sẽ không tin chuyện tôi đem nước hoa về biếu gia đình.

Người sĩ quan lấy lên một chai. Nút chai chưa mở vẫn còn y nguyên.

— Ông chắc chắn là không ai biết chứ - Thưa ông ?

Bill gật đầu.

— Hoàn toàn không ai biết đâu, thưa ông. Chỉ cho tôi giữ một chai để biếu vợ tôi mà thôi.

VỊ sĩ quan nhún vai. Ý nghĩ tịch thu chai lọ có lẽ là sáng kiến của ai đó trong Nhà Trắng. Mục đích làm gì đây nhỉ ? Lại có lời đồn là chai lọ sẽ đem đốt hủy hết không cho mở nút ra nữa. Đúng là kiểu chơi của Nhà Trắng.

Viên sĩ quan bèn quyết định : — Thôi được, để lại cho ông một chai thôi.

Ông ta đưa cho Bill một chai, rồi để hai chai kia vào chiếc giỏ. Trong lúc Bill đóng va li lại, viên sĩ quan viết trên cuốn sổ phiếu có hai chai Đêm Hy Lạp tịch thu trên chuyến bay Britannia 16. Ông xé tờ phiếu ở trên rồi để vào trên hai chai trên giỏ. Khi Bill bước ra khỏi phòng, người nhân viên để cái giỏ lên đai quay chở hàng.

Trong phòng tịch thu, Arish chuyển những giỏ ở trên đai quay xuống, rồi chất nào là rượu mạnh, rượu vang và nước hoa vào một xe đẩy. Hai chai Đêm Hy Lạp nhét vào giữa một chai rượu Gin và một chai uýtki và nhiều chai rượu khác chất quanh lên trên. Sau khi đã quan sát không có ai thấy, Arish nhanh nhẹn bỏ hai chai vào túi. Nhưng y không thấy chai thứ ba.

Y nhìn vào phiếu ghi. Chỉ tịch thu có hai chai. Effendi chắc đã lầm khi anh ta nói có ba chai. Arish bỏ vào túi tờ phiếu ghi rồi đẩy xe đi. Y đẩy xe đến tận cuối phòng. Hai người dỡ hàng bèn lấy chai lọ chất lên kệ. Họ chất theo loại, thấy số chai đúng với số ghi trong phiếu.

Khi hết phiên, Arish bước ra khỏi phòng quan thuế !

Bốn mươi phút sau, y lái xe đến bãi xe ở M1, và ngồi đợi trong xe. Mười phút sau, người Ả Rập gõ vào cửa xe. Trong tay hắn có một phong bì.

— Anh đã lấy ra ba chai nước hoa cho tôi ? - Faruk Kadumi nói : - Đây là tiền của anh.

— Chỉ có hai chai thôi - Arish phân trần - Chắc là hải quan đã làm mất chai kia rồi.

Y chìa cái phiếu ghi ra. — Đây ông xem thì biết.

Faruk Kadumi đọc tờ phiếu ghi rồi hắn nhét vào túi. Hắn nói :

— Đưa cho tôi hai chai. Tôi vẫn trả đủ cho anh ba chai.

Việc trao đổi thế là xong xuôi. Faruk Kadumi cứ nhìn vào trong xe. Khẩu súng Browning có gắn ống hãm thanh nằm trong túi áo hắn. Đã đến lúc phải giết tên ăn cắp vặt khốn khổ này rồi. Giết ra sao và giết ở đâu, Raza đã giao quyền cho hắn. Chỉ có việc là phải giết mà thôi, phải do hắn giết chứ không giao cho ai hết. Faruk Kadumi không mấy lo lắng về chuyện xe cộ qua lại ở đây. Chỉ cần một phát là đủ.

Nhưng bỗng lương tâm của một thầy thuốc lâu nay vốn tiềm tàng trong người hắn bừng lên, làm cho hắn ngần ngại không dám tự thân đóng vai một kẻ sát nhân khát máu. Hắn suy tính không biết có nên gọi Effendi để nói với hắn tính kế giết tên ăn cắp này ? Nhưng làm như thế lại rất nguy hiểm. Effendi là đại diện cho tập đoàn tu sĩ Hồi giáo tại nước Anh, là người đã được nhà lãnh đạo Hồi giáo Muzwaz cử làm người môi giới của Raza mà. Hắn sẽ kiểm tra xem Raza đã thi hành mệnh lệnh chưa. Và khi Raza biết Faruk Kadumi không thi hành lệnh hắn, thì mạng sống cùa ông ta chắc khó bề thoát khỏi.

Ông ta cứ nhìn chằm chằm thằng khùng đang toét miệng cười kia. Thế rồi bỗng ông ta quay người bỏ đi đến chiếc xe của mình.

*

**

Nancy ngủ say sưa trên máy bay từ Athens về New York. Còn một giờ nữa trước khi máy bay hạ cánh xuống phi trường Kennedy, tiếp viên thông báo nhắc nhở hành khách điền vào biểu mẫu kê khai Thuế quan H.K, lời thông báo đã đánh thức nàng dậy.

Nancy đã để tờ biểu mẫu trong cái túi đựng quà xách tay, cùng với hai chai Đêm Hy Lạp. Kiểm tra lại hàng hóa đã được gói ghém cẩn thận, nàng thấy số hàng đã quá giới hạn mang theo trên tờ biểu mẫu. Bà già ngồi bên cạnh nàng bèn góp ý :

— Này cưng, cứ mở ra một hay hai món quà đi. Nói với nhân viên Quan Thuế là mình đang dùng mà. Rồi cô sẽ gói lại thôi.

Nancy cười cám ơn bà ta. Bà già nhìn vào túi xách của nàng.

— Mấy chai nước hoa có vẻ đắt tiền nhỉ. Mở hết ra đi.

Nancy phân trần nàng phải tuân thủ những điều kiện đã giao kết với những người bán hàng. Bà già cười âu yếm nói :

— Cưng ơi ! Ở Athens người ta nói gì thì nói, chứ ở đây, tôi cam đoan với cô là sẽ không có chuyện yêu cầu không mở nút chai khi qua Hải quan HK đâu. Tôi biết rõ quá mà. Người chồng quá cố của tôi là một thanh tra hải quan mà. Lạy Chúa ban ơn cho ông ấy. Cô cứ mở chai ra đi.

Nancy lấy ra một chai, nàng vào toa lét rửa ráy. Rồi nàng mở nút chai ra, thoa nước hoa vào gáy, vào sau hai tai. Mùi nước hoa nặng hơn mùi ở chai mẫu nàng đã xức ở Công trường Hiến pháp.

Đến phi trường Kennedy, một viên thanh tra hải quan ký vào tờ biểu mẫu của Nancy mà không cần kiểm tra hành lý.

Ông ta tử tế nhìn nàng, hỏi nàng có khỏe không. Nàng gật đầu cười với ông. Nhưng thực ra thì nàng bỗng cảm thấy rất mệt. Da sau cổ, sau tai bắt đầu ngứa ngáy. Chắc là do nước hoa rồi. Chắc nàng sẽ không dùng lại đâu.

Vali một tay, túi xách đựng quà một tay, nàng bước ra khỏi Hải quan, đi băng qua phòng đưa đón để đi taxi về New York.

*

**

Muktar Sayeed đã đứng đợi nhiều giờ rồi, luôn luôn so sánh những khuôn mặt phụ nữ hiện ra với khuôn mặt người đàn bà chụp cùng Nadine trong bức fax gởi từ Athens đến.

Nadine vẫn không thay đổi chút nào kể từ những tuần lễ hắn cùng chị học chiến đấu để giết người trong trại huấn luyện. Nhưng thay vì tham gia cùng những cảm tử quân khác tấn công vào đất Israel, thì hắn lại được gởi qua Hoa Kỳ để làm việc cho Rachid Harmoos.

Bước đầu hắn làm tài xế trong công ty xe taxi Day Nite của Harmoos. Sau đó hắn chuyển sang làm liên lạc viên, hắn đi khắp vùng để chuyển giao và thu thập tin tức, hàng hóa nào tối quan trọng không thể gọi qua điện thoại hay gửi qua đường bưu điện được.

Mấy tuần trước đây, hắn được phái tới San Francisco để giết một người. Tên phụ tá thứ nhất của Harmoos, không chịu trả tiền mua ma túy. Muktar đáp chuyến máy bay buổi sáng đi từ New York, đáp xe vào thành phố, đâm chết gã đàn ông, rồi bay về vào chuyến bay buổi chiều.

Bây giờ Muktar đang đứng trong phòng đưa đón khách để tìm cách ăn cắp cái túi xách của một phụ nữ đang đi trước mặt hắn mấy thước. Hắn đã trông thấy nàng ngay từ lúc nàng mới ra khỏi phòng Hải quan. Đi từng bước dài, vững vàng, cái mũ đen chụp chặt trên đầu, áo gió kéo dây kéo lên tận cổ ; Muktar để thõng hai tay hai bên. Cặp mắt hắn thăm dò khoảng cách và nhìn quanh để khi ra tay là thành công liền.

Khi mới bước vào, hắn thấy có một nhân viên an ninh đang đứng nơi các cánh cửa tự động. Bây giờ gã ta đã biến đi đâu rồi. Một dòng hành khách tuôn về phía dãy taxi đậu. Chỉ có một số ít người cùng với nàng, đi về phía cửa ra xe lớn. Hầu hết họ đều già cả rồi. Không có vấn đề gì khó khăn. Hắn bắt đầu sải bước, hai tay nắm lại, rồi thả ra.

Khi Nancy bước qua cửa, ra lề đường, thì chiếc xe lớn cũng vừa đậu lại. Bỗng nàng cảm thấy có ai đấm mạnh sau lưng, cú đấm làm cho nàng bổ nhào tới, nằm lăn xuống lề đường. Cái túi xách trượt khỏi tay Nancy. Nàng thấy một gã đàn ông nắm cái túi xách quà tặng của nàng bỏ chạy. Hắn chạy quanh sau chiếc xe rồi mất dạng. Có người la lên. Một cụ già cúi xuống, cố giúp nàng đứng lên. Ông ta cứ nói mãi một câu.

— Hắn không lấy va li của cô. Cô không mất. Hắn không lấy va li.

Nhiều người xúm lại, bàn nhau có nên chở nàng đi nhà thương không. Một người bảo vệ từ trong phòng đưa đón bước ra, đến bên nàng.

— Cô bình an chứ, thưa cô ?

Nancy gật đầu. Nàng không thích ồn ào. Nàng chỉ muốn về nhà để ngủ một giấc. Nàng vẫn mệt mỏi và ngứa ngáy khó chịu. Người bảo vệ giúp Nancy đứng dậy. Khi nghe nàng trình bày những gì vừa xảy ra, anh ta bèn nói vào điện thoại di động.

— Theo cô gái cho biết chắc thằng ấy là da đen, hắn đi bộ.

Một nhân viên trong Ban liên hệ Hải quan hàng không bước đến bên cạnh anh bảo vệ. Anh ta nhìn Nancy. Nàng đang gãi mạnh lên da thịt. Anh nhân viên tỏ ra có thiện cảm với nàng. Anh nói :

— Nhiều người đi máy bay lâu như thế thường bị chứng da khô. Về nhà tắm mát thì sẽ khỏi ngay thôi. Để cho nhanh, tôi xin được chở cô về nhà.

Nancy cười cám ơn. Nàng thấy mệt rã rời, lạnh và nhớp nháp trong người. Khi chiếc xe của anh nhân viên Thuế quan vào địa phận Manhattan, thì Nancy lại càng cảm thấy quá mệt mỏi. Ê ẩm sau lưng chắc là do cú đấm, nhưng nàng còn cảm thấy những triệu chứng khác như đau đầu, sốt, đang phát ra mạnh.

Khi chiếc xe thả nàng xuống số 510 đại lộ Park, thì những triệu chứng trên lại càng nặng hơn.

Băng qua tiền sảnh, Nancy cảm thấy người nóng ran, đuối sức và khi thang máy lên đến tầng thứ mười bốn, thì nàng đã run cầm cập. Nàng khó khăn lắm mới mở được cửa căn phòng và lôi va li vào trong và phải gắng hết sức mới đóng cửa lại được.

Cặp mắt nàng đã mờ đi khi cố gắng đọc tờ giấy ghi chép của bà chủ nhà nhét qua khe cửa, tờ giấy báo cho nàng biết bà ta có chuyện khẩn của gia đình ở California, phải về đấy ít ra là một tuần. Tờ giấy mới viết hôm qua.

Nancy bước lê vào phòng, đổ nhào người xuống giường. Nàng quá mệt không còn đủ sức để cởi áo quần ra nữa.

*

**

Khi Muktar chạy khuất qua bên kia chiếc xe rồi, hắn bèn thủng thỉnh đi bộ, những người đuổi theo ở bên kia chiếc xe đều không thấy hắn. Hắn đã đậu chiếc xe Day Nite ở cuối dãy xe taxi, gần nơi đậu những chiếc xe hòm của phi trường. Khi hắn lái xe đi, không có tài xế nào ở đấy thèm liếc mắt nhìn hắn. Ở cổng phi trường có hai chiếc xe tuần tra. Nhân viên tuần tra trên xe chặn lại tất cả xe cộ ngoại trừ taxi. Một lính tuần tra vẫy tay cho hắn qua.

Ra đến công trường Connecticut Expressway, Muktar theo lối ra Sweetmont. Mười lăm phút sau, hắn bỏ xa lộ để rẽ vào con đường tư nhân, một tấm bảng khắc hàng chữ "Harmoos" cắm làm mốc ngay đầu đường.

Muktar lái xe suốt một dặm đường băng qua những cánh đồng cỏ, ngựa và bò đang thảnh thơi gặm cỏ, và qua những cánh đồng bắp đang mùa thu hoạch. Hắn lái qua những tòa nhà đầu tiên. Bên phía trái là một nhà trại, nhân viên làm việc trong trang trại sống ở đây. Có tất cả bốn mươi người, toàn người Ả Rập. Harmoos chỉ dùng người Ả Rập.

Qua khỏi nhà trại là một nhà hàng giải trí, nép mình dưới hàng cây. Bên ngoài cửa hàng, nhiều xe taxi đang đậu, cũng đều mang huy hiệu Day Nite màu xanh như trên các cánh cửa xe của Muktar vậy.

Hắn lái thêm nửa dặm đường nữa, qua những ruộng ngô rồi đến một trạm kiểm soát. Một người Ả Rập từ trong chòi canh bước ra, vẫy tay cho hắn qua rồi y lại bước vào. Bên hông y đeo một khẩu súng nhỏ.

Chạy thêm một phần tư dặm nữa, hiện ra một vành đai toàn loại cây tùng bao quanh tòa nhà. Muktar nghĩ đến một ngôi nhà độc nhất giống như ngôi nhà này, đó là Tòa Nhà Trắng Washington. Ngôi nhà của Harmoos cũng có hàng cột chạy trước mặt và có những chái nằm hai bên. Vườn tược và bãi cỏ trải ra theo hình tròn để rồi giáp vào một cánh cổng trước gồm hai cánh cửa khổng lồ. Có điều không giống Tòa Nhà Trắng là cửa sổ ở đây đều được gắn bằng những cánh cửa chớp bằng sắt.

Khi hắn đậu xe, Muktar thấy một màn cửa di động. Harmoos đã thấy hắn tới. Y đang đợi hắn trong thư phòng.

*

**

Bệnh tình của Nancy càng lúc càng nặng. Trên đó năm tầng, Matti đang ngồi bên cạnh Mirian trên chiếc đivăng, anh lắng nghe nàng miêu tả cảnh chết chóc diễn ra suốt ba ngày ở Trung tâm thành phố do những vụ đánh bom khách sạn gây ra. Chỉ được nghỉ giải lao từng chặp, còn ngoài ra nàng làm việc liên tục không nghỉ ngơi.

— Mười hai giờ đầu tiên thì thật quá tệ - Nàng kể - Thật giống một nhà xác. Người ta chết trước khi đưa lên bàn mổ.

Nàng đã mệt đứt hơi, người kiệt sức.

— Nguy kịch nhất là trẻ em. Em đã để chết một lượt ba đứa. Hai bé gái và một bé trai.

— Em làm hết sức mình rồi, Mirian à.

Nàng gục đầu lên vai anh, ngủ ngon lành. Anh ngồi yên một lát, lắng nghe hơi thở đều đặn của nàng. Rồi anh bế nàng vào giường. Nàng không nhúc nhích. Đóng cửa phòng ngủ lại, Matti bước sang phòng mật để kiểm tra lại tên tuổi của những người Ả Rập mà Morton đã gởi đến. Anh viết lập trình cho máy vi tính để tìm xem những liên hệ giữa họ với Rachid Harmoos.

*

**

Tiếng động duy nhất trong phòng vang lên là tiếng chiếc ghế xoay kêu ken két dưới sức nặng của Rachid Harmoos khi hắn trở người, chiếc ghế được đặc chế dành riêng cho hắn ngồi.

Hắn đưa mắt nhìn cái túi của Nancy ở trên bàn nằm giữa hắn và Muktar. Hai người đàn ông nữa ngồi trên ghế dựa bọc nệm hai bên Muktar, họ theo dõi từng ánh mắt của Harmoos.

— Anh có chắc là không có ai theo dõi anh không ?

— Chắc chắn lắm, thưa ông Harmoos - Muktar đáp.

Chiếc ghế lại phát ra tiếng kêu ken két khi Harmoos chồm người tới trước đưa tay lấy đồ đạc trong bao ra để trên bàn. Đồ đạc của Nancy chồng thành một đống nhỏ. Hắn lấy một món hàng nắm trong mấy ngón tay múp míp thịt, rồi hắn xé giấy bọc ra. Một con búp bê nhỏ mặc y phục Hy Lạp cổ truyền.

— Khiếu thẩm mỹ của bọn Mỹ thật nghèo nàn - Hắn thở dài. Giọng hắn nhẹ nhàng so với cơ thể khổng lồ của hắn khiến cho người ta phải ngạc nhiên. Ngay cả bộ đồ đo cắt may thật khéo cũng không che kín được cơ thể phì nộn của hắn. Trên áo quần hắn, rất nhiều chỗ căng ra. Thịt bự trên hai má, trên cổ và những túi mỡ thụng dưới hai mắt.

— Nuri này, có cần theo dõi cái con này không ?

Harmoos nhìn anh chàng Ả Rập còn trẻ, anh chàng này có vẻ là một tay cướp đường. Hắn đáp :

— Tôi đã kiểm tra đầy đủ rồi. Cô ta là giáo viên trung học. Cô ta không dính dáng gì đến những chuyện xảy ra ở Athens đâu khi bị mất cái túi xách. Tôi không lo gì về cô ta cả, ông Harmoos à.

— Tốt lắm, Nuri.

Harmoos vứt con búp bê vào sọt rác để ở sau bàn. Hắn vẫn nhìn anh chàng phụ tá. Hắn lại thở dài rồi nói :

— Tất nhiên là chúng ta chẳng biết phải làm gì khi con này đã mở cái chai ra rồi, Nuri à. Giá mà thiên hạ làm theo những gì họ được dặn dò nhỉ !

Cả ba người đều nhìn Harmoos. Thế rồi với một động tác nhanh nhẹn, gọn ghẽ không ngờ, hắn lùa hết những món quà của Nancy vào thùng rác.

— Những thứ như thế này nhìn thêm gai mắt - Hắn lẩm bẩm nói. Hắn liếc nhìn quanh căn phòng làm việc ốp gỗ sồi của hắn. Hai bức tường đều kê kệ sách chất đầy cả sách hiếm về thế giới Hồi giáo. Trên những bức tường khác treo nhiều bức tranh nguyên bản của Matisse, Picasso và Turner.

Harmoos quay qua người đàn ông cao gầy ngồi bên trái Muktar. Mặt ông ta trông buồn bã. Cặp kính gọng đồi mồi dày cộm xệ xuống trên sống mũi. Ismail là một nhà hóa học Ai Cập được phái đi nghiên cứu học hỏi thêm một năm tại trường Đại học Quốc gia New York. Học phí và chi phí ăn ở do tập đoàn tu sĩ Hồi giáo đài thọ.

— Ông đã có đủ các thứ rồi chứ ?

— Đủ, thưa ông Harmoos. Nhưng tôi không thể bắt đầu được cho đến khi các chai đã hoàn toàn đông đặc. Phải cần năm giờ nữa mới đạt được nhiệt độ yêu cầu.

— Rất tốt, Ismail. Ông nhớ cho là vị lãnh đạo Hồi giáo tin tưởng vào ông đấy.

Ismail cười nhạt.

— Dù sao thì Đức Ông cũng không phải là nhà khoa học. Đây là một công việc hết sức tế nhị.

Harmoos nhìn ông ta, cười khoái trá.

— Bởi thế ông mới được chọn.

Hắn gãi tai, miệng vẫn cười toe toét, rồi hắn ngồi dựa ngửa người ra, hai tay đặt lên bụng. Hắn nhìn một tờ giấy ở trên bàn rồi ngồi yên trầm tư một hồi. Thế rồi hắn gật đầu, cái đầu thật bự, hắn nhìn mọi người. Mấy người đàn ông đều đứng dậy. Khi họ bước ra cửa, Harmoos ra dấu cho Nuri ở nán lại. Sau khi cửa đóng, Harmoos buồn bã lắc đầu.

— Cũng tội cho Muktar. Tôi thấy thích hắn rồi.

— Tôi đã suy nghĩ chọn được người thay hắn rồi - Nuri nói.

Harmoos lấy tờ giấy lên. Đó là lệnh của Raza buộc kẻ nào hoạt động ở phần ngoại vi sau khi đã hoàn thành nhiệm vụ đều phải bị thủ tiêu ngay.

— Khi nào đây ? - Harmoos hỏi, hắn để tờ giấy xuống.

— Khi hắn ra khỏi đây - Nuri đáp - Xe hắn đã được gài chất nổ để xem như là bị tai nạn mà thôi.

— Sẽ không có gì khó khăn với cơ quan bảo hiểm chứ ?

— Dạ không. Họ đều đền bù hết.

Harmoos cười, cái bụng hắn rung lên. — Rất tốt, Nuri. Tôi cũng ít khi thu được lợi khi làm việc cho Raza. Tôi sẽ không fax cho ông ấy để trả lời mọi việc đã bình an vô sự - Bỗng hắn sa sầm mặt lại - Ismail cũng làm cho tôi lo lắng, Nuri à. Tôi thấy hắn ta có vẻ bối rối lắm. Khi hắn làm xong việc, thanh toán nhanh đi thôi.

Nuri gật đầu rồi bước ra khỏi phòng.

*

**

Trong căn hộ trang bị đồ đạc sơ sài ở phía Tây Luân Đôn, nơi thường dùng làm chỗ ở cho đám lính của tập đoàn tu sĩ Hồi giáo khi họ có công việc tại nước Anh, Faruk Kadumi cứ ngần ngại mãi trên bức fax mà ông ta thảo để đánh đi cho Raza. Thêm một lần nữa, ông ta để bút xuống trên xấp giấy và ra đứng ở cửa sổ.

Ông có nên báo cáo chỉ có hai chai thôi không ? Nhưng nếu thế thì thế nào Raza cũng hỏi Effendi, và sẽ tìm ra tên ăn cắp vẫn còn sống.

Mặc dù cửa đều lót hai lần kính, nhưng tiếng xe cộ ồn ào ở bên dưới đường Great West vẫn vọng lên rất ồn ào. Thật khó mà tập trung tư tưởng cho được. Tuy nhiên, ông biết không thể nào trì hoãn được nữa. Chỉ còn mười lăm phút nữa là đến giờ phải phát đi theo dự trù đã ấn định trước.

Ông lại quay vào nhà bếp. Vì ông đã biến nhà bếp thành một phòng thí nghiệm dã chiến cho nên các màn che cửa đều kéo lại kín mít. Hầu hết quầy bếp dùng nấu ăn đều chất đầy cả ống nghiệm và chai lọ đựng muối, hắn ta đã mua ở cửa hàng cung cấp dụng cụ y tế tại Soho.

Bộ áo quần chống ô nhiễm của quân đội Anh hắn mua được ở một cửa hàng bán áo quần nhà binh, treo ở sau cửa. Sau chiến tranh vùng Vịnh, những thứ này đã trở thành đồ kỷ niệm bán rất chạy. Trong cái tủ ở trên bồn nước rửa có một cái hộp đựng giầy, bên trong để khẩu súng Browning. Khẩu súng chờ đợi hắn khi thằng ấy đến.

Bên cạnh cái hộp là chai ê-te cuối cùng. Chắc hắn phải mua thêm nhiều hơn. Hít hơi này mới làm cho thần kinh hắn dịu bớt, khi quanh hắn, trong cái thành phố thù nghịch này đâu đâu cũng có cảnh sát. Ngày nào còn ở lại đây là ngày ấy hắn cảm thấy mối nguy bị phát hiện càng lúc càng tăng.

Faruk Kadumi mở nắp chai, đưa miệng chai vào mũi. Hắn hít từ từ để cho hơi ngấm dần vào óc. Hắn cảm thấy choáng váng một lát. Rồi hắn cảm thấy một cảm giác ấm áp dễ chịu tỏa khắp người. Vặn nút chai lại, hắn bèn quyết định. Dù sao đi nữa, thì việc trước mắt, là hắn phải quyết định dứt khoát.

Hắn mở tủ lạnh ở trong góc bếp ra. Cả hai chai nước hoa đều bọc đầy nước đá chung quanh. Hắn kiểm tra nhiệt kế. Một giờ nữa thì bắt đầu được. Hắn đóng tủ lạnh, trở về bàn ngồi viết. Khi viết xong, hắn đọc lại. Hài lòng, hắn đem tờ giấy đến máy fax kê trên một cái tủ để bát đĩa, hắn bấm số máy đến Li Bi.

*

**

Khi Mirian thức dậy, Matti dẫn nàng đi ăn sáng tại quán cà phê ở góc khu phố. Khi trở về nhà, Matti trông thấy một lao công trong tòa nhà chạy ra lề đường, vẫy tay lia lịa gọi hai người. Anh chàng này là người Mễ, khi họ đến gần anh ta, anh la ơi ới. "Muy Malo", rồi chỉ tay vào tiền sảnh.

Matti nhận ra người phụ nữ đang nằm co rúm nửa trong nửa ngoài ở cầu thang máy. Hai người bèn chạy vội đến, băng qua tiền sảnh, vừa chạy Matti vừa nói :

— Nancy Carson, giáo viên trung học. Thuê lại phòng của một góa phụ.

Nàng nhìn anh :

— Anh đều có hồ sơ tất cả những người ở trong khu phố này ư ?

Anh cười xòa. Mặt Nancy trắng bệch, ướt đẫm mồ hôi. Anh lao công cứ luôn mồm phân trần nào là cô Carson gọi điện thoại xuống, cho biết cô bệnh nặng. Rồi anh chạy lên phòng cô... Anh tuôn chạy ra đường, hy vọng gặp ông Talim và bà bác sĩ...

— Anh gọi xe cứu thương đi - Mirian ra lệnh cho anh lao công khi hai người đến chỗ Nancy quỵ xuống.

— Chúng ta đưa cô ấy đến chỗ êm ái hơn - Matti đề nghị, vừa chỉ một chiếc đivăng kê trong tiền sảnh.

Mirian lắc đầu. — Có thể chị ta đã bị chấn thương gì trong người rồi đây - Nàng quỳ xuống bên chị - Cái gì thế ?

— Bệnh.... cần một bác sĩ... bệnh nặng... - Nancy thều thào.

— Tôi là bác sĩ đây. Cho tôi biết đau ở đâu, Nancy - Mirian nói.

— Đau khắp người.

Mặc dù đã mặc một cái áo khoác dày ngoài chiếc áo dài mùa đông, nhưng Nancy vẫn run lập cập.

— Đau ở đâu nhiều nhất, Nancy ?

Một cơn ho dữ dội như muốn làm vỡ lồng ngực của Nancy ra, rồi lại cơn ho khác... Những cơn ho dài, dữ dội. Mirian vừa bắt mạch cho chị, vừa nhìn kỹ vào người Nancy. Thật khó định bệnh. Những cơn ho vẫn tiếp tục.

— Cô như thế này đã lâu chưa, Nancy ?

— Hôm qua... - Một cơn ho khác ngắt lời cô - ...càng tệ ra... - Cô ta rán ngồi dậy - ... suốt thời gian...

Nancy lại nằm xuống nền nhà, bơ phờ.

Mirian để ý thấy những nốt mụn đen nhỏ trên cổ và sau hai tai của Nancy. Trên hai chân và hai tay cũng có. Có thể bọ chét cắn rồi sinh ra lở loét chăng, hay là do giống vật gì có nọc độc châm chích đây. Nhưng không có dấu vết gì rõ ràng hết. Nancy cũng không có vẻ là người để cho nệm giường chứa đầy cả rệp rận.

— Giúp... Vui lòng... giúp tôi.

Nói chưa hết câu, một cơn ho khác lại kéo đến. Đờm dãi có dính máu chảy ra bên khóe miệng. Matti lấy trong túi ra cái khăn tay đưa cho Mirian. Nàng lau miệng cho Nancy.

Hơi thớ khò khè của Nancy chứng tỏ trong phổi nàng có nhiều nước. Mirian bèn nhẹ nhàng hỏi :

— Cô đi nghỉ hè ở đâu, Nancy ?

— Hy Lạp... mới về hôm qu...a.....

Một cơn ho dữ dội khác nổi lên, tuông ra đờm dãi có nhiều mủ quanh miệng Nancy.

— Trước khi nghỉ hè cô không bệnh hoạn gì chứ ?

Nàng lắc đầu nhè nhẹ, nàng quá mệt không nói nên lời.

— Cô ở Hy Lạp bao lâu ?

Nancy cố đưa lên hai ngón tay làm dấu.

— Hai ngày à ?

Nancy lắc đầu, lại ho dữ dội.

— Hai tuần à ?

Nancy gật đầu.

Mirian cố nhớ những bệnh truyền nhiễm nhiệt đới nàng đã học. Bệnh sốt nặng do uống sữa dê bị nhiễm trùng ở Hy Lạp là bệnh phổ biến nhất. Thời gian mắc bệnh từ năm đến hai mươi mốt ngày, nhưng bệnh nhân không ho. Bệnh thương hàn cũng lâu như thế, cũng sốt dữ dội như thế, nhưng cũng không ho. Bệnh sốt do ruồi nhỏ gây ra hay là bệnh sốt vàng da nguy hiểm đấy, nhưng bệnh nhân không khạc ra đờm dãi nhiều mủ như thế. Mirian chưa bao giờ gặp một trường hợp như thế này.

— Khi đi nghỉ hè, có con gì đốt cô không ?

Nancy cố lắc đầu. Một cơn ho khác vang cả tiền sảnh.

Mirian nói với Matti : — Anh cho gọi xe cứu thương đi.

Anh chạy đến bên bàn của Ban bảo vệ, trong khi ấy thì Mirian vẫn quỳ bên cạnh Nancy, nắm tay cô, lau miệng cho cô. Nàng không thể làm gì hơn nữa. Nàng đành quan sát thôi. Chắc là bệnh do Amib gây ra, bệnh sốt rét cũng thế. Nhưng bệnh nhân không ho dữ dội như thế này hay là khạc ra mủ như thế này. Bệnh đậu mùa, bệnh thương hàn, hay là bất cứ những bệnh sốt nào khác cũng không có triệu chứng như thế này.

Một cơn ho khác nổi lên, đờm dãi tuôn ra miệng Nancy. Cô ta run lẩy bẩy, vừa khi đó xe cứu thương đến. Anh lao công chạy đến giúp nhân viên y tế đẩy xe chở Nancy ra xe cấp cứu. Anh la lên bai bải : "Madre de Dios !"
 
Chương 22


Người dịch: Văn Hòa - Kim Thùy

Nhà xuất bản: NXB Thanh Niên

Shared by: CCG -

Đài kiểm soát không lưu Đức dành cho chiếc Concorde quyền ưu tiên đáp xuống phi trường quốc tế Frankfurt. Vừa khi chiếc máy bay bắt đầu xuống thấp, cái mũi hình nón chúc xuống, ánh nắng mặt trời ban mai phản chiếu một hình khổng lồ lên mặt đất.

Ngồi tại trung tâm truyền thông, Morton nhìn màn hình hiện ra khuôn mặt của Lacouste ở Paris qua vệ tinh đang bay ở trên bầu trời Negev. Nhìn lên màn hình, ông thấy thiếu sự đồng bộ giữa đôi môi nhấp nháy được phát đi từ ngoài không gian xa xôi với giọng nói truyền đến qua luồng sóng điện của ông giám đốc sở Mật vụ Pháp.

Lacouste nói :

— Sau khi nội các nghỉ họp thì Appleton gọi đến tôi liền. Ông ta muốn biết chúng tôi có bảo đảm về phía Israel không, nếu chúng tôi thả bọn "Cảm tử quân" ra. Ông ta sợ Israel sẽ không để cho bọn chúng yên. Ông ta cứ nhắc nhở chúng tôi chuyện xảy ra sau Thế Vận hội Munich mãi.

Năm 1972, mười một lực sĩ Israel đã bị bọn khủng bố Ả Rập giết chết tại Thế Vận hội Munich. Morton đã lãnh đạo một tổ đi tìm giết chết chúng. Phải mất một năm trời và tốn hết hai triệu đô la Mỹ để làm được công việc này.

— Appleton biết về chuyện Munich vì Bitburg đã nói cho người Mỹ biết đấy, Pierre à.

Lacouste thở dài chán nản.

— Tôi biết rồi, nhưng đấy chính là điểm mà Appleton bám vào. Ông ta cứ nói không có cách nào để giấu kín tin các cảm tử quân chết hết vì người Israel muốn dằn mặt kẻ thù của họ. Appleton ba hoa quá, ông ta cứ luôn mồm nói rằng Israel đã dồn tình thế đến chỗ quá căng thẳng.

Phòng lái thông báo qua máy nội đàm cho biết máy bay sẽ hạ cánh trong vòng mười phút nữa. Morton và những kỹ thuật viên đều gài dây an toàn lại.

— Dân chúng của ông nói về Appleton ra sao ? - Morton hỏi.

Lacouste nhún vai.

— Chắc ông cũng đoán được rồi. Ai cũng biết mục đích của Appleton hết. Nếu chúng tôi thả chúng ra, và có chuyện gì xảy đến cho ''Cảm tử quân", thì chắc số người Ả Rập cực đoan và ôn hòa sẽ đoàn kết lại với nhau hơn trước. Appleton sẽ tuyên bố rằng không có sự khác biệt giữa chống khủng bố và khủng bố. Người Pháp sẽ được xem như có âm mưu trong việc giết chết những người được tha bổng này. Do đó, vấn đề sẽ xấu ra. Hàng tỷ quan Pháp sẽ đổ ra. Những cuộc tấn công trả đũa sẽ xảy ra trên đất Pháp. Cảnh chiến tranh Vùng vịnh lại tái diễn. Chỉ khác là lần này sẽ xảy ra trên đường phố Paris...

— Vậy thì dân nước ông sẽ làm gì ? - Morton hỏi.

— Tổng thống đã điện thoại đến cho Thủ tướng của ông. Theo tin nhận được thì Thủ tướng Karshov không đồng ý. Ông ấy cho biết chỉ có nước Pháp quyết định mà thôi, chứ không có gì để bàn thảo.

Morton đáp cụt lủn, rõ ràng : — Ông ta nói đúng đấy. Điều hay nhất là Tổng thống của ông nên giữ bọn Cảm tử quân ấy lại, cứ nhốt chúng lại, lên án chúng cho chính xác đúng mức. Nếu nước Pháp thả chúng ra sẽ rất khó khăn cho mọi người đấy.

Một đám nhiễu điện chạm vào máy bay. Morton vịn chặt tay dựa ghế ngồi.

Ở Paris, Lacouste có vẻ trầm tư. Ông nói :

— Có nhiều áp lực lắm, David à. Nội các sẽ họp sau vài giờ ngủ nghê đã.

Vị sĩ quan Trung tâm Truyền thông cho biết Danny đang gọi đến từ Tel Aviv, tin rất khẩn cấp.

— Tôi có việc gấp, Pierre. Ông hãy thúc đẩy Tổng thống cứ nhốt bọn cảm tử quân ấy lại.

Hình của Lacouste biến mất. Nếu nước Pháp cương quyết nhốt bọn cảm tử quân lại thì thế nào Raza cũng phạm phải sai lầm. Thế là đủ rồi. Danny hiện ra trên màn hình.

— Fuller vừa mới báo tin - Danny nói - cho biết Tổng hành dinh Trung tâm Tình báo mới chặn được một tin quan trọng ở khu vực Luân Đôn.

Danny nhìn xuống một tờ giấy. Bộ phận thuộc cơ quan an ninh quốc gia Hoa Kỳ hợp tác với nước Anh đóng tại Cheltenham. Những chuyên viên kỹ thuật ở đây đã bủa một mạng lưới điện tử khắp Luân Đôn kể từ ngày xảy ra vụ đánh bom khách sạn. Danny bèn đọc :

— Đây là một bức fax có nội dung như sau : "Người giao hàng đã giao và đã được giao. Việc giao hàng có thể bắt đầu tối nay vào giờ đã ấn định".

Morton ghi hết vào giấy.

— Fuller nghĩ sao ?

Danny có vẻ bối rối.

— Bản tin này ông ấy nhận ở M15. Cho nên Percy West báo cho các cơ quan chức năng biết là chắc Luân Đôn không phải là mục tiêu. West lập luận rằng nước Anh đã được đề phòng rất cẩn thận, Raza chắc sẽ hành động ở đâu đó bên châu Âu. Ông ta lại còn nói với Thủ tướng rằng Raza chỉ dùng Luân Đôn làm nơi phát tin để đánh lạc hướng thế giới mà thôi.

— Còn anh thì nghĩ sao, Danny ?

— Tôi cũng không biết nữa, David. Chắc chắn Raza có đặt máy phát tin ở Luân Đôn. Hay là có gài mật vụ ở đây. Tôi đã khuyến cáo Fuller chú ý mấy điểm này. Ông ấy có nhiều kinh nghiệm về vụ gài người xâm nhập vào dân Ả Rập ở đây.

— Tổng hành dinh Trung tâm Tình báo đã có ý dứt khoát chưa ?

Danny nhìn lên :

— Họ cho là tin đó phát ra đâu đó ở vùng ngoài Tây Luân Đôn, nhưng cũng khó mà phanh phui ra lắm. Cả ba triệu dân sống khắp nơi đây. Họ lại còn cho là có thể tin xuất phát từ môt máy fax xách tay. Năm ngoái chỉ ngay ở Luân Đôn đã bán được nửa triệu máy này. Cơ quan Viễn thông Anh Quốc cho biết đã có bốn triệu máy đăng ký hoạt động. Phải mất một tuần để kiểm tra trên máy tính...

— Thôi, mặc xác họ. Tôi muốn mọi người phải sẵn sàng hai mươi bốn giờ mỗi ngày ngay đi - Morton cương quyết nói.

— Xin tuân lệnh - Danny đáp - Thêm một tin nữa vừa nhận được sau mấy phút khi nhận tin của Fuller và Lou Panchez. Một vệ tinh của Mỹ bay trên vùng Azores để bắt những tin vào, ra ở miền Đông Hoa Kỳ cũng đã bắt được một bức fax hoàn toàn tương tự như bức ở Luân Đôn.

— Họ có biết hướng đi của bức fax không ?

— Đi ra. Từ đâu đó giữa Boston và Washington.

— Cho Ban Cải Tổ Nhanh hoạt động đi. Có lẽ xuất phát từ một tòa Đại sứ nào đó. Khi nào thì tổ của anh hoạt động ở New York ?

— Tối nay. Anh có muốn tôi điều động một ít đi không ?

Morton ngẫm nghĩ. Những kỹ thuật viên của Danny có thể hữu dụng ở Washington và New York, để dò tìm các tòa Đại sứ Ả Rập ở thủ đô và hoạt động ở Liên Hiệp Quốc.

— Không cần, nhưng tôi yêu cầu Matti và Lou chú tâm theo dõi dấu vết của Harmoos. Nhờ Gates rút nhân viên ở Columbia để làm công việc ấy giúp.

Vị sĩ quan Trung Tâm Truyền tin gọi Morton :

— Tướng Yertzin đang nói trên máy bí mật.

— Đợi chút, Danny.

Morton nhấc một điện thoại trên bàn phím ở bên cạnh ông rồi ấn xuống những nút trên đó. Máy điện thoại bí mật này bảo đảm việc đàm thoại không ai tài nào nghe lén được.

— Thưa Thiếu tướng, tôi rất hân hạnh được nghe ông nói đây.

Yên lặng một lúc, chiếc máy bí mật sột soạt một hồi, rồi bỗng giọng nói cùa Yertzin vang lên trong tai Morton.

— Chào đồng chí. Đồng chí nói hai ngày. Toán biệt kích của tôi làm chưa đến hai ngày. Họ tìm thấy một máy phát tin chuyển tiếp ở môt làng nằm phía bắc Kabul. Họ cho biết Raza đã đặt ở đây mấy tuần rồi.

Morton hình dung ra cảnh họ tìm ra máy này ra sao rồi. Ông đã thấy họ làm việc ở Afghanistan. Họ làm việc rất khẩn trương.

— Tôi muốn ngài lấy cái máy ấy đem đến Tel Aviv nhanh chừng nào hay chừng ấy.

— Bộ ông muốn dùng để theo dõi Đài phát thanh ra sao ?

— Đúng thế.

— Chúng tôi có thể làm thế cho ông ở M... - Yertzin nói.

— Tôi biết chắc như thế rồi. Nhưng tôi muốn theo dõi tại Tel Aviv, thưa Thiếu tướng.

Yertzin im lặng một hồi lâu rồi đáp.

— Thôi được, tôi sẽ thu xếp một chuyến bay thẳng từ Kabul đến Tel Aviv.

— Xin cám ơn Thiếu tướng. Xin gởi lời chào mừng các chiến sĩ biệt kích của ngài.

Ông gác điện thoại, quay qua Danny và nói cho ông ta biết câu chuyện vừa rồi, xong ông hỏi Danny :

— Nhân viên của anh sẽ tìm ra Đài phát thanh của Raza đặt ở đâu trong bao lâu ?

Danny nhíu mày.

— Theo tôi thì dù Raza đặt ở đâu, tôi cũng xin hứa là trong vòng hai ngày.

— Thế là vừa đúng hạn hắn đưa ra rồi, Danny.

Danny gật đầu. Rồi nét mặt ông tươi lên, ông nói : — Theo tôi thì hắn đã lấy cái máy MRT của Costas, thế nào tôi cũng nhắn nhe hắn ít điều để làm cho hắn cuống cuồng lên mới được. - Ông ta giải thích, rồi mặt ông biến mất khỏi màn hình.

Một lát sau, Morton cảm thấy chiếc Concorde chạm đất, đài kiểm soát mặt đất hướng dẫn chiếc máy bay đậu cách xa trạm khách đến, trong khu vực bảo đảm an ninh dành cho các chuyến bay chở các nhân vật quan trọng vào ra phi trường. Khi Morton bước xuống máy bay, Hans Dieter Muller đứng đợi dưới cầu thang. Bên cạnh đó, có sẵn hai chiếc xe của nhà nước. Mỗi xe đều có một tài xế mặc quân phục ngồi ở tay lái.

— Xin chào mừng ông Morton - Muller chào, thái độ không mấy vui.

— Rất sung sướng được gặp ông, Hans Dieter.

Muller vẫn có vẻ buồn bã khi đáp lại : — Tôi hy vọng ông vẫn nói như thế khi ông nghe được chuyên gì đã xảy ra.

Morton nhìn ông ta một lát.

— Chắc là Appleton gây chuyện phải không ?

Vị sĩ quan Mật vụ Đức tỏ ra ngạc nhiên, ông ta hỏi :

— Tại sao ông biết ?

Morton kể cho ông ta nghe chuyện Lacouste đã nói.

— Đi thôi, ta sẽ nói chuyện ở trong xe.

Khi họ đi đến mấy chiếc Mercedes, người tài xế nữ bước ra khỏi xe, mở rộng cửa sau. Sau khi Morton và Muller đã ngồi vào xe xong, cô ta lên đứng đợi ở phía trước, quay lưng trước nắp đậy xe.

Muller gật đầu hướng về phía cô ta.

— Họ đã dạy cô ta như thế ở trường huấn luyện. Cô ta lái xe cho tôi đã một năm nay mà tôi vẫn không làm cho cô có thể bỏ thói quen đó đi được.

Morton cười.

— Tại sao ông không dọa sẽ cho cô ta về lại đấy ?

Muller thở dài. — Người đến thay lại còn cứng nhắc hơn thế nữa.

Ông Trưởng ban hành quân lấy hộp thuốc lá bằng bạc ra, ông vẫn hút thuốc.

— Hộp thuốc của bố tôi. Ông cụ vấn thuốc hút khi ở Stalingrad năm 1941 và trở về sau đó hai năm. Ông cụ nói nhờ thế mà ông được bình an vô sự.

— Appleton đang làm gì thế, Hans Dieter ? - Morton nhẹ nhàng hỏi.

Muller châm lửa hút thuốc. Ông đáp :

— Ông ta gọi Kunzler và đã nói chuyện với ông ấy suốt một giờ về tầm quan trọng của cái mà ông ta gọi là "Nước Đức mới” phải tìm chỗ đứng trong thế giới Ả Rập.

Muller hít một hơi thuốc thật dài, rồi nói tiếp, — Appleton nhắc nhở ngài Thủ tướng nhớ là chỉ Tây Đức thôi cũng đã mua hàng của các nước Ả Rập đến hàng chục tỷ mác, và Đông Đức cũ cũng nhiều như thế. Nước Đức thống nhất không thể nào tránh khỏi gặp phải những vấn đề khó khăn trong việc giao lưu. Appleton rất quan tâm đến việc chúng tôi đừng để mất những hợp đồng ấy đi bằng cách thúc đẩy việc hợp tác nhanh lên. Ông ta đề nghị sử dụng những văn phòng hữu nghị của ông ta ở tại Riyadh, Cairo và kể cả ở Damascus.

— Ngài Thủ tướng đã nói gì ?

— Kunzler là người rất kiên nhẫn lắng nghe, nhất là khi nghe Washington nói. Ông ta không giống Thủ tướng Kohl đâu. Thực tế thì Kunzler nói tiếng Anh như là ông ta học được trên đài phát thanh quân lực Mỹ vậy - Muller nhúc nhích trong chỗ ngồi - Tất nhiên là Kunzler không đả động gì đến chuyện thu xếp của chúng ta cả.

— Ông ta không làm thế là phải.

Muller phà một hơi khói theo hình xoắn ốc bay trên trần xe, rồi ông nhìn làn khói biến mất vào những chỗ thông hơi nằm thật kín trong xe.

— Hình như thế. Sau khi Appleton điện thoại đến, Kunzler ra lệnh cho người thư ký trưởng gọi tôi để nói phải hủy bỏ chuyến thăm viếng của ông đi.

Morton nhìn Muller chằm chằm. Muller bình tĩnh nói :

— Yên rồi, ông Morton. Tôi đã nói với người thư ký trưởng rằng tôi phải nói chuyện trực tiếp với ngài Thủ tướng. Cũng mất đến hai giờ mới thu xếp được. Cuối cùng tôi lại còn mất mười phút vì có một vị Đại sứ đến trình ủy nhiệm thư và một phái bộ thương mại Nhật Bản phản đối về mức quota nhập khẩu xe hơi...

— Yên rồi sao ?

Muller hít một hơi thuốc thật dài.

— Tôi đã nói với ông ta nếu ông ấy ngăn chặn ông thì tôi sẽ xin từ chức. Ông ta có vẻ dao động một chút. Cuối cùng thì ông ta bằng lòng. Ông có một buổi sáng để gặp cô ấy, chứ không được trọn cả ngày. Nếu cô ta bằng lòng, cô sẽ có cuộc sống mới, có tự do, có cơ hội đế cống hiến. Bằng không, cô ta lại tiếp tục ở tù cho đến mãn đời. Tất nhiên là cô ta chắc sẽ không muốn thế.

Morton cố giữ giọng bình tĩnh, ông hói : — Ai quyết định ? Có phải Kunzler không ?

Muller mỉm cười :

— Ông ta hành động theo lời yêu cầu của tôi. Tôi hành động theo lời yêu cầu của ông. Thế thôi, không có vấn đề gì khó khăn hết.

Morton lắc đầu :

— Bậy rồi, Hans Dieter à, vẫn còn một vấn đề khó khăn đấy.

Ông bèn mở cửa xe rồi nhảy lên các bậc cấp lên máy bay lại. Trong phòng Trung Tâm truyền tin, nhiều kỹ thuật viên đang ngồi ngủ gà ngủ gật tại chỗ. Những người khác đang uống cà phê. Ông sĩ quan Trung tâm truyền tin đang ngồi nơi bàn xếp, chỗ ông thường ngồi viết lịch không hành cho mỗi chuyến bay, ông ngước mắt nhìn lên, đầy kinh ngạc.

— Gọi cho tôi Tòa Nhà Trắng - Morton ra lệnh.

— Ngài muốn gọi cho ai, thưa đại tá ?

— Gọi Tổng thống Hoa Kỳ.

Người sĩ quan ngần ngừ. — Bây giờ là hai giờ sáng ở Washington, thưa đại tá.

— Mặc kệ ! Đừng cãi. Cứ gọi ông ta đi ! - Morton rít lên, ông bước vào chỗ ngồi.

— Dạ vâng, thưa ngài.

Người sĩ quan Trung tâm truyền tin bắt đầu ra lệnh. Những kỹ thuật viên hoạt động. Đường dây nhanh chóng được nối với Washington. Ở trong phòng truyền tin dưới hầm nhà Tòa Nhà Trắng, viên sĩ quan trực hiện ra trên màn hình.

— Xin ngài cho biết tại sao ngài lại muốn đánh thức Tổng thống dậy, thưa ngài ? - Viên đại úy Thủy quân lục chiến hỏi.

— Không. Anh cứ việc nối đường dây với ông ta đi.

— Tôi không thể làm được, thưa ngài...

— Nghe tôi nói đây. Tôi ra lệnh đấy. Đánh thức ông ta dậy. Cứ nói có đại tá Morton muốn nói chuyện với ông ta.

— Thưa ngài, tôi không...

— Hãy gọi đi - Morton ra lệnh - bằng không, anh sẽ đi nối dây điện thoại ở Alaska đấy.

— Xin ngài vui lòng đợi cho môt chút.

Màn hình ở Washington trống đi. Morton cảm thấy không khí quanh ông đều căng thẳng. Nhiều người có thể bị sa thải vì gặp phải chuyện như thế này lắm. Bỗng một nút trên tủ máy của viên sĩ quan Trung tâm truyền tin bật sáng lên. Viên sĩ quan nhấc lên, lắng nghe rồi quay qua Morton :

— Trưởng Tham mưu Tòa Nhà Trắng đấy. Họ đang nối đường dây đến phòng ngủ của Tổng thống.

Morton càu nhàu. Một lát sau, mặt của Tổng thống Mỹ xuất hiện trên màn hình. Mặc dù mái tóc bị bờm xờm, nhưng ông ta vẫn nhắc Morton nhớ đến Jack Kennedy. Tổng thống đang mặc áo ngủ. Ông ta nhìn ra ngoài màn hình.

— Ông Morton, tôi đoán chắc có chuyện tối quan trọng, ông mới đánh thức tôi dậy khuya khắt như thế này.

— Tôi xin lỗi đã thức ngài dậy, thưa Tổng thống. Tôi gặp phải một vấn đề khó khăn mà chỉ có ngài mới giải quyết được. Và tôi cần ngài giải quyết ngay bây giờ.

Tổng thống mím môi. — Chuyện gì thế ?

— Chuyện về Appleton. Ông ta đã chen vào công việc của tôi. Tôi đã gọi điện thoại gặp ông ấy, xin ông ta dừng lại rồi. Nay tôi xin ngài chặn ông ta lại giúp tôi.

Morton nhìn khuôn mặt trên màn hình. Nét mặt giận dữ vì Tổng thống không hay biết gì hết.

— Ông cho tôi biết chuyện gì xảy ra thế, ông Morton. Kể hết đi.

Morton kể cho ông ta nghe. Im lặng một hồi rồi Tổng thống lên tiếng. Giọng ông nghe lạnh lùng :

— Được rồi, ông Morton. Tôi tin chắc ông Appleton đã có ý đồ đen tối rồi đấy. Tôi xin cam đoan với ông là ông ta sẽ không làm cho ông bị phiền lòng nữa đâu.

— Xin cám ơn Tổng thống.

Morton nhìn Tổng thống đưa tay vuốt tóc.

— Tôi chắc ông chưa có tin gì để tái triệu tập một cuộc điện đàm thượng đỉnh nữa chứ ?

— Dạ chưa, thưa Tổng thống.

— Xin chúc ông ngủ ngon, ông Morton - Màn hình trống trơn.

Morton đứng dậy. Ông nhìn quanh. Vị Sĩ quan Trung tâm truyền tin và các kỹ thuật viên nhìn ông kinh ngạc.

Morton im lặng bước ra khỏi ca bin rồi bước xuống thang máy bay. Muller vẫn đợi ông bên xe hơi. Ông ta cầm một tập hồ sơ trong tay. Ông ngạc nhiên nhìn Morton, rồi hỏi ông vừa làm gì. Morton nói cho ông ta hay.

— Trời ơi ! - Ông ta thốt lên - Ông gọi Tổng thống Hoa Kỳ à ? Ông đã làm thế à ? - Trời ơi!

Morton cười. — Thì có khó khăn gì đâu. Kẹt lắm thì ông cũng phải gọi cho Thủ tướng của ông chứ.

— Nhưng Tổng thống Hoa Kỳ... - Muller lắc đầu, rồi mở hồ sơ ra, ông nói : - Đây, giấy phép của ông đây. Chiếc xe kia sẽ chở ông đến đấy.

Ông ta cúi đầu chào gượng gạo rồi bước lại vào chiếc Mercedes. Người tài xế chiếc xe kia đang mở rộng cửa. Cô ta nghiêm trang chào khi Morton bước vào xe.

*

**

Khi Bill Hardman mở cửa ngôi nhà có hàng hiên bao quanh nhìn xuống con sông Thames ở Putney, anh liền nghe bước chân trẻ con chạy trên thảm ở phòng khách. Bước chân chạy vội vàng. Cách đây một thế kỷ, vùng này toàn bộ là nhà lá của dân lao động. Bây giờ thì hầu hết là nhà cửa của những nhân viên điều hành ngành truyền hình và các chủ tư bản đang phất lên, hàng ngày đi vào thành phố làm việc bằng đường sông. Ngôi nhà của Bill tọa lạc ở một ngã tư, cho nên anh có thể xem rất rõ ràng cảnh đua thuyền của trường Oxford và trường Cambridge khi họ chèo qua dưới cầu Putney.

Mở cửa ra là anh gặp ngay Amy, cô bé lên bảy rất dễ thương, rồi đến Debra hiện ra, cô bé đã lên mười một, cho nên trông nghiêm trang chững chạc hơn. Thả hành lý xuống, anh ôm hai con vào lòng, anh cảm thấy nhịp tim của hai con mình đập mạnh dưới lớp áo học trò. Anh ôm chặt hai con vào lòng rồi bước vào nhà, vừa khi Fiona từ trong bếp bước ra. Chị không đẹp bằng Amy, mà trông giống Debra hơn.

— Bill ! Em lo quá, cứ sợ xảy ra việc gì.

Anh hôn chị rồi vội kể cho chị nghe chuyện chậm trễ ở Frankfurt và Luton. Rồi anh lại hôn chị.

— Bố! - Amy nhỏ nhẻ nói, thái độ hân hoan sung sướng - Mẹ muốn được hôn nữa đấy !

— Xì ! - Debra nói - Cô Fortescue đã dặn đừng quấy rầy người lớn.

Cô Fortescue là hiệu trưởng trường tư thục hai cô bé đang theo học.

Ông bố nhìn hai con rồi cười, vẻ ân hận. — Họ tịch thu hết quà của hai con rồi.

— Ôi, bố, không ! - hai đứa cùng la lên, vẻ vô cùng thất vọng. - Họ tại sao lại tịch thu được ?

Anh kể cho cả nhà nghe về chuyện anh đã đoạt được giải quảng cáo nước hoa, và có hy vọng là cả nhà được mời đến Athens để tham dự lễ phát mãi. Amy tỏ ra thích thú, còn Debra cũng bớt vẻ nghiêm nghị , cô bé có vẻ phấn khởi lên. Fiona thì lắc đầu, chị có vẻ phân vân.

Bill quay lại, mở vali, lấy ra chai Đêm Hy Lạp.

— Ôi, bố ! - Amy la lên - Chai đẹp quá !

— Của mẹ, Amy à - Bill nói, vừa đưa cái chai cho Fiona.

— Cho cả nhà dùng thử đi - Amy đề nghị.

Debra lắc đầu bảo em — Cô Fortescue đã dặn chúng ta không được xức nước hoa khi đi học.

Cô em có vẻ tiu nghỉu. Fiona nhìn cả hai con. — Này, nếu mẹ không đưa hai con đi học, cô Fortescue sẽ la rầy đấy. - Rồi Fiona quay qua Bill :

— Bây giờ anh đi tắm rửa đi, em sẽ mang thức ăn điểm tâm vào giường cho anh khi em về. Để va li đây, em sẽ soạn ra cho anh.

Anh hôn cả nhà thêm lần nữa, rồi bước lên lầu. Amy nhìn vào cái chai.

— Mẹ à, cho con một giọt đi, được không ? Cô Fortescue không ngửi thấy được đâu.

Fiona cười với Debra. — Mẹ thấy cũng đúng đấy.

Cô chị gật đầu. Fiona mở nút chai ra. Rồi chị chấm một tí nước hoa lên má các con gái và sau hai tai của chị. Mùi thơm thật dễ chịu. Chị vặn nút lại.

— Rồi, các con đi học đi.

Hai cô bé lấy cặp đi học. Từ trên lầu, vọng xuống tiếng nước chảy.

Fiona định để cái chai lên kệ trên máy sưởi phòng khách, thì Debra chặn chị lại.

— Em này, nhà mình đang mua bán cái gì ?

— Đang hợp tác mua nước cho Sudan - Amy nhắc nhở mẹ.

— Không phải nước. Mà máy để lọc nước - Debra chỉnh lại.

— Chúng ta phải mang biếu gì chứ - Amy nói - Cô Fortescue đã nói rồi mà.

— Ô, lạy Chúa, mẹ quên phắt mất ! - Fiona nói - Mẹ cứ ngỡ là tuần sau cơ. Ta sẽ mua cái gì trên đường đi cũng được.

Dervla lắc đầu.

— Không có thì giờ đâu, mà cửa hàng cũng chưa mở cửa mà.

— Cô Fortescue chắc sẽ giận lắm đấy, mẹ à - Amy nói nho nhỏ, mặt bé gần muốn khóc.

Fiona nhìn cái chai. Thực tế là chị không muốn biếu đi quá sớm như thế, nhưng hai cô gái có vẻ thất vọng quá.

— Biếu cái này được không ?

— Quà của bố biếu mẹ mà - Amy phản đối.

— Mà chai lại mở ra rồi ! - Debra nói thêm.

— Mẹ chắc là bố không để ý đâu, Amy à - Fiona vừa nói vừa cẩn thận vuốt cái dấu khằn lại cho ngay ngắn. Dùng vào việc cho các con, chắc Bill cũng thông cảm thôi. Chị đưa cái chai lên xem lại - nào, trông có suy suyển gì đâu ? - Rồi chị đưa chai nước hoa cho Debra.

*

**

Cách đấy ba dặm, trong nhà bếp của ngôi nhà chung cư, Faruk Kadumi đang chuẩn bị để hoàn tất công việc. Hắn ta loay hoay trong bộ áo quần bảo hộ, soi người trong tấm cửa kính ở lò bếp để xem cái mũ trùm đầu có phủ kín hai vai không. Hắn từ từ thở qua chiếc mặt nạ, vừa lê bước đến cái tủ lạnh, hắn mở ra.

Những ống nghiệm đậy nắp kín đáo xếp từng dãy trên nhiều kệ, ở dưới đáy tủ lạnh là cái chai còn đầy, và cái chai đã trống trơn. Hắn khó khăn cúi xuống tủ, lấy cái chai còn đầy ra. Hắn để trên quầy bếp, rồi đóng tủ lạnh lại.

Hắn đưa cái chai vào trong một vòi nước nóng cho đến khi chất đựng trong chai lỏng ra. Hắn lấy một cái ống tiêm, hút ra một lượng nhỏ vi rút bệnh than B.C sền sệt, bơm vào trong một ống nghiệm. Rồi hắn cẩn thận cho nước muối vào trong ống, đậy nút lại, lấy sáp trong gắn chặt lại.

Trong một giờ đồng hồ, hắn đổ đầy tất cả những ống nghiệm còn lại cho vào tủ lạnh. Hắn để cái chai trống trơn thứ hai bên cạnh cái chai kia. Hắn cởi áo chưa xong thì chuông cửa reo vang. Faruk Kadumi sợ điếng cả người.

Nhân viên của Effendi đến tối mới đến lấy những ống nghiệm cơ mà, sau khi hắn đã gọi Effendi để xác định số lượng bao nhiêu ống. Rồi hắn sẽ bay đi Paris, và qua Algiers. Hắn sẽ ra khỏi đây trước khi những người lấy ống nghiệm đến. Hắn chỉ biết là mỗi người đều có rèn một chìa khóa căn phòng giống nhau.

Chuông cửa reo liên hồi.

Khi Faruk Kadumi lặng lẽ bước ra phía hành lang, thì tấm bảng trên hộp thư mở ra và có một giọng nói gọi vào.

— Cảnh sát đây. Có ai trong nhà không ?

Faruk Kadumi nghiến răng, nín thở. Hắn cảm thấy đầu óc quay cuồng, hai thái dương giật giật. Tại sao chúng lại đến ? Chúng muốn gì đây ? Sau một hồi, tấm bảng trên hộp thư khép lại. Faruk Kadumi thở dài nhẹ nhõm, đầu bớt choáng váng nhưng hắn không tài nào giữ cho khỏi run.

Bên ngoài cửa có tiếng than phiền với nhau : — Giờ này mà không có ai ở nhà hết ! Vô lý quá nhỉ ? Đây là khu lao động mà.

— Nếu anh hỏi tôi thì cũng bằng thừa. Tôi chỉ muốn biết họ hỏi làm quái gì những cái số năm ra đời của mấy cái máy này mà thôi ?

Faruk Kadumi nghe tiếng càu nhàu đồng ý. Rồi cái bửng mở ra lại. Một tờ giấy rơi xuống nền nhà. Hộp thư đóng sầm lại. Một lúc sau, có tiếng gõ cửa ở phòng bên kia hành lang.

Đợi cho đến khi nghe tiếng một phụ nữ mời cảnh sát vào phòng, Faruk Kadumi mới ra phòng khách, lượm tờ giấy lên xem. Tờ giấy có hàng chữ đầu : "Thông báo của cảnh sát". Bên dưới là lời tuyên cáo của Sở cảnh sát Scotland Yard truyền lục soát từng nhà để tìm số ra đời của tất cả máy fax, nhân viên đi lục soát được quyền tịch thu bất cứ máy nào. Trong trường hợp tịch thu, sẽ có biên nhận giao cho gia chủ. Không giải thích khi đi lục soát, ở cuối tờ giấy thông báo ghi rõ là cánh sát vì không gặp được chủ nhà, cho nên sẽ trở lại sau. Không thấy ghi ngày giờ trở lại.

Faruk Kadumi lại càng run cầm cập. Thế là chúng đã biết về tin hắn gởi đi. Bây giờ chúng đang tìm hắn. Chắc là hắn không nên dùng điện thoại hay máy fax nữa rồi. Hắn phải gọi cho Effendi ở máy điện thoại công cộng tại phi trường.

Hắn nghe tiếng gõ cửa của cảnh sát đi dần về cuối hành lang. Hắn không dám rời nhà cho đến khi cảnh sát đã đi khỏi khu phố. Nhưng như thế thì lâu lắm. Hắn lại càng run rẩy thêm nữa.

*

**

Người Trưởng đội Cải Tổ Nhanh đưa mắt nhìn chằm chằm vào Matti khi anh bước qua căn nhà, ông ta cầm một tấm bảng kẹp giấy tờ trên tay. Trong vòng mấy giờ, ông và nhân viên của ông đã thiết lập một tổng đài nho nhỏ và nhiều máy móc cũng như thêm vào một máy vi tính và ba máy fax nữa, một máy có đường dây nối thẳng đến Langley.

Đồ đạc trong phòng khách được thay thế bằng một dãy bàn ghế làm việc kê áp sát vào tường. Những buồng dã chiến được trang bị máy nghe băng kê sát theo nhau. Những chiếc giường xếp kê trên nền nhà.

— Tôi không tin họ có thì giờ để dùng những thứ này, - Ông trưởng nhóm có mái tóc hoa râm cười nói - Nhưng cũng đã tạo ra được một phòng chiến đấu di dộng rồi đấy.

— Các anh đã làm việc số dách rồi - Matti nói - Một cái nhà ly hương cho những chuyên viên của thiếu tá Nagier.

Ông Trưởng ban cười xòa, đưa cái tập kẹp giấy ra : — Xin anh ký cho, tôi còn ra ngoài xem một vị trí quanh Sweetmont cho lính của Danny nữa. Những chỗ ấy còn chua cay hơn cả những nơi như đây nữa. Ở đây không ai chú ý khi đi khi về. Còn địa điểm như Sweetmont thì ai cũng thấy ớn hết.

Khi Matti đưa ông Trưởng ban ra cửa, anh vừa mới đóng cửa lại thì chuông điện thoại reo. Mirian gọi từ Trung tâm thành phố.

— Matti, lại chuyện về Nancy Carson đây.

— Cô ta ra sao ?

— Tệ lắm. Nặng thêm lên. Bệnh viện chăm sóc cô ta rất ráo riết. Cô ta có nói với ông y tá chuyện lạ lắm. Cô y tá nói cho em nghe và em chắc anh rất muốn biết chuyện này. Mà xem ra thì chẳng có gì...

— Nói cho anh nghe đi, Mirian - Matti nhẹ nhàng ngắt lời cô. Anh rất ngạc nhiên, vì khi nào cô ta cũng không tin tưởng những chuyện xảy ra ngoài lãnh vực nghề nghiệp của mình hết.

— Nancy đã bị cướp giật ở phi trường Kennedy. Một tên đã cướp quà tặng của cô ta.

Matti dịu dàng nói :

— Việc ấy thường xảy ra luôn mà. Rất thường. Đáng buồn đấy. Quà gì thế không biết ?

— Bởi thế mà em gọi đến cho anh hay. Có hai chai mà nghe ra là loại nước hoa rất đắt tiền. Cô ta nói cô ta đã mở ra một chai và xức lên mặt. Loại mới ra, em chưa hề nghe tên, loại gì có tên Hy Lạp đấy. Vả lại, vì tình trạng cô ta quá nặng, cho nên em phải cho thử huyết thanh. Cô ta ngứa ngáy khắp mình mẩy, lại thêm những triệu chứng về phổi...

— Em đợi anh một lát nhé, được không ?

Matti chạy vào phòng mật, lấy lên một bức fax. Đấy là tờ lệnh khẩn của Danny đã gởi đến kèm theo tờ phô tô cái nhãn chai nước hoa và bức hình. Tờ nhãn còn đọc được, nhưng bức hình thì bị mờ hơn khi phát đi. Anh chạy lại phòng ngủ, nhấc điện thoại lên.

— Tên loại nước hoa ấy là Đêm Hy Lạp, phải không Mirian ?

— Đúng rồi. Tại sao anh biết được ?

— Mirian, anh phải nói chuyện với Nancy. Chuyện rất quan trọng - Matti vội vã nói. - Em thu xếp cho anh đi.

— Nếu cô ta nói được thì em sẽ thu xếp cho anh ngay. Cô ta hiện trong tình trạng bán hôn mê mà - Marian đáp - Anh có thể xem đây như là loại sưng phổi vậy thôi.

— Mirian, nghe anh nói đây, cô ta không phải sưng phổi đâu...

Mirian nói gay gắt : — Anh đang nói cái gì thế, Matti ?

— Anh không phải bác sĩ, Mirian à. Nhưng cái chai ấy chắc là chứa vi rút bệnh than B.C đấy. Phải tìm cách để anh hỏi xem cô ta làm sao mà cô ta có hai chai ấy được ?

— Matti, nghe em nói đây - Mirian gắt gỏng nói - Bây giờ không có cách nào mà anh hay bất kỳ ai hỏi han gì Nancy được đâu. Cô ta rất nguy kịch và chắc là cô đã bị sưng phổi trầm trọng. Trong các lần thử nghiệm thì không có gì cho thấy như thế. Nếu phân tích huyết thanh có gì lạ, em sẽ cho anh biết liền.

Cô ta cúp máy không một lời tạm biệt. Matti biết lần này không phải vì thói quen, mà là vì giận dữ.

Khi anh trở lại phòng khách, máy truyền hình anh mở đang chiếu những tin tức thời sự địa phương. Tin hàng đầu vẫn là tin cách đây gần một tuần, tin những thi hài mới tìm thấy nữa trong những vụ đánh bom khách sạn. Tin cập nhật nhất là tin săn lùng bọn đánh bom. Giới tài phiệt Wall Street đã thưởng một triệu đô la cho ai bắt được chúng. Như vậy là con số tiền thưởng sẽ lên đến bảy triệu đô la.

Tin thứ ba là tin tai nạn đặc biệt xảy ra ở khu xa lộ Connecticut Expressway vào xế chiều hôm trước. Theo phim chiếu cảnh xảy ra tai nạn, phóng viên thời sự cho biết một chiếc taxi đã mất tay lái đâm vào môt chiếc xe chở dầu. Lửa đã giết chết cả hai tài xế. Nhân viên cấp cứu xuất hiện trên màn hình trả lời phỏng vấn cho rằng tai nạn kéo dài quá lâu. Đoạn đường này nổi tiếng là rất nguy hiểm khi phóng nhanh. Một sĩ quan cảnh sát nói rằng tai nạn xảy ra là do xe taxi đã nổ cả hai lốp.

Người phóng viên đã nhận diện được người tài xế xe tải chở dầu ở ngoài tiểu bang. Còn anh tài xế taxi tên là Muktar Sayeed, một người còn độc thân sống ở Queens. Anh ta lái xe cho Công ty xe taxi Day Nite đã một năm nay. Theo người phóng viên cho biết thì công ty xe taxi này là của người Ả Rập giàu có đầy lòng nhân ái tên là Rachid Harmoos. Người phóng viên không bình luận, chỉ cho biết nạn nhân rời nhà ở Sweetmont một lát sau là xảy ra tai nạn.

Matti viết vội tên Muktar Sayeed lên giấy rồi vào phòng mật.
 
Chương 23


Người dịch: Văn Hòa - Kim Thùy

Nhà xuất bản: NXB Thanh Niên

Shared by: CCG -

Cách Frankfurt tám mươi cây số về phía Nam, tài xế của Morton rẽ khỏi xa lộ, lái băng vào vùng nông trại Hussen trải dài trước mắt. Mười lăm phút sau, chiếc Mercedes dừng lại trước một hàng rào bằng lưới thép cao nghệu. Tại nhiều chỗ cách khoảng đều nhau, có những tấm bảng hình tam giác gắn vào hàng rào sắt. Lời thông báo viết bằng nhiều thứ tiếng chính gồm cả tiếng Ả Rập, nội dung như sau : "Xin đừng sờ tay. Có điện cao thế". Bên dưới các tấm bảng là những dấu hiệu chỉ sự nguy hiểm thường thấy : một cái sọ trắng hếu và hai ống xương đan chéo nhau.

Ba cảnh sát viên trang bị súng tự động từ trong trạm gác xây bằng gạch chắc chắn bước ra. Một người bước tới trước, trong khi hai người kia đứng gần đấy. Anh ta xem thẻ vào cổng do người tài xế đưa ra, rồi mở cửa sau khám xét Morton rất kỹ. Người cảnh sát khám xong, gật đầu ra dấu với hai đồng sự. Họ hạ súng xuống, rồi một người bước vào trạm gác. Một lát sau, hai cánh cửa mở rộng ra.

Chiếc xe tiến vào từ từ. Hai bên đường, mặt đất đều dăng dầy dây kẽm gai. Dây kẽm gai chạy đến tận một bức tường cao hơn và khó leo hơn cả bức tường Bá Linh nữa.

Chạy một đoạn, lại một bức tường chắn ngang, có hai cánh cửa sắt nặng nề. Lại ba người cảnh sát khác hiện ra, lại kiểm soát, rồi hai cánh cửa mở cho chiếc xe chạy vào. Qua khỏi cửa là một vùng đất rộng giống như vùng Morton đã đi qua khi nãy.

Một nhóm đàn ông, ăn mặc đồng phục màu xám, đang cày cấy trên cánh đồng. Những người lính gác bồng súng canh chừng họ.

Kế đó Morton trông thấy những sân ten nít, sân bóng chuyền và một sân bóng đá. Sau khi nghỉ ngơi thì chơi banh. Cho họ hoạt động như thế với hy vọng moi được những điều bí mật trong họ, những điều khiến người ta phải hỏi tại sao. Tại sao họ ít khi tỏ ra có thiện cảm như thế và tại sao lại đi giết người một cách bình thản như thế ? Tại sao lại bạo hành có ý đồ và thản nhiên như thế ? Tại sao lại hành động như đóng kịch trên sân khấu thế ? Tại sao, tại sao và... tại sao ?

Người Đức đã xây dựng chỗ này để nhằm tìm ra câu giải đáp ấy. Đây là phòng thí nghiệm-đồng-thời-là-nhà-tù về tội phạm học đầu tiên của châu Âu.

Morton nhìn vào tờ giấy tóm tắt trong tập hồ sơ để trên đầu gối ông. Hiện tại có chín mươi bảy con người cả đàn ông lẫn đàn bà nguy hiểm nhất đã bị quản thúc trong một khuôn viên gồm năm trăm mẫu đất. Ba trăm cai ngục được chọn lựa kỹ càng để canh gác họ. Những bác sĩ làm việc nghiêm chỉnh. Có năm mươi người cả thảy, mỗi người đều là chuyên gia về tâm thần học, tâm lý học, xã hội học. Tờ giấy đã giải thích rằng công việc của họ là nghiên cứu phương thức bạo hành nằm đằng sau những hành động khủng bố của chúng. Công việc nghiên cứu là làm sao để cho người ta thấy khó mà cướp máy bay, khó mà bắt cóc một kỹ nghệ gia, khó mà gài chất nổ trong tòa đại sứ hay là bắt con nít trên xe làm con tin. Rất là Đức.

Chiếc xe đậu lại trước một tòa nhà màu hung. Một bảng hiệu gắn vào tường bên cạnh bộ cửa đôi ghi hàng chữ : "Khu quản lý". Hai bên, vươn lên những tháp canh tù trông thật uy nghi.

— Tôi đợi ông ở đây.

Đây là câu nói đầu tiên của người tài xế nữ từ khi rời Frankfurt đến nay.

— Cám ơn cô.

Morton bước ra khỏi xe, xếp tập hồ sơ lại, ông bước lên tầng cấp ở khu quản lý. Tòa nhà có lối kiến trúc theo kiểu nhà tù, đâu đâu cũng có vẻ dữ dằn. Khi ông đến cửa, một người đàn ông thấp, dáng bè bè, ra mở cửa. Anh ta trông chẳng khác nhà tù mấy. Anh mặc bộ đồ bằng vải tuýt, có gắn bảng tên trên túi áo.

— Ông là Morton phải không ?

— Phải !

Bỗng anh ta cười, nhưng Morton vẫn bình tĩnh. Anh ta lại nhìn chằm chằm vào ông, rồi nói bằng tiếng Đức :

— Sehrgut.

Morton nhìn vào bảng tên của anh ta, ông hỏi : — Ông có nói tiếng Anh được không, thưa ông Vogel ?

— Dĩ nhiên là được chứ. Tôi là bác sĩ Vogel, Phó giám đốc.

— Tốt quá, thưa bác sĩ. Vậy ta nói tiếng Anh nhé ?

— Được, nếu ông thích thế.

— Tôi thích thế.

— Ông cho tôi xem giấy phép - Vogel nghiêm túc hỏi.

Morton đưa tập hồ sơ cho anh ta. Vogel lật ra xem.

— Trước hết là ông phải gặp ngài Giám đốc cái đã.

— Tiếng Anh của ông ấy ra sao ?

— Tuyệt lắm, thưa ngài Morton. Ông ấy đã học tại đại học George Washington hai năm.

Họ lặng lẽ đi qua những cánh cửa đóng kín, đằng sau cửa vang lên tiếng đánh máy. Qua khỏi đó, đến một dãy phòng cửa mở rộng. Trong mỗi phòng đều sơn màu trắng thật đều, trong phòng có một bàn làm việc và nhiều ghế tựa. Phòng nào cũng hôi mùi thuốc sát trùng.

— Đây là những phòng khám bệnh à ? - Morton hỏi.

— Vâng, vâng... - Vogel đáp.

Họ dừng lại trước một cánh cửa có chữ : "Giám đốc". Vogel gõ nhanh lên cửa rồi mở ra.

Ông giám đốc ngồi sau một chiếc bàn rộng bao quanh có nhiều kệ dày sách báo. Cảnh tượng này nhắc Morton nhớ đến phòng làm việc của Bitburg.

— Xin cám ơn bác sĩ Vogel.

Ông giám đốc đứng dậy vừa gật đầu chào ông phó. Ông quay qua phía Morton, nhưng đợi cho đến khi Vogel đã ra khỏi phòng mới lên tiếng nói. — Tôi đã biết tiếng ông rồi, thưa ông Morton.

Ông rời khỏi bàn. Hai người bắt tay nhau.

— Rất sung sướng được gặp ngài, thưa ngài giám đốc.

— Tôi là bác sĩ Schmeissner, tôi cũng rất sung sướng được gặp ông. Washington đã giúp tôi biết cách sống hòa đồng nhau.

Ông ta cười, mặt mày rạng rỡ. Cặp lông mày ông ta rậm, vừng trán cao và mái tóc thưa đen. Ông ta bước đi khập khiễng, chắc là vì thương tích trong chiến tranh. Ông ta trông cũng gần đến bảy mươi tuổi.

— Xin mời ông - Bác sĩ Schmeissner chỉ về phía những chiếc ghế bành kê quanh một bàn cà phê. Trên bàn đã có sẵn bình cà phê, tách, lọ đường để trên cái khay.

Hai người ngồi đối diện nhau.

— Ông dùng cà phê ?

— Xin cám ơn. Cho tôi cà phê đen, không có đường.

— Có dân Ả Rập ở đây. Chúng tôi phải nhập cà phê của họ từ Damascus hay từ Teheran vào đấy.

Bác sĩ Schmeissner rót cà phê ra tách.

— Cho họ uống cà phê của họ, phải chăng để giúp họ ý thức được tại sao họ lại làm như thế phải không ? - Morton hỏi.

Bác sĩ Schmeissner liếc nhìn ông, cố đánh giá câu hỏi.

— Bất cứ việc gì cũng giúp họ được hết. Cảnh sát ở đây tránh không được tạo ra những tiền lệ. Chúng tôi lo chăm sóc thực phẩm cho họ, lo những tiện nghi về thể thao cho họ. Nghĩa là tất cả những gì để giúp chúng ta tìm hiểu được nội tâm của họ - Ông ta đưa cho Morton một tách cà phê - Ví dụ chúng tôi tìm xem những dị đồng và dị biệt trong phương pháp chữa trị bệnh tâm thần cho họ. Khi họ nói đến "Chủ nghĩa anh hùng cách mạng", họ muốn nói đến cái gì đây ? Những nhà xã hội học đã cố tìm ra mức độ di truyền đã dẫn họ đến chủ thuyết khủng bố ngay từ ban đầu. Chắc ông biết trên chín mươi phần trăm tù nhân ở đây đều phát xuất từ những gia đình tan vỡ chứ ? Là một bác sĩ tâm thần tôi rất lưu tâm đến việc này.

Morton để chiếc tách xuống bàn :

— Không phải tất cả những tên xuất thân từ những gia đinh tan vỡ mới ném lựu đạn đâu. Bọn theo Raza đều thích bạo hành, chúng ao ước được đứng trong hàng ngũ của hắn vì hắn hứa hẹn sẽ tạo nên một xã hội mới, lý tuởng. Một xã hội như ở đây sẽ không bao giờ có cả.

Bỗng trong phòng trở nên im lặng nặng nề. Khi bác sĩ Schmeissner cất tiếng nói, giọng ông vẫn bình thuờng.

— Theo tôi thì tất cả đều tùy vào hoàn cảnh. Trên cương vị của ông thì giết bọn khủng bố là điều tiên quyết. Còn trên cương vị của tôi, thì trên hết là phải tìm hiểu chúng.

Morton nhìn viên giám đốc. Khi ông lên tiếng, giọng ông rất dịu dàng :

— Thưa bác sĩ, tôi kính trọng cương vị của ngài. Có lẽ một ngày nào đó tôi sẽ hiểu hết tầm quan trọng của việc này. Nhưng bây giờ thì tôi chưa chắc được - Ông uống hết tách cà phê rồi lấy tập hồ sơ lên - Bây giờ tôi muốn gặp cô ta. Ngài có máy cát xét cho tôi mượn đấy chứ?

— Có.

Bác sĩ Schmeissner đứng lên, khập khiễng đi đến bàn làm việc, lấy ra một máy cát xét bỏ túi đưa cho Morton. Ông bỏ máy vào túi, trong túi ông đã có sẵn hai cuộn băng thu lời của hai phụ nữ làm việc cho Raza.

Bác sĩ Schmeissner dẫn ông ra khỏi văn phòng, đi lui lại theo hành lang rồi bước qua một chiếc cầu rào giậu kín đáo. Khi đi, ông ta vẫn nói thao thao, nét mặt tràn trề tin tưởng.

— Chúng ta phải xem mình là những kẻ giả kim. Chúng ta đang tìm kiếm "linh hồn" của những người này. Nhờ thế mới hiểu được những động cơ tâm lý đã dẫn dắt họ hành động.

Một lính gác mở cánh cửa sắt ở cuối chiếc cầu. Họ đi vào nhà tù.

Morton quay qua bác sĩ Schmeissner. — Tôi đã đọc nhiều tài liệu viết về đời tư của cô ta rồi. Nhưng chắc ngài còn có điều gì cần cho tôi biết thêm chứ ?

Ông giám đốc cười, đáp :

— Điều quan trọng là có chuyển biến nơi cô ta. Điều đáng chú ý nhất là cô ta đã sống "hòa đồng" theo như các bác sĩ nghiên cứu về hành vi cho biết. Bản chất khủng bố trong người cô ta đã biến thành tính tự vệ trong cuộc sống mới. Cô ta đã sống bình thường với bạn bè trong tù.

Họ đi vào một hành lang ngắn. Đi được nửa đường, có một lính gác đứng canh ngoài một cánh cửa. Có một lỗ để nhìn vào ở trên cửa sắt. Bác sĩ Schmeissner áp một con mắt nhìn qua lỗ nhìn. Rồi ông ta bước sang một bên và ra dấu cho Morton nhìn vào.

Cô ta đứng nơi cửa sổ, quay lưng lại phía ông. Cô ta cao hơn là ông tưởng, cô ta mặc một chiếc áo blu dông đan màu đỏ, bên ngoài chiếc áo dài màu xanh. Mái tóc đen tuyền lấp lánh trong ánh nắng đang chiếu qua cửa sổ. Trong phòng có nhiều chiếc ghế bành bọc da kê sát vào tường, ở giữa có một chiếc bàn, trên bàn có một bình hoa tươi.

Morton đứng nhìn cô ta một hồi lâu rồi quay qua ông bác sĩ : — Tôi vào trong một mình được rồi.

Ông giám đốc gật đầu.

— Được. Tôi về lại văn phòng đây.

Bác sĩ Schmeissner khập khiễng bước đi, người lính mở cửa ra. Morton bước vào trong phòng.

— Xin chào Shema.

Cô em gái của Nadine quay lại nhìn ông.

*

**

Trong phòng phát sóng của pháo đài ngầm, Raza mải mê ngồi trước máy phát thanh.

Trởi còn sáng sớm ngoài sa mạc Li Bi, không khí trong hầm vẫn còn lạnh. Nhưng không phải vì thế mà Nadine run lẩy bẩy. Chính nét mặt của Raza đã làm cho chị run. Chưa bao giờ chị thấy hắn khủng khiếp như thế.

Nadine nhìn bàn tay hắn một lần nữa lại đặt lên bàn phím của máy phát thanh, rồi dừng lại. Rồi một lát sau, bàn tay lại đưa lên, nhưng lần này hắn sờ vào cái máy liên lạc của con heo Do Thái hắn lấy được ở Athens.

Suốt thời gian trên chuyến bay về Li Bi và đáp xe từ phi trường Tripoli về, hắn đã xem cái máy nho nhỏ này như một quả bom. Bây giờ cái máy đang nằm bên cạnh cái tủ phát thanh, chỗ mà hắn đã để từ một giờ nay rồi.

Hắn đã hân hoan lắm mà, hắn đã đọc cho chị nghe nội dung các bức fax của Faruk Kadumi và Rachid Harmoos xác nhận vi rút bệnh than B.C đã đến nơi đến chốn an toàn rồi. Raza đã tuyên bố không có gì ngăn chặn hắn được nữa. Nadine còn nhớ là hắn rất vui vẻ. Hắn mời chị vào phòng máy để xem hắn mở cái máy liên lạc, tìm hiểu bí mật cùa cái máy, để rồi hắn có thể dùng máy này chống lại bọn Do Thái.

Vào phòng máy, một ngọn đèn trên thùng máy nhấp nháy. Hắn chửi thề, chạy đến bấm số gọi cho máy phát tin đặt ở Afghanistan. Một tiếng kêu chói tai phát ra. Khi hắn tìm ra nguyên nhân tiếng kêu đó, hắn hét lên thật dữ, giọng hét của hắn như giọng một con thú bị đau đớn tột cùng.

Khi chị chạy đến để an ủi hắn, hắn đẩy chị sang một bên.

Raza bấm số gọi thêm hai lần nữa. Lần nào giọng kêu ré cũng vang lên khắp cả phòng truyền tin.

Bây giờ đã một giờ qua rồi, giọng nói của hắn vẫn còn vang lên bên tai chị :

— "Máy chuyển tiếp đã bị chặn lại rồi. Chỉ có bọn Do Thái và bọn CIA mới biết cách chặn lại mà thôi".

Cố giữ cho bàn tay khỏi run, hắn đã bật nút cái máy liên lạc lên. Tin nhắn cho Gabriel gọi đến Ha Zoafim đã được thay bằng một tin thật quá đỗi bất ngờ, đến nỗi Raza đã nhích người lui tránh xa cái máy như thể nó là hiện thân của quỷ sứ.

Nadine chạy đến, tắt cái máy liên lạc của tên Do Thái đi.

Từ lúc ấy cho đến giờ Raza không nói năng gì hết. Hắn ngồi như bức tượng tạc ra từ đá ngoài sa mạc. Nadine nhìn hai bàn tay hắn. Hai bàn tay lại nhích lần đến chiếc máy liên lạc tí hon. Môi hắn mấp máy, nhưng không thốt nên lời.

— Đừng ! - Chị khóc - Mưu mẹo đấy. Máy sẽ báo cho bọn Do Thái biết chỗ của anh đang ở đấy!

Hắn quay nhìn chị. — Tôi biết rồi - Hắn nói nho nhỏ.

Cặp mắt hắn nheo lại ti hí, làm cho mặt hắn không còn chút sinh khí nào. Chưa bao giờ chị thấy hắn như thế. Dường như ma quỷ đang nhập vào người hắn. Bàn tay Raza lại lần đến cái máy liên lạc. Cái máy lạnh ngắt. Mấy ngón tay hắn lần đến nút mở.

— Đừng, anh ! - Nadine khẩn khoản nói.

Hắn bấm nút. Cả phòng máy vang lên giọng nói như hồi nãy :"Khalih Raza ! Chúng tao sẽ tìm chỗ mày ở. Mày sẽ bị tiêu diệt".

— Tắt đi anh ! - Nadine thét lên - Tắt đi anh !

Chị khóc nức nở trong khi Raza lấy cái máy MRT của Costas liệng vào góc phòng. Im lặng một chốc, rồi lời cảnh báo lại vang lên. Raza nhảy phốc đến, lượm cái máy nhận tin lên rồi tắt đi.

Hắn nhìn chằm chằm cái máy, cố lấy lại bình tĩnh.

— Đừng khóc nữa - Hắn gay gắt ra lệnh - Không có gì phải sợ hết. Bọn Do Thái chắc đã tìm ra thi thể của thằng gián điệp rồi cho nên chúng biết anh đã giữ cái máy liên lạc này. Chắc cái máy liên lạc với vệ tinh của chúng ở trên bầu trời Negev. Nhưng nếu chúng tưởng chơi cái trò nhắn tin trẻ con như thế này để hòng làm anh sợ, thì chúng lầm to !

Nadine lau nước mắt. — Có lẽ đây là máy phát, phải không ?

Raza xoay cái máy trong tay, cẩn thận không đụng đến núm bật.

— Không có núm phát. Nếu máy không có núm phát, thì nó không thể báo cho vệ tinh vị trí máy ở đâu được. Cho nên không có gì phải sợ hết.

— Hủy nó đi, anh - Nadine van nài.

Raza nhìn chị :

— Đừng có ngốc, đây là một vũ khí. Khi đã tìm ra...

Chuông điện thoại trên tủ máy reo vang làm cho Nadine giật mình. Chị nhấc máy lên nghe một chốc, rồi lặng lẽ đưa điện thoại cho Raza. Hắn để cái máy liên lạc bên cạnh tủ máy.

Lần này, giọng của Vị lãnh đạo Hồi giáo Muzwaz không chào mừng kiểu cách nữa. Giọng của ông ta khô khan, chắc nịch :

— Chúng tôi quá thất vọng vì sự việc đã xảy ra. Chúng ta đã mất mát rất nhiều ở Athens. Mà không phải chỉ có thế.

Raza thở thật sâu nhiều lần, cố giữ giọng thật bình tĩnh.

— Thưa Đức Ông, tên gián điệp Do Thái đã bị giết. Tôi lại còn biết nhiều chuyện qua hắn, những chuyện rất có giá trị, Và mọi việc tiến hành đúng kế hoạch.

— Thế tại sao người của anh ở Luân Đôn không giết tên giao hàng như chúng ta đã thỏa thuận phải làm như thế...

— Ngài lầm rồi ! Tôi đã nhận được tin xác nhận rồi ! - Raza cắt ngang lời của Đức Ông.

Giọng nói trở nên gay gắt :

— Chúng tôi đã nói chuyện với người em tin cẩn ở Luân Đôn.

— Thế là anh ta lầm ! Tôi đã nhận lời xác nhận cách đây một giờ mà.

Giọng của lão già trở nên lạnh lùng : — Đừng ngắt lời tôi. Anh hãy lắng nghe và tỏ ra biết kính trọng.

Raza ra dấu cho Nadine đi chỗ khác. Hắn không muốn người nào nghe được cách người ta nói với hắn như thế. Hắn sẽ không quên, hay là không tha thứ nỗi nhục nhã này. Khi thời cơ đến, cái lão lãnh đạo Hồi giáo này sẽ biết tay. Cái giọng nói lạnh lùng xa xa lại cất lên bên tai hắn.

— Cách đây một giờ, người em trai chúng tôi ở Luân Đôn đã gọi đến chúng tôi. Anh ấy vừa nhận được một cú điện thoại của tên giao hàng phân trần lý do chỉ có hai chai đến mà thôi. Chúng tôi đã ra lệnh cho người em canh chừng tên giao hàng, vì những người thu hàng đã đến lấy hàng ở căn phòng ấy. Vì họ làm việc cho em út của chúng tôi, chúng tôi tiên đoán là sẽ không có gì sai trái ở đấy - Vị lãnh đạo Hồi giáo ngưng một chút để ho rồi nói tiếp - Anh có hoàn toàn bảo đảm cái người mà anh tín nhiệm cử đến Luân Đôn để làm việc, có thể nào hắn không làm tròn nhiệm vụ của hắn không ?

Mấy ngón tay của Raza nắm chặt lấy máy điện thoại :

— Tôi sẽ tìm ra lý do hắn không làm tròn nhiêm vụ, thưa Đức Ông. Tôi sẽ giải quyết chuyện này với hắn. Tôi xin thề với ngài như thế - Một lần nữa hắn thở từ từ, thật sâu - Nhưng mà tôi tin chắc hắn đã làm tròn những nhiệm vụ khác.

Raza lại nghe tiếng ho khúc khắc, rồi giọng nói lại tiếp tục :

— Tôi ghi nhận lời bảo đảm của anh. Nhưng lại còn chuyện rẳc rối khác nữa tôi vừa nhận được do người em đáng tin cẩn và đáng trọng ở xứ Đại Quỷ vừa mới gởi về cho chúng tôi.

Raza cảm thấy tim hắn đập thình thịch trong lồng ngực. Harmoos đã nói gì đây? Hắn bèn hỏi :

— Tôi vừa nhận được tin của anh ấy mà, thưa Đức Ông. Anh ấy đã bảo đảm với tôi là tên giao hàng đã bị...

— Đúng, đúng, đúng ! - Vị lãnh đạo Hồi giáo cắt ngang một cách giận dữ - Anh ấy đã báo cho tôi biết rồi. Lý do mà anh ấy gọi cho tôi là vì cái gã hóa học gia hóa ra là chậm chạp và thiếu khả năng mà lại còn sợ sệt không dám làm.

Raza cười ranh mãnh : — Thế rồi người em đáng tin cẩn của ngài đuổi gã đi và thay một người khác, phải không thưa Đức Ông ?

— Vì thì giờ eo hẹp, không thể nào tìm ra người đế thay thế cho thuận lợi được. Chúng ta trong nội bộ nói với nhau mà thôi, nhiều đồng sự của tôi nghĩ tốt nhất là nên hoãn lại...

— Không ! - Raza la lên - Thưa Đức Ông, xin ngài tha thứ cho tôi cắt ngang lời ngài. Nhưng hoãn lại là một việc rất tai hại. Chúng ta đã gần chiến thắng vinh quang rồi. Những vụ đánh bom và số phận phân biệt chủng tộc ở Nam Phi đã cho kẻ thù thấy được sức mạnh của chúng ta. Hoãn lại là chỉ làm cho chúng có thì giờ hồi tỉnh. Cho nên chúng ta cứ việc tiến tới để hoàn thành sứ mạng. Tôi xin ngài đừng dừng lại, thưa Đức Ông...

— Thế thì anh đề nghị ra sao ?

Raza nhìn Nadine, như hắn hy vọng tìm ra một giải pháp gì nơi chị. Chị nhìn lại hắn, đôi mắt đen hoảng sợ. Hắn nắm chặt máy điện thoại. Khi hắn cất tiếng nói, giọng hắn bình tĩnh và tự tin :

— Chỉ có một biện pháp thôi, thưa Đức Ông. Đó là tôi phải sang xứ Đại Quỷ. Tôi sẽ thu xếp cho người của tôi ở Luân Đôn sang đó với tôi. Khi công việc xong xuôi, tôi sẽ tính chuyện với hắn, luôn thể tính chuyện với tên hóa học gia này. Tôi xin thề với ngài như thế.

Hai người im lặng một hồi thật lâu rồi vị lãnh đạo Hồi giáo nói :

— Tốt lắm. Tôi chấp nhận giải pháp của anh. Nhưng anh phải hiểu cho là chúng tôi muốn chỉ một mình anh phải trực tiếp chịu trách nhiệm. Người em tin cẩn ở xứ Đại Quỷ sẽ làm việc dưới quyền anh. Anh sẽ ra lệnh cho tất cả những nhân viên của anh ấy. Tóm lại, chính anh là người quyết định mọi việc. Nhưng đừng để phạm thêm sai lầm nữa. Hoàn toàn đồng ý rồi chứ ?

— Hoàn toàn, thưa Đức Ông. Tôi sẽ thu xếp ngay đây.

— Xin Đấng Ala ban phép lành cho anh để chúng tôi cùng anh được hưởng hạnh phúc - Giọng Ayatollah ngân nga rồi ông cắt máy.

Raza để điện thoại xuống, quay qua Nadine. Lại một lần nữa chị thấy nét điên cuồng biến mất, mà trên mặt hắn lại hiện ra nét quả quyết cho rằng không có gì có thể ngăn cản hắn tiến bước được hết.

*

**

Morton cứ nhìn vào cặp mắt của Shema.

Chị ta ngồi thẳng trong một chiếc ghế bành đối diện với ông, tầm mắt ngang với tầm mắt của ông. Ánh nắng lọt qua cửa sổ, chiếu lên mái tóc đen xõa dài trên hai bờ vai. Khuôn mặt chị nhỏ nhắn và không đẹp lắm, vì miệng quá rộng và hai mắt hơi cách xa nhau quá. Màu da nhắc ông nhớ đến trái sung chín, có màu nâu xẫm lốm đốm vàng.

Suốt một giờ ông tìm hiểu về cuộc đời của chị : những gì chị đã kể cho những người thẩm vấn Đức, cho ông Chánh án phiên tòa và cho tất cả những người đã hỏi chị nghe rồi. So với những điều ông đã đọc, ông thấy chị đã trả lời ông rất thành thực. Tuy nhiên, thỉnh thoảng, ông cảm thấy chị có thái độ phân vân, có lẽ chị lấy làm lạ không biết ông là ai và tại sao ông lại đến đây.

Cả hai lần ông nhắc đến Nadine, Shema đều nhìn ông rất nhanh rồi mới nói ngày sinh, nơi sinh, và miêu tả hình dáng của cô em gái. Ông thấy đã đến lúc đề cập đến Nadine thêm một lần nữa. Ông móc trong túi ra tấm hình mà ông đã ghép lại ở Athens.

— Có phải đây là em gái cô không ? - Ông hỏi, vừa chìa tấm ảnh cho Shema xem.

— Phải. Ông kiếm đâu ra thế ?

— Ở Athens, ngày hôm qua. Cô có nhận ra cô gái kia không ?

— Không.

Morton bỏ lại tấm ảnh vào túi.

Hai người lặng lẽ nhìn nhau một lát. Khi Morton nói lại, giọng ông đã thoải mái hơn, ông đã khơi được nguồn câu chuyện rồi.

— Em gái cô có thân cận với Raza không ?

— Thân cận à ? - Shema hỏi lại - Ông muốn nói gì thế ? Hắn ta giữ mọi người gần bên hắn. Để hắn kiểm soát họ mà.

Morton gật đầu, xác nhận đây là một câu nói thành thực.

— Cô có nghĩ là Nadine cũng giống như cô, cũng thấy được sự thực thế này không ? - Ông hỏi, giọng nhỏ nhẹ dịu dàng.

— Thật ra rất căng thẳng khi ở gần bên hắn - Shema đáp, chị cười chua chát - Hắn rất có tài thuyết phục.

Chị vòng hai tay lại như chị cần phải co người lại cho ấm.

— Có tài thuyết phục ! - ông lặp lại, như thừa nhận lời nói là đúng - "Có tài thuyết phục" ? Nếu hắn có tài thuyết phục, thì tại sao cô lại đổi ý ?

— Ông biết lý do rồi.

Ông đưa mắt nhìn đi chỗ khác, không nhìn mặt chị nữa. — Cô cứ nói đi, Shema. Cô nói cho tôi biết bằng chính lời của cô.

Mắt ông lại dán vào mặt chị cho đến nỗi chị phải co người lại hơn nữa. Rồi chị nói :

— Hắn là một tên nói láo. Hắn nói về Palestine say sưa lắm, nhưng hắn lại không quan tâm đến việc đòi chủ quyền cho mảnh đất này. Hắn chỉ dùng mảnh đất này như một cái cớ để gây chiến tranh. Hắn nói đến đủ thứ một cách say sưa lắm. Nhưng hắn chỉ có một điều say sưa là lo cho hắn mà thôi.

Ông nhìn chị đang hồi tưởng lại chuyện đã qua với nét mặt giận dữ. Ông thấy buồn. Ông lại lên tiếng :

— Hắn vẫn muốn giết hết những người Do Thái nhỏ nhoi hiện đang sống ở Palestine đấy.

— Đừng nói về những người Do Thái như thế ! - Shema đáp nhanh - Người Ả Rập chúng tôi không phải chống lại tập thể Ả Rập Do Thái sống chung như thế. Mà chỉ chống lại những công việc của người phục quốc Do Thái đã làm thôi.

Morton gật đầu, nhưng chị không nói nữa. Bỗng ông hỏi : — Cô đã ngủ với Raza chưa ?

Chị nhìn ông chằm chằm : — Hắn ngủ với bất cứ ai mà hắn muốn.

Ông hỏi tiếp : — Kể cả Nadine ư ?

Chị giận dữ nhìn thẳng tới trước, như nhìn vào chốn riêng tư đáng ghét của mình, chị đáp. — Khi tôi còn ở đấy thì không. Tôi giữ nó xa hắn ra.

Morton suy nghĩ về chuyện này một hồi lâu, không những ông quan sát nét mặt chị, mà ông còn quan sát cả cơ thể của chị như để làm dẫn chứng. Hắn đã ham muốn chị, đã ve vãn chị, đã mơn trớn chị, làm cho chị lo sợ, rồi làm cho chị giận dữ để đến mức độ này. Những gì chị nói đều đúng cả. Chính đôi mắt đau đớn kia và chính cơ thể đang căng thằng kia đã nói lên rất rõ điều ấy. Ông nhìn xuống tập hồ sơ đang mở rộng trên đầu gối, giả vờ như đang đọc, rồi ông bỗng nhìn lên, hỏi chị:

— Cô có biết tại sao tôi đến đây không ?

Chị lắc đầu.

Ông kể cho chị nghe về những vụ đánh bom khách sạn, về vụ Trekfontein, và lời đe dọa của Raza sẽ rải hết số vi rút bệnh than B.C còn lại. Ông nói không bỏ sót một chi tiết nào.

Khi ông nói xong, Shema nhìn ông kinh ngạc. Rồi chị hỏi :

— Ông là ai ?

— Tôi là một người Do Thái, một người Israel - Ông nói bình tĩnh - Người ta gọi tôi là Morton - Hay là David.

Chị hiểu ra ngay, chăm chú nhìn ông :

— Ông là... mật vụ Mossad ?

— Đúng - Morton cảm thấy chị tỏ ra cương quyết.

— Tôi vẫn là người Ả Rập. Không phải tất cả chúng tôi đều là dân chủ trương khủng bố chứ ?

— Không phải.

Morton chờ đợi, nhưng chị không nói nữa. Tuy nhiên, chị đã mặc nhiên chấp nhận. Ông chồm người tới trước, cặp mắt vẫn dán chặt vào chị. Ông dịu dàng nói :

— Chắc chắn là cả hai chúng ta đều muốn thế. Dân tộc của chúng ta đều có quyền sống chung với nhau trong hòa bình. Theo đường lối đã có, Shema à.

Shame thở dài :

— Tôi không nhớ đường lối ấy ra sao nữa.

— Để tôi chỉ cho cô thấy đường lối ấy đã biến thành ra sao rồi. - Giọng của ông trở nên khô khan, lạnh lùng. Ông cảm thấy người chị cứng đờ, hai bàn tay bây giờ ôm quanh lấy hai đầu gối. Chị nhìn ông với vẻ hết sức hiếu kỳ, vẻ hiếu kỳ thơ ngây.

Morton lấy trong túi ra cái máy cát xét và hai cuốn băng. Ông bỏ một cuốn vào máy rồi bấm nút cho máy chạy. Giọng Lila cất lên, đọc lời yêu cầu của Raza. Khi cuộn băng chấm dứt, ông lấy ra. Mặt Shema căng thẳng thêm.

— Cô biết người đàn bà này phải không ? - Giọng Morton cố tình làm ra vẻ buồn bã.

Shema gật đầu.

— Tên cô ta là Lila. Tôi chỉ biết cô ta có tên ấy mà thôi. Raza không bao giờ cho phép phụ nữ của hắn dùng họ hết.

Morton có vẻ không ngạc nhiên lắm. — Cô có thể nói cho tôi nghe về cô ấy được không ?

— Con ấy luôn luôn gắn bó với hắn. Nó ở với hắn từ đầu. Nó sinh ra để hận thù.

— Lila trông ra sao ?

Shema miêu tả cô ta cho ông nghe. Thế rồi Morton bỏ cuốn băng thứ hai vào máy và bấm nút.

Shema lấy tay bịt miệng, nước mắt đầm đìa. Chị nghẹn ngào nói : — Nadine, Nadine...

Morton để tiếp cuốn băng yêu cầu nước Pháp thả hết "Cảm tử quân" vào.

— Ôi, Nadine - Shema lại nói, chị ôm chặt lấy hai đầu gối.

— Cô hãy lắng nghe tôi nói đây - Morton nhoài người tới trước, ông nhìn chằm chằm vào mặt chị - Cô hãy nghe cho kỹ lời tôi nói đây. Cuốn băng này đã tìm được ở Athens vào ngày hôm qua. Raza đã ở đấy. Thế là em của cô đã đi cùng hắn.

— Ông sẽ giết nó chứ ?

— Tôi thấy không có lý do gì để giết cô ta hết.

— Nó không giống Lila đâu. Lila là kẻ đanh đá, đã giết nhiều người rồỉ.

— Nó ám sát - Morton bình tĩnh chữa lại.

— Đúng, đúng, ám sát. Nó thường hợp tác với Al Najaf. Ông biết tên này chứ ?

— Tôi biết. Nhưng nó không còn giết ai được nữa đâu.

Chị khẽ liếc nhìn ông. Chị hỏi : — Ông muốn gì ở tôi ?

Ông xếp tập hồ sơ lại.

— Shema, tôi đến đây để nhờ cô giúp đỡ. Raza lại biến mất đâu rồi. Chúng tôi đã tìm khắp nơi. Nhưng không có dấu vết nào cả. Tôi phải ngăn cản không cho hắn thực hiện lời đe dọa. Hiện nay kỳ hạn hắn đưa ra còn chưa đầy ba ngày.

Chị đáp lại ngay : — Nếu em gái tôi đi cùng hắn, nó có bị giết luôn không ?

— Nếu có chuyện không may thì chỉ là chuyện rủi ro mà thôi, nhưng tôi sẽ tìm cách để giảm thiểu rủi ro này lại.

— Làm sao mà giảm được ?

— Bằng cách nhờ cô đi theo tôi đến đấy!!

Shema thở hổn hển như bị ai đánh : — Ông điên rồi ! Họ sẽ không bao giờ để tôi ra khỏi đây - Giọng chị trở nên đanh lại - Ông đang bày trò gì để bịp tôi đây ? - Chị đứng dậy - Tôi muốn về phòng giam.

— Ngồi xuống đi - Morton cương quyết nói - Ngồi xuống và nghe tôi nói đây. Tôi không có thì giờ để cãi cọ nữa - Ông mở tập hồ sơ ra - Đây, cô đọc đi - Ông ra lệnh, - Nếu cô chịu giúp tôi thì cô sẽ được thả ra dưới sự giám sát của tôi. Đây là giấy tờ phóng thích của cô - Ông ném hồ sơ trước mặt cô - Đọc đi !

Shema cầm tập hồ sơ lên. Hai tay chị run rẩy khi lật ra từng trang. Chị ngồi phịch xuống, cảm thấy khó tin quá.

— Tại sao ? - Chị nói nho nhỏ - Tại sao ông lại thu xếp việc này ?

— Vì tôi phải chặn Raza lại - Morton trả lời - Và tôi muốn cô giúp một tay để làm việc này.

Chị đưa lại xấp hồ sơ. — Nhưng còn Nadine, chuyện gì sẽ xảy đến cho Nadine đây ?

— Không có gì đâu. Sau đó, cô ấy sẽ được tự do ra đi cùng cô.

Shema gật đầu chỉ vào tập hồ sơ : — Trong này có đả động gì đến việc ấy đâu ?

— Không. Nhưng mà tôi hứa với cô như thế.

Shema rảo bước quanh phòng, chị nói :

— Ông yêu cầu tôi phản bội lại những người từng là đồng chí của tôi. Một số trong họ đến với Raza chỉ vì họ tin rằng hắn là người duy nhất sẽ mang lại công bằng...

— Shema, chúng ta có rất ít thì giờ - Morton cắt ngang.

Chị dừng lại nhìn ông :

— Họ có thể bị giết hết. Ông phải cho tôi có thì giờ suy nghĩ.

Morton thủng thỉnh nói :

— Cô cần bao nhiêu thì giờ, Shema ? - Ông đứng dậy, cầm tập hồ sơ trong tay - Hai giờ nhé, tôi không thể mất nhiều thì giờ hơn nữa.

Shema nhìn ông : — Được rồi.

Morton nhìn đồng hồ. Ông lặp lại lần nữa: "Hai giờ".

Khi ra khỏi phòng ông gặp bác sĩ Schmeissner đang đợi ngoài hành lang. Bác sĩ đang cầm máy điện thoại di động trong tay. Ông ta hỏi :

— Thành công chứ ?

— Chưa chắc.

Ông giám đốc đưa máy điện thoại cho Morton :

— Scotland Yard gọi ông. Họ đợi đã mười lăm phút rồi. Tôi nói ông sẽ gọi lại, nhưng họ cho biết việc rất quan trọng không thể đợi được.

Morton giới thiệu mình vào máy. Bên kia yêu cầu ông giữ máy, Một lát sau, Fuller nói chuyện trên đường dây.

— David, chúng tôi tìm ra ba trường hợp đáng tin cậy. Hai em bé gái đang tuổi đi học và mẹ của các cháu. Cả ba hiện ở tại Viện Truyền nhiễm Quốc gia, bệnh họ đang nặng lắm.

Morton đi ra xa bác sĩ Schmeissner và người lính gác.

— Anh đã tìm ra nguồn gốc chưa ?

— Người cha đã mang về từ Athens ba chai, Quan thuế thu hai...

— Tại sao lại không thu ba ? - Morotn hỏi nhanh.

— Cái thằng cha hải quan này là một thằng ngu ngốc, đã nổi điên làm bậy cả. Hắn...

— Còn hai chai kia ra sao ?

— Chính việc này mà tôi gọi ông đây. Chúng tôi đã bắt được thằng mà chúng tôi tin là hắn đã ăn cắp hai chai này. Hắn dân Li Băng, tên là Arish. Phòng hắn ở thôi thì ê hề các đồ xoáy ở phi trường. Nhưng chúng tôi không có hồ sơ tiền án của hắn. Tôi đã fax cho Finel những chi tiết về hắn để hy vọng máy tính có cho biết đôi điều gì không. Theo tôi thì bọn chúng chọn Arish vì hắn chưa có tiền án. Chúng tôi đã theo dõi hắn, thẩm vấn hắn nhiều rồi.

— Tốt. Thế còn người cha đã có mấy chai kia ra sao ?

Fuller nói cho ông ta nghe về ông bố của hai em gái.

— Harrỵ này, anh tiếp tục với Zak Constantine ở Athens, nói với ông ta đến phi trường tìm hiểu. Nói với ông ấy là anh cần tên tuổi của hành khách bay ra khỏi Athens cùng với thời gian ông bố của các cô bé ra đi. Tôi chắc anh ta chưa có tiền án chứ ?

— Loại hiền như đất - Fuller đáp - Anh ta làm bất cứ điều gì có thể để giúp đỡ chúng ta. Chúng tôi đã được anh ta miêu tả cho biết hình dáng hai cô bán hàng rồi.

Morton miêu tả hình Nadine.

— Đúng một cô như thế đấy - Fuller xác nhận - Tại sao ông lại biết ?

Morton nói cho anh biết Shema đã nhận diện ra em gái của cô ta đúng như hình trong ảnh. Rồi ông nói tiếp :

— Arish chắc đã có một tên môi giới. Có thể tên này là một tên ở trong những tòa đại sứ Ả Rập. Có thể hắn là một thương gia, hay là một kẻ cấu kết với Raza để mua vũ khí. Khi đã khai thác hết cái thằng Arish này rồi, thả cho hắn đi. Biết đâu vận may đến, ta tìm ra được chỗ hắn đến.

Fuller ngần ngại, hỏi : — Nhỡ hắn tẩu thoát ?

— Khi anh sắp thả hắn, anh nói với Wolfie và Michelle đợi ở bên ngoài. Hai người này sẽ biết cách hành động. Và nói cho Pecry West biết tôi không muốn nghe ông ta phản đối gì hết đâu.

Ông nghĩ một chốc rồi hỏi : — Ai lo chữa bệnh cho ba mẹ con ?

— Bác sĩ Cooper, một nữ bác sĩ Mỹ.

Morton hỏi xong, ông cắt máy. Ông không nói gì cho bác sĩ Schmeissner biết khi hai người ngồi đợi quyết định của Shema tại phòng giám đốc.
 
Chương 24


Người dịch: Văn Hòa - Kim Thùy

Nhà xuất bản: NXB Thanh Niên

Shared by: CCG -

Matti cầm bức ảnh của Muktar Sayeed từ trong phòng mật bước ra. Bức ảnh đã được một kỹ thuật viên của Danny phóng lớn ra ở trong phòng sang ảnh dã chiến được thiết lập trong buồng tắm của Matti. Anh này đang làm việc tại văn phòng tình báo ở New York thuộc Bộ Di trú. Hồ sơ trong văn phòng cho biết Muktar được phép lái xe cho Công ty xe Taxi Day Nite. Hồ sơ chính thức về Muktar ở Hoa Kỳ chỉ có thế.

Một bản sao hồ sơ đã chuyển đến Tel Aviv. Lester Finel đã nhận diện ra Muktar là một tên đánh bom trong một thời gian dài ở Nam Li Băng. Muktar đã biến mất tăm từ hai năm nay.

Khi biết hắn là ai rồi, nhiều vấn đề gay cấn được đặt ra. Cơ quan FBI đã tìm xem Muktar liên lạc với ai. Nhân viên mật vụ đã đến căn hộ của Muktar ở Queens, nhưng không tìm thấy gì khả nghi. Kết luận vẫn là tai nạn xe cộ mà thôi. Cơ quan CIA lần tìm vết tích của Muktar từ ngày hắn mới đến Hoa Kỳ. Sở cảnh sát New York phái ngay nhiều toán thám tử thăm dò các vùng dân Ả Rập ở ven thành phố để tìm tung tích hắn.

Từ Washington, Gates đã yêu cầu gởi tin tức để ông có thể ra trước các chánh án Liên bang thuyết phục họ ban hành lệnh kiểm soát Harmoos. Trong lúc đó thì chuyên viên của Danny đang thăm dò tìm kiếm.

Báo chí khi nghe Matti nói đến việc Muktar là đầu mối để điều tra thì họ đã vội cười thông cảm khi nhìn hai mươi khuôn mặt cả nam lẫn nữ ở trong phòng. Chuyến đi xa xôi từ Tel Aviv đến của họ không phải là vô bổ. Họ lặng lẽ, cương quyết, tung ra một mạng lưới điện tử khắp các cơ sở của Rachid Harmoos ở Hoa Kỳ.

Đấy là những cơ sở của hắn ở Bờ Tây - Gồm ba công ty ở Thung lũng Silicon sản xuất nhiều loại vi mạch và một xí nghiệp chế thấu kính ở Los Angeles - nhà máy lọc dầu của hắn ở Houston, một nhà máy đóng thịt hộp ở Chicago và một nhà máy sơn ở Detroit. Những tổ do thám này đã rải quanh bên ngoài mỗi nhà máy và khu hành chính.

Đã nhiều giờ qua, căn phòng vang đầy tiếng thì thào, đọc những dữ liệu nhận vào và gửi đi. Ở giữa phòng khách một kỹ thuật viên đang dùng micrô để thử một luồng điện phát đến một chiếc xe tải của Ban Cải tổ Nhanh đậu gần những cơ sở của Harmoos, trụ sở chính điều khiển các hoạt động kinh tài của giới triệu phú trên thế giới, nằm trên đại lộ Tám Mươi. Những kỹ thuật viên khác cũng trang bị máy móc như thế đang nói chuyện với những tổ nằm bên ngoài Công ty xe tải Harmoos ở La Guardia ; tại cơ sở môi giới Harmoos ở Wall Street ; và ở tại nhà ngân hàng các quốc gia Ả Rập nằm trên đại lộ Thứ Năm. Ở ngân hàng này, Harmoos có cổ phần quan trọng nhất.

Hai tổ được bố trí gần Sweetmont để bắt đầu dò xét sâu vào khu bất động sản của Harmoos. Trưởng ban Cải Tổ Nhanh đã gọi Matti cách đây một giờ, cho biết là hóa ra công việc này rất khó khăn, không như ông ta đã dự trù khi cố tìm cho ra một căn cứ thích hợp nằm trong vùng này.

Điện thoại liên lạc thường xuyên giữa vệ tinh với chiếc Concorde đang đậu tại Frankfurt, với Danny ở Tel Aviv, và với căn nhà mật ở Luân Đôn.

Trong những căn buồng nhỏ dọc theo tường nhà, những kỹ thuật viên loay hoay tìm ý nghĩa những tin chặn được. Những câu chuyện có hứa hẹn tìm ra dấu tích đều được tách riêng ra để đưa vào máy vi tính. Máy tính lại thiết lập, chọn lọc những gì khả dĩ chuyển đến máy vi tính của Finel.

Những máy fax liên tục nhận những tin cập nhật từ các cơ quan CIA, FBI và Scotland Yard. Hầu hết luồng thông tin đều được chia ra thành tin đánh bom khách sạn và tin về chai nước hoa Đêm Hy Lạp. Ngoài ra không có tin nào khác.

Từ Athens, Zak Constantine báo cáo cho biết những khoa học gia về pháp lý đã khẳng định chai là loại thường thấy sản xuất ở Hồng Kông. Ở đây, cảnh sát đã được lệnh kiểm soát tất cả những cơ sở sản xuất chai ở trên đảo này. Các khu vực khác ở ven Thái Bình Dương cũng đều được yêu cầu kiểm soát. Có cả thảy trên hai mươi ngàn nhà máy sản xuất chai đều được kiểm tra.

Mặc dù hết sức tìm kiếm, nhân viên của Constantine vẫn chịu không tìm ra dấu vết của Raza.

Cách đây môt giờ, Mirian ở bệnh viện trung tâm thành phố điện thoại đến cho Matti. Da của Nancy đã bầm đen, những vết phỏng có mủ đã lan khắp cơ thể. Mirian khổ sở, không phải vì mệt mỏi mà vì nàng nhận ra mình đã định bệnh sai. Mirian bèn cho chữa trị Nancy bằng chất men PEG ít ỏi của bệnh viện. Loại men này sắp hết, và nàng phải kiếm cách để có thêm. Những nhà sản xuất loại thuốc này đang bắt tay vào việc chế tạo, nhưng phải mất nhiều ngày mới có đợt đầu tiên có thể dùng được.

Matti đã nói nàng gọi đến Lầu Năm Góc để hỏi xin. Sau chiến tranh vùng Vịnh, có lẽ người ta còn tích trữ chất này ở đâu đó. Anh cũng lại yêu cầu nàng cho phép anh nói chuyện với Nancy, Mirian hứa nàng sẽ gọi anh trong một vòng một giờ nữa vì hiện nàng đang cho thử thuốc này trên thân thể của Nancy.

Matti cũng gọi điện thoại đến chiếc Concorde, anh gởi một tin cho vị sĩ quan Trung tâm truyền tin để báo cho Morton biết là Nancy chắc chắn đã bị nhiễm vi rút bệnh than B.C.

Việc định ra bệnh của Nancy đã khiến cho người ta lao vào một cuộc săn lùng mới. Cảnh sát và cơ quan FBI đã theo dõi bất cứ hành khách nào cùng đi trên chuyến bay của Nancy. Người góa phụ đi cùng chuyến với nàng nhớ ra rằng Nancy đã mở một chai nước hoa. Nhìn một tờ phô tô cái nhãn chai, bà ta đã nhận ra ngay.

Nhiều thám tử và điệp viên đã theo dõi hành khách ở phi trường Kennedy, những người đã trông thấy Nancy bị cướp giật. Việc theo dõỉ không đi đến đâu. Không ai miêu tả được rõ ràng tên cướp. Matti đành áp dụng nghệ thuật suy đoán từ tin tức nhận được.

Lẽ nào tên cướp lại chỉ giật cái túi xách của cô ta mà thôi ? Và làm sao mà hắn trốn thoát tài tình thế ? Có thể hắn đã trốn nơi nào trong phi trường cho đến khi người ta hết săn lùng ư ? Nhưng như thế thì chắc không thể được. Bọn cướp giật thích cao chạy xa bay chứ không muốn đứng gần đấy. Có thể hắn có một đứa đồng lõa đợi để lái xe đưa hắn đi.

Nhưng cảnh sát phi trường đã phản ứng rất nhanh chóng để tìm những xe chạy ra. Matti đã kiểm soát rồi. Chỉ có xe taxi mới không bị chặn lại. Giả dụ tên ăn cướp đi taxi ? Hay giả dụ tên ăn cướp là tài xế taxi ? Muktar chăng ? Khu xa lộ Connecticut Expressway không xa phi trường Kennedy. Nhưng Muktar lại bị chết khi hắn đi từ hướng ngược lại cơ mà ?

Matti còn đang mải suy nghĩ thì Mirian điện lại báo cho anh đến bệnh viện ngay. Cất tấm ảnh của Muktar vào ví, Matti nói với người kỹ thuật viên trưởng rằng anh sẽ đến bệnh viện.

Hai mươi phút sau, chiếc taxi thả anh xuống cổng phòng cấp cứu bệnh viện Trung tâm thành phố. Bên trong, mọi người đang chuẩn bị cho công việc một ngày mới. Matti trông thấy Mirian ở trong phòng làm việc tại khu chẩn bệnh. Nàng ngồi trong phòng gắn toàn kính với phong thái của người chỉ huy. Nàng đang vừa nghe điện thoại vừa đưa tay vuốt tóc. Anh chỉ thấy nàng vuốt tóc mỗi khi nàng đang giận dữ.

Khi Matti bước đến cửa, Mirian đứng dậy, nàng bước quanh trong phòng, một tay nắm ống nghe, một tay vuốt tóc.

— Không ! Xin ngài nghe cho, thưa đại tướng Tuttle! - Bỗng nàng nói lớn lên - Phòng thí nghiệm của chúng tôi đã xác định bệnh lý rồi ! Dẹp chuyện cô ta là dân sự đi ! Dẹp những thủ tục mắc dịch của ngài đi ! Tôi chỉ muốn có nhiều thuốc này !

Matti nhìn Mirian lắng nghe một lát, rồi nàng lại to tiếng lại. — Ông kết luận thế hả, thưa đạị tướng ? - Nàng lắng nghe một hồi lâu nữa, rồi gác máy. Nàng quay qua Matti, hai mắt đỏ hoe.

— Thằng cha chết tiệt luôn luôn nhắc tới thủ tục - Nàng nói, vừa ngồi phịch xuống ghế.

Nàng mệt mỏi nhìn Matti :

— Quân đội hiện có một lượng men PEG đang cất giấu bí mật ở Maryland. Nhưng cái thằng cha tướng máy móc này nói rằng chất men này không thể giao cho một tên bác sĩ dân sự nào để chữa cho một ai dân sự hết...

— Em đang nói chuyện với ai đấy ?

Miriam nhìn vào tập giấy trên bàn : — Tướng Oliver Tuttle, Giám đốc cơ quan cung ứng y dược ở Lầu Năm Góc. Y là người đứng đầu...

Nàng ngần ngừ một chút, rồi đọc số điện thoại cho Matti.

Giọng trả lời ở đầu dây như tiếng tù và ré lên. — Tướng Tuttle đây, giám đốc...

— Tôi biết ngài rồi, thưa đại tướng. Tôi là Matti Talim, - Matti nói.

Sau môt chút ngần ngại, "tiếng còi" lại ré lên :

— Ai đấy ? Cho tôi biết cấp bậc và đơn vị của anh...

— Tôi là dân sự thôi, thưa đại tướng. Nhưng ngay bây giờ tôi không kể đến cấp bậc của ngài đâu.

— Cái gì ?

Giọng của Matti bỗng rắn như thép, Mirian chưa hề bao giờ nghe cả :

— Ngài có tên trong danh sách phân bố lại cấp chỉ huy cho phù hợp với cơn khủng hoảng hiện tại đấy. Rồi ngài sẽ biết tôi ở trong ban chỉ huy của đại tá Morton đang hợp tác với quân đội Hoa Kỳ đây.

— Đợi chút !

Matti nghe tiếng điện thoại để xuống, rồi có tiếng giấy sột soạt. Tiếng nói lại vang lên :

— Tôi nghe anh dây. Tại sao anh lại gọi đến cho tôi ?

— Mới đây mấy phút, Phó giám đốc phòng cấp cứu tại bệnh viên trung tâm thành phố đã gọi đến ông để yêu cầu ông giúp cho một ít men PEG ông đang có.

— Tôi đã nói với cô ấy những gì tôi sẽ nói với ông. Chúng tôi có những thủ tục phải tuân thủ mà.

— Đây là một cơn khủng hoảng mà, thưa đại tướng.

— Gặp cơn khủng hoảng, việc tuân thủ các thủ tục lại càng quan trọng hơn nữa !

Matti im lặng một lát. Khi nói lại, giọng anh rất buồn :

— Thưa đại tướng, ngài đã nghe đến "chiến dịch Lửa Đá" chưa ?

Tiếng "tù và" vang lên : — Không. Nghe như một tên dân sự mắc dịch nào đấy sáng tạo nên.

— Đúng là tôi sáng tạo ra đấy. Và ông sắp trở thành người đầu tiên sẽ bị đá ra khỏi nhiệm sở ngon lành này để đến một chỗ nào ông chưa hề biết nếu ông không đem đến đây men PEG.

— Này, anh chàng dân sự mắc dịch kia ! Anh ăn nói với môt vị tướng bốn sao như thế đấy hả ? Trong thời chiến, tôi sẽ đưa anh ra...

— Chúng ta đang trong thời chiến đây, Tuttle ! - Matti nói, thái độ bình tĩnh lạ lùng - và tôi để cho ông mười giây để ông trả lời cho tôi biết ông sẽ gởi chất men ấy đến, không thì tôi cúp điện thoại đấy. Lần gọi sau, ông sẽ có lệnh ra đi đấy.

— Talim ! Đồ mắc dịch ! - Tiếng "tù và" rít lên.

Matti nhìn đồng hồ : — Tám giây rồi, thưa đại tướng.

Mirian nhìn anh không nói một lời. Một giọng nói tức tưởi vang lên bên tai Matti.

— Chất men này sẽ đến đấy trưa nay...

— Không kịp đâu, thưa đại tướng. Phải đem đến vào đầu buổi sáng nay - Matti cương quyết nói.

— Mẹ kiếp !

— Năm giây rồi, thưa đại tướng.

— Rồi, đầu buổi sáng - Cái "tù và" nghe theo.

— Cám ơn, đại tướng - Matti đồng ý, anh gác máy.

Marian mãi nhìn anh không nói một lời. Rồi cuối cùng nàng thốt lên :

— Lạy Chúa Jesus. Lạy Chúa Cứu Thế nhân từ.

Đây là lần đầu tiên từ khi anh vào văn phòng, nàng cười.

— Nancy ra sao rồi ? - Matti hỏi.

Miriam đưa tay lấy điện thoại, bấm số nội bộ. Nàng hỏi một nhân viên trực, lắng nghe, rồi gác điện thoại, nàng đứng dậy. - Cô ta lại tỉnh rồi. Chúng ta đi thôi.

Khi họ bước theo con đường dẫn đến phòng chẩn trị bệnh nặng (C.T.B.N), giới hạn tối đa khách đến, Mirian phân trần với anh.

— Khi Nancy được định bệnh lại, chúng em cho người ra khỏi bớt phòng C.T.B.N. Chúng em đề phòng tối đa sự lây nhiễm.

— Anh muốn đưa cho cô ta xem một bức hình - Matti nói, anh lấy cái ảnh của Muktar ở trong túi ra - Nếu cô ta nhận ra tên trong ảnh là tên đã cướp cái túi xách của cô ta, thì bọn anh sẽ giải quyết được nhiều vấn đề lắm.

Mirian nhìn bức hình trong khi nàng vừa đẩy hai cánh cửa vào phòng C.T.B.N.

— Chúng ta phải bọc tấm ảnh trong tấm ni lông đã được khử trùng cái đã - Nàng nói.

Họ bước qua một bộ cửa thứ hai để vào khu vực thay áo quần của phòng C.T.B.N. Mirian đưa cho Matti một cái xô nhựa đã niêm phiếu kiểm tra, rồi mở một cái thứ hai cho mình. Nàng bọc tấm ảnh vào trong giấy ni lông, rồi nhanh nhẹn mặc áo quần giải phẫu vào, đội mũ, mang mặt nạ và giày cao cổ. Rồi nàng giúp Matti mặc đồ vào. Nàng lấy hai cái mặt nạ ở trên bệ xuống.

Khi Mirian kiểm tra Matti đã được an toàn rồi, nàng bèn dẫn anh vào phòng C.T.B.N. Matti cầm tấm ảnh của Muktar trong tay. Khi đi được nửa đường trên hành lang, họ gặp một chiếc xe đẩy dùng trong phẫu thuật đóng pa-nô màu đỏ. Cái ngăn ở dưới xe đầy cả dụng cụ trong phòng mổ.

— Xe khẩn cấp của chúng em đấy. Xe chứa đầy đủ những thứ chúng em cần, khi gặp trường hợp tim ngừng đập - Mirian nói khi hai người đi quá chiếc xe. Đằng trước có một cái bàn hình móng ngựa kê ngay giữa khu chẩn trị.

Ở đây nhìn được khắp các phòng bệnh. Một màn hình giám sát thiết lập trên bàn để cho hai y tá có thể thấy tức khắc tình trạng của bệnh nhân nằm trong phòng chẩn trị đặc biệt này.

Nancy nằm ở một phòng bên trái. Khi hai người tiến về phía phòng ấy, Mirian nói nho nhỏ: — Sau khi anh đã đưa cho cô ta xem ảnh, anh nhớ hãy hỏi cô ta thật ít thôi nhé.

— Anh hiểu rồi.

Vừa đến cửa phòng bệnh, họ ngừng lại một lát.

Trên mũi Nancy, hai ống nhựa thông với một bộ máy điều hòa khí oxy. Hai cực điện gắn trên ngực nối với máy đo nhịp tim kê ở bên giường. Biểu đồ cho thấy tim đập yếu nhưng đều. Trên giường treo một chai nước trong veo chuyền vào cánh tay của Nancy từng giọt.

— Chai men PEG cuối cùng đấy. Chuyền thứ này thì có cơ may đỡ hơn được - Mirian nói, vừa bước đến bên giường - Nancy, cô đang được chuyền thuốc đấy.

Lồng ngực của Nancy phồng lên xẹp xuống trong chiếc áo bệnh viện. Nàng lại ho.

Matti đứng ở chân giường. Hình thể Nancy thay đổi trông đến khiếp. Da dẻ đen thui, đầy cả những đám phồng lên mọng mủ. Môt đám phồng phủ cả con mắt trái, một đám khác bao quanh khóe miệng. Quanh cổ, những đám phồng làm thành một vòng cổ. Những đám khác nổi khắp cả hai cánh tay.

Mirian gật đầu ra dấu cho Matti bước lên. Khi anh đã đứng bên cạnh, nàng quay qua Nancy. — Nancy, Matti muốn cho cô xem một tấm hình, cô xem không ?

Hình như môi của Nancy có nhúc nhích.

Matti đưa tấm hình ra trước mặt Nancy.

— Cô có nhận ra tên đàn ông này không, Nancy ?

Cô ta nhìn chằm chằm vào tấm ảnh.

— Có phải hắn là tên đã cướp đồ của cô không ? - Matti hỏi - Cô chỉ gật đầu thôi nếu đúng, Nancy à.

Cô ta lại ho. Bỗng Mirian kéo Matti lui. Nàng la lên :

— Mã một ! Bước ra khỏi đây, Matti.

Anh thấy biểu đồ trên tấm động ký nhảy mạnh lên, rồi dừng lại. Mã một là tim ngừng đập. Vừa khi bước ra khỏi phòng bệnh, một y tá chạy vào giúp Mirian. Một lát sau, một y tá khác đến cùng chiếc xe khẩn cấp.

Người y tá đến trước bấm một nút đỏ gắn trong tường phía trên giường. Nút này mở máy có cuộn băng đã chuẩn bị trước, phát ra lời thông báo tới khắp cả hệ thống phóng thanh nội bộ trong bệnh viện. Thông báo yêu cầu các bác sĩ có trách nhiệm đến nhanh phòng cấp cứu để thi hành nhiêm vụ.

Mirian tháo máy tâm động đồ ra khỏi người Nancy, nàng chạy đến xe khẩn cấp với chị y tá. Họ nhanh nhẹn, bình tĩnh. Chị y tá kia lấy ra cái đồng hồ bấm giờ, chị bắt đầu đếm to lên - ba mươi giây - Chị nói to lên, cho biết thời gian ngừng đập từ khi lệnh khẩn cấp ban ra. Có lẽ trong vòng bốn phút, không lâu hơn sáu phút, Nancy còn có thể cứu chữa được nếu não bộ không bị hư hỏng.

Một bác sĩ thứ hai chạy đến, đút cái ống thông hơi vào sâu vào trong cuống họng của Nancy. Chị y tá nắm cái đồng hồ bấm giờ, tròng cái mặt nạ giống như cái bao vào miệng Nancy, chị bóp mạnh cái mặt nạ để đẩy oxy vào người Nancy.

— Bốn mươi lăm giây ! - Chị nói.

Mirian lấy kéo cắt rộng chiếc áo của Nancy ra. Vị bác sĩ thứ hai chạy đến xe khẩn cấp, ông phất một lớp chất dẻo dính lên hai cực điện đã được gắn vào máy khử rung tim. Rồi Marian đặt hai cực điện lên ngực Nancy, một cực lên phía bên trái của núm vú phải, cực kia nhích lên phía trên ở bên trái một chút.

— Xê ra ! - Mirian ra lệnh, nàng nhìn vào máy khử rung tim, máy mở hết cả điện thế.

Khi mọi người quanh giường bước lui hết, Mirian nhấn mạnh hai điện cực xuống, bấm vào nút ở trên hai cực. Máy hoạt động báo cơn sốc điện đang chạy qua tim của Nancy. Mirian nhấc hai cực điện lên. Máy khử rung phải nghỉ chín giây rồi mới cho máy chạy lại.

Các bắp thịt trên người Nancy giật giật, xương sống cong lên và hai chân cứng đờ khi cơn sốc chạy qua cơ thể chị.

— Một phút, - Chị y tá nói to lên.

— Chúng ta làm lại ! - Mirian nói.

Nàng cho Nancy bị sốc điện lần thứ hai, rồi nghỉ đợi chín giây, cho máy chạy lần ba. Nancy co giật người, rồi nằm xuống, mềm nhũn, bất động. Nàng gây sốc lần thứ tư. Không có gì thay đổi. Mirian ra lệnh :

— Làm lại !

Không có gì thay đổi.

— Làm lại đi !

Thêm lần nữa. Rồi Mirian quay qua những người khác.

— Chúng ta chịu rồi. Cô ấy đã chết.

Nàng nhẹ nhàng đưa tay vuốt mắt cho Nancy.

Những vị bác sĩ khác theo nàng ra khỏi phòng. Họ lấy làm lạ đưa mắt nhìn Matti. Mirian nhấc điện thoại trên bàn, gọi cho vị bác sĩ bệnh lý học. Xong nàng bước đến bên Matti. Nàng nói :

— Chúng ta phải mổ tử thi ngay, để xem có dấu hiệu gì cho biết tại sao chuyện này lại làm mất sức đề kháng của cô ta như thế ?

Trong phòng bệnh, những cô y tá chất đồ đạc lại lên xe. Họ đẩy xe đi, rồi quay lại phòng bệnh với một tấm vải, họ đắp lên người Nancy. Họ đẩy giường ra khỏi phòng đến một phòng khác ở bên cạnh khu vực thay áo quần.

Matti và Mirian lặng lẽ cởi bỏ áo quần bảo hộ, rồi ra khỏi Phòng Chẩn trị Bệnh nặng.

— Nancy luôn ho dữ dội như thế - Matti nói khi hai người đi đến phòng cấp cứu.

Mirian lắc đầu : — Đúng ra em nên chữa trị thuốc PEG sớm hơn mới phải.

Matti nắm hai vai nàng :

— Em khắt khe với mình quá, Mirian.

Nàng nhìn anh. Anh ôm nàng vào lòng, úp mặt lên mái tóc nàng.

— Em yêu anh lắm - Nàng nói nho nhỏ.

— Anh cũng yêu em.

Nàng chợt vùng ra :

— Em cần cho tiến hành mổ tử thi ngay.

— Anh sẽ gọi điện thoại với em sau.

— Anh nên gọi về nhà em - Mirian, nói rồi bước ra hành lang.

Nàng đưa một bàn tay lên chào, nhưng không nhìn lui. Anh nhìn nàng bước đi, rồi cũng bước ra khỏi phòng cấp cứu. Anh định lấy xe phóng ra phi trường Kennedy để đón Lou từ Washington tới. Sau đó, anh sẽ lấy ảnh của Muktar dò quanh phi trường. Anh biết chắc cũng ít hy vọng có người nhận ra được hắn, cũng như Nancy vậy.
 
Chương 25


Người dịch: Văn Hòa - Kim Thùy

Nhà xuất bản: NXB Thanh Niên

Shared by: CCG -

Đúng hai giờ sau, Morton mở cửa phòng giam. Shema đứng quay lưng ra cửa sổ. Ông đứng trong ngưỡng cửa, hai người nhìn nhau không nói.

— Sao ? - Cuối cùng ông hỏi.

Shema đứng im lặng một hồi lâu. Khi chị nói, giọng chị nghe nhỏ nhưng lại rất cương quyết :— Tôi sẽ giúp ông.

Cả hai đều cười, mặc dù họ không cười với nhau.

— Cám ơn cô - Morton nói, giọng nghiêm trang, rồi ông bước vào phòng. Ông cứ nhìn thẳng vào mặt chị và hỏi, - Raza hiện ở đâu ?

— Ở Li Bi.

— Ở đâu tại Li Bi ?

Chị nói chỗ ở cho ông biết. Ông tin tưởng vào lời chị nói. — Tốt. Ta đi thôi.

Morton quay ra, chị bước theo ông. Mười phút sau, Shema mặc bộ áo quần khi chị ra tòa, chị lên xe, ngồi bên cạnh Morton. Khi chiếc xe ra khỏi nhà tù, Morton không nghỉ ngơi một phút, ông cũng không để cho Shema yên mà hỏi chị liên miên.

Trước hết ông bảo chị miêu tả toàn cảnh căn cứ, rồi miêu tả tòa nhà, tầng hầm dưới cát... Ông yêu cầu chị kể thời khóa biểu từ sáng sớm cho đến chiều tối, rồi từ chiều tối cho tới sáng sớm. Ông đặc biệt chú ý đến giờ ngủ, giờ luyện tập, giờ ăn và giờ đổi gác.

Thỉnh thoảng chị dừng lại, như là những hình ảnh trong óc chị đang bị mờ đi. Chị nhắm mắt lại để tập trung tư tưởng. Rồi chị mở mắt ra và lại kể tiếp bằng một giọng bình tĩnh, khiến cho ông hài lòng vô cùng. Thỉnh thoảng ông chen vào :

— Cô có chắc không ?

Câu trả lời vẫn trước sau như một. Gật đầu, rồi lập lại những gì chị vừa nói. Khi chiếc xe rẽ ra xa lộ, Morton quay qua hỏi thêm về những thói quen của Raza.

— Hắn đi ngủ khi nào ?

— Không trước nửa đêm.

— Hắn có khóa cửa phòng không ?

— Không. Không ai dám vào phòng hắn.

— Hắn có ngủ một mình không ?

— Không bao giờ.

— Hắn ngủ bên mép giường nào ?

— Gần cửa sổ. Hắn thích nhìn ánh nắng mặt trời đầu tiên.

— Cô tả cái phòng của hắn đi.

Mắt ông dán chặt vào chị khi chị miêu tả lần lượt từng đồ vật trong nhà. Rồi ông lại hỏi tiếp những câu khác.

— Hắn có để súng trong giường không ?

— Hắn thường để một khẩu dưới gối. Còn một khẩu Kalashnikov nữa dưới giường. Hắn lại để một thùng lựu đạn trong bàn trang điểm nữa.

Người tài xế tăng tốc, chiếc Mercedes vượt qua đoàn xe tải.

— Lựu đạn à ? - Morton hỏi lại.

— Vâng. Hắn làm lấy. Hắn làm giỏi lắm.

— Trong hộc bàn sao ?

Shema lắc đầu : — Tôi không nhớ, có lẽ hộc thứ hai.

— Có bao nhiêu hộc ?

— Bốn - Chị nhắm mắt lại một chốc - Không, chỉ có ba thôi! - Chị nói rồi mở mắt ra.

— Tốt, bây giờ đến văn phòng của hắn...

Chị lần lượt miêu tả cho ông nghe từng phòng trong tòa vila, miêu tả bức họa cảnh Beirut treo trong phòng ăn, miêu tả đồ gỗ màu đen và những ghế dựa bọc da. Chị không bỏ sót một chi tiết nào.

— Còn nền nhà ? - bỗng ông hỏi - nền nhà trải cái gì ?

— Thảm. Hắn thu thập thảm. Thỉnh thoảng hắn trải tấm này chồng lên tấm kia.

Ông gật đầu, làm như chuyện thảm lót như thế là chuyện tự nhiên nhất.

— Bây giờ cô kể đến chuyện gác đêm đi - Ông tiếp tục.

Từ ngoại biên đi dần vào trong, ông yêu cầu chị kể lại đầy đủ chi tiết về toán tuần tra lưu động và toán lính canh ở mỗi pháo đài ngầm dưới cát và ở tòa nhà lớn. Chị miêu tả cách bài trí của khu luyện tập vừa khi chiếc xe bỏ xa lộ rẽ vào ngoại vi khu phi trường Frankfurt. Mấy phút sau, chiếc Mercedes đậu bên cạnh chiếc Concorde.

Shema bước theo Morton lên thang máy bay. Viên sĩ quah Trung tâm truyền tin và người phụ trách tài vụ trên máy bay đang đứng đợi họ ở cửa. Morton giới thiệu Shema với họ, rồi vào buồng máy để bảo viên phi hành trưởng chuẩn bị cất cánh đi Luân Đôn. Rồi ông trở lại chỗ Trung Tâm truyền tin.

— Nối đường dây đến Tel Aviv - Morton ra lệnh cho viên sĩ quan Trung tâm truyền tin - Tôi muốn nói chuyện với Thủ tướng, với các cấp chỉ huy quân đội và không quân, và với các cấp chỉ huy hành quân trong các lực lượng này. Gọi Danny, báo cho ông ấy biết để dùng phòng Chiến tranh.

Morton ngồi vào chỗ, ông bèn ra lệnh ngay. — Cố giữ lại tất cả tin gởi đến, ngoại trừ tin của Lacouste hay là có tin gì về tung tích của Raza. Trong khi giữ tin thì anh hãy cho phát lời nhắn của tôi đi.

Chiếc màn hình sáu inh ở phía bên phải ông bắt đầu hiện lên những tin tóm tắt các lời gởi đến. Yertzin đã xác nhận máy phát chuyển tiếp sắp chở từ Kabul đến Tel Aviv trên chiếc phóng pháo cơ Tupolev. Finel không có kết quả khi tiếp xúc với Á châu để tìm tung tích Raza. Lacouste đã điện đến. Nội các Pháp vẫn đang họp đột xuất. Gates gọi đến : Ông ta đã phái nhiều nhân viên đến Columbia. Cơ quan FBI tường trình không ai khớp dược hình miêu tả Lila với tất cả những hình trên máy vi tính đã có của họ hết. Sở Di trú Hoa Kỳ đã chuyển ảnh của chị ta đến các điểm nhập nội vào Hoa Kỳ rồi. Wolfie báo cho biết cả con và vợ của Hardman đều chết. Xét nghiệm tử thi xác nhận tất cả đều do vi rút bệnh than B.C gây nên. Một đội chống lây nhiễm đã tìm ra cái chai ấy ở trong trường. Lạ thay là không ai đụng đến hết. Matti cũng gọi đến báo Nancy Carson đã chết. Bitburg gọi đến, lần thứ hai, để yêu cầu gởi tin cập nhật về.

— Ba mươi giây nữa là nối được rồi - Viên sĩ quan truyền tin nói.

Morton ấn vào một nút, tất cả tin nhắn trên máy hình hiến mất.

Chiếc Concorde đã chạy hết đường bay. Chiếc máy bay dừng lại một lát, rồi cất mình khỏi đường băng. Khi máy bay rẽ qua phía bắc, trên màn hình hiện ra cảnh phòng Chiến tranh ở Tel Aviv, cảnh phòng chiếm hết cả màn hình.

Nửa tá người ngồi quanh hai bên Karshov. Ngồi sát bên Thủ tướng là vị chỉ huy không lực và vị chỉ huy quân lực. Danny ngồi bên cạnh ông ta. Bitburg ngồi ngay sau lưng Karshov. Đằng sau các thủ trưởng là những phụ tá : những khuôn mặt trẻ, trang nghiêm ; những người biết ghi nhận hôm nay là những người biết quyết định ngày mai.

Mọi người trao nhau lời chào, rồi một trong nhiều camêra đặt cố định trong phòng chiến tranh quay vào Karshov.

— Chúng tôi đã có mặt tất cả rồi đây, David - Thủ tướng nói - Và sẵn sàng nghe anh đây.

Morton chăm chú nhìn vào chiếc máy camêra nhỏ gắn trên màn hình. Camêra sẽ phát hình của ông qua vệ tinh về Tel Aviv.

— Raza đã có một căn cứ bí mật ở Li Bi. Có lẽ chính ở đây mà hắn đã hoạch định toàn bộ công việc hành quân - Ông nói rất bình thường - Hy vọng là hiện giờ hắn có mặt ở đó. Vì thế tôi đề nghị chúng ta hủy căn cứ ấy ngay.

Có nhiều tiếng thở hổn hển trong phòng chiến tranh, rồi tiếp theo là tiếng xì xầm. Cặp mắt của Bitburg ánh lên khi ông ta chồm người tới trước nói gì đó với Karshov. Thủ tướng khoát tay ra dấu cho ông ta im lặng, rồi chồm vai tới trước, ông gượng cười.

— Tấn công Li Bi à ? Lạy Chúa, chắc anh đã nghĩ đến hậu quả rồi chứ ?

— Chỉ có cách ấy mới bắt được Raza và người của hắn - Morton cương quyết nói.

Bitburg chen cái mặt giữa Karshov và vị chỉ huy không lực.

— Xin lỗi nhé - Bitburg nói - Xin lỗi nhé, làm sao mà anh biết được Raza ở đấy ? Cả toàn khu vực này đã được vệ tinh của ta và người Mỹ tìm kiếm lục soát rất kỹ. Không thấy gì hết ngoài một số ít dân Bedouin và lạc đà của họ mà thôi.

— Ngoài ngôi nhà ra, toàn bộ căn cứ đều xây ở dưới cát. Cả vệ tinh cũng chịu. Walter à. Chúng ta đã thấy cảnh này trong chiến tranh vùng Vịnh rồi - Morton đáp.

Vị Chỉ huy trưởng Không lực quay nhìn Bitburg. Ông ta nói :

— Tôi có thể tổ chức một cuộc kiểm soát để bảo đảm chắc chắn có Raza ở đấy hay không ?

— Nếu có hắn ở đấy - Bitburg nói nhanh - Vấn đề là thế, Moeshe à. Liệu có hắn ở đấy không ?

— Chúng ta chỉ biết được khi nào chúng ta vào trong ấy, chắc chắn là thế - Morton nói - Nhưng tôi biết chắc chắn là hắn ở đấy. Cái cách hắn vào ra Athens thì đủ rõ. Li Bi là nơi xuất phát tuyệt diệu để hắn phái con đàn bà ấy đi Trekfontein và cho những tên đánh bom.

— Anh có thể cho tôi biết nguồn tin ở đâu ra chứ, David ? - Bitburg hỏi.

— Tôi sẽ gởi báo cáo cho ông, ông Walter.

— Đừng làm mất thì giờ - Karshov nói lớn - Nếu David không có nguồn tin chắc chắn, thì chúng ta đã không có mặt ở đây.

Trong phòng Chiến tranh, Danny rời mắt khỏi tập giấy ông đang ghi vội vàng, ông nhìn lên, nói :

— Chắc chắn Li Bi là nơi Raza dùng để đặt máy phát thanh.

Karshov nhìn ông, hàm râu đen lởm chởm không che được vết sẹo trên mặt Thủ tướng.

— Thế ta còn gặp phải khó khăn cơ bản. Li Bi. Chúng ta tấn công ông đại tá và chúng ta sẽ bị thế giới văn minh lên án nặng - Karshov nói to - Thế là chúng ta và Raza đều là cá mè một lứa.

Bitburg gật mạnh đầu vừa khi Morton cất tiếng nói :

— Tôi đề nghị chúng ta cho Vị lãnh đạo Tối cao biết chúng ta sắp làm gì, thưa Thủ tướng.

Lần này thì những kỹ thuật gia quanh Morton cũng hồi hộp cùng với các vị ở trong phòng Chiến tranh. Ông nhìn thẳng vào máy camêra. Karshov hỏi :

— Anh muốn tôi gọi đến vị Lãnh đạo Tối Cao để nói chúng ta sẽ dội bom nát một phần sa mạc của ông ta à, David ? Có phải anh có ý kiến như thế không ?

— Ngài không gọi, thưa Thủ tướng. Bạn bè của ông ấy sẽ làm, ở Damascus, ở Algiers và Tunie — Morton đáp - Các đồng minh của chúng ta sẽ thuyết phục họ gọi ông ta...

Đầu của Bitburg chồm ra trước, hơn nữa. Ông ta hỏi : — Đồng minh nào, David ?

— Người Pháp, người Đức. Họ luôn luôn tìm cách để thông thương thẳng với Tripoli. Họ sẽ thấy có lợi trong việc đóng vai trò sứ giả. Tất cả những gì họ nói đều giống nhau đó là Raza đã lẻn vào đất Li Bi mà ông đại tá không biết. Các ngài cứ suy nghĩ đi. Vệ tinh chúng ta không phát hiện được. Các ngài cứ nói với vị lãnh đạo tối cao rằng không ai trách ông ta hết.

Karshov gật đầu. Khi Bitburg định nói nho nhỏ bên tai ông, Thủ tướng xua ông đi. Morton nói tiếp :

— Mọi người rồi sẽ nói với vị Lãnh tụ Tối cao cùng một luận điệu hết, họ sẽ nói rằng không ai mong ông ta dùng lực lượng của mình để chống lại Raza hết, rằng quan điểm của ông ta là không đời nào người Ả Rập lại đi chống người Ả Rập. Nhưng rồi đây cũng là cơ hội để ông ta có được uy thế với các nước Ả Rập khác và với các nước khác trên thế giới, cũng như được xem là người Ả Rập có tầm nhìn xa - Morton mỉm cười - có lẽ rồi Appleton cũng gọi đến ông ta nữa đấy. Bây giờ thì ông này đã hợp tác với chúng ta rồi.

Giọng cười của Karshov vang lên. — Tôi đã nghe anh gọi Tổng thống rồi, David à.

— Cần phải làm thế thôi.

— Tôi cũng nói với ông ta như thế - Karshov dừng lại một lát - Tiến hành được đấy, David. Vị Lãnh đạo Tối cao là một con người cho mình là Trung tâm, là con người thực tiễn, cho nên ông ấy sẽ không cản trở chúng ta đâu. Rồi thế giới sẽ hoan hô ông ta cho mà coi. Cái kiểu như Hitler chống lại chủ nghĩa cộng sản trong những thập niên ba mươi. Một trong những điều kỳ diệu của loài người là khả năng luôn luôn đi tìm cái thiện trong điều ác.

Ông ngừng nói và quay lại. Một người phụ tá vừa đưa một mảnh giấy tới trước cho ông. Đằng sau Morton, vị Sĩ quan Trung Tâm truyền tin đang nghe điện thoại, rồi viết mạnh xuống tập giấy ghi lại lời nhắn. Tờ giấy được chuyển tới tay Thủ tướng, cùng lúc ấy vị sĩ quan Trung tâm truyền tin cũng giúi vào tay Morton tờ giấy ông vừa xé ra khỏi tập giấy. Morton đọc lời trên giấy rồi nhìn lên.

— Anh nghe rồi phải không ? - Karshov hỏi.

— Lacouste vừa nói cho tôi nghe.

— Mẹ kiếp bọn Pháp ! - Karshov hét lên - Bọn Pháp đã quyết định thả bọn "Cảm tử quân". Chúng yêu cầu đi đến Tripoli, và nước Li Bi bằng lòng nhận họ vì lòng nhân đạo. Người Pháp sẽ chở chúng đi, bằng Hàng không Pháp nữa chứ, trên một chiếc 747.

Vị chỉ huy trưởng không lực đã phá tan bầu không khí yên lặng nặng nề trong phòng Chiến tranh.

— Chúng ta không thể ngồi yên để nhìn bọn khủng bố này bay đi như thế được. Trong một tuần thôi là chúng trở lại bờ Tây để tiếp tục tàn sát. Tôi có thể huy động lực lượng không quân của chúng ta để chặn chiếc 747 lại trước khi chúng vào không phận Li Bi.

Morton nhớ ra người chỉ huy trưởng không lực từng là một phi công giỏi. Nhưng không thể nào giao cho ông ta một công việc phức tạp được. Vị chỉ huy trưởng quân lực quay qua Karshov :

— Tốt đấy, chúng ta đem chúng về đây, đưa chúng ra tòa. Bọn chúng đã bị buộc tội rồi mà. Trước đây chúng ta đã từng làm như thế rồi !

Morton hơi nhích người, ông đáp : — Lần ấy chúng ta chỉ ép một chiếc DC.3 khi chúng lọt vào không phận của chúng ta, Sel à. Bây giờ là cả một chiếc 747 của hàng không Pháp bay ngoài Địa Trung Hải. Làm thế chúng ta đã gây chiến với không lực Pháp rồi đấy.

VỊ chỉ huy trưởng quân lực hằn học nhìn vào camêra : — Vậy theo ông thì phải làm gì ?

— Theo tôi cứ để cho chúng đi. Tất cả đều về trại của chúng hết. Chúng ta sẽ thanh toán chúng ở đấy - Morton đáp.

Phòng Chiến tranh im phăng phắc.

— Khi nào ? - Cuối cùng Karshov hỏi.

— Rạng sáng ngày mai.

— Anh cho chúng tôi biết, anh cần gì ? - Thủ tướng hỏi, lần này ông không còn đắn đo nữa.

Morton nói cho ông ta biết vừa khi chiếc Concorde bay vào eo biển Channel của nước Anh. Fuller đã cung cấp chiếc xe tải cho họ. Đi theo xe có thêm một tài xế, và anh chàng kỹ thuật viên ngồi chen với Wolfie và Michelle ở sau xe. Chiếc xe tiếp tục chạy qua các đường phố quanh trạm cảnh sát Paddington Green, ở đây các sĩ quan trong đội chống khủng bố của Scotland Yard đang thẩm vấn Salem Arish.

— Tôi không hiểu tại sao dân tộc các anh lại trường tồn được - Người kỹ thuật viên nói. Anh ta còn trẻ, buộc tóc đuôi ngựa, mặc áo vét tông bằng vải thô, mang kính trắng. Anh ta ngồi trên một cái ghế đẩu gắn cứng vào sàn xe.

— Chúng tôi phải sống còn chứ - Wolfie đáp. Anh ngồi chen giữa hai cái máy dao động ký, hai tay ôm lấy đầu gối.

— Không phải "tất cả” họ đều muốn giết chúng tôi - Michelle nói thêm - Chỉ phần lớn thôi.

Cô ta ngồi tréo chân trên sàn xe, bên cạnh cái hộp đen xù xì để dò tìm những cuộc điện thoại. Trên mặt hộp có nhiều mặt đồng hồ dao động.

— Tôi đã có thời làm ở Hồng Kông - Người kỹ thuật viên nói, mắt anh nhìn vào màn hình máy giám sát gắn chặt vào thành xe - Tôi cũng thấy như thế. Người Ả Rập, người Trung Hoa, họ đều như nhau.

Màn hình xuất hiện vị trí của một số trạm điện thoại công cộng trong khoảng bán kính một dặm cách trạm kiểm soát.

— Con mồi chúng ta săn đuổi có lẽ sắp xuất hiện rồi đấy - người kỹ thuật viên lên tiếng sau một hồi im lặng - Bọn này khi nào cũng thích đi xa một khoảng cách nhà lao hết.

Chiếc xe dừng lại ở một ngã tư, rồi lại tiếp tục chạy từ từ qua các đường phố của Tây Luân Đôn. Trời bắt đầu mưa.

*

**

Trời đang mưa ở Mexico City khi chiếc 737 của hãng hàng không Mexico từ Medelin hạ cánh. Ba mươi phút sau là Raza đã làm xong thủ tục và được đưa đến một ngôi nhà bí mật của tập đoàn buôn lậu, ngôi nhà nhìn xuống công trường Ba Nền Văn Hóa.

Căn nhà thoáng đãng, rộng rãi, chị quản gia và anh giúp việc nhà chào hắn rất lễ phép. Anh ta đưa cho hắn một cặp da :

— Thưa ngài, giấy tờ báo cho ngài đây.

Anh ta dẫn Raza vào phòng khách, còn người quản gia thì mang va li của hắn vào phòng ngủ. Sau đó, chị trở ra với một bình nước cam tươi và một đĩa bánh bích quy socola. Bỗng hắn nhớ lại chuyến tới đây lần vừa qua.

Chị quản gia rót cho hắn một ly nước cam.

— Chị đi đi - Hẳn vẫy tay xua họ đi - Nếu cần tôi sẽ gọi.

Hai người cúi chào rồi lui ra. Hắn uống nước cam và mở tập hồ sơ ra xem. Tờ trên hết là của vị lãnh đạo Hồi giáo, báo cho hắn biết nước Pháp đã đầu hàng. Marcel Bolot, tên môi giới của tập đoàn buôn lậu ở nước Pháp, đã fax từ Paris về, tin các "Cảm tử quân" sẽ về đến Li Bi vào lúc nửa đêm - Lại một lần nữa anh chàng người Corse này chứng tỏ hắn ta nắm được nhiều tin tức khắp nơi.

Nuri điện thoại báo Lila đã đến Sweetmont.

Nadine fax đến báo cáo chị ta không thể nào tiếp xúc được với Faruk Kadumi ở Luân Đôn. Không ai trả lời điện thoại cho chị hết, hay là xác nhận đã nhận được bức fax mà chị đánh đến cho hắn, nhắn hắn khi làm xong việc ở Luân Đôn thì bay sang New York ngay.

Raza cau mày, hắn nhấc điện thoại lên, bấm số Luân Đôn. Hắn để cho điện thoại reng suốt một phút, rồi hạ máy xuống.

*

**

Matti quay đầu chiếc xe du lịch Lincoln vào lối đi để vào khu Sweetmont, còn Lou vẫn mải miết lục lọi đống danh thiếp các doanh nghiệp trong túi xách da. Anh liếc nhìn một tấm.

— Ossie Oakes, đại lý sắt thép - Anh đọc to lên - Anh gặp hắn ta ở đâu đấy ?

— Ở Miami - Matti đáp.

— Anh biết gì về đại diện cho sắt thép mà quen hắn ?

— Không. Nhưng tôi thích âm nhạc là được rồi.

Lou lắc đầu rồi mải miết lục tìm.

Ở phi trường Kennedy, đã có nhiều người trong công ty bảo hiểm điều tra về chiếc xe taxi của Muktar Sayeed. Họ đưa tấm hình của hắn cho cả dãy xe taxi đem để hỏi xem họ có thấy hắn ở phi trường vào hôm hắn chết không. Không ai thấy.

— Còn công ty bảo hiểm vỏ xe thì sao ? - Lou hỏi, vừa lấy ra hai tấm thiệp.

— Hoàn toàn bảo đảm - Matti đáp - Họ đang làm ăn khó khăn mà. Tất nhiên là họ muốn kiểm tra xem hai cái vỏ xe bị nổ.

— Nhưng biết đâu Day Nite không dùng vỏ của họ ?

— Tôi đã kiểm tra rồi. Họ dùng vỏ ấy.

Lou lại lắc đầu. Ba mươi phút sau, họ đến chỗ ngoặt vào khu bất động sản của Harmoos. Hai người đưa thẻ cho người gác cổng, rồi cho xe đến đậu trước mặt nhà.

— Học đòi "Cuốn theo chiều gió" - Lou nói nho nhỏ.

— Có vẻ hắn nhại theo Tòa Nhà Trắng - Matti đáp khi hai người đi đến cánh cửa trước.

— Chắc mọi người đều nghĩ thế - Lou vừa cười đưa tay bấm chuông.

Một cô gái ra mở cửa. Cặp mắt cô ta đen, buồn bã, mệt mỏi, cơ thể nặng nề dưới bộ đồng phục. Matti đã từng thấy những vũ công múa bụng đi cái điệu như thế khi họ giải nghệ.

— Vâng, các ông muốn gì ?

Matti nhận ra giọng của cô ta là giọng Algerie.

— Chúng tôi muốn nói chuyện với ông Harmoos, thưa cô - Anh đáp, vừa chìa ra cho cô ta thấy tấm cạc, nói sơ mục đích đến đây.

Cô hầu ngần ngại : — Ông chủ không có ở nhà.

— Khi nào ông ấy về ? - Lou hỏi.

Từ bên hông nhà, Nuri bước đến hỏi :

— Các ông là ai ?

Hắn cầm khẩu súng máy kè kè trên tay, cái kiểu các "Cảm tử quân" cầm vũ khí. Bỗng hắn dùng tiếng Ả Rập bảo cô hầu đi vào làm việc. Hắn đưa tay ra :

— Cho tôi xem giấy chứng minh của các ông.

Nuri phụ họa theo lời hỏi bằng cách cố tình nhúc nhích khẩu súng trong tay. Hắn lần lượt xem hai cái thẻ.

— Chuyện này yên rồi mà ! - Hắn nói.

— Chúng tôi muốn hỏi vài câu thôi - Matti phân trần , - Vỏ trên xe taxi của ông Sayeed dùng đã lâu chưa, và trước khi dùng có kiểm tra lại không, những câu đại loại như thế mà.

— Chỉ trong vài phút thôi - Lou nói thêm.

Nuri ngần ngại. Harmoos đã nói không được cho phép ai vào nhà hết, khi Ismail và Lila đang ở trong nhà. Nhưng hai người đang ở dưới hầm, trong phòng thí nghiệm tạm thời. Harmoos đi Florida đến ngày kia mới về. Tốt hơn hết là trả lời ngay cho mấy thằng vô thần này cho yên, để chúng khỏi trở lại quấy rầy khi ông ấy về.

— Khẩu súng đẹp quá ! - Matti nói, gật đầu chỉ khẩu súng.

— Tôi thích đi săn. Ở đây có nhiều chuột chũi - Nuri nói vắn tắt.

Hắn lấy súng ra dấu cho hai người bước vào. Matti thấy thái độ của hắn vừa miễn cưỡng vừa giận dữ.

Họ đứng ở tiền sảnh của ngôi nhà. Những cái đầu bằng đồng gắn trên những chân cột bằng đá cẩm thạch và nhiều chiếc lư để trên thảm nhà. Nhiều cánh cửa dẫn đến nhiều nơi khác trong nhà.

— Chúng tôi cần xác minh là những việc xảy ra cho xe ông Sayeed không phải lỗi của nhà sản xuất xe hơi - Matti lên tiếng.

— Một tai nạn thôi - Nuri khinh khỉnh nói - Vào đi.

Hắn để khẩu súng dựa vào một bức tường, rồi dẫn hai người vào phòng làm việc của Rachid Harmoos. Matti nhìn quanh ra vẻ thán phục những bộ sách bọc da đẹp đẽ và những bức tranh treo trên tường.

— Ông Harmoos quả là một nhà sưu tập giỏi - Matti nói, giọng nể phục vô cùng.

— Đúng thế - Nuri lầu bầu trong miệng. Hắn bước đến bàn và lấy ra một tập đựng hồ sơ.

— Báo cáo cho biết chỉ là một tai nạn. Ông Harmoos thích biết rõ ràng mọi việc - Hắn mở tập đựng hồ sơ ra rồi đọc nhanh. Hắn nhìn lên - Cặp vỏ đã thay trước khi xảy ra tai nạn hai tháng. Chúng đã được kiểm tra khi chạy được năm trăm, rồi một ngàn dặm. Chiếc taxi đã được kiểm tra tu bổ kỹ một tuần trước ngày Sayeed chết.

Hắn xếp tập hồ sơ lại. — Một chuyện đáng buồn. Cảnh sát cho biết tất cả yên ổn cả rồi.

Matti vui vẻ gật đầu.

— Chắc là yên ổn cả thôi.

— Cám ơn ông đã giúp đỡ - Lou nói thêm.

Nuri dẫn họ ra khỏi phòng làm việc.

Matti mỉm cười chào một phụ nữ đang đứng trong tiền sảnh.

— Xin chúc bà một ngày tốt đẹp - Anh lễ phép nói. Lila nhìn họ, nhưng không đáp lời.

Cả Matti và Lou đều giữ im lặng cho đến khi hai người đã ra khỏi khuôn viên của Harmoos và đi về phía xa lộ. Cuối cùng Lou cất tiếng nói :

— Tôi muốn phang khẩu súng lên đầu hắn quá !

— Harmoos thường bố trí một toán quân quanh nhà hắn - Matti đáp - Vừa khi thằng đứng canh vào lều là tôi thấy sáu thằng nữa nấp sau hàng cây. Và có lẽ trong nhà cũng có.

Hai người im lặng một lúc lâu. Rồi Lou hỏi : — Anh thấy con mẹ đàn bà ấy ra sao ?

— Tệ mạt ! Như quỷ !

Họ lái qua một chiếc xe tải của Ban Cải Tổ Nhanh đang đậu bên lề đường. Anh tài xế tuồng như đang ngủ gục.

— Trông cô ả giống người Ý hơn là Ả Rập - Lou nói, vừa đưa mắt nhìn chiếc xe tải.

— Nó người Ả Rập đấy, chắc thế. Nhìn cặp mắt thì biết.

Anh với tay lấy điện thoại trên xe.

— Tôi gọi đến chiếc xe tải, miêu tả hình dáng nó cho họ biết.

*

**

— Hắn đến kìa - Người kỹ thuật viên nói với Wolfie và Michelle.

— Tôi thấy hắn rõ rồi - Người tài xế nói lớn lên.

Chiếc xe từ từ chạy qua cổng vào trạm cảnh sát Paddington Green vừa khi Saleem Arish xuất hiện.

Người kỹ thuật viên bận bịu luôn tay, anh kiểm tra các mặt đồng hồ, các núm bật và nối các dây nhợ vào nhau, Anh ta đưa cho Wolfie và Michelle máy nghe có micrô áp vào môi.

— Fuller muốn nói chuyện với anh đấy - Anh ta nói.

— Con mồi đang qua đường - Anh tài xế báo cáo - Hắn đi qua trạm điện thoại thứ nhất.

Giọng của Fuller vang lên :

— Hắn là một thằng thủ dâm ngoan cố. Hắn chỉ nhận hắn có ăn cắp vặt thôi. Nhưng hắn chối về chuyện mấy cái chai. Chúng ta tạm cho hắn ra để theo dõi. Khi xong việc, sẽ trị hắn sau.

— Tốt lắm - Wolfie đồng ý.

— Xem như hắn muốn tìm một xe taxi - Anh tài xế nói.

Michelle chửi thề bằng tiếng Pháp.

— Không, khoan đã. Hắn định đi bộ.

Người kỹ thuật viên nhìn vào màn hình.

— Có một trạm điện thoại ở cuối đường.

Anh tài xế lái xe vượt qua Arish.

Anh kỹ thuật viên bấm nút trên thùng máy, tiếng kêu nho nhỏ phát ra. Wolfie và Michelle nhìn kim đồng hồ chao đảo rồi dừng lại.

Chiếc xe đậu quá trạm điện thoại năm mươi mét. Anh tài xế bước xuống, đi vào một quầy báo. Làm ra vẻ không vội vàng, anh quay lại với một gói thuốc lá.

— Hắn ở trong trạm điện thoại - Anh báo cáo khi vừa bước lại lên xe.

— Tôi bắt được hắn đang quay số - người kỹ thuật viên nói.

Anh bấm vào nút một máy nhận xoay vòng ở trên sàn xe để bên cạnh anh. Cuộn băng bắt đầu quay. Qua máy micrô đeo ở đầu, Wolfie và Michelle nghe những con số Arish đang bấm.

— Gọi cho số 081. Ở khu Harrow - Người kỹ thuật viên nói nho nhỏ trong micrô.

— Không - tám - một - Có tiếng xác nhận vang lên trong núm nghe đeo ở đầu - Bây giờ cứ theo dõi tiếp đi.

Trong một căn phòng trên một trung tâm tuyển mộ quân đội ở Bắc Luân Đôn, nơi đóng bộ chỉ huy của toán kỹ thuật viên trong tổng hành dinh tình báo, nhiều chuyên gia đang lần dò để tìm ra cuộc gọi điện thoại này.

Điên thoại reo vang.

— Xin chào - Một giọng nói nhẹ nhàng cất lên trong máy nghe.

— Có phải Effendi đó không ?

— Saleem, anh ở đâu đấy ?

— Bọn heo đã bắt tôi.

Trong xe cuộn băng im lặng. — Tại sao chúng thả anh ra ?

Có tiếng cười vang lên trong núm nghe : — Vì tôi không nói gì hết.

— Chúng muốn biết cái gì ?

— Biết về mấy cái chai. Tôi phải ra tòa vào sáng mai. Nhưng tôi không nói cho chúng biết gì hết, Effendi...

— Nghe đây. Anh còn nhớ cái địa chỉ tôi đã cho anh chưa ?

— Khu chung cư chứ gì ?

— Đúng. Đến đó đi. Tôi sẽ nói chuyện thêm với anh ở đó.

— Effendi. Tôi không nói gì hết.

— Được rồi. Anh cứ làm như tôi nói đi.

Tiếng điện thoại của Eíĩendi cắt vang to lên trong máy thu băng một tiếng "cách". Sau đó một lát, anh tài xế la lên.

— Hắn đi taxi, theo hướng kia !

Chiếc xe tải lao ra đường, quay ngược lại.

— Ồi, lạy Chúa ! - Anh tài xế hét lên.

Tiếng thắng xe rít lên thật lớn khiến cho Michelle và Wolfie té nhào vào anh kỹ thuật viên. Rồi chiếc xe tải dừng lại, mũi xe chỉ cách chiếc xe tải khác đang trờ tới có mấy phân.

Trong lúc anh tài xế tránh được xe, thì chiếc taxi chở Arish đã biến mất.

*

**

Cơn ho của Mirian đã đánh thức nàng dậy. Toàn thân nàng đau nhừ khi nàng quay qua nhìn chiếc đồng hồ ở bên cạnh giường. Nàng đã cố ngủ gà ngủ gật được hai giờ rồi.

Màn cửa sổ kéo ra khiến cho phòng ngủ tràn ngập ánh sáng, ánh sáng rọi lên tường nhà và soi rõ các đồ đạc trong nhà. Mirian cảm thấy khát nước nhưng lạnh người. Ước chi có Matti ở đây. Khi nàng gọi đến nhà anh, một người đàn ông lạ trả lời điện thoại cho biết anh đã đi khỏi. Nàng để lại tên, và nói nhờ nhắn Matti có việc quan trọng cần nói chuyện gấp.

Nàng muốn nói cho anh biết về việc mổ tử thi của Nancy. Vi rút bệnh than B.C đã hủy hoại hết những cơ quan trong người, nhập vào phổi, vào gan và thận. Mirian chưa hề thấy trường hợp nào như thế này trước đây.

Vị bác sĩ bệnh lý học đã quá kinh hoàng đến nỗi khi ông hút máu của Nancy ra, cái ống hút trật ra khỏi tay, máu đã phun ra thật mạnh vì máy hút đang hoạt động, Mirian quả quyết hai người đã bước lui tránh khỏi ống hút không để máu phun vào người. Tuy nhiên, họ vẫn ngừng công việc lại, ra phòng tẩy rửa, thay áo quần và mặt nạ đeo mặt, rồi lại kỳ cọ rửa ráy bằng hỗn hợp khử mầm gây bệnh lần nữa. Sau khi đã mặc áo quần sát trùng, vị bác sĩ bệnh lý học đã phun thuốc khử mầm gây bệnh quanh khu vực cái bàn mổ.

Mirian đưa tạy lên sờ cổ. Cổ đau, da xù xì. Nàng lảo đảo đi vào phòng tắm. Nàng xem cổ trong gương soi ở phòng tắm. Có một nốt phồng trên cổ.

— Ôi, lạy Chúa Jesus nhân từ ! - Nàng rú lên, lảo đảo trở lại phòng ngủ.

Khi nàng đưa tay nhấc điện thoại, một cơn ho dữ dội phát ra từ lồng ngực nàng, một vết máu dính vào khóe mệng nàng. Nàng qụỵ xuống trên giường, quá đau đớn không để ý đến việc nàng đã để lệch cả điện thoại ra ngoài giá.

*

**

Trong phòng khách ở ngôi nhà chung cư, Faruk Kadumi cứ mải miết nhìn cái máy fax. Hắn đang lo sợ sẽ có sự hãi hùng sắp xảy ra. Mỗi lần cái máy fax reo lên, là lại một lần nó đánh đến một tin khủng khiếp khác. Trước hết là vợ Raza ra lệnh cho hắn bay đến New York sớm chừng nào hay chừng ấy, Hắn tảng lờ như không nhận được lệnh, chỉ vì hắn tin là hiện giờ cái máy fax đang bị theo dõi. Hắn lại càng tin hơn nữa khi cảnh sát đến gõ cứa nhà lần nữa. Từ đó điện thoại reo mãi. Nhưng hắn sợ quá không dám trả lời.

Máy fax lại nhắn tin lần hai ra lệnh cho hắn phải bay qua New York. Hắn được lệnh phải báo cho Nadine biết kế hoạch khởi hành của hắn. Lời nhắn có ký tên "Ahmed". Đấy là bí danh của Raza.

Faruk Kadumi xé vụn tờ giấy rồi nhét vào bồn cầu trong toa lét. Điện thoại reo liên hồi và tiếng reo lại càng làm cho hắn căng thẳng thêm lên.

Máy fax lại hoạt động. Hắn nhìn tờ giấy bắt đầu xuất hiện và ngay khi đứng ở bên kia phòng, hắn vẫn nhận ra nét chữ Ả Rập viết tay rõ ràng. Đợi cho đến khi lời nhắn phát xong, hắn bước tới xé tờ giấy ra khỏi máy.

Faruk Kadumi bắt đầu run lẩy bẩy khi hắn đọc to lời nhắn lên, làm như nhờ thế mà điềm gở sẽ bớt đi.

— Kẻ giao hàng sắp gọi đến thôi - hắn nói nho nhỏ, - và mình sẽ nhân danh đấng Ala mà giao đầy đủ cho hắn. Sau khi mình đã ra khỏi cái xứ thù nghịch này của Chúa rồi, họ sẽ lo liệu hết.

Điện thoại lại reo một lần nữa.

*

**

Đến thành phố, Matti gọi số điện thoại của Marian qua điện thoại trên xe. Đường dây vẫn bận, anh bèn quyết định : — Tôi sẽ dừng lại đấy - Anh nói với Lou.

Mười lăm phút sau, Matti đậu xe ở ngoài khu nhà chung cư trên ngã tư đường thứ Bốn Mươi Mốt và đường thứ ba. Cách mười khu phố, cái Tháp của Bệnb viện Trung tâm thành phố vươn cao lên.

Marian đã đưa cho anh một chìa khóa hai tháng sau ngày họ hẹn hò đi chơi với nhau. Thỉnh thoảng anh đến, hai người nấu ăn tối vào những đêm họ định ngủ với nhau tại nhà.

Mở cửa trước ra, Matti bước vào trong một tiền sảnh nhỏ treo đầy ảnh đen trắng. Ảnh chồng lên nhau đến tận trần nhà.

.....

— Xin lỗi anh, đây là giới hạn của anh rồi.

Cửa phòng C.T.B.N. mở ra, người ta đẩy Mirian vào, rồi cửa đóng lại.

*

**

Điện thoại đã ngừng reo. Nhưng sự im lặng trong nhà lại càng làm tăng sự lo âu bồn chồn cho Faruk Kadumi. Hắn thu xếp hành lý để sẵn trong tiền sảnh, rồi hắn bít thùng thư để cho chẳng có ai dòm ngó đến hành lý của hắn. Thế rồi hắn lấy khẩu súng Browning trên tủ và vặn ống giảm thanh vào. Hắn nhét khẩu súng vào cái bao đeo bên hông, rồi ngồi xuống ghế ở phòng khách để đợi. Chỉ trong vòng mấy phút hắn đã hít hết phần ê te còn lại trong chai. Thế mà vẫn không giúp được gì.

Hắn cố nhớ lại tên Huấn luyện viên bắn súng nhỏ ở trại huấn luyện dã dạy hắn phải nắm súng thật chặt, gồng hai bắp chân lên và luôn luôn nhắm bằng hai con mắt mở to. Thế nhưng anh chàng ấy chưa bao giờ nói một ống giảm thanh đã làm cho phát súng nghe êm như thế nào.

Có tiếng gõ cửa, tiếng gõ nhẹ, rụt rè.

Faruk Kadumi cảm thấy chất ê te đã hết hiệu lực. Hắn đứng dậy, bước ra cửa. Tiếng gõ lại vang lên, lần này tiếp theo tiếng gõ là giọng nói nho nhỏ, khẩn trương :

— Effendi bảo tôi đến đây.

Faruk Kadumi mở cửa. Saleem Arish bước nhanh vào, hắn vội đóng cửa lại. Hắn ngập ngừng đứng lại ở tiền sảnh.

— Effendi đã gọi đến rồi phải không ?

— Không.

— Ông ta chắc sẽ gọi đến - Arish nhìn vào đống hành lý - Ông sắp đi à ?

— Vâng.

Arish thở dài : — Ước gì tôi cũng đi được.

Hắn bước vào phòng khách, nhìn quanh, rồi bước đến cửa sổ.

— Chỗ ở đẹp quá !

Arish quay nhìn lui. Bỗng hắn khựng người kinh ngạc. Faruk Kadumi vẫn đứng ở ngưỡng cửa, hai tay nắm chặt khẩu súng.

— Bước ra khỏi cửa sổ - Faruk Kadumi nói.

Arish mấp máy môi, nhưng hắn không thốt nên lời.

— Bước ! - Faruk Kadumi nói hết sức gay gắt.

— Tại sao vậy ? - Arish rán hỏi - Effendi sẽ làm cho ông..

— Bước !

Arish bèn bước đến phía Faruk Kadumi, hai tay dang ra như van xin. Faruk Kadumi bước lui ra ngoài tiền sảnh. Arish tiến đến, hai mắt nhìn thẳng tới trước. Hắn đứng ở ngưỡng cửa.

— Quay lại ! - Faruk ra lệnh.

— Xin ông, đừng...

— Quay lại !

Arish tuân lệnh.

— Xin ông - Hắn nói nho nhỏ - Tôi có tiền. Nhiều tiền...

Karuk Kadumi tiến đến, kê đầu ống giảm thanh vào gáy của Arish và kéo cò. Một tiếng kêu nho nhỏ phát ra. Arish ngã nhào trên tấm thảm. Hắn nằm yên.

Faruk Kadumi bước ngang qua tử thi, đi vào nhà bếp, để lại khẩu súng vào tủ. Rồi hắn mở cửa tủ lạnh ra. Cả một dãy chai nhỏ nằm ngay ngắn đã đông cứng lại. Đống chai này mà tan ra sẽ đủ sức gây nên mối kinh hoàng đền bù cho nỗi khiếp sợ hắn đã phải chịu đựng từ khi hắn bước chân đến cái xứ của bọn ngoại đạo này. Hắn đóng cửa tủ lạnh lại.

Rồi một lần nữa hắn bước qua xác của Arish, ra ngoài tiền sảnh, lấy hành lý lên. Hắn dừng lại lắng nghe tiếng động bên ngoài, rồi tháo chốt cửa, bước ra. Hắn đóng cửa lại, rồi bước đến thang máy. Một lát sau, hắn ra tới đường, gọi một chiếc taxi đến phi trường Heathrow.
 
Chương 26


Người dịch: Văn Hòa - Kim Thùy

Nhà xuất bản: NXB Thanh Niên

Shared by: CCG -

Ngôi nhà bí mật ở trên đại lộ Foley đã được thay đổi kể từ khi Morton và Shema đến. Hai người từ Mortholt đến trên xe của Fuller.

Nửa tá kỹ thuật viên từ Tòa Đại sứ ở Luân Đôn đã được Morton điều động đến, họ thiết lập một hệ thống liên lạc với Tổng hành dinh của Hải quân Hoa Kỳ ở Ruislip, nằm ở phía tây, liên lạc với bộ chỉ huy Hạm đội Sáu ở Naples, và với Bộ Hải quân ở Washington. Từ khi Wolfie và Michelle trở về, một đường dây liên lạc nữa nối với những kỹ thuật viên ở Bộ Chỉ huy Tình báo ở Bắc Luân Đôn và Tổng hành dinh của họ đóng tại Cheltenham. Một đường dây vô tuyến riêng được thiết lập với tàu sân bay Independence. Chiếc tàu sân bay đang chạy hết tốc lực đến bờ biển Li Bi. Lại còn thiết lập nhiều đường dây liên lạc thường xuyên với Danny ở Tel Aviv, và với căn nhà của Matti.

Không khí hết sức khẩn trương. Mọi người khi đánh giá và kiểm tra tin tức qua điện thoại đều dùng mật mã với nhau. Trong lúc xe đưa mọi người về, Fuller đã hỏi Shema về những tên đánh bom khách sạn. Chị đã nói cho ông ta biết tên tuổi của chúng, miêu tả hình dạng của chúng, và ông đã báo cáo lại cho cơ quan Tình báo ở Yard biết, Bây giờ, trong một góc nhà, ông lại tiếp tục hỏi chị, lần này hỏi về những tên nằm vùng của Raza ở tại Anh.

— Hắn cần một mạng lưới để phân phát vi rút bệnh than B.C - Fuller nói. Giọng ông rất căng thẳng và nóng nảy.

Shema nhìn Morton. Bỗng ông mỉm cười với cả hai người; với Fuller, ông tỏ ra thông cảm cho nỗi căng thẳng của ông ta, còn về Shema, ông như động viên chị để chị tích cực ủng hộ ông.

— Nhiều người trong số này là sinh viên - Chị nói - Họ được tập đoàn tu sĩ trả lương. Hầu hết đều đến học ngôn ngữ.

Fuller liền tạm ngưng hỏi, ông nhấc điện thoại. Ông ra lệnh kiểm tra ngay những trường ngôn ngữ trong vùng có sinh viên Ả Rập học, bất kỳ sinh viên Ả Rập nào. Ông gác máy rồi lại quay qua Shema. Ông hỏi :

— Còn những ngôi nhà bí mật ? Thiết lập ở các chung cư, một phòng trên một cửa hàng phải không ? Hay ở đâu ?

Shema nhíu mày : — Tôi chỉ đến Luân Đôn có một lần.

— Cô ở đâu ?

— Ở Regent Palace.

Fuller tỏ ra thất vọng.

Shema nhắm mắt lại. — Khoan đã. Có một chỗ... tôi nhớ rồi... chỗ ấy ở trên đường ra phi trường. Khi tôi lên đường đi Geneva, tôi đã dừng lại đấy để lấy một phong thư....

Shema mở mắt ra nhìn Morton.

— Tôi xin lỗi. Ông David, Tôi không nhớ được tên đường.

— Có phải con đường chính không ? - Fuller hỏi. Ông ta nhìn Morton - Biết đâu nhờ may mắn ngôi nhà mật ấy còn đấy. - Ông quay qua Shema - Cô nhớ bên trong nhà trông ra sao ? Đồ đạc chẳng hạn ? Giấy dán tường hay màn treo ra sao ?

Shema lắc đầu : — Tôi không nhớ được.

Fuller thở dài.

— Mẹ kiếp, chúng tôi đều trông chờ vào cô cả - Ông ta cất cao giọng - Có hàng trăm ngàn người quanh đây đang sắp chết đấy !

— Tôi đang cố gắng nhớ đây - Shema bình tĩnh nói.

— Vậy hãy cố lên đi ! - Fuller nói nhanh - Có người đang giữ chất độc để biến thành phố này thành một hoang địa đấy. Tôi muốn thộp cổ hắn trước khi hắn hành động.

— Tất cả chúng ta đều muốn cả, Harry à - Morton dịu dàng nói.

Fuller nhướng cặp mắt mệt mỏi nhìn Shema. — Tôi xin lỗi.

— Cô hành động tuyệt lắm, Shema à - Morton nói, Wolfie đang đứng bên cạnh một kỹ thuật viên, đưa tay vẫy ông. Khi Morton bước đến, anh phân trần :

— Người bên Bộ chỉ huy Tình báo đấy. Họ đã tìm ra được số nhà của Effendi. Đấy là một căn nhà ở Harrow - Trên đồi. Họ đã bao vây nhà.

— Không ai đến gần hết nếu không có lệnh tôi - Morton ra lệnh.

Wolfie cười, đáp :

— Tôi đã dặn dò rồi.

Michelle từ nơi một máy hiện hình kê ở phòng khách quay lại nói.

— Cheltenham cho biết có một trong những bức fax đánh vào là từ Li Bi. Một bức khác từ đâu đó giữa Mexico City và Panama. Họ đã thu hẹp khu vực nhận fax ở khoảng giữa Hammersmith và đường Great West.

Morton đã bước nhanh về chỗ Shema. — Có phải con đường Great West không ? Đúng con đường ấy à ?

Shema lại nhắm lại. Sau một hồi lâu, chị mở ra rồi đáp :

— Đúng. Có một khu nhà chung cư. Chúng tôi không đậu xe được. Cho nên tôi phải đi bộ.

— Cô cố gắng nhớ đi - Morton thúc - Cô đi bộ bao xa ? Cô đi qua cái gì ? Nhà hàng ư ? Có một quán rượu à ?

Chị lắc đầu. — Tôi xin lỗi. Đã ba năm rồi.

Morton quay qua Fuller : — Cho nhân viên của anh đến con đường ấy ngay. Vào từng nhà vào từng phòng. Nói với họ đi tìm máy fax, và kiểm tra tất cả các tủ lạnh. Và nếu tìm ra chai nước hoa nào, thì đừng đụng tay vào.

Quay qua Shema, ông nói: — Tôi sẽ đưa cô đến con đường ấy. Khi cô thấy lại, biết đâu cô sẽ nhớ ra.

*

**

Faruk Kadumi thấy dấu hiệu an ninh rất nghiêm ngặt ở khu đưa đón khách ở phi trường. Những cảnh sát vũ trang từng cặp đi tuần tra, người nào cũng bồng súng UZI. Hành lý của hắn đã kiểm tra nên hắn yên tâm. Chưa đầy một giờ nữa là hắn đã đáp máy bay đi Paris. Khi đến đấy rồi, hắn sẽ suy tính kỹ càng hơn, hắn sẽ gọi về Li Bi để tìm hiểu lý do tại sao hắn phải sang Mỹ. Trong lúc ấy, hắn sẽ đến xin phép Sở Di trú . Raza có lần đã nói khi ở trong khu vực xuất phát rồi thì không còn có đường ra nữa, chỉ đợi chuyến bay cất cánh nữa mà thôi.

Faruk Kadumi cứ bước mãi trước một dãy điện thoại dọc theo một bức tường. Hắn cứ nấn ná không muốn gọi cho Effendi. Nhưng cũng phải gọi thôi.

*

**

Nửa giờ trôi qua. Trong thời gian này, ở Tel Aviv, Chantal đã thay chỗ cho Danny. Danny hiện đang bay về Nam, hướng đến Ai Cập trong môt chiếc Hai-12 dẫn đầu. Có mười bốn biệt kích đi theo ông. Bám sát theo sau là năm chiếc trực thăng khác, mỗi chiếc cũng chở từng ấy người.

— Người Ai Cập đã thiết lập một trạm dừng để lấy thêm nhiên liệu ở El Alamein - Chantal nói trên điện thoại - Họ lại còn cung cấp một máy bay chiến đấu hộ tống trên đường đến tàu sân bay Independence.

— Phải cám ơn họ cho đích đáng nhé - Morton nói.

— Đích thân Thủ tướng Karshov đã gọi đến Cairo cám ơn rồi - Chantal nói - Nhưng liệu tám mươi bốn có đủ không ?

— Ở vụ Entebbe, chúng ta có ít người hơn số này mà. Chúng ta cần yếu tố bất ngờ thôi. Tôi cũng sẽ phái thêm quân của Moeshe đến yểm trợ thêm.

Đằng sau ông, một kỹ thuật viên nói gì đó với Wolfie. Bên kia phòng, Fuller đang nói với chiếc xe tuần tra đang chở Shema chạy theo đường Great West.

— Họ đã gọi đến báo cho ông đại tá rồi đấy - Chantal nói tiếp - Sau vài câu la lối ỏm tỏi, ông ta vui vẻ lại rồi. Chắc khi yên hàn vô sự rồi, thế nào Appleton cũng gọi đến cho ông ta để hứa hẹn mời đến Tòa Nhà Trắng đấy.

Morton lầu bầu hỏi : — Mạng lưới kiểm soát vùng Tripoli ra sao rồi, Chantal ?

— Đã xong xuôi một giờ rồi. Đã có một chiếc K.12 của NSA và chiếc Watchboy. Lại còn có sự giúp đỡ của tàu Independence nữa. Ông đại tá có nói chuyện vắn tắt với Raza đấy, chúng tôi đã nghe được.

— David! - Wolfie gọi gấp - Chúng tôi mới phát hiện một chuyện ở Heathrow. Có một cuộc gọi đến nhà của Effendi.

Morton gác điện thoại, bước vội đến Wolfie : — Cái gì thế ?

Wolfie nhìn vào một tập giấy ghi chú - "Hàng đã được bàn giao". Một giọng Ả Rập, đàn ông và có học. Tuổi trung niên.

— Effendi có nói gì không ?

Wolfie cười lớn.

— Không. Nhưng hắn cứ giữ điện thoại và lặp lại lời nhắn "nhận và giao”. Chắc là chúng sẽ gọi lại nữa đấy.

— Chúng có để lộ ra cuộc gọi xuất phát ở đâu tại phi trường không ?

— Ở trạm Hai, bên tầng trệt. Có thể hắn đi từ trạm Một hay trạm Ba đến đây gọi rồi đi lui lại. Hay có thể hắn đi xe chở khách đến trạm Bốn luôn.

Morton lắc đầu.

— Xem hắn có vẻ nôn nóng đây, Wolfĩe. Nghe cái tin thì biết. Tuồng như hắn sợ bị theo dõi. Kẻ như thế này thường muốn đứng gần ở điểm khởi hành lắm. Cho người ra trạm Hai trong vòng ba mươi phút sắp đến được không ?

Michelle gõ thật nhanh lên máy hiện hình VDU. Một bản sao kế hoạch khởi hành các chuyến bay xuất hiện lên màn hình.

— Có hai chuyến bay thuê riêng - Michelle nói.

— Hắn đi các chuyến theo kế hoạch chung - Morton cắt ngang.

— Có một chiếc Lufthansa đi Hamburg, chiếc Iberia đi Barcelona và Malaga, hàng không Tunisie... - Michelle nói tiếp.

— Cho tôi những danh sách hành khách đi máy bay, - Morton nói với Wolfie. Anh đứng sau Michelle nhìn những con số chuyến bay lần lượt xuất hiện trên màn hình - Cho danh sách hành khách đáp chiếc KIM đi Amsterdam, chiếc hàng không Thụy Sĩ đi Geneva và chiếc hàng không Pháp đi Nice và Paris.

Wolfie chưa thi hành liền, vì anh đang bận nghe điện thoại.

Morton nhìn ra cửa. Shema đã về. Chị lắc đầu. Ông cười với chị để che giấu sự thất vọng, rồi quay qua với những người đang bình tĩnh nói chuyện với đối tác của họ ở Israel, Italy, ở Hoa Kỳ và trên tàu Independence.

Hành khách đi chuyến hàng không Pháp 619 đi Paris trải qua thủ tục an ninh lần cuối cùng trước khi máy bay cất cánh, do nhân viên an ninh Chi Đặc biệt phụ trách đang đứng bên cạnh bàn của nhân viên kiểm tra ở phòng chuẩn bi lên tàu. Faruk Kadumi láu lỉnh mỉm cười chào. Người sĩ quan an ninh gật đầu vui vẻ, rồi đưa mắt nhìn người đi sau đó.

Faruk Kadumi ngồi vào chỗ trong phòng đợi.

*

**

Morton đứng bên cạnh máy fax với Shema, nhìn danh sách hành khách đi chuyến hàng không Tunisie hiện ra. Họ lướt nhìn danh sách. Shema lắc đầu. Morton đưa tờ giấy cho một người kỹ thuật viên, ra lệnh anh chuyển về máy vi tính của Finel.

Danh sách khác lại hiện ra.

*

**

Chiếc AF 619 nhích lui khỏi bãi đậu rồi len lỏi qua những con đường nhỏ, cuối cùng ra ngoài phi đạo.

Buộc dây thắt lưng ở chỗ ngồi vào xong, Faruk Kadumi nhìn qua cửa sổ. Hắn cảm thấy máy rú lên, rồi chiếc Airbus chạy nhanh theo phi đạo.

*

**

Chờ đến nửa tờ danh sách di chuyển AF 619 lòi ra khỏi máy, Shema mới nắm lấy tay của Morton lắc lắc:

— Hắn đấy !

Chị đưa tay chỉ tên Faruk Kadumi.

— Hắn là ai thế ?

— Một bác sĩ. Hắn chữa bịnh cho cảm tử quân của Raza.

Morton gọi Fuller.

- Chúng ta có một mục tiêu quan trọng trên chuyến bay đi Paris. Có gọi giữ lại máy bay được không ? Chiếc này của Hàng không Pháp 619.

— Để tôi xem thử - Fuller ngần ngại nói - Nhưng đây là máy bay Pháp, chúng ta phải sang Paris mới được. Có lẽ cũng sắp hạ rồi.

Morton nhấc cái điện thoại gần nhất, ông bấm số : — Pierre phải không ?

— Vâng có gì thế ?

Morton nói cho Lacouste nghe hết tình thế.

Năm mươi lăm phút sau, chiếc AF 619 hạ cánh ở Paris - Orly. Mười phút sau, máy bay đáp bến. Phải mất hơn ba mươi phút nữa, hành lý của Faruk Kadumi hiện ra cho hắn để Hải quan kiểm soát.

Khi hắn bước đến cửa ra, có hai người đàn ông xuất hiện hai bên. Người lớn tuổi, mặc bộ cômlê giản dị, tự giới thiệu :

— Chúng tôi là cảnh sát, thưa ông bác sĩ. Xin vui lòng đi lối này.

Với kinh nghiệm dạn dày, họ lấy hành lý của hắn, rồi hai người hai bên nắm nhẹ lấy cánh tay của hắn.

Chuyên xảy ra không lọt khỏi mắt của một người phụ trách hành lý của khách. Hắn ta đã được lệnh tìm Faruk Kadumi để đưa cho hắn vé đi New York. Người phụ trách hành lý gọi điện cho Marcel Balot ở Marseilles. Anh chàng người Corse này fax đến tòa nhà ở Li Bi. Nadine lại chuyển lời nhắn đến cho ngôi nhà mật của tập đoàn tu sĩ Hồi giáo ở Mexico City.

Khi Raza đã đi rồi, anh chàng giúp việc làm theo lời hắn dặn. Anh ta nhắc lời nhắn đến cho Nuri ở Sweetmont.

Nhận thấy việc Faruk Kadumi bị bắt sẽ có ảnh hưởng rất lớn, Nuri liền fax đến văn phòng của vị lãnh đạo Hồi giáo Muzwaz. Ở đây lại nhắn lời fax đến Balot, ra lệnh cho tên này tìm cách để cứu cho được Faruk Kadumi. Văn phòng chịu chi trả một triệu quan Pháp để thực hiện việc này.

Thời gian trôi qua từ khi hai người phụ trách hành lý gọi cho đến khi đề nghị này đưa ra mất mười lăm phút.

Năm phút sau, chiếc Concorde hiện ra khỏi bầu trời ảm đạm, hạ cánh xuống phi trường Charles de Gaulle với Morton, Wolfie, Michelle và Shema.

Trong suốt chuyến bay ngắn ngủi này, lực lượng của Danny đã báo cho Morton biết họ đã đến El Alamein, và chiếc tàu Independence cũng đã đến vị trí. Cơ quan CIA đã gởi những toán tình báo vào Mexico City và Panama để tìm Raza. Tại Tel Aviv, công việc tìm hiểu cái máy chuyển tiếp đã bắt đầu. Tại Sweetmont, công việc kiểm soát khu bất động sản của Harmoos cũng tiến hành.

Tình trạng Mirian không có gì thay đổi. Khi Matti nói với ông, anh không biết nói sao.

Khi Morton bước ra khỏi ca bin máy bay thì đã thấy Lacouste đang đứng đợi ở dưới chân cầu thang. Ông dặn dò những người kia ở lại trên máy bay để chuẩn bị cho một đêm trường trước mắt. Viên phi công đã thảo xong kế hoạch bay đi Malta.

— Chuyện ra sao rồi ? - Morton vừa hỏi vừa bước xuống sân bay.

Lacouste xòe hai bàn tay.

— Chúng tôi đang giam lỏng hắn.

Hai người bước đến chiếc Citroen đã có tài xế ngồi sẵn.

— Khi nào thì bọn cảm tử quân ra đi ? - Morton hỏi, chiếc xe vọt đi, ra một cánh cổng thuộc địa phận của an ninh.

Lacouste cười chua chát.

— Tám giờ tối nay. Hàng không Pháp đảm trách công việc chuyên chở. Họ sợ người của các ông ra tay, cho nên chúng tôi phải cho một đoàn hộ tống chiếc máy bay.

Chiếc xe ra khỏi phi trường, chạy theo một con đường quanh phi trường. Morton nói :

— Thế vẫn không ngăn được chúng tôi đâu.

Ông nhìn ra cửa. Đã đến giờ xe cộ đông đúc rồi. Người tài xế lấy một ngọn đèn nháy của cảnh sát ở dưới thùng đồng hồ của xe, anh thò tay ra cửa, cắm ngọn đèn vào mui xe. Khi chiếc Citroen chạy vào con đường khẩn cấp, ngọn đèn hiệu màu xanh xoay vòng để giành quyền ưu tiên trên đường.

— Ông bác sĩ tâm thần của anh ra sao ? - Morton hỏi.

— Thì cũng như mọi khi, vẫn là hắn bị kích động quá, cảm xúc bị dồn nén quá.

Lacouste liếc nhìn Morton.

— Ông ta mong có nhiều thì giờ hơn, David à. Khoảng hai ngày trong phòng ấy, ông bác sĩ tâm thần này sẽ gợi cho Kadumi nhớ lại những gì hắn đã quên.

Morton thở dài khi nghe nói vậy. Ông nói : — Chắc chắn là chúng tôi không có thi giờ rồi.

Họ im lặng khi xe chạy trên đoạn đường đến tòa nhà giăng đầy ăngten trời ở vùng phụ cận Paris ở Tournelles, chạy đến bộ chỉ huy của các cơ quan lưu trữ hồ sơ và phản gián. Hầu hết những người làm việc ở đây đều gọi nơi này là Bể Bơi, vì nó nằm gần những hồ bơi công cộng.

Khi họ bước ra khỏi cầu thang dẫn xuống tầng hầm thì vị bác sĩ tâm thần đang đứng đợi. Ông ta cười theo lối Trung Hoa, những nếp nhăn quanh hai khóe mắt hằn sâu rõ nét - Ông ta cúi chào kiểu cách :

— Giáo sư Wang - Ông ta giới thiệu nho nhỏ bằng tiếng Anh khá chỉnh - Tôi rất hân hạnh được gặp ông. Xin ngài theo tôi vào.

Người Trung Hoa quay lại, dẫn họ vào một văn phòng nhỏ, bừa bộn. Trong phòng phảng phất mùi thuốc ; Morton nhìn qua một cánh cửa hé mở, ông thấy một kho thuốc.

— Tài liệu từ Tel Aviv gởi qua có giúp gì cho ông không, thưa giáo sư - Morton hỏi, ông tựa lưng vào tường. Trước khi rời khỏi Luân Đôn, ông đã yêu cầu Chantal thu thập những tài liệu nói về cá tính của bọn khủng bố rồi gởi sang.

Giáo sư Wang thở dài.

— Hắn ta không thuộc vào những loại đó. Hắn lớn tuổi hơn, phức tạp hơn nhiều. Hắn lại là bác sĩ.

Ông ta quay sang bàn làm việc, lấy lên một tập hồ sơ :

— Tôi đã suy nghĩ kỹ và xếp hắn vào loại "nghi ngờ bị điên loạn" vì thấy hắn bị rối loạn cảm xúc.

— Cũng chưa phân biệt được rõ ràng - Lacouste vui vẻ đáp.

Giáo sư trang trọng gật đầu. Ông ta đưa hồ sơ cho Morton, rồi nói nho nhỏ : — Một bác sĩ phẫu thuật... thật đáng buồn.

— Hắn đã lựa chọn mà, thưa giáo sư - Morton nói, ông nhìn vào một vài chi tiết do mật vụ Pháp thu thập về Faruk Kadumi. Ông đưa lại tập Hồ sơ cho ông giáo sư.

— Bao lâu nữa tôi mới được gặp hắn ?

— Ngay bây giờ, nào, mời ông.

Ông giáo sư dẫn họ ra ngoài văn phòng, đi dọc theo hành lang. Đến cuối hành lang, ông ta mở một cánh cửa. Bên trong lại có hai cánh cửa nữa ráp vào tường. Ông ta mở một cánh.

— Đây là phòng "kiểm soát" - Ông ta giải thích, vừa chỉ cái máy lớn cao bằng chiếc bàn kê ở giữa phòng. Một ô vuông để quan sát gắn vào một bức tường - Hắn không thấy hay là không nghe chúng ta được - Ông ta ra dấu cho Morton và Lacouste theo ông ta đến ô vuông.

Bên kia ô vuông là phòng giam, Faruk Kadnmi quấn một cái chăn quanh vai cho khỏi lạnh.

— Việc kiểm soát những hiện tượng kích thích lên cơ thể là rất quan trọng - Ông giáo sư nói tiếp - Sự thay đổi nhiệt độ làm suy yếu sức đề kháng đi. Ngay bây giờ chắc hắn cảm thấy như đang ở trong tủ lạnh. Các ông nhìn kìa.

Ông giáo sư quay lui, bước đến cái tủ máy. Ông ta bấm nhiều nút rồi kiểm tra kim chỉ trên các mặt đồng hồ. Vừa ý rồi, ông ta bước đến đứng với Morton và Lacouste.

Và họ thấy hơi thở Faruk Kadumi hổn hển bốc hơi khi hắn loạng choạng bước đến cửa phòng giam và đưa hai tay đấm vào cánh cửa sắt lạnh ngắt, hắn rên rỉ xin được thả ra. Thế rồi, quấn chặt người trong tấm chăn, hắn lăn xuống tấm nệm, người run lên và thổn thức khóc.

Có tiếng chuông báo động reo lên nơi thùng máy. Giáo sư Wang đến chỉnh lại cho nhiệt độ được mát. Rồi ông ta nói : — Nào, chúng ta đợi ở văn phòng của tôi. Không lâu đâu.

*

**

Trong phòng giam, khí lạnh được thay thế bằng hơi nóng như lò lửa không chịu được. Mồ hôi ướt đẫm cả người Faruk Fadumi. Hơi nóng như toát ra từ trong tường và nền nhà, môi và cuống họng khô khốc. Phòng giam trở nên tối hơn, chỉ một ngọn đèn nhỏ trên trần nhà tỏa ánh sáng mờ mờ mà thôi.

Có cái gì đang xảy ra trên đầu hắn ; tiếng kêu vo ve khắp phòng giam ? Faruk Kadumi sợ sệt nhìn lên ánh sáng lờ mờ. Trên trần nhà có những lỗ mở ra. Rồi bỗng ánh sáng chói chang chiếu vào đầu hắn, làm cho đầu nóng ran. Hắn cảm thấy hai mi mắt khô cứng lại. Rồi ánh sáng chói chang kinh khủng ấy tắt đi thình lình như khi nó sáng lên.

Trong ánh sáng lờ mờ, cơn nóng lại càng lúc càng tăng lên.

*

**

Khi điện thoại trong văn phòng reo lên, mọi người đều im lặng. Ông giáo sư nghe điện thoại rồi đưa cho Lacouste. Vừa nghe, mặt ông ta sa sầm lại.

— Plastích à ? - Ông hỏi - Bao nhiêu ? - Ông ta để điện thoại xuống.

— Chúng bắt đầu lại. Mấy quả bom nhỏ nổ ở Cảng nhỏ và điện St. Michel - ông ta vui mừng nói tiếp - Lạy Chúa, không ai chết hết. Lần này chắc chúng chỉ cảnh cáo thôi.

— Có lẽ để lưu ý chính phủ của anh đừng đổi ý đây, Pierre à.

— Họ đã chuyển bọn cảm tử quân ra phi trường rồi . - Lacouste nói.

Vị giáo sư đưa tay xem đồng hồ.

— Hắn sẵn sàng được rồi đấy - Ông ta nói, giọng nhẹ nhàng khiến cho Morton nhớ đến một người làm nghề tống táng ông đã gặp ở Hồng Kông.

Ông nói với ông giáo sư những gì ông cần đến.

— Tôi cần hai người đàn ông lực lưỡng - Morton nói với Lacouste.

Trong lúc ông giáo sư đi vào phòng thuốc. Lacouste gọi điện thoại. Trong khi đứng đợi, Morton đọc lại hồ sơ của Faruk Kadumi. Khi hai thám tử lực lưỡng đến, Morton dặn dò họ công việc. Lặng lẽ, ông dẫn họ ra khỏi văn phòng.

Sau khi đến phòng kiểm soát để chỉnh lại ánh sáng bình thường ở trong phòng giam, ông giáo sư mở cửa.

Khi Morton và những người khác bước vào, một làn không khí lạnh phả vào người họ. Họ đứng hàng dọc theo một bức tường, không nói năng gì, chỉ nhìn vào con người áo quần xốc xếch, tóc tai bờm xờm tội nghiệp đang nằm trên tấm nệm.

— Xin chào bác sĩ Kadumi - Morton nói bằng tiếng Ả Rập, ông bước tới trước - Ông biết tại sao ông ở đây không ?

Faruk Kadumi nhìn ông kinh ngạc vô cùng. Hắn hỏi: — Ông biết tôi à ?

Morton gật đầu đáp :

— Tôi biết hết về ông. Effendi nói cho tôi biết. Tôi biết chuyện về ông với Arish.

Faruk Kadumi mải nhìn ông, mồm há hốc.

— Ông là ai ?

Lại một lần nữa Morton tảng lờ như không nghe.

— Tôi biết về những chai nước hoa - Ông nói tiếp bằng giọng đều đều, chắc nịch, như là ông đang kể lại những gi đã rành rành ra đấy rồi - Raza đã thất bại rồi - ông nói tiếp - Ông cũng thất bại rồi.

Morton bước đến gần hơn, tính toán khoảng cách giữa sự chế ngự và sự đe dọa.

— Tôi không biết ông đang nói gì - Faruk Kadumi nói, hắn cố ngồi dậy.

— Ông biết chứ! Tôi đã biết về những bức fax của ông. Về những gì đã xảy ra cho cô gái ở Athens. Và Lila nữa - Morton lại nói - Ông đã bị nhiều người phản bội rồi.

— Không ! - Faruk Kadumi hét toáng lên trong phòng giam - Không ! Ông nói láo ! ông là một tên Do Thái ! Một tên phục quốc Do Thái gớm ghiếc đang cố bẫy tôi !

Morton nhìn hắn một cách lạnh nhạt.

— Ông có trả lời tôi không ?

— Không ! Không bao giờ !

— Được rồi.

Morton quay lại những người khác rồi gật đầu. Hai thám tử bước đến, bẻ quặt tay Faruk Kadumi đè xuống nệm. Vị giáo sư lấy trong túi ra một ống kim tiêm và một cái chai nhỏ, nút chai đóng rất kỹ lưỡng. Ông ta lấy cái nắp đậy kim ra rồi chích kim qua nút vào trong chai, hút ra một lượng chất lỏng trong veo.

— Chúng tôi đã tìm ra cái này ở Athens - Morton nói với Faruk Kadumi - Trong này còn đủ vi rút bệnh than B.C. để giết hàng trăm người. Ông sẽ được chích thứ này vào người và để cho chết ở đây.

Vị giáo sư bước đến bên giường cầm ống tiêm dốc đứng lên như thể không muốn để mất giọt nào hết.

— Không ! - Faruk Kadumi la lên, cố vùng khỏi tay hai thám tử. Họ đè đầu hắn xuống nệm, quay mặt lên để nhìn thẳng Morton.

Bỗng trong phòng có mùi nước tiểu xông lên vì Faruk Kadumi không kiềm chế được, đã tè ra quần.

Morton cúi người xuống bên giường. — Bác sĩ Kadumi, tôi phải thông báo cho ông biết một số sự thực - Morton nói bằng giọng có vẻ buồn và thương xót. - Không ai biết ông ở đây hết. Ông vừa biến khỏi mọi người. Không ai có thể ngăn được những gì sẽ xảy đến cho ông được hết.

Morton cứ cúi người như thế một hồi lâu, nhìn sát vào mặt Faruk Kadumi làm như ông muốn nhìn kỹ cho nhớ.

Vị giáo sư đứng sau lưng ông, ống tiêm sẵn sàng.

— Chích đi - Morton bỗng đột ngột nói, ngẩng người lên một cách nhanh nhẹn, cương quyết.

— Không ! Các ông muốn biết cái gì ? - Faruk Kadumi la lên - Làm ơn, đừng làm thế ! Làm ơn, ôi, xin đừng...

Hắn bèn khóc nức nở. Những người khác lặng lẽ nhìn nhau, rồi nhìn Morton. Hắn hậm hực nhìn xuống giường.

— Nói sự thực đi, bác sĩ Kadumi - Morton nhẹ nhàng nói - Tôi muốn biết sự thực - Ông có hiểu không ?

Sau một hồi, hắn ngừng khóc, rồi hắn nhẹ gật đầu.

— Thế là rất tốt. Ở Luân Đôn, ông ở đâu ? - Morton hỏi.

Khi nghe xong, Lacouste bước ra ngoài phòng, gọi cho Fuller.

*

**

Họ trải qua với nhau suốt một giờ. Chỉ có dừng lại để cho các thám tử theo Faruk Kadumi vào toa lét, trong toa lét họ canh chừng hắn thay quần lót do ông giáo sư lén đưa cho. Ông giáo sư cũng chỉnh lại nhiệt độ trong phòng giam để cho mọi người được dễ chịu hơn. Sau đó, ông bác sĩ tâm thần đem đổ nước cất ở trong ống tiêm đi.

Faruk Kadumi đành nghiến răng chấp nhận thôi. Con người này đã biết hết rồi. Anh ta biết hết. Cứ nghe cái giọng nói tàn nhẫn, tự tin như thế kia thì đủ biết rồi.

Để cho nhanh, Morton gật đầu ra dấu cho hai anh thám tử và ông giáo sư ra khỏi phòng giam. Ông nghe tiếng bước chân đi lui đi tới bồn chồn ở bên ngoài cánh cửa mở rộng.

Lần lượt nêu ra những câu hỏi mạch lạc, ông đã nhanh chóng khám phá ra đầy đủ chi tiết về vi rút bệnh than B.C đã được chuẩn bị ra sao và ở đâu. Ông bảo Faruk Kadumi miêu tả bên trong cái pháo đài dưới cát và việc liên lạc giữa hầm này với ngôi nhà. Ông lấy làm hài lòng khi thấy việc miêu tả của hắn giống với việc miêu tả của Shema. Ông bảo Faruk nói đầy đủ thời gian hắn ở Luân Đôn cho đến lúc hắn bắn chết Arish.

— Tôi phải giết hắn - Faruk Kadumi nói nho nhỏ.

Morton gật đầu. Không cần nữa rồi. Bây giờ thì khỏi cần.

— Bọn đến lấy hàng là ai thế ?

— Tôi không biết.

Một lần nữa, Morton quay lại chuyện những chai nước hoa.

— Anh chuẩn bị được bao nhiêu chai ở Li Bi.

— Một trăm.

— Và mấy cô gái Hy Lạp mang hết đi Athens à ?

— Vâng. Chỉ trừ một chai Lila đem đi Trekfontein.

— Chất lượng chai ấy cũng như những chai khác à ?

Faruk Kadumi gật đầu.

Morton dừng lại, tính toán. Một chai ở Nam Phi, ba chai ở nước Anh, ít ra là một chai ở Hoa Kỳ. Thế là còn đến chín mươi lăm chai chưa tính đến. Bao nhiêu chai bị hủy trong vụ cháy xe dầu ? Dựa trên những thiệt hại xảy ra ở Trekfontein, số vi rút bệnh than còn lại sẽ tiêu diệt cũng gần như triệu người là ít.

— Anh sẽ nhận thêm bao nhiêu chai nữa ?

— Tôi chưa biết.

— Còn các mục tiêu để rải ở đâu ?

Faruk Kadumi lại lắc đầu : — Tôi không được họ cho biết.

Morton nhìn ra cửa. Lacouste đến rồi lại đi.

— Tại sao anh lại đi Hoa Kỳ ?

— Họ cũng chưa cho tôi biết.

— Có phải anh sẽ đến Sweetmont không ?

Faruk Kadumi mệt mỏi nhìn ông, hắn hỏi : — Ở đâu ?

Morton bước tới gần hắn :

— Rachie Harmoos. Anh đã nghe nói về hắn chưa ?

Faruk Kadumi lại lắc đầu.

— Dĩ nhiên là tôi biết hắn. Nhưng tôi không biết hắn có dính dáng gì đến chuyện này không.

— Còn tên Lãnh đạo Hồi giáo Muzwaz thì sao ? Hắn ta chỉ chi tiền thôi sao ?

— Tôi không biết.

Morton nhìn hắn chằm chằm. Faruk Kadumi đã nói sự thật đấy. Cho nên ông đã cố che giấu sự thất vọng của mình.

— David - Lacouste trở lại trước cửa, vẫy tay ra dấu.

Ông ta giận tái mặt, tay cầm một tờ giấy. Khi Morton bước ra cửa gặp ông ta, Lacouste nói nho nhỏ, giọng bực tức :

— Ngưng lại ngay !

— Cái gì thế ?

— Hắn được thả rồi. Nhìn đây xem ! - Ông ta nhìn tờ giấy ra cho Morton xem - Lệnh thả do chính Bộ trưởng Tư pháp ký.

Morton nhìn tờ giấy.

— Tại sao thế này, Pierre ? - Ông trả tờ giấy lệnh cho Lacouste.

— Có điện thoại gọi đến văn phòng Tổng thống cho biết nếu không thả hắn ra, bom sẽ nổ nhiều nơi. Tổng thống vội vã ra lệnh cho hắn đi với bọn cảm tử quân luôn. Đã có xe đến đón hắn.

Lacouste nhìn về phía hai thám tử. Ông ta ra lệnh cho họ áp tải Faruk Kadumi ra phi trường Charles de Gaulle. Ông ta quay qua Morton :

— Xin lỗi, David. Tôi chỉ hy vọng ông đã có thì giờ thu thập được nhiều điều rồi. Thực tôi không xấu hổ về chuyện này.

Morton nhìn ông ta, đáp : — Đừng trách mình thế, Pierre.

*

**

Chín mươi phút sau, Morton và Shema ngồi chồm hổm trước một chiếc xe tải cảnh sát đậu bên trong hàng rào cảnh sát dày đặc bao quanh chiếc 747 của hàng không Pháp đang đậu trên sân bay Charles de Gaulle. Khi trên đường ra phi trường, Morton đã dừng lại một lát tại nhà hàng chuyên môn bán hàng đặc biệt do Lacouste báo trước rồi.

— Hãy nhớ từng đứa - Morton nói, khi nhóm cảm tử quân bước ra khỏi ôtô để bước lên cầu thang máy bay. Trước khi vào trong máy bay mỗi đứa đều giơ tay chào theo quy cách của chúng. Chỉ có Faruk Kadumi vội vã bước lên máy bay mà chẳng có ai thèm hoan hô chào đón.

Khi chiếc máy bay chuyển bánh, Morton hướng dẫn người tài xế xe tải lái họ sang tận cuối phi trường, qua khỏi một hàng rào an ninh-nữa, để đến chiếc Concorde đang đợi họ.

Sau khi đã lên máy bay, Morton đưa cho Shema một cặp dao phóng mà ông đã mua nơi cửa hàng.
 
Chương 27


Người dịch: Văn Hòa - Kim Thùy

Nhà xuất bản: NXB Thanh Niên

Shared by: CCG -

Khi chiếc Concorde bay qua vùng kiểm soát không lưu của Genoa và chuyển hướng đông để bay về phía Malta, thì khuôn mặt của Fuller hiện ra trên màn hình ở Trung tâm truyền tin của máy bay. Ông ta đang từ phòng Hành quân của Scotland Yard gọi đến. Morton chưa bao giờ thấy Fuller có vẻ bơ phờ mệt mỏi như thế. Và cũng chưa hề thấy vẻ mặt ông ta rạng rỡ vì chiến thắng như thế.

— Chúng tôi đã thộp hết cả bọn chúng rồi, David à. Cả thảy hai mươi bảy đồ nhóc con vô lại. Sinh viên cả, hầu hết đều là con gái - Fuller nói - Chúng đều có chìa khóa phòng của Kadumi. Trước khi tên đầu tiên bước vào, chúng tôi đã chuyển hết chai lọ trong tủ lạnh về Porton Down rồi. Những khoa học gia ở đây cho biết rằng ngay khi vi rút bệnh than này pha loãng ra rồi cũng đủ gây chết người nữa. Chúng tôi đã thay vào đấy các chai của chúng tôi và mọi việc xảy ra như dự kiến.

Thỉnh thoảng giọng Fuller nghe rất trẻ trung.

— Bọn đến lấy hàng, đứa nào lấy phần nấy trong tủ lạnh rồi đi ra. Chúng tôi để cho chúng ra khỏi chỗ ấy an toàn rồi bắt quả tang ngay, và chúng tôi tóm gọn hết khi tủ lạnh vừa hết. Nhân viên làm công việc khử nhiễm hiện đang làm việc ở đây.

Morton nghe Shema thở dài nhẹ nhõm ở sau lưng ông và nghe giọng Wolfie báo cáo cho Chantal ở Tel Aviv, đồng thời nghe tiếng Michelle tường trình lại cho Matti ở New York biết chuyện Fuller vừa nói.

— Bọn đến lấy hàng có khai gì không ? - Morton hỏi.

— Có đứa khai. Chúng rất hãnh diện về công việc chúng được giao phó. Quả chúng là những tên lãnh đạo Hồi giáo tí hon, có đứa rất là căm hờn. Ông cứ nhớ là chúng tôi bắt bọn này, thì lại có nhiều đứa khác đang chờ sẵn để thay chân chúng.

— Chúng có khai những mục tiêu chúng sẽ tấn công không ?

— Những bể chứa nước và những trạm bơm nước. Khu xe điện ngầm Luân Đôn và khu thị trường chứng khoán. Những khu sầm uất trong vùng. Những khu ấy gây chết chóc thật nhiều người.

— Còn Effendi ? - Morton hỏi.

Fuller gật mạnh đầu :

— Đúng là một "anh hùng” ! Khi chúng tôi bắt hắn, nói cho hắn biết chúng tôi sẽ buộc tội hắn vì tổ chức vụ này, kể cả âm mưu giết Saleem Arish, thì hắn đã kiếm cách chuộc tội. Hắn muốn đoái công chuộc tội và tất nhiên là chúng tôi thỏa thuận liền. Hiện giờ Percy West cùng ban đang hứa cho hắn một lối thoát là cho đến ở một nơi nào hắn chọn. Khi chúng tôi thẩm vấn hắn thì té ra ông Effendi của chúng ta không ai khác hơn là kẻ đầu trộm đuôi cướp.

— Hắn có nói gì về Harmoos không ? - Morton hỏi.

— Nói đầy đủ hết. Harmoos làm kinh tài cho Raza. Nhân viên của Percy đã tìm được nhiều tài liệu quan trọng trong nhà của Effendi. Những vụ chuyển ngân từ Columbia sang Thụy Sĩ. Những số tiền khổng lồ nằm khắp châu Âu. Bằng chứng rõ rệt nhất là mối liên hệ buôn bán ma túy giữa Raza và Harmoos.

— Đợi một chút nhé, Harry.

Morton quay qua vị sĩ quan Trung tâm Truyền tin :

— Nối đường dây với Bill Gates ở Washington giúp tôi, - nói xong, ông quay lại màn hình. — Nói tiếp đi, Harry.

— Chúng tôi lại lần lui theo dấu vết để tìm ra một danh sách gồm những ngôi nhà bí mật chất đầy vũ khí và chất nổ trong nước và ở châu Âu. Cả một mạng lưới khủng bố kinh hoàng. Chúng tôi đã báo động cho người Đức, người Hà Lan và Bỉ lùng sục khắp nơi. Tuồng như bất kỳ nước nào giữa hai nước Thụy Điển và Tây Ban Nha đều cũng đã bị chúng cài vào hết.

Trên màn hình kế bên, mặt của Gates hiện ra.

— Công việc tốt đẹp chứ, Harry - Morton hỏi.

— May mắn, David à.

Morton nhìn màn hình ở Luân Đôn vụt đen, rồi quay qua nhìn hình ảnh của Washington. Ông kể cho Gates nghe những gì Fuller đã nói.

— Thế là quá đủ cho tôi tuyên chiến với Harmoos rồi, - Giọng của Gates thật cương quyết - Với bằng chứng như thế này, tôi sẽ không cần lệnh của Viện Giám sát nữa. Tôi có thể kết hợp bằng chứng của các lực lượng FBI và DEA cùng dựa trên các bằng chứng của cảnh sát địa phương để phá hết tất cả những gì của Harmoos có trên đất nước này.

— Bill, tôi không muốn ông làm như thế - Morton vội nói - Tôi không muốn ông làm gì hết.

Nét mặt Gates đanh lại :

— Anh nói cái quái gì lạ thế, David ?

— Chúng ta không biết rõ hiện có bao nhiêu chai lọt vào Hoa Kỳ hết, Bill à - Morton nhìn màn hình nói rất nghiêm trang. - Nếu ông đồng thời cho mở các cuộc hành quân liền, thì không bảo đảm chúng ta đủ sức hành động thật nhanh kịp để thu những chai ấy. Các lực lượng chắc sẽ phối hợp tốt đấy, nhưng trước khi ra tay, chúng ta phải xác định chính xác các chai ấy nằm ở đâu đã.

— Còn về Harmoos ?

— Khoan động đến gã.

Morton nhìn khuôn mặt trong màn hình đang chằm chằm nhìn ra.

— Tôi thấy không hài lòng khi để yên cho hắn như thế.

Morton nhìn Gates đưa lưng bàn tay đầy lông lá lên chùi mặt.

— Tin tôi đi, Bill.

Gates bỗng nở nụ cười thật bất ngờ.

— Trong ý nghĩ của tôi, ông vẫn là người duy nhất tôi hoàn toàn tin tưởng, David à.

Suốt bốn mươi phút sau đó, Morton ngồi ngủ trong ghế say sưa. Quanh ông, các kỹ thuật viên mải miết liên lạc với Tel Aviv và tàu Independence.

Khi chiếc Concorde vào không phận Malta, tàu sân bay gởi tin cho biết đoàn trực thăng của Danny đã đến tàu bình an vô sự.

Liền sau đó, chiếc máy bay vờn thấp xuống trên đỉnh núi đá Dingli, rồi chiếu rợp bóng trên cung điện Mùa Hè của ngài chánh án tòa Dị giáo cũ trước khi hạ xuống Luqa. Chiếc Concorde dừng lại sát bên một chiếc trực thăng Jet Ranger của Hải quân Hoa Kỳ.

Morton mở mắt ra, đứng dậy, vươn vai. Ông cảm thấy hoàn toàn khỏe khoắn trong người.

— Cắt hết, chỉ nối đường dây liên lạc với tàu Independence mà thôi - Ông ra lệnh cho viên sĩ quan Truyền tin. Khi ông rời máy bay, Morton nói với phi công trưởng lo chuẩn bị một kế hoạch bay đến phi trường Kennedy. Rồi ông dẫn Wolfie, Michelle và Shema lên chiếc Jet Ranger.

Chiếc trực thăng cất cánh trong trời đêm ấm áp, bay về hướng nam. Trời tối thui tối mò, chỉ trừ những vệt trắng trên mặt nước mà thôi. Một giờ sau, chiếc Independence nhô cao trên mặt biển như một ngọn núi đá.

Khi máy bay trực thăng của họ đáp xuống đuôi tàu, chiếc đuôi tàu xòe ra như đuôi chim bồ câu, thì đèn trên tàu tắt hết. Máy bay chạy trên sân bay, đến đậu gần những chiếc trực thăng của Danny đang đậu.

Khi bước ra khỏi chiếc Jet Ranger, Morton có cảm giác chiếc Independence đang sẵn sàng chiến đấu. Cố gượng người vì con tàu đang lắc lư khi lướt nhanh trên sóng lớn, ông đưa mắt nhìn bầu trời. Trời đen kịt, không có một vì sao.

Một viên sĩ quan trẻ tuổi mặc đồng phục trắng chạy đến, chào ông. Anh ta mang khăn quàng và mang nhiều cái nữa trên tay.

— Thưa, ngài là đại tá Morton ?

Morton gật đầu.

— Thiếu tá Nagier và lính của ông đang ở trong rạp chiếu bóng, chúng tôi đang dùng nơi này làm phòng báo cáo. Báo cáo cho hai ngàn hai trăm người. Họ mời ngài đến phòng quan sát. - Anh ta đưa ra những cái khăn quàng.

Trung tâm kiểm soát không lưu của tàu sân bay là trung tâm hành quân rất căng thẳng về đêm. Trung tâm này đã từng hoạt động trong chiến tranh vùng Vịnh, đã phái từng đoàn máy bay của tàu Independence đi tấn công Irắc.

Khi họ đang vội vã đi trên sàn bay thì bỗng có tiếng gầm rú của động cơ máy bay đang cất cánh đi hoạt động, tiếng gầm rú gây chấn động cả bầu trời đêm.

Ngài đã thấy cảnh như thế này chưa ? - Viên sĩ quan hỏi.

— Chỉ thấy trên phim - Morton cười đáp.

— Không giống nhau đâu - Viên sĩ quan nói - Tốt hơn hết là xin quý vị quàng khăn vào.

Họ vội vã bước vào tòa tháp cao bảy tầng trên mặt sân bay. Trên góc sân bay lóe lên tia lửa do nhiên liệu cháy. Rồi tiếng gầm rú vang lên khi máy bay cất cánh.

Từ đâu đó dưới chân, Morton nghe như có tiếng động của hai cái van khổng lồ thình lình mở ra. Rồi tiếng hơi xì ra thật mạnh đập vào những píttông của bệ phóng. Một máy bay ném bom Tomcat F.14 vút lên trong không trung, xé tan không khí, đàng sau phun ra một đuôi lửa.

Một lát sau, lại có tiếng một phi cơ khác phóng lên.

*

**

Từ cửa sổ của văn phòng Raza, Nadine nhìn toán cảm tử quân được trả tự do đang đến bằng xe bus, họ đã đi trên đoạn đường dài một trăm năm mươi dặm đường chim bay. Họ mệt mỏi nhưng tươi cười và được chào đón như những vị anh hùng. Ngay cả những huấn luyện viên khó tính nhất cũng đã ôm choàng lấy họ, và nhiều nữ nhân viên trong trại cũng hôn họ.

Cùng đi với các cảm tử quân là một viên chức của Nhà nước, người đã làm cho Raza giận dữ vô cùng. Trong khi cảm tử quân phân tán đi về trại để nghỉ ngơi, thì người viên chức này đi đến tòa vila. Nadine ra gặp ông ta ngoài cửa.

— Ông đã thu xếp cho ông ấy sang Mỹ rồi chứ ? - Chị hỏi, viên chức ấy gật đầu.

— Anh ấy sẽ đến đấy vào sáng mai.

Có gì đó trong con người này khiến cho chị không ưa. Có lẽ vì nụ cười chiếu cố của ông ta, hay là cách ông ta chùi hai tay với nhau, một động tác kỳ rửa lạ lùng, làm như ông ta đang giữ bí mật chuyện gì đó hay là phạm lỗi gì đó.

— Có gì nữa không ?

— Tôi báo cho cô biết là những người này chỉ được ở lại đây trong hai mươi bốn giờ thôi - Nhà ngoại giao nói với vẻ thích thú ra mặt - Chúng tôi không thể để cho thế giới bực tức khi biết họ ở lâu tại đây.

Nadine nhìn ông ta với vẻ thù hằn. — Chúng tôi sẽ nhớ lời dặn của ông - Chị lạnh lùng nói.

Ông ta quay gót bước về chiếc xe bus. Bỗng ông ta tự hỏi không biết nếu ông nói cho chị biết sự thực thì chị ta sẽ làm cái gì nhỉ ? Nhưng ngài Lãnh tụ Tối cao đã đích thân ra lệnh cho ông không được báo cho chị biết. Sau rốt thì một nhóm khủng bố bị hy sinh khi đã được đắn đo suy tính, không chịu nghe theo lời hứa của Appleton đã đưa ra, lời hứa là ông đại tá sẽ không còn là người hạ đẳng nữa, mà sẽ thành khách quý của Washington.

Sau khi chiếc xe bus đã chạy rồi, Nadine đến phòng truyền tin. Trên chiếc bàn kê bên cạnh thùng máy phóng thanh có bộ băng mà Raza đã thu với chị trước khi đi khỏi trại. Theo lời đã hướng dẫn rõ ràng của hắn, chị bèn hoạt hóa những máy phát chuyển tiếp mà hắn đã thiết lập ở châu Phi và châu Á. Sau đó, chị báo cho Nuri biết Faruk Kadumi đang trên đường đến New York.

*

**

Trong phòng quan sát, người sĩ quan không hành ngưng báo cáo để nhìn vào một trong hai màn hình của máy giám sát. Hai máy đã cung cấp liên tục những hình ảnh bằng tia hồng ngoại do nhiều máy camêra được thiết lập quanh sàn bay cung cấp. Trong phòng quan sát ánh sáng duy nhất là do ánh sáng đỏ mờ trong màn hình máy giám sát chiếu ra.

Trên màn hình hiện ra một chiếc xe cẩu đang kéo một chiếc máy bay mang tên lửa A6 ra sân bay đến khu vực cất cánh ở gần bệ phóng nằm bên mũi tàu. Những lính thủy xúm đến, kẻ chêm người chặn cho chiếc máy bay được an toàn. Chiếc xe kéo được tháo móc ra, chạy đi kéo chiếc máy bay khác.

Một sĩ quan hải quân, mang máy điện thoại trên đầu, ghi lên tấm bảng mi ca choán hết cả một bức tường số máy bay ra sàn bay.

Viên sĩ quan không hành quay qua Morton, nói :

— Ngoài lực lượng của ngài ra, chúng tôi huy động hai lực lượng của chúng tôi là phi đội máy bay ném bom Tomcat và hai phi đội máy bay mang tên lửa F.18, thêm loạt A6 để yểm trợ nữa. Hy vọng khi tất cả đều cất cánh thì sẽ không còn lại gì nữa.

Trên màn hình máy giám sát, một chiếc máy bay mang tên lửa khác lại xuất hiện trên sàn, lấy nhiên liệu và trang bị vũ khí. Morton thấy từng chùm bom gắn vào dưới hai cánh. Mỗi quả Rockete đều được thiết kế để nổ ngay khi còn trên không và phóng ra một ngàn năm trăm quả bom bi chứa một lượng chất nổ đủ sức xuyên thủng bê tông cốt sắt cứng nhất.

— Chiếc trinh sát Hawkeyes của chúng tôi báo cáo tất cả khu vực mục tiêu đều yên lặng - Viên sĩ quan không hành nói tiếp - Có dấu hiệu như là một chiếc xe tải hay một xe bus đã đến cách đây một giờ rồi. Bây giờ chiếc xe đang chạy ra. Ngoài ra không có gì lạ hết.

Trên chiếc Independence, một chiếc phản lực cơ hai máy có trang bị một ụ ra đa trông rất xấu xí đang rì rì vờn quanh, máy dò quan sát sâu vào hàng trăm dặm vuông trong sa mạc.

Một máy bay ném bom lại được kéo ra trên sàn, xuất hiện trên màn hình máy giám sát.

— Thời tiết sẽ thuận lợi chứ ?.- Morton hỏi.

— Sẽ tốt, ông chớ lo. Mùa này nhiệt độ thường trên hai mươi độ, thời tiết không xấu lâu. Khi thời tiết tốt lên là đến giờ hành động đấy.

— Tripoli vẫn hợp tác chứ ?

Người sĩ quan không hành mỉm cười, đáp : — Hợp tác chứ. Họ biết chúng ta đã có mặt ở đây, và tất cả nhân viên của chúng ta đang nhìn thấy họ. Ông đến xem cho biết.

Morton bước theo ông ta vào một phòng kế bên. Trong phòng tràn ngập ánh sáng màu xanh lục phát ra do các máy móc đang hoạt động. Từ các màn hình ra đa và các máy tính hiện hành, trước mỗi máy đều có một sĩ quan hải quân mặc áo cụt tay, đầu đeo ống nghe. Một sĩ quan chỉ huy cầm máy vô tuyến rảo bước sau các sĩ quan hải quân, quan sát và ra lệnh. Ông ta nói vào micrô :

— Đợi chút, Tel Aviv. Cô hãy nói chuyện với ông ấy đi.

Người sĩ quan chỉ huy đưa máy nghe cho Morton, ông nghe giọng nói của Chantal.

— David, lính của Moeshe đang sẵn sàng trên đường băng. Cho họ bay chưa ?

— Cho !

— Được rồi. Bây giờ còn chuyện này nữa đây : Chúng tôi lại bắt được giọng phụ nữ và giọng của Raza. Hình như hắn gọi cô ta từ Aden. Các kỹ thuật viên lại cho là cô ta ở tận Bangkok.

— Chúng nó nói gì ?

— Hắn nói với cô ta Tokyo sẽ là nơi tiếp thu được cung cấp.

Morton nhìn vào một màn hình.

— Nhờ Karshov gọi báo cho Thủ tướng Nhật. Ông ta biết cách hành động mà.

— Ông có nghĩ đây là đòn đánh lạc hướng không ? Một trò lừa bịp không ? - Chantal hỏi.

— Khi chúng tôi đến căn cứ rồi mới biết đích xác được.

— Thế thì trễ mất.

— Thì cũng có thể lắm chứ. - Morton thừa nhận, tắt máy đi. Ông quay sang viên sĩ quan chỉ huy : — Ông còn gì nói cho tôi biết nữa không ? - Morton hỏi.

— Dạ, còn chứ - Người sĩ quan gật đầu - Khi chiếc máy bay khổng lồ của hàng không Pháp đi rồi, phi trường Tripoli đóng cửa. Chính thức, đài ra đa của họ làm việc lơ là. Thực ra thì chúng tôi đã quấy nhiễu đài của họ.

Ông quay qua một máy quan sát lớn. Một chuỗi vòng từ ngọn đèn chớp chớp ở giữa đua nhau chạy ra.

— Khu vực mục tiêu đấy. Vẫn chưa có hoạt động nào khả nghi hết - Người sĩ quan hải quân chỉ huy bấm những nút trên bàn phím. Màn hình sáng lên và trống trơn một lát. Thế rồi xuất hiện rất nhiều đốm.

— Quân đội Ai Cập đấy. Họ điều động một trung đoàn ra biên giới. Raza, và người của hắn không có cách nào lọt ra được ngõ này. Phía bên kia cũng thế. Người Tunisie cũng đang đợi hắn. Hắn không thể theo phía nam được, vì sa mạc sẽ giết chết hắn. Nếu hắn cố thoát ra bằng đường biển, thì chúng tôi sẽ phát hiện ra hắn. Chúng tôi sẽ tóm gọn hắn cho ông.

Morton cười không thoải mái. Trước đây, ông đã nghe như thế rồi.

*

**

Từ trong cửa sổ buồng ngủ của ngôi nhà, Nadine nhìn sương gió đang phủ lấy mặt cát ở bên ngoài. Trời quá tối, chị không thấy được những lính canh đang đổi phiên mà chỉ nghe thấy tiếng nói thì thầm của họ mà thôi. Chị nghe tiếng chân bước nhẹ nhàng của một lính canh đi ở bên ngoài cánh cửa. Chị quay lại khỏi cửa sổ, đi vào phòng tắm. Chị vừa cởi áo quần vừa cho nước chảy, rồi chị ngâm mình vào nước ấm thơm tho.

*

**

Khi Morton bước lên sân khấu rạp chiếu bóng, ông đã thấy Shema và Michelle ăn mặc áo quần màu đen giống nhau của lao binh, đã mang giày trận như những hàng lính biệt kích đang ngồi trong những ghế dựa kiểu Pullman êm ái. Wolfie ngồi bên cạnh Sam Goodman, Danny đã chọn ông thiếu tá này để chỉ huy một trung đội, ông đang đứng giữa hai tấm bảng đen được kê trên hai cái giá ở trên sâu khấu.

Trên một tấm bảng đen, cảnh trại của Raza được phác thảo trình bày đầy đủ do Shema miêu tả ra. Trên tấm kia choán đầy cả hình ảnh do vệ tinh chụp được.

Một hàng phi công trực thăng đang chăm chú nhìn vào những tấm ảnh, còn những biệt kích lại tập trung lại hình vẽ cảnh trại. Morton lấy lên một chiếc gậy để chỉ. Ông gõ vào hình vẽ:

- Mục tiêu là đây: Nhà của Raza. Một toà vila. Bên dưới là hầm kiên cố. Đây là trại lính. Đây là kho súng đạn. Một phòng thí nghiệm ở đây. Đây là ổ kháng cự. Khoảng từ ba trăm năm mươi cho đến năm trăm tên khủng bố. Chúng trang bị vũ khí tối tân.

Morton dừng lại cho họ ghi nhớ tầm cỡ và sức mạnh của địch, rồi ông quay qua những bức ảnh do vệ tinh chụp và nói với các phi công :

— Đường đến mục tiêu bằng phẳng cho đến khi xuống. Chỉ có những đụn cát cao khoảng mười tám thước sâu trong nội địa chừng một dặm. Gần mục tiêu hai dặm có những quả đồi nhỏ.

Ỏng quay lui cái bản đồ phác thảo :

— Khuôn viên của căn cứ rất kín đáo. Cho nên phải canh chừng bắn yểm trợ cho nhau. Hy vọng số thương vong hết sức tối thiểu.

Suốt ba mươi phút tiếp theo, Morton nói cho họ nghe những gì Shema đã nói cho ông biết. Tiếp theo, ông miêu tả cảnh không quân tấn công trước khi trực thăng tấn công. Ông ngừng lại rồi ra dấu cho Wolfie, Michelle và Shema bước lên trên sân khấu với ông.

— Quý vị nhìn kỹ những người này. Họ vào trước trong ấy với tôi. Thiếu tá Nagier sẽ dẫn tất cả các bạn vào sau. Tôi không muốn để xảy ra một sai sót nào hết. Phải nhắm đúng mục tiêu của mình. Chúng ta chỉ xuống đất có hai mươi phút. Chừng ấy là đủ cho chúng ta làm xong công việc rồi. Có ai hỏi gì không ?

Goodman nhúc nhích trong chỗ ngồi. Ông ta hỏi :

— Có thể có phụ nữ và trẻ em. Chúng ta phải làm gì với họ đây ?

Morton nhìn Shema, chị gật nhanh đầu.

— Chắc có phụ nữ và trẻ em. Chúng ta không biết có bao nhiêu và họ ở đâu. Nhưng xin nhắc các bạn, chỉ bắn khi họ bắn trước. Như thế họ là những mục tiêu hợp pháp cho chúng ta tấn công.

Mọi người gật đầu.

Morton nhìn về phía máy chiếu ở cuối rạp. Ánh sáng mờ lại, rồi quay lui màn chiếu phim ở trên sân khấu. Ông nói :

— Bây giờ tôi muốn các bạn nhìn cho thật kỹ vào nhứng khuôn mặt bạn sắp thấy đây.

Trên màn hình hiện ra ảnh của Faruk Kadumi.

— Các bạn phải bắt sống hắn - Morton ra lệnh.
 
Chương 28


Người dịch: Văn Hòa - Kim Thùy

Nhà xuất bản: NXB Thanh Niên

Shared by: CCG -

Giọng nói của anh phi công lái chiếc Jet Ranger vang lên trong máy nghe của Morton.

— Chúng ta đã đến tọa độ. Năm phút nữa là xuống.

Morton hỏi qua micrô : — Có gì lạ trên rađa không ?

— Bầu trời rất trong sáng - anh phi công đáp - Vẫn không có mây. Gió nhẹ từ biển thổi vào nội địa.

— Gió có thay đổi không ?

— Thổi nhẹ về phía tây. Nửa gút ngoài khơi.

Wolfie, Michelle và Shema kiểm tra lại lần cuối dây nịt của dù và đồ vật mang sau lưng, rồi ôm chắc súng UZI vào lòng. Trên thắt lưng của Wolfie và Michelle, đeo đầy đủ cung tên. Shema vội vàng kiểm tra những cây dao phóng dắt ở hai túi may vào dưới ống quần.

— Chắc là không khó hơn khi nhảy ở trên tháp cao xuống - Morton nói với chị.

Shema đã miêu tả cảnh tập luyện ở trong trại và việc tập nhảy từ trên tháp xuống là một phần trong chương trình huấn luyện để tấn công của trại. Chị cười, đáp :

— Dễ hơn. Raza thường bảo các huấn luyện viên bắn đạn thật vào chúng tôi nữa đấy.

Người phi công phụ bước vào ca bin. Anh ta móc bộ đai an toàn của mình vào một cái trụ rồi vui vẻ nói :

— Đến giờ nhảy rồi, quý vị - Quý vị nhảy xuống nhanh trong nháy mắt mà thôi.

Morton thấy chiếc máy bay cố giữ cao độ xê xích gần bốn ngàn năm trăm mét. Khi anh phụ lái mở cửa ra, một ngọn đèn đỏ bật sáng lên, không khí bên ngoài lạnh ngắt ùa vào ca bin.

— Sắp hàng đi - Anh phụ lái ra lệnh.

Wolfie sẽ nhảy trước, rồi đến Michelle, theo sau là Shema và Morton nhảy cuối cùng. Ông nhìn mỗi người kiểm tra lại lần cuối những dây buộc chiếc mũ nhảy vào cằm. Ông nghe qua máy và vô tuyến, giọng anh phi công trong buồng lái nói lần cuối cùng.

— Lực lượng chiến đấu của ngài hiện đang bay trên bầu trời Ai Cập. Những trực thăng của ngài vừa mới cất cánh khỏi tàu sân bay, và lực lượng chiến đấu của chúng tôi đang sắp hàng trên sân bay. Ngài đã được chuẩn bị sẵn sàng rồi, thưa đại tá.

Morton cảm ơn rồi ông tháo máy vô tuyến ra và đội mũ nhảy lên đầu. Bỗng ngọn đèn đỏ chuyển sang thành màu xanh lục, người phụ tá vỗ vào vai của Wolfie. Anh nhảy ra khỏi cửa, một lát sau Michelle nhảy.

— Khi nhảy ra xong, cô nhớ đếm mười lần rồi lôi mạnh cái nút, - Morton nói lớn bên tai Shema.

— Nhảy ! - Người phụ lái la lên, vừa vỗ vào vai của chị.

Morton đứng vào vị trí ở cửa.

— Nhảy !

Ông phóng vào không trung.

*

**

Nadine đứng ở cửa sổ buồng ngủ. Chị mặc cái áo ngủ của Raza, chị thích mặc áo của hắn để ngủ mỗi khi hắn đi xa. Chị lại tự hỏi không biết bây giờ hắn ở đâu và khi nào thì hắn về. Chị thấy nhớ hắn vô ngần.

Bên ngoài chiếc pháo đài ngầm dùng làm trạm thông tin và phòng thí nghiêm, chị bỗng thấy một ánh diêm lóe lên. Một thằng lính gác ngu ngốc nào rồi đây ! Raza đã cấm không cho ai được hút thuốc gần pháo đài ngầm hết, vì số xăng dầu tồn trữ ở trên trần nhà có thể bắt lửa phá hủy hết trong nháy mắt. Nhặt khẩu súng Kalashaikov để ở bên giường, Nadine bước ra khỏi phòng ngủ.

Mặt cát phủ một lớp băng giá kêu rào rào dưới chân khi chị chạy đến pháo đài. Chị thấy người lính gác đang nép mình trong một chỗ khuất của pháo đài để tránh lạnh. Hắn vùng đứng lên khi chị đến gần, lấy điếu thuốc trên miệng ra. Chị giáng súng đập vào điếu thuốc trên tay hắn, rồi dùng báng súng đánh hắn không thương xót. Rồi vừa run lập cập, chị để anh chàng bị đập nhừ tử nằm đấy, trở về vila.

Về phòng ngủ, chị để súng bên giường, lấy mấy cây dao phóng trong ngăn tủ ra để trên mặt tủ. Chị leo lên giường rồi vặn mờ ngọn đèn đêm lại.

Nadine chưa bao giờ ngủ một mình trong đêm tối từ khi chị không còn ngủ chung giường với Shema nữa. Chị ru vào giấc ngủ, vừa mường tượng lại những đêm nằm trong trại tị nạn, khi ấy hai chị em nằm với nhau trong đêm tối, lắng nghe những người đàn ông nói chuyện bất tận về tương lai khi kẻ thù của họ bị tống cổ ra khỏi đất nước.

*

**

Morton nhìn la bàn. Trại nằm về phía bắc. Ông lấy ra cái máy dò loại nhẹ. Khi xoay lưng về phía biển, ông thấy những hình nho nhỏ hiện ra trên màn hình.

— Một chiếc xe nhỏ. Hai người - Ông nói nho nhỏ - Khoảng nửa dặm về phía trước.

— Đấy là lính canh vòng ngoài đi xe jeep đấy - Shema nói thì thào.

Từ bên kia đụn cát có hình lưỡi liềm, họ nghe có tiếng máy xe nổ nhỏ nhỏ đang sang số.

Morton nhìn vào mặt đồng hồ dạ quang. Đã mười phút trôi qua từ khi họ nhảy xuống rồi. Ba mươi lăm phút nữa là đến giờ oanh kích. Ông bỏ cái máy vào xắc ở sau lưng, rồi cúi người, ông dẫn tất cả chạy về phía tiếng động của xe. Bỗng Shema dừng lại, chị chỉ vào một chồng đá.

— Ranh giới chỉ vòng ngoài - Chị nói thì thào.

Tiếng xe nổ càng nhỏ dần.

Ra dấu cho những người khác đợi, chị bò tới, sờ soạng trên mặt cát ở trước, rồi chị quay lùi, ra dấu cho mọi nguời bò lên. Khi họ đã đến, chị ra dấu cho Morton quỳ bên cạnh chị, cầm lấy tay ông lần vào sợi dây cáp chị vừa tìm ra.

— Dây liên lạc - Chị nói thì thào - Dây này liên lạc với máy giám sát trên xe jeep để chúng biết đích xác có ai lọt vào ở đâu.

Morton ra dấu cho Wolfie và Michelle. Hai người tháo cung ra rồi biến vào đêm tối. Tiếng động cơ của xe jeep đã biến mất, Morton bèn giật mạnh sợi dây. Rồi ông chạy đến ngồi xổm với Shema ở đàng sau đống đá.

Họ nghe chiếc xe jeep chạy lên núi đá, rồi thấy đèn chiếu ở hai bên chiếu lên chiếu xuống. Chiếc xe dừng lại trước sợi dây, vài thước. Hai người lính gác bước xuống, súng cầm tay. Bỗng cả hai nhoài người tới trước, súng văng khỏi tay, nằm lăn ra chết, mũi tên đầu bọc thép găm vào lưng họ vẫn còn lung lay.

Từ trên xe jeep một giọng nói lo lắng gọi trên máy vô tuyến, yêu cầu mấy người lính canh báo cáo vị trí của họ.

Khi Morton và Shema chạy đến chiếc xe, giọng nói lại vọng lên hỏi cái gì đã xảy ra, Morton nắm lấy cái micrô cầm tay. Ông nói bằng tiếng Ả Rập, giọng khàn khàn.

— Chúng tôi lỡ vượt qua sợi dây xe. Chúng tôi bị thủng xăm, cần phải vào để vá lại.

— Được rồi - Giọng nói lầu bầu cất lên.

Với Shema và Michelle ngồi khom người ở phía sau, còn Wolfie ngồi bên cạnh, Morton lái xe chững chạc chạy qua sỏi cát tiến về phía ngôi nhà.

— Chỗ sửa xe nằm ở phía sau - Shema nói nho nhỏ, - Ông cứ lái thẳng vào trong. Giờ này không có ai đâu.

Mười phút sau, họ đi vào hầm sửa xe vắng vẻ, đậu xe lại. Morton nhìn đồng hồ : Hai mươi phút nữa là đến giờ tấn công.

*

**

Tiếng xe jeep làm cho Nadine thức dậy. Chị nằm yên trong bóng tối, lắng nghe. Chiếc jeep phải ở ngoài vòng biên chứ. Chị đưa tay lấy điện thoại bên cạnh giường, bấm số gọi ra phòng vô tuyến nằm ở đằng sau tòa nhà. Người giữ điện thoại trực báo cho chị việc đã xảy ra.

Nadine thở dài, chị gác điện thoại rồi lại tiếp tục ngủ, kéo chăn trùm kín cả đầu.

*

**

Morton cúi người chạy theo Shema băng qua bãi cát đến tòa nhà, súng UZI cầm tay. Chị nâng súng lên cao, Wolfie và Michelle chạy theo sau, mỗi người đều lắp tên vào cung.

— Cửa bếp kia kìa - Shema ghé môi vào tai Morton nói, chị chỉ vào ngưỡng cửa nằm ở phía bên phải - Cửa bếp luôn luôn không khóa để cho lính gác bên ngoài vào pha trà uống.

Morton áp một lỗ tai vào cửa. Im lặng. Ông nhìn vào lỗ khóa. Không thấy ai trong phạm vi nhìn của mình hết. Ông quay nắm cửa rồi nhè nhẹ mở cửa ra. Những người khác theo ông vào trong. Michelie đóng cửa lại, cài then.

Shema chỉ vào hai cánh cửa : — Một cánh đến phòng ăn, cánh kia đến phòng chứa hàng - Chị thì thào - Phòng vô tuyến phía sau phòng ấy.

Morton gật đầu ra dấu cho Wolfie. Trong lúc Michelle và Shema đứng phía sau cánh cửa phòng ăn, thì Morton mở cánh cửa đi vào khu chứa hàng. Ông và Wolfie đi theo một hành lang lát đá. Những phòng chứa hàng đều có cửa xây hình vòng cung ở trên. Cuối hành lang có một cái cửa đóng kín : đấy là phòng vô tuyến. Ánh sáng lọt qua khe hở ở dưới cánh cửa. Họ nhanh nhẹn, lặng lẽ bước qua khỏi hành lang. Họ nghe có tiếng nói chuyện ở trong cánh cửa. Giọng hai người đàn ông.

Bỗng có tiếng xô ghế rồi có tiếng chân trong phòng. Morton và Wolfie nép vào bóng tối. Không khí sực nức mùi gia vị cay cay. Một luồng ánh sáng chiếu ra khi cánh cửa mở. Rồi có tiếng chân bước ra hành lang.

Khi người lính đi qua, Morton thấy một bóng người thấp, to bè bè, đang cầm hai cốc thiếc trong hai tay. Đến giờ uống trà. Morton nhẹ bước ra sau lưng anh ta rồi huýt gió nho nhỏ. Anh ta quay lại, Morton nện báng súng vào cổ hắn, khiến đầu hắn gãy gục.

Wolfie bước đến cánh cửa hé mở. Một người lính ngồi sau bàn, trên bàn có máy vô tuyến, một khẩu súng dựng bên cạnh hắn. Hắn nhìn bóng người trong ngưỡng cửa, ngơ ngác một hồi. Rồi, hắn chụp lấy khẩu súng, nhưng Wolfie đã bắn hắn rồi, mũi tên xuyên qua ngực hắn, găm người hắn vào ghế.

Wolfie bình tĩnh đóng cửa lại, rồi giúp Morton kéo xác anh chàng Ả Rập vào một nhà kho. Rồi họ chạy lui vào nhà bếp. Morton ra dấu cho Michelle, cô mở cửa phòng ăn. Qua những cánh cửa sổ có hình vòng cung ở trên, những cánh cửa chiếm gần hết cả một bức tường, ánh sáng phản chiếu trên lớp băng đóng trên mặt cát chiếu vào trong phòng. Bên ngoài không có động tĩnh gì hết. Họ đứng im một lát, đồ đạc trên người và giày trận, làm cho họ lún sâu vào đống thảm lót nhà. Đồ đạc trong phòng màu đen, nặng nề, trên một bức tường treo những bức tranh mà Shema đã miêu tả. Chị nhìn về phía một cánh cửa ở cuối phòng rồi thì thào nói, — Đợi ở đây. Tôi vào đem Nadine ra đã.

Lính của Morton đứng nép người vào tường, chờ đợi. Chị nghe có tiếng lính kích khi Wolfie lắp mũi tên khác vào cung. Mấy phút sau, Shema trở ra một mình. Trông chị có vẻ kinh ngạc, chị nói :

— Nadi không có ở đây. Buồng ngủ của nó trông như đã từ hàng tháng nay không có người ở.

Đây là lần đầu tiên Morton nghe Shema gọi em gái mình bằng cái tên rút gọn như thế.

— Chúng ta hãy tìm Raza - Morton nói nho nhỏ - Hắn sẽ cho chúng ta biết cô ấy ở đâu.

Shema dẫn họ đi theo một hành lang tối tăm trong tòa vila lặng lẽ. Thảm trải nhà chồng cao như gối dưới bước chân họ. Họ đi hàng một qua nhiều cánh cửa mở rộng, những căn phòng tối om om. Shema nói thì thầm rằng đây là các văn phòng làm việc và một phòng cầu nguyện.

Cuối hành lang là một phòng rộng, từ đây nhiều hành lang khác dẫn đi nhiều nơi. Tất cả đều tối tăm ngoại trừ một hành lang sáng lờ mờ. Họ dừng lại nghe ngóng, rồi bò qua phòng tiến đến phía hành lang mờ sáng. Hai bên hành lang đều có cửa đóng kín.

— Đây là phòng ngủ cho khách hay là nhân viên trong nhà - Shema thì thào nói. Họ từ từ di chuyển theo hành lang.

Bỗng một cánh cửa mở ra. Một thiếu nữ mặc áo ngủ hiện ra. Đằng sau cô ta là một binh sĩ, hắn đang gài nút quần.

Khi Morton bước nhanh qua người thiếu nữ để nện vào anh lính thì Michelle đưa tay bịt lấy miệng cô gái. Wolfie giúp cô kéo cô gái vào phòng. Cô gái nhìn họ, đôi mắt mở to vì khiếp sợ. Người cô ta toát ra mùi dục và mồ hôi.

— Nadine đâu rồi ? - Shema hỏi nhỏ bên tai cô ta.

Bây giờ thì chị nhớ ra rồi : cô ta là hầu bàn. Miệng cô gái méo xệch vì sợ.

— Em gái tôi đâu rồi ? - Shema lại hỏi,

— Với Raza nữa ? - Morton hỏi tiếp.

Cô gái giương to mắt nhìn họ.

— Ở đâu ? - Morton hỏi.

— Trong phòng ngủ - Cô gái cố gắng trả lời.

Anh lính rên lên. Michelle lôi tấm vải trải giường ra, rồi cùng Wolfie, hai người xé tấm vải ra từng mảnh nhỏ để bịt miệng và trói tù nhân lại.

Trở lại hành lang, Shema dẫn họ đi theo một hành lang khác, ở đây có hai cánh cửa nằm hai bên.

— Cánh thứ nhất vào căn phòng của Raza. Cánh kia là phòng ngủ. - Shema thì thào nói.

Morton gật đầu, làm dấu cho Wolfie và Michelle đứng lại bên cửa phòng ngủ. Shema sờ vào cánh tay của Morton, chị nói:

— Cảm phiền để tôi một mình vào dẫn Nadi ra cho.

Morton hơi ngần ngại, rồi đồng ý : — Chúng tôi sẵn sàng tiếp ứng cho cô.

Shema từ từ quay nắm cửa, chị mở cửa rộng vừa đủ mình chị lọt vào. Chị đứng trong cửa, hai tay nắm chặt khẩu UZI, ngón tay trên cò súng, nòng súng chĩa về đống chăn trên giường. Tất cả đều y nguyên như trước đây : tủ áo quần, bàn trang điểm, giường đều nằm yên chỗ như cũ. Chỉ có một đồ vật mới là cái máy fax. Chị nhìn về phía cánh cửa đi đến phòng làm việc. Cửa đóng. Raza thường để cửa phòng mở ra.

Dưới đống chăn, có dấu hiệu nhúc nhích.

Shema lắng nghe một hồi lâu, đợi cho hơi thở người ngủ điều hòa đã rồi chị mới từ từ bước đến giường. Trong ánh sáng lờ mờ, chị nhận ra chỉ có một người. Chị ngần ngại. Raza một mình thôi. Chị vội nhìn lui. Cánh cửa nhẹ nhàng mở ra.

Shema bước nhanh qua bên kia giường, chị đưa nòng súng hất nhanh góc chăn trùm đầu người ngủ. Chị bước lui.

— Nadi - Chị thì thào thốt nên lời - Ôi, Nadi ! - Chị hạ súng xuống.

Nadi chụp lấy dao phóng để trên bàn ngủ.

— Nadi ! Chị đây mà. Đừng sợ. Tốt quá ! Chị đây !

Shema nắm lấy tay em, thì thào nói cho em yên tâm. Nadine nhìn chị chằm chằm không nói nên lời. Shema để súng bên giường, ôm lấy em, âu yếm em. Bỗng Nadine đẩy chị ra, nhìn mặt Shema nghi ngại. Chị ta hỏi :

— Làm sao chị thoát ra được mà đến đây ?

Shema cười : — Chị sẽ nói sau, Nadi - Chị lại kéo sát cô em vào lòng. Rồi chị kéo cô em dậy, nhìn ra phía cửa. — Nadi, chúng ta phải nhanh chân trước khi hắn phát hiện ra mình.

— Cái gì ? Chị nói cái gì thế ?

Shema đứng dậy, chị cầm lấy khẩu UZI lên.

— Raza. Hắn ở đâu ?

— Anh ấy ở đâu à ? - Nadine lặp lại - Nhưng không phải anh ấy đã giúp chị thoát ra à ?

Shema lắc đầu đáp :— Không, không.

— Thế thì làm sao chị đến đây được ?

— Chị sẽ nói cho em biết sau, Nadi. Chị sẽ nói hết cho em nghe. Bây giờ thì nhanh lên, mặc áo quần vào. Chúng ta không kịp đâu !

Nadine lắc đầu. Chị bắt đầu cảm thấy bình tĩnh hơn. Chị ta nhìn chằm chằm vào mặt Shema. Tại sao bà chị lại ăn mặc như thế này ? Lại có súng nữa. Tại sao lại có súng của Do Thái.

— Mau đi, Nadi ! - Shema hối - Chúng ta phải đi thôi !

Nadine vùng dậy.

— Đi ! Đi đâu ? - Giọng chị ta cương quyết - Tại sao chúng ta phải đi ? Đây là nhà của chúng ta mà ?

Shema đặt một ngón tay lên môi chị ta, — Đừng ồn, Nadi. Raza sẽ nghe đấy. Chúng ta phải đi trước khi cuộc tấn công bắt đầu.

Nadine nhảy ra khỏi giường, đứng nhìn Shema : khẩu Kalashnikov nằm trên tấm thảm gần chỗ Nadine đứng.

— Tấn công à ? Cái gì tấn công ? - Giọng chị ta bình tĩnh một cách đáng sợ - Ai sẽ tấn công chúng ta, Shema ?

— Nào, bình tĩnh đi, Nadi. Lính biệt kích : Họ sắp tấn công vào đây.

Nadine chụp lấy vai Shema, lắc mạnh, chị ta hỏi : — Chị nói cái gì ? Tại sao chị biết ?

Chị ta vùng quay nhìn về phía cửa buồng ; Morton, Woliìe và Michelle đang yên lặng đứng nhìn hai người.

— Yên ổn thôi, Nadi - Shema nói nhanh - Họ không hại em đâu,. Họ đến đây để giúp em.

— Họ là ai thế ? - Nadine hỏi.

— Chúng tôi là người Israel đây - Morton đáp.

— Bọn phục quốc Do Thái à ? - Nadine la lên.

— Nadi ! - Shema hét lên - Thôi đi !

Vừa khi chị bước đến định an ủi em, thì Nadine cúi xuống lấy khẩu Kalashnikov.

— Bỏ súng xuống - Morton ra lệnh - Không ai đến đây để làm hại cô hết. Shema nói đúng đấy. Chúng tôi đến đây để giúp cô.

Nadine quay nhìn Shema, rồi lại nhìn Morton, Wolfie và Michelle.

— Bọn phục quốc Do Thái ! - Nadine lại la lên - Mày đem bọn phục quốc Do Thái đến đây !

— Mặc áo quần vào, Nadine - Morton cương quyết nói, - Rồi chỉ chỗ Raza cho chúng tôi biết.

Bây giờ thì chị ta hiểu rồi. Họ đến đây để giết Raza. Chúng đã thuyết phục Shema giúp chúng. Chị ta quay qua nhìn người chị, nước mắt đầm đìa.

— Tại sao ? Tại sao mày phản bội anh ta ?

— Hắn là đồ quỷ, Nadi. Hắn đã lợi dụng tất cả chúng ta !

— Không ! Không ! Không ! Tao yêu anh ấy ! - Nadine hét lên.

Sherna nhìn Nadine không thốt nên lời, rồi chị bước đến.

— Lui lại ! - Nadine hét, rồi đưa súng lên.

— Hạ súng xuống, Nadine - Morton ra lệnh.

— Không !

— Nadi ! Đừng ! - Shema hét lên.

Nadine lặng nhìn đám người ngoài cửa một chút. Rồi chị ta bắn. Khẩu súng giật trong tay và từng mảnh tường, gỗ cửa bay tung tóe, nhưng Morton, Wolfie và Michelle đã nhảy tránh khỏi.

— Mày là con đĩ của bọn Do Thái - Nadine nhìn Shema hét toáng lên - Mày phản bội tất cả chúng tao. Mày hãy chết theo chúng !

Ngay khi Nadine đưa súng lên, Shema đã ra tay. Rất nhanh và rất gọn, chị cúi xuống lôi con dao phóng ra, rồi vung tay. Lưỡi dao lút vào ngực Nadine.

Nadine đứng khựng một chốc, miệng há ra. Rồi chị ta rít lên một tiếng nho nhỏ kêu ùng ục và té nhào xuống nền nhà, súng văng ra khỏi tay. Chị thấy một lỗ hỗng mở ra, tối thui thăm thẳm. Chị ta rơi vào đấy. Không ai ngăn được nữa.

— Raza ! - Chị ta muốn nói quá. - Raza ! Em yêu anh !

Shema quỳ xuống bên xác em, khóc thổn thức.

Rồi cách đấy một quãng, chị nghe tiếng máy fax reo lên và nghe Morton nói nho nhỏ. Rồi Wolfie cùng Michelle lôi chị dậy, nhẹ nhàng nhưng cương quyết. Họ dìu chị ra khỏi buồng ngủ.

Morton xé tờ giấy in ở máy fax ra, ông nhét vào túi quần.

*

**

Khi họ ra khỏi tòa nhà, bầu trời bỗng ầm ĩ ồn ào. Tiếng ầm ĩ náo loạn từ trên phóng xuống, kéo theo từng đuôi lửa. Một lát sau, từ phía trại đằng xa, những tiếng nổ đầu tiên vang lên. Trận không kích bắt đầu.

Họ chạy thục mạng đến một khe suối cạn rồi nhảy xuống mép khe, từng đám cát và đá sỏi ào theo họ. Khi họ lặn đến đáy vực thì nửa người đã bị chôn vùi duới cát đá. Quanh họ toàn đất đá lở rơi xuống rồi những tia lửa màu da cam đã phá tan màn đêm. Chiếc máy bay đầu tiên bay ngay trên đầu họ chỉ cách có gang tấc.

Thì giờ nép mình dưới khe cũng rất đáng, vì máy bay đã dội bom rất khủng khiếp khi bay qua, đã làm tan tành khu cát bao quanh các pháo đài ngầm như những con quái vật sống.

Tòa nhà nổ tan tành thành mây khói. Đằng sau tòa nhà là chiếc hầm có phòng truyền tin và phòng thí nghiệm sụp xuống thành một đống lửa, đống lửa này đã tiêu hủy tủ máy phát thanh và tủ lạnh, nơi Faruk Kadumi đã chuẩn bị và chuyển đi những chai vi rút bệnh than B.C. đầu tiên.

Từng chùm bom đã biến bãi tập thành hàng trăm miệng hố nhỏ. Hàng chục tân binh và huấn luyện viên đã bị chôn sống ở dưới hố trong khi họ cố chạy thoát thân ra sa mạc.

Trong vòng hai phút - thời gian đủ cho máy bay oanh kích - Tiếng gầm rú trên trời biến mất. Trong một chốc chỉ còn lại tiếng lửa cháy. Rồi qua ánh sáng của lửa tỏa ra, tiếng máy bay trực thăng rầm rầm vang lên.

Dưới khe, Morton và lính của ông rũ cát đá đi rồi trèo lên mép khe.

Trực thăng đã xuống thấp ngoài sa mạc, và ngay trước khi máy bay hạ xuống, lính biệt kích đã nhảy xuống và triển khai thế trận liền. Tiếng lên đạn răng rắc vang lên khắp nơi.

Bỗng, từ sau một mô đá ở bên trái của con suối cạn, có tiếng một khẩu đại liên nổ giòn. Quanh những chiếc trực thăng, lính nhào lăn xuống. Có người vẫn đứng bất động.

Morton cúi người chạy tới, rồi nằm xuống. Wolfie chạy nhanh theo một bên. Shema và Michelle bò theo sau. Súng của Morton bất ngờ nhả đạn qua bãi tập, rồi những tiếng kêu cứu vang lên hòa lẫn với tiếng của chiến trận.

— Tôi cần một nhân viên truyền tin - Morton nói.

— Tôi đi cho... - Michelle nói, cô đứng dậy, nhưng Shema đẩy cô xuống.

— Tôi biết đường rõ hơn ! - Chị đứng dậy và vụt chạy trước khi mọi người kịp ngăn lại.

Chiến trận trở nên dữ dội ngay lúc Shema cùng một biệt kích trở lại, anh này mang một máy truyền tin ngoài mặt trận ở sau lưng.

— Gọi thiếu tá Nagier cho tôi ! - Morton ra lệnh.

Khi người lính truyền tin đưa micrô cho Morton thì cuộc chiến càng trở nên ác liệt.

— Danny. Chúng tôi ở sau vila. Đem máy bay của anh đến đây. Cử một số đến bịt tắt mấy khẩu đại liên ấy đi !

— Tuân lệnh - Danny đáp.

Những chiếc trực thăng vờn trên không, rồi sà xuống phía ụ súng máy, họ bắn hỏa tiễn vào. Mô đá biến thành một đám mưa đá. Một lát sau, ụ đại liên im hơi.

Với ánh sáng do ngôi nhà bốc cháy như một đèn hiệu, máy bay trực thăng của Danny bay đến, sà thấp xuống rồi đứng lơ lửng gần chỗ lính của Morton đợi. Danny giúp họ lên máy bay, rồi máy bay bay đi.

Thỉnh thoảng các cảm tử quân lại bị tấn công, họ rải mỏng ra giữa lằn đạn của lính biệt kích, lính này đã quen hành quân trong đêm tối rồi. Họ không bắt tù binh.

Từ trên trực thăng, Morton quan sát trận địa qua cặp ống nhòm dạ kính, ông trông thấy môt hầm ngầm xây bên hông môt đụn cát ở đàng xa phía bên kia bãi tập, cái hầm xem ra vẫn còn nguyên vẹn. Ông đưa ống nhòm cho Shema.

— Cái gì trong ấy ?

Chị lắc đầu, trả ống nhòm lại rồi đáp : — Tôi không biết. Chắc là mới xây.

Ông quay qua Danny.

— Cho phi công bắn một trái sáng đi.

Chiếc trực thăng lao cao lên môt ngàn mét, rồi thả ra một trái sáng có dù với sức sáng cực lớn. Mặt đất, bầu trời sáng rực lên, ánh sáng màu hồng cực kỳ rực rỡ, chiếc trực thăng bèn hạ nhanh xuống hầm ngầm, đậu ngay bên cạnh một trung đội. Goodman chạy đến. ông ta nói :

— Hầu như quét sạch hết luôn. Nhưng không thấy Karuk Kadumi và Raza đâu hết.

— Tôi biết rồi. - Morton đáp vắn tắt. - Cho lính của ông đi theo tôi.

Ánh sáng ngọn đèn dù đang mờ dần, nhưng Morton đã thấy được cái đụn cát nhô lên theo hình lưỡi liềm, triền đồi ít ra cũng cao hơn cánh cửa sắt của pháo đài ngầm đến ba mươi thước. Không có quả bom nào có thể lọt vào trong hầm được.

Tiếng súng đã thưa thớt hơn khi họ chạy đến cửa hầm. Cửa được khóa bằng một khóa móc vào xích. Morton cho gợi thợ cắt đến và gọi lấy một chiếc đèn pin. Sau khi một lính biệt kích đến chặt khóa, ông lấy đèn pin, mớ cửa ra. Ông đứng sững khi nhìn thấy cảnh tượng hiện ra trong hầm dưới ánh đèn pin.

Từng dãy từng dãy trên kệ, từ nền cho đến hầm nhà chất toàn là chất nổ, dây nổ và thùng. Những thùng chất nổ Semtex, nitrát Ammonium và chất nổ đen, và đủ thứ dụng cụ dùng để gây nổ. Quả là một thiên đàng của những kẻ đánh bom. Ông quay qua Danny.

— Lấy bom Na pan và dây nổ chậm.

Danny và Goodman chạy vội đến chiếc trực thăng rồi quay lại mang theo một thùng bom.

— Cho mọi người lên máy bay hết đi - Morton ra lệnh cho Goodman, ông thiếu tá dẫn lính chạy nhanh về những chiếc trực thăng đã đậu sẵn ở giữa bãi tập.

Bỗng có tiếng động trong bụi cây một bên đụn cát. Morton quay lại. Qua ánh đèn pin, ông thấy một số phụ nữ và trẻ em Ả Rập đang vùng dậy hoảng hốt chạy.

— Kiểm tra cả khu vực xem - Ông ra lệnh cho Wolfie, Michelle và Shema - Lùa hết họ ra.

Ông lại quay qua Danny :

— Mười phút là đủ lắm rồi !

Danny kẹp cái đồng hồ định giờ vào dây nổ gắn vào thùng bom, rồi họ cùng nhau mang vào hầm ngầm. Khi Danny bấm đồng hồ, họ đều chạy lui về chiếc trực thăng. Wolfie, Michelle và Shema đã đứng chen trong đám lính biệt kích khi họ leo lên máy bay.

— Các bạn đã hành động quá tuyệt! - Morton nói.

Khi ông lần đường đi vào phòng lái, nhiều biệt kích mệt mỏi gật đầu chào ông. Khi máy bay bay lên, Morton gọi các chiếc trực thăng kia qua máy vô tuyến để hỏi về số thiệt hại. Có ba biệt kích chết, mười một bị thương, năm trong số này bị thương nặng. Có thể nặng hơn nữa.

— Mười lăm giây - Danny từ trong ca bin nói lớn lên.

— Mọi người nắm cho chặt - Morton ra lệnh.

Một lát sau một luồng ánh sáng đỏ tím lóe lên, tiếp theo là một tiếng nổ long trời lở đất phát ra một đám lửa rộng hàng chục thước. Ánh sáng chói lói đến nỗi đã chiếu sáng cả máy bay cùng với ánh sáng mặt trời đang bắt đầu ló dạng.

Không ai nói một lời.

Morton hân hoan trước ánh sáng chói ngời ấy.

Tiếng dội của sức nổ đã làm chấn động cả chiếc trực thăng, đẩy chiếc trực thăng nhô lên rồi hạ xuống trên mặt đất. Cơn chấn động trôi qua cũng nhanh như khi nó xảy đến. Chiếc trực thăng lại đứng yên lặng.

Một giờ sau, khi những chiếc trực thăng hạ xuống trên sàn bay của chiếc tàu sân bay Independence, bầu trời Li Bi vẫn còn sáng đỏ. Ánh sáng vẫn còn ngay khi Morton và lính của ông bước ra khỏi chiếc Jet Ranger ở phi trường Luga để chuyển sang chiếc Concorde. Một lát sau, một chiếc trực thăng thứ hai đáp xuống có Goodman và trung đội của ông mang theo túi xách chứa áo quần và khí giới họ đã thay ra, họ vội vã leo lên máy bay.

Khi chiếc Concorde cất cánh, ánh lửa đã hòa vào với ánh bình minh của một ngày mới.
 
Chương 29


Người dịch: Văn Hòa - Kim Thùy

Nhà xuất bản: NXB Thanh Niên

Shared by: CCG -

Chiếc xe xốc vào một ổ gà khác trên mặt đường rồi dừng lại trước một lán trại, Raza thấy cái lán chỉ làm toàn bằng dây dợ và đinh.

Từ khi họ rời Mexico City thì trời đang mưa nặng hạt, nay cơn mưa đã ngớt, nhưng không khí vẫn ẩm ướt vô cùng. Mặc dù có máy điều hòa không khí, trong xe vẫn như một phòng tắm hơi.

Mỗi lần nhúc nhích, Raza lại cảm thấy hơi ẩm nơi lưng ghế bọc nệm ngấm vào bộ đồ lớn màu đen hắn đang mặc trên người. Suốt quãng đường dài, hắn thường lau cặp kính gọng vàng, cặp kính hắn đeo lên mắt để cải trang.

Cái cặp xách tay để trên chỗ ngồi bên cạnh hắn rịn hơi nước. Bên trong cặp là thẻ thông hành Chi Lê và giấy tờ chứng nhận hắn là nhân viên của thị trường chứng khoán Santiago được phái đi Chicago và New York. Những giấy tờ giả mạo này là thần hộ mệnh cho hắn. Raza sẽ không gặp phải khó khăn trên đường vào Hoa Kỳ.

Người tài xế quay lại, nhe cả hàm răng đầy bựa ra nói : — Người phi công ở bên trong ấy, thưa ngài.

Bên kia cái trại, Raza thấy chiếc Beech-18 đậu trên một bờ cỏ.

— Vào nói với hắn một lát nữa tôi sẽ vào.

Anh tài xế nhún vai rồi bước ra khỏi xe. Anh ta thường gặp những hành khách như thế này nhưng tập đoàn buôn lậu lại trả tiền rất hậu cho anh.

Raza nhìn anh ta lội bùn đi vào lán, vừa đi vừa gãi một bên hông. Anh ta quê mùa và khi hai người đi vào một ngôi nhà bí mật trên đường đến đây, anh ta đã làm cho hắn bực mình. Hắn đã nhận được một bức fax của Nadine cho biết Faruk Kadumi đang trên đường đi New York. Hắn trả lời vắn tắt cho chị ta là đã nhận được fax.

Khi xe chạy qua một số thị trấn và làng mạc, hắn lại tự hỏi tại sao không nghe Nadine đả động gì đến chuyện thành công ở Luân Đôn hết. Hắn đã dùng máy điện thoại di động do tập đoàn tu sĩ Hồi giáo cung cấp để gọi chị ta, nhưng hắn chỉ nghe tiếng máy kêu tít tít mãi, chứng tỏ máy ở vi la không bắt được. Thỉnh thoảng có một trận bão cát nổi lên khiến cho đường dây bị nhiễu nhưng độ này đâu phải là mùa bão cát ? Rồi, mới đây thôi, hắn lại nhận được một cú điên thoại của vị đại diện cho tập đoàn tu sĩ Hồi giáo đóng tại Mexico yêu cầu hắn tiếp xúc với vị lãnh đạo Hồi giáo Muzwaz ngay.

Raza bấm số máy ở Iran. Vì máy điều hòa không khí đã tắt, cho nên không khí ở trong xe trở nên quá ngột ngạt.

Giọng nói vu vu quen thuộc hỏi hắn ngay : — Anh đã nghe nói chưa ?

— Thưa Đức Ông, tôi đang trên đường đi mà - Raza nói.

— Thế là anh không biết chuyện gì đã xảy ra ở Luân Đôn và Li Bi rồi - "Đức Ông" bồi hồi nói.

Bỗng Raza cảm thấy đau nhói trên đầu. Cơn đau ở phía sau, tệ hơn khi nào hết. Hắn nhắm mắt lại ; cơn đau vẫn đeo đẳng.

Cuối cùng hắn mở mắt ra, hỏi :

— Cái gì đã xảy ra ?

" Đức Ông" nói cho hắn nghe, giọng gay gắt. Ông ta nói cho hắn nghe về Effendi và Faruk Kadumi, về cái chết của Arish và về bọn đến lấy hàng đều bị bắt hết. Cuối cùng ông ta nỏi về căn cứ ở Li Bi đã bị phá hủy. Ông ta không còn giấu giếm gì với Raza hết.

— Chính bọn phục quốc Do Thái - "Đức Ông" nói tiếp bằng giọng gay gắt vô cùng - Bọn chúng gây nên. Chính Morton là kẻ tổ chức. Thế mà anh lại quả quyết với chúng tôi rằng hắn không đáng sợ. Chúng tôi đã vạch kế hoạch theo lời cam đoan của anh. Chúng tôi tin tưởng vào anh. Chúng tôi đặt hết hy vọng vào anh.

— Một mình hắn không làm nổi việc này đâu - Raza nghẹn ngào nói - Chắc là ông đại tá đã phản bội chúng ta. Bọn Do Thái đã mua chuộc ông ấy bằng con bài liên minh ở Tòa Nhà Trắng rồi. Thằng chó Appleton chắc đã nhúng tay vào. Hắn ta chắc đã cấu kết với bọn này.

— Anh đã bị phản bội từ bên trong ! - Giọng nói nghe lạnh lùng, dứt khoát.

— Bên trong à ? Tôi không hiểu, thưa Đức Ông. Bên trong à ?

"Đức Ông'' hừ lên một tiếng rồi nói tiếp : — Chính là cái con vợ của anh bị cầm tù ở Đức đấy. Người em đáng tin cậy nhất của tôi ở đấy đã báo cáo cho tôi biết nó đã được thả ra. Nó đã được đưa lên máy bay Do Thái để sang Luân Đôn. Rồi sang Paris. Nó đang hợp tác với chúng. Nó đã phản bội anh, chúng tôi chắc chắn như thế.

Cơn đau trên đầu xông lên làm cho hắn choáng váng. Không khí nóng bức khó chịu, nhưng hắn lại toát mồ hôi lạnh.

— Nó làm thế vì tiền ư ? Nó ăn hối lộ hay để được trả tiền ? - "Đức Ông" bối rối hỏi tiếp, - Cuối cùng thì hỏng hết rồi. Nó đã phản bội anh rồi.

Raza muốn hét lên. Thế rồi hắn cố kềm mình lại. Giọng hắn bình thường đáp lại :

— Không thể như thế được. Nó hoàn toàn trung thành...

— Đừng nói đến chuyện trung thành với tôi ! - "Đức Ông” rít lên - Anh đã cam đoan với tôi rằng bất kể người nào anh chọn cũng đều tuyệt đối trung thành, cũng đều răm rắp tuân lệnh anh. Nhưng anh cứ xem cái thằng khốn nạn anh cử đến Luân Đôn thì rõ thôi !

— Tôi đã thưa với ngài rồi, thưa Đức Ông, tôi sẽ thanh toán với hắn khi hắn xong việc mà.

— Bây giờ còn chưa đầy một ngày trước khi chúng ta phải đưa ra dấu hiệu gì để phát động một cuộc chiến Hồi giáo, - Giọng nói hằn học lại vang lên - Nhiều đồng sự của tôi cảm thấy chúng tôi không thể thực hiện được sau vụ thất bại của anh ở Luân Đôn. Thay vì chinh phục được kẻ thù, anh lại đi báo động cho chúng. Bây giờ chúng đã thận trọng hơn bao giờ hết. Tất cả chúng tôi đều thất vọng trước những gì đã xảy ra.

Bỗng Raza hét lên : — Này nghe đây, lão già, chưa xong chuyên đâu ! Đừng coi thường tôi, chưa hết đâu !

*

**

Khi chiếc Concorde bay trên không phận Boston, Morton vẫn còn lắng nghe những lời bàn cãi của nhóm cố vấn của Tổng thống Hoa Kỳ trên màn hình, họ tụ tập ở trong phòng điều hành ở dưới tầng hầm Tòa Nhà Trắng.

Danny, Wolfie, Michelle và Goodman đứng chen nhau sau chỗ ngồi của Morton, họ biết công lao của họ đều phụ thuộc vào những buổi hội họp bàn thảo này ở Washington.

Buổi họp bàn thảo đã bắt đầu trong khi chiếc Concorde đang còn ngoài khơi Đại Tây Dương cách đến năm trăm dặm, và Tổng thống đã gọi Morton để khen những thành tích chận đứng những âm mưu tấn công bằng vũ khí sinh học vào nước Anh và phá hủy căn cứ của Raza. Suốt chuyến bay từ Malta, ông đã nhận được những lời khen tặng của Thủ tướng Anh và của những nhà lãnh đạo các nước ở châu Âu. Morton đã nói cho họ biết công việc chưa xong. Ông đã nói đến cuộc tranh cãi hiện đang xảy ra ở phòng Điều hành có ảnh hưởng rất lớn đến công việc sắp xảy ra trong tương lai.

Mọi người đang ngồi quanh bàn họp đều chú ý đến mô hình ngôi nhà của Harmoos và vùng quê quanh ngôi nhà này.

Lại một lần nữa, Ông Chủ tịch Ủy ban Tham mưu Liên quân lại giành quyền phát biểu. Đôi vai ông ta to lớn, và người đeo đầy huy chương. Morton thấy ông ta nhìn lên màn hình, rồi quay sang Tổng thống.

— Theo quan điểm của tôi thì hiện nay quân đội đã kiểm soát được tình hình. Tôi đề nghị không quân chúng ta tấn công vào ngôi nhà của Harmoos. Chỉ hai đầu đạn phóng qua ống khói hay qua cửa sổ là đủ rồi. Chúng ta đã chứng tỏ khả năng này ở một số nơi rồi. Sau khi đã tấn công, chúng ta cho lực lượng Delta tiến vào và làm cỏ hết những kẻ nào còn sống sót.

Cả phòng Điều hành đều im lặng.

— Đây không phải như mấy nơi chúng ta đã tiến hành. - Tổng thống lên tiếng - Chúng ta không biết trong nhà có những ai. Và chắc là phải có nguy cơ mất mát nhiều.

Bất cần đến sự giận dữ của ông Cố vấn trưởng quân sự, Tổng thống quay qua nhìn hết sức chăm chú vào những ngôi nhà làm mô hình tượng trưng cho cảnh thị trấn Sweetmont.

— Chúng ta lại còn không chắc một trận tấn công bằng đầu đạn như thế sẽ tiêu hủy dược hết vi rút bệnh than. Tôi được biết là một vụ nổ thực ra lại có thể làm cho vi rút này lan rộng ra nữa.

Morton thấy Tổng thống nhìn quanh phòng, cặp mắt ông lo âu lần lượt nhìn các bộ trưởng. Giọng của Tổng thống hết sức lo lắng.

— Nếu chúng ta dùng đầu đạn bắn vào Sweetmont thì chắc là sẽ xảy ra cảnh này vào thời chiến tranh vùng Vịnh rồi. Bất kỳ nhân vật chủ trương hòa bình nào trong Quốc Hội cũng đều chống đối tôi hết. Rồi tin sẽ lan truyền ra nước ngoài, đến những nước thù địch của chúng ta. Chúng ta sẽ ăn nói làm sao với các nước về vấn đề nhân quyền. - Tổng thống lắc đầu - Tôi không thể nào chấp nhận một giải pháp quân sự như thế. Phải tìm một phương thức khác thôi.

Ông Chủ tịch Ủy ban Tham mưu Liên quân vòng hai tay trước ngực, ngồi dựa ngửa ra ghế.

— Thưa Tổng thống - Ông giám đốc cơ quan FBI nói, - Tôi có khả năng đưa hết người trong nhà ra. Nhân viên của tôi đã được huấn luyện các chiến thuật chống khủng bố, nhưng trước khi ra tay, tôi nhờ bên chính quyền địa phương cho dân chúng ra hết khỏi khu vực này. Chỉ có cách này chúng ta mới giảm thiểu được những thiệt hại về phía dân sự.

— Chính sách cho di tản dân chúng sẽ gây nên mối kinh hoàng trong quần chúng ngay - Ông Bộ trưởng quốc phòng cắt ngang lời ông giám đốc FBI - Tôi cam đoan là dân New York sẽ hốt hoảng lên ngay. Khi dân chúng ở Sweetmont đổ xô ra Manhattan, họ sẽ gây ra mối kinh hoàng trong quần chúng ngay chẳng khác nào cái ngày Orson Welles tuyên bố người Sao Hỏa đã đổ bộ vậy.

Morton nghe ông giám đốc CIA đằng hắng giọng, rồi lên tiếng : — Chúng ta giữ họ lại một nơi an toàn cho đến khi chiến dịch xong xuôi.

Ông Bộ trưởng Nội vụ lắc đầu :

— Làm thế nào khi xong việc, chúng ta lại gặp phải cảnh các luật sư chờ thời trong thành phố xúi dân Sweetmont nộp đơn kiện nhà nước vì đã bắt họ trái phép đấy.

Tổng thống lại một lần nữa nhìn quanh bàn họp. — Vậy thưa quí vị, chúng ta sẽ làm gì đây ? Phái nhân viên FBI vào ư ?

Khi nhiều người bắt đầu gật, Tổng thống bèn nhìn thẳng ông Giám đốc cơ quan Tình báo. Ông hỏi :

— Nhân viên của ông thiếu kinh nghiệm giải quyết tình huống như thế này ư ? Tại sao lại để cho bọn khủng bố đạt đến tầm cỡ như thế này ?

Ông giám đốc miễn cưỡng gật đầu. Lại một lần nữa trong phòng Điều hành không ai nói năng gì hết.

Thế rồi, lần đầu tiên từ khi bắt đầu buổi bàn thảo, Tổng thống nói với Morton : — Ông Morton! Ông đã nghe hết rồi đấy, với tình thế này ông giải quyết như thế nào ?

Morton đáp không ngần ngại : — Giải quyết với người của tôi thì được. Chúng tôi có cách chứ.

— Ống cho chúng tôi biết cách nào đuợc không ? Và tại sao ông lại quả quyết được như thế ?

— Tôi chưa tiện nói ra, thưa Tổng thống. Với tình huống như thế này, phải tùy cơ ứng biến thôi - Morton đáp.

Appleton nghiêng người định nói gì đó với Tổng thống, nhưng rồi ông ta đổi ý. Im lặng bao trùm cả phòng Điều hành.

— Thôi được - Cuối cùng Tổng thống nói - Căn cứ vào những thành tích ông đã làm, tôi quyết định giao phó việc này cho ông đấy. Tất nhiên là ông sẽ nhận được mọi sự giúp đỡ yểm trợ của chúng tôi. Và chúng tôi cầu nguyện cho ông thành công.

— Xin cám ơn Tổng thống - Morton đáp.

Sau khi màn hình đã trống trơn, Morton vẫn ngồi yên một hồi lâu.

*

**

Mặc áo quần bảo hộ, Matti đứng bên cạnh ông giám đốc phòng Cấp cứu bệnh viện Trung tâm thành phố. Trong Phòng Chẩn trị Bệnh nặng, anh nhìn đăm đăm vào người Mirian. Nàng đang ngủ mê mệt. Quanh giường nàng đầy đủ các thiết bị máy móc theo dõi, máy móc cho thấy cơ thể đang chống lại bệnh quyết liệt. Chất nước men trong chai treo ngược trên giá bên cạnh giường đang nhỏ từ từ vào mạch máu ở cánh tay nàng.

— Tôi đã gọi Luân Đôn để nói chuyện với bác sĩ Cooper như ý kiến của ông rồi - Ông giám đốc nói - Bà bác sĩ ấy yêu cầu chúng tôi tăng gấp đôi liều lượng lên. Trông có vẻ khá hơn rồi. Trong một giờ qua, sức lực của Mirian có phần đã ổn định.

— Cô ta có sức lắm, thưa bác sĩ. Đây là cơn bệnh ác liệt nhất trong đời cô ta.

— Ông cứ tin tưởng đi - Ông giám đốc nói - Ông cố tin đi !

*

**

Chiếc Beech hạ thấp trên con sông Rio Grande.

— Chào mừng đến Hoa Kỳ - Anh chàng phi công nói. Anh ta thấp nhưng rắn rỏi, mặt đầy mụn trứng cá - Ngay bây giờ, đài ra đa của trạm tuần tra biên giới sẽ theo dõi chúng ta để xác định chỗ hạ của chúng ta đấy. Nhiều gay cấn đấy.

Raza nhìn hắn chằm chằm. Đúng là loại cao bồi trên thế giới. Anh phi công cười to rồi nói tiếp:

— Đừng sợ. Tôi làm công việc này một ngày ba lần. Xong xuôi, chỉ cần hối lộ cho đội tuần tra là xong.

Raza quay lại, nhìn dòng sông ở phía dưới cửa sổ máy bay. Một lát sau, họ bay qua hàng rào dây thép phân ranh giữa Hoa Kỳ và Mexico. Trên những cuộn thép gai giăng trên hàng rào, có nhiều mảnh áo quần lơ lửng do những người Mễ trèo qua hàng rào đã để mắc vào đấy.

Mấy phút sau, chiếc máy bay đã đáp xuống trên một mặt núi đá bằng phẳng, rồi chạy đến chỗ một chiếc xe hòm đang đậu. Ánh mặt trời phản chiếu vào cửa kính màu của chiếc xe. Anh chàng phi công đưa tay mở cánh cửa bên cạnh chỗ Raza ngồi ở trước buồng lái.

— Ông phải nhảy ra thôi, thưa ông. Tiền lệ phí không trả cho bãi đâu !

Raza ném cái cặp ra ngoài, rồi chiếc Beech quay ngược lại hướng gió và tăng hết tốc lực. Vừa lúc Raza đến chiếc xe hòm thì máy bay đã cất cánh lên rồi.

Hắn vừa mới ngồi vào ghế sau xe, gã tài xế đã phóng xe băng qua vùng đất gồ ghề tiến đến một con đường mòn. Đi được một dặm, xe bắt đầu rẽ vào quốc lộ. Chạy thêm hai dặm nữa, xe vào xa lộ. Lúc ấy gã lái xe mới quay lại nói với Raza :

— Vé máy bay của ông nằm trong ví ở trong cửa. Ông Harmoos chúc ông một chuyến bay thú vị.

*

**

Morton và Matti đi quanh chiếc xe thùng hai bên có vách cao do Ban Cải Tổ Nhanh điều đến. Ở bên hông thùng xe có hàng chữ : "Công Ty Nhạc khí Hoa Kỳ".

Chiếc xe thùng đỗ ở giữa chiếc Concorde và chiếc 747 của cơ quan Tình báo từ Tel Aviv mới đến phi truờng Kennedy cách đây một giờ. Khoảng nằm trong phi trường này đã được phong tỏa và do cảnh sát cùng điệp viên Liên bang tuần tra cẩn mật, trong lúc đó trang bị trên chiếc 747 đang được chuyển xuống.

— Cơ quan FBI đã có sẵn hai trăm điệp viên túc trực - Matti nói - Vệ binh quốc gia cử đến hai đơn vị tinh nhuệ sẵn sàng ứng chiến. Chúng ta lại còn được Hải quân cung cấp trực thăng cho. Mọi người đều muốn góp tay giúp sức với chúng ta.

Morton gật đầu. Muốn tham gia là muốn có thêm ngân sách trong mùa phân bố ngân sách sắp đến Washington thôi. — Chúng ta có thể sử dụng đến trực thăng - Ông đáp , - Còn những người khác thì thôi, không cần đến.

Đi ngang qua cửa sau của xe thùng, Morton thấy Danny đang giám sát các thiết bị sắp xếp theo ý muốn của ông ta. Nửa tá kỹ thuật viên ở nhà của Matti đưa một cái thùng thấp lè tè lên trên một cái bệ, cả thùng và bệ được nâng lên trên nóc xe qua một ô vuông.

— Máy ghi âm xách tay của chúng tôi đây - Danny vui vẻ nói, vừa đưa tay vỗ vào chiếc máy kỳ lạ đã được thiết kế nhờ các tia điện tử xuyên qua được kính để nghe ngóng ở bên trong nhà.

— Harmoos vẫn không nghi ngờ gì chứ ?

— Hoàn toàn không - Danny đáp - Người của mình đi trên máy bay với hắn vừa gọi về cho biết Harmoos đang tiêu khiển bằng cách hẹn hò với cô tiếp viên hàng không. Hắn sẽ đáp xuống La Guardia trong vòng hai giờ.

— Có gì mới từ biên giới không ?

Danny nhìn tấm kẹp giấy tờ.

— Đội tuần tra từ xa đã phát hiện ra ba chuyến bay bất hợp pháp, nhưng mỗi lần họ đến, là chỉ thấy dấu bánh xe mà thôi. Bill Gates đã cho nhân viên rải dọc theo biên giới Mexico. Vẫn không thấy gì.

— Nói với họ xem cho thật kỹ vào, Danny. Chắc chắn là hắn vào theo ngõ này đấy.

Morton thấy Matti quay lại.

— Cái khách sạn có bãi để xe ra sao? - Ông hỏi.

Matti cười hết cỡ. — Tuyệt lắm, nhưng cũng phải đề phòng. Đây là loại khách sạn dành cho các thương gia qua đường gặp may bắt được bò lạc thuê phòng trong một buổi chiều.

— Tôi muốn quanh đây không có ai cơ ?

— Không sao - Matti cam đoan - Tôi đã đăng ký thuê hết trong hai ngày. Lại còn cho thêm tiền phụ trội nữa. Như thế là ông đủ biết chỗ này ra sao rồi. Nhân viên đều làm việc vất vả. Anh chàng quản lý tên là Toni Benton, hắn là một tay bợ đỡ tồi tệ. Không ai đáng ngại hết.

Morton nhìn nhiều thiết bị nữa đang được chuyển từ hầm tàu máy bay ra và được mang đến xe thùng.

— Chúng ta không cần ngày thứ hai đâu, Matti - Ông nói - Chúng ta thanh toán xong sớm chừng nào, thì anh càng sớm về với Mirian chừng nấy thôi.

Trước khi Matti kịp đáp, Morton đã quay về phía Wolfie, Michelle và Shema, họ đã bước xuống cầu thang chiếc Concorde. Cặp mắt của Shema thâm quầng. Suốt chuyến bay từ Li Bi tới, chị đã ngồi một mình trong ca bin dành cho Thủ tướng. Khi ông đi qua đấy để vào buồng lái, Morton nghe chị cầu nguyện cho Nadine.

Họ cùng bước đến dãy xe hơi đang đậu trên sân bay. Trên cửa xe đều có in nhãn hiệu Nhạc Khí.

Nhiều xe đã đầy lính của Goodman rồi. Trong suốt chuyến bay, họ đã thay áo quần dân sự và trông họ như vừa trong hộp đêm ở Tel Aviv mới bước ra. Goodman mặc áo sơ mi thể thao trắng, quần Levis bó sát, ông ta là người chất thùng đựng nhạc cụ cuối cùng vào thùng xe. Mỗi thùng nhạc cụ như thế đều chứa vũ khí và đạn dược.

— Cô có khỏe không ? - Morton hỏi Shema.

— Khỏe.

Ông liếc nhìn chị. — Tôi không tin đâu. Nhưng có lẽ rồi ổn hết.

— Nó không còn là đứa em gái như ngày xưa nữa. Chính hắn đã làm cho nó hư hỏng. Nhưng tôi không muốn nói đến chuyện đó nữa - Chị nói một hơi thật nhanh.

Họ lặng lẽ đi. Rồi Shema chỉ vào hàng nhãn hiệu, chị hỏi : — Nhãn hiệu có ý nghĩa gì thế?

Morton nhún vai. — Chúng ta sẽ làm một công việc rất tuyệt. Chúng ta kinh doanh âm nhạc. Kinh doanh thứ phát ra âm thanh để khỏa lấp những bất tài của con người đi.

Họ bước đi một đoạn nữa, Shema lại hỏi :

— Bây giờ ông muốn tôi làm gì ?

— Khi đến đấy, cô hãy ở gần bên tôi. Tôi đi đâu, cô đi đó.

Chị quay qua ông :

— Ông biết luật lệ của sa mạc rồi chứ, ông David? Người Do Thái hay Ả Rập đều như nhau. Dĩ oán trả oán. Tôi muốn tìm cơ hội để giết Raza.

Morton nhìn vào ánh mắt của chị, rồi ông lắc đầu.

- Ở đây không nên đặt vấn đề về tư thù cá nhân, Shema à. Chắc trước đây cô đã rõ rồi. Nếu có cơ hội, cô cứ giết hắn. Nhưng phải hành động theo mọi quy luật của cuộc hành quân của chúng ta. Tôi không những mong muốn hắn chết, mà tôi còn muốn tiêu diệt luôn cả mối đe doạ của hắn nữa. Diệt bỏ mối đe doạ ấy là mục tiêu hàng đầu!

Chị quay nhìn đi chỗ khác để ông không thấy đuợc mặt chị. Rồi chị gật đầu.

Lou Panchez ngồi sau tay lái một chiếc xe. Anh mở cửa trước xe ra. Ông nói :

— Cô có muốn đi cùng xe với tôi không ? Tôi đã chọn một số nhạc của Kuwait rất hay mà cô thường nghe đấy.

Shema mỉm cười. — Thật là một đề nghị quá tuyệt.

Morton thấy Danny đang đứng trên cửa sau chiếc xe thùng, ông ta đưa một bàn tay lên rồi lấy ngón cái và ngón trỏ làm thành một vòng tròn. Matti đã ngồi vào tay lái của xe anh. Anh sẽ lái xe dẫn đầu.

Đoàn xe của Công ty nhạc khí bắt đầu chạy qua sân bay rời khỏi phi trường. Hai mươi phút sau, họ đã ra xa lộ cao tốc Connecticut Expressway và hướng về khách sạn có bãi đậu xe Stay In Style.

*

**

Khi chuyến bay Liên Hiệp bay ra khỏi Chicago để đến La Guardia, cô nữ tiếp viên đem sâm banh đến cho Raza. Hắn lắc đầu và nhắm mắt lại. Cô ta cắm một cây cờ bằng giấy đỏ bên cạnh chỗ ngồi của hắn, để nhắc nhở mọi người chớ quấy rầy ông khách.

Cơn giận dữ và căm thù đã làm cho đầu Raza đau nhức khi chuyến bay từ Texas cất cánh, đã biến mất. Hắn không còn cảm thấy con quái vật có nhiều đầu rắn, toàn cả mặt của Morton, đang chờ để phục kích hắn nữa. Khi chiếc máy bay vượt qua những cánh đồng ở Illinois, thì hắn cảm thấy yên ổn hoàn toàn.

Những gì xảy ra ở Li Bi "đã" tiêu tan hết. Mọi người đều chết hết, mọi thứ đều bị tiêu diệt. Bọn phục quốc Do Thái ít khi bắt tù binh lắm.

Chắc là hắn đã mất Nadine rồi. Nhưng hắn sẽ tìm ra một cô gái khác để uốn nắn theo ý hắn. Có nhiều em gái sẵn sàng lắm.

Rồi hắn sẽ tìm một căn cứ mới. Hắn đã tìm một căn cứ mới sau khi bị đuổi ra khỏi nam Li Băng, rồi lại tìm một căn cứ mới nữa sau khi thằng cha mê Quỷ Satan ở Damascus ra lệnh cho hắn rời khỏi Syria, rồi sau đó một lần nữa khi tên thủ lĩnh ở Irắc đã tỏ ra là một sứ giả tồi. Bây giờ thằng cha lãnh tụ Tối cao ở Li Bi này lại cũng tỏ ra là kẻ chạy theo bọn Quỷ Mỹ nữa. Tùy thời mà hợp tác. Rồi sẽ có lúc một kẻ thân tín sẽ đề nghị dành cho hắn chỗ trú thân. Có lẽ rồi những nhà lãnh đạo của Yemen hay Ethiopia sẽ cung cấp chỗ cho hắn làm căn cứ. Hay là Sudan, hay là Somalia, vẫn có nhiều nơi để làm chỗ dung thân cho hắn, rồi ở đây hắn sẽ tái quy tụ mọi người, mọi người sẽ lại tìm đến với hắn. Họ sẽ tìm đến.

Còn chuyện xảy ra ở nước Anh "quả là" một tai họa hết sức lớn lao. Nhưng cứ nghĩ mãi đến việc ấy chỉ thêm mất thì giờ và thêm mất sức.

Còn Shema ? Hắn sẽ giải quyết với cô ta. Nhưng chỉ sau khi hắn đã làm xong công việc. Và cho dù cô ta có nói gì cho bọn Do Thái biết đi nữa, thì cô ta cũng không thể nào tiết lộ cho chúng biết chuyện đã xảy ra ở Mỹ cả.

Mặc dù đã gặp phải nhiều chuyện trắc trở, hắn vẫn còn cơ hội thành công. Mặc dù đã xảy ra chuyện không may ở Luân Đôn và Athens, nhưng kẻ thù sẽ không biết chắc là hắn có bao nhiêu chai vi rút. Chuyện họ không biết chắc này là sức mạnh của hắn. Hắn sẽ đánh theo phương pháp hắn thường dùng, đó là nhanh, táo bạo, dữ dội như hắn đã hành động trong quá khứ khiến cho kẻ thù của hắn bất ngờ trở tay không kịp và khiếp sợ.

Trước viễn cảnh dó, Raza cảm thấy phấn khích trong người, hắn nhắm mắt lại và thiu thiu ngủ trong khoang hạng nhất của chiếc máy bay 747.

*

**

Tổ của Morton ổn định công việc rất nhanh. Trong vòng hai giờ là họ đã bày biện xong các đồ mẫu, từng dãy máy khuếch đại và nhạc cụ điện tử của công ty Nhạc khí ở trong phòng khánh tiết của khách sạn có bãi xe đậu. Máy móc thiết bị cũng không khác gì những máy móc tân thời ở trong vùng hết ; vì chúng đã được ông Trưởng ban Cải Tổ Nhanh mua của một đại lý bán sỉ ở Queens.

Trong lúc việc trưng bày đang tiến hành, thì ông Trưởng ban đã trang hoàng tiền sảnh của khách sạn bằng bìa các tông có gắn những ảnh của các ban nhạc trẻ đang sử dụng thiết bị của Công ty Nhạc khí. Khi nhân viên trong khách sạn cho biết họ không nhận ra được một ban nhạc nào cả, thì ông trưởng ban cười một cách bí hiểm, như là lỗi của họ không biết mà thôi.

Tom Benton, viên quản lý khách sạn, liền chê Nhạc khí là một công ty quá keo kiệt. Bởi vì nhân viên của Công ty chỉ đến quầy rượu để mua nước ngọt mà thôi, và chọn những món ăn rẻ tiền nhất trên thực đơn, và không hề gọi điện thoại qua tổng đài. Rõ ràng một số đều là nhạc sĩ. Họ đi đâu đều xách kè kè theo hộp đựng nhạc cụ. Và tất cả bọn họ đều như đang chờ đợi một cái gì sắp xảy ra. Ngoại trừ ông giám đốc, ông Alexander.

Ông ta đúng là cái đi na mô : cứ đi vào đi ra, đi lui đi tới nơi chiếc xe thùng đã chiếm chỗ của nhiều chiếc xe hơi ở trong bãi đậu xe. Ông Alexander cũng có dáng dấp khẩn trương như thế, cũng có khả năng bao quát như thế.

Một phút trước đây, ông đã có mặt ở phòng tiết, ông ta tỏ ra rất nhân từ. Bây giờ thì ông lại ra ngoài xe, nói chuyện rất hăng hái với ông Skorous, phó giám đốc công ty, ông ta đeo một miếng băng trên mắt như một tấm phù hiệu trong văn phòng. Đứng với nữ Ả Rập xinh đẹp mê hồn và thỉnh thoảng Benton đã thấy đi với ông Harmoos.

Cứ nghĩ đến chuyện này, lại thấy đám nhân viên của Công ty Nhạc khí có nét gì ra vẻ là dân Trung Đông quá. Họ cũng có thái độ dè dặt, cảnh giác mà ông quản lý đã từng bắt gặp trong nhiều người Ả Rập làm việc cho ông Harmoos.

Trừ trường hợp của Nuri, phụ tá của ông Harmoos. Bất kỳ khi nào anh ta đến, là anh luôn luôn dành thì giờ để nhậu nhẹt, chuyện trò huyên thuyên. Và khi nào anh ta cũng buốc boa rất rộng rãi. Hai ngày trước đây, Nuri đã điện thoại đến hỏi xem có ban nhạc trẻ nào đã đăng ký đến ở tại khách sạn này không : để họp mặt, để diễn thuyết, để cùng nhau vui chơi. Anh ta phân trần rằng ông Harmoos sắp sửa tổ chức một buổi tiệc cho nhân viên và ông ta không muốn chạm trán với bất kỳ đám nào đăng ký đến ở đây hết.

Nhìn ông Alexander và những người khác leo lên xe thùng, Benton liền nhấc điện thoại lên. Khi điện thoại reo, chiếc xe đang chuyển bánh ra khỏi bãi đậu xe.

*

**

Morton và Shema theo Danny chui qua ô ván trượt ở đàng sau chỗ ngồi của tài xế vào phía sau xe. Đã có nửa tá kỹ thuật viên ở đấy rồi, người đứng kẻ ngồi xổm trước những thiết bị để trên giá mắc dọc theo các vách xe. Chiếc súng bắn tia điện tử chiếm hầu hết cả phần giữa sàn xe.

— Máy này giúp chúng ta tiếp xúc với Washington và Tel Aviv - Danny giải thích - Muốn gặp Tổng thống, ta chỉ bấm hai lần. Chúng ta gọi thẳng đến phòng Bầu Dục và buồng ngủ của Tổng thống...

Morton thấy có một tờ giấy gắn trên nút bấm để gọi đến Tòa Nhà Trắng hàng chữ "không qua Appleton". Sau đó Danny chỉ một tấm bảng tổng đài nho nhỏ.

— Đây là để gọi CIA, FBI, Vệ binh quốc gia. Chỉ cần nhấc điện thoại lên thôi, không cần phải bấm số. Chúng ta đã có những đường dây nối thẳng thường xuyên rồi.

Ông quay lại chỉ một hàng máy ghi âm nằm dọc theo một vách xe. Trước mặt cái máy này có mấy kỹ thuật viên đeo máy nghe đang ngồi ở phía trước. Nhiều máy nghe còn dư treo trên móc ớ vách xe. Gắn vào một bên vách xe là một bản sơ đồ kiến trúc với quy mô lớn có nhãn ghi "Tòa nhà của Harmoos".

— Lou đã kiếm ra được bản này đấy - Danny nói - Anh ấy đã dụ viên kiến trúc sư tin tưởng anh ấy sẽ giới thiệu tóm tắt tiền sử của hắn trên một tờ báo thương mại, thế rồi anh dông luôn và chúng ta nhờ thế mà có để dùng đấy.

Morton quan sát bản vẽ trong khi Danny vẫn nói tiếp :

— Chúng ta kiểm soát được tất cả các điểm điện thoại. Nhân viên tình báo của chúng ta đã gài máy nghe quanh nhà, ở trong ruộng ngô, ở sau nhà sửa chữa xe cộ. Chúng ta có thể bật nút để nghe chúng nói chuyện ở phòng nào cũng được.

— Còn các cửa chớp ở cửa sổ thì sao ?

Danny cười xòa.

— Chắc Harmoos tưởng là bảo đảm lắm. Người của mình báo cho biết cửa chớp làm bằng thép cuốn. Ta đã có thứ này để trị rồi.

Ông ta cúi xuống mở một cái thùng dài để trên sàn xe ra. Bên trong là một khẩu phóng lựu chống xe tăng.

— Có người gọi vào ở điện thoại số ba - Một kỹ thuật viên báo cáo.

Morton nhìn lên bản đồ. Điện thoại số ba ở trong nhà bếp của Harmoos.

Giọng một phụ nữ trả lời điện thoại.

— Có ông Nuri ở đấy không ? - Benton hỏi.

— Ông ấy bận việc rồi.

— Nhờ cô nhắn giúp được không ?

— Nhắn gì ?

— Nói với ông ấy là ông Benton có gọi đến cho biết chúng tôi hiện đang cho một Công ty thuê khách sạn trong hai ngày. Sau đó thì ông Harmoos thuê để mở tiệc lúc nào cũng được.

Người phụ nữ gác máy mà không nói một lời.

Trong xe, Morton nhìn Shema.

— Lila đấy - Chị đáp.

— Đúng thế - Morton cười.

*

**

Việc anh chàng quản lý khách sạn gọi điện thoại đến đã làm tăng thêm cơn giận dữ của Lila từ khi chị đến ngôi nhà này.

Những người này đều là một lũ điên thật nguy hiểm. Trước hết, Harmoos đã bỏ nhà ra đi ngay trước khi chị ta đến. Rồi đến Nuri, cái thằng khốn nạn kiêu căng, tự cho là người có trách nhiệm trong nhà, đã dám nói với chị rằng ông Harmoos phải đi làm những công việc quan trọng khác. Có công việc nào quan trọng hơn việc khai hỏa những phát súng đầu tiên mở màn cho một cuộc chiến tranh Hồi giáo vĩ đại nhất trên thế giới để mở mắt bọn ngoại đạo ra ?

Nhưng cứ nhìn những gì đã xảy ra đi ! Trước hết tin tức từ Luân Đôn, rồi bây giờ đến Li Bi, khiến cho chị không thể nào tin cho nổi, chị đã nghe cái thằng chó đẻ Faruk Kadumi ấy cho biết. Hắn được một nhân viên của Raza ở Algerier cho biết hai tai họa ấy khi hắn đổi chuyến bay ở đấy ; Faruk Kadumi đã đến Sweetmont trong tình trạng suy sụp tinh thần. Sau khi đã hỏi han tin tức xong, chị ta bảo hắn xuống tầng hầm để giúp cái lão điên Israel ấy. Trong một vài giờ nữa, họ sẽ chiết đầy hết các chai nhỏ. Rồi đích thân chị sẽ giết chúng, chị ta cũng thích giết luôn cả Nuri. Hắn cũng đáng chết lắm, vì đã để cho hai thằng kia vào nhà, quả thật hắn quá ngu ngốc. Chị ta đã bảo hắn đi kiểm tra lại xem. Công ty vỏ xe mà hai người này tự xưng là đại diện, ở đấy đã xác nhận danh tánh trong các tấm thiếp kinh doanh đúng là nhân viên của họ. Nhưng Nuri, vì ngu ngốc, đã không kiểm tra phần miêu tả để hình các nhân viên của công ty so với vóc dáng của hai gã đàn ông gọi đến. Khi chị ta nói hắn gọi hỏi lại thì hắn từ chối, nhìn chị cười bối rối và nói rằng làm như thế chỉ tổ gây nên mối nghi ngờ mà thôi.

Thanh toán bọn này xong mới dễ chịu được.

Nhưng trước mắt chúng còn phải làm việc đã. Cố trấn tĩnh, Lila đem tin nhắn của Benton đến báo cho Nuri biết.

*

**

Chiếc xe thùng từ từ chạy dọc theo những con đường qua Sweetmont. Sau xe, Morton và Shema lắng nghe tiếng nói chuyện của Lila sau khi Benton gọi đến. Câu chuyện được ghi nhận là đang xảy ra ở dưới tầng hầm của ngôi nhà. Chị ta hỏi ai đó rằng còn bao lâu nữa, rồi giọng đàn ông đáp lại rằng vội vàng quá sẽ rất nguy hiểm. Rồi có giọng của một người đàn ông thứ hai, giọng kiêu kỳ hạ cố, nói rằng vội vàng quá thì sẽ hỏng việc.

Morton nhìn Shema. Chị vội lắc đầu. Chị không nhận ra giọng của hai người đàn ông này. Thế rồi có giọng một người đàn ông thứ ba càu nhàu nói rằng chị ta ra ngoài sớm chừng nào thì họ có thể hoàn thành nhanh từng nấy được.

— Khoa học kỹ thuật kỳ diệu ! - Morton lên tiếng, mặt ông rạng rỡ . Không còn lầm lẫn gì nữa, đúng là giọng của Faruk Kadumi.

*

**

Wolfie nhận ra Rachid Harmoos khi hắn bước ra khỏi chuyến bay Phương Đông từ Miami tới. Chàng trai bán thảm Phương Đông cười ra dấu cho anh, gã tài xế chiếc xe hòm cúi chào và kỳ cọ chiếc xe báo hiệu cho anh hay. Tất cả đều đã được hứa hẹn tiền thù lao hậu hĩnh.

Trong lúc anh tài xế cho xe dừng lại trước cổng sân bay, thì Michelle vấp té khi nàng đi quá chiếc xe hòm của hắn đang đậu. Thời gian đủ lâu cho nàng dán một máy phát sóng có hình cái dĩa vào dưới thùng chiếc xe hòm, máy chỉ nhỏ bằng đồng xu.

Khi chiếc xe hòm rời khỏi phi trường đã hướng về đường cao tốc, thì Lou lái chiếc Ford Tempo len lỏi qua xe cộ trên đường, chạy sau chiếc xe hòm cách vài chiếc xe khác. Michelle chỉnh ống nghe ở máy nhận để nghe cho rõ. Giọng nói của Harmoos nói chuyện với anh tài xế trong xe hòm vang lên trong máy.

Khi họ chạy đến xa lộ, Harmoos bảo anh tài xế nâng cửa sổ ngăn trong xe lên. Wolfie và Michelle nghe tiếng bấm số trên điện thoại.

— Aiwa - Lila lên tiếng.

— Tôi sẽ gặp cô trong vòng bốn mươi phút nữa - Harmoos trả lời bằng tiếng Ả Rập - Tất cả đều vô sự chứ ?

Cô nàng đáp lại bằng âm thanh khàn khàn, bực bội.

— Có gì xảy ra à ?

Cô ta nói cho hắn nghe : Nào là chuyện xảy ra ở Luân Đôn và Li Bi ; nào là chuyện hai anh chàng ở Công ty vỏ xe hơi đến thăm và cuộc gọi của Benton.

— Cho tôi gặp Nuri !

Trong xe, họ nghe máy điện thoại trong nhà gác xuống, rồi lại nhấc lên tức thì.

— Salaam Alaikum.

— Anh nói chuyện bá láp gì với Benton đấy, Nuri ?

— Tôi nghĩ là sau khi xong việc, chắc ông sẽ mở tiệc ăn khao...

— Mày là thằng điên Nuri à - Harmoos ngắt lời hắn, - Tao không dung chứa mấy thằng điên đâu nhé.

Michelle và Wolfie nhìn nhau, mỉm cười.
 
Chương 30


Người dịch: Văn Hòa - Kim Thùy

Nhà xuất bản: NXB Thanh Niên

Shared by: CCG -

Hai giờ đã trôi qua. Giới hạn thì giờ của Raza chỉ còn năm giờ nữa.

Trong xe, Morton mải miết quan sát sinh hoạt của toàn ban, nhưng chốc chốc ông lại đứng khựng người lại. Vấn đề ông lo lắng là : thời gian. Giả dụ Raza không đến thì sao nhỉ ? Trong quá khứ đã biết bao lần rồi, Raza chỉ tổ chức cho kẻ khác hành động mà thôi. Morton cảm thấy ê ẩm cả người khi nghĩ đến khả năng này. Ông biết ông đã làm tất cả theo khả năng của mình rồi.

Hết sức cẩn thận theo con đường đã hoạch định do Morton đưa ra, anh tài xế xe thùng cứ lái xe theo một con đường ở vùng ven, rồi lại sang một con đường khác. Ông thường nhìn vào tấm bản đồ rất lớn trải rộng trên đầu gối để bảo đảm xe không quẹo vào chỗ có thể đem ông đến gần cái địa điểm có đánh dấu chữ "T" dưới ba dặm. Chung quanh chữ T này, Morton đã phác thảo trên bản đồ chu vi mục tiêu của khu bất động sản Harmoos.

Mọi người trong xe đều căng thẳng ra mặt, sau khi Morton đã nghe Goodman báo cáo công việc của Trung đội ông trong phòng khánh tiết của khách sạn. Sau đó, ông gọi Tel Aviv và Washington để báo cáo công việc, cho Thủ tướng Karshov và Tổng thống Hoa Kỳ nghe.

Danny liên lạc thường xuyên với chiếc xe kiểm soát của cơ quan FBI đậu cách đấy năm dặm ở phía tây Sweetmont. Ở đấy gồm có các điệp viên Liên bang và những đơn vị Vệ binh Quốc gia.

Khung ô vuông ở sau chỗ ngồi của anh tài xế xe thùng, đã được nới cho mở rộng ra, để một kỹ thuật viên có thể dùng một camêra đặt trên cái giá ba chân, camêra được nối thẳng đến một màn hình giám sát. Anh ta sẽ thu hình tất cả xe cộ chạy trên đường chiếu vào màn hình. Trên những con đường khác ở khu vực, có hai chiếc xe tải nữa của Ban Cải Tổ Nhanh cũng đang làm nhiệm vụ như vậy.

Những cuộn băng sẽ được chuyển đến xe thùng của FBI. Ở đây, một tổ điệp viên sẽ kiểm tra số đăng ký của mỗi xe, đồng thời những người khác lại làm nhiệm vụ khó khăn hơn là trích ra hết những khuôn mặt trong những cuộn băng viđêô do camêra quay được. Những khuôn mặt này in thành ảnh rồi chuyển đến cho các máy vi tính của FBI và CIA ở Washington. Những bản sao cũng được gởi đến cho Lester Finel ở Tel Aviv. Chưa có một kết quả điều tra nào về việc này báo cáo lại cho Morton biết hết.

Cách một giờ rồi, một kỹ thuật viên trong xe thùng đã quay được chiếc xe hòm khi chiếc xe đi vào địa phận của Harmoos. Mấy phút sau, anh cho máy ngưng hoạt động khi thấy Wolfie và Michelle lái xe qua.

Kể từ khi ấy, lực lượng xe cộ ít đi, nhất là số xe vào ra Sweetmont, thế rồi, trong mấy phút qua, máy camêra lại quay cảnh những chiếc xe Taxi Day Nite tụ tập về địa phận của Harmoos. Cả đoàn xe hình như hướng về đấy.

Ngồi xổm trên sàn xe, Morton theo dõi cơn giận dữ của Harmoos bùng ra vừa khi hắn mới đặt chân vào nhà. Mới bước vào tiền sảnh là hắn đã nổi cơn thịnh nộ rồi, hắn vào thư viện rồi qua phòng ăn, vào phòng khách, đến đâu hắn đem theo cơn giận dữ đến đó. Cơn giận của hắn như cơn cuồng phong, tăng thêm sức mạnh khi Harmoos đi từ phòng này sang phòng khác. Bây giờ thì hắn về lại thư viện, và hắn la lối như một thằng cha bị ma ám. Hắn hét toáng lên :

— Hai cái thằng ấy là mật vụ của tên Đại Quỷ đấy ! Làm sao mà mày biết chúng không gài máy nghe lén, hả ? Đồ điên, tại sao ?

— Tôi đã kiểm soát cả khu nhà rồi, thưa ông Harmoos! - Nuri luống cuống nói.

— Hãy xem lại đi. Đồ khốn nạn !

Qua máy nghe đeo ở tai, Morton nghe một tiếng rầm rất dữ dội đến điếc tai. Trong thư viện, Harmoos đã hất cả một kệ sách gáy bọc da rất đẹp xuống nền nhà.

— Hãy kiểm tra từng kệ sách ! Từng cuốn sách! Xé thảm trải nhà! Kiểm soát khắp nơi đi!

— Dạ, thưa ông Harmoos.

Bỗng giọng của Lila vang lên trong máy nghe của Morton :

— Chỉ mất thì giờ thôi, thưa ông Harmoos ! Hai thằng này chỉ đến đây có vài phút thôi. Nuri là một thằng điên khi cho chúng vào nhà. Nhưng chúng không có cơ hội để lại cái gì đâu, cho nên đừng phí thì giờ vào chuyện này làm gì vô ích.

Trong xe, Morton cười vui vẻ. Ông vỗ vào ống chân của một kỹ thuật viên.

— Theo tôi thì tất cả chúng ta đều thích nghe cảnh này, phải không Chaim ?

Người kỹ thuật viên bật nút máy ghi âm cho chạy. Trong máy lại phát ra giọng giận dữ đang bừng lên.

— Im mồm đi, cô gái kia ! - Harmoos rít lên - Bộ cô quên cô đang nói với ai hả ?

Trong xe lại vang tiếng giận dữ của Lila đáp lại : — Tôi biết tôi đang nói với ai chứ ! Với một kẻ điên ! Một ông chủ của bọn điên ! Chỉ có kẻ điên mới bỏ đi Miami vào lúc như thế này. Chỉ có một kẻ điên mới chọn một kẻ điên khác như lão Ismail này để giao cho hắn làm công việc quan trọng như vậy. Gặp khi khác thì chắc chắn là những chuyện điên như thế này sẽ không được tha thứ đâu.

— Ismail - Morton nói - Thì ra tên hắn là vậy !

Lại một cơn giận dữ khác vang lên khắp xe.

— Im đi, cô kia ! - Harmoos hét lên - Không có tôi thì các người lấy đâu ra tiền để thực hiện những công việc này ?

Morton đứng dậy, tựa người vào vách xe, hai tay khoanh trước ngực, nụ cười trên môi tươi tắn hơn bao giờ hết.

Mọi người lại nghe cơn thịnh nộ của Lila bùng lên : — Ông đã đến thăm dân tộc tôi lần cuối khi nào ? Không phải dân của ông đâu. Mà của tôi! Để thấy "chúng tôi" sống ra sao. Để nghe những nạn nhân của bọn Do Thái la hét lên ! Ông đến chia sẻ nỗi đau đớn của "chúng tôi" lần cuối khi nào ? Ông đã nghe tiếng khóc của trẻ em "chúng tôi" mỗi lần chúng nghe tiếng máy bay của kẻ thù chưa ? Ông đã nghe tiếng bom nổ lần cuối khi nào ? Hay là ông có nhớ ông có nghe tiếng nổ nhưng mà ông vẫn còn sống không ?

Giọng Lila vẫn tiếp tục gào thét :

— Ông có biết trình trạng bị chôn vùi nhiều ngày mà không biết mình có được cứu ra hay không ra sao chưa ? Ông đã bao giờ thấy được những trẻ em nằm chết, lưng đầy vết đạn chưa ?

Morton nhìn Shema. Chị nhìn chằm chằm vào cái loa. Trong chiếc xe vẫn vang lên tiếng nói của Lila.

— Ông có biết chúng đã làm gì trong dịp Lễ Giáng sinh vừa rồi không ? Chúng đã hóa trang những quả bom thành những gói quà. Chúng để ở chỗ nào mà chúng biết trẻ em của chúng ta sẽ tìm ra. Không phải trẻ em của ông mà là của "chúng tôi" ! Ông tưởng đồng tiền của ông sẽ giải quyết được hết à ? Ông tưởng vì ông chi tiền là ông có tất cả à ? Ông có biết gì không, hả đồ điên !

Có tiếng đóng mạnh cửa. Những người trong xe không tài nào biết được là do Harmoos hay Lila đóng cửa. Ngay sau đó một kỹ thuật viên nói :

— Có tiếng gọi vào.

Morton chụp lấy một máy nghe, rồi đưa cho Shema một máy. Giọng nói một phụ nữ mà Matti đã xác nhận với Morton là cô gái giúp việc đã trả lời điện thoại.

— Salaam Alaikum - một giọng đàn ông vang lên, rồi cắt máy.

Morton nhìn Shema. Chị gật đầu.

*

**

Raza lái xe đúng với tốc độ cho phép. Buổi chiều trời âm u ảm đạm, giống như một ngày mùa đông ở Beirut vậy. Thỉnh thoảng hắn lại nhìn cái bản đồ do công ty cho thuê ở La Guardia cung cấp theo xe. Nhưng dấu hiệu chỉ các đường cao tốc thì lại quá nhiều, và con đường rẽ vào Sweetmont đã được dựng cột ghi bảng rõ ràng rồi.

Hai lần cảnh sát thổi còi đã làm cho bắp thịt của hắn cứng đờ ra. Nhưng chiếc xe cảnh sát đã chạy qua, đi theo hướng khác. Để cho vững tâm, hắn đã mở rađiô để nghe một đài địa phương đang phát tin.

Đến ngõ rẽ ra Sweetmont, hắn nghe một bản tường trình cho rằng sẽ có một cuộc hòa đàm về hòa bình Trung Đông. Hắn thấy máu dồn lên mặt và hắn phải cố gắng để giữ bình tĩnh.

Không thể nào có hòa bình được cho đến khi bọn phục quốc Do Thái bị đẩy hết ra biển. Những quả hỏa tiễn của Irắc đã cho thấy khả năng đó. Chỉ có đầu đạn Scud rơi vào Tel Aviv mới làm cho bọn Do Thái run sợ mà thôi. Chỉ có thằng quỷ Mỹ mới có thể cứu được chúng. Đấy cũng là lý do khiến hắn phải trả thù thằng quỷ Mỹ. Và sau khi đã trả thù được rồi thì đừng hòng mà nói đến chuyện hội thảo hòa bình.

Raza nhìn lên bản đồ lần nữa, rồi rẽ qua phải. Một chiếc xe thùng đang chạy đến phía hắn. Raza liếc nhanh nhìn chiếc xe khi nó đi qua.

Chạy thêm một dặm nữa, hắn giảm tốc độ khi đến một ngã tư để rẽ qua phải, thì một chiếc xe vượt qua, có một cặp nam nữ ngồi ở phía trước. Qua khỏi ngã tư thêm một dặm nữa, hắn quẹo xe chạy vào địa phận của Harmoos.

*

**

Trong xe thùng, Morton an ủi anh kỹ thuật viên, anh lấy làm xấu hổ vì để cho máy camêra viđêô bị hỏng, anh loay hoay tháo tung các bộ phận bên trong máy ra. Ông nói với anh :

— Chuyện thường thôi, ai cũng gặp phải cả mà, Benjy.

— Nhưng đây là lần đầu tiên chuyện như thế này xảy đến cho tôi, thưa đại tá. Tôi đã kiểm tra máy móc cả nửa giờ mà. Vậy mà vẫn như thế này đây.

Chiếc camêra bị trục trặc cách đây mấy phút.

Đằng sau xe, Danny lắng nghe qua máy đeo bên tai rồi ông ta gật đầu. Ông ta bèn quay lại gọi Morton.

— Michelle đã thoáng thấy hắn. Hắn đeo kính, nhưng đúng là vóc dáng và màu da của hắn.

Môt lát sau Matti gọi vào :

— Xe Chrysler, hai cửa màu xanh. Tài xế quẹo vào khu vực của Harmoos.

Morton cười với anh kỹ thuật viên.

— Anh thấy chưa, Benjy, cuối cùng rồi cũng tốt thôi.

Morton quay qua Danny, yêu cầu ông ta ra lệnh cho những xe hơi Nhạc khí đến điểm tập kết, và báo cho chiếc xe thùng của FBI biết những gì đang xảy ra.

*

**

Raza tức tốc đi đến chỗ Faruk Kadumi và Ismail đang làm việc. Hắn hỏi độc nhứt có một câu : "Bao lâu nữa ?". Faruk Kadumi trả lời họ sẽ xong trong vòng một giờ nữa. Không nói thêm một lời, Raza bước ra rồi đến phòng làm việc của Harmoos. Lila, Nuri và nhà triệu phú đang đợi hắn ở đấy.

— Xin báo cho anh biết, tất cả đều xong xuôi rồi - Harmoos lên tiếng - Trước hết là tôi xin lỗi đã để cho công việc chậm trễ. Nhưng vì chính "Đức Ông" đã chỉ định cái thằng khốn kiếp Ismail này - Harmoos đằng hắng giọng rồi hắn nói tiếp, giọng trơn tru - Tôi xin phép được chia buồn với anh về vụ rủi ro xảy ra ở Li Bi. Anh cứ yên tâm, tôi xin được hân hạnh cung cấp cho anh vốn liếng cần thiết để anh xây dựng lại căn cứ khác.

— Chúng ta sẽ bàn đến chuyện ấy sau - Raza đáp - Chỉ xin anh cho biết chuyện đã được thu xếp như thế nào thôi.

Harmoos gật đầu ra dấu cho Nuri, tên này nhìn vào tấm kẹp giấy tờ rồi nói : — Mỗi tài xế sẽ rời khỏi đây cứ cách nhau hai phút. Họ sẽ đến bảy phi trường trong vùng. Tại mỗi nơi sẽ có phi cơ trong công ty máy bay tư của ông Harmoos chờ đợi sẵn. Họ đã có kế hoạch bay đến những thành phố đã được ấn định rồi. Đó là những thành phố Detroit, Chicago, Houston, Washington D.C., San Francisco, Los Angeles và Seattle. Nhân viên trong công ty vận tải của ông Harmoos sẽ đợi ở tại mỗi sân bay để nhận hàng. Đúng tám giờ sáng, giờ địa phương, mỗi hàng được giao đó sẽ được rải vào những mục tiêu đã chỉ định. Tại Detroit, vi rút sẽ được rải vào nhà máy dây chuyền chính của hãng Ford. Tại Chicago, các khu thị trường chứng khoán, ở San Francisco, tại khu tài chính, ở Los Angeles, vi rút sẽ được thả tại Burbank. Ở Seattle, nhân viên của chúng tôi bảo đảm sẽ thả vào nhà máy Boeing. Ở Houston thì tại chỗ ở của cơ quan NASA. Mỗi nơi như thế chúng tôi sẽ sử dụng hệ thống cấp nước và cho vào các máy điều hòa không khí...

— Phải chọn những mục tiêu nào có khả năng gây nên sự kinh hoàng thật lớn - Harmoos cắt ngang lời hắn - Nên chọn những mục tiêu đặc trưng của Mỹ để đánh sao cho gây được thiệt hại về các mặt : tiền bạc, uy tín, thực phẩm và giao thông. Vụ Trekfontein đã cho thấy phương pháp rải vi rút rất lợi hại, rất có hiệu quả.

— Còn ở Washington thì sao ? - Raza hỏi.

— À, Washington - Harmoos nói nho nhỏ. Hắn gãi sau một lỗ tai rồi cười, đây là lần đầu tiên hắn cười từ khi Raza bước vào phòng : - Trình bày đi, Nuri.

— Ở Washington, vi rút sẽ được rải dưới hình thức dùng một chiếc máy bay nhỏ được điều khiển từ xe phóng lên ở vùng ven ở Tòa Nhà Trắng. Lính canh gác thế nào cũng bắn hạ chiếc máy bay nhỏ ấy. Chính chúng sẽ mang lại sự hủy diệt cho tên Đại Quỷ và những kẻ quanh hắn. Đạn của chúng sẽ làm cho chai vỡ ra và chất nước ấy sẽ được bay tung tóe khắp vùng.

— Nếu chúng không bắn thì sao ? - Raza hỏi.

Nuri nhìn vào tấm kẹp giấy tờ.

— Thì chiếc máy bay sẽ được điều khiển để nhào vào cửa sổ của Phòng Bầu Dục. Vào mùa này cửa sổ đều mở rộng. Tổng thống rất ưa thoáng khí. Kết quả cũng như thế thôi.

— Còn New York ? - Raza hỏi.

— Tôi sẽ đích thân đến đó - Lila nói - Tôi sẽ thả hai chai từ trên khán đài của Tòa Nhà Chọc trời Empire State đủ gây nên thiệt hại rất lớn.

Raza nhíu mày : — Tôi biết ở đây có nhiều lính canh thường xuyên theo dõi để ngăn chận những vụ tự tử. Chúng sẽ ngăn không cho cô lên đâu.

Lila lắc đầu. — Sẽ có một cuộc diễu hành qua thành phố để cám ơn những công tác cứu hộ các khách sạn bị đánh bom. Mọi người sẽ thả bong bóng. Tôi sẽ buộc hai chai vào hai cái bong bóng. Có buộc dây nổ định giờ theo để sao cho chúng nổ khi còn cách mặt đường khoảng một trăm năm mươi thước. Sẽ có hàng ngàn người ở bên dưới. Kết quả sẽ rất khả quan.

Raza gật đầu rồi quay qua Nuri.

— Còn tôi, tôi sẽ lái xe suốt đêm đến Boston - Nuri nói thêm - Hai chai là đủ cho sinh viên của trường Đại học Harvard rồi.

— Anh thấy rồi đấy - Harmoos cười - mọi việc đều lo thật chu đáo - Hắn gãi mạnh vào lỗ tai.

Trong chiếc xe thùng, tất cả mọi người đều nghe rõ tiếng thở dài khoan khoái của Raza. Thế rồi Morton ngồi xuống trước máy, ông bấm nút, nói nho nhỏ và khẩn cấp vào máy phát. Vừa khi ông nói xong thì bãi đậu xe quanh chiếc xe thùng kiểm soát của FBI cũng trống vắng, và phía bên kia bãi, những điệp viên Liên bang cùng Vệ binh Quốc gia cũng theo họ di chuyển đến những mục tiêu đã được ấn định.

Morton đi lảng vảng sau những kỹ thuật viên, lắng nghe những câu chuyên rời rạc để rồi tổng hợp lại trong óc toàn bộ công việc phải ứng phó.

Từ dưới tầng hầm phát ra lời nói.

— ... công việc này rồi có thay đổi được cái gì không ? - Ismail hỏi.

— Sẽ chứng tỏ cho bọn bạn bè của Do Thái thấy cái giá chúng phải trả. Thôi bây giờ thì lo làm việc đi - Faruk Kadumi đáp nhanh.

Sau đó chỉ còn tiếng chai lọ va nhau phát ra từ tầng hầm mà thôi.

Một máy chặn tin đã thu được câu chuyện giữa Harmoos và Nuri. Nuri nói :

— Tôi nghe họ nói chuyện trước khi cả hai vào phòng của cô ta. Cô ta vẫn còn trách ông là không ở nhà.

— Cứ mặc cô ta. Tiền bạc của tôi đưa ra sẽ làm cho hắn hiểu rõ vấn đề. Hắn là một con người thực tiễn. Hắn hiểu luật lệ ra sao rồi. Dĩ nhiên là hắn phải chiều lòng Lila vì hắn đang cần cô ta.

— Hắn đã chiều theo ý cô ta rồi đấy. Hắn đã bằng lòng để cô ta giết Ismail.

— Nhưng tôi không muốn giết hắn ở đây. Trước hết là phải dẫn thằng cha đần độn này đi chỗ khác đã.

— Cô ta cũng yêu cầu được thanh toán Faruk Kadumi nữa đấy, thưa ông Harmoos.

— Rồi sao ?

— Raza nói không. Hắn nói để hắn thanh toán thằng này.

Và, từ trong phòng ngủ của Lila, vang ra tiếng rên rỉ làm tình của hai người, rồi có tiếng Raza nói với cô nàng rằng hắn muốn được ngủ trong vòng một giờ.

Trong xe, Morton tiếp tục nghe, mặt ông ta có vẻ đăm chiêu cương quyết.

Lúc trời tối, những xe của Công ty Nhạc khí đã đậu quanh chiếc xe thùng ẩn mình sau một đám cây. Morton vẫn liên lạc bằng điện thoại với xe thùng kiểm soát của cơ quan FBI. Ông ra lệnh lần cuối :

— Cho tất cả xe làm lạnh di chuyển lên khu phố trên. Nhắc nhở mọi người khi thời giờ tấn công đến là phải nghiêm túc bắt tay vào việc, nhất là nhân viên của cơ quan Fort Detrick.

Đằng kia xe thùng đông đúc, Danny nói to cho biết Wolfie vẫn đang báo cáo về tất cả đều yên lặng.

Wolfie và Michelle ở đằng xa trong lùm cây, đang cố quan sát qua một ruộng ngô. Đằng xa bên kia ruộng ngô là ngôi nhà. Hai người có điện thoại di động, mang theo cung tên và mỗi người lại còn có thêm một khẩu UZI nữa.

Ở đằng mép một thửa ruộng khác, Lou đang ngồi xổm quan sát nhà sửa chữa xe hơi. Bên cạnh anh là một khẩu tự động TP-92,9mm với một kẹp đạn đôi.

Sau mười lăm phút ngồi quan sát, Lou gọi cho biết đoàn xe taxi ngoài ga ra bắt đầu di chuyển. Một phút sau, Wolfie báo cáo chúng đã xuất hiện ở đàng sau nhà.

Morton nhìn quanh xe, ông hỏi: — Mọi người sẵn sàng rồi chứ ?

Tất cả đồng thanh trả lời : "Đã !”.

Danny mở một hộp nhỏ bên cạnh khẩu súng phóng lựu. Bên trong hộp là những quả đạn lưu huỳnh, khi nổ sẽ phát ra một sức nóng đến năm ngàn độ.

— Shema ở đâu ? - Bỗng Morton hỏi.

— Cô ta ra ngoài, nói đi hóng mát một chút - Danny nói.

Morton bước đến ô cửa ở sau chỗ ngồi của tài xế. Bên ngoài, Goodman và lính đang mở những thùng nhạc cụ ra, lấy súng và xem xét đạn dược.

— Anh có thấy Shema không ?

Goodman hất đầu về phía lùm cây. — Chắc là đi tiểu.

— Tìm giúp cho tôi nhé - Morton nói vắn tắt.

Michelle đợi ở mép đàng kia của hàng cây.

— Thấy Shema không ? - Morton hỏi.

Michelle lắc đầu, Wolfie đứng sau cô ta cũng lắc đầu.

— Gọi Lou thử xem - Morton nói với cô - Có thể cô ấy đi với anh ta.

— Có thể cô ta biến lắm - Goodman nói sau lưng Morton.

Morton quay lại.

— Có thể cô ta thay đổi ý kiến - Goodman nói tiếp - Đường xưa lối cũ mà.

Morton nhìn qua ruộng ngô vào nhà. Ông nhớ lời cô đã nói với ông về luật lệ ở sa mạc.

— Anh nói cái gì, Sam ?

— Cô ta không phải người của mình, thưa đại tá. Có thể cô ta trở lại với nơi cô ta đã rời bỏ, nơi đã in đậm vào tâm trí của cô ta - Giọng của Goodman có vẻ cay đắng.

Morton cứ nhìn mãi ngôi nhà. — Vậy anh đề nghị ta làm gì bây giờ, Sam ? - Ông hỏi và nôn nóng muốn nghe câu trả lời.

— Chúng tôi sẽ đi tìm cô ta. Khi tìm ra, chúng tôi sẽ giết cô ta trước khi cô ta kịp nói cho Raza những gì cô ta biết.

Morton chỉ ruộng ngô rồi nói nhẹ nhàng :

— Anh về với lính của anh, Sam. Cứ tiếp tục công việc của anh đi.

Khi Goodman đi rồi, Morton quay qua Wolfie và Michelle :

— Hãy đi tìm cô ta và đem về cho tôi. Hãy nhớ cô ta vẫn là người của mình đấy nhé.

Ông nhìn họ chạy vào ruộng ngô, rồi ông chạy về xe.

*

**

Trong nhà bếp, Nuri dặn dò lần cuối các tài xế taxi :

— Đây là dịp may để các anh đánh một đòn chí tử vào kẻ thù. Nhưng hãy nhớ, các anh phải lái cho cẩn thận và tuân theo luật giao thông. Khi đến phi trường, các anh phải dừng lại khi gặp đội an ninh, rồi sau đó mới được phép lái vào sân bay.

Nuri đi len lỏi vào trong đám tài xế, phân phát giấy tờ cho họ.

— Đây là giấy phép hành nghề. Giấy tờ này xác nhận các anh đi phân phát thuốc men khẩn cấp.

Hắn gật đầu chỉ một đống thùng sắt được niêm phong kỹ lưỡng để trên nền nhà. Mỗi thùng đều có vẽ dấu Hồng Thập Tự.

— Nếu có ai yêu cầu xem bên trong, các anh chỉ lời căn dặn trên mỗi thùng có ghi nếu mở ở ngoài phòng thí nghiệm đã được khử trùng thì sẽ gây ô nhiễm cho thuốc men ở trong thùng. Lời căn dặn có đóng dấu của Bộ Y tế, cho nên không sợ gì hết.

Các tài xế lấy thùng rồi ra khỏi nhà bếp. Khi mỗi người đi ra, Nuri nhắc nhở họ nhớ rằng Đấng Đại Ala và Đấng Toàn thiện sẽ che chở cho họ.

*

**

Shema bước đi rất lặng lẽ mà cũng rất nhanh, chị đã đến phía bên kia ruộng ngô. Chị dừng lại để lấy vũ khí. Bên kia là một bãi cỏ. Rồi đến một lối đi. Có nhiều cửa sổ ở tầng dưới đang mở ra, và đèn trong các phòng đều sáng cả.

Chị cảm thấy bình tĩnh và quả quyết, như những lần chị đi làm nhiệm vụ. Không có gì làm cho chị thay đổi ý kiến để quay về. Chị vẫn là một chiến sĩ, với đầy đủ bản năng của một chiến sĩ để đương đầu với kẻ thù ngay, để tiêu diệt nó. Morton đã nói đúng. Một cảm tử quân không hề sợ chết. Và bây giờ chuyện đó vẫn còn hiển nhiên như thế.

Người cúi thấp xuống, chị lại nhớ cảnh chị quỳ bên cạnh Nadi. Chị lại nhớ ánh mắt của cô em gái, nó đã điên cuồng và thù hận một cách mù quáng. Shema nhớ ra tất cả những người khác chị đã thấy cũng đều như thế. Con quái vật đã tạo nên điều quỷ quái như thế quả thật là một kẻ phá hoại.

Một lần nữa, người canh gác, súng Kalashnikov trên tay, vòng ra khỏi góc nhà và đi trên lối đi. Chị đếm. Khi chị đếm đến hai mươi thì hắn biến mất ở sau nhà. Chị lại bắt đầu đếm. Lại đếm đến hai mươi thì người canh gác mới xuất hiện ra phía trước. Cũng mất hai mươi giây, hắn mới khuất khỏi tầm mắt của chị. Rồi tất cả lại giống như lần trước.

Kiểm tra lại hai con dao phóng bên hông chiếc quần Levis, Shema chạy băng qua bãi cỏ đến bên một cửa sổ. Trong phòng vắng vẻ, chị nhảy qua cửa rồi nhẹ nhàng đứng trên tấm thảm.

Từ ruộng ngô, Wolfie báo cáo cho Morton biết Shema đã ở đâu rồi. Thế là anh và Michelle tiếp tục bò về phía ngôi nhà.

*

**

Dưới tầng hầm, Ismail quay qua Lila. Đằng sau lưng hắn, chiếc tủ lạnh vẫn còn để mở. Trên bàn rải rác những chai không, những chai này đã chứa nước muối để hòa với vi rút bệnh than B.C . Hai cái chai "Đêm Hy Lạp" để lại cách đó một khoảng.

— Tôi rất tự hào đã phục vụ cho mục đích cao cả - Ismail nói. Hắn lau hai bàn tay vào quần.

Lila đứng trước mặt hắn với tư thế thật lạ lùng.

Ismail bèn hỏi :

— Tại sao cô lại nhìn tôi như thế ?

— Tại sao anh lại có ý nghĩ thế ? - Chị ta bỗng nghe chính giọng mình căng thẳng quá.

Một ý nghĩ lo sợ thoáng qua óc Ismail. Y thấy nét mặt của cô ta đằng đằng sát khí. Y còn nói to lên một cách vụng về : — Tôi muốn gặp ông Harmoos.

— Đứng yên đấy - Chị ta ra lệnh rồi thản nhiên đưa tay vào trong áo khoác lôi khẩu súng ra, khẩu súng nặng nề đen thui, mũi súng loe ra.

Ismail cảm thấy căn phòng tối sầm lại, như là mọi vật trong phòng đều tan biến trước họng súng đen ngòm đang chĩa về hắn ta. Hắn thì thào hỏi :

— Tại sao thế ? Tại sao thế ?

Lila bắn liên tiếp ba phát thật nhanh. Một phát xuyên qua trán của Ismail ngay đường chân tóc làm tung ra rải rác từng mảnh não. Phát thứ hai làm bay con mắt trái. Và phát thứ ba trúng vào miệng. Ismail vẫn đứng thẳng người trong một chốc, như thể là đạn không vào người y được. Rồi y đổ sầm xuống trên nền nhà lát đá, đầu đập mạnh xuống nền, máu bắn tung tóe khắp nơi.

Lila vội bước lui để tránh khỏi bị vấy máu, chị ta nhét súng vào túi áo, rồi quay người rời khỏi tầng hầm.

Shema vừa bước đến cửa phòng thì cô nghe có tiếng người nhào xuống. Cô mở cửa he hé nhìn vào tiền sảnh. Có nhiều cửa, tất cả đóng hết, chỉ trừ một cánh đang mở hé hé. Cô thấy một cầu thang chạy xuống và có tiếng chân người đang bước lên. Shema liền chạy đến đứng nép mình sau cánh cửa đang mở một nửa.

Có lẽ nhờ giác quan thứ sáu, thứ giác quan xem như là bản năng sinh tồn của một con thú, khiến Lila dừng lại khi chị ta lên đến đầu cầu thang. Chị ta nhìn ra tiền sảnh. Tất cả đều trông giống như lúc chị ta đi xuống tầng hầm. Tuy thế chị ta vẫn biết chắc có cái gì đây. Có một ai đây. Từ từ, chị ta rút súng ra, rồi phóng người nhanh qua ngưỡng cửa.

Shema tức thì di chuyển liền, nhanh và gọn, nhích người ra khoảng một thước trước khi Lila nổ súng. Viên đạn xé tan khung cửa.

Vừa khi đó Lila nhận ra Shema. Chị ta dừng lại, quá kinh ngạc, bàng hoàng. Con dao của Shema đã cắm phập vào cổ của Lila rồi.

Khi Shema nhích người lui để tránh thây ma nhào xuống thì ở đằng kia tiền sảnh, một cánh cửa mở ra. Raza đang đứng đấy.

*

**

Trong chiếc xe thùng, Morton nghe Wolfie nói :

— Chúng tôi đã vào sát sau nhà. Không thấy Shema đâu hết. Chiếc taxi thứ ba đang chuyển bánh.

Danny nán lại chưa chuyển tin cho bên xe kiểm soát của FBI.

— Hãy báo cho ông Morton biết chúng tôi đã bắt được hai xe đầu rồi. Rất dễ dàng - Người nhân viên thường trực trả lời - Chúng tôi chỉ bao vây chúng lại rồi tóm cổ thôi. Nhân viên bên Fort Detrick đã chuyển các thùng sang xe chống lây nhiễm của họ rồi. Xe sẽ...

Trong xe thùng, họ nghe một giọng nói mới vang lên cắt ngang câu nói của viên sĩ quan thường trực.

— Mahmoud đây rồi ! Báo động ! Người có súng...

— Lôi nó ra ! - Có giọng chát chúa của một nhân viên FBI cất lên - Lôi nó ngay đi.

Nhiều tiếng súng nổ vang trên khắp các loa phóng thanh, rồi im lặng hoàn toàn. Viên sĩ quan thường trực lại lên tiếng :

— Chúng tôi giết chết một tài xế taxi. Hắn đến gần quá. Hắn đến gần máy phát tin.

— Còn cái thùng thì sao ?

— An toàn.

Morton quay qua Danny. — Chúng có nghe được không ?

— Để tôi gọi Wolfie xem sao.

Wolfie gọi về xe.

— Có hoảng loạn xảy ra trong nhà. Hai tên canh gác đi quanh bên ngoài để kiểm soát. Rồi giọng Wolfie thì thào - Các cửa sổ đóng hết. Tất cả xe taxi đều ra hết.

Morton nói qua micrô đeo ở miệng đến Goodman :

— Sam, anh cho lính của anh đến đấy nhanh lên, Matti, anh và cả Lou nữa. Canh chừng cho Wolfie và Michelle. Hai người ở phía sau mục tiêu đấy.

Morton nghe tiếng chân người chạy ở bên ngoài, rồi nghe những chiếc xe chạy. Lực lượng của Goodman sẽ tấn công cả hai mặt. Một nửa tràn ra con đường xe chạy chính, đánh bật các trạm gác, đánh nhà kho và xưởng thợ. Nửa kia sẽ tấn công vào nhà.

— Và Sam này - Morton nói tiếp - Shema đang ở trong nhà. Đem cô ta ra khỏi đấy, còn sống đấy nhé. Hiểu chưa ?

Goodman ngần ngừ một lát, rồi đáp : — Vâng, thưa ngài.

*

**

Khi Nuri chạy dọc theo bờ ruộng ngô, hắn nghe được tiếng người gọi nhau đi lấy vũ khí, rồi nghe tiếng súng nổ trong khi họ chạy vào vị trí chiến đấu. Hắn đưa khẩu súng Kalashnikov lên sẵn sàng bắn yểm trợ cho tên đứng canh đang rút lui vào trong ruộng ngô. Bỗng tên canh gác biến mất dạng.

Một mũi tên của Wolfie đã xuyên qua mang tai vào óc của tên gác.

Nuri dừng lại, hắn nhìn vào đêm tối.

— Majid - hắn gọi - Majid , mày ở đâu ?

— Đây, đến ngay đây - Michelle đáp bằng tiếng Ả Rập.

Nuri quay lại phía tiếng gọi, đưa súng lên. Khi vừa đưa lên, Wolfie đã bắn một mũi tên vào ngực y. Khi hắn nhào tới trước, phản xạ trong người Nuri đã khiến mấy ngón tay hắn kéo cò. Cả băng đạn tuôn hết xuống đất.

Ngay lúc ấy một loạt súng nổ phát ra từ một cánh cửa sổ, cánh cửa này không đóng. Đạn quét trên ruộng ngô.

Đạn đã trúng Wolfie khi anh chạy lom khom lui vào ruộng ngô.

Michelle nghe anh thốt lên một tiếng bất bình nho nhỏ, như thể là anh bực tức vì mình lắm. Ngay trước khi lăn đến bên anh, cô đã biết anh đã chết. Cô lấy cái điện thoại di động.

— Một người ngã rồi ! Một người ngã rồi ! - Cô la lên khẩn thiết trong điện thoại.

— Chúng tôi đến đây ! - Morton trả lời bằng tiếng Do Thái.

Michelle bò nhanh đến gần lằn đạn nguy hiểm ở trong nhà bắn ra. Chúng chắc không ngờ như thế.

*

**

Raza quay khỏi cửa sổ có hai người đang trút đạn vào ruộng ngô. Đây là phòng của cô gái giúp việc nhà. Chị ta đứng bên cạnh cánh cửa lớn, tay cầm súng chĩa vào Shema để canh chừng.

Raza mải miết bước quanh phòng, bất cần đến tiếng súng nổ. Hắn nhìn cái giường đơn, nhìn cái máy sưởi đang chạy mặc dù trời đang mùa hè, hắn nhìn cái kệ sách chất đầy tiểu thuyết ba xu. Hắn nhìn đủ thứ ngoại trừ Shema.

Quanh nhà, súng vẫn tiếp tục nổ.

— Tại sao mày lại làm thế ? - Hắn hỏi, giọng bình bĩnh, như thể hắn đang hỏi thời gian.

— Vì mày phản bội chúng tao - Shema đáp - Mày hứa hẹn với dân tộc tao quá nhiều ! Và chúng tao tin vào mày ! Khi nghe mày nói rằng để xây dựng một thế giới mới thì phải hủy diệt thế giới cũ, chúng tao đã tin mày ! Khi nghe mày nói phải đau khổ mới có được một cuộc sống tốt đẹp hơn, chúng tao đã tin mày ! Vì mày mà Nadine đã chết ! Mày đã giết nó chết trước khi tao giết. Mày đã giết những người trong trại từ lâu rồi trước khi máy bay và súng đạn giết họ. Mày đã giết biết bao nhiêu người với triết lý sa đọa của mày và với những hành động quái đản của mày. Mày không phải điên đâu, Raza à. Mày là đồ quỷ sứ !

Hắn đến bên cửa sổ, nhìn ra ngoài. Đằng cuối cánh đồng có những ngọn đèn sáng.

Những người đàn ông nơi cửa sổ nghiêng người ra ngoài, tìm tòi mục tiêu để bắn. Bỗng một tên ngã nhào lui vào phòng, một mũi tên găm vào đầu.

— Đóng cửa chớp lại ! - Raza ra lệnh.

Tên gác kia cố nắm dây kéo giật mạnh để hạ tấm cửa chớp bằng thép xuống.

— Cửa bị kẹt rồi ! - Hắn la lên.

Raza nhảy đến cửa sổ, giật mạnh tấm cửa chớp. Cánh cửa nhích xuống một tí rồi bỗng một mũi tên khác đâm vào cánh cửa. Hắn quay lại vào phòng, nhìn Shema chằm chằm.

— Bọn phục quốc Do Thái - hắn nói - Chúng bảo mày làm thế hả ? Hay là bọn Đức và bọn khác đã đến thăm mày ở nhà tù ? Chúng đã đầu độc đầu óc mày như thế hả ?

Hắn bước đến bên Shema. Hắn từ từ đưa bàn tay phải ra sờ má cô. Cô nhìn hắn thách thức. Hắn nhìn mấy ngón tay hắn một lát. Rồi rất nhanh và rất dã man khiến cho chị giúp việc phải khiếp đảm, hắn giật tóc Shema thật mạnh rồi lôi cô đến cửa sổ. Hắn quay người cô để mặt cô nhìn ra ruộng ngô.

— Morton - hắn la lên - Con đĩ Do Thái của mày đây !

Raza nắm lấy tóc của Shema, dúi đầu cô xuống để lộ cái cổ ra. Hắn đấm thật mạnh vào đầu cột sống của cô. Khi đầu cô gục tới trước, hắn đẩy cô ra cửa sổ.

*

**

Khi Morton đứng nơi ô vuông mở rộng sau người tài xế xe thùng, ông đưa ống nhòm nhìn được trong đêm tối lên nhìn khắp ngôi nhà, ông thấy Shema rơi ra ngoài, tay chân đung đưa, đầu gục xuống. Ông thấy cô rơi phịch xuống đất. Khi cánh cửa chớp đóng kín lại, thì chiếc xe thùng băng qua ruộng ngô.

Bấm nút trên một bộ máy, Danny đã cho mở nóc xe ra, đưa khẩu súng bắn tia sáng điện tử lên một cái khung sắt rộng. Danny ngồi lên một chỗ ngồi trên khung sắt, rồi bấm vào một nút khác. Khung sắt đưa cả súng lẫn Danny nhô lên trên nóc xe. Ông bấm một nút vào hộp kiểm soát của súng. Súng bèn kêu vù vù và bắn tia điện tử ra.

Lập tức có tiếng kính cửa sổ vỡ rào rào. Chốc chốc, tiếng súng trong các ô cửa lại bắn ra. Danny tăng thêm sức mạnh của tia điện tử. Tia điện bắn vào cửa chớp, tạo nên một âm thanh chói tai.

Chiếc xe của Morton tiếp tục chạy qua ruộng ngô. Ông nghe tiếng súng càng lúc càng nhiều ở phía đằng kia ngôi nhà. Ông bước lại vào xe, lấy khẩu súng phóng lựu, lắp vào một quả lựu đạn. Đưa súng lên vai, ông tựa người vào khung xe. Ông bắn. Quả lựu đạn nổ vào hông nhà. Một kỹ thuật viên đưa cho ông một trái khác. Morton lại bắn. Một quả lựu đạn phá hỏng một lỗ trên mái nhà. Morton bắn hụt hai quả vì mặt đất gồ ghề, khiến cho ông không thể nhắm đích xác được. Bên dưới, một kỹ thuật viên tiếp tục báo cáo tình hình diễn tiến.

— Lính của thiếu tá Goodman đã thanh toán xong nhà xưởng và nhà kho, và đã hợp lại với những người khác rồi. Matti và Lou đã gặp sự chống trả quyết liệt ở sau nhà. Cơ quan FBI và Vệ binh quốc gia muốn biết họ tiến về đâu.

— Họ đã giữ những chiếc taxi an toàn chứ ?

— Đã giữ an toàn, thưa đại tá.

Người kỹ thuật viên đáp xong, lại hét to trong máy micrô.

— Tất cả an toàn hết, thưa đại tá. Chiếc xe tải chống lây nhiễm đang chạy về Fort Detrick đấy.

— Tốt, nói họ chạy nhanh lên - Morton ra lệnh.

Bỗng chiếc xe thùng chạy chậm lại.

Morton thấy Michelle từ trong ruộng ngô đứng dậy, cô nhảy lên một chiếc xe con, tay vịn tấm kính hậu ở một bên. Cô hướng dẫn người tài xế lái đến chỗ Wolfie nằm. Khi người tài xế và hai kỹ thuật viên đưa thi hài của anh lên xe thùng rồi, Morton bắn thêm mấy phát nữa, phá hỏng một cánh cửa chớp ở tầng trệt. Ông đã có lối để vào trong nhà rồi.

Chiếc xe thùng chạy tới.

*

**

Matti và Lou chạy vòng ra cửa sau bếp. Toán quân của Goodman tiến thẳng vào phía trước, bắn qua nhiều cửa sổ, những cánh cửa chớp đã bị họ gài chất nổ phá tung ra.

Họ bò vào cửa lớn, gật đầu ra dấu, rồi đá mở tung cửa, vừa bắn vừa chạy vào.

Trong khi họ tuôn vào, một tên nhân viên của Harmoos nấp trong phòng giặt ủi ở kế bên, tung ra một quả lựu đạn.

Matti và Lou chết liền.

Nép người dưới cánh cửa sổ ở tầng trệt, Morton nghe có tiếng sụp đổ ở phía sau nhà. Ông ném một quả lựu đạn cỡ mạnh vào phòng. Tiếp theo ánh sáng chói mắt lóe lên là các ngăn kéo tung ra hết. Giấy tờ rơi ra vương vãi khắp nơi. Một người nằm chết trên nền nhà.

Khi Michelle leo qua cửa sổ vào với Morton, súng vẫn tiếp tục nổ. Hai người bò tới phía cửa, đẩy cái thây ma đi trước. Đến cửa, họ đẩy cái thây ma vào tiền sảnh.

Lập tức một loạt súng từ bên kia phòng bắn qua. Cái thây ma co lại.

Mấy ngón tay của Morton lướt nhẹ trên cò súng UZI, khẩu súng giật lùi nhè nhẹ khi ông bắn. Bên kia phòng, một khuôn mặt Ả Rập hình như bị trúng đạn vi không còn động tịnh gì nữa.

Morton và Michelle cùng khom người chạy vào phòng.

Tiếng súng lại nổ giòn hơn nữa. Morton liếc thấy một cánh tay đưa lên. Ông quay lại bắn, rồi tung người qua cánh cửa có người Ả Rập mà ông vừa bắn. Một lát sau, ở đằng sau ông, gian tiền sảnh sáng trưng lên. Rồi có tiếng kêu kinh khủng phát ra, tiếp theo là căn phòng trở nên tối thui.

Ông đợi một vài giây cho âm vang tiếng lựu đạn giảm dần đi, rồi mới chạy lui vào tiền sảnh.

Michelle và người ném lựu đạn cùng bị sức ép của phát nổ đẩy họ sát lại với nhau. Một cánh cửa ở cuối tiền sảnh bật mở rồi một bóng người vạm vỡ hiện ra, hai tay đưa lên.

— Xin đừng bắn - Harmoos van xin.

Cánh cửa ở sau lưng hắn ta bật mở, và Goodman phóng vào, nổ súng.

Harmoos quay người lại, hai bàn tay xòe ra khi trúng đạn. Rồi hắn đổ sầm xuống tấm thảm.

Lính biệt kích tuôn qua ngưỡng cửa. Từ dưới bếp, Danny cũng hiện ra, mặt lo lắng buồn rầu. Ông ta nói :

— Matti và Lou nằm chết dưới ấy. Và có người đã ra khỏi cửa. Bước lên máu mà đi. Dấu chân in rõ ràng.

— Lên lầu xem - Morton ra lệnh cho Goodman.

Lính biệt kích đi theo ông thiếu tá bước lên cầu thang chính của ngôi nhà. Khi họ lục soát các phòng ngủ, tiếng súng lại nổ. Morton và Danny tiến đến một cánh cửa đóng kín ở cuối tiền sảnh.

Danny nhặt một khẩu Kalashnikov nơi một tên Ả Rập nằm chết trong tiền sảnh, ông lấy băng đạn đi. Morton quay nắm cửa, còn Danny thì chĩa khẩu súng máy lên trần nhà ở trong phòng. Rồi cả hai cùng lao vào trong phòng.

Một loạt súng nổ bay trên đầu họ qua ngưỡng cửa.

Morton làm quen với ánh sáng trong phòng. Đây là một phòng khách rộng, đồ đạc sang trọng hỗn tạp trái ngược nhau: đivăng nệm và ghế bành, đồ gỗ xưa theo kiểu châu Âu, màn nhung và thảm phương Đông. Loạt súng bắn ra từ chỗ gần chiếc bàn cầu nguyện kê sát chân tường ở cuối phòng.

Morton bò sâu vào trong phòng. Từ sau một chiếc đivăng, Faruk Kadumi từ từ đứng dậy lờ mờ trong bóng tối, hai tay để trên đầu, nét mặt khiếp sợ.

— Tôi muốn đầu hàng - Hắn nói nho nhỏ.

Morton và Danny đứng dậy, súng chĩa vào hắn.

— Raza đâu rồi ? - Morton hỏi.

— Hắn đi rồi. Mới ra khỏi đây.

— Phía nhà bếp ! - Danny la lên.

Morton đẩy Faruk Kadumi đến cho một biệt kích :

— Giữ nó. Nếu nó có ý để trốn thoát, cứ bắn chết.

Goodman trên lầu bước xuống với cô gái giúp việc.

— Chúng tôi xem kỹ rồi, thưa đại tá.

Từ đằng xe có tiếng còi vang lên.

— Tất cả mọi người ngoại trừ Danny đều ở gần ngôi nhà - Morton ra lệnh. Ông chạy xuống bếp, Danny chạy theo sau lưng. Matti và Lou nằm ngay bên trong cửa sau. Morton và Danny vẫn chạy về phía chiếc xe thùng.

— Lấy súng bắn tia điện tử quét khắp ruộng ngô đi - Morton nói.

Danny leo lên xe, lấy súng bắn.

Đứng trên nóc xe, Morton dùng kính dạ quang nhìn khắp ruộng ngô. Không có gì. Khẩu súng bắn tia sáng điện tử vẫn tiếp tục hoạt động. Thế rồi ông thấy có cái gì đang di chuyển về hàng cây. Ông nhảy vào xe, ra lệnh cho tài xế và các kỹ thuật viên. Rồi ông lái xe vào ruộng ngô.

Ra đến giữa ruộng, xe bỗng bị sốc thật mạnh đến điếng người. Một vỏ xe bị nổ.

Morton leo vào phía sau xe, lấy khẩu súng phóng lựu rồi lắp vào một đầu đạn lưu huỳnh. Ông bỏ viên khác vào túi rồi nhảy xuống ruộng chạy bộ.

Trên nóc xe Danny chửi thề ỏm tỏi. Khẩu súng bắn tia điện tử bị kẹt.

Trong ruộng ngô, bốn bề yên lặng ngoài tiếng sột soạt do bước chân của ông gây ra. Morton dừng lại để lắng nghe. Yên lặng hoàn toàn.

Ông đến được giữa chiếc xe thùng và hàng cây thì những tiếng nổ vang lên sau lưng ông. Ông quay lại đúng vào lúc thấy Danny rơi khỏi thanh ngang ông ta đang ngồi xuống nóc xe.

Thế rồi chiếc xe thùng nghiêng ngả chạy về phía ông, khói bốc lên từ bánh xe còn tốt vì nó phải chịu đựng cả sức nặng của chiếc xe đè lên.

Morton quỳ xuống trên ruộng ngô, đưa khẩu súng phóng lựu lên vai. Chiếc xe tăng tốc lực, hai ngọn đèn pha quét một đường trên thân những cây ngô, tiếng của bánh xe bị sức nặng quá tải đè lên kêu ồn hơn nữa.

Morton từ từ đứng dậy, ánh sáng của đèn xe rọi vào người ông. Chiếc xe dừng lại cách ông khoảng một trăm mét, máy xe bị bốc khói, đèn vẫn sáng. Có người đứng dậy trên nóc xe.

— Morton - Raza la lên - Tao vẫn còn đủ vi rút bệnh than để tiêu diệt mày !

Bóng người vẫn đứng đấy, hai tay hoạt động.

— Phải trừng phạt mày - Morton nói nho nhỏ, vừa kéo cò khẩu phóng lựu - Xin cám ơn Chúa.

Chiếc xe thùng sụp xuống thành một đống lửa. Morton lắp quả đạn thứ hai rồi bắn lần nữa. Một ngọn lửa sáng khổng lồ bốc lên, rồi một tiếng rú dậy trời trong khi ngô trong ruộng bắt lửa cháy. Không còn gì - ngay cả giọt vi rút bệnh than B.C cuối cùng - để có thể làm sống lại cảnh địa ngục nữa. Mối hăm dọa đã vĩnh viễn chấm dứt.

Morton thả khẩu súng xuống, ông chạy tới trước, ở một bên chiếc xe có người động đậy. Ông ôm lấy Danny, vác ông ta lên vai rồi chạy nhanh về phía hàng cây.

Một chiếc trực thăng lơ lửng ở trên đầu. Nó hạ thấp xuống, không can thiệp mà chỉ theo Morton cho đến khi ông được an toàn ở hàng cây.

Đàng sau ông, ruộng ngô đang bốc cháy dữ dội quanh xác của chiếc xe.

— Anh được bình an rồi đấy, Danny - Morton cười nói vừa đặt Danny xuống đất - Tất cả đều ổn cả rồi.

*

**

Thế giới biết rất ít những việc đã xẩy ra này. Được thế là nhờ chính phủ và các cơ quan Tình báo có tài che đậy sự thực.

Việc ngôi nhà bị sụp đổ và Harmoos chết được gán cho là do một tai nạn rất bi thảm. Một số báo chí đăng tải lời cáo phó đã cho biết là ông ấy rất đam mê làm pháo và chơi pháo. Ngôi nhà đã chứa rất nhiều chất nổ làm pháo và chứa rất nhiều pháo bông, cho nên khi một thùng pháo bắt lửa đã làm cho cả nhà phát nổ như súng bắn. Ngọn lửa đã cháy lan ra cả ruộng ngô.

Harmoos đã chết, cùng với một số khác, trong đó có bác sĩ Faruk Kadumi. Một số đài Truyền hình đã nói rằng ông bác sĩ phẫu thuật đến thăm ông Harmoos để bàn thảo việc giải phẫu chứng bệnh béo phệ của nhà triệu phú. Còn tất cả số hai mươi bảy người chết trong vụ hỏa hoạn này đều là người Ả Rập cả.

Lính Vệ binh quốc gia, tình cờ có mặt ở khu vực này, họ đi luyện tập ngoài bãi trở về đã kịp thời giúp dập tắt ngọn lửa. Thực ra chẳng ai xác nhận được việc này. Tuy nhiên, vụ tai nạn này cũng đã hủy hoại mất của ông Harmoos một cơ sở kinh doanh phát đạt nhất, đó là Công ty xe Taxi Day Nite. Tất cả xe taxi đều tụ tập trong nhà để dự buổi tiệc hàng năm với ông chủ. Sau khi tất cả xe cộ bị hủy diệt hết, tài xế đứng trước một tương lai bấp bênh, họ đều chọn con đường trở vê quê hương sinh sống, ở Li Băng. Chính phủ đã giúp tạo điều kiện cho họ về quê. Thực ra thì chẳng ai biết được họ có về quê hay không nữa.

Sau khi tai nạn xảy ra một tuần, dinh cơ Harmoos đã được bán cho một công ty tư nhân có tên là Công ty Cải Tổ Nhanh. Giới truyền thông đại chúng đã cố gắng tìm hiểu về công việc làm ăn của công ty, nhưng họ đều gặp phải lời chối từ rất lễ phép.

Hôm sau ngày ngôi nhà phát hỏa, chiếc Concorde đã rời khỏi New York. Trên máy bay có một chiếc quan tài.

Một tháng sau, chiếc máy bay trở lại New York mang theo Thủ tướng Karshov và một đại biểu cao cấp của Israel để thảo luận những chương trình cho buổi họp thượng đỉnh về hòa bình cho Trung Đông. Khi chiếc máy bay trở về, có mang thêm một hành khách. Bác sĩ Mirian Cantwell đã được đề nghị, và đã nhận chức giám đốc Nha Phẫu thuật tại bệnh viện Jerusalem, ở đây Matti đã từng làm việc. Nàng nhờ thế đã hoàn toàn bình phục.

Nàng đến Israel đúng vào cái đêm truyền hình chiếu hai chương trình quan trọng, hai chương trình này cũng đã được thế giới đưa lên hàng tin tức quan trọng hàng đầu.

Đó là một nhà lãnh đạo của Li Bi đã cặp tay cùng cố vấn an ninh quốc gia của Tổng thống, ông Brent Appleton, bước vào Tòa Nhà Trắng. Cảnh này đã được quay phim để chiếu lên màn ảnh truyền hình khắp nơi.

Còn tại Teheran, thì vị thủ lĩnh Muzwaz đưa ra một lời công bố ngắn chào mừng hội nghị hòa bình về Trung Đông. Ngài còn nói thêm rằng ngài hy vọng lời tuyên bố của ngài sẽ chấm dứt các lời đồn đãi cho rằng các Vị Tu sĩ Hồi giáo đã từng có ý định gây nên một cuộc Thánh chiến.

Morton đã xem hai chương trình này tại máy truyền hình gắn trên giường bệnh viện Danny đang nằm. Sáng mai Danny sẽ ra viện, một lần nữa, ông lại bắt tay hoạt động tích cực.

— Chuyện cũ quả thật nực cười ! - Danny vừa nhún vai, vừa quay mặt khỏi màn hình.

— Tất nhiên rồi ! - Morton đáp - Tất nhiên rồi !
 
CHÚ Ý !!!
Các đạo hữu nhớ thêm TÊN CHƯƠNG và THỨ TỰ CHƯƠNG ở ô phía trên phần trả lời nhanh. Như vậy hệ thống mới tạo được DANH SÁCH CHƯƠNG.
Cập nhật chức năng ĐĂNG TRUYỆN và THÊM CHƯƠNG MỚI trên web Diễn Đàn Truyện tại https://truyen.diendantruyen.com
Back
Top Bottom