Cập nhật mới

Dịch Full Tổ Ấm Nơi Tận Cùng Thế Giới

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
597,378
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
[Diendantruyen.Com] Tổ Ấm Nơi Tận Cùng Thế Giới

Tổ Ấm Nơi Tận Cùng Thế Giới
Tác giả: Michael Cunningham
Tình trạng: Đã hoàn thành




Nguyên bản tiếng Anh: A HOME AT THE END OF THE WORLD
Tác giả: Michael Cunningham
Dịch giả: Bùi Khánh Vân
NXB: NXB Lao Động
Ngày xuất bản: quý III/2010
Số trang: 587
Kích thước: 14x20.5 cm
Giá bìa: 99.000 VNĐ

Lời dịch giả

Là một nhà văn đương đại tài năng của nước Mỹ, Michael Cunningham được giới phê bình văn học trên thế giới đánh giá rất cao bởi văn phong tinh tế, trữ tình. Ông sáng tác không nhiều nhưng đều được công chúng đón nhận. Hầu hết các tác phẩm của ông được viết dưới dạng tự thuật, ngôn từ hoa mỹ, điêu luyện, giàu cảm xúc, hình ảnh và tính biểu tượng. Tác phẩm The hours đã mang lại cho ông giải Pulitzer năm 1999, đây có thể coi là kiệt tác của Cunningham, một mốc son đánh dấu độ chín trong tài năng của ông.

Nhắc đến Michael Cunningham, chúng ta không thể không nhắc đến Tổ ấm nơi tận cùng thế giới, cuốn tiểu thuyết thứ hai mà ông đã thai nghén trong vòng sáu năm trời. Ngay từ khi ra mắt năm 1990, nó thực sự tạo nên một tiếng vang lớn. Tác phẩm kể về mối tình tay ba lệch lạc giữa hai chàng trai đồng tính và một phụ nữ lớn tuổi này đã thu hút được sự quan tâm của độc giả bởi nội dung táo bạo nhưng không kém phần xúc động. Câu chuyện được kể đan xen qua lời tự thuật của từng nhân vật, độc giả sẽ có cảm giác như họ chính là những con người của đời thực. Chúng ta như hòa nhập vào thế giới trong truyện, cùng khóc, cùng cười với các nhân vật và khi câu chuyện kết thúc, cảm giác xót xa và tiếc nuối đọng lại trong lòng chúng ta cùng những dư âm khó quên của giọng văn trữ tình giàu sức gợi. Một cuốn tiểu thuyết tuyệt vời về tình yêu, tình bạn, tình thân và tình người, đúng như lời nhận xét của Gayle Kidder trên tờ nhật báo The San Diego Union: “Xuất sắc và làm thỏa mãn độc giả… Một cuốn sách hay trong số những gì tôi đã được đọc trong nhiều năm qua. Niềm hi vọng giữa bi kịch là một thứ mong manh, và Cunningham đã nâng niu nó với một sự cẩn thận tuyệt vời.”

Bùi Khánh Vân
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
597,378
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 1-1: Cuốn sách này dành cho Kent Corbett


Bài thơ thế chỗ một ngọn núi

Nó kìa, từng từ nối tiếp nhau,

Bài thơ thế chỗ một ngọn núi.

Chàng hít thở không khí trong nó,

Ngay cả khi cuốn sách nằm lật từng trang trong lớp bụi trên bàn.

Nó nhắc chàng đã cần biết bao

Một điểm đến trên hướng đi của mình,

Chàng đã bố trí lại những cây thông như thế nào,

Đã dời những vách núi và rẽ lối giữa những đám mây ra sao,

Để tìm được quang cảnh thích hợp,

Nơi chàng sẽ hoàn thiện mình trọn vẹn:

Chính ngọn núi đó, nơi sự thiếu chính xác của chàng,

Cuối cùng sẽ khám phá ra quang cảnh mà họ đã len lỏi đến,

Nơi chàng có thể nằm và, nhìn xuống biển,

Nhận ra tổ ấm vô song hiu quanh của chàng.

- Wallace Stevens
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
597,378
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 1-2


BOBBY

Một hôm, bố tôi mua một chiếc xe mui trần. Đừng hỏi tôi. Tôi mới năm tuổi. Ông ngẫu hứng mua và lái nó về nhà như thể ông mang về một hộp kem sô-cô-la hạnh nhân vậy. Hãy hình dung sự ngạc nhiên của mẹ tôi. Bà hay buộc dây chun trên tay nắm cửa. Bà thường giặt túi bóng cũ và treo chúng trên dây phơi để hong khô, một chuỗi sứa nhuốm màu tằn tiện uể oải phất phơ trong ánh mặt trời. Hãy tưởng tượng cảnh bà đang tẩy mùi pho mát ở một cái túi bóng, trong lần quay vòng thứ ba hay thứ tư của nó, khi bố tôi đỗ chiếc Chevy mui trần lại. Tuy là xe cũ nhưng nó vẫn là một kì quan di động – với những thanh hãm xung bằng chrome và phần thân trông như một thực thể sống màu bạc đồ sộ. Ông đã thấy nó được đỗ trên phố kèm theo tấm biển đề ĐỂ BÁN, và quyết định biến mình thành kiểu người mua xe theo ý thích nhất thời. Chúng tôi có thể nhận ra khi ông dừng xe, niềm hứng khởi trong ông đã bắt đầu phai nhạt. Chiếc xe quả là một vật đáng xấu hổ. Ông đi chầm chậm vào lối xe chạy với nụ cười gượng gạo trông y như cái lưới sắt bảo vệ bộ tản nhiệt của chiếc Chevy.

Dĩ nhiên chiếc xe phải được vận hành. Mẹ tôi không bao giờ đặt chân lên xe. Anh Carlton của tôi và tôi được đưa đi một vòng. Carlton rất phấn khích. Tôi thì hoài nghi. Một khi bố tôi đã mua xe trên đường phố, ông còn có thể làm những gì nữa? Điều này sẽ biến ông thành người như thế nào?

Ông đưa chúng tôi về miền quê. Các quán hàng ven đường bày cơ man nào là táo. Đám bí ngô tỏa sáng lên bãi cỏ quanh những căn nhà chính ở nông trai. Carlton, đầy khích động, đứng bật dậy từ băng ghế trước và bị kéo trở lại. Tôi giúp bố một tay. Bố tôi túm lấy một bên thắt lưng cao bồi đính hạt của Carlton còn tôi túm lấy bên kia. Tôi thích làm thế. Tôi thấy mình có ích khi giúp bố kéo Carlton xuống.

Chúng tôi đi qua một trang trai lớn. Những căn nhà phụ của nó neo trên một biển lúa mì dập dờn, và những tấm ván ốp tường màu trắng đang tan vào ánh nắng nhạt nhòa của buổi chiều muộn. Ba người chúng tôi, ngay cả Carlton, đều im lặng. Nơi đây mang vẻ gì đó thật thân thuộc. Những đàn bò gặm cỏ, những đám cây mùa thu đổ bóng dài. Tôi tự nhủ rằng chúng tôi là nông dân, và bằng cách nào đó vẫn đủ giàu để lái một chiếc mui trần. Trên đời này thiếu gì những khả năng như thế. Khi tôi đi trên một chiếc ô tô vào ban đêm, tôi tin rằng mặt trăng cũng đang đi theo tôi.

“Về đến nhà rồi,” tôi hét tướng lên khi chúng tôi đi qua trang trại. Tôi không biết mình đang nói gì. Đó là do sự kết hợp của gió và tốc độ tác động lên não tôi. Nhưng cả Carlton lẫn bố tôi đều không hề thắc mắc. Chúng tôi băng qua một sự im lặng sống động. Vào lúc đó, tôi chắc chắn rằng chúng tôi đều có chung một giấc mơ. Tôi ngẩng lên để thấy mặt trăng, trong trẻo và gắn trên một bầu trời xanh nhờ nhờ, đang thực sự đi theo chúng tôi. Không lâu sau Carlton lại bật dậy, hét vào luồng không khí trước mặt, và tôi cùng bố lại kéo anh xuống, về đúng chỗ ngồi của anh.

JONATHAN

Lúc hoàng hôn, chúng tôi tập trung trên bãi cỏ đang dần thẫm màu. Tôi mới năm tuổi. Không khí thoảng mùi cỏ mới cắt, và những hố cát đang lấp lánh. Bố tôi kiệu tôi trên vai. Tôi vừa là phi công vừa là tù nhân của dáng vẻ to lớn của ông. Đôi chân trần của tôi run rẩy chạm vào hai bên má ông ram ráp, và tôi bám vào tai ông, cặp vỏ sò lớn mềm mại bao phủ bởi lớp lông tơ nhỏ li ti.

Son môi và những chiếc móng tay màu đỏ của mẹ tôi trông sẫm đi trong ánh chiều nhập nhoạng. Bà đang mang thai, bụng mới chỉ nhú lên, và đám đông rẽ ra nhường đường phố cho bà. Chúng tôi dựng lều trên đường lăn bóng số hai, cùng với hai cái ghế nhôm gấp. Đám đông đang tập trung cho buổi lễ. Khói bốc lên từ những chiếc bếp nướng di động làm không khí thêm ngột ngạt. Tôi ngồi yên trong lòng bố tôi và được ông cho hớp một ngụm bia. Mẹ tôi ngồi tự quạt cho mình bằng tờ Biếm họa Chủ nhật. Những con muỗi lượn lờ quanh đầu chúng tôi dưới vòm trời tím biếc.

Ngày mồng Bốn tháng Bảy[1] đó, thành phố Cleveland đã thuê hai anh em nổi tiếng người Mexico đến đốt pháo hoa trên sân golf thành phố. Hai anh em này đã biểu diễn khắp thế giới, ở các sự kiện tôn giáo hoặc các sự kiện quốc gia. Họ đến từ sâu trong Mexico, nơi bánh mì được làm thành hình những chiếc đầu lâu và gái đồng trinh, còn pháo hoa được coi là hình thức biểu diễn nghệ thuật cao cấp nhất của con người.

[1] Ngày lễ Độc lập của Mỹ. (Các chú thích trong cuốn sách là của người dịch.)

Màn trình diễn bắt đầu trước khi ngôi sao đầu tiên xuất hiện. Nó mở đầu khá nhạt nhẽo. Hai anh em họ đang trêu đùa khán giả, bắn lên vài kiểu đơn giản: từng chùm hoa theo bộ đôi và bộ ba thông thường, những cú pháo thăng thiên xoắn ốc, những chùm tia sặc sỡ tạo nên những bông phong lan bằng khói màu tẻ nhạt. Thứ tầm thường. Rồi, sau một lúc ngừng, họ bắt đầu nghiêm túc. Một quả pháo thăng thiên vọt lên, kéo theo sợi ánh sáng màu bạc trong lằn khói, và ở đầu mũi tên của nó bung ra một bông huệ tây năm nhánh rực màu tía, mỗi cánh lại nở ra một bông hoa riêng. Đám đông xuýt xoa khen ngợi. Bố tôi ôm lấy bụng tôi bằng bàn tay lớn rám nắng, và hỏi tôi có thích màn trình diễn hay không. Tôi gật đầu. Bên dưới họng ông, một đám lông vàng sẫm trồi lên, cố thoát ra khỏi cổ chiếc áo sơ mi madras.

Thêm nhiều bông huệ tây nở bung ra, màu vàng pha đỏ và màu hoa cà, với những cái cuống màu bạc nấn ná bên dưới chúng. Rồi đến những con rắn, rực màu cam, được bắn phụt lên một tá một lần. Những thân hình cong cong to lớn đỏ cứ tha thẩn giao nhau, quyện vào rồi lại tách ra, tạo nên những tiếng kêu xèo xèo không ngớt. Tiếp nối chúng là những bông hoa tuyết vô thanh khổng lồ, những vật thể trong suốt như pha lên mang thứ màu trắng tinh khiết nhất, và kế đến là một chòm sao trong hình dạng Nữ thần Tự do, với đôi mắt xanh và làn môi hồng ngọc. Hàng nghìn người há hốc miệng và vỗ tay hoan hô. Tôi vẫn nhớ cái cổ họng lốm đốm máu khô của bố tôi, một cơ quan gồ ghề đồ sộ dùng để nốc bia được bao bọc lỏng lẻo bởi làn da xù xì. Mỗi khi tôi rên rỉ trước những tiếng nổ lớn thỉnh thoảng phát ra, hay trước những chùm than hồng rực rỡ như sắp gieo thẳng xuống đầu chúng tôi, ông lại trấn an tôi rằng chúng tôi không việc gì phải sợ cả. Tôi có thể cảm thấy giọng nói ồm ồm của ông trong bụng và chân tôi. Đôi cánh tay chắc nịch của ông, mỗi cánh tay được chia đôi bởi một tĩnh mạch, mạnh mẽ giữ chặt lấy tôi.

Tôi muốn nói về vẻ đẹp của bố tôi. Tôi biết đó không phải là chủ đề thường dành cho đàn ông – khi chúng ta nói về bố mình, chúng ta thường có xu hướng kể những câu chuyện về lòng can đảm hay cơn thịnh nộ dữ dội của họ, thậm chí cả sự hiền từ. Nhưng tôi muốn nói về vẻ đẹp cương trực, hoàn hảo của bố tôi: Ông có đôi cánh tay cân đối, rắn chắc, với nước da sáng và cơ bắp dẻo dai như thể chúng được tạc nên từ tro thô, cùng dáng đi thanh lịch, nhịp nhàng và khoan thai. Ông là người đàn ông lực lưỡng, cân đối; ông chủ một rạp chiếu phim có đôi mắt sẫm màu, lặng lẽ yêu thích những bộ phim điện ảnh. Mẹ tôi thường bị đau đầu và hay nói bóng gió mỉa mai, còn bố tôi luôn vui vẻ, luôn tất bật, luôn tin chắc rằng mọi thứ sẽ đâu vào đấy.

Khi bố tôi đi làm, chỉ còn lại hai mẹ con tôi ở nhà với nhau. Bà thường nghĩ ra những trò chơi trong nhà cho chúng tôi chơi, hoặc cùng tôi làm bánh quy. Bà không thích ra ngoài, đặc biệt là vào mùa đông, vì cái lạnh khiến bà đau đầu. Bà là con gái miền New Orleans, nhỏ nhắn và tỉ mỉ trong từng động tác. Bà lấy chồng từ rất sớm. Thi thoảng, bà dỗ tôi đến ngồi cạnh bà bên cửa sổ, nhìn ra phố, chờ đợi một khoảnh khắc khi khung cảnh băng giá có thể chuyển mình thành thứ gì đó bình thường mà bà mong đợi, bình thản như những bà mẹ Ohio sôi nổi, cứng rắn vẫn hay lái những chiếc xe khổng lồ chở thực phẩm, trẻ con cùng những người thân lớn tuổi. Những chiếc xe hơi kiểu station wagon[2] chạy ầm ầm trên con phố của chúng tôi, như những chiếc xe tăng được trang hoàng đang ăn mừng chiến thắng trong những cuộc chiến tranh ngoại quốc.

[2] Kiểu xe có phần đuôi được thiết kế để tăng thể tích chứa bên trong, ghế sau có thể tháo ra hoặc gập lại để tăng diện tích chất hành lý, và có cửa sau.

“Jonathan,” bà thì thầm. “Con trai ơi. Con đang nghĩ gì vậy?”

Đó là câu mà bà hay hỏi. “Con không biết,” tôi nói.

“Kể cho mẹ chuyện gì đó đi,” bà nói. “Hãy kể mẹ nghe một câu chuyện nào.”

Tôi thấy mình cần phải nói. “Mấy anh kia đang mang xe trượt tuyết của họ ra sông mẹ ạ,” tôi bảo bà, khi hai anh chàng hàng xóm đang đội những cái mũ lưỡi trai sọc vuông – những người mà tôi vừa ngưỡng mộ vừa sợ - đi qua nhà tôi, kéo theo một cái xe trượt mòn vẹt. “Họ sẽ dùng cái ván đó để trượt băng. Nhưng họ phải để ý đến những cái hố. Có đứa từng bị ngã xuống đó và chết đuối rồi đấy.”

Nó không giống một câu chuyện lắm. Tôi chỉ nghĩ được đến thế trong khoảnh khắc quan sát ngắn ngủi.

“Làm sao con biết?” Bà hỏi.

Tôi nhún vai. Tôi nghĩ rằng mình đã bịa chuyện. Đôi khi thật khó để phân biệt điều gì đã thực sự xảy ra với điều gì tưởng như đã xảy ra.

“Chuyện đó có làm con sợ không?” Bà hỏi.

“Không ạ,” tôi bảo bà. Tôi tự hình dung ra cảnh mình đang lướt trên một khoảng băng rộng, khéo léo tránh những cái hố lồi lõm, nơi những đứa trẻ đáng thương khác đã ngã xuống với một tiếng “tõm” sầu thảm.

“Ở đây con sẽ được an toàn,” bà nói, vuốt ve tóc tôi. “Đừng lo con ạ. Ở đây mẹ con mình hoàn toàn bình an vô sự mà.”

Tôi gật đầu, dù có thể cảm thấy cái vẻ không chắc chắn trong giọng nói của mẹ tôi. Khuôn mặt với cái mũi nhỏ và hàm nở rộng của bà thu lấy thứ ánh sáng mùa đông lạnh lẽo được hắt lên từ mặt phố đóng băng và nẩy thia lia từ phòng này sang phòng khác, len lỏi vào đám đồ bạc trong tủ kính, tạo cảm giác như chiếc đèn bàn nho nhỏ hình lăng trụ đang chiếu sáng.

“Sao không kể một câu chuyện vui?” Bà nói. “Có lẽ lúc này mẹ con mình nên nghe một câu chuyện hài hước.”

“Vâng,” tôi nói, dù tôi không biết câu chuyện vui nào. Hài hước là một bí ẩn với tôi… tôi chỉ có thể thuật lại những gì mình đã thấy. Bên ngoài cửa sổ, bà Heidegger, bà lão hàng xóm không chồng, đang từ trong nhà bước ra, khoác trên mình chiếc áo choàng có vẻ như được làm từ da chuột. Bà nhặt một tờ báo được ném vào sân nhà bà và đi cà nhắc trở lại bên trong. Tôi biết, từ những lời bình phẩm riêng tư của cha mẹ tôi, rằng bà Heidegger rất buồn cười. Bà buồn cười vì luôn giữ cho nhà cửa vườn tược của mình được sạch như lau như ly, và khăng khăng kết tội những người Cộng sản, vốn đang điều hành trường học, công ty điện thoại, và nhà thờ của những người theo thuyết Luther. Bố tôi thường nói với giọng eo éo: “Những người Cộng sản đó lại gửi hóa đơn tiền điện cho chúng ta rồi. Hãy nghe tôi, họ đang cố tống chúng ta ra khỏi nhà đấy.” Khi ông nói kiểu đó mẹ tôi luôn cười, ngay cả lúc trả tiền hóa đơn, khi mà nỗi lo lắng khắc nét rõ ràng nhất quanh khóe miệng và mắt bà.

Ngày hôm đó, ngồi bên cửa sổ, tôi cố giả làm bà Heidegger. Trong một giọng run rẩy the thé không hoàn toàn khác biệt với giọng thường ngày của tôi, tôi nói: “Ôi, những người Cộng sản tồi tệ đó đã quẳng tờ báo vào thẳng sân nhà tôi.” Tôi đứng dậy và đi cà nhắc đến giữa phòng khách, nhặt tờ tạp chí Time trên bàn uống cà phê lên và vẫy vẫy trên đầu.

“Những người Cộng sản kia,” tôi rền rĩ thốt lên. “Các người hãy tránh xa khỏi đây ngay. Đừng cố tống bọn ta ra khỏi nhà nữa.”

Mẹ tôi cười thích thú. “Con thật tinh quái,” bà nói.

Tôi đi đến chỗ bà, và bà trìu mến gãi đầu tôi. Ánh nắng từ ngoài phố làm sáng bừng lên những tấm rèm sa mỏng và rót đầy đĩa kẹo xanh sẫm trên chiếc bàn kê sát tường. Chúng tôi thực sự an toàn.

Bố tôi làm việc cả ngày, về nhà ăn tối, rồi quay lại rạp vào buổi đêm. Đến tận lúc này, tôi không biết ông làm những gì vào khoảng thời gian đó – theo như tôi hiểu, hoạt động của một rạp chiếu phim đơn lẻ, không mấy thành công, không nhất thiết cần đến sự có mặt của người chủ suốt từ sáng sớm đến tận đêm khuya như thế. Dù vậy, bố tôi vẫn làm việc từng đấy giờ đồng hồ, và cả mẹ lẫn tôi đều không hề thắc mắc. Ông đang kiếm tiền, duy trì ngôi nhà vốn vẫn che chở cho chúng tôi khỏi những mùa đông của Cleveland. Đó là tất cả những gì chúng tôi cần biết.

Khi bố tôi về nhà ăn tối, một mùi băng giá còn lưu lại trên áo choàng của ông. Ông to lớn và vững chãi như một cái cây. Khi ông cởi áo choàng ra, đám đông nhỏ xíu trên cẳng tay ông lập tức dựng đứng lên trong không khí ấm cúng dịu dàng của ngôi nhà.

Mẹ tôi dọn bữa tối mà bà đã nấu. Bố tôi vỗ nhẹ lên bụng bà, lúc đó nó đã tròn căng như một quả bóng rổ.

“Dễ sinh ba lắm đây,” ông nói. “Chúng ta sẽ cần một ngôi nhà lớn hơn. Hai phòng ngủ thì không thể nào đủ nữa.”

“Nên bận tâm về hóa đơn tiền dầu cái đã,” bà nói.

“Một năm nữa thôi,” ông nói. “Sang năm chúng ta có thể tìm kiếm một căn nhà khác.”

Bố tôi hay nhắc đến sự thay đổi địa vị của chúng tôi. Nếu chúng tôi tự thu xếp theo một cách nào đó, những điều tốt đẹp sẽ xảy ra. Chúng tôi phải lưu ý về việc chúng tôi có vị trí thế nào, chúng tôi mong đợi những gì.

“Mẹ con em sẽ chờ xem,” mẹ tôi nói, giọng nhỏ nhẹ.

Ông đứng dậy và xoa bóp vai bà. Đôi bàn tay ông che lấp hoàn toàn vai bà. Ông gần như có thể bao quanh cổ bà bằng ngón cái và ngón giữa.

“Em chỉ cần chú tâm vào đứa bé,” ông nói. “Hãy giữ cho mình được khỏe mạnh. Anh sẽ lo phần còn lại.”

Mẹ tôi quy thuận những cái vuốt ve của ông, nhưng không hứng thú gì với chúng. Tôi có thể nhận thấy điều đó trên khuôn mặt bà. Khi bố tôi ở nhà, bà mang ánh nhìn thận trọng tương tự như khi chúng tôi quan sát đường phố. Sự hiện diện của ông khiến bà lo lắng, như thể vài thành phần nào đó từ bên ngoài đã đột nhập vào.

Bố tôi chờ mẹ tôi nói, để dẫn dắt chúng tôi theo cuộc trò chuyện đang bỏ dở về cuộc sống của gia đình mình. Nhưng bà vẫn ngồi im bên bàn, vai căng lên dưới sự săn sóc của ông.

“Ôi, bố nghĩ đã đến lúc bố phải quay lại làm việc rồi,” cuối cùng ông nói. “Khá lâu đấy, chàng trai. Hãy trông nhà nhé.”

“Vâng,” tôi nói. Ông vỗ nhẹ vào lưng tôi và hôn thật kêu lên má tôi. Mẹ tôi đứng dậy và bắt đầu rửa bát đĩa. Tôi ngồi ngắm bố tôi khi ông giấu đôi cánh tay cơ bắp trong tay áo choàng và quay trở ra nhà.

Đêm đó, sau khi tôi đã được đặt lên giường để đi ngủ, mẹ tôi thì đang ngồi xem ti vi dưới nhà, tôi lén vào phòng bà và thử tô son của bà lên môi tôi. Ngay cả trong bóng tối, tôi cũng có thể nhận ra rằng nó khiến tôi có vẻ khôi hài hơn là quyến rũ. Tuy nhiên, nó vãn làm thay đổi ngoại hình của tôi. Tôi lấy phấn hồng của bà để bôi lên má và kẻ chì đen lên đôi lông mày hoe vàng của mình.

Tôi nhón chân bước vào phòng tắm. Tiếng cười và tiếng nhạc tinh tang bay bổng qua thanh lan can cầu thang. Tôi đặt chiếc ghế đẩu ở phòng tắm vào chỗ bố tôi thường đứng cạo râu buổi sáng, và leo lên đó để có thể soi mình trong gương. Đôi môi tô son của tôi trông thật bự và không ra hình thù gì, những đốm phấn hồng đỏ thẫm bị bôi toe toét. Tôi không đẹp, nhưng tôi tin là tôi mang vẻ đẹp tiềm ẩn bên trong. Tôi sẽ phải lưu ý về vị trí cùng những suy nghĩ của mình. Cẩn thận với cái bản lề cọt kẹt, tôi từ từ mở tủ thuốc và lấy ra lọ bọt cạo râu sọc vằn hiệu Barbasol của bố tôi. Tôi biết mình phải làm gì: lắc cái lọ thật mạnh, xịt một đống bọt trắng lên lòng bàn tay trái và xoa bừa vào hàm và cổ. Trang điểm đòi hỏi tất cả sự tỉ mỉ mà người ta có thể có khi tháo ngòi nổ một quả bom; còn cạo râu là một hành động hấp tấp và thiếu chính xác, nó tạo ra những vết máu đỏ tươi và để lại từng mảng vụn râu – đã mất hết sức sống như da rắn lột – trong bồn rửa mặt.

Sau khi đã xoa bọt lên mặt, tôi nhìn thật lâu vào trong gương, xem xét kết quả. Đôi mắt được bôi đen của tôi long lanh như những con nhện trên lớp bọt trắng um tùm. Tôi không giống phụ nữ, cũng chẳng ra đàn ông. Tôi là một thứ gì đó hoàn toàn khác. Có rất nhiều cách khác nhau để trở thành một người đẹp.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
597,378
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 1-3


Bụng mẹ tôi ngày càng to ra. Trong một lần đi mua sắm, tôi đã đòi và có được một con búp bê nhựa màu hồng có đôi môi mỏng đỏ thẫm và đôi mắt xanh đậm mà mỗi khi nhắm lại, những lúc nó được đặt nằm ngửa, sẽ tạo nên tiếng lách cách dứt khoát như thể chúng là những ô cửa sổ thu nhỏ. Tôi ngờ rằng bố mẹ tôi đã bàn luận về con búp bê. Tôi ngờ rằng họ cho là nó sẽ giúp tôi đương đầu với cảm giác bị ra rìa của tôi. Mẹ tôi dạy tôi cách quấn tã và tắm cho nó trong bồn rửa bát. Ngay cả bố tôi cũng tỏ ra thích thú với vẻ hồng hào của nó. Một hôm ông hỏi tôi ngay trước bữa tối: “Đứa bé thế nào?,” tôi nhấc thân hình cứng ngắc của nó ra khỏi bồn.

“Ổn ạ,” tôi nói. Nước rỉ ra từ những khớp nối của con búp bê. Mái tóc màu lưu huỳnh của nó, mọc lên từ mạng lưới những cái lỗ được đục vào da đầu, tỏa ra mùi của một cái áo len ướt.

“Đứa bé ngoan thế,” bố tôi nói, và lấy một ngón tay lớn vỗ vỗ vào bên má cao su rắn chắc của nó. Tôi thấy xúc động. Thì ra ông cũng yêu nó.

“Vâng,” tôi nói, quấn vật vô tri đó trong một cái khăn trắng dày dặn.

Bố tôi ngồi bệt xuống, phát ra một làn gió nhẹ quyện lẫn với mùi của ông. “Jonathan này?” Ông nói.

“Dạ.”

“Con biết là con trai thường không chơi búp bê, đúng không?”

“Dạ, vâng ạ.”

“Đây là em bé của con,” ông nói, “và con chơi với nó ở nhà thì được. Nhưng nếu con khoe nó với những đứa con trai khác, chúng có thể không hiểu. Vì vậy con chỉ nên chơi với nó ở đây thôi. Nghe không?”

“Vâng.”

“Tốt.” Ông vỗ vỗ lên tay tôi. “Nhớ chưa? Chỉ chơi với nó trong nhà thôi nhé!”

“Vâng,” tôi đáp. Khi tôi đứng đó, nhỏ bé trước ông, ôm con búp bê được quấn tã, tôi cảm thấy nỗi nhục nhã thực sự đầu tiên của mình. Tôi nhận ra một khuyết điểm sâu sắc trong mình, sự ngu ngốc. Tất nhiên tôi biết con búp bê chỉ là một thứ đồ chơi, và là một thứ đồ chơi đáng xấu hổ. Một thứ đồ chơi không thích hợp. Vậy sao tôi lại để cho bản thân có khuynh hướng tin vào những điều ngược lại?

“Con không sao chứ?” Ông hỏi.

“Vâng ạ.”

“Tốt. Thôi, bố phải đi đây. Con trông nhà nhé.”

“Bố ơi?”

“Gì vậy?”

“Mẹ không muốn có em bé đâu,” tôi nói.

“Chắc chắn là mẹ muốn chứ.”

“Không. Mẹ bảo con thế mà.”

“Jonathan, con yêu, mẹ và bố đều rất vui khi có em bé. Còn con không vui sao?”

“Mẹ không thích có em bé,” tôi nói. “Mẹ đã bảo con thế mà. Mẹ nói bố muốn có nó, nhưng mẹ thì không.”

Tôi nhìn vào khuôn mặt khổng lồ của ông, và có thể thấy lời tôi nói đã phần nào tác động đến ông. Đôi mắt ông sáng lên, đám mao mạch trải trên mũi và má ông nổi đỏ và rõ nét hơn trên nước da hơi tái.

“Không đúng đâu, con trai ạ,” ông nói. “Đôi khi mẹ nói những điều mà mẹ không định nói. Tin bố đi, mẹ cũng vui vì có em bé như bố và con vậy.”

Tôi không nói gì.

“Thôi, bố muộn rồi,” ông nói. “Hãy tin bố. Con sẽ có một em gái hoặc một em trai, và chúng ta đều yêu quý cô bé đó. Hay cậu bé đó. Con sẽ là một người anh cả. Mọi chuyện sẽ rất tuyệt đấy.”

Một lúc sau, ông nói thêm: “Hãy để ý mọi chuyện khi bố vắng nhà, nghe không?” Ông giơ ngón tay cái hình thìa lên vuốt ve má tôi, rồi đi.

Đêm đó tôi tỉnh giấc vì tiếng cãi cọ văng vẳng phát ra đằng sau cánh cửa phòng ngủ của họ ở cuối hành lang. Giọng họ rít lên. Tôi nằm chờ đợi – điều gì cũng không rõ nữa? Tôi nhanh chóng chìm vào giấc ngủ, và đến tận bây giờ vẫn không biết liệu có phải tôi đã mơ thấy tiếng cãi cọ đó hay không. Đôi khi vẫn thật khó để phân biệt chuyện gì đã thực sự xảy ra với chuyện gì tưởng như đã xảy ra.

Khi mẹ tôi sinh em bé vào một tối tháng Mười hai, tôi phải ở lại nhà với bà Heidegger, bà lão hàng xóm. Bà là một bà lão đa nghi, có đôi mắt mờ đục và luôn lo rằng tóc mình sẽ biến thành một mảng muối tiêu xác xơ, thưa thớt, qua đó người ta có thể nhìn thấy cả lớp da đầu hồng hồng.

Khi tôi nhìn bố mẹ cùng nhau lái xe đi, bà Heidegger đứng sau tôi, người bà thoang thoảng mùi nước hoa hồng héo. Khi chiếc xe đi khuất, tôi bảo bà: “Thật ra mẹ cháu sẽ không sinh em bé đâu.”

“Không à?” Bà dịu dàng hỏi lại, không biết phải nói chuyện với trẻ con như thế nào khi chúng bất chợt phát ngôn ra những điều kì lạ.

“Mẹ cháu không muốn,” tôi nói.

“Ôi, thôi nào, rồi cháu sẽ yêu em bé thôi, cháu yêu ạ,” bà Heidegger nói. “Hãy chờ xem. Khi bố mẹ cháu mang nó về, cháu sẽ thấy. Nó sẽ là đứa bé đáng yêu nhất mà cháu có thể tưởng tượng ra.”

“Mẹ cháu không thích có em bé,” tôi nói. “Chúng cháu không muốn có nó.”

Lúc đó, mặt bà Heidegger tội nghiệp tím tái lại, và bà bỏ vào bếp để lo liệu bữa tối với một âm thanh như tiếng giấy lụa sột soạt. Bà nấu món gì đó thật mềm và nhừ, món mà một đứa trẻ thích đồ ăn thanh đạm như tôi cực kì thích.

Bố tôi gọi về từ bệnh viện lúc quá nửa đêm. Bà Heidegger và tôi cùng với lấy cái điện thoại một lúc. Bà trả lời và đứng thẳng trong chiếc áo choàng tắm màu xanh, gật gật cái đầu già nua. Tôi có thể nhận ra điều gì đó không ổn qua đôi mắt bà, lúc đó rưng rưng và long lanh như băng đóng trên sông ngay trước khi tan hết, khi nó chỉ còn đang nấn ná thêm một vài khoảnh khắc trên làn nước màu nâu lấp lánh.

Đứa bé sẽ được tả lại cho tôi như là một tấm vé bị hủy, hay một chiếc bánh bị lấy ra khỏi lò quá sớm. Chỉ khi trưởng thành tôi mới lắp ghép lại được sự thực về việc đứa bé bị nhau thai quấn quanh cổ và mẹ tôi bị mất nhiều máu vì biến chứng khi sinh. Mẹ tôi chết ngất đi trong gần một phút, và thật kì diệu là bà đã tỉnh lại. Phần lớn dạ con của bà đã bị nạo. Đứa bé, là con gái, chỉ kịp kêu lên oe oe một lần dưới ánh đèn huỳnh quang trong phòng hộ sinh.

Tôi cho rằng bố tôi không có tâm trạng nào để nói chuyện với tôi. Ông đã kể chuyện đó với bà Heidegger. Bà đặt điện thoại xuống và đứng trước tôi với một vẻ bối rối, sợ hãi khiến tôi tưởng như chính chúng tôi đang phải đón chào cái chết. Tôi biết điều gì đó kinh khủng đã xảy ra.

Bà nói lí nhí: “Ôi, những con người tội nghiệp. Ôi, cháu là một cậu bé tội nghiệp.”

Dù tôi không biết đích xác chuyện gì đã xảy ra, nhưng tôi biết đây là một dịp phải tỏ ra đau buồn. Tôi thử mang cảm giác buồn khôn nguôi, nhưng thực sự tôi thấy hào hứng và khá hài lòng vì có cơ hội diễn rất đạt trong một tình huống xấu như thế này.

“Thôi nào, đừng buồn nữa, cháu yêu,” bà Heidegger nói. Giọng bà mang vẻ khiếp sợ thực sự, run rẩy và lúng búng như đang súc đầy miệng nước. Tôi thử dẫn bà đến một cái ghế và ngạc nhiên khi thấy bà tuân theo tôi. Tôi chạy vào bếp và lấy cho bà một cốc nước, vì tôi nghĩ rằng đó là thứ mà người ta thường đưa cho ai đó đang trong trạng thái xúc động.

“Cháu đừng lo, bà sẽ ở bên cháu,” bà nói khi tôi bưng ra khay nước và đặt lên mép bàn. Bà định kéo tôi vào lòng nhưng tôi không thích ngồi ở đó. Tôi vẫn đứng bên chân bà. Bà vuốt ve tóc tôi, còn tôi xoa những khớp xương đầu gối gầy gò ẩn dưới lớp vải flannel của bà.

Bà thẫn thờ nói, gần như nghi ngờ: “Ôi, cô ấy rất khỏe mạnh cơ mà. Trông cô ấy hoàn toàn khỏe mạnh cơ mà.”

Tôi bạo gan nắm lấy bàn tay già nua, khẳng khiu, yếu ớt của bà.

“Ôi, thằng bé tội nghiệp,” bà nói. “Cháu đừng lo gì cả, có bà đây rồi.”

Tôi vẫn đứng bên chân bà, nắm lấy bàn tay xương xẩu của bà. Bà mỉm cười với tôi. Trong nụ cười đó có chút vui vẻ nào không? Có lẽ là không, tôi ngờ rằng mình đã tưởng tượng ra nó. Tôi nhẹ nhàng xoa tay bà. Chúng tôi giữ nguyên tư thế đó trong một lúc, đầu cúi xuống, bất động và hơi thỏa mãn, như một cặp phụ nữ lỡ thì đã biết cách tìm kiếm sự khuây khỏa trong nỗi sầu khổ sâu sắc của cõi đời này.

Hơn một tuần sau mẹ tôi về nhà, dè dặt và khá nhút nhát. Cả bà và bố tôi đều nhìn quanh căn nhà như thể nó là mới với họ, như thể họ đã được hứa hẹn một thứ gì đó lớn hơn. Khi mẹ tôi vắng nhà, bà Heidegger đã tạo ra một mùi riêng của bà, thứ mùi trộn lẫn giữa mùi hoa hồng ướt đẫm và mùi thức ăn không quen thuộc. Bà siết chặt tay bố mẹ tôi rồi lịch thiệp và vội vã rời đi. Có lẽ bà đã được ngầm báo rằng, vào bất cứ lúc nào ngôi nhà cũng có thể bốc cháy.

Sau khi bà đi, bố mẹ tôi đều quỳ xuống và ôm lấy tôi. Họ vây quanh tôi, gần như che lấp tôi bằng cơ thể và thứ mùi trong lành quen thuộc của họ.

Bố tôi khóc. Trước đây ông chưa bao giờ nhỏ một giọt nước mắt trước mặt tôi, vậy mà giờ đây ông òa lên nức nở, họng bật lên những tiếng nấc nghẹn ngào như thanh âm phát ra từ cây đàn ống. Tôi thử đặt tay lên cẳng tay ông. Ông không hất nó ra, cũng không mắng tôi. Đám lông hoe vàng của ông dựng lên lộn xộn giữa những ngón tay tôi.

“Không sao đâu,” tôi thì thầm, dù tôi không cho rằng ông có thể nghe thấy lời tôi qua tiếng khóc của ông. “Không sao đâu,” tôi lặp lại, giọng lớn hơn. Ông không nhận được bất cứ sự an ủi rõ rệt nào từ những lời trấn an của tôi.

Tôi liếc sang mẹ tôi. Bà không khóc. Khuôn mặt bà trắng bệch và vô cảm. Có lẽ bà là một thể xác trống rỗng, đang chết lặng chờ đợi được thổi hồn vào. Nhưng khi cảm thấy ánh mắt tôi đang nhìn mình, bà đã gắng sức kéo tôi vào lòng, với vẻ mộng du. Cái ôm của bà khiến tôi bất ngờ, và tôi tuột tay khỏi người bố tôi. Khi mẹ tôi ấn mặt tôi sát vào những nếp gấp trên chiếc áo choàng của bà, tôi hoàn toàn không còn nhìn thấy bố tôi nữa. Tôi thấy mình bị kéo vào sâu trong chiếc áo choàng của mẹ tôi. Nó che kín mũi và tai tôi. Tiếng khóc của bố tôi trở nên nghèn nghẹn và xa vắng khi tôi bị ép sát hơn vào người mẹ tôi, xuyên qua lớp vỏ ngoài lạnh lẽo tiến vào cõi lòng thoảng hương quen thuộc. Tôi kháng cự một lúc, cố quay lại bên bố tôi, nhưng bà quá mạnh mẽ. Tôi biến mất. Tôi rời bỏ bố tôi và dấn thân vào nỗi sầu muộn dữ dội hơn của mẹ tôi.

Sau đó, mẹ tôi ít khi muốn ra khỏi nhà hơn bao giờ hết. Đôi lúc vào buổi sáng, bà cho tôi lên giường nằm với bà và giữ tôi lại đó, để đọc sách hay xem ti vi, cho đến tận giữa buổi chiều. Chúng tôi cùng kể chuyện và chơi trò chơi. Tôi tin rằng tôi biết chúng tôi đang cùng nhau làm gì trong suốt những ngày dài ru rú trong nhà đó. Chúng tôi đang tập luyện cho thời điểm khi bố tôi không còn ở với chúng tôi nữa, khi chỉ còn lại mỗi hai mẹ con tôi.

Để làm cho mẹ tôi cười, tôi thường bắt chước người khác, dù tôi không thích đóng giả làm bà Heidegger nữa. Tôi quyết định giả làm mẹ mình, và đôi khi khiến bà cười phá lên. Tôi thường quàng khăn và đội mũ của bà, nhái theo ngữ điệu vùng New Orleans trong giọng nói của bà, nó đã bị tôi biến đổi thành một chất giọng nửa miền Nam, nửa quận Bronx[3]. “Con đang nghĩ gì thế?” Tôi dài giọng. “Con yêu, kể chuyện cho mẹ nghe đi.”

[3] Một trong năm quận của thành phố New York.

Bà luôn cười đến chảy cả nước mắt. “Con yêu,” bà thường nói, “con thật có năng khiếu. Con nghĩ sao nếu bố mẹ đưa con lên sân khấu, để con có thể chăm sóc bà mẹ già cả của con khi bà lú lẫn?”

Cuối cùng chúng tôi cũng dậy, bà vội vã mặc quần áo, chuẩn bị nấu nướng và lau dọn với sự nghiêm túc của một nghệ sĩ.

Bố tôi không còn xoa bóp vai bà khi ông về nhà vào buổi tối. Ông không còn đặt những nụ hôn thật kêu và cường điệu lên trán hay đầu mũi bà. Ông không thể. Một tấm lá chắn đã mọc lên quanh bà, trong suốt và rắn như thủy tinh. Tôi có thể nhận thấy nó dựng lên khi ông về nhà, những thứ mùi của thế giới bên ngoài vẫn bám đầy trên áo choàng của ông. Khi lá chắn được dựng lên, trông mẹ tôi không có gì khác – khuôn mặt bà vẫn lanh lợi và hơi xúc động, những động tác của bà vẫn chính xác như một bác sĩ phẫu thuật khi bà dọn bữa tối hoàn hảo mà bà đã nấu – nhưng không ai chạm được vào bà. Chúng tôi biết thế, cả bố tôi và tôi, với cảm giác hoàn toàn chắc chắn không sao giải thích nổi. Mẹ tôi có năng lực đặc biệt. Chúng tôi ăn tối (tay nghề nấu nướng của mẹ ngày càng được nâng cao, bà đã đạt tới những tầm cao mới phức tạp hơn), nói chuyện phiếm, và bố tôi gửi một nụ hôn gió về phía chúng tôi khi ông lại sắp sửa ra ngoài làm việc.

Một đêm cuối xuân, tôi bị đánh thức bởi một trận cãi cọ thực sự. Bố mẹ tôi ở dưới nhà. Ngay cả khi tức giận họ vẫn có nói nhỏ, vì thế chỉ có vài từ hoặc cụm từ rời rạc văng vẳng vọng lên phòng tôi. Kết quả là nghe tiếng hai người như đang gào thét bên trong một cái bao tải lớn. Tôi nghe thấy bố tôi nói, “sự trừng phạt,” và, gần một phút sau, mẹ tôi đáp lại, “thứ mà anh muốn… thứ đó… ích kỉ.”

Tôi nằm trong bóng tối, lắng nghe. Ngay sau đó, tôi nghe tiếng bước chân, - của bố tôi – leo lên gác. Tôi cho rằng ông sẽ đi vào phòng tôi, và tôi giả vờ đã ngủ thật ngoan, đầu tôi đặt giữa gối và đôi môi tôi hé mở. Nhưng bố tôi không đến với tôi. Ông vào phòng của họ. Tôi chỉ nghe thấy tiếng ông đi vào đó, rồi chẳng nghe được gì nữa.

Nhiều phút trôi qua. Mẹ tôi không đi theo ông. Ngôi nhà thật tĩnh mịch, ngập tràn một sự thinh lặng lạnh lẽo, giá buốt, ngay cả khi đám lá cây tử đinh hương và sơn thù du khẽ cọ vào những ô kính cửa sổ. Tôi cẩn thận nằm trên giường, không chắc mình nên và được phép làm gì vào một đêm như thế này. Tôi nghĩ tôi sẽ ngủ tiếp, nhưng không tài nào chợp mắt được.

Cuối cùng, tôi ra khỏi giường và đi dọc hành lang đến phòng bố mẹ tôi. Cửa mở he hé. Ánh đèn ngủ của họ - thứ ánh sáng nửa vàng nửa hồng được nhuộm màu bởi chao đèn bằng giấy da – lơ lửng trong cảnh tranh tối tranh sáng của hành lang. Tôi có thể nghe tiếng mẹ tôi bóc vỏ quả hồ đào trong phòng bếp, một chuỗi những tiếng răng rắc nhịp nhàng vang lên rõ rệt.

Bố tôi nằm chếch trên chiếc giường đôi, trong một vẻ buông xuôi lịch sự, gần như trang nghiêm. Ông quay mặt vào tường, trên đó treo bức tranh vẽ một con phố Paris màu ngọc lam, không có người, được lồng trong khung bằng bạc. Một cánh tay vắt ra ngoài mép đệm, những ngón tay lớn đung đưa với vẻ quái gở. Lồng ngực ông nhô lên hạ xuống theo nhịp đều đặn của giấc ngủ.

Tôi đứng ở cửa một lúc suy ngẫm về vị thế của mình. Tôi đã mong ông nghe thấy tôi, ngẩng lên và chợt lo lắng về việc đã làm tôi thức giấc. Khi ông vẫn giữ nguyên tư thế trên giường, tôi lặng lẽ bước vào phòng. Đó là lúc tôi phải nói, nhưng tôi không biết nói gì. Tôi nghĩ chỉ riêng sự xuất hiện của tôi cũng đã là động lực cho một điều gì đó xảy ra tiếp theo. Tôi nhìn quanh phòng. Đồ trang điểm và nước hoa của mẹ tôi được xếp trên một cái khay xà cừ, và được đặt trên một cái tủ com-mốt. Một chiếc gương hình họa tiết hình hoa trên giấy dán tường phía đối diện. Tay không, chẳng có món lễ vật nào, tôi mò đến bên giường và thận trọng chạm vào khuỷu tay bố tôi.

Ông ngẩng đầu lên và nhìn tôi như thể ông không nhận ra; tôi như thể chúng tôi đã từng gặp nhau một lần, lâu lắm rồi, và giờ ông đang cố nhớ tên tôi. Khuôn mặt ông suýt nữa làm tim tôi ngừng đập. Trong một thoáng, có vẻ như cuối cùng ông đã rời bỏ chúng tôi; người cha trong ông đã rút lui và thay thế cho nó chỉ là một người đàn ông, to lớn như một chiếc ô tô nhưng ngây dại và ngô nghê như một đứa trẻ, dám làm bất cứ điều gì. Tôi đột nhiên đứng ngây ra trước sự xa lạ mới mẻ của ông, mỉm cười ngượng nghịu trong bộ pyjama màu vàng.

Rồi ông sực tỉnh. Ông lấy lại vẻ mặt bình thường và nhẹ nhàng đặt tay lên vai tôi. “Này,” ông khẽ nói. “Con đang làm gì thế?”

Tôi nhún vai. Thậm chí cho đến nay, khi đã là người lớn, tôi cũng không thể nhớ nổi có khi nào mình không ngừng lại và cân nhắc trước khi nói ra sự thật không.

Đáng lẽ ông nên nhấc tôi lên giường cùng ông. Động tác đó có thể đã cứu thoát cả hai chúng tôi, ít nhất là trong thời điểm đó. Tôi nhức nhối vì nó. Tôi sẽ cho đi tất cả mọi thứ mà tôi nghĩ là mình có, trong những tưởng tượng phong phú nhất của mình, để được kéo lên giường cùng ông và được ông ôm, như lúc bầu trời nổ tung trên đầu chúng tôi vào ngày mồng Bốn tháng Bảy. Nhưng có lẽ ông đã xấu hổ vì bị bắt gặp khi đang cãi cọ. Giờ đây ông là người đàn ông đã làm con trai tỉnh giấc vì quát mắng vợ, và rồi thả mình nằm vắt chéo trên giường như một cô thiếu nữ đang đau khổ. Có thể ông còn khoác lên mình những hình ảnh khác nữa, nhưng hình ảnh này vẫn sẽ mãi gắn liền với ông.

“Đi ngủ tiếp đi,” ông nói, giọng cáu kỉnh hơn ông định. Tôi cho rằng ông đã hi vọng là tình huống này vẫn có thể được tháo gỡ. Nếu ông hành động đủ mạnh mẽ, chúng tôi có thể quay ngược về thời điểm trước đó và dệt lại giấc ngủ của tôi. Sáng hôm sau tôi sẽ thức dậy với những giấc mơ không nhớ rõ.

Tôi không nghe lời ông. Tôi chỉ muốn được an ủi ông. Bố tôi yêu cầu tôi quay trở lại giường và tôi trở nên bướng bỉnh và bực tức. Tôi chực khóc, khiến sự kiên nhẫn của ông bị kéo căng ra. Tôi muốn ông cần đến sự có mặt của tôi. Tôi cần biết rằng nhờ sự tốt bụng và kiên nhẫn của tôi, tôi sẽ chiến thắng trong cuộc thi đấu dai dẳng để có được tình yêu của ông.

“Jonathan,” ông nói. “Jonathan, đi thôi.”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
597,378
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 1-4


Tôi để ông dẫn trở lại phòng. Tôi không được lựa chọn. Ông bế tôi lên và lần đầu tiên tôi không hoan hỉ khi được ông chạm vào, hay thấy vui thích trước thứ mùi nồng nồng và vầng trán rộng sáng bóng của ông. Lúc đó, tôi bỗng hiểu được sự trầm lặng của mẹ tôi cùng cảm giác xa cách mong manh của bà. Tôi đã tập đóng giả bà và giờ đây, trong lúc cấp bách, tôi không thể làm gì khác. Nếu bố tôi xoa bóp bờ vai mệt mỏi của tôi, tôi sẽ trở nên căng thẳng; nếu ông bước vào từ ngoài trời tuyết, tôi sẽ lo lắng nghĩ đến việc món trứng trộn rau bina chiên phồng của tôi có thể bị hỏng.

Ông nhẹ nhàng đặt tôi lên giường. Ông đắp chăn cho tôi, bảo tôi ngủ. Ông làm không tệ. Tuy nhiên, do đang tức tối, tôi tuột xuống giường và chạy ngang qua căn phòng đến bên rương đựng đồ chơi của mình. Những cảm giác xa lạ náo động trong tai tôi, khiến tôi choáng váng. “Jonathan,” bố tôi nghiêm khắc nói. Ông chạy theo tôi, nhưng tôi quá nhanh so với ông. Tôi thọc tay xuống đáy rương, biết mình sẽ chạm đến chỗ nào. Tôi túm lấy cái chân cao su bóng nhoáng của con búp bê và lôi ra rồi ôm ghì nó trong tay.

Ông do dự, đang lửng lơ trên cái gường nhỏ của tôi. Trên đầu giường, một con thỏ hoạt hình đang tung tăng nhảy múa trên cánh đồng hoa bốn cánh màu hồng.

“Nó là của con,” tôi nói, giọng khăng khăng gần như khích động. Sàn phòng ngủ dường như chao đảo dưới chân tôi, và tôi bám lấy con búp bê như thể riêng mình nó có thể giúp tôi khỏi bị mất thăng bằng và ngã nhào.

Bố tôi lắc đầu. Theo như tôi còn nhớ, đó là lần duy nhất sự điềm đạm trong ông bị tàn lụi. Ông mong muốn quá nhiều, mà thế giới thì đang thu nhỏ lại. Vợ ông xa lánh ông, công việc không thành công, còn đứa con trai độc nhất – ông sẽ không có đứa con nào khác nữa – lại thích chơi búp bê và những trò chơi trong nhà lặng lẽ.

“Chúa ơi, Jonathan,” ông quát lên. “Chúa ơi. Con bị cái quái gì thế hả? Sao thế hả?”

Tôi đứng nín thinh. Tôi không đáp lại câu hỏi đó, dù tôi biết ông muốn nghe một câu trả lời.

“Nó là của con” là tất cả những gì tôi có thể đáp. Tôi ghì con búp bê quá chặt vào ngực đến mức hàng mi cứng ngắc của nó đâm vào tôi qua lớp áo pyjama.

“Được thôi,” ông dịu đi, trong một giọng thua cuộc. “Được thôi. Nó là của con.” Rồi ông bỏ đi.

Tôi nghe tiếng ông xuống gác, lấy áo khoác từ cái tủ kê ở hành lang. Tôi nghe thấy mẹ tôi không nói được một lời từ trong bếp. Tôi nghe thấy ông đóng cửa trước, với một sự thận trọng và cân nhắc ám chỉ đó sẽ là hành động cuối cùng.

Ông trở lại vào buổi sáng, sau khi đã ngủ trên đi văng trong văn phòng của mình ở rạp chiếu phim. Sau một thời gian khó khăn, chúng tôi đã lấy lại được cuộc sống gia đình bình thường của mình, lại tìm thấy được niềm vui. Bố mẹ tôi đã tạo ra một mối quan hệ thân mật, vui vẻ mà không có những nụ hôn hay những trận cãi vã. Họ bắt đầu sống bên nhau với mối thân tình giản dị, thoải mái của những người anh chị em đã trưởng thành. Ông không đặt ra cho tôi những câu hỏi không thể trả lời nữa, dù câu hỏi duy nhất đó của ông vẫn tiếp tục kêu lách tách sau gáy tôi như một đường nối điện bị lỗi. Tài nấu ăn của mẹ tôi đã trở nên nổi tiếng. Năm 1968, gia đình chúng tôi được chụp ảnh trên phụ bản Chủ nhật của tờ Bưu điện của Cleveland: mẹ tôi đang làm món tôm hầm trong khi bố tôi cùng tôi đứng nhìn, đầy hãnh diện và hi vọng, trong những bộ đồ thật bảnh.

BOBBY

Hồi đó chúng tôi sống tại Cleveland, ở một nơi đồng không mông quạnh. Đó là những năm sáu mươi – radio của chúng tôi suốt ngày ra rả những bản tình ca. Tất nhiên nó đã là quá khứ. Nó xảy ra trước khi thành phố Cleveland bị ảnh hưởng bởi suy thoái, trước khi dòng sông của nó bốc cháy[4]. Chúng tôi có bốn người. Bố mẹ tôi, Carlton và tôi. Carlton vừa tròn mười sáu khi tôi lên chín. Giữa chúng tôi còn vài anh chị nữa, họ là những ngọn lửa leo lét đã tắt dần trong dạ con của mẹ tôi. Gia đình tôi không phải là một cái cây có nhiều nhánh hay sai quả. Họ của chúng tôi là Morrow.

[4] Sông Cuyahoga chảy qua Cleveland, đã bị cháy vài lần do tia lửa của đèn hàn bắn xuống và đốt cháy dầu mỡ loang trên sông, đến năm 1969 nó mới thu hút được sự chú ý của báo chí và từ đó dấy lên phong trào bảo vệ môi trường.

Bố tôi là giáo viên dạy nhạc của một trường trung học. Mẹ tôi dạy những đứa trẻ được gọi là “đặc biệt,” những đứa có thể nói được ngày Giáng sinh của năm 2000 sẽ rơi vào ngày nào, nhưng không nhớ là phải tụt quần ra khi đi tiểu. Chúng tôi sống trong một khu gọi là Woodlawn – nơi những ngôi nhà một hay hai tầng xinh xắn được sơn những màu lạc quan. Khu chúng tôi tiếp giáp với một nghĩa địa. Phía sau sân sau nhà tôi là một con mương bị lấp kín bởi những bụi cây, và xa hơn là cánh đồng đầy những bia mộ nhẵn bóng. Tôi lớn lên với nghĩa địa và không bận tâm lắm về nó. Có thể nó còn đẹp hơn trong mắt tôi nữa là khác. Phía gần nhà chúng tôi có một bức tượng thiên thần bằng đá, ngực nhỏ và cương nghị, nhô lên giữa những bia mộ vừa phải. Xa hơn, trong một khu giàu có, những thánh đường Hồi giáo và những ngôi đền Parthenon thu nhỏ lặng lẽ kể với Cleveland về những thành tựu bền bỉ của nhân loại. Carlton và tôi thường chơi trong nghĩa địa lúc còn nhỏ và, khi lớn hơn một chút, hút cần sa và uống Southern Comfort[5] ở đó. Nhờ Carlton, tôi đã là một đứa chín tuổi học lớp bốn tệ nạn nhất. Tôi đang thành công trên con đường hư hỏng của mình. Tôi không làm được gì mà không hỏi ý kiến anh ấy.

[5] Một loại rượu mùi.

Đây là Carlton vài tháng trước khi anh chết, trong một thời khắc tuyết rơi nhiều đến mức đất trời đều như trắng xóa một màu. Anh di chuyển chậm chạm giữa những tấm bia mộ và tôi đi sau, buốt nhói vì tuyết, hướng theo chiếc mũ len đỏ rực của anh. Tóc Carlton được buộc túm ra sau theo kiểu đuôi ngựa, thật gọn gàng và giản dị. Anh tằn tiện, theo kiểu rieng của mình.

Chúng tôi đã dùng ma túy tổng hợp với nước qua trong bữa sáng. Hay đúng hơn, Carlton dùng một viên và tôi, do còn nhỏ, chỉ được phép dùng một nửa. Thứ ma túy này được gọi là “ô kính cửa sổ.” Nó khiến ta nhìn rõ hơn, giống như thuốc nhỏ mũi Vicks có tác dụng làm thông mũi vậy. Bố mẹ tôi đang đi làm, kiếm miếng ăn hằng ngày. Do chúng tôi đã ra ngoài trời lạnh nên khi quay về, ngôi nhà sẽ khiến chúng tôi bị sốc trước sự ấm áp và chính trực của nó. Carlton thường tin vào những cú sốc.

“Em nghĩ nó đang có tác dụng,” tôi gọi to. Carlton đang mặc cái áo khoác da hoẵng, đã sờn hết độ bóng. Đằng sau lưng áo, ngang qua chỗ xương dẹt ở vai, bạn gái anh đã thêu vào đó một con mắt màu xanh tia chớp. Khi chúng tôi bước đi, tôi nói với con mắt đó. “Em nghĩ em cảm thấy điều gì đó,” tôi nói.

“Còn quá sớm mà,” Carlton nói với lại. “Thoải mái đi, Frisco. Mày sẽ biết khi nào thì đến lúc.”

Tôi vừa thích thú vừa sợ hãi. Chúng tôi đang làm một việc hệ trọng. Carlton đã dùng ma túy vài lần trước đây, nhưng tôi thì chưa bao giờ. Chúng tôi đã cho những viên ma túy vào miệng lúc ăn sáng, khi mẹ tôi đi lấy món thịt lợn muối xông khói. Carlton thường thích làm những trò liều lĩnh.

Tuyết đọng lại trong những chữ chạm khắc trên bia mộ. Tôi nghiêng mình trong gió, cố tìm hiểu xem liệu mọi thứ quanh tôi có vẻ xa lạ vì tôi dùng ma túy, hay chỉ vì mọi thứ thực sự xa lạ. Ba tuần trước, một gia đình ở bên kia thành phố đang ngồi xem ti vi ở nhà thì một cái máy bay một động cơ đã rơi xuống nhà họ. Tuyết quay cuồng quanh chúng tôi, có vẻ như nó vừa rơi từ trên trời xuống vừa hất ngược từ dưới đất lên.

Carlton dẫn đường đến tụ điểm của chúng tôi, đó là lối vào có hàng cột trụ của một ngôi mộ thượng lưu. Ngôi mộ này là một cung điện. Những vị thần tình ái bằng đá túm tụm phía trên nóc cao nhất, với những đôi cánh băng giá còi cọc và những khuôn mặt trinh nguyên. Bên dưới mái che là một cái hiên, phía trong là những cánh cửa bằng gang dẫn vào ngôi nhà đích thực của người chết. Vào mùa hè, cái hiên này rất mát. Vào mùa đông, nó là nơi tránh gió. Chúng tôi cất một chai Southern Comfort ở đó.

Carlton tìm cái chai, mở nắp và nốc một hơi dài ra trò. Người anh được nạm đầy tuyết. Anh đưa cho tôi cái chai và tôi uống một ngụm dè dặt hơn. Ngay cả trong mùa đông, ngôi mộ cũng tỏa ra mùi rên mốc như một cái giếng. Những đám lá khô và một cái vỏ kẹo M&M, bị gió khuấy tung, kêu lạo xạo trên sàn đá cẩm thạch.

“Mày sợ à?” Carlton hỏi tôi.

Tôi gật đầu. Tôi chưa bao giờ nghĩ đến việc nói dối anh ấy.

“Đừng sợ, nhóc,” anh nói. “Sợ hãi sẽ làm cho mày rối tung lên. Nếu mày không thấy sợ thì ma túy chẳng thể làm mày đau được.”

Tôi gật đầu. Chúng tôi đứng trú trong đó, chuyền nhau cái chai. Tôi dựa vào sự chắc chắn của Carlton như thể nó tỏa nhiệt.

“Chúng ta có thể dùng ma túy suốt ngày ở Woodstock[6],” tôi nói.

[6] Tên của thị trấn nằm ở phía đông nam New York, nơi diễn ra đại hội nhạc rock lớn nhất thế giới năm 1969.

“Đúng vậy. Quốc gia Woodstock. Chà chà.”

“Người ta có thực sự sống ở đó không?” Tôi hỏi.

“Trời ơi, mày đừng hỏi câu đó nữa. Đại nhạc hội đã kết thúc, nhưng người ta vẫn còn ở đó. Đó là quốc gia mới. Hãy hi vọng đi.”

Tôi lại gật đầu, hài lòng. Có một đất nước khác dành cho chúng tôi. Tôi đã là một con người mới, với cái tên mới là Frisco. Tên cũ của tôi là Robert.

“Chúng ta sẽ dùng ma túy suốt ngày,” tôi nói.

“Mày nên tin như thế.” Khuôn mặt Carlton, vây quanh bởi tuyết và cẩm thạch, ngời lên. Đôi mắt anh sáng như ánh đèn neon. Thứ gì đó trong chúng cho tôi biết anh có thẻ nhìn thấy tương lai, một hồn ma lượn trên đầu mọi người. Trong tương lai của Carlton, chúng tôi đều được giải thoát khỏi công việc và học hành. Đang chờ đợi chúng tôi, sớm thôi, là một sự an nhàn tươi sáng, lý tưởng. Một cuộc sống giữa những hàng cây bên bờ sông.

“Mày cảm thấy thế nào, hả nhóc?” Anh hỏi tôi.

“Tuyệt,” tôi bảo anh, và đúng là thế thật. Những con bồ câu vỗ cánh phành phạch bay lên từ một cái cây trơ trụi và ngay lập tức biến đổi, chuyển mình từ thép sang bạc trong ánh tuyết lấp lánh bay. Vào lúc đó tôi biết ma túy đang có tác dụng. Mọi thứ trước mắt tôi đột nhiên trở nên rực rỡ. Làm sao mà Carlton lại biết điều này sẽ xảy ra? “Ôi,” tôi thì thào. Tay anh đặt trên vai tôi.

“Thoải mái đi, Frisco,” anh nói. “Trong thế giới tươi đẹp này chẳng có gì đáng sợ cả. Có tao ở đây mà.”

Tôi không sợ. Tôi chỉ đang ngạc nhiên. Cho đến lúc này tôi mới nhận ra rằng mọi thứ quả là thực. Một cành con này nằm trên sàn cẩm thạch dưới chân tôi, mang trên mình một chùm dâu tím thẫm. Đầu bị gãy của nó trầy xước, trắng bệch, trông như những thớ thịt. Những cái cây đều là vật thể sống.

“Tao đây,” Carlton lặp lại, và quả thực là anh đang ở đây.

Vài giờ sau, chúng tôi đã nằm ườn trên cái sofa trước ti vi, bình thường như Wally và Beav[7]. Mẹ tôi đang nấu bữa tối trong bếp. Một cái nắp vung kêu leng keng. Chúng tôi là những điệp viên. Tôi đang cố che giấu sự ngạc nhiên của mình.

[7] Tên hai nhân vật chính trong bộ phim hài kịch tình huống Leave it to Beaver (Hãy để Beaver ra tay).

Bố tôi đang chế tạo một cái đồng hồ quả lắc với bộ đồ nghề của ông. Ông muốn có gì đó để lại cho chúng tôi, một thứ mà chúng tôi có thể truyền lại cho nhau. Chúng tôi có thể nghe thấy tiếng ông cưa và gõ thình thịch trong tầng hầm. Tôi biết ông đang bày thứ gì trên giá cưa của mình – một hộp gỗ thô dài, trên đó ông gắn những cái gờ trang trí. Một giọt mồ hôi vương trên trán ông khi ông làm việc. Tối nay tôi đã khám phá ra khả năng có thể nhìn khắp các phòng trong cùng một lúc của mình, để biết từng chuyện đang diễn ra. Một con chuột đang gặm nhấm bên trong bức tường. Những đường dây điên cuộn lại sau lớp vữa xây, ẩn mình và kiên nhẫn như những con rắn.

“Suỵt,” tôi nói với Carlton, dù anh không hề nói gì cả. Anh đang xem ti vi qua những kẽ ngón tay. Những phát súng bay vèo vèo. Những viên đạn làm bụi bốc lên mù mịt trên một bức tường bê tông. Tôi không biết bọn tôi đang xem cái gì.

“Các con ơi?” Mẹ tôi gọi từ trong bếp. Tôi có thể, bằng đôi tai mới của mình, nghe tiếng bà đang dằn những khoanh thịt cho bẹt ra. “Hãy dọn bàn ăn như những công dân tốt nào,” bà gọi.

“Vâng, thưa mẹ,” Carlton đáp, giả giọng hệt như lúc đang bình thường. Bố tôi đang nện búa dưới tầng hầm. Tôi có thể cảm thấy trái tim Carlton kêu tích tắc. Anh vỗ vỗ tay tôi, để đảm bảo với tôi rằng mọi thứ đều hoàn hảo.

Chúng tôi dọn bàn ăn, bày biện dao thìa dĩa, gấp khăn giấy thành hình tam giác đặt một bên. Chúng tôi rất thành thạo việc này. Sau khi làm xong, tôi ngừng lại để ngắm lớp giấy dán tường trong phòng ăn: một trang trại màu hoàng kim bị chặn phía sau bởi những ngọn núi. Những đàn bò gặm cỏ, những đám mây mùa thu đổ bóng vàng. Khung cảnh này lặp lại ba lần, trên ba bức tường.

“Vụt,” Carlton thì thào. “Vù… ù… ù… ù…”

“Bọn mình làm có đúng không?” Tôi hỏi anh.

“Bọn mình làm mọi thứ thật hoàn hảo, nhóc ạ. Mà trong đầu mày cảm thấy thế nào?” Anh gõ nhẹ lên đầu tôi.

“Tuyệt vời, em nghĩ thế.” Tôi nhìn vào lớp giấy dán tường, như thể tôi đang nghĩ đến việc bước vào chúng.

“Mày nghĩ thế. Mày nghĩ thế à? Mày và tao sẽ đến những hành tinh khác, nhóc ạ. Lại đây nào.”

“Đến đâu?”

“Đây. Lại đây.” Anh dẫn tôi đến bên cửa sổ. Bên ngoài tuyết là là bay, lấp lánh và óng ánh bạc, bên dưới những ngọn đèn đường. Những ngôi nhà trệt tích trữ sự ấm áp, tỏa ánh đèn lên lớp tuyết đọng. Đây là một con phố ở Cleveland. Đây là con phố của chúng tôi.

“Mày và tao sẽ bay, nhóc ạ,” Carlton thì thầm, sát bên tai tôi. Anh mở cửa sổ. Tuyết ùa vào, lấp lánh trên thảm.

“Bay nào,” anh nói, và chúng tôi bay thật. Trong một thoáng, chúng tôi vươn người về phía trước, làn gió đêm u tối phả vào mặt chúng tôi – chúng tôi nhấc thân mình lên khỏi tấm thảm len polyester màu ca cao phủ đầy tuyết khoảng hai phân rưỡi. Bí quyết để bay là đây – bạn phải hành động ngay lập tức, trước khi cơ thể bạn nhận ra rằng nó đang chống lại các định luật. Đến tận bây giờ tôi vẫn dám chắc với bạn về điều đó.

Chúng tôi đều biết rằng mình đã tạm thời rời khỏi mặt đất. Điều đó không làm chúng tôi ngạc nhiên cho lắm, không hơn việc máy bay thi thoảng rơi từ trên trời xuống, hay việc chúng tôi đã luôn sống trong những căn phòng này và sẽ sớm rời chúng. Chúng tôi hạ mình xuống. Carlton chạm vào vai tôi.

“Chờ đấy, Frisco,” anh nói. “Những điều kì diệu đang xảy ra. Những điều vô cùng kì diệu.”

Tôi gật đầu. Anh kéo cửa sổ xuống, và nó đóng sập lại với một tiếng “xạch.” Khuôn mặt chúng tôi nhìn lại chính mình từ lớp kính tối đen, lạnh lẽo. Đằng sau chúng tôi, mẹ tôi đang thả những khoanh thịt vào chảo rán, nó phát ra tiếng kêu xèo xèo. Bố tôi đang cắm cúi với chúng tôi của ông dưới một chiếc bóng đèn có chao hình nón, sửa soạn cái hộp dài nơi ông sẽ đặt vào đó bộ máy đồng hồ, quả lắc và một cái mặt. Một chiếc máy bay kêu ù ù trên đầu chúng tôi, ẩn mình trong những đám mây. Tôi lo lắng liếc sang Carlton. Anh cười trấn an và bóp nhẹ gáy tôi.

Tháng Ba. Sau mùa tuyết tan. Tôi đang đi qua nghĩa địa, nghĩ về cuộc sống vĩnh hằng của mình. Một trong những điều thú vị khi sống ở Cleveland là bất cứ hướng đi nào cũng có vẻ như dài bất tận. Tôi đã ghi nhớ bản đồ. Theo tính toán của tôi thì chúng tôi đang cách Woodstock, New York gần ba trăm năm mươi dặm. Trong một ngày mới tinh khôi như thế này, tôi đang đi về phía đông, đến nơi Carlton và tôi cất cái chai. Tôi sẽ uống trước một hớp rượu, để chúc mừng tương lai tươi sáng của mình.

Khi đến nơi, tôi nghe thấy những tiếng rên khe khẽ phát ra từ sau ngôi mộ. Tôi đứng yên, cân nhắc xem mình nên làm gì. Âm thanh đó là một tiếng rên rỉ kéo dài, vút lên ở cuối, một nốt đố cao, kiểu như là “ooooooow.” Một tiếng sói hú dội ngược lại. Điều thôi thúc tôi tìm hiểu thay vì bỏ chạy chính là nhu cầu kể chuyện. Trong những câu chuyện mà anh tôi thích nhất, người ta luôn làm những việc mạo hiểm, ngốc nghếch. Tôi nhận thấy tôi có thể đi tới quyết định bằng cách nghĩ mình là nhân vật trong một câu chuyện mà Carlton đã kể.

Tôi rón rén quanh sườn ngôi mộ, thận trọng như một con lửng, nép sát vào một bức tượng cẩm thạch. Tôi nhòm qua bờ vai nõn nà của bức tượng tiểu thiên sứ đó. Điều mà tôi trông thấy là hình ảnh Carlton đang nằm trên mặt đất cùng với bạn gái anh, trong một mớ hỗn độn của quần áo và da thịt trần trụi. Chiếc áo khoác có thêu hình con mắt của Carlton được vắt trên bia mộ, cứ chăm chú nhìn.

Tôi khom mình đằng sau bức tượng. Tôi có thể thấy đôi cánh tay trần của cô gái và lằn xương sống quen thuộc của Carlton. Hai người họ đang cùng nhau rên rỉ trên bãi cỏ mùa đông xơ xác. Dù không nhìn rõ vẻ mặt của cô gái, nhưng tôi thấy mặt Carlton nhăn nhó và rúm ró, những đường gân cổ căng lên. Tôi chưa bao giờ nghĩ việc này lại đau đớn đến thế. Tôi cứ nhìn, cố học hỏi. Tôi bám vào đôi cánh lạnh lẽo của tiểu thiên sứ.

Không lâu sau, Carlton nhìn thấy tôi. Mắt anh ngước vội lên đầy kích động, và thứ mà chúng tôi bắt gặp là cái đầu nhỏ bé của em trai anh, đang nhô lên bên cạnh đầu của một tiểu thiên sứ. Mắt chúng tôi giao nhau và mất một thoáng để cùng quyết định. Cô gái vẫn bám chặt tấm lưng gầy gò của Carlton. Anh quyết định mỉm cười với tôi. Anh quyết định nháy mắt.

Tôi chạy khỏi đó nhanh đến mức làm xới tung cả những mảng đất còn dính cỏ. Tôi luồn lách giữa những tấm bia mộ, vọt qua con mương, nhảy qua hàng rào vào địa phận của mảnh sân sau nhà tôi, nơi đặt cái bàn ngoài trời và cái ghế đu. Trong cái nháy mắt ấy ẩn chứa điều gì đó. Tim tôi đập nhanh như tim của một con chim sẻ.

Tôi vào bếp và thấy mẹ tôi đang rửa hoa quả. Bà hỏi tôi có chuyện gì thế. Tôi bảo bà là không có chuyện gì cả. Chẳng có gì hết.

Bà thở dài phía trên quả táo đang rửa dở. Những tấm rèm khoe họa tiết hình những ấm trà màu xanh dương. Mẹ tôi cọ quả táo bằng một cái bàn chải. Bà tin rằng vỏ của chúng phủ toàn chất độc.

“Carlton đâu?” Bà hỏi.

“Con không biết,” tôi đáp.

“Bobby?”

“Sao ạ?”

“Thực sự thì có chuyện gì thế?”

“Chẳng có gì,” tôi nói. Tim tôi đập với tốc độ như của một con chim ruồi, thình thịch hơn mức bình thường.

“Mẹ nghĩ là có chuyện gì đó đấy. Trả lời mẹ một câu nhé?”

“Vâng.”

“Anh con đang nghiện ma túy à?”

Tôi thấy nhẹ nhõm đôi chút. Chỉ là ma túy thôi. Tôi biết vì sao bà lại hỏi thế. Gần đây những chiếc xe cảnh sát cứ lượn lờ quanh nhà chúng tôi như lũ cá mập. Họ dừng lại, ghi chép rồi lướt đi. Họ đang đàn áp thẳng tay quanh khu. Mà trong vùng này thì Carlton lại vô cùng nổi tiếng.

“Không đâu,” tôi bảo bà.

Bà quay mặt về phía tôi, một tay cầm bàn chải, tay kia cầm quả táo. “Con sẽ không nói dối mẹ chứ?” Bà biết có chuyện gì đó đang xảy ra. Bà rất nhạy cảm với những vấn đề trong nhà. Bà có thể cảm thấy bụi bám trên mặt bàn và sữa bắt đầu chua trong tủ lạnh.

“Không ạ,” tôi nói.

“Có chuyện gì đó mà,” bà thở dài. Bà là một phụ nữ nhỏ bé, tháo vát, lúc nào cũng nheo mắt khi nhìn vào mọi vật. Bà lớn lên trong một trang trại ở Wisconsin, trải qua thời hoa niên với việc chăm chút những luống đậu và lo lắng về tiết trời mưa nắng. Bà vẫn đang cố gắng vượt qua thói quen hay trông đợi những điều nhỏ nhặt của mình.

Tôi ra khỏi bếp, vờ như đột nhiên quan tâm đến con mèo. Mẹ tôi theo sau, vẫn cầm cái bàn chải. Bà định cọ sự thật ra từ người tôi. Tôi đi theo con mèo, sau cái đuôi màu đen dựng đứng và lỗ hậu môn hồng hồng của nó.

“Đừng có bỏ đi khi mẹ đang nói chuyện với con,” mẹ tôi nói.

Tôi vẫn tiếp tục bước, để xem mình có thể đi được bao xa, miệng gọi: “Miu miu miu.” Ở hành lang trước, cái đồng hồ tự làm của bố tôi điểm nửa tiếng. Tôi đi về phía chiếc đồng hồ. Khi tôi bước đến chỗ cây đa búp đỏ thì bà túm được tôi.

“Mẹ đã bảo là con không được bỏ đi,” bà nói và dùng cái bàn chải đập cho tôi một phát đau điếng. Bà nắm lấy tai tôi và véo nó. Con mèo chuồn đi nhanh như một nốt nhạc đen.

Tôi đứng lại một phút, để bà biết là tôi đã nghe thấy lời bà. Rồi tôi tiếp tục bước. Bà lại đánh tôi, lần này là vào sau đầu, đủ mạnh để khiến mắt tôi hoa lên. “Mày có dừng lại không?” Bà quát lên. Tuy nhiên, tôi vẫn cứ đi. Ngôi nhà của chúng tôi chạy từ tây sang đông. Với mỗi bước đi, tôi tiến đến gần trang trại Yasgur[8] hơn.

[8] Nơi diễn ra đại học hội Woodstock.

Carlton huýt sáo khi về nhà. Mẹ tôi coi anh như một vị khách trọ ở quá lâu. Anh không để ý. Anh đang đắm chìm trong sự lạc quan. Anh vỗ vỗ má bà và gọi bà là “Giáo sư.” Anh coi bà như một người hiền lành, và quả thực là thế.

Bà không bao giờ đánh Carlton. Bà chịu đựng anh như kiểu những cô gái ở nông trại chịu đựng một con quạ đạo chích, với sự miễn cưỡng quá lâu và vô tận đến mức nó gần giống như là sự tôn sùng. Bà đưa anh một quả táo đã được cọ rửa, và bảo anh bà sẽ làm gì nếu anh để lại vết bẩn trên thảm.

Tôi đang đợi trong phòng chúng tôi. Anh mang về cả mùi nghĩa địa, lớp tuyết cũ và những nhành lá thông ướt đẫm. Anh đảo mắt về phía tôi, miệng gặm một miếng táo, “Có chuyện gì sao, hả Frisco?” Anh hỏi.

Tôi nằm vắt vẻo trên giường, cố thổi chiếc kèn harmonica theo một điệu nhạc của Dylan[9]. Tôi vẫn luôn cho rằng mình có thể tỏ ra khôn ngoan. Tôi trao cho Carlton một cái gật đầu hình thức.

[9] Bob Dylan (sinh ngày 24 tháng 5 năm 1941): ca sĩ, nhạc sĩ người Mỹ có tầm ảnh hưởng lớn tới âm nhạc đại chúng trong năm thập kỉ qua, nổi tiếng với những bài hát chống chiến tranh và ủng hộ nhân quyền.

Anh thả người xuống giường của anh. Tôi có thể thấy một bông nghệ tây nát bấy, bông đầu tiên trong năm, đang dính ở đế giày cao su màu đen của anh.

“Chà, Frisco,” anh nói. “Hôm nay mày quả thực là một người đàn ông.”

Tôi lại gật đầu. Tất cả chỉ có thế thôi sao?

“Chà,” Carlton nói. Anh cười, hài lòng với bản thân và vạn vật trên đời. “Điều đó thật tuyệt.”

Tôi thổi một đoạn mà mình thạo trong bài Blowin’ in the wind.

Carlton nói: “Mày biết không, khi tao thấy mày ở đó rình mò bọn tao, tao đã thầm nghĩ, phải. Giờ mình đang thực sự ở đây. Mày hiểu tao nói gì không?” Anh vung vẩy cái lõi táo.

“Có,” tôi nói.

“Frisco ạ, đây là lần đầu tiên tao và con bé làm chuyện đó. Ý tao là, bọn tao đã nói chuyện. Nhưng cuối cùng khi bọn tao bắt đầu làm thế thì mày xuất hiện. Em trai tao. Như mày đã biết đấy.”

Tôi gật đầu, và lần này là thật. Chuyện đã xảy ra là một cuộc phiêu lưu mà chúng tôi có cùng nhau. Đúng vậy. Câu chuyện đang bắt đầu có ý nghĩa.

“Ôi, Frisco,” Carlton nói. “Tao cũng sẽ kiếm cho mày một con bé. Mày cũng lên chín rồi. Mày trong trắng cũng khá lâu rồi đấy.”

“Thật không?” Tôi hỏi.

“Nhóc ạ. Bọn tao sẽ kiếm cho mày một con bé lớp sáu, một đứa có ít nhiều kinh nghiệm. Chúng ta sẽ cùng phê ma túy và làm chuyện đó dưới những gốc cây trong nghĩa địa. Tao muốn có mặt trong lần đầu tiên của mày, nhóc ạ. Mày sẽ cần một người anh trai ở đó.”

Tôi định hỏi, làm ra vẻ ngẫu nhiên nhất có thể, về mối liên hệ giữa tình yêu và nỗi đau thể xác, thì giọng mẹ tôi vang lên trong căn phòng. “Biết ngay mày sẽ làm thế mà,” bà thét lên. “Mày để dây hết bùn lên thảm rồi kia kìa.”

Tiếp theo là một rắc rối gia đình. Mẹ tôi bắt bố tôi, người cùng đến và đứng ơ cửa với bà, nhìn những vết tích trên sàn. Trước đây ông là một người đàn ông điển trai. Đến nay khuôn mặt ông đã trở nên mệt mỏi do phải chịu đựng quá nhiều. Gần đây ông đang thích làm đỏm – với một chòm râu dê và đôi giày da dê.

Mẹ tôi chỉ những vết bùn hình bán nguyệt dây suốt từ cửa đến tận giường Carlton. Thủ phạm đang đung đưa phía trên chân giường, lấm bùn với vẻ khiêu khích, đôi bàn chân tội lỗi của Carlton vẫn xỏ trong chúng.

“Anh thấy không?” Bà nói. “Anh có thấy nó coi em ra gì không?”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
597,378
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 1-5


Bố tôi, một người biết điều, bảo Carlton nên lau nó đi. Mẹ tôi thấy hành động đó là không đủ. Bà muốn Carlton ngay từ đầu đã không làm thế. “Em đã không đòi hỏi gì nhiều,” bà nói. “Em không hỏi xem nó đi đâu. Em không hỏi tại sao cảnh sát lại đột nhiên để ý đến ngôi nhà của chúng ta. Em chỉ yêu cầu nó đừng làm dây bùn lên sàn nhà. Chỉ thế thôi.” Bà gườm gườm nhìn chúng tôi, ánh mắt giận dữ đầy phẫn nộ.

“Con nên lau nó ngay đi,” bố tôi bảo Carlton.

“Và chỉ thế thôi sao?” Mẹ tôi nói. “Nó lau dọn chỗ bẩn đó, rồi được tha thứ à?”

“Thế em muốn nó làm gì nào? Liếm chỗ bẩn đó hả?”

“Em muốn nó phải biết để ý,” bà nói, bất lực quay sang tôi. “Đó là những gì em muốn.”

Tôi nhún vai, bối rối. Tôi thông cảm với mẹ tôi, nhưng không đứng về phía bà.

“Được rồi,” bà nói. “Từ nay tôi sẽ không bận tâm đến việc lau dọn nhà cửa nữa. Tôi sẽ để lũ đàn ông các người làm việc đó. Tôi sẽ ngồi xem ti vi và quăng vỏ kẹo xuống sàn nhà.”

Bà đùng đùng bỏ đi, lướt qua không khí như một lưỡi dao. Trên đường ra khỏi phòng, bà cầm cái lọ đựng bút chì lên, ngắm nghía nó rồi ném hết đống bút chì lên sàn. Chúng rơi xuống như những quẻ bói, theo từng cặp và từng mẫu chéo nhau.

Bố tôi theo sau, gọi tên bà. Tên bà là Isabel. Chúng tôi có thể nghe thấy họ đi về phía bên kia căn nhà, bố tôi gọi: “Isabel, Isabel, Isabel,” trong khi mẹ tôi, thỏa mãn với hình ảnh của những cái bút chì quăng thêm vài thứ khác xuống sàn nhà.

“Em hi vọng mẹ sẽ không đập ti vi,” tôi nói.

“Mẹ sẽ làm những gì mẹ cần làm,” Carlton bảo tôi.

“Em ghét mẹ,” tôi nói. Tôi không chắc mình có thật sự ghét mẹ không. Tôi chỉ muốn thử xem âm thanh của ba từ đó được phát ra như thế nào, để xem liệu có đúng là thế không.

“Mẹ liều lĩnh hơn bất cứ ai trong nhà mình đấy, Frisco ạ,” anh nói. “Mày nên cẩn thận khi nói gì đó về mẹ.”

Tôi im lặng. Rồi tôi nhanh chóng nhổm dậy và bắt đầu thu nhặt bút chì, vì tôi thích làm thế hơn là nằm một chỗ, cố gắng theo kịp sự thay đổi của lòng trung thành. Carlton đi lấy một miếng bọt biển và kì cọ những vết bùn.

“Mày làm bẩn thảm thì mày phải lau nó,” anh nói. “Đơn giản thế thôi.”

Thời điểm dành cho tất cả những câu hỏi của tôi về tình yêu đã trôi qua, và tôi không ngớ ngẩn đến mức cố khơi lại chủ đề ấy. Tôi biết rồi thời điểm đó sẽ lại xuất hiện. Tôi buộc bút chì thành một bó gọn gàng. Mẹ tôi vẫn đang nổi cơn thịnh nộ khắp nhà.

Sau đó, khi bà đã ném chán đồ đạc và ba người chúng tôi đều nhặt lên hết, tôi nằm trên giường ngẫm nghĩ. Carlton đang nói chuyện điện thoại với bạn gái, thì thà thì thào. Mẹ tôi, đã bình tĩnh lại nhưng vẫn còn nguy hiểm, đang nấu bữa tối. Bà hát trong khi nấu ăn, vài điệu nhạc buồn tẻ hồi những năm bốn mươi chắc đã phổ biến ở khắp các phòng trà khi chiếc máy bay chở người chồng đầu tiên của bà rơi xuống Thái Bình Dương. Bố tôi thổi kèn clarinet dưới tầng hầm. Đó là nơi ông đến để luyện tập, giữa đống đồ nghề làm mộc của mình, với những cái búa và dùi được treo gọn gàng và hắt ra những cái bóng quá cỡ nhờ ánh sáng phát ra từ chiếc bóng đèn duy nhất. Nếu tôi áp tai xuống sàn, tôi có thể nghe thấy tiếng ông thổi kèn, một âm thanh trầm trầm kéo dài như tiếng rên của mèo đực. Tôi thấy thoải mái kì lạ khi áp tai lên thảm và nghe tiếng nhạc của bố tôi len lỏi qua những tấm ván lát sàn. Nằm áp tai trên sàn, tôi hòa theo với tiếng harmonica của mình.

Mùa xuân đó, bố mẹ tôi tổ chức một bữa tiệc để chào mừng mặt trời quay trở lại. Chúng tôi đã trải qua một mùa đông dài khắc nghiệt và giờ đây những bông cúc dại đầu tiên đang nhú lên trên những thảm cỏ và giữa những ngôi mộ.

Những bữa tiệc của bố mẹ tôi là những dịp trang trọng. Bạn bè họ, tất cả đều là giáo viên trung học, mang đến những bình rượu và những cây guitar. Họ là những người tân tiến ở Ohio. Dù họ đang có việc làm và trả tiền nợ thế chấp đúng hạn, nhưng họ vẫn coi mình là những con người hoạt động độc lập trong một nhiệm vụ gián điệp. Họ đồng ý đóng giả các giáo viên cho đến khi nào họ bắt tay vào việc viết tiểu thuyết, hoàn thành những bài luận văn, hoặc tiết kiệm đủ tiền để được tự do.

Carlton và tôi là những người phục vụ. Chúng tôi cầm áo khoác cho họ, mang đồ uống đến. Chúng tôi vẫn làm thế tại mỗi buổi tiệc từ khi chúng tôi còn nhỏ, với vai trò của một người đồng sự, do sự phát triển sớm của chúng tôi. Chúng tôi làm việc này rất thành thạo. Một phụ nữ tô son đẫy đà, người đã cống hiến tuổi xuân của mình cho môn Toán lớp chín, đã gọi tôi là Chàng trai lý tưởng. Một trợ lý phó hiệu trưởng đội chiếc mũ lông Nga hỏi chúng tôi liệu chúng tôi định bầu cho Đảng Dân chủ hay Đảng Xã hội. Do đã lén hớp mấy ngụm rượu nên tôi cũng ngà ngà say.

Tuy nhiên, độ ổn định của buổi tối đã bị phá vỡ khi bữa tiệc mới đi được một nửa, vì vài người bạn của Carlton. Họ gõ cửa và tôi đến mở, hồi hộp như một chuyên gia cải trang, chờ xem ai sẽ bước lên tiếp theo và tin sái cổ rằng tôi là một đứa trẻ chín tuổi ngoan ngoãn, tỉnh táo. Tôi cứ ngỡ sẽ bắt gặp những anh chàng còn non nớt, nhưng hóa ra tôi chỉ thấy một đám thanh niên ngoài vòng pháp luật, đi giày khủng bố và đầu tóc rối bù. Bạn gái của Carlton đứng đằng trước, trong một bộ đồ gần như được làm hoàn toàn bằng lụa.

“Chào, Bobby,” chị tự tin nói. Chị là người New York và khôn ngoan hơn hẳn người địa phương.

“Chào,” tôi nói. Tôi để họ vào hết dù có một sự thôi thúc trái ngược là khóa cửa lại và gọi cho cảnh sát. Có ba nữ và bốn nam. Họ đi qua tôi trong quầng khói ma túy và đưa ra những lời chào ranh mãnh.

Những gì họ làm là xâm nhập vào buổi tiệc. Carlton đang đứng ở phía bên kia căn phòng huyên náo, chọn đĩa nhạc tiếp theo, và bạn gái anh rẽ đám đông đi thẳng về phía anh. Chị có vóc người và dáng đi lả lướt uyển chuyển mà vài người cho là đẹp. Chị đi qua căn phòng đó như thể chị được cử đến để dạy cho toàn bữa tiệc một bài học.

Khuôn mặt Carlton gợi cho tôi biết rằng chuyện này đã được tính toán trước. Mẹ tôi hỏi xem chuyện gì đang diễn ra. Bà đang mặc cái váy dài hở vai màu đỏ sẫm. Khi bà chưng diện, bạn có thể thấy bà đẹp như thế nào, hay đúng hơn là bà đã từng đẹp đến mức nào. Carlton được thừa hưởng vẻ đẹp đó của bà. Còn tôi lại mang khuôn mặt của bố tôi.

Carlton nói qua loa gì đó. Dù mẹ tôi không đồng tình lắm, nhưng những kẻ xâm nhập vẫn được phép ở lại. Một người trong số họ, một anh chàng có kiểu tóc và mặc đồ da rất giống Eddie Haskell[10], bảo bà rằng trông bà rất đẹp. Bà rất vui khi nghe thấy thế.

[10] Tên một nhân vật trong phim Leave it to Beaver, một cậu bé mồm mép.

Vì vậy những kẻ ngoài vòng pháp luật, được gia chủ cho phép, bắt đầu trà trộn vào. Tôi đến bên Carlton, phía không có bạn gái anh. Tôi muốn nói điều gì đó châm biếm và láu lỉnh, điều gì đó sẽ tách tôi và Carlton ra khỏi những người khác trong phòng. Tôi có thể cảm thấy lời bình luận đó hình thành trong đầu mình, nhưng vì chỉ là một đứa trẻ chín tuổi ngà ngà say, tôi không thể thốt ra được. Điều mà tôi nói lại là: “Ôi, chết tiệt.”

Bạn gái Carlton cười nhạo tôi. Chị coi việc một cậu bé nói từ “chết tiệt” thật buồn cười. Tôi muốn bảo chị rằng tôi đã phát hiện ra điều gì ở chị, nhưng tôi mới chín tuổi và đã uống ba phần tư ly cocktail Tom Collins. Ngay cả khi không say, tôi cũng chỉ có thể mơ tưởng đến tài ăn nói sắc sảo.

“Chờ chút, Frisco,” Carlton bảo tôi. “Nó sẽ biến thành một bữa tiệc thực sự cho mà xem.”

Qua ánh sáng ngời lên trong mắt anh, tôi có thể thấy được chuyện gì đang diễn ra. Anh đã sắp xếp một cuộc xem mặt giữa bạn bè của bố mẹ tôi và các bạn của anh ấy. Đó là một bước tiến của Woodstock – anh đang mưu đồ một tương lai mà ở đó người lớn và thanh niên bằng vai phải lứa với nhau. Tôi đồng ý chờ và đi vào bếp, hi vọng có thể lén nhấp mấy ngụm gin.

Tôi thấy bố tôi đang dựa vào tủ lạnh. Một hàng nam châm hình bươm bướm dập dờn quanh đầu ông. “Con có thích bữa tiệc này không?” Ông hỏi, vuốt ve chòm râu dê. Ông vẫn quen với việc mình là một người đàn ông để râu.

“Có ạ.”

“Bố cũng thế,” ông buồn bã nói. Ông không bao giờ muốn làm giáo viên dạy nhạc ở trường trung học. Vấn đề tiền bạc đã buộc ông phải làm thế.

“Con nghĩ loại nhạc này thế nào?” Ông hỏi. Carlton đã đặt đĩa của Stone[11] vào máy quay đĩa. Mick Jagger[12]đang hát 19th nervous breakdown. Bố tôi dang rộng đôi tay, như thể bao gồm cả căn phòng, bữa tiệc và toàn bộ ngôi nhà – bất cứ thứ gì mà âm nhạc lan tỏa đến.

[11] Tên gọi tắt của The Rolling Stones, ban nhạc rock nổi tiếng của Anh thành lập năm 1962.

[12] Mick Jagger (sinh ngày 26 tháng 7 năm 1943): ca sĩ chính của the Rolling Stones.

“Con thích nó,” tôi nói.

“Bố cũng thế.” Ông lấy ngón tay khuấy khuấy ly rượu rồi đưa lên miệng mút.

“Con rất thích nó,” tôi nói, to hơn mức bình thường. Ở bố tôi có vẻ gì đó khiến tôi phải cao giọng. Tôi muốn túm lấy một nắm âm nhạc trong không khí và nhét vào mồm mình.

“Bố không chắc mình có thể nói là rất thích nó không,” ông nói. “Bố không dám chắc. Bố chỉ muốn nói là bố thích cái hướng đi của nó. Bố muốn nói rằng nếu âm nhạc phát triển theo hướng này, bố sẽ không cản trở nó.”

“Vâng,” tôi nói. Tôi bồn chồn muốn quay lại bữa tiệc, nhưng không muốn làm tổn thương cảm giác của bố tôi. Nếu ông cảm thấy mình đang bị né tránh, ông có thể đưa ra một loạt những lời biện bạch còn khủng khiếp hơn cả cơn thịnh nộ của mẹ tôi.

“Bố nghĩ có thể bố đã quá khắc nghiệt với học sinh của bố,” bố tôi nói. “Có lẽ qua mùa hè các con có thể dạy bố chút gì đó về loại nhạc mà mọi người đang nghe ngày nay.”

“Chắc chắn rồi,” tôi nói lớn. Chúng tôi mất một phút mới nói tiếp được.

“Các con vui chứ?” Ông hỏi. “Các con có thích bữa tiệc này không?”

“Chúng con rất vui,” tôi nói.

“Bố nghĩ các con đều vui. Bố cũng thế.”

Lúc đó tôi chỉ còn cách cửa một bước nhảy. Tôi hét tướng lên: “Thôi, tạm biệt bố,” và quay trở lại bữa tiệc.

Chuyện gì đó đã xảy ra khi tôi tạm thời vắng mặt. Bữa tiệc đã bắt đầu sôi nổi. Hãy gọi nó là một biến cố của lịch sử và thời tiết. Bạn bè của Carlton đang cư xử đúng mực, và bạn bè của bố mẹ tôi đã quyết định từ bỏ vài nghi lễ truyền thống với rượu vang và nhạc dân gian của họ, để xem họ có thể học được gì mới. Carlton đang khiêu vũ với vợ của một phó hiệu trưởng. Còn anh bạn Frank của Carlton, với khuôn mặt già trước tuổi và chỉ số IQ dưới mức sáu mươi, thì khiêu vũ với mẹ tôi. Tôi nhận thấy bố tôi đã theo tôi ra khỏi bếp. Tôi mời bà giáo dạy môn Toán có đôi môi màu hoa vân anh nhảy. Bà quá đỗi vui sướng. Bà to lớn và duyên dáng như một cái xe diễu hành, và tôi dễ dàng lèo lái bà vào giữa. Mẹ tôi, người nổi tiếng ở trường vì kỉ luật Sicily, nhảy với vẻ phóng túng khiến tất cả mọi người đều ngạc nhiên. Không ai có thể bàn cãi gì về vẻ đẹp của bà.

Đêm càng lúc càng khuya. Một sự cuồng nhiệt bắt đầu. Carlton đưa thêm nhiều đĩa nhạc mới vào máy quay đĩa – Janis Joplin[13] the Doors[14], the Dead[15]. Tương lai tươi sáng đang trải ra trước mắt mọi người, với vô vàn cơ hội có thêm nhiều đêm nữa y hệt như thế này. Ngay cả bố tôi cũng bị ép phải khiêu vũ, động tác của ông trông như một con chim không biết bay, vỗ vỗ cánh tay và cái bụng phệ. Tuy nhiên, dù gì thì ông cũng đã nhảy. Mẹ tôi tặng cho ông một nụ hôn.

[13] Janis Joplin (1943-1970): nữ ca sĩ, nhạc sĩ người Mỹ, nổi tiếng trong thập niên 1960.

[14] Ban nhạc rock của Mỹ thành lập năm 1965 tại Los Angeles, California.

[15] Tên gọi tắt của Greatful Dead, ban nhạc rock của Mỹ thành lập năm 1965, nổi tiếng với phong cách độc đáo.

Cuối cùng, tôi ngủ gật trên sofa, sảng khoái dưới tác dụng của rượu. Tôi đang mơ thấy mình bay lượn thì mẹ tôi đến và chạm vào tôi. Tôi mỉm cười trước khuôn mặt hoan hỉ đỏ bừng của bà.

“Đã quá giờ ngủ của con rồi đấy,” bà nói, rất dịu dàng. Tôi gật đầu. Tôi không thể chối bỏ sự thật.

Bà vẫn cứ đẩy vai tôi. Phải mất một lúc tôi mới hiểu ra rằng bà thực sự muốn tôi rời khỏi bữa tiệc và đi ngủ.

“Không đâu,” tôi bảo bà.

“Có đấy,” bà cười.

“Không,” tôi thân mật nói, thăm dò. Người mẹ mới mẻ này biết khiêu vũ và tán tỉnh. Ai biết bà còn có thể cho phép những gì?

“Có.” Giọng bà không còn nhẹ nhàng nữa. Bà thực sự nghiêm túc, như lúc bình thường. Tôi đi khỏi đó và lần này không nói năng gì. Tôi vừa tròn chín tuổi và trốn tránh giờ đi ngủ như thể trốn tránh cái chết.

Tôi chạy về phía Carlton để mong được che chở. Anh đang cười với bạn gái, một lọn tóc cong cong ướt đẫm mồ hôi dính trên trán anh. Tôi lao về phía anh, mạnh đến nỗi suýt nữa làm anh ngã nhào.

“Chao ôi, Frisco,” anh nói. Anh xốc nách tôi lên và quay tôi nửa vòng. Mẹ tôi túm lấy gáy tôi theo kiểu nhà nông thứ thiệt, giằng tôi ra khỏi tay anh và đặt tôi xuống.

“Chúc mọi người ngủ ngon đi, Bobby,” bà nói. Rồi bà thêm vào, vì sự có mặt của bạn gái Carlton. “Đáng lẽ nó phải ngủ trừ trước khi bữa tiệc bắt đầu cơ.”

“Không,” tôi hét lên. Tôi vùng vẫy cố thoát ra, tay mẹ tôi kẹp tôi chặt đến nỗi bà có thể làm vỡ được vỏ quả hồ đào.

Bạn gái Carlton hất tóc và nói: “Chúc ngủ ngon, nhóc.” Chị nở một nụ cười đắc thắng. Chị vuốt lại lọn tóc lòa xòa vương trên trán Carlton.

“Không,” tôi lại thét lên. Cái cách chị chạm vào tóc anh ẩn chứa điều gì đó. Mẹ tôi gọi bố tôi đến, ông xốc tôi lên và mang tôi ra khỏi phòng, giữ tôi như thể tôi là một quả bom chưa nổ. Trước khi tôi bị mang đi, mắt tôi bắt gặp mắt Carlton. Anh nhún vai và nói: “Chúc ngủ ngon, nhóc.” Bố tôi đẩy tôi ra, tôi gan lì cưỡng lại. Rồi tôi vùng vằng bỏ đi, tức đến nỗi không khóc nổi, miệng lòng thòng một sợi nước dãi nhơ nhớp như của những đứa trẻ hư.

Sau đó tôi nằm một mình trên chiếc giường chật hẹp, cảm thấy tiếng nhạc ngân nga trong những chiếc lò xo xoắn của tấm đệm. Cuộc sống đang hé mở ngay ngoài kia, trong căn nhà của chúng tôi. Mọi người đang thay đổi. Đến ngày mai, sẽ không còn ai giống hệt như trước nữa. Sao họ nỡ để tôi bỏ lỡ nó? Tôi nghĩ về việc trả đũa bố mẹ tôi, đặc biệt là Carlton. Anh là người có thể cứu tôi lúc đó. Đáng lẽ anh phải đứng về phía tôi. Điều mà tôi không thể tha thứ là cái nhún vai của anh, và ánh mắt bình thản khi nói: “Chúc ngủ ngon, nhóc.” Anh đã gia nhập vào thế giới người lớn. Anh đã biến mình thành lớn hơn, và tạo thêm khoảng cách với tôi. Khi the Doors thình lình chơi bản Strange days, tôi mong sẽ có điều gì đó khủng khiếp xảy ra với anh. Tôi tự nhủ với bản thân mình như thế.

Khoảng nửa đêm, Frank ngốc nghếch tuyên bố anh ta vừa trông thấy một cái đĩa bay lượn lờ phía trên sân sau. Tôi có thể nghe thấy giọng nói trầm trầm thích thú của anh ta lan khắp phòng tôi. Anh ta nói nó như một đám mây rực rỡ lấp lánh. Tôi nghe tiếng một nửa số người trong bữa tiệc chen lấn xô đẩy nhau qua cánh cửa kính trượt. Lúc đó mọi người đều quá cuồng nhiệt đến mức họ tin là sẽ nhìn thấy một chiếc đĩa may thật. Một bữa tiệc náo nhiệt như thế theo logic sẽ thu hút được một niềm hân hoan đáp lại từ phía bên kia những vì sao.

Tôi ra khỏi giường và rón rén đi trên hành lang. Tôi sẽ không để lỡ vị khách ngoài hành tinh nào, bất chấp cái giá là sự phẫn nộ của mẹ tôi hay sự thất vọng của bố tôi. Tuy nhiên, tôi dừng lại phía cuối hành lang, xấu hổ trong bộ đồ pyjama. Nếu thực sự có người ngoài hành tinh, họ sẽ nghĩ tôi là người kém cỏi nhất trong ngôi nhà này. Khi tôi đang do dự không biết có nên quay lại phòng để thay đồ không khi mọi người lục tục trở vào trong nhà, nói rằng họ đã bị đánh lừa bởi sương mù và một chiếc máy bay. Mọi người lại tiếp tục nhảy nhót.

Chắc Carlton đã nhảy qua hàng rào phía sau. Có lẽ anh muốn ở đó một mình, đơn độc, phòng khi họ quyết định mang ai đó theo họ. Một vài đêm sau đó, tôi thường đi ra ngoài và đứng tại nơi mà có lẽ anh đã đứng. Phía bên kia con mương, nước sông đang dâng lên vì tuyết tan, nghĩa địa lập lòe như một thành phố chết. Mặt trăng tròn vành vạnh. Tôi đi loanh quanh như Carlton có lẽ đã từng, bị thôi miên bởi thứ ánh sáng bàng bạc trên những tấm bia mộ, bức tượng thiên thần màu trắng đang giơ tay lên phía bên kia con sông.

Theo bố mẹ tôi, điều khó hiểu là tại sao anh lại chạy trở vào nhà nhanh hết sức như vậy. Có lẽ thứ gì đó ở nghĩa địa đã làm anh hoảng sợ, chắc là anh cần phải thoát khỏi bùa phép của nó. Nhưng tôi nghĩ có lẽ đúng hơn là sau khi lấy lại được bình tĩnh, anh đã nôn nóng quay lại với mọi người và âm nhạc, với sự sôi động, náo nhiệt của cuộc sống đang tiếp diễn.

Ai đó đã đóng cánh cửa kính trượt. Bạn gái của Carlton thờ ơ nhìn ra ngoài, tiếp xúc với bóng phản chiếu của chính mình. Tôi cũng nhìn. Carlton đang chạy về phía ngôi nhà. Tôi do dự. Rồi tôi nhận thấy anh có thể sẽ bị vỡ mũi. Nó sẽ là một trò hay với anh. Tôi cứ để anh chạy tới. Bạn gái anh thấy anh qua hình ảnh phản chiếu của chị, bắt đầu thét lên lời cảnh báo ngay khi Carlton va vào kính.

Đó là một tiếng nổ. Những mảnh kính lấp lánh văng khắp phòng. Tôi nghĩ nó khiến anh thấy ngạc nhiên hơn là đau đớn, như thể lao mình từ trên cao xuống nước vậy. Anh đứng chớp chớp mắt một lúc. Bữa tiệc ngừng hẳn lại, ai cũng nhìn chằm chằm, xác định xem chuyện gì đang xảy ra. Bob Dylan đang hát Just like a woman. Carlton tò mò giơ tay lên để nhổ một mảnh kính vỡ đang găm vào cổ, và lúc đó máu bắt đầu tứa ra. Nó tuôn xối xả. Mẹ tôi hét lên. Carton bước về phía vòng tay của bạn gái anh và hai người họ cùng ngã xuống. Mẹ tôi lao tới, phủ phục lên hai người. Mọi người hét lên những kinh nghiệm xử lý tai nạn của họ. Đừng nhấc thằng bé lên. Hãy gọi xe cứu thương. Tôi đứng ở hành lang quan sát. Máu của Carlton tứa ra, thấm xuống thảm, bắn lên quần áo của mọi người. Bố mẹ tôi đều cố dùng tay bịt vết thương của anh, nhưng máu vẫn rỉ ra qua các kẽ tay. Carlton trông ngơ ngác hơn bao giờ hết, như thể anh không theo kịp diễn biến của sự việc này. “Sẽ ổn thôi,” bố tôi bảo anh, cố cầm máu cho anh. “Sẽ ổn thôi, đừng cử động, sẽ ổn thôi.” Carlton gật đầu và nắm lấy tay bố tôi. Mắt anh lóe lên một tia kinh ngạc. Mẹ tôi hét lên: “Không ai làm gì sao?” Máu chảy ra từ người Carlton trở nên thẫm hơn, gần như đen sì. Tôi đứng nhìn. Bố tôi cố giữ lấy cổ Carlton trong khi anh vẫn cố nắm tay ông. Tóc mẹ tôi nhuốm máu. Máu chảy xuống mặt bà. Bạn gái Carlton ôm anh vào lòng, vuốt ve tóc anh, thì thầm vào tai anh.

Anh mất khi xe cấp cứu vừa tới. Bạn có thể thấy sự sống cạn kiệt dần trong anh. Khi khuôn mặt anh ngày càng nhợt nhạt, mẹ tôi đã khóc ầm lên. Một phần linh hồn bà bay đi, than khóc khắp căn nhà, nơi nó sẽ mãi mãi thét gào và cuồng nộ. Tôi cảm thấy mẹ tôi đi qua tôi trên đường bà ra ngoài. Bà che chở thi thể Carlton bằng chính tấm thân mình.

Anh được chôn ở nghĩa địa sau nhà. Nhiều năm trôi qua – chúng tôi đang sống ở tương lai, và hóa ra nó rất khác so với những gì chúng tôi đã dự định. Mẹ tôi đã tạo nên một cuộc sống tách biệt của riêng bà đằng sau cánh cửa phòng khách. Bố tôi khe khẽ gửi lời chào về phía cửa mỗi khi ông đi qua đó.

Một đêm tháng Tư, gần một năm sau ngày xảy ra tai nạn của Carlton, tôi nghe tiếng những bước chân thận trọng đang di chuyển trên sàn phòng khách lúc đã quá nửa đêm. Tôi hăm hở chạy ra, nghĩ đến những hồn ma, nhưng chỉ thấy bố tôi trong bộ pyjama màu bướm đêm. Ông do dự nhìn vào khoảng không tối đen trước mặt.

“Bố ơi,” tôi gọi từ ngưỡng cửa.

Ông nhìn về phía tôi. “Ơi?”

“Là con. Bobby đây.”

“Ồ, Bobby à,” ông nói. “Con đang làm gì thế, hả con trai?”

“Con chẳng làm gì cả,” tôi bảo ông. “Bố ơi?”

“Sao vậy con trai?”

“Có lẽ bố nên đi ngủ đi. Được không ạ?”

“Có lẽ thế,” ông nói. “Bố chỉ định ra ngoài này để uống nước thôi, nhưng có vẻ bố đã đi loanh quanh trong bóng tối. Đúng, có lẽ bố nên làm theo lời con bảo.”

Tôi cầm tay ông và dẫn ông đi dọc hành lang về phòng ông. Chiếc đồng hồ quả lắc điểm mười lăm phút.

“Xin lỗi,” bố tôi nói.

Tôi đưa ông lên giường. “Thế,” tôi nói. “Được chưa ạ?”

“Tuyệt. Không thể tốt hơn.”

“Vâng. Chúc bố ngủ ngon.”

“Chúc con ngủ ngon. Bobby này?”

“Dạ?”

“Con ở lại một phút được không?” Ông nói. “Bố con mình có thể nói chuyện. Con thấy thế nào?”

“Được ạ,” tôi nói. Tôi ngồi bên mép đệm. Chiếc đồng hồ cạnh giường ông kêu tích tắc từng phút.

Tôi có thể nghe thấy tiếng thở khó nhọc của ông. Quanh căn nhà, màn đêm Ohio rộn lên tiếng côn trùng râm ran, rả rích. Ngón tay màu xám nhỏ bé trên bia mộ của Carlton nhô lên giữa những ngôi mộ khác, trong tầm nhìn của đôi mắt trắng trống rỗng của bức tượng thiên thần. Phía trên đầu chúng tôi, những chiếc máy bay và vệ tinh cứ nhấp nha nhấp nháy. Ngay cả giờ này người ta cũng đang bay đến New York hoặc California, để tiếp tục cuộc sống liều lĩnh và sáng tạo.

Tôi ở lại cho đến khi bố tôi thiêm thiếp ngủ.

Bạn gái của Carlton đã chuyển đến Denver cùng gia đình một tháng trước. Tôi không bao giờ biết được chị đã thì thầm những gì với anh. Dù chị vẫn giữ được bình tĩnh một cách đáng phục trong suốt vụ tai nạn, nhưng chị đã suy sụp ngay sau đó. Chị đã khóc lóc rất thảm thiết tại đám tang của anh đến nỗi mẹ chị - một phiên bản già hơn và có mái tóc đỏ hơn của chị - phải đưa chị đi. Chị bắt đầu đến gặp bác sĩ tâm lý ba lần một tuần. Mọi người, bao gồm cả bố mẹ tôi, nói rằng việc ôm một chàng trai chết trong tay ở độ tuổi đó là quá nặng nề với chị. Tôi biết ơn chị vì chị đã ôm anh trai tôi khi anh chết, nhưng tôi chưa bao giờ nghe thấy chị nhắc đến việc: dù chị đã phải trải qua một chuyện tồi tệ, nhưng ít ra chị vẫn sống và tiếp tục con đường của mình. Ít ra chị cũng bớt dằn vặt vì đã cố cảnh báo anh. Tôi có thể hiểu được nỗi đau phức tạp của chị. Nhưng chừng nào chị còn ở Cleveland, tôi không bao giờ nhìn thẳng vào mặt chị được. Tôi không thể nói đến những vết thương mà chị phải chịu đựng. Tôi thậm chí còn không thể viết nổi tên chị.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
597,378
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 1-6


JONATHAN

Tháng Chín đó, học sinh lớp bảy chúng tôi được chuyển từ những trường cấp một rải rác đến ngôi trường cấp hai duy nhất, một tòa nhà khổng lồ xây bằng gạch màu vàng nhạt, tên trường được treo trên cổng chính với những chữ cái bằng nhôm cỡ gần một mét, trông sơ sài và lạnh lùng như những nỗi lo sâu kín của tôi về sự quản thúc ở bên trong đó. Tôi đã nghe những lời đồi bại: bốn tiếng làm bài tập về nhà mỗi tối, có những tiết phải học hoàn toàn bằng tiếng Pháp, những trận đánh nhau bằng dao cạo trong nhà vệ sinh. Đó là lúc tuổi thơ kết thúc.

Vào giờ ăn trưa của ngày đầu tiên, một cậu bạn với mái tóc sẫm, dài gần đến vai đứng sau tôi và bạn tôi, Adam, trong hàng người đang xếp hàng ở căng tin. Cậu ta trông thật rách rưới và có vẻ lêu lổng: một vật sinh ra từ trong lòng nguy hiểm của chính ngôi trường.

“Chào,” cậu nói.

Tôi không chắc liệu cậu đang nói với tôi, với Adam hay với ai khác gần đó. Mắt cậu, hơi đỏ và ươn ướt, có vẻ như đang tập trung vào thứ gì đó hơi đáng ngạc nhiên đang lượn lờ gần chân chúng tôi.

Tôi gật đầu. Có vẻ đó là biểu hiện cho một thái độ cân bằng vừa phải, không quá hợm hĩnh mà cũng không có hăm hở. Tôi đã tự lập ra vài quyết tâm liên quan đến lối sống mới. Adam, cậu bạn tròn ủng, nghiêm chỉnh mà tôi quen từ hồi lớp hai, phủi phủi một vết bẩn vô hình trên chiếc áo sơ mi kẻ ô hồ cứng của cậu. Cậu là con trai của một người nhồi thú bông, và có cái tính ngờ vực quá già dặn đối với những người lạ.

Chúng tôi chậm chạp tiến dần lên trong hàng, tay cầm cái khay nhựa màu trắng.

“Quả là một nơi khủng khiếp nhỉ?” Cậu nói. “Ý mình là, ờ, các cậu ở đây bao lâu rồi?”

Câu này nhất định là nói với chúng tôi, dù ánh mắt cậu vẫn chưa ngước lên. Giờ tôi có cớ để nhìn vào cậu. Cậu có khuôn mặt vuông vắn điển trai, với cái mũi thon hơi chẻ ở đầu và một cái hàm bạnh đủ để gợi đến dòng máu Da đỏ. Môi và cằm cậu lún phún những sợi râu vàng hoe.

“Cả đời,” tôi nói.

Cậu trầm ngâm gật đầu, như thể tôi đã nói gì đó khó hiểu và đáng suy nghĩ.

Một thoáng trôi qua. Adam đã kết thúc cuộc đối thoại bằng cách lịch sự giả điếc. Tôi cố ra vẻ hờ hững. Sự im lặng ập đến và trải ra – một trong những sự im lặng dễ chịu, kéo dài, mở ra trong những cuộc đối thoại bất ngờ với người lạ và cho phép tất cả các thành viên quay lại, nguyên vẹn, với cuộc sống quen thuộc của họ. Adam rõ ràng đã chuyển sự chú ý về phía trước hàng người, như thể điều gì đó thú vị và chưa từng có đang diễn ra ở đó.

Nhưng rồi, quên mất cái quyết tâm của mình, tôi lại rơi vào một thói quen từ lối sống cũ, một trong những khuyết điểm của bản thân mà tôi đã thề là phải từ bỏ.

Tôi bắt đầu huyên thiên.

“Ý mình là, nơi đây quả thực khủng khiếp, cậu có nghĩ thế không?” Tôi nói. “Cho đến giờ mọi chuyện vẫn khá là dễ dàng, ý mình là vì bọn mình là trẻ con. Mình không biết trước đây cậu học trường nào, nhưng ở trường Fillmore, bọn mình vẫn có giờ giải lao, nghĩa là những giờ nghỉ để ăn nhẹ ấy, còn bây giờ, ừm, ở đây có những kẻ có thể tóm gọn đầu mình trong lòng bàn tay. Mình vẫn chưa vào nhà vệ sinh, nhưng mình nghe nói có những đứa lớp tám đang chờ sẵn trong đó để đợi bọn lớp bảy vào, và nếu tóm được đứa nào chúng sẽ dốc ngược chân nó lên và ấn đầu nó vào bồn cầu. Cậu đã nghe về điều đó chưa?”

Adam sốt ruột bứt một sợi xơ vải khỏi cổ áo. Tai tôi nóng lên.

“Ồ, chưa hề,” một lúc sau, người lạ nói. “Mình chưa nghe thấy điều gì như thế cả. Mình đã hút một điếu cần sa trong phòng vệ sinh trước tiết ba, và mình chẳng bị làm sao cả.”

Giọng cậu không có vẻ gì là giễu cợt. Lúc đó chúng tôi đã tới bàn chia đồ ăn, nơi một phụ nữ mặt đỏ gay đang chia món mỳ ống hầm bằng một cái muỗng múc kem.

“Vậy thì có lẽ lời đồn đó không đúng đâu,” tôi nói. “Nhưng cậu biết đấy, đây là một nơi lộn xộn. Năm ngoái ở đây có một đứa trẻ bị giết đấy.”

Adam nhìn tôi sốt ruột, như thể tôi là một vết bẩn mới không hiểu sao lại xuất hiện trên mặt trước chiếc áo sơ mi của cậu. Tôi đã từ bỏ quyết tâm thứ hai của mình. Tôi không chỉ huyên thiên mà còn đang bắt đầu bịa chuyện.

“Vậy sao?” Người lạ nói. Có vẻ cậu thấy lời khẳng định của tôi là thú vị nhưng không đặc biệt lắm. Cậu mặc cái áo công nhân màu xanh đã bạc màu và một cái áo khoác da màu nâu, tay áo thõng xuống những cái tua bẩn thỉu.

“Đúng vậy,” tôi nói. “Một học sinh mới, lớp bảy. Chuyện đó đã được đăng trên tất cả các báo. Cậu ta, ờ, hơi béo. Và hơi ngốc. Cậu ta xách một cái ca táp, và có một sợi dây đeo kính bằng chun màu đen. Đại khái là, cậu ta xuất hiện ở đây và nhóm học sinh lớp tám bắt đầu chọc ghẹo cậu ta. Ban đầu nó chỉ là, cậu biết đấy, sự trêu chọc thông thường, và có lẽ chúng sẽ chán và để cậu ta yên nếu cậu ta đủ thông minh để biết đường im miệng lại. Nhưng cậu ta lại quá nóng tính. Và chúng càng trêu chọc thì cậu ta càng tức điên lên.”

Chúng tôi di chuyển theo hàng, chất lên khay những cái bát nhỏ đựng ngô hạt, những hộp sữa và những miếng bánh màu vàng nhạt phủ lớp kem màu vàng. Chúng tôi tự động ngồi xuống cùng nhau, không cần thỏa thuận trước, đơn giản vì câu chuyện về cậu bé bị giết vẫn chưa kết thúc. Tôi kéo dài câu chuyện hầu như suốt giờ ăn trưa. Tôi không bỏ qua chi tiết nào về những trò bắt nạt ngày càng tăng của nhóm học sinh lớp tám đó – chúng đã lấy cắp kính, bỏ những quả pháo anh đào[16] vào ngăn tủ để đồ, và nhét con mèo chết vào ca táp của cậu – hay sự tức giận đầy bất lực và ngày càng gia tăng của cậu bé bất hạnh. Adam lúc thì nghe tôi lúc lại nhìn chằm chằm vào những người ngồi ở bàn khác, với sự thẳng thừng không e ngại của một người tin rằng sự quan trọng của mình đã biến mình thành vô tình. Chúng tôi đã ăn xong món mỳ ống và món ngô, bắt đầu ăn bánh trước khi nạn nhân trả thù, với hình thức là một sợi dây được căng ra gần như vô hình, cao đến cổ, ngang qua con đường mòn mà những học sinh lớp trên hay bắt nạt cậu thường cưỡi những chiếc xe đạp bẩn thỉu qua. Chúng tôi ăn xong món tráng miệng vào lúc cậu làm hỏng việc – cậu đã không buộc chặt sợi dây vào những gốc cây – và trên đường về lớp để học tiết tiếp theo trước khi cảnh sát tìm thấy cậu nổi lềnh phềnh trong một cái giếng, trên cặp kính mới của cậu vẫn còn chiếc dây chun màu đen.

[16] Một loại pháo hình tròn, màu đỏ, đường kính khoảng từ 2 cm đến 4 cm, khi nổ phát ra tiếng động lớn.

Ba người chúng tôi đi cùng nhau đến lớp học môn Toán của Adam và tôi. Cậu và tôi đã bàn trước với nhau là sẽ học chung càng nhiều môn càng tốt. Tôi kết thúc câu chuyện ở của lớp.

“Này, cậu,” người lạ nói. Cậu lắc đầu, và không nói gì nữa.

“Tên mình là Jonathan Glover,” tôi nói.

“Mình là, ừm, Bobby Morrow.”

Sau một thoáng, Adam nói: “Adam Bialo?” như thể không chắc liệu một cái tên như thế có thể tin nổi không. Từ nãy tới giờ, đây là lần đầu tiên cậu mở miệng.

“Thôi gặp cậu sau nhé,” tôi nói.

“Ừ. Mình sẽ gặp cậu sau.”

Cho đến khi cậu bước đi tôi mới thấy con mắt màu xanh đã bạc màu được thêu trên lưng áo khoác của cậu.

“Kì cục,” Adam nói.

“Ừ.”

“Mình nghĩ cậu đừng nói dối thêm nữa,” cậu nói. “Mình nghĩ cậu đã thề rồi cơ mà.”

Thực ra thì chúng tôi đã cùng thề với nhau. Tôi sẽ từ bỏ việc bịa chuyện, còn cậu phải ngừng việc kiểm tra những gì chưa hoàn chỉnh trên quần áo.

“Đó là một câu chuyện kể thôi mà. Đó không hẳn là nói dối.”

“Kì cục,” cậu nói. “Cậu sắp kì cục như cậu ta rồi đấy.”

“Ờ,” tôi đáp, với một sự thỏa mãn nào đó. “Mình nghĩ có lẽ đúng là thế đấy.”

“Mình cho là thế,” cậu nói. “Không nghi ngờ gì nữa.”

Chúng tôi đứng đó một lúc, dõi theo con mắt thêu trên áo của người lạ lùi xa dần tển hành lang màu bánh quy. “Kì cục,” Adam lặp lại, giọng cậu có vẻ căm phẫn thực sự, một sự kiên quyết khó lay chuyển trong cái trách nhiệm xã hội bền bỉ là phải luôn tuân thủ những quy tắc về sự sạch sẽ và tính khiêm tốn. Một trong những sức hút của Adam chính là cái phẩm chất của một người bạn tri kỉ tuy phiền phức nhưng về cơ bản là có thiện ý đấy. Lối sống thờ ơ, lảng tránh của cậu khiến tôi có vẻ kì lạ hơn bình thường; khi làm bạn với cậu, tôi có thể là một đứa liều lĩnh. Khi tôi ghi chép những cuộc phiêu lưu nhẹ nhàng của chúng tôi trong đầu, tôi cho Adam đóng vai một người lai giữa Becky Thatcher[17] và Sancho Panza[18], trong khi tôi là Huck, Tom và Nancy Drew[19] kết hợp với nhau. Adam coi một cuộc đi “tắm truồng” hay một thanh kẹo ăn cắp là những thứ đã chạm đến giới hạn, những giới hạn mà tôi sẽ quá đỗi vui sướng khi vượt qua. Cậu đã giúp tôi nhận ra lý tưởng lãng mạn của chính tôi, dù gần đây tôi bắt đầu nghi ngờ rằng những hành động phiêu lưu tội lỗi của chúng tôi là hết sức tầm thường, và rằng Adam sẽ không còn cùng tôi kề vai sát cánh thêm nữa.

[17] Nhân vật trong truyện Những cuộc phiêu lưu của T om Sawyer của Mark Twain, người được Tom thầm thương trộm nhớ ngay từ cái nhìn đầu tiên.

[18] Nhân vật trong truyện Don Quixote của Cervantes, là người bạn đồng hành đã nhiều lần cứu Don Quixote khỏi hậu quả của những hành động điên rồ trong chuyến phiêu lưu của ông ta.

[19] Tên các nhân vật chính trong các tiểu thuyết phiêu lưu, ly kì dành cho thanh thiếu niên.

Ngày hôm sau, Bobby đã chờ sẵn chúng tôi vào giờ ăn trưa. Hay, đúng hơn là, cậu đã tìm được cách xuất hiện cạnh chúng tôi trong hàng một lần nữa. Cậu đặc biệt có tài trong việc truyền tính ngẫu hứng vào trong những hành động của mình – cuộc đời cậu, nhìn từ xa, có vẻ không hơn gì một chuỗi những sự trùng hợp ngẫu nhiên. Cậu không tỏ ra có một ý định rõ ràng nào. Tuy vậy, không hiểu sao, cậu lại tiếp tục đứng trong cùng một hàng với chúng tôi.

“Chào,” cậu nói. Hôm nay mắt cậu thậm chí còn đó hơn, lơ đãng và ướt át hơn.

“Chào,” tôi nói. Adam cúi xuống để bứt một sợi chỉ bị sứt khỏi gấu quần nhung kẻ sọc.

“Ngày thứ hai rồi đấy,” Bobby nói. “Chỉ còn phải trải qua một nghìn năm trăm ngày nữa thôi. Ái chà.”

“Có thực là chúng ta chỉ còn một nghìn năm trăm ngày đi học nữa thôi không?” Tôi hỏi. “Ý mình là, có phải cậu đã tính toán hẳn hoi không?”

“Đúng,” cậu nói. “Mà du di đi một chút.”

“Tổng cộng là thế, đúng không? Hai năm ở đây, bốn năm cấp ba và bốn năm đại học. Chúa ơi. Một nghìn năm trăm ngày.”

“Mình không tính đại học đâu cậu ơi.” Cậu cười, như thể ý nghĩ về đại học là to tát và hơi kì cục – như một ảo tưởng của tên thực dân về những bộ đồ uống trà bằng bạc lấp lánh trong rừng rậm.

“Ờ, đúng thế,” tôi nói.

Một lần nữa, sự im lặng lại bao trùm. Một lần nữa, bất chấp sự tập trung mãnh liệt của Adam về phía trước hàng người – nơi người phụ nữ mặt đỏ gay đang múc vài thứ hình tam giác màu nâu trong nước xốt cũng màu nâu nốt – tôi bắt đầu kể một câu chuyện. Ngày hôm nay, tôi kể về một loại trường đại học thực nghiệm mới, trường dạy sinh viên những điều họ cần biết để tồn tại trên đời này: cách để đi lại mà không tốn nhiều tiền, cách để chơi những điệu nhạc blue bằng dương cầm và nhận ra tình yêu đích thực. Đó không hẳn là một câu chuyện – tôi chỉ là một kẻ nói dối vừa đủ, không phải là một kẻ xuất sắc. Kĩ thuật thêu dệt của tôi liên quan nhiều đến tính kiên trì hơn là cảm hứng. Tôi bịa chuyện theo cách Groucho Marx[20] kể chuyện tiếu lâm, chồng chất từng chuyện lên nhau với hi vọng rằng chỉ riêng sự kéo dài đó sẽ làm cho toàn bộ câu chuyện trở nên đáng tin hơn.

[20] Groucho Marx (1890-1977): ngôi sao điện ảnh và hài kịch người Mỹ, nổi tiếng với tài hóm hỉnh.

Bobby say mê lắng nghe, không một lời thắc mắc. Cậu không khăng khăng bóc mẽ sự khác biệt giữa những gì có thể tin nổi và những gì vô lý. Qua thái độ của cậu, tôi nhận thấy rằng tôi coi bất kì tiết lộ nào của tôi – từ những nửa quả đào nhúng xi rô ở căng tin đến câu chuyện tôi kể về một trường đại học yêu cầu các sinh viên của mình phải sống một tuần ở thành phố New York mà không có đồng nào trong người – điều kì lạ và thú vị như nhau. Vào lúc đó, tôi hoàn toàn không biết gì về những ảnh hưởng của việc hú hơn bốn điều cần sa một ngày.

Tất cả những gì cậu làm là lắng nghe, cười mơ hồ và thỉnh thoảng lại chêm vào “À” hay “Chà”.

Một lần nữa, cậu lại ngồi ăn cùng chúng tôi. Một lần nữa, cậu lại đi cùng chúng tôi đến lớp học Toán.

Khi cậu đi khuất, Adam nói: “Ngày hôm qua mình đã nhầm. Cậu còn kì cục hơn cả cậu ta nữa kìa.”

Adam và tôi mất chưa đến một tháng để nhận ra rằng tình bạn của chúng tôi giờ chỉ còn là một ký ức thời thơ ấu. Chúng tôi đã cố gắng lôi kéo tình bạn đó theo vào tương lai cùng mình, bởi vì chúng tôi tuy xung khắc với nhau nhưng cũng thật sự yêu quý nhau. Chúng tôi đã kể cho nhau nghe những bí mật, cùng nhau thề thốt. Tuy nhiên, đã đến lúc chúng tôi tách nhau ra. Một buổi chiều, khi tôi gợi ý rằng chúng tôi nên ăn cắp đĩa hát mới của Neil Young[21] ở cửa hàng băng đĩa, cậu nhìn tôi với vẻ coi thường của một nhân viên kế toán thuế, không hẳn vì sự không trung thực của tôi lúc đó mà vì toàn bộ cuộc sống bừa bãi, tùy tiện mà tôi đã tự tạo ra cho mình. “Cậu thậm chí còn chưa bao giờ ngheNeil Young mà,” cậu nói. “Ôi dào,” tôi nói và rời bỏ tầm ảnh hưởng của những thói quen thận trọng, trật tự của cậu để đến gần một nhóm học sinh cấp ba tóc dài đang nói chuyện về Jimi Hendrix[22], người tôi chưa bao giờ nghe tới. Tôi đã ăn cắp đĩa Electric Ladyland sau khi Adam, với một tiếng thở dài ngao ngán, bước ra khỏi cửa hàng.

[21] Neil Young (sinh ngày 12 tháng 11 năm 1945): ca sĩ, nhạc sĩ người Canada, được coi là một trong những nhạc sĩ có ảnh hưởng nhất trong thế hệ của ông.

[22] Jimi Hendrix (1942-1970): ca sĩ, nhạc sĩ người Mỹ. Ông được coi là tay guitar điện tử vĩ đại nhất trong lịch sử nhạc rock và có sức ảnh hưởng lớn tới nhiều thế hệ công chúng yêu nhạc.

Chúng tôi không tách nhau hoàn toàn mà không có sự ghen ghét hay buộc tội lẫn nhau. Tôi có ngay một người bạn mới còn cậu thì không. Cuộc nói chuyện cuối cùng của chúng tôi diễn ra ở bến xe buýt trước khi đến trường vào một buổi sáng tháng Mười ấm áp. Nắng thu tỏa xuống từ trên vòm trời xanh ngát, đây đó lơ lửng một đám mây trông mập mạp và dày đặc như thể nó chứa đầy sữa. Tôi ra hiệu cho Adam tách ra khỏi đám trẻ khác đang đợi xe buýt và cho cậu xem tôi đã mang theo cái gì: hai viên thuốc màu vàng nhạt tôi lấy trộm trong tủ thuốc của mẹ tôi.

“Chúng là cái gì thế?” Cậu hỏi.

“Trên nhãn của cái chai ghi là Valium.”

“Đó là gì?”

“Mình không biết,” tôi nói. “Mình nghĩ đó là một loại thuốc an thần. Đây. Hãy thử một viên và xem nó có tác dụng ra sao nào.”

Cậu nhìn tôi với vẻ khó hiểu. “Uống viên thuốc này à?” Cậu nói. “Uống luôn bây giờ á?”

“Này, này,” tôi thì thào. “Nói nhỏ thôi.”

“Uống một viên rồi đến trường à?” Cậu hỏi, cao giọng hơn.

“Đúng,” tôi nói. “Uống đi.”

“Bọn mình còn không biết nó sẽ có tác dụng như thế nào cơ mà.”

“Đây là một cách để tìm hiểu đấy. Nào. Mẹ mình vẫn uống chúng mà, làm sao mà chúng có hại được?”

“Nhưng mẹ cậu bị bệnh,” cậu nói.

“Mẹ mình chẳng bệnh tật gì hơn ai cả,” tôi bảo cậu. Những viên thuốc màu vàng, có hình đĩa với kích cỡ bằng đầu móng tay, nằm yên trong lòng bàn tay tôi, phản chiếu ánh sáng ngoại ô. Để kết thúc cuộc tranh cãi, tôi nhón lấy một viên và nuốt chửng.

“Kì cục,” Adam buồn bã nói. “Kì cục.” Cậu quay đi và đến đứng với những người khác đang chờ xe buýt. Lần tiếp theo chúng tôi nói chuyện với nhau là mười hai năm sau, khi cậu xuất hiện cùng vợ trong ánh đèn đỏ lờ mờ của quán bar trong một khách sạn ở New York. Cậu đã kể cho tôi nghe về nghề giặt tẩy của cậu, chuyên về những công việc khó nhất: những chiếc váy cưới, đăng ten cổ và những tấm thảm gần như đã chung sống với bụi bặm trong suốt mười thập kỉ. Thực sự thì cậu có vẻ khá mãn nguyện.

Tôi nhét viên thuốc thứ hai trở lại túi và trải qua buổi sáng trong một cảm giác lâng lâng mơ màng hợp với thời tiết khi đó. Tôi thấy Bobby trong giờ ăn trưa, chúng tôi cười và chào nhau. Tôi đưa viên thuốc lẽ ra là của Adam cho cậu. Cậu nhận nó, nhét vào mồm với vẻ cảm kích giản đơn, không hề thắc mắc. Ngày hôm đó tôi không kể chuyện gì cả, tôi hầu như không nói gì. Tôi nhận ra rằng khi ngồi yên lặng bên cạnh tôi, Bobby cũng thấy thú vị như lúc cậu nghe tôi nói chuyện vậy.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
597,378
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 1-7


“Mình thích đôi giày đó,” tôi nói trong lần đầu cậu ngồi trên sàn phòng ngủ của tôi, tay cuốn một điếu cần sa. “Cậu kiếm chúng ở đâu thế? Hay là, chờ chút, mình không nên hỏi thế, đúng không? Dù sao đi nữa, mình nghĩ đôi giày của cậu rất tuyệt.”

“Cảm ơn,” cậu nói, thành thạo dùng lưỡi nhấp nước bọt để gắn điếu cần sa. Trước đây tôi chưa bao giờ hút cần sa, nhưng tôi tuyên bố rằng tôi vẫn dùng nó đều đặn từ hồi mười một tuổi.

“Có vẻ là loại ngon nhỉ,” tôi nói về cái túi bóng đựng đầy cần sa nửa vàng nửa xanh mà cậu đã cuốn, được nhét trong túi áo khoác của cậu.

“Ờ, nó… cậu biết đấy… cũng được,” cậu vừa nói vừa châm thuốc. Trong những câu nói ngắc ngứ ấy không hề có chút coi thường nào, chỉ là một vẻ ngập ngừng và bối rối. Ở cậu có vẻ dè dặt của một người bị mất trí nhớ đang cố gắng hồi tưởng lại điều gì.

“Mình thích mùi này,” tôi nói. “Mình nghĩ mình nên mở cửa sổ. Phòng khi mẹ mình vào.”

Tôi tự nhiên cho rằng chúng tôi cần những kẻ địch chung trong hình dạng của chính phủ Mỹ, trường học và bố mẹ tôi.

“Mẹ cậu tốt nhỉ,” cậu nói.

“Mẹ mình cũng được.”

Cậu đưa điếu cần sa cho tôi. Dĩ nhiên tôi cố hút nó với vẻ chuyên nghiệp, thanh nhã. Nhưng ngay hơi đầu tiên tôi đã ọe khan quá mạnh đến nỗi gần như nôn mửa.

“Nó khá nặng đấy,” cậu nói. Cậu lấy lại điếu cần sa, rít một hơi duyên dáng và trao lại cho tôi mà không bình luận gì thêm. Tôi lại bị nghẹt thở, và sau khi đã hồi phục, điếu thuốc lại được chuyển sang cho tôi lần thứ ba, như thể tôi thành thạo hệt như tôi đã giả vờ. Lần thứ ba tôi làm khá hơn một chút.

Và thế là, không nhận ra sự thiếu kinh nghiệm của tôi, Bobby đã bắt đầu dạy tôi thói quen nghiện ngập ở độ tuổi đó.

Chúng tôi ở bên nhau suốt ngày. Đó là kiểu tình bạn hấp tấp, vội vàng thường gặp ở những người còn trẻ, cô đơn và tham vọng. Dần dần, từng chút một, Bobby mang đến những đĩa hát, áp phích và quần áo của cậu. Chúng tôi chỉ về nhà cậu trong chốc lát, đủ để tôi biết cậu đang trốn tránh khỏi thứ gì: một mùi chua chua thiu thiu của đồ vải bẩn chưa giặt và thức ăn để lâu, một ông bố bò từ phòng này sang phòng khác với sự thận trọng quá mức do say xỉn. Bobby ngủ trong một cái túi ngủ trên sàn phòng tôi. Trong bóng tối, tôi nằm nghe tiếng cậu thở. Thi thoảng cậu ú ớ rên rỉ trong những giấc mơ.

Khi thức dậy vào buổi sáng, cậu thường nhìn quanh với vẻ ngạc nhiên, rồi nhận ra mình đang ở đâu và mỉm cười. Ánh nắng xiên vào ô cửa sổ biến chòm lông trên ngực cậu từ màu hoàng kim sang màu đồng.

Tôi mua cho mình một đôi giày giống của cậu. Tôi bắt đầu để tóc dài.

Dần dần, cậu bắt đầu nói năng trôi chảy hơn. “Mình thích ngôi nhà này,” cậu nói vào một buổi tối mùa đông khi chúng tôi đang ngồi nhàn rỗi trong phòng tôi, hút ma túy và nghe nhạc của the Doors. Những bông tuyết táp vào ô cửa kính, quay cuồng trên con phố vắng yên tĩnh. The Doors đang hát bài L.A.Woman.

“Một ngôi nhà như thế này có giá bao nhiêu nhỉ?” Cậu hỏi.

“Chắc là không đắt lắm đâu,” tôi nói. “Nhà mình cũng chẳng giàu có gì mà.”

“Mình muốn mai sau sẽ có một ngôi nhà như thế này,” cậu nói, khi đưa tôi điếu cần sa.

“Không phải chứ,” tôi bảo cậu. Trong đầu tôi đang nghĩ đến những điều khác.

“Thật đấy,” cậu nói. “Mình muốn thế mà. Mình thích nơi này.”

“Cậu đâu thực sự muốn,” tôi nói. “Cậu chỉ nghĩ thế vì cậu đang phê thôi.”

Cậu rít một hơi cần sa. Cậu có một kiểu hút ma túy thanh lịch gần như yểu điệu, kẹp điếu cần sa bằng ngón cái và ngón giữa. “Vậy thì mình sẽ phê suốt ngày,” cậu nói khi nhả khói ra. “Rồi mình sẽ luôn thích ngôi nhà này cũng như Cleveland và tất cả mọi thứ, như chính bản thân nó bây giờ.”

“Chà, đó cũng là một cách sống,” tôi đáp.

“Cậu không thích ngôi nhà này sao?” Cậu hỏi. “Cậu nên thích nó mới phải. Cậu không biết cậu có gì ở đây đâu.”

“Những gì mà mình có ở đây,” tôi nói, “là một người mẹ hỏi mình câu đầu tiên vào buổi sáng là mình muốn ăn gì vào bữa tối, và một người cha hiếm khi rời bỏ rạp chiếu phim của ông.”

“Đúng vậy, anh bạn,” cậu nhe răng cười.

Cẳng tay cậu, với cổ tay to và bao phủ bởi lớp lông màu vàng, đặt ngẫu hứng lên đầu gối. Nó chỉ nằm đó, như thể nó chẳng có gì đặc biệt.

Tôi tin rằng tôi biết thời điểm khi sự quan tâm của tôi chuyển thành tình yêu. Một đêm đầu xuân, Bobby và tôi đang ngồi trong phòng tôi, nghe nhạc của the Grateful Dead. Đó là một đêm bình thường trong cuộc đời đầy biến động của tôi. Bobby đưa cho tôi điếu cần sa, và sau khi tôi nhận nó, cậu rụt tay lại và nhìn vào một cái nốt ruồi màu nâu đỏ bên dưới cổ tay trái của cậu. Mặt cậu hơi lộ vẻ hoài nghi - ở tuổi mười ba cậu đã biết rõ về cơ thể mình, rõ ràng cậu đã bỏ sót cái nốt ruồi đặc biệt đó dù tôi đã thấy nó nhiều lần, một sự rối loạn sắc tố hơi lệch tâm nằm trên một cái chạc tĩnh mạch. Cái nốt ruồi đó khiến cậu ngạc nhiên. Tôi ngờ rằng cậu thấy hơi sợ khi nhận ra cơ thể mình có gì kì lạ. cậu sờ vào cái nốt ruồi, tò mò, bằng ngón trỏ của bàn tay phải, và mặt cậu cáu kỉnh thấy rõ, như một đứa bé. Khi cậu lo lắng về cái khiếm khuyết nhỏ đó, tôi nhận thấy rằng cậu sống trong cơ thể cậu một cách trọn vẹn, đầy ngạc nhiên pha lẫn bối rối giống hệt như cách tôi cảm nhận về bản thân mình. Trước đó tôi vẫn tin rằng – dù tôi chưa bao giờ thú nhận điều này, ngay cả với chính tôi – tất cả những người khác đều không thực bằng tôi; cuộc đời họ là một giấc mơ tạo nên từ những hình ảnh và cảm xúc tương tự như những bức ảnh: riêng biệt và rõ ràng, hiển nhiên, đơn điệu. Cậu nhẹ nhàng sờ vào cái nốt ruồi trên cổ tay, với đôi chút sợ hãi. Đó là một cử chỉ nhỏ. Quan sát cử chỉ đó giống như là trông thấy ai đó đang kiểm tra đồng hồ và biểu lộ sự ngạc nhiên trước giờ giấc. Nhưng trong khoảnh khắc, tôi đã nhìn thấy Bobby. Tôi có thể trông thấy cậu – cậu đang ở bên trong cơ thể đó. Cậu bước vào thế giới này với tâm trạng hoang mang, cảm thấy sợ hãi và kinh ngạc khi vẫn còn sống ở đây, ngay tại nơi này, trong một căn phòng ngủ có tường ốp bằng gỗ ván thông.

Rồi khoảnh khắc đó qua đi và tôi phải đối mặt với một thứ gì đó. Sau đêm đó – một đêm thứ Ba – tôi không thể, ngay cả khi tôi mong muốn, quay lại với cái trạng thái không phải nghĩ và mơ về Bobby. Ý thức về tính thực tại trong mọi phẩm chất của Bobby ngày càng lớn dần lên trong tôi, và tôi không thể ngừng băn khoăn, từng giờ từng phút, cảm giác thật sự khi ở bên trong da thịt cậu là như thế nào.

Đêm này qua đêm khác, chúng tôi lang thang trên phố như những điệp viên. Chúng tôi kết bạn với một gã lang thang tên là Louis, kẻ sống trong một cái thùng dương cầm và mua cho chúng tôi những chai rượu vang đỏ để đổi lấy thức ăn mùa chúng tôi lấy trộm từ bếp của mẹ tôi. Chúng tôi trèo lên những nóc nhà ở khu trung tâm qua lối thoát hiểm vì cảm giác mới lạ khi được đứng trên một điểm cao. Chúng tôi dùng ma túy tổng hợp và đi lang thang hàng giờ qua một bãi phế thải, nó lấp lánh như một mỏ kim cương, với vô số những hang động, những ánh sáng kì lạ và những cao nguyên lung linh ánh trăng bàng bạc mà tôi cố hứng bằng tay. Chúng tôi đi nhờ xe đến Cincinnati để xem liệu chúng tôi có thể đến đó và quay trở về trước khi bố mẹ nhận ra rằng chúng tôi mất tích không.

Một lần, vào một đêm thứ Năm, Bobby dẫn tôi đến nghĩa địa nơi anh trai và mẹ cậu được chôn cất. Chúng tôi ngồi trên mộ họ, chuyền tay nhau một điếu cần sa.

“Cậu biết không,” cậu nói, “mình không sợ nghĩa địa đâu. Người chết nghĩa là, những người từng muốn những thứ mà cậu và mình cũng muốn thôi.”

“Bọn mình muốn gì nhỉ?” Tôi mơ hồ hỏi.

“Ôi, Chúa ơi, cậu biết đấy,” cậu nói. “Bọn mình muốn, ờ, những thứ tương tự như những người ở đây đã muốn.”

“Đó là gì?”

Cậu nhún vai. “Muốn sống, mình nghĩ vậy,” cậu nói.

Cậu miết những ngón tay lên đám cỏ. Cậu đưa tôi điếu cần sa đã bị ướt vì nước dãi của cả hai chúng tôi, và tôi phả một luồng khói trắng lên trời, nơi cụm sao Thất Nữ đang lung linh, nhấp nháy. Cleveland tỏa lên thứ ánh sáng nhỏ nhoi của nó – được phát ra từ những chiếc ti vi và đèn chụp. Một chiếc ô tô phóng qua, để lại trong màn đêm lạnh lẽo vài nhịp của bài Helter Skelter.

Tháng Tư đến. Đó chưa phải là mùa đi bơi, nhưng tôi cứ đòi đến mỏ đá ngay khi những mảng tuyết đọng đã biến mất không còn dấu vết. Tôi biết chúng tôi sẽ đi bơi mà không mặc gì cả. Tôi không thể chờ đợi thêm nữa.

Đó là một ngày xuân bất chợt hiện ra từ tiết đông giá kéo dài, với bầu trời trong như tuyết tan. Những bông hoa cuống dày và chịu được rét đầu tiên đã nhú lên khỏi mặt đất. Mỏ đá, nằm cách thành phố chúng tôi ba dặm, phản chiếu bầu trời trên một bề mặt tối sẫm và bất động như đá vỏ chai. Ngoài một con bò màu nâu nhạt lững thững từ trên đồng cỏ xuống uống nước ở chỗ nông, Bobby và tôi là những thực thể sống duy nhất ơ đó. Có vẻ như chúng tôi đã đi nhờ xe đến một cái hồ băng cheo leo trên dãy Himalaya.

“Đẹp thật,” cậu nói. Chúng tôi chuyền tay nhau điếu cần sa. Một con chim giẻ cùi màu xanh ló ra, với tiếng kêu chói tai đầy nghi vấn, từ một cây tần bì vẫn đang nảy lộc.

“Bọn mình phải bơi thôi,” tôi nói. “Bơi đi.”

“Vẫn còn lạnh lắm,” cậu nói. “Ôi tời, nước vẫn còn đóng băng kia mà.”

“Dù sao thì chúng ta vẫn phải bơi. Đi nào. Đây là lần đi bơi chính thức đầu tiên của mùa hè này. Nếu bọn mình không bơi ngày hôm nay, ngày mai trời sẽ đổ tuyết tiếp đấy.”

“Ai bảo cậu thế?”

“Tất cả mọi người đều biết điều đó. Đi thôi nào.”

“Có lẽ thế,” cậu nói. “Nhưng mà vẫn lạnh khiếp đi được.”

Lúc đó chúng tôi đã đến bờ sỏi, chỗ được coi là bãi tắm, nơi con bò, nghiêm nghị đứng ở mép nước, nhìn chúng tôi chằm chằm với đôi mắt đen nhánh. Mỏ đá này có hình móng ngựa gồ ghề, với những vách đá vôi lởm chởm nhô ra theo hình bán nguyệt và rồi thụt lại về phía bãi tắm.

“Ít ra thì trời cũng không quá lạnh,” tôi nói với Bobby. “Giống như là đang ở Bermuda vào thời điểm này trong năm vậy. Xem mình này.”

Bị thôi thúc bởi mối e ngại của tôi rằng ngày hôm đó chúng tôi sẽ không làm gì ngoài việc hút cần sa, vẫn mặc nguyên quần áo, bên cạnh một vùng nước thẫm, tôi bắt đầu leo lên con dốc trải đá phiến sét dẫn đến rìa vách đá cao nhất. Những vách đá gần hơn cao chưa tới sáu mét, và vào mùa hè những người đi bơi liều lĩnh thường lao từ trên đó xuống làn nước sâu. Tôi thậm chí còn chưa bao giờ nghĩ đến việc lao mình từ trên một vách đá xuống. Tôi không hề can đảm chút nào. Nhưng hôm đó, với đôi giày cao bồi vẫn còn bó chặt vào chân, tôi bò lên con dốc dẫn đến thềm đá vôi nứt nẻ, đây đó nhú lên những bông nghệ tây màu vàng nhạt.

“Trên này là mùa hè đấy,” tôi hét lên với Bobby, người đang đứng một mình trên bãi, tay khum khum cầm điếu cần sa. “Lại đây,” tôi hét to. “Đừng lấy ngón tay thử nước nữa, hãy lên đây và bọn mình sẽ lao xuống. Bọn mình phải làm thế.”

“Không đâu, Jon,” cậu gọi. “Quay lại đi.”

Lúc đó, tôi bắt đầu cởi quần áo trong một trạng thái hồ hởi, khích động quá mức. Đây là một Jonathan liều lĩnh, can đảm hơn, đứng cheo leo trên một vách đá ấm áp, thoát y trước cái nhìn ngơ ngác của một con bò đang uống nước.

“Jon,” Bobby gọi, khẩn trương hơn.

Khi cởi áo rồi đến giày và tất, tôi cảm thấy một sự tự do mới mẻ mà trước đây tôi chưa bao giờ biết đến. Cảm giác đó lớn dần khi từng mảng da thịt được tiếp xúc với ánh nắng và khí trời rực rỡ, mát mẻ. Tôi có thể cảm thấy người mình nhẹ bẫng, hụt hẫng, với mỗi mảnh vải mà tôi trút bỏ. Tôi hấp tấp cởi quần jean và quần đùi, rồi đứng đó một lúc, gầy nhẳng lõa lồ, phóng túng, bao bọc trong ánh dương giá lạnh.

“Xem đây,” tôi hét lên.

Bobby, ở phía xa bên dưới, nói: “Này, cậu, không…”

Và vì Bobby, vì cuộc đời mới của tôi, tôi lao người xuống.

Một mảnh băng vẫn còn nổi trên mặt nước, không hơn gì một tấm màng mỏng, vô hình, cho đến khi tôi va vào nó. Tôi nghe thấy tiếng lắc rắc khe khẽ, cảm thấy băng vỡ ra khi quanh mình, và rồi thân thể bị quăng vào cái lạnh không ngờ, lạnh đến mức khiến tôi ngừng thở và có vẻ, trong một lúc lâu, còn làm tim tôi ngừng đập nữa. Da thịt tôi đột ngột co rúm lại, dính sát vào tận xương trong nỗi hốt hoảng bản năng, và tôi nghĩ, với một sự rõ ràng tuyệt đối, rằng tôi đã chết. Chết là như thế này đây.

Rồi tôi thấy mình nổi lên trên mặt nước, va vào băng lần thứ hai. Sự tỉnh táo dần dần trôi tuột khỏi cơ thể, nổi lên, và khi hồi tưởng lại tôi có một ấn tượng rõ rệt về việc thấy mình đang bơi vào bờ, thở hổn hển, phổi siết chặt như nắm đấm, mảnh băng vỡ tan với mỗi cú khoát tay, bắn những mảnh vụn lóng lánh như kim cương lên không trung.

Bobby lội xuống tới đùi để kéo tôi lên. Tôi vẫn nhớ hình ảnh chiếc quần jean ướt sũng dính chặt vào ống chân cậu. Tôi còn nhớ mình đã nghĩ rằng giày của cậu sẽ bị hỏng.

Phải mất một lúc nữa đầu óc tôi mới tỉnh táo để nhận ra cậu đang mắng tôi, ngay cả khi cậu giúp tôi lên khỏi mặt nước.

“Chết tiệt,” cậu thét lên, và miệng cậu kề sát tai tôi. “Ôi, đồ chết tiệt. Chết tiệt.”

Tôi còn mải thở hồng hộc, không đáp nổi lời nào. Cậu dìu tôi lên bờ sỏi trước khi thả tôi ra và chửi rủa tôi không tiếc lời. Điều tốt nhất tôi có thể làm là đứng đó, thở hổn hển và run lập cập, khi cậu quát tháo.

Ban đầu cậu cứ đi đi lại lại theo đúng một kiểu, như thể chạm đến hai điểm mốc vô hình cách nhau ba mét, thét lên: “Đồ khốn kiếp, đồ ngu ngốc khốn kiếp.” Khi cậu quát mắng, khoảng cách giữa hai điểm mốc cứ rút ngắn dần lại, cho đến khi cậu chỉ còn luẩn quẩn trong những vòng nhỏ hẹp, theo mẫu của một cái lò xo xoắn. Mặt cậu đỏ gay. Cuối cùng cậu dừng bước, nhưng vẫn xoay người, ba lần, như thể cái lò xo vẫn đang xoắn lại bên trong cậu. Lúc đó cậu chưa ngừng quát tháo. Cậu thôi không gọi tôi là đồ khốn kiếp nữa, mà chuyển sang những ngôn từ tôi không hiểu nổi, một chuỗi những lời lải nhải cáu kỉnh có vẻ không nhắm vào tôi mà là vào bầu trời, những vách đá và những cái cây vô tri.

Tôi cứ ngẩn ra nhìn. Trước đây tôi chưa bao giờ thấy một sự phẫn nộ nào như thế, tôi không biết là nó lại xảy ra trong cuộc sống thường ngày. Tôi chẳng biết làm gì ngoài chờ đợi, và hi vọng nó kết thúc.

Một lúc sau, không nói là mình sẽ làm gì, Bobby chạy đi lấy quần áo của tôi từ trên rìa vách đá. Dù cơn giận của cậu đã phần nào lắng dịu, nó vẫn chưa hề tắt hẳn. Tôi đứng trần truồng trên lớp sỏi, đợi cậu. Khi cậu mang quần áo và giày của tôi lại, cậu trút nó thành đống dưới chân tôi, nói: “Mặc nhanh vào đi,” với giọng vô cùng trách cứ. Tôi làm theo lời cậu bảo.

Khi tôi đã mặc xong quần áo, cậu choàng chiếc áo khoác của cậu lên người tôi, phủ lên chiếc áo khoác của tôi.

“Không, cậu cần nó mà,” tôi nói. “Quần cậu ướt hết rồi…”

“Im đi,” cậu bảo tôi, và tôi nghe theo.

Chúng tôi quay lại đường cao tốc, nơi chúng tôi sẽ đi nhờ xe về thành phố. Trên đường đi, Bobby choàng tay qua vai tôi và giữ tôi kề sát bên cậu. “Đồ khốn kiếp ngu ngốc,” cậu lẩm bẩm. “Ngu ngốc, ngu ngốc. Ngu ngốc.” Cậu cứ ôm tôi khi chúng tôi đứng bên đường, giơ ngón cái ra để vẫy xe và vẫn ôm tôi trong băng ghế sau của chiếc Volkswagen của hai sinh viên trường Oberlin, những người đã cho chúng tôi đi nhờ. Cậu choàng tay ôm tôi suốt quãng đường về nhà, miệng vẫn lải nhải.

Khi đã về tới nhà, cậu mở vòi tắm nước nóng. Cậu gần như cởi quần áo cho tôi và bắt tôi vào trong. Chỉ sau khi tôi đã tắm xong, quấn người trong chiếc khăn tắm, cậu mới cởi quần áo ướt của mình ra và bước tới chỗ vòi hoa sen. Làn da trần của cậu hồng rực lên trong phòng tắm đầy hơi nước. Khi cậu ló ra, lấp lánh và lấm tấm những giọt nước, chòm lông nhạt màu dính chặt vào ngực cậu.

Chúng tôi về phòng tôi, bật đĩa Jimi Hendrix và cuốn một điếu cần sa. Chúng tôi ngồi khi vẫn quấn khăn quanh mình, hút thuốc. “Ngu ngốc,” cậu nói nhỏ. “Cậu có thể đã tự sát rồi đấy. Cậu biết mình sẽ cảm thấy thế nào nếu cậu bị như thế không hả?”

“Không,” tôi nói.

“Mình sẽ cảm thấy… mình không biết nữa.”

Và rồi cậu nhìn tôi buồn bã. Tôi đặt điếu cần sa xuống cái gạt tàn và, với một hành động bạo gan vượt xa việc nhảy từ trên vách đá xuống làn nước băng đá – vốn đã vượt quá tất cả những hành động can đảm của tôi cộng lại, tôi giơ tay ra và chạm vào cẳng tay cậu. Tay cậu đang nằm đó, gân guốc với những sợi lông màu hoàng kim, dưới những ngón tay tôi. Tôi nhìn xuống sàn – với tấm thảm bện và ván lát sàn nhà màu bí ngô. Bobby không rụt tay lại.

Một phút trôi qua. Chẳng có gì xảy ra cả. Trong nỗi hồi hộp, mạch đập thình thịch, tôi bắt đầu dùng đầu ngón trỏ vuốt ve cánh tay cậu. Giờ đây, tôi nghĩ, cậu sẽ thấy tôi đang muốn gì. Giờ thì cậu sẽ chạy vụt đi vì sợ hãi và ghê tởm. Tuy vậy, tôi vẫn tiếp tục cái động tác nhỏ duy nhất đó, với một sự hồi hộp quá mạnh mẽ đến mức không thể phân biệt nổi với nỗi khao khát. Cậu không rụt tay lại, cũng không phản ứng gì.

Cuối cùng tôi cũng nhìn được vào mặt cậu. Mắt cậu sáng và không chớp như mắt của một con thú, miệng cậu trễ ra. Tôi có thể nhận thấy cậu cũng đang sợ, và chính nỗi sợ hãi của cậu đã khuyến khích tôi di chuyển bàn tay lên bờ vai trần của cậu. Làn da trên vùng xương bả vai rộng lớn nhẵn nhụi ấy nổi gai ốc. Tôi có thể cảm thấy hơi thở phập phồng khe khẽ của cậu.

Vì thiếu tính thận trọng, tôi nhanh chóng đưa tay xuống đùi cậu. Mặt cậu co rúm và nhăn nhó, nhưng không rụt người lại. Tôi luồn tay xuống dưới chiếc khăn cậu đang quấn. Tôi thấy vẻ sợ hãi và thích thú lướt qua mắt cậu. Vì tôi không biết phải làm gì, tôi lặp lại những động tác vuốt ve tôi từng làm với chính mình. Khi cậu cương cứng trong tay tôi, đó có vẻ là dấu hiệu của sự tha thứ.

Rồi cậu giơ tay ra và, với sự nhẹ nhàng đáng ngạc nhiên, cũng chạm vào tôi. Chúng tôi không hôn nhau. Chúng tôi cũng không ôm nhau. Jimi đang hát bài Purple haze. Lò sưởi kêu ro ro từ sâu trong nhà. Hơi rút lên qua các ống dẫn.

Sau đó, chúng tôi lau dọn bằng khăn giấy và mặc quần áo trong yên lặng. Tuy nhiên, khi chúng tôi mặc xong, Bobby châm lại điếu cần sa đang hút dở và bắt đầu nói bằng giọng bình thường về những thứ bao giờ: chuyến lưu diễn sắp tới của the Dead, kế hoạch của chúng tôi về việc kiếm việc làm và mua ô tô cùng nhau. Chúng tôi chuyền tay nhau điếu cần sa và ngồi lên sàn phòng tôi như bất kì hai thiếu niên Mỹ nào, trong một ngôi nhà bình thường bao quanh bởi nỗi buồn chán và màu xanh đang trỗi dậy của mùa xuân Ohio. Lại thêm một bài học nữa trong mớ kiến thức được tích lũy liên tục của tôi: như những hành động bất hợp pháp khác, tình yêu giữa hai chàng trai tốt nhất nên được coi là một chuyện quá bình thường. Phép lịch sự đòi hỏi ta không nên phê phán hành động vụng về, lóng ngóng của một người mà nên coi rằng thực sự thì người ta đã hành động với sự thành thạo, bình tĩnh của một tên tội phạm bẩm sinh.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
597,378
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 1-8


ALICE
Con trai Jonathan của chúng tôi mang thằng bé đó về nhà. Hồi đó chúng đều mười ba tuổi. Nó trông đói ngấu như một con chó đi lạc, với cái vẻ ranh mãnh và nguy hiểm như thế. Nó ngồi ăn cùng chúng tôi, ngấu nghiến món gà quay.
“Bobby,” tôi hỏi, “cháu ở thành phố này lâu chưa?”
Tóc nó trông như tổ quạ. Nó đi giày ống và mặc cái áo khoác da có thêu hình con mắt của người thật bằng chỉ màu xanh cô ban đã bạc màu.
“Cả đời cháu,” nó trả lời, gặm một cái đùi gà. “Chẳng qua là cháu đã vô hình thôi. Gần đây cháu mới quyết định để cho mọi người nhìn thấy mình.”
Tôi băn khoăn không hiểu bố mẹ nó có cho nó ăn uống đầy đủ không. Nó cứ nhìn quanh phòng ăn với sự thèm thuồng mà trong một thoáng, tôi cảm thấy nó giống như nhân vật phù thủy trong truyện Hansel và Gretel[23]. Hồi ở New Orleans, tôi từng quan sát cảnh bọn mối gặm những hình trang trí chạm nổi bằng gỗ dưới cửa sổ phòng khách, và thấy rằng đường chạm khắc phức tạp đã vỡ tan trong tay tôi như đường.
[23] Câu chuyện cổ Grimm kể về chuyện hai anh em nhà nọ lạc vào trong một khu rừng và tìm thấy một ngôi nhà làm bằng bánh kẹo của một mụ phù thủy già thích ăn thịt trẻ con.
“Vậy thì, chào mừng đến với thế giới vật chất,” tôi nói.
“Cảm ơn cô.”
Nó không cười. Nó gặm cái xương mạnh đến vỡ ra.
Sau khi nó về, tôi nói với Jonathan: “Cậu bé khá là lập dị, nhỉ? Con phát hiện ra cậu bé ở đâu vậy?”
“Cậu ấy đã phát hiện ra con đấy chứ,” Jonathan nhấm nhẳn nói, một đặc trưng cho cái tuổi mới lớn của nó. Dù da nó vẫn mịn và giọng nói vẫn còn trong, nhưng nó đã tự đặt ra cho mình thói cộc cằn như là một cách để bước vào tuổi trưởng thành.
“Thế làm sao mà cậu ta phát hiện ra con được?” Tôi từ tốn hỏi. Tôi vẫn có thể dùng vẻ ngây thơ miền Nam làm lợi thế cho mình, thậm chí sau bao nhiêu năm trời sống ở Ohio.
“Cậu ấy đến bắt chuyện với con ngay ngày đi học đầu tiên và bọn con bắt đầu chơi với nhau.”
“Ôi, mẹ nghĩ cậu ta thật kì cục,” tôi nói. “Quả thực, cậu ta làm mẹ hơi sợ.”
“Con nghĩ cậu ấy rất thú vị,” Jonathan nói với vẻ dứt khoát. “Anh trai cậu ấy đã bị giết đấy mẹ ạ.”
Ở New Orleans, chúng tôi có một tên gọi dành cho những người như Bobby, những người có vẻ bất hạnh mà mối quan hệ với họ thường dẫn đến kết cục bạo lực hơn mức bình thường. Tuy nhiên, tôi vẫn phải công nhận rằng rõ ràng nó là một vị khách khá trơ tráo.
“Con có muốn chơi bài trước khi đi ngủ không?” Tôi hỏi.
“Không đâu mẹ. Con chán chơi bài rồi.”
“Chỉ một ván thôi,” tôi nói. “Con cần phải cho mẹ cơ hội gỡ lại những lần thua trước chứ?”
“Thôi được. Một ván thôi mẹ nhé.”
Chúng tôi dọn bàn, và tôi chia bài. Tuy nhiên, tôi chơi khá dở. Tâm trí tôi cứ vẩn vơ nghĩ về thằng bé đó. Nó đã quan sát ngôi nhà của chúng tôi với sự khao khát thèm muốn thấy rõ. Jonathan ăn hết quân bài này đến quân bài khác. Tôi lên gác lấy áo len và dường như vẫn không thấy ấm lên.
Jonathan đã ăn hết các quân bài.
“Mẹ hãy coi chừng,” nó nói. “Tối nay con thật là hên.”
Nó mê mải với niềm vui chiến thắng kiểu trẻ con và hồn nhiên đến mức quên cả sự cáu kỉnh vừa rồi. Tôi không hiểu sao nó lại không được nhiều người yêu mến hơn ở trường. Nó thông minh và xinh trai hơn hầu hết những thằng bé khác mà tôi thấy quanh đây. Có lẽ do bị ảnh hưởng bởi tính cách miền Nam của tôi nên nó ăn nói quá lưu lát, quá nhẹ nhàng, quá thiếu vẻ cục súc khó mà phù hợp với cái thành phố đậm chất Trung Tây khắc nghiệt này. Nhưng dĩ nhiên ý kiến của tôi chỉ là chủ quan. Có người mẹ nào lại không yêu thương con mình dù chỉ là một chút chứ?
Ned về nhà muộn, sau nửa đêm. Tôi đang đọc sách ở trên gác thì nghe thấy tiếng anh mở khóa cửa. Tôi cưỡng lại cái thôi thúc muốn tắt đèn và vờ như đã ngủ rồi. Tôi sắp bước sang tuổi ba mươi lăm. Tôi đã tự hứa với bản thân mình vài điều liên quan đến cuộc hôn nhân của chúng tôi.
Tôi có thể nghe thấy hơi thở của anh khi anh leo lên cầu thang. Tôi ngồi thẳng người hơn trong chiếc gối, chỉnh lại đai áo ngủ. Anh đứng ở cửa phòng ngủ, một người đàn ông bốn mươi ba tuổi, vẫn đẹp trai theo những tiêu chuẩn thông thường. Tóc anh đang ngả sang màu muối tiêu ở hai bên thái dương, theo kiểu ngôi sao điện ảnh.
“Em vẫn còn thức cơ à?” Anh nói. Liệu anh thấy vui hay thấy phiền?
“Em mải đoc nó quá,” tôi nói, chỉ vào cuốn sách. Không, sai rồi. Em đang chờ anh. Đó mới là câu đáp thích hợp. Tuy nhiên, cuốn sách đúng là thứ đã khiến tôi còn thức. Tôi vẫn thường nghĩ rằng bạn có thể thay đổi cuộc đời bạn mà không từ bỏ những chân lý đơn giản hằng ngày.
Anh bước vào phòng, cởi khuy áo. Một bộ ngực hình chữ V hiện ra, đám đông len lốm đốm những sợi xám. “Phim Giải cứu có vẻ là hơi quá nặng đối với Cleveland,” anh nói. “Tối nay đã có ba cặp bố mẹ gọi điện đến phàn nàn.”
“Em không hiểu sao anh lại đặt bộ phim đó,” tôi nói.
Anh cởi áo và nhét vào giỏ đựng đồ bẩn. Mồ hôi lấp lánh bên dưới cánh tay anh. Khi anh quay đi tôi có thể nhìn thấy đám đông, trông như một tấm bản đồ châu Phi cân đối, đã dựng lên trên lưng anh.
Không. Hãy tập trung vào sự tốt bụng và sự hài hước lịch thiệp của anh. Hãy tập trung vào hình dáng hông anh, vẫn còn chắc nịch, trong chiếc quần vải gabardine.
“May là anh có nó đấy,” anh nói. “Nó sẽ là một bộ phim thành công. Suất chiếu lúc bảy giờ đã kín đến ba phần tư rạp.”
“Tốt quá,” tôi nói. Tôi đặt cuốn sách xuống chiếc bàn kê ở đầu giường. Khi chạm vào mặt gỗ, nó tạo ra một tiếng động nhẹ nhàng nhưng vẫn gây ngạc nhiên.
Anh cởi quần ra. Nếu tôi thuộc tuýp người khác, tôi có thể hài hước nói: “Anh yêu, hãy cởi tất ra trước. Em không thể chịu được cảnh một người đàn ông chẳng còn gì khác trên người ngoài chiếc quần đùi Jockey và một đôi tất đen.”
Tuy nhiên tôi không phải tuýp người đó. Ned treo quần lên một cách gọn gàng và đứng một lúc trong ánh đèn ngủ, mặc độc chiếc quần đùi và đi đôi tất trơn tối màu mà anh cứ nhất định đòi mua. Chúng đã làm rụng hết lông chân của anh. Khi anh cởi chúng ra, chúng sẽ để lại vết hằn trên lớp da nhẵn thín.
Anh mặc quần pyjama ra ngoài quần đùi, rồi ngồi lên giường để cởi tất. Ngoài lúc đi tắm, Ned hiếm khi khỏa thân hoàn toàn.
“Ôi,” anh nói. “Anh mệt bã người.”
Tôi giơ tay ra vuốt ve tấm lưng nhễ nhại mồ hôi của anh. Anh giật mình.
“Đừng lo,” tôi nói. “Em không định hại anh đâu mà.”
Anh cười. “Anh đúng là kẻ đa nghi,” anh nói.
“Lúc tối có một đứa bạn mới của Jonathan tới chơi. Anh nên gặp nó.”
“Tệ hơn Adam không?” Anh hỏi.
“Ôi, tệ hơn nhiều. Theo một kiểu hoàn toàn khác. Đứa này thì hơi, ừm, đáng sợ.”
“Như thế nào?”
“Dơ dáy,” tôi nói. “Trầm lặng. Có vẻ đói ngấu.”
Ned lắc đầu. “Thôi cứ kệ Jonny đi,” anh nói. “Nó biết chọn bạn mà.”
Tôi cảm thấy khó chịu. Ned vắng nhà quá nhiều. Chuyện gì xảy ra khi anh không có mặt cũng trở thành một hài kịch gia đình xoàng xĩnh, một bộ phim ngắn hài hước chiếu cho một ngôi nhà vắng vẻ phía bên kia thành phố. Tôi tiếp tục vuốt ve lưng anh.
“Nhưng đứa này có vẻ đáng sợ theo kiểu người lớn hơn,” tôi nói. “Adam và những đứa khác đều là trẻ con. Còn về thằng bé này, em cảm thấy nó có thể ăn trộm, nó có thể làm được tất cả mọi chuyện. Và nó khiến em phải lo nghĩ. Jonathan đang thay đổi, nó sẽ quan tâm đến những cô gái, những chiếc ô tô và cả những thứ có trời mới biết.”
“Chắc chắn là thế, bà già ạ,” Ned nói, và tỏ ra thoải mái bên dưới tấm chăn. Tôi biết anh hình dung chuyện đó như thế nào: một hài kịch thiếu niên, thú giải trí vô hại, với vô số những cuộc hẹn đầu tiên và những người bạn hippie. Có lẽ anh đã đúng. Nhưng bản than anh ta không thể coi nó như một bộ phim được. Tôi không thể nói cho anh hay rằng khi anh phải đối mặt với nó hàng giờ thì nó tạo ra cho anh cảm giác khác biệt như thế nào. Tôi biết nếu tôi cố gắng nói ra, tôi sẽ giống như nhân vật bà mẹ trong bộ phim đó: một nhân vật quá cứng nhắc, lắm điều, một người không biết đùa.
“Anh tắt đèn nhé?” Anh nói. “Hay em muốn đọc cuốn sách đó thêm một lát nữa?”
“Không. Anh cứ tắt đèn đi.”
Chúng tôi nằm xuống bên nhau, nghe tiếng thở của mình trong bóng tối. Lẽ ra chúng tôi nên có nhiều chuyện để nói với nhau hơn. Có lẽ điều ngạc nhiên nhất trong cuộc sống hôn nhân chính là cái tính hình thức vẫn còn được duy trì của nó, ngay cả khi bạn đã trở nên quen thuộc với da thịt và những thói quen của người kia còn hơn cả của chính bạn. Mặc dù đã thân thuộc với nhau đến thế, nhưng có vẻ như chúng tôi vẫn đang trong một cuộc hẹn hò không mấy suôn sẻ.
“Tối nay em đã làm món thịt gà trộn ngải giấm,” tôi nói. “Đáng lẽ anh nên thấy nó ngấu nghiến món đó như thế nào. Anh sẽ nghĩ rằng nó chưa được ăn gì trong suốt một tuần.”
“Đứa bạn đó à?” Ned hỏi.
“Vâng.”
“Tên nó là gì?”
“Bobby.”
Bên ngoài, một con mèo hàng xóm kêu ngao ngao. Từ khi bà Heidegger mất, ba gia đình khác nhau đã lần lượt thuê nhà của bà, tất cả bọn họ đều có những con vật nuôi bị bỏ đói kêu gào ầm ĩ và những cuộc chuyển đi đột ngột. Hàng xóm láng giềng quanh đây đang ngày càng sa sút.
“Ned à?” Tôi nói.
“Ừm?”
“Trông em có già lắm không?”
“Trông em như mới mười sáu tuổi ấy,” anh nói.
“Ôi, em đã xa tuổi mười sáu lâu rồi. Trước đây, ba mươi tư có vẻ là quá già. Bây giờ dường như nó chẳng là gì cả. Nhưng em có một đứa con trai sắp đến tuổi cạo râu. Nó sẽ giữ những bí mật và lái ô tô ra đi.”
Tôi không biết phải nói thế nào cho anh hiểu: tôi thấy mình không còn là nhân vật chính nữa. Nhưng tôi không thể thốt ra những lời như thế. Chúng sẽ không vượt qua được không khí gia đình của phòng ngủ.
“Ba mươi tư chẳng là gì cả, bé ạ,” anh nói. “Xem em đang nói chuyện với ai này. Anh còn chẳng nhớ nổi hồi mình ba mươi tư tuổi nữa.”
“Em biết. Em thật rỗng tuếch và ngốc nghếch.”
Tôi giơ tay ra, bên dưới chăn và vuốt ve ngực anh. Một lần nữa, da anh lại sởn gai ốc dưới bàn tay tôi. Anh không quen với những âu yếm này từ tôi.
“Trông em tuyệt lắm,” anh nói. “Em đang ở thời kì đẹp nhất trong đời đấy.”
“Ned này?”
“Ừm?”
“Em yêu anh lắm, anh biết không. Chúa ơi, đã bao lâu rồi em không nói thế nhỉ?”
“Ôi, em yêu. Anh cũng yêu em mà.”
Tôi lướt những ngón tay dọc theo bắp tay anh, vuốt ve cẳng tay anh.
“Đêm nay em ủy mị quá,” tôi nói. “Em đang rời khỏi cái thói bướng bỉnh cũ.”
“Em không hề bướng bỉnh,” anh nói.
“Không phải đêm nay,” tôi bình thản nói. Giọng tôi không quyến rũ, nhưng cũng không hề khô khan hay nghiêm trang.
Anh nắm lấy tay tôi. Tôi đã từng tưởng tượng về hôn nhân theo một trong hai cách: hoặc là bạn yêu một người đàn ông và sống hạnh phúc với anh ta, hoặc không. Tôi chưa bao giờ nghĩ đến khả năng yêu một người mà không kèm theo ham muốn về thể xác.
Anh hắng giọng. Tôi quay sang hôn anh, và anh để tôi hôn với một sự thụ động trong trắng, gần giống như bẽn lẽn. Điều đó làm tôi xúc động ngay cả khi râu anh lởm chởm cọ vào da tôi.
“Không phải đêm nay,” tôi lặp lại, và lần này tôi đã có thể hạ thấp giọng mình đến mức thì thào. Dường như nó là một sự bắt chước khéo léo của ham muốn, thứ mà tôi có thể bắt lấy và giữ làm của mình nếu anh bẽn lẽn âu yếm tôi giống như khi anh đón nhận nụ hôn của tôi.
“Ư… ừm,” anh rên khe khẽ, tiếng rên thoát ra từ sâu trong cuống họng. Tôi thấy trong lòng êm ái, cảm giác như mình có thể tiến xa hơn, điều mà tôi đã không biết đến với anh trong một thời gian dài. Hóa ra nó vẫn có thể xảy ra.
Rồi anh hôn trả tôi, anh nhấc đầu lên khỏi gối và ấn miệng anh và miệng tôi. Tôi cảm thấy áp lực từ răng anh. Sự êm ái sụp đổ trong tôi, nhưng tôi không bỏ cuộc. Tôi đáp lại nụ hôn ấy, tay bám lấy đôi vai trần của anh. Nó ướt đẫm mồ hôi. Tôi có thể cảm thấy những sợi lông xoăn thô cứng trong lòng bàn tay mình. Răng anh, chỉ được che chắn bởi bờ môi trên mỏng manh, vội vã cắn vào miệng tôi.
Và tôi biết mình không thể làm được. Không phải đêm đó. Tôi đã mất hứng. Sự hứng thú rời khỏi cơ thể tôi và bước sang phía bên kia căn phòng, nơi nó bất đồng ngắm nhìn một người đàn ông bốn mươi ba tuổi đang mãnh liệt hôn vợ mình, lướt hai bàn tay nhớp nháp lên tấm lưng và cạnh sườn đang lão hóa của cô ta. Đáng ra tôi có thể giả vờ tiếp tục nhưng thế thì dối trá vẫn hoàn dối trá. Và tôi sẽ phải ấm ức chịu đựng nó.
Tôi rời miệng ra, gieo một loạt những nụ hôn nhẹ nhàng dọc theo cổ anh. “Anh yêu,” tôi thì thầm, “hãy ôm em một lát. Nhé?”
“Tất nhiên rồi,” anh dễ dàng nói. “Tất nhiên rồi.”
Quả thực, tôi nghĩ anh cũng đang thấy nhẹ nhõm.
Chúng tôi nằm ôm nhau một lúc, cho đến khi Ned âu yếm hôn lên tóc tôi và quay đi để ngủ. Chúng tôi không nằm ngủ trong vòng tay nhau, chưa bao giờ. Chẳng bao lâu anh đã thở đều đều. Giấc ngủ đến với Ned thật dễ dàng. Hầu như mọi thứ đều thế. Anh là người có tài điều chỉnh những mong đợi của mình sao cho thích hợp với hoàn cảnh.
Có lẽ đêm nay là một sự khởi đầu. Có lẽ, đêm mai, tôi sẽ cố gắng hơn chút nữa.
Tôi không muốn mình là một kẻ tai quái trong nhà – một người mẹ cáu kỉnh, một người vợ hẹp hòi. Tôi tự hứa với mình một lần nữa và cứ mãi trằn trọc cho đến khi ánh bình minh chiếu rọi sắc xanh qua các ô cửa sổ.
Jonathan vẫn mải mê với Bobby, người đã trở thành một vật cố định ở bàn nhà chúng tôi. Ned không phản đối nó, vì anh vốn dễ dãi. Anh giữ một lớp không khí trung lập giữa bản thân anh và thế giới, vì thế bất cứ thứ gì trước khi chạm đến anh đều đã bị lọc và làm loãng đi.
Chính tôi mới là người phải lo toan.
Có vẻ Bobby không có những kế hoạch nào khác. Nó lúc nào cũng rỗi rãi. Nó không bao giờ mời Jonathan đến nhà nó. Đến đó hợp với ý tôi, nhưng cũng không khiến tôi bắt đầu nghi ngờ. Một tối, tôi hỏi nó: “Bobby, bố cháu làm nghề gì thế?”
Lúc đó chúng tôi đang ăn tối, nó đang phết nốt chỗ xốt bơ cuối cùng của mình vào miếng bánh mì thứ ba do chính tay tôi làm, có vẻ trước cả khi Jonathan hay Ned hay tôi bắt đầu ăn.
“Bố cháu là giáo viên” là câu trả lời. “Không phải ở trường cháu. Mà ở trường Roosevelt.”
“Còn mẹ cháu?”
“Mẹ cháu mất rồi. Khoảng một năm trước.”
Nó nhét bánh mì vào mồm và với lấy miếng khác.
“Cô rất tiếc,” tôi nói.
“Cô không cần phải tiếc đâu,” nó bảo tôi. “Cô còn không biết mẹ cháu cơ mà.”
“Ý cô không phải thế. Cô muốn nói cô thông cảm trước sự mất mát của cháu.”
Với bàn tay vẫn đang nhét thức ăn vào mồm, nó nhìn tôi như thể tôi vừa nói bằng tiếng Sanskrit. Sau một lúc nó nói: “Cô làm nước xốt này như thế nào?”
“Bằng bơ và giấm,” tôi nói. “Chanh, một ít rượu vermouth. Thực sự thì cũng chẳng có gì.”
“Cháu chưa bao giờ ăn nước xốt như thế này,” nó nói. “Cô tự làm bánh mì này à?”
“Bánh mì là một sở thích của cô đấy,” tôi nói. “Trong lúc ngủ cô còn thấy mình làm nó cơ mà.”
“Chà chà,” nó nói. Vừa lắc đầu tỏ vẻ ngạc nhiên, nó vừa với lấy miếng thứ tư.
Sau bữa tối, bọn trẻ lên phòng Jonathan. Ngay lập tức tôi nghe tiếng giàn âm thanh được bật lên, một tiếng trống lạ lầm thình thình vang lên qua ván lát sàn nhà. Bobby đã mang đến mấy đĩa nhạc của nó.
Ned nói: “Chúa ơi, thằng bé là một đứa mồ côi.”
“Nó không phải trẻ mồ côi,” tôi nói. “Bố nó vẫn còn sống.”
“Em biết ý anh là gì mà. Thằng bé đó thật bất hạnh.”
Tôi đứng dậy để rửa bát đĩa. Khi tôi còn nhỏ, có những vùng của thành phố mà chúng tôi không bao giờ lại gần. Chúng là những điểm đen, những phần trồng trên bản đồ. Tôi nói: “Đúng, và đó là lý do vì sao Jonathan lại quá quấn quýt với nó như thế. Nếu mà nó còn què quặt nữa thì tối nào chúng ta cũng sẽ thấy nó ở đây thay vì cứ cách một ngày như thế này.”
“Ôi chao,” Ned nói. “Nghe chẳng giống em chút nào.”
Tôi chồng cái đĩa trống trơn của Bobby lên trên đĩa của Jonathan. Jonathan đã khéo léo dàn thức ăn quanh mép đĩa, để ra vẻ là nó đã ăn hết. Nó gầy đến nỗi bạn có thể nhìn xuyên qua nó trong luồng ánh sáng có cường độ mạnh. Đĩa của Bobby sạch trơn, như thể nó đã dùng lưỡi liếm sạch. Không một mẩu vụn nào rơi vãi quanh chỗ nó ngồi.
“Em biết,” tôi nói. “Em rất thông cảm cho tất cả những điều đã xảy ra với nó, em thực sự cảm thấy thế. Nhưng ở nó có vẻ gì đó khiến em lo sợ.”
“Nó chỉ là một đứa trẻ lêu lổng thôi. Nó không còn ai thân thích ngoài một ông bố, và không được nuôi dạy đế nơi đến chốn. Chúng ta có đủ khả năng để cho một đứa trẻ lêu lổng tá túc mà, em có nghĩ thế không?”
“Tất nhiên là thế.”
Tôi mang chồng đĩa vào bếp. Tôi là Alice rầu rĩ và sắt đá, đã kết hôn với Ned, một người tử tế.
Anh cũng bê đĩa theo tôi. “Đừng lo,” anh nói sau lưng tôi. “mọi đứa trẻ đều mang về nhà một vài đứa bạn lêu lổng. Tuy nhiên Jonathan sẽ lớn lên bình thường thôi.”
“Nhưng em lo cho nó lắm,” tôi nói, mở vòi nước. “Nó đã mười ba. Điều này giống như là… ôi, em không biết nữa. Gần giống như là thấy vài bản tính tiềm ẩn của Jonathan đột nhiên hiện ra ánh sáng vậy. Vài điều nó vẫn nung nấu mà chúng ta chưa bao giờ hay biết.”
“Em đang quan trọng hóa vấn đề rồi.”
“Thật à?’
“Đúng vậy. Khi nào có thời gian anh sẽ kể em nghe về Robby Cole. Đó là bạn thân nhất của anh hồi còn đi học. Anh đã bị cậu ta thu hút vì cậu ta có thể dùng răng để mở nắp chai. Và còn nhiều điều khác nữa.”
“Và xem anh đã thành người như thế nào này.”
“Ồ, anh đã lấy em,” anh nói.
“Một thành tích đáng khen ngợi. Dù có lẽ nó vẫn chẳng là gì so với mục đích của cả một đời người.”
“Anh đã lấy em và điều hành rạp chiếu phim tốt nhất ở vùng Đại Cleveland này. Thôi anh phải đi rồi.”
“Tạm biệt anh.”
Anh vòng tay quanh eo tôi, hôn thật kêu lên cổ tôi. Mùi của anh thoáng tràn sang tôi, thứ mùi đặc biệt của da thịt hòa lẫn với mùi thuốc thoa sau khi cạo râu có hương cam ấy. Như thể tôi đang bước vào bầu không khí riêng của anh, và chừng nào tôi còn đứng trong ấy, tôi còn có thể chia sẻ với anh niềm tin rằng những điều tồi tệ rồi sẽ tự tan biến đi, rằng thế giới rút cục sẽ quy tụ về những kết quả tốt đẹp. Tôi ngoảnh lại và nhẹ nhàng hôn lên bên má ram ráp của anh.
“Bớt lo lắng đi nhé,” anh nói.
Tôi hứa là sẽ cố làm thế. Khi anh còn ở trong nhà, dường như điều đó là có thể. Nhưng ngay khi anh đi, khả năng đó cũng rút theo anh như thể nó là ánh sáng phát ra từ phòng bếp. Có lẽ đặc điểm ấn tượng nhất của Ned là khả năng bước đi thanh thản trong cái thành phố của những tảng đá xám và những viên gạch vàng này, nơi gió từ hồ thổi đến có thể làm trái tim con người thắt lại.
Tôi lấy cuốn sách dạy nấu ăn mới mua xuống và bắt đầu nghĩ đến món ăn cho ngày mai. Cuốn sách toàn những công thức nấu nướng của miền quê nước Pháp.
Bobby ở lại đến tận mười giờ hơn, cho đến khi tôi gọi: “Các con, mai còn phải đi học đấy.” Ngay cả lúc đó, sau mười ba năm làm mẹ, tôi vẫn ngạc nhiên khi thấy giọng mình nghe giống hệt giọng một bà mẹ.
Tôi đang đọc báo khi Bobby chạy xuống cầu thang. “Chúc cô ngủ ngon,” nó nói.
Lối nói của nó, toàn bộ cung cách của nó, giống như một người nước ngoài đang học những phong tục của một đất nước khác. Nó giống hệt một kẻ tỵ nạn đến từ một nơi na xôi nào đó, bị bỏ đói và tha thiết muốn làm vừa lòng người khác. Cách nó nói mấy từ “Chúc ngủ ngon” hoàn toàn giống cách của tôi.
“Bobby này?” Tôi nói. Thực ra tôi không biết nói gì thêm nữa. Chỉ vì nó đứng ngẩn ra đó.
“Dạ?”
“Cô thực lòng rất lấy làm tiếc về chuyện của mẹ cháu,” tôi nói. “Cô hi vọng cô không có vẻ quá khách sáo lúc ở bàn ăn chứ?”
“Không sao ạ.”
“Cháu và bố cháu xoay xở có ổn không? Có ai nấu bữa tối và thi thoảng dọn dẹp nhà cửa không?”
“Có ạ. Có một phụ nữ đến dọn dẹp tuần một lần.”
Tôi nói: “Sao cháu không mời bố cháu đến đây ăn tối một hôm? Có thể là đầu tuần sau chẳng hạn?”
Nó cứ nhìn tôi tần ngần và băn khoăn, như thể tôi đã phạm phải vài điều cấm kỵ ở đất nước của nó, như thể nó không hiểu ngay được liệu tôi có cố tình xúc phạm nó hay chỉ vì những phong tục ở đây là khác biệt không.
“Cháu không biết,” nó nói.
“Vậy thì có lẽ cô sẽ gọi điện cho ông ấy. Cháu nên về đi thôi, muộn rồi.”
“Vâng.”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
597,378
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 1-9


Tôi tin rằng nó vẫn sẽ đứng trước mặt tôi nếu tôi không bảo nó đi về.

“Chúc ngủ ngon,” tôi nói lại lần nữa, và câu chào xã giao đó đáp lại tôi trong phiên bản của một giọng thiếu niên.

Sau khi nó về, tôi lên gác và gõ cửa phòng Jonathan.

“Dạ?” Nó nói.

“Mẹ đây. Mẹ vào được không?”

“Vâng.”

Nó nằm trên giường. Một giọng nam âm mũi, đệm bởi tiếng guitar thường, the thé phát qua những chiếc loa. Cửa sổ để mở dù lúc đó đã là đầu tháng Mười một và khắp nơi phủ đầy sương giá. Tôi nghĩ rằng mình ngửi thấy mùi gì đó ngòn ngọt và có vị khói, mà khí lạnh không xua tan hết được.

Tôi nói: “Tối nay con vui chứ?”

“Chắc chắn rồi ạ.”

“Bobby đã có một khoảng thời gian khó khăn, đúng không?” Tôi hỏi.

“Mẹ đừng nên thương hại cậu ấy.”

“Con có biết trước là mẹ cậu ấy đã mất không?”

“Có ạ,” Jonathan nói.

“Con có biết vì sao bác ấy mất không?”

“Một chút ạ. Ý con là, bác ấy đã uống quá nhiều thuốc ngủ. Nhưng mà bác ấy có toa thuốc và đã uống chúng hàng năm trời rồi. Con nghĩ có lẽ bác ấy đã bắt đầu phàn nàn rằng chúng không còn tác dụng nữa. Vì thế đó có thể chỉ là một tai nạn.”

“Bobby có một người anh cũng mất rồi đúng không?”

Jonathan gật đầu.

“Đó thực sự là một tai nạn. Hóa ra đó không phải là một vụ giết người. Đó là lúc mẹ cậu ấy bắt đầu dùng thuốc ngủ.”

Nó kể những chuyện này với một sự hãnh diện nào đó, như thể chúng đại diện cho những thành tựu vật chất của Bobby vậy.

“Chúa ơi. Sao lại có những chuyện như thế xảy ra với con người ta cơ chứ.”

Tôi đi đóng cửa sổ lại. Trời lạnh đến nỗi gần như có thể khiến bạn thở ra hơi trong căn phòng đó.

“Thế mà chưa từng có chuyện gì xảy ra với nhà mình cả,” Jonathan nói. “Chẳng có chuyện gì tồi tệ hết.”

“Chúng ta rất may mắn.”

Khi tôi quay lại từ cửa sổ, tôi thấy cái áo khoác da của Bobby vắt trên ghế. Con mắt thêu trên đó, to đùng, tròng mắt lớn như một quả bóng khúc côn cầu, nhìn tôi chằm chằm từ lớp da đã bị sờn.

“Bobby để quên áo kìa,” tôi nói.

“Cậu ấy cho con mượn đấy,” Jonathan nói. “Trước đây nó là áo của anh cậu ấy. Con đã cho cậu ấy mượn áo của con lúc ở trường hôm nay.”

“Cái áo gió “xịn” của con á? Con đã đổi nó lấy cái này à?”

“Vâng. Bobby đã kể cho con nghe rất nhiều về anh của cậu ấy. Ý con là, có vẻ anh cậu ấy khá thú vị. Khi anh ấy mất, gia đình cậu ấy gần như đã tan nát.”

“Con có biết cái áo gió đó giá bao nhiêu không?” Tôi hỏi.

Nó nhìn lại tôi theo một lối mới, hàm nghiến chặt thách thức và mắt tối sầm lại.

Tôi quyết định bỏ qua chuyện này. Tôi nghĩ tôi đã cho phép nó áp dụng điều này vào những thói quen của nó.

“Con nghĩ sao về món bê hầm cho bữa tối ngày mai?” Tôi hỏi. “Mẹ muốn thử một công thức nấu ăn mới, thịt bê với nấm và hành tây. Con thấy thế nào?”

“Con không quan tâm.” Nó nhún vai.

Tôi khoanh tay lại thật chặt. Căn phòng đó sao mà lạnh giá.

“Con muốn chơi một ván bài trước khi đi ngủ không?” Tôi hỏi. “Mẹ xấu hổ lắm, con biết đấy. Mẹ đã thua quá đậm mấy lần gần đây, mẹ khó mà ngẩng cao đầu được.”

“Không. Con mệt rồi.”

“Một ván ngắn thôi nhé.”

“Không đâu, mẹ ạ.”

“Thôi được rồi.”

Tôi đứng đó một lúc, dù rõ ràng đã đến lúc tôi để nó yên. Ánh đèn ngủ phòng nó, do tôi mua mười năm trước, chiếu lên mái tóc sáng màu và vẻ mặt như được điêu khắc tỉ mỉ của nó. Nó giống tôi, nhưng theo một kiểu lý tưởng hóa. Vẻ ngoài của tôi, vốn khá nghiêm khắc căn cứ vào mỗi lần tôi nhìn mình trong gương, đã trở nên dịu dàng hơn ở nó.

“Chúc mẹ ngủ ngon,” nó nói.

“Chúc con ngủ ngon.”

Tuy nhiên tôi vẫn nấn ná. Tôi không thể ngừng ngắm nó, dù nó rất ghét tôi làm thế. Nếu tôi có đủ can đảm tôi sẽ nói với nó: “Đừng làm thế. Đừng trở nên ghét mẹ. Con vẫn có thể có cả thế giới mà không cần gạt mẹ ra khỏi cuộc đời con cơ mà.”

Tôi lặng lẽ ra khỏi phòng, trong lòng nặng trĩu hình hài nó như lúc tôi mang thai.

Tôi mời Bobby và bố nó đến ăn tối vào thứ Ba tuần sau đó. Họ đến muộn chừng nửa tiếng, mang theo hai chai rượu. “Xin lỗi,” người bố nói. “Chúng tôi phải lái xe khắp thành phố để kiếm được một chai Chardonnay kha khá. Tôi hi vọng anh chị thích Chardonnay.”

Tôi bảo ông rằng chúng tôi rất thích nó.

Ông để một chòm râu dê và mặc cái áo khoác màu mù tạc với khuy bằng đồng lấp lánh. Khuôn mặt hồng hào của ông là một mớ mao mạch bị vỡ. Trông ông như một Bobby say xỉn và lớn tuổi.

Tên của người bố là Burton. Ông hiếm khi đụng vào thức ăn khi chúng tôi ngồi xuống dùng bữa tối. Ông cứ uống rượu, hút Pall Mall và thi thoảng ngừng những việc đó lại để xiên một chút cá bơn rim mà tôi đã làm, giơ lên một lát rồi nhét vào miệng mà không chú ý gì đến nó, hệt như thái độ của một tay thợ mộc khi đóng một cái đinh ba phân.

Ned hỏi ông ta: “Anh thấy bọn trẻ ở trường Rooselvelt thế nào?”

Burt Morrow nhìn anh vẻ khó hiểu. Tôi nhận ra vẻ mặt đó.

“Chúng có thể rất khó chịu,” ông nói với một giọng thận trọng. “Nói chung chúng không phải là những đứa trẻ hư, nhưng chúng có thể rất khó chịu.”

Một lúc sau, Ned gật đầu. “Tôi hiểu.”

“Chúng tôi cố gắng hòa thuận với nhau,” Burt nói. “Tôi cố gắng hòa thuận với chúng. Tôi cố gắng không xúc phạm chúng, và thường là thành công, tôi tin vậy.”

Ông quay sang Bobby và hỏi: “Con có nghĩ rằng nó vẫn thành công không?”

“Vâng, thưa bố,” Bobby nói. Nó nhìn bố mình với vẻ không ra yêu cũng không ra khinh khủng. Họ có chung một nét ngờ nghệch nào đó, một cách trả lời câu hỏi như thể nó được đặt ra bởi một giọng nói kì quái thì thầm vọng đến từ thinh không. Họ giống như những người anh em lớn tuổi ngốc nghếch, tốt bụng trong một câu chuyện cổ tích – những người mà sự quyến rũ và hấp dẫn đã bỏ qua họ. Jonathan ngồi giữa họ, đôi mắt xanh của nó ánh lên vẻ thông minh.

“Đó cũng là tất cả những gì bản thân tôi đang cố gắng làm,” tôi nói. “Không can thiệp vào mọi chuyện của Jonathan và để nó tự trải nghiệm cuộc sống. Chúa ơi, tôi không biết làm thế nào để rèn nó vào khuôn khổ. Đôi khi tôi vẫn cảm thấy mình giống như một đứa trẻ.”

Cả Bobby và bố nó đều nhìn tôi với khuôn mặt sửng sốt.

“Tôi đã kết hôn sớm, mọi người biết đấy,” tôi nói. “Lúc đó tôi chỉ nhỉnh hơn mấy thằng bé này vài tuổi, và chắc chắn tôi đã không nghĩ là mình sẽ yêu một người miền Bắc tên là Ned Glover, hay mình sẽ chuyển đến Ohio, với những cơn gió Canada thổi mưa tuyết từ vùng hồ tới. Grừ. Tôi không nghĩ là mình sẽ làm gì đó thật khác biệt như thế.”

Ned nháy mắt và nói: “Tôi gọi cô ấy là Helen[24] ở Louisana. Tôi vẫn đang chờ một đám người miền Nam để lại con ngựa gỗ trên bãi cỏ trước nhà đấy.”

[24] Trong thần thoại Hy Lạp, Helen là vợ của Melenaus xứ Sparta, nàng đã bị hoàng tử Paris của thành Troy cướp đi và từ đó đã gây ra cuộc chiến tranh thành Troy.

Burt châm thêm một điếu thuốc. Ông há miệng để nhả khói và ngắm nó uốn éo phía trên bàn ăn. “Có lẽ tôi nên làm gì đó khác biệt,” ông nói. “Tôi nghĩ anh chị nên khuyên tôi làm thế. Đúng vậy.”

Tôi không phải là người kém hiểu biết về tâm lý. Tôi biết Jonathan cần thoát khỏi bố nó và tôi, cần cắt đứt sự ràng buộc: giết chết chúng tôi, trong chừng mực nào đó, và rồi sau đó làm chúng tôi phục sinh, khi nó đã là một người đàn ông trưởng thành với cuộc sống riêng của nó, còn chúng tôi đã biến thành những người thừa, già cả. Tôi không mù quáng, cũng không ngốc nghếch.

Tuy nhiên, dường như chuyện đó đã xảy đến quá sớm, và Bobby có vẻ là một phương tiện sai lầm. Ở tuổi mười ba, chúng ta có rất nhiều lựa chọn mà không hề biết về những hậu quả có thể ảnh hưởng đến chúng ta qua nhiều thập kỉ. Khi tôi mười ba tuổi, tôi đã chủ định nói nhiều và lêu lổng một chút, để đảm bảo rằng những bữa tối trầm lặng và những buổi tối tẻ ngắt dài lê thê của bố mẹ tôi – chỉ được đánh dấu bằng tiếng chuông đồng hồ - sẽ không ảnh hưởng lâu dài đến tôi. Tôi vừa mới mười bảy khi gặp Ned Glover, một người đàn ông đẹp trai, hài hước ở độ tuổi đôi mươi, chủ một chiếc Chrysler mui trần, với vô vàn những câu chuyện từ miền Bắc.

Đêm đó, khi ở trên giường, tôi nói với anh: “Chà, ít nhất thì bây giờ chúng ta cũng biết sao Bobby lại có thứ đó.”

“Có thứ gì?”

“Mọi thứ. Toàn bộ tính cách của nó. Hay đúng hơn là sự thiếu vắng bí ẩn cái tính cách riêng đó.”

“Em thực sự không thể chịu nổi thằng bé đó, đúng không?” Ned hỏi.

“Em không chịu được bất cứ tính xấu nào của nó,” tôi nói. “Em chỉ, ừm, đây là một thời điểm quan trọng trong cuộc đời Jonathan. Em không chắc liệu nó có nên chơi cùng với một đứa như vậy không. Anh có nghĩ rằng Bobby hơi chậm phát triển không?”

“Em yêu, rồi sự ham mê sẽ mất đi thôi. Hãy tin vào con trai em hơn một chút. Chúng mình đã nuôi nấng nó mười ba năm rồi, chắc là chúng mình cũng đã dạy được cho nó ít nhiều.”

Tôi không nói gì. Điều tôi muốn nói là: “Em mới là người đã dạy cho nó ít nhiều, còn anh thì chỉ rúc vào cái rạp chiếu phim đó thôi.” Nhưng tôi im lặng. Chúng tôi nằm chờ giấc ngủ đến. Đêm đó chúng tôi sẽ không làm tình. Tôi cách xa khả năng đó hàng dặm. Tuy nhiên, tôi nghĩ chúng tôi còn nhiều thời gian.

Có lẽ tôi đã quá cố chấp khi vẫn muốn được là bạn của Jonathan. Đáng lẽ tôi nên tách mình ra xa hơn. Tôi hoàn toàn không thể tin rằng đứa con trai mà tôi thường chơi và chia sẻ những bí mật cùng – đứa trẻ yếu đuối vẫn hay kể cho tôi nghe bất cứ chuyện gì xảy ra trong đầu nó – đột nhiên cần được đối xử bằng những khuôn phép lịch sự mà người ta có thể áp dụng với một người khách trọ.

Những ván bài quen thuộc của chúng tôi, cũng như những chuyến đi mua sắm vào ngày thứ Bảy, đã đến hồi kết. Bobby vẫn tiếp tục mặc chiếc áo gió màu xanh của Jonathan, và bắt đầu mặc cả áo sơ mi của Jonathan nữa. Khi nó ở lại qua đêm, nó ngủ trên cái giường xếp trong phòng Jonathan. Nó vẫn thân mật với tôi theo kiểu dân hập cư bắt chước người khác của nó.

Một buổi sáng tháng Ba, tôi đang bổ quả bưởi chùm cho bữa sáng. Jonathan ngồi một mình ở bàn ăn, đó là một trong những buổi sáng mà Bobby không ở cùng chúng tôi.

Tôi nói: “Trông có vẻ như trời sắp mưa ấy.”

Một khoảnh khắc trôi qua. Jonathan nói: “Zâng, có zẻ thế.”

Nó đang nhại theo giọng miền Nam của tôi.

Đáng lẽ tôi nên bỏ qua sự chế nhạo đó. Đáng lẽ tôi chỉ nên lờ nó đi và dọn đĩa bưởi chùm ra. Nhưng thay vào đó, tôi quay lại và nhẹ nhàng nói: “Con nói gì vậy?”

Nó chỉ cười như thể vô cùng mãn nguyện.

Tôi hỏi lại: “Con nói gì vậy, con yêu? Mẹ không chắc mẹ có nghe đúng không.”

Nó đứng lne, nó ra khỏi nhà và nói: “Má nên tin rằng bửa mai con sẽ bõ ăn sáng, má êu à.” Khi nó bỏ đi, con mắt trên lưng áo khoác cứ nhìn tôi chằm chằm.

Điều đó xảy ra một lần nữa vào buổi tối, khi chúng tôi đang xem ti vi. Tối hôm đó, Bobby ở cùng chúng tôi. Ned đang ở rạp chiếu phim, còn chúng tôi, bao gồm tôi và hai thằng bé, đang xem một bộ phim chiếu lại tên là Chuyến du hành đến các vì sao. Tôi hỏi: “Ông Spock có lẽ không mấy hài hước ở các cuộc vui, nhưng mẹ thích ông ta nhất.”

Jonathan nói: “Ông ta đang thi hành nhiệm vụ năm năm trong vũ trụ đấy. Nếu mẹ cưới ông ta, mẹ sẽ cần một tá cậu con trai để làm bạn.”

Đáng lẽ tôi nên cười theo như một người bạn thật sự nhưng tôi vẫn quá ngạc nhiên bởi cái thói xấc xược thằng thừng mới mẻ này. “Mẹ phần nào nghĩ rằng chúng ta là bạn của nhau,” tôi nói.

“Đúng vậy,” nó nói. “Những đứa con trai chẳng thích gì khác ngoài việc đi mua sắm và nấu ăn.”

Bobby ngồi trên sàn, như thói quen thường lệ của nó. Không hiểu sao nó không thích ngồi ghế.

Nó nói: “Thôi đi, Jon.”

“Chỉ đùa thôi mà,” Jonathan nói.

“Ừ, nhưng dù sao cũng thôi đi.”

Và thế là Jonathan thôi thật. Nó xem chương trình đó và không bình luận gì thêm. Chân nó trông to và khá nặng nề trong đôi giày cao bồi màu đen mà nó đã đòi mua.

Bobby đã cắt móng tay và chịu chải tóc. Có vẻ nó đã thay đôi giày ống bằng đôi giày vải đơn giản màu đen.

Nó luôn lễ phép với tôi. Thực ra thì còn hơn cả lễ phép: nó rất cung kính, theo kiểu của nó. Nó hỏi tôi về tất cả những món ăn mà tôi đã nấu trong bữa tối, và hỏi thăm ngày hôm đó của tôi trải qua ra sao. Việc trả lời nó không phải lúc nào cũng là dễ dàng, vì tôi không bao giờ biết chắc mình đang nói chuyện với ai. Nó vẫn một mực giữ lấy cái phong cách nước ngoài của nó, dù dần dần nó đã tiến bộ hơn trong việc bắt chước chuẩn mực trong sáng của một nhân vật trên truyền hình. Những hành động của nó đã lịch sự hơn. Nó bắt đầu cắt tóc, và thậm chí còn mặc vài bộ quần áo mới mà không phải là đồ của Jonathan.

Một đêm tháng Năm, tôi đang đi qua phòng của Jonathan thì nghe thấy tiếng nhạc không gào rú và ồn ào như bọn chúng thường mở. Tôi đã quá quen với tiếng nhạc ầm ĩ không dứt của chúng, như kiểu người ta quen với một con chó hay sủa. Thế nên với tôi, những tiếng guitar điện tử và trống bass đã trở thành một loại yên tĩnh mới. Nhưng thứ âm nhạc đặc biệt này – với duy nhất một giọng ca nữ ngọt ngào được đệm tiếng dương cầm – rõ ràng vẫn là một âm thanh nghe thấy được.

Tôi ngập ngừng bên ngoài phòng Jonathan. Rồi tôi gõ cửa và ngạc nhiên trước âm thanh rụt rè khe khẽ phát ra khi những đốt ngón tay tôi gõ vào cánh cửa gỗ. Nó là con trai tôi, đang sống trong nhà tôi cơ mà. Tôi có quyền gõ cửa phòng nó chứ. Tôi gõ lại, mạnh hơn.

“Dạ?” Nó nói vọng ra từ bên trong.

“Mẹ đây,” tôi nói. “Mẹ vào một lát được không?”

Chỉ có sự im lặng, lấp đầy bởi những phím dương cầm tình tang. Một lát sau, Bobby mở cửa.

“Chào cô,” nó nói. Nó đứng đó, cười cười, trông khá kì cục – lúng túng – trong chiếc áo sơ mi kẻ sọc và chiếc quần jean. Tôi có thể thấy Jonathan ngồi ở phía trong, cau có trong đôi giày ống màu đen và chiếc áo phông.

“Mẹ không định làm phiền các con đâu,” tôi nói, và thấy bực mình với cái giọng hèn nhát của mình. Tôi giống như một người thân nghèo khổ, đến để ăn bữa tối trách nhiệm thường niên của cô ta.

“Không sao,” Bobby nói. “Không sao đâu ạ.”

“Cô chỉ, ừm, cô cứ thắc mắc không biết đó là loại nhạc gì. Nó nghe thật… lạ.”

“Cô thích nó à?” Bobby hỏi.

Đó có vẻ là một câu hỏi bẫy. Liệu tôi có nên nói thật để rồi bị giễu cợt? Sau đó, gạt qua một bên những e dè của mình, tôi trả lời như một phụ nữ ba mươi lăm tuổi. “Nghe hay lắm,” tôi nói. “Ai đang hát vậy?”

“Laura Nyro[25] ạ,” Bobby nói. “Vâng, cô ấy hát rất hay. Đĩa này cũng cũ rồi, cô có muốn vào nghe một lát không?”

[25] Laura Nyro (1947-1997): ca sĩ, nhạc sĩ, nhà soạn lời và nghệ sĩ dương cầm người Mỹ.

Tôi liếc sang Jonathan. Dĩ nhiên là tôi nên từ chối. Lẽ ra tôi nên đi làm những công việc thầm lặng của mình, gấp những cái khăn và ga trải giường. Nhưng tôi lại nói: “Có chứ, nhưng chỉ một lát thôi,” và bước vào căn phòng đó với vẻ cảm kích, nơi mà trước đây tôi được tự do ra vào. Từ năm ngoái, Jonathan gần như đã dán kín tường bằng những tấm áp phích của những ca sĩ nhạc rock tóc dài cau có. Giọng hát của nữ ca sĩ dó, cao vút và uyển chuyển, mong manh tràn ngập căn phòng, bị vây quanh giữa tất cả những ánh mắt nam giới gay gắt này.

Jonathan ngồi trên sàn, đầu gối áp sát vào ngực và tay ôm lấy ống chân. Nó đã ngồi kiểu đó từ khi lên bốn – một dáng vẻ hờn dỗi. Tôi bỗng thấy, có lẽ là lần đầu tiên, một người đàn ông mới lớn luôn ẩn mình bên trong một cậu bé như thế nào. Nó sẽ mang y chang những điệu bộ đó theo nó vào thế giới người lớn. Tôi thấy hơi ngạc nhiên, dù đó là điều dễ hiểu nhất. Trước đây không hiểu sao tôi cứ ngỡ rằng rồi Jonathan sẽ biến hẳn thành người lớn, bỗng một ngày trở thành một người xa lạ ân cần, tốt bụng. Tôi thấy rằng tôi vừa đúng vừa sai về điều đó.

Bobby nhấc bìa đĩa lên và giơ ra cho tôi, như thể tôi đến để xem xét việc mua đĩa. “Nó đây ạ,” nó nói. Khi tôi cầm lấy cái bìa đĩa, mặt nó đỏ bừng, vừa hãnh diện vừa ngượng ngùng.

Cái bìa đĩa có màu sô-cô-la sẫm. Nó được minh họa bằng hình ảnh một người phụ nữ khá giản dị với vầng trán cao, xanh xao và mái tóc đen mềm mại rẽ ngôi giữa. Có lẽ cô là một sinh viên mờ nhạt, không nổi bật ở một trường nữ sinh, một kẻ đáng thương hơn là đáng để chế nhạo. Tôi biết rõ những cô gái đó. Chính tôi cũng từng cảm thấy mình có nguy cơ trở thành một người như thế, do đó tôi đã ép mình phải thay đổi. Dám ăn nói mạnh dạn và liều lĩnh, dám hẹn hò với những anh chàng mà bạn không thể đem về nhà gặp mẹ mình. Ned Glover đã đến từ Michigan trong một chiếc xe mui trần màu xanh tia chớp, một người đàn ông hài hước, tinh tế, lớn hơn tôi nhiều tuổi.

“Hay quá,” tôi nói. “Giọng cô ấy hay thật.”

Nó nghe hệt như câu trả lời của một người phụ nữ trung niên đứng đắn. Tôi nhanh chóng đưa trả Bobby cái bìa đãi, như thể nó quá đắt so với mức chi trả của tôi.

“Cô ấy đã thôi hát,” Bobby nói. “Cô ấy đã lấy chồng và, ờ, chuyển đến Connecticut hay đại loại thế.”

“Cô rất tiếc,” tôi nói.

Chúng tôi đứng đó lúng túng, như những người lạ tại một bữa tiệc. Tôi có thể cảm thấy cái áp lực muốn tống tôi ra khỏi phòng của Jonathan. Nó như một vật hiện hữu, một áp lực trên trán và vai tôi.

“Chà,” tôi nói. “Cảm ơn vì đã để cho một bà già xâm nhập vào đây nhé.”

“Có gì đâu ạ,” Bobby nói. Một bài hát đã hết và bài khác bắt đầu, một bài có giai điệu nhanh hơn mà tôi nghĩ là mình nhận ra. Đúng rồi, Jimmy Mack, từng được Martha and the Vandellas[26] hát.

[26] Một trong những nhóm nhạc thành công nhất của công ty Motown từ năm 1963 đến năm 1967.

“Cô biết bài này,” tôi nói. “Ý cô là, trước đây cô đã từng nghe nó.”

“Thế ạ?” Bobby nói.

Và rồi nó làm một điều kì cục. Nó bắt đầu nhảy.

Tôi chỉ có thể nghĩ rằng nó dã mất khả năng ngôn ngữ và buộc phải dùng đến thứ mà nó quen thuộc. Nó làm thế một cách tự động, như thể đó là bước tiếp theo hợp lý của một cuộc đối thoại. Nó bắt đầu lắc hông, giậm chân nhún nhảy theo điệu nhạc. Đôi giày vải cả nó kêu rin rít trên sàn.

“Đúng, đúng nó rồi,” tôi nói. “Đây là một bài hát xưa lắm rồi.”

Tôi liếc sang Jonathan, nó có vẻ ngạc nhiên. Nó nhìn lại tôi, và trong một thoáng chúng tôi lại tìm thấy sự đồng lõa cũ của mình. Chúng tôi đều đang kinh ngạc trước những tập quán của người địa phương. Tôi phần nào mong rằng khi chúng tôi còn lại một mình bên nhau, nó có thể bắt chước Bobby – nhảy múa với đôi vai rộng và khuôn mặt ngờ nghệch – chỉ để làm cho tôi cười.

Nhưng rồi Bobby cầm lấy tay tôi và nhẹ nhàng kéo tôi về phía trước. “Cùng nhảy nào,” nó nói.

“Ôi, không. Tuyệt đối không được.”

“Không thể nói không,” nó vui vẻ nói. Nó không thả tay tôi ra.

“Không,” tôi lặp lại. Nhưng lời từ chối của tôi chẳng hề có uy lực. Có lẽ do tôi bị chi phối bởi nền giáo dục miền Nam của mình, bởi cái quyết tâm bẩm sinh phải luôn tránh điều khó chịu trong xã giao bằng bất cứ giá nào. Tôi khẽ mỉm cười khi nói lời từ chối mà không hề định thế.

Nó nhẹ nhàng cùng tôi xoay theo điệu nhạc. Nó nhảy giỏi hơn hẳn cái bộ dạng mà bình thường nó vẫn thể hiện. Khi còn trẻ, tôi đã nhảy rất khá – đó là một trong những quyết tâm mà tôi thực hiện được, một đặc điểm nổi bật của con người mà tôi muốn trở thành – và tôi đã nhận ra những dấu hiệu. Có những anh chàng mà bạn biết bạn có thể tin cậy vào họ trên sàn nhảy, bạn biết điều đó gần như ngay lập tức, nhờ vào cảm giác hơn là vẻ ngoài của họ. Có những người khiêu vũ truyền ra không khí một cảm giác tự tin và vững vàng. Họ có một vẻ duyên dáng, cởi mở khiến bạn bị thu hút, chỉ cần họ chạm tay vào bạn, bạn sẽ biết được rằng bạn không thể làm một động tác sai. Bobby là một người khiêu vũ như thế. Tôi sẽ không ngạc nhiên hơn nếu nó thả ra một đàn chim bồ câu còn sống từ dưới cổ tay áo kẻ sọc của nó.

Tôi hưởng ứng theo. Tôi cầm lấy bàn tay còn lại của nó và nhảy cùng nó, duyên dáng nhất có thể, trong căn phòng chật hẹp, trước đôi mắt bất đồng của con trai tôi và ánh nhìn hằn học của những ca sĩ nhạc rock. Bobby mỉm cười ngượng nghịu. Giọng của nữ ca sĩ vang lên qua từng nốt nhạc với sự phóng túng sầu não, như một người họ hàng nhút nhát thoát khỏi vỏ bọc e dè của mình một cách nhanh chóng và cuồng nhiệt.

Sau khi bài hát kết thúc, tôi rụt tay lại và vuốt tóc mình. “Chúa ơi,” tôi nói. “Hãy xem cháu đã dẫn dắt một bà già làm gì này.”

“Cô giỏi quá,” Bobby nói. “Hóa ra cô biết khiêu vũ.”

“Trước đây thôi. Từ đời nào đời nào rồi.”

“Đâu mà,” nó nói. “Tiết tục nào.”

Tôi lại nhìn sang Jonathan, và thấy đúng như những gì mình nghĩ: tất cả vẻ đồng lõa bùng ra trên mặt nó. Nó nhìn tôi chằm chằm, không hẳn là vẻ căm ghét mà là ẻ không nhận ra, như thể tôi chỉ là người nào đó giống mẹ nó mà thôi.

“Đã nửa đêm rồi,” tôi nói. “Cô rất muốn ở lại, nhưng cô còn phải gấp ga trải giường nữa.”

Tôi nhanh chóng ra khỏi phòng. Trong chưa đầy một phút, giọng nữ ca uyển chuyển đã bị thay thế bởi một giọng nam mạnh mẽ và tiếng guitar điện tử chói tai.

Đêm đó Ned về nhà muộn, sau khi tôi đã đi ngủ. Tôi thức giấc và thấy anh đang nằm cạnh tôi, hơi thở sâu và lông mày chau lại trong một giấc mơ. Tôi nằm ngắm anh một lúc. Ned đã từng là một cậu bé. Có lẽ tôi chưa bao giờ khắc ghi điều đó trong lòng, dù dĩ nhiên tôi đã thấy những bức ảnh của anh hồi đó: cậu bé Ned đang nhe răng cười dưới một cái mũ quả dứa quá cỡ, cậu bé Ned gầy gò với đôi bàn chân to bè trong đôi xăng đan ở bãi biển. Đích thân tôi đã đóng gói một thùng carton đựng những chiếc ô tô bằng sắt và những chú lính chì của anh để cất vào tầng áp mái. Tuy nhiên, tôi chưa bao giờ hoàn toàn hiểu rõ điều đó. Người đàn ông nằm đây đã từng là một đứa bé. Khi lần đầu tiên chúng tôi gặp nhau, anh mới hai mươi sáu còn tôi mười bảy, nhưng trong mắt tôi, ngay cả hồi đó anh cũng đã là một người trung niên. Có lẽ anh được sinh ra để làm người lớn. Những bức ảnh và những món đồ chơi kia có lẽ chỉ là di vật của một cậu bé đã mất sớm, người trước đây từng sống trong một ngôi nhà cũ, và đã mang theo ý thức về khả năng vô hạn ra khỏi thế giới cùng cậu khi cậu ra đi. Những gì còn lại là đồ sứ được cất đằng sau tủ kính và vẻ nhẫn nại của những bông hoa violet châu Phi – một cuộc đời già cả bình thản. Nhưng giờ đây, như thể là lần đầu tiên, nằm bên Ned, tôi có thể thấy đường cong trẻ trung của khuỷu tay anh lấp ló dưới gối, thấy bắp thịt trai tráng của bộ ngực đã trở nên rậm rạp và mệt mỏi. Con người tội nghiệp, tôi nghĩ. Cậu bé tội nghiệp.

Tôi giơ tay lên vuốt ve vai anh. Đáng lẽ tôi nên hôn anh. Đáng lẽ tôi nên lướt tay mình trên bộ ngực rậm rạp của anh. Nhưng cảm giác mới mẻ của tôi về vẻ đẹp ngây thơ của anh vẫn còn quá mong manh. Nếu anh tỉnh dậy và hôn tôi thật mãnh liệt, nếu anh siết chặt sườn tôi, nó có thể hoàn toàn sụp đổ. Vì thế tôi tạm bằng lòng với việc ngắm anh và vuốt ve bờ vai êm ái, mềm mại của anh.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
597,378
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 1-10


BOBBY

Bố tôi đã tự mua cho mình một cặp kính mới – kiểu phi công, với gọng kính mảnh mai màu hồng ánh kim. Ông đến cửa phòng tôi và đứng tạo dáng ở đó, nghịch ngợm chống một bên khuỷu tay lên khung cửa.

“Bobby, con nghĩ thế nào?” Ông hỏi.

“Dạ?” Tôi nói. Tôi đang nằm đeo tai nghe trong bóng tối, hút cần sa và nghe Jethro Tull[27]. Âm nhạc đã choán hết ý thức của tôi và tôi cần đến vài phút để quay trở lại với cái thế giới của nguyên nhân và hệ quả.

[27] Jethro Tull: ban nhạc rock của Anh, thành lập năm 1967.

“Bobby, con nghĩ thế nào?” Ông hỏi lại.

“Con không biết,” cuối cùng tôi trả lời. Ông sẽ phải cho tôi thêm thời gian để đáp lại câu hỏi đó.

Bố tôi chỉ vào đầu mình. Ông đang đứng ở chỗ sáng. Những tia sáng hàng trăm oát đang bủa vây quanh ông, xuyên quann cảnh tranh tối tranh sáng trong phòng tôi.

Tôi nghĩ gì về đầu ông à? Đó quả thực là một câu hỏi quá rộng, có lẽ vượt xa tầm hiểu biết của tôi.

“Chà,” tôi nói. Rồi bỏ lửng ở đó.

“Kính của bố,” ông nói. “Bobby, hôm nay bố có một cặp kính mới.”

Một thoáng trôi qua. Ông nói: “Con nghĩ thế nào? Nó trông có hơi trẻ so với bố không?”

“Con không biết,” tôi nói. Tôi có thể nhận thấy giọng mình nghe ngốc nghếch và trống rỗng thế nào. Nhưng tôi đành bó tay trước những câu hỏi của ông. Ông giống như một thiên thần đang đặt ra những câu đố khó hiểu.

Ông thở dài, một tiếng xì chầm chậm. “Thế thôi,” ông nói. “Bố đi nấu bữa tối đây.”

“Vâng, thưa bố,” tôi nói, hi vọng sẽ phát ra một giọng vui vẻ và hợp tác. Tôi nhẩm lại trong óc – tối nay đến lượt ông hay tôi nấu cơm? Hôm nay là thứ Ba. Đến lượt ông. Tôi đã đúng.

Sau khi ông đã rời khỏi cửa, tôi mới nhận ra những câu hỏi của ông là những câu đơn giản. Ông đã đổi cặp kính gọng đồi mồi của mình để lấy một kiểu đặc biệt hơn và muốn được ủng hộ. Đáng lẽ tôi nên theo ông vào bếp, gợi lại chuyện đó. Nhưng tôi không làm thế. Tôi bị thú vui của bản thân đè bẹp, và tự cho phép mình quay lại với âm nhạc và bóng tối.

Một lúc sau, bố tôi gọi tôi ra ăn tối. Ông đã làm món thịt bò nướng và khoai tây chiên. Ông nhấp rượu Scotch từ một chiếc cốc được trang trí hình những lát cam tròn và có múi được chia đều nhau theo những chiếc bánh xe.

Mất một lúc, chúng tôi chỉ lặng lẽ ăn mà không nói gì. Một khi im lặng bao quanh chúng tôi, chúng khó có thể bị phá vỡ. Chúng cứ dai như đỉa đói ấy. Cuối cùng, tôi nói: “Cặp kính đó trông hay đấy chứ. Ý con là con thích nó.”

“Bố nghĩ trông nó hơi trẻ quá,” ông nói. “Bố e rằng một người đàn ông ở tuổi bố trông có vẻ hơi ngớ ngẩn khi đeo một cặp kính như thế này.”

“Không đâu. Ai cũng có thể đeo kiểu này mà. Nó trông rất hay.”

“Con thực sự nghĩ vậy à?”

“Vâng,” tôi nói.

“Ừm,” ông nói. “Bố rất vui khi nghe con nói thế. Bố rất vui khi được một người trẻ tuổi góp ý về vấn đề này.”

“Quả thực là như vậy. Bố biết đấy, trông nó rất đẹp.”

“Tuyệt.”

Tiếng dao dĩa chạm vào đĩa lanh canh. Tôi có thể nghe tiếng cổ họng bố tôi nuốt thức ăn.

Ông vẫn đang nhuộm tóc hàng tuần nay. Ông đã lập kế hoạch nhuộm nó từng chút một – cứ vài ngày, ông lại nhuộm thêm một ít. Theo cách này, ông hi vọng có thể làm ra vẻ như đó là một sự thay đổi tự nhiên, như thể thời gian đã tự đảo ngược, nằm ngoài ý muốn của cá nhân ông.

Đây là giải pháp của ông – già đi trong những chiếc áo sơ mi cổ rộng và những chiếc áo gi lê da, thử mọi thứ kết hợp giữa ria mép, râu cằm và tóc mai. Tôi đã từng thấy ông trong những bức ảnh cũ thời trai trẻ, một nhạc công say xỉn, lang thang với những chiếc áo phông để lộ đôi tay vạm vỡ, đã đâm sầm vào những giới hạn tài năng của chính mình và yêu một phụ nữ nông thôn, một góa phụ hiểu biết về hạt giống và những vụ thu hoạch.

Rồi tôi chợt nhớ. Đột nhiên nó nảy ra trong óc tôi: hôm nay là ngày giỗ của mẹ tôi. Đã hai năm rồi.

Ông rót tiếp chai Ballantine vào cốc của mình và nói: “Bố hỏi con một câu nữa nhé.”

“Vâng.”

“Con nghĩ sao về một chiếc xe mới?”

“Con không biết,” tôi trả lời. “Xe nhà mình đang dùng không tốt sao?”

Ông đặt cốc rượu xuống mạnh đến nỗi làm văng cả những giọt rượu Scotch và một viên đá cỡ bằng móng ngón tay cái ra mặt bàn. “Đúng,” ông nói. “Con hoàn toàn đúng. Hoàn toàn không cần thiết phải thay đổi bất cứ thứ gì. Bố không thể đồng ý hơn.”

Chiếc đồng hồ quả lắc kêu tích tắc. Tôi nói: “Mua xe mới cũng được, bố ạ.”

“Bố đang nghĩ đến một loại xe thời trang hơn một chút,” ông nói. “Có thể là một mẫu xe nước ngoài, có mui.”

“Vâng. Tuyệt lắm ạ.”

“Kiểu xe nào thoáng gió một chút.”

“Vâng.”

Chúng tôi tiếp tục ăn. Khuôn mặt bố tôi thờ ơ và lạc quan. Ông đang loại bỏ từng sợi tóc muối tiêu. Đôi mắt ông ướt đẫm đằng sau cặp mắt oval của đôi kính mới.

Mẹ tôi đã chết dần chết mòn trước khi thực sự qua đời. Bà đã ở lì trong phòng khách, thi thoảng lắm mới lặng lẽ xuất hiện trong chiếc áo choàng tắm màu lam nhạt. Một lần, khi bà đi qua tôi ở hành lang trên đường vào buồng tắm, bà đã dừng lại để vuốt tóc tôi. Bà không nói gì. Bà nhìn tôi như thể bà đang đứng trên sân ga giữa một miền quê bằng phẳng khô ráo, còn chuyến tàu chờ tôi đang chuyển bánh để đi lên một thế giới trên vùng núi cao.

Sau khi bố tôi và tôi phát hiện ra bà, ông đã gọi điện và rồi chúng tôi ngồi bên nhau, ông và tôi, trong căn phòng khách vắng lặng. Chúng tôi để bà một mình – có vẻ đó là điều lịch sự cần làm. Chúng tôi ngồi yên lặng, chờ cảnh sát và những người trợ giúp về y tế đến. Chúng tôi không nói gì.

Trong phòng ăn, khung cảnh nông trại mùa thu vẫn không thay đổi. Đàn bò vẫn quăng xuống những cái bóng màu da cam, và đám cây vẫn nhú lên những chiếc lá vàng. Bố tôi từ tốn nhắm món thịt bò, không hề động đến những miếng khoai tây. Tôi ăn xong, mang đĩa của mình xuống bếp và xếp vào chồng đĩa. Một con ruồi lớn, óng ánh, đang mải miết lang thang trên một góc mỡ cừu vàng ươm. Những tấm rèm vẫn phô bày họa tiết hình những ấm trà màu xanh dương.

Sau đó, lúc bố tôi đã đi ngủ, tôi trở dậy và đi loanh quanh. Tôi đã dùng một viên Dexedrine[28] sau khi tan học, nghĩ rằng mình có thể dọn dẹp nhà cửa, nhưng thay vào đó tôi lại chìm đắm trong âm nhạc. Hai điếu cần sa vẫn không làm giảm bớt tác dụng của nó để tôi có thể ngủ được, vì thế sau khi bố tôi đã nốc sạch chai rượu và yên vị trên giường, tôi dạo một vòng qua các phòng, đầu tôi ong ong và nóng rực như một cái bóng đèn đang thắp sáng. Bên dưới tất cả sự lộn xộn này là bản sao hoàn hảo của một ngôi nhà, giống như phiên bản của những đồ vật thời xưa mà người ta đặt trong các bảo tàng ở những thị trấn nhỏ. Đây là phòng khách của họ, một chiếc sofa màu đỏ anh đào từng bị coi là đồ bỏ đi và một cái chậu tắm bằng đồng thau cũ chứa những khúc gỗ để nhóm lò sưởi. Đây là cửa trước, bằng gỗ sồi màu vàng, với duy nhất một ô cửa sổ bằng kính mờ mà qua đó ta có thể nhìn thấy hình dáng lờ mờ của những người lạ. Và đây là phòng giải trí, được đóng ván ô, với tấm thảm rách giống như một điểm đen trên sàn nhà lót vải sơn màu nâu.

[28] Dexedrine: Một loại thuốc kích thích gốc amphetamine, tạo cho người dùng cảm giác tỉnh táo, nếu dùng liều cao sẽ gây tác dụng phụ như: làm cho người dùng trở nên hung hăng, dữ tợn hay hoang tưởng.

Sau tai nạn, bố tôi đã cố bán ngôi nhà. Nhưng trong vòng sáu tháng, người khách có hứng thú duy nhất đã đưa ra cái giá chỉ nhỉnh hơn một nửa giá thị trường. Khu này ở Cleveland không nằm trong dự án phát triển.

Âm nhạc đang vang lên trong đầu tôi. Tôi đi dọc hành lang đến phòng bố tôi. Đầu tôi là một cái radio rực sáng – trong một thoáng tôi tin rằng tiếng nhạc sẽ đánh thức ông dậy. Tôi đứng trước cửa phòng ông, ngắm nghía những đường vân gỗ. Tôi mở cửa và rón rén bước vào.

Bố tôi ngáy ầm ầm. Từng giây cứ vun vút trôi qua theo những con số màu đỏ trên mặt chiếc đồng hồ điện tử của ông. Tôi đứng đó, chỉ đứng đó, khi thời gian trôi qua trên chiếc bàn cạnh giường. Đầu tôi đang vang lên bài Aqualung. Vào lúc đó, tôi đã hiểu được tâm lý của những kẻ sát nhân tâm thần. Tôi có thể ôm lấy đầu ông, vuốt ve mái tóc đen nhánh của ông. Tôi có thể đấm ông và cảm thấy răng ông vỡ tan ra những viên đường, rồi nghe tiếng chúng rơi lả tả xuống sàn. Tôi hiểu được sự im lặng tăm tối của thế giới, và ánh sáng cùng tiếng động lách cách phát ra bên trong bạn. Tôi có cảm giác của một bộ đồ du hành vũ trụ.

Tôi có thể đến giết bố tôi. Bây giờ, ngay lúc này, tôi có thể lén trèo lên và ấn một cái gối lên mặt ông. Ông say đến nỗi khó mà chống trả được. Tôi có thể thấy mình đang làm thế. Bộ phim đang chiếu trong đầu tôi, với nhạc nền của Jethro Tull. Một chiếc gối trắng như tuyết và cơ thể tôi đang ấn ông xuống; một sự vẫy vùng trong chớp nhoáng và tiếp đó là trạng thái lịm đi của người bị ngạt thở. Này anh bạn Aqualung, đừng lo lắng như thế.

Hoặc tôi có thể đặt một nụ hôn lên vầng trán lo âu của ông. Ông cũng say đến nỗi chẳng biết gì về việc đó nữa. Tôi có thể trèo lên giường với ông và chìm đắm vào sự ấm áp thơm như xạ, thứ mùi hòa quyện giữa rượu Scotch, mùi hương tỏa ra từ nách và nước hoa British Sterling ấy. Tôi đứng một lát bên giường ông, cân nhắc những khả năng đó.

Cuối cùng, điều tôi làm là bỏ đi. Tôi ra khỏi phòng bố tôi, đi trên hành lang và qua cửa trước để bước ra màn đêm Cleveland lấp lánh ánh sao và ánh đèn đường.

Gia đình Glover sống cách nhà tôi gần một dặm, trong ngôi nhà có những ô cửa sổ hình thoi. Một cây liễu gai trắng kẽo kẹt đu đưa trước hiên nhà, diêm dúa như một chiếc đăng ten bị đóng băng. Tôi đứng giữa những bông diên vỹ, ngắm nhìn ngôi nhà của họ. Đó là đầu tháng Sáu, những bông hoa thì thào quanh đầu gối tôi. Len lén như một tên trộm, tôi ẩn mình trong bóng tối, quan sát nhà họ. Ánh sáng hắt ra từ cửa sổ phòng Jonathan, đó là quầng sáng màu ngà lờ mờ tỏa ra từ chiếc đèn ngủ cổ uốn cong đặt cạnh giường cậu. Cậu đang đọc truyện của John Steinbeck[29]cho giờ học ngày mai, và sau đó sẽ kể cho tôi nghe. Tôi rón rén đi đằng sau một cây dâu. Ánh đèn nhà bếp hắt một hình chữ nhật dài lên thảm cỏ khi cô Alice lau thìa và những cái chén đó. Tôi không thể trông thấy cô nhưng tôi biết những động tác của cô – cô nhanh nhẹn và chắc chắn như bản thân khoa học, dù cô quan tâm đến sự hoàn hảo nhiều hơn là ngăn nắp. Những cái chảo gang luôn bóng loáng, những tờ báo Chủ nhật vẫn yên vị trong phòng khách vào một đêm thứ Tư. Nhà Glover luôn chăm chút cho nhà cửa được tương đối sạch sẽ mà không liên quan mấy đến sự gọn gàng. Mọi thứ luôn được để nguyên.

[29] John Steinbeck (1902-1968): nhà văn người Mỹ đoạt giải Pulitzer năm 1940 với tiểu thuyết Chùm nho phẫn nộ.

Tôi nán lại trong bóng tối khi cô tắt đèn bếp và đi lên gác. Khoảng một giờ nữa hay hơn chú Ned mới về nhà. Tôi len lén đi quanh đúng lúc thấy đèn phòng cô bật lên qua cửa sổ. Tôi ngắm nhìn cửa sổ phòng cô và những cửa sổ khác nữa, những cánh cửa mở vào những căn phòng trống. Đằng sau cặp cửa sổ tối đen là bóng tối lập lòe của phòng ăn, nơi bộ đồ dùng trà bằng bạc đang tỏa ra một thứ ánh sáng lấp lánh đầy lạnh lẽo. Đằng sau ô cửa sổ thứ ba, nhỏ hơn, là phòng giặt đồ, với mùi thuốc tẩy vải đặc trưng của nó. Trên gác, bóng cô Alice thấp thoáng qua ô kính cửa sổ.

Tôi chờ đợi, quan sát, cho đến khi xe của chú Ned đỗ lại. Tôi có thể thấy chú đi từ ga ra đến cửa trước, chiếc áo sơ mi trắng loang loáng ánh đèn pin, những đồng xu kêu leng keng trong túi. Ned vuốt tóc bằng keo Vitalis, mặc quần Sansabelt. Tôi nghe tiếng chú lách cách xoay chìa khóa trong ổ - một sự vừa vặn hoàn hảo. Chú tắt đèn và đi lên gác. Tôi có thể cảm thấy dáng đi của chú. Cô Alice đang đợi chú, tóc cô được buộc cao vống lên. Jonathan vẫn đọc sách trong phòng cậu, miệt mài với câu chuyện mà ngày mai cậu sẽ kể cho tôi.

Tôi ngồi giữa những bụi cây cho đến khi đèn đóm tắt hết, cho đến khi ngôi nhà ngủ yên trong màn đêm. Rồi tôi từ từ đi một vòng quanh nó, với những ngôi sao và những hành tinh đang lung linh tỏa sáng trên đầu. Phía trên cao đó, những định tinh đang sinh ra và va chạm vào nhau, tạo nên những cái hố trong thiên hà, kéo theo ánh sáng của chúng vào thế giới tiếp theo. Còn ở dưới này, trong một đêm trên trái đất râm ran tiếng dế kêu và vo ve tiếng muỗi, tôi đang đi theo một quỹ đạo với tâm là ngôi nhà của gia đình Glover.

ALICE

Bobby đã bỏ được kiểu nói đều đều như máy nhịp và chuyển sang giọng điệu trẻ con du dương. Nó thường lên giọng ở cuối mỗi câu, vì thế mỗi lời nó nói đều nghe như một câu hỏi háo hức, thăm dò. Mái tóc bù xù của nó, sau khi quy thuận cây kéo của thợ cắt tóc, đã biến thành một mái tóc ngắn trông như bị bò liếm. Một lần, khi nó đứng nhe răng cười trước cửa nhà tôi vào buổi trưa, tôi thấy rằng nó đã bôi kem che khuyết điểm màu da lên đám mụn trên mặt.

Tuy nhiên, nó không bao giờ có thể thay đổi hoàn toàn được. Nó vẫn còn một nét gì đó hư hỏng, hơi nguy hiểm – một nét gì đó thèm khát và cảnh giác. Điều đó được thể hiện rõ ở bữa tối, khi nó vét sạch đĩa của nó, và được thể hiện ở sự lễ phép không đổi của nó. Chỉ những kẻ tị nạn mới có thể lịch sự không ngừng từ sáng đến khuya như vậy. Và, thêm nữa, hình ảnh cậu bé Bobby mà nó vẫn đang cố gắng trở thành không bao giờ có thể nhảy múa được như nó.

Nó bắt đầu mang những đĩa nhạc mà nó nghĩ là tôi thích – một thứ âm nhạc du dương, nhẹ nhàng hơn thể loại mà Jonathan ưa chuộng. Thi thoảng, nó gọi với xuống từ trên phòng Jonathan: “Cô Glover? Nếu cô không quá bận thì cô hãy lên đây và nghe thứ gì đó nhé?” Hầu như lần nào tôi cũng đi lên đó. Tôi có thể bận gì được nào, nấu ăn và giặt giũ ư?

Tôi biết được một loạt những cái tên mới: Joni Mitchell[30], Neil Young, Boz Scaggs[31]. Có lúc tôi chỉ ngồi nghe nhạc suông với hai đứa. Có lúc, khi một bài hát sôi động cất lên, tôi nhận lời mời khiêu vũ của Bobby.

[30] Joni Mitchell (sinh ngày 7 tháng 11 năm 1943): nữ ca sĩ, nhạc sĩ người Canada.

[31] Boz Scaggs (sinh ngày 8 tháng 6 năm 1944): ca sĩ, nhạc sĩ, tay guitar người Mỹ nổi tiếng trong thập niên 70.

Vũ đạo của nó quả là tuyệt vời. Cảm nhận về nhịp điệu của nó không thể nào bắt nguồn từ những mái đua đá hoa cương và những hàng rào cây hoàng dương ở Cleveland được. Khi khiêu vũ, nó quả thực là một người độc đáo – hông nó lắc lư với vẻ tự tin khêu gợi mang nét duyên dáng hơn là gợi tình, và tay chân nó thực hiện những động tác nhanh nhẹn, đáng ngạc nhiên qua cái không gian chật hẹp trong phòng con trai tôi. Khi bài hát kết thúc, nó cười và nhún vai, như thể khiêu vũ là một lời pha trò nhạt nhẽo đáng xấu hổ. Nó đã quay trở lại, một cách rõ rệt, với hình ảnh quen thuộc mà nó vẫn đang cố gắng tạo ra. Đó là hình ảnh những cậu bé ngoại ô xanh xao thường được các bà mẹ ưa thích.

Đôi khi Jonathan miễn cưỡng nhảy cùng chúng tôi, đôi khi nó hờn dỗi ngồi thu lu một chỗ, áp đầu gối vào ngực. Tôi không phải kẻ ngốc – tôi biết không một cậu bé mười lăm tuổi nào lại muốn mẹ mình tham gia vào cuộc sống bên ngoài xã hội của nó. Nhưng Bobby quá kiên quyết. Hơn nữa, Jonathan và tôi đã luôn là bạn tốt của nhau, bất chấp mối quan hệ máu mủ của chúng tôi. Tôi cho rằng việc mình chấp nhận chút năng khiếu của Bobby về âm nhạc và khiêu vũ chẳng có gì là tai hại cả. Bản thân tôi cũng từng hơi phóng túng ở độ tuổi của Jonathan, cách đây không lâu lắm.

Jonathan đã nuôi tóc dài gần đến vai, chẳng đếm xỉa gì đến quy định về cách ăn mặc ở trường. Nó khâu những miếng vá sáng màu lên quần jean và nhất định mặc chiếc áo khoác da cũ của Bobby, ngay cả khi phần khuỷu tay đã bị rách. Lúc ở nhà, nó thường im lặng. Đôi khi sự im lặng của nó là do hờn dỗi, đôi khi chỉ đơn giản là nó không có gì để nói. Dù đã rất cố gắng, nhưng Jonathan không thể biến mình thành một kẻ xa lạ đối với tôi. Tôi hiểu nó quá rõ. Nó khiêu vũ lóng ngóng và vụng về hệt như bố nó vậy, và cái tính cáu kỉnh xấc xược mà nó nhiễm phải cũng chỉ là hời hợt mà thôi. Khi không để ý, nó sẽ tự động rơi vào sự phục tùng mà không hề định thế. Nó sẽ cười trước khi nó nhớ ra là mình phải cau có.

Một đêm tháng Giêng, Bobby gọi tôi lên để nghe đĩa nhạc mới của Van Morrison. Tôi ngồi trên sàn với bọn trẻ, gật gù theo điệu nhạc. Bobby ngồi khoanh chân và thẳng lưng ngay bên trái tôi, như một tín đồ Yoga đang ngồi thiền. Jonathan ngồi xa hơn, khom mình hờn dỗi, đôi vai so lại phía trên đầu gối.

“Hay đấy,” tôi nói. “Cô thích anh chàng Van Morrison[32] này.”

“Van the Man[33]?” Bobby nhe răng cười. Đôi khi những lời nói của nó vẫn còn khó hiểu, dù nó chú ý kĩ lưỡng đến đâu. Tôi thường chỉ cười và gật đầu, như cách tôi sẽ làm với một người nước ngoài nói thứ tiếng Anh tuy quen thuộc nhưng rất khó nghe.

Có những lúc, ngay cả khi nó ăn nói ấp a ấp úng, tôi vẫn hiểu được Bobby. Nó là một người nước ngoài đang nỗ lực để được đồng hóa. Chẳng phải chính tôi đã bị đưa đến một nơi lạnh lẽo, nơi mà hầu hết phụ nữ ở tuổi tôi và có hoàn cảnh như tôi đều thừa cân và không được học hành đến nơi đến chốn sao? Nhiều năm trước, khi tôi vẫn còn đang cố gắng hòa nhập, những người phụ nữ ở PTA[34] và hội nhà thờ đã tặng tôi công thức làm món kem từ bánh pudding và những thanh kẹo, món xúc xích Đức nhúng trong mù tạc và mứt nho. Tôi không thể bực mình với Bobby vì những khó khăn mà nó gặp phải khi cố gắng tuân theo những lề thói của địa phương.

[32] Van Morrison (sinh ngày 31 tháng 8 năm 1945): ca sĩ, nhạc sĩ người Bắc Ireland, nổi tiếng với sự bướng bỉnh và phong cách độc đáo.

[33] Van the Man: biệt danh mà các fan dùng để gọi Van Morrison.

[34] PTA: Hội Phụ huynh học sinh.

“Van cũng khá đấy,” Jonathan nói. “Nếu mẹ thích thể loại này.”

“Anh ta thuộc thể loại gì?” Tôi hỏi.

“Ồ, nhẹ nhàng, mơ mộng. Một gã đàn ông tốt hát về tình yêu dành cho một phụ nữ ngoan.”

“Mình không biết, Jon,” Bobby nói. “Anh ta, cậu biết đấy, khá hơn thế chứ?”

“Anh ta cũng được,” Jonathan nói. “Chỉ hơi ẻo lả một chút thôi. Mẹ, mẹ có muốn con mở cho mẹ nghe thứ âm nhạc thực thụ không?”

“Loại này có vẻ đủ thực thụ rồi đấy chứ,” tôi nói.

Jonathan nhìn Bobby, nụ cười của Bobby đã trở nên lo lắng và gượng gạo. “Đó là điều mẹ nghĩ thôi,” Jonathan nói. Nó nhổm dậy và gạt kim khỏi đĩa hát khi bài hát còn chưa kết thúc. Nó lôi một cái đĩa khác ra khỏi bộ sưu tập được cất trong một loạt những cái thùng gỗ màu cam xếp thành hàng kê sát tường.

“Đây là Jimi Hendrix,” nó tuyên bố. “Tay guitar đã khuất vĩ đại nhất thế giới.”

“Jon,” Bobby nói.

“Mẹ sẽ thích loại nhạc này, mẹ ạ. Thật đấy. Con sẽ chỉnh âm lượng lên một chút, vì mẹ cần phải mở nhạc khá to khi nghe Jimi.”

“Jon,” Bobby nói. “Mình không biết liệu…”

Jonathan đặt kim vào mặt đĩa hát, và căn phòng vỡ òa trong tiếng guitar điện tử. Chúng ré lên inh ỏi như những con thú bị tra tấn. Một chuỗi bass thình lình vang lên, ồn ĩ và dai dẳng đến mức tôi cảm thấy gai gai nơi xương sống. Tôi có cảm giác tóc mình đang bị rối tung.

“Hay không ạ?” Jonathan hét lên. “Jimi là tuyệt nhất.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
597,378
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 1-11


Mắt chúng tôi giao nhau qua cơn bão âm thanh. Khuôn mặt Jonathan đỏ bừng, và mắt nó sáng rực. Tôi biết nó muốn gì. Nó muốn tống tôi ra khỏi phòng, hất tôi lộn nhào xuống vị trí quen thuộc của đống đĩa bẩn và công việc hút bụi. Trong đĩa nhạc, một giọng nam đang hát: “Em biết không, em là một sát thủ trái tim bé nhỏ dễ thương.”

“Người tuyệt nhất,” Jonathan hét lên. “Hay hơn Van the Man nhiều.”

Tôi đi tới một quyết định. Tôi đứng lên và nói: “Bobby, nhảy nào.”

Nó hưởng ứng ngay lập tức. Chúng tôi cùng nhảy trong thứ âm nhạc hỗn loạn. Loại nhạc này cũng không đến nỗi quá tệ, chừng nào bạn còn chuyển động. Nó tạo cho bạn cảm giác nhẹ bẫng, nghiêng ngả, như một con chim sẻ bị mắc vào luồng gió xoáy – một cảm giác giống như vừa bị tấn công vừa được phóng thích. Bạn có thể hét lên trước thứ âm nhạc này. Nó gần như còn nâng cả tay bạn lên.

Khẽ liếc sang bên, tôi nhận thấy Jonathan đang thất vọng. Mẹ nó đã không thu mình lại trước thứ âm nhạc dữ dội này của nó. Một lần nữa, tôi có thể nhận thấy đứa trẻ đang ẩn mình trong một người đàn ông đang lớn – vẻ mặt nó khi đó gợi cho tôi nhớ đến những lúc nước cờ của nó không hiệu quả, hay những khi không ai bị nó lừa trong ngày Cá tháng Tư. Nếu nó cho phép, tôi đã giơ tay ra véo má nó.

Chẳng mấy chốc, nó cũng bắt đầu nhảy. Nó còn có thể làm gì khác cơ chứ? Khi ba người chúng tôi lắc lư theo điệu nhạc, căn phòng nhỏ đó có vẻ chật kín người như quảng trường Thời đại, mỗi phân mỗi tấc đều đong đầy sức nặng của khoảnh khắc này. Jimi Hendrix đang gào thét bài Joxy girl, và tôi ngạc nhiên khi thấy rằng đó là một tên gọi thích hợp với mình. Một người phụ nữ lớn tuổi thông minh không dễ dàng sợ hãi. Người sẽ không rút về với những công việc nội trợ của mình để rồi bắt đầu béo lên.

Sau đó, tôi vào phòng nó thường xuyên hơn. Tôi không còn chờ được mời như mọi khi nữa. Có vẻ chúng tôi đã bỏ qua điều đó. Mỗi khi có việc lên gác, tôi thường gõ cửa phòng nó và ghé vào nghe một, hai bài hát. Tôi không bao giờ nán lại đó quá lâu.

Một đêm, khi tôi gõ cửa, tôi phát hiện có tiếng xê dịch ở bên trong. Không đứa nào đáp lại tiếng gõ cửa của tôi. Tôi nghĩ mình có thể nghe thấy chúng thì thào gì đó với nhau. Rồi Jonathan nói: “Mẹ vào đi.”

Ngay khi bước vào tôi đã ngửi thấy mùi khói thuốc nồng nặc ngòn ngọt ấy. Căn phòng phảng phất màu xanh. Bobby đứng sững như trời trồng, còn Jonathan ngồi ở chỗ quen thuộc cạnh lò sưởi. Bobby nói: “Ừm, cô Glover?”

Jonathan nói với giọng bình thản, gần như ngọt ngào: “Mẹ vào đi. Mẹ hút một hơi nhé.”

Nó chìa ra một điếu thuốc tự cuốn đang âm ỉ cháy về phía tôi.

Tôi tần ngần ở cửa. Trong một lúc lâu, tôi chẳng còn biết mình là ai nữa, chỉ ngơ ngẩn, bần thần, dửng dưng đứng nhìn khi đứa con trai của mình chìa ra một điếu thuốc cuốn dơ dáy. Tàn thuốc ánh lên màu cam trong quầng sáng lờ mờ của ngọn đèn bàn hình quả bóng chày mà tôi mua cho nó khi nó lên bảy.

Tôi biết tôi cần phải làm gì. Tôi cần phải thể hiện sự kinh ngạc và giận dữ hay ít nhất là nói nhẹ nhàng nhưng kiên quyết về những giới hạn chịu đựng của tôi cho nó nghe. Dù gì đi nữa, đó cũng sẽ là kết thúc cho mối quan hệ thân thiết của chúng tôi – những cuộc khiêu vũ ngẫu hứng – và mở ra một thời kì đúng lề thói và nghiêm khắc hơn.

Khi sự im lặng đã vươn đến đỉnh điểm, Jonathan lặp lại lời mời. “Mẹ thử đi,” nó nói. “Mẹ đâu còn cách nào để biết được là mẹ đang thiếu thứ gì nữa?”

“Bố con sẽ lên cơn đau tim mất,” giọng tôi đều đều.

“Bố không có nhà mà,” Jonathan nói.

“Cô Glover?” Bobby bất lực nói.

Chính giọng của nó đã quyết định hộ tôi – cái vẻ sợ sệt khi nó gọi họ của chồng tôi ra ấy.

“Mẹ cho rằng nó đúng đấy,” tôi nói. “Mẹ đâu còn cách nào để biết là mẹ đang thiếu thứ gì.”

Tôi bước ba bước vào phòng và nhận lấy điếu thuốc nho nhỏ dơ bẩn nó.

“Mẹ cừ lắm,” Jonathan nói. Giọng nó nghe hớn hở và khó hiểu.

“Hút như thế nào nhỉ?” Tôi hỏi. “Con biết đấy, đến loại thuốc bình thường mẹ còn chưa từng hút nữa là.”

Bobby nói: “Ờ, cô hãy rít khói, ờ, vào thẳng phổi cô. Và giữ nó lâu hết mức có thể[35]?”

[35] Để biểu thị lối nói thường lên giọng ở cuối câu của Bobby, tác giả đã dùng dấu hỏi chấm cuối các câu nói của cậu.

Khi đưa điếu thuốc lên môi, tôi ý thức được rằng tôi đang đứng trong phòng con trai tôi, mặc váy quây và chiếc áo cánh màu xanh nhạt, chuẩn bị thực hiện hành động bất hợp pháp lộ liễu đầu tiên của cuộc đời. Tôi rít một hơi. Khói thuốc chát và đắng đến nỗi tôi gần như ngạt thở. Tôi giàn giụa nước mắt và không thể giữ khói lại trong phổi như Bobby đã bảo. Tôi lập tức phả vào một bụm khói dày, nó lơ lửng trên không, hỗn loạn, trong vòng đúng một giây trước khi tan đi.

Tuy nhiên, bọn trẻ vẫn reo lên. Tôi đưa điếu thuốc cho Bobby.

“Cô đã làm được,” nó nói. “Cô đã làm được.”

“Giờ cô có thể nói là cô đã sống hết mình,” tôi đáp. Giọng tôi nghe như bị vỡ ra và méo đi.

Bobby rít nhanh một hơi với vẻ dễ dàng, tay bấu vào điếu thuốc bằng ngón cái và ngón trỏ. Tàn thuốc rực lên. Khi nó nhả khói, chỉ một cuộn khói mỏng mờ mờ thoát ra ngoài không khí.

“Cô thấy không?” Nó nói. “Cô phải, ờ, giữ nó lâu hơn một chút?”

Nó đưa lại điếu thuốc cho tôi. “Làm lại à?” Tôi hỏi.

Nó nhún vai, nhe răng cười, vẻ hoang mang, lúng túng. “Vâng, mẹ ạ,” Jonathan nói. “Mẹ hút cả điếu cần sa này đi. Một hơi chẳng có mấy tác dụng đâu.”

Cần sa. Nó được gọi là cần sa, chứ không phải thuốc lá.

“Vậy thì, thêm một hơi nữa,” tôi nói. Tôi thử lại, và lần này cố giữ khói trong một, hai khoảnh khắc. Một lần nữa, tôi phả ra một đám khói hỗn loạn, rất khác so với vệt khói trắng đục thanh lịch của Bobby.

Tôi trả lại điếu cần sa cho Bobby. Jonathan nói: “Mẹ, con cũng ở đây mà.”

“Ôi, mẹ xin lỗi.” Tôi chuyển sang đưa cho nó. Nó vội vàng chộp lấy, như khi nó nhận những món đồ nho nhỏ mà tôi mang về nhà từ những lần đi mua sắm.

“Thực sự thì thứ này sẽ có tác dụng ra sao?” Tôi hỏi. “Mẹ nên chuẩn bị gì cho mình?”

“Nó sẽ khiến cô cười,” Bobby nói. “Nó sẽ, cô biết đấy, khiến cô thấy vui và hơi khùng khùng một chút?”

“Không có gì ghê gớm đâu mẹ,” Jonathan nói. “Những miếng sườn cừu sẽ không đột nhiên nói chuyện với mẹ đâu, hay bất cứ điều gì đại loại như thế.” Nó rít một hơi, với vẻ nhanh gọn thành thạo và chuyển điếu cần sa cho Bobby. Khi Bobby trao lại cho tôi, tôi lắc đầu.

“Cô nghĩ thế là đủ rồi,” tôi nói. “Hãy giúp cô một việc đi.”

“Vâng?” Bobby nói.

“Hãy mở cho cô nghe một bài hát của Laura Nyro, rồi cô sẽ đi làm việc của mình.”

“Vâng,” nó nói.

Nó cho đĩa vào, và ba người chúng tôi đứng đó lắng nghe. Tôi chờ đợi bất cứ cảm giác nào ập đến. Lúc bài hát đã hết, tôi nhận ra rằng cần sa chẳng có chút tác dụng nào, ngoài việc gây ra một sự ngứa ngáy khô rát nơi cổ họng. Tôi vừa nhẹ nhõm vừa thất vọng.

“Được rồi,” tôi nói. “Cảm ơn lòng mến khách của các con.”

“Lúc nào mẹ cũng được chào đón, mẹ ạ,” Jonathan nói. Tôi không thể hiểu được giọng nó. Có thể nó đang chế nhạo, vênh váo, hoặc chỉ đơn giản là thân thiện.

“Đừng nói gì với bố con đấy,” tôi nói. “Con hứa đi! Con thề đi!” Trong một thoáng, tôi nghĩ rằng cuối cùng cần sa đã tác động đến tôi. Nhưng thực chất đó chỉ là nỗi xấu hổ từ mặc cảm tội lỗi của tôi mà thôi.

“Con hứa,” nó nói. “Con thề.”

Bobby nói: “Cô Glover? Tuyệt thật. Cô thật là… Cháu không biết nói thế nào nữa. Thực sự rất tuyệt. Chà!”

“Ôi, hãy gọi cô là Alice, vì Chúa,” tôi bảo nó. Và rồi tôi để chúng lại một mình.

Khoảng một tuần sau, tôi lại thử ma túy (nó được gọi là ma túy, không chỉ là cần sa), và thấy rằng nếu bạn tiếp tục dùng nó, nó sẽ thực sự có tác dụng. Nó sẽ khiến bạn thấy quay cuồng và lãng đãng một cách thú vị. Nó sẽ làm giảm đi sức chú ý ở bạn.

Vào một chiều thứ Tư của tháng Hai, khi sự yên tĩnh trong trẻo giá lạnh bao phủ khắp nơi, tôi ngồi hút chung một điếu cần sa với Jonathan và Bobby. Nó là điếu thứ tư trong đời tôi, và khi đó tôi đã khá thành thạo. Tôi giữ khói lại, cảm thấy sức nặng và hơi ấm của thảo mộc trong phổi tôi. Trên giàn âm thanh, Bob Dylan đang hát bài Girl from the North country. Bóng đèn đang được thắp sáng trong ánh chiều nhập nhoạng, và những bức tường ốp ván mang màu mật ong sẫm.

“Các con biết đấy,” tôi nói, “thứ này nên được hợp pháp hóa. Nó chỉ ngọt vô cùng và chẳng hại gì, đúng không?”

“Vâng,” Jonathan nói.

“Chà, nó nên được hợp pháp hóa,” tôi nói. “Nếu Tổng thống Nixon hút thứ này một chút thôi, thì thế giới sẽ trở nên tốt đẹp hơn.”

Bobby cười và rồi nhìn tôi e dè, để chắc rằng tôi vừa có ý đùa cợt. Vẻ mặt nó cứ tần ngà tần ngần – nó cứ luôn băn khoăn đến từng chi tiết trước những phép xã giao đơn giản nhất – đến mức làm tôi bật cười. Tiếng cười của tôi khuyến khích thêm tiếng cười của nó, và Jonathan cũng hùa theo. Nó bật cười trước những chuyện buồn cười riêng của nó. Đây là một trong những đặc trưng thú vị nhất của loại thảo mộc này: dưới sức ảnh hưởng của nó, bạn có thể bật cười trước bất cứ điều gì dù là nhỏ nhặt nhất, và một khi bạn đã cười, chỉ cần đưa mắt nhìn quanh bạn cũng sẽ không thể dừng lại được. Mọi thứ đều có vẻ kì cục và buồn cười: một cái lư hương hình Đức Phật được đặt cạnh một cô gái lắc vòng chạy bằng dây cót trên mặt bàn của Jonathan, hay vẻ thuần hóa, trung thành của đôi giày da lộn màu nâu vàng của Bobby.

Đôi khi trong những ngày này, tôi nghĩ về Wendy trong truyện Peter Pan – “bà mẹ” đơn độc của một đám trẻ mồ côi. Tôi không tự biến mình thành một kẻ ngớ ngẩn. Tôi không mua những cái váy lòe loẹt, đồ trang sức Ấn Độ hay những đôi xăng đan Mexico. Tôi không để tóc dài xõa sượi. Nhưng giờ đây tôi có một cảm giác khác lạ. Tôi có một bí mật mới, một bí mật hay ho hơn. Trước đây, bí mật duy nhất của tôi là việc tôi sợ tình dục và tôi không hề có hứng thú muốn làm quen với những người hàng xóm. Tôi cảm thấy mình yếu đuối và mỏng manh đến độ lu mờ, một nhân vật không có thực, luôn bị đau đầu khi trời lạnh và nhiễm bệnh xoang khi trời nóng. Nhưng điều bí mật mới mẻ này thật hay ho, thú vị - tôi sẽ gây ra tai tiếng trong khu này nếu người ta phát hiện ra nó. Bí mật đó kích thích tôi khi tôi đi dọc các dãy hàng ở siêu thị. Tôi là một bà mẹ đang cùng phê với con trai mình. Những phụ nữ địa phương – những con người đẫy đà đang chất đầy kẹo dẻo và kem cùng những súc thịt hộp hồng tươi và những gói ngũ cốc có đường lên xe đẩy chở hàng của họ - sẽ coi tôi là một kẻ thiếu tư cách, chướng tai gai mắt và suy đồi. Tôi thấy mình trẻ trung, thon tôi hả, và có nguy cơ lầm đường lạc lối. Sẽ có một cuộc sống khác sau Cleveland.

Và có lẽ điều hay ho nhất mà tôi đã nhận ra là khi tôi phê, tôi có thể xoay xở mọi thứ với Ned. Ma túy thả lỏng cơ thể tôi, vì thế nếu anh ép miệng anh vào miệng thay vuốt ve tôi thật mạnh mẽ, tôi có thể hưởng ứng theo trong một trạng thái dịu dàng, uể oải, hoàn toàn không giống với những gì tôi đã làm khi bị kích thích. Trước đây, tình dục luôn tạo ra một sự thít chặt nôn nao bên trong tôi, nhanh chóng chuyển từ cảm giác thú vị sang hốt hoảng và từ hốt hoảng sang đau đớn, vì thế khi Ned đang mồ hôi mồ kê nhễ nhại đi đến kết thúc, tôi cứ nằm bồn chồn và cáu kỉnh bên dưới anh, thầm nhỉ: “Xong đi, xong đi, xong đi.” Nhưng giờ đây, tôi có thể đáp ứng được anh với một tâm trạng thoải mái hơn. Không hoàn toàn dễ chịu nhưng cũng không đau đớn. Một cảm giác nhồn nhột khiến tôi hơi buồn cười. Ma túy làm cho tình dục trở nên dễ dàng hơn; nó đã biến việc đó từ một nghĩa vụ đao to búa lớn thành một hài kịch ngắm tầm thường khá ngọt ngào, hài hước. Đây là Ned, chỉ là Ned, đang gấp gáp và rên rỉ, một cậu bé đã trở thành một người to lớn và vụng về. Đây là Ned và đây là tôi, một phụ nữ có thể gây ngạc nhiên cho chính bản thân mình.

Chuyện đó kéo dài đến tận mùa xuân. Trong cuộc đời mới của tôi, tôi thật bướng bỉnh và dị giáo, phóng khoáng và cởi mở về tình dục – tôi là mẫu người mà tôi muốn trở thành. Mẫu người đó tồn tại qua mùa tuyết tan và mùa cây cối đâm chồi nảy lộc cho đến tận tháng Tư, khi cây lê ở sân sau nở hoa trắng xóa. Vào đêm thứ Bảy trước lễ Phục sinh, sau khi đã làm xong món giăm bông, tôi bước ra ngắm cây lê đó. Đã gần nửa đêm, và chỉ có một mình tôi trong nhà. Ned đã tăng thêm một suất chiếu muộn vào thứ Sáu và thứ Bảy để cạnh tranh với những tổ hợp rạp chiếu phim sắp khai trương ở các trung tâm thương mại. Còn Bobby và Jonathan đã đi chơi đâu đó.

Tôi mặc chiếc áo khoác len cũ của Ned bên ngoài áo len của tôi. Không khí thoảng mùi đất nồng ẩm ướt. Cây lê lộng lẫy và nổi bật đứng giữa cái sân nhỏ của chúng tôi như một cái váy cưới, những chùm hoa của nó ánh lên một thứ ánh sáng trắng mờ nhạt. Tôi đứng một lúc trên bậc thềm trước cửa phòng bếp. Đó là một đêm không trăng, bầu trời trong đến mức dải Ngân Hà nổi hẳn lên giữa hằng hà sa số những vì sao. Đêm đó, ngay cả cái sân sau khiêm tốn của chúng tôi trông cũng thích hợp với những khả năng mới. Nếu tương lai là một quốc gia, thì đây sẽ là lá cờ của nó: một cái cây đang trổ hoa trên một cánh đồng sao.

Tôi bước xuống thảm cỏ, dù đôi giày của tôi quá mỏng trong thời tiết như thế. Tôi muốn cảm thấy tiếng lạo xạo băng giá của đám cỏ bên dưới chân mình. Tôi thơ thẩn bên dưới những nhánh cây, đi qua những luống uất kim hương sắp nhú. Bao giờ cây lê rụng hết hoa, những bông tử đinh hương sẽ đua nhau nở. Một ngày nào đó, chúng tôi sẽ sống trong một ngôi nhà nhìn ra mặt nước. Tôi miết tay trên lớp vỏ sần sùi của một cành cây thấp, lay lay vài bông hoa lỏng lẻo để chúng rụng xuống tóc tôi.

Tôi ra đó được một lúc thì phát hiện thấy bọn trẻ đang ngồi trong xe ô tô. Chiếc xe đỗ ở lối đi trải sỏi giữa ga ra và ngôi nhà, bị mái đua bằng nhôm che khuất, trong một khoảng tối quá dày đặc đến nỗi tôi sẽ không thể nhìn thấy chúng nếu như tôi không đứng đúng vị trí đó. Đầu chúng thấp thoáng in bóng trên kính xe.

Tôi thấy sự có mặt của chúng thật kì quặc nhưng cũng thật tuyệt diệu. Có lẽ chúng đang chơi trò vòng quanh đất nước. Tôi đang quá đắm chìm vào vẻ đẹp của màn đêm đến nỗi chẳng buồn thắc mắc. Việc tôi trông thấy chúng có vẻ chỉ đơn giản là một điều may. Chúng tôi có thể cùng nhau hút một điếu cần sa và lắc cho những bông hoa lê rơi xuống đất. Tôi xăm xăm bước tới chỗ chiếc xe. Khi tới gần hơn, tôi có thể nghe tiếng nhạc rock phát ra từ chiếc radio. Derek and the Dominos, tôi nghĩ vậy. Tôi nhảy đến bên cửa lái, mở nó ra, và nói: “Xin chào, tôi có thể đi nhờ một đoạn không?”

Chúng tôi, cả ba người, trải qua một sự im lặng sửng sốt lấp đầy bởi tiếng guitar xoang xoảng. Mùi khói ngòn ngọt bay ra khỏi xe. Jonathan ngồi ở ghế lái. Tôi trông thấy dương v*t của nó, nhờn nhợt và dựng đứng trong ánh sao.

“Ôi,” tôi thốt lên. Và chỉ có thế.

Mắt nó dường như lồi hẳn ra, như thể bị ấn từ đằng sau. Ngay cả lúc đó, tôi vẫn có thể nhớ rõ nó mang vẻ mặt hệt như hồi mới lên hai, khi không được tôi mua cho túi kẹo mào hồng nhạt trong một dãy hàng ở siêu thị.

“Mẹ đi đi,” nó nói với giọng kiềm chế sự run rẩy, xuyên qua tiếng nhạc như một sợi dây xuyên qua sương mù. Đó hoàn toàn là giọng của người lớn. “Sao mẹ dám?”

“Jon?” Bobby nói. Nó kéo quần lên, nhưng trước đó tôi cũng đã kịp thấy dương v*t của nó, lớn hơn và sẫm hơn của Jonathan.

Jonathan chẳng hề để ý gì đến tiếng gọi của Bobby. “Mẹ đi di,” nó nói. “Mẹ có nghe thấy không? Mẹ có hiểu không?”

Tôi quá sửng sốt đến nỗi không thể nói lại được câu gì. Tôi chỉ đơn giản đóng cửa xe, và quay trở vào nhà. Trong nhà thật sáng sủa và ấm áp. Tôi đứng ở hành lang, thở dốc. Tôi nhìn căn phòng khách trống trải với sự rõ ràng tuyệt đối: những cuốn tạp chí vẫn đang để mở trên bàn uống cà phê, một cái gối dựa trên ghế vẫn còn mang vết lõm mà khuỷu tay ai đó đã chống lên. Một con ruồi đang bò nửa vòn quanh chiếc bình màu ngọc bích của bà tôi.

Tôi lên gác và xả nước nóng vào bồn tắm. Đó là điều duy nhất tôi có thể nghĩ ra để làm. Khi nằm ngâm mình trong nước, tôi cảm thấy nhẹ nhõm. Điều này quả là thực và rõ ràng – nước hơi nóng quá. Chân tôi nhoi nhói như thể bị kim châm. Đùi, mông và phần kín của tôi bỏng rát, nhưng tôi vẫn giữ nguyên tư thế. Tôi không nhổm dậy khỏi bồn nước đang bốc hơi đó.

Đó hoàn toàn không phải là một điều ngạc nhiên. Về Jonathan. Chắc hẳn tôi đã biết. Nhưng tôi chưa bao giờ chú ý nghĩ rằng: “Con trai mình sẽ không lập gia đình.” Tôi chỉ nghĩ là: “Con trai mình dịu dàng hơn, tốt bụng hơn, dễ có những cảm xúc mạnh mẽ hơn những thằng bé khác.” Đó là một vài đức tính tốt của nó. Tôi biết sự chua chát và bần tiện của nhưng cậu con trai bị lạc giới. Tôi dìm mình sâu hơn xuống làn nước trong bồn tắm, để nước nóng bao lấy vai tôi và làm bỏng rát cằm tôi. Khi nó bắt đầu nguội, tôi lại xả thêm nước nóng.

Sao tôi lại không nhận ra những dấu hiệu đó? Jonathan và Bobby đã mười lăm tuổi, thế mà chúng chưa bao giờ nói chuyện về bọn con gái. Chúng không dính tấm ảnh khỏa thân vẽ bằng màu phun nào lên tường. Đáng lẽ tôi phải nghi ngờ, nhưng tôi chưa bao giờ mảy may nghĩ đến mối quan hệ xác thịt trong tình yêu giữa chúng. Trong tâm trí tôi, Jonathan vẫn mãi là một đứa trẻ nhỏ, một đứa bé ngây thơ. Tôi không thể quen được hình ảnh cái dương v*t nhỏ bé đang dựng đứng của nó và cái dương v*t lớn hơn của Bobby, được màn đêm che giấu đi.

Tôi đã góp phần vào chuyện này như thế nào? Tôi biết quá nhiều về tâm lý, nhưng có những chuyện tôi lại gần như chẳng biết tí gì. Phải chăng tôi là kiểu người mẹ đã khiến con trai mình tránh xa đàn bà? Phải chăng tôi đã nữ hóa nó khi cứ ngoan cố đòi làm bạn với nó?

Jonathan mãi mới vào nhà, sau khi Ned đã về và đi ngủ. Tôi nghĩ có thể nó sẽ gõ cửa phòng tôi, nhưng dĩ nhiên là nó không thể làm thế, vì còn có mặt bố nó. Nó đi về phòng, gây ra tiếng bình bịch quen thuộc trên thảm trải hành lang. Tôi muốn đến vỗ về nó, bảo nó là không sao cả. Tôi muốn đến rứt tóc nó thật mạnh đến mức bật máu.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
597,378
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 1-12


Lễ Phục sinh, chúng tôi máy móc trải qua ngày hôm đó. Ned, Bobby và Jonathan nhào tới những giỏ quà của họ, thốt lên trước những chiến lợi phẩm nho nhỏ, nhét đầy mồm những viên kẹo hạt đậu và kẹo dẻo hình con gà. Jonathan khoái trá cắn đôi tai của một con thỏ sô-cô-la khiến tôi bất giác rùng mình. Ned tặng tôi một chậu cây phi yến mà tôi rất thích và một cái khăn lụa thêu hoa sặc sỡ được những bà lão nặng tai ưa chuộng khi họ ra ngoài ăn trưa.
Có lẽ Ned đã thấy vẻ chưng hửng trên khuôn mặt tôi khi tôi lôi cái khăn “bà già” lòe loẹt đó ra khỏi lớp giấy gói. Anh dịu dàng nói: “Anh có biết gì về khăn khiếc đâu. Anh đã mua nó ở cửa hàng Herman Brothers đấy, em có thể trả lại nó và đổi lấy thứ gì đó khác.”
Tôi hôn anh. “Không cần đâu,” tôi nói. “Chiếc khăn đáng yêu lắm.”
Tôi không thể ngừng nghĩ rằng nếu là Jonathan thì nó sẽ biết mua cho tôi chiếc khăn như thế nào.
Chúng tôi ăn bữa tối tự tay tôi nấu và nói chuyện phiếm. Sau khi ăn xong, Ned đến rạp chiếu phim. Trên đường ra cửa, Jonathan nói với anh: “Bọn con đến suất chiếu lúc tám giờ bố nhé!”
“Dĩ nhiên rồi,” anh đáp và nháy mắt. Sau khi anh đi, bọn trẻ đi rửa bát đĩa. Tôi định giúp chúng, nhưng Jonathan đã xua tôi ra khỏi bếp. Từ phòng khách, nơi tôi xem qua loa một cuốn tạp chí, tôi có thể nghe tiếng hai đứa thì thào nói chuyện. Thi thoảng, chúng cười phá lên.
Rửa bát đĩa xong, chúng lên phòng của Jonathan ở trên gác. “Bữa tối ngon lắm mẹ ạ,” Jonathan nói khi hai đứa đi qua phòng khách. Bobby nói thêm: “Chà! Nó là, ờ, bữa tối tuyệt nhất đấy ạ?”
Chúng không mời tôi lên. Chúng không bật nhạc. Một tiếng sau, chúng trở xuống, trên người đã mặc áo khoác. Chúng ra khỏi cửa gần như ngay lập tức.
“Chào mẹ,” Jonathan nói với lại từ thảm cỏ.
“Chào cô Glover!” Bobby thêm vào.
Tôi đứng dõi theo chúng đi trên phố một lúc, tay chúng nhét trong túi áo khoác. Dáng đi của Bobby uyển chuyển và vững vàng, còn dáng đi của Jonathan thì hơi khệnh khạng, theo kiểu những cậu thanh niên cố tạo ra dáng vẻ nghênh ngang để tỏ ra tự tin. Đằng sau tôi, ngôi nhà thật vắng lặng, bát đĩa đã khô và được cất đi.
Tôi chờ đợi để có cơ hội trò chuyện riêng cùng Jonathan. Đó là gần một tuần sau. Cuối cùng nó cũng trở về từ những chuyến đi dạo ban đêm mà không có Bobby đi kèm, và tôi bắt gặp nó trên đường nó đi lên gác. Chỉ có nó mới tạo ra tiếng ồn như thế với đôi giày đó.
“Jonathan?” Tôi gọi. “Mẹ nói chuyện với con một chút được không?”
“Vâng.” Nó dừng lại ở lưng chừng cầu thang và dựa vào lan can như một tay cao bồi đang áp bụng vào quầy bar. Tóc nó rủ xuống, lòa xòa trên mặt.
“Con xuống dưới đi,” tôi nói. “Mẹ thực sự không muốn diễn một cảnh ở ban công đâu.”
“Vâng,” nó tỏ vẻ hào hứng. Nó lẽo đẽo theo tôi vào phòng khách và ngồi xuống cùng tôi.
“Ừm,” tôi nói. Tôi không biết phải mở đầu một cuộc trò chuyện khó khăn với nó như thế nào. Từ trước đến giờ tôi vẫn luôn nói chuyện với nó dễ dàng như thể tôi đang nói chuyện với chính mình vậy.
“Sao ạ?” Nó hỏi.
“Jonathan, con yêu, mẹ biết con rất quan tâm đến Bobby.” Sai rồi. Giọng điệu đó thật là khô han, hống hách. Tôi cố cười nhưng tiếng cười của tôi thật nhạt nhẽo, vọng lại tai tôi như tiếng chuột kêu. “Quan tâm rất nhiều,” tôi nói thêm.
Lại sai nữa rồi. Lúc này giọng điệu của tôi lại quá hiểu biết, quá khơi gợi. Tôi vẫn là mẹ nó cơ mà.
Nó gật đầu, nhìn tôi với một khuôn mặt bình thản, vô cảm.
“Ừm, con yêu,” tôi nói, “thực ra thì mẹ vẫn đang băn khoăn rằng, liệu con có nên dính với Bobby quá nhiều như thế hay không. Con không nghĩ là mình cần có thêm những người bạn khác nữa à?”
“Không,” nó nói.
Tôi lại cười, lần này thành công hơn. “Ít nhất thì con cũng sẵn sàng nói chuyện về vấn đề này,” tôi nói.
Nó nhún vai và quấn một lọn tóc quanh ngón tay.
“Mẹ nhớ hồi mẹ bằng tuổi con, bọn mẹ vẫn thường đi chơi thành một nhóm đông,” tôi nói. “Bọn mẹ ít nhiều đều yêu quý nhau, và nhóm bọn mẹ có đến bảy hay tám người gì đó. Cả con trai lẫn con gái. Ý mẹ là, mẹ nghĩ mẹ biết cảm giác khi quá yêu quý một người bạn là như thế nào.”
“Vâng,” nó nói với giọng của một cậu con ngoan, có vẻ bớt khó hiểu hơn. Tôi ngờ rằng – tôi biết – tình yêu của nó dành cho Bobby chắc hẳn đã làm nó sợ. Có lẽ đó chính là nguyên nhân thực sự tạo nên điệu bộ đàn ông và đôi hài bảy dặm nặng nề này.
“Giờ thì nghe này,” tôi nói. “Mẹ là bạn con. Mẹ nghĩ mẹ hiểu Bobby. Nó có thể rất… cuốn hút. Nhưng mẹ phải nói với con điều này. Đừng quá quấn quýt với nó. Không phải ở một thời điểm quá sớm trong đời con như thế này.”
Nó nhìn tôi từ bên dưới mớ tóc lòa xòa, và tôi nhận thấy trên khuôn mặt nó thoáng hiện hình ảnh Jonathan ngày xưa của tôi, yếu đuối và hay nghi ngờ. Trong một thoáng, có vẻ chúng tôi đã khám phá ra một điều gì đó.
“Ôi, con yêu,” tôi nói. “Mẹ hiểu được cảm giác của con mà. Thực sự đấy. Vậy nên hãy tin mẹ. Sẽ có ngày con chỉ còn coi Bobby như một người quen cũ mà thôi.”
Mặt nó sa sầm lại. Đó là một quá trình hiển hiện thấy rõ, như những cánh cửa chớp sập lại trên một khung cửa ngập tràn ánh nắng.
Nó nói: “Mẹ đâu hiểu được cảm giác của con. Và mẹ đâu hiểu nổi Bobby. Con mới là người hiểu rõ cậu ấy. Mẹ đừng cố cai quản cuộc đời con nữa.”
“Mẹ không hề.”
“Có đấy mẹ ạ. Con không thể chịu nổi điều đó nữa. Mẹ đang hít đến cạn kiệt không khí ở đây đấy. Ngay cả những chậu cây cảnh cũng đang chết dần chết mòn kia kìa.”
Tôi sững sờ nhìn nó. “Cuộc đời con là của con,” tôi nói. “Mẹ chỉ đang cố bảo con là mẹ luôn ở bên cạnh con mà thôi.”
“Ui, má thân êu, bên con chẳng còn khoảng trống nào cho ai khác ngoài con cả.”
Tôi tát nó gần như ngay lúc tôi nhận ra mình đang làm gì. Tôi tát nó rất mạnh, đủ để làm văng ra một sợi nước dãi từ khóe miệng nó. Tay tôi đau rát vì cú đánh đó.
Sau một thoáng, nó mỉm cười và đưa mu bàn tay lên chùi miệng. Cái tát đó có vẻ đã khiến nó thỏa mãn, có vẻ đã chứng minh cho thứ gì đó mà nó nghi ngờ bao lâu nay.
“Mẹ xin lỗi,” tôi nói. “Mẹ không hề muốn đánh con. Trước đây mẹ chưa bao giờ đánh con, đúng không?”
Nó đững sừng sững mà không nói gì rồi đi lên gác, mang theo vẻ khám phá đầy thỏa mãn. Mỗi bước đi của nó vang lên như tiếng đại bác.
Tình bạn trước đây của chúng tôi đã chấm dứt. Jonathan và Bobby ngày càng hay đi chơi, về nhà muộn và đi thẳng lên giường ngủ. Chúng không mời tôi lên để cùng phê thuốc hay cùng nhảy nhót với chúng nữa. Ned bảo tôi rằng chúng đến xem phim khá thường xuyên. Đôi khi, anh nói, anh ngồi với chúng, xem một bộ phim mà anh đã xem đi xem lại đến gần chục lần. Anh nói Jonathan có sự cảm nhận sắc sảo đáng ngạc nhiên về những bộ phim – có lẽ nó có những tố chất để trở thành một nhà phê bình phim.
Tôi biết rằng tôi không nên cấm Bobby đến nhà mình. Chẳng phải bố mẹ tôi đã cấm tôi gặp Ned sao? Chẳng phải cái tối hậu thư lạnh lẽo của họ đã dẫn dắt tôi đến với cuộc hôn nhân này sao? Thực sự tôi không thể biết được liệu tôi lo lắng nhiều hơn về tình yêu của Jonathan với bọn con trai nói chung hay về sự đam mê đặc biệt mà nó dành cho Bobby. Dù dĩ nhiên tôi hi vọng nó sẽ lớn lên như những người đàn ông bình thường, gặp gỡ một cô gái và có những đứa con. Tôi biết rằng lựa chọn đó đã nằm ngoài sự can thiệp của tôi. Jonathan không muốn ai xen vào cuộc sống của nó. Ngoại trừ Bobby, một thằng bé dễ thương nhưng không đáng tin cậy, một đứa trẻ không có những hoài bão rõ ràng và trí năng có vấn đề… Nếu Jonathan vẫn cứ dính vào Bobby thì nó sẽ không bao giờ biết được cái thế giới rộng lớn hơn sẽ còn đem lại cho nó những gì Bobby, không thể tránh khỏi, là một cậu bé Cleveland, và tôi biết tương lai mà Cleveland mang lại. Những con phố trung tâm đầy rẫy những thanh niên vẫn con đang bám trụ lại đây: những thanh niên ở tuổi hai mươi lăm, đeo cà vạt rẻ tiền sáng màu và thắt lưng to bản, la cà trong giờ nghỉ trưa trước khi quay lại với công việc dưới ánh đèn huỳnh quang trong khi kim giây cứ lướt đi trên mặt đồng hồ.
Gần một tuần, Bobby và tôi mới chạm trán nhau.
Hôm đó, tôi xuống bếp lúc đã quá nửa đêm, cán vỏ bánh để làm vài cái bánh nướng. Đã hai tuần nay tôi mắc chứng khó ngủ, và vấn đề đó chẳng thể được cải thiện bởi tiếng ngáy hen suyễn của Ned. Cuối cùng, đành cam chịu, tôi xuống gác trong bộ đồ ngủ, hi vọng rằng vài thao tác làm bếp đơn giản sẽ giúp tôi ngủ được.
Tôi chỉ vặn đèn bếp ở mức lờ mờ, và thực sự cũng không cần đến nó. Thậm chí trong một cái hầm mỏ tôi vẫn có thể làm bánh dễ dàng.
Tôi làm gần xong thì Bobby xuất hiện, trông ngái ngủ, lơ ngơ, dù đôi khi khó mà nhận ra điều đó ở nó. Nó đứng ở cửa bếp, mặc quần đùi, dáng vẻ to lớn và gân guốc.
“Ồ, chào cô,” nó lí nhí. “Cháu không biết là cô ở đây. Cháu chỉ, ừm, xuống uống nước thôi?”
Chắc chắn là nước từ vòi trong phòng tắm vẫn chảy bình thường. Tôi biết nó xuống đây vì cái gì: chai rượu gin mà chúng tôi cất trên chạn bếp lúc đó còn gần một nửa. Tuy nhiên tôi cũng vờ như không biết.
“Cô không ngủ được,” tôi nói. “Vì thế cô quyết định mình nên làm gì đó có ích.”
“Vâng,” nó nói. Nó vẫn đứng ở cửa, tiến thoái lưỡng nan. Tôi rót một cốc nước từ vòi và đưa cho nó.
“Cảm ơn cô,” nó nói. Khi nó bước tới để đón lấy cốc nước từ tay tôi, nó mang theo mùi đặc trưng của nó vào bếp, mùi thiếu niên phảng phất mùi kim loại trong một ngày lạnh giá. Tôi có thể nghe tiếng òng ọc đều đều mà cổ họng nó tạo ra khi nó uống nước.
“Bobby,” tôi nói.
“Dạ?”
“Bobby, chúng ta có phải là bạn không? Cô nghĩ chúng ta là bạn với nhau, cô và cháu ấy.”
Nó suýt làm rơi cốc. Nó cười trong sự lo lắng cực độ và nói: “Ồ, đúng vậy ạ. Ý cháu là, cháu nghĩ, cô biết đấy, là cô rất tuyệt vời.”
“Cảm ơn cháu. Cô vui khi cháu nghĩ vậy. Nhưng dạo này cô cháu mình không gặp nhau nhiều đúng không?”
“Vâng,” nó nói. “Dạo này cháu, cô biết đấy, khá là bận…”
Tôi không thể ghìm được một tiếng cười chế nhạo.
“Cháu đâu phải là chủ tịch hội đồng quản trị của công ty General Motors,” tôi nói. “Đừng cố đánh lừa cô, nghe không? Chỉ lãng phí thời gian thôi.”
Nụ cười của nó méo xẹo, và nó nhún vai bất lực. “Ồ,” nó nói. “Cô biết đấy, Jonathan…”
“Jonathan làm sao?”
“Dạ, cậu ấy hơi… Cô biết đấy. Cô… kiểu như là… mẹ cậu ấy.”
“Nghe có vẻ đúng đấy,” tôi nói. “Cô giống như mẹ nó. Cô giống như một người nào đó có thể dễ dàng bị lừa bởi những lời giải thích khập khiễng.”
Bobby lại cười méo mó, như thể tôi vừa nói đùa. Tôi nhận ra rằng không ích gì khi kéo dài vấn đề này với nó. Nó chỉ tuân theo mệnh lệnh mà thôi. Tôi đứng trước mặt nó, hai tay khoanh lại trước ngực. Đáng lẽ tôi có thể dễ dàng nói: “Ra khỏi nhà này ngay và đừng có quay lại đây nữa.” Đáng lẽ tôi có thể xác nhận trạng thái tình cảm của nó.
Cố gắng thấy rõ để thay đổi chủ đề, Bobby hỏi: “Cô đang làm gì thế?”
“Làm gì à? Ồ, một cái bánh nướng. Cô đang làm vài cái bánh hồ đào cho ngày mai.”
“Cô quả là một đầu bếp tuyệt vời,” nó say sưa nói. “Cháu chưa bao giờ được nếm thức ăn nóng sốt như thế, ý cháu là giống như ở một nhà hàng vậy.”
“Chẳng có gì to tát cả,” tôi nói. Rốt cuộc thì tôi cũng có thể nhận ra qua khuôn mặt nó rằng đấy không chỉ là một lời bắt chuyện xã giao. Nó thực sự hứng thú khi thấy tôi xuống bếp để làm bánh lúc nửa đêm.
“Cháu muốn mai này có thể mở một nhà hàng,” nó nói. “Ý cháu là, cháu nghĩ sẽ rất thú vị khi biến một căn nhà cũ rộng lớn ở đâu đó thành một nhà hàng.”
Nó nhìn như bị thôi miên vào cái vỏ bánh, một miếng bột hình tròn trăng trắng lấp lóa trên tấm ván lăn bột.
“Cũng chẳng có gì ghê gớm cả,” tôi nói. “Cô có thể dạy cháu nấu ăn. Đó chỉ là một quy trình theo từng bước, không có gì là ảo diệu cả.”
“Cháu không biết,” nó nghi ngờ nói.
“Nhìn đây,” tôi nói. “Cô vẫn chưa cán cái vỏ thứ hai, sao cháu không thử nhỉ?”
“Được không ạ?”
“Lại đây. Cháu sẽ ngạc nhiên khi thấy nó dễ đến mức nào, một khi cháu học được vài ngón nghề.”
Nó đến đứng gần tôi ở quầy bếp. Tôi bỏ miếng vỏ bánh đã được cán vào một cái khay thiếc, rắc bột lại vào tấm ván, và đổ chỗ bột còn lại vào đó.
“Bài một,” tôi nói. “Cháu càng nhẹ nhàng với nó càng tốt. Nó không như bột bánh mì – với bột bánh mì thì cháu phải giã cho đến khi nào xong thì thôi. Còn vỏ bánh nướng thì ngược lại, nó đòi hỏi một sự khéo léo nhẹ nhàng hơn. Nào. Lăn từ phía cháu ra. Đừng có san phẳng nó.”
Nó cầm lấy thanh cán bột và ấn vào đống bột mềm mại.
“Hãy nhẹ nhàng với nó,” tôi nói. “Tốt. Đúng rồi.”
“Cháu chưa bao giờ làm thế này,” nó nói. “Mẹ cháu chưa bao giờ làm những thứ như bánh nướng.”
“Cháu sẽ là một học sinh giỏi,” tôi nói. “Cô có thể nhận thấy điều đó.”
“Cô có biết làm những cái diềm bánh xinh xắn không ạ?” Nó hỏi.
“Chắc chắn là biết chứ,” tôi nói.
Trong suốt năm kế tiếp, tôi đã dạy Bobby mọi điều tôi biết về nấu nướng. Chúng tôi có những buổi học dài trong bếp cùng nhau, chuyển từ bánh nướng sang bánh mì và từ bánh mì sang bánh xốp bơ. Khi tác phẩm của nó ra lò thành công, vàng ngậy và bốc hơi, nó lặng ngắm với sự ngạc nhiên tuyệt đối. Tôi chưa bao giờ thấy ai có phản ứng như thế với việc làm bánh. Dường như nó tin rằng từ những nguyên liệu thô tầm thường như bột, mỡ pha vào bánh và những gói men nhỏ, cuộc sống có thể được tạo ra.
Jonathan đôi khi cũng dự những buổi học làm bánh của chúng tôi, nhưng rõ ràng tâm trí nó lại để ở đâu đâu ấy. Nó không có đủ kiên nhẫn với việc đong đếm chính xác và việc làm tăng nhiệt độ một cách từ từ. Căn bản thì nó cũng chẳng mặn mà gì với đồ ăn thức uống. Ngay từ hồi bé nó đã thờ ơ với các món ăn.
Nó thường nấn ná một lúc trong bếp, rồi lên phòng và mở đĩa. Đôi khi nó mở Jimi Hendrix hay the Rolling Stones, đôi khi là một đĩa mới mà tôi chưa từng nghe.
Không đứa nào mời tôi lên nghe nhạc nữa. Thay vào đó, bây giờ Bobby thường chạy vào bếp và nói: “Cô nhìn này, cháu mới tìm thấy một công thức cho món, ờ, cá tẩm bột.” Hay: “Cô ơi, cô có biết làm bánh mì ngọt hình tròn không?”
Jonathan nộp đơn vào vài trường đại học và được trường Đại học New York và Đại học Oregon chấp nhận. Tất cả các trường mà nó nộp đơn đều cách xa Cleveland ít nhất là nghìn dặm.
Bobby không đăng ký trường nào cả - nó thậm chí còn không nhắc đến việc đó. Nó chỉ tiếp tục mang đến cho tôi những công thức nấu ăn và mua thêm những dụng cụ làm bếp phức tạp. Nó mua một cái máy chế biến thực phẩm hiệu Cuisimart, và một độ dao Đức mỏng và sắc đến nỗi chúng có thể tách lớp giấy dán tường nhà bếp ra mà không động đến lớp vữa bên dưới.
Vào tháng Sáu, Ned và tôi tham dự lễ tốt nghiệp của chúng cùng Burt Morrow, người chúng tôi đã không gặp hơn một năm qua. Burt không còn để kiểu râu dê như lần trước chúng tôi gặp nhau nữa, thay vào đó là kiểu tóc mai trải dài xuống hai bên má. Ông mặc áo khoác thể thao màu xanh lá và một cái áo len cổ lọ, với một cái huy chương vàng cỡ một đồng nửa đô đung đưa trên một cái dây đeo quanh cổ.
Chúng tôi ngồi phía cuối hội trường, một căn phòng rộng lớn màu cá hồi nhàn nhạt, ngay cả trong mùa này nó cũng có mùi xi măng âm ẩm và mùi của những bữa trưa đựng trong túi giấy màu nâu. Mỗi khi tên của một học sinh được xướng lên và chúng bước lên sân khấu để nhận bằng, bên người bạn học. Bạn có thể đánh giá mức độ được yêu mến của mỗi đứa dựa vào độ ồn ào mà tên chúng tạo ra. Cả Bobby lẫn Jonathan đều không tạo được tiếng ồn nào – có lẽ chúng là những kẻ vô danh với những người bạn cùng lớp, dù Burt đã bất ngờ huýt lên một tiếng còi lanh lảnh khi tên của Bobby được xướng lên.
Sau đó, Bobby và Jonathan lên xe buýt của trường cùng những đứa trẻ khác để đến tham dự một bữa tiệc thâu đêm tại một công viên giải trí. Ned và tôi đã mời Burt đi uống rượu, vì chúng tôi không thể để ông lái xe về nhà một mình.
“Đi uống à?” Ông nói. “Tuyệt, đi uống rượu với những người lớn sẽ rất tuyệt. Tôi nghĩ chúng ta nên làm thế, đúng.”
Mắt ông chẳng có chút ánh sáng nào. Có lẽ chúng được làm từ đá mã não.
Chúng tôi đến một quán yên tĩnh gần hồ, với những chiếc bàn bằng đồng và những cô phục vụ trẻ trung ăn mặc kiểu Mother Hubbard[36]. Tôi gọi một ly cocktail vodka, nó được đem đến cho tôi trên một cái khăn lót thêu ren thay vì khăn ăn thong thường.
[36] Kiểu váy dài, rộng lùng thùng, với tay áo dài và cổ cao.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
597,378
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 1-13


Ned nâng ly lên và nói: “Vì thế hệ mới. Chúc may mắn.”

Chúng tôi uống mừng vì thế hệ mới. Qua những chiếc loa giấu đâu đó, một ban nhạc đang chơi bản Moon river.

Dường như chúng tôi đang ở một nơi ít quan trọng nhất trên đời này.

Burt Morrow nói: “Jonathan đã chọn NYU[37] à?”

[37] NYU: Tên viết tắt của Đại học New York.

“Đúng vậy,” Ned đáp. “Nó chọn trường đó hoàn toàn dựa vào nền tảng kinh tế. NYU đắt hơn là trường Oregon.”

Burt nháy mắt, và châm một điếu thuốc. “Chà, tôi chắc ở đó thằng bé sẽ nổi bật đấy,” ông nói. “Bobby có vẻ không thích học đại học lắm.”

“Nó còn trẻ mà,” Ned nói. “Anh không thể biết chuyện gì sẽ xảy ra trong một hay vài năm nữa đâu.”

Burt nói: “Nó chọn gì tôi cũng đồng ý. Tôi sẽ không can thiệp vào cuộc đời nó. Ôi, không. Tôi sẽ không nghĩ đến điều đó. Nó có quyền làm những gì nó muốn.”

“Tôi nghĩ vậy,” Ned nói. “Chúng đều có quyền làm những gì chúng muốn, đúng không?”

Burt gật đầu, rít một hơi Pall Mall thật sâu như thể đang nuốt chính những chất liệu tạo ra cuộc sống: “Chắc chắn rồi,” ông nói, vẻ nghiêm trang. “Chắc chắn là thế.”

Chính cách ông dùng từ “chắc chắn rồi” đã làm tôi khó chịu. Nó khiến cho ông nghe có vẻ quá giống một đứa trẻ già dặn bị bỏ lại cho chúng tôi chăm sóc.

“Chúng không được phép,” tôi dằn mạnh từng từ. “Làm tất cả những gì chúng muốn.”

“Ồ,” Burt nói, “miễn là chúng không làm hại ai…”

“Anh Burt này,” tôi nói. “Khi Jonathan bắt đầu chơi với con trai anh, nó là một đứa trẻ có bản tính cởi mở, dịu dàng, và giờ sau ba năm nó đã biến thành một người mà tôi khó có thể nhận ra. Nó đã từng là một học sinh hạng ưu và đến lúc Bobby không còn quấn quýt với nó nữa, nó may mắn vào được bất cứ trường đại học nào.”

Burt chớp mắt nhìn tôi qua làn khói thuốc. Ned nói: “Thôi, Alice…”

“Ôi, đừng nói gì cả,” tôi bảo anh. “Em chỉ muốn hỏi anh Burt đây một câu thôi. Em muốn hỏi anh ấy em đã làm gì sai.”

Burt nói: “Tôi không nghĩ là chị đã làm gì sai cả.”

“Vậy thì tôi đang làm gì ở đây?” Tôi hỏi. Tôi bất chợt dùng đầu móng tay gõ gõ vào ly của mình. Tiếng gõ nghe đều đều như thể nó là một âm thanh phiền phức do ai đó gây ra. Tôi nói: “Sao tôi lại sống trong một thành phố mà tôi coi thường? Sao cuối cùng tôi lại bị con trai mình ghét bỏ? Dường như tôi cứ làm từng điều từng điều một, lúc đó nó có vẻ hoàn toàn logic, nhưng vào lúc này, khi ngồi đây, dường như đó là điều không thể.”

“Chà,” Burt nói rồi nuốt khói. Tôi vẫn nghe thấy tiếng móng tay mình gõ gõ vào ly.

“Chúng tôi đã tới đây để trở thành một gia đình,” tôi bảo ông. “Chúng tôi đã có những dự định tốt đẹp.”

“Ôi,” Burt nói. “Mọi chuyện sẽ ổn cả thôi. Chị phải có niềm tin.”

“Niềm tin là thứ chỉ dành cho những người trẻ tuổi thôi. Tôi đã đọc tất cả những cuốn sách hay, và tôi không còn đẹp nữa.”

“Ôi chao,” Ned nói. “Nếu em không đẹp thì anh không biết nửa số đàn ông trong phòng đang nhìn chằm chằm vào cái gì.”

“Đừng nịnh em,” tôi bảo anh. “Sao anh dám làm thế? Anh có thể bực bội với em, khinh bỉ em hay chán ngấy em, nhưng đừng nịnh em như thể em là một cô vợ nhỏ. Em không là người như thế. Anh có nghe em nói không? Anh có hiểu không?”

Ned không nói gì, chỉ đặt tay lên tay tôi để ngăn tiếng móng tay tôi gõ vào ly. Tôi nhìn vào mặt anh.

“Ned.”

Tôi chỉ gọi mỗi tên anh.

“Thôi được,” anh nói. “Chúng ta trả tiền và đi về thôi.”

“Em xin lỗi,” tôi nói.

“Không sao,” anh trấn an tôi. “Chúng ta đã có một ngày đầy xúc động. Đứa con trai duy nhất của chúng ta vừa tốt nghiệp trung học mà.”

Tay anh vẫn đặt lên tay tôi. Tôi nhìn ngang qua bàn về phía Burt, người đang chằm chằm nhìn tôi với cái nhìn trực diện hiểu biết đến đáng sợ.

Sau khi Jonathan đi New York, Bobby dọn ra ở riêng trong một căn hộ nằm trong một tòa nhà xây bằng đá vôi giản dị phía bên kia thành phố. Nó học ở một trường dạy nấu ăn và làm bồi bàn vào buổi tối. Nó bắt đầu đề cập đến việc cùng tôi mở một nhà hàng.

“Một không gian ấm cúng của gia đình,” nó nói. “Cháu nghĩ tham gia vào việc kinh doanh nhà hàng sẽ rất hay đấy, đúng không ạ? Cô cháu mình có thể cùng làm việc ở đó.”

Tôi công nhận là tôi có thể sắm vai một cái máy rửa bát đĩa tốt như thế nào.

“Cô sẽ là bếp trưởng,” nó nói. “Nhà hàng đó sẽ là, ờ, nhà hàng duy nhất theo phong cách miền Nam đích thực ở Ohio.”

Dần dà, nó bắt đầu nấu bữa tối cho Ned và tôi ở nhà tôi. Nó đã thực sự trở thành một đầu bếp rất cừ, và có vẻ có những ý tưởng hết sức thuyết phục về việc bỏ vốn kinh doanh một nhà hàng.

Tôi bảo nó rằng nếu nó muốn mở một nhà hàng của riêng nó, tôi sẽ là khách hàng đầu tiên, nhưng đừng tính tôi vào làm bếp trưởng. Nó cười như khi chúng tôi lần đầu gặp nhau nhiều năm trước – nụ cười ám chỉ rằng tôi đã chuyển sang một thứ ngôn ngữ khác mà nó không hiểu nổi.

Mùa đông đó, tôi đã tự kiếm cho mình một công việc, làm thư ký trong một văn phòng bất động sản. Chúng tôi cần tiền. Rạp chiếu phim của Ned đang trong tình trạng tồi tệ hơn bao giờ hết, vì quá nhiều trung tâm thương mại đã được dựng lên ở ngoại ô. Người ta thường tránh đi vào trung tâm thành phố sau khi trời tối. Rạp chiếu phim nhấp nháy ánh đèn neon màu hồng trên một đại lộ nơi đèn đường chỉ phát ra những quầng sáng nhỏ nhoi; nơi những người mẫu ma-nơ-canh khỏa thân tươi cười đằng sau lớp kính tối om của một cửa hàng tạp hóa đã sập tiệm.

Dù công việc thư ký của tôi không hề cao quý hay thậm chí cũng chẳng có gì là đặc biệt thú vị, nhưng tôi vẫn thích có một nơi để đến mỗi ngày đến độ tôi bắt đầu sợ những ngày cuối tuần. Trong thời gian rảnh, tôi lại chú tâm vào việc chăm sóc khu vườn thảo mộc ở sân sau.

Bobby thỉnh thoảng gặp tôi để ăn trưa ở khu trung tâm, vì trường dạy nấu ăn của nó không xa văn phòng tôi lắm. Nó đã trở nên khá điển trai, theo vẻ đẹp truyền thống, và tôi phải thừa nhận rằng tôi thấy vui khi gặp nó ở những nhà hàng đông khách, nơi tiếng ồn do những người làm công ăn lương đói bụng gây ra khiến không khí nhà hàng thêm sôi động.

Trong các bữa ăn, Bobby luôn hăng hái nói về công việc kinh doanh nhà hàng. Có lúc, nó đã không còn giống như một kẻ đang bắt chước một thanh niên dễ coi, sạch sẽ nữa mà đã thực sự trở thành người như vậy, ngoại trừ những khoảnh khắc kì cục khi mắt nó ngời lên một cách khác thường và da nó lấm tấm mồ hôi. Những lúc như thế, nó khiến tôi liên tưởng đến một người bán Kinh thánh, một trong những người cuồng tín miền Nam vô cùng nồng nhiệt mà tôi đã biết rõ từ thời hoa niên. Trong lúc hào hứng, Bobby có thể mang nét đặc trưng đó, nhưng rồi nó luôn kiểm soát được bản thân, cười trừ và hạ giọng xuống, thậm chí còn có vẻ rút lại mồ hôi vào trong lỗ chân lông nữa. Do đó ấn tượng cuối cùng mà nó tạo ra là một vẻ trẻ con và quyến rũ, một sự nguy hiểm non nớt bị đặt dưới tầm kiểm soát.

Tôi thú nhận những nỗi lo lắng của mình với nó, và thi thoảng cho phép mình buông đôi lời phàn nàn về hoàn cảnh của tôi, vì tôi không thích là gánh nặng cho Ned. Bệnh hen suyễn của anh đã trở nên tệ hơn nhiều khi công việc kinh doanh đi xuống, và anh bắt đầu uống nhiều rượu.

Bobby đã nói hàng nghìn lần: “Cháu sẽ tìm người bỏ vốn và sang năm sẽ mở nhà hàng, hoặc cùng lắm là hai năm nữa. Cô cháu mình có thể cùng điều hành nó. Mọi việc sẽ trở nên tốt đẹp thôi.”

Tôi bảo nó: “Cháu nói nghe thật dễ dàng. Cháu còn trẻ mà.”

“Cô cũng còn trẻ đấy chứ,” nó nói. “Ý cháu là, cô trẻ hơn so với tuổi của cô. Cô sẽ thích làm bếp trưởng thôi, cô hãy đợi xem.”

“Cô sẽ không làm trưởng triếc gì hết.”

“Có đấy. Cô sẽ muốn khi cô thấy nhà hàng mà cháu sắp dựng lên cho cô. Nào, cô Alice. Hãy nói với cháu rằng cô ủng hộ cháu, và cháu sẽ dựng lên nhà hàng tốt nhất ở Ohio này.”

Người đàn ông ở bàn bên liếc về phía chúng tôi. Ông ta khoảng năm mươi tuổi, ăn mặc gọn gàng và có vẻ thành đạt trong bộ com lê màu xám đen. Tôi có thể nhận thấy mối nghi hoặc trong mắt ông ta: một phụ nữ lớn tuổi, khuôn mặt hơi nghiêm nhưng không hoàn toàn làm mất đi vẻ đẹp của bà ta, đang ănt rưa với một thanh niên đẹp trai, đầy sức sống. Trong một thoáng, tôi đi theo mạch suy nghĩ của ông ta, khi ông ta hình dung ra cảnh Bobby và tôi đi ra khỏi nhà hàng và lên một căn phòng cho thuê, nơi ánh nắng chiều xiên vào qua những tấm rèm che.

Bobby ngả người về phía trước, đôi bàn tay to lớn của nó mở rộng trên mặt bàn. Tôi đưa tay ra và nhẹ nhàng chạm vào những ngón tay to thô kệch của nó.

“Được rồi,” tôi nói. “Nếu cháu thực sự quyết tâm mở một nhà hàng như thế, hãy để cô tham gia cùng. Cô sẽ làm bất cứ điều gì có thể để giúp cháu.”

“Tuyệt quá,” nó nói, và mắt nó thực sự sáng lên, long lanh những giọt nước mắt.

Nó mở nhà hàng chưa đầy một năm sau đó. Có lẽ nó quá nôn nóng. Nếu nó chờ đợi cho đến khi nó hiểu thêm về kinh doanh, có thể nó đã thành công hơn. Nhưng nó cứ khăng khăng rằng mình đã sẵn sàng, và tôi chỉ có thể suy đoán không hiểu sự vội vã này có bị ảnh hưởng chút nào từ sự sa sút của Ned không. Nó kiếm được nguồn vốn từ Beechum, một gã đàn ông trông khá đáng ngờ, với mái tóc chải bồng về phía trước để che cái trán hói. Gã còn đeo vài chiếc nhẫn bạc và ngọc lam nặng nề trên những ngón tay thon gầy trắng trẻo. Gã Beechum này sở hữu, hay đúng hơn là gã tuyên bố là có sở hữu, một chuỗi hiệu giặt là tự động đang làm ăn phát đạt. Và theo như lời Bobby thì gã đã mường tượng ra một thành công tương tự trong lĩnh vực ẩm thực theo phong cách miền Nam.

Dưới sự hướng dẫn của Beechum, Bobby đã thuê địa điểm trong một khu trung tâm mua sắm nhỏ ở ngoại ô, giữa một cửa hàng quần áo giảm giá và một tiệm bánh trưng bày trên tủ kính một chiếc bánh cưới hơi dơ dáy. Tôi bày tỏ và mối lo ngại về địa điểm này, nhưng Bobby đã nêu ra một loạt những ưu điểm không thể chối cãi của nó.

“Địa điểm này nằm gần vài đại lý bán lẻ chính,” nó nghiêm nghị nói. “Penney’s là đại lý bán lẻ hàng đầu, và Sears cũng sắp khai trương. Nơi đó còn có những cửa hàng thực phẩm khác nữa. Mà nó lại rẻ. Ý cháu là, cô phải bắt đầu từ đâu đó chứ, đúng không ạ?”

Tôi không cần đưa ra quá nhiều chi tiết về sự khởi đầu đầy lạc quan của nhà bàng, và sự đi xuống ngay lập tức của nó. Chỉ cần nói rằng Bobby đã đặt tên cho nhà hàng là Alice, và đã làm tất cả những gì có thể với một căn phòng sáng ánh đèn huỳnh quanh và trần được thiết kế có độ vang, căn phòng đó trước đây từng là một tiệm bánh pizza nhưng đã sập tiệm. Nó treo những tấm áp phích đóng khung về New Orleans – những ban công sắt rèn trong Khu Pháp, một người đàn ông da đen đang thổi kèm trumpet – và kiếm được những chiếc bàn ghế gỗ ở cửa hàng đồ cũ. Tôi thử các công thức nấu ăn với Bobby, tranh luận về việc nêm nếm gia vị, dù Beechum thường thắng thế với những lời nhắc nhở về việc chi phí bị đội lên quá cao hay khẩu vị của người Ohio còn quá rụt rè. Thực đơn cuối cùng được đưa ra chẳng khác gì một phiên bản miền Bắc của ẩm thực miền Nam: Xúp mướp tây, bánh bột ngô, tôm đông lạnh được chế biến theo nhiều kiểu khác nhau. Những món tráng miệng đều đặc biệt. Tôi chủ định ghé qua đó thường xuyên nhất có thể.

Thỉnh thoảng khi đến ăn trưa, tôi thấy một, hai người khách khác nữa – những người đi mua sắm với những cái túi từ cửa hàng giảm giá bên cạnh, hay những nhân viên chào hàng đi một mình trong giờ ăn trưa – và đôi khi tôi là người khách duy nhất. Trong những lần đó, Bobby thường đến ngồi với tôi khi người phục vụ hoặc lau chùi cái tủ bày bánh nướng đã quá sạch sẽ hoặc lui về đọc một tờ tạp chí điện ảnh bên cạnh tủ lạnh.

Từ đầu đến cuối, Bobby chưa bao giờ mất đi vẻ hào hứng giống với người bán Kinh Thánh.

“Ban đầu mọi việc bao giờ cũng chậm chạp,” nó nói. “Cô phải để cho những lời truyền miệng lan ra. Khi một người rời khỏi đây sau những bữa ăn ngon miệng, họ sẽ kể cho mười người khác nữa. Cô cần phải chờ đợi.”

“Các món ăn ngon lắm, Bobby,” tôi nói. “Cô mong rằng mọi người sẽ đến để nhận ra điều đó.”

“Chắc chắn thế,” nó nói. “Nếu cô có sản phẩm, người ta sẽ tìm đến cô. Chỉ còn là vấn đề thời gian thôi.”

Chúng tôi ngồi nói chuyện với nhau trong căn phòng vắng, dưới những tuýp đèn huỳnh quang. Người ta đi qua khung cửa sổ sạch bong và nhìn vào trong với một vẻ mà tôi nhận thức được: khuôn mặt hóm hỉnh và khá đáng sợ ngoảnh vào bất cứ một cơ sở kinh doanh rủi ro nào. Chính tôi cũng đã từng nhìn vào vô số cửa sổ theo kiểu đó: những cửa hàng quà tặng nho nhỏ cầu kì nhưng vắng khách, những cửa hàng bán đồ ăn sẵn không trữ nhiều hàng, những cửa hàng thời trang với những bộ quần áo đã lỗi mốt năm năm. Khi người ta vội vã đi qua với những gói đồ mua từ cửa hàng Sears và Penney’s, tôi hiểu được những cảm giác của họ; tôi hiểu cái thái độ khinh khỉnh mà họ dành cho bất cứ thất bại nào của con người khi cố làm những việc bất khả thi.

Vào một đêm ấm áp trái tiết tháng Mười một, sáu tháng sau khi cửa hàng của Bobby khai trương, Burt Morrow đã tự thiêu mình và nửa căn nhà ra tro khi ông ngủ quên mà không tắt thuốc lá. Ned và tôi đã bị tiếng còi xe cứu hỏa đánh thức, dù dĩ nhiên lúc đó chúng tôi không biết điểm đến của chúng.

Tuy nhiên, tôi vẫn có một linh cảm. Cảm giác đó tuy vô danh nhưng thật ro ràng, vì thế tôi thao thức khá lâu sau khi Ned đã quay lại với giấc ngủ ồn ào, gần như khó nhọc của anh. Khi chuông điện thoại reo, tôi đã đoán ra ngay. Chúng tôi lái xe tới đó luôn, chỉ kịp khoác tạm áo choàng lên áo ngủ.

Bobby trông thấy chúng tôi đỗ xe. Nó vẫn đứng im. Nó đang đứng trên thảm cỏ, cạnh một viên lính cứu hỏa mặc áo khoác đen. Khi Ned và tôi chạy đến bên nó, Bobby nhìn chúng tôi với vẻ mặt nghền nghệt, sững sờ quen thuộc, vẻ mặt như của một người nước ngoài ấy.

Tôi vòng tay ôm lấy nó. Nó đứng im như phỗng. Nó nói rành rọt trong một giọng the thé: “Bố cháu mất vào khoảng mười hai rưỡi tối nay.”

Tay áo Bobby cháy sém và tóc nó bốc mùi khét lẹt. Chắc là nó đã cố gắng tìm cách xông vào căn nhà đang cháy.

Tôi vuốt mái tóc rối bù của nó. Nó đứng bất động trong vòng tay tôi. Nửa căn nhà đã cháy thành đống đổ nát, nửa còn lại vẫn vẹn nguyên với vẻ khiêu khích. Cánh cửa trước đã mở, lộ ra bức tường bên trong với lớp giấy dán tường có họa tiết hình hoa đã bị cháy đen. Trên đó, một tấm gương vẫn còn được treo trong chiếc khung cầu kì.

Ned lập tức đi xem xét tình hình của Burt. Tôi ở lại với Bobby. Người nó chợt rung lên, vì vậy tôi ôm nó chặt hơn, điều đó có vẻ khiến nó rung lên thêm. Sự xúc động của nó làm tôi sợ nhưng tôi không nới lỏng vòng tay. Tôi chỉ biết làm theo cách mà tôi thường làm với Jonathan khi nó còn nhỏ với những cơn khóc hờn vô cớ và tôi, ngốc nghếch ngay cả khi đã hai mươi hai tuổi, chẳng biết làm gì ngoài việc ôm chặt nó trong nỗi sợ hãi và bối rối của chính mình.

Jonathan về nhà dự đám tang. Mái tóc vàng hoe của nó vẫn thả ngang vai, nhưng nó đã chuyển sang đi giày lười và mặc một cái áo khoác vải tuýt cùng quần jean. Bobby ăn mặc theo kiểu những thanh niên lao động ở Cleveland: quần sợi tổng hợp xếp ly, áo sơ mi có cầu vai màu tùng lam.

Chúng cùng nhau lái xe đi dạo, xem những bộ phim cũ trên ti vi. Bobby xanh xao và lơ đãng, như thể phần bên trong sọ nó đang phát ra một tiếng động mà chỉ có nó mới nghe được. Jonathan trông chừng nó rất kĩ bằng cách ngồi gần bên nó và chạm vào vai hai tay nó.

Chúng giống như một cặp bệnh nhân và y tá. Giữa chúng có tình thương mến thương, nhưng không có dấu hiệu của sự yêu đương. Tuy cả ai đều còn trẻ, nhưng chúng đã nhiễm một đặc trưng của người già, khi chúng cùng ngồi trên chiếc sofa, chúng khiến bạn nghĩ đến những tủ đồ cổ và những cánh cửa chớp lật. Bobby luôn ngồi cạnh Jonathan, sát bên nhau như hồi còn trẻ con. Vào bất cứ lúc nào, một người lạ có thể sẽ không nhận ra nổi đâu là người dỗ dành, đâu là người được an ủi. Sau một tuần, Jonathan quay lại với cuộc sống mới của nó ở thành phố New York.

Bobby mau chóng đóng cửa nhà hàng, và cuối cùng phải tuyên bố phá sản như một cách để xóa nợ. Hiện nó làm việc trong một tiệm bánh. Có vẻ nó cảm thấy an toàn hơn giữa những tấm ván lăn bột, những quả trứng tươi và những tuýp bột nhồi.

Vì không còn đủ khả năng trả tiền thuê nhà nên nó phải rời khỏi căn hộ kia và chuyển đến sống cùng chúng tôi. Nó ngủ ở một chiếc giường hẹp trên gác, trong phòng của Jonathan.

Chúng tôi không thấy phiền gì lắm khi Bobby sống cùng. Thực ra mà nói, chúng tôi có thể tận dụng khoản tiền ít ỏi mà nó đóng góp, dù khoản tiền đó chẳng giúp được mấy cho việc học của Jonathan ở trường đại học hay sự đình trệ của rạp chiếu phim của Ned. Anh đã bắt đầu đặt những bộ phim nước ngoài, thể loại không được chiếu ở các rạp phim trong trung tâm thương mại. Anh phải vá thảm tiền sảnh bằng những miếng băng dính to bản.

Chủ nhật nào Jonathan cũng gọi điện về, như một đứa con có trách nhiệm. Nó đã chuyển từ ký túc xá đến một căn hộ ở Greenwich Village. Tôi cố hình dung ra cuộc sống của nó: những bộ phim và những quán cà phê, âm nhạc trong những câu lạc bộ ở tầng hầm. Tôi phải mường tượng ra những chi tiết này vì nó không hề đề cập gì đến chúng. Điều mà nó kể cho tôi nghe là việc học của nó vẫn tốt, và nó không cần đồ trải giường, dụng cụ nhà bếp hay quần áo mới gì cả.

Đôi khi tôi nghĩ tôi sẽ bỏ Ned. Đôi khi tôi nghĩ tôi sẽ tuyên bố điều đó và bỏ đi, như một đứa trẻ mười bảy tuổi. Nhưng tôi không thể hình dung ra cảnh mình làm thế, thực sự không thể. Một trong những điều mà tôi phát hiện ra khi bước chân vào tuổi trung niên là tôi quan tâm đến anh từ tận đáy lòng. Anh truyền cho tôi sự dịu dàng, thậm chí là lòng trắc ẩn. Nếu anh thành công hơn, có lẽ tôi đã bỏ được anh.

Thay vào đó, tôi lại nỗ lực một lần nữa để hòa nhập với cuộc sống ở đây. Tôi gia nhập lại hội nhà thờ. Tôi bắt đầu đạy làm bánh ở YMCA[38] cho những bà nội trợ muốn làm gia đình mình ngạc nhiên vào những ngày lễ. Lớp học của tôi đã thu hút một lượng học viên đáng kể. Nhiều người trong số họ rất hài hước và tốt bụng, vài người còn bị dụ dỗ từ bỏ sự ham thích với thạch Jell-O và bột pudding có đường nữa. Khi khóa học kết thúc vào lễ Giáng sinh, ba bốn người trong số chúng tôi có lẽ sẽ tiếp tục là những người bạn làm bánh.

[38] YMCA: Hội Thanh niên Cơ Đốc giáo.

Đây là những gì mà bạn cần làm. Bạn tự tạo ra tương lai cho mình từ những nguyên liệu thô nằm trong tầm tay của bạn. Tôi ngồi đánh máy ở một chiếc bàn từ thứ Hai đến thứ Sáu, và dành hai ngày mỗi tuần để hướng dẫn cho những phụ nữ khác về nghệ thuật khuấy trứng thật đều, cán bộ thật mỏng đến mức nhìn qua nó bạn có thể đọc được cả giấy in báo. Tôi không có nhiều thời gian làm việc nhà, nhưng Bobby luôn giữ cho nhà cửa sạch sẽ khi tôi đi vắng. Ngoài những lúc ở tiệm bánh, nó luôn ở nhà. Lúc nào cũng vậy. Nó nấu bữa tối mỗi ngày. Sau bữa tối, Ned quay lại rạp chiếu phim còn Bobby cùng tôi xem ti vi hay chơi bài. Tôi ngồi với nó cho đến giờ đi ngủ. Đôi khi tôi khuyên nó nên ra ngoài và xem thế giới đang thay đổi ra sao. Thậm chí tôi còn ngỏ ý cho nó ít tiền, nhưng tôi luôn nói rằng, đây chính là nơi mà nó muốn ở. Vì thế chúng tôi cứ ngồi đó, ngày qua ngày. Thành thật mà nói đôi lúc tôi mong rằng nó sẽ rời đi. Nó quá tận tụy và lúc nào cũng quá ngoan ngoãn.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
597,378
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 2-1


JONATHAN

Chúng tôi là người tình một nửa của nhau. Chúng tôi cùng nhau cư ngụ nơi thượng tầng trong sáng của tình yêu, nơi người ta say mê nhau, yêu thương sự kì cục của nhau, và mong ước mọi điều tốt đẹp nhất sẽ đến với đối phương. Vì chúng tôi không phải là tình nhân theo nghĩa xác thịt, nên chúng tôi không mắc phải những phiền toái nho nhỏ. Clare và tôi kể cho nhau nghe những bí mật tồi tệ nhất và thừa nhận những nỗi sợ hãi ngốc nghếch nhất. Chúng tôi ăn tối và đi mua sắm cùng nhau, phán đoán tính cách của những người đàn ông đang băng qua chúng tôi trên đường. Khi nhìn lại, tôi nghĩ chúng tôi giống như hai chị em gái trong những câu chuyện cổ tích, trong đó cô em trẻ trung xinh đẹp không được lấy chồng cho đến khi nào có người đến cầu hôn cô chị, người kém hấp dẫn hơn. Dù vậy, trong trường hợp của chúng tôi, chúng tôi cùng lúc vừa là cô chị vừa là cô dâu. Cuộc sống của chúng tôi chỉ xoay quanh những bọ quần áo, những câu chuyện gẫu và những lời tự kiểm điểm. Chúng tôi bình thản chờ đợi xem liệu có ai đến để mang một trong hai người chúng tôi đến với một loại tình yêu khác đáng sợ hơn không.

Trong ba năm, chúng tôi cùng nhau sống trong một tòa nhà sáu tầng không có thang máy trên phố Ba Đông giữa đại lộ A và B, nơi những phụ nữ Puerto Rico cãi nhau bằng tiếng Tây Ban Nha và những kẻ bán ma túy không ngừng ra vào những căn hộ dưới tầng hầm. Những cậu bé phê thuốc đẹp đến nao lòng thường say sưa nhảy nhót theo tiếng nhạc phát ra từ những chiếc radio khổng lồ trên phố. Chúng tôi sống ở khu này vì giá thuê nhà rẻ, và bởi vì – chúng tôi thừa nhận điều này trong một đêm say xỉn – chúng tôi thấy nó thú vị hơn cả những khu vực an toàn trong thành phố. Tôi phải thú nhận thêm rằng tôi coi khu này là một ngọn nguồn cho những câu chuyện mà tôi sẽ kể trong cuộc đời tốt đẹp hơn sắp tới. Khi tôi nói thế, Clare đã nhìn tôi ngờ vực và nói: “Quả là vớ vẩn khi tin tưởng vào tương lai, cậu không nghĩ thế à? Nó hơi giống như việc chế tạo những con thuyền trong chai ấy. Cậu biết không? Tuyệt vời một cách đáng sợ.”

Clare ba mươi sáu, hơn tôi mười một tuổi. Chị cứ khăng khăng sống theo vài giả thuyết mà mình đã đặt ra. Chị tin rằng James M. Cain[39] là nhà văn Mỹ vĩ đại nhất, xã hội đã lên đến cực điểm vào cuối những năm ba mươi của thế kỉ XX, và không còn người đàn ông nào để dành cho một phụ nữ lập dị ở độ tuổi của chị. Khi tranh luận ở điểm cuối cùng, chị đáp lại bằng một giọng thiện chí nhưng gần như mất hết kiên nhẫn, như một giáo viên giỏi đang đối mặt với đứa học sinh không có triển vọng thứ mười nghìn của mình. “Bỏ qua những người đàn ông này nhé,” chị nói, đếm ngón tay. “Những người đồng tính. Những người đã có gia đình. Những người dưới hai mươi lăm tuổi. Những người trên hai mươi lăm nhưng chỉ hứng thú với những phụ nữ trẻ xinh đẹp. Những người vẫn còn độc thân chỉ vì họ không thể gắn bó đời mình với bất cứ ai. Những kẻ đê tiện thấy rõ. Những kẻ hiếp dâm và những tên sát nhân tâm thần. Còn lại ai nữa nào?”

[39] James M.Cain (1892-1977): nhà văn và phóng viên người Mỹ.

Trong cuộc sống thường ngày, chị luôn có thái độ vui vẻ đầy mỉa mai, như nhân vật phụ trong một vở hài kịch hồi những năm ba mươi. Như một kẻ sống sót sau chiến tranh, vẫn đi giày cao gót và tô son khi đi giữa đống đổ nát.

Khi chị buồn chán, chúng tôi thường bàn tính đến việc có con với nhau. Clare từng trải qua một lần kết hôn, một lần phá thai, hàng tá tình nhân và ba lần đổi việc. Tôi rời trường đại học đã được ba năm, phụ trách chuyên mục ẩm thực cho một tờ tuần báo, và có đôi chút ham muốn với một người đàn ông mà tôi gọi là tình nhân. Về đêm, con phố của chúng tôi lấp lánh những mảnh kính vỡ. Mỗi sáng, một phụ nữ Mỹ Latin đẫy đà thường đi ngang qua phía dưới cửa sổ căn hộ của chúng tôi, hát vang những bản tình ca cảm động trên đường chị ta đi làm.

Một buổi sáng đầu xuân, khi chiếc lá thường xuân màu xanh nhạt đơn độc rơi xuống giữa thanh ngang của lưới sắt chống trộm trên cửa sổ phòng bếp, Clare vừa đưa tách cà phê lên miệng vừa thở dài nói: “Có lẽ tôi sẽ nhuộm lại tóc về màu bình thường. Cậu có nghĩ là đến tuổi nào đó thì người phụ nữ nên ngừng việc tỏ ra lập dị không?”

Chị đang mặc chiếc áo kimono mua ở cửa hàng giảm giá, không phải bằng lụa nhã nhặn mà bằng tơ nhân tạo có màu son chói mắt, chắc là đã được chủ nhân trước đây của nó mua mới ở Hawaii hay Las Vegas năm năm trước. Clare không đẹp, thậm chí còn bị coi là phản lại vẻ đẹp thông thường.

“Không,” tôi nói. “Em nghĩ đến độ tuổi nào đó người phụ nữ càng có quyền làm thế hơn.” Tôi đứng ở cửa, vì bếp của chúng tôi chỉ vừa chỗ cho một người.

“Sự khác biệt giữa ba mươi sáu và hai mươi lăm,” chị nói, “là ở tuổi hai mươi lăm, cậu sẽ không có vẻ kì cục. Tuổi trẻ là sự bào chữa quan trọng hơn hết. Cậu có thể thử bất cứ thứ gì, làm bất cứ điều gì với tóc cậu, và vẫn tự tin với vẻ ngoài đó để đi khắp nơi. Cậu vẫn đang khám phá bản thân, vì thế điều đó là bình thường. Nhưng khi cậu già hơn một chút, cậu sẽ thấy những ảo tưởng của mình bắt đầu lộ ra.”

“Vậy hôm nay sẽ trở thành một ngày thứ Bảy đen tối khác à?”

“Chưa biết được.”

“Đừng. Ngoài trời đẹp thế kia cơ mà. Hãy đi mua sắm và xem phim thay vì nghĩ đến việc tự sát.”

“Khi chúng ta có con,” chị nói, “cậu nghĩ tóc nó sẽ mang màu gì?”

“Tóc chị có màu gì vậy?”

“Chúa ơi, để tôi nhớ lại đã. Hơi nâu xỉn, tôi nghĩ vậy. Kiểu tóc của cô nhân viên bán hàng.”

“Có lẽ đứa bé sẽ mang màu tóc của em,” tôi nói. “Em cược rằng những loại gen yếu nhưng mang tính quyết định có thể làm cho chúng ta ngạc nhiên đấy.”

Chị nhấp một ngụm cà phê. “Thành thực mà nói,” chị nói, “tôi có cảm giác rằng những tổ tiên Rumani ghê gớm của tôi sẽ lấn át những tổ tiên Thụy Điển trầm ngâm của cậu.”

“Thế chị có muốn một phiên bản thu nhỏ của chị à?”

“Chúa ơi, không. Một tôi khác nữa à? Chúng tôi sẽ ghét nhau mất. Tôi chỉ mong một điều là đứa bé có trí thông minh của cậu.”

“Đừng khiêm tốn thế,” tôi nói. “Chị rất thông minh mà.”

“Nếu tôi thông minh như thế,” chị nói, “thì tôi đâu có cho rằng mình đã ba mươi sáu tuổi, đứng trong một căn bếp bé xíu và cố nghĩ ra cách tốt nhất để có con mà không cần yêu đương.”

Chúng tôi vẫn thường nói chuyện về đứa bé. Chúng tôi không lập kế hoạch, nhưng chúng tôi nói về nó rất nhiều. Đó là thói quen của chúng tôi. Hồi trước chúng tôi cũng từng có những ý định khác: chúng tôi đã cùng bàn về việc khai trương dịch vụ giao đồ ăn sáng đến tận giường, và chuyển đến vùng duyên hải ở Tây Ban Nha. Chúng tôi luôn bàn bạc về chi tiết của những việc này tỉ mỉ đến mức kết quả là chúng tôi đã băng qua một ranh giới vô hình và bắt đầu cảm thấy như thể chúng tôi đã thực hiện chúng, những lời trò chuyện của chúng tôi chủ yếu chỉ mang tính mộng tưởng. Chúng tôi đã từng mang món Benedict trứng[40] từ phố Ba lên phía trên đại lộ Công Viên trong một cái tủ hơi (chúng đã biến thành một món hổ lốn bị vón cục), chúng tôi đã mua những cuốn hướng dẫn du lịch và băng cassette dạy hội thoại bằng tiếng Tây Ban Nha. Tôi không nghĩ rằng chuyện về đứa bé này sẽ có gì khác so với những việc đó.

[40] Món ăn với hai lát bánh nướng, trên mỗi lát xếp một miếng thịt xông khói, một quả trứng chần và một loại nước xốt làm từ bơ, trứng và dầu.

“Nếu là con trai, em muốn đặt tên nó là Ethan,” tôi nói. “Hoặc Trevor.”

“Thôi nào cưng,” chị nói. “Không có cái tên mỹ miều nào hết. Nếu là con trai hãy gọi nó là Jon Junior. Nếu là con gái, sao không gọi nó là Mary hay Ann?”

“Tại sao không là Clare Junior?”

“Tôi đã bảo cậu rồi. Tôi muốn nó khác tôi.”

Đối thủ của Clare chính là hình ảnh của chị, là cái tính cách phức tạp mà chị đã tạo ra cho bản thân. Chị không dễ gì bộc lộ khả năng dữ dằn, sắc sảo và “thú vị” của mình. Khi thực hiện những điệu bộ đó quá hoàn hảo, chị có thể hơi kì quặc – thành thạo và khéo léo. Tôi có thể nhận thấy nó gây phiền phức cho chị như thế nào. Đôi khi chị ôm lấy cá tính của mình với sự thách thức thấy rõ, nhìn ra xã hội như thể muốn nói: “Đúng thế, thì sao?” Đôi khi chị tự làm mình sợ. Chị đã trở nên quá điêu luyện đến nỗi chị khó có thể thoát ra khỏi tính cách đó được nữa.

Tuy nhiên, chị vẫn có một cuộc sống mà tôi cho là đầy đủ, thú vị, và tôi không thích nghe những lời tự hạ thấp mình của chị. Chị từng lấy một vũ công hiện đang sống ở Tây Berlin, đoàn ca kịch của gã vẫn định kì đến diễn ở New York trước sự hoan nghênh thái quá. Chị từng là tình nhân của một nữ nhà văn khá nổi tiếng. Chị từng dùng heroin và thuốc phiện, và dùng lượng Dexedrine nhiều đến mức cần được điều trị tại một bệnh viện tư ở Baltimore. Cuộc sống của tôi, so với chị, có vẻ rụt rè và cẩn trọng. Tôi không muốn phải nghĩ rằng cả hai sự lựa chọn – một cuộc sống nguy hiểm, quá cỡ và một cuộc sống lao động thoải mái – cuối cùng đều dẫn đến một thôi thúc mơ hồ, một niềm tin như nhau rằng thế hệ kế tiếp phải cải thiện vận mệnh của nó.

“Chị nghĩ ra sao về sự trừng phạt?” Tôi hỏi.

“Cho bản thân? Hay cho đứa bé?”

“Cho đứa bé.”

“Tôi sẽ không đánh nó,” chị nói. “Tôi không thể. Ôi, tôi không biết nữa. Có lẽ tôi sẽ là một trong những bà mẹ hay giận dỗi và thất vọng, và đứa bé sẽ mong rằng thà nó bị mắng mỏ hay ăn tát để cho xong chuyện còn hơn.”

Clare làm việc cho một thợ kim hoàn trên quảng trường Thánh Marks. Chị có năng khiếu trong việc kết hợp những thứ kì cục lại với nhau – chị làm vòng đeo tai và nhưng cái trâm từ kim cương giả, thủy tinh vỡ, thiếc gỉ và những vật bằng nhựa nhỏ xíu từ những cửa hàng một giá. Lượng khách quen của chị tuy ít nhưng trung thành. Tôi đã bất ngờ trở thành người viết bài phê bình về các nhà hàng cho một tờ tuần báo, nó khởi sự một cách lặng lẽ và dần trở nên quá nổi tiếng bất chấp những tiện nghi thiếu thốn và đội ngũ nhân viên thiếu kinh nghiệm. Khi tôi nhận công việc này, ngay sau khi rời NYU, tôi đã coi nó là bước đầu tiên dẫn đến sự nghiệp thực sự của mình trong đội ngũ nhân viên của một tờ tạp chí quốc gia hào nhoáng. Nhưng không ngờ tôi đã vô tình bước lên – gần như nằm ngoài mong đợi của tôi – nền tảng của một điều tốt đẹp. Trong ba năm, tòa soạn đã chuyển từ những văn phòng ẩm thấp trong khu bán quần áo đến một tòa nhà sang trọng trên quảng trường Thống Nhất. Đội ngũ nhân viên của nó đã tăng lên gấp ba. Và tôi đã được thăng chức từ nhân viên đánh máy và phóng viên không thường xuyên lên người phụ trách chuyên mục ẩm thực.

Điều trớ trêu là: tôi chẳng biết tí gì về đồ ăn thức uống cả. Đó là niềm đam mê của mẹ tôi, còn tôi lại luôn thờ ơ với mọi kiến thức về chủ đề này. Khi tổng biên tập quyết định mở thêm mục nhà hàng và bảo tôi là ông muốn tôi viết bài cho nó, tôi đã phản đối rằng tôi thậm chí còn không biết món bánh trứng Lorraine được chế biến thế nào. Ông nói: “Vấn đề là ở đó đấy. Nhiều người khác cũng đâu có biết.” Ông ngỏ ý sẽ tăng lương cho tôi, và giao cho tôi viết tối thiểu là sáu trăm chữ một tuần. Và thế là tôi trở thành Plain John, một nhân vật giàu có tương đối khiêm tốn, người đánh giá cao các món ăn ngon nhưng không nhảy dựng lên trước một chút bột gia vị bạch đậu khấu không mong muốn trong món xúp đặc nghiền nhừ có ớt, người thích đi ăn tối với bạn bè hoặc các cô nhân tình mỗi tuần đôi lần, và sẵn sàng bật dậy trước thứ gì đó hấp dẫn nếu cần. Tôi viết bài đánh giá về những nhà hàng Trung Quốc và Ba Lan, lùng sục khắp Manhattan để tìm được những loại hamburger, pizza và mì xào Thái ngon nhất. Tôi chỉ ra những nhà hàng thức thời nào phục vụ những khẩu phần nhỏ lố bịch, nơi nào sẽ gây ấn tượng sâu sắc nhưng lại không khiến các bậc cha mẹ lo lắng khi họ từ nơi khác đến thăm. Cả Clare và tôi đều sống dựa vào những bữa ăn được tờ báo chi trả, dù chúng tôi phải trả giá thông qua chế độ ăn thất thường của mình. Có tuần chúng tôi chỉ ăn mỗi món bánh bột ngô cuộn, tuần khác thì chẳng có gì vào bụng ngoài món vịt Bắc Kinh. Clare băn khoăn liệu việc mỗi tuần chỉ ăn mỗi một loại thức ăn như thế có thể gây hại lâu dài cho chúng tôi không. Chị mang về nhà nào vitamin, nào đồ uống làm từ cây lô hội, và bột protein được coi là thứ mà những vận động viên thể hình nổi tiếng ưa chuộng, những người đang nhe răng cười và làm động tác gồng mình trên những cái nhãn lòe loẹt sặc sỡ.

Chúng tôi bảo nhau rằng chúng tôi nên nói chuyện với đứa bé liên tục, ngay cả trước khi nó đủ tuổi để hiểu. Chúng tôi cùng nhất trí rằng tốt hơn hết là bố mẹ nên thành thật với con trẻ, cả về những việc xấu xa cũng như những điều thú vị.

Người tình một nửa khác của tôi tên là Erich. Anh và tôi đã làm tình với nhau, mặc dù anh không truyền cho tôi nỗi nhớ nhung cồn cào hay tâm trạng bồn chồn, khắc khoải khi kết hợp với khao khát sẽ tạo thành tình yêu. Tôi vẫn bình thản trước Erich. Thành thực mà nói, từ khi rời Cleveland tôi chưa bao giờ yêu người đàn ông nào mà tôi ngủ cùng – tôi không hề tới gần được cảm xúc đó, dù tôi đã biết hàng tá cơ thể trong mọi tâm trạng và thể xác khác nhau. Sự quan tâm của tôi trên thực tế là dành cho Clare và trên giả thuyết là cho những người đàn ông nào đó mà chúng tôi thấy trên những con đường trong thành phố: những người đàn ông mạnh mẽ không khao khát danh tiếng hay hạnh phúc thông thường mà chỉ hành động theo sự bất cẩn của mình. Tôi nhìn một cách kín đáo nhất có thể vào những gã du côn đi giày quân đội màu đen, những cậu chàng Italia ủ rũ và những đứa trẻ tóc dài hung bạo đến New York từ những thị trấn nhỏ, hi vọng tiếng tăm về tội lỗi của chúng vẫn được giữ vững.

Tôi biết những ham thích của tôi là phi lý và có lẽ không lành mạnh. Nhưng chúng vẫn cứ dai dẳng – chúng là miền khát vọng của tôi. Một cậu bé nào đó mà tôi thấy đôi lần ở quầy bán báo trên phố, với mái tóc rối bù và vẻ mặt cau có, có thể khiến tôi ngứa ngáy muốn huých khuỷu tay vào tay áo cậu. Người đàn ông mà tôi ngủ cùng có vẻ còn thiếu sót và xa cách.

Erich và tôi làm tình một hay hai lần một tuần, thường là ở nhà anh trong khu phố Hai mươi Đông. Chúng tôi đã gặp nhau hai năm trước, trong nhà hàng nơi anh làm phục vụ quầy bar. Tuần đó tôi đang viết bài đánh giá về những nhà hàng dành cho dân đồng tính nam – chuyên mục của tôi sẽ đánh giá nhiều địa điểm khác nhau nơi các độc giả đồng tính nam có thể đến cùng người tình của họ nếu họ muốn công khai nắm tay nhau trên bàn. Tối hôm đó tôi đi ăn một mình và nán lại quầy bar để uống một ly brandy trên đường ra ngoài. Tuy quầy bar không đông, nhưng người pha chế rượu vẫn mất gần năm phút để hỏi xem tôi muốn uống gì. Anh đang khom người từ phía đầu kia của quầy bar, tay khoanh trên mặt quầy như một bà nội trợ Flemish đang thò người ra khỏi cửa, khẽ gật đầu một cách nhịp nhàng, dứt khoát trước câu chuyện mà một ông già đeo đồ trang sức bằng vàng và quàng khăn màu xanh ngọc bích đang kể. Trong khi chờ đợi, tôi ngắm cái mông của anh chàng pha chế, nó nhỏ và chắc nịch, lắc lắc nhịp nhàng theo những cái gật đầu của anh.

Cuối cùng, ông già đang kể chuyện hất đầu về phía tôi, nói: “Tôi nghĩ cậu có một vị khách đấy.” Người pha chế ngoảnh lại với vẻ giật mình. Mặt anh ta mỏng, mũi và cằm quá nhọn so với tiêu chuẩn đẹp trai thông thường, dù sắc mặt anh ta hồng hào và đôi mắt mang màu xanh thơ ngây, e dè như của trẻ con. Đó là kiểu mặt khiến người ta có thể nản lòng khi nhìn vào trong gương, dựa theo thói kiêu hãnh của con người – một khuôn mặt lúc thì thấy đẹp lúc lại thấy xấu. New York đầy những khuôn mặt như thế, những khuôn mặt không đẹp lắm của đám thanh niên, những người bị các bà mẹ quan tâm quá mức và tin rằng, với hi vọng nghiêm túc dù hơi e dè, họ có thể tạo nên tương lai bằng vẻ ngoài của họ.

“Ôi, xin lỗi,” anh ta nói. “Anh muốn uống gì?”

Tôi gọi một ly brandy. “Tối nay việc kinh doanh có vẻ chậm chạp nhỉ?” Tôi hỏi.

Anh gật đầu, rót brandy vào một chiếc ly hẹp miệng cỡ lớn. Ông già quàng chiếc khăn màu xanh ngọc rút một điếu thuốc ra khỏi bao thuốc đang được ông đặt trên mặt quầy trước mặt, và nhét nó vào một cái bót thuốc lá ngắn bằng vàng với sự tập trung tỉ mỉ.

“Thường thì, anh biết đấy, nó vẫn hơi chậm thế mà,” nhân viên pha chế rượu nói.

Tôi ngờ rằng nhà hàng này sẽ chẳng tồn tại bao lâu nữa. Nó đang có dấu hiệu xuống dốc, và tôi biết ít nhiều về những gì tôi sẽ viết trong chuyên mục của mình vào ngày hôm sau. Một vài cụm từ đã nảy ra: “Một nơi tầm thường theo phong cách những năm năm mươi, phục vụ thứ thức ăn thông thường, hơi đáng xấu hổ”, “như một con tàu ma cứ trăm năm lại đi vào bến cảng lúc nửa đêm.” Đó là địa điểm mà bạn có thể được một bà cô già giàu có đưa đến, tuy nhiên khách hàng ở đây lại chỉ có những ông già và những anh chàng có vẻ thèm thuồng, háo hức thay vì những mệnh phụ mặc áo lông thú và đeo ghim cài áo.

“Chà, nói thật thì,” tôi nói, “nơi này hơi ghê ghê.”

Anh đặt ly brandy trước mặt tôi trên một cái khăn lót cocktail và liếc về phía ông già kia, người đang từ từ nhả ra những chùm khói qua lỗ mũi. “Đó có phải là điều ghê nhất không?” Anh nói nhỏ. “Tôi đang kiếm một công việc khác.”

“Có lẽ đó là ý kiến hay đấy,” tôi nói.

Anh lại liếc sang ông già đang hút thuốc và đứng yên ở đầu này của quầy bar. Anh khoanh tay trên mặt quầy và gật đầu.

“Anh sẽ ngạc nhiên khi biết rằng công việc pha chế rượu này khó kiếm như thế nào,” anh nói. “Ý tôi là, anh biết đấy, kiếm được việc ở những nơi tử tế ấy. Anh chưa từng đến đây bao giờ, đúng không?”

“Đúng.”

“Tôi không nghĩ là đã từng trông thấy anh.”

Một thoáng chăm chú lướt qua đôi mắt xanh nhạt của anh. Anh đang cố, nhưng không có vẻ tin chắc hay tò mò, tìm hiểu tôi. Tôi cho rằng quầy bar này là chốn thường xuyên lui tới của những thanh niên muốn kiếm tiền. Tôi không đủ đẹp trai để là một kẻ bán thân, cũng không mang vẻ giàu có đến mức được coi là một khách mua.

“Tôi chỉ muốn đến thử xem nơi này như thế nào thôi,” tôi nói. “Anh không thể cứ mãi đến mấy chỗ quen thuộc được.”

Ah gật đầu, không tin lắm. Đó không phải là một nhà hàng bình thường, không phải là nơi dành cho những người đàng hoàng.

“Anhh, ừm, làm việc ở quanh đây à?” Anh hỏi.

“Ở khu trung tâm,” tôi nói. “Tôi ở ngay đây thôi. Tôi làm nghề viết lách.”

“Thật à? Anh viết gì thế?”

Tôi nói cho anh ta biết tên tờ báo, và anh ta gật đầu với sự sốt sắng đặc biệt. Hồi đó tờ báo đang có tiếng. “Anh viết gì vậy?” Anh hỏi lại.

“Ồ, nhiều thứ. Mà này, anh sắp nghỉ chưa?”

“Ừm, một tiếng nữa chúng tôi sẽ đóng cửa.”

“Anh có muốn đi uống với tôi ở một nơi ít kinh khủng hơn không?” Tôi hỏi.

“Ồ, được chứ,” anh nói. “Ý tôi là, đồng ý.”

“Tôi tên là Jonathan.”

“Tôi là Erich. Tên tôi là Erich.”

Anh gật đầu khi giới thiệu tên mình. Trong mắt anh đã không còn vẻ e dè. Đây là công việc ngoài lề của tôi – tôi đã đến để làm quen với nhân viên pha chế rượu.

Tôi đi dạo và gặp anh một giờ sau đó ở một địa điểm trong khu phố Ba mươi. Anh đã đến trước tôi. Anh đứng ở quầy bar với một chai Budweiser, vờ như đang chăm chú với bộ phim của Esther Williams[41] trên màn hình video. Anh chào và khẽ gật đầu, như thể đồng tình với lời chào của anh.

[41] Esther Jane William (sinh năm 1921): diễn viên, vận động viên bơi lội nổi tiếng của Mỹ.

Tôi gọi một chai bia và chúng tôi bắt đầu trò chuyện. Chúng tôi nói về những chuyện bình thường, giới thiệu qua loa về lai lịch và những tham vọng của chúng tôi. Hôm đó là tối thứ Tư, đám đông ở quán bar chỉ còn thưa thớt. Hình ảnh những cô gái hát hợp xướng mặc đồ sặc sỡ đang vui đùa trong làn nước xanh biếc lấp lánh trên màn hình video khiến cho căn phòng như ngập tràn ánh hoàng hôn rực rỡ, liên tục đổi màu. Erich rất lơ đãng, anh là mẫu người cứ xé khăn ăn, gõ chân và không thể nghe được một nửa những gì người ta nói với mình. Tóc trên đỉnh đầu anh đã mỏng đi – tôi ngạc nhiên khi biết anh kém tôi ba tháng tuổi.

Sau thứ có vẻ là một khoảng cách thích hợp đối với cả hai chúng tôi – hai cốc bia – chúng tôi đến căn hộ của anh trên phố Hai mươi tư, nơi anh đã đem đến cho tôi sự ngạc nhiên thứ hai.

Anh rất tuyệt khi ở trên giường. Tôi không còn cách nào khác để diễn đạt điều đó. Có vẻ nó giống sự lột xác. Lúc bình thường, anh cứ bồn chồn và thiếu tập trung, bằng chứng là anh thường ngừng lại bất chợt và hay bật ra những điệu cười kì cục. Nhưng khi cởi quần áo, anh bỗng có được sự tự tin duyên dáng của một vũ công. Vóc dáng anh khiêm tốn và gân guốc, với hai cánh tay nổi gân và lồng ngực nở nang. Đêm đầu tiên đó, khi chúng tôi đến căn hộ của anh (một phòng đơn với căn bếp kiểu Pullman[42] và phòng tắm), anh cởi đồ nhanh chóng như thể anh đã mặc một bồ đồ dễ cởi, giống kiểu những diễn viên hài kịch thường mặc. Mới đây anh vẫn còn quần áo trên người, thế mà trong nháy mắt tôi đã thấy anh khỏa thân, trong khi tôi vẫn đang cởi nốt cái khuy áo cuối cùng.

[42] Căn bếp nhỏ được tận dụng từ những hốc tường và được che bởi cửa hoặc rèm.

“Này,” tôi nói, “sao anh làm được thế?”

Anh cười và giúp tôi cởi nốt quần áo. Những động tác của anh nhanh nhẹn và hiệu quả nhưng vẫn đầy dịu dàng. Anh đột ngột biến phong thái e dè, do dự thành sự tập trung điềm tĩnh và khéo léo, thong thả. Anh cởi khuy quần tôi và nhẹ nhàng tụt nó xuống mắt cá chân, rồi vòng tay quanh eo tôi và nhấc tôi lên giường, chỉ hơi căng thẳng một chút.

Anh không tạo ra hứng thú cho tôi. Tôi chỉ thấy hứng thú khi nghĩ về tình dục, về sự dễ chịu của nó – tôi đã ra ngoài và bắt gặp một người, một gã đàn ông bình thường sẵn sàng làm theo những gì tôi thích. Tôi thừa nhận rằng – trong những ham muốn của tôi có một nét bạo dâm. Một thói kiêu ngạo. Tôi lựa chọn những người đàn ông bình thường, những người sẽ không từ chối tôi; những người sẽ thấy may mắn khi có tôi. Tôi không rung động nhiều trước hình ảnh da thịt họ - dù vạm vỡ hay gầy gò thì vẫn luôn lúng túng và khoan khoái – mà chủ yếu vì cảm giác của tôi khi chiếm đoạt được họ. Khi Erich đưa tôi lên giường, tôi cảm thấy một sự hứng thú thông thường, quen thuộc. Tôi sẽ để anh điều khiển cuộc chơi nhưng rời khỏi căn hộ của anh tôi nhất định sẽ không phải là người chiến bại. Một phần trong tôi đã biến mất, ngay cả vào lúc này, khi ngực chúng tôi chạm nhau lần đầu tiên và chân chúng tôi vụng về tìm vị trí. Tôi không chỉ đơn giản như thế. Tôi cảm thấy một sự phấn chấn rạo rực nhưng không hoàn toàn dễ chịu, như thể một đàn ong đang vo ve trong ngực tôi.

Erich rúc vào vai tôi, nhẹ nhàng lướt những ngón tay dọc theo sườn tôi. Những đụng chạm của anh thật dịu dàng. Trong sự nghiêm túc và vẻ lơ đãng cùng ngoại hình không ưa nhìn của anh có vẻ gì đó ngọt ngào. Ở nó còn có vẻ gì đó đáng sợ.

Anh nằm trên người tôi một lúc, tới tấp hôn lên ngực tôi. Rồi anh khéo léo xoay cơ thể của chúng tôi để tôi nằm lên trên. Tôi nhìn trọn vẹn cơ thể anh, lần đầu tiên. Anh gầy nhưng có khung xương to, bụng nhiều lông hơn ngực. dương v*t anh nằm chếch về phía bên phải. Cái bụng rậm rạp, gầy gò và cái dương v*t nằm chênh chếch của anh đột nhiên làm tôi thấy chán nản. Thường thường với những người lạ, tôi vẫn có một khoảnh khắc bị sốc như thế này, khi mà tôi hoàn toàn hiểu rõ sự riêng tư của cơ thể họ. Nhìn vào thân hình gầy gò của Erich, tôi cảm thấy như mình đã bắt gặp anh đang hớ hênh. Tôi thấy một khía cạnh khác của anh, và nó đẩy tôi từ thích thú sang ghê tởm – sự kích động của tôi bị giảm đi, và tôi đành phải giả vờ, nhắm mắt nhắm mũi nhét dương v*t của anh vào miệng mình. Tôi đã nghĩ đến việc về nhà và uống gì đó với Clare. Ngay lúc chuyện này xảy ra, nó đã trở thành một câu chuyện mà tôi sẽ kể với chị. Chị và tôi sẽ cùng lắc đầu và bàn luận về sự khan hiếm tình yêu đến khó hiểu này.

“Hãy thư giãn đi,” Erich thì thầm. Tôi không trả lời, vì miệng tôi đang bị lấp đầy. Khi anh lặp lại, tôi ngẩng đầu lên và nói: “Tôi hoàn toàn thoải mái mà, cảm ơn.” Tôi sẽ đưa anh đến đích thật nhanh chóng, rồi tự làm mình đến đích, và trở lại là chính tôi, tự do trên đường phố.

Anh trườn ra, để tôi nằm sấp trên đệm. “Anh quá căng thẳng đấy,” anh nói. Tôi ngờ vực tuân theo, và anh bắt đầu xoa bóp lưng tôi, dùng những đầu ngón tay lần theo bờ vai và xương sống tôi. “Anh rất săn chắc,” anh nói. “Tôi có thể cảm nhận được qua đôi bàn tay mình.”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
597,378
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 2-2


Dù không muốn lắm, nhưng tôi vẫn phó mặc cơ thể mình cho đôi bàn tay anh. Tôi không thích bị nói là mình căng thẳng – có vẻ anh đã nhận ra một thói xấu trong tính nết của tôi. Khi làm tình, tôi luôn chuyển sang một tính cách không hẳn là của tôi. Lúc đó, tôi giống như một người anh trai giả định của mình, một người đàn ông khỏe mạnh, hơi bất cần, sống liều lĩnh, không hề có cái nỗi e sợ thỏ đế đang xâm chiếm bản thân kia của tôi. Ở bàn làm việc hay trên tàu điện ngầm, tôi thường mơ tưởng đến những người đàn ông mạnh mẽ, hung dữ, những người cần tôi xoa dịu nỗi đau của họ. Khi ở trên giường với những người lạ ngoan ngoãn, tôi chỉ nghĩ đến việc nhanh chóng đạt đến cực khoái và chuồn đi.
Erich xoa bóp lưng cho tôi với sự khéo léo nồng nàn, những ngón tay anh thuần thục day theo những huyệt đạo. Khi tôi nhận xét về sự thành thạo của anh, anh nói: “Tôi đã từng học một khóa về xoa bóp mà.” Sau này, tôi biết được rằng anh rất tin tưởng vào những chứng chỉ đạt được. Anh là một sinh viên cần cù trên đời này, và thích chia nhỏ mọi thứ theo trình tự. Anh còn từng học tiếng Pháp giao tiếp, sáng tác và làm chăn.
Dưới sự chăm sóc của anh, tôi không cưỡng lại được sự thư giãn ngoài ý muốn. Tôi chợt thiếp đi lúc nào không biết. Điều này hoàn toàn không giống tôi chút nào. Dù gần đây tôi thường thức khuya và làm việc cả ngày dài. Cảm giác đó giống như là bị gây mê. Mới đây tôi còn tỉnh táo, ngắm một bức ảnh đóng khung về hai người lạ có khuôn mặt dịu dàng dựng trên chiếc bàn kê ở đầu giường, thế mà thoáng chốc đã thấy mình bị một nụ hôn đánh thức khi đang thiu thiu ngủ.
Tôi giật mình và suýt thì nhảy ra khỏi giường. Trong một thoáng, tôi chẳng còn biết gì hết. Tôi đang ở đâu, và cái miệng có mùi nước hoa cologne này là của ai? “Suỵt,” anh thì thầm. “Không sao đâu.”
“Ôi, Chúa ơi, tôi đã ngủ sao?” Tôi hỏi. Tôi thấy chếch choáng và xấu hổ. Tôi có ngáy không nhỉ? Liệu tôi có chảy nước dãi không?
“Chỉ vài phút thôi mà,” anh nói. Anh hôn cổ tôi và dịu dàng nhưng chắc chắn chuyển vị trí xuống giữa hai chân tôi.
“Tôi không thể tin được,” tôi nói. “Anh biết không, tôi chưa bao giờ như thế.”
“Hãy cứ thoải mái đi,” anh nói.”Anh chỉ đang mơ đấy thôi.”
Không hiểu sao, tôi lại nghe theo. Dù bản năng tôi muốn quay trở lại là chính mình, nhanh chóng kết thúc chuyện này và tiếp tục cuộc sống riêng của mình, nhưng tôi vẫn quyết định thư giãn. Tôi cảm thấy một khoái cảm đầy ngạc nhiên và thú vị. Tôi để Erich chủ động và cuộc làm tình của chúng tôi trôi qua như thể tôi đang trong một giấc mơ thực sự. Anh làm chuyện này theo cái cách anh theo đuổi tất cả các kế hoạch của mình, với sự chăm chú tỉ mỉ của một học giả. Tuy cuộc làm tình của chúng tôi thiếu sự phóng túng của niềm đam mê đích thực, nhưng nó lại có một sự vững chắc bài bản cũng thú vị không kém. Erich có thể rót đúng một ounce whisky mà không cần phải đo. Và anh có thể biết được phải thọc sâu đến mức nào, khi nào thì rút ra, khi nào thì thêm vào một động tác bất ngờ. Tôi phó mặc bản thân cho điều đó. Anh thích được làm chủ, và tôi từ bỏ cái khao khát muốn gây ấn tượng của mình.
Đêm đó chúng tôi làm tình ba lần. Sau lần đầu tiên, chúng tôi không rời nhau ra. Tôi không có ý định chuồn đi nữa. Anh ôm tôi, và tôi vuốt ve bắp đùi lưa thưa của anh. Tôi có thể ngửi thấy mùi mồ hôi anh, găn gắt nhưng không khó chịu. Chúng tôi ôm nhau trong im lặng khoảng mười phút. Rồi anh nói: “Anh đã sẵn sàng tiếp tục chưa?”
Lúc tôi mặc quần áo, căn hộ của anh đã phần nào bớt đi vẻ xa lạ. Nó không còn là một nơi ở thuận tiện hay thậm chí đặc biệt thoải mái nữa – một căn phòng gần như kín bưng nằm trong một tòa nhà gạch trắng có vẻ đã được xây vội hồi đầu những năm sáu mươi. Trong đó kê một cái giường thấp phủ chăn, một dàn âm thanh và ti vi, và một chiếc sofa màu đen to lớn kì cục mà, vào lúc bình minh, sẽ bắt đầu chức năng thường nhật của nó với việc hứng lấy bất cứ tia sáng nào rọi vào qua ô cửa sổ duy nhất. Trên tường là một tấm áp phích đóng khung bằng bạc, phỏng theo một bức họa của Matisse[43] về một căn phòng trướng rủ màn che màu mè lòe loẹt, thiếu vắng sự sống, ngoại trừ ba con cá vàng hình dao găm đang lững lờ bơi trong một cái chậu cá cảnh màu xanh nhạt. Căn hộ của Erich giống như phòng đợi của bác sĩ. Nó chẳng gợi nhắc gì mấy đến việc có người sống trong đó ngoài một vẻ u sầu mong manh. Tuy nhiên, lúc tôi mặc xong quần áo và ghi lại số điện thoại của anh rồi để lại số của tôi trên một mảnh giấy, căn hộ đã mang vẻ thực tế hơn. Nó không có vẻ bớt trống trải hơn chút nào so với lúc chúng tôi mới đến, mà chỉ bắt đầu tiết lộ rằng quả thực vẫn có người sống trong này. Một chấm sáng đỏ nhấp nháy trên máy trả lời tự động, báo hiệu cho những tin nhắn chưa được nghe. Tôi thổi một nụ hôn gió về phía Erich từ ngưỡng cửa, khẽ nói “Hẹn gặp lại” và đi bộ ba tầng cầu thang để xuống phố.
[43] Henri Matisse (1869-1954): họa sĩ người Pháp, nổi tiếng với khả năng sử dụng màu sắc và chất lỏng cũng như khả năng hội họa. Ông là nhân vật tiên phong của trường phái Dã thú.
Thường thường đây vẫn là khoảnh khắc ưa thích của tôi, sau khi cuộc làm tình kết thúc và tôi đã quay trở lại với chính mình, vẫn trẻ trung và đầy sức sống, tự do đi bất cứ đâu. Tuy nhiên, tối nay tôi lại thấy bức tức và có cảm giác không trọng lượng, tôi không thể lấy lại được cảm nhận về bản thân. Con phố Hai mươi tư nằm yên lặng trong bể ánh sáng màu vàng sẫm. Một ả gái điếm cô độc tha thẩn với đôi tất dài màu đen và một cái áo khoác lông, một quầy hàng nông sản bán thâu đêm đang chất đầy nào cam, nào táo nhẵn bóng và những bông cẩm chướng nhuộm xanh cho ngày lễ Thánh Patrick. Tôi đã được truyền sang một niềm khoái lạc len lỏi trong nỗi tiếc nuối mơ hồ. Thứ gì đó đã mất đi, ít nhất là trong lúc này – và giới hạn của khả năng. Tôi đã đi qua hai mươi dãy nhà trên đường về nhà, nhưng không thể lay chuyển được cảm giác đó. Nó theo tôi dai dẳng như một tên trộm.
Mãi đến hơn bốn giờ tôi mới về nhà. Clare đang ngủ. Khi tôi gặp chị vào tối hôm sau, tôi không kể nhiều về Erich với chị. Clare và tôi thường trò chuyện về đàn ông với cùng một thái độ khinh khỉnh mỉa mai, và tôi không biết phải giới thiệu thế nào về một người đàn ông như Erich. Không phải là tôi đang yêu, nhưng lần này một cuộc làm tình buổi đêm đã không còn là một hài kịch vụng về nữa, một sự tuyệt vọng hay nỗi chán chường nữa.
Clare nói: “Cậu chẳng kể gì cả, Jonathan. Thực sự thì có chuyện gì vậy?”
“Chẳng có gì,” chúng tôi đang ngồi trên sofa và uống Pernod. Pernod là thức uống gần đây của chúng tôi. Chúng tôi có thói quen sùng những loại rượu khác nhau dù không mấy trung thành với chúng.
“Cậu đang có vẻ thận trọng quá đấy,” chị nói. “Mà cậu đâu phải mẫu người như thế. Anh chàng này có vẻ là một người đặc biệt đúng không? Thực sự thì cậu đang giấu chuyện gì vậy?”
“Anh chàng này là một diễn viên trong tương lai, anh ta đang phục vụ đồng uống ở một nơi đáng sợ. Anh ta bỗng dưng lại là một bạn tình tuyệt vời.”
“Cưng à, đừng có nói qua quýt như thế,” chị nói. “Tôi đã gặp bạn tình tuyệt vời cuối cùng của tôi, năm nào nhỉ, 1979 hay sao ấy? Hãy kể chi tiết một chút nào đi. Hãy kể đi. Đây là dì Clare của cậu mà.”
Chị nốc một hơi rượu thật dài, và tôi nghĩ rằng tôi thấy được ẩn sâu dưới sự tha thiết thân mật đó của chị là nỗi e sợ nhạt nhòa rằng rồi tôi sẽ rời bỏ chị, rằng tôi sẽ bị chìm đắm vào tình yêu. Nó hiện rõ trong đôi mắt và trên miệng tôi, khóe miệng ấy có thể trở nên nghiêm nghị và bất đồng bất chấp màu son đỏ chói.
“Cưng ơi, có những nơi mà ngay cả những người bạn thân nhất cũng không thể tới cùng nhau,” tôi nói.
“Ôi, không đúng,” chị nói. “Cậu không có ý như thế, cậu chỉ xấu hổ về vấn đề này. Đúng không?”
Clare và tôi không hề giữ bí mật nào với nhau – đó là khía cạnh hấp tấp, liều lĩnh trong tình bạn của chúng tôi. Có lẽ nó là sự thay thế cho kiến thức sinh học mà những cặp đôi khác lượm lặt được từ tình dục. Clare và tôi thú nhận với nhau mọi chuyện. Chúng tôi lột trần bản thân mình và liệt kê những khuyết điểm của mình ra. Chúng tôi biết rõ về những mơ mộng ngớ ngẩn nhất của nhau, thú nhận về những dối trá, thói tham lam cùng những lời tự tâng bốc của chính mình. Chúng tôi mô tả tất cả những vướng mắc về sinh lý và biết rõ tình trạng gan ruột nhau.
Và bây giờ, lần đầu tiên, tôi muốn giữ riêng một điều gì đó cho mình. Tôi không rõ là vì sao. Có lẽ đó là một điều rất mơ hồ và tôi mong muốn được giữ lại. Erich đã làm tôi ngạc nhiên vì sự dịu dàng của anh. Điều gì đó ở anh đã làm tôi động lòng – chẳng hạn như: sự hào hứng thấy rõ và những hi vọng mong manh của anh. Điều gì đó ở anh khiến tôi tức giận. Tôi không biết cảm giác của mình là gì và cũng không thích bị buộc phải đặt tên cho những cảm giác đó. Có lẽ tôi sợ rằng khi miêu tả chúng quá sớm, tôi sẽ làm kiệt quệ tiềm năng thay đổi hay phát triển của chúng. Có thể tôi đã đúng.
Nhưng tối hôm đó tôi quyết định không giữ lại những bí mật. Tôi cũng sợ sự cô độc và sự ruồng rẫy, và tôi biết tôi sẽ không bao giờ sống với Erich. Cùng lắm thì anh sẽ là bước đầu tiên dẫn tôi đến với một thứ gì đó mơ hồ nằm ngoài không khí gia đình ấm áp mà tôi sẻ chia với Clare. Chị mới là tình yêu quan trọng nhất của tôi trên đời này. Tôi không có một nửa nào khác gắn bó với mình quá sâu sắc như thế.
Vì thế tôi kể hết với chị. Hóa ra cũng không có gì nhiều để kể. Khi tôi kể xong, Clare nói: “Cưng à, cậu vừa tìm thấy một Bác sĩ Tâm lý cho mình đấy.” Chị hát vài câu từ bài hát của Aretha. “Đừng có gợi một tay bác sĩ nào cho tôi cả, họ chỉ biết tống đầy thuốc vào người tôi thôi, tôi đã tự kiém cho mình một người đàn ông tên là Bác sĩ Tâm lý, người đã khiến cho tôi thấy thực sự thoải máiiiii.”
Đó có vẻ là một lời giải thích hiệu quả, ít nhất là trong thời điểm này. Erich sẽ là Bác sĩ Tâm lý. Từ đêm đó, càng gọi anh bằng cái tên ấy, tôi càng thấy nó phù hợp với anh. Clare và tôi tiếp tục mối quan hệ chị em của chúng tôi với sự gắn bó vẫn nguyên vẹn. Tôi đã tự tìm cho mình một điều thú vị nho nhỏ bên cạnh mối quan hệ đó. Clare khuyên tôi cứ tận dụng nó cho đến khi nào nó không còn giá trị, vì tôi hoàn toàn có thể làm được điều đó. Đó có vẻ là một lời khuyên chí lý.
Do đó, Erich và tôi bắt đầu hẹn hò. Vì anh làm việc vào ban đêm nên chúng tôi thường gặp nhau sau mười một giờ. Chúng tôi thường đi uống một hai ly rượu ở quán bar rồi về nhà anh.
Tôi không biết nhiều về cuộc sống riêng của anh. Anh có một tham vọng duy nhất, một tham vọng mơ hồ nhưng dai dẳng: được công nhận. Phương tiện mà anh dùng để đạt được sự công nhận đó là không mấy chắc chắn – anh chỉ đơn giản tìm kiếm một cơ hội, cố gắng để được chú ý đến. Anh đi thử vai cho bất cứ thể loại nào. Thậm chí anh còn đi thử giọng cho các vở nhạc kịch Broadway dù anh không biết hát. Anh làm việc mười bốn tiếng mỗi ngày cho một vai quần chúng trong bất cứ bộ phim nào được quay ở New York, và vào lễ Giáng sinh sẵn sàng sắm vai một anh lính người máy to quá cỡ cho cửa hàng đồ chơi F.A.O. Schwarz. Anh liên tục tham gia các lớp học diễn xuất, hùng hồn bày tỏ tham vọng được trở thành một diễn viên giỏi hơn, nhưng khi tôi quen anh lâu hơn, tôi bắt đầu nhận ra rằng diễn xuất thực sự không phải là điều mà anh quan tâm nhất. Sự hoan nghênh mới là mục đích của anh, và công việc theo hợp đồng ở cửa hàng đồ chơi nọ đại khái đã tạo cho anh một cảm giác thỏa mãn pha lẫn khổ sở mà anh sẽ nhận được từ việc đóng vai chính trong một vở diễn ở Broadway. Anh thích một sự theo đuổi có phương pháp và luôn mong chờ được chú ý, chứ không mơ đến một thành tựu. Trong cuộc sống đời thường, anh gần như vô hình – anh mặc quần jean và áo phông có cổ, lắp ba lắp bắp trong những cuộc trò chuyện đơn giản nhất, và sống một mình trong một căn hộ trống trải. Nhưng khi ở cửa hàng Schwarz trong mùa Giáng sinh, anh không bao giờ thoát vai, không bao giờ ngừng những động tác cứng nhắc như robot trong suốt ca ngày làm việc. Trong chiếc quần đùi thể thao và một ngày ba mươi độ, anh chạy bộ bốn mươi lăm lần ở cùng một dãy nhà trên phố Bleecker, vì đang là nhân vật làm nền mờ nhạt trong một bộ phim sẽ không bao giờ được trình chiếu. Vào ban đêm, khi đèn đã tắt, anh rất tuyệt khi trên giường.
Dù tôi gặp anh một hay hai lần mỗi tuần, tôi vẫn không hiểu được anh. Tôi ngờ rằng anh lo là nếu tôi – hay ai đó – hiểu được anh quá rõ, sự vận động của cuộc đời anh sẽ phần nào chậm dần – cái số phận vô danh của anh rồi sẽ được xác nhận. Bản thân tôi lại e rằng anh đang trên bờ vực bị chi phối hoàn toàn bởi mong muốn của người khác. Tôi nghĩ rằng đến một thời điểm nào đó, khi anh đã hoàn toàn hết hi vọng về việc đạt được danh tiếng, anh sẽ biến mình thành một người hâm mộ, tìm kiếm một người tình và vui vẻ từ bỏ mọi vết tích về cái quyết tâm cũ đó của anh. Có lẽ tôi đã cảm thấy thế ngay lần đầu trông thấy anh, khi anh gật đầu vui vẻ trong cuộc trò chuyện ở quán bar với một ông già. Anh đang rèn luyện sự tập trung. Tôi không muốn chúng tập trung quá mãnh liệt lên tôi.
Khi chúng tôi ở bên nhau, chúng tôi nhấn mạnh đến những chi tiết cục bộ: những câu chuyện chúng tôi gặp phải ở chỗ làm, những bộ phim mà chúng tôi thích hoặc ghét. Cuối cùng, trong cuộc hẹn có lẽ là thứ mười hay mười lăm gì đó, khi chúng tôi đang nằm im lặng trên cơ thể nhau, người vã mồ hôi, anh nói: “Mà, ừm, tóm lại thì anh là ai?”
“Gì cơ?”
Tại anh đỏ lên. Tôi ngờ rằng đó là một lời thoại được anh lấy ra từ trong một bộ phim.
“Ý tôi là, tôi thực sự không biết gì về anh,” anh nói.
“Tôi cũng không biết nhiều về anh,” tôi nói. “Tôi chỉ biết sơ qua rằng anh là một diễn viên, hiện đang làm nhân viên pha chế rượu. Anh muốn đổi việc nhưng chẳng làm gì nhiều để thực hiện điều đó, và anh thích phim Cánh đồng chết.”
“Ờ, tôi lớn lên ở Detroit,” anh nói.
“Tôi cũng đến từ miền Trung Tây đấy.”
“Tôi biết. Từ Cleveland.”
Sau một lúc ngừng, anh nói: “Chà, thật thú vị. Chúng ta đều là người miền Trung Tây. Điều đó thực sự, anh biết đấy, làm sáng tỏ được rất nhiều, đúng không?”
“Không, nó chẳng làm sáng tỏ được mấy,” tôi nói. Tôi tin rằng cuộc trò chuyện này là khởi đầu cho sự kết thúc của chúng tôi, và tôi không hoàn toàn bận tâm. Tạm biệt, Bác sĩ Tâm lý. Hãy để tôi quay lại trên phố, trở lại là chính tôi, với ý thức cũ của tôi về một tương lai vô tận.
Một lúc sau, anh nói: “Tôi từng chơi nhạc. Khi tôi còn nhỏ. Tôi rất mê âm nhạc. Tôi luôn mơ về nó. Tôi đã có những giấc mơ chỉ toàn là âm nhạc, chỉ… riêng âm nhạc mà thôi.”
“Thật à?” Tôi hỏi. “Anh chơi nhạc cụ gì?”
“Dương cầm. Cello. Một chút vĩ cầm.”
“Anh còn chơi không?”
“Không,” anh nói. “Không bao giờ chơi nữa. Anh biết đấy, tôi chơi không giỏi lắm. Tôi chỉ chơi được tàm tạm thôi. Nhưng không thật sự giỏi.”
“Tôi hiểu.”
Chúng tôi nằm bên nhau một lúc trong sự im lặng bứt rứt, chờ xem điều gì sẽ xảy ra tiếp theo. Chúng tôi không phải bạn bè cũng không phải tình nhân. Chúng tôi không có một ràng buộc tự nhiên nào ngoài vấn đề tình dục. Tôi tin rằng tôi có thể cảm thấy sức nặng trong nỗi bất hạnh của Erich như một thợ lặn cảm thấy áp lực từ đại dương, nhưng tôi không thể giúp anh. Đây là cái giá mà chúng tôi phải trả vì đã ngủ cùng nhau trước rồi mới làm quen với nhau – chúng tôi đã chia sẻ một sự thân mật mà không hề hiểu biết về nhau hay có tình cảm với nhau. Tôi không thể lắng nghe những lời thú nhận của Erich. Tôi không biết rõ anh đến mức làm được điều đó. Tôi nhớ đến lời khuyên của Clare – hãy cứ tận dụng nó trước khi nó hết giá trị.
“Nghe này,” tôi nói.
Anh đặt một ngón tay lên môi tôi. “Suỵt,” anh thì thầm. “Đừng nói. Bây giờ thực sự không phải là, anh biết đấy, lúc thích hợp để nói.” Anh bắt đầu vuốt tóc tôi và nhay nhay dọc theo vai tôi.
Mối quan hệ của chúng tôi vẫn còn mang tính ngại ngùng, giữ kẽ. Mỗi lần chúng tôi gặp nhau, có vẻ như chúng tôi mới gặp lần đầu tiên. Nhiều tháng sau, khi tôi hỏi Erich về tình yêu âm nhạc trước đây của anh, tất cả những gì anh nói là: “Hết rồi. Đó chỉ là, anh biết đấy, chuyện xưa rồi. Gần đây anh có xem bộ phim nào không?” Đôi khi những cuộc trò chuyện của chúng tôi bị sa lầy, và những khoảng im lặng kế tiếp tạo cho cả hai cảm giác không được thoải mái. Anh chưa bao giờ đến nhà tôi, chưa bao giờ gặp Clare hay bất cứ người bạn nào khác của tôi. Tôi tạm rời bỏ cuộc sống quen thuộc của mình để đến gặp anh ở nhà anh. Khi ở bên Erich, tôi mang một tính cách mới. Tôi mạnh mẽ và hơi vô tình, hơi lố lăng. Mối quan hệ của chúng tôi chỉ diễn ra ở mức độ xác thịt, và điều đó có vẻ thích hợp với chúng tôi. Bất cứ điều gì khác cũng sẽ là ủy mị, gượng gạo, hớ hênh. Chúng tôi không xâm phạm vào đời tư của nhau. Tôi tin rằng trong chừng mực nào đó, chúng tôi còn xem thường nhau. Vì tôi không mang theo gì khác ngoài sự kích động và thể lực vào việc này, tôi thấy tôi có thể ồn ào một cách đáng ngạc nhiên trên giường. Tôi có thể điềm nhiên bước đi trên sàn nhà, tiếng giày bình bịch như tiếng rìu bổ. Và tôi có thể trở nên hơi dữ tợn. Tôi có thể cắn vào da thịt Erich mạnh đến nỗi để lại những vết hình vỏ trai màu đỏ trên thân thể anh. Tôi có thể mường tượng ra hình ảnh của anh – một người đàn ông vô danh – bị xích tay, làm nhục, lột trần và bị cột vào một cỗ máy Kafkaesque, và bị nó hãm hiếp một cách tàn nhẫn.
Trong cuộc đời kia của tôi, tôi đi chơi hằng đêm với Clare, ăn đậu viên rán, gà nướng hay đồ ăn Việt Nam. Chúng tôi tranh luận về việc trẻ con nên được phép xem ti vi bao lâu. Chúng tôi nhất trí rằng bản thân sự nghiêm khắc của các trường công đã là một sự giáo dục, và nó sẽ cân bằng với những kiến thức tầm thường của các giáo viên. Đôi khi những ông bố trẻ tuổi đẹp trai sẽ đi qua cửa sổ của bất cứ nhà hàng nào mà chúng tôi đang ngồi, đẩy những cái ghế đẩy hay kiệu những đứa con đang say ngủ trên vai. Tôi luôn ngắm họ khi họ đi qua.
Đó là cuộc sống của tôi giữa thời đương nhiệm của Tổng thống Reagan.
Rồi Bobby đến sống ở New York.
BOBBY
Tôi đã ở cùng với chú Ned và cô Alice gần tám năm. Trong khoảng thời gian đó, tôi chẳng có ham muốn làm gì và cũng không muốn thay đổi, trong tám năm, tôi bơm những bông hồng lên những chiếc bánh sinh nhật và nghĩ đến các món ăn sẽ nấu cho bữa tối. Mỗi ngày là một chương trình giống hệt nhau, và vẻ đẹp của chúng chính là sự giống nhau hoàn toàn đó, ngày nào cũng như ngày nào. Giống như là ma túy, sự lặp đi lặp lại làm thay đổi kích cỡ của mọi thứ. Một ngày đầy đủ và trọn vẹn của tôi là khi những ổ bánh mì quế ra lò thật hoàn hảo và bầu trời chuyển từ mưa sang tuyết. Tôi vỗ vỗ những quả dưa ở cửa hàng thực phẩm, thọc tay vào bới những quả hồ đào trong thùng. Tôi mua những đĩa hát mới. Tôi không yêu ai. Tôi không đến thăm mộ của gia đình tôi, ba tấm bia nằm cùng một hàng. Tôi chờ măng tây và cà chua xuất hiện trở lại, và bật đĩa nhạc Blonde on blonde của Bob Dylan cho đến khi những cái rãnh trên đĩa bị mòn đi. Tôi sẽ còn sống như thế cho đến ngày nay nếu chú Ned và cô Alice không chuyển đến Arizona.
Bác sĩ đã tuyên bố là: Không khí ở Ohio, với mùi dã thú và nước hồ, quá nặng nề cho hai lá phổi kiệt quệ của chú Ned. Chỉ còn cách chuyển đến sa mạc hoặc bắt đầu lên kế hoạch cho đám tang. Đó là những gì ông ta nói.
Ban đầu tôi nghĩ mình sẽ đi với họ. Nhưng cô Alice đã bảo tôi ngồi xuống để nói chuyện. “Bobby,” cô nói, “con yêu, đã đến lúc con ra ngoài tự lập rồi đấy. Con sẽ làm gì ở Arizona hả?”
Tôi bảo cô rằng tôi sẽ kiếm một công việc làm bánh. Tôi bảo cô rằng tôi vẫn sẽ làm công việc hiện tại, chỉ là thay đổi địa điểm thôi.
Đôi mắt cô nhíu lại, tối sầm. Một nếp nhăn kì quặc, một đường thẳng đứng lõm sâu, hiện lên trên trán cô. “Bobby, con đã hai mươi lăm tuổi rồi. Con không muốn một cuộc sống hơn thế này sao?”
“Con không biết,” tôi bảo cô. “Ý con là, đây cũng là một cuộc sống, và con cũng khá thích nó.”
Tôi biết lời nói đó của tôi nghe như thế nào – trì độn và ngu ngốc, như một người họ hàng bị bỏ rơi và cứ thui thủi chơi một mình, như thể cậu ta đã tính sẵn như thế. Tôi không thể nói cho cô hay về vẻ đẹp thường nhật, và rằng tôi không hề chán việc ngắm ánh nắng sớm lúc sáu giờ sáng trên những đường dây điện thoại. Khi còn nhỏ, tôi đã mong được thoát ra khỏi khoảng trống giữa bản thân mà tôi biết và thứ mà tôi nghe mình nói. Tôi đã mong mình giống với một chỉnh thể duy nhất hơn.
“Con yêu, còn có nhiều điều hơn thế này,” cô nói. “Hãy tin cô.”
“Cô không muốn con đến Arizona,” tôi nói bằng giọng của một người họ hàng bướng bỉnh. Tuy nhiên, đó là điều tôi cần phải nói.
“Đúng. Thực sự, cô không hề muốn. Cô đang đẩy con ra khỏi tổ, điều mà đáng lẽ cô nên làm từ lâu rồi.”
Tôi gật đầu. Chúng tôi đang ở trong bếp, và tôi có thể thấy bóng mình phản chiếu qua ô kính cửa sổ. Lúc đó trông tôi thật to lớn, như một kẻ kì cục trong lễ hội hóa trang, với cái đầu to như chiếc mũ bảo hiểm của môn bóng bầu dục và đôi cánh tay dài nghêu thõng xuống gần sát sàn nhà. Thật kì lạ, vì tôi vẫn luôn nghĩ mình là một người bé nhỏ và còn khá trẻ con, gần như vô hình.
“Con có hiểu cô đang nói gì không đấy?” Cô hỏi.
“Có ạ.”
Tôi hiểu rằng cuộc đời tôi sẽ thay đổi dù tôi có muốn hay không. Tôi hiểu rằng nguồn cung cấp cho liều thuốc đặc biệt này – những chiếc khăn lau bát kẻ ca rô màu đỏ và chiếc bình sành đựng thìa gỗ này – sắp sửa cạn kiệt.
Tôi quyết định đến New York. Đó là nơi hợp lý nhất. Cuộc sống ở Cleveland của tôi đã phụ thuộc vào cô Alice và chú Ned – tôi cần lau nhà và nấu bữa tối cho họ. Tôi cần bảo vệ và chăm sóc họ. Mặt khác, Cleveland là nơi mà mọi thứ đều không thể xảy ra. Không khí sực mùi thất vọng; nước sông đặc quánh như xi rô làm từ nhựa cây thích, những trung tâm mua sắm xây bằng bê tông xỉ than với ba trong số năm tòa nhà vẫn còn trống. Khi làm việc ở tiệm bánh, bạn sẽ biết được sự bất hạnh của người địa phương. Người ta nhét toàn bộ những chiếc bánh vào nỗi buồn của họ, hàng tá những cái bánh sô-cô-la hạnh nhân, bánh quy và bánh Mismarck. Sự đều đều trong những ngày tháng tôi sống với chú Ned và cô Alice giống như là một ngọn lửa trại. Tôi thích điều đó ở Cleveland. Thế nhưng, không có họ, ở đó sẽ chỉ còn những bến xe buýt và những cơn gió thổi đến từ hồ Erie. Tôi không định biến mình thành một con ma quá sớm như thế.
Tôi gọi điện cho Jonathan. Tôi làm thế với nỗi lo lắng thực sự - lúc đó chúng tôi giống như những người thân hơn là bạn bè. Chúng tôi mua quà và hút cần sa cùng nhau trước những bữa tiệc Giáng sinh. Thế là đã đủ thân thiết. Nhưng các kì nghỉ cách nhau hàng tháng trời, và cậu mặc những bộ đồ mà tôi sẽ không bao giờ nghĩ là mình sẽ mặc. Cậu nói chuyện về rạp hát, tôi đi xem phim cùng chú Ned hay xem ti vi với cô Alice. Tôi nằm trong phòng tôi – trước đây là phòng cậu – hàng giờ liền, chỉ để nghe nhạc. Jonathan nhanh nhẹn và sáng dạ, đang trên đường thành công, và dù tôi yêu quý cậu, nhưng những chuyến thăm nhà của cậu luôn khiến tôi thấy bối rối. Khi cậu có mặt, tôi có thể giống như một người anh em họ nhút nhát, hay tệ hơn nữa, giống như một ông chú độc thân, một mẫu người dễ dãi, vui tính, nông cạn. Jonathan dường như đã thu nhỏ lại cuộc sống của tôi, và tôi không thể ngừng mong ngóng ngày cậu bay trở về New York, vì tôi biết vào ngày hôm đó, cuộc sống của tôi sẽ trở lại với kích cỡ phù hợp, và tôi có thể đi trên những con phố Ohio mà không có cảm giác của một kẻ tị nạn, thất bại.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
597,378
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 2-3


Tuy nhiên, khi cuộc sống ở Cleveland của tôi đã kết thúc, tôi gọi điện cho Jonathan. Tôi không muốn có một cuộc sống mới tùy tiện ở Boston hay Los Angeles. Tôi không thể tưởng tượng đến cảnh mình phải sống quá cô độc. Và dù tôi khá thân thiết với Rose, Sammi và Paul ở tiệm bánh, tôi không có cái mà người ta thực sự gọi là bạn bè. Trên đời này bạn không cần thiết phải gặp nhiều người. Bạn không cần phải làm thế khi bạn quá đắm chìm vào âm nhạc và để mặc thì giờ trôi qua.

Trong vài lần đầu gọi đến, tôi chỉ gặp máy trả lời tự động của Jonathan, và không thể nói chuyện với nó. Mỗi lần cái máy cất tiếng trả lời, tôi lại dập ống nghe với một tiếng bụp nho nhỏ. Cuối cùng, sau gần một tuần cố gắng, đích thân cậu cũng trả lời.

“Alô,” cậu nói.

“Jon à? Jonny à?”

“Ừm.”

“Jon ơi. Bobby đây.”

“Bobby à? Ôi, ngạc nhiên quá. Mọi chuyện ổn chứ?”

Tình bạn giữa chúng tôi đã trở thành như thế đấy. Một cú điện thoại của tôi sẽ khiến cậu nghĩ đến những tin tức xấu xảy ra với gia đình.

“À, ừ,” tôi nói. “Mọi chuyện đều ổn cả. Tốt đẹp và hoàn hảo, không thể tốt hơn được nữa.”

“Tuyệt. Cậu thế nào?”

“Mình ổn. Mình rất rất ổn. Còn cậu thì sao?”

“Chà, mình vẫn vậy,” cậu nói. “Cậu biết đấy. Cuộc sống vẫn đang tiếp diễn mà.”

Một sự thôi thúc ập đến với tôi, khiến tôi muốn nói, “Chà, vậy là tốt, tạm biệt” rồi gác máy. Nhưng tôi đã nén lại được. Một hình ảnh từ cái tương lai sắp tới ở Cleveland trôi qua trước mặt tôi. Vào ngày sinh nhật tới của tôi, tiệm bánh sẽ tổ chức cho tôi một bữa tiệc. Rose, người lúc đó đã bảy mươi tuổi, sẽ hôn và để lại một dấu son môi lên má tôi và gọi tôi là anh bạn trai tuyệt nhất của bà. Sẽ có một chiếc bánh miễn phí cho tất cả khách hàng. Chúng tôi sẽ dành một miếng lớn cho George Dubb, anh chàng độc thân nặng hơn một tạ, người mua những chai Napoleon và một tá bánh quy Linzer mỗi ngày.

“Nghe này,” tôi nói. “Ừm. Cậu biết là chú Ned và cô Alice sắp chuyển đến Arizona chứ?”

“Ừ, dĩ nhiên là mình biết rồi. Mình nghĩ việc đó sẽ tốt cho họ. Đáng lẽ họ cần thay đổi môi trường sống từ khoảng năm 1953 kia!”

“Đúng vậy. Ừm, cậu biết đấy, vì họ sắp chuyển đi, nên mình đang nghĩ là, ờ, mình còn ở đây làm gì nữa nhỉ? Người ta đã san phẳng Ánh trăng rồi đấy, cậu đã nghe kể về việc đó chưa?”

“Chưa,” cậu nói. “Chúa ơi, mình đã không nghĩ về nơi đó suốt mười năm rồi. Cậu vẫn còn đến đó à?”

“Ồ, không. Mình và cậu từng đến đó một lần mà. Nhớ không? Để dùng ma túy ấy.”

“Mình sẽ chẳng bao giờ quên. Mình đã mất cả đêm để xỏ giày trượt vào và lướt một vòng quanh sân băng.”

“Giờ thì nó không còn nữa rồi,” tôi nói. “Giờ nó đã trở thành một Midas Muffler.”

“Thế à?”

“Jon này.”

“Gì?”

“Mình đến New York được không? Ý mình là, mình có thể ở với cậu một thời gian không? Chỉ đến khi mình có, ờ, một công việc và một căn hộ thôi, được chứ?”

Một thoáng im lặng. Tôi có thể nghe thấy tiếng lao xao của tất cả những giọng nói xen vào khoảng không cách xa hàng dặm giữa Jonathan và tôi. Cậu nói: “Cậu thực sự muốn đến New York à?”

“Ừ. Mình rất muốn. Mình nghĩ là mình rất muốn.”

“Đây là một nơi hỗn độn, Bobby ạ. Tuần trước có người đã bị giết cách chỗ mình ở chỉ vài dãy nhà. Họ tìm thấy thi thể người đó trong bốn thùng rác khác nhau đấy.”

“Mình biết đó không phải là Cleveland,” tôi nói. “Mình biết thế. Nhưng, Jonny này. Mình, ờ, lúc này cũng bận túi bụi với việc rắc đường lên bánh ở đây. Ý mình là, đến giờ mình đã làm được cả triệu cái bánh nướng xốp rồi.”

Cậu lại để một thoáng im lặng khác trôi qua đường dây điện thoại. Rồi cậu nói: “Nếu cậu thực sự muốn thử sống ở New York, dĩ nhiên cậu có thể đến ở với mình. Dĩ nhiên là thế. Mình sẽ xem mình có thể làm gì để bảo vệ an toàn cho cậu ở đây.”

Tôi chọn đi bằng tàu hỏa, vì nó rẻ hơn và vì tôi muốn biết chính xác khoảng cách mà tôi phải đi qua là bao xa. Suốt quãng đường đi, tôi cứ nhìn ra ngoài cửa sổ, với sự chăm chú hết mực, như thể tôi đang đọc một cuốn sách.

Jonathan đón tôi ở nhà ga New York. Cậu mặc một cái áo phông đen, quần jean đen, đi đôi giày màu đen nặng nề, xỉn như màu cam thảo. Bạn có thể dự đoán trước được rằng cậu sẽ mặc thứ gì đó mà bạn không thể tưởng tượng ra được.

Chúng tôi ôm nhau ở nhà ga, và Jonathan đặt một nụ hôn nhẹ vào giữa má tôi. Cậu dẫn tôi ra vỉa hè. Khi nhìn thấy cách cậu vẫy taxi, tôi đã có được bài học đầu tiên về việc chúng tôi đã trở nên khác biệt như thế nào. Cậu bước xuống khỏi vỉa hè đông đúc và giơ thẳng một tay lên, với sự tự tin điềm tĩnh của một vị tướng. Đó là một cử chỉ nhỏ, nhưng rõ ràng cậu đã có ý thức về quyền của mình. Còn tôi lại định giơ tay ra một cách rụt rè như thể để xin lỗi chứ không phải gọi xe.

Khi chúng tôi đã ngồi ở băng ghế sau trong taxi, Jonathan véo tay tôi. “Mình không thể tin được là cậu đang ở đây,” cậu nói.

“Mình cũng thế. Đó là lý do mình muốn thấy Pennsylvania lùi xa dần, để mình có thể tin được. Ý mình là, nếu mình bước ra từ một cái máy bay, nó sẽ có vẻ giống như, cậu biết đấy, một loại ảo giác nào đó.”

“Đúng thế đấy. Thành phố này chỉ là một giấc mơ cậu đang có thôi,” cậu nói. Và trong suốt quãng đường đến căn hộ của cậu, chúng tôi không nghĩ ra được điều gì để nói với nhau.

Chiếc taxi ì ạch bò qua giờ tan tầm. Tôi mới chỉ đến New York một lần, mấy năm về trước, khi Jonathan vẫn còn đi học. Lúc đó tôi đã thấy thích thành phố này, nhưng nó không liên quan đến tôi, hay đúng hơn là nó chỉ liên quan đến tôi theo cách gián tiếp nhất, như là một con đường cao tốc hay một con tàu chiến. Tôi đã làm những việc của một khách du lịch. Tôi đã leo lên đỉnh của những đài tưởng niệm, đi dạo qua Greenwich Village và đi uống rượu với Jonathan cùng bạn bè cậu ở một quán bar, nơi một nhà thơ nổi tiếng đã chết. Tôi đã cảm thấy thoải mái trong vai trò của một du khách, cảm thấy thỏa mãn vì được đến một nơi đầy những điều lạ lẫm và có một mái ấm xinh xắn quen thuộc để trở về.

Giờ thì tôi sẽ sống ở đây. Giờ thì nó hoàn toàn là một thành phố khác.

Nó thật lung linh. Đó là điều đầu tiên tôi nhận thấy. Những phân tử của nó có vẻ sôi nổi hơn, mọi thứ đều rung rinh và lấp lánh khiến cho người ta khó có thể trông thấy chúng. Bản thân đường phố và những tòa nhà tỏa ra nhiều ánh sáng hơn là từ trên trời chiếu xuống – nó hoàn toàn vỡ òa ra trước mặt bạn, vì thế bạn có thể nhìn thấy từng mảnh vụn của nó. Cleveland lại phô bày bản thân theo một cách khác, bằng những mảnh lớn hơn. Ở đó, bạn có thể trông thấy một bảng quảng cáo, một đám mây, một cây đu đang đứng trên cái bóng béo tròn của nó. Còn ở đây, trong mười phút đầu tiên ở New York của mình, tôi chỉ dám chắc rằng mình đã nhìn thấy cái mũ rơm màu đỏ của một phụ nữ, một đàn chim bồ câu, và một biển hiệu neon nhàn nhạt có chữ LOLA. Mọi thứ khác đều giống như một vụ nổ đang diễn ra, thành phố cứ liên tục vỡ tan thành nhiều mảnh.

Khi chúng tôi đến căn hộ của Jonathan, mọi thứ trở nên ổn định và rõ ràng hơn. Cậu sống trong một tòa nhà màu nâu trên một con phố màu nâu chật hẹp. Nếu Cleveland là một thành phố chủ yếu mang màu xám – với đá vôi và đá hoa cương – thì New York lại mang màu nâu, tất thảy đều có màu gỉ sắt, màu sô-cô-la nhạt và màu be điểm vàng cứng nhắc.

Jonathan nói: “Nó đây. Tarantula Arms.”

“Đây là tòa nhà của cậu,” tôi nói, như thể tôi nghĩ rằng có thể cậu cũng không chắc về điều đó.

“Nó đấy. Mình đã cảnh báo cậu rồi mà. Đi thôi nào, sẽ khá hơn khi cậu vào bên trong.”

Ở bên trong, thanh lan can cầu thang được bao bọc trong thứ ánh sáng màu xanh tù mù. Một quầng sáng tỏa ra từ ánh đèn huỳnh quang ở mỗi chiếu nghỉ. Tôi xách một túi hành lý và đeo ba lô, còn Jonathan mang túi hành lý khác của tôi. Tôi đã không mang theo gì nhiều vào cuộc sống mới. Cả hai túi hành lý đều đựng đầy đĩa hát. Cái ba lô thì đựng quần áo của tôi, mà, như tôi đã thấy, chúng chẳng hợp chút nào với cuộc sống ở một thành phố như thế này. Tôi giống y như một học sinh theo diện trao đổi văn hóa.

“Chúng ta sẽ leo lên tận tầng sáu cơ đấy,” Jonathan nói. “Dũng cảm lên nhé.”

Tôi đi theo cậu. Những cái chiếu nghỉ tỏa ra mùi dầu rán. Tiếng nhạc Slow Tây Ban Nha lơ lửng trong thứ ánh sáng tù mù. Khi chúng tôi leo lên gác, tôi ngắm nhìn cái túi hành lý hiệu American Tourister màu xanh cũ kĩ tôi đã mượn của tôi Alice, nó đang đập đập vào đùi Jonathan. Ngay cả túi hành lý của tôi trông cũng không thích hợp với nơi này – trông nó tồi tàn và giản dị, cũ kĩ như một bà cô già chưa chồng.

Khi chúng tôi lên đến tầng sáu, Jonathan mở ba ổ khóa và mở cánh cửa kim loại. “Tèn ten,” cậu nói khi cánh cửa nặng nề mở ra, chiếc bản lề kêu cọt kẹt.

“Nhà cậu đây rồi,” tôi nói. Dường như tôi không thể vứt bỏ thói quen bảo cậu là chúng tôi đã đến căn hộ của cậu.

“Và cũng là nhà cậu nữa,” cậu nói. Cậu mời tôi vào với một cái cúi đầu.

Căn hộ quả thực khác hẳn với vẻ tù mù ở cầu thang và hành lang. Bạn bước thẳng vào phòng khách, được sơn màu đỏ cam, màu của một chậu hoa. Trong nhà có một chiếc sofa bọc vải màu da báo, và một bức họa lớn vẽ hình một phụ nữ màu xanh khỏa thân đang mải vặn vẹo để với thứ gì đó lơ lửng ngay rìa bức tranh. Căn phòng ngập tràn ánh sáng. Những luồng sáng rọi vào qua chấn song cửa sổ, lọt qua những tấm rèn dày dặn thời những năm năm mươi chi chít những chiếc lá xanh đỏ. Nếu bạn kéo những tấm rèm này ra, ánh nắng sẽ lập tức ùa vào. Chúng nặng nề và lạnh lùng như cánh cửa kim loại mà chúng tôi vừa bước qua.

“Chà chà,” tôi nói. Và rồi, không cố tình, tôi lại nói: “Đây là nhà cậu.”

“Clare, người bạn sống chung với mình, rất hiểu biết về trang trí,” cậu nói. “Nào, cất đồ của cậu vào phòng mình đi.”

Chúng tôi đi trên một hành lang ngắn, qua hai cánh cửa đóng im ỉm, để vào phòng cậu. Phòng cậu sơn màu trắng, không có bức tranh nào trên tường. Cậu có một tấm nệm đặt trên sàn gỗ trơn, và một chiếc đèn bàn có chao bằng giấy trắng với dế là những dây kim loại như những đường kẻ bút chì.

“Mình khá là mê thứ màu của Thiền này,” cậu nói. “Mình cần chút thanh thản từ nó.”

“Ừ,” tôi nói. “Mình thích màu trắng.”

Chúng tôi đặt những cái túi xuống và đứng đó, trải qua một khoảnh khắc im lặng khó chịu. Qua năm tháng, chúng tôi đã mất đi sự thân thuộc, giờ đây chúng tôi chỉ giống những người thân của hai người bạn cũ đã mất.

Cậu nói: “Cậu có thể ngủ trong cái túi ngủ của mình. Và dù thế nào bọn mình cũng sẽ nhté được đồ của cậu vào trong tủ thôi.”

“Ừ,” tôi nói.

“Cậu có muốn mở hành lý luôn không?”

Tôi không muốn mở hành lý, nhưng đó có vẻ là một bước tiếp theo thích hợp. Lúc đó, tôi thấy mình hiểu được về quá khứ. Ở một thế kỉ khác, khi một người khách đến chơi, họ thường mở hành lý, nghỉ ngơi rồi thay đồ để ăn tối, vì vậy mọi người có một khoảng thời gian riêng tư đủ dài. Còn ở thời hiện đại, chúng ta sẽ không có khoảng thời gian nào bị gián đoạn nhiều như thế.

“Ừ,” tôi nói. “Ý mình là, đồ của mình chủ yếu là mấy cái đĩa hát thôi mà.”

Cậu cười. “Đó là thứ mà cậu sẽ mang theo vào hầm trú ẩn, đúng không?” Cậu nói.

Tôi mở cái túi du lịch American Tourister và lấy ra một chồng đĩa hát. “Cậu đã nghe đĩa mới của Joni chưa?” Tôi hỏi.

“Chưa. Có hay không?”

“Hay tuyệt. À, mà cậu có đĩa Van Morrison này chưa?”

“Không có. Thú thật với cậu, mình không nghĩ là mình còn nghe nhạc của Van sau khi mình rời Cleveland.”

“Ồ, đĩa này sẽ làm cậu thích mê đi,” tôi nói. “Anh ta vẫn là, ờ, một trong những người tuyệt nhất. Mình mở nó nhé?”

“Bọn mình không có máy quay đĩa,” cậu nói. “Chỉ có máy cassette thôi. Xin lỗi cậu.”

“Ồ, không sao,” tôi nói.

Cậu đặt tay lên vai tôi. “Sẽ ổn thôi, Bobby ạ,” cậu nói. “Bọn mình cũng có nhạc nhẽo mà. Bọn mình đâu có sống trong yên lặng. Nhưng nếu Van Morrison là ưu tiên hàng đầu, thì mình và cậu có thể đi ra ngoài ngay bây giờ và kiếm mấy cái băng nhạc của anh ta. Cửa hàng băng đĩa lớn nhất mà cậu từng thấy chỉ cách đây có sáu dãy nhà thôi.”

“Không sao đâu,” tôi nói. “Ý mình là, cậu có những thứ của riêng cậu mà có lẽ mình chưa từng nghe, đúng không?”

“Đúng thế. Dĩ nhiên là thế. Nhưng hãy nhìn thẳng vào mắt mình này. Chúng ta cần ra ngoài và mua cái băng Van Morrison đó ngay bây giờ, được chứ?”

“Không,” tôi nói. “Không sao đâu, thật đấy.” Nhưng Jonathan lắc đầu.

“Đi với mình,” cậu nói. “Bọn mình sẽ ưu tiên việc quan trọng trước và rồi có thể mở hành lý sau.”

Cậu dẫn tôi ra khỏi căn hộ, và chúng tôi đi bộ đến một cửa hàng băng đĩa lớn trên phố Broadway. Cậu đã không nói dối về cái cửa hàng đó. Không có lời miêu tả nào lại thích hợp hơn cụm từ “giấc mơ thành hiện thực” khi muốn nói về nơi này – nó hoàn toàn phù hợp. Cái cửa hàng này choán hẳn một dãy nhà, nó có ba tầng. Ở Ohio, tôi vẫn thường hay lui tới một cửa hàng liên nhánh trong trung tâm thương mại, và một cửa hàng sắp sập tiệm của một gã hippie lớn tuổi, nơi những tấm bảng treo dụng cụ vẫn còn được đóng trên tường. Còn ở đây, bạn đi qua một dãy cửa xoay để vào căn phòng cao như một nhà thờ. Tiếng guitar và một giọng ca nữ trong vắt thánh thót vang lên qua từng dãy đĩa hát sạch sẽ. Những mũi tên neon luôn sáng rực, và một phụ nữ tóc đen, giống như một người đóng trong những quảng cáo nước hoa, đang lựa đĩa cạnh một cậu bé mặc áo phông có hình ban nhạc Sex Pistols[44]. Đó là một nơi tầm cỡ - bạn sẽ biết được điều đó nếu bạn bị mù và điếc. Bạn sẽ ngửi thấy nó, bạn sẽ cảm thấy nó ngứa ngáy trên da bạn. Đây là nơi mà các phần tử tinh khiết và khuấy động nhất. Hồi đó tôi đã tin rằng nơi này là trung tâm của thành phố New York. Đến tận bây giờ tôi vẫn còn tin như vậy.

[44] Ban nhạc punk rock của Anh thành lập ở London năm 1975.

Chúng tôi xuống cầu thang để đến gian bán hàng cassette, và tìm thấy băng của Van Morrison. Chúng tôi cũng tìm thấy một băng nhạc cũ của the Stones mà Jonathan không có, cùng Blonde on Blonde và tuyển tập những bài hát đỉnh nhất của Janis Joplin. Jonathan trả tiền cho tất cả chỗ băng nhạc đó bằng thẻ tín dụng. Cậu khăng khăng làm việc đó. “Đây là món quà chào mừng cậu đến New York,” cậu nói. “Hãy mua cho mình thứ gì đó khi cậu kiếm được việc làm nhé.”

Chúng tôi đi về, tay xách cái túi bóng màu vàng đựng những cuốn băng cassette. Đã là chập tối trong một ngày không có thời tiết – một ngày ấm áp với bầu trời trắng xóa, một trong những ngày không xác định được thời gian, có vẻ giống với ban đêm được chiếu sáng, khi mà chỉ bằng cách nhìn vào đồng hồ bạn mới biết được lúc đó là sáng hay chiều. Jonathan và tôi nói chuyện về chú Ned và cô Alice khi chúng tôi đi qua những con phố màu nâu lấp lánh với hàng dãy cửa hàng tạp hóa Tây Ban Nha và những cửa hàng bán buôn đã kéo sập những cái cửa kim loại của chúng xuống. Với những cuốn băng cassette trong túi khá nặng và Jonathan đang nói chuyện về bố mẹ cậu, tôi bỗng cảm thấy mình thích hợp với nơi này – như thể vào lúc đó, tôi đã ở thành phố này từ lâu lắm rồi. Đó là trải nghiệm thực sự đầu tiên của tôi khi sống ở New York, khi đi trên một con phố mang tên Great Jones với mảnh giấy gói bánh mì của hãng Wonder Bread, bị khuấy đảo bởi cơn gió duy nhất trong ngày, bay là là sau chúng tôi như một con thú nuôi điên dại.

Khi chúng tôi trở lại căn hộ, người sống chung nhà với Jonathan là Clare cũng đã về. Chúng tôi đi qua cánh cửa lớn và nàng cất tiếng gọi: “Chào cưng.” Như một người vợ.

Phòng khách trống không. Nàng đã gọi vọng ra từ phía trong.

Jonathan trả lời: “Cưng à, chúng ta có bạn đấy.”

“Ôi,” giọng nàng lại cất lên. “Tôi quên mất. Là hôm nay đúng không?”

Rồi nàng bước ra.

Tôi không biết liệu tôi có thể miêu tả Clare không, dù tôi có thể quan sát nàng ngay từ điệu bộ uể oải, lả lướt của nàng cho đến khi nàng đi thẳng vào vấn đề của câu chuyện, khi nàng phẩy tay với sự chính xác chết người như của một người đi giăng câu. Nếu tôi nhắm mắt lại, tôi vẫn thấy nàng, và khi tôi mở mắt ra, nàng cũng vẫn ở đó. Nhưng thứ mà tôi thấy là cái thói đi đứng và mỉm cười, là cái cách ngồi trên ghế. Tất cả những động tác của nàng đều đặc biệt – nàng có thói quen đặt cốc lên bàn riêng, thói quen nhô vai lên khi cười. Ngoại hình của nàng còn khó nắm bắt hơn. Khi lần đầu nhìn thấy nàng, nàng giống như một phụ nữ được chính New York hóa thân thành – nàng cứ liên tục thay đổi. Tôi có thể nhận thấy nàng đẹp theo kiểu sắc sảo, thô kệch, chẳng liên quan đến hình ảnh của các cô nàng trên những cuốn tạp chí. Tóc nàng lúc đó màu cam – xù lên tua tủa như thể đầu óc nàng đang bốc cháy. Nàng cao hơn tôi đến vài phân, với đôi môi đỏ sẫm. Nàng mặc quần bó và một cái áo phông vằn da hổ hở vai.

“Bobby, đây là Clare,” Jonathan nói.

Nàng nghiêng đầu chào theo lối chủ nhà và giơ bàn tay với những móng tay dài màu tía về phía tôi. “Chào Bobby,” nàng nói. “Rất vui được gặp anh.”

Sau đó, tôi được biết rằng nàng được nuôi nấng bởi một người mẹ theo thuyết Luther ngoan đạo ở Providence, Rhode Island, và chưa bao giờ bỏ được thói quen cư xử lịch sự cũ. Tôi chào và bắt tay nàng, một bàn tay chắc khỏe như một cây sào hái táo.

“Bọn em vừa đi mua đồ,” Jonathan nói. “Vì bọn em cho rằng mình cần có ngay một băng nhạc của Van Morrison.”

Tôi biết ơn cậu vì đã giải thích rằng đó là điều mà chúng tôi cần. Tôi không muốn mình có vẻ quá ủy mị và kì cục ngay trước mắt một người lạ.

“Tôi rất thích Van Morrison,” nàng nói. “Tôi từng có tất cả các đĩa hát của anh ta. Nhưng mà, anh biết đấy. Anh sẽ mất đi nhiều thứ trong các vụ ly dị khác nhau.”

“Tôi mở nó được không?” Tôi hỏi.

“Cưng ơi, hoàn toàn được,” nàng nói. “Ngay đằng kia kìa.”

Tôi đi về phía bên kia căn phòng, tới chỗ những cái kệ, nơi đặt một cái đài đen bóng. Trên cái kệ phía bên trên, một bộ sưu tập đầu lâu động vật đang lặng lẽ phô bày những cái hốc mắt trống rỗng và những bộ răng nanh màu ngà voi. Jonathan và Clare đang trao đổi về những chuyện vặt trong nhà. Tôi bóc lớp giấy bóng kính ra khỏi cuốn băng của Van, đút vào máy, và ấn nút Bật. Sau vài khoảnh khắc khẽ kêu lên ù ù, giọng của Van hát bài Tore down à la Rimbaud vang lên trong phòng. Tôi hít một hơi, rồi hít thêm một hơi nữa.

“Bobby?” Jonathan nói. “Cậu đói không?”

“Có lẽ,” tôi nói. Tôi đang ngắm nhìn những cái đầu lâu từ một khoảng cách an toàn, vây quanh bởi giọng hát của Van.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
597,378
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 2-4


“Bọn mình nghe nhạc một lúc rồi ra ngoài ăn nhé?” Jonathan nói. “Do tòa soạn chi trả đấy. Tuần này mình đang viết về món thịt bỏ lò, cậu thấy được không?”

“Được,” tôi nói. “Tuyệt vời.” Tôi đang đắm chìm trong âm nhạc. Dù đó có là món gì thì tôi cũng đồng ý hết.

Chúng tôi quanh quẩn trong căn hộ cho đến khi cuốn băng chạy hết một mặt. Jonathan và Clare đang tỏ ra lịch sự - họ cũng thích nhạc của Van, nhưng lại coi nó như nhạc nền cho một cuộc trò chuyện. Clare hỏi những câu thăm hỏi xã giao về chuyến đi của tôi và về cuộc sống trước đây của tôi cùng Jonthan, tôi ngờ rằng có lẽ tôi đã trả lời nàng một cách nhát gừng với những nụ cười trừ và những giọt mồ hôi. Tôi không thể tập trung nghe nhạc trong căn phòng đó.

Khi mặt một của cuốn băng đã chạy hết, chúng tôi ra ngoài. Clare khoác lên người cái áo khoác da cũ, với biểu tượng hòa bình màu trắng vẽ trên lưng. Không hiểu sao tôi lại thấy hiểu nàng, dù trông nàng có vẻ là người khó hiểu nhất mà tôi từng gặp. Nàng có một sự cởi mở phô trương – một tính cách ồn ào, có vẻ như không che giấu bất cứ điều gì. Nàng tạo cho bạn cảm giác hư bạn có thể cầm lấy tay nàng khi bạn đi trên phố.

Chúng tôi đến một nhà hàng trông không giống nhà hàng chút nào. Một người khách qua đường không mấy hiểu biết có thể nghĩ rằng nó là một đại lý bảo hiểm rẻ tiền, với những cánh cửa chớp lật và vài chiếc cúp của trò bowling bám đầy bụi được trưng bày trên các cửa sổ. Nhưng, ở bên trong, nó chật ních người. Giọng ca của Elvis Presley[45]len lỏi qua những tiếng cười và tiếng lách cách của đồ dao dĩa bằng bạc. Tại chiếc bàn gần cửa ra vào, một phụ nữ mặc váy lông thú đang nói gì đó về khỉ đột, theo ngữ điệu Anh.

[45] Elvis Presley (1935-1977): ca sĩ, diễn viên người Mỹ, được mệnh danh là ông vua nhạc rock and roll.

Tôi đang mặc quần jean Calvin Klein và một cái áo phông thể thao. Đó là bộ đồ ưa thích nhất của tôi. Chúng tôi ngồi ở một bàn phía trong góc, nó quà gần ba bàn khác đến nỗi chúng tôi phải lách người qua đó mới vào được ghế của mình. Các bức tường treo đầy những cái đĩa lưu niệm và những tấm ảnh cũ, cùng với những cái đầu hươu nhồi, đồng hồ treo tường và những đĩa hát đã bạc màu của Dusty Springfield[46] và the Kingston Trio[47]. Một tấm biển treo ngay gần đầu tôi có dòng chữ: “Đừng đếm xỉa gì đến tấm biển này.”

[46] Dusty Springfield (1939-1999): nữ ca sĩ người Anh.

[47] The Kingston Trio: ban nhạc dân gian và pop của Mỹ có công làm phục hồi thể loại nhạc dân gian vào cuối thập niên 50 đến cuối thập niên 60.

“Nơi này được trang trí quá nhiều,” Clare nói với tôi.

“Vâng.”

“Trang trí nhiều hơn toàn bang Maine,” Jonathan thêm vào.

“Mà Bobby này,” Clare nói, “Anh nghĩ anh muốn làm gì ở đây? Ở New York này.”

“Tôi là một thợ làm bánh khá cừ,” tôi nói. “Tôi nghĩ có lẽ tôi sẽ làm công việc đó. Ý tôi là, đó là việc mà tôi biết làm.”

“Mình nghĩ cậu đến đây để thoát khỏi việc làm bánh chứ,” Jonathan nói. “Mình nghĩ cậu đang chết chìm trong cái công việc ngớ ngẩn đó cơ mà.”

“Mình cho là thế,” tôi nói. “Mình nghĩ là mình đã nói thế, đúng. Nhưng, ừm, mình thực sự không biết làm gì khác. Ý mình là, mình không thể bước vào bệnh viện và hỏi liệu họ có cần bác sĩ phẫu thuật nào không.” Tai tôi nóng bừng. Tôi cảm thấy như mình đang bị thử tài trên thứ nguyên liệu mà tôi chưa từng được học.

“Có lẽ anh có đủ khả năng bằng một nửa số bác sĩ ở đó,” Clare nói. “Này, cưng ơi, hãy nghe lời bà dì này của anh. Một trong số những đặc điểm hay ho của New York là, anh có thể làm bất cứ điều gì ở đây. Đây là Miền đất Cơ hội, chữ M viết hoa, chữ C viết hoa. Ở đây anh có thể kiếm được tiền khi làm bất cứ điều gì mà anh có thể nghĩ ra.”

Tôi gật đầu, nhận thấy rằng nàng đang dùng móng tay vẽ những hình số tám nho nhỏ trên mặt bàn formica đùng đục. Nàng có đôi mắt màu xanh lá cây tự tin, nàng sẽ không nhìn đi chỗ khác khi nói chuyện với bạn. Nàng đeo một chiếc khuyên tai màu bạc rối rắm, kêu leng keng, dài đến mười lăm phân. Nàng tác động đến tôi giống như âm nhạc vậy. Tôi thấy thật khó khăn khi phải trò chuyện mặt đối mặt với nàng.

“Đúng thế, Bobby,” Jonathan nói. “Cậu không cần phải lao ra ngoài và nhận ngay công việc đầu tiên mà cậu có thể kiếm được. Cậu có những người bạn giàu có mà.”

“Ừm, chị làm nghề gì?” Tôi hỏi Clare.

“Cơ bản là tôi chỉ chơi thôi,” nàng nói. “Tôi chạy quanh thành phố tìm kiếm những thứ để làm ra đồ trang sức.”

“Clare là một nhà thiết kế,” Jonathan nói.

“Vớ vẩn. Tôi chỉ là một kẻ bán đồ linh tinh thôi. Nếu chị em phụ nữ thôi không còn muốn tỏ ra kì cục nữa, tôi sẽ thất nghiệp.”

Tôi nhìn vào mái tóc quả quýt của nàng, và tự hỏi đối với nàng loại phụ nữ nào mới là kì cục. Tuy nhiên điều mà tôi nói lại là: “Nghe có vẻ, chị biết đấy, khá hay ho.”

“Ồ, đúng vậy,” nàng nói. “Đó là một mánh lới lớn đấy. Và khi đứa bé ra đời, tôi có thể làm việc đó ở nhà.”

“Chị đang có em bé à?”

“Jonathan không kể cho anh à? Chúng tôi đang trông đợi nó.”

Mặt Jonathan sa sầm lại. Elvis đang hát Jailhouse rock.

“Có phải bọn mình đang trông đợi ngày ra đời của nó đâu cưng,” cậu nói. “Bọn mình mới chỉ nghĩ ra kế hoạch đó thôi mà.”

“Chẳng mấy khác biệt.”

Tôi nói: “Tôi không biết hai người là, ừm…”

“Tình nhân chứ gì?” Jonathan nói. “Không phải đâu. Bọn mình chỉ mới đề cập đến việc trở thành những ông bố, bà mẹ thôi.”

“Ồ.”

“Hầu hết các ông bố bà mẹ đều không phải là tình nhân,” Clare nói. “Như bố mẹ tôi ấy. Họ chỉ lấy nhau và không quan tâm nhiều đến người kia. Ít nhất thì Jonathan và tôi cũng là những người bạn tốt.”

“Đây là thời hiện đại,” Jonathan nói, phần nào rụt rè.

Tôi gật đầu. Rồi nhân viên phục vụ đến, và chúng tôi phải quyết định xem mình nên ăn món gì. Jonathan nói cậu buộc phải gọi món thịt bỏ lò, nhưng Clare và tôi nên ăn những gì chúng tôi muốn. Tôi ăn gà rán với khoai tây nghiền, còn Clare ăn món ăn đặc biệt – cá ngừ hầm với những miếng khoai tây vụn rắc bên trên.

Sau bữa tối, chúng tôi đi dạo. Chúng tôi đi bộ ra sông Hudson và đứng trên một cái cầu tàu, nhìn sang New Jersey qua làn nước tối thẫm đang khuấy động. Xa xa phía bên kia, một tách cà phê neon khổng lồ đang nhỏ ra một giọt cà phê màu đỏ, nuốt nó trở lại và rồi lại nhỏ ra. Clare và Jonathan đều là những người hay chuyện. Tôi đưa đẩy cuộc trò chuyện của họ như thể nó là một cái võng trải ra giữa họ. Cùng nhau, họ là những người trình diễn. Họ ăn ý đến mức thu hút được một khán giả - tôi không cần phải nói gì nhiều. Họ nói chuyện về những đứa bé, về việc chuyển về miền quê, và về việc làm cách nào để tồn tại được ở New York. Họ trao đổi những bí quyết để tìm kiếm được một căn hộ, và bảo nhau họ có thể kiếm được một món hời ở nơi nào.

“Cưng à,” Clare nói với tôi, “Chủ nhật tôi sẽ đưa anh đến khu Lower East Side. Đó là nơi anh có thể mua được đồ rẻ nhất.”

“Không đúng đâu,” Jonathan nói. “Clare có sự đam mê kì cục với phố Orchard đấy.”

“Jonathan toàn mua đồ bán lẻ thôi,” nàng nói. Giọng nàng ám chỉ rằng đó là một thói quen lười biếng, có thể nguy hiểm.

“Lower East Side,” Jonathan nói, “là một nơi thích hợp để mua sắm nếu cậu muốn trông mình như một ông vua nhạc disco, vào khoảng năm 1975.”

“Trông tôi có giống một ông vua nhạc disco không?” Nàng hỏi.

“Với phụ nữ thì khác. Thế giới này không âm mưu biến họ thành những kẻ trông có vẻ ngớ ngẩn theo cùng một cách như vậy.”

“Kẻ nào chỉ dành năm phút trong một cửa hàng tạp hóa thì không bao giờ được phép nói như thế. Đừng nghe cậu ta, Bobby ạ.”

Tôi cứ để mình đánh đu theo họ. Tôi âm thầm chơi một bản nhạc phim trong đầu.

Chúng tôi uống cappuccino trong một nhà hàng có sân vườn, nơi những ngọn đèn Giáng sinh nhấp nha nhấp nháy trên những cái cây, và một cậu bé làm bằng cẩm thạch đang tè vào một cái vỏ trai cũng bằng cẩm thạch. Rồi chúng tôi về nhà. Clare hôn vào má tôi, nói: “Chào mừng đến với Kiếp Trầm Luân,” và biến mất vào phòng riêng. Jonathan và tôi trải cái túi ngủ màu xanh dày dặn của cậu lên sàn. Cậu đưa cho tôi một cái gối từ giường của cậu.

Khi chúng tôi đều đã nằm yên, khi ánh đèn có chao bằng giấy màu trắng đã tắt, cậu nói: “Ngày mai mình sẽ đưa cậu đến công viên Trung tâm. Mình tính rằng nếu mỗi ngày bọn mình đến một khu khác nhau của thành phố, thì sang tuần sau cậu sẽ có một cái nhìn toàn diện hơn về nó.”

“Cậu biết mình muốn đi đâu không?” Tôi nói. “Ừm, mình muốn đến Woodstock.”

“Nó cách đây hơn một trăm dặm cơ.”

“Mình biết. Mình biết thế.”

“Hôm nào đó chúng ta có thể đến đấy,” cậu nói. “Mình chưa đến đó bao giờ. Mình chắc ở đó rất hay. Đầy rẫy những gã hippie lớn tuổi, mình đoán thế.”

“Ừm. Này, cậu và Clare thực sự sắp có con à?”

“Ôi, mình không biết. Bọn mình mới chỉ đề cập đến việc đó thôi.”

“Mình thích Clare,” tôi nói.

“Mình cũng thế.”

Một khoảng lặng trôi qua trong cảnh tranh tối tranh sáng. Tiếng ồn ngoài phố lọt vào qua những tấm rèm.

“Bobby này?” Cậu nói.

“Ừm?”

“Mình không biết nữa. Mình cảm thấy có những điều cần phải nói với cậu, nhưng mình thực sự không biết phải bắt đầu thế nào. Mình không chắc phải nói những gì.”

“Ừm, những điều gì?” Tôi hỏi. Cậu nằm ngửa, gối đầu lên hai tay. Đôi khi cậu nằm như thế mà ngủ luôn, những ý nghĩ khi thức thay nhau đi vào trong những giấc mơ của cậu. Có thể cậu sẽ gặp rắc rối khi tách những ký ức thực với những ký ức trong mơ. Tôi biết cậu có thói quen như thế.

“Cậu biết đấy,” cậu nói. “Những việc bọn mình từng làm cùng nhau ấy. Ừm, những việc liên quan đến sex ấy. Ý mình là, bọn mình chưa bao giờ nói chuyện về nó, và sau khi học xong trung học bọn mình đã ngừng việc đó lại. Mình cho là mình đang thắc mắc không hiểu cậu nghĩ gì về tất cả những chuyện đó.”

Tôi có thể nghe thấy hơi thở của mình. Đây là một chủ đề khó. Hồi đó tôi đã nhận rất rằng tôi không cảm thấy thứ mà người ta gọi là “ham muốn”. Trong tôi còn thiếu một thứ gì đó. Tôi cảm nhận được tình yêu – sự căng thẳng và cuồng nhiệt của nó, sự dễ chịu của cơ thể hòa lẫn với nỗi sợ hãi lý trí. Tôi có cảm giác như thế đối với cả gia đình Glover, với Sammi ở tiệm bánh, với Dylan khi ông hát bài Baby blue. Nhưng chẳng có gì dựng lên trong háng tôi. Chẳng có gì dồn dập kích thích hay cố gắng thoát ra. Hồi đó tôi làm chuyện ấy với Jonathan chỉ vì cậu muốn thế, và vì tôi yêu quý cậu. Những cơn cực khoái trôi qua tôi như những cảm xúc dâng hiến cho cơ thể hơn là cho chính bản thân tôi. Những cảm xúc này dù dễ chịu khi chúng ập đến nhưng cũng thực sự biến mất khi chúng qua đi. Sau khi Jonathan rời khỏi thành phố, tôi chỉ còn lại một mình. Có lẽ chính sự thiếu vắng đó đã khiến tôi có thể sống cuộc đời làm bánh ở Cleveland, khiến tôi có thể không cần đến những điều gây xúc động nào khác ngoài những bông tuyết đầu tiên của tháng Mười một và tiếng rít sống động của một cái kim khi chạm vào đĩa hát.

Tôi nói: “Hồi đó chúng mình còn trẻ con, Johnny ạ. Đã lâu lắm rồi.”

“Mình biết. Cậu có đang, ý mình là, cậu đã từng hẹn hò với ai chưa?”

“Thực sự thì không,” tôi nói. “Cơ bản thì, mình chỉ làm việc và nghe nhạc. Thật lạ, đúng không? Ý mình là, ở độ tuổi của mình ấy.”

“Ờ, vẫn còn có những điều lạ lùng hơn mà.”

Chúng tôi chấm dứt cuộc trò chuyện tại đó. Chúng tôi nằm một lúc với tiếng ồn vẫn lan tỏa xung quanh – tiếng còi xe và tiếng quát tháo. Ngay trước khi thiếp đi, tôi nghe thấy tiếng người đi qua, cười đùa, chắc họ phải là một nhóm đông – như một đội hợp xướng của nhà thờ vậy.

CLARE

Tôi vừa muốn có một cuộc sống ổn định vừa muốn có một cuộc sống gây sốc. Hãy nghĩ về Van Gogh[48], về những cây bách và những chóp nhọn nhà thờ dưới một bầu trời đầy những con rắn quằn quại. Tôi là con gái của bố tôi. Tôi muốn được yêu thương bởi ai đó giống như người mẹ thận trọng, cứng rắn của tôi, nhưng cũng muốn được vừa chạy vừa la hét qua những ánh đèn pha với một chai trong tay. Đó là lời nguyền của gia đình. Chúng tôi thường nuôi dưỡng những đám ước mơ lộn xộn cứ chồng chéo, đối nghịch và triệt tiêu lẫn nhau. Lời nguyền đó ngụ ý rằng nếu chúng ta không học cách định hướng những khát vọng của mình theo chiều này hay chiều khác, rốt cuộc chúng ta sẽ chẳng làm được gì cả. Hãy nhìn vào bố mẹ tôi ngày nay mà xem.

[48] Van Gogh (1853-1890): danh họa người Hà Lan thuộc trường phái hậu ấn tượng với nhiều tác phẩm nổi tiếng và được yêu thích nhất trên thế giới.

Tôi lấy chồng lúc mới hai mươi mấy tuổi. Khi hôn nhân tan vỡ, tôi đã yêu một phụ nữ. Trong những thời điểm đó và cả những thời điểm khác, tôi tin rằng tôi đã thu lại những cơn bốc đồng và bắt đầu chế ngự được sự rối loạn của mình. Giờ đây, ở độ tuổi gần bốn mươi, tôi chẳng còn biết là mình muốn gì nữa. Thay vì niềm tin vào sự thay đổi như thời còn trẻ, tôi bắt đầu cảm thấy một sự bồn chồn lo lắng kêu tích tắc bên trong tôi như một chiếc đồng hồ. Tôi chưa bao giờ nghĩ rằng mình sẽ tiến sâu vào tình trạng bấp bênh như thế này.

Tôi không cố tìm cách ngủ với Bobby. Trông anh rất giống một người đàn ông bị tai nạn trong phim hoạt hình, với những ngôi sao và hành tinh bay xung quanh đầu. Bạn có cảm tưởng rằng mắt anh hơi hiếng. Tuy vậy, anh vẫn làm bạn động lòng. Có lẽ vì bạn tin rằng nếu lâu lâu bạn không để mắt đến anh, anh sẽ bị một tai nạn khác. Anh sẽ mải cười tít mắt và rơi xuống một cái miệng cống đang mở. Anh sẽ bị một chiếc dương cầm rơi vào, và hàm răng anh sẽ bị thay thế bằng một loạt những phím đàn. Tôi không thích phải nghĩ rằng mình đang muốn được bảo vệ cho người khác ở ngưỡng cửa của tuổi trung niên. Tôi không thích phải nghĩ rằng mình đang ngày càng mềm lòng trước những người đàn ông bất tài, ngờ nghệch, những người đang cần được chăm sóc, như kiểu mẹ tôi chăm sóc bố tôi cho đến khi bà hết kiên nhẫn.

Dù tôi không động đến anh, nhưng tôi không thể phủ nhận sự lôi cuốn trong vẻ bờm xờm; ngơ ngác của Bobby. Anh có đôi bàn tay vuông vức và một khuôn mặt lơ nga lơ ngơ. Nếu không có đôi mắt ấy, sự ngây thơ của anh sẽ chẳng thể gây nên một sự xúc động nào. Chính đôi mắt anh đã tạo nên ấn tượng. Hãy hình dung ra một căn nhà nhỏ ấm cúng ở ngoại ô, với một chú lùn bằng thạch cao trên thảm cỏ và những chậu cây dã yên thảo trên cửa sổ. Tiếp đó hãy mường tượng ra một khung cửa sổ ở tầng trên. Đó là một khuôn mặt của Bobby. Đó chính là vẻ ngoài của anh.

Tuy vậy, tôi vẫn không thể ngừng chú ý đến anh. Dạo gần đây, nỗi khao khát đó cứ quấy nhiễu tôi như thể đám ruồi nhặng làm phiền một con ngựa. Đó là sự bực bội dai dẳng nhưng không lớn. Nó có thể bị xua đi.

Có lẽ tiền bạc là thứ ngăn trở tôi. Gia đình tôi có tiền, ý tôi là bên gia đình đằng ngoại nhà tôi. Không phải giàu có theo kiểu quý tộc, thượng lưu – mà vì ông ngoại tôi đã kiếm được bộn tiền nhờ kinh doanh đồ trang sức rẻ tiền. Ông đã xây được ngôi nhà to vào loại thứ ba ở Providence. Ông đã đổi họ của mình từ Stein sang Stone, và cho mẹ tôi đến học ở trường Wellesly. Chuyện đó cũng đã lâu rồi. Ông vua của những món trang sức làm bằng kim cương giả đã nhắm đến sự chính thống thông qua sự phát triển của các thế hệ sau. Ông đã cho mẹ tôi đi học ở một trong bảy trường đại học ngành khoa học xã hội dành cho nữ sinh thuộc vùng Đông Bắc, và lập ra một tài khoản ngân hàng cho tôi từ trước khi tôi ra đời. Theo kế hoạch của ông, dòng máu sẽ được lọc bởi tiền bạc, và những đứa chắt của ông sẽ là những quý tộc thực sự, với sự điềm tĩnh và một thái độ thản nhiên về giá trị của chúng. Ông mất khi tôi mới lên mười. Nhưng tôi biết cái tương lai mà ông đã tính toán trong óc. Một con hươu bằng gang đã giương những chiếc gạc cứng nhắc trên bãi cỏ trước nhà và những con cá được mạ vàng đã rẽ nước để vào bồn tắm của nhà ông.

Tuy nhiên, dục vọng đã làm nghẽn kế hoạch đó. Mẹ tôi không quan tâm đến những anh chàng mà bà gặp trong những buổi giao lưu ở trường Wellesley, họ cũng không chú ý đến bà. Bà có nét mặt cương quyết và tác phong kín đáo, nghiêm nghị của một thợ trang sức. Bà không ve vãn, cợt nhả. Bà nuôi dưỡng những đam mê viển vông, hay đúng hơn là bà tin như thế, và không hứng thú gì với việc làm duyên làm dáng. Nếu là một trăm năm trước, bà có thể được coi là một phụ nữ ngoan. Nhưng ở trường Wellesley vào những năm 1940, bà chỉ có thể được biết đến như một kẻ tẻ nhạt. Bà trải qua bốn năm đại học như một kẻ mộng du bất mãn và rồi lấy bố tôi, người nói rằng ông đã “bị hạ giá” và có đủ cá tính cho cả hai người. Ông là cuộc phiêu lưu tình ái duy nhất của bà. Bà không bao giờ muốn có thêm lần nữa.

Tôi không biết có phải ông lấy bà vì tiền không. Tôi không nghĩ mọi chuyện lại đơn giản như thế. Bố tôi là một kẻ trăng hoa. Ông rất mau chán. Có lẽ ông thích chinh phục cái thử thách mà mẹ tôi đã đặt ra, một phụ nữ không bao giờ giả vờ cười hay có bất cứ phản ứng lịch sự nào khác, và là người được tất cả các trường luật mà bà nộp đơn vào chấp nhận. Ông là một người rất điển trai, phù phiếm. Có lẽ ông nghĩ rằng bà hiểu ông một cách sâu sắc hơn, và có thể bù đắp cho ông thông qua sự chăm chú nghiêm túc của bà. Có lẽ ông định giúp bà trở nên mềm mỏng hơn.

Khi tôi còn trẻ, tất cả những người tình của tôi đều là những kẻ hà tiện, ích kỉ. Chồng tôi, Denny, thường khiêu vũ sáu tiếng một ngày, và vẫn coi thường sự thiếu chuyên nghiệp của chính bản thân anh ta. Người tình Helene của tôi thường có những quan điểm tức cười về mọi vấn đề từ quyền phụ nữ đến việc rửa rau bina. Bản thân tôi cũng gặp khó khăn khi quyết định có nên đội mũ hay không. Ở độ tuổi hai mươi, tôi ngờ rằng nếu bạn lột vỏ vẻ ngoài, những thói quen và nửa tá những tư tưởng đanh thép của tôi, bạn sẽ tìm thấy một điểm trống rỗng, nơi lẽ ra phải chứa cái bản ngã của tôi. Đó có lẽ là bí mật tệ nhất của tôi. Tôi đã dâng hiến cho những người tình thiện ý và tính nhạy cảm của mình – dường như đó là tất cả những gì tôi có. Tôi đã luôn tỏ ra ngoan ngoãn dễ thương đối với những người cuối cùng sẽ thay đổi ổ khóa để ngăn chặn những chuyến viếng thăm đột xuất của tôi. Những kẻ tuyên bố rằng họ sẽ chết nếu tôi bỏ họ, nhưng lại giận dữ tát tôi khi tôi mang về nhà loại bia không đúng ý. Sau khi ly dị, tôi đã thay hết người tình này đến người tình khác, lần nào cũng nghĩ rằng mình đã học được một bài học mà sẽ không bao giờ lặp lại nữa. Người tình mới này của tôi sẽ có khiếu hài hước, hay sẽ không dùng ma túy. Người tình mới này của tôi sẽ là một phụ nữ, hoặc một người đàn ông da đen, hoặc một trùm máy tính với trái tim dành hết cho các dữ liệu.

Từ khi bước sang tuổi ba mươi, tôi đã ngừng yêu. Tôi vẫn đang sống như một đứa trẻ, hết giờ này qua giờ khác, trong khi những phụ nữ khác ở tuổi tôi thường đến dự những buổi biểu diễn hay những vở kịch ở trường của con họ. Việc buông xuôi này cũng không khó khăn lắm. Tôi có một công việc vặt vãnh ngớ ngẩn, và một khoản tiền thừa kế kếch sù đang chờ tôi khi tôi bước sang tuổi bốn mươi. Tôi có những người bạn để gặp gỡ và uống cà phê, và có những bộ phim và câu lạc bộ đang chờ tôi đến. Thời gian trôi qua một cách dễ chịu. Và bây giờ - có vẻ quá đột ngột – những cô nhân viên bán hàng đã gọi tôi là “bà”. Những chàng trai trẻ không còn tự động liếc nhìn tôi khi tôi đi qua họ trên đường phố nữa. Tôi không còn xuất hiện trên màn hình radar của họ nữa.

Trong chừng mực nào đó, tôi thích việc mình đang già đi. Tôi đã tự tạo một cuộc sống riêng cho mình. Tôi không phải một kẻ tham vọng tỏ vẻ đứng đắn sống với hai con mèo trong một ngôi nhà trong thành phố đầy rẫy những bản đồ cổ xưa. Tôi không phải một kẻ say sưa cứ trôi dạt hết cuộc chè chén này đến cuộc chè chén khác rồi lại tiếp tục lặp lại. Tôi tự hào về điều đó. Tuy nhiên, lúc này tôi lại hi vọng có được một niềm kiêu hãnh thông thường hơn trong cái tôi lớn hơn của mình. Tôi nghĩ rằng tôi có thể nói, nếu ai đó hỏi tôi, thật chính xác về những điều tôi đang làm trên đời này.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
597,378
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 2-5


BOBBY

Đó là sự khởi đầu cho cuộc đời thứ hai mới mẻ của tôi, trong một thành phố có vòng quay riêng của chính nó – một quỹ đạo hối hả hơn bên trong vòng quay xanh thẳm điềm tĩnh của trái đất. New York không chào đón những kẻ tuyệt vọng và sống không mục đích vốn vẫn hay quanh quẩn ở những nơi nhỏ bé hơn. Ở đây, người ta thường lái xe vượt đen đỏ. Họ còn vừa đi bộ vừa chửi rủa ngay trước mũi những chiếc ô tô.

Tôi không tìm được việc ngay. Tôi thừa nhận rằng mình cũng không nhiệt tình lắm với việc đó. Jonathan hầu như ngày nào cũng đến văn phòng. Thi thoảng cậu ở lại đó đến tận nửa đêm. Cậu gọi sự nổi tiếng của tờ báo là một thảm họa tự nhiên – một ngọn núi lửa không ngừng phun trào khiến cho ngôi làng dưới chân núi không có thời gian để tự xây dựng lại. Người thợ xếp chữ biên tập lại bản thảo, nhân viên lễ tân bị quá tải với công việc sắp xếp, có sáu cuộc gọi đang chờ và ba nhà quảng cáo đang kiểm tra đồng hồ trong căn phòng đón tiếp mới trắng tinh. Cùng với chuyên mục hàng tuần của mình, Jonathan còn trình bày những trang giải trí và viết bài bình về những bộ phim mà cậu chưa hề xem, dưới một cái tên giả. Có những sáng, cậu uống hai tách cà phê, lao ra khỏi cửa, và khoảng mười sáu tiếng sau mới quay về.

Cuộc sống của Clare thanh thản hơn. Nàng là một trong những người có nhiều tiền hơn ta tưởng, nếu căn cứ vào những gì họ đang làm. Nhưng tôi cũng chẳng lấy đó làm thắc mắc. Tôi thấy mừng vì có bầu có bạn.

Tôi luôn thức dậy cùng lúc với Jonathan. Tôi pha cà phê trong khi cậu tắm. Chúng tôi nói chuyện và mở nhạc khi cậu mặc lên người bộ đồ màu đen của ngày hôm đó. Khi đã chuẩn bị xong xuôi, cậu hôn lên má tôi. Cậu cũng hôn Clare, nếu nàng có mặt lúc đó. Cậu thường nói: “Tạm biệt các cưng” và rời đi, tay vẫn cầm nửa chiếc bánh vòng.

Khi cậu đi làm rồi, buổi sáng chuyển sang một nhịp thanh bình hơn. Cuộc sống nội trợ ban ngày của nó. Clare và tôi ngồi ở bàn trong phòng khách với những tách cà phê thứ hai và thứ ba. Chúng tôi xem qua mục rao vặt trên báo. Có lúc nàng sơn màu mới cho móng tay của nàng. Có lúc chúng tôi xem chương trình “Hãy chọn giá đúng.”

Nàng đi làm lúc mười một giờ kém mười lăm. Tôi dọn dẹp nhà cửa, mua đồ ăn cho bữa tối. Ngày nào tôi cũng đến cửa hàng băng đĩa. Tôi không mua đĩa. Tôi chỉ đứng nghe bật cứ bài hát nào mà cửa hàng chọn làm nhạc nền cho việc mua sắm của khách hàng. Tôi ngắm nhìn những người khác, phán đoán xem mẫu người như họ sẽ muốn nghe loại nhạc gì.

Clare về nhà lúc bảy giờ. Tôi luôn dọn sẵn bữa tối. Jonathan tối nào cũng đi ăn ngoài để viết bài cho mục ẩm thực. Clare nói trước đây nàng vẫn thường gặp cậu ở bất cứ đâu và ăn cùng cậu, còn bây giờ nàng thấy vui vì không phải ăn độc một món trong cả tuần. Đôi khi sau bữa tối nàng thường đi chơi cùng bạn bè, có lúc nàng lại ở nhà với tôi, nghe nhạc và xem ti vi. Nàng nói việc đi chơi bắt đầu có vẻ giống với đi làm hơn là công việc hiện tại của nàng. Những đêm nàng ở nhà, chúng tôi làm bỏng ngô và uống Coke cho người ăn kiêng. Đôi lúc nàng sơn lại móng tay lần thứ hai trong ngày. Và vào một đêm thứ Tư của tháng Sáu, nàng bắt tay vào một công việc lâu dài, đó là khiến tôi thay đổi.

Việc đầu tiên nàng làm là cắt tóc cho tôi. Lúc đó Jonathan vẫn ở văn phòng, còn Clare và tôi vừa đi xem phim về. Nàng đã dẫn tôi đi xem bộ phim Tất cả mọi điều về Eve, và ngạc nhiên khi biết tôi chưa từng nghe nói về nó. Hóa ra đó là một bộ phim hài đen trắng cũ, được chiếu ở một rạp chiếu phim, nơi một con chuột chạy ngang qua chân chúng tôi, mau lẹ và nhẹ nhàng như một thôi thúc xấu.

Chúng tôi đã về nhà, ngồi giữa căn phòng khách lòe loẹt. Tôi bắt đầu mở băng của Van Morrison, và nàng nói: “Này, anh đã nghe Steve Reich chưa?”

Tôi nói chưa. Tôi bảo nàng rằng trước giờ tôi vẫn sống bên ngoài vùng phủ sóng của âm nhạc, bắt lấy bất cứ thứ gì bất chợt bay ngang qua. Nàng nói: “Tôi sẽ mở băng của ông ta ngay bây giờ.” Và nàng làm thế.

Nhạc của Steve Reich giống như tiếng mạch đập, với những biến tấu nho nhỏ. Nó là loại nhạc điện tử không phát ra từ nhạc cụ - mà có vẻ được tạo nên từ không khí nhiễu động. Steve Reich giống như một người nói lắp bình thản, không bao giờ phát ra từ đầu tiên và không quan tâm liệu ông có làm thế không. Bạn phải thật chăm chú mới hiểu được ông, nhưng một khi đã hiểu được, bạn sẽ thấy vẻ đẹp giản dị của điều mà ông đang làm – sự lặp đi lặp lại thong thả đáng yêu của nó. Nó nhắc tôi nhớ đến thời thanh niên của tôi ở Cleveland, những biến tấu nho nhỏ ấy như đang khơi gợi lại những điều xưa cũ.

Lúc đó, Clare đã hiểu tôi quá rõ nên nàng để yên cho tôi nghe nhạc. Nàng không nói về những vấn đề không liên quan trong khi nghe Steve Reich giống như lúc xem phimTất cả mọi điều về Eve. Khi cuốn băng đã hết, tôi nói: “Chà chà!”

“Tôi đã nghĩ là anh sẽ thích ông ấy mà,” nàng nói.

“Ôi, đúng vậy. Ông ta thật tuyệt. Ông ta thật, chị biết đấy…”

Tôi cố kết thúc câu nói bằng cách dùng bàn tay ước lượng hình thù của âm nhạc. Tôi không biết liệu nàng có hiểu tôi đang cố nói gì với nàng không.

Nàng chỉ lắc đầu và nói: “Bobby.”

“Ừm?”

“Chẳng có gì. Anh thực sự là một kẻ cuồng tín, phải không?”

Tôi nhún vai. Tôi không biết sự cuồng tín của tôi đặt tôi nằm đâu trong quan điểm của nàng về thế giới này. Tôi không biết liệu tôi có nên thừa nhận hay phủ nhận nó. Tôi nhìn xuống mẫu hoa văn của tấm thảm giữa hai bàn chân mình.

“Anh có biết tôi nghĩ gì không?” Nàng nói. “Tôi có thể hoàn toàn thành thực với anh không?”

“Có chứ,” tôi nói, tò mò về sự thành thực hoàn toàn đó và thực lòng thấy e ngại.

“Điều mà tôi nghĩ chính là: Tôi thấy anh cần phải cắt một kiểu tóc mới.”

Đó chỉ là một gợi ý về vẻ ngoài, một vấn đề làm đẹp chứ không phải về khiếm khuyết của bản thân. “Thật sao?” Tôi nói.

“Tôi nói thật đấy. Thành thực mà nói, trông anh không giống anh lắm. Và nếu anh đi ra ngoài mà trông giống như ai đó chứ không phải bản thân anh, thì kết cục là anh có thể nhận được một công việc sai lầm, kiếm được những người bạn không thích hợp, và ai biết còn có những điều gì nữa. Anh còn có thể dính vào ai đó suốt cả cuộc đời.”

Tôi lại nhún vai và mỉm cười. “Đây là cuộc sống của tôi,” tôi nói. “Nó không có vẻ gì là sai lầm cả.”

“Nhưng đây mới chỉ là bước khởi đầu thôi. Anh không thể chỉ quanh quẩn trong căn hộ này để nấu nướng và lau dọn suốt được.”

“Đúng vậy,” tôi nói, dù thực ra tôi đã phần nào tin chắc rằng mình sẽ làm y hệt thế.

“Và, cưng ạ, kiểu tóc Bee Gees đó sẽ chỉ làm cho người ta lạc lối mà thôi. Anh có hiểu tôi đang nói gì không?”

“Ừm. Được rồi. Có lẽ ngày mai tôi sẽ đến, chị biết đấy, một tiệm cắt tóc.”

Bụng tôi sôi lên. Tôi có cần có một mái tóc như một anh hề để hợp với cuộc sống ở New York hay không? Nếu tôi làm thế, tôi sẽ không hợp với Cleveland hay với ngôi nhà ở Arizona của chú Ned và cô Alice nữa. Tôi sẽ không còn đường quay lại.

“Tôi có thể cắt tóc cho anh,” nàng nói. “Miễn phí.”

“Thật không?”

Tôi có thể nhận ra qua tiếng cười của nàng rằng tất cả mọi nỗi nghi ngờ của tôi đã được bùng phát ra qua đúng hai từ đó.

“Tôi từng học làm tóc mà, nếu anh thấy tin được,” nàng nói. “Tôi vẫn còn giữ đôi kéo đấy, tôi có thể tạo choa một vẻ ngoài mới ngay bây giờ. Anh nghĩ sao?”

Tôi ngập ngừng. Rồi tôi quyết định. Đó chỉ là mái tóc thôi mà. Tôi có thể nuôi nó dài trở lại như bây giờ và quay lại với công việc ở Ohio của tôi. Đâu phải là tôi đang đánh mất cuộc sống cũ.

“Được,” tôi nói. “Chắc chắn rồi.”

Nàng bảo tôi cởi áo ra. Đó là điều gây bối rối đầu tiên. Tôi không có dáng vóc săn chắc hay vạm vỡ. Trông tôi quả đúng là một người làm việc trong tiệm bánh. Nhưng Clare đã chuyển sang tác phong nhanh nhẹn của một thợ cắt tóc, và không để sự chú ý của nàng đi lạc xuống phía dưới xương đòn của tôi. Với giọng chuyên nghiệp, dứt khoát, nàng bảo tôi thò đầu xuống dưới vòi nước trong bếp. Rồi nàng vắt một cái khăn lên vai tôi và bảo tôi ngồi trên một cái ghế giữa sàn phòng khách.

Tôi bảo nàng: “Thợ cắt tóc tại gia chỉ luôn tỉa một chút ở hai bên thái dương thôi.”

“Chà, tôi đang chuẩn bị cho một cuộc phẫu thuật nghiêm trọng đây,” nàng nói. “Anh có tin tôi không?”

“Không,” tôi nói, trước khi nhận ra là mình nên nói dối có thiện ý.

Nàng cười. “Ồ, sao lại không? Nhưng hãy cố thư giãn đi, được chứ? Hãy để Gái già này lo liệu.”

“Được rồi,” tôi nói. Tôi cố không nghĩ tới việc trông mình sẽ như thế nào. Khi nàng bắt đầu với chiếc kéo, tôi tự nhủ rằng cuộc đời chúng ta được tạo nên từ những thay đổi mà chúng ta không thể kiểm soát được. Việc để cho những điều nho nhỏ xảy ra cũng là một thói quen tốt. Cây kéo cắt sát vào tai tôi. Những nhúm tóc ướt của tôi, trông tách rời và chẳng còn sức sống, rơi xuống sàn nhà xung quanh tôi.

“Chị cứ làm cho đến khi nào xong nhé!” Tôi nói. “Ý tôi là, tôi sẽ không nhìn cho đến khi chị làm xong đâu.”

“Được thôi,” nàng nói. Nàng dừng cắt trong một phút và mở băng của Van Morrison lên để giúp tôi bình tĩnh.

Nàng cắt tóc cho tôi mất gần bốn mươi lăm phút. Tôi cảm thấy hơi ấm và mùi hoa nhài thoang thoảng tỏa ra từ người nàng, và những ngón tay thoăn thoắt, thành thạo của nàng lướt trên da đầu tôi. Hơi thở nàng khiến tôi thấy nhồn nhột. Từ lúc nàng bắt đầu, tôi đã mong việc cắt tóc sẽ diễn ra suốt cả đêm – để tôi không bao giờ thấy kiểu đầu mới, mà cứ mãi ngồi nửa mình trần giữa một đống tóc rụng đang dày thêm lên của chính mình, bị vây quanh bởi tiếng tanh tách đem lại từ sự tập trung của Clare.

Nhưng cuối cùng, nàng cũng xong. Với một tiếng thở phào và nhát cắt cuối cùng ở thái dương tôi, nàng nói: “Xong rồi đây. Hãy vào phòng tắm và xem kết quả nào.”

Tôi để nàng dẫn đi, dù vẫn biết rõ đường vào phòng tắm. Tôi muốn ở trong trạng thái hợp tác này lâu thêm chút nữa, với tình trạng mái tóc và tương lai của tôi đang nằm ngoài tầm tay. Nàng dẫn tôi vào phòng tắm, để tôi đứng trước gương, và bật cái đèn gắn cố định trên trần.

“Tèn ten,” nàng nói. Và tôi trông thấy chính mình, đang lấp lánh trong ánh đèn.

Nàng đã húi cua cho tôi. Hai bên thái dương được cắt quá sát đến nỗi làm lộ cả da đầu, và trên đỉnh là một đám tóc dựng lởm chởm. Với mái tóc này, lần đầu tiên tôi được thấy rõ vẻ ngoài của mình. Đôi tai tôi nhỏ xíu. Đôi mắt tôi bé long lanh, và cái mũi to bị chẻ, như thể nó định tách ra thành hai cái mũi nhỏ hơn. Những đặc điểm này vẫn luôn có vẻ quá quen thuộc. Nhưng giờ đây tôi mới thấy chúng đặc biệt như thế nào. Khi ngắm nhìn khuôn mặt mình trong ánh sáng chói mắt, phía sau là nền gạch trắng, tôi có cảm giác mình giống như một người thân được gọi đến để nhận dạng một thi thể. Nếu linh hồn chúng ta bay ra khi cơ thể ngừng hoạt động, thì có lẽ đây sẽ là cách mà chúng ta trông thấy chính cái thể xác trống rỗng của mình – với sự hứng thú và nỗi sợ hãi tương tự như khi chúng ta trông thấy một nạn nhân bị tai nạn.

“Chà,” tôi nói.

“Trông anh thật tuyệt,” nàng bảo tôi. “Hãy chờ thêm tí nữa. Tôi biết ban đầu sẽ rất sốc. Nhưng tin tôi đi. Anh sẽ bắt đầu ngó nghiêng cái đầu mới ngay thôi.”

Tôi cứ nhìn đăm đăm vào khuôn mặt trong gương. Nếu tôi được coi là người như thế này, tôi không biết phải cư xử thế nào cho thích hợp. Như thể Clare đã đưa tôi đến một bốt điện thoại công cộng và bảo tôi ấn số gọi lên Sao Mộc.

Nàng nói chúng tôi phải chờ Jonathan về, để cho cậu thấy hình ảnh mới của tôi. Tôi không thích tự khoe mình trước mặt Jonathan lắm. Thói tự mãn đó quả là ngớ ngẩn, và sự bằng lòng thay đổi của tôi cũng thế. Tuy nhiên, tôi vẫn đồng ý. Như tôi đã nói, Clare gây tác động lên tôi giống như âm nhạc vậy. Nàng đi vào trong não tôi. Tôi thấy bản thân không chỉ làm theo những gì nàng muốn mà còn không biết những khát vọng của tôi đã bị dừng lại ở đâu và bắt đầu bị thay thế bằng những khát vọng của nàng ở chỗ nào.

Trong khi chờ đợi Jonathan, chúng tôi làm những việc vốn đã trở thành thông lệ. Chúng tôi làm bỏng ngô và uống sáu lon Coke cho người ăn kiêng. Chúng tôi nghe lại băng Steve Reich, và xem một bộ phim chiếu lại của Mary Tyler Moore[49]. Tôi nhận thấy rằng mái tóc mới của tôi không làm thay đổi kiểu ngồi của tôi trong một căn phòng, cũng không ngấm vào trong những ý nghĩ mơ hồ cũ của tôi. Tôi thấy nhẹ nhõm và thất vọng.

[49] Mary Tyler Moore (sinh ngày 29 tháng 12 năm 1936): diễn viên người Mỹ, nổi tiếng trong các loạt phim sitcom.

Jonathan về nhà lúc hơn một giờ. Khi chúng tôi nghe thấy tiếng chìa khóa của cậu, Clare bắt tôi trốn vào trong bếp. “Tôi sẽ ngồi đây như bình thường,” nàng thì thào. “Tôi sẽ giữ chân cậu ấy trong phòng khách. Sau vài phút, anh hãy bất ngờ bước ra nhé.”

Tôi không muốn làm theo cách đó. Không muốn thu hút sự chú ý về phía mình. Nhưng Clare quá to lớn và nhanh nhẹn so với tôi. Tôi lờ mờ nhớ lại một bữa tiệc sinh nhật khi một ông già có cái mũi đỏ và bộ tóc giả màu rau diếp lôi ra những đồng xu từ tai tôi và lấy ra một bó hoa giấy từ bên trong áo sơ mi của tôi. Đúng, tôi đã giả vờ ngạc nhiên và thích thú một cách tỉnh bơ.

Vì thế tôi đi vào căn bếp tối om khi Jonathan bước qua cửa. Tôi nghe thấy tiếng bản lề rống lên, và cuộc đối thoại đơn giản của cậu với Clare. “Chào cưng.” “Chào cưng.” “Mọi chuyện thế nào?” “Thảm họa. Như thường lệ.” Cách họ nói chuyện nghe giống hệt như một cặp vợ chồng, hơn cả bất cứ cặp đôi nào tôi từng gặp. Tôi hiểu vì sao việc họ cùng nhau sinh con có thể được coi là một bước tiếp theo hợp lý.

Tôi lắng nghe họ trò chuyện. Ánh sáng yếu ớt của lỗ thông gió lọt vào qua cửa sổ như sương mù. Những lọ thủy tinh đựng đầy thảo mộc của Clare tỏa ra một thứ ánh sáng dịu nhẹ trên ngưỡng cửa sổ. Tên chúng được viết bằng lối viết tay nhỏ và sắc nhọn trên những cái nhãn bằng giấy: cây hoa mũ hề, hồi sao, tầm ma.

Tôi nghe Jonathan hỏi: “Bobby đâu rồi?”

“Ồ, anh ấy ở đâu đó thôi,” nàng trả lời.

Đó sẽ là ám hiệu cho tôi. Đã đến lúc tôi bước ra như thể chẳng có gì bất thường xảy ra cả. Tuy nhiên, tôi vẫn ở nguyên trong bếp. Tôi bị thu hút bởi bóng tối lờ mờ, tiếng ro ro của tủ lạnh và những lọ gia vị để chữa bệnh đau đầu, mất ngủ, và xua đuổi những điều không may. Tôi giống như một thi thể bị chôn trong bức tường gạch, đang nghe trộm những vấn đề đời thường của người sống. Tôi chợt nhận ra rằng bản thân cái chết có thể là một hình thái tham gia mơ hồ hơn trong lịch sử vẫn đang tiếp diễn của thế giới. Cái chết có thể là như thế này, một sự hiện diện đồng thời với vắng mặt, trong khi bạn bè của bạn vẫn tiếp tục tán gẫu giữa những ngọn đèn và đồ đạc trong phòng về ai đó không còn là bạn nữa. Lần đầu tiên trong bao năm qua, tôi bỗng cảm thấy sự hiện diện của anh trai mình. Tôi thực sự cảm thấy thế, không thể nhầm lẫn – tính quả quyết và một điều gì đó ở anh ấy, nét đặc trưng của Cartlon vẫn còn vương lại sau khi giọng nói, da thịt và tất cả những bộ phận cơ thể khác đều đã tan biến. Tôi cảm thấy anh có mặt trong căn bếp đó một cách rõ ràng như trong buổi chiều lạnh lẽo tuyết rơi trắng xóa ở nghĩa địa nhiều năm trước, khi tương lai tươi sáng đang rạng rỡ phía trên những tấm bia mộ và lấp lánh nơi chân trời. Anh ấy đang ở đây, tôi tự nhủ, và tôi biết đó là sự thật. Từ lâu rồi tôi không còn thói quen nghĩ về anh, và tôi coi mình như đã được sinh ra dưới mái nhà của chú Ned và cô Alice sau khi bố tôi mất. Giờ đây, tôi nghĩ về tất cả bọn họ, những con người đã nằm lại ở Cleveland. Ngay lúc này, những bông cúc dại có lẽ đang nở trên bia mộ họ, và những cây bồ công anh chắc đã trổ bông. Chiếc kèn harmonica mà tôi nhét vào túi áo ngực của Cartlon trong đám tang ở nhà, có lẽ đã lọt qua những rẻ xương xườn của anh và rơi leng keng xuống đáy quan tài. Tôi đang sống cho cả tương lai của tôi lẫn tương lai đã mất của anh trai tôi. Tôi đại diện cho anh ở đây cũng như anh đang thay mặt tôi ở một nơi vô định nào đó. Việc anh bước vào cõi chết có lẽ cũng giống như khi tôi bước vào trong bếp – vào sự mông lung êm đềm và tiếng ro ro mơ hồ của nó. Tôi hít thở thứ không khí tối tăm. Nếu lúc đó tôi có cảm giác về một cái chết nhẹ nhàng điềm tĩnh trong khi tim vẫn đập và phổi vẫn nở rộng, thì có lẽ anh cũng đang mang cảm giác tương tự về sự sống giữa nơi cái chết đang diễn ra. Bên ngoài, một dây phơi quần áo được chăng qua lỗ thông gió. Những cái tay áo rỗng cứ phấp pha phấp phới. Tôi nhận thấy rằng khi tôi và anh trai kết hợp lại – trong cái tên của cả hai chúng tôi – tôi có thể theo đuổi một cuộc sống và một tương lai đầy ngạc nhiên. Tôi có thể nuôi sống anh trong thế giới bên kia bằng cách vừa là tôi vừa là anh trong một cơ thể. Tôi cứ đứng trong căn bếp đó khi Clare liên tục ra hiệu cho tôi bước vào phòng khách. Tôi mải ngắm một cái áo sơ mi màu trắng đang nhẹ nhàng đung đưa cách mặt bê tông sáu tầng cầu thang.

Cuối cùng, nàng đành tiến đến chỗ tôi. Nàng hỏi xem tôi có ổn không, và tôi bảo nàng rằng tôi vẫn bình thường. Tôi bảo nàng rằng tôi cảm thấy rất ổn. Khi nàng hỏi tôi chuyện gì đang diễn ra, tôi bất lực chỉ về phía đám quần áo đang treo trên dây phơi. Nàng chậc lưỡi, nghĩ rằng tôi chỉ đơn giản là đang xấu hổ, và dắt tôi ra ngoài.

Jonathan rú lên trước kiểu tóc của tôi. Cậu nói trông tôi thật nguy hiểm. “Một Bobby của những năm tám mươi,” Clare tự hào tuyên bố, và tôi không phản đối nàng. Dù Jonathan đã mệt lả, nhưng chúng tôi vẫn giễu mái tóc của tôi đi quanh Village. Chúng tôi đi uống ở một quán đồng tính trên quảng trường Thánh Marks và cả ba người cùng nhau nhảy nhót. Dường như tôi đã lao qua một tấm kính và đến được bữa tiệc, sau nhiều năm ngồi trong nghĩa địa và nghĩ rằng mình còn sống. Khi chúng tôi đã nhảy nhót chán chê, tôi đòi đến cầu tàu trên sông Hudson, để ngắm giọt cà neon đang rơi ra từ một tách cà phê neon to bự. Rồi Clare và Jonathan bắt taxi về nhà, còn tôi vẫn đi bộ. Tôi đi khắp New York. Tôi đến công viên Battery, nơi Nữ thần Tự do đang giơ cao ngọn đuốc nhỏ bé bên bến cảng, và đi lên phía dãy xe ngựa đang mong ngóng chờ đợi kẻ quá say xỉn và những người lãng mạn bên ngoài Plaza. Khi trời hửng sáng, tôi đang ở trên đại lộ Năm trong khu phố Hai mươi. Một chiếc xe tải giao bánh đi ngang qua, người tài xế đang hát vang bài Crazy của Patsy Cline với giọng ca lạc điệu, và tôi hát theo ông ta suốt nửa dãy nhà. Ban đầu tôi cho rằng chính kiểu tóc mới của tôi đã khiến tôi làm thế, nó đã phá vỡ trật tự thông thường của mọi thứ và chỉ cho tôi thấy những khả năng vẫn luôn sẵn có. Hồi trước, chúng tôi từng dùng ma túy vì những lý do ít nhiều tương tự như thế.

Sau đó, những thay đổi đến thật dễ dàng. Tôi không nhất thiết phải mãi gắn bó với những thứ quen thuộc nữa. Clare có một sở thích là làm tôi thay đổi. Nàng dẫn tôi đi mua quần áo trong những cửa hàng đồ cũ trên đại lộ Một, nơi nàng quen tất cả những nhân viên bán hàng và một nửa số khách hàng. Khi đi mua sắm, Clare có vẻ chăm chú của một con chim đại bàng mẹ đang kiếm mồi. Nàng có thể sà xuống một thùng carton đựng đầy quần áo cũ bằng vải polyester sáng màu – những món đồ bị phai màu của cửa hàng Woolworth khi còn mới trông đã thật kinh khủng và ngán ngẩm – và lôi ra một cái áo sơ mi lụa chi chít những con cá vàng lanh lợi. Nàng có tính ưa lòe loẹt nhưng chịu khó tìm tòi, bạn biết được qua đôi mắt nàng rằnhg những thứ nàng muốn sẽ tỏa ra một ánh sáng rực rỡ mà những người mua sắm khác không nhìn thấy được. Tôi để nàng chọn lựa, và sau hai tuần tôi đã có một tủ quần áo tuy toàn là đồ cũ rẻ tiền nhưng lại là mới với tôi. Tôi có những cái quần thụng hồi những năm bốn mươi, và những cái áo sơ mi lòng thòng bằng tơ nhân tạo có màu thuốc là và mát tít. Tôi có những cái quần jean màu đen cũ, một cái áo khoác da khi đi mô tô, và một cái áo khoác vai vuông màu đen với những sợi thiếc thòi ra lung tung. Tôi thậm chí còn có cả giày của những người xa lạ: một đôi Oxford màu nâu và mũi được làm từ lưới da, một đôi giày quân đội màu đen và một đôi giày vải màu đen bị vấy sơn.

Tôi cũng có thêm cả một chiếc khuyên tai nữa. Clare đã kéo tôi vào một cửa hàng trang sức trên phố Tám, và chỉ trong một khoảnh khắc ngắn ngủi chưa đủ để bạn kịp nói “thay đổi”, một người đàn ông Trung Đông đã bấm một cái khuyên bằng bạc vào dái tai trái của tôi bằng súng thủy lực. Nó không đau hơn vết cắn của một con rệp vừng. Clare hứa sẽ làm cho tôi một chiếc khuyên tai thật hoàn hảo. Người đàn ông Trung Đông mỉm cười. Dường như rằng ông ta được tạc từ một mẩu gỗ.

Trong những ngày đó, mỗi lần nhìn thấy bóng phản chiếu của mình qua các tủ kính bày hàng, tôi lại thấy ngạc nhiên. Có vẻ như tôi chỉ là người anh em sinh đôi lỗ mãng của chính mình, từ một nơi tồi tàn đến đây để gây chuyện với những người lao động bình thường. Người đàn ông với khuôn mặt mà tôi nhìn thấy thấp thoáng trên các tủ kính bày hàng đó sẽ không viết “Chúc mừng sinh nhật” lên mười nghìn cái bánh. Anh ta sẽ không bằng lòng khi phải sống trong một căn phòng ngủ trên gác với cửa sổ trông ra cái khung chơi leo trèo cho trẻ em của nhà hàng xóm.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
597,378
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 2-6


Clare giới thiệu tôi với bạn bè của nàng: Oshiko, nhà thiết kế mũ bi quan; Ronnie, một họa sĩ dễ xúc động, người ăn nói dài dòng; Stephen Cooper, người chuyên nói về chuyện kiếm tiền bằng việc nhập khẩu cần sa và mua một cửa hàng trang sức ở Provincetown, nơi anh ta có thể quan tâm nhiều hơn đến những năng khiếu trời cho của mình. Những người này giống như những bộ phim đang chiếu quanh tôi – tôi ngồi quan sát và lắng nghe với sự chăm chú dễ dàng tương tự như khi bạn ngồi xem phim ở hàng ghế thứ năm. Họ thích được là các nhân vật mà họ đã tạo ra, và không cần phải tôi phải nhận xét gì. Vì thế chúng tôi hòa hợp với nhau. Tôi thường đứng hoặc ngồi, ngắm nhìn mọi thứ đang diễn ra. Nếu tôi có thể tạo nên một đặc trưng cho người địa phương mình, đó sẽ là sự bí ẩn và sự điềm tĩnh không đổi. Tôi nhận thấy rằng những người New York – ít nhất là những người mà Clare quen – thường đánh giá cao sự im lặng của người khác. Quanh họ lúc nào cũng ồn ào, bất kể ngày hay đêm. Bạn bè của Clare sẵn sàng coi tôi là kẻ hay suy tư, khi mà thực tế thì tôi chủ yếu quan sát và chẳng nghĩ gì cả. Thỉnh thoảng tôi lại chêm vào một câu hỏi, hoặc trả lời câu hỏi mà họ đặt ra. Tôi đeo chiếc khuyên tai mà Clare đã làm cho tôi, với một hạt hình giọt lệ màu bạc, một vòng kim loại gỉ sắt, và một con ngựa có cánh bằng bạc nhỏ xíu. Đôi khi nàng lo lắng hỏi thăm xem tôi có thấy vui không, và tôi luôn trả lời rằng có. Đó luôn là sự thật. Khi đến những nơi như thế này – những câu lạc bộ huyên náo với lối vào không có gì đặc biệt, những buổi tiệc tùng trong các căn hộ trắng toát và đơn sơ như dãy Himalaya – tôi chỉ đơn giản thấy mình hoàn toàn vui vẻ. Tôi đã ở trong nghĩa địa bao năm rồi, giờ thì tôi đang ở trong một cuộc vui. Giữa một nơi sống động như thế, tôi cứ giữ yên lặng như một hồn ma. Một cô gái xinh đẹp với làn da trắng xanh như váng sữa thong thả bước đi giữa những người khiêu vũ với một con rắn đốm mập mạp quấn quanh cổ tay. Hai cậu bé trong bộ váy nữ sinh kẻ ô đang đứng trang nghiêm cạnh nhau, nắm lấy tay nhau như thể chúng đang canh gác lối vào của một thế giới khó khăn, khắc nghiệt hơn và không thể tưởng tượng nổi là sẽ không có ai cố gắng lọt vào đó.

Nhưng những khoảng thời gian tuyệt vời nhất là những đêm mà Jonathan đi làm về sớm, vẫn kịp để ra ngoài dạo chơi. Đôi khi chỉ có hai người chúng tôi đi với nhau, và đôi khi có cả Clare theo cùng. Những đêm có mặt Jonathan, chúng tôi đi xem phim, rồi đi uống ở những quán bar mà chúng tôi thích. Những người bạn khác của Clare thường chỉ mải mê với việc tạo cho cuộc đời họ một nét hoang đường. Họ là những người trung thành với sự chuyển động, và biết được nơi nào là thích hợp nhất với họ, những bữa tiệc trong lòng bữa tiệc. Tôi có thể hiểu được thôi thúc đó. Nhưng Jonathan, Clare, và tôi thích những quán bar cũ vốn bị đè bẹp dưới sức nặng của những điều thường nhật hơn. Hồi đó, Village đầy những quán bar như thế, và ngày nay vẫn vậy. Không gian bên trong vẫn mang vẻ mờ ảo cũ kĩ giống như màu của bia đen. Họ bán những gói khoai tây chiên và đậu phộng được kẹp trên dây. Khách quen ở đây – những người say rượu đứng đắn trầm lặng vốn luôn tin rằng mọi thứ đang ngày càng tệ hơn và không bao giờ gây náo động – thường ngồi yên trên ghế ở quầy bar như những con gà mái đang đậu để ngủ. Chúng tôi luôn đặt một chỗ ở trong cùng.

Chúng tôi bắt đầu thích gọi nhau là gia đình Henderson. Tôi không nhớ là từ bao giờ và như thế nào – nó phần nào giống như sợi dây được Clare và Jonathan quăng ra, và bị mắc lại. Nhà Henderson là gia đình có những hi vọng khiêm tốn và những sở thích đơn giản. Họ thích đi xem phim hay xem ti vi. Họ thích uống bia trong một quán bar nho nhỏ rẻ tiền. khi ba người chúng tôi đi chơi cùng nhau, chúng tôi gọi nó là “một đêm với gia đình Henderson.” Clare được coi là Mẹ, tôi là Junior, còn Jonathan là chú Jonny. Câu chuyện trở nên chi tiết hơn theo thời gian. Mẹ là người quán xuyến mọi việc. Nàng muốn chúng tôi để ý đến tác phong của mình và khi ngồi thì phải thẳng lưng, nàng chậc lưỡi khi một trong hai người chúng tôi chửi thề. Junior là một nhân vật có thiện chí, mờ nhạt, một kiểu hướng đạo sinh ngốc nghếch và có thể bị người khác dụ dỗ làm bất cứ điều gì. Chú Jonny là người có ảnh hưởng xấu. Chú ta cần được coi chừng. “Junnior,” Clare thường nói, “đừng ngồi quá gần chú Jonny. Và chú ta không cần phải đi vào phòng tắm cùng anh, giờ anh đã đủ lớn để tự xoay xở mọi chuyện rồi.”

Thỉnh thoảng chúng tôi mới sắm vai nhà Henderson. Không phải lúc nào chúng tôi cũng làm thế. Chúng tôi chỉ mượn tạm cuộc đời họ khi chúng tôi bị mất hứng với cuộc đời thật và phức tạp hơn của mình. Trước khi Jonathan rời đi vào buổi sáng, cậu có thể nói: “Tối nay có thể tôi sẽ về sớm đấy, gia đình Henderson có muốn đi xem phim của Fassbinder[50] không?” Clare và tôi hầu như luôn đồng ý, vì chúng tôi rảnh rang hơn. Chúng tôi thích một đêm được sắm vai nhà Henderson hơn là những thú giải trí khác. Thỉnh thoảng khi Clare và tôi chỉ còn một mình, nàng thường nói với giọng của nhân vật Mẹ, một biến thể kiểu Anh mơ hồ và run rẩy từ giọng thật của nàng. Nhưng khi không có chú Jonny, gia đình Henderson không tồn tại. Không có người chú tồi tệ đó, chúng tôi trở nên quá đơn giản – chỉ còn lại nhân vật Mẹ độc đoán và cậu con trai luôn vâng lời. Chúng tôi cần cả ba đỉnh của một tam giác. Chúng tôi cần những tác phong hòa nhã, sự hư hỏng và một giọng nói phân xử công bằng.

[50] Fasssbinder: đạo diễn, diễn viên kiêm biên kịch người Đức, nổi tiếng với các tác phẩm về các vấn đề tâm lý và xã hội của nước Đức sau Chiến tranh thế giới thứ hai.

Tôi đã tìm được việc làm, chỉ là một công việc tầm thường, làm chân chạy vặt tại một cửa hiệu trứng ốp lết ở SoHo. Tôi nói viết mọi người, và đôi khi tự nhủ với mình, rằng tôi đang học về cách kinh doanh nhà hàng từ nền tảng thấp nhất, để một ngày nào đó tôi lại có thể mở một nhà hàng cho riêng mình. Nhưng tôi không tin lắm vào tham vọng đó, thực sự là không. Mỗi lần tôi chỉ có thể khơi dậy nó trong vài phút, bằng cách tập trung vào những chi tiết: bản thân tôi trong tương lai đang cau có kiểm tra một cái khay đựng món tráng miệng trước khi chúng tôi rời nhà bếp, hay đang miết tay trên mặt quầy bar làm bằng gỗ gụ, nhẵn nhụi và bóng bẩy như sườn của một con ngựa cái. Có thể tôi muốn điều đó. Nó có thể làm da dẻ tôi nóng bừng lên. Nhưng vào lúc mất tập trung, tôi lại quay về cuộc sống hiện tại: vẫn đang sống ở New York với Jonathan và Clare, làm một công việc bình thường. Tôi hài lòng với việc ở bên cái máy rửa bát đĩa Mexico mỗi ngày, trong căn bếp trơn trượt của nhà hàng, thái nấm và cắt nhỏ pho mát Gruyère. Đó vẫn là bí mật đáng xấu hổ của tôi.

Một đêm nóng bức tháng Tám, tôi đi tắm và khỏa thân đi vào phòng Jonathan, vì tôi cho rằng lúc đó chỉ có mình tôi trong nhà. Một người bạn cũ của Clare mới đến thăm thành phố và cần được dẫn đi tham quan, còn Jonathan giờ này chắc hẳn đang ở chỗ làm. Bầu trời tối đen, âm u và ảm đạm như phủ đầy khói, và dấu vết cơ thể của những gã lang thang vẫn còn in lại khi họ ngủ trên vỉa hè. Tôi vừa đi vừa hát bài Respect, với những giọt nước kêu xèo xèo trên da tôi, và thấy Jonathan ngồi trên sàn, đang cởi giày.

“Chào,” cậu nói.

“Ồ, chào cậu. Mình nghĩ là cậu đang, cậu biết đấy, đi làm cơ mà.”

“Máy điều hòa nhiệt độ ở văn phòng mình bị hỏng, và bọn mình quyết định không quan tâm đến việc tờ báo tuần này có ra đúng hạn hay không nữa. Nghề nào cũng có những giới hạn, ngay cả nghề báo.”

“Ra thế.” Tôi đứng ngượng nghịu trên hành lang, cách cửa phòng hai bước chân. Tôi không biết phải làm gì với tay mình. Trong căn hộ này, chúng tôi không hay khỏa thân bất ngờ như thế. Đó không phải là điều chúng tôi thường làm. Tôi cảm thấy sự to lớn của mình làm bầu không khí thêm nóng lên. Dù Jonathan nhìn tôi với vẻ trìu mến thân thiện, nhưng tôi chỉ có thể nghĩ đến việc vóc dáng cơ thể mình đã xuống mã ra sao. Khi chúng tôi còn là những cậu bé lêu lổng, cảm thấy lo lắng nhiều hơn là sung sướng trong bàn tay nhau, tôi đã tự hào về cơ thể mình. Tôi từng có bộ ngực vuông vức, phẳng phiu. Da bụng tôi từng căng ra thành hơn ba múi cơ săn chắc. Giờ thì tôi đã nặng thêm bảy cân. Tôi đã trở thành một phiên bản sớm phát triển của cơ thể bố tôi – một thân hình tròn ủng đặt trên đôi chân mảnh khảnh. Tôi đứng đó, với cơ thể trong trắng, rậm rạp, tỏa hơi nước vào trong không khí.

“Cậu vừa tắm xong à?” Jonathan hỏi.

“Ừ.”

“Nghe như nó có thể tạo ra sự khác biệt giữa sự sống và cái chết ấy.” Cậu lột tất và cởi chiếc áo phông màu đen ra. Cậu tụt chiếc quần soóc màu đen, bảo tôi rằng các nhân viên của tòa soạn đã quyết định về nhà sớm như thế nào khi bông hồng trên bàn làm việc của nhân viên tiếp tân rũ xuống và rụng hết cánh. “Như một con chim hoàng yến trong mỏ than,” cậu nói.

Cậu cởi hết quần áo ra. Tôi đã không thấy Jonathan khỏa thân từ hồi chúng tôi mười sáu tuổi đến giờ, nhưng cơ thể cậu trông vẫn y như tôi còn nhớ. Gầy và hầu như nhẵn nhụi, không có cơ bắp – thân hình của một cậu bé. Cậu đã không mọc thêm những đám lông mới hay béo lên. Cậu cũng không có được cơ thể hình chữ V mẫu mực dù đã sống một cuộc sống kỉ luật hơn. Da dẻ cậu căng mịn như bột nhồi bánh mì đã lên men. Hai núm vú hồng hồng vô tư nhú lên trên đường cong mai mái của bộ người. Sự thay đổi duy nhất là một con rồng nhỏ màu đỏ, với mình rắn và vẻ mặt hồ nghi, mà cậu đã xăm lên vai.

Cậu cười với tôi, hơi bối rối nhưng không tỏ vẻ sợ sệt. Tôi nghĩ đến Carlton, với cơ thể thiếu niên trần trụi trong nghĩa địa dưới bầu trời xanh thẫm.

“Mình sẽ vặn nước lạnh hết cỡ,” cậu nói. “Và mình cá là mình vẫn sẽ có cảm giác âm ấm.”

“Ừ. Đúng vậy đấy,” tôi nói.

Cậu khỏa thân đi trên hành lang tới phòng tắm. Tôi đi theo cậu. Đáng lẽ tôi nên ở lại phòng ngủ và mặc quần áo vào, nhưng tôi không làm thế. Tôi ngồi trên nắp bồn cầu và nói chuyện với cậu khi cậu tắm dưới vòi hoa sen.

Khi cậu tắm xong, chúng tôi đi vào phòng khách cùng nhau. Lúc đó sự lõa lồ của chúng tôi đã trở nên quen thuộc hơn, mất đi sự ngớ ngẩn ban đầu của nó. Da dẻ chúng tôi đã trở thành một loại quần áo. Cậu nói: “Nơi này có một vấn đề là nó không có thông gió chéo. Cậu có nghĩ rằng ở trên nóc nhà sẽ mát hơn không?”

Tôi nói là có, có thể là như vậy. Cậu bảo tôi chút, và chạy vào phòng tắm. Cậu quay lại với hai cái khăn.

“Này,” cậu nói, ném cho tôi một cái. “Vì sự đứng đắn, phòng khi chúng ta chạm trán ai đó.”

“Cậu định lên nóc nhà mà không có gì trên người ngoài một chiếc khăn à?”

“Người ta còn làm những việc tệ hơn trong những trường hợp ít khẩn cấp hơn mà. Đi nào.”

Cậu lấy một cái khay đá ra khỏi tủ lạnh. Chúng tôi quấn khăn quanh eo lưng, và đi chân trần ra hành lang. nó gần như vắng lặng Những chiếc quạt điện kêu vù vù sau những cánh cửa đóng kín, và tiếng nhạc salsa len lỏi qua thanh lan can. “Suỵt,” cậu nói. Cậu nhón chân một cách khoa trương trên những bậc cầu thang dẫn lên nóc nhà, tay cầm cái khay đá bằng nhựa màu xanh đang chảy nước. Tôi theo sát cậu.

Nóc nhà tối đen và vắng lặng như tờ, một khoảng sân thượng bằng phẳng trải nhựa đường bao quanh bỏi vô vàn ánh điện đan xen trong thành phố. Một ngón gió nóng thổi qua, mang theo mùi rác rưởi ngòn ngọt do chúng đã trải qua một quãng đường quá xa. “Chẳng khá hơn tí nào,” Jonathan nói. “Nhưng ít ra thì không khí cũng chuyển động.”

Khi đứng gần như khỏa thân hoàn toàn giữa vạn hạt như thế, tôi có cảm giác như đang mơ. Một sự thích thú và một nỗi hồi hộp thú vị, rạo rực.

“Trên này thích quá,” tôi nói. “Khá là đẹp.”

“Khá đẹp,” cậu nói. Cậu cởi khăn ra và trải nó lên tấm giấy dầu. Da dẻ cậu trông xám ngoét trong bóng tối.

“Người ta có thể trông thấy cậu đấy,” tôi nói. Cách đây hai dãy nhà, một tòa nhà cao tầng sáng rực như thể nó chứa cả một thành phố bên trong.

“Họ sẽ không thấy nếu bọn mình nằm xuống,” cậu nói. “Trên này khá tối. Với lại, họ thấy chúng ta thì đã sao nào?”

Cậu nằm trên chiếc khăn như thể cậu đang ở bãi biển. Tôi cũng cởi khăn của tôi ra và trải nó ra cạnh chỗ cậu. Luồng không khí chuyển động từ phố Ba, ngập tràn tiếng còi xe và tiếng nhạc Tây Ban Nha chạm vào từng phần cơ thể lồ lộ của tôi.

“Này.” Cậu bê cái khay nhựa. Cậu đưa cho tôi một viên đá, và giữ một viên cho mình.

“Hãy lấy nó và xoa lên người,” cậu nói. “Không có nhiều đâu, nhưng đó là tất cả những gì bọn mình có.”

Chúng tôi nằm cạnh nhau trên chiếc khăn tắm, chà viên đá lên làn da mướt mồ hôi. Sau một lúc, cậu giơ tay ấn viên đá của cậu vào bụng tôi. “chuyện nào Mẹ còn chưa về,” cậu nói, “hãy để chú Jonny chăm sóc cậu.”

“Được,” tôi nói, và cũng làm thế với cậu. Chúng tôi không nói gì thêm nữa về việc chúng tôi đang làm. Thay vào đó, chúng tôi nói chuyện về công việc, âm nhạc và Clare. Trong khi nói chuyện, chúng tôi xoa viên đá lên bụng, ngực và mặt nhau. Giữa chúng tôi có một khía cạnh nào đó của tình dục nhưng chúng tôi không quan hệ với nhau – chúng tôi không phạm phải những hành động quá trớn. Đó là một loại âu yếm thân mật và ngọt ngào hơn. Đó là sự dâng hiến cho cảm giác thoải mái của nhau, và cho sự thân thuộc sâu sắc đối với những thân thể không hoàn hảo của chúng tôi. Khi viên đá tan hết, chúng tôi lại lấy viên khác trong khay. Jonathan chà viên đá lên lưng tôi, rồi tôi cũng làm thế với cậu. Tôi cảm thấy mỗi khoảnh khắc như vỡ ra, một khả năng mới, khi chúng tôi nằm đó, dùng nốt những viên đá cuối cùng và nói chuyện về bất cứ điều gì nảy ra trong đầu. Trên đầu chúng tôi, vài ngôi sao mờ mờ đã bắt đầu điểm xuyết trên bầu trời tím thẫm nóng như thiêu như đốt.

CLARE

Tôi đã nghĩ đến việc có con từ khi mới mười hai tuổi. Nhưng phải đến gần bốn mươi tôi mới bắt đầu nghiêm túc nghĩ về chuyện đó. Jonathan và tôi thường đùa bỡn về việc làm cha làm mẹ - đó là cách tán tỉnh của chúng tôi. Chúng tôi luôn có một kế hoạch nào đó. Đó là cách để chúng tôi trút bỏ bất cứ thứ tĩnh điện cảm xúc nào có thể được hình thành. Quả là lạ khi hai người yêu nhau mà không có ham muốn tình dục. Bạn thấy mình đang lập kế hoạch cho những chuyến đi và bàn bạc về những cách kiếm tiền. Bạn thấy mình tranh cãi vì màu sắc của một căn nhà mà các bạn sẽ không bao giờ cùng sở hữu. Bạn nghĩ tên cho một đứa bé mà bạn sẽ không bao giờ mang thai nó.

Tuy nhiên, gần đây, tôi không chắc chắn lắm. Tôi đã kiếm được chút tiền trong hơn một năm qua, hơn nửa triệu, nhưng ở tuổi ba mươi tám, bạn không thể nghĩ rằng cuộc đời bạn vẫn đang bắt đầu nữa. Những hi vọng dần trở nên mong manh. Bạn suy nghĩ quá nhiều và rồi nó biến mất. Tôi thấy ngạc nhiên trước cái cảm giác trống rỗng ở bên trong, trái tim và bụng tôi như đang đu đưa trên mây. Tôi đã luôn quá chú trọng đến hiện tại. Tôi cho rằng chỉ cần làm những việc như thế này là đủ - nếm cà phê và rượu vang, tận hưởng tình dục hay xem tất cả những bộ phim. Tôi nghĩ rằng việc mình đạt được điều gì trong đời sẽ không còn quan trọng nếu tôi chỉ để tâm đến mọi điều đang xảy ra.

Chẳng mấy chốc tôi sẽ phải bổ sung một điều quan trọng vào danh sách liệt kê những việc mà tôi đã quá già không thể làm nổi. Tôi có thể nhận thấy nguy cơ đó: người đàn bà lớn tuổi yêu một anh chàng đồng tính, và mang thai để tự bù đắp cho những mối quan hệ mà cô ta đã không thể giữ được. Tôi không thể đi theo hướng đi đó một cách nghiêm túc. Tuy nhiên, nó vẫn giày vò tôi. Jonathan có việc làm, và có một người tình tôi chưa bao giờ gặp. Cậu có sự tự do sẵn có của một người đàn ông hai mươi bảy tuổi. Với bộ ngực ngày càng xệ xuống, tôi muốn có một thứ gì đó vĩnh cửu. Tôi muốn nuôi dạy con cái tốt hơn những gì cha mẹ tôi đã làm với tôi. Tôi muốn tiền bạc, sức khỏe và vận may của tôi được sử dụng một cách có ích hơn.

Một đêm, Bobby ra khỏi phòng tắm trong chiếc quần đùi Jockey, hát bài Wild horses. Tôi đang đi về phòng mình và chúng tôi chạm trán nhau trên hành lang. Anh cười. Anh có một thân hình đồ sộ, mềm mại, cơ bắp đang ganh đua với sự béo phì mới chớm. Mẹ tôi sẽ đồng tình gọi anh là “một gã vạm vỡ to con.” Việc kết hôn với bố tôi đã cứu bà thoát khỏi sở thích về những những người đàn ông láu cá mảnh khảnh. Bobby là tuýp người miền Trung Tây. Anh khỏe mạnh và vuông vức, bình lặng. Tôi nói: “Chào, người đẹp.”

Mặt anh đỏ bừng. Vào cuối những năm tám mươi rồi mà vẫn còn có một người đàn ông sống ở thành phố New York đỏ mặt trước một lời khen. Anh nói: “Ừm, tôi sẽ chuẩn bị xong ngay thôi.”

Chúng tôi đã định đi đâu đó. Tôi không nhớ là đâu nữa. Tôi nói: “Cứ từ từ, dù sao thì không có ai xuất hiện ở đó trước nửa đêm đâu.”

“Ừm.” Anh đi vào phòng chung của anh với Jonathan. Tôi dừng lại, rồi bước vào phòng tắm và chùi hơi nước đang phủ trên gương thành một hình tròn. Khuôn mặt tôi hiện ra. Không đẹp cũng không xấu. Tôi luôn là một sự kết hợp khó chịu của bố mẹ tôi.

Thật ngạc nhiên là mẹ tôi ngày càng đẹp ra. Ở độ tuổi mà phụ nữ được coi là “đẹp lão” hơn là “xinh,” bà quả thực khá đẹp: hơi nam tính, khuôn mặt rộng, làn da hồng hào sạch sẽ và mái tóc đã chuyển từ màu nâu sang màu ghi xám. Khuôn mặt thiếu biểu cảm của bà không có nếp nhăn, và phong cách nghiêm túc, thẳng thừng của bà có vẻ hấp dẫn hơn khi người phụ nữ ở độ tuổi bà bắt đầu xuất hiện những nếp nhăn cứng nhắc và phải dùng quá nhiều phần hồng. Mẹ tôi đã đuổi kịp bản thân bà. Bà đã tìm thấy vẻ đẹp của mình. Thậm chí ngay từ khi còn trẻ, trông bà cũng luôn có vẻ như sắp bước sang tuổi sáu mươi.

Bố tôi, mặt khác, đã khô héo như một quả mận. Hai má ông quắt lại, rúm ró. Mái tóc xanh đen cứng cáp của ông không còn nữa, làn da giờ chỉ còn lỏng lẻo và dai nhách bám trên cổ ông. Khi còn trẻ, tôi đã luôn hồi hộp tìm kiếm trong gương từng nét đẹp của bố tôi hiện trên khuôn mặt mình. Giờ đây tôi lại kiểm tra những dấu hiệu của sự tàn phai và phát hiện ra chúng. Cổ tôi đã chùng xuống hơn một chút. Làn da quanh mắt đã thâm quầng đi. Gen di truyền đang gây ảnh hưởng đến tôi.
 
CHÚ Ý !!!
Các đạo hữu nhớ thêm TÊN CHƯƠNG và THỨ TỰ CHƯƠNG ở ô phía trên phần trả lời nhanh. Như vậy hệ thống mới tạo được DANH SÁCH CHƯƠNG.
Cập nhật chức năng ĐĂNG TRUYỆN và THÊM CHƯƠNG MỚI trên web Diễn Đàn Truyện tại https://truyen.diendantruyen.com
Top Bottom