Chào bạn!

Để có thể sử dụng đầy đủ chức năng diễn đàn Của Tui À bạn phải đăng nhập hoặc đăng ký.

Đăng Ký!

Dịch Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh

Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh
Chương 100: Đừng để trung hồn nơi cửu tuyền lạnh giá!



Trong điện Tử Thần, ngự tọa được chế tác từ gỗ tử đàn kim diệp, hoa văn chạm khắc tinh xảo, phía trên lót đệm mềm êm ái. Thịnh A Man lóng ngóng quỳ xuống trước Thánh nhân đang ngồi trên ngự tọa, hành lễ ba quỳ chín lạy không mấy chuẩn mực. Đến khi ngẩng đầu lên, nàng mới được tận mắt nhìn thấy dung nhan Thánh nhân.

Chỉ thấy dung mạo Thánh nhân tú nhã, khí chất trong trẻo như ngọc, quả nhiên giống như lời truyền tụng trong dân gian, người là một mỹ nam tử hiếm có. Thái hậu ẩn mình sau rèm châu, nàng không thể nhìn rõ mặt bà. Thái hậu thoái vị từ lâu, bình thường chỉ ẩn cư tại cung Bồng Lai, không phải đại sự thì sẽ không xuất hiện. Có lẽ vì bị cáo lần này là cháu ngoại của mình, nên Thái hậu mới phá lệ, ngồi sau màn che trấn giữ điện Tử Thần.

Hai người này chính là đấng chí tôn của Đại Chu, là những người cả đời này nàng chưa từng nghĩ sẽ có ngày được gặp mặt. Thịnh A Man quỳ trên mặt đất, đầu ngón tay căng thẳng đến mức như muốn khứa vào sàn gỗ mun. Trong tai nàng vang vọng lời nhắn của Thôi Tuần: “Đừng sợ.”

Lời nói ấy giúp nàng dần bình ổn lại. Phải, nàng đến để kêu oan cho a huynh, nàng không sai, nàng không cần phải sợ.

Thịnh A Man cúi đầu, dõng dạc nói: “Dân phụ Thịnh A Man, khấu kiến Thái hậu, khấu kiến Thánh nhân.”

Long Hưng Đế gật đầu, thanh âm nhẹ nhàng, thanh tao như vẻ bề ngoài: “Thịnh A Man, ngươi gõ trống Đăng Văn, muốn tố cáo ai?”

“Dân phụ muốn tố cáo Thẩm quốc công Thẩm Khuyết.” Thịnh A Man nghẹn ngào, từng chữ rõ ràng: “Tố cáo hắn gi.ết ch.ết a huynh của dân phụ, Ngu hầu Thiên Uy quân, Thịnh Vân Đình!”

“Ngươi hãy kể rõ ra xem.”

“Năm nay vào tiết Hàn Thực, tại tiệc thưởng xuân, đó là lần đầu dân phụ gặp Thẩm quốc công Thẩm Khuyết. Tại yến tiệc, hắn không tiếc lời nhục mạ dân phụ, còn nói rằng hắn làm vậy là vì a huynh của dân phụ, Thịnh Vân Đình.”

Nghe đến đây, Đại Lý Tự Thiếu khanh Lư Hoài vốn đang sa sút tinh thần bỗng ngẩng đầu lên. Hắn nhớ ra rồi, người đang quỳ giữa đại điện, chẳng phải chính là tỳ bà cơ từng bị Thẩm Khuyết sỉ nhục hôm đó sao?

Hôm ấy, khi thấy cảnh Thẩm Khuyết nhục mạ nàng, hắn không đành lòng, muốn lên tiếng can thiệp, nhưng bị bằng hữu Vương Huyên ngăn lại. Cuối cùng, vì nể mặt thúc phụ, hắn đành kìm nén, giận dữ rời đi, không can dự thêm.

Về sau, hắn nghe nói Thôi Tuần vì nàng mà xung đột với Thẩm Khuyết trong yến tiệc. Thẩm Khuyết chịu thiệt thòi không nhỏ. Nghĩ đến đây, Lư Hoài cúi đầu, sắc mặt u sầu, vẻ mặt hối hận.

Hắn tự vấn: Thôi Tuần còn dám đứng ra, tại sao ta lại thua kém một kẻ tiểu nhân như Thôi Tuần? Nguyên tắc làm người của ta đâu? Những cuốn sách Thánh hiền ta đọc đâu? Câu đối “kẻ phạm pháp, dù thân thích cũng phải phạt” mà ta từng viết đâu? Ta, Lư Hoài, liệu có xứng mặc quan phục này, làm một vị Thiếu khanh tứ phẩm của Đại Lý Tự không?

Lư Hoài còn đang đau khổ giằng xé, Thịnh A Man đã tiếp tục kể lại: “Khi đó, dân phụ đã cảm thấy rất kỳ lạ. Lúc sinh thời, a huynh của dân phụ chẳng qua cũng chỉ là một Ngu hầu nhỏ nhoi, còn Thẩm Khuyết lại là Quốc công, sao phải căm hận a huynh của dân phụ đến như thế? Về sau, Thẩm Khuyết bôi nhọ danh tiết của dân phụ, lại nạp dân phụ làm thiếp. Ở phủ Quốc công, hắn không ít lần buông lời nhục mạ a huynh của dân phụ. Vì nghi ngờ nên dân phụ quyết định theo hắn đi đày đến Lĩnh Nam, mượn cơ hội tìm kiếm chứng cứ.”

Nghe đến đây, mười học sĩ Quốc Tử Giám đều ánh lên vẻ kính phục. Phải biết rằng, Lĩnh Nam đường sá hiểm trở, Thịnh A Man chỉ là một nữ tử yếu ớt, vì báo thù cho anh trai mà nàng dám liều mình, đúng là hết sức đáng kính.

Thịnh A Man nói tiếp: “Sau khi dân phụ và Thẩm Khuyết đến Lĩnh Nam, dân phụ giả vờ thuận theo để lấy lòng tin của hắn. Cuối cùng, một ngày nọ, dân phụ chuốc cho hắn say mèm. Trong cơn say, hắn nghẹn ngào bảo rằng mình có lỗi với dân phụ. Dân phụ hỏi hắn có lỗi gì, hắn đáp, hắn đã giết a huynh của dân phụ.”

Nhớ lại lời thú tội của Thẩm Khuyết trong cơn say, nước mắt Thịnh A Man lã chã tuôn rơi. Nàng nức nở nói: “Thẩm Khuyết bảo rằng sáu năm trước, a huynh của dân phụ bị vây khốn cùng với Thiên Uy quân, phải đến Trường An cầu viện. Khi đi ngang trạm dịch Trường Lạc, huynh ấy đã bị Thẩm Khuyết và phu nhân của Bùi Quan Nhạc là Vương Nhiên Tê lừa vào trong, rồi bị loạn đao chém chết. Thi thể bị chôn dưới cửa Thông Hóa, mãi đến sáu năm sau mới được phơi bày…”

Thịnh A Man đã khóc không thành tiếng, nàng dập mạnh đầu: “A huynh của dân phụ chết quá oan uổng! Cầu xin Thái hậu và Thánh nhân tra xét, bắt Thẩm Khuyết, trả lại công đạo cho a huynh của dân phụ!”

Trán nàng đập xuống nền gỗ đến đỏ bầm. Chư thần và các học sĩ Quốc Tử Giám đều xì xào bàn tán. Trên ngự tọa, Thánh nhân mặt không đổi sắc, sau rèm châu, biểu cảm của Thái hậu càng không rõ là vui hay giận. Một lát sau, Thánh nhân chậm rãi lên tiếng: “Thịnh A Man, đây chỉ là lời nói từ một phía của ngươi. Ngươi có chứng cứ nào không?”

“Có!” Thịnh A Man lau nước mắt: “Khi Thẩm Khuyết giết a huynh của dân phụ, trường kiếm và giáp trụ của hắn đều thấm đầy máu a huynh. Hắn nói, hắn ghê tởm máu của a huynh dân phụ thấp hèn, nên đã vứt kiếm, cởi giáp, ra lệnh cho thuộc hạ tên Dương Hành đem chôn. Chỉ cần bắt được Dương Hành tra khảo, ắt sẽ tìm ra kiếm và giáp trụ, mọi chuyện sẽ dần có manh mối.”

Nghe xong, Thánh nhân liếc sang Lư Dụ Dân. Ông ta bước ra khỏi hàng, nói: “Bẩm Thái hậu, Thánh nhân, cho dù đào được thanh kiếm và giáp trụ, cũng không thể chứng minh điều gì. Biết đâu được, có kẻ cố tình mua chuộc Dương Hành, bảo hắn chôn những thứ này nhằm ngụy tạo bằng chứng. Chỉ dựa vào lời nói phiến diện của một nữ nhân mà bắt giam Quốc công thế tập, thần cho rằng không thỏa đáng.”

Thịnh A Man nghe vậy, liền phẫn nộ: “Các người còn chưa bắt được Dương Hành mà đã nghi có người mua chuộc hắn? Hơn nữa, ta là nữ nhân thì sao? Nữ nhân nói thật lại bị coi là phiến diện? Nếu đã vậy, chi bằng sửa luật Đại Chu, cấm toàn bộ nữ nhân không được phép cáo trạng cho xong!”

Lư Dụ Dân chưa bao giờ bị người khác mắng thẳng mặt như vậy. Ông ta đỏ mặt tía tai, môi run lên, mãi mới nghẹn ra hai chữ: “Điêu phụ!”

Thánh nhân buộc phải lên tiếng: “Thịnh A Man, không được vô lễ!”

Thịnh A Man nghiến chặt răng, không thốt một lời. Lại có một người thuộc Lư đảng bước ra, cao giọng nói: “Thịnh A Man vốn là nhạc cơ giáo phường, loại đàn bà này ham phú phụ bần, bạc tình vô nghĩa. Chắc vì cuộc sống ở Lĩnh Nam quá khổ cực nên nàng ta muốn hòa ly với Thẩm quốc công, bịa ra câu chuyện hoang đường này. Nếu chỉ dựa vào lời vu khống của một kỹ nữ mà bắt bớ hoàng thân quốc thích, chẳng phải sẽ khiến thiên hạ chê cười sao?”

Nếu như lời của Lư Dụ Dân vừa rồi vẫn chừa cho chút đường lui, thì lời nói của viên đại thần kia chính là sự miệt thị tr.ần trụi. Sắc mặt Thôi Tuần và Lư Hoài đều biến đổi, ngay cả mười học tử Quốc Tử Giám cũng lộ rõ vẻ bất bình. Thịnh A Man giận đến mức toàn thân run rẩy, nàng hét lớn: “Ngươi nói bậy!”

Viên đại thần bị mắng đến ngây người. Thịnh A Man nói tiếp: “Ta là kỹ nữ, vậy Thẩm Khuyết từng trói ta vào giường, bất chấp ý nguyện của ta hãm h**p ta là thứ gì? Là cầm thú sao? Kỹ nữ không xứng kiện cáo, nhưng cầm thú lại xứng làm hoàng thân quốc thích?”

Lời nàng thốt ra quá thẳng thừng, khiến sắc mặt của Long Hưng Đế lập tức đổi khác. Sau rèm châu, Thái hậu ho khan thành tiếng. Vị lão thần ngoài sáu mươi tuổi kia mặt mũi đỏ gay, run run chỉ vào Thịnh A Man, mãi sau mới mắng được một câu: “Ngươi… ngươi thật… vô liêm sỉ!”

Thịnh A Man cười lạnh: “Thẩm Khuyết làm được, tại sao ta lại không nói được? Sao ngài không mắng Thẩm Khuyết làm chuyện vô sỉ đi?”

Vị đại thần ấy vừa xấu hổ vừa giận dữ, ấp úng hồi lâu không nói nổi lời nào. Long Hưng Đế đành lên tiếng hòa giải: “Thịnh A Man, hôm nay triệu ngươi đến là để làm rõ chuyện Thẩm Khuyết giết huynh trưởng ngươi, không được lạm bàn chuyện khác.”

Nhưng lần này, Thịnh A Man không chịu im lặng. Nàng bỗng bật cười, giọng chua xót: “Ta hiểu rồi. Nào là nói Dương Hành bị mua chuộc, nào là nói ta là kỹ nữ. Ta là nguyên cáo, lại một đám người tụ lại soi mói bắt bẻ đủ điều, trong khi Thẩm Khuyết là bị cáo, ngay cả một lời hỏi cung cũng không buồn hỏi tới. Chẳng phải chỉ vì Thẩm Khuyết là anh họ của Thánh nhân thôi sao? Thánh nhân không muốn trừng phạt anh họ của mình, Thái hậu không muốn trách phạt cháu trai của mình. Nhưng mạng của a huynh ta thì sao? Huynh ấy chỉ là một Ngu hầu nho nhỏ, còn chưa làm đến chức cửu phẩm, thế nên ai thèm để ý chứ?”

Lời này như sấm nổ ngang tai, khiến Long Hưng Đế trợn mắt không thốt được câu nào, văn võ bá quan cùng chết lặng. Lư Dụ Dân là người phản ứng trước tiên, lớn tiếng: “Điêu phụ! Láo xược!”

Kim Ngô vệ lập tức rút gươm, quát: “Láo xược!”

Ánh thép lạnh lẽo lóe sáng phản chiếu vào đôi mắt Thịnh A Man. Nàng nhấc nhẹ ống tay áo che đi ánh mắt. Trong điện Tử Thần rộng lớn, sau rèm châu là Thái hậu đang ngồi uy nghi, trên ngự tọa là Thánh nhân cao cao tại thượng, dưới đại điện là quần thần đông nghịt như mây cùng nhưng học sĩ của Quốc Tử Giám. Ở đây, bất kỳ ai cũng có thân phận và địa vị cao quý hơn nàng. Mỗi mình nàng đang quỳ là thấp hèn, yếu ớt, như một con kiến nhỏ bé bị họ mặc sức chà đạp. Dù có bị giẫm chết, nàng cũng không đủ sức kêu lên.

Bỗng nhiên, Thịnh A Man bật cười lớn. Lư Dụ Dân nhíu mày, tức tối quát: “Nữ nhân ngông cuồng! Ngươi cười cái gì?”

Thịnh A Man không trả lời, chỉ chậm rãi đứng dậy. Trước sự kinh ngạc của Lư Dụ Dân, nàng bước tới đối diện ông ta: “Lư tướng công phải không? Dân gian ca tụng ngài thanh liêm chính trực, một lòng vì bách tính. Nhưng chẳng lẽ ta không phải bách tính? Chẳng lẽ a huynh của ta không phải bách tính? Thanh liêm chính trực của ngài đâu rồi? Một lòng vì dân của ngài đâu rồi? Hay ngài nên nói thẳng với thiên hạ rằng ngài chỉ là một kẻ giả tạo, hám danh, chỉ những kẻ như Thẩm Khuyết, là hoàng thân quốc thích, mới xứng đáng làm bách tính, mới xứng đáng để được ngài bảo vệ?”

Lư Dụ Dân giận đến mức mặt xanh mét. Thịnh A Man lại bước đến trước mặt Thôi Tụng Thanh, người từ đầu đến cuối vẫn im lặng: “Thôi tướng công, danh tiếng của ngài lớn lắm, đến ta cũng nhận ra ngài. Ngài là Bạch y Khanh tướng, đã mở đường cho biết bao học trò nghèo vươn lên làm quan. Nhưng a huynh của ta, Thịnh Vân Đình, cũng xuất thân hàn vi. Tuy huynh ấy không phải người đọc sách, lại là một người thô thiển, nhưng đã có mười năm trấn giữ biên cương, mang bao thương tích lớn nhỏ. Chính nhờ những người như huynh ấy nên ngài mới có thể an nhàn ngồi ở nhà, nghĩ cách giúp học sĩ hàn môn nhập vào quan trường. Huynh ấy giúp ngài thực hiện mộng tưởng, còn ngài thì sao? Ngay cả lấy lại công bằng cho huynh ấy, ngài cũng không muốn. Vậy, ngài xứng đáng được gọi là Bạch y Khanh tướng sao?”

Thôi Tụng Thanh bàng hoàng, còn chưa kịp phản ứng thì Thịnh A Man đã bước lên trước mặt Lư Hoài: “Vị tướng công này, ta không quen biết ngài. Ngài không nói gì, phải chăng cũng cảm thấy ta không nên tố cáo? Nhưng, ngài không có huynh đệ của mình ư? Ngài không có tỷ muội nào sao? Nếu người thân chí cốt của ngài bị sát hại tàn nhẫn, ngài vẫn không muốn báo thù? Đừng nghĩ rằng chuyện này không liên quan đến ngài. Ngài là đại quan, nhưng vẫn còn những kẻ quyền thế hơn ngài. Hôm nay, người chịu oan ức không thể giãi bày là ta – Thịnh A Man, nhưng một ngày nào đó, đó có thể sẽ là bất kỳ ai trong số các vị đang ngồi trong điện này.”

Nàng lại bước đến trước mặt đám học trò của Quốc Tử Giám: “Chư vị đều là người đọc sách Thánh hiền, cao quý hơn ta. Ta tuy thấp hèn, nhưng cũng biết câu nói: “Vương tử phạm pháp, đồng tội với thứ dân.” Các vị dùi mài kinh sử, cũng là để một ngày có thể tận tâm cống hiến cho quốc gia. Nhưng nếu quốc gia này, vì che chở cho một kẻ ăn chơi trác táng không chuyện ác nào không làm, mà nhắm mắt làm ngơ trước nỗi oan của một tướng sĩ bảo vệ bờ cõi, thử hỏi, các vị đọc sách vì cái gì? Cống hiến vì cái gì?”

Mười học sĩ đồng loạt đứng hình. Trán Long Hưng Đế đã nổi gân xanh. Lư Hoài giận dữ, chỉ vào Thịnh A Man, tay run rẩy, định mắng nàng đại nghịch bất đạo, lập tức ra lệnh áp giải nàng khỏi điện. Nhưng ông ta còn chưa mở lời, đã thấy Thôi Tuần trong bộ quan phục đỏ thẫm bỗng nhíu mày.

Thôi Tuần bước ra, tay cầm hốt bản bằng ngà voi, giọng điệu lạnh lùng: “Câm miệng!”

Thịnh A Man sửng sốt. Thôi Tuần quát: “Quỳ xuống!”

Nàng bất động, hắn lặp lại, giọng càng nghiêm khắc: “Quỳ xuống!”

Giọng nói ấy khiến nàng ngơ ngẩn. Hắn gần như chưa từng nói chuyện với nàng bằng ngữ điệu này. Thế nhưng, chính giọng điệu ấy khiến nàng bất giác nhớ lại người anh đã khuất. Thuở nhỏ, mỗi lần nàng gây họa, người ấy sẽ trách mắng nàng như vậy, rồi sau đó âm thầm thu dọn rắc rối, thay nàng nhận lỗi.

Ký ức ùa về, nàng lại nhớ trước khi vào điện Tử Thần, hắn đã mạo hiểm nhắc nhở nàng rằng chỉ có một cơ hội duy nhất để thuyết phục những người trong điện. Nhưng có lẽ nàng… đã làm hỏng tất cả.

Mũi A Man cay xè, nàng cúi đầu, ngơ ngác quỳ xuống. Khoảnh khắc ấy, trái tim nàng như trút bỏ gánh nặng. Nàng biết mình đã nói những lời khi quân phạm thượng, nhưng không sao, cùng lắm là chịu cảnh tru di. Nàng không sợ. Chết rồi, xuống đến Địa phủ gặp lại a huynh, nàng vẫn sẽ ngẩng cao đầu mà không phải hổ thẹn.

Thôi Tuần hành lễ với Thái hậu và Long Hưng Đế, nói: “Điêu phụ này vì cái chết của huynh trưởng mà đau lòng quá độ, ăn nói điên rồ. Xin Thái hậu và Thánh nhân giáng tội.”

Thái hậu và Long Hưng Đế chưa kịp lên tiếng thì Lư Dụ Dân đã không kìm được mà gầm lên: “Thôi Tuần! Ngài bớt làm bộ làm tịch đi! Ai chẳng biết ngài từng vì ả đàn bà này mà động thủ với Thẩm Khuyết? Ngài định lấy cái cớ đau lòng quá độ để ả sẽ được miễn tội hay sao?”

Thôi Tuần thản nhiên đáp: “Điêu phụ này tất nhiên đáng tội chết. Nhưng thưa Lư tướng công, các người vừa mắng nàng vu cáo, vừa nhục mạ nàng là kỹ nữ, cả một đám nho sĩ đọc sách Thánh hiền, lại dùng những lời cay nghiệt để ức h**p một nữ tử yếu đuối đã mất đi huynh trưởng, làm vậy mới phải đạo hay sao?”

Lư Dụ Dân tức đến bật cười, nói: “Thôi Thiếu khanh, hôm nay ngài định che chở ả đàn bà này đến cùng đúng không?”

Thôi Tuần chỉ nhếch môi, nụ cười đầy vẻ giễu cợt, rồi quay người quỳ xuống trước mặt Long Hưng đế. Hắn gỡ chiếc mũ quan trên đầu, đặt sang một bên, sau đó dập đầu nói: “Thịnh Vân Đình trấn thủ biên cương mười năm, tận trung báo quốc. Nay y chết không rõ ràng, máu chảy nhuộm đỏ hung khí, vậy mà vẫn bị hung thủ khinh miệt là huyết mạch hèn kém. Thật là bi ai! Thật là đáng hận! Hạ thần xin lấy chức vụ Thiếu khanh của Sát Sự Thính và tính mạng của mình, khẩn cầu Thái hậu và Thánh nhân điều tra đến cùng vụ án này, đừng để trung hồn nơi cửu tuyền phải lạnh giá!”

Nói xong, Thịnh A Man ngẩng đầu, ngỡ ngàng nhìn hắn. Nàng không dám tin, hắn lại vì a huynh mà lấy cả chức vị và tính mạng ra cầu xin. Không phải hắn rất thích quyền lực sao? Không phải hắn rất sợ chết sao? Vậy tại sao hắn lại làm như vậy?

Trong hàng ngũ bá quan, Lư Hoài nắm chặt tay. Chỉ một ý nghĩ vang vọng trong đầu hắn: Ngay cả Thôi Tuần cũng đứng ra vì chính nghĩa, chẳng lẽ ta còn thua kẻ mà ta khinh thường nhất? Nếu hôm nay ta không đứng lên, liệu ta còn mặt mũi gì để coi thường hắn? Liệu ta còn xứng đáng làm người không?

Hắn nghiến răng, không nhìn sắc mặt tái xanh của Lư Dụ Dân, nhanh chóng bước ra khỏi hàng, quỳ xuống dập đầu: “Hạ thần Lư Hoài cũng nguyện lấy chức vị và tính mạng của mình, khẩn cầu Thái hậu và Thánh nhân điều tra đến cùng vụ án này.”

Mười học sĩ Quốc Tử Giám liếc nhìn nhau. Lư Hoài từng là Quốc Tử Tư nghiệp, họ rất kính trọng hắn. Huống hồ, những lời A Man nói ban nãy vẫn khiến lòng họ dậy sóng. Một quốc gia, nếu chỉ biết chăm lo cho hoàng thân quốc thích mà bỏ mặc những tướng sĩ đã đổ máu hy sinh, để gia quyến của những trung hồn phải chịu nhục nhã và oan khuất, vậy quốc gia ấy còn đáng để họ bảo vệ? Những tháng ngày gian khổ học hành của họ, còn có ý nghĩa gì không?

Cả mười người đồng loạt quỳ xuống thưa: “Chúng thần đại diện ba nghìn hai trăm học sĩ sáu học phái Quốc Tử Giám, khẩn cầu Thái hậu và Thánh nhân điều tra đến cùng vụ án này.”

Theo sau họ, ngày càng có nhiều đại thần bước ra quỳ lạy. Những đại thần này, có người thuộc thanh lưu, cũng có người thuộc Thôi đảng hoặc Lư đảng. Dù sao, lòng họ vẫn còn một chút lương tri, không thể nào nhắm mắt làm ngơ trước cảnh tướng sĩ tắm máu trên sa trường lại bị đối xử bất công như vậy.

Sau rèm châu, Thái hậu cuối cùng cũng lên tiếng, bà thở dài, rồi nói với Long Hưng Đế: “Thánh nhân, người quyết định đi.”

Ý Thái hậu rõ ràng là không muốn che chở cho Thẩm Khuyết thêm nữa. Long Hưng Đế nhìn đám đông quỳ chật dưới điện, im lặng hồi lâu, cuối cùng mới gượng gạo phán: “Trung hồn không thể chịu oan. Truyền chỉ của trẫm, lập tức bắt giữ Thẩm Khuyết, áp giải đến Trường An, điều tra kỹ lưỡng vụ án của Thịnh Vân Đình!”
 
Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh
Chương 101: Ánh trăng không bỏ qua, độ hắn trọn kiếp tàn



Thánh nhân hạ chỉ, truy nã Thẩm Khuyết, đồng thời miễn tội đại bất kính với Thịnh A Man. Quần thần cảm động đến rơi nước mắt, đồng thanh cúi xuống dập đầu, ca ngợi Thánh nhân quả là minh chủ nhân từ.

Sau buổi triều nghị, Thịnh A Man được ân chuẩn về nhà. Thánh nhân lại phái thêm hai mươi Kim Ngô Vệ để bảo vệ nàng, phòng ngừa Thẩm Khuyết cùng đường sinh liều, gây nguy hại đến tính mạng của nàng. Trong sự hộ tống nghiêm ngặt của Kim Ngô Vệ, Thịnh A Man bước khỏi điện Tử Thần.

Nàng vừa bước qua ngưỡng cửa, ánh mắt bỗng chăm chú dõi theo bóng dáng gầy gò phía trước. Quan bào đỏ thẫm mặc trên người ấy cũng toát lên vẻ trống trải, thắt lưng đai ngọc càng tôn thêm thân hình thanh mảnh tựa trúc xanh. Các quan viên xung quanh đều kết thành nhóm ba người, năm người, trò chuyện rôm rả, ngay cả Lư Hoài cũng bị mười học sĩ vây quanh. Duy chỉ có Thôi Tuần, trong phạm vi vài bước quanh người lại chẳng thấy bóng dáng một ai.

Thịnh A Man cắn chặt môi, bất chợt sải bước chạy tới.

Nàng thở hổn hển, dừng ngay trước mặt hắn, chắn ngang đường đi. Đôi môi khẽ động, cuối cùng vẫn khó khăn nói ra: “Hôm nay, ta cảm ơn ngươi.”

Thôi Tuần ánh mắt bình thản như nước hồ sâu, chỉ đáp: “Cô không cần cảm tạ ta. Công lao lớn nhất hôm nay thuộc về cô.”

“Không phải ta.” Thịnh A Man ngượng ngùng nói: “Nếu không nhờ ngươi dùng chức quan và tính mạng bảo vệ ta, e rằng ta đã bị Kim Ngô Vệ xử tử ngay tại chỗ.”

Nàng cúi thấp đầu, bàn tay xoắn vào nhau đầy lúng túng: “Trước khi vào điện Tử Thần, ngươi còn dặn ta hãy cố gắng thuyết phục bọn họ. Nhưng ta lại bị cơn giận làm mờ mắt, khiến mọi việc rối tung hết lên… Ta lúc nào cũng vậy, quá mức bốc đồng…”

Thôi Tuần thở dài: “Cô không làm rối mọi chuyện. Ngược lại, cô đã làm rất tốt.”

Thịnh A Man ngẩng đầu, ngơ ngẩn nhìn hắn. Thôi Tuần lại nói: “Từng lời cô nói đều rất thuyết phục. Nếu không, đám học sĩ Quốc Tử Giám kia sao có thể kêu oan giúp cô? Họ ghét ta sẵn, sẽ không vì ta giúp cô mà dễ dàng thay đổi thái độ đâu.”

“Thật vậy sao…” Nàng ngập ngừng.

“Thật.” Thôi Tuần gật đầu: “Từ khi cô đến Lĩnh Nam cho đến lúc đứng trước điện Tử Thần cáo trạng, cô đều làm rất tốt. Cái chết của Vân Đình được điều tra kỹ lưỡng, tất cả đều nhờ vào cô.”

Đôi mắt Thịnh A Man đỏ hoe. Thôi Tuần tiếp lời: “Chờ khi Thẩm Khuyết bị bắt, Hình bộ, Đại Lý Tự và Ngự Sử Đài sẽ lần lượt thẩm vấn cô. Đó đều là những kẻ thâm sâu khó lường, nhưng cô không cần sợ hãi, chỉ cần khai thật là được. Trong thời gian này, cô nhất định phải giữ gìn sức khỏe, phải thế thì mới đủ sức chịu đựng những ngày dài thẩm tra phía trước.”

Thịnh A Man gật đầu. Thôi Tuần nhìn về phía sau nàng, nơi Kim Ngô Vệ đang chờ, dịu dàng nói: “Mau trở về đi.”

Thịnh A Man khẽ đáp: “Ừm.” Nàng xoay người bước đi cùng Kim Ngô Vệ. Nhưng vừa đi được vài bước, nàng lại không nhịn được mà quay đầu nhìn hắn lần nữa. Ánh mắt nàng thoáng ảm đạm, mím chặt môi, rồi lặng lẽ quay người, tiếp tục bước về phía cổng cung.



Đêm ấy, một cỗ xe ngựa mui đen lặng lẽ tiến vào phủ Bùi Quan Nhạc.

Bùi Quan Nhạc có bốn con trai, hai con gái. Từ khi ông ta bị cách chức về nhà, mấy đứa con trai đều thu liễm không ít. Trưởng tử Bùi Chương cũng không dám đến phường Bình Khang chơi bời nữa. Cả gia đình co đầu rụt cổ sống qua ngày. Sau khi trách mắng mấy đứa con xong, Bùi Quan Nhạc mới ung dung bước vào thư phòng, nơi Lư Dụ Dân đã thay trà đến ba lần.

Thấy Bùi Quan Nhạc bước vào, nét mặt Lư Dụ Dân không tỏ vẻ khó chịu. Ông ta nhấc chén trà sứ trắng, nhấp một ngụm, rồi đặt xuống, hời hợt nói: “Bùi Thượng thư quả là bận rộn.”

Bùi Quan Nhạc ngồi xuống, nở nụ cười nhạt nhẽo: “Cả đời Bùi Quan Nhạc ta, tâm nguyện lớn nhất là làm quan cao lộc hậu, rạng danh tổ tông. Có lẽ trong mắt Lư tướng công một lòng vì nước vì dân, nguyện vọng này quá tầm thường, nhưng đối với người không có phúc ấm tổ tiên như ta, những vất vả ấy, Lư tướng công liệu có thấu hiểu hay chăng? Tâm nguyện ấy đã hoàn thành được một nửa, tiếc thay bốn đứa con trai đều bất tài, lúc nào cũng phải dạy dỗ, đâu được tài giỏi như cháu trai của Lư tướng công.”

Lời lẽ xiên xẹo ấy rõ ràng là có ý chỉ trích Lư Hoài. Lư Dụ Dân điềm nhiên đáp trả: “Hoài Tín nhà ta quả thực xuất sắc. Mười bảy tuổi đã đỗ tiến sĩ, giữ chức Quốc Tử Tư nghiệp. Lần nào thi cử cũng đứng đầu, tuy tính tình có phần cương trực, nhưng nếu rèn giũa thêm, sau này nhất định là nhân tài trợ quốc.”

Bùi Quan Nhạc hừ lạnh: “Nếu Thái hậu nắm quyền, e rằng thiên lý mã nhà Lư tướng công chẳng những không thành tài, mà ngay tính mạng cũng khó bảo toàn.”

Sắc mặt Lư Dụ Dân trầm xuống. Bùi Quan Nhạc lại nói: “Hẳn Lư tướng công cũng lo lắng điều này, nên hôm nay mới đặt chân đến phủ của ta. Nếu không, suốt sáu năm qua, chẳng phải ông luôn khinh miệt, không buồn ghé qua lấy một lần sao?”

Lư Dụ Dân nhíu mày: “Bùi Thượng thư, giờ không phải lúc nhắc chuyện cũ. Chuyện hôm nay hẳn Bùi Thượng thư cũng đã nghe qua. Đợi đến khi Thẩm Khuyết bị giải về Trường An, những ân oán cũ sáu năm trước kiểu gì cũng sẽ bị khơi lại. Ít nhất, những lời Thịnh A Man tố cáo cũng có liên quan đến thê tử của ngài, Vương nương tử. Dù bà ta đã qua đời, nhưng nếu điều tra rõ ngọn ngành, Bùi Thượng thư cũng không tránh khỏi có liên can.”

Nghe vậy, Bùi Quan Nhạc cũng thu lại ý cười, lạnh lùng nói: “Nếu không phải Thôi Tuần đứng sau thúc đẩy, Thịnh A Man cũng đâu thể thành công.”

Nhắc đến Thôi Tuần, cả hai đều lộ vẻ khó chịu. Bùi Quan Nhạc nghiến răng, hằn học nói: “Đúng là một con chó điên, cắn mãi không buông.”

Ông ta đặt chén trà sứ trắng xuống, đột nhiên cất giọng: “Lư tướng công, có một việc ông không thấy kỳ lạ sao?”

“Việc gì?”

“Thôi Tuần gần đây bị giam lỏng trong phủ, do Đại Lý Tự canh giữ, gia nhân cũng đều bị đuổi đi hết. Theo lý mà nói, hắn đã đoạn tuyệt liên hệ với bên ngoài, vậy làm sao hắn có thể nhìn thấu kế sách của ta để làm chim sẻ chờ sau?”

Lư Dụ Dân cũng nghĩ mãi không thông: “Ai mà biết được? Cứ như gặp phải quỷ ấy.”

Bùi Quan Nhạc đập bàn: “Đúng, ta cũng thấy giống như gặp phải quỷ vậy.”

Lư Dụ Dân nghi hoặc, Bùi Quan Nhạc tiếp lời: “Người không ra được, nhưng quỷ thì chắc chắn có thể ra ngoài đúng không? Chưa kể còn một chuyện nữa. Trước khi Thẩm Khuyết bị lưu đày, chẳng phải từng có xung đột với Thôi Tuần trong tiệc thưởng xuân hay sao? Lúc đó, Thẩm Khuyết có hét lên với ta rằng hắn gặp phải quỷ. Khi ấy, ta chỉ nghĩ rằng tên vô dụng đó không đánh lại Thôi Tuần nên bịa cớ, đối đáp qua quýt cho xong. Giờ nghĩ lại, có lẽ hắn không nói dối.”

Lư Dụ Dân lộ vẻ trầm ngâm, nhưng ông ta vốn không tin vào chuyện quỷ thần, càng không giống Bùi Quan Nhạc thích nuôi dưỡng đạo sĩ hay tăng nhân, bèn nói: “Những chuyện quái lực loạn thần như thế này chưa chắc đã đáng tin.”

Bùi Quan Nhạc không tranh cãi, chỉ nhấc chén trà lên, nhấp một ngụm: “Quái lực loạn thần hay không, cứ điều tra thử là biết.”



Trong thư phòng của Thôi phủ, đèn sứ trắng Cảnh Diêu tỏa ánh sáng đỏ nhạt. Lý Doanh đang mài mực, vừa mài vừa ngáp. Thôi Tuần mỉm cười, đặt bút lông đầu sẻ xuống: “Nếu nàng mệt, cứ đi nghỉ trước đi.”

Lý Doanh dụi dụi mắt, không cam lòng: “Không được, ta đã hứa mài mực cho chàng thì không thể thất hứa.”

“Trước đây nàng từng mài mực chưa?”

“Cho a gia…” Lý Doanh đột ngột ngừng lời. Cả đời này, nàng không muốn nhắc đến a gia nữa.

Thôi Tuần mím môi, nhận lấy nghiên mực từ tay nàng: “Để ta tự làm.”

Hắn cầm lấy thỏi mực tùng yên, nhỏ vào nghiên mực một ít nước trong, động tác tao nhã, chậm rãi vừa phải. Lý Doanh chống cằm nhìn, chợt hỏi: “Nếu lần này tố cáo Thẩm Khuyết thành công thì vụ án Thiên Uy quân có được tái thẩm hay không?”

Động tác mài mực của Thôi Tuần thoáng khựng lại, hắn cụp mắt xuống, rồi tiếp tục mài mực: “Vụ án Thiên Uy quân liên lụy quá nhiều, không phải cứ muốn là được.”

“Liên lụy điều gì?”

Thôi Tuần trầm ngâm, bởi việc này liên quan đến hai người thân cận nhất với Lý Doanh, hắn cẩn thận cân nhắc lời nói, cố gắng dùng ngữ điệu ôn hòa nhất có thể: “Nhờ vụ án của Thiên Uy quân nên Thánh nhân mới giành được quyền bính, chắc chắn người sẽ không muốn tái thẩm. Về phần Thái hậu, vì vụ án này mà bà buộc phải ẩn cư tại cung Bồng Lai. Nếu bà yêu cầu tái thẩm, bách tính sẽ cho rằng bà muốn khơi lại chuyện cũ để tranh đoạt quyền lực với Thánh nhân, vì vậy bà sẽ không đời nào chủ động đề xuất.”

Lý Doanh nghe xong, có chút bùi ngùi. Nói cho cùng thì tất cả cũng chỉ xoay quanh hai chữ “quyền lực”. Thứ quyền lực ấy có ma lực gì mà khiến mẹ con nghi kỵ đến mức này?

Nàng nhớ đến lời Thôi Tuần từng nói về a đệ: “Lôi đình mưa móc, đều là thiên ân”. Có lẽ hắn đã có bất mãn với a đệ. Nhưng, a đệ là hoàng đế, nếu quan hệ giữa hai người quá căng thẳng, người chịu thiệt thòi nhất chắc chắn vẫn là Thôi Tuần. Nàng muốn hòa giải mối quan hệ giữa họ, bèn hỏi: “Vì vụ án của Thiên Uy quân nên a đệ thuận lời chấp chính, chàng nghĩ thử xem, liệu nó có biết sự thật đằng sau vụ án này không?”

Thôi Tuần hơi nhíu mày. Hắn không trả lời ngay mà hỏi ngược lại nàng: “Nàng nghĩ thế nào?”

Lý Doanh đang chờ đợi chính câu hỏi này. Nàng lập tức đáp: “Ta nghĩ a đệ không biết.”

Nàng giải thích: “Thiên Uy quân là đội quân tinh nhuệ nhất của Đại Chu. Sáu châu vùng Quan Nội Đạo là lãnh thổ của Đại Chu, dân chúng sáu châu đều là bách tính của a đệ. Nếu a đệ biết sự thật, sao có thể cam lòng hủy hoại đội quân tinh nhuệ nhất? Lại càng không thể dâng lãnh thổ và bách tính cho Đột Quyết giày xéo. Hơn nữa, dưới Địa phủ, Quách soái cũng nói rằng chiếu lệnh ép ông ấy xuất binh là giả. Lư Dụ Dân là thái phó của a đệ, a đệ tin ông ta nhất. Hẳn ông ta đã giả mạo chiếu lệnh.”

Thôi Tuần nghe xong, không tỏ thái độ gì, nhưng khi bắt gặp ánh mắt đầy mong đợi của Lý Doanh, hắn vẫn cúi mắt, đáp: “Ừ, nàng nói đúng. Có lẽ Thánh nhân không biết gì đâu.”

Lý Doanh thở phào một hơi. Nàng chợt nghĩ đến điều gì, liền hỏi: “Vậy vì sao dù biết rõ cả a nương lẫn a đệ đều không muốn truy xét lại vụ án Thiên Uy quân thì chàng vẫn kiên trì suốt đến cùng?”

Thôi Tuần đã mài xong mực, trong nghiên đá thạch cừ, mực đậm nhạt vừa phải, hương mực nhè nhẹ lan tỏa khắp thư phòng. Hắn cầm lấy bút đầu chim sẻ, trên cổ tay là vết thương sâu đến lộ xương. Trên tờ giấy gai trắng, từng nét bút đang hướng về những điểm liên quan đến vụ án của Thẩm Khuyết: “Phải có ai đó kiên trì.”

Hàng mi dài như cánh bướm của Lý Doanh hơi run. Nàng chăm chú nhìn vào vết thương trên cổ tay hắn, trong lòng dâng lên cảm giác chua xót. Nàng nói: “Trước đây, chàng đều kiên trì một mình. Hiện tại, sẽ có ta đi cùng chàng.”

Thôi Tuần dừng bút, quay đầu nhìn nàng, mỉm cười: “Được.”



Một bản tấu dài ngàn chữ, phải qua hai lần thêm dầu thì mới hoàn thành.

Lý Doanh nâng niu tờ giấy gai trắng còn mùi mực chưa khô, khẽ hỏi: “Chàng định tự mình áp giải Thẩm Khuyết?”

Thôi Tuần gật đầu: “Thẩm Khuyết biết quá nhiều chuyện. Nếu giữa đường có kẻ ám sát hắn, thì tất cả những gì chúng ta nỗ lực bấy lâu đều sẽ đổ sông đổ bể.”

Lý Doanh ngẫm nghĩ một lát rồi đáp: “Cũng phải.”

Nàng lại hỏi: “Khi nào chàng đi?”

“Càng sớm càng tốt.”

Nghe vậy, lòng nàng không khỏi buồn bã: “Vậy sao…”

Nếu thế, họ sẽ không gặp nhau suốt gần hai mươi ngày.

Thôi Tuần nhìn nàng, thấy rõ nỗi buồn nơi đáy mắt. Hắn mím môi, rồi vẫn lên tiếng: “Ta sẽ đi cùng vũ hầu của Sát Sự Thính. Nàng nên ở lại Trường An thì hơn.”

Hắn không giải thích lý do vì sao không thể dẫn nàng đi cùng đến Lĩnh Nam. Có lẽ bởi chuyến đi này quá hệ trọng, mà những năm tháng qua, hắn đã cô độc chống đỡ, mang đầy thương tích, gánh chịu tiếng xấu nửa đời. Giờ đây, khi ánh sáng hy vọng cuối cùng ló dạng, hắn không muốn bất kỳ sai lầm nào xảy ra.

Lý Doanh dù hiểu nhưng vẫn không ngăn được sự lưu luyến. Nhìn nàng ủ dột, Thôi Tuần rút từ trong tay áo ra một chiếc hộp nhỏ bằng bạch ngọc: “Ta có thứ muốn tặng nàng.”

Lý Doanh nhận lấy, không khỏi tò mò. Hộp bạch ngọc chưa mở mà đã phảng phất mùi đàn hương thanh nhã. Nàng mỉm cười: “Kiểu dáng này, lại thêm mùi hương này, chắc hẳn là son môi rồi.”

Thôi Tuần gật đầu: “Lúc hạ triều, ta đã mua cho nàng.”

Lý Doanh chưa từng dùng qua loại son môi của ba mươi năm sau, cũng không biết nó khác gì so với ba mươi năm trước. Nàng vui vẻ mở nắp hộp ra, nhưng khi nhìn thấy bên trong liền lập tức tròn mắt kinh ngạc: “Đây là màu gì vậy?”

Son trong hộp bạch ngọc lại có màu tím…

Thôi Tuần nói: “Hồ thương bán cho ta bảo đây là màu thịnh hành nhất hiện nay.”

Lý Doanh nghẹn lời: “Chắc là màu ế nhất thì có!”

“Thật sao?”

“Ai lại dùng son môi màu tím chứ?” Lý Doanh xoa trán, như cảm thấy đau đầu: “Tên người Hồ nào to gan dám lừa cả Diêm Vương sống như chàng?”

Thôi Tuần chợt im lặng, giờ mới ý thức được mình đã bị lừa: “Chắc hắn mới đến Trường An, chưa nhận ra ta…”

“Chàng đúng là… Chàng chỉ cần nhìn kỹ vài tiểu nương tử ngoài phố là biết ngay, có ai thoa màu son tím này đâu…”

Lần này, vẻ mặt Thôi Tuần càng thêm bối rối. Nhưng dáng vẻ bấn loạn của hắn lại khiến Lý Doanh nảy sinh ý muốn trêu chọc. Kẻ từng khiến người đời kính sợ, Thiếu khanh Sát Sự Thính luôn lạnh lùng tàn nhẫn với thế nhân, nhưng lại đỏ bừng vành tai khi đứng trước mặt nàng. Nàng cười nói: “Thôi Thiếu khanh, Thôi lang quân, chàng ngây thơ thế này, chuyến đi Lĩnh Nam lần này, đừng để tiểu nương tử nào bắt cóc mất đấy nhé!”

Câu nói đùa của nàng khiến hai má Thôi Tuần càng thêm ửng đỏ, tựa như vệt mây hồng lững thững trôi lúc cuối ngày. Hắn cúi đầu, nhỏ giọng nói: “Sẽ không có tiểu nương tử nào khác bắt cóc ta đâu.”

Lý Doanh chưa nghe rõ: “Gì cơ?”

Thôi Tuần lắc đầu, không nói thêm gì nữa.

Cả đời này, dù bị đọa xuống A Tu La đạo, thân vấy đầy ô uế, trong những năm tháng chìm trong bóng tối vô tận, may thay có ánh sáng của nàng soi rọi. Ánh sáng ấy chưa từng rời bỏ hắn, dẫn hắn qua tàn tro của kiếp người. Dù thế gian này có bao nhiêu giai nhân mỹ lệ, cũng chẳng bì được dù chỉ một phần nhỏ với ánh trăng ấy.

Hắn thề rằng cả đời này, cả kiếp sau, trái tim hắn chỉ trao trọn cho mỗi một mình nàng mà thôi.
 
Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh
Chương 102: Ta cũng rất thích Minh Nguyệt Châu



Sáng hôm sau, Lý Doanh tỉnh dậy trên chiếc sạp thấp bằng gỗ hoa nam. Nàng dụi dụi đôi mắt mơ màng chưa tỉnh hẳn, khoác thêm y phục rồi bước ra mở cửa. Ngoài kia, bầu trời trong xanh, không một gợn mây, gió mát, nắng ấm chan hòa.

Ánh sáng rực rỡ ấy cho thấy giờ cũng đã đến tầm giờ Tỵ.

Nàng lờ mờ nhớ lại, đêm qua vì luyến tiếc sắp chia xa, nàng không nỡ rời Thôi Tuần, liền cầm bản tấu hắn vừa viết, kiếm chuyện để nói: “Chữ của chàng đẹp quá, là học từ ai vậy?”

Thôi Tuần nhắc đến một cái tên. Lý Doanh nghe xong liền bảo: “Ba mươi năm trước, người đó vẫn chưa mấy nổi danh, không ngờ ba mươi năm sau lại được làm thầy cho công tử họ Thôi ở Bác Lăng. Nhưng ta nhớ người ấy nổi tiếng về hành thảo mà?”

Bản tấu trên tay Thôi Tuần được viết bằng tiểu khải.

Tiểu khải nghiêm cẩn, vuông vắn, trong khi hành thảo thì phóng khoáng, tự do. Thôi Tuần thoáng chần chừ, dường như không muốn trả lời, nhưng khi thấy Lý Doanh nâng bản tấu, ánh mắt tràn ngập mong đợi, hắn vẫn đáp: “Đúng thầy ấy là giỏi về hành thảo, ta cũng từng học qua, nhưng tâm cảnh không còn như trước, không thể viết được nữa.”

Lý Doanh “à” một tiếng, liền nói: “Nhưng tiểu khải của chàng cũng rất đẹp.”

Khi xưa Tiên đế nổi danh với thể Phi Bạch, [1] không thua kém danh gia, trong khi Lý Doanh vốn giỏi bắt chước nét bút của Tiên đế, nên cũng hiểu biết chút ít về thư pháp. Tay cầm bản tấu, nàng say sưa bàn luận cùng Thôi Tuần. Dẫu trong lòng muốn khuyên hắn sớm nghỉ ngơi, nhưng vì mải nói chuyện, nàng quên cả thời gian. Cuối cùng, chính nàng lại gục xuống bàn, ngủ thiếp đi.

[1] Chữ Phi Bạch là một thể thư pháp chữ Hán với đặc điểm chủ yếu là không để đầu bút lông chấm hết mực lên mặt phôi thai của món đồ Sứ cũng như trên giấy,, nét chữ từ đậm đi tới nhạt sẽ mờ dần về cuối nét, tạo cảm giác đầu bút đã khô mực. Nguồn
 
Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh
Chương 103: Ta muốn bên chàng lâu dài



Chiều hôm ấy, một cỗ xe tứ mã xa hoa xuất phát từ Sát Sự Thính, phía sau xe là hàng trăm vũ hầu hộ tống. Xe ngựa chậm rãi lăn bánh, lặng lẽ rời khỏi thành Trường An.

Đến tối, lúc lệnh giới nghiêm bắt đầu có hiệu lực, các phố phường Trường An vắng tanh không một bóng người. Trong màn đêm đen như mực, một con ngựa Khang Cư lao ra khỏi phủ Thôi Tuần, phóng nhanh vào màn đêm tĩnh mịch.



Thôi Tuần và Lý Doanh cưỡi chung một con ngựa, cả hai đội trời đạp trăng, mãi đến sáng hôm sau mới dừng lại nghỉ ngơi.

Thôi Tuần buộc ngựa bên gốc cây, sau đó tự mình đi lấy nước ở khe suối. Hắn có vẻ nặng trĩu tâm tư, đặt túi da xuống dòng suối để lấy nước. Đúng lúc đó một đóa sơn trà thả hồn trôi theo dòng nước, chạm nhẹ vào cổ tay hắn. Lúc này hắn mới giật mình nhận ra, vội vàng nhấc túi nước đầy lên khỏi mặt nước.

Rốt cuộc… vẫn mang nàng theo…

Nhưng… nếu nàng biết được, chắc chắn sẽ giận hắn lắm…

Nàng sẽ không tha thứ cho hắn…

Mang theo tâm trạng lo lắng, hắn xách túi nước trở lại chỗ Lý Doanh đang ngồi dưới gốc cây sơn trà. Hắn đã đổi sang thường phục, một thân áo vải trắng, bên ngoài khoác áo lông hồ dày nặng, bên trong là áo bào màu trắng thanh thuần. So với thường phục đỏ sẫm thường ngày, bộ y phục trắng này làm giảm đi vẻ đẹp rực rỡ mê hoặc của hắn, thay vào đó tăng thêm vài phần trầm tĩnh, lãnh đạm.

Khi Thôi Tuần đưa túi da đựng nước đã lấy sẵn cho Lý Doanh đang ngồi dưới tán cây sơn trà, nàng ngẩng đầu nhìn hắn. Trước dung nhan trắng ngần như tuyết, khuôn mặt nàng bất giác ửng đỏ.

Đúng như nàng từng nói với Ngư Phù Nguy, nàng thích vẻ ngoài của Thôi Tuần, thích đến mức dù nhìn bao lâu cũng không thấy chán.

Tim nàng đập rộn ràng như nai nhỏ hoảng loạn, vội vã mở túi da, cúi đầu uống nước để che giấu những suy nghĩ mơ mộng đang trỗi dậy.

Thế nhưng, mọi tâm tư của nàng đều không qua nổi ánh mắt của Thôi Tuần. Hắn khẽ thở dài. Nàng thích gương mặt này, còn hắn thì rất ghét. Nếu không phải vì gương mặt này, hắn đã chẳng phải chịu cảnh hai năm tăm tối ở Đột Quyết. Nhưng giờ đây, hắn lại sinh ra một ý niệm hèn mọn, muốn lợi dụng dung nhan mà hắn khinh ghét này để đổi lấy một lời hứa.

Thôi Tuần ngồi xuống đất bên cạnh Lý Doanh, ánh mắt chăm chú dõi theo nàng đang cúi đầu uống nước. Đột nhiên, hắn thốt lên: “Ồ.”

Lý Doanh lập tức ngẩng đầu: “Sao thế?”

Thôi Tuần hơi nhíu mày, ánh mắt rơi trên người nàng. Hắn chậm rãi nghiêng về phía nàng, đưa tay lên gần tóc mai.

Hơi thở hắn càng lúc càng gần, đường nét dung mạo tựa như tranh vẽ càng lúc càng hiện rõ, đôi mắt đen láy hơi xếch như chứa vạn đóa đào hoa rực rỡ trong đầm biếc, hút hồn người đối diện. Tim Lý Doanh đập loạn nhịp. Hắn định làm gì? Là chạm vào tóc nàng, hay là… hôn nàng sao?

Nhưng Thôi Tuần, sao có thể chủ động hôn nàng được chứ?

Nàng căng thẳng đến mức không dám cử động. Đúng lúc ấy, một cánh hoa sơn trà từ trên cây rơi xuống, nhẹ nhàng bay lượn trước mặt nàng.

Lý Doanh chợt hiểu ra. Nàng đang ngồi dưới gốc sơn trà, hẳn là cánh hoa đã rơi xuống tóc nàng, vì vậy hắn mới đưa tay phủi đi.

Nghĩ đến đây, nàng không còn quá hồi hộp nữa, chỉ lặng lẽ đợi hắn gỡ cánh hoa khỏi tóc mình.

Thôi Tuần lại nhặt một cánh hoa từ trên vai áo nàng, nhưng đồng thời dùng cánh hoa đó chạm nhẹ vào vành tai đang nóng bừng của nàng: “Sao tai nàng đỏ thế?”

Lý Doanh ngẩn người.

Ngay sau đó, nàng lập tức nhận ra, lòng nàng vừa thẹn vừa giận.

Hóa ra hắn đang trêu chọc nàng.

Nàng liền quay lưng lại, nhặt đóa sơn trà rơi trên nền đất, bứt từng cánh như muốn xả giận. Sau lưng, tiếng cười trầm thấp của Thôi Tuần vang lên khiến nàng càng thêm xấu hổ, vừa bứt hoa vừa nói: “Ta không đi Lĩnh Nam với chàng nữa! Chàng tự đi đi, trên đường nếu bị…”

Nàng định nói “bị người ta giết”, nhưng lời đến cổ họng lại nuốt xuống, toan sửa thành “bị người ta bắt” nhưng cũng không nỡ. Rốt cuộc, giọng nàng yếu ớt, sửa thành: “Bị người ta chặn lại, ta cũng mặc kệ.”

Thôi Tuần không cười nữa. Một lúc lâu sau, hắn cũng không dỗ nàng.

Lý Doanh không khỏi hoài nghi, hay là vừa nãy nàng đã quá nặng lời?

Cũng không đến mức ấy mà?

Khi nàng còn đang hoài nghi, một con châu chấu bằng cỏ được đưa từ sau lưng đến trước mặt nàng.

Con châu chấu cỏ được bện tỉ mỉ, sống động như thật, đặc biệt đôi cánh như chỉ chực bay đi, còn tinh xảo hơn cả con nàng từng dạy hắn làm.

Lý Doanh sững lại, ngay sau đó liền tức giận nói: “Dù chàng có bện trăm con, ta cũng không đi Lĩnh Nam với chàng đâu.”

Thôi Tuần hạ giọng: “Vậy nếu ta bện nghìn con thì sao?”

Lý Doanh lập tức quay lại, không thể tin nổi: “Chàng bện nổi một nghìn con sao?”

Thôi Tuần mỉm cười nhè nhẹ: “Nếu ta bện nghìn con, nàng có hết giận ta không?”

Lý Doanh hừ một tiếng: “Chờ đến khi chàng bện đủ nghìn con rồi hãy nói!”

Thôi Tuần thở dài: “Được, vậy ta sẽ bện đủ nghìn con.”

Vừa nói xong, hắn thực sự nhổ cỏ lên, định tiếp tục bện châu chấu. Lý Doanh vội vàng lên tiếng: “Này, ta chỉ nói vu vơ thế thôi.”

Thôi Tuần lại nghiêm túc nói: “Nhưng ta thì xem là thật. Minh Nguyệt Châu, nếu lần sau ta khiến nàng tức giận, chỉ cần bện một nghìn con châu chấu thì nàng sẽ tha thứ cho ta, đúng không?”

Nhìn thấy sự nghiêm túc ấy, Lý Doanh không khỏi cảm thấy lúng túng: “Ta chỉ thuận miệng nói thế thôi, hơn nữa, chàng cũng đâu khiến ta giận.”

Thôi Tuần điềm nhiên đáp: “Nàng là công chúa, lời vàng ý ngọc, không thể tùy tiện thế được. Dù sao đi nữa ta cũng xem đó là thật rồi.”

Lý Doanh vừa buồn cười vừa bất đắc dĩ: “Nếu chàng muốn xem là thật, thì cứ xem là thật đi.”

Nàng thực sự không hiểu, tại sao Thôi Tuần lại cố chấp đến vậy chỉ vì chuyện này.

Lời vừa dứt, khóe môi Thôi Tuần hơi nhếch lên. Hắn liếc nhìn con ngựa Khang Cư buộc dưới gốc cây, đang nằm nghỉ ngơi, rồi nói: “Chúng ta đã đi cả đêm, ngựa cũng mệt rồi. Hay là nghỉ thôi, lát nữa hẵng đi tiếp?”

Lý Doanh gật đầu. Thực tình nàng đã mỏi mệt, sức lực cũng hao hụt nhiều, nên nằm xuống dưới gốc cây sơn trà, thiếp đi ngay.

Gió thoảng qua, hoa sơn trà rụng như mưa, cánh hoa nhẹ nhàng phủ lên mái tóc và y phục của thiếu nữ đang say ngủ. Một cánh hoa năm cánh phớt hồng chầm chậm xoay tròn trong không trung rồi rơi xuống trán nàng. Thôi Tuần theo bản năng định đưa tay phủi đi, nhưng khi tay gần chạm đến vầng trán mịn màng như ngọc, hắn lại rụt về, tựa hồ cảm thấy mình không xứng.

Mục đích đã đạt được, hắn không còn lý do gì để chạm vào nàng thêm nữa.

Không thể làm nàng bị vấy bẩn thêm…

Thiếu nữ làn da trắng hơn tuyết, nét đẹp dịu dàng như mây. Cánh hoa rơi trên trán nàng tựa như một nét trang điểm diễm lệ, mộng ảo như tiên, khiến người ta nín thở ngắm nhìn.

Thôi Tuần không thể rời mắt. Khoảnh khắc này, trong lòng hắn dường như mọi oán khí đều tan biến, chỉ còn lại sự tĩnh lặng và thanh thản. Hắn mơ hồ nghĩ, nếu có thể như thế này mãi, thì tốt biết bao…

Hắn chăm chú nhìn Lý Doanh, thân mình không dám động đậy, sợ làm nàng thức giấc. Nhưng bất chợt, cổ họng hắn ngứa rát, hắn vội đưa tay đè trước ngực, cố nén cơn ho trào lên, sau đó mới lấy từ trong tay áo ra một vật.

Đó là một bình sứ trắng ngà bằng ngọc.

Hắn nhìn Lý Doanh đang say ngủ, ánh mắt thoáng dao động, rồi cúi đầu, mở nắp bình, đổ ra một viên đan dược màu đỏ, đưa vào miệng nuốt.

Đan dược vừa vào, hàn khí chèn ép nơi lồng ng.ực tựa như tan đi phần nào, chiếc áo choàng hồ ly trắng khoác trên người bỗng trở nên oi bức. Sắc mặt hắn bình tĩnh, đưa tay nhét bình sứ trở lại trong tay áo, sau đó tháo chiếc áo choàng trắng muốt xuống, nhẹ nhàng phủ lên người Lý Doanh.

Ánh mắt hắn chăm chú dừng lại nơi nàng, rồi tựa lưng vào thân cây sơn trà. Chỉ đến khi chắc chắn nàng yên giấc, hắn mới khép hờ mắt lại, giấc ngủ của hắn cũng chẳng an ổn, miên man bất định.



Sau khi nghỉ ngơi, hai người lại tiếp tục thúc ngựa chạy thêm một quãng đường dài. Mãi đến khi hoàng hôn buông xuống, họ mới tìm được một khách xá để nghỉ tạm.

Chủ khách xá tròn mắt nhìn một thanh niên dung mạo tựa minh châu mỹ ngọc bước vào, nói: “Ta muốn thuê trọ.”

Vẻ ngoài như vậy khiến chủ quán không khỏi liếc nhìn thêm vài lần. Nhưng khi thấy y vận trang phục vải trắng thường dân, ông ta đoán chắc y chỉ là hạng áo vải, bèn nói: “Phòng số hai ở dãy Địa vẫn còn trống, khách quan có muốn không?”

Thanh niên lắc đầu: “Ta không muốn một phòng, ta muốn cả một tầng.”

Chủ quán thoáng sửng sốt, ánh mắt đảo qua y từ trên xuống dưới. Thanh niên khí độ bất phàm, cử chỉ ung dung, toát lên phong thái cao quý của một công tử thế gia. Nhưng nghĩ lại, sau huyết án Thái Xương, biết bao gia tộc lớn sa cơ thất thế, dù thế gia suy tàn vẫn còn hơn kẻ thường. Những công tử thế gia như vậy, tay vẫn thoáng, lại thường kén chọn, không muốn ở chung với hạng dân nghèo, thuê cả tầng hay thậm chí cả khách xá cũng chẳng có gì là lạ. Chủ quán từng gặp không ít hạng người này, nên chẳng hỏi thêm, chỉ đáp: “Toàn bộ dãy Thiên vẫn còn trống, khách quan thấy thế nào?”

Thanh niên liền gật đầu: “Được.”



Khi đến trước phòng số một dãy Thiên, Thôi Tuần bảo người hầu dẫn đường lui xuống, dặn không cần quấy rầy vào ban đêm, sau đó khép cửa lại.

Toàn bộ dãy Thiên đã bị hắn bao trọn, không gian tĩnh lặng đến lạ thường. Lúc cánh cửa gỗ khép lại, Lý Doanh đã đứng trong phòng, đưa mắt quan sát xung quanh, nhẹ nhàng nói: “Nơi này cũng xem như sạch sẽ.”

Thôi Tuần đáp: “Dãy Thiên là hạng phòng tốt nhất của khách xá, tất nhiên phải sạch sẽ rồi.”

Lý Doanh gật đầu, ánh mắt dừng trên bộ y phục màu trắng giản dị của Thôi Tuần, lo lắng nói: “Hôm nay chàng đi đường lại cố không mặc áo choàng lông, đừng để ngã bệnh ra đấy.”

Thôi Tuần nhàn nhạt nói: “Thời tiết này, mặc áo lông dễ khiến người ta nghi ngờ, không mặc vẫn tốt hơn.”

“Nhưng chứng hàn của chàng đã nhập cốt, không mặc chẳng lẽ không lạnh sao?”

Hắn khẽ lắc đầu: “Mỗi ngày nàng đều sắc cho ta một chén nước gừng cam thảo, hiện giờ chứng hàn đã giảm đi rất nhiều.”

“Thật vậy sao?” Lý Doanh nửa tin nửa ngờ, liền kéo tay Thôi Tuần. Hắn vốn đã quen với hành động này của nàng, nhưng vẫn không khỏi khựng lại một chút. Lý Doanh rất thích nghịch tay hắn, nói rằng tay hắn đẹp vô cùng, nàng chưa từng thấy ai có bàn tay nào đẹp hơn. Cũng bởi thói quen này, mỗi sáng sớm, Thôi Tuần đều rửa tay sạch sẽ bằng lan chỉ, chỉ sợ làm nàng vấy bẩn. Nhưng kể từ khi rời khỏi Trường An, điều kiện liền không cho phép.

Sáng nay, hắn chưa dùng lan chỉ…

Lý Doanh giả vờ không để ý sự ngượng ngập của hắn, chạm vào lòng bàn tay kiểm tra nhiệt độ. Quả nhiên, không còn lạnh lẽo như trước, thậm chí còn ấm áp hơn cả thân thể vốn đã lạnh giá của một linh hồn như nàng. Lý Doanh nói: “Nước gừng cam thảo thực sự hữu hiệu đến vậy sao? Trước khi rời Trường An, đâu thấy chứng hàn của chàng thuyên giảm chút nào.”

Thôi Tuần mỉm cười nhạt: “Tích tiểu thành đại, ngày nào cũng uống, uống mấy tháng trời, hẳn đã có tác dụng.”

Lý Doanh nghĩ ngợi, cảm thấy cũng có lý, ánh mắt lại liếc qua chiếc bàn gỗ trong phòng, thấy trên đó đặt một chiếc bình gốm, liền nói: “Vậy tối nay chàng cũng phải uống đấy.”

Lý Doanh thu dọn hành trang, nàng đặc biệt mang theo mấy vị dược liệu trong đơn thuốc. Nhưng nàng dường như vẫn còn chút bực bội với sự cứng nhắc của Thôi Tuần khi nãy, nên dù đang sắc thuốc, nàng vẫn nắm lấy tay hắn không buông. Vừa nghịch ngợm mấy ngón tay hắn, nàng vừa ngẩng đầu, chăm chú nhìn nồi thuốc trên lò than đang sôi sùng sục. Nàng nói: “Lần này đi xa đến Lĩnh Nam, ta còn lo chàng vất vả dọc đường, sợ không chịu nổi. Nhưng xem ra, cũng không tệ lắm.”

Thôi Tuần thở dài một hơi: “Nàng ngày ngày trông chừng ta uống thuốc, ngoài nước gừng cam thảo, còn sắc thêm đủ loại thuốc bổ cho ta. Nếu ta chẳng khỏe hơn chút nào so với trước đây, chẳng phải sẽ phụ công bao nhiêu thứ thuốc đã uống sao?”

Lý Doanh bật cười khúc khích, nói: “Chàng trách ta sắc nhiều thuốc quá đúng không?”

Thôi Tuần lắc đầu: “Không dám trách công chúa.”

Nghe vậy, Lý Doanh càng cười tươi, nụ cười như hoa nở đầu xuân: “Ta cũng chỉ muốn bên chàng dài lâu, nên mới cố công sưu tầm đủ loại phương thuốc.”

Nàng cúi đầu, tiếp tục nghịch ngón tay hắn, giọng nói dần trở nên mềm mại: “Thập Thất lang, trước đây ta luôn nghĩ người và quỷ khác đường, nhưng giờ lại cảm thấy, một người một quỷ như chúng ta, ngược lại có thể bên nhau lâu hơn. Nếu ta thành người, thì sẽ phải đầu thai chuyển thế. Nhưng sau khi chuyển thế, liệu ta còn là ta không? Không còn ký ức về Minh Nguyệt Châu bên chàng, thì ta cũng chẳng còn là Minh Nguyệt Châu nữa. Còn nếu chàng thành quỷ, xuống địa ngục, ta vẫn có thể cầu xin Tần Quảng Vương cho ta theo cùng. Nhưng nếu Tần Quảng Vương phán chàng chuyển thế, vậy chàng cũng chẳng còn là chàng. Trời cao đất rộng, ta còn biết tìm Thập Thất lang của ta ở đâu? Ta không muốn như vậy, nên ta chỉ hy vọng chàng sống lâu một chút, ở bên ta lâu một chút.”

Lời nàng chân thành, khiến mắt Thôi Tuần nóng lên. Hắn vội cúi đầu, điều chỉnh lại tâm trạng, rồi thì thầm: “Ta… cũng mong có thể bên nàng lâu một chút…”

Không nhất thiết là ở bên nhau, chỉ cần ở gần nàng, vậy là đủ rồi.

Nhưng, thế sự vốn không chiều lòng người.

Hắn cúi đầu, trên hàng mi đen như lông quạ đã đọng lại vài giọt trong suốt. Hắn chớp mắt, bật cười khổ: “Mệnh số trời định, chỉ có thể làm hết sức mình mà thôi.”

Lý Doanh còn chưa kịp suy ngẫm lời hắn, Thôi Tuần đã nói: “Thuốc sắc xong rồi.”

Hắn cúi mắt xuống, Lý Doanh vẫn nắm chặt tay hắn không chịu buông. Hắn nhẹ giọng: “Cứ thế này sao ta uống được thuốc?”

Hắn chủ động muốn uống thuốc, Lý Doanh đúng là cầu còn không được. Nàng buông tay, thấy hắn đã mở nắp nồi, múc ra một chén. Hương cay nồng của gừng lan tỏa, nếu là ngày thường, Thôi Tuần sẽ chờ nguội bớt rồi mới miễn cưỡng uống, nhưng hôm nay, hắn lại uống từng muỗng, rất nhanh đã cạn chén.

Chờ hắn uống xong, Lý Doanh mới an tâm trở về phòng. Sau khi nàng rời đi, Thôi Tuần ngồi thẫn thờ rất lâu, rồi bất chợt đứng dậy, bước đến bên cửa sổ.

Cánh cửa gỗ vốn đã hé mở một khe nhỏ. Hắn đẩy rộng ra, ánh trăng ngoài kia cũng ùa vào.

Trăng tròn như chiếc đĩa ngọc, treo lơ lửng giữa màn đêm thăm thẳm. Ánh trăng sáng trong như nước, êm dịu rải khắp nhân gian. Thôi Tuần nhìn đến ngây dại.

Tay hắn thò vào tay áo, lấy ra một bình sứ màu ngọc bích. Hắn nắm chặt nó, từ từ đưa ra ngoài cửa sổ. Chỉ cần buông tay, bình sứ sẽ rơi xuống, vỡ tan tành.

Thôi Tuần nhìn ánh trăng, ngón tay dần nới lỏng. Nhưng ngay lúc ấy, màn máu đỏ ngầu và những thi thể chất chồng khắp đồi núi chợt hiện lên trước mắt hắn.

Hắn giật mình, ngón tay lập tức siết chặt lại, rồi từ từ buông xuống cánh tay tái nhợt.

Cuối cùng, hắn khép lại cánh cửa gỗ.



Sáng hôm sau, khi canh năm vừa điểm, Thôi Tuần cùng Lý Doanh đã lên đường tiếp tục hành trình. Nàng lén nhìn hắn vài lần, thấy thần sắc hắn vẫn còn tỉnh táo, không hề có dấu hiệu mệt mỏi, trong lòng liền yên tâm phần nào.

Thôi Tuần thanh toán tiền trọ với chủ khách xá, sau đó hỏi: “Từ đây đến thành Củng Châu có đường tắt nào không?”

Chủ khách xá ngẫm nghĩ một lúc rồi đáp: “Có, nếu đi đường tắt, có thể tiết kiệm được năm sáu ngày. Nhưng khách quan này, tốt hơn hết đừng chọn lối đi ấy.”

“Vì sao?”

“Vì con đường đó phải băng qua một nơi gọi là Quỷ thôn.”
 
Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh
Chương 104: Bách quỷ dạ hành



Cách đây ba mươi năm, “Quỷ thôn” mà chủ khách xá vừa nhắc đến vốn là một thôn làng tên là thôn Ngưu Gia. Vào tháng ba năm Thái Xương thứ hai mươi, cả thôn gồm hai trăm hai mươi nhân khẩu bỗng chết thảm chỉ sau một đêm, máu chảy ra từ thất khiếu. Quan phủ điều tra nhưng không tìm ra nguyên nhân, chỉ có thể vội vàng chôn cất toàn bộ thi thể. Đến ngày thất tuần, vài người phụ nữ lấy chồng xa trở về cúng bái đã hớt hải đến trình báo với huyện úy, nói rằng trong lúc canh giữ đã gặp phải một nữ quỷ.

Nữ quỷ ấy bảo rằng nàng vốn là một thai phụ, trên đường đi qua thôn Ngưu Gia thì bị tổ tiên trong thôn nổi cơn háo sắc, hãm hại đến chết, thi thể còn bị vứt xuống sông. Dẫu đã trăm năm trôi qua, oan khí vẫn không tiêu tan, nàng ta hóa thành lệ quỷ quay lại báo thù. Hai trăm hai mươi mạng người trong thôn đều bị nàng ta giết. Nữ quỷ còn cảnh báo rằng thôn Ngưu Gia là nơi ô uế, về sau bất kỳ ai đặt chân đến đây hay cúng bái đều sẽ chịu lời nguyền chết bất đắc kỳ tử.

Huyện úy không tin, dẫn theo đám lại dịch đến điều tra. Nào ngờ, chính ông ta cũng gặp phải nữ quỷ. Kinh hãi trở về, chưa được bao lâu đã đột tử. Từ đó, lời đồn về việc cả thôn Ngưu Gia bị lệ quỷ tàn sát lan rộng, không ai dám bén mảng đến nơi này. Thôn Ngưu Gia vì thế mà trở thành Quỷ thôn nổi tiếng khắp vùng.

Trên lưng ngựa, Thôi Tuần chau mày suy nghĩ về những lời của chủ khách xá. Lý Doanh ngồi trước hắn, bất giác ngoảnh lại hỏi: “Chàng định đến Quỷ thôn sao?”

Hắn gật đầu: “Nếu đi đường tắt qua đó để đến thành Củng Châu thì sẽ nhanh hơn bảy, tám ngày.”

“Chàng không sợ bị nữ quỷ nguyền rủa à?”

Thôi Tuần khẽ cười: “Thế đạo này, người còn đáng sợ hơn quỷ.”

Lý Doanh nghĩ đến Vương Nhiên Tê vì ghen ghét mà muốn hại nàng, biểu tỷ Thẩm Dung vì dã tâm mà muốn giết nàng, và cả… cha ruột của nàng. Nàng cười cay đắng: “Chàng nói đúng, người còn đáng sợ hơn quỷ.”

Hắn không khuyên nhủ thêm, chỉ quất roi thúc ngựa. Gió hè mát rượi phả lên mặt nàng, những con đường cổ, núi xanh, nước biếc trải dài trước mắt. Tiếng vó ngựa lộc cộc như hòa vào không gian rộng lớn, tâm trạng u sầu ban nãy cũng dần tan biến. Trời đất mênh mông, con người như hạt cát, chuyện cũ đã theo gió bay xa, chỉ có thể trân trọng người trước mắt.

Thôi Tuần thấy nàng đã bớt ủ rũ, liền ghìm cương ngựa: “Chúng ta đến Quỷ thôn nào.”



Lý Doanh cùng Thôi Tuần theo hướng mà chủ nhân khách xá chỉ dẫn, ngựa phi nhanh trên quan đạo hoang phế, cuối cùng dừng lại trước một tấm bia đá khắc dòng chữ “thôn Ngưu Gia.”

Thôi Tuần nhảy xuống ngựa trước, sau đó mới vòng qua đỡ Lý Doanh xuống. Hai người đứng trước tấm bia, phóng tầm mắt nhìn về phía trước, chỉ thấy những ngôi nhà tồi tàn, xiêu vẹo mọc rải rác trên mảnh đất khô cằn. Ngay cả cây cối cũng trơ trụi, lá vàng úa, hoàn toàn không có lấy chút xanh tươi, um tùm thường thấy vào đầu hạ. Thỉnh thoảng, từ trong thôn lại vang lên vài tiếng gào hú của dã thú, càng khiến nơi đây thêm phần quỷ dị, đáng sợ.

Thôi Tuần và Lý Doanh trao nhau một ánh mắt, sau đó Thôi Tuần dắt ngựa, định tiến vào thôn. Nhưng con ngựa Khang Cư bỗng tỏ ra bồn chồn, bất luận Thôi Tuần thúc giục thế nào cũng không chịu tiến thêm một bước. Lý Doanh khẽ nói: “Người ta thường bảo ngựa có linh tính, cảm nhận được nguy hiểm xung quanh. Xem ra thôn làng ma quái này quả thật không đơn giản.”

Thấy Khang Cư như vậy, nét mặt Thôi Tuần thoáng vẻ do dự. Nhìn ra tâm tư của hắn, Lý Doanh nhẹ giọng bảo: “Thập Thất lang, chàng không cần vì lo lắng cho an nguy của ta mà từ bỏ ý định vào thôn. Ta vốn đã là hồn ma, còn sợ gì ma quỷ nữa?”

Nghe vậy, Thôi Tuần bật cười, rồi buộc ngựa Khang Cư vào một gốc cây lớn gần đó. Hắn nói: “Vậy thì chúng ta vào xem thử, rốt cuộc là người làm loạn, hay là ma tác quái.”



Thôn làng ma quái này đã bị bỏ hoang ba mươi năm, đến nỗi không khí cũng nồng nặc mùi ẩm mốc, mục nát. Vừa bước chân vào thôn, hiện ra trước mắt họ là hai trăm hai mươi tấm bia mộ bằng gỗ, kèm theo từng ụ đất nhấp nhô. Những tấm bia dày đặc, xiêu vẹo, trên đó ghi chi chít tên người.

Thôi Tuần giẫm lên dây leo khô héo dưới chân, đi tới trước một tấm bia. Ngón tay hắn phủi qua, lớp bụi dày lập tức bay tung tóe, lộ ra bề mặt bia mộ đã lâu không được ai hương khói. Hắn đứng thẳng người, nhìn bao quát những bia mộ xung quanh. Linh cảm mách bảo rằng có điều gì đó bất thường ở đây, nhưng rốt cuộc bất thường ở đâu, nhất thời hắn vẫn chưa thể nói rõ.

Không rõ vì lý do gì, vừa đến gần những tấm bia, Lý Doanh liền cảm thấy đầu óc choáng váng, cả thân thể như cạn kiệt sức lực. Nàng níu lấy vạt áo của Thôi Tuần, sắc mặt tái nhợt: “Những phần mộ này có điểm bất thường, chúng ta nên tránh xa ra một chút thì hơn.”

Vừa dứt lời, cảm giác chóng mặt càng thêm nghiêm trọng, đến mức nàng không đứng vững. Thôi Tuần thấy thế, lập tức bế nàng lên, bước nhanh ra xa vài trượng. Đến khi nàng đã khá hơn, hắn mới đặt xuống, lo lắng hỏi: “Nàng không sao chứ?”

Lạ kỳ thay, rời khỏi khu mộ vài trượng, Lý Doanh liền cảm thấy tinh thần tốt hơn nhiều, cảm giác choáng váng cũng biến mất. Nàng cau mày nhìn những ụ đất nhô lên, lắc đầu nói: “Không sao.”

Nàng lại tiếp: “Chúng ta qua chỗ khác xem thử.”



Hai người cùng đi tìm khắp nơi trong thôn làng, nhưng ngoài những bức tường đổ nát, họ không phát hiện ra điều gì bất thường. Một lát sau, trời cũng dần tối, Thôi Tuần thắp sáng hỏa thạch, chậm rãi quan sát những căn nhà hoang tàn xung quanh, suy nghĩ một hồi rồi nói: “Những căn nhà này, có điểm gì đó rất lạ.”

Lý Doanh ngạc nhiên: “Lạ ở chỗ nào?”

“Những ngôi nhà bình thường đều phải xây theo hướng Bắc Nam, nhưng ở đây, tất cả các ngôi nhà đều xây theo hướng Đông Tây, và vị trí bên phải, hướng Bạch Hổ, lại cao hơn hẳn so với bên trái, hướng Thanh Long. Cảnh tượng này tựa như lời mà các thầy phong thủy hay nói, “Bạch Hổ Sát”.”

Lý Doanh nghe đến đây liền rùng mình. “Bạch Hổ Sát” là hung sát đứng đầu trong thuật phong thủy, phạm phải nó sẽ dễ gặp tai họa đổ máu. Nàng nhìn kỹ những căn nhà này, bên ngoài vẫn còn để những nông cụ han gỉ. Lý Doanh nói: “Người trong thôn Ngưu Gia hẳn đều là dân thường, họ đâu biết gì về Bạch Hổ Sát. Dù có biết, cũng không thể tự tay sắp xếp nhà cửa mình theo cách này.”

Trừ phi… có kẻ trong bóng tối đã cố ý dẫn dắt họ tạo nên cục diện Bạch Hổ Sát.

Thôi Tuần đã đẩy cánh cửa gỗ khép hờ ra: “Có lẽ trong nhà sẽ có gì đó để khám phá.”



Vừa bước vào, một luồng hơi lạnh thấu xương ập tới. Nhìn cách bày biện bên trong, có thể nhận ra đây là một căn nhà nông dân vô cùng đơn sơ. Hầu như không có đồ đạc gì, chỉ có một chiếc bàn gỗ thô sơ, xem ra đây là gian chính của căn nhà. Từ đây nhìn vào, có thể thấy một chiếc giường gỗ mục nát, còn bên trái là một căn bếp nhỏ hẹp, trong đó chất đầy cỏ dại ẩm mốc. Có lẽ chúng được dùng để đốt lửa, nhưng gia đình bình thường không phải dùng củi hoặc than sao?

Phía sau vang lên giọng nói trầm thấp của Thôi Tuần: “Củi đã bị tiều phu đốn rồi đem bán, những hộ nông dân nghèo như thế này không mua nổi củi, chứ đừng nói đến than. Họ chỉ có thể dùng cỏ dại để nhóm lửa.”

Lý Doanh lúc này mới hiểu ra. Những gì nàng tưởng là gia đình bình thường, thực ra lại dựa trên tiêu chuẩn của một quan viên tứ phẩm như Thôi Tuần hoặc một phú thương như Ngư Phù Nguy, chứ không phải là những hộ nông dân khốn khó nhất Đại Chu.

Nàng thoáng cảm thấy hổ thẹn, lẩm bẩm: “Tích xưa có chuyện Tấn Huệ Đế nói “Sao không ăn thịt?” [1] Hôm nay, ta và ông ấy cũng chẳng khác gì nhau.”

[1] “Dân không có gạo ăn, sao không ăn thịt?” Trên là câu nói nổi tiếng của Tấn Huệ Đế – Tư Mã Trung. Huệ đế là Hoàng đế thứ hai của triều Tấn, được cho là ngây ngô, ngớ ngẩn. Câu nói trên được phát ngôn khi Hoàng đế nghe tấu trình về nạn đói. Cũng bởi sự ngây ngô của Hoàng đế nên thời kì trị vì của Tấn Huệ Đế chỉ có thể tóm gọn trong một từ “lũng đoạn”. Sự lũng đoạn mở đầu từ Giả hậu Giả Nam Phong – con gái đại thần Giả Sung. Sau đó là thế cục “Bát vương chi tranh – Loạn bát vương” – sự kiện đánh dấu sự suy yếu của triều Tấn và mở ra thời kì “Ngũ Hồ thập lục quốc”. Nguồn
 
Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh
Chương 105: Quỷ thôn



Lý Nhi nói rằng cha mẹ của cậu đang làm việc ngoài đồng.

Cậu bé dường như rất mến Thôi Tuần và Lý Doanh. Cậu nói chưa từng thấy ai đẹp như hai người, giống như thần tiên hạ phàm.

Thôi Tuần thoáng nghiêng đầu, hỏi: “Em có biết thần tiên trông thế nào không?”

Lý Nhi cắn một miếng bánh hồ to, nhồm nhoàm đáp: “Biết chứ, tiên trưởng từng vẽ cho chúng em xem.”

“Tiên trưởng?”

“Đó cũng là một vị thần tiên, chuyên xuống trần gian để giúp đỡ người phàm như chúng em. Ngài thường kể cho chúng em nghe về thiên cung. Ngài bảo ở đó có bánh hồ ăn mãi không hết, y phục mặc mãi không sờn, nhà cửa rộng lớn, ai nấy đều trẻ mãi không già, cũng không chết đi. Nhưng chỉ những ai hay làm việc thiện, sau khi chết mới lên được thiên cung.”

Thôi Tuần trầm tư một lúc rồi hỏi: “Mọi người hay gặp vị tiên trưởng đó lắm à?”

Lý Nhi gật đầu: “Vâng, ngài hay đến thôn này lắm.”

Nghe vậy, đôi mày của Thôi Tuần hơi nhíu lại. Lý Doanh cũng cảm nhận được điều bất thường từ lời nói của Lý Nhi. Nàng liếc mắt nhìn Thôi Tuần, thấy sắc mặt hắn không có gì thay đổi, chỉ lẳng lặng theo chân Lý Nhi tìm cha mẹ nó.

Trên đường, họ gặp không ít phụ nữ đang bế trẻ con. Lý Nhi vui vẻ chào hỏi từng người. Một trong số đó cười, hỏi: “Lý Nhi, họ là ai vậy?”

Lý Nhi hồn nhiên đáp: “Là a huynh và a tỷ đến nhà con xin nước.”

Khi Lý Nhi dừng lại trò chuyện cùng các phụ nhân, Lý Doanh cũng dừng bước. Ánh mắt nàng lướt qua những phụ nữ này, nhận ra trên người họ không hề toát ra chút sinh khí. Đứa trẻ mà họ ôm trong lòng cũng không khóc không cười, chỉ nhìn chằm chằm vào nàng với đôi mắt vô hồn.

Lý Doanh cố nén nỗi sợ, khẽ cười với một phụ nhân: “Đứa bé này ngoan quá, cho ta bế thử có được không?”

Người mẹ vui vẻ trao đứa trẻ cho Lý Doanh. Nàng đón lấy đứa trẻ, nhân cơ hội chạm vào bàn tay nhỏ bé của nó, liền cảm nhận rõ ràng cái lạnh buốt như băng giá. Đứa trẻ này, rõ ràng chính là một quỷ nhi.

Người mẹ tiếp tục trò chuyện với Lý Nhi. Lý Doanh chăm chú quan sát đứa trẻ trong lòng mình. Đột nhiên, nó nhe răng cười, nụ cười ghê rợn khiến nàng giật mình suýt nữa thì buông tay. Nhưng Thôi Tuần đã kịp đón lấy, ôm quỷ nhi vào lòng.

Quỷ nhi tiếp tục nở nụ cười ma quái, dường như muốn hù dọa Thôi Tuần. Nhưng hắn chỉ cười nhạt, tay chậm rãi siết lấy cổ của nó. Đôi mắt của quỷ nhi hiện lên vẻ kinh hãi, nó quơ quào tay chân van xin, nhưng hình như nó nhận ra không thể cầu xin Thôi Tuần, liền quay sang nhìn Lý Doanh, ánh mắt đầy vẻ van nài.

Thấy vậy, Thôi Tuần liền buông tay, trả quỷ nhi lại cho người mẹ.

Lý Doanh: … Quả nhiên, quỷ sợ ác nhân.

Quỷ nhi không dám gây sự nữa, thậm chí không dám nhìn Thôi Tuần lấy một lần.

Lý Nhi ngoan ngoãn nói với mẹ của quỷ nhi: “Thẩm nương ơi, con dẫn a huynh và a tỷ đi trước nhé.”

Cậu bé lại vẫy tay về phía Thôi Tuần và Lý Doanh, ra hiệu cho họ theo mình, tung tăng đi trước dẫn đường.

Lý Doanh nói nhỏ với Thôi Tuần: “Đứa trẻ đó chắc chắn là một quỷ thai.”

Quỷ thai chính là những đứa trẻ chưa sinh ra đã chết trong bụng mẹ, âm khí nặng nề và vô cùng hung dữ.

Thôi Tuần gật đầu: “Thẩm nương của Lý Nhi có lẽ đã chết khi đang mang thai, vì thế đứa trẻ này vừa sinh ra đã hóa thành quỷ.”

Lý Doanh chau mày: “Họ bị giết sao?”

Bằng không, khó mà tưởng tượng được một phụ nữ mang thai lại từ bỏ sinh mạng của mình, từ bỏ cả bỏ đứa con trong bụng, cam nguyện chết đi.

Thôi Tuần không trả lời câu hỏi của nàng, chỉ nói: “Chúng ta đến gặp cha mẹ của Lý Nhi, có lẽ sẽ biết rõ hơn.”



Thôi Tuần châm lửa vào hỏa thạch, men theo bước chân nhảy nhót của Lý Nhi để tìm đến cha mẹ của cậu bé. Dọc đường, hắn cũng thử dò hỏi Lý Nhi về chuyện xảy ra vào cậu bé qua đời, nhưng Lý Nhi còn quá nhỏ, hoàn toàn không nhớ rõ chuyện gì đã xảy ra, thậm chí, cậu còn chẳng ý thức được rằng mình đã chết.

Vì vậy, ánh mắt của hắn đành phải hướng về phía cha mẹ Lý Nhi, những người đang cặm cụi làm việc ngoài ruộng.

Lúc này, thôn Ngưu Gia chỉ còn là một mảnh đất hoang vu. Cả lớp đất cũng bốc lên mùi hôi thối của sự mục rữa. Đồng ruộng thì cỏ dại mọc tràn, nơi nơi toàn cành khô lá úa. Ấy vậy mà cha mẹ của Lý Nhi vẫn mướt mồ hôi, dùng cuốc cày xới mặt đất. Điều kỳ lạ là lưỡi cuốc của họ chẳng thể chạm vào lòng đất, chỉ lặng lẽ nện xuống từng nhát, nhưng dáng vẻ của họ lại vô cùng nghiêm túc, như thể trong mắt họ, họ đang thực sự làm đồng.

Giống hệt như trong mắt Lý Nhi, đống cỏ ấy đang bốc cháy ngùn ngụt.

Cha mẹ Lý Nhi lau mồ hôi, bước khỏi ruộng nghỉ ngơi. Khi trông thấy Lý Doanh và hắn, họ thoáng sững sờ. Đợi Lý Nhi vui vẻ giới thiệu hai người xong, đôi vợ chồng chất phác mới cười nói: “Hóa ra là khách qua đường ghé xin nước uống.”

Thôi Tuần nói: “Vừa nãy Lý Nhi đã cho chúng ta uống một ngụm nước, nên chúng ta đến để cảm tạ hai vị, cũng là để cảm ơn hai vị đã dạy dỗ được một đứa trẻ hiểu chuyện như vậy.”

Cha của Lý Nhi gãi đầu: “Chỉ là một ngụm nước, không cần phải khách sáo như vậy.”

“Đó là điều nên làm.” Lý Doanh cũng phụ họa theo.

Thôi Tuần liếc nhìn cánh đồng cằn cỗi: “Lúa mạch này lên tốt thật đấy.”

“Lúa mạch?” Cha của Lý Nhi bật cười: “Đây là lúa nước mà.”

Thôi Tuần như chợt tỉnh ngộ: “Thì ra là lúa nước.”

“Có lẽ lang quân xuất thân từ nhà quyền quý, nên mới không phân biệt được lúa nước với lúa mạch.”

Hắn mỉm cười: “Ta thấy nay là tháng ba, nên mới nghĩ là lúa mạch.”

“Tháng ba?” Mẹ của Lý Nhi cũng lấy làm lạ: “Rõ ràng là tháng tám mà.”

Thôi Tuần giả vờ không hiểu: “Tháng tám? Hôm nay chẳng phải ngày mùng hai tháng ba năm Thái Xương thứ hai mươi sao?”

Mẹ của Lý Nhi liền sửa lại: “Hôm nay là mùng sáu tháng tám năm Thái Xương thứ hai mươi mốt.”

Lý Doanh vội vàng làm dịu bầu không khí: “Xin lỗi, lang quân của ta tối qua uống chút rượu, còn chưa hết say nên mới nhầm lẫn ngày tháng.”

Cha mẹ Lý Nhi nghe vậy liền không nghi ngờ thêm, vui vẻ nói với nàng: “Chút nữa để Lý Nhi nấu ít giá đỗ cho lang quân, giải rượu sẽ rất hiệu quả.”

Cặp vợ chồng này tuy nghèo rớt mồng tơi, nhà cửa trống hoác, nhưng vẫn nhiệt tình mời mọc người lạ, khiến lòng Lý Doanh cảm thấy khó chịu. Nàng nghĩ, những con người tốt như họ lại qua đời một cách kỳ lạ cách đây ba mươi năm, quả thật khiến người ta không khỏi chua xót. Nàng bèn hỏi thêm: “À, vừa nãy Lý Nhi có nói rằng có một vị tiên trưởng thường ghé qua thôn của hai vị. Ta và lang quân cũng muốn gặp người ấy, không biết gần đây tiên trưởng có ghé qua không?”

“Lâu lắm rồi không thấy.”

Lý Doanh cố ý tỏ vẻ thất vọng: “Lần cuối tiên trưởng ghé qua là khi nào vậy?”

“Năm ngoái, ngày mười bốn tháng ba.”

Ánh mắt Lý Doanh và Thôi Tuần chạm nhau. Ngày mười bốn tháng Ba? Ngày mười lăm tháng ba chính là ngày cả thôn Ngưu Gia đột ngột qua đời. Tiên trưởng ấy đến vào ngày mười bốn tháng ba, trùng hợp đến mức đáng ngờ.

Thôi Tuần tiếp lời: “Ồ, vậy không biết lúc đến đây tiên trưởng có để lại lời giáo huấn nào không?”

“Có chứ.”

Cha mẹ Lý Nhi lập tức thao thao bất tuyệt kể về những lời dạy bảo của vị tiên trưởng. Lý Doanh và Thôi Tuần lắng nghe, chỉ toàn là những lời khuyên làm việc thiện, tích đức, chết rồi sẽ được đầu thai vào gia đình giàu có. Người làm nhiều việc thiện, linh hồn còn có thể lên thiên cung hưởng phúc. Những điều đó nghe qua chẳng có gì bất thường.

Lý Nhi A Gia mỉm cười: “Tiên trưởng nói, chỉ cần chúng ta làm nhiều việc thiện, kiếp sau của Lý Nhi còn có thể làm quan nữa đấy.”

Lý Doanh không khỏi ngạc nhiên: “Làm quan?”

Lý Nhi và tôn tử của Nghiêm Tam nương, Hổ Nô, tuổi tác xấp xỉ, đều có dáng vẻ hoạt bát, tinh nghịch. Hổ Nô được Thôi Tuần viết một phong bái thiếp gửi đến Thôi Tụng Thanh để theo học. Nghe nói Hổ Nô rất thông minh, được Thôi Tụng Thanh vô cùng yêu mến. Nếu không có gì bất trắc, Hổ Nô chắc chắn có thể thi đỗ từ khi còn trẻ, bước vào triều đình làm quan.

Lý Doanh vô thức liên hệ giữa Hổ Nô và Lý Nhi, nàng lẩm bẩm: “Chẳng phải Lý Nhi mới có sáu tuổi sao? Tại sao lại phải đợi đến kiếp sau mới làm quan, chẳng lẽ kiếp này là không thể?”

Cha của Lý Nhi bật cười: “Chúng ta là nhà nông, nó cũng sẽ làm nông cả đời, sao có thể làm quan được chứ?”

Lúc này Lý Doanh mới bừng tỉnh. Nơi này thật quá đỗi kỳ quái, đến mức nàng quên rằng những người này đã qua đời vào tháng ba, năm Thái Xương thứ hai mươi. Khi ấy, tân chính vẫn chưa được thực thi, chế độ khoa cử chưa được thiết lập. Không thể nào có chuyện “chiều làm ruộng, sáng lên triều” như về sau.

Dù Lý Nhi có thông minh đến đâu thì xuất thân ban đầu cũng đã định sẵn vận mệnh của nó.

Nếu Lý Nhi có thể sống đến năm sau, đợi tân chính được thi hành, nó sẽ có hy vọng thay đổi vận mệnh. Đáng tiếc, sinh mệnh của nó đã mãi mãi dừng lại ở tuổi lên sáu.

Thôi Tuần lại hỏi: “Vậy mỗi lần tiên trưởng đến đây, có để lại thánh vật gì không?”

Cha của Lý Nhi đáp: “Có. Mỗi lần đều cho chúng tôi một bát thánh thủy, uống vào bệnh gì cũng khỏi, linh nghiệm lắm.”

Thôi Tuần chưởng quản hình ngục suốt ba năm, nghe đến đây trong lòng đã lờ mờ hiểu rõ. Hắn chắp tay với cha mẹ Lý Nhi: “Nếu gần đây tiên nhân không đến, vậy chúng ta cũng không đợi nữa. Trời đã không còn sớm, chúng ta phải lên đường đây, hẹn ngày tái ngộ.”

Cha mẹ Lý Nhi cười ha hả gật đầu. Lý Nhi đang chơi đùa dưới ruộng, thấy Thôi Tuần và Lý Doanh sắp đi liền vội vàng chạy tới: “A huynh, a tỷ sắp đi rồi sao?”

Dù đã hóa thành quỷ, nhưng Lý Nhi vẫn giữ được bản tính thơ ngây. Vì không nỡ chia tay, nó bĩu môi, vẻ mặt buồn bã. Thôi Tuần nhìn nó, mỉm cười: “Ừ, lần sau gặp lại nhé.”



Thôi Tuần cùng Lý Doanh rời khỏi cánh đồng, nhưng trong lòng hắn vẫn lưu tâm đến lời của chủ khách xá sáng nay. Chủ khách xá nói rằng từ trấn Đào Viên đến thành Củng Châu mất khoảng bảy tám ngày, nhưng nếu vượt qua núi Vạn Hác, thời gian sẽ được rút ngắn chỉ còn một ngày. Thôn Ngưu Gia chính là con đường duy nhất dẫn lên núi Vạn Hác, vì vậy, hắn quyết định đi theo hướng núi. Thế nhưng, càng đến gần núi Vạn Hác, sương mù càng dày đặc, đến mức không thể thấy rõ bàn tay trước mặt. May mắn nhờ có Lý Doanh nhóm quỷ hỏa để dẫn đường, cả hai mới thoát ra khỏi làn sương dày.

Vừa ra khỏi màn sương, hai người mới phát hiện họ đã quay lại điểm xuất phát ban đầu. Hiển nhiên, lớp sương mù này là một trận pháp, hơn nữa còn không dễ phá giải.

Không còn cách nào khác, Thôi Tuần đành cùng Lý Doanh quay lại con đường cũ, trở về đầu thôn rồi mới tính tiếp. Trên đường quay lại, hai người lại gặp không ít thôn dân, không có ngoại lệ, tất cả đều là hồn ma xác quỷ. Khi bước qua cổng thôn, Thôi Tuần quay đầu nhìn lại những nấm mồ dày đặc, sau đó mím môi, rời đi mà không nói một lời.

Con ngựa Khang Cư buộc trên cây trước đó đã nằm ngủ say trên bãi cỏ. Thôi Tuần và Lý Doanh ngồi xuống đất nghỉ ngơi. Tuy đang là mùa hạ, nhưng gió đêm vẫn mang theo cái lạnh cắt da, nhất là ở Quỷ thôn tà khí dày đặc này, gió từ trong thôn thổi ra mang theo cái lạnh âm u đến rợn người. Lý Doanh muốn tìm áo choàng hồ ly trong hành lý, đặt trên lưng ngựa để khoác cho Thôi Tuần, nhưng hắn ngăn lại: “Không cần đâu.”

Nàng lo lắng hỏi: “Chàng không lạnh sao?”

Rõ ràng chứng hàn của hắn rất nặng cơ mà.

Thôi Tuần lắc đầu, nhưng Lý Doanh không tin. Nàng vươn tay nắm lấy tay hắn, quả nhiên thấy cơ thể hắn cứng lại. Nàng ngước mắt, có chút hờn dỗi siết tay hắn chặt hơn. Hắn không dám nhúc nhích, toàn thân cứng đờ. May mà hôm nay nàng không muốn so đo với hắn, chỉ hơi siết tay. Đôi tay của hắn rõ ràng vô cùng ấm áp, nàng lên tiếng hỏi: “Tối nay chàng chưa uống thuốc mà? Sao tay lại ấm thế này?”

Ngược lại, đôi tay nàng lạnh ngắt như băng.

Thôi Tuần mơ hồ đáp: “Không có gì đáng lo đâu.”

Lý Doanh thầm nghĩ, vì sao vừa ra khỏi Trường An thì chứng hàn của hắn liền đỡ hơn hẳn so với trước? Nhưng nghĩ lại, nàng cũng cảm thấy có lẽ như hắn nói, tích tiểu thành đại, uống thuốc mấy tháng nên giờ đã có hiệu quả. Nàng nở nụ cười rạng rỡ: “Ừ, không sao là tốt rồi.”

Nụ cười của nàng tự nhiên, chân thành, khiến hắn thoáng cúi đầu, không dám nhìn thẳng. Hắn trầm ngâm một lúc rồi chuyển chủ đề: “Ta đã đoán ra nguyên nhân cái chết của Lý Nhi và những người khác rồi.”

“Nguyên nhân gì?”

Trong đầu Thôi Tuần dần xâu chuỗi mọi manh mối, từ những ngôi mộ hắn nhìn thấy đến lời kể của cha mẹ Lý Nhi. Hắn trầm ngâm một lúc, rồi chậm rãi nói: “Chắc là tiên trưởng mà Lý Nhi nhắc đến, ba mươi năm trước đã dụ họ uống thánh thủy có chứa kịch độc, khiến hai trăm hai mươi thôn dân của thôn Ngưu Gia chết bất đắc kỳ tử chỉ trong một đêm. Sau đó, vị tiên trưởng ấy lại dùng trận pháp vô cùng độc ác đặt lên những ngôi mộ, giam giữ hồn phách của họ, khiến họ nghĩ rằng mình vẫn còn sống.”

Lý Doanh kinh hãi: “Vậy nên họ mới tưởng ban đêm là ban ngày, đêm ngủ, ngày đi lại?”

Thôi Tuần gật đầu. Lý Doanh hỏi tiếp: “Vì sao tiên trưởng đó phải làm vậy? Vì sao lão phải giết hai trăm người nông dân? Làm vậy có ích lợi gì cho lão?”

Thôi Tuần cân nhắc một lúc mới đáp: “Nếu ta đoán không sai, chắc là để kéo dài tuổi thọ.”

“Kéo dài tuổi thọ?”

Thôi Tuần gật đầu: “Trước đây ta từng điều tra một vụ án, dân chúng ở đất phong của Tề vương tố cáo Tề vương xem thường tính mạng người khác. Sau khi điều tra, phát hiện cáo trạng là thật. Tề vương mắc bệnh hiểm nghèo, để kéo dài mạng sống, đã nghe lời yêu đạo, bắt dân lành vô tội về giết hại, hòng chuyển dương thọ của họ sang mình. Sự việc ở thôn Ngưu Gia rất giống với vụ án năm đó của Tề vương. Nông dân ở thôn Ngưu Gia cơm không đủ ăn, áo chẳng đủ mặc, giết họ thì có lợi gì? Trừ phi họ sở hữu một thứ gì đó quý giá. Nhưng thứ quý giá này là gì, đủ để khiến tiên trưởng kia sinh lòng tà ác? Ngoài dương thọ ra, ta không nghĩ ra được lý do nào khác.”

Lý Doanh nghe mà tim đập thình thịch: “Đúng vậy, chẳng trách ta vừa đến gần những nấm mồ kia liền cảm thấy khó chịu khắp người, thì ra nơi đó đã bị đặt cấm chế đối với hồn phách. Hơn nữa, hồn phách của họ bị phong tỏa, sổ sinh tử ở âm phủ chắc chắn không ghi chép năm họ mất. Số dương thọ còn lại rất có thể đã bị tiên trưởng kia làm phép chuyển đi.”

Trong lòng nàng bỗng dâng lên niềm cảm thương sâu sắc với Lý Nhi và những người khác. Họ không chỉ chết một cách oan uổng mà hồn phách còn bị giam cầm vĩnh viễn ở thôn Ngưu Gia. Họ từng nghĩ làm việc thiện sẽ đổi được một kiếp sau đầu thai làm người tốt, nào ngờ ngay cả cơ hội đầu thai cũng chẳng còn.

Lý Doanh xót xa, nàng hỏi Thôi Tuần: “Thập Thất lang, có cách nào cứu họ không?”

Thôi Tuần đáp: “Nếu tiên trưởng kia muốn mượn mạng sống của người dân thôn Ngưu Gia thì hẳn lão sẽ không đi xa. Chỉ cần tìm được lão thì sẽ cứu được Lý Nhi cùng mọi người.”

“Vậy chúng ta mau đi tìm…”

Lời nói của Lý Doanh đến miệng bỗng nhiên nghẹn lại, nàng cúi đầu nhìn chằm chằm mũi chân, ngón tay chậm rãi siết lấy vạt váy: “Thập Thất lang, ta biết chàng đang gấp rút đến Lĩnh Nam, bởi hy vọng giải oan cho Thiên Uy quân đều nằm ở lần này. Nếu chúng ta đi tìm tiên trưởng đó, có lẽ… sẽ làm chậm trễ hành trình của chàng đến Lĩnh Nam…”

Nàng nói đến đây, cũng chẳng biết làm sao để tiếp tục. Nàng hiểu rõ, vì muốn Thiên Uy quân được giải oan, Thôi Tuần đã phải chịu biết bao đau khổ. Trên con đường này, hắn dần trở thành một ác quỷ bước đi trong cõi Tu La. Trái tim hắn cũng từ đó mà ngày càng băng lạnh. Nếu lần này hắn lựa chọn đến Lĩnh Nam thay vì cứu nhóm Lý Nhi, nàng cũng chẳng ngạc nhiên.

Nhưng Thôi Tuần bất ngờ lên tiếng: “Đi tìm tiên trưởng kia thôi.”

Lý Doanh kinh ngạc ngẩng đầu, Thôi Tuần điềm nhiên nói: “Sẽ không trì hoãn gì đâu.”

Nàng lặng lẽ nhìn hắn, rồi bất chợt nở nụ cười rạng rỡ tựa hoa xuân, gật đầu thật mạnh: “Được.”
 
Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh
Chương 106: Ta là công chúa Đại Chu



Để tìm ra vị tiên trưởng kia kỳ thực cũng không phải khó.

Vừa bước chân vào trấn, Thôi Tuần đã hỏi thăm về các đạo sĩ hoặc tăng nhân lợi hại quanh vùng, rồi theo độ tuổi và thói quen để loại trừ dần. Ba mươi năm trước, tiên trưởng kia đã hại chết cả thôn Ngưu Gia, vậy nên tuổi tác ắt hẳn phải trên năm mươi. Hơn nữa, thuật nối mệnh độc ác này nếu không có đạo hạnh thâm sâu thì không thể nào thực hiện được. Nhìn vào mức độ thuần thục khi thi triển thuật phép của tiên trưởng, e rằng tuổi lão ta còn vượt xa con số năm mươi.

Về phần thói quen, người dân trong thôn kể rằng tiên trưởng kia luôn miệng rao giảng nhân nghĩa đạo đức, thường khuyên người khác tích đức hành thiện. Lần theo thói quen này, cũng không khó để dò la.

Cuối cùng, Thôi Tuần tìm được một vị đạo sĩ sống ở đạo quán Tử Vân, được mệnh danh là Linh Hư Sơn Nhân. Nghe nói, vị Linh Hư Sơn Nhân này phong thái tiên phong đạo cốt, dù đã hơn trăm tuổi nhưng vẫn tóc bạc da hồng. Nhiều người ở trấn Đào Viên đều tín phụng lão ta. Sau khi Thôi Tuần tra hỏi thêm, phát hiện tín đồ của Linh Hư Sơn Nhân không chỉ ở trấn Đào Viên, mà còn trải rộng khắp Đại Chu, không ít quan lại quyền quý ở Trường An cũng một lòng sùng bái lão ta. Nhờ vậy, hương khói ở đạo quán Tử Vân vô cùng thịnh vượng, thiện nam tín nữ lui tới không ngớt.

Hằng năm, Linh Hư Sơn Nhân đều ra ngoài du ngoạn vài lần. Lần này Thôi Tuần đến đúng dịp, vị tiên trưởng hiện vẫn đang tọa trấn ở đạo quán Tử Vân.

Chủ quán trà kể lại những điều này với vẻ rất hào hứng. Ông cũng là tín đồ của Linh Hư Sơn Nhân, thậm chí còn tự hào lấy ra một tấm linh phù: “Đây là linh phù (lá bùa) tiên trưởng viết cho ta. Chỉ cần đốt thành tro, hòa vào nước uống, có thể kéo dài tuổi thọ, phúc đức vẹn tròn.”

Thôi Tuần liếc nhìn tấm linh phù, thấy trên đó ghi rõ ngày sinh tháng đẻ của chủ quán trà, còn dùng máu vẽ nên những đồ hình quái lạ không hiểu nổi. Đứng bên cạnh, Lý Doanh cũng chăm chú quan sát linh phù. Vì chủ quán không nhìn thấy nàng, nên nàng đưa tay chạm thử vào lá bùa. Nhưng vừa chạm đến, nàng cảm giác cả người như bị hút vào trong, giật mình kinh hãi, vội vàng rụt tay lại, lui về sau hai bước.

Thôi Tuần cũng giật mình, lo lắng nhìn về phía Lý Doanh. May thay, chủ quán trà không nhận ra điều bất thường, chỉ thấy tấm linh phù bỗng nhiên rời khỏi tay, nhẹ nhàng đáp xuống đất. Chủ quán trà nhặt lên, kinh ngạc hỏi: “Sao linh phù lại rơi thế nhỉ?”

Thôi Tuần nhíu mày. Tấm linh phù này, có điểm gì đó khác lạ.

Sau khi cảm tạ chủ quán, Thôi Tuần cùng Lý Doanh rời đi, trở về khách xá nơi họ trú chân.



Vừa bước vào phòng, Lý Doanh đã vội vã lên tiếng: “Đó không phải là linh phù trường thọ.”

Thôi Tuần hỏi: “Vậy là thứ gì?”

“Là phù chú giam giữ sinh hồn.”

Vốn là hồn phách, vừa rồi khi chạm vào linh phù, suýt nữa nàng đã bị hút cả hồn phách vào trong. Vì vậy, nàng dám khẳng định, một khi chủ quán trà uống tàn tro của tấm linh phù, chú văn sẽ thấm vào máu thịt, khiến linh hồn của ông ấy rơi vào tay Linh Hư Sơn Nhân. Đợi khi lão ta muốn lấy đi hồn phách, thì hồn phách sẽ lập tức rời khỏi thân xác.

Thôi Tuần trầm giọng: “Vậy chẳng phải muốn ông ta chết lúc canh ba, ông ta sẽ chết lúc canh ba?”

Lý Doanh gật đầu: “Hơn nữa, nghe nói không chỉ có mỗi mình ông ta nhận được tấm linh phù này. Không biết đã có bao nhiêu người từng nhận linh phù của Linh Hư Sơn Nhân và bao nhiêu người đã đốt linh phù, từ đó giao sinh mệnh của mình vào tay lão ta.”

“Lão giam giữ hồn phách của nhiều người thế này, xem ra dã tâm không nhỏ.”

Lý Doanh cũng nghĩ vậy. Nàng nhíu mày, nói: “Nếu không sớm tiêu diệt Linh Hư Sơn Nhân, e rằng sẽ còn nhiều người bị hại hơn nữa.”

Nàng cắn nhẹ môi, dường như có điều phân vân, nhưng cuối cùng vẫn lên tiếng: “Thập Thất lang, hay là chàng đến Lĩnh Nam trước đi?”

Thôi Tuần hỏi: “Vậy còn nàng?”

Lý Doanh có vẻ hơi ngượng ngùng: “Ta đã hứa với chàng sẽ cùng chàng đi Lĩnh Nam, nhưng có khi ta phải thất hứa rồi.”

Nàng từ từ cúi đầu: “Cũng như chàng không thể bỏ mặc Thiên Uy quân, ta cũng không thể làm ngơ trước những bách tính này. Ta… ta là công chúa Đại Chu.”

Công chúa nhận bổng lộc từ vạn dân, thì cũng phải trả lại cho vạn dân, làm tròn trách nhiệm của một công chúa – đó là điều mà Lý Doanh được dạy bảo từ thuở bé.

Dù nay nàng chỉ là một hồn phách, dù nàng từng là một công chúa bị phụ thân hy sinh, thì nàng vẫn là công chúa Đại Chu.

Giọng nàng dần trở nên nhỏ nhẹ, đôi mắt hoe đỏ, hiển nhiên trong lòng đầy áy náy, không dám ngẩng đầu lên nhìn Thôi Tuần: “Nếu ta theo chàng đến Lĩnh Nam mà bách tính gặp nạn, ta nghĩ… cả đời này ta sẽ không thể an lòng.”

Thôi Tuần điềm tĩnh nói: “Nàng muốn ở lại cứu họ.”

Lý Doanh cúi đầu, khẽ gật nhẹ: “Ta vốn dĩ chẳng phải người có chí lớn. Ngày xưa nguyện vọng của ta chỉ là mãi mãi được ở bên a gia và a nương. Giờ đây, nguyện vọng của ta là mãi mãi được ở bên chàng. Ta không muốn làm nữ trung hào kiệt như công chúa Khánh Dương, cũng chẳng muốn được lưu danh sử sách như công chúa Bình Nguyên. Ta chỉ muốn cùng người ta yêu sống bên nhau mãi mãi. Ta chỉ là một công chúa Đại Chu tầm thường, nhưng ta không thể dùng sự tầm thường ấy làm cái cớ để thờ ơ với nỗi khổ của bách tính. Ta cũng không thể chỉ chăm lo cho tình cảm cá nhân mà để mặc hàng vạn sinh linh rơi vào bàn tay tà đạo. Nếu làm vậy, ta sẽ thẹn với danh phận công chúa, thẹn với mười sáu năm được nuôi dưỡng.”

Nàng càng nói, đầu càng cúi thấp, cuối cùng vẫn không thể giữ lời hứa của mình, không thể đi Lĩnh Nam cùng Thôi Tuần.

Hai tay nàng vô thức siết chặt lại, trong lòng đầy đau khổ vì thất hứa. Nhưng bên tai bỗng vang lên giọng nói trầm thấp của Thôi Tuần: “Minh Nguyệt Châu, nàng ngẩng đầu lên, nhìn ta đi.”

Lý Doanh ngây người, từ từ ngẩng lên, nhìn thấy bóng hình mình phản chiếu trong đôi mắt sâu thẳm như mực của hắn. Nàng nhìn hắn, hắn cũng nhìn nàng. Giọng hắn dịu dàng vô cùng: “Minh Nguyệt Châu, công chúa Khánh Dương giúp phụ hoàng khởi binh, ngang dọc chiến trường, quả là nữ trung hào kiệt. Công chúa Bình Nguyên vào triều nghị chính, ba triều tể tướng đều xuất thân từ tay nàng, đáng để lưu danh sử xanh. Nhưng ai nói nữ trung hào kiệt hay lưu danh sử xanh mới là có chí lớn? Nàng vì bách tính mà vẫn luôn canh cánh trong lòng, trong mắt ta, nàng chính là công chúa Đại Chu xứng danh.”

Lý Doanh lẩm bẩm: “Ta… xứng đáng thật sao?”

Thôi Tuần gật đầu: “Nàng hoàn toàn xứng đáng.”

“Nhưng ta… không thể cùng chàng đi Lĩnh Nam được…”

Thôi Tuần mỉm cười nhè nhẹ: “Không, nàng vẫn có thể đi Lĩnh Nam với ta.”

Lý Doanh ngẩn người, Thôi Tuần nói: “Bởi vì ta cũng định ở lại, giúp nàng cứu những bách tính này.”

Lý Doanh kinh ngạc: “Nhưng chàng gấp rút đến Lĩnh Nam, giúp ta chẳng phải sẽ làm mất thời gian lắm sao?”

“Không giúp mới là mất thời gian.” Thôi Tuần đáp: “Thôn Ngưu Gia nằm trên đường đi qua núi Vạn Hác, Linh Hư Sơn Nhân đã bày trận pháp ở thôn Ngưu Gia, khiến ta không thể lên núi. Nếu không phá được tà thuật, ta chỉ có thể vòng qua đường khác đến Củng Châu, tốn công tốn sức. Nhưng nếu phá được tà thuật, ta có thể đến nơi chỉ trong một ngày. Nên không giúp mới là làm mất thời gian.”

Lý Doanh do dự giây lát: “Thật sự không làm mất thời gian chứ?”

Thôi Tuần lắc đầu: “Không.”

Thấy hắn chắc chắn, Lý Doanh mới hơi yên lòng, nàng mỉm cười: “Được, vậy đến lúc giải cứu xong bách tính, chúng ta lại cùng đi Lĩnh Nam.”

Thôi Tuần nhìn nàng, khóe môi cong lên: “Ừ.”



Khi Thôi Tuần và Lý Doanh đang bàn bạc, tại đạo quán Tử Vân, Linh Hư Sơn Nhân đang nhập thiền bỗng chậm rãi mở mắt.

Linh Hư Sơn Nhân, râu tóc bạc trắng, dung mạo hiền từ, phong thái tiên phong đạo cốt. Lão lầm bầm: “Linh phù của Trương Tứ lang bị động vào sao?”

Một đệ tử đứng hầu bên cạnh cẩn trọng hỏi: “Sư phụ, có người động đến linh phù ạ?”

Linh Hư Sơn Nhân lắc đầu: “Không phải người, là hồn.”

“Hồn ư?”

Linh Hư Sơn Nhân lại nhắm mắt, tập trung cảm nhận khí tức từ linh phù. Một lát sau, lão đột nhiên mở bừng mắt, vẻ mặt không giấu nổi kinh ngạc: “Hóa ra là nàng.”

Đệ tử hỏi: “Sư phụ, đó là ai?”

Nhưng Linh Hư Sơn Nhân chỉ lặp lại bốn chữ: “Hóa ra là nàng.” Hồi lâu sau, thần sắc lão thay đổi, miệng lẩm bẩm: “Nếu là nàng, hẳn là ý trời giúp ta.”

Đệ tử không hiểu: “Sư phụ, rốt cuộc hồn ma đó là ai?”

Gương mặt Linh Hư Sơn Nhân ánh lên niềm vui: “Ngươi không cần biết nàng là ai, chỉ cần hiểu rằng nàng là một hồn ma có thể giúp ta thoát khỏi vòng sinh tử.”

Đệ tử bối rối, Linh Hư Sơn Nhân mỉm cười nói: “Ngươi từng thấy hồn ma nào được bốn vạn ngôi chùa thờ Phật khắp cả nước cung phụng chưa? Lại từng thấy hồn ma nào khiến toàn bộ tăng lữ trong thiên hạ đồng loạt niệm chú vãng sinh chưa? Lợi ích từ hồn ma này, so với một vạn Trương Tứ lang còn đáng giá hơn nhiều.”

Đệ tử thốt lên: “Sư phụ, rốt cuộc là loại hồn ma gì mà có năng lực lớn như vậy?”

Linh Hư Sơn Nhân hồi tưởng lại tiết Hàn Thực cách đây ba mươi năm, khi nàng đứng trên xích đu, dung quang chói lọi chiếu khắp nhân gian. Dù lão đã sớm đoạn tình tuyệt dục, nhưng mỗi khi nghĩ đến, trái tim vẫn không khỏi xao xuyến. Lão nói: “Đó là viên minh châu rực rỡ nhất của Đại Chu.”

Đệ tử sững người, Linh Hư Sơn Nhân lại thở dài, dường như nhớ đến điều gì: “Đệ tử xuất sắc nhất của ta cũng đã thất bại trước viên minh châu ấy. Nếu không, có hắn, làm gì đến lượt những kẻ ngốc nghếch như các ngươi đứng vững ở đây.”

Đệ tử bị mắng đến bối rối: “Sư phụ, đệ tử sẽ lập tức đi bắt hồn ma đó, giúp sư phụ siêu thoát sinh tử.”

“Chỉ dựa vào ngươi?” Linh Hư Sơn Nhân bật cười lắc đầu: “Để ta, đích thân gặp nàng một lần.”



Nhưng chưa kịp để Linh Hư Sơn Nhân gặp Lý Doanh, Thôi Tuần đã đến đạo quán Tử Vân thăm dò thực hư.

Đạo quán Tử Vân tọa lạc giữa núi non trùng điệp, bao quanh bởi tùng bách xanh rì. Khắp nơi đều được chạm khắc họa tiết mây trời và tiên hạc, biểu thị ý nghĩa thiên nhân hợp nhất. Từ xa trông vào, nơi này tựa như một đạo quán hương khói thịnh vượng, thiện nam tín nữ quỳ gối thành kính trước điện Tam Thanh.

Thôi Tuần cũng bước vào điện Tam Thanh, quỳ xuống bái lạy. Hắn ra tay hào phóng, tiền hương dầu vừa dâng lên là một thỏi vàng, khiến tiểu đạo sĩ không khỏi líu lưỡi. Nhân lúc đó, Thôi Tuần đề nghị muốn gặp Linh Hư Sơn Nhân. Tiểu đạo sĩ đáp: “Hôm nay sư phụ đang giảng đạo tại đàn Vân Trạch. Nếu cư sĩ muốn nghe, ta có thể dẫn đường.”

Thôi Tuần đương nhiên đáp rằng muốn nghe. Tiểu đạo sĩ liền đưa hắn đến đàn Vân Trạch. Đàn Vân Trạch nằm phía sau đạo quán Tử Vân, không gian rộng lớn, có thể chứa đến vạn người. Khi Thôi Tuần đến, đã có không ít tín đồ ngồi xếp bằng dưới đất lắng nghe giảng đạo. Hắn còn thấy chủ quán trà cũng đang đắm chìm trong buổi thuyết pháp của Linh Hư Sơn Nhân.

Thôi Tuần bèn tìm một chỗ giữa nhóm tín đồ để ngồi xuống. Hắn ngẩng đầu quan sát Linh Hư Sơn Nhân. Vị này mặc đạo bào xám thêu họa tiết tiên hạc mây lành, trông như người trung niên ngoài bốn mươi, hiền từ nhân hậu.

Buổi thuyết giảng chỉ xoay quanh chuyện khuyên người tích cực hành thiện, nên chẳng khiến Thôi Tuần mảy may hứng thú. Hắn đảo mắt nhìn quanh, chợt phát hiện ở góc đàn có treo một chiếc đèn lồng.

Chiếc đèn ấy không phải kiểu lồng đèn thường thấy ngày nay, mà là một chiếc đèn bằng đồng xanh, trên thân đèn khắc những phù văn và hoa văn kỳ dị. Những đường nét này thoạt nhìn có chút quen thuộc…

Trên đàn, Linh Hư Sơn Nhân đã giảng đến “tam chướng”. Theo Đạo giáo, tam chướng gồm: ma chướng, nghiệp chướng và tai chướng. Từ tam chướng mà sinh ra mười điều ác, đây chính là cội nguồn của mọi khổ đau. Chỉ khi phá bỏ được tam chướng, con người mới có thể đắc đạo.

Nhưng thế nhân phàm tục, có mấy ai vượt qua được tam chướng?

Khi Linh Hư Sơn Nhân nói đến đây, Thôi Tuần bỗng nhớ ra vì sao những phù văn và hoa văn trên chiếc đèn đồng ấy lại quen thuộc đến vậy. Những đường nét đó giống hệt tấm “bùa khóa hồn” mà Linh Hư Sơn Nhân đưa cho chủ quán trà.
 
Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh
Chương 107: Thọ mệnh còn lại, e rằng chỉ còn mười năm



Buổi giảng đạo còn chưa kết thúc, Thôi Tuần đã rời khỏi đạo đàn, quay trở về khách xá. Như đêm trước, hắn vẫn bao trọn một tầng lầu trong khách xá. Nếu thuê hai gian phòng, ắt sẽ làm người ta sinh nghi, nhưng bao trọn cả tầng, cùng lắm chỉ bị chủ khách xá nghĩ rằng hắn là một công tử phú quý không muốn ở chung với những gia tộc hàn vi. Tính ra lại an toàn hơn.

Thôi Tuần biết rõ, dù đã giết mười đạo sĩ lén lút dò la phủ đệ của mình, nhưng Bùi Quan Nhạc tuyệt đối sẽ không bỏ qua. Ông ta nhất định sẽ phái người bám theo hắn, đợi đến khi phát hiện kẻ ngồi trong xe ngựa giả mạo hắn, Bùi Quan Nhạc chắc chắn sẽ lùng sục khắp nơi. Vì vậy, hắn cần phải giải quyết Bùi Quan Nhạc trước khi ông ta tìm thấy Lý Doanh.

Lúc này, chỉ còn cách nhanh chóng trừ khử Linh Hư Sơn Nhân, sau đó phi ngựa không nghỉ từ Quỷ thôn đến thành Củng Châu. Nếu chậm trễ, ắt sẽ sinh biến.

Nếu là trước đây, Thôi Tuần đã có nhiều cách thỏa đáng hơn để loại bỏ Linh Hư Sơn Nhân. Nhưng giờ, để sớm diệt trừ lão, hắn chỉ có thể đánh cược một phen.

Hắn nói với Lý Doanh: “Hoa văn khắc trên chiếc đèn bằng đồng xanh treo ở đạo đàn giống hệt tấm bùa khóa hồn. Ta từng nghe nói trong Đạo môn có một tà thuật, gọi là “đèn mượn mệnh”. Ý nghĩa của cái tên này là mượn tuổi thọ của người khác về cho mình. Nhưng nếu đèn mượn mệnh tắt, kẻ mượn mệnh sẽ phải hoàn trả toàn bộ thọ số đã mượn được. Ngọn đèn bằng đồng xanh ấy, rất có khả năng chính là đèn mượn mệnh.”

Lý Doanh trầm tư một lúc, đáp: “Những tín đồ nghe giảng đạo phần lớn đều đã nuốt bùa khóa hồn. Đèn mượn mệnh treo trên đạo đàn, hẳn là để khắc sâu chú tỏa hồn trong máu thịt họ, khiến sinh hồn của họ dễ dàng bị Linh Hư Sơn Nhân điều khiển hơn.”

Thôi Tuần nói: “Bao nhiêu năm qua, số tuổi lão mượn chắc chắn không ít. Nếu chúng ta tìm cách dập tắt đèn mượn mệnh, số tuổi lão mượn được sẽ bị trả về, lão sẽ quay lại với số tuổi vốn có. Đến lúc ấy, lão chỉ còn là một cái xác không hồn.”

Nghe xong, Lý Doanh lại có chút do dự: “Nhưng nếu lời đồn về đèn mượn mệnh là giả, hoặc chiếc đèn bằng đồng xanh ấy không phải đèn mượn mệnh thì tùy tiện dập đèn liệu có làm kinh động đến lão không?”

Thôi Tuần lắc đầu, đáp: “Đời người vốn là một canh bạc. Thắng thì được như ý nguyện, thua thì mất mạng nơi hoàng tuyền. Ta đã đánh cược rất nhiều lần, cũng chẳng ngại cược thêm lần nữa.”

Lý Doanh hé môi định nói, nàng nghĩ đến rất nhiều điều. Đúng vậy, cả đời Thôi Tuần chính là một ván cược được ăn cả ngã về không. Từ khi Quách Cần Uy giao phó hắn phải bảo toàn tính mạng và bị Đột Quyết bắt đi, đó đã là một canh bạc. Quách Cần Uy cược rằng Đột Quyết sẽ không giết hắn, nhưng không ngờ những gì hắn phải chịu trên đất Đột Quyết còn thê thảm hơn cả cái chết. Sau đó, trở về Trường An, hắn cam nguyện làm thanh đao trong tay a nương, đặt cược rằng quyền thế sẽ giúp hắn rửa sạch oan khuất cho Thiên Uy quân. Nhưng trong quá trình ấy, đổi lại là tiếng xấu đầy mình, thân đầy thương tích.

Nàng không đành lòng. Nàng rất muốn khuyên hắn, nhưng nàng biết mình chẳng thể lay chuyển được hắn. Điều duy nhất nàng có thể làm là cố hết sức để những lá bài trong tay hắn thêm phần nặng ký, để hắn có thể giành lấy thắng lợi cuối cùng.

Vì thế, nàng gật đầu, nói: “Ừ, vậy chúng ta cùng nghĩ cách để đoạt được chiếc đèn mượn mệnh đó.”

Khi nàng và Thôi Tuần đang bàn bạc, bỗng nghe tiếng ồn ào từ lầu dưới vọng lên.



Là Linh Hư Sơn Nhân.

Trước đó, Lý Doanh đã vô tình chạm vào linh phù của chủ quán trà, nhờ vậy Linh Hư Sơn Nhân lần theo khí tức linh phù đến tận khách xá. Dấu vết khí tức dừng lại ở khách xá, chủ nhân của khách xá dường như cũng nhận ra lão: “Sao hôm nay tiên trưởng lại ghé qua đây?”

Đi cùng Linh Hư Sơn Nhân còn có chủ quán trà, Trương Tứ lang. Linh Hư Sơn Nhân mỉm cười đáp: “Bần đạo cảm thấy có người hữu duyên đạo pháp trọ tại quý xá, đặc biệt đến đây để gặp mặt.”

“Người hữu duyên với đạo pháp sao?” Chủ khách xá suy nghĩ một hồi, người đầu tiên mà ông nghĩ tới là vị lang quân trẻ tuổi trông đẹp đến mức như không phải người phàm đang bao trọn lầu hai. Nhưng rồi ông lập tức phủ nhận. Vị lang quân kia quả đúng là đẹp, nhưng đôi mắt thì lạnh lẽo như sương tuyết, khí chất quanh thân lại lạnh nhạt đến mức như muốn chặn người ta cách xa ngàn dặm. Nhìn thế nào cũng không giống người có duyên đạo.

Nhưng Trương Tứ lang lại nói với ông: “Tiên trưởng nói, có lẽ là vị lang quân trọ tại khách xá của ngài đêm qua.”

“Lang quân ấy là người có duyên đạo sao?” Chủ khách xá thoáng kinh ngạc, nhưng vẫn chỉ tay dẫn đường: “Hắn ở phòng khách trên lầu hai.”

Linh Hư Sơn Nhân và Trương Tứ lang liền lên lầu, đến trước cửa phòng. Trương Tứ lang gõ cửa vài cái. Thôi Tuần và Lý Doanh trao đổi ánh mắt, Lý Doanh lập tức lui về sau tấm bình phong, lòng bàn tay nàng bùng lên một ngọn quỷ hỏa màu xanh biếc. Quỷ hỏa nhảy vọt lên không trung, hóa thành ánh sáng nhạt bao phủ toàn thân nàng. Dù đạo hạnh của Linh Hư Sơn Nhân thâm sâu, trong chốc lát cũng không thể phát hiện ra tung tích của nàng.

Nàng ẩn thân xong, Thôi Tuần mới chậm rãi bước đến mở cửa. Hắn chắn ngay ở lối vào, không định để Linh Hư Sơn Nhân và Trương Tứ lang bước vào phòng, định ứng phó qua loa vài câu rồi đuổi khéo đi. Nhưng còn chưa kịp mở lời, Linh Hư Sơn Nhân đã quan sát hắn từ đầu đến chân, cười nói: “Vị cư sĩ này, bần đạo xem tướng ngài, thấy rõ là người hữu duyên với đạo pháp. Có thể để bần đạo vào trong, cùng luận bàn đôi lời chăng?”

Thôi Tuần thẳng thừng đáp: “Không thể.”

Dứt lời, hắn định đóng cửa ngay. Nhưng Linh Hư Sơn Nhân đã chống tay lên cửa, cười bảo: “Cư sĩ hà tất cự tuyệt dứt khoát như vậy. Không bằng nghe bần đạo giảng đạo xong rồi hãy quyết định cũng chưa muộn.”

Lão ta không chút khách khí tiến thẳng vào phòng. Thôi Tuần bị Trương Tứ lang kéo lại, người này ríu rít nói: “Lang quân à, tiên trưởng xem trọng ngài, muốn chỉ điểm ngài tu hành. Đây là cơ duyên mà bao nhiêu người cầu cũng không được đó.”

Thôi Tuần nhìn thấy Linh Hư Sơn Nhân đã vào trong phòng, đảo mắt nhìn quanh khắp nơi. Ánh mắt lão ta còn quét qua chỗ bình phong. Hắn chột dạ, vội vùng khỏi tay Trương Tứ lang, bước nhanh đến chặn trước mặt Linh Hư Sơn Nhân, nhíu mày nói: “Tiên trưởng, ta không có hứng thú với tu đạo. Phiền ông tìm người hữu duyên khác.”

Linh Hư Sơn Nhân chăm chú nhìn hắn một hồi, chợt bật cười ha hả. Lão ta ngang nhiên ngồi xuống trước án thư, không có chút ý định rời đi. Trương Tứ lang cũng theo vào, cung kính đứng hầu bên cạnh Linh Hư Sơn Nhân.

Linh Hư Sơn Nhân đưa tay ra hiệu cho Thôi Tuần ngồi xuống đối diện, dường như có điều gì muốn nói. Thôi Tuần mím môi, chẳng mấy kiên nhẫn mà ngồi xuống. Linh Hư Sơn Nhân chậm rãi nói: “Dáng vẻ của cư sĩ làm bần đạo nhớ đến đệ tử đắc ý nhất của mình.”

Thôi Tuần đang nghĩ cách để đuổi lão ta đi, nên không đáp lời. Linh Hư Sơn Nhân lại tiếp tục: “Đệ tử ấy của ta, thiên tính thông minh, tinh anh tài giỏi, nếu vẫn theo ta tu tập, có khi đã đắc đạo rồi.”

Thôi Tuần nào đủ kiên nhẫn nghe lão kể lể chuyện đệ tử của mình, không vui nói: “Ta muốn nghỉ ngơi, phiền tiên trưởng nhanh chóng rời đi.”

Linh Hư Sơn Nhân mỉm cười: “Cư sĩ hà tất cự tuyệt người khác đến ngàn dặm. Như người tâm sáng mắt tinh thế này, sao phải khổ sở vấn vương chốn hồng trần? Không bằng theo bần đạo nhập đạo quán tu hành, siêu thoát sinh tử, một ngày nào đó tất đạt trường sinh bất lão.”

Thôi Tuần lạnh giọng: “Ta không muốn trường sinh bất lão, ta chỉ muốn vướng vào chốn hồng trần.”

Linh Hư Sơn Nhân ngẩn ra một lúc. Truyền đạo nhiều năm, đây là lần đầu tiên lão nghe có người nói không muốn trường sinh bất lão. Lão nghĩ bụng có lẽ đây chỉ là cái cớ để Thôi Tuần đuổi lão đi. Nhưng lão lại không muốn rời khỏi đây quá sớm. Khí tức của linh phù rõ ràng ngưng tụ ngay trước cửa, nhưng từ khi bước vào lại chẳng thu được gì. Nếu cứ thế mà đi thì thật không cam lòng.

Lão quan sát kỹ Thôi Tuần. Thanh niên trước mắt dung nhan tái nhợt, nhưng gương mặt lại như ngọc như ngà, tuấn tú vô cùng, đúng kiểu công tử phong lưu. Một mỹ nam tuấn tú ở cùng một nữ quỷ mỹ lệ, trai đơn gái chiếc… chẳng lẽ…

Linh Hư Sơn Nhân chợt nghĩ ra cách thử tìm tung tích của nữ quỷ, bèn nói với Thôi Tuần: “Bần đạo thấy khí sắc của cư sĩ không tốt, chi bằng để bần đạo bắt mạch xem sao.”

Thôi Tuần lập tức từ chối, nhưng Trương Tứ lang lại xen vào: “Lang quân, y thuật của tiên trưởng ở trấn Đào Viên nổi danh lắm, không biết bao nhiêu người sắp chết đã được ông ấy cứu sống. Ngài cứ để tiên trưởng bắt mạch thử đi.”

Thôi Tuần chẳng buồn bận tâm, nhưng Trương Tứ lang cứ lải nhải không dứt. Thấy thế, nếu hôm nay không để Linh Hư Sơn Nhân bắt mạch, hai người này chắc chắn sẽ không chịu đi. Hắn đành đặt cổ tay lên bàn. Linh Hư Sơn Nhân vuốt chòm râu bạc, đưa tay bắt mạch cho hắn. Một lát sau, sắc mặt lão bỗng nghiêm trọng, nói: “Thân thể cư sĩ tổn hao quá nhiều, quả thật không ổn. Thọ mệnh còn lại có khi chỉ khoảng mười năm mà thôi.”

Nghe đến bốn chữ “mười năm thọ mệnh,” sắc mặt Thôi Tuần vẫn không hề thay đổi, đôi mắt đen láy chẳng lộ chút kinh ngạc nào. Ngược lại, Lý Doanh đang dùng niệm lực ẩn mình sau bình phong, nghe câu này liền không khỏi chấn động, đến nỗi ánh sáng xanh biếc bảo vệ thân hình nàng cũng run rẩy hẳn lên.

Linh Hư Sơn Nhân nhạy bén nhận ra trong phòng có khí tức của người mà lão đang tìm kiếm. Lão không biểu lộ gì, lại nói với Thôi Tuần: “Có phải gần đây cư sĩ đang dùng dược hổ lang không? Bần đạo khuyên cư sĩ nên sớm ngừng lại thì hơn. Dược hổ lang tuy hiệu quả nhanh, nhưng cực kỳ tổn hại thân thể. Nếu không dừng, mười năm thọ mệnh còn lại e rằng chỉ còn không quá năm năm.”

Sau tấm bình phong, lòng Lý Doanh càng thêm rối bời. Ánh sáng xanh biếc hộ thân nàng liên tục chập chờn, phản chiếu rõ cơn sóng lớn đang khuấy đảo nội tâm. Nhìn qua, chỉ sợ nàng sắp bị Linh Hư Sơn Nhân phát hiện. Thôi Tuần nhanh chóng rút cổ tay ra khỏi tay của lão đạo sĩ, thản nhiên nói: “Tiên trưởng là đạo sĩ, chẳng phải thần y, sao lại đoán được tuổi thọ con người?”

Linh Hư Sơn Nhân mỉm cười: “Y thuật của bần đạo, e rằng còn cao minh hơn cả một số thần y.”

Trương Tứ lang cũng góp lời: “Đúng vậy, tiên trưởng đã chữa khỏi cho không ít người, ngay cả con gái của ta cũng nhờ tiên trưởng cứu giúp.”

Thôi Tuần đứng dậy, lời nói không còn vẻ khách khí: “Ngay cả thần y cũng nhiều kẻ lừa bịp, huống hồ chỉ là một đạo sĩ. Thọ số của ta, ta tự biết, không cần người khác giả thần giả quỷ. Hai vị, mời đi cho.”

Những lời này của hắn không hề chừa mặt mũi cho Linh Hư Sơn Nhân. Xuất thân thế gia, hắn luôn giữ lễ độ, dù tranh luận cũng chưa từng thô lỗ như vậy. Lẽ ra Lý Doanh nên nhận ra điểm khác thường của hắn, nhưng lúc này nàng đang bàng hoàng, lòng rối như tơ vò, căn bản không nghĩ đến điều đó. Linh Hư Sơn Nhân bị mất mặt nhưng không hề tức giận. Lão đã cảm nhận được hơi thở của người trong phòng, biết chắc nàng thực sự ở đây, biết rõ mục đích đã đạt được, bèn đứng dậy, dẫn theo Trương Tứ lang đang hậm hực rời đi, miệng vẫn cười ha hả.



Linh Hư Sơn Nhân vừa đi khỏi, Lý Doanh lập tức bước ra từ sau bình phong, không chờ được liền hỏi Thôi Tuần: “Yêu đạo kia nói thế có đúng không?”

Sắc mặt Thôi Tuần đã trở lại bình tĩnh, hắn đáp: “Nói gì cơ?”

“Nói chàng chỉ còn mười năm thọ mệnh, có thật không?”

Thôi Tuần đáp: “Đó là lời yêu đạo cố ý bịa đặt để quấy rối tâm trí nàng. Đến cả ngự y trong cung cũng chưa từng nói ta chỉ còn mười năm, thì làm sao lão dám khẳng định được.”

Câu nói này của hắn không hẳn là giả. Ngự y trong cung chỉ bóng gió rằng hắn không còn nhiều thời gian, chứ chưa bao giờ khẳng định là chỉ có mười năm. Nhưng chính hắn biết rõ cơ thể mình, mỗi khi trái gió trở trời, cả người đau nhức vì thương tích cũ. Cộng thêm bệnh hàn ngấm vào xương tủy, hắn luôn sống trong sự giày vò của bệnh tật. Thân xác tàn tạ thế này, nếu vẫn thêm được mười năm thì đã là điều đáng mừng.

Lý Doanh lại hỏi: “Vậy lão nói chàng đang dùng dược hổ lang, điều đó có đúng không?”

Câu hỏi này khiến Thôi Tuần không dám trả lời. Hắn né tránh ánh mắt nàng, bởi đã từng hứa với nàng sẽ không nói dối nữa. Giờ đây, hắn chẳng thể nói thật, nhưng cũng không dám chối quanh.

Thái độ đó càng khiến Lý Doanh thêm nghi ngờ. Nàng nghiến răng, tiến lên một bước, hai tay lục soát người hắn. Đầu tiên, nàng tìm kiếm chiếc túi bên hông, không phát hiện điều gì khả nghi, liền tiếp tục tìm trong tay áo. Khi sờ đến ống tay áo bên phải, nàng cảm nhận được một vật giống như bình sứ. Nàng ngẩng đầu nhìn hắn một cái, rồi giật lấy chiếc bình ngọc trắng, rút nắp ra xem. Trong bình toàn là đan dược màu đỏ, lớp trên cùng đã vơi đi, rõ ràng thuốc đã được sử dụng. Nàng ngửi thử, hương vị cay nồng xộc thẳng vào mũi, nàng kinh ngạc giơ chiếc bình lên: “Đây là thứ gì?”

Thôi Tuần cúi đầu, không dám trả lời.

Lý Doanh nói: “Thôi Tuần, chàng nhìn vào mắt ta, nói đi, đây là thuốc gì?”

Thôi Tuần chậm rãi ngẩng đầu, ánh mắt nhìn nàng sâu thẳm như một hồ nước đen, không thấy chút gợn sóng. Hắn hé miệng định nói, thì Lý Doanh đã lên tiếng: “Thôi Tuần, chàng nghĩ kỹ rồi hẵng nói. Chàng còn nhớ không, lần chịu phạt một trăm trượng kia, khi chàng cầu ta ở lại, chàng đã nói gì? Chàng nói chàng sẽ không lừa ta nữa, sẽ không có lần thứ hai. Vậy bây giờ, ta hỏi chàng, rốt cuộc đây là thuốc gì?”

Nàng nhắc đến lần bị phạt trượng ấy khiến Thôi Tuần lập tức á khẩu, nửa câu cũng không thốt ra được. Lý Doanh sáng tỏ trong lòng, nàng cười cay đắng: “Ta nghĩ mãi vì sao lúc ở Trường An chứng hàn của chàng mãi không khá lên được, đến đây lại tốt lên. Thì ra, chỉ có mình ta là kẻ ngốc.”

Nàng nắm chặt chiếc bình sứ trắng như ngọc, ném mạnh xuống đất. Chiếc bình vỡ tan thành từng mảnh, những viên đan dược đỏ thẫm lăn đầy trên sàn.

Thôi Tuần đờ đẫn nhìn những mảnh vỡ dưới chân, rất lâu sau mới ngẩng đầu lên, khó khăn mở miệng: “Minh Nguyệt Châu…”

“Chàng đừng gọi ta là Minh Nguyệt Châu.” Lý Doanh chế giễu: “Ta không muốn nghe.”

Nhưng Thôi Tuần vẫn khẩn thiết: “Minh Nguyệt Châu… nàng nghe ta nói…”

Trong giọng nói của hắn đã mang theo chút van nài. Lý Doanh đưa tay bịt chặt hai tai: “Ta không muốn nghe!”

Nàng giận dữ trừng mắt nhìn Thôi Tuần: “Chàng biết rõ ta khao khát được bên chàng dài lâu đến nhường nào, nhưng chàng đã làm gì? Thôi Tuần, ta hận chàng, ta sẽ không tha thứ cho chàng!”

Những lời này của nàng khiến sắc mặt Thôi Tuần tái nhợt. Nàng nói, nàng hận hắn, nàng sẽ không tha thứ cho hắn. Trái tim hắn đau nhói, như bị dao cứa từng nhát, cả thế gian chợt trở nên tăm tối, hắn lại một lần nữa chìm vào địa ngục Tu La, không còn cơ hội ngẩng đầu ngắm ánh trăng.

Hắn lặng người, không bào chữa nổi một câu. Lý Doanh dùng đôi mắt ngấn lệ trừng hắn một cái, rồi nàng nghiến răng, xoay người định rời khỏi căn phòng. Nàng không muốn gặp lại Thôi Tuần thêm một lần nào nữa!

Nhưng Thôi Tuần nhanh chân chắn trước mặt nàng, hắn kéo khóe môi, cố nói một cách khó khăn: “Nàng hận ta cũng được, nhưng đừng để lỡ chính sự.”

Hắn nói: “Bách tính còn đang đợi nàng cứu giúp. Nàng là công chúa Đại Chu, đừng vì ta mà từ bỏ trách nhiệm của một công chúa. Ta không đáng.”

Hắn cúi đầu: “Cứu xong bọn họ rồi, hận ta cũng không muộn.”

Lý Doanh cắn môi, ánh mắt giận dữ trừng Thôi Tuần. Nàng thực sự rất hận hắn, hận đến mức chỉ muốn hỏi hắn ngay lúc này, hỏi rằng trong lòng hắn nàng rốt cuộc là gì, hỏi liệu hắn có chút nào nghĩ đến nàng hay không. Nhưng những lời đó đến bên môi, cuối cùng nàng lại nuốt xuống.

Đúng như hắn nói, bách tính kia vẫn đang chờ nàng cứu giúp.

Nàng quay người, ngồi xuống bàn, giọng nói bình thản: “Chàng nói đúng. Ta không thể vì chàng mà từ bỏ trách nhiệm của một công chúa Đại Chu.”

Nàng nói: “Chàng không đáng.”
 
Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh
Chương 108: Lòng người sinh ra tam chướng



Tranh cãi thì cứ tranh cãi, chính sự vẫn phải làm.

Ngọn đèn mượn mệnh đặt trong đạo quán Tử Vân. Lý Doanh nói: “Ta đã xem qua, đêm nay, vào giờ Hợi, là năm âm, tháng âm, ngày âm, giờ âm. Thời khắc này, trải qua lục thập hoa giáp [1] mới xuất hiện một lần. Linh Hư Sơn Nhân lại dùng nhiều bùa khóa hồn như vậy, có lẽ, dã tâm của lão đặt vào đêm nay.”

[1] Lục thập hoa giáp là sự kết hợp 6 chu kỳ hàng can với 5 chu kỳ hàng chi thành hệ 60, tương ứng với 60 năm. Đây là cách tính thời gian dựa trên việc kết hợp 10 thiên can (Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quý) và 12 địa chi (Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi). Sau mỗi 60 năm, chu kỳ này lặp lại. Vì vậy, một vòng sáu mươi Giáp Tý được xem là một “hoa giáp” trọn vẹn.

Vì chuyện dược hổ lang, đến cả nhìn nàng Thôi Tuần cũng không dám. Hắn cúi đầu nói: “Miệng Linh Hư Sơn Nhân không rời hai chữ trường sinh, điều lão mưu cầu hẳn có liên quan đến trường sinh bất tử.”

Lý Doanh đáp: “Nếu đêm nay quan trọng như vậy, lão còn phí thời gian đến khách xá, ta không nghĩ lão đến đây chỉ để nhận chàng làm đệ tử. Việc lão vừa nấn ná không rời là vì muốn truy tìm tung tích của ta.”

Thôi Tuần nghe nàng nói đến đây, trực giác mách bảo có điều chẳng lành. Quả nhiên, Lý Doanh tiếp lời: “Ta được bốn vạn ngôi chùa thời Phật trên cả nước thờ cúng suốt ba mươi năm. Là một hồn ma, ta còn có thể đi lại giữa ban ngày. Một hồn ma như ta, đối với Linh Hư Sơn Nhân hẳn rất hữu ích, vì vậy lão mới rời đạo quán tìm ta.”

Thôi Tuần sững sờ: “Nàng định làm gì?”

Lý Doanh bình tĩnh nói: “Ở trấn Đào Viên này, chắc cũng có ám thám của Sát Sự Thính, đúng không? Ta muốn lấy thân làm mồi, dụ Linh Hư Sơn Nhân xuất hiện, chàng dẫn ám thám đi dập tắt đèn mượn mệnh của lão.”

Thôi Tuần không cần nghĩ cũng lập tức phản đối: “Không được, chuyện này quá nguy hiểm!”

Lý Doanh nhìn hắn. Khi còn ở Trường An, sắc mặt hắn tái nhợt như tuyết, thân thể lạnh đến mức không thể rời khỏi áo hạc dày cộm, trong phòng lúc nào cũng phải đốt than hồng. Vậy mà ở khách xá hẻo lánh này, sau những ngày mệt mỏi đường xa, sắc mặt hắn lại khá hơn nhiều, không còn vẻ nhợt nhạt khi trước. Than hồng không cần đốt, áo hạc cũng chẳng phải mặc. Lý Doanh khẽ cười, nhìn hắn, nói: “Thôi Tuần, ta không xin ý kiến của chàng, mà chỉ đang thông báo với chàng.”

Từ khi Linh Hư Sơn Nhân rời đi, cách nàng gọi hắn cũng thay đổi. Nàng không còn ngọt ngào gọi hắn “Thập Thất lang” nữa, mà gọi thẳng tên hắn, trong giọng nói còn mang chút xa cách. Thôi Tuần nghiến răng, nói: “Nàng… nàng không cần phải làm vậy.”

Lý Doanh đáp: “Mỗi lần chàng quyết định, cũng chưa từng hỏi ý kiến ta.”

Nàng ngừng lại, rồi nói tiếp: “Chàng có thể, tại sao ta lại không?”

Rõ ràng, nàng vẫn còn giận hắn. Thôi Tuần nhìn nàng, ánh mắt thoáng vẻ mơ hồ. Cuối cùng, hắn mím môi, nói: “Minh Nguyệt Châu… đừng lấy tính mạng của mình ra để giận dỗi với ta.”

“Tính mạng của ta…” Lý Doanh cười nhạt, khóe môi cong lên đầy chế giễu: “Vậy còn tính mạng của chàng thì sao?”

Thôi Tuần ngẩn người. Lý Doanh lắc đầu, nói: “Ta nghĩ chàng không có tư cách để nói câu này.”

“Minh Nguyệt Châu…”

“Người ngay đến sinh mệnh của bản thân cũng chẳng trân quý, lấy tư cách gì để yêu cầu người khác trân trọng sinh mệnh?” Lý Doanh bình thản nói: “Thôi Tuần, kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân.” [2]

[2] “Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân” trên thực tế có nghĩa là biết coi trọng tình người, tự đặt mình vào hoàn cảnh người khác, tự bụng mình mà suy ra bụng người, lúc nào cũng lấy cái tâm đức trong sáng để nghĩ về sự việc đã xảy ra, sự việc liên quan đến người khác mà có cách xử sự đầy tình người. Đây là câu nói của Khổng Tử. Nguồn chú thích. Fanpage Thư Pháp Quang Lĩnh.

Thôi Tuần ngơ ngẩn nhìn nàng, hắn mấp máy môi, muốn nói gì đó để giải thích. Hắn nghĩ, có lẽ mình nên kể cho nàng nghe về nỗi khổ trong lòng. Thân thể hắn quá mức yếu nhược, không chịu nổi hành trình dài một nghìn bảy trăm dặm, nên bắt buộc phải dùng đến dược hổ lang. Hoặc giả, có lẽ hắn nên nói cho nàng biết lý do hắn phải làm như vậy. Sáu năm dài dằng dặc, hắn đã khổ sở chờ đợi, cuối cùng cũng sắp đến ngày mây mù tan đi, ánh sáng bừng lên, hắn nhất định phải đảm bảo rằng không xảy ra bất kỳ sai sót nào trong quá trình này. Năm vạn đồng liêu của hắn, đã phải chờ đợi quá lâu tại Vong Tử Thành. Hắn không muốn họ phải chờ thêm nữa.

Nhưng cuối cùng, hắn chẳng nói gì cả. Chỉ tuyệt vọng cúi thấp đầu. Cổ hắn trắng nõn như ngọc, bả vai mảnh khảnh, đường xương b.ướm nhô lên rõ ràng bên dưới lớp áo lam trắng đơn bạc. Từ xương b.ướm xuống, lưng hắn như chỉ được phủ một lớp da mỏng ôm sát khung xương, nhìn chẳng khác gì một con hạc bệnh gầy guộc bị bỏ rơi, khiến người ta không khỏi thương xót.

Thế nhưng, Lý Doanh chỉ liếc nhìn hắn một cái, không hề động lòng, ánh mắt cũng chẳng hề mảy may dao động. Nàng cúi mắt xuống, không nhìn hắn thêm lần nào nữa.

Thôi Tuần càng lúc càng tuyệt vọng. Hắn biết, chính hắn đã phụ nàng. Rõ ràng hắn biết nàng mong mỏi được cùng hắn bên nhau dài lâu biết bao, vậy mà hắn vẫn giấu nàng, nuốt từng viên dược hổ lang, tự đẩy thân thể mình vào thế suy kiệt, khiến mong ước dài lâu ấy của nàng tan thành mây khói. Hắn phụ bạc tấm lòng nàng, dù có nghìn lời biện giải, vạn nỗi khổ tâm, thì phụ bạc vẫn là phụ bạc, dối lừa cũng vẫn là dối lừa.

Trừ phi nàng chịu tha thứ, bằng không, bao nhiêu lời giải thích cũng chỉ là tự lừa dối mình.



Giờ Tuất, trời đã tối đen.

Đại Chu thi hành nghiêm ngặt lệnh giới nghiêm vào ban đêm, ngay cả các huyện trấn cũng không ngoại lệ. Vì thế, trấn Đào Viên đã sớm giới nghiêm, phố xá vắng tanh không một bóng người. Lý Doanh bước đi trên con đường lát đá xanh, quả nhiên chưa đi được bao lâu, Linh Hư Sơn Nhân mặc đạo bào vân mây đã xuất hiện trước mặt nàng.

Linh Hư Sơn Nhân cầm trong tay một cây phất trần, mỉm cười nói: “Công chúa Vĩnh An.”

Lý Doanh cố tỏ ra kinh ngạc: “Ngươi nhận ra ta?”

Linh Hư Sơn Nhân gật đầu: “Bần đạo từng vào cung Đại Minh, nên nhận ra công chúa.”

“Ngươi từng vào cung Đại Minh?”

Linh Hư Sơn Nhân đáp: “Ba mươi năm trước, bần đạo được Đô úy Bách Kỵ Tư Kim Di khi đó tiến cử với Tiên đế. Tiếc rằng Tiên đế không hứng thú với tu đạo trường sinh, chỉ hỏi qua loa mấy câu rồi đuổi bần đạo ra khỏi cung.”

Lý Doanh không ngờ Linh Hư Sơn Nhân từng vào cung, lại còn gặp a gia nàng. Nàng buột miệng hỏi: “A gia ta đã nói gì với ngươi?”

“Tiên đế nói, Tần Thủy Hoàng, Hán Vũ Đế đều truy cầu trường sinh, nhưng cuối cùng cũng bụi về bụi, đất về đất. Nhưng dù họ thất bại trong việc trường sinh, vẫn không ảnh hưởng đến việc lưu danh sử sách. Một đời đế vương, chỉ cần làm tốt một chuyện lớn là đã viên mãn, cần gì phải truy cầu bất tử?”

Làm tốt một chuyện lớn… ắt hẳn là tân chính. Lý Doanh chợt buồn bã. A gia nàng đã làm được, tương lai chắc chắn sẽ lưu danh muôn đời.

Một đời người của a gia, đúng như người nói, đã đủ viên mãn, không còn tiếc nuối gì nữa.

Nhưng Linh Hư Sơn Nhân lại nói: “Thật ra, Tiên đế chưa hẳn đã viên mãn. Ít nhất vào lúc lâm chung, hẳn Tiên đế rất hối hận vì đã đuổi bần đạo ra khỏi Đại Minh cung.”

Lý Doanh ngẩng đầu: “Sao lại nói vậy?”

Linh Hư Sơn Nhân khẽ cười: “Khi bần đạo gặp Tiên đế, quan sát mệnh số, thấy người còn thọ hơn ba mươi năm nữa. Nhưng chỉ mười năm sau, Tiên đế đã băng hà. Công chúa có biết nguyên do ở đâu không?”

Lý Doanh lắc đầu. Linh Hư Sơn Nhân chậm rãi nói từng lời: “Đó là bởi Tiên đế vì một chuyện mà hối hận không nguôi, tự trách không yên, rồi tự dày vò bản thân đến chết.”

Lý Doanh sững sờ. A gia tự dày vò đến chết vì một chuyện… Nàng hỏi ngay: “Là chuyện gì?”

Linh Hư Sơn Nhân mỉm cười: “Chuyện đó, tất nhiên có liên quan đến công chúa.”

Liên quan đến nàng… Chẳng lẽ cái chết của nàng đã khiến a gia qua đời sớm hơn thọ mệnh?

Ý nghĩ ấy vừa lóe lên, Lý Doanh liền lập tức lắc đầu: “Không thể nào.”

A gia đã nhẫn tâm hạ lệnh giết nàng, người lạnh lùng như thế, trong lòng chỉ có thiên hạ, sao có thể vì ân hận mà tự trách đến chết?

Điều đó không thể xảy ra.

Như để chứng minh suy nghĩ của nàng là đúng, Lý Doanh nhấn mạnh với Linh Hư Sơn Nhân: “Ngươi đừng nói bừa! Ngươi chỉ là một đạo sĩ bị a gia ta trục xuất khỏi cung, ngươi thì biết gì chứ?”

Linh Hư Sơn Nhân mỉm cười nhàn nhã: “Bần đạo biết rất nhiều.” Lão đưa mắt nhìn quanh rồi nói tiếp: “Nơi này không tiện nói chuyện, chi bằng công chúa theo bần đạo về đạo quán Tử Vân, bần đạo sẽ kể rõ mọi chuyện.”

Lý Doanh vốn đã định tới đạo quán Tử Vân. Ban đầu, nàng nghĩ Linh Hư Sơn Nhân sẽ cưỡng ép đưa nàng đi, nào ngờ lại nghe được những điều này từ miệng lão. Trong lòng nàng suy tính, đã định đến đó rồi thì chi bằng nghe thử xem tên yêu đạo này còn nói gì. Nàng gật đầu: “Được, ta sẽ theo ngươi đến đạo quán Tử Vân.”



Lúc Linh Hư Sơn Nhân tìm Lý Doanh, Thôi Tuần cũng dẫn theo ám thám của Sát Sự Thính, toàn thân vận hắc y, âm thầm đột nhập vào đạo quán Tử Vân. Sát Sự Thính chỉ cài cắm năm mật thám ở trấn Đào Viên, nhưng chỉ bấy nhiêu cũng đủ.

Bên trong đạo quán Tử Vân vắng lặng không một bóng người, tất cả đạo sĩ đều biến mất. Nhưng phía sau đạo quán, đàn Vân Trạch vẫn đang bập bùng ánh lửa. Thôi Tuần từng đến đàn Vân Trạch vào ban ngày, hắn hồi tưởng lại kết cấu nơi này. Đàn Vân Trạch là một khoảng đất rộng có thể chứa vạn người nghe giảng đạo, xung quanh rợp bóng tùng bách, giữa sân là tế đàn bằng gỗ. Trên tế đàn dựng ba ngọn cờ, tượng trưng cho Thiên, Địa, Nhân, đốt chín ngọn đèn biểu thị cho ánh sáng chiếu lên chín tầng trời phúc điện và soi xuống chín tầng địa giới vô cực. Ngoài chín ngọn đèn ấy, còn có một chiếc đèn bằng đồng xanh khắc họa tiết kỳ lạ, chính là chiếc “đèn mượn mệnh”.

Thôi Tuần ra hiệu cho năm ám thám ẩn mình trong rừng tùng bách. Từ sau tán lá rậm rạp, hắn nhìn về phía đạo trường. Chỉ một cái liếc mắt, hắn lập tức sững sờ.

Trong đạo trường, không ngờ lại có vô số người ngồi xếp bằng, nhưng đây là đêm khuya, làm gì có nhiều người đến nghe giảng đạo? Nhìn kỹ lại, hắn mới phát hiện đó không phải là người sống mà là những sinh hồn.

Hắn còn trông thấy sinh hồn của Trương Tứ lang, chủ quán trà. Sinh hồn đã lìa khỏi thân xác, vậy Trương Tứ lang ở nhà hẳn đang hôn mê bất tỉnh, chẳng khác nào người sống không hồn.

Hơn chục đạo sĩ đạo quán Tử Vân đều tụ tập quanh tế đàn. Bọn họ không đứng gần ba lá cờ hay chín ngọn đèn, mà dồn hết về chiếc đèn bằng đồng xanh, canh giữ cẩn mật. Đến gần giờ Tuất, ánh sáng từ đèn đồng xanh càng rực rỡ, còn thân ảnh của vô số sinh hồn trong đạo trường dần trở nên mờ nhạt. Có thể đoán, khi giờ Tuất đến, những hồn phách này sẽ bị tế sống cho đèn mượn mệnh, Trương Tứ lang cùng đám người kia chắc chắn không thể sống sót.

Thôi Tuần ra hiệu bằng ánh mắt, năm ám thám lập tức tản ra. Hắn men theo một cây bách cổ thụ rậm rạp, lấy ra một mũi tên tẩm độc, đặt lên nỏ gỗ* trong tay, nhắm thẳng vào một tên đạo sĩ rồi bóp cò.

*Mình tra raw thấy nỏ mà Lý Doanh cải tạo cho Thôi Tuần là nỏ tre (Chương 44), còn đây là nỏ gỗ. Không biết tác giả viết nhầm hay Thôi Tuần dùng nỏ khác nữa, sợ mỗi chuyện dịch sai.

Mũi tên xé gió lao đi, ngay sau đó, năm ám thám đồng loạt bắn tên. Sáu đạo sĩ trúng tên ngã xuống tức khắc. Đám đạo sĩ còn lại kinh hãi nhìn quanh, chưa kịp xác định phương hướng kẻ địch thì từng mũi tên tẩm độc tiếp tục xuyên thẳng qua tim, từng người gục xuống, không kịp kêu lên một tiếng.

Thấy đại biến xảy ra, những sinh hồn kia vẫn mang vẻ mặt dửng dưng. Thôi Tuần bước nhanh ra khỏi rừng tùng bách, đi qua những sinh hồn dày đặc, tiến đến lễ đàn. Năm tên ám thám cúi xuống, từng người một kiểm tra sinh tử của các đạo sĩ, còn hắn đi đến bên cạnh chiếc đèn mượn mệnh, rồi gỡ nó xuống.

Chiếc đèn ấy đúc bằng đồng xanh, phần thân đèn là một đài sen tinh xảo. Bên trong bát đèn lõm xuống, chính giữa đặt một sợi bấc dài, ngọn lửa đỏ sẫm chập chờn. Thôi Tuần đưa tay, chụm ngón kẹp lấy bấc đèn, định nhổ ra.

Nhưng vừa chạm vào, hắn bỗng thấy trời đất quay cuồng. Trước mắt, vạn ngàn sinh hồn và lễ đàn bằng gỗ biến mất, ám thám xung quanh cũng không còn. Thay vào đó là một màn sương trắng mịt mờ.

Đèn mượn mệnh trên tay cũng biến mất. Hắn giơ tay che mắt, chậm rãi đứng dậy. Trước mắt sương mù tràn ngập, bao phủ toàn bộ trời đất. Bên tai không chút âm thanh, tưởng chừng thiên địa rộng lớn chỉ còn lại mình hắn.

Hắn nhíu mày trầm tư, chợt hiểu ra, khẽ nói: “Tà thuật.”

Hẳn là Linh Hư Sơn Nhân đã bày ra yêu pháp trên bấc đèn để bảo vệ chiếc đèn mượn mệnh.

Nhìn màn sương trắng xung quanh, hắn cười lạnh: “Ta còn đang ở lễ đàn Vân Trạch, sao có thể xuất hiện ở đây? Phàm là đạo pháp tà thuật, tin thì có, không tin thì không. Trương Tứ lang và những người khác tin ngươi, nên mới nuốt lời nguyền khóa hồn, để sinh hồn bị tà thuật của ngươi thao túng. Ta không tin ngươi, ngươi làm gì được ta? Đây chẳng qua chỉ là trò lừa bịp, cảnh thấy trong sương đều là hư ảo.”

Từ trong màn sương, tiếng cười quái dị của Linh Hư Sơn Nhân vọng ra: “Đừng mạnh mồm như vậy. Lòng người sinh tam chướng, tam chướng sinh thập ác. Đợi ngươi vượt qua ma nghiệp ba chướng, rồi hãy nói tất cả đều là hư ảo.”

Tiếng của lão dần xa, màn sương trắng cũng từ từ tan biến. Trước mắt Thôi Tuần, một bóng hình mềm mại, xinh đẹp chậm rãi bước đến.
 
Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh
Chương 109: Tai chướng



Lý Doanh bước từng bước đến trước mặt hắn. Nàng búi tóc theo kiểu giao tâm kế đang thịnh hành, vận áo tròn cổ màu xanh biếc phối cùng váy nhuộm vàng từ thảo mộc úc kim hương, hương thơm thanh nhã tỏa ra từ làn váy. Trên búi tóc cài một chiếc trâm vàng đính minh châu, mỗi bước đi đều uyển chuyển nhẹ nhàng. Giữa trán điểm một đóa hoa điền hình mai năm cánh, da tuyết trắng mịn như ngọc, hoa điền đỏ rực như lửa, tôn lên vẻ đẹp yêu kiều rực rỡ. Thôi Tuần bất giác nói: “Sao lại ăn vận thế này?”

Lý Doanh thường phục sức theo kiểu quý nữ ba mươi năm trước, không cài trâm, không điểm hoa điền. Nhưng giờ đây, phong cách quý nữ đã xa hoa hơn xưa nhiều. Nàng chạm nhẹ vào minh châu trên trâm vàng, đôi mắt ánh lên ý cười: “Ta mặc thế này không đẹp sao?”

Hắn lắc đầu, vành tai hơi đỏ: “Không, rất đẹp.”

Bỗng nhiên nghĩ đến điều gì, hắn nghi hoặc: “Sao nàng lại ở đây?”

Nàng tiến lại gần, nhón chân, vòng tay qua cổ hắn, hơi thở phảng phất hương lan: “Ta đến gặp chàng, chẳng lẽ chàng không muốn gặp ta sao?”

Gương mặt nàng bóng loáng như ngọc, đôi mắt sáng rỡ như vì tinh tú. Lòng Thôi Tuần bỗng dao động, bao căng thẳng khi đối mặt Linh Hư Sơn Nhân dần tan biến, thay vào đó là tình ý quấn quýt và rung động trước nàng. Hắn nhìn sâu vào đôi mắt lấp lánh của nàng, khóe môi từ từ nhếch lên nụ cười ôn hòa, nhưng ngay khoảnh khắc ấy, hắn giật mình bừng tỉnh.

Không đúng.

Hôm nay Lý Doanh còn đang giận dỗi hắn. Vì chuyện dược hổ lang, nàng đã giận đến mức như thể cả đời sẽ không tha thứ cho hắn. Thôi Tuần nhìn chằm chằm “Lý Doanh” trước mặt, bỗng đẩy nàng ra: “Không, ngươi không phải Minh Nguyệt Châu.”

Hắn đưa mắt nhìn xung quanh, lạnh giọng nói: “Linh Hư Sơn Nhân, ngươi nghĩ bày ra một Minh Nguyệt Châu giả thì ta sẽ không vượt được tam chướng sao? Đây chỉ là huyễn tượng tà thuật, ngọn đèn mượn mệnh kia, ta nhất định phải diệt!”

“Lý Doanh” bị hắn đẩy ra, vẻ mặt uất ức, nàng chu môi, mềm mại gọi: “Thập Thất lang.”

Nàng áp sát vào hắn, thân hình mềm mại như không xương, giọng thủ thỉ: “Thập Thất lang, chàng đang nói gì vậy? Sao ta lại là giả được?”

Hắn nhíu mày định đẩy nàng ra lần nữa, nhưng nàng lại ôm chặt lấy hắn, cơ thể nàng ấm áp, thậm chí hắn còn cảm nhận được nhiệt độ nóng bỏng từ nàng. Lý Doanh thì thầm: “Thập Thất lang, vậy bây giờ, ta có thật không?”

Câu nói này, chính là lời nàng thổ lộ tâm ý với hắn ngày đó, chỉ có hai người mới biết. Lý Doanh ngẩng đầu, ánh mắt sâu thẳm: “Ta chỉ là một giấc mộng thôi sao?”

Thôi Tuần sững người, ký ức ùa về như cơn gió lạnh. Hắn vẫn nhớ như in ngày ấy, khi nàng nói câu này, ngay sau đó nàng đã bảo với hắn rằng nàng đem lòng yêu hắn. Những lời ấy là lời tỏ tình đầu tiên, cũng là duy nhất nàng dành riêng cho hắn. Vậy, nàng thật sự là Lý Doanh sao?

Trong khoảnh khắc đó, một nỗi hổ thẹn sâu sắc dâng trào, Thôi Tuần cảm thấy hối hận vì chính sự nghi ngờ vừa rồi của mình. Hắn hạ giọng xin lỗi: “Minh Nguyệt Châu, ta sai rồi, ta không nên hoài nghi nàng.”

Lý Doanh mỉm cười, rõ ràng không hề để bụng, nàng ngẩng đầu, ánh mắt đắm đuối nhìn hắn. Rồi bất ngờ, nàng vòng tay qua cổ hắn, nhón chân lên, áp môi mình vào môi hắn.

Đầu lưỡi nàng tinh nghịch, khéo léo tách đôi hàm răng hắn, xâm chiếm khoang miệng, khiến hai phiến môi hòa quyện chẳng rời.

Cả người Thôi Tuần phút chốc như sấm nổ giữa trời quang, mọi cảnh giác, phòng bị trong hắn vụn vỡ tan tành. Trí óc hắn trống rỗng, ngay cả hình bóng Linh Hư Sơn Nhân và đèn mượn mệnh cũng bị quét sạch. Chỉ có một ý nghĩ duy nhất quanh quẩn: Sao nàng có thể… hôn hắn chứ?

Nhưng chỉ ngay sau đó, một ý nghĩ khác lóe lên trong đầu: Không, nàng không thể hôn hắn. Hắn bẩn thỉu thế này, sẽ làm vấy bẩn nàng mất!

Bàn tay hắn vô thức muốn đẩy nàng ra, nhưng cơ thể mềm mại của nàng lại quấn chặt lấy hắn như một con rắn uốn lượn. Hắn không thể nhúc nhích, chỉ biết cứng đờ để mặc nàng dẫn dắt. Cho dù cố gắng kìm chế, hắn cũng không thể chống lại mùi hương ngọt ngào tỏa ra từ nàng. Bởi suy cho cùng, hắn vẫn là một nam nhân, làm sao hắn có thể chống lại khi nàng là người con gái hắn yêu nhất trên đời?

Hơi thở của hắn dần trở nên hỗn loạn, ý thức được kiềm chế chặt chẽ cũng dần trở nên mơ hồ. Hắn chẳng biết nụ hôn này kéo dài bao lâu, cũng chẳng hay từ khi nào cả hai đã ngã xuống nền đất. Hắn chỉ nhớ nàng đặt lên mắt hắn một nụ hôn nhẹ, rồi hôn lên mũi, xuống đến phần cổ, nơi có vết sẹo xấu xí do dây xích để lại.

Trong cơn mê loạn, đến khi Lý Doanh định c.ởi th.ắt l.ưng của hắn, Thôi Tuần bỗng tỉnh táo lại, vội vàng nắm lấy tay nàng, giữ chặt.

Lý Doanh tựa đầu lên ngực hắn, đôi môi nở một nụ cười khẽ. Nàng làm nũng: “Thập Thất lang, chẳng lẽ chàng không muốn ta sinh cho chàng một đứa con sao?”

“Đứa con…” Thôi Tuần lắp bắp, hắn thật sự chưa từng nghĩ tới.

Hoặc phải nói rằng, hắn chưa từng nghĩ có một ngày, hắn cũng sẽ có đứa con của riêng mình.

“Hồn ma cũng có thể sinh con mà.” Lý Doanh mỉm cười: “Huống hồ, ta là hồn ma được bốn vạn ngôi chùa thờ phụng, ta càng có thể sinh con.”

Nàng tựa vào ngực hắn, giọng nói phảng phất như từ xa vọng lại: “Thập Thất lang, mẫu thân chàng mất sớm, phụ thân đối xử tệ bạc với chàng, vì thế chàng chưa từng được hưởng tình thương của cha mẹ. Nhưng con của chúng ta sẽ khác, chàng sẽ thương yêu nó, ta cũng sẽ hết mực yêu thương nó. Nó sẽ không phải trải qua cuộc đời giống như chàng từng chịu đựng.”

Không thể phủ nhận, lời nàng nói như một sự hấp dẫn vô cùng lớn đối với Thôi Tuần. Trong thoáng chốc, hắn thật sự bắt đầu nghĩ, nếu hắn và Lý Doanh có con, hắn sẽ yêu thương đứa trẻ ấy thế nào. Nếu đó là một bé trai, hắn sẽ dạy nó cưỡi ngựa, bắn cung, dạy binh pháp, hành thảo, cả cách chơi đàn. Hắn sẽ truyền lại tất cả những gì hắn biết, dành trọn yêu thương cho nó, để nó không trở thành kẻ âm trầm, tàn nhẫn, khó gần giống như hắn. Còn nếu đó là một bé gái, hắn càng sẽ yêu thương gấp bội. Hắn sẽ nâng niu nó trong lòng bàn tay, mua thật nhiều đường phấn cho nó, để nó lớn lên trở thành người con gái thông minh, dịu dàng như mẫu thân nó. Hắn sẽ dùng cả tính mạng để bảo vệ nó, để cả đời nó không phải chịu bất kỳ khổ đau nào.

Lý Doanh hơi hé răng, cắn nhẹ lên xương quai xanh lộ ra sau lớp áo đã xộc xệch của Thôi Tuần. Giọng nàng miên man nhưng đầy mê hoặc: “Thập Thất lang, ta muốn sinh một đứa trẻ cùng chàng, chẳng lẽ chàng không muốn sao?”

Nàng nhích lên, nhẹ nhàng cắn vào yết hầu của hắn. Cả người Thôi Tuần run rẩy. Hắn bị nàng làm cho thần hồn điên đảo, lý trí tan biến. Tựa như hắn quên đi mọi thứ trên đời, chỉ còn muốn ở bên nàng mãi mãi, không bao giờ rời xa. Hắn khẽ nói: “Ta muốn. Ta muốn cùng nàng sinh con, muốn cùng nàng dài lâu mãi mãi.”

Nhưng thiếu nữ đang nằm trên người hắn bỗng nhiên thở dài: “Thế nhưng, chàng chỉ còn thọ mệnh mười năm, lại còn uống bừa dược hổ lang. Linh Hư Sơn Nhân nói, nếu chàng không dừng lại, thời gian còn lại sẽ chẳng quá năm năm. Chàng định sống dài lâu với ta thế nào? Hay chàng muốn con của chúng ta từ nhỏ đã không có cha?”

“Ta…” Chưa bao giờ Thôi Tuần cảm thấy hối hận về việc uống dược hổ lang như lúc này. Hắn nghẹn ngào: “Ta sai rồi, ta không nên giấu nàng, không nên uống loại thuốc ấy…”

“Thập Thất lang, chàng muốn sống tiếp không? Muốn thọ mệnh không chỉ ở con số mười năm, muốn cùng ta bên nhau dài lâu không?”

“Ta muốn.” Thôi Tuần vội đáp: “Ta không muốn chết, không muốn chỉ có mười năm thọ mệnh. Ta không muốn con của chúng ta chưa kịp lớn đã không còn cha. Minh Nguyệt Châu, ta không muốn chết. Ta muốn mãi mãi ở bên nàng.”

“Linh Hư Sơn Nhân nói ông ấy có cách. Ông ấy bảo đã sống tới hai trăm năm mươi tuổi, tất cả nhờ công lao của đèn mượn mệnh. Ông ấy bảo, đèn mượn mệnh có thể mượn được tuổi thọ của người khác. Chàng xem, ở đàn Vân Trạch có hàng vạn sinh hồn, chỉ cần chuyển số thọ của ai đó sang cho chàng, chàng sẽ không chỉ sống thêm mười năm. Chàng có thể nhờ Linh Hư Sơn Nhân làm phép kéo dài tuổi thọ, như thế, chàng có thể sống rất lâu, thoát khỏi sinh tử luân hồi, mãi mãi ở bên ta.”

Lý Doanh nằm rạp trên người hắn, ngón tay chạm nhẹ vào hàng mi dài rủ xuống của Thôi Tuần. Hàng mi ấy tựa cánh quạ đen nhánh, dày và rậm, đang khẽ run rẩy vì chủ nhân đang tình mê ý loạn. Lý Doanh nhẹ nhàng vuốt lên hàng mi mềm mại, chỉ cảm thấy như có lông vũ mềm nhẹ lướt qua đầu ngón tay, khiến nàng tê dại, ngưa ngứa. Nàng bật cười khúc khích: “Đến khi đó, chúng ta sẽ sinh rất nhiều đứa trẻ. Con trai sẽ tuấn tú như chàng, con gái sẽ xinh đẹp như ta. Một nhà chúng ta, mãi mãi bên nhau.”

Khi nàng đang tinh nghịch vuốt lên hàng mi của Thôi Tuần, hắn đột nhiên chậm rãi mở mắt. Đôi mắt vốn lấp lánh như mặt nước hồ mùa thu khi nãy, giờ đây lại lạnh giá như bị đóng băng. Lý Doanh khựng lại, chưa kịp phản ứng thì đã bị hắn thô bạo đẩy mạnh ra khỏi người. Thôi Tuần đứng dậy, phẩy mạnh tay áo như thể xua đi bụi bẩn, giọng nói sắc lạnh sương tuyết: “Ngươi không phải Minh Nguyệt Châu.”



Lý Doanh sững sờ, rồi chậm rãi đứng dậy. Nàng bước lên một bước, nhưng hắn lại lùi ra sau, thốt lên: “Cút đi.”

Bước chân của nàng dừng lại giữa không trung. Nàng dịu dàng nói: “Thập Thất lang, chàng làm sao vậy? Chàng nhìn khuôn mặt ta, nhìn dung mạo ta xem, ta biết những bí mật chỉ thuộc về chúng ta, ta có thể nói những lời tình tứ chỉ dành cho hai chúng ta. Vậy tại sao ta không phải là Minh Nguyệt Châu?”

Thôi Tuần chỉ lạnh giọng đáp: “Ngươi không phải.”

Hắn nói: “Minh Nguyệt Châu sẽ không khuyên ta dùng sinh hồn bách tính để nối dài tính mạng, càng không đồng lõa với Linh Hư Sơn Nhân. Cho nên, ngươi không phải Minh Nguyệt Châu, ngươi chỉ là một ảo ảnh.”

“Nhưng Minh Nguyệt Châu, nàng ấy cũng là một nữ tử, cũng là một nữ tử sợ mất đi tình lang của mình,” Lý Doanh buồn bã nói: “Chẳng lẽ Minh Nguyệt Châu nhất định phải lấy thiên hạ làm trọng? Chẳng lẽ nàng ấy không thể ích kỷ một lần vì người mình yêu sao?”

Thôi Tuần nhìn nàng, chậm rãi lắc đầu.

Nước mắt lấp đầy đôi mắt Lý Doanh, những giọt lệ long lanh, trong suốt như những hạt châu đứt chuỗi, rơi xuống tí tách: “Thập Thất lang, Minh Nguyệt Châu không phải Thánh nhân, nàng ấy chẳng có chí hướng lớn lao gì. Cả đời nàng ấy chỉ mong được ở bên người mình yêu mãi mãi. Nàng ấy chưa từng, chưa từng thích bất kỳ người đàn ông nào như thích chàng. Nàng ấy không muốn nhìn thấy chàng rời xa, càng không muốn thời gian bên nhau chỉ vỏn vẹn mười năm ngắn ngủi. Như vậy, cũng là sai sao? Nói cho cùng, Quỷ thôn và nàng ấy đâu có liên quan gì đâu? Bách tính trấn Đào Viên cũng chẳng có quan hệ gì với nàng ấy. Nàng ấy chỉ là một hồn ma đã chết ba mươi năm, còn là một hồn ma bị chính cha ruột của mình sát hại. Sau khi nàng ấy chết đi, bách tính đều vui mừng trước cái chết của nàng ấy. Vậy tại sao nàng ấy phải vì bách tính mà từ bỏ tình yêu cả đời mình? Tại sao, ngay cả chàng cũng không thể hiểu cho nàng ấy?”

Thôi Tuần lặng lẽ lắng nghe, hắn nhìn “Lý Doanh” trước mặt đang khóc nức nở, ánh mắt không chút thương tiếc. Đôi môi nhếch lên đầy giễu cợt: “Chính vì ta hiểu nàng ấy, nên ta mới khẳng định, ngươi không phải là Minh Nguyệt Châu.”

Hắn chậm rãi cất lời: “Minh Nguyệt Châu là người có trái tim thuần khiết nhất mà ta từng gặp. Nàng là chân ái của ta, nàng muốn cùng ta thiên trường địa cửu. Nhưng nếu cái giá phải trả cho sự thiên trường địa cửu ấy là hy sinh mạng sống của những người vô tội, nàng sẽ không làm. Nàng tuyệt đối sẽ vì d.ục v.ọng của bản thân mà tước đoạt quyền được sống của người khác.”

“Lý Doanh” không thể tin nổi, nàng nhìn Thôi Tuần chằm chằm: “Chàng tin nàng ấy đến vậy sao?”

Thôi Tuần gật đầu.

“Dựa vào đâu?”

“Dựa vào việc nàng là Minh Nguyệt Châu.” Ánh mắt của Thôi Tuần dần trở nên dịu dàng: “Thân như lưu ly, trong suốt từ ngoài vào trong, không chút tỳ vết, đó chính là Minh Nguyệt Châu.”

Lý Doanh bật cười chua chát, thở dài một tiếng: “Được, bỏ qua d.ục v.ọng của Minh Nguyệt Châu, vậy còn chàng? D.ục v.ọng của chàng thì sao? Chàng không muốn ở bên nàng ấy sao? Chàng không muốn cùng nàng ấy bách niên giai lão, sinh con đẻ cái sao? Thân thể chàng, ngay cả mười năm cũng không trụ được, chàng nhẫn tâm nhìn nàng ấy đau lòng khổ sở sau khi chàng ra đi ư? Chàng tàn nhẫn như thế, có xứng với những gì nàng ấy đã hy sinh vì chàng không?”

Thôi Tuần khựng lại. Giọng nói của Lý Doanh bỗng trở nên mềm mại, như có ma lực lôi cuốn: “Minh Nguyệt Châu giống như lưu ly, trong suốt vô tỳ, nhưng chàng thì khác. Chàng mang đầy tỳ vết, chàng không còn là người tốt nữa. Nếu đã vậy, sao chàng phải sinh mạng của con sâu cái kiến mà từ bỏ cơ hội kéo dài mạng sống của chính mình? Chỉ cần chàng muốn, chàng có thể siêu thoát luân hồi, trường thọ cùng trời đất, ở bên Minh Nguyệt Châu, sinh con đẻ cái, vĩnh viễn không rời.”

“Siêu thoát luân hồi, trường thọ cùng trời đất, ở bên Minh Nguyệt Châu, sinh con đẻ cái, vĩnh viễn không rời…” Thôi Tuần lặp lại, như đang cân nhắc.

Gương mặt “Lý Doanh” như ánh lên niềm vui: “Phải, chẳng lẽ chàng không muốn sao?”

“Nghe cũng rất mê hoặc, suýt chút nữa là ta đã động lòng.”

Khóe môi “Lý Doanh” dần cong lên, nhưng ngay khoảnh khắc sau, Thôi Tuần lại thở dài: “Tiếc thay, ta không muốn.”

“Lý Doanh” ngây người. Thôi Tuần nghiêm túc nói: “Đúng, ta mang đầy tỳ vết, không phải người tốt, ngay cả ta cũng cảm thấy ghê tởm bản thân mình. Nhưng nếu ta vì kéo dài mạng sống mà không màng đến sinh tử của những người này, Minh Nguyệt Châu… nàng ấy sẽ giận.”

“Lý Doanh” lặng người, không thốt nên lời. Thôi Tuần mỉm cười: “Ta từng nói với Minh Nguyệt Châu rằng, ta muốn làm người, không muốn làm quỷ. Nếu có thể làm người, dù chỉ sống thêm mười năm, thì đã sao?”

Thôi Tuần chăm chú nhìn thiếu nữ trước mặt, dung mạo giống hệt Lý Doanh. Hắn trầm giọng nói: “Ngươi là d.ục v.ọng của ta, là cái ác của ta, ngươi không phải Minh Nguyệt Châu.”

Hắn khép mắt lại: “Kiếm đâu!”

Khi mở mắt, trong lòng bàn tay đã hiện ra một thanh kiếm bạc, ánh kiếm lạnh lẽo lóe lên. Thôi Tuần v.uốt ve thanh kiếm, ngẩng đầu nhìn thiếu nữ trước mắt. Nàng mang dáng vẻ giống hệt người hắn yêu thương, người mà hắn đã thề dùng sinh mệnh bảo vệ. Nếu hắn phán đoán sai, nếu người trước mặt thực sự là nàng, nếu nàng thật sự có tư tâm, thì hắn sẽ phạm phải một sai lầm không thể tha thứ.

Nhưng Thôi Tuần chỉ chậm rãi nói từng chữ một: “Ngươi, không phải, Minh Nguyệt Châu.”

Nói dứt lời, hắn dứt khoát vung kiếm, thanh kiếm bạc xuyên thẳng qua lồng ng.ực thiếu nữ. Máu đỏ thẫm theo mũi kiếm chảy xuống. Thiếu nữ kinh ngạc nhìn hắn, đôi mắt tràn đầy khó tin, nhưng trong mắt hắn lại lạnh lùng đến mức không hề lộ ra chút dao động nào. Thiếu nữ cười chua chát, dang rộng hai tay, ngả người về phía sau. Thân hình nàng chạm đất trong giây khắc, hóa thành khói bụi bay biến.

Thôi Tuần nhàn nhạt nhìn hết thảy, làn sương trắng đậm đặc lại một lần nữa xuất hiện, bao phủ toàn bộ mặt đất.

Hồi lâu, hắn bật ra một tiếng cười nhạt: “Tai chướng.”

Vì tai kiếp mà gặp chướng ngại.

Hắn từng trải qua bao khổ nạn, bị cực hình giày vò, thân thể tổn hại đến mức chỉ còn mười năm thọ mệnh. Đó chính là tai của hắn. Nếu hắn chấp nhận phương pháp kéo dài sinh mệnh của Linh Hư Sơn Nhân, hy sinh mạng sống của những người vô tội, thì chướng ngại này, hắn vĩnh viễn không thể vượt qua.

Điều hắn sợ nhất trong mười năm còn lại, chính là không thể ở bên Lý Doanh. Hắn khát khao có thể sống trọn đời cùng nàng, sinh con dưỡng cái. Ảo cảnh do đèn mượn mệnh tạo nên lại khuếch đại nỗi sợ ấy, khiến d.ục v.ọng trong lòng hắn càng thêm mãnh liệt. Dùng Lý Doanh để làm hắn không vượt qua được chướng ngại, nhưng nào ngờ, chính nhờ có nàng mà hắn mới có thể vượt qua.

Hắn vẫn luôn nghĩ rằng, chỉ cần bản thân có thể trở nên tốt hơn, xứng đáng với nàng hơn.

Như vậy, một ngày nào đó, hắn cũng có thể dũng cảm đưa tay ra, ôm lấy nàng.

Ý niệm thiện lương ẩn sâu này cuối cùng đã lấn át tà niệm trong hắn, trở thành cọng rơm cứu mạng của hắn.

Sương trắng quẩn quanh, che lấp bóng dáng Thôi Tuần. Sau tai chướng, vẫn còn ma chướng, nghiệp chướng.
 
Back
Top Bottom