Chào bạn!

Để có thể sử dụng đầy đủ chức năng diễn đàn Của Tui À bạn phải đăng nhập hoặc đăng ký.

Đăng Ký!

Dịch Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh

Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh
Chương 120: Cô có thể thuyết phục được mấy người?



Trên đường áp giải Thẩm Khuyết từ Lĩnh Nam về Trường An, Thôi Tuần cố ý tránh quan đạo, chỉ chọn những con đường nhỏ mà đi. Nhưng dù trận trọng là thế, đoàn vẫn không thoát khỏi hai lần bị tập kích công khai, ba lần bị ám sát. Nguy hiểm nhất là khi đội ngũ chưa kịp hội quân với đại đội của Sát Sự Thính, đi qua cổ đạo Tây Kinh thì bất ngờ gặp phải hàng trăm thích khách áo đen giữa khu rừng rậm trong đêm.

Thế nhưng, ngay khi đám thích khách ập đến, Thôi Tuần lại giống như đã có sự chuẩn bị từ trước. Hắn bình tĩnh chỉ huy binh sĩ lập trận phòng ngự, khiến thích khách nhiều lần xông trận đều không thành. Đúng lúc chuẩn bị tổ chức đợt tấn công mới, bọn chúng phát hiện phía sau đã có một đoàn binh mã đông nghịt áp sát, thế trận lập tức đảo ngược. Kẻ mai phục biến thành kẻ bị bao vây, một trận đánh úp liền trở thành bẫy rập.

Thì ra, từ lúc khởi hành ở Trường An, Thôi Tuần đã luôn quan sát địa thế xung quanh. Vốn có trí nhớ cực tốt, sau khi đến trạm dịch Quế Châu, hắn đã vẽ lại toàn bộ bản đồ từ Quế Châu đến Trường An, đồng thời dự đoán mọi khả năng có thể xảy ra. Hắn sớm đoán được sẽ bị tập kích trong rừng rậm nên cố ý chia binh làm hai, một nửa chậm rãi hành quân. Đợi đến khi sát thủ hiện thân thì dễ dàng biến chúng thành cá trong rọ.

Hắn chỉ huy đâu ra đấy, toát lên phong thái của một người bày mưu tính kế trong màn trướng. Lý Doanh đứng bên, từ đây mơ hồ thấy lại dáng vẻ năm xưa của hắn. Nếu không có sự kiện sáu năm trước, giờ đây hắn đã là vị tướng quân trẻ tuổi đầy chí khí, chứ không phải một Thiếu khanh của Sát Sự Thính mắc kẹt trong vòng xoáy quyền lực ở Trường An.

Bị bao vây, đám thích khách biết không thể trốn thoát, đồng loạt cắn nát độc dược trong răng, không để lại một ai sống sót. Hành động dứt khoát này cho thấy bọn chúng được huấn luyện vô cùng bài bản.

Đối diện cảnh tượng đó, Thôi Tuần không tỏ ra bất ngờ. Hắn chỉ thản nhiên kéo tấm vải đen phủ trên xe tù ra, đối diện với Thẩm Khuyết, lạnh nhạt nói: “Đồng bọn của ngươi không từ thủ đoạn nào để giết ngươi. Ngươi vẫn quyết giữ bí mật cho chúng sao?”

Thẩm Khuyết chẳng buồn liếc nhìn những xác chết trên mặt đất, chỉ cười lạnh: “Bọn chúng đúng là cặn bã, nhưng so với chúng, ta vẫn ghét ngươi hơn. Những chuyện khiến ngươi dễ chịu, ta tuyệt đối không làm; nhưng những chuyện khiến ngươi khó chịu, ta nhất định phải làm.”

Lời nói của Thẩm Khuyết tràn đầy oán hận, như thể sắp trào cả ra ngoài. Nếu khi ở Trường An, hắn căm ghét Thôi Tuần chỉ vì vụ án Thiên Uy quân, thì giờ đây đã pha thêm nhiều tầng phức tạp hơn. Hắn bật cười, giọng điệu chế giễu: “Ngươi muốn ta mở miệng? Được thôi. Bảo Thịnh A Man đến cầu xin ta đi!”

Hắn liếc xéo Thôi Tuần, giọng trào phúng: “Dù sao Thôi Tuần ngươi cũng là kẻ không từ thủ đoạn. Hi sinh một nữ nhân, thì có gì to tát?”

Thẩm Khuyết ăn nói ngông cuồng, nhưng Thôi Tuần không giận mà lại bật cười. Hắn dường như phát hiện ra điều gì thú vị, khóe môi cong lên, lộ ra nụ cười khinh miệt: “Thì ra, Thẩm Quốc công phải lòng A Man thật rồi.”

Sắc mặt Thẩm Khuyết lập tức cứng đờ, rõ ràng bị Thôi Tuần nói trúng tâm sự. Nhìn vẻ mặt ấy, Thôi Tuần càng cảm thấy buồn cười, hắn lắc đầu nói: “Ngươi giết huynh trưởng của A Man, còn làm nhục nàng. Giờ lại tỏ ra mình bị nàng phụ bạc, không thấy nực cười lắm sao?”

Thẩm Khuyết bị hắn nói toạc, nhất thời ngẩn người, hồi lâu sau mới nghiến răng đáp: “Thịnh A Man và lời khai, ngươi chọn một.”

Thôi Tuần nghe vậy bỗng bật cười: “Ngươi có tư cách gì bắt ta phải chọn? Thẩm Khuyết, dù ngươi tỏ ra tình thâm nghĩa trọng đến đâu, A Man cũng sẽ không tha thứ cho ngươi. Sau khi ngươi chết, không đời nào nàng lại thủ tiết vì ngươi. Ngươi yên tâm, nàng sẽ sống tốt.”

Đôi mắt Thẩm Khuyết đã đỏ ngầu. Thôi Tuần thả tấm vải đen xuống, bên tai hắn vang lên tiếng gào thét điên cuồng của Thẩm Khuyết, cùng tiếng song gỗ lồng giam khi bị hắn lắc mạnh: “Ngươi nói láo! Nàng đang mang cốt nhục của ta! Sao nàng có thể tuyệt tình với ta được? Thôi Tuần! Ngươi nói láo! Nói láo!”



Nhưng lúc này, Thôi Tuần đã bước lên xe ngựa. Tiếng bánh xe lăn đều kèm tiếng vó ngựa gõ lộc cộc đã che lấp mọi lời mắng chửi của Thẩm Khuyết. Thôi Tuần nhắm mắt, cảm thấy mệt mỏi vô cùng. Ngay cả khi Lý Doanh nắm lấy tay hắn, hắn cũng không cảm nhận được.

Nàng nắm hờ những ngón tay của hắn, điềm đạm hỏi: “Tới Trường An rồi, có khi nào Thẩm Khuyết vẫn không chịu khai không?”

Thôi Tuần chậm rãi mở mắt. Những ngày đề phòng truy sát khiến hắn kiệt quệ về cả tinh thần lẫn thể xác, thêm trận kịch chiến đêm nay càng khiến thân thể hắn trở nên suy nhược. Vừa đặt chân lên xe ngựa, toàn thân hắn như bị rút cạn sức lực. Hắn gật đầu: “Thẩm Khuyết tính tình cố chấp, hắn căm hận Thái hậu đã hai mươi chín năm, tìm đủ trăm phương ngàn kế để lấy mạng bà. Hắn yêu A Man, nên xem ta như kẻ địch, thà chết cũng không chịu tha thứ cho sự phản bội của nàng. Dù có dùng hình, cũng khó lòng khiến hắn mở miệng.”

Lý Doanh cẩn thận ngắm nhìn bàn tay Thôi Tuần, nhiệt độ trong lòng bàn tay hắn ngày một lạnh hơn, những mạch máu xanh trên mu bàn tay cũng theo đó hiện rõ. Nàng thở dài thành tiếng: “Chàng không màng tới sức khỏe, đích thân đến Lĩnh Nam áp giải Thẩm Khuyết, nếu hắn nhất quyết không khai, vậy phải làm sao?”

Thực ra, nàng cũng nghe thấy lời vừa rồi của Thẩm Khuyết. Hắn bảo Thôi Tuần chọn giữa A Man và lời khai, ý là chỉ cần A Man đến cầu xin hắn, hắn sẽ khai nhận. Nhưng đừng nói là Thôi Tuần tuyệt đối không bao giờ dùng cách này, dù là nàng cũng sẽ không bao giờ chủ động nhắc lại trước mặt hắn.

Cả đời A Man đã chịu quá nhiều khổ đau. Nếu cái giá để đổi lấy lời khai là sự hy sinh của A Man, thì từng câu từng chữ trong lời khai ấy cũng sẽ tràn ngập hai chữ ”sỉ nhục.” Dù là năm vạn tướng sĩ đã chết oan ở Vong Tử Thành, những người trông mong được rửa sạch nỗi oan, nhất định họ cũng không muốn gánh chịu sự sỉ nhục này.

Thôi Tuần nhất thời cũng chưa nghĩ ra cách nào để ép Thẩm Khuyết khai nhận, chỉ hơi mím đôi môi mỏng, nói: “Đợi đến Trường An rồi tính tiếp.”



Rời khỏi cổ đạo Tây Kinh vài ngày, đại đội của Sát Sự Thính cũng đến hội quân với Thôi Tuần. Cộng thêm năm trăm tinh binh mượn từ Quế Châu, hành trình kế tiếp có thể nói là an toàn không lo ngại. Dẫu vậy, Thôi Tuần vẫn hết sức cẩn thận. Để đề phòng có người hạ độc, thức ăn của Thẩm Khuyết đều phải cho thỏ thử trước. Tuy rằng Thẩm Khuyết luôn miệng từ chối khai nhận, nhưng đây đã là lần mà Thôi Tuần tiến gần nhất với việc lật lại bản án trong sáu năm qua, hắn tuyệt đối không để vuột mất cơ hội này.

Sau mười mấy ngày vất vả đường trường, xe tù áp giải Thẩm Khuyết cuối cùng cũng đến Trường An. Trên đại lộ Chu Tước, bách tính tụ tập, dõi mắt mong chờ, ai cũng muốn xem bộ dạng chật vật nhếch nhác của vị hoàng thân quốc thích từng ngang ngược hống hách. Nhưng điều khiến họ thất vọng chính là, xe tù được phủ kín bằng vải đen, căn bản không nhìn thấy chút gì.

Phía trước xe tù là một cỗ xe tứ mã xa hoa. Trong đám đông, mấy thiếu niên như Hà Thập Tam chen chúc, không ngừng chỉ trỏ: “Nghe nói trong xe tù là Thẩm Khuyết, kẻ đã hại chết Thịnh a huynh, đúng không?”

“Có vẻ vậy.”

“Sao lại là tên phản quốc kia đến Lĩnh Nam áp giải hắn nhỉ?”

“Ai mà biết được? Nghe nói quan hệ giữa hai người họ không tốt.”

“Tên phản quốc kia nhận việc này, chẳng phải là để trả thù riêng sao?”

“Chắc chắn rồi.”

Mấy thiếu niên đang nói say sưa thì bất chợt bị cây quạt xếp đập mạnh lên đầu. Hà Thập Tam ôm đầu tức tối quay lại nhìn, nhưng khi nhìn rõ người vừa đến, cậu lập tức đổi sắc mặt, cười nói: “Ngư a huynh, sao huynh lại ở đây?”

Kể từ lần trước, khi Ngư Phù Nguy đưa thuốc cho Hà Thập Tam, cậu không muốn mắc nợ ân tình, bèn thường xuyên mang cá hoặc thú rừng săn được đến phủ của Ngư Phù Nguy biếu tặng. Lâu dần, hai người trở nên thân quen, Hà Thập Tam cũng đổi cách gọi thành “Ngư a huynh”, thể hiện sự kính trọng như đối với huynh trưởng. Ngư Phù Nguy nghiêm mặt hỏi: “Vừa rồi các ngươi nói ai trả thù riêng?”

“Tên phản quốc kia chứ ai.” Hà Thập Tam cười hì hì: “Chẳng trách hắn chạy đến Lĩnh Nam, hóa ra hắn với Thẩm Khuyết không hợp, nhân cơ hội này trả đũa.”

Ngư Phù Nguy nghiêm túc nói: “Các ngươi sai rồi. Nếu hắn thực sự vì tư thù mà đến Lĩnh Nam, vậy tại sao xe tù lại phủ vải đen? Chẳng phải hắn nên gỡ bỏ tấm vải, bêu rếu Thẩm Khuyết trước mặt bá tánh sao?”

Hà Thập Tam sững sờ: “Chuyện này… nói không chừng là do Thái hậu và Thánh nhân bảo hắn làm thế.”

Ngư Phù Nguy đáp: “Thái hậu và Thánh nhân đã lệnh để Thẩm Khuyết ngồi trong xe tù, sao còn quan tâm đến một tấm vải đen kia chứ?”

Hà Thập Tam lúng túng: “Vậy hắn che vải đen để làm gì?”

Ngư Phù Nguy đáp: “Vì hắn muốn điều tra lại vụ án của Thịnh Vân Đình, nên không muốn dính vào những chuyện nhỏ nhặt này, tránh để phát sinh rắc rối không cần thiết. Có thể nói, so với công vụ hắn đang lo liệu, thù hằn cá nhân chưa từng là điều hắn bận tâm.”

Hà Thập Tam nghe mà nửa hiểu nửa không, nhưng cậu vẫn nói: “Được rồi, Ngư a huynh, vậy lần này, chúng ta xem như đã trách lầm hắn.”

Ngư Phù Nguy khẽ gật đầu, bảo bọn trẻ tiếp tục xem náo nhiệt, còn mình lại bước vào một nơi hẻo lánh. Ở đó, Lý Doanh đã chờ sẵn từ trước. Ngư Phù Nguy thở dài: “Ta chỉ là một thương nhân, không lo làm ăn mà lại chạy đến đây biện hộ cho Thôi Tuần, chuyện này nếu truyền ra ngoài, thực khiến người ta cười rụng răng.”

Lý Doanh mỉm cười: “Đa tạ Ngư tiên sinh.”

Nàng không vào thành Trường An cùng Thôi Tuần mà đi trước một mình. Đã lâu không gặp, Ngư Phù Nguy không kìm được, đứng đợi nàng tại cổng thành. Trong lúc hai người trò chuyện, họ cùng nhìn đoàn xe tù chầm chậm tiến vào thành. Khi nghe Hà Thập Tam và những người khác buông lời chế nhạo Thôi Tuần, trong lòng Lý Doanh cảm thấy không thoải mái, bèn nhờ Ngư Phù Nguy đính chính đôi lời. Đoạn cuối mà Ngư Phù Nguy vừa thốt ra chính là lời nàng nhờ hắn truyền tải.

Ngư Phù Nguy thở dài: “Thiên hạ này người hiểu lầm hắn đâu phải ít, cô có thể thuyết phục được mấy người?”

“Thuyết phục được người nào hay người đó.” Lý Doanh đáp.

Nghe lời này, Ngư Phù Nguy bất giác ngẩng lên nhìn nàng. Chuyến đi Lĩnh Nam lần này, chắc hẳn nàng và Thôi Tuần đã trải qua những chuyện khó quên, nên mới khiến nàng không chịu nổi khi nghe những lời ác ý từ Hà Thập Tam và đám bạn của nó. Ngư Phù Nguy chỉ biết cười khổ, ánh mắt dịch chuyển, nhìn về cỗ xe tứ mã xa hoa trên đường Chu Tước đang chầm chậm rời đi, hồi lâu sau, hắn mới thở dài một hơi.



Xe tù đi thẳng một mạch tới Sát Sự Thính.

Thôi Tuần gắng gượng thân thể bệnh tật, trực tiếp vào cung. Thánh nhân triệu tập bá quan để bàn bạc về vụ án của Thẩm Khuyết. Nhưng bất kể giao vụ này cho Sát Sự Thính hay Đại Lý Tự, đối phương đều không thỏa mãn. Sau khi thương nghị, quyết định cuối cùng là để ba cơ quan Sát Sự Thính, Đại Lý Tự và Ngự Sử Đài cùng thẩm tra. Còn Thẩm Khuyết bị giam tại nhà lao của Ngự Sử Đài, do Sát Sự Thính và Đại Lý Tự phối hợp trông giữa.

Vụ án của Thẩm Khuyết đã lan truyền khắp từng ngõ ngách Trường An, trở thành tâm điểm của mọi ánh nhìn. Dân chúng luôn thích xem những vở kịch về báo thù rửa hận. Một lang quân tuấn mỹ cao quý gi.ết ch.ết huynh trưởng của một tiểu nương tử xinh đẹp. Tiểu nương tử ấy cam chịu làm thiếp cho kẻ thù, âm thầm chịu đựng bên cạnh hắn mấy tháng trời, cuối cùng lấy được chứng cứ, vượt ngàn dặm quay về Trường An, gõ trống Đăng Văn để tố cáo trước mặt Thánh nhân. Câu chuyện này, chẳng cần thêm mắm dặm muối thì đã đủ ly kỳ và hấp dẫn.

Dư luận càng lúc càng sôi sục, ba cơ quan không dám lơ là, định hai ngày sau sẽ mở phiên xét xử Thẩm Khuyết.



Hai ngày sau, tại Ngự Sử Đài, ba cơ quan đồng thẩm.

Trên đại đường, Thẩm Khuyết đã tháo hết gông xiềng. Hắn đứng thẳng người, khí thế hiên ngang, bên chân là Dương Hành quỳ gối. Trên bàn đặt thanh trường kiếm mà hắn đã dùng để giết Thịnh Vân Đình vào đêm đó, cùng bộ khôi giáp vấy máu của hắn.

Dương Hành đã khai nhận toàn bộ. Gã thừa nhận sáu năm trước, Thẩm Khuyết dẫn họ g.iết ch.ết Thịnh Vân Đình, thậm chí còn ra lệnh cho gã chôn thanh trường kiếm và bộ khôi giáp. Hiện tại, cả nhân chứng lẫn vật chứng đều đủ, Thẩm Khuyết không thể chối cãi.

Thế nhưng Thẩm Khuyết chỉ giữ vẻ mặt ngạo mạn, thốt ra ba chữ: “Ta không nhận!”
 
Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh
Chương 121: Ta đã giết Thịnh Vân Đình



Đại Lý Tự Thiếu khanh Lư Hoài đã mất sạch kiên nhẫn. Hắn vốn căm ghét sẵn hạng công tử bột, ăn chơi phóng túng như Thẩm Khuyết. Vì vậy, hắn lạnh lùng nói: “Ngươi nghĩ rằng không nhận tội thì sẽ không có cách nào trị ngươi sao? Luật Đại Chu đã quy định, ba người trở lên, minh chứng tường tận, là có thể định tội. Trong vụ án của ngươi, ngoài Dương Hành thì còn có Triệu Lục, Lục Dực và những kẻ khác cùng tham gia hãm hại Thịnh Vân Đình. Tất cả bọn chúng đều đã nhận tội. Hiện giờ đã có hơn ba nhân chứng, lại thêm y phục vấy máu và các vật chứng khác. Dù không có khẩu cung của ngươi, Tam Ty vẫn đủ sức định tội ngươi.”

Thẩm Khuyết chỉ cười lạnh: “Nhân chứng, vật chứng có nhiều đến đâu, ta cũng không nhận.”

Ngữ khí của hắn không giống một kẻ đang giãy chết cầu sinh, mà như một kẻ bất mãn, liều lĩnh phá hủy tất cả.

Lư Hoài rốt cuộc cũng không nhịn được nữa: “Dùng hình!”

Chủ thẩm của Ngự Sử Đài, Hàn Văn Mặc vội ngăn lại: “Lư Thiếu khanh, dù sao đi nữa Thẩm Khuyết cũng là biểu huynh của Thánh nhân, chi bằng giữ cho hắn chút thể diện.”

Lư Hoài hừ lạnh: “Lúc hắn giết người, c.ưỡ.ng b.ức phụ nữ, hắn có nghĩ đến việc giữ thể diện cho Thánh nhân không?”

Hàn Văn Mặc á khẩu, không biết đáp thế nào, còn Thẩm Khuyết chẳng những không sợ hãi, mà ngược lại, hắn nhìn Lư Hoài cười lớn: “Lư Thiếu khanh, ta, Thẩm Khuyết, quả thực chẳng phải người tử tế. Nhưng dưới lớp vỏ chính nhân quân tử của các ngươi, có ai sạch sẽ hơn ta đâu?”

Những lời khiêu khích ấy khiến Lư Hoài giận đến mức gân xanh trên trán nổi lên, hắn quát về phía đám sai dịch dưới đường: “Còn đứng đó làm gì? Dụng hình!”

“Khoan đã.”

Người lên tiếng là Thôi Tuần. Hắn chậm rãi nói: “Khoan dụng hình.”

Lư Hoài quay đầu nhìn hắn. Thôi Tuần từ khi trở về từ Lĩnh Nam, cả người như vừa trải qua một trận bệnh nặng. Sắc mặt hắn trắng bệch như tờ giấy, khiến Lư Hoài giật mình. Trước đây, dù Thôi Tuần vẫn luôn mang dáng vẻ yếu ớt, nhưng chưa bao giờ gầy gò, tiều tụy đến mức này. Từ đầu phiên thẩm tra đến giờ, hắn vẫn lặng im không nói, giống như ngay cả sức mở miệng cũng không có. Lư Hoài không khỏi thắc mắc: trước khi đến Lĩnh Nam, Thôi Tuần có biết sức khỏe mình không chịu nổi hay không? Nếu biết, tại sao vẫn nhất quyết phải đi?

Tuy nhiên vì luôn đối đầu với Thôi Tuần nên những nghi vấn ấy hắn chỉ giữ trong lòng, không hạ mình hỏi. Riêng lần này, hắn lại buột miệng: “Vì sao không được dụng hình?”

Thôi Tuần và Thẩm Khuyết là địch thủ một mất một còn, việc Thôi Tuần gây cản trở, không cho tra tấn Thẩm Khuyết thật khiến người ta khó hiểu.

Thôi Tuần không đáp, chỉ nhìn thẳng vào Thẩm Khuyết, lạnh nhạt nói: “Thẩm Khuyết, đến nước này mà ngươi vẫn cứng miệng sao?”

Thẩm Khuyết cười khẩy: “Sao? Ngươi cũng muốn ép ta nhận tội? Dựa vào ngươi?”

Dù thân mang tù phục, dáng vẻ thê thảm, nhưng trên mặt hắn vẫn hiện rõ sự kiêu ngạo: “Ta là Quốc công thế tập của Đại Chu, một luyến sủng thấp hèn như ngươi cũng xứng để thẩm vấn ta sao?”

Bị sỉ nhục thẳng mặt như vậy, nhưng Thôi Tuần không hề nổi giận. Hắn chỉ nhếch môi cười mỉa: “Ồ? Vậy ai mới xứng để thẩm vấn ngươi?”

Thẩm Khuyết không đáp, ánh mắt đảo khắp đại đường: “Hôm nay xét xử, nguyên cáo đâu? Thịnh A Man đâu?”

“E rằng không tiện đến.”

Thẩm Khuyết hỏi: “Vì sao?”

Thôi Tuần cố nén cơn ho đang cuộn trào trong lồng ng.ực, chậm rãi nói: “Thịnh A Man vượt cấp thượng cáo, gõ trống Đăng Văn. Theo luật, đáng lẽ phải chịu tám mươi trượng, nhưng bởi trước đó nàng mang thai, Thánh nhân ân chuẩn, để nàng sinh con xong mới thi hành án. Thế nhưng, đứa trẻ này là cốt nhục của ngươi. Nàng hận ngươi sâu như biển, không muốn nhận lấy một chút ân huệ nào từ ngươi, vậy nên… nàng đã uống một bát hồng hoa, bỏ đi đứa trẻ, chịu đủ tám mươi trượng hình phạt. Hôm nay, nàng không thể có mặt ở đây được.”

Thẩm Khuyết sững sờ, mắt trợn lớn, gầm lên: “Ngươi nói gì?”

Thôi Tuần nhấn mạnh từng chữ: “Ta nói, Thịnh A Man đã uống một bát hồng hoa, tự mình bỏ đi đứa trẻ.”

Trong đại đường bỗng chốc im lặng như tờ. Một lát sau, Thẩm Khuyết đột nhiên nổi cơn thịnh nộ, nếu không nhờ mấy tên sai dịch ghì chặt hắn quỳ xuống, hắn đã lao thẳng đến chỗ Thôi Tuần: “Ngươi nói bậy!”

Thôi Tuần hừ lạnh, liếc sang Lư Hoài: “Lư Thiếu khanh, ta có nói bậy không?”

Lư Hoài sững lại, không ngờ Thôi Tuần lại quay sang hỏi mình, theo bản năng lên tiếng phối hợp: “Không sai.”

Lư Hoài vốn nổi tiếng là người ngay thẳng, chưa từng nói sai một lời. Điều này Thẩm Khuyết cũng hiểu rõ. Nghe lời xác nhận từ Lư Hoài, lòng hắn như bị dội một gáo nước lạnh, hơi ấm cuối cùng trên thế gian cũng tan biến.

Hắn đã sống hai mươi chín năm, bị mắc kẹt trong mối thù giết mẹ ruột và chị cả. Chính vì mối thù đó, hắn đã dành cả đời để tìm cách giết Thái hậu trả thù. Nhưng sau vụ án miêu quỷ, Thái hậu lại nói với hắn rằng, cái chết của mẹ ruột hắn chỉ là một tai nạn, còn cái chết của chị hắn là do nàng ta tự chuốc lấy.

Hóa ra, hắn đã trả thù nhầm người, đã căm hận nhầm đối tượng. Hắn làm sao có thể chấp nhận sự thật này?

Tựa như mục tiêu sống của hắn đã tan biến, mọi khí lực rời khỏi thân thể, những ngày tháng còn lại chẳng khác nào xác không hồn.

Mãi đến khi bị đày đến Lĩnh Nam, trong hoàn cảnh khắc nghiệt ấy, Thịnh A Man vẫn đối xử với hắn dịu dàng hết mực, chăm sóc hắn đủ đường. Trái tim tưởng chừng đã chết của hắn dần sống lại.

Hắn từng hỏi Thịnh A Man nàng không trách hắn đã nhục mạ nàng sao. Nhưng Thịnh A Man chỉ nhẹ nhàng đáp, chuyện đã qua thì cho qua, hiện tại nàng chỉ muốn sống những ngày yên bình bên hắn, những thứ khác nàng không muốn nghĩ tới.

Hắn vừa cảm động, vừa hổ thẹn. Phu nhân đã khuất, hắn liền nghĩ sẽ nâng A Man lên làm chính thất. Dù trước kia có lỗi với nàng, nhưng giờ hắn sẽ trao nàng danh phận chính thê và thân phận Quốc công phu nhân. Hắn sẽ gột rửa tâm can, đối xử thật tốt với nàng. Nhưng ai ngờ, sự dịu dàng của nàng là giả, sự bao dung của nàng cũng là giả. Nàng lợi dụng hắn, đến khi đạt được sự thật, nàng liền hóa thành con dao sắc bén nhất, nhắm thẳng vào hắn, đâm đến máu chảy đầm đìa.

Giờ đây, ngay cả đứa trẻ trong bụng, mối ràng buộc duy nhất giữa hai người, nàng cũng nhẫn tâm bỏ đi.

Nàng thực sự hận hắn, hận đến mức chỉ muốn hắn chết cho khuất mắt.

Thẩm Khuyết bỗng nhiên bật cười lớn, tiếng cười đầy bi ai, đầy cô độc. Ngự sử Hàn Văn Mặc sợ hãi, trong lòng nghĩ, chẳng lẽ phạm nhân này phát điên rồi? Lư Hoài không hiểu chuyện gì, hắn không vì sao vừa nghe tin A Man mất thai, Thẩm Khuyết lại có phản ứng như vậy. Người nhục mạ A Man là hắn, mà người phát cuồng khi nàng mất thai cũng là hắn. Thật khó hiểu!

Chỉ có Thôi Tuần là hiểu rõ tất cả nguyên do. Từ sau vụ án miêu quỷ, Thẩm Khuyết đã như người chết. Chính A Man là người kéo hắn khỏi vực thẳm, cho hắn một tia hy vọng để tiếp tục sống. Nay hy vọng ấy vụt tắt, làm sao hắn không phát điên cho được?

Động lực để hận không có, động lực để yêu cũng không có, thử hỏi, sống trên đời này còn có nghĩa lý gì?

Thẩm Khuyết ngừng cười, quét mắt nhìn Tam Ty trên công đường, những người đang thẩm vấn hắn: “Chẳng phải các ngươi muốn ta nhận tội sao? Đúng vậy, Thịnh Vân Đình là do ta giết!”

Hắn đột nhiên thẳng thắn nhận tội, khiến Lư Hoài và Hàn Văn Mặc đều kinh ngạc. Chỉ có Thôi Tuần không mấy ngạc nhiên. Tuy nhiên, câu hỏi vừa rồi khiến hắn hao tổn không ít thể lực, hắn dùng khăn gấm che miệng, ho khan hai tiếng, sau đó liếc nhìn Lư Hoài, như muốn nói rằng tiếp theo giao cho y thẩm vấn.

Lư Hoài nghĩ thầm, người này bệnh đến mức thế này rồi sao? Hắn không có sức lực để thẩm vấn, nhưng hắn thì có. Lư Hoài chống tay lên bàn xử án, thân mình nghiêng về phía trước, ép hỏi Thẩm Khuyết: “Vậy ngươi thừa nhận rồi?”

“Đúng vậy.”

“Tại sao ngươi phải giết Thịnh Vân Đình?”

“Nhìn hắn ngứa mắt.”

Lư Hoài lại hỏi: “Ngươi là Trung lang tướng, là Quốc công, Thịnh Vân Đình chỉ là một Ngu hầu. Hắn đã làm gì đắc tội với ngươi?”

“Chẳng làm gì cả. Vì ta thấy ghét toàn bộ Thiên Uy quân.” Thẩm Khuyết nói: “Quách Cần Uy xuất thân hàn môn, dám tỏ thái độ coi thường ta. Ta ghét ông ta, nên ghét lây sang cả Thiên Uy quân. Không được sao?”

Lư Hoài hơi nhíu mày. Đúng là Thẩm Khuyết và Quách Cần Uy trước nay vốn không ưa gì nhau. Nguyên nhân là vì Thẩm Khuyết dựa vào thân phận hoàng thân quốc thích, kiêu căng ngạo mạn, trong khi Quách Cần Uy không phải hạng thích nịnh bợ. Khi về Trường An thuật chức, hai người từng chạm mặt, không tránh khỏi xung đột. Việc Thẩm Khuyết hận Quách Cần Uy, rồi ghét luôn Thịnh Vân Đình, nghe sao cũng thật hợp lý.

Chỉ là, chuyện này vẫn còn nhiều điểm đáng ngờ. Ví như, vì sao hôm ấy phu nhân của Bùi Quan Nhạc, Vương thị, cũng tham gia vào việc sát hại Thịnh Vân Đình? Ví như, làm thế nào Thẩm Khuyết biết được Thịnh Vân Đình sẽ xuất hiện ở trạm dịch Trường Lạc? Hay liệu Thẩm Khuyết có biết mục đích Thịnh Vân Đình hồi kinh là để cầu viện hay không? Từng chi tiết một, không thể chỉ đơn giản lấy lý do “nhìn ngứa mắt” mà giải thích được.

Lư Hoài bèn đem toàn bộ nghi vấn trong lòng nói ra, nhưng Thẩm Khuyết lại ngậm miệng không đáp, chỉ mệt mỏi đáp: “Ta đã nhận tội rồi, chính ta giết Thịnh Vân Đình. Còn về Vương Nhiên Tê, vì sao bà ta tham gia, ngươi muốn biết thì xuống Địa phủ mà hỏi, chứ ta làm sao biết được?”

Lư Hoài giận dữ quát: “Khốn kiếp!”

Thẩm Khuyết chỉ nhàn nhạt nói: “Những gì nên nói ta đã nói rồi. Muốn giết muốn chém, tùy các ngươi.”

Nói xong, hắn không buồn nói thêm câu nào nữa, dáng vẻ như chỉ cầu chết cho nhanh.

Lư Hoài định sai người tra khảo, nhưng bị Thôi Tuần ngăn lại. Thôi Tuần ho hai tiếng, nói: “Dù sao phạm nhân cũng đã nhận tội, chúng ta cứ bẩm báo lên Thánh nhân, đợi Thánh nhân định đoạt.”



Thẩm Khuyết bị áp giải trở lại ngục của Ngự Sử Đài. Thôi Tuần, Lư Hoài và Hàn Văn Mặc cùng lên đường đến đại điện cung Đại Minh để báo cáo. Khi rời Ngự Sử Đài, Thôi Tuần bệnh tình nặng nề, tự tôn lại quá cao, không muốn người khác dìu đỡ, vì thế phải gắng gượng mà đi, bước chân chậm chạp. Hàn Văn Mặc không kiên nhẫn, bóng dáng đã mất hút từ lâu, chỉ có Lư Hoài chờ sẵn ngoài Ngự Sử Đài.

Hắn hỏi Thôi Tuần: “Vì sao không thể dùng hình với Thẩm Khuyết? Không phải ngươi rất ghét hắn sao?”

Xét hỏi đã xong, Thôi Tuần vốn dĩ không muốn trả lời Lư Hoài thêm nữa. Nhưng nghĩ đến hôm ấy, nếu trên triều không có hắn dám đứng ra, vụ án của Vân Đình chưa chắc đã được thụ lý, tính ra, Lư Hoài cũng xem như ân nhân của Thiên Uy quân. Vì thế đôi mày lãnh đạm của Thôi Tuần dãn ra, giọng điệu cũng không còn lạnh lẽo: “Thẩm Khuyết là kẻ nếu không muốn khai thì dù ngài tra khảo thế nào cũng vô ích. Chỉ khi chạm đúng nỗi đau của hắn, hắn mới tuyệt vọng, chịu khai nhận hết.”

Lư Hoài trầm ngâm: “Cho nên, vừa rồi ngươi cố ý nhắc đến chuyện Thịnh A Man sẩy thai? Sao ngươi biết đó là nỗi đau của hắn?”

Vấn đề này liên quan đến bí mật về cái chết của Thẩm quốc phu nhân, Thôi Tuần không định trả lời. Hắn không đáp, Lư Hoài cũng không để bụng, chỉ chăm chú nhìn sắc mặt tái nhợt của Thôi Tuần. Đây là lần đầu tiên hắn bình tâm đứng cạnh Thôi Tuần, hòa nhã nói chuyện. Lư Hoài cất lời: “Dường như ngươi biết rất nhiều điều mà ta không biết.”

Thôi Tuần không tiếp lời, chỉ kịch liệt ho mấy tiếng, sắc mặt trắng như tuyết thoáng hiện nét đỏ bừng của cơn bệnh. Hắn nói: “Lư Hoài, ngươi làm Tư nghiệp Quốc Tử Giám năm năm, chính tích hiển hách, học trò trong thiên hạ đều kính trọng và ngưỡng mộ ngươi. Nhưng Đại Lý Tự không phải Quốc Tử Giám, có những chuyện, không biết thì tốt hơn.”

Lư Hoài không phục: “Vì sao ta không thể biết?”

Thôi Tuần chỉ khẽ cười: “Biết rồi thì làm được gì? Ngay cả kẻ đứng sau sai khiến Hà Thập Tam mà ngươi cũng không xử lý được, thì ngươi có thể xử lý ai?”

Lư Hoài nghẹn họng, không nói thêm gì nữa.

Thôi Tuần cũng không để ý đến hắn, chỉ bước ra khỏi Ngự Sử Đài với dáng vẻ mỏi mệt, lên xe tứ mã, thẳng hướng cung Đại Minh mà đi.



Đợi đến khi Lư Hoài điều chỉnh xong tâm trạng, nối gót bước vào cung Đại Minh, ba người cùng dâng cung trạng của Thẩm Khuyết lên trước mặt Long Hưng Đế. Long Hưng Đế chỉ lướt mắt nhìn qua, liền phán: “Án của Thẩm Khuyết đã gây ra nhiều lời bàn tán trong dân gian, bách tính đều hy vọng trẫm làm minh quân, lấy nghĩa diệt thân. Nay Thẩm Khuyết đã khai nhận, lại có nhân chứng, vật chứng đầy đủ, ba ngày sau xử trảm thị chúng, dẹp yên dư luận.”

Ba ngày? Sao nhanh vậy?

Lư Hoài và Hàn Văn Mặc nhìn nhau, Lư Hoài nói: “Thánh nhân, nhưng vụ án này vẫn còn một số nghi ngờ chưa được làm rõ.”

“Để làm rõ cần bao nhiêu ngày?”

Lư Hoài khựng lại, vẻ mặt khổ sở: “Thần không thể ước tính được.”

“Để hắn sống thêm một ngày, dân chúng sẽ cho rằng trẫm dung túng.” Long Hưng Đế lắc đầu: “Giết đi, càng nhanh càng tốt.”

Nghe xong, Lư Hoài và Hàn Văn Mặc cũng cảm thấy có vài phần hợp lý, bèn cúi đầu lĩnh mệnh. Thôi Tuần mím môi, ánh mắt trầm lặng như nước giếng cổ không gợn sóng, cũng quỳ xuống, dập đầu thưa: “Thần lĩnh mệnh.”



Khi Lý Doanh nghe tin, nàng kinh ngạc không thôi: “Ba ngày sau?”

Thôi Tuần khẽ gật đầu: “Ừ, ba ngày.”

Lý Doanh ngẫm nghĩ hồi lâu, nhưng chỉ chỉ một lúc sau, sự chú ý của nàng đã bị chén thuốc vừa nấu xong hấp dẫn. Từ khi Thôi Tuần trở về Trường An, nàng đã lập tức ném hết loại dược mạnh mà hắn từng dùng. Nhưng sau hơn một tháng uống thuốc, cơ thể hắn đã phụ thuộc vào dược tính, đột ngột ngưng lại khiến sức khỏe hắn còn yếu hơn trước. Sắc mặt hắn tái nhợt như tờ giấy, làm Lý Doanh giận đến mức chỉ muốn bắt hắn nằm trên giường dưỡng bệnh mười hai canh giờ mỗi ngày. Nhưng Thôi Tuần còn quá nhiều việc phải làm, chẳng thể lúc nào cũng nằm trên giường dưỡng bệnh được. Trong tay hắn còn án của Thẩm Khuyết cần xử lý, nên nàng đành chấp nhận nhượng bộ, miễn là hắn về phủ, nàng tuyệt đối không cho hắn rời khỏi giường, đến thuốc cũng phải đích thân bón cho hắn uống.

Nàng múc một chén thuốc đen đặc, thoạt nhìn đã thấy khó nuốt. Lý Doanh dùng chiếc thìa ngọc trắng múc một muỗng, thổi nguội rồi đút cho hắn. Thôi Tuần cúi đầu uống, ngay tức khắc cau mày, sắc mặt thay đổi. Hắn thở dài, cười khổ: “Minh Nguyệt Châu, nàng giận ta đúng không?”

Lý Doanh vờ như không hiểu: “Hửm?”

Thôi Tuần bất đắc dĩ, giọng điệu oán trách: “Sao… đến một chút đường phấn nàng cũng không chịu cho ta?”
 
Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh
Chương 122: Đừng dùng nữ tử khác để chứng tỏ bản lĩnh của mình



Lý Doanh nghiêm mặt đáp: “Không có đường phấn.”

“Hôm qua ta vừa mua cho nàng mà…”

“Có sao?” Lý Doanh nói dối không chớp mắt: “Chàng không định nhắc tới gói đồ chàng mang về lúc nửa đêm đó chứ? Ta vứt đi rồi.”

Thôi Tuần: “…”

Lý Doanh lại múc một muỗng thuốc, nói: “Không có đường phấn, thuốc đắng này, chàng uống hay không?”

Thôi Tuần nào dám không uống, chỉ có thể cắn răng nuốt xuống. Nhìn vẻ mặt hắn nhíu mày, Lý Doanh liếc mắt, lạnh nhạt nói: “Đến chết chàng còn không sợ, vậy mà lại sợ đắng?”

Thôi Tuần thở dài: “Hôm qua phải chuẩn bị cho vụ án của Thẩm Khuyết, nên ta mới ở lại Sát Sự Thính đến khuya. Đợi xử xong chuyện của Thẩm Khuyết, ta sẽ cáo bệnh, không đến Sát Sự Thính nữa.”

Nghe hắn nói vậy, mặt Lý Doanh cuối cùng cũng lộ chút vui vẻ. Nàng đáp: “Đây là chàng nói đấy nhé.”

Thôi Tuần gật đầu: “Là ta nói.”

Lý Doanh cười rạng rỡ, thổi nguội muỗng thuốc trong tay, đưa tới trước miệng hắn: “Để chàng không quên, hôm nay thuốc của chàng sẽ không thêm đường phấn nữa.”

Thôi Tuần: “…”



Thôi Tuần bất lực uống hết cả chén thuốc, chỉ cảm thấy vị đắng trong miệng còn hơn cả hoàng liên. Đang định xuống giường rót chén trà, thì bị Lý Doanh liếc mắt cảnh cáo, hắn không dám động. Lý Doanh quay lưng thu dọn chén thuốc bằng sứ Thanh Hoa, sau đó bất ngờ xoay người, đưa tay ra: “Này.”

Trong lòng bàn tay trắng mịn của nàng, có một viên đường phấn màu hổ phách.

Mắt Thôi Tuần sáng lên, hắn cầm viên đường bỏ vào miệng, vị ngọt thanh mát lập tức át đi cảm giác đắng ngắt. Hắn nói: “Đây chẳng phải là đánh một cái rồi cho ăn một trái sao?”

“Đúng vậy.” Lý Doanh gật đầu: “Để chàng nhớ rằng, chàng là người có tiểu nương tử quản rồi.”

Câu nói này khiến Thôi Tuần ngẩn người. Hắn chưa từng nghĩ tới một ngày nào đó, hắn cũng có tiểu nương tử quản hắn, mong chờ hắn. Thôi Tuần nhìn nàng, thanh âm nhẹ bẫng, không mấy tự tin: “Vậy nàng… quản ta cả đời có được không?”

Giọng hắn tuy nhẹ, nhưng Lý Doanh vẫn nghe rất rõ. Nàng cong khóe môi, nụ cười rạng rỡ như hoa nở, không chút do dự gật đầu: “Đương nhiên là được.”

Thôi Tuần cúi đầu, nở nụ cười nhè nhẹ. Hắn ngậm viên đường trong miệng, má hơi phồng lên. Hình tượng thường ngày của hắn trước mặt người ngoài luôn là lạnh lùng tàn nhẫn nên dáng vẻ này đúng là hiếm thấy. Lý Doanh cảm thấy thú vị, đưa tay chọc nhẹ má hắn.

Thôi Tuần hơi khựng lại, sau đó vừa bất đắc dĩ vừa cưng chiều nói: “Đừng nghịch nữa.”

Lý Doanh mỉm cười rạng rỡ, tiếp tục chọc má hắn: “Ta cứ muốn nghịch đấy.”

Nàng cười rộ lên, đôi mắt như chứa đầy muôn vàn tinh tú lấp lánh, khóe môi hơi cong, trên gương mặt tựa ngọc hiện lên hai lúm đồng tiền nhạt. Thôi Tuần chỉ cảm thấy cả thế gian bỗng chốc sáng bừng lên, lòng hắn không khỏi rung động. Hắn ngẩn người nhìn nàng, cố kìm nén xúc động muốn cúi xuống hôn nàng, chỉ đưa tay giữ lấy cổ tay trắng ngần của nàng: “Đừng nghịch nữa…”

Lý Doanh nhìn bàn tay đang giữ lấy cổ tay mình, cười bảo: “Ơ? Hôm nay chàng dùng lan chỉ rửa tay cả trăm lần rồi à?”

Thôi Tuần sững lại: “Sao nàng…”

“Sao ta biết được?” Lý Doanh tiếp lời: “Muốn người không biết, trừ khi mình đừng làm.”

“Ta…”

“Đừng giải thích.” Lý Doanh oán trách: “Cả ngày suy tính nhiều như thế, chàng chưa nghe câu “quá thông minh sẽ tự chuốc khổ” à?”

Thôi Tuần bị nàng nói trúng tim đen đến mức cạn lời, chỉ biết bất lực lắc đầu, cười nói: “Giờ ta đã hiểu, vì sao bao nhiêu nam tử trên đời đều không muốn cưới công chúa Đại Chu nữa.”

Lý Doanh hỏi lại: “Chàng chắc không? Chàng không muốn cưới ta nữa đúng không?”

Thôi Tuần cũng không hiểu vì sao lời nói chung chung của mình lại biến thành chỉ đích danh nàng, hắn vội sửa ngay: “Không, ta muốn.”

Lý Doanh mỉm cười, không tiếp tục trêu chọc hắn nữa. Nàng đưa tay kia nắm lấy tay hắn đang giữ cổ tay mình, khiến hắn muốn buông ra cũng không buông được. Nàng thản nhiên nói: “Ta cũng muốn gả cho chàng mà.”

Nàng ngừng một chút, rồi thêm vào: “Rất thích chàng, rất muốn gả cho chàng.”

Lý Doanh lớn lên trong tình yêu thương, tính tình ngay thẳng và thuần khiết. Thái hậu đã dạy nàng cách đối nhân xử thế, ôn hòa khéo léo, nhưng cũng nhấn mạnh rằng ôn hòa không đồng nghĩa với nhu nhược, khéo léo không có nghĩa là không biết tranh giành. Thái hậu từng nói, một nữ tử, không nên ngần ngại theo đuổi điều mình muốn. Nếu muốn quyền thế, có thể tranh giành; muốn địa vị, có thể tranh giành; muốn một lang quân, cũng có thể tranh giành.

Vậy nên, nàng chưa bao giờ né tránh việc thổ lộ tình yêu của mình dành cho Thôi Tuần, lặp đi lặp lại không chút che giấu. Thôi Tuần lặng lẽ nhìn nàng, trong lòng cảm thấy một luồng ấm áp chảy qua. Nhưng hắn không phải là Lý Doanh, không lớn lên trong yêu thương mà lại chìm trong khinh ghét. Ngoài ba năm ngắn ngủi đầy ánh sáng kia, cả đời hắn bị bao vây bởi những ác ý. Điều này đã định sẵn hắn không bao giờ có thể bộc bạch tình cảm một cách thẳng thắn như Lý Doanh.

Hắn chăm chú nhìn nàng, muốn nói gì đó, nhưng cuối cùng chỉ nuốt xuống, không thốt lên lời. Sau một tiếng ho khan nhẹ, hắn chuyển đề tài: “Ba ngày nữa, Thẩm Khuyết sẽ bị hành hình.”

“Nhưng chẳng phải hắn vẫn không chịu khai ra kẻ chủ mưu ở trạm dịch Trường Lạc?”

“Thật ra, giờ đây hắn đã không còn gì để kiêng dè nữa.” Thôi Tuần phân tích: “Hắn chỉ một lòng muốn chết. Việc không chịu khai ra, có lẽ là để cản trở ta đạt được điều ta mong muốn.”

Lý Doanh hỏi: “Vì sao hắn lại ghét chàng thế nhỉ?”

Đáp án của câu hỏi này, cả hai đều ngầm hiểu – chẳng qua là vì A Man.

Lý Doanh chưa từng đề cập với Thôi Tuần về tình cảm của A Man hay A Sử Na Gia dành cho hắn. Đối với nàng, những nữ tử ấy yêu thương Thôi Tuần không phải là lỗi của hắn, cũng chẳng phải lỗi của các nàng. Huống hồ, nàng đã có được toàn bộ trái tim hắn. Nếu nhắc đến tình cảm của A Sử Na Gia hay A Man, nàng mong đợi gì từ câu trả lời của hắn? Muốn nghe hắn nói gì đây? Thương hại? Lạnh nhạt? Xin lỗi? Bất kể câu trả lời nào cũng đều là sự thiếu tôn trọng đối với những nữ tử đáng thương đó.

Trước đây, nàng từng thấy tỷ tỷ của nàng, công chúa Vinh Gia sau khi xuất giá đã đưa phò mã hồi cung. Trong buổi trò chuyện cùng mọi người, Vinh Gia tỷ tỷ nhắc đến một nữ tử si tình, vì phò mã mà cả đời không gả. Vinh Gia thở dài nói với phò mã: “Nàng ấy cần gì phải khổ sở như vậy? Cứ giữ mãi một mối tình vô vọng trong lòng, ôi chao, hy vọng kiếp sau nàng ấy sẽ không còn cố chấp thế nữa.”

Những lời của Vinh Gia tỷ tỷ không hề sai, cũng chẳng có ý châm chọc. Vì vậy, phò mã phong nhã đa tình kia cũng cúi đầu thở dài thương tiếc cho nữ tử ấy. Các phi tần công chúa có mặt đều cảm thán và tiếc nuối cho số phận của nàng ta. Chỉ riêng Lý Doanh cảm thấy khó chịu trong lòng, mơ hồ nghĩ rằng, mối tình đơn phương của người ấy không nên trở thành đề tài bàn tán nơi trà dư tửu hậu.

Phò mã của Vinh Gia tỷ tỷ là mỹ nam nổi danh thời bấy giờ. Ngoài người con gái si tình kia, hắn còn có vô số người ngưỡng mộ hắn. Sau này, mỗi khi hồi cung, tỷ tỷ lại nhắc đến vài người, ngay trước mặt phò mã. Có người nàng nhắc với giọng đùa cợt, có người lại dùng giọng tiếc nuối, khoan dung. Thậm chí, có lần tỷ ấy còn mở miệng, oán trách phò mã: “Chàng nói xem, chàng sinh ra đẹp thế làm gì để rồi khiến bao nữ tử phải chết mê chết mệt?”

Phò mã chỉ mỉm cười, đôi khi còn thuận miệng thảo luận vài câu. Về sau, mỗi khi Vinh Gia tỷ tỷ hồi cung, nàng cũng chẳng muốn đến thăm nữa. Nàng từng nói với a nương: “Con không thích nghe Vinh Gia tỷ tỷ nhắc mấy chuyện đó.”

A nương hỏi nàng vì sao, nàng suy nghĩ giây lát, rồi đáp: “Có lẽ Vinh Gia tỷ tỷ không cố ý, nhưng con luôn cảm thấy tỷ ấy như muốn khoe rằng, phò mã của tỷ ấy xuất chúng nhường nào, tuấn tú ra sao, được biết bao nữ tử ngưỡng mộ, nhưng chàng chỉ yêu mỗi tỷ ấy.”

Nàng nói tiếp: “Những tình cảm thuần khiết của những nữ tử ấy trong những năm tháng thanh xuân là điều quý giá nhất trên đời. Đáng lẽ phải được trân trọng cất giữ, chứ không nên trở thành vật để Vinh Gia tỷ tỷ khoe mẽ, càng không nên là một phần tình tứ giữa tỷ ấy và phò mã.”

A nương gật đầu, mỉm cười đáp: “Minh Nguyệt Châu, sau này nếu con chiếm được trái tim của một người đàn ông, đừng lấy những nữ tử khác ra để chứng tỏ năng lực của mình. Một người phụ nữ chinh phục được một người đàn ông thì có gì đáng kể? Con có rực rỡ chói sáng hay không không nằm ở việc đánh bại những người phụ nữ khác trong cuộc chiến tranh giành tình cảm, càng không cần lấy họ để làm nền cho sự nổi bật của riêng mình.”

Lời của a nương, nàng luôn ghi nhớ trong lòng. Vì thế, nàng chưa bao giờ nhắc đến tình cảm của A Sử Na Gia hay Thịnh A Man dành cho Thôi Tuần. Nàng cho rằng, dù nói gì đi nữa, cũng đều là sự xúc phạm đến tình cảm thuần khiết ấy. Nàng tôn trọng con người họ, cũng như tôn trọng tình yêu của họ.

Nàng không nhắc đến, Thôi Tuần lại càng không. Thực tế, Lý Doanh hiểu rõ, nữ tử yêu thầm hắn chắc chắn không chỉ có mỗi A Sử Na Gia hay Thịnh A Man. Dung mạo của hắn xuất chúng, là Liên Hoa Lang, đẹp như một đóa sen. Ba năm ở Thiên Uy quân, hẳn là cũng có không ít tiểu nương tử ngưỡng mộ hắn. Thế nhưng, Thôi Tuần chưa bao giờ hé môi nhắc đến, không chỉ vì tính cách lạnh nhạt của hắn, mà còn bởi hắn không giống phò mã của công chúa Vinh Gia. Hắn sẽ không mượn tình cảm của những tiểu nương tử khác để khoe khoang với người trong lòng mình.

Thế nhân thường mắng hắn là hèn hạ, vô sỉ, kẻ tiểu nhân bụng dạ hẹp hòi. Nhưng thử hỏi, có kẻ tiểu nhân hèn hạ nào lại luôn đối diện với tình cảm theo một cách chân thành, dù đối phương cao quý hay thấp hèn, mỹ miều hay thô kệch, kể cả khi không thể đáp lại thì hắn vẫn luôn dành cho họ một thái độ trân trọng hết mức.



Lý Doanh và Thôi Tuần “phối hợp” ăn ý, lướt qua đề tài tại sao Thẩm Khuyết lại căm hận Thôi Tuần thế này. Nàng hỏi: “Thẩm Khuyết ghét chàng lắm, ta nghĩ dù chàng dùng hình, hắn cũng không chịu khai đâu.”

Thôi Tuần cũng có chung suy nghĩ: “Thẩm Khuyết và Kim Di không giống nhau. Kim Di sợ chết, còn Thẩm Khuyết thì không. Bất kể là hình phạt gì, hắn cũng sẽ không khai. Hơn nữa, có Đại Lý Tự và Ngự Sử Đài cùng giám sát, họ cũng sẽ không để ta dùng đến tư hình.”

“Nhưng chàng phí bao công sức mới áp giải được hắn từ Lĩnh Nam về đây, không lẽ chỉ để nhìn hắn bị diệt khẩu chỉ sau ba ngày?”

“Cũng không hẳn vậy.” Thôi Tuần cân nhắc đôi chút, rồi diễn giải lời của Long Hưng Đế: “Họ luôn viện cớ rằng nếu không sớm giết Thẩm Khuyết, bách tính sẽ cho rằng Thánh nhân bao che. Nhưng dân chúng đâu có ngu. Nếu bọn họ biết cái chết của Thịnh Vân Đình có liên quan đến phu nhân của Bùi Quan Nhạc, hoặc nếu họ phát hiện Thịnh Vân Đình tới Trường An là vì muốn cầu viện cho Thiên Uy quân, trong khi Thẩm Khuyết lại trùng hợp phục kích ở ngoài thành, chẳng lẽ họ không sinh nghi?”

Lý Doanh hỏi: “Chàng đã cho lan truyền lời khai của Dương Hằng và những người khác khắp thành Trường An rồi chứ gì?”

Thôi Tuần gật đầu. Lý Doanh trầm ngâm giây lát, rồi nói: “Như vậy, nếu vội vã giết Thẩm Khuyết, dân chúng ngược lại sẽ nghĩ rằng triều đình đang che giấu sự thật.”

Nàng tiếp lời: “Án của Thiên Uy quân đã bị chôn vùi suốt sáu năm, nay lại một lần nữa khiến Trường An dấy lên sóng gió. Chỉ cần nghi ngờ lan rộng thêm, ba ngày sau, chưa chắc Thẩm Khuyết đã bị giết.”

Giả như không thể giết được Thẩm Khuyết, thì nhất định vẫn có cách khiến hắn phải khai ra.

Dù phải tính đến tình huống xấu nhất, Thẩm Khuyết chết đi, thì lớp băng dày cũng đã tan được một góc. Hắn có thể mượn lời bàn tán của thiên hạ, đẩy Bùi Quan Nhạc vào ngục, chưa biết chừng chân tướng sự việc sẽ sáng tỏ.

Suy nghĩ đến đây, Lý Doanh cảm thấy lòng nhẹ nhõm đôi phần. Nàng bắt đầu tính toán, phải làm thế nào để khiến Thẩm Khuyết mở miệng.

Thế nhưng ngay ngày hôm sau, A Man mang một thân thương tích chưa lành, nhờ người đến tìm Thôi Tuần.

Nàng nói, nàng muốn gặp Thẩm Khuyết.
 
Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh
Chương 123: Nếu đây là cách nàng báo thù, thì nàng đã thành công rồi



Thôi Tuần từ chối.

Thịnh A Man không hiểu, nàng vừa mất đứa con, lại bị đánh tám mươi trượng. Thân thể nàng yếu ớt đến cực điểm, nếu không nhờ vị quan hành hình thương hại, cho phép nàng dưỡng thương xong mới chịu hai năm lao dịch, thì giờ nàng chỉ có thể nằm trong gian nhà đổ nát, được mấy tỷ muội từng làm việc chung ở giáo phường chăm sóc. Dù là thế, nàng vẫn cố chống người dậy, yếu ớt hỏi:

“Vì sao không để ta gặp Thẩm Khuyết?”

“Thẩm Khuyết hận cô.” Thôi Tuần nói. “Cô hà tất phải tự tìm phiền phức?”

“Ta biết hắn hận ta, nhưng ta vẫn còn nhiều chuyện chưa rõ ràng.” A Man kiên quyết. “Khi a huynh ta bị giết ở trạm dịch Trường Lạc, chẳng phải còn có sự tham gia của Vương nương tử, phu nhân Bùi Quan Nhạc sao? Và rốt cuộc, vì sao hắn lại muốn giết a huynh? Ta không tin chỉ vì nhìn a huynh ta không thuận mắt. Nếu là vậy, hắn càng chướng mắt Quách soái, sao khi Quách soái về Trường An nhậm chức, hắn lại không giết ông ấy?”

Thịnh A Man dồn dập chất vấn. Nàng không ngu. Từ lúc hài cốt của Thịnh Vân Đình bị chôn ngoài cửa Thông Hóa, quan phủ kết luận là sơn tặc giết người, nàng đã không tin. Khi ấy, nàng từng nói: sơn tặc nào dám giết một viên Ngu hầu của Thiên Uy quân? Sơn tặc nào to gan đến mức dám chôn người ngoài cửa Thông Hóa? Kết quả đúng như nàng đoán, kẻ giết Thịnh Vân Đình không phải sơn tặc, mà chính là Thẩm quốc công Thẩm Khuyết, một kẻ quyền cao chức trọng.

Thôi Tuần tránh không trả lời. Hắn chỉ nói: “Hiện giờ cô nên dưỡng thương, nếu không, làm sao chịu nổi hai năm lao dịch?”

“Đó là a huynh của ta!” A Man gào lên. “Ta mất cha mẹ từ nhỏ, là a huynh đã nuôi ta khôn lớn! Cho dù ngươi có là bằng hữu của a huynh, ngươi cũng không có quyền ngăn cản ta tìm ra sự thật!”

“Tam Ty sẽ tra rõ chân tướng, không cần cô kéo tấm thân bệnh tật đi cầu Thẩm Khuyết.”

A Man cắn răng trừng mắt nhìn hắn, nhưng hắn vẫn không hề dao động. Nàng vịn vào chiếc bàn ọp ẹp, từng bước khó nhọc tiến lại gần hắn. Gương mặt nàng tái nhợt, đôi mắt đỏ hoe: “Rốt cuộc ngươi ngăn cản ta là vì lý do gì? Có phải trong chuyện này có điều ta không nên biết? Hay ngươi cho rằng, một thường dân như ta, không đủ khả năng gánh vác sự thật?”

Thôi Tuần im lặng hồi lâu, rồi đáp: “Ngày trước a huynh cô từng đối xử rất chu đáo với ta. Y chỉ có mình cô là em gái, ta hy vọng cô có thể sống thật tốt.”

A Man chỉ cười, lắc đầu nói: “Sống thật tốt là nguyện vọng của ngươi, liên quan gì đến ta? Ngươi đã hỏi ta chưa? Nếu chưa, dựa vào đâu mà ngươi quyết định thay ta?”

Thôi Tuần ngẩn người. Vết thương trên lưng A Man đau buốt đến tận xương, nhưng vẻ mặt nàng lại hết sức bình thản: “Con người ai cũng sẽ chết. Cho dù sống đến trăm tuổi, cuối cùng cũng phải chết. Thay vì mơ hồ sống tiếp, ta thà làm rõ chân tướng rồi chết ngay lập tức.”

Thôi Tuần không đáp. Hắn vẫn còn do dự, lo lắng cho sự an nguy của nàng. Hắn nói: “Có cách khác để làm sáng tỏ sự thật.”

“Có lẽ ngươi có cách khác, nhưng cách nhanh nhất, tuyệt đối là ta.” A Man nói từng chữ rành mạch: “Thôi Tuần, a huynh ta đã chịu oan sáu năm. Nếu ngươi thực sự biết ơn tình nghĩa huynh ấy dành cho ngươi, sao ngươi đành lòng để huynh ấy tiếp tục chịu oan khuất?”

Đôi mắt đen thẳm của Thôi Tuần rốt cuộc cũng hiện lên sự dao động, nhưng hắn vẫn không nói lời đồng ý. A Man cắn môi, bất chợt quỳ sụp xuống. Vết thương trên lưng nàng rách ra thêm, máu bắt đầu rỉ ra. Nàng chịu đựng đau đớn, nước mắt lưng tròng khẩn cầu: “Ngày trước, a huynh luôn là người che chở cho ta. Nay ta muốn bảo vệ huynh ấy dù chỉ một lần. Cầu xin ngươi, thành toàn cho ta.”

Thôi Tuần trầm mặc một hồi, cuối cùng nói: “Đứng dậy đi.”

Thịnh A Man vừa kinh ngạc vừa mừng rỡ: “Ngươi đồng ý với ta rồi sao?”

Thôi Tuần đáp: “Trước tiên đứng dậy đi đã.”

Thịnh A Man chần chừ, chống tay lên ghế nguyệt nha, chậm rãi đứng dậy. Thôi Tuần lặng nhìn khuôn mặt gầy gò nhưng bướng bỉnh của nàng, bỗng lên tiếng: “Lúc ở trong quân ngũ, a huynh của cô vẫn thường hay nhắc đến cô?”

“Huynh ấy nhắc gì về ta?”

“Huynh ấy nói, tính khí của cô không được tốt lắm.”

Thịnh A Man sững sờ, Thôi Tuần khẽ cười, không nói gì thêm, chỉ nói: “Trước tiên, hãy dưỡng thương cho tốt. Ta sẽ thu xếp để cô gặp Thẩm Khuyết.”

Thịnh A Man mừng rỡ như điên, nhìn người đàn ông mà suốt sáu năm qua nàng xem như kẻ thù không đội trời chung, do dự một chút rồi gượng gạo nói: “Đa tạ.”

Thôi Tuần gật đầu: “Ta đi trước.”

Hắn quay người bước ra khỏi căn nhà lụp xụp. Mấy nhạc kỹ ở giáo phường đang chờ bên ngoài, khi thấy hắn đều hoảng sợ cúi đầu, thân mình run rẩy. Thôi Tuần liếc nhìn bọn họ, nói: “Chăm sóc nàng cho tốt.”

Nhóm nhạc kỹ vội vã gật đầu. Đợi hắn đi khỏi, họ như bay vào trong nhà, dìu Thịnh A Man nằm xuống giường.

Vết thương trên lưng nàng lại rỉ máu. Một vài nhạc kỹ trách móc: “Sao cô cứ không nghe lời thế, vết thương lại toạc ra nữa rồi!”

Người đi lấy nước, người vắt khăn, người bôi thuốc. Thịnh A Man nằm úp sấp trên giường, không than đau dù chỉ một tiếng. Ánh mắt nàng chợt dừng lại trên chiếc bình ngọc trắng trong tay một nhạc kỹ, khẽ nói: “Thuốc này chắc đắt lắm nhỉ.”

Nhạc kỹ cầm bình thuốc ngẩn người. Thịnh A Man nói tiếp: “Mọi người làm sao mua nổi?”

Bọn họ nhìn nhau lúng túng, người đang bôi thuốc cho nàng nhỏ giọng đáp: “A Man, thuốc này rất tốt cho việc phục hồi của cô…”

Sắc mặt Thịnh A Man tái nhợt vì đau đớn, nàng nói: “Mọi người sợ ta bắt vứt đi, đúng không?”

Không ai dám đáp lại. Nàng gối đầu lên cánh tay, nhắm mắt lại, vẻ mệt mỏi: “Sẽ không nữa đâu…”

Giọng nàng thì thầm, tựa như nói với chính mình: “Sẽ không vứt đi nữa đâu…”



Thôi Tuần giữ đúng lời hứa, sắp xếp để Thịnh A Man gặp Thẩm Khuyết ngay ngày hôm sau.

Dưới sự dìu đỡ của vài nhạc kỹ, Thịnh A Man tiến vào ngục thất của Ngự Sử Đài. Thẩm Khuyết bị giam giữ dưới sự giám sát chặt chẽ của ba cơ quan: Sát Sự Thính, Ngự Sử Đài và Đại Lý Tự, nhằm đảm bảo không bên nào cưỡng ép cung khai. Theo lý, Thịnh A Man đến gặp Thẩm Khuyết thì ba cơ quan đều phải cử người đi cùng. Thế nhưng, Hàn Văn Mặc – chủ thẩm của Ngự Sử Đài – lại là kẻ nhát gan, sợ dính líu đến chuyện không nên nghe, bèn lấy cớ bận công vụ mà rời đi trước.

Thôi Tuần liếc nhìn Lư Hoài vẫn đứng đó, lạnh nhạt nói: “Lư Thiếu khanh cũng nên đi trước thì hơn.”

Lư Hoài kinh ngạc: “Ta rời đi làm gì? Thẩm Khuyết dám nói, ta dám nghe.”

Hắn đâu phải hạng sợ chết như Hàn Văn Mặc.

Huống hồ, vụ án của Thịnh Vân Đình vốn đầy rẫy nghi vấn. Nhưng vì nể mặt Long Hưng Đế cũng như không muốn gây ảnh hưởng đại cục, hắn mới đồng ý xử tử Thẩm Khuyết sớm cho yên chuyện. Nay có cơ hội tìm ra chân tướng, sao hắn lại chịu bỏ qua?

Thế là, hắn cùng Thôi Tuần ngồi ngay ngắn trong căn phòng sát vách của Thẩm Khuyết, lặng lẽ nghe cuộc đối thoại giữa Thẩm Khuyết và Thịnh A Man.



Trong buồng giam tối tăm, Thẩm Khuyết mang xiềng xích nặng trĩu, dáng vẻ tiều tụy đến cùng cực. Lúc này, hắn không còn chút phong thái kiêu căng, ngạo mạn như khi dự tiệc thưởng xuân, chỉ còn lại hơi thở ảm đạm của kẻ tuyệt vọng muốn tìm đến đường chết.

Khi thấy Thịnh A Man với mái tóc đen buông xõa, y phục đơn giản đứng ngoài song sắt, mắt hắn trợn to, yết hầu rung lên. Ngay sau đó, hắn lao tới, đưa cổ tay luồn qua song sắt, như thể muốn b.óp ch.ết nàng ngay tức khắc.

Thịnh A Man lùi lại một bước, khẽ cười: “Sao thế? Muốn giết ta à?”

“Ngươi là đồ tiện nhân!” Thẩm Khuyết giận dữ rít lên, mắt đỏ ngầu: “Ta đối xử tốt với ngươi như vậy, ngươi lại dám phản bội ta!”

Nghe vậy, Thịnh A Man bật cười khanh khách, như thể vừa nghe được chuyện nực cười nhất trần đời. Sau một hồi cười chán chê, nàng nhìn Thẩm Khuyết, nhìn gương mặt dù suy sụp nhưng vẫn anh tuấn của hắn, cất giọng chậm rãi: “Thẩm Khuyết, chẳng lẽ ngươi nghĩ rằng, chỉ vì ngươi trẻ tuổi tuấn tú, lại là thế tập Quốc công, nên dù ngươi từng cưỡng đoạt một nữ nhân, gi.ết ch.ết huynh trưởng của nàng ấy, nhưng chỉ cần ngươi thật lòng hối cải thì nàng ấy sẽ quên hết mọi thứ, tha thứ cho ngươi, rồi yêu ngươi sao?”

Thẩm Khuyết sững người.

Thịnh A Man nhếch môi: “Có lẽ trên đời này thật sự có những nữ nhân như vậy. Dù bị sỉ nhục, bị hành hạ, chỉ cần nam nhân kia nhỏ vài giọt lệ, nhận sai một câu, hứa sẽ đối xử tốt với nàng, thì sẽ mềm lòng tha thứ. Nếu người đó lại là kẻ bạc tình, chưa từng trao tình cảm cho bất kỳ ai, nhưng chỉ riêng nàng được thấy trái tim hắn, thì đó lại càng là thứ tình yêu hiếm có. Cái gì mà mối thù giết cha giết huynh, so với tình yêu này, đều không đáng nhắc đến.”

Thẩm Khuyết sững sờ, Thịnh A Man chậm rãi nói: “Đáng tiếc thay, ta – Thịnh A Man – không phải hạng nữ nhân đó. Dẫu ta và a huynh chỉ là dân thường ở kinh thành Trường An, nhưng huynh ấy đã dạy ta thế nào là tự trọng, thế nào là tự ái.”

“Huynh ấy là người huynh tốt nhất trên đời này, vậy mà ngươi đã giết huynh ấy. Ngươi khiến ta mãi mãi mất đi a huynh. Vậy mà ngươi nghĩ ta có thể quên đi mối thù giết huynh để sống yên ổn cùng ngươi sao?”

Thẩm Khuyết cuối cùng cũng lên tiếng, giọng hắn khàn đặc: “Cho nên từ đầu đến cuối ngươi đều lừa dối ta?”

“Đương nhiên.” A Mạn gật đầu: “Nếu không, ngươi nghĩ ta sẽ theo ngươi đến Lĩnh Nam? Sẽ nấu cơm, giặt giũ cho ngươi? Sẽ gấp chăn, dọn giường cho ngươi? Thẩm Khuyết, ta có thể nói cho ngươi biết, mỗi khoảnh khắc bên ngươi, ta đều nghĩ cách giết ngươi.”

Thẩm Khuyết giận đến mức siết chặt song sắt, nhưng Thịnh A Man không chút sợ hãi, chỉ nhìn hắn đầy giễu cợt. Một lúc sau, lửa giận trong mắt Thẩm Khuyết dần tan biến, hắn gục ngã xuống đất, giọng nói uể oải như tro tàn: “Phải rồi, đây mới là Thịnh A Man mà ta quen biết.”

Lần đầu gặp nàng là tại yến tiệc thưởng xuân, nàng khi ấy nóng nảy, quật cường. Lần thứ hai, là khi hắn c.ưỡ.ng b.ức nàng. Dù thân thể tả tơi, ánh mắt nàng vẫn trừng trừng nhìn hắn không chút sợ hãi. Lẽ ra phải hiểu rõ bản tính của nàng, không nên bị sự dịu dàng giả tạo ở Lĩnh Nam mê hoặc. Cũng chỉ vì khi ấy hắn sa sút, thiếp thất bỏ đi hết, chỉ còn nàng không rời không bỏ, dần dần khiến hắn động tâm, cuối cùng đánh mất cả mạng sống.

Thẩm Khuyết ngẩng đầu nhìn nàng, giọng đầy chua chát: “Nếu đây là cách nàng báo thù, thì nàng đã thành công rồi.”

Ánh mắt hắn trượt xuống vùng bụng phẳng lì của nàng: “Nhưng ta không ngờ, ngay cả con của mình nàng cũng có thể ra tay. Thịnh A Man, nàng thật độc ác.”

“Con ta? Độc ác?” A Man bật cười: “Ta vượt cấp cáo trạng, chịu tám mươi trượng, với tội thiếp cáo phu, chịu thêm hai năm lao dịch. Các tỷ muội của ta đều nói ta ngu ngốc, bảo ta không nên phá thai. Nếu không phá, còn có thể kéo dài thêm mấy tháng, chờ mọi chuyện lắng xuống, để Thôi Tuần cầu xin Thánh nhân và Thái hậu, biết đâu họ sẽ khoan hồng, miễn cho ta cả trượng hình lẫn lao dịch. Nhưng ta không muốn. Ngươi biết vì sao không?”

Thẩm Khuyết ngây người nhìn nàng, A Man lạnh lùng từng chữ: “Bởi vì đứa trẻ này, chỉ cần nó còn tồn tại trong bụng ta, thì mỗi ngày đều khiến ta ghê tởm.”

“Cả đời này, ta, Thịnh A Man, không bao giờ muốn có bất kỳ mối liên hệ nào với ngươi nữa. Con ngươi không xứng để ta dùng máu thịt mình nuôi dưỡng.”

Mỗi lời nàng nói đều như đâm thẳng vào tim Thẩm Khuyết, không chút nương tình. Sắc mặt hắn tái nhợt, cả người bơ phờ, như một kẻ mất hồn. Một lúc lâu sau, hắn dường như nhớ ra điều gì, bám lấy song sắt, nói: “Thịnh A Man, hôm nay nàng đến đây, chẳng lẽ không phải để cầu ta khai ra sự thật sao? Đây là thái độ cầu xin người khác của nàng à?”

“Ta cầu ngươi, ngươi sẽ nói sao?” A Man đáp: “Ta chưa từng nghĩ đến chuyện cầu xin ngươi. Ngươi muốn nói thì nói, không muốn nói thì thôi, đừng mơ ta hạ mình.”

Nghe vậy, Thẩm Khuyết bỗng bật cười lớn. Hắn biết, cả đời này, hắn không bao giờ khuất phục được người phụ nữ này. Nhưng cả đời này, có thể thua trong tay nàng, cũng không phải là điều đáng tiếc.

Cười xong, hắn nói: “Được! Nàng đã nói hết những lời thật lòng, vậy ta cũng chẳng ngại nói vài câu. Thịnh A Man, là ta giết a huynh của nàng. Nhưng nàng nhớ kỹ, nếu không phải nhờ ta, Thẩm Khuyết, thì oan khuất của a huynh nàng sẽ không được rửa sạch. Chuyện này, cả đời nàng phải ghi nhớ thật kỹ!”
 
Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh
Chương 124: Thánh nhân có biết chuyện này không?



Thẩm Khuyết làm chứng, từng lời từng chữ đều từ từ hé lộ âm mưu đã chôn vùi năm vạn trung hồn sáu năm về trước.

Năm ấy, Thẩm Khuyết vừa tròn hai mươi ba tuổi, dù kế thừa tước vị Quốc công, nhưng trong lòng hắn luôn ngập tràn phẫn uất. Hắn hiểu rõ ngọn nguồn của cơn phẫn hận này là Thái hậu, người nắm quyền thực sự trong triều Đại Chu, cũng chính là hung thủ đã sát hại mẫu thân hắn.

Mỗi phần thưởng Thái hậu ban cho, hắn đều xem là nỗi sỉ nhục. Mỗi lần dập đầu tạ ơn trước mặt bà, lòng hắn lại đau đớn khôn nguôi. Đường đường là một người con, không chỉ bất lực trong việc báo thù cho mẹ mà còn phải cúi đầu trước kẻ thù. Thiên hạ này liệu có đứa con nào nhu nhược đến thế không?

Chính nỗi đau tột cùng ấy đã vặn vẹo tính cách của hắn. Hắn bắt đầu ngang ngược, vơ vét của cải, mua quan bán chức. Hắn đang đánh cược, đánh cược xem người dì ruột giả nhân giả nghĩa ấy có thể dung túng hắn đến khi nào. Hắn chờ đợi, chờ đến khi nào bà ta xé bỏ lớp mặt nạ giả tạo, đối xử với hắn như đã từng đối xử với mẫu thân và a tỷ của hắn.

Nhưng bà ta vẫn không ra tay. Có lẽ, bà ta không có thời gian để đối phó với hắn, bởi còn bận đối phó với tông thất họ Lý, với quần thần khắp thiên hạ. Bà vẫn tiếp tục thâu tóm quyền lực, bởi con trai bà đã mười bảy tuổi, không còn lý do để tiếp tục nhiếp chính. Bề ngoài bà trả lại quyền hành, ban cho hoàng đế một chút quyền tự quyết, nhưng thực quyền vẫn nằm gọn trong tay bà. Đến việc bổ nhiệm quan lại, hoàng đế cũng phải hỏi ý bà trước khi đóng dấu ngọc tỷ.

Một vị hoàng đế bạc nhược thế này, thật là chuyện lạ giữa trời đất!

Hắn vừa căm hận dì ruột mình, vừa khinh thường biểu đệ, vừa tiếp tục sống buông thả ở Trường An. Thế nhưng, ngọn lửa hận thù trong lòng hắn không hề nguội lạnh mà ngày càng bùng cháy dữ dội.

Và rồi, cơ hội cũng đến.

Khi Thứ sử Phong châu Bùi Quan Nhạc hồi kinh bẩm báo, đã tìm gặp hắn.

Đi cùng còn có Hộ Bộ Thượng thư Lư Dụ Dân.

Hắn hơi bất ngờ. Bùi Quan Nhạc tìm hắn không phải chuyện lạ – người này vốn khéo léo luồn lách, xuất thân hàn môn nhưng lại cưới được đích nữ của họ Vương ở Thái Nguyên, duy trì quan hệ tốt cả với thế gia lẫn hàn môn, trên quan trường như cá gặp nước. Nhưng Lư Dụ Dân thì khác, người này cứng nhắc, căm ghét cái ác, từng nhiều lần dâng sớ luận tội hắn. Hôm nay lại cùng nhau tìm tới, thật khiến người ta phải khó hiểu.

Bùi Quan Nhạc làm như không thấy vẻ ngạc nhiên của hắn, thẳng thừng hỏi: “Thẩm tướng quân, ta biết ngài căm hận Thái hậu. Nay có cách khiến Thái hậu thất thế, ngài có dám làm không?”

Hắn lạnh giọng: “Cách gì?”

Bùi Quan Nhạc mỉm cười: “Quách Cần Uy là tâm phúc Thái hậu, trấn giữ sáu châu Quan Nội. Dân chúng ca tụng rằng có Quách Cần Uy, Đột Quyết không thể xâm phạm Đại Chu. Nhưng nếu Đột Quyết đạp lên đất Đại Chu, Quách Cần Uy thất bại, để mất sáu châu Quan Nội, tất sẽ trở thành tội nhân. Khi đó, Thái hậu dùng người không đúng, cũng phải gánh hậu quả. Một nữ nhân đánh mất giang sơn, lấy tư cách gì tiếp tục nắm quyền triều chính?”

Lời nói của Bùi Quan Nhạc khiến Thẩm Khuyết rúng động. Hắn tự nhận mình không phải hạng lương thiện, nhưng Bùi Quan Nhạc còn độc hơn hắn hàng trăm lần.

Hắn nhíu mày: “Như vậy quá ác độc. Dân chúng sáu châu thì sao? Đất đai sáu châu cũng chắp tay, dâng lên cho Đột Quyết sao?”

Bùi Quan Nhạc điềm nhiên: “Làm việc lớn, ắt phải có hy sinh. Đại Chu quốc thổ ngàn vạn, mất sáu châu nho nhỏ thì đã sao?”

Thẩm Khuyết bật cười lạnh, ánh mắt xoáy sâu vào Lư Dụ Dân: “Lư Thượng thư cũng nghĩ vậy sao?”

Lư Dụ Dân chậm rãi cất lời: “Kế này là do ta lập ra.”

Hắn không dám tin nhìn chằm chằm Lư Dụ Dân, chỉ thấy ông ta lạnh nhạt: “Để một nữ nhân nhiếp chính là lỗi của bọn ta. Vì xã tắc Đại Chu, vì thiên hạ thái bình, ta đành làm vậy.”

Ông ta nhìn thẳng vào Thẩm Khuyết, giọng nghiêm nghị: “Thẩm tướng quân, kế này thành thì tất cả đều toại nguyện. Nếu thất bại, tất cả sẽ chết không toàn thây. Làm hay không, chỉ cần ngươi quyết định.”

Trong lòng Thẩm Khuyết vốn chẳng có gì phải do dự. Hắn chưa từng là kẻ trung quân ái quốc, sinh tử của bách tính sáu châu có liên quan gì đến hắn? Giang sơn Đại Chu mất đi, lại càng chẳng can hệ gì tới hắn. Điều duy nhất hắn mong muốn là báo thù cho mẫu thân, bất cứ việc gì có thể khiến Thái hậu không yên lòng, hắn đều sẵn sàng làm.

Ba người bọn họ – một kẻ vì thù nhà, một kẻ vì quyền thế, một kẻ vì công lý – ý hợp tâm đầu, cùng nhau bàn bạc kỹ lưỡng từng chi tiết trong âm mưu tại phủ Bùi Quan Nhạc, quyết không để kế hoạch sơ suất.



Trong nhà lao ẩm thấp, Thẩm Khuyết chậm rãi nói: “Sau đó, Lư Dụ Dân đã viết một phong thư gửi đến Khả hãn Ni Đô của Đột Quyết, hứa sẽ dâng sáu châu Quan Nội Đạo cho Đột Quyết. Đổi lại, Đột Quyết phải tiêu diệt Thiên Uy quân, đồng thời dừng vó ngựa tại Ninh Sóc, không được xâm phạm Trường An.”

Rõ ràng rồi, Khả hãn Ni Đô nhận được thư, vui mừng khôn xiết. Với Đột Quyết, lần giao dịch này thể nào cũng có lợi. Vừa tiêu diệt được đại họa tâm phúc, vừa thu về đất đai và dân chúng sáu châu, đúng là chuyện tốt từ trên trời rơi xuống.

Khả hãn Ni Đô lập tức đồng ý, theo đúng kế hoạch, ông ta tập kết binh lực, khí thế ồ ạt tiến thẳng về thành Phong Châu. Bùi Quan Nhạc vờ như không địch lại, dẫn dụ Thiên Uy quân tới cứu viện, lại lợi dụng lòng tin của Quách Cần Uy đối với ông ta, tiết lộ kế hoạch hành quân của Thiên Uy quân cho Đột Quyết, cuối cùng tạo nên thảm án Lạc Nhạn Lĩnh.

Đây chính là toàn bộ chân tướng của vụ án Thiên Uy quân.

Thôi Tuần đã bước ra từ gian phòng bên cạnh. Dù hắn sớm đã chắp nối được sự thật, nhưng khi nghe tận miệng kẻ chủ mưu kể lại, vẫn không khỏi huyết khí dâng trào. Thịnh A Man và Lư Hoài cũng sững sờ, không thốt nên lời, nhất là Lư Hoài, sắc mặt tái nhợt không chút huyết sắc, cả người như hồn bay phách lạc.

Thôi Tuần siết chặt tay đến mức móng tay cắm sâu vào lòng bàn tay, cố gắng kiềm chế cảm xúc. Cuối cùng, hắn hỏi Thẩm Khuyết một câu: “Việc này, Thánh nhân có biết không?”

“Dĩ nhiên.” Thẩm Khuyết đáp: “Lư Dụ Dân là thầy dạy của Thánh nhân, ông ta nói gì cũng tin, lời nào cũng nghe. Chuyện này chẳng nhẽ Thánh nhân lại không biết? Huống hồ, nếu không có cái gật đầu của Thánh nhân, Bùi Quan Nhạc dám làm chuyện tru diệt cả gia tộc sao? Nếu không có ấn tín của Thánh nhân, Khả hãn Ni Đô có tin một phong thư không? Thánh nhân tất nhiên là biết rõ.”

Thôi Tuần chỉ cảm thấy đầu óc choáng váng. Quân phụ… đây chính là quân phụ của hắn!

Hắn bấu chặt song sắt nhà lao, cố gắng đứng vững, lòng đau đớn không cách nào tả xiết. Trong đầu hắn không ngừng vang vọng những lời dạy dỗ của Quách Cần Uy khi còn ở Thiên Uy quân: “Thập Thất lang, cháu văn thao võ lược, mọi thứ đều xuất sắc, tuy tính cách có phần cực đoan nhưng không làm ảnh hưởng đến đại cục, chưa kể cháu còn là người trọng tình trọng nghĩa. Chỉ có điều, có một điểm, cháu làm chưa đúng.”

Khi ấy, hắn vô cùng kính trọng Quách Cần Uy, liền cung kính đáp: “Xin Quách soái chỉ dạy.”

Quách Cần Uy khẽ thở dài, ôn tồn nói: “Có lẽ vì cha cháu đối xử với cháu không đủ tốt, nên cháu mới thiếu đi sự kính trọng đối với năm chữ “thiên, địa, quân, thân, sư”. Nhưng phụ thân là người sinh ra cháu, sư phụ là người dạy bảo cháu nên người, còn quân vương là người ban bổng lộc, cho cháu cái ăn cái mặc. Dù không thể thân cận nhưng vẫn phải giữ lòng tôn kính. Đặc biệt là với “quân”. “Quân” chính là phụ thân của thiên hạ, cháu càng phải tôn kính gấp bội, trung thành gấp bội.”

Những lời của Quách Cần Uy như còn văng vẳng bên tai, và quả thực, ông vẫn luôn hành xử như vậy. Rất nhiều tướng lĩnh do Thái hậu đề bạt vào thời điểm Thánh nhân còn nhỏ đều chẳng mấy xem trọng Thánh nhân. Nhưng Quách Cần Uy thì khác, ông kính cẩn với Thánh nhân chẳng khác gì với Thái hậu. Ông không cho phép binh sĩ Thiên Uy quân nói xấu Thánh nhân nửa lời, hễ phát hiện liền trục xuất khỏi quân ngũ. Vì vậy, tuy Thiên Uy quân bị xem là thân tín của Thái hậu, nhưng thực chất từng người trong bọn họ đều khắc sâu hai chữ “quân phụ” vào tận xương tủy.

Thế nhưng, ai có thể ngờ rằng vị quân phụ kia lại chính là đồng lõa, ngầm chấp thuận đưa họ vào cõi chết?

Thôi Tuần bi phẫn đến cực độ, các ngón tay siết chặt lòng bàn tay đến mức hằn sâu dấu móng. Hồi lâu, hắn mới lạnh lùng hỏi Thẩm Khuyết: “Ngươi có dám điểm chỉ vào lời khai này không?”

“Có gì mà không dám.” Thẩm Khuyết đối diện với Thôi Tuần, khôi phục vẻ ngạo mạn thường thấy. Hắn liếc nhìn A Man, cười nhạt: “Dù sao ta cũng sắp chết rồi, coi như trước khi chết làm được một việc tốt.”

Thẩm Khuyết nói xong liền viết lời khai, điểm chỉ nhận tội.

Sinh mệnh của hắn sắp chấm dứt. Ngẫm lại cả đời đầy tội ác, giấy mực cũng khó ghi hết, chỉ thoáng chốc mềm lòng trước lúc chết lại hóa thành lưỡi dao sắc nhọn đâm ngược vào tim hắn, đau đớn khôn cùng. Suy cho cùng, đó cũng là báo ứng của hắn.



Sau khi Thẩm Khuyết viết xong tờ khai, Thôi Tuần cuộn lại cẩn thận. Hắn hiểu rõ hôm nay A Man đến đây, tin tức này chắc chắn sẽ nhanh chóng truyền tới phủ Bùi Quan Nhạc và Lư Dụ Dân, thậm chí có thể đến tai Đại Minh cung. Thời gian dành cho hắn đã không còn nhiều.

Hắn xoay người định rời khỏi ngục thất, nhưng bỗng khựng lại, quay đầu nhìn vào gian phòng giam nơi Lư Hoài đang quỳ. Lư Hoài mặt xám như tro tàn, bất động như một pho tượng đất không hồn. Thôi Tuần mím môi, trầm giọng nói: “Lư Hoài, khi ngươi còn là Thiếu khanh Đại Lý Tự, từng viết câu “Kẻ phạm pháp, dù thân thích cũng phải phạt”, không biết nay còn giữ lời chăng?”

Lư Hoài chỉ ngơ ngác, ánh mắt trống rỗng không chút thần sắc. Vẻ ngông cuồng, tài hoa ngày trước của hắn dường như tan biến chỉ sau một đêm. Thôi Tuần lại nói: “Làm người hay làm quỷ, tự ngươi lựa chọn.”

Không đợi Lư Hoài hồi đáp, hắn cùng A Man rời khỏi ngục của Ngự Sử Đài.

Mãi đến khi Thôi Tuần chuẩn bị bước lên xe ngựa rời đi, A Man mới sực tỉnh, hỏi: “Huynh cầm tờ khai của Thẩm Khuyết đi đâu?”

Thôi Tuần đáp: “Đi làm điều nên làm.”

Thịnh A Man hít sâu một hơi khí lạnh: “Một người là Thượng thư Bộ Binh với căn cơ vững chắc, một người là thầy dạy của Thánh nhân, giữ chức Tể phụ đương triều, còn một người nữa…” Nàng ngập ngừng, ánh mắt thoáng vẻ hoang mang: “Thật sự có thể sao?”

Thôi Tuần chỉ nhàn nhạt đáp: “Cô không nên hỏi câu này?”

A Man cụp mắt xuống, lại hỏi: “Có phải suốt sáu năm nay huynh chưa từng quên mối thù a huynh ta và những người khác? Có phải huynh vẫn luôn chờ đợi ngày này?”

Nhưng Thôi Tuần không còn thời gian để đáp lại nàng, hắn chỉ nói: “Cô về đi, ta sẽ phái người bảo vệ cô.”

Dứt lời, hắn bước lên bục xe, định lên ngựa. A Man nhìn bóng lưng gầy gò tựa trúc của hắn, khẽ cắn môi, bỗng gọi lớn: “Vọng Thư a huynh!”

Thôi Tuần khựng lại, quay đầu.

A Man chợt nghẹn ngào. Tiếng gọi ấy là lần đầu nàng gặp Thôi Tuần khi đến thăm huynh trưởng ở Thiên Uy quân. Khi ấy, má nàng ửng hồng, ngại ngùng nói: “Huynh là bằng hữu của a huynh muội, vậy cũng là a huynh của muội. Muội sẽ gọi huynh là Vọng Thư a huynh nhé.”

Cảnh cũ còn đây, nhưng người xưa đã khác.

A Man cố gượng cười, không nói thêm gì, chỉ chân thành thốt lên: “Đa tạ.”
 
Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh
Chương 125: Ta là thân nhân của anh hùng!



Sau khi Thôi Tuần rời đi, Lư Hoài như kẻ mất hồn mới chậm rãi đứng dậy. Hắn lảo đảo bước ra khỏi ngục thất, mạnh tay đẩy tên tiểu lại Đại Lý Tự đang định hỏi chuyện, rồi xiêu vẹo bước từng bước, đi thẳng đến phủ Lư Dụ Dân.

Hắn ngẩng đầu nhìn lên tòa phủ đệ giản dị, trời dần bị mây mù che khuất, từng hạt mưa thưa thớt rơi xuống, chẳng mấy chốc đã biến thành màn mưa dày đặc. Y phục Lư Hoài bị ướt sũng, nhưng hắn chẳng hề để ý, chỉ lặng lẽ nhìn lên hai chữ lớn đề trên cổng: “Lư phủ.”

Lời dạy bảo ân cần của thúc phụ thuở nhỏ như còn vang bên tai. Chữ đầu tiên hắn viết là thúc phụ dạy, bài thơ đầu tiên hắn học là thúc phụ làm. Hắn từng tự hào về thúc phụ biết bao. Hắn rất muốn xông vào, chất vấn thúc phụ về lời Thẩm Khuyết nói, xem đó là thật hay giả. Nhưng hắn đứng ngoài phủ rất lâu mà không dám bước vào.

Hắn sợ. Sợ nghe thấy câu trả lời đó, sợ rằng chỉ cần bước vào, hình tượng đạo mạo mẫu mực trong lòng hắn sẽ sụp đổ hoàn toàn. Hắn không dám.

Lư Hoài nhắm chặt mắt, mặc cho mưa rơi xối xả lên mặt. Thật lâu sau, hắn mới mở mắt, quay người, lê từng bước chân nặng nề rời đi.



Lư Hoài vừa rời đi, tin tức về việc A Man tiến vào ngục thất của Ngự Sử Đài, nói chuyện riêng với Thẩm Khuyết đã nhanh chóng truyền đến tai Lư Dụ Dân và Bùi Quan Nhạc.

Lư Dụ Dân vô cùng kinh hãi, suy nghĩ đầu tiên là tìm Lư Hoài để hỏi cho rõ, nhưng Lư Hoài đã bặt vô âm tín. Ý nghĩ tiếp theo của ông ta là phải truy tìm tung tích Thôi Tuần cho bằng được.

Thế nhưng, Thôi Tuần cũng không rõ tung tích.

Hắn không vào cung Đại Minh để cáo trạng, cũng không trở về Sát Sự Thính, càng không quay lại phủ đệ của mình. Cứ như thể hắn đã bốc hơi khỏi nhân gian. Dù Lư Dụ Dân có lật tung cả thành Trường An, cũng không thể tìm thấy dấu vết của hắn.

Lúc Lư Dụ Dân nóng ruột như lửa đốt thì Thôi Tuần lại đang ở trong một thư quán (tiệm sách) nhỏ tại hậu viện giữa lòng Trường An.

Hắn cẩn thận sao chép lại lời khai của Thẩm Khuyết, lật ngược lại và dán lên một tấm ván gỗ hoa lê mỏng, sau đó dùng dao khắc, khắc từng nét lên tấm ván ấy. Đó chính là phương pháp khắc in.

Từ khi Thôi Tụng Thanh đảm nhiệm chức Tể phụ, ông đã ra sức thúc đẩy việc khắc in ở Đại Chu. Sách in từ phương pháp này có giá rẻ hơn sách chép tay đến mười lần. Mục đích của ông là để giúp dân nghèo và tầng lớp hàn môn cũng có thể mua sách, học chữ. Để khuyến khích phương pháp khắc in, ông đã ra lệnh giảm một nửa thuế thương nghiệp cho các thư quán sử dụng phương pháp này. Vì vậy, khắp Trường An, thư quán nào cũng sở hữu bản khắc gỗ và sử dụng kỹ thuật khắc in để xuất bản sách.

Thôi Tuần nắm chặt dao khắc, môi mím chặt, từng nét chữ nổi được khắc tỉ mỉ trên tấm ván gỗ lê. Tuy cổ tay hắn đã mất sức, nhưng mỗi nhát dao hạ xuống đều ổn định và chuẩn xác, tựa như mỗi đường khắc trên ván gỗ này thấm đẫm máu và nước mắt của năm vạn người. Dù phải thiêu rụi sinh mạng mình, hắn cũng không cho phép sự sai sót dù chỉ một chút.

Lý Doanh vẫn lặng lẽ ở bên, chăm chú nhìn hắn. Thỉnh thoảng, nàng sẽ chỉnh lại áo khoác lông hạc đen tuyền phủ trên người hắn, giúp hắn không bị hàn khí xâm nhập trong lúc tâm tình phẫn nộ. Thế nhưng, khi Thôi Tuần khắc đến phần lời khai liên quan đến Long Hưng Đế trong lời khai của Thẩm Khuyết, nàng hơi ngập ngừng rồi khẽ nói: “Ta khuyên chàng đừng khắc đoạn này.”

Dao khắc trong tay Thôi Tuần khựng lại. Lý Doanh tiếp lời: “Không phải vì nó là a đệ của ta nên ta thiên vị. Nếu nó thật sự dính líu đến vụ án Thiên Uy quân, từ nay về sau, nó sẽ không còn là a đệ của ta nữa. Ta không có người thân nào lại bỏ mặc bách tính như vậy. Nhưng chàng đã nghĩ đến hậu quả nếu khắc đoạn này chưa?”

Nàng chậm rãi nói tiếp: “Hiện giờ a đệ vẫn là hoàng đế Đại Chu. Dù lời khai của Thẩm Khuyết là thật hay giả, chỉ cần chàng khắc đoạn này lên, chính là tội vọng nghị quân thượng, chẳng khác nào tạo phản. Đừng nói đến chuyện đòi lại công bằng cho Thiên Uy quân, ngay cả tính mạng chàng cũng khó giữ. Chi bằng tạm thời đừng kéo nó vào, hãy tập trung vào Lư Dụ Dân và Bùi Quan Nhạc trước đã.”

Lời nàng nói từng câu đều thấu tình đạt lý. Thế nhưng, dù lý lẽ rõ ràng, lửa căm phẫn trong lòng Thôi Tuần vẫn chưa nguôi. Lý Doanh không khuyên thêm, chỉ lặng lẽ ở bên cạnh hắn. Hắn không phải người nóng nảy, rồi sẽ suy nghĩ thấu đáo.

Quả nhiên, sau một lúc lâu, Thôi Tuần cụp mắt, hắn nói: “Không khắc nữa.”

Lý Doanh thở phào nhẹ nhõm, dịu dàng khuyên bảo: “Trước tiên hãy trừ gian thần, rửa oan cho Thiên Uy quân. Những chuyện khác, sau này hẵng điều tra.”

Thôi Tuần lẳng lặng gật đầu, bỏ qua phần liên quan đến Long Hưng Đế, dồn hết tâm sức khắc trọn vẹn phần còn lại lên tấm ván gỗ lê. Đợi đến khi trời lặn trăng lên, lời khai cuối cùng cũng đã được khắc xong.

Sau khi khắc xong, tiếp theo chính là in ấn. Sáng sớm mai, khắp các con đường trọng yếu trong thành Trường An sẽ dán kín những bản in của lời khai này.



Đại sự đã quyết, ngày mai Trường An ắt sẽ dậy sóng. Nếu là người thường, hẳn đã lo lắng đến mức mất ngủ. Thế nhưng, một người vẫn luôn mất ngủ như Thôi Tuần, sau khi uống thuốc xong lại ngủ rất say.

Lý Doanh tựa bên giường hắn. Nàng đưa tay, vuốt nhẹ hàng lông mi đen nhánh của hắn. Lông mi phất qua đầu ngón tay, êm dịu như cánh ve. Nàng biết, hắn đã quá mệt mỏi rồi.

Hắn đã chờ đợi ngày này suốt sáu năm. Sáu năm, hắn gánh trên vai mối thù khắc cốt ghi tâm, cùng bao tiếng xấu đeo bám, không một ngày nào hắn được yên giấc. Giờ đây, khi ánh hừng đông lóe lên ở cuối trời, cuối cùng hắn đã được trút bỏ gánh nặng, yên gối, ngủ một giấc trọn vẹn suốt đêm.

Ngón tay nàng nắm lấy bàn tay lạnh giá của hắn, ngón tay đan xen như lần đầu gặp gỡ bên hồ sen, chỉ là so với khi đó, giờ đây lại thêm phần dây dưa tình ý. Lý Doanh ngắm nhìn gương mặt yên bình trong giấc ngủ của hắn, khẽ thì thầm: “Ta thật sự hy vọng, a đệ không liên quan đến chuyện này…”

Đó là em trai của nàng, đó là người thân nhất của nàng trên cõi đời, ngoại trừ Thái hậu. Tuy nàng nói rằng nếu y thật sự dính líu đến chuyện này, nàng sẽ không nhận y nữa. Thế nhưng, sâu trong lòng, nàng vẫn không muốn tin. Nàng không muốn tin rằng em trai ruột của mình lại có thể nhẫn tâm, giao cả vạn dân cho dị tộc giày xéo.

Nàng ngẩng đầu nhìn Thôi Tuần đang say ngủ, trong lòng tràn đầy nỗi áy náy và xót xa. Lý Doanh nắm nhẹ lấy tay hắn. Hắn và a đệ nàng đều ở cùng đội tuổi hai mươi ba. Sáu năm trước, cả hai đều mười bảy tuổi, đang ở độ tuổi thanh xuân rực rỡ nhất. Thế nhưng sau đó, một người sống cuộc đời vinh hoa quyền thế, trở thành vị hoàng đế anh minh nhân đức trong mắt muôn dân; một người lại rơi vào đại mạc hoang vu, thanh danh tan nát, chịu đựng biết bao khổ nhục. Nhớ lại quãng thời gian từ mười bảy đến hai mươi tuổi, Thôi Tuần sống trong ngục tối, chịu đủ khổ hình; từ hai mươi đến hai mươi ba tuổi, lại bị đàm tiếu bủa vây. Mỗi ngày trong sáu năm ấy đều là cơn ác mộng không dứt. Và rất có thể, kẻ đã khiến hắn rơi vào cơn ác mộng ấy lại chính là a đệ của nàng.

Nàng nằm gục bên giường hắn, ánh mắt trở nên mơ hồ. Một lúc lâu sau, nàng bỗng mím môi, nhẹ giọng nói: “Thập Thất lang, trước khi sự thật được phơi bày, ta muốn tin tưởng thêm đệ ấy một lần nữa, được không?”

Thôi Tuần vẫn chìm vào giấc ngủ sâu, tất nhiên không thể đáp lại. Lý Doanh mỉm cười: “Chàng không trả lời nên ta xem như chàng đồng ý rồi nhé.”

Bàn tay nàng áp chặt lên tay hắn, lẩm bẩm: “Chỉ mong, không phải là đệ ấy.”



Ngày hôm sau, cả thành Trường An chìm trong cơn sóng gió.

Toàn bộ Kim Ngô Vệ xuất quân, lục soát và xé bỏ toàn bộ những bản in dán trên các cung đường trọng yếu. Thế nhưng tin tức đã sớm lan truyền khắp ngõ ngách, chẳng thể nào ngăn cản.

Long Hưng Đế giận dữ đến nỗi đập bàn, hạ lệnh khẩn cấp điều tra xem kẻ nào to gan lớn mật dám tung tin đồn thất thiệt giữa thành Trường An. Tả hữu Kim Ngô Vệ nhận lệnh chuẩn bị xuất phát, nhưng Long Hưng Đế đột nhiên nghĩ đến điều gì đó, quát lớn: “Thôi Tuần đâu? Sao hôm nay không thấy hắn đến triều?”

“Bẩm Thánh nhân, Thôi Thiếu khanh đã dâng tấu xin cáo bệnh.”

“Cáo bệnh?” Long Hưng Đế cười lạnh: “Hắn không dám đến thì có.”

Hắn nghiến răng: “Đi! Truyền hắn tới đây, dù có chết cũng phải lôi hắn đến gặp trẫm!”

Tả hữu Kim Ngô Vệ nhìn nhau, nhưng vẫn cúi đầu đáp: “Vâng.”

Trong lúc Long Hưng Đế đang nổi trận lôi đình, A Sử Na Ngột Đóa đứng ngoài điện Thần Long. Nàng lắng nghe một lúc, sau đó quay người, nói: “Đi thôi.”

Cung tỳ khó hiểu hỏi: “Huệ phi không vào diện kiến Thánh nhân sao?”

A Sử Na Ngột Đoá lắc đầu. Nàng ngước nhìn bầu trời mây đen dày kịt, dùng giọng quan thoại không mấy thông thạo đáp: “Sắp mưa rồi.”

Nàng nói: “Hồi cung thôi.”

Dứt lời, nàng ngồi vào bộ liễn, hướng về tẩm cung của mình. Chỉ là khi ngang qua một hồ cá, nàng bỗng yêu cầu dừng kiệu, bước xuống ngắm cá vàng trong hồ.

Tuy nói là ngắm cá, ánh mắt nàng lại chăm chú dừng ở một đóa sen giữa hồ. Từng hạt mưa lất phất rơi xuống, cung tỳ nhanh nhẹn giương ô, che cho A Sử Na Ngột Đoá. Mưa càng lúc càng nặng hạt, cánh sen lay động không ngừng giữa gió mưa, nhưng cánh hoa cũng được rửa sạch đến mức rực rỡ dị thường. A Sử Na Ngột Đóa giương mắt, chợt hỏi cung tỳ: “Ngươi nói xem, sau cơn mưa này, đóa sen ấy sẽ trở nên đẹp hơn, hay sẽ héo tàn?”

Cung tỳ không có tài tiên tri, sao biết được đóa sen yếu ớt này sẽ bị gió mưa tàn phá hay sẽ lại hồi sinh sau mưa. Nàng chỉ có thể đáp: “Nô tỳ không biết.”

A Sử Na Ngột Đoá cũng không truy hỏi thêm, chỉ nhìn đóa sen bị nước mưa làm rũ xuống. Nàng nói: “Bông sen này thật đẹp. Trước khi nó chết đi, ta muốn hái nó xuống.”

Cung tỳ lập tức đáp: “Đợi mưa tạnh, nô tỳ sẽ đi hái ngay.”

Nhưng A Sử Na Ngột Đóa chỉ lắc đầu từ chối: “Không, để ta tự hái.”



Khi Long Minh Cung của đế vương đang chìm trong chướng khí mù mịt, thì căn nhà tạm của A Man cũng đón thêm một nhóm người mới.

Đó chính là những thân nhân của Thiên Uy quân ở Trường An.

Những người này, có già có trẻ, có phụ nữ có trẻ thơ, nhưng trải qua sáu năm sóng gió, số người còn lại đã không còn nhiều. A Man được các tỷ muội trong giáo phường đỡ ra ngoài. Người đầu tiên bước ra từ đám đông là Hà Thập Tam, cầm theo một tờ lời khai bị xé trộm, hỏi A Man: “Thịnh a tỷ, bọn ta biết tỷ là thiếp của Thẩm Khuyết, muốn hỏi tỷ, những lời viết trên này, có đúng không?”

A Man nhìn quanh, thấy những gương mặt hốc hác, đã già nua hơn tuổi thật. Sáu năm qua, họ phải mang danh gia quyến của bại quân, chịu bao nỗi nhục nhã và miệt thị. Như mẹ của Tào Ngũ Lang, vì không chịu nổi nhục nhã nên đã treo cổ tự vẫn. Những người còn lại chỉ có thể sống trong sự tê liệt và bi thương. Nhưng hôm nay, họ bất ngờ biết được rằng, hóa ra con trai của họ, anh em của họ, hay chồng của họ không phải là bại tướng, mà là bị người hãm hại đến mức toàn quân tan nát. Làm sao họ có thể không hận?

Sống mũi A Man xộc lên, nàng đáp: “Từng chữ trên này, đều là những gì Thẩm Khuyết đã từng nói với ta. Tất cả đều là thật.”

Đám đông lặng yên một lúc, rồi bỗng dưng bùng lên tiếng khóc thống thiết. Họ khóc vì những người thân đã mất, khóc cho những người anh em, người chồng người con, và cũng khóc cho chính bản thân họ.

Hà Thập Tam cố nén nước mắt, hỏi A Man: “Vậy thì những a huynh của ta, họ bại trận không phải vì chủ quan, mà là bị hại đến mức toàn quân bị diệt. Họ không phải bại quân, họ là anh hùng, đúng không?”

A Man cắn môi, gật đầu: “Mỗi người trong số họ đều là anh hùng.”

Hà Thập Tam ngẩng cao đầu, ưỡn ngực cười lớn: “Tốt! Ta, Hà Thập Tam, là thân nhân của anh hùng!”

Hắn lại nói: “Thịnh a tỷ, bọn ta phải đi kiện, tỷ có muốn đi không?”

Vết thương của A Man còn chưa lành, nhóm tỷ muội trong giáo phường lo lắng nói: “A Man…”

Nhưng A Man lập tức đáp: “Ta đi.”

Nàng kiên quyết nói từng chữ: “Ta cũng là thân nhân của anh hùng, ta nhất định phải đi!”



Trên đường đến huyện nha, A Man cũng kể cho Hà Thập Tam nghe về a huynh cậu, Hạ Cửu, người đã bị giết khi đi cầu viện tại Phong Châu. Thật đáng thương, Hà Cửu không chết trong tay người Đột Quyết, mà lại bị chính đồng bào mình bắn hạ ngay tại cổng thành Phong Châu. Y bị bắn tổng cộng một trăm linh tám mũi tên, sống sờ sờ bị biến thành con nhím, rồi ngã xuống ngay trên mảnh đất Đại Chu mà y thề suốt đời bảo vệ.

A Man còn nói với Hà Thập Tam: “Lần này đến huyện nha, sống chết khó lường. Đệ chưa đầy mười bốn tuổi, cuộc đời mới chỉ vừa bắt đầu, đệ có thể không đi. Nỗi oan của a huynh đệ, cứ để chúng ta lo liệu.”

Hà Thập Tam lau khô nước mắt, đáp: “Thịnh a tỷ, a huynh của đệ trúng một trăm linh tám mũi tên, vẫn không lùi bước. Đệ cũng sẽ không lùi.”

Ánh mắt cậu kiên định vô cùng. A Man cảm động trong lòng, nói: “Đệ giống với anh trai, đều là những bậc anh hùng.”

Hà Thập Tam đỡ nàng, cùng nàng chậm rãi bước đi. Bỗng nhiên hắn cậu ra điều gì, hỏi: “Đúng rồi, Thịnh a tỷ, tỷ có biết người đã dán lời khai là ai không?”

A Man đáp: “Ta không biết, nhưng ta có thể đoán được.”

“Là ai?”

“Là… Thôi Tuần.”
 
Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh
Chương 126: Giải oan cho Thiên Uy quân



Bên ngoài huyện nha Trường An, dân chúng tụ tập đông đúc, đợi xem náo nhiệt. Nhưng cánh cửa nghi môn màu đen vốn rộng mở ngày thường, cho phép bách tính vào nghe xử án, giờ đây lại đóng chặt, nên chẳng ai nghe được động tĩnh gì từ chính đường.

Mọi người dài cổ ngóng trông, chỉ một lúc sau, nghi môn bất ngờ mở ra. A Man cùng những người khác bị loạn côn đuổi đánh ra ngoài. Vì bảo vệ A Man nên Hà Thập Tam chịu không ít roi vọt, thân thể đau rát như lửa đốt. Cậu bị mấy nha sai kéo xềnh xệch, quăng ra khỏi nghi môn, ngã sóng soài trên mặt đất. Mặc kệ cơn đau, Hà Thập Tam vẫn lồm cồm bò dậy, lớn tiếng chất vấn: “Tại sao không nhận đơn kiện của chúng ta? Các người sợ cái gì chứ?”

Nha sai quát lớn: “Câm miệng! Nếu không phải minh phủ thấy các người già có, trẻ có, thì đã trói lại, đánh mỗi người một trăm trượng rồi!”

Trong đám đông có một sĩ tử thông hiểu luật pháp, nghe vậy không nhịn được nói: “Một trăm trượng là hình phạt dành cho kẻ vu cáo. Các người còn chưa điều tra mà dám khẳng định đây là vu cáo sao?”

Nha sai ngớ người, sau đó nổi giận, chỉ vào sĩ tử mà mắng: “Đừng tưởng biết đọc vài quyển luật đã là giỏi giang lắm! Dựa vào cái gì bắt huyện nha chúng ta điều tra quan viên triều đình chỉ vì mấy tờ khai khắc in? Nếu cứ thế này, ai muốn hại vị đại nhân nào, chỉ cần in vài tờ khai, dán khắp thành Trường An, chúng ta đều phải điều tra à? Rồi ai dám làm huyện lệnh Trường An này nữa? Hay ngươi tới làm thử xem sao?”

Sĩ tử bị mắng đến co rúm người, vội lẩn vào đám đông, không dám lên tiếng nữa. A Man giận dữ, mặc kệ chân tay vừa bị loạn côn quét trúng, lảo đảo tiến lên đối diện nha sai, nàng cao giọng hỏi: “Bọn ta muốn hại bọn họ sao? Được, vậy ngươi giải thích đi, vì sao Thẩm Khuyết lại biết rõ a huynh ta về Trường An cầu viện? Hắn là Trung lang tướng phụ trách trấn thủ các cửa ngõ Trường An, nếu không phải có âm mưu từ sớm, thì sao hắn biết trước tin tức chiến sự cách đây cả nghìn dặm? Rõ ràng chuyện này đầy rẫy nghi vấn, các người không thèm thẩm tra, đã vội bảo chúng ta vu cáo. Lương tâm các người đâu rồi? Bị chó ăn hết rồi sao?”

Nàng nói đến đây, giọng nghẹn ngào, nước mắt rơi lã chã: “Đây là cách các người đối xử với những tướng sĩ vùng biên, bảo vệ an nguy cho các người sao?”

A Man bật khóc nức nở, gia quyến Thiên Uy quân vì thương tâm nên cũng nức nở theo, tiếng khóc ai oán thấu trời. Dân chúng xung quanh không khỏi xúc động. Phải rồi, không bàn đến chuyện lời khai thật giả, chỉ riêng những điểm đáng ngờ mà A Man nêu ra, cũng đã đủ khiến người ta cảm thấy lạ thường. Những nha sai am tường việc xử án kia, chẳng lẽ không ai nhìn ra được sao?

Tên nha sai không trả lời được, tức giận đẩy mạnh A Man ngã chúi về trước, mắng: “Tiện phụ dám tố cáo chồng mình, còn dám nói thêm câu nào, ta sẽ lột quần đánh ngươi ngay!”

Hà Thập Tam kịp thời đỡ lấy A Man, thiếu niên huyết khí phương cương, hoàn toàn không màng hậu quả, lớn tiếng quát vào mặt nha sai: “Các ngươi dựa vào đâu mà ức h**p người khác? A huynh ta liều mình giữ gìn biên cương Đại Chu, chẳng lẽ là để các ngươi mặc sức bắt nạt chúng ta sao?”

Lời hắn vừa dứt, những thiếu niên khác cũng phẫn nộ xông lên, xô đẩy nha sai. Vài tên nha sai giận dữ, vung gậy quật chúng tới tấp. Có thiếu niên bị đánh vỡ đầu, máu chảy đầm đìa. Dân chúng đứng xem không nỡ nhìn, có người hô lớn: “Đừng đánh nữa!”

“Chúng chỉ là những đứa trẻ mười hai, mười ba tuổi, sao các người có thể ra tay tàn nhẫn như vậy!”

“Đừng đánh nữa, đánh tiếp sẽ chết người đấy!”

Một số dân chúng bất bình ùa tới kéo giữ đám nha sai, không cho bọn chúng tiếp tục động thủ. Thấy lòng dân phẫn nộ, mấy tên nha sai mới chịu dừng tay, khinh khỉnh nhổ một bãi nước bọt về phía A Man và những người đi cùng nàng: “Còn dám đến huyện nha vu cáo nữa thì sẽ không chỉ là một trận đòn như hôm nay đâu!”

Cánh cửa nghi môn sơn đen “rầm” một tiếng đóng sầm lại, chỉ còn lại gia quyến Thiên Uy quân thân thể thương tích, nhếch nhác ê chề.

Dân chúng thở dài ngao ngán, lần lượt tản đi. Cũng có người khâm phục dũng khí của A Man và những người khác, chần chừ chưa nỡ rời đi. Vị sĩ tử áo trắng vừa lên tiếng bênh vực họ, tiến lại gần nói: “Thịnh nương tử, cánh tay sao bẻ gãy được đùi? Người các vị muốn kiện là Tể phụ đương triều, là thầy dạy của Thánh nhân, các vị không thể thắng nổi đâu. Đừng kiện nữa, chứ không lại mất cả tính mạng.”

A Man không đáp, chỉ lấy khăn lụa nhẹ nhàng băng bó vết thương cho thiếu niên bị đánh vỡ đầu. Nàng bình thản hỏi mọi người: “Đường phía trước gian nan, mọi người còn muốn kiện nữa không?”

Hà Thập Tam là người lên tiếng đầu tiên: “Kiện!”

Mọi người đồng loạt hô vang: “Kiện!”

“Dù có mất mạng cũng phải kiện!”

A Man gật đầu, sau đó quay sang sĩ tử áo trắng: “Thưa lang quân, cảm ơn ngài đã lo nghĩ cho chúng ta. Nhưng thân nhân của chúng ta không phải chết dưới đao kiếm của người Đột Quyết, họ chết vì âm mưu tính toán của người Đại Chu. Họ đều còn rất trẻ, họ không đáng phải chết. Nếu ngay cả chúng ta cũng không đòi lại công bằng cho họ, thì còn ai sẽ làm điều đó đây?”

Nàng ngừng lại, rồi kiên quyết nói tiếp: “Chúng ta là gia quyến của họ, đã sáu năm sống cảnh chuột chạy qua đường, ai ai cũng khinh ghét. Nhưng dù đau đớn đến đâu, ít nhất chúng ta vẫn còn sống, còn họ đã chết rồi! Chết mà còn phải mang tiếng nhục bại trận, mất đất. Nhưng thử hỏi, việc đánh mất sáu châu Quan Nội, thật sự là lỗi của họ sao? Từ đầu đến cuối, người bỏ rơi bách tính sáu châu chưa từng là họ. Hôm nay, dù có bỏ mạng, chúng ta cũng phải đòi lại danh dự cho họ! Họ không phải là những kẻ thất bại vô dụng, họ là những anh hùng của Đại Chu!”

Những lời của nàng khiến lòng sĩ tử xao động mạnh mẽ. Y nén lệ, gật đầu nói: “Thịnh nương tử, chi bằng các người hãy đến phủ Kinh Triệu Doãn.”

“Phủ Kinh Triệu Doãn?”

“Tân nhiệm Kinh Triệu Doãn là Tiết Vạn Triệt, trước kia làm Thứ sử Dương Châu. Khi ở Dương Châu, dân chúng đều gọi ông ấy là Tạ Thanh Thiên. Ông ấy là một vị quan thanh liêm hiếm có, có lẽ sẽ tiếp nhận vụ án của các vị.”



Nhận được chỉ dẫn từ sĩ tử áo trắng, nhóm gia quyến Thiên Uy quân dìu dắt nhau, từng bước tiến về phủ Kinh Triệu Doãn.

Trên đường đi, họ bị đám đông vây quanh, người xem chật như nêm cối. Có kẻ cười lạnh chế nhạo, bảo rằng bọn họ chỉ dựa vào một tờ khai chẳng rõ thật giả để tố cáo đại thần trong triều, quả là mất trí. Lại có kẻ buông lời mắng chửi, nói rằng vì muốn rũ sạch nỗi nhục của gia quyến thất trận nên họ mới bày chuyện bản khai này ra.

Hà Thập Tam tuổi trẻ khí thịnh, muốn phản bác từng người một, nhưng lại bị A Man ngăn lại. Lúc này họ không nên phí thời gian tranh cãi, điều cần làm là dồn sức thuyết phục Kinh Triệu Doãn, Tiết Vạn Triệt thụ lý vụ án này.

Khi họ bước vào phủ Kinh Triệu Doãn, cánh cửa nghi môn sơn đỏ từ từ khép lại. Trong lòng ai nấy đều thấp thỏm, chẳng biết điều chờ đợi họ lần này sẽ là công lý hay lại là một trận đòn tàn nhẫn nào đó.

Trong chính đường, Kinh Triệu Doãn Tiết Vạn Triệt an tọa trên vị trí chủ vị. Ông khoảng năm mươi tuổi, gương mặt nghiêm nghị. Hà Thập Tam lập tức quỳ sụp xuống, hai tay dâng cao lời khai của Thẩm Khuyết, lớn tiếng kêu oan: “Tiết Triệu Doãn, a huynh ta chết oan, các huynh đệ Thiên Uy quân khác cũng chết oan! Xin Tiết Triệu Doãn làm chủ cho họ!”

Theo sau cậu, toàn bộ gia quyến Thiên Uy quân cũng quỳ xuống, ai nấy nác nghẹn, cầu xin Tiết Vạn Triệt đòi lại công bằng.

Ánh mắt Tiết Vạn Triệt lướt qua đám người dưới điện, có người già, có thiếu nữ, cũng có thiếu niên mới chỉ mười mấy tuổi. Nhưng ai nấy đều mặt mũi bầm tím, thậm chí có người đầu vỡ máu chảy, rõ ràng đã phải chịu một trận bạo hành. Mà kẻ ra tay, bất kể là ai, cũng chỉ có một điểm chung – sợ bị liên lụy đến bản thân.

Nhưng Tiết Vạn Triệt không sợ. Với tài năng của ông, nếu không lo chuyện bao đồng thì đã không chìm nổi trên quan trường suốt bao năm, để đến giờ vẫn chỉ là một Kinh Triệu Doãn tứ phẩm, chưa từng ngồi vào ghế Thượng thư lục bộ, càng không nói tới vị trí Tể phụ.

Ông hiệu cho nha sai nhận lấy lời khai từ tay Hà Thập Tam, đọc qua một lượt, ánh mắt lướt nhanh mười hàng.

Kim Ngô Vệ đã sớm xé bỏ hết các bản in của tờ cung trạng, nên đây là lần đầu tiên Tiết Vạn Triệt đọc được nội dung trong lời khai của Thẩm Khuyết. Càng đọc, ông càng chấn động. Không lạ khi chẳng ai dám đụng tới vụ án này. Chưa bàn tới những kẻ liên quan đều là nhân vật quyền thế, nếu vụ án này được lật lại, hẳn sẽ gây nên chấn động vô cùng lớn.

Ai cũng biết, chính nhờ vụ án Thiên Uy quân nên Thánh nhân mới có thể ngang hàng với Thái hậu. Nếu vụ án này bị lật lại thì chẳng khác nào khẳng định cách xử lý vào sáu năm trước của Thánh nhân là hoàn toàn sai lầm!

Huống chi, Thái hậu đã cao tuổi, còn Thánh nhân mới chỉ hai mươi ba. Tương lai quyền lực Đại Chu sớm muộn gì cũng sẽ rơi vào tay Thánh nhân. Đắc tội với Thánh nhân, nghĩa là từ nay về sau sẽ phải sống trong cảnh nơm nớp lo sợ. Đây chính là lý do huyện lệnh Trường An không dám nhận vụ án này.

Việc này trọng đại. Tạ Vạn Triết trầm ngâm không nói.

Hà Thập Tam thấy ông chỉ chăm chú xem lời khai mà không hề mở miệng, lòng nóng như lửa đốt, vội dập đầu thưa: “Tiết Triệu Doãn, ta biết người mà ta muốn cáo buộc có thế lực rất lớn, nhưng a huynh ta vì trúng một trăm linh tám mũi tên mà chết! Huynh ấy là một nam tử hán kiên cường, sao chịu nỗi cảnh oan khuất suốt sáu năm qua? Xin Tiết Triệu Doãn làm chủ, giải oan cho Thiên Uy quân!”

Tiết Vạn Triệt không đáp, chỉ dùng ngón tay gõ nhẹ lên tờ khai của Thẩm Khuyết nằm trên bàn, chậm rãi ngẩng đầu hỏi: “Ngươi có biết Kim Ngô Vệ đã hủy hết các bản in của tờ cung trạng được rải khắp Trường An rồi không?”

Hà Thập Tam gật đầu đáp: “Biết.”

Tiết Vạn Triệt quát: “Biết mà còn dám giấu riêng? Đây là trọng tội, đủ chém đầu đó!”

Hà Thập Tam khựng lại, rồi ngẩng cao đầu nói: “Chém đầu thì chém đầu! Nếu nỗi oan của a huynh ta không thể giãi bày, thì ta cũng không còn chút hy vọng nào vào thế gian này nữa. Thà bị chém đầu còn hơn, mười tám năm sau, Hà Thập Tam này lại là một hảo hán!”

Những thiếu niên khác cũng đồng loạt hưởng ứng: “Nếu không đòi được công bằng, thì thà bị chém đầu còn hơn!”

Trong khoảnh khắc, chính đường trở nên náo động. Tiết Vạn Triệt nghiêm giọng quát: “Yên lặng!”

Đám thiếu niên lập tức im bặt. Tiết Vạn Triệt lại nhìn Hà Thập Tam, trầm giọng hỏi: “Ngươi chưa tròn mười bốn tuổi mà đã dám làm chuyện mất đầu này. Cha mẹ ngươi đâu? Họ dạy dỗ ngươi thế nào?”

Đôi mắt Hà Thập Tam đỏ hoe, khẽ nói: “Chết rồi.”

Tiết Vạn Triệt sững người. Hà Thập Tam tiếp lời: “Sau trận chiến ở Lạc Nhạn Lĩnh, cha mẹ ta thường xuyên bị người đời chỉ trỏ, lại thêm a huynh chết thảm, họ không chịu nổi cú sốc ấy nên lần lượt qua đời. Giờ đây, ta không còn cha, không còn mẹ, cũng chẳng còn a huynh, chỉ còn lại một mình ta.”

Ánh mắt Tiết Vạn Triệt thoáng hiện vẻ thương cảm, khẽ bảo: “Vậy ngươi càng phải trân trọng mạng sống, để cha và anh ngươi dưới suối vàng cũng yên lòng.”

Hà Thập Tam bật cười, ngẩng cao đầu nói: “Nếu chỉ vì giữ mạng mà làm ngơ trước nỗi oan của a huynh, cúi đầu làm kẻ hèn nhát, thì dù sống đến trăm tuổi, cũng có nghĩa lý gì? Ta thà chết ngay bây giờ, còn hơn làm kẻ hèn nhát sống lay lắt!”

Lời lẽ kiên quyết ấy khiến Tiết Vạn Triệt không khỏi bàng hoàng. Ông không ngờ một thiếu niên chưa tròn mười bốn tuổi lại có thể nói ra những lời đầy khí phách như vậy. Sau đó, ông quay sang A Man, hỏi: “Thịnh A Man, nhà họ Thịnh chỉ còn lại một mình ngươi, ngươi cũng nghĩ như vậy sao?”

A Man bình thản gật đầu: “Thưa Tiết Triệu Doãn, đến vinh hoa của Quốc công phu nhân ta còn không cần thì chẳng nhẽ ta lại cần cái mạng này?”

Tiết Vạn Triệt lại nhìn quanh, trầm giọng hỏi: “Các ngươi đều nghĩ như vậy sao?”

Tất cả không hề do dự, đồng thanh đáp: “Chúng ta thà mất mạng thì cũng phải đòi lại công bằng!”

A Man bỗng nở nụ cười lạnh: “Tiết Triệu Doãn, ngài hỏi chúng ta, chúng ta còn có thể trả lời ngài, nhưng những người khác, đến cả cơ hội trả lời cũng không thể nữa rồi.”

Tiết Vạn Triệt nhíu mày: “Lời ấy là sao?”

A Man chậm rãi đáp: “Ta và Hà Thập Tam, tuy nhà chỉ còn lại một người, nhưng ít ra vẫn còn. Tiết Triệu Doãn có biết, bao nhiêu huynh đệ Thiên Uy quân, nhà cửa đã không còn một ai? Lấy bằng hữu của a huynh ta là Tào Ngũ lang làm ví dụ. Huynh ấy lớn lên trong vòng tay của người mẹ góa, từ nhỏ đã được dạy dỗ phải trung quân ái quốc. Bởi thế, huynh ấy mang trong lòng một trái tim nhiệt huyết, mới mười bốn tuổi đã tòng quân, thề không để quân Hồ dẫm lên bờ cõi Đại Chu. Vậy mà một thiếu niên trung nghĩa như thế, chẳng những bỏ mạng ở Lạc Nhạn Lĩnh, còn phải gánh chịu nỗi nhục là kẻ bại trận, mất đất. Mẹ góa của huynh ấy vì không chịu nổi nỗi nhục, đã treo cổ tự vẫn, cả nhà huynh ấy… đều chết sạch cả rồi.”

A Man nghẹn ngào, nước mắt lăn dài: “Mà trong Thiên Uy quân, còn bao nhiêu người như Tào Ngũ lang? Bao nhiêu thiếu niên trung quân ái quốc, giờ đây toàn gia đã không còn một ai… Họ thậm chí còn không có cơ hộ để trân trọng mạng sống, giống như Tiết Triệu Doãn vừa nói.”

“Bọn họ vốn không phải chết, bọn họ đáng ra phải là những anh hùng, nên nhận được sự tôn kính của bách tính Đại Chu, chứ không phải chịu sự mắng nhiếc. Nếu không phải do gian thần tác oai tác quái, bi kịch của Tào Ngũ lang và những người khác đã chẳng xảy ra. Ngoài Tào Ngũ lang, còn có dân chúng sáu châu, họ có tội tình gì? Họ chỉ mong được sống những ngày yên bình, thế nhưng lại trở thành vật hi sinh cho cuộc chiến tranh đoạt quyền lực. Trong âm mưu đó, biết bao bá tánh sáu châu bị biến thành nô lệ của Đột Quyết, lại có biết bao người bị diệt môn, cả nhà không còn ai sống sót? Tiết Triệu Doãn, ngài đã thấy xương trắng chất đầy ở Lạc Nhạn Lĩnh chưa? Ngài có thấy từng đống xương trắng rải rác khắp sáu châu chưa? Kẻ bày ra âm mưu này, hắn còn xứng là người sao? Hay là, trong mắt bọn chúng, những tướng sĩ bảo vệ biên cương, những bách tính cần cù, đều không được tính là con người?”

Trước lời chất vấn dồn dập của Thịnh A Man, Tiết Vạn Triệt cũng không khỏi động lòng. Thịnh A Man lau nước mắt, kiên quyết nói: “Nếu Tạ đại nhân không nhận đơn kiện của chúng ta, vậy chúng ta sẽ đến Đại Lý Tự, đến Ngự Sử Đài, đến cung Đại Minh. Trừ phi tất cả chúng ta đều chết sạch, bằng không, chúng ta tuyệt không dừng lại.”

Nàng nói xong, chuẩn bị đứng dậy trong thất vọng thì Tiết Vạn Triệt bất ngờ lên tiếng: “Khoan đã.”

Thịnh A Man khựng lại, Tiết Vạn Triệt nói: “Trời đất vô tình, lấy vạn vật làm cỏ rác. Tuy ta thân phận thấp kém, lời nói chẳng có mấy phần trọng lượng, nhưng cũng nguyện vì linh hồn trung nghĩa của các tướng sĩ mà dốc chút sức mọn. Đơn kiện của các ngươi, ta nhận.”

Thịnh A Man mừng rỡ khôn xiết, cùng mọi người quỳ xuống khấu đầu: “Đa tạ Tiết Triệu Doãn!”

Tiết Vạn Triệt gật đầu, ánh mắt dừng lại trên người Thịnh A Man, chợt hỏi: “Ngươi còn nhớ Đô đốc Quế Châu Trương Hoằng Nghị không?”

Thịnh A Man đáp: “Tất nhiên là nhớ.”

“Ông ấy là tâm giao của ta.” Tiết Vạn Triệt nói: “Gần đây ông ấy có gửi thư cho ta, nhắc đến chuyện Thẩm Khuyết bị áp giải về Trường An, trong thư cũng đề cập đến vụ án Thiên Uy quân.”

Tiết Vạn Triệt thoáng ngập ngừng, không nói ra rằng trong thư Trương Hoằng Nghị còn nhắc đến Thôi Tuần. Trương Hoằng Nghị thắc mắc làm sao một viên nịnh thần lại có thể viết ra những nét bút mạnh mẽ, có cốt cách đến vậy, lại càng khó hiểu khi viên nịnh thần đó dám vì nỗi oan của cố nhân mà không tiếc mạng sống, vượt ngàn dặm đến Lĩnh Nam. Tiết Vạn Triệt chợt tỉnh ngộ, nghĩ đến những tờ khai được khắc in và dán khắp Trường An, cũng hiểu ra vì sao Thôi Tuần mang bệnh mà vẫn lao đến nơi này. So với Thôi Tuần, ông và Trương Hoằng Nghị, những người luôn tự xưng là trung thần, lại chẳng bằng một kẻ như hắn.

Trong lòng Tiết Vạn Triệt dần có quyết định. Ông và Trương Hoằng Nghị đỗ đạt cùng năm nhưng đường quan lộ lại không mấy suôn sẻ, nay đã qua tuổi biết mệnh trời, nhiệt huyết cũng nguội lạnh nhiều so với thời niên thiếu. Thế nhưng hôm nay, ngọn lửa ấy dường như bừng cháy trở lại. Ông nhìn Thịnh A Man, trầm giọng nói: “Để bách tính cho rằng trời Đại Chu vĩnh viễn chìm trong tăm tối, đó là lỗi của những người làm quan như chúng ta. Nay các ngươi liều mạng để đêm đen rạng sáng, nếu bọn ta vẫn làm ngơ, thì không xứng làm thần tử Đại Chu. Ngươi yên tâm, vụ án Thiên Uy quân, không chỉ mỗi mình các ngươi cố gắng đâu.”
 
Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh
Chương 127: Lấy mạng can gián



Trường An.

Mưa dầm rả rích suốt ba ngày không dứt.

Ba ngày ấy, triều đình tranh cãi không ngừng. Kinh Triệu Doãn Tiết Vạn Triệt tiếp nhận vụ án Thiên Uy quân, ngày ngày dâng sớ, khẩn cầu Long Hưng Đế cho phép điều tra triệt để. Ngoài ông ra, Đô đốc Quế Châu Trương Hoằng Nghị cùng nhiều vị thanh liêm trong triều cũng đồng loạt dâng sớ, khẩn thiết xin Long Hưng Đế xét xử vụ án một cách tận tường. Trên triều, Tiết Vạn Triệt tranh luận kịch liệt với Thượng thư Tả bộc xạ Lư Dụ Dân.

Lư Dụ Dân nói: Kẻ trong sạch tự khắc được minh oan.

Tiết Vạn Triệt phản bác: Thân trong sạch, càng không sợ tra xét.

Lư Dụ Dân á khẩu, sắc mặt tái xanh.

Long Hưng Đế giận dữ quát: “Tiết khanh, khanh nghe dèm pha của nữ nhân, hành xử điên rồ, trong mắt khanh có còn xem trẫm là thiên tử nữa không?”

Tiết Vạn Triệt thẳng thắn đáp: “Chính vì suy nghĩ cho Thánh nhân nên thần mới dám khẩn cầu người xét xử vụ án này. Nay dân chúng bàn tán khắp nơi, cho rằng Thánh nhân thiên vị thầy dạy nên mới không muốn tra xét. Nếu cứ kéo dài như vậy, e rằng sẽ làm tổn hại đến Thánh danh!”

Nói xong, Tiết Vạn Triệt nước mắt giàn giụa, vừa cúi đầu vừa khóc: “Từ khi Thánh nhân đăng cơ đến nay, anh minh quyết đoán, nhân từ với dân, nghĩa khí với bên ngoài, thần là bề tôi mà có được bậc quân vương như vậy thật là đại phúc. Nhưng cũng vì thế, thần không thể khoanh tay đứng nhìn Thánh nhân vì tư tâm mà quên đi pháp luật quốc gia. Nếu sau khi điều tra, phát hiện Thịnh A Man cùng những người khác vu cáo Lư tướng công, thần nhất định sẽ xử họ tội vu cáo, thậm chí thần cũng xin lấy cái chết để tạ lỗi với Lư tướng công.”

Tiết Vạn Triệt nói ra những lời vừa thống thiết vừa chân thành, khiến bao vị thanh liêm trong triều đồng loạt động lòng, tất cả đều quỳ xuống cầu xin Long Hưng Đế điều tra vụ án. Long Hưng Đế tức đến cực độ, dù rất muốn trừng phạt Tiết Vạn Triệt để răn đe kẻ khác, nhưng lại sợ khơi dậy làn sóng giận dữ trong phái thanh lưu. Phải biết rằng, Tiết Vạn Triệt và Trương Hoằng Nghị có uy tín rất cao trong hàng ngũ này. Nếu thật sự giết Tiết Vạn Triệt, e rằng đám mọt sách tự xưng là trung thần kia sẽ lần lượt lấy chết can gián, lúc ấy mọi chuyện sẽ càng khó thu xếp.

Long Hưng Đế hối hận không thôi, sớm biết thế này thì đã không đồng ý để Tiết Vạn Triệt đảm nhiệm Kinh Triệu Doãn. Lư Dụ Dân cũng hối hận khôn nguôi, bởi việc Tiết Vạn Triệt từ chức Thứ sử Dương Châu điều về làm Kinh Triệu Doãn là do ông ta và Thôi Tụng Thanh tranh giành nhau không ngớt. Cả hai đều muốn đưa người của phe mình vào, nhưng ai cũng không chịu nhường ai, cuối cùng đành sắp xếp Tiết Vạn Triệt, một người trung lập đảm nhiệm. Nào ngờ, quyết định này lại trở thành bùa đòi mệnh cho mình.

Long Hưng Đế nghiến răng nghiến lợi, lạnh giọng quát: “Bãi triều!”

Hắn đứng dậy khỏi ngự tọa, muốn thoát khỏi chốn phiền não này. Nào ngờ mãng phu Tiết Vạn Triệt lại nhanh chân bước lên, níu lấy tay áo hoàng đế, khóc lóc thảm thiết: “Khẩn cầu Thánh nhân, điều tra kỹ vụ án Thiên Uy quân!”

Long Hưng Đế giãy giụa không thoát, vừa kinh sợ vừa tức giận: “Tiết Vạn Triệt, ngươi muốn phản sao?”

Tiết Vạn Triệt quỳ rạp xuống khóc lóc cầu xin: “Thần vô lễ với Thánh nhân, xin cam lòng chịu tội, nhưng nếu Thánh nhân không điều tra vụ án Thiên Uy quân, e rằng lòng dân sẽ ly tán, thần không dám không can gián.”

Các thanh lưu trong triều đều quỳ xuống theo Tiết Vạn Triệt, nước mắt đầm đìa. Màn xung đột này được Hoàng môn Thị lang kiêm Khởi cư lang Vương Huyên ghi chép cẩn thận vào Khởi cư chú.



Ngoại ô Trường An, trong một ngôi cổ tự hẻo lánh, Lư Hoài khoác áo vải thô, nhập tọa trong thiền đường. Từ khi nghe được lời khai của Thẩm Khuyết, hắn lấy cớ bệnh không vào triều, lặng lẽ tìm đến ngôi cổ tự xa xôi này, ngày ngày lắng nghe tiếng tụng kinh, lòng dần bình ổn. Thế nhưng, hắn cũng hiểu rõ, hắn không thể cứ lẩn trốn mãi trong chốn rừng rú u tịch này.

Trong tay hắn cầm bức thư của Vương Huyền. Nội dung thư trích dẫn mấy câu trong Khởi cư chú: “Triệt níu vạt long bào của đế, đế giận dữ quát: “Ngươi muốn phản ư?” Triệt rơi lệ thưa: “Thần bất kính thiên tử, đáng chịu tội chết. Nhưng lòng dân dần mất, thần không dám không khuyên can.”

Lư Hoài siết chặt mảnh giấy mỏng tang, ánh mắt mơ hồ vô định. Trong đầu hắn vang vọng lại lời thề khi còn đương nhiệm Thiếu khanh ở Đại Lý Tự:

“Kẻ phạm pháp, dù là thân thích cũng phải phạt!”

Hắn đau đớn nhắm mắt.

Trong thư, Vương Huyên còn viết về tình hình hỗn loạn trong triều, Thái hậu và Thôi đảng giữ im lặng để tránh điều tiếng, chỉ có thanh lưu lên tiếng mạnh mẽ. Trong thư, Vương Huyên tỏ thái độ ngưỡng mộ khí tiết đó, nhưng vì tính cách yếu đuối, không dám liều mạng để can gián.

Vương Huyên là vì tính cách, nhưng còn Lư Hoài hắn thì sao? Không phải hắn vẫn tự xưng mình là người cương trực, không chịu khuất phục đó ư? Cái sự cương trực ấy, cái sự không khuất phục ấy, hiện đang ở đâu?

Vương Huyên dám ghi chép chuyện can gián này vào Khởi cư chú, chẳng lẽ hắn chỉ biết trốn mãi nơi rừng sâu núi thẳm?

Đôi mắt Lư Hoài dần mở ra, ánh mắt mơ hồ tan biến, thay vào đó là sự tỉnh táo đau đớn. Không, hắn không thể như vậy. Thúc phụ đối với hắn, ân trọng như núi. Nhưng ngoài là cháu của thúc phụ, hắn còn là bề tôi của Đại Chu, và hơn hết, hắn… là một con người.



Lư Hoài ẩn mình ở ngôi cổ tự vắng vẻ giữa núi rừng, còn Thôi Tuần thì cùng Lý Doanh lặng lẽ trú tại hậu viện của thư quán. Ba ngày trước, Long Hưng Đế triệu Thôi Tuần nhập cung, nhưng khi Kim Ngô Vệ đến Thôi phủ lại chẳng tìm thấy bóng dáng hắn. Suốt ba ngày sau, hắn bặt vô âm tín, chỉ truyền ra ngoài rằng đã đi tìm thần y chữa bệnh, khiến Long Hưng Đế cũng chẳng thể làm gì được hắn.

Dù ẩn thân trong thư quán, mọi biến động lớn nhỏ trong triều và dân gian đều được Thôi Tuần sai mật thám bẩm báo từng việc một. Khi nghe tin Hà Thập Tam cùng người khác liều chết dâng sớ, ấn đường hắn hơi nhíu lại. Đến lúc hay tin Tiết Vạn Triệt tiếp nhận đơn tố cáo, nơi ấy mới thoáng giãn ra. Nhưng khi nghe chuyện Tiết Vạn Triệt dám kéo áo Long Hưng Đế giữa triều đường, quyết không buông chỉ để thúc ép điều tra vụ án Thiên Uy quân, đôi mắt đen láy của hắn hiện lên sự xúc động sâu sắc.

Đợi mật thám lui xuống, Lý Doanh ngồi xuống cạnh hắn, khẽ nói: “Bọn họ dũng cảm hơn chàng nghĩ.”

Thôi Tuần gật đầu.

Ban đầu, kế sách của hắn chỉ là mượn lời khai được khắc lên mộc bản để khuấy động một vũng nước đục. Hắn không muốn lộ diện, chính là để dòng nước ấy càng thêm cuộn trào. Thế nhưng hắn không ngờ Hà Thập Tam và những người kia lại dám liều mạng dâng sớ, những vị thanh lưu từng khinh thường hắn như Tiết Vạn Triệt lại dám mạo hiểm chọc giận hoàng đế, tiếp nhận đơn kiện. Điều này quả thực vượt ngoài dự liệu của hắn.

Lý Doanh nói: “Thẩm Khuyết cũng được tạm hoãn hành hình, xem ra lòng dân Trường An còn sục sôi hơn chúng ta tưởng.”

Thôi Tuần gật đầu: “Trung thần bị gian thần hãm hại, rồi được rửa oan, gian thần bị trừng trị – đó vốn là vở diễn mà các gánh hát thích diễn nhất. Nay có một câu chuyện sống động như vậy, dân chúng sao lại không quan tâm cho được?”

Lý Doanh mỉm cười, ánh mắt lấp lánh chút yên lòng: “Chuyến đi Lĩnh Nam của chúng ta, cuối cùng cũng không uổng phí.”

Chuyến đi ấy được đánh đổi bằng tuổi thọ của Thôi Tuần. May mắn thay, kết quả còn tốt hơn những gì Lý Doanh mong đợi. Nàng khẽ hỏi: “Vậy bước tiếp theo, chàng định làm gì?”

Thôi Tuần trầm ngâm chốc lát rồi đáp: “Đi tìm bá phụ của ta.”

“Thôi Tụng Thanh?”

“Sở dĩ bá phụ không lên tiếng về vụ án này là vì lo sợ nếu ông tham dự, sẽ bị Lư Dụ Dân xuyên tạc thành tranh chấp giữa hai phe. Nhưng bá phụ ta là người có địa vị quan trọng trong triều. Nếu ông chịu lên tiếng, cơ hội thắng sẽ tăng lên rất nhiều.”

Nghe vậy, Lý Doanh vốn định hỏi vì sao hắn không đi tìm a nương nàng. Nếu a nương lên tiếng, chẳng phải cơ hội thắng sẽ lớn hơn sao? Nhưng nghĩ kỹ lại, nàng cũng dần hiểu ra. Sáu năm trước, người được lợi nhất từ vụ án Thiên Uy quân chính là a đệ nàng. Sáu năm sau, nếu vụ án này được rửa oan, thì người hưởng lợi lớn nhất tất nhiên là a nương nàng. Đến lúc đó, thế lực mà a đệ nàng dày công bồi dưỡng sẽ tan vỡ chỉ sau một đêm, nó cũng không còn sức chống lại a nương nàng nữa.

Vì vậy, a nương nàng không thể tùy tiện xuất hiện. Một mặt là để tránh hiềm nghi, phủ nhận liên quan đến lời cung khắc trên mộc bản. Bằng không, Lư Dụ Dân cùng những người khác nhất định sẽ công kích rằng mọi chuyện đều do bà sắp đặt, nhằm đoạt lại quyền lực từ tay a đệ nàng, khi ấy bà sẽ rơi vào thế bị động.

Mặt khác, có lẽ a nương vẫn còn giữ chút tình mẫu tử với a đệ.

Dẫu rằng trong hoàng thất vốn chẳng có tình thân, chuyện huynh đệ tương tàn, cha con sát hại nhau chẳng phải là hiếm. Nhưng a nương nàng lại là ngoại lệ. Bà là người nặng tình nghĩa, ngay cả khi Thẩm Khuyết muốn giết bà, bà cũng không đoạt mạng hắn. Đối với người cháu từng căm hận mình bà còn khoan dung như thế, huống chi là con trai ruột?

Lý Doanh thở dài trong lòng. Cả đời mẫu thân nàng chỉ có hai người con là nàng và a đệ. Nay nàng không còn ở bên, thì chỉ còn lại a đệ. Khi nhỏ a đệ từng có nhũ danh là Bồ Tát Bảo, mang ý nghĩa cầu mong Bồ Tát từ bi che chở. Chỉ từ cái tên đó cũng đủ thấy a nương nàng kỳ vọng điều gì ở đệ ấy. Không cầu vinh hoa phú quý, chỉ mong bình an.

Tình cảm mà a nương dành cho con ruột hết sức sâu sắc, nhất định không nỡ cắt đứt tình mẫu tử với a đệ. Vì thế, Thôi Tuần mới chọn đi tìm Thôi Tụng Thanh trước, chứ không phải là a nương.

Nghĩ đến đây, Lý Doanh không khỏi khâm phục khả năng thấu hiểu lòng người của Thôi Tuần. Nàng hỏi: “Chàng định khi nào đi tìm Thôi Tụng Thanh?”

“Đợi thêm hai ngày nữa.” Thôi Tuần đáp: “Để lòng dân càng thêm phần sục sôi.”

Vừa dứt lời, một cơn ho từ lồng ng.ực dâng lên khiến hắn không kìm được rồi ho khan. Lý Doanh liếc nhìn hắn, nói: “Muộn hai ngày cũng tốt, chàng tranh thủ tĩnh dưỡng thêm đi.”

Nàng đứng dậy, bưng đến một ấm thuốc làm bằng gốm. Vừa nhìn thấy ấm thuốc, Thôi Tuần lập tức cảm thấy da đầu tê dại: “Còn phải uống nữa sao?”

“Dĩ nhiên rồi.”

Giọng Thôi Tuần thấp hẳn đi, mang theo chút cầu khẩn dịu dàng: “Thật sự phải uống sao…”

Lý Doanh ngước mắt, mỉm cười nhìn hắn: “Đừng giả vờ đáng thương, ta không mắc bẫy đâu.”

Lời nàng vừa dứt, gò má trắng như ngọc của Thôi Tuần thoáng ửng hồng. Hắn vội biện bạch: “Từ lúc trở về Trường An, mỗi ngày ta đều phải uống hơn chục chén thuốc, quá nhiều thật mà…”

Lý Doanh chẳng buồn để tâm, chỉ khẽ cười, từ tốn mở nắp ấm. Không ngờ bên trong không phải là thang thuốc đen kịt, mà là chén cháo bách hợp phục linh màu trắng ngà.

Thôi Tuần ngạc nhiên: “Sao lại là cháo?”

Khóe mắt, đuôi mày Lý Doanh đều ánh lên nét tinh nghịch, tựa như muôn vì tinh tú lấp lánh: “Ta đâu có nói đó là thuốc.”

Lúc này, Thôi Tuần mới nhận ra mình bị nàng trêu chọc. Nghĩ lại chút tâm tư nhỏ bé không muốn phải uống thuốc khi nãy, hắn không khỏi đỏ mặt: “Nhưng nàng cũng đâu có bác bỏ…”

“Chàng sợ uống thuốc đến mức nhìn gì cũng thấy là thuốc.” Lý Doanh đùa giỡn.

Nàng múc một chén cháo bách hợp phục linh, đưa cho Thôi Tuần. Hắn nhỏ giọng hỏi: “Nàng không ăn sao?”

“Ta nấu riêng cho chàng đấy.” Lý Doanh dịu dàng nói: “Bách hợp trị mệt mỏi ho khan, phục linh điều hòa tỳ vị. Nói thế nào thì… cũng coi như thuốc.”

Thôi Tuần bật cười, nhận lấy chén cháo bạch sứ, từ tốn uống từng ngụm. Dáng vẻ hắn ăn cháo chậm rãi, tao nhã vô cùng. Lý Doanh chống cằm nhìn hắn, nàng chợt thở dài: “Ta bỗng nảy ra một ý nghĩ rất ích kỷ.”

“Hửm?”

“Ta lại muốn chàng ở lại thư quán thêm vài ngày, cùng ta quấn quýt thêm ít lâu.” Lý Doanh buồn bã nói: “Ý nghĩ này, có phải rất ích kỷ không?”

Thôi Tuần sững người, rồi ôn tồn đáp: “Minh Nguyệt Châu, ai rồi cũng sẽ có lòng riêng, ta cũng vậy.”

“Thật sao? Vậy lòng riêng của chàng là gì?”

Hắn nhìn nàng, chậm rãi nói: “Cũng chỉ là muốn cùng nàng ở lại thư quán này lâu thêm vài ngày, chỉ có hai chúng ta.”

Lần này đến lượt Lý Doanh ngẩn người, một lúc sau mới bật cười: “Nhưng chúng ta… vẫn sẽ không vì thế mà lưu lại lâu hơn.”

Cái gọi là lòng riêng, cuối cùng cũng chỉ là thoáng qua. Nàng và hắn, vĩnh viễn sẽ không đặt tình ý dây dưa lên trên hết.

Trong đời người, có đại nghĩa, có tiểu tình. Có người chọn đại nghĩa, có người chọn tiểu tình. Nhưng ngay cả người chọn đại nghĩa, suy cho cùng, cũng chỉ là một con người trần thế đa đoan, lẽ nào không thể để họ, nếu không tổn hại đến đại nghĩa thì vẫn được phép lưu luyến chút tình riêng?

Lý Doanh nắm lấy tay Thôi Tuần: “Nếu đã vậy, chúng ta hãy trân trọng những ngày ở thư quán này. Những ngày ấy, ta và chàng không nghĩ gì khác cả, chỉ có đôi ta quấn quýt bên nhau, được không?”

Thôi Tuần lặng lẽ nhìn nàng, khóe môi cong lên, gật đầu nói: “Được.”
 
Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh
Chương 128: Ngươi muốn bức vua thoái vị sao!



Những ngày sau đó, Lý Doanh và Thôi Tuần ở lại thư quán, thong dong gảy đàn dưới gió mát, đánh cờ dưới trăng, sống những ngày an yên vui vẻ. Dưới sự chăm sóc tỉ mỉ của nàng, sức khỏe hắn cũng khá hơn nhiều so với khi vừa trở lại Trường An.

Đến ngày thứ bảy, khi ván cờ cuối cùng sắp hạ xong, Thôi Tuần cầm quân đen đặt vào vị trí Thiên Nguyên, [1] khẽ cười nói: “Minh Nguyệt Châu, nàng thua rồi.”

[1] Nếu mình không nhầm thì đôi trẻ đang chơi cờ vây. Bàn cờ vây có hình vuông, có 19 đường ngang dọc giao nhau, tạo thành 361 giao điểm. Trên bàn có 9 chấm đen gọi là sao, giúp người chơi dễ dàng định vị trên bàn cờ. Sao chính giữa bàn cờ thường gọi là Thiên Nguyên hay tengen.

Lý Doanh buồn bực tự gõ đầu: “Vừa rồi ta không nên đi nước đó.”

Nàng thở dài, thản nhiên nói: “Nhưng cờ đã xuống là không hối hận, thua thì thua thôi, nào phải ta chưa từng thắng chàng.”

Sự thẳng thắn, phóng khoáng ấy, quả thật đúng như câu nói: Cờ phẩm như nhân phẩm.

Thôi Tuần chăm chú nhìn gương mặt trắng ngần như ngọc của nàng, nhất thời chẳng nỡ rời mắt. Hồi lâu sau, hắn mới khẽ nói: “Minh Nguyệt Châu, ta phải đi rồi.”

Đào Nguyên có đẹp đến đâu thì hắn vẫn phải quay về nơi trần thế. Lý Doanh nhìn hắn, bỗng mỉm cười: “Được, ta đợi chàng trở về.”

Lần này nếu không thành công thì chính là xả thân.

Nhưng nàng tin rằng, hắn nhất định sẽ thành công.



Quả nhiên, khi Thôi Tuần đặt chân vào phủ Thôi Tụng Thanh, Thôi Tụng Thanh vô cùng kinh ngạc: “Ngươi còn dám tới tìm ta?”

Ông nói: “Ngươi không biết sao, Thánh nhân tìm ngươi đến phát điên rồi.”

Thôi Tuần điềm nhiên đáp: “Nhưng bá phụ vẫn sẵn lòng gặp ta.”

Thôi Tụng Thanh hừ lạnh, không khẳng định cũng chẳng phủ nhận.

Thôi Tuần nói tiếp: “Bá phụ muốn biết rốt cuộc chuyện khắc in lời khai có phải do ta làm không chứ gì?”

Hắn thừa nhận: “Việc này, đúng là do ta làm.”

Thôi Tụng Thanh mặc dù đã đoán trước, nhưng khi Thôi Tuần thẳng thắn thừa nhận, ông vẫn cảm thấy bất ngờ. Nhớ lại việc Thôi Tuần từng đứng ra biện giải cho A Man trên triều hội, rồi lại kiên quyết xin đi Lĩnh Nam áp giải Thẩm Khuyết, bất chấp thân thể suy yếu, Thôi Tụng Thanh bỗng cảm thấy ông thật sự không hiểu rõ đứa cháu trai mà mình từng lấy làm khinh bỉ này.

Sau một hồi cân nhắc, ông hỏi: “Vì sao ngươi lại làm vậy?”

Thôi Tuần trả lời: “Ta muốn rửa oan cho Thiên Uy quân.”

“Ngươi?” Thôi Tụng Thanh đánh giá Thôi Tuần từ trên xuống dưới, ánh mắt lộ vẻ không tin: “Từ khi nào mà ngươi lại trở nên có khí tiết như vậy?”

Nghe lời này, Thôi Tuần không im lặng chịu đựng sự nhục mạ như thường lệ. Hôm nay hắn đến đây là để thuyết phục Thôi Tụng Thanh, mà muốn làm được điều đó, hắn buộc phải dứt bỏ sự kính trọng dành cho vị bá phụ này, phơi bày tất cả những toan tính trong lòng ông.

Vì vậy, Thôi Tuần bình tĩnh đáp: “Con người vốn phức tạp, cũng giống như bá phụ mang dang là Bạch y Khanh tướng, nhưng vì giữ mình mà chọn cách làm ngơ trước nỗi oan khuất của năm vạn Thiên Uy quân cùng máu và nước mắt của trăm họ sáu châu. Bá phụ lạnh lùng đứng nhìn các trung thần thân cô thế mỏng khổ sở kêu oan, bản thân lại giữ im lặng, chẳng hề mở miệng nửa lời.”

Lời của Thôi Tuần đánh trúng tim đen của Thôi Tụng Thanh. Bị hậu bối trực tiếp chỉ trích ngay trước mặt, ông ta không khỏi mất mặt, tức giận quát lớn: “Ngươi thì hiểu gì?”

“Ta hiểu.” Thôi Tuần đáp: “Trong lòng bá phụ có con đường riêng của mình. Con đường ấy chính là thực hiện cải cách, mang lại lợi ích cho muôn dân. Vì để hoàn thành con đường này, bá phụ không thể vì sự việc của Thiên Uy quân mà chịu đổ vạ lên đầu. Nếu Lư Dụ Dân vu cáo là kẻ đầu sỏ đứng sau vụ cung khai, biến vụ việc này thành một âm mưu tranh đấu nội bộ, bá phụ sẽ phải chịu sự giận dữ của thiên hạ, lúc ấy con đường của bá phụ cũng chẳng thể thực hiện nổi. Vì vậy, bá phụ lựa chọn những người đang sống và từ bỏ những người đã chết.”

Thôi Tụng Thanh bị vạch trần hết những tâm tư kín đáo, ông tức giận đến mức nâng tay lên định tát vào mặt Thôi Tuần, nhưng bàn tay ấy dừng lại giữa không trung, cuối cùng buông xuống. Thôi Tụng Thanh quay đi, chắp tay sau lưng, bước qua bước lại trong thính đường, một lúc lâu sau mới dần bình tĩnh lại: “Nếu ngươi đã biết người sống quan trọng hơn thì tại sao cứ phải vì người đã chết mà băn khoăn mãi?”

“Vì ta cũng có con đường của riêng ta.” Thôi Tuần nói rõ từng lời từng chữ một: “Hôm ấy, Thẩm Khuyết muốn giết ta, chính bá phụ đã cứu ta. Bá phụ hỏi ta, khi gặp phải Đột Quyết, sao không tự vẫn. Ta trả lời, vì ta có con đường phải hoàn thành, cho nên ta không thể chết. Lúc đó bá phụ không hiểu ta đang nói gì, hôm nay ta có thể nói với bá phụ rằng: con đường của ta chính là rửa oan cho năm vạn tướng sĩ Thiên Uy quân, để họ được yên nghỉ, để gia quyến còn sống không phải chịu thêm nhục nhã, để từng kẻ sát hại họ đều phải trả giá.”

Lời hắn rõ ràng, rành mạch. Thôi Tụng Thanh không khỏi hít một hơi khí lạnh, ông nhìn Thôi Tuần, như thể đang nhìn thấu hắn. Đây là đứa cháu mà ông từng kỳ vọng, rồi lại khiến ông thất vọng không ngừng, ông nói: “Đừng nói với ta rằng, sáu năm qua, ngươi đã nhẫn nhục chịu đựng. Ngươi học Câu Tiễn nằm gai nếm mật, học Dự Nhượng nuốt than nhuộm mình, sống chỉ để báo thù?”

Thôi Tuần im lặng một lúc, rồi nhẹ nhàng đáp: “Đúng vậy.”

Thôi Tụng Thanh ngẩn người.

Ông nhìn thẳng vào mắt Thôi Tuần, ánh mắt của Thôi Tuần bình thản như mặt hồ, không hề có chút né tránh. Thôi Tụng Thanh đờ đẫn một lúc lâu, rồi mới chậm rãi lên tiếng: “Rất tốt.”

Câu nói “rất tốt” này, không biết là khen câu trả lời của Thôi Tuần, hay đang khen chính con người hắn.

Ông nói: “Nói đi, hôm nay ngươi đến gặp ta, rốt cuộc là muốn ta làm gì?”

Thôi Tuần đáp: “Muốn xin bá phụ, thay Thiên Uy quân đòi lại công lý.”

“Không thể nào.” Thôi Tụng Thanh lập tức từ chối: “Con đường của ngươi và con đường của ta như nước với lửa, không thể dung hòa.”

Những lời này của Thôi Tụng Thanh đồng nghĩa với việc thừa nhận rằng, ông sẽ không để oan tình của Thiên Uy quân trở thành vật cản trên con đường thực thi tân chính. Trong lòng ông, người sống quan trọng hơn người chết, số đông quan trọng hơn số ít. Ba mươi năm trước, ông có thể khuyên Thái Xương Đế vì dân mà bỏ qua Lý Doanh, ba mươi năm sau, ông vẫn có thể vì dân mà bỏ qua việc đòi lại công lý cho Thiên Uy quân.

Thôi Tụng Thanh luôn tự cho mình là một vị quan tài ba, chứ không phải một bậc thánh hiền. Ông có lòng riêng, và lòng riêng ấy chính là tân chính. Vì tân chính, ông sẽ lạnh lùng tính toán sự sống chết của Lý Doanh, ông sẽ tính toán xem nếu nàng chết đi sẽ mang lại lợi ích gì cho thiên hạ, ông cũng sẽ tàn nhẫn coi thường nỗi oan khuất của Thiên Uy quân, và sự hy sinh của con dân sáu châu. Đối với sự tàn nhẫn ấy, ông không hề hối hận, ba mươi năm trước là như vậy, ba mươi năm sau vẫn sẽ như vậy.

Có thể nói, ông chính là ví dụ điển hình cho việc kiên quyết một đường đến tận cùng.

Với Lư Dụ Dân cũng vậy.

Chỉ có điều, Thôi Tụng Thanh và Lư Dụ Dân vẫn có sự khác biệt. Khác biệt là mặc dù Thôi Tụng Thanh có lòng riêng, nhưng ông vẫn giữ được đại tiết, dù một lòng muốn đi theo con đường của mình, ông cũng không thể để đất nước và dân chúng bị ngoại bang xâm lược, vẫn giữ được giới hạn mà người quân tử không thể vượt qua, đó chính là lý do vì sao Thôi Tuần còn muốn đến gặp ông để thuyết phục.



Đối mặt với sự từ chối của Thôi Tụng Thanh, Thôi Tuần không hề nản lòng: “Con đường của ta và con đường của bá phụ không phải là nước với lửa, ngược lại, con đường của ta sẽ giúp ích cho con đường của bá phụ.”

“Ồ?” Thôi Tụng Thanh nhướn mày: “Lời này nghĩa là sao?”

“Bá phụ nghĩ xem, trong việc thực thi tân chính, trở ngại lớn nhất ở triều đình là ai?”

Thôi Tụng Thanh không nghĩ ngợi gì mà đáp ngay: “Lư Dụ Dân.”

“Không phải vậy.” Thôi Tuần nói: “Là Thánh nhân.”

Thôi Tụng Thanh hơi sửng sốt, Thôi Tuần tiếp lời: “Chắc hẳn bá phụ đã nghe qua câu “một triều vua, một triều thần” rồi đúng không? Từ xưa đến nay, những vị hoàng đế muốn có thành tựu, sau khi lên ngôi, phần lớn đều định lại phương châm trị quốc, xa lánh những quan lại mà hoàng đế tiền nhiệm cất nhắc, thay vào đó là phát triển thế lực của riêng mình. Huống chi, vị hoàng đế đương triều còn có một người cha anh minh thần vũ và một người mẹ cường thế còn sống. Nếu muốn chứng minh bản thân, ngài ấy chỉ có thể bắt đầu từ việc phá bỏ tân chính mà cha mẹ để lại. Tân chính sai, tức là ngài ấy đúng. Ngài ấy chính là một vị hoàng đế vượt trội hơn cả cha ruột mình.”

Thôi Tụng Thanh ngẫm kỹ lời này, cũng cảm thấy rằng tâm lý chống đối tân chính của Thánh nhân có lẽ phần lớn là vì lý do này, ông thở dài: “Thánh nhân còn trẻ, lâu nay lại bị Lư Dụ Dân che mắt nên mới có suy nghĩ như vậy. Nếu Lư Dụ Dân bị trừng phạt, lại có các bậc thầy khác chỉ bảo thêm, chưa biết chừng Thánh nhân vẫn có thể trở thành minh quân bảo vệ được những gì đã có.”

Dù thuộc phe Thái hậu, nhưng người Thôi Tụng Thanh trung thành nhất vẫn là Tiên đế. Đương kim Thánh nhân là huyết mạch của Tiên đế, nên ông vẫn còn đặt kỳ vọng vào vị hoàng đế đương nhiệm. Thôi Tuần không bình phẩm gì về lời phát biểu này, hắn đáp: “Thánh nhân đã bị Lư Dụ Dân mê hoặc, cho dù Lư Dụ Dân có thất bại trong cuộc tranh giành đảng phái, thậm chí mất mạng, Thánh nhân vẫn có thể tạo ra một Lư Dụ Dân khác, tiếp tục đối đầu với Thái hậu, khiến tân chính thay đổi như cơm bữa. Nếu một ngày nào đó Thái hậu không còn nữa, tân chính khó tránh khỏi bị Thánh nhân bãi bỏ.”

Thôi Tụng Thanh trầm ngâm một lát, gật đầu đồng ý, rồi nói: “Vậy ngươi định làm gì?”

“Bá phụ, thay vì bo bo giữ mình, chi bằng người hãy liều một phen. Mượn vụ án Thiên Uy quân lần này để nhổ tận gốc thế lực của Thánh nhân, khiến Thánh nhân trở lại như sáu năm trước, chỉ là một quân vương không thực quyền, không thể tái lập một Lư Dụ Dân khác, cũng không thể cản trở việc thực thi tân chính. Như vậy, cho dù sau này Thái hậu không còn, tân chính đã thấm sâu vào lòng dân, Thánh nhân dù muốn hủy bỏ thì cũng sẽ không thể.”

Nghe vậy, Thôi Tụng Thanh vừa kinh ngạc vừa phẫn nộ, cuối cùng vung tay tát mạnh một cái: “Hỗn xược! Ngươi muốn bức vua thoái vị sao? Đây là việc không được phép làm của một thần tử!”

Thôi Tuần bị tát đến loạng choạng, gương mặt tái nhợt như tuyết lập tức sưng đỏ, đau nhói, nhưng hắn dường như không cảm thấy gì, chỉ nhẹ nhàng li.ếm vết máu nơi khóe môi, cười nhẹ nói: “Bá phụ, cái gì là việc không thể làm của thần tử? Ba mươi năm trước, bá phụ đã khuyên Tiên đế dìm chết công chúa Vĩnh An, chẳng lẽ đó mới là việc nên làm của một thần tử?”

Thôi Tụng Thanh kinh ngạc đến mức không nói nên lời: “Ngươi… ngươi làm sao mà biết được chuyện đó?”

“Trước khi chết, Kim Di đã bị giam giữ tại Sát Sự Thính, cho nên, ta đương nhiên có thể biết được.”

Thôi Tụng Thanh sắc mặt tái mét, từ kẽ răng nghiến ra vài chữ: “Ngươi muốn dùng chuyện này để uy h**p ta?”

Thôi Tuần lắc đầu: “Uy h**p? Ta chưa từng nghĩ đến chuyện đó. Việc ba mươi năm trước, ta tuyệt đối sẽ không nói với người thứ hai.”

Thôi Tụng Thanh thở phào, dường như bị hút hết sức lực, ông ngồi phịch xuống bàn gỗ tử đàn, Thôi Tuần lại nói: “Có lẽ trong mắt bá phụ, chỉ thừa nhận Thánh nhân là “quân” chứ không thừa nhận một nữ tử như công chúa là “quân”, nhưng ba mươi năm trước, bá phụ có thể vì con đường của mình, thuyết phục Tiên đế giết con gái bằng một loạt lý lẽ, thì vì sao ba mươi năm sau, người lại trở nên hồ đồ thế này?”

Thôi Tụng Thanh cắn răng, Thôi Tuần vẫn ung dung nói tiêp: “Hơn nữa, công chúa Vĩnh An đã dùng mạng sống của mình, đem đến cho Tiên đế một lý do hoàn hảo để giảm bớt thế lực các gia tộc, thúc đẩy tân chính. Còn việc khôi phục công lý cho Thiên Uy quân, chỉ là để Thánh nhân mất đi quyền lực, để triều đình không còn xuất hiện thêm một Lư Dụ Dân nào nữa, chứ không phải muốn mạng sống của Thánh nhân. So với công chúa Vĩnh An, ít nhất Thánh nhân vẫn được sống, bá phụ đã một lần không màng đến bổn phận thần tử, chẳng lẽ bây giờ vì bốn chữ “bổn phận thần tử” mà mắt nhắm mắt mở, trơ mắt nhìn tâm huyết cả đời mình tan thành mây khói sao?”

Hắn dừng một chút, rồi nói tiếp: “Việc lật lại bản án lần này chính là cơ hội tốt nhất để không ai còn cản trở tân chính. Nếu thất bại, tất nhiên sẽ vạn kiếp bất phục; nếu thành công, một lần vất vả nhưng yên ổn cả đời, từ đó không ai còn lay chuyển được tân chính. Bá phụ nên sớm đưa ra quyết định, nếu chần chừ không dứt khoát, ắt sẽ chuốc lấy tai họa.”

Nói xong, Thôi Tụng Thanh im lặng rất lâu, mãi một lúc sau mới thở dài: “Thôi được, đã làm nghịch thần một lần, thêm một lần nữa thì cũng đã làm sao.”



Hôm sau, Thôi Tuần, người đã mất tích bảy ngày, lần nữa khoác lên mình bộ quan phục đỏ sẫm, đến tham dự triều hội.

Vừa trông thấy hắn, Long Hưng Đế đã nổi cơn thịnh nộ, vừa định mở miệng trách mắng thì Thôi Tuần đã cầm sẵn hốt bản bằng ngà voi trong tay, bước ra khỏi hàng quan thần. Hắn khom người thi lễ rồi đứng dậy, bình tĩnh nói: “Bẩm Thánh nhân, thần có bản tấu xin được trình lên.”
 
Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh
Chương 129: Tội danh này, thần vạn lần không thể nhận



Lư Dụ Dân không chịu nổi sự công kích liên tục trong bảy ngày từ phía thanh lưu, đành cáo bệnh không thượng triều. Long Hưng Đế mất đi chỗ dựa vững chắc trong triều, hắn cười nhạo một tiếng, giọng điệu trào phúng: “Thôi khanh, thành Trường An loạn suốt bảy ngày, khanh cũng bệnh suốt bảy ngày, bệnh vừa khỏi, đã có bản tấu muốn dâng. Đúng là lo cho quốc gia dân chúng đến quên mình.”

Đối diện với lời lẽ mỉa mai của Long Hưng Đế, Thôi Tuần không hề biến sắc, hắn chỉ từ trong tay áo lấy ra một cuộn giấy gai trắng, cung kính quỳ xuống, hai tay dâng lên: “Bẩm Thánh nhân, thần có cung trạng của Kim Di, xin được trình lên.”

Long Hưng Đế tức giận đến mức sắc mặt thay đổi, đám quan lại trong triều cũng xôn xao bàn tán, Kinh Triệu Doãn Tiết Vạn Triệt cũng ngẩng cổ lên, chăm chú nhìn vào bản cung trong tay Thôi Tuần. Thôi Tuần tiếp tục: “Mấy ngày trước, khi Kim Di bị giam ở Sát Sự Thính, đã thú nhận một vài việc. Kim Di nói, sáu năm trước khi Khả hãn Ni Đô dẫn quân nam chinh xâm lược Đại Chu, Khả hãn Ni Đô không tấn công Phong Châu mà dẫn hai mươi vạn quân phục sẵn ở Lạc Nhạn Lĩnh, cách Phong Châu vài trăm dặm. Kim Di thấy lạ, liền hỏi thăm Phụ Ly Vệ Hồ Lộc, người được Khả hãn Ni Đô tín nhiệm nhất. Qua miệng Hồ Lộc, ông ta biết rằng Khả hãn Ni Đô có nội ứng ở Đại Chu. Nội ứng đã tiết lộ trước tuyến đường hành quân của Thiên Uy quân, vì vậy nên Ni Đô mới dẫn quân mai phục tại đó, chờ đợi để tiêu diệt Thiên Uy quân. Thiên Uy quân bị diệt toàn quân, không phải là vì khinh địch hay liều lĩnh, mà là bị ai đó cố tình hãm hại!”

Mỗi chữ của Thôi Tuần đều như một đòn đánh, khiến ai nấy đều không khỏi chấn động. Long Hưng Đế vịn chặt tay và ngự tọa, hắn nghiến răng nói: “Thôi khanh! Nếu khanh đã có cung trạng của Kim Di từ mấy tháng trước, vì sao đến nay mới dâng lên? Khanh có ý đồ gì?”

Thôi Tuần nghe vậy, bình tĩnh đáp: “Bẩm Thánh nhân, lời khai của Kim Di còn chưa rõ thực hư, thần không dám vội vàng trình lên, tránh làm rối loạn Thánh thính. Nhưng hiện giờ bản cung của Thẩm Khuyết đã lan tràn khắp Trường An, từng chữ từng câu đều ăn khớp với bản cung của Kim Di. Việc này hết sức trọng đại, để tránh gian thần tiếp tục hãm hại trung lương, thần bất đắc dĩ phải trình lên.”

Thôi Tuần nói như thể bản thân không có lựa chọn nào khác, nhưng Long Hưng Đế thừa hiểu, Thẩm Khuyết là do ai thẩm vấn? Không phải là Thôi Tuần hay sao? Cung trạng là do ai phát tán khắp Trường An? Chẳng phải vẫn là Thôi Tuần sao? Thôi Tuần dám giả bộ ngây thơ, như thể đang coi Long Hưng Đế là tên ngốc.

Long Hưng Đế tức giận đến tột độ: “Hay cho một nghĩa sĩ bất đắc dĩ! Hay cho một trung thần dám đứng lên trừ gian! Trẫm nào biết, Thôi khanh lại là người trung nghĩa đến vậy, nhưng ba năm qua, những quan viên chết thảm tại Sát Sự Thính, đều là đáng tội hay sao?”

Tiếng quở trách của Long Hưng Đế khiến quần thần nhớ đến những việc làm tàn bạo của Thôi Tuần trong ba năm qua, ai nấy đều không khỏi rùng mình. Phái thanh lưu vốn bị lời khai của Kim Di làm kinh hãi nay bỗng thấy dao động, nghe Long Hưng Đế nói vậy, họ liền chuyển từ thái độ khinh miệt đối với Thôi Tuần sang nghi ngờ về tính xác thực của bản cung khai được hắn trình lên.

Long Hưng Đế lại quát: “Từ khi khanh làm Thiếu Khanh ở Sát Sự Thính, bịa đặt tội danh, vu khống trung thần, dùng hình phạt tàn bạo để ép cung, từng việc từng việc vẫn còn rõ ràng, việc nào, việc nào đã làm tổn hại đến khanh, Thôi Tuần? Giờ khanh còn dám lợi dụng bản cung trạng này để tô vẽ mình thành trung thần nghĩa sĩ, khanh lấy đâu ra can đảm, lấy đâu ra mặt mũi?”

Đây là lần đầu tiên Long Hưng Đế công khai quở trách Thôi Tuần giữa triều đường. Lời lẽ của Long Hưng Đế vang dội, mỗi câu như dao sắc, khéo léo biến lời trình bày của Thôi Tuần thành sự xúc phạm nhân phẩm, khiến hắn từ người kêu oan trở lại thân phận thấp hèn. Mà lời của hạng thấp hèn, há lại có điểm đáng tin?

Triều đình lặng ngắt như tờ, các đại thần đưa mắt nhìn nhau. Không ít thanh lưu cũng dần tỏ ra tán đồng với những lời của Long Hưng Đế, thậm chí âm thầm khen ngợi sự nghiêm khắc đúng nơi đúng chỗ của người. Long Hưng Đế thừa cơ nói: “Thôi Tuần, Kim Di và Thẩm Khuyết, đều do khanh phụ trách giám sát. Thủ đoạn của khanh vốn nổi danh gần xa. Dưới sự bức ép của cực hình, muốn làm giả lời khai thì có gì là khó? Hừ! Việc Thẩm Khuyết tự khai tội trạng, dán khắp thành Trường An, chắc chắn không tránh khỏi có liên quan đến khanh. Nay khanh còn cầm cả lời khai của Kim Di đến đây, rốt cuộc là có ý gì? Hay phải chăng vu oan giá họa một bề tôi trung thành chưa đủ thỏa mãn khanh? Khanh còn muốn bức hại đến cả đế sư của trẫm? Hoặc có khi, khanh không chỉ muốn vu hại đế sư, mà còn muốn dồn trẫm vào bước đường cùng?”

Lời vừa dứt, bách quan trong điện sững sờ, kế đó đồng loạt quỳ xuống, đau đớn khôn cùng, nước mắt giàn giụa: “Thánh nhân thứ tội, thần vô cùng sợ hãi!”

Ngay cả Kinh Triệu Doãn Tiết Vạn Triệt cũng vội vàng quỳ xuống, nghẹn ngào thưa: “Thánh nhân vạn lần không thể như vậy! Thần… sợ hãi vô cùng!”

Long Hưng Đế đôi mắt đỏ hoe, hướng về phía Thôi Tuần, nói: “Thôi khanh, nếu khánh thấy trẫm không xứng làm hoàng đế, muốn bức trẫm thoái vị, trẫm đáp ứng khanh cũng được. Nhưng khanh không cần dùng loại thủ đoạn này, lợi dụng quốc nhục cách đây sáu năm, bịa đặt gian trá, kích động đám phụ lão yếu nhược đứng ra tố cáo kêu oan, khiến thành Trường An gà bay chó sủa, khiến các đại thần chủ chốt sống trong cảnh nơm nớp không yên. Nếu thiên hạ có thể thái bình trở lại, ngai vị này, trẫm nhường cho khanh, thì đã làm sao?”

Lệ nóng rơi xuống gò má Long Hưng Đế, quần thần trong điện càng khóc lóc dữ dội, cúi xuống dập đầu liên hồi. Một số thanh lưu tính tình ngay thẳng thậm chí bật khóc nức nở, chửi mắng Thôi Tuần: “Thân làm bề tôi sao có thể ép Thánh nhân đi đến nước này? Dù chúng ta có tan xương nát thịt, cũng quyết không để hạng gian thần như ngươi toại nguyện!”

Thôi Tụng Thanh cũng theo đó quỳ xuống, trong lòng khẽ thở dài. Ông không muốn nhúng tay vào việc lật án chính vì lo sợ cục diện ngày hôm nay xảy ra. Hiện tại, ông chỉ có thể cảm thấy may mắn vì mình chưa mở miệng, nếu không chỉ e đã bị Long Hưng Đế coi là đồng đảng của Thôi Tuần. Khi ấy, e rằng tân chính thật khó để cứu vãn nổi.

Một vài lão thần thanh lưu vì bất bình thay Long Hưng Đế, càng nói càng phẫn nộ, khóc lóc đến mức gào thét. Lư đảng cũng nhân đó công kích Thôi Tuần, cho rằng hắn bất kính với quân vương, đúng là đại nghịch bất đạo, đáng bị xử lăng trì để làm gương. Sự việc liên quan đến lời khai cũng đã bị xuyên tạc thành âm mưu bức vua thoái vị của Thôi Tuần.

Long Hưng Đế đang định sai Tả Hữu Kim Ngô Vệ áp giải Thôi Tuần xuống, thì giữa tiếng mắng mỏ sôi trào khắp đại điện, Thôi Tuần bỗng nhiên mỉm cười nhàn nhạt, buông một câu: “Thú vị thật.”



Mọi người trong điện đều sững sờ.

Ngay cả Long Hưng Đế cũng lộ vẻ kinh ngạc.

Một vị đại thần thuộc phái thanh lưu lớn tiếng trách mắng: “Chết đến nơi rồi còn không biết hối cải!”

Thôi Tuần chẳng buồn tranh luận, chỉ nâng mắt, nhìn lên Long Hưng Đế tọa trấn ở trên cao: “Thần quả thực phẩm hạnh thấp kém, chết chẳng đáng tiếc, nhưng như Đậu Hiến triều Hán, dù ngang ngược hống hách, là kẻ gian nịnh khét tiếng, vẫn có thể một trận đánh bại Bắc Hung Nô, lập nên công lao hiển hách. Hoặc như Hoa Hâm, liêm khiết ít d.ục v.ọng, phong thái cao vời, làm quan làm người đều không chê vào đâu được, lại để lại tiếng xấu vì phò tá Tào Ngụy đoạt triều nhà Hán. Người ta vẫn nói: “Nhân vô thập toàn, kim vô túc xích.” Thần không dám tranh luận về những gì mình đã làm, nhưng nếu Thánh nhân chỉ vì thần phẩm hạnh không trọn vẹn mà kết luận rằng thần ép buộc Thẩm Khuyết và Kim Di viết lời khai, rồi biến việc Thịnh A Man và những người khác kêu oan thành âm mưu bức vua thoái vị, thì tội danh này, thần vạn lần không phục.”

Lời nói của hắn càng lúc càng rõ ràng, âm thanh tựa chuông vàng ngọc thạch, vang vọng khắp đại điện: “Vụ án Thiên Uy quân vốn dĩ đã tồn tại vô số nghi điểm. Ví như Thẩm Khuyết làm thế nào biết được Thịnh Vân Đình đến Trường An cầu viện? Ví như thê tử của Bùi Quan Nhạc là Vương Nhiên Tê sao lại xuất hiện ở trạm dịch Trường Lạc? Những điều này, lẽ nào đều là thần bày vẽ mà thành? Chẳng lẽ thần có tài cán đến mức, sáu năm trước đã báo trước cho Thẩm Khuyết rằng Thịnh Vân Đình sẽ một mình cưỡi ngựa đến Trường An cầu viện? Hay là thần cũng điều khiển được Vương Nhiên Tê tham gia hãm hại Thịnh Vân Đình từ tận sáu năm trước?”

Hắn cười khổ một tiếng: “Nhưng thực tế là sáu năm trước, thần theo Quách soái bị vây khốn giữa trùng trùng vòng vây của Đột Quyết. Thần, làm sao có được bản lĩnh này?”

Thôi Tuần bất ngờ chuyển hướng câu chuyện, Long Hưng Đế thoáng khựng lại. Hắn tiếp lời: “Thánh nhân nói thần có ý đồ chiếm đoạt ngôi vị hoàng đế, tội danh này khiến thần kinh hãi không thôi. Thần thật không hiểu, lời này từ đâu mà ra? Thiên hạ hiện nay là thiên hạ của họ Lý, điều này ai ai cũng rõ. Thần không binh không tướng, dựa vào đâu để mưu đoạt hoàng vị? Huống hồ, thần không có hôn phối, lại không có con cái, mưu đồ chiếm ngôi để được gì? Nếu Thánh nhân chỉ vì bảo vệ thầy của mình mà gán tội danh này lên đầu thần, dù chết vạn lần thần cũng không dám nhận.”

Hắn phản bác từng tội danh Long Hưng Đế đặt ra, khiến vị đế vương trong chốc lát cũng không nói nên lời, mãi lâu sau mới lại lên tiếng: “Ngươi đừng khua môi múa mép. Một kẻ gian tà xảo trá như ngươi, nếu không có mưu đồ khác, vì sao lại đứng ra kêu oan cho Thiên Uy quân?”

Thôi Tuần nghe vậy, chỉ chậm rãi mở lời khai của Kim Di trên mặt đất. Trên tờ khai, nét mực đen xấu xí tương phản gay gắt với màu giấy trắng tinh. Hắn nói: “Thần quả thực gian tà, nhưng kẻ gian tà cũng có thể cảm phục trước máu đỏ tim hồng của các tướng sĩ Đại Chu. Mỗi tấc sơn hà đều thấm đẫm máu xương trung liệt. Năm vạn binh sĩ Thiên Uy quân không ngại hiểm nguy, dốc sức đánh Đột Quyết, nhưng lại bỏ mình tại Lạc Nhạn Lĩnh. Nếu họ chết bởi gươm đao rõ ràng thì đã không oán trách, nhưng nếu họ chết vì âm mưu thâm độc, thì làm sao họ nhắm mắt cho nổi?”

Hồi ức hiện lên trong tâm trí hắn: chiếc khăn lụa vấy máu trong ngực quân Đột Quyết bị hắn giết, hình ảnh Lục Nhị đói khát đến nỗi ăn cả vỏ cây, nhai ngấu nghiến nửa cái bánh bột mì. Mắt hắn nóng lên, giọng nói trầm xuống: “Nếu các vị có thể đến Lạc Nhạn Lĩnh, sẽ thấy mỗi tấc đất nơi ấy đều rải rác những mảnh xương trắng cùng tứ chi tàn khuyết của Thiên Uy quân, mỗi cơn gió nhẹ thoảng qua đều mang theo máu và nỗi oan khuất của họ. Thần kính trọng sự trung dũng của họ, mong muốn làm rõ oan tình này. Thử hỏi thần sai ở đâu? Lẽ nào Thánh nhân, cùng các vị đại nhân tại đây, chỉ vì tờ cung trạng này do thần trình lên mà nhất quyết quay lưng với sự thật, bỏ mặc oan khuất của Thiên Uy quân? Ha! Nếu các vị thật sự căm ghét thần đến vậy, thần sẵn sàng tự kết liễu, chỉ cầu xin các vị đừng để những tướng sĩ bảo vệ giang sơn xã tắc phải ôm mối hận nơi cửu tuyền, vĩnh viễn không thể an nghỉ!”

Hắn nói xong, liền cúi đầu thật mạnh, những triều thần vừa rồi còn lớn tiếng quở trách hắn cũng dần im bặt không nói. Long Hưng đế siết chặt nắm tay, ánh mắt căm giận đến đáng sợ. Kinh Triệu Doãn Tiết Vạn Triệt bặm môi, bước ra khỏi hàng, quỳ xuống và dập đầu thưa: “Bẩm Thánh nhân, thần với Thôi Thiếu Khanh vốn chẳng hề quen biết, thậm chí thần từng nhiều lần dâng tấu luận tội hắn. Thần lấy mạng sống của mình để đảm bảo rằng giữa thần và hắn chưa từng có qua lại. Nhưng hôm nay, thần tán đồng lời hắn nói. Thần từng giữ chức Thứ sử Dương Châu suốt bảy năm, Giang Nam phồn hoa phú quý, phố chợ đầy ắp ngọc ngà, nhà nhà lụa là gấm vóc. Song Giang Nam có được sự phồn vinh ấy, chẳng phải là nhờ máu thịt của biết bao thế hệ tướng sĩ trấn giữ biên cương mang ra để đánh đổi hay sao? Nếu không có những tướng sĩ ấy, cầu khói liễu Giang Nam, màn xanh rèm biếc, sớm đã bị vó sắt Hồ Lỗ giẫm nát, chẳng khác nào thời Ngũ Hồ loạn Hoa. Họ dùng tính mạng của mình để bảo vệ Giang Nam ca múa thơ văn, bảo vệ thời thái bình của Đại Chu. Thế nhưng, chính họ lại phải chịu đựng những ngày vùi thân trong cát vàng gió lớn, màn trời chiếu đất, phải hy sinh bản thân. Những tướng sĩ ấy chính là anh hùng của Đại Chu! Anh hùng, dù chết cũng nên chết trên chiến trường, chứ không phải vì âm mưu, toan tính mà vong mạng. Thần, Tiết Vạn Triệt, khẩn cầu Thánh nhân tra rõ chân tướng vụ án Thiên Uy quân!”

Theo lời Tiết Vạn Triệt, những thanh âm đồng thuận vang lên, những người trong hàng ngũ thanh lưu vốn còn lưỡng lự giờ đây cũng bước ra, lần lượt quỳ xuống, dập đầu: “Thần Văn Ngạn, khẩn cầu Thánh nhân tra rõ vụ án Thiên Uy quân!”

“Thần Triệu Thành Trung, khẩn cầu Thánh nhân tra rõ vụ án Thiên Uy quân!”

“Thần Thượng Quan Cảnh, khẩn cầu Thánh nhân tra rõ vụ án Thiên Uy quân!”

“Thần Phương Tử Lương, khẩn cầu Thánh nhân tra rõ vụ án Thiên Uy quân!”

Hàng ngũ thanh lưu ngày một đông hơn. Thôi Tuần đứng trước khung cảnh ấy không khỏi xúc động. Hắn lại dập đầu mạnh mẽ: “Thần biết Thánh nhân vẫn còn nghi ngờ thần. Thần nguyện vì tránh hiềm nghi mà không tham gia, không can dự hay hỏi han bất cứ điều gì liên quan đến vụ án này. Chỉ mong Thánh nhân tra rõ vụ án Thiên Uy quân!”

Trong số những người im lặng quan sát từ đầu, Thôi Tụng Thanh đứng dậy, vẻ mặt nghiêm trang. Ông cũng bước ra khỏi hàng ngũ, quỳ xuống dập đầu: “Thần Thôi Tụng Thanh, khẩn cầu Thánh nhân tra rõ vụ án Thiên Uy quân!”

Thôi Tụng Thanh vừa bước ra, cục diện đã không còn gì để tranh cãi. Toàn bộ những người thuộc Thôi đảng đã quỳ rạp dưới chính điện, đồng loạt thỉnh cầu Long Hưng Đế tra rõ chân tướng. Thanh lưu và Thôi đảng cộng lại đã chiếm hơn một nửa triều đình, còn chưa kể đến những người thuộc Lư đảng nhưng vẫn còn một chút lương tri cũng quỳ theo. Xưa nay Lư đảng và Thôi đảng không đội trời chung, thường xuyên công kích lẫn nhau vì khác biệt quan điểm, nhưng gạt bỏ mâu thuẫn bè phái, họ vẫn là những con người biết phân biệt đúng sai, thấu tình đạt lý.

Long Hưng Đế vừa kinh hãi vừa phẫn nộ, chỉ tay về đám đông đang quỳ gối chật kín dưới điện: “Các ngươi… các ngươi muốn mưu phản hay sao?”

Hắn gào thét đến khản cả giọng, nhưng một tiếng quát đúng lúc vang lên, chặt đứt mọi niệm tưởng còn sót lại của hắn.

Thái hậu từ bên ngoài chậm rãi bước vào, ánh mắt sắc bén nhìn Long Hưng Đế, giọng điệu lạnh lùng: “Thánh nhân, người làm loạn đủ chưa?”
 
Back
Top Bottom