Chào bạn!

Để có thể sử dụng đầy đủ chức năng diễn đàn Của Tui À bạn phải đăng nhập hoặc đăng ký.

Đăng Ký!

Dịch Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh

Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh
Chương 130: Lư Dụ Dân ta, không hối hận



Thái hậu vừa bước vào, ngay cả những quần thần thuộc Lư đảng cũng âm thầm thở phào nhẹ nhõm.

Từ khi được phong làm Hoàng hậu, Thái hậu đã tham gia triều chính dưới sự ngầm đồng ý của Thái Xương Đế. Sau khi Thái Xương Đế băng hà, bà buông rèm nhiếp chính gần hai mươi năm, kinh qua biết bao sóng gió lớn nhỏ, vượt xa những gì Long Hưng Đế từng trải. Dù phái thanh lưu từng nhiều lần công kích bà là “gà mái gáy sáng”, nhưng khi Long Hưng Đế cố chấp làm càn, họ lại không khỏi đặt kỳ vọng, mong bà ra tay giữ vững đại cục.

Long Hưng Đế bật dậy khỏi ngự tọa, mặt mày tái mét. Thái hậu chậm rãi bước tới trước mặt hắn, lớn tiếng quở trách: “Thánh nhân, trong tình thế rối ren như vậy mà người vẫn còn muốn bao che cho đế sư của mình sao?”

Từ nhỏ đến lớn, Long Hưng Đế luôn bị uy thế của Thái hậu đè ép. Giờ đây, thấy bà bước tới gần, hắn cũng bất giác lùi lại, ngón tay run lên nhè nhẹ. Thái hậu chỉ tay về phía đám quần thần đang quỳ gối ở đại điện, giọng điệu nghiêm khắc: “Những người đang khẩn cầu dưới điện này đều là trụ cột của Đại Chu, còn bách tính ngoài cung Đại Minh lại chính là nền móng. Người làm mất lòng cả nền móng lẫn trụ cột, há chẳng phải muốn Đại Chu sụp đổ hay sao?”

Trước câu hỏi dồn ép của Thái hậu, Long Hưng Đế cố lấy can đảm, lí nhí đáp: “Đây là vu cáo…”

“Vu cáo hay không đã có Kinh Triệu Doãn điều tra, có Đại Lý Tự tra xét, có Ngự Sử Đài thẩm định. Đâu đến lượt người phán quyết đó có phải là vu cáo hay không?”

Long Hưng Đế há miệng, nhưng chẳng biết phải nói gì, chỉ có thể cúi đầu im lặng, vẻ đau khổ như thuở bé. Thái hậu nhìn khuôn mặt hắn, giống mình như tạc, trong lòng bỗng trào lên một nỗi bi ai sâu sắc. Đây là lỗi của bà. Khi sinh ra Bồ Tát Bảo, bà luôn vô thức so sánh hắn với Minh Nguyệt Châu đã khuất, thấy hắn không ngoan ngoãn, không hiểu ý như đứa con gái đã mất. Nhưng một người sống làm sao sánh được với ký ức về một người đã chết? Bà chìm đắm trong nỗi đau mất đi Minh Nguyệt Châu, chẳng thể dành trọn vẹn tình yêu của một người mẹ cho Bồ Tát Bảo, để hắn lớn lên trở thành kẻ yếu đuối, dễ bị Lư Dụ Dân và bọn gian thần lừa gạt. Cục diện ngày hôm nay, nếu truy cứu, chỉ e người làm mẹ như bà cũng phải gánh phần lớn trách nhiệm.

Giọng Thái hậu đã pha lẫn một chút thê lương: “Làm quân vương, phải lấy tâm ngay chính để trị triều đình, lấy chính triều đình để trị bách quan, lấy chính bách quan để trị lê dân, lấy chính lê dân để trị thiên hạ. Nay người một mực bao che thầy dạy, chính thân mình còn không ngay thẳng, làm sao trị được triều đình, bách quan, lê dân, thiên hạ? Thánh nhân, người thật sự muốn vì tư tâm của mình mà đẩy bản thân vào chốn vạn kiếp bất phục, kéo Đại Chu vào cảnh vạn kiếp bất phục, đúng không?”

Trước những lời trách cứ liên tiếp của Thái hậu, sắc mặt Long Hưng Đế trắng bệch, môi run rẩy: “A nương…”

Nhìn hắn thất thần đến vậy, Thái hậu cố kìm nén sự không đành lòng, tiếp tục thúc ép: “Thánh nhân, người là thiên tử của Đại Chu, người còn phải dẫn dắt Đại Chu đến cảnh quốc thái dân an, vạn bang triều cống. Người không thể tiếp tục để mình bị tư tình ràng buộc, khiến bách quan và lê dân thất vọng. Nếu Lư Dụ Dân thật sự bị vu oan, luật pháp sẽ trả lại công bằng cho ông ta. Những kẻ bịa đặt vu cáo ông ta cũng sẽ phải chịu tội thích đáng. Sẽ không ai xử oan đế sư của người. Vì sự yên ổn của Đại Chu, vì ngai vị được củng cố, người nên sớm đưa ra quyết định đi!”

Long Hưng Đế chậm rãi nắm chặt tay thành quyền, ánh mắt mờ mịt nhìn Thái hậu. Bà chỉ đáp lại bằng ánh nhìn lạnh lẽo. Hắn lại liếc qua đám quần thần đang quỳ dưới điện khẩn cầu, thấy trong ánh mắt bọn họ đều viết lên mong mỏi rằng hắn sẽ trở thành một minh quân. Long Hưng Đế sững sờ, thật lâu sau mới thả lỏng bàn tay đang siết chặt, giọng điệu trống rỗng: “Truyền chỉ dụ của trẫm, tra xét… án Thiên Uy quân.”

Quần thần vui mừng khôn xiết, đồng loạt cúi đầu bái lạy: “Thánh nhân anh minh, Thái hậu anh minh.”

Thôi Tuần trong lòng như trút được tảng đá lớn đè nặng bấy lâu, hắn cùng quần thần cúi lạy, một giọt nước mắt nóng hổi lặng lẽ rơi xuống, mang theo bao nỗi căm phẫn, uất ức tích tụ suốt sáu năm qua.

Trời này, hẳn sắp sáng rồi.



Sau khi Long Hưng Đế hạ lệnh điều tra kỹ càng, chức trách của Kinh Triệu Doãn không còn bị cản trở. Từ đó, Tiết Vạn Triệt bắt đầu điều tra vụ án. Chỉ là, Thái hậu đặc biệt hạ chỉ, yêu cầu Đại Lý Tự cùng tham gia.

Thái hậu triệu kiến Lư Hoài, người đang cáo bệnh ngừng lên triều bấy lâu, giao toàn quyền xử lý việc bắt giữ và thẩm tra Lư Dụ Dân cho hắn. Lư Hoài cười khổ: “Thái hậu còn dám tín nhiệm thần sao?”

“Vì cớ gì lại không dám?” Thái hậu nói: “Từ khi nhậm chức đến nay, khanh luôn công minh liêm chính, tận trung với quốc gia. Nếu ngay cả Lư khanh mà ngô không thể tin tưởng, thì trong triều này, còn ai đáng để tín nhiệm đây?”

Lư Hoài không ngờ mình lại được Thái hậu đánh giá cao đến vậy. Hắn luôn trung thành với Long Hưng Đế, tuy không phản đối việc Thái hậu chấp chính như thúc phụ Lư Dụ Dân, nhưng cũng tán đồng rằng Thái hậu nên sớm trả lại quyền bính cho Long Hưng Đế. Sáu năm trước, khi cùng nhóm đại thần dâng sớ yêu cầu Thái hậu trao trả chính quyền, hắn cũng có phần. Lại thêm quan hệ huyết thống với Lư Dụ Dân, hắn luôn cho rằng Thái hậu hẳn rất chán ghét mình. Vậy mà giờ đây, Thái hậu lại bảo rằng hắn xứng đáng được tín nhiệm. Trong lòng hắn vừa ngỡ ngàng, vừa xúc động, hắn thì thào: “Nhưng thần là cháu ruột của Lư Dụ Dân.”

“Chính vì khanh là cháu ruột của ông ta nên ngô mới giao trọng trách này cho khanh. Nếu thúc phụ khanh thật sự bị oan, khanh có thể minh oan cho ông ấy. Nếu thúc phụ khanh quả thật phạm tội, khanh lấy đại nghĩa diệt thân, ắt không bị ông ấy làm liên lụy. Chỉ như vậy, khanh mới có thể tiếp tục giữ chức Thiếu khanh Đại Lý Tự.”

Thái hậu chẳng những không muốn hắn bị Lư Dụ Dân liên lụy, mà còn để tâm đến tiền đồ của hắn. Trước khi tới cung Bồng Lai, Lư Hoài vốn nghĩ rằng Thái hậu sẽ nhân cơ hội này hạ sát mình. Hắn đã chuẩn bị sẵn tinh thần hy sinh. Nhưng ai ngờ, bà lại muốn bảo vệ hắn? Sau phút kinh ngạc, hắn không kìm được cất tiếng hỏi: “Thần tài hèn đức bạc, sao Thái hậu lại nghĩ nhiều cho thần như vậy?”

Thái hậu thở dài, lời lẽ chân thành: “Lư khanh, khanh là rường cột xã tắc. Trên triều này, có lẽ vẫn có người tài giỏi hơn khanh, nhưng khó ai sánh được với khanh về tấm lòng son sắt. Ngô già rồi, không còn sống được bao lâu nữa. Nhưng khanh thì còn trẻ, Đại Chu về sau không thể thiếu sự phò tá của khanh. Ngô làm sao nỡ vì tội lỗi của thúc phụ khanh mà khiến triều đình mất đi một tài năng tể phụ như khanh?”

Từ “rường cột xã tắc”, “tấm lòng son sắt”, đến “tài năng tể phụ”, đây đều là những lời tôn vinh cao nhất dành cho một viên đại thần. Lư Hoài chưa từng nghe được những lời như vậy từ Long Hưng Đế, nhưng lại nhận được từ Thái hậu. Lòng hắn trào dâng xúc động, nước mắt lưng tròng. Hắn quỳ sụp xuống, nghẹn ngào: “Thần sợ sẽ phụ sự kỳ vọng của Thái hậu.”

Thái hậu không bỏ cuộc, vẫn ôn tồn khuyên giải: “Lư khanh, ngô biết từ nhỏ khanh đã được thúc phụ nuôi dưỡng. Giờ bảo khanh tự tay bắt ông ta, thực sự là đang làm khó khanh. Nhưng nếu khanh không làm, không chỉ khanh, mà cả dòng Lư thị ở Phạm Dương, ngô đều không thể bảo toàn. Huống hồ, nếu vụ án Thiên Uy quân quả thật do thúc phụ khanh chủ mưu nhưng khanh vẫn một mực che giấu, thì khanh không chỉ có lỗi với năm vạn tướng sĩ, với bách tính sáu châu, mà còn phụ lòng một Lư Hoài Tín từng khổ công dùi mài kinh sử, lập chí báo quốc!”

Một câu nói như đánh thức người trong mộng, Lư Hoài ngẩn người. Cảnh tượng Tiết Vạn Triệt kéo áo khẩn cầu được ghi chép trong Khởi cư chú, hay câu đối “Kẻ phạm pháp, dù là thân thích cũng phải phạt!” được viết khi vẫn còn là Thiếu khanh Đại Lý Tự, bỗng chốc hiện rõ trong đầu hắn. Bên tai hắn dường như lại vang lên tiếng chuông ngân nga từ cổ tự nơi thôn dã.

Hắn cúi đầu, trầm mặc. Thái hậu lại nói: “Lư khanh, mấy hôm nay khanh cáo bệnh không dự triều, nhưng trước đó lại trở về Trường An. Ngô tin, trong lòng khanh đã có quyết định, chỉ là dù đã quyết, vẫn khó dứt bỏ tình cảm thúc điệt. Nhưng như cá và tay gấu không thể cùng giữ, nghĩa và tình cũng chẳng thể song toàn. Lư khanh, rốt cuộc khanh chọn đại nghĩa hay chọn tình thân, hãy nói rõ cho ngô hay.”

Nước mắt Lư Hoài lã chã rơi xuống, hắn nghiến răng, hồi lâu mới gật đầu bái lạy, từng chữ cất lên rõ ràng: “Thần, chọn đại nghĩa!”



Lư phủ cũ kỹ, tiêu điều, giờ đây đã chẳng còn ai qua lại, cảnh tượng hoang vắng đến mức có thể giăng lưới bắt chim. Lư Hoài ngẩng đầu nhìn tấm biển gỗ bạc màu khắc hai chữ “Lư phủ”, đôi môi hắn hơi mím lại, rồi dẫn theo một nhóm vũ hầu bước vào.

Lư Dụ Dân sớm đã giải tán toàn bộ gia nhân, ngồi nghiêm chỉnh một mình giữa thính đường. Khi thấy Lư Hoài, ông ta thoáng sững sờ: “Hoài Tín?”

Lư Hoài bảo nhóm vũ hầu đứng đợi ngoài cửa, hắn tiến vào đại sảnh, kéo vạt áo ngồi đối diện với Lư Dụ Dân. Im lặng hồi lâu, hắn trầm giọng nói: “Thúc phụ, là cháu.”

“Là ai phái cháu tới đây?” Lư Dụ Dân thì thầm hỏi: “Thái hậu sao?”

Lư Hoài gật đầu, giọng điệu lẫn vẻ cay đắng: “Ngoài Thái hậu ra, còn có thể là ai nữa?”

Sắc mặt Lư Dụ Dân dần tĩnh lại, sự ngạc nhiên trong mắt cũng tan biến. Ông ta cười lạnh: “Bà ta muốn bảo toàn cháu đúng không? Hừ, thật không ngờ, bà ta cũng là người biết tiếc nhân tài.”

Lư Hoài lặng lẽ không đáp. Lư Dụ Dân bất giác bật cười: “Nhưng lần gặp này, thúc phụ cảm thấy rất an ủi. Cháu là thiên lý mã của nhà họ Lư. Điều thúc phụ đau lòng nhất chính là sợ sẽ làm liên lụy đến cháu. Nay thấy Thái hậu nguyện ý bảo toàn cháu, rốt cuộc thúc phụ cũng được nhẹ lòng rồi.”

Lư Hoài cúi thấp đầu, từng giọt nước mắt rơi xuống sàn nhà mục nát. Hắn đột ngột cắn răng, nghẹn ngào hỏi: “Hoài Tín muốn hỏi thúc phụ một câu. Chuyện liên quan đến Thiên Uy quân, có đúng như Thẩm Khuyết đã khai, rằng thúc phụ cấu kết với Đột Quyết, phản bội Thiên Uy quân, khiến năm vạn tướng sĩ toàn quân bị diệt?”

Lư Dụ Dân không thừa nhận, cũng chẳng phủ nhận, chỉ hờ hững nói: “Trên đời này, không có một mưu tính nào mà không để lại dấu vết. Hiện tại, chắc hẳn Tiết Vạn Triệt đã bắt được Bùi Quan Nhạc. Nếu hắn lục soát Bùi phủ, bắt giữ thuộc hạ tâm phúc của Bùi Quan Nhạc, ắt sẽ tìm ra bằng chứng về sự thông đồng giữa ông ta với Đột Quyết và Kim Di. Chân tướng, chẳng mấy chốc sẽ rõ ràng.”

Lời của Lư Dụ Dân khiến lòng Lư Hoài lập tức rơi vào vực thẳm tuyệt vọng. Hắn ngước lên, giọng run run: “Tính cách của thúc phụ, nếu không phải là sự thật, nhất định sẽ phủ nhận đến cùng. Nhưng thúc phụ không phủ nhận, tức là đã ngầm thừa nhận. Vậy ra… sự sụp đổ của toàn bộ Thiên Uy quân, thật sự là do thúc phụ gây ra.”

Lư Dụ Dân dán mắt nhìn hắn, chậm rãi gật đầu.

Lư Hoài chỉ cảm thấy thật khó để chấp nhận, khớp ngón tay siết chặt đến mức phát ra tiếng vang răng rắc, giọng đầy bi phẫn: “Vì sao? Sáu năm trước, thúc phụ đã là đế sư, được vạn người kính ngưỡng, trong đó có cả tướng sĩ Thiên Uy quân và bách tính sáu châu. Vì sao thúc phụ lại đẩy những người tôn kính mình vào chỗ chết?”

Sắc mặt Lư Dụ Dân bình thản, không chút hối hận: “Cháu biết rõ vì sao mà.”

“Chỉ vì muốn đoạt quyền từ tay Thái hậu thôi sao? Cháu không hiểu!”

“Có gì mà không hiểu?” Lư Dụ Dân nói một cách bình tĩnh: “Một nữ nhân, như gà mái gáy sáng, cầm giữ triều chính, tàn sát chư tử (các con trai/hoàng tử) của Tiên đế, loại yêu phụ ấy, dù là ai cũng phải tru diệt, sao có thể để bà ta tiếp tục hại nước hại dân?”

“Nhưng thúc phụ, yêu phụ mà thúc phụ nói, lại yêu mến người tài, bảo toàn cho “thiên lý mã” trong mắt thúc phụ. Người mà thúc phụ gọi là gà mái gáy sáng, cầm giữ triều chính, lại chính là người được Tiên đế phó thác trước lúc lâm chung. Một vị vua anh minh như Tiên đế, nếu không muốn để Thái hậu nắm quyền, hẳn đã học theo Hán Vũ Đế, giết mẹ giữ con từ lâu rồi. Triều chính này, được chính người tự nguyện giao lại cho Thái hậu!”

Lư Dụ Dân nhìn khuôn mặt trẻ tuổi của Lư Hoài. Nếu là ngày thường, ông hẳn sẽ nghiêm khắc trách mắng hắn, nhưng hôm nay, ông chỉ cảm thấy mệt mỏi, chẳng còn hứng phản bác. Ông nhàn nhạt nói: “Có lẽ vậy. Nhưng Tiên đế có suy tính của người, còn ta, có suy tính của ta. Ta không thể nhẫn nhịn một nữ nhân tiếm quyền làm loạn triều cương, không thể chịu nổi việc thiên tử chỉ là một con rối. Ta đã hy sinh năm vạn Thiên Uy quân và bách tính sáu châu, nhưng để làm nên đại sự, vốn không thể câu nệ tiểu tiết. Ta đã tận trung với Tiên đế, tận trung với Đại Chu. Dù bị thiên hạ phỉ nhổ, Lư Dụ Dân ta, không hối.”

Lư Hoài cúi đầu, cười khổ thành tiếng: “Cháu không thể thuyết phục thúc phụ. Đúng sai công tội, sau này hậu thế tự có phán xét. Nhưng cháu còn một câu cuối muốn hỏi thúc phụ.”

Hắn ngẩng lên, từng chữ như khắc sâu vào lòng: “Thẩm Khuyết đã khai nhận, Thánh nhân cũng biết rõ mưu đồ của thúc phụ. Hắn nói Thánh nhân là đồng phạm. Cháu muốn hỏi, lời của Thẩm Khuyết, là thật hay giả?”

Lư Dụ Dân cười gằn, giọng đầy khinh miệt: “Cháu tin Thẩm Khuyết? Thẩm Khuyết là thứ gì? Một tên ác nhân cậy quyền h**p đáp, nếu không phải hắn c.ưỡ.ng b.ức Thịnh A Man, thì vụ án Thiên Uy quân chưa chắc đã bại lộ. Loại người không việc ác nào không làm như hắn, lời hắn nói mà cháu cũng tin sao? Hắn lôi cả Thánh nhân vào, chẳng qua chỉ để tất cả mọi người đều phải khổ sở!”

Lư Hoài lặng người, còn Lư Dụ Dân càng lúc càng kích động: “Tên ác nhân Thẩm Khuyết, dựa vào đâu mà kéo Thánh nhân vào? Dựa vào đâu mà nói Thánh nhân là đồng phạm? Thánh nhân là học trò mà ta, Lư Dụ Dân, một tay dạy dỗ. Từ khi người năm tuổi, ta đã dạy Mạnh Tử, Luận Ngữ, dạy Lễ ký, Xuân Thu. Mẫu thân của người chỉ lo quyền lực, không màng chăm sóc, là ta dạy người thế nào là nhân, nghĩa, lễ, trí, tín. Ta đã dạy dỗ người suốt bao năm, làm sao người có thể làm ra chuyện bất nhân bất nghĩa đó được? Làm sao người có thể cấu kết với Hồ tộc, bỏ mặc tướng sĩ, nhường lại quốc thổ, phụ lòng bách tính của mình? Ta, Lư Dụ Dân, không dạy nổi một học trò như thế, và Thánh nhân cũng tuyệt đối không phải là người như thế!”

Lư Hoài bị sự kích động bất ngờ của Lư Dụ Dân làm cho kinh hãi, trong lòng dâng lên nỗi hổ thẹn vì những nghi ngờ trước đó dành cho Long Hưng Đế, nhưng hắn vẫn muốn xác nhận lại lần cuối: “Thánh nhân, không hề hay biết gì sao?”

“Không hề.” Lư Dụ Dân quả quyết, lời như đinh đóng cột: “Kẻ chủ mưu là ta. Thẩm Khuyết dựa vào hành tỷ của Thánh nhân trên bức thư gửi đến Đột Quyết rồi cho rằng Thánh nhân biết chuyện, thật quá nực cười! Thánh nhân từ năm ba tuổi đã mất cha, người bên cạnh bầu bạn lâu nhất không phải Thái hậu mà là ta. Người luôn nghe lời ta, thậm chí từng nói coi ta như cha. Ta có được hành tỷ của người thì có gì lạ? Thư tín gửi cho Ni Đô Khả Hãn là do chính tay ta viết, hành tỷ là ta đóng, ngay cả chiếu chỉ ép Quách Cần Uy xuất quân cũng là do ta thảo. Thánh nhân hoàn toàn không hay biết gì. Nếu ngươi không tin, có thể đi hỏi Thẩm Khuyết, hỏi Bùi Quan Nhạc xem trong suốt quá trình bàn mưu tính kế, bọn chúng có từng gặp Thánh nhân lần nào chưa? Tất cả đều do ta mượn danh phận đế sư, khiến chúng nhầm tưởng rằng đây là ý chỉ của Thánh nhân! Còn việc Thánh nhân không muốn lật lại vụ án, không phải vì người có tham gia, mà là vì muốn bảo vệ ân sư của mình, bảo vệ người mà người kính trọng như phụ thân!”

Lư Dụ Dân đã trút cạn bí mật trong lòng, Lư Hoài đứng đó hoàn toàn thất thần. Đột nhiên, máu từ mũi và miệng của Lư Dụ Dân chậm rãi trào ra, đó là dấu hiệu của việc đã uống độc dược.

Lư Hoài kinh hãi, quỳ sụp xuống, lảo đảo bò đến bên Lư Dụ Dân, ôm chặt lấy thân hình ông ta. Chỉ khi đó, hắn mới nhận ra vị thúc phụ quyền cao chức trọng này đã gầy guộc đến mức nào. Cả cuộc đời của ông đều cống hiến cho quốc gia, hao tâm tổn lực vì con đường của riêng mình, để rồi thân xác tiều tụy, lưng còng, hai bàn tay trắng, đơn độc một mình. Dẫu rằng con đường ấy hoàn toàn sai lầm, nhưng trong giây phút cuối cùng này, ông vẫn tin rằng mình hành sự vì nước, vì dân, không hề có chút hối hận.

Trong cơn đau buồn tột độ, Lư Hoài bật khóc nức nở: “Thúc phụ, sao người phải ngốc nghếch đến vậy?”

Lư Dụ Dân thì thào: “Ta là đế sư, há chịu nhục dưới tay lũ tiểu lại?”

Ông ta dồn chút sức tàn, nắm chặt lấy tay Lư Hoài, giọng khản đặc: “Hoài Tín, cháu phải nhớ, trung quân! Phụng chủ! Thánh nhân, ta giao lại cho cháu… Cháu tuyệt đối không được để tiểu nhân hãm hại người…”

Máu từ mũi và miệng của ông ta trào ra ngày càng nhiều. Độc tính của hạc đỉnh hồng phát tác, không ai có thể cứu vãn. Thân thể ông co giật trong chốc lát, cuối cùng đôi mắt cũng khép lại, trút hơi thở cuối cùng trong vòng tay của Lư Hoài, người được ông đặt trọn niềm hy vọng và được mệnh danh là “thiên lý mã” của họ Lư ở Phạm Dương.
 
Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh
Chương 131: Trẫm không tham dự!



Đúng như lời Lư Dụ Dân từng nói: “Dưới gầm trời này, không có mưu tính nào không để lại dấu vết.” Bùi Quan Nhạc bị bắt, phủ đệ của ông ta bị lục soát, tìm thấy không ít thư từ qua lại giữa ông ta và Lư Dụ Dân cũng như Thẩm Khuyết lúc còn ở Phong Châu. Những bức thư này, vốn được giữ lại để nhằm tránh trường hợp một ngày nào đó Lư Dụ Dân qua cầu rút ván, ông ta còn có thể dùng chúng làm bằng chứng, uy h**p Lư Dụ Dân, không ngờ cuối cùng lại trở thành sợi dây xiết lấy mạng sống của chính ông ta.

Thấy thế cục đã không thể vãn hồi, Bùi Quan Nhạc cũng dứt khoát nhận tội. Đúng như Lư Dụ Dân nói, trong suốt quá trình lập kế hoạch năm đó, từ đầu chí cuối, ông ta chưa từng tiếp xúc với Long Hưng Đế. Bùi Quan Nhạc tin rằng Lư Dụ Dân đang đại diện cho ý chỉ của Long Hưng Đế, nên ông ta luôn tin tưởng tuyệt đối rằng việc này đã được hoàng đế ngầm đồng thuận. Khi nghe được lời tự thú của Lư Dụ Dân, ông ta kinh ngạc đến ngây người, lẩm bẩm: “Hóa ra ta luôn bị Lư Dụ Dân lừa gạt sao?”

Tiết Vạn Triệt đứng bên, lạnh lùng nhìn cảnh tượng đó: “Cho dù có bị Lư Dụ Dân lừa đi nữa, thì ngươi cũng vì tham quyền dục lực nên mới gây ra tội ác tày trời này!”

Bùi Quan Nhạc nghe xong, ngược lại bật cười phá lên: “Tham quyền lực? Tham phú quý? Cái gì là tham, cái gì là dục? Ta muốn quyền thế, muốn phú quý, đó gọi là tham, là dục. Còn ngươi, Tiết Vạn Triệt, muốn thanh danh và tiếng thơm, chẳng lẽ đó không phải là tham và dục hay sao? Rốt cuộc, chẳng qua là ngươi không thừa nhận đó là tham dục mà thôi, ngươi tô son trát phấn, biến nó thành chính nghĩa! Hừ! Chính nghĩa? Chỉ cần phủ thêm tấm áo chính nghĩa lên h.am m.uốn của mình, thế là nó liền trở thành đúng đắn? Thế nhưng ai quy định rằng mưu cầu quyền thế phú quý là sai, còn truy cầu danh tiếng thiên thu lại là đúng?”

Tiết Vạn Triệt nghe những lời biện bạch đầy thách thức ấy đến sững người, ông thở dài: “Ngươi người đầu tiên dùng lý lẽ để hợp lý hóa hành vi độc ác của mình mà ta từng gặp. Mưu cầu quyền thế phú quý vốn không sai, nhưng vì quyền thế mà phản bội bằng hữu tốt nhất của mình, đem năm vạn tướng sĩ ném vào tay Hồ Lỗ tàn sát, đó chính là sai! Nếu ngươi vẫn không hiểu thế nào là sai, thì ta sẽ nói cho ngươi biết: Người vì sao gọi là người, súc sinh vì sao là súc sinh? Bởi vì người phân biệt được thiện ác, còn súc sinh chỉ biết cá lớn nuốt cá bé. Vì vậy, người làm người, còn súc sinh chỉ có thể là thức ăn trên mâm. Ngươi muốn làm súc sinh, đó là lựa chọn của ngươi, nhưng ta tin rằng đa số quan lại, bách tính trong thiên hạ này vẫn sẽ chọn làm người.”

Bùi Quan Nhạc nghe vậy chỉ nhếch môi cười khinh: “Ngươi đứng đây cao giọng dạy dỗ ta về thế nào là làm người, là bởi vì ngươi xuất thân danh môn, chưa từng nếm trải khổ nhục bấp bênh. Bùi Quan Nhạc ta, cũng từng là một thiếu niên nhiệt huyết như những binh sĩ Thiên Uy quân kia. Nhưng ai đã khiến máu của ta trở nên lạnh lẽo? Là Đại Chu! Chính Đại Chu đã biến ta thành kẻ mà ngươi gọi là súc sinh tham lam quyền lực! Ta trở nên như thế này, là lỗi của ai? Dù sao cũng chẳng phải lỗi của ta.”

Tiết Vạn Triệt thấy ông ta cố chấp không chịu hối cải, chỉ lắc đầu: “Rốt cuộc là lỗi của ai, bách tính sẽ trả lời ngươi, sử xanh cũng sẽ phán xét ngươi. Nhưng ý kiến của ngươi, giờ đã không còn quan trọng, cũng chẳng ai bận tâm.”

Chờ đợi Bùi Quan Nhạc, chỉ còn là cái kết cục tử hình và sự khinh bỉ của hậu thế mãi mãi.



Khi Bùi Quan Nhạc và những kẻ liên quan lần lượt khai báo, từng bản cung trạng cũng được đưa vào trong cung Bồng Lai. Thái hậu triệu Long Hưng Đế đến, đem toàn bộ cung trạng của Bùi Quan Nhạc và những người thân tín của ông ta đưa ra trước mặt. Long Hưng Đế càng nhìn, sắc mặt càng trở nên tái nhợt. Thái hậu bình thản lên tiếng: “Thánh nhân, người nghĩ sao?”

Long Hưng Đế nghiến răng đáp: “Bùi Quan Nhạc và những kẻ đó, dám làm ra những việc này ư, đáng chết!”

Thái hậu quan sát biểu cảm của hắn, chỉ thấy vẻ mặt hắn đầy bàng hoàng, hoàn toàn không có chút dấu hiệu chột dạ. Bà trầm mặc một lúc, cuối cùng hỏi: “Trước khi Lư Dụ Dân qua đời, ông ta nói rằng tất cả mọi chuyện đều do một tay ông ta gây ra, kể cả việc đánh cắp hành tỷ, điều đó có phải sự thật không?”

Long Hưng Đế không thể tin được, ngẩng lên nhìn bà: “A nương, sao người lại hỏi như vậy? Người thật sự nghĩ rằng Lư Dụ Dân vì muốn che chở cho trẫm nên mới một mình gánh hết mọi tội lỗi sao?”

Hắn gằn giọng, mắt đỏ hoe: “A nương, người không tin trẫm!”

Thái hậu tay cầm bản cung trạng của Thẩm Khuyết, những mép giấy trắng của nó đã bị bà nắm chặt đến nhăn nhúm: “Ngô cũng muốn tin người! Ngô cũng không muốn có một đứa con phản bội tướng sĩ và bách tính của mình! Nhưng, mối quan hệ giữa người và Lư Dụ Dân không hề bình thường, ngô không thể không nghi ngờ!”

“Quan hệ giữa trẫm và Lư Dụ Dân sao lại không bình thường?” Long Hưng Đế nghẹn ngào nói: “Vì sao trẫm lại có thể tin tưởng Lư Dụ Dân như vậy? A nương, chẳng lẽ người không hiểu hay sao?”

“Từ nhỏ trẫm đã mất a gia, dáng vẻ của người, trẫm đã chẳng còn nhớ rõ. Còn người, trẫm gọi là a nương, nhưng sau khi a gia băng hà, người chỉ mải mê ban bố chiếu lệnh của mình, bận rộn thực hiện tân chính của người. Người chỉ quan tâm đến quyền lực của mình, chứ có từng quan tâm đến con trai người hay chưa? Chính nhờ Lư Dụ Dân, ông ấy quan tâm trẫm từng ly từng tí, tận tình dạy bảo trẫm, trẫm tin tưởng ông ấy, thì có gì là lạ đâu?”

Các đốt ngón tay của Thái hậu đã siết chặt đến trắng bệch: “Ngô không muốn tranh cãi về ai đúng ai sai, ngô chỉ muốn hỏi người một câu, rốt cuộc người… có tham dự vào vụ Thiên Uy quân hay không?”

“Không!” Long Hưng Đế kiên quyết trả lời: “Trẫm không tham dự!”

Hắn thậm chí còn kích động đến mức giơ ba ngón tay thề: “Nếu trẫm có tham dự, nguyện bị trời tru đất diệt, chết không toàn thây!”

Thấy hắn thề quyết liệt như vậy, Thái hậu cũng dần bình tĩnh lại: “Người thật sự không tham gia?”

“Không!” Long Hưng Đế lại nhấn mạnh một lần nữa: “Dù trẫm có muốn tự mình chấp chính đến đâu đi nữa thì cũng không thể làm ra chuyện điên cuồng này! Trên đời này, có vị hoàng đế nào lại nhẫn tâm đem đất đai và bách tính của mình dâng cho người Hồ? Dù hắn có dâng lên đi nữa, làm sao hắn có thể chắc chắn rằng, Đột Quyết sẽ không tiếp tục xâm lấn sau khi diệt được Thiên Uy quân và chiếm lĩnh sáu châu Quan Nội? Làm sao hắn có thể đảm bảo rằng bọn chúng sẽ không bội tín, đại quân thẳng tiến Trường An? Giả như Bùi Quan Nhạc ngầm cấu kết với Đột Quyết, không kháng cự tại Ninh Sóc, hoàng đế ấy chỉ có thể trở thành một vị vua mất nước! A nương, nếu là người, người có dám đánh cược lớn thế không?”

Lời của Long Hưng Đế cũng có chút lý lẽ, nhưng Thái hậu vẫn chỉ im lặng, không nói gì. Long Hưng Đế thấy thế, lòng càng thêm đau xót: “Trừ khi bị điên, còn không chẳng có ai lại cược lớn như thế. A nương nghi ngờ trẫm, chẳng lẽ chỉ vì trẫm và Lư Dụ Dân có mối quan hệ đặc biệt sao? Bùi Quan Nhạc bị định tội còn cần bằng cứ, sao đến lượt trẫm bị định tội thì lại không cần?”

Long Hưng Đế cảm thấy phẫn uất, quỳ xuống, nói: “Nếu a nương muốn trẫm từ nay làm một hoàng đế bù nhìn, chỉ cần nói một tiếng, không cần đổ mọi tội lỗi lên đầu trẫm. Điều này đối với trẫm là sự sỉ nhục lớn lao!”

Thái hậu vẫn im lặng, nhưng đôi mắt đã đỏ lên, khiến bà không thể giấu được sự đấu tranh trong lòng. Cuối cùng, bà lên tiếng, nhẹ nhàng nói: “Nhưng người là kẻ được hưởng lợi lớn nhất từ chuyện này, ngô không nghi ngờ thì người khác cũng sẽ nghi ngờ.”

Long Hưng Đế ưỡn thẳng sống lưng, cười thảm một tiếng: “Muốn buộc tội thì có gì là không được? Đám Bùi Quan Nhạc muốn lợi dụng vụ án Thiên Uy quân để tranh đoạt quyền lực, thế mà lại biến thành lỗi của trẫm. Nếu trẫm có lỗi, thì lỗi ở chỗ sơ suất, lỗi ở chỗ tin lầm người. Nhưng bàn về sơ suất, bàn về tin lầm người, tam công cửu khanh, vương hầu tướng quốc, ai chẳng sơ suất, ai chẳng có lần tin lầm người, sao chỉ mỗi trẫm phải nhìn nhận rõ ràng? Huống chi sáu năm qua, có quan viên nào dâng sớ nói Thiên Uy quân bị oan không? Không có một ai, vậy thì tại sao giờ đây lại chỉ đổ hết lên đầu trẫm?”

Hắn chất vấn một cách gay gắt, Thái hậu không đáp được. Long Hưng Đế nản lòng: “Nếu a nương vẫn không tin trẫm, thì cứ giết trẫm đi! Nhưng trước khi trẫm chết, vẫn muốn nói với a nương, trẫm không làm gì cả!”

Hắn nói xong, liền không biện giải thêm, chỉ lặng lẽ chờ đợi phán quyết của Thái hậu. Nhưng Thái hậu bỗng thở dài một tiếng, chậm rãi cất lời: “Bồ Tát Bảo, con đứng lên đi.”

Long Hưng Đế kinh ngạc ngẩng đầu, Thái hậu lại tiếp tục: “Con là con trai của a nương, a nương sao nỡ giết con? A nương cũng không muốn tin rằng con sẽ làm ra những chuyện mất nhân tính như thế. Việc đó không chỉ có lỗi với Đại Chu mà còn có lỗi với chính con. Nếu con nói con không làm, a nương sẽ tin con không làm.”

Long Hưng Đế nghe vậy, nghẹn ngào không thốt nên lời, nước mắt không ngừng lăn dài trên gương mặt. Thái hậu đứng dậy, đích thân đỡ hắn, lấy khăn tay lau nước mắt cho hắn: “Đừng khóc nữa. Sao con vẫn như khi còn nhỏ, hễ có chuyện là lại khóc? A nương từng dặn rồi, con là Thánh nhân, Thánh nhân không nên khóc.”

Long Hưng Đế vội vàng dùng tay áo lau nước mắt, gật đầu khẽ nói: “Bọn họ đều lừa gạt con. Về sau, con chỉ tin mỗi a nương.”

Thái hậu nhìn hắn, gật gật đầu: “A nương mệt rồi, con trở về điện Thần Long nghỉ ngơi đi. Đừng khóc nữa, kẻo bị người ta cười chê con không ra dáng một Thánh nhân.”

Long Hưng Đế cúi đầu lĩnh mệnh, quay người rời đi. Thái hậu dõi theo bóng hắn thật lâu, đến khi không còn nhìn thấy mới cất tiếng gọi: “Vọng Thư, ngươi ra đi.”

Thôi Tuần từ sau tấm bình phong sơn thủy lặng lẽ bước ra. Thái hậu nhìn hắn, hỏi: “Những lời Thánh nhân nói, ngươi đều nghe hết rồi chứ?”

Thôi Tuần cúi đầu đáp: “Vâng, đã nghe hết.”

“Vậy, ngươi đã hết nghi ngờ chưa?”

Câu hỏi này, Thôi Tuần không lập tức trả lời mà chỉ im lặng. Thái hậu thở dài, nói: “Thánh nhân nói cũng có vài phần đúng. Nếu quả thật là nó làm, làm sao có thể chắc chắn rằng Đột Quyết sẽ giữ lời? Chẳng lẽ nó không sợ bị biến thành một quân vương mất nước? Vọng Thư, từ nhỏ Thánh nhân đã nhát gan, ngô tin rằng nó không dám làm việc này.”

Thôi Tuần rũ mắt, một lúc sau mới khẽ nói: “Thái hậu tin tưởng con trai mình, thần không còn gì để nói.”

Thái hậu liếc nhìn hắn một cái, chậm rãi nói: “Đừng nói lời giận dỗi. Ngô hỏi ngươi, ngươi có bằng chứng nào chứng minh Thánh nhân có tham gia không?”

Thôi Tuần mím môi, đáp một tiếng: “Không có.”

Lư Dụ Dân đã chết, Bùi Quan Nhạc và Thẩm Khuyết trong quá trình bàn bạc cũng chưa từng tiếp xúc trực tiếp với Long Hưng Đế. Hắn không có chứng cứ.

“Nếu không có chứng cứ, vậy dựa vào đâu mà ngươi nghi ngờ hắn? Dựa vào trực giác sao? Lẽ nào trực giác của Thôi Tuần ngươi luôn luôn đúng?”

Thôi Tuần khựng lại, trên gương mặt hiện chút mờ mịt. Thái hậu tiếp lời: “Nếu ngay cả một quân chủ cũng tham gia b.án n.ước, thì dân chúng của quốc gia này sau này làm sao có thể tin tưởng triều đình nữa? Chuyện này đến đây là hết. Ngô đảm bảo, Thiên Uy quân sẽ được minh oan, Bùi Quan Nhạc và những kẻ khác sẽ bị trừng phạt. Kết cục này, sẽ làm hài lòng tất cả mọi người.”

Thôi Tuần nghe vậy, thu lại thần sắc, cung kính chắp tay nói: “Thần thay mặt Thiên Uy quân, cảm tạ Thái hậu.”



Có được lời hứa từ Thái hậu, dù trong lòng vẫn còn chút nghi hoặc, Thôi Tuần cũng không khỏi nhẹ nhõm hơn khi biết rằng oan khuất của tướng sĩ Thiên Uy quân sẽ được rửa sạch. Nỗi u uất đè nặng suốt sáu năm nay cũng dần tan biến, bước chân hắn đến thư quán càng thêm phần khoan khoái.

Kể từ ngày từ biệt Lý Doanh tại thư quán, Thôi Tuần đã ôm quyết tâm liều chết tiến cung, trình giao lời khai của Kim Di. May mắn thay, hắn đã thuyết phục được phái thanh lưu trong triều, để vụ án Thiên Uy quân cuối cùng cũng được tái thẩm lại. Sau đó, để ngăn ngừa biến cố, hắn gần như túc trực tại Sát Sự Thính, nghe Lưu Cửu và các thuộc hạ báo cáo tiến triển suốt mười hai canh giờ mỗi ngày. Đến hôm nay, mọi chuyện cũng hạ hồi phân giải, hắn nóng lòng muốn chia sẻ tin mừng này với Lý Doanh.

Khi Thôi Tuần đẩy cửa gỗ của thư quán, Lý Doanh đang ngồi tựa má, nhìn chăm chú vào ván cờ hắn để lại trước lúc rời đi. Nghe thấy tiếng động, nàng ngẩng đầu lên, ánh mắt sáng lên. Nàng vui mừng đứng bật dậy, chạy đến, lao vào vòng tay hắn. Vòng lấy hắn thật chặt, nàng ngẩng mặt lên, nở nụ cười tươi tắn nói: “Ta biết ngay mà, chàng nhất định sẽ thắng!”
 
Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh
Chương 132: Ngài tìm nương tử cho người khác, sao lại quên mất nương tử của mình rồi?



Những gì xảy ra trên triều, Thôi Tuần đều kể lại tường tận cho Lý Doanh, bao gồm cả đoạn đối thoại giữa Long Hưng Đế và Thái hậu.

Lý Doanh thoạt đầu nhíu mày: “A đệ thật hồ đồ. Dẫu Lư Dụ Dân là thầy của nó, nhưng nó là hoàng đế Đại Chu. Lư Dụ Dân lại hại chết biết bao tướng sĩ và bách tính Đại Chu, sao nó có thể vì tình riêng mà che chở cho ông ta được?”

Nói xong, nàng liền thở dài: “May mà cuối cùng nó cũng tỉnh ngộ. Lư Dụ Dân, Bùi Quan Nhạc và những kẻ khác đều đã nhận lấy hình phạt thích đáng. Thiên Uy quân rốt cuộc cũng được rửa sạch oan khuất.”

Nàng đưa tay vuốt lên gương mặt Thôi Tuần, từ xương mày đến sống mũi. So với Thôi Tuần sáu năm trước mà nàng từng thấy qua ký ức của A Sử Na Gia, hắn bây giờ gầy hơn rất nhiều. Một cảm giác chua xót dâng lên trong lòng nàng. Sáu năm qua, hắn sống cảnh người không ra người, quỷ không ra quỷ, kẻ thủ ác cuối cùng cũng bị đưa ra trước công lý. Nàng hỏi Thôi Tuần: “Thập Thất lang, sau này chàng có dự định gì chưa?”

Thôi Tuần lặng im một lúc, đáp: “Ta không muốn làm Thiếu khanh Sát Sự Thính nữa.”

Hắn từng chấp nhận làm chức Thiếu khanh Sát Sự Thính chỉ để có được quyền lực điều tra chân tướng. Nay tâm nguyện đã thành, hắn không còn muốn tiếp tục làm tay sai cho triều đình. Lý Doanh gật đầu, chẳng hề bất ngờ: “Vậy chàng định khi nào sẽ thưa chuyện từ quan với a nương?”

Nghe nàng hỏi, Thôi Tuần lại có chút do dự. Lý Doanh nhìn hắn, hỏi thêm: “Chàng vẫn còn chuyện gì chưa buông được, đúng không?”

Ánh mắt Thôi Tuần thoáng chút hoang mang. Lý Doanh đoán: “Chàng vẫn nghi ngờ a đệ?”

Nàng thật thông minh, lúc nào cũng đoán được tâm tư của hắn. Thôi Tuần mím môi, hàng mi đen dài như cánh quạ cụp xuống, giọng hắn trầm thấp: “Xin lỗi nàng, người là a đệ của nàng, ta không nên nghi ngờ người…”

Lý Doanh lắc đầu: “Chàng có nghi ngờ cũng là điều bình thường thôi. Dẫu sao, việc Thiên Uy quân bị tiêu diệt lại đúng lúc a đệ có cơ hội thân chính. Nhưng lời nó biện giải cũng có phần hợp lý. Nó không có lý do gì để liều mình trở thành một vị vua mất nước chỉ vì muốn thân chính. Cái giá đó quá đắt. Hơn nữa, chàng cũng không có chứng cứ nào chứng minh nó liên quan đến chuyện này, đúng không?”

Thôi Tuần ngẩn người. Ba năm làm Thiếu khanh Sát Sự Thính, hắn chỉ tìm ra được mối liên hệ giữa Lư Dụ Dân, Thẩm Khuyết, Bùi Quan Nhạc với vụ án của Thiên Uy quân, nhưng không hề có bằng chứng nào cho thấy sự tham gia của Long Hưng Đế.

Lý Doanh nói: “Nếu chàng vẫn còn nghi ngờ, thì tạm thời đừng vội từ quan. Hãy tiếp tục quan sát thêm một thời gian. Đợi đến khi chắc chắn a đệ không liên quan đến chuyện này, lúc đó chàng từ quan cũng chưa muộn.”

Thôi Tuần chăm chú nhìn đôi mắt trong sáng của Lý Doanh, lòng hắn như có dòng nước ấm róc rách chảy qua. Hắn khẽ gật đầu, nói: “Ừm.”



Vụ án của Thiên Uy quân được đẩy nhanh tiến độ, chưa đầy một tháng đã kết thúc xét xử. Kẻ chủ mưu là Bùi Quan Nhạc cùng Thẩm Khuyết bị phán hình phạt lăng trì, những đồng lõa khác đều bị xử trảm. Ngày hành hình, Thịnh A Man cùng Hà Thập Tam và những thân nhân khác của Thiên Uy quân ôm bài vị của người thân, đứng dưới pháp trường quan sát, cứ như thể Thiên Uy quân được tận mắt thấy những kẻ hại đã mình phải đền tội. Nhưng dù là vậy, những người đã khuất, chung quy cũng chẳng thể trở về.

Long Hưng Đế hạ tội kỷ chiếu, [1] tự trách bản thân thiếu cẩn trọng, tin lầm gian thần, gây hại trung thần lương dân, làm khổ bách tính sáu châu. Trong chiếu thư, người ra lệnh trả lại tài sản đã bị tịch thu của Thiên Uy quân, cho phép họ mai táng người thân, đồng thời ban phát hậu lễ an ủi. Người cũng hạ lệnh yêu cầu quan phủ các cấp chăm sóc chu đáo cho gia quyến của họ. Cuối chiếu thư, người viết: “Kẻ gian thần làm hại quốc gia, tội ở trẫm. Trẫm không xứng là quân vương, thực cảm thấy hổ thẹn. Chỉ có thể sửa sai, dùng người ngay thẳng, tuyển chọn hiền tài, mở đường ngôn luận, giữ vững cương thổ để chuộc lại tội lỗi của mình. Mong rằng từ nay thiên tai địch họa đều giáng lên người trẫm, đừng làm tổn hại sự an bình của bách tính.”

[1] Tội kỷ chiếu (罪己诏) là một chiếu thư do hoàng đế ban hành, trong đó nhà vua công khai thừa nhận lỗi lầm hoặc trách nhiệm của mình đối với những sai lầm hoặc tai họa xảy ra trong đất nước. Đây là một hành động thể hiện sự tự kiểm điểm, khiêm nhường và trách nhiệm của người đứng đầu quốc gia, thường được thực hiện trong bối cảnh có những biến cố nghiêm trọng, như mất mùa, thiên tai, chính trị rối ren, hoặc sai lầm trong quản lý triều đình.

Đây là tội kỷ chiếu đầu tiên kể từ khi triều Đại Chu thành lập. Đại Chu xây dựng trên nền tảng trung hiếu, tư tưởng trung quân hiếu đễ [2] đã khắc sâu vào xương tủy của mỗi người. Khi quân phụ hạ tội kỷ chiếu, thiên hạ đều kinh ngạc. Người đương thời đã mô tả phản ứng của mọi người lúc ấy là: “Quần thần rơi lệ, bách tính nghẹn ngào, binh sĩ đều khóc.” Lòng người bốn phương đều hướng về cung Đại Minh.

[2] Trung quân hiếu đễ (忠君孝悌) là một khái niệm quan trọng trong hệ tư tưởng Nho giáo, phản ánh các giá trị cốt lõi về đạo đức và trách nhiệm của con người trong xã hội phong kiến. Cụm từ này bao gồm hai phần chính:

1. Trung quân (忠君): Nghĩa là trung thành với quân vương, cống hiến hết lòng cho đất nước và nhà vua. Đây là phẩm chất quan trọng của bề tôi và quan lại dưới chế độ quân chủ. “Trung quân” yêu cầu con người phải đặt lợi ích của triều đình và quốc gia lên trên lợi ích cá nhân, sẵn sàng hy sinh vì sự an nguy của đất nước và tôn trọng quyền lực tối cao của vua.

2. Hiếu đễ (孝悌):

– Hiếu (孝): Nghĩa là lòng hiếu thảo với cha mẹ, kính trọng và phụng dưỡng cha mẹ khi còn sống, giữ gìn danh dự của gia đình và thực hiện nghi lễ chu đáo sau khi cha mẹ qua đời.

– Đễ (悌): Nghĩa là sự kính trọng, nhường nhịn và yêu thương giữa anh chị em trong gia đình.

Mọi chuyện dường như đang chuyển biến theo chiều hướng tốt đẹp. Kế Thanh Dương thông báo với gia quyến của Quách Cần Uy rằng có thể đưa thủ cấp của ông từ chùa Tây Minh về hạ táng. Ngày đón thủ cấp, triều đình đặc biệt phái Kinh Triệu Doãn Tiết Vạn Triệt cùng con trai của Quách Cần Uy là Quách Húc vào chùa. Long Hưng Đế tự nhận mình có tội, không muốn bước vào chùa Tây Minh, chỉ dẫn bá quan đứng chờ bên ngoài. Dân chúng Trường An kéo đến xem rất đông, ai nấy đều xúc động trước sự anh minh của hoàng đế và khí tiết của Quách Cần Uy.

Quách Húc ôm một chiếc hộp gỗ bước ra từ điện Phật, mắt rưng rưng ánh lệ. Từ sau sự kiện ở Lạc Nhạn Lĩnh, vì tội của phụ thân, hắn bị lưu đày đến đất Tịch Tây. Tịch Tây là nơi còn hẻo lánh hơn cả Lĩnh Nam, nghìn dặm cằn cỗi, cỏ cây cũng không mọc nổi. Một người hơn hai mươi tuổi, vì những khắc nghiệt nơi đó mà già nua như người đã ngoài bốn mươi. Nếu không nhờ Thôi Tuần sai người vượt đường xa bí mật chăm sóc, chỉ e hắn đã sớm bỏ mạng ở nơi hoang vu ấy.

Từ khi biết thủ cấp của Quách Cần Uy bị làm thành chén đựng rượu, Tiết Vạn Triệt đã khóc không ngừng. Ông thở dài: “Thánh nhân đã ban mảnh đất trong khu vực hoàng lăng, cho phép Quách soái được an táng tại đế lăng, còn hạ lệnh quan viên từ cửu phẩm trở lên đều đến đưa tiễn. Điều này cũng xem như sự an ủi lớn đối với Quách soái.”

Quách Húc lại ngập ngừng một chút. Dù có phụ thân là mãnh tướng nhưng bản thân hắn lại vô cùng tầm thường. Hắn không thích võ nghệ, học hành cũng nhiều lần thi không đỗ. Quách Cần Uy là người cương trực, không chịu cầu xin Thái hậu ban chức tước, nên hắn vẫn là một kẻ áo vải, ở quê nhà làm nông, phụng dưỡng tổ mẫu và mẹ ruột. Khi Quách Cần Uy làm Phó Đô hộ phủ An Tây, hắn không được chút lợi lộc nào. Sau khi phụ thân bại trận tự vẫn, hắn lại bị liên lụy lưu đày. Dẫu vậy, hắn chưa từng oán trách phụ thân, ngược lại luôn tôn kính sâu sắc. Hắn nói: “Phụ thân ta được chôn cùng đế lăng, quả là hoàng ân mênh mông. Chỉ là, Tiết Triệu Doãn, liệu ngài có thể giúp ta thỉnh cầu Thánh nhân thu hồi mệnh lệnh này không?”

Tiết Vạn Triệt sửng sốt: “Vì sao?”

“Điều phụ thân mong muốn nhất hẳn là được an táng tại Lạc Nhạn Lĩnh.” Quách Húc nói: “Nơi ấy có năm vạn binh sĩ Thiên Uy quân mà ông coi như con ruột. Trong số họ, có những người đã mất hết thân nhân, chỉ có thể an nghỉ tại Lạc Nhạn Lĩnh. Nhất định phụ thân ta sẽ không muốn rời xa bất kỳ binh sĩ nào của mình.”

Khi nghe vậy, Tiết Vạn Triệt không khỏi lên tiếng: “Nhưng được bồi táng ở đế lăng là vinh hạnh chí tôn của văn thần, tướng lĩnh từ xưa đến nay. Hơn nữa, Đại Chu đã quy định, nếu đời cha ông được an táng tại đế lăng, con cháu muốn táng cùng cũng sẽ được chấp thuận. Phụ thân của ngươi được bồi táng tại đế lăng, sau này ngươi và cả con cháu ngươi đều có thể được chôn cất cùng. Đây không chỉ là vinh dự của riêng ngươi, mà còn là vinh quang của cả gia tộc ngươi. Ngươi thật sự không muốn sao?”

Quách Húc lắc đầu, đáp: “Một vị tướng sẽ không bao giờ từ bỏ binh sĩ của mình. Phụ thân ta là một vị tướng tài ba nhất, ta là con của người, sao có thể vì ham danh lợi mà phớt lờ tâm nguyện của người được? Sau khi ta chết, dù chôn cất ở quê nhà hay trong đế lăng thì cũng đều là chôn cất, ta không quan tâm. Ta chỉ mong tâm nguyện của phụ thân có thể được hoàn thành.”

“Nhưng Lạc Nhạn Lĩnh hiện vẫn nằm dưới gót sắt của Đột Quyết. Ngươi không thể đưa linh cữu phụ thân mình về đó an táng.”

“Đại Chu binh cường mã tráng, lại vừa trừ bỏ gian nịnh. Ta tin rằng một ngày nào đó Lạc Nhạn Lĩnh trở về trong tay Đại Chu. Trước mắt, ta sẽ đưa thủ cấp của của phụ thân về an táng trước ở quê nhà. Đợi đến ngày vương sư bình định phương bắc, rồi sẽ cải táng, hợp thổ với di thể phụ thân ở Lạc Nhạn Lĩnh.”

Tiết Vạn Triệt xúc động muôn phần, trong lòng thực sự khâm phục sự trung hậu, chính trực của người thanh niên trước mắt. Ông nói: “Chuyện này, ta sẽ tấu lên Thánh nhân. Tin rằng Thánh nhân sẽ vui lòng chấp thuận.”

“Đa tạ Tiết Triệu Doãn.”

Tiết Vạn Triệt ngừng một chút, lại nói: “Nghe nói hiền chất vẫn chưa thành thân. Người từng đính ước trước đây cũng đã hủy hôn sau khi hiền chất bị lưu đày. Nếu hiền chất không chê, ta có một nữ nhi, năm nay vừa tròn mười tám, có thể gả cho hiền chất.”

Nghe vậy, Quách Húc hơi ngẩn ra, nhưng ngay sau đó, hắn khéo léo từ chối: “Đa tạ Tiết Triệu Doãn coi trọng, nhưng ta đã có người trong lòng.”

“Ồ? Là ai vậy?”

“Là một nữ tử bình dân rất đỗi bình thường. Nếu không có nàng, ta đã chết ở Tịch Tây. Nàng không chê ta ngốc nghếch, cũng không chê thân phận phạm nhân của ta, trái lại luôn ân cần chăm sóc ta. Lần này được đặc xá về Trường An, ta đã dẫn nàng về theo. Sau khi thưa chuyện với mẫu thân, ta sẽ chính thức cưới nàng vào cửa.”

Tiết Vạn Triệt gật đầu, thở dài một hơi: “Hiền chất quả không hổ danh là hậu duệ của Quách Cần Uy!”

Cho dù xuất thân bình thường, vẫn giữ được phẩm hạnh thanh cao, không vì nghèo mà cầu phú, không vì hèn mà nịnh giàu. Chỉ có người như vậy, mới xứng đáng làm con của Quách Cần Uy.



Khi Quách Húc và Tiết Vạn Triệt ôm hộp gỗ bước ra, Long Hưng Đế từ ngự liễn màu vàng sáng bước xuống, đón lấy hộp gỗ, nước mắt tuôn rơi, nghẹn ngào than thở: “Quách soái, là trẫm đã tin nhầm gian thần, để mất một vị lương tướng, khiến thi hài của khanh bị người Đột Quyết nhục nhã như vậy. Là trẫm có lỗi với khanh!”

Quần thần và bách tính đều quỳ rạp trên đất, nước mắt đong đầy. Một phần là vì thương cảm vị trung thần bị gian thần hãm hại, đầu lâu còn bị chế thành vật đựng rượu. Phần khác là vì xúc động trước sự tự trách, biết hối cải của quân phụ.

Chỉ là, Thôi Tuần lại không xuất hiện trong hàng ngũ quần thần, mà đứng trên một triền núi cách đó không xa, lặng lẽ nhìn cảnh tượng long trọng bên ngoài chùa Tây Minh.

Kế Thanh Dương và Lý Doanh đứng bên cạnh hắn. Kế Thanh Dương nhìn thoáng qua chiếc áo khoác hạc màu đen huyền dày sụ mà Thôi Tuần đang khoác trên người. Trời tháng tám, vậy mà hắn còn mặc áo khoác dày như thế, hẳn cơ thể đã suy yếu đến mức khó mà chống đỡ nổi. Sau đó, Kế Thanh Dương nhìn xuống cảnh tượng quân thần hòa hợp dưới chân núi, cất lời: “Nếu không nhờ Thôi Thiếu khanh đến Lĩnh Nam áp giải Thẩm Khuyết, e rằng hắn đã chết dọc đường, Quách soái cũng chẳng thể được rửa oan. Luận công lao, Thôi Thiếu khanh phải là người đứng đầu. Ngài đáng ra nên xuất hiện giữa khung cảnh hoa tươi vây quanh như thế này, đón nhận sự tán dương của bá tánh.”

Thôi Tuần thản nhiên đáp: “Kế đại hiệp cửu tử nhất sinh đưa thủ cấp của Quách soái về Trường An, chẳng phải cũng không lưu lại tên họ đó sao?”

Kế Thanh Dương cười nhạt: “Ta nên dùng thân phận gì? Chỉ là kẻ tội đồ của Bách Kỵ Tư, đương nhiên không thể lưu danh.”

Lý Doanh chen vào: “Ngài là không thể, còn chàng là không muốn.”

Kế Thanh Dương thắc mắc: “Vì sao?”

Lý Doanh nhìn xuống Long Hưng Đế đang ôm hộp gỗ, nước mắt lăn dài: “Chàng vẫn ngờ rằng a đệ ta có liên quan đến vụ án của Thiên Uy quân.”

Kế Thanh Dương ngẩn ra, nói: “Không thể nào.”

Lý Doanh vội hỏi: “Ngay cả ngài cũng thấy không thể nào sao?”

Kế Thanh Dương trầm ngâm một lát, đáp: “Ta chỉ suy luận theo lẽ thường, làm gì có hoàng đế nào lại tự nguyện cắt đất nhường dân, dễ dàng vứt bỏ thần tử của mình? Chẳng lẽ hắn không sợ khi xuống suối vàng sẽ không dám đối mặt với liệt tổ liệt tông? Hơn nữa,Thánh nhân thoạt nhìn không giống một hôn quân mù quáng. Theo ta thấy, chẳng qua lúc đó người còn trẻ, bị Lư Dụ Dân che mắt mà thôi. Dù sao thì thời điểm ấy, thiên hạ đều bị Lư Dụ Dân mê hoặc, ngài không thể yêu cầu một vị đế vương sống nơi thâm cung lập tức nhận ra oan khuất của Thiên Uy quân ngay khi sự việc vừa xảy ra? Điều đó rất không thực tế.”

Lời của Kế Thanh Dương có vài phần đạo lý. Long Hưng Đế sống nơi thâm cung, chưa từng ra khỏi cung cấm, hầu như mọi tin tức đều thông qua lời kể của Lư Dụ Dân. Huống hồ khi đó hắn mới mười bảy tuổi, không thể có hỏa nhãn kim tinh để nhìn thấu mọi âm mưu. Thôi Tuần nghe một người từng trải khắp nơi như Kế Thanh Dương nói vậy, trong lòng cũng thoáng dao động. Lẽ nào, sự nghi ngờ của hắn bấy lâu lại là sai lầm?

Kế Thanh Dương vỗ vai hắn, nói: “Đừng suy nghĩ quá nhiều, giờ mọi chuyện đã được giải quyết, ngài nên trân trọng người trước mắt, đừng lãng phí thời gian vào những nghi ngờ vô nghĩa nữa.”

Thôi Tuần liếc nhìn Lý Doanh, trong lòng không khỏi cảm thấy đôi phần hổ thẹn. Thời gian còn lại của hắn không biết được bao lâu, mà Lý Doanh đã chờ đợi hắn quá lâu rồi. Hắn không nên để nàng phải tiếp tục chờ đợi.

Lý trí lẫn tình cảm đều mách bảo hắn rằng nên nghe theo lời Kế Thanh Dương, không để thời gian trôi qua trong những hoài nghi vô ích. Thế nhưng, hắn vẫn ngập ngừng trong giây lát, rồi miễn cưỡng nói: “Ta sẽ làm vậy.”

Kế Thanh Dương không nhận ra sự khác thường, chỉ cười ha hả: “Nghĩ thông suốt là tốt rồi. Khi ta mang tin đến cho Quách Húc, có thấy một nữ nhân đi cùng hắn trở về. Trông nàng ấy chẳng giống người dân bình thường, mà lại có vẻ như ám thám. Đừng nói là do ngài phái đi đấy nhé?”

Thôi Tuần thừa nhận: “Đúng vậy, là ta phái nàng tới chăm sóc Quách Húc. Không ngờ nàng lại nảy sinh tình cảm với Quách Húc. Ta đã nói với nàng, không cần trở về Sát Sự Thính nữa, sau này hãy sống yên ổn bên Quách Húc.”

Kế Thanh Dương bật cười: “Ngài tìm nương tử cho người khác, sao lại quên mất nương tử của mình rồi?”

Lý Doanh nghe thấy hai chữ “nương tử,” mặt nàng lập tức đỏ bừng. Thôi Tuần ngắm gương mặt đỏ ửng như hoa đào của nàng, trong lòng khẽ xao động. Hắn nở nụ cười, dịu dàng nói: “Sẽ không quên đâu.”
 
Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh
Chương 133: Mỗi người đều hài lòng với kết cục này



Ngoài Quách Húc muốn phụ thân được an táng ở Lạc Nhạn Lĩnh, thì Thịnh A Man cũng có ý như vậy. Tộc nhân nhà họ Thịnh trước đây cao ngạo, sáu năm trước, họ ỷ thế h**p đáp một nữ lang mồ côi mất đi huynh trưởng như nàng, mặc nàng rơi vào chốn phong trần mà không hề đoái hoài. Sáu năm sau lại bỗng thay đổi thái độ, hết lời ca tụng a huynh nàng là anh hùng vì nước vì dân, tán dương nàng là nữ tử dám đứng lên kêu oan cho huynh trưởng. Thậm chí còn nói rằng việc a huynh nàng được an táng tại tổ phần của gia tộc sẽ giúp tổ tiên được nở mày nở mặt.

Cứ như thể nửa năm trước, người không chịu nhấc quan tài của a huynh nàng không phải là bọn họ vậy.

Bộ dạng trơ trẽn ấy khiến A Man ghê tởm đến cực điểm.

A Man tin rằng, chắc chắn a huynh nàng cũng không muốn an táng ở nơi này, phải ngày ngày nhìn thấy bộ mặt đáng khinh của những người này. Chẳng thà trở về Lạc Nhạn Lĩnh, nơi có huynh đệ luôn đồng hành bên huynh ấy.

Nhưng hiện tại, Lạc Nhạn Lĩnh vẫn nằm trong tay Đột Quyết. Vì vậy, A Man đành tạm an táng Thịnh Vân Đình ở đây, chờ ngày khôi phục lại Phong Châu rồi sẽ cải táng sau.

Ngày hạ táng, Thôi Tuần cũng đến. Lần này, A Man không đuổi hắn đi, ngược lại rất khách khí mời hắn rót một chén rượu tế cho a huynh. Thôi Tuần rưới rượu xuống trước bia mộ, sau đó lặng lẽ nhìn đống đất vàng mới đắp, suy nghĩ xuất thần. A Man cũng im lặng không nói, mãi lâu sau mới cất lời, hỏi điều đã quanh quẩn trong lòng nàng từ lâu: “Hôm đó Thẩm Khuyết nói, Thánh nhân cũng tham gia vào chuyện này, có thật không?”

Thôi Tuần không lập tức trả lời. Hắn nhìn vào bia mộ của Thịnh Vân Đình, trong khoảnh khắc, dường như thấy được cảnh tượng bi thảm ngày đó, khi Thịnh Vân Đình bị đâm đến mấy nhát vẫn cố gắng chống trả. Hắn mím môi, cúi mắt đáp: “Lư Dụ Dân đã khai nhận, ông ta giả mạo thánh chỉ để cấu kết với Thẩm Khuyết, tự tiện sử dụng hành tỷ của Thánh nhân. Việc này, Thánh nhân hoàn toàn không hay biết.”

“Thì ra là vậy.” A Man thì thầm: “Còn huynh? Huynh có tra ra điều gì không? Có phát hiện Thánh nhân liên quan đến vụ án này không?”

“Không có.”

A Man thở phào nhẹ nhõm: “Vậy nghĩa là, Thánh nhân quả thật không hay biết gì. Thẩm Khuyết cũng bị Lư Dụ Dân lừa gạt.”

Câu trả lời này hiển nhiên khiến nàng nhẹ lòng hơn. Nàng nói: “Lúc đó, khi nghe Thẩm Khuyết cung khai, ta đã không dám tin. Ngày trước ở giáo phường, các tỷ muội vẫn thường bảo rằng Thánh nhân là vị minh quân chí nhân chí thiện, ngay cả khi cung nhân phạm lỗi, người cũng chẳng nỡ trách phạt. Một bậc đế vương mềm lòng như thế, sao có thể lạnh lùng vô tình, bỏ mặc bách tính của mình được? Chỉ e rằng, người không muốn thay chúng ta kêu oan là bởi không nỡ đoạn tuyệt tình thầy trò với Lư Dụ Dân và tình huynh đệ với Thẩm Khuyết. Nhưng khi đã thông suốt, người lại sẵn sàng đứng ra làm chủ cho chúng ta. Vì thế, người vẫn là một vị hoàng đế tốt.”

Thôi Tuần không đáp lại lời nàng. Hắn chỉ nhìn bia mộ của Thịnh Vân Đình, rồi nói: “Hiện giờ cô, Hà Thập Tam và những người khác có lẽ đều đã đạt được điều mình mong muốn rồi, đúng không?”

“Ừm.” A Man liền gật đầu, dịu giọng nói: “Kẻ làm điều ác đã phải nhận báo ứng, người khuất núi cũng được rửa sạch oan khiên, những người còn sống đều được chăm lo chu đáo. Ai nấy đều hài lòng với kết cục này, cũng vô cùng cảm kích Thánh nhân và Thái hậu. Hà Thập Tam còn bảo rằng sau này muốn noi gương a huynh mình, tiếp tục tòng quân, phụng sự triều đình.”

Thôi Tuần gật đầu, hắn hỏi tiếp: “Vậy sau này cô có quay về giáo phường nữa không?”

“Không về nữa.” A Man lắc đầu, trả lời: “Triều đình đã cấp một khoản bồi thường lớn, ta không cần dựa vào giáo phường để mưu sinh nữa. Ta muốn ở lại Trường An, mở một cửa hàng nhỏ, sống những ngày yên ổn.”

“Nếu gặp được ý trung nhân, cũng có thể bàn chuyện hôn nhân, sống một đời an yên, hạnh phúc.”

Nghe vậy, A Man nghiêng đầu nhìn Thôi Tuần. Gương mặt hắn vẫn lạnh lùng, đôi mày xa cách, nhưng trong lòng nàng biết rõ, khi vết thương vì bị phạt trượng của nàng vừa lành, vốn dĩ phải chịu tội “thiếp cáo phu”, bị lưu đày hai năm, nhưng chính Thôi Tuần đã đã dâng sớ cầu xin cho nàng. Nhờ vậy, Thái hậu và Thánh nhân mới phá lệ ân xá, không chỉ phán cho nàng hòa ly với Thẩm Khuyết, mà còn miễn luôn hai năm lao dịch.

Hắn khuyên nàng tìm một ý trung nhân.

A Man bèn mỉm cười, nhẹ nhàng đáp trả, giọng điệu có phần trêu chọc: “Huynh quản nhiều quá, chẳng lẽ thực sự coi mình là anh ruột của ta sao?”

Thôi Tuần khựng lại, rồi cũng mỉm cười, không nói thêm gì nữa.

A Man quay đầu nhìn bia mộ của Thịnh Vân Đình, thầm thì: “Dù sao đi nữa, bất kể sau này ta có lấy chồng hay không, ta vẫn sẽ sống tốt.”

Nàng nhỏ giọng hỏi: “Còn huynh? Sau này huynh cũng sẽ sống tốt thôi, đúng không?”

Thôi Tuần khựng lại, chỉ đáp mơ hồ: “Có lẽ vậy.”

“Chuyện cũ đã qua thì cứ để nó qua.” A Man cúi người, dùng cành cây gẩy nhẹ tro giấy đang cháy dở, rồi đứng dậy nhìn ngọn lửa nhỏ dần, tro bụi hóa thành hư vô, nhẹ giọng nói: “Giống như những tờ vàng mã này, đã cháy rồi thì không thể trở lại hình dạng ban đầu. Nhưng chỉ cần còn sống, chúng ta vẫn có thể mua thêm vàng mã, tiếp tục tưởng nhớ và cúng viếng người đã khuất.”

Trong làn khói xanh cuối cùng từ tờ vàng mã bay lên, A Man khẽ nói: “Vọng Thư a huynh, ta phải đi rồi. Ta muốn cùng các tỷ muội trong giáo phường tìm một cửa tiệm thích hợp, kiếm kế sinh nhai. Dẫu quá khứ khó buông, ngày mai vẫn phải sống tiếp. Ta mong a huynh hãy hướng về phía trước.”

Hàng mi đen dài của Thôi Tuần rũ xuống. Hắn lặng lẽ nhìn những tro tàn nhỏ bé cuốn theo gió, gật đầu, chỉ đáp một tiếng: “Ừm.”



Sau khi Thịnh A Man rời đi, Thôi Tuần vẫn đứng lặng trước mộ của Thịnh Vân Đình một lúc lâu. Chỉ đến khi ánh chiều tà kéo dài bóng dáng của hắn, hắn mới quay người, chậm rãi tìm đến bên Lý Doanh.

Lý Doanh khi ấy đang ngồi ở bờ hồ nơi hai người lần đầu tới. Nghe tiếng bước chân, nàng quay đầu lại, liền trông thấy quả cầu hương mạ vàng vẫn còn treo bên đai lưng của Thôi Tuần. Ngày ấy, hắn từng nói với nàng rằng, quả cầu này sẽ mãi không rời thân. Và quả thật, hắn đã giữ lời, chưa từng tháo nó ra lần nào.

Những lời hắn hứa, từng câu từng chữ, nàng đều cẩn thận cất giữ trong lòng. Chỉ cần điều gì hắn có thể làm, nhất định hắn sẽ làm cho nàng.

Vì thế, Lý Doanh chưa bao giờ hoài nghi tình cảm hắn dành cho mình. Nàng cũng thấy bản thân thật may mắn khi gặp được một người đàn ông như vậy – một người trong mắt, trong tim, đều chỉ có nàng.

Trên tay Lý Doanh là một đóa hoa quế màu vàng ươm. Thôi Tuần chưa kịp đến gần đã ngửi thấy hương thơm thanh khiết đặc trưng của quế hoa. Nàng đứng dậy, nở nụ cười dịu dàng, đưa đóa hoa cho hắn: “Vừa rồi ta rảnh rỗi nên đi dạo một vòng, không ngờ phát hiện ra một rừng đan quế. Chàng có muốn đi xem thử không?”

Thôi Tuần đón lấy đóa hoa, trong mắt ánh lên nét cười dịu dàng. Hắn cài hoa lên tóc mai của nàng. Hoa như ráng chiều rực rỡ, người như mỹ ngọc vô tỳ. Hắn lặng ngắm gương mặt thanh tú của nàng, dịu giọng đáp: “Được, vậy chúng ta cùng đi.”



Cây đan quế trong rừng tỏa bóng sum suê, lá xanh mướt, những chùm hoa nhỏ bé tựa như hạt gạo, ánh vàng óng ánh như những mảnh vụn của hoàng kim, nổi bật giữa sắc xanh ngọc bích.

Lý Doanh đưa tay đón lấy một cánh hoa vừa rơi xuống: “Vậy là, A Man và những người khác đều rất hài lòng với cách triều đình xử lý vụ án Thiên Uy quân.”

“Ừm.” Thôi Tuần chậm rãi đáp: “Họ đã rửa sạch oan khuất cho thân nhân, giành lại sự kính trọng từ bá tánh, lại còn được một khoản bồi thường từ triều đình. Ai nấy đều hài lòng với kết cục này.”

“Không chỉ gia quyến Thiên Uy quân hài lòng, mà còn có cả a nương. Cuối cùng người cũng có thể thuận lợi đẩy mạnh tân chính. Về phần a đệ, dù đã mất quyền lực, nhưng cũng nhân cơ hội này loại bỏ được đám gian thần bên cạnh. Một đạo tội kỷ chiếu đã giúp nó lấy lại lòng dân. Ta tin rằng bài học lần này đủ để nó khắc cốt ghi tâm, không dễ dàng tin tưởng kẻ gian nữa. Chờ đến khi a nương trăm tuổi, lúc ấy a đệ cũng đã trải qua đủ trui rèn, quyền lực của Đại Chu, a nương vẫn sẽ giao lại cho nó.”

Nàng cúi mình ngồi xuống dưới gốc cây đan quế, ánh mắt phảng phất nét trầm tư: “Vụ án Thiên Uy quân, a nương không có ý mượn cớ để thanh trừng phe cánh, chỉ trừng phạt kẻ đầu sỏ và những kẻ tòng phạm. Đám người thuộc Lư đảng cũng không còn phải lo lắng, ngay cả Lư Hoài cũng yên ổn giữ chức Thiếu khanh Đại Lý Tự, tiếp tục thực hiện lý tưởng của mình. Ta nghĩ kết cục này, hẳn đã làm hài lòng tất cả.”

Thôi Tuần cũng cúi người ngồi xuống bên cạnh Lý Doanh. Hắn nhặt một đóa hoa quế rụng trên đất, nắm trong lòng bàn tay, rồi ngẩng đầu, ngước mắt nhìn về phía dãy núi xanh mờ phía xa. Hắn trầm giọng đáp: “Ừm, thiên hạ này, ai nấy đều hài lòng với kết cục ấy.”

Nàng nghiêng đầu, nhìn hắn chăm chú: “Còn chàng? Chàng có hài lòng không?”

Thôi Tuần không trả lời ngay. Trong đầu hắn bất giác hiện lên lời Kế Thanh Dương từng nói: “Bây giờ mọi chuyện đã được giải quyết, ngài nên biết trân trọng người trước mắt, đừng lãng phí thời gian vào những nghi kỵ vô ích.”, và sau đó là những lời nhắc nhở của Thịnh A Man: “Dẫu quá khứ khó buông, ngày mai vẫn phải sống tiếp. Ta mong a huynh hãy hướng về phía trước.”

Hắn siết nhẹ đóa hoa quế trong tay, những giọt nhựa vàng cam từ cánh hoa thấm vào lòng bàn tay, để lại một vệt vàng cam rực rỡ. Hắn cúi đầu, khẽ nói: “Mọi người đều hài lòng, ta… cũng không có gì để không hài lòng cả.”

Có lẽ, đây đã là kết cục tốt nhất dành cho tất cả mọi người.

Lý Doanh không nói gì, chỉ lặng lẽ tựa vào vai hắn. Nàng kéo tay hắn, nhẹ nhàng v.uốt ve những ngón tay thon dài, rồi men theo đó, chạm tới vết sẹo sâu hoắm trên cổ tay hắn.

Hắn rõ ràng cứng người, bàn tay như muốn rụt lại, nhưng vẫn bị nàng giữ chặt. Lý Doanh miết nhẹ những vết hằn, nơi dấu đinh còn rõ nét, rồi nói: “A đệ một lòng muốn hàn gắn quan hệ với a nương. Thêm vào đó, chuyện thủ cấp của Quách soái bị chế thành chén rượu đã khiến dân gian căm hận Đột Quyết đến tột cùng. A Sử Na Ngột Đóa bị a đệ đày đến đạo quán Trường Xuân, buộc phải làm nữ đạo sĩ. Cả đời này, nàng ta chỉ có thể già đi trong đạo quán ấy. Dù hình phạt này có phần nương tay, nhưng cũng xem như ác giả ác báo.”

Nàng thở dài, tiếng thở nhẹ như cánh hoa quế rơi xuống mặt đất: “Thập Thất lang, chàng đã mắc kẹt trong những chấp niệm quá khứ đủ lâu rồi. Đã đến lúc, chàng nên buông bỏ chúng đi thôi.”

Ánh mắt Thôi Tuần thoáng qua nét bàng hoàng, tựa như những lời nàng nói đã chạm đến nơi sâu thẳm trong lòng hắn. Tất cả mọi người đều khuyên hắn buông bỏ chấp niệm, quên đi quá khứ, hướng về phía trước.

Đúng vậy, lần này không giống như trước kia.

Ngày trước, hắn giữ vững chấp niệm của mình là vì hắn có bằng chứng rõ ràng rằng Bùi Quan Nhạc cùng Lư Dụ Dân dính líu đến vụ án Thiên Uy quân. Nhưng lần này lại khác, hắn không có bất kỳ bằng chứng nào để khẳng định Long Hưng Đế có liên quan. Nỗi nghi ngờ của hắn chỉ dựa vào ba năm quan sát.

Nhưng đúng như Thái hậu đã nói, liệu nghi ngờ của hắn có nhất định là đúng hay không?

Nếu để những nghi ngờ này tiếp tục, e rằng cuối cùng hắn sẽ lần đến Long Hưng Đế. Nhưng điều tra hoàng đế là trọng tội, từ khi Đại Chu lập quốc đến nay, chưa từng có thần tử nào lớn gan đến vậy. Nếu hắn sai, chẳng những bản thân rơi vào cảnh vạn kiếp bất phục, mà còn sợ rằng Long Hưng Đế sẽ trút giận lên Thịnh A Man cùng Hà Thập Tam.

Thịnh A Man vẫn đang háo hức với mộng tưởng mở một cửa tiệm nhỏ, Hà Thập Tam thì mong chờ đến ngày được nhập ngũ. Làm sao hắn có thể vì nghi ngờ vô căn cứ của mình mà đẩy họ vào con đường tuyệt vọng?

Rõ ràng, kết cục hiện tại đã khiến tất cả mọi người đều hài lòng. Vậy mà hắn vẫn chấp nhất điều gì?

Hắn làm sao có thể ích kỷ đến như vậy?

Thôi Tuần rũ mắt.

Vì gia quyến của Thiên Uy quân, vì Lý Doanh, và vì chính bản thân mình, có lẽ hắn nên buông bỏ chấp niệm này đi thôi.
 
Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh
Chương 134: Hắn nên từ bỏ chấp niệm rồi



Trăng tròn như đĩa ngọc, chầm chậm nhô lên giữa màn đêm.

Lý Doanh nhìn Thôi Tuần, nhẹ giọng nói: “Thập Thất lang, chàng nhắm mắt lại đi, ta có thứ muốn đưa chàng xem.”

Thôi Tuần nghe theo, khép hờ đôi mắt. Hắn cảm nhận bàn tay nhỏ bé của nàng nhẹ nhàng nắm lấy tay mình, sau đó đặt một vật gì đó vào lòng bàn tay hắn. Khi mở mắt ra, hắn trông thấy trong lòng tay mình là một chiếc bánh hình tròn dập hoa văn bảo tướng.

Hơi ngạc nhiên, hắn liền nhíu mày. Lý Doanh cười nhẹ, nói: “Chàng quên mất hôm nay là ngày gì rồi sao?”

Thôi Tuần ngẩn người, chưa kịp đáp, nàng đã mỉm cười tinh nghịch: “Hôm nay là mười lăm tháng tám, tiết Trung Thu.”

Lúc này hắn mới sực tỉnh, hóa ra hôm nay là Trung Thu.

Từ trước đến nay, Thôi Tuần không mấy để tâm đến các dịp lễ đoàn viên như đêm Giao Thừa, Thượng Nguyên hay Trung Thu. Khi còn ở Thôi phủ, mối quan hệ giữa hắn và kế mẫu cùng các huynh đệ không hề hòa thuận. Những ngày này, họ không muốn thấy hắn, mà hắn cũng chẳng muốn thấy họ. Thế là hắn một mình ngồi trong viện, tránh khỏi sự quấy rầy và ánh mắt khó chịu từ người khác.

Mười bốn tuổi, hắn rời khỏi gia đình. Ngoại trừ ba năm ở Thiên Uy quân, những ngày lễ sau đó, hắn đều sống cô độc. Bên ngoài Thôi phủ là tiếng cười vui của nhân gian, còn bên trong chỉ là sự tĩnh lặng đến lạnh lẽo. Khung cảnh đối lập ấy, hắn sớm đã quen thuộc.

Nhưng năm nay thì khác.

Năm nay, có người cùng hắn đón Thượng Nguyên, có người bên cạnh hắn trong tiết Hàn Thực, và giờ, nàng lại cùng hắn đón Trung Thu.

Hắn, cuối cùng đã không còn cô độc nữa.

Lý Doanh cũng cầm một chiếc bánh hình tròn dập hoa văn bảo tướng, nàng cắn một miếng nhỏ, rồi reo lên: “Ô, là nhân táo đỏ đấy!”

Nàng vốn hảo ngọt, nên bánh nhân táo đỏ khiến nàng cực kỳ hài lòng. Thôi Tuần không thích đồ ngọt, nhưng thấy vẻ mặt mãn nguyện của nàng, khóe môi hắn cũng bất giác cong lên. Hắn cũng cắn thử một miếng.

Lý Doanh nhìn hắn, hỏi: “Thế nào, có ngon không?”

Thôi Tuần gật đầu: “Ngon lắm.”

Hai người vừa ăn bánh, vừa ngắm trăng tròn lặng lẽ vươn cao. Ở Đại Chu, Trung Thu là ngày hoàng cung bái nguyệt, dân gian thưởng trăng. Lý Doanh ngồi xếp bằng dưới gốc cây đan quế, ngước mắt nhìn ánh trăng dịu dàng tỏa sáng giữa màn trời. Hương quế thanh thoát thoảng qua, hòa quyện với vị ngọt mềm của nhân táo đỏ nơi đầu lưỡi, nàng chợt thấy lòng mình an yên lạ thường. Đêm nay, có trăng, có hoa, có cảnh, và có cả lang quân nàng.

Nàng quay đầu, lén ngắm nhìn vị lang quân tuấn tú như ngọc đang ngồi bên cạnh. Dưới ánh trăng, đôi lông mi dài, dày và đen nhánh của hắn tựa như chiếc quạt nhỏ, phủ nhẹ trên bờ mắt khép hờ. Đột nhiên, một ý nghĩ nghịch ngợm nảy lên trong đầu nàng, nàng muốn thử đếm xem hàng mi ấy có bao nhiêu sợi lông mi.

Nàng chăm chú đếm, đếm được một nửa thì lang quân đang mải ngắm trăng bỗng hơi nghiêng đầu, làm nàng giật mình. Lý Doanh vội quay đầu đi, cố giấu sự bối rối.

Trên gương mặt Thôi Tuần thoáng hiện vẻ nghi hoặc. Lý Doanh chột dạ, chẳng dám giải thích, chỉ vùi đầu vào ăn nốt phần bánh còn lại. Đợi nàng ăn xong, Thôi Tuần liền lấy ra một chiếc khăn gấm trắng tinh, trước tiên dùng góc khăn nhẹ nhàng lau vụn bánh nơi khóe môi nàng, sau đó lại cẩn thận lau sạch tay nàng. Mọi việc xong xuôi, hắn mới chậm rãi hỏi: “Vừa rồi, nàng làm sao thế?”

Lý Doanh lúng túng. Nàng đâu dám nói ra rằng ban nãy nàng chẳng phải ngắm trăng, mà là đang ngắm người, chưa kể còn đang chăm chú đếm từng sợi mi của hắn nữa. Đang lúc không biết phải trả lời thế nào, nàng chợt thấy những điểm sáng xanh nhạt lướt qua trước mặt, liền thốt lên đầy ngạc nhiên: “Đom đóm!”

Vào thời điểm cuối hạ đầu thu, vùng ngoại ô thường dễ dàng bắt gặp những đàn đom đóm. Nhưng trong cung đình, cảnh tượng này chưa từng xuất hiện. Đây là lần đầu tiên Lý Doanh được nhìn thấy đom đóm, nàng vừa kinh ngạc vừa vui mừng, bật người đứng dậy. Trước mắt nàng là vô số đom đóm lập lòe, ánh sáng nhấp nháy, bay lượn trong màn đêm. Chúng khi thì tụ lại thành một biển ánh sáng xanh lục, khi lại tản ra thành những đốm sáng lấp lánh giữa không trung. Lý Doanh thốt lên: “Đẹp quá.”

Nàng đưa tay ra, bắt lấy một con đom đóm, sau đó như muốn khoe một báu vật, nàng cẩn thận mở bàn tay, đưa đến trước mặt Thôi Tuần. Từ lòng bàn tay nàng, ánh sáng xanh lục từ từ tỏa ra, nàng nhỏ giọng nói: “Thì ra đom đóm trông thế này đây.”

Thôi Tuần cũng chưa từng nhìn thấy đom đóm bao giờ, hắn gật đầu, nhẹ giọng đáp: “Quả nhiên rất đẹp.”

Hắn nói thêm: “Ta sẽ bắt vài con, để nàng mang về.”

Nhưng Lý Doanh lắc đầu, liền đáp: “Không cần đâu, chúng chỉ thuộc về nơi này, chứ không thuộc về những bức tường cao sâu trong phủ đệ.”

Nàng nhanh chóng bước tới, hòa mình vào giữa đàn đom đóm đang bay lượn khắp trời. Đưa tay ra, nàng để mặc những chú đom đóm đậu trên lòng bàn tay mình. Có con lại đậu trên búi tóc nàng, từ xa nhìn lại, trông chúng như những viên dạ minh châu lấp lánh ánh biếc, rực rỡ tỏa sáng. Một cơn gió thoảng qua, mang theo hương thơm dìu dịu của hoa quế. Tà váy và dải lụa trên vai nàng tung bay trong gió, phiêu diêu như thần nữ hạ phàm. Vô số đom đóm xanh vây quanh nàng, cảnh tượng ấy tựa như một bức tranh thi vị, như một giấc mộng diệu kỳ.

Thôi Tuần đứng yên tại chỗ, lặng lẽ ngắm nhìn, đến cả bước chân cũng quên cả di chuyển. Mãi đến khi lúm đồng tiền bên khóe môi Lý Doanh nở rộ như đóa hoa, dịu dàng gọi hắn, hắn mới giật mình tỉnh lại.

Hắn bước tới bên nàng, cố gắng kìm nén nhịp tim rộn ràng trong lồng ng.ực. Thôi Tuần đưa tay gạt nhẹ đi một cánh hoa quế rơi trên vai nàng, rồi giấu đi nó trong lòng bàn tay.

Năm Long Hưng thứ hai mươi, đêm rằm tháng tám, trăng sáng như gương, có nàng làm bạn, cảnh sắc đêm nay, suốt đời khó quên.

Lý Doanh không hề hay biết tâm tư trong lòng hắn. Nàng nhìn ngắm đốm sáng nơi lòng bàn tay mình, bất chợt mỉm cười rạng rỡ, nhỏ nhẹ nói: “Thập Thất lang, nhân gian này vẫn còn rất nhiều điều đáng để mong chờ, có phải không?”

Thôi Tuần thoáng sững người. Lý Doanh tiếp lời: “Quá khứ dù có khắc cốt ghi tâm đến đâu, khiến người khó lòng quên lãng, nhưng con đường phía trước không phải là trống rỗng, vô vị hay thiếu sinh khí. Biết đâu, có thể dần dần buông bỏ những chuyện xưa cũ, để cảm nhận ánh trăng dịu dàng này, hương quế thơm ngát này, và cả những cánh đom đóm đang lượn bay này nữa.”

Thôi Tuần hiểu rõ ý tứ trong lòng nàng, khẽ hỏi: “Nàng vẫn muốn ta từ bỏ chấp niệm?”

Lý Doanh gật đầu: “Kẻ đầu sỏ đã bị trừng trị, Thiên Uy quân cũng có thể rời khỏi Vong Tử Thành. Chuyện này đã có được kết cục trọn vẹn nhất rồi. Thập Thất lang, chàng không nên mãi trói buộc mình trong quá khứ, chàng nên hướng mắt về tương lai.”

Một chú đom đóm đậu lại giữa chân mày nàng, như thể điểm lên một đóa hoa màu lục biếc, khiến dung nhan nàng càng ôn nhuận như ngọc. Thôi Tuần mải ngắm đến không nỡ rời mắt. Cuối cùng, hắn gật đầu, đáp lại một tiếng: “Được.”



Để Thôi Tuần hoàn toàn yên tâm, Lý Doanh cùng hắn lặng lẽ đến thăm thân quyến của Thiên Uy quân còn ở lại Trường An. Thịnh A Man đang miệt mài tìm kiếm một gian cửa tiệm, Hà Thập Tam dốc sức rèn luyện võ nghệ. Những người còn lại đều đang nỗ lực sống tiếp, họ dần buông bỏ những nỗi đau trong quá khứ, ánh mắt tràn đầy hy vọng cho cuộc sống ngày mai.

Đúng vậy, đây quả là kết cục trọn vẹn nhất.

Thôi Tuần tự nhủ, có lẽ, đã đến lúc hắn nên buông bỏ chấp niệm rồi.



Đêm Trung Thu, nghi lễ tế nguyệt tại hoàng cung đã kết thúc. Long Hưng Đế khoác hoàng bào, đội mũ miện của thiên tử, đích thân lên đàn tế nguyệt. Sau khi nội thị đọc xong bài tế Nguyệt Thần, người hành lễ Tịch Nguyệt, thành kính dâng hương cầu khấn Nguyệt Thần bảo hộ muôn dân trăm họ, ban phúc cho thiên hạ.

Nhưng dịp trọng đại này lại không thấy Thái hậu xuất hiện. Có lẽ bà sợ tức cảnh sinh tình, nhớ về ái nữ Minh Nguyệt Châu đã qua đời từ sớm.

Sau khi tế Nguyệt Thần, Long Hưng Đế đặc biệt tới cung Bồng Lai để an ủi Thái hậu. Hiện tại, dù đã mất đi bè phái, quyền lực chẳng còn, không cách nào đối đầu với Thái hậu, nhưng vì không còn xung đột, mối quan hệ giữa hai người trở nên hòa thuận chưa từng thấy. Cuối cùng, họ thực sự đạt đến cảnh giới “mẫu từ tử hiếu”.

Thái hậu vui mừng không thôi. Cả đời bà chỉ có hai người con, lại là người rất coi trọng tình thân, làm sao có thể không trân trọng Long Hưng Đế? Trước kia, khi Long Hưng Đế bị Lư Dụ Dân xúi giục, ngày càng xa cách bà, khiến bà đau lòng khôn xiết. Nay Lư Dụ Dân đã bị trừ khử, Long Hưng Đế cuối cùng cũng trở lại là vị hoàng tử ngoan ngoãn, nghe lời như xưa.

Long Hưng Đế ở lại cung Bồng Lai rất lâu, mãi đến khi tâm tình của Thái hậu dần bình ổn mới rời đi, tiếp tục đến tẩm cung của Hoàng hậu. Hoàng hậu là người do chính Thái hậu chọn lựa, dịu dàng hiền đức, rất được bà yêu quý. Nhưng kể từ khi thành hôn, số lần Long Hưng Đế bước vào tẩm cung của Hoàng hậu lại không quá mười lần. Sau khi Huệ phi được sủng ái, hắn thậm chí hoàn toàn tuyệt tích tại nơi ở của các phi tần khác. Bởi vì chưa có hoàng tử, các ngự sử thường dâng sớ khuyên bảo hắn “mưa móc đều khắp,” nhưng tất cả đều bị bỏ ngoài tai.

Lần này, sau khi Huệ phi bị phế truất, Long Hưng Đế mới dần bước chân vào tẩm cung của Hoàng hậu và Đức phi. Thái hậu rất hài lòng với sự thay đổi này. Còn Hoàng hậu, sau thời gian dài bị lạnh nhạt, giờ đây cảm giác như bước vào mộng cảnh, nàng nóng lòng muốn giấc mơ này kéo dài mãi, mong người chồng của mình sẽ để tâm đến nàng nhiều hơn.

Sau khoảnh khắc ân ái, Hoàng hậu cẩn thận lấy lòng, dịu dàng nói: “Thánh nhân, Huệ phi cũng không phạm lỗi lớn, cuộc sống tại Trường Xuân Quán quá khổ cực, chi bằng hãy đón nàng ấy trở về, được không?”

Long Hưng Đế hơi biến sắc, nhưng chỉ trong thoáng chốc, hắn lập tức khôi phục dáng vẻ ôn hòa, nhẹ giọng đáp: “Chuyện này, về sau hãy bàn.”

Hoàng hậu không dám nói thêm. Long Hưng Đế xoay người, ánh mắt hướng về bức màn trướng vàng óng, nhưng trong đầu hắn lại không ngừng hiện lên cảnh tượng lúc Huệ phi rời cung.

Không ai biết, Huệ phi không bị phế truất, mà là nàng tự nguyện xin xuất cung.

Ngày đó, khi Bùi Quan Nhạc và các đồng đảng của Lư Dụ Dân bị giải ra pháp trường, thế lực Lư đảng hoàn toàn tan rã, Long Hưng Đế coi như đã thất bại thảm hại. Huệ phi quỳ dưới chân hắn, lời nói của nàng tuy vụng về vì không thạo tiếng Hán, nhưng lại thẳng thắn đến đau lòng: “Thánh nhân vốn không cần phải làm một hoàng đế bù nhìn nữa, nhưng bây giờ lại trở thành con rối. Tất cả đều nhờ một người mà nên. Từ khi vào cung, thiếp chịu ơn Thánh nhân rất nhiều, chẳng thể báo đáp, chỉ mong vì người rửa hận.”

Nàng tiếp tục: “Thiếp ở cung Đại Minh, mọi hành động đều bị Thái hậu giám sát, vô cùng bất tiện. Thỉnh Thánh nhân trục xuất thiếp ra khỏi cung. Thiếp nhất định sẽ thay người báo thù.”

Long Hưng Đế nhìn dung nhan diễm lệ của nàng, khẽ gọi một tiếng: “Ngột Đóa.”

Huệ phi sửng sốt. Nàng biết rõ từ lâu Long Hưng Đế đã nhận ra nàng không phải A Sử Na Gia, mà chính là A Sử Na Ngột Đóa, người từng được đồn rằng có quan hệ không minh bạch với Thôi Tuần. Nhưng hắn chưa từng hỏi, nàng cũng chưa từng nói, hai người cứ thế âm thầm hiểu ý, tiếp tục chung đụng.

Long Hưng Đế đột nhiên hỏi: “Ngột Đóa, nàng đã từng yêu trẫm hay chưa?”

Huệ phi lặng người, chân mày nhíu lại, không biết phải trả lời thế nào. Nhìn dáng vẻ ấy, Long Hưng Đế đã hiểu được bảy tám phần, hắn cười khổ: “Hắn có gì tốt hơn trẫm?”

Huệ phi cắn răng, một lúc lâu mới đáp: “Thiếp cũng chẳng có gì tốt hơn.”

Long Hưng Đế im lặng, một lúc sau, hắn gật đầu, đổi cách xưng hô: “Huệ phi, nàng nói đúng. Vậy thì đi đi, đến Trường Xuân Quán đi.”

Huệ phi mừng rỡ, cúi đầu tạ ơn, rồi đứng dậy bước ra khỏi điện. Long Hưng Đế bỗng gọi lại, nói: “Sau khi xong việc, hãy quay về. Trong lòng trẫm, nàng mãi là Huệ phi của trẫm.”

Huệ phi sững người, không gật đầu cũng không lắc đầu, chỉ quay lưng, không ngoảnh lại, tiếp tục bước nhanh ra khỏi điện.



Trong rừng đan quế, một đôi chân mang ủng da dê dẫm nhẹ lên lớp lá xanh bị gió cuốn rơi. Người ấy cúi xuống, nhặt lên một đóa quế hoa.

Trước khi chết, Bùi Quan Nhạc từng truyền tin, nói rằng bên cạnh Thôi Tuần có quỷ hồn trợ giúp.

Người sống nếu uống máu chó mực liên tục bảy ngày thì có thể nhìn thấy quỷ.

Đóa quế hoa này chính là bông hoa mà Thôi Tuần lấy xuống từ bờ vai Lý Doanh, giấu trong lòng bàn tay, nhưng trong lúc ngắm đom đóm lại vô ý làm rơi mất.

A Sử Na Ngột Đóa chăm chú ngắm nhìn đóa hoa, mười ngón tay dần siết chặt, từng chút một, nghiền nát đóa hoa thành những mảnh vụn.
 
Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh
Chương 135: Thương thay kiếp sống gian nan, mong muôn dân đều ấm no



Sáng hôm sau, Thôi Tuần tiến cung, dâng biểu từ quan.

Thái hậu có phần bất ngờ. Bà biết hắn luôn chấp niệm với vụ án Thiên Uy quân, cũng nhiều lần khuyên hắn buông bỏ. Nhưng suốt ba năm nay, hình tượng của hắn trước mặt bà vẫn luôn là một người nhẫn nhục, khúm núm, chẳng có chút khí tiết. Để giành thêm nhiều quyền lực, bảo hắn quỳ hắn sẽ quỳ, bảo hắn dập đầu hắn liền dập đầu không chút do dự, thậm chí hao tâm tổn tâm trí tìm hiểu sở thích của bà, tìm đủ mọi cách lấy lòng, không có chút dảng vẻ nào của một đệ tử Ngũ tính Thất vọng. Sự nịnh bợ ấy khiến người đời khinh miệt, cười chê hắn là “luyến sủng” của bà. Đối diện lời mỉa mai ấy, hắn chưa từng một lần biện minh.

Vậy mà giờ đây, khi hắn quả quyết xin từ quan, Thái hậu không thể đoán được ý định thực sự của hắn.

Phải nói rằng, dù không ưa thói xu nịnh của hắn nhưng không thể phủ nhận rằng hắn rất giỏi dò đoán Thánh ý, lại có tài năng xuất chúng. Nếu hắn rời đi, bà sẽ mất đi một trợ thủ đắc lực.

Thái hậu thử thăm dò: “Vọng Thư, vụ án Thiên Uy Quân được lật lại, công lao đầu tiên thuộc về ngươi. Ngô muốn thăng ngươi làm Thượng thư bộ Hình, ý ngươi thế nào?”

Chức Thượng thư bộ Hình là chức quan tam phẩm, tốt hơn nhiều so với chức Thiếu khanh Sát Sự Thính chuyên xử lý những việc bí ẩn mờ ám. Nhưng Thôi Tuần lắc đầu: “Bẩm Thái hậu, đại thù đã báo, thần không còn lưu luyến danh lợi quyền thế, cũng chẳng muốn tiếp tục ở lại chốn quan trường.”

Hắn thoáng ngập ngừng, rồi nói tiếp: “Nhưng sáu châu trong Quan Nội Đạo vẫn nằm trong tay Đột Quyết. Nếu sau này triều đình có ý xuất quân thảo phạt, thần nguyện dốc sức cống hiến.”

Không ham quyền thế, chỉ bận lòng vì lãnh thổ đánh mất, hắn và vị Thiếu khanh từng khom lưng uốn gối ở Sát Sự Thính trước kia, quả nhiên cách nhau một trời một vực.

Hoặc giả, đây mới chính là con người thật của Thôi Tuần?

Thái hậu lặng im ngẫm nghĩ.

Bà hỏi tiếp: “Vậy sau khi từ quan, ngươi định đi đâu?”

“Thần chưa nghĩ đến. Có lẽ trước tiên sẽ đến Dương Châu, sau đó là Ngô Quận, những nơi chưa từng đặt chân tới, đều có thể ghé thăm.”

“Ngươi đi một mình ư?”

Thôi Tuần hơi sững lại, rồi đáp: “Không.”

“Ồ?” Ánh mắt Thái hậu đầy hứng thú, nhìn qua rèm châu lay động, ngắm bóng dáng thanh thoát như hoa sen của chàng thanh niên đứng bên dưới. Bà hỏi: “Là nữ tử nhà nào thế?”

Thôi Tuần rũ mi, trên môi thoáng hiện một nụ cười dịu dàng: “Là một nữ tử, tâm tựa lưu ly, người như minh nguyệt.”

“Tâm tựa lưu ly, người như minh nguyệt…” Thái hậu lặp lại tám chữ ấy, thoáng chốc, hình bóng người con gái mà bà yêu thương nhất lại hiện về. Nhưng con gái bà, đã ra đi được ba mươi năm.

Thái hậu bật cười chua chát: “Người có thể nhận được tám chữ này ắt hẳn là nữ tử thuần thiện nhất thế gian. Vọng Thư, người thật may mắn.”

Thôi Tuần cúi đầu: “Thần cũng cảm thấy mình rất may mắn.”

Thái hậu thở dài: “Nếu ngươi đã có giai nhân bầu bạn, vậy thì ngô chuẩn tấu việc từ quan của ngươi. Nhưng nếu một ngày nào đó ngươi muốn quay lại, ngô luôn sẵn lòng đón nhận ngươi.”

Thôi Tuần ngạc nhiên ngẩng lên. Hắn biết Thái hậu không ưa gì mình, nhưng giờ đây dường như bà đã thay đổi cách nhìn. Hắn mím môi, thiên ngôn vạn ngữ cuối cùng hóa thành một cái chắp tay, hành đại lễ: “Tạ ơn Thái hậu.”

Hắn cảm ơn bà, cảm ơn vì dù bị Lư Dụ Dân hãm hại, chịu điều tiếng chỉ trích, bà vẫn kiên quyết giữ vững quyền lực, đối đầu phe cánh Lư thị, giữ lại hy vọng rửa oan cho Thiên Uy quân.

Cảm ơn bà, dù niệm tình mẫu tử, nhưng vào thời khắc quyết định, bà đã sẵn sàng từ bỏ, công khai quở trách Long Hưng Đế, thúc đẩy vụ án được phán xét công bằng.

Bà là nữ tử, nhưng tầm nhìn và thủ đoạn không thua kém gì nam tử. Hắn thực lòng kính trọng bà.

Và… cảm ơn bà đã nuôi dạy được một người con gái tốt như Lý Doanh, để vào thời khắc đen tối nhất đời hắn, hắn vẫn có ánh trăng sáng soi đường, dìu dắt hắn cho đến khi trời hửng sáng.



Thôi Tuần bước ra từ cung Bồng Lai, đúng lúc gặp Long Hưng Đế đến thỉnh an Thái hậu. Khi Long Hưng Đế nhìn thấy hắn, bước chân khựng lại đôi chút. Thôi Tuần cung kính chắp tay hành lễ. Long Hưng Đế nhìn hắn thật lâu, rồi mới lạnh nhạt nói: “Đứng dậy đi.”

Thôi Tuần đứng thẳng dậy, Long Hưng Đế thờ ơ nói thêm một câu: “Thôi khanh hẳn rất được lòng Thái hậu.”

Thôi Tuần bình tĩnh đáp lại: “Thánh nhân quá khen, thần chỉ là người ăn lộc vua, trung quân tận chức mà thôi.”

Long Hưng Đế hừ nhẹ một tiếng, không nói gì thêm. Sau đó, quân thần lặng lẽ đối diện, Long Hưng Đế cảm thấy không còn hứng thú, vẫy tay hiệu cho Thôi Tuần lui xuống. Đợi đến khi Thôi Tuần rời đi, hoàng đế mới ngoảnh đầu, nhìn theo bóng lưng hắn.

Dưới bầu trời quang đãng, gió xuân phơi phới, dáng vẻ Thôi Tuần trong chiếc quan bào đỏ thẫm thêu kim tuyến càng trở nên nổi bật. Bóng lưng hắn thẳng tắp như tùng, thanh mảnh như trúc, đai lưng ngọc buộc chặt quanh eo, lay động theo từng bước chân, dáng đi ưu nhã thong dong. Long Hưng Đế nhìn theo, buột miệng nói: “Trước khi gặp hắn, trẫm còn cho rằng danh xưng “Liên Hoa Lang” này thật khoa trương, nhưng gặp được mới thấy… quả nhiên danh xứng với thực.”

Mặc dù đang khen ngợi Thôi Tuần nhưng giọng điệu hoàng đế lại thấp thoáng vẻ không vui. Trong tâm trí hắn không ngừng hiện lên cảnh tượng lúc Huệ phi bị đuổi ra khỏi cung. Hắn đã hỏi Huệ phi, liệu nàng có từng yêu hắn không? Nhưng Huệ phi chỉ im lặng không đáp.

Bóng lưng như ngọc của Thôi Tuần lại càng khiến lòng hắn nhói lên. Hắn trầm mặc một lát, rồi đột nhiên hỏi Vương Huyên, Hoàng môn Thị lang đi cùng: “Khanh nói xem, so với Thôi Tuần thì trẫm thế nào?”

Vương Huyên trợn mắt há miệng, cân nhắc một lúc lâu mới ấp úng trả lời: “Thánh nhân là quân phụ, Thôi Tuần là thần tử, thần tử sao có thể so sánh với quân phụ được?”

“Nếu trẫm không phải quân phụ, Thôi Tuần cũng không phải thần tử thì sao?” Long Hưng Đế không chịu buông tha, tiếp tục truy vấn: “Nếu Vương Thị lang là nữ tử, khanh sẽ chọn ai?”

Vương Huyên không biết phải làm sao, nên dè dặt đáp: “Thánh nhân nhân từ đức độ, Thôi Tuần âm hiểm tàn nhẫn. Nếu thần là nữ tử, đương nhiên sẽ chọn Thánh nhân.”

Long Hưng Đế lắc đầu: “Không đúng. Nếu Thôi Tuần tệ hại như thế, tại sao vẫn có nữ tử động lòng với hắn?”

Vương Huyên không hiểu vì sao một bậc đế vương vốn trầm ổn như Long Hưng Đế lại đột nhiên hành xử như một thiếu niên, cố chấp muốn phân cao thấp với Thôi Tuần. Hắn cũng không biết nữ tử trong lời Long Hưng Đế là ai, nhưng dáng vẻ lúc này của hoàng đế chẳng khác nào một nam tử vì mất đi giai nhân trong lòng rồi sinh lòng ghen tuông, không cam tâm khi bị người khác đoạt mất.

Vương Huyên không dám nghĩ sâu hơn, cẩn trọng từng từ chữ rồi mới mở miệng nói: “Người đời luôn dễ bị vẻ ngoài mê hoặc, có lẽ, nữ nhân ấy chính là bị vẻ ngoài mỹ lệ như hoa sen của Thôi Tuần mê hoặc.”

Long Hưng Đế chưa vội lên tiếng, chỉ lặng lẽ dõi theo bóng lưng của Thôi Tuần, cho đến khi hắn hoàn toàn khuất khỏi tầm mắt. Từ trước đến nay, hắn vẫn luôn khoan dung nhân hậu, được quần thần ca tụng là vị đế vương mang phong thái quân tử nhất kể từ khi Đại Chu khai quốc. Thế nhưng lúc này, trong lời nói của hắn lại ẩn chứa sự căm phẫn xen lẫn bực dọc. Hắn cười nhạt: “Vương khanh, khanh nói không sai, nữ tử ấy nhất định đã bị vẻ bề ngoài của Thôi Tuần mê hoặc rồi. Hừ, một nam nhân, chỉ dựa vào khuôn mặt mà có thể trốn khỏi Đột Quyết, từ cõi chết trở về, rồi lại thuận buồm xuôi gió, thăng quan tấn chức ở Trường An… Có khác gì hạng nữ nhân lấy sắc thờ người không kia chứ?”



Về những lời đánh giá của Long Hưng Đế, Thôi Tuần đương nhiên không hề hay biết. Hắn mua một gói đường phấn của Phúc Mãn Đường rồi trở về phủ, mang tặng Lý Doanh, nhân tiện báo tin rằng Thái hậu đã đồng ý cho hắn từ quan, hắn không cần làm Thiếu khanh Sát Sự Thính nữa.

Lý Doanh mừng rỡ vô cùng: “Thật sao?”

“Thật.” Thôi Tuần gật đầu: “Đợi bàn giao xong công vụ cho tân Thiếu khanh, đến lúc đó, ta sẽ có thể tiêu dao tự tại, không còn vướng bận gì nữa.”

Lý Doanh ngập tràn hân hoan, trong đầu đã bắt đầu tưởng tượng xem bọn họ nên đi đâu trước: Dương Châu phong cảnh như họa hay Yến Sơn trăng tựa lưỡi câu. Nhưng rất nhanh sau đó, nàng bác bỏ những suy nghĩ ấy rồi nói: “Bệnh của chàng vẫn chưa khỏi hẳn, chưa thể đi xa, cứ tĩnh dưỡng trước đã, rồi hẵng tính sau.”

Thôi Tuần mỉm cười: “Lần đi Lĩnh Nam trước đó là vì thời gian quá gấp, nên ta mới thành ra thế này. Nhưng bây giờ, chúng ta có thể vừa đi vừa dừng, không đến nỗi quá vất vả đâu.”

Lý Doanh vẫn kiên quyết lắc đầu: “Vậy cũng không được. Không sợ nhất vạn, chỉ sợ vạn nhất. Phong cảnh ngoài Trường An đương nhiên rất đẹp, nhưng cũng không cần phải vội.”

Thôi Tuần không tranh luận thêm, chỉ cười khẽ, dịu giọng nói: “Được.”



Tân Thiếu khanh Sát Sự Thính vẫn chưa được bổ nhiệm, bởi vậy Thôi Tuần vẫn chưa thể chính thức từ quan. Nhưng dù còn giữ chức, hắn vẫn giao phó lại phần lớn công việc, vì thế vẫn có nhiều thời gian hơn để dưỡng bệnh trong phủ. Lý Doanh vẫn như cũ, mỗi ngày đều sắc hơn chục chén thuốc, ép hắn phải uống hết. Trong từng chén thuốc, nàng luôn cẩn thận bỏ thêm một miếng đường phấn để dễ uống hơn. Dưới sự chăm sóc chu đáo của Lý Doanh, sắc mặt Thôi Tuần dần khá lên, không còn tiều tụy như lúc mới trở về Trường An, cũng không còn dáng vẻ bệnh tật nguy kịch khiến người khác kinh hãi. Nhìn hắn dần hồi phục, Lý Doanh bắt đầu mơ tưởng về tương lai.

Năm đó, Linh Hư Sơn Nhân từng nói, thân thể Thôi Tuần đã tổn hao quá độ, thọ mệnh còn lại chỉ chừng mười năm. Nhưng sau khi dùng dược hổ lang, e rằng chỉ còn khoảng năm năm nữa. Lời tiên đoán ấy khiến Lý Doanh không dám mong cầu quá xa, chỉ có thể trân trọng từng ngày bên hắn. Nhưng giờ đây, hy vọng về tương lai lại nhen nhóm trong lòng nàng. Nàng lạc quan nghĩ, nếu có thể tìm được những linh đan diệu dược tốt hơn, biết đâu Thôi Tuần có thể sống yên ổn qua năm năm, thậm chí là mười năm? Dù sao đi nữa, khi thời khắc cuối cùng chưa tới, không ai có thể nói trước được điều gì?

Thôi Tuần từ quan, rời bỏ chức Thiếu khanh Sát Sự Thính. Đối với hắn, công danh phú quý chẳng hề lưu luyến, duy một điểm khiến hắn canh cánh đó chính là việc nếu không còn là Thiếu khanh Sát Sự Thính, hắn sẽ không thể tiếp tục điều tra kẻ đã hại chết Lý Doanh.

Khi Lý Doanh biết được suy nghĩ của hắn, nàng thở dài, nhẹ giọng nói: “Từ sau chuyến đi Lĩnh Nam, suy nghĩ của ta đã có đôi phần thay đổi.”

“Thay đổi thế nào?”

“Trước đây, ta chưa từng thực sự thấu hiểu bốn chữ “dân sinh đa nan”, nhưng sau chuyến đi ấy, ta đã tận mắt chứng kiến thế giới bên ngoài Trường An. Ta đã thấy, ba mươi năm qua, những nông hộ tận cùng khốn khổ của Đại Chu sống ra sao. Họ nghèo đến mức không thể đốt nổi một mẩu củi nấu cơm, chỉ có thể đốt cỏ dại cầm chừng. Dù có vất vả làm lụng đến đâu, họ vẫn đói rách, không đủ ăn, không đủ mặc. Không chỉ đời họ như vậy, mà con cháu của họ, dẫu có thông minh thế nào, trong chế độ tuyển quan khi ấy, cũng chỉ có thể lặp lại vận mệnh của tổ tiên. Chính vì thế, họ dễ dàng tin vào những lời dối trá của Linh Hư Sơn Nhân, mù quáng uống thứ gọi là “thánh thủy”. Và rồi, hai trăm hai mươi mạng người, hóa thành hư không.”

Thôi Tuần lắng nghe, Lý Doanh than thở: “Là công chúa Đại Chu, từ nhỏ ta đã được dạy rằng: chúng ta được dân chúng nuôi dưỡng, thì cũng phải hồi đáp lại cho dân chúng. Nhưng khi đến thôn Ngưu Gia, ta mới hiểu, câu nói này nực cười đến nhường nào? Phải, chúng ta được dân chúng nuôi dưỡng, nhưng chúng ta đã từng thực sự hồi đáp họ chưa? Dân thôn Ngưu Gia còng lưng đóng thuế, cung phụng triều đình, để chúng ta có thể cẩm y ngọc thực, sống trong nhung lụa. Nhưng đến khi họ nghèo túng đến cùng cực, tuyệt vọng mà bỏ mạng, chúng ta vẫn chưa từng một lần xuất hiện trước mắt họ.” Nàng dừng lại chốc lát, rồi tiếp lời: “Thập Thất lang, để Đại Chu không còn một thôn Ngưu Gia thứ hai… có lẽ, đó mới chính là ý nghĩa cho cái chết của bản thân ta.”

Thôi Tuần nghe đến đây, không khỏi lên tiếng: “Nàng… đã tha thứ cho kẻ giết mình sao?”

“Không.” Lý Doanh lắc đầu. “Ta vẫn tin rằng, ngoài bản thân ta ra, không ai có tư cách quyết định vận mệnh của ta. Vì vậy, ta sẽ không tha thứ cho kẻ đã giết mình. Nhưng ta cũng sẽ không giống như lúc vừa thoát ra khỏi hồ hoa sen, dùng toàn bộ thời gian và tâm huyết chỉ để tìm ra hung thủ. Ta vẫn có thể tiếp tục điều tra, nhưng đồng thời, ta cũng có thể làm những việc ý nghĩa hơn, ví như theo gót Kế Thanh Dương, đi khắp non sông, làm những điều trong khả năng để giúp đỡ bách tính Đại Chu.”

Thương thay kiếp sống gian nan, mong muôn dân đều ấm no, đó chính là suy nghĩ của Lý Doanh lúc này.

Thôi Tuần đã hiểu. Hắn mỉm cười, dịu dàng nói: “Ta sẽ cùng nàng đi khắp non sông, giúp đỡ bách tính Đại Chu.”
 
Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh
Chương 136: Rượu mới tươi xanh, bếp lò nhỏ đỏ rực



Mùa hạ qua đi, thu lại ghé về. Lá phong đỏ rợp trời Trường An, mỗi người đều có một cuộc sống mới. Thịnh A Man mở một cửa tiệm, chuyên bán tỳ bà, dao cầm cùng các loại nhạc cụ. Nàng và những tỷ muội từng ở giáo phường chẳng có tài sản gì trong tay, cũng chẳng am hiểu nghề khác, chỉ biết gảy đàn, bèn lấy đó làm kế sinh nhai. Nàng thường thản nhiên ngồi trước tiệm gảy tỳ bà, thu hút khách nhân. Vốn dĩ nàng đàn rất hay, danh tiếng lại vang xa, nhờ vậy khách khứa tấp nập, việc buôn bán cũng nhờ thế mà chẳng phải lo nghĩ.

Quách Húc trở về quê cũ, đưa thủ cấp của Quách Cần Uy về chôn cất tại phần mộ tổ tiên. Khi hắn hồi hương, cũng mang theo Lục Mai, mật thám từng hoạt động trong Sát Sự Thính. Mẹ già của Quách Cần Uy đã qua đời từ sớm vì đau lòng trước việc Quách Húc bị lưu đày, trong nhà chỉ còn lại thê tử của ông. Bà không hề ghét bỏ xuất thân thấp kém của Lục Mai, tự mình làm chủ, tác thành cho hai người. Chẳng bao lâu sau, Lục Mai hoài thai, Quách Húc liền đưa nàng đến trước mộ phần Quách Cần Uy, vợ chồng cùng nhau quỳ lạy, khóc ròng báo tin vui.

Những thiếu niên như Hà Thập Tam dùng số tiền phúng viếng của huynh trưởng để bái sư học nghệ, ngày ngày rèn luyện võ công. Chỉ chờ khi đủ tuổi, chúng sẽ lên đường, ra biên cương tòng quân, tiếp tục cống hiến vì Đại Chu.

Triều đình cũng có biến chuyển. Tân chính không còn bị kiềm hãm, Thánh nhân hạ lệnh, từ nay khoa cử phải bôi kín tên họ trên bài thi, đồng thời cho phép thương nhân cùng con cháu tham gia ứng thí. Chiếu chỉ này vừa ngăn chặn được gian lận, khiến quan chấm thi không thể tuyển chọn nhân tài dựa trên gia thế hay danh tiếng, lại vừa mở rộng cánh cửa khoa cử cho sĩ tử hàn môn, khởi đầu một thời đại lấy tài làm trọng.

Ngư Phù Nguy nghe tin, mừng rỡ khôn xiết, lập tức từ bỏ việc buôn bán âm dương, đóng cửa không ra ngoài, ngày ngày ôn luyện thi thư, dốc lòng chuẩn bị cho kỳ thi tiến sĩ vào tháng Giêng, giành lấy vị trí đầu bảng.

Chí hướng của hắn xưa nay vẫn là phò nguy trợ thế, trung quân báo quốc. Hai mươi năm chờ đợi, rốt cuộc cơ hội đã đến, hắn tuyệt đối sẽ không bỏ lỡ.

Giữa những biến động lớn trong triều, so ra, việc Hoàng môn Thị lang kiêm Khởi cư lang Vương Huyên bỗng dưng mất tích, khiến Kinh Triệu Doãn tìm kiếm khắp nơi trong vô vọng, cũng chỉ là một chuyện nhỏ chẳng đáng để nhắc đến.



Thu chớm, rượu Lục Nghị [1] mới ủ, lò đất đỏ ấm áp, vốn là một cảnh trí tao nhã, nhưng tiếc rằng Lý Doanh không cho Thôi Tuần uống rượu, thành ra trên lò chỉ đun một ấm trà Bạch Lộ. [2]

[1] rượu Lục Nghị: rượu có màu xanh như cánh kiến, nổi tiếng với hương vị thanh thoát và thường được ủ từ gạo nếp.

[2] trà Bạch Lộ: là một loại trà nổi tiếng ở Trung Quốc, thường được thu hái vào khoảng mùa thu, đặc biệt là trong dịp tiết Bạch Lộ (白露), tức là thời gian giữa tháng 8 và tháng 9 dương lịch. Trà Bạch Lộ mang tên gọi này vì nó được thu hoạch ngay sau khi tiết Bạch Lộ đến, thời điểm có sương mù nhẹ và nhiệt độ bắt đầu mát mẻ hơn. Trà Bạch Lộ thường được sản xuất từ những búp trà non, tươi mới, có màu trắng nhạt và hương thơm rất đặc trưng. Trà này có vị nhẹ nhàng, thanh mát, và thường được đánh giá cao vì có nhiều lợi ích cho sức khỏe, giúp làm dịu cơ thể, giảm căng thẳng, và đặc biệt tốt cho hệ tiêu hóa. Vì vậy, trà Bạch Lộ được ưa chuộng trong các bữa trà của giới quý tộc và những người yêu thích trà Trung Quốc.

Lý Doanh chống cằm, lặng lẽ nhìn Thôi Tuần vung bút viết hàng chữ hành thảo. Kể từ khi được nàng khuyên giải, Thôi Tuần quyết định buông bỏ quá khứ, theo nàng bôn ba khắp sông núi Đại Chu, cùng nàng cứu giúp lê dân. Tâm tư hắn cũng thay đổi ít nhiều, không còn trầm uất căng thẳng như trước, trái lại buông lỏng từ từ, dần dà nhẹ nhõm hơn trước. Lối hành thảo hắn từng không thể viết ra được, giờ cũng có thể viết ra.

Lý Doanh nhấc ấm trà Bạch Lộ khỏi lò than, dùng chiếc muôi bạc cán dài múc một chén trà màu hổ phách, đưa đến trước mặt hắn rồi nói: “Nét chữ này đã có bảy tám phần phong thái của Lưu Tùng Bách rồi, so với bức chàng viết tặng Trương Hoằng Nghị khi trước thì tốt hơn nhiều lắm.”

Thôi Tuần buông bút lông sói, nhận lấy chén trà, nhấp một ngụm rồi chăm chú nhìn nét chữ mình viết, trầm giọng nói: “Trước kia còn đẹp hơn nữa cơ.”

Lý Doanh khẽ cười: “Đợi khi chúng ta đến Dương Châu, đến Ngô Quận, chàng sẽ lại là Thôi Tuần của sáu năm trước.”

Sáu năm trước, Thôi Tuần từng là người thế nào nhỉ? Nàng chưa từng gặp, chỉ nghe Quách Cần Uy kể lại, đại để là dáng vẻ ngựa trắng yên bạc, phong thái tiêu sái như sao băng. Nàng không thể gặp hắn khi ấy, mà lại gặp được hắn trong những tháng ngày u ám nhất cuộc đời. Nhưng nàng chưa từng cảm thấy nuối tiếc, bởi vì đẹp đẽ là hắn, sa sút cũng là hắn. Nàng sẽ không vì ánh hào quang của ngày cũ mà day dứt với hiện tại, bởi điều đó sẽ chỉ làm tổn thương cả hai. Điều đáng để nàng dành tâm sức, chính là ngày hôm nay và mai sau của hắn, chứ không phải dĩ vãng đã qua.

Thôi Tuần mỉm cười, gật đầu: “Ừ.”

Hắn cũng rất mong chờ ngày cùng nàng đặt chân đến Dương Châu, đến Ngô Quận, bắt đầu một cuộc sống mới.



Trong hương Bạch Lộ thanh nhã vấn vương, Lý Doanh ngắm nhìn dòng chữ Thôi Tuần viết: “Nhàn mộng Giang Nam mai thục nhật,”, nàng cất giọng: “Câu tiếp theo chẳng phải là “Dạ thuyền xuy địch vũ tiêu tiêu” sao?” [3]

[3] Hai câu thơ trích từ bài “Ức Giang Nam” (Nhớ Giang Nam) của tác giả Hoàng Phủ Tùng.

Bản dịch của Thien Thanh (thivien.net): Buồn mơ Giang nam ngày mai chín/ Thuyền đêm thổi sáo mưa rì rào,

“Hẳn là vậy.”

Lý Doanh mỉm cười: “Vậy câu sau để ta viết nhé.”

Thôi Tuần mỉm cười, liền cầm thỏi mực Tùng Yên lên giúp nàng mài mực, song, mực chưa kịp mài xong thì ngoài phủ đã có thêm một vị khách không mời.

Là Lư Hoài.

Từ sau khi Lư Dụ Dân qua đời, hắn đã u uất suốt một khoảng thời gian dài. Trong triều, không ít kẻ viện cớ hắn là cháu ruột Lư Dụ Dân, dâng sớ luận tội hắn trước Thái hậu và Long Hưng Đế. Nhưng, những tấu chương ấy đều bị Thái hậu kiên quyết chặn lại. Dưới sự bảo hộ hết lòng của Thái hậu, Lư Hoài dần vực dậy tinh thần. Có minh chủ che chở như vậy, nếu hắn cứ mãi chìm đắm trong quá khứ, chẳng những phụ lòng Thái hậu, phụ chính bản thân mình mà còn phụ cả kỳ vọng của Lư Dụ Dân, người từng xem hắn là toàn bộ hy vọng của họ Lư đất Phạm Dương.

Vậy nên, Lư Hoài trở lại vị trí Thiếu khanh Đại Lý Tự, tiếp tục tuân theo tôn chỉ làm quan của mình: “Kẻ tận trung giúp đời, dù là thù cũng phải thưởng; kẻ phạm pháp chểnh mảng, dù là thân thích cũng phải phạt.” Chỉ có điều, khi nghe tin Thôi Tuần đột ngột từ quan, hắn vẫn không khỏi ngỡ ngàng.

Sau bao ngày đắn đo, rốt cuộc hắn cũng mang theo một vò rượu, đến tìm gặp Thôi Tuần.

Từ ô cửa sổ đang hé mở, Lý Doanh nhìn thấy vò rượu trong tay Lư Hoài. Không chút nghĩ ngợi, nàng liền lên tiếng cảnh cáo Thôi Tuần: “Chàng không được uống.”

Phải vất vả lắm thân thể Thôi Tuần mới dần hồi phục, nàng tuyệt đối không để mọi cố gắng trước đó đổ sông đổ bể.

Thôi Tuần nhếch môi, gật đầu chấp thuận, sau đó đứng dậy nghênh đón Lư Hoài. Hắn chợt nhớ lại lần cuối cùng Lư Hoài bước vào Thôi phủ, khi ấy hắn đã trở thành tù nhân, bị Đại Lý Tự giam giữ. Vậy mà mới chỉ mấy tháng trôi qua, cảnh cũ người xưa, nay đã đổi thay khôn lường.

Vừa bước vào thư phòng, thứ đầu tiên Lư Hoài thấy chính là lò than đất đỏ và ấm trà Bạch Lộ đặt trên đó.

Hắn nâng vò rượu Lục Nghị mới ủ trong tay, nở một nụ cười: “Đã có lò than đất đỏ, sao lại không có một vò Lục Nghị?”

Thôi Tuần lắc đầu: “Thất lễ, thân thể ta không tiện uống rượu.”

Lư Hoài thoáng sững người, rồi lại ngượng ngùng nói: “Lần ta được thăng chức Thiếu khanh Đại Lý Tự, từng tặng Thôi Thiếu khanh một bình rượu hoa sen. Lỗi ở ta, mong Thôi Thiếu khanh rộng lượng.”

Hắn ngỡ rằng Thôi Tuần vẫn còn oán trách chuyện này, nhưng Thôi Tuần chỉ nhàn nhạt đáp: “Có chuyện đó sao? Ta quên rồi.”

Lư Hoài giật mình ngẩng lên, chỉ thấy thần sắc Thôi Tuần bình lặng như nước. Bất giác, hắn bật cười: “Ồ, là ta nhớ lầm rồi, nào có chuyện ấy.”

Ánh mắt hắn chợt dừng trên tờ giấy gai trắng đặt trên án thư, trên đó viết hàng chữ: “Nhàn mộng Giang Nam mai thục nhật”. Hắn buột miệng: “Thôi Thiếu khanh đã có kế hoạch đến Giang Nam rồi sao? Giang Nam quả là đất lành, x.uân th.ủy xanh biếc như trời, thuyền hoa tiếng mưa ru ngủ, rất hợp để quy ẩn.”

Thôi Tuần chỉ thở dài, đáp: “Lư Thiếu khanh, giữa ta và ngài xưa nay chẳng có giao tình gì sâu đậm.”

Lư Hoài sững lại, chỉ nghe giọng Thôi Tuần lãnh đạm tiếp lời: “Thế nên, hôm nay ngài đến đây, rốt cuộc muốn nhờ ta chuyện gì, chi bằng cứ nói thẳng ra đi.”

Lời lẽ thẳng thắn của Thôi Tuần khiến Lư Hoài lập tức đỏ mặt tía tai. Chứng kiến cảnh ấy, Lý Doanh bất giác bật cười. Tính tình Thôi Tuần vốn ít nói, nhưng một khi đã mở miệng thì có thể khiến hạng quân tử da mặt mỏng như Lư Hoài tức đến chết đi sống lại. Có điều, từ khi hắn và nàng định tình, hắn vẫn luôn dịu dàng với nàng, đến nỗi nàng gần như quên mất dáng vẻ sắc bén này của hắn.

Nhìn Lư Hoài mặt đỏ bừng bừng, Lý Doanh lại thấy có phần tội nghiệp. Dẫu sao trong vụ án Thiên Uy quân, hắn cũng dốc sức không ít. Kể cả khi hắn là cháu ruột Lư Dụ Dân, trước đây từng nhiều lần hạ nhục Thôi Tuần, nhưng xét một cách công bằng, công của hắn vẫn lớn hơn tội.

Lý Doanh nâng người, thổi một hơi vào tai Thôi Tuần, thì thầm: “Đừng quá đáng.”

Tai hắn tê dại như có dòng điện chạy qua, mặt cũng bất giác đỏ lên. Nhưng có Lư Hoài ở đây, hắn không thể để lộ bất cứ điều gì, chỉ đành hắng giọng, ý bảo nàng chớ làm loạn.

May mà Lư Hoài đang cúi đầu nhấp từng ngụm trà Bạch Lộ, chìm đắm trong nỗi hổ thẹn của chính mình, hoàn toàn không để ý đến dáng vẻ khác thường của Thôi Tuần. Hắn uống thêm mấy ngụm, cuối cùng đặt chén xuống, hạ quyết tâm: “Đúng vậy, quả thực ta có chuyện muốn nhờ Thôi Thiếu khanh.”

Thôi Tuần thản nhiên đáp: “Chuyện gì?”

“Hoàng môn Thị lang Vương Huyên, từ sau buổi triều hội bảy ngày trước liền bặt vô âm tín. Y chỉ để lại một phong thư, nói rằng muốn bỏ trốn cùng một kỹ nữ. Việc này, Thôi Thiếu khanh có biết hay không?”

“Có nghe phong thanh.”

“Thánh nhân vô cùng giận dữ, đã giao cho Kinh Triệu Doãn điều tra tung tích của Vương Huyên, nhưng suốt bảy ngày qua vẫn không thu hoạch được gì.” Lư Hoài lo lắng: “Ta cũng phái vũ hầu dò xét, nhưng cũng không lần ra manh mối.”

Hắn than nhẹ: “Bác Diễn là bằng hữu tri kỷ của ta, mẹ già vợ con ở nhà khóc lóc thảm thiết, thật lòng ta không đành. Ta biết Sát Sự Thính có tai mắt khắp Trường An, vì vậy mới muốn nhờ Thôi Thiếu khanh giúp ta tìm kiếm tung tích của Bác Diễn.”

Lư Hoài lại tìm đến hắn nhờ vả ư? Mặt trời đúng là mọc từ phía tây rồi.

Nhưng dù Lư Hoài có khẩn khoản thế nào, Thôi Tuần vẫn từ chối: “Ta đã từ quan, người kế nhiệm tuy chưa nhậm chức, nhưng trong triều không phải việc ta có thể nhúng tay. Huống hồ, Kinh Triệu Doãn và Đại Lý Tự đều đang điều tra, ta không thể vượt quyền.”

Lư Hoài có phần sốt ruột: “Tuy có Kinh Triệu Doãn và Đại Lý Tự, nhưng nếu luận về việc dò la tin tức, không ai có thể sánh với Sát Sự Thính.”

Sát Sự Thính vốn được lập ra để theo dõi động tĩnh quan lại, chuyên xử lý những việc quỷ quyệt trong tối. Nói không ngoa, đêm qua quan viên trong triều mở tiệc khoản đãi ai, Sát Sự Thính đều có thể nắm rõ từng chi tiết. Chính vì vậy, Lư Hoài mới gạt bỏ thể diện, đích thân đến cầu xin Thôi Tuần.

Nhưng Thôi Tuần vẫn lắc đầu. Hắn không có hứng thú với việc truy tìm tung tích một quan viên bỏ trốn cùng kỹ nữ. Lư Hoài cắn răng nói: “Thôi Thiếu khanh, ta biết trước đây ta có lỗi với ngài, nhưng sự mất tích của Bác Diễn ắt có uẩn khúc. Y là người nhút nhát sợ phiền phức, sao có thể bỏ vợ bỏ con để chạy theo một nữ tử thanh lâu? Ta dám khẳng định, lời đồn về vụ bỏ trốn này là giả! Mong ngài bỏ qua hiềm khích, giúp ta tìm ra Bác Diễn.”

Nghe vậy, Thôi Tuần hơi nhíu mày. Nếu lời Lư Hoài nói là thật, Vương Huyên không hề bỏ trốn cùng kỹ nữ, thì sự biến mất của một Hoàng môn Thị lang đúng là có điều mờ ám. Nhưng, liệu lời của Lư Hoài có thật sự đáng tin? Hắn chậm rãi hỏi: “Lư Thiếu khanh, đã bao lâu rồi ngài chưa gặp Vương Huyên?”

Lư Hoài sững người, cúi đầu đáp: “Từ sau khi thúc phụ ta qua đời, ta đã không còn tâm trí lên triều, cũng đã hơn một tháng chưa gặp Bác Diễn.”

“Vậy ngài dựa vào đâu để khẳng định, chuyện bỏ trốn nhất định là giả?”

Dù sao thì, ngay đến việc thúc phụ mình là trung thần hay gian thần, Lư Hoài còn chẳng phân biệt nổi. Hắn quá coi trọng tình nghĩa, mà tình nghĩa đôi khi lại khiến con người ta bị che mờ đôi mắt.

Lư Hoài mím môi: “Không, nhất định là giả!”
 
Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh
Chương 137: Đế sát lục châu*



*Hoàng đế huỷ hoại (g**t ch*t) sáu châu.

Hoàng môn Thị lang Vương Huyên, tự Bác Diễn, là dòng thứ của Vương thị vùng Lang Gia. Năm Long Hưng thứ mười lăm, hắn đỗ đầu điện thí, trở thành Trạng nguyên.

Vương Huyên xuất thân danh môn, tuổi trẻ đăng khoa, vốn nên một bước lên mây, nhưng hắn lại quá mức cẩn trọng, làm việc gì cũng sợ trở thành cái gai trong mắt người khác. Bởi vậy, bao năm qua, hắn vẫn chỉ là một Hoàng môn Thị lang, ở triều đình cũng mờ nhạt như người vô hình, chưa từng chủ động kết giao với đại thần.

Vậy mà một con người như thế lại có mối giao tình mật thiết với Lư Hoài, kẻ nổi danh chính trực, không sợ sinh tử.

Lư Hoài nói: “Bác Diễn quả thực hay lưỡng lự, nhát gan sợ chuyện, bị rất nhiều người xem thường. Nhưng ai biết được, ngoài việc là một Hoàng môn thị lang nhu nhược, y còn là một nam nhi kiên cường, hiếu thuận với mẫu thân, yêu thương thê tử? Sinh mẫu của Bác Diễn chỉ là một tỳ nữ trong Vương gia, dù sinh ra y vẫn luôn bị khinh rẻ. Năm y đỗ Trạng nguyên, liền lập tức đón mẫu thân ra khỏi Vương phủ, vì chuyện đó mà bị phụ thân đánh đủ năm mươi roi gia pháp. Thê tử của y, Lưu thị, là thanh mai trúc mã của y, nhưng nhà nàng sa sút đến mức bần cùng. Năm Long Hưng thứ mười lăm, y còn trẻ mà đã đăng khoa, bao nhiêu quyền quý muốn gả nữ nhi cho y, nhưng y vẫn kiên quyết cưới Lưu thị, một người chẳng thể giúp ích gì cho đường công danh của mình. Nhiều kẻ không hiểu sao ta lại xem y như tri kỷ, nhưng một nam nhân như vậy, chẳng lẽ không đáng để ta kết giao sao?”

Lư Hoài chậm rãi kể, Lý Doanh càng nghe càng kinh ngạc, đến cả Thôi Tuần cũng bắt đầu nghiêm túc hơn.

Lư Hoài lại nói: “Bác Diễn để lại thư nói y tranh giành nữ nhân với quyền quý, vì tức giận nên mới mang theo nàng ta bỏ đi, nhưng ta tuyệt đối không tin. Có kẻ muốn hãm hại y, còn muốn vu oan cho y. Nếu vài ngày nữa tìm thấy thi thể Bác Diễn, có khi người ta sẽ nói vì tranh giành tình nhân mà y bị quyền quý sát hại, chết cũng đáng? Ta không thể chấp nhận chuyện đó! Dù cả thiên hạ không tin Bác Diễn thì ta vẫn tin. Ta nhất định phải tìm ra y, dù có phải trả giá bằng tính mạng, ta cũng không màng!”

Nghe xong, Lý Doanh không khỏi xúc động. Nàng chọc nhẹ vào mu bàn tay đang đặt trên đầu gối của Thôi Tuần: “Thập Thất lang, chàng giúp hắn đi.”

Thôi Tuần ngước mắt nhìn Lư Hoài: “Xin hỏi Lư Thiếu khanh, rốt cuộc Vương Huyên mất tích thế nào?”

Nghe vậy, Lư Hoài mừng rỡ. Hắn biết Thôi Tuần đã ngầm đồng ý giúp đỡ, lập tức tường thuật lại quá trình mất tích của Vương Huyên. Hóa ra hôm đó, sau khi bãi triều, theo lý mà nói, Vương Huyên phải theo Long Hưng Đế ghi chép hành vi cử chỉ của người. Nhưng gần đây, hắn còn có nhiệm vụ biên soạn sử sách, liền giao lại việc ghi chép cho các Khởi cư lang khác, còn mình thì cưỡi ngựa đến Sử quán. Nào ngờ, hắn chưa kịp đến nơi thì đã bặt vô âm tín.

Thôi Tuần trầm ngâm suy nghĩ hồi lâu rồi mới nói: “Ta đã rõ, ta sẽ cố gắng hết sức.”

Lư Hoài vui mừng chắp tay, chân thành nói: “Đa tạ Thôi Thiếu khanh.”



Khi điều tra vụ mất tích của Vương Huyên, Kinh Triệu Doãn bắt đầu từ bức thư hắn để lại, tìm kiếm xem gần đây có kỹ nữ nào ở Trường An cũng biến mất hay không. Đại Lý Tự thì lần theo lộ trình từ cung Đại Minh đến Sử quán để xác định đoạn đường hắn mất tích. Cách làm của Kinh Triệu Doãn có thể sai, nhưng phương pháp của Đại Lý Tự thì không. Riêng với Thôi Tuần, hắn cảm thấy cả hai hướng ấy đều vô dụng.

Vương Huyên mất tích một cách kỳ lạ, khả năng là bị cướp hoặc giết. Hắn vốn thanh liêm, tất nhiên không thể bị cướp. Nhưng nếu là bị giết, thì hắn nhút nhát yếu đuối, không tranh với đời, chưa từng gieo thù kết oán với ai, vậy ai sẽ giết hắn đây?

Thôi Tuần chỉ nghi ngờ một người.

Có lẽ khắp thiên hạ, kẻ dám nghi ngờ người đó, chỉ có một mình Thôi Tuần.



Mật thám của Sát Sự Thính không đi điều tra Vương Huyên, mà lại theo dõi Huệ phi A Sử Na Ngột Đoá, người đã bị phế bỏ và trục xuất khỏi cung.

Theo lời mật thám, A Sử Na Ngột Đoá bị biếm đến Trường Xuân Quán, liền thu mình an phận, cả ngày niệm kinh giữ giới, đốt hương thắp đèn, không vướng tục sự, bộ dáng như thể một lòng hướng đạo. Nhưng Thôi Tuần không tin dù là nửa chữ. Người khác có thể không biết A Sử Na Ngột Đóa hiểm độc đến mức nào, nhưng hắn thì biết rõ. Muốn nàng ta một lòng hướng đạo, trừ phi sông chảy ngược dòng, biển trào nước ngược, bằng không tuyệt đối không thể.

Thế nhưng, sau hai ngày theo dõi, mật thám lại phát hiện một chuyện quái lạ. Đạo quán Trường Xuân chỉ có nữ đạo sĩ, lẽ ra không nên có bóng dáng nam nhân. Vậy mà lượng lương thực đưa đến mỗi ngày lại vượt xa khẩu phần của tất cả nữ đạo sĩ trong quán. Trừ phi, nơi này đang che giấu điều gì đó.

Vậy nên mật thám lẻn vào đạo quán, quả nhiên phát hiện dưới nền đất dường như có một địa lao.

Khi mật thám đem chuyện này bẩm báo với Thôi Tuần, hắn đã mơ hồ đoán ra được bảy tám phần. Lý Doanh hỏi hắn: “Chàng cho rằng Vương Huyên bị giam trong địa lao của Trường Xuân Quán?”

Thôi Tuần gật đầu. Lý Doanh nghi hoặc: “Liệu có khi nào chàng đoán sai không? Huệ phi và Vương Huyên không oán không thù, nàng ta bắt hắn làm gì?”

Lý Doanh không hiểu. Thôi Tuần mím môi, né tránh không nói. Người hắn hoài nghi, lại chính là người thân cận với Lý Doanh nhất, cũng là người nàng tin tưởng không chút nghi ngờ. Khi chưa có chứng cứ xác thực, hắn không thể mở miệng.

Hắn chỉ nói: “Dù bị biếm ra khỏi cung, nhưng Huệ phi vẫn là phi tử của Thánh nhân. Sát Sự Thính không thể tùy tiện khám xét, nếu không sẽ bị phản kích. Đêm nay vào canh ba, ta sẽ sai người phóng hỏa Trường Xuân Quán, nhân lúc hỗn loạn, có lẽ có thể cứu được Vương Huyên.”

Hắn muốn đi cứu Vương Huyên, nhưng Lý Doanh chỉ cần nghĩ đến A Sử Na Ngột Đoá, đã cảm thấy rợn tóc gáy. Người đàn bà này quá cố chấp với Thôi Tuần, có thể nói suốt đời hắn, cơn ác mộng lớn nhất chính là nàng ta. Sao nàng có thể yên tâm để hắn xông vào Trường Xuân Quán cứu người?

Nàng lắc đầu: “Chàng đừng đi, để ta đi. Chàng cũng không cần phóng hỏa, dù sao không ai nhìn thấy ta, ta có thể lẻn vào địa lao xem thử Vương Huyên có thực sự ở đó hay không.”

“Dù sao đó cũng là đạo quán, bên trong chắc chắn đầy rẫy pháp khí trừ tà, nàng không thể đi.”

“Nhưng ta không yên lòng khi chàng đến đó.”

Trong lòng Lý Doanh có một dự cảm chẳng lành. Nàng không biết là vì chuyện này có liên quan đến A Sử Na Ngột Đoá nên mới khiến nàng lo sợ bất an, hay còn nguyên nhân nào khác. Nàng nắm lấy tay Thôi Tuần, khẩn cầu: “Thập Thất lang, ta thật sự rất sợ. Chàng đừng đến Trường Xuân Quán.”

Lòng bàn tay nàng lạnh buốt lạ thường. Thôi Tuần chần chừ một lúc lâu, cuối cùng thở dài một tiếng, ngược lại nắm chặt tay nàng: “Được, ta không đi.”



Hắn lập tức thay đổi kế hoạch. Đến canh ba, hắn vẫn sai người phóng hỏa bên ngoài Trường Xuân Quán, nhưng lần này, kẻ lẻn vào trong không phải là hắn mà là năm viên mật thám.

Hắn cùng Lý Doanh và năm mật thám còn lại ẩn nấp trong khu rừng hoang bên ngoài đạo quán, sẵn sàng tiếp ứng. Đêm lạnh như nước, trong rừng hoang tĩnh mịch, thỉnh thoảng lắm mới có vài con quạ khàn giọng kêu vang. Thôi Tuần đứng trên sườn núi, dõi mắt nhìn ngọn lửa dần bốc lên trong Trường Xuân Quán. Lửa mỗi lúc một lớn, bên trong đạo quán trở nên hỗn loạn, tiếng người hô hào cứu hỏa không dứt. Hắn và Lý Doanh chẳng ai nói gì mà lặng lẽ quan sát. Chẳng bao lâu sau, dưới bóng đêm, năm mật thám cõng theo một người thân xác tàn tạ, hơi thở thoi thóp chạy vội về phía khu rừng.

Là Vương Huyên.

Toàn thân Vương Huyên chẳng còn lấy một tấc da lành lặn. Hai chân hắn bị hàn thiết nung đỏ tra tấn đến mức máu thịt bầy nhầy, đôi mắt bị thiêu cháy, đầu lưỡi bị cắt cụt. Dáng vẻ ôn nhuận như ngọc năm xưa nay chẳng còn sót lại chút gì. Thôi Tuần vốn đã quen chứng kiến những cảnh tra tấn tàn khốc, vậy mà khi thấy tình cảnh này, lòng vẫn không khỏi run lên.

Lý Doanh lại càng kinh hoàng đến mức lùi về sau mấy bước. Nàng chỉ cảm thấy dạ dày cuộn trào, phải cắn chặt răng, siết lấy vạt váy mới miễn cưỡng giữ được bình tĩnh.

Là ai? Là ai đã đối xử như vậy với một người vốn không tranh giành với đời theo cách này?

Mật thám đặt Vương Huyên xuống đất, nhẹ nhàng đỡ lấy thân thể hắn. Máu đen không ngừng rỉ ra từ khóe miệng hắn, hai tay bị thiêu đến cháy xém vẫn yếu ớt vươn lên không trung, giãy giụa vô vọng, miệng phát ra những âm thanh thê lương đứt quãng. Với thương tích này, e rằng hắn không thể sống nổi.

Thôi Tuần nghiến chặt răng, nắm lấy tay Vương Huyên, trầm giọng nói: “Là ta, Thôi Tuần.”

“Lư Hoài nhờ ta đến tìm ngươi, ngươi có thể tin ta.”

Thân thể Vương Huyên run rẩy kịch liệt, khi nghe đến hai chữ “Lư Hoài”, mười ngón tay hắn đột nhiên siết chặt cổ tay Thôi Tuần, lực mạnh đến mức suýt bóp nát xương hắn. Lòng Thôi Tuần chấn động, hắn hỏi: “Là ai? Ai đã hại ngươi thành ra thế này?”

Ngón tay Vương Huyên run run trong lòng bàn tay Thôi Tuần, chậm rãi vạch ra từng nét: “Đế, sát, lục, châu.”

Đế sát lục châu?

Vị hoàng đế nào? Lục châu nào?

Ngoài kẻ đó ra, còn ai vào đây! Liệu còn có thể là sáu châu nào khác!

Hóa ra, thảm cảnh của Thiên uy quân, sự sụp đổ của sáu châu, cái chết của vô số bách tính, quả thực không thoát khỏi sự liên can của Long Hưng Đế!

Chắc chắn Vương Huyên đã phát hiện điều gì đó, hắn muốn truyền tin ra ngoài nhưng chẳng may bị lộ, mới bị bắt vào địa lao của Trường Xuân Quán, bị tra tấn suốt chín ngày trời! Thế nhưng, dù chịu đủ mọi khổ hình, hắn vẫn không hé nửa lời.

Hắn th* d*c, dùng chút sức tàn cuối cùng viết thêm trong lòng bàn tay Thôi Tuần ba chữ: “Tây, Minh, Tự.”

Viết xong, những ngón tay hắn buông lơi, máu đen từ miệng trào ra càng nhiều, sắc mặt cũng dần xám ngắt, thế nhưng đôi mắt bê bết máu kia vẫn không chịu khép lại.

Thôi Tuần siết chặt tay hắn, trầm giọng nói: “Ngươi cứ yên tâm, mẫu thân, thê tử, hài nhi của ngươi, Lư Hoài sẽ chăm sóc, ta, Thôi Tuần, cũng sẽ chăm sóc! Ta lấy mạng mình ra thề!”

Nghe vậy, thân thể Vương Huyên cuối cùng cũng ngừng co giật, sau đó chậm rãi khép mắt.

Người ta vẫn luôn xem hắn là một Trạng nguyên yếu đuối, là một thư sinh vô dụng. Nhưng đến giây phút cuối cùng của cuộc đời, dù đã chịu đủ mọi cực hình, hắn vẫn gắng sức truyền lại mồi lửa của chân tướng. Hắn không phải kẻ hèn nhát, mà là anh hùng dũng cảm nhất ở Đại Chu!



Thôi Tuần lòng đầy bi phẫn, quỳ bên thi thể Vương Huyên, ánh mắt ghim chặt vào từng nét máu trên lòng bàn tay, miệng không ngừng lẩm bẩm: “Đế sát lục châu… Đế sát lục châu… Tây Minh Tự… Tây Minh Tự…”

Là quân phụ của Đại Chu, lại giết chính con dân Đại Chu!

Là hoàng đế của Đại Chu, lại bán đi giang sơn Đại Chu!

Mười mật thám vây quanh Thôi Tuần đều sững sờ, Lý Doanh cũng chấn động. Một lát sau, nàng đột nhiên rùng mình, trong đầu lóe lên một ý niệm.

Không đúng.

Mọi thứ quá thuận lợi.

Cứu được Vương Huyên… quá mức thuận lợi.

Cứ như thể có người cố tình chờ bọn họ đến cứu!

Nàng vừa định nhắc nhở Thôi Tuần, thì chớp mắt đã thấy mưa tên vần vũ ập đến, mười mật thám không kịp đề phòng liền ngã gục xuống đất.

Ngay sau đó, một thứ gì đó đen kịt văng thẳng về phía nàng!

Thôi Tuần vội hét lên: “Cẩn thận!”

Hắn lập tức dang rộng hai tay, ôm chặt lấy nàng, lao sang một bên né tránh. Cả hai ngã nhào xuống đất, nhưng dù hắn có nhanh đến đâu, thứ chất lỏng ấy vẫn bắn một ít lên người Lý Doanh.

Giây tiếp theo, một cơn đau xuyên thấu tận xương ập đến, tựa hồ nhấn chìm cả thân thể nàng. Toàn thân nàng bắt đầu bốc lên từng làn khói trắng, giống như bị nung đỏ bởi thiết hỏa. Thân thể nàng run rẩy dữ dội, mồ hôi lạnh rịn khắp trên trán, sắc mặt tái nhợt, tầm mắt dần trở nên tan rã.

Thôi Tuần lo lắng gọi: “Minh Nguyệt Châu! Minh Nguyệt Châu…”

“Đừng gọi nữa.”

A Sử Na Ngột Đoá giẫm lên cành khô, tay xách một túi da dê đựng đầy máu chó mực, từng bước từng bước tiến tới. Nàng ta lạnh lùng ném túi da xuống đất, tỏ vẻ chán ghét: “Người ta vẫn nói, máu chó mực vừa mới giết xong là vật chí dương chí cương, trời sinh khắc chế quỷ hồn, quả nhiên là thật.”

Sau lưng nàng ta là mấy chục Kim Ngô Vệ vận y phục đen, trên tay giương sẵn cung tên, bao vây Thôi Tuần kín mít. Chỉ cần hắn có bất kỳ động tĩnh nào, vô số mũi tên ấy sẽ khiến hắn biến thành nhím ngay lập tức.

A Sử Na Ngột Đoá nhìn Thôi Tuần đang ôm chặt Lý Doanh, khóe môi cong lên: “Người Hán các ngươi có câu “bọ ngựa bắt ve, chim sẻ rình sau”. Lần trước ngươi làm chim sẻ, lần này, đến lượt ta làm chim sẻ rồi.”

Dưới ánh trăng, đóa hoa sen đỏ thẫm xăm trên mặt nàng ta bỗng trở nên chói mắt lạ thường. Nàng ta rút trường kiếm, kề sát bên cổ Thôi Tuần, cười nhạt: “Liên Hoa Nô của ta, rốt cuộc, ngươi vẫn rơi vào tay ta.”
 
Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh
Chương 138: Ngục giam



Lý Doanh tỉnh lại từ cơn đau nhói như lửa đốt, phát hiện mình nằm trên nền đá xanh lạnh lẽo. Nàng mơ hồ mở mắt, cố nén cảm giác đau rát như bị thiêu sống, chống tay gượng dậy. Nhưng chỉ vừa động thân, cơn đau nhói xộc lên khiến trước mắt nàng tối sầm. Nàng thở gấp hai tiếng, móng tay bấm sâu vào lòng bàn tay, nhờ đó mà đầu óc dần thanh tỉnh.

Bốn phía quanh nàng là một vòng bùa chú màu vàng nhạt được viết bằng máu chó mực, trên đó là những văn tự Đạo gia, từng lá bùa bị ghim chặt xuống kẽ đá bằng dao gỗ đào. Máu tươi đỏ thẫm chảy dọc theo bùa, tụ lại ở mũi dao. Màu đen sẫm của gỗ đào hòa cùng sắc đỏ của máu tươi, tỏa ra một thứ ánh sáng âm u quỷ dị.

Lý Doanh lắc lắc đầu, cố xua đi cảm giác choáng váng, chậm rãi đứng dậy. Nhưng ánh mắt nàng bất giác khựng lại.

Hóa ra đây là một nhà lao lớn. Chính giữa gian phòng, một chiếc lồng sắt to lớn giam chặt lấy Thôi Tuần. Hắn nằm bất động bên trong, mắt nhắm nghiền, hàng mi dài rũ xuống, không rõ sống chết. Cần cổ trắng xanh như hạc của hắn bị một xích sắt đen sì, nặng trĩu khóa chặt. Sợi xích uốn lượn, gắn chặt vào một góc lồng giam, trông hắn chẳng khác nào một con ưng gãy cánh, bị vây nhốt, mặc người tùy ý xử trí.

Lý Doanh kinh hãi, vội vàng kêu lên: “Thập Thất lang!” Nàng vừa gọi vừa lao đến bên lồng sắt, định cứu hắn ra.

Nhưng chỉ vừa bước một bước, nàng lập tức cảm thấy như hàng ngàn ngọn lửa dữ dội thiêu đốt trên thân thể. Cơn đau xuyên thấu tận xương khiến nàng không kìm được tiếng hét, cả người ngã quỵ xuống đất.

Nàng mờ mịt nhìn vòng bùa chú vây quanh mình. Thì ra, đây chính là nhà lao giam giữ nàng. Hễ nàng bước ra, bùa chú kết từ máu chó và gỗ đào sẽ khiến nàng chịu nỗi thống khổ như bị thiêu sống. Nàng không tài nào thoát ra được.

Có lẽ do nghe thấy tiếng nàng kêu gào, Thôi Tuần khó nhọc mở mắt. Những ký ức lờ mờ ùa về. Đêm qua, hắn vốn định cứu Vương Huyên, không ngờ lại rơi vào bẫy của A Sử Na Ngột Đoá. Lý Doanh bị thương bởi máu chó mực, còn hắn bị người ta đánh ngất, sau đó không còn biết gì nữa.

Giờ đây, hắn cảm thấy cổ mình bị khóa chặt bởi thứ gì đó. Mà thứ này, hắn không thể nào quen thuộc hơn được.

Hắn đưa tay sờ thử, quả nhiên chạm phải một đoạn xích sắt lạnh lẽo, thô ráp.

Trong khoảnh khắc mơ hồ, hắn không phân biệt được đây là năm nào tháng nào. Cảnh tượng trước mắt tựa như đưa hắn quay về vương đình Đột Quyết, trở lại ngục thất Đại Lý Tự, nơi hắn từng bị giam cầm, chịu đựng hết ngày này qua tháng khác những cực hình và đày đọa. Ở nơi đó, hắn bắt đầu sợ ánh sáng, rơi dần vào bóng tối bất tận.

Bỗng nhiên, một giọng nói khẩn thiết vang lên: “Thập Thất lang… Thập Thất lang…”

Đó là giọng của một thiếu nữ, trong trẻo như dòng suối. Ý thức của Thôi Tuần bị kéo về thực tại chỉ trong chớp mắt.

Không, đây không phải là vương đình Đột Quyết, cũng không phải ngục thất Đại Lý Tự. Hắn không hề chìm trong bóng tối mãi mãi. Hắn đã được ánh trăng sáng chiếu rọi, từng bước thoát ra khỏi địa ngục vô biên.

Thôi Tuần dồn hết sức lực, gượng dậy tìm kiếm nơi phát ra giọng nói ấy. Khi nhìn thấy Lý Doanh đang bị nhốt trong vòng bùa chú, hắn sững sờ. Hắn lao đến cạnh lồng sắt, cố gắng vươn tay với lấy nàng. Nhưng sợi xích khóa chặt phần cổ hắn, bất kể hắn gắng sức đến mức nào, cho dù bị siết đến nghẹt thở, cũng không thể chạm tới dù chỉ một góc áo của nàng.

Nước mắt Lý Doanh rơi xuống lã chã. Nàng cũng muốn đưa tay chạm vào Thôi Tuần, nhưng dưới tác dụng của bùa chú, tay nàng vừa vươn ra liền như bị lửa nóng thiêu đốt, từng làn khói trắng bốc lên từ mu bàn tay, những mảng bọng nước dần hiện ra trên làn da trắng mịn như ngọc ngà. Nàng đau đến toàn thân run rẩy, nhưng vẫn không thể chạm tới đầu ngón tay hắn. Đúng lúc này, một tràng cười đột ngột vang lên: “Thật thú vị! Quả là thú vị!”

Đó là A Sử Na Ngột Đoá.

A Sử Na Ngột Đoá bước vào ngục thất, dáng vẻ chẳng khác nào lần đầu gặp Thôi Tuần. Đôi ủng da dê, một thân hồng y, mái tóc đen tuyền tết thành hai bím, kiều diễm rạng rỡ, chỉ có một điểm khác biệt duy nhất, đó là trên má phải của nàng ta xuất hiện một ấn ký hoa sen sống động như thật.

Nàng ta xách theo vài cái đầu người đẫm máu, rồi thẳng tay ném xuống đất. Những cái đầu lăn lóc, cuối cùng dừng lại ở giữa Thôi Tuần và Lý Doanh. Lý Doanh kinh hãi mở to mắt, nàng không nhận ra những người này, nhưng Thôi Tuần thì biết rõ. Đó chính là bốn người huynh đệ của hắn.

A Sử Na Ngột Đoá ung dung nói: “Liên Hoa Nô, duyên nợ giữa ta và ngươi, đều bắt nguồn từ ba chữ Liên Hoa Lang. Ta biết ngươi căm ghét ba chữ này, càng căm ghét đám huynh đệ từng đặt biệt danh ấy cho ngươi. Phụ thân ngươi thiên vị, kế mẫu tàn độc, ta liền tiện tay giết hết con cái của chúng, xem như báo thù cho ngươi.” Nàng dừng lại một chút, rồi bật cười: “Ngươi xem, ta đối với ngươi tốt đến nhường nào.”

Nhưng trong mắt Thôi Tuần lại không hề có nửa phần cảm kích, thậm chí hắn chẳng mảy may bận tâm đến cái chết của những huynh đệ kia, càng không để ý đến A Sử Na Ngột Đoá. Hắn chỉ đưa tay, muốn chạm vào Lý Doanh. Trong lòng A Sử Na Ngột Đoá dấy lên một cơn phẫn nộ. Nàng ta vì hắn liều mạng giết người, vậy mà hắn thậm chí không thèm liếc nhìn nàng ta lấy một cái. Ở Đột Quyết cũng thế, hắn đã mấy lần tìm cách bỏ trốn. Phụ hãn nói rằng trong lòng hắn có một ngọn lửa, một ngọn lửa có thể thiêu rụi cả thảo nguyên. Phụ hãn muốn giết hắn để trừ hậu họa, nhưng nàng ta liều chết bảo vệ hắn. Ấy thế mà hắn chẳng hề cảm kích, ngược lại càng thêm oán hận nàng.

Nàng ta vốn cho rằng hắn là người như thế, dù chịu nhục nhã lớn đến đâu, vẫn mãi mãi kiêu ngạo, mãi mãi lãnh đạm, không ai có thể chạm đến trái tim hắn. Nàng ta không thể, A Sử Na Gia cũng không thể.

Nhưng nàng ta đã lầm. Có một người làm được. Không, thậm chí không phải là một người, mà chỉ là một hồn ma, một con quỷ.

Sợi dây leo mang tên “đố kỵ” trong lòng A Sử Na Ngột Đoá vẫn không ngừng bành trướng. Chính sự đố kỵ ấy đã khiến nàng ta giết A Sử Na Gia, cũng khiến nàng ta không thể tha cho Lý Doanh.

Nếu không yêu nàng, vậy thì hãy hận nàng.

Đôi ủng da dê đạp lên ngón tay Thôi Tuần, hắn đau đến nhíu chặt mày. A Sử Na Ngột Đoá cười lạnh: “Đừng phí sức nữa. Khoảng cách này đã được ta tính toán cẩn thận, vừa đủ để các ngươi ở rất gần nhau nhưng vẫn bị nhốt trong lồng giam riêng biệt, vĩnh viễn không thể chạm tới nhau. Hừ, đời này ngươi đừng mong chạm vào nàng ta thêm một lần nào nữa.”

Thôi Tuần nghiến răng, ánh mắt tràn ngập sát ý nhìn A Sử Na Ngột Đoá, như thể muốn lột da, rút gân nàng. A Sử Na Ngột Đoá thở dài: “Ta từng nói rồi, ta ghét nhất là ánh mắt này của ngươi.”

Nàng ta bước đến cạnh nhà lao, tháo xích sắt bên lồng giam, nắm lấy đầu xích rồi giật mạnh một cái. Thôi Tuần bị kéo sang phía nàng, sợi xích càng lúc càng siết chặt. Cổ hắn trắng nhợt, loang lổ những vết máu ghê rợn. Hắn bị bóp nghẹt đến mức gần như không thể thở, vẻ mặt dần trở nên đau đớn. Lý Doanh kinh hoàng, muốn lao tới cứu hắn nhưng cơ thể đau nhức đến nỗi ngay cả ngón tay cũng không nhấc nổi, huống chi là cứu người.

A Sử Na Ngột Đoá tiếp tục căng chặt xích sắt, nhìn thần sắc đau khổ của Thôi Tuần, nàng nhướng mày: “Ngươi còn nhớ không? Ta đã nói, lồng sắt và dây xích, hai thứ này mới là thứ thích hợp với ngươi nhất. Chúng sẽ mài mòn móng vuốt của ngươi, bẻ gãy đôi cánh của ngươi, để ngươi đừng bao giờ mơ tưởng bay về Đại Chu nữa, mà phải ngoan ngoãn ở lại bên ta.”

Nói rồi, nàng ta thả lỏng dây xích, đưa tay vào lồng giam, bóp chặt cằm hắn. Lúc này, Thôi Tuần đã gần như kiệt sức, vừa rồi suýt bị siết đến ngất đi, đến cả việc hất tay nàng ta ra cũng không còn đủ lực. A Sử Na Ngột Đoá ngắm nhìn gương mặt ướt đẫm mồ hôi lạnh của hắn, nở nụ cười: “Liên Hoa Nô, ngươi rơi vào tình cảnh này, tất cả đều do lỗi của ngươi. Ai bảo ngươi sinh ra một gương mặt còn đẹp hơn cả hoa sen, lại mang một tính khí bướng bỉnh hơn cả chim ưng? Đàn ông như ngươi, bất kỳ quý nữ nào trên thảo nguyên cũng đều muốn chinh phục, không phải ta thì cũng là kẻ khác. Ngươi muốn trách, chỉ có thể trách chính mình.”

Nàng dứt lời, bỗng nghe một giọng nói tuy yếu ớt nhưng kiên định của thiếu nữ vang lên: “Không! Chàng không hề có lỗi, đừng đổ trách nhiệm lên đầu chàng!”

A Sử Na Ngột Đoá cau mày, buông Thôi Tuần ra, đứng dậy, quay người nhìn thiếu nữ đang bị phong ấn trong bùa chú. Nàng ta cười khẩy: “Suýt nữa thì quên mất ngươi.”

Lý Doanh gắng gượng ngồi dậy. Vì bị trói buộc bởi bùa chú, toàn thân nàng suy yếu vô lực, cơn đau như sóng lớn vồ vập không ngớt. Dù vậy, nàng vẫn trừng mắt nhìn A Sử Na Ngột Đoá, lạnh lùng nói: “Ngươi đừng đổi trắng thay đen nữa! Ngươi có bản tính độc ác, điều đó thì liên quan gì đến Thập Thất lang?”

“Thập Thất lang?” A Sử Na Ngột Đoá nhướng mày, ánh mắt lóe lên vẻ ghen tức: “Gọi thân thiết thật đấy!”

Nàng ta nghiêng đầu, đưa ánh mắt nhìn về phía Thôi Tuần trong lồng sắt, rồi mạnh tay giật xích: “Ngươi thà để một con quỷ thuần phục mình, cũng không muốn bị ta khuất phục, đúng không?”

Cổ của Thôi Tuần vốn đã bị xích sắt mài đến máu thịt be bét, bị giật mạnh càng khiến vết thương thêm đau đớn. Sắc mặt hắn tái nhợt như tờ giấy. Lý Doanh cắn răng: “Ngươi đừng làm tổn thương chàng nữa!”

Nàng trừng mắt nhìn A Sử Na Ngột Đoá, giọng nói rõ ràng: “Ta nói cho ngươi biết, ta chưa bao giờ thuần phục Thập Thất lang. Ta cũng giống ngươi, thích dung mạo của chàng, thích tính cách của chàng. Nhưng sự yêu thích của ta không phải là chinh phục hay chiếm hữu. Ta thật sự coi chàng là một con người, một con người bình đẳng với ta, chứ không phải một kẻ để ta thu phục. Ta tôn trọng chàng, yêu thương chàng, nên chàng cũng hồi đáp tất cả những điều ấy. Chúng ta yêu thương lẫn nhau. Nếu ngươi gọi tình yêu là thuần phục, vậy thì cả đời này, ngươi đừng hòng thuần phục được chàng!”

A Sử Na Ngột Đoá siết chặt xích trong tay. Bốn chữ “yêu thương lẫn nhau” kia chẳng khác nào một lưỡi dao sắc nhọn, cắm thẳng vào tim nàng ta. Một thoáng kinh hồng trong buổi lễ hiến tù binh năm xưa đã khiến đệ nhất mỹ nhân Tây Vực mắt cao hơn đầu là nàng ta lần đầu tiên biết si mê một người đàn ông. Những thủ đoạn tàn khốc sau đó chỉ nhằm ép hắn như một con chim ưng, cúi đầu thần phục mình. Nếu hắn chịu cúi đầu, nàng ta nhất định sẽ tháo bỏ xiềng xích, để hắn tự do tung cánh.

Nhưng hắn nhất quyết không chịu. Dù nàng ta hành hạ, nhục mạ thế nào, hắn vẫn không chịu.

Vì vậy, chuyện thuần phục hắn trở thành chấp niệm trong lòng nàng ta. Nhưng thử hỏi, điều nàng ta thực sự mong muốn chẳng lẽ chỉ là khuất phục hắn thôi sao?

Chẳng lẽ… không còn gì khác nữa sao?

Lý Doanh dường như nhìn thấu tâm tư của A Sử Na Ngột Đoá. Thấy nàng ta nổi giận vì bốn chữ “yêu thương lẫn nhau,” khóe môi Lý Doanh nhếch lên, nụ cười mỉa mai hiện rõ: “Ngươi thật đáng thương. Rõ ràng là ngươi gặp được chàng trước, nhưng lại không biết cách yêu thương chàng. Cả đời này, ngươi đừng mơ chiếm được chàng.”

“Câm miệng!” A Sử Na Ngột Đoá đột nhiên nổi cơn thịnh nộ: “Ta bảo ngươi câm miệng!”

Nàng ta cười lạnh: “Sao ta lại không chiếm được hắn?” Nàng ta giơ cao xích sắt trong tay: “Hắn đang ở trong tay ta đây!”

“A Sử Na Ngột Đoá……” Thôi Tuần bỗng dưng gắng sức gượng dậy, giọng hắn khàn khàn: “Đây không phải Đột Quyết. Dù ngươi có bắt ta thì cũng không thể thoát khỏi Trường An.”

“Ta vốn không định rời khỏi Trường An.” A Sử Na Ngột Đoá bình thản đáp: “Ta chỉ muốn giam ngươi ở đây, giam đến chết.”

A Sử Na Ngột Đoá nhìn nhà lao được xây bằng những khối đá xanh dày nặng, giữa các khối đá còn được trám kín bằng rêu mềm, khiến âm thanh trong ngục không thể vọng ra ngoài, rồi quay sang Thôi Tuần: “Dù ngươi có kêu cứu thế nào, người ngoài cũng chẳng nghe thấy. Nếu thật có người đến cứu, yên tâm đi, trước đó ta nhất định sẽ một đao g**t ch*t ngươi.”

Lý Doanh chợt cảm thấy sống lưng lạnh toát. Trái lại, Thôi Tuần dường như đã dần lấy lại sự bình tĩnh. Hắn đưa tay đè lên vết thương ở cổ, khó nhọc cất giọng khàn đặc: “Ở Trường An mà tìm được nơi thế này, quả nhiên chẳng dễ dàng gì.”

A Sử Na Ngột Đoá hừ lạnh thành tiếng, Thôi Tuần tiếp tục: “Không phải do ngươi sắp đặt.”

Hắn lại hỏi, giọng nghèn nghẹt: “Kế sách “chim sẻ chờ sau” này là do ai nghĩ ra?”

A Sử Na Ngột Đoá không đáp, ngược lại còn châm chọc: “Sao thế? Chẳng nhẽ chỉ mỗi mình người được sai người điều tra Trường Xuân Quán chứ chúng ta không được phép phát hiện, bày ra cạm bẫy, để ngươi tự bước vào sao?”

Nàng ta vô thức thốt ra hai chữ “chúng ta”, Lý Doanh cũng bất giác hít một hơi lạnh. Câu nói “Đế sát lục châu”, gian mật thất được xây bằng đá xanh cùng hai chữ “chúng ta” A Sử Na Ngột Đoá vừa nói khiến nàng liên tưởng đến một sự thật tàn khốc mà nàng không muốn tin nhất.

Ở Trường An, kẻ nào có thể sai khiến được A Sử Na Ngột Đoá, bắt cả Vương Huyên lẫn Thôi Tuần?

Kẻ nào dám lớn gan như vậy? Kẻ nào có bản lĩnh như thế?

Ngoại trừ người đó.

Rốt cuộc nàng cũng hiểu ra đầu đuôi câu chuyện. Hẳn là Vương Huyên đã phát hiện ra bí mật nào đó, nên mới bị bắt đến Trường Xuân Quán. Nhưng vị thư sinh yếu đuối này, dù trải qua cực hình, vẫn nhất quyết không hé răng nửa lời. Kẻ đứng sau càng lúc càng mất kiên nhẫn, vừa hay phát hiện ra mật thám của của Sát Sự Thính đến điều tra Trường Xuân Quán, thế là hắn bày kế dụ dỗ, để Thôi Tuần cứu lấy Vương Huyên cận kề cái chết, sau đó tương kế tựu kế, bắt luôn Thôi Tuần.

Khoan đã? Bắt Thôi Tuần? Lý Doanh ngẩng đầu, hỏi A Sử Na Ngột Đoá: “Tại sao ngươi phải rời cung? Chẳng lẽ ngay từ đầu, mục tiêu các người nhắm đến chính là Thập Thất lang?”

A Sử Na Ngột Đoá không phủ nhận. Tiếng Hán của nàng ta không trôi chảy, cũng chẳng nhận ra trong câu nói của Lý Doanh cố tình nhấn mạnh hai chữ “các người.” Nàng ta vô thức đáp trả: “Ai bảo hắn cứng đầu? Ai tin được hắn thật sự buông tay? Hừ, dù hắn có từ quan cũng không thể rời khỏi Trường An!”

Lời vừa dứt, trái tim Lý Doanh như rơi vào hầm băng.

A Sử Na Ngột Đoá thấy Lý Doanh thất thần, còn tưởng nàng hoảng hốt vì câu nói “một đao g**t ch*t Thôi Tuần” của mình. Chứng kiến Lý Doanh bận lòng vì hắn như thế, trong lòng A Sử Na Ngột Đoá chợt bừng lên một tia ghen tức. Nhìn vào chiếc lồng sắt chắc chắn, những thanh sắt đen thô ráp đan xen kín mít, khiến người ta dù mọc cánh cũng không thoát ra được, nàng ta cất giọng hỏi Lý Doanh: “Ngươi có biết ta đã chuẩn bị chiếc lồng này bao lâu rồi không?”

Lý Doanh ngây người.

A Sử Na Ngột Đoá lạnh nhạt nói: “Tròn hai tháng. Vốn dĩ không thể làm nhanh như vậy, nhưng ta đã thúc giục thợ rèn gấp rút hoàn thành. Ngươi biết vì sao không?”

“Vì sao?”

Đôi mắt của A Sử Na Ngột Đoá thoáng qua một tia oán hận: “Bởi vì ta đã nhìn thấy.”

“Thấy cái gì?”

“Thấy các ngươi cùng nhau bắt đom đóm, thấy hắn hái hoa tặng ngươi.” A Sử Na Ngột Đoá quay mặt đi, ánh mắt thoáng lướt qua Thôi Tuần đang bị xích trong chiếc lồng sắt, rồi quay lại nhìn Lý Doanh, người bị bùa chú giam cầm trong một không gian chật hẹp, vẻ mặt đầy ý vị: “Kể từ ngày đó, ta đã thúc thợ rèn làm gấp. Ta muốn nhốt hắn vào lồng, để hắn không thể bắt đom đóm hay hái hoa vì ngươi nữa. Còn ngươi, ta muốn nhốt ngươi ngay bên cạnh hắn, để hắn tận mắt chứng kiến ngươi đau đớn đến chết.”
 
Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh
Chương 139: Chỉ cần còn một hơi thở, hắn nhất định sẽ phản kháng đến cùng



A Sử Na Ngột Đoá nhấc lên một túi da dê dưới đất, bên trong đầy máu chó mực. Nàng ta mở nắp túi, một mùi tanh nồng nặc xộc thẳng vào mũi. A Sử Na Ngột Đoá cau mày, đưa tay che mũi tỏ vẻ ghê tởm. Nàng ta lắc nhẹ túi da, cất giọng nói với Lý Doanh: “Ngươi biết trong này là gì không? Máu chó mực tươi vừa lấy, người sống uống vào có thể thấy quỷ trong vòng mười hai canh giờ. Ta ngày nào cũng uống, uống đến mức muốn nôn ra, nhưng ta vẫn phải uống, chỉ để nhìn thấy ngươi. Hừ, trước khi thấy ma quỷ, ta nghĩ chúng thật đáng sợ. Nhưng khi đã nhìn thấy, lại chẳng còn sợ nữa. Đến lúc bắt được chúng, ta mới thấy chúng chẳng là gì cả!”

A Sử Na Ngột Đoá tiến lại gần Lý Doanh, từ từ nghiêng túi da, máu chó mực chảy xuống. Lý Doanh theo bản năng giơ tay lên chắn, nhưng máu chó dính lên cánh tay nàng, khói trắng lập tức bốc lên. Nàng cảm giác cánh tay mình như bị lửa thiêu, từng làn khói mỏng tản ra, vạn mũi kim nung đỏ như cùng lúc đâm sâu vào da thịt. Lý Doanh đau đến kịch liệt, nhưng nàng không muốn bật ra tiếng kêu, không muốn để Thôi Tuần lo lắng, cũng không muốn để A Sử Na Ngột Đoá thoả nguyện.

Đôi môi nàng bị cắn đến nát bấy, máu tươi chảy xuống theo khóe miệng. A Sử Na Ngột Đoá cười nhạt thành tiếng. Trong lồng sắt Thôi Tuần đã siết chặt mười ngón tay, hắn nghiến răng, ánh mắt trừng trừng nhìn A Sử Na Ngột Đoá: “Ngươi hận ta thì cứ nhằm vào ta, đừng làm tổn thương nàng ấy!”

A Sử Na Ngột Đoá khựng lại, quay phắt sang, dùng ánh mắt không tin nổi nhìn Thôi Tuần: “Đến tận lúc này? Ngươi vẫn nghĩ rằng ta hận ngươi? Ta vượt ngàn dặm từ Đột Quyết đến Đại Chu, ta gả cho một nam nhân mà ta không yêu, ngươi nghĩ rằng ta làm vậy là vì hận ngươi sao?”

“Chẳng lẽ không phải?” Thôi Tuần cười nhạo: “Ta đã hủy dung mạo của ngươi, thiêu chết phụ thân ngươi, biến ngươi từ đệ nhất mỹ nhân Tây Vực thành một ả đàn bà xấu xí, từ một công chúa Đột Quyết hô phong hoán vũ thành một phi tần hòa thân chịu cảnh nhẫn nhục. Chẳng lẽ không nên hận ta sao? Đừng nói với ta rằng ngươi yêu ta?”

A Sử Na Ngột Đoá giận đến đỏ ngầu hai mắt, lời Thôi Tuần nói rằng nàng ta yêu hắn chẳng khác nào một sự sỉ nhục. Phụ hãn của nàng ta từng đối với nàng ta tốt đến nhường nào, yêu thương biết bao, chỉ cần nàng muốn gì, Phụ hãn đều dâng đến tận tay. Sau khi Phụ hãn chết đi, mỗi ngày nàng ta đều nghĩ cách gi.ết ch.ết hắn. Làm sao nàng ta có thể yêu hắn?

Nhưng nếu không yêu hắn, tại sao nàng ta không muốn giết hắn? Nàng ta đã từng thề rằng sau khi thuần phục hắn, nàng ta sẽ giết hắn. Nhưng nàng ta biết rõ, nàng không thể thuần phục hắn. Hai năm ở Đột Quyết, nàng ta đã không làm được, huống hồ là ở Đại Chu? Nếu nàng ta mãi không thuần phục được hắn, chẳng lẽ nàng ta cũng sẽ mãi không giết hắn, mãi không báo thù cho Phụ hãn hay sao?

Sự việc đến nước này, ngay cả chính nàng ta cũng không rõ, rốt cuộc là hận, hay là yêu.

A Sử Na Ngột Đoá nắm chặt túi da dê trong tay. Không. Nàng ta hận hắn, nàng ta không hề yêu hắn. Nàng ta sẽ thuần phục hắn! Sẽ gi.ết ch.ết hắn!

Nàng ta cười lạnh một tiếng: “Nực cười, sao ta lại yêu ngươi được? Trong mắt ta, ngươi chẳng khác gì một con súc sinh ngang bướng, khó lòng thuần phục. Ngươi là Liên Hoa Nô của ta, là nô lệ của ta, sao ta có thể yêu một nô lệ?”

Chiếc túi da lại nghiêng về phía đỉnh đầu của Lý Doanh. A Sử Na Ngột Đoá liếc nhìn Thôi Tuần trong chiếc lồng sắt, chậm rãi nói: “Liên Hoa Nô, ta cho ngươi một cơ hội. Ngươi quỳ xuống, dập đầu nhận lỗi với ta, nói rằng ngươi đồng ý làm nô lệ của ta, ta sẽ thả nàng ta. Bằng không, một khi máu chó mực đổ xuống, con quỷ này sẽ thế nào, đến ta cũng không dám chắc.”

Tròng mắt Lý Doanh ánh lên lệ quang, nàng nhìn Thôi Tuần, lắc đầu không thốt lên lời.

Ngay từ đầu, nàng đã biết A Sử Na Ngột Đoá không giết nàng, tất nhiên là vì muốn dùng nàng để uy h**p Thôi Tuần.

Nhưng nàng không muốn Thôi Tuần vì nàng mà gập lưng khuất phục, quỳ gối van xin, làm mất đi lòng kiêu hãnh của hắn. Nếu vì nàng mà Thôi Tuần nhẫn nhục, làm nô lệ cho A Sử Na Ngột Đoá, vậy nàng thà chết còn hơn.

Lệ tràn ngập trong đôi mắt nàng, nàng nhìn Thôi Tuần, hắn cũng nhìn nàng. Trong bóng tối mịt mù của ngục thất, một giọt nước mắt lặng lẽ lăn xuống từ khóe mắt Lý Doanh, lướt qua gò má trắng ngần như ngọc, để lại một dấu lệ nhạt nhòa. Ánh mắt Thôi Tuần cũng phủ một tầng sương mờ, hắn cắn chặt răng, đột nhiên dời mắt đi, không nhìn nàng nữa mà bình tĩnh hỏi A Sử Na Ngột Đoá: “Nếu ta đồng ý làm nô lệ của ngươi, ngươi sẽ thả nàng chứ?”

A Sử Na Ngột Đoá ngẩn người, không ngờ Thôi Tuần lại đồng ý chóng vánh như vậy. Sáu năm chấp niệm rốt cuộc cũng đạt thành, nhưng trong khoảnh khắc ngắn ngủi đó, nhất thời lại chẳng rõ trong lòng là tư vị gì. Tim nàng ta đập dữ dội, luống cuống đáp: “Đúng vậy, chỉ cần người đồng ý làm nô lệ của ta, ta sẽ thả nàng ta!”

Sợ mình đáp ứng quá dễ dàng, lại lo lắng người Hán giảo hoạt, nàng ta bổ sung thêm: “Ngươi phải thề! Thề rằng đời này, kiếp này đều phải nghe lời ta, làm nô lệ của ta! Không, không chỉ đời này, mà cả kiếp sau, kiếp sau nữa, mãi mãi muôn đời, ngươi cũng phải là nô lệ của ta! Hãy lấy sinh mạng con quỷ này ra thề, có thế ta mới tin ngươi.”

Nét mặt nàng ta căng thẳng, còn Thôi Tuần thì khẽ cười: “Thề ư? Ngươi đừng vọng tưởng, ta sẽ không bao giờ đồng ý làm nô lệ của ngươi.”

A Sử Na Ngột Đoá hoàn toàn chết lặng.

Thôi Tuần lạnh lùng: “A Sử Na Ngột Đoá, ngươi là người đáng để tin tưởng sao? Làm sao ngươi có thể buông tha cho Minh Nguyệt Châu chứ?”

Ý thức được vừa bị Thôi Tuần lừa, A Sử Na Ngột Đoá lập tức nổi trận lôi đình. Nàng ta siết chặt túi da dê trong tay: “Ngươi không sợ ta giết ả sao?”

Thôi Tuần điềm nhiên: “Ta sợ. Nhưng dù ta có đáp ứng ngươi, ngươi vẫn sẽ giết nàng thôi.”

Thôi Tuần đã nói trúng tâm tư của A Sử Na Ngột Đoá. Nàng ta chưa từng có ý định tha cho Lý Doanh. Nghĩ đến việc bản thân thua một hồn ma, nàng ta chỉ hận không thể ăn tươi nuốt sống Lý Doanh ngay lập tức. Túi da dê nghiêng đi, máu chó mực sắp sửa trào ra, nhưng rồi lại dừng lại. A Sử Na Ngột Đoá do dự: Nếu thực sự gi.ết ch.ết Lý Doanh, nàng ta sẽ không còn nào uy h**p được Thôi Tuần.

Tuy nhiên, không giết thì vẫn có thể tra tấn.

Nàng ta cười lạnh: “Được thôi! Vậy ta sẽ tra tấn ả trước mặt ngươi, xem ngươi chịu được đến khi nào!”

Máu chó mực rơi xuống như mưa, nhuộm ướt bờ vai Lý Doanh. Nàng đau đớn quỵ xuống đất, nhưng lòng bỗng nhẹ nhõm lạ thường. Thậm chí, khóe môi nàng nhếch lên thành nụ cười, ánh mắt nhìn về phía Thôi Tuần.

Trái tim Thôi Tuần quặn đau như bị dao cắt, hắn siết chặt chấn song sắt, ánh mắt mờ mịt như sương, nhưng khóe miệng cũng hiện lên một nụ cười.

A Sử Na Ngột Đoá lặng người. Đây là tình huống quái dị gì thế này? Nàng ta tra tấn nữ nhân mà Thôi Tuần yêu trước mặt hắn, buộc hắn phải khuất phục, vậy mà hai người họ lại đang cười. Da đầu nàng ta tê dại, không kìm được hỏi: “Các ngươi cười gì?”

Lý Doanh nhịn đau, nhếch môi: “Chúng ta cười ngươi.”

“Các ngươi đều là tù nhân trong tay ta, lấy tư cách gì để cười nhạo ta?”

Lý Doanh điềm tĩnh: “Ngươi tưởng rằng ngươi đang tra tấn chúng ta sao? Không, ngươi khiến ta và chàng càng thêm gắn kết. Ta thà chết còn hơn phải nhìn chàng cúi mình van xin ngươi vì mình. Nếu chàng làm vậy, hành động đó chỉ có thể tự làm cảm động chính chàng, chứ chẳng thể lay động được ta. Nhưng chàng không làm thế, chàng không cầu xin ngươi. Điều đó không đáng để ta thấy vui mừng sao? Dù hôm nay ta và chàng có chết, chúng ta cũng chết trong sự thấu hiểu lẫn nhau. Còn ngươi, bận rộn suốt bấy lâu nay, ngươi được gì? Ngay cả một câu cầu xin từ chàng, ngươi cũng không thể có được!”

Thấu hiểu lẫn nhau… Lời của Lý Doanh như từng nhát dao đâm vào nỗi đau của A Sử Na Ngột Đoá. Nàng ta hận không thể đổ toàn bộ máu chó mực trong túi lên người Lý Doanh, nhưng Lý Doanh lại không chút sợ hãi, còn nhìn nàng ta với ánh mắt cảm thông: “Ngươi thật đáng thương. Trái tim chân thành mà ngươi mong muốn, lại đang ở chỗ ta.”

A Sử Na Ngột Đoá tức đến toàn thân lẩy bẩy: “Ta không cần trái tim hắn! Ta chỉ cần hắn thần phục ta! Ta không yêu hắn! Ta không thể nào yêu hắn!”

Bỗng nhiên, Thôi Tuần lên tiếng: “A Sử Na Ngột Đóa.”

Nàng ta nghiêng người nhìn hắn.

Thôi Tuần cười nhạt, cổ bị thương, máu thịt be bét, mỗi lời nói ra đều kéo theo cơn đau nhức nhối, khuôn mặt tái nhợt nhưng vẫn đẹp đẽ như một đóa sen. Hắn nhìn chằm chằm vào hình xăm hình hoa sen trên mặt A Sử Na Ngột Đoá, nhếch môi cười cợt: “Nếu ngươi không giết ta, chẳng phải chứng tỏ ngươi đã yêu kẻ thù gi.ết ch.ết cha ngươi. Hừ, đường đường là công chúa Ngột Đóa kiêu hãnh nhất của Đột Quyết mà lại không nỡ xuống tay với kẻ thù gi.ết ch.ết cha mình… Ngươi có còn xứng làm con cháu họ A Sử Na? Ngươi có còn xứng làm con gái của Đại hãn Đột Quyết?”

A Sử Na Ngột Đóa giận dữ tột cùng, nàng ta rút trường kiếm, sải bước tiến lên, chém đứt khóa sắt trên lồng giam, sau đó vung chân đá tung cửa lồng. Nàng ta lao về phía trước, mũi kiếm lạnh lẽo dí thẳng vào tim Thôi Tuần. Chỉ cần tiến thêm một tấc, nàng ta sẽ lấy được mạng hắn.

Thanh trường kiếm đã cắm sâu vào ngực hắn, một vệt máu nhỏ thấm ra, nhưng mũi kiếm không tiến thêm chút nào nữa. A Sử Na Ngột Đóa nắm chặt chuôi kiếm, ngón tay run rẩy. Đột nhiên, nàng ta chợt ngộ ra. Không, nàng ta không thể mắc mưu hắn, không thể để hắn chết dễ dàng như thế. Nàng ta muốn thuần phục hắn, hành hạ hắn, khiến hắn phải chứng kiến nàng ta gi.ết ch.ết Lý Doanh, để cả đời hắn sống trong đau đớn và tuyệt vọng!

Khi nàng ta định rút kiếm ra, Thôi Tuần đột nhiên giơ tay giữ lấy mũi kiếm. Lòng bàn tay hắn lập tức bị lưỡi kiếm sắc nhọn cứa sâu, máu tươi tuôn ra như suối. Hắn cắn răng chịu đau, đẩy mũi kiếm tiến thêm về phía ngực mình. A Sử Na Ngột Đóa sững người, ngỡ rằng hắn muốn tự sát. Trong cơn hoảng hốt, nàng ta buông chuôi kiếm, định giành lại thanh trường kiếm từ tay hắn. Nhưng đúng lúc ấy, Thôi Tuần bất ngờ phản công, xoay người đè nàng ta xuống đất. Tay kia của hắn giữ chặt chuôi kiếm, lưỡi kiếm hướng thẳng đến cổ họng nàng ta.

Biến cố xảy ra quá nhanh khiến A Sử Na Ngột Đóa không kịp phản ứng. Nàng ta quên mất rằng đây là Đại Chu, không phải Đột Quyết, nơi nàng ta có thể muốn làm gì thì làm. Dù ở Đột Quyết, nàng ta cũng từng bị Thôi Tuần dùng hỏa chiết châm lửa, suýt chút nữa thiêu chết cả nàng ta lẫn Phụ hãn ngay trong vương trướng.

Kẻ mà nàng ta gọi là “Liên Hoa Nô” này, chỉ cần hắn còn một hơi thở, hắn nhất định sẽ phản kháng đến cùng.

A Sử Na Ngột Đóa hối hận vô cùng. Nàng ta hận bản thân vì một phút nóng giận mà dễ dàng rơi vào bẫy của hắn. Nhưng trong nhà lao kín mít này, dù nàng ta có kêu cứu cũng chẳng ai nghe thấy.

Nàng ta dồn hết sức lực giữ chặt cổ tay hắn, cố gắng đẩy lưỡi kiếm ra xa cổ họng mình. Dẫu cổ tay Thôi Tuần từng bị nàng ta hành hạ đến nỗi không còn sức kéo nổi cây cung cũ, hắn vẫn là một nam nhân trưởng thành. Thêm vào đó, hắn biết rõ nếu thất bại, hắn và Lý Doanh sẽ không còn đường sống. Khi con người rơi vào tuyệt vọng, sức mạnh tiềm tàng sẽ bùng phát. A Sử Na Ngột Đóa chỉ có thể trơ mắt nhìn lưỡi kiếm ngày càng gần hơn với cổ mình.

Chỉ cần A Sử Na Ngột Đóa chết, Thôi Tuần sẽ thoát khỏi nhà lao này, tháo bỏ phù trận đang giam giữ Lý Doanh. Khi ấy, chẳng ai có thể ngăn cản được bọn họ, cả hai sẽ được giải cứu.



Nhưng đúng lúc đó, một tên Kim Ngô Vệ đứng canh bên ngoài phòng giam bắt đầu sốt ruột đã lâu không thấy động tĩnh. Gã nhận lệnh Thánh nhân bảo vệ Huệ phi, nếu Huệ phi xảy ra chuyện, gã cũng khó lòng giữ mạng.

Gã định vào phòng giam xem xét thì bị đồng đội ngăn lại: “Huệ phi tính tình kiêu ngạo, chúng ta không nên tự ý vào thì hơn.”

Tên Kim Ngô Vệ quát lớn: “Các ngươi nghe lệnh Huệ phi, hay nghe lệnh Thánh nhân?”

Đám người giật mình tỉnh ngộ. Phải rồi, Huệ phi chẳng qua chỉ là một phi tần được gả sang để hòa thân, bọn họ đương nhiên phải nghe lệnh Thánh nhân.

Vì vậy, một nhóm Kim Ngô Vệ cùng tiến vào. Vừa bước vào, họ nhìn thấy cảnh A Sử Na Ngột Đóa bị đè xuống đất, lưỡi kiếm sắp cắt đứt cổ họng nàng ta. Ai nấy kinh hãi, vội lao tới bắt giữ Thôi Tuần. Lúc này, cổ họng A Sử Na Ngột Đóa đã bị lưỡi kiếm rạch một vết dài, da thịt lật ra trông vô cùng ghê rợn. Một tên Kim Ngô Vệ đỡ nàng ta dậy, định hỏi nàng ta có bị sao không, nhưng liền bị nàng ta đẩy mạnh ra.

A Sử Na Ngột Đóa ôm lấy cổ, nghiến răng ken két, rồi mạnh tay tát thẳng vào mặt Thôi Tuần, lúc này đang bị đám Kim Ngô Vệ trói chặt.

Gò má trái của hắn lập tức sưng đỏ, khóe miệng rỉ ra một dòng máu, nhưng chừng đó vẫn chưa đủ để nàng ta nguôi giận. A Sử Na Ngột Đóa loạng choạng bước tới tháo cây roi treo trên tường. Lửa giận bừng bừng trong ánh mắt, nàng ta đá mạnh khiến Thôi Tuần ngã lăn xuống đất, roi quất tới tấp, không chút nương tay.

Nàng ta hận, hận chính mình lại lần nữa để con chim ưng này mổ mù mắt.

Loại roi treo trong lao thất là thứ chuyên dùng để tra tấn, thân roi đầy những gai móc ngược. Mỗi cú quất xuống, máu thịt b.ắn ra tung tóe. A Sử Na Ngột Đóa như muốn trút xuống sự phẫn nộ của mình, từng roi từng roi, không chút nương tay. Y phục của Thôi Tuần dần bị máu nhuộm đỏ, thế nhưng hắn vẫn cắn răng chịu đựng, tuyệt nhiên không phát ra dù chỉ một tiếng kêu đau.

A Sử Na Ngột Đóa căm hận nhất là bộ dạng này của hắn. Rõ ràng đã đau đến thấu xương, nhưng hắn vẫn cố không hé môi, chỉ có hận ý sâu thẳm trong đôi mắt mới là thứ chứng minh rằng hắn vẫn đang còn sống.

Nàng ta như trở về những ngày ở Đột Quyết, mỗi lần hắn bỏ trốn và bị bắt lại, nàng đều tức tối quất roi lên thân thể hắn. Càng quất càng mạnh, càng quất càng độc ác. Lý Doanh nóng ruột hét lên: “Ngươi dừng tay! Ngươi điên rồi sao?!”

Nhưng A Sử Na Ngột Đóa không thèm để ý đến nàng. Lúc này nàng ta đã chìm sâu vào cơn phẫn nộ của mình, từng roi quất xuống mang theo từng mảng máu thịt, cùng sự run rẩy của thân thể đau đớn. Thế nhưng, điều nàng ta chờ đợi – những lời cầu xin tha mạng – vẫn không xuất hiện.

Cả nhà lao ngập trong mùi tanh của máu. A Sử Na Ngột Đóa giống như kẻ điên, tiếng roi xé gió vang lên bén ngót, tiếp đó là âm thanh nặng nề khi chạm vào da thịt. Các Kim Ngô Vệ đứng bên ngoài không khỏi rùng mình, bất giác lui lại một bước. Không ai nhận ra, trong góc phòng, đôi mắt Lý Doanh đỏ rực, khắp người nàng dần bị một làn khói đen bao phủ…
 
Back
Top Bottom