Chào bạn!

Để có thể sử dụng đầy đủ chức năng diễn đàn Của Tui À bạn phải đăng nhập hoặc đăng ký.

Đăng Ký!

Dịch Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh

Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh
Chương 140: Lệ quỷ



Làn khói đen ấy như có sinh mệnh, không ngừng len lỏi vào trái tim của thiếu nữ, từng chút từng chút một gặm nhấm trái tim trong suốt như lưu ly của nàng. Hận thù và oán khí xâm chiếm, khiến đôi mắt vốn dịu dàng kia giờ chỉ còn lại sự phẫn nộ.

Nàng lặng nhìn bóng dáng A Sử Na Ngột Đoá trong bộ y phục đỏ rực, roi gai trong tay ả vun vút quất xuống, từng nhát nặng nề giáng lên thân thể lang quân mà nàng yêu thương nhất. Một giọt máu bắn lên, thấm vào đôi mắt nàng. Đồng tử nàng co rút lại, sắc đỏ như máu lan rộng khắp tầm mắt, nuốt chửng tia lý trí cuối cùng.

Đột nhiên, chiếc roi trong tay A Sử Na Ngột Đóa bị một lực vô hình giữ lại, lơ lửng giữa không trung. A Sử Na Ngột Đóa kinh ngạc quay đầu lại, chỉ thấy Lý Doanh chậm rãi đứng lên từ trung tâm phù trận. Búi tóc song hoàn vọng tiên bung ra, suối tóc đen tuyền xõa xuống, che khuất gương mặt trắng bệch như tuyết. Máu tươi từ mắt nàng chảy ra, theo gò má trượt xuống, tựa như những dòng huyết lệ.

Đám Kim Ngô Vệ đứng đó đều sởn hết tóc gáy. Dù đã uống máu chó mực để nhìn thấy nàng, nhưng đối diện với quỷ hồn, chúng vẫn không khỏi khiếp đảm. Cảnh tượng qủy dị trước mắt càng khiến chúng run lẩy bẩy.

A Sử Na Ngột Đoá quát lớn: “Lũ vô dụng! Ả đã bị phù chú giam cầm, các ngươi còn sợ cái gì?”, rồi chỉ tay về phía Lý Doanh: “Các ngươi, giết ả cho ta!”

Những Kim Ngô Vệ chỉ còn cách tuân lệnh, tay cầm đao run rẩy tiến lại gần Lý Doanh. Thế nhưng còn chưa kịp bước thêm, tầng khói đen quanh người Lý Doanh bỗng tản ra, tựa như những sợi dây thừng thít chặt lấy cổ họng chúng, nâng chúng lên giữa không trung.

Đám Kim Ngô Vệ điên cuồng vung tay, vùng vẫy trong vô vọng. Về phần Thôi Tuần, dù đã bị đánh đến nửa sống nửa chết nhưng vẫn cố gượng dậy. Hắn kinh hoảng nhìn những Kim Ngô Vệ đang dần nghẹt thở trên không, kinh hãi lẩm bẩm: “Dừng tay! Minh Nguyệt Châu! Mau dừng tay!”

Nếu còn không dừng lại, nàng sẽ hóa thành lệ quỷ mất!

Nhưng Lý Doanh đã bước qua đạo bùa vàng đang giam giữ nàng, tựa như đạp lên một chiếc lá khô vô nghĩa. Nàng từ từ tiến về phía A Sử Na Ngột Đóa. Mặt đối phương tái mét vì kinh hoàng, cuống cuồng chạy ra khỏi phòng giam, nhưng lại tầng khói đen chắn lối.

Lý Doanh đưa tay, cây roi với những chiếc gai móc ngược tựa như có mắt, rơi vào tay nàng. Nàng nắm chặt cây roi, gằn từng chữ hỏi A Sử Na Ngột Đóa: “Ngươi rất thích hành hạ người khác, đúng không?”

A Sử Na Ngột Đoá lùi lại một bước, nhưng cây roi như một con rắn luồn lách, vút thẳng vào mặt nàng ta. A Sử Na Ngột Đoá đau đớn ngã nhào xuống đất, Lý Doanh lạnh lùng hỏi: “Đau không?”

Trên gương mặt A Sử Na Ngột Đoá, một vết máu dữ tợn hiện lên. Nụ cười tàn nhẫn thoáng nở trên môi Lý Doanh, đó là một nụ cười mà trước nay nàng chưa từng có. Nàng đứng từ trên cao nhìn xuống A Sử Na Ngột Đóa đang cuộn tròn dưới đất, lại hỏi: “Khi roi quất lên người ngươi, ngươi có đau không?”

A Sử Na Ngột Đoá nghiến răng chịu đựng. Cơn đau thấu xương khiến thân thể nàng ta run lên từng hồi, nhưng vẫn cố trừng mắt, dùng cái nhìn khiêu khích đối diện với Lý Doanh: “Vì Thôi Tuần mà ngươi hóa thành lệ quỷ rồi sao? Ha ha ha, lệ quỷ giết người, thần Phật đều sẽ không tha cho ngươi!”

Những lời đó càng châm ngòi ngọn lửa giận trong lòng Lý Doanh. Cây roi vung xuống nặng nề, từng nhát càng thêm tàn độc. Thôi Tuần bấu lấy song sắt của chiếc lồng sắt, cố gắng đứng lên, nhưng cơ thể hắn lại khuỵu xuống trong vô lực. A Sử Na Ngột Đoá giãy giụa, Kim Ngô Vệ bị siết cổ treo lơ lửng trên không cũng giãy giụa. Thôi Tuần bất chấp cơn đau, ra sức bò về phía trước. Hắn nhất định phải ngăn cản Lý Doanh. Nếu nàng thực sự giết người, thì không còn cách gì vãn hồi được nữa.

A Sử Na Ngột Đoá bị roi đánh đến nỗi máu thịt tung tóe, dù có trốn thế nào cũng không thể thoát khỏi những cú đánh ác nghiệt. Thân thể nàng đầy rẫy thương tích, lớp này chồng lên lớp khác, cuối cùng nàng ta chọn buông xuôi, không buồn giãy giụa nữa, chỉ khóc nhọc ngẩng đầu, nhìn về thanh niên tuấn mỹ đang ngồi bên cạnh lồng sắt. Nhưng trong mắt hắn, trong lòng hắn chỉ có Lý Doanh đang bị oán khí cắn nuốt, đến một cái liếc mắt cũng chẳng hề hướng về phía nàng ta.

Khi cái chết gần kề, A Sử Na Ngột Đoá bật cười. Giờ đây, nàng ta mới nhận ra rằng, hóa ra nàng ta không thực sự cố chấp trong việc thuần phục hắn. Điều nàng ta cố chấp nhất, chính là một lần được hắn nhìn lại mình.

Và nàng ta cũng không thực sự thích gọi hắn là “Liên Hoa Nô”. Nếu có thể, nàng ta càng muốn gọi hắn một tiếng: “Thôi lang.”

Chỉ tiếc rằng, nàng ta đã nhận ra điều ấy quá muộn.



Thôi Tuần dùng chút sức lực cuối cùng bò về phía Lý Doanh, cố gắng ngăn nàng lại. Nhưng khi hắn vừa chạm đến mép váy của nàng, một luồng khói đen đặc tràn ra, bao phủ lấy hắn. Rõ ràng chỉ đang cách nhau gần trong gang tấc, nhưng hắn lại không tài nào chạm được vào nàng. Hắn chỉ có thể tuyệt vọng nhìn nàng siết cổ Kim Ngô Vệ, đánh chết A Sử Na Ngột Đoá. Trong phòng giam, xác chết nằm la liệt, mùi máu tanh nồng đậm đến ngột ngạt. Lý Doanh đờ đẫn nhấc chân, chậm rãi bước ra khỏi nhà lao.

Lúc này nàng đã hóa thành lệ quỷ, lý trí hoàn toàn tan biến. Nếu để nàng thoát ra ngoài, không biết bao nhiêu người vô tội sẽ bị sát hại.

Thôi Tuần không biết lấy đâu ra sức mạnh, hắn chịu đựng đau đớn, lảo đảo đứng dậy, nhặt lấy thanh trường kiếm rơi trên đất của Kim Ngô Vệ, rồi hét lớn: “Minh Nguyệt Châu!”

Lý Doanh quay đầu lại, nhưng ánh mắt nàng vẫn trống rỗng, như thể người đứng trước mặt không phải là lang quân nàng thương yêu nhất, mà chỉ là một kẻ xa lạ.

Thôi Tuần nắm chặt chuôi kiếm, đặt ngang trước cổ mình: “Minh Nguyệt Châu, nàng không thể để oán khí khống chế mình nữa! Nếu không, nàng sẽ rơi vào cảnh vạn kiếp bất phục!”

Lý Doanh nghiêng đầu, ánh mắt có vẻ ngờ vực. Thôi Tuần nhấn mạnh lưỡi kiếm thêm một chút, giọng hắn khản đặc: “Nếu nàng không tỉnh lại, ta sẽ tự kết liễu ngay trước mặt nàng!”

Thanh kiếm cắt sâu vào cổ hắn, máu tươi nhỏ giọt xuống mũi kiếm, từng giọt, từng giọt rơi trên nền đá xanh lạnh lẽo. Lý Doanh nhìn theo dòng máu đó, rồi ngẩng lên, ánh mắt khôi phục chút tỉnh táo: “Thập Thất lang?”

Thôi Tuần mỉm cười yếu ớt, cuối cùng hắn không còn sức lực để gắng gượng, ngã khuỵu xuống, một gối quỳ trên mặt đất. Lý Doanh giật mình, lao tới đỡ lấy hắn: “Thập Thất lang…”

Nàng nhìn quanh, đôi mắt tràn đầy hoang mang khi thấy những thi thể nằm rải rác khắp nơi: “Ta… là do ta sao?”

Thôi Tuần nắm chặt lấy bàn tay lạnh buốt của nàng, liên tục trấn an: “Không sao rồi… Nàng đã trở về rồi, sẽ không sao nữa…”

Làn khói đen bao quanh Lý Doanh nhanh chóng tiêu tan, nhưng đồng thời, ánh sáng trắng của niệm lực trên người nàng cũng theo đó tách rời, nhanh chóng tan biến. Trong nhà lao lát đá xanh, âm thanh của chú Phạn âm từ rõ ràng dần trở nên mơ hồ. Lý Doanh vốn là quỷ hồn, nhờ vào sự phụng thờ của bốn vạn ngôi chùa trên cả nước nên mới có thể tự do đi lại ở cõi trần như người sống. Nay nàng hóa thành lệ quỷ, sát hại không ít người, Phật pháp phản phệ khiến nàng sắp sửa hồn phi phách tán.

Thân hình Lý Doanh mềm nhũn, ngã vào lòng Thôi Tuần. Niệm lực nhanh chóng rút khỏi cơ thể nàng. Nàng cong môi, cười yếu ớt: “Ta… ta không hối hận vì đã giết bọn chúng… Thập Thất lang, chàng bình an… là tốt rồi…”

Niệm lực và chú Phạn âm hoàn toàn biến mất. Thân thể Lý Doanh mỗi lúc một suy kiệt. Từng giọt lệ như chuỗi trân châu bị đứt dây trào ra khỏi khóe mắt Thôi Tuần, rơi xuống mu bàn tay nàng. Lý Doanh gắng sức nâng tay, muốn lau đi dòng lệ ấy, nhưng tay vừa nhấc lên liền vô lực rũ xuống. Nàng tựa vào lòng hắn, khép dần đôi mắt.



Khi Ngư Phù Nguy bị lão bộc câm kéo đến phủ đệ của Thôi Tuần, hắn giật nảy người, thầm nghĩ hình như dạo gần đây hắn cũng đâu có đắc tội gì với Thôi Tuần. Mang theo tâm trạng bồn chồn, vừa đẩy cửa ra, đập vào mắt hắn chính là một Thôi Tuần toàn thân đầy máu và một Lý Doanh nằm rạp trên sạp thấp bằng gỗ hoa nam, sắc mặt trắng bệch như giấy.

Ngư Phù Nguy sợ đến mức suýt ngã nhào, ba bước nhập thành hai bước lao đến trước sạp thấp, quỳ sụp xuống: “Chuyện gì thế này?”

Thôi Tuần túm lấy ống tay áo hắn: “Ngư Phù Nguy! Hãy cứu nàng!”

“Công chúa đã xảy ra chuyện gì?”

Thôi Tuần hít sâu một hơi, cố gắng thuật lại mọi chuyện xảy ra trong nhà lao cho Ngư Phù Nguy nghe. Càng nghe lông mày Ngư Phù Nguy càng cau chặt: “Công chúa giết người… Không, sao nàng ấy có thể giết người được!”

Hắn căm tức nhìn Thôi Tuần. Lý Doanh sắp hồn phi phách tán, cảm giác máu dồn lên đầu khiến hắn không kiềm chế được nữa. Mặc kệ thân phận quan dân, hắn chỉ muốn đánh chết Thôi Tuần cho hả giận. Nếu không phải vì món nợ đào hoa của Thôi Tuần thì Lý Doanh đã chẳng phải nhúng tay vào sát nghiệp, chỉ để bảo vệ hắn.

Ngư Phù Nguy hết nắm tay, rồi lại buông lỏng. Hắn không phải hạng hồ đồ, không phân rõ phải trái. Món nợ đào hoa ấy cũng chẳng phải Thôi Tuần muốn gây ra, suy cho cùng, hắn cũng là kẻ bị hại.

Vì vậy, Ngư Phù Nguy chỉ có thể thở dài, nói: “Ta sẽ nghĩ cách cứu công chúa. Nhưng thương thế của ngươi cũng cần phải xử lý.”

Thôi Tuần thần trí đã hoang mang, mọi lời đều không lọt tai. Hắn chỉ nắm chặt lấy tay Lý Doanh, không dám buông lơi dù chỉ một khắc. Ngư Phù Nguy đành khuyên nhủ: “Ngươi không chữa trị vết thương cũng được, nhưng buông tay ra để ta bắt mạch cho công chúa.”

Lúc này Thôi Tuần mới định thần, chậm rãi thả tay. Ngư Phù Nguy đặt ba ngón tay lên cổ tay Lý Doanh, sắc mặt nặng nề. Thôi Tuần nhìn hắn cầu khẩn: “Thế nào?”

Ngư Phù Nguy trầm mặc một lúc lâu, sau đó mới nhẹ nhàng đặt cổ tay Lý Doanh vào lớp chăn gấm, giọng đầy vẻ nghi hoặc: “Lạ thật, tâm mạch của công chúa vẫn chưa đứt.”

“Ngươi nói tâm mạch chưa đứt là sao?”

“Theo lý, công chúa bị Phật pháp phản phệ, lẽ ra tâm mạch phải đứt đoạn, hồn phách phải lập tức tan biến. Nhưng dường như có một sức mạnh nào đó đã giữ lại một tia tâm mạch, đồng thời bảo vệ hồn phách của công chúa.”

Nghe vậy, lòng Thôi Tuần thoáng buông lỏng: “Vậy, vẫn cứu được Minh Nguyệt Châu, đúng không?”

“Có thể nói là có, nhưng cũng có thể là không.” Ngư Phù Nguy trầm ngâm: “Trước đây, công chúa cũng từng bị Phật pháp phản phệ một lần rồi, đúng chứ?”

Thôi Tuần sửng sốt: “Phải.”

Chính là lần Lý Doanh cưỡng ép hiện thân trước mặt Vương Nhiên Tê. Lý Doanh vốn là quỷ hồn, trừ phi người sống tự thấy được nàng, nếu không nàng cũng không thể dùng niệm lực tụ thành hình trước mặt người sống, bởi nếu làm thế sẽ làm rối loạn trật tự nhân gian.

Ngư Phù Nguy tiếp lời: “Lần đó, công chúa cũng chỉ còn lại một tia tâm mạch, nhưng tình trạng này giống như một ngọn đèn, trước khi dầu cạn thì đèn chưa tắt, nhưng nếu dầu đã cháy hết, thì đèn cũng sẽ lụi tàn.”

“Ý ngươi là, phải tìm ra cách cứu Minh Nguyệt Châu trước khi tâm mạch dứt hẳn, đúng không?”

Ngư Phù Nguy gật đầu: “Đúng vậy.”

“Lần trước, chính quả tần bà đã cứu Minh Nguyệt Châu.” Thôi Tuần thì thầm, rồi bất chợt nắm chặt cánh tay Ngư Phù Nguy, khẩn cầu: “Ngư Phù Nguy, ngươi hãy tìm thêm một quả tần bà nữa! Bao nhiêu vàng bạc ta cũng sẽ trả cho ngươi!”

Ngư Phù Nguy hất tay hắn ra: “Đây không phải chuyện tiền bạc! Tiền bạc ta muốn bao nhiêu cũng có, đâu cần ngươi đưa! Nhưng ta từng nói rồi, quả tần bà chỉ mọc bên bờ sông Nại Hà dưới âm ti, có thể chữa trị hồn phách, nhưng năm mươi năm mới kết một quả một lần. Lần trước, ta đã mua được một quả để cứu công chúa, nhưng lần này, công chúa nào đợi nổi những năm mươi năm?”

Thôi Tuần gần như tuyệt vọng. Đột nhiên, hắn chợt nghĩ đến điều gì đó: “Xá lợi Phật! Chuyện miêu quỷ lần trước, Tưởng Lương cũng suýt chút nữa hồn phi phách tán. Chính Minh Nguyệt Châu đã dùng Phật xá lợi để tu bổ hồn phách ông ta, khiến ông ta không bị hồn phi phách tán. Nếu có thể tìm được xá lợi Phật, nhất định sẽ cứu được Minh Nguyệt Châu!”

Nghe vậy, Ngư Phù Nguy mừng rỡ nói: “Đúng vậy, xá lợi Phật!”

Nhưng rồi hắn lắc đầu, nói: “Không được. Chưa nói đến chuyện xá lợi Phật ở tận Tây Vực, căn bản không kịp mang về để cứu công chúa, mà ngay cả khi có, cũng chưa chắc hữu dụng. Tưởng Lương bị Bắc Đẩu Phá Tà Phù đánh đến mức hồn phi phách tán, nên xá lợi Phật mới cứu được ông ta. Nhưng công chúa thì khác, nàng bị Phật pháp phản phệ. Xá lợi Phật thông thường sẽ không thể cứu được nàng.”

Thôi Tuần cắn răng: “Lẽ nào thật sự không còn cách nào để cứu Minh Nguyệt Châu sao?”

“Không hẳn. Tuy những xá lợi khác đều ở Tây Vực, nhưng ngay tại Trường An, vừa hay lại có một viên.”

Thôi Tuần sững người. Trong Phật tháp ở chùa Pháp Môn Trường An, có một viên xá lợi do Thái Tổ hoàng đế đích thân thỉnh về từ nước Ma Kiệt Đà. Năm Lý Doanh lên năm tuổi, Thái Xương Đế cùng Trịnh Hoàng hậu đã từng vào Phật tháp để dâng tóc, cúng dường viên xá lợi ấy.

Ngư Phù Nguy tiếp tục: “Trời cao phù hộ công chúa. Viên xá lợi trong Phật tháp ở chùa Pháp Môn vừa khéo lại chính là xá lợi Phật đỉnh.”

Xá lợi Phật đỉnh là phần xương đỉnh đầu của Phật Đà hóa thành, là thánh vật chí cao vô thượng trong thiên hạ. Ai dâng cúng xá lợi Phật đỉnh, sau khi qua đời sẽ không sa vào địa ngục, nhận được phúc báo vô biên.

Nếu có thể lấy được xá lợi Phật đỉnh, nhất định có thể cứu được Lý Doanh.
 
Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh
Chương 141: Xá lợi Phật đỉnh



Xá lợi Phật đỉnh không chỉ là chí bảo thiên hạ, mà còn là chí bảo của Đại Chu.

Xá lợi Phật đỉnh đã an vị tại chùa Pháp Môn suốt một trăm năm. Từ năm Thái Xương thứ chín, khi Thái Xương Đế cùng Trịnh Hoàng hậu mở tháp, dâng tóc cúng dường xá lợi Phật đỉnh, đã bốn mươi mốt năm trôi qua nhưng Phật tháp ở chùa Pháp Môn chưa từng được mở lại lần nào. Ngư Phù Nguy không nghĩ ra được lý do nào, đủ để khiến chùa Pháp Môn mở tháp, tình nguyện dâng xá lợi Phật đỉnh cho Lý Doanh.

Trừ phi lão trụ trì của chùa Pháp Môn đã hóa điên.

Trong đầu Ngư Phù Nguy chợt lóe lên một ý nghĩ, liệu có thể nhờ Thôi Tuần cầu xin Thái hậu, thưa rằng con gái bà đang nguy kịch, cần gấp xá lợi Phật đỉnh để cứu mạng hay không? Nhưng rất nhanh, hắn liền gạt bỏ ý nghĩ này. Xá lợi Phật đỉnh là thánh vật bậc nào, còn chuyện quỷ hồn lại hoang đường bậc nào, Thái hậu chưa chắc đã dễ dàng tin tưởng. Chỉ e Thôi Tuần còn chưa kịp mở miệng, những kẻ muốn hại hắn đã nhân cơ hội này, đẩy hắn vào chỗ chết trước rồi.

Cách này không được, cách kia cũng không xong, Ngư Phù Nguy bắt đầu nóng ruột. Nhìn tình trạng của Lý Doanh, e rằng nàng không thể chờ đợi lâu hơn nữa. Nếu trong ba ngày vẫn không có được xá lợi Phật đỉnh, chỉ sợ tâm mạch nàng sẽ đứt đoạn hoàn toàn.

Ngược lại, Thôi Tuần chợt trấn tĩnh hơn nhiều: “Ngư Phù Nguy, ta sẽ đến chùa Pháp Môn. Ngươi hãy chăm sóc Minh Nguyệt Châu thật tốt.”

Ngư Phù Nguy sững sờ: “Ngươi có cách ư?”

“Có.”

Thôi Tuần chỉ để lại câu ấy rồi mang theo cơ thể chồng chất vết roi, lật mình lên ngựa, phi nhanh về phía chùa Pháp Môn ngay giữa đêm.



Ngư Phù Nguy vạn lần cũng không ngờ, cái gọi là “cách” của Thôi Tuần lại là xông thẳng vào chùa Pháp Môn, ép buộc trụ trì phải mở tháp.

Trước Phật tháp, trụ trì chùa Pháp Môn cùng một đám tăng nhân nhìn nhau, vẻ mặt bối rối. Lão trụ trì đành bước lên một bước, chắp tay niệm Phật: “A Di Đà Phật. Thôi Thiếu khanh, xá lợi Phật đỉnh là chí bảo của Đại Chu, nếu không có thánh chỉ, lão nạp không dám tùy tiện mở tháp.”

Toàn thân Thôi Tuần như tắm máu, hắn chỉ chống đỡ bằng một hơi tàn, miễn cưỡng đứng vững nhờ thanh kiếm trong tay. Đôi mắt hắn rực lên như lửa, hung hăng nhìn chằm chằm vào lão trụ trì: “Sát Sự Thính phá án, ngươi dám không mở?”

Lão trụ trì khổ không nói nên lời, thầm than không biết vị La Sát khét tiếng này lại lên cơn điên gì nữa đây, sao lại đến chùa Pháp Môn quấy rối giờ này? Lão có ý sai tăng nhân đuổi hắn đi, nhưng lại không dám. Dù sao Thôi Tuần cũng là cận thần bên cạnh Thái hậu, đặc biệt sau vụ án Thiên Uy quân, Thánh nhân gần như trở thành con rối, quyền thế của hắn lại càng như mặt trời giữa trưa. Nghe nói bề ngoài hắn dâng tấu xin từ quan, nhưng thực chất lại đang nhắm đến vị trí Thượng thư Tả bộc xạ. Chẳng qua Thái hậu vẫn còn đang cân nhắc, chưa vội ban chức mà thôi.

Bằng sự sủng ái mà Thái hậu dành cho hắn, sớm muộn gì chiếc ghế Thượng thư Tả bộc xạ cũng sẽ thuộc về hắn, có thể nói là quyền khuynh triều dã.

Thế nên, lão trụ trì nào dám đắc tội với Thôi Tuần? Lão vừa kéo dài thời gian, vừa sai tăng lữ âm thầm phóng ngựa, thỉnh Kinh Triệu Doãn tới. Lão cẩn trọng hỏi: “Không biết Thôi Thiếu khanh muốn xá lợi Phật đỉnh để làm gì?”

“Ngươi quản ta làm gì?” Thôi Tuần siết chặt chuôi kiếm, lưỡi kiếm lạnh lẽo kề sát yết hầu trụ trì: “Còn dám dông dài nữa, ta liền gi.ết ch.ết ngươi ngay!”

Trụ trì kinh hãi, không dám nhúc nhích, một tiểu tăng trẻ tuổi nóng nảy bốc đồng đứng bên cạnh không nhịn được, quát lớn: “Thôi Thiếu khanh, đây là pháp tự, không phải Sát Sự Thính, sao ngươi dám tác oai tác quái?”

Ánh mắt Thôi Tuần băng giá, chỉ thoáng nhìn qua một cái, khí thế sắc bén khiến tiểu tăng kia sợ hãi, lùi tận mấy bước: “Các ngươi còn lắm lời nữa, ta sẽ thiêu rụi chùa Pháp Môn này!”

Trụ trì biến sắc, kêu lên thất thanh: “Thôi Thiếu khanh, chùa Pháp Môn là chùa của hoàng gia, ngươi dám?”

Thôi Tuần chỉ cười lạnh: “Trụ trì đại sư, ác danh của Thôi Tuần ta, chẳng lẽ ngươi mới nghe lần đầu? Ta nói dám đốt, thì nhất định sẽ đốt. Ngươi muốn thử ngay không?”

Trụ trì nào dám thử, đầu kiếm của Thôi Tuần đã đâm vào yết hầu của lão, sắc mặt hắn càng thêm hung dữ, trong giọng nói đã không còn chút kính nể nào: “Lão trọc, rốt cuộc ngươi mở hay không mở?”

Trụ trì mặt mày tái nhợt, biết Thôi Tuần thực sự dám giết mình, cắn răng hạ lệnh: “Người đâu! Mở Phật tháp!”



Cánh cửa gỗ nặng nề mở ra. Thôi Tuần nắm chặt kiếm, từng bước khập khiễng tiến vào trong tháp, sau lưng, cửa lớn chầm chậm đóng lại. Trước mắt trụ trì tối sầm, suýt nữa ngã quỵ xuống đất, các tăng nhân vội vàng đỡ lấy lão. Lão hỏi: “Tiết Triệu Doãn đến chưa?”

“Đã sai người đi mời.”

Pháp môn tự cách thành Trường An hơn hai trăm dặm, dù có phi ngựa nhanh nhất, đi đi về về cũng phải mất hai canh giờ. Trụ trì thở gấp, lẩm bẩm nói: “Lúc này, chỉ mong Phật Đà hiển linh, đừng để tên La Sát ấy cướp được xá lợi Phật đỉnh.”



Phật tháp cao mười ba tầng, tượng trưng cho mười ba vị Phật, xây dựng từ gạch đá, tổng cộng có hai trăm linh một bậc thang. Xá lợi Phật đỉnh được thờ phụng tại tầng thứ mười ba.

Thôi Tuần nhịn đau, chậm rãi tiến vào địa cung. Hắn đưa mắt nhìn quanh, chỉ thấy trên tường khắc một trăm lẻ tám vị La Hán, mỗi vị có thần thái khác nhau, nhưng tất cả đều trợn mắt giận dữ như Kim Cang. [1] Hắn nhìn trái, nhìn phải, nhìn trước, đều có cảm giác bị những đôi mắt ấy bao vây. Đầu óc hắn choáng váng, chỉ có thể chống kiếm xuống đất để gắng gượng đứng vững.

[1] Mình không quá am hiểu về Phật pháp, nhưng sau một hồi tìm hiểu thì mình đoán “Kim Cang” ở đây là Bồ Tát Kim Cang. Bồ Tát Kim Cang thường được mô tả với hình tượng tay cầm chày Kim Cang, biểu trưng cho quyền năng vượt trội có thể phá tan mọi chướng ngại trên con đường giác ngộ. Ngài thường được tạc tượng với dáng vẻ uy nghiêm, cầm các vũ khí như chùy, kiếm để biểu trưng cho sức mạnh bảo vệ Phật Pháp.

Dường như một trăm lẻ tám vị La Hán ấy đang chất vấn hắn: Một kẻ tay vấy đầy máu tanh như hắn, sao dám khuấy động sự thanh tịnh trong Phật tháp?

Thôi Tuần cúi mắt, không nhìn những pho tượng La Hán nữa, mím môi, dùng kiếm làm trụ, từng bước từng bước đi sâu vào địa cung.

Nơi sâu nhất của địa cung có một cánh cửa đá. Thôi Tuần đẩy cửa ra, trước mắt là bậc thang đá xanh dẫn lên trên. Hắn di chuyển đến bậc thang, đặt chân lên bậc đầu tiên. Nhưng ngay khi chuẩn bị bước lên bậc thứ hai, một luồng sức mạnh vô hình đột nhiên ập đến, hất hắn văng khỏi bậc thang!

Hắn ngã mạnh xuống nền đá xanh, những vết thương do roi quất lập tức nứt toạc, máu tươi trào ra, thấm vào từng viên gạch, loang lổ như suối đỏ.

Cơn đau dữ dội khiến thân thể Thôi Tuần run rẩy, nhưng hắn vẫn nghiến răng, từ từ bò dậy, cố gắng bước lên bậc thang lần nữa…

Nhưng dù cố gắng thế nào, mỗi khi bước lên bậc thang thứ hai, hắn vẫn bị một luồng sức mạnh vô hình ấy hất văng xuống. Lần thứ ba, thứ tư, thứ năm… tất cả đều như vậy.

Thôi Tuần gục trên nền đá, mồ hôi lạnh túa ra, đau đớn đến mức không thể kìm nén. Hắn bỗng ngộ ra: Hắn làm chức Thiếu khanh Sát Sự Thính ba năm, là con chó săn trung thành của triều đình, bài trừ chống đối, tay hắn nhuốm đầy máu tanh. Một kẻ như hắn, sao có thể bước lên Phật tháp, giành lấy xá lợi Phật đỉnh?

Nhưng nếu hắn không thể lên tháp, không thể lấy được xá lợi Phật đỉnh, Lý Doanh chắc chắn sẽ tuyệt mệnh, hồn phi phách tán.

Đôi mắt hắn đỏ ngầu, cười khổ một tiếng, lẩm bẩm: “Phật Đà chứng giám, Thôi Tuần ta tội ác chồng chất, nhưng Minh Nguyệt Châu thanh khiết vô tì vết, nàng không đáng phải chịu cảnh hồn bay phách lạc. Cầu xin Phật Đà đừng vì ta mà giáng tội lên nàng. Ta nguyện mỗi bước một lạy, thành tâm bước lên Phật tháp.”

Nói rồi, hắn thực sự quỳ xuống dưới bậc thang, nặng nề cúi đầu dập lạy, sau đó loạng choạng đứng dậy, bước lên bậc thang thứ nhất. Hắn lại quỳ xuống, dập đầu.

Khi hắn gắng gượng bước lên bậc thứ hai, lần này, không còn bị hất xuống nữa.

Trong lòng Thôi Tuần khấp khởi vui mừng, hắn quỳ xuống, dập đầu, giọng nghẹn ngào: “Tạ ơn Phật Đà.”



Mỗi bậc thang, hắn đều quỳ xuống, dập đầu. Chưa qua hai mươi bậc, đầu gối đã trầy trụa rướm máu, chỉ cần cử động nhẹ cũng đau đến thấu xương. Trán hắn đã vỡ toạc, nhưng hắn dường như không hề hay biết, vẫn lảo đảo đứng lên, quỳ xuống, dập đầu.

Tiếng trán va vào nền đá vang vọng trong tháp, giữa bậc thang giờ đây là một vệt máu dài.

Hơi thở Thôi Tuần ngày càng nặng nề, mắt hắn hoa đi, cơn choáng váng dữ dội ập đến. Hắn bấu chặt móng tay vào lòng bàn tay, cưỡng ép bản thân giữ vững thần trí. Ngẩng đầu nhìn bậc thang dài dằng dặc không thấy điểm cuối, ánh mắt hắn lại càng thêm kiên định.

Lý Doanh vì hắn đã làm bao nhiêu điều, đã cứu hắn bao nhiêu lần, kéo hắn ra khỏi vực sâu địa ngục. Hắn chỉ dập đầu trăm lần, thì có đáng gì?

Nếu ngay cả điều này cũng không làm được, hắn đâu xứng để nói yêu nàng?



Bên ngoài Phật tháp, trụ trì và một nhóm tăng nhân lo lắng chờ đội quân của Kinh Triệu Doãn. Không ít tăng nhân trong lòng không ngừng rủa xả Thôi Tuần, mắng hắn vô pháp vô thiên, mắng hắn kiêu ngạo càn rỡ.

Nhưng trong tháp, vị Thiếu khanh Sát Sự Thính bị gọi là “càn rỡ” kia lại đang kéo theo tấm thân tàn tạ, quỳ suốt hai trăm linh một bậc thang, dập đầu hai trăm linh một lần, gần như hấp hối bò lên đến tầng thứ mười ba.

Hắn đã không còn chút sức lực nào nữa, nằm rạp xuống nền đá, mê man bất tỉnh.

Trên trán hắn, vết thương to bằng miệng bát không ngừng rỉ máu, từng giọt đỏ tươi thấm vào khe nứt của phiến đá. Máu hòa cùng bụi đất, loang lổ đỏ đen. Hắn chìm trong cơn mê man rất lâu, đầu ngón tay rốt cuộc hơi động đậy.

Chậm rãi mở mắt, hắn dùng khuỷu tay chống người, từng chút từng chút lê bước về phía thạch thất trên đỉnh tháp.

Chính giữa thạch thất, một bàn thờ sơn đen được đặt trang nghiêm, phía trên bày một bảo tháp bằng vàng ròng, mái đơn, bốn cửa mở ra bốn hướng. Trong tháp, một viên ngọc phát ra ánh sáng lung linh rực rỡ, hẳn chính là xá lợi Phật đỉnh.

Thôi Tuần mừng rỡ khôn xiết, hắn gần như vừa lăn vừa bò, tiến đến bàn thờ. Vịn chặt mép bàn, hắn gian nan đứng dậy, cẩn trọng đưa tay chạm vào tháp vàng, muốn lấy xá lợi Phật đỉnh ở bên trong.

Nhưng ngay khoảnh khắc đầu ngón tay chạm vào cạnh tháp, một cơn đau bỏng rát như lửa thiêu lập tức bùng lên, đau đến tận tủy. Hắn tái mặt, ngón tay run rẩy buông thõng. Không dấu vết tổn thương nào lưu lại trên da thịt, nhưng cơn đau lại chân thực đến khó tin.

Hắn không cam lòng, thử vươn tay, chạm vào xá lợi Phật đỉnh thêm lần nữa. Nhưng giống hệt lúc ở bậc thềm, dù cố gắng bao nhiêu lần, ngay khi đầu ngón tay hắn vừa chạm vào, nỗi đau như lửa đốt lại khiến hắn phải lùi bước, hắn không cách nào chạm vào được.

Thôi Tuần nhìn chằm chằm vào viên xá lợi gần trong gang tấc, bỗng cười thê lương, quỳ sụp xuống trước bảo tháp. Ba năm qua, từng cảnh tượng cứ thế hiển hiện trước mắt hắn, mà rõ ràng nhất chính là khoảnh khắc hắn lừa Lý Doanh vào Địa phủ chịu chết. Trong đầu hắn cứ mãi quẩn quanh hình ảnh trong mộng cảnh của đèn mượn mệnh, Lý Doanh bị Ba Nhân Tượng nuốt chửng, máu nhuộm đỏ cả dòng Nại Hà. Vì lời dối trá của hắn mà nàng suýt nữa đã bỏ mạng ở Địa phủ. Tất cả đều là tội nghiệt của hắn, là nghiệp chướng của hắn, hắn không cách nào biện bạch.

Ngũ nghịch thập ác, kết thành nghiệp chướng.

Hắn chưa tiêu trừ được nghiệp chướng, tất nhiên không thể lấy được xá lợi Phật đỉnh.

Thôi Tuần mím môi, cúi đầu dập mạnh một cái, rồi ngẩng lên. Trong khoảnh khắc ấy, đôi mắt hắn lại tĩnh lặng đến lạ thường. Hắn chậm rãi thốt lên từng chữ: “Phật Đà chứng giám, ta, Thôi Tuần tội nghiệt sâu dày, ác giả ác báo. Nguyện sau khi chết, không vào luân hồi, hồn phi phách tán, tan thành tro bụi, lấy đó để chuộc lại tội nghiệt một đời. Đổi lại, cầu cho những người đã bị ta làm hại, sớm đăng cực lạc, vãng sinh tịnh thổ.”

Thần hồn tiêu tán, hồn phi phách tán.

Hồn phi phách tán. Dù là kẻ đại gian đại ác, chí ít vẫn còn hi vọng được giải thoát sau khi trả xong tội nghiệt, chịu đủ cực hình dưới Địa phủ. Còn hồn phi phách tán, đồng nghĩa với vĩnh viễn không còn tồn tại, không có hi vọng, không có tương lai.

Một khi hồn phi phách tán, hồn phách sẽ không nhập Địa phủ, cũng không có kiếp sau. Từ đây, Lý Doanh sẽ không bao giờ tìm thấy hắn được nữa. Đó chính là sự trừng phạt lớn nhất dành cho hắn.

Dùng hình phạt này để chuộc lại tất cả tội nghiệt, để gột rửa máu tanh trên tay, để đổi lấy vãng sinh cho những kẻ đã chết oan dưới lưỡi đao của hắn.

Như vậy, liệu có đủ để hắn giành được xá lợi Phật đỉnh, cứu Lý Doanh chưa?

Nói xong, Thôi Tuần lại dập mạnh đầu xuống đất ba lần nữa, chậm rãi đứng dậy. Hắn vươn tay, thử lấy xá lợi Phật đỉnh thêm lần nữa. Lần này, nỗi đau rát bỏng như lửa thiêu đã hoàn toàn biến mất. Hắn thuận lợi đưa tay vào tháp vàng, lấy ra xá lợi Phật đỉnh.

Thôi Tuần nắm chặt xá lợi Phật đỉnh trong tay, ánh mắt vừa bi thương lại vừa vui sướng, nước mắt rơi xuống như mưa.

Minh Nguyệt Châu, được cứu rồi.

Mà hắn, cũng không còn kiếp sau nữa.

Hắn lặng người đứng đó hồi lâu, vốn định gắng gượng rời đi, nhưng ánh mắt lại vô tình rơi vào hai hộp gỗ mở sẵn trên bàn thờ.

Bên trong mỗi hộp đặt một lọn tóc, có lẽ là tóc của Thái Xương Đế và Trịnh hoàng hậu, dùng tóc thay đầu, cúng dường xá lợi Phật đỉnh.

Thế nhưng, Thôi Tuần lại nhìn chằm chằm vào chiếc hộp đựng tóc của Thái Xương Đế. Trong đó, ngoài một lọn tóc, còn có một tờ giấy gai vàng được gấp ngay ngắn, bên trên viết rõ ngày tháng năm sinh.

Hắn mở tờ giấy ra, dòng chữ hiện lên trước mắt: “Ngày hai mươi bảy, tháng Giêng, năm Tân Tỵ.”

Đây là sinh thần bát tự của Lý Doanh, không phải của Thái Xương Đế.

Vậy nên lọn tóc trong hộp cũng không phải của Thái Xương Đế, mà là của Lý Doanh.

Ánh mắt Thôi Tuần dừng lại trên tháp vàng. Thì ra, mạch tâm của Lý Doanh vẫn chưa dứt là bởi năm Thái Xương thứ chín, Thái Xương Đế đã xuống địa cung, dùng tóc của Lý Doanh, lấy tóc thay đầu, cúng dường xá lợi Phật đỉnh.

Ai dâng cúng xá lợi Phật đỉnh, sau khi qua đời sẽ không sa vào địa ngục, nhận được phúc báo vô biên. Không ngờ rằng, Thái Xương Đế lại đem cơ duyên hưởng phúc báo này, nhường lại ái nữ mà ông yêu thương nhất.
 
Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh
Chương 142: Con đường Thôi Tuần sắp đi, là con đường chết chắc



Bên ngoài Phật tháp, trụ trì cùng các tăng nhân vẫn đang sốt ruột chờ đợi, nhưng người đến không phải là Kinh Triệu Doãn, mà là Thôi Tuần vừa lấy được xá lợi Phật đỉnh, khập khiễng bước ra từ cửa gỗ sơn son đang mở rộng.

Tóc hắn rối bời, mấy lọn tóc đen rối loạn bết trên khuôn mặt, hắn tựa như vừa bò ra từ vũng huyết, toàn thân đẫm máu, thê thảm không nỡ nhìn. Bộ y phục đỏ sậm đã chẳng còn nhận ra màu sắc ban đầu, vầng trán như ngọc có thêm một vết thương lớn bằng miệng bát, máu tươi không ngừng rỉ ra, trượt qua mi tâm, trượt xuống sống mũi. Đầu gối hắn cũng bê bết máu, mỗi bước đi đều cực kỳ khó nhọc, nếu không có trường kiếm làm trụ, e rằng hắn đã sớm gục ngã.

Tất cả mọi người đều không khỏi hít sâu một hơi khí lạnh. Thôi Tuần lúc này, chẳng khác nào La Sát bước ra từ Địa ngục, đáng sợ đến mức khiến họ không tự chủ nổi, phải lùi về sau mấy bước.

Nhưng hắn đã chẳng còn sức để bận tâm đến những người đó, chỉ chống kiếm, từng bước xiêu vẹo rời khỏi chùa Pháp Môn.

Mọi người đưa mắt nhìn nhau, trụ trì muốn mở miệng hỏi nhưng lại không dám, chỉ có thể lặng lẽ theo sau hắn. Mãi đến khi Thôi Tuần chống đỡ được thân mình ra khỏi chùa Pháp Môn, leo lên lưng bạch mã cột sẵn ngoài cổng, trụ trì không nhịn được nữa, vội níu lại dây cương: “Thôi Thiếu khanh, xá lợi Phật đỉnh là chí bảo của Đại Chu, ngươi không thể mang đi!”

Thôi Tuần chỉ lạnh nhạt liếc nhìn lão ta, rồi giơ roi ngựa lên, dồn hết sức lực quất thẳng vào mặt trụ trì.

Trụ trì kêu thảm một tiếng, ngã nhào xuống đất.

Thôi Tuần chẳng hề để tâm, giương roi thúc ngựa, phi nhanh về Trường An.

Chúng tăng lúc này mới bừng tỉnh, luống cuống nâng trụ trì dậy. Lão run rẩy cả người, trong màn đêm, một vết roi dài đỏ thẫm chạy ngang nửa gương mặt.

Trụ trì lẩm bẩm: “Ngông cuồng… Ngông cuồng đến thế này! Thật không còn vương pháp nữa rồi! Không còn vương pháp nữa rồi!”



Bên trong Thôi phủ, tâm mạch của Lý Doanh ngày càng yếu ớt. Ngư Phù Nguy bắt mạch cho nàng, sắc mặt đại biến, nếu tình trạng này tiếp diễn, đừng nói là ba ngày, e rằng ngay trong đêm nay nàng sẽ hồn bay phách lạc.

Nàng đã giết hơn mười người, lần này bị phản phệ bởi Phật pháp, xem ra nghiêm trọng hơn rất nhiều so với lần nàng hiện thân bức ép Vương Nhiên Tê trước đó.

Ngư Phù Nguy nóng lòng đến mức đi đi lại lại, không biết Thôi Tuần có lấy được xá lợi Phật đỉnh hay không. Nếu còn không có được, Lý Doanh thật sự sẽ không qua khỏi.

Đúng lúc hắn không thể chờ thêm nữa, định tự mình đến Pháp Môn Tự cầu xá lợi, cửa bỗng nhiên “rầm” một tiếng bật mở.

Thôi Tuần, toàn thân đẫm máu, loạng choạng đẩy cửa bước vào. Ngư Phù Nguy quay đầu lại, sững sờ: “Thôi Thiếu khanh? Ngươi làm sao thế này?”

Thôi Tuần gạt tay Ngư Phù Nguy, người đang định đỡ hắn, tập tễnh bước tới trước chiếc sạp thấp bằng gỗ hoa nam. Hắn cẩn thận lấy xá lợi Phật đỉnh từ trong ngực, đặt vào tay Lý Doanh.

Xá lợi Phật đỉnh là vốn là di cốt trên đỉnh đầu của Phật Đà, tượng trưng cho trí tuệ và lòng từ bi của ngài. Viên xá lợi tròn trịa như ngọc, trong suốt lấp lánh. Vừa chạm vào tay Lý Doanh, nó liền tỏa ra ánh sáng nhu hòa, ấm áp, bao phủ toàn thân nàng.

Ngư Phù Nguy lập tức nhào tới, bắt mạch cho Lý Doanh. Chỉ thấy tâm mạch nàng tuy vẫn yếu, nhưng đã không còn dấu hiệu đứt đoạn như trước, trái lại đang dần hồi phục những nhịp đập.

Ngư Phù Nguy mừng rỡ kêu lên: “Xá lợi Phật đỉnh có tác dụng! Công chúa được cứu rồi!”

Thôi Tuần vô lực quỳ ngã xuống đất, nhìn Lý Doanh trên giường, khóe môi cuối cùng cũng hé ra một nụ cười nhẹ nhõm. Lệ nóng từ trong mắt hắn chảy xuống, hòa vào vệt máu trên mặt, như thể nước mắt và máu đan xen. Hắn vừa khóc vừa cười: “Minh Nguyệt Châu… Minh Nguyệt Châu…”

Ngư Phù Nguy phấn khởi nói: “Tuy công chúa trọng thương nhưng với xá lợi Phật đỉnh này, chắc chắn nàng sẽ tỉnh lại!”

Thôi Tuần dần trầm tĩnh hơn, ánh mắt lưu luyến muốn chạm vào gương mặt Lý Doanh. Nhưng khi nhìn xuống bàn tay dính đầy máu của mình, hắn khựng lại, cầm lấy một tấm lụa bên cạnh, cẩn thận lau sạch, rồi mới đưa tay chạm nhẹ lên khuôn mặt nàng.

Cơ thể nàng lạnh như băng, bàn tay hắn khẽ miết lên từng đường nét, ánh mắt tràn đầy quyến luyến. Một lúc lâu sau, hắn mới thu tay, quay sang nhìn Ngư Phù Nguy, người vẫn còn đang vui mừng. Hắn hơi cụp mắt, bỗng gắng sức chống người dậy, trịnh trọng quỳ xuống trước mặt Ngư Phù Nguy.

Ngư Phù Nguy giật mình hoảng hốt: “Thôi Thiếu khanh, ngươi làm gì đấy?”

Hắn vội vàng cúi người đỡ Thôi Tuần, nhưng Thôi Tuần không đứng dậy. Ngư Phù Nguy bất đắc dĩ, đành quỳ đối diện hắn, nói: “Ngươi là quan viên tứ phẩm, lại quỳ trước một dân thường như ta, ta không nhận nổi.”

Thôi Tuần lắc đầu: “Ta quỳ trước mặt tiên sinh là để cầu tiên sinh đồng ý với ta một chuyện.”

“Chuyện gì?”

Thôi Tuần nhắm mắt, che giấu nỗi đau vô tận trong đáy mắt. Khi mở mắt ra, hắn chậm rãi nói từng chữ một: “Cầu xin tiên sinh, đưa Minh Nguyệt Châu đến Vong Tử Thành.”

Ngư Phù Nguy sững sờ: “Ngươi nói cái gì?”

“Ta nói, xin tiên sinh hãy đưa Minh Nguyệt Châu đến Vong Tử Thành.”

Một thoáng im lặng bao trùm, Ngư Phù Nguy tức giận đến nhảy dựng lên, bất chấp thân phận quan dân, túm chặt lấy vạt áo Thôi Tuần mà quát: “Ngươi bị điên hay bị ngu rồi? Ngươi muốn đưa công chúa đến Vong Tử Thành? Ngươi có biết một khi nàng vào đó thì không thể ra ngoài nữa không?”

“Không thể ra ngoài trong mười năm, nhưng hai mươi năm sau, nhất định nàng sẽ ra được. Đợi đến khi những kẻ muốn giết nàng đều chết sạch, nàng tự khắc có thể ra ngoài.”

Ngư Phù Nguy giận dữ gầm lên: “Ta không quan tâm mười năm hay hai mươi năm, nhưng Vong Tử Thành là nơi nào chứ? Dù chỉ một ngày, ta cũng không nỡ để nàng ở đó! Ngươi nói yêu ngươi công chúa, đây chính là cách ngươi yêu nàng sao? Công chúa có mắt như mù nên mới động lòng với một kẻ khốn nạn như ngươi!”

Hắn phẫn nộ đến mức chỉ muốn tung một quyền nhắm thẳng vào mặt Thôi Tuần, nhưng nhìn bộ dạng y lúc này, toàn thân đẫm máu, chỉ e một đấm của hắn có thể đoạt đi nửa mạng của y. Nếu Lý Doanh tỉnh lại, nhất định sẽ trách mắng hắn. Ngư Phù Nguy kiềm chế cơn giận bằng chút lý trí còn sót lại, nghiến răng nói: “Nghe cho rõ đây, chỉ cần ta còn sống một ngày, ta tuyệt đối không để ngươi đưa công chúa vào Vong Tử Thành!”

“Nhất định phải đến Vong Tử Thành!”

Thôi Tuần đột nhiên nâng giọng, quát lớn.

Ngư Phù Nguy sững người.

Thôi Tuần nhếch môi cười khổ: “Ta đã cướp xá lợi Phật đỉnh từ chùa Pháp Môn, quan binh truy bắt ta có lẽ đã lên đường rồi cũng nên. Chẳng bao lâu nữa ta sẽ vào ngục, không thể bảo vệ Minh Nguyệt Châu được nữa. Vì vậy, tiên sinh hãy đưa nàng đi, mang theo cả xá lợi Phật đỉnh, rời khỏi đây ngay lập tức!”

Ngư Phù Nguy trừng lớn mắt, giọng lắp bắp: “Ngươi nói cái gì? Xá lợi Phật đỉnh được ngươi cướp về từ chùa Pháp Môn? Ngươi không muốn sống nữa sao? Ngươi dám cướp xá lợi Phật đỉnh?”

“Minh Nguyệt Châu không thể đợi lâu hơn nữa.” Thôi Tuần nhìn Lý Doanh đang hôn mê bất tỉnh trên sạp gỗ hoa nam. Hắn thì thào: “Đây là cách nhanh nhất.”

“Ngươi… Ngươi…” Ngư Phù Nguy hoàn toàn cứng họng, buông tay khỏi vạt áo Thôi Tuần, trong lòng hỗn loạn. Một lát sau, hắn chợt nói: “Vẫn còn kịp! Ta sẽ đưa các ngươi rời khỏi Trường An, cùng lắm thì đến Tây Vực, thiên hạ rộng lớn thế này, tất sẽ có chốn dung thân.”

Thôi Tuần lắc đầu: “Ta không rời khỏi Trường An, cũng sẽ không đi Tây Vực.”

Ngư Phù Nguy kinh ngạc: “Ngươi không rời khỏi Trường An, cũng không đi Tây Vực, chẳng lẽ định ở lại đây chờ chết sao?”

Thôi Tuần vẫn cố chấp nói: “Ta sẽ không rời Trường An.”

Ngư Phù Nguy gần như muốn nhảy dựng lên: “Vì sao ngươi không chịu rời khỏi Trường An? Chẳng lẽ ngươi vẫn còn tiếc nuối chức quan này?”

Thôi Tuần bình thản đáp: “Ta chưa từng để tâm đến chức quan này, nhưng còn một chuyện ta chưa làm xong, ta không thể rời khỏi Trường An.”

“Chuyện gì?” Ngư Phù Nguy cười lạnh: “Ngươi nói xem, rốt cuộc là chuyện gì?”

“Sự thật về cuộc thảm án Thiên Uy quân.” Thôi Tuần gằn từng chữ: “Nếu ta không đưa hung thủ ra trước công lý, ta sẽ không rời khỏi Trường An!”

“Hung thủ?” Ngư Phù Nguy sững sờ: “Không phải là đám Lư Dụ Dân sao? Chẳng phải chúng đều phải bị trừng trị cả rồi sao? Còn hung thủ nào nữa?”

Thôi Tuần lắc đầu: “Vẫn còn một kẻ.”

Hắn mím chặt môi, lưu luyến nắm lấy bàn tay lạnh băng của Lý Doanh trên giường, ngón tay đan vào nhau, tựa như lần đầu gặp gỡ: “Ta đã trộm xá lợi Phật đỉnh, tất nhiên sẽ bị tống vào ngục, nhưng nếu có thể may mắn giữ được mạng, ta nhất định phải bắt kẻ thủ ác đền tội. Nhưng kẻ đó… không phải người ta có thể đối phó… cũng không phải người Minh Nguyệt Châu có thể đối phó…”

Hắn nhẹ nhàng siết lấy tay nàng, từng giọt lệ từ hốc mắt hắn rơi xuống, thấm vào mu bàn tay nàng. Trong cơn mê man, hàng mi dài của Lý Doanh bỗng run lên, tựa như cảm nhận được điều gì. Giọng hắn trầm thấp: “Nếu Minh Nguyệt Châu ở lại đây, nàng ấy sẽ đau lòng, sẽ khó xử… Nhưng dù có đau lòng, có khó xử, nhất định nàng vẫn sẽ bất chấp tính mạng để giúp ta. Ta không biết khi ấy sẽ xảy ra chuyện gì, lại càng không dám nghĩ đến. Ngư tiên sinh, ta cầu xin người, hãy đưa nàng đi đi. Chỉ khi đến Vong Tử Thành, nàng mới không thể quay về tìm ta nữa…”

Ngư Phù Nguy đờ đẫn. Hắn không biết kẻ thủ ác trong miệng Thôi Tuần là ai, nhưng trực giác mách bảo, kẻ đó nhất định là người có quyền thế ngập trời, lại có mối quan hệ sâu xa với Lý Doanh. Mà ở Đại Chu này, ai là người vừa có quyền thế vượt xa cả Lư Dụ Dân lẫn Bùi Quan Nhạc, lại vừa có mối quan hệ sâu xa với Lý Doanh?

Nghĩ đến đây, lòng hắn lạnh toát, không dám đào sâu thêm nữa.

Hắn lầm bầm: “Nếu đã biết không thể đối phó được, vì sao còn cố chấp chống lại người đó?”

Thôi Tuần nghe vậy, chỉ nhếch môi cười nhạt, giọng điệu tự giễu: “Ta biết vụ án Thiên Uy quân đến đây đã là kết cục viên mãn nhất rồi. Kẻ cầm đầu đã bị trừng phạt, các tướng sĩ được minh oan, gia quyến cũng được an bài ổn thỏa. Nếu ta cứ truy đuổi mãi, chẳng khác nào gây rối không đúng lúc, khiến người đời chán ghét không thôi. Nhưng mỗi khi nhắm mắt, ta lại thấy cảnh Tào Ngũ và những người khác ngã xuống trong vũng máu. Ta không thể vượt qua được nỗi day dứt này… Trừ khi ta chết, bằng không, ta nhất định sẽ chống lại đến cùng.”

Dẫu con đường phía trước gập ghềnh trắc trở, nhưng lòng này vững như bàn thạch, dù chín lần chết vẫn không hối hận.

Ngư Phù Nguy dùng thần sắc nghiêm nghị, nhìn chằm chằm vào một kẻ mang đầy tai tiếng, Thiếu khanh Sát Sự Thính, Thôi Tuần. Trong lòng hắn, đây là lần đầu tiên dâng lên một tia kính trọng đối với người này.

Hắn trầm mặc giây lát, không tiếp tục khuyên can mà chỉ nói: “Nhưng ngươi không có tư cách quyết định thay công chúa. Ngươi dựa vào đâu để đưa công chúa đến Vong Tử Thành, trong khi chưa nhận được sự đồng ý của nàng?”

Thôi Tuần chỉ lặng lẽ nắm lấy tay Lý Doanh, nhìn nàng, bật cười thê lương: “Ai bảo Thôi Tuần ta là một kẻ đê tiện, tội ác chồng chất kia chứ?”

Kẻ đê tiện, chỉ có thể làm những chuyện đê tiện.

Nàng không nên yêu một kẻ như hắn.

Hắn nói: “Ngư Phù Nguy, người của Kinh Triệu Doãn sắp đến rồi, rốt cuộc ngươi có đưa nàng đi không? Nếu không, ta sẽ tìm Quỷ thương khác đưa đi.”

Ngư Phù Nguy nghiến răng. Con đường phía trước của Thôi Tuần là con đường chết chắc, nếu Lý Doanh ở lại, nàng sẽ cùng hắn bước lên con đường đó. So với việc để nàng hóa thành lệ quỷ, suýt nữa hồn phi phách tán, chi bằng đưa nàng đến Vong Tử thành, chí ít còn giữ được tính mạng.

Ngư Phù Nguy gật đầu: “Được, ta đưa nàng đi!”

Thôi Tuần như trút được gánh nặng, quỳ xuống dập đầu trước Ngư Phù Nguy: “Đa tạ.”

Nhưng đúng lúc này, từ khóe mắt của Lý Doanh đang hôn mê bất tỉnh bỗng chảy xuống một giọt lệ. Trái tim Thôi Tuần quặn thắt, đau đớn tột cùng. Hắn siết chặt bàn tay nàng, đặt xá lợi Phật đỉnh vào lòng bàn tay nhỏ bé, để ánh sáng trắng dịu nhẹ như dòng suối thấm vào thân thể nàng. Khi hắn định rút tay về, nàng như có chút ý thức, bất giác nắm chặt lấy đầu ngón tay hắn, từng giọt lệ lặng lẽ tuôn rơi, càng lúc càng nhiều.

Thôi Tuần lòng đau như cắt, hắn nhẫn tâm bẻ từng ngón tay nàng ra, rút tay về, cất giọng trầm khàn: “Đưa nàng đi đi.”

Ngư Phù Nguy mím môi, ánh mắt ảm đạm, bế Lý Doanh đang nằm trên sạp gỗ, không quay đầu lại, lao thẳng ra ngoài.

Trên chiếc sạp thấp bằng gỗ hoa nam, hơi ấm vẫn còn vương lại. Ngọn nến trong phòng lay động, ánh sáng chập chờn.

Chỉ còn lại một mình Thôi Tuần.

Hắn khoanh chân ngồi dưới đất, tà áo vấy đầy máu, mệt mỏi nhắm mắt lại, bình thản chờ đợi khoảnh khắc Kinh Triệu Doãn phá cửa xông vào.
 
Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh
Chương 143: Vết thương trên người hắn đã quá nhiều rồi



* Chương này có rất nhiều phần độc thoại nội tâm của Lư Hoài, trong các phần độc thoại nội tâm đó, mình sẽ chiếu theo góc nhìn của Lư Hoài, gọi Thôi Tuần là “y” hoặc “hắn” tuỳ theo hoàn cảnh cụ thể.

Nửa đêm, Thôi Tuần đột nhập vào chùa Pháp Môn, cưỡng đoạt xá lợi Phật đỉnh, còn quất roi làm trọng thương trụ trì ngôi chùa. Tin tức truyền đến cung Đại Minh, khắp cung đều chấn động.

Trụ trì chùa Pháp Môn dẫn theo hàng ngàn tăng lữ, khóc lóc cầu xin Thái hậu và Thánh nhân làm chủ. Chứng cứ rành rành, ngay cả Thái hậu cũng không thể bao che, đành hạ lệnh giam Thôi Tuần vào ngục thất của Đại Lý Tự.

Đêm đó, Đại Lý Tự khanh* Lư Hoài vội vã vào cung, yết kiến Thái hậu và Thánh nhân. Trong điện Bồng Lai, Lư Hoài bẩm báo: “Sau khi Thôi Tuần bị giam, bất luận tra hỏi thế nào, hắn cũng không chịu hé răng nửa lời. Nếu cứ tiếp tục thế này thì chỉ còn cách dùng hình.”

*Gốc là Đại Lý Tự khanh, mình cũng không rõ tác giác viết nhầm hay Lư Hoài được thăng chức. Tự khanh là người đứng đầu Đại Lý Tự, còn Thiếu khanh là cấp phó.

Long Hưng Đế phẫn nộ: “Dùng hình thì dùng hình! Đại Lý Tự các khanh có bao nhiêu hình phạt, cứ mang ra dùng hết đi! Trẫm không tin hắn không chịu khai nhận!”

Lư Hoài mím môi, không lên tiếng. Sau bức rèm châu, giọng Thái hậu chậm rãi vang lên: “Lư khanh, khanh nghĩ sao?”

Lư Hoài cúi đầu đáp: “Tình trạng của Thôi Tuần không ổn lắm. Trên người có mấy chục vết thương do roi gai gây ra, da thịt rách nát. Trán và đầu gối đều bị thương nghiêm trọng. Nếu tiếp tục dùng hình, thần e rằng hắn không chịu nổi, vì vậy thần đã tự ý tìm đại phu, trị thương cho hắn.”

Long Hưng Đế cười lạnh: “Hắn vào ngục Đại Lý Tự của ngươi, chẳng lẽ là để dưỡng thương?”

Lư Hoài không dám trả lời. Thái hậu lại hỏi: “Hắn đi cướp xá lợi Phật đỉnh thì sao lại bị thương đến mức này? Ai đã đả thương hắn?”

“Thần không rõ. Hỏi Thôi Tuần, hắn cũng không đáp.”

Thực ra, từ khi bị giam vào ngục, Thôi Tuần chưa từng mở miệng. Lư Hoài hỏi hắn xá lợi Phật đỉnh đang ở đâu, hắn không nói. Hỏi vì sao phải cướp xá lợi Phật đỉnh, hắn không nói. Hỏi ai đã đánh hắn, hắn cũng không nói. Ngay cả khi hỏi có tìm thấy Vương Huyên chưa, hắn cũng chẳng thèm trả lời.

Chỉ đến khi Lư Hoài mời đại phu trị thương, hắn mới có chút phản ứng, cố chấp giữ chặt áo, không cho đại phu cởi ra. Lư Hoài tức giận quát: “Ngươi bị thương đến mức này còn không chịu cởi áo, chẳng lẽ muốn chết hay sao?”

Thế nhưng Thôi Tuần vẫn không chịu buông tay. Lư Hoài mất kiên nhẫn, ra lệnh cho ngục tốt ghìm chặt hắn, mạnh tay lột áo ra. Vừa trông thấy cảnh tượng trước mắt, Lư Hoài lập tức sững sờ. Hắn đã chuẩn bị tinh thần cho những vết roi, nhưng những vết thương cũ trên người Thôi Tuần lại khiến hắn kinh hãi.

Ngục tốt vẫn giữ chặt Thôi Tuần, nhưng lần này hắn không hề giãy giụa. Lư Hoài ngỡ mình nhìn lầm, liền cầm một ngọn đèn dầu, soi kỹ từng vết sẹo. Hắn chạm vào vết thương lõm xuống trên xương bả vai của Thôi Tuần, đó có vẻ là dấu tích khi bị gai sắt đâm xuyên qua để lại.

Lư Hoài biết năm đó, Thôi Tuần từng chịu cực hình suốt một năm ở Đại Lý Tự. Nhưng Đại Lý Tự không có dạng hình cụ này.

Những vết thương này, hẳn không phải do Đại Lý Tự tra tấn.

Dưới ánh đèn, vết sẹo nhạt màu, tiệp với da thịt, bề mặt nhẵn nhụi, có lẽ đã qua nhiều năm. Nhưng không quá mười năm, bởi mười năm trước, Thôi Tuần chỉ mới mười ba tuổi, vẫn còn sống tại phủ Thôi gia.

Khi đó, Lư Hoài từng gặp hắn vài lần trong những yến hội của thế gia Trường An, trông hắn hoàn toàn bình thường, không hề giống người từng chịu qua cực hình.

Vậy thì, những vết thương này hẳn là sau khi hắn tòng quân thì mới có.

Nhưng Quách Cần Uy của Thiên Uy quân yêu thương binh sĩ như con ruột, bởi vậy những vết thương này tuyệt đối không thể do thời gian ở Thiên Uy quân mà thành. Sau Thiên Uy quân, chính là hai năm ở Đột Quyết.

Lư Hoài trầm giọng hỏi: “Những vết thương cũ này, rốt cuộc là do đâu mà có? Là người Đột Quyết làm sao?”

Thôi Tuần chỉ nhắm mắt, không đáp. Lư Hoài lại nói: “Chẳng phải ngươi đã đầu hàng Đột Quyết rồi sao? Chẳng phải còn làm Hữu Hiền vương của Đột Quyết sao? Vì sao lại ra nông nỗi này?”

Tin đồn nói rằng Thôi Tuần vừa đến Đột Quyết liền trở thành khách trong màn của công chúa Đột Quyết, hưởng hết vinh hoa phú quý. Nhưng bộ dáng này của y lại hoàn toàn trái ngược.

Thôi Tuần không trả lời, mắt khép chặt, nhưng hàng mi run rẩy đã để lộ nỗi nhục nhã và thống khổ trong lòng hắn.

Lư Hoài nâng giọng: “Thôi Vọng Thư, rốt cuộc người Đột Quyết đã làm gì ngươi?”

Bàn tay cầm đèn dầu của Lư Hoài cũng hơi run rẩy, hắn không thể không lấy làm sợ hãi.

Kể từ khi Thôi Tuần dùng mạng, thúc đẩy việc phơi bày sự thật về vụ án Thiên Uy quân, Lư Hoài đã thay đổi cách nhìn đối với y. Thậm chí hắn còn có phần nghi ngờ về việc Thôi Tuần từng đầu hàng Đột Quyết. Một kẻ tham sống sợ chết thì sao dám buông bỏ tính mạng, đứng ra kêu oan cho Thiên Uy quân đã chết từ cách đây sáu năm?

Nhìn thấy những vết thương cũ trên người Thôi Tuần, nghi hoặc trong lòng Lư Hoài dường như đã có đáp án. Hắn chợt nghĩ đến suốt sáu năm qua, mình đã nhục mạ Thôi Tuần thế nào, đã dùng những lời lẽ cay nghiệt ra sao. Thậm chí hắn còn cố ý sai người gửi đến một bình rượu hoa sen, chỉ để châm chọc Thôi Tuần. Nếu… nếu Thôi Tuần thực sự chưa từng đầu hàng Đột Quyết, vậy thì những lời lẽ miệt thị, những sỉ nhục mà hắn dành cho y… rốt cuộc là gì đây?

Lư Hoài siết chặt ngọn đèn dầu trong tay: “Thôi Vọng Thư, có phải người Đột Quyết đã tra tấn ngươi không?”

Thôi Tuần cuối cùng cũng mở mắt. Ánh mắt hắn tràn ngập vẻ chế giễu, không rõ là cười nhạo Lư Hoài hay đang tự cười nhạo chính mình. Hắn mở miệng, giọng điệu lạnh lẽo vang lên trong phòng giam u tối: “Đúng vậy, không chỉ tra tấn, mà còn có lễ hiến tù binh, còn có l*t s*ch quần áo, nhốt vào lồng chó như súc vật để người ta mặc sức dòm ngó. Giờ ngươi hài lòng rồi chứ?”

Đồng tử Lư Hoài co rút, bàn tay run bắn khiến ngọn đèn dầu rơi xuống đất, lăn lóc sang một bên.

Thôi Tuần là đệ tử thế gia, hắn cũng vậy. Hắn hiểu rõ hơn ai hết một kẻ sinh ra trong dòng dõi ấy, từ nhỏ đã được dạy dỗ theo quy tắc “sĩ khả sát bất khả nhục”, thì khi phải đối mặt với sự sỉ nhục này, sẽ có cảm giác ra sao.

Huống hồ, Bác Lăng Thôi thị, chính là đệ nhất vọng tộc trong thiên hạ, đứng đầu hàng ngũ thế gia. Một đích tử của Thôi thị lại bị dày vò đến mức này, nỗi nhục ấy càng không thể tưởng tượng nổi.

Nói xong, Thôi Tuần dường như đã dùng hết toàn bộ khí lực. Hắn khép mắt, chẳng buồn nhìn sắc mặt của Lư Hoài, cũng chẳng muốn nhìn đám ngục tốt. Dù là đồng tình hay chấn động, đối với hắn mà nói, tất thảy đều là sự sỉ nhục thêm lần nữa.

Nắm tay Lư Hoài dần co lại. Hắn nhìn thân thể chằng chịt vết sẹo của Thôi Tuần, trong đầu lại hiện lên hình ảnh năm đó khi hắn gặp y ở Trường An, trước khi y gia nhập Thiên Uy quân. Đó là một thiếu niên như minh châu mỹ ngọc, kiêu ngạo không ai sánh bằng, phảng phất như trong mắt y, trời đất này không ai đáng để bận tâm. Nhưng ai có thể ngờ, một thiếu niên kiêu hãnh như thế, lại có ngày rơi vào tay Đột Quyết, chịu cảnh sống không bằng chết?

Ngực hắn như có một ngọn lửa thiêu đốt, không rõ là tức giận bản thân, hay phẫn nộ vì Thôi Tuần, hoặc oán hận đám người Đột Quyết. Hắn túm lấy đại phu đang lẩy bẩy bên cạnh, gầm lên: “Dùng thuốc tốt nhất! Chữa khỏi cho hắn! Không được để hắn chết trong nhà lao của Đại Lý Tự ta!”

Sau đó, hắn buông đại phu ra, lại quay sang bọn ngục tốt: “Chăm sóc hắn cho cẩn thận, cần thay y phục thì thay y phục! Nếu hắn còn giãy giụa không chịu, thì trói lại rồi thay! Còn nữa, bất luận là kẻ nào cũng không được phép động hình với hắn!”



Lư Hoài rời khỏi ngục thất, lật tìm lại hồ sơ vụ án cũ khi Đại Lý Tự thẩm vấn Thôi Tuần. Trong hồ sơ ghi chép, dù chịu đủ mọi cực hình nhưng vẫn y một mực khẳng định rằng mình chưa từng đầu hàng Đột Quyết. Hẳn người trực tiếp hành hình năm ấy cũng đã nhìn thấy những vết sẹo khủng khiếp trên người y, nếu chịu khó điều tra kỹ hơn, chắc chắn sẽ có thể tìm ra chân tướng. Thế nhưng, chẳng những Đại Lý Tự không điều tra mà ngược lại chỉ lo ép cung bằng cực hình. Nếu không phải cuối cùng Thái hậu ra tay cứu giúp, Thôi Tuần e rằng đã bỏ mạng trong ngục Đại Lý Tự từ lâu rồi.

Lư Hoài siết chặt hồ sơ, lòng hắn rối bời. Vì sao Đại Lý Tự lại ngoan cố không nghe, không nhìn, chỉ chăm chăm tra tấn y? Liên hệ với chân tướng vụ án Thiên Uy quân bị diệt toàn quân, rồi lại nghĩ đến việc Thôi Tuần lấy mạng ra để lật lại bản án, hắn đã có câu trả lời. Có kẻ không muốn Thôi Tuần còn sống, bước ra khỏi Đại Lý Tự.

Thôi Tuần chịu nhục ở Đột Quyết, khó khăn lắm mới trở về Đại Chu thì lại một lần nữa rơi vào địa ngục ở Đại Lý Tự, chịu đủ cực hình ngoan độc. Không ai thấu hiểu nỗi oan của y, cũng không ai muốn cứu y. Nếu y không chọn làm tay sai cho Thái hậu, liệu y còn có thể sống sót không?

Những chuyện xảy ra tại Sát Sự Thính sau này… từ cổ chí kim, tranh đấu quyền lực vốn luôn là cuộc chiến đẫm máu tàn khốc. Nếu dùng tiêu chuẩn của một kẻ thuần khiết vô tì vết để phán xét y, đúng, y không phải là người tốt. Nhưng sau những gì đã trải qua, liệu y còn có thể làm một người tốt nữa hay không?

Lư Hoài tự vấn lòng mình, nếu đổi lại là hắn, liệu hắn còn có thể làm một người tốt, làm một quân tử nữa không?

Không… Chỉ e rằng vào ngày bị đem ra hiến tù binh, vì không chịu nổi nỗi nhục này mà hắn đã tự sát từ lâu rồi.

Hắn, không làm được.



Trong điện Bồng Lai, khi đối diện với sự kiên quyết của Long Hưng Đế trong việc dụng hình, Lư Hoài trầm giọng đáp: “Bẩm Thánh nhân, Đại Chu có ba trường hợp được miễn thụ hình: một là trên bảy mươi tuổi, hai là dưới mười bốn tuổi, ba là người tàn tật hoặc mang bệnh. Ba trường hợp này, khi thẩm tra không thể sử dụng đại hình. Thôi Tuần thuộc diện có bệnh, thần cho rằng không nên dụng hình.”

Hắn viện dẫn luật lệnh Đại Chu, Long Hưng Đế cười nhạt: “Trường hợp đặc biệt, tất dùng pháp đặc biệt. Xá lợi Phật đỉnh là quốc bảo chí tôn, vậy mà Thôi Tuần dám ngang nhiên cướp đoạt, chẳng lẽ chỉ vì hắn có bệnh mà ngay cả thẩm vấn cũng không được hay sao? Nếu như hắn cướp xá lợi Phật đỉnh để thông đồng với Đột Quyết, chẳng lẽ cũng không bị thẩm vấn? Lư khanh, chẳng lẽ khanh cũng đang bao che cho Thôi Tuần?”

Lư Hoài mím chặt môi, nếu là trước kia, nhất định hắn sẽ cảm thấy hai chữ “bao che” này là sỉ nhục lớn đối với mình, nhưng lần này, hắn chỉ rũ mắt, kiên định đáp: “Thôi Tuần đã thương tích đầy mình, nếu tiếp tục dụng hình, e rằng khó giữ được tính mạng. Thần cho rằng làm vậy là không thỏa đáng.”

“Nếu không dụng hình, ngươi có thể ép hắn khai ra tung tích xá lợi Phật đỉnh không?”

“Đủ rồi!” Thái hậu nãy giờ vẫn lặng im cuối cùng cũng lên tiếng, dập tắt cuộc tranh luận giữa quân thần: “Lư khanh, khanh muốn xử trí thế nào?”

Lư Hoài chắp tay: “Bẩm Thái hậu, Thôi Tuần không chịu mở miệng. Với tính cách của hắn, dù có dùng hình, hắn cũng quyết không khai. Điểm này, hẳn Thái hậu còn hiểu rõ hơn thần. Thôi Tuần cả gan đoạt mất xá lợi Phật đỉnh, Thái hậu và Thánh nhân có thể chiếu theo quốc pháp, hạ lệnh xử tử hắn, nhưng…” Yết hầu hắn bỗng nghẹn lại, “Nhưng vết thương trên người hắn đã quá nhiều rồi. Thần khẩn cầu Thái hậu và Thánh nhân, xin đừng tiếp tục tra tấn hắn thêm nữa.”

Nhớ đến những vết thương cũ chồng chất trên người Thôi Tuần, hốc mắt Lư Hoài đã đỏ hoe, nói không nên lời. Thái hậu trầm mặc hồi lâu rồi mới khẽ thở dài: “Được, cứ theo lời Lư khanh mà làm. Trước tiên trị thương cho hắn, chuyện xá lợi Phật đỉnh, sau này sẽ xét hỏi sau.”



Ở cung Đại Minh, Lư Hoài giành được một đường sống mong manh cho Thôi Tuần. Khi hắn đến phòng giam, Thôi Tuần đã được thay bộ y phục sạch sẽ, vết thương cũng đã được băng bó, nằm cuộn mình trên sập đá xám lạnh, ngủ li bì. Chỉ có điều, hai tay hắn bị trói ngược ra sau. Lư Hoài nhíu mày, hỏi ngục tốt: “Ta chỉ nói vậy thôi mà các ngươi trói hắn thật ư?”

Ngục tốt tỏ vẻ khó xử: “Lúc cởi y phục, hắn cũng không giãy giụa gì mấy. Nhưng khi chúng thuộc hạ mang bộ đồ cũ của hắn đi vứt, hắn bỗng trở nên kích động, đè thế nào cũng không được. Nhìn thấy vết thương trên người hắn lại sắp nứt ra, thuộc hạ cũng hết cách.”

“Chỉ là vứt đi một bộ y phục cũ, hắn làm ầm lên làm gì chứ?”

“Hình như hắn muốn liều mạng để giữ lại hai thứ này.”

Ngục tốt xòe tay ra, để lộ một quả cầu hương bằng bạc mạ vàng đã bị giẫm nát cùng một túi hương làm gấm ngũ sắc thêu hoa mẫu đơn.

Lư Hoài cầm lấy hai món đồ. Quả cầu hương đã vỡ thành từng mảnh, hương phấn và dược liệu bên trong đều bị nghiền nát, lẫn vào vụn bạc. Hắn liếc mắt nhìn ngục tốt, đối phương lúng túng nói: “Đại phu chỉ vô tình giẫm phải.”

Túi hương thêu mẫu đơn lấm tấm vết máu, lớp gấm có chỗ bị sờn rách, vài sợi chỉ bung ra, trông như từng bị roi quất trúng. Nhưng vết rách lại không mấy nghiêm trọng, hẳn là lúc đó Thôi Tuần đã liều mạng che chở trước ngực, nên túi hương này mới không bị đánh đến nát bươm.

Từ chỗ túi hương bị rách, Lư Hoài có thể nhìn thấy một sợi dây đỏ lộ ra, trên đó buộc một lọn tóc. Đây rõ ràng là tín vật định tình, nhưng không biết, đó là của vị nương tử nào?

Thôi, không nghĩ nữa. Lư Hoài khép tay lại: “Quả cầu hương này không thể sửa được nữa, nhưng túi hương thì vẫn có thể mang đi vá lại.”

Hắn ngập ngừng một lúc, rồi lại dặn dò ngục tốt: “Nói với hắn, quả cầu hương và túi hương ta đều đã mang đi sửa, bảo hắn đừng lo, nhất định ta sẽ trả lại cho hắn.”

Ngục tốt vâng dạ, Lư Hoài lại nói: “Còn nữa, cởi trói cho hắn, đừng trói tay lại nữa.”

Ngục tốt tiếp tục vâng lệnh. Lư Hoài không nói gì thêm, chỉ lặng lẽ nhìn thân ảnh gầy guộc đang ngủ mê man trên sập đá xám lạnh.

Gương mặt y trắng nhợt như tuyết, thân thể gầy yếu đến gần như khẳng khiu. Lư Hoài hoảng hốt, ký ức bỗng đưa hắn trở về những năm tháng khi mới mười mấy tuổi, khi lần đầu gặp gỡ chàng thiếu niên của Thôi thị ở Bác Lăng. Chàng ta cao ngạo, hiên ngang, rực rỡ tựa như ánh mặt trời.

Nhưng có lẽ vì gần đây xảy ra quá nhiều chuyện… Thúc phụ hắn chết rồi, Vương Huyên cũng mất tích, những điều ấy hắn lung lay, rồi dần hoài nghi về những điều mà trước đây hắn vẫn luôn hết lòng tin tưởng.

Hắn nghĩ, không biết Thôi Tuần đã tìm được Vương Huyên chưa? Nếu chưa tìm được, thì cứ nói là chưa tìm được, nếu đã tìm thấy, thì cứ nói là đã tìm thấy. Cớ sao lại không nói gì nhưng bây giờ?

Nếu là trước kia, có lẽ Lư Hoài sẽ ngờ vực Thôi Tuần có toan tính gì khác, nhưng lúc này đây, hắn lại vô thức nghiêng về suy nghĩ tốt đẹp hơn. Hắn nghĩ, có khi nào Thôi Tuần phát hiện điều gì đó, nhưng vì sợ liên lụy đến hắn nên mới không dám nói ra?

Thôi Tuần ngang nhiên cướp đoạt xá lợi Phật đỉnh, chiếu theo quốc pháp, y ắt phải chịu tội chết. Phải chăng y cảm thấy bản thân chẳng còn sống được bao lâu nữa, nên không muốn kéo theo hắn xuống nước?

Tâm trí Lư Hoài rối bời, ánh mắt hắn dừng trên thân ảnh gầy guộc của người thanh niên gầy gò như hạc đang nằm trên sập đá, khẽ thở dài. Có lẽ, hắn nên cẩn thận xem xét lại một lần tất cả những tội danh đang đè nặng lên người Thôi Tuần.
 
Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh
Chương 144: Nàng muốn quay về



Đêm khuya, một cỗ xe bò chầm chậm rời khỏi Trường An.

Ở Đại Chu, thương nhân không được phép cưỡi ngựa hay ngồi xe ngựa, vì thế Ngư Phù Nguy chỉ có thể đi xe bò. Thế nhưng dù sao hắn cũng là phú thương, nội thất bên trong xe được bày trí vô cùng thoải mái.

Lý Doanh vẫn đang mê man, nàng nằm trên chiếc giường phủ gấm lụa êm, sắc mặt đã khá hơn nhiều so với lúc vừa mới bị phản phệ. Ngư Phù Nguy ngồi bên cạnh, mày nhíu chặt, không nói một lời.

Giờ phút này, hẳn Thôi Tuần đã bị giam vào đại lao. Cướp đoạt xá lợi Phật đỉnh, chính là tội chết. Không biết hắn có thể nhờ vào sự sủng tín của Thái hậu mà bảo toàn được tính mạng hay không.

Nhưng dù có giữ được mạng, hắn vẫn muốn báo thù cho Thiên Uy quân, vẫn sẽ bước vào con đường vạn kiếp bất phục.

Ngón tay Ngư Phù Nguy dần siết chặt. Trước kia hắn luôn khinh thường Thôi Tuần, càng không hiểu vì sao Lý Doanh lại có thể để mắt đến y. Nhưng đến giờ phút này, hắn mới nhận ra rằng, ánh mắt của Lý Doanh chưa bao giờ sai.

Sự can đảm dù chín chết cũng không hối tiếc, sự kiên cường dù bao lần trắc trở vẫn không gục ngã, đó là điều không phải ai cũng có được.

Thôi Tuần… quả thực xứng đáng với tình yêu sâu nặng của Lý Doanh.



Xe bò di chuyển chậm rãi để tránh gây ảnh hưởng đến thương thế của Lý Doanh. Mãi đến bảy ngày sau, họ mới đến chân núi Bàn Trủng.

Ngư Phù Nguy bế nàng xuống xe, đi về phía lối vào U Đô. Câu hồn sứ giả đã chờ sẵn bên cánh cửa đá khổng lồ, gã nói: “Ngư lang quân, giao tiểu nương tử cho mỗ đi. Mỗ sẽ đưa nàng đến Vong Tử Thành an toàn.”

Ngư Phù Nguy cúi nhìn người trong lòng, thiếu nữ vẫn nhắm chặt đôi mắt, trên gương mặt còn vương vết lệ, thân hình nhẹ tựa cánh chim, như thể chỉ cần một cơn gió thoảng qua cũng có thể cuốn nàng đi. Hắn chần chừ giây lát rồi nói: “Ta không yên tâm, hãy để ta được tự mình đưa nàng đến Vong Tử Thành.”

Câu hồn sứ giả sửng sốt: “Ngư lang quân, Sinh Tử Đạo là con đường một đi không trở lại. Mỗ là câu hồn sứ giả, có thể tự do qua lại giữa hai giới âm dương, nhưng ngài là phàm nhân, nếu bước vào Địa phủ thì sẽ không còn đường quay về nữa.”

“Không phải vẫn còn xá lợi Phật đỉnh đó sao?” Ngư Phù Nguy vuốt nhẹ viên xá lợi Phật đỉnh đặt trong tay áo Lý Doanh. Thánh quang ấm áp tỏa ra từ viên xá lợi khiến câu hồn sứ giả cũng phải kinh sợ mà lùi lại hai bước. Ngư Phù Nguy thản nhiên nói: “Xá lợi Phật đỉnh là chí bảo thế gian, công hiệu của nó không phải thứ những viên xá lợi khác có thể sánh bằng. Ta đã ở bên nó suốt bảy ngày, ít nhiều cũng nhiễm được chút thánh quang, đủ để đưa ta ra khỏi Sinh Tử Đạo.”

Câu hồn sứ giả vẫn cảm thấy quá nguy hiểm: “Ngư lang quân, không bàn đến việc chút thánh quang ấy có đủ giúp ngài thoát khỏi Sinh Tử Đạo hay không, chỉ nói đến con đường khoa cử của ngài thôi đã nhé. Ngài khổ công học tập nhiều năm, vất vả lắm mới có thể tham gia khoa cử, hà tất vì một tiểu nương tử mà tự chặt đứt con đường sinh mệnh của mình dưới Địa phủ?”

Ngư Phù Nguy lặng nhìn Lý Doanh trong lòng, khẽ thì thầm: “Đúng, ước mơ lớn nhất của ta là thi đỗ tiến sĩ. Nhưng có người vì nàng mà ngay cả xá lợi Phật đỉnh cũng dám cướp, nếu ngay cả Địa phủ mà ta cũng không dám vào, chẳng phải sẽ bị hắn vượt mặt hay sao…”

Câu hồn sứ giả không biết người mà hắn nói đến là ai, thậm chí còn không rõ tiểu nương tử trong lòng hắn là ai. Gã chỉ là người thường xuyên giao dịch với Ngư Phù Nguy ở thương hội âm dương, nên mới chịu mạo hiểm giúp y. Sau một hồi trầm mặc, câu hồn sứ giả thở dài nói: “Được rồi, nếu Ngư lang quân đã kiên quyết như vậy, mỗ cũng không khuyên nữa.”

Gã biết không thể lay chuyển được Ngư Phù Nguy, đành dẫn theo hắn và Lý Doanh bước qua cửa đá, chậm rãi tiến vào Sinh Tử Đạo.



Đây là lần đầu tiên Ngư Phù Nguy bước vào Sinh Tử Đạo. Hắn ôm chặt Lý Doanh, lảo đảo theo bước chân câu hồn sứ giả, dò dẫm tiến về phía trước dưới ánh sáng mờ mịt từ ngọn quỷ đăng màu xanh lục.

Cuối cùng, khi băng qua Sinh Tử Đạo, trước mắt họ bỗng nhiên trở nên quang đãng. Câu hồn sứ giả tiếp tục dẫn đường, hướng về Vong Tử Thành.

Vong Tử Thành nằm sát bên sông Nại Hà và Huyết Bồn Khổ Giới. Tương truyền, Huyết Bồn Khổ Giới là nơi trừng phạt những kẻ bất hiếu, làm ác, diệt Phật. Sau khi chết, chúng sẽ bị ném vào đó, chịu khổ hình.

Ngư Phù Nguy theo câu hồn sứ giả bước lên một cây cầu gỗ cũ kỹ, chòng chành giữa không trung. Hắn liếc nhìn về phía sông Nại Hà ở đằng xa, chỉ thấy giữa dòng nước có một người lái đò đang chống mái chèo, cũng ngoảnh lại nhìn về phía này.

Sợ bị phát hiện, hắn vội cúi đầu, ánh mắt rơi xuống mặt nước đen sâu thẳm dưới chân cầu.

Vừa cúi xuống nhìn, hắn suýt nữa đã hồn phi phách tán. Thì ra ngay dưới cây cầu này chính là Huyết Bồn Khổ Giới, trong Địa Ngục Huyết Trì, vô số oan hồn giãy giụa giữa dòng huyết thủy sôi sục. Nhưng dù có vùng vẫy thế nào, chúng cũng chẳng thể thoát khỏi mùi tanh tưởi cùng bóng tối vô tận.

Câu hồn sứ giả thấp giọng nhắc nhở: “Đừng nhìn nữa, mau đi thôi.”

Ngư Phù Nguy lập tức bế theo Lý Doanh, rảo bước nhanh hơn, nhưng lại không phát giác được phía sau có một con quỷ thú Ba Nhân Tượng lặng lẽ bò lên cầu. Nó âm thầm phục kích, chực chờ thời cơ, há ra cái mõm máu tanh hôi, nhằm vào cổ hắn táp xuống.

Ngay khi đôi nanh sắc bén sắp ghim sâu vào da thịt, từ trong tay áo Lý Doanh, xá lợi Phật đỉnh bất ngờ bừng lên một luồng bạch quang tinh khiết, chiếu thẳng vào Ba Nhân Tượng.

Con quỷ thú gào lên thảm thiết, cái đuôi điên cuồng vẫy quét, thân hình to lớn rơi thẳng xuống Địa Ngục Huyết Trì. Nhưng ngay trước khi mất hút vào huyết thủy, cái đuôi của nó quét ngang qua bắp chân Ngư Phù Nguy, khiến hắn mất thăng bằng, cả hắn lẫn Lý Doanh cùng ngã xuống mặt cầu.

May thay, trong khoảnh khắc chao đảo, hắn đã kịp ôm chặt lấy Lý Doanh, không để nàng rơi vào biển máu tanh hôi bên dưới.

Ngư Phù Nguy còn chưa kịp trấn tĩnh, câu hồn sứ giả đi trước đã quay đầu lại, thúc giục: “Ngài là người sống, đặc biệt thu hút quỷ thú, mau đi thôi!”

Hắn lập tức gật đầu, vội vàng bế Lý Doanh lên, định lao nhanh khỏi cây cầu gỗ. Nhưng bước chân vừa động, lại phát hiện không thể đi tiếp.

Hắn cúi xuống nhìn, thì ra Lý Doanh đã tỉnh lại từ khi nào chẳng hay. Ngón tay nàng bám chặt vào dây thừng của cây cầu, dù thế nào cũng không chịu buông tay, nước mắt ồ ạt chảy ra, trong miệng không ngừng lẩm bẩm: “Thập Thất lang… Thập Thất lang…”



Lý Doanh chỉ cảm thấy mình vừa trải qua một giấc mộng dài đằng đẵng. Trong mộng, nàng hóa thành lệ quỷ, gi.ết ch.ết A Sử Na Ngột Đoá. Nhưng ngay sau đó, niệm lực trong người nàng nhanh chóng bị rút cạn, cả người như chịu cảnh lăng trì. Rồi nàng rơi vào một vùng bóng tối bất tận, trong bóng tối ấy, nỗi đau bám riết lấy nàng như hình với bóng, khiến nàng không cách nào trốn thoát.

Dường như có một giọng Phạn âm trang nghiêm vang lên, hỏi nàng có hối hận không.

Gương mặt nàng tái nhợt, thân thể run rẩy, nhưng vẫn cố chấp đáp: “Không hối hận.”

Nếu có thể chọn lại lần nữa, nàng vẫn sẽ hóa thành lệ quỷ để giết A Sử Na Ngột Đóa.

Phạn âm liền thở dài, ngay lập tức, cơn đau lại như lưỡi dao sắc bén, lướt qua từng tấc xương tủy nàng. Nàng đau đến mức bật ra tiếng rên khe khẽ, nhưng vẫn không ngừng thì thào: “Ta không hối hận…”

Làm sao có thể hối hận chứ?

Nàng chỉ hối hận vì không giết A Sử Na Ngột Đóa sớm hơn, để ả không còn cơ hội làm tổn thương Thôi Tuần thêm một lần nào nữa.

Chính vì nàng chấp mê bất ngộ [1], nên mới bị Phật pháp phản phệ. Cơn đau như róc da róc thịt không ngừng hành hạ, khiến mồ hôi túa đầy trên trán, giữa ranh giới mơ màng và tỉnh táo, bỗng nhiên, một luồng sáng trắng dịu dàng bao trùm lấy nàng.

[1] chấp mê bất ngộ: cứ giữ sự mê muội mà không hiểu ra, biết sai nhưng không chịu sửa.

Nỗi đau dần dần tan biến, niệm lực bị rút đi cũng từ từ trở về.

Nàng thở hổn hển, cuối cùng gom góp chút sức lực, chậm rãi mở mắt.

Nàng ngơ ngẩn.

Ai đã cứu nàng?

Phạn âm đã giảm bớt vẻ uy nghiêm, thêm vào chút không đành lòng, cất giọng hỏi: “Ngươi có muốn biết không?”

Nàng gật đầu.

Ngay sau đó, trước mắt nàng hiện lên một cảnh tượng mà nàng không hề muốn nhìn thấy.

Nàng thấy Thôi Tuần từng bước quỳ lạy, dập đầu trên từng bậc đá, hết thảy hai trăm linh một bậc, cúi đầu hai trăm linh một lần, chỉ để có thể lên đến tầng mười ba của Phật tháp, cầu xin xá lợi Phật đỉnh thay nàng.

Nàng thấy Thôi Tuần đứng trước Phật Đà, nguyện sau khi chết không vào luân hồi, thần hồn tiêu tán, chuộc lại tội nghiệt một đời, chỉ vì mong được chạm vào xá lợi Phật đỉnh.

Nàng thấy cuối cùng, người thanh niên gần như chưa bao giờ rơi lệ ấy, giờ đây toàn thân đẫm máu, mái tóc rối bời, nắm chặt xá lợi Phật đỉnh vừa giành được, nước mắt lã chã như mưa.

Nàng còn thấy hắn vì sự an toàn của nàng, nhẫn tâm để Ngư Phù Nguy đưa nàng đến Vong Tử Thành, còn bản thân thì lưu lại Trường An, điềm nhiên đối diện với cái chết.

Nước mắt chảy dài trên mặt Lý Doanh, nàng muốn rời khỏi nơi này, nhưng thân thể suy nhược đến mức không thể nhấc nổi dù chỉ một ngón tay, nàng chỉ có thể nhỏ giọng thều thào: “Để ta đi… để ta đi… ta không muốn ở đây…”

Nàng phải quay về.

Nàng phải quay về để cứu Thôi Tuần.

Ý niệm ấy lặp đi lặp lại hàng nghìn vạn lần, trong bóng tối mịt mùng cuối cùng cũng hiện lên một tia sáng. Ngón tay nàng khẽ động, theo bản năng nắm lấy vật ở gần nhất, đó chính là sợi dây thừng trên cây cầu gỗ bắc qua Huyết Bồn Khổ Giới. Nàng nắm chặt lấy sợi dây đó, không chịu buông tay, đôi mắt cũng dần dần hé mở.



Trong ngục thất của Đại Lý Tự, Thôi Tuần vẫn trầm mặc không nói một lời.

Lư Hoài tức muốn hộc máu: “Đã bảy ngày rồi! Bảy ngày qua, ngươi vẫn không chịu nói gì, cứ tiếp tục thế này, ta cũng không bảo vệ được ngươi đâu!”

Thôi Tuần chỉ khép mắt, lặng lẽ không đáp. Lư Hoài giận đến mức đi đi lại lại trong phòng giam chật hẹp, giọng điệu gắt gỏng: “Xá lợi Phật đỉnh là gì hả? Mà ngươi dám ngang nhiên cướp đi? Cướp thì cũng đã cướp rồi, ngươi vẫn nhất quyết không chịu nói xá lợi hiện đang ở đâu? Thôi Tuần, ta hỏi ngươi lần cuối cùng, rốt cuộc ngươi đã đem Phật đỉnh xá lợi giấu đi đâu?”

Hắn hỏi đi hỏi lại suốt bảy ngày, nhưng Thôi Tuần vẫn giữ im lặng, không một lời giải thích.

Suốt bảy ngày qua, Lư Hoài vẫn giữ nguyên dáng vẻ ấy, chỉ ở mãi trong phòng giam, không hề tra tấn Thôi Tuần, cũng không dùng xiềng xích trói buộc trên người hắn. Đã thế còn cung phụng cơm ngon nước ngọt, phát hiện Thôi Tuần mắc phải chứng hàn, liền đặc biệt sai người đốt thêm chậu than, định kỳ mời đại phu đến thay thuốc. Quả thật giống như lời Long Hưng Đế từng mắng, cứ như Thôi Tuần bị bắt vào ngục là để điều dưỡng vậy.

Nếu không phải vì Lư Hoài kiên trì thẩm vấn, thì đây chẳng khác nào một kỳ nghỉ dưỡng.

Nhưng dù mỗi ngày Lư Hoài đều nói đến khô cả họng, dùng tình cảm để đả động, dùng lý lẽ để thuyết phục, bất kể là xá lợi Phật đỉnh hay tung tích của Vương Huyên, Thôi Tuần đều không nói một lời, đúng là đã khiến Lư Hoài tức đến phát điên.

Lư Hoài nói: “Ngươi có biết mấy ngày nay, trong triều có bao nhiêu tấu chương đòi xử tử ngươi không? Bọn họ đều nói ngươi coi trời bằng vung, càn rỡ ngông cuồng, nếu không giết thì khó có thể làm dịu lòng dân. Nếu không phải Thái hậu chưa lên tiếng, lại thêm Thôi tướng công giữa thái độ lập lờ, thì ngươi đã mất mạng từ lâu rồi!”

Việc Thái hậu giữ im lặng, Lư Hoài cũng đã đoán trước được. Xem ra, bà vẫn đang giữ thái độ quan sát. Còn về Thôi Tụng Thanh, nếu chiếu theo thái độ trước kia của ông ta đối với Thôi Tuần, chắc chắn sẽ không để tâm đến sống chết của y. Nhưng lần trước, Thôi Tuần bất chấp tính mạng để lật lại bản án oan của Thiên Uy quân, điều này khiến Thôi Tụng Thanh ít nhiều đã thay đổi cách nhìn về y.

Hơn nữa, gần đây trong Thôi gia xảy ra một chuyện lớn. Nhị đệ của Thôi Tụng Thanh, cũng chính là phụ thân của Thôi Tuần. Chỉ trong một đêm, cả bốn người con trai của ông ta đều bị thích khách đột nhập vào nhà giết hại, đã vậy đầu họ còn bị lấy đi.

Thôi phụ vì quá phẫn uất mà ngã bệnh liệt giường, không bao lâu nữa ông ta có lẽ sẽ tuyệt hậu. Đến lúc này, ông ta mới chợt nhớ ra rằng mình vẫn còn một đứa con trai.

Trớ trêu thay, đứa con trai duy nhất còn lại này lại đang bị giam trong ngục thất Đại Lý Tự, hơn nữa còn là tử tù. Thôi phụ đành hạ mình cầu xin huynh trưởng Thôi Tụng Thanh, thậm chí còn dùng đến cả cái chết để ép buộc. Thôi Tụng Thanh bất đắc dĩ, nhưng cũng không tiện trực tiếp cầu xin Thái hậu tha tội cho Thôi Tuần, đành phải giữ thái độ lấp lửng.

Thái hậu và Tể tướng đều có ý bảo vệ hắn, dù là Long Hưng Đế muốn nghiêm trị Thôi Tuần cũng không thể làm gì hơn. Nhờ vậy mà suốt bảy ngày qua, hắn mới có thể an ổn dưỡng thương trong ngục thất của Đại Lý Tự.

Lư Hoài đi đi lại lại trong phòng giam, giọng đầy nôn nóng: “Thôi Tuần, ngươi nghe cho kỹ, hiện tại vẫn còn đường xoay chuyển. Nếu ngươi giao nộp xá lợi Phật đỉnh, có lẽ còn một tia hy vọng. Nếu cứ chần chừ, nhẹ thì đại hình, nặng thì mất mạng.”

Thôi Tuần vẫn làm như không nghe thấy. Lư Hoài tức đến đỏ mặt: “Ta thật không hiểu nổi, xá lợi Phật đỉnh dù quý nhưng không thể đổi lấy quyền thế. Ngươi đoạt bằng được nó rốt cuộc là vì mục đích gì?”

Thân hình đơn bạc của Thôi Tuần tựa vào vách đá lạnh lẽo, sắc mặt tái nhợt như tuyết, hàng mi cụp xuống. Đúng vậy, xá lợi Phật đỉnh không thể đổi lấy quyền thế, nhưng có thể đổi lấy mạng của Lý Doanh.

Chỉ cần nàng còn sống, hắn chịu hình phạt hay mất mạng, thì đã làm sao?

Lư Hoài nói đến khô cả cổ, nhưng Thôi Tuần vẫn chẳng buồn đáp lời. Đúng lúc Lư Hoài định nổi cơn thịnh nộ thì ngục tốt bước vào bẩm báo: “Thái hậu muốn triệu kiến Thôi Tuần, người sẽ thân thẩm vấn về chuyện xá lợi Phật đỉnh.”
 
Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh
Chương 145: Lấy mạng đền mạng, lấy máu trả máu, vậy mới đủ!



Thôi Tuần nghe vậy, chậm rãi ngước mắt. Lư Hoài thoáng ngẩn người, rồi chần chừ giây lát, phất tay lệnh chụp cùm sắt lên người hắn. Trước khi áp giải vào cung Đại Minh, hắn vẫn không nhịn được, dặn dò: “Đây là cơ hội cuối cùng của ngươi. Sống hay chết, tất cả đều phụ thuộc vào lần này. Ta, Lư Hoài, đã nói hết những gì cần nói.”

Nhưng Thôi Tuần chỉ khép dài mi mắt, im lặng không đáp. Hắn để mặc đám ngục tốt của Đại Lý Tự khóa chặt gông cùm lạnh lẽo, áp giải hắn vào cung Đại Minh.

Trong điện Bồng Lai, Thái hậu ngồi sau rèm ngọc, lặng lẽ quan sát người thanh niên phong thái đoan chính, đang quỳ đằng trước bức rèm. So với lần trước gặp hắn, hắn lại gầy đi mấy phần, giữa chân mày càng nặng vẻ u uất, tay chân đều bị xiềng xích trói chặt.

Bà nhớ tới lần hắn dâng biểu từ quan, khi đó hắn đã nói rằng muốn đến Dương Châu, muốn tới Ngô Quận. Hắn bảo rằng bên cạnh hắn đã có một nữ tử tâm tựa lưu ly, người như minh nguyệt. Khi đó, trong đôi mắt hắn là thần sắc rạng rỡ, ánh mắt đầy sự ôn nhu khó tả, tràn ngập mong chờ về tương lai.

Nhưng hiện tại, đôi mắt đen láy kia chẳng khác nào một vũng nước đọng, như thể chủ nhân đã đánh mất tất cả khát vọng sống.

Sự thay đổi này khiến Thái hậu cũng không khỏi kinh ngạc. Bà không kìm được mà suy đoán rốt cuộc đã có chuyện gì xảy ra với hắn. Hít một hơi thật sâu, bà dịu giọng hỏi: “Vọng Thư, vì sao ngươi phải cướp xá lợi Phật đỉnh?”

Lư Hoài đã nói, đây là cơ hội cuối cùng để quyết định sống chết. Nhưng dường như Thôi Tuần chẳng hề để tâm đến điều đó. Hắn như một cái xác mất đi linh hồn, chết lặng quỳ đó, chẳng chút phản ứng trước câu hỏi của Thái hậu.

Thái hậu kiên nhẫn hỏi lại lần nữa: “Vọng Thư, vì sao ngươi phải cướp xá lợi Phật đỉnh?”

Vẫn không có câu trả lời.

Cơn giận dần dâng lên trong lòng Thái hậu, bà mím môi, nhắm mắt, siết chặt chiếc túi hương nang chạm rỗng hoa điểu bồ đào trong tay, rồi chậm rãi mở mắt ra.

“Ngươi không nói thì ngô không làm gì được ngươi sao? Nhưng những biện pháp đó, ngô không muốn dùng đến. Những ngày qua, trụ trì Pháp Môn Tự mỗi ngày đều vào cung khóc lóc, cầu xin ngô làm chủ. Còn có bá quan, sĩ tử, bách tính trong triều, ai nấy đều phẫn nộ với ngươi. Ngươi có biết, để ngươi được nguyên vẹn quỳ tại điện Bồng Lai như hôm nay, ngô đã phải hao tổn bao nhiêu tâm sức không?”

Thái hậu dùng cả ân uy để ép buộc, rốt cuộc cũng khiến Thôi Tuần ngẩng mắt, mở miệng nhàn nhạt: “Tạ ơn Thái hậu, nhưng xá lợi Phật đỉnh, thần tuyệt đối không hoàn trả lại cho Pháp Môn Tự.”

Hắn nói cảm tạ, nhưng giọng điệu không có lấy nửa phần cảm kích, thậm chí còn ngang nhiên tuyên bố sẽ không giao trả xá lợi Phật đỉnh. Thái hậu nghe vậy, vừa kinh ngạc vừa phẫn nộ: “Ngươi! Thôi Tuần! Ngươi ăn gan hùm mật gấu rồi đúng không! Ngươi không muốn sống nữa đúng không?”

Thôi Tuần lặng im, một lát sau mới lên tiếng: “Thần đoạt xá lợi Phật đỉnh, biết rõ tội đáng muôn chết, nhưng trước khi mất mạng, có một chuyện thần muốn thỉnh cầu Thái hậu.”

Thái hậu nghĩ rằng hắn đã suy nghĩ thông suốt, sắp nói ra tung tích của xá lợi Phật đỉnh, nên cố nén giận, trầm giọng: “Nói!”

Hàng mi dài tựa cánh quạ của Thôi Tuần rũ xuống. Đột nhiên, hắn nghiêm cẩn dập đầu một cái, rồi ngẩng lên, trong đôi mắt tĩnh mịch tựa đáy vực bỗng lóe lên một tia mong đợi rất khẽ. Hắn nói: “Vừa rồi Thái hậu hỏi thần vì sao đoạt xá lợi Phật đỉnh, nguyên nhân sâu xa của chuyện này, thần không thể nói rõ, chỉ có thể bẩm báo Thái hậu rằng, tất cả đều vì một người mà ra.”

Thái hậu cau mày: “Là ai?”

“Huệ phi.”

“Huệ phi?” Thái hậu sững sờ.

Thôi Tuần gật đầu: “Huệ phi rời cung, ngoài mặt là vào đạo quán tu hành, nhưng thực chất là ngấm ngầm bày mưu tính kế. Bảy ngày trước, thần không may rơi vào tay Huệ phi, suýt nữa đã chết dưới tay nàng ta.”

Huệ phi? Bị Huệ phi bắt giữ? Suýt nữa mất mạng vì nàng ta?

Bấy lâu nay, Huệ phi vẫn luôn bị tai mắt của Thái hậu giám sát chặt chẽ. Nhưng sau khi bị Long Hưng Đế trục xuất khỏi cung, Thái hậu vì muốn hòa hoãn quan hệ với Long Hưng Đế, cũng như lo ngại Long Hưng Đế sẽ không vui lòng nếu phát hiện bà vẫn còn theo dõi Huệ phi, do đó đã thu lại tai mắt. Bà cho rằng Huệ phi chỉ là một nữ tử người Hồ đơn độc, thân cô thế cô, dù có ở lại Trường An cũng chẳng thể làm nên sóng gió gì. Nào ngờ, bà đã quá xem nhẹ nữ nhân này rồi.

Trong lòng Thái hậu dâng lên một tia hối hận mơ hồ, hối hận vì đã thả lỏng đề phòng đối với Huệ phi. Bà nhíu mày, hỏi Thôi Tuần: “Huệ phi bắt giữ ngươi để làm gì?”

Thôi Tuần gằn từng chữ: “Bởi vì Huệ phi không muốn thần còn sống mà quay lại Trường An.”

Hắn dừng lại một chút, rồi nói tiếp: “Còn lý do vì sao Huệ phi không muốn thần sống sót trở về Trường An, nguyên nhân sâu xa có liên quan đến vụ án Thiên Uy quân.”

Hắn vừa nhắc đến Thiên Uy quân, Thái hậu liền sững người. Thôi Tuần tiếp tục nói: “Có người e sợ thần, sợ rằng thần sẽ tra ra chân tướng ẩn giấu sau vụ án Thiên Uy quân, nên đã sai Huệ phi giam cầm thần, toan khiến thần vĩnh viễn không thể mở miệng…”

Hắn chưa kịp nói hết câu, Thái hậu bỗng nghiến răng quát lớn: “Câm miệng!”

Bà hiểu rõ người mà Thôi Tuần ám chỉ là ai. Nhưng Thôi Tuần lại chẳng hề có ý định im lặng, trái lại còn ngang nhiên đối chọi: “Vì sao Thái hậu không để thần nói tiếp? Chẳng lẽ Thái hậu không muốn biết ai đã sai khiến Huệ phi bắt giữ thần? Là ai không muốn thần điều tra chân tướng vụ án Thiên Uy quân? Hay là… trong lòng Thái hậu đã sớm có đáp án?”

Thái hậu giận dữ quát lớn: “Câm miệng! Ngô bảo ngươi câm miệng!”

Thôi Tuần vẫn tiếp tục: “Thái hậu không muốn nói ra đáp án này, vậy thần xin thay Thái hậu nói rõ! Trong Đại Chu này, ai có thể sai khiến được Huệ phi? Ai không muốn thần được sống? Ai là kẻ sợ hãi nhất khi thần điều tra chân tướng vụ án Thiên Uy quân? Ai đến nay vẫn tiêu dao ngoài vòng pháp luật, bình an vô sự?”

Hắn nghiến răng, từng chữ như đâm vào tâm khảm: “Chính là nhi tử của Thái hậu, đương kim Thánh nhân!”

Thái hậu phẫn nộ đến mức bật dậy, vung tay vén màn châu, gương mặt giận dữ hiện rõ trước mặt Thôi Tuần: “Thôi Tuần! Ngươi thật to gan!”

Hắn dần bình tĩnh lại: “Hôm nay thần bước vào điện Bồng Lai, vốn không nghĩ sẽ còn mạng để rời đi.”

Thái hậu nhìn gương mặt gầy guộc tái nhợt của hắn, tay siết chặt túi hương bằng vàng chạm rỗng khắc hoa, móng tay cắm sâu vào lòng bàn tay. Ngực bà phập phồng vài lượt, cố nén cơn giận, chậm rãi nói: “Thôi Tuần, chỉ dựa vào mấy câu nói của nữ nhân Hồ tộc mà ngươi sinh lòng nghi kỵ với Thánh nhân? Nếu ả cố tình ly gián thì sao? Vụ án Thiên Uy quân đã khép lại từ lâu, mọi chuyện cũng đã qua, ngươi đừng gợi thêm phong ba nào nữa. Những lời hôm nay, ngô sẽ coi như chưa từng nghe thấy.”

Thôi Tuần ngước lên: “Nếu thần không chỉ dựa vào lời nói của một nữ nhân Hồ tộc thì sao? Nếu thần có chứng cứ xác thực, Thái hậu có bằng lòng tái thẩm vụ án Thiên Uy quân không?”

Thái hậu sững sờ.

Thôi Tuần nhìn thẳng vào gương mặt ấy, dung mạo có vài phần tương tự Lý Doanh. Trong đôi mắt đen sâu thẳm, le lói một tia mong đợi yếu ớt, tựa như chút ánh sáng nhỏ nhoi giữa màn đêm vô tận. Đột nhiên, bà không dám đối diện với hắn, chỉ vội dời mắt, miễn cưỡng đáp: “Ngô đã nói rồi, vụ án Thiên Uy quân đã kết thúc.”

Điện Bồng Lai chìm trong tĩnh lặng đến nghẹt thở.

Tia sáng mong manh kia, cuối cùng cũng hoàn toàn lụi tắt.

Đôi mắt Thôi Tuần dần trở nên trầm lặng, lạnh lẽo như tro tàn. Hắn bật cười khẽ, nhưng trong tiếng cười ấy, chỉ toàn là phẫn uất và tuyệt vọng. Không rõ hắn cười chính mình quá ngây thơ, hay cười lòng người bạc bẽo, cười thế gian lạnh lùng.

Trước khi đến đây, hắn đã sớm lường trước kết cục này, nhưng vẫn nuôi một tia hy vọng, mong rằng nữ nhân quyền lực mà hắn từng tôn kính sẽ đứng ra đòi lại công bằng cho năm vạn trung hồn chết oan. Nay hy vọng ấy tan biến, thất vọng tột cùng, hắn lẩm bẩm: “Quả nhiên là vậy.”

Thái hậu quay ngoắt lại, vẻ mặt gần như luống cuống: “Ngươi nói gì?”

Toàn thân Thôi Tuần bị gông cùm đè xuống, quỳ trên nền gỗ mun, nhưng sống lưng vẫn thẳng tắp như thân trúc. Hắn nhếch môi cười nhạt, giọng điệu đầy sự chế giễu: “Thần nói, Thái hậu quả nhiên là mẫu tử tình thâm.”

Thái hậu nghe rõ ý châm biếm trong lời hắn, cơn giận bùng lên: “Ngươi…”

“Thái hậu có một trai một gái, và giờ chỉ còn lại Thánh nhân. Thánh nhân là đứa con duy nhất của Thái hậu, hai mươi ba năm phụng dưỡng bên gối. Một người mẹ như Thái hậu, tất nhiên muốn bảo vệ đứa con duy nhất của mình, vậy nên dù có chứng cứ, người cũng sẽ không đồng ý điều tra lại vụ án Thiên Uy quân.” Thôi Tuần cười nhạt: “Từ xưa đến nay, quân vương nào cũng luôn miệng nói câu “yêu dân như con”, nhưng ai sẽ yêu thương con ruột của người khác như con ruột của mình? Ai sẽ vì con ruột của người khác mà nỡ lòng làm hại con ruột mình? Chẳng lẽ tự xưng một tiếng Thánh nhân, liền xem mình là Thánh nhân thật sao? Trên đời này, làm gì tồn tại Thánh nhân.”

Hắn thốt ra toàn những lời đại nghịch bất đạo, Thái hậu sững sờ, sau khoảnh khắc chấn động chính là cơn giận vô biên. Bà muốn quở trách, nhưng nhất thời lại không biết nên phản bác thế nào. Từng câu từng chữ của Thôi Tuần, lẽ nào không phải là sự thật? Vì bảo vệ con mình mà bà nhắm mắt làm ngơ trước những nghi vấn hắn nêu ra, nhất quyết khép lại vụ án Thiên Uy quân, những gì hắn nói cũng đâu có sai.

Đúng, bà chỉ có một trai một gái, Minh Nguyệt Châu đã chết, Bồ Tát Bảo chính là đứa con duy nhất còn lại của bà. Làm sao bà có thể nhẫn tâm.

Đây là lòng riêng của bà, cũng là lòng riêng của một người mẹ.

Thái hậu cắn chặt răng, cuối cùng mới nói với Thôi Tuần: “Được! Cứ cho là ngươi nói đúng đi. Thánh nhân có dính líu đến chuyện này, nhưng hắn đã mất hết quyền lực, chẳng khác nào con rối. Với một hoàng đế, sự trừng phạt như vậy vẫn chưa đủ hay sao?”

Lời này của bà đã có phần xuống nước, thế nhưng Thôi Tuần vẫn quả quyết đáp: “Không đủ!”

Thái hậu kinh ngạc, giây lát sau, bà giận dữ quát: “Vậy ngươi muốn thế nào?”

“Mất đi quyền lực vẫn chưa đủ! Phải lấy mạng đền mạng, lấy máu trả máu, vậy mới đủ!”

Trong điện Bồng Lai, bầu không khí lặng ngắt như tờ.

Sau một thoáng tĩnh mịch, Thái hậu cuối cùng cũng mở lời, giọng trầm hẳn: “Ngươi muốn Bồ Tát Bảo chết? Nằm mơ!”

Bà lạnh lùng nói: “Chỉ cần ngô còn sống một ngày, ai cũng đừng mong làm hại con ngô!”



Thôi Tuần lại bị áp giải về ngục Đại Lý Tự. Chuyện tra xét lại vụ án Thiên Uy quân còn chưa bắt đầu đã tuyên bố kết thúc. Kết cục này, hắn chẳng hề ngạc nhiên.

Thái hậu dù sát phạt quyết đoán, là một thế hệ minh chủ, nhưng bà cũng là một người mẹ, hơn thế nữa, còn là một người mẹ đã từng mất con. Mười tháng hoài thai, máu thịt nuôi dưỡng, rồi một sớm một chiều phải chịu cảnh sinh ly tử biệt. Chỉ những ai từng làm mẹ mới hiểu được nỗi đau ấy. Đứa con còn lại, dù có phải dốc hết toàn lực bà cũng nhất quyết bảo vệ.

Chỉ là, Thái hậu không lập tức giết hắn, điều này lại khiến hắn có đôi chút bất ngờ.

Hắn vẫn còn nhớ, khi hắn nói ra tám chữ “lấy mạng đền mạng, lấy máu trả máu”, Thái hậu giận dữ đến mức nào. Cơn thịnh nộ như sấm sét giáng xuống, bà lạnh lùng tuyên bố rằng chỉ cần bà còn sống một ngày, ai cũng đừng mong làm hại con bà. Thế nhưng hắn lại nói: “Chỉ cần thần còn sống một ngày, nhất định phải bắt hung thủ đền mạng!”

Cơn giận của Thái hậu bùng lên dữ dội, bà lập tức triệu gọi Thiên Ngưu Vệ, ra lệnh đánh hắn chết ngay tại chỗ. Roi gậy giáng xuống, một nhát quật mạnh vào lưng, một nhát giáng nặng lên chân, từng đòn trút xuống liên tiếp. Nhưng đúng lúc đó, Thái hậu đột nhiên quát ngừng.

Bà nhìn hắn nằm rạp trên nền gỗ mun, mồ hôi lạnh túa ra vì đau đớn, bàn tay nắm chặt túi hương chạm khắc hoa điểu bằng vàng ròng. Cắn chặt răng, bà nói: “Ngô thực sự muốn giết ngươi, nhưng… ngô đã hứa… Ngô không thể giết ngươi! Nếu ngươi còn ngoan cố, vậy thì, sẽ chẳng ai cứu được ngươi nữa đâu!”
 
Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh
Chương 146: Con đường gió tuyết một đi không trở lại



Địa phủ, Huyết Bồn Khổ Giới.

Lý Doanh nắm chặt sợi dây trên cây cầu gỗ, quyết không buông tay.

Ngư Phù Nguy đưa tay gỡ từng ngón tay nàng ra. Nàng rơi lệ cầu xin: “Ngư Phù Nguy, thả ta về đi, ta cầu xin ngươi, xin ngươi…”

Ngư Phù Nguy cắn răng, lạnh giọng đáp: “Không được! Mỗ đã hứa với Thôi Tuần, nhất định phải đưa cô đến Vong Tử Thành.”

“Ta không vào Vong Tử Thành, ta không đi… Ta phải quay về cứu Thôi Tuần, cầu xin ngươi, thả ta về cứu chàng…”

Nàng khẩn khoản van nài, lòng Ngư Phù Nguy nào có dễ chịu? Nhưng Thôi Tuần đã quyết liều chết, sao hắn có thể để Lý Doanh chịu chết chung với y?

Ngư Phù Nguy lắc đầu: “Không được, Thôi Tuần đã không còn đường sống nữa rồi. Công chúa, hãy đến Vong Tử Thành đi. Mười năm, hai mươi năm, chờ tới khi cô rời khỏi đó, uống xong bát canh Mạnh Bà, đầu thai chuyển thế, cô sẽ quên hắn thôi. Khi ấy, cô sẽ có một tình lang khác, bắt đầu một kiếp nhân sinh mới.”

“Ta không cần! Ta không cần tình lang khác, ta chỉ muốn Thập Thất lang…”

Thân thể bị phản phệ của nàng vẫn chưa hồi phục, trên người chẳng còn chút khí lực, nhưng hai tay vẫn gắt gao níu lấy dây cầu, không chịu buông. Nàng vẫn tha thiết cầu xin Ngư Phù Nguy: “Thả ta về đi, Ngư Phù Nguy, ta cầu xin ngươi…”

Nàng đang khẩn cầu, phía trước, câu hồn sứ giả đã có phần sốt ruột: “Ngư lang quân, mau dẫn tiểu nương tử này đi đi, đừng kinh động đến các quỷ sai khác!”

Ngư Phù Nguy nghiến răng, không đáp nữa, chỉ lạnh lùng gỡ từng ngón tay của Lý Doanh ra. Nàng yếu hơn hắn, chỉ có thể tuyệt vọng nhìn từng ngón tay bị tách ra, sau đó bị Ngư Phù Nguy ôm lấy, sải những bước nhanh về phía Vong Tử Thành.

Lý Doanh đã không còn chút sức lực để giãy giụa, nàng trông thấy tòa thành mỗi lúc một gần hơn, giữa màn sương đen dày đặc, lòng nàng chìm xuống vực sâu vô vọng: “Ngư Phù Nguy, ta hận ngươi cả đời.”

Bước chân Ngư Phù Nguy thoáng khựng lại, nhưng rồi hắn càng bước nhanh hơn: “Mỗ thà để công chúa hận cả đời, còn hơn trơ mắt nhìn công chúa hồn phi phách tán thêm lần nữa!”



Khi Lý Doanh bị nhốt vào Huyết Bồn Khổ Giới, phán quyết dành cho Thôi Tuần cũng đã được đưa ra.

Trong lao ngục của Đại Lý Tự, một y sư tóc bạc đang thay thuốc cho Thôi Tuần lần cuối. Lão nhìn vết bầm tím mới chồng chất trên thắt lưng hắn, thở dài. Thuốc vừa đắp lên, đau đớn tựa kim châm, nhưng Thôi Tuần chỉ nằm úp trên sập đá, đôi mày nhíu chặt, không rên một tiếng.

Y sư đã quen với sự trầm mặc của hắn. Đợi thay thuốc xong, thu dọn hòm dược, lão vẫn không nhịn được mà để lại một lọ thuốc mỡ bằng sứ trắng. Thanh niên này tuổi tác cũng xấp xỉ cháu trai lão, dù xuất thân từ Bác Lăng Thôi thị, nhưng những vết thương chằng chịt trên người hắn lại khiến một dân thường như lão cũng không đành lòng nhìn thẳng.

Y sư mở miệng: “Thôi Thiếu khanh, nghe nói ngài bị lưu đày đến Thích Tây, đường xa gian khổ, lọ thuốc mỡ này, ngài hãy giữ lại đi.”

Lưu đày Thích Tây? Hàng mi Thôi Tuần bỗng rung động.

Hắn phạm tội đại nghịch bất đạo nhưng Thái hậu không giết hắn, chỉ giáng tội lưu đày?

Y sư vẫn thao thao bất tuyệt: “Không ít đại thần dâng sớ xin xử tử Thiếu khanh, nhưng đều bị Thái hậu áp xuống, đổi thành lưu đày. Thôi Thiếu khanh, lần này ngài đại nạn không chết thì nên biết quý trọng tính mạng, đừng tiếp tục tự hủy hoại thân thể mình nữa nhé.”

Lão nói rất nhiều, khuyên hắn nên trân trọng mạng sống khó khăn lắm mới giữ được này, nhưng Thôi Tuần chỉ giữ thần sắc hoảng hốt, lặng lẽ không đáp.

Y sư vừa rời đi, Lư Hoài liền nốt gót, nhưng cũng chỉ lặp lại những lời khuyên như giữ gìn tính mạng, nhân tiện dò hỏi tung tích của Vương Huyên. Thôi Tuần vẫn không hé môi, Lư Hoài đành tức giận bỏ đi.

Từ đó, Thôi Tuần chỉ im lặng chờ ngày lưu đày. Trong thời gian ấy, Thôi Tụng Thanh, phụ thân hắn và cả A Man đều muốn gặp mặt, nhưng hắn kiên quyết từ chối. Vậy mà, khi có một người muốn vào thăm, hắn lại đồng ý.

Người đó chính là lão bộc câm.



Hắn ngồi tựa lưng vào vách đá thô ráp, bình thản nhìn lão bộc câm mắt đỏ hoe đang đứng ngoài song sắt. Hắn nói: “Những năm qua, đa tạ ngươi đã chăm sóc ta.”

Lão bộc câm quỳ sụp xuống đất, không ngừng lắc đầu, khuôn mặt già nua giàn giụa nước mắt. Thôi Tuần nói tiếp: “E rằng ta không vượt qua được ải này. Nhân lúc Thái hậu còn chưa tịch thu gia sản của ta, ngươi hãy tìm người bán đi căn nhà ấy. Số bạc thu được, đủ để ngươi về quê dưỡng già.”

Lão bộc câm nghẹn ngào, như muốn nói gì đó, nhưng ông là một người câm, không nói nên lời, chỉ có thể cuống cuồng ra hiệu. Thôi Tuần lặng nhìn đôi tay múa may ấy, nhếch môi cười nhạt: “Sau khi lưu đày sẽ được về ư? Không, ta không về được nữa.”

Lão bộc câm nghe vậy, siết chặt song sắt nhà lao, lệ rơi không thành tiếng. Ngược lại, sắc mặt Thôi Tuần cực kỳ bình tĩnh: “Khóc gì chứ? Ngược lại, ta còn cảm thấy nhẹ nhõm.”

Hắn nói: “Cuối cùng, còn phải làm phiền ngươi giúp ta một chuyện.”



Chuyện mà Thôi Tuần nhờ lão bộc câm chính là đến chùa Tây Minh, xem thử Vương Huyên có để lại thứ gì không.

Ngày đó, Vương Huyên bị A Sử Na Ngột Đoá bắt giữ tại địa lao của Trường Xuân Quán, chịu cực hình suốt chín ngày trời mà vẫn không hé môi nửa lời. Khi được Thôi Tuần cứu ra, y cố gắng níu giữ hơi thở cuối cùng, run rẩy viết lên lòng bàn tay hắn bốn chữ “Đế sát lục châu” cùng ba chữ “Tây Minh Tự”, sau đó trút hơi thở cuối cùng.

Chính nhờ dòng chữ “Đế sát lục châu” đó, Thôi Tuần càng thêm chắc chắn rằng Long Hưng Đế có liên quan đến vụ án Thiên Uy quân. Còn việc Vương Huyền nhắc đến Tây Minh trước khi chết, liệu có phải bằng chứng mà y phát hiện hiện được đang ở đó không?

Hắn sai lão bộc câm đi điều tra. Rất nhanh sau đó, người kia mang về một vật được Vương Huyên ký thác cho chùa Tây Minh.

Đó là một trang được xé ra từ Khởi cư chú.

Thôi Tuần nhìn chằm chằm vào trang Khởi cư chú ấy, những nghi hoặc trong lòng hắn rốt cuộc cũng có lời giải.

Trong mắt hắn thoáng qua nét cười thê lương, khẽ lẩm bẩm: “Thì ra là vậy… thì ra là vậy…”



Long Hưng năm thứ hai mươi, ngày mùng một tháng Mười, giữa tiết cuối thu.

Trên núi Chung Nam, rừng phong nhuộm sắc, thung lũng Thúy Hoa rợp bóng cam vàng, thiền viện Quan Âm, ngân hạnh xanh um. Trên đại lộ Chu Tước, Hồ thương rộn ràng tấp nập, khung cảnh phồn hoa thịnh thế.

Tại tửu quán Trường An, thực khách túm năm tụm ba, chuyện trò rôm rả. Người bàn tán chuyện Đông gia cưới vợ, Tây gia gả con, chuyện Quan Trung được mùa, giá gạo rẻ bèo. Kẻ lại nói về thời cuộc xoay vần, phúc họa khó lường: Như Lư Dụ Dân thanh liêm chính trực nay lại thân bại danh liệt, Bùi Quan Nhạc quyền biến linh hoạt giờ lại thảm bại tan tác. Đến cả Thôi Vọng Thư từng quyền khuynh triều dã, chỉ sau một đêm liền mất đi ân sủng, bị đày đến vùng đất cằn cỗi là Thích Tây, e rằng cả đời cũng chẳng thể quay về Trường An được nữa.

Đám thực khách cảm thán một hồi, rồi lại luận bàn: quả nhiên thiện giả thiện báo, ác giả ác báo. Lư Dụ Dân giả nhân giả nghĩa, bày mưu hãm hại trung lương, kết cục hôm nay coi như đáng đời. Còn Thôi Tuần, hắn đầu hàng Đột Quyết, tội trạng khó dung, bị lưu đày đến tận Thích Tây, cũng là quả báo phải gánh lấy.

Tiếng bàn tán râm ran trong quán rượu, bỗng bị lấn át bởi âm điệu réo rắt của Hồ cầm. Một vũ cơ người Hồ dung mạo mỹ miều, đội khăn che mặt, uyển chuyển nhảy múa. Tiếng vỗ tay, reo hò rộ lên trong tửu quán, cảnh sắc náo nhiệt tưng bừng, khói lửa nhân gian rực rỡ như pháo hoa.



Đối lập với cảnh tượng ấy, trước đại lao Đại Lý Tự chỉ có một màu tiêu điều, hiu quạnh.

Thôi Tuần khoác trên mình lớp áo tù bạc phếch, tay chân đều bị gông xiềng nặng trịch, quãng đường từ trong ngục ra cổng Đại Lý Tự chỉ vỏn vẹn mấy bước, vậy mà những gông cùm xích sắt đã cắt vào cổ tay, cổ chân hắn, rỉ ra vệt máu đỏ thẫm.

Nhưng lúc này đây, đã chẳng còn bóng dáng người thiếu nữ vội vã xé mảnh lụa mềm, cẩn thận quấn quanh vết thương cho hắn nữa.

Lư Hoài mím môi, gương mặt tuấn tú thấp thoáng vẻ thương xót, hắn thở dài một hơi, nói: “Đi thôi.”

Từ đây đến Thích Tây, non cao nước xa, hắn chỉ có thể dặn dò sai dịch lưu tâm chăm sóc, còn lại, dù muốn cũng chẳng thể làm gì hơn.

Chỉ tiếc rằng, những nghi hoặc trong lòng hắn, e rằng cả đời cũng không có lời giải.

Ngay khi Lư Hoài phất tay, hiệu cho sai dịch áp giải Thôi Tuần lên đường, Thịnh A Man siết chặt một chiếc túi gấm, cắn môi, xuất hiện trước ngục thất Đại Lý Tự.

Nàng dè dặt ngước nhìn Lư Hoài, ánh mắt tràn đầy van nài. Lư Hoài im lặng hồi lâu, rồi xoay người sang hướng khác, xem như ngầm đồng ý. Thịnh A Man cúi đầu, bước đến trước mặt Thôi Tuần, cổ họng nghẹn ứ, muốn nói lại thôi, chỉ đưa mỗi túi gấm ra: “Đây là số bạc ta tích cóp được mấy ngày qua, ta đưa cả cho huynh, trên đường đi cũng đỡ khổ sở hơn.”

Thôi Tuần không nhận.

Thịnh A Man cười khổ: “A huynh ta được giải oan, tất cả đều nhờ có huynh. Huynh là đại ân nhân của ta, cứ để ta báo đáp một chút đi.”

Thôi Tuần vẫn chẳng đưa tay, chỉ lặng lẽ quan sát nàng.

Thịnh A Man cùng các tỷ muội ở giáo phường hùn vốn, mở một cửa tiệm nhỏ, làm ăn khấm khá, khí sắc nàng cũng tốt hơn trước rất nhiều. Hắn chậm rãi hỏi: “Gần đây cô sống tốt chứ? Còn Hà Thập Tam và những người khác, bọn họ thế nào?”

Thịnh A Man sững sờ, rồi đáp: “Mọi người đều rất ổn.”

Nói xong câu đó, nàng liền im lặng, bởi lẽ tất cả mọi người đều ổn, chỉ có Thôi Tuần là không.

Nàng thực sự không hiểu, vì cớ gì một người vốn có thể ung dung hưởng vinh hoa phú quý như hắn, lại phải liều mình tranh đoạt xá lợi Phật đỉnh, để rồi tự đẩy bản thân rơi vào kết cục này? Khi nàng nói ra thắc mắc ấy, hắn không trả lời mà chỉ hỏi ngược lại: “Mọi người có hài lòng với cuộc sống hiện giờ không?”

Hắn cứ hỏi mãi về việc bọn họ có ổn hay không, có hài lòng không.

Thịnh A Man không hiểu lắm, nhưng vẫn nghiêm túc suy nghĩ trước khi đáp: “Hiện giờ ta đã có cửa tiệm, không lo cơm áo, hơn nữa nhờ có a huynh, ta được mọi người kính trọng, trong thành Trường An không còn ai dám bắt nạt ta nữa, thế nên ta rất vừa lòng. Không chỉ ta, mà Hà Thập Tam cùng các gia quyến khác, ai nấy đều rất hài lòng.”

Thôi Tuần nghe vậy, đáy mắt bỗng ánh lên một tia cay đắng. Hắn gật đầu: “Có phải mọi người đều rất cảm kích với cách xử lý của vụ án Thiên Uy quân?”

Thịnh A Man không chút do dự, đáp ngay: “Ừm, chúng ta đều rất cảm kích Thái hậu và Thánh nhân. Nếu không nhờ hai người phân rõ thị phi, thì Lư Dụ Dân cùng đồng đảng sao có thể bị trừng trị nhanh như vậy, mà a huynh cũng không thể được minh oan sớm thế này.”

Nói đến đây, nàng ngừng lại, ánh mắt dừng trên cặp gông cùm trói buộc cổ tay Thôi Tuần, rồi cuối cùng, nàng không nhịn được mà hỏi: “Vọng Thư a huynh, vậy còn huynh thì sao? Vì sao huynh… lại ra nông nỗi này?”

Nghe câu ấy, ngay cả Lư Hoài cũng không khỏi quay đầu nhìn về phía Thôi Tuần, nhưng hắn chỉ thất thần, thì thào một câu: “Ta… dù sao cũng luôn là kẻ không hợp thời.”

Thịnh A Man nghe không hiểu, nhưng lòng lại trào dâng một nỗi buồn vô cớ. Nàng cắn môi, nhẹ giọng nói: “Vọng Thư a huynh, giữ được mạng đã là may mắn trong bất hạnh rồi. Sau này, huynh hãy sửa đổi đi, mạng người, chỉ có một mà thôi.”

Hàng mi đen như cánh quạ của Thôi Tuần cụp xuống, hắn cười khổ: “A Man, cô không cần đến tiễn ta. Trước kia cả cô và Hà Thập Tam đều rất hận ta, ta hy vọng về sau, các người vẫn sẽ hận ta.”

Thịnh A Man không hiểu, liền hỏi: “Vì sao?”

Đôi mắt Thôi Tuần phủ một tầng sương mờ, khiến người ta khó lòng nhìn thấu tâm tư hắn. Hắn im lặng chốc lát, rồi cất giọng trầm thấp: “Bởi vì lòng ta không thể vượt qua được, cho nên, dù các người có hận ta đi chăng nữa, có một chuyện, ta vẫn nhất định phải làm.”

Hắn xoay người, nhìn về phía Lư Hoài: “Hoài Tín huynh.”

Lời vừa dứt, Lư Hoài liền sững sờ.

Thôi Tuần chắp tay, nghiêm cẩn hành lễ với Lư Hoài: “Những ngày qua, đa tạ Hoài Tín huynh chiếu cố, ân tình này, Thôi Tuần khắc ghi trong lòng.”

Lư Hoài trợn mắt há mồm: “Ta… Này…”

Thôi Tuần đứng thẳng dậy, nói: “Hoài Tín huynh vẫn luôn hỏi ta về tung tích của Vương Huyên, ta chưa từng trả lời. Nhưng hôm nay, ta nguyện nói cho huynh biết, chỉ là, ta cần huynh giúp ta một việc.”

“Việc gì?”

“Ta cần Hoài Tín huynh đưa ta đến cung Đại Minh.”



Ngoài cổng Huyền Vũ, trước phế thạch màu đỏ thẫm, chiếc trống Đăng Văn to lớn vẫn đứng đó sừng sững.

Gió lạnh từng cơn quét qua, vốn là tiết thu trời cao khí sảng, nhưng mặt trời trên cao lại bị mây đen che phủ. Đột nhiên, một tiếng sấm nổ vang, người đi đường ngước lên nhìn tầng mây dày đặc, thấp giọng nói: “Sắp mưa rồi.”

Thế nhưng, không có cơn mưa nào rơi xuống, ngược lại, trên bầu trời, tuyết bắt đầu rơi lả tả.

Lúc đầu, tuyết rơi rất nhỏ, chỉ là vài hạt bông li ti, vừa chạm đất liền tan, tựa hồ chẳng thể cảm nhận sự tồn tại của chúng. Nhưng dần dà, tuyết mỗi lúc một dày, từng bông trắng muốt như lông ngỗng, lặng lẽ rơi xuống đất.

Giữa màn tuyết lớn, một người thân đeo xiềng xích, lê đôi chân thương tích, từng bước khập khiễng tiến về phiến đá đỏ.

Xung quanh dần có người vây lại, bàn tán xôn xao: “Người đó là ai?”

“Chẳng phải là Thôi Tuần sao?”

“Chẳng phải hắn đã bị lưu đày đến Thích Tây rồi sao? Sao lại có mặt ở đây?”

“Chẳng lẽ hắn còn muốn cầu kiến Thái hậu, cầu xin ân điển?”

“Thái hậu sẽ không bị hắn mê hoặc nữa đâu.”

Giữa những tiếng xì xầm to nhỏ, Thôi Tuần chỉ chậm rãi lê từng bước, kéo theo đôi chân thương tích vì bị gậy gộc đánh đập. Tiếng xiềng xích quét mạnh trên nền đất khô khốc, mỗi bước đi đều khó nhọc, nhưng hắn vẫn kiên định, tiến từng bước đến trước tảng phế thạch đỏ, chật vật trèo lên, cầm chặt dùi trống, rồi dốc toàn bộ sức lực, từng nhịp, từng nhịp nện xuống chiếc trống Đăng Văn.

Thịnh A Man đứng phía sau hắn, ngây người.

Lư Hoài cũng theo đó, chết lặng.

Vừa rồi, Thôi Tuần nói với hắn, Vương Huyên đã chết, thi thể được chôn trong rừng hoang bên ngoài Trường Xuân Quán. Lư Hoài vừa bi thương, vừa phẫn nộ, vốn định lập tức lao đến đó, nhưng bước chân lại chần chừ dừng lại.

Hắn kinh ngạc nhìn bóng người vận áo tù, mang xiềng xích, kiên quyết gõ vang trống Đăng Văn. Thôi Tuần, rốt cuộc muốn làm gì?

Tả hữu Giám Môn Vệ cũng vội vàng chạy đến, khi nhìn thấy Thôi Tuần, họ thoáng kinh hãi, rồi quát lớn: “Thôi Tuần, vì sao ngươi gõ trống Đăng Văn?”

Thôi Tuần chậm rãi buông dùi trống, gương mặt tuấn mỹ như đóa sen trong gió tuyết, lúc này lại tĩnh lặng đến lạ thường. Giữa không trung đầy mưa tuyết, hắn nói rõ từng chữ: “Ta muốn cáo trạng.”

Tả hữu Giám Môn Vệ liếc mắt nhìn nhau: “Ngươi muốn cáo ai?”

“Một, cáo Thánh nhân câu kết với Đột Quyết, hãm hại trung lương, bán rẻ bách tính! Hai, cáo Thái hậu dung túng con ruột, che giấu nghịch tặc, vấy bẩn quốc pháp, thiên vị tư tình!”
 
Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh
Chương 147: Ta, Thôi Tuần, chưa từng đầu hàng Đột Quyết



Bên ngoài cung Đại Minh, quần thần hoặc cưỡi ngựa, hoặc ngồi xe, gấp rút tiến về điện Tử Thần.

Việc Thôi Tuần gõ trống Đăng Văn, tố cáo Thái hậu cùng Thánh nhân đã truyền khắp các hang cùng ngõ hẻm ở Đại Chu. Ai nấy đều chỉ có chung một ý nghĩ:

Thôi Tuần điên rồi.

Từ khi Đại Chu khai quốc đến nay đã hơn một trăm năm, chưa từng có ai dám ngang nhiên cáo trạng hoàng đế. Ngay cả tiền triều kéo dài hai trăm năm, hay những triều đại trước đó, cũng chưa từng có kẻ nào dám làm điều nghịch thiên như vậy.

Hành vi này quả thực nghịch loạn càn khôn, báng bổ luân lý, trời đất khó dung!

Chúng thần ào ào kéo đến điện Tử Thần, chỉ mong được tận mắt chứng kiến rồi mắng chửi tên nghịch thần tặc tử, bất trung bất hiếu ấy.

Trên đại điện, văn võ bá quan tề tựu đông đủ, Long Hưng Đế ngồi ngay ngắn trên ngự tọa, Thái hậu ẩn phía sau bức rèm châu. Giờ phút này, sắc mặt cặp mẫu tử chí tôn của Đại Chu đều khó coi đến cực điểm.

Long Hưng Đế nghiến răng nghiến lợi nhìn Thôi Tuần đang quỳ dưới điện, gương mặt thanh tú vặn vẹo vì căm phẫn. Hắn hận không thể lập tức sai người lôi Thôi Tuần xuống lăng trì xử tử, nhưng hắn không thể làm vậy. Giờ đây, cả thành Trường An đều xôn xao bàn tán, hắn buộc phải ép Thôi Tuần nhận tội vu khống ngay khi Thôi Tuần còn sống.

Hắn giận dữ quát: “Thôi Tuần, rốt cuộc ngươi có ý đồ gì mà dám bôi nhọ trẫm và Thái hậu như thế?”

Thôi Tuần ngẩng đầu, nhìn đế vương Đại Chu cao cao tại thượng. Trên điện Tử Thần, chúng thần ăn vận chỉnh tề, mão cao đai rộng, chỉ riêng hắn mặc áo tù rách nát, mái tóc tán loạn, tay chân bị xiềng xích, chật vật vô cùng. Nhưng dù cảnh ngộ có thảm hại đến thế nào, hắn vẫn ngồi thẳng lưng, như trúc xanh đắm mình trong gió bão. Dù bị cuồng phong vùi dập đến xiêu vẹo, chỉ cần còn một cơ hội, hắn vẫn sẽ gượng dậy, không khuất phục, không lùi bước.

Đối diện với cơn thịnh nộ của đế vương, trong mắt Thôi Tuần không hề có lấy một tia sợ hãi. Hắn trầm giọng nói: “Nếu Thánh nhân cảm thấy thần đang vu cáo, vậy liệu người có dám đối chất từng điều một với thần ngay tại điện Tử Thần này không?”

Long Hưng Đế sửng sốt, giận dữ tột cùng, quần thần cũng tức tối không kém. Một vị đại thần lớn tiếng chỉ trích: “Thôi Tuần, ngươi là thứ gì mà dám đòi Thánh nhân đối chất với ngươi?”

Thôi Tuần cười nhạt: “Ta chẳng là gì cả, cũng không có tư cách để khiến Thánh nhân phải đối chất với ta. Nhưng không biết, năm vạn Thiên Uy quân vùi thây ở Lạc Nhạn Lĩnh, bách tính sáu châu vùng vẫy dưới vó ngựa Đột Quyết, liệu có đủ tư cách để đối chất với Thánh nhân không?”

Vị đại thần kia sững sờ, ấp úng nói: “Từ xưa đến nay… từ xưa đến nay… chưa từng có tiền lệ bắt quân phụ phải đối chất…”

Thôi Tuần nghiêng đầu nhìn hắn, ánh mắt lạnh lùng khiến đối phương chột dạ. Chợt hắn bật cười: “Phùng thị lang, ông có nghe thấy không? Có người đang khóc.”

Phùng thị lang thảng thốt, đảo mắt nhìn quanh: “Đâu… Đâu có ai khóc? Thôi Tuần, đừng có nói nhảm hù dọa người khác!”

“Ông thật sự không nghe thấy sao?” Thôi Tuần thản nhiên nói: “Phùng thị lang, ông thật sự không nghe thấy tiếng khóc sao? Ông không nghe thấy tiếng khóc ai oán của năm vạn anh linh đã một lòng tận trung báo quốc, cuối cùng lại bị vu hãm? Ông không nghe thấy tiếng gào thét bi thương của bách tính sáu châu chăm chỉ làm lụng, một lòng kính ngưỡng quân phụ, cuối cùng lại bị bán rẻ? Tiếng khóc ấy chấn động cả trời đất, vang vọng khắp điện Tử Thần!”

Phùng thị lang trợn mắt, trán lấm tấm mồ hôi, miệng mấp máy nhưng chẳng thốt nổi một lời.

Thôi Tuần quét mắt nhìn khắp quần thần, nói tiếp: “Xin hỏi chư vị, xương trắng của năm vạn Thiên Uy quân, huyết lệ của bách tính sáu châu, liệu có đủ tư cách để mời quân phụ ra đối chất hay không?”

Quần thần nghiến răng im lặng, không ai dám nói có, cũng không ai dám nói không. Trong bầu không khí tĩnh lặng đến ngột ngạt, Long Hưng Đế bỗng cười lạnh: “Giỏi lắm, Thôi Tuần! Ngươi lấy tướng sĩ và bách tính ra ép trẫm? Nếu trẫm không đối chất với ngươi, chẳng phải sẽ bị mang tiếng là hạng dối trá, lừa gạt bách tính hay sao? Trẫm sẽ không để ngươi được như ý, trẫm sẽ đối chất với ngươi!”

Lời này vừa thốt ra, mấy vị lão thần đã nước mắt lưng tròng, quỳ rạp xuống đất, khẩn thiết cầu xin: “Thánh nhân, không thể!”

Long Hưng Đế phất tay, ánh mắt giận dữ quét về phía Thôi Tuần: “Thanh giả tự thanh, trẫm việc gì phải sợ? Ngươi muốn hỏi gì, cứ hỏi đi!”

Sau rèm châu, Thái hậu nắm chặt tà áo xanh đậm, sắc mặt ngày càng căng thẳng, nhưng vì tấm rèm ngăn trở nên không ai nhìn rõ thần sắc của bà.

Thôi Tuần cất giọng trầm ổn, từng lời từng chữ đều vang dội: “Xin hỏi Thánh nhân, năm Long Hưng thứ mười bốn, Đột Quyết xâm phạm Phong Châu, sáu châu báo nguy. Chủ soái Thiên Uy quân Quách Cần Uy nhận thư cầu viện của Thứ sử Phong Châu Bùi Quan Nhạc, liền suất lĩnh năm vạn Thiên Uy quân lên đường tiếp viện. Khi đến Phong Châu, Quách Cần Uy vốn muốn cố thủ không xuất quân, nhưng lại nhận được một đạo sắc lệnh ép buộc phải xuất binh. Không còn cách nào khác, Quách Cần Uy đành bàn bạc với Bùi Quan Nhạc, quyết định dẫn Thiên Uy quân vòng ra sau lưng quân địch. Nào ngờ đại quân vừa đến Lạc Nhạn Lĩnh, lại bị thiết kỵ Đột Quyết mai phục, giao tranh suốt hai mươi ngày, cuối cùng toàn quân bị diệt. Sau khi Thiên Uy quân đại bại, Đột Quyết lập tức phá thành Phong Châu, thẳng tiến vào sáu châu Quan Nội. Xin hỏi Thánh nhân, chuyện này, người có biết chăng?”

Long Hưng Đế nhíu mày, mất kiên nhẫn đáp: “Chuyện này Tam Ty đã thẩm định rõ ràng. Lư Dụ Dân chủ mưu, Bùi Quan Nhạc và Thẩm Khuyết đồng lõa, ba người cấu kết với Đột Quyết, hại chết trung lương, tội nghiệt bất dung! Hành tỷ của trẫm cũng bị Lư Dụ Dân đánh cắp, đóng dấu lên chiếu lệnh giả mạo rồi đưa đến Phong Châu và Đột Quyết. Mọi hành vi của bọn chúng, trẫm hoàn toàn không hay biết.”

“Thánh nhân không biết thật ư?”

“Dĩ nhiên!” Long Hưng Đế cao giọng đáp: “Nếu trẫm biết thì đã gi.ết ch.ết ba kẻ đó ngay lập tức! Chẳng nhẽ lại để bọn chúng vì tư lợi mà phản quốc cầu vinh?”

“Nhưng sau khi ba người đó phản quốc, Thái hậu, người từng trọng dụng Thiên Uy quân, lại trở thành cái gai trong mắt quần thần, buộc phải quy ẩn trong điện Bồng Lai. Còn Thánh nhân nhờ đó mà nắm trọn quyền hành, dựa vào bè phái của Lư Dụ Dân, đối đầu ngang hàng với Thái hậu. Phải biết rằng, trước khi chuyện này xảy ra, đến cả việc bổ nhiệm quan viên, Thánh nhân cũng phải xin ý kiến của Thái hậu. Thế nhưng sau sự kiện ấy, Thánh nhân cuối cùng cũng thoát khỏi sự kìm kẹp của người. Không nghi ngờ gì nữa, kẻ được hưởng lợi nhiều nhất từ vụ án Thiên Uy quân, không phải Lư Dụ Dân, không phải Bùi Quan Nhạc, cũng không phải Thẩm Khuyết, mà chính là Thánh nhân!”

Thôi Tuần vừa dứt lời, sắc mặt quần thần đồng loạt biến đổi. Chẳng phải vì câu “kẻ được lợi nhiều nhất”, mà chính là đoạn phía trước.

Đại Chu lấy đạo hiếu làm gốc, đề cao “mẫu từ tử hiếu”, Thánh nhân và Thái hậu đương nhiên phải làm gương cho thiên hạ. Nhưng ở cung Đại Minh, mối quan hệ tranh quyền đoạt lợi, mưu tính lẫn nhau giữa hai mẫu tử tôn quý bậc nhất ấy, nay lại bị Thôi Tuần vạch trần không chút kiêng dè. Dù ai nấy đều hiểu rõ, nhưng chưa từng có người nào dám nói thẳng trước mặt hai người họ.

Sau rèm châu, Thái hậu giận đến mức siết chặt tay, Long Hưng Đế cũng đỏ bừng mặt. Thái hậu nghiến răng, từng chữ bật ra từ kẽ răng: “Nghịch tử! Hỗn xược!”

Long Hưng Đế cũng phẫn nộ quát lớn: “Thôi Tuần! Ngươi thật là… đại nghịch bất đạo!”

Thôi Tuần cười nhạt: “Nói ra sự thật chính là đại nghịch bất đạo sao? Án Thiên Uy quân đã qua sáu năm, sáu năm qua, chẳng lẽ không phải Thánh nhân vẫn đang tranh đấu gay gắt với Thái hậu đó sao? Nếu không, Lư đảng từ đâu mà có? Thôi đảng từ đâu mà sinh? Vì sao Tân chính Thái Xương lại gặp phải trắc trở đủ đường? Thương nhân không được phép khoa cử, bài thi không được phép che tên? Chẳng lẽ bịt mắt, bưng tai, lớn tiếng ca tụng rằng Thánh nhân và Thái hậu mẫu từ tử hiếu, thì chuyện ấy liền hóa thành sự thật? Thánh nhân có thể móc mắt thần, có thể dùng dược khiến thần điếc tai, nhưng chẳng thể móc mắt thiên hạ, cũng không thể khiến thiên hạ điếc tai!”

Lời lẽ như chém đinh chặt sắt, khiến Thái hậu và Long Hưng Đế nhất thời á khẩu. Bởi lẽ, chuyện “mẫu từ tử hiếu” kia là thật hay ảo, tự họ rõ hơn ai khác.

Long Hưng Đế giận đến phát run, miễn cưỡng lên tiếng: “Tình cảm mẹ con giữa trẫm và Thái hậu, không đến lượt ngươi bình phẩm. Nhưng ngươi nói trẫm là kẻ được lợi lớn nhất từ vụ án Thiên Uy quân là có ý gì? Chẳng lẽ chỉ vì trẫm bị Lư Dụ Dân cùng bọn gian nịnh che mắt, tin lầm kẻ gian, ngươi liền quy cả vụ án lên đầu trẫm? Nực cười!”

Long Hưng Đế cực lực phủ nhận, song Thôi Tuần chẳng vội. Hắn nhàn nhạt hỏi: “Thánh nhân bị che mắt thật sao? Không hề hay biết gì về hành vi của Lư Dụ Dân thật sao?”

“Trẫm đương nhiên không biết!”

Thôi Tuần lấy từ trong tay áo ra một tờ giấy gai trắng được bảo tồn nguyên vẹn, giơ lên cho quần thần nhìn: “Đây là tờ ký lục, xé ra từ quyển Khởi cư chú, được viết vào ngày mùng hai tháng chín năm Long Hưng thứ mười bốn, do Hoàng môn Thị lang Vương Huyên bất chấp nguy hiểm lấy ra từ Sử quán. Trong đó có ghi chép thế này: “Thánh nhân đại hôn, thiên hạ đại xá, miễn giảm thuế má. Bách tính cảm niệm ơn đức của Thánh nhân, dân chúng Thanh Châu tự nguyện lên đỉ.nh Thánh Tuyết Phong, hái tuyết liên mọc bên vách đá, ủ thành một vò rượu tuyết liên, tiến cống chúc mừng đại hôn. Thánh nhân nhận được rượu, long tâm đại duyệt, uống liền ba chén thì hơi say, bèn than rằng: “Rượu ngon cỡ này, đáng tiếc sau này không còn được uống nữa.”

Vẻ mặt Long Hưng Đế dần trở thành kinh hoàng. Thôi Tuần tiếp tục: “Lời nói ngẫu hứng này của Thánh nhân đã được Khởi cư lang ghi lại, nhưng ngài ấy cũng chẳng để tâm. Chuyện này nhỏ nhặt, sau khi tỉnh rượu, Thánh nhân hẳn cũng quên mất. Khởi cư chú của Đại Chu, ngay cả quân vương cũng không thể tùy ý tra xét, huống hồ sách vở chất đầy như núi, một người cẩn trọng như Lư Dụ Dân cũng không để ý đến đoạn ghi chép này, vì vậy, tờ ký lục này vẫn lặng lẽ nằm trong Sử quán. Mãi đến khi Hoàng môn Thị lang Vương Huyên phụng chỉ tu sửa quốc sử tình cờ nhìn thấy, Vương Huyên tinh tế tỉ mỉ, đọc được đoạn này, liền sinh nghi. Thanh Châu thất thủ là chuyện xảy ra vào tháng mười một, xin hỏi Thánh nhân, vì cớ gì lại có thể tiên đoán trước rằng từ nay về sau sẽ không còn được uống mỹ tửu Thanh Châu nữa?”

Long Hưng Đế biến sắc, đại điện im phăng phắc.

Thôi Tuần thong thả nói: “Trừ phi, Thánh nhân đã sớm biết Thanh Châu sẽ rơi vào tay Đột Quyết, nên không thể đặt chân lên ngọn Thánh Tuyết Phong của Thanh Châu, cũng chẳng thể hái được tuyết liên ở đó nữa. Chỉ đáng thương cho dân chúng Thanh Châu, trong lòng tràn ngập vui mừng, không quản hiểm nguy, cam tâm tình nguyện trèo lên đỉ.nh núi hái tuyết liên, chỉ để chúc mừng đại hôn của quân phụ, nhưng bọn họ trăm vạn lần không ngờ được rằng, quân phụ của họ lại đang toan tính đem họ dâng cho Đột Quyết, để vó sắt Đột Quyết giày xéo mảnh đất của họ, đồ sát con cháu của họ, dùng tính mạng của chính họ để tranh đoạt quyền lực thân chính! Một vò tuyết liên ấy nào chỉ là rượu, mà còn là máu và nước mắt của dân chúng Thanh Châu!”

Điện Tử Thần lặng ngắt như tờ, quần thần đều đồng loạt dõi mắt về phía Long Hưng Đế ngồi trên ngự tọa. Ngay cả những lão thần vừa rồi còn quỳ xuống khóc lóc van xin, thay đế vương giãi bày nỗi oan khuất cũng đều run rẩy đôi môi, ánh mắt nhìn về phía người đầy sự hoảng hốt.

Long Hưng Đế siết chặt tay, móng tay bấm sâu vào lòng bàn tay, cơn đau buốt bất thình lình kéo hắn ra khỏi cơn mộng mị: “Thôi Tuần! Chỉ dựa vào một trang Khởi cư chú mà ngươi đã vội kết tội trẫm? Ha! Một câu nói hết sức bình thường thì có thể chứng minh được gì? Ngươi nào biết rằng trẫm vẫn luôn muốn dừng việc cống nạp từ Thanh Châu để bớt hao tổn sức dân, nên mới thốt ra câu đó. Trẫm thấy ngươi điên thật rồi!”

“Nếu Thánh nhân cho rằng một trang Khởi cư chú không đủ để chứng minh điều gì, vậy còn Vương Huyên, người đã xé đi trang Khởi cư chú đó thì sao? Hắn bị Huệ phi bắt giữ, tra tấn đến chết, thi thể chôn ngay trong rừng hoang bên ngoài Trường Xuân Quán! Trước khi chết, hắn đã dùng máu viết lên tay thần bốn chữ “Đế sát lục châu”. Huệ phi cũng đã thừa nhận, việc tra tấn hắn không phải do một mình nàng ta chủ mưu. Đám Kim Ngô Vệ giúp sức cho Huệ Phi, chẳng phải đều là thân tín của Thánh nhân đó sao? Nếu Thánh nhân thực sự bị hàm oan, vậy cứ để Tam Ty điều tra xem ai là kẻ sai Huệ phi bắt cóc Vương Huyên? Ai đã hạ lệnh tra tấn hắn đến chết? Nếu thật sự không phải Thánh nhân, vậy thì vừa hay có thể trả lại sự trong sạch cho Thánh nhân.”

Gân xanh trên trán Long Hưng Đế giật lên liên hồi, hắn tức giận quát: “Nực cười! Chưa nói đến việc Huệ phi giết Vương Huyên chỉ là lời nói một phía của ngươi, cho dù đúng là nàng ta làm, thì có liên quan gì đến trẫm? Trẫm thấy Huệ phi nhu mì, sủng ái nàng ta, nhưng vì nàng ta mang huyết thống Đột Quyết nên đành đau lòng trục xuất khỏi cung. Dẫu sao cũng từng ân ái một thời, trẫm ban cho nàng ta một đội Kim Ngô Vệ để phòng thân, vậy có gì sai?”

“Huệ phi nhu mì?” Thôi Tuần cười lạnh. “A Sử Na Gia quả xứng với hai chữ “nhu mì”, nhưng Huệ phi thì đâu dính dáng gì đến hai chữ ấy.”

Sắc mặt Long Hưng Đế lập tức biến đổi, hắn cố trấn tĩnh: “Trẫm không hiểu ngươi đang nói gì. Chẳng phải Huệ phi chính là A Sử Na Gia sao?”

Thôi Tuần bật cười: “Chẳng lẽ Thánh nhân không biết, Huệ phi vốn không phải là A Sử Na Gia, con gái của Tô Thái, mà là A Sử Na Ngột Đoá, con gái của Ni Đô?”

Long Hưng Đế trợn mắt, miệng lắp bắp: “Trẫm… không biết…”

“Nhưng Kim Di đã từng khai nhận, từ lâu Thánh nhân đã biết rõ Huệ phi không phải A Sử Na Gia. Giấy trắng mực đen vẫn còn trong Sát Sự Thính.” Thôi Tuần lắc đầu, “Thánh nhân nói toàn những lời dối trá, vậy còn ý nghĩa gì nữa?”

Long Hưng Đế chết lặng tại chỗ. Đến lúc này hắn mới nhận ra mình đã hoàn toàn rơi vào bẫy của Thôi Tuần. Những lời biện giải ban nãy bỗng trở nên yếu ớt vô cùng. Nhưng rốt cuộc Thôi Tuần còn biết những gì? Trong tay hắn, rốt cuộc còn bao nhiêu chứng cứ?

Hắn không dám nói thêm một lời nào nữa, bởi lẽ hắn nhận ra, càng nói nhiều, lại càng sai nhiều.

Hắn trừng mắt nhìn Thôi Tuần, từng giọt mồ hôi chảy dài trên trán. Đám triều thần nín lặng như tờ. Long Hưng Đế tuyệt vọng, quét mắt qua chúng quần thần, trong lòng thầm mong có ai đó có thể đứng ra phản bác Thôi Tuần thay mình.

Dường như mong ước ấy của hắn đã được đáp lại. Một vị đại thần chuyên xu nịnh bước ra, lớn tiếng quát mắng Thôi Tuần: “Thôi Tuần, ngươi đầu hàng Đột Quyết, b.án n.ước cầu vinh, vậy mà dám bôi nhọ quân phụ, rốt cuộc là có ý đồ gì? Có phải ngươi đã cấu kết với Hồ Lỗ, muốn gây rối Đại Chu ta không?”

Một câu nói liền chuyển hướng mọi nghi vấn. Quần thần thoáng do dự. Đúng vậy, lời của Thôi Tuần rốt cuộc có đáng tin không? Lẽ nào họ lại vì một kẻ b.án n.ước mà hoài nghi quân phụ?

Quần thần đàm luận sôi nổi, Thôi Tuần cắn răng. Hắn chậm rãi cởi áo ngoài, để lộ nửa thân trên. Những vết thương chằng chịt lập tức hiện ra trước mắt mọi người.

Triều đường chấn động. Hắn gằn từng chữ: “Ta, Thôi Tuần, chưa từng đầu hàng Đột Quyết, càng không vì danh lợi mà thông đồng với Hồ Lỗ, trở thành một kẻ b.án n.ước tiếng xấu truyền đời!”
 
Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh
Chương 148: Lão bộc câm



Những ánh mắt hãi hùng quét qua thân trên tr.ần tr.ụi của Thôi Tuần.

Những vết sẹo dữ tợn mà hắn không muốn ai nhìn thấy nhất, những dấu tích đáng sợ đại diện cho quá khứ nhục nhã của hắn, hôm nay đều bị chính hắn vạch trần trước bàn dân thiên hạ. Đám triều thần thì thầm bàn tán, chẳng ai ngờ vị Thiếu khanh Sát Sự Thính xưa nay luôn ngạo nghễ lạnh nhạt, thủ đoạn độc ác, lại mang trên mình những vết thương kinh hoàng đến vậy.

Trên thân hắn, ngoài những vết thương đỏ tấy do roi vọt và gậy gộc mới đây, còn có vô số vết sẹo cũ. Có vết bị nung bằng sắt nóng, có vết do roi mây quất nát da, nhưng phần lớn đều không phải thương tích mà các đại thần ngồi trên triều từng chứng kiến. Tuy nhiên, vài vị đại thần từng có giao thiệp với Đột Quyết thì lại hít sâu một hơi. Đây… đây rõ ràng là dấu vết của hình cụ Đột Quyết!

Nổi bật nhất trên thân hắn là những vết roi cũ, mỗi vết dài cả thước, giữa từng đường roi còn có ba dấu lõm sâu hoắm. Đây chính là vết tích do roi thuần nô của Đột Quyết gây ra.

Roi thuần nô của Đột Quyết được bện từ chín mảnh da trâu sống, không gọt mịn cạnh, giữa thân roi có ba nút thắt lớn, vừa nặng vừa thô. Mỗi nhát roi quất xuống, ba nút thắt sẽ xé rách da thịt, đau đớn đến tận xương tủy. Nó vốn là công cụ thuần nô của quý tộc Đột Quyết, vậy cớ gì lại xuất hiện trên người Thôi Tuần?

Tiếng xì xào vẫn không ngừng vang lên bên tai hắn, có người chấn kinh, có kẻ thương cảm, mỗi ánh mắt đều hướng về những vết thương loang lổ khắp cơ thể hắn. Cả triều đường bỗng hóa thành pháp trường, còn hắn thì đang bị l*t tr*n giữa muôn trùng ánh mắt.

Nhục nhã dâng lên, hắn nhắm mắt lại. Hàng mi đen dài như lông quạ khẽ run rẩy. Những ký ức nhơ nhuốc tại vương đình Đột Quyết cuồn cuộn tràn về như nước lũ.

Trong cơn mơ hồ, hắn như thấy lại cảnh A Sử Na Ngột Đoá cầm roi đứng trước mặt hắn, kiểm tra cơ thể hắn như kiểm tra một con súc vật. Hắn bị bóp chặt cằm, bị cưỡng ép há miệng để người ta xem răng, từng ngày từng ngày trôi qua giữa bạo hành và nhục mạ. Mỗi lần mở mắt, đều là một vòng tra tấn mới, một trận nhục hình mới. Mỗi giọt nước mắt vì đau đớn bật ra, đều trở thành niềm hứng khởi cho kẻ hành hạ hắn. Ở vương đình Đột Quyết, hắn không có tên, tất cả mọi người chỉ gọi hắn là “Liên Hoa Nô”. Hắn không phải con người, mà chỉ là một con súc vật bị A Sử Na Ngột Đoá quyết tâm thuần phục. Những kẻ đứng sau nàng ta đều thi nhau bày ra đủ mọi biện pháp, chỉ để uốn nắn con người hắn.

Từng là quý tử của dòng họ Thôi thị ở Bác Lăng, từng vinh hoa rực rỡ như châu ngọc ngời sáng, thế nhưng tại nơi đó, hắn còn không bằng một con chó, hoàn toàn không có chút tôn nghiêm nào đáng kể.

Thương tích sâu kín nhất, ký ức cay đắng nhất, tất cả đều bị phơi bày trước mặt người đời. Giây phút này, hắn chỉ cảm thấy toàn bộ lòng tự tôn và kiêu hãnh của mình một lần nữa vỡ nát thành tro bụi. Cả người khẽ run rẩy, cảm giác ê chề tột cùng khiến hắn thậm chí không dám mở mắt, càng không dám ngẩng đầu lên nhìn phản ứng của mọi người xung quanh.

Giữa cơn mông lung, dường như hắn nghe thấy giọng nói của Lý Doanh.

Giọng nàng dịu dàng, như v.uốt ve từng vết thương trong lòng hắn. Nàng nói: “Ta không cho rằng đó là nỗi nhục, ngược lại, ta cho rằng đó là niềm tự hào sánh ngang với Tô Vũ chăn dê.”

Nàng lại nói: “Nếu có một ngày thiên hạ biết tất cả những gì chàng đã làm, ta nghĩ sẽ không ai cho rằng đó là điều đáng xấu hổ.”

Cuối cùng, nàng nói: “Vậy nên, Thôi Tuần, khi ở Đột Quyết, chàng không phải súc vật, chàng là một anh hùng.”

Anh hùng sao…

Giữa những lời thì thầm êm dịu của nàng, đôi mắt nhắm chặt của Thôi Tuần dần mở ra. Hắn ngẩng đầu lên, đưa mắt nhìn khắp quần thần với những sắc mặt khác nhau, rồi chỉ vào vết sẹo hằn sâu quanh cổ mình, khó nhọc lên tiếng: “Vết sẹo này là do người Đột Quyết l*t s*ch y phục ta, dùng xích chó khóa cổ, nhốt vào cũi trước vương trướng suốt một tháng.”

Hắn lại chỉ vào những dấu roi vằn vện trên người mình: “Những vết thương này là do ta bị bắt lại sau lần thứ tư bỏ trốn. Khi đó, bọn chúng dùng roi thuần nô quất hai trăm roi.”

Hắn giơ khuỷu tay, nơi có một mảng thịt bị khoét mất: “Vết này là khi Đột Quyết trói ta bằng dây thừng, khoác lên người một tấm da cừu, bắt ta tr*n tr**ng bò giữ phố như một con cừu. Ta không chịu, liền bị chúng cột vào đuôi ngựa, kéo đi.”

Hắn dần lấy lại bình tĩnh, giọng nói cũng không còn vẻ ngượng ngùng ban đầu, mà càng lúc càng rõ ràng hơn: “Trên người ta, mỗi vết sẹo đều có một nguyên do. Nếu chư vị muốn nghe, ta có thể kể lại từng chuyện một.”

Bầu không khí rơi vào tĩnh lặng, không biết ai thấp giọng lầm bầm: “Sĩ khả sát, bất khả nhục. Bị làm nhục đến mức này, mà vẫn tham sống lay lắt…”

Thôi Tuần nhìn về phía người đó. Đối phương bị ánh mắt bi thương tuyệt vọng của hắn làm cho sửng sốt. Hắn cười chua chát: “Sống lay lắt? Nếu có thể, ta đã chết từ lâu. Nhưng nếu ta chết rồi, ai sẽ rửa oan cho năm vạn binh sĩ Thiên Uy quân?”

Thôi Tụng Thanh trước nay vẫn im lặng, lúc này bỗng giật mình. Ông nhớ lại lời Thôi Tuần từng nói với mình: Khi ở Đột Quyết, hắn có cả nghìn, cả vạn cơ hội để kết liễu bản thân. Nhưng hắn vẫn còn con đường của hắn phải đi, hắn không thể chết. Khi ấy, ông đã nghiêm giọng trách cứ, nói rằng con đường của hắn chẳng qua chỉ là đầu hàng Đột Quyết, quỳ gối trước nữ nhân Hồ mà thôi. Hóa ra, con đường Thôi Tuần nói chính là liều mạng để rửa oan cho cố nhân.

Trong khoảnh khắc, tâm tình Thôi Tụng Thanh liền trở nên phức tạp vô cùng.

Vị đại thần vừa lầm bầm ban nãy không còn dám hé răng nữa, quần thần đều im lặng không một tiếng động. Trên ngựa tọa, sắc mặt Long Hưng Đế dần sa sầm, ngón tay siết chặt lại. Đương nhiên hắn biết rõ những vết thương trên người Thôi Tuần là do ai gây ra, càng biết vì sao kẻ đó lại làm vậy. Nhưng nhìn thấy những dấu vết bị ngược đãi khắp người Thôi Tuần, lòng hắn chỉ càng thấy đố kỵ và phẫn nộ. Hắn quát lên: “Thôi Tuần, chỉ dựa vào những vết thương trên người ngươi, chẳng lẽ có thể chứng minh rằng ngươi chưa từng đầu hàng Đột Quyết sao?”

“Đương nhiên.” Thôi Tuần cuối cùng cũng không còn sự e dè khi để lộ vết thương trước mắt người khác. Hắn ngẩng cao đầu, giọng dứt khoát: “Những hình phạt thần phải chịu, từ lúc bị bắt đến khi thoát khỏi vương đình, kéo dài suốt hai năm ròng rã. Mỗi một vết sẹo trên người thần đều là bằng chứng sắt đá chứng minh thần trong sạch. Từ đầu đến cuối, thần chưa từng quy hàng Đột Quyết.”

Long Hưng Đế cười lạnh: “Lời nói một phía, có gì đáng tin?”

Sau rèm châu, Thái hậu ho nhẹ một tiếng, giọng điệu không vui: “Thánh nhân.”

Người sáng suốt đều hiểu rằng nếu Thôi Tuần quy hàng Đột Quyết thì sao phải mang trên mình những vết thương ghê rợn ấy? Rõ ràng Long Hưng Đế đã mất sạch lý trí, nên mới cố chấp phủ nhận điều hiển nhiên này.

Đầu óc Long Hưng Đế đã bị oán hận làm cho mụ mị, hắn gằn giọng nói: “Ngươi nói vết thương này là do Đột Quyết gây ra thì đó nhất định là do Đột Quyết gây ra? Hừ, trẫm thấy ngươi bắt tay với Đột Quyết, ý đồ dao động lòng dân mới cố tình vẽ nên bộ dáng nhẫn nhục chịu đựng để thành anh hùng. Hừm, anh hùng? Thôi Tuần, ngươi chẳng qua chỉ là thứ lấy sắc hầu người, vậy mà cũng dám tự xưng là anh hùng?”



Trong điện Tử Thần, tranh cãi vẫn chưa dứt. Bên ngoài cổng Đan Phượng, một ông lão mặc áo giáp màu vàng sáng, chậm rãi bước đến trước hàng Kim Ngô Vệ đang gác cửa. Lão há miệng, nhưng không thể phát ra bất kỳ thanh âm nào, chỉ có thể liên tục dùng tay ra hiệu.

Kim Ngô Vệ quan sát y phục của ông lão, thầm nghĩ chẳng lẽ là một lão binh từng trấn thủ biên ải tới tận đây quấy nhiễu? Gã cau mày, mất kiên nhẫn khoát tay xua đuổi: “Đây là cung Đại Minh, tránh xa ra.”

Ông lão vẫn đứng yên không nhúc nhích. Một tên lính nổi giận, giơ tay đẩy lão ra, nhưng không ngờ lại không lay chuyển nổi. Gã ngạc nhiên nhìn kỹ đối phương, không chừng lão câm này còn biết chút võ nghệ cũng nên, thế là gã đành nghiến răng, mạnh tay đẩy thêm lần nữa: “To gan, dám tận đến cung Đại Minh gây chuyện? Biến ngay!”

Ông lão bất ngờ nắm lấy cánh tay gã, cổ họng khàn khàn cuối cùng cũng bật ra những âm thanh đứt quãng, không tròn tiếng: “Mỗ… mỗ nhất định phải vào cung Đại Minh.”

Lính gác ngây người, tạm thời không vùng ra được. Vài tên lính khác thấy vậy cũng xông lên, lớn tiếng quát: “Một tên áo vải, có tư cách gì mà đòi vào cung Đại Minh?”

Ông lão chật vật thốt ra một câu, thanh âm vẫn khàn đục nhưng đã rõ ràng hơn phần nào: “Mỗ không phải hạng áo vải.”

Ông nói: “Mỗ là chính Chiết Xung Đô úy phủ ngũ phẩm, Đinh Tĩnh.”



Đinh Tĩnh, Chiết Xung Đô úy phủ, đóng quân tại huyện Cửu Nguyên. Sáu năm trước, khi Đột Quyết xâm phạm biên cương, ông dẫn hai vạn quân cố thủ, thề chết không lui, chiến đấu đến hơi thở cuối cùng. Triều đình cảm kích sự trung dũng của ông, truy phong ông làm Đại đô đốc Ích Châu, đồng thời ban chức quan cho con trai ông.

Một người đã chết từ sáu năm trước, vì sao lại xuất hiện trước cổng cung Đại Minh, đã vậy còn khăng khăng muốn cầu kiến Thánh nhân, nói rằng có chuyện trọng đại muốn bẩm báo?

Hơn nữa, chuyện này còn có liên quan đến vụ án đang được xét xử ngay trong điện Tử Thần.

Kim Ngô Vệ nhìn nhau, vội vã chạy vào điện Tử Thần bẩm báo. Quần thần nghe tin đều choáng váng, đồng loạt thỉnh cầu triệu kiến Đinh Tĩnh ngay lập tức để tra rõ thực hư. Long Hưng Đế cũng mơ hồ khó hiểu, bèn lệnh Kim Ngô Vệ đưa Đinh Tĩnh vào điện.

Rất nhanh sau đó, hắn đã hối hận vì quyết định này của mình.

Khi Đinh Tĩnh khoác bộ giáp vàng sáng từ sáu năm trước bước vào điện Tử Thần, một số đại thần từng quen biết ông chăm chú quan sát hồi lâu, cuối cùng mới dám khẳng định, đây đúng là Đinh Tĩnh.

Đinh Tĩnh mím môi, liếc nhìn Thôi Tuần đang quỳ giữa điện, y phục xốc xếch, vết thương cũ mới chồng chất. Ánh mắt ông trầm xuống, rồi quỳ một gối hành đại lễ trước Long Hưng Đế và Thái hậu, sau đó mới đứng dậy.

Thôi Tuần quỳ bên cạnh nâng nhẹ cổ tay, tiếng xích sắt va vào nhau vang lên. Hắn thở dài: “Hà tất phải vậy?”

Là Đinh Tĩnh, cũng là lão bộc câm nọ.

Mọi người nhao nhao lên tiếng, không ngừng chất vấn Đinh Tĩnh vì sao đã chết lại còn có thể sống lại.

Khuôn mặt già nua đầy nếp nhăn của Đinh Tĩnh hiện rõ sự bẽ bàng. Dù trên người vẫn khoác bộ giáp sáu năm trước, nhưng từ đầu đến chân, ông đã không còn là vị Đô úy uy vũ oai hùng của Cửu Nguyên năm đó, mà chỉ giống như một ông lão gù lưng thường thấy trên đường phố Trường An. Dẫu là cố nhân, nhất thời cũng khó lòng nhận ra.

Ông ta dập đầu, giọng khàn khàn cất lên: “Thần có tội.”

“Sáu năm trước, Đột Quyết xâm phạm biên giới, thần dẫn quân chống địch, chẳng may đại bại. Chiến báo truyền về Trường An nói thần đã tử trận trong loạn quân. Nhưng thực ra, thần chưa chết, mà bị Đột Quyết bắt giữ.” Khuôn mặt Đinh Tĩnh càng lộ rõ vẻ tủi hổ. “Lúc ấy, đáng lẽ thần phải tuẫn quốc, nhưng thần… tham sống sợ chết, nên đã mạo danh Giáo úy Trương Vân, đầu hàng Đột Quyết. Sau đó, dưới sự sắp đặt của Khả hãn Ni Đô, thần còn cưới một nữ tử Đột Quyết làm thê thất…”

Quần thần ồ lên, Long Hưng Đế cùng Thái hậu cũng không khỏi chấn động. Đinh Tĩnh cúi gằm đầu xuống, không dám ngẩng lên: “Thần phụ Thánh ân, tội đáng muôn chết! Thần, cam nguyện chịu phạt!”

Dứt lời, cổ họng ông ta nghẹn lại, mạnh mẽ dập đầu một cái. Sau bức rèm châu, Thái hậu giận đến mức quát lên: “Khốn kiếp!”

Ông ta lấy gì để đối mặt với hai vạn tướng sĩ đã cùng ông ta vào sinh ra tử? Lấy gì để xứng đáng với sự tín nhiệm của bách tính Cửu Nguyên? Và, lấy gì để xứng đáng với bộ giáp Minh Quang vàng rực đang khoác trên người ông ta?

Đinh Tĩnh cúi gằm mặt, hổ thẹn đến đỏ bừng. Ông ta lẩm bẩm: “Thần biết tội đáng chết, nhưng trước khi chết, thần muốn rửa oan cho một người.”

Ông ta chậm rãi ngẩng đầu, từng lời từng chữ vang vọng: “Thiếu khanh Sát Sự Thính Thôi Tuần chưa từng đầu hàng Đột Quyết. Thần chính là nhân chứng!”



Từ lời khai chi tiết của Đinh Tĩnh, mọi người mới hay, sau khi ông ta bị Đột Quyết bắt giữ liền bị giam lỏng trong vương đình Đột Quyết. Vì không muốn chết, ông ta giả danh quy hàng. Vài tháng sau, vương đình ấy lại nghênh đón một tù binh đặc biệt khác.

Người ấy là một thành viên của Thiên Uy quân, hơn thế nữa lại còn là đích tử của họ Thôi ở Bác Lăng, tên gọi Thôi Tuần.

Đinh Tĩnh từng nghĩ rằng, một công tử xuất thân danh môn, lớn lên trong gấm vóc lụa là như hắn, hẳn cũng sẽ như mình, sợ chết đầu hàng. Nhưng ông ta đã lầm.

Ông ta tận mắt chứng kiến thiếu niên thế gia ấy trải qua lễ hiến tù binh, trải qua tầng tầng tra tấn, chịu đủ mọi sự sỉ nhục, nhưng vẫn cắn chặt răng, chưa từng nhắc đến chuyện đầu hàng. Roi thuần nô của Đột Quyết có thể rạch nát da thịt hắn, nhưng không thể ép hắn khuất phục, càng không thể bẻ gãy cốt cách cứng cỏi trong người hắn.

Thực ra, tất cả mọi người trong vương đình đều nhận ra công chúa Ngột Đóa của Đột Quyết yêu thích hắn đến nhường nào. Chỉ cần hắn nguyện ý đầu hàng, nguyện ý khuất phục, hắn sẽ có được đệ nhất mỹ nhân Tây Vực, có thể hưởng vinh hoa phú quý nhiều không kể xiết, cũng sẽ không phải chịu đựng những trận đòn khốc liệt kia nữa.

Thế nhưng, hắn không chịu.

Nhưng hắn thà chết chứ không chịu nhún mình, càng không chịu quy phục.

Ngày qua ngày, tháng nối tháng, mãi đến khi Đinh Tĩnh cùng thê tử người Đột Quyết đứng ngoài vương trướng, trông thấy Thôi Tuần bị xích cổ bằng dây xích chó, nhốt trong lồng sắt, ông ta mới thực sự kinh hãi.

Thê tử người Đột Quyết của ông ta chăm chú quan sát thiếu niên tuyệt đẹp, người đầy thương tích trong lồng và nói: “Liên Hoa Nô của công chúa đẹp thật đấy.”

Nàng ta lại hỏi Đinh Tĩnh: “Nhưng tại sao hắn không chịu đầu hàng? chẳng những không phải chịu khổ, mà còn có thể cưới công chúa Ngột Đóa làm thê tử. Chẳng lẽ người Hán các chàng đều thích tự chuốc khổ vì cái gọi là khí tiết đó sao? Nhưng chàng cũng là người Hán, lại không tự chuốc khổ giống họ.”

Những gì nàng ta nói sau đó, Đinh Tĩnh đã không còn nhớ rõ. Ông ta chỉ ngây người nhìn thiếu niên trong lồng, trong khoảnh khắc ấy, nỗi nhục như ngọn sóng ập đến, cuốn lấy ông ta.

Bất chấp sự phản đối của thê tử, ông ta cởi áo choàng, đắp lên người thiếu niên kia, rồi hoảng hốt bỏ chạy.

Từ đó về sau, ông ta ngày càng trở nên mơ màng, nhưng cũng dõi theo người thiếu niên của Thiên Uy quân kia một cách sát sao hơn. Ông ta chứng kiến hắn hết lần này đến lần khác tìm cách bỏ trốn, hết lần này đến lần khác bị bắt trở lại. Ông ta thấy trên người hắn ngày càng nhiều vết thương, vóc dáng càng lúc càng gầy gò. Cuối cùng, đến lần chạy trốn cuối cùng, hắn đã thành công, thậm chí còn lấy đi tính mạng của Khả hãn Ni Đô cùng vô số quý tộc Đột Quyết đi theo bồi táng.

Thôi Tuần rời khỏi Đột Quyết, cũng là lúc Đinh Tĩnh hoàn toàn khinh miệt chính mình. Ông ta hiểu rằng nếu ở lại Đột Quyết, ông ta có thể sống; nhưng nếu rời khỏi, ắt sẽ chết. Thế nhưng một thiếu niên chưa tròn hai mươi kia vẫn có thể nhẫn nhịn chịu đựng những ngón đòn mất nhân tính, thà chết chứ không chịu khuất phục, lẽ nào ông ta, một Đô úy từng xông pha chiến trận, lại không làm được hay sao?

Thế là Đinh Tĩnh âm thầm chuẩn bị suốt một thời gian dài, cuối cùng cũng trốn thoát khỏi Đột Quyết. Trước khi đi, ông ta chỉ mang theo bộ giáp Minh Quang màu vàng rực của mình.

Trở về Đại Chu, ông ta định ra đầu thú, nhưng rồi phát hiện ra mình đã “chết”. Triều đình đã truy phong ông ta làm Đại đô đốc Ích Châu, con trai ông ta cũng được ra làm quan. Nếu ông ta thú tội, không chỉ bản thân ông ta thân bại danh liệt, mà ngay cả gia tộc cũng chịu liên lụy.

Một lần nữa, Đinh Tĩnh chọn cách hèn nhát. Sống không được, chết cũng không xong, ông ta đến Trường An, tìm gặp Thôi Tuần, khi ấy đã là Thiếu khanh của Sát Sự Thính, cầu xin hắn hãy giết mình.

Ông ta vẫn nhớ rõ, khi đó Thôi Tuần vừa ra khỏi ngục thất của Đại Lý Tự, thân thể suy nhược, hắn ho dữ dội, nhưng chỉ nhàn nhạt đáp: “Vì sao ta phải giết ngươi?”

Đinh Tĩnh quỳ dưới chân hắn, nước mắt đầm đìa: “Bởi vì chính là Thôi lang quân khiến mỗ nhớ ra, mỗ vẫn là một tướng quân.”

Ông giơ cao đao, dâng đến trước mặt Thôi Tuần. Hắn chỉ liếc qua lưỡi đao, thản nhiên nói: “Ta không muốn giết ngươi, đi đi.”

Mãi sau này, Đinh Tĩnh mới biết, lúc ấy, Thôi Tuần đang bị vây trong lời đồn do A Sử Na Ngột Đóa tung ra. Người Đại Chu đều tin rằng hắn đã đầu hàng Đột Quyết. Hắn bị nhốt trong ngục thất của Đại Lý Tự suốt một năm, chịu đủ cực hình. Dù liên tục khẳng định mình chưa từng đầu hàng Đột Quyết, liên tục thỉnh cầu quan lại Đại Lý Tự đến Đột Quyết điều tra, nhưng chẳng một ai tin hắn.

Cuối cùng, hắn hoàn toàn tuyệt vọng, tuyệt vọng với lòng người, tuyệt vọng với quân phụ. Sau cùng, hắn chấp nhận vứt bỏ tất cả lương tri, cam tâm làm chó săn trong tay Thái hậu, đổi lấy mạng sống, bước ra khỏi ngục thất Đại Lý Tự.

Thiếu niên từng thề chết không khuất phục tại Đột Quyết, rốt cuộc đã trở thành một Thiếu khanh của Sát Sự Thính, âm trầm nham hiểm, tàn độc vô tình trong thành Trường An.

Thế nhưng dù có từ bỏ lương tri, dù có lạnh lùng tàn nhẫn đến đâu, hắn vẫn không giết Đinh Tĩnh.

Bởi vì hắn vẫn nhớ, ngày đó tại vương đình Đột Quyết, Đinh Tĩnh đã đắp lên người hắn một chiếc áo choàng.
 
Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh
Chương 149: Phụ làm quân phụ



Đinh Tĩnh không chết, nhưng cũng không thể tiếp tục sống dưới thân phận “Đinh Tĩnh” nữa. Thiên hạ rộng lớn, ông ta đã không còn nơi để đi.

Cuối cùng, Thôi Tuần nói với ông ta: “Đã chết rồi thì đừng để người chết sống lại làm gì. Ta đang thiếu một người làm việc nặng, ngươi có thể làm gia nô của ta.”

Khi nói câu này, giọng điệu hắn hờ hững, cao cao tại thượng, như thể đang bố thí. Nhưng Đinh Tĩnh hiểu đây không phải bố thí, mà là cứu rỗi.

Hắn đang cho ông ta một chốn dung thân.

Đinh Tĩnh xấu hổ, nhục nhã nhưng vẫn gật đầu chấp nhận. Ông ta ở lại Thôi phủ, song không thể nào quên được cảnh bản thân quỳ gối ở vương đình Đột Quyết, cúi đầu trước Khả hãn Ni Đô, nói ra lời thề: “Nguyện quy phục Đột Quyết, đời này kiếp này không còn trung thành với Đại Chu nữa.”

Thôi Tuần đã thức tỉnh lòng tự tôn trong ông ta. Ông ta hổ thẹn với chính những lời hàng phục mình từng nói, nên tự trừng phạt bản thân, không mở miệng thêm lần nào nữa. Từ đó, Đinh Tĩnh biến mất khỏi thế gian, chỉ còn lại một lão nô bộc câm lặng, vô danh trong Thôi phủ.



Sau khi trở thành người câm, Đinh Tĩnh bắt đầu giúp Thôi Tuần bán đi gia sản, dùng tiền bạc chu cấp cho thân quyến của Thiên Uy quân. Thôi Tuần bảo ông làm gì, ông sẽ làm nấy; Thôi Tuần không cho phép, ông cũng tuyệt đối không làm. Dù mơ hồ cảm thấy Thôi Tuần đang âm thầm thực hiện một chuyện gì đó, nhưng Thôi Tuần không nói, ông cũng không hỏi, chỉ một lòng tận tụy làm gia nô của hắn.

Mãi đến gần đây, ông mới biết được Thôi Tuần đã âm thầm làm gì suốt bấy lâu nay.

Trên điện Tử Thần, bộ giáp Minh Quang vàng rực trên người Đinh Tĩnh đã sờn cũ, không còn vẻ chói lọi như ngày trước. Gương mặt ông chằng chịt những vết nhăn sâu không tương xứng với tuổi tác. Ông lẩm bẩm: “Thôi Thiếu khanh bảo thần bán đi phủ đệ của ngài ấy, cầm bạc tìm một nơi dưỡng già. Thần có thể làm như vậy, có thể tiếp tục sống sót qua ngày. Nhưng chính Thôi Thiếu khanh đã khiến thần nhớ lại, thần là tướng quân của Đại Chu, sao có thể bỏ mặc ngài ấy chỉ để cầu một con đường sống cho riêng mình? Thần biết rõ hôm nay đến đây, tất sẽ thân bại danh liệt, vạn kiếp bất phục, đây là sự trừng phạt thần đáng phải nhận, thần không oán hận. Nhưng trước khi chết, thần muốn làm chứng cho Thôi Thiếu khanh.”

Ông từ từ kể lại: “Thôi Thiếu khanh chưa từng đầu hàng Đột Quyết. Tin đồn các vị nghe được chỉ là lời bịa đặt mà công chúa Ngột Đóa tung ra vì muốn có được ngài ấy. Sự thật là, ngài ấy chưa từng trở thành khách trong màn của công chúa, càng chưa từng cúi đầu trước nàng ta. Dù phải chịu bao hình phạt tàn khốc, ngài ấy vẫn chưa từng khuất phục, chưa từng phản bội Đại Chu. Nếu người như thế không đáng được gọi là anh hùng, vậy ai mới xứng được gọi là anh hùng?”

Ông quét mắt nhìn quần thần trong điện: “Chư vị tướng công, lòng người như cán cân, hãy tự vấn lương tâm mình, nếu đổi lại là các vị, liệu có chịu đựng được những cực hình và sỉ nhục đó hay không? Vì sao một vị anh hùng bất khuất như thế lại phải mang tiếng hàng giặc suốt sáu năm qua? Ngài ấy đã từng cố gắng giãi bày, từng kêu oan ở Đại Lý Tự, nhưng đổi lại chỉ là khổ hình bức cung… Ngài ấy đã không còn đường lui! Có thể ngài ấy không phải bậc quân tử trong sạch vô tỳ trong mắt các vị, nhưng lẽ ra ngài ấy đã có thể sống một cuộc đời thanh bạch, không tì vết! Đại Chu đã phụ ngài ấy! Nếu các vị còn một chút lương tri, xin hãy truyền lời nói hôm nay của mỗ đến tai bách tính, đến tai thiên hạ. Hãy để tất cả mọi người đều được biết rằng: Thôi Tuần, ngài ấy chưa từng đầu hàng Đột Quyết! Ngài ấy không phải kẻ tham sống sợ chết, mà là một anh hùng chân chính!”

Lời cung khai của Đinh Tĩnh như một viên đá ném xuống mặt hồ tĩnh lặng, khuấy động ngàn cơn sóng dữ. Long Hưng Đế giận đến nghiến răng nghiến lợi. Điều khiến hắn căm tức không chỉ là chuyện Đinh Tĩnh đứng ra làm chứng, khẳng định Thôi Tuần chưa từng đầu hàng Đột Quyết, mà còn là chuyện Đinh Tĩnh đứng ngay trước mặt quần thần, vạch trần chuyện Huệ phi, sủng phi của hắn dùng trăm phương ngàn kế chỉ để chiếm đoạt một nam nhân khác. Bí mật ô nhục ấy lại bị nói toạc ra giữa triều đường, với bậc đế vương chí cao vô thượng như hắn mà nói, chính là sự sỉ nhục tột cùng.

Long Hưng Đế giận đến mức gân xanh trên trán giật liên hồi, hắn quát lớn: “Người đâu, áp giải tên phản nghịch này xuống, giao cho Đại Lý Tự luận tội!”

Vì lén thả Thôi Tuần đến cung Đại Minh nên Đại Lý Tự Thiếu khanh Lư Hoài bị ép hồi phủ, đợi xét xử. Đại Lý Tự thừa đành phải bước ra, thay mặt hắn đáp: “Tuân lệnh.” Kim Ngô Vệ thô bạo trói Đinh Tĩnh lại kéo đi. Trước khi rời đi, ông quay đầu nhìn Thôi Tuần, khóe môi nở nụ cười nhẹ nhõm. Khuôn mặt già nua khắc khổ ấy cuối cùng cũng ánh lên chút thần sắc năm xưa. Sáu năm qua, ông luôn bị dày vò bởi tội lỗi, đến hôm nay, rốt cuộc cũng đã được giải thoát.

Thôi Tuần dõi theo bóng Đinh Tĩnh bị áp giải đi xa, hắn biết, có lẽ từ nay về sau hắn sẽ không còn gặp lại lão bộc câm ấy nữa. Nhưng hắn cũng biết, lão bộc câm năm nào đã hoàn thành sự chuộc tội của riêng mình. Từ nay về sau, lão sẽ không còn là lão bộc vô danh vô tính, mà chính là Đinh Tĩnh – Chiết Xung Đô úy phủ dù lầm đường lạc lối, nhưng cuối cùng vẫn biết quay đầu.



Thôi Tuần mím môi, hắn ngẩng đầu, nhìn thẳng vị đế vương đang gần như phát điên trên ngự tọa, trầm giọng nói: “Lời khai của Đinh Tĩnh cùng những vết thương trên người thần đều có thể chứng minh thần chưa từng đầu hàng Đột Quyết. Nếu thần không phải phản tặc b.án n.ước, vậy Thánh nhân, chẳng hay người có thể hạ lệnh tra xét về cái chết của Vương Huyên, cũng như đoạn ghi chép trong Khởi cư chú kia không?”

Long Hưng Đế sững người, gần như lộ vẻ luống cuống, giận dữ nói: “Hỗn xược! Trẫm đã nói rõ, cái chết của Vương Huyên không liên quan gì đến trẫm, đoạn ghi chép trên Khởi cư chú càng không liên quan gì đến vụ án Thiên Uy quân! Trẫm là Hoàng đế, nhất ngôn cửu đỉnh, chẳng nhẽ chỉ vì ngươi không tin mà trẫm phải hạ lệnh điều tra? Nực cười!”

Thôi Tuần cười khẽ: “Phải trái đúng sai, tự có công luận. Nếu Thánh nhân không thể giải thích được đoạn chép trong Khởi cư chú, cũng không dám tra rõ cái chết của Vương Huyên, vậy thì trước mắt bao người, chân tướng đã quá rõ ràng. Nay Thánh nhân dùng thân phận Hoàng đế để đè ép thần, trong mắt thần, ngược lại càng chứng thực rằng người từng câu kết với Đột Quyết, hãm hại trung lương, bán rẻ bách tính.”

Long Hưng Đế tái mặt. Sau rèm châu, Thái hậu cuối cùng cũng lên tiếng, giọng bà trầm xuống: “Đủ rồi!”

Bà chậm rãi nói: “Thôi Tuần, ngô biết, ngươi đã chịu nhiều oan ức ở Đột Quyết, sau khi hồi triều lại bị Đại Lý Tự xét xử oan sai. Đây là sơ suất của ngô và Thánh nhân. Ngô sẽ hạ chiếu chiêu cáo thiên hạ, trả lại sự trong sạch cho ngươi. Còn những lời nghịch loạn hôm nay, ngô sẽ xem như vì quá đau buồn nên ngươi mới nhất thời hồ đồ. Ngươi hãy lui xuống đi, chuyện này đến đây là kết thúc.”

Bà đang cho Thôi Tuần một cơ hội cuối cùng. Chỉ cần hắn chấp nhận, hắn sẽ giữ được quyền thế địa vị, vinh hoa phú quý, thậm chí còn có thể lưu lại danh tiếng lẫy lừng. Long Hưng Đế cũng không hiểu vì sao Thái hậu lại bao dung Thôi Tuần đến vậy. Hắn quay đầu, vừa định mở miệng thì đã bị Thái hậu trừng mắt cảnh cáo. Qua kẽ hở của rèm châu lay động, Long Hưng Đế thấy rõ trong mắt Thái hậu tràn đầy sự thất vọng cùng phẫn nộ.

Nhưng dù thất vọng hay phẫn nộ đến đâu, hắn vẫn là con trai bà. Bà không muốn mất đi đứa con này, nên buộc phải tiếp tục bảo vệ hắn.

Bà hứa với Thôi Tuần sẽ xóa bỏ mọi chuyện trong quá khứ, mong đổi lấy một bước lùi của cả hai bên. Nhưng Thôi Tuần lại không hề cảm kích, hắn chỉ nhếch môi cười mỉa: “Khi thần đánh trống Đăng Văn, thần không chỉ tố giác Thánh nhân, mà còn tố giác cả Thái hậu. Thần buộc tội người dung túng con ruột, bao che nghịch tặc, vấy bẩn quốc pháp. Nay xem ra, những lời tố cáo ấy quả không sai.”

Thái hậu khựng lại, Thôi Tuần tiếp tục: “Thần có thể hiểu một người mẹ sẵn sàng làm mọi cách để bảo vệ con trai mình, nhưng không thể hiểu nổi một vị Thái hậu lại bất chấp tất cả để bảo vệ một Hoàng đế cấu kết với ngoại bang.”

Lời vừa thốt ra, những người có mặt đều líu lưỡi.

Phải biết rằng, hiện nay ở Đại Chu, Long Hưng Đế chẳng khác nào một con rối, Thái hậu mới là người nắm quyền sinh sát trong tay. Thôi Tuần không chỉ công khai chỉ trích Hoàng đế mà còn chỉ trích cả Thái hậu.

Quả nhiên, Thái hậu giận đến mức đánh rơi phong thái, nổi giận quát: “Thôi Tuần, ngươi không muốn sống nữa phải không?”

Bấy giờ, Thôi Tụng Thanh, người vẫn giữ im lặng từ đầu đến giờ, cũng không ngồi yên được nữa, ông ta nói: “Thôi Tuần, vụ án Thiên Uy quân đã kết thúc, thiên hạ không có quân phụ sai trái, ngươi đừng làm càn nữa.”

Một số đại thần cũng bắt đầu phụ họa. Tư tưởng trung quân hiếu nghĩa là thứ tư tưởng thâm căn cố đế trong lòng những người đọc sách, dù họ nhận ra có lẽ quân phụ đúng như những gì Thôi Tuần đã nói – hãm hại trung lương, bán rẻ bách tính – nhưng họ vẫn cố chấp không muốn tin. Một số người hùa theo lại có một suy tính khác: nếu chuyện quân phụ b.án n.ước bị truyền ra ngoài, đây sẽ là một vết nhơ lớn. Vậy sau này bá tánh còn dám tin tưởng triều đình nữa không? Phiên bang còn dám ngưỡng vọng Đại Chu nữa không?

Vì thế, bằng mọi giá, chuyện này phải dừng lại tại đây.

Giữa những lời trách móc dồn dập, Thôi Tuần bỗng bật cười, tiếng xích sắt leng keng vang vọng. Hắn chậm rãi đứng lên, bình tĩnh nhìn Thôi Tụng Thanh, vị bá phụ mà hắn từng tôn kính, trầm giọng nói:

“Hôm ấy, thi thể của Thịnh Vân Đình bị đào lên giữa quan đạo. Rõ ràng Thôi tướng công biết cái chết của Thịnh Vân Đình tất có nội tình, vậy mà lại lựa chọn làm ngơ, nhắm mắt cho qua. Vì sao? Vì Thôi tướng công còn có Tân chính Thái Xương phải thúc đẩy, còn có Lư đảng phải đối phó, làm sao có thể vì một Thịnh Vân Đình mà bỏ qua đại cục? Nay, Thôi tướng công vẫn vì đại cục mà không đếm xỉa đến nỗi oan khuất của Thiên Uy quân, không quan tâm đến sinh tử của bách tính sáu châu. Đây chính là đạo của Thôi tướng công. Nhưng ta khinh thường đạo của Thôi tướng công, càng lấy làm sỉ nhục vì nó. Một thứ đạo mà ngay cả oan khuất của tướng sĩ chết vì nước cũng không quan tâm, ngay cả tính mạng của dân lành vô tội cũng không đếm xỉa, thì thứ đạo ấy, có cũng vô dụng!”

Thôi Tuần không còn gọi ông ta “bá phụ” nữa mà đổi sang “Thôi tướng công”, đủ để thấy sự khinh miệt trong lòng hắn đã lớn đến mức nào. Thôi Tụng Thanh trợn tròn mắt, nhưng còn chưa kịp phản ứng, Thôi Tuần đã lại quét mắt nhìn đám đại thần chọn cách đồng tình kia: “Năm xưa, Thế Tông của tiền triều từng sai Tể tướng Tiền Minh Uyên giết oan đại tướng Hàn Dụ. Thiên hạ chấn động, người người nối tiếp nhau kêu oan cho Hàn Dụ. Nhưng lúc đó, tất cả mũi dùi đều chỉ nhắm vào Tiền Minh Uyên, chứ không ai nhắm đến Thế Tông. Đến khi Hàn Dụ được minh oan, thiên hạ vẫn chỉ nói Thế Tông bị hạng tiểu nhân lừa bịp. Từ cổ chí kim, chỉ có quân phụ bị che mắt, chứ không có quân phụ làm sai. Chư vị cũng nghĩ như vậy, đúng không? Nhưng trước khi làm thần tử của quân phụ, lẽ nào chư vị không nên là một con người trước đã? Đã là con người, ắt phải biết thế nào là đúng, thế nào là sai. Cấu kết Hồ Lỗ là đúng ư? Hãm hại trung lương là đúng ư? Bán đứng bách tính là đúng ư? Ta tin rằng, không ai trong chư vị dám nói đó là đúng cả. Vậy lẽ nào, các vị đọc sách Thánh hiền, dốc lòng dùi mài kinh sử, chỉ để đi theo cái sai đó?”



Chúng nhân đều sững sờ, trong ánh mắt lộ ra vẻ mơ hồ khó tả. Thế nhưng, dưới tư tưởng trung quân đã ăn sâu bén rễ, không một ai dám lên tiếng hưởng ứng lời nói của Thôi Tuần. Hắn cũng chẳng hề ngạc nhiên trước kết cục này, ngược lại, trong lòng càng thêm thản nhiên. Những điều hắn muốn nói, đều đã nói hết.

Câu cuối cùng, hắn hướng về phía Long Hưng Đế và Thái hậu: “Thánh nhân vì tư dục mà vứt bỏ tướng sĩ, bách tính, không xứng làm quân. Thái hậu chỉ biết nghĩ cho con mình, không đoái hoài gì đến con của tướng sĩ, con của bách tính, cũng chẳng xứng làm Thái hậu!”

Thái hậu tức giận đến toàn thân phát run, ngón tay bà run rẩy chỉ vào Thôi Tuần: “Người đâu! Áp giải hắn xuống!”

Bà không giống như Long Hưng Đế, vì muốn bịt miệng bá tánh mà mang tâm tư tranh luận với Thôi Tuần, để rồi biến triều đường thành một vở hài kịch. Bà nắm quyền sinh quyền sát trong tay, sao phải tranh luận? Bà muốn hắn sống, hắn liền sống; muốn hắn chết, hắn liền phải chết.



Huyết Bồn Khổ Giới.

Ngư Phù Nguy ôm chặt Lý Doanh, chỉ còn một chút nữa là có thể rời khỏi cây cầu gỗ. Lý Doanh hoảng loạn đến cùng cực, nàng tựa đầu vào cánh tay hắn, đột nhiên há miệng, dùng toàn bộ sức lực cắn mạnh lên cánh tay đó.

Lực cắn quá lớn khiến Ngư Phù Nguy đau điếng người, theo phản xạ buông tay, Lý Doanh lập tức rơi xuống cây cầu gỗ. Không biết lấy đâu ra khí lực, nàng liều mạng bò về phía mép cầu, nàng phải đi vào Địa Ngục Huyết Trì!

Chỉ cần nàng vào đó, Ngư Phù Nguy sẽ không thể đuổi theo. Trên người nàng có xá lợi Phật đỉnh, quỷ thú trong Địa Ngục Huyết Trì sẽ không thể làm hại nàng được.

Nàng gắng sức bò về phía bờ cầu, nửa người đã rơi xuống dưới. Ngư Phù Nguy kinh hãi, vội nhào tới ôm chặt lấy eo nàng, ngăn cản nàng rơi xuống. Nhưng ngay lúc ấy, một con Ba Nhân Tượng lặng lẽ nhảy vọt lên từ huyết trì, hàm răng sắc nhọn cắn lấy vạt áo của Ngư Phù Nguy, kéo hắn rơi thẳng vào Địa Ngục Huyết Trì.
 
Back
Top Bottom