Cập nhật mới

Dịch Full Tổ Ấm Nơi Tận Cùng Thế Giới

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,359
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 2-7


Mẹ, mẹ không cần phải quá ghen tị trước tình yêu mà bố dành cho con. Cuối cùng, mẹ đã thắng rồi. Mẹ là một viên chưởng lý xinh đẹp không bị sự ham muốn quấy rầy. Bố và con đang héo mòn dần, và bọn con không biết phải làm gì với bản thân mình nữa.

Tôi lùa những ngón tay qua mái tóc. Rồi tôi vào phòng của Bobby và Jonathan, đứng ở ngưỡng cửa. Bobby đang cúi xuống ngăn kéo tủ, tìm một đôi tất. Mông anh to hơn mức lý tưởng, nhưng cân đối. Nếu cụm từ “đầy đặn, khêu gợi như trong tranh của Rubens” được áp dụng cho đàn ông, nó sẽ hoàn toàn thích hợp với Bobby. Anh hơi phát tướng nhưng vẫn cân đối, như những người đẹp trắng hồng thời xưa vui đùa trong những khoảng rừng thưa mờ tối. Ở nét trầm lặng của anh có vẻ gì đó nữ tính, dù anh không phải là đàn bà. Anh giống như một con hươu đực. Một sinh vật có móng guốc đặc biệt, nhút nhát nhưng không ẻo lả.

Tôi nói: “Sao tối nay anh không mặc chiếc áo sơ mi garbadine màu đen?”

Anh giật thót trước tiếng nói của tôi. Tôi cảm thấy bị kích thích một chút khi đã khiến anh ngạc nhiên như thế. Tôi có cảm giác như một cái khóa kéo đang kéo lên trong dạ dày tôi. Tôi là tay thợ săn, còn anh là con hươu đực mập mạp thiếu cảnh giác.

“Ừm, cũng được,” anh nói.

Tôi đến tủ quần áo và lấy ra cái áo sơ mi đó. “Đây là một trong những cái áo mà tôi thích,” tôi nói. “Chúng ta nên cố kiếm cho anh thêm một cái như thế này.”

“Ừm.”

Tôi ướm chiếc áo lên thân mình trần của anh. “Đẹp lắm,” tôi nói.

Một lần nữa, mặt anh lại đỏ lựng lên. Hành động của tôi không hề hiệu quả. Tôi chẳng gây nên chút gì gọi là khêu gợi cả. Tôi quá giống một bà mẹ khi quan tâm đến ngoại hình của anh. Chúng tôi đã không tạo ra một thông điệp ngầm nào.

Có vài điều không thể bị bắt buộc. Ngay cả cái bài học nhỏ đó tôi cũng phải tốn nhiều thời gian mới hiểu được.

“Có lẽ chúng ta sẽ đi uống gì đó trước,” tôi nói. “Chúng ta không muốn đến đó quá sớm.” Tôi đặt cái áo lên chiếc đệm của Jonathan. Nó đen sì và nhàu nhĩ trên lớp mền bông trắng, một hình ảnh về vẻ đẹp đàn ông không gợi tình. Tôi về phòng mình để bắt đầu trang điểm cho một đêm vui chơi nữa trong thành phố.

Một tháng trôi qua. Năm đó mùa đông đến sớm. Một tuần trước lễ Tạ ơn, những bông tuyết to như những đồng xu đã bất ngờ từ trên trời rơi xuống và quay cuồng quanh những ngọn đèn đường. Những người chủ cửa hàng trên dãy nhà của chúng tôi điên cuồng quét lớp tuyết mới khỏi vỉa hè như thể những sai lầm thời trẻ của họ đã đuổi kịp họ. Khi Bobby đi làm về, tôi đang ngồi trên sofa trong phòng khách, sơn móng chân và uống một ly rượu vang.

“Chào,” anh nói, phủi tuyết khỏi vai áo choàng.

Tôi gật đầu. Tôi không có tâm trạng để trò chuyện. Mùa đông đã quay lại, sớm hơn dự kiến.

“Thật kinh ngạc,” anh nói. “Ý tôi là, tôi thực sự không nghĩ rằng New York lại có, ờ, kiểu thời tiết như thế này. Chị biết không?”

“Tùy thuộc vào lực lượng tự nhiên,” tôi nói. “Như ở bất cứ đâu thôi.”

Tôi muốn anh ngừng ngay cái nhiệt tình tuổi trẻ của mình lại. Đêm đó, tôi chỉ thích hợp để làm bạn với những quả phụ hút thuốc không ngừng hay những linh mục bị bắt bỏ áo thầy tu mà thôi.

“Trời thật sự, chị biết đấy, rất đẹp,” anh nói. “Ngoài kia cực kì yên tĩnh. Chị có muốn đi dạo trong tuyết một lúc không?”

Tôi đưa ra một ánh nhìn mà tôi hi vọng là nó sẽ tổng kết lại tất cả những quan điểm của tôi về việc nô đùa trong tuyết. Nhưng hiện nay anh đang trên đà hào hứng, không thể dừng lại được. Thời tiết này đã khiến anh hoàn toàn kích động. Anh đến ngồi cạnh tôi trên sofa.

“Xem màu sơn móng này,” tôi nói.

“Tôi thích màu đó.”

“Màu xanh mật. Đó là màu mà tôi chuộng trong mùa này.”

“Lát nữa chị có muốn đi xem phim không?” Anh hỏi.

“Không. Tối anh ấy tôi đang say và mải than thân trách phận đây.”

“Chị vẫn ổn đấy chứ?”

“Tôi không biết. Đừng hỏi tôi câu hỏi như thế ngay lúc này, trừ phi anh thực sự muốn nghe câu trả lời.”

“Tôi muốn mà,” anh nói. “Tôi thực sự muốn.”

“Chẳng có gì đâu. Chỉ vì mùa đông thôi, tôi không thích nó lắm. Khoảng sáu tháng nữa tôi sẽ trở lại là con người vui vẻ thôi.”

“Khổ thân chị,” anh nói. Tôi đã chế ngự được cái thôi thúc muốn quệt sơn móng lên mặt anh.

“Cái mùa đông chết tiệt này đến sớm hơn hẳn một tháng,” tôi nói, “và người xưa của tôi vài tuần nữa sẽ đến thành phố này. Quá nhiều điều tồi tệ trong một tháng.”

“Ý chị là chồng cũ của chị?”

“Đúng. Đoàn kịch của anh ta lại đi lưu diễn, họ sẽ diễn ở Viện Âm nhạc Brooklyn.”

“Chị sẽ gặp anh ta chứ?”

“Có lẽ anh ta sẽ gọi điện. Anh ta luôn làm thế khi đến New York. Anh ta nghĩ rằng chúng tôi vẫn chưa hành hạ nhau đủ hồi chúng tôi còn sống với nhau.”

“Chị chưa bao giờ kể về anh ta,” anh nói. “Đôi khi, chị biết không, tôi quên mất là chị đã từng lấy chồng.”

“Chính tôi vẫn đang cố quên việc đó đi đây.”

“Ừm, chị đã gặp anh ta ở đâu?” Anh hỏi.

“Anh có muốn được cười vỡ bụng không? Ở Woodstock đấy. Vâng, chính cái đại nhạc hội đó. Bảy năm đau khổ sinh ra từ một ngày cuối tuần yêu đương và yên bình.”

“Chị đã tới Woodstock?”

“Ừm. Tôi đã bỏ bốn trường đại học khác nhau và kết bạn với nhóm người vẫn hay đi quanh New England để mua quần áo cũ về bán ở New York. Chúng tôi đã nghe nói về một đại nhạc hội miễn phí cách không xa chỗ chúng tôi đang lùng sục những căn gác mái nhà người ta để thu mua những chiếc áo sơ mi Hawaii. Đây không phải là chuyện mà tôi có thể kể với bất kì ai.”

“Chị đã thực sự ở đó à? Chị đã đến đại nhạc hội sao?”

“Điều đó khiến tôi có vẻ hơi giống một thánh tích, đúng không? Như thể cứ đi khắp nơi hồi chưa có ô tô vậy?”

“Nơi đó trông như thế nào?”

“Lầy lội,” tôi nói. “Chưa bao giờ anh được thấy nhiều bùn như thế. Tôi cảm thấy mình giống như một con lợn vậy. Tôi bị Denny thu hút vì anh ta mang theo một bánh xà phòng Lifebuoy to đùng khi ở bên bờ ao. Sau khi chúng tôi đã cùng nhau rửa ráy, anh ta nói: “Em có muốn biến khỏi đây và đi ăn một cái hamburger trong thị trấn không?” Và tôi hoàn toàn đồng ý. Tôi đã chán ngán những người thu mua quần áo cũ rồi. Ý tôi là, họ coi bản thân họ như những người thần bí, nhưng họ chỉ trả năm đô la cho những góa phụ để mua mớ quần áo và đồ lông thú cũ mà họ sẽ bán với giá hai trăm đô la trong thành phố.”

“Chị đã ở đó,” anh nói trong một giọng kìm nén sự ngạc nhiên. “Chị đã đến đó.”

“Và từ đó cuộc đời tôi đã trở thành một chuỗi thất vọng. Bobby ạ, người ta đã quá thần thánh nó. Đó là một đại nhạc hội. Nó thật bẩn thỉu và đông nghịt. Tôi đã rời khỏi đó trước khi nó diễn ra được một nửa, và ba tháng sau tôi đã lấy một gã hoàn toàn đê tiện.”

Tôi đã tô xong màu sơn xanh lên móng chân cái của mình. Rồi tôi nhìn sang Bobby, và thấy sự thay đỏi. Mắt anh long lanh và ươn ướt. Anh ngồi, nghển cổ về phía trước, ngắm tôi với vẻ khao khát.

Tôi nghĩ tôi nhận ra vẻ mặt đó. Đó là kiểu mà đàn ông đôi khi nhìn tôi khi tôi còn trẻ, khi tôi còn duyên dáng và lập dị chứ không chỉ lòe loẹt như bây giờ. Đó là một khao khát biểu hiện thấy rõ. Ngay ở đó, trên khuôn mặt của một người đàn ông chưa đến ba mươi.

Đêm đó chúng tôi không ngủ cùng nhau. Mà phải đến tận tuần sau. Nhưng từ đêm đó, khả năng tình dục đã len lỏi vào mối quan hệ vốn chỉ từng là thân thiện và ở mức độ vừa phải giữa chúng tôi. Chúng tôi đã là bạn và giờ đây chúng tôi còn là thứ gì đó khác nữa. Có lúc chúng tôi thấy giận nhau đôi chút, hay trở nên xấu hổ khi ở bên nhau. Khi chúng tôi hết chuyện để nói, dường như chúng tôi để ý đến sự im lặng.

Tuy nhiên, anh sẽ không phải là người khởi xướng. Anh quá ngập ngừng. Anh quá quen với mô hình chị gái – dạy – em trai giữa chúng tôi. Tôi chưa bao giờ thấy người nào quá trong sáng như thế. Có lẽ đàn ông thời Trung cổ cũng giống như thế này: thận trọng quá mức, sợ cả việc chạm vào tay áo của một người đàn bà. Nếu chuyện đó xảy ra giữa chúng tôi, chính tôi mới là người chủ động.

Tôi làm thế vào một đêm thứ Ba. Tôi không hề tính đến chu kì của tôi. Tôi không hay tính toán như thế. Tôi rất thích Bobby. Tôi bị cơ thể anh hấp dẫn chứ không hẳn vì ham hố đến cái nguồn gen di truyền của anh. Điều đó, tôi nghĩ, tôi sẽ tính đến sau.

Chúng tôi đã đi xem phim Thiên định ở Thánh Marks, và việc đó suýt nữa đã khiến tôi đổi ý về toàn bộ kế hoạch này. Bobby nói chuyện suốt bộ phim. Anh hỏi tôi liệu người sói có thật không. Anh muốn biết liệu Elaine Stritch là mẹ của Dirk Bogarde hay là bạn gái của anh ta.

Tôi trả lời các câu hỏi của anh, trong bụng thầm nghĩ: “Ôi, Jonathan. Tại sao cậu không phải là một người bình thường?”

Nhưng khi chúng tôi ra khỏi đó, đi bộ về nhà, tôi đã lấy lại được hứng thú của mình. Bobby là một người ngây thơ, phần nào giống như trẻ con. Quả thực anh không thể bị đổ lỗi cho thứ mà anh bị thiếu. New York này không thiếu gì người để đi xem phim cùng. Những đức tính khác mới thật là khó kiếm.

Khi chúng tôi về nhà, tôi mở một cuốn băng cũ của the Stones lên. Tôi châm một điếu cần sa và hỏi Bobby có muốn nhảy không. Đêm đó Jonathan đã đi chơi với bạn trai.

“Nhảy à?” Bobby hỏi. Tôi đưa anh điếu cần sa. Anh hút nó, đứng giữa phòng khách trong chiếc quần jean và chiếc áo phông đen cùng một cái thắt lưng cao bồi với móc khóa hình đầu bò. Tôi sẽ khó mà cám dỗ nổi anh với vẻ nghiêm túc bình thường. Tôi không thể không cảm thấy mình giống như một cô gái điếm, với đôi mắt kẻ đậm và bộ đồ lót liền mảnh, đang mở cái đĩa kêu loách choách để cố tán tỉnh một anh chàng ở nông trại cởi đồ ra.

“Bobby,” tôi nói. “Tôi định hỏi anh một câu thẳng thắn. Anh không phiền chứ?”

“Không. Tôi không ngại đâu.” Anh đưa trả điếu cần sa cho tôi.

“Vậy hãy trả lời thành thực nhé. Anh thích điểm gì ở tôi?”

“Hả?”

“Đừng bắt tôi lặp lại câu hỏi đó. Xấu hổ lắm.”

“Tôi thích điểm gì ở chị à?”

“Anh có, ờ, thích tôi không?”

“Ừm, sao lại không chứ. Chắc chắn rồi.” Tôi đưa lại điếu cần sa và anh rít một hơi dài.

“Bobby, anh đã bao giờ ngủ với đàn bà chưa?”

“Ồ. Ừm, chưa. Thực sự thì chưa.”

“Anh có bao giờ nghĩ rằng anh muốn làm thế không?”

Anh không nói gì. Anh không cử động. The Stones đang hát bài Ruby Tuesday. Tôi nói: “Lại đây nào. Hãy bỏ ngay điếu cần sa đó xuống và nhảy với tôi một lát, được không?”

Anh nghe lời, rít thêm một hơi và cho điếu cần sa vào gạt tàn. Tôi mở rộng vòng tay đón anh. Anh bước tới. Tôi cố không cảm thấy mình giống như một con nhện, một sinh vật già nua phàm ăn đang săn tìm cơ thể trơ lì, miễn cưỡng của những chàng thanh niên không được sáng sủa cho lắm. Tôi cố hết sức để vượt qua cảm giác đó.

Chúng tôi đung đưa trong một vòng tròn lỏng lẻo. Anh là một vũ công giỏi, và điều đó trợ giúp cho tôi rất nhiều. Anh không hề vụng về hay lóng ngóng, cơ thể anh không cần đến sự hướng dẫn của cơ thể tôi để theo được nhịp điệu hoặc thực hiện một động tác tiếp theo. Khi khiêu vũ trong tình trạng hơi phê, trong vòng tay nhau, chúng tôi không thấy thư giãn cũng không bị kích động. Khi chúng tôi khiêu vũ, chúng tôi giống như một cặp chị em đang luyện tập cho những việc yêu đương trong tương lai, nhưng cũng thu hút lẫn nhau. Đó là sự cuốn hút, là mặc cảm tội lỗi và buồn rầu trước nỗi vô vọng của sự tiếp xúc bình thường nhưng đầy cảm xúc và hơi nguy hiểm. Chị và em, đang luyện tập.

Người anh tỏa ra một mùi gỗ tươi mới, như những cái vỏ bút chì mới bị gọt. Lưng anh rắn chắc như của một ca sĩ opera. Anh nói: “Khi chị đến đại nhạc hội đó, chị có ở lại đủ lâu để thấy Hendrix không?”

“Hả?”

“Ở Woodstock ấy. Chị có thấy Jimi Hendrix không?”

“Dĩ nhiên là tôi có thấy Jimi. Chúng tôi đã trở thành những người bạn rất tốt. Nào, đến đây với tôi. Tôi nhận thấy sẽ chẳng còn bất cứ cách nào thoải mái và tinh vi để làm điều này nữa.”

Tôi ngừng nhảy và dẫn anh về phòng tôi. Anh không hào hứng lắm nhưng cũng không cưỡng lại. Tôi không bật đèn lên. Tôi đóng cửa và nói: “Anh có hồi hộp không?”

“Có.”

“Đừng hồi hộp. Chỉ để vui thôi mà. Chỉ vì tôi thích anh. Anh chẳng phải lo lắng về bất cứ điều gì trên đời này cả.” Tôi cởi khuy áo anh, và giúp anh lột nó ra qua vai. Vai anh âm ấm và những sợi lông li ti trên đó cọ vào tay tôi nhồn nhột.

“Hình thể tôi, chị biết đấy, không được đẹp lắm,” anh nói, dù lúc đó tôi đã thấy bộ ngực trần của anh hàng trăm lần.

“Tôi nghĩ anh thật đẹp,” tôi nói. Tôi cởi áo của mình và vứt nó trên sàn. Tôi không bao giờ mặc áo lót. Tôi cầm tay anh đặt lên ngực trái tôi.

“Thú thực với anh, chúng quả là dưới mức bình thường,” tôi nói. “Rồi anh sẽ gặp những người đàn bà khác có nhiều điều hay ho hơn ở đây.”

“Tôi không nghĩ đến những người đàn bà khác,” anh nói.

“Anh quá là… anh biết không?”

“Sao cơ?” Anh hỏi.

“Không có gì. Không sao cả. Nào lại đây, hãy cởi nốt đồ đi. Bà già Clare này sẽ dạy anh vài ngón nghề.”

Chúng tôi nhanh chóng cởi nốt chỗ quần áo còn lại, như thể những vị chủ nhà thật sự có thể về bất cứ lúc nào và thấy chúng tôi đang sử dụng nhà của họ. Khi chúng tôi đã khỏa thân, tôi lại ôm lấy anh và hôn anh, với nhiều âu lo hơn là đam mê. Hơi thở anh nóng ấm và hơi nặng mùi, nhưng không khó chịu. Đó là hơi thở của một loài ăn thịt.

“Đừng sợ,” tôi nói. “Đây là điều tự nhiên nhất trên đời này. Thậm chí anh có thể thích nó nữa là khác.”

“Tôi rất thích,” anh nói. “Tôi nghĩ vậy.”

Tôi dẫn anh lên giường và đặt anh nằm xuống. Trước đây, tôi chưa bao giờ chủ động hoàn toàn như thế này. Nếu đây là một phần của quá trình lão hóa, thì tôi cũng chẳng mấy quan tâm. Việc chủ động làm tình có vẻ hồi hộp một cách thú vị.

Bobby nằm khỏa thân trên giường tôi. Cái ấy của anh mềm mại nằm rạp trên đùi – nó có màu hơi tía, đã cắt bao quy đầu, lớn nhưng không đến mức quá cỡ. Đám lông rối lưa thưa một cách khác thường. Tôi có thể nghe tiếng anh thở.

“Mọi chuyện sẽ ổn thôi, cưng ạ,” tôi nói. “Hãy thả lỏng, tôi sẽ lo liệu mọi thứ.”

Tôi quỳ trên đệm bên cạnh anh, vuốt ve ngực và bụng anh. Anh nhìn lên tôi ngập ngừng.

“Suỵt,” tôi nói. “Đừng làm hết, đừng nghĩ gì hết. Người chị này của anh sẽ xoay xở tốt thôi, hãy nhắm mắt lại nào.”

Anh nhắm mắt. Tôi cúi xuống và dùng lưỡi đá nhẹ vào hai núm vú của anh. Tôi chưa bao giờ làm thế. Anh quá to lớn và chậm chạp. Trước đây tôi thường làm tình với những người mạnh mẽ có ham muốn với tôi, những người theo đuổi tôi vì những nhu cầu mơ hồ của họ. Tôi làm tất cả những gì có thể để giả vờ bình thản như một phụ nữ lớn tuổi. Tế nhị nhất có thể, tôi kiểm tra xem cái ấy của anh đã có dấu hiệu dựng đứng lên chưa.

“Clare,” anh nói. “Clare, tôi không biết liệu…”

“Suỵt. Yên nào. Tôi sẽ bảo anh khi nào thì anh được phép nói.”

Tôi hôn dần xuống bụng anh, nắm lấy cái dương v*t mềm oặt. Nó giống như một thứ đồ chơi cao su. Tôi cần phải luôn lưu tâm đến tính nhạy cảm của nó. Tôi cho nó vào miệng và từ từ kích thích nó, với sự giúp sức của lưỡi. Tôi mất khá nhiều thời gian. Tôi cù và vuốt ve anh bằng những đầu ngón tay, đưa lưỡi lướt quanh chỗ kín của anh, và nhẹ nhàng véo đùi anh. Tôi buộc mình không được vội vã. Những người đàn ông khác thường có những mong muốn và những cách làm khác mà họ ưa thích. Còn Helene luôn hướng dẫn tôi từng động tác. Chưa từng ai phó mặc thân mình cho tôi xoay xở như thế này. Tôi ngậm dương v*t anh và nghĩ mình giống như con điếm trong một bộ phim. Một con điếm thông minh luôn thực hiện thành công một màn trình diễn xuất sắc. Tôi dùng răng khẽ rứt lông mu anh, dùng lưỡi kích thích đầu dương v*t màu tía. Và cuối cùng nó bắt đầu cương cứng lên.

Rồi tôi cho phép mình mạnh tay hơn. Tôi lại cho cái ấy của anh vào miệng và nhịp nhàng lên xuống, lên xuống cho đến khi cổ tôi bắt đầu đau. Tôi vuốt ve dọc theo lồng ngực anh và nhẹ nhàng véo núm vú anh. Tôi có thể cảm thấy hơi thở anh ngày càng dồn dập. Tôi nghe anh khẽ rên rỉ, một tiếng gừ gừ khe khẽ như tiếng kêu của chim bồ câu. Chính tôi cũng cảm thấy kích động. Không phải quá mãnh liệt, mà là một sự rạo rực nhộn nhạo giống như hồi tôi còn con gái, khi lần đầu tiên tôi nghĩ đến những thân hình mạnh mẽ, to lớn, muốn kiểm soát và cưỡng lại nó.

Khi tôi nghĩ anh đã sẵn sàng, tôi nhổm dậy và dạng chân anh ra. Vẻ mặt anh khiến tôi ngạc nhiên. Anh xúc động và hoảng hốt, chứ không phải là dễ chịu như tôi nghĩ. Tuy nhiên, tôi vẫn mỉm cười trấn an. Tôi biết đây không phải lúc để làm mất đà. Tôi hỏi: “Sẵn sàng chưa?”

Không chờ câu trả lời, tôi đưa thân mình vào đúng vị trí và nhét cái của anh vào.

Có gì đó không ổn. Khuôn mặt anh quá sống sượng và hoảng sợ. Tuy nhiên, tôi vẫn tiếp tục. Giờ không còn đường quay lại nữa. Tôi không chỉ nghĩ về khoái lạc của riêng mình. Tôi cứ làm thật nhịp nhàng. Tôi thì thầm với anh: “Cưng ơi, anh làm tốt lắm. Ôi, đúng rồi. Anh làm rất tuyệt.”

Đó không hẳn là điều tôi muốn nói. Đó chỉ là điều mà tôi nghe thấy bản thân mình nói. Tôi vuốt ve ngực anh. Khuôn mặt anh lấm tấm mồ hôi. Tôi giơ tay ra và gạt một lọn tóc vương trên trán anh.

Và đột nhiên, anh bất ngờ đạt đến khoái cảm. Tôi cũng vậy. Khi xuất tinh, anh phát ra một tiếng rên đau đớn. Như thể anh bị đâm vào tận trong ruột. Đó là một tiếng kêu khủng khiếp, khôn nguôi. Tôi quên mất mình cần phải làm gì, chỉ biết cúi mình xuống, đầu gối vẫn ép vào lồng ngực anh, để chờ tiếng rên chấm dứt. Tiếp đó là một sự im lặng kéo dài, dày đặc. Rồi anh bật khóc, nức nở như một đứa trẻ.

Tôi đưa tay chạm vào mặt anh. Cái ấy của anh vẫn nằm bên trong tôi. Tôi biết chúng tôi đã chìm đắm vào nhau vĩnh viễn, không thể thoát ra được. Giờ đây anh là một bí ẩn. Tôi nằm xuống cạnh anh và an ủi anh. Tôi bảo anh rằng mọi chuyện đều ổn cả. Anh nặng nề vuốt tóc tôi. Anh nói: “Tôi chưa bao giờ. Tôi chưa bao giờ nghĩ rằng mình sẽ làm thế này.”

“Anh đã làm rồi đấy,” tôi thì thầm.

Anh áp ngực anh vào ngực tôi. Tôi có thể cảm thấy những giọt nước mắt âm ấm của anh. Anh không nói gì nữa. Anh ngủ thiếp đi trên giường tôi và tôi để anh nằm đó, dù tôi không thể ngủ được. Tôi nằm cạnh anh một lúc, hít lấy mùi mồ hôi nồng nồng của anh và tự hỏi thực sự thì tôi mới làm và trải qua việc gì.

JONATHAN

Đêm mà Arthur, người viết bài phê bình về rạp chiếu phim, vào bệnh viện, tôi đã cùng trao đổi với Erich về chuyện quá khứ. Chúng tôi chư abg nói chuyện với nhau về quá khứ của mình, ngoài những chi tiết chung chung nhất về quê quán và đặc trưng của gia đình. Khi chúng tôi ở bên nhau, ý thức lôi theo ký ức trên một sợi dây thừng bị rút ngắn và bất kì sự kiện nào đã xảy ra trước đó từ hơn một hay hai ngày đều biến mất hoàn toàn. Chúng tôi đã nói chuyện với nhau từ một hiện tại tiếp diễn, trong đó sự sâu sắc, nỗi thất vọng và những ước mơ lãng mạn cũ không tồn tại, sự thăng trầm bình thường của cuộc đời lao động có vẻ giống những vở nhạc kịch của Wagner, và những khoảng thời gian khi một ông chủ không đòi hỏi thái quá hay một tài xế taxi không tỏ thái độ thiếu thiện chí là những khoảnh khắc vô cùng êm ả.

Hiện chúng tôi đang ngồi trong căn hộ của Erich với một chai Merlot, ôn lại chuyện cũ. Anh mở đĩa của John Coltrane[51].

[51] John Coltrane (1926-1967): nhà soạn nhạc và tay saxophone người Mỹ.

“Tôi biết điều này thật là khó khăn,” tôi nói. “Tôi phải lên tiếng xin lỗi, vì tôi là người đã đòi khơi ra chủ đề này trước.”

“Một chút thôi,” Erich nói. “Chỉ một chút thôi mà, đúng vậy. Tôi không… sẵn sàng lắm về những vấn đề này. Tôi đã phải mất hơn một năm mới tìm được dịp thích hợp để nói cho bác sĩ trị liệu của tôi biết tôi bị đồng tính đấy.”

“Anh không cần phải kể với tôi bất cứ điều gì mà anh đã không nói với bác sĩ trị liệu của anh,” tôi nói. “Tôi chỉ muốn chúng ta, ừm, có một chút ý niệm về quá khứ của nhau. Chỉ cần kể thoáng qua thôi mà.”

Erich đỏ mặt và thốt ra một tiếng cười đau khổ được sinh ra bởi sự lúng túng trong giao tiếp. Trong chừng mực nào đó, anh vẫn còn non nớt. Chiếc sofa giả da khổng lồ mà chúng tôi đang ngồi là món quà bố mẹ anh tặng anh để kỉ niệm ngày anh nhập học trường Luật ở Michigan. Rõ ràng họ đã cho rằng anh sẽ bước vào một cuộc sống với ngôi nhà mười hai phòng và có ván lót dọc chân tường. Nhưng chưa đầy một năm sau, anh đã bỏ trường Luật để theo đuổi sự nghiệp diễn xuất ở New York. Hiện giờ bố mẹ anh đã không còn ngó ngàng gì đến anh nữa, và chiếc sofa nằm chềnh ềnh trong căn hộ của anh như một chiếc canô neo ở bể bơi.

“Chỉ một vài ý thôi,” tôi thêm vào. “Không cần phải thú nhận điều gì đáng xấu hổ đâu.”

“Tôi biết,” anh nói. “Quả thực tôi cũng không hiểu sao mình lại quá ngần ngại về những vấn đề như thế này. Tôi không hiểu nổi. Tôi vẫn luôn là mẫu người, anh biết đấy, hay lắng nghe người khác hơn. Tôi nghĩ đó là thói quen mà tôi có được do việc đứng phục vụ ở quầy bar.”

“Tôi sẽ bắt đầu vậy,” tôi nói. Và trong gần một giờ chúng tôi đã gợi lại tất cả những chuyện tản mạn cũ của chúng tôi, những vấn đề cả tốt lẫn xấu, mà chúng tôi cuộc sống ngỡ rằng chúng đã lùi quá xa vào quá khứ và giờ không còn ảnh hưởng đến chúng tôi nữa.

Dường như chúng tôi đều không liều lĩnh lắm. Cả hai chúng tôi đều không phải là những kẻ tham lam. Chúng tôi không tham gia vào những cuộc gặp gỡ bí mật. Chúng tôi chưa bao giờ làm tình với mười người lạ khác nhau trong cùng một đêm ở nhà tắm công cộng, hay trả tiền theo giờ cho những anh chàng mảnh mai, thô bạo trong khu phố Bốn mươi Tây. Nhưng chúng tôi đã từng về nhà với cả một trung đội người lạ. Chúng tôi đều hẹn hò với những người đàn ông trong các quán bar hay ở các bữa tiệc, chúng tôi đã ngủ với bạn của những người bạn đến chơi từ San Francisco hoặc Vancouver hay Laguna Beach. Chúng tôi đều mơ hồ hi vọng có thể yêu được ai đó nhưng cũng không mấy bận tâm về nó, vì chúng tôi nghĩ chúng tôi còn nhiều thời gian. Tình yêu là thứ có vẻ mang tính kết thúc, quá tẻ nhạt – nó là thứ đã hủy hoại bố mẹ chúng tôi. Tình yêu đã dẫn họ đến với một cuộc sống gồm những khoản tiền nợ thế chấp phải trả tiền và việc sửa chữa nhà cửa, đến những công việc vô vị và những dãy hàng sáng ánh đèn huỳnh quang của một siêu thị lúc hai giờ chiều. Chúng tôi đã mong đợi một tình yêu kiểu khác, một tình yêu có thể hiểu và tha thứ được cho những nhược điểm con người của chúng tôi, nhưng cũng không khiến cho chúng tôi thấy tự ti. Có vẻ nó là một điều khả thi. Nếu chúng tôi không vội vã hay bộp chộp, nếu chúng tôi không hoang mang, một tình yêu vừa mang tính thử thách vừa mang tính khuyến khích có thể xuất hiện. Nếu tôi có thể tưởng tượng ra con người đó, thì người đó cũng có thể tồn tại. Và rằng mình đang sống ở thuở ban đầu của một thời đại trác táng mới, trong đó đàn ông và đàn bà có thể trả lời không do dự về những sở thích vô hại về xác thịt. Tôi từng lựa chọn bất cứ ai: tôi đã làm tình với một câu chàng thổi sáo ngốc nghếch mà tôi gặp ở công viên Quảng trường Washington, với một ông già người Pháp mặc áo khoác cashmere màu tía mà tôi gặp khi đang đi tàu điện ngầm IRT lên khu phố trên, và gặp một cặp bác sĩ thân thiện muốn làm ngọt ngào thêm sự hòa hợp của họ bằng cách thỉnh thoảng nhờ đến một người thứ ba. Ở độ tuổi hai mươi, tôi đã thấy mình giống như một nhân vật tinh quái, bất trị, thông minh và nhanh nhẹn. Tôi đã hình dung ra cảnh những ngôi nhà đứng đắn và những ngày tháng khô khan của Ohio cứ dần trôi xa với mỗi cuộc phiêu lưu mới.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,359
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 2-8


Erich và tôi không liệt kê ra từng trường hợp một. Chúng tôi không quá lạnh nhạt như thế. Chúng tôi chỉ nêu ra những điểm nổi bật, nhưng nhấn mạnh thật rõ ràng – một cách vui vẻ - vào những khoái lạc chúng tôi đã tự phủ nhận. Cầm ly rượu bằng ngón tay dài, Erich cau mày nói: “Tôi chưa bao giờ quan tâm nhiều đến việc làm tình với những người lạ. Chưa bao giờ. Tôi đã gặp khá nhiều đàn ông làm việc trong các quán bar, và tôi, anh biết đấy, về nhà với vài người trong số họ, nhưng thực sự tôi chưa bao giờ thực hiện việc đó cho trọn vẹn. Tôi cũng đã thử đến các nhà tắm, nhưng chúng chỉ làm tôi thấy sợ. Tôi chỉ vào tắm hơi rồi đi về nhà.” Sau một lúc ngừng, anh nói thêm: “Để thủ dâm” và cười đau khổ, trán anh gần như tím tái đi.

Dù ngồi cùng nhau trong chiếc sofa khổng lồ đó, nhưng chúng tôi không chạm vào nhau. Mỗi người chiếm lấy một quầng sáng riêng cho mình. Sự dè dặt này là tiêu chuẩn của chúng tôi, được thể hiện một cách rõ rệt khi chúng tôi nói chuyện về những mối tình mà chúng tôi cầu mong chúng sẽ không biến thành tai họa. Trong những lúc bình thường, chúng tôi luôn duy trì một khoảng cách với nhau. Bất cứ ai trông thấy chúng tôi đi trên phố cùng nhau cũng có thể cho rằng chúng tôi là những người bạn chung phòng hồi học đại học, tuy đang dần xa cách nhưng vẫn không chịu chính thức tuyên bố rằng mối thân tình trước đây giữa chúng tôi đã hết. Chỉ những khi ở nhà, cùng khỏa thân, chúng tôi mới trở nên thân mật. Trên giàn âm thanh, Coltrane đang chơi bản A love supreme.

“Điều nực cười là,” tôi nói, “tôi thường thấy có lỗi vì đã không mạo hiểm hơn. Tôi thường nghe những người đàn ông khác nói về việc họ thay đổi bạn tình bốn lần trong một đêm như thế nào và tôi đã nghĩ: “Mình là kẻ đồng tính kiềm chế nhất từ trước tới giờ.” Ý tôi là, đối với hầu hết những anh chàng mà tôi đi cùng, tôi biết có thể tôi sẽ không bao giờ gặp lại họ. Nhưng tôi luôn cảm thấy rằng có lẽ tôi muốn gặp họ lần nữa, như thể trong chừng mực nào đó chúng tôi có thể yêu nhau. Dù chúng tôi chưa bao giờ như thế.”

Erich nhìn vào ly rượu vang của mình và lẩm bẩm gì đó.

“Hả?”

Anh nói: “Ừm, anh có nghĩ rằng chúng ta, anh biết đấy, đang yêu nhau không?”

Tôi chưa từng thấy ai bẽn lẽn như thế. Mặt anh đỏ bừng lên, và ly rượu vang của anh sóng sánh.

Tôi tin rằng tôi biết anh muốn gì. Anh muốn được yêu. Cuộc sống quả thật khủng khiếp. Danh tiếng vẫn từ chối không đến với anh bất chấp những nỗ lực liên tục của anh, và cái tương lai mà chúng tôi đang kì vọng có thể bị sụp đổ bất cứ lúc nào bởi một cơn ho dai dẳng, hay một vết hoa gấm tim tím trên ống chân.

“Không,” tôi nói. “Tôi thích anh. Nhưng không phải là yêu.”

Anh gật đầu. Anh không nói gì.

“Anh yêu tôi à?” Tôi hỏi, dù đã biết câu trả lời. Anh chỉ khao khát muốn yêu ai đó. Tôi là kẻ phù hợp với những yêu cầu căn bản về tuổi tác, chiều cao và cân nặng. Nhưng anh không khao khát bản thân tôi. Không hẳn.

Anh lắc đầu. Chúng tôi ngồi một lúc trong im lặng, rồi tôi giơ tay ra và cầm lấy tay anh. Tôi phải tỏ ra dịu dàng với anh vì tôi ghét anh, vì tôi muốn quát mắng anh bởi anh chỉ là một người bình thường, bởi anh không thể thay đổi cuộc sống của tôi. Tôi cũng cảm thấy sợ nữa. Tôi cũng muốn yêu. Tôi vuốt ve bàn tay Erich. Chiếc máy quay đĩa, được đặt ở chế độ lặp lại, bắt đầu phát lại đĩa hát của Coltrane. Erich định cười, nhưng đành nén lại với một hớp rượu dài.

Đáng ra tôi phải giết anh, dù tội lỗi duy nhất của anh chỉ là thiếu tập trung và kém nhanh nhạy. Đáng ra tôi phải dùng dĩa xiên vào trái tim anh vì anh là một kẻ kém cỏi, bị hoàn cảnh xô đẩy đến với một vai diễn mà anh chưa đủ trình độ để thực hiện. Tôi không thể phủ nhận rằng: tôi nghĩ mình xứng đáng có được nhiều hơn thế.

Chúng tôi đứng dậy và đi lên giường mà không nói năng gì. Đó là việc làm tự nguyện duy nhất của chúng tôi – thường thì chúng tôi hay giải thích cho những hành động đơn giản nhất bằng quá nhiều chi tiết. Những đêm đó chúng tôi chỉ cầm lấy ly rượu, không nói năng gì mà đi lên giường của anh, cởi quần áo và nằm xuống, trong vòng tay nhau.

“Đây là những thời điểm đáng sợ,” tôi nói.

“Đúng. Đúng như vậy.”

Chúng tôi nằm một lúc mà không bàn luận gì về lần làm tình gần đây nhất của chúng tôi – về việc chúng tôi không hề dùng đến những biện pháp đề phòng. Giờ có muốn bảo vệ bản thân khỏi người kia thì cũng đã quá muộn. Chẳng có sự giải thích nào có lý hơn việc ngay từ bốn năm về trước, khi chúng tôi gặp nhau, căn bệnh có vẻ chỉ xảy ra với những loại người khác. Dĩ nhiên chúng tôi đã biết về nó. Dĩ nhiên chúng tôi đã sợ. Nhưng không người quen nào của chúng tôi bị mắc bệnh đó cả. Chúng tôi đã cố tin rằng nó chỉ xảy ra với những người đàn ông có máu loãng bởi dùng quá nhiều ma túy, hay những người ngủ với một tá người khác nhau mỗi đêm. Erich có một bộ sưu tập những đĩa nhạc hay, và những bức ảnh đóng khung của những người anh chị em gầy gò đang đứng tạo dáng bên hồ, trong một căn phòng khách trang trí giấy dán tường, và bên cạnh một chiếc xe Camaro đỏ hào nhoáng. Anh kể về những lần đi thử vai, và nhắc đến việc tìm kiếm một công việc tốt hơn. Anh có vẻ quá bận rộn, chưa sẵn sàng đón nhận một cái chết sớm. Tôi không thể biết được anh giải quyết ra sao với cái phương trình đó trong đầu, vì đây có vẻ không phải là một cuộc trò chuyện mà chúng tôi có thể kéo dài. Thay vào đó, chúng tôi ôm nhau thật lâu trong im lặng. Rồi, với một sự hấp dẫn mới, chúng tôi làm tình khi đĩa của Coltrane cứ lặp đi lặp lại.

Vài ngày sau, Bobby kể cho tôi nghe về chuyện của cậu và Clare. Trước đó, tôi đã đến thăm Arthur ở bệnh viện. Bệnh viêm phổi của anh đang đỡ nhiều – anh đã tỏ ra lạc quan về tương lai, và tin chắc rằng việc ngừng uống rượu và chấp nhận một chế độ ăn lành mạnh sẽ cải thiện hoàn toàn sức khỏe của anh. Mặc dù vẫn còn có việc quan trọng cần làm ở văn phòng, nhưng tôi cũng chẳng thiết tha gì đến nó. Thay vào đó tôi đi về nhà, để dành buổi tối hôm đó với Bobby và Clare.

Khi tôi về, họ đang cùng nhau nấu bữa tối trong bếp. Căn bếp của chúng tôi chỉ bé bằng cái bốt điện thoại công cộng, khó mà vừa chỗ cho hai người, nhưng không hiểu sao họ vẫn lèn vào được. Từ phòng khách, tôi nghe thấy tiếng cười của Clare. Bobby nói: “Em phải, ờ, dịch mông sang một chút nếu không anh không thể lấy cái này ra khỏi lò được.”

Tôi gọi: “Chào các cưng.”

“Jonathan,” Clare nói với giọng vui vẻ, thánh thót. “Ôi, Chúa ơi, cậu ấy về rồi.”

Có vẻ họ đã cùng cố chen nhau để ra khỏi bếp một lúc, và bị mắc kẹt. Tôi lại nghe thấy tiếng cười, và một tiếng làu bàu của Bobby. Clare vào phòng khách trước. Chị mặc cái áo bowling màu vàng, với một chuỗi hạt thủy tinh màu đỏ. Bobby theo sau, mặc áo phông và quần jean màu đen.

“Chào cưng,” Clare nói. “Ngạc nhiên quá. Tòa soạn bị thiêu trụi rồi à?”

“Không, chỉ vì em nhớ hai người thôi. Đêm nay em muốn nghỉ ngơi. Hai người muốn đi chơi bowling hay thứ gì đó không?”

Clare hôn lên má tôi, Bobby cũng làm thế.

“Bọn mình đang làm, ờ, thịt gà và bánh quy,” cậu nói.

“Không hề giống với những gì mà các bà mẹ của chúng ta làm,” Clare thêm vào. “Tôi không biết chỗ cậu thế nào, chứ ở quê tôi, chúng tôi chỉ mua đồ ăn sẵn khi nấu nướng ở nhà. Món thịt gà với nước xốt kem có vẻ được coi là quá kì cục và xa lạ.”

“Mẹ của Jon là một đầu bếp tuyệt vời,” Bobby bảo chị. “Bà không bao giờ mua, em biết đấy, đồ đông lạnh. Hay đồ hộp cả.”

“Phải,” Clare nói. “Và bà hãy tự lặn xuống biển để mò tìm ngọc trai và tự bẫy những con chồn vizon cho mình. Jonathan, cưng ơi, cậu muốn uống cocktail không?”

“Có chứ,” tôi nói. “Chúng ta làm một bình martini nhé?”

Dạo này chúng tôi bắt đầu thích uống martini. Chúng tôi đã mua ba chiếc ly, và cất những hộp ôliu xanh trong tủ lạnh.

“Tuyệt,” Bobby nói. “Chúng ta có thể, ừm, uống mừng.”

“Cậu hiểu mình đấy. Mình sẽ uống mừng cho bất cứ điều gì. Có phải là ngày Guy Fawkes[52] hay ngày gì nhỉ?”

[52] Lễ kỉ niệm hằng năm tổ chức vào tối ngày mồng 5 tháng Mười một để đánh dấu sự thất bại trong vụ mưu sát vua James I của Anh và VI của Scotland của một nhóm tín đồ Công giáo Anh vào ngày 5 tháng Mười một năm 1605.

“Ờ,” Bobby nói. Cậu cười với vẻ bối rối thực sự.

“Có gì đó đặc biệt hơn cần được uống mừng hay sao?” Tôi hỏi.

“Tôi sẽ đi làm Martini,” Clare nói. “Hai người đợi ở đây nhé?”

Chị trở lại bếp. “Sao thế, anh bạn?” Tôi hỏi Bobby khi chỉ còn lại hai người chúng tôi.

Cậu vẫn cứ cười và nhìn xuống sàn nhà như thể cậu trông thấy những bí mật được in trên thảm. Bobby không có khả năng giấu giếm điều gì. Cậu có thể không trả lời một câu hỏi, nhưng không thể nói dối. Tôi không biết liệu đó có là do sự trung thực hay chỉ đơn giản là do cậu thiếu khả năng tưởng tượng. Đôi khi hai thứ đó quá gần gũi đến nỗi không thể nào phân biệt nổi.

“Jonny,” cậu nói. “Clare và mình…”

“Clare và cậu làm sao?”

“Bọn mình đã bắt đầu… bọn mình đã… Cậu biết đấy.”

“Không. Mình có biết đâu.”

“Có, cậu biết mà.”

“Ý cậu là hai người đã ngủ với nhau?” Tôi nói.

Cậu ngước mắt lên, nhưng không thể nhìn vào mắt tôi. Cậu cười nhăn nhó, với niềm vui bị kìm nén thấy rõ, như thể cậu đang đợi tôi nhận ra là tôi đã quên mặc quần.

“Ừm,” một lúc sau cậu nói. “Ôi, Jonny. Bọn mình, ờ, đang yêu. Ngạc nhiên không?”

“Có. Thực là ngạc nhiên.”

Tôi đã không nghĩ rằng giọng mình lại lạnh lùng và tức tối như thế. Tôi đã định đáp lại với giọng dứt khoát nhưng thân mật – để bày tỏ thái độ của mình trước chuyện tình vô lý này. Khi nghe thấy giọng nói của tôi, Bobby nhìn tôi ngần ngại, nụ cười của cậu nhạt dần.

“Jon,” cậu nói. “Bây giờ bọn, ờ, đã là một gia đình thực sự rồi.”

“Gì cơ?”

“Ba người chúng ta. Chúa ơi, cậu không thấy điều đó tuyệt vời thế nào sao? Ý mình là, ờ, giờ thì cả ba người chúng ta đều đang yêu.”

Clare bước ra với chiếc khay đựng những ly martini vốn đã trở thành một phần trong nghi thức uống cocktail của chúng tôi. Cái khay đó là một món đồ lưu niệm cũ méo mó của Nam California, có hình những quả cam giấy bìa carton và những người đẹp đang thơ thẩn đi dạo trên một bãi biển màu xanh ngọc với vẻ mặt thẫn thờ, thất vọng.

“Anh đã kể với cậu ấy rồi,” Bobby tự hào nói.

“Vậy là anh đã làm như anh nói.” Chị nhìn tôi với vẻ vừa giễu cợt vừa ngần ngại. “Của cậu đây, Jonathan. Uống đi nào.”

“Thật không?” Tôi hỏi chị.

“Về chuyện giữa Bobby và tôi à? Thật. Tôi nghĩ bọn tôi đang tuyên bố chính thức đây.”

Bobby cầm lấy một chiếc ly trên khay và nâng lên. “Vì gia đình chúng ta,” cậu nói.

“Ôi, thực sự thì, Bobby,” Clare nói. “Vì Chúa. Anh và em đang ngủ cùng nhau.” Chị quay sang tôi và nói: “Tôi và anh ấy đã ngủ cùng nhau.”

Tôi hớp một ngụm martini của mình. Tôi biết tôi cần phải có cảm giác như thế nào: hân hoan trước thói quen xuất hiện bất ngờ của tình yêu và khả năng làm thay đổi những điều thường nhật của nó. Thay vào đó, tôi lại cảm thấy lạnh nhạt và trống rỗng, như cát đang rơi xuống hố cát. Tôi cố tạo ra sự vui vẻ cần thiết. Tôi nghĩ nếu tôi giả vờ đủ khéo, tôi có thể bù lại cho sự lạnh nhạt ban nãy.

“Không thể tin được,” tôi nói. “Chuyện này diễn ra bao lâu rồi? Đó là tên một bài hát, đúng không? Một trong những rắc rối của tình yêu là, ta không thể nhắc đến nó mà không cảm thấy như mình đang liên tưởng đến những bài hát cũ.”

“Mới được vài ngày,” Clare nói. “Chúng vẫn muốn nói với cậu về chuyện này, nhưng có vẻ đây là điều không nên đưa ra trong những cuộc trò chuyện thông thường.”

Tôi gật đầu và trừng trừng nhìn chị. Không ai trong chúng tôi tin vào những gì chị vừa nói. Chúng tôi đều biết rằng chị và Bobby, dù có cố tình hay không, đã giấu giếm tình yêu của họ với tôi vì họ nghĩ họ có lý do để giấu nó.

“Nếu bây giờ chúng ta có con thì sao nhỉ?” Bobby nói. “Cả ba người chúng ta ấy.”

“Bobby,” Clare nói, “làm ơn im đi. Xin hãy ngậm miệng lại.”

“Hai người vẫn muốn có con mà, đúng không? Hai người đang bàn về việc đó còn gì. Nếu ba người chúng ta có một đứa con thì sao nhỉ? Hay là nhiều hơn?”

“Chắc chắn rồi,” tôi nói. “Hãy sinh sáu đứa đi. Chẵn nửa tá.”

“Hãy xem liệu đến Giáng sinh chúng ta có còn chịu đựng được nhau không đã,” Clare nói.

“Chà, chúc mừng cặp đôi hạnh phúc,” tôi nói, nâng ly lên.

Chúng tôi cùng uống mừng cho cặp đôi hạnh phúc. Tôi nói: “Mình chưa bao giờ nghĩ đến chuyện này. Giờ thì rõ ràng nó đã xảy ra rồi. Nhưng thực sự thì, Bobby à, khi cậu đến đây, mình không bao giờ nghĩ rằng cậu và Clare…”

“Tôi cũng chưa bao giờ nghĩ thế,” Clare nói.

“Tốt hơn là hãy kể cho mình nghe nó xảy ra như thế nào,” tôi nói. “Mọi chi tiết, dù là riêng tư nhất.”

Chúng tôi cạn ly và uống thêm một lượt nữa, khi Clare kể chuyện, còn Bobby thỉnh thoảng chêm vào những lời thanh minh qua quýt. Không như Bobby, Clare có thể khéo léo thêm thắt vào câu chuyện đến nỗi đôi khi chị quên mất ranh giới giữa những lời cường điệu và cái sự thật chẳng có gì kịch tính. Chị không phải là kẻ vụ lợi. Trái lại, chị chỉ chọn cách mô tả mình một cách chân thực nhất. Chị thường xuất hiện trong những câu chuyện của mình như một nhân vật hơi kì cục, ngây thơ, dễ bị mắng mỏ như Lucy Ricardo[53] và hay gặp rủi ro, tận tụy đến mù quáng như gã ngốc trong phim Con đường. Chị luôn cường điệu sự thật – những lời nói đối với chị là những lời phóng đại, chứ không phải bịa đặt. Chị tả lại cuộc đời mình trong một thế giới kì dị, khôi hài, tuy thích hợp với chị nhưng vẫn tồn tại ở một khoảng cách sâu thẳm so với thế giới nội tâm chứa đầy những ký ức về sự bạo hành và một ký ức hoang mang về những khả năng bị giới hạn của chị.

[53] Nhân vật trong bộ phim hài kịch tình huống I love Lucy (Tôi yêu Lucy) của Mỹ.

Clare nói: “Về cơ bản. Mẹ đã quyết định dạy cho Junio một bài học về cuộc đời. Và, ừm, tôi nghĩ rằng Mẹ cũng hơi mất tự chủ một chút. Tôi không biết những cô gái cùng chơi bowling với tôi sẽ nói gì về chuyện này.”

“Họ sẽ không thích đâu,” tôi nói. “Có lẽ họ sẽ bắt chị phải treo giày dấy.”

“Ôi, chú Jonny. Tôi đã ngoan quá lâu rồi. Tôi nghĩ có thể tôi đã không chịu được thêm nữa.”

“Chà, ông chú này không nói gì được nữa rồi. Ngạc nhiên quá.”

“Đúng vậy,” chị nói.

Với sự vui vẻ quá đỗi, Bobby đưa tay ra nhéo khuỷu tay trần của chị. Những đầu ngón tay cậu in dấu mờ mờ trên cánh tay mịn màng đó. Tôi bỗng nghĩ đến một hình hoặc của họ khi về già: Clare, một bà già lập dị, phê ma túy, đội một cái mũ kì cục và trang điểm quá đậm, đang kể chi tiết về chuyện tình của mình, trong khi Bobby, hói đầu và bụng phệ, ngồi bẽn lẽn bên cạnh, lẩm bẩm: “Ôi, Clare.” Bản thân chúng tôi sẽ trở thành những câu chuyện để chúng tôi có thể kể cho nhau nghe.

“Tôi nghĩ đây chính là kết thúc của gia đình Henderson mà chúng ta vẫn biết,” chị nói.

“Đúng, em cũng nghĩ thế.”

Một trạng thái ngại ngùng bỗng dưng ập đến, khiến chúng tôi cứ đứng như thế một lúc, như thể chúng tôi là những bị khách bị một người bạn chung bỏ lại bên nhau. Bobby nói: “Bữa tối sắp xong rồi đấy. Cậu có muốn, ờ, ăn gì đó không?”

Tôi nói là tôi cũng đã thấy đói, vì ngoài việc ăn thì tôi cũng chẳng biết phải làm gì tiếp theo. Đầu tôi có vẻ trôi nổi đâu đó phía trên cơ thể. Vì rượu gin đã ngấm nên tôi cảm thấy những cảm xúc của mình giống như sóng radio được cái đầu đã lìa khỏi thể xác đó phát ra. Tôi thấy tức giận và ghen tỵ. Tôi muốn Bobby. Mặt khác, tôi cũng muốn Clare.

Chúng tôi ăn tối, và nói về những chuyện linh tính khác. Sau bữa ăn, chúng tôi đi xem phim Những tên trộm như chúng ta ở rạp Thalia. Trong mấy năm qua, Clare và tôi đã xem bộ phim đó vài lần, nhưng chị cứ nhất định đòi Bobby cũng phải xem. “Nếu đột nhiên chúng ta là một thứ gì đó,” chị nói, “tôi muốn ít nhất anh ấy cũng phải xem vài bộ phim cơ bản.” Trong suốt buổi chiếu, chị thủ thỉ với cậu và nhấn mạnh những ý kiến của mình bằng cách nhéo vào đầu gối cậu. Chị đã sơn móng tay màu hồng rực, nó ánh lên ngay cả trong bóng tối của rạp chiếu phim.

Tôi từ chối đi uống rượu sau khi xem xong phim, dù chúng tôi đã hình thành thói quen kết thúc những buổi tối bên nhau ở một quán bar, bất kể lúc đó đã muộn thế nào. Clare sờ tay lên trán tôi và hỏi: “Cưng ốm à?” Tôi bảo rằng không, tôi chỉ thấy mệt và sẽ phải có mặt ở văn phòng vào sáng sớm mai để làm bù những việc mà tôi chưa làm tối nay. Bobby và Clare nói họ sẽ về nhà với tôi, nhưng tôi bảo họ cứ đi uống một mình. Tôi hôn cả hai người. Khi tôi về nhà, bầu trời quá trong trẻo và lạnh giá. Chòm Đại Hùng Tinh hiện lên rõ rệt qua những ánh đèn của Manhattan, nằm chênh chếch phía trên mái của trường Cooper Union. Không gian lạnh lẽo rạng rỡ quanh những ánh đèn cửa sổ. Ngay cả trong một đêm như thế, những cậu bé có đôi mắt đờ đẫn vẫn đi trên phố với những chiếc radio hình chữ nhật màu đen, tiếng nhạc của chúng bị loãng đi trong cái lạnh.

Về đến nhà, tôi cuộn chiếc túi ngủ của Bobby lên và cất vào tủ. Tôi biết rằng, từ giờ, cậu sẽ ngủ ở phòng của Clare. Tôi tự làm cho mình thêm một ly martini để uống trước khi ngủ. Tuyết bắt đầu lấp lánh rơi, những bông tuyết lả lướt trông chẳng khác gì không khí bị nén thành những viên màu xám. Tôi uống martini trong phòng mình, và hình dung ra cảnh Bobby và Clare đang bắt đầu xây dựng một tương lai cùng nhau. Họ là một cặp không hợp nhau lắm. Có lẽ họ sẽ cùng nhau chạm đến giới hạn của sự khác thường, và chuyện tình của họ sẽ chỉ còn là dĩ vãng. Nhưng có thể, chỉ là có thể, mọi chuyện sẽ không như thế. Nếu họ vẫn ở bên nhau, do sự hấp dẫn kết hợp với tính cố chấp và may mắn rõ rệt, họ sẽ có được một tổ ấm. Có lẽ họ sẽ có con. Họ sẽ có những công việc bình thường và thấy mình đẩy một cái xe hàng qua các dãy hàng sáng ánh đèn huỳnh quang của một siêu thị. Họ sẽ có tất cả những điều tương tự như thế.

ALICE

Ned và tôi đã chuyển khỏi ngôi nhà thân thuộc mà chúng tôi tự dựng lên cho mình để đến sống trong một ngôi nhà mới ở sa mạc Arizona, theo những yêu cầu của bác sĩ. Chúng tôi đã mua một căn hộ chung cư có diện tích chưa bằng một nửa ngôi nhà cũ, trong một tổ hợp không thỏa mãn sự mong đợi của những người chủ công trình. Gần một nửa số căn hộ vẫn còn trống không sau ba năm được xây xong, và những chuỗi cờ đuôi nheo nhiều màu sắc, một vài cái đã rách, vẫn lòe loẹt kết thành dây hoa ở các cổng vào. Những tòa nhà được trang trí như những ngôi làng của người Da đỏ, những bức tường bê tông lốm đốm màu bùn đỏ và có những đầu cọc nhô ra bên trên những ô cửa sổ khung nhôm. Chúng tôi có thể dễ dàng mua được một căn hộ một phòng ngủ, dù túi tiền của chúng tôi hơi eo hẹp. Căn nhà và rạp chiếu phim không bán được nhiều tiền.

“Hacienda Glover,” Ned gọi nó thế. Và, khi tâm trạng u ám hơn, anh gọi nó là “Con đường Thuốc lá, 1987.”

Anh không cho phép bản thân bộc lộ nhiều vẻ buồn rầu hay bi quan. Có lẽ anh không thể làm thế. Những cảm xúc được anh thể hiện ra chỉ biến thiên từ sự chấp nhận miễn cưỡng đến sự bất đồng ôn hòa, và khi tôi giã biệt căn bếp ở Cleveland và cây lê trong sân sau, tôi nhận ra rằng tôi đã luôn có ý định, một cách mơ hồ, rời bỏ anh. Hay, đúng hơn thì, tôi đã nuôi ý định một ngày nào đó sẽ hưởng thụ cuộc sống nằm ngoài cái hài kịch gia đình êm đềm của chúng tôi, với sự vui vẻ thân mật trong những bữa ăn tối và những giấc ngủ trong lành, không mộng mị. Rắc rối trong một cuộc hôn nhân bình lặng là nó không chịu rạn nứt – sự bất công hay tàn nhẫn không bao giờ tạo nên một khe hở để qua đó bạn có thể thản nhiên bước vào một lối sống khác. Bạn sống trong những chi tiết sau: một căn bếp được sắp xếp theo ý bạn, những quả cà chua chín đỏ trên những cành dây leo mà bạn đã tự tay đóng cọc và buộc chặt. Giờ Ned đang ốm, và buộc phải đến một nơi anh lạ, thế nên tôi không thể tập trung được sự giận dữ hay tính tư lợi cần thiết để bỏ mặc anh đến đó một mình. Khi tôi xếp những con dao vào một cái hộp carton, tôi cứ suy ngẫm về tỷ lệ ly hôn đang gia tăng tại sao lại có quá nhiều người làm được như thế nhỉ? Những bộ phim và những cuốn tiểu thuyết từ thời thơ ấu không chuẩn bị đầy đủ cho vài người trong số chúng tôi những ấn tượng về gia đình tương lai của mình, chúng tôi không được báo trước về sức quyến rũ của những ô cửa sổ phòng khách quay mặt về hướng nam, hay những bông thục quỳ men theo một bộ cửa ra vào kiểu Pháp.

Và giờ đây, Ned và tôi đang tháo rời nó, như thế đó, vì phổi anh không thể chịu được không khí Ohio ẩm ướt. Không ngờ việc này lại khá dễ dàng. Chúng tôi kê khai tài sản với một phụ nữ trang điểm đậm và mặc quần kiểu võ sĩ đấu bò. Cô ta mất chưa đầy một tháng để bán nó với giá phải chăng cho một cặp lập trình viên máy tính còn trẻ, sẵn sàng đầu cơ vào một khu vực không biết là trong tương lai có phát triển hay không. Rạp chiếu phim sẽ bị phá dỡ để làm khu đỗ xe. Chưa đầy tám tháng sau lời khuyên của bác sĩ, chúng tôi đã đến sống ở một nơi mà tôi thậm chí còn chưa bao giờ nghĩ là sẽ tới thăm.

Sa mạc có một vẻ đẹp thật hoang dã, với sự kết hợp kì cục giữa vẻ trống vắng và tầm quan trọng cùng bầu trời nóng nực cao vời vợi. Từ lúc đóng bản giao kèo cho đến ngày chúng tôi dọn đến đây, cây xương rồng trước căn hộ của chúng tôi đã nở một bông hoa màu ngà duy nhất, như thể nó đang đội một cái mũ ngông cuồng. Vài điều định mệnh quả thực vô cùng khó chịu. Vì thế, tốt hơn là chúng ta nên tránh khỏi chúng. Ned và tôi bắt tay vào sắp xếp những căn phòng nhỏ bé sơn màu trắng, treo những tấm rèm và móc những cái xoong chảo bằng đồng lên tường bếp mới, nơi chúng sáng bóng lên trong ánh nắng sa mạc. Tôi nhận ra nơi này sẽ không bao giờ mang vẻ quen thuộc. Thực sự nó đang cố khoác lấy cái đặc tính đó ngay khi chúng tôi bàn bạc về việc sắp xếp bàn ghế và tranh ảnh. Ned thân mật ôm tôi khi chúng tôi ngừng tay. Anh giữ lấy vai tôi một cách dịu dàng, chắc chắn như anh đã từng làm hồi còn là người đàn ông hai mươi sáu tuổi, khi tôi chui vào trong chiếc xe mui trần cùng anh và được anh đưa đến nhánh sông Louisiana. Anh nói: “Sẽ không tệ lắm đâu. Em nghĩ sao, bé con?”

Tôi bảo anh rằng rồi mọi chuyện sẽ ổn, và tôi cảm thấy đó không phải là một lời nói dối. Chúng tôi là những sinh vật dễ thích nghi. Đó là nguồn gốc cho sự thoải mái trên đời này và, tôi cho rằng, cả cơn thịnh nộ âm thầm của chúng tôi nữa. Ned ôm tôi ở nơi sẽ là căn phòng khách mới. Những chiếc rèm quen thuộc đã được vén lên, và ngoài kia là một phong cảnh hoang vắng đáng yêu mà một lữ khách không được bảo vệ sẽ không thể chịu nổi quá một ngày.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,359
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 2-9


JONATHAN

Tôi thấy có gì đó không ổn. Tôi cảm thấy mình như đang tách biệt dần với vạn vật xung quanh, và tôi lo rằng đó có thể là một dấu hiệu sớm của bệnh tật. Ban đầu, bạn cảm thấy lơ lửng như thể những giờ phút không làm nên một ngày và sự hiện diện của bạn – trong một chiếc máy bay hay trên đường phố - không ảnh hưởng gì đến ngoại cảnh như thường lệ. Rồi đến những vết thâm tím và những cơn sốt, một cơn ho cứ dai dẳng không dứt. Có lẽ đây là cách để cái chết thông báo về sự xuất hiện của nó, no sẽ khiến bạn không còn ý thức được những gì bạn đang làm.

Máy bay cất cánh, xuyên qua những đám mây trắng để vươn tới một bầu trời trong xanh như những ý niệm nghiêm túc nhất về phần thưởng từ thiên đường. Tôi ngồi trầm tư, bay qua mặt đất trong trạng thái bất đồng, gần như bị ru ngủ - gần giống như lúc đi xem phim. Tôi thấy mình, một người đàn ông hai mươi bảy tuổi, bị ràng buộc vào một sự hỗn loạn được đoán trước, đang rót rượu Scotch vào một cái cốc nhựa trong, trên đường đến thăm bố mẹ anh ta trong một căn nhà mà anh ta chưa bao giờ thấy.

Ở Arizona, lần đầu tiên, bố tôi nói với tôi về cái chết. Một vị bác sĩ khác đã chứng thực căn bệnh của ông – bệnh khí thũng – nhưng khẳng định rằng nếu cẩn thận đề phòng thì ông vẫn có thể sống thêm ba mươi năm nữa. Tuy nhiên, cũng đã đến lúc nói về một số việc.

Điều bố tôi nói là: “Con trai, khi chuyện đó xảy ra, hãy chôn bố ở bất cứ nơi nào con muốn.” Ông và tôi đang ngồi ở bàn ăn, nơi chúng tôi vẫn đang chơi trò Yahtzee trong khi mẹ tôi nấu bữa tối.

“Thực sự thì việc đó cũng chẳng ảnh hưởng gì đến bố,” ông nói thêm. “Lúc đó bố đã chết rồi mà.”

“Con không biết đâu,” tôi nói. “Con không nghĩ rằng mình lại muốn quyết định một điều gì đó như thế.”

“Vậy thì con nên quyết định đi,” ông nói. “Đó là nơi mà con phải đến viếng trong suốt năm mươi năm nữa đấy. Hay là nghìn năm nữa, nếu họ tìm ra cách thay thế những bộ phận trong cơ thể con bằng chất dẻo.”

Từ trong bếp, mẹ tôi có thể nghe rõ tiếng chúng tôi trò chuyện. Nó nằm vuông góc với phòng khách kiêm phòng ăn.

“Giờ chả còn ai mơ đến sự bất tử đó nữa,” bà nói. “Cũng như đường một ray và những kì nghỉ trên Sao Hỏa ấy.”

Bà bê một đĩa bánh bột ngô kèm nước xốt đến bên bàn. Từ khi bà và bố tôi chuyển về Arizona, bà đã không còn làm điệu với mái tóc nữa. Bà buộc ngược tóc lên theo kiểu đuôi ngựa, làn da rám nắng. Bố tôi, có nguy cơ bị ung thư da, lại trắng nhợt như mặt trăng. Họ trông như một người khai hoang và cô dâu Da đỏ của ông ta.

“Chuyện đó thực sự không to tát đến thế đâu,” bố tôi nói. “Bố xin lỗi vì đã khơi nó ra.”

Tôi liếc nhìn mẹ tôi, bà chẳng còn quan tâm đến câu chuyện nữa và đã quay lại với món ớt xanh nhồi của mình.

“Này, Jonathan,” bố tôi nói. “Nếu bây giờ bố mẹ đột ngột qua đời, nếu bố mẹ ôm lấy tim mình và gục mặt xuống món bánh bột ngô này, thì con sẽ làm gì?”

“Con không biết nữa. Con nghĩ con sẽ đưa bố mẹ về Cleveland.”

“Đó chính là điều bố không muốn con làm,” ông nói. “Con sẽ không bao giờ quay lại Cleveland. Thế thì chôn bố mẹ ở đó để làm gì?”

“Nhà mình đã sống ở đó bao năm trời,” tôi nói. “Ý con là, nó vẫn giống như quê hương của chúng ta.”

“Bố mẹ đã mất ba mươi năm mới rời được Cleveland,” ông nói. “Cái rạp chiếu phim đó gần như đã vắt kiệt sức của bố, và thời tiết ở đó cũng suýt chút nữa giết chết cả bố lẫn mẹ. Nếu con đưa bố mẹ quay lại đó, bố hứa là sẽ hiện về để ám ảnh con. Bố sẽ đánh thức con dậy thật sớm vào mỗi sáng thứ Bảy trong suốt cuộc đời con và bảo con giúp bố xén tỉa hàng rào.”

“Vậy, nếu là ở đây thì sao ạ?” Tôi nói. “Bố thích ở đây, đúng không?”

“Ở đây bố có thể hít thở không khí, và mẹ con đang học làm cocktail margaritas màu xanh dương. Với bố mẹ Phoenix có ý nghĩa như thế đấy.”

Tôi không thể hình dung ra cảnh ông được chôn ở Arizona. Nó sẽ giống như một trò đùa với ông, khi mộ ông nằm ở sa mạc miền Tây, với những con sói hú phía trên đầu.

“Con không biết mình có thể nói tiếp về vấn đề này không,” tôi nói. “Con không biết phải nói gì.”

“Thôi được,” bố tôi nói. “Lần này con muốn bị thua đậm đến mức nào trong trò Yahtzee?”

“Con nghĩ con nên đi nằm một chút. Được không ạ?”

“Dĩ nhiên là được. Con ốm à?”

“Không,” tôi nói. “Con chỉ muốn chợp mắt một lúc thôi.”

Tôi đứng dậy và đến bên chiếc sofa mới được mua ở Arizona. Nó là bản sao của chiếc sofa ở Cleveland, với tay ghế bằng gỗ thích gồ lên và vải trải niệm kiểu thuộc địa hồ cứng. Chiếc ghế mới này, có thể được mở ra thành một cái giường, đã được mua để dành riêng cho tôi khi tôi đến thăm họ, vì căn hộ chung cư của bố mẹ tôi chỉ có một phòng ngủ, như tất cả những căn hộ khác trong tổ hợp này. Đó là một khu dành cho những quả phụ và những người đàn ông góa vợ

“Sao con không mở chiếc sofa ra và ngủ một giấc?” Bố tôi nói.

“Không cần đâu ạ. Con cứ để yên nó như thế mà nằm cũng được,” tôi nói. Tôi nằm xuống, và kê một cái gối dựa bên dưới đầu. Vải bọc của chiếc sofa có hình những cây hương bồ, những con thuyền màu gỉ sắt, và những con vịt trời màu nâu cứ bay lơ lửng theo từng nhóm ba con. Một cái cây Giáng sinh nhỏ đang lập lòe trên đầu mép bàn, trên đó treo đầy những vật trang trí mà tôi nhớ là do chính tay tôi chọn trong một cửa hàng một giá hồi tôi còn nhỏ. Sau nhiều năm trưng những cái cây “lộng lẫy” – với những quả bóng màu đỏ và màu bạc, cùng những que kẹo hình ba toong và những chiếc đèn trắng nhỏ xíu – bố mẹ tôi đã quay lại với cái cây được trang trí lộn xộn, lòe loẹt của một hộ gia đình có trẻ con, nhưng với hình dáng nhỏ hơn.

“Bố thấy vui vì con đã về đây ít hôm,” bố tôi nói. “Trông con hơi xanh xao đấy, nếu con muốn nghe bố nói thật.”

“Vào mùa này ở New York ai cũng xanh xao cả,” tôi nói. “Có lẽ con sẽ chuyển đến Arizona.”

“Sao con lại muốn chuyển đến đây?” Bố tôi nói, lắc lắc cái chén đựng viên xúc xắc của trò Yahtzee. “Ở đây chẳng có gì để cho thanh niên làm cả.”

“Thế bố làm gì ở đây?”

“Chẳng làm gì. Thực sự thì với ai cũng thế thôi. Chẳng có gì để làm.” Ông đổ xúc xắc ra. “Small straight,[54]” ông nói. “Con muốn uống thêm ly nữa không?”

“Con không nghĩ vậy.”

[54] Small straight: thuật ngữ trong trò Yahtzee, thường được dùng khi bạn đổ 5 viên xúc xắc ra và được một chuỗi 4 số liền nhau theo thứ tự.

Khi ông đến bên quầy bar to bằng cái tủ để rót thêm một ly nữa, tôi có thể nghe thấy hơi thở nặng nhọc của ông. Cái quầy bar hẹp này ngăn giữa phòng khách và phòng ăn nhỏ, đang bày từng hàng chai lọ ngăn nắp trên một cái giá bằng kính. Một cái khăn tay màu be, chưa bao giờ được dùng, được gấp đặt cạnh cái bồn rửa mini bằng chrome.

Bố mẹ tôi đã mang theo ý thức ngăn nắp từ Cleveland đến sa mạc. Ở đây, về đêm cát vàng thường bay vào qua cửa sổ, đám cỏ lăn thi thoảng cào vào cánh cửa, những lọ gia vị trên giá được sắp xếp theo thứ tự ABC một cách nghiêm ngặt. Mỗi chậu cây cảnh đều tỏa ra một sức sống xanh tươi mơn mởn, và sáng nào mẹ tôi cũng kiểm tra chúng một lượt, để bứt những chiếc lá héo và cho vào một cái túi bóng.

“Thấy bố uống thêm nên con cũng thèm quá,” tôi nói. Tôi nghe thấy tiếng ùng ục đặc trưng của rượu bourbon khi nó chảy ra từ vòi của cái chai một lít Anh.

“Phim Hi vọng và vinh quang đang được chiếu ở trung tâm thương mại đấy,” bố tôi nói.

“Ngày mai bố con mình có thể đi xem vào suất chiếu buổi chiều,” tôi nói. “Lúc đó nắng không còn chói nữa.”

“Được.” Ông mang ly rượu đến cho tôi.

“Con thực sự không muốn quyết định, bố biết đấy, về việc lo liệu tang lễ cho bố mẹ,” tôi nói.

“Đừng lo lắng quá nhiều về việc đó. Đến lúc bố mẹ chết thì có thể con cũng đã ổn định cuộc sống ở đâu đó rồi. Hãy chôn bố mẹ ở nơi nào mà con tiện đi lại ấy.”

“Thế nhỡ con chưa ổn định thì sao?”

“Con sẽ ổn định. Tin bố đi, chỉ là sớm hay muộn thôi.”

“Con nghĩ con nên vào bếp xem mẹ có cần giúp gì không,” tôi nói.

“Ừ.”

“Chỉ vì con chưa biết con sẽ định cư ở đâu,” tôi nói. “Con có thể lựa chọn bất cứ nơi nào. Con có thể tới tận Sri Lanka.”

“Chà, hay đấy. Con nên đi nhiều khi còn trẻ.” Bố tôi lại gieo xúc xắc, và nguyền rủa sự thiếu may mắn của ông.

“Con không còn trẻ như thế đâu,” tôi nói.

“Ha. Đó là điều mà con nghĩ thôi.”

Trong bếp, mẹ tôi đang làm ráo rau diếp lá dài với vẻ mệt mỏi. Trông bà như đang quấn tã cho đứa con thứ mười vậy. Tôi đứng cạnh bà ở bồn rửa. Người bà tỏa ra một mùi khô giòn, như những chiếc lá khô.

“Mẹ,” tôi nói.

“Con xem thứ mà người ta gọi là rau diếp ở đây này,” bà nói. “Mẹ đã đến ba cửa hàng khác nhau để tìm mua nó, vậy mà trông nó vẫn giống như bị ai đó dùng gậy đập nát suốt quãng đường đến Phoenix vậy.”

Bà phàn nàn bằng cái giọng hơi nhí nhảnh. Gần đây, trong những chuyến về thăm nhà, lúc trước là ở Cleveland, còn bây giờ là Phoenix, tôi thấy bà lúc thì hay mỉa mai, lúc lại thân mật, hồ hởi, chan hòa.

“Tệ thật,” tôi nói.

Chúng tôi đứng yên lặng khi bố tôi nhổm dậy khỏi ghế và đi lên phòng ngủ trên gác. Khi ông đã đi khuất, mẹ tôi nói: “Nào. Mọi chuyện sao rồi? Bobby thế nào?”

“Ổn cả mẹ ạ. Cậu ấy vẫn khỏe. Mọi chuyện đều khá suôn sẻ.”

“Tốt,” bà nói và gật đầu đầy nhiệt tình, như thể câu trả lời đó là đầy đủ và thích đáng.

“Mẹ ơi?” Tôi nói.

“Ừm?”

“Thực ra thì, con vẫn… ôi, con không biết nữa. Đôi khi con thấy rất cô đơn khi ở New York.”

“Ừm, mẹ hiểu,” bà nói. “Khó mà tránh khỏi cảm giác cô đơn. Ở đâu cũng thế thôi.”

Bà bắt đầu thái một quả dưa chuột thành những lát mỏng và lấp lánh kì lạ. Dường như lưỡi dao đã truyền ánh sáng tới từng lát rau quả.

“Mẹ có biết gần đây con đang băn khoăn điều gì không?” Tôi nói. “Con đang thắc mắc là sao bố mẹ không có nhiều bạn bè hơn. Ý con là, khi con còn nhỏ, con cảm thấy cả nhà mình như bị bỏ lại trên một hành tinh khác vậy. Giống như cái gia đình trên một chương trình truyền hình cũ vậy.”

“Mẹ không nhớ là lại có một chương trình truyền hình như thế,” bà nói. “Nếu con có con, một ngôi nhà và điều hành một công việc kinh doanh, con sẽ biết được mình có còn đủ năng lượng để chạy quanh hàng xóm gặp gỡ mọi người không. Và rồi mười tám năm sau, những đứa con của con sẽ gói ghém đồ đạc và rời đi.”

“Vâng, đúng vậy,” tôi nói. “Dĩ nhiên là chúng sẽ đi. Mẹ còn mong gì hơn chứ?”

Bà cười. “Chúng làm thế nếu con nuôi dạy chúng đúng cách,” bà vui vẻ nói. “Con yêu, không ai muốn con phải quay lại căn phòng cũ của con sau khi con đã tốt nghiệp đâu.”

Chúng tôi không phải một gia đình hay đối đầu nhau. Chúng tôi không cố gắng tranh cãi. Thay vào đó, khi cuộc sống của chúng tôi thay đổi, chúng tôi cố gắng tạo nên những cách ứng xử bình thường mới mỗi khi ở bên nhau.

“Gần đây con vẫn đang băn khoăn liệu đây có phải, mẹ biết đấy, là nó không,” tôi nói. “Một căn hộ, một công việc ổn định và vài người để yêu. Con còn có thể muốn gì hơn nữa?”

“Nghe có vẻ ổn đấy chứ,” bà nói.

Tôi hỏi: “Mẹ, lúc nào thì mẹ biết là mẹ muốn lấy bố thế?”

Bà im lặng trong đúng một phút. Bà đã thái xong quả dưa chuột và bắt đầu chuyển sang quả cà chua.

Cuối cùng bà nói: “Ừm, mẹ vẫn không biết liệu mẹ có muốn lấy bố con hay không. Mẹ vẫn đang cố gắng cân nhắc.”

“Thôi mà, mẹ nghiêm túc đi nào.”

“Được rồi. Xem nào. Lúc đó mẹ mới mười bảy, con biết đấy, và bố con hai mươi sáu. Ông ấy đã cầu hôn mẹ vào lần hẹn hò thứ tư. Mẹ còn nhớ hôm đó là sau Ngày Quốc tế Lao động một tuần, mẹ đang đi đôi giày màu trắng, và mẹ cảm thấy vừa khó chịu vừa hơi ngớ ngẩn. Bố mẹ đang ngồi trong xe của bố con, và mẹ giả vờ suy nghĩ trong khi thực chất thì mẹ chỉ đang lo lắng về việc đã đi đôi giày chết tiệt đó, rồi ông ấy ngó sang mẹ và nói với mẹ: “Chúng mình lấy nhau nhé.” Chỉ thế thôi.”

“Vậy mẹ nói gì?”

Bà với lấy quả cà chua thứ hai. “Mẹ chẳng nói gì. Mẹ chỉ giật mình. Và xấu hổ, vì đã lo lắng về đôi giày vào một thời điểm như thế. Mẹ nhớ là mẹ đã nghĩ rằng: “Mình là kẻ nhỏ mọn nhất trên đời này.” Mẹ đã bảo ông ấy mẹ cần thời gian để suy nghĩ. Và mẹ thấy mình chẳng nghĩ ra được lý do gì để không nên lấy ông ấy. Vì thế bố mẹ đã lấy nhau.”

“Mẹ có yêu bố không?” Tôi hỏi.

Bà mím môi, như thể câu hỏi đó là không thích hợp và có vẻ hơi chọc ngoáy. “Lúc đó mẹ còn quá trẻ,” bà nói. “Nhưng chắc chắn là mẹ yêu ông ấy. Mẹ phát điên lên vì ông ấy. Chưa từng có ai khiến mẹ cười như ông ấy đã làm, con có nhớ ông ngoại con luôn nghiêm túc như thế nào không? Và hồi đó bố con có mái tóc dày dặn màu hạt dẻ không ai đẹp bằng.”

“Mẹ biết rằng bố là người mà mẹ muốn lấy trong số tất cả những người khác trên thế giới này à?” Tôi hỏi. “Mẹ không hề lo rằng mẹ có thể gây nên một số sai lầm hơn nữa sao, như là đánh mất cuộc sống thực tại của mẹ và, con không biết phải nói thế nào, hoàn toàn thay đổi đến nỗi không thể quay lại như xưa nữa?”

Bà xua câu hỏi đó đi như thể nó là một con ruồi lờ đờ nhưng cứ mãi luẩn quẩn quanh bà. Những ngón tay bà lấp lánh ruột cà chua. “Hồi đó mẹ không thắc mắc những câu hỏi lớn như thế,” bà nói. “Con có thấy nặng nề khi phải suy nghĩ, phân vân và dự định quá nhiều không?”

Tôi nghe thấy tiếng giật nước ở nhà vệ sinh trên gác. Tôi biết bố tôi sắp trở xuống, chuẩn bị chơi một ván Yahtzee nữa.

“Thực sự thì tình hình bố thế nào ạ?” Tôi hỏi mẹ tôi.

“Ôi, thất thường,” bà nói.

“Trông bố khá ổn từ khi con đến đây.”

“Đó là vì có con ở đây đấy. Nhưng bác sĩ Reuben nói bệnh khí thũng rất buồn cười. Nó có thể đột nhiên khá lên. Như thế đó.”

“Vậy mẹ nghĩ là bố đang khá lên?” Tôi hỏi.

“Không. Nhưng có thể đấy. Ông ấy có thể đột nhiên khá lên bất cứ lúc nào.”

“Còn mẹ thì sao?”

“Mẹ à? Mẹ khỏe như ngựa ấy,” bà nói. “Mẹ còn cảm thấy hơi xấu hổ bởi mình quá khỏe mạnh đấy.”

“Con ám chỉ việc khác cơ. Mẹ đã nói mẹ muốn kiếm một công việc ở đây mà. Mẹ đang nhắc đến một trường bất động sản.”

“Mẹ nên làm thế. Mẹ cứ có ý định đến đó và xem nó là gì. Nhưng nếu thế thì bố con sẽ cô đơn suốt cả ngày. Thật trớ trêu. Ông ấy luôn tháo vát hồi bố mẹ còn sống ở Ohio. Ông ấy lúc nào cũng ở cái rạp chiếu phim đó, đến mức mẹ cho rằng ông ấy thích ở một mình. Nhưng bây giờ khi chuyển đến đây, ông ấy cứ cuống cả lên nếu mẹ đi mua hàng quá lâu.”

“Mẹ có nghĩ bố đang bị lão suy không?” Tôi hỏi.

“Không. Chỉ vì ông ấy tốt bụng và hay lo thôi. Trước đây bố con chưa bao giờ sống nội tâm như thế. Vậy mà bây giờ, ừm, lúc nào ông ấy cũng muốn làm một điều gì đó. Mẹ giống như người tổ chức những trò tiêu khiển trong một chuyến du lịch trên biển cho một người nào đó vậy.”

Bà cười với tôi, đảo mắt một cách hài hước, nhưng giờ sự châm biếm toát ra một cách nhẹ nhàng.

“Hai người chứ,” tôi nói. “Bố và mẹ.”

“Chỉ là ví von thôi mà,” bà nói.

Hôm sau, bố tôi và tôi đi xem phim Hi vọng và vinh quang ở rạp Phoenix Số Tám. Mẹ tôi, người tuyên bố rằng đã xem quá đủ phim trong tuần đó, ở nhà để làm việc trên cái mà bà gọi là mảnh vườn. Đó chỉ là một khoảnh đất nhỏ trồng cỏ ướt đẫm nước và những bông hoa cuống dày, khỏe mạnh. Khi chúng tôi ra khỏi nhà, bà đang đi ra ngoài nắng, mặc chiếc quần soóc Bermuda kẻ sọc, đội một cái mũ rơm nhạt và đeo đôi găng tay làm vườn bé như đôi tay của chuột Minnie.

Khi chúng tôi ra khỏi cửa, bố tôi nói: “Những ông chủ trại thượng lưu cuối cùng đi đây.” Bà trao cho ông ánh nhìn đã xuất hiện từ khi họ chuyển đến sa mạc: ánh nhìn trìu mến giản dị, nhẫn nại của một y tá giỏi.

Chúng tôi lái chiếc xe hiệu Oldsmobile cũ của bố tôi đến rạp chiếu phim, một chiếc Cutlass lớn màu xanh sẫm, lừ lừ và nặng nề như một chiếc tàu ngầm. Ông đặt tay trên vô lăng lúc ba giờ chín phút. Ông đeo một cặp kính râm loại mắt kẹp bên ngoài cặp kính bình thường. Phía trên đầu chúng tôi, bầu trời mang một màu xanh oi ả, nóng nực. Những ngọn núi mờ ảo phía xa xa ở rìa những khu nhà và những trung tâm mua sắm. Khi chúng tôi quẹo tay lái để tránh một con tatu đã chết, bố tôi lắc đầu và nói: “Ai mà ngờ cuối đời mình lại phải sống trong sa mạc cơ chứ?”

Tôi nhún vai: “Có ai ngờ được cuối đời mình sẽ sống ở đâu đâu bố.”

“Nó quá sâu sắc với bố,” ông nói và rẽ vào bãi đỗ xe của trung tâm thương mại, đi dọc theo một dãy cao bồi trên lưng ngựa bằng neon với những đôi chân đu đưa.

Chúng tôi là hai trong số khoảng nửa táng ở rạp chiếu phim, đó là một suất chiếu vào buổi chiều của ngày thường. Trong sự vắng vẻ này, tôi lại nhớ đến rạp chiếu phim cũ của bố tôi. Dù chỉ là một căn phòng có kích thước trung bình, với tất cả các mặt được che rèm màu nghệ, nhưng nó cũng có vẻ u sầu thưa thớt như thế, và tỏa ra thứ mùi tương tự: mùi ẩm mốc và bỏng ngô lâu ngày. Một phụ nữ lớn tuổi ngồi trước chúng tôi hai hàng ghế ngoảnh lại nhìn chúng tôi vì tiếng thở nặng nề của bố tôi. Bắt gặp ánh mắt ông, bà ngoảnh đi và khẽ chỉnh lại một bên khuyên tai.

Tôi tin rằng tôi biết bà đang nghĩ gì: Người đó không còn sống trên đời này lâu nữa. Có lẽ bà là một góa phụ, một khách quen của suất chiếu buổi chiều. Tôi muốn vỗ vỗ vào bờ vai mập mạp của bà và kể cho bà nghe câu chuyện về cuộc đời của bố tôi. Tôi muốn bà biết rằng ông không chỉ là một ông già mặc chiếc áo thể thao polyester, thở hổn hển trong một rạp chiếu phim nhỏ bé, hẻo lánh và tẻ ngắt.

Phim Hi vọng và vinh quang quả là đáng xem, và sau đó bố tôi và tôi ghé qua trung tâm thương mại. Đó là một trung tâm thương mại lớn, với một ốc đảo trung tâm nơi những cây dừa đang đắm mình trong ánh nắng chiều. Chúng sà những chiếc lá xuống một con suối đang róc rách chảy qua. Những cụ già ngồi trên ghế băng, và một người đàn ông tươi tỉnh trong bộ đồ vải bông chéo màu trắng đang biểu diễn một cái đàn hộp. “Arizona là vùng đất của những người sống mà như đã chết,” bố tôi bảo tôi. Ông thúc tôi đi vào bên trong trung tâm và vào cửa hàng Montgomery Ward, để xem ở đó hiện đang bán thứ gì.

Chúng tôi ngắm nghía những giàn âm thanh, những chiếc ti vi mini, và những khung cửa sổ bằng nhôm. Chúng tôi xem xét những cái máy xén cỏ chạy bằng điện đứng sắp thành hàng trên cánh đồng cỏ nhân tạo. “Cái máy này tốt đấy,” ông nói, thử tay phanh của một cái máy màu đỏ tươi.

“Con muốn có một cái loại Turf Titan hơn,” tôi nói, ám chỉ cái máy xén cỏ to đùng màu đỏ thẫm cỡ bằng một cái máy kéo nhỏ. “Bố trông này, bố có thể cưỡi lên nó đấy.”

“Trông nó chả hợp chút nào với một thanh niên,” ông nói. “Cái máy này có giá trị chỉ bằng một phần ba này.”

Chúng tôi sắm vai khách mua hàng giống đến nỗi một nhân viên bán hàng còn trẻ với kiểu tóc che cái đầu hói bước đến và bắt đầu miêu tả những đặc tính của một loại đắt hơn cái mà bố tôi đã chọn. Khi nhân viên bán hàng thuyết minh xong, có một phụ nữ mảnh mai đi qua, mang theo hai đứa trẻ sinh đôi trong một cái địu giống như ba lô. Cô không xinh, mái tóc nâu xỉn bù xù và cằm nhỏ nhọn hoắt. Mắt cô – toàn bộ thân hình cô – trông hết sức mệt mỏi, như thể dù có nghỉ ngơi đến mấy thì cũng không hồi phục lại được. Tuy nhiên, cô có một sự tự tin vững vàng trong từng bước đi, làm tăng thêm sức nặng lên dãy hàng sáng choang, nơi cô đang bước vào để tìm kiếm dụng cụ làm vườn thích hợp. Hai đứa trẻ song sinh của cô cứ mải ngơ ngác nhìn chằm chằm vào khoảng không trống trải ngay trước mắt chúng. Khi cô đi dọc theo dãy hàng, tôi nghĩ đến cuộc sống quá yên ả mà ắt hẳn cô phải có, bất chấp tất cả những công việc nội trợ mệt nhọc. Một năm nữa, hai đứa con của cô sẽ biết đi và biết nói. Một năm nữa, cô sẽ biết chính xác bao nhiêu thời gian đã trôi qua.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,359
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 2-10


Cô rẽ vào và biến mất vào gian bán bàn ghế ngoài trời. Nhân viên bán hàng đang giới thiệu về những đặc tính an toàn của cái máy. Anh ta dùng bàn tay để chỉ ra ba điểm nhạy khiến cái máy không thể chộp lấy tay hoặc chân của bạn rồi nhả ra một tia máu hay những mẩu xương. Bàn tay anh ta trắng trẻo và thon gầy, ngón cái quá cong đến nỗi nó có vẻ làm anh ta bị đau.

Bố tôi và tôi lắng nghe chăm chú, hứa sẽ suy nghĩ về nó. Bố tôi, gật đầu khi nhận tấm danh thiếp của nhân viên bán hàng, trông vô cùng nhợt nhạt dưới ánh đèn huỳnh quang của cửa hàng Montgomery Ward. Ánh đèn trắng có cường độ mạnh xuyên qua mái tóc mỏng chiếu vào tận lớp da đầu bên dưới của ông. Ngay khi nhân viên bán hàng kết thúc việc giới thiệu sản phẩm, tôi vội đưa bố ra khỏi cửa hàng và mua đồ uống cho ông trong bóng tối tĩnh lặng của một tiệm thịt nướng. Một tấm biển dựng trong chậu hoa tulip nhựa viết rằng ở đây hiện đang phục vụ: “Bữa tối sớm đặc biệt”. Chúng tôi là những khách hàng duy nhất ngồi ở quầy bar vào giờ đó.

“Cậu nhỏ đó thật hăng hái,” bố tôi nói trên ly bourbon. “Thêm một trăm đô la nữa là con sẽ có một cái máy xén cỏ to hơn. Con có thể có một cái máy xén cỏ theo ý muốn với chưa đến một trăm đô la.”

“Dù sao thì con cũng chẳng có bãi cỏ nào cả,” tôi bảo ông.

“Vậy thì, khi nào con có, con nên biết cách chọn mua một cái máy xén cỏ.”

“Nếu mà con có một bãi cỏ, thì bố và con có thể đi mua máy xén cỏ một cách nghiêm túc hơn.”

“Lúc đó có thể bố không còn nữa,” ông nói. “Ngay bây giờ bố cũng có thể giúp con có được kiến thức về chúng.”

“Bố này,” tôi nói. “Con thực sự không biết liệu con có phải là mẫu người thích cỏ cây không. Con chẳng có cái cây nào cả. Thậm chí con còn không có ô tô.”

“Chiếc Olds kia mới đi được gần bốn vạn dặm,” ông nói. “Chắc là nó vẫn còn tốt khi con có nó một ngày nào đó.”

“Ý con không phải là con muốn có một cái ô tô. Con không định nói rằng con cảm thấy thiếu thốn. Chẳng có ai ở New York có ô tô cả. Con có thể bắt taxi khi cần đi đâu đó.”

“Và ở đó con thấy hạnh phúc chứ?” Ông hỏi.

“Vâng. Ý con là, con nghĩ thế. Hẳn rồi.”

“Đó là tất cả những gì mà bố quan tâm. Con có thể biến chiếc Olds thành một cái chậu nước cho chim tắm nếu con thích. Bố chỉ muốn con được hạnh phúc thôi.”

Tôi hít một hơi, và lúc đó, lần đầu tiên trong nhiều tháng qua, tôi thấy cực kì - gần như thái quá – khỏe mạnh. Tôi đã chờ đợi, gần như suốt cuộc đời, để nghe ông bày tỏ những khao khát của ông một cách chi tiết và dễ chấp nhận hơn cái ước muốn quan trọng duy nhất: tôi hoàn toàn được hạnh phúc, từng phút từng giây.

“Bố ơi, con xin phép,” tôi nói. “Con cần đi vệ sinh.”

“Bố sẽ ngồi đây chờ,” ông nói.

Phòng vệ sinh nằm ngay ở khu ngoài của nhà hàng, đằng sau khu vực thu ngân. Tôi nhận ra rằng thay vì đi vào phòng vệ sinh, tôi có thể bước ra khỏi cửa trước mà bố tôi không hề hay biết, và tôi đã làm thế, không do dự và không vì lý do gì ngoài một thực tế đơn giản, đó là một điều khả thi. Qua cánh cửa kính mờ, tôi bước ra sảnh chính ngập tràn thứ ánh sáng nhân tạo của trung tâm thương mại. Tôi đứng lại một lúc, nheo nheo mắt trước ánh sáng đột ngột ập đến, khi cánh cửa từ từ khép lại phía sau lưng. Khi nó đóng lại, một cảm giác tự do phóng túng xuất hiện trong tôi, một cảm giác chóng mặt, choáng váng. Tôi len lỏi giữa những người đi mua sắm để đi đến lối ra vào của trung tâm và băng qua những cánh cửa thủy lực để bước vào thứ ánh sáng ban ngày đích thực. Bãi đỗ xe đông nghịt những ông chồng, bà vợ vừa đi làm về - ánh nắng chiều rực rỡ dát vàng lên kính chắn gió và ăng ten radio của những chiếc ô tô. Đó là ánh nắng mùa thu nhưng không kèm theo cái se se lạnh đặc trưng của mùa. Tôi bước đi, mà chẳng tập trung suy nghĩ về một điều gì, theo hướng khu vực phía tây của bãi đỗ xe, lại gần hàng cây Joshua còi cọc ngăn cách trung tâm thương mại với đường cao tốc. Bên kia đường cao tốc là những căn nhà lưu động nằm tản mát, và xa hơn nữa là sa mạc, một dải đất bằng phẳng thênh thanh rải rác những cây xương rồng. Ở rìa sa mạc là những ngọn núi đỏ nhấp nhô. Tôi nghĩ rằng mình sẽ băng qua đường cao tốc để đi vào sa mạc. Tôi chẳng hề suy xét gì đến những động cơ hay hậu quả của việc đó. Lần đầu tiên tôi nhận thấy rằng người ta có thể bỏ đi chỉ vì một phút giây ngẫu hứng. Người ta có thể quyết định bỏ lại cái chết của người cha, sự cô đơn trớ trêu của người mẹ và cái tương lai mơ hồ của chính mình. Người ta có thể tìm một công việc và thuê một căn phòng dưới cái tên mới trong một thành phố xa lạ, đi trên những đại lộ của nó mà không cảm thấy sợ hãi hay bối rối. Tôi đứng đó một lúc, ngắm nhìn sa mạc khi những chiếc xe cứ vun vút phóng qua.

Chính vì bố tôi mà tôi đã quay trở lại. Hay, đúng hơn là, chính vì tôi đã nghĩ đến cái tâm trạng lo âu thắc thỏm đang lớn dần lên trong ông khi ông không thấy tôi trở về. Tôi không quan tâm lắm đến việc ông đi tìm tôi khắp phòng vệ sinh nam, kiểm tra xem tôi có ở cửa hàng Ward hay Sears không, và cuối cùng gọi điện cho cảnh sát. Tôi không quan tâm đến những hành động ông sẽ làm. Điều khiến tôi không thể chịu đựng được là hình ảnh của ông ngay lúc đó, cô đơn với đồ uống của mình ở tiệm thịt nướng, chỉ mới bắt đầu nhận ra có gì đó không ổn. Tôi rảo bước ngang qua bãi đỗ xe, và phải đứng lại một phút trước nhà hàng, lấy hơi.

Khi tôi trở về bàn, ông hỏi: “Con có sao không? Bố đang định đi vào đó tìm con đấy.”

“Con không sao đâu,” tôi nói. “Con chỉ hơi khó tiêu thôi bố ạ.”

“Trông con không được khỏe lắm,” ông nói. “Có lẽ bố con mình nên về nhà đi.”

“Không. Con hoàn toàn bình thường mà. Con nghĩ chắc là do con không quen uống rượu vào buổi chiều thôi.”

Chị phục vụ, một phụ nữ trạc tuổi tôi, với làn da xấu được đánh phấn kĩ càng, cười phá lên khi nhân viên pha chế rượu nói gì đó. Cả hai đều đang hút thuốc. Nhân viên pha chế rượu là một người đàn ông trung niên với vẻ thân thiện, tưng tửng của một con chó sục. Bóng phản chiếu của ông ta lơ lửng trong chiếc gương mờ đằng sau quầy bar, tối đen như một thi thể bị kẹt trong băng. Phía trên những cái chai lấp lánh, một đàn ngựa Clydesdale bằng nhựa nho nhỏ đang kéo một xe chở bia mini theo một vòng tròn.

Đêm đó, sau bữa tối, khi bố tôi lấy ra bộ trò chơi sắp chữ, tôi hỏi rằng liệu ông có muốn đi dạo thay vì chơi trò đó không. “Chẳng có nơi nào để đến cả,” ông nói. “Hàng dặm quanh đây chỉ toàn là những căn hộ chung cư giống hệt như nhau thôi.”

“Đi đi, Ned,” mẹ tôi nói. “Reuben nói rằng tập thể dục một chút sẽ có lợi cho anh đấy.”

“Không lâu đâu bố,” tôi nói thêm. “Chỉ mười phút thôi.”

Ông đứng dậy, trút ra một hơi thở khô khốc, mỏng manh.

“Được rồi,” ông nói. “Nhưng đừng có nghĩ rằng làm thế là con sẽ thoát được trò sắp chữ này đấy.”

“Con đi vào phòng tắm cái đã,” tôi nói. “Con sẽ quay lại ngay.”

“Thằng bé này ở trong phòng tắm còn nhiều hơn là ở bên ngoài,” bố tôi nói với mẹ tôi.

“Con đã hai mươi bảy tuổi rồi đấy,” tôi nói. “Con đã lớn tuổi hơn bố hồi bố gặp mẹ rồi đấy.”

Trong phòng tắm, căn phòng với giấy dán tường có hoa văn hình những nụ hồng màu cam ngộ nghĩnh, tôi vã nước lạnh lên mặt. Tôi đứng đó một lúc, dưới tiếng ù ù khe khẽ của bảng điện huỳnh quang. Tôi không nhìn vào hình phản chiếu của mình trong gương. Thay vào đó, tôi nhìn vào những tờ giấy dán tường, vào những nụ hồng sắp xếp theo hàng một cách trật tự, mỗi nụ lơ lửng trên một chiếc lá màu ô liu.

Ở tuổi mười chín, tôi đã đeo một chuỗi ngọc trai trên cổ, và xăm hình rồng lên vai phải. Tôi đã bỏ học ở NYU được một học kì mà không nói với bố mẹ tôi, và dùng một phần tiền học phí để đăng ký học pha chế rượu. Tôi đã nghĩ mình có thể làm một điều như thế. Và giờ thì tôi ở đây, đứng trong căn phòng tắm ở Phoenix, không biết phải làm gì với bố mình, ngay lúc ông còn sống cũng như sau khi ông mất. Tôi chưa bao giờ ngờ rằng mình sẽ rơi vào một tình huống thông thường như thế này. Tôi ở trong phòng tắm lâu hết mức có thể. Tôi giật nước bồn cầu hai lần như một cách để giải thích lý do tôi ở trong đó quá lâu.

Khi tôi trở ra, bố tôi hỏi: “Con chắc là con không sao chứ?”

“Con không sao,” tôi nói. “Bố con mình đi dạo thôi.”

Bên ngoài là màn đêm Arizona trong lành, bầu trời chi chít những vì sao. Khi chúng tôi ra phố, bố tôi nói: “Con muốn đi hướng nào? Cả hai phía đều chẳng có gì cả.”

“Vậy thì đi hướng bên trái đi ạ.”

Chúng tôi rẽ trái. Ở hai bên đường, những ô cửa sổ lấp lánh trong những ngôi nhà màu giấy da ấm cúng. Chúng tôi bắt đầu khe khẽ hát bài Give my regards to Broadway và tôi hòa theo. Sau khi đi được vài dãy nhà, tôi hỏi: “Nếu bố con mình đi tắt qua lối đi giữa hai tòa nhà này, bố con mình sẽ ra ngoài sa mạc đúng không ạ?”

“Ngoài đó có rắn đấy,” bố tôi nói. “Bọ cạp nữa.”

Ý nghĩ về việc Ned Glover, người chủ rạp chiếu phim ở Ohio trước đây, sống chung một nơi với lũ rắn và bọ cạp thật là không tưorng đến nỗi tôi cười phá lên. Có lẽ bố tôi nghĩ rằng tôi cười vì sự thận trọng của ông. “Hừm, bố hi vọng con đi đôi giày đủ dày,” vừa nói ông vừa đi thẳng qua lối đi giữa hai tòa nhà về phía vùng đất rộng mở.

Tôi vẫn nán lại, lo lắng về những con rắn. Bố tôi đi được khoảng hai mươi bước, ngoảnh lại và vẫy tôi, rồi bước tiếp. Khi ông đi qua bóng tối của những tòa nhà để bước vào sa mạc lấp lánh ánh sao, tóc ông bị gió thổi tung lên. Trông ông như đang hiện ra từ một cái đường hầm vậy. Tôi lững thững đi theo ông, vừa đi vừa để ý đến mặt đất.

“Ở đây có rắn thật không ạ?” Tôi hỏi.

“Thật. Rắn chuông hẳn hoi. Bà Cohen cách nhà mình hai căn từng thấy một con rắn bị chết đuối trong bể bơi sục của bà ấy đấy.”

Chúng tôi cùng nhau đi vào sa mạc. Mặt đất vô cùng bằng phẳng, đây đó nhô lên từng bụi ngọc giá thẫm đen tua tủa. Phía trước chúng tôi là dãy núi bằng, rạng rỡ vươn mình lên bầu trời. Nơi chân núi, vài ánh đèn le lói hiện ra trong bóng tối dày đặc, đó là những chiếc đèn lồng của các nhà tu khổ hạnh, những hồn ma của tộc người Navajo hay những người ngoài hành tinh đang dựng trại?

“Đêm nay đẹp thật,” ông nói.

“Đẹp quá. Bố này?”

“Gì hả con?”

“Chẳng có gì ạ,” tôi nói.

Tôi sợ rằng chúng tôi chẳng còn thời gian nữa. Dù tôi luôn âm thầm cho rằng rồi bố tôi sẽ qua đời trước tôi, nhưng tôi vẫn nghĩ điều đó sẽ diễn ra ở một tương lai xa xôi, khi tôi đã trở nên khôn ngoan, vững vàng và sẵn sàng hơn. Đột nhiên – có vẻ thực sự bất ngờ - phổi ông yếu dần với một tốc độ không lường trước được và máu tôi có thể bị bệnh tật xâm nhập, chuẩn bị biểu lộ những triệu chứng đầu tiên. Tôi muốn hỏi ông vài điều, nhưng dường như tôi không thể cất nên lời trong căn hộ chung cư, trong chiếc Oldsmobile hay ở trung tâm thương mại. Tôi đã hi vọng mình sẽ có nhiều quyết tâm hơn ngay tại đây, bên dưới những vì sao này.

“Mèo ăn mất lưỡi của con rồi hay sao mà lại ấp úng thế?” Ông hỏi.

“Chắc vậy ạ.”

Tôi vẫn đang cố tạo ra một phiên bản thay thế cho chính tôi, một người kiêu hãnh và không nao núng, người có thể nhìn thẳng vào bố mẹ và nói cho ông hay những bí mật cuối cùng của anh ta. Tôi muốn ông biết rõ tôi, hiểu thấu tôi. Tôi vẫn đang chờ cho đến khi mình ổn định và hoàn thiện, để cho ông thấy rằng tôi hoàn toàn hạnh phúc, một thứ hạnh phúc mà ông có thể hiểu được.

Bố tôi nói: “Bố đang nghĩ về cái máy xén cỏ đó.”

“Bố nghĩ gì về nó?”

“Nó quả là một món hời. Có lẽ ngày mai chúng ta nên quay lại đó để mua nó, và bố có thể cất nó ở đây cho đến khi con cần đến nó.”

“Bố có dùng nó trong thời gian chờ đợi không?”

“Bố á?” Ông nói. “Bố có gì mà xén chứ, cái vườn sỏi đá đó à? Bố mẹ có cái ga ra hai chỗ khá rộng, có rất nhiều khoảng trống.”

“Ý bố là nếu con có một bãi cỏ, thì con sẽ đến đây và lấy cái máy xén khi đó đã mười hay hai mươi tuổi à?”

“Càng ngày người ta sẽ càng làm ra những sản phẩm tệ hơn,” ông nói. “Con có biết mẹ con sẽ trả bao nhiêu tiền để lấy lại cái máy hút bụi Hoover kiểu đứng cũ của bà ấy không? Con không thể mua được những thứ đó dù trả bao nhiêu tiền chăng nữa, bây giờ máy hút bụi đều được làm bằng nhựa dẻo cả.”

“Bố chẳng nghiêm túc về chuyện này gì cả,” tôi nói.

“Dĩ nhiên là bố nghiêm túc đấy. Dù sao thì con cũng sẽ được thừa hưởng mọi thứ trong ngôi nhà đó, sao con không thừa kế một cái máy xén cỏ thật bền ở tương lai khi mà những thứ duy nhất con có thể mua lúc đó đều được làm từ cao su?”

“Con không muốn một cái máy xén cỏ,” tôi nói. “Thật đấy. Cảm ơn lời đề nghị của bố.”

“Có lẽ bố vẫn sẽ mua nó dù thế nào đi nữa,” ông nói. “Rồi nó sẽ ở đó, và nếu con không muốn, con có thể đem nó cho Đội quân Cứu tế hay bất cứ thứ gì khác.”

“Bố, con không muốn máy xén cỏ đâu,” tôi nói.

“Ừm, hãy đợi xem.”

“Con không muốn một cái máy khoan điện, một cái lò vi sóng, hay một chiếc xe Mercury mui kín. Con không muốn những tấm vé xe theo mùa đến vùng đất dành riêng cho người Da đỏ. Con không muốn một cái máy xới đất, một bộ cần câu và dây câu, hay một cái phích để giữ cà phê nóng suốt cả ngày.”

“Thôi, thôi,” ông nói. “Không cần quá khích thế đâu.”

“Điều mà con thực sự muốn,” tôi nói, “là biết được chuyện gì đã xảy ra với con. Sao con không thể sống một cuộc sống đàng hoàng?”

Mặt ông nhăn nhó. Đó là vẻ mặt quen thuộc của ông, là sự dồn nén của những cơ mặt bên dưới làn da – nó xảy ra khi ông gặp phải điều gì đó trái ý hay khó hiểu. Khuôn mặt ông thực sự có vẻ nhàu nhĩ và co rúm lại khi những nét trên mặt ông đều dồn về điểm trung tâm. Trông ông giống như đang gắng sức nhìn qua một cái lỗ khóa từ một khoảng cách chừng vài bước.

“Rồi con sẽ phát hiện ra vài điều gì đó,” ông nói, “Con vẫn còn trẻ, cần phải có thời gian.”

“Chuyện gì đã xảy ra vậy? Bố đã ở đó mà, chắc là bố phải biết chứ. Con cứ nghĩ rằng chắc hẳn phải có điều gì đó mà con không nhớ. Con có một công việc tử tế, con có tình nhân và bạn bè. Thế mà sao con lại có cảm giác quá cô độc và lặng lẽ như thế? Sao con lại cảm thấy mình như một kẻ thất bại vậy? Bố có làm gì con không thế? Con sẽ không oán trách gì bố đâu. Con chỉ cần biết thôi.”

Ông ngừng lại để hít một ngụm không khí. Mặt ông vẫn co rúm lại.

“Bố yêu con mà,” ông nói. “Bố đã làm việc chăm chỉ, bố không biết nữa. Có lẽ bố đã phạm sai lầm. Bố mẹ đã chăm sóc con tốt nhất có thể.”

“Vâng, con biết,” tôi nói, “Con biết. Vậy sao con lạ trở thành một kẻ bẩn thỉu như thế này?”

“Con không phải một kẻ bẩn thỉu,” ông nói. “Ý bố là, nếu con có vấn đề gì đó...”

“Bố chỉ cần trả lời câu hỏi của con thôi.”

“Bố không thể,” ông nói. Mắt ông trở nên đờ đẫn, và miệng ông hé mở. Ông đang nhớ lại điều gì vậy? Dĩ nhiên là đã có chuyện gì đó – một cơn giận khi tôi không ngừng khóc, vài điều bần tiện nảy sinh từ lòng đố kỵ. Vài hành động nhỏ nhen hay sự lơ là, một thoáng biến mất của tình yêu trong ông mà cuối cùng cũng không giải thích được điều gì.

Chúng tôi đứng một lúc trong im lặng, một điều thật hiếm hoi. Thông thường, bố con tôi tránh sự im lặng. Chúng tôi đều là những người hay chuyện, và biết cách giữ cho không khí quanh mình luôn sôi nổi bởi các cuộc trò chuyện, các trò chơi hay những khúc hát. Mảnh trăng lưỡi liềm trông như một con diều hâu đang lướt qua những vì sao. Một cái lon 7-Up rỗng lấp lánh trong ánh trăng như một vật gì đó đáng giá.

“Bố này,” tôi nói.

Ông không đáp. Chỉ đến lúc đó tôi mới nhận ra rằng ông đang gắng sức để thở.

“Bố ơi?” Tôi nói. “Bố có sao không?”

Mặt ông sạm đi, mắt ông lớn lạ thường khi ông tập trung hít thở. Vẻ mặt ông trông kinh ngạc như vẻ mặt của một con cá bị kéo lên khỏi mặt nước, nhức nhối và khó thở trước một thế giới đầy ánh sáng.

“Bố? Bố có nói được không?”

Ông lắc đầu. Ý nghĩ đầu tiên của tôi là bỏ chạy. Tôi vẫn có thể bỏ đi, tôi có thể phủ nhận mọi chuyện. Sẽ không ai nghi ngờ gì tôi.

“Bố ơi,” tôi bất lực nói. “Ôi, bố ơi, con nên làm gì đây?”

Ông ra hiệu cho tôi lại gần hơn. Tôi ôm lấy vai ông, hít lấy mùi nước hoa cologne và mùi râu tóc của ông, nó vẫn không thay đổi so với hồi tôi còn bé. Phổi ông kêu rin rít như một quả bóng bay bị chà xát dữ dội.

Một cách cẩn thận, như thể ông được làm bằng sứ, tôi giúp ông ngồi xuống. Tôi ngồi cạnh ông, ôm ông, trên mặt đất mịn màng.

Chính là nó, tôi nghĩ. Đây là cái chết của bố tôi. Tôi không biết làm thế nào để giúp ông, không biết phải làm gì, phải chôn ông ở đâu. Tôi vuốt ve mái tóc lòa xòa của ông, vốn dĩ từng dày và tươi tốt đủ để làm nền cho một cuộc hôn nhân.

Tôi mở miệng định nói, và tôi nhận ra rằng tôi chẳng biết nói gì với ông. Tất cả những gì tôi có thể nghĩ đến là lời an ủi dành cho người sắp chết, mà bất kì người lạ nào cũng có thể nói ra. Tuy nhiên, tôi vẫn nói những lời đó. Nếu không ông sẽ chết trong im lặng.

“Không sao đâu,” tôi nói. “Mọi chuyện sẽ ổn thôi bố ạ.”

Ông không thể nói. Mặt ông sạm lại và nở rộng ra vì nỗ lực để thở.

Tôi nói: “Bố đừng lo về mẹ con con. Mẹ con con sẽ ổn thôi. Rồi mọi chuyện sẽ ổn cả thôi.”

Tôi không biết liệu ông ấy có nghe thấy tôi nói không. Có vẻ ông đã đi quá xa vào trong bản thân ông, ý thức ông đã rút lui khỏi não và tập trung toàn bộ sức lực vào hành động bất lực của hai lá phổi. Tôi cứ vuốt tóc ông và xoa vai ông. Tôi cứ bảo ông rằng mọi chuyện rồi sẽ ổn.

Và, một lúc sau, ông dần dần hồi lại. Không khí lại bắt đầu tràn vào phổi ông và khuôn mặt ông, từng phút một, dần mất đi vẻ hoang dại, nghẹt thở. Chúng tôi ngồi cạnh nhau trên nền đất khi phổi ông, đã trở nên mỏng mảnh như vải thưa, có vẻ đang cố gắng thêm lần nữa để hấp thụ oxy.

Cuối cùng, ông đã nói được: “Chắc là phổi bố đã mở rộng quá mức. Bố đã hơi quá xúc động.”

“Bố nên ở lại đây,” tôi nói. “Con sẽ đi tìm người giúp.”

Ông lắc đầu. “Bố sẽ ổn thôi,” ông nói. “Chúng ta phải đi về thật chậm. Được chứ?”

“Vâng. Tất nhiên rồi... Bố ơi, con xin lỗi.”

“Vì điều gì?”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,359
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 2-11


Tôi giúp ông đứng lên và chúng tôi bắt đầu chuyến đi về nhà dài đằng đẵng. Chúng tôi mất hơn một giờ để đi hết quãng đường mà trước đó chỉ mất có hai mươi phút. Những ngôi sao đang rơi trên bầu trời.

Khi tôi mười lăm tuổi, bố tôi và tôi từng cùng nhau lái xe đến Chicago để mua sắm và gặp phải một cơn giông trên đường về. Mưa như trút nước, bầu trời ngả dần sang màu xám xịt, báo hiệu cho những cơn lốc xoáy. Cơn dông ngày càng dữ dội đến nỗi chúng tôi phải dừng xe tại một trạm nghỉ. Trạm nghỉ này trông ra một cái hồ đục ngầu, tiếp nối với cánh đồng lúa mạch xanh ngút ngát. Mưa gõ lộp bộp trên nóc và mui xe. Chúng tôi ngồi trong im lặng, thi thoảng húng hắng giọng, cho đến khi một tia sét thoáng biến mặt hồ thành màu vàng ệch. Thế là chúng tôi bật cười. Tia sét giống như điểm nút của một câu chuyện cười dài ngoằng và lắt léo. Sau khi dứt cơn cười, chúng tôi nói về tương lai của tôi, về khả năng nuôi một con chó mới, và về mười độ phim ưa thích của chúng tôi. Sau khi cơn giông qua đi, chúng tôi lái xe về nhà, bật radio và mở cửa sổ xe. Sau đó chúng tôi biết được rằng một cơn lốc xoáy đã thực sự tấn công khu vực lân cận, san phẳng một tháp nước và một nghĩa địa của người Amish cách chỗ chúng tôi đỗ xe chưa tới hai mươi dặm.

Giờ thì chúng tôi đang đi cùng nhau, rất chậm, qua màn đêm sa mạc trắng xanh. “Bố ơi?” Tôi nói.

“Gì hả con trai?”

“Có lẽ mai bố con mình lại đi xem một bộ phim khác đi. Con nghe nói phim Gàn dở cũng không quá tệ.”

“Tuyệt. Con hiểu bố đấy, bố luôn thích đi xem phim mà.”

Những loài côn trùng xa lạ phát ra một tiếng kêu nhẹ nhàng nhưng dai dẳng, một tiếng vù vù như tiếng trái đất có thể tạo ra khi quay trong đêm nếu tất cả chúng ta đều giữ yên lặng đủ để nghe thấy nó. Những ánh đèn tỏa ra từ khu tổ hợp chung cư. Chúng cách đây không xa. Tuy nhiên, trông chúng có vẻ quá thực và quá gần, khó có thể chạm vào. Chúng giống như những cái lỗ bấm của màn đêm, qua đó ánh sáng lọt vào từ một thế giới khác sống động hơn. Trong một thoáng, tôi có thể hình dung được cảm giác khi là một hồn ma sẽ như thế nào – khi phải mãi mãi bước qua một sự im lặng sâu sắc hơn sự im lặng, khi có thể thấy rõ nhưng không bao giờ tới được những ánh đèn của gia đình.

CLARE

Tất cả những gì cậu nói là: “Chuyến đi thăm bố mẹ thông thường. Tội lỗi và những bộ phim. Hiện họ sống trong một ngôi làng của người Da đỏ.” Nhưng sau đó Jonathan trầm lặng hơn, kín đáo và nói năng nhát gừng hơn. Cậu luôn đóng cửa phòng mình. Tháng Ba, cậu tuyên bố rằng cậu sẽ chuyển đi.

Tôi hỏi tại sao.

“Để sống cho ra sống,” cậu nói.

Khi tôi hỏi rằng thế hiện giờ cậu nghĩ cậu đang sống kiểu gì, cậu nói: “Như một tấm vé bị hủy.”

Đó là vào buổi sáng. Một trong những buổi sáng tháng Ba âm u lầy lội, cứ tiếp nối nhau như thể chúng đang bị tuột ra từ một ống chỉ. Jonathan nhìn đăm đăm ra ngoài cửa sổ. Cậu cứ lấy đầu ngón tay nghịch nghịch tóc như thể đang ngồi ủ rũ trong một hộp đêm khi cậu nói từ “tấm vé.”

“Cưng ơi,” tôi nói. “Hãy cho tôi biết ý cậu là gì bằng thứ tiếng Anh thông thường ấy.”

Cậu thở dài, ngoảnh mặt nhìn tôi với vẻ miễn cưỡng thấy rõ. Thường thì cậu có thể dễ dàng thể hiện niềm vui, sự cảm động hay sự rộng lượng. Cậu có thể nói năng lịch thiệp, đúng mực bằng chính giọng mình. Nhưng khi cậu tức giận hay buồn bã, cậu cần phải bắt chước một hình ảnh nào đó. Tôi đã từng thấy cậu phát điên lên với vẻ gay gắt, mắt long lên sòng sọc như Bette Davis[55]. Tôi đã từng thấy cậu lúng túng như một đứa trẻ đường phố, với đôi mắt nhìn xuống và đôi bàn tay nắm chặt lại. Còn cái vẻ nghịch tóc, nhìn ra ngoài cửa sổ này là một kiểu mới.

[55] Bette Davis (1908-1989): nữ diễn viên người Mỹ đã từng hai lần đoạt tượng vàng Oscar.

“Nào,” tôi nói. “Nói đi.”

Cậu ngoảnh mặt về phía tôi.

“Cuộc sống mà em vẫn đang theo đuổi đã bị ngừng lại,” cậu nói. “Em đã nghĩ em có thể sống tự do và yêu thật nhiều người khác nhau. Trong đó có cả chị và Bobby.”

“Cậu có thể. Cậu làm được mà.”

“Em không thể. Đây là một thời đại mới, mọi người ai cũng sẽ phải kết hôn.”

“Tôi thì không đâu, cảm ơn,” tôi nói.

“Có, chị sẽ làm thế đấy. Hiện chị đang cặp kè với Bobby còn gì. Em phải đi tìm một ai đó cho riêng mình, và em cảm thấy mình không còn nhiều thời gian trên đời này. Ý em là, Clare ạ, ngộ nhỡ em mắc bệnh thì sao?”

Tôi ngập ngừng. “Cậu không mắc bệnh đâu,” tôi nói.

“Làm sao chị biết. Có khi đến hàng năm trời chúng ta vẫn còn không biết gì cơ mà.”

“Jonathan, cưng ơi, cậu đang quá cường điệu đấy.”

“Thế à?”

“Đúng. Cậu không sao cả, tôi có thể nhận thấy mà. Cậu hoàn toàn khỏe mạnh. Giờ thì đừng có chuyển đi, cậu sẽ phá vỡ gia đình này mất.”

“Chị và Bobby mới là gia đình,” cậu nói. “Chỉ hai người thôi.” Và cậu lại quay ra phía cửa sổ, nơi ngang qua lỗ thông gió, một thiếu phụ Puerto Rico đang treo quần đùi trẻ con và những đôi tất nam màu đen lên dây phơi.

Tôi nghĩ tôi sắp mang thai. Tôi đã thôi không dùng biện pháp phòng tránh nữa. Nhưng dường như tôi không thể nói với ai, cả Bobby lẫn Jonathan. Tôi cho rằng tôi thấy xấu hổ về những động cơ của mình. Tôi không thích mình bị coi là một kẻ tính toán hay lừa lọc. Thực sự thì tất cả những gì tôi muốn là ngẫu nhiên có mang. Cái bất lợi không ngờ tới của cuộc sống hiện đại chính là sự chiến thắng của chúng ta trước số phận. Chúng ta buộc phải quyết định quá nhiều thứ, gần như tất cả mọi chuyện, và hoàn toàn được cảnh báo về những hậu quả. Nếu ở vào một thời kì khác, tôi sẽ có con ở độ tuổi hai mươi, khi tôi lấy Denny. Đương nhiên tôi sẽ trở thành một bà mẹ mà không cần phải quyết định gì cả. Không cần cân nhắc những hậu quả. Nhưng Denny và tôi ban đầu quá thực tế - lúc đó chúng tôi đang sống dựa vào khoản tiền gửi ngân hàng của tôi, và anh có những tham vọng lớn – sau đó giận nhau đến mức khó mà có con với nhau được nữa. Tôi đã bất ngờ mang thai, với một thành viên trong đoàn ca vũ kịch của Denny, người bảo với tôi rằng anh ta là một kẻ đồng tính. Và tôi đã phá nó. Ở độ tuổi đó, trong thời gian đó, bạn phải bỏ qua những gì không cần thiết. Bạn phải giữ cho mình được thon thả, rảnh rang và không vướng víu.

Giờ đây tôi lại muốn có một đứa con, và tôi muốn nuôi nấng nó cùng với Jonathan. Chúng tôi có thể tạo nên một gia đình kiểu mới. Một gia đình lớn rời rạc chỉ toàn có những ông chú, bà dì. Nhưng tôi không thể buộc mình phải thú nhận điều mà tôi đang mong muốn. Tôi đang cố gắng dàn xếp việc đó. Tôi cần có thêm thời gian.

Để cố động viên tinh thần của Jonathan, tôi đã bảo cậu đưa Erich về ăn tối. Cậu không muốn làm thế. Tôi phải nói ra nói vào mãi. Việc thuyết phục cậu mất đến hơn một tuần. Dầu vậy, tôi không hề bỏ cuộc, vì tôi tin tưởng vào những gì mình đang làm. Tôi suy luận thật đơn giản về vấn đề của Jonathan. Cuộc sống của cậu đã bị chia thành quá nhiều ngăn khác nhau. Ngăn dành cho công việc, cuộc sống của cậu cùng Bobby và tôi. Ngăn dành cho vài người bạn thời đại học, cho cuộc sống tình dục ngẫu hứng với những người lạ, và cuộc tình hiện tại với một người đàn ông mà chúng tôi chưa ai gặp. Tôi cho rằng cậu cần đặt những ngăn này chồng chéo lên nhau nhiều hơn.

“Sao cậu lại không muốn đưa Erich về đây ăn tối?” Tôi hỏi cậu trong một buổi sáng âm u nhưng không có vẻ là sẽ mưa. “Cậu xấu hổ vì chúng tôi à?”

Tôi đang mặc cái áo choàng tắm vải chenille màu hồng, và quấn một cái khăn sọc vằn lên tóc. Trong một thoáng, tôi thấy mình giống như người vợ đanh đá của ai đó, hai tay chống nạnh. Nó khác xa với hình ảnh một người đang ngọt nhạt dụ dỗ người khác. Nhưng tôi hoàn toàn không để ý. Ít nhất một phụ nữ như thế cũng biết được cô ta muốn gì. Cô ta không bị sự nhập nhằng và do dự bao quanh như một đám ruồi nhặng.

“Dĩ nhiên là không,” Jonathan nói. “Em đã bảo chị rồi. Anh ta và nhà Henderson sẽ không hợp nhau đâu.”

Cậu đang chuẩn bị đi làm. Cậu đã xỏ chân vào một chiếc giày. Cậu đang nhấp một tách cà phê trong khi Bobby phết bơ vào cái bánh vừng vòng cho cậu.

“Chúng ta sẽ không sắm vai nhà Henderson,” tôi nói. “Chỉ có bốn người chúng ta thôi, những thường dân quá lo lắng về khuyết điểm của chính mình nên không thể nhận ra khuyết điểm của người khác.”

“Anh ta và em có không có kiểu quan hệ đó,” Jonathan nói.

“Kiểu quan hệ sao?”

“Kiểu “Ghé qua nhưng hà và gặp những người bạn cùng sống chung,” Điều đó sẽ rất bất tiện. Cho tất cả mọi người.”

“Làm sao cậu biết, nếu cậu chưa bao giờ làm thế?” Tôi hỏi. “Cưng à, nói thật với cậu, tôi nghĩ chính cậu đã đặt giới hạn cho những mối quan hệ của cậu bằng cách tự mình quyết định trước rằng họ có thể liên quan hoặc không được liên quan đến những điều gì.”

Bobby đưa cho Jonathan chiếc bánh vừng vòng, và vỗ yêu lên mông tôi. Tôi lo lắng nghĩ về những đêm yên lặng mà tôi và anh sẽ có cùng nhau. Về những thói quen nội trợ không thay đổi mà chúng tôi sẽ nhiễm phải.

“Có lẽ chị đúng đấy,” Jonathan nói. “Thôi em đi đây, chào.”

Tôi theo cậu ra hành lang. “Bọn tôi sẽ không kể cho anh ta nghe bất cứ bí mật nào của cậu,” tôi gọi với theo. “Bọn tôi sẽ không đùa giỡn vớ vẩn, hay khoe khoang những tấm hình về chuyến đi đến một công viên quốc gia nào đó của bọn mình đâu.”

Cuối cùng tôi cũng thuyết phục được cậu làm theo ý tôi nhờ tính cố chấp quen thuộc. Tính cố chấp của tôi, dù nó vẫn thường xuyên có tác dụng, khó có thể được coi là một đức tính tốt, vì tôi không có đủ sức chịu đựng để khuyến khích nó. Cái tính quả quyết dứt khoát của tôi đã dẫn dắt tôi, bất chấp tất cả những lời khuyên có lý, cưới một vũ công mà tôi cứ ngỡ là vị cứu tinh, và rồi yêu một phụ nữ danh tiếng, người nói rằng cô sẽ dạy tôi thôi không còn ghét bỏ chính mình. Nó đã dẫn tôi đến với công việc buôn bán quần áo cũ, vào trường làm tóc, Phật giáo và khiêu vũ hiện đại. Những con chó chăn bò chắc hẳn cũng phải trải qua cái kiểu rắc rối như thế này. Khi chúng cắn chặt vào cái tai hay cái đuôi của một con bò đực, có lẽ chúng tin rằng chúng đã giữ được cả con vật.

Erich đến ăn tối vào một đêm thứ Sáu. Bobby và tôi đang làm một bữa tối nhỏ nóng sốt, đang là mốt thời đó: mì ống với thảo mộc tươi, gà quay, các loại rau từ ba lục địa. Chúng tôi muốn tạo ra một sự ấn tượng. Khi cùng nhau chuẩn bị bữa tối, chúng tôi cùng đoán xem trông Erich như thế nào.

“Em nghĩ anh ta là người ủ dột,” tôi nói. “Một trong những mẫu người có tính khí thất thường, trầm lặng mà người ta thường gọi là “khó tính,” trong khi điều họ thực sự muốn ám chỉ lại là “một gã dở người”.”

“Em nghĩ là Jonathan, ờ, sẽ thích một người như thế sao?” Bobby nói.

“Em nghĩ cậu ta có thể bị một người như thế cuốn hút,” tôi nói. “Anh nên nhớ rằng, cậu ta không hề giới thiệu người này cho bất cứ người bạn nào.”

Bobby đang thái hạt lựu một quả ớt vàng. Tôi đứng áp lưng mình vào lưng anh, rửa rau arugula. Chúng tôi đã quen với việc cùng nhau làm việc trong căn bếp nhỏ xíu này. Chúng tôi đã biết cách cử động một cách nhịp nhàng, ăn khớp.

“Ừ,” anh nói. “Vậy có lẽ em đã đúng. Anh thì hình dung ra anh ta giống như một tên tội phạm.”

“Một tên tội phạm? Anh nghĩ thế thật à?”

“Không đến nỗi giống như một kẻ giết người đâu. Không phải loại tội phạm nghiêm trọng đến thế. Giống kiểu mấy gã bán ma túy hơn. Em biết đấy. Loại người làm những việc bất lương ấy.”

“Nhưng anh ta là một diễn viên,” tôi nói. “Chúng ta biết rõ điều đó mà.”

“Ồ, anh nghĩ nhiều người trong số họ vẫn bán ma túy. Em không nghĩ thế sao? Ý anh là, nếu không làm thế thì họ còn cách nào để tự nuôi mình nữa?”

“Anh nghĩ trông mặt mũi anh ta thế nào?”

“Ừm, có màu da sẫm,” anh nói. “Không quá đẹp trai đến mức nổi bật. Hơi thâm trầm, ừm, một cách khó chịu. Anh nghĩ anh ta có một túm tóc đuôi ngựa nhỏ.”

“Hừm. Em nghĩ anh ta còn rất trẻ. Anh biết đấy, một trong những gã tóc vàng hoàn hảo từ miền Trung Tây đổ dồn về đây và cuối cùng xuất hiện trong những quảng cáo kem đánh răng ấy.”

“Rồi chúng ta sẽ biết thôi,” Bobby nói. Và nửa tiếng sau, chúng tôi đã có câu trả lời. Jonathan và Erich về cùng nhau. Họ mang theo những bông tulip vàng trồng trong nhà kính, và một chai rượu vang đỏ. Jonathan để Erich đi trước. Cậu nán lại gần cửa như thể cậu định chuồn mất và để lại ba người bọn tôi lại với nhau.

Erich bắt tay tôi, rồi bắt tay Bobby. “Rất vui khi được gặp các bạn,” anh ta nói.

Dáng người anh ta mảnh khảnh, đầu bị hói. Anh ta mặc quần jean và áo phông có cổ màu xanh hải quân với logo nhãn hiệu thời trang Ralph Lauren – hình một con ngựa trong trò polo – được thêu bằng chỉ đỏ trên ngực.

“Erich,” tôi nói. “Người đàn ông bí ẩn.”

Vầng tráng cao của anh ta sa sầm lại. Anh ta có khuôn mặt sắc sảo, với cái cằm nhọn hoắt, cái mũi cũng nhọn và đôi mắt nhỏ lanh lợi. Những chi tiết đó được đặt quá sát với nhau. Đó là một khuôn mặt hốt hoảng, nhăn nhúm. Trông Erich có vẻ giống với một người đàn ông bị kẹt đầu giữa hai cánh cửa thang máy. Anh ta gật đầu.

“Thực sự tôi không phải một kẻ bí ẩn,” anh ta nói. “Ôi, không. Không bí ẩn chút nào. Tôi rất tiếc vì trước đây chúng ta chưa gặp nhau. Tôi, ừm, rất vui khi được đến đây.”

Anh ta cười như thể bị đấm vào bụng.

“Anh uống gì nhé?” Tôi nói. Anh ta nói là anh ta muốn uống nước khoáng seltzer, và Jonathan vội đi lấy đồ uống. Chúng tôi ngồi xuống trong phòng khách.

“Căn hộ đẹp lắm,” Erich nói.

“Một cái ổ lợn thì có,” tôi trả lời. “Dù sao cũng cảm ơn lời khen của anh. Anh không phải bước qua xác chết nào trong hành lang đấy chứ?”

“Ôi, không,” anh ta nói. “Không. Sao chị lại hỏi thế? Chuyện đó từng xảy ra ở đây à?”

Tôi không biết liệu anh ta thấy ghê sợ hay thích thú trước ý nghĩ về những kẻ giết người trong hành lang. Anh ta có một giọng nói nhiệt tình, khó hiểu.

“Gần đây thì không,” tôi nói. “Mà anh là diễn viên à?”

“Vâng. Ừm, tôi cũng không biết nữa. Gần đây tôi chỉ là một nhân viên pha chế rượu nói. Chị làm nghề gì?”

Anh ta ngồi trên cái ghế bành mà tôi đã kiếm được ở đại lộ Một. Một cái ghế lưng xòe cũ khổng lồ bọc vải thêu kim tuyến màu xanh lá. Anh ta ngồi như thể bị ai đó chỉ định là phải chiếm ít diện tích nhất có thể, chân bắt tréo và tay chắp trên đùi.

“Tôi bán mấy thứ đồ rẻ tiền ấy mà,” tôi nói. “Tôi làm khuyên tai từ những món đồ phế thải.”

Anh ta gật đầu. “Và chị có thể sống được với nghề đó?” Anh ta hỏi.

“Trong chừng mực nào đó,” tôi đáp.

Tôi không bao giờ kể với những người lạ về khoản tiền gửi ngân hàng của tôi. Tôi thấy mình quá vô dụng và hư hỏng khi có một khoản thu nhập không làm mà có trong khi mọi người xung quanh tôi đang phải vật lộn mưu sinh để trả tiền thuê nhà. Tôi luôn có việc làm nhưng không phải những công việc nặng nhọc, vất vả mà người ta chấp nhận để có thể trang trải tất cả các khoản chi tiêu.

Giờ đây tôi mơ hồ cảm thấy rằng tôi đã để lộ một điều gì đó đáng trách. Erich có thể là một gián điệp của CIA. Một mật vụ không cần ngụy trang và rõ ràng đến mức khiến người ta thốt ra những mánh khóe lừa đảo đê tiện vì lúng túng.

Jonathan mang đồ uống đến. “Vì sự kết thúc của một điều bí ẩn,” tôi nói, và chúng tôi cùng nâng ly uống mừng điều đó.

“Anh có, ừm, thích loại nhạc đặc biệt nào không?” Bobby hỏi.

Erich nháy mắt với anh. “Tôi yêu âm nhạc,” anh ta nói. “Tôi thích tất cả các loại nhạc.”

“Tôi đi mở nhạc đây,” Bobby vừa nói vừa đứng dậy. “Anh có, ừm, muốn nghe loại nào đặc biệt không?”

“Để tôi xem các bạn có gì nào,” Erich nói. Và với vẻ duyên dáng không ngờ, anh ta nhổm dậy khỏi cái ghế vô chủ và theo Bobby đến bên máy cassette.

Lúc này Jonathan và tôi mới có cơ hội giao tiếp bằng mắt với nhau. Cậu mấp máy môi nhưng không phát ra tiếng. “Em đã bảo rồi.”

Bobby ngồi xổm trước những cái giá đựng băng cassette.

“Gần như loại nào chúng tôi cũng có một ít,” anh nói. “Chúng tôi gần như, anh biết đấy, có tất cả mọi thể loại.”

“Anh có Coltrane này,” Erich nói. “Ôi, xem này, anh có cả the Doors nữa.”

“Anh thích the Doors à?” Bobby hỏi.

“hồi còn nhỏ tôi đã muốn được trở thành Jim Morrison[56] đấy,” Erich nói. “Tôi thường bắt chước những động tác của anh ấy ở sân sau. Ngày nào tôi cũng tập luyện và lẩm nhẩm hát theo. Nhưng rồi tôi nhận ra rằng tôi thiếu vài phương tiện cơ bản.”

[56] Jim Morrison (1943-1971): ca sĩ, nhạc sĩ người Mỹ, được biết đến nhiều nhất với vai trò ca sĩ chính của ban nhạc rock nổi tiếng của Mỹ là the Doors.

Anh ta cười, giống như một luồng khí bất ngờ phun ra.

“Vậy ta sẽ mở băng của anh ta luôn,” Bobby nói, và nhét cuốn băng của the Doors vào máy.

“Anh có thích Bob Dylan không?” Anh hỏi Erich.

“Ôi, chắc chắn rồi. Tôi cũng muốn trở thành Bob Dylan nữa đấy.”

“Tôi đã mang theo vài đĩa hát từ Ohio,” Bobby nói. “Tôi có vài cái, anh biết đấy, khá hiếm. Anh thích Hendrix không?”

“Tôi rất thích Hendrix. Anh ta là, anh biết đấy, nghệ sĩ vĩ đại nhất.”

“Tôi có thể kiếm được băng cassette của của vài đĩa nhạc. Nhưng có mấy cái quá hiếm. Anh có muốn xem chúng không?”

“Có. Có chứ. Rất muốn.”

“Nhưng chúng ta không thể nghe chúng được,” Bobby nói. “Chúng tôi chưa có máy quay đĩa. Chúng tôi phải mua một cái thôi. Dù chúng sắp, anh biết đấy, lỗi thời rồi.”

“Tôi có một cái máy quay đĩa đấy,” Erich nói. “Nếu anh muốn, thi thoảng, anh có thể đến và mở đĩa của anh ở nhà tôi. Nếu anh muốn.”

“Ôi, tuyệt quá. Sẽ rất tuyệt đấy. Đến đây nào, tôi cất những cái đĩa trong phòng của Clare và tôi.”

Erich nói với Jonathan và tôi: “Hai người thứ lỗi cho chúng tôi một phút nhé?” Và tôi chợt thấy anh ta giống như một đứa trẻ lên tám hoặc chín: lễ phép và quá hăng hái, hay khóc nhè, một bí ẩn đối với cha mẹ anh ta.

“Dĩ nhiên rồi,” tôi nói. Sau khi họ đi khuất tôi nói nhỏ với Jonathan: “Chà, hai cậu bé đó có vẻ hợp nhau đấy chứ.”

Cậu lắc đầu: “Em đã bảo chị đây sẽ là một thảm họa mà. Chị đâu có nghe em.”

“Vớ vẩn. Thảm họa thảm hiếc gì. Bobby thích anh ta mà.”

“Và chị sẽ nghĩ anh ta là một kẻ ngớ ngẩn và chán ngắt.”

“Jonathan. Tôi mới biết anh ta chừng năm phút thôi.”

“Năm phút là đủ. Chị phải ngủ với anh ta thì mới hiểu được anh ta hơn nữa.”

“Tôi không hiểu sao cậu vẫn hẹn hò với anh ta bao năm qua nếu cậu không thích anh ta lắm,” tôi nói.

“Tình dục,” Jonathan nói. “Và sự điên rồ của em. Ôi, em nghĩ em thích anh ta nhưng không phải vì yêu đương. Em chưa bao giờ muốn anh ta dính dáng đến những người khác trong cuộc đời em, và em đã đúng về điều đó.”

“Cậu là một người rất lạ lùng.”

“Chẳng lẽ em còn không biết sao,” cậu nói.

Khi Bobby và Erich quay lại, tôi gợi ý rằng chúng tôi nên mang đồ uống lên nóc nhà để ngắm hoàng hôn. Điều quan trọng là phải giữ cho cuộc vui tối nay được tiếp tục, tôi hậm chí là cưỡng ép nếu cần thiết. Đó là một buổi tối cuối tháng Ba ấm áp kì lạ. Đó là kiểu thời tiết gợi cho người ta nghĩ đến một mùa xuân đến sớm hay những tác động của một vụ thử hạt nhân.

Jonathan hào hứng đồng ý, Bobby và Erich thì ít hứng thú hơn. Tôi biết họ đang nghĩ gì. Nếu chúng tôi leo lên nóc nhà, họ sẽ lỡ mất bài tiếp theo của đĩa Strange days.

“Các chàng trai, chúng ta có thể mở lại nhạc khi chúng ta trở xuống mà,” tôi nói và ngạc nhiên khi thấy giọng mình nghe giống như giọng của một bà mẹ đến thế.

Chúng tôi leo cầu thang lên nóc nhà, một khoảng sân thượng bằng phẳng trải nhựa đường, bao quanh bởi trán tường bằng bê tông có hoa văn. Mặt trời màu cam lơ lửng phía chân trời New Jersey. Bóng của những chiếc ăng ten ti vi đan vào nhau rối rắm, kì cục. Những ô cửa sổ của các tòa nhà cao tầng thuộc khu dân cư ánh lên màu hổ phách và màu đồng thiếc. Một đám mây hồng mập mạp, cuồn cuộn và xếp nếp như ngà voi được khảm, lững lờ đón lấy ánh nắng cuối cùng tỏa xuống Brooklyn. Những tấm rèm có diềm xếp nếp tung bay và tiếng nhạc salsa thoát ra qua một cửa sổ để ngỏ phía bên kia ngõ. Chúng tôi đứng quay mặt về phía tây, kéo theo những chiếc bóng dài đến sáu mét.

“Đẹp quá,” Jonathan nói. “Chỉ đến khi ta nghĩ rằng ta sẽ chuyển về miền quê, thành phố mới làm được một điều như thế này.”

“Tôi rất thích nóc nhà,” tôi nói. Một lần nữa tôi lại ngạc nhiên trước giọng nói của mình. Tôi đã trở thành một bà chủ nhà như thế này từ khi nào vậy?

“Ở khu nhà tôi các bạn sẽ không thể nghe thấy loại nhạc này,” Erich nói. “Không bao giờ có loại nhạc Mexico này, không hề.”

“Tôi cũng hơi thích nó đấy,” Bobby nói.

“Tôi cũng thế,” Erich đáp.

Bobby ngoáy hông theo điệu nhạc, và chẳng mấy chốc anh đã bắt đầu nhảy nhót. Bình thường, khi thấy anh vui vẻ, hơi lúng túng trong ngày, bạn có thể quên mất rằng anh là người nhảy giỏi như thế nào. Đó là một trong những điều đáng ngạc nhiên ở anh. Khi một nốt nhạc vang lên, anh có thể làm những động tác thật duyên dáng và hăng hái. Có vẻ như anh đã trút được vài gánh nặng từ bên trong. Một hồn ma của người sống, toàn xương và sụn, sẵn sàng biến mất trước một tiếng guitar bập bùng hay tiếng còi pim pim đầu tiên. Trên đĩa hát, một giọng ca nữ được đệm bởi tiếng trống lắc và tiếng guitar đang hát hết mình bằng tiếng Tây Ban Nha, với niềm đam mê giản đơn không giấu giếm. Bobby, người thích tất cả các loại nhạc, dù hay hay dở, đang nhảy nhót khi mặt trời dần dần khuất dạng.

Erich liếc nhìn Jonathan và tôi. Tôi biết anh ta đang nghĩ gì. Tôi nói: “Nhảy đi nào.” Và với nụ cười ngượng nghịu, anh ta bắt đầu nhảy cùng Bobby.

Anh ta không nhảy giỏi như Bobby, nhưng anh ta có thể di chuyển bàn chân nhịp nhàng nghe tiếng nhạc và làm những động tác uốn éo nhẹ nhàng bằng đôi cánh tay. Bobby quay sang phía anh ta khi bầu trời vuột mất mảng màu xanh cuối cùng và một ngôi sao mờ mờ bắt đầu xuất hiện trên vòm trời phía đông loang sắc tím.

Jonathan và tôi đứng ngắm họ, tay vẫn cầm đồ uống của mình. Jonathan nói: “Em không muốn phải đứng ngoài lề cuộc vui này. Chị có nghĩ thế không?”

“Không,” tôi nói. “Hoàn toàn không.”

Jonathan đặt ly rượu xuống lan can và bắt đầu nhảy cùng Bobby và Erich. Cậu là một vũ công thanh lịch dù hơi kiềm chế. Cậu chỉ di chuyển trong một khoảng không gian nhỏ hẹp, không bao giờ vượt quá những giới hạn xác định nào đó. Tôi ngắm nhìn họ. Trong một thoáng – chỉ một thoáng – tôi thấy thế giới như đang trôi xa dần. Tôi thấy mình đang đứng trong ánh hoàng hôn, đang già đi trong chiếc váy màu tía nhạt mua ở cửa hàng đồ cũ khi một nhóm thanh niên đang cùng nhau nhảy múa. Nó khác xa một khoảnh khắc bình thường. Tuy nhiên tôi lại cảm thấy như thế trước đây mình cũng đã từng sống trong khoảnh khắc đó.

Để mang mình trở lại với cuộc sống thực tại, tôi bắt đầu nhảy. Tôi còn có thể làm gì khác? Hai gót giày tôi dính vào lớp nhựa đường, tạo nên những âm thanh pốc pốc khe khẽ cho đến khi tôi tháo chúng ra và nhảy bằng đôi chân đi bít tất dài.

Jonathan nói: “Vâng, và bây giờ là bài hát trên nóc nhà của vở nhạc kịch Câu chuyện miền Tây. Các bạn đã sẵn sàng chưa?”

“Câu đầu tiên là thế nào nhỉ?” Tôi hỏi.

“Xem nào. Tôi thích sống ở Mỹ.”

“Tôi thấy thật tuyệt khi sống ở Mỹ.”

“Mọi thứ đều tự do ở Mỹ.”

“Chỉ với một khoản phí nhỏ ở Mỹ.”

Chúng tôi hò reo và vỗ tay. Khi bài hát đó kết thúc, tôi thực hiện một cú nhào lộn ba lần liên tiếp một cách hoàn hảo. Tôi đã không làm thế ít nhất là mười lăm năm rồi. Tôi cảm thấy chân mình thẳng băng như những con dao chém vào không khí.

“Tôi từng muốn được làm thành viên của đội cổ vũ đấy,” tôi bảo họ. “Trước khi tôi quyết định sa xuống địa ngục.”

Điều gì đó đã giữ chân chúng tôi trên đó. Tôi nhớ đến một cảm giác từ thời thơ ấu, khi một trò chơi đang đến lúc sôi nổi. Bobby đã cởi khuy áo, và hiện chiếc áo đang phình ra trong gió. Tất cả chúng tôi đều nhảy múa thật hăng hái, như những thành viên của một đội hợp xướng Broadway, với những cú nhảy và xoay mình. Khi tiếng nhạc salsa ngừng lại, chúng tôi bắt đầu hát. Chúng tôi hát hết những đoạn mà mình có thể nhớ trong bài The Jets song và bài Officer Krupke. Chúng tôi hát tất cả các bài từ vở Tóc.

Bobby nói: “Anh trai tôi từng mở đĩa đó mười lần một ngày. Cho đến khi mẹ tôi phải vứt nó đi. Anh ấy lại kiếm được một cái đĩa khác. Vì thế mẹ tôi phải ném cả cái giàn âm thanh đi.”

“Một người anh em họ của tôi từng đóng trong vở Tóc,” tôi nói. “Vài năm trước, ở một nhà hàng có sân khấu kịch tại Florida.”

Chúng tôi hát vài bài của vở Nam Thái Bình Dương, và tất cả các bài của vở Cô nàng đỏng đảnh mà chúng tôi có thể nghĩ tới. Chúng tôi nhảy theo giọng hát của chúng tôi. Khi chúng tôi không thể nhảy tiếp được nữa, chúng tôi ngồi xuống lớp nhựa đường ấm áp, hít lấy mùi đất ẩm trộn lẫn với các chất hóa học khác. Chúng tôi vẫn hát. Bất chợt, khi chúng tôi đang hát bài Get me to the church on time, tôi nhìn sang Jonathan và bắt gặp cậu đang chăm chăm nhìn tôi với vẻ mà tôi chưa từng thấy trước đây. Đó là một cái nhìn trừng trừng, đau đáu, không rõ là tức giận hay âu sầu. Khi mắt chúng tôi giao nhau, cậu vội ngước lên trời. Chúng tôi hát bài I heard it through the grapevine và Norwegian wood. Bobby và Jonathan cùng nhau hát vài bài của Laura Nyro, cho đến khi tôi bắt họ quay lại với những bài mà tất cả chúng tôi đều thuộc. Chúng tôi ngồi hát trên cái nóc nhà đó cho đến khi bóng tối đích thực ập đến, và thành phố tỏa ra quanh chúng tôi những ánh đèn của mười triệu bữa tiệc.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,359
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 2-12


BOBBY

Sau hôm chúng tôi cùng nhau nhảy múa trên nóc nhà, Jonathan đột ngột biến mất. Cậu chẳng để lại gì ngoài vài từ trên một mảnh giấy đặt ở bàn, được chặn dưới cái máy xay hạt tiêu. “B. và C. thân mến, chúc hai người hạnh phúc bên nhau. Nghe có vẻ hơi sến, đúng không? Đại khái là, tôi đang bắt đầu lại cuộc đời ở một nơi nào đó, thực sự cũng không biết là ở đâu nữa. Thứ đồ nào của tôi mà hai người không dùng được thì cứ vứt đi. Thân Yêu, J.”

Clare và tôi đọc đi đọc lại những dòng chữ đó, như thể chúng là mật mã cho một thông điệp khác dễ hiểu hơn. Nàng gọi điện đến tòa soạn và biết được rằng cậu thôi việc sáng hôm đó, không hề báo trước. Cậu đã bỏ đi, không để lại địa chỉ của nơi cậu sắp đến. Phòng cậu vẫn mang màu trắng và đượm vẻ trống vắng. Theo những gì chúng tôi nhận thấy, chỉ vài bộ quần áo của cậu biến mất.

“Chết tiệt,” Clare nói. “Tên khốn kiếp đó. Sao cậu ta có thể làm thế?”

“Anh không biết,” tôi nói. “Anh nghĩ cậu ấy chỉ làm vậy thôi.”

Clare giận dữ còn tôi trở nên đờ đẫn. Sự ra đi của người khác thường đem lại cho tôi cảm giác thẫn thờ - tôi thấy đầu óc mình cứ u mê. Khi ai đó bỏ đi, tôi chẳng còn biết gì nữa. Trong tôi ngập tràn cảm giác bối rối khó chịu, nó mạnh mẽ hệt như tác dụng của ma túy. Đó là một kiểu trì trệ, tôi nghĩ vậy. Một kết nối nơ-ron bị thiếu. Một người vốn dĩ từng ở đây đã không còn ở đây nữa. Có vẻ tôi không thể hiểu nổi.

“Jonathan, đồ đê tiện,” Clare nói. “Ngay khi mọi chuyện đang bắt đầu tiến triển.” Nàng vo viên tờ giấy và ném vào thùng rác, rồi sau đó lại bới nó lên, như thể nàng nghĩ nàng cần phải giữ nó lại làm bằng chứng.

“Cậu ấy sẽ quay lại?” Tôi nói. Đó là điều mà tôi định bảo nàng, nhưng không ngờ lại diễn đạt nó như một câu hỏi.

“Bọn đàn ông làm sao thế nhỉ?” Clare nói. Nàng đứng trên thảm phòng khách, tay khoanh trước ngực và hàm nghiến chặt lại. Tôi thấy rằng ở kiếp trước, có thể nàng đã là một giáo viên, một phụ nữ lỡ thì lập dị, lúc đầu khiến bạn thấy kì quặc nhưng cuối cùng lại làm thay đổi cuộc đời bạn. Tôi không đáp. Tôi đang ngồi trên cái ghế bọc vải nhung trơn mà chúng tôi đã tha về nhà từ góc phố Năm và Mười tám. Tay tôi kẹp chặt giữa đùi. “Thật sự đấy,” nàng nói. “Em muốn biết. Anh có biết không? Trong đầu họ nghĩ gì vậy? Họ muốn gì?”

Tôi nhún vai. Đó không phải là câu hỏi mà tôi có thể trả lời, dù có vẻ nàng ngỡ là tôi làm được. Có lẽ tôi là học sinh ngu dốt nhất trong lớp của nàng, không thể trả lời ngay cả những câu dễ nhất mà nàng đặt ra cho tôi.

“Em đi ra ngoài đây,” nàng nói. Nàng khoác áo khoác lên vai, đó là cái áo da bạc màu với biểu tượng hòa bình trên lưng. Đôi khuyên tai của nàng kêu leng keng và lấp lánh. Nàng xuống cầu thang với tiếng giày lộp cộp đầy quyết tâm khiến tôi nghĩ rằng trong vòng một giờ nữa nàng sẽ kéo tai Jonathan lôi về. Nàng sẽ kiểm tra các nhà ga và sân bay, chặn lại các phương tiện giao thông trên cầu George Washington. Khôn gai có thể thoát khỏi nàng khi nàng to lớn và đang cáu giận như thế. Nhưng chưa đầy một giờ sau, nàng quay về một mình. Tôi hầu như vẫn bất động. Tôi đã dành cả tiếng đồng hồ ngồi trong phòng khách, để mặc thời gian đằng đẵng trôi qua. Khi Clare quay về, nàng dừng lại một lúc, nhìn tôi bối rối.

“Em có tìm thấy cậu ấy không?” Tôi hỏi.

“Dĩ nhiên là em không tìm thấy.”

Nàng đùng đùng bước đến bên tôi. “Anh có yêu em không?” Nàng hỏi.

“Anh không biết,” tôi nói. Tất cả những gì tôi có thể nghĩ đến là nói ra sự thật.

“Em cũng không biết là em có yêu anh không nữa,” nàng nói. Nàng cởi áo tôi mạnh đến mức làm rách toạc những đường chỉ. Chúng tôi làm tình trên sàn phòng khách. Nàng cắn vào cổ tôi và nụ hoa tôi, rứt tóc tôi. Nàng để lại những vệt máu chạy dọc theo lưng và mông tôi.

Jonathan đã rút hết tiền khỏi ngân hàng và mua một tấm vé đi đâu đó. Clare và tôi mất vài tuần mới thôi mong ngóng tin tức của cậu.

“Em không hiểu nổi,” nàng nói. “Có vẻ đây không phải là sự thật, đây chỉ là vài kiểu thông điệp nào đó. Anh biết Jonathan có thể là người như thế nào mà.”

“Anh biết,” tôi nói. Nhưng cậu thực sự đã bỏ đi. Cô Alice và chú Ned không thể nói gì với chúng tôi, và tất cả những gì chúng tôi biết về Erich là cái tên của anh ta và việc anh ta đang làm ở một nhà hàng nào đó. Sau bữa tối hôm đó, chúng tôi đã chúc mừng nhau vì khả năng vui chơi của mình. Chúng tôi cùng nhau hứa hẹn sẽ mau chóng làm một điều náo loạn tương tự như thế. Chúng tôi không nghĩ rằng mình cần gì đó đặc biệt để liên lạc với nhau.

Jonathan dường như đã rơi xuống một cái cửa bẫy. Lần cuối chúng tôi thấy cậu là lúc cậu đang rửa bát đĩa, hớp nốt chỗ rượu Scotch cuối cùng, và hôn chúc hai chúng tôi ngủ ngon. Sáng hôm sau cậu đi làm từ sớm. Và khi Clare cùng tôi về nhà tối hôm đó, chúng tôi phát hiện ra mảnh giấy.

“Tên khốn ngu ngốc,” Clare nói. “Cậu ta làm sao thế không biết.”

“Cậu ấy là mẫu người đa cảm,” tôi nói. “Cậu ấy không thể đừng được.”

Tôi chờ đợi những cảm giác thực sự của mình ập đến. Tôi chờ đợi tất cả những phản ứng thích hợp: thịnh nộ và thất vọng, cảm giác bị phản bội. Nhưng hàng tuần trôi qua mà sự trống rỗng vẫn cứ bám lấy tôi. Chẳng có gì xảy ra cả, chẳng có gì hết. Tôi cảm thấy dường như tôi đã quay trở lại với cuộc sống kiểu Cleveland trước đây của mình, một cuộc sống được tạo nên từ những chi tiết. Khi ở chỗ làm, tôi cắt nhỏ những tảng pho mát và thái nấm. Lúc ở nhà, tôi thường xem ti vi, ngắm ánh nắng thay đổi bên ngoài cửa sổ, hay ngắm nhìn thời gian trôi qua khi mở những đĩa hát. Tôi ngạc nhiên khi thấy rằng New York có thể bình thường và yên ả như Cleveland. Nó có thể mang vẻ hoang phế tương tự như thế. Dù chúng ta vẫn thường nghĩ rằng những người đã khuất chỉ sống trong quá khứ, nhưng giờ đây tôi tin rằng họ vẫn tồn tại trong một hiện tại bất tận. Không có hi vọng về những điều tốt đẹp hơn trong tương lai. Không có ký ức về mỗi khoảnh khắc đã xảy ra trong quá khứ.

Không có Jonathan, tôi tự ám ảnh cuộc sống của mình. Tôi không thể giao tiếp với ai. Tôi bước qua từng thời khắc như một vong hồn đang thơ thẩn đi dạo với vẻ ngạc nhiên qua những căn phòng mà anh ta từng khiêu vũ, khóc lóc và làm tình, những căn phòng mà hồi còn sống anh ta đã thờ ơ.

Clare đã vượt qua được một loạt những cảm xúc quen thuộc hơn, và dần bình tâm lại. Nàng đã tự dạy mình chấp nhận những bí ẩn và sự ích kỉ đến mức khó chịu của Jonathan. Nàng đã đề ra một nguyên tắc: không bao giờ tin tưởng ai dưới ba mươi tuổi. “Họ không thể sống có trách nhiệm, ngay cả khi đã ở tuổi hai mươi tám,” nàng nói. “Ở độ tuổi đó, ta vẫn còn đang khám phá bản thân mình. Em thực sự mong muốn những điều tốt đẹp nhất sẽ đến với Jonathan. Em hi vọng một lúc nào đó, sau khi đã có được một tính cách ổn định, cậu ấy sẽ gọi điện cho em.”

Nàng đã ghét bỏ tôi trong một thời gian vì tôi đang ở độ tuổi hai mươi tám. Sau lần làm tình dữ dội trên sàn phòng khách đó, nàng đã thôi không còn ngủ với tôi nữa. Nàng bảo tôi đến ngủ ở giường của Jonathan, để nàng sẽ không cảm thấy thiếu vắng nếu một ngày nào đó tôi cũng đột nhiên biến mất. Và rồi, sau gần một tháng, nàng trườn lên giường với tôi lúc nửa đêm. “Em thực sự là một con đê tiện đúng không?” Nàng thì thầm. “Hãy tha lỗi cho em, cưng nhé. Chỉ vì em không thể chịu được cảnh mình bị bỏ rơi. Anh nghĩ thế nào? Anh có nghĩ rằng tự bọn mình có thể cùng nhau xoay xở được không, chỉ hai người chúng mình thôi ấy?”

Tôi bảo nàng rằng tôi nghĩ có lẽ chúng tôi có thể làm được. Theo như những gì chúng tôi biết, chúng tôi cũng phần nào yêu nhau. Tôi thích làm tình với nàng, tôi thích hơi ấm và sự bất ngờ toát ra từ thân thể nàng. Tôi thích vệt lông hoe vàng nhỏ xíu trải từ rốn đến chỗ kín của nàng, và tôi thích những nếp nhăn mà mông nàng tạo ra khi nó gặp đùi nàng. Đêm đó chúng tôi lại làm tình, lần đầu tiên sau một tháng ngủ riêng, và dù chúng tôi đã thực hiện tất cả các động tác, nhưng điểm quan trọng nhất lại không đạt được. Tôi đã ngờ rằng nó sẽ trở nên như thế. Giờ đây tình dục là một chuỗi những chi tiết, với sự bùng nổ ngọt ngào vào lúc cuối cùng. Đó là một nét đặc trưng khác của ngày thường.

Sau đó, chúng tôi lại ngủ chung giường. Chúng tôi làm tình một hay hai lần một tuần. Nhưng Jonathan đã mang theo một thứ gì đó từ bầu không khí khi cậu bỏ đi – một điều tiếp theo mãi không xảy ra. Clare và tôi bị mắc kẹt ở hiện tại. Theo như những gì chúng tôi biết lúc này, đó là nơi thích hợp dành cho chúng tôi. Nhưng khi điều đó xảy ra – khi chúng tôi mất hết ý thức về quá khứ và tương lai – chúng tôi bắt đầu buông xuôi. Clare cũng cảm thấy thế. Nàng gọi tôi là “anh yêu” và “cưng” nhiều hơn. Nàng nhìn tôi với vẻ trìu mến dịu dàng hoàn toàn đối lập với khao khát. Tôi bắt đầu nhận ra những đường gân cổ của nàng cứ nhảy nhót khi nàng nói. Tôi cũng để ý hơn đến việc nàng cứ vách những bức tranh vô hình trên mặt bàn khi nói chuyện, và mascara đôi khi bị vón cục dày cộp trên lông mi nàng.

Chúng tôi vẫn làm những việc quen thuộc. Chúng tôi xem ti vi và đi xem phim, mua quần áo cũ và đi dạo qua những khu vực lân cận đang ngày một thay đổi. Đôi khi chúng tôi đến những câu lạc bộ và các bữa tiệc, nhưng những dịp ở riêng bên nhau thì cứ trôi xa dần. Chúng tôi không biết phải nói gì với nhau. Tôi không phải là người hay chuyện. Tôi tiếp thu mọi thứ, nhưng không thể cất chúng thành lời để truyền đạt lại. Trước đây Jonathan đã luôn nói thay cho cả hai chúng tôi. Còn bây giờ, những đợt im lặng cứ trải dài mãi. Không có ai ngoài Clare và tôi trở về nhà. Chúng tôi không còn biết bàn tán về ai, lo lắng cho hai, trừ hai người chúng tôi với nhau.

Tôi nghĩ đến bố mẹ mình. Tôi nghĩ đến cô Alice và chú Ned.

Đây là tình yêu giữa một người đàn ông và một người đàn bà. Tôi đã có thêm nhiều hiểu biết về nó trong vốn kiến thức liên tục được tích lũy của mình.

Hè qua, thu tới. Đến tận cuối tháng Mười một tôi mới gặp Jonathan, và cũng chỉ là tình cờ. Tôi đến gặp bác sĩ trị liệu ở khu Upper West Side để chữa cái lưng đau do tôi bê một thùng sâm banh ở chỗ làm. Khu Upper West Side giống như một thành phố khác – vì chỗ chúng tôi sống có vẻ sầm uất hơn. Khi đi trên quãng đường từ phía tây của công viên Trung tâm đến bến tàu điện ngầm, tôi trố mắt ngơ ngẩn, như một du khách, nhìn ngắm mùa thu vàng đang trải ra trong công viên Trung tâm và dõi theo những con chó nhỏ xinh xắn đang lon ton chạy theo đôi giày bóng loáng của những người chủ. Tôi quá đắm chìm trong vẻ khác biệt của nơi này đến nỗi tôi gần như đi qua Jonathan.

Cậu đang dựa vào sườn gạch của một tòa chung cư, đọc tờ The Village Voice. Tôi nhìn chằm chằm vào cậu như thể cậu là một đặc điểm của nơi này. Cậu giống như từ trong một bức ảnh bước ra cuộc đời thực, giống như khi bạn trông thấy những chi tiết của Paris hiện ra khi bạn dạo qua nó trong một chuyến du lịch trọn gói ba ngày.

Tôi nói: “Jonathan à?”

Cậu ngẩng lên, và gọi tên tôi.

“Jonathan, mình... có phải cậu không đấy?”

Cậu gật đầu. “Mình đây. Mình về thành phố được vài tuần rồi.”

“Mình, ôi, Chúa ơi. Mình không biết nói gì cả. Ừm, cậu ổn chứ?”

Tôi bối rối bởi sự xuất hiện trở lại của cậu giống như khi cậu bỏ đi. Một lần nữa, cơ thể tôi ngừng hoạt động và tôi trôi nổi trong không gian.

“Mình vẫn ổn, Bobby, mình không có ý định gặp lại cậu như thế này.”

“Ừ. Ý mình là, cậu có thể nói cho mình biết chuyện gì đã xảy ra không?”

Cậu thở dài. “Mình xin lỗi vì cái cách mà mình bỏ đi. Nó hơi kì cục, đúng không? Mình chỉ... mình biết mình sẽ không thể làm cách nào khác được. Mình sẽ chỉ quanh quẩn ở đó làm một ông chú cho đến khi cậu và Clare chuyển đi và bỏ lại một mình mình trong căn hộ kinh khủng đó. Clare thế nào?”

“Cô ấy vẫn ổn. Cô ấy, ờ, hầu như vẫn vậy. Mình nghĩ bọn mình đều không có gì thay đổi mấy.”

“Nghe giọng cậu cứ như đó là một định mệnh khủng khiếp vậy,” cậu nói.

Tôi nhún vai, và cậu lại gật đầu. Cậu quen thuộc đến mức khiến tôi khó lòng nhìn kĩ. Khuôn mặt và quần áo của cậu cứ nhòe nhòe. Có thể tôi đã băng qua một ranh giới tinh thần và thực sự chỉ đang nói chuyện với ai đó giống Jonathan mà thôi. New York đầy rẫy những người bị ảnh hưởng bởi những mất mát của riêng họ, và cho rằng họ có quen biết với bất cứ ai trên đường phố.

“Cậu muốn đi uống hay làm gì đó không?” Cậu hỏi.

“Ừ,” tôi nói. “Chắc chắn rồi.”

Chúng tôi đi đến quán đầu tiên mà chúng tôi thấy, một quán bar Ireland phục vụ món thịt bò muối trên một chiếc bàn giữ nhiệt. Đó là phiên bản phía bắc của những quán bar ở Village mà chúng tôi vẫn thường đến vào những buổi tối sắm vai nhà Henderson. Những vật trang trí làm bằng giấy kếp trong lễ Giáng sinh đã trở thành vật cố định ở đó quanh năm, và ti vi đang chiếu một bộ phim dài tập quá tươi sáng cho một phụ nữ lớn tuổi đơn độc đang ngồi ở quầy bar, sẵn sàng quát lên với bất cứ ai làm ảnh hưởng đến bà.

Jonathan gọi một ly “Dewar’s có đá,” còn tôi uống bia. Cậu cụng nhẹ ly cậu vào ly tôi. “Cậu có nghĩ là sẽ còn gặp lại mình không?” Cậu hỏi.

“Mình không biết. Làm sao mình biết được?”

“Ừ. Làm sao cậu biết được.”

“Cậu đã đi đâu thế?” Tôi hỏi cậu. Tôi vẫn chưa lấy lại được ý thức về thực tại. Tôi thoáng nghĩ đến việc nói lời xin lỗi, rồi đến bên chiếc điện thoại công cộng ở đằng sau và gọi cho cảnh sát. Nhưng tôi sẽ nói gì với họ?

“Chà, tài khoản ngân hàng của mình không có nhiều tiền lắm. Ý mình là, nếu mình có hàng nghìn đô, có lẽ mình đã đi Florence hay Tokyo hay đâu đó. Nhưng với những gì mình có, mình chỉ đến được California. Cậu có nhớ Donna Lee, bạn đại học của mình không? Cô ấy hiện sống ở San Francisco, với một phụ nữ tên là Cristina. Mình đã đến đó và ngủ trên sofa nhà họ một thời gian, và cố dựng lên một cuộc sống kiểu San Francisco cho mình.”

Cậu nhấp ly rượu vào mút một viên đá ngay khi tôi biết cậu sẽ làm thế. Cậu vẫn đeo chiếc nhẫn Navajo bằng bạc mà cậu đã mua ở Cleveland hồi chúng tôi mười lăm tuổi. Những chi tiết đó quay cuồng và náo động trong đầu tôi.

“Mình thực sự không, cậu biết đấy, hiểu hết chuyện này,” tôi bảo cậu. “Mình vẫn chưa hiểu gì từ lúc cậu bỏ lại mảnh giấy đó. Bọn mình đã rất vui vẻ, bữa tối với Erich rất thú vị, thế rồi cậu bỏ đi. Mình chẳng hiểu gì hết.”

“Ừm, thực sự thì chính mình cũng không hiểu nổi nữa. Cậu biết đấy, tháng trước mình đã đón sinh nhật lần thứ hai mươi chín. Và mình có cảm giác như trong vòng năm phút nữa mình sẽ lại bước tiếp sang tuổi ba mươi.”

“Ừm, chúc mừng sinh nhật cậu.”

“Cậu cũng sắp hai mươi chín rồi, chỉ vài tuần nữa thôi.”

“Đúng thế,” tôi nói.

“Ừm. Thôi, mình phải đi rồi. Họ vẫn đang cân nhắc xem liệu có nên cho mình quay lại tòa soạn không, mình định nửa tiếng nữa sẽ đến gặp Fred và Georgeanne. Có vẻ họ vẫn chưa quyết định xem liệu mình là một thiên tài lãng mạn đa cảm hay đơn giản chỉ là vô trách nhiệm. Để mình trả tiền đồ uống cho.”

Cậu ném một đống tiền lên mặt bàn. Tôi giơ tay ra và đặt tay lên tay cậu.

“Cậu có muốn ghé qua nhà tối nay không?” Tôi hỏi. “Clare sẽ muốn gặp cậu đấy.”

Cậu nhìn vào hai bàn tay của chúng tôi. “Không đâu, Bobby ạ,” cậu nói. “Mình không muốn ghé qua. Đây chỉ là một sự tình cờ thôi. Ý mình là, cậu chưa bao giờ lên mạn phía bắc này. Còn mình cho rằng có lẽ mình đang ở Michigan.”

“Cậu không muốn gặp bọn mình à?”

Giờ thì cậu nhìn thẳng vào mặt tôi. Cậu rút tay ra khỏi tay tôi.

“Bobby, sự thật là, có vẻ mình đã yêu cả hai người bọn cậu. Nghe có vẻ lạ lùng, mình biết. Mình không bao giờ muốn một điều như thế này xảy ra. Ý mình là... Ừm. Đó không phải là điều mà cậu sẵn sàng đón nhận. Có vẻ mình đã yêu cả cậu lẫn Clare. Mình đã nhận ra điều đó vào cái đêm ở trên nóc nhà ấy. Mình không muốn hẹn hò với Erich, hay với ai khác. Chỉ là vô vọng thôi. Từ khi mình biết cậu, có vẻ mình không thể yêu ai khác được nữa.”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,359
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 2-13


Cậu đứng lên. “Chờ đã,” tôi bảo cậu. “Chờ chút.”

“Cho mình gửi lời hỏi thăm Clare nhé,” cậu nói. “Chừng nào mình lấy lại được tinh thần, sẽ gọi cho cậu.”

Cậu ra khỏi quán bar. Vì vẫn còn bối rối, tôi không biết phải nói hay làm gì hợp lý. Tôi để cậu bước vào buổi chiều tháng Mười một, và đến lúc tôi ra đến vỉa hè, và cậu đã đi khuất.

Cậu đã làm như cậu nói. Cậu sống một cuộc sống riêng. Dù chúng tôi cùng ở trong một thành phố, nhưng tôi chưa bao giờ gặp lại cậu lần nữa, và cậu cũng không gọi điện. Mùa thu rồi mùa đông trôi qua. Cho đến mùa xuân, cậu để lại một lời nhắn trên máy trả lời tự động của chúng tôi.

“Chào Bobby và Clare. Quả là kì cục khi nói một chuyện như thế này vào một cuốn băng. Bobby. Bố mình mất sáng nay. Mình nghĩ mình nên báo cho cậu biết.”

Theo sau giọng cậu là một tiếng lách cách và vo vo của máy móc, khi chiếc máy chuyển sang tin nhắn tiếp theo.

CLARE

Chúng tôi đang bay hai nghìn dặm để đến dự đám tang của một người đàn ông tôi chưa từng gặp. Qua cửa sổ máy bay, tôi ngắm nhìn những đám mây mập mạp đang đổ bóng xuống Texas. Texas bằng phẳng và chỉ độc một màu như một phong bì đựng tài liệu. Ở bên dưới đó, trong bất cứ ngôi nhà trại nào đã gắn mình với mặt đất màu be bất tận, có thể có người đang ngẩng lên nhìn chiếc máy bay này. Có thể người đó đang thắc mắc, như chính tôi đôi khi vẫn làm, rằng những cuộc đời thú vị giàu có trên cao kia đang bay đến với những sự kiện tiếp theo nào đó của cuộc đời họ.

“Em thực sự không muốn uống chút rượu vang à?” Bobby hỏi. Tôi lắc đầu.

“Em đang kiêng rượu một thời gian,” tôi nói. “Có lẽ cô ấy có thể mang cho em soda hay thứ gì đó.”

Bobby nghiêng người ra hiệu cho nữ tiếp viên hàng không. Luồng không khí lạnh thổi xuống từ lỗ thông gió phía trên đầu làm rối tung mái tóc đã mọc dài ra và được vuốt gel của anh. Tôi vuotso lại tóc cho anh. Rồi tôi đổi ý và lại làm rối nó.

Tôi đã mang bầu được hơn hai tháng. Tôi chưa kể với ai cả. Tôi vẫn chưa rõ mình sẽ làm gì với nó.

“Anh thực sự, ờ, rất vui khi em đi cùng anh,” anh nói.

“Ừm, em không muốn vắng mặt trong một đám tang.”

“Em biết anh đang nghĩ gì không?” Anh nói. “Anh đang nghĩ ba người chúng ta có thể thuê một chiếc ô tô và quay lại New York. Chúng ta có thể viết, em biết đấy, tham quan những cảnh đẹp của đất nước mình.”

“Em nghĩ là chúng ta có thể đấy,” tôi nói.

“Chúng ta có thể đến động Carlsbad. Chúng ta có thể ngắm hẻm núi Lớn.”

“Ừm, em luôn muốn được ngắm hẻm núi Lớn.”

“Chắc chắn rồi,” anh nói. “Chúng ta có thể thuê giày đi bộ đường dài và ba lô. Chúng ta có thể cắm trại qua đêm.”

“Bobby. Người ta không thuê những thứ như thế. Người ta sở hữu chúng. Có nhiều người thích cắm trại mà. Anh và em là mẫu người ưa thích các câu lạc bộ hơn.”

Tôi chỉ nghĩ đến việc được trông thấy hẻm núi Lớn. Chứ không phải là đi bộ trong lòng của nó.

“Em không muốn đấy thôi,” anh nói.

“Em chỉ mang theo quần áo dự đám tang,” tôi nói. “Anh có thể nhìn em đi lảo đảo trên một con đường mòn nào đó trong bộ váy đen và giày cao gót được không?”

Bobby gật đầu. Anh lấy tay vuốt lại tóc. Ánh nắng ở Texas lấp lánh bạc trên khuôn mặt vuông vức và đôi bàn tay gân guốc, thô kệch của anh. Bất chấp kiểu tóc Italia bóng lộn và chiếc khuyên tai, khuôn mặt anh vẫn ngây thơ như một cái bát rỗng. Nó vẫn là khuôn mặt của một người đàn ông tin rằng những bất đồng của con người có thể được giải quyết bởi một chuyến hành hương đến với những hiện tượng địa chất nổi tiếng.

“Chỉ là, em biết đấy, một ý kiến thôi mà,” anh nói.

“Em biết. Hãy để lúc khác.”

Anh lại gật đầu. Đứa bé dần hình thành trong tôi đang tuân theo mệnh lệnh từ gen của anh và tôi. Những móng tay nhỏ xíu đang được tạo nên trong từng khoảnh khắc trôi qua. Bobby nhấp một ngụm rượu vang. Qua cửa sổ, chúng tôi nhìn chăm chăm vào sự trống trải đang trôi qua bên dưới.

Jonathan đón chúng tôi ở sân bay. Trông cậu xọp hẳn đi, như thể không khí hay vài chất lỏng cần thiết đã rò rỉ khỏi cơ thể cậu. Tôi đã không gặp cậu gần một năm rồi. Có phải cậu vẫn luôn nhỏ bé và xanh xao như thế này không? Đám đông rám nắng, ăn mặc sáng sủa, đang đứng xung quanh cậu trong khu vực chờ. Trông cậu giống như một kẻ tị nạn với vẻ nhợt nhạt và chiếc áo phông đen đó. Một người vừa mới đến từ một nơi nghèo đói, khắc nghiệt. Khi Bobby và tôi xuống máy bay, cậu trao cho chúng tôi những cái ôm hình thức, cứng nhắc, giống cách những nhà chính trị Pháp thường làm.

“Cô Alice thế nào hả Jon?” Bobby hỏi.

“Cứng rắn lắm,” cậu nói. “Cứng rắn hơn mình.”

“Còn cậu thế nào?” Tôi hỏi.

“Kích động,” cậu điềm nhiêm nói. “Bối rối.”

Chúng tôi đến căn hộ chung cư của bố mẹ Jonathan trên chiếc xe của bố cậu, một chiếc Oldsmobile màu xanh khổng lồ. Trước đây tôi chưa bao giờ thấy Jonathan lái xe. Trông cậu vừa trẻ con vừa người lớn đằng sau vô lăng của chiếc xe lớn đó. Cậu giữ vô lăng bằng cả hai tay, như thể cậu đang lái một con tàu.

Trên đường đi, cậu kể cho chúng tôi hay cơn đau tim của bố cậu đã tấn công ông trên đường ông đến chỗ cái hòm thư như thế nào. Cậu giải thích chuyện đó thật chi tiết. Bố cậu bị hen suyễn rồi bị khí thũng. Do đó cái chết vì bị đau tim của ông có vẻ khiến mọi người cảm thấy ngỡ ngàng như thể họ thấy ông đột nhiên hoàn toàn khỏe mạnh. Bobby hỏi: “Trên đường ông từ hòm thư quay lại à?,” như thể đó là chi tiết đáng sợ nhất của chuyện này.

Tôi đeo kính râm vào và ngắm những trung tâm mua sắm đang dần trôi qua. Chúng cứ rung rinh qua màn hơi nóng. Giữa chúng là một vùng đất rộng mở, xám đỏ, rải rác xương rồng. Arizona là nơi đầu tiên tôi thấy giống hệt với những gì tôi đã hình dung về nó. Khi chúng tôi lái xe đi trên con đường cao tốc nắng chang chang, tôi thấy mình mạnh mẽ và tháo vát. Tôi, một phụ nữ lớn tuổi đeo kính râm, đã đến đây để giúp đỡ hai người đàn ông bối rối đương đầu với nỗi buồn đau của họ. Lúc đó tôi nghĩ rằng tôi sẽ bỏ Bobby và tự sinh con một mình.

“Mình đã viết cho ông một lá thư,” Jonathan nói. “Lá thư đầu tiên trong vòng ít nhất là một năm qua. Tuy nhiên mình vẫn chưa gửi nó. Nó vẫn nằm trong túi áo khoác của mình khi mình nghe tin.”

Chung cư của bố mẹ Jonathan nằm trong một tổ hợp màu bùn và trải dài, cách một trung tâm mua sắm có tên Teepee Town vài dặm. Một tấm biển bên cạnh lối vào đề dòng chữ màu xanh nhạt: “Vẫn còn các căn hộ trống.” Jonathan đỗ xe. Cậu dẫn chúng tôi đi qua hòm thư để lên lối đi trải sỏi dẫn đến một trong những tòa nhà. Nó là một tòa nhà kiểu truyền thống, được sơn màu nâu để hợp với chất liệu giống gạch sống. Tôi ngờ rằng người ta đã dùng súng phun thủy lực phun màu lên gạch sống. Tôi thắc mắc không hiểu kiểu người nào lại muốn sống ở một nơi như thế.

Bên trong căn hộ thật tối và mát mẻ. Thay vì những tấm thảm Da đỏ và đồ gốm, ở đó lại có những chiếc ghế bành, những cây dương xỉ, và những bức ảnh gia đình lồng trong khung bằng chrome. Bằng chứng duy nhất về việc có người chết là những bông hoa. Có đến nửa tá bình hoa và lọ hoa diêm dúa. Một nữ chăn chiên bằng sứ màu trắng đứng giữa hai bó hoa trên một cái bàn tròn bóng loáng, trông bình thản và đáng sợ như được làm từ xương. Trước khi chúng tôi kịp thích nghi với bóng tối trong nhà, một phụ nữ nhỏ bé với làn da rám nắng bước ra từ nơi có lẽ là căn bếp. Bà phủi phủi tay vào chiếc quần jean.

“Đứa con đi hoang đã trở về đây,” bà nói, giọng hơi nhè nhẹ kiểu miềnNam. “Chào mừng đến với những vùng đất dành riêng cho người Da đỏ.”

“Chào cô Alice,” Bobby nói.

Bà nắm lấy cằm Bobby và xoay mặt anh sang bên này bên kia. Bà hăng hái kiểm tra nó như một nhà nhân loại học đang kiểm tra sự hoàn hảo của một chiếc đầu lâu. Tôi chợt hiểu nguyên do từ đâu mà Jonathan lại có cái ôm ngoại giao, cứng nhắc đó.

“Chào người đẹp,” bà nói. Bà đặt một nụ hôn phớt nhẹ lên môi anh.

Bobby đứng đó, buông thõng hai tay, như thể đã bị bà làm cho chết lặng. Jonathan phải giới thiệu tôi. Alice liếc qua tôi với con mắt khoa học và bắt tay tôi. “Cảm ơn cháu vì đã đến đây,” bà nói.

“Cảm ơn cô vì đã đón tiếp cháu,” tôi nói. Đó có vẻ là điều ngớ ngẩn nhất để nói với một phụ nữ có chồng vừa mới qua đời.

“Con rất tiếc về chuyện chú Ned, cô Alice ạ,” Bobby nói. Tay anh đã khoác hờ lên vai Jonathan.

“Cô biết,” Alice nói. “Cô cũng vậy.”

“Bọn cháu có phải là những người đầu tiên đến đây không?” Tôi hỏi.

“Ừm, gia đình cô không định tổ chức một đám tang lớn,” Alice nói. “Cô đang chờ em trai của Ned từ Muncie đến và vài người quanh đây. Gia đình cô quyết định chỉ tổ chức đám tang một cách thân mật thôi.”

“Ồ,” tôi nói. Tôi lại sai lầm lần nữa, theo một cách mơ hồ, và thay vì tiếp tục lo lắng về hành vi của mình, tôi quyết định không nói gì nữa và cảm thấy không thích Alice. Dù bà vừa mới trở thành góa phụ.

“Mọi người uống gì nhé?” Jonathan nói. “Có ai muốn uống gì không?”

Mọi người đều đồng ý. Jonathan lãnh trách nhiệm đi lấy đồ uống. Tôi nhận ra rằng có lẽ cậu đã lớn lên theo cách đó, dẫn dắt mọi chuyện, mời đồ uống, khởi xướng trò chơi xếp chữ hay những cuộc đi dạo trong công viên. Tôi có thể hình dung ra hình ảnh của cậu khi hai tuổi, cứ mãi quấy rầy mẹ mình bằng một từ mới mà cậu chưa bao giờ nói trước đó, để lôi kéo sự chú ý của bà khỏi chính bà. Giờ đây, ở tuổi ba mươi, cậu đang biến thành bà. Cậu trao những nụ hôn lạnh nhạt ở sân bay. Cậu đang hình thành một cuộc sống trật tự và cô lập như căn phòng khách kiểu Mỹ xưa của mẹ cậu.

Sau khi chúng tôi đã ăn uống xong, Alice tuyên bố rằng bà sẽ ngủ ở một khách sạn ven đường. Bobby và Jonathan phản đối. Nhưng bà rất kiên quyết. “Căn hộ này bé như cái lỗ mũi ấy,” bà nói. “Trong cái không gian chật hẹp này, người ta làm sao tôn trọng sự riêng tư của một phụ nữ có tuổi được.”

Bobby khăng khăng rằng anh và tôi mới là những người nên đến khách sạn ven đường, nhưng Alice không hề lay chuyển. “Cô đã thu xếp rồi,” bà nói. “Cô sẽ trở lại vào sáng sớm mai, trước khi các con ngủ dậy.”

“Nhưng thế này thì thật không phải,” Bobby nói. “Bọn con không muốn cô phải ra khỏi nhà mình vì bọn con.”

Tôi kín đáo nhéo vào đầu gối anh. Anh không nhận thấy rằng đêm nay Alice rất muốn ở một mình như thế nào sao? Tôi biết bà sẽ làm gì. Bà sẽ bước vào căn phòng khách sạn ven đường sạch sẽ đó, bật điều hòa nhiệt độ lên, và nằm xuống một chiếc giường không phải của riêng mình. Bà sẽ có vài giờ bên ngoài cuộc đời bà. Chính tôi cũng đã từng làm như thế, khi một mối tình kết thúc và căn hộ của tôi đột nhiên có vẻ quá riêng tư. Không biết Bobby có hiểu được ý nghĩa của cái nhéo đó hay không, nhưng anh lập tức ngừng phản đối. Alice ra khỏi nhà, hứa sẽ làm xong món bánh quế kiểu Bỉ trước khi mọi người tỉnh dậy vào sáng hôm sau. Tôi nói một lời tạm biệt nhanh nhảu, thản nhiên, không rõ có khiến Alice hiểu được rằng tôi biết bà không phải đang làm ơn cho ai cả hay không. Rằng dù tôi hiểu động cơ của bà, nhưng nó không khiến tôi thích bà hơn chút nào.

Rồi bà đi. Sau đó, chỉ còn lại chúng tôi với nhau, không biết phải nói hay làm gì. Dù tôi đã trải qua nhiều cuộc chia ly, nhưng chưa từng phải đối mặt với cái chết của những người thân. Bố mẹ tôi vẫn còn sống. Còn ông bà tôi đều đã mất một cách lặng lẽ, ở những bang khác, khi tôi còn rất nhỏ. Tất cả những cảm giác về sự mạnh mẽ, tháo vát mà tôi cảm thấy khi ngồi ở băng ghế sau của chiếc Oldsmobile đều đã tan biến hết. Thay vào đó là một cảm giác ngốc nghếch mơ hồ, và sự bực bội trước viễn cảnh phải ngủ trong một ngôi nhà xa lạ và đến dự đám tang của một người không quen.

“Có ai muốn uống thêm không?” Jonathan thỏi.

Chúng tôi tiếp tục uống. Chúng tôi đã yên vị trên những chiếc ghế bành và chiếc sofa thuộc địa xấu xí. Trước đây, khi nghĩ đến đám tang, tôi cứ ngỡ đó là một dịp để chia sẻ một cách thoải mái và tự do, như nước tuôn ra từ vòi, giữa những người hoặc vô cùng yêu thương nhau hoặc quá đau đớn trước mất mát của họ đến nỗi những bất đồng nho nhỏ thường ngày và những mối ác cảm cũ cứ trôi đi hết. Nhưng ở đây, khi uống nước tonic trong một phòng khách nhỏ cứng nhắc, nội thất rẻ tiền, tôi vẫn không quên sự nhỏ nhen và phù phiếm thường có của mình. Tôi không hề cảm thấy cú sốc về cái chết của người cha. Tôi không thể ngừng cho rằng cái tổ hợp chung cư hoang vắng này có vẻ là một nơi hợp lý và phần nào thích hợp cho cái chết. Đó chỉ là một sự ngạc nhiên vừa phải đã được những cư dân ở đây chuẩn bị kĩ lưỡng.

Jonathan nói: “Xin lỗi vì đã để chúng ta gặp nhau trong hoàn cảnh này. Tôi cho rằng mình sẽ gặp lại hai người, nhưng ở hoàn cảnh khác cơ.”

Tôi biết cậu đã phải cố gắng lắm mới nói ra được một câu thẳng thắn như thế mà không theo sự chỉ đạo và uốn nắn của người khác. Bản năng quan trọng nhất của Jonathan là luôn hành động như thể tất cả mọi chuyện đều tốt đẹp. Như thể chúng tôi đang có những khoảnh khắc vui vẻ.

“Tôi cũng thế,” tôi nói. “Thú thực với cậu, tôi đã phân vân mãi không biết mình có nên đến đây không. Giờ tôi vẫn không chắc liệu tôi làm thế là có đúng không nữa.”

Cậu gật đầu. Cậu không trấn an tôi.

Gần như lo lắng và cáu kỉnh, tôi nói: “Chắc hẳn bố cậu phải là một người đàn ông tuyệt vời.”

Bobby nói: “Chú Ned tốt lắm. Chú ấy thực sự, em biết không, rất tuyệt vời. Tiếc là em chưa bao giờ được gặp chú ấy, Clare ạ. Em sẽ thích chú ấy lắm.”

“Ồ, chắc vậy.”

Một thoáng im lặng. Viên đá kêu lách cách trong ly của Jonathan.

Tôi nói: “Nghe này, Jonathan, tôi không biết tại sao cậu lại làm thế. Nhưng tôi cho rằng đó là điều cậu cần làm. Có lẽ chúng ta nên cố quên nó đi chừng nào chúng ta còn ở đây.”

“Em đã kể với Bobby,” cậu nói. “Em cũng đã cố kể với chị. Dường như em không thể sống đàng hoàng khi ở bên cạnh hai người.”

“Giờ thì cậu sống đàng hoàng rồi chứ?”

“Có vẻ thế. Họ không cho em trở lại tòa soạn, nhưng họ giúp em kiếm được công việc biên tập cho tờ Esquire. Em đang cố gắng làm lại từ đầu. Những sự biến mất không lời giải thích thường không nhận được ưu ái như thế, ngay cả trong ngành báo chí.”

“Chà, tôi hi vọng cậu sẽ hạnh phúc hơn trước đây,” tôi nói.

“Thực sự thì chưa,” cậu nói. “Nhưng em có thể bắt đầu cảm thấy hạnh phúc hơn vào bất cứ lúc nào.”

“Tốt.”

Cậu nhìn quanh căn phòng như thể không hiểu nổi làm cách nào cậu đến được đó – như thể một phút trước đây cậu còn đang ở trên giường mình ở New York.

Cậu nói: “Em cứ tự nhủ với mình là: “Bố mất rồi.” Có vẻ em vẫn không thể tiin nổi đó là sự thật. Em có cảm giác như đó là điều chỉ diễn ra trên ti vi. Ý em là, có thể chị sẽ nghĩ em quá xúc động, nhưng thực sự em cảm thấy hơi nhỏ nhoi. Như thể việc này khiến em trở nên ít quan trọng hơn. Hơn cả một diễn viên đóng vai phụ. Chỉ hiểu em đang nói gì không?”

Bobby nói: “Chú Ned là, em biết đấy. Một người đàn ông rất tốt. Clare ạ, em sẽ rất thích chú ấy đấy. Thực sự là thế.”

Tôi có thể nghe thấy giọng anh như sắp khóc.

Jonathan nói: “Ôi, Bobby, làm ơn im đi.”

“Cứ để anh ấy nói,” tôi nói. Tôi nhổm dậy từ chiếc ghế bành của mình và đến ngồi bên Bobby trên sofa. Tôi xoa bóp cổ cho anh. Có cảm giác như những đường dây cáp bằng thép đang chạy qua nó.

“Ông ấy giống như là bố anh vậy,” Bobby nói. “Ý anh là, một người bố thực sự ấy. Anh cho rằng ông còn hơn cả người bố ruột của anh nữa.”

Jonathan thở dài, một tiếng xì nho nhỏ khô khốc gợi cho tôi nghĩ đến mẹ cậu. “Bobby, nếu cậu muốn gia đình mình, cậu có thể có nó,” cậu nói. “Nhờ thế mà mình có thể trao cho cậu toàn bộ cuộc sống trước đây của mình. Cậu có thể quyết định nơi chôn cất bố mình. Cậu có thể lo lắng về việc mẹ mình sẽ không biết phải làm gì với bản thân bà khi không có ông. Nếu cậu muốn làm tất cả những điều đó, mình hoàn toàn hoan nghênh.”

Jonathan ngồi trong chiếc ghế to quá cỡ như đứa trẻ ngoan đang tức giận. Mặt cậu tái nhợt và đôi mắt rực sáng. Tôi chưa bao giờ nghe thấy cậu nói bằng giọng đó, nhưng không hiểu sao tôi biết rằng đó là giọng nói thực sự của cậu, rõ ràng, điềm tĩnh và bừng bừng lửa giận. Lúc đó, có vẻ như tính cách rộng lượng, dễ thương không còn là của cậu nữa. Nó chỉ là một điều thành công nhất mà cậu đã đạt được, một hệ thống tỉ mỉ những cử chỉ thân thiện đã che phủ tất cả những dấu vết của đứa trẻ bé nhỏ, lạnh nhạt, tức tối đang đối diện với chúng tôi đây. Đầu cậu có vẻ quá lớn so với cơ thể. Chân cậu có vẻ khó mà chạm được xuống đất.

“Thôi đi,” tôi nói. “Đây không phải là lúc ăn nói như thế.”

“Jon,” Bobby nói. “Jonny, mình...”

“Hãy cứ sắm vai mình đi,” Jonathan nói. “Mình không biết là vì sao, nhưng cậu làm thế giỏi hơn mình mà. Ngày mai khi người ta đưa thi hài bố mình vào lò thiêu, cậu sẽ là con trai ông ấy, còn mình sẽ là người bạn thân nhất của cậu. Mình sẽ nhỏ vài giọt nước mắt và cảm thấy xót thương một lúc, rồi sau đó sẽ trở lại với cuộc sống bình thường của mình.”

“Jon,” Bobby nói. Anh không khóc, nhưng cổ họng tắc lại, giọng anh nghe khàn khàn và nghèn nghẹn.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,359
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 2-14


“Dù sao thì cậu cũng là một cậu con trai tốt hơn mình,” Jonathan nói. “Cậu mang bạn gái về nhà và một ngày nào đó cậu sẽ có con. Cậu sẽ không mãi xuất hiện một mình trong các kì nghỉ. Như kiểu một nhân vật độc thân kì cục chẳng có gì khác ngoài một công việc và một cuộc sống không đáng được nhắc đến. Cậu là người có ý nghĩa hơn mình. Với bố mình thì đã quá muộn rồi nhưng cậu vẫn có thể là con trai của mẹ mình. Cậu có thể mau chóng sinh vài đứa cháu cho bà để bà không phải ngồi một mình trong căn hộ chung cư này, và ngắm nhìn những cây cỏ lăn bị cuốn đi.”
“Đồ chết tiệt,” tôi nói với Jonathan. Tôi đứng bật dậy, không hề cố ý. “Tất cả những gì anh ấy làm cho cậu là tôn sùng cậu. Còn tất cả những gì cậu làm lại là bỏ rơi anh ấy. Cậu không có quyền nói với anh ấy như thế.”
“Ôi, chị là một người tốt,” cậu nói. “Chị để tôi yêu chị và rồi bắt đầu ngủ với người bạn thân nhất của tôi. Chị là người thích hợp để bảo tôi rằng tôi có quyền làm gì.”
“Chờ đã. Để cậu yêu tôi? Ai nói là cậu đã yêu tôi?”
“Chính tôi. Tôi đang nói thế. Với cả hai người. Giờ tôi chỉ muốn hai người để cho tôi yên.”
“Jon,” Bobby nói. “Ôi, Jon...”
“Tôi phải đi đây,” Jonathan nói. “Nếu ở mãi đây, có lẽ tôi sẽ phát điên lên mất. Gặp lại hai người sau.”
“Mẹ cậu đã lấy xe đi rồi mà,” tôi nói.
“Thì tôi sẽ đi bộ.”
Cậu nhổm dậy khỏi ghế và ra khỏi cửa trước. Cánh cửa gây ra một tiếng động nhỏ đáng thương khi nó đóng lại sau lưng cậu – tiếng của thứ đồ gỗ rẻ tiền va vào một cái khung cửa nhôm.
“Anh sẽ đuổi theo cậu ấy,” Bobby nói.
“Không. Hãy để cậu ta đi, để cậu ta bình tĩnh lại. Cậu ta sẽ quay về thôi.”
“Ừ. Nhưng anh phải nói chuyện với cậu ấy. Nãy giờ anh vẫn ngồi đây mà không hề nói được gì.”
“Bố cậu ấy vừa mất,” tôi nói. “Và cậu ấy đang thiếu tỉnh táo. Cậu ấy cần ở một mình.”
“Không, cậu ấy đã phải ở một mình quá nhiều rồi,” Bobby nói. “Cậu ấy cần có anh đi theo.”
Bobby đi vòng qua tôi và ra khỏi cửa. Dù muốn tôi cũng không thể giữ nổi anh. Có lẽ tôi nên ở trong nhà một mình, nhưng tôi không thể hình dung ra cảnh mình ngồi đó với những bông hoa tang và chiếc đồng hồ cứ kêu tích tắc. Tôi đi theo Bobby và Jonathan. Không phải để can thiệp, mà vì tôi không muốn phải chờ đợi họ, một mình, trong căn nhà sạch bong này.
Lúc tôi ra ngoài, Jonathan đã đi được một dãy nhà. Cậu là một nhân vật nhỏ bé kì cục đang vội vã cắm cúi bước đi dưới ánh đèn đường. Tôi ra phố đúng lúc Bobby gọi cậu. Khi nghe thấy tiếng gọi tên mình, không hề ngoảnh lại, Jonathan bắt đầu chạy. Bobby đuổi theo. Còn tôi, sợ rằng mình sẽ bị bỏ lại một mình trong một căn hộ chung cư có ma, đuổi theo Bobby.
Anh là người chạy nhanh nhất trong ba người chúng tôi. Tôi không bao giờ tập thể dục, lại đang mang bầu và đi giày cao gót, nên tôi chạy cứ như nhân vật nữ chính trong một bộ phim ly kì. Một phụ nữ quyến rũ, yếu đuối cần được giải cứu hết lần này đến lần khác. Khi tôi vừa chạy vừa thở hồng hộc trên phố, tôi thấy Bobby đã thu hẹp khoảng cách giữa anh và Jonathan. Xung quanh chúng tôi, những tòa chung cư kì cục đứng sừng sững trong ánh đèn đằng sau những bãi cỏ trải sỏi trắng. Vài tòa nhà có những ô cửa sáng đèn. Còn phần lớn đều tối om, không có rèm và chẳng có người ở. Ngoài tiếng thở phì phò của tôi, tôi có thể nghe thấy tiếng ào ào khô khốc của màn đêm sa mạc, sự khuấy đảo của gió và bụi.
Tôi còn cách Bobby gần hai dãy nhà khi anh đuổi kịp Jonathan. Tôi thấy anh túm áo Jonathan, kéo cậu lại. Tôi thấy chân Jonathan cứ khua khua một lúc, như một nhân vật hoạt hình. Và rồi tôi thấy Jonathan ngoái lại và đấm Bobby. Đó là một cú đấm bừa dữ dội, trúng vào bụng Bobby và khiến anh gập bụng lại, có vẻ do ngạc nhiên hơn là do sức mạnh của cú đấm. Jonathan quay đi và chạy tiếp nhưng Bobby đã hét lên và chồm lên người cậu. Rồi họ cùng ngã xuống, đấm nhau loạn xạ.
“Dừng lại,” tôi thét lên. “Đồ khốn. Dừng lại, các người có nghe tôi không hả?”
Khi tôi tới chỗ họ, họ đang lăn lộn trên phố, cuống cuồng đá nhau và cố khống chế được người kia. Một vệt máu hiện lên trên má Jonathan. Tôi cúi người xuống. Thoáng chốc, tôi đã có thể túm lấy tóc của cả hai người và giật mạnh.
“Dừng lại,” tôi nói. “Dừng lại ngay.”
Họ dừng lại. Tôi không thả tóc họ cho đến khi họ buông nhau ra và ngồi đối diện nhau trên mặt đường rải nhựa tối sẫm. Vết thương trên má Jonathan rỉ máu. Tay áo cậu rách tả tơi, bay phần phật, lộ ra một mảng vai tai tái hình lưỡi liềm. Bobby, người to hơn và khỏe hơn, có một vết bẩn trên trán và một vết rách trên quần, chỗ đầu gối.
“Đồ khốn kiếp,” tôi nói. “Hai người điên rồi à? Cả hai người.”
“Ừ,” Bobby nói. Và họ cùng cười phá lên.
“Cậu có sao không?” Jonathan hỏi. “Mìh có làm cậu đau không?”
“Không. Mình không sao, ý mình là mình chẳng xây xát gì. Cậu thì sao?”
“Mình cũng nghĩ thế.” Cậu chấm chấm nhẹ lên vết thương trên má, nhìn những đầu ngón tay dính máu với vẻ ngạc nhiên và thỏa mãn. “Ôi, nhìn này,” cậu nói. “Máu.”
“Không tệ lắm đâu,” Bobby nói. “Chỉ là, cậu biết đấy, một vết thương nhỏ thôi.”
“Trước đây mình chưa bao giờ đánh nhau thật sự,” Jonathan nói. “Mình chưa bao giờ đấm ai trong đời.”
“Hồi nhỏ mình vẫn thường làm vậy,” Bobby nói. “Mình thường đấm anh trai mình. Nhưng anh ấy lớn hơn mình nhiều. Anh ấy chỉ, ờ, cười và đẩy mình ra.”
“Tôi hi vọng hai người biết được rằng hai người giống quân đê tiện đến mức nào,” tôi nói.
“Ồ, em nghĩ là em biết,” Jonathan nói.
“Đúng. Anh cũng nghĩ thế,” Bobby đáp.
Họ đứng lên và chúng tôi quay về căn hộ. Trên đường đi, Jonathan nói: “Mình xin lỗi về cách cư xử của mình. Ý mình là, trong cả tối nay và gần một năm qua.”
“Không sao,” Bobby nói. “Ý mình là, mình nghĩ rằng mình hiểu.”
Jonathan khoác tay Bobby. Họ bước đi thản nhiên và vui vẻ như hai người tỉnh lẻ đang đi dạo qua ngôi làng của họ. Jonathan chìa khuỷu tay kia ra cho tôi, nhưng tôi từ chối. Tôi đi một mình, cách họ một đoạn. Tôi nghĩ rằng sau khi dự xong đám tang, tôi sẽ lên máy bay quay về và không bao giờ gặp lại cả hai người bọn họ nữa.
Đám tang của Ned diễn ra vào lúc bốn giờ ngày hôm sau. Sáng hôm đó, em trai ông, một người bán đồ nội thất tên là Eddi, đã bay đến từ Indiana. Khói thuốc của Eddie thoát ra khỏi mũi và bay vào đôi mắt ươn ướt của ông giống hệt như kiểu của bố tôi. Tôi biết tôi sẽ không bao giờ thích nổi ông ta. Có vẻ tôi chẳng thích ai ở đám tang này. Ở đây còn có mặt một phụ nữ tóc bạc đẫy đà tên là Cohen, và một bà tóc bạc nhỏ bé tên là Black. Tôi chẳng có ác cảm gì với họ nhưng tôi cứ để mắt đến những nhược điểm của họ (một cái xắc tay đựng đầy khăn giấy, phấn hồng bị đóng vảy trong những nếp nhăn quanh miệng) vì đó là xu hướng tự nhiên.
Chúng tôi đến nơi hỏa táng trong một đoàn xe ngắn nối đuôi nhau: chiếc Oldsmobile, một chiếc Honda và một chiếc Plymouth. Chúng tôi vẫn đi theo thứ tự của những chiếc xe khi đi bộ từ bãi đỗ xe đến nhà nguyện: Jonathan, Alice và Eddie đi trước, theo sau là Bobby và tôi, rồi đến hai người phụ nữ kia. Trên đường đi tôi thì thầm với Bobby: “Theo anh thì vì sao cô Alice lại tổ chức đám tang nhỏ như thế?”
“Anh nghĩ là vì sẽ chẳng có ai đến nữa ngoài từng này người,” anh thì thào đáp. Chúng tôi đang bước trên một lối đi lát bê tông rải đá dăm, hai bên là những hàng rào trồng hoa. Những bông loa kèn màu hồng ló ra từ những chiếc lá xanh mướt. Bobby đổ mồ hôi trong chiếc áo khoác sẫm màu. Tôi đã quên không mang theo cặp kính râm nào khác ngoài một cặp có mắt kính hình tam giác với khung màu đỏ tươi, thứ mà tôi không thể đeo khi đến dự một lễ tang.
“Chắc ông ấy còn phải quen những người khác nữa chứ,” tôi nói. Tôi khoác lấy tay anh, để không bị bước hụt khỏi đường vì ánh nắng chói chang đến hoa mày chóng mặt. Tôi thấy mình thích được bám vào tay anh. Nó không liên quan gì đến việc tôi thích Bobby. Khi bám vào tay người khác, tôi thấy mình thực sự giống với một người tham dự đám tang hơn, chứ không phải là một kẻ không mời mà đến.
“Ông từng điều hành một rạp chiếu phim ở Cleveland,” Bobby nói. “Ý anh là, ai sẽ đến chứ, những người hướng dẫn chỗ ngồi ở rạp từ mười năm trước à?”
“Thì, phải có ai đó chứ,” tôi nói. Chúng tôi đã gần đến nhà nguyện. Đó là một tòa nhà có đầu hồi, có vẻ được xây từ kính và gương màu. Phòng hỏa táng nằm ở phía sau. Ban đầu khi chúng tôi mới dừng xe, tôi đã tìm kiếm những ống khói, nhưng tất cả những gì hiển hiện đằng sau nhà thờ chỉ là một tòa nhà mái bằng trát xi măng với những đường rãnh chạy dọc hai bên sườn, như thể nó đã được chải bằng một cái lược khổng lồ trong khi xi măng vẫn còn ướt. Dĩ nhiên, bây giờ công nghệ đã quá tiến bộ nên người ta chẳng cần đến những ống khói nữa.
Chúng tôi ngồi xuống những hàng ghế đầu, trong sự im lặng của không khí được điều hòa. Quan tài của Ned, đóng bằng gỗ sẫm màu, được đặt dưới một cây thánh giá Lucite. Trên quan tài chỉ đặt một vòng hoa thục quỳ. Nó gợi tôi nhớ đến vòng hoa mà Donna Reed[57] đã vứt xuống biển ở đoạn cuối bộ phim Từ đây đến cõi vĩnh hằng. Tôi nghĩ rằng Ned, một ông chủ rạp chiếu phim, có lẽ sẽ thích như thế.
[57] Donna Reed (1921-1986): nữ diễn viên người Mỹ.
Tôi ngồi ở đầu cuối của băng ghế, Bobby ngồi bên phải tôi và bên trái chẳng có ai. Jonathan ngồi bên cạnh Bobby, kế đến là Alice. Jonathan đang khóc, lặng lẽ nhưng không dè dặt. Hôm nay, cậu không còn tỏ ra can đảm và vô tình nữa. Vết thương trên má cậu đã đóng vảy, được nhuốm ánh nắng rọi đến qua ô cửa kính màu, rưng rưng trên cằm cậu. Tôi sờ lên cằm mình, và những giọt nước mắt chợt rỉ ra từ mắt tôi như thể tôi vừa bấm một cái nút. Tôi nghĩ về bố tôi. Một lần, trong một cuộc tranh cãi với mẹ tôi khi đang say xỉn, ông đã đánh rơi tôi xuống một tảng tuyết. Tôi tin rằng đó là ký ức đầu tiên của tôi. Mẹ tôi đã đòi bế tôi, và trong khi họ giằng co nhau, tôi đã bị rơi xuống tuyết. Bố tôi luôn ôm tôi rất chặt, kể cả khi say. Ông sẽ không làm rơi tôi nếu mẹ tôi không cố gắng giằng lấy tôi. Tuyết lúc đó trắng muốt, lạnh giá và tĩnh mịch như chính cái chết. Tôi đã bị lún sâu xuống. Hai người họ vục tôi lên, chửi rủa nhau. Nếu Ned là bố tôi, tôi chắc chắn rằng ông sẽ không phải kết thúc cuộc đời trong một đám tang nhỏ thưa người giữa sa mạc như thế này. Nước mắt tôi trào ra. Bobby bóp nhẹ tay tôi. Trong một thoáng, tôi cảm thấy Jonathan và tôi như là hai chị em, đang được một người bạn chung an ủi. Rồi tôi nhớ ra rằng mình đang khóc cho chính mình và chút buồn riêng của tôi, chứ không phải vì tiếc thương vô hạn một người vừa mới mất. Và điều đó dường như chỉ khiến tôi khóc to hơn.
Sau đám tang, quan tài được đẩy đến chỗ hỏa táng. Chúng tôi, những người đưa tang, trở ra xe và về nhà. Tro hài cốt sẽ được sẵn sàng vào ngày hôm sau. Họ làm việc rất nhanh chóng. Tôi băn khoăn không hiểu liệu họ có sử dụng vài quy trình làm bốc hơi mới nào không. Khi chúng tôi ra khỏi nhà nguyện, tôi đeo kính râm lên để che đi đôi mắt đỏ ngầu của mình.
Mọi người quay lại nhà của Alice, từ giờ nó sẽ là nhà của Alice, chứ không còn là của Alice và Ned như trước đây nữa. Tôi nghĩ chắc Alice sẽ phải ghét ngôi nhà đó lắm, với những bức tường xi măng sơn màu bùn và máy điều hòa kêu ro ro dưới những cái cọc nhỏ và thô nhô ra bên trên các cửa sổ. Tôi ngờ rằng có lẽ Ned đã học cách thích nó. Theo một kiểu hài hước. Những người hay đi xem phim thường thấy được nhiều tình huống trớ trêu hơn.
Bobby không nói gì suốt quãng đường về nhà. Anh ấy đang tôn trọng nỗi tiếc thương của mình, tôi ngạc nhiên nghĩ. Nỗi tiếc thương của tôi dành cho một người lạ, cho những ký ức của tôi, trong khi chính anh mới là người quen biết ông hồi ông còn sống. Mặt tôi đỏ bừng. Tôi đã quên bẵng đi. Tôi đưa tay vuốt tóc anh, rồi lướt xuống ngực anh, nơi có những múi cơ và chất béo mềm mại. Tôi chợt ham muốn anh dữ dội. Tôi ham muốn lòng tốt và sự hi sinh của anh như thể chúng đã tạo nên một con người khác, một người xa lạ đẹp trai tài giỏi mà tôi vừa mới gặp. Đó không phải là nỗi khao khát dành cho một Bobby mà tôi quen biết. Tôi muốn người lạ dễ động lòng này tấp xe vào lề đường, nơi chúng tôi có thể làm tình thật dữ dội. Để bù lại cho cái ham muốn kì cục đó, tôi hôn vào tai Bobby và thì thầm: “Ổn rồi, cưng ạ.”
Anh mỉm cười. Anh đang đeo cặp mắt kính hình oval mờ mờ nên tôi không thể trông thấy ánh mắt anh lúc này, cũng như anh không thể trông thấy ánh mắt tôi. Anh không nói gì cả.
Bobby và tôi, và Jonathan và tôi – tình yêu xen lẫn tình bạn giữa chúng tôi, cùng gia đình lệch lạc mà chúng tôi đang cố tạo thành – có vẻ đã hóa thành một tình huống ngốc nghếch khác. Một ngôi nhà được xây bê tông khác được phun màu với những cái cọc phía trên các cửa sổ. Giờ đây, thật bất ngờ, khoảnh khắc đó phủ kín chiếc Honda đi thuê. Bobby và tôi đang lái xe trên một con đường cao tốc ở miền sa mạc, tham dự một tang lễ tạm bợ. Tôi đang mang thai. Anh là bố của đứa con trong bụng tôi. Jonathan, người đã làm cả hai chúng tôi đau lòng một cách mơ hồ mà tôi không thể đặt tên, đang ngồi trong chiếc xe chạy phía trước, bên cạnh người mẹ thản nhiên của cậu. Chiếc radio đang phát một bài hát cũ của Fleetwood Mac[58], lóe lên màu cam trong cái ánh nắng giữa chiều chói chang, gay gắt.
[58] Fleetwood Mac: ban nhạc rock Anh – Mỹ thành lập năm 1967 ở London.
Khi về đến nhà, hai người phụ nữ lớn tuổi đi thẳng vào bếp để làm những gì cần làm với món hầm và món tráng miệng mà họ đã mang đến. Đó là mối bận tâm của con người về việc ăn uống bất chấp sự hiện diện của cái chết. Tôi cảm thấy đỡ ngượng ngùng hơn một chút trước sự ham muốn có một cuộc làm tình nóng bỏng và hoang dại vào lúc quan tài của Ned đang được đưa vào lò thiêu.
Eddie, người em trai của Ned, ngồi hút thuốc trong chiếc ghế bành. Người ông sực nức mùi nước hoa cologne và mùi của tất cả mọi thứ mà nó định bao phủ. Tôi thắc mắc không hiểu vợ ông đâu, và liệu ông có con không. Làm sao mà ông không có vợ con được? Tôi luôn ngạc nhiên khi những điều đó lại đơn giản và quen thuộc đến vậy đối với hầu hết mọi người.
“Dịch vụ đó tốt thật,” ông nói.
“Tôi cũng nghĩ thế,” Alice nói. Hai người phụ nữ kia đã xua bà ra khỏi căn bếp của mình. Bà bước quanh phòng, chỉnh trạng lại một chút. Bà chỉnh lại một bức tranh vốn dĩ không hề bị lệch đi cho ngay ngắn. Bà đang mặc một bộ váy dạ hội màu đen mà có lẽ bà đã mang từ Cleveland đến. Chắc chắn bà sẽ chẳng cần đến một cái váy như thế trong sa mạc này. Nhiều năm trước, khi bà gói ghém đồ đạc và chuyển đi, có lẽ bà đã quyết định giữ cái váy đó cho ngày hôm nay.
Lúc đó, tôi có thể hình dung ra bà trong căn phòng ngủ ở Ohio, đang gói ghém đồ đạc để chuyển đến một căn nhà ngớ ngẩn trong sa mạc. Tôi có thể thấy bà đang phân loại đồ dùng của mình, bọc lại thành từng gói để đem cho Đội quân Cứu tế. Tôi có thể thấy bà tình cờ tìm thấy cái váy đặc biệt này. Có lẽ bà biết rằng bà sẽ cần nó một ngày nào đó. Có lẽ bà đã ngồi trên giường, cầm chiếc váy màu đen mượt mà đó với vẻ ngờ vực. Chiếc váy mà bà đã ngẫu hứng mua ở một trung tâm thương mại, không quá đắt, cũng không có gì là đặc biệt. Có lẽ bà đã ngồi một lúc trên tấm ga trải giường vải chenille màu trắng, trong chiếc quần jean, chiếc váy đen trải trên lòng. Thế rồi, với một động tác chính xác và khoa học, bà đã gói cái váy trong giấy lụa, xếp nó cùng với những bộ đồ mùa hè và những chiếc quần soóc Bermuda.
Tôi có thể thấy bà một cách rõ ràng. Tôi khẽ lắc lắc đầu, để xóa bỏ hình ảnh đó.
“Bây giờ thì chẳng có ai cả,” Eddie nói. “Ngoài những người đang ở trong phòng này. Mà chẳng hiểu sao chúng ta lại trở thành một gia đình nhỏ như thế nhỉ?”
“Chú không nhất thiết phải gặp quá nhiều người trên đời này,” Alice nói. Bà liếm ngón tay cái và lau vết bẩn trên một chiếc lá ráy thơm. “Chú làm việc của mình, nuôi dạy con cái và sống trong nhà mình, thế là đủ. Cả Ned lẫn tôi đều không phải là người hòa đồng cho lắm.”
“Ở Cleveland dường như chị luôn có bạn cơ mà,” Eddie nói.
“Những người hàng xóm ấy mà,” Alice nói. “Vài người trong số họ rất tốt. Nhưng bọn tôi đã chuyển khỏi đó rồi. Họ đều gửi hoa đến đấy chứ.”
Bà nhanh nhẹn băng qua căn phòng, và mở những tấm rèm ra. Ánh nắng ùa vào phòng như bóng đèn flash. Jonathan giật nảy mình, rồi nói: “Xin lỗi,” như thể cậu đã phạm phải một điều cực kì đáng xấu hổ. Tôi cho rằng có lẽ Alice và Ned là một trong những cặp vợ chồng mà “mọi-người-đều-yêu-quý-ông-nhưng-không-ai-chịu-được-bà.” Tôi nghĩ rằng nếu tôi lấy Ned, có lẽ ông sẽ có vài người bạn vẫn còn nghĩ đến ông mà mua một chiếc vé máy bay đến Arizona. Tôi cảm thấy những giọt nước mắt lại dâng lên, và phải siết chặt nắm tay để ngăn chúng lại. Tôi ngồi sát vào Bobby hơn. Cháu xin lỗi, chú Ned, tôi thầm nói. Trong một thoáng, có vẻ hình ảnh của Bobby và Ned đã bị lẫn lộn trong đầu óc tôi. Tôi cảm giác như mình đã sáu mươi lăm tuổi, đang ngồi đó với Bobby, người chồng quá cố của tôi, người vừa trở về từ nấm mộ để chỉ ra những khuyết điểm và lỗi lầm của tôi.
Hai người phụ nữ kia vẫn tiếp tục cuộc trò chuyện sôi nổi, thi thoảng lại có tiếng thìa gõ vào nồi leng keng. Tôi hỏi Eddie về cuộc sống của ông, để cuộc trò chuyện không bị gián đoạn. Vợ ông đã mất. Ông có hai cô con gái, đều đã kết hôn, theo như ông giải thích, họ không thể đến dự đám tang được. Ông là người đã quen với một cuộc sống quy củ, sự ra đời và những cái chết ử Muncie, Indiana. Những ký ức cứ xâm nhập vào sự chú ý của tôi khi tôi nghe Eddie nói. Bố tôi đã cho tôi đứng trên mặt quầy bar khi tôi mới lên bốn, trước tiếng vỗ tay của những người đàn ông khác. Ông đã mua cho tôi những bộ váy diêm dúa mà mẹ tôi không muốn tôi mặc. “Trông nó như một con điếm,” mẹ tôi nói, và trong nhiều năm tôi cứ tin rằng một con điếm là một kẻ được đàn ông ưa thích. Tôi cứ ngỡ đó là một hình thái tâng bốc bất đắc dĩ. Bố tôi là người vui vẻ và hay nuông chiều. Mẹ tôi thì chỉ biết đến công việc. Mãi tới khi lớn lên, tôi mới bắt đầu hiểu được bà. Bố tôi thường chửi rủa, than khóc, và ngã xuống những bậc thềm ở sân sau. Ông phá hỏng những chiếc ô tô, và bắt đầu buộc tội tôi là thông đồng với mẹ tôi. Ông trở nên quá to lớn và ồn ào, quá nguy hiểm, và nếu mẹ tôi vui vẻ hơn một chút, tôi sẽ đứng về phía bà. Bố tôi đã ngã trơ ra ở hành lang. Ông nói gì đó với tôi mà tôi không hiểu nổi, và ngay sau đó ông bỏ đi. Mẹ tôi đã dán lại giấy dán tường trong phòng bà với hoa văn hình những bông hoa cúc trong sáng rạng rỡ. Bà nói: “Giờ thì mọi chuyện sẽ tốt đẹp hơn.”
Eddie ngồi hút thuốc, đôi mắt ông mờ đục và vàng khè sau năm mươi năm nhuốm khói của chính ông. “Em chưa bao giờ nghĩ rằng mình sẽ sống lâu hơn anh ấy,” ông nói. “Tuy anh ấy là anh cả, chị biết đấy. Nhưng mà...”
“Ừ,” Alice khẽ nói. “Tôi biết.”
Bà Cohen và bà Black từ trong bếp bước ra. Một trong hai người, tôi không thể nhớ ai là ai, lau khô tay bằng một cái khăn lau kẻ sọc. “Mong rằng ông ấy được yên nghỉ,” người kia nói.
“Dù sao thì cuộc đời anh ấy cũng không đến nỗi tệ,” Eddie nói. “Anh ấy luôn thích phim ảnh, và cuối cùng cũng được làm chủ một rạp chiếu phim. Không tệ.”
“Ông ấy là một người rất tốt,” người phụ nữ đang lau tay nói, không biết là bà Cohen hay bà Black. “Ban đêm tôi thường ngủ ngon giấc hơn, vì tôi biết rằng khi tôi gọi ông ấy, ông ấy sẽ đến ngay. Tôi chưa bao giờ phải gọi ông ấy, cảm ơn Chúa, nhưng tôi luôn biết rằng tôi có thể làm thế.”
“Một người rất tốt bụng,” người kia nói.
Jonathan đã đến ngồi trên một cái ghế. Bobby bước đến bên cậu, ngồi ghé trên tay ghế. Nếu họ có thể hợp nhất thành một người, họ sẽ rất tuyệt vời.
“Cảm ơn vì đã làm bữa tối,” Alice nói với hai người phụ nữ kia. “Có lẽ đã hơn năm giờ rồi. Sao chúng ta không uống chút gì nhỉ?”
“Ồ, tôi không bao giờ uống rượu,” người phụ nữ cầm khăn lau nói. “Tôi từng mổ thận. Tôi chỉ còn một quả thận thôi, và nó là của chị tôi đấy.”
“Đúng vậy,” người kia nói.
Tôi thắc mắc không biết hai người đó có phải là chị em không.
Sau bữa tối, họ về nhà. Eddie quay về căn phòng trong khách sạn để “tắm táp,” hứa rằng sẽ trở lại để “làm một ly trước khi ngủ.”
Alice nói: “Có lẽ hai chàng trai này cần có một khoảng thời gian riêng bên nhau. Sao các con không ra ngoài uống gì đó?”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,359
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 2-15


“Con không biết,” Jonathan nói. “Bọn mình có nên đi không?” Cậu hỏi Bobby. Bobby liếc sang tôi. Không hiểu sao tôi lại quyết định nhanh chóng đến thế. Tôi khẽ gật đầu, đồng ý.

Jonathan hỏi liệu cậu có nên mang theo áo khoác không. Bobby bảo rằng có lẽ cậu nên mang theo. “Hai đứa,” Alice nói, “đúng là một cặp bài trùng.” Tôi chưa bao giờ thấy ai bối rối như Jonathan, lo lắng đến nỗi cần phải có người khác bảo mình làm gì.

Bobby hôn tôi trên đường anh ra ngoài, một cái hôn ướt át thật kêu lên má. “Bọn anh sẽ, em biết đấy, không đi quá lâu đâu,” anh thì thầm. Tôi đẩy anh ra như thể xua một con ruồi. Ý thức về thực tại của tôi đã tan biến. Tôi đang ở một nơi bất kì nào đó, bị bỏ lại một mình với một phụ nữ nhỏ nhen mà tôi gần như không quen biết. Tình huống này rồi sẽ kết thúc. Nó sẽ chỉ là một câu chuyện nhỏ nữa trong cuộc đời tôi mà thôi.

Jonathan nấn ná ở ngưỡng cửa: “Tạm biệt,” cậu nói. “Bọn em sẽ sớm quay lại.”

“Đi đi,” tôi nói. Nếu tôi là chị gái cậu, có thể tôi đã ngăn không cho Alice rút hết những gì tinh túy ra khỏi cậu. Có thể tôi đã đặt Alice vào đúng vị trí của bà và khuyến khích Jonathan tự đứng trên đôi chân của chính mình.

“Tạm biệt mẹ,” cậu nói.

Alice nắm lấy cằm cậu theo cái kiểu trực tiếp, giống như một nhà khoa học của bà. Bà nhìn thẳng vào mắt cậu: “Tạm biệt con trai,” bà nói. “Mẹ yêu con.”

Sau khi họ đi khuất, Alice hỏi: “Cô mang gì đến cho cháu nhé?” với chất giọng ấm áp của chủ nhà, khiến tôi nhớ ra rằng tôi chỉ là một vị khách.

“Không cần đâu, cảm ơn cô,” tôi nói. “Cháu có thể giúp cô làm gì không?”

“Không. Cô nghĩ là cô sẽ dọn dẹp lại căn bếp một chút.”

“Cháu sẽ giúp.”

“Không, cảm ơn cháu,” bà nói, với một nụ cười kiên quyết. “Cô thực sự muốn làm một mình. Cháu chỉ cần thoải mái ở ngoài này là được.”

Với tôi thế là ổn. Giờ thì không ai trong chúng tôi cần phải cố nặn ra chuyện để nói. Sau khi Alice vào bếp, tôi bật ti vi, vặn nhỏ âm lượng xuống hết mức có thể, để không làm ảnh hưởng đến những suy nghĩ của bà.

Tôi nhìn chằm chằm lên màn hình. Tôi không biết chương trình này là gì, và cũng không quan tâm. Thường thì tôi chỉ xem ti vi khi có tâm trạng hay có chuyện gì đó xảy ra. Lúc ở nhà, tôi vẫn hay tắt tiếng ti vi và bật giàn âm thanh lên, để tôi không phải nghe những nhân vật xa lạ nói chuyện với nhau.

Alice ở trong bếp khá lâu. Các chương trình cứ tiếp tục nối nhau. Tôi vừa xem ti vi vừa xem qua những tờ tạp chí. Chỉ để giết thời gian. Tôi đoán rằng Bobby và Jonathan đang ở một cái quán ven đường nào đấy, uống rượu và nói chuyện về chính họ, về Alice và tôi. Tôi thấy ghen tị - không phải vì tình cảm họ dành cho nhau mà vì cái quá khứ bên nhau của họ. Cái mối quan hệ thân tình ấy. Tôi, một con người hoàn thiện và biết điều hơn, sẽ bay trở lại New York và tiếp tục một điều gì đó. Tôi sẽ sinh con một mình. Chẳng có gì buộc tôi phải gắn bó với bất cứ ai ở đây cả, không có yếu tố duyên số hay định mệnh nào hết. Tôi giở qua tờ Arizona Highways và Địa lý quốc gia.

Rồi tôi nghe thấy tiếng rơi vỡ trong bếp. Tôi không chắc liệu mình có nên vào đó hay không. Có lẽ Alice bỗng dưng thấy suy sụp, và không muốn bị làm phiền. Tôi không muốn xen vào. Trên ti vi, một nghìn đứa trẻ đang hát không ra tiếng về Coke. Tôi biết bài hát này. Đó là một chương trình quảng cáo cũ, không hiểu sao lại được phát lại. Tôi quyết định làm theo cái ý nghĩ thứ hai của mình rằng có lẽ sẽ không phải nếu tôi không vào xem Alice thế nào.

Trong bếp, bà đang cầm hai mảnh vỡ của một chiếc đĩa. “Cô đã làm rơi nó,” bà nói. Bà vừa nói vừa cười một cách kì cục, như thể việc đánh rơi nó là một thành tích.

“Tiếc quá,” tôi nói.

“Dù sao thì nó cũng chẳng là gì cả,” bà bảo tôi. “Nó được bán với giá một đô la chín mươi tám xu ở cửa hàng K-mart. Chẳng khó khăn gì khi mua cái khác để thế vào cả.”

“Vậy thì may quá,” tôi nói.

“Thật không?” Bà vẫn cầm hai mảnh vỡ, hoàn hảo như hai mảnh trăng khuyết. Sau một thoáng, bà lại làm rơi chúng.

“Cô xin lỗi,” bà nói. “Cô thực sự xin lỗi. Cháu cứ sang phòng bên xem ti vi đi. Cô sẽ ổn thôi.” Bà quay đi và bước ra khỏi cánh cửa có màn che. Nó đóng sập lại sau bà, với tiếng đóng mỏng manh của nhôm nhẹ.

Tôi cúi xuống và nhặt cái đĩa lên. Lần này nó đã vỡ thành nhiều mảnh, những mảnh vỡ dày cộp hình tam giác. Tôi nhặt hết chúng lên và cẩn thận ném vào thùng rác. Tôi sợ lại làm chúng vỡ thêm nữa. Tôi đứng một lúc trong căn bếp vắng lặng, mong là Bobby và Jonathan sớm về nhà. Tôi định quay lại phòng khách và ngồi yên một chỗ như bà bảo, nhưng tôi không thể tưởng tượng nổi là mình lại làm thế. Tôi quyết định đi theo Alice và hỏi xem liệu tôi có thể giúp được gì không, và phải khéo léo để không biến mình thành kẻ quấy rầy. Xét cho cùng, tôi vẫn chỉ là một người khách.

Tôi mở cửa và bước ra một quầng sáng hình chữ nhật. Những vì sao hiện lên rõ ràng bất chấp ánh đèn của tổ hợp chung cư. Sân sau không rộng lắm. Chỉ là một khoảnh cỏ xốp với một luống hoa và hai bồn cỏ, bao quanh bởi một bức tường xây bằng chất liệu giống gạch sống. Alice đứng giữa thảm cỏ, quay lưng về phía ngôi nhà. Bà lấy cả hai tay túm vào tóc mình, lắc lắc từ bên này sang bên kia. Khi tôi bắt đầu bước về phía bà, bà thốt ra một tiếng thở dài, vốn là một tiếng rên rỉ bị xẹp đi, một tiếng xì chầm chậm kéo dài. Bà dùng một tay để túm lấy và bứt vài cọng tóc ra khỏi đầu. Tôi có thể nghe tiếng nó bị bứt phựt ra.

“Cô Alice?” Tôi nói.

Bà ngoảnh lại, tay vẫn còn nắm tóc. Những sợi tóc xoăn xõa xuống gần ba mươi phân trong ánh điện. “Cháu không nên thấy cảnh này,” bà nói. “Đây không phải là cuộc sống của cháu. Cháu nên quay vào trong nhà thì hơn.”

“Cháu có thể làm gì giúp cô không?” Tôi hỏi.

Bà cười: “Có đấy, cháu ạ,” bà nói. “Hãy chạy đến K-mart và mua cho cô một cái đĩa mới. Và một người chồng mới.”

Chúng tôi đứng đối diện nhau. Tôi cho rằng bà đang bực mình, đợi tôi quay trở vào nhà. Tôi không nghe theo. Có lẽ vì tôi cũng thấy tức tối, và không muốn bà thấy thỏa mãn.

Sau một phút, bà nhìn xuống nắm tóc trong tay: “Đây là tất cả những gì cô có.”

Tôi không nói gì. Tôi không cử động.

“Cô không muốn hai thằng bé kia trông thấy cô như thế này,” bà nói. “Cô không muốn Jonathan nhìn thấy. Cô không nghĩ nó có thể chịu được, khi thấy cô như thế này.”

“Cô đừng lo về điều đó,” tôi nói.

“Dù sao thì cô vẫn cứ lo. Cô cho rằng cháu trông thấy cô như thế này thì cũng không sao. Cháu thực sự chưa bao giờ biết cô. Đúng, cháu có thể thấy cô như vậy. Không sao, đúng không?”

“Vâng,” tôi nói. “Vâng, không sao đâu.”

Bà giơ bàn tay còn lại lên và túm tóc mình. Tôi nắm lấy cổ tay bà. “Đừng,” tôi nói. “Cô đâu cần phải làm thế.”

Tôi đã không định chạm vào bà.

“Không à?” Bà hỏi. “Cô không cần phải làm gì à?”

“Không,” tôi nói. “Không, không gì cả.”

Bà thở dài. Tôi vẫn giữ cổ tay bà. Tôi giữ thật chặt. Tôi vừa chờ xem Alice sẽ làm gì tiếp theo vừa nghĩ về đứa con của mình, lớn lên, đặt ra cho tôi một sự yêu ghét lẫn lộn không ngừng. Tôi có thể nghe tiếng những đứa trẻ trong chương trình quảng cáo, đang hát bài về Coke. Tất cả những giọng hát đó. Như thể đang có một cái loa trong đầu tôi.

“Cháu thấy đấy, cô không chỉ đơn giản như thế đâu,” bà nói. “Chúng ta dều thế. Không, ý cô thực sự không phải vậy. Lúc này cô chỉ thấy thương cho thân mình, không phải cho toàn bộ cuộc đời khốn nạn này. Thậm chí không phải cho Ned. Cô không chỉ đơn giản như thế. Và cô sẽ phải làm gì với Ned tội nghiệp? Làm sao mà bọn cô không trở thành một trò lố bịch được?”

“Cô không hề lố bịch,” tôi nói.

“Đừng an ủi cô. Cháu có muốn biết một bí mật không?”

Tôi im lặng. Tôi vẫn đang giữ cổ tay mỏng manh của Alice.

“Cô đã định bỏ Ned,” bà nói. “Cô đã quyết định như thế. Cô đang nghĩ đến việc mình phải nói với ông ấy thế nào, và rồi ông ấy đột ngột qua đời trên đường đến chỗ cái hòm thư.”

“Ôi, cô ơi,” tôi nói. Đó là tất cả những gì tôi có thể nghĩ ra để nói.

“Điều nực cười là, cô đã có ý định bỏ ông ấy suốt gần ba mươi năm qua. Nhưng cô không thể nghĩ được là mình sẽ đi đâu, hay sẽ làm gì. Dường như cô không hề biết một người phụ nữ có thể tự mình làm được những gì. Và ngôi nhà của bọn cô, căn nhà cũ ở Cleveland ấy, có vẻ quá vĩnh cửu.”

“Cô có thể đuổi ông ấy đi mà,” tôi nói.

“Ôi, nhưng cô không muốn sống ở Cleveland một mình. Đó là một nơi rất khó chịu. Và cô cứ nghĩ: “Nếu mình bỏ đi, đây sẽ không còn là căn bếp của mình nữa. Mình sẽ không còn được cất đĩa trong cái tủ chạn này, hay bật đèn lên từ góc này nữa.” Cô có thể tưởng tượng ra những điều to tát hơn. Những đêm cô đơn và một công việc để làm. Thứ mà dường như cô không thể từ bỏ là những điều thường nhật vụn vặt đó. Và rồi đã đến giờ nấu cơm tối, và rồi một ngày nữa lại trôi qua.”

“Chà, cháu thực sự ngưỡng mộ cô vì đã ở lại,” tôi nói. “Bố cháu đã bỏ đi, và cháu không biết liệu cháu có bao giờ vượt qua được điều đó không nữa.”

“Thực sự thì, cô nghĩ việc mình ở lại là một điều hèn nhát,” bà nói. “Cô đã ép Jonathan làm bạn với mình, và khi cô thấy nó quá quấn quýt với Bobby, cô đã đặt ra một vật cản giữa chúng. Cô tống Ned đến rạp chiếu phim vì, ừm, như cháu có thể hình dung ra được, bọn cô chẳng mấy khi ân ái với nhau trên giường. Và ông ấy không phải mẫu người dành cho chuyện yêu đương. Ông ấy chỉ chìm đắm trong những bộ phim. Giờ thì cô đã là một bà già, và Ned đã mất, còn Jonathan tội nghiệp không biết phải làm gì với bản thân nó.”

Tôi nhận thấy một chiếc máy bay đang lặng lẽ bay qua trên đầu. “Cháu không biết phải nói gì với cô,” cuối cùng, tôi nói.

“Không cần nói gì cả. Cháu có thể nới lỏng cổ tay cô ra một chút. Cháu đang làm nghẽn mạch máu của cô đấy.”

“Ôi, cháu xin lỗi.” Tôi thả tay bà ra và ngạc nhiên khi Alice cầm lấy tay tôi.

“Chúng ta không phải bạn bè,” bà nói. “Chúng ta thậm chí còn không thích nhau. Có lẽ cô thật may mắn, khi ở đây có mặt một người không phải bạn mình. Cô không thể kể chuyện này với bất cứ ai ngoài một người lạ. Cảm ơn cháu vì đã không bỏ đi.”

“Cô đừng nói gì cả,” tôi nói. Tôi không ngờ giọng mình lại dữ dội đến thế. “Nếu cô bỗng thấy biết ơn cháu, thì chúng ta sẽ không thể nhìn mặt nhau sau chuyện này được nữa. Bất cứ ai trong hoàn cảnh này cũng sẽ làm như cháu thôi.”

“Nhưng cháu đã có mặt ở đây,” bà nói. “Cháu đã đi hai nghìn dặm để đến đứng ở đây với cô. Đó là những gì khiến cô thấy cảm kích.”

“Có gì đâu ạ,” tôi nói.

“Rất nhiều là khác,” bà đáp.

“Ồ,” tôi nói, và hai người chúng tôi đứng trong yên lặng, nắm tay nhau như hai đứa trẻ bẽn lẽn trong một cuộc hẹn.

Một phút sau, Alice nói: “Cô không biết liệu cháu có thể giúp cô một việc không. Nghe có vẻ lạ lùng đấy.”

“Việc gì vậy cô?”

“Cô không biết liệu cháu có thể ôm cô và siết cô thật chặt không. Ý cô là thật chặt ấy.”

“Cô nói thật chứ?”

“Thật,” bà đáp. “Nhé!”

Tôi vụng về vòng tay qua vai bà và ôm siết lấy bà. Tôi không quen bà đến mức có thể từ chối. Tôi hít lấy mùi tóc của bà.

“Hãy chặt hơn nữa,” bà nói. “Đừng e dè với cô. Cô không muốn một người đối xử lịch thiệp với mình ôm lần cuối đâu.”

Tôi hít một hơi thật sâu và áp Alice vào ngực mình. Tôi có thể cảm thấy bộ ngực nhỏ bé của bà qua lớp áo lót, cả xương sườn và sống lưng của bà. Tôi có thể nhận ra bà rất gầy.

“Tuyệt,” bà nói. “Chặt hơn nữa đi.”

Tôi nắm lấy cổ tay bên kia của mình, như một đô vật, và siết bà thật chặt cho đến khi tôi nghe tiếng bà thở dồn. Tôi nhận thấy bà cũng đã ôm tôi.

“Ôi Chúa ơi,” bà thì thầm. “Hãy ôm cô chặt hơn nữa. Đừng thả ra.”

Tôi vẫn ôm bà khi một chiếc ô tô dừng lại ở cửa trước. “Bobby và Jonathan đã về,” tôi nói, nới lỏng vòng tay.

“Ôi, không,” bà nói. “Cô cần tránh chúng thêm một lát nữa.”

Cửa xe đóng lại. “Không sao đâu cô, sẽ ổn thôi,” tôi bất lực nói.

“Cô chưa sẵn sàng,” bà nói. “Cô cần một chút thời gian nữa.”

Cửa trước mở ra. Chẳng có nơi nào để đi cả. Bức tường bao kín quanh sân, cao đến ngực, và phía bên kia là những tòa nhà giống hệt như thế này. “Cô đến đây,” tôi nói. Tôi dắt bà đến góc xa nhất của sân, nơi ánh đèn ít chiếu tới nhất.

“Cô hãy đứng đây,” tôi nói, để bà đứng trong góc tường. Tôi có thể nghe tiếng Jonathan gọi mẹ cậu. Một ô cửa sổ lấp lánh ánh đèn.

“Cô đâu có khóc,” bà nói. “Đúng không?”

“Đúng. Cô cứ đứng đây,” tôi nói. Tôi đứng che trước mặt bà, quay lưng về phía ngôi nhà, chặn lấy ánh sáng.

Bobby nhanh chóng mở cửa sau và đứng trên ngưỡng cửa, một cái bóng hắt xuống qua ánh đèn. “Clare à?” Anh gọi. “Cô Alice ơi?”

“Bọn em không sao, Bobby ạ,” tôi nói. “Vào trong đi. Bọn em sẽ vào ngay.”

“Có chuyện gì thế?” Anh hỏi. “Có chuyện gì không thế?”

“Ôi, đừng để nó ra đây,” Alice nói.

“Không có gì đâu, anh yêu ạ,” tôi gọi với. “Bọn em không sao. Hãy vào đi mà.”

“Sao thế?” Anh bước ra thảm cỏ và đứng cách chúng tôi vài bước. Anh chống tay trên hông, như một người cha đang tức giận. Tôi chưa bao giờ thấy ghét anh đến thế.

“Gì thế?” Anh nói.

Lúc đó, Alice bật khóc vì xấu hổ và đau buồn. Những tiếng nức nở khô khốc kéo dài bị chặn lại nơi cổ họng bà và tạo ra một âm thanh nghẹn ngào. “Cô Alice à?” Bobby hỏi.

“Dĩ nhiên đó là cô Alice,” tôi nói. “Vào trong đi.”

Anh đến và đứng cạnh tôi. “Cô Alice?” Anh nói, như thể anh không nhận ra bà.

Tôi đặt tay lên vai bà. Tôi không định ôm bà. Tôi chỉ giữ lấy bà, để bà không có cảm giác hụt hẫng.

“Ôi, cô Alice, con xin lỗi,” anh nói. “Ôi Chúa ơi, con rất, rất xin lỗi.”

“Con đâu có làm...” là tất cả những gì Alice có thể thốt ra.

Bobby hít một hơi thở mạnh và cũng bật khóc. Tôi muốn đấm anh. Sao anh dám tỏ ra yếu đuối trong một khoảnh khắc như thế này? Tôi thực sự đã giơ một tay lên để làm thế, để tát anh thật mạnh. Tôi đã luôn muốn làm một động tác như vậy. Nhưng tay tôi dừng lại nửa chừng và thay vào đó, theo đà của sự kiềm chế, nhẹ nhàng đặt lên lưng anh. Tôi còn có thể làm mình với tay mình nữa? Tôi không phải mẫu người anh hùng. Tôi không định dùng bạo lực. Bobby rung lên, và khi tôi chạm vào anh, sự run rẩy của anh truyền qua tôi như một cú sốc điện. Tôi bất chợt nghĩ đến bố tôi. Đột nhiên tôi thấy ông hiện ra trong óc mình, rõ ràng như trong một tấm ảnh, điển trai và ngạo mạn trong chiếc áo choàng mùa đông. Tôi để một tay trên người Alice và một tay trên người Bobby. Tôi có thể thấy bố tôi một cách rõ ràng, và mẹ tôi: phẫn nộ, giỏi giang, có tuổi trong chiếc áo khoác đỏ vai vuông. Tôi thấy Ned rõ rệt như thể tôi biết rõ ông, bị người vợ bất mãn xua đuổi, đang xem phim giữa lượng khán giả cứ ít dần đi, mơ về Faye Dunaway[59] hay Elizabeth Taylor[60].

[59] Faye unaway (sinh ngày 14 tháng 01 năm 1941): nữ diễn viên nổi tiếng người Mỹ.

[60] Elizabeth Taylor (sinh ngày 27 tháng 2 năm 1932): nữ diễn viên người Mỹ sinh tại Anh, nổi tiếng vì sắc đẹp và tài năng diễn xuất. Bà đã được Viện phim Mỹ xếp vào hàng ngũ những ngôi sao điện ảnh Mỹ vĩ đại nhất mọi thời đại.

Tôi ôm lấy Bobby và Alice, rồi bỗng dưng ngửa đầu ra sau và cười. Không phải vì có gì đó đáng cười. Mà tôi chỉ cười vậy thôi. Tôi biết tôi nên cảm thấy xấu hổ, vì đã cười trong một thời điểm như thế, nhưng mọi chuyện đã đi quá xa. Tôi quyết định không ngại ngùng gì hết, và thực sự cảm thấy thế. Tôi cứ cười mãi. Việc chẳng có gì đáng cười có vẻ chỉ càng làm cho tôi cười nhiều thêm.

Rồi một bàn tay e dè nhẹ nhàng đặt lên vai tôi. Đó là Jonathan, trông rụt rè và khao khát. Bằng cái chạm vai đó, cậu ngỏ ý muốn được cùng đứng vào trong vòng tròn. Tôi tạo khoảng trống giữa tôi và Bobby cho cậu, và vòng tay tôi qua vai cậu để tôi vẫn có thể đặt tay lên Bobby. Tôi vẫn cười. Tôi cảm thấy một thứ gì đó nặng nề bắt đầu lớn dần lên trong tôi, một thứ to lớn và ướt sũng, như một cục bột đã bị tôi nuốt từ lâu lắm rồi đến mức tôi đã quên bẵng đi làm nó đang nằm trong ruột tôi. Tôi cười bố tôi, một người say khướt bị hành hạ vì đã hiến mình cho sự dơ bẩn và lộn xộn, cười người mẹ mạnh mẽ, hay thù hằn của tôi. Tôi cười Ned, một con người mơ mộng đã hóa thành tro và xương, tôi cười Jonathan yếu đuối, cười Bobby và cười chính bản thân tôi, đã mang thai ba tháng sau sinh nhật tuổi bốn mươi với một người đàn ông mà tôi không chắc là mình có thích không. Tôi cười Alice, bị mắc kẹt trong một ngôi nhà “rởm” trong sa mạc vì bà không thể mường tượng ra một cuộc sống không có cái tủ chạn ở góc bếp. Và tôi cười trước tất cả những thứ vụn vặn dơ dáy.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,359
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 2-16


JONATHAN

Clare bị ốm khi chúng tôi đi qua bảy bang khác nhau. Chị buồn nôn lần đầu ở hẻm núi Lớn, tái mét và đứng ngay đơ cạnh một chiếc kính viễn vọng không được dùng tới bên bờ Nam, dõi mắt về phía cảnh đẹp qua đôi kính râm. Khi Bobby ôm lấy thanh chắn, thốt lên trước bờ vực sâu thăm thẳm, Clare đụng vào khuỷu tay tôi và nói nhỏ: “Cưng ơi, tôi không nghĩ là mình có thể chịu đựng được.”

“Chịu đựng cái gì?” Tôi hỏi.

“Cái này,” chị nói, phẩy tay về phía vực thẳm. “Tất cả vẻ đẹp hùng vĩ này. Một khoảnh khắc tuyệt vời như thế này. Nó vượt quá sức chịu đựng của tôi.”

Tôi đứng sát vào chị. Dù sáng hôm đó thật êm ả, nhưng tôi vẫn muốn che chở cho chị khỏi bất cứ ngọn gió nào có thể nổi lên bởi sự rộng lớn của hẻm núi. Mặt trời vừa mới mọc. Nó dát một ánh nắng vàng lên những mặt vách đá, rồi hắt xuống một cái hồ mờ ảo, mơ hồ bên dưới đáy vực tăm tối lờ mờ có vẻ sâu thăm thẳm. Bobby nhảy nhót kích động trước mép vực, tự ôm lấy mình và bất ngờ thốt ra những tiếng rên rỉ khe khẽ.

“Có gì đâu,” tôi bảo Clare. “Chị hãy đứng đây mà ngắm nhìn cũng được, và sau đó chúng ta sẽ đi ăn sáng.”

Từ “ăn sáng” khiến chị nôn ọe. Chị phải bám vào cái kính viễn vọng cho khỏi ngã. Nó kẽo kẹt chĩa lên một dải mây hồng sặc sỡ. Chị cúi xuống, ọe khan, nhưng không nôn ra thứ gì. Một sợi nước dãi đong đưa trên miệng chị, lấp lánh trong ánh nắng.

Tôi ôm lấy vai chị. “Cưng à, chị ốm rồi,” tôi nói.

“Đẹp kinh lên được,” chị nói. “Tốt hơn là nên đưa tôi trở lại chiếc Chevy Nova đó.”

“Chờ chút, em sẽ gọi Bobby.”

“Mặc kệ anh ấy,” chị nói. “Đừng quấy rầy, anh ấy đang xuất thần hay sao ấy.”

Có lẽ chị đã đúng. Bobby đã ngừng những động tác nhảy nhót kích động và giờ đang đứng đó, hai tay đặt trên thanh chắn, như một vị thuyền trưởng đang chỉ huy con tàu của mình trong cơn bão. Cậu dễ bị xúc động quá mức hơn Clare và tôi – cậu không ý thức được rằng mình đã đi quá xa.

Tôi giúp Clare chui vào trong chiếc xe hiệu Chevrolet mà chúng tôi đã thuê. Chị và tôi đã đồng ý lái xe từ Arizona trở về New York, nửa hứng thú nửa không. Đây là buổi sáng đầu tiên trong hành trình của chúng tôi – chúng tôi đã khởi hành từ nhà mẹ tôi lúc ba giờ sáng để kịp đón bình minh trên hẻm núi Lớn. Trong năm ngày tiếp theo, chúng tôi sẽ băng qua dãy núi Rocky và vùng Đồng bằng lớn, viếng mộ ở Ohio, và mua những cái hộp Shaker ở Pennsylvania. Đó là chuyến đi mà Bobby vẫn hằng ao ước. Cậu lái xe hầu như suốt cuộc hành trình, và luôn đòi dừng lại ở các cửa hàng có quảng cáo “Mứt tự làm” hay “Đồ thủ công địa phương,” dù ba phần tư trong số đó được làm từ một địa điểm nào đó ở châu Á. Cậu dùng thẻ tín dụng của tôi để mua những cuốn băng cassette trị giá hơn một trăm đô: của the Stones, David Bowie[61] và Bruce Springteen[62]. Cậu mở đi mở lại đĩa Born to run, cho đến khi Clare phải vứt nó qua cửa sổ trên đường đến Sandusky.

[61] David Bowie (sinh ngày 8 tháng 01 năm 1947): ca sĩ, nhạc sĩ, diễn viên, nhà sản xuất âm nhạc người Anh, ông được coi là người có tầm ảnh hưởng rộng lớn trong âm nhạc đại chúng, đặc biệt là trong thập niên 70 của thế kỉ XX.

[62] Bruce Springteen (sinh ngày 23 tháng 9 năm 1949): ca sĩ, nhạc sĩ người Mỹ, đã giành được rất nhiều giải Grammy.

Tôi dìu chị vào ngồi ở ghế trước. Chiếc ô tô tỏa ra mùi bọc cao su sạch sẽ và chị hít thật sâu, như thế không khí được thanh lọc có thể làm chị hồi sinh. “Cảm ơn cưng,” chị nói. “Giờ cậu đi được rồi. Hãy đi ngắm phong cảnh đi.”

“Không, em sẽ ở đây với chị.”

“Cậu nghĩ tôi muốn bắt cậu ngồi trong một chiếc ô tô bé tí thay vì ngắm nhìn hẻm núi Lớn à? Đi di. Vì Chúa.”

Tôi nghe theo. Tôi đến đứng cạnh Bobby ở thanh chắn. Vào lúc này, trong mùa vắng khách, khu vực quan sát vắng tanh. Một chiếc cốc giấy bẹp rúm nằm lấp lánh trên mép đất đỏ mỏng manh phía bên kia thanh chắn. Ánh nắng sớm, rực rỡ nhưng không ấm áp, lan tỏa trên mặt mũi và quần áo của chúng tôi.

“Ngạc nhiên quá,” tôi nói.

Bobby ngoảnh mặt sang tôi. Cậu không nói gì, và có lẽ mong rằng tôi cũng sẽ như thế. Nhưng tính lịch sự không bao giờ mất đi trong cậu.

“Ừ,” cậu nói.

“Thật không ngờ,” tôi nói. “Ý mình là, ta đã thấy nó quá nhiều lần trên những miếng lót cốc hay khăn lau đĩa và không biết là còn trên những thứ gì nữa. Mình cứ ngỡ có lẽ nó cũng chỉ tầm thường mà thôi.”

“Ừ.”

“Nó thực sự làm Clare choáng váng đấy. Mình đã phải đưa chị ấy trở lại xe.”

“Ừm.” Cậu quàng tay lên vai tôi, vì cậu yêu quý tôi và vì cậu thực sự rất muốn tôi im miệng lại. Tôi vòng tay qua eo lưng cậu. Đây là mùi hương và da thịt quen thuộc, săn chắc của cậu. Chúng tôi cùng ngắm mặt trời mọc. Bobby ấm áp và chắc nịch, đầu óc cậu đầy ắp những ý nghĩ vừa quen thuộc, vừa hoàn toàn xa lạ với tôi. Cổ tay cậu vẫn còn cái nốt ruồi màu nâu đỏ. Clare đang đợi chúng tôi trong xe, chào thua trước phong cảnh này. Vào lúc đó, tôi tin rằng tôi chưa bao giờ yêu ai ngoài bố mẹ tôi và hai người này. Có lẽ chúng ta sẽ không bao giờ quên được mối tình đầu của mình. Có lẽ, do thói ngông tuổi trẻ, chúng ta đã trao đi sự say mê một cách dễ dàng và gần như tùy tiện, với quan niệm sai lầm rằng tình yêu trong chúng ta sẽ không bao giờ cạn kiệt.

Clare lại bị nôn vào sáng hôm sau, ở đỉnh Pikes. “Có lẽ tôi đã bị dị ứng với những di sản quốc gia,” chị nói. Chúng tôi đưa chị đến gần nhà vệ sinh nữ ở một trạm xăng của hãng Shell và đợi chị gần nửa tiếng. Chị trở ra, xanh xao và thẳng đơ, với cặp kính râm trên mặt và đôi môi mới tô lại son đỏ thẫm. Trông chị như một ngôi sao điện ảnh thời xưa. Đằng sau chị, những đỉnh núi đá hoa cương phủ tuyết đứng sừng sững.

“Cưng ơi,” tôi nói, “chúng ta có nên lái xe thẳng đến Denver và đưa chị lên máy bay không?”

“Không,” chị nói. “Tôi nghĩ là tôi không sao đâu. Hôm qua tôi đã khỏi, đúng không? Có lẽ chị hơi khó chịu một chút thôi.”

Thực sự thì chị đã hồi phục lúc mười giờ. Mặt chị hồng hào trở lại, và thân hình đã mất đi vẻ gồng mình, cứng nhắc. Chúng tôi lái xe giữa những cánh đồng xanh mơn mởn, xa xa là những ngọn núi bị che phủ bởi những rặng thông và những cây bạch dương trơ trụi. Đó là một phong cảnh đơn giản, xanh tươi – rộng mở, không ẩn giấu mối đe dọa nguy hiểm nào. Xa hơn về phía bắc, tôi ngờ rằng, địa hình sẽ gồ ghề hơn, những đỉnh núi sẽ nhấp nhô hơn, và nếu bạn đi chệch đường quá xa, bạn có thể bị khoảng mênh mang vô tận giữa trời và đất nuốt chửng. Còn ở đây, nơi trung tâm của Colorado, chúng tôi chỉ đi qua một vẻ đẹp rộng lớn, không đáng sợ. Đó là những ngọn núi và những cánh đồng chăn nuôi gia súc. Đó là những dòng suối lấp lánh bạch róc rách chảy theo đường cao tốc, lô nhô những mỏm đá màu sô-cô-la. Khung cảnh ấy làm bạn xúc động bởi vẻ đẹp trù phú của nó, nhưng không làm bạn thay đổi chút nào. Nó không bao giờ đe dọa sẽ làm tan vỡ trái tim bạn.

Chúng tôi lái xe suốt cả ngày, và đến Nebraska trước khi trời tối. Clare đọc Vogue, Phỏng vấn và Rolling Stone. “Điều mà tôi thích nhất khi đi du ngoạn bằng ô tô,” chị nói, “là mình có thể đọc những cuốn tạp chí ngớ ngẩn hàng giờ liền. Ý mình là, cậu có thể ngắm phong cảnh bất cứ lúc nào, bất cứ đâu. Nhưng cơ hội để đọc hết một cuốn tạp chí Phỏng vấn mà không thấy phí phạm thời giờ? Thật hiếm.”

Chúng tôi ngủ trong một khách sạn ven đường cách Lincoln năm mươi dặm về phía tây, và tiếp tục lên đường ngay sau khi trời hửng sáng. Sáng hôm đó, Clare chỉ bị nôn ọe một chút. Chúng tôi rơi vào nhịp điệu đều đều của việc lái xe, đọc, ăn và nghe nhạc, khi những vùng đất nông nghiệp của Nebraska, Iowa và Illinois cứ vùn vụt trôi qua. Bạn phải đi qua vùng Đồng bằng lớn thì mới hoàn toàn hiểu được sự vắng vẻ của miền này. Những đặc điểm chính của nó không phải là các phương tiện giao thông hay những biểu hiện phong phú mà là một sự hiu quạnh trống trải không hoàn toàn hoang vu – không có chân trời nào thực sự trống vắng. Mặt trời luôn chiếu sáng lên một tháp nước hay một hầm ủ thức ăn cho gia súc phía xa xa, lấp lánh trên một bảng quảng cáo hay một nhà kho tạm thời lợp mái thiếc. Cứ hai mươi hay ba mươi dặm, bạn lại băng qua một thị trấn đang chật vật, nó vẫn tiếp tục tồn tại vì ở vài thời điểm trong quá khứ nó đã được lập ra để tồn tại. Chúng tôi dừng lại ăn cơm trong vài thị trấn kiểu đó, hi vọng được ăn món khoai tây chiên hay bánh nướng được chính tay các bà vợ của những ông chủ quán làm trước đó một tiếng, nhưng hóa ra tất cả thức ăn đều đã nguội ngắt, đã được đun hoặc hâm lại. Những cánh đồng nối đuôi nhau trôi qua. Dù đã được gieo hạt nhưng chúng vẫn còn trơ trụi, những khoảng đất đen trống trải cứ phơi ra dưới bầu trời lạnh lẽo. Clare đọc cho chúng tôi nghe những câu chuyện từ một cuốn sách của Flannery O’Connor[63]. Ô tô của chúng tôi ngày càng trở nên dơ dáy, đầy rác rưởi, ngập ngụa giấy gói và những vỏ chai. Lúc sẩm tối, khi dừng lại ở một khách sạn ven đường ở Indiana, chúng tôi gần như chẳng còn biết gì đến quá khứ và tương lai nữa – có vẻ từ trước tới giờ chúng tôi vẫn luôn lái xe qua những vùng đất nông nghiệp rộng lớn và sẽ mãi làm thế. Đó vừa là điều kinh khủng vừa là điều tuyệt diệu của những chuyến đi đường dài. Bạn quên mất cuộc sống của bạn với một tốc độ thật đáng kinh ngạc. Trong vòng hai tuần, một người đi du hành giữa các vì sao sẽ không còn coi mình là người sống trên trái đất; sau sáu tháng trong vũ trụ, có thể cô ta hay anh ta cũng sẽ không bao giờ quay lại mặt đất nữa.

[63] Flannery O’Connor (1925-1964): nữ văn sĩ người Mỹ, một trong những người có tầm ảnh hưởng của văn học Mỹ.

Ngày hôm sau, chúng tôi lái xe qua Cleveland. Clare bị nôn vào sáng hôm đó, nặng hơn lúc ở Nebraska nhưng ít nghiêm trọng hơn khi ở trên đỉnh Pikes. Lúc chúng tôi đến địa phận thành phố Cleveland, sau mười một giờ trưa, chị đã phần nào hồi phục.

“Cleveland,” chị nói. “Ai ngờ mình lại được ghé thăm một nơi xa xôi, kì lạ như thế này chứ?”

Bobby và tôi bỗng thấy vô cùng hồi hộp khi tới ranh giới thành phố. Chúng tôi chỉ trỏ những tòa nhà cho nhau, bông đùa về tầm cỡ của chúng. Trước đây chúng luôn có vẻ quá to lớn. Chúng tôi lái xe qua những dãy nhà xây bằng đá vôi lộn xộn của khu trung tâm, chọn lối đi quen thuộc. Lộ trình của chúng tôi thật ngắn. Ban đầu chúng tôi băng qua tòa nhà để xe bằng gạch bê tông cao sáu tầng, nơi trước kia là rạp chiếu phim của bố tôi. Tòa nhà mới được xây theo từng tầng dốc thoai thoải, với mũi tên neon màu xanh xinh đẹp vô tình chỉ lối vào. Nó thật thanh bình và đơn giản, hoàn toàn thiết thực, và có vẻ sẽ tồn tại đến hàng trăm năm. Rạp phim cũ của bố tôi, được xây dựng trong thời Suy thoái, đã được trang trí sơ sài, với những viên gạch màu vàng nằm theo kiểu chữ chi và mái che bằng nhôm uốn cong như một cơn sóng biên. Ngay từ hồi mới xây, chắc hẳn nó cũng mang cái vẻ tạm bợ đó, một công trình nhỏ dành cho sự quên lãng và tức cười được dựng lên trong những thời kì khó khăn. Tòa nhà để xe trông nghiêm chỉnh hơn, trông chắc chắn và nhẵn nhụi như một điếu cần sa.

“Thế đấy,” tôi nói. “Bố hãy yên nghỉ nhé.” Tôi cố nói bằng giọng cộc cằn, suồng sã vì tôi không thể chịu được ý nghĩ mình đang trở nên ủy mị trước một khoảnh khắc hiển nhiên như thế. Tôi không ngại tính đa cảm của mình nhưng tôi không thích mình trở thành một kẻ yếu đuối. Tôi chẳng hề thấy tiếc cho công việc kinh doanh đã mất của bố tôi. Tôi mơ hồ cảm thấy xấu hổ và cô đơn, nhưng vẫn bằng lòng với bản thân, đơn giản vì tôi vẫn còn sống, vì tôi vẫn còn tồn tại để bước vào tương lai. Chỉ những người hoài cổ nhất mới không chịu tin rằng khu này của thành phố nhìn chung đã được phát triển. Những nhà hàng mới trưng tên mình với những chữ cái mạ vàng, và một chuỗi cửa hàng bách hóa nổi tiếng đang cải tạo lại cửa hàng của một gia đình đã sập tiệm vốn chất đầy những bộ quần áo lỗi mốt nhếch nhác và những món đồ trang sức bằng ngọc nhân tạo lòe loẹt.

Chúng tôi đi qua ngôi nhà cũ của gia đình tôi, trông nó thật tuyệt vời. Những người chủ mới đã sơn nó thành màu xanh lá thông, và đã lợp lại mái nhà. Tôi co thể hình dung ra tình trạng hiện tại của những căn phòng: đồ gỗ sẽ được sơn thành màu trắng, và thảm trải sàn sẽ bị co lại để trưng ra mặt sàn bằng gỗ sồi. Ở đó sẽ có các tác phẩm nghệ thuật và những bộ bàn ghế bọc da trơn.

“Chết tiệt,” Bobby nói. “Hãy xem họ đã làm gì với nó kìa.”

“Trông nó tuyệt đấy chứ,” tôi bảo cậu. “Đừng dừng lại. Nó không còn là nhà của bọn mình nữa rồi, thậm chí đừng có nghĩ đến việc bước đến cửa trước và xin phép được ngó vào bên trong.”

“Mình đâu muốn làm thế,” cậu nói, dù tôi biết nếu cậu đi một mình thì cậu sẽ làm như vậy. Bobby không có tài bỏ mặc những thứ đó.

Điểm dừng chân cuối cùng của chúng tôi là nghĩa địa. Chúng tôi lái xe đến khu đất nơi Bobby từng sống, băng qua bức tường lát đá thấp, trên đó từ “Woodlawn” nổi lên với những chữ cái làm bằng sắt rèn, chữ “n” cuối cùng đã bị vỡ nhưng hình của nó vẫn còn, một cái bóng mờ nhạt trên đá. Chúng tôi đi theo con đường ngoằn ngoèo, băng qua những ngôi nhà xây theo kiểu bộ ba giống hệt nhau, và dừng xe ở vị trí ngôi nhà cũ của Bobby. Ngôi nhà không còn nữa, nó đã bị thiêu rụi gần hai mươi năm trước và đã bị san phẳng, nhưng vẫn không có ai xây gì trên đó cả. Nơi này không hề được cải tạo. Có vẻ như dân cư ở đây đã tự tiện sử dụng khoảnh đất này mà không chính thức mua nó: một khu vườn nhỏ được khoanh cọc, chuẩn bị cho vụ trồng trọt mùa xuân, và một bộ xích đu gỉ sắt đã được dựng lên giữa đám cỏ dại. Có vẻ như đất đai của nhà Morrow đã trở thành một kiểu công viên ở vùng ngoại ô Cleveland. Những người sống trong khu đó – hiện vẫn còn ở trong những ngôi nhà trệt ọp ẹp tồi tàn, với những chậu tắm cho chim hoặc những chú lùn bằng thạch cao trên bãi cỏ - đã chiếm đoạt nó. Tôi có thể hình dung ra cảnh họ đang tụ tập ở đó trong buổi hoàng hôn, những đứa trẻ đang đu đưa trên cái xích đu cọt kẹt trong khi những người phụ nữ gieo hạt hướng dương và rì rầm tán gẫu về những sự kiện đã xảy ra trong ngày. Đây là một việc hơi bất hợp pháp, một sự chiếm đoạt vô căn cứ của những người không hề giàu có mà chỉ lần hồi sống qua ngày, và mảnh đất đó đã được vỡ hoang theo đúng nghĩa. Bây giờ nếu muốn sở hữu mảnh đất này, bạn phải giành giật lại nó từ những người đã học cách chăm sóc nó. Nếu bạn san phẳng những công trình xây dựng nho nhỏ của họ và dựng lên một căn nhà mới, bạn sẽ là một kẻ xâm chiếm, không khác một tên thực dân là mấy, và mảnh đất này sẽ bị quấy nhiễu cho đến khi ngôi nhà của bạn lại bị sụp đổ. Mảnh đất ngoại ô này đã trở lại với mục đích sơ khai của nó, và không thể được khai hóa lại mà không xảy ra một cuộc chiến khiến cho đôi bàn tay của người chiến thắng bị nhúng chàm.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,359
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 2-17


“Nó đây,” Bobby nói. Clare ngờ vực nhìn quanh. Chị đã không ngờ đến một thứ quá tầm thường như thế, dù chúng tôi đã làm hết sức để chuẩn bị tinh thần cho chị.
Chúng tôi ra khỏi xe và bước trên mảnh đất trống, dưới cái nhìn đăm đăm ngơ ngác, kì quặc của một thằng bé tóc đỏ vẫn đang dào đất bằng một cái thìa từ lúc chúng tôi dừng xe. Khi chúng tôi bước đến đó, Bobby nói: “Chỗ này trước kia là cửa ra vào. Và, ờ, ngay đây là phòng khách. Bếp ở đằng kia.”
Chúng tôi đứng một lúc trong ngôi nhà giờ chỉ còn là ảo ảnh, nhìn ngó xung quanh. Nó đã hoàn toàn biến mất, đã bốc hơi thực sự. Mặt trời chiếu sáng lên mặt đất trống. Clare cúi xuống nhặt một anh lính bằng nhựa màu be bé xíu đang khom mình với một khẩu súng bazooka.
“Anh nghĩ đây là phòng giải trí,” Bobby nói. “Hay nó nằm ở đằng kia nhỉ?”
Chúng tôi đi qua con mương ngăn cách khu đất với nghĩa địa, nhảy qua dòng nước màu nâu đang lững lờ trôi. Bobby nhìn một lúc vào bức tượng thiên thần bằng đá đang cheo leo trên đỉnh một bia mộ, đó là ngôi mộ cao nhất so với xung quanh. Cô đang rướn người về phía trước, kiễng chân, đôi cánh tay thon thả giơ lên với thái độ kích động nhiều hơn là nghiêm trang. Tôi không nghĩ rằng người chạm khắc bức tượng lại định biến cô thành một biểu tượng về giới tính.
“Ở đây từng có một hàng rào,” Bobby nói với vẻ tự hào dè dặt. “Sân sau nhà bọn anh, em biết đấy, kín đáo hơn thế này.”
Tôi nhớ ra rằng thiên thần này đã nhô lên phía trên đỉnh hàng rào nhà Morrow, lơ lửng giữa những cành cây.
“Ừm,” Clare nói. Chị đã trở nên trầm lặng hơn từ khi chúng tôi tới Cleveland. Tôi không thể hiểu được chị đang nghĩ gì.
Bobby dẫn chúng tôi đi thẳng tới chỗ những ngôi mộ của gia đình cậu. Chúng tôi nằm hơi xa so với vị trí ngôi nhà, trong một khu mới hơn của nghĩa đại. Những hàng bia mộ tiếp tục trải dài khoảng mười lăm mét, và xa hơn nữa chúng tôi có thể thấy ranh giới nơi dãy bia mộ kết thúc và đám cỏ liền mạch đang nằm chờ đợi những người, lúc đó, vẫn còn sống.
“Nó đây,” Bobby nói. Bia mộ của bố mẹ và anh trai cậu đều làm bằng đá hoa cương, nhẵn bóng và xám xịt, trông ẩm ướt, chỉ được khắc mỗi tên và ngày tháng năm sinh, năm mất. Chúng tôi đứng trước những ngôi mộ trong im lặng. Bobby nhìn chằm chằm vào những tấm bia mộ với sự kính trọng giản dị và gần như khách quan, như một du khách đến thăm một điện thờ. Đến bây giờ, nỗi đau thương trong lòng cậu đã qua và cậu đã bớt đau xót trước sự qua đời liên tiếp của những người trong gia đình cậu. Họ đã ra đi, cả ba người, và bỏ lại mình cậu ở đây. Một lúc sau, cậu nói: “Đôi khi mình băn khoăn không biết liệu có nên, cậu biết đấy, khắc vài kiểu thông điệp trên bia mộ của họ không. Cậu không thể nhận ra bất cứ điều gì về họ, trừ việc họ là những người thân.”
“Cậu muốn kiểu thông điệp nào?” Tôi hỏi.
“Mình không biết,” cậu nói. “Chỉ là... Ôi, Chúa ơi. Mình không biết nữa.”
Tôi nhìn sang Clare, chị đang nhìn Bobby với vẻ vừa băn khoăn vừa do dự. Tôi nghĩ cho đến lúc đó chị mới nhận ra cậu là người hoàn thiện, độc lập, với một quá khứ mất mát và những mong ước lớn lao. Trước đây, trong mắt chị, cậu là một bộ sưu tập của những điều kì cục và những tiềm năng chưa được khai thác – chị gần như đã tạo ra cậu. Giống như một nhà thôi miên coi đối tượng của mình là một cánh đồng để gieo vào đó những ám thị, có lẽ Clare đã coi Bobby là một dự án mà thành công hay thất bại của nó đều chỉ ảnh hưởng đến riêng mình chị. Chị là người phụ nữ duy nhất mà cậu ngủ cùng. Chị chọn quần áo và cắt tóc cho cậu. Những cuộc hôn nhân sắp đặt có lẽ cũng giống như thế này. Cô dâu mới còn quá trẻ và non nớt đến nỗi dường như cô đã hấp thu sự hợp nhất vào trong da thịt, những khuynh hướng của chồng cô đã xâm chiếm và trở nên không thể phân biệt được với những khuynh hướng của cô. Clare, với vai trò người chồng, chắc hẳn bây giờ mới lần đầu thấy rằng Bobby từng có một cuộc sống bên ngoài tầm ảnh hưởng của chị. Tôi không biết liệu chị đang hài lòng hay thất vọng.
Một lúc sau, chúng tôi rời nghĩa địa. Đáng lẽ chúng tôi nên nói hoặc làm gì đó, nhưng những người đã khuất là chủ đề khó. Điều ấn tượng nhất về họ là sự bất biến. Một nghìn năm nữa họ vẫn chỉ là những người chết như thế này. Tôi đang quen dần với điều đó vì cái chết của bố tôi. Lúc ông còn sống tôi đã nghĩ đến việc rồi đây chúng tôi có thể thay đổi trong mắt nhau. Nhưng bây giờ chúng tôi không thể tu sửa bản thân được nữa. Ông đã mang theo khả năng đó vào ngọn lửa lò thiêu.
Chúng tôi trở vào xe. Tôi sờ vào hai cái khuyên bạc đeo trên tai, nhìn xuống quần áo của mình. Tôi là một người đàn ông đang mặc quần jean màu đen và đi đôi giày cao bồi. Một bên cổ tay tôi đeo mười cái vòng cao su cũng màu đen. Tôi vẫn có thể đi đây đi đó, thay đổi công việc và đọc Turgenev. Tôi có thể có bất cứ loại tình yêu nào.
“Điểm dừng tiếp theo, thành phố New York,” Bobby nói từ sau vô lăng. Nếu không hơi ủ rũ, cậu cũng sẽ trở nên bần thần – đó là phản ứng quen thuộc của cậu trước nỗi buồn. Giọng cậu đã mất đi nhạc điệu và sự du dương, khuôn mặt cậu trở nên uể oải. Tôi chưa bao giờ thấy người khác có những biểu hiện tương tự như thế. Bobby có thể co mình lại khỏi bề mặt của làn da, và khi cậu làm thế, bạn ngờ rằng nếu bạn lấy kim châm vào đầu cậu, bạn phải đợi mũi kim xuyên vào khoảng hai phân thì cậu mới thét lên. Trong trạng thái trống rỗng này, cậu không nói và làm gì khác với bình thường. Lời nói và những hành động của cậu vẫn vậy. Nhưng thứ gì đó trong cậu đã mất đi, sự hăng hái sinh động đã tắt, và cậu bỗng có cái vẻ ù lì mà những người không hiểu cậu lắm có thể nhầm tưởng là ngốc nghếch.
Tôi hỏi liệu cậu có muốn ghé qua tiệm bánh để gặp ông chủ cũ không và cậu bảo rằng không. Cậu nói việc đó sẽ rất mất thời gian, như thể chúng tôi cần tới được New York vào đúng một thời điểm chính xác vậy. Tôi xoa xoa vai cậu khi chúng tôi rẽ vào đường cao tốc. Tôi nghĩ chúng tôi đều cảm thấy bối rối bởi Cleveland, bởi những mục tiêu thông thường và những triển vọng đang tăng lên một cách khiêm tốn của nó. Có lẽ những người khác có một trải nghiệm dễ chịu hơn khi họ thăm lại quê nhà: những người vừa mới thoát ly khỏi những khu nhà ổ chuột công nghiệp hay bị tuột dốc khỏi những đỉnh điểm của sự giàu sang hay hạnh phúc. Có lẽ họ có thể nói một cách dễ dàng rằng: “Tôi từng ở đó nhưng giờ tôi đang ở nơi khác.”
Chúng tôi đều im lặng suốt một tiếng đồng hồ tiếp theo. Clare quá khép mình đến nỗi tôi phải hỏi liệu có phải chị lại buồn nôn không, và chị bảo rằng “không” bằng một giọng bực bội. Pennsylvania hiện ra với những căn nhà kho màu trắng nhấp nhô và những ngọn đồi yên ả trải dài. Chúng tôi như đang lái xe trong một nhà kính nhỏ chứa đầy sự ảm đạm.
Không hề mào đầu, khi chúng tôi tiến đến một tấm biển đề “Bắp rang pho mát của Jay-Dee,” Bobby nói: “Mình đang nghĩ. Hai người có bao giờ muốn, ờ, có một ngôi nhà ở ngoại thành không? Một ngôi nhà mà tất cả chúng ta có thể sống chung ở đó ấy?”
“Ý cậu là cả ba bọn mình?” Tôi hỏi.
“Ừ.”
Clare nói: “Công xã giờ đã lỗi thời rồi.”
“Chúng ta sẽ không trở thành một công xã. Ý anh là, chúng ta giống một gia đình hơn, em không nghĩ vậy sao?”
“Mình cho là thế,” tôi nói.
“Chúng ta chẳng có gì giống một gia đình cả,” Clare nói.
“Dù có thích hay không,” Bobby bảo chị, “bây giờ cũng chẳng lùi lại được nữa.”
Clare nói nhỏ: “Dừng xe.”
“Gì cơ? Sao vậy?”
“Chị bị say xe à?”
“Dừng xe. Hãy dừng xe.”
Bobby đỗ xe ở ven đường, cho rằng chị sắp nôn. Chúng tôi đang ở một nơi thực sự hẻo lánh, trong một dải đất nông nghiệp bị bỏ hoang, với những cánh đồng đầy cỏ dại vào vương vãi rác rưởi. Một tấm biển của trạm xăng Texaco lung linh ở khúc cua của con đường phía trước.
“Cưng à,” tôi nói. “Chị có sao không?”
Chị đã mở cửa gần như trước khi Bobby dừng hẳn xe. Nhưng thay vì thò ra ngoài để nôn thì chị nhảy ra khỏi xe và bắt đầu đi bộ, với một sự kiên quyết dữ dội, dọc theo dải đất ven đường đầy bụi cây rậm rạp. Bobby và tôi ngập ngừng, không biết phải phản ứng thế nào cho thích hợp.
“Sao thế nhỉ?” Tôi hỏi cậu.
“Mình không biết.”
“Chúng ta nên đi theo chị ấy.”
Chúng tôi ra khỏi xe và chạy đuổi theo chị. Một chiếc xe tải mười tám bánh chạy qua, làm khuấy tung bụi cát và một cơn bão rác quanh chân chúng tôi.
“Này,” Bobby nói. Cậu chạm vào khuỷu tay chị. “Này, sao thế?”
“Để tôi yên,” chị nói. “Làm ơn hãy quay trở lại xe và để tôi yên.”
Có thể chị định, một cách tùy tiện, bỏ chúng tôi ở Pennsylvania. Có thể chị định đi nhờ xe về, hay bắt đầu một cuộc sống mới với việc đi lang thang khắp đất nước, làm công việc phục vụ bàn và thuê phòng nghỉ trong những khách sạn ở các thị trấn. Chính tôi cũng đã từng ấp ủ những thôi thúc như thế.
“Clare,” tôi nói. “Clare.” Tôi nghĩ giọng nói của tôi sẽ làm chị bình tĩnh. Tôi là người bạn thân nhất, là người bạn tâm giao của chị. Chị ngoảnh lại. Mặt chị sa sầm, giận dữ.
“Để tôi yên,” chị nói. “Đi đi. Cả hai người.”
“Sao thế?” Bobby hỏi. “Em thực sự bị ốm à?”
“Đúng thế,” chị nói. Để thoát khỏi chúng tôi, chị rời khỏi lề đường và đổi hướng băng qua dải đất hoang bằng phẳng bụi bặm. Những cái lốp xe bị cắt vụn nằm rải rác, và tấm da dẹt của một con gấu trúc bắc Mỹ đã khô quắt lại sau bao mùa mưa nắng. Chúng tôi vẫn cứ đi theo sát bên sườn chị.
“Clare,” tôi nói, “sao thế? Chuyện quái gì đang xảy ra thế?”
Giọng chị rít lên: “Tôi đang mang thai. Được chưa?”
“Mang thai?”
“Chúng mình sắp có con à?” Bobby noi. “Em và anh?”
“Im đi,” chị nói. “Làm ơn im ngay cái miệng khốn kiếp lại. Tôi không muốn có đứa con quái quỷ nào hết.”
“Em muốn mà.”
“Không. Ôi, chết tiệt. Tôi đã để nó được hơn ba tháng rồi. Tôi chưa bao giờ bị ốm nghén cả. Lần trước khi tôi mang thai, tôi đã phá bỏ nó trước khi bất cứ thứ gì như thế này xảy ra.”
“Em muốn có đứa bé này mà,” Bobby nói.
“Không. Tôi chỉ... tôi cũng không biết nữa. Lười biếng và ngớ ngẩn.”
“Đúng. Chúng ta có thể có nó. Cả ba chúng ta có thể có nó.”
“Anh điên rồi. Anh có biết anh điên đến mức nào không hả?”
“Một đứa con,” Bobby nói với tôi. “Này. Bọn mình sắp có con đấy.”
“Không phải là bọn mình,” chị nói. “Tôi mới là người có thể có con. Hoặc là không.”
“Cưng ơi, chị có chắc không?” Tôi hỏi.
“Ôi, chắc chắn. Tôi hoàn toàn chắc chắn.”
Chúng tôi đã băng ngang qua nửa cánh đồng, bước mông lung về phía trước. Chẳng có gì ở đó ngoài một hàng cây màu xi măng trơ trụi bao quanh một cánh đồng thứ hai. Tuy nhiên, Clare vẫn đi thẳng về phía đó như thể câu trả lời cho những câu hỏi của chị đang chờ đợi ở nơi chân trời. Ánh nắng nhàn nhạt rọi xuống qua một làn mây mỏng.
“Clare,” Bobby nói. “Dừng lại đi.”
Chị dừng lại. Chị nhìn quanh, và có vẻ lúc này mới nhận ra rằng chị đang ở giữa một vùng đất rộng lớn, không có điểm đến hợp lý nào gần đó cả.
“Tôi không thể làm như thế này được,” chị nói. “Tôi chỉ nên yêu một người, hoặc nuôi con một mình.”
“Em chỉ đang sợ thôi,” Bobby nói.
“Tôi mong là thế. Tôi thà sợ hãi còn hơn là tức giận. Và xấu hổ. Tôi thấy mình như một đứa ngốc vậy. Chúng ta sẽ làm gì, đăng ký những lớp học sinh nở cùng nhau à? Cả ba chúng ta ấy?”
“Em nghĩ thế,” tôi nói. “Sao lại không chứ?”
“Tôi không lạ đời đến thế đâu,” chị nói. “Dù mái tóc của tôi có kì quặc thế nào.”
Chị nhìn Bobby và rồi nhìn tôi với một vẻ mặt vừa khinh khỉnh vừa van nài. Chị đã bốn mươi, mang thai, và yêu hai người đàn ông cùng lúc. Tôi nghĩ thứ khiến chị không thể chịu đựng nổi là điều trớ trêu của cuộc đời chị. Giống như nhiều người trong số chúng ta, chị đã lớn lên với hi vọng có được một mối tình đàng hoàng, không lệch lạc.
“Can đảm lên,” tôi bảo chị. Bobby và tôi đứng trước mặt chị, bối rối, bơ vơ và chẳng biết làm gì, bị ám ảnh bởi một tình yêu đau đớn mà hỗn loạn, không chịu tập trung theo cách thông thường. Những phương tiện giao thông gầm rú đằng sau chúng tôi. Một chiếc xe tải bóp còi hơi, một âm thanh dữ dội. Clare lắc đầu, không phải để phủ nhận mà là vì bực tức. Vì không thể nghĩ ra điều gì khác để làm, chị lại bắt đầu bước đi, chậm hơn, về phía hàng cây.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,359
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 3-1


BOBBY

Những thú vui ở chốn thị thành quả là quá phức tạp đối với việc nuôi dạy một đứa trẻ. Chúng rất dễ dẫn đến sự sa ngã. Tôi nghĩ thế, và Jonathan cũng vậy. Clare không chắc lắm – nàng lo rằng sự êm ả quá mức có thể làm thui chột trí tưởng tượng của đứa bé.

“Nếu nó trở thành một đứa cù lần thì sao?” Nàng nói. “Em không muốn đứa con nào của mình lại lớn lên để trở thành một người quá tốt bụng cả. Em không thể chịu được điều đó.”

Tôi nhắc nàng nhớ lại rằng New York đã chuẩn bị những gì cho những người quá nhỏ bé và không mấy hiểu biết, những người khó có thể giành được một chỗ đứng ở đó. Tôi nghĩ ra những con số xác suất về những trường học ở thị trấn và những hiệu quả của màu xanh tới sự phát triển tâm lý.

“Và nghe này, ở thời buổi bây giờ, đâu còn cái khái niệm cứ lớn lên ở nông thôn là người ta lại hiền lành tốt bụng nữa,” Jonathan nói. “Hầu hết những kẻ sát nhân thực sự gây xôn xao đều xuất thân từ những trang trại vô chủ và những khu nhà lưu động đấy.”

“Ừm, thôi được rồi,” cuối cùng Clare nói. “Tôi nghĩ New York là nơi để mọi người đổ xô đến. Nếu chúng ta nuôi con ở đây, nó sẽ chuyển về nông thôn khi nó lớn lên mất.”

Và thế là chúng tôi bắt đầu gọi điện thoại. Chúng tôi bắt đầu lái xe ra ngoại thành để tìm kiếm những mảnh đất quá xa lạ hoặc hoang vắng mà chúng tôi có thể mua bằng tiền thừa kế của Clare. Khi đi mua những bất động sản rẻ tiền, bạn sẽ có được cái nhìn của người trong cuộc về sự thất bại thường nhật của con người. Bạn ngửi thấy mùi cây cỏ ẩm ướt từ bên ngoài len lỏi vào qua những tấm ván lát tường ẩm thấp, trông thấy những trần nhà và sàn nhà đang dần dần xuống cấp. Bạn thấy được thời tiết và tình trạng mục nát đã chiến thắng thế nào chỉ bằng cách tiếp tục, ngày này qua ngày khác, cho đến khi nào tiền bạc cạn kiệt.

“Chúng ta không thể dừng lại quá lâu để suy nghĩ được,” Clare cứ lải nhải. “Chúng ta phải tiếp tục tìm kiếm. Nếu chúng ta dừng lại và suy nghĩ quá lâu, em e rằng em sẽ đổi ý đấy.”

Sau ba tuần, chúng tôi đã tìm được một ngôi nhà hai tầng màu nâu cách Woodstock năm dặm, một căn nhà không mấy giá trị với những ưu điểm và nhược điểm gần như tương đương. Những bức tường được xây trên một nền móng vững chắc. Giá nhà lại rẻ - vì chủ nhà muốn bán tống bán tháo nó đi. Ánh sáng từ đồng cỏ linh lăng bồng bềnh qua những căn phòng như thể thời gian đang ngưng đọng. Nước giếng trong và lạnh hệt như nước được chảy ra từ vòi.

Nhược điểm của ngôi nhà là hệ thống dây điện đã xuống cấp còn hệ thống ống nước thì bám đầy gỉ sắt. Ván lát sàn bằng gỗ thông cũ đầy rẫy những con kiến đục gỗ và đang trong tình trạng mục khô.

“Ít nhất thì nơi này cũng có một linh hồn,” Jonathan nói. “Chị biết ý em là gì không? Em cảm thấy bây giờ vẫn còn chưa quá muộn. Nơi này vẫn chưa bị hư hỏng hoàn toàn.”

Clare gật đầu. Nàng miết ngón cái theo khung cửa, và nhìn vào ngón tay với vẻ tần ngần.

“Có vẻ được đấy,” tôi nói. “Nơi này không gây ra cho em cảm giác gì sao?”

“Hừm,” Clare nói. “Buồn nôn. Chóng mặt. Hoảng loạn.” Nàng vẫn nhìn vào ngón tay cái.

Chúng tôi bàn bạc trong một tuần, và mua ngôi nhà đó. Kèm theo nó là cả cái giếng và ánh nắng chiếu, cùng mười lăm cây sồi, tám cây thông, một bụi mâm xôi, và một cặp mộ quá cũ đến nỗi bia mộ đã bị bào mòn nhẵn thín. Khi Clare ngồi trên cái ghế nhựa màu xanh, với cái bụng to, để ký giấy tờ, nàng nói: “Tạm biệt, Paris và Istanbul.”

Jonathan thêm vài: “Tạm biệt, thời trang Armani. Tạm biệt, những đôi giày cá sấu.” Hai người họ cùng thốt ra một tiếng cười hơi chua chát. Và rồi việc mua bán hoàn tất. Clare đã mua cho tất cả chúng tôi một sự khởi đầu mới bằng tài sản kiếm được từ kim cương giả của người ông quá cố của nàng. Để chúc mừng, nhân viên của công ty bất động sản đã cùng chúng tôi uống rượu vang trắng đựng trong những cái cốc xốp màu trắng.

Khi rời khỏi căn hộ ở New York, chúng tôi đã vứt đi tất cả những thứ bị hư hỏng hay vỡ nát – chúng chiếm gần một nửa số tài sản của chúng tôi. Chúng tôi vứt chúng ra đường như món quà biếu dành cho những người mới đến, những người đang tràn đầy hi vọng trước cuộc sống mới ở nơi mà chúng tôi sắp rời đi này. Từ cửa sổ, chúng tôi ngắm nhìn những người qua đường đến lấy và mang chúng đi. Một phụ nữ lấy cái đèn dung nham. Hai gã đầu trọc và một cô gái xăm mình mập mạp thì lấy đi cái sofa bọc vải polyester da báo bị võng.

“Tạm biệt, những kho báu,” Clare nói. Hơi thở của nàng tạo nên một làn khói mong manh trên kính.

“Tạm biệt, những món phế thải từ thùng rác ở các cửa hàng đồ cũ,” Jonathan nói. “Cưng à, có những lúc chúng ta chẳng cần phải tiếc nuối thứ gì hết.”

“Tôi đã tha cái sofa đó về đây từ phố Sáu mươi bảy,” nàng nói. “Nhiều năm trước, cùng với Stephen Cooper và Bill Choắt. Bọn tôi đã khiêng thứ chết tiệt đó qua vài dãy nhà, dừng lại và ngồi lên nó, rồi lại đi thêm vài dãy nhà nữa. Chúng tôi đã mất cả đêm để mang nó về. Có lúc đám ăn xin cũng ngồi lên nó với chúng tôi, và tất cả chúng tôi cùng nhau uống bia. Đêm đó chúng tôi đã kết bạn được với rất nhiều người.”

“Và giờ thì chị sắp được làm một bà chủ nhà và một bà mẹ rồi,” Jonathan nói. “Chị có thực sự muốn mình tha thẩn nhặt nhạnh quanh các con phố của New York suốt đời không?”

“Bill Choắt mất rồi,” nàng nói. “Tôi đã bảo cậu chưa nhỉ?”

“Chưa.”

“Corinne bảo tôi thế. Anh ấy mất ở Nam Carolina, ôi, ít nhất đã được một năm rồi. Trước đó chúng tôi đều đã mất liên lạc với anh ấy.”

“Em rất tiếc. Stephen vẫn ổn chứ?”

“Ôi, Stephen vẫn ổn. Anh ấy đã thực sự mở một tiệm kim hoàn ở mũi Cod. Tôi cho rằng anh ấy đang kiếm bộn tiền nhờ vào việc bán những con cá voi và những con mòng biển nho nhỏ bằng vàng cho khách du lịch.”

“Chà,” Jonathan nói. “Tuyệt quá. Ý em là, ít nhất anh ấy vẫn còn sống.”

“Ừm.”

Chúng tôi nhìn theo chiếc sofa được mang đi trên phố Bốn Đông. Trên vỉa hè, phía dưới cửa sổ của chúng tôi, một cặp đôi mặc áo khoác da đang reo lên trước chiếc đồng hồ treo tường cũ của Clare – một chiếc có hình boomerang bằng nhựa màu vàng với những con số điện tử màu hồng và đỏ.

“Không thể tin nổi là tôi lại nghe theo lời xúi giục của cậu mà ném cái đồng hồ đó đi,” nàng nói. “Tôi sẽ xuống dưới đó và bảo họ là tôi đã nhầm.”

“Quên đi,” Jonathan nói. “Họ sẽ giết chị đấy.”

“Jonathan, chiếc đồng hồ đó là một vật đặc biệt. Nó đáng tiền đấy.”

“Cưng ơi, nó hỏng rồi,” cậu nói. “Nó đâu còn báo giờ nữa. Hãy để họ lấy nó đi.”

Nàng gật đầu và lặng lẽ dõi theo cặp đôi kia chạy bộ về hướng đại lộ Một, chuyền qua chuyền lại chiếc đồng hồ như một quả bóng bầu dục. Nàng xoa xoa cái bụng bầu của mình. Hơi thở của nàng phả lên mặt kính.

Đó là hơi mười tháng trước. Còn hiện giờ chúng tôi đang sống trong một cánh đồng quay mặt về phía núi. Những bông hoa có mũi nhọn màu xanh leo lên những thanh hàng rào nhà chúng tôi. Những con ong kêu vo ve trong nhịp hối hả của công việc hằng ngày, và một bầu trời màu xanh sữa lơ lửng sau những rặng cây. Đây là dãy núi già. Mưa gió đã bào mòn chúng. Chúng không nhấp nhô hay hùng vĩ như những dãy núi “ăn ảnh” hơn. Những ngọn núi này đổ xuống một cái bóng bằng phẳng – những vách đá của chúng không gợi nhắc đến sự va chạm của những đĩa lục địa. Chúng được những cây thông bao quanh. Chúng nhô những hình bán nguyệt khiêm tốn lên bầu trời.

“Em ghét phong cảnh,” Clare nói. “Nó quá hiển nhiên.” Nàng đang đứng cạnh tôi trên bãi cỏ không được tỉa xén. Đó là tháng Tư đầu tiên của thập kỉ mới và nàng là một Clare mới. Giờ nàng sắc sảo hơn, những lời nói đùa châm biếm hơn. Đáng lẽ việc trở thành một người mẹ phải khiến nàng dịu dàng hơn thế.

“Ôi, thôi nào,” tôi bảo nàng. “Hãy cố vượt qua điều đó đi, nhé?”

Một đôi quạ bay lướt qua ngôi nhà. Một con phát ra tiếng kêu khàn khàn, như tiếng hai miếng kim loại xoắn vào nhau.

“Lũ chim ó,” Clare nói. “Lũ chim ăn xác thối. Chúng đang chờ người đầu tiên trong số chúng ta chết vì buồn chán đấy.”

Tôi khẽ hát vào tai nàng. Tôi hát: “Lúc chúng tôi đến Woodstock, chúng tôi có tới nửa triệu người, và khắp nơi tràn ngập những bài ca và những lời tán tụng.”

“Thôi đi,” nàng nói, xua bài hát đi như thể nó là một con quạ khiêu khích. Những chiếc vòng tay bằng bạc của nàng kêu leng keng. “Điều duy nhất mà em chưa bao giờ ngờ tới,” nàng nói, “là rốt cuộc mình sẽ trở thành một kẻ hippie lụ khụ.”

“Em biết đấy, đó đâu phải là điều tệ nhất,” tôi nói.

“Quá muộn rồi,” nàng nói. “Những quả bom bướm đang quay lại những chiếc máy bay ném bom. Anh không nhận thấy sao? Người ta sẽ xây những tòa chung cư trên ngọn núi đó, cứ chờ mà xem.”

“Anh không nghĩ thế. Anh nghĩ nó sẽ không có đủ khách hàng đâu.”

Nàng nhìn dãy núi như thể tương lai được viết trên đó bằng những chữ cái nhỏ bé lấp lánh. Nàng nheo mắt. Trong một thoáng, nàng giống như một phụ nữ nông thôn, gân guốc và đa nghi, và không bao giờ để ý đến son môi hay những chiếc áo màu lục nhạt. Nàng có thể giống như bà ngoại tôi, đứng trên rìa mảnh đất ở Wisconsin của mình, bất mãn nhìn ra sự rộng lớn của thứ mà bà không sở hữu.

“Miễn là vẫn có đủ khách hàng cho Tiệm ăn Gia đình. Chúa ơi, em vẫn không thể tin được là chúng ta lại quyết định đặt tên cho nó như thế.”

“Người ta sẽ thích cái tên đó,” tôi nói.

“Ôi, nó thật quá kì cục. Nó quá lỗi thời và... kì cục.”

“Ồ, chỉ một chút thôi mà,” tôi nói.

“Một chút cái gì chứ.”

Nàng quá gay gắt và khó chịu, quá giống với bản thân đã bị thay đổi của nàng, đến mức một niềm vui khó hiểu chợt dâng lên trong tôi. Nàng quá thật, quá Clare. Tôi chợt ngó ngoáy một điệu nhảy. Nó không quyến rũ chút nào, cũng không tuân theo những luật chặt chẽ, vô hình về nhịp điệu – tôi giống như một con rối bằng gỗ nhỏ bé trên một sợi dây. Clare đảo mắt như một người vợ. Ở đây có chỗ cho những sự kì quặc thường nhật.

Nàng nói: “Em thấy mừng vì ít nhất một người trong chúng ta cũng cảm thấy hài lòng với tất cả chuyện này.”

“Ôi cưng ơi, em thấy không hài lòng điều gì nào?” Tôi nói. “Giờ đây chúng ta đã là một thứ gì đó, ý anh là chúng ta sẽ không bị chia lìa chỉ vì một người trong chúng ta muốn thế.”

“Nếu mà đúng như thế thì tốt,” nàng nói.

“Em có biết mai này anh muốn làm gì không? Anh muốn sửa lại cái nhà kho thành một ngôi nhà nhỏ riêng biệt, để cô Alice có thể chuyển đến đây khi cô ấy đã chán công việc nấu nướng thuê.”

“Ôi, chắc chắn rồi. Hãy xây cả một ngôi nhà tranh cho giáo viên lớp bốn cũ của em nữa.”

“Clare?” Tôi nói.

“Ừm?”

“Em thực sự không thấy hạnh phúc khi ở đây à? Ý anh là, đây là cuộc sống của chúng ta. Đúng không?”

“Ồ, đúng vậy. Đây là cuộc sống của chúng ta. Anh hiểu em mà, em suy nghĩ dưới dạng phàn nàn. Đó là cách trí óc em làm việc.”

“Đúng,” tôi nói.

Chúng tôi đứng ngắm những ngọn núi, rồi quay sang ngắm ngôi nhà. Ngôi nhà này đã quá cũ đến nỗi linh hồn của nó đã ngấm vào trong những bức tường. Nó không chứa những nỗi bất hạnh của riêng ai mà là nơi ghi dấu những tháng ngày của mười thế hệ, những bữa ăn và những cuộc cãi cọ, những lần sinh nở và những hơi thở cuối cùng. Giờ đây, ngay lúc này, nó là một sự kết hợp tai tiếng giữa những nỗi thất vọng cũ và mới. Những tấm ván lát sàn nhà đang mục nát, và căn bếp đã được tu sửa chật ních với lớp vải sơn lót sàn màu cam và những cái tủ con giả gỗ kiểu Tây Ban Nha. Chúng tôi sẽ sửa lại căn nhà, dần dần, bằng số tiền chúng tôi kiếm được nhờ tiệm ăn của mình. Chúng tôi từ thành phố đến đây để tạo nên một cuộc sống mới với tài năng và công cụ, cùng niềm tin vào một tương lai rộng mở. Jonathan và Clare thường nhìn ngắm ngôi nhà và ngẫm nghĩ xem liệu nó có thể trở thành cái gì. Họ nói về những đồ vật cố định cổ xưa, những khung cửa sổ trượt loại “tám-tám”[64], một bệ lò sưởi bằng đá vôi được lấy từ một ngôi nhà ở Hudson và được chở về đây. Dù không phản đối sự cải tiến, nhưng tôi vẫn thích ngôi nhà như nó vốn có, với sàn nhà thủng lỗ chỗ và những tấm ván hóa học vân gỗ, như thể nỗi buồn và sự lười biếng đã trở thành một vật cố định trong nhà. Nằm trên một khoảnh đất um tùm rộng tới bốn mẫu, ngôi nhà trông thật xứng với dãy núi già. Nó cũng hiền hòa và không còn nguyên vẹn. Nó cũng đã bị khuất phục bởi thời gian.

[64] Loại cửa sổ đôi khung trượt, với mỗi khung được chia thành tám ô.

“Em vẫn đang nghĩ,”Clare nói. “Nếu chúng ta sơn những ô kính cửa sổ thành màu xanh thì sao? Màu xanh cô ban chẳng hạn, anh biết không? Anh có nghĩ trông nó sẽ quá nhí nhảnh không?”

“Hãy hỏi Jonathan ấy,” tôi đáp. “Cậu ấy là người hiểu rõ về những thứ như thế.”

Nàng gật đầu. “Bobby này?” Nàng nói.

“Ừ?”

“Ôi, em không biết nữa... Em đi vòng quanh nơi này và cảm thấy mình như đang đứng trên cánh của một chiếc máy bay ở độ cao chín nghìn mét vậy. Em cho là em muốn anh và Jonathan cũng nghĩ giống em rằng chuyện này quả thật là lạ.”

Từ trong nhà, đứa bé bắt đầu khóc. “Chính vì nó đấy,” Clare nói. “Em luôn tự gây ra sai lầm, trước kia em chưa bao giờ phải lo lắng cho ai như thế này.”

“Không sao đâu,” tôi bảo nàng. “Mọi chuyện đều ổn và hoàn hảo mà. Hãy tin anh đi. Được không?”

Nàng do dự gật đầu. Nàng vẫn cứ lo lắng dù trong lòng cũng muốn tin. Lo lắng là một trong những yếu tố khiến nàng hay cáu kỉnh, nàng đang cố bộc lộ một tính cách hợp với những mong đợi tệ nhất của nàng.

“Hãy đến xem Jonathan làm ăn ra sao với con bé nào,” nàng nói.

“Ừ. Đi thôi.”

Chúng tôi cùng nhau đi vào nhà. Cánh cửa ra vào mở thẳng vào phòng khách, một căn phòng lớn hình chữ nhật tồi tàn vẫn còn dán giấy có họa tiết những con chim đại bàng đỏ dữ tợn và những cái trống màu xanh. Vào thời điểm này trong ngày, ánh nắng chênh chếch xiên vào từ ba phía đang ngập tràn căn phòng. Jonathan đang đi một vòng với Rebecca ngồi trên vai. Nó khóc i i, một chuỗi tiếng ngằn ngặt như những tiếng nấc đáng xấu hổ.

“Những cơn khóc hờn vô cớ,” cậu nói. “Tã lót của nó không hề hấn gì, và nó mới ăn nửa tiếng trước.”

“Để tôi thử xem nào,” Clare nói.

Jonathan không giấu nổi sự miễn cưỡng. Cậu không muốn bỏ cuộc với con bé, ngay cả với những giấc mơ của nó. Nhưng khi Clare chìa tay ra, cậu vẫn trao nó cho nàng.

Clare ôm nó vào lòng, thì thầm với nó: “Này, con yêu,” nàng nói. “Sao thế? Có gì không hài lòng à?”

Rebecca nặng chín cân, với mái tóc tơ và đôi mắt sẫm dữ dằn. Mới được mười một tháng mà nó đã có tính nết riêng. Nó hay trầm ngâm. Nó cưỡng lại cả nỗi buồn và tiếng cười cho đến khi chúng lấn át nó, buộc nó hoàn toàn bỏ cuộc.

Clare bế nó đi quanh phòng khách, thủ thỉ với nó. Nàng nói chuyện với con bé hệt như cách nàng nói chuyện với Jonathan hay với tôi, trong những câu đầy đủ, nhưng khi nói với con bé, giọng nàng không ẩn chứa một cơn thịnh nộ nào.

“Này, tiểu thư Rebecca,” nàng nói. “Nàng chẳng biết điều gì cả. Nhưng, này, nàng cần gì phải thế nhỉ? Chúa ơi, nếu tôi bắt đầu cằn nhằn để nàng biết điều hơn, nàng sẽ bắn tôi chứ hả?”

Jonathan ngắm họ với vẻ say sưa trìu mến. Thiên chức làm cha mẹ đã mang lại vài điều ngạc nhiên – điều lớn nhất chính là sự tận tụy ghê gớm của cậu. Clare và tôi điềm tĩnh hơn trước vẻ yếu ớt và những nhu cầu bất tận của Rebecca. Jonathan chưa hề nghỉ ngơi từ khi con bé bước vào cõi đời này. Cậu là một bằng chứng sống cho việc sức mạnh của tình yêu có thể làm thay đổi suy nghĩ của con người.

Giờ đây cậu đã có một thứ cần thiết để gìn giữ. Giờ đây trong mọi câu chuyện bi kịch mà cậu tự kể đã có một nạn nhân nhỏ bé.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,359
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 3-2


Rebecca không chịu nín, và chúng tôi đành mang nó ra ngoài. Nó cứ khóc mãi như một cái thuyền máy bị chìm đắm trong tiếng động cơ và bụi nước. Chúng tôi bế nó đi quanh khu đất, và để nó khóc ầm ĩ trong không khí buổi trưa. Jonathan ngắt lấy một bông cúc. Cậu huơ huơ bông hoa trước khuôn mặt nhăn nhó đỏ gay của con bé.

“Này, bé con,” cậu nói. “Này. Hãy xem thứ này lạ chưa này.” Trong tất cả các nét tính nết của nó, Jonathan yêu nhất là vẻ hay ngạc nhiên. Cậu gần như phát khóc khi nó tròn xoe mắt nhìn chằm chằm vào một cuộn len hay một cái thìa uống trà lấp lánh dưới ánh mặt trời. Nhưng nó vẫn cứ khóc dù bông cúc ở ngay trước mặt.

“Không thể bị những bông hoa mua chuộc đâu,” Clare nói. Giọng nàng toát lên vẻ hãnh diện thật sự. Nếu Jonathan yêu con bé vì nó là thính giả tuyệt vời nhất trên đời này, thì Clare lại yêu cái tính cố chấp bướng bỉnh với những bí ẩn riêng của nó.

Chúng tôi bước đến rừng cây sau nhà. Ở đây, trong bóng râm bất tận, không hề thấy một cọng cỏ. Chỉ có những thứ rác rưởi của rừng – những quả thông, những cành cây rụng và phân của những con hươu. Chúng tôi đi giữa những rặng cây yên tĩnh, kéo theo tiếng khóc ầm ĩ của Rebecca như một chiếc khăn óng ánh.

Clare hỏi: “Hôm nay hai người đã gọi thợ sửa ống nước chưa?”

“Rồi,” Jonathan nói. “Phải đến thứ Ba tuần sau nữa anh ta mới dành thời gian cho chúng ta được. Sao chị không để em thử dỗ con bé lần nữa xem nào?”

“Chết tiệt. Ngôi nhà này chắc phải đến thế kỉ sau mới được hoàn thiện mất. Cậu cũng biết thế, đúng không?”

“Đâu cần quá vội vàng thế,” Jonathan nói. “Lại đây nào, Rebecca.”

Cậu giơ tay ra đón nó, nhưng Clare vẫn ôm nó khư khư.

“Đâu cần quá vội vàng thế,” nàng nhại lại. “Vậy chúng ta cứ phải giữ nước nóng trong lò suốt đời à?”

“Chúng ta là những người khai hoang mà,” Jonathan nói. “Không thể mong đợi một cuộc sống tiện nghi ở ngoại ô ngay tức khắc được.”

“Tôi nghĩ,” nàng nói, “rằng cả hai người đều đần độn kiểu gì ý. Tôi thực sự nghĩ thế đấy.”

Nàng ôm chặt con bé và rảo bước đi lên trước chúng tôi, tiến sâu vào trong rừng. Những tia sáng, bị những cành thông chặn lại, treo lơ lửng. Jonathan vội chạy theo sau nàng, như thể cậu cho rằng nàng đang định đem Rebecca đi và một mình nuôi nó ở nơi hoang dã.

Gần một tuần nữa, tiệm ăn của chúng tôi sẽ được khai trương. Jonathan và tôi làm việc suốt ngày để hoàn thiện nốt. Nó không lớn, chỉ là một tiệm ăn kê được chín cái bàn, trước đây vốn là một quán rượu. Chúng tôi đã cải tạo lại quán rượu ấy như một cặp cô dâu lấy chồng ngoại quốc mới đến biên giới. Chúng tôi đã sơn nó thành màu trắng, và treo lên cửa những tấm rèm sọc. Jonathan còn dán tấm ảnh cũ lên tường: những tấm ảnh tập thể ở trường của lũ trẻ đeo nơ con bướm và mặc áo choàng không tay, những người đàn ông và đàn bà mặc quần soóc Bermuda kẻ ô đang nằm phơi nắng bên một cái hồ, một bà lão đang xúc tuyết. Cậu treo lên đó cả một con cá hồi to kỉ lục bị bắt được vào năm 1957 và một cái giá đựng đầy những cái cúp. Đó là những bức tượng nam nữ màu vàng kim, khỏa thân nhưng không gợi tình, như những thiên thần, đang biểu diễn sự xuất sắc của con người trong môn bowling, golf, cầu lông và quyền công dân. Đây sẽ là một tiệm ăn đơn giản, chỉ phục vụ bữa sáng và bữa trưa. Chúng tôi mua những chiếc bàn và ghế không đồng bộ ở những cửa hàng đồ cũ, nơi chúng tôi tìm được những chiếc cúp, những bức ảnh và con cá hồi bóng loáng đó.

“Đến đây nào, mọi người,” Jonathan nói. “Tiệm ăn Gia đình sắp khai trương đây.” Cậu trát sơn trắng lên gờ tường. Cậu đang mặc quần yếm, và mái tóc được buộc túm ra sau kiểu đuôi ngựa.

Tôi đang ở trong bếp, chất những lọ mứt và nước xốt cà chua loại hai cân lên giá. “Họ không gửi mứt dâu tây đến,” tôi nói. “Mà họ gửi đến, ờ, một nửa là mứt phúc bồn tử và một nửa là mứt đào.”

“Mình sẽ gọi điện đến mắng cho họ một trận. Chắc là họ nghĩ họ có thể gửi cho chúng ta bất cứ thứ gì mà họ đang cố tống khứ, vì ngỡ rằng chúng ta không biết gì đấy.”

Khi những cái lọ đã được xếp thành chồng trên giá, tôi đến đứng ở quầy thu tiền, xem Jonathan quết sơn. “Clare nghĩ chúng ta nên coi những điều chúng ta đang làm là lạ lùng,” tôi nói.

“Đúng thế đấy,” cậu nói. “Ai nghĩ là nó không lạ lùng kia chứ?”

“Chà, mình cho rằng cô ấy nghĩ đáng lẽ chúng ta phải thấy thất vọng hơn.”

“Chị ấy lo lắng chỉ vì chị ấy đang phải thanh toán các hóa đơn. Chị ấy đã chờ cả đời để có được số tiền này, thế mà bây giờ, rầm, nó đang bị tiêu mất.”

“Nó đang được, cậu biết đấy, đầu tư chứ,” tôi nói.

“Ừ. Gần đây chị ấy hơi bực tức gì đó thì phải.”

“Ôi, mình không biết nữa.”

“Mình nghĩ thế. Dạo gần dây Clare cứ trái tính trái nết thế nào ấy. Thực sự thì, từ dạo chị ấy mang thai.”

“Ừm, cậu biết đấy,” tôi nói. Tôi nhét một băng cassette mới vào giàn âm thanh. Jimi Hendrix bắt đầu hát bài Are you experienced?

“Mình nghĩ chị ấy sẽ ổn thôi.” Jonathan nói. “Làm cha làm mẹ thật là khó. Bản thân mình cũng thấy khó nữa là.”

Tôi lấy một cái chổi sơn ra và giúp Jonathan quét lại sơn. Jimi phát ra một tiếng gầm nhẹ nhàng, một giọng hát vẫn đang tồn tại từ thế giới của những người đã khuất, khi Jonathan và tôi sơn phủ lên cái gờ tường cuối cùng. Chúng tôi đung đưa theo tiếng nhạc. Khi cùng nhau sơn một bức tường với giọng hát của Jimi vang lên bên tai, tôi cảm thấy một sự hoàn hảo. Thời gian như đan dệt vào nhau, quá khứ bị lẫn lộn với tương lai. Đột nhiên tôi ngỡ ngàng nhận ra: tôi đã có thứ tôi muốn. Một người anh em để cùng làm việc. Một tương lai bị thay đổi, lung linh như chiếc bóng đèn đang treo phía trên đầu chúng tôi.

Đây chính là điều khó nói về chúng tôi: Jonathan và tôi là những thành viên của một nhóm đã tồn tại quá lâu đến nỗi không ai khác có thể gia nhập ngay cả khi chúng tôi muốn có họ. Chúng tôi yêu mến Clare nhưng nàng không hẳn là người trong nhóm. Không hẳn. Thứ đã ràng buộc hai chúng tôi còn mạnh mẽ hơn cả tình dục. Nó mạnh mẽ hơn cả tình yêu. Chúng tôi được gắn kết với nhau. Mỗi người chúng tôi là bản thân người kia được sinh ra trong một cơ thể khác. Chúng tôi có thể yêu Clare, nhưng nàng không phải là chúng tôi. Chỉ có chúng tôi mới có thể cùng lúc vừa là bản thân mình vừa là người kia. Tôi quét sơn lên một vết tróc cũ. Những khuôn mặt bị ố màu của những cô cậu học sinh, giờ đều đã ở độ tuổi bốn mươi và năm mươi, từ trên tường nhìn ra ngoài với sự lạc quan thấy rõ.

Sau đó, chúng tôi khóa cửa tiệm ăn và đi đến chỗ chiếc xe đang đỗ bên đường chính. Tôi thích được đi bộ giữa vạn vật – tôi là người thích thị trấn này. Tôi vẫn đang trên đường đến Woodstock từ khi tôi mới chín tuổi và giờ đây, hơn hai mươi năm sau, tôi đã đến nơi. Anh trai tôi đã đúng – vẫn còn có người ở đây. Đại nhạc hội, theo như tôi biết, đã diễn ra cách đây sáu mươi dặm, trong một đồng cỏ rậm rạp rộng lớn. Một không gian trống trải bao quanh bởi những rặng cây xanh đen. Jonathan và tôi từng thử bơi trong cái ao màu sô-cô-la trong khi Clare ngồi với Rebecca giữa đám cỏ, nhưng bọn muỗi đã buộc tất cả chúng tôi phải trở vào xe. Cuối cùng, chúng tôi đã đi ăn trưa ở một quán mà Clare cho rằng đó là nơi nàng từng đến với vị hôn phu khi họ rời khỏi đại nhạc hội thực sự. Nàng nói những cái bánh hamburger sẽ được kèm theo ba miếng dưa góp và một lớp phủ nước xốt cà chua, quả đúng thế.

Woodstock được coi là một thị trấn kiểu mẫu trước khi tương lai cũ bị chệch hướng và một cái mới thế chỗ nó. Những gã lãng mạn để râu vẫn gảy guitar trong quảng trường thị trấn, mơ mộng rằng họ là những sinh vật trong rừng và những nhà ảo thuật tập sự. Những bà lão tóc bạc gật gà gật gù nhịp nhàng trên ghế băng. Clare coi hình ảnh đó là kì cục còn Jonathan không để ý lắm, nhưng tôi lại đánh giá cao vẻ đẹp của những con phố yên tĩnh và cái quyết tâm theo đuổi những lối sống bên lề của con người nơi đây.

Jonathan và tôi lái xe về nhà trong chiếc Toyota mua lại, lên xuống những ngọn đồi, với những cành cây in bóng lập lòe trên kính chắn gió. Cậu ngồi ngả người trên chiếc ghế cạnh ghế lái, đôi giày vải chống lên bảng đồng hồ. “Mình sẽ nói cho cậu biết điều gì thực sự là kì lạ trong toàn bộ những việc mà bọn mình đang làm này,” cậu nói. “Điều mà thực sự, thực sự lạ lùng chính là: cuối cùng chúng ta cũng đã thực hiện được nó. Người ta nói họ sẽ chuyển về quê và mở một tiệm ăn nhỏ, nhưng có mấy ai thực sự làm thế đâu?”

“Có chúng ta,” tôi nói. “Chúng ta đã làm thế.”

Khi chúng tôi đã lên đến đỉnh ngọn đồi cuối cùng, tôi đạp phanh. “Gì thế?” Jonathan hỏi.

“Không có gì,” tôi bảo cậu. “Mình chỉ muốn nhìn ngắm một lát.”

Từ nơi tôi dừng lại, chúng tôi có thể trông thấy ống khói của ngôi nhà màu nâu cũ kĩ của chúng tôi nhô lên giữa một đám cây bách xù. Ba cửa sổ trên mái đón lấy thứ ánh sáng sắp sửa biến mất đằng sau dãy núi, và dây thường xuân vốn đã tự do mọc lên qua hàng thập kỉ đang rung rinh, tỏa ra ánh bạc lấp lánh trên mặt lá. Ngôi nhà đã đứng đó hơn một thế kỉ mà không chịu nhượng bộ trước khung cảnh xung quanh. Không cành dây leo nào trườn được lên nó, không cái hố ngầm nào mở rộng được diện tích bằng cách thấm vào móng nhà. Tôi thường hát bài Woodstock để trêu chọc Clare, nhưng giờ đây tôi hát cho Jonathan nghe với thái độ nửa nghiêm túc. Với cái một nửa đó, bài hát nghe lại thú vị hơn. “Chúng ta là những kẻ lãng mạn, chúng ta chắc chắn sẽ thành công, và chúng ta phải quay lại khu vườn.” Cậu lắng nghe vài câu, rồi hát theo.

Lúc ăn tối, chúng tôi nói chuyện về tiệm ăn và đứa bé. Dạo gần đây, cuộc sống của chúng tôi được dành hết cho những điều thực tế - chúng tôi lo lắng trước cơn ho của Rebecca và công suất của cái tủ lạnh cỡ nhỏ tuy cũ nhưng đã được tân trạng lại của chúng tôi. Tôi đang bắt đầu hiểu ra sự khác biệt thực sự giữa đám thanh niên và những người lớn tuổi. Giới thanh niên có thời gian để lập ra các kế hoạch và nghĩ về những ý tưởng mới. Còn những người lớn tuổi thì cần tập trung toàn bộ năng lượng của họ để duy trì thứ đã được đưa vào hoạt động.

“Em không thích bác sĩ Glass,” Clare nói. Nàng đang ngồi cạnh cái ghế ăn cho trẻ con của Rebecca, đút pudding vani cho con bé. Trước mỗi miếng, Rebecca đều nghi ngờ nhìn vào cái thìa, kiểm tra lại những gì có trên đó. Nó đã được di truyền cái tính háu ăn của tôi, nhưng cũng kế thừa cả tính đa nghi của Clare nữa. Tuy đói nhưng nó vẫn thận trọng.

“Tại sao?” Tôi hỏi.

“Ừm, vì anh ta là một gã hippie. Và anh ta chắc hẳn chưa quá ba mươi lăm. Em thà đưa Rebecca đến khám ở một người già lụ khụ còn hơn. Anh biết đấy, một người đạo mạo đã giúp mẹ anh và tất cả anh chị em của bà ấy qua khỏi những thứ bệnh như đậu mùa và bại liệt khi họ còn nhỏ. Khi Glass bảo em không cần phải lo lắng về những cơn ho của con bé, em cứ nghĩ rằng: “Mình đang được một người đàn ông quá tân tiến khuyên bảo.”

“Em đồng ý,” Jonathan nói. “Glass tập dưỡng sinh đấy. Em thà tìm ai đó chơi golf còn hơn.”

“Anh thấy Glass được đấy chứ,” tôi nói. “Ý anh là, anh thích anh ta. Em có thể nói chuyện với anh ta mà.”

Jonathan nói: “Em cho rằng điều quan trọng là chị muốn bác sĩ của con chị là một người mẫu mực hơn. Đúng không? Người nào đó có vẻ không bị ảnh hưởng bởi các trào lưu.”

“Đúng vậy đấy,” Clare nói. “Ngày mai tôi sẽ tìm một bác sĩ nhi mới.”

“Anh thực sự thấy Glass rất được,” tôi nói.

Clare dừng thìa pudding ngay trước cái miệng đang há của Rebecca. “Em muốn thử chuyển sang người khác,” nàng nói. “Em không yên tâm với Glass, em nghĩ anh ta quá dễ dãi. Anh hiểu không?”

“Ôi, thôi được,” tôi nói.

“Ừm.” Nàng đưa chiếc thìa vào miệng Rebecca với sự chính xác thuần thục, nhẹ nhàng. Clare đang biến mình thành nhân vật Mẹ từ hồi chúng tôi còn sắm vai nhà Henderson. Chúng tôi đã không còn nhắc nhở gì đến nhà Henderson nữa, có lẽ vì sự khác biệt giữa cuộc đời thực của chúng tôi và cuộc đời giả định của họ đã co lại hết mức.

Sau đó, sau khi đã cho Rebecca đi ngủ, chúng tôi cùng nhau xem ti vi. Đó là điều thích hợp để làm vào buổi tối ở miền quê khi có một đứa con. Chúng tôi nằm trên chiếc giường cỡ lớn, xung quanh là bim bim, bia và Coke cho người ăn kiêng. Những căn phòng ngủ trên gác đều tối và ấm cúng. Trần nhà lượn theo đường cong của mái nhà. Những người chủ trước đây – những người đã dán giấy dán tường hình con chim đại bàng và kê chiếc tủ kiểu Tây Ban Nha ở dưới nhà – có lẽ đã hết tiền khi sửa đến lan can cầu thang. Trên này bị hư hỏng nhiều hơn. Giấy dán tường trong phòng này chi chít những bông hoa nhạt màu trông như loài ăn thịt, và những cánh cửa chớp lật đung đưa trên những cái cây bị cọ sờn có màu chè đặc. Clare xem qua một lượt các kênh. Ở đây chúng tôi có truyền hình cáp, một thỏi nam châm mạnh mẽ hút lấy bất cứ thôi thúc vô hình nào băng qua trong đầu. Ngoài các kênh thông thường, chúng tôi còn có những show diễn thoát y từ New York, những bộ phim truyền hình dài tập Mexico, những phụ nữ Nhật Bản hồ hởi giới thiệu các phát minh quá phức tạp đến nỗi chỉ những phát minh khác mới có thể đánh giá một cách đầy đủ về chúng được. Đôi khi, chúng tôi chuyển sang một kênh mơ hồ, mờ ảo, gần như đáng sợ - trông như thể những người đàn ông và đàn bà đang đi, và chỉ đi, qua một cánh đồng trống. Có thể đó là một kênh truyền hình mà chúng tôi đã chọn nhầm, được phát ra từ một thế giới mà chúng tôi không định trông thấy.

“Một trăm hai mươi kênh và vẫn chẳng có gì để xem,” Clare nói.

“Tối nay ti vi chẳng có gì cả, hãy làm chuyện đó đi,” Jonathan nói.

Clare nhíu mày nhìn cậu và mắt nàng tối sầm lại. “Hai người đi mà làm,” nàng nói.

Jonathan nhảy chồm lên người nàng và giả vờ như đang làm tình một cách kích động. “Ôi, bé cưng, ôi bé cưng, ôi bé cưng,” cậu rên rỉ.

“Xuống ngay,” nàng nói. “Buông tôi ra. Không đùa đâu. Đi mà nhảy lên Bobby ấy.”

“Ôi, bé cưng,” Jonathan nói.

“Bobby, bắt cậu ta dừng lại đi,” nàng nói.

Tôi nhún vai, bất lực. “Tôi sẽ hét lên đấy,” nàng nói. “Tôi sẽ gọi cảnh sát.”

“Và nói gì với họ?” Jonathan hỏi.

“Rằng tôi đang bị hai người đàn ông giam giữ trong ngôi nhà này. Rằng họ đã dụ dỗ tôi để gây giống và ép tôi sống như thế từ năm 1969.”

“Chị đã làm xong việc sinh con rồi,” Jonathan nói. “Nếu đó là mục đích duy nhất của chị ở đây, thì giờ bọn em đã xong việc với chị rồi.”

“Đứa bé vẫn cần sữa, đúng không?” Clare nói. “Và ngôi nhà này chẳng phải vẫn cần một người mẹ sao?”

Jonathan ngừng lại một lúc, ngẫm nghĩ. “Không,” cậu nói. “Chị đã được trả tự do.”

Cậu lăn khỏi người nàng và cầm lấy cái điều khiển từ xa. “Hãy xem có gì hay từ Sao Mộc tối nay không.”

“Nếu tôi đi,” Clare nói, “tôi sẽ mang con bé theo.”

“Ôi không, không được,” cậu đáp. Rồi cậu nhớ ra là phải điều chỉnh giọng nói. “Con bé thuộc về tất cả mọi người,” cậu dịu giọng.

Clare ngửa ra sau, ngả đầu về phía tôi: “Bobby?”

“Hả?”

“Em muốn biết bí mật về sự điềm tĩnh thản nhiên của anh. Chúng ta đang thực hiện một kế hoạch vô cùng kì cục và dị giáo, trong một ngôi nhà có thể sụp xuống quanh chúng ta bất cứ lúc nào, Jonathan và em đang cãi nhau về quyền sở hữu đứa con của em...”

“Con của chúng ta,” Jonathan nói. “Thực sự thì, Clare ạ, chị phải thôi cái từ của chị đó đi.”

“Về quyền sở hữu đứa con của chúng ta,” nàng nói, “còn anh chỉ ngồi đây như Dagwood Bumstead[65] vậy. Đôi khi em nghĩ anh chính là kẻ đến từ Sao Mộc.”

“Chắc vậy,” tôi nói. “Ý anh là, anh chẳng thấy toàn bộ chuyện này có gì là lạ cả.”

[65] Dagwood Bumstead: Nhân vật chính trong bộ truyện tranh hài hước Blondie.

Nàng ngước lên trần nhà, mắt mở trừng trừng. “Đáng lẽ em nên biết trước,” nàng nói. “Đáng lẽ em nên đoán ra điều đó ngay lần đầu tiên em gặp anh, với mái tóc rối bù và chiếc quần jean Calvin Klein. Và rồi anh gần như có thể biến thành một người tân tiến ở East Village chỉ qua một đêm. Thật nực cười. Hóa ra Jonathan và em mới là những người bảo thủ. Bọn em mới là những kẻ cần phải nhìn vào trong gương và xem xem bọn em sẽ thấy gì mỗi ngày. Anh có thể làm bất cứ điều gì, đúng không?”

“Không,” tôi bảo nàng. “Đâu phải điều gì anh cũng có thể làm được.”

“Hãy kể ra xem nào. Hãy kể ra điều mà anh sẽ không làm được ấy.”

“Ừm, ờ, anh sẽ không thể ở một mình. Anh đã, em biết đấy, quá cô độc từ hồi còn nhỏ rồi.”

“Thế đấy,” nàng nói. “Anh là một người đại diện, đúng không? Anh phản chiếu những khát vọng của mọi người. Ôi, sao em chưa bao giờ nghĩ về điều này nhỉ? Khi anh sống với bố mẹ Jonathan, anh là một cậu bé Ohio dễ thương, khi sống ở East Village, anh thật trầm tĩnh, và giờ đây khi sống ở ngoại thành, anh là mẫu nhân vật người cha hippie ngọt ngào. Anh cho người ta bất cứ thứ gì họ muốn. Đúng không?”

“Anh không biết,” tôi nói.

Có những điều tôi không thể nói với nàng, những điều mà tôi không biết phải nói ra sao. Tôi một phần là người sống và một phần là người chết. Tôi đang sống vì nhiều người chứ không chỉ cho riêng mình.

“Ôi, Clare,” Jonathan nói từ phía cuối giường. “Sao đột nhiên chị lại có vẻ cả nghĩ thế? Chị thực sự nghĩ rằng chị có thể kết luận về Bobby trong một câu như thế à?”

“Còn cậu thì cứ liệt kê ra từng câu trong cuộc đời này,” nàng nói.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,359
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 3-3


Tôi đưa tay vuốt tóc Clare. Tôi cố hôn lên đôi môi băn khoăn của nàng. “Này các chàng trai,” nàng nói, tránh nụ hôn của tôi. “Chúng ta quả là một lũ ương ngạnh. Một đám cực kì kì cục.”

“Thực ra thì chúng ta, em biết đấy, không kì cục hơn bất cứ gia đình nào,” tôi nói. “Ít nhất thì chúng ta cũng yêu nhau. Chẳng phải ban đầu em đã nói thế sao?”

“Có lẽ em đã nói thế. Khoảng một nghìn năm trước rồi.”

Tôi nhìn vào khuôn mặt già nua, băn khoăn của nàng. Tôi nghĩ tôi biết Clare sợ điều gì – một khả năng để tạo ra tương lai của chúng tôi đã bị mất. Giờ đây chúng tôi đang theo một kế hoạch ngẫu nhiên được nảy sinh dọc theo một đường cao tốc ở Pennsylvania. Giờ đây những điều tốt đẹp là những điều có thể tiên đoán được, và những gì gây ngạc nhiên đều có nghĩa là những tin xấu.

Tôi lại đặt môi tôi lên môi nàng. Lần này nàng đáp lại nụ hôn. Jonathan vẫn chuyển kênh liên tục, xem một cách lơ đãng.

CLARE

Tôi chưa bao giờ ngờ đến điều này, một tình yêu quá cồn cào đến mức nó hầu như không còn là của riêng bạn nữa. Một tình yêu tác động mạnh mẽ đến bạn, làm bạn thay đổi. Tôi biết rằng, nếu tôi đang cùng con bé băng qua đường mà một chiếc ô tô bấm còi om sòm trên phố, tôi sẽ lấy thân mình che cho nó. Tôi sẽ làm thế theo bản năng, giống như khi bạn giơ tay lên để bảo vệ đàu hay tim mình. Bạn che chở những bộ phận thiết yếu của bạn bằng những bộ phận khó bị tổn thương và ít quan trọng hơn. Thiên chức làm mẹ cũng làm được như vậy. Nhưng tôi nhận thấy rằng tình yêu của tôi dành cho con bé không phải là tình thương hay lòng tốt. Đó là một tình yêu vĩ đại, rực rỡ, một thứ đáng sợ. Tôi sẽ che chở cho nó trước một chiếc ô tô đang lao nhanh tới nhưng tôi sẽ chửi rủa nó khi tôi làm thế, như một tử tù chửi rủa đao phủ.

Miệng Rebecca mấp máy từ “Mẹ”. Nó luôn cáu kỉnh mỗi khi tôi rời khỏi nó. Một ngày nào đó, nó sẽ trả cả một gia tài cho những nhà trị liệu để họ giúp nó giải quyết điều bí ẩn trong tính cách của tôi. Sẽ có nhiều thông tin – một bà mẹ sống với hai người đàn ông, có tình yêu phức tạp với cả hai người bọn họ. Một phụ nữ thiếu quyết đoán, vô tổ chức, không theo một sự sắp đặt thông thường. Người đã lôi tuổi thơ của mình theo vào độ tuổi bốn mươi. Tôi từng là một người kín đáo, bất cẩn, chỉ biết đến việc của mình, và giờ tôi đang trở thành câu đố trung tâm trong cuộc đời của người khác.

Trở thành một người mẹ là một điều nặng nề, xáo trộn. Nếu so sánh, việc trở thành một người tình – ngay cả một người tình dị dáo – vẫn là quá đỗi tẻ nhạt và bình thường.

Có lẽ đó chính là cái bí mật mà mẹ tôi đã khám phá ra. Bà đã nghĩ người bố vô kỉ luật, lêu lổng của tôi sẽ trở thành một cuộc phiêu lưu của đời bà. Và rồi bà sinh con.

Ba người chúng tôi đã tạo ra một biến thể của sự sắp đặt truyền thống. Mỗi sáng, Bobby và Jonathan đến tiệm ăn từ trước lúc mặt trời mọc, còn tôi ở nhà với Rebecca. Tôi không muốn đi làm. Cuối cùng tôi sẽ lại bắt đầu làm đồ trang sức, hay vài việc vặt khác. Tiệm ăn là công trình của đám đàn ông, là một cách để họ tự nuôi mình và bắt đầu trả nợ cho tôi. Họ là những người lao động cần cù, tháo vát. Hay đúng hơn, Bobby là một người lao động cần cù, tháo vát, còn Jonathan ít nhiều noi gương anh. Họ thường rời nhà lúc năm giờ sáng, ngay khi bóng tối bắt đầu tan và đến tận bốn hay năm giờ chiều mới về, khi bóng tối đã len lỏi trở lại vào góc nhà. Thành thực mà nói, tôi không biết nhiều lắm về công việc của họ. Bobby nấu nướng, Jonathan là nhân viên phục vụ, và một cậu bé khờ khạo dễ thương trong thị trấn làm chân dọn bàn và rửa bát đĩa. Dù tôi vẫn nghe họ kể chuyện – về những khách hàng nóng tính, những thiết bị ở nhà bếp bị nổ hoặc bắt cháy trong ca phục vụ buổi trưa, những tên trộm khó tin liều lĩnh (có người đã ăn cắp con cá hồi nhồi treo trên tường, cái bệ bồn cầu trong phòng vệ sinh nữ cũng đã bị lấy mất) – nhưng có vẻ như đó chỉ là những câu chuyện giai thoại xa xôi không có thực. Tôi thông cảm với họ. Nhưng với tôi, đặc điểm nổi bật duy nhất của họ là sự vắng mặt mười một hay mười hai tiếng đồng hồ mỗi ngày. Cuộc sống th

Trong nhiều năm, suốt phần lớn cuộc đời trước đây của tôi, tôi đã cẩn thận bước qua một cái giếng ngầm chứa đựng sự buồn chán và vô vọng nằm ngay bên dưới lớp màng mỏng bao quanh trí tưởng tượng của tôi. Nếu tôi đứng yên quá lâu, nếu tôi nhượng bộ sự nghỉ ngơi, tôi sẽ gục ngã. Vì thế tôi đã làm nhiều thứ, đến các câu lạc bộ và đi xem phim. Tôi liên tục thay đổi kiểu tóc.

Giờ đây, khi có Rebecca để chăm sóc, mỗi khoảnh khắc đều trở nên quan trọng với tôi, không phải lúc nào cũng dễ chịu nhưng nó thấm sâu vào tận đáy lòng. Đôi khi tôi thấy chán nản – bọn trẻ con không phải lúc nào cũng thú vị - nhưng nó luôn luôn, từng giờ từng phút, cần một thứ gì đó mà chỉ tôi mới có thể đem lại được. Dường như cứ mỗi ngày nó lại có thêm một cử chỉ hay phản ứng mới, mang nó đến gần hơn cái tính cách sau cùng của nó. Từng giờ phút trôi qua, nó dần biến thành một con người hoàn thiện. Những giờ phút nối tiếp nhau, và tôi không có thời gian để dành cho những cảm giác mềm yếu hay vô vọng. Tôi tắm cho Rebecca, cho nó ăn, dọn phân cho nó. Tôi chơi với nó. Tôi chỉ cho nó những gì tôi có thể biết về thế giới.

Thực sự thì, tôi thích nhất khoảng thời gian khi đám đàn ông đi vắng. Khi họ về nhà, cái cảm giác khẩn trương liên tục đã biến mất. Dù đã mệt lử, nhưng họ vẫn bảo tôi nghỉ ngơi để họ chăm sóc Rebecca. Họ là những ông bố tốt và có trách nhiệm. Tôi biết đáng lẽ mình nên thấy cảm kích. Nhưng tôi không muốn nghỉ ngơi. Tôi muốn bị căng ra và bị quấy rầy. Tôi muốn được bận bịu tíu tít với Rebecca mỗi khoảnh khắc khi thức, rồi chìm vào giấc ngủ tối đen và không hình dạng như một tương lai bị đánh mất.

Bobby yêu con gái của chúng tôi, nhưng không bị phiền nhiễu bởi sự tồn tại ồn ào, yếu ớt của nó. Trong một thế giới trống trải hơn, anh có thể là một người khai hoang, với những ảo mộng cải tạo lại xã hội trên một mảnh đất cách xa vị trí của những lầm lỗi cũ. Anh có cái tính tận tâm đó. Anh đa cảm và cực kì tập trung. Anh không thực sự hứng thú với những sinh linh. Thi thoảng anh bế Rebecca, tôi biết anh nhìn nhận con bé như thế nào – như một công dân trong thế giới tương lai của anh. Anh ưu ái nó vì nó đã góp phần làm tăng dân số địa phương nhưng không đau lòng vì những điều xảy ra trong số phận của nó. Trong mắt anh, nó là một phần của sự vận động.

Bobby và tôi ngủ trên một chiếc giường mới cỡ lớn. Phòng Rebecca ở bên cạnh, tiếp đến là phòng tắm và phòng của Jonathan. Ngày nào Bobby cũng làm việc không ngừng. Anh đập trứng và nướng bánh, tranh cãi với các nhà cung cấp. Anh về nhà với tiếng khóc và những chiếc tã lót bẩn của Rebecca. Ban đêm, anh chìm vào giấc ngủ kiệt sức và mệt lả - một thứ vô thức hoàn toàn. Tôi biết ơn việc anh đã bớt hứng thú về tình dục, không chỉ vì tôi thấy mệt mỏi mà còn vì núm vú của tôi đã bị thâm khi cho Rebecca bú. Ba vết rạn màu vàng kéo dài từ xương sườn cuối cùng của tôi đến vùng đáy chậu. Tôi đã bốn mươi mốt tuổi. Tôi không còn cảm thấy mình duyên dáng nữa. Nếu Bobby nồng nàn và sung sức hơn, nếu anh ngại ngùng thú nhận rằng hiện tôi không còn hòa hợp với anh, thì tôi đã có thể làm được một điều gì đó. Tôi có thể bắt đầu một thói quen kiêu hãnh bướng bỉnh mới. Nhưng anh là anh, một người đàn ông chăm chỉ, độ lượng. Chúng tôi nằm ngủ cùng nhau một cách yên bình.

Một ngày của Jonathan phát ra nhiều tĩnh điện hơn. Nếu Bobby làm việc với vẻ cẩn thận, hơi chậm chạp giống một cái máy hút bụi, hút lấy mọi việc vặt và nhiệm vụ, thì Jonathan cứ nhanh nhảu như một cái máy đánh trứng. Cậu sốt sắng, nhiệt tình, đôi mắt đờ đẫn do thiếu nghỉ ngơi. Cậu và Bobby đều bảo tôi rằng, khi làm bồi bàn, cậu chỉ tạo ra được sự quyến rũ chứ không có năng lực gì cả. Những cốc nước không được rót đầy. Món trứng bác bị nhớ nhầm thành trứng ốp lết. Cậu nói có những lúc trong ca sáng, dường như cậu đã thực sự ngủ gật khi đang di chuyển. Mới đây cậu đang rót đầy một bình kem, thế mà thoắt cái đã thấy mình đứng cạnh một cái bàn, ghi yêu cầu của khách, mà chẳng nhớ gì về khoảng thời gian xảy ra giữa hai việc đó. Chẳng mấy chốc cậu và Bobby đành phải thuê một cô phục vụ, và Jonathan trở thành nhân viên đón khách và chân chạy việc vặt dự bị. “Em sẽ chịu trách nhiệm làm cho mọi người được vui vẻ,” cậu nói. “Em sẽ rót thêm nhiều cà phê hơn cho họ và hỏi thăm về quê quán họ. Bọn em sẽ thuê một chuyên gia để thấy rằng họ thực sự nhận được những gì họ yêu cầu.”

Thiên hướng thực sự của cậu là đứa bé. Mỗi tối khi đi làm về, cậu lại mang cho nó thứ luôn đó: một con búp bê nhựa mua từ cửa hàng một giá, một bông hồng hái từ khu vườn nào đó, hay một cặp kính râm mini gọng trắng. Cậu đưa nó đi dạo thật lâu trước bữa tối và sau đó đọc sách cho nó nghe.

Khoảng bốn giờ sáng, cậu đánh thức nó dậy, thay tã lót cho nó, và mang nó đến giường của Bobby và tôi. Trông cậu giống người cha một cách khôi hài khi mặc quần đùi và bế đứa con đang ngái ngủ của chúng tôi. “Em biết mình không nên đánh thức nó dậy như thế này,” cậu nói. “Nhưng bọn em cần phải trông thấy nó trước khi bọn em đi làm bánh mì.”

Cậu thường bò lên giường cạnh tôi, đặt Rebecca trong lòng. Có lúc, nó còn ngái ngủ và khóc nhai nhải dưới ánh đèn. Có lúc nó lại khúc khích và mấp máy những từ không thể hiểu nổi. “Bé Rebecca ơi,” Jonathan thường thì thầm. “Ôi, con đúng là một đứa bé xinh đẹp, nhỉ? Ừm. Ôi, trông này. Hãy nhìn đôi bàn tay này. Con sẽ là một vận động viên tennis chứ hả? Hay là một nghệ sĩ vĩ cầm, hay một “người nhện” leo tường giỏi.” Cậu cứ nói tràng giang đại hải. Thỉnh thoảng, khi nó khóc, chỉ có Jonathan mới có thể vỗ về nó được. Nó thường khóc thét lên trong tay tôi, và oằn người la hét trong tay Bobby. Nhưng khi Jonthan bế nó, nó sẽ im ngay. Nó nhìn cậu chằm chằm với đôi mắt hau háu và chăm chú khác thường. Nó bám lấy cậu vì cậu hay vắng nhà và bởi vì, những lúc cậu ở nhà, cậu là người chăm sóc nó tỉ mỉ, dịu dàng nhất. Ngay từ sớm như thế, tôi tin rằng nó cũng đang yêu.

Rebecca và tôi cùng nhau chia sẻ một tình yêu căng thẳng hơn. Khi đám đàn ông đi vắng, nó và tôi chung sống trong trạng thái liên tục cần đến nhau. Nó cần và, với cường độ lớn dần, không thích sự che chở của tôi. Tôi chỉ cần nó lúc nào cũng được an toàn tuyệt đối. Tôi cần phải biết là nó vẫn ổn, từng phút từng giây. Nó có tác động lớn lên cả hai chúng tôi. Đôi lúc, khi chúng tôi ở bên nhau, khi tôi kiểm tra nước tắm của nó hay giật lấy một cái bút chì ra khỏi miệng nó, tôi gần như có thể cảm thấy một câu hỏi kêu tanh tách trong bầu không khí quanh chúng tôi – Nếu tôi không thể bảo vệ được thì sao? Chúng tôi có thể trở nên cáu kỉnh với nhau. Tôi có thể dễ dàng nổi nóng với nó, và tỏ ra hống hách; tôi có thể từ chối nó nhiều thứ. Nó bị cuốn hút vào những nỗi e sợ của tôi. Nó khóc thét nếu tôi ngắm nó quá gần, hoặc nếu nó nhận ra rằng trong một thoáng tôi đã quên không để ý đến nó.

Tôi bắt đầu hiểu ra vài điều về mẹ mình. Bà đã có một lựa chọn sau khi tôi ra đời. Trong ngôi nhà hay trong bản tính bủn xỉn của bà không có đủ chỗ cho hai đứa trẻ khó chiều. Bà đã buộc phải lựa chọn. Có lẽ đó là lý do khiến cuộc chiến xảy ra. Bố tôi đã phải đấu tranh để giành được một phần. Ông đã dùng những vũ khí tốt nhất, giới tính và sự liều lĩnh của ông, nhưng mẹ tôi đã thắng thế với năng lực tổ chức và tính thẳng thắn của bà. Tôi đã từng yêu bố tôi hơn. Ông thường gọi tôi là Peg và Scarlett O’Hara[66], nói rằng chúng tôi có thể mua bất cứ thứ gì chúng tôi muốn. Nhưng về sau này, khi ông lầm bầm chửi rủa, ngã xuống trên bãi cỏ trước nhà và say xỉn phá phách đồ đạc, tôi đã ngoảnh mặt với ông. Cuối cùng, một đứa con sẽ chọn trật tự hơn là niềm đam mê hay sự quyến rũ.

[66] Nhân vật chính trong tiểu thuyết Cuốn theo chiều gió.

Khi trưởng thành, tôi đã yêu sự thông minh và hài hước của Jonathan và, tôi cho rằng, cả sự vô hại của cậu. Cậu không lạnh nhạt cũng không nguy hiểm. Không phải đàn ông cũng không phải đàn bà. Ở cậu không ẩn chứa mối đe dọa về sự thất bại qua tình dục. Giờ đây tôi thấy rồi một ngày nào đó Rebecca cũng sẽ yêu cậu. Cậu có sức quyến rũ của một người cha. Cậu có sự ấm áp của một người mẹ mà không ẩn chứa mối đe dọa nào – nó sẽ không chết dù Jonathan thoáng không để ý đến nó. Cậu làm việc cả ngày, rồi về nhà với một món quà trong tay, xúc động với niềm vui tuyệt đối khi thấy nó sau quá nhiều giờ xa cách. Bobby thờ ơ một cách ngọt ngào còn tôi lại có mặt quá thường xuyên. Jonathan tạo ra một sự quyến rũ đều đặn hoàn hảo, có được nhờ sự vắng mặt hằng ngày của cậu. Rebecca sẽ là của cậu. Nó sẽ chăm sóc Bobby và tôi, nhưng nó thuộc về Jonathan.

Có những lúc – những khoảnh khắc – tôi tin rằng tôi đã thực sự tìm thấy phần thưởng của mình. Tôi có tình yêu, và một nơi ở trên trái đất. Tôi là một phần của một thứ ngọt ngào và êm đềm. Một gia đình. Đó là thứ mà tôi đã nghĩ là mình mong muốn. Gia đình tôi đã tan vỡ bởi sự ghen tuông và những cơn thịnh nộ. Không một món quà cưới nào của bố mẹ tôi còn sót lại. Chúng tôi đã phá hủy quá khứ. Giờ đây tôi chẳng còn gì để kế thừa ngoài những thứ mà mẹ tôi đã sửa sang lại, những vật cố định mạ vàng và những mẫu hoa văn trang trí, sau khi bố tôi bỏ đi để cai rượu, trở thành con chiên ngoan đạo rồi sau đó lại bắt đầu uống tiếp.

Nhưng có những lúc, tôi thấy nhớ sự cố chấp dữ dội của gia đình tôi. Chúng tôi vốn là những người khó tính, nổi tiếng quanh vùng: Amelia Stuckart tội nghiệp và Người Đàn Ông Mà Bà Ta Lấy. Tôi đã trở nên nổi tiếng trong vùng ngoại ô của chúng tôi vì là Đứa Con Gái Nhỏ Tội Nghiệp Của Họ. Tôi đã tự khám phá bản thân dựa trên những khái niệm về sự thiếu thốn và lòng kiêu hãnh. Tôi đã mặc những chiếc váy ngắn nhất, bới tóc thành một mớ bù xù. Tôi đã làm tình lần đầu với một tay guitar bass còm nhom khi mới mười bốn tuổi, ở đuôi của một chiếc xe tải. Tôi dễ dàng chống lại những nhà chức trách địa phương khi họ mặc những cái áo lót có độn, để những kiểu tóc nữ tính, và bôi thuốc thoa sau khi cạo râu hiệu Aqua Velva. Họ nói: “Hãy tham gia vào thế giới của chúng tôi,” và tôi đã kiếm được một gã bán ma túy để làm bạn trai. Tôi thấy mình bị thu nhỏ lại trong con mắt của những cố vấn và mục sư – có lẽ, thực sự thì, bà Rollins ạ, chúng ta không thể giúp gì được cho đứa con gái này nữa rồi. Tôi đến trường với một chai rượu tequila trong túi. Tôi phóng xe vèo vèo trong những đêm Rhode Island băng giá. Tôi để lại một vệt khói đằng sau. Những người được chăm sóc cẩn thận sẽ không thể tưởng tượng được sự tự do mà những người xấu có được.

Bây giờ, ở tuổi đã xế chiều, tôi đã được giải cứu. Đám đàn ông về thẳng nhà mỗi đêm, chăm sóc Rebecca, nấu bữa tối. Tình yêu của họ không hề đơn thuần. Họ có thể yêu nhau hơn là yêu tôi. Họ có thể chỉ đang lợi dụng tôi mà không hề hay biết. Tôi có thể chịu đựng được điều đó. Tôi không ngại chạm vào cái đáy xù xì trong những dự định tốt đẹp của con người. Thi thoảng tôi đã gặp rắc rối với chính sự vô hại đơn giản đó của nó. Chúng tôi sống trong một thế giới của lòng tốt và trật tự trong gia đình. Đôi khi tôi nghĩ mình giống như nàng Bạch Tuyết đang sống cùng những chú lùn. Những chú lùn chăm sóc nàng rất tốt. Nhưng nàng sẽ ở đó bao lâu mà không hi vọng được gặp ai đó có vóc dáng bình thường? Nàng sẽ ở đó để quét nhà và sửa chữa đồ đạc bao lâu trước khi nàng bắt đầu nhận thấy rằng cuộc đời nàng tuy thật an toàn và thú vị nhưng vẫn lan tràn một sự thiếu thốn?

ALICE

Khi tôi gọi Jonathan đến Arizona, tôi không nhắc đến cái hộp mà tôi dành cho nó. Đó không phải là loại quà nên được nói đến qua điện thoại. Tôi chỉ đơn giản thực hiện đặc quyền làm mẹ của mình và yêu cầu nó đến thăm tôi. Tôi thường không quấy rầy nó nhiều, khiến nó luôn mang cảm giác có lỗi quá mức. Tôi ngờ rằng nó mong tôi làm gánh nặng cho nó hơn nữa. Tôi nghĩ nó sẽ thấy phần nào nhẹ nhõm với một người mẹ phiền phức, quấy nhiễu. Theo như bản tính của nó, nó sẽ chẳng có lựa chọn nào ngoài việc vâng lời khi tôi gọi điện và nói rằng tôi muốn gặp nó. “Mùa này sa mạc đẹp lắm,” tôi nói. “Con hãy đến đây vài ngày đi.” Và nó đã làm thế.

Tôi đón nó ở sân bay Phoenix. Cuộc sống thôn dã không làm nó thay đổi nhiều lắm. Từ khi nó đi học đại học hơn mười năm trước, tôi cũng dần quen với những ngày tháng không được trông thấy nó, và đã học được một tính khách quan mới. Khi còn nhỏ, nó có vẻ giống một phát minh của tôi, và tôi yêu nó với một cường độ nhức nhối, rối bời, thi thoảng làm tôi đau lòng. Như thể nó là một phần trong tôi mà tôi cảm thấy thương yêu nhất, phần bị tổn thương bé bỏng mà chỉ muốn khóc và được ôm, đã bị cắt ra và giờ sống một cách tách biệt, nằm ngoài khả năng an ủi của tôi. Sự tồn tại của nó từng thúc ép và làm tôi lo âu nhiều đến nỗi tôi hầu như không biết trông nó như thế nào. Bây giờ tôi yêu nó ít mãnh liệt hơn, điềm tĩnh hơn, và có thể thấy rõ từng chi tiết của con người nó. Giữa những hành khách đang xuống máy bay, trông nó xanh xao và duyên dáng nhưng có vẻ không hoàn thiện; khi nó ngày càng lớn tuổi, tôi bắt đầu nhận thấy rằng nó đang có nguy cơ trở nên già đi mà không có được sự đĩnh đạc. Trông nó vẫn ngây thơ và trẻ con, vẫn mang vẻ đẹp mã của một chàng trai, một vẻ thanh xuân bất diệt có thể khiến cho một ông già trông giống như một đứa trẻ già dặn. Tôi vẫy tay từ giữa những người đang chờ đợi, và nó đi về phía tôi, vui vẻ và trông hơi cảnh giác, thận trọng lách qua đám đông như thể nó ngờ rằng trong số người đó có thể có đầy những kẻ thù đang cải trang.

“Con chào mẹ.”

“Chào con yêu.”

Chúng tôi ôm nhau, hỏi han về sức khỏe và hạnh phúc của nhau, rồi cùng đi đến chỗ đỗ xe. Trên đường đi, nó hỏi tôi: “Công việc của mẹ thế nào?”

“Đang phất,” tôi nói. “Mẹ nhận được nhiều cú điện thoại đặt hàng hơn khả năng giải quyết của mẹ, nhưng mẹ không muốn phải từ chối ai trong giai đoạn này. Mẹ đang cố thuê thêm một đầu bếp. Nhưng tìm được người vừa ý mẹ quả là khó.”

“Con thấy thật tự hào về mẹ,” nó nói. “Ai ngờ mẹ lại trở thành một người có tiếng trong lĩnh vực nấu nướng thuê như thế này chứ?”

“Nào, liệu hồn đấy. Đừng nịnh mẹ.”

“Con có nịnh đâu. Mà mẹ gầy đét như thế này từ bao giờ thế?”

“Ôi, đừng để ý đến mẹ,” tôi nói. “Mẹ nghĩ là do mẹ căng thẳng quá đấy thôi. Mẹ chưa bao giờ kinh doanh cả, càng chưa bao giờ có một công việc kinh doanh thành công. Mẹ cứ nghĩ rồi điều gì đó sẽ xảy ra và tất cả sẽ bung bét hết.”

“Mẹ đừng lo. Hay đó cũng là nịnh bợ nhỉ? Thôi mẹ cứ lo lắng đi. Những điều tồi tệ thường xảy ra với những người tốt nhất mà.”

“Đúng đấy,” tôi nói. “Hoàn toàn đúng. Thế công việc của con thế nào?”

“Điên cuồng. Hầu như bọn con ở đó suốt ngày, và mọi thứ luôn đứng trên bờ vực của sự điên rồ hoàn toàn. Nhưng bọn con đang ở mức hòa vốn rồi. Trong những ngày bận rộn nhất, bọn con thậm chí còn lãi được một ít.”

“Tốt,” tôi nói. “Đó là một lĩnh vực khó khăn đấy. Hòa vốn ở năm đầu tiên có nghĩa các con đang thành công.”

“Con cũng nghĩ thế. Con cứ bị thức giấc lúc nửa đêm, ngẩn ngơ nghĩ: Ôi, mình quên mất không mang cà phê đến cho bàn số năm rồi.”

“Chào mừng đến với tiền tuyến,” tôi nói.

Khi đến chỗ đỗ xe, chúng tôi có một cuộc tranh giành thân mật nho nhỏ về việc ai sẽ là người cầm lái. Tôi muốn lái xe, vì tôi thạo đường hơn, nhưng một đứa con trai trưởng thành sẽ không muốn để cho mẹ nó lái xe ngay cả trên khu đất nhà bà. Tôi ném chìa khóa cho nó, để nó được thoải mái.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,359
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 3-4


Chúng tôi lái xe trên con đường cao tốc bằng phẳng, lấp lánh, nói chuyện phiếm. Ánh mặt trời, không quá gay gắt vào thời điểm đó trong năm, tỏa sán lên những cây ngọc giá đang trổ hoa và những bụi cây màu xám than. Tôi nghĩ về mưa phùn và sương mờ khi đó đang chiếm ưu thế ở miền Đông mà không có vẻ gì là thèm muốn. Sa mạc, theo như tôi nhận thấy, có một vẻ đẹp quá mãnh liệt đến nỗi nó không thể ngấm ngay vào da thịt bạn. Họ hàng về địa lý thân thuộc nhất của nó chính là sông băng – giống như sông băng, nó có thể khiến cho những người không thông thạo tưởng nhầm rằng sự biến đổi chậm chạp của nó là trạng thái tĩnh lặng. Chúng tôi, những người sống ở đó, yêu nó vì vẻ giản dị và sạch sẽ của nó, vì hằng ngày nó vẫn luôn gợi đến sự vĩnh cửu. Một khung cảnh rừng rú có vẻ vừa rậm rạp vừa phù du, quyến rũ nhưng lại quá non trẻ, và phải chịu khuất phục trước những khúc quanh không thể biết trước của số phận. Không phải ngẫu nhiên mà những công dân đầu tiên đã xuất hiện trong sa mạc. Cũng không phải tình cờ khi những người già cả thường quay trở về đó.

“Trông mẹ tuyệt lắm,” Jonathan nói khi đang lái xe. “Con thích kiểu tóc của mẹ.”

“Ôi, giờ mẹ phải chỉnh trang đến vẻ ngoài mà,” tôi nói. “Mẹ không thể đi loăng quăng quanh thành phố như một phụ nữ hoang dã của miền núi nữa. Thú thực với con, mẹ đã phát hiện được một thợ cắt tóc. Một thợ cắt tóc cho nam giới. Hầu hết những tiệm uốn tóc nữ ở đây vẫn một mực tạo cho người ta những kiểu tóc xịt gôm ẻo lả mà mẹ thì chẳng có một chút hứng thú với chúng. Cứ ba hay bốn tuần là mẹ lại cắt tóc một lần, và không nghĩ nó có gì là khác biệt cả.”

“Con thích kiểu tóc đó,” tôi nói. “Mẹ con đang là một nữ hoàng nấu nướng thuê với mái tóc húi cua. Côn không nịnh đâu. Con đang khen thật đấy.”

Nó rẽ vào khu chung cư, và xách túi của nó vào nhà. “Nơi này vẫn không thay đổi,” nó nói.

“Nó chỉ mất một ít đất vì lực entropy thôi,” tôi nói. “Mẹ đã định dọn dẹp nó một chút trước khi con đến đây. Nhưng một khách quen “sộp” của mẹ đã gọi điện đặt bữa tiệc tối vào phút chót, vì thế mẹ đã mất cả ngày hôm qua để làm món tôm xốt rau mùi thay vì việc hút bụi và quét dọn.”

“Không sao đâu mẹ. Nói thật với mẹ, nhà mình ở Cleveland vẫn luôn hơi quá ngăn nắp. Ý con là, con thấy mừng khi biết ở đây không phải lúc nào mẹ cũng lau nhà.”

“Con không cần phải lo về điều đó đâu. Tin mẹ đi.”

Vì nó sẽ ngủ trên chiếc sofa gấp, nên nó không cần phải lấy đồ ra khỏi túi hành lý. Nó chỉ đơn giản đặt cái túi vào một góc. Khi nó làm thế, tôi chợt thấy lo lắng – tôi đã bắt nó đến tận Arizona chỉ vì một mục đích kì cục. Có lẽ rốt cuộc tôi sẽ coi đây chỉ là một chuyến viếng thăm đơn giản của nó. Tôi sẽ nấu nướng cho nó ăn, mua cho nó vài bộ quần áo mới bất chấp sự phản đối của nó và lại tiễn nó về nhà.

“Con đói không?” Tôi hỏi.

“Hơi hơi ạ. Ban nãy con không ăn trưa trên máy bay. Sau nhiều chuyến bay, con đã nhận ra rằng mình có thể từ chối khay thức ăn mà họ mang đến. Tuy nhiên con vẫn thấy mình dại dột khi làm thế. Như thể con đang ném tiền đi vậy.”

“Sao mẹ con mình không đi ăn bữa trưa muộn ở ngoài nhỉ?” Tôi nói. “Mẹ mới phát hiện một nhà hàng tuyệt vời cách đây khoảng mười dặm, ở đó họ tự tay làm và phục vụ món bánh bột ngô. Mẹ rất muốn thuê đầu bếp của họ, một người thực sự biết cách nấu món Mexico truyền thống, nhưng mẹ nghĩ mẹ sẽ không đủ tiền để thuê cô ta.”

“Nghe hay đấy mẹ ạ,” nó nói. “Mình đi thôi.”

Trong một thoáng, nó giống bố nó đến nỗi tôi phải dừng lại và nhìn nó chằm chằm, đầu tôi quay cuồng. Chắc là tất cả các bà mẹ đều phải trải qua những khoảnh khắc như thế này, khi những đứa con trưởng thành của họ - có vẻ đã định hình những tính cách riêng khó đổi – đột nhiên lộ ra một nét tính cách của bố chúng, quá giống đến mức chúng có thể chính là người đàn ông đó, tái sinh, ngay từ cơn ho sù sụ đặc trưng suốt hơn bốn mươi năm qua. Điều mà tôi trông thấy ở Jonathan khi đó là sự đồng ý dễ dàng, không do dự, là sự nhiệt tình thân thiện và cái mong muốn giữ cho mọi chuyện được êm đẹp. Nếu tôi là một mẫu người khác, một mẫu người dũng cảm hơn, tôi sẽ túm lấy vai nó và nói: “Hãy đòi hỏi bất cứ thứ gì con muốn một cách dữ dội hơn nữa. Hãy khó tính và khắt khe hơn nữa. Nếu không chẳng bao giờ con có được một cuộc sống cho riêng mình.”

Thay vào đó, tôi lấy lại chùm chìa khóa xe từ nó và nói: “Lần này con nên để mẹ lái xe. Dù mẹ không nhớ rõ đường đến đó lắm. Và mẹ đã bị như thế đến hơn chục lần rồi.”

Chúng tôi dành hai ngày tiếp theo để nói chuyện, ăn uống và đi xem phim. Tôi dẫn nó đến tham quan căn bếp mà tôi đã thuê và văn phòng tạm thời của tôi, giới thiệu nó với ba nhân viên của tôi. Tôi cũng hỏi thăm về cuộc sống của nó, dù tôi luôn không chắc phải diễn đạt những câu hỏi của mình như thế nào. “Đứa bé sao rồi?” là câu mở đầu rõ ràng nhất.

“Nó vẫn khỏe ạ,” nó nói trên ly cocktail margarita. “Nó luôn làm cho con ngạc nhiên. Đôi lúc con thấy có vẻ như nó đang thay đổi từng chút. Con bắt đầu hiểu vì sao người ta lại có đến năm, sáu đứa con – thật khó để chấp nhận sự thật rằng giờ đây nó đã biết bò, và nó sẽ không bao giờ ở trong tình trạng phụ thuộc hoàn toàn vào người khác nữa. Đó cũng là một sự nhẹ nhõm. Nhưng con có thể thấy mình lại muốn có thêm một đứa nữa như thế nào chỉ vì muốn được trông thấy ai đó trải qua thời kì phụ thuộc khủng khiếp đó lần nữa.”

“Và con dành rất nhiều thời gian cho con bé?” Tôi hỏi.

“Tất nhiên rồi ạ. Tất nhiên là con phải làm thế rồi. Con là bố nó mà. Con là một trong hai người bố của nó.”

Tôi lắc đầu. “Có lẽ mẹ không hiểu lắm,” tôi nói.

“Hiểu gì cơ ạ? Mẹ đã đến đó, mẹ đã thấy tất cả bọn con ở bên nhau còn gì. Bọn con là ba người cùng nuôi một đứa con chung. Có gì to tát đâu.”

“Không có gì to tát cả,” tôi nói. “Mẹ nghĩ là do mẹ cổ hủ thôi.”

“Mẹ đâu có cổ hủ. Không thể nào cổ hủ với kiểu tóc như thế kia được.”

“Ừm, cứ cho là thế. Mẹ lo rằng con đang bị lợi dụng trong toàn bộ chuyện này. Bobby và Clare có nhau. Còn con có gì?”

Đây là một vấn đề nhạy cảm. Chúng tôi chưa bao giờ chính thức thừa nhận những khuynh hướng tự nhiên của nó – ngoài Bobby, tôi chưa bao giờ gặp một mối quan hệ bất chính nào khác của Jonathan. Theo như những gì tôi biết, nó không có những mối quan hệ kiểu đó. Và thực sự thì: tôi thích như thế. Nếu nó cứ kiên quyết với việc đó, tôi sẽ cố gắng chấp nhận hình ảnh con trai mình có quan hệ tình cảm với những người đàn ông khác. Nhưng nó không có tính cố chấp. Nó thường về thăm chúng tôi trong vai trò một người độc thân trong trắng, bố nó và tôi luôn sẵn sàng đón tiếp nó như vậy. Nếu nó thất bại trong cuộc đời này, tôi cho rằng chính chúng tôi phải chịu trách nhiệm về việc đó.

“Chúng con có nhau,” nó nói. “Mẹ à, mẹ đúng đấy. Mẹ chẳng hiểu gì cả. Có lẽ mẹ con mình nói sang chuyện khác đi.”

“Nếu con muốn. Hãy nói cho mẹ nghe. Con có thấy hạnh phúc khi làm những điều mà con đang làm không?”

“Có chứ ạ. Con rất sung sướng. Và con là thành phần của một thứ gì đó. Con là thành phần của một gia đình và một công việc. Bọn con đang cùng nhau xây dựng một tổ ấm. Mẹ đã quá để ý tới việc trông bọn con không hoàn toàn giống với một gia đình bình thường đấy.”

“Đúng thế. Mẹ sẽ cố không quá chú ý tới điều đó nữa.”

Và, một lúc sau, chúng tôi chuyển sang những chủ đề khác. Nếu nó thốt ra những lời thú nhận về thứ tình yêu dị giáo đó thì tôi đã có thể phản ứng lại. Nhưng tôi không thể đòi hỏi một sự thẳng thắn như thế. Chỉ đơn giản là tôi không thể. Đó sẽ là việc của nó.

Tôi không nhắc gì đến lý do thực sự của tôi cho tới đêm trước khi nó đi. Hôm đó chúng tôi ăn tối ở nhà – tôi đã làm món salad bơ đơn giản và những khoanh cá hồi nướng. Sau khi những chiếc đĩa đã được dọn đi, tôi pha cà phê và nói: “Jonathan, con yêu, lần này mẹ gọi con đến đây là có lý do đấy. Mẹ muốn trao cho con một thứ.”

Mắt nó sáng lên – chắc nó nghĩ tôi có một kho báu gia truyền dành cho nó. Trong một thoáng, tôi có thể thấy nó hệt như hồi lên bốn, cư xử đúng mực một cách già dặn nhưng vẫn không giấu nổi sự thèm muốn trong cửa hàng đồ chơi, nơi không món đồ nào là quá đắt đến nỗi nó không dám mơ tưởng đến.

“Gì thế ạ?” Nó hỏi, sự háo hức được che giấu một cách tế nhị.

Tôi thở dài. Nếu tôi có một cái chăn hay một chiếc đồng hồ bằng vàng, tôi sẽ đưa ngay cho nó, nhưng Ned và tôi đều không cất giữ những thứ như thế. Chúng tôi đều sinh trưởng trong những gia đình quan tâm đến tương lai hơn là quá khứ. Tôi lên phòng ngủ trên gác mà không nói gì, lấy cái hộp ra khỏi ngăn kéo và mang nó xuống.

Jonathan biết cái hộp đó là gì. “Ôi, mẹ,” nó nói.

Tôi nhẹ nhàng đặt cái hộp lên bàn, một cái hộp gỗ hình chữ nhật phẳng nhẵn, trên đó có khắc họ tên cùng ngày tháng năm sinh, năm mất của Ned. “Đã đến lúc con phải chịu trách nhiệm với thứ này rồi,” tôi nói. “Yêu cầu duy nhất của bố con là con được toàn quyền quyết định việc xử lý nó.”

Nó gật đầu. Nó nhìn cái hộp nhưng không chạm vào. “Con biết,” nó nói. “Bố đã nói với con.”

“Con đã nghĩ về chuyện đó chưa?” Tôi hỏi.

“Rồi ạ. Chắc chắn là con đã nghĩ tới điều đó. Mẹ à, đó phần nào là lý do khiến con làm những việc con đang làm đấy. Con đang cố tạo nên một gia đình.”

“Mẹ hiểu.” Tôi ngồi xuống cạnh nó. Chúng tôi đều ngắm nghía cái hộp như thể ngờ rằng nó có thể tự di chuyển được.

“Mẹ đã nhìn vào bên trong cái hộp chưa?” Nó hỏi.

“Rồi. Ban đầu mẹ nghĩ mẹ không thể chịu được khi thấy nó. Thời gian trôi qua, mẹ nhận ra rằng mẹ không thể chịu được nếu không nhìn vào bên trong.”

“Và?”

“Nó như bồ hóng ấy. Xám vàng. Nó có nhiều hơn là con nghĩ đấy. Mẹ đã tưởng nó chỉ có một nắm thôi, một thứ thật mịn mà con có thể tung vào trong gió chỉ bằng một tay. Nhưng hóa ra không phải thế, nó khá là nhiều. Có vài mảnh xương vụn li ti, sẫm màu, như ngà voi để lâu vậy. Con yêu, mẹ có thể nhận ra một điều – nó không hơn gì một đôi giày cũ của bố con. Con có muốn xem không?”

“Không. Không phải bây giờ.”

“Cũng được.”

“Sao mẹ lại đưa nó cho con lúc này?” Nó hỏi. “Ý con là, ừm, chính xác là thế đấy. Sao lại là lúc này?”

Tôi do dự. Sự thật là: Tôi đã bắt đầu hẹn hò một người. Anh ta trẻ hơn tôi, tên là Paul Martinez, và anh ta đã bắt đầu dạy tôi một loạt những điều thú vị mà tôi khó có thể tưởng tượng nổi hồi còn sống với Ned.

Dường như cuộc đời tôi đã diễn ra theo chiều đảo ngược. Với Ned, tôi đã có được một tổ ấm và một cuộc sống quy củ, một sự bình yên mà người ta hi vọng có được khi về già. Còn giờ đây, trước ngưỡng cửa của tuổi già thực sự, có vẻ tôi đã yêu một người đàn ông da sẫm ưa tranh cãi, người biết chơi guitar và hôn tôi ở những chỗ mà Ned đã ngần ngại ngay cả việc gọi tên chúng. Tôi thấy bây giờ mà còn cất tro của anh trong nhà thì quả là không thích hợp.

Nhưng tất cả những gì tôi nói với Jonathan lại là: “Mẹ sợ rằng mẹ đang biến thành Morticia Addams[67], với tro của chồng mình trên bệ lò sưởi. Đáng lẽ mẹ không nên giữ chúng lâu đến thế.”

[67] Nhân vật trong truyện tranh Gia đình Addams.

Tôi sẽ còn nhiều thời gian để kể về Paul, nếu chúng tôi vẫn còn giữ được sự thu hút. Dù sự chăm sóc của anh làm tôi cảm động, nhưng tôi vẫn chưa tin tưởng lắm – có quá nhiều lý do để một người đàn ông trẻ tuổi mau chóng tin rằng anh ta yêu một phụ nữ lớn tuổi hơn. Tại sao lại phải làm cho Jonathan khó chịu một cách không cần thiết như thế? Tôi sẽ chờ xem liệu mối tình này có đủ nghiêm túc để đáng làm cho nó buồn hay không.

“Con có thể hiểu được,” nó nói. “Con không tin lắm rằng đây thực sự là tro của bố. Điều này có vẻ quá… Điều này có vẻ không giống với một việc xảy ra trong thế kỉ XX. Khi mà một công dân cất giữ hộp tro của bố mình.”

“Con có muốn cùng mẹ rải chúng ở sa mạc không?” Tôi nói. “Chúng ta có thể đi ngay bây giờ.”

“Ở đây ạ? Ý mẹ là đem chúng ra ngoài để rải ngay đằng sau ngôi nhà này?”

“Đúng. Nghe này. Đây không phải là cuộc sống mà bố mẹ hằng mơ ước. Nó không phải là những mơ mộng đã trở thành sự thật của bố mẹ. Chắc chắn là không. Nhưng đây là nơi mà bố mẹ đã chọn làm nơi ở cuối đời, và bố mẹ không thấy bất hạnh khi ở đây. Nói thật với con, mẹ đã rất hạnh phúc.”

“Bố đã bảo con là đừng chôn bố ở sa mạc. Bố đã nhất định bảo con thế. Bố muốn con ổn định cuộc sống trước, rồi hãy chôn bố ở nơi nào mà con xây dựng gia đình.”

“Jonathan, con yêu. Con không nghĩ là có gì đó hơi… phù phiếm với cái mong mỏi về một gia đình đó à?”

Nó hấp háy mắt trong sự ngạc nhiên giả bộ. “Mẹ,” nó nói. “Mẹ đang bảo con sống theo kiểu mới đấy à?”

“Mẹ đang bảo con là đừng lo lắng quá nhiều nữa,” tôi nói. “Bố con đã mất rồi. Ông ấy quan tâm đến sự lông bông của con vì ông ấy không thể tưởng tượng được rằng người ta có thể có hạnh phúc dù không bị ràng buộc. Đó là bản tính của ông ấy. Nhưng sẽ thật đáng tiếc nếu để cái trí tưởng tượng bị giới hạn của bố con kiềm chế cuộc đời con. Đặc biệt là khi ông ấy đã mất.”

Nó gật đầu. Sau một thoáng do dự, nó giơ tay ra và chạm vào chiếc hộp. Nó nhẹ nhàng lướt những đầu ngón tay lên những chữ chạm khắc trên chiếc hộp. Không ngẩng lên, nó nói: “Mẹ, nếu con có mệnh hệ gì….”

“Con sẽ chẳng sao cả,” tôi vội nói.

“Nhưng nếu có…”

Tôi hít một hơi và nhìn nó. Đây là lý do thực sự khiến tôi luôn mù quáng mang trong đầu hình ảnh độc thân đơn giản của Jonathan, cùng giới tính lệch lạc của nó. Tôi biết một ngày nào đó tôi có thể nhận được một cú điện thoại, từ Bobby hoặc Clare hay ai đó mà tôi chưa bao giờ gặp, nói cho tôi hay cái tên của một bệnh viện.

“Được thôi,” tôi nói. “Nếu có chuyện gì đó xảy ra…”

“Nếu có chuyện gì đó xảy ra, nếu mẹ bị vướng bận với cả bố và con, thì con không muốn mẹ rải tro của bố con con trên sa mạc này. Nó khiến con thấy rùng mình. Được không ạ?”

Tôi không nói gì. Tôi đứng dậy và đi rót cà phê.

“Con có muốn đem chúng về rắc ở Woodstock không?”

“Có lẽ. Con không chắc lắm.”

“Tùy con,” tôi nói. “Đây hoàn toàn là quyết định của con.”

“Con biết. Con sẽ tìm một chỗ thích hợp. Mẹ có muốn đi xem phim không?”

“Thay vào đó sao không chơi một ván sắp chữ?”

“Vâng,” nó nói. “Cũng được. Tùy mẹ.”

Ngày hôm sau, chúng tôi lái xe đến sân bay với tro của Ned được nhét trong túi khoác vai màu đen của Jonathan, được bao bọc giữa những chiếc tất và đồ lót. Lần này tôi giành quyền lái xe, và Jonathan không phản đối. Đó là một ngày u ám hiếm hoi, bầu trời đầy những đám mây ùn ùn kéo xuống từ dãy núi Rocky, ảm đạm nhưng không có vẻ là sẽ mưa. Không khí có màu bạc, khắp nơi tràn ngập một thứ ánh sáng đều đặn, gần như không biết bắt nguồn từ đâu, có thể là được hắt lên từ nền sa mạc hay tỏa ra từ không khí.

Jonathan đang kể cho tôi nghe về hứng thú đang tăng dần của nó với nghề mộc khi tôi ra khỏi đường cao tốc, rẽ sang một con đường nhánh mà tôi biết.

“Mẹ,” nó nói. “Đây là đường tắt ạ?”

“Không. Không phải.”

“Vậy chúng ta đang đi đâu thế?”

“Cứ ngồi yên đấy.”

“Con sẽ lỡ chuyến bay mất,” nó nói.

“Không phải lo. Mà dù có bị lỡ đi nữa thì con vẫn có thể bay chuyến khác cơ mà.”

Con đường mới rải nhựa đường, giống như một dải ruy băng mỏng, chạy đến dãy núi nơi những người giàu có đã xây nhà rải rác trên đó. Một trong số những người khách hàng của tôi sống ở đó, trong một ngôi nhà quá gắn bó với những ngọn núi xung quanh đến nỗi người ta khó có thể nhận ra nó là một ngôi nhà. Tuy nhiên, trước khi con đường đến được những ngôi nhà cầu kì đó, nó dốc xuống một khe suối cạn vốn amng trong mình một trong những điều ngạc nhiên nho nhỏ của sa mạc: đó là sự hiện hữu của nước ngầm. Nó không lộ rõ đến mức hình thành nên một cái vũng nhưng cũng đủ ẩm ướt để mọc lên những đám cỏ tươi tốt và một rặng cây dương lá rung khiêm tốn, những chiếc lá của nó rung rinh như thế đang ngạc nhiên không ngớt.

Tôi dừng xe trong cái khe cạn. Trông nó đẹp một cách huyền ảo trong thứ ánh sáng âm u. Những thân cây trắng và những chiếc lá màu xanh nhạt của những cây dương lá rung đang lấp lánh, và một vạt nắng, xuyên qua chúng, tỏa sáng lên một vách núi xù xì màu đỏ phía xa xa.

“Jonathan,” tôi nói. “Hãy rải tro của bố con ở đây này. Hãy làm cho xong đi.”

“Ở đây ạ?” Nó hỏi. “Sao lại là ở đây?”

“Sao lại không? Con không nghĩ là nơi này rất đẹp sao?”

“Ồ, dĩ nhiên là có. Nhưng…”

Nó liếc về băng ghế sau, về phía cái túi của nó.

“Lấy cái hộp ra đi,” tôi nói. “Nào, làm đi. Hãy tin mẹ.”

Nó từ từ với tay ra sau, với sự ngập ngừng thấy rõ, và mở khóa của cái túi. Nó quay người lại, ẵm cái hộp bằng cả hai tay.

“Mẹ có chắc không?” Nó nói.

“Mẹ chắc. Đi thôi.”

Chúng tôi ra khỏi xe, bước vài bước trên đám cỏ khô dày. Jonathan ôm cái hộp. Những con ruồi lờ đờ vo ve quanh chúng tôi, và một con thằn lằn màu bụi nằm yên trên đỉnh một tảng đá màu hồng cao đến thắt lưng, nhìn chúng tôi chằm chằm với cả cuộc đời ngắn ngủi của nó.

“Quả là đẹp,” Jonathan nói.

“Thi thoảng mẹ vẫn đi qua đây,” tôi nói. “Mẹ có khách hàng ở đây mà. Từ bây giờ, mỗi khi con đến thăm mẹ, mẹ con mình có thể đến đây nếu con thích.”

“Con có nên mở cái hộp không nhỉ?” Nó hỏi.

“Mở đi. Không khó khăn gì. Con có biết cách mở không đấy?”

“Con nghĩ là con biết.” Nó chạm vào cái móc. Rồi nó tụt tay lại, không nhấc cái nắp lên.

“Không,” nó nói. “Con không thể. Đây không phải là nơi thích hợp.”

“Con yêu, chúng chỉ là đám tro thôi mà. Hãy rải chúng đi và tiếp tục sống vì cuộc đời của chúng ta.”

“Con đã hứa với bố rồi. Đây không phải là nơi thích hợp đâu. Đây không phải là điều bố muốn.”

“Quên những gì ông ấy muốn đi,” tôi nói.

“Mẹ có thể làm vậy. Còn con thì không.”

Nó giữ chặt cái hộp, các đốt ngón tay trắng bệch ra như thể nó sợ tôi sẽ lấy mất. Tôi nói: “Không đúng.”

“Con không biết điều đó có đúng hay không. Đó là sự thật. Mẹ, sao mẹ lại muốn lấy bố?”

“Mẹ đã kể cho con nghe chuyện đó rồi mà.”

“Mẹ chỉ kể với con về việc mẹ đi đôi giày màu trắng sau ngày Quốc tế Lao động và bố có mái tóc dày dặn rất đẹp, mẹ không thể nghĩ ra lý do nào để không lấy bố, do đó mẹ đã làm thế,” nó nói. “Nhưng sao mẹ lại lấy bố, sao mẹ vẫn ở với bố, nếu mẹ không còn hứng thú với điều đó nữa? Có phải gia đình ta được tạo nên chỉ vì mẹ nghĩ là mẹ cần phải lấy chồng và sinh con không?”

“Hãy ăn nói cẩn thận, con trai. Mẹ yêu bố con. Con đâu có ngồi lì trong cái căn hộ chung cư đó bao năm trời. Con đâu có tỉnh giấc với ông ấy trong đêm khi ông ấy không thở được và rơi vào mê sảng.”

“Vâng. Nhưng mẹ có yêu bố không? Thực sự con chỉ muốn biết điều đó thôi. Con hiểu mẹ đã hi sinh vì bố, đã chăm sóc bố, và tất cả những điều tương tự như thế. Nhưng mẹ có yêu bố không?”

“Sao con lại hỏi mẹ mình một câu như thế?”

Nó vẫn ẵm cái hộp trong tay. “Con nghĩ có lẽ con yêu bố,” nó nhẹ nhàng nói. “Con tôn thờ bố.”

“Ông ấy chỉ là một người đàn ông bình thường thôi mà.”

“Con biết. Mẹ không nghĩ là con biết điều đó à?”

Chúng tôi đứng một lúc ở rìa rặng cây dương lá rung. Chẳng có gì xảy ra, chẳng có gì chuyển động. Jonathan giữ khư khư cái hộp, mắt mũi nhắm chặt lại một cách bướng bỉnh. Sau vài phút tôi nói: “Jonathan, hãy tự tìm lấy cho mình một người để yêu.”

“Con đã có rồi,” nó nói.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,359
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 3-5


Tôi bỗng thấy choáng váng khi thấy cả hai chúng tôi nói chuyện với nhau như thế này – một cảm giác hoa mày chóng mặt như lúc đứng trên một độ cao lớn hay khi cảm thấy không an toàn. Chúng tôi đã luôn quá thận trọng với nhau. Giờ đây, khi đã khá muộn, khi tôi có những điều cần bàn với nó, chúng tôi không thể nói chuyện với nhau một cách dễ dàng được nữa.
“Con biết ý mẹ là gì mà,” tôi nói.
Nó nóng nảy ngoảnh mặt đi nơi khác, như thể thứ gì đó ở nơi chân trời phía tay phải của tôi đã thu hút sự chú ý của nó. Và tôi thấy, ngay trước mặt tôi, đang giận dữ lảng tránh ánh mắt tôi, là đứa con trai bốn tuổi tôi từng hiểu rõ hơn cả bản thân mình. Giờ nó đã trở lại, trong hình dạng một người đàn ông trưởng thành với vẻ lầm lì, khinh khỉnh, với một tinh thần hoang mang, suy nhược.
“Mẹ chẳng biết gì cả,” cuối cùng nó nói. “Cuộc sống của bọn con khác nhiều so với những gì mẹ có thể tưởng tượng ra.”
“Mẹ hiểu rõ về phụ nữ,” tôi nói. “Và mẹ có thể nói với con thế này. Người phụ nữ đó sẽ không để con có những quyền bình đẳng trong vai trò làm cha làm mẹ đối với con của cô ta đâu.”
Giờ nó có thể nhìn tôi. Đôi mắt nó gay gắt và rực lửa.
“Rebecca không phải là con của riêng chị ấy. Rebecca là con của bọn con,” nó nói.
“Chỉ là một lối nói thôi.”
“Không. Thực sự là thế. Bobby, Clare và con không biết ai là bố đứa bé. Đó là lý do bọn con quyết định làm như thế.”
Tôi không tin nó. Tôi biết – phần nào – rằng nó và người phụ nữ đó không phải là tình nhân. Nó chỉ đang bịa chuyện, như nó vẫn thường hay làm hồi còn nhỏ. Tuy nhiên, tôi không phản đối.
“Và đó cũng là điều mà Clare muốn chứ?”
“Vâng. Đó là điều chị ấy muốn.”
“Có lẽ đó chỉ là điều mà cô ta nói là cô ta muốn thôi,” tôi nói. “Đó có thể là điều mà cô ta nghĩ là cô ta muốn.”
“Mẹ không hiểu Clare. Mẹ đang nghĩ về một mẫu người khác đấy.”
“Không đâu, con yêu. Con mới là người không hiểu gì. Mẹ biết sẽ thật khó khăn khi nghĩ khác đi về một người mà con đã quen biết, hay tin rằng cuộc đời con sẽ trở nên khác biệt. Và mẹ đang đứng đây để nói cho con hay rằng trên đời này vẫn có những định luật chung. Một người phụ nữ sẽ không chia sẻ đứa con của cô ta với ai cả.”
“Mẹ,” nó nói trong một giọng tỏ ra điềm tĩnh hết mức. “Mẹ à, mẹ đang nói về chính bản thân mẹ thì có. Chính mẹ mới không chịu buông tha con mình.”
“Hãy nghe mẹ. Hãy ra đi và tìm lấy cho chính con một người để yêu thương. Hãy sinh một đứa con cho riêng mình, nếu đó là điều mà con muốn.”
“Con đã có rồi,” nó nói. “Rebecca đích thực là con của con.”
“Số ba là một con số kì cục. Khi có ba người, một người thường bị đẩy ra ngoài.”
“Mẹ, mẹ không biết là mẹ đang nói gì đâu,” nó nói. “Mẹ chẳng hiểu cái quái gì hết.”
“Đừng có ăn nói với mẹ kiểu đó. Mẹ vẫn là mẹ của con đấy.”
“Vậy thì xin mẹ đừng có áp đặt con. Mẹ là người muốn nói chuyện cơ mà.”
Nó đã thắng tôi ở điểm đó. Chính tôi là người muốn nói chuyện. Tôi là người đã chui đầu vào một cuộc hôn nhân, để mình bị cuốn theo những công việc nội trợ lặt vặt đơn giản, nhàm chán. Và giờ đây, trong một rặng cây ở sa mạc, tôi muốn nói chuyện.
“Tất cả những gì mẹ muốn nói,” tôi nói, “là dường như có những giới hạn nào đó. Con người ta sống với nhau theo cặp đôi cũng đã đủ khó khăn rồi.”
“Còn con,” nó nói, “đang nghiêm túc cân nhắc khả năng rằng những giới hạn đó chính là một lời tiên đoán đã biến thành sự thật. Bobby, Clare và con đang hạnh phúc bên nhau. Bọn con dự định sẽ mãi sống cùng nhau.”
“Lịch sử đã dạy bảo chúng ta một cách khác hẳn.”
“Lịch sử đã thay đổi. Mẹ, đây không còn là thế giới như trước nữa. Thế giới này đang đi tới tận cùng vào bất cứ lúc nào, tại sao chúng ta không cố gắng có được mọi thứ mà chúng ta có thể?”
“Người ta vẫn luôn tin rằng thế giới đang đi đến tận cùng ngay từ ngày thế giới mới bắt đầu, con yêu ạ. Nhưng nó đâu có kết thúc, và nó cũng chẳng thay đổi gì mấy.”
“Sao mẹ lại có thể nói thế được nhỉ?” Nó nói. “Mẹ hãy nhìn vào mẹ xem nào.”
Tôi ý thức được rằng mình đang đứng trên mặt đất bụi bặm và xám đỏ. Tôi ý thức được rằng mình đang mặc quần jean và áo khoác da lộn, dưới bầu trời bao la.
Tôi nói: “Nói thẳng ra thì con nghĩ rằng Bobby sẽ chọn con? Là thế, đúng không? Con nghĩ Clare sẽ rút lui, và con cùng Bobby sẽ nuôi đứa trẻ đó, còn cô ta chỉ đứng làm nền thôi.”
Nó nhìn tôi, và tôi nhìn nó. Tôi nhìn thấu mọi thứ trong nó: cái ham muốn dành cho những người đàn ông, tội lỗi và nỗi thất vọng, cùng sự tức giận. Tôi thấy rằng trong chừng mực nào đó sự giận dữ của nó là sự giận dữ của một phụ nữ. Nó có cái ý thức phản bội của một người đàn bà. Nó tin rằng nó đã bị dồn đến đường cùng một cách bất công, được yêu bởi những con người không thích hợp vì những lý do sai lầm. Trong một thoáng, tôi cảm thấy sợ nó. Tôi sợ con trai mình, ngay tại nơi hoang vu, xa xôi hẻo lánh này. Chúng tôi đã bảo vệ bản thân bằng cách im lặng vì nếu không thì chúng tôi sẽ hét vào mặt nhau, sẽ cào cấu, cắn xé và gào thét. Cả hai chúng tôi đều quá đỗi xấu hổ, khó mà bày tỏ sự giận dữ theo cách thông thường.
“Mẹ chẳng biết mẹ đang nói gì cả,” nó khẽ nói, và tôi thừa nhận rằng có lẽ tôi không biết thật. Chúng tôi đã không còn hiểu nhau, chúng tôi là những người xa lạ theo một nghĩa sâu xa khó hiểu vẫn luôn ẩn dưới sự tận tình và thân mật của chúng tôi như một dòng sông đang chảy. Có lẽ điều đó đã luôn là sự thật.
“Chúng ta nên đi thôi và cố bắt kịp chuyến bay của con,” tôi nói.
“Vâng. Có lẽ thế.”
“Còn về đám tro. Đó là quyền lựa chọn của con. Khi nào con quyết định xong thì hãy báo cho mẹ biết.”
Nó gật đầu. “Có lẽ một ngày nào đó con sẽ trao nó cho Rebecca,” nó nói. “Này, con. Di sản của gia đình ta đấy.”
“Nó cũng sẽ không biết phải làm gì với chúng đâu,” tôi nói.
“Nếu con bảo nó, nó sẽ biết. Con muốn nó lớn lên mà không cần phải băn khoăn về việc cất tro của ông nó ở đâu.”
“Sẽ rất hay đấy. Sẽ rất hay cho nó.”
“Vâng.”
“Đi thôi nào,” tôi nói. “Chúng ta có thể bắt kịp chuyến bay nếu chúng ta đi nhanh.”
Chúng tôi quay trở vào xe, và đi nốt quãng đường còn lại trong im lặng. Jonathan nhét lại hộp đựng tro vào túi và kéo khóa lại. Khi lái xe, tôi định đưa ra vài lời khuyên nhủ với tư cách là một người mẹ, nhưng tôi không biết phải nói thế nào. Tôi muốn nói với nó một điều mà tôi đã mất gần sáu mươi năm mới học được: chúng ta nợ những người sống còn nhiều hơn là nợ những người đã chết, rằng cơ hội hạnh phúc duy nhất của chúng ta – một cơ hội đủ nhỏ - nằm ngay trong sự thay đổi đúng đắn. Nhưng tôi không thể nói ra được.
Vì chúng tôi không còn nhiều thời gian, nên nó phải nhảy ngay ra lề đường trước nhà đón khách. “Tạm biệt mẹ,” nó nói.
“Tạm biệt. Hãy bảo trọng.”
“Vâng. Con luôn giữ gìn mà.”
“Mẹ không chắc lắm về điều đó. Đi đi, nhanh lên. Con sẽ lỡ chuyến bay đấy.”
Nó ra khỏi xe và đeo túi lên vai. Trước khi chạy hết tốc lực đến chỗ máy bay, nó vòng ra bên đằng lái. “Tạm biệt mẹ,” nó nói.
Nó đang ốm, hay chỉ đơn giản là đang già đi? Sao trông nó lại hơi phờ phạc, mắt nó lại hơi quá to so với đầu nó thế?
“Jonathan? Gọi điện cho mẹ khi con về đến nhà nhé! Để mẹ biết là con đã về nhà an toàn.”
“Vâng. Nhất định rồi.”
Nó cúi xuống trước ô cửa sổ xe để mở và tôi hôn lên miệng nó, thật nhẹ nhưng thật kêu. Tôi hôn tạm biệt nó. Và rồi, không một cái vẫy tay hay một cái nhìn lại, nó bước vội đi.
JONATHAN
Bobby và tôi tới nhà ga vài phút trước khi chuyến tàu của Erich đến. Ở nhà ga của một thị trấn như thế này – nó chỉ là một tòa nhà xây bằng gạch màu hạt dẻ, lớn bằng một kho dụng cụ, trước một sân ga bê tông – bạn thực sự có cảm giác về sự xa xôi hẻo lánh của chính mình. Ở đây, nơi nông thôn và thành thị giao nhau, bạn hiểu được rằng sự kiện quan trọng của một chuyến tàu đang đến chính là việc nó sẽ khởi hành đến những địa điểm tiếp theo. Ngay từ lúc chúng tôi dõi theo hình dáng ngoằn ngoèo của con tàu đang lượn quanh sườn đồi xanh ngát cuối cùng, tôi có thể tưởng tượng đến cơn bão bụi mà nó sẽ gây ra trên đường đi. Bụi bặm và một cái cốc giấy lạc lõng sẽ bay quanh sân ga trong một thoáng rồi lạ hạ xuống, trở về với sự tĩnh mịch vốn có. Một cỗ máy bán hàng tự động màu đỏ bị nghiêng hẳn về một bên, trước đây từng bán báo, đang đứng há hốc miệng giữa những cây hương bồ và tầm ma phía bên kia đường ray.
Tôi đã gọi điện cho Erich vì tôi thấy cô đơn. Không đúng: Tôi nên gọi tình trạng này của mình bằng một cái tên thích hợp hơn mới phải. Khi chúng tôi chuyển đến Woodstock, tôi cứ nghĩ rằng ở đó sẽ có nhiều gã đàn ông đồng tính chưa bị ràng buộc hơn, tôi cứ tưởng rằng sẽ gặp được họ ở các quán bar và những điểm bán đồ cũ. Nhưng, thực tế thì, những gã đồng tính sống ở đó đều đã có đôi có cặp. Vì thế, cuối cùng, tôi đành phải gọi điện cho Bác sĩ Tâm lý và mời anh ta đến chơi vào cuối tuần.
Tôi vỗ nhè nhẹ lên vai Bobby, vì tôi hồi hộp. Tôi đã không gặp Erich hơn một năm rồi. Người duy nhất trên sân ga ngoài chúng tôi lúc này là một phụ nữ lớn tuổi mập mạp, đang càng lúc càng bực bội khi tìm kiếm thứ gì đó trong cái túi rơm màu trắng. Tôi vẫn để tay trên vai Bobby khi con tàu ngoằn ngoèo tiến về phía chúng tôi. Một nhân vật từ cuộc đời cũ thực tế hơn của tôi sắp đến thăm tôi trong cuộc đời mới xa lạ, quê mùa.
Con tàu ầm ầm tiến vào, những cánh cửa của nó từ từ mở ra. Một gia đình xuống tàu, theo sau là một ông hói mặc bộ đồ màu nâu, tiếp đến là một thiếu phụ to béo được người phụ nữ lớn tuổi với cái túi rơm màu trắng đón. Trong một thoáng, dường như Erich không hề có mặt trên tàu. Và rồi anh xuất hiện, tay xách một cái va li màu nâu, trên bậc lên xuống của con tàu.
Tôi đã hiểu ngay khi tôi trông thấy anh. Với một người rắn chắc như Erich, ngay cả việc sút mất hai cân cũng đã tạo nên một sự thay đổi rõ rệt. Với vẻ ngoài bây giờ chắc hẳn anh đã sút ít nhất là năm cân. Da anh xám xịt và trông có vẻ bì bì.
Anh cười. Anh lò dò bước xuống những bậc thang, di chuyển như thể anh đang giữ thăng bằng một cái bình vô hình trên đầu. Bobby đỡ lấy khuỷu tay anh khi anh bước từ bậc thang cuối cùng xuống mặt bê tông.
“Chào,” Erich nói. “Tôi đã đến rồi đây.”
“Anh đã đến,” tôi nói.
Sau một thoáng do dự, chúng tôi ôm nhau. Qua lớp quần áo của Erich – chiếc quần jean đen và một cái áo sơ mi vải bông chéo màu xanh – tôi có thể cảm nhận được thân hình gầy yếu thực sự của anh. Như thể tôi đang ôm một bó sậy vậy. Trong vòng tay anh, tôi cảm thấy một nỗi hoang mang dâng trào. Đầu óc tôi choáng váng. Tất cả những gì tôi có thể nghĩ đến là buông anh ra, bỏ chạy về phía những cây hương bồ. Khi Erich và tôi ôm nhau, thế giới như vỡ vụn thành những đốm sáng lung linh trước mắt tôi, một thứ màu sắc hỗn loạn chói lọi, và trong một thoáng dường như tôi muốn đẩy anh ngã, đá anh lăn xuống bên dưới những bánh xe lửa để anh bị nghiền nát thành hư vô. Để anh không còn tồn tại nữa.
Thay vào đó, tôi nắm lấy đôi vai gầy giơ xương của anh và nói: “Thật tuyệt khi được gặp anh.”
Con tàu lại lăn bánh, từ từ đi xa dần trong lớp bụi bốc lên mù mịt.
“Cảm ơn,” anh gật đầu nói. “Cảm ơn rất nhiều. Thật tuyệt khi được ở đây. Đã lâu lắm rồi tôi chưa được về nông thôn đấy. Chào Bobby.”
Anh và Bobby bắt tay nhau. Khuôn mặt Bobby không thể hiện rằng cậu hiểu được bao nhiêu. Cậu xách va li của Erich đến ô tô với sự chắc chắn bình thản của một vị quản gia già cả. Erich có thế đi khá vững, dù bước đi của anh có phần thận trọng thấy rõ, một sự thận trọng như của người già, như thể xương anh mềm và giòn như sáp.
“Chuyến đi ổn chứ?” Tôi hỏi.
“Vâng, rất ổn. Con tàu đã đi qua vài nơi rất đẹp. Ở đây thực sự, ừm, đẹp quá nhỉ?”
“Đúng vậy,” tôi nói. “Nếu anh thích cái kiểu này.”
Anh chớp chớp mắt với vẻ ngập ngừng. Erich hiểu được những lời nói đùa thông thường, nhưng không hiểu nổi những lời châm biếm nho nhỏ.
“Chúng tôi thích nơi này,” tôi nói. “Nó yên bình, êm ả và tẻ ngắt như những gì anh từng tưởng tượng về nông thôn.”
“Ồ,” anh nói. “Tuyệt thật.”
Chúng tôi vào trong xe và bắt đầu về nhà. Bobby lái xe, còn Erich ngồi ở cạnh ghế lái. Tôi ngồi phía sau, chỗ của trẻ con. Khi chúng tôi lái xe trên con đường quen thuộc, tôi nhìn ra những đồng cỏ dại và cứ nghĩ đến việc ẩn mình trong đó, chui thật sâu vào trong một đồng cỏ cho đến khi tôi hoàn toàn bị che khuất giữa những lá cỏ nửa xanh nửa vàng đang úa tàn trong tiết giao mùa. Mười bốn tháng trước, khi Erich và tôi làm tình lần cuối, chúng tôi đã cẩn thận với nhau. Nhưng suốt gần một năm trước đó, chúng tôi đã không hề có biện pháp đề phòng. Tôi nhẹ nhàng lướt những đầu ngón tay lên ngực mình, và ngắm nhìn những chiếc lá cỏ đang đung đưa dưới bầu trời cao.
Erich nói: “Bobby, anh có mang theo bộ sưu tập đĩa hát của anh không?”
“Ồ, chắc chắn rồi,” Bobby nói. “Anh biết tôi mà. Bọn tôi có một cái máy quay đĩa và những thứ tương tự như thế.”
“Tôi mang cho anh vài món quà từ thành phố đây,” Erich nói. “Có một cửa hàng băng đĩa rất lớn ngay trên khu tài chính, anh có tin nổi không.”
“Ồ, tôi biết cửa hàng đó,” Bobby nói. “Đúng, trước đây tôi vẫn thường đến đó.”
Chúng tôi lái xe về nhà, với những cuộc đối thoại ngắt quãng. Tôi ngạc nhiên khi nhận thấy mình không muốn hỏi thăm về sức khỏe của Erich. Không phải sự sợ hãi mà chính nỗi ngại ngùng đã ngăn tôi không đề cập gì đến nó; anh giống như vừa mới trở về từ một cuộc chiến, bị mất tay hoặc chân. Từ chỗ ngồi, tôi có thể thấy mảng da đầu yếu ớt hiện ra qua lớp tóc mỏng của anh – cả da và tóc đều đã mất đi chút sinh khí mà ta chỉ có thể nhận ra sự tồn tại của nó khi nó không còn nữa. Dù Erich chưa bao giờ vạm vỡ, nhưng hiện tại trông tóc anh như sắp rụng ra trong tay bạn. Lớp da đầu bên dưới khô cứng lại. Điều mà tôi làm, khi đối mặt với sự gầy mòn rõ rệt của anh, là nêu ra những quan điểm ưa thích của tôi, bàn tán về những điều kì cục của dân cư địa phương, và kể về chuyến tham dự phiên chợ quê gần đây của chúng tôi, nơi những quả dưa chuột đoạt giải thưởng và những con lợn con của tổ chức 4-H[68]được trưng bày một cách tự hào. Tôi không thể ngừng xoa ngực mình. Chúng tôi băng qua sông Hudson. Bên dưới chúng tôi, những chiếc sà lan đang băng qua mặt nước màu nâu lấp lánh. Những hàng cây ở bờ bên kia đang ngả dần sang màu vàng và đỏ từ những đêm giá rét đầu tiên. Xen giữa những hàng cây, những lâu dài đổ nát của những triệu phú quá cố đờ đẫn trông ra một bầu trời nhạt nhòa và lạnh lẽo.
[68] Một tổ chức thanh niên được đặt dưới sự quản lý của Viện Thực phẩm và Nông nghiẹp Quốc gia của Bộ Nông nghiệp Mỹ.
Khi chúng tôi tiến đến con đường trải sỏi dẫn đến ngôi nhà, Erich há hốc miệng và nói: “Ôi, thật tuyệt vời. Tôi không thể tin được đây lại là nhà của các anh.”
Tôi chưa bao giờ nghe thấy giọng anh mang vẻ thích thú đến thế - một giọng ngạc nhiên đến mức run rẩy. Tôi không chắc liệu tôi có tin lời anh được không. Nó mang vẻ gì đó vồn vã, giả tạo. Anh có vẻ giống với vợ của một người đàn ông tham vọng, khi được đưa tới ngôi nhà ở nông thôn của sếp anh ta.
“Hãy chờ cho đến khi anh thấy bên trong đã,” tôi nói. “Đường vào khá dài đấy.”
“Ôi, không, nó thật hoàn hảo mà. Thật tuyệt vời,” anh nói. “Dù bên trong nó có như thế nào đi chăng nữa.”
“Anh hãy cứ chờ xem,” tôi nói.
Clare cùng Rebecca đón chúng tôi trên hiên nhà. Rebecca, vừa tắm xong, nhìn chúng tôi với đôi mắt vô cùng ngạc nhiên, như thể trước đây nó chưa bao giờ nhìn thấy hình ảnh của chúng tôi – ba người đàn ông đang bước ra khỏi một chiếc ô tô và leo những bậc thang lên hiên nhà. Clare nói lớn: “Chào mọi người.”
“Chào,” Erich nói. “Ôi, thật, ờ, thật tuyệt khi được gặp lại chị. Ôi, trông con bé này.”
Tôi có thể nhận thấy qua khuôn mặt Clare rằng chị đã ngờ ngợ ra điều gì đó. Tôi gần như có thể nhận thấy cả một chuỗi suy nghĩ của chị, cố khớp Erich này với Erich mà chị từng gặp mấy năm trước. Phải chăng anh ta vẫn luôn tái mét và gầy gò như vậy? Phải chăng da dẻ anh ta vẫn luôn quá xỉn như thế?
“Con bé đây,” một lúc sau, Clare nói, “Anh đang bắt gặp nó trong một ngày dễ chịu đấy, nó vẫn ngoan ngoãn từ lúc nó ngủ dậy sáng nay. Tốt hơn là hãy khen ngợi nó nhanh lên, vì mọi thứ có thể thay đổi bất cứ lúc nào.”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,359
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 3-6


Erich, không hiểu lắm về trẻ con, đứng cách vài bước và nói: “Chào bé, xin chào.” Rebecca trố mắt nhìn anh hay nhìn khoảng không quanh anh, một sợi nước dãi đung đưa với vẻ khiêu khích trên cằm nó. Lúc đó, nó đã biết nói được vài tháng. Khi không có ai, nó có thể bi bô hàng giờ, xen lẫn những từ thực tế với thứ từ vựng của riêng nó, nhưng khi đối diện với những người lạ, nó thu mình lại, nhìn chằm chằm với sự chăm chú thản nhiên và hơi đáng sợ, chẳng làm gì khác cả, chờ đợi xem điều gì sẽ xảy ra tiếp theo. Khi rụt rè như thế, nó vẫn muốn được hưởng những đặc quyền của trẻ con, và sự thu mình do dự đó của nó ẩn chứa một nét phóng túng gần như quyến rũ. Tôi đã học được một bài học về tình cha – bạn yêu đứa con của bạn, một phần nào, vì bạn có thể nhìn thấu toàn bộ con người đó. Một đứa bé sẽ không có một cuộc sống hư hỏng, và khi so sánh với nó, tất cả những người khác mà bạn biết đều có vẻ giả tạo, hay che đậy và đầy thủ đoạn. Trong một năm rưỡi, tôi đã học được một điều rằng tôi có thể tưởng tượng ra cảnh Rebecca lớn lên, làm tôi tức giận, đau lòng hay thất vọng, nhưng tôi không thể nghĩ đến cảnh nó biến thành một kẻ xa lạ. Kể cả khi nó nặng đến hơn một tạ. Kể cả khi nó thuyết giảng về uy thế của một con côn trùng chúa, hay phạm tội giết người vì mưu cầu cá nhân. Chúng tôi đã được kết nối với nhau, chúng tôi đã tạo nên một mối thâm tình vốn không thể bị phá vỡ khi chúng tôi còn sống.

“Sao không ôm bố một cái thật chặt nhỉ?” Tôi nói. Clare miễn cưỡng trao nó cho tôi. Khi tôi ôm lấy nó, nó nhìn tôi với vẻ ngạc nhiên thấy rõ. Tôi nói: “Chào tiểu thư Rebecca,” và nó cười khanh khách, như thế tôi vừa nảy bật ra từ một cái hộp.

Tôi áp nó thật sát vào ngực. Tôi gí mũi vào bờ vai mập mạp của nó và hít hít.

Erich nói: “Thật thú vị. Những gì mà các bạn đang làm ở đây ấy. Ý tôi là, nó rất, rất thú vị.”

“Anh cứ quá lời,” Clare nói. “Vào bên trong đi, tôi sẽ đưa anh đến phòng anh. Ôi, tôi đã luôn muốn nói thế với ai đó.”

Clare dẫn Erich vào nhà, và Bobby xách va li theo sau. Tôi nán lại bên ngoài với Rebecca một lúc. Ánh nắng chiều tháng Mười vàng óng làm nổi lên từng cái cây trên sườn núi. Một con nhện đốm mập mạp nằm im ở chính giữa tấm mạng nhện hình lục giác hoàn hảo chăng ra giữa hai cái trụ và thanh lan can ở hàng hiên. Cũng nhanh như khi chúng ta lấy chổi quét mạng nhện, những con nhện quê này – vài con có màu sáng, vài con nhàn nhạt như bụi – đã mau chóng tự chăng lại chỗ dung thân cho chúng. Rebecca mấp máy. Nó bắt đầu khoa tay loạn xạ, báo trước cho những cơn khóc nhè vô cớ. Tôi vuốt tóc nó, chờ những giọt nước mắt lăn xuống. Tôi cũng nghĩ đến việc đem nó đi, đưa nó vào vùng núi cùng tôi.

“Vẫn còn có nhiều việc phải làm,” tôi thì thầm. “Sàn nhà vẫn bị mục khô. Và chúng ta thậm chí còn chưa bắt tay vào sửa lại căn bếp.”

Chúng tôi đưa Erich đến tham quan tiệm ăn, lúc đó đang làm ăn tốt nên Bobby và tôi có thể phó mặc nó trong vài giờ cho Marlys, đầu bếp phụ của chúng tôi, và tình nhân của chị ta, Gert, nhân viên phục vụ mới. Khi chúng tôi mở tiệm ăn, chúng tôi đã dự định mô phỏng nó theo kiểu mà chúng tôi muốn tìm thấy trên đường từ Arizona quay về - một tiệm ăn nhỏ đặc biệt phục vụ những món ăn thực sự được bàn tay con người chế biến. Hóa ra là, không phải chỉ mình chúng tôi mới mong muốn kiếm được một tiệm ăn đơn giản mà khó tìm như thế. Tiệm ăn của chúng tôi luôn đông nghịt khách, và vào những ngày cuối tuần, thực khách xếp hàng đến nửa dãy nhà. Thật phấn khởi và phần nào đáng ngại khi thấy người ta quá háo hức với những món ăn thông thường đó: bánh mì và khoai tây chiên được làm ngay từ khâu đầu tiên, món xúp và món hầm, hai loại bánh nướng mỗi ngày. Đôi khi tôi cảm thấy chúng tôi đang lừa họ bằng cách giả vờ giản dị - chúng tôi đã có những cuộc sống ám ảnh, phức tạp và giờ đây chúng tôi đang kiếm sống bằng cách xếp những chiếc vỏ bánh có diềm lên trên những quả táo được hái từ một vườn quả cách đó gần mười dặm, và ký hợp đồng mua những loại mứt tự làm với một bà lão địa phương. Tuy nhiên, một nửa số thực khách của chúng tôi mặc những bộ đồ quê mùa được đặt từ những quyển catalogue và những cái áo len thô kệch được đan ở Hong Kong hay Guatemala. Tôi không cho rằng có ai trong số họ bị mắc lừa cả.

“Ôi, thật tuyệt vời,” Erich thốt lên. Tiệm ăn đã đến giờ đóng cửa, nhưng một nửa số bàn ăn vẫn còn những thực khách đang kết thúc nốt bữa ăn của mình. Marlys và Gert chào đón chúng tôi với vẻ thân thiện, hồ hởi nhưng vẫn ẩn chứa một nét bực bội thoáng qua. Tôi thấy mình hơi xấu hổ bởi vẻ xanh xao và gầy gò của Erich – như thể tôi đã tỏ ra ngang bướng, hay bộc lộ vài bí mật khó chịu, ở nơi tôi đã thuyết phục mọi người tin rằng mình là một kẻ ngây thơ.

Marlys dẫn Bobby vào bếp để bảo cậu cần phải đặt thêm thứ gì, và chỉ cho cậu xem chỗ bị rò rỉ trong máy rửa bát đĩa mà chị ta đã tạm thời bịt lại được. Tôi đã hiểu được rằng ngay cả một tiệm ăn nhỏ thành công cũng phải hoạt động trong một tình trạng khủng hoảng liên tục. Máy móc bị hỏng, bị cháy, hay không hoạt động khi nó được cần đến nhất. Sản phẩm làm ra thì bị cháy đen hay chưa chín, những con sâu gạo chui vào trong bột. Khẩu vị của khách hàng tuy theo những khuôn mẫu rõ rệt nhưng không thể đoán trước được, do đó, có những nguyên liệu mà tuần này chúng tôi hết sạch nhưng sang tuần sau lại bị mốc meo trên giá. Lợi nhuận tuy đều đặn nhưng rất ít, và dường như chúng tôi cứ liên tục phải làm thêm bánh nướng, cắt thêm khoai tây, hay mặc cả với người bán rau về một thùng carton rau diếp héo. Đôi khi tôi bước vào phòng ăn và thấy, với sự ngạc nhiên, rằng tất cả mọi người chỉ ngồi ăn mà không quan tâm hay chú ý gì đặc biệt, và nói chuyện phiếm với nhau. Họ tin rằng đây là một nhà hàng bình thường, và thấy chẳng có gì là lạ khi chúng tôi phải đấu tranh chống lại sự hư hỏng của thực phẩm và những kẻ ăn bám, hay sự giảo hoạt nhỏ mọn bất tận của những nhà cung cấp, để có được những món ăn đơn giản trên những cái đĩa gốm màu trắng này. Trong những dịp hiếm hoi, khi một khách hàng phàn nàn rằng trứng của ông ta đã bị làm kĩ quá hay món thịt xông khói chưa chín, tôi đã phải ghìm mình để khỏi thét lên rằng: “Ông không hề nhận ra rằng ông may mắn thế nào khi chúng tôi làm thế này à? Ông không hiểuà? Lòng biết ơn của ông ở đâu, vì Chúa?” Tôi bắt đầu hiểu rõ hơn sự cần thiết của máy kết đông nhanh, tủ ướp lạnh hay lò vi sóng. Món này có vẻ khá ngon, và điều đó có thể đoán trước được. Nó đã được thái hạt lựu hay được nhào bột, đã được cán hay thái. Nó không thể bị hỏng được. Nó sẽ được bảo quản cho đến khi thực khách quyết định rằng họ muốn gọi món đó lần nữa. Gần hai năm trước, những người chủ của tất cả các tiệm ăn sáng trưng, hoang vắng ở ven đường có vẻ là kẻ thù của chúng tôi, bởi họ bán những món ăn tệ hại vì lòng tham và sự lười biếng. Giờ đây tôi lại coi họ là những nạn nhân của một loại thất bại có sức cám dỗ và mang tính thiết thực hơn.

Gert hỏi Erich và tôi xem chúng tôi có muốn dùng thứ gì không. Chị ta nói cà phê vẫn đang được đun nóng, và lần cuối khi chị ta kiểm tra thì vẫn còn hai miếng bánh nướng nhân việt quất. Liệu chị ta có biết Erich bị bệnh không? Phải chăng đó là nguyên nhân thực sự khiến chị ta quan tâm đến anh như thế? Tôi có thể nhận thấy Erich bị Gert thu hút, vì chị ta quả thực quyến rũ, một phụ nữ tươi tắn, với khuôn mặt cứng rắn và mái tóc dài muối tiêu, người đã bỏ một công việc tốt trong ngành xuất bản để đến sống ở đây với Marlys. Chị ta ăn mặc như một bà vợ nông dân, trong những bộ váy hoa và những chiếc áo len đan, nhưng chị ta biết nói tiếng Nga và từng biên tập tác phẩm của một nhà thơ vĩ đại. Sau khi chúng tôi lịch sự từ chối cà phê và bánh nướng, chị ta đã quay lại với các khách hàng khác, tôi phải cố ngăn lại lời lẩm bẩm: “Chúng tôi nghĩ chị ta đang gian lận sổ sách.”

Erich nói với chất giọng mới mẻ, sôi nổi quá mức: “Nơi này trông thật đáng yêu.”

“Nó là một phần của kế hoạch quảng cáo mà,” tôi nói. “Một phần không thể thiếu để chúng tôi thu hút được khách hàng mục tiêu.”

“Tất cả bọn trẻ này là ai thế?” Anh hỏi, nhắc đến những bức ảnh treo trên tường.

“Những người lạ,” tôi nói. “Một đô la năm bức, mua ở một cửa hàng đồ cũ phía bên trên sông Hudson. Một nửa trong số chúng hiện là những kẻ nghiện rượu, những kẻ sùng Jesus hay là bạn tù của nhau trong các nhà lao. Số còn lại thì sống trong những khu nhà lưu động với sáu đứa con.”

Anh gật đầu ra vẻ đồng tình, như thể đó là những lời kết thúc tốt đẹp cho những đứa trẻ khi lớn lên. Bobby ra khỏi bếp, Marlys theo sau. Đó là một phụ nữ có thân hình lực lưỡng, đầy tàn nhang, mái tóc màu mơ chín.

“Mình nghĩ có lẽ cái máy rửa bát đĩa hỏng rồi,” cậu nói. “Trông nó có vẻ, cậu biết đấy, khá trầm trọng.”

“Tuyệt nhỉ?” Tôi nói. “Phải mất đến hàng tuần họ mới mang một cái máy rửa bát đĩa mới đến đây. Cậu biết họ là như thế nào mà.”

Marlys ném cho tôi một cú đấm dứ. “Này, đồ đực rựa,” chị ta nói.

Tôi giơ tay lên đầu. “Ối, đừng đánh tôi,” tôi đáp. Đây là cách mà Marlys và tôi thường làm để len lỏi qua mê cung của giới tính và sức mạnh. Chị ta kiếm được kha khá tiền ở tiệm chúng tôi và thường xuyên đấm chúng tôi thùm thụp, véo má chúng tôi thật mạnh hay vỗ mông chúng tôi. Tôi là chủ của chị ta, và tôi giả vờ là mình sợ đau, dù nó không hẳn là không liên quan đến những cảm giác thực sự của tôi. Marlys to lớn, điềm tĩnh và giỏi giang trong nhiều lĩnh vực. Chị ta đã sửa cái máy rửa bát đĩa vào giữa ca sáng. Chị ta là một thủy thủ và vận động viên trượt tuyết thành thạo, và biết tên các loại cây.

“Chà, chúng ta sẽ phải xoay xở với nó cho đến khi nó hỏng hẳn,” Bobby nói. “Cậu với mình có thể phải rửa bát đĩa bằng tay trong một thời gian đấy. Và hi vọng thanh tra y tế không ghé qua.”

“Cuộc đời hào nhoáng của một ông chủ nhà hàng là thế đấy,” tôi nói với Erich, anh gật đầu tán đồng.

Chúng tôi ăn tối ở nhà và chủ yếu nói chuyện về Rebecca. Clare và tôi coi Erich như một thính giả trước sự hứng thú của chúng tôi về những chi tiết vụn vặt về việc nuôi nấng một đứa trẻ. Khi chúng tôi chia phần món ngô, thịt rán và salad cà chua, chúng tôi tranh nhau kể về những điều kì cục của Rebecca, về sự ngạc nhiên của chúng tôi trước những vấn đề k hác nhau về tinh thần và thể chất khi được làm cha làm mẹ, và về đủ mọi lại quyết định tương đối có hiệu quả để hướng dẫn nó bước vào cuộc sống của tình yêu và sự lao động kiếm tiền. Erich, có lẽ là một người lịch sự bẩm sinh, không biết là đang giả vờ hay đang thực sự cảm thấy vô cùng hứng thú với cuộc trò chuyện của chúng tôi. Tôi không thể nhận ra điều đó.

Sau bữa tối, chúng tôi đưa Rebecca đi ngủ và xem một trong những bộ phim mà Clare đã thuê. (“Chúng ta không,” chị nói, “chỉ trò chuyện suông vào một ngày cuối tuần như thế này. Tôi đang tích trữ những bộ phim, trò chơi, hay bất cứ thứ gì. Tôi sẽ thuê cả đĩa biểu diễn xiếc chó nếu tôi biết có thể kiếm được nó ở đâu quanh đây.”) Sau khi xem phim xong, chúng tôi vươn vai, ngáp ngắn ngáp dài và nói rằng chúng tôi thấy mệt mỏi như thế nào – đó phần nào là sự thật. Phải, chúng tôi đều nhất trí, đã đến giờ đi ngủ rồi. Erich ngồi thu lu trên ghế, tay kẹp giữa hai đầu gối như thể căn phòng đang đóng băng. Anh quá nhỏ bé, và cứ một mực muốn làm một vị khách ý tứ, biết điều – một người sẵn sàng đồng ý với tất cả mọi việc, và nhất quyết cho rằng những ý định của chủ nhà đều giống hệt với mong muốn của anh. Gần như trước khi nhận ra mình đang làm gì, tôi nói: “Erich, anh bị như thế này từ lúc nào vậy?”

Anh nhìn tôi với vẻ pha lẫn ngạc nhiên và thất vọng, thoáng hấp háy mắt. Tôi chợt nghĩ rằng có thể anh coi tôi là nguồn gây bệnh cho anh. Vì thực tế thì có thể là như vậy.

“Tôi không chắc liệu nó có lộ rõ không,” anh nói. Anh nói quá nhỏ đến nỗi tôi khó có thể nghe thấy. Giọng anh khe khẽ như tiếng kêu của lò sưởi. Nhưng anh hấp háy mắt một cách dữ dội, và kẹp chặt đùi vào đôi bàn tay hơn. “Tôi đã cảm thấy khá hơn,” anh nói. “Ý tôi là, ừm, tôi nghĩ rằng trông tôi vẫn ổn.”

“Đã bao lâu rồi?” Clare hỏi. Trước khi tôi nói chị đã đứng dậy, định đi pha trà thảo mộc, nhưng giờ chị vẫn đứng yên một chỗ bên cạnh chiếc sofa. Bobby, vẫn ngồi, quan sát trong im lặng.

Erich ngập ngừng như thể đang cố nhớ lại. “Ừm, tôi đã thấy mình đổ bệnh được hơn một năm,” anh nói. “Tôi không thể tin được, ý tôi là sẽ thật là lạ khi tưởng tượng ra những triệu chứng này một cách rõ ràng như thế và rồi bắt đầu có chúng. Một thời gian tôi đã nghĩ rằng có thể tôi chỉ đang mắc bệnh tưởng thôi. Nhưng rồi, ừm. Tôi đã được chẩn đoán khoảng năm tháng trước.”

“Thế mà anh không gọi cho tôi?” Tôi nói.

“Làm thế thì có ích gì?” Anh nói. Lúc này giọng anh truyền ra không khí một cách rõ ràng như một sợi dây cáp xuyên qua sương mù. Nó đã mất đi vẻ lịch sự, nhiệt tình, thay vào đó là một vẻ cay đắng mà tôi chưa từng nghe thấy ở anh. “Có gọi thì cũng đâu có thuốc chữa,” anh nói. “Có gọi thì anh cũng có thể làm được gì ngoài việc lo lắng về nó.”

“Tôi đã hẹn hò với anh khi anh bị bệnh,” tôi nói. “Thế mà anh chẳng nhắc gì đến nó.”

Nhưng ngay lúc đó, tôi cũng nhớ ra rằng: chúng tôi không có mối ràng buộc nào để đề cập đến những vấn đề đó. Những gì chúng tôi trao đổi với nhau chủ yếu là tình dục và nỗi cô đơn chung.

Anh nhìn tôi. Mắt anh trông thật khủng khiếp. “Nói thật, tôi thấy rất xấu hổ,” anh nói. “Khi tôi nghĩ về một điều như thế này xảy ra, khi tôi nghĩ và, anh biết đấy, tưởng tượng ra nó, tôi biết tôi sẽ sợ hãi và tức giận. Và, ừm, cảm thấy có lỗi. Tôi không ngạc nhiên lắm về những cảm xúc đó. Nhưng tôi ngạc nhiên khi thấy mình xấu hổ vì nó.”

“Cưng à, không sao đâu,” Clare nói.

Erich gật đầu. “Dĩ nhiên là không sao,” anh nói. “Còn có thể nói gì khác nữa đây?”

“Chẳng có gì,” chị nói. “Xin lỗi.”

“Tôi nghĩ tôi đang cố hướng đến một thứ gì đó như ngôi nhà này,” anh nói. “Chị biết đấy, tôi đang cố gắng mường tượng ra những gì phải làm với cuộc đời mình. Tôi đã nghĩ tôi sẽ kiếm tiền bằng cách nào đó và ổn định ở một nơi như thế này.”

“Ở đây đêm dài lắm đấy,” Clare nói.

“Nó là thiên đường,” anh nói. “Đừng cố giỡn tôi. Nó quả thực là thiên đường, và chị biết thế mà.”

Chúng tôi vẫn yên vị, đèn vẫn bật và đồng hồ vẫn kêu tích tắc. Tất cả những gì tôi có thể nghĩ đến là Rebecca. Nếu lúc nãy tôi muốn được biến mất vào trong đám cỏ cao, thì giờ đây tôi chỉ muốn đi đến phòng nó, đánh thức nó dậy, và vỗ về nó. Tôi nghĩ về đôi bàn chân xinh xắn của nó, và thói quen nắm chặt lấy tóc bằng một tay khi nó mút ngón tay cái ở tay kia. Tôi băn khoăn không hiểu, liệu ở tuổi hai mươi lăm, nó có còn chút dấu vết nào của cái thói quen đó không. Nó khi đã là một thanh nữ, liệu có hay nghịch tóc khi nó thấy lo lắng hay mệt mỏi? Liệu có ai sẽ yêu hình ảnh lọn tóc nâu cứ liên tục được xoắn ra xoắn vào quanh ngón tay vô thức của nó? Hay có người sẽ thấy khó chịu vì điều đó? Liệu mai này có ai nhìn thấy nó khi nó mệt mỏi, với những ngón tay cứ bận rộn nghịch tóc, và nghĩ rằng “mình chịu hết nổi rồi” không?

Tôi nói: “Em sẽ lên kiểm tra con bé.”

“Nó ổn mà,” Clare nói. “Nó đâu có gây ra tiếng động gì.”

“Nhưng kiểm tra thì có hại gì đâu.”

“Jonathan, nó vẫn ổn,” Clare nói. “Thực sự là thế.”

Đêm đó Erich ngủ một mình ở giường tôi. Dù tôi đã tuyên bố rằng mình sẽ ngủ trên tấm đệm dưới nhà, nhưng cuối cùng tôi lại ngủ chung với Bobby và Clare trên giường của họ. Tôi nằm giữa họ, khoanh tay trước ngực.

“Điều mà em thực sự cảm thấy ghê tởm,” tôi nói, “là em đã quá lo lắng cho bản thân mình. Erich bị bệnh, và em thấy thương cho anh ấy, nhưng chỉ theo một cách mơ hồ. Như thế cái thói ích kỉ của em là một hành khúc Sousa, và căn bệnh hiện tại của Erich là tiếng sáo kim đang làm nền cho nó.”

“Cũng là tự nhiên thôi mà,” chị nói. “Nhưng nghe này, có lẽ cậu không sao đâu. Cậu vẫn mạnh khỏe trong, xem nào, hơn một năm từ lần cuối cậu và Erich…”

“Nó có thể ủ bệnh trong ít nhất là năm năm,” tôi nói. “Gần đây người ta đang nghĩ nó có thể kéo dài đến mười năm nữa kìa.”

Chị gật đầu. Có gì đó không ổn, chị không phản ứng theo cách mà tôi mong đợi, với tính bạo dạn và sự cợt nhả “kiểu Clare”. Có vẻ chị đã thay đổi.

Bobby nằm im lặng bên cạnh tôi. Cậu hầu như chẳng nói gì suốt từ lúc ăn tối. “Bobby này?” Tôi nói.

“Ơi?”

“Sao thế? Cậu trầm lặng chết đi được.”

“Mình không sao,” cậu nói. “Mình chỉ đang suy nghĩ thôi.”

Clare nhéo vào khuỷu tay tôi. Tôi biết ý chị là gì: hãy để cậu yên cho đến khi cậu có thời gian để lấy lại được phản ứng thích hợp. Bobby đối mặt với những điều ngạc nhiên trên đời bằng một sự thận trọng gần như lơ mơ. Clare và tôi đã ngầm quyết định rằng nếu ngôi nhà bị cháy, một người trong chúng tôi sẽ chịu trách nhiệm giúp cậu ấy lựa chọn nên nhảy ra khỏi cái cửa sổ nào.

“Em chỉ cảm thấy quá… kì lạ,” tôi nói. “Từ giờ trở đi, làm sao mà em có thể yên ổn trải qua một ngày nếu cứ mỗi năm phút không kiểm tra những triệu chứng của mình?”

“Cưng ơi, có lẽ cậu không sao đâu,” Clare nói, nhưng giọng chị chẳng hề có sức thuyết phục. Để bù lại, chị vỗ vỗ lên ngực tôi. Từ khi sinh con bé, Clare bỗng dưng hay có những đụng chạm về cơ thể hơn, dù sự âu yếm của chị vẫn đồng bóng và mơ hồ, như thể chị e rằng cơ thể của những người khác có thể làm tay chị bị bỏng.

“Cậu nghĩ sao, Bobby?” Tôi hỏi.

“Mình nghĩ cậu không sao đâu,” cậu đáp.

“Chà, tốt quá. Mình thấy mừng khi cậu nghĩ thế.”

Clare nói: “Tôi phân vân không hiểu Erich sẽ xoay xở chuyện này ra sao. Tôi có cảm giác anh ta không có nhiều bạn.”

“Anh ấy có bạn chứ,” tôi nói. “Chị nghĩ gì vậy, chị nghĩ anh ấy sống trong một môi trường chân không à? Chị nghĩ anh ấy thuộc loại diễn viên không có cuộc sống riêng sao?”

“Làm sao tôi biết được?” Clare nói.

Tôi nhận ra, qua giọng chị, rằng chị phần nào đổ lỗi cho tôi vì tôi đã không thể yêu Erich. Từ khi sinh con, chị đã bỏ hẳn cơ số những lời nhạo báng trước đây, và có xu hướng hi vọng những người khác cũng mềm mỏng hơn như chị.

“Xin đừng nổi cáu với em,” tôi nói. “Không phải lúc này. Chị có thể cáu kỉnh gấp đôi với em vào lúc khác.”

“Tôi không cáu kỉnh,” chị nói. Chị có thói quen phủ nhận những hành động của mình ngay cả khi chị đã thực hiện chúng. Vào lúc đó, tôi tin rằng nếu cứ như thế này thì chị có thể gây hại nghiêm trọng cho con bé. Rebecca sẽ bị ảnh hưởng thế nào khi lớn lên với một người mẹ thường hay hét lên rằng: “Tôi có hét đâu”?

“Đúng,” tôi nói. “Chị không cáu. Chị luôn biết chính xác những gì đang thoát ra từ miệng chị, và bất cứ điều gì người khác nghĩ là họ nghe thấy chỉ là một ảo giác mà thôi.”

“Chúng ta không cần phải tranh cãi vào lúc này,” chị nói. “Trừ phi cậu thực sự muốn.”

“Có lẽ em muốn đấy. Chị thấy tức em vì em không yêu Erich, đúng không?”

“Dĩ nhiên là không. Sao tôi lại có thể tức giậnu bởi một chuyện như thế? Bất kể cậu yêu ai hay không.”

“Ôi, ba người chúng ta vẫn quen với sự nhập nhằng nhiều hơn thế này mà,” tôi nói. “Đúng không? Nói đi. Chị có nghĩ chính em đã làm hỏng cuộc đời em không? Chị có nghĩ việc em yêu chị và Bobby và có một mối quan hệ tình dục nghiêm túc với Erich là bất bình thường không?”

“Cậu đang nói thế đấy chứ,” chị nói.

“Nhưng em muốn nghe xem chị nghĩ gì. Chị nghĩ ở em có điều gì đó không hoàn thiện. Đúng không? Chị nghĩ rằng Bobby và em, mõi người chỉ có một nửa là đàn ông. Đó là lý do chị ở với cả hai bọn em. Bọn em cùng nhau tạo nên một người trong mắt chị. Đúng không?”

“Thôi đi. Cậu đang bối rối, đây không phải là lúc thích hợp để cố nói chuyện.”

“Đó đâu phải là điều em muốn,” tôi nói. “Nhưng nó đã xảy ra. Em không muốn chị đột nhiên căm ghét em chỉ vì điều này. Clare, vì Chúa, em sợ lắm.”

Chị buột miệng nói: “Tôi không…,” nhưng đã kịp ngăn lại. “Ôi, có lẽ thế,” chị nói. “Tôi cũng sợ.”

“Em không buộc phải yêu Erich chỉ vì anh ta bị bệnh,” tôi nói. “Em không cần phải đột nhiên có trách nhiệm với anh ta.”

“Không,” chị nói. “Không, tôi đâu có cho rằng cậu phải làm thế.”

“Chết tiệt, sao em lại mời anh ta đến chứ?”

“Jonathan, cưng ơi,” chị nói. “Việc Erich có mặt ở đây không gây ra điều gì khác biệt cả. Nghe cậu nói như thể cậu nghĩ rằng anh ta mang theo vài mầm bệnh đến đây ấy.”

“Không phải sao? Trước đây em có thể trải qua một ngày mà không nghĩ về nó. Giờ thì em không làm được như thế nữa.”

“Cậu vô lý quá,” chị nói. “Ôi, cậu có lý đến phát điên lên được. Tôi biết cậu đang nói gì. Nhưng đừng đổ lỗi cho anh ta. Đó không phải lỗi của anh ta.”

“Em biết,” tôi khổ sở nói. “Em biết thế.”

Hạn chế của tôi chính là cái lý trí của tôi. Tôi quá điềm tĩnh, quá đúng mực. Nếu tôi là một người khác, tôi có thể đã phá phách khắp nhà, đập vỡ đồ sành sứ và giật xé những bức tranh trên tường. Dĩ nhiên nó sẽ không giải quyết được gì, nhưng nó sẽ giải tỏa được bức xúc – nó sẽ là khoái lạc duy nhất mà tôi có thể tưởng tượng ra khi đó. Cái ý nghĩ về tình dục làm tôi ghê tởm, sự an ủi của những người bạn hoàn toàn khỏe mạnh cũng thế. Mong muốn duy nhất của tôi là chạy loạn lên, gào thét quanh nhà, giật xé những tấm rèm và đập vỡ đồ đạc, phá tan mọi tấm kính.

“Cố ngủ đi,” Clare nói. “Không ích gì khi cứ thao thức lo nghĩ về chuyện đó.”

“Em biết. Em sẽ cố.”

“Ừ. Chúc ngủ ngon.”

“Chúc ngủ ngon.”

Chị đặt tay lên bụng tôi và kéo tôi lại gần mùi hương và sự ấm áp tỏa ra từ cơ thể chị. Bobby thở nhè nhẹ bên tay kia của tôi. Tôi biết tôi nên cảm thấy thoải mái và gần như đã làm được, nhưng cảm giác thanh thản thực sự cứ rung rinh bên ngoài tầm với của tôi. Tôi đang ở một nơi hoang vu với những người mà cuộc đời vẫn sẽ không thay đổi nếu tôi chết đi. Tôi nằm giữa Clare và Bobby, nghe ngóng Rebecca. Nếu nó thức giấc và khóc, tôi sẽ đến phòng nó và vỗ về nó. Tôi sẽ đun nóng chai sữa và bế nó khi nó uống. Tôi nằm ngóng đợi tiếng khóc thút thít đầu tiên, nhưng nó vẫn ngủ ngoan.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,359
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 3-7


BOBBY

Đã quá nửa đêm. Những đám mây cuồn cuộn băng qua trên hành trình dài đến với Đại Tây Dương từ tâm lục địa. Mặt trăng tròn tỏa sáng rực rỡ qua cửa sổ phòng ngủ của chúng tôi. Khi bước đi trên sàn nhà sáng ánh trăng, tôi dừng lại để ngắm Jonathan và Clare, đang say ngủ trong bóng tối phía cửa sổ mái. Nàng phát ra tiếng ngáy nhè nhẹ, như đang khẽ thổi những quả bong bóng. Còn cậu nằm nghiêng đầu xa khỏi nàng, như thể cậu đang mơ một giấc mơ ồn ào và không muốn làm ảnh hưởng đến giấc ngủ của nàng.

Tôi đi dọc theo hành lang và gõ cửa, nhưng không đợi tiếng đáp lại. Căn phòng đó nằm bên phía không có ánh trăng của ngôi nhà – nó vẫn chìm trong bóng tối dày đặc. Tôi đứng một lúc bên cửa, rồi thì thầm: “Erich?”

“Vâng?”

“Anh đang ngủ à?”

“Không. Ừm, không. Thực sự thì không.”

“Tôi chỉ, anh biết đấy. Tôi muốn chắc chắn rằng anh cảm thấy thoải mái.”

“Vâng,” anh nói. “Chiếc giường tốt lắm.”

Đầu anh là một chấm đen đang cử động ở mép của tấm chăn sáng màu. Tôi lờ mờ trông thấy anh: mắt anh và cái trán dô của anh. Căn phòng không có mùi bệnh tật.

“Đó là cái giường cũ của Clare,” tôi nói. “Ừm, của Clare và tôi, trong một thời gian. Giờ thì nó là của Jonathan và chúng tôi có, anh biết đấy, một cái khác rồi.”

“Nó quả là một cái giường tốt. Không quá mềm. Tôi luôn nghĩ rằng ở nông thôn người ta thường có những cái giường mềm.”

“Đôi khi có chuột chui vào đâu đấy,” tôi nói. “Chúng tôi cứ nói là sẽ bẫy nó, nhưng chẳng bao giờ làm. Tôi không chắc liệu chúng tôi có thực sự, anh biết đấy, đủ cẩn thận để là người thôn quê không.”

“Có lẽ lũ chuột ở đây cũng sạch sẽ hơn,” anh nói. “Có lẽ chúng giống những con vật thực thụ hơn.”

Một sự im lặng trôi qua. Sau một thoáng, chúng tôi nghe thấy tiếng chuột cào cào bên trong bức tường. Chúng tôi bật cười.

“Ở New York anh có, ờ, người nào chăm sóc anh không?” Tôi hỏi.

“Ừm, có những tình nguyện viên,” anh nói. “Nếu tôi cảm thấy thực sự ốm yếu, tôi có thể gọi điện đến một trong những trung tâm đó.”

“Còn về gia đình anh thì sao?”

“Gia đình tôi đã từ tôi.”

“Họ sẽ không giúp đỡ anh à?” Tôi hỏi.

“Họ thậm chí còn không nói chuyện với tôi. Tôi như đã chết rồi. Chị gái tôi có gọi điện, nhưng chị ấy sẽ không muốn cùng ở một phòng với tôi đâu. Chị ấy nghĩ lũ con của chị ấy có thể bị lây bệnh.”

“Anh vẫn có việc làm chứ?” Tôi hỏi.

“Không. Không, họ đã sa thải tôi vài tuần trước, sau khi tôi phải vào viện vì chứng viêm phổi.”

“Còn các bạn anh?”

“Vài người trong số họ đã chết năm ngoái. Họ đã ra đi như thế, ba người, ờ, trong sáu tháng. Cậu bạn mà tôi luôn coi là bạn thân nhất thì yếu hơn tôi, cậu ấy đang nằm viện. Cậu ấy chẳng nhận ra ai cả trừ phi hôm đó cậu ấy cực kì dễ chịu.”

“Anh có sợ không?” Tôi hỏi.

“Theo anh thì sao?”

“Có. Ừm, tôi cũng sẽ thấy sợ.”

Anh thở dài. “Thế mà có lúc tôi không sợ đâu,” anh nó. “Nó cũng chỉ là một việc đến rồi đi thôi mà. Nhưng giờ đây mỗi giây mỗi phút đều đã khác. Ngay cả khi tôi không sợ, mọi thứ cũng vẫn khác. Tôi cảm thấy… ôi, tôi không thể giải thích được. Chỉ biết là khác thôi. Tôi thường thấy tách biệt khỏi bản thân mình, anh biết đấy. Như thể tôi không có cơ thể vậy, như thể tôi chỉ, tôi không biết nữa, như thể tôi là con đường mà tôi đang bước đi trên nó. Bây giờ thì tôi không bao giờ tách khỏi bản thân mình.”

“Ừm.”

“Và, anh biết đấy,” anh nói. “Nếu có lúc nào tôi thực sự nghĩ về nó, tôi sẽ hình dung bản thân mình như một người già và không có gì phải hối tiếc cả. Anh biết không? Tôi đã coi mình như một ông lão nổi tiếng đang nằm trên giường với bao người xung quanh, và nói: “Tôi không có gì phải hối tiếc.” Điều đó quả thực hơi ngớ ngẩn, đúng không? Nó quả là rất ngớ ngẩn.”

“Thực sự thì anh thấy hối tiếc điều gì?” Tôi hỏi.

“Ôi, ừm. Thực sự thì chẳng có gì, tôi nghĩ thế. Ý tôi là, tôi đã nghĩ rằng tôi có thể làm nhiều điều cho cuộc đời mình hơn thế này. Tôi đã nghĩ tôi còn nhiều thời gian. Và như tôi đã nói, tôi nghĩ tôi sẽ nổi tiếng và quy ẩn ở một nơi như thế này.”

“Ừm. Chà, đây không phải là nơi mà ai cũng có thể ở được,” tôi nói. “Chỉ có một rạp chiếu phim. Và không có nơi nào để nghe những bản nhạc hay cả.”

Anh cười, một tiếng sồn sột khe khẽ như tiếng cạo khoai tây. Bạn có thể nghe thấy bệnh tật trong tiếng cười của anh. “Thực sự tôi chưa bao giờ làm những điều như thế ở New York,” anh nói. “Tôi chỉ, ừm, tôi nghĩ chắc anh sẽ nói rằng tôi đã đánh cược cuộc đời mình. Tôi đoán chắc anh sẽ gọi nó như thế. Tôi đang nghĩ rằng dù thế nào thì mọi chuyện cũng sẽ có kết quả. Tôi nghĩ tôi chỉ cần làm việc chăm chỉ và có niềm tin.”

Tôi bước về phía giường. Tôi đứng cạnh anh, khi con chuột lại bắt đầu cào cào bên trong bức tường. “Ừm, này, tôi nằm lên giường với anh một lúc nhé?” Tôi nói.

“Gì cơ?”

“Để anh một mình ở đây thì có vẻ không phải lắm,” tôi nói. “Tôi nói. "Tôi cùng nằm trong chăn với anh một lát được không?".”

“Tôi chẳng mặc gì đâu,” anh nói.

“Không sao.”

“Anh làm sao thế?” Anh hỏi. “Anh muốn ngủ cùng tôi vì tôi bị bệnh à?”

“Không,” tôi nói.

“Anh có muốn làm thế nếu tôi không bị bệnh không?”

“Tôi không biết.”

“Ôi, Chúa ơi. Anh làm ơn ra khỏi đây đi! Anh ra ngoài đi!”

“Nghe này, tôi xin lỗi. Tôi không định, ờ, xúc phạm anh đâu.”

“Tôi biết. Nhưng làm ơn đi đi.”

“Ừm, thôi được,” tôi nói.

Tôi rời căn phòng và đóng cánh cửa sau lưng lại. Tôi cảm thấy tay chân thật nặng nề. Một cảm giác thất vọng và nỗi xấu hổ ê chề, vô danh cứ mãi đọng lại. Tôi không muốn xâm phạm đến sự riêng tư của anh. Tôi chỉ muốn ôm anh một lúc, muốn ghì đầu anh vào ngực mình. Tôi chỉ muốn ôm lấy anh khi cơ thể anh đang chìm dần vào quá khứ.

JONATHAN

Erich trở lại vào ngày cuối tuần tiếp theo. Tôi không rõ tại sao lời mời lại được đưa ra hay tại sao nó lại được chấp nhận – không ai trong chúng tôi, kể cả Erich, thực sự thấy dễ chịu. Cả ngày Chủ nhật anh cứ sưng sỉa và thu mình. Tuy nhiên, khi chúng tôi tiễn anh ra ga tàu, Bobby hỏi: “Anh có muốn quay lại vào cuối tuần sau không?”, Erich ngập ngừng rồi đồng ý. Anh nói đồng ý với một giọng dứt khoát, như thể đó là quyền lợi chính đáng của anh vậy.

Khi Bobby và tôi lái xe về nhà, tôi hỏi: “Cậu có thực sự muốn Erich quay lại sớm như thế không?”

“Jon à,” cậu nói, “anh chàng đó cần chút thời gian ở nơi thôn dã. Thực sự thì, cậu có nhìn vào anh ta không đấy?”

Trong một thoáng, có vẻ như Bobby chưa hiểu bản chất căn bệnh của Erich; có vẻ cậu tin rằng Erich chỉ đang căng thẳng và quá mệt mỏi, cần được nghỉ ngơi trong một khoảng thời gian thật dài. “Anh ấy cần nhiều hơn thế, Bobby ạ,” tôi nói.

“Ừm, một chút thời gian ở thôn quê là tất cả những gì chúng ta có thể trao cho anh ấy. Hiện giờ anh ấy, ờ, là một thành viên trong gia đình. Dù chúng ta có thích hay không.”

“Gia đình,” tôi nói. “Cậu biết đấy, cậu sắp làm mình phát điên lên với cái thứ vớ vẩn đó rồi.”

Cậu nhún vai và cười buồn bã, như thể tôi đang dằn dỗi về một hoàn cảnh rõ ràng nằm ngoài tầm kiểm soát của mọi người. Giờ thì Erich đã được gắn liền với chúng tôi, dù rất mong manh, và theo như Bobby, chúng tôi buộc phải cung cấp cho anh ta mọi thứ mà chúng tôi có.

Erich quay lại vào thứ Sáu tuần sau trên chuyến tàu lúc năm giờ. Lúc đó, anh đã lấy lại được sự nhiệt tình nhã nhặn, hơi thái quá, dù bây giờ nó đã có phần giảm bớt. Bobby đảm nhận nhiệm vụ chính là để ý đến sự thoải mái của Erich, và đến cuối chuyến viếng thăm thứ hai của anh, hai người họ đã khá quấn quýt. Bobby lúc nào cũng tỏ ra trìu mến, còn Erich đón nhận những sự giúp đỡ của cậu với vẻ tham lam pha chút ngúng nguẩy, như một hồn ma phẫn nộ trở về đòi nợ những người đang sống.

Một chiều Chủ nhật muộn, tôi đang ở trong bếp với Clare và Rebecca. Clare đang thái một quả bơ. Rebecca ngồi trên mặt quầy bếp, nghịch một bộ khuôn bánh quy hình động vật bằng nhựa, và tôi đứng bên cạnh, để giữ cho nó khỏi ngã. Bên ngoài cửa sổ, chúng tôi có thể thấy Bobby và Erich đang ngồi trên bãi cỏ mọc lộn xộn, nói chuyện vẻ nghiêm chỉnh. Bobby đang mở rộng hai bàn tay, ngụ ý đến sự tầm cỡ, và Erich gật đầu vẻ không tin lắm.

“Vậy là, Bobby có một tình yêu mới,” tôi nói.

“Đừng xấu tính như thế, cưng,” Clare nói. “Điều đó đâu có giống với cậu.” Chị xếp những lát bơ lên một cái đĩa, bắt đầu bóc vỏ một củ hành tím.

“Em không nghĩ rằng đột nhiên chúng ta lại phải làm từ thiện đối với Erich,” tôi nói. “Anh ấy trên thực tế vẫn là một người lạ.”

“Ở đây chúng ta có đủ chỗ cho một người lạ, cậu không nghĩ thế sao? Có vẻ như chúng ta không thiếu thốn thứ gì cả.”

“Thế bây giờ chị là mẹ Teresa đấy à?” Tôi nói. “Có vẻ hơi đột ngột đấy.”

Chị nhìn tôi với vẻ điềm tĩnh bình thản có sức buộc tội thuyết phục hơn bất cứ lời chỉ trích nào. Điều gì đó đã xảy ra với Clare. Tôi không hiểu nổi chị nữa – chị đã từ bỏ tính hay nhạo báng của mình và tiếp nhận một đức tính mềm mỏng, mơ hồ. Chúng tôi vẫn là bạn và sống chung một nhà nhưng chúng tôi không còn thân thiết nữa.

“Em biết,” tôi nói. “Em là đồ bỏ đi.”

Chị vỗ nhẹ lên vai tôi. “Xin đừng vỗ em,” tôi nói. “Chị đâu có quen vỗ em như thế này.”

Rebecca thì thò lò mũi xanh, ngắm nghía cái khuôn bánh quy hình con chuột rồi òa khóc. Sự xích mích cứa vào da nó như một sợi dây thừng nhỏ bền chắc, nó khóc mỗi khi quanh nó có ai lên giọng bực tức.

“Thôi nào, bé yêu,” tôi nói. “Không sao đâu, đừng để ý đến bố và mẹ.”

Tôi định bế nó nhưng nó không chịu để tôi ôm. Nó cứ đòi Clare bế, và chị mang nó vào phòng khách trong khi tôi thái nốt hành.

Cuối cùng, Erich đến ở hẳn với chúng tôi. Anh không còn nơi nào khác để đi ngoại trừ căn hộ trống trải, thiếu tiện nghi trong khu Hai mươi Đông. Anh sẽ chịu đựng căn bệnh trong sự bầu bạn của những người tình nguyện cho đến khi anh phải chuyển đến bất cứ giường bệnh nào còn trống dành cho những người không giàu có và không có bảo hiểm. Bobby cứ đòi anh phải đến thăm chúng tôi thường xuyên, và sau khi đi đi lại lại quá nhiều lần, anh đã chuyển đến ở luôn với chúng tôi. Tôi nhường cho anh phòng ngủ của tôi, nói rằng tôi bỗng thấy mình thích ngủ ở dưới nhà. Chấp nhận Erich không phải là một quá trình đơn giản. Tôi bực tức với anh vì anh bị bệnh, đồng thời cảm thấy mình buộc phải đối xử với anh theo kiểu mà tôi mong muốn nếu bản thân tôi cũng đổ bệnh. Tôi tập tỏ ra dịu dàng với anh vì tôi hi vọng những người khác cũng đối xử với tôi như thế nếu sinh lực của tôi bị mất dần và cơ thể tôi bắt đầu thay đổi. Đôi khi tôi bắt kịp cảm giác đó và trải qua nó, một thoáng quan tâm thực sự. Đôi khi tôi chỉ giả vờ có nó. Sau một hồi từ chối, Erich cũng đồng ý tiếp nhận giường của tôi, và khi làm thế, anh gần như đã chính thức rời bỏ một phần khỏi cái thế giới vẫn đang tiếp diễn này. Khoảnh khắc này có thể đến với tất cả chúng ta, vào một lúc nào đó trong hành trình cuối cùng từ sự khỏe mạnh tới bệnh tật. Chúng ta từ bỏ bổn phận cũ của mình là nghĩ đến nhu cầu của những người khác, và phó mặc bản thân cho họ chăm sóc. Thân phận của chúng ta cũng thay đổi. Chúng ta trở thành những công dân của một vương quốc mới, và dù chúng ta vẫn giữ được những gì tốt đẹp và xấu xa nhất của bản thân chúng ta trước đây, nhưng chúng ta không còn đích thân điều khiển được định mệnh của chúng ta nữa. Erich cần phòng tôi để chuẩn bị cho cái chết của anh. Anh là một người khép kín và sẽ không thể chịu được nếu trước mặt cứ có người đi đi lại lại. Vì thế, với nụ cười lịch thiệp và hơi phiền muộn, anh đồng ý để tôi nhường giường tôi cho anh. Tôi bước sang tuổi ba mươi hai ngay sau hôm anh đến ở hẳn với chúng tôi.

Chúng tôi dẫn anh đi dạo trong rừng, nấu những bữa ăn dễ tiêu cho anh. Anh giống như một người già trong nhà, lúc thì nhã nhặn lúc thì nóng nảy. Như thể chúng tôi đang sống cùng một người ông vậy.

Đông qua, xuân tới. Tiệm ăn trở nên phát đạt. Rebecca mọc răng mới và phát hiện ra một cơ hội tốt để nói không với bất cứ thứ gì người khác bảo nó. Erich tàn tạ đến không ngờ. Sinh lực của anh cứ lúc có lúc không, đôi khi biến đổi từ giờ này sang giờ khác. Anh có vấn đề về tiêu hóa, bị sốt, và thị lực suy giảm. Trí óc anh đôi khi lơ đễnh – anh có thể trở nên đãng trí và hay quên. Hằng tuần anh vẫn đến bệnh viện ở Albany. Trong những ngày khỏe khoắn nhất, anh có thể xách giỏ đi bộ vào rừng để hái nấm. Còn trong những ngày tệ nhất, anh nằm cuộn tròn trên giường, không rõ là thức hay ngủ.

Tôi sống hơi tách biệt với mọi người. Tôi không muốn Erich đến sống cùng chúng tôi, nhưng không thể chủ động mong rằng anh sẽ ra đi – tôi quá lo lắng về tình trạng của mình khi ngôi nhà không còn đứng vững. Tôi đã học được cách tìm thấy sự thoải mái bình thản khi đối tốt với Erich. Nó đem đến vài tia hi vọng mơ hồ của việc xoa dịu định mệnh.

Một tối, khi từ tiệm ăn về nhà, tôi thấy anh đang ngồi trên hiên, quấn mình trong một cái chăn. Mặt trời đã xuống núi. Những cái bóng màu tím đang lan rộng dù bầu trời vẫn còn sáng – trong ngôi nhà này chúng tôi luôn phải trải qua những buổi hoàng hôn sớm. Erich ngồi trên cái ghế liễu gai thời xưa với cái chăn màu xanh cũ kĩ của tôi kéo lên tận cổ, trông như một thiếu niên bị bệnh lao. Khi người anh bắt đầu hốc hác, trông anh lại càng trẻ ra. Xương sườn anh nhô ra, đôi tai và tứ chi có vẻ trở nên quá to so với cơ thể.

“Chào,” tôi nói. “Anh thế nào?”

“Ổn cả,” anh đáp. “Không quá tệ.”

Đấy là cái tính hình thức phổ biến giữa chúng tôi, như hồi chúng tôi vẫn còn ngủ với nhau. Chúng tôi luôn lịch sự và giữ kẽ. Như thể chúng tôi vừa mới gặp nhau.

“Bobby sẽ về muộn,” tôi nói. “Marlys cần đi giải quyết vài công chuyện của phụ nữ, vì thế Bobby đang phải làm bánh nướng cho ngày mai. Clares và Rebecca có ở nhà không?”

“Họ đang ở trong nhà,” anh nói.

“Tôi sẽ đi kiếm Rebecca. Có lẽ tôi sẽ mang con bé ra đây một lúc, được không?”

“Được. Jonathan này?”

“Ừm.”

“Điều này sẽ thật, anh biết đấy, khó nói. Nhưng tôi cứ suy nghĩ mãi. Anh có bao giờ, ừm, băn khoăn về chuyện của chúng ta không? Ý tôi là, về anh và tôi.”

“Tôi có nghĩ về chúng ta,” tôi nói. “Chắc chắn rồi.”

“Ý tôi không chỉ là nghĩ thôi đâu. Tôi không có ý như thế. Ý tôi là, ừm, anh có bao giờ thắc mắc là tại sao chúng ta cứ luôn phải kìm nén không? Dường như chúng ta có thể làm cho nhau hạnh phúc hơn những gì mà chúng ta đã làm.”

Ngay cả trong tình trạng tồi tệ nhất, cuộc nói chuyện thẳng thắn như thế này cũng là khó đối với anh. Ngón tay mân mê mép chăn, và bàn chân gõ nhịp khô khốc vào chân cái ghế liễu gai.

“Ừm, giữa chúng ta có một kiểu quan hệ nào đó,” tôi nói. “Nó gần như thứ mà chúng ta đều muốn, đúng không?”

“Có lẽ thế. Tôi cũng nghĩ vậy. Nhưng gần đây tôi cứ băn khoăn, anh biết đấy. Tôi cứ băn khoăn rằng lúc đó chúng ta cứ chờ đợi cái gì?”

“Tôi cho rằng chúng ta đã chờ đợi cuộc đời thực của chúng ta bắt đầu. Tôi nghĩ có lẽ chúng ta đã phạm một sai lầm.”

Anh hít thở vẻ khó nhọc. Ở chính giữa tấm mạng nhện giăng ra giữa những cái trụ ở bậc thềm, một con nhện màu vàng xinh đẹp bất động đang treo mình.

“Đúng là chúng ta đã phạm sai lầm,” anh nói. “Ý tôi là, tôi nghĩ có lẽ thế. Tôi nghĩ là tôi đã yêu anh, và tôi không thể thừa nhận điều đó. Tôi đã… tôi không biết nữa… quá e ngại đến mức không dám thừa nhận nó. Và giờ đây có vẻ như đó là một sự uổng phí.”

Tôi đứng trên cái bóng màu tía của mình, nơi những tấm ván mục nát vì dãi dầu mưa nắng. Tôi nhìn anh. Lúc đó, anh có một vẻ cực kì chững chạc, đạo mạo, một diện mạo, không già cũng không trẻ, không phải đàn ông cũng không phải đàn bà. Có thể anh bị che phủ bên dưới những lớp chăn dày, và mắt anh long lanh trên một khuôn mặt vô sắc. Anh giống như con nhân sư đang đặt ra một câu đố.

Tôi tin rằng mình biết câu trả lời. Erich và tôi chưa bao giờ yêu nhau, chúng tôi không định trở thành tình nhân của nhau. Chúng tôi không bỏ lỡ cơ hội yêu đương nào cả. Thay vào đó, chúng tôi chỉ cùng nhau trốn tránh, bằng thứ tình dục hòa hợp và mối quan hệ không chút đòi hỏi của chúng tôi. Chúng tôi chỉ nương tựa lẫn nhau trong khi chờ đợi. Chúng tôi giống như những người đầy tớ, hai người đàn ông hói đầu trong trắng đã cống hiến cuộc đời cho những lý tưởng mơ hồ của việc tuân theo những mệnh lệnh.

Nhưng tôi lại nói: “Tôi nghĩ có lẽ tôi cũng đã yêu anh.”

Tôi không muốn anh phải chết một cách lạnh lẽo. Nếu anh phải chết trong tình cảnh đó, thì có lẽ tôi cũng sẽ bị như thế.

“Anh nói dối,” anh nói.

“Không hề.”

Tôi nghĩ về bố tôi ở sa mạc, chẳng nhận được gì từ tôi ngoài những lời trấn an sáo rỗng. Ông đã mất trên đường từ chỗ cái hòm thư quay về, với một nắm catalogue và tờ bướm. Tôi đã viết một lá thư cho ông, trong túi tôi.

“Đúng là thế đấy,” Erich nói.

Tôi ngập ngừng. Rồi tôi bảo anh: “Không đâu, thật đấy. Tôi nghĩ có lẽ lúc đó tôi đã yêu anh.”

Anh gật đầu, trong một cơn giận dữ ngấm ngầm. Anh không hài lòng. Một con bướm đêm xuất hiện sớm, trắng đến nỗi gần như trong suốt, trông giống sự lay động trong không khí hơn là một cơ thể sống, bay qua.

“Lẽ ra chúng ta có thể làm tốt hơn thế này, anh và tôi,” anh nói. “Chuyện gì đã xảy ra với chúng ta vậy.”

“Tôi không biết,” tôi nói.

Chúng tôi không cử động hay nói gì trong ít nhất là một phút. Chúng tôi nhìn nhau chằm chằm trong sự hoài nghi tột độ. “Chúng ta là những kẻ nhút nhát,” cuối cùng tôi nói. “Đây không phải là một sai lầm sâu sắc do chúng ta gây ra. Đó chỉ là một sai lầm nhỏ ngớ ngẩn không kiểm soát được. Người ta gọi chúng là gì nhỉ? Tội lơ đễnh.”

“Tôi nghĩ có lẽ đó là điều làm tôi băn khoăn nhất.”

“Tôi cũng thế,” tôi nói. Và rồi, vì chẳng còn gì nữa để nói, tôi đi vào trong nhà để tìm Rebecca.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,359
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 3-8


CLARE

Erich đã mang đến điều gì đó mới mẻ cho ngôi nhà. Hay có lẽ anh đã gợi lên một điều xưa cũ. Một điều đã ở đó bao lâu nay mà không ai hay biết. Anh bước đi trên hành lang, khẽ phát ra những hơi thở suy nhược trong không khí bụi bặm. Những biểu hiện rõ rệt về bệnh tật và cái chết có vẻ vẫn còn xa xôi chừng nào bạn còn chưa ngửi thấy mùi thuốc thang. Chừng nào bạn chưa thấy da dẻ chuyển sang màu đất sét.

Việc trở thành một người mẹ khiến tôi không thể làm được một số điều nữa, những điều mà trong cuộc sống trước khi tôi gần như có thể tự động làm mà không cần suy nghĩ. Tôi không thể từ chối những gì Erich cần nhưng đồng thời tôi cũng không thể ôm anh. Tôi nhận thấy rằng, phần nào nằm ngoài ý muốn của tôi, tôi đã trở thành người có thể, một cách khác thường, che chở cho người khác. Tôi cho rằng đó là do sự đa cảm, dù bản thân tôi chẳng hề ủy mị chút nào. Tôi chỉ cảm thấy khó chịu, lạnh nhạt và lạnh lùng. Lần đầu tiên, tôi không chỉ nghĩ về bản thân mình. Một vùng trong não tôi, mà tôi đã coi đó là tôi, có vẻ đã bị hấp thụ hết sạch. Thế chỗ cho nó là một thứ rắn chắc chỉ làm theo những gì cần thiết. Tôi nấu nướng cho Erich ăn trong khi đám đàn ông đi làm, để ý đến việc uống thuốc của anh, giúp anh đi vệ sinh trong những ngày anh cần được giúp đỡ. Tôi nói năng thân thiện với anh. Không gì có thể ngăn tôi làm những việc đó. Nhưng tôi không quan tâm đến anh. Trong chừng mực nào đó, mối quan hệ của chúng tôi giống như là một công việc nghiêm túc. Tôi chỉ quan tâm thực sự đến Rebecca, người vẫn đang sống và đang lớn lên. Còn Erich phần nào đã ra khỏi thế giới này. Tôi coi sự thoải mái và an toàn của anh là điều quan trọng thiết yếu, nhưng sự tồn tại của anh thì không. Giờ đây tôi đã hiểu rõ hơn vì sao trong những câu chuyện, các bà mẹ lại luôn xuất hiện với những hình ảnh của những vị thánh hoặc những quái vật. Chúng tôi không phải là con người theo nghĩa thông thường, ít nhất là khi con chúng tôi còn rất nhỏ. Chúng tôi trở thành những quái vật thận trọng, cứng rắn, và nếu đôi khi chúng tôi mất đi những phẩm chất tốt đẹp hơn của tâm hồn trong khi chăm sóc cơ thể mong manh ấy, chúng tôi không thể làm gì hơn được.

Hầu như suốt ngày tôi ở nhà một mình với Rebecca và Erich. Vì đám đàn ông đã thuê được Marlys và Gert nên giờ họ có thể về nhà thường xuyên hơn. Tuy vậy, phần lớn thời gian của tôi vẫn được dành cho một đứa bé hai tuổi và một người đàn ông đang chết dần chết mòn.

Tôi thuê những bộ phim và rót nước quả ép. Tôi bắt đầu dạy Rebecca đi vệ sinh, và thi thoảng thay ga trải giường bẩn cho Erich. Có những ngày tâm trạng anh khá tốt nhưng cũng có những ngày tệ hơn. Trong những ngày khó chịu đó, anh có thể cáu kỉnh với tôi. Anh có thể đột nhiên nói: “Tôi ghét nước táo ép, tôi phát ốm lên vì nó, ở chợ không có loại nào khác à?” Anh có thể phàn nàn về những bộ phim tôi thuê về. “Bà Miniver? Chúa ơi, họ chỉ còn có thể loại này thôi à?”

Nhưng anh chưa bao giờ mất kiên nhẫn với Rebecca. Đôi khi, trong những ngày anh phải nằm trên giường, hai người họ xem video cùng nhau. Tôi thuê về phim Dumbo, Nàng Bạch Tuyết, và bất cứ thứ gì liên quan đến những con rối. Erich cũng thích những bộ phim này. Anh không hoàn toàn thu hút Rebecca như Jonathan, nhưng anh giữ được hứng thú của nó. Anh có sức tập trung phi thường, và tôi ngờ rằng con bé cảm thấy yên tâm khi ở bên anh. Anh có thể sắm vai một người đàn ông tốt bụng với trẻ con một cách quá hoàn hảo. Anh để nó chỉ huy mình. Anh thực hiện, theo yêu cầu của nó, một điệu nhảy cứng nhắc với con khỉ nhồi bông mà không hiểu sao nó lại đặt tên là Shippo, trong khi nó lộn ngược một con búp bê tên là Baby Lou và vung vẩy hai cái chân bằng nhựa cứng ngắc của con búp bê trong không khí. Anh đồng ý tham gia vào tất cả những trò mà nó nghĩ ra, nhiều trong số đó đòi hỏi phải chuyển đi chuyển lại một con khủng long cao su trong khi liệt kê ra một danh sách dài những yêu cầu thay đổi liên tục. Anh có thể giả giọng của Chú ếch Kermit, điều đó có vẻ khiến nó thấy rất buồn cười và hơi bối rối.

Thỉnh thoảng khi tôi mang cho họ chút đồ ăn nhẹ, tôi thấy họ đang ngồi cùng nhau trên giường của Erich, xem ti vi, đồ chơi quăng khắp nơi. Đôi khi tôi phải nín thở trước cảnh con gia súc tí hon của nó đi trên cái đầu gối gầy giơ xương của Erich, hay Erich lơ đãng vuốt tóc nó khi họ cùng xem hoạt hình. Dù hôm đó trong người anh cảm thấy thế nào, anh vẫn luôn ân cần với con gái tôi. Sức tập trung của anh quả thật ghê gớm. Dường như anh đã tự đặt ra cho mình một quy tắc: không bao giờ biểu lộ bất cứ hành vi khó chịu hay thô lỗ nào với con bé này, và chỉ được phép tỏ ra thân thiện và dễ bảo khi có mặt nó. Anh khác với Jonathan. Anh không yêu nó. Anh chỉ quý mến nó. Đối tốt với nó là một trong những nguyên tắc quy củ của anh, dựa vào đó anh có thể sống cho qua ngày. Anh coi đó là công việc của mình.

Ban đầu, tôi cảm thấy một sự bất ổn mơ hồ xốn xang trong bụng tôi, nửa như buồn nôn, nửa như đau đớn. Có lúc tôi cho rằng mình đang mọc một cái ung nhọt hay tệ hơn, dù bác sĩ đã bảo tôi rằng đó chỉ là sự lo lắng. Cuối cùng, sau vài tháng, tôi đã nhận ra nó là cái gì. Tôi đang tiến tới một quyết định. Hay đúng hơn là một quyết định đang đến với tôi. Nó đang lớn dần lên trong tôi, gần như nằm ngoài ý thức tỉnh táo của tôi.

Nó đã lên đến đỉnh điểm vào một chiều tháng Năm, khi tôi đang chợp mắt với Rebecca. Con bé đã trở nên bướng bỉnh với những giấc ngủ ngắn và chỉ chịu nằm xuống vào buổi chiều nếu tôi đưa nó lên giường của Bobby và tôi, đọc cho nó nghe một trong những quyển sách của nó. Lúc đó, nó đã gần hai tuổi rưỡi. Nó đã bắt đầu bị ám ảnh với vài quyển sách, trong đó có một quyển kể về một con thỏ thường nói chúc ngủ ngon với tất cả đồ vật trong phòng ngủ của nó, và một quyển khác kể về một con lợn tìm được một khúc xương thần kì. Chúng tôi thường đọc cả hai quyển sách đó hai lần, và thiếp đi cùng nhau. Sau hai mươi phút, tôi tỉnh giấc vì giọng nói của Rebecca. Nó nằm cạnh tôi, tự kể chuyện cho mình nghe. Đây cũng là một thói quen mới của nó. Nó có thể tự nói chuyện với mình hàng giờ liền. Tôi nằm yên lặng, lắng nghe.

“Mình đi đến cửa hàng,” nó nói. “Mình có một khúc xương biết nói. Cô bé đó chưa bao giờ thấy nó. Cô bé nhặc khúc xương lên và đến nhà của Bunny. Bunny có nhà, và Jonathan cũng ở đó. Và họ nói: "Ôi, ôi, ôi, đúng là một con mèo nhỏ tốt bụng." Và Jonathan cầm lấy khúc xương. Jonathan nói: "Giờ mình sẽ làm món gì đó thật ngon với khúc xương này." Và Jonathan làm… cháo yến mạch. Nó rất, rất ngon. Và Bunny nói, ừm, và rồi Mẹ và Bobby và Erich nói. Và mình đưa Erich ít salad, vì chú ấy bị bệnh. Và Jonathan cũng có một ít. Và rồi đến đêm, và Bunny phải đi ngủ. Và rồi sang ngày tiếp theo, và mèo con đi đến thị trấn. "Ôi, ôi, ôi," mèo con nói. Hãy tưởng tượng sự ngạc nhiên của nó.”

Khi nằm nghe nó nói, tôi bỗng thấy hoảng hốt. Tôi có thể cảm thấy mặt mình nóng bừng lên. Ban đầu tôi không hiểu nổi tại sao tôi lại bất an bởi những gì mà mình nghe thấy đến thế. Đó chỉ là chuỗi ý thức thông thường của Rebecca, kiểu bi bô mà tôi vẫn thường nghe nó nói từ hơn một tháng qua. Nhưng dần dần, trong khi nằm trên giường với nó, tôi đã hiểu ra. Nó đang hình thành nhận thức riêng của nó. Nó không còn chỉ mơ hồ biết đến bản thân mà đã bắt đầu hiểu được cuộc đời riêng của những người khác. Nó sẽ sớm từ bỏ thế giới tuổi thơ tách biệt của mình. Nó sẽ nhớ được mọi chuyện. Nó là một cái máy ảnh đang sẵn sàng chụp hình. Tách, một ngôi nhà màu nâu với cánh cửa màu xanh. Tách, những món đồ chơi ưa thích của nó. Tách, Jonathan đến đánh thức nó vào mỗi sáng. Nó sẽ mang những hình ảnh đó theo bên mình suốt quãng đời còn lại.

Nếu nó có được nhận thức đầy đủ khi Erich đã chết và Jonathan bắt đầu bị bệnh thì sao? Nó sẽ bị ảnh hưởng thế nào nếu những ký ức sớm nhất của nó chỉ xoay quanh sự héo mòn và cuối cùng là biến mất của những người mà nó yêu quý nhất?

Một buổi sáng sau đó vài tuần, tôi đang ở trên giường với Rebecca, Bobby và Jonathan. Đó là một buổi sáng bình thường. Rebecca đã thức dậy trong trạng thái vui vẻ, và đang tự kể cho mình một câu chuyện tỉ mỉ về Bunny và một con voi biết bay. Một lát nữa, Bobby sẽ lần xuống gác để pha cà phê. Erich vẫn đang ngủ ở phòng Jonathan còn Jonathan ngồi cạnh tôi với cái chăn kéo lên tận ngực.

Bobby nói: “Bao giờ đi làm về anh phải thay thế vài tấm ván lợp mới được. Em có thấy bao nhiêu cái đã bị thổi bay đi rồi không? Mái nhà đã sắp, ờ, tiêu tùng rồi.”

“Chúng ta nên lợp hẳn một cái mái mới,” tôi nói. “Hãy gọi thợ sửa mái ấy.”

“Khi nơi này ít nhiều được hoàn thiện,” Jonathan nói, “em muốn mời mẹ em đến đây lần nữa. Em nghĩ bà sẽ dễ dàng tin tưởng vào cuộc đời em hơn nếu bà trông thấy nó nhiều hơn nữa.”

“Bố mẹ, bố mẹ,” tôi nói. “Cậu biết đấy, tôi vẫn đang suy nghĩ. Tôi thực sự nên đưa con bé Rebecca đến Washington trong vài ngày, để gặp mẹ tôi.”

Bobby nhổm dậy để đi pha cà phê, nửa giây trước khi tôi biết anh sẽ làm thế. “Sao em không, em biết đấy, mời bà đến đây?” Anh nói.

“Vì bà đã sáu mươi lăm và không phóng khoáng chút nào. Tin em đi, anh sẽ không muốn bà Amelia đó đến đây để kêu ca về lối sống của chúng ta đâu. Đó là điều mà bà nghĩ chúng ta có ở đây đấy. Không phải một cuộc sống. Mà là một lối sống.”

“Chị không nghĩ là bà nên làm quen với chuyện này à?” Jonathan hỏi.

“Cưng ơi, mẹ tôi vẫn còn chưa quen với việc tôi có ngực kia. Hình ảnh khỏa thân của tôi vẫn còn khiến bà thấy không được thoải mái cơ mà. Tin tôi đi. Tốt hơn là tôi nên đưa Rebecca xuống đó vài ngày.”

“Ừm, em biết đấy, nếu em cần làm thế,” Bobby nói và đi làm công việc vặt buổi sáng của anh.

“Chỉ một vài ngày,” Jonathan nói. “Đúng không? Như là hai hay bà ngày à?”

Tôi gật đầu và vuốt tóc Rebecca. Tôi tự hỏi liệu nó có cảm thấy sự căng thẳng qua bàn tay tôi và bật khóc không. Nhưng nó vẫn bi bô, không bị ảnh hưởng gì cả. Những âm mưu âm thầm trong đầu chúng ta không tạo ra nhiều vết tích trên đời này.

Tôi chỉ biết một nửa về những gì tôi định làm. Cho đến khi tôi nhận ra rằng bản thân mình đang làm nó thì nó mới trở thành một kế hoạch, và rồi có vẻ như tôi đang theo một quy trình mà tôi biết rõ hàng tháng hay thậm chí hàng năm trời. Tôi gói ghém đồ của Rebecca: quần áo và vài món đồ chơi cần thiết, cái xe đẩy và cái ghế ăn cho trẻ con của nó. Khi Jonathan giúp tôi chất các thứ lên xe, cậu nói: “Cưng à, chị chỉ đi vài ngày thôi mà. Có phải đến tận thế kỉ sau đâu.”

“Tôi muốn chuẩn bị thật đầy đủ,” tôi nói. “Tôi cần phải tránh đi mua sắm với mẹ tôi bằng bất cứ giá nào. Nếu tôi hết tã lót, bà sẽ dẫn tôi đến cửa hàng Saks cho mà xem.”

“Em thấy tệ lắm,” Jonathan nói. Cậu đang mặc cái áo khoác vải bông chéo với khuôn mặt lịch thiệp trắng trẻo của Albert Einstein dính trên ve áo. Một vài bông tulip màu đỏ tía đã nhú lên trên bãi cỏ. Một con sáo Bắc Mỹ ghê gớm có tổ ở gần đó cứ nổi xung lên với chúng tôi từ những cành thấp nhất của cây sồi. Tôi nhấc cái xe đẩy lên, cho vào cốp xe, và Jonathan xếp cái túi tã lót quanh nó.

“Tội lỗi,” tôi nói. “Dù đôi khi cảm giác tội lỗi đó có giảm bớt đôi chút. Tốt hơn là nên tránh nó. Không nên tạo cơ hội để bà mua cho tôi một bộ váy năm trăm đôla khiến tôi trông như vợ của một nhà du hành vũ trụ. Tốt nhất là nên dự trữ sẵn đồ dùng cần thiết và ở nhà với bà.”

Tôi băn khoăn không hiểu mình có đang giải thích quá nhiều không. Tôi không muốn mình giống như một tên tội phạm với những bằng chứng hoàn hảo đến đáng ngờ. Những hành động của bà đã được phức tạp hóa lên.

“Chị nói sao cũng được,” cậu đáp. Giọng cậu không có vẻ gì là nghi ngờ.

Cậu đóng nắp cốp xe lại. “Em sẽ nhớ chị đấy,” cậu nói.

Lát nữa, Bobby sẽ bế Rebecca từ trong nhà ra. Tôi giơ tay túm lấy tay áo Jonathan.

“Nghe này,” tôi nói. “Tôi xin lỗi.”

“Gì cơ?”

“Ồ, cậu biết đấy. Tôi xin lỗi vì đã quá hèn nhát trước mẹ tôi. Lần sau tôi sẽ đưa bà đến đây. Cậu đúng đấy. Bà sẽ phải quen với chuyện này.”

“Ôi, các bậc cha mẹ hà khắc lắm. Tin em đi, em biết thế mà,” cậu nói.

“Tôi thực sự xin lỗi,” tôi nói. Tôi có thể nghe thấy giọng mình nghẹn ngào như sắp khóc.

“Cưng ơi, chị sao thế?”

Lúc đó, tôi chắc mẩm rằng cậu đã biết. Tôi lắc đầu. “Không sao,” tôi nói.

Cậu nhẹ nhàng ôm lấy tôi để trấn an. “Chị Clare ngốc nghếch,” cậu nói. “Bà già lẩm cẩm.” Thực ra thì, cậu vẫn không hề biết gì. Cậu vẫn chưa tỏ vẻ là bị mất đi một thứ gì đó. Cậu tin rằng cuộc đời cậu sẽ ngày càng trở nên tốt đẹp hơn. Có lẽ đó là sai lầm cơ bản trong nhận thức của cậu. Có lẽ đó chính là điều ngăn không cho cậu yêu ai.

“Ôi, thôi ngay cái từ "bà già lẩm cẩm" vớ vẩn đó đi, nghe không? Tôi là một người lớn. Tôi không phải bạn cùng chơi với cậu.”

“Ôi, xin lỗi.”

“Thực ra thì, Jonathan, tôi mong rằng cậu sẽ…”

“Gì cơ? Chị mong em sẽ làm sao?”

“Tôi không biết nữa. Cậu định làm một cậu bé đến bao giờ đây? Suốt đời à?”

“Thế chẳng lẽ chị muốn em biến thành một cô bé à?” Cậu nói.

“Ý tôi là… ôi, thôi đừng bận tâm. Hôm nay tôi điên quá. Tôi có thể cảm thấy thế ngay từ lúc tôi thức dậy.”

“Nghe này, chị sẽ gọi điện cho em khi chị đến nơi chứ? Để em biết rằng chị vẫn ổn?”

“Chắc chắn rồi. Dĩ nhiên là tôi sẽ gọi.”

Chúng tôi đứng một lúc, nhìn ngắm khung cảnh xung quanh như thể chúng tôi mới thấy nó lần đầu. Như thể chúng tôi vừa bước ra khỏi chiếc xe khách Winnebago để duỗi tay duỗi chân và sững sờ trước sự thênh thang rộng lớn của một công viên quốc ga.

“Chẳng phải mọi chuyện được coi là đơn giản hơn thế này sao?” Tôi hỏi.

“Bobby nói đây là một thế giới mới. Cậu ấy nói chúng ta có thể làm bất cứ điều gì mà chúng ta có thể nghĩ tới.”

“Đó là vì Bobby là một gã giỏi lừa phỉnh. Tôi đang có ý khen anh ấy đấy.”

Tôi nhận ra tôi vẫn đang bám vào tay áo khoác của Jonathan. Khi tôi buông ra, vết nắm tay của tôi vẫn còn in trên lớp vải bông chéo.

“Tôi sẽ vào đó xem thứ gì giữ chân anh ấy lâu thế,” tôi nói. “Nếu Rebecca và tôi không đi sớm thì bọn tôi sẽ bị kẹt xe ở New York mất.”

“Ừm.”

Jonathan đứng chờ bên cạnh xe, tay thọc sâu trong túi quần ka ki, ánh nắng lấp lánh trên mái tóc nhạt màu của cậu. Tôi ngoảnh về phía cậu khi lên đến hiên nhà. Cậu mỉm cười đầy thân mật và rồi tôi đi vào nhà.

Bobby đang bế Rebecca xuống gác. “Em đang định vào giục anh,” tôi nói. “Nếu bọn em không qua Manhattan lúc một giờ…”

Anh khẽ suỵt. “Erich đang ngủ,” anh nói. “Anh ấy đã có một buổi sáng khó chịu.”

Tôi đón lấy Rebecca từ tay anh. Nó cũng đang có một buổi sáng khó chịu. “Con không muốn,” nó nói.

“Em đã sắp xếp hết mọi thứ chưa?” Bobby khe khẽ nói.

“Ừm. Em đã xếp hết đồ lên ô tô rồi. Chào tạm biệt Erich hộ em nhé?”

“Ừ.”

“Con không muốn,” Rebecca nói.

Bobby đứng ở chân cầu thang, bụng anh hơi căng tròn dưới lớp vải áo phông. Lúc đó, trông anh quá ngây thơ và có thiện ý. Tôi chỉ muốn đánh anh vì tội là một kẻ khờ khạo như thế, một nhân vật lạc quan, thật thà. Tôi có thể thấy hình ảnh của anh khi về già, lò dò từng bước với đôi dép lê đi trong nhà, tuyên bố rằng nhà an dưỡng này rất tuyệt vời và hoàn hảo. Anh sẽ nói: “Họ có bánh pudding sô-cô-la vào các ngày thứ Sáu. Tên của cô hộ lý là Harriet, cô ấy thường mang cho tôi xem những bức ảnh của con cô ấy.”

“Này,” tôi nói. “Em chợt nảy ra một ý điên rồ. Anh có muốn đi cùng em không?”

“Hả?”

“Ngay bây giờ. Chỉ cần ném vài thứ vào trong một cái túi và đi theo em.”

“Anh nghĩ là, em biết đấy, mẹ em không ưng anh mà. Về chuyện của chúng ta ấy.”

“Kệ bà ấy. Anh có muốn đi không?”

“Bọn anh phải chăm sóc Erich,” anh nói.

“Jonathan có thể chăm sóc Erich. Đến lúc cậu ấy phải bắt đầu có nhiều trách nhiệm hơn rồi, anh không nghĩ thế sao? Hai người họ sẽ cùng nhau xoay xở ổn cả thôi. Họ có thể sống tự lập được mà.”

“Clare, có chuyện gì thế? Em sao vậy?”

Tôi ôm lấy con bé. Tôi nói: “Không sao. Đừng bận tâm. Em chỉ là một mụ già lẩm cẩm thôi.”

Tôi bế Rebecca ra khỏi cửa, và Bobby đi theo tôi đến chỗ đậu xe. Khi tôi thắt dây an toàn cho Rebecca, nó bắt đầu làm ầm lên và thút thít khóc. Rồi sự chuyển động của xe sẽ ru nó ngủ, nhưng trong một lúc nó vẫn không ngừng rên rỉ. Tôi phải cố kìm lòng trước tiếng khóc của nó.

“Tạm biệt, các chàng trai,” tôi nói.

“Không,” Rebecca nói từ chỗ ngồi của nó. “Không, không, không, không, không.”

Cả hai người họ đều hôn tôi, dặn tôi lái xe cẩn thận. Họ hôn Rebecca. Những âu yếm của họ càng thêm khuyến khích nó. Nó há miệng, gần như bật ra một tiếng la hét mà nó đã dồn nén từ bữa sáng.

“Tạm biệt, tiểu thư Rebecca,” Jonathan nói qua cửa sổ xe. “Ôi, bố yêu con ngay cả khi thỉnh thoảng con vẫn ghê gớm như thế. Hãy vui vẻ với người bà đáng sợ của con nhé.”

“Hãy bảo trọng,” tôi nói. Tôi cho xe lùi ra khỏi lối đi. Tôi vẫy tay, và họ vẫy lại. Họ đứng sát cạnh nhau, trước ngôi nhà xiêu vẹo. Khi tôi lùi xe, Jonathan đột nhiên chạy theo. Trong một thoáng, tôi cứ ngỡ rằng cậu có điều gì muốn nói với tôi, nhưng rồi tôi nhận ra rằng cậu sẽ chỉ chạy theo vài bước mà thôi, ngốc nghếch và trung thành như một chú cún. Tôi lá xe đi. Cậu đuổi kịp và nhanh chóng chạy song song với chiếc xe, hôn gió về phía chúng tôi. Tôi lại vẫy tay lần nữa, lần cuối cùng. Trước khi đến chỗ rẽ, tôi nhìn vào gương chiếu hậu và thấy cả hai người bọn họ. Jonathan và Bobby, đang đứng giữa đường. Họ trông như một cặp đôi lập dị, ăn mặc luộm thuộm ở một nơi xa xôi hẻo lánh. Với đôi kính râm, áo phông và mái tóc bù xù, trông họ như đang quay trở lại một thời xưa cũ: những năm 1960 như sắp vỡ òa ra quanh họ, một cơn bão của tình yêu, những cơn thịnh nộ và những mong đợi bị cản trở. Bobby khoác vai Jonathan. Họ đều vẫy tay.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,359
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 3-9


Con đường như dát bạc dưới ánh mặt trời buổi sớm. Đó là một ngày hoàn hảo để lên đường. Rebecca vẫn khóc ri ri ở băng ghế sau. Từng dặm đường dần trôi qua bên dưới bánh xe. Tôi biết cuộc sống của chúng tôi sẽ không dễ dàng. Tôi hình dung ra cảnh chúng tôi cùng nhau ở San Francisco hay Scattle, chuyển đến một căn hộ, nơi những người xa lạ cãi nhau phía bên kia bức tường. Tôi sẽ đẩy cái xe đẩy của nó trên những con phố không quen thuộc, tìm kiếm những cửa hàng tạp hóa. Nó sẽ không nghĩ rằng cuộc sống của chúng tôi có gì là kì cục – cho đến khi nó lớn lên, và bắt đầu nhận ra rằng những đứa bé gái khác không sống như thế. Rồi nó sẽ ghét tôi vì tôi chỉ có một mình, vì tôi già và lập dị, vì tôi không thể cho nó một cái sân sau, một phòng giải trí và một người cha. Trong một thoáng, tôi nghĩ đến việc quay lại. Thôi thúc đó ập đến với tôi, và nếu tôi có thể quay ngoặt xe lại theo kiểu chữ U thì có lẽ tôi đã làm thế. Nhưng chúng tôi đang đi trên một con đường cao tốc không cho phép quay đầu xe. Tôi đi theo hai vạch phân cách song song liền mạch màu vàng cho đến khi thôi thúc đó tan biến dần bởi khoảng cách ngày một nhiều thêm. Tôi giữ tay trên vô lăng, và không nghĩ về bất cứ điều gì ngoài những dặm đường tiếp theo. Tôi liếc về phía Rebecca ở đằng sau. Cuối cùng nó cũng đã yên lặng nhờ sự chuyển động của chiếc xe. Trước khi ngủ thiếp đi, nó nhìn tôi oán trách, nước mũi chảy ròng ròng và cái mũi và bải bông lệch đi, và nói một từ. Nó nói: “Mẹ.” Nó phát âm từ đó với một nỗi thất vọng thấy rõ.
“Một ngày nào đó con sẽ cảm ơn mẹ, con yêu,” tôi nói. “Hoặc có lẽ là không.”
Giờ đây tôi chỉ còn lại một mình với thứ này. Thứ tình yêu này. Thứ tình yêu xuyên sâu vào tận xương tủy như một tia X, không có yếu tố nào của lòng tốt hay lòng thương hại.
Thứ lỗi cho tôi, các chàng trai. Rốt cuộc, có vẻ tôi đã làm được thứ tôi muốn. Một đứa con của riêng mình, một hướng đi đển tiến đến. Có lẽ ngôi nhà và tiệm ăn chẳng đáng để đổi lấy thứ này, nhưng đó là tất cả những gì tôi có thể trao cho hai người.
Tôi rẽ khỏi đường cao tốc và đi về phía tây.
BOBBY
Mặt trăng đang đi theo chúng tôi, một mảnh lưỡi liềm trắng trẻo treo trên bầu trời xanh nhờ nhờ. Chúng tôi đang lái xe từ cửa hàng tạp hóa về nhà: Erich, Jonathan và tôi. Những ngày này Erich cứ mơ mơ màng màng. Anh lúc tỉnh lúc mê. Nếu không phải đang bận lái xe, có thể tôi sẽ ôm anh để giữ anh khỏi trôi tuột ra ngoài. Thay vào đó, tôi nói với Jonathan: “Anh ấy sao rồi?”
Jonathan nhìn vào băng ghế sau: “Anh ổn chứ, Erich?” Cậu hỏi.
Erich không trả lời. Anh đang rơi vào lơ đãng. Ai mà biết anh có thể nghe được những gì? “Mình nghĩ anh ấy vẫn ổn,” Jonathan nói với tôi. Tôi gật đầu và tiếp tục lái xe. Những trang trại trôi qua hai bên đường. Những con bò bắt đầu công việc thường nhật của chúng, đều đặn như mọi ngày.
Về đến nhà, chúng tôi giúp Erich ra khỏi xe, dẫn anh lên thềm nhà. Anh mỉm cười với niềm vui mơ hồ của người già. Có thể anh mừng vì chúng tôi đã về đến nhà. Có thể anh đang nhớ đến một món đồ chơi mà anh được cho hồi anh lên bốn. Chúng tôi cất thực phẩm vào bếp.
“Đi tắm nhé!” Tôi nói.
“Cậu có nghĩ anh ấy cần tắm không?” Jonathan hỏi.
“Mình nghĩ anh ấy muốn tắm,” tôi đáp.
Chúng tôi dẫn anh lên gác, xả nước vào bồn tắm. Hơi nước tạo nên một tia lấp lánh trên nên gạch trắng sứt mẻ. Trong khi chờ bồn tắm đầy nước, chúng tôi giúp Erich cởi đồ. Anh không cưỡng lại cũng không hưởng ứng. Khuôn mặt anh lộ vẻ ngần ngại, chứ không phải vô cảm. Khi không còn biết gì về bản thân mình, anh thường khoác lấy vẻ khó chịu câm lặng này, như thể anh không tin lắm vào sự trống rỗng mà anh nhìn thấy. Đó là sự kinh ngạc tách ra từ nỗi sợ hãi và băn khoăn. Nó không hề giống với khuôn mặt của trẻ sơ sinh.
Sau khi đã cởi hết đồ cho anh, chúng tôi dìu anh ngồi xuống nắp bồn cầu. Nước trong bồn tắm từ từ dâng lên. Erich ngoan ngoãn ngồi yên, đôi tay mềm rũ nhét vào giữa hai bắp đùi. Jonathan giơ tay ra chạm vào tóc anh.
“Mình sẽ đi mở chút nhạc,” tôi nói.
“Ừ.” Jonathan ở lại bên Erich, một tay đỡ lấy vai. Tay kia vuốt vuốt tóc Erich.
Tôi bật radio trong phòng ngủ lên, rồi chỉnh đến một kênh cho người già, để nghe thứ âm nhạc của tuổi thơ chúng tôi. Ngay lúc này, Van Morrison đang hát bài Madame George. Tôi vặn to lên để tiếng nhạc có thể vọng đến phòng tắm.
Khi tôi quay lại nói: “Bài này hay quá. Nó vẫn luôn là một trong những bài yêu thích của mình đấy.”
“Cậu muốn nhảy không?” Tôi hỏi cậu.
Cậu nhìn tôi do dự, băn khoăn không hiểu có phải tôi đang đùa hay không.
“Lại đây nào,” tôi nói, và giơ tay ra. “Erich sẽ không ngã đâu. Đúng không, Erich?”
Erich nhìn chằm chằm xuống đôi chân trần của mình. Một cách thận trọng, Jonathan bỏ tay ra khỏi người anh, Erich không ngã. Sau một thoáng, Jonathan bước vào vòng tay tôi và chúng tôi nhảy một điệu valse. Giày chúng tôi lộp cộp gõ trên nền gạch trơn. Tôi có thể cảm thấy sự hỗn loạn trong cuộc đời vẫn đang tiếp diễn của Jonathan. Nó rung chuyển dọc theo da cậu như một mạng lưới dây điện. Tôi miết tay dọc theo những đốt xương sống của cậu. Van đang hát: “Hãy chào tạm biệt Madame Geroge. Hãy lau khô đôi mắt bạn vì Madame George.”
“Bobby này?” Jonathan nói.
“Ừ?”
“Ôi, đừng bận tâm. Mình chỉ định nói gì đó ngớ ngẩn đại loại như: "Mình thấy sợ," nhưng dĩ nhiên là mình thấy sợ thật. Bọn mình đều thế mà.”
“Ừm, đúng vậy. Ý mình là, mình nghĩ bọn mình đều thế.”
Chúng tôi nhảy cho đến hết bài hát. Tôi rất muốn trông thấy Erich cười, hay gật gật đầu theo điệu nhạc. Sẽ thật tuyệt khi thấy anh tham gia với chúng tôi dù là trong một cách gián tiếp như thế. Nhưng anh đã chìm đắm trong sự bí ẩn của mình, nhìn chằm chằm vào một cái hố cứ mở rộng mãi ra. Khi chúng tôi ngừng nhảy, chúng tôi giúp anh đứng dậy, và đưa anh vào ngồi trong bồn tắm. Chúng tôi cùng nhau gội đầu và kì cọ cái cổ gầy gò của anh. Chúng tôi rửa ráy bộ ngực lép kẹp và hai cái nách sâu hoắm bên dưới hai cánh tay anh. Anh thoáng mỉm cười. Vì cảm giác được tắm, hay vì thứ gì đó bí mật hơn thế.
Sau khi tắm cho anh xong, chúng tôi đưa anh lên giường. Cũng đã xế chiều. Jonathan nói: “Mình sẽ ghé qua tiệm ăn và đặt mua bổ sung hàng nhé?” Tôi bảo cậu tôi sẽ đi thay vài tấm ván lợp bị thiếu.
Chúng tôi bắt đầu làm việc của mình. Đó là một buổi chiều bình thường, đang chuyển dần sang buổi tối. Jonathan lái xe đến tị trấn, tôi dựng cái thang vào ngôi nhà và trèo lên với một ôm những tấm ván tuyết tùng mới. Chúng mang màu vàng mới tinh, trông nổi bật hẳn lên so với những tấm ván màu cà phê cũ. Những tấm ván cũ, rải rác lá thông, khô giòn và kêu răng rắc bên dưới tay chân tôi.
Từ trên mái nhà, tôi có thể phóng tầm mắt ra xa. Tôi có thể trông thấy mảnh đất nhỏ của chúng tôi, và xa hơn là những cánh đồng cùng những ngọn núi. Tôi có thể thấy một chiếc xe mui trần màu đỏ lướt qua. Một món đồ chơi của Rebecca đang nằm trên bãi cỏ gần hiên nhà, con búp bê tên là Baby Lou. Nó cứ nằm đó, say sưa cười với bầu trời. Tôi không thể tin được là Clare lại quên mang nó theo.
Tôi bỗng thấy hoang mang. Tôi biết Clare và Rebecca sẽ không quay trở lại. Tôi đã định nói gì đó trước khi họ bỏ đi nhưng tôi không dám – vì sợ rằng nhỡ đâu Jonathan sẽ quyết định đi theo. Tôi không thể để ngôi nhà này sụp đổ được. Chúng tôi đã phải mất rất lâu mới gây dựng được nó. Jonathan và tôi cùng thuộc về nơi này. Clare đã đưa Rebecca đến với thế giới của người sống – với sự ồn ã và những điều bất ngờ của nó, cùng những nguy cơ thất vọng. Có lẽ nàng đã đúng khi làm thế. Đó là nơi Rebecca nên thuộc về. Ở đây chúng tôi sống trong một thế giới khác, một nơi yên tĩnh hơn, bao dung hơn. Tôi đã theo anh trai tôi vào thế giới này và tôi sẽ không bao giờ rời bỏ nó, không bao giờ.
Tôi có việc để làm. Tôi phải sửa lại một cái mái nhà.
Nỗi hoang mang thôi mà.
Rồi ngày nào đó Rebecca sẽ quay lại, và ngôi nhà sẽ chờ đợi nó. Ngôi nhà này là của nó. Cũng chẳng có gì to tát – một ngôi nhà có bộ khung bị mối xông được chắp vá lại bởi công sức của những đôi bàn tay thiếu kinh nghiệm. Nó không có gì to tát nhưng bây giờ nó đang đứng vững và vẫn sẽ đứng vững khi con bé hai mươi tuổi. Bây giờ, ngay lúc này, tôi có thể thấy con bé. Tôi thấy thật rõ ràng như qua cánh cửa sổ mở vào tương lai vậy. Hình ảnh mà tôi trông thấy là một phụ nữ với mái tóc nâu nhạt, không đẹp theo những tiêu chuẩn của thế giới nhưng lại sở hữu một dáng vẻ quyến rũ kín đáo cùng một phong thái vững vàng, điềm tĩnh. Tôi có thể thấy nó đến đứng ở trên hiên của căn nhà mà nó được thừa kế. Một ngôi nhà con bé chưa bao giờ đòi hỏi, và không biết phải làm gì với nó. Tôi có thể thấy con bé đứng đó, mặc một cái áo choàng mùa đông, phả những làn khói rung rinh vào không khí rực rỡ. Đó là tất cả những gì tôi nhìn thấy. Nó không phải một ảo ảnh lớn. Nhưng tôi thấy nó một cách rõ ràng đến ngạc nhiên. Tôi trông thấy đôi giày của nó trên ván lát sàn nhà, và nghe được tiếng lách tách do mùa đông mang lại trên tóc nó. Tôi thấy hàm nó đón lấy thứ ánh sáng lạnh lẽo khi nó đứng trước món quà không mong muốn này. Tôi sờ vào hàm mình. Tôi quỳ gối ở đó, trên mái nhà, cảm nhận được một cách rõ rệt phần sọ dưới đang nhô ra. Thì giờ đang trôi qua, và tôi cầm phải làm việc. Tiếng búa gõ vang lên đều đều, chát chúa, làm rung chuyển cả bộ khung nhà. Tôi đóng một tấm ván vào đúng vị trí. Tôi lại đóng một tấm khác.
Đêm đó, Jonathan đánh thức tôi dậy bằng cách chạm vào tóc tôi. Tôi mở mắt và thấy khuôn mặt cậu, ngời sáng trong bóng tối của phòng ngủ, quá sát mặt tôi đến nỗi hơi thở của cậu làm tôi thấy má mình nhồn nhột. Cậu đặt một ngón tay lên môi và vẫy tay ra hiệu. Tôi theo cậu ra hành lang. Những nốt chấm bi trên quần đùi của cậu nổi lên rõ rệt trong bóng tối. Cậu đang mặc độc cái quần đùi, tôi mặc quần Jockey và một cái áo lót. Cậu lại vẫy tay và tôi theo cậu xuống gác. Bóng tối bủa vây lấy lưng cậu.
Trong phòng khách, cậu nói: “Xin lỗi đã đánh thức cậu dậy như thế này. Nhưng mình có việc muốn nhờ cậu giúp.”
Tôi hỏi cậu việc gì mà cần phải làm vào lúc nửa đêm như thế. Thay cho câu trả lời, cậu cầm một vật từ trên chiếc bàn cạnh chiếc sofa lên. Tôi mất một lúc mới nhìn rõ được – đó là cái hộp đựng tro của Ned. Ẵm cái hộp bằng cả hai tay, cậu đi về phía cửa trước.
“Đi nào,” cậu nói.
Chúng tôi bước ra ngoài hiên và dừng lại ở thanh lan can, trông ra màn đêm thăm thẳm như hai hành khách trên một con tàu viễn dương. Trong những đêm không trăng, ngôi nhà này có thể trôi nổi, nó có thể bồng bềnh trôi qua không gian. Tất cả những gì hiện ra trong màn đêm xung quanh là một cánh đồng sao và những rặng cây im lìm.
Jonathan nói: “Mình đã đổi ý về việc cứ trì hoãn không rắc tro của bố mình. Đột nhiên mình nhận ra rằng đây chính là nơi thích hợp hơn bất cứ nơi nào khác.”
“Ý cậu là cậu muốn rải tro của chú Ned ngay bây giờ? Ngay tại đây?”
“Ừm. Mình muốn cả hai đứa chúng mình cùng làm việc này.”
“Ừm, cậu không nghĩ rằng cô Alice cũng muốn có mặt ở đây à? Ý mình là, sao chúng ta không có vài kiểu nghi lễ nào đó?”
“Không cần. Mẹ mình sẽ mừng khi nghe tin mình đã làm việc này. Dạo cần đây bà không quan tâm lắm đến những nghi lễ.”
“Vậy à,” tôi nói.
“Đi thôi.” Cậu bước xuống hiên, và tôi đi cùng cậu. Đi trên bãi cỏ giống như là bước vào khoảng không đích thực. Tôi bước đi với cảm giác mê sảng, không trọng lượng.
“Jon,” tôi nói. “Jonny à, có lẽ bọn mình nên hoãn việc này lại. Ý mình là, cậu không nghĩ rằng cậu sẽ thấy tiếc vì đã không lên kế hoạch gì à?”
“Nếu cậu không muốn, mình sẽ tự làm một mình,” cậu nói. Cậu bước vài bước về phía đường đi, một dải bàng bạc mờ mờ trong bóng đêm. Tiếng ếch kêu râm ran và rền rĩ. Cụm sao Thất Nữ nhỏ bé nhấp nháy trên đầu chúng tôi. Tôi đi theo cậu. Khi chúng tôi băng qua đường, tôi bỗng nhớ đến hình ảnh của mình thời thơ ấu, đang đi theo anh trai tôi vào nghĩa địa để cùng chào mừng tương lai oai hùng của chúng tôi. Jonathan bước đi với vẻ quyết tâm vừa mang tính nghi thức vừa có vẻ hơi điên rồ. Cậu đang mặc độc cái quần đùi chấm bi khi những thiên hà nổ tung phía trên đầu.
Một đồng cỏ linh lăng trống vắng trải ra bên kia đường. Đám cỏ linh lăng rì rào khẽ cọ vào đôi chân trần của chúng tôi. Dù vào ban ngày tôi biết rằng cánh đồng này bị chặn lại bởi những bụi cây và một cái chuồng bị bỏ hoang, nhưng tất cả những gì tôi có thể thấy lúc này là một đại dương cỏ linh lăng mênh mông. Khi chúng tôi đang đi, Jonathan nói: “Mình vừa mới nhận ra rằng thật là buồn cười khi cứ giữ mãi tro của bố mình cho đến khi nào mình kiếm được một nơi chốn thích hợp cho chúng. Mình đã quyết định rằng đây là một nơi hoàn toàn phù hợp. Ngay trên cánh đồng này. Thậm chí mình còn không biết ai là chủ của nó nữa, cậu có biết không?”
“Không.”
“Ôi, Bobby. Mình muốn trở thành một phần của thứ gì đó không dính dáng tới cái chết.”
“Thì đúng là thế mà.”
“Không phải. Mình từng nghĩ như thế, nhưng thật sự thì không phải.”
“Jon,” tôi nói. “Jonny à.”
Cậu đợi tôi nói tiếp, nhưng tôi không cất nên lời. Toi không thể nói với cậu những gì tôi biết – chúng tôi đều có những niềm đam mê bên ngoài thế giới của người sống. Đó là điều đã chia cách chúng tôi với Clare, và với những người khác. Đó là điều đã giữ chúng tôi ở lại bên nhau khi chuỗi hoàn cảnh thông thường đã buộc chúng tôi lớn lên và tách nhau ra.
Sau một lúc, cậu nói: “Vì thế mình đã nghĩ đến lúc từ bỏ đám tro này. Ngay bây giờ. Ở đây. Có vẻ đây là một địa điểm thích hợp.”
Chúng tôi đã đi quá sâu vào cánh đồng đến nỗi bóng tối khép lại sau lưng chúng tôi, xóa nhòa con đường và ngôi nhà. Tất cả những gì chúng tôi có thể trông thấy là đám cỏ đinh lăng. Những con dế kêu rinh rích và đám muỗi vo ve quanh đầu chúng tôi, không thể tin nổi vào sự may mắn của chúng. Chúng tôi đứng đó, trong màn đêm râm ran, lấp lánh ánh sao. Một bống tối hoàn toàn như tận cùng của thế giới.
“Cái nắp này hơi khó mở,” cậu nói. “Đợi một phút. Rồi.”
Cậu đặt cái hộp lên mặt đất.
“Thật khó tin,” cậu nói. “Bố mình thường kiệu mình trên vai. Ông từng cù mình cho đến khi mình tè dầm ra quần. Mình vẫn nhớ ông đã cảm thấy hối hận thế nào. Và xấu hổ. Và đôi chút phẫn nộ.”
“Cậu có muốn, ờ, nói một vài lời không?” Tôi hỏi.
“Ôi, mình nghĩ là mình đã nói rồi. Nghe này, cậu sẽ chạm vào chúng cùng lúc với mình chứ?”
“Được. Nếu cậu muốn.”
Chúng tôi đều cúi xuống. “Mình sẽ đếm đến ba,” cậu nói. “Một, hai, ba.”
Chúng tôi thò tay vào. Có một cái túi bóng bên trong hộp, và chúng tôi luồn tay vào trong túi. Tro của chú Ned có vẻ mềm mại và mịn màng. Chúng lổn nhổn những mẩu xương vụn. Khi chúng tôi chạm vào chúng, Jonathan hít một hơi.
“Ôi,” cậu nói. “Được rồi. Mình nghĩ đó là phần khó nhất. Cậu có thấy thế không?”
“Có.”
Chúng tôi đứng đó với những nắm tro và xương trong tay. “Mẹ mình đã đúng,” cậu nói. “Nó thực sự không hơn một đôi giày cũ của ông. Được rồi. Làm thôi.”
Trong im lặng, chúng tôi rải tro lên cánh đồng. Chúng tôi vừa bước lên theo những vòng tròn nhỏ vừa rắc chúng. Trời tối mịt nên tôi không thể trông thấy chúng rơi xuống. Chúng biến mất khỏi tay chúng tôi. Nếu chúng có tạo nên bất cứ tiếng động nào thì nó cũng sẽ bị chìm xuống bởi tiếng côn trùng rả rích và tiếng xào xạc của đám cỏ linh lăng.
Chúng tôi cứ liên tục quay trở lại chỗ cái hộp. Chúng tôi không nói gì cho đến khi đám tro đã được rải hết.
“Vậy là xong,” Jonathan nói. “Bố ơi, con chỉ làm được thế này thôi. Đó là điều tốt nhất rồi bố ạ.”
Cậu nhặt cái hộp lên và chúng tôi đi về phía khoảng tối, nơi chúng tôi nghĩ là vị trí của ngôi nhà. Chúng tôi đã bị mất phương hướng khi đi vòng quanh để rải tro, và đã cách ngôi nhà khá xa. Chúng tôi phải đi dọc theo con đường gần một phần tư dặm. Chúng tôi đã khiến cho một chiếc Volvo đi ngang qua phải tò mò – hai người đàn ông mặc đồ lót đi trên một con đường thôn dã, tay cầm một cái hộp rỗng.
“Bobby này?” Jonathan nói.
“Ơi?”
“Cậu có biết vì sao mình lại đột nhiên quyết định làm việc này không?”
“Không.”
“Sau khi Clare và Rebecca đi, mình chợt nghĩ rằng mình không muốn họ quay lại với Erich đang ngày càng tồi tệ trên gác và tro của bố mình vẫn được đặt trên một cái giá ở phòng khách. Đột nhiên mình thấy ngôi nhà mang quá nhiều vẻ chết chóc. Và thế là mình quyết định sẽ rải tro trên đồng cỏ. Ý mình là, mình giữ chúng để làm gì chứ?”
“Ừm, chẳng làm gì cả, mình nghĩ thế.”
“Mình muốn sơn lại phòng của Rebecca,” cậu nói. “Màu cũ quá xỉn. Ngày mai sau khi đi làm về bọn mình sẽ chọn màu sơn nhé? Màu gì đó lòe loẹt mà con bé sẽ thích mê đi, như màu hồng tươi chẳng hạn. Mình chưa nghe thấy ai nói trẻ con có khiếu thẩm mỹ kém cả.”
Tôi có thể nghe thấy hơi thở của Jonathan. Ánh sao loang loáng lan tỏa trên làn da trần của cậu. Chúng tôi bước đi vài phút trong im lặng.
“Nghe này,” cậu nói.
“Ừ.”
“Nếu mình có mệnh hệ gì, thì đây cũng sẽ là nơi hoàn toàn thích hợp để rải tro của mình. Nếu và khi nào điều đó xảy ra, mình muốn cậu bảo với mẹ mình thế. Hãy bảo bà rằng đó là yêu cầu cuối cùng của mình. Chúa ơi, nếu tro của bố mình và mình cuối cùng đều được rải quanh đây, mẹ mình sẽ đi về đâu khi bà mất nhỉ?”
“Bà cũng có thể đến đây mà.”
“Chà, bà vẫn luôn bị lôi kéo đến nhưng nơi mà bà không hề muốn. Vậy thì cớ gì mọi chuyện lại khác đi sau khi bà mất, đúng không?”
“Đúng. Ý mình là, mình nghĩ thế. Đây là nơi mà hiện tại tất cả chúng ta đều thuộc về.”
“Nếu quả thực là thế thì sao?” Cậu nói. “Nó sẽ không trở thành một thứ gì đó chứ?”
Chúng tôi không nói gì nữa. Giữa chúng tôi có quá nhiều vấn đề nên không biết phải nói về điều gì. Chúng tôi đi nốt đoạn đường ngắn ngủi cuối cùng, bị những loài động vật về đêm bí mật dõi theo. Nó giống như một giấc mơ, một trong những giấc mơ trẻ thơ về nỗi xấu hổ giữa chốn đông người, khi đi trên một con đường công cộng mà mặc nỗi chiếc quần đùi sờn rách. Nhưng, trong giấc mơ đặc biệt này, tôi không hề cảm thấy ngại cùng. Tôi đang ở đây, ăn mặc thiếu đứng đắn trên một con đường quê, với làn gió đêm u tố thổi quanh mình. Tro của Ned đang hòa lẫn với đất trong một thế giới thu nhỏ của kiến và những loài bọ cánh cứng kềnh càng, ì ạch. Erich đang ở trong giấc ngủ chập chờn, với những giấc mơ chồng chéo. Trên đời này vẫn còn có cái đẹp, dù nó khắc nghiệt hơn những gì chúng ta từng mong đợi. Nó không giống với trang trại mùa thu trên tường phòng ăn của gia đình tôi cũng như một mẩu xương không giống với một người đàn ông hay một người đàn bà. Ở nơi nào đó trên lục địa này, Clare và Rebecca đang ngủ, trong một khách sạn ven đường hay trong một căn phòng khách nhà bạn bè nàng. Khi cái bóng xanh xanh của ngôi nhà hiện ra trước mặt chúng tôi, tôi nhớ ra rằng nhà cũng là một nơi để người ta rời khỏi nó. Đây là nhà của chúng tôi, chúng tôi có thể bỏ đi, và cũng có thể trở về.
Lúc này không gian thật mịt mùng đủ để nhìn thấy tương lai – những buổi sáng lạnh lẽo và những đêm dài đằng đẵng, cùng thứ âm nhạc hằng ngày. Jonathan và tôi ở đây để duy trì một hiện tại, để mọi người có thể quay lại với nó khi tương lai của họ làm họ mệt mỏi. Chúng tôi đã phải đi một hành trình dài mới đến được đây. Chúng tôi đi vào lối xe chạy, và tôi thấy thứ gì đó đang làm lay động tấm rèm ở cửa sổ phòng ngủ. Trong một thoáng, tôi nghĩ Clare đã trở về. Tôi túm lấy vai Jonathan.
“Gì thế?” Cậu hỏi. “Sao thế?”
“Không có gì. Chẳng sao cả. Đừng bận tâm.”
Giữa cơn bốc đồng và cái chạm vai đó, tôi đã tỉnh táo lại. Clare không quay về. Thứ mà tôi thấy chỉ là gió thổi mà thôi. Nó vừa là cơn gió vừa là linh hồn của chính ngôi nhà, thoáng lo lắng bởi sự vắng mặt giữa đêm hôm khuya khoắt của chúng tôi, nhưng đã già đến nỗi không còn ngạc nhiên trước những việc sinh ra từ khoảng trống giữa những gì chúng ta có thể tưởng tượng và những gì chúng ta thực sự tạo ra.
 
CHÚ Ý !!!
Các đạo hữu nhớ thêm TÊN CHƯƠNG và THỨ TỰ CHƯƠNG ở ô phía trên phần trả lời nhanh. Như vậy hệ thống mới tạo được DANH SÁCH CHƯƠNG.
Cập nhật chức năng ĐĂNG TRUYỆN và THÊM CHƯƠNG MỚI trên web Diễn Đàn Truyện tại https://truyen.diendantruyen.com
Top Bottom