Cập nhật mới

Dịch Full Xuân Giang Hoa Nguyệt

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 120


Đã gần hai tháng kể từ khi cuộc nổi loạn Thiên Sư Giáo nổ ra vào đầu tháng 9, cho đến ngày hôm nay, Cao Kiệu giao việc triều đình cho hầu trung Phùng Vệ, người cũng xuất thân sĩ tộc và là người luôn thận trọng, mình thì vẫn bôn ba qua lại giữa các quận bên ngoài Kiến Khang, đích thân điều binh bố trí quân sự, trấn an dân chúng, bận rộn như con quay, chưa từng có một phút nhàn rỗi.

Lần cuối cùng ông xuất hiện ở nhà là mười ngày trước.

Cao Thất biết gia chủ trở về thì mừng như điên, chạy ra khỏi cổng để đón, dắt ngựa cho ông vào trong.

Cao Kiệu ngay lập tức hỏi về trưởng công chúa, biết vợ không làm sao, gấp gáp bước vào trong. Khi sắp đến phòng ngủ, A Cúc cùng với mấy thị nữ trước đó đã được Lạc Thần dặn ở lại chăm sóc cho mẫu thân mới từ bên trong đi ra, thấy ông đột nhiên trở về thì mừng rỡ, vội ra đón.

– Trưởng công chúa đang ngủ trưa ạ, vừa mới ngủ được một lúc rồi, chắc cũng sắp dậy. Ngày hôm qua nhận được tin Lật Dương chiến thắng, trưởng công chúa rất vui, giữa trưa có ăn một bát cơm, nghỉ ngơi một lúc, sau đó có đi dạo qua lại ở đình viện theo dặn dò của thái y, đi chưa được một vòng đã nói hết sức rồi, còn nói chân phù lên rất nặng, tôi liền đỡ về phòng…Sáng nay thái y có tới xem, nói mọi thứ đều tốt, bảo cứ yên tâm chờ sinh ra được. Tính ngày thì chắc là cuối tháng nay. Nhiều nhất là hơn mười ngày nữa thôi…

Không đợi Cao Kiệu hỏi, A Cúc đã kể lại kể cho ông nghe về cuộc sống hàng ngày của Tiêu Vĩnh Gia trong những ngày qua.

Cao Kiệu đi qua đình viện, bước lên bậc thang mái hiên đi tới cửa, đẩy cánh cửa khép hờ ra, bước nhẹ đến bên giường rồi chậm rãi ngồi xuống.

Lần mang thai này không chỉ khiến cơ thể thê tử bị phù nề mà giờ đây ngay cả tay và chân bà cũng sưng to lên, chẳng trách A Cúc nói rằng bà chưa đi được một vòng sân thì đã than thở là không đi nổi nữa.

Cao Kiệu ngắm nhìn dung nhan đang ngủ say của thê tử, đôi lông mày nhíu chặt mấy ngày nay cuối cùng cũng từ từ hóa giải. Ông đưa tay ra nắm lấy bàn chân đi đôi tất mềm mại màu trắng thò ra khỏi góc chăn của vợ, nhẹ nhàng xoa bóp lòng bàn chân và mu bàn chân vợ.

Lông mi Tiêu Vĩnh Giai khẽ nhúc nhích, tỉnh dậy, mở mắt ra, không ngờ trông thấy trượng phu lại ngồi ở mép giường đang xoa bóp chân cho mình thì mừng rỡ, gọi ông một tiếng, ngồi dậy nói:

– Em còn tưởng mình vẫn đang ở Lật Dương chứ. Mình về khi nào vậy?

Cao Kiệu đáp lại bà. Ông đặt một chiếc gối ở dưới lưng vợ, đỡ bà dựa vào đó, mình dịch chuyển đến bên cạnh bà, hỏi bà những ngày này cảm thấy thế nào.

Tiêu Vĩnh Gia nói:

– Em vẫn bình thường. Giờ em chỉ mong con nó mau ra ngoài thôi. May mà thái y nói chỉ còn mấy ngày nữa, thật là sốt ruột quá đi.

Cao Kiệu áp tai vào cái bụng đã phồng to của thê tử, như là nghe được động tĩnh bên trong, miệng nói:

– Nàng cứ có cái tật xấu này vẫn mãi chẳng sửa được. Lúc nào ra thì con nó sẽ tự ra thôi.

Tiêu Vĩnh Gia nói:

– May mà A Di không giống mình. Ước gì đứa con trong bụng này của em bất kể là con trai hay con gái tính tình cũng không được giống mình. Người gì mà chậm rì rì, tức muốn chết.

Cao Kiệu cười to:

– A Lệnh, tính tình của ta khiến nàng không ưa đến thế cơ à?

Tiêu Vĩnh Gia hừ một tiếng:

– Tự mình nói xem? Em chỉ thấy lạ, sao hồi xưa em lại thích mình nhỉ, cứ khóc lóc ỉ ôi đòi phải gả cho mình, cũng làm cho mình bị thiệt thòi nhiều.

Cao Kiệu cười đến mức hai vai run lên, nói:

– Giờ nàng hối hận cũng chưa muộn mà.

Tiêu Vĩnh Gia cũng không biết tại sao mình lại nói chuyện này với trượng phu, nhớ tới chuyện cũ thời thiếu nữ bản thân cũng thấy buồn cười, thế là bật cười lên.

Bà ngước mắt lên nhìn khuôn mặt trượng phu, một lúc sau nụ cười từ từ biến mất, đưa tay vuốt nhẹ lông mày hiện đã hằn dấu chữ xuyên dù là có cười to thoải mái cũng không thể biến mất được của chồng, thở dài:

– Mới có một thời gian thôi mà mình đã gầy đi thế này rồi. Mình mệt rồi phải không, đi ngủ chút đi.

Cao Kiệu nói không mệt.

Tiêu Vĩnh Gia thấy cả người ông lộ vẻ phong trần, chiến giáp trên người còn chưa cởi, biết ông vô cùng mệt mỏi rồi, vui đùa hai câu rồi dừng lại, đi xuống giường gọi người mang nước vào, hầu hạ ông tắm rửa thay quần áo, lại ăn vài thứ. Chờ ông nghỉ ngơi một chút, tinh thần cũng đã khá lên, bà mới hỏi:

– Tình thế bên ngoài thế nào rồi mình? Lúc A Di đi có nói chờ em sinh rồi thì sẽ về thăm. Em thấy hơi chút không yên lòng.

Nụ cười vừa nãy trên mặt Cao Kiệu dần dần biến mất.

– Ta đã dặn dò Phó Tử An bảo nó gửi tin cho A Di, dặn con nó tạm thời cứ ở lại Kinh Khẩu, đừng vội quay về Kiến Khang. – Ông nói.

Tiêu Vĩnh Gia nghe xong, thần sắc hơi đổi.

Ý tứ trong lời nói của trượng phu, làm sao bà không nghe hiểu?

Huống chi mấy ngày này, những lời đồn đại bên ngoài hoặc ít hoặc nhiều bà vẫn nghe thấy.

– Ý mình là gì cơ? Lẽ nào Kiến Khang…thật sự không thủ được?

Bà ngập ngừng, hỏi.

– A Lệnh à, ta về nhà chính là muốn nói với nàng chuyện này. Không chỉ A Di mà nàng cũng không thể ở lại Kiến Khang. Ta đã an bài một nơi để ổn thỏa nàng đến đó rồi. Ta sẽ đích thân đưa nàng đi, nàng ở đó có thể an tâm sinh con.

Tiêu Vĩnh Gia nhíu hai hàng lông mày lại:

– Bệ hạ thì sao? Mình cũng có an bài rồi à?

– Đúng vậy. – Cao Kiệu gật đầu, – Bệ hạ sẽ tạm thời dời hành cung đến Khúc A. Nơi đó an toàn hơn Kiến Khang. Còn cả dân chúng nữa, cũng phải sơ tán hết.

Tiêu Vĩnh Gia yên lặng nhìn trượng phu:

– Thế mình thì sao? Bản thân mình có tính toán gì không?

Cao Kiệu khẽ mỉm cười, lập tức nắm lấy bàn tay đã trở nên hơi lạnh của vợ.

– Nàng đừng hiểu lầm. Kiến Khang đúng là có nguy hiểm, ta không nắm chắc có thể bảo vệ được nó, để đảm bảo an toàn mới đưa ra an bài như thế. Ta làm thế là để không có lo lắng hậu phương, có thể buông tay đánh một trận. Nếu thủ được, ta sẽ tận hết sức lực, nếu không thủ được, ta sẽ tạm thời lui lại, sau này sẽ đoạt trở lại.

Ông siết chặt tay thê tử.

– Nàng hãy yên tâm. A Di lớn rồi, lòng con nó hướng về người ngoài, ta còn muốn đứa con trong bụng nàng gọi ta là cha, một lòng hướng về ta đó.

Tiêu Vĩnh Gia nhìn thấy một tia vui mừng hạnh phúc ở trong đáy mắt trượng phu, vì vậy bà buông lỏng trái tim, gật đầu:

– Được, vậy em nghe theo sắp xếp của mình. Mình đang bận nhiều việc, không cần phải đưa em đi đâu, tự em đi qua đó là được.

– Thời gian này ta cũng chưa được ở bên nàng nhiều. Để ta đưa nàng đi. Nàng cho người thu dọn đồ trước đi, đến lúc đó là đi ngay.

Giọng điệu của Cao Kiệu mang theo một chút hương vị không thể phản bác hiếm thấy.

Tiêu Vĩnh Gia đáp vâng một tiếng, thuận theo an bài của trượng phu.

Cao Kiệu vuốt tóc thê tử, đứng lên:

– Nàng nghỉ ngơi đi, ta có việc đi Đài Thành một chuyến.

……

Để hợp tác với kế hoạch bảo vệ kinh đô của Cao Kiệu, đế hậu đã tạm thời dời hành cung từ Kiến Khang đến Khúc A. Tin tức này nhanh chóng lan truyền trong bách quan.

Khi Cao Kiệu đi vào Đài Thành, nhìn thấy trong ngoài nha thự có rất nhiều văn võ bá quan, tất cả đang túm tụm bàn tán, nét mặt mang biểu cảm khác nhau, tiếng người ồn ào.

Trong khoảng thời gian này, Phùng Vệ nhận sự uỷ thác của Cao Kiệu xử lý các sự vụ của Thượng thư lệnh đang bị mười mấy quan viên vây quanh hỏi về tình hình cụ thể, trốn cũng trốn không thoát, trán túa mồ hôi, đột nhiên nghe có tiếng lệnh quan hô Cao tướng công tới thì thở hắt ra một hơi, vội đẩy mọi người ra vội vã ra nghênh đón.

Bách quan nhìn thấy Cao Kiệu cuối cùng cũng xuất hiện, cũng dần việc bàn tán lại, đồng loạt tiến về phía ông.

Phùng Vệ cùng với mọi người chào hỏi Cao Kiệu, chờ Cao Kiệu ngồi xuống liền gấp gáp đặt câu hỏi.

Ánh mắt Cao Kiệu đảo qua từng gương mặt quen thuộc của văn võ bá quan, nói:

– Đúng là bệ hạ đã tiếp nhận lời đề nghị của ta. Sự việc đã được quyết định rồi, nếu không thay đổi thì hai ngày nữa sẽ ra khỏi cung.

Tiếng vo ve tức khắc không dứt bên tai, rất nhiều người âm thầm thở phào nhẹ nhõm.

Ngay từ đầu loạn Thiên sư giáo thì cũng thôi, có Cao Kiệu chống đỡ rồi, Kiến Khang chắc chắn là không có nguy hiểm gì, nhưng mà về sau phản quân của Hứa Tiết tiến quân mạnh mẽ tấn công Kiến Khang, sự việc đã hoàn toàn khác biệt.

Cao Kiệu song quyền khó địch bốn tay, đã rơi vào thế bị động, không ai mà không biết. Một số người đứng ở đây hoặc sợ chiến đấu, hoặc sợ rằng lúc trước Hứa Tiết xui xẻo thì vung tay ném đá xuống giếng nếu ông ta thật sự đánh đến bị trả thù là khó tránh khỏi, lo sợ cũng là không thể tránh được, nghe được Cao Kiều có an bài như vậy, tự nhiên âm thầm vui mừng.

Phùng Vệ hỏi:

– Cao tướng công, thế văn võ bá quan phải làm như thế nào?

Cao Kiệu nói:

– Những ai nguyện ở lại cùng ta chống lại phản quân thì ở lại, ai không muốn ở lại thì đi theo bệ hạ đi khúc A đi.

Chung quanh bỗng nhiên an tĩnh xuống, không một ai phát ra tiếng. Dần dần, ánh mắt mọi người đều đổ về người đứng bên cạnh Phùng Vệ, đó chính là Chinh lỗ tướng quân Lưu Huệ xuất thân Dĩnh Xuyên Lưu thị, sau khi Lục Quang chết bởi vì có danh vọng mà được tiến cử, kế nhiệm chức vị của Lục Quang.

Từ sau khi hai nhà Hứa Lục rời khỏi triều đình, hiện giờ đại gia sĩ tộc trong triều ngoại trừ Cao Kiệu ra thì Lưu Huệ cùng với Phùng Vệ đảm nhiệm Hầu trung nhiều năm là lớn nhất.

Lưu Huệ thấy mọi người đều nhìn mình, đầu tiên tỏ ra hơi xấu hổ, sau đó ngẩng đầu lên nói:

– Cao tướng công, vốn dĩ thần sẵn lòng ở lại cùng ngài chống đỡ Kiến Khang, nhưng mà chỗ bệ hạ tuy có Lục Giản Chi ở đó, nhưng dẫu sao thì thế đơn lực mỏng, ngộ nhỡ bị loạn tặc lẻn vào, nếu có bất trắc gì vậy thì nên làm thế nào đây? Bảo hộ thánh giá cũng là chức trách của thần. Thần vẫn nên đi theo hộ giá thì tốt hơn ạ.

Cao Kiệu cười cười:

– Lưu Chinh lỗ nói có lý, ngươi hộ giá cũng tốt.

– Thần cũng xin đi hộ giá.

– Thần cũng thế.

Chung quanh nổi lên những tiếng phụ họa. Cuối cùng sẵn lòng ở lại chỉ có năm sáu người ít ỏi mà thôi, đều là quan viên địa vị tương đối thấp kém lúc trước từ địa phương đề bạt lên.

Cao Kiệu lạnh nhạt nhìn mọi người, quay sang Phùng Vệ:

– Phùng hầu trung, việc này giao cho ngài. Những người đi cùng hộ giá đều trở về để chuẩn bị sớm đi.

Phùng Vệ mặt nóng lên, chần chừ một chút, nói:

– Tôi ở lại hỗ trợ ngài.

Cao Kiệu hơi liếc nhìn ông ta, mỉm cười:

– Hầu Trung là quan văn, việc đánh trận này nên giao cho quan võ thì hơn. Việc dời hành cung của bệ hạ rất quan trọng, ta không thể đồng hành cùng, tất cả mọi việc đều phải dựa hết vào ngài.

Phùng Vệ thấy các đồng liêu của mình thân ở các địa vị cao lần lượt né tránh muốn trốn khỏi Kiến Khang, không một ai muốn ở lại, trong lòng cực kỳ hổ thẹn, bấy giờ mới lên tiếng xin ở lại. Nhưng thấy Cao Kiệu không cho mình ở lại, đành phải từ bỏ, đáp ứng.

Mọi người thấy sự việc đã quyết định xong chỉ muốn vội vã về nhà thu dọn tiền của đồ đạc đi né tránh chiến loạn, ồn ào xin cáo lui. Phùng Vệ cùng Cao Kiệu thương nghị kế hoạch an bài đế hậu đi ra ngoài xong, cũng vội vàng rời đi để chuẩn bị.

Nha thự vừa rồi còn đứng đầy người lập tức trở nên trống vắng, cuối cùng chỉ còn lại Cao Kiệu cùng với mấy thuộc quan.

Một thuộc quan mang theo một văn kiện mới viết xong, cẩn thận đưa cho Cao Kiệu, thấp giọng nói;

– Tướng công, công văn đã soạn xong, xin ngài th ẩm duyệt ạ.

Ánh mắt Cao Kiều rơi vào vết mực trên giấy, ánh mắt dừng lại hồi lâu.

Ông biết, một khi mệnh lệnh này được ban hành, hơn hai mươi vạn hộ dân chúng trong thành không thể không rời đi Kiến Khang.

Mặc dù ông đã ra lệnh cho mấy quận huyện rồi đến quận thủ ở các nơi như Khúc A, Đan Đồ, Bì Lăng tạm thời tiếp nhận những cư dân Kiến Khang này, nhưng buộc họ phải rời khỏi nhà của mình, những người này trong một đêm lại lưu lạc trở thành dân chạy nạn, không biết khi nào mới có thể trở về.

Và tất cả những điều này là do sự vô năng của Cao Kiệu ông, thượng thư lệnh mà họ vô cùng tin tưởng và yêu quý gây ra.

Ông dường như đã nghe thấy những lời oán than đinh tai nhức óc đó.

Cao Kiệu giơ đại ấn của mình lên, đóng thật mạnh xuống, một con dấu đỏ tươi in trên đó.

Lý Hiệp tiến vào, tiếp nhận công văn:

– Tướng công yên tâm, hạ quan sẽ cùng các huynh đệ đốc xúc bá tánh rời thành đi đến nơi đã an trí.

Cao Kiệu gật đầu:

– Làm phiền ngươi rồi.

Lý Hiệp khom người, vội vàng rời đi.

Những việc cần sắp xếp hẳn là đã làm gần xong, chỉ còn lại một số công văn do Phùng Vệ thay mặt ông xử lý khi ông vắng mặt.

Cao Kiệu nhắm mắt lại, đưa tay xoa xoa hai bên huyệt thái dương, nơi mạch máu dường như đang phập phồng đau đớn, chậm rãi thở ra một hơi, mở mắt ra cầm bút lên, ánh mắt rơi vào chồng danh sách tử hình đặt ở trong góc bàn. Danh sách tử tù này là do Hình Ti gửi đến mấy hôm trước đang chờ ông phê duyệt.

Ông sực nhớ tới một chuyện, chần chừ một chút, phân phó với người hầu bên cạnh một tiếng, người đó đáp rồi đi ngay.

Không bao lâu, ngục quan vội vàng tới, hành lễ với Cao Kiệu.

Cao Kiệu hỏi gã:

– Nữ tù họ Thiệu của mấy tháng trước hiện giờ đã đi lưu đày chưa?

Ngục quan vội nói:

– Bẩm tướng công, còn chưa ạ.

Nói xong, thấy ánh mắt Cao Kiệu quăng tới thì vội giải thích.

– Lúc trước chẳng phải Hình ti có căn dặn, chờ cô ta khỏi bệnh thì hẵng đi đó ạ? Bệnh tình của cô ta mãi chưa khỏi hẳn, vẫn luôn bị giam ở trong nhà lao, vẫn chưa đi…

– Sao lâu như thế mà còn chưa khỏi hẳn? – Cao Kiệu khẽ nhíu mày.

Ngục quan thấy ông tỏ vẻ không hài lòng, cười xòa:

– Trong khoảng thời gian này cô ta vẫn luôn ở nhà lao đơn sạch sẽ, hạ quan cũng mời người tới khám bệnh cho cô ta. Vết thương trên người cô ta khỏi rồi, chỉ là cơ thể vẫn rất yếu ớt, không khám ra được là bệnh gì cả, ngày nào cũng rất mệt mỏi yếu ớt. Lúc trước tướng công không hỏi đến, về sau lại xảy ra phản loạn, hạ  quan cũng không dám quấy rầy tới tướng công…

- … Tướng công có cần đi gặp cô ta để hỏi cho rõ ràng không ạ?

Ngục quan vừa nói vừa lén quan sát, thấy ông không nói gì, lại thử hỏi một câu thăm dò.

Cao Kiệu xua tay:

– Thôi không cần.

Ngục quan vội đáp ứng. Lại chần chừ hỏi:

– Cao tướng công, hạ quan vừa rồi nghe nói toàn thành phải rời đi, thần cả gan hỏi, thế Thiệu thị cùng tù phạm khác trong nhà lao là để lại mặc kệ hay là có xử trí khác ạ?

Cao Kiệu trầm ngâm:

– Ngươi chuyển tất cả bọn họ đến nhà lao ở Thạch Đầu Thành và gia tăng người để canh giữ đi.

Thạch Đầu Thành nằm ở bên bờ sông phía Tây Kiến Khang, đi ra ngoài hai mươi dặm, là tòa quân bảo, có một đội quân đóng ở đó để bảo vệ chung quanh kinh sư.

Ngục quan vâng dạ đáp ứng, nhận thủ lệnh từ chỗ Cao Kiệu, trước khi đi lại nói thêm:

– Cao tướng công yên tâm, tới bên kia rồi, hạ quan sẽ an trí thỏa đáng cho cô ta…

Trong giọng nói mang theo vẻ lấy lòng, vừa nói và khom  người lui ra ngoài.

Cao Kiệu đang cúi xuống bắt đầu xử lý công văn, nghe thế hơi nhíu mày lại, ngẩng lên như muốn nói gì đó nhưng đã thấy gã lui ra ngoài rồi.

……

Vào lúc ban đêm, tin tức sơ tán toàn thành bắt đầu được lan truyền rộng ra.

Đúng như dự đoán của Cao Kiệu, toàn thành rơi vào trong hỗn loạn. Dân chúng đã có thói quen sinh hoạt an ổn cũng không chịu rời đi, chạy ra ngoài đường hỏi tin tức của nhau, bàn luận sôi nổi. Người nào cũng mang biểu cảm thất vọng và bất mãn đối với triều đình.

Sự thất vọng và bất mãn này nhanh chóng được chuyển dời đến thượng thư lệnh Cao Kiệu, người đã ra lệnh sơ tán.

Giờ Hợi, đêm đã khuya, Cao Kiệu còn đang bận rộn ở Đài Thành, bỗng nhiên thu được một tin tức, nói rất nhiều dân chúng hùng hổ đi Cao gia, chẳng những chặn kín cửa lớn trước và sau mà ngay cả con phố cũng không thể nào thông hành.

Cao Kiệu giật mình, lập tức giao lại việc cho cấp dưới, vội vàng trở về nhà.

Cổng nhà Cao lúc này đã đóng, sau cổng là chấn song dày đặc, Cao Thất dẫn theo người trấn giữ tại chỗ này nghe bên ngoài có tiếng người ồn ào, quần chúng đang kích động, ra lệnh cho hạ nhân bảo vệ cửa cho tốt, không được để xảy ra sơ suất gì.

Đột nhiên, ngoài cửa vang lên hỗn loạn tiếng đập cửa, cửa khẽ rung lên, giống như có rất nhiều người cùng nhau đập cửa gọi Cao Kiệu đi ra, hết đợt này đến đợt khác.

Vẻ mặt của Cao Thất căng thẳng, căng thẳng không kém gì khi bị người của Tiêu Đạo Thành bao vây đêm đó, lập tức lệnh cho người nhà cầm chặt binh khí, lại triệu tập một hàng cung thủ xếp hàng sẵn ngay sau cổng. Đang truyền lệnh, chợt nghe phía sau có tiếng bước chân, quay đầu lại thấy là trưởng công chúa đi tới, vội vàng chào hỏi nói:

– Tiểu nhân vô dụng, làm động tĩnh lớn ảnh hưởng đến trưởng công chúa. Trưởng công chúa cứ an tâm quay lại nghỉ ngơi đi ạ, nơi này đã có tôi bố trí đâu vào đấy rồi, nhất định không có việc gì đâu.

Tiêu Vĩnh Gia được A Cúc đỡ đi tới, theo sau là mấy vú già. Bà đứng ở sau cánh cửa, lắng nghe tiếng ồn ào náo động ở bên ngoài, một lát sau nói:

– Mở cửa ra.

Cao Thất kinh hãi, vội nói:

– Trưởng công chúa, những người bên ngoài đó đều đã bị điên rồi, không thể mở cửa được đâu ạ. Ngài yên tâm, tôi đã cho người trèo tường ra ngoài đi thông tri cho Lý đô vệ rồi. Chắc là anh ta cũng sắp đến đây rồi.

Tiêu Vĩnh Gia nói:

– Mở cửa ra!

Giọng ra mệnh lệnh.

Cao Thất không dám cãi lời, đành phải vừa bảo người tháo then cài ra, vừa ra hiệu cho cung tiễn thủ xếp thành hàng đứng trước trưởng công chúa để phòng ngừa bất trắc.

Tiêu Vĩnh Gia nói:

– Tất cả tránh ra đi.

Cao Thất không thể làm gì khác hơn đành phải rút lui cung tiễn thủ ra sau cánh cửa, đổi sang đứng hai bên trái phải, mình thì dẫn người bảo vệ bên cạnh bà, nét mặt căng thẳng nhìn cánh cửa lớn trước mặt từ từ mở ra.

Cây đuốc chiếu sáng như ban ngày. Bên ngoài cửa đứng đầy người, nhìn một lượt toàn là đầu người, ngay cả hai con sư tử đá ngồi xổm ở hai bên trái phải cửa lớn cũng bị dòng người nuốt chửng không thấy bóng dáng đâu.

Bởi vì chờ đợi lâu mà không có lời đáp lại mà đám đông bắt đầu mất khống chế cảm xúc, xô đẩy dùng cơ thể đụng vào cánh cửa lớn, đột nhiên nhìn thấy cửa lớn từ từ được mở ra, một người phụ nữ xinh đẹp nét mặt nghiêm trang xuất hiện ở ngay cửa, tuy rằng bụng rất lớn nhưng dung nhan cao quý, chỉ đứng ở cửa thôi mà khiến cho mọi người đều ngây cả người.

Tiêu Vĩnh Gia đẩy A Cúc đang giữ chặt lấy cánh tay của mình, đón lấy vô số ánh mắt từ bên ngoài cửa ném tới, đi lên trước vài bước dừng lại, cất tiếng:

– Ta chính là thê tử của Cao tướng công. Ngài ấy không ở đây, ta thay mặt ngài ấy gặp các ngươi. Các ngươi có chuyện gì?

Tiếng ầm ĩ bên ngoài cửa dần dần yên tĩnh lại. Sau một lúc, một người trong đám đông lên tiếng:

– Chúng tôi muốn Cao tướng công có một lời giải thích rõ ràng, có phải ông ấy muốn bỏ mặc Kiến Khang không? Nếu chúng tôi nghe theo Cao tướng công mà rời đi, vậy thì ngày nào có thể quay về?

– Đúng, đúng!  – Chung quanh là tiếng phụ họa.

Tiêu Vĩnh Gia nói:

– Các ngươi sai rồi. Ngày hôm nay Cao tướng công phát lệnh sơ tán không phải là muốn bỏ thành, mà hoàn toàn ngược lại, ngài ấy là muốn bảo vệ các ngươi và tòa thành trì này.

Giọng nói của bà như ngọc gõ vào băng, cực kỳ rõ ràng.

– Ta biết các ngươi đều không muốn rời đi, bởi vì đây là nhà của các ngươi, là căn cơ tổ tiên của các ngươi, ai mà muốn từ bỏ? Ngài ấy cũng không muốn! Những ràng buộc của ngài ấy với tòa thành này tuyệt đối không thua kém gì các ngươi. Nhưng mà ngài ấy cũng không còn cách nào khác. Bình lính mà triều đình có thể dùng có hạn, phản quan và Thiên sư giáo lại hô ứng lẫn nhau, thế đang rất mạnh mẽ.

– Phu quân của ta, ngài ấy hoàn toàn khong cần lo nhiều việc như thế, không cần quan tâm đến sống chết của các ngươi. Sở dĩ ban ngày ban ra mệnh lệnh này không phải để từ bỏ thành trì, mà là để bảo vệ các ngươi, cũng để cho ngài ấy khi đón đánh chống lại quân địch sẽ không có vướng bận, có thể toàn lực đi ứng phó.

Ánh mắt của bà lướt qua từng khuôn mặt một.

– Vào lúc này khi mà các ngươi gây hỗn loạn ở chỗ này thì phản quân đang từ các phương các hướng mà tiến đến, chuẩn bị tấn công thành Kiến Khang. Mà phu quân của ta vì để ngăn cản địch mà dốc hết sức lực, bôn ba bố trí. Ngài ấy không thể bảo đảm với các ngươi nhất định bảo vệ được các ngươi bảo vệ được tòa thành trì này, nhưng ta có thể thay mặt ngài ấy nói rõ cho các ngươi biết, không đến giờ khắc cuối cùng, ngài ấy tuyệt đối sẽ không vứt bỏ thành trì này.

Bên ngoài cửa im ắng, không nghe được tiếng động tĩnh nào.

Rất nhiều người tụ tập lại với nhau, nhưng nó giống như một vùng đất không người.

Tiêu Vĩnh Gia chậm rãi hít một hơi, cao giọng lên:

– Từ lúc có loạn đến nay, trong khoảng thời gian này Cao tướng công vẫn luôn bôn ba bên ngoài, ngay cả ta cũng chưa được gặp ngài ấy. Các ngươi bất mãn với ngài ấy, tụ tập lại ở đây, dù có phá nát cánh cửa này thì cũng sẽ không gặp được ngài ấy đâu. Mấy ngày trước ngài ấy vừa mới đánh xong trận đại chiến Lật Dương, hôm nay đúng là vừa mới trở về Kiến Khang, nhưng mà hiện tại ngài ấy lại không ở trong nhà kê cao gối để ngủ mà đang chuẩn bị các công việc cho cuộc chiến đấu bảo vệ thành.

Ngoài cửa truyền đến tiếng xì xào bàn tán, sự thất vọng cùng bất mãn trên mặt mọi người vừa rồi từ từ biến mất.

– Tất cả giải tán đi. Mau về thu dọn rồi đến địa phương mà Cao tướng công đã an bài cho mọi người đi, đi sớm thì có thể chiếm được vị trí tốt. Đi muộn thì sợ không có chỗ để ở đâu.

Cao Thất thấy thế vội vã cao giọng khuyên nhủ.

Tiếng thở dài thổn thức không ngừng.

Đoàn người chật kín bên ngoài cuối cùng dần dần giải tán.

Đoàn người dần dần giải tán đi gần hết.

Cao Kiệu vội vàng chạy về, đi đến đầu phố thông đến nhà mình thì đúng lúc gặp Lý Hiệp nghe được tin đang dẫn người cầm đuốc chạy tới.

Lý Hiệp đưa mắt nhìn thấy trên con đường dẫn đến cửa nhà Cao gia đen kịt tất cả đều là người, những người gần đó dường như nhìn thấy Cao Kiệu, liền kêu lên:

– Cao tướng công về tới rồi!

Đồng loạt chạy tới. Lý Hiệp sợ có người sợ đụng phải Cao Kiệu, biểu cảm trở nên khẩn trương, quay đầu lại nói:

– Cao tướng công thứ tội! Mới rồi hạ quan đang mang theo mấy huynh đệ làm việc ở thành Đông cho nên tới chậm. Cao tướng công đi mau đi, nơi này giao cho hạ quan xử lý.

Nói xong sai người che chở cho Cao Kiệu lập tức rời đi.

Cao Kiệu lo lắng cho Tiêu Vĩnh Gia bị hoảng sợ, làm sao chịu đi, vì thế xua tay muốn cự tuyệt, một cảnh tượng làm ông giật mình xảy ra.

Những người dân xông tới trước mặt ông, vây quanh ông, một ông lão lớn tuổi vừa rồi muốn xông đi đầu bị đẩy ra đã tách đám đông đi đến, quỳ xuống cao giọng:

– Cao tướng công, bọn tiểu nhân sai rồi. Trước đó là bọn tiểu nhân hiểu lầm Cao tướng công. Vừa rồi chúng tôi đã nghe trưởng công chúa nói, mới biết ngài rất cực khổ hết lòng vì triều đình vì dân chúng. Cầu xin ngài thứ tội. Cao tướng công xin yên tâm ở lại bảo vệ thành, chúng tôi nguyện nghe theo ngài.

– Phải đó, phải đó. Chúng tôi cũng nguyện hỗ trợ ngài.

Chung quanh trong đám người vang lên một mảnh hô ứng tiếng động. Phần phật mà, mọi người tất cả đều quỳ xuống.

Một lát sau, trên con đường phố đó chỉ còn lại Cao Kiệu và Lý Hiệp cùng nhóm bính lính phía sau vẫn chưa phản ứng kịp, không hiểu đã xảy ra chuyện gì.

Cao Kiệu sửng sốt, sau đó sải bước đi lên đỡ ông cụ kia dậy, cũng ra lệnh cho mọi người đứng lên.

Lý Hiệp cũng hồi phục tinh thần, nói:

– Việc bảo vệ thành là chức trách của những binh sĩ bọn ta, Cao tướng công không cần các ngươi xuất lực gì cả. Các ngươi chỉ cần nghe theo mệnh lệnh của ngài nấy mau chóng rời khỏi Kiến Khang, đó mới là giúp ngài ấy.

Ông cụ được Cao Kiệu đỡ dậy, thấy Cao Kiệu mỉm cười gật đầu với mình, rưng rưng quay đầu lại nói to với mọi người:

– Các ngươi đều đã nghe thấy rồi đó, hãy nghe theo Cao tướng công phân phó trở về nhà thu dọn đồ đạc đi, rồi tất cả mau chóng ra khỏi thành.

Mọi người hướng về Cao Kiệu dập đầu với ông, sau đó đứng lên gạt lệ giải tán.

Màn đêm buông xuống, cửa thành Đông mở rộng ra, rất nhiều dân chúng bắt đầu ra khỏi thành ngay trong đêm, Lý Hiệp dẫn theo Đô vệ quân duy trì trật tự trong thành, bận rộn nhưng không hỗn lạn.

Qua một đêm và đến ngày hôm sau, càng có nhiều người bắt đầu ra khỏi thành. Trên con đường phố kia đâu đâu cũng nhìn thấy dân chúng mặt mày u sầu mang theo cả gia đình, đông nghìn nghịt, giống như một con rồng dài uốn lượn kéo dài nhìn không thấy điểm cuối.

Hết chương 120
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 121


Canh bốn, đêm tối đen như mực, ánh đèn le lói trong cung Kiến Khang chiếu rọi những khuôn mặt mệt mỏi của cung nhân thức gần cả đêm.

Vào giờ phút này, Cung điện Kiến Khang hùng vĩ với hàng ngàn căn phòng không còn thấy được nửa phần uy nghiêm và trang nghiêm trước đây.

Những người bên trong người kéo tay nải, người nâng hòm xiểng, vội vã ra vào, thậm chí còn va phải nhau vì bất cẩn.

Một lát nữa thôi, hoàng hậu sẽ bãi giá ra khỏi cung dưới sự theo giá của quan viên rời khỏi Kiến Khang.

Cao Ung Dung cả một đêm không ngủ.

Khuôn mặt chị ta xám xịt, đôi mắt sưng húp vì mệt mỏi và tâm trạng không tốt.

Tin tức xấu cứ lần lượt mà đến.

Quận Võ Xương đã bị phản quân đến từ Kinh Châu công phá, phản quân đang tiến về quận Vọng Giang đã được Cao Kiệu bố trí phòng thủ. Một khi quận Vọng Giang cũng bị công phá, Kiến Khang hoàn toàn mất đi lá chắn phía Tây và phản quân đánh tới là việc đương nhiên.

Không chỉ như vậy, loạn binh Thiên Sư giáo vốn đã bị đàn áp hiện đang bành trướng như quả cầu tuyết mượn cơ hội quân đội triều đình bị điều đi, phòng bị yếu ớt mà lại nhân cơ hội phản công.

Tin tức vừa mới nhận được, quận Hội Kê là một quận lớn rất quan trọng ở Đông Nam cũng bị chiếm đóng. Quận thủ trên đường chạy trốn đã bị bắt, bị chém đầu ở ngay trên tường thành.

Càng đáng sợ hơn chính là, có tin đồn Ngô Thương giáo đầu Thiên Sư giáo đã cấu kết với phản quân Tuyên Thành, không đợi phản quân Kinh Châu đến đã ngo ngoe rục rịch cùng hẹn xuất binh, ít  ngày nữa lại lần nữa tấn công Kiến Khang.

Quân đội Đại Ngu được chia thành ba loại gồm trung quân, ngoại quân và quận binh từ các châu khác nhau.

Trung quân chính là Túc vệ quân và Đô vệ quân Kiến Khang, do hoàng đế chỉ huy, hiện giờ nhân số còn mở rộng hơn so với thời Hưng Bình đế, nhưng quân số của hai đội cộng lại không đến một vạn. Binh châu quận các nơi chiếm tỷ lệ rất nhỏ, gần như không có tác dụng mấy.

Toàn bộ triều đình đều dựa vào chính là Quảng Lăng quân, binh lính Kinh Châu trước khi nổi dậy và ngoại quân binh Kinh Châu trước khi phản loạn từng nằm trong tay sĩ tộc và quyền thần.

Mà hiện giờ, binh lính mà Đại Ngu có thể dùng gần như chỉ còn lại Quảng Lăng quân của Cao Kiệu.

Ngoài cung truyền đến tiếng thông báo, tất cả quan viên đều đã đến ngoài cung, cung kính mời hoàng hậu ra ngoài.

Cao Ung Dung rời mắt khỏi bầu trời đêm đen kịt bên ngoài cung điện, thu mình lại, đang định ra ngoài thì một vị quan trong cung thân tín vội vàng chạy tới, thấp giọng nói:

– Hoàng Hậu, bà tử trong nhà lao truyền lời, Cao tướng công ra lệnh ngục quan chuyển hết tù phạm đến Thạch Đầu Thành. Thiệu thị khẩn cầu quý nhân phóng thích chị ta…

Cung nhân nhìn trái phải, ghé sát tai Cao Ung Dung, thì thầm vài câu.

Trong mắt Cao Ung Dung hiện lên một tia căm ghét, lạnh lùng nói:

– Ngươi truyền lời cho cô ta, bảo cô ta là người em trai kia của cô ta đã được ta cho người đưa gã trở về nửa chừng khi đang trên đường đi lưu đày. Bảo cô ta ngoan ngoãn ở trong đó mà đợi. Thời kỳ phi thường không thể để xảy ra bất cứ đường rẽ gì, qua cửa ải này rồi chỉ cần lúc cần dùng đến ta sẽ tự thả cô ta ra ngoài.

Cung nhân vâng dạ rồi đi.

Cao Ung Dung nhìn thoáng qua cung điện sau lưng, cất bước đi ra.

Cao Kiệu và Phùng Vệ dẫn theo bách quan nhìn thấy đế hậu dắt theo thái tử từ trong cung bãi giá ra ngoài thì đều quỳ xuống nghênh đón.

Hoàng đế đêm qua cảm mạo ngã bệnh, vừa ốm vừa mệt, vừa ra ngoài đã được cung nhân dìu đi lên xe ngựa.

Cao Ung Dung vẫn không trèo lên xe ngựa mà đi đến trước mặt Cao Kiệu, nói:

– Bá phụ, bệ hạ vì quá buồn lo mà đổ bệnh, tinh thần không phấn chấn, nên kêu cháu gái gửi lời với bá phụ, Kiến Khang giao cho bá phụ, tất cả đều dựa vào bá phụ ạ.

Cao Kiệu nói:

– Đây là bổn phận và trách nhiệm của ta.

Cao Ung Dung nâng ông đứng lên, cũng kêu mọi người bình thân, sau đó quay đầu lại nhìn Túc Vệ quân đang xếp hàng nơi xa, nói tiếp:

– Bá phụ, bệ hạ và cháu đã thống nhất với nhau, tuy không thể ở lại cùng sống chết với Kiến Khang, nhưng mà Túc Vệ quân không cần phải điều đi toàn bộ. Chỉ cần mang theo tả hữu nhị doanh là đủ rồi, nhân mã còn lại thì ở lại, cùng bá phụ chống lại phản quân bảo vệ toàn thành.

Các đại thần nhìn nhau. Cao Kiệu nói ngay:

– Không được. Đô vệ quân đã ở lại rồi, Túc Vệ quân vốn có trách nhiệm bảo vệ an nguy của bệ hạ, huống chi lần này là di giá. Không thể được đâu.

Cao Ung Dung nói:

– Cháu biết để số nhân mã này ở lại chỉ như muốn bỏ biển, cũng không mấy có ích đối với việc bá phụ ngăn địch, nhưng mà đây là tấm lòng của bệ hạ và cháu gái, mong bá phụ nhận lấy, có thể tùy ý sử dụng và điều động ạ.

Nói xong sai người đi truyền đạt lại thánh chỉ cho Túc Vệ quân.

Cao Kiệu nhìn cháu gái của mình, trong mắt xẹt qua tia u tối khó nhận ra, cuối cùng nói:

– Nếu thế thì thần thay dân chúng Kiến Khang cảm tạ bệ hạ và điện hạ. Xin mời hoàng hậu lên xe chuẩn bị khởi giá.

Cao Ung Dung gật đầu, xoay người bước lên xe của mình.

……

Vùng ngoại ô thành Tây, tên lính áp giải một đội tù nhân đang đi trên đường tiến về Thạch Đầu Thành. Số lượng nữ tù nhân không nhiều lắm, chỉ có hơn chục người, vốn là đi sau cùng, một người trong đó dường như là đi không nổi nữa càng đi càng chậm, đi cách hẳn phía sau một đoạn.

Nữ tù này chính là Thiệu Ngọc Nương. Bà tử chuyên phụ trách trông coi chị ta không còn kiên nhẫn, đứng bên thúc giục liên hồi.

Thiệu Ngọc Nương giơ đôi tay bị xiềng xích lên, cầu xin:

– Xin ma ma thương xót tháo xiềng xích cho tôi được không? Cái này nặng quá nô không đi nổi ạ.

Khuôn mặt chị ta tái nhợt vì đã lâu không nhìn thấy ánh mặt trời, nói một câu cũng th ở dốc, nhìn bộ dạng của cô quả thực rất đáng thương.

Lao bà lạnh lùng nói:

– Người khác còn mang xiềng chân, ngục quan để hai chân ngươi tự do đã là ưu ái lắm rồi, ngươi đừng có mà dài dòng nữa. Đi mau đi.

Thiệu Ngọc Nương không còn cách nào khác lại cắn răng đuổi theo, dần dần đi tới một bên đường có cỏ dại rậm rạp, dừng lại, đặt tay lên bụng nói muốn đi vệ sinh.

Lao bà cau có tỏ vẻ khó chịu, kêu chị ta cứ ngồi xuống mà đi.

Thiệu Ngọc Nương xin xỏ:

– Ma ma ơi, tối qua tôi ăn phải cơm thiu trong nhà lao, sáng nay bụng dạ không tốt, bà cũng biết mà. Tôi không phải đi nhẹ mà là đi nặng, chỉ sợ hôi thối làm ma ma đứng canh bên cạnh không chịu nổi thôi. Xin ma ma mở khóa cho tôi, tôi đi vệ sinh xong thì quay lại ngay.

Lao bà biết chị ta sáng nay đúng thật là bụng dạ khó chịu, cau mày nhìn trái phải, chung quanh bằng phẳng, cũng không có nơi để trốn được, sợ chị ta thật sự dính bẩn hôi thối đến mình, cau mày, lấy chìa khóa mở khóa một tay cho chị ta.

Thiệu Ngọc Nương cảm ơn liên tục, một tay đeo xích sắt, một tay ôm bụng, đi đến phía sau một bụi cỏ dại rồi ngồi xuống.

Lao bà theo vài bước dừng lại, đợi hồi lâu giục vài lần nhưng mãi không thấy chị ta đứng lên bèn tức tối đi qua đó, lại thấy chị ta ngã lăn dưới đất, hai mắt nhắm nghiền đã hôn mê bất tỉnh. Bà ta giật mình ngồi xuống ấn nhân trung cho chị ta, thấy chị ta không có phản ứng, đang muốn đứng lên hô to gọi người ở đằng trước đến thì Thiệu Ngọc Nương đang nằm bất động dưới đất đột ngột mở mắt ra, nắm lấy xích sắt treo trên cổ tay mình quàng lấy cổ bà ta, sau đó quấn một vòng rồi thu lại, thít chặt cổ bà ta.

Lao bà thân hình cao lớn bị Thiệu Ngọc Nương ở phía sau siết chặt cổ nhưng lại không thể nào giãy thoát được, ngã ra đất, hai chân đạp loạn xạ, cổ họng phát ra những tiếng ú ớ không ngừng, hai tay hãy còn liều mạng bắt lấy xích sắt muốn thoát ra.

Thiệu Ngọc Nương nghiến răng càng kéo chặt hơn, xích sắt ghim sâu vào trong da thịt. Dần dần, tay chân lao bà kia buông thõng, cả người bất động đã bị siết cổ đến chết.

Thiệu Ngọc Nương buông xích sắt ra, ngồi dưới đất thở hổn hển mấy hơi, lấy chìa khóa của bà ta mở hết khóa xiềng xích trên tay mình ra, lại kéo bà tử kia đến một con mương đất dài, lấy cỏ vùi lên, lại nhìn chung quanh rồi đi nhanh về phương hướng Kiến Khang.

……

Lệnh ban bố sơ tán vào ngày thứ ba, đế hậu cùng với quần thần đi theo giá đã đi Khúc A, cư dân trong thành cũng đã dời đi quá nửa.

Trời vừa tờ mờ sáng. Sương mù buổi sáng mỏng manh như một tấm màn mỏng che phủ những ngọn đồi và cánh đồng ở ngoại ô phía đông Kiến Khang, vạch ra một đường cong mờ ảo dưới ánh nắng ban mai.

Cánh đồng trước mặt thật yên bình, nếu không nhờ những chiến báo giống như bông tuyết từ các nơi ngày đêm bay đến, thật khó tưởng tượng rằng trong tương lai không xa, mọi thứ trước mắt có lẽ cũng sẽ bị nạn binh hoả phá vỡ.

Có tiếng ồn ào dưới cổng thành, một nhóm người vừa rời khỏi thành phố đi ra, bao gồm đàn ông, phụ nữ, trẻ em và gia đình của họ, một người đàn ông đi sau cùng đẩy một chiếc xe cút kít, ngồi trên xe là một người phụ nữ đang ôm đứa con đang bú, đôi mắt đờ đẫn, trên tay là một tay nải.

Cao Kiệu không nhìn nữa, quay đầu đi xuống tường thành trở về nhà.

Tiêu Vĩnh Gia đã chuẩn bị sẵn sàng, mang theo thái y, bà mụ, A Cúc cùng với bốn năm người hầu được lựa chọn đang chờ ở trong nhà.

Cao Kiệu đón thê tử đi lên một cỗ xe ngựa bọc nỉ màu xanh lá cây bình thường có đệm dày, một nhóm người và ngựa lặng lẽ rời khỏi cổng nam đi về phía Câu Dung.

Bên cạnh Câu Dung có một ngọn núi Thanh Long ít được biết đến, lưng chừng núi Thanh Long có một đạo quan không có tiếng tăm gì mấy, người biết đến nó không nhiều lắm, quan chủ là là một người bạn cũ mà Cao Kiệu thời trẻ tình cờ gặp và kết bạn rồi giữ liên lạc cho đến tận ngày nay.

Cao Kiệu đưa Tiêu Vĩnh Gia đến nơi này đợi sinh.

Đi nửa ngày đường là tới địa phương kia. Bậc thang đá xanh đi thông lên núi ẩn hiện dưới tán núi rừng rậm rạp, vô cùng khuất, nếu không lại gần rất khó phát hiện ra. Càng tuyệt vời chính là, hướng đi đạo quan còn phải đi qua một đoạn sạn đạo được xây dựng giữa hai tòa núi đồi, dù là ở dưới chân núi có chuyện ngoài ý muốn gì, vào giây phút cuối cùng, chỉ cần hủy đi sạn đạo là thông đạo bị đứt đoạn, có thể nói đó là một cái chắn thiên nhiên, phòng thủ kiên cố.

Quan chủ tới đón Tiêu Vĩnh Gia đi lên núi.

Đạo quan không lớn, hoàn cảnh thanh tĩnh. Tiêu Vĩnh Gia được an trí trong một viện tử phía sau. Cao Kiệu để lại một đội ngũ đủ để hộ vệ, ra lệnh phải phân chia canh gác ở giao lộ dưới chân núi, sạn đạo và đạo quan, có việc thì đến Kiến Khang thông báo cho ông. Sắp xếp xong xuôi ông từ biệt với thê tử.

Tiêu Vĩnh Gia thúc giục ông quay về:

– Nơi này tốt lắm, em rất hài lòng. Mình đang nhiều việc, mình đã ở với em hơn nửa ngày rồi, mình mau về đi, không cần lo cho em đâu.

Cao Kiệu bịn rịn không muốn đi, nhưng ông cũng biết trong thành Kiến Khang có rất nhiều việc đang chờ mình, không thể không đi. Ông cầm tay thê tử, dặn dò mấy người A Cúc phải săn sóc chu đáo cho vợ, còn dặn khi nào sinh con thì nhớ đi báo cho mình ngay, còn nói mình có thời gian cũng sẽ đi thăm bà, nói xong mới rời đi.

Ông bước ra cửa, lại nghe Tiêu Vĩnh Gia ở phía sau gọi với theo:

– Mình chờ chút.

Bèn dừng lại, thấy vợ đi tới, mỉm cười sửa sang lại vạt áo cho mình, nhỏ nhẹ nói:

– Dù khó khăn đến đâu, mình phải nhớ bảo vệ bản thân thật tốt đó. Em và con chờ mình.

Cao Kiệu thấy ấm áp trong lòng.

Tính cách của ông hướng nội, hơn nữa luôn tự giữ thân phận, bất kể là lúc tuổi trẻ hay là hiện tại, dẫu cho có cùng Tiêu Vĩnh Gia đóng cửa ân ái thì cũng chưa từng có hành động gì thân mật quá mức. Nhưng mà giây phút này ông lại không tự chủ được ở ngay trước mặt mấy người hầu A Cúc ôm lấy thê tử vào lòng, ôm rất chặt, lấy cái ôm này để đáp lại vợ, sau đó mới buông ra, xoay người gấp gáp rời đi.

Tiêu Vĩnh Gia dựa vào cạnh cửa, nhìn theo bóng dáng rời đi của trượng phụ, đỡ eo, được A Cúc đón lấy đi vào trong phòng.

Những ngày trong núi rất thanh tịnh, so sánh với tình cảnh binh hoang mã loạn ở bên ngoài thì không khác gì đang sống ở trong mơ.

Tiêu Vĩnh Gia ở chỗ này bảy tám ngày, Cao Kiệu cũng chưa tới thăm bà.

Bà biết nhất định là thời cuộc căng thẳng, chỉ đành nén lo âu xuống, ban ngày đi đạo quan một chút, buổi tối đi ngủ sớm, chờ ngày sinh đến.

Không ngờ tới chính là, sau nửa đêm hôm nay, trong núi lại nổi lên hỏa hoạn.

Phát hiện ra lửa cháy rừng là một vệ binh gác đêm. Khi nhìn thấy hỏa hoạn thì lập tức đánh thức người trong đạo quan dậy.

Khi đến đầu mùa đông, trên núi đầy cỏ úa và cành khô, rất dễ bắt lửa, cộng thêm trời nắng nhiều ngày, ngọn lửa bùng lên, nhờ gió núi trợ giúp, hỏa hoạn nhanh chóng lan rộng ra một khu vực rộng lớn, căn bản không thể dập tắt nó.

Vị trí của đạo quan lại tọa lạc nơi hướng gió, nhìn thấy ngọn lửa càng ngày càng ép lại gần, người ở trong phòng chẳng những có thể cảm giác được từng đợt nhiệt lượng mà dường như còn có thể nghe được tiếng lách tách từ cành và lá của đám cháy rừng phát ra.

Đạo quan sẽ sớm bị ngọn lửa nhấn chìm.

Toàn bộ người của đạo quan gồm quan chủ, đồ đệ, đoàn người Tiêu Vĩnh Gia, cộng thêm hộ vệ không thể không rút lui xuống dưới núi.

Phụ cận chân núi không có chỗ ở, may mà quan chủ nói cách đó mười dặm có một dã thôn, có mấy hộ nhà ở đó, có thể qua đó. Thị vệ dùng kiệu vừa rồi mang xuống dưới nâng Tiêu Vĩnh Gia qua đó tìm kiếm.

Đúng như lời quan chủ nói thôn đó chỉ có mấy hộ gia đình. Nhà ở thưa thớt, phân tán rải rác dọc theo địa hình, ngày thường trồng trọt mấy mẫu ruộng trên núi và đi săn bắn để duy trì cuộc sống, vô cùng chất phác thiện lương. Hai nơi bởi vì gần nhau nên họ đều biết quan chủ. Thấy ông ta dẫn một nhóm người tới, người phụ nữ bụng lớn, những người còn lại có vẻ như là tùy tùng đi theo, tuy là tình trạng rất thảm nhưng chắc chắn là có địa vị, vì thế rất cung kính, để giành ra một phòng lớn nhất có kèm sân riêng cho họ.

A Cúc và mấy thị nữ thu dọn, cuối cùng mới miễn cưỡng dàn xếp xong. Lúc này, ngọn lửa trên núi kia đã hừng hực gần như nuốt sống cửa nửa đỉnh núi, ngọn lửa dữ dội chiếu những nơi phụ cận sáng như ban ngày, ngay cả ở chỗ này cũng có thể nhìn thấy ánh lửa.

Mọi người từ xa đứng nhìn đều hãi hùng khiếp vía.

Tiêu Vĩnh Gia được A Cúc đỡ đi lên chiếc giường đơn sơ của nhà thợ săn để nghỉ ngơi.

Bà biết trượng phu nhất định nhiều việc. Bà lên núi đã bảy tám ngày, cũng không biết bên ngoài tình huống đã như thế nào rồi, bà vốn không định dùng chuyện sinh con quấy rầy ông, nhưng mà tối nay không may lại xảy ra chuyện như thế này, không còn cách nào khác, bà đành phái người trở về Kiến Khang báo tin cho Cao Kiệu.

Lúc này trời đã sáng.

Lăn lộn nửa đêm, bản thân bà còn đỡ, thấy những người còn lại đều lộ vẻ mệt mỏi, liền gọi người đi mượn một ít lương thực từ thôn dân. Có mấy gia đình gửi đến lương thực và một ít kê cùng rau dại, thị nữ nấu một nồi cháo rau to cho mọi người cùng ăn.

Các hộ vệ bận rộn nửa đêm, lại chạy ra từ trong đám cháy, mồm miệng mắt mũi đều rất khó chịu, thấy gần cửa thôn có giếng nước nhỏ, vừa rồi đều đi tới đó uống nước xong, lúc này đang bắt đầu thấy đói bụng, vừa hay có cháo, mọi người đều cùng nhau ăn, sau đó chia nhau trực ban, ra lệnh một nửa số người tạm nghỉ, số còn lại tiếp tục đứng gác, chờ tin tức bên Kiến Khang.

Tiêu Vĩnh Gia thấy thái y, bà mụ, vú già, người nào cũng mắt căng đến khô khốc, bảo họ ăn uống xong thì đi nghỉ ngơi trước.

A Cúc không quan tâm đói khát của bản thân, lấy bát cháo và một đ ĩa đồ sấy đi vào nhà, ngồi trước mặt Tiêu Vĩnh Gia, vừa thổi nguội cho bà vừa thì thầm nói chuyện:

– Làm trưởng công chúa phải chịu khổ rồi, sắp sinh đến nơi rồi ai ngờ lại gặp chuyện thế này…

Thấy mắt bà ấy đỏ hoe, Tiêu Vĩnh Gia biết bà ấy đang xót cho mình, bèn cười, đang muốn nói chuyện, đột nhiên thấy bụng đau âm ỉ, đưa tay đè lên, nói:

– Hình như ta sắp sinh rồi.

So với thời gian dự sinh còn trước mấy ngày.

A Cúc hoảng cả hồn, lập tức đi ra khỏi phòng đi gọi mấy bà mụ, thái y và đám thị nữ vừa mới nằm xuống đi nghỉ ngơi, ai ngờ mọi người ngủ rất say, gọi mấy cũng không tỉnh.

A Cúc khó hiểu, lại gọi thêm nữa, thấy mọi người thật sự không tỉnh, bấy giờ mới cảm thấy bất thường, cuống quýt chạy ra cổng tre muốn gọi thị vệ. Nhưng ra đó rồi mới phát hiện thị vệ bên ngoài cửa cũng nằm dưới đất bất tỉnh nhân sự.

A Cúc kinh hoảng, đang chuẩn bị hô to gọi hộ gia đình ở trên sườn núi đối diện, qua khóe mắt thấy có người đang run rẩy gần đó, quay đầu lại còn chưa kịp phản ứng thì thấy ngực lạnh buốt, một thanh chủy thủ đã cắm sâu vào ngực.

Bà mở to hai mắt, nhìn chằm chằm vào người đối diện.

Trong con ngươi, có một khuôn mặt mà dù đã gần hai mươi năm, dù có bị thiêu thành tro bà cũng có thể nhận ra.

Khuôn mặt của Thiệu Ngọc Nương!

Thiệu Ngọc Nương giả dạng thành nông phụ, đầu bù tóc rối, mặt trắng bệch giống như ma, ánh mắt lại sáng rực, khóe miệng nhếch lên nụ cười lạnh lẽo, đẩy ngã bà ngã xuống đất, cũng không nhìn lấy một cái hất đầu ra lệnh cho Thiệu Phụng Chi sắc mặt cũng trắng bệch canh giữ cho mình, còn mình thì bước phăm phăm đi vào trong.

Tiêu Vĩnh Gia đợi một lát, không thấy A Cúc dẫn người tiến vào, cảm thấy được bất thường, đè lấy bụng chờ cơn đau kia qua đi lại gọi một tiếng, vẫn không thấy có ai, liền đỡ mép giường cố sức đi xuống giường, đang muốn đi ra ngoài thì nghe được bên ngoài cửa có tiếng bước chân nhỏ vụn, ngẩng lên, thấy là một người phụ nữ đi vào, cả người lập tức ngẩn ra.

Thiệu Ngọc Nương vừa nhìn thấy Tiêu Vĩnh Gia hai mắt thẳng tắp dừng ở trên người bà, rồi dịch chuyển từ trên mặt bà đi xuống, cuối cùng rơi xuống bụng của bà, ánh mắt chòng chọc, mí mắt nhảy lên, nét mặt biểu cảm quỷ quái.

Tiêu Vĩnh Gia lẩm bẩm:

– Thiệu Ngọc Nương…Là ngươi…Sao ngươi tới đây…

Còn đang nói, bà đột nhiên ôm lấy bụng, trên mặt lộ vẻ đau đớn, ngã ngồi ở trên giường.

Bởi vì đau đớn mà cơ thể của bà cuộn tròn lại, sau đó gọi tên A Cúc, giọng run rẩy.

Ánh mắt của Thiệu Vân Nương cuối cùng cũng rời khỏi bụng bà, quay lại trên mặt bà.

Chị ta nhìn chằm chằm vào khuôn mặt của Tiêu Vĩnh Gia, người cũng trạc tuổi mình nhưng trông vẫn trẻ trung xinh đẹp. Cho dù hiện đang mang thai sắp lâm bồn, lại ở trong một căn phòng nát như này, nhưng điều này cũng không làm tổn hại vẻ đẹp đẽ và sức hấp dẫn của bà, đây là một loại khí chất không phải bởi son phấn mà là bởi vì được tôn ưu cùng với yêu chiều sủng ái quanh năm mà dưỡng ra.

– Tiêu Vĩnh Gia, ngươi sẽ không ngờ mình sẽ có ngày hôm nay đúng không? Ngươi nói xem đêm qua vì sao ngọn núi kia lại bị cháy? Đó là do ta làm. Nơi ngươi ẩn náu đúng là rất tốt, nếu không nhờ ta phóng hỏa đốt núi thì làm sao có thể ép ngươi xuống núi được…

Hai ánh mắt đầy ghen tị tỏa ra từ đáy mắt chị ta, chị ta bật cười lên, tiếng cười tự mãn.

Cơn đau bụng của Tiêu Vĩnh Gia ngày càng dữ dội, thậm chí cả người bà cũng khẽ run lên.

– Họ đâu hết rồi…Ngươi đã làm gì họ rồi…

Thiệu Ngọc Nương hừ một tiếng:

– Ngươi đúng là quý nhân hay quên việc. Chẳng lẽ ngươi đã quên nhà ta truyền trung y, trước kia chính là ta hiến dược mới cứu được lang quân ngươi, huống chi Thiên sư giáo thiện dùng nhất chính là thuốc khống chế kẻ khác. Ta muốn lấy chút thuốc thật sự quá dễ dàng. Nhưng mà số của họ cũng vẫn tốt lắm, ta vốn định hạ độc trong giếng, nhưng lại nghĩ nếu như hạ độc ngươi cũng chết thì làm sao, chẳng phải là hời cho ngươi quá hay sao? Cho nên ta mới đổi cách khác, chỉ để cho họ ngủ một ngày một đêm là đủ.

Cũng không biết là đau đớn hay là tức giận, cơ thể Tiêu Vĩnh Gia run rẩy kịch liệt hơn, nỗ lực gọi tên Cao Kiệu.

Thiệu Ngọc Nương càng cười to:

– Ngươi kêu đi, đừng nói Cao lang quân, dù là người toàn bộ thôn này cũng đã bị trúng độc nước giếng của ta rồi, ta xem ngươi có thể gọi được ai tới.

– Thiệu Ngọc Nương, rốt cuộc ngươi muốn gì….Năm xưa lúc ngươi xảy ra chuyện không hề liên quan đến ta…Không phải ta phái người đuổi theo giết ngươi…

Tiêu Vĩnh Gia run rẩy nói, ôm bụng r3n rỉ vì đau đớn.

– Ngươi câm mồm cho ta!

Nụ cười đắc ý hả hê trên mặt Thiệu Ngọc Nương biến mất, ánh mắt hiện lên tia phẫn nộ.

– Dù không phải ngươi phái người đuổi giết ta, thì có sao? Nếu không phải ngươi tìm mọi cách ngăn cản ta, Cao lang quân sẽ bỏ ta hay sao? Nếu không phải ngươi ép ta rời đi, ta sẽ gặp phải chuyện đó hay sao? Tất cả đều do ngươi hại ta, ngươi là ả đàn bà rắn rết.

Chị ta nghiến răng kèn kẹt, khuôn mặt vốn dĩ xinh đẹp cũng vì thế mà trở nên dữ tợn. Chị ta nhắm mắt lại thở sâu một hơi, như là cố gắng đè nén cơn giận trong lòng xuống, bấy giờ mới mở mắt ra, nhìn chằm chằm vào Tiêu Vính Gia bởi vì đau bụng mà dáng vẻ chật vật, thong thả ngồi xuống đối diện với bà, cười nói:

– Vừa rồi ngươi hỏi ta muốn làm gì.

– Ngươi nghe cho kỹ đây. Ta sẽ để ngươi đau đớn thêm một lát, nếu như ngươi không sinh được, ta sẽ mổ bụng ra giúp ngươi, lấy con trai của Cao lang quân ra, sau này nó sẽ trở thành con trai của ta. Ta không tin Cao lang quân sẽ không nghe theo ta…

Chị ta cười hả hê, giống như là bị chính kế hoạch này của mình lây nhiễm, ánh mắt sáng rực lên.

Tiêu Vĩnh Gia lẩm bẩm:

– Thiệu Ngọc Nương, ngươi đừng có nằm mơ. Ngươi chắc không biết năm đó lang quân nói với ta, ngươi là một kẻ vô sỉ, mưu đồ dụ dỗ huynh ấy. Trong mắt huynh ấy, ngươi chỉ là một kẻ hạ tiện mà thôi. Huynh ấy làm sao mà nghe lời ngươi….

Giọng của bà yếu ớt, nhưng lời nói lại rõ ràng, từng câu từng chữ bay vào trong tai Thiệu Ngọc Nương.

Giống như bị đâm một nhát, chị ta nhảy dựng lên, hai hàng lông mày chau lại với nhau, đôi mắt lộ vẻ phẫn nộ, lập tức đến gần Tiêu Vĩnh Gia đánh cho bà một cái tát, lạnh lùng nói:

– Tiêu Vĩnh Gia, ả tiện nhân này, ngươi tiếp tục nói lung tung thử xem? Năm đó ở Giang Bắc huynh ấy bị thương, đều do ta chăm sóc, ta cảm nhận được rõ ràng huynh ấy có tình cảm với ta. Nếu không phải ngươi ở giữa ngăn cản, huynh ấy đã cưới ta rồi. Dù là hiện giờ, nếu không phải huynh ấy vẫn còn tình cảm với ta, ta phạm tội, huynh ấy lại tha cho ta, còn cho ta ở một nhà lao đơn…

– Tiện nhân, đừng có nói bậy…

Chị ta phẫn nộ căm hận, túm lấy hai vai Tiêu Vĩnh Gia lắc không ngừng.

Sắc mặt Tiêu Vĩnh Gia tái nhợt, bị chị ta lắc không ngừng làm tóc tai rối tung, không thể phản kháng.

Trong cơn điên cuồng Thiệu Ngọc Nương không hề để ý thấy một bàn tay của Tiêu Vĩnh Gia đang lén lút thò vào dưới gối.

– Ta sẽ mổ bụng ngươi…

Chị ta buông Tiêu Vĩnh Gia ra, giả bộ quay đi tìm dao, chỉ trong khoảnh khắc này, tay của Tiêu Vĩnh Gia chạm vào v@t cứng dưới gối.

Đó là một thanh chủy thủ. Từ lúc ra ngoài, để phòng ngừa bất trắc, bà vẫn luôn mang theo bên mình, vừa rồi lấy ra đặt ở dưới gối.

Bà cầm lấy rút ra, dùng hết toàn lực đâm vào Thiệu Ngọc Nương đang không có phòng bị.

Thiệu Ngọc Nương kêu lên thảm thiết, ôm lấy bụng, trên mặt lộ vẻ đau đớn không thể tin nổi, cơ thể chậm rãi rũ xuống.

Tiêu Vĩnh Gia muốn rút dao ra, chỉ là vừa rồi dùng hết lực đâm nhát dao đã khiến bà hết sức lực, con dao giống như bị xương sườn kẹp chặt, mắc kẹt, không thể rút ra được.

Bà xuống giường, bám vào tường chạy ra ngoài.

Tiếng kêu thảm thiết của Thiệu Ngọc Nương làm Thiệu Phụng Chi ở bên ngoài nghe thấy, gã đứng ở cửa, tay cầm kiếm, giật mình nhìn cảnh tượng phát sinh, bước chân định trụ.

– Giết ả cho tỷ…

Thiệu Ngọc  Nương quỳ dưới đất, biểu cảm đau đớn, ra lệnh cho em trai mình.

Ánh mắt Thiệu Phụng Chi rơi vào người Tiêu Vĩnh Gia, bốn mắt chạm nhau.

Tiêu Vĩnh Gia chậm rãi đứng thẳng người, nhìn chằm chằm người đối diện.

Sắc mặt bà tái nhợt, tình cảnh chật vật, nhưng giờ khắc này khi bà đứng thẳng lên, hai mắt nhìn thẳng vào đối phương lại vẫn cao cao tại thượng toát ra từ trong xương cốt khiến người ta không thể nào với tới, khiến Thiệu PHụng Chi tránh né ánh mắt của bà, cụp mắt xuống, không dám chạm vào mắt bà.

– Đệ còn đần ra làm gì, còn chưa ra tay…

Để chiếm được lòng tin của Cao Kiệu, lúc trước chị ta cố ý giả bệnh lâu không khỏi, rồi bị nhốt vào ngục, sau khi giết lao bà rồi chạy thoát ra, sau mấy ngày theo dõi rình rập với tinh thần tập trung cao độ, nó rút cạn cơ thể vốn đã yếu ớt của chị ta.

Con dao vừa rồi như ăn hết sức lực trong người chị ta.

Chị ta há miệng ra thở hổn hển, ép bức em trai mình.

Tiêu Vĩnh Gia lạnh lùng thốt:

– Thiệu Phụng Chi, ngươi dám giết ta?

Tay Thiệu Phụng Chi khẽ run lên.

– Mau ra tay đi.

Thiệu Ngọc Nương quát lên.

Tay Thiệu Phụng Chi càng run kịch liệt hơn, dưới sự ép bức của Thiệu Ngọc Nương, gã cố sức nâng kiếm lên chĩa vào ngực Tiêu Vĩnh Gia, tiếp tục run lên, đột nhiên “keng” một tiếng, thanh kiếm kia rơi xuống đất, chân cẳng gã cũng nhũn ra, quỳ thụp xuống dưới đất, cầu xin:

– A tỷ, đệ không dám giết chị ta….Chúng ta thu tay lại đi…Nhân lúc có thể trốn thì trốn đi thật xa…Đệ không muốn báo thù…Đệ muốn sống….

– Đồ vô dụng…

Thiệu Ngọc Nương như trở nên điên cuồng, cố gắng bò dậy, nhưng vừa mới đứng lên thì lại loạng choạng ngã xuống.

Thiệu Phụng Chi quỳ dưới đất, run bần bật, không dám ngẩng đầu.

Tiêu Vĩnh Gia chạy vội đi ra ngoài, chạy qua vú già và thị vệ nằm dưới đất, chạy đến một gò đất thấp, bụng dưới lại nhói lên, bước không nổi nữa, ôm bụng chậm rãi ngồi xổm xuống.

Từng giọt mồ hôi to như hạt đậu từ trán lăn xuống.

Bà cảm thấy một dòng nước nóng dọc theo mặt trong của đùi mình chảy ào xuống.

……

Cho dù Cao Kiệu đã cố gắng hết sức, nhưng khi ông đến đây thì đã là chạng vạng cùng ngày.

Ông bị cảnh tượng trước mặt làm cho sợ ngây người.

Toàn bộ người trong thôn lâm vào hôn mê, mà lại không thấy Tiêu Vĩnh Gia đâu.

Tây lộ, quân coi giữ quận Vọng Giang đang cố gắng chiến đấu chống lại phản quân Kinh Châu, mà ông cũng đã nhận được tin tức chính xác, phản quân Tuyên Thành và Thiên Sư Giáo cấu kết nhau, hai mươi vạn người lại lần nữa tiến về tấn công Kiến Khang.

Mấy ngày qua, ông vẫn luôn gấp rút điều binh khiển tướng, xây dựng tuyến phòng thủ, ông không thể ngờ được nơi này lại xảy ra chuyện lớn như thế.

Ông phát hiện A Cúc nằm dưới đất.

Bà vẫn còn một hơi thở mong manh, cuối cùng cũng chờ được Cao Kiệu đến, thì thào một câu “Thiệu Ngọc Nương…” sau đó không chống đỡ được nữa ngất đi.

Hết chương 121
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 122


Chẳng mấy chốc, Cao Kiệu đã tìm thấy thi thể của Thiệu Phụng Chi trước một ngọn đồi thấp cách đó không xa. Gã bị ai đó cắt cổ gi ết chết, trên mặt đất có rất nhiều máu, và gã đã chết từ lâu.

Cao Kiệu và mọi người tìm kiếm khắp nơi gần đó nhưng không thấy tung tích của Tiêu Vĩnh Gia đâu cả.

Trời đã tối, cuộc tìm kiếm vẫn tiếp tục, nửa đêm, Lý Hiệp nghe tin cũng vội vàng dẫn theo rất nhiều người gia nhập hàng ngũ tìm kiếm.

Ngày hôm sau, họ đã tìm kiếm hàng chục dặm xung quanh, nhưng vẫn không có tin tức gì về Tiêu Vĩnh Gia.

Ba ngày trôi qua, Cao Kiệu không ngủ không nghỉ, hai mắt căng cứng khô khốc gần như sắp nhỏ cả máu. Nhưng mà Tiêu Vĩnh Gia lại giống như một giọt nước hoàn toàn biến mất dưới ánh mặt trời không một dấu vết.

……

Tình hình ngày càng trở nên nghiêm trọng.

Tình hình chiến sự ở mặt trận phía tây quận Vọng Giang rất nguy cấp, phản quân Kinh Châu thế như chẻ tre, chỉ trong thời gian mấy ngày ngắn ngủi, quân coi giữ không ngừng xin tiếp viện, nhưng mà Kiến Khang đã không còn thừa binh lực để phân ra nữa.

Trước đây, toàn bộ binh lực trong tay Cao Kiệu buộc phải chia làm bốn, một ở quận Vọng Giang, một ở Kiến Khang, một ở tuyến phòng thủ tam giác Câu Dung, Khúc A và Bì Lăng, còn một tuyến hiện đang hoạt động ở nội địa.

Quận huyện Dương Châu vùng Đông Nam gần như toàn bộ đã rơi vào tay Thiên Sư Giáo, đội quân này ban đầu được điều động ở khu vực trung tâm để ngăn chặn Thiên Sư Giáo đang tiếp tục mở rộng như một bệnh dịch vào khu vực trung tâm của Đại Ngu, nhưng hiện giờ, dưới sự uy hiếp của một mối đe dọa nghiêm trọng khác từ hướng Tuyên Thành ép tới, sau khi suy nghĩ kỹ, Cao Kiệu đành phải tạm thời từ bỏ kế hoạch này, ra lệnh cho quận binh các quận trung bộ tiếp giáp Đông Nam gồm Bà Dương, Dự Chương, Lâm Xuyên, Kiến An tự tổ chức chống đỡ, ngày hôm qua ông đã điều đội quân này trở về.

Quân đội không bị phái đi tuyến tây. Nhưng dù là lúc này lao tới đó thì cục diện cũng không thay đổi được bao nhiêu.

Phản quân Kinh Châu tuy rằng thất bại trong cuộc Bắc phạt, nguyên khí bị đại thương nhưng căn cơ vẫn còn đó. Đối với thực lực của quân đội này, Cao Kiệu hiểu biết quá rõ. Dưới tiền đề không đủ binh lực để đối kháng lại, sở dĩ trước đây ông bố trí phòng thủ ở quận Vọng Giang vốn dĩ chỉ là để giảm tốc độ xuôi ven sông mà xuống của phản quân, để cho Kiến Khang càng có nhiều thời gian chuẩn bị hơn.

Lần này, đội quân được triệu quay về này được sáp nhập vào Kiến Khang và phòng tuyến tam giác. Phía sau phòng tuyến là đế hậu, bách quan, mấy chục vạn dân chúng từ Kiến Khang bị sơ tán tới đó cùng với rất nhiều dân chạy nạn từ các quận Đông Nam của Đại Ngu vì loạn Thiên sư giáo mà chạy trốn tới, không thể nào để mất được.

Cao Dận hiện đang là người chỉ huy cao nhất ở phòng tuyến này.

Khúc A nơi đế hậu đang tạm lánh nằm ở vị trí trong cùng của tuyến phòng thủ hình tam giác, có thành phòng thủ vững chắc để dựa vào, Cao Dận giao nó cho Lục Giản Chi đang giữ đạo hiếu nghe tin mà đến. Còn bản thân y mấy ngày này vẫn luôn chạy qua chạy lại giữa Câu Dung và Bì Lăng.

Chạng vạng ngày hôm nay, y vừa mới hợp nhất một quân đội ước chừng một ngàn người từ Câu Dung suốt đêm đi Bì Lăng, khi đi qua một thôn xóm chỉ còn lại non nửa thôn dân trốn thoát được, thấy một binh lính cưỡi ngựa đang ôm một con gà mái sậy đang kêu quang quác và một tay nải hiển nhiên là không phải của mình leo lên ngựa chạy trốn, phía sau là một bà cụ tóc bạc trắng đang đuổi theo.

Binh lính này tuy đã mất đi mũ chiến đấu, nhưng chỉ cần nhìn quần áo là nhận ra đó là người xuất thân từ Quảng Lăng quân. Bà cụ chân đi lại bất tiện, làm sao chạy thoát được một kỵ binh trẻ tuổi như vậy. Khi thấy mình bị bỏ lại càng lúc càng xa, bà cụ bị ngã dưới đất, khóc lóc gào lên. Binh lính kia cũng không quay đầu lại, thúc ngựa phóng nhanh vào sâu vùng đất hoang.

Quảng Lăng quân của Cao thị trong những năm qua tuy đã lập được nhiều công lao lớn, quân kỷ cũng nghiêm minh hơn rất nhiều so với các ngoại quân Nam Triều khác. Nhưng Cao Dận cũng biết, không ít tướng lãnh cao cấp trong quân xuất thân thứ đẳng sĩ tộc Cao thị tuy rằng tác chiến dũng mãnh nhưng trên người lại mang theo bệnh chung không thể tránh khỏi của một số ít sĩ tộc. Trên làm dưới theo, không phải quân đội nào cũng có thể tuân theo các quy định của quân đội.

Dù là thúc phụ Cao Duẫn của y tuy kiêu dũng thiện chiến, càng vất vả công lao càng lớn, nhưng mà tính cách lại rất nóng nảy, thích nghe nịnh hót, tính cách kiêu ngạo, dù là đã được Cao Kiệu thường xuyên nhắc nhở nhưng ông ta đôi khi khó tránh khỏi cũng sẽ mắt nhắm mắt mở cho thủ hạ quấy nhiễu dân chúng.

Bá phụ Cao Kiệu không phải là không biết việc này. Trước đây ông cũng đã cố gắng làm trong sạch kỷ luật quân đội, nhưng giữa sĩ tộc, quan hệ người với người từ nhiều thế hệ trong đó luôn rắc rối khó gỡ, từ lâu đã ăn sâu bén rễ, giống như căn bệnh trầm kha muốn trừ tận gốc trừ thì thường là nói dễ hơn làm. Thường thường là Cao Kiệu nghiêm túc, mọi người đều nghe theo. Nhưng khi nghiêm túc qua đi, dần dần thói quen cũ lại manh nha trở lại nếp cũ, cứ lặp đi lặp lại như thế.

Bá phụ cũng bó tay hết cách.

Những điều này Cao Dận từ lâu cũng đã nhìn thấy. Nhưng ngay cả bá phụ cũng không thể trị được tận gốc, y có thể làm được gì. Bình thường điều y có thể làm cũng chỉ là quản lý bộ hạ của mình nghiêm hơn mà thôi.

Trong lúc quốc nạn đang nguy nan, ấy thế mà vẫn còn có sĩ binh của Quảng Lăng quân ức hiếp bá tính, càng không nói vừa nhìn là biết đây chính là đào binh.

Cao Dận giận dữ, lập tức cho dừng hành trình lại sai người đuổi theo, chặn đào binh kia bắt lại, trả lại con gà mái già và tay nải cho bà cụ, chờ bà cụ hết khóc lóc cảm ơn rồi đi rồi, y mới quay người quất roi vào binh lính kia. Trong cơn tức giận, y hạ lệnh chặt đầu đào binh này ngay tại chỗ.

Binh lính lăn lộn trên mặt đất, trong ngực rơi ra kim sang dược, khóc lóc cầu xin tha thứ, biện luận mình chỉ là một lính liên lạc, không phải cố ý trốn khỏi doanh trại mà là sự việc có nguyên nhân của nó.

Gã nói, mình đã hơn ba mươi tuổi, xưa nay chưa từng có phụ nữ, ngày hôm trước truyền tin trở về, khi đi đường tắt đi qua vùng hoang dã vô tình gặp được một người phụ nữ bị thương nặng, hơi thở thoi thóp, cô gái lấy thân báo đáp, cầu xin gã cứu mình. Gã nóng đầu lên lại có tâm tư riêng đã giấu cô gái kia đi. Ngày hôm nay ra ngoài là tìm kim sang dược cho cô ta, vừa rồi đi ngang qua thôn trang thấy bên trong có vẻ như vẫn có người, nhất thời nổi lên ý xấu cho nên mới đi vào cướp đồ.

Binh lính khóc lóc thảm thiết, cứ dập đầu xin tha liên tục, còn nhiều lần đảm bảo chỉ cần tha cho tính mạng của mình thì sẽ quay về binh doanh ngay lập tức, không dám đào binh nữa.

Chiến sự chạm vào là nổ ngay, Cao Dận nào có thời gian rảnh rỗi nghe gã nói này nói nọ, hạ lệnh kéo gã đi chém, nhưng lại đột nhiên nhớ tới một chuyện, nét mặt khẽ động, kêu dừng lại, hỏi tuổi tác của người phụ nữ bị thương, tướng mạo như nào, bị thương ở đâu, địa điểm bắt gặp, trong lòng thoáng cảm thấy đúng người rồi, lập tức sai người đi theo binh lính này qua đó để bắt cô gái kia.

Nơi đây cách Kiến Khang chỉ khoảng nửa nửa ngày khoái mã, Cao Dận gặp người xong lập tức phái người trở về đó báo tin.

Sáng sớm hôm sau, khi trời vừa tờ mờ sáng, trên con đường dẫn đến Kiến Khang, tiếng móng ngựa càng lúc càng rõ, Cao Kiệu suốt đêm đuổi đến.

Cao Dận cũng là hôm qua đi Kiến Khang, gặp Cao Kiệu mới biết chuyện mấy ngày trước bá mẫu sắp sinh của mình bị tập kích và đã mất tích, bá phụ đau khổ tìm kiếm mấy ngày nhưng không có tin tức, chiến sự lại đang thúc giục càng ngày càng ép chặt, ông chỉ đành phải để người ở lại tiếp tục tìm kiếm, mình thì quay về trước.

Hôm qua nhìn thấy bá phụ, thấy tinh thần ông vốn dĩ rất tốt vậy mà mới chỉ vài ngày ngắn ngủi mà đã gầy rộc đi trông thấy, tiều tuỵ đến mức làm cho Cao Dận gần như không thể tin được vào hai mắt của mình. Biết rõ trong lòng ông đang đau xót cực độ, đại chiến đang đến gần, đành phải tạm gác lại chuyện kia lại toàn lực ứng phó kẻ địch đang tới, lúc ấy trong lòng y cũng khổ sở vô cùng.

Trước khi đi, Cao Kiệu đã nói riêng với y về tướng mạo và hình dáng của Thiệu thị, nói người phụ nữ này khả năng biết được tung tích của trưởng công chúa, ông đang sai người tìm kiếm khắp nơi, dặn dò y nếu có thời gian thì lưu ý hộ một chút.

Ngày hôm qua nghe miêu tả của đào binh, lúc đó y tức khắc liên tưởng đến Thiệu thị, bấy giờ mới lập tức không kể ngày đêm đi thông báo cho Cao Kiệu, thấy người tới thì vội ra đón.

– Bá phụ, cháu nghi ngờ người phụ nữ kia chính là Thiệu thị. Có điều là cháu có hỏi thế nào bà ta cũng không đáp. Cháu định đưa bà ta đi Kiến Khang nhưng lại sợ bà ta bị thương nặng, ngộ nhỡ chết trên đường đi thì sao, cho nên mới gọi bá phụ tới ạ…

Cao Dận đưa Cao Kiệu tới trước một căn nhà nát, nói:

– Ở bên trong ạ, bá phụ vào xem xem.

Cao Kiệu nhìn chằm chằm vào cánh cửa, sau đó bước nhanh tới đẩy cửa ra.

Trong góc tối dựa vào tường, có một người phụ nữ đang cuộn tròn, cổ nghiêng dựa vào tường, quần áo tả tơi, trên ngực có một vết máu khô, khuôn mặt lộ ra ngoài và trên tay đầy vết cào xước, sắc mặt trắng bệch như tờ giấy, dáng vẻ mệt mỏi, đôi mắt hơi nhắm hờ như chết đi sống lại, không chút sức sống.

Nghe được tiếng đẩy cửa, người phụ nữ chậm chạp mở mắt ra, tầm mắt rơi vào người tới trên mặt, trong mắt lập tức sáng ngời, cả người tựa hồ trong nháy mắt sống lại. Chị ta vội ngồi dậy, đưa tay vuốt tóc mai cho gọn gàng hơn.

– Cao…

– Đồ đàn bà độc ác, trưởng công chúa đang ở đâu? Ngươi đã đưa nàng đi đâu rồi?

Hai mắt Cao Kiệu ghim vào mặt chị ta, một bước xông vào quát lên. Gân xanh trên trán ông nảy lên, tiếng nói nghẹn ngào giống như mặt trống nhỏ bị kéo nứt ra.

Sự nhẫn nhịn, ghê tởm và thù hận sâu sắc trong ánh mắt mà ông ném ra là điều mà chị ta chưa từng thấy trước đây. Thiệu Ngọc Nương làm sao không biết năm đó mình đã đánh mất cơ hội lớn, với địa vị tôn quý của Cao Kiệu và sự ti tiện của mình, cả đời này chị ta sẽ không có cơ hội đi theo ông nữa.

Cũng chính bởi vì thế, chị ta càng hận thù Tiêu Vĩnh Gia gấp bội.

Nhưng chị ta vẫn không chịu từ bỏ, trong lòng vẫn ôm chút kỳ vọng. Nhưng mà ngay khoảnh khắc này, chị ta đột nhiên hiểu ra, mình đã hoàn toàn tuyệt vọng rồi.

……

Ngày hôm đó, Thiệu Ngọc Nương thấy Tiêu Vĩnh Gia chạy thoát đi ra ngoài, bèn cố gắng chống người đứng lên đuổi theo vài bước, lại tiếp tục mắng chửi Thiệu Phụng Chi.

Thiệu Phụng Chi bị chị ta ép buộc lại đuổi theo Tiêu Vĩnh Gia.

Thời điểm đuổi đến trước sườn núi nhỏ, ngay khi chị ta cho rằng Tiêu Vĩnh Gia sẽ bị bắt được, lại từ xa nhìn thấy một cô gái trẻ tuổi đột ngột xuất hiện ở đầu kia sườn đồi, ngăn ở trước mặt Thiệu Phụng Chi.

Chỉ một động tác giơ tay lên, chị ta còn chưa kịp nhìn rõ cô gái kia ra tay như thế nào thì Thiệu Phụng Chi đã ngã xuống.

Tất cả những gì chị ta thấy là một dòng máu theo động tác giơ tay của cô gái kia phun ra từ cổ họng em trai mình, bắn tung tóe cao vài thước.

Thiệu Ngọc Nương không biết cô gái trẻ tuổi xuất hiện đột ngột này.

Nhưng đây là lần đầu tiên trong đời chị ta thấy một cô gái lại có thể giết người một cách gọn gàng và điêu luyện như vậy.

Chị ta nhìn thấy cô gái kia quay đầu từ xa nhìn về phía mình, chị ta không quan tâm những thứ khác nữa, trong sự cầu sinh mãnh liệt chị ta cố gắng bỏ chạy, đúng lúc ngay gần đó có một vách đá đầy gai dại, chị ta liều lĩnh nhảy xuống, chịu đựng sự đau đớn khi bị gai đâm, lăn xuống chân dốc.

Cô gái kia đuổi đến, đứng ở bên trên không nhìn thấy được bóng dáng của chị ta, có lẽ là so với việc giết chị ta thì càng để ý đến Tiêu Vĩnh Gia hơn, cho nên không liều mạng đi xuống tìm chị ta mà quay người rời đi, Thiệu Ngọc Nương cuối cùng cũng tìm được đường sống trong chỗ chết.

Nhớ lại ngày đó, sau khi trốn thoát khỏi tay lao bà kia, chị ta trở lại Kiến Khang, nhân lúc khắp thành đang hỗn loạn, chị ta lẻn đến gần nhà Cao gia ẩn nấp và theo dõi. Sau khi bám theo Cao Kiệu đưa Tiêu Vĩnh Gia đến nơi này, sau đó, trong bảy tám ngày ở trong núi, chị ta vẫn luôn quanh quẩn ở gần đó, cảm nhận địa hình, nắm vững địa hình và tìm kiếm cơ hội.

Sau khi tra xét đến thôn xóm nhỏ gần đó, cuối cùng chị ta cũng nghĩ ra một cách. Đêm hôm đó chị ta phóng hoả đối núi, sau đó chạy đến phụ cận thôn xóm nhỏ trốn ở đó trước. Quả nhiên, chị ta chờ được đoàn đội Tiêu Vĩnh Gia đến, tính toán họ sẽ dùng đến nước uống, bèn lén lút hạ thuốc vào giếng nước.

Trong một thời gian dài, để trả thù, nhẫn nhịn, lên kế hoạch, bày mưu tính kế và thậm chí là tự hại cơ thể mình, khi thấy mình đã sắp đạt được ước nguyện, nhưng đến phút cuối cùng lại thất bại trong gang tấc. Tưởng tượng đến sau này có lẽ mình sẽ không bao giờ có cơ hội nào khác có thể đưa mình đến gần với sự trả thù thành công như lần này, những ngày qua, chị ta không lúc nào là không oán hận, hận ông trời bất công.

Nhưng mà bất kể đả kích nào cũng không thể nào so được ánh mắt của Cao Kiệu giờ khắc này nhìn chị ta, chị ta đã không còn nhìn thấy vẻ thương hại mà ông nhìn mình lúc trước nữa.

Chị ta vô cùng khẳng định, không chỉ hai mươi năm trước, thậm chí không lâu trước đây, dù cho biết chị ta giết người phóng hỏa, ánh mắt ông nhìn chị ta cũng vẫn luôn mang theo sự thương xót không đành lòng.

Mà hiện tại, nó đã biến mất, hoàn toàn biến mất!

Chỉ còn lại sự căm hận và thù ghét sâu sắc.

……

Bàn tay đang vuốt tóc từ từ thả xuống.

Thiệu Ngọc Nương nhìn vào khuôn mặt căng lên vì hận của Cao Kiệu.

– Đương nhiên là cô ta đã chết rồi, cả đứa con sắp sinh trong bụng cô ta cũng đã chết rồi. Thi thể bị ta nghiền thành xương thành tro, đổ vào sông rồi. Cả đời này, kiếp sau, ngươi đừng mơ gặp lại cô ta.

Mạch máu trong người Cao Kiệu lạnh băng, cả người cứng đờ.

Mấy ngày nay ông phái rất nhiều người, tìm kiếm tất cả những nơi thê tử của mình có thể tới, mở rộng cả phạm vi tìm kiếm, nhưng cũng không có tung tích của nàng.

Ngày tháng trôi qua, nàng giống như đá chìm đáy biển.

Những người xung quanh đều đã nhận định nàng đã không còn sống nữa.

Nhưng mà ông vẫn không muốn tin, càng không thể nào chấp nhận kết quả này.

Ở trong lòng ông trước sau vẫn luôn ôm một tia hy vọng, rằng vợ mình chưa chết, chỉ là hiện tại đang vẫn ở một nơi mà ông vẫn chưa tìm tới mà thôi.

Đây cũng là nguyên nhân vì sao ông gấp gáp muốn tìm được người phụ nữ trước mặt này.

Mà giờ khắc này, hy vọng đã tan biến.

Ông nhìn chị ta chòng chọc, đáy mắt dần dần đỏ hoe:

– Thiệu thị, ngươi lặp lại lần nữa cho ta?

– Cô ta đã chết rồi!

Thiệu Ngọc Nương phá lên cười, tiếng cười rất chói tai.

– Cô ta chết là đúng tội, có chết cũng chưa hết tội. Năm xưa nếu không phải thiếp cứu trượng phu của cô ta, thì cô ta đã thành quả phụ từ lâu rồi. Cô ta không cảm ơn thiếp thì thôi, không thành toàn cho thiếp, còn lấy oán trả ơn. Cô ta hại thiếp trở thành như ngày hôm nay, tất cả đều là cô ta tự chuốc lấy.

– Con tiện nhân Tiêu Vĩnh Gia này ngày hôm đó vẫn còn lừa gạt thiếp, nói rằng ngài ở trước mặt cô ta nói thiếp vô sỉ…

– Phập.

Một âm thanh của lưỡi kiếm sắc bén đâm vào thịt.

Cao Kiệu đột ngột rút kiếm đâm mũi kiếm vào ngực Thiệu Ngọc Nương, từ giữa hai xương sườn trước ngực của chị ta đâm sâu mà không có bất kỳ sai lệch nào, kiếm đâm xuyên qua lưng.

Thiệu Ngọc Nương miệng còn mở, nhưng thanh âm đột nhiên ngừng lại.

Chị ta mở to mắt nhìn Cao Kiệu

Cao Kiệu hai mắt đỏ ngầu, nhưng mặt không chút biểu tình, rút ​​kiếm từ trong ngực chị ta ra.

Cơ thể Thiệu Ngọc Nương theo động tác rút kiếm của ông ngã xuống đất.

Cao Kiệu lại không nhìn chị ta lấy một cái, cầm theo chuôi kiếm nơi mũi kiếm máu vẫn còn đang không ngừng chảy xuống quay người rời đi, mới đi được hai bước, Thiệu Ngọc Nương còn chưa chết kêu thảm thiết một tiếng, dùng hết sức lực toàn thân giãy giụa bò lên, rồi nhào về phía trước ôm lấy chân ông.

– Cao lang quân…trước khi chết, cầu xin ngài nói thật với thiếp, năm xưa, có phải ngài cũng có tình cảm với thiếp không, bởi vì e ngại Tiêu Vĩnh Gia nên mới từ chối thiếp…

Chị ta ngửa mặt lên, máu không ngừng chảy ra từ khoé miệng, nhìn vào mắt Cao Kiệu mà vừa cầu xin, đầy yếu ớt và đáng thương, giống như vẻ ngoài xinh đẹp khi chị ta lần đầu gặp nam tử áo trắng.

Cao Kiệu đứng lại quay đầu lại nhìn người phụ nữ dưới đất, gằn từng chữ nói:

– Thiệu thị, ngươi nghe cho rõ đây, A Lệnh không hề lừa ngươi. So với A Lệnh, ngươi có xách giày cho nàng cũng không xứng! Ta có một thê tử như thế, làm sao mà có tình cảm gì với ngươi được. Từ đầu đến cuối, trong lòng Cao Kiệu ta cũng chỉ có A Lệnh mà thôi.

Ông dùng chân đá văng bàn tay chị ta đang ôm chặt lấy mình, ra khỏi phòng, bước nhanh rời đi.

Cao Dận thấp thỏm chờ ở bên ngoài, chợt thấy Cao Kiệu đi ra thì đi lên đón:

– Bá phụ thế nào rồi ạ? Có tung tích gì của bá mẫu…

Còn chưa hỏi xong đã thấy Cao Kiệu lảo đảo, sắc mặt trắng bệch thì giật nảy mình, vội xông lên đỡ lấy cánh tay của ông.

– Bá phụ, trong người có gì khó chịu ạ?

Cao Kiệu cảm thấy ngực đột nhiên nhói lên, trước mắt tối sầm lại, một chất lỏng vừa nóng vừa tanh xông tới cổ họng.

Đột nhiên từ đằng xa có một con ngựa phi nước đại đến, người mang tin tức nhìn thấy Cao Kiệu thì hô to:

– Cao tướng công, không tốt rồi, phản quân Tuyên Thành đã đánh tới Lịch Dương, cách Kiến Khang chỉ còn bốn trăm dặm!

Cao Kiệu nuốt lại chất lỏng nóng kia, nhắm mắt lại, mở mắt ra đưa tay bám vào cánh tay của cháu trai, nói:

– Ta không sao. Ta trở về ngay lập tức. Cháu cũng mau quay về Bì Lăng đi.

Cao Dận nhìn bá phụ vội vàng lên ngựa gấp gáp trở về Kiến Khang, trong lòng y chợt trào lên một cảm giác bất an.

– Bá phụ! Chỗ Lý Mục chẳng lẽ không có tin tức gì ạ?

Y không nhịn được hỏi to.

Cao Kiệu hơi dừng lại, nói:

– Nó đã quay về rồi. Trên đường về thì bị quân đội ở lại phòng thủ của Hứa Tiết và Bắc Hạ hai mặt giáp công. Ngày trở về của nó còn chưa xác định.

Nói xong, ông dẫn theo tuỳ tùng phóng ngựa đi.

Hết chương 122
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 123


Cao Dận về sau có thuật lại với Cao Kiệu rằng, sau khi ông đi rồi, mình đang muốn gọi người xử lý thi thể của Thiệu thị, nào ngờ người phụ nữ đó vẫn còn sống, đã giãy giụa bò ra đến cửa nhìn chằm chằm theo hướng Cao Kiệu rời đi, miệng thì lẩm bẩm như là đang niệm chú, những người dân làng đứng gần đó đều nghe thấy đi ra, đó là Thiên Sư Giáo chú.

Những tháng ngày thanh bình yên ả ban đầu đã vĩnh viễn không còn nữa vì sự hỗn loạn do Thiên Sư Giáo gây ra, dân chúng vùng Kinh sư khi nhắc tới Thiên Sư Giáo không ai là không hận đến thấu xương. Phát hiện ra người phụ nữ sắp chết này chính là loạn giáo, một người dân trong sự kích động phẫn nộ đã nhặt đá ném chị ta, thấy Cao Dận không ngăn cản, quần chúng đồng loạt kích động, mấy chục người còn lại trong thôn xông tới, tranh nhau mắng chửi ném đá. Nếu không phải về sau Cao Dận ra lệnh cho binh lính kéo thi thể đã bị đá đập nát đến mức không thể nhận ra đi rồi, thì chỉ sợ sẽ bị thôn dân đang phẫn nộ thiêu chết.

Cao Kiệu dù không tận mắt chứng kiến nhưng cũng có thể tưởng tượng ra được nỗi oán hận của người phụ nữ kia khi chị ta chết đi phải sâu sắc đến mức nào.

Ông cũng không quan tâm Thiệu thị oán hận mình đến mức nào, nhưng chỉ cần nghĩ đến chị ta có thể trút sự oán hận của mình lên trên người thê tử của mình, ông cảm thấy vô cùng vô cùng hối hận.

Trên đường phóng như bay về kinh sư, ông hận bản thân vì sao trước kia không phát giác ra người phụ nữ này là hạng đáng ghê tởm đến như thế. Ông càng hận sâu hơn, con đường danh lợi này dù cho đạt được một cái hư danh, thế nhân khi đề cập tới tên của ông đều kính ngưỡng, nhưng mà ông thật sự đã sống uổng hậu thế, tim mù mắt mù, bắt đầu từ hai mươi năm trước đã chôn một mầm tai hoạ, cho đến ngày hôm nay xảy ra sự việc, hại chết vợ mình.

Ông nhớ tới mình mấy lần mềm lòng, nhớ ân tình cũ, cho nên ngày đó ngục quan kia cũng đã hiểu lầm, tính tình thê tử mình nóng nảy, tại sao không hiểu lầm cho được? Nhưng trước kia ông tự cho rằng mình là quân tử sòng phẳng, chỉ luôn trách móc vợ không hiểu mình.

Giờ đây, sau khi lãng phí bao nhiêu năm thời gian, thê tử cuối cùng đã như ông mong muốn hiểu ông, thế nhưng tất cả cũng đều đã muộn.

Cao Kiệu nhớ lần đầu khi gặp nàng, nhớ tới đêm tân hôn, nhớ tới hôn nhân lạnh nhạt nhiều năm của hai vợ chồng bởi vì nguyên nhân là Thiệu thị, nhớ tới ngày đó đưa nàng lên núi, hai người gặp nhau lần cuối cùng, mình đã đi ra ngoài nàng lại gọi ông lại, sửa sang lại vạt áo cho ông dặn dò ông…

Cuối cùng ông không kìm nén nổi nữa, nước mắt tuôn trào ra.

Người phụ nữ điên cuồng kia thề thốt tự nhận đã giết em trai không nghe lời, cũng giế t chết Tiêu Vĩnh Gia rồi ném thi thể vào sông.

Ông tình nguyện không tin.

Chỉ cần một ngày không thấy thi thể vợ, ông sẽ cho rằng nàng còn sống.

Đợi khi quốc nạn được bình ổn, ông sẽ lại đi tìm vợ, cho đến khi nào tìm được thì mới thôi.

Kiến Khang còn rất xa, trên đường, một đội quân mới điều động đang xông về phía cổng thành, tiếng bước chân của binh lính làm đường bụi mù mịt, khi thấy Cao Kiệu cưỡi ngựa đi qua, tất cả đều dừng lại nhường đường cho ông.

Lý Hiệp đang bận rộn ở cửa thành.

Toàn thành hơn hai mươi vạn hộ, gần trăm vạn dân cư để sơn tán cũng không phải chuyện ngày một ngày hai là xong.

Tới ngày hôm nay, trong thành vẫn còn mấy ngàn cư dân chưa rời đi. Những người này hoặc là goá bụa già yếu, hoặc là đi lại không tiện, căn bản không đi được đường xa. Lý Hiệp chỉ có thể cùng thủ hạ tập trung những người này lại đưa đến Thạch Đầu Thành.

So với ở lại Kiến Khang thì nơi đó tương đối an toàn hơn.

Y vừa mới trở về, từ xa nhìn thấy đoàn người Cao Kiệu thì vội đi nghênh đón.

Y biết Cao Kiệu tối hôm qua nhận được tin nhắn của Cao Dận nên đã đi ngay trong đêm. Bởi vì lúc trước có tham gia đội tìm kiếm tung tích của trưởng công chúa, cho nên y rất quan tâm. Thấy nét mặt Cao Kiệu không có chút thả lỏng nào, đáy mắt dày đặc tơ máu, liền biết chắc chắn là không có tin tức tốt rồi, trong lòng trùng xuống, chần chừ một chút an ủi nói:

– Tướng công yên tâm, trưởng công chúa cát nhân thiên tướng, nhất định có thể gặp dữ hóa lành.

Cao Kiệu hỏi y tình hình sơ tán cư dân, Lý Hiệp lập tức bẩm báo lại sự việc một lượt.

Cao Kiệu gật đầu:

– Việc này giao cho ngươi làm. Ngày hôm nay trước khi trời tối phải sơ tán toàn bộ mọi người rời đi.

Lý Hiệp đáp ứng, kêu nhân thủ tiếp tục vào thành.

Y cưỡi ngựa đi qua khu vực phụ cận Tần Hoài thành Nam, theo bản năng mà dừng ngựa nhìn về phương hướng Tần lầu. Khu đó bình thường vào lúc chập tối là đèn đuốc sáng trưng, tiếng đàn tiếng sáo rơi vào tai. Nhưng mà lúc này vào ban ngày mà cửa nhà nào cũng khóa trái, thuyền bỏ neo bên bờ, lạnh lẽo vắng vẻ, không có một nửa bóng người.

Y biết cô ấy đã ra khỏi thành, lúc này không chừng đã tới Khúc A rồi.

Ngày đó, xuất phát từ tư tâm, y lặng lẽ phái thân tín đi Tần lầu muốn an bài cô ấy đi theo xe vận chuyển quân nhu đi Khúc A, lại nhờ người an trí chỗ ở tốt cho cô ấy, tránh để cô ấy tới đó rồi không có chỗ ở, không ngờ người đó đi rồi về nói với y, rằng cô ấy đã được người của Cao Dận đón đi rồi.

Y đoán chắc hẳn là người của Cao gia cảm kích cô ấy từng giúp họ, cho nên mới báo đáp lại như thế.

Khi đó y thở phào nhẹ nhõm, nhưng mà trong lòng lại thoáng dâng lên tia mất mát và có chút hối hận vì sao mình không tới sớm hơn để gặp mặt cô ấy một lần.

Tổ tiên của y từng làm võ quan, và vì ưu điểm này, từ lúc thiếu niên y đã vào Túc Vệ doanh.

Rất lâu trước đây, khi y còn nhậm chức ở Túc Vệ doanh, trong thời gian rảnh rỗi cũng giống như nhiều quan quân khác có xuất thân và thân phận tương tự ở thành Kiến Khang, suốt ngày tụ tập bạn bè uống rượu đánh bạc, đi săn bắn, cuộc sống không có tương lai, cứ lay lắt như thế, không có việc gì làm, ngày ngày vô ưu vô lự. Cho đến khi tình thế thay đổi đột ngột, y bị phái đi theo Lý Mục lúc đó vẫn là Biệt Bộ Tư mã đi bình định loạn Thục quận.

Chính là những trải qua tương đương với sống chết đó, sự biểu hiện quyết đoán phi phàm và dũng cảm tài năng của Lý Mục đã chấn động sâu sắc đến y, điều đó cũng đã hoàn toàn thay đổi nhân sinh của y.

Y biết vào lúc này Kiến Khang đang gặp nguy hiểm, y đã hạ quyết tâm thề sống chết đi theo Cao Kiệu, cùng ông ấy chiến đấu bảo vệ Kiến Khang.

Y đã sẵn sàng để chết.

Cha mẹ y đều đã chết, xưa nay y sợ bị quản thúc, nhân duyên như sương sớm, không chịu cưới vợ, có thể nói là không có vướng bận gì, có chết trận vốn cũng không sao.

Chỉ là không biết vì sao nghĩ nếu mình cứ thế mà chết đi, trong lòng hình như lại có chút ràng buộc.

Trước mắt y lại hiện ra hình bóng của cô ấy. Vốn dĩ xuất thân giống như cô ấy, cho dù không tiếp khách, nhưng nếu thích cô ấy, chỉ cần trực tiếp bao nuôi cô ấy là được.

Chức quan địa vị của y không thể nào sánh bằng dòng dõi sĩ tộc ở kinh thành, nhưng mà muốn một cô gái có xuất thân như cô ấy lại dễ như trở bàn tay, thậm chí ngay cả cô ấy cũng không dám phản kháng. Nhưng mà không biết vì sao, bản thân mình lại giả thành văn nhã, không dám mạo phạm cô ấy.

Lý Hiệp lại quay đầu lại lần nữa nhìn về hướng Tần lâu, buồn bã muốn rời đi, chợt thấy một thủ hạ chạy tới nói:

– Lý đô vệ, có một cô gái ở cổng thành Nam muốn đi vào nhưng bị ngăn lại, nói là tìm ngài có việc.

Lý Hiệp đánh thót tim một cái, quay đầu ngựa lại lập tức chạy ra cửa thành.

Y một hơi đi tới, xuống ngựa chạy ra khỏi cửa thành, nhìn chung quanh, nhìn thấy cách đó không xa có một chiếc xe la nhỏ đậu ở ven đường ít người, bên cạnh xe còn có một cô gái.

Cô gái mặc quần áo vải màu xám, đầu quấn khăn lụa xanh, tay ôm một bọc đồ lẳng lặng đứng ở nơi đó, hai người nhìn nhau, hai mắt cô ấy sáng lên, vẫy tay với y.

Lý Hiệp thấy tim mình đập nhanh hơn, vội vàng chạy qua, dừng ở trước mặt cô ấy.

– Nghe nói cô đã được đón đi rồi mà, sao còn trở lại?

Lục Nương mỉm cười:

– Phải ạ. Chỉ là thiếp đi được nửa đường lại nhớ đến một chuyện, nhân lúc còn chưa đánh giặc nên quay trở lại. Vừa rồi thiếp định vào thành tìm ngài, nhưng họ nói bên trên đã hạ lệnh không cho vào trong, thiếp đành phải nhờ người đi gọi ngài. Ngài sẽ không trách thiếp làm ảnh hưởng đến công việc của ngài chứ ạ?

– Làm gì có chuyện đó. – Lý Hiệp vội nói. – Cô tìm ta có việc gì?

– Trước đó thiếp thấy y phục của ngài bị rách còn chưa được vá, nghĩ rảnh rỗi không có việc gì làm nên may một bộ y phục cho ngài, lúc đi lại quên đưa cho ngài. Không đo kích cỡ gì cả, thiếp chỉ làm bừa thôi, mong ngài đừng chê ạ.

Lục Nương đưa tay nải cho y.

Lý Hiệp nhận lấy, nhìn cô ấy, nhất thời không biết phải nói gì.

Lục Nương nhìn y:

– Không còn chuyện gì nữa, thiếp đi đây. Chiến sự hung hiểm, đao thương không có mắt, ngài phải cẩn thận đó.

– …Chờ qua loạn lạc này, nếu trở về được, Lý Đô vệ không chê thiếp, thiếp nguyện làm nô tì rửa chân cho ngài.

Cô ấy thấp giọng nói xong, cụp mắt xuống, quay người đi đến chỗ xe la.

Lý Hiệp nhìn cô ấy trèo lên xe ngồi xuống, rèm cửa buông xuống, người đánh xe quát lên một tiếng, lúc chuẩn bị giục con la thì mới kịp phản ứng, đuổi theo ngăn lại, vén rèm xe lên thò người vào trong nói:

– Lục Nương ơi, em hãy chờ ta nhé, sau này ta nhất định sẽ là nơi tránh gió cho em.

Y nhìn đôi mắt toát lên thần thái rạng rỡ của cô ấy, không chút do dự cầm lấy hai tay cô ấy, nắm thật chặt sau đó mới buông ra, thả rèm xuống cho cô ấy, dặn dò người đánh xe cẩn thận.

Y đứng bên đường nhìn chiếc xe la nhỏ dần đi khuất hướng đông dần dần đi xa, nhìn về hướng phương Nam xa xôi. Phương hướng kia, cốc mã lệ binh, bụi mù cuồn cuộn, một trận đại chiến bảo vệ kinh sư sắp xảy ra.

……

Vào đầu tháng 12, gần một tháng sau khi Lạc Thần trở lại Kinh Khẩu, ngọn lửa chiến tranh cuối cùng vẫn lan tới phụ cận Kiến Khang.

Tin tức truyền đến, phản quân Tuyên Thành cùng Thiên Sư giáo đang cùng tiến đánh về Kiến Khang, Cao Kiệu phụ thân nàng đã nghênh chiến chống lại phản quân cách Kiến Khang chỉ còn lộ trình hai ngày.

Tin tức xấu không chỉ có vậy. Quận Vọng Giang tuyến Tây cũng tràn ngập nguy cơ. Phản quân Kinh Khẩu bất cứ lúc nào cũng có khả năng công phá phòng tuyến này giết về Kiến Khang.

Một khi quận Vọng Giang cũng thất thủ, vậy thì Kiến Khang hai mặt gặp địch, nguy cơ thế nào có thể nghĩ.

Nhưng đây cũng là tin tức bảy tám ngày trước.

Bắt đầu từ bảy tám ngày trước, nàng không còn nhận được bất cứ tin tức gì từ bên ngoài, cũng không biết tình hình chiến đấu như thế nào.

Bởi vì Kinh Khẩu cũng rơi vào bao vây.

Một nhóm đạo tặc ban đầu hoạt động ở vùng Hồ Bà Dương, hoành hành ở thượng du nhiều năm, chiếm trạch xưng vương. Họ nhân Đại Ngu nội loạn mà cướp bóc thương thuyền qua lại, lại dựa vào địa hình cùng với sự quen thuộc thế nước mà đến không để lại hình bóng đi không để lại tung tích, lúc thế lực lớn nhất nhân số còn trên vạn người. Chỉ là vào mấy năm trước, Cao Kiệu phái ra trọng binh mấy lần bao vây tiễu trừ, cho nên thế mở rộng mới dừng lại, không dám hung hăng nữa.

Không ngờ được rằng đội thủy tặc này hiện tại lại nhân loạn mà dốc toàn bộ lực lượng đến tấn công Kinh Khẩu.

Lúc thủy tặc đến là đêm khuya, lấy thế sét đánh không kịp bưng tai mà chiếm lấy bến đò, kế đó đổ bộ tiến thẳng đến trấn Kinh Khẩu. May mà Kinh Khẩu phòng thủ nghiêm ngặt, bị thủ vệ phát giác phát ra còi cảnh báo, một ngàn quân coi giữ lập tức gia nhập chiến đấu.

Tuy rằng đại bộ phận thanh niên trai tráng trên trấn Kinh Khẩu đều đã đi theo Lý Mục vào quân đội, trấn dân còn lại cũng không hề hoảng sợ chút nào, đều đồng loạt đi theo quân coi giữ gia nhập cuộc chiến đấu. Chiến đấu kịch liệt một đêm, rốt cuộc đánh lùi thủy tặc.

Đám thuỷ tặc này đều là đám giang dương đại đạo hung ác tàn bạo, lại quen thuộc thuỷ chiến, bao vây mấy thông đạo xuất nhập Kinh Khẩu, không cho cứu binh đưa tin ra ngoài, ỷ vào nhiều người nhiều binh khí, sau khi nghỉ ngơi ngày hôm sau lại tấn công lần nữa.

Lạc Thần ngay lập tức liên tưởng đến Hứa Tiết.

Bà Dương tiếp giáp khúc sông Trường Giang, cách Kinh Châu rất xa, lúc ban đầu thuỷ tặc không có thế hung hãn như thế, triều đình nhiều lần tiễu trừ không thành, nghe nói là được Hứa Tiết âm thầm cho phép, thủy tặc phân chia những thứ đoạt được cho ông ta, ông ta liền mắt nhắm mắt mở để mặc bọn thuỷ tặc hoạt động ở thượng du con sông lớn, thậm chí lúc triều đình tổ chức bao vây tiễu trừ còn âm thầm báo tin cho chúng biết.

Vô cùng có khả năng là do lần trước Hứa Tiết muốn bắt mẹ chồng không thành, cho nên đã câu kết với thuỷ tặc, bất ngờ từ đường thủy xông vào tấn công Kinh Khẩu.

Lạc Thần ngay lập tức cho bảo vệ Lư thị. Lại suy xét đến ngộ nhỡ Phàn Thành và Phạm Vọng không thủ vững được bị thuỷ tặc đánh vào trong, vậy thì chỉ có thể chiến đấu trên đường phố. Nếu như thật sự tới tình trạng đó, ít nhất trang viên còn có thể che chở được một chút.

Ngày hôm sau, đám người Phàn Thành suất lĩnh quân coi giữ cùng thanh niên trai tráng của trấn ra sức chống cự, Lạc Thần mở rộng cửa trang viên, kêu tất cả phụ nữ, trẻ em, người già yếu ở trong trấn vào trong để tránh né tạm thời.

Trang viên rất rộng, có thể chứa được mấy nghìn người, hoàn toàn không có vấn đề. Thẩm thị mang theo con nhỏ, láng giềng hàng xóm Lý gia, còn có cả rất nhiều người trên trấn tất cả đều đi vào trang viên.

Nhiều người như vậy phải ăn uống, ngủ nghỉ, Lạc Thần và đám tôi tớ của trang viên bận tối tăm mặt mày. May mà mọi người đều đồng lòng, sau khi đi vào thì cùng chủ động làm việc, thậm chí Tạ Tam Nương cũng tới mang theo cả người của tửu lầu cùng với nhóm Thẩm thị nấu cháo nấu cơm, bận rộn không ngừng nghỉ.

Thuỷ tặc hung hãn, cộng thêm nhân số chiếm ưu thế, lo lắng của Lạc Thần đã thật sự xảy ra.

Quân coi giữ dần dần lui về phía sau.

Ba ngày trước, bọn họ đã bị bắt lui đến phụ cận trang viên. May mà trước đó Phàn Thành đã đã thiết lập các chướng ngại vật chung quanh trang viên, trang viên cũng dự trữ rất nhiều lương thực cùng với các vật tư chiến lược cung tiễn, đá lấy lửa…Chính vì có sự chuẩn bị chu đáo chặt chẽ này cho nên hiện tại mới có thể chống đỡ được, không bị thủy tặc đánh vào.

Ba ngày trước, cuối cùng cũng có một người mang theo tin tức xông ra khỏi cuộc chiến loạn đi Kiến Khang tìm sự giúp đỡ.

Mặc dù tin tức này khiến tất cả mọi người trong trang viên đều cảm thấy tràn đầy hy vọng, từ khi người mang tin rời khỏi, thì không có thời khắc nào họ không mong ngóng cứu binh của Kiến Khang đến.

Nhưng mà tâm tình của Lạc Thần lại không hề lạc quan chút nào. Một khi cha nàng nhận được tin tức Kinh Khẩu gặp nguy hiểm, dù là khó khăn đến mấy cũng sẽ phái binh tới cứu. Về điểm này nàng rất tin tưởng. Điều nàng lo lắng là đã hơn mười ngày không có tin tức về Kiến Khang, hiện giờ có phải nơi đó cũng đang lâm vào nguy hiểm hay không.

Nàng cũng lo lắng cung tiễn và đá lấy lửa dự trữ trong trang viên đang từng ngày giảm bớt. Một khi dùng hết, chỉ sợ trang viên cũng gặp nguy hiểm.

Lại ba ngày trôi qua. Nếu như thuận lợi, cứu binh hẳn là đã tới rồi mới phải. Nhưng bên ngoài lại không có một chút động tĩnh gì.

Ánh mắt của nhóm phụ nữ trong trang viên vốn tràn đầy hi vọng dần dần biến thành lo lắng.

Cứu binh không đến như dự kiến ​​nên chỉ có hai khả năng, hoặc là người mang tin tức trên đường gặp nạn, hoặc là Kiến Khang đang bị bao vây, tin tức không thể chuyển đến tay phụ thân.

Đêm hôm nay, thủy tặc cuối cùng cũng ngừng điên cuồng công kích như ban ngày, quân coi giữ có thể tạm nghỉ ăn chút cơm canh mà trang viên đưa tới, họ dựa vào tường vây trang viên, tranh thủ chút thời gian để nghỉ ngơi.

Người quá đông, nhà không thể chứa hết, nhiều người phải ngủ trong những lán tạm bợ bên ngoài.

Một đứa trẻ bị ốm và sốt nặng, khi biết tin, Lạc Thần đã bảo thị nữ đưa người phụ nữ và đứa trẻ vào tòa lầu Thanh Huy của mình để nghỉ ngơi. Đêm đã khuya, đứa trẻ bên cạnh uống thuốc, cuối cùng cũng nín khóc, có lẽ đã ngủ rồi.

Lạc Thần tâm sự nặng nề ngủ không yên, lặng lẽ đứng dậy đi ngang qua những người hầu và người giúp việc bởi vì đã nhường chỗ ở của mình mà phải trải sàn ra đây ngủ, xuống lầu đi vào đình viện ngồi xuống bậc thềm đá được ánh trăng sáng gột rửa nhuốm một tầng ánh trăng sáng, ngửa đầu lên nhìn vầng trăng sáng treo trên ngọn cây kia.

Hình ảnh này làm nàng không khỏi nhớ tới hình ảnh đêm đó Lý Mục tìm mình đi đến đây, bởi vì nàng không mở cửa cho hắn, hắn phải trèo lên cây lên nóc nhà, phá cửa sổ xông vào khuê phòng của mình.

Xa nhau đã lâu như thế rồi.

Nàng ngày đêm nhớ lang quân, không biết hiện giờ chàng đang ở đâu?

Phía sau lưng chợt có tiếng chống quải trượng rất nhỏ.

Lạc Thần quay đầu lại, thấy mẹ chồng cũng tới thì vội đứng lên đỡ lấy bà, thấp giọng nói:

– Mẹ ơi, sao mẹ lại ra đây ạ?

Lư thị nói:

– A Di à, mẹ nghe nói thuỷ tặc chỉ muốn bắt mẹ, nói mẹ ra ngoài thì họ sẽ rút lui, có phải không con?

Việc này là có thật.

Bởi vậy, Lạc Thần càng thêm khẳng định đám thuỷ tặc này nhất định là do Hứa Tiết sai khiến. Ông ta chắc không biết mình ở Kinh Khẩu, cho nên mới đặt mục tiêu ở trên người mẹ chồng mình.

Lạc Thần vẫn luôn giấu Lư thị việc này. Không ngờ bà vẫn biết dược, nàng đang muốn lắc đầu phủ nhận, Lư thị lại nói:

– Me đã suy nghĩ kỹ rồi, không thể bởi vì mẹ mà làm liên luỵ đến người trong trấn được. Không bằng giao mẹ ra…

– Không được đâu ạ. Mẹ ơi, nếu mẹ xảy ra chuyện gì, lang quân trở về con biết ăn nói thế nào với huynh ấy đây ạ?

Lư thị sờ s0ạng cầm tay nàng, nói:

– Mẹ sẽ để lại lá thư cho Kính Thần, nói rõ ràng cho nó biết. Huống chi những người đó chưa chắc đã muốn mạng của mẹ. Con không cần quá lo lắng.

– Như vậy cũng không được đâu ạ. Mẹ ơi mẹ yên tâm, cứ chờ thêm một hai ngày nữa đã, qua một hai ngày nữa, cứu binh Kiến Khang nhất định sẽ tới.

Thấy Lư thị còn muốn nói thêm, nàng nói tiếp:

– Mẹ ơi, mẹ đừng gạt con làm gì. Mẹ tưởng con không biết hay sao? Mẹ không muốn liên luỵ dân trong trấn, mẹ cũng sẽ không liên luỵ đến lang quân. Có phải mẹ đã nghĩ xong, chờ mẹ ra ngoài rồi, những người đó lui đi rồi thì mẹ sẽ từ bỏ mạng sống, tránh cho bọn chúng bắt mẹ uy hiếp lang quân có đúng không ạ?

Nàng rưng rưng nước mắt.

– Mẹ ơi, nếu như người mà đám thuỷ tặc muốn là con, lẽ nào mẹ chịu để con ra ngoài? Cho dù người nhà con không nhận được tin tức, không có người cứu cũng không sao cả, chỉ cần chúng ta có thể thủ vững lâu hơn một chút nữa, lang quân nhất định sẽ phái người tới! Nam Triều đang loạn lạc như thế, chắc chắn huynh ấy không từ bỏ chúng ta đâu.

Lư thị yên lặng một lúc sâu, siết chặt tay nàng, mỉm cười nói:

– Con ngoan, mẹ hiểu rồi, mẹ nghe theo con, chờ cứu binh tới.

Bấy giờ Lạc Thần mới yên tâm, đưa Lư thị về phòng nghỉ tạm.

Ngày hôm sau, trời còn chưa sáng, thuỷ tặc bao vây trang viên lại bắt đầu có ý đồ tấn công trang viên, đám người Phàn Thành và Phạm Vọng cố gắng chống đỡ, mà nơi Kiến Khang vẫn không có động tĩnh gì.

Vào lúc ban đêm, cơm ăn cũng đổi sang thành cháo.

Tuy rằng đã có chuẩn bị từ trước, nhưng dù trữ lượng thức ăn có nhiều bao nhiêu cũng không đủ cho số lượng nhiều người như vậy.

Quân coi giữ phải chiến đấu, Lạc Thần căn dặn vẫn duy trì cơm khô như cũ cho họ, còn những người khác trong trang viên ngoài những người già yếu, sức khoẻ yếu và bệnh tật ra thì những người còn lại bao gồm cả nàng tất cả đều đổi sang ăn cháo.

Cứ thế lại qua hai ngày nữa, tình thế càng lúc càng nguy hiểm, bên kia Kiến Khang vẫn không có bất cứ động tĩnh gì, mà thuỷ tặc bên ngoài lại càng hung hãn, ban ngày còn phóng hoả thiếu đốt nhà trong trấn, ánh lửa hừng hực.

Một đêm nữa lại đến, trong bóng đêm, tiếng người bị thương cùng tiếng trẻ con khóc dường như văng vẳng bên tai, không khí trong trang viên trầm mặc, u uất và áp lực.

Lạc Thần cảm nhận được, không chỉ người dân thị trấn trong trang viên bị bao vây, dù là quân coi giữ theo từng ngày qua đi, hai ngày này ý chí đã dần dần dao động, rõ ràng nhất chính là Kinh Khẩu lệnh.

Hai ngày này, sợ hãi và tuyệt vọng đã bắt đầu không che giấu được mà lộ ra trên khuôn mặt của ông ta, nếu không phải có Phàn Thành và Phạm Vọng chống cự, chỉ sợ quân coi giữ cũng đã bắt đầu muốn từ bỏ rồi.

Vào lúc ăn cơm, Lạc Thần đích thân mang theo một hộp thức ăn có bánh Hồ đi cùng đám Thẩm thị đi đưa cơm đi ra ngoài trang viên xuất hiện ở trước mặt mọi người.

Mấy ngày chiến đấu liên tiếp đã khiến cho binh lính rất mệt mỏi, có một vài người đã nằm ngả dưới đất, có người nhắm mắt dưỡng thần, bỗng nhiên nhìn thấy nàng đi ra thì đều đứng lên.

Lạc Thần cầm bánh phân phát cho từng binh lính một, phát xong nàng nói:

– Mấy ngày qua các ngươi đã vất vả rồi, ta vô cùng cảm kích. Các ngươi yên tâm, chỉ cần chúng ta tiếp tục thủ vững mấy ngày nữa, nhiều nhất là mấy ngày thôi, cứu binh của Lý thứ sử sẽ đến! Ngài ấy là một hiếu tử, mẫu thân và thê tử ngài ấy đều ở đây, ngài ấy sẽ không mặc kệ đâu.

Những người lính cầm bánh trong tay, yên lặng nhìn nàng, vẻ mặt ban đầu uể oải dần dần có tinh thần lên.

Phạm Vọng thấy thế hô to:

– Các ngươi đã nghe thấy không? Truyền lời của phu nhân xuống cho ta! Bánh trong tay các ngươi là do đích thân phu nhân làm cho các ngươi. Mau nhân nóng mà ăn đi, ăn xong rồi thì đánh lên tinh thần cho ta. Có Lý thứ sử ở đây, không ai sẽ chết cả.

Binh lính dường như được sống lại, ăn bánh, vừa ăn vừa truyền lời xuống.

Phạm Vọng đi đến trước mặt Lạc Thần, cung kính nói:

– Cảm ơn phu nhân. Phu nhân mau đi vào trong đi, không cần phải ra nữa đâu, nơi này cứ giao cho chúng tôi. Phu nhân yên tâm, chúng tôi sẽ thủ vững, nhất định không rút lui nửa bước.

……

Quân coi giữ bên ngoài trang viên lại tiếp tục cố gắng thủ vững ba ngày.

Cuối cùng, vào sáng sớm ngày thứ tư, đúng như buổi tối hôm đó mà Lạc Thần đã nói với các binh lính, cứu binh cuối cùng tới rồi.

Từ phương hướng thượng du con sông lớn, có một đội quân hai ngàn người do Cao Hoàn thống lĩnh từ phía sau lao thẳng tới mà đến, đốt sạch thuyền của bọn thủy tặc đậu bên sông, kế đó xông vào Kinh Khẩu, cùng quân phòng thủ biết được cứu binh đã đến trở nên hừng hực khí thế tinh thần phấn chấn giết cho đám thuỷ tặc không kịp trở tay. Đám thuỷ tặc bị tấn công bất ngờ, người ngã ngựa đổ, muốn chạy trốn thì lại phát hiện thuyền đã bị đốt hết rồi.

Hàng ngàn người tụ tập bên bờ sông, người chết kẻ bị thương, đến rạng sáng, mặt nước rộng lớn bên sông nhuộm một màu đỏ thẫm, có vô số thi thể nổi lềnh bềnh trên mặt sông.

Kinh Khẩu bị vây nhốt hơn nửa tháng cuối cùng đã được giải thoát.

Cửa lớn của trang viên mở ra, mọi người đều phấn khởi vui mừng quỳ xuống dập đầu trước mặt Lạc Thần, sau đó về nhà.

Lạc Thần gặp em trai Cao Hoàn của mình.

Gần như đã một năm không gặp, cậu đã cao hẳn lên một cái đầu, cả người nhìn cũng giỏi giang không ít.

Cậu nói cho Lạc Thần biết, từ một tháng trước Lý Mục đã chọn một con đường tắt để trở về Nam Triều, nhưng mà nửa được đụng phải quân đội Hứa Tiết và Bắc Hạ hai mặt giáp công, cho nên không thể nào thoát thân ra được, đại quân bị trói buộc ở đó.

Hắn biết tình hình Nam Triều cực kỳ nguy cấp, Lạc Thần lại ở Kinh Khẩu, lo lắng cho nàng và Lư thị sẽ gặp nguy hiểm, bèn phái Cao Hoàn mang theo đội khinh kỵ binh này đi một con đường khác vòng vèo và xa hơn. Hắn còn ra lệnh cho cậu không cần lo lắng cái khác, dùng tốc độ nhanh nhất trực tiếp đi Kinh Khẩu, bảo đảm Kinh Khẩu bình an vô sự.

Cậu làm theo như thế, đêm nghỉ ngày đi, cuối cùng hôm nay đã đuổi tới.

– A tỷ ơi, nguy hiểm thật đó. May mắn là mọi người chống đỡ được, không xảy ra chuyện lớn gì. Chứ ngộ nhỡ các tỷ mà có mệnh hệ gì, đệ biết ăn nói sao với tỷ phu đây?

Ở trước mặt binh lính, Cao Hoàn dần dần bắt đầu tạo lập được uy tín, nhưng mà đối với Lạc Thần thì cậu lại lộ nguyên hình, vỗ ngực, dáng vẻ quá may mắn, sống sót sau tai nạn.

Lạc Thần mỉm cười, nhận lấy cái khăn nóng ấm từ tay A Đình đang tròn xoe mắt nhìn Cao Hoàn, lau vết máu trên mặt em trai, lau xong nói:

– Trước khi đệ đi, tình huống chỗ tỷ phu đệ rất không tốt phải không?

Cao Hoàn cười hì hì:

– A tỷ yên tâm. Tỷ phu có danh chiến thần cũng không phải là hư danh. Huynh ấy chỉ lo cho Kinh Khẩu nên mới bảo đệ đi trước. Thậm chí quân đội mà Hứa Tiết để lại thủ Tương Dương nghĩ là chặn được huynh ấy, căn bản là nằm mơ thôi. Còn Bắc Hạ kia rõ ràng là ốc còn không mang nổi mình ốc nữa. Mộ Dung Tây đã xuất binh đánh Lạc Dương rồi.

– Kế hoạch của tỷ phu là mau chóng lấy được Tương Dương sau đó vượt sông quay về Nam Triều, đây là con đường gần nhất. Phản quân Kinh Châu của Hứa Tiết chẳng phải xuôi theo ven sông tấn công Kiến Khang à, tỷ phu cũng học theo ông ta, dọc theo xông đuổi theo lão ta, từ phía sau đánh lên, đánh cho lão ta trở tay không kịp, xem lão làm thế nào để tấn công Kiến Khang đây!

Trái tim bị kéo căng đã lâu của Lạc Thần cuối cùng cũng thả lỏng, trên mặt nàng hiện lên nụ cười đã mất từ ​​lâu.

Chỉ cần hắn đã trở lại, không quan tâm tình thế kế tiếp có gian nan bao nhiêu, Lạc Thần cũng không thấy lo lắng nữa.

Trên người hắn có một lực lượng thần kỳ như vậy đó, có thể làm cho người khác cực kỳ an tâm.

Hết chương 123
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 124


Lật Dương nằm ở phía Nam Kiến Khang cách Kinh sư tầm mấy trăm dặm.

Trước đó không lâu, khi phản quân Tuyên Thành lần đầu tiên tấn công Kiến Khang, Cao Kiệu đã đích thân từ Kiến Khang tới đó suất quân chống lại phản quân, thành công đánh bại phản quân, khiến cho phản quân phải co đầu rụt cổ lùi bước.

Nhưng không lâu sau chiến thắng ngắn ngủi đó, nơi đây lại một lần nữa rơi vào hỗn chiến.

Một bên vẫn là quân triều đình, một bên vẫn là quân phản loạn đến từ Tuyên Thành. Nhưng khác với lần trước, lần này, quân nổi dậy còn tập hợp một lực lượng từ Thiên Sư Giáo.

Trận chiến tranh đoạt Lật Dương này đã tiến vào ngày thứ năm.

Quân đội triều đình đã đẩy lùi cuộc tấn công của quân địch. Nhưng phản quân do quân Tuyên Thành và Thiên Sư Giáo chúng liên hợp xen kẽ nhau tấn công tới lại giống như châu chấu vô tận từ lòng đất chui lên, lan rộng khắp các ngọn núi và đồng bằng, đánh không ngừng nghỉ, tiêu diệt không dứt, lui một đợt lại tới đợt khác.

Đặc biệt là đội ngũ tiên phong mấy nghìn người do đệ tử Thiên Sư giáo tạo thành người nào cũng có gương mặt cứng đờ, hai mắt đỏ như máu, trong mắt hiện lên vẻ hưng phấn kỳ dị như dã thú, cầm kiếm sắc bén trong tay, điên cuồng xông tới, chém bất cứ người nào nhìn thấy.

Không có gì có thể ngăn cản bước chân của bọn họ, những người này tựa hồ không phải nhân loại, mà là một đám tang thi chỉ có sinh mệnh không có linh hồn, trừ phi mất đi hơi thở, hoặc là cụt cả hai chân, bằng không, cho dù là chặt đứt cánh tay, máu sẽ chảy đầm đìa, điều đó cũng không ngăn cản họ vừa dẫm lên thi thể đồng bọn vừa lao về phía trước.

Một người ngã xuống, phía sau lập tức có nhiều hơn người xông lên.

Trong một trận dã chiến để tranh đoạt địa hình có lợi, Lý Hiệp tận mắt chứng kiến một đệ tử Thiên Sư giáo bị một đao của mình chém đứt đầu, thế nhưng cơ thể thiếu đi cái đầu cổ vai bằng phẳng lại đứng thẳng tắp lao về phía trước bảy tám bước rồi mới đổ gục xuống, mà thanh kiếm kia vẫn còn bị nắm chặt trong tay.

Cảnh tượng này khiến cho y nhìn thấy cũng sởn cả tóc gáy.

Lật Dương là một đạo quan khẩu cuối cùng của phía nam Kiến Khang, nếu như để mất Lật Dương sẽ giống như mở ra một cánh cửa nối thẳng đến Kiến Khang cho phản quân. Mà Kiến Khang, ngoại trừ Thạch Đầu Thành được Cao Kiệu dốc lòng xây dựng nhiều năm nay với bức tường thành không quá cao của nó thì không còn bất cứ tấm chắn nào đáng giá để nhắc tới.

Mọi người đều biết tầm quan trọng của Lật Dương, hơn nữa, từ đầu đến cuối mỗi trận chiến, Cao Kiệu đều sẽ ra mặt chỉ huy trận chiến, thậm chí không màng đến sự thuyết phục của cấp dưới mà tự mình khoác áo giáp cùng nhau ra trận cùng tướng sĩ cùng giết địch. Có ông truyền cảm hứng và khích lệ, bất luận là Quảng Lăng quân hay là trung quân ở lại giữ thành tới bước này rồi đều giết đến đỏ mắt, nhưng không người nào dám rút lui.

Chính vì dựa vào sĩ khí này mà mấy ngày sau, quân triều đình chẳng những đoạt lại được trận địa đã mất đi trước đó mà còn đánh phản quân phải rút lui về sau năm mươi dặm.

Thế nhưng trên dưới còn chưa kịp nghỉ ngơi, vào ngày thứ bảy khi trận chiến đang tiến ra kịch liệt, Cao Kiệu vẫn không thể không quyết định co trận địa lại, lui vào bên trong thành, chia quân quay về Kiến Khang.

Bởi vì ông đã không có sự lựa chọn nào khác.

Ông vừa nhận được chiến báo mới nhất.

Quận Vọng Giang mấy ngày trước đã bị công phá, phản quân Kinh Châu đã chia binh làm hai đường, một bộ phận đi đường bộ vùng ven sông công chiếm quận huyện ven đường, thế như chẻ tre, bộ phận khác do đích thân Hứa Tiết đốc chiến, chọn đi thuyền, dọc theo con sông thuận gió mà đi nhanh, ào ạt tiến về Kiến Khang.

Phản quân theo đường thủy đi về phía Đông này ít ngày nữa sẽ tới.

Niềm vui thắng lợi trong giây lát liền tan thành mây khói.

Thời điểm Cao Kiệu an bài xem ai ở lại thủ Lật Dương, sảnh nghị sự rơi vào yên lặng.

Mọi người đều biết sau khi chia quân đi Kiến Khang, dựa vào số lượng căn bản không thể nào chống lại được nhân mã của đối phương, dựa vào cửa thành này muốn chống cự phản quân nhiều không đếm được đang điên cuồng ở bên ngoài thành, áp lực rất lớn.

Đây không còn đơn giản là vấn đề sống hoặc chết. Mà là nếu thành trì bị phá, mình chết trận thì thôi, nhưng nếu không tốt rất có khả năng sẽ phải gánh trên lưng tội danh vô năng ngộ quốc, bị người người thoá mạ.

Tội danh này không ai gánh nổi.

– Nếu Cao tướng công tin tưởng tôi, tôi nguyện lĩnh quân cố thủ toà thành này!

Bên trong bầu không khí im ắng, Lý Hiệp bước ra khỏi hàng, hành lễ nói.

Cao Kiệu nhìn thẳng vào y, trong đôi mắt trũng sâu đó chậm rãi hiện lên một tia vui mừng.

Ông đứng lên đi đến trước mặt Lý Hiệp, nâng y dậy, nói:

– Ta quay về kinh sư, sẽ dốc toàn lực chống lại quân Kinh Châu, cố gắng hết sức bảo vệ Kiến Khang. Nếu như ngươi có thể suất lĩnh những người ở đây đánh đuổi quân Kinh Châu phía tây, bảo vệ cho môn hộ này, trận chiến này công đầu sẽ thuộc về ngươi.

– Tướng công yên tâm! Quan binh toàn quân tâm vững như sắt! Không có lệnh của tướng công, dù máu bắn ba thước cũng không lui về sau một bước!

Lý Hiệp trịnh trọng nhấn mạnh từng câu từng chữ.

……

Cao Kiệu phái hai trung lang tướng Kiến Khang ngày hôm đó tình nguyện ở lại để bảo vệ thành trì cùng với Lý Hiệp, sau khi để lại quân coi giữ, ngày hôm đó, ông ngay trong đêm suất lĩnh quân đội còn lại chạy về Kiến Khang.

Thạch Đầu Thành nằm ở phía Tây Kiến Khang, lần đầu tiên được xây dựng vào thời tiền triều, ban đầu nó là pháo đài quân sự dùng để bảo vệ Kiến Khang. Trước cuộc Bắc phạt năm đó, Cao Kiệu lại tiếp tục gây dựng nó, chẳng những môn hộ cao sâu, mà tường thành càng kiên cố vững chắc hơn, được xưng là đệ nhất pháo đài Giang Đông.

Hứa Tiết ở trong triều đình nhiều năm, đương nhiên là biết được sự kiên cố của Thạch Đầu Thành. Sau khi đến, Cao Kiệu đoán ông ta sẽ vòng qua Thạch Đầu Thành. Lộ tuyến có khả năng nhất chính là chọn tuyến đường đi vùng núi Phúc Chu Tưởng Lăng, ông bèn giành trước thời gian đến đó để bố trí mai phục.

Quả nhiên là bị ông đoán trúng.

Đêm đó, phản quân lợi dụng bóng tối bao phủ, lên thuyền ở ven sông cách Thạch Đầu Thành mấy chục dặm và vòng về Kiến Khang để đánh úp lại.

Vốn là dự tính tập kích bất ngờ, nhưng không ngờ khi đi qua một con đèo trũng gần Tưởng Lăng thì gặp phục kích. Ngay tức thì hoả tiễn hai bên đỉnh núi như châu chấu, lôi thạch cuồn cuộn. Phản quân bị tập kích bất ngờ không kịp đề phòng, ở trong khe núi tránh né tấn công mà giẫm đạp lên nhau, chờ khi phục binh giết xông ra, quân lính liền bị đánh bại.

Hứa Tiết thấy tình thế bất ổn lập tức cho rút lui về phía sau, bỏ lại những binh lính bị thương cùng với quân nhu khôi giáp đầy đất, bị quân triều đình một đường đuổi giết mà kinh hồn táng đảm, mang theo bại quân chạy trốn ngay trong đêm, cho đến hừng đông vẫn luôn chạy một mạch về vùng đất hoang huyện Giang Thành hướng tây Bắc Kiến Khang, lợi dụng địa hình bằng phẳng chỉnh đốn đội ngũ, lúc này mới xem như tránh thoát được một kiếp.

Lần này sở dĩ ông ta phân chia binh đi hai đường thuỷ và bộ, bản thân mình suất lĩnh quân đội thì đi theo đường thuỷ, nóng lòng đánh Kiến Khang trước, đều là bởi vì Lý Mục.

Từ trước đến nay ông ta vẫn luôn muốn tạo nên nghiệp lớn, nhưng không nghĩ tới một cuộc Bắc phạt không những không đạt được mục đích lấn át Cao Kiệu mà ngược lại còn khiến cho mình không còn chỗ đứng ở trong triều đình.

Ngay khi ông ta đang do dự về việc có nên tiếp tục mưu phản hay không và khi nào thì mưu phản thì cuộc nổi dậy của Thiên sư Giáo quy mô lớn bắt đầu từ đất Ngô và sau đó lan rộng nhanh chóng với thanh thế vô cùng to lớn khiến ông ta cảm thấy như thể mình đang được trời trợ giúp, nên không do dự nữa, quyết định nhân cơ hội ngàn năm có một này để bắt đầu lại nghiệp lớn một lần nữa.

Nhưng mà toàn bộ Nam Triều này ông ta còn kiêng kị một người.

Người đó chính là Lý Mục.

Ông ta biết Lý Mục là một đối thủ đáng sợ.

Một khi hắn dẫn quân quay về Nam Triều, mà mình đến lúc đó còn chưa khống chế tốt cục diện, rất có thể sẽ gặp khó khăn, không cẩn thận có thể sẽ lật thuyền trong cống ngầm.

Cho nên ngay từ ban đầu ông ta đã tính toán bắt lấy mẫu thân của Lý Mục, lặng lẽ phái người lẻn đến Kinh Khẩu, nào ngờ được Lý mẫu lại vào trang viên ở, canh giữ nghiêm ngặt, căn bản không có cơ hội ra tay. Cho nên ông ta lại quyết định sai khiến đám thuỷ tặc kia tấn công Kinh Khẩu.

Ông ta cứ đinh ninh chắc mẩm rằng sẽ thành công. Nhưng cuối cùng tin tức gửi đến vẫn làm ông ta thất vọng.

Mà càng không ổn chính là ông ta cũng nhận được tin tức, Lý Mục quả nhiên đúng như dự đoán của ông ta đã phát quân xuống phía Nam. Cho nên ông ta càng phải mau chóng đánh hạ Kiến Khang.

Theo kế hoạch của ông ta, Kiến Khang tuy rằng không có nơi để dựa vào phòng thủ, nhưng chỉ cần trước khi Lý Mục dẫn binh quay về ông ta đánh hạ Kiến Khang và nhân thể công chiếm Kinh Khẩu, khống chế chặt chẽ Quảng Lăng độ, điều này có ý nghĩa bắt đầu từ thượng du Kinh Châu cho đến hạ du Giang Đông, toàn bộ khu vực sông cũng như thương mậu và giao thông đường thủy phụ thuộc vào sông lớn, chiếm một tỷ lệ lớn trong ngân quỹ quốc gia của triều đình, cũng rơi vào tay ông ta.

Ông ta nắm được mạch máu của Nam Triều rồi thì sau đó ngăn chặn Lý Mục ở Giang Bắc, làm cho hắn không thể nào qua sông xuống phía Nam được. Như thế, sau này ông ta hoàn toàn có thể dựa vào con sông lớn này để chống lại Lý Mục và triều đình đã rút lui về một góc Đông Nam, mưu đồ khởi nghiệp của mình.

Đây là lý do tại sao ông ta đích thân dẫn quân tập kích bất ngờ ở Kiến Khang.

Từ sau khi ông ta lợi dụng cơ hội Thiên Sư Giáo tác loạn mà công khai tạo phản, mọi việc luôn thuận lợi suôn sẻ.

So với việc Cao Kiệu phải đỡ trái hở phải vật lộn để giải quyết khó khăn, có thể nói ông ta đang thuận buồm xuôi gió và đạt được những gì mình muốn. Vốn dĩ  ông ta có chút tự mãn đắc ý, không nghĩ tới sau trận chiến đầu tiên khi vừa đổ bộ, thế nhưng lại bị trúng mai phục của Cao Kiệu, thất bại một cách thảm hại như thế.

Hứa Tiết vừa căm hận vừa bực bội, nghỉ ngơi hai ngày ở huyện Giang Thành thì nhận được tin chiến thắng mới, nói là đội quân mà Dương Tuyên suất lĩnh dọc đường đi bách chiến bách thắng, ven đường công thành đoạt đất, thế như chẻ tre, một vài quan viên quận huyện địa phương nhỏ thậm chí còn không hề chống cự, trực tiếp mở cửa thành ra đầu hàng.

Quân đội đã đánh tới khu vực Đương Đồ, cách Kiến Khang chỉ có lộ trình ba bốn ngày đường.

Hứa Tiết vui mừng không sao tả xiết, phát tin tức này xuống, lại dùng trọng thưởng khích lệ binh lính, ngay sau đó điều binh khiển tướng, lại lần nữa tấn công Kiến Khang.

Sau khi Cao Kiệu thắng trận đầu tiên, biết Hứa Tiết tất sẽ ngóc đầu trở lại, phái Giang Thừa lệnh Thôi Cao canh giữ Tây Lăng phía bắc Kiến Khang, thái thú Lư Giang Thượng Cương canh giữ Thanh Khê ở phía Đông, quan binh Thạch Đầu Thành canh giữ Tây môn, mình thì lĩnh quân bố trí phòng thủ ở Vân Long Môn phía nam Đài Thành.

Huyết chiến ba ngày, Thôi Cao và Thượng Cương lần lượt bỏ mình, Tây Lăng và Thanh Khê rơi vào tay Hứa Tiết.

Hứa Tiết tinh thần phấn chấn, sĩ khí dâng cao, thừa thắng xông lên tấn công Vân Long Môn, Cao Kiệu đích thân dẫn quân chống cự lại, trong trận chiến, Hứa Tiết bị ông bắn một mũi tên trúng ngực ngã xuống ngựa, người bên cạnh tưởng rằng ông ta đã chết, kinh hoảng vô cùng, đỡ ông ta lên hốt hoảng bỏ chạy. Cao Kiệu nắm lấy cơ hội phản công, ép cho phản quân lui về sau mấy chục dặm, cuối cùng đã đoạt lại được hai vùng đất Tây Lăng, Thanh Khê.

Mũi tên đó chỉ bị tấm kính hộ tâm chặn lại, nó chỉ làm nứt lớp khôi giáp, xuyên vào thịt một tấc, không hề đáng lo ngại.

Tuy rằng sợ bóng sợ gió một hồi, tìm được đường sống trong chỗ chết, nhưng Hứa Tiết chưa bao giờ ngờ được rằng, vốn dĩ cho rằng Kiến Khang sẽ dễ dàng bị mình lấy được thế nhưng lại khó đánh đến như thế. Chẳng những mình suýt nữa thì bỏ mạng trong tay Cao Kiệu, thủ hạ binh lính cũng thương vong thảm trọng, mệt mỏi tột độ. Nhớ tới lúc trước, ông ta muốn trưng tập dân chúng quận huyện phụ cận để làm quân phu cho mình, dân chúng lại oán thán chống lại rồi bỏ trốn hết, ông ta không còn lòng tái chiến nữa, hạ lệnh đóng trại nghỉ ngơi chỉnh đốn, nôn nóng chờ đợi Dương Tuyên đến.

Phản quân tuy lần thứ hai bị đánh lùi, Kiến Khang lại có cơ hội nghỉ ngơi, nhưng một trận chiến này quân triều đình cũng tổn thất không nhẹ. Chẳng những binh lính bình thường mà ngay cả tướng lĩnh cấp trung trở lên cũng thương vong hơn mười người, nhìn mà thấy sợ.

Cao Kiệu không màng mệt mỏi, lúc đến thăm hỏi binh lính bị thương trong doanh trại đóng ở bên ngoài Vân Long Môn Đài Thành, bên ngoài viên môn đột nhiên có một người máu me đầy người mang theo tin tức đáng sợ đến.

Bì Lăng thất thủ rồi.

Chinh trấn tướng quân Chung Minh phụ trách phòng thủ Bì Lăng xuất thân sĩ tộc, đi theo Cao Duẫn chinh chiến nhiều năm, từ trước đến nay vốn dĩ vẫn luôn đóng quân ở Quảng Lăng, lần này Cao Kiệu điều quân nam hạ, Chung Minh được điều đến đây nghe lệnh Cao Dận.

Ông ta tự thấy mình có kinh nghiệm có lý lịch, có thể xưng huynh gọi đệ với Cao Duẫn, là bậc trưởng bối của Cao Dận, khinh thường anh ta tuổi trẻ, đối với việc bản thân mình phải nghe theo lệnh của Cao Dận trong lòng rất bất mãn. Nhưng biết Cao Dận là gia chủ đời sau của Cao thị được Cao Kiệu rất coi trọng, e ngại mệnh lệnh của Cao Kiệu, cho nên ngoài sáng thì không dám có biểu lộ gì. Sau khi bị phái đi Bì Lăng, bố trí phòng thủ xong, đánh lui mấy cuộc tấn công của Thiên Sư Giáo chúng, trong lòng càng xem nhẹ, cảm thấy Cao Dận quá nghiêm túc trong mọi việc, thực sự đang làm lớn chuyện, Thiên Sư Giáo chẳng qua chỉ là một đám ô hợp, chỉ thường mà thôi, Cao Dận lại như gặp đại địch, chứng tỏ bản thân rất vô năng.

Ngay như vào mấy ngày trước, Cao Dận tới đây tuần tra doanh, chờ anh ta rời khỏi rồi, Chung Minh lại triệu mấy bộ hạ th@n tín của mình vào trướng uống rượu mua vui, lén châm biến Cao Dận nhát gan vô năng, mọi người phụ họa theo, đều uống rượu đến say mèm.

Vừa hay vào đúng đêm khuya hôm đó, Thiên Sư giáo bị đánh bại trước đó đã tập hợp mười vạn người, do giáo đầu Ngô Thương tự mình dẫn dắt tấn công quy mô lớn Bì Lăng vào ngay trong đêm.

Kết quả thế nào có thể nghĩ.

Chung Minh tỉnh rượu, muốn bày trận đối kháng lại nhưng mà đã muộn.

Cao Dận nghe tin chạy đến thì Bì Lăng đã thất thủ, Chung Minh kia cũng bị giế t chết trong loạn quân, đầu bị treo cao trên đầu tường thành.

Phòng tuyến tam giác bố trí trước đó chỉ trong một đêm đã bị xé rách một lỗ hổng. Ngày hôm sau, Ngô Thương liền suất lĩnh đệ tử cùng giáo chúng ngựa không dừng vó mà lao đến Khúc A nơi đế hậu đang ở đó.

– Cao tướng công! Thiên Sư Giáo đã xuất động toàn bộ đệ tử, trên dưới không dưới mười vạn người, lại do giáo đầu đi đầu tác chiến, vô cùng hung hãn, quân coi giữ Khúc A không đủ, đã bị bao vây tứ phía rồi. Lúc trước Cao tướng quân đang chỉ huy trận chiến đã bị trúng tên bị thương, Lục công tử đã thay ngài ấy lĩnh quân, gian nan thủ thành, tình huống vô cùng khẩn cấp. Một vài người được phái ra đi báo tin vừa ra khỏi thành không xa đã bị phát hiện bị giết hết, tiểu nhân lẻn ra liều chết chạy trốn, may mắn thoát được mà tới đây báo tin.

Người mang tin tức quỳ xuống đất, cao giọng hô.

Cao Kiệu thấy hai mắt tối sầm, hai tai ong ong, cơ thể hơi loạng choạng như muốn ngã xuống.

Tả hữu cuống quít đi lên đỡ lấy ông.

Ông ổn định lại cơ thể, đẩy bàn tay đang đỡ mình ra, cầm lấy thư mà tự tay Cao Dận đưa cho người mang tin gửi cho mình, đọc nhanh như gió, xem xong bả vai ông cứng ngắc.

Bên trong trướng, trước mặt ông là mười mấy phó tướng sắc mặt ai nấy cũng trầm trọng, như nín thở chờ quyết định của ông.

Thân hình Cao Kiệu giống như cột đá, không nhúc nhích.

Dần dần, bàn tay ông bất lực buông xuống, trong ánh mắt ngập tràn sợi tơ máu kia toát lên sự phẫn uất, thương xót và bất đắc dĩ.

– Ý trời đã thế, ta có thể làm gì được đây?

Ông lẩm bẩm, nói ra một câu như thế, biểu cảm như khóc mà không phải khóc, cười như không phải cười, cực kỳ quái dị.

Chung quanh im ắng, không một ai phát ra tiếng, không khí nặng nề vô cùng.

– Phái người truyền tin Lý Hiệp, không cần tử thủ Lật Dương nữa, kêu hắn an bài đường lui cho tốt rồi lui về Khúc A.

Ông yên lặng thất thần một lát rồi phân phó.

Lập tức có tả hữu lĩnh mệnh đi ra khỏi trướng.

– Hạ lệnh đi. Ngay lập tức rút toàn bộ lực lượng phòng thủ ở Kiến Khang, ai bài tốt chướng ngại vật phía sau, tránh để Hứa Tiết nhân cơ hội đuổi theo tấn công, suốt đêm đi Khúc A ngay.

Ông nói với bộ hạ của mình.

Thời điểm nói ra lời này, giữa mày ông hiện lên sự hiu quạnh và bi thương, khiến cho những người hiện đang đứng ở trước mặt ông đều xúc động.

– Cao tướng công!

Một gia tướng Cao thị thời trẻ từng theo ông đi Bắc phạt đột nhiên quỳ xuống, gọi ông một tiếng, giọng nghẹn ngào.

– Xin Cao tướng công lãnh binh mau chóng đi Khúc A bảo vệ bệ hạ, nơi này giao cho mạt tướng. Mạt tướng nhất định liều chết cũng phải thủ thành, tuyệt đối không cho phép kẻ địch đạt được ý đồ.

– Mạt tướng cũng nguyện thủ thành!

– Mạt tướng cũng xin chờ lệnh!

Xung quanh là những tiếng nói, hết người này đến người khác, mọi người quỳ xuống.

Sắc mặt Cao Kiệu ảm đạm, lắc đầu.

– Khúc A kia ngoại trừ đế hậu còn có rất nhiều cư dân sơ tán đến đó. Kiến Khang có thể mất, nhưng Khúc A không thể để mất được. Huống chi đội nhân mã của Dương Tuyên nhanh thì một hai ngày mà chậm thì nhiều nhất là ba bốn ngày sẽ đánh tới, đến lúc đó sẽ hợp quân với Hứa Tiết.

– Vốn dĩ binh mã của triều đình này đã ứng phó không dễ rồi, cộng thêm tình huống phát sinh ngoài ý muốn như hiện giờ, còn muốn chia tách ra hay sao?

Ông nhắm mắt lại, khi mở mắt ra, ánh mắt đảo qua từng gương mặt gia tướng quen thuộc đã nhiều năm đi theo ông đông chinh tây chiến, trong mắt lấp lánh ánh nước.

– Các ngươi đều là những người đi theo ta nhiều năm. Lần này ý trời là thế, các ngươi cũng không cần phải vì thủ thành mà uổng phí tính mạng. Toàn bộ nghe theo lệnh của ta, lập tức thu nạp nhân mã của từng người lại, mau chóng lên đường.

– Mạt tướng tuân lệnh!

Mọi người lần lượt từ dưới đất đứng lên, có người lén lút lau nước mắt, có người vẻ mặt nghiêm nghị, thảo luận xem nên rút lui như thế nào.

Đúng vào lúc này, đột nhiên, bên ngoài doanh trại cuối con đường thông về hướng nam ngoại thành hình như mơ hồ truyền đến một tiếng động lạ.

Động tĩnh kia từ xa tới gần, ban đầu nó giống như tiếng sấm bị bóp nghẹt trên mặt đất bằng phẳng ở một nơi rất xa, nghe như có như không, không rõ ràng mấy. Đợi khi mọi người tập trung lắng nghe, trong hoảng hốt còn chưa kịp cảm nhận đó là gì thì nó tựa như sấm sét đánh xuống chớp mắt đã cuồn cuộn tới gần.

Mọi người ngay trong khoảnh khắc này đều đã nghe được rõ ràng.

Đó là thứ âm thanh chấn động chỉ có thể khiến thần ma biến sắc khi đoàn quân hành quân thần tốc mà đến.

Cùng với tiếng bước chân ầm ầm ngày càng rõ ràng và tiếng hét của hàng ngàn binh mã đang lao về phía họ, mặt đất dưới chân họ dường như khẽ rung chuyển.

Phản quân Kinh Châu không ngờ nói đến là đến!

Mọi người vào lúc này ở trong lòng lập tức có như vậy ý ​​nghĩ.

Sắc mặt mọi người đều thay đổi, đồng thời nhìn về phía Cao Kiệu.

Bầu không khí trong nháy mắt như bị đóng băng.

Hai mắt Cao Kiệu cũng trở nên thâm trầm nghiêm túc. Trên vai ông như có hai ngọn núi Thái Sơn đè ép tới, ông từ phía sau án đứng dậy.

– Truyền lệnh, điều Cảm tử doanh tức khắc ra khỏi thành, liều chết ngăn cản! Quân đội còn lại lập tức tập kết, theo thứ tự doanh nhanh chóng rút lui.

Bộ hạ của ông tuân lệnh đi nhanh ra khỏi doanh, từng người đang chuẩn bị đi an bài công việc, đột nhiên một thám báo xuất hiện ở ngay bên ngoài viên môn.

Thám báo kia chạy như điên, giống như một tia chớp không màng tất cả mà xông vào doanh trại của Cao Kiệu, quỳ xuống dưới đất.

– Cao tướng công! Lý thứ sử…Lý thứ sử mang binh tới rồi ạ!

Giọng nói mừng như điên từ trong miệng thám báo truyền vào tai mỗi người.

Bầu không khí lại ngưng tụ lại lần nữa. Trong doanh trướng, ngoài tiếng động thở hồng hộc do thám báo kia phát ra thì không còn tiếng động nào khác.

Nhưng mà ngay sau đó, mọi người như được sống lại, bảy tám bàn tay đồng loạt đưa tới xách thám báo kia lên.

– Ngươi lặp lại lần nữa đi.

Thám báo kia nuốt khan nước miếng.

– Bẩm báo Cao tướng công, bẩm các vị tướng quân, là Lý thứ sử tới rồi! Phản quân Kinh Châu khi ở Đương Đồ đã bị Lý thứ sử từ phía sau đuổi tới đánh tan. Lý thứ sử vừa mới lĩnh quân chạy tới Kiến Khang, sắp vào thành rồi ạ!

Mọi người nhìn nhau, đột nhiên, cũng không biết là ai đi đầu, không hẹn mà tất cả cùng bật lên tiếng cười to. Tiếng cười vang dội tràn ngập niềm vui mừng như điên cùng sự sảng khoái do sống sót sau tai nạn.

– Cao tướng công, ngài nghe thấy không? Lý thứ sử trở về rồi…

Một phó tướng quay sang nhìn Cao Kiệu, thấy hai mắt ông nhìn đăm đăm về hướng rèm doanh trướng, ngay sau đó, như là phóng ra tia sáng khác thường, nhấc bước vội vàng như muốn đi ra ngoài, nhưng mà bước chân lại chập choạng. Y cảm thấy không đúng, đang muốn đi lên đỡ lấy lại thấy cơ thể ông nhoáng một cái, không hề báo trước cả người ngã quỵ xuống đất.

Hết chương 124
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 125


Lúc đầu, sau khi Lý Mục cuối cùng đưa ra quyết định trở về Kiến Khang, vấn đề lớn nhất mà hắn sẽ gặp phải chính là lựa chọn nơi vượt qua phía Nam sông Trường Giang để trở về.

Trường An Kiến Khang về mặt địa lý được chia thành Tây Bắc và Đông Nam, ngay cả trước khi triều đình đi xuống phía Nam, khi khu vực Giang Hoài thông suốt, con đường núi qua lại giữa hai nơi có khoảng cách gần nhất cũng dài đến hơn hai ngàn dặm. Huống chi là hiện giờ, những khu vực đó vẫn nằm trong tay Bắc Hạ.

Con đường mà hắn có thể đi là con đường quân sự đã được mở ra khi hắn từ Nghĩa Thành đi về phía Bắc để tấn công Trường An.

Từ Trường An đến Nghĩa Thành đoạn đường này không có vấn đề, nhưng qua Nghĩa Thành, đến giáp giới Kinh Tương thì hắn lại gặp phải lựa chọn nơi nào để qua sông.

Hắn có hai lựa chọn.

Một là vòng qua Kinh Tương nơi có thế lực của Hứa Tiết, chọn tuyến đường đi Giang Bắc, dọc theo sông về phía Đông, tại Thái Thạch Lịch Dương vượt qua sông đi thẳng đến hạ lưu Kiến Khang.

Hai là trực tiếp đối mặt với Kinh Tương. Ở thượng du Giang Lăng vượt qua sông, rồi lại từ phía Đông của con sông đi xuống.

Hai con đường này đều có lợi và hại của nó.

Cái đầu tiên, có thể tránh được chiến tranh, nhìn hành trình có vẻ như được rút ngắn lại và mau chóng đến được Kiến Khang. Tuy nhiên Thái Thạch từ thời cổ đại đã là một bến phà lớn ở hạ du Trường Giang khác ngoài Kinh Khẩu. Lựa chọn ở chỗ này qua sông, quân đội hành quân đường dài, trên đường chắc chắn không thể che giấu được tai mắt trinh sát của Hứa Tiết, ông ta sẽ khống chế bến đò trước, phá huỷ bến đò, lại bố trí trọng binh ở phía bờ Nam của con sông ngăn cản hắn thuận lợi qua sông. Tới lúc đó, nếu không nuôi đủ thuyền, lại rơi vào trận đối chiến trường kỳ dai dẳng với quân đội của Hứa Tiết, điều đó sẽ phạm vào điều tối kỵ đối với binh gia khi gấp rút tiếp viện.

Huống chi, nếu như Hứa Tiết thật sự như hắn suy nghĩ nhân loạn Thiên sư giáo mà khởi binh mưu phản, vậy thì trước khi ông ta mưu phản, ông ta không thể nào không nghĩ đến sự tồn tại một biến số là mình, vô cùng có khả năng vào lúc hắn vừa mới rút quân đi về phía Nam thì sẽ gia tăng cản trở.

Một trận chiến trên đường không thể tránh được.

So với qua sông ngay tại hạ du trong vị trí địa lý không thuận lợi vào kéo dài trận ác chiến với ông ta, không bằng đánh bất ngờ trực tiếp tấn công Kinh Tương, phá Tương Dương, lấy Võ Ninh, từ bến đò Giang Lăng mà qua sông.

Cho nên đêm đó, hắn cùng Tưởng Thao sau khi bàn bạc thống nhất xong đã mau chóng đưa ra quyết định, ngay sau đó triệu tập cấp dưới, nói rõ tình huống, để lại quân coi giữ, bàn giao tất cả mọi việc còn lại cho đám Tưởng Thao và Tôn Phóng Chi, sau đó lĩnh đại quân đi xuống phía Nam.

Quả đúng như hắn đã dự đoán, đại quân vừa qua Nghĩa Thành hoàn thành tiếp viện lương thảo chưa đến hai ngày, chưa tiến vào địa giới Kinh Tương thì đã đụng phải quân đội Kinh Tương và quân đội Bắc Hạ cùng tấn công hai mặt.

Quân đội Kinh Tương dĩ nhiên là nghe theo mệnh lệnh của Hứa Tiết ngăn cản bước tiến xuống phía Nam của hắn, muốn ngăn chặn hắn ở tại nơi này.

Hứa Tiết luôn có thủ đoạn chặt chẽ độc ác. Ông ta biết rõ Lý Mục không dễ đối phó, vì vậy để đảm bảo an toàn, ông ta đã phái người đem tin tức mình hiện giờ đang đối địch với triều đình và Lý Mục ít ngày nữa sẽ nam hạ cho người Yết biết.

Đúng như ông ta đã tính toán, Bắc Hạ cũng đang kiêng kị Lý Mục, biết hắn muốn đánh Quan Trung, kế tiếp sẽ từ phía Đông ra Đồng Quan tiến thẳng về Lạc Dương. Nhận được tin tức, họ làm sao chịu từ bỏ cơ hội để tiêu diệt hắn?

Cứ như vậy, hai đạo quân từng đánh nhau sinh tử, lần này vì đối mặt kẻ thù chung mà từ bỏ đối đầu quay sang hợp tác với nhau, một Nam một Đông hai mặt giáp công hỗ trợ nhau bám chặt bước tiến tiếp tục xuống phía Nam của Lý Mục, nhất thời làm cho hắn không thể nào thoát khỏi được.

Đội quân người Yết trú tại Nam Dương này là do một tông thất từng phụ thuộc rất nhiều vào hoàng đế Bắc Hạ suất lĩnh. Bởi vì Nam Dương gần Kinh Tương, lại một lần nữa rơi vào tay Nam Triều, sau khi đoạt lại được, hoàng đế Bắc Hạ cực kỳ coi trọng, phái người đến đây trấn thủ, cứ cách vài hôm sẽ có người mang tin tức đưa công văn lui tới giữa Lạc Dương và Nam Dương.

Lý Mục đầu tiên là phái mật thám lẻn vào Nam Dương, tung tin khắp nơi rằng hoàng đế Bắc Yến Mộ Dung Tây đã phái quân tấn công Lạc Dương để trả thù, tiếp đó phái người mai phục bên cạnh trạm dịch, chặn được một bản công văn từ Lạc Dương truyền đến Nam Dương, sau khi lấy được mẫu sáp và ấn giám đã làm giả điều lệnh, nói rằng đại quân Bắc Yến đang đến gần, Lạc Dương đang gặp nguy hiểm, hoàng đế triệu y lập tức chạy về Lạc Dương để thương nghị tình hình quân sự.

Từ sau khi Mộ Dung Tây xưng đế ở Yến quận và khôi phục lại Yến quốc, Bắc Hạ luôn đề phòng Mộ Dung thị báo thù. Tông thất này vốn dĩ đã bị tin tức kia làm cho bất an, đã phái người đi Lạc Dương để dò hỏi, nhưng bởi vì khoảng cách hai vùng nên chưa nhận được hồi âm, nay đột nhiên nhận được một đạo điều lệnh như thế, trong lòng nóng như lửa đốt, trong khoảng thời gian ngắn làm sao nghĩ ra được đây là kế điệu hổ ly sơn của Lý Mục, đã lập tức rút binh, để lại người ở lại đóng giữ Nam Dương, mình thì vội vàng chạy đến Lạc Dương.

……..

Bắc Hạ vừa lui binh, Lý Mục lập tức chia binh làm hai đường, một đường bất động tại chỗ, tiếp tục duy trì tình trạng đối đầu kéo dài, che mắt bám giữ Kinh Châu, một đường khác suốt đêm lựa chọn tuyến đường vòng lặng lẽ vòng tới sau lưng quân Kinh Châu. Điều binh xong, hắn lập tức phát động tấn công.

Người phụ trách canh giữ Kinh Châu tên là Hứa Không, là huynh đệ trong tộc Hứa Tiết, không hề biết Bắc Hạ đã rút binh, đột nhiên bị Lý Mục đánh chính diện, làm sao mà ngăn cản được?

Lý Mục mang danh chiến thần, toàn bộ quân phủ Kinh Châu từ trên xuống dưới không ai là không biết. Y từ lâu đã sợ Lý Mục, thấy sắp bị thua trận, nghĩ đến nhiệm vụ lớn nhất lần này của mình chính là giữ Tương Dương, ngăn chặn bám trụ Lý Mục ở Giang Bắc, không cho hắn từ Giang Lăng vượt qua sông. Mà muốn đến bến đò Giang Lăng thì cần phải đi qua Tương Dương.

Thấy tình thế không ổn, y lập tức tính toán rút quân vào trong thành, dùng thủ thành ngăn cản Lý Mục tiến quân về phía Nam. Dựa vào khả năng phòng thủ thành vững chắc của Tương Dương, cộng thêm quân coi giữ mình đang có, cho dù Lý Mục có thần võ đến mấy thì trong khoảng thời gian ngắn muốn công phá thành cũng không phải chuyện dễ dàng.

Ngay vào lúc Hứa Không chỉ huy lui binh, tính toán rút vào trong thành thì phía sau lại giết ra một đội quân, chặt đứt đường lui của quân đội Kinh Châu.

Trong tình trạng tiền hậu đều bị tấn công, chiến sự đã kết thúc một cách không hề bất ngờ chút nào.

Không giống như những tướng lĩnh cấp cao sẵn sàng phục vụ Hứa Tiết với lòng trung thành, trong quân phủ Kinh Châu có rất nhiều quan binh tầng trung và hạ vốn luôn mang lòng bất mãn và phản cảm với Hứa Tiết, hôm nay lại bị bại trận, rơi vào đường cùng, cũng không cần Lý Mục nói lời nào đã lần lượt đầu hàng, giết Hứa Không, gia nhập với Lý Mục cùng giết về Tương Dương.

Trước đó Hứa Không chỉ để lại hai ngàn người thủ thành. Quan binh trong thành thấy đại quân của Lý Mục đã giết đến dưới thành, Hứa Không cũng đã chết, làm sao còn ý chí bám trụ thành nữa. Rất nhanh, toà thành trì từng được Hứa Tiết đắc ý xưng là “Đệ nhất pháo đài thượng du” đã bị phá mở.

Lý Mục nhanh gọn lấy được Tương Dương, ba ngày sau lại lấy Võ Ninh, đại quân lập tức tiến đến bến đò Giang Lăng ở bờ Bắc Trường Giang.

Bến đò Giang Lăng là con đường mà quân đội của Hứa Tiết đi lại giữa Nam và Bắc, dùng để chuyển quân đã được chuẩn bị trong nhiều năm, Lý Mục thuận lợi qua sông, lập tức dẫn quân đi theo phía đông của con sông, cuối cùng vào mấy ngày trước đã đuổi kịp Dương Tuyên suất lĩnh phản quân dừng ở Đương Đồ.

Hai bên khai chiến. Quân phản loạn quân tâm tan rã, bị đánh tan tác, Lý Mục cũng không truy đuổi theo, thấy lối đi đã nhường liền tiếp tục lên đường.

Cuối cùng vào ngày hôm nay, hắn đã dẫn đầu đội quân đã đi một chặng đường dài và đến Kiến Khang.

……

Tây bắc Kiến Khang, trong quân doanh ngoại thành huyện Giang Thừa, lúc này, quân y đang thay thuốc cho vết thương do mũi tên trên ngực Hứa Tiết. Dù bị thương suýt chết nhưng Hứa Tiết vẫn mỉm cười, nằm đó nói cười với các tướng xung quanh, tâm trạng rất vui vẻ.

Ông ta vừa mới nhận được tin tức do thám tử dùng khoái mã truyền về, trước đó, trên đường cách cửa nam Kiến Khang chỉ mấy chục dặm, đã phát hiện có một đạo quân đang chạy về hướng Kiến Khang.

Bởi vì khoảng cách có chút xa nên không nhìn thấy rõ cờ hiệu. Nhưng mà đó nhất định là quân đội của Dương Tuyên rồi. Thám tử nghĩ đến Hứa Tiết mấy ngày nay nóng lòng chờ đợi tin tức về đại quân của Dương Tuyên, sốt ruột trở về báo tin, vì vậy đã nhờ một đồng đội ở lại nghênh đón, mình thì phóng ngựa quay về muốn thông báo tin tức tốt này trước.

Hứa Tiết lúc ấy cười rất to, lập tức phái một phó tướng thay mình đi nghênh đón. Sau khi băng bó xong vết thương rồi, ông ta cũng sốt ruột không chờ được đứng lên cùng với tả hữu sải bước đi ra ngoài viên môn quân doanh, tự mình chờ Dương Tuyên đến.

Mọi người đi theo bên cạnh ông ta, trên mặt tươi cười, tranh nhau bày tỏ lòng trung thành, nói rằng trận chiến tiếp theo không chỉ lấy được Kiến Khang, mà còn phải bắt sống Cao Kiệu để báo thù cho mũi tên của ông ấy.

Đang lúc cười cười nói nói thì thấy phó tướng vừa mới phái đi đã cưỡi ngựa chạy về như điên.

Nụ cười trên mặt Hứa Tiết dần dần biến mất. Ông ta nhìn chằm chằm vào bóng dáng phó tướng càng lúc càng gần, trong lòng bỗng xẹt qua một tia bất an.

Phó tướng kia từ xa nhìn thấy Hứa Tiết ở trên lưng ngựa hô to đứt cả họng:

– Tư Đồ, không xong rồi. Là Lý Mục đưa quân về rồi! Quân đội triều đình đang tấn công tới, sắp tới đây rồi.

Ý cười còn sót lại trên mặt Hứa Tiết hoàn toàn đóng băng.

Ông ta nhìn chằm chằm vào hướng phía sau phó tướng kia, vẻ mặt của trở nên cực kỳ cứng nhắc ngay lập tức.

Giống như sét đánh giữa trời quang, các tướng lĩnh kia vừa rồi còn đang tranh nhau nói năng hùng hồn đều bị tin tức bất ngờ này làm cho mồm há hốc mắt trợn ngược.

Bên tai, dường như nghe được tiếng hò hét chém giết theo gió từ xa truyền đến.

Mọi người nhìn nhau.

Hứa Tiết đột ngột quay người lại.

– Truyền lệnh – lập tức bày trận, chuẩn bị đón địch!

Nơi viên môn đột nhiên phát ra một tiếng gầm chói tai. Thanh âm này tràn đầy tức giận, chấn động toàn bộ quân doanh, chấn động cả một đàn chim đậu ngoài đồng tìm hạt cỏ phía xa cũng ngơ ngác tung cánh bay đi.

……

Khi Lý Mục tiến vào Kiến Khang, hắn ngay lập tức tiếp quản quân đội triều đình do Cao Kiệu chỉ huy.

Từ trên xuống dưới, không một ai tỏ vẻ dị nghị.

Trận chiến diễn ra trên chiến trường phía Tây Bắc Kiến Khang này sẽ rất nhanh liền kết thúc.

Phản quân giống như bị mộng du bị giết đến vứt bỏ mũ giáp, bị đánh tan tác, vứt thương quỳ xuống đất xin hàng. Vết thương do tên bắn trước ngực Hứa Tiết vỡ ra, máu chảy không ngừng, được thân tín hộ tống trốn về hướng Tuyên Thành, nửa đường đi thấy truy binh đuổi theo phía sau, lúc cùng đường thì Dương Tuyên dẫn quân đuổi tới, chặn đường lui cho ông ta, bấy giờ Hứa Tiết mới có thể thoát thân được, chật vật bỏ chạy về Tuyên Thành.

Mây đen bao phủ bầu trời Kiến Khang nhiều ngày đã tan biến, cuối cùng trên khuôn mặt mệt mỏi đầy máu của binh lính cũng lộ ra vẻ nhẹ nhõm hiếm thấy.

Tuy nhiên, cùng lúc đó, tại Khúc A cách nơi này mấy trăm dặm lại mây đen mù sương, mọi người đều gặp nguy hiểm.

Mấy ngày trước, từ sau khi Bì Lăng bị Thiên Sư giáo công phá, vận rủi cũng theo đó mà rơi xuống toà thành trí vốn dĩ được cho rằng rất an toàn này.

Cao Dận và Lục Giản Chi lần lượt dẫn hai quân coi giữ mà thiết lập thế sừng trên đường Thiên sư giáo tấn công Khúc A, tiến hành đánh lén nhằm ngăn cản Thiên Sư Giáo chúng ở nửa đường.

Cuộc chiến đấu còn đang tiến hành với khí thế hừng hực thì trên dưới khắp thành lại rơi vào một cuộc khủng hoảng rất lớn. Nghe đồn, mười vạn giáo binh do đích thân thủ lĩnh Ngô Thương chỉ huy, một khi Ngô Thương niệm chú, người nào cũng đao thương bất nhập.

Không chỉ những người dân sống ở đây bị tin tức làm cho khiếp sợ mà ngay cả các đại thần đi theo cũng hoảng sợ, nhiều người đã thuyết phục đế hậu nhân lúc giáo binh còn chưa tới thì mau đi tránh nạn trước.

Lưu Huệ nói rằng, sở dĩ trước đó tới đây là dựa vào Câu Dung, Bì Lăng cùng nơi đây cấu thành phòng tuyến tam giác, cho rằng không gì phá nổi. Hiện giờ phòng tuyến đã bị phá, nơi đây cũng đã ở trong nguy hiểm, huống chi số lượng binh lính phòng thủ còn xa mới bằng loạn binh Thiên Sư Giáo, tuy có Cao Dận và Lục Giản Chi đang chống đỡ, nhưng chỉ sợ cũng sẽ không thủ vững được bao lâu. Cách đó trăm dặm là huyện Vân, gần biển, có đảo lớn nhỏ rải rác, thời trẻ mình làm huyện lệnh nơi này, biết rõ địa hình, không  bằng mau chóng lặng lẽ ra khỏi thành chạy đến huyện Vân đi lên đảo nhỏ để tránh né, mới là biện pháp an toàn nhất.

Ông ta nguyện lĩnh binh bảo vệ đế hậu đi ra ngoài đi hải đảo.

Đề nghị này bị Phùng Vệ ở lại trong thành phản đối, cho rằng trên biển không có gì để dựa vào, hơn nữa trên đường đi rất nguy hiểm, những giáo binh Thiên Sư giáo kia chỗ nào cũng có mặt, bất cứ lúc nào cũng có thể bị truy ra tung tích và tập kích, không bằng ở lại trong thành, mau chóng báo tin cho cho Cao tướng công, tin chắc rằng khi ông nhận được thì sẽ có sắp xếp an bài.

Lưu Huệ lúc đó cười lạnh, nói phản quân Kinh Châu thế như chẻ tre, Cao tướng công lúc này chỉ sợ bản thân cũng khó mà bảo toàn, chờ ông tới cứu thì thành trì ở đây có khi đã bị phá từ lâu rồi. Còn không bằng nhân lúc Cao Dận và Lục Giản Chi còn có thể chống đỡ được có đường có thể đi mà rời đi trước. Ngộ nhỡ chậm chân, bị bao vây, đến lúc đó muốn chạy thì không còn cơ hội nữa.

Hoàng đế bị mấy lời nói của ông ta làm cho sợ hãi, tức khắc hạ quyết tâm rời đi. Vào ban đêm, hoàng đế đổi sang y phục bình thường mang theo hoàng hậu và thái tử dưới sự bảo vệ của một vài quan viên nhân đêm tối lén lút bỏ mặc toà thành trì lại mà trốn đi.

Nhưng không ngờ rằng vừa mới đi ra ngoài còn chưa đến mấy chục dặm, trên nửa đường đi đụng phải mấy ngàn đệ tử Thiên sư giáo đang chạy tới Khúc A để gia nhập cuộc chiến.

Hoàng đế sợ tới mức ngã từ trong xe ngựa xuống đất.

Sau một trận chiến, Lưu Huệ không ngăn cản được chỉ đành bảo vệ đế hậu cùng một số quan viên trốn vào trong núi gần đó, khổ sở chống chọi đến nửa đêm, cuối cùng mới chờ được Cao Dận nghe tin mang binh tới cứu.

Cao Dận giết ra một đường máu, lại bởi vì trời tối hỗn loạn mà không may mắn bị trúng một mũi tên độc của đệ tử Thiên sư giáo, cố gắng chống đỡ hộ tống hoàng đế lúc ấy mặt cắt đã không còn giọt máu trở lại trong thành, độc khí công tâm, cả người đổ gục xuống.

Nhiệm vụ bảo vệ thành trì hoàn toàn giao lại cho Lục Giản Chi. Đối mặt với loạn binh Thiên sư giáo càng lúc càng tụ tập nhiều, y bị ép buộc phải rút quân trở về trong thành, dựa vào tường thành mà khổ sở chống đỡ.

Khúc A biến thành một toà thành bị bao vây.

Cuộc bao vây thành cũng đã tiến vào ngày thứ tư.

Mỗi lần trước khi Ngô Thương phát động một cuộc bao vây, ông ta sẽ luôn niệm chú và đưa những viên thuốc thần kỳ cho các tín chúng đệ tử được chọn làm đội tiên phong trên cơ sở được trời cho phép. Đệ tử uống viên thuốc này vào, trong thời gian ngắn ngủi sẽ không sợ chết, sức chiến đấu vô cùng kinh khủng.

Lục Giản Chi suất lĩnh binh lính thủ vững trên đầu tường thành, đẩy lùi các cuộc tấn công điên cuồng từ Thiên Sư Giáo hết lần này đến lần khác.

Vào chạng vạng hôm nay, tà dương như máu, chiếu đỏ những ngọn đồi và cánh đồng rộng lớn bằng phẳng bên ngoài thành phố.

Lục Giản Chi dẫn dắt quân coi giữ đã thủ vững tường thành suốt một ngày.

Ngô Thương dường như cũng sốt ruột, bắt đầu từ sáng sớm, thế tấn công của Thiên Sư Giáo giống như thuỷ triều hết đợt này đến đợt khác, không hề dừng lại.

Làn sóng đệ tử đầu tiên được điều động để tấn công thành đã chết, thì chẳng mấy chốc, sẽ có làn sóng thứ hai thay thế họ.

Làn sóng thứ hai chết, thì làn sóng thứ ba lại kéo đến, đầy khắp núi đồi, vô cùng vô tận, không nhìn thấy bất cứ một tia hy vọng sẽ kết thúc.

Mà quân coi giữ trên đầu tường thành lại chỉ là những chiến sĩ bình thường có thân xác máu thịt, dựa vào máu và hơi thở mà thủ vững cho tới giờ khắc này đã sắp đến cực hạn rồi.

Nhưng không có người nào rút lui.

Từ Lục Giản Chi cho đến tiểu binh bình thường nhất chịu trách nhiệm khuân vác lôi thạch, mọi người đều đã giết đến đỏ cả mắt. Chỉ cần không ngã xuống thì sẽ không có người nào lui về sau một bước.

Cao Dận hôn mê mấy ngày sáng nay vừa mới tỉnh lại, cũng đi lên đầu tường thành, đứng cùng với mấy binh lính vung đao lần lượt gi ết chết những giáo binh Thiên Sư giáo trèo đầu tường thành.

Ngay cả những người dân trong thành ban đầu còn kinh hãi cuối cùng cũng bị trận chiến bảo vệ thành trì bi tráng và anh dũng như thể ngày tận thế đã đến này lây nhiễm, không hề sợ hãi, hò hét, sôi nổi đi lên đầu tường thành gia nhập cuộc chiến với bình lính.

Dưới tường thành cao mấy thước, sau một ngày, thi thể chồng chất như núi, dần dần đã tiếp cận đỉnh thành.

Lại một đợt giáo chúng trong tiếng chém giết đã giẫm lên núi thi thể đi lên đầu tường thành, chen chúc như đàn kiến, người ở trên đầu tường thành sử dụng đao, kiếm, đá, tất cả vũ khí có được đập vào những cái đầu đen dày đặc đang tiếp tục trồi lên hết cái này đến cái khác.

……

Tiếng hò hét tiếng chém giết của Thiên Sư Giáo chúng đến từ bên ngoài thành từ sớm đến tối vẫn luôn không ngừng bay vào nha thự hành cung của Khúc A.

Hoàng đế và bách quan tụ tập ở giữa sảnh, sợ hãi run bần bật.

Tin nghe được tất cả đều là tin xấu.

Khi quan truyền lệnh mang tin tức mới nhất đến, nói thi thể dưới tường thành đã gần như ngang bằng với đầu tường thành rồi, Thiên Sư Giáo chúng đã sắp bước lên núi thi thể để leo tường thành, bách quan hoàn toàn biến đổi sắc mặt. Những người này bình thường quen sống trong nhung lụa ngay cả ngựa cũng không biết cưỡi đã không khống chế được răng va vào nhau cầm cập, hai chân nhũn như chi chi không thể đứng vững.

Sắc mặt hoàng đế xanh mét, bụm mặt khóc lóc:

– Cao tướng công đâu rồi? Lẽ nào ông ấy bị vây nhốt ở Kiến Khang? Nếu không tại sao đến lúc này ông ấy còn chưa tới cứu trẫm?

Bách quan nhìn nhau, lặng im một lát, dần dần, cũng không biết là ai dẫn đầu, có người bắt đầu khóc lóc theo hoàng đế.

Ngay khi trong đại sảnh tiếng khóc lóc không ngừng nghỉ, đột nhiên ở ngoài thành xa xa, từ một phương hướng không xác định, lại truyền đến một trận tiếng đánh nhau kịch liệt.

Thanh âm kia giống như sấm sét, lại tựa như thiên quân vạn mã mang theo lực lượng rung trời động đất, ở khắp nơi, từ tứ phương tám hướng cuồn cuộn tiến về phía tòa thành trì này.

Cao Ung Dung vốn dĩ vẫn luôn ngồi im lặng bên cạnh hoàng đế, lúc mà quân thần khóc lóc thảm thiết, chị ta cau mày, không nói gì. Đột nhiên nghe được động tĩnh khác thường phát ra từ bên ngoài thành, sắc mặt chị ta cũng trở nên tái nhợt.

Đã nhiều ngày, liên tục có đệ tử Thiên Sư Giáo từ nơi khác tới Khúc A, gia nhập giáo đầu tham gia cuộc chiến tấn công thành trì.

Đây là phần đáng sợ nhất của Thiên Sư Giáo.

Trước kia, thời điểm mà bách quan trong triều cùng với sĩ tộc danh sĩ tranh nhau thờ phụng Thiên Sư Giáo, có ai đã từng nghĩ đến sẽ phát sinh cục diện như hôm nay?

Tiếng khóc lóc ỉ ôi của quân và thần trong sảnh bị âm thanh vang dội kinh sợ này làm cho đột ngột dừng lại.

Sau một phút lặng im ngắn ngủi, tiếng khóc lại vang lên lần nữa.

Chiêm sự của Thái Tử tuổi già nước mắt cuồn cuộn đập cái đầu tóc bạc trắng của mình vào cây cột ở sảnh đường, trên trán đã chảy máu nhưng ông ta lại không có cảm giác gì, đau khổ phẫn nộ khóc lên:

– Trời xanh ơi, Đại Ngu ta từ khi Võ đế lập quốc tới nay, quốc tộ đã tồn tại một trăm năm mươi năm, lẽ nào ngày hôm nay lại bị huỷ trong tay loạn giáo này hay sao?

Ông ta vừa nghẹn ngào như thế, các đại thần nước mắt nước mũi giàn giụa đồng loạt quỳ xuống che mặt khóc rống lên.

– Bệ hạ —— bệ hạ ——

Một lúc sau, giữa những tiếng kêu khóc nối tiếp nhau, Phùng Vệ bên ngoài chạy vào, nét mặt mừng như điên, đẩy một đại thần đang khóc lóc ngăn đường mình ra, chạy tới trước mặt hoàng đế.

– Lý Mục lĩnh quân đuổi tới rồi, đang ở ngoài thành chiến đấu với loạn tặc. Cao tướng quân và Lục công tử cũng ra khỏi thành cùng nhau chiến đấu rồi.

– Bệ hạ, Khúc A được cứu rồi!

……

Rạng sáng, trận chiến kéo dài cả đêm cuối cùng cũng kết thúc.

Sau khi Ngô Thương ý thức được rằng không thể đánh bại Lý Mục ở đây, ông ta vội vàng mang theo môn đồ cùng đệ tử còn lại hốt hoảng bỏ trốn.

Trên cánh đồng bên ngoài thành Khúc A, sương sớm buổi sáng bồng bềnh, nơi nơi là thi thể đệ tử Thiên Sư Giáo, càng tới gần cửa thành, những gì nhìn thấy càng khiến người ta ghê sợ.

Thi thể giống như sâu bọ chồng chất lên nhau, dày đặc, đến gần cửa thành cũng không tìm được chỗ nào có thể đặt chân.

Mức độ chiến đấu kịch liệt đêm qua như thế nào có thể tưởng tượng ra được.

Các binh lính dưới sự chỉ huy của quan quân bắt đầu rửa sạch chiến trường.

Lý Mục vào thành, chiến bào oai nghiêm, kiếm còn vẩy máu, đi đến trước toà nha thự kia, dưới những ánh mắt gần như kính sợ của bách quan xung quanh còn đang kinh hãi, đi xuyên qua đại điện đi tới trước mặt hoàng đế, hạ bái với hoàng đế ngồi trên cao, nói:

– Thần Lý Mục, cứu giá chậm trễ, tội đáng chết vạn lần.

Hắn còn chưa nói xong, hoàng đế đã đứng lên bước chập choạng đến, ngón tay lạnh băng túm lấy cánh tay của hắn.

– Kính Thần, may mà trẫm còn có khanh. Khanh đã cứu trẫm trong nguy hiểm, trung trinh như thế, công lao siêu phàm như thế, dù là hàm Đại Tư Mã cũng không thể nào sánh được với công lao của khanh!

Hết chương 125
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 126


Mặc dù phản quân Kinh Châu đã phải chịu hai thất bại liên tiếp ở Đương Đồ và Kiến Khang, nhưng mục đích tác chiến lúc ấy của Lý Mục chủ yếu là vì gấp rút tiếp viện và cứu thành, cho nên không truy kích theo. Phản quân tuy rằng thất bại nhưng vẫn bảo tồn được thực lực.

Hứa Tiết từ sau khi chạy trốn tới Tuyên Thành lập tức dốc sức làm lại tập hợp nhân mã, ý đồ phản công.

Sau đó, trận chiến diễn ra ở cánh đồng bên ngoài Tuyên Thành mới là cuộc tỉ thí thực sự giữa hai bên.

Hứa Tiết thất bại, mang theo tàn binh bại tướng cuối cùng dọc theo sông trốn về phía Tây, áp lực của Kiến Khang lập tức được giảm bớt, triều đình lại có thể đặt trong tâm vào loạn Thiên sư giáo.

Chẳng mấy chốc, Bì Lăng đã được đoạt trở lại.

Tình hình ở kinh sư và khu vực xung quanh từng nguy hiểm trùng trùng cuối cùng đã được giải quyết hoàn toàn, và những người dân được sơ tán đi ra ngoài bắt đầu quay trở lại Kiến Khang.

Tin tức này, cùng với những miêu tả sống động về việc Lý Mục từ Trường An xa xôi trở về Giang Đông, lật ngược tình thế, cứu hoàng đế và hoàng hậu vào thời khắc nguy cấp, và kinh đô thoát khỏi hiểm nguy cũng lan truyền khắp kinh đô và vùng lân cận và thậm chí đến tận Kinh Khẩu.

Tất cả người dân Kinh Khẩu đều nhảy múa hoan hô ăn mừng, trong lòng càng cảm thấy vô cùng vinh dự, mấy ngày nay, từ sáng đến tối, người đến bên ngoài trang viên đều hỏi Lý Mục có trở về hay không, khi nào thì trở về.

Mọi người đều hy vọng được nhìn thấy hắn.

Lạc Thần còn càng mong hơn thế.

Tính từ ngày nàng bị Cao Dận chặn giữa đường yêu cầu quay lại về Kinh Khẩu tránh loạn, đến hôm nay đã hơn hai tháng trôi qua.

Nàng với hắn xa nhau cũng đã hơn nửa năm rồi.

Nàng vô cùng nhớ nhung hắn.

Mẫu thân giờ này hẳn đã sinh em rồi. Chỉ là trước đó bởi vì chiến sự mà mẹ vẫn chưa thể liên lạc với mình được. Không biết là mẹ sinh em trai hay em gái cho mình đây, tình hình gần đây như thế nào, Lạc Thần đến giờ vẫn chưa có một chút tin tức gì.

Còn cả phụ thân và đại huynh bọn họ nữa, Lạc Thần có thể tưởng tượng, trước khi Lý Mục đưa binh về, đối mặt với áp lực đến từ phản quân và giáo loạn, tình trạng của họ gian nan cỡ nào.

Toàn bộ những điều này đều khiến cho Lạc Thần thấy vô cùng lo lắng sốt ruột.

Vì vậy, ngay khi tin tức khu vực kinh đô và vùng lân cận đang ổn định được truyền đến, Lạc Thần đã không thể đợi thêm được nữa, hôm nay đã đi tìm Lư thị, muốn xin bà tiếp tục ở lại trang viên, còn mình chuẩn bị lên đường quay về Kiến Khang, nhưng khi tới lại thấy Tạ Tam Nương cũng đang ở với Lư thị.

Tạ Tam Nương dường như cũng đang xin phép ra về, đã đứng lên rồi, thấy Lạc Thần tới thì gọi một tiếng “a tẩu”, hành lễ với nàng, thái độ cung kính.

Lạc Thần nhớ rằng khi Kinh Khẩu bị bao vây thời gian trước, cô ấy và Thẩm thị cùng với những người khác đã giúp đỡ rất nhiều trong trang viên, mỉm cười mời cô ấy ngồi xuống.

Tạ Tam Nương mỉm cười uyển chuyển từ chối, nói còn có việc rồi lui ra ngoài.

Lạc Thần gọi người đưa cô ấy ra khỏi trang viên. Lư thị ra hiệu cho Lạc Thần ngồi xuống bên cạnh mình, nói:

– A Di à, con có biết vừa rồi Tam Nương tìm mẹ có chuyện gì không?

Bắt đầu từ ngày hôm qua, sau khi tin tức Lý Mục trở về kinh thành giải vây Khúc A lan ra, Lạc Thần biết rằng hai ngày qua, những người phụ nữ hàng xóm từng lui tới với mẹ chồng thỉnh thoảng lại đến đây hỏi nàng về tin tức của Lý Mục. Nhưng Tạ Tam Nương tựa hồ không phải cố ý tới đây vì chuyện đó, nàng chần chờ một chút, mới biết mình không biết.

– Là chuyện tốt đó con ạ. – Lư thị có vẻ rất vui. – Tam Nương nói, lần trước nó nhận được thư của Tôn Phóng Chi nhờ em trai con gửi cho nó. Nó đã nghĩ kỹ rồi, đợi khi mà Tưởng Thao phái người đi đón Thẩm thị thì nó cũng sẽ đi cùng.

Lư thị cười:

– Nó có chỗ dựa dẫm rồi thì mẹ cũng yên tâm. Chờ đến khi nó thành hôn, mẹ sẽ coi nó như con gái mà gả nó đi.

Lạc Thần nghe xong trong lòng cũng thở phào yên lòng, cũng thực sự mừng thay cho cô ấy, đồng ý và ngay lập tức nói ra kế hoạch đi Kiến Khang của mình.

Lư thị đáp ứng ngay.

– Bây giờ đường đi đã an toàn, con đi sớm một chút đi, mang theo nhiều người đi cùng. Chỗ mẹ không có gì phải lo nữa, mẹ sẽ ở lại trang viên, tạm thời chưa về trấn vội.

Lạc Thần trở về sai người thu dọn đồ đạc, tính toán ngày hôm sau lên đường luôn.

Cuối ngày, tất cả hành lý đều được thu dọn xong xuôi, Lạc Thần cũng nghỉ ngơi sớm, muốn nạp lại năng lượng để ngày mai sớm lên đường, nhưng nghĩ đến việc có thể quay về, nàng lại không ngủ được.

Chắc hiện giờ Lý Mục cũng đang ở Kiến Khang. Nghĩ mình về là có thể được nhìn thấy hắn, nàng vui lên hẳn, thậm chí có chút kích động.

Nhưng lại nghĩ nghĩ, phản loạn Hứa Tiết còn chưa hoàn toàn bình định, Thiên Sư giáo chỉ mới bị đuổi ra khỏi khu vực kinh đô và vùng lân cận, nhiều quận huyện ở nội địa phía Đông Nam vẫn nằm trong tay loạn giáo, tình hình vẫn còn ác liệt. Cho nên nàng suy đoán, khả năng hắn không ở Kiến Khang mà là không ngừng bận bịu dẹp loạn, cho dù nàng có trở về Kiến Khang thì cũng chưa chắc có thể nhìn thấy mặt hắn.

Trong lòng dâng lên một tia mong đợi, sau đó là một trận thất vọng, nửa đêm nàng vẫn trằn trọc, nóng lòng không đợi được đến sáng mai, chỉ ước gì có thể chắp cánh bay về Kiến Khang ngay lập tức.

Nàng không ngủ được nữa, xuống giường khoác áo lên, thắp đèn, đi đến bên cửa sổ đẩy cửa sổ ra nhìn ra bên ngoài.

Hôm qua có một trận tuyết rơi mỏng, tuyết trên mặt đất đã biến mất từ ​​lâu, chỉ còn sót lại một lớp tuyết giữa các khe hở của đầu ngói, dưới ánh trăng phản chiếu, lớp tuyết sót lại trong suốt như pha lê, giống như sương muối.

Ánh mắt nàng lại nhìn về phía cái cây bên cạnh tòa lầu nhỏ nơi nàng ở, nhớ lại cảnh tượng đêm đó hắn trèo lên cây tới gặp mình, nhìn chăm chú bóng cây quay cuồng một lúc, cảm thấy một cơn gió lạnh thổi qua, nàng khẽ rùng mình một cái.

Nàng xoa xoa tay, đang chuẩn bị đóng cửa sổ lại, ánh mắt chợt như đóng băng.

Ngay phía trên lối đi dẫn ra khỏi cổng của tòa lầu nhỏ, có một bóng người đàn ông đang đứng.

Người đàn ông không biết đã vào từ lúc nào, nhưng hắn đang đứng dưới ngưỡng cửa của tòa lầu nhỏ mà mình đang ở, hơi ngẩng đầu lên, lặng lẽ nhìn về hướng của mình.

Bàn tay đang đặt trên bệ cửa sổ của Lạc Thần đột nhiên dừng lại.

Cho dù bị màn đêm che khuất khuôn mặt, nàng làm sao không nhận ra bóng dáng kia phác họa ra đường nét quen thuộc?

Nàng đoán rằng hắn có thể ở Kiến Khang, còn đoán rằng hắn có thể đã rời Kiến Khang và đến những nơi khác để dẹp loạn. Chỉ duy nhất không nghĩ tới, nhanh như vậy, gần như ngay lập tức, hắn đã tới Kinh Khẩu tìm mình!

Trong đêm sâu với cái lạnh đặc trưng của mùa đông phương Nam, còn gì bất ngờ hơn khi mình đang nhớ về một người, và người đó chợt xuất hiện trước mặt mình?

Mạch máu toàn thân Lạc Thần lập tức nóng lên.

Nàng ngỡ ngàng đến hạnh phúc mà hét lên, nhoài người ra ngoài cửa sổ, vẫy tay thật mạnh với người đàn ông rồi xoay người rời khỏi phòng, chạy thật nhanh xuống dưới.

Chân nàng đáp xuống cầu thang gỗ, cầu thang phát ra tiếng thình thịch, nàng chạy một mạch tới cửa, kéo chốt rồi mở cửa.

Lý Mục bước nhanh lên bậc thang, đứng ở ngoài cửa, trong đêm, hai ánh mắt sáng ngời.

– Lang quân ơi!

Lạc Thần gọi một tiếng, cả người liền nhào vào trong ngực hắn.

Lý Mục mở rộng hai tay, ôm lấy thân thể mềm mại lao vào lòng mình, siết chặt lấy.

Khoảnh khắc ôm nàng vào lòng, hắn cảm thấy máu trong lồ ng ngực dâng trào, kích động.

Ngay khi Kiến Khang ổn định, hắn đã gác lại mọi công việc khẩn cấp và vội vã quay trở lại Kinh Khẩu trước tiên để gặp nàng.

Hắn đã biết những trải qua kinh hồn mà nàng ở Kinh Khẩu từ chỗ Cao Hoàn, quá sốt ruột muốn được gặp nàng ngay lập tức.

Nhưng chỉ một lúc trước, khi cuối cùng hắn cuối cùng cũng trở về, mở cửa trang viên và đến tòa lầu nhỏ nơi nàng ở, hắn lại do dự.

Hắn sợ nàng không chấp nhận được chuyện đã xảy ra, sợ nàng sẽ đau khổ, nhưng không thể giấu nàng được.

Đây cũng là một nguyên nhân khác khiến hắn dù thế nào cũng phải đến Kinh Khẩu gặp mặt nàng càng sớm càng tốt.

Nhưng vào lúc này, trong bóng đêm mờ mịt xung quanh, Lý Mục nghe được tiếng gọi “lang quân ơi” “lang quân ơi” hạnh phúc mừng rỡ không ngừng của người ở trong lòng, tất cả khát khao cùng nỗi nhớ nhung tích tụ nửa năm qua của hắn đối với nàng đột nhiên trào ra.

Hắn không kìm nén được nữa, cúi xuống hôn lên môi nàng.

Những người giúp việc ở tầng dưới bị tiếng động vừa rồi của Lạc Thần khi nàng đi xuống cầu thang làm cho giật mình, họ lần lượt đứng dậy, bật đèn lên, khi nhìn thấy cảnh này thì sững sờ, vội vàng tránh đi.

Mãi lâu sau, Lý Mục mới buông nàng ra, ôm nàng lên đi lên trên lầu vào phòng nàng. Hắn đặt nàng lên trên giường rồi quay người chuẩn bị đi đốt lên thì lại bị nàng nắm lấy tay.

Nàng nũng nịu kéo hắn trở về, không cho hắn đi, mình thì bò dậy quỳ bên hắn, hai tay quấn lấy cổ hắn, đôi môi thơm và mềm mại lại dán lấy hắn. Cuối cùng khi một lần nữa kết thúc nụ hôn ngọt ngào tràn ngập nỗi nhung nhớ tương tư này, Lý Mục đã hoàn toàn bị nàng áp đảo ở trên giường.

Lạc Thần nằm trên ngực hắn, hơi thở hổn hển chưa ổn định, bàn tay mềm mại vuốt v e khuôn mặt hắn, mang theo sự nũng nịu trách hắn:

– Chàng về khi nào vậy? Về sao còn đứng bên ngoài không gọi cửa chứ? Ngày hôm qua vừa có tuyết rơi, ban đêm lạnh, chàng không sợ bị lạnh à….

Trong lời nói mang theo sự đau lòng.

Lý Mục hít một hơi thật dài, cố gắng hết sức bình tĩnh lại nhịp tim đang đập nhanh do cô vợ nhỏ hơn nửa năm không gặp gây ra, trầm mặc một hồi. Hắn thật sự không đành lòng cho nàng biết chuyện kia, nhưng lại không thể nào giấu giếm được.

– Ối, thiếp quên mất…

Nàng đột nhiên kêu lên.

– Chàng về nhà muộn, chắc thể nào vừa đói vừa mệt. Mẹ chồng vẫn khoẻ lắm, chàng yên tâm, mẹ ngủ rồi, sáng mai chàng đi gặp mẹ cũng không muộn. Thiếp đi làm chút đồ ăn cho chàng…

Nàng vội vàng bò dậy khỏi người hắn, muốn xuống giường đốt đèn lên, tay lại bị hắn cầm lấy.

Lý Mục ngăn cản nàng, mình thì xuống giường đi đến trước giá đèn đốt đèn sáng lên, rồi quay người lại nhìn nàng chăm chú.

Nàng ngồi ở bên mép giường, má lúm đồng tiền ửng hồng, khuôn mặt thanh tú, ánh nến phản chiếu đôi mắt sáng ngời của nàng, trên môi còn có nụ cười vui vẻ.

Lý Mục cảm thấy trong lòng càng ngày càng nặng trĩu, không biết nên nói như thế nào với nàng đây.

Thấy hắn cứ nhìn mình như vậy mà không nói lời nào, Lạc Thần dần cảm thấy có gì đó không ổn, do dự một lúc rồi cười nói:

– Chàng nhìn thiếp như vậy làm gì ạ?

Lý Mục đi tới bên nàng ngồi xuống, nói:

– A Di ơi, có một chuyện nàng nghe xong đừng quá đau buồn. Chưa chắc nó đã xấu như vậy…

Nụ cười bên môi Lạc Thần cứng lại:

– Chuyện gì vậy ạ?

Sắc mặt nàng hơi thay đổi:

– Có phải cha thiếp gặp chuyện không?

Lý Mục lắc đầu:

– Nhạc phụ vẫn rất tốt.

– Thế là a huynh của thiếp ạ? – Nàng hỏi dồn.

Đại huynh tuy đã cầm quân nhiều năm, kinh qua bao trận chiến, nhưng trên chiến trường đao thương không có mắt.

Cách nói chuyện của Lý Mục làm cho nàng không khỏi suy nghĩ lung tung.

Hắn lại lắc đầu, nói Cao Dận ở Khúc A đúng là bị thương nhưng hiện giờ đã khoẻ lên nhiều rồi.

Hắn nói như thế không những không khiến cho Lạc Thần yên tâm mà ngược lại càng lo âu hơn.

Nàng biết Cao Hoàn cũng không có chuyện gì.

Trong trận chiến này, những người đàn ông có liên quan đến huyết thống với nàng và trực tiếp ra trận nhất, phụ thân, a huynh và a đệ đều không sao, nhưng Lý Mục lại dùng ngữ khí vừa rồi để nói chuyện với nàng.

Lẽ nào…

– Là mẹ thiếp gặp chuyện có đúng không ạ?

Nàng mở to mắt, sắc mặt đột nhiên tái nhợt đi.

Lý Mục khẽ gật đầu, thì thầm nói lại chuyện mà mình biết cho nàng nghe.

Còn chưa nghe hết cả người Lạc Thần đã cứng đờ, ngơ ngác nhìn Lý Mục.

Mới hôm nay, khi thu dọn hành lý cho sáng mai, nàng còn đang vui vẻ đoán xem mẫu thân sinh em trai hay em gái cho mình, dù là em trai hay em gái thì mình cũng sẽ thích. Tính ngày, hẳn là cũng đầy tháng rồi.

Nàng tưởng tượng ra dáng vẻ đáng yêu của một em bé đầy tháng, ước gì có thể nhìn thấy ngay lập tức, nhưng có nằm mơ nàng không ngờ rằng trong khoảng thời gian Kiến Khang ở trong nước lửa kia thì mẫu thân lại xảy ra chuyện như thế!

Nước mắt phủ kín hai mắt nàng.

– A Di ơi, nàng đừng quá đau buồn. Tuy là Thiệu thị kia nói đã giết mẫu thân rồi hủy thi diệt tích, nhưng ta đã hỏi Lý Hiệp rồi, lúc đó Thiệu thị bị thương nặng, với tình trạng đó của bà ta rất khó có thể xử lý mọi chuyện sạch sẽ như thế được. Mà tất cả mọi người đã lục soát toàn bộ khu vực quanh đó, gần như đào ba thước đất lên, ngay cả thuỷ vực gần đó cũng đã cho tìm kiếm, nhưng cũng không thấy trưởng công chúa, càng không thấy một chút dấu vết nào, giống như tự dưng biến mất vậy…Ta suy đoán có lẽ lúc đó còn có người khác nữa…Nếu đúng như thế thì trưởng công chúa có lẽ còn sống, chỉ là bị người ta mang đi mà thôi…Nàng yên tâm, mọi người vẫn đang tìm kiếm điều tra. Nhất định sẽ tìm được người về…

Nàng cảm nhận được Lý Mục ôm mình vào lòng, kề tai an ủi.

Nàng biết hắn không muốn mình quá đau buồn khổ sở, nàng nhắm mắt lại trong vòng tay hắn, cắn răng không ngừng gật đầu, cố gắng không để mình khóc lên một thành tiếng, nhẫn nhịn đến hai bờ vai đều run rẩy.

Lý Mục lo lắng lúc nàng đang đau buồn khổ sở mà mình không ở bên cạnh, cho nên mới muốn tự mình báo tin xấu này cho nàng.

Hắn ôm chặt cơ thể đang run rẩy vào lòng, ghé vào tai nàng nói:

– A Di, nàng khóc ra đi, khóc ra sẽ tốt hơn. Có ta ở đây rồi.

Lạc Thần không thể kìm nén được nữa, khóc nức nở ra tiếng, nước mắt như vỡ đê không ngừng rơi xuống từ đôi mắt nhắm nghiền của mình.

Lý Mục không nói nữa, trầm mặc, chỉ ôm nàng đang cuộn tròn trong ngực mình, vỗ nhẹ vào lưng nàng.

Lạc Thần đã khóc một lúc lâu mới từ từ mở đôi mắt đã đỏ lên vì khóc, ngẩng đầu nhìn hắn, nức nở hỏi:

– Vừa rồi chàng nói cha thiếp vẫn tốt. Có thật sự cha rất tốt không ạ?

Những ngày này, Lý Mục chứng kiến Cao Kiệu không chỉ gục ngã xuống như vậy. Ngày hôm đó sau khi tỉnh lại ở trong doanh trướng, ông lập tức lao vào xử lý công việc của triều đình.

Ngay trước khi Lý Mục đến Kinh Khẩu có gặp để từ biệt ông, ông còn đang thương lượng với Phùng Vệ về việc di dời dân chúng trở về, giấy tờ trên án chồng chất như núi.

Nhưng Lý Mục có cảm giác vị nhạc phụ của mình chỉ là đang cố gắng chống đỡ mà thôi. Từ sau khi hoàng đế trở về liền đổ bệnh, thế cục của triều đình vẫn còn nhiều gian nguy, nhiều công việc phải xử lý, ông không thể nào cứ thế mà gục ngã xuống được.

Hắn còn đang chần chừ không biết nên đáp thế nào, Lạc Thần ở trong lòng hắn đã ngồi dậy, vừa lau nước mắt tuôn trào không ngừng xuống gò má, vừa nghẹn ngào nói:

– Chàng không nói với thiếp thì thiếp cũng biết. Mẹ xảy ra chuyện như thế, không ai đau khổ và tự trách hơn so với cha. Thiếp sợ cha thật sự sẽ gục ngã. Thiếp phải mau chóng về với cha thiếp.

……

Lý Mục ôm nàng một hồi, khi nàng dần dần ngừng khóc, hắn liền dẫn nàng đi gặp Lư thị.

Lư thị chưa ngủ.

Đã lâu không gặp mẫu thân, Lý Mục bái lạy bà, cũng đem chuyện xảy ra ở Kiến Khang nói lại cho bà biết. Lư thị còn chưa cảm nhận được niềm hạnh phúc khi con trai trở về thì lại xót xa khổ sở, an ủi Lạc Thần rất lâu, sau đó kêu con trai mau chóng đưa nàng về Kiến Khang.

Trời còn chưa sáng, Lạc Thần ngồi trên xe ngựa đi về hướng Kiến Khang.

Vào buổi tối ngày thứ ba, nàng đã về tới nhà, vừa xuống xe ngựa, Cao Thất ra đón nhìn thấy nàng, mới gọi một tiếng “tiểu nương tử”, giọng đã nghẹn hẳn đi.

Lạc Thần cố nén nỗi buồn trong lòng xuống, câu đầu tiên hỏi thăm sức khỏe của phụ thân, được biết gần đây ông có uống thuốc đều đặn, hôm nay ông đã về nhà sớm, hiện đang ở thư phòng nên lập tức đi qua đó, vừa đi vừa hỏi:

– Đã muộn thế này rồi sao thúc không khuyên cha cháu đi nghỉ ngơi ạ?

Cao Thất thở ngắn than dài:

– Dù đại gia có muốn cũng không được. Phản quân bỏ trốn lại nghe nói sắp quay trở lại. Thiên Sư giáo thì tuy nói rằng đã bị đuổi ra khỏi Khúc A và Bì Lăng, nhưng ở những địa phương khác thì chúng vẫn rất hung hăng. Nghe nói chỉ mới ngày hôm kia thôi, chúng lại giết một thái thú…Tối nào Phùng Hầu trung và mọi người cũng đều gặp tướng công để nghị sự, họ vừa mới đi không lâu thôi…

Lạc Thần lại hỏi A Cúc, biết được khi đó bà ấy được đưa về và được thái y toàn lực cứu chữa, cuối cùng thoát khỏi nguy hiểm, tuy nói sức khoẻ còn chưa hồi phục hoàn toàn vẫn còn đang điều dưỡng nhưng cũng coi như là may mắn trong bất hạnh, bấy giờ nàng mới thấy yên tâm một chút.

Nàng còn chưa đi đến thư phòng đã nghe được một tràng ho ở bên trong.

Nàng đẩy cửa ra, thấy phụ thân trên vai khoác áo, ngồi ở sau án đang vừa ho vừa phê duyệt công văn.

Lạc Thần dừng bước, nhìn cha, mắt đỏ hoe lên.

Cao Kiệu nghe thấy tiếng mở cửa, ngẩng đầu lên thì thấy con gái đã trở về, trên người nàng là một chiếc áo choàng sa tanh dày màu vàng nhạt, người lấm lem bụi đất, hiển nhiên là vừa trở về qua đêm, đứng ở cửa nhìn nhìn mình với đôi mắt đỏ hoe.

Ông giật mình, theo bản năng khẽ nhếch môi, tựa hồ muốn nở một nụ cười với con gái, nhưng nụ cười kia quá cứng ngắc, sau đó bị bao trùm bởi nỗi buồn nặng trĩu và sự tự trách.

Ông khẽ đặt bút xuống, thì thào:

– A Di ơi, con đã về rồi…Cha thật có lỗi với mẹ con, có lỗi với con…

Lạc Thần không thể chịu đựng được nữa, bước nhanh đến bên cha mình nói trong nước mắt:

– Cha ơi! Cha đừng tự trách ạ. Lang quân đã nói với con rồi, mẹ cát nhân thiên tướng, mẹ nhất định còn sống. Chúng ta sẽ tìm mẹ, nhất định sẽ tìm được mẹ.

Cao Kiệu nở nụ cười chua xót, gật đầu:

– Phải. Cha cũng nghĩ như thế.

– Cha ơi, cha phải chú ý sức khoẻ, chờ mẹ về ạ.

Cao Kiệu mỉm cười nói:

– Cha biết. Con xem đi, chẳng phải cha vẫn uống thuốc đều đó sao?

Trên bàn là một bát thuốc trống không, bên cạnh là chồng công văn chất cao.

Nàng cởi áo choàng ra.

– Cha ơi, cha còn có công văn gì thì cứ giao cho con, cha đi nghỉ đi ạ.

Cao Kiệu nhìn Lý Mục đứng ở bên ngoài, bảo Lạc Thần gọi hắn vào trong.

Lý Mục tiến vào, hành lễ với ông.

Cao Kiệu xua tay, nhìn hắn, nói:

– Loạn Thiên sư giáo gây nên hỗn loạn, khiến người dân chạy loạn khắp nơi, khiến cho mười sáu quân Đông Nam cũng không yên. Mức độ gây hại còn hơn cả ác hổ. Nếu không dẹp loạn, di hại sẽ không thể nào hết được.

– Quốc nạn còn chưa yên, kẻ có tài ắt gánh chịu. Kính Thần, cha muốn con ngay lập tức đi dẹp loạn, con có bằng lòng không?

Hết chương 126
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 127


Mới vừa được gặp nhau vội vàng thì hai người đã lại phải chia lìa.

Ngày hôm sau, Lý Mục dẫn quân rời Kiến Khang và tiến về phía Đông Nam, nơi hỗn loạn giáo đang hoành hành ngang ngược.

Danh hiệu Chiến thần của Lý Mục đã nổi khắp ở Nam Triều, không ai là không biết hành động vĩ đại giành lại được Trường An của hắn. Hiện tại đại quân Ứng Thiên Quân này quân dung chỉnh tề, quân kỷ nghiêm mình, trên đường đi chẳng những không mảy may tơ hào chút gì của dân chúng, hành quân một mạch đến Dương Tiện đã bị giáo loạn chiếm lĩnh, sau khi thu phục lại nơi đó, thấy đồng ruộng hoang phế, mương máng tắc nghẽn, binh lính từng khai hoang ở Nghĩa Thành còn trở giúp dân chúng cày ruộng dọn kênh mương, sau đó thì mới rời đi.

Trong những năm gần đây, Đại Ngu liên tục xảy ra nội loạn, dân chúng cũng khiếp sợ trước quân đội triều đình dưới nhiều cờ hiệu khác nhau, bất kể là nhà ai, kể cả là Quảng Lăng quân Cao thị cũng khó tránh khỏi xui xẻo, chỉ sợ gặp phải binh lính quấy nhiễu, vừa nghe nói có đại quân chuẩn bị đi qua, họ thường giấu tiền và lương thực ở nhà trước, sau đó đứng từ xa chờ xem, tránh cho quân đội đi ngang qua nhìn thấy lấy danh nghĩa mượn quân lương mà lấy đi, mà phải biết rằng một khi mượn rồi thì thường thường đều là có đi mà không có về.

Nhưng lần này, khi danh tiếng của Ứng Thiên Quân lan rộng, tình thế đã khác hẳn so với trước đây.

Mỗi khi Lý Mục đi đến một nơi nào đó, mọi người đều sẽ chào hỏi hắn, kể lể về sự thống khổ do loạn giáo gây ra. Mọi người nghiến răng nghiến lợi căm hận, không ít người chủ động làm thám báo, luôn báo cáo cho quân đội về động tĩnh của Thiên Sư Giáo binh, những hộ gia đình nào mà có chút lương thực, khi quân đội đóng quân không những không giấu đi mà còn đào hết lương thực lúc trước vì né tránh loạn giáo đã giấu xuống mang ra khao quân. Nếu như Lý Mục không thể từ chối được thì hắn cũng sẽ không lấy không mà đưa lại tiền cho họ.

Lý Mục biết rõ, loạn Thiên Sư Giáo kia sở dĩ suýt chút nữa lật đổ gần như một nửa triều đình, truy cứu nguyên nhân chủ yếu vẫn là do có quá nhiều tín đồ bị Ngô Thương lừa gạt và tuân theo mệnh lệnh của ông ta. Lấy đất Ngô làm ví dụ, theo ghi chép của quan phủ, gần như bên trong hai hộ thì có một hộ theo giáo. Từ sau khi Ngô Thương nổi loạn, số lượng giáo binh đi theo ông ta có ở khắp nơi, lúc nhân số nhiều nhất còn cao tới mấy chục vạn người, một con số cực kỳ kinh khủng. Thường thường chỗ này chưa diệt xong chỗ khác lại nổi lên, được cái này mất cái khác, diệt mãi không dứt, bấy giờ mới dẫn đến một trận biến loạn lớn như thế.

Để làm tan rã giáo binh, ngoại trừ đánh giặc, Lý Mục còn đặc biệt tuyển chọn một nhóm người có nghệ thuật nói chuyện, biết biểu diễn xiếc, đi đến những nơi náo nhiệt có nhiều dân chúng như chợ, đường phố biểu diễn các kỹ năng nuốt lửa, nuốt đao, đao thương bất nhập nhằm vạch trần thủ đoạn lừa bịp giáo chúng tin giáo của Ngô Thương. Biểu diễn xong, lại kêu gọi mọi người đi tuyên bố khắp nơi, giáo chúng bình thường vốn là bá tánh, bị che giấu bị lừa gạt, vốn dĩ là vô tội, phàm là người thoát giáo sau này sẽ không bị truy cứu tội phản loạn nữa. Ngoài ra, nếu như nếu như có thể đem về gia tài và lương thực mà lúc ban đầu tin giáo cung phụng lên thì quan phủ sẽ không lấy một xu mà toàn bộ quy về thuộc sở hữu của người đó.

Ngô Thương rất thông thạo nghệ thuật khống chế sử dụng người, lợi dụng tâm lý sợ quỷ thần, sùng bái mê tín dị đoan của dân chúng, sau khi nổi loạn đã giáo hoá dân chúng thành giáo binh, đối với giáo chúng tầng chót thì vừa nửa uy hiếp nửa dụ dỗ. Những giáo chúng đó lúc trước gia nhập vào trong giáo bởi vì tin vào cái gọi là dạy người một nhà, đều nhiệt tình quyên góp tài sản của gia đình, đưa cả gia đình theo giáo, của cải bị đào rỗng, cũng không phải số ít. Hiện giờ họ hoặc là bị chặt đứt đường lui, hoặc là bị cái gọi là lợi ích tương lai mà Ngô hứa hẹn làm cho mù quáng, lúc này mới để mặc cho ông ta tác loạn. Khi thấy tình thế không đúng, dù cho muốn rời khỏi nhưng cũng không còn đường để đi, chỉ đành phải cắn răng mà đi theo.

Lý Mục đã tuyên bố như thế, những người đang dao động kia ai mà không động lòng? Còn có lời đồn rằng một số ít giáo dân đã đòi lại được thuế ruộng lúc trước mình đã cung phụng cho hương chủ nơi đó, hiện giờ đã mang theo người nhà về quê trồng trọt, quan phủ quả nhiên đã bỏ qua chuyện cũ không truy cứu nữa.

Tin tức một truyền mười, mười truyền trăm. Chẳng mấy chốc, quân đội của Lý Mục đã tiến về Hội Kê. Khi quân đội còn chưa tới nơi, giáo binh trong thành nghe tin đại quân của Lý Mục sắp tới mà bản thân mình đã loạn lên trước, căn bản không có lòng chiến đấu, sôi sục đuổi theo đầu lĩnh ban đầu đã giới thiệu mình nhập giáo đòi lại đồ đã quyên cống, từng cấp từng cấp hỗn loạn lên. Những đầu lĩnh đó bị người ta đuổi theo đòi, thấy tình thế không ổn lập tức bỏ trốn ngay trong đêm, chờ Lý Mục tới nơi gần như không tốn chút sức lực nào đã lấy lại được quận lớn vùng Đông Nam này.

Cứ như thế, dựa vào sự ủng hộ của nhân chúng, sự phân hoá đối với giáo binh tầng thấp cùng với sự thiện chiến của binh lính, chỉ trong thời gian ngắn ngủi mấy tháng, tới tháng Ba năm sau, Lý Mục đã lấy lại được đất Ngô, tiện đà lấy lại được mười mấy quận huyện gồm Đan Dương, Tân An, Tiền Đường…

Ngô Thương lúc này đã mất đi hầu hết các quận huyện rơi vào tay mình, thủ hạ giáo binh ngày càng giảm mạnh, giống như chó nhà có tang, bị buộc phải mang theo tiền tài của cải mà trước đó cướp đoạt được chạy trốn về phía Nam, cuối cùng rút lui đến quận Lâm Hải, tại đây không còn đường lui nữa, sau một trận bao vây, cuối cùng đã bị huynh đệ làm phản gi ết chết.

Đến đây, cuộc loạn giáo quy mô lớn bắt đầu từ mùa thu năm ngoái và kéo dài đến tháng 4 năm nay cuối cùng đã được bình ổn.

Các quận và huyện ở phía Đông Nam đã rơi vào tay của giáo loạn đều được triều đình lấy lại. Dân chúng càng thêm tôn kính và yêu mến Lý Mục, và ở một số nơi bị thiệt hại nhiều nhất thậm chí còn đề xuất xây đền thờ để ghi nhớ công lao của hắn. Khi bị Lý Mục biết được, hắn phái người qua đó bày tỏ lòng biết ơn của mình với họ, đồng thời lấy lý do hoàng đế mới băng hà không lâu để kiên quyết từ chối, bấy giờ dân chúng mới từ bỏ.

Đông Dương Vương Tiêu Mẫn làm hoàng đế chưa đến hai năm vốn thể chất yếu nhược, cộng thêm cuộc sống thường ngày thiếu tiết chế, cơ thể bị đào rỗng, vào năm ngoái khi mà Khúc A bị bao vây, bởi vì quá hoảng sợ tuy đã được Lý Mục cứu giá kịp thời, trên đường trở về lại bị cảm nhiễm phong hàn mà đổ bệnh nặng. Từ sau khi về cung, thái y đã kê nhiều đơn thuốc điều trị nhưng hoàng đế vẫn không khá lên một chút nào, vào tháng Giêng hoàng đế đã băng hà, thái tử 4 tuổi đăng cơ.

Khi đó Lý Mục vì chiến sự căng thẳng không thể thoát thân nên chỉ dâng tấu cúng tế cho triều đình chứ không thể về Kinh chịu tang.

Bây giờ ba tháng đã trôi qua, Đông Nam đã bình định xong, Lý Mục phái người đưa tin chiến sự cho triều đình, đang chuẩn bị hồi triều thì lại nhận được một tin tức.

Vào cuối năm ngoái, khi Lý Mục bắt đầu dẹp yên cuộc nổi loạn khó giải quyết ở Đông Nam, Cao Kiệu phái hai người một người là em trai thái thú Lư Giang đã chết trận mà Bùi Chân thái thú Dự Chương lĩnh binh đi truy kích quân bại trận của Hứa Tiết trốn về phía tây, muốn tiêu diệt toàn bộ thế lực còn sót lại của ông ta, không cho ông ta có cơ hội ngóc đầu trở lại.

Tương Dương mà Hứa Tiết luốn lấy làm tự hào trước đó tuy đã bị Lý Mục tiếp quản, nhưng ông ta am hiểu đạo lý thỏ khôn có ba hang, khi còn cai quản Kinh Châu, ngoài Tương Dương còn có Di Lăng xa hơn về phía thượng du gần với Hán Trung đất Thục, là một nơi mà mình có thể đi.

Sau khi trốn khỏi Kinh Châu, ông ta liền lui đến Di Lăng, ở đó trọng chỉnh nhân mã, lại lợi dụng địa hình địa phương phức tạp và thành trì phòng thủ kiên cố bắt đầu trận chiến giằng co với quân triều đình truy kích đến, chẳng những giữ được Di Lăng mà trước đó không lâu còn đoạt lại quyền kiểm soát con sông ở khu vực Di Lăng, tất cả thuyền bè qua lại đều phải nộp thuế cho ông ta, và bởi vì quê quán của ông ta thuộc về vùng đất của nhà Tống cổ đại mà dựng lên Tống quốc, tự xưng đế.

Kể từ khi phản quân Kinh Châu lui về thượng du, Lý Mục vẫn luôn chú ý đến tin tức chiến sư.

Tin tức mới nhất mà hắn nhận được chính là Cao Kiệu đã phái Cao Dận thương thế đã khỏi hẳn suất lĩnh quân đội đi Di Lăng để tiếp viện, cần phải mau chóng đánh hạ Di Lăng, tiêu diệt hoàn toàn phản quân Hứa Tiết.

Đêm hôm nay, tướng sĩ trong quân doanh cười nói vui vẻ, bị k1ch thích bởi rượu mừng, trong doanh trại vang vọng khắp nơi tiếng hát “Quân ngồi xe, ta mang nón, một ngày nào đó gặp mặt thì xuống xe và cúo chào nhau”, “Quân lên xe, ta lên ngựa, một ngày nào đó gặp nhau trên đường”.

Trong tiếng ca hát, Lý Mục không thể nào ngủ được.

Sở dĩ Hứa Tiết có được chỗ dựa hiện tại là nhờ vào thực lực của Dương Tuyên.

Chính là nhờ có Dương Tuyên mà lòng quân sĩ được quy tụ, cũng chính nhờ có Dương Tuyên mà Hứa Tiết mới có thể bảo vệ Di Lăng được nửa năm dưới áp lực nặng nề của quân triều đình, thậm chí đến bây giờ ông ta vẫn có thể đứng vững như vậy và hiện giờ đã xưng đế.

Hắn nhắm mắt lại, nhớ tới khi còn là thiếu niên lần đầu tiên tòng quân, bị người ta ức hiếp, năm mười lăm tuổi ấy chính bởi vì được Dương Tuyên đang là phó tướng thưởng thức và đề bạt mà mình mới có tất cả sau này.

Hắn nhớ tới ngày đó, mình lấy 6000 binh lính đi đất Thục bình định loạn Lương Châu, Dương Tuyên bởi vì lo lắng cho mình mà nhân đêm khuya đã đi đường vòng xa xôi tới Kinh Khẩu nhắc nhở mình.

Lại nghĩ tới năm ngoái khi ở Nam Dương, Dương Tuyên đã bị lời nói của mình mà cãi lại Hứa Tiết, phối hợp phát binh đi giải cứu Lục Giản Chi đang bị bao vây trong thành.

Kết cục của Dương Tuyên ở kiếp trước không tốt.

Chính bởi vì như thế hắn đã mấy lần mở miệng nhắc nhở.

Khi ở Nam Dương, Lý Mục làm sao không nhìn ra không phải là Dương Tuyên không có suy nghĩ bỏ đi. Nhưng chung quy vẫn không đánh lại lão cáo già xảo quyệt Hứa Tiết, biết Dương Tuyên là người trọng tình trọng nghĩa, lấy một cái đầu của con trai đổi lấy một vị tướng tài giỏi, cuộc mua bán này thật sự là có lợi.

Hiện giờ Cao Kiệu lại phái Cao Dận đi tấn công Di Lăng.

Một là a huynh của thê tử, một là người bạn cũ có tình nghĩa, Lý Mục không thể nào đứng ngoài cuộc được.

Hắn mau chóng đưa ra quyết định. Hắn ra lệnh cho phó tướng tạm thời hạ trại tại đây, tiếp tục xử lý thế lực còn sót lại của Thiên sư giáo trốn vào núi sâu rừng già, mình thì vào sáng sớm ngày mai sẽ mang theo một đội hầu cận bước lên con đường đi về phía Tây.

Chặng đường đi này, hắn ngày đi đêm nghỉ, mưa gió không quản, cuối cùng nửa tháng sau đã tới Di Lăng.

Lúc mà hắn đuổi tới nơi, Cao Dận đã lĩnh quân ép tới ngoài thành, thiên quân vạn mã đang đứng giữa đồng hoang bát ngát, chỉ cách cửa thành Di Lăng vài mũi tên.

Kỳ lạ là, bất kể Cao Dận kêu chiến như thế nào thì bên trong thành không có chút phản ứng gì.

Cao Dận bao vây mấy ngày, đang thương thảo với bộ hạ quyết định cứng rắn tấn công thì đột nhiên được báo là Lý Mục tới, y vô cùng kinh ngạc, vội vàng giải tán cuộc họp trong trướng, mình thì sốt sắng chạy ra viên môn nghênh đón.

– Đại Tư Mã đường xa đến đây không biết là có việc gì?

Năm ngoái trước khi hoàng đế băng hà ở Khúc A đã phong Lý Mục làm Đại Tư Mã. Đại Tư Mã vị cao chức trọng, nó đã bị bỏ trống trong nhiều thập kỷ ở trong triều đình, không người nào có thể đảm đương được, trong lúc gấp rút quan viên Lễ Bộ không kịp chuẩn bị chương thụ, lại bởi vì tình hình chiến sự đang nguy cấp, nên chỉ do Lại Bộ lập hồ sơ mà vẫn chưa chính thức phong kim chương tím thụ, nói bình loạn xong khải hoàn về triều thì sẽ thêm sách phong.

Nhưng mà quan viên trong triều kể từ khi đó đều đổi xưng hô Lý Mục thành Đại Tư Mã.

Cao Dận cũng không ngoại lệ, xưng hô chức quan của hắn, giọng điệu vô cùng cung kính.

Y nhìn một cái là nhận ra Lý Mục tới rất vội vàng, bên mình chỉ mang theo bảy tám hộ vệ khoẻ mạnh, hiển nhiên không phải lấy danh triều đình đến đây, hơn nữa y cũng biết rõ quan hệ của hắn và Dương Tuyên, không khó mà không đoán được, nhưng vẫn hỏi ra.

Lý Mục nói:

– Cao tướng quân, trước khi động binh ta muốn gặp Dương Tuyên một lần.

Đại chiến sắp xảy ra, Lý Mục lại muốn âm thầm gặp riêng tướng bên địch không khỏi rất không ổn.

Lý Mục nói rất bình thản, không mang theo mệnh lệnh nhưng lại khiến người ta không thể phản đối.

Cao Dận chỉ do dự một giây là đồng ý.

Liên quan đến công thành, trước nay đều là dễ thủ khó công. Huống chi phòng thủ của Di Lăng rất vững chắc, lại có vị tướng Dương Tuyên canh giữ, nếu thật sự là cường công, dù là có thể đánh hạ được thì thương vong về binh lính chắc chắn cũng rất thê thảm.

Cao Dận hiểu rõ điểm này.

Lý Mục hơi mỉm cười, xoay người lên ngựa, một mình đi đến cửa thành.

Hắn một mình cưỡi ngựa, phi nước đại đến địa điểm có thể bắn tên ngoài cổng thành, xuống ngựa, dưới cái nhìn chằm chằm của vô số ánh mắt từ quân doanh phía sau và trên đầu tường thành, đi thẳng đến cửa thành đang đóng chặt kia.

Hết chương 127
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 128


Đằng sau lỗ châu mai trên bức tường thành, một hàng nỏ binh xuất hiện. Mấy chục nỏ binh đồng loạt động tác cài tên nhắm thẳng vào Lý Mục đang đi đến.

Lý Mục dừng lại.

Hắn vừa mới lặn lội đường dài tới, mặc quần áo thường dân, bụi bặm mệt mỏi, bị mũi tên nhắm vào mà không hề hoảng sợ, đi thẳng đến dưới thành, chỉ có một thanh trường kiếm tướng quân bên hông, ống tay áo bào bay phần phật trong gió, đĩnh đạc uy nghiêm, không giận tự uy.

– Ta là Lý Mục! Xin được gặp mặt Dương tướng quân!

Hắn hướng về đầu thành giương cao giọng.

Thanh âm vang xa theo gió bay đi, trên đầu thành ai cũng nghe thấy.

Vừa dứt lời, bên ngoài thành và trên đầu tường thành trước sau mấy vạn đại quân đều yên lặng không có một tiếng động nào, bên tai chỉ có âm thanh bay phần phật của lá cờ bị cuồng phong nơi đất hoang phát ra.

Bên sau lỗ châu mau không có bất cứ động tĩnh gì.

– Dương tướng quân, tôi biết ngài ở đó!

– Kẻ sĩ chết vì tri kỷ, câu nói này rất đúng. Ngài có cái nghĩa của Dự Nhượng, nhưng Hứa Tiết, liệu ông ta có cái liệt của Trí Bá không? Vì một suy nghĩ cá nhân mà hưng can qua. Vì cái mũ Tống đế ông ta đội trên đầu mà bao nhiêu dân chúng trằn trọc kêu khóc, có bao nhiêu quân sĩ uống mạng trước trận?

– Người Nam Triều ta mỗi khi nhắc đến Hồ Liêu thì đều căm hận. Vì sao? Hận đó không phải hận chủng tộc khác màu tóc màu da, cái chúng ta hận là người Hồ hung bạo tàn ác, vô nhân đạo, một khi đắc thế động một chút là tàn sát cướp giết, coi dân chúng giống như con kiến, sinh linh đồ thán. Danh hào phủ binh tuy là mang gia họ nhưng bao nhiêu năm nay lẽ nào triều đình thiếu chu cấp nuôi dưỡng? Triều đình lấy cái gì chu cấp nuôi dưỡng? Một phân một hào một hạt gạo một hạt kê đều xuất từ dân chúng Nam Triều cả. Dân chúng cung cấp nuôi dưỡng quân nhân chúng ta, chính là mong muốn chúng ta bảo vệ họ bình an, bảo vệ đất nước không bị xâm phạm.

– Dương tướng quân, chúng ta đều là quân nhân, có câu chết không nắm binh quyền, binh sĩ tử trận là chuyện đương nhiên.

Ánh mắt hắn lướt qua khuôn mặt của những người lính đang giương cung về phía mình.

- …Nhưng lúc này đây, binh lính trên đầu tường thành chĩa cung tiễn vào ta, không người nào trong đó mà không phải là dũng sĩ của người phương Nam chúng ta? Thân là dũng sĩ được người phương Nam nuôi dưỡng, không đi giết Hồ Liêu đoạt đất đai tổ tiên ta mà lại ủng hộ Hứa Tiết lên ngôi hoàng đế, giết hại lẫn nhau đấu đá nhau với đồng bào huynh đệ phía sau chúng ta.

Gió mạnh lướt qua bên cạnh hắn, trường kiếm bên hông phát ra tiếng rung nhè nhẹ. 

– Lý Mục ta, tâm nguyện cả đời là Bắc phạt Trung Nguyên đuổi đi Hồ Liêu. Ta tin rằng Dương tướng quân và cả những tướng sĩ đang đi theo ngài kia cũng tuyệt đối không phải là hạng người máu lạnh không hiểu biết! Đã biết lý, đã nhiệt huyết, vì sao còn nghe theo lệnh của Hứa Tiết làm ra chuyện này? Chỉ dựa vào việc ông ta giết con trai mình cho các người xem ư?

– Con trai của Hứa Tiết tham công liều lĩnh, ngày đó hắn vì suy nghĩ cá nhân đã làm hại biết bao binh lính phải uổng mạng ở Dĩnh Xuyên rồi? Hắn vốn dĩ có chết cũng không hết tội! Dương tướng quân ngài cần gì phải cảm thấy áy náy?

Lời nói của hắn bay theo gió truyền vào trong tai.

Nỏ binh trên tường thành nhìn nhau, trên mặt lộ vẻ do dự, cánh tay giương cung dần dần thả xuống, cùng đồng loạt quay đầu lại nhìn Dương Tuyên đang đứng ở cách đó không xa.

Dương Tuyên trong bộ nhung trang thân hình bất động, mắt cụp xuống.

Phó tướng bên cạnh gã là thân tín của Hứa Tiết, thấy thế sắc mặt khẽ biến đổi, lập tức quay sang quát nỏ binh:

– Lý Mục xuất thân ti tiện, chỉ là con chó của bệ hạ mà thôi. Hắn không báo ân thì thôi, hiện giờ còn làm phản đối nghịch với bệ hạ, châm ngòi ly gián. Bắn tên! Lập tức bắn tên giết hắn!

Lý Mục vốn có xuất thân thấp kém, lúc còn ở dưới trướng Dương Tuyên không những bách chiến bách thắng mà còn được đồng đội kính phục, khi gặp nguy hiểm cũng luôn để đồng đội rút lui trước, mình thường là người cuối cùng rút lui, đồng thời cũng luôn được mọi người quý mến. Huống chi mấy năm nay hắn xuất thế ngang trời lấy uy định công, không muốn cùng người phương Nam nội đấu mà là thật sự đánh cho người Hồ răng rơi đầy đất, làm rạng rỡ Giang Bắc.

Những binh lính ở đây có ai mà không khâm phục hắn. Nghe phó tướng chửi bới hắn như thế thì rất bất mãn.

Một nỏ binh đơn giản buông cung tiễn xuống.

Phó tướng nổi giận, đi đến trước nỏ binh kia vung roi ngựa lên quất thẳng vào mặt vào đầu người đó, quát lên:

– Lâm trận kháng mệnh, dùng quân pháp giết không tha!

Trên mặt trên cổ nỏ binh kia túa máu, cắn răng nói:

– Tôi nghỉ nghe theo lệnh của Dương tướng quân. Dương tướng quân chưa phát lệnh, tôi sẽ không bắn!

Nỏ binh khi ra trận ít khi chiến đấu một mình mà thường cùng nhau dàn hàng tiến công, đồng đội chính là người đảm bảo cho họ sống sót trên chiến trường, vì vậy, ngoài thời gian luyện tập, họ còn ăn ngủ cùng nhau, thường trở thành huynh đệ khác họ với nhau.

Mấy ngày qua đã bị quân đội triều đình bao vây bên ngoài thành, binh lính trong thành đều biết sắp có trận đại chiến xảy ra.

Một khi quân đội dưới thành bắt đầu tấn công thành, mình có thể sống sót được hay không vẫn không thể biết, lại bị những lời nói vừa rồi của Lý Mục làm cho dao động, vốn dĩ đã hoang mang, nay thấy phó tướng này tác oai tác quái, vung roi đánh đồng đội của mình đến chảy máu, tức khắc như cùng chung kẻ địch, tất cả đều buông cung tiễn xuống, trợn mắt hướng về phó tướng kia.

Phó tướng thẹn quá thành giận rút đao ra định gi ết chết nỏ binh kia, lại thấy có mấy chục người đồng loạt đứng ra che chắn thì khiếp sợ, quay sang Dương Tuyên phẫn nộ:

– Ngươi nhìn thấy không? Đó là binh lính của ngươi phải không? Dĩ hạ phạm thượng như thế, ngươi không sợ sẽ bị bệ hạ trách tội à? Lý Mục đang ở ngay dưới thành, cơ hội ngàn năm một thuở này, ngươi còn không mau hạ lệnh bắn chết hắn đi?

Dương Tuyên hai mắt nhìn chằm chằm về phía trước, ánh mắt ngưng tụ nghiêm trang, như không hề nghe lọt tai.

Phó tướng nghiến răng nghiến lợi, đoạt lấy cung tiễn của một nỏ binh, đẩy mọi người ra chạy tới sau lỗ chau mai kéo cung cài tên nhắm vào thân hình ở dưới thành kia, thả mũi tên ra.

Mũi tên rời cây cung, xé rách không khí bắn về phía Lý Mục.

Lý Mục rút kiếm trong nháy mắt chém đứt mũi tên lông vũ hướng về phía hắn.

“Đinh” một tiếng, mũi tên bị đẩy ra ngoài c ắm vào một mảnh bùn bên cạnh.

Lý Mục tay cầm trường kiếm, ánh mắt loé lên tia sáng, bỗng nhiên đề khí cất cao giọng:

– Một khi quân đội tấn công thành, các ngươi sẽ không còn đường lui nữa.

– Dương Tuyên, lẽ nào ngài thà mang theo binh lính của ngài vì Hứa Tiết mà táng thân tại đây mà cũng không nguyện dẫn dắt những nam nhi này một ngày nào đó Bắc phạt Trung Nguyên đuổi đi Hồ Liêu, lập công lao bất hủ hay sao?

Phó tướng kia thấy mũi tên của mình bị Lý Mục chém bay, nghiến răng căm hận, lại giương cung cài tên muốn bắn thêm lần nữa.

Ngay lúc hắn chuẩn bị bắn mũi tên thứ hai, chợt cảm thấy ngực lạnh buốt, một thanh đao đâm xuyên từ lưng ra ngực.

Cơ thể bỗng nhiên cứng đơ, hai mắt trợn tròn, cung tiễn rơi khỏi tay xuống dưới đất, rơi vào trong bùn đất trước cửa thành.

Phó tướng kia chậm chạp cứng ngắc quay đầu lại, thấy Dương Tuyên đứng ở phía sau mình, hai mắt loé lên tia tàn nhẫn. Thanh đao cắm xuyên thấu ngực mình đang nắm trong tay Dương Tuyên.

Dương Tuyên rút đao ra, phó tướng kia ngã xuống đất, co giật một lát rồi chết.

Trên đầu tường thành, bầu không khí đột nhiên như đóng băng.

Binh lính vốn xếp thành hàng sau lỗ châu mau từ từ nhích lại gần. Binh lính dưới thành dường như cũng cảm nhận được sự khác thường, đồng loạt đi lên thành tụ tập bên cạnh Dương Tuyên.

Vô số ánh mắt đổ dồn vào Dương Tuyên.

Dương Tuyên nhìn các binh lính. Nhìn những khuôn mặt mệt mỏi trước mặt lộ ra hy vọng và do dự, từ tốn hỏi:

– Các ngươi vẫn luôn đi theo ta, bây giờ, các ngươi muốn tiếp tục đánh một trận hay là đầu hàng triều đình?

Đối mặt với quân đội triều đình do Cao Kiệu phát tới tiếp viện, làm cho Hứa Tiết vừa lên làm Tống đế còn chưa được một tháng cũng thấy hoang mang lo sợ.

Vào mấy ngày trước, ông ta đích thân chạy tới Ba Đông trên danh nghĩa vẫn thuộc về triều đình gặp Vinh Khang phương bá ở đó, muốn thuyết phục Vinh Khang liên minh với mình đối kháng với triều đình.

Vinh Khang là thứ sử phiên trấn thế lực lớn nhất của Ba Đông, nếu như Hứa Tiết thuyết phục thành công, cộng thêm thực lực của Vinh Khang, có lẽ có thể tiếp tục đối kháng được với triều đình. Trước khi đi, ông ta hạ lệnh trước khi mình chưa quay về, không cho phép Dương Tuyên xuất binh, chỉ cần tử thủ ở trong thành là được.

Đó chính là nguyên nhân vì sao đã nhiều ngày Cao Dận kêu chiến nhưng Dương Tuyên trước sau vẫn không đáp trả.

Binh lính đều yên lặng. Một lúc sau cuối cùng có người nói:

– Chúng tôi nguyện đi theo tướng quân. Tướng quân đi đâu, chúng tôi sẽ theo đến đó.

Mọi người đồng thanh phụ hoạ theo.

Dương Tuyên ngửa mặt lên trời, nhắm mắt một lát, khi mở mắt ra bước lên rìa đầu tường thành, nhìn Lý Mục vẫn đang đứng tại chỗ, cao giọng nói:

– Đại Tư Mã, những binh lính này cũng không nguyện ý làm phản. Nếu như mở cửa thành, ngài có thể đảm bảo triều đình sẽ không truy cứu tội của họ hay không?

Lý Mục nói:

– Ngày hôm nay đứng ở nơi này, mỗi lời ta nói đều lấy danh nghĩa Lý Mục ta bảo đảm. Tất cả đều là con cháu người phương Nam ta, chỉ cần ngài dẫn dắt họ dừng cương trước bờ vực, sau này đối đãi bình đẳng, sẽ không có gì khác biệt!

– Được! Dương Tuyên ta tin ngài!

Dương Tuyên quay đầu lại, nói với quân sĩ:

– Những lời Đại Tư Mã nói, các ngươi có nghe rõ không? Ta biết trong lòng các ngươi suy nghĩ gì. Cứ làm theo tâm nguyện các ngươi là được.

Binh lính sửng sốt, khi kịp phản ứng thì đều vui mừng.

Bao nhiêu năm nay, trong triều đình liên tục xảy ra phản loạn muốn lật đổ Tiêu thất hay thế hoàng đế khác, nhưng bạo loạn hết đợt này đến đợt khác nhưng cuối cùng không có một người nào có thể thành công.

Trước đó thua thảm, lui về đây, đến khi tình thế ổn định, Hứa Tiết liền sốt sắng không chờ nổi mà xưng đế, tế thiên địa, lập tông miếu, phong văn võ, người bên cạnh đều tung hô ông ta là bệ hạ, cung thất hằng đêm say sưa ca hát mua vui, cũng ra dáng ra hình giống như một quốc gia trong một quốc gia. Nhưng binh lính tầng chót nhất lại chỉ có cuộc sống khốn khổ, đánh giặc thì họ phải đi đầu, trong lòng đã oán thán từ lâu rồi, chỉ là bởi vì Dương Tuyên mà mới miễn cưỡng thủ vững đến ngày hôm nay.

Giờ phút này chợt nghe Dương Tuyên nói như thế, rõ ràng là ngầm đồng ý cho họ mở cửa thành đầu hàng triều đình.

Nếu người tới là người khác, binh lính có lẽ còn do dự.

Nhưng người ở ngoài thành kia lại là Lý Mục mà mỗi một người binh lính Nam Triều đều kính ngưỡng, chẳng phân biệt trung quân ngoại quân, mặc kệ gia chủ là ai, ai mà không muốn đầu nhập vào hắn cống hiến sức lực dưới trướng hắn?

Lập tức một truyền mười, mười truyền trăm.

Chẳng mấy chốc, trên đầu thành vang lên tiếng reo hò, binh lính tràn xuống thành.

Một đội thân binh của Hứa Tiết nghe tin chạy tới đón đầu đụng phải nhau, rất nhanh đã bị phản binh bao vây lấy, nhanh chóng tiêu diệt, sau đó cuồn cuộn xông tới cổng thành, mở cổng thành, chạy về phía Lý Mục, tới gần hắn rồi tất cả quỳ một gối xuống đất, hành quân lễ với hắn.

Dương Tuyên đứng ở trên đầu tường thành nhìn tướng sĩ năm xưa từng theo mình vào sinh ra tử chạy qua người mình đồng loạt rời đi. Rất nhanh, trên đầu tường thành vừa rồi dòng người còn chen chúc xô đẩy đã không còn bóng người, chỉ còn lại Tống kỳ phấp phới đón gió.

Gã từ tốn quay người lại, liếc nhìn bóng người phía dưới thành dường như đã cảm nhận được điều gì đang chạy như điên về phía mình, cởi đi mũ giáp, rút đao ra tự đâm vào mình.

Ngay khi cửa thành bị binh lính từ bên trong mở ra, Lý Mục chạy về phía cửa thành, muốn bước lên thành lâu để đón Dương Tuyên.

Nhưng mà quá nhiều binh lính xông về phía hắn, chặn đường đi của hắn.

Hắn ngửa đầu lên, khi nhìn thấy Dương Tuyên thong dong tháo mũ giáp kia xuống, trong lòng hắn liền trào lên một dự cảm bất tường mãnh liệt.

Vận mệnh vô thường, con người lại càng bất lực biết bao nhiêu.

Cho dù dũng mãnh cái thế, cho dù có thể nhìn thấy điều không ai biết, nhưng vận mệnh vẫn định sẵn rằng có lẽ vẫn có một bàn tay ở trong bóng tối điều khiển mọi thứ.

Loại vận mệnh này có lẽ chung quy vẫn là nhân lực không thể nào thay đổi được một ý nghĩ bất tường, trong khoảnh khắc như nuốt chửng hắn.

Hắn gào thét hô tránh ra, khoé mắt như muốn nứt ra, ra sức đẩy những binh lính vẻ mặt vui vẻ chắn đường hắn, dẫm lên và nhảy qua lưng những người còn đang quỳ dưới đất chưa kịp đứng lên, băng qua cửa thành chạy như điên về phía đầu tường thành.

Cuối cùng hắn cũng đi lên được tường thành.

Con đường gạch thành lâu trống trải và bằng phẳng ở dưới chân hắn kéo dài thẳng tắp về phía trước.

Một bóng người cao lớn ngã xuống dưới.

Trước ngực chiến y của Dương Tuyên nhuộm đầy máu tươi.

Lý Mục đỡ gã từ dưới đất ngồi dậy, bàn tay gắng sức chặn máu đang chảy ra từ ngực gã, nhưng làm thế nào cũng tốn công vô ích. Càng có nhiều máu hơn chảy qua kẽ tay của hắn.

Dương Tuyên mở mắt ra, nhìn vào cặp mắt đỏ bừng của Lý Mục, cố sức đưa tay ra cầm lấy tay hắn.

– Kính Thần, năm xưa ngay từ lần đầu tiên nhìn thấy ngươi ở trong quân, ngươi vẫn là một thiếu niên, ta đã biết…tương lai của ngươi ắt làm nên việc lớn…

Bên môi gã khẽ nở nụ cười, dần dần nụ cười đọng lại.

Cao Dận cùng với mọi người cuối cùng cũng đuổi tới trên đầu tường thành, thấy Lý Mục đã ôm tướng quân Dương Tuyên đã chết đi, quỳ một gối xuống đất, bóng dáng giống như hoá thành một pho tượng đá, bất động rất lâu.

……

Những ngày này, triều đình liên tục nhận được tin tức tốt.

Loạn Thiên sư giáo ở Đông Nam đã bị Lý Mục bình định hoàn toàn. Kế đó, bởi vì hắn đến Di Lăng mà đã thành công chiêu hàng phản quân, không tốn một binh một tốt, quân triều đình đã thu phục được Di Lăng. Hứa Tiết làm hoàng đế chưa đến một tháng chẳng những mộng đẹp bị tan vỡ, còn suýt nữa thì bị Vinh Khang phiên trấn Ba Đông mà mình muốn thuyết phục gi ết chết.

Đại loạn giằng co nửa năm cuối cùng đã hoàn toàn chấm dứt.

Tuy rằng hoàng đế vừa mới băng hà mấy tháng, nhưng tới lúc này, các đại thần cũng đã thoát khỏi đau thương, nhắc tới tình thế đã khôi phục ổn định, không ai là không vui mừng.

Nhưng những tin tốt này lại không thể nào xua tan đi những khổ sở trong lòng Lạc Thần.

Mẫu thân mất tích dã được hơn nửa năm.

Phụ thân vẫn không từ bỏ việc tìm kiếm, nhưng phái đi bao nhiêu người tìm kiếm thì đến nay vẫn không có một chút tin tức gì.

Có lẽ mẫu thân đã thật sự không còn sống nữa. Nếu không, tại sao người trong tưởng tượng bắt giam mẹ lại không có động tĩnh gì?

Nhưng Lạc Thần không muốn chấp nhận một sự thật như vậy.

Nàng không cách nào tưởng tượng nổi mẫu thân đang còn sống yên lành của mình cứ thế mà hương tiêu ngọc vẫn, rằng bà không còn trên đời này nữa.

Nàng đã nhiều lần tự nói với mình rằng mẹ vẫn còn sống và khỏe mạnh, nhưng bà đang ở một nơi mà mình không biết, và một ngày nào đó, cha mình nhất định sẽ tìm thấy mẹ.

Thời gian này, an ủi duy nhất của nàng đó là Lý Mục cuối cùng cũng sắp trở lại rồi.

Kể từ khi bình định thượng du, hắn lại đi Đông Nam. Theo như tin tức mà nàng hỏi thăm được từ chỗ phụ thân, hắn đang trên đường về kinh sư rồi.

Muộn nhất là năm sáu ngày nữa là về đến nơi.

Đầu tháng Năm, là ngày tế trăm ngày của Thái Khang Đế.

Qua ngày hôm đó, bách quan có thể trừ hiếu.

Hôm nay, trừ Lễ Bộ chủ trì hiến tế ở Thái Miếu ra, ở trong cung cũng sẽ có một buổi hiến tế.

Đường tỷ Cao Ung Dung đã lên làm Thái hậu, ba ngày trước phái cung nhân truyền tin cho nàng, kêu nàng hôm nay vào cung tham gia buổi tế.

Lạc Thần kìm nén sự u sầu trong lòng, búi tóc bằng lụa xanh, mặc quần áo trắng, ngồi xe từ Cao gia đi vào hoàng cung, được cung nhân chờ ở cửa cung dẫn vào điện Vĩnh Phúc nơi làm lễ tế.

Cao Ung Dung mang theo tiểu hoàng đế, đứa cháu trai Đăng nhi 4 tuổi của nàng cũng đang ở đó.

Đã mấy ngày không gặp, nom Cao Ung Dung cũng gầy rộc đi nhiều, nhìn thấy Lạc Thần, Đăng Nhi gọi “dì” một tiếng, sau đó nắm lấy tay nàng nói:

– Ta nghe thái y nói sức khoẻ của bá phụ vẫn không tốt. Lúc tổ chức trăm ngày hiếu, Đăng Nhi cũng không tiện ra khỏi cung. Chờ thêm hai ngày nữa, nếu bá phụ thấy tiện thì ta sẽ dẫn nó đi thăm hỏi bá phụ.

Từ sau khi tin tức phản loạn Thiên Sư Giáo và Hứa Tiết đã được bình định, cả người phụ thân dường như được thả lỏng hẳn đi. Thời gian này việc triều đình đều giao cho Phùng Vệ, ông vẫn luôn ở trong nhà không ra ngoài, cũng không hề gặp mặt bất kể vị triều thần nào đến thăm hỏi. Lạc Thần đi đưa thuốc cho ông, thường thấy ông không phải ngồi ở bàn viết lách thì chính là nhắm mắt minh tưởng, thoạt nhìn không khác gì trước đây cả.

Lạc Thần thay mặt phụ thân cảm ơn chị ta, kêu chị ta không cần phải dẫn ấu đế ra khỏi cung làm gì.

Cao Ung Dung mắt hoe đỏ, nói:

– Ta biết muội với bá phụ đều đang rất khổ sở. Ta cũng thế. Tin tức của bá mẫu ta cũng phái người đi hỏi thăm khắp nơi. Muội đừng buồn quá. Bá mẫu cát nhân thiên tướng, nhất định sẽ bình an trở về.

Lạc Thần bị gợi ra nỗi khổ sở trong lòng, lặng thinh, gật đầu với chị ta, thấp giọng nói:

– Đa tạ a tỷ.

Cao Ung Dung lau nước mắt, kéo Lạc Thần đi đến chỗ làm lễ tế.

Lễ tế làm xong thì đã là giờ ngọ. Cao Ung Dung giữ lại Lạc Thần lại cung dùng cơm. Lạc Thần đâu có tâm tình ăn uống, bèn uyển chuyển từ chối, Cao Ung Dung biết nàng không có tâm tư ở lại, nên cũng không gượng ép, tự mình tiễn nàng ra ngoài.

Lạc Thần lại từ chối tiếp, nhưng Cao Ung Dung vẫn kiên quyết muốn đưa nàng ra cung, vẫn đưa đến gần cửa cung thì một cung nhân vội vàng đi vào, bẩm báo:

– Bẩm Hoàng thái hậu, bên ngoài truyền báo, nói thứ sử Ba Đông Vinh Khang mang theo đầu của Hứa Tiết vừa mới vào kinh. Biết hôm nay là ngày hiến tế trăm ngày của tiên đế nên đi một mạch không nghỉ, đã tới hoàng cung rồi ạ. Ngài ấy cầu xin được đến lễ tế trước đế linh, hiện đang quỳ ở bên ngoài ạ.

Cao Ung Dung ngẩn ra, nhìn bên ngoài, nói:

– Hắn tới nhanh thật đó. Ta còn cho rằng phải mấy ngày nữa cơ.

Trầm ngâm một lát, nói tiếp:

– Đã tới rồi thì cũng là tấm lòng, tuyên đi.

Cung nhân vội đi ra ngoài truyền lời.

Lạc Thần nhìn ra cửa cung, thấy ở bên ngoài có một người đàn ông dẫn dắt mấy vị tùng quan quỳ ở đó bất động, biết người đó chính là Vinh Khang phương bá phiên trấn thế lực lớn nhất vùng Ba Đông đã giết Hứa Tiết.

Loại phiên trấn địa phương vị trí xa xôi, mang danh là ngoại thần nhưng trên thực tế quyền lực rất lớn. Từ sau khi triều đình vượt qua phía Nam, lực khống chế không đủ, chỉ cần phương bá địa phương này không nổi loạn đã là may mắn lắm rồi nên không dám quản chế nhiều.

Lạc Thần cũng không dám nhìn kỹ quay đầu lại nói với Cao Ung Dung:

– Đã thế vậy muội đi ra cung trước. A tỷ bận cứ đi làm việc đi ạ.

Cao Ung Dung gật đầu, gọi người tiễn Lạc Thần.

Lạc Thần đi thẳng ra cổng lớn hoàng cung.

Vinh Khang có vóc dáng cao lớn, khổng võ hữu lực, tuổi tác tầm ba mươi, khuôn mặt cũng coi như anh tuấn, chỉ là trên gò má bên trái từ khóe mắt cho đến sườn xương gò má có một vết sẹo dài, làm cho toàn bộ khuôn mặt của y có thêm phần dữ tợn tàn khốc.

Ngày hôm nay y vừa đến Kiến Khang thì đã đi vào hoàng cung, được cung nhân báo lại thì cười tươi đứng lên, đang chuẩn bị đi theo vào đột nhiên nhìn thấy ở đối diện có một cô gái rất trẻ mặc y phục trắng tóc búi cao đơn giản đi theo một đoàn tùy tùng từ bên trong hoàng cung đi ra, mới chỉ nhìn một cái bước chân của y đã như bị đóng đinh đứng lại, ánh mắt không thể rời đi được.

Ban đầu y còn không dám nhìn thẳng, chờ nàng đi qua người mình rồi mới quay đầu lại, cuối cùng đã chẳng còn chút kiêng dè gì nữa ánh mắt ghim thẳng vào bóng dáng thanh thoát kia, cho đến khi nàng bước lên một chiếc xe trâu đậu ở bên bức tường cung điện, bóng dáng biến mất sau tấm rèm cửa, nhìn mãi cho đến khi chiếc xe trâu biến mất ở trong tầm mắt, trước mắt dường như vẫn còn khuôn mặt tuyệt sắc với mái tóc đen nhánh và làn da trắng như tuyết kia, từ từ quay đầu lại hỏi cung nhân:

– Người vừa rồi kia là ai vậy?

Cung nhân đã chú ý đến ánh mắt nhìn chằm chằm vào Lạc Thần của y, trong lòng khinh bỉ hạng thô lỗ phiên trấn đến từ nơi xa xôi này, nhưng ngoài mặt lại không dám biểu lộ gì, chỉ nói:

– Cô ấy là con gái của Cao tướng công, thê tử của Đại Tư Mã Lý Mục triều ta. Nếu thứ sử đã chuẩn bị xong xin hãy theo nô đi vào, tránh để thái hậu chờ lâu ạ.

Con gái Cao thị, thê tử của Lý Mục.

Trong mắt Vinh Khang hiện lên tia thất vọng, không nói chuyện nữa.

Y lại một lần nữa quay đầu lại nhìn lần cuối về chiếc xe trâu chỉ còn lại bóng đoàn người mờ ảo, sau đó cất bước đi về phía cửa cung trước mặt.

Hết chương 128
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 129


Ngày mùng 10 tháng Năm, là ngày mà Lý Mục khải hoàn về triều.

Thái sử lệnh nói ngày mùng 10 là ngày đại cát.

Dân chúng dời đi tránh né chiến tranh đã quay trở lại Kiến Khang, cuộc sống đã ổn định trở lại, Lễ trăm ngày của Thái Khang Đế cũng đã trôi qua, kinh sư trừ hiếu.

Những ngày chiến tranh, lưu vong, quốc tang, những ngày kinh hoàng và áp bức khiến người ta gần như ngạt thở cuối cùng cũng qua đi, kinh thành nhanh chóng trở lại vẻ nhộn nhịp vốn có, Nam Bắc có chợ, hàng hóa chất đầy. Con đường hoàng thành thông đến Đài Thành thẳng tắp và rộng rãi, trong những tòa lầu cao tầng hai bên bờ sông Tần Hoài ở phía Nam thành phố, kèm theo tiếng động thuyền bè qua lại không dứt là tiếng cười tiếng nói tiếng đàn tiếng sáo quanh quẩn hai bên bờ sông ngày đêm không dứt.

Tin tức Lý Mục khải hoàn về kinh đã được dân chúng tranh nhau lan truyền, quân đội hãy còn đang ở trên đường, từ mấy ngày trước mọi người đều đã biết, mọi người bàn tán rất nhiều, nóng lòng chờ mong.

Nhiều người còn nhớ rõ cảnh tượng năm đó Hưng Bình Đế còn tại thế, sau khi triều đình đại thắng Bắc Hạ trong trận chiến Giang Bắc, đại quân tiến vào Kiến Khang, hoàng đế đích thân ra khỏi thành nghênh đón và đã cùng với Cao Kiệu ở trước đài đã khao thưởng những tướng sĩ đã lập công đầu.

Ngày hôm đó, vinh quang vô thượng của những sĩ tộc quý tộc mà đứng đầu là Cao thị vẫn còn nguyên vẹn trong ký ức của những người may mắn được chứng kiến ​​buổi lễ trọng đại đó.

Ngày hôm nay, cảnh trọng đại đó sắp sửa tái hiện.

Thái Hậu và tiểu hoàng đế sẽ đích thân ra khỏi cung đi đến bên ngoài thành tiếp kiến và khao thưởng những tướng sĩ vì cứu quốc đã lập nên công lao hãn mã.

Điều khác biệt so với lần trước là lần này, nhân vật chính của buổi lễ trọng đại này không còn là Cao thị và sĩ tộc môn phiệt như Cao thị, mà là Lý Mục, người năm xưa chỉ có thể đứng xếp sau sĩ tộc.

Đại Tư Mã Lý Mục, là nhân vật chính của buổi lễ khao quân long trọng sắp tới.

Nếu không có hắn kịp thời dẫn quân đội trở về phương Nam, không ai có thể tưởng tượng Nam Triều ngày nay sẽ như thế nào. Hắn xứng đáng nhận được mọi vinh quang khen ngợi.

Nhưng từ góc độ hoàng thất mà nói, đây là lần đầu tiên Cao Ung Dung cùng với ấu đế ra khỏi hoàng cung lấy thân phận Thái Hậu và hoàng đế chí tôn tối cao một đất nước xuất hiện ở trước mặt dân chúng.

Cho nên triều đình hết sức coi trọng. Từ ba ngày trước, quan viên Lễ Bộ đã bận rộn ở phía đông ngoại thành, bắt đầu sắp xếp chỗ ngồi, diễn tập huấn luyện các lễ nghi rườm rà nghênh đón quân đội v.v…Ngay cả vị trí cắm cờ cũng không được xảy ra một nửa sai lầm.

Vào ngày hôm nay, Lạc Thần ngồi trên một chiếc xe sang trọng, đi theo sát phía sau đế giá của Thái hậu và ấu đế, dưới sự hộ tống của nghi trượng, theo sau là tất cả văn võ bá quan cùng với dân chúng quỳ xuống hai bên đường tham dự buổi lễ chiêm ngưỡng, đi qua hoàng thành ra cửa Nam, đi đến gò tròn ở ngoại thành phía nam ngoài tường thành, nơi hoàng tộc từng tế trời, cũng chính là nơi tổ chức buổi lễ khao quân ngày nay.

Nơi này rộng lớn bằng phẳng, bởi vì hoàng đế các triều đại đều tới đây tế trời, cầu xin mưa thuận gió hòa, quốc thái dân an, bầu không khí luôn uy nghiêm trang nghiêm.

Ngày hôm nay cũng thế, chung quanh cánh đồng bát ngát không nhìn thấy điểm cuối là tinh kỳ che kín đón gió bay phấp phới.

Khi Thái hậu dẫn vị hoàng đế nhỏ tuổi đi lên đài ngồi trên tòa quân vương giữa sự quỳ lễ chào đón của văn võ bá quan, trung quân Túc Vệ Quân và Đô Vệ quân đã chỉnh tề đứng ở vị trí của họ, mở phân cách với đài quân vương cho phép dân chúng đến xem lễ.

Lạc Thần ngồi vào chỗ, vị trí của nàng được sắp xếp ở ghế dưới bên cạnh Cao Ung Dung, tầm nhìn rất tốt, mọi thứ trước mặt đều không bị cản trở.

Nàng mặc trang phục lộng lẫy hoa phục, ngồi ngay ngắn dưới lọng che, kể từ lúc ngồi xuống, nàng không để ý đến cái gì khác, nhìn chăm chú vào vùng hoang dã mênh mông không nhìn thấy điểm cuối, hy vọng có thể sớm nhìn thấy bóng dáng của Lý Mục mà không hề chú ý ở bên dưới đài quân vương cách hơn mười trượng, trong góc của một nhóm quan viên tháp tùng có hai ánh mắt từ lúc nàng ngồi xuống đã xuyên qua bức tường người mà ghim chặt ở trên người nàng.

Cao Ung Dung ngồi bên cạnh ấu đế, vẻ mặt nghiêm túc, đôi mắt khẽ đảo qua tả hữu phía trước.

Lễ khao quân hôm nay do chị ta đề xuất đầu tiên, đương nhiên là để thuận lòng dân, thu phục sĩ khí, cũng là một phần lễ ngộ chưa từng có đối với Lý Mục. Tuy nhiên, ngay cả Lý Mục, người đã xoay chuyển tình thế và lập nên công lao to lớn cho Nam Triều cũng vẫn phải hành lễ cận thần trước mặt ấu đế. Vì vậy, đây chẳng phải là một cơ hội tuyệt vời để quân lính và dân chúng chứng kiến ​​uy thế và địa vị tuyệt đối chí cao vô thượng của hoàng thất hay sao?

Tầm nhìn của Cao Ung Dung từ từ lướt qua những lá cờ che khuất bầu trời và mặt trời ở phía xa, và từng hàng trung quân võ sĩ hộ vệ đài quân vương, phía sau võ sĩ là dân chúng đông nghìn nghịt như biến thành biển đầu người đen xì…

Chị ta và con trai bên cạnh chị ta là chúa tể tối cao của tất cả những điều này.

Thu hồi ánh mắt từ xa về, chị ta lại quét ánh mắt sang văn võ đại thần đang đứng ở dưới đài, Cao Ung Dung vừa nhìn là thấy được Vinh Khang thứ sử Ba Đông mấy ngày trước vừa mới tới Kiến Khang.

Như một phần thưởng đối với việc anh ta có công dâng đầu Hứa Tiết, ngày hôm nay, anh ta cũng được cho phép tới đây tham gia và xem buổi lễ long trọng này. Anh ta đứng sau một đám quan viên, vị trí góc vốn dĩ cũng không thấy được. Nhưng từ ánh mắt đầu tiên Cao Ung Dung đã chú ý tới Vinh Khang rồi.

Chị ta phát giác ánh mắt người đàn ông này có vẻ như đang nhìn người nào đó ở bên cạnh mình. Theo ánh mắt của anh ta, chị ta hơi xoay mặt qua, thấy Lạc Thần ngồi ngay ngắn ở dưới lọng che, hai mắt nhìn thẳng về phía trước.

Cao Ung Dung hơi híp mắt lại, lúc mà Vinh Khang lại lén lút nhìn Lạc Thần nhìn thẳng vào anh ta, ánh mắt đầy sự cảnh cáo.

Vinh Khang nhanh chóng bắt gặp ánh mắt của chị ta, sửng sốt trong giây lát, hình như có chút giật mình, vội cụp mi xuống, nhìn đi chỗ khác.

Cao Ung Dung không lộ chút biểu cảm gì, đánh giá vị phương bá Ba Đông vừa mới đến kinh thành không được mấy ngày, bên tai chợt nghe có tiếng hô lớn của lễ quan từ xa truyền đến nhắc nhở đại quân đã đến, bèn tập trung nhìn thẳng về phía trước.

Trong tiếng vó ngựa mang theo khí thế của hàng ngàn hàng vạn con ngựa đang phi nước đại, Lạc Thần nhìn thấy một đường dài màu đen trải dài xuất hiện ở phía chân trời phía xa.

Đường màu đen đang di chuyển, uy nghiêm mênh mông cuồn cuộn mà đi tới phương hướng này, rất nhanh đã có thể thấy được, nó là do vô số binh lính tạo thành, giống như trận hình hình vuông trên chiến trường, dưới sự dẫn dắt của kỵ binh thiết giáp phía trước, họ hành quân chỉnh tề đang đi về hướng này.

Mặt đất dưới chân, như thể theo sự xuất hiện của đội quân này, bắt đầu rung chuyển nhẹ.

Không khí xung quanh gò đất hình tròn đột nhiên đông đặc lại.

Tất cả mọi người đều đồng loạt dùng ánh mắt kính nể và hoảng sợ nhìn về phía đội quân bất khả chiến bại liên tiếp thắng trận, chưa từng thua một trận nào càng ngày càng gần, cuối cùng dừng lại ở trong hoang địa.

Sự rung chuyển của mặt đất đến lúc này mới theo đó mà dừng lại.

Lý Mục đầu đội mũ giáp người mặc chiến giáp mang theo ba trăm tướng sĩ uy phong lẫm liệt hiên ngang hùng vĩ từ trên lưng ngựa bước xuống, đi về phía đài quân vương.

Khi hắn ngày càng đến gần, những tia nắng mặt trời phản chiếu bộ giáp trên người hắn và những tướng sĩ phía sau hắn tỏa ra ánh sáng rực rỡ.

Ở trong mắt Lạc Thần, hắn giống như một vị thần đang tiến về phía mình.

Hai mắt nàng mở to, đè nén trái tim trong lồ ng ngực đang đập mạnh gần như nhảy ra khỏi lồ ng ngực, đôi mắt không chớp mắt mà nhìn hắn đăm đắm.

Lý Mục dừng lại trên sân cách đài quân vương mấy trượng, ngước mắt lên, chạm phải mắt Lạc Thần, bốn mắt nhìn nhau.

Chỉ một khoảnh khắc chạm mắt ngắn ngủi thôi nhưng cũng khiến cho Lạc Thần cảm thấy mãn nguyện, trong ngực trào dâng lên cảm giác ngọt ngào và chua xót.

Dù cho ở bên nhau thì ít mà xa nhau thì nhiều, nhưng chỉ cần một cái nhìn thôi, một cái nhìn thôi cũng đã đủ rồi.

Nàng biết, hắn cũng rất nhớ thương mình.

Lý Mục thu lại ánh mắt yêu thương và nhớ nhung với thê tử, dưới vô số ánh mắt nhìn chăm chú chung quanh, mang theo tướng sĩ của mình hướng về đứa trẻ rõ ràng vừa mới bị khí thế quân dung của quân trận kia làm cho kinh hoảng đến mức mặt tái mét đi, trầm giọng nói:

– Thần Lý Mục phụng mệnh lệnh bình định loạn giáo Đông Nam, dựa vào uy vọng của triều đình và được sự trợ giúp hết mình không tiếc tính mạng của tướng sĩ trong quân may mắn đã không làm nhục sứ mệnh, đã khôi phục lại Đông Nam, loạn đầu Ngô Thương đã bị giết, giờ xin trình chiến lợi phẩm lên xin bệ hạ xem qua!

Hắn vừa dứt lời, binh lính phía sau liền tách ra hai bên, chỉ thấy hơn trăm binh lính đẩy mấy chục chiếc xe hành lý tiến lên, mở nắp ra, lộ ra hòm châu báu, hòm vàng bạc. Lễ quan ở trên đài cao cao giọng tuyên bố, tổng cộng có trên trăm rương vàng bạc.

Từ xa nhìn thấy nhiều vàng bạc chói mắt như vậy, dân chúng xung quanh ồ lên kinh ngạc.

Sở dĩ cuộc nổi loạn Hứa Tiết ở thượng du bị dập tắt thành công cũng là do hắn kịp thời thuyết phục Dương Tuyên đầu hàng, nhưng lúc này, hắn lại hoàn toàn không đề cập đến, như thể chuyện này không hề liên quan gì đến mình.

Ngồi ở khoảng cách gần nhất, Lạc Thần nhìn thấy a tỷ âm thầm siết chặt tay ấu đế, như thể đang ngầm nhắc nhở cậu bé giữ phong thái của hoàng đế trước mặt quần thần, sau đó kêu bình thân.

– Lý khanh càng vất vả công lao càng lớn. Số vàng bạc này chắc chắn là do quân phản loạn gom góp của dân chúng bao năm qua. Có câu lấy của dân dùng cho dân, vừa lúc có thể sung vào quốc khố, bù đắp lại những thiếu hụt mà trước đó dã chi tiêu cho chiến sự. Đại Tư Mã thấy thế nào?

Lý Mục nói:

– Thần xin nghe theo an bài của thánh thượng.

Cao Ung Dung cười rất tươi, thong thả đứng lên, ánh mắt đảo qua một vòng, cao giọng lên nói:

– Chư vị tướng sĩ, lúc quốc gia lâm nguy, chư vị đã đứng lên lập công lớn. Nay khải hoàn trở về, bệ hệ nghênh đón đại quân tại đây, triều đình cũng sẽ phong thưởng theo công lao.

– Các vị đều là những tướng sĩ trung can nghĩa đảm, vinh quanh vô thượng, đủ để muôn đời kính ngưỡng. Mong rằng từ nay về sau, các vị tiếp tục trung thành với Đại Ngu, đây là chí nguyện của bệ hạ, cũng là may mắn của Đại Ngu ta.

Giọng nói của đường tỷ vẫn còn vang vọng bên tai Lạc Thần, nhưng ngay lập tức bị át đi bởi tiếng reo hò kinh thiên động địa của dân chúng xung quanh.

Buổi khao quân này rất long trọng, khung cảnh hoành tráng, quân vương cùng quần thần hòa thuận, bề ngoài có vẻ náo nhiệt.

Đại Tư Mã Lý Mục giữa lúc ngàn cân treo sợi tóc đã dốc sức ngăn cơn sóng dữ, dựa vào lực lượng bản thân đã nâng đỡ một nửa bên giang sơn của Đại Ngu đã sắp sửa bị lật úp, công lao to lớn như thế, nhưng hắn lại cẩn thận tuân thủ bổn phận nhân thần, không hề tỏ vẻ chút kiêu ngạo nào.

Mà hoàng thất Tiêu thị, hoàng đế tuy còn nhỏ tuổi nhưng may mà có thái hậu anh minh nhân ái, ấu đế có thái hậu như thế phụ tá, đó thật sự là may mắn cho quốc gia.

Rất nhiều người dân may mắn được trải qua buổi lễ khao quân này, trong một thời gian dài tiếp theo hễ cứ nhắc đến cảnh tượng hoành tráng hôm nay, tất cả đều say mê kể lại, không thể nào quên.

……

Trong ngày hôm nay, từ sau đó Lý Mục không còn xuất hiện ở trước mặt Lạc Thần nữa.

Lạc Thần biết hắn còn có việc trong người, sau khi buổi khao quân chấm dứt, nàng đi về nhà trước.

Màn đêm buông xuống. Nàng đã tắm gội từ sớm, đặc biệt còn thêm hương liệu trong nước tắm, tắm gội xong từ trong hương canh, lau tóc và cơ thể, mặc bộ váy màu tím khói mà mấy ngày trước nàng đã chọn cho là đẹp nhất làm tôn lên làn da trắng như tuyết của nàng, ngồi xuống trước bàn trang điểm chải mái tóc dài bóng mượt của mình.

Chờ tóc được chải và lau khô rồi, nàng đứng lên chuyển qua giường mỹ nhân, dựa vào đó cầm một quyển sách lên, vừa xem một cách không tập trung vừa chú ý đến động tĩnh ở bên ngoài, dần dần thất thần. Đột nhiên nàng thấy lo lắng mình không đủ xinh đẹp, không đủ rạng rỡ, không đủ khêu gợi, lại vứt quyển sách đi trở lại trước bàn trang điểm, ngồi quỳ xuống một tay cầm lấy gương đồng để soi, tay khác thì chấm hương liệu thượng đẳng và nước hoa hồng dùng làm son môi, đang chuẩn bị tô lên môi của mình để cho gương mặt mình càng quyến rũ và rạng rỡ hơn nữa, bỗng nhiên, bàn tay khựng lại trên cánh môi.

Qua gương, nàng nhìn thấy một bóng người phía sau mình.

Một người đàn ông, không biết từ lúc nào đã lặng lẽ rẽ vào phòng trong, dừng lại bên bức bình phong ngắm nhìn theo bóng lưng của nàng.

Nàng từ từ quay đầu lại, hai mắt đong đầy nước mắt nhìn đăm đắm vào người đó.

– Lang quân ơi…

Nàng gọi hắn.

Ánh mắt của Lý Mục tối đi, hầu hết khẽ nhúc nhích, lập tức bước nhanh về phía nàng đi tới phía sau lưng nàng ngồi quỳ xuống, hai tay từ phía sau duỗi tới vòng lấy vòng eo của nàng, ôm lấy cơ thể của nàng vào trong lòng mình.

Bờ lưng mềm mại của Lạc Thần dán vào lồ ng ngực còn đang mặc chiến giáp của hắn.

Giáp sắt cứng và lạnh như băng khiến cho cơ thể nàng khẽ run rẩy lên.

Lý Mục từ phía sau ôm chặt lấy nàng, chôn cả khuôn mặt mình vào mái tóc tỏa hương thơm của nàng, không nhúc nhích.

Lạc Thần dường như ngửi thấy hơi thở nam tính mạnh mẽ trộn lẫn với sắt và máu nhuộm trên chiến trường từ người đàn ông phía sau nàng.

Lông mi run run, nàng chậm rãi nhắm mắt lại, tựa như chiếc cổ ngọc mảnh khảnh không còn cách nào chống đỡ đầu, nàng mềm nhũn dựa vào bờ vai rộng lớn của người đàn ông phía sau, hai tay cũng yếu ớt vô lực buông thõng xuống, chiếc gương trượt xuống dưới dọc theo tà váy mềm nhẹ như mấy bao phủ lấy chân nàng rơi xuống đất.

Lý Mục cứ như vậy ôm nàng, không nói lời nào, cũng không có bất kỳ động tác nào khác, thời gian như ngừng trôi. Hồi lâu sau, hắn mới chậm rãi thả nàng ra, hoàn toàn xoay người nàng lại, để cô gái nhỏ xinh ngồi lên trên đùi mình, mặt hướng về mình, ánh mắt không hề che giấu d*c vọng mãnh liệt và tham lam của mình nhìn vào nàng.

Hắn còn chưa làm gì cả, chỉ ôm nàng như vậy, giờ phút này, dưới ánh mắt đăm đắm đó của hắn, gò má của Lạc Thần dần dần phủ lên một lớp ửng đỏ, hơi thở dần dần trở nên dồn dập, bộ ng ực cũng hơi phập phồng.

Nàng đột nhiên nhớ ra trên môi mình chỉ có một chút dầu, vừa rồi còn chưa tô đều lên thì hắn đã về tới. Nàng xấu hổ không thôi, vội đưa tay lên che miệng, không cho hắn xem, cúi xuống tìm cái gương vừa rồi mình làm xơi xuống, tay nàng lại bị hắn bắt được.

Ánh mắt của Lý Mục dừng ở trên cánh môi nàng, cúi đầu xuống, gương mặt từ từ kề sát tới mặt nàng, dùng giọng khàn khàn trầm thấp nói:

– Để ta ăn nó cho nàng nhé…

Còn chưa nói xong, liền ngậm lấy môi nàng.

Hết chương 129
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 130


Nước từ từ khuếch tán và mặt đất trở nên ẩm ướt.

Chiến bào đã được cởi ra để bên cạnh.

Ngọn nến nhảy nhót, bao phủ đống quần áo sắt lạnh lẽo bằng một tầng ánh sáng ấm áp ướt át, bên dưới là một chiếc váy màu tím khói nhàu nhĩ, một góc mây trên váy là một mảnh áo giáp sắt móc vào, còn quần áo váy sắt xộc xệch vướng víu.

Hồi lâu sau, tiếng thở hổn hển của người đàn ông xen lẫn với tiếng kêu r3n rỉ kiều mị của cô gái cuối cùng cũng dần lắng xuống.

Lý Mục lau khô người nàng rồi bế nàng trở lại giường, đang định đi lấy quần áo của mình, Lạc Thần bảo hắn ngồi xuống, tự đứng dậy lấy một bộ quần áo sạch đã sớm chuẩn bị cho hắn, trở lại quỳ xuống ngồi cạnh hắn, mặc vào người cho hắn.

Ban ngày, trong mắt người đời, hắn là Đại Tư Mã, là người đàn ông quyền thế nhất trong đất nước này.

Hắn còn là vinh quang của Nam Triều, độc nhất vô nhị. Danh vọng của hắn giống như quyền thế của hắn, đều được người đời tôn thờ kính ngưỡng.

Nhưng giờ phút này, khi mà hắn cởi bỏ lớp chiến giáp kia, lộ ra một mặt khác của hắn mà không ai biết, cũng chỉ có nàng biết được, đằng sau danh vọng và quyền lực chói lọi, trên người hắn chính là những vết sẹo ngang dọc chằng chịt.

Những vết sẹo lớn nhỏ lưu lại trên người hắn từ khi hắn còn là một cậu bé giống như chứng tích, chứng kiến ​hắn đã vượt qua núi thây và biển máu như thế nào, cuối cùng đi đến được như ngày hôm nay.

Vừa rồi nàng không nhìn thấy, đến bây giờ khi mặc quần áo cho hắn, nàng mới phát hiện trên lưng hắn có một vết thương mới.

Ánh mắt của nàng lập tức trở nên xót xa vô ngần.

Một vết thương rất dài gần như là kéo từ đầu vai cho đến tận eo, giống như một con rết dữ tợn lẳng lặng nằm vắt ngang ở trên lưng hắn.

Vết thương này kh ủng bố ghê rợn tới mức bất cứ ai nhìn thấy cũng đều không thể nào quên được.

Khoảnh khắc lọt vào mắt nàng, trong một khoảnh khắc ngắn ngủi như vậy, nàng lại sinh ra một cảm giác vô cùng quen thuộc dường như mình đã nhìn thấy ở đâu đó rồi và ở nơi nào đó rồi.

Nhưng mà còn chưa kịp nghĩ ra thì nàng lại bị những gì mình nhìn thấy trước mắt đã thu hút sự chú ý của nàng.

Nàng dừng động tác hầu hạ hắn mặc quần áo, quỳ xuống bên cạnh hắn, ánh mắt dán chặt vào vết sẹo gớm ghiếc trên lưng mà vết khâu còn chưa hoàn toàn mờ hẳn của hắn, đã không còn ngây ngốc như trước đây hỏi hắn có đau không nữa.

Làm sao có thể không đau được cơ chứ?

Không có tấm áo giáp cứng rắn kia, hắn chỉ là một phàm nhân bằng xương bằng thịt mà thôi.

Lý Mục dường như cảm nhận được, quay đầu lại, thấy ánh mắt của nàng dừng ở trên lưng mình thì hiểu ra ngay.

Ánh mắt nàng nhìn hắn vô cùng quen thuộc như thế, khiến cho trước mắt hắn bỗng nhiên lại hiện lên hồi ức đêm tân hôn tràn ngập màu máu giữa hắn và nàng ở kiếp trước kia.

Hắn không lộ ra loại cảm giác khiến hắn hơi chút khó chịu vào lúc này ở trước mặt nàng, chỉ hơi mỉm cười giải thích với nàng:

– Đã không còn đau nữa rồi. Là vết thương lúc mà mới tách ra với nàng không lâu thì đụng phải người Tiên Bi ở Lũng Tây đó. Tại ta hơi sơ ý, cứ nghĩ kẻ đó đã chết rồi, thực ra còn chưa chết hẳn, gã bò ra từ đống xác chết chém vào lưng ta một đao. May mà ta có áo giáp bảo vệ, vết thương cũng không mấy sâu, chỉ hơi dài chút thôi, nhìn hơi ghê chút thôi, nó lành rất nhanh, nàng đừng sợ…

Giọng của hắn dần dần thấp xuống rồi cuối cùng dừng lại, nhìn bàn tay mềm mại của nàng đang nhẹ nhàng chậm rãi duỗi về phía mình, dùng đầu ngón tay chạm vào vết sẹo trên lưng hắn, đầu ngón tay vuốt lên nhè nhẹ, rồi sau đó cả người nhích sát lại gần hắn, cúi xuống đặt đôi môi nhẹ nhàng dán lên đó, hôn hắn, dọc theo vết sẹo xấu xí kia từ bờ vai hắn giống như tôn thờ một đường hôn xuống dưới.

Đôi môi và nụ hôn của nàng tràn đầy tình yêu và lòng trắc ẩn, như thể nàng sợ rằng nếu nàng hơi dùng sức chút thôi thì sẽ làm đau hắn.  

Lý Mục cúi đầu nhìn nàng, ánh mắt kiên định.

Kiếp này, hắn vẫn như cũ không cưỡng lại được ý nghĩ muốn nàng, cưới nàng sớm hơn rồi rời xa triều đình, muốn dùng một phương thức khác để thực hiện tâm nguyện chưa thành của mình.

Thoạt nhìn, ban đầu tất cả mọi thứ dường như cũng không khác gì so với kiếp trước. Nhưng mà toàn bộ ở trước mắt này lại khiến cho Lý Mục có một cảm giác càng lúc càng vô cùng quen thuộc. Hắn cảm thấy mình vẫn đang lặp lại con đường mà kiếp trước hắn từng trải qua.

Chẳng qua là hiện giờ đã thay đổi bằng một phương thức khác, và trăm sông lại đổ về một biển.

Dương Tuyên cuối cùng vẫn chết.

Hắn cuối cùng vẫn trở thành Đại Tư Mã.

Ngay cả vết sẹo do đao chém ở sau lưng cũng bất ngờ đến mức người ta không kịp trở tay – khi mà hắn ý thức được điểm này, nó đã từng ở trên người hắn, cả đời cũng không thể nào xóa được, làm bạn với hắn đi theo hắn cho đến khi chết.

Hắn không sợ bất kể kẻ địch nào ở trên đời này.

Dù là kẻ địch có mạnh đến đâu, hắn cũng có thể đánh bại nó.

Nhưng số phận, loại cảm giác bất lực rõ ràng là hắn đã biết tất cả và cố gắng trốn tránh nó, nhưng số mệnh lại dường như chính là điểm kết thúc, đứng chờ ở phía trước, không ai có thể tránh thoát được, chỉ biết trơ mắt bị đẩy chạy về hướng nó, mới là kẻ địch gặm nhấm nhân tâm đáng sợ nhất.

Trong khoảng thời gian ngày, không thể phủ nhận, cái chết của Dương Tuyên đã khiến cho tâm tình của hắn chán nản tột độ, không thể nào tiêu tan được.

Hắn đau lòng vì mất đi người bạn cũ này, cũng rơi vào một cảm giác hoảng hốt nghi ngờ, rằng có lẽ vận mệnh thật sự không thể nghịch chuyển được. Dẫu cho hắn có được nàng, nhưng cuối cùng vẫn sẽ mất đi nàng.

Đâu chỉ mỗi một Dương Tuyên. Con người trên đời này, khi hoàn toàn cuốn vào dòng nước xoáy của vận mệnh, nào có thể khẳng định mình nhất định sẽ thoát ra được?

Những ngày này, trên đường về, hắn háo hức và mong mỏi được nhìn thấy mặt nàng. Có lẽ, chỉ có ở bên nàng và được ôm chặt nàng vào trong vòng tay, hoàn toàn chiếm hữu nàng, cảm nhận được sự ấm áp và chân thật của chính nàng, trái tim không có nơi dựa vào của hắn mới có thể bình ổn trở lại.

Nàng hãy còn đang tỉ mỉ hôn lên vết sẹo trên lưng hắn, vết sẹo mà hắn ghét cay ghét đắng kia, nó dường như là minh chứng rõ ràng cho hắn thấy kiếp trước nối với kiếp này.

Nàng càng thương xót cho nó, nỗi lòng của hắn càng bị áp lực và chán nản.

Tuy nhiên, cơ thể hắn lại rất thành thật như thế, tình yêu xuất phát từ chính tình yêu và sự trân trọng của nàng dành cho hắn. Trên từng tấc da thịt bị thương được đôi môi và đầu ngón tay nhẹ nhàng của nàng tôn thờ và vuốt v e dịu dàng, lỗ chân lông đột nhiên dựng đứng lên.

Lý Mục theo đó bị khuất phục.

Một luồng kh0ái cảm không thể diễn tả trào ra, như thể đến từ nơi sâu nhất trong cơ thể mang theo cảm giác kh0ái cảm mãnh liệt, ôm lấy toàn thân hắn thật sâu. Trong mắt hắn hiện lên tia sáng kỳ dị, hô hấp lại trở nên gấp gáp, khí huyết dưới thân nhanh chóng nóng lên, giống như lò lửa, thiêu đốt từng tấc da thịt, kinh mạch trong cơ thể hắn.

Hắn vừa mới muốn nàng một lần rồi. Tuy nhiên như thế còn xa mới đủ, vĩnh viễn không đủ.

Trong đầu hắn đột nhiên trống rỗng, không muốn nghĩ gì nữa. Hắn chỉ muốn ở bên nàng, không bao giờ xa nhau nữa.

– Lang quân ơi, chàng sao…

Lạc Thần cuối cùng cũng cảm nhận được sự khác thường của hắn mà dừng lại, ngước mặt lên nhỏ nhẹ hỏi hắn. Đôi mắt sáng trong nhìn hắn chăm chú, trong mắt mang theo sự lo lắng và không hiểu. Nàng vẫn ngồi quỳ bên cạnh hắn, áo khoác hờ hững trên vai không che được làn da trắng như ngọc dưới lớp áo.

Lý Mục xoay người, gần như là xông về phía nàng.

……

Khi cuộc yêu này cuối cùng cũng dừng lại. Lạc Thần cả người đẫm mồ hôi, bị đè dưới cơ thể nặng nề của hắn, ép tới mức khó thở. Nhưng tứ chi và xương cốt dường như được nước suối nóng gột rửa, nàng chìm trong đó, bồng bềnh trên đó, thong thả đung đưa, thoải mái vô cùng.

Một lúc lâu sau, nàng khẽ nhúc nhích, mở mắt ra, duỗi cánh tay nhưng không đẩy người đàn ông vẫn đang đè lên người mình ra mà nhẹ nhàng ôm lấy cổ hắn, áp môi vào tai hắn, nhẹ nhàng nói:

– Lang quân ơi, chàng có tâm sự phải không?

Lý Mục chậm rãi ngẩng mặt lên khỏi mái tóc dày như mây của nàng, nhìn nàng ở phía dưới cơ thể mình một lúc, hôn lên đôi môi đỏ mọng ẩm ướt của nàng rồi mới  lật người rời khỏi người nàng, nhắm mắt lại nói:

– A Di, ta muốn từ chức Đại Tư Mã, nàng có bằng lòng không?

Lạc Thần vô cùng bất ngờ.

Vị trí Đại Tư Mã đã bị triều đình bỏ trống hàng chục năm nay, hiện tại hắn ghi công mà ngồi lên vị trí đó, là danh xứng với thực.  

Theo nàng được biết, trong buổi triều kiến ​​ngày mai, triều đình sẽ chính thức phong kim ấn tím thụ cho hắn. Như vậy thì, hắn danh xứng với thực là đại thần địa vị cao đầu tiên kể từ khi Đại Ngu vượt qua phía Nam đến nay có được.

Từ cấp bậc quan mà nói, Đại Tư mã thậm chí còn cao hơn cả chức vị Thượng Thư lệnh của phụ thân.

Nàng không hiểu ngày mai thụ phong rồi mà hắn lại có suy nghĩ như thế.

Nàng bò dậy nằm lên trên ngực hắn, hai tay chống cằm, hỏi:

– Lang quân ơi, vì sao chàng không muốn làm Đại Tư Mã vậy ạ?

Lý Mục không trả lời nàng ngay.

Hai người bốn mắt nhìn nhau, Lạc Thần nhìn vào mắt hắn, đột nhiên như đã hiểu ra.

Hắn từng nói với nàng, hắn không thích tòa kinh thành này.

Thái độ của hắn đối với triều đình này hiển nhiên là khác biệt hoàn toàn với quan viên khác trong triều đình cũng bao gồm cả phụ thân nàng nữa.

Từ lúc bắt đầu đến bây giờ, đối với triều đình này, dường như hắn chưa bao giờ có cảm giác thuộc về, mặc dù điều này không ngăn cản hắn sẵn sàng vượt ngàn dặm mang quân từ Trường An trở về giải vây cho triều đình khi gặp khó khăn lâm vào khủng hoảng.

Ở trong mắt người khác, chức vị Đại Tư mã kia chí cao vô thượng, thậm chí cầu còn không được. Nhưng Lạc Thần biết, trượng phu của mình khác với những người khác.

Về điểm này, ngay từ lúc ban đầu hắn cự tuyệt sự dìu dắt của phụ thân mình mang theo hai ngàn binh lính đi Nghĩa Thành khai hoang, Lạc Thần nhìn là hiểu.

– Thiếp biết rồi ạ!

Nàng gật đầu ngay tắp lự.

– Nếu như chàng không muốn, chúng ta không làm Đại Tư Mã nữa. Một chức vị Đại Tư mã thôi mà, có gì hay ho đâu.

Nàng còn bổ sung một câu nhấn mạnh thêm.

Lý Mục nhìn nàng chăm chú, trong mắt dần dần hiện lên ý cười.

Hắn vuốt tóc nàng, nói:

– Ta thật sự không muốn có nhiều ràng buộc với triều đình. Làm một ngoại thần với ta mà nói thế là đủ rồi.

Lạc Thần gật đầu:

– Thiếp nghe theo chàng hết ạ.

Nàng suy nghĩ một chút.

– Nhưng ngày mai triều đình phong hàm cho chàng rồi. Hay là chúng ta đi tìm cha đi, nói cho cha biết suy nghĩ của chàng, chỉ cần cha gật đầu là được.

Lý Mục mỉm cười gật đầu.

Nếu như Lạc Thần đã biết rõ những suy nghĩ trong lòng Lý Mục, nàng còn sốt ruột hơn cả hắn.

Buổi tối Lý Mục trở về sớm, lúc này vẫn chưa phải là quá muộn, nàng nghĩ mấy ngày này phụ thân luôn ngủ muộn, mình có khuyên nhưng cha cũng không nghe, liền đứng dậy cho người đi xem cha đã ngủ hay chưa.

Một lát sau được bẩm báo cho biết, nói thư phòng của đại gia vẫn còn sáng đèn.

Lạc Thần và Lý Mục mặc quần áo tươm tất, sửa sang lại đang hoàng rồi ra khỏi phòng, cùng đi đến thư phòng của Cao Kiệu.

Hết chương 130
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 131


Hai người đi đến trước cửa đình viện nơi có thư phòng của Cao Kiệu, dừng lại.

Cây cối mùa hè trong sân rậm rạp, ánh sáng lờ mờ phản chiếu trên cửa sổ, bóng cây trên mái hiên lốm đốm, thể hiện sự cô đơn của màn đêm.

Cao Kiệu đứng ở bậc thang cuối cùng, quay lưng về phía Lý Mục và Lạc Thần, hai tay chắp sau lưng, đầu hơi ngẩng lên, giống như đang nhìn vầng trăng trung thu trên đỉnh đầu, bóng lưng gầy gò cô đơn.

– Các con tới rồi à?

Ông quay đầu lại nhìn thấy Lý Mục và Lạc Thần đang đứng ở bên ngoài đình viện, gật đầu với hai người, sau đó xoay người đi về hướng thư phòng.

Lý Mục và Lạc Thần nhìn nhau rồi đi theo ông.

Cao Kiệu ngồi sau án, vặn sáng ngọn đèn đầu lên.

Ánh sáng ban đầu lờ mờ trong thư phòng làm việc đột nhiên trở nên sáng sủa hơn rất nhiều.

Lạc Thần vừa bước vào liền phát hiện phòng làm việc của cha mình có chút khác với ngày thường.

Trong khoảng thời gian ngày phụ thân vẫn luôn bị ốm, cũng không lên triều, nhưng ở trong nhà lại không chịu nghỉ ngơi. Phần lớn thời gian ông đều ở một mình trong thư phòng vùi đầu vào đống công văn không chịu ra ngoài nửa bước, đèn dầu thường sáng đến nửa đêm, không lúc nào là được nhàn hạ.

Mỗi khi nàng đi vào thư phòng bầu bạn với ông thường thấy phần lớn hồ sơ mà ông xử lý đều là những hồ sơ cũ chưa hoàn thành trong nhiều năm, liên quan đến các khía cạnh khác nhau, vì là chuyện cũ nên ông không vội, nàng thường khuyên ông buông tay đi nghỉ ngơi, ông miệng thì ừ à đồng ý nhưng vẫn chẳng bao giờ chịu dừng.

Ngày cả ngày đại điển khao quân hôm nay ông cũng không tham gia.

Chạng vạng Lạc Thần có mang thuốc đến cho ông uống, nhìn thấy trên bàn vẫn còn chất đầy các loại hồ sơ công văn. Thế nhưng lúc này trên bàn lại sạch sẽ gọn gàng, không có gì cả. Dưới đất thì có hai chiếc rương mây lớn đặt sẵn đó rồi.

Ông ngồi xuống nhìn Lý Mục và Lạc Thần, sắc mặt hơi chút tái nhợt, nhưng tinh thần nhìn còn rất tốt, biểu cảm ôn hòa, ra hiệu hai người ngồi xuống.

Lạc Thần ngập ngừng hỏi:

– Cha ơi, cha đã xử lý xong hết các việc rồi ạ?

Cao Kiệu hơi mỉm cười, gật đầu:

– Phải, đều xử lý xong hết rồi, cũng vừa thu dọn xong rồi, ngày mai gửi đến nha thự là xong.

Lạc Thần lại nhìn về mấy cái rương, lại nhìn phụ thân, trong lòng đột nhiên trào lên cảm giác buồn thương chua xót và lo lắng không thể diễn tả.

Cao Kiệu lại nhìn sang Lý Mục, hơi mỉm cười hỏi:

– Đã gần canh ba rồi, hai con còn không ngủ mà tìm cha có chuyện gì?

Lý Mục ngồi thẳng lên nhìn vào Cao Kiệu, cung kính nói:

– Đã muộn rồi mà bọn con còn đến quấy rầy cha, là có một việc muốn bẩm báo với cha ạ.

– Là chuyện gì?

– Chức vị Đại Tư Mã quá quyền cao chức trọng, cần người có phẩm chất nhiều mặt mới đảm đương được, mới có thể phục chúng được. Con xuất thân thấp hèn, không có phẩm chất gì, không dám đảm đương chức vị cao như thế. Vừa rồi con đã trao đổi với A Di, ngày mai triều hội con sẽ xin từ chối nhận chức. Con biết nhạc phụ đang ở thư phòng nên mới đến bẩm báo cha, muốn cha biết việc này trước ạ.

Nụ cười trên mặt Cao Kiệu dần dần biến mất, không nói gì cả, chỉ nhìn Lý Mục thật lâu.

Cha vợ con rể hai người nhìn nhau một lát, Cao Kiệu đột nhiên nói:

– Kính Thần à, con không thể từ chối nhận chức Đại Tư Mã kia được. Ngày mai tổ chức lễ ban ấn ban thụ, cha cũng sẽ lên triều, văn võ cả triều càng mong đợi hơn. Đại sự như thế, con không thể bởi vì khí phách nhất thời mà quyết định bừa bãi được.

– Cũng đã muộn rồi, ngày mai còn phải lên triều, hai con đi nghỉ đi.

Lạc Thần sốt cả ruột lên lập tức quỳ xuống:

– Cha ơi, quyết định của lang quân nhà con không phải là khí phách nhất thời đâu ạ. Chức vị Đại Tư mã cao quý như thế vinh dự như thế, nhưng cũng bởi vì quá vinh dự và cao quý cho nên người ngồi ở trên đó mỗi một hành động lời nói đều bị chú ý, bị nhiều trói buộc, đây không phải là điều lang quân mong muốn ạ. Vì sao cha không cho phép lang quân con từ chối ạ?

– A Di, cha hỏi con, theo ý của con với năng lực của Kính Thần, nó có thể đảm nhiệm chức vị Đại Tư mã không?

Lạc Thần do dự không đáp.

Đây là một vấn đề làm cho nàng khó mà trả lời được. Trong mắt nàng, Lý Mục đương nhiên là có thể đảm nhiệm được. Nhưng có thể đảm nhiệm và bằng lòng đảm nhiệm là hai việc khác nhau.

Chưa chờ nàng trả lời, Cao Kiệu đã nói tiếp.

– Trong lòng con biết rõ Kính Thần có thể đảm nhiệm. Cha cũng cho rằng như thế. Chức vị Đại Tư Mã ngoại nắm giữ quân sự, nội tham dự chính sự Thượng thư đài, chủ trì nắm giữ chức vị quan trọng, chính bởi vì quan trọng mà cha mới thận trọng không dám qua loa chút nào. Nhìn khắp triều đình, cha thật sự không thấy ngoài nó ra còn có ai có thể đảm nhiệm được.

– Trong lúc đất nước khó khăn như hiện nay, nếu người có tài mà không cầm quyền, con còn muốn nhìn triều đình tiếp tục bị bọn bất tài đó thống trị, mưa gió bấp bênh, nhân dân bất an hay sao?

Lạc Thần nghẹn lời không biết nói gì.

Cao Kiệu quay sang Lý Mục, nét mặt nghiêm trang.

– Kể từ khi triều đình xuôi Nam đến nay, đừng nói là Bắc phạt khôi phục lưỡng đô, mà ngay cả phía Nam sông lớn cũng không thấy yên bình. Những năm qua, những người ngồi trên miếu đường cao vời kia phần lớn đều dựa vào gia thế, người nào cũng mặc áo vàng tía, hưởng hết vinh hoa phú quý, nào có coi trọng công huân vinh quang của đất nước từ đâu mà có? Hoặc là bọn họ tầm thường hèn nhát, hoặc là bọn họ có tham vọng, lòng muông dạ thú. Gió thổi thanh bình, tích lũy theo ngày tháng, cho nên mới nuôi ra đại họa như hôm nay, nói cũng không hề quá, quốc gia này suýt nữa vì tất cả những người này mà bị sụp đổ…

Nhắc tới đại loạn gần như lan tràn đến nửa cả Nam Triều vừa mới kết thúc không lâu, cảm xúc của ông dường như vẫn bị kích động.

– Tuy hiện nay đã bình định được phản loạn, nhưng trong nước vẫn mang nỗi lo họa ngoại xâm không hề giảm bớt chút nào. Lúc mà con mang binh về cứu nạn. Mộ Dung thị tấn công người Hạ, Trung Nguyên hỗn chiến không ngừng, giống như một lò mổ. Con chắc cũng nghe đến rồi, trước đó không lâu, Mộ Dung thị đã công phá Lạc Dương. Ẩn nhẫn bao nhiêu năm, một khi lợi dụng hỗn loạn, khí thế sẽ chỉ càng hung mãnh hơn trước, hơn nữa với dã tâm và thủ đoạn của Mộ Dung gia tộc, làm sao chịu ngồi yên định cư ở Trung Nguyên? Tương lai một khi có cơ hội, bọn họ nhất định sẽ tính kế mà nam tiến.

– Người Yến như sói, Tiên Bi như hổ, cha chỉ sợ tai họa sau này càng sâu hơn.

Cao Kiệu chợt ho lên.

Lạc Thần vội xoa lưng cho phụ thân.

Co Kiệu đè nén cơn ho xuống, xua tay với con gái đang rất lo lắng cho mình, tiếp tục nói:

– Đối ngoại tuy không đơn giản dễ dàng, mà trong nước thì vẫn vô vàn những khó khăn. Mấy năm nay mưa gió không thuận, trước khi xảy ra đại loạn kho lúa các nơi vốn dĩ đã không còn tồn bao nhiêu lương thảo, mà Đông Nam cũng là một nguồn thu thuế quan trọng của triều đình, hằng năm thu không đủ chi, chỉ nỗ lực chống đỡ được công quỹ mà thôi, hiện tại bởi vì gặp phải loạn Thiên Sư giáo mà Giang Nam ngàn dặm hoang vu, dân sinh khó khăn, kho lúa của thiên hạ không thể tiếp tục duy trì được nữa, không tới một hai năm rất khó mà khôi phục lại được.

Ông nhìn thẳng vào mắt Lý Mục.

– Triều đình đã dốc hết sức để duy trì, sau lần đại loạn này mà đã tổn thương nguyên khí, bây giờ nếu không có người cầm trịch đứng ra chủ trì đại cục, vây thì làm sao ứng phó được loạn trong giặc ngoài đây?

– Khi tiên đế phong con làm Đại Tư mã, nhìn có vẻ như ông ta nhất thời xúc động, nhưng về sau khi cha nghĩ lại, thì thấy đó chưa chắc không phải là hành động sáng suốt nhất của ông ta từ lúc đăng cơ đến nay.

Ông hơi lắc đầu, bên môi hiện lên nụ cười khổ.

Giọng điệu của phụ thân làm cho Lạc Thần càng thêm bất an.

– Cha ơi, cha nói vậy là có ý gì ạ? Cha muốn đi đâu….

Nàng dừng lại.

Cao Kiệu lặng thinh rất lâu mới từ tốn nói:

– A Di, là cha vô năng, mấy chục năm quan to lộc hậu, không những chẳng làm nên trò trống gì mà cuối cùng còn khiến cho Nam Triều suýt nữa thì hủy vào trong tay cha. Ngay cả mẹ con mà cha cũng không thể bảo vệ được…

Giọng ông run nhè nhẹ, dừng lại. Một lát sau, mới lấy lại bình tĩnh tiếp tục nói:

– Ngoại không thể thu lại đất đã mất, nội không thể an dân bình loạn, về sau quốc gia và triều đình này sẽ giao cho người thật sự làm được việc, cha sẽ chỉ một lòng đi tìm mẹ con mà thôi.

Trong ký ức tuổi thơ của Lạc Thần, cha nàng một người đàn ông phi mi như họa, tu mục như miêu và vẻ ngoài tao nhã, phong thái phóng khoáng, giống như một vị tiên.

Về sau dần dần trên khuôn mặt ông nhiễm phong sương, giữa chân mày và ánh mắt không biết bắt đầu từ khi nào mà đã hằn lên dấu vết chữ Xuyên rất rõ, bởi vì quanh năm không giải quyết được nên sau đó nó không bao giờ biến mất.

Tối hôm nay, dưới ngọn đèn dầu, phụ thân trước mặt, Lạc Thần đã không còn nhìn thấy thần thái ngày xưa ở trong mắt ông nữa.

Mỗi khi nhắc tới mẫu thân, trong mắt phụ thân chỉ còn lại duy nhất là đau khổ, nhớ nhung và tự trách sâu sắc không thể nào tan đi được.

Lạc Thần cuối cùng đã hiểu, vì sao khi biết được loạn Thiên sư giáo và phản loạn Kinh Châu được bình định thì phụ thân đột nhiên trở nên khác thường như thế.

Ông đã bởi vì cái triều đình này mà dốc hết tâm huyết mấy chục năm, hiện tại ông muốn rời đi để đi tìm mẫu thân.

Nàng không kìm nén được nữa nghẹn ngào gọi “cha”, hai tay túm chặt lấy ống tay áo của ông, nước mắt tuôn trào như mưa.

Cao Kiệu vỗ nhẹ vào tay con gái như đang an ủi, sau đó chậm rãi quay đầu lại, nhìn Lý Mục vẫn im lặng từ đầu đến cuối.

– Kính Thần, cha cũng chỉ là một người bình thường, triều đình có cha hay không đều giống nhau, nhưng mà con thì lại khác. Nam Triều đã vỡ nát rồi, không thể nào chịu nổi một cuộc loạn Thiên Sư giáo hoặc phản loạn Hứa Tiết lần nữa. Triều đình cần con làm chức vị Đại Tư mã này, dân chúng cũng mong muốn được nhìn thấy triều đình có một vị Đại Tư mã như con. Nếu như con không làm, cha còn biết tin tưởng ai được nữa đây?

Lý Mục nói:

– Nếu như đất nước cần đến con, dù con đang ở ngàn dặm bên ngoài cũng sẽ dốc hết mình giúp đỡ. Nhưng mà chức vị Đại Tư mã này xin cha đừng làm con khó xử, con thật sự là không thể đảm đương nổi ạ.

Cao Kiệu lắc đầu.

– Con thượng vị, đó không phải là lựa chọn của cha, mà là thời thế lựa chọn. Sau khi cha đi rồi, Phùng Vệ sẽ thay chức vị của cha. Ông ta là người công bằng công chính, có thể chủ trì cục diện, nhưng mà ông ta cũng là người thuộc phái trung dung, nếu như quốc gia không gặp chuyện gì, ông ta làm một Tể tướng thái bình, nhưng Nam Triều lúc này chỉ dựa vào một mình ông ta thì không thể nào khởi động được.

– Kính Thần, ngoài con ra, không có ai có thể làm chủ cho Nam Triều được. Cha nói với con những điều nay không chỉ bởi vì nó là chuyện của con, mà còn bởi vì nó liên quan đến quốc sự, dân sự, lẽ nào con không biết?

Lý Mục khẽ chau mày lại:

– Làm việc cho nước cho dân, con không dám không nghe. Nhưng mà chức vị Đại Tư mã, thật sự không thể thiếu hay sao?

– Phải! Không thể thiếu được.

Cao Kiệu khẳng định chắc chắn.

– Năm xưa Đại Ngu ta được khai triều đặt móng, Võ Đế thiết lập Đại Tư mã làm công tước hàm cao nhất, địa vị cao hơn tất cả các chức quan, từ khi khai quốc tới nay, tổng cộng đã phong năm vị Đại Tư Mã. Công huân mà con lập nên so với năm người trước chỉ hơn chứ không kém. Chỉ có duy nhất một thứ không bằng chính là xuất thân mà con vừa nãy mới nói. Nếu không có chức quan Đại Tư mã, sau này con dùng gì để chấn nhiếp bách quan, để chính lệnh hiểu rõ, trên dưới làm theo?

– Bất tại kì vị, bất mưu kì chính. Ngược lại, muốn làm nên chuyện lớn cần phải danh chính ngôn thuận. Trong mấy năm ngắn ngủi con đã có được thành tựu như hôm nay, đạo lý này con nhất định hiểu, còn muốn cha nói thêm hay sao?

Lý Mục yên lặng không nói gì.

Cao Kiệu nhìn hắn rất lâu, đột nhiên đứng lên, chỉnh ống tay áo gọn lại, hướng về Lý Mục nghiêm trang hành lễ bái.

– Cao Kiệu ta thay mặt Nam Triều, thay mặt dân chúng, bái cầu với con!

Lạc Thần hoàn toàn hoảng sợ.

Lý Mục cũng giật mình vội vàng đứng sang một bên để tránh, rồi sải bước tới nâng Cao Kiệu đứng lên.

Cao Kiệu nắm chặt tay hắn.

– Kính Thần, thời kỳ phi thường, triều đình này, chỉ có con mới có thể vận hành được. Muôn vàn người Nam Triều đều đã biết con là Đại Tư Mã của triều đình, dân chúng kính trọng con, hôm nay cha dù không đi ngoại ô phía đông nhưng cũng biết. Con nỡ lòng nào phụ sự chờ mong và khát vọng của dân chúng đối với con ư!

Ông trịnh trọng nói.

Lý Mục biết, từ giây phút Cao Kiệu quỳ xuống trước mặt hắn, hắn đã không còn lựa chọn nào khác.

Hoặc là nói, thời gian là đi về phía trước chứ không phải quay lại.

Ở kiếp này, từ lúc hắn hao tổn tâm cơ cuối cùng đã cưới được cô gái ở trước mặt thì đã định sẵn rằng sẽ có một màn như ngày hôm nay.

Trong lòng hắn bối rối vô cùng, từ từ quay sang Lạc Thần, hai người nhìn nhau.

Cuối cùng, hắn thu ánh mắt về, nói:

– Hy vọng sau này con sẽ không làm cha thất vọng ạ.

…..

Canh năm ngày hôm sau, Lạc Thần dậy sớm hầu hạ Lý Mục mặc quần áo chuẩn bị lên triều.

Nàng giúp hắn mặc xong bào phục, cài đai lưng, đội biện quan, cuối cùng lúc thắt dây biện quan cho hắn, đột nhiên bị hắn ôm chặt vào trong lòng.

Tối hôm qua sau khi từ thư phòng của cha trở về, hắn cũng không nhắc tới chuyện đó trước mặt nàng nữa, vẻ mặt nhìn qua rất thoải mái, nhưng vào lúc này hắn lại có hành động này, có chút đột ngột.

Nàng chần chừ rồi thả tay xuống cùng vòng tay ôm lấy hắn.

Hai người cứ thế ôm nhau rất lâu, Lý Mục cúi xuống hôn lên trán nàng, buông nàng ra, xoay người mở cửa đi ra.

Hết chương 131
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 132


Bên ngoài cổng lớn của Cao phủ, một chiếc kiệu màu lam không có gì nổi bật lẳng lặng đậu ở đó, ngoại trừ hai dư phu ở phía trước và phía sau, chỉ có Cao Thất khoanh tay đứng đó.

Cao Kiệu trong triều phục mũ quan hai tay ôm khuê đã ngồi ngay ngắn trong dư từ sớm, thấy Lý Mục đi ra thì gật đầu về phía hắn, buông mành dư xuống, kiệu dư bắt đầu đi.

Lý Mục nhận lấy cương ngựa từ tay hạ nhân, xoay người lên ngựa, hơi tụt lùi lại phía sau.

Một dư một con ngựa dưới ánh ban mai mơ hồ tỏa ra ánh sáng lam nhạt, bọn họ đi về phương hướng cung Kiến Khang.

Lạc Thần đứng sau cánh cửa, nhìn bóng lưng của người ngồi trên lưng ngựa và người ngồi trên dư dần dần biến mất trong ánh nắng bai mai tranh tối tranh sáng, ngước mắt lên nhìn về phương hướng cung thành cao lớn hùng vĩ sừng sững nơi xa xa kia.

Từ lúc nàng bắt đầu nhớ được, nơi đó, nàng đã ra vào không biết bao nhiêu lần rồi, quen thuộc đến mức thậm chí nhắm mắt lại cũng sẽ không bị lạc ở trong đó. Nhưng trên thực tế, nếu như nghĩ về nó một cách cẩn thận, nơi đó chẳng phải giống như một ảo ảnh giữa những đám mây, hư vô mờ mịt và không thể tiếp cận hay sao?

Trong tòa cung thành được tạo nên từ vô số gian cung điện hoa lệ lộng lẫy đó, đã từng có không biết bao nhiêu lần quân thần triều hội rồi. Buổi triều hội ngày hôm nay chẳng qua cũng chỉ là một trong vô số những lần đó mà thôi. Có điều bởi vì một người tên là Lý Mục mà ngày hôm nay đã định trước rằng sẽ trở thành một buổi triều hội đặc biệt nhất.

Ai có thể tưởng tượng được, một võ tướng hàn môn trước kia ngay cả một cái tên cũng không ai biết đến mà nay lại có thể đạp mây tiến thẳng lên trên lấy được thân phận Đại Tư mã vượt lên bách quan, nắm quyền hành lệnh, uy nghi hiển hách, từ ngay về sau dưới một người trên vạn người.

Lạc Thần không thể tận mắt chứng kiến ​​cuộc triều hội này, nhưng nàng có thể tưởng tượng ra cảnh tượng đó, trong điện Kim Loan, bách quan đứng trang nghiêm, Lý Mục kim quan chu y đứng dưới bệ đài nhận ấn tín và dây đeo triện, cảnh tượng đó vinh quang hiển hách bực nào.

Trong vô số ánh mắt sau lưng hắn, ngoại trừ kính sợ và hâm mộ ra, nhất định còn có không ít ánh âm u tràn ngập ghen ghét cùng bất mãn.

Đây là một thắng lợi của hàn môn, và cũng là sỉ nhục của thế gia.

Nàng thậm chí có thể tưởng tượng, khi phụ thân của nàng, người đứng đầu triều đình nhiều năm ngay sau đó đưa đơn từ chức do mình viết ra, miệng nói ra câu quy ẩn do bệnh tật, văn võ cả triều từ bệ hạ cho đến những người bên dưới đều bị chấn động giật mình như thế nào.

Đêm đó, màn đêm vừa mới buông xuống, một chiếc long xa dưới sự hộ tống của nghi trượng đã dừng ở trước cổng lớn Cao phủ.

Thái hậu Cao Ung Dung mang theo ấu đế ra khỏi cung đi đến Cao phủ thăm hỏi Cao Kiệu.

Lý Mục còn ở bên ngoài chưa về.

Cao Kiệu bãi triều trở về nhà đi vào thư phòng, cánh cửa kia vẫn luôn đóng chặt, được biết Thái hậu và ấu đế giá lâm thì cũng chưa hề xuất hiện.

Lạc Thần và người nhà quỳ trước tiền đường nghênh đón loan giá.

Cao Ung Dung mỉ cười hàn huyên với Lạc Thần.

Lạc Thần nhìn ra được tuy rằng đã bị che giấu nhưng khi trò chuyện đường tỷ vẫn luôn bị mất tập trung. Nàng biết, trong mắt đường tỷ và văn võ đại thần, sự từ chức của phụ thân nàng tới quá đột ngột.

Hai người trò chuyện mấy câu, Cao Ung Dung liền hỏi về sức khỏe của Cao Kiệu.

Lạc Thần dẫn chị ta và ấu đế đi đến thư phòng, tới trước cửa phòng nhẹ nhàng gõ cửa, cửa được mở ra.

Cao Kiệu đứng sau cánh cửa, đội mão quan cùng áo bào xanh, ống tay rộng thùng thình, khuôn mặt gầy gò, vẻ mặt nghiêm túc nhìn Cao Ung Dung cùng ấu đế, bóng dáng không nhúc nhích, chờ chị ta dắt tay ấu đế đến trước mặt mình thì mới lui về sau một bước, quỳ xuống nói:

– Bệ hạ và thái hậu đến hàn xá, Cao Kiệu không thể ra đón, mong được thứ tội cho.

Cao Ung Dung hơi đẩy bả vai ấu đế.

Ấu đế mới hơn bốn tuổi, chưa đi học nhưng cũng cực kỳ thông minh.

Năm ngoái trước sự đại loạn của đất nước, Cao Ung Dung từng ra sức cầu xin Cao Kiệu đảm nhiệm chức vị thái phó thái tử. Lạc Thần cũng biết phụ thân từng muốn chờ thái tử lớn chút nữa thì sẽ dạy dỗ cậu bé đọc sách. Không ngờ tới về sau loạn Thiên sư giáo và phản loạn Hứa Tiết liên tục xảy ra, đất nước không có ngày yên bình, việc này liền được gác lại cho tới hôm nay.

Cậu bé ghi nhớ lời dặn dò của mẫu thân, đi tới trước mặt Cao Kiệu đưa tay ra túm lấy góc áo của ông, nói rất rõ ràng:

– Ngoại tổ phụ mau khỏe lên đi ạ, đừng để Đăng Nhi phải lo…

Nom Cao Kiệu ngẩng lên như muốn nói, Cao Ung Dung đã giành lấy nói trước:

– Xin bá phụ đứng lên đã ạ. Ngày hôm nay cháu dẫn theo Đăng Nhi về nhà thăm người thân thăm trưởng bối, cầu xin bá phụ đừng dùng lễ quỳ lạy trong triều đình ở trong nhà ạ. Nếu làm thế là quá khách sáo, như vậy là không coi cháu và Đăng Nhi là người nhà rồi ạ.

Cao Kiệu không nói gì nữa, chậm rãi đứng lên, khoanh chân ngồi giữa một chiếc trường kỷ hình vuông.

Lạc Thần dẫn Cao Ung Dung và ấu đế cũng ngồi xuống, hạ nhân mau chóng dâng trà lên, Lạc Thần vén tay áo ngồi quỳ một bên rót trà.

Cao Ung Dung hỏi thăm sức khỏe của Cao Kiệu, trong lời nói đầy sự quan tâm. Nghe Cao Kiệu nói sức khỏe mình không đáng lo ngại thì thở phào một hơi nhẹ nhõm, nói:

– Cháu đã muốn dẫn Đăng nhi đến thăm bá phụ rồi nhưng sự vụ quá nhiều, hơn nữa lại nghe nói bá phụ gần đây đóng cửa, cháu sợ quấy nhiều bá phụ đang tĩnh dưỡng nên vẫn chưa đến được. Ngày hôm nay về nhà, thấy bá phụ vẫn khỏe mạnh cháu cũng yên tâm. Cháu chỉ mong bá phụ chịu khó tĩnh dưỡng đừng suy nghĩ nhiều. Bá phụ an khang mới là phúc của Đại Ngu ta.

Cao Kiệu không tỏ ý kiến, ánh mắt dừng ở trên người ấu đế ngồi cạnh Cao Ung Dung, dường như nghĩ đến gì đó, thất thần.

Cao Ung Dung cảm nhận được ngay, vội nói:

– Đăng nhi tư chất bình thường, cũng bởi vì quá nhỏ nên chưa chính thức đi học, nhưng cháu cũng không dám lơi lỏng, bình thường mỗi khi có thời gian là cháu dạy dỗ nó một chút về Nghiêu Thuấn Vũ canh, về điển tích tiên hiền cổ thánh, hy vọng nó sau này sẽ trở thành minh quân. Cũng may Đăng nhi cũng khá chăm chỉ, chịu khó học hành, từ sau khi tiên đế ra đi, may mà cháu có Đăng nhi là nguồn an ủi duy nhất…

Dường như bị chính lời nói của mình gợi ra nỗi buồn, chị ta mắt đỏ hoe, cúi đầu lấy khăn lau nước mắt.

Cao Kiệu thu ánh mắt về, gật đầu:

– Ừm, trẻ nhỏ dễ dạy mà.

Cao Ung Dung ngừng khóc, hơi mỉm cười:

– Bá phụ quá khen rồi ạ. Năm ngoái khi tiên đế vẫn còn, tiên đế từng muốn mời phá phụ đảm nhiêm thái phó thái tử để dạy đỗ Đăng nhi. Không ngờ về sau quốc loạn, tiên đế bất hạnh băng hà, việc này đã phải gác lại. Hiện giờ quốc sự đã yên ổn, nhân cơ hội này cháu có một lời thỉnh cầu. Chờ bá phụ đã khỏe lên rồi, bá phụ có thể thu xếp thời gian làm thái phó cho Đăng nhi được không ạ? Bá phụ tài cao bát đẩu, học phú ngũ xa, Đăng Nhi chỉ cần học được một phần của bá phụ, sẽ rất có ích lợi trong tương lai đó ạ.

Cao Kiệu nhìn Cao Ung Dung rất lâu, không lên tiếng.

Bên trong thư phòng đột nhiên trở nên yên tĩnh, chỉ có thể nghe thấy tiếng bọt khí sủi bọt từ nước sôi trong ấm trà.

Bầu không khí đột nhiên trở nên khác thường.

Lạc Thần rót trà, nhẹ nhàng đưa đến trước mặt hai người.

Cao Kiệu cuối cùng mở miệng, nhấn mạnh từng chữ:

– Từ xưa, tài học quốc quân luôn đứng thứ hai, mà đức hạnh của quân vương mới là thứ nhất.

Giọng ông nghe rất nghiêm túc trang trọng.

Lạc Thần lặng lẽ nhìn phụ thân rồi lại nhìn đường tỷ.

Cao Ung Dung ngẩn người ra, có lẽ cũng không đoán được Cao Kiệu sẽ tiếp lời như thế, khựng người một chút ngay sau đó kịp phản ứng, cười lên:

– Bá phụ nói đúng ạ. Ý của cháu là Đăng nhi ngoài việc theo học từ bá phụ ra thì cũng cần bá phụ dạy nó đạo làm quân vương, làm người.

Chị ta ra hiệu cho ấu đế, muốn cậu bé hành lễ quỳ lạy giữa đệ tử với thầy dạy.

Đứa trẻ được mẹ dạy rất thông minh nên lập tức đứng dậy, đứng lên định hành lễ học trò với Cao Kiệu thì lại bị Cao Kiệu đỡ lấy.

Ông nở nụ cười, nhìn chăm chú vào cậu bé, ôn hòa bảo cậu bé ngồi trở lại, không cần phải hành lễ với mình, sau đó quay sang Cao Ung Dung.

– Độ tuổi này của bệ hạ như cây non bén rễ trong lòng đất, là cơ hội tốt để dạy dỗ. Kỵ cưng chiều phóng túng, cộng thêm trong việc học có thầy giỏi chỉ dẫn, sau này mới có thể trở thành một minh quân. Ta không thể đảm nhận vị trí này được. Lang Gia Nhan Côi tài học vượt xa ta, khi còn trẻ đã nổi tiếng lương thiện hiếu thảo quê nhà, có thể làm thầy của hoàng đế. Ngoài ra còn có Phùng Vệ, phẩm tính tài học cũng có thể đảm nhận. Ta đi rồi, cháu có thể mời họ làm thái phó. Ta tin rằng hai người họ sẽ tận tâm tận lực dạy dỗ bệ hạ.

Cao Ung Dung lặng thinh một lát, chợt quay sang Lạc Thần, mỉm cười nói:

– A Di, phiền muội dẫn Đăng nhi tạm thời ra ngoài một chút, được không?

Lạc Thần biết, việc tối nay chị ta đến gặp cha mình chắc chắn có liên quan đến đơn từ chức mà cha đã đệ trình vào ban ngày, vừa rồi đã nói nhiều như vậy, đã đến lúc vào vấn đề chính rồi.

Nàng nhìn phụ thân, thấy ông rất bình thản lạnh nhạt, nàng đáp lời, đứng lên dắt ấu đế đi ra khỏi thư phòng.

Chờ Lạc Thần đi rồi, Cao Ung Dung nói:

– Bá phụ, cháu cũng xin nói thẳng, tối nay cháu về nhà là để thăm hỏi bá phụ, cũng muốn cầu xin bá phụ có thể thu hồi lại đơn từ chức, về sau tiếp tục ở lại triều đình có được không ạ?

– Cháu biết đây là yêu cầu quá đáng. Bá phụ đến nay vẫn còn đau buồn vì cái chết của bá mẫu. Cháu cũng rất đau khổ. Nhưng người chết không thể sống lại. Bá phụ có lòng Bắc phạt, lại đang ở thời kỳ sung sức nhất, nên tiếp tục mở rộng kế hoạch vĩ đại này, mở ra chí lớn. Nếu như bá phụ cứ thế mà thoái ẩn, đó chẳng phải là tổn thất của triều đình Đại Ngu ta, với bá phụ lẽ nào không thấy tiếc nuối hay sao?

Chị ta dừng lại một chút.

– Hơn nữa, cháu cũng luôn coi bá phụ như cha như chú của mình, ở trước mặt bá phụ cháu cũng không dám giấu diếm. Sở dĩ cháu hy vọng bá phụ ở lại, ngoại trừ nguyên do vừa rồi cũng là vì Đăng Nhi…

Hai mắt chị ta dần dần đỏ hoe lên, giọng nghẹn ngào.

– Tiên đế bất hạnh đổ bệnh mà ra đi, Đăng nhi còn quá nhỏ tuổi, cháu lại là một người phụ nữ bình thường, cô nhi quả phụ, tình cảnh vốn đã rất khó khăn, loạn vừa mới dẹp xong, triều đình vẫn loạn trong giặc ngoài. Nếu như bá phụ cũng đi, sau này nếu có loạn cục tương tự, ai sẽ chủ trì đại cục, ai sẽ phụ tá ấu đế ạ? Cháu cầu xin bá phụ, xin bá phụ khi sức khỏe đã ổn định lấy đại cục làm trọng ở lại tiếp tục chủ trì triều chính. Đại Ngu không thể không có bá phụ được.

Cao Kiệu nói:

– Phùng Vệ thay ta xử lý nội tướng, Lý Mục là Đại Tư mã, hai người một chủ nội, một chủ ngoại. Ta cũng đã soạn xong danh sách quan viên có thể trọng dụng, hôm nay lúc đệ đơn từ chức thì cũng đã trình danh sách đó lên rồi. Sau này cháu lấy trọng trách thái hậu phụ tá ấu đế, có chuyện gì thì thảo luận bàn bạc với hai người đó, sử dụng thêm người trong danh sách, gạn đục khơi trong, dù là gặp phải chuyện gì cũng không lo không xử lý được, sao phải lo không có ai dựa vào?

Cao Ung Dung nói:

– Nhưng mà họ là họ khác không thể bằng bá phụ…

Cao Kiệu nói:

– Cháu không tin Lý Mục?

Cao Ung Dung ngây người, vội giải thích:

– Xin bá phụ đừng hiểu lầm ạ. Cháu sao không tin tưởng muội phu được ạ? Chỉ là bệ hạ còn quá nhỏ, cháu lại là phụ nữ, không hiểu về chuyện triều chính, cô nhi quả phụ khó tránh khỏi muốn mọi sự chu toàn hơn, cảnh giác hơn…

Cao Kiệu cười nhạt:

– Thái hậu không cần khiêm tốn. Lúc tiên đế còn sống, toàn bộ tấu chương của các đại thần trình lên thì có bảy đến tám mươi phần trăm đều là do thái hậu thay mặt tiên đế phê duyệt. Xử lý triều chính, thái hậu đã quá quen thuộc rồi. Hiện tại ngoại có Lý Mục, nội có Phùng Vệ, cháu chỉ cần theo khuôn phép cũ làm từng bước, làm tốt vai trò thái hậu, phụ tá ấu đế, ngày sau ấu đế trưởng thành tự mình chấp chính, cháu có gì mà không yên lòng?

Cao Ung Dung giật mình, sắc mặt tái mét nhìn Cao Kiệu, thấy ông đang nhìn thẳng vào mình, nét mặt lạnh nhạt.

Phản ứng đầu tiên của chị ta chính là phủ nhận hoàn toàn. Nhưng trong một giây phút ngắn ngủi, trong đầu lại hiện lên một vài suy nghĩ. Trước kia chị ta từng bắt chước bút tích thay thế hoàng đế phê duyệt tấu chương, chuyện này cực kỳ bí mật, chỉ có mấy thân tín biết được mà thôi. Chị ta không ngờ được rằng chuyện này lại bị Cao Kiệu biết được, nhưng bấy lâu nay vẫn không hề nhắc tới, thế nhưng vào lúc này thì làm như vô tình mà nói ra.

Chị ta mau chóng loại bỏ ý nghĩ phủ nhận, ổn định tinh thần, vội vàng giải thích:

– Mong bá phụ chớ hiểu lầm ạ. Cháu không phải cố tình đi vượt giới hạn đâu, mà là tiên đế thể nhược, những tấu chương đó không thể để chậm trễ được, tiên đế muốn cháu giúp ngài ấy, cháu không thể từ chối đành phải cố mà làm. Cháu xin thề, mỗi một tấu chương mà cháu phê duyệt đều đưa cho bệ hạ xem trước rồi mới chuyển lại cho các đại thần…

Trong khi giải thích, chị ta đã âm thầm nhanh chóng sàng lọc những người xung quanh mình, tự hỏi là ai đã phản bội mình.

Dường như Cao Kiệu đã đoán được suy nghĩ của chị ta, lạnh nhạt nói:

– Tiên đế đăng cơ không lâu đã lộ ra thái độ lười biếng, chẳng hề quan tâm tới chuyện triều chính, hằng đêm đều qua đêm tại hoàng gia Lâm Uyển, ham mê nữ sắc, nhưng mà tấu chương thì ngày ngày đều được phúc đáp rồi phát xuống dưới không bỏ sót cái nào. Mà cháu thì lại thường xuyên nói giúp tiên đế ở trước mặt ta.

– Có câu tốt quá hóa lốp. Ta đã đoán ra được từ lâu rồi.

Sau lưng Cao Ung Dung đã túa mồ hôi ướt đẫm, còn chưa kịp thở phào nhẹ nhõm, lại nghe thấy Cao Kiệu nói tiếp:

– A Dung, cháu từ lúc nhỏ đã thông minh cách thức làm việc đâu vào đấy, điều này vốn rất tốt. Về sau cháu lấy thân phận Vương phi vào Kiến Khang làm hoàng hậu và hiện tại trở thành thái hậu. Lấy địa vị hiện tại của cháu, làm việc ôm chút tâm cơ, dùng chút thủ đoạn, chỉ cần trong lòng có đại cục thì cũng không có gì đáng trách. Như chuyện vừa rồi, tuy là trái với phép tắc, nhưng về tình cảm có thể tha thứ được. Nhưng có một chuyện khác ta lại muốn hỏi cháu.

Ông nhìn thẳng vào Cao Ung Dung, giọng trở nên nghiêm khắc lên.

– Giữa cháu và Tân An Vương có phải trước kia có âm thầm qua lại đúng không? Đêm đó ông ta đã chết như thế nào? Ông ta vốn dĩ lợi dụng Thiệu thị thăm dò ta, để rồi sau đó trưởng công chúa về sau lại bị người phụ nữ đó làm hại, cháu dám nói cháu trước đây không biết Thiệu thị và không hề liên quan đến việc này không?

Nếu như nói vừa rồi Cao Kiệu bóc trần mình thay mặt tiên đế phê duyệt tấu chương chỉ là việc nhỏ, vậy thì vào lúc này nghe những lời chất vấn thẳng thừng ra như thế của ông, một cơn ớn lạnh từ trong xương cốt trong nháy mắt lan tràn ra khắp người chị ta.

Chị ta rùng mình một cái.

Chị ta sẽ không thừa nhận, nhưng cũng sẽ không lập tức phủ nhận.

Chị ta không biết Cao Kiệu nói ra những lời này thì có chứng cứ gì hay không, hay là cũng giống như vừa rồi chỉ là sự ngờ vực vô căn cứ mà ông dựa vào một vài dấu vết để suy đoán ra mà thôi?

Hết chương 132
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 133


Cao Ung Dung giọng run run nói:

– Bá phụ, cháu không biết bá phụ nói vậy là có ý gì, cháu đã làm gì không đúng đến mức làm cho bá phụ lại hiểu lầm đến mức độ này?

– Đêm đó Tân An vương sự việc thất bại mà vào cung bức vua thoái vị, theo ta được biết trong thời gian này bệ hạ thường ngủ lại ngự hoa viên, huống chi là hắn? Hắn đã ôm lòng bức vua thoái vị, dù là lấy được ấn tín của bệ hạ bắt ép Túc Vệ quân nghe theo lệnh của mình, tại sao hắn không nghĩ đến ngộ nhỡ bệ hạ đêm đó nghỉ ở Lâm Uyển bất cứ lúc nào cũng có thể phái người kịp thời chạy đến chứ? Bằng không, nếu như bệ hạ có mặt, hắn dù có được ấn tín thì có tác dụng gì? Lúc ta chạy đến hoàng cung thì cháu đang bị thương nặng, hắn thì đã chết, có thể thấy được xung đột lúc đó rất kịch liệt, mà người phái đi Lâm Uyển giải cứu bệ hạ trở về lại nói chỗ Lâm Uyển không có động tĩnh gì, bệ hạ cũng do gặp người của ta phái đi thì mới biết được trong cung xảy ra chuyện lớn như thế.

Ông nhìn sắc mặt Cao Ung Dung dần dần tái nhợt như tờ giấy.

– Điều này không hợp lý một chút nào cả. Tiêu Đạo Thừa đêm đó đã quyết định bí quá hóa liều bức vua thoái vị, thậm chí còn dám động đao với hoàng hậu đương triều, lúc đó sự việc phát sinh đột ngột, một bước quan trọng như thế hắn không thể nào không đề phòng được.

– Ngay lúc đó ta đã thấy kỳ lạ rồi, nhưng nghe cháu giải thích nghe qua cũng không có sơ hở, ta cũng không nghĩ sâu hơn. Hiện tại ta nhớ lại, cùng với hành động lúc đó của hắn, thoạt nhìn càng giống như lúc hắn mới vào cung còn chưa quyết định cá chết lưới rách với Tiêu thất.

– Bệ hạ không ở trong cung, mà khéo làm sao đêm đó hắn lại chết ở trước mặt cháu!

– Thái hậu!

Cao Kiệu bỗng quát lên, hai mắt nhìn chòng chọc vào Cao Ung Dung, giọng cực kỳ nghiêm khắc.

– Khi đêm xuống hắn vào cung, ban đầu đã thương nghị đối sách gì với cháu?

– Có phải hắn đã bị cháu gi3t chết không?

– Cháu giết hắn, có phải bởi vì trước đó đã cấu kết với hắn đã làm những chuyện mà sợ ta biết được có đúng không?

Liên tiếp ba câu chất vấn làm cho Cao Ung Dung hoảng sợ tột độ. Đêm hôm đó, sau khi biết được Tiêu Đạo Thừa đã bị lộ bộ mặt thật trước mặt Cao Kiệu, lại sợ mình bị liên lụy bị khơi ra, chị ta đã nhanh chóng quyết định trừ khử Tiêu Đạo Thừa.

Chị ta tự nghĩ đêm đó mình đã xử lý mọi chuyện sạch sẽ, tuyệt đối sẽ không để lại manh mối nào có thể khiến Cao Kiệu nghi ngờ chứ đừng nói đến lấy được chứng cứ hay nhược điểm của mình.

Đã lâu như vậy, chị ta vốn tưởng rằng chuyện xảy ra đêm đó sẽ vĩnh viễn như đá chìm sâu dưới đáy biển, đời này ngoại trừ mình ra thì sẽ không ai biết. Hiện tại chị ta lại không nghĩ tới, bởi vì một vài sơ hở ngày đó Tiêu Đạo Thừa để lại sẽ khơi dậy sự nghi ngờ của Cao Kiệu, khiến cho ông biết chân tướng của sự việc.

Nhưng mà trong bất hạnh vẫn có may mắn, thoạt nhìn dường như Cao Kiệu vẫn chưa nắm được chứng cứ xác thực, tất cả những điều vừa rồi cũng chỉ là ông dựa vào một vài cử chỉ khác thường của Tiêu Đạo Thừa mà đưa ra suy đoán mà thôi.

Nhưng dù là vậy, dưới ánh mắt sắc bén như dưỡi đao của Cao Kiệu, sắc mặt Cao Ung Dung vẫn trắng bệch gần như không còn chút huyết sắc nào.

Chị ta sững người một lúc, rồi đột nhiên quỳ xuống, đi bằng đầu gối đến trước mặt Cao Kiệu.

– Bá phụ, chuyện đến lúc này rồi, cháu cũng không dám giấu nữa. Bá phụ đoán đúng. Cháu và Tiêu Đạo Thừa đúng là luôn âm thầm qua lại. Thực ra không chỉ hiện tại mà trước khi cháu xuất giá thì đã quen biết hắn rồi. Cháu hận lúc đó mình không hiểu chuyện, bị hắn ức hiếp, sau khi xuất giá chưa được mấy năm yên ổn trời xui đất khiến lại theo tiên đế trở về Kiến Khang. Cháu trở về không lâu Tiêu Đạo Thừa lợi dụng thân phận ra vào cung thường xuyên, ngoài mặt thì cung kính Hoàng thượng, nhưng trong lòng lại ngấm ngầm lấy những chuyện lúc còn trẻ không hiểu chuyện uy hiếp cháu, ép cháu phải nghe theo hắn.

– Bá phụ, Tiêu Đạo Thừa là một kẻ đầy tâm cơ, mặt người dạ thú. Hắn một lòng mưu quyền soán vị, lúc mà bá phụ đề cử hắn kế vị, hắn biết bá phụ đang có lòng muốn lui về, triều đình lại do thế gia cầm quyền, dù là hắn có đăng cơ làm hoàng đế chỉ sợ cũng sẽ bị quyền thần khống chế, không có kết cục tốt, cho nên mới làm bộ làm tịch cố ý hết lòng đề cử tiên đế thượng vị. Mưu đồ của hắn là ngoài sáng thao túng trong tối âm thầm mai phục, bố trí cục diện, chờ sau này trừ khử được thế gia rồi, hắn nắm giữ được quyền lực rồi, đến lúc đó soán vị thì dễ như trở bàn tay.

Chị ta khóc lóc.

– Bá phụ, cháu lúc trẻ không hiểu chuyện làm ra chuyện tai tiếng, cháu làm sao dám để bá phụ biết ạ? Tiên đế lại là người vô dụng, cả ngày chỉ biết ngâm thơ làm phú, mê sắc, thích ở chỗ sủng phi, không thể nào trông cậy vào ngài ấy được. Cháu không thể làm gì khác, bị Tiêu Đạo Thừa uy hiếp mà đành phải ẩn nhẫn chịu đựng. Không ngờ rằng đêm hôm đó hắn lại đột nhiên dẫn người vào cung căm hận nói việc hắn làm đã bị bá phụ biết hết, sợ bá phụ không dung thứ cho hắn, ép cháu nghe theo hắn giết bá phụ. Lẽ nào cháu chịu nghe theo hắn làm hại bá phụ được đây? Thấy hắn cướp đoạt phù ấn của bệ hạ, trong lúc tình thế cấp bách cháu và hắn giằng co với nhau, bị hắn đâm bị thương. Những việc sau đó bá phụ đều đã biết, cũng là ông trời có mắt, cung vệ tới kịp thời, cháu mới may mắn thoát được.

– Cách xử trí của cháu đúng là không đúng, chẳng trách bá phụ lại nghi ngờ cháu. Sau khi được cứu, lẽ ra nên giữ lại mạng của hắn rồi dựa theo tội danh mà định tội mới phải. Nhưng mà cháu lại sợ, sợ hắn nói ra những bê bối trước kia của cháu và hắn. Hủy hoại thanh danh của cháu thì thôi, nhưng mà liên quan đến mặt mũi của bệ hạ, liên quan đến mặt mũi của Cao gia, trong lòng cháu rất căm hận hắn, khi mà cung vệ bảo vệ cháu mà giết hắn, cháu cũng không kịp ngăn lại…

– Bá phụ, bác vừa chất vấn cháu về Thiệu thị. Tiêu Đạo Thừa ép buộc cháu nghe theo lệnh của hắn, cũng biết cháu không muốn, cho nên không phải chuyện gì cũng nói cho cháu biết. Cháu xin thề, lúc Tiêu Đạo Thừa ở chỗ cháu chưa từng đề cập nửa chữ về Thiệu thị! Sau đêm cung biến đó cháu mới biết có chuyện như vậy…

Chị ta khóc lóc thảm thiết.

– Bao năm nay cháu vì thân phận địa vị này mà quá mệt mỏi rồi, tuy rằng đánh mất bản tâm đã làm không ít chuyện sai trái, nhưng từ trước đến nay cháu đối xử với bá phụ bá mẫu như cha mẹ ruột của mình. Sau cung biến đó, cháu biết được sự tồn tại của Thiệu thị, đã muốn giết cô ta rồi tránh để cô ta làm bá mẫu phiền lòng. Chỉ là khi đó bá phụ không muốn giết cô ta, cháu cũng không dám tự tiện làm chủ. Nếu như cháu biết được Thiệu thị này ác độc như thế thì khi ấy dù bá phụ có phản đối, cháu cũng quyết không để cô ta được sống.

Biểu cảm Cao Kiệu cứng đờ.

– Bá phụ nghĩ mà xem, lúc mà bá mẫu xảy ra chuyện, Đông Nam có loạn Thiên sư giáo, phản quân Kinh Châu cũng theo đó đánh tới Kiến Khang, triều đình chỉ dựa vào một mình bá phụ chống đỡ, khi đó nếu như bá mẫu xảy ra chuyện, bá phụ nhất định sẽ phân tâm, nếu như đất nước bị sụp đổ, với cháu có lợi gì ạ? Cháu dù có độc ác đến mấy cũng sẽ không bao giờ động đến bá mẫu. Cháu mong bá phụ hiểu cho cháu, đừng hiểu lầm cháu…

Chị ta nói xong liền ngã xuống đất khóc nức nở.

Sắc mặt Cao Kiệu hết xám lại trắng, yên lặng nhìn ánh nến trước án, ánh mắt đình trệ, hồi lâu sau như là nói cho Cao Ung Dung mà càng giống như tự lẩm bẩm:

– Những năm gần đây, ta tự nhận là cẩn trọng, cần cù trị quốc, dốc hết toàn tâm toàn lực, không dám có chút chậm trễ nào. Nhưng mà triều đình này ở trong tay ta lại không hề có khởi sắc mà ngược lại còn suýt nữa bị sụp đổ đến tình trạng không thể cứu vãn được. Trên không thể giúp chủ, dưới lại làm dân thất vọng, ta có tiếp tục ở lại triều đình thì cũng ngồi có tác dụng gì nữa, không bằng thuận theo thời thế mà bứt ra sớm, giao lại triều đình cho người thật sự có tài, thì triều đình này có lẽ còn có thể sống dậy được…

Ánh mắt của ông chậm rãi chuyển lên trên mặt Cao Ung Dung.

– Cháu không tin Lý Mục. Trước kia ta cũng không tin. Nhưng hiện giờ ta tin tưởng nó tuyệt đối. Nếu nó có dị tâm thì lúc mà đất nước lâm vào đại loạn, nó đã có thể không cần đường xá xa xôi quay về, chỉ cần cứ chờ triều đình bị sụp đổ rồi mới mang binh trở về, ngư ông ngồi thu cần là được. Nhưng mà nó không làm thế. Chỉ dựa vào điều này thôi, nó đủ gánh vac hai chữ trung trực.

– Thái hậu!

Ông nhìn thẳng vào Cao Ung Dung, nhấn mạnh:

– Những gì ta nói với cháu cũng không phải muốn thanh toán chuyện cũ với cháu. Mà là ta muốn cháu biết vào thời điểm loạn trong giặc ngoài này, cháu thân là Thái hậu Đại Ngu, cháu có thể bị bức tường cung điện che mắt, nhưng trong lòng cháu cần phải có thiên hạ.

– Thế gia thì sao, quý tộc thì sao. Cao quý không có nghĩa là sinh ra đã mang họ cao nhân nhất đẳng, mà là đối nhân xử thế, có tấm lòng bao dung xứng với khí độ và lòng dạ của thân phận địa vị này. Nếu như cháu cứ từ bụng ta suy bụng người không từ thủ đoạn, về sau nếu cháu dùng điều này để trị quốc, không phải ta doạ cháu, ngày Nam Triều bị diệt vong sẽ đến sớm hay muộn mà thôi.

Cao Ung Dung mặt hết đỏ lại trắng:

– Bá phụ ân cần dạy bảo cháu như thế, cháu có ngu dốt đến mấy cũng không dám không nghe ạ.

Cao Kiệu nói:

– Cháu nhớ kỹ là được rồi. Có Lý Mục, về ngoại địch cháu không cần phải lo lắng. Cháu cứ chiếu theo danh sách dùng người, thực hành giảm thuế, để bá tánh nghỉ ngơi lấy lại sức, vậy thì dù có một năm tệ hại đến đâu cũng sẽ không gây ra nhiễu loạn gì lớn.

– Bá phụ dạy bảo cháu, cháu ghi nhớ trong lòng. Xin bá phụ yên tâm ạ.

Cao Ung Dung rơi lệ nói.

Cao Kiệu:

– Ta chỉ nói đến đây thôi. Chỗ ta không còn việc gì nữa. Cháu hồi cung đi.

Cao Ung Dung khấu đầu với ông, lau nước mắt rồi đứng lên, mở cửa đi ra ngoài.

……

Lạc Thần vừa dẫn ấu đế ra khỏi thư phòng của phụ thân, vừa mới đi ra đã có mấy cung nhân đi lên hầu hạ. Nàng ở bên cạnh đợi rất lâu, mãi sau mới nhìn thấy Cao Ung Dung đi ra thì vội đi lên đón, thấy hai mắt chị ta hơi sưng lên, như là đã khóc, nhưng trên mặt vẫn cười tươi, bèn đè nén nghi hoặc trong lòng xuống, tất nhiên sẽ không hỏi nhiều nửa câu.

Tiễn đoàn người Cao Ung Dung và ấu đế đi rồi, trong lòng Lạc Thần vẫn ôm nghi hoặc vội vàng đi vào thư phòng phụ thân, thấy ông vẫn còn ngồi ở giữa sập ngồi, hai mắt nhắm nghiền bất động giống như đang nhập định, sắc mặt hơi trắng, làm nàng lo lắng vô cùng, nhất thời cũng không lo hỏi chuyện khác, hỏi:

– Cha ơi, cha sao thế ạ? Trong người khó chịu ở đâu ạ?

Cao Kiệu mở to mắt.

Lạc Thần nhìn thấy trong mắt ông có sợi tơ máu thì càng thêm lo lắng, vội đi lên đỡ lấy ông, nói:

– Cha ơi, nếu cha mệt mỏi quá thì để con đưa cha về phòng. Cha nghỉ ngơi sớm đi ạ…

Cao Kiệu hơi mỉm cười, để Lạc Thần đỡ mình đứng lên, nói giọng khàn khàn:

– Con đừng lo, cha không sao…

Còn chưa nói xong, Lạc Thần đã thấy trên mặt ông lộ vẻ đau đớn, cả người gập xuống, miệng nôn ra một búng máu.

– Cha ơi!

Lạc Thần hoảng hốt, vừa hết sức đỡ cha đứng thẳng lên, vừa quay ra ngoài gọi người.

Cánh cửa bị đẩy ra, Lý Mục nhanh chân đi vào đỡ lấy Cao Kiệu.

Cao Kiệu bình ổn lại, đẩy tay Lý Mục ra, đứng thẳng lên, dặn dò Cao Thất cũng chạy vào:

– Triệu tập tộc nhân, ba ngày sau tụ tập ở từ đường Cao thị, ta có lời muốn thông báo.

……

Phụ thân nghỉ ngơi mấy ngày, tinh thần cuối cùng cũng đã tốt lên một chút.

Lạc Thần lén hỏi thái y, thái y nói Cao tướng công mắc chứng nôn ra máu là do gan suy, khí trệ, chỉ cần thả lỏng tinh thần, từ từ dưỡng bệnh, cơ thể sẽ bình phục. Bấy giờ nàng mới thoáng an tâm.

Cùng ngày, các thành viên có bối phận trong tộc nhân Cao thị ở kinh sư tổng cộng có trên dưới mấy chục người toàn bộ tụ họp lại từ đường.

Mấy người Cao Duẫn, Cao Dận và Cao Hoàn cũng tới.

Cao Kiệu gọi riêng Cao Duẫn vào thư phòng, trò chuyện với ông ấy một lát. Lạc Thần ở bên ngoài thoáng nghe được tiếng nói chuyện của phụ thân và thúc phụ.

Phụ thân đang giải thích cho thúc phụ tại sao mình lại giao cho vị trí gia chủ cho Cao Dận. Thúc phụ bày tỏ đã hiểu rõ. Một lát sau, hai người họ đi ra, Lạc Thần nhìn thấy thúc phụ hơi cúi đầu, khoé mắt hơi đỏ, không nói gì cả, đi theo phụ thân.

Theo tập quán của người đương thời, gia chủ của một đại gia tộc chỉ có chết đi mới có thể truyền vị trí gia chủ cho người kế nhiệm tiếp theo. Ở trước mặt mọi người Cao Kiệu tuyên bố sau khi ông đi, gia chủ Cao gia từ nay về sau sẽ do Cao Dận nắm giữ. Và bởi vì Cao Duẫn bối phận cao, có kinh nghiệm từng trải, nếu Cao Dận gặp phải chuyện khó quyết định thì tham khảo ý kiến của Cao Duẫn.

Cao Dận là gia chủ đời kế tiếp của Cao thị mà Cao Kiệu đã lựa chọn từ lâu, từ sau khi Cao gia xảy ra biến cố kia, Cao Kiệu nản lòng thoái chí, sau này sẽ rời khỏi kinh sư đi vân du thiên hạ, tin tức này tộc nhân của Cao thị từ lâu đã âm thầm thông báo cho nhau, lúc này khi nghe chính miệng ông tuyên bố như thế cũng không gây nên chấn động gì mấy.

Mọi người thấp giọng thảo luận một hồi, có người chúc mừng Cao Dận, có người hỏi thăm Cao Kiệu về việc ông sẽ đi đâu, và rất đương nhiên, có không ít người trong đó dùng ánh mắt khác thường nhìn Cao Duẫn.

Cao Dận từ chối không được, quỳ cảm tạ Cao Kiệu, đứng lên đi tới trước mặt Cao Duẫn cung kính hành lễ với ông ta, nói sau này còn cần ông ta giúp đỡ nhiều hơn.

Cao Duẫn cười to, vỗ mạnh mẽ lên cánh tay của Cao Dận, sảng khoái đáp ứng. Bầu không khí trong từ đường hài hòa, tràn ngập tiếng cười.

Đêm đó, Cao phủ tổ chức gia yến, Lý Mục và Lạc Thần cùng tham dự. Trong bữa tiệc, mọi người thi nhau kính rượu Lý Mục. Lý Mục không từ chối ai cả, sau buổi tiệc thì say chuếnh choáng được Lạc Thần đỡ về phòng.

Hai người vừa vào phòng chưa được một lát thì có vú già ở bên ngoài bẩm báo, nói đại gia gọi tiểu nương tử đi thư phòng có chuyện muốn nói.

Lạc Thần đang giúp Lý Mục thay y phục, nghe phụ thân muốn gặp riêng mình thì ngỡ ngàng, ngừng tay lại nhìn Lý Mục.

Lý Mục nhẹ nhàng cầm tay nàng, nói:

– Nàng đi đi, đừng để cha chờ lâu.

Hết chương 133
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 134


Cao Thất đứng ở bên ngoài thư phòng cung kính khom người với Lạc Thần, mở cửa ra cho nàng nói:

– Tiểu nương tử vào đi, đại gia đang chờ bên trong đó.

Bên trong phòng có ánh nến, Cao Kiệu ngồi trên chiếc sập vuông kia, thấy nàng đi vào thì mỉm cười gật đầu ra hiệu cho nàng ngồi xuống bên cạnh mình.

Lạc Thần ngồi xuống bên cạnh phụ thân.

Cao Kiệu cũng không nói chuyện ngay. Hai cha con yên lặng một lát, Lạc Thần nói:

– Sau này con không thể phụng dưỡng cha, chỉ mong cha có đi đâu thì nhớ phải giữ gìn sức khoẻ ạ.

Phụ thân bàn giao mọi việc ở đây xong thì sẽ rời khỏi Kiến Khang.

Rất nhiều người trong thành Kiến Khang bao gồm cả người của Cao gia đều cho rằng Tiêu Vĩnh Gia đã chết trong nạn binh hoả kia rồi, mà Cao Kiệu sở dĩ mãi không chịu tổ chức lễ tang cho vong thê chỉ bởi vì ông vẫn cố chấp không chịu chấp nhận một sự thật như thế mà thôi.

Thậm chí còn có một lời đồn được ngấm ngầm lan truyền – những người đó xì xào ở sau lưng, sở dĩ cái chết của trưởng công chúa tạo nên đả kích lớn như thế với Cao Kiệu đến mức ông không thể nào tiếp nhận nổi, là bởi vì ông nửa đời không có con trai, thê tử lại vừa lúc chết trước khi lâm bồn – một thảm kịch nhân gian như thế kia, bất kể là rơi trên người ai thì cũng không thể nào dễ chịu, khó trách ông lại cứ mãi canh cánh trong lòng như thế.

Thời gian đã qua hơn nửa năm, mẫu thân vẫn mãi không có tin tức gì. Nghĩ đến không biết mẹ sống chết như thế nào, nghĩ đến cha sắp rời khỏi đây, không biết sau này đến khi nào mới gặp lại, trong lòng nàng dần dần bị nỗi buồn thương khổ sở nhét đầy.

Cao Kiệu nói:

– A Di à, tối hôm qua cha tranh thủ đi Bạch Lộ Châu, thuyền đến đảo rồi nhưng cha lại quay về…

Ông dừng lại một chút, từ từ ngước mắt lên nhìn vào con gái.

– Cha không còn mặt mũi nào để lên đảo…

Ông đau khổ nói.

Lạc Thần nhìn nét hằn sâu trên khoé môi của phụ thân, nén sự chua xót trong lòng xuống, nói:

– Cha ơi, mẹ gặp chuyện tất cả đều là ngoài ý muốn, cha đừng quá…

Còn chưa nói hết đã dừng lại.

Làm sao phụ thân có thể không khổ sở được, làm sao không tự trách được.

Cao Kiệu chỉ khẽ mỉm cười buồn bã gật đầu.

– Cha đã có mong muốn rời khỏi Kiến Khang từ lâu rồi, bây giờ cuối cùng đã đạt thành tâm nguyện. Cha biết mẹ con còn sống. Con yên tâm, một ngày nào cha sẽ mang mẹ con về nhà.

– Cha ơi…

Lạc Thần không kìm nén được nữa mắt đỏ hồng lên.

Cao Kiệu vỗ nhẹ lên tay con gái an ủi.

Ông nói:

– A Di, cha biết con và Kính Thần suy nghĩ gì. Đợi sau này Kiến Khang ổn định vững chắc rồi, con và nó muốn đi Nghĩa Thành hay Trường An thì đi đi. Đó đều là những nơi rất tốt, tốt hơn Kiến Khang. Nhưng hiện tại các con không thể đi. Là cha đã khiến cho con phải chịu thiệt thòi rồi.

Từ xưa đến nay triều đình có quy chế, đại thần cấp tam phẩm trở lên bất luận là triều thần hay là ngoại thần nếu không có lý do đặc biệt thì gia quyến đều phải ở kinh thành lâu dài.

Sau khi triều đình dời về phía Nam, vì quyền lực của hoàng đế bị thế gia khống chế dần dần chẳng khác gì thùng rỗng kêu to. Cho đến trước đó không lâu, sau khi loạn Hứa Tiết đã được bình định, Phùng Vệ vốn dĩ từ sớm đã cảm nhận Hứa Tiết tạo phản khi mà toàn bộ người nhà Hứa thị dời khỏi Kiến Khang, không còn ràng buộc gì, không kiêng nể gì, đã lập tức đề nghị Lục Bộ khôi phục lại điều lệnh này.

Khi đề xuất ra, thái hậu Cao Ung Dung đã gật đầu tán thành, văn võ bá quan cũng không ai phản đối.

Phùng Về vì làm gương đi đầu cho bách quan mà vào nửa tháng trước đã đón lão phụ ở Dự Chương về Kiến Khang. Bách quan không phân chia văn võ cũng đồng loạt làm theo.

– Mẹ của Kính Thần hai mắt bị mù loà, hơn nữa tuổi tác đã cao, Phùng Vệ từng đề cập tới với cha, nói bà ấy không cần phải làm theo điều lệnh này. Nhưng mà A Di, Kính Thần đang ở địa vị cao, đứng đầu bách quan, người người nhìn vào, con là Đại Tư Mã phu nhân…

Cao Kiệu nhìn con gái, trong mắt hiện lên tia áy náy.

– Nếu như con cũng không ở Kiến Khang, điều lệnh này lại trở thành vô tác dụng, không thể hiệu lệnh quan lại để trên làm dưới theo.

Mấy ngày trước, Lạc Thần đã biết chuyện này trước khi Lý Mục khải hoàn trở về triều đình. Sau này, nếu không có lý do đặc biệt, bất kể Lý Mục đang đi đâu ở đâu, thì nàng vẫn phải ở lại Kiến Khang.

Mong muốn ban đầu của nàng là đi theo Lý Mục, mang theo mẹ chồng và những người khác đến Nghĩa Thành hiện giờ đã thất bại, không thể nào thực hiện được nữa. Nói trong lòng không buồn bã thất vọng là giả

Nhưng việc đã đến nước này, chỉ cần trượng phu nàng một ngày còn là Đại Tư mã thì nàng nhất định phải làm Đại Tư Mã phu nhân ngày đó.

Nàng không được lựa chọn, giống như Lý Mục.

Hôm nay đây thoạt nhìn hắn đầy vẻ vang vinh quang, ở trong mắt người ngoài hắn quyền cao chức trọng uy nghi hiển hách. Nhưng nào có ai biết danh hiệu Đại Tư mã này với hắn mà nói có lẽ chỉ làm một cái gông xiềng vô hình mà không ai thấy được.

Lạc Thần nhìn phụ thân, cuối cùng không kìm nén được mà thốt là lời muốn nói.

– Cha ơi, con có mấy lời muốn hỏi cha, nếu có câu nào không đúng mong cha bỏ quá cho con. Cha, con còn nhớ từ lâu trước đây cha từng cho rằng trong lòng lang quân con có dị tâm, lúc nào cũng đề phòng huynh ấy. Nhưng hiện tại, vì sao cha còn muốn ép huynh ấy làm Đại Tư Mã ạ? Ngai vàng trong hoàng cung kia, trong thiên hạ này bất cứ người nào có năng lực thì ai mà không thèm muốn nó? Cha ơi, lẽ nào cha không sợ huynh ấy quyền cao chức trọng mất đi kiểm soát mà một ngày nào đó trong tương lai sẽ nảy sinh tham vọng soán vị ạ?

Cao Kiệu lặng thinh rất lâu mới nói:

– A Di, con đã hỏi vậy thì cha cũng nói thật. Kể cả cho tới hiện tại, cha cũng không nhìn thấu con người của Lý Mục. Nó đánh hạ được Trường An rồi, nói rằng nó là ngoại thần phiên trấn, còn không rằng nói nó không hề muốn cái triều đình này. Ở trên người nó cha không nhìn thấy dáng vẻ của một trung thần phải có. Nhưng mà thời điểm Đại Ngu nguy nan ngập đầu sắp bị sụp đổ, thì nói lại dẫn binh quay về cứu trợ và ngăn cơn sóng dữ.

– Nó không muốn trung thành với triều đình này, trong lòng nó rõ ràng là có mâu thuẫn với triều đình này, nhưng hành vi và việc làm của nó lại hoàn toàn xứng với danh trung thần lương tướng, không có gì để khiến người khác chỉ trích được.

– Nam Triều vốn đã lụi tàn, không có cường giả nắm quyền, chỉ dựa vào những người đang ở trong triều đình kia thôi, không cần chờ đến một ngày nào đó nó có mưu đồ soán vị thì chỉ sợ triều đình đã sụp đổ trước rồi.

– A Di, con hiểu ý của cha chứ? Lý Mục giống như một thanh kiếm hai lưỡi. Hướng thiện, triều đình có lẽ còn có thể sống dậy một lần nữa, mà hướng khác, cơ nghiệp của đế vương Tiêu Thất Đại Ngu bị lật đổ cũng không phải là không có khả năng…

Ông dừng lại hồi lâu, nhìn Lạc Thần.

– Cha từng suy nghĩ và cân nhắc rất lâu, nhưng cuối cùng cha vẫn lựa chọn giao Đại Ngu vào tay nó. Cha đánh cược một lần, cũng đánh cược ánh mắt của mình.

Ông tự giễu nhướn khoé môi lên, lộ ra nụ cười chua xót rất nhạt.

– Cả đời này của cha đã nhìn lầm quá nhiều người. Nhưng mà lúc này cha lại cảm thấy mình sẽ không hề nhìn lầm nữa.

– Huống chi còn có con ở bên nó. Cha hy vọng con đồng thời làm thê tử của nó nhưng cũng không quên trách nhiệm mình là con gái Cao thị.

Cao Kiệu nhìn con gái, từ tốn nói một câu như thế.

Lạc Thần ngẩn người, trong lòng vừa mù mịt vừa khổ sở.

Nàng nhớ rất lâu trước kia, mẫu thân từng dạy bảo mình, nói nàng không chỉ là con gái Cao thị, mà còn là thê tử của Lý Mục.

Mà đêm hôm nay, phụ thân cũng nhắc nhở nàng, đồng thời là thê tử của Lý Mục nhưng cũng không quên trách nhiệm là con gái Cao thị.

Ý của phụ thân là gì làm sao nàng không hiểu được cơ chứ?

Nói đến cùng, chung quy phụ thân vẫn chưa hoàn toàn tín nhiệm Lý Mục. Dẫu cho ông đã quyết định tin tưởng hắn, giao lại Nam Triều mà ông đã khổ tâm duy trì bao nhiêu năm qua cho hắn.

Trước mắt nàng không hỏi hiện lên cảnh tượng tối đó đường tỷ mang theo ấu đế đến phủ, sau khi trò chuyện riêng với phụ thân xong và đi ra thì sắc mặt tái nhợt, bèn hỏi:

– Cha ơi, buổi tối hôm đó cha với thái hậu đã nói chuyện gì vậy ạ? Dùng người thì không nghi, nghi người thì không dùng. Cha cần lang quân nâng đỡ triều đình này, nhưng cha lại không tin huynh ấy. Ngay cả cha đã như thế huống chi là người khác? Con gái sẽ không bao giờ quên mình là con gái Cao thị phải có trách nhiệm. Trước kia nếu không phải vì hai chữ Cao thị, con đã không quyết định gả cho huynh ấy rồi.

– Thế nhưng hiện tại con thật sự không hiểu, Đại Ngu đúng là quan trọng, nhưng lẽ nào cha chưa từng suy nghĩ, với địa vị cao như thế của lang quân, về sau giả như công cao chấn chủ, người khác không chấp nhận ở dưới huynh ấy, đến lúc đó lẽ nào huynh ấy đưa cổ tự sát để bảo toàn cái danh trung thần kia ạ?

– Nếu như thế, làm trung thần cũng chẳng có tác dụng gì. Thứ cho con bất hiếu, con sẽ cùng lang quân rời khỏi Kiến Khang, tránh để sau này bị cuốn vào trong thị phi trung gian đó.

Nàng ngồi thẳng khấu đầu với phụ thân, đứng lên xuống giường chuẩn bị đi.

– A Di!

Đột nhiên, phía sau vang lên tiếng quát của phụ thân.

Lạc Thần dừng bước quay đầu lại, thấy phụ thân đã đứng dậy.

– A Di, cha đã phục vụ ba đời tiên đế. Trước khi ông ngoại con lâm chung từng tha thiết giao phó Đại Ngu cho cha, hình ảnh đó đến nay cha mãi không quên. Cuộc trò chuyện giữa cha và đường tỷ con ở tối đó cụ thể như thế nào cha không tiện thuật lại, nhưng cha cam đoan với con, tuyệt đối không phải là liên kết với thái hậu đương triều mưu tính gây bất lợi cho Lý Mục đâu.

– Cha chỉ có thể nói cho con biết, thái hậu đương triều không còn là đường tỷ trước kia của con nữa, con cũng không thể dùng cách nhìn và tấm lòng như trước kia với nó…Nhưng nếu như nó làm đúng bổn phận của nó, phụ tá ấu đế, kế trung hưng, gắn kết đất nước, khiến cho dân chúng sống yên ổn, vậy thì tất cả những gì cha làm hôm nay cũng rất đáng giá.

– Tất cả những an bài đó của cha là chuyện cuối cùng mà cha có thể làm theo lời hứa với ông ngoại con. Cha đã cố hết sức mình rồi, ý trời như thế nào thì tất cả nghe theo ông trời định đoạt…

Cao Kiệu nói xong lại húng hắng ho lên, nét mặt đau đớn.

Nhìn thấy cha như thế, trong lòng Lạc Thần lại xót xa vô cùng, vội đi đến đỡ ông, xoa nhè nhẹ phía sau lưng cho ông, chờ ông ổn định rồi chuẩn bị đi rót nước, lại thấy ông xua tay rồi chậm chạp đứng thẳng lên, đi đến trước kệ sách cạnh tường, lấy ra một chiếc hộp nhỏ từ một trong các ngăn kéo.

Chiếc hộp được khoá bằng một chiếc khóa bằng đồng, một chiếc chìa khóa được đặt trên đó.

Cao Kiệu đi tới trước mặt Lạc Thần.

– A Di, sau khi cha đi rồi, con hãy bảo quản cái hộp này cho tốt. Cha chỉ mong con sau này sẽ không phải mở cái hộp này. Nhưng tương lai, nếu có một ngày gặp phải tình cảnh khẩn cấp, nó có thể giúp ích cho con. Con hãy cất nó đi.

Cao Kiệu giao chiếc hộp và chìa khoá cho Lạc Thần.

Chiếc hộp hơi nặng tay, Lạc Thần cũng không biết bên trong có cái gì, nhận lấy, lặng lẽ nhìn phụ thân không nói gì cả.

Cao Kiệu nhìn khuôn mặt con gái, hồi lâu sau mới ngước mắt lên nhìn ra hướng cửa.

– Con đi đi.

– Cha ơi!

Cao Kiệu nở nụ cười nhẹ, gật đầu với nàng:

– Đi đi con.

Lạc Thần siết chặt chiếc hộp, xoay người, mỗi bước đi là niềm lưu luyến đi ra cửa, mở cửa ra, thấy một bóng dáng đang đứng ở cửa thư phòng của đình viện.

Nàng vội vàng quay đầu đi lau vội nước mắt.

Lý Mục nhìn cửa thư phòng mở ra, Lạc Thần xuất hiện ở cửa, lập tức bước nhanh tới, sải bước lên bậc thềm ánh mắt đảo qua nước mắt còn sót lại trên gương mặt nàng, thoáng nhăn mày lại, sau đó nhìn Cao Kiệu ở bên trong, trầm giọng nói:

– Cũng đã muộn rồi, cha cũng đi nghỉ ngơi đi ạ, con xin phép đưa A Di về ạ.

Nói xong, hắn hành lễ với ông, cầm lấy tay Lạc Thần thì thầm bên tai nàng “đi thôi”, rồi mang nàng rời đi.

Hết chương 134
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 135


Sáng sớm hôm sau, Lạc Thần dậy sớm, lúc tiễn Lý Mục thượng triều thì nhận được một tin tức.

Ngay đêm hôm qua phụ thân nàng đã đi rồi, ông lặng lẽ đi từ cửa hông Cao gia, ngoài người gác cổng biết ra thì không làm kinh động đến bất cứ hạ nhân nào cả.

Cùng đi với ông chỉ có một mình Cao Thất.

Nàng chạy như bay đến phòng ngủ của cha mẹ đẩy cửa ra, quả nhiên trong phòng không có bóng dáng của ông. Nàng chạy tới thư phòng, trong thư phòng cũng trống không, chỉ còn lại một phòng đầy sách được xếp gọn gàng chỉnh tề ở trên giá đựng sách, như là chờ đợi chủ nhân của chúng nó không biết đến khi nào sẽ trở về và mở lại lần nữa.

Cho dù đã biết phụ thân quyết định ra đi, sẽ rời khỏi Kiến Khang, nhưng vào lúc này khi mà sự việc đó xảy đến nhanh như vậy, Lạc Thần vẫn cảm thấy khổ sở vô cùng. Khổ sở bởi vì mẫu thân đến nay sống chết không rõ, rất có khả năng không còn sống trên đời này nữa, mà phụ thân có lẽ dành cả quãng đời còn lại của ông sẽ biết là vô vọng nhưng vẫn không ngừng tìm kiếm. Cũng khổ sở vì Lý Mục.

Không ai hiểu rõ hơn so với nàng hắn bài xích toà hoàng thành này đến mức nào.

Tuy nhiên, chính là vì hành động cưới nàng của hắn trước đây, dẫu cho hắn thật sự đã từng có dã tâm đ ến mức cha từng không dung thứ, tới hiện tại rồi, Lạc Thần biết, hắn cũng đã phải tự bẻ gãy mũi nhọn, không thể không gánh vác trọng trách an nguy của triều đình này. Nhưng từ đầu đến cuối, hắn chưa từng bày tỏ sự khó chịu hay là oán giận ở trước mặt nàng.

Hắn sâu sắc và khoáng đạt như thế, càng chỉ làm cho trong lòng Lạc Thần thấy áy náy gấp bội.

Đôi khi, bởi vì suy nghĩ quá nhiều, nàng thậm chí còn có chút sợ hãi, sợ hắn sẽ vì điều này mà hối hận đã từng cưới nàng hay không.

Nếu không phải có mình ràng buộc lấy, sinh ra trong một loạn thế như thế, với năng lực của hắn, hắn hoàn toàn có thể làm những điều bản thân muốn một cách thoải mái.

Nhưng nàng không có dũng khí để hỏi hắn điều đó.

Nàng biết rằng suốt thời gian qua hắn chưa bao giờ thực sự có được khoảng thời gian dễ dàng. Hiện tại càng như thế.

Mặc dù hắn không biểu lộ chút nào, nhưng nàng có thể cảm nhận được vinh quang chức Đại Tư Mã ở trên người hắn khiến cho vô số người nhìn lên ngưỡng mộ nhưng lại không mang lại cho hắn bất kỳ niềm vui nào.

Đối mặt với ánh mắt quan tâm của hắn, nàng cố nén khổ sở trong lòng xuống cho đến khi hắn đi ra ngoài, nhìn bóng lưng hắn dần rời xa trong ánh ban mai, bấy giờ mới lặng lẽ mà rơi lệ để rồi ngay sau đó lại lau vội nước mắt đi.

Từ hôm nay trở đi, cách cục của triều đình Nam Triều đã hoàn toàn khác với trước kia. Môn phiệt thưa thớt. Gánh nặng ngàn quân đè nặng lên vai Lý Mục xuất thân hàn môn.

Nàng không thể chia sẻ gì với hắn được.

Từ nay về sau, điều nàng có thể làm là trở thành một người vợ tốt của hắn, để hắn không bị mình mà phân tâm.

……

Gần một năm qua, khi Tiêu gia cùng Nam Triều trải qua đại loạn gần như suýt bị diệt vong, cùng lúc đó, Trung Nguyên ở phía Bắc bên ngoài ngàn dặm chiến loạn và phân tranh chưa từng ngừng nghỉ.

Ban đầu thời điểm Lý Mục mang binh trên đường quay về từng dùng kế lợi dụng Mộ Dung Tây muốn tấn công Lạc Dương để điều đi quân đội của tông thất Bắc Hạ. Lá thư kia của hắn so với nói không thành có thì lại giống một lời tiên tri hơn.

Tiên đoán của hắn ngay sau đó, cũng đã trở thành hiện thực.

Khi Nam Triều đang bận rộn dập tắt cuộc nổi loạn Thiên Sư Giáo và cuộc nổi loạn Hứa Tiết, thì Mộ Dung Tây lãnh binh từ Yến quận xuôi Nam phát động cuộc chiến báo thù đối với Bắc Hạ.

Ân oán giữa hai tộc Tiên Bi và Yết Hạ giằng co kéo dài bắt đầu từ chinh phục và cướp đoạt. Và tương tự, cũng lấy chinh phục và cướp đoạt để kết thúc.

Vào nửa tháng trước, sau mấy trận đại chiến, quân đội Bắc Yến cuối cùng đã công phá Cao Lương thủ đô thứ hai của Bắc Hạ cách Lạc Dương chỉ có mấy trăm dặm.

Một trận chiến này liên quan đến an nguy của Lạc Dương, ngay lập tức được hoàng đế Bắc Hạ sắp có được thiên hạ đã phải tự mình lĩnh binh đi đến Cao Lương ứng chiến, nhưng không thắng mà lại bị thua, mang theo quân đội còn sót lại bỏ chạy, thời điểm muốn nghỉ ngơi dốc sức để tiếp tục chiến một trận thì Mộ Dung Thế lại dẫn binh đuổi tới.

Toàn bộ những sỉ nhục năm xưa như lửa hừng hực đốt cháy trong người, Mộ Dung Thế tự mình mặc giáp ra trận, chỉ dùng một tay cầm kiếm nhưng mà cực kỳ hung mãnh. Gã suất lĩnh quân đội bao vây tứ phía, triển khai tấn công mạnh mẽ với kẻ thù. Yết đế bị thương, dưới sự bảo vệ của thân tín mà cuối cùng đã thoát khỏi vòng vây, nhưng mà trên đường chạy trốn cuối cùng vẫn không thoát được Mộ Dung Thế điên cuồng đuổi theo, bị trúng cung tiễn ngã xuống ngựa.

Bắt được Hạ đế, Mộ Dung Thế không giết ông ta ngay lập tức mà là tự tay cầm đao từng đao lăng trì, tra tấn một cách từ từ, chờ kẻ thù cuối cùng chỉ còn lại một hơi thở mới ra lệnh kỵ binh dùng mã trận giẫm đạp qua lại, cho đến khi xác chết bị vó ngựa bọc sắt dẫm nát tươm, xương cốt cũng vỡ vụn trộn lẫn với bùn đất, không còn hình người gì nữa, trên mặt đất chỉ còn lại từng bãi máu bẩn thỉu tanh hôi, bấy giờ mới cho dừng.

Thời điểm Mộ Dung Triết đuổi tới nơi nhìn thấy huynh trưởng của mình đứng ở một bên, trên khuôn mặt cứng đờ kia dính đầy máu, ánh mắt lại ghim chặt vào thứ không còn hình dạng gì ở dưới đất, cặp mắt màu tím b ắn ra tia tàn bạo, ngay cả nàng thấy cũng hãi hùng khiếp vía.

Nàng vội đuổi tới bên cạnh huynh trường, nói cho gã nghe một tin tức:

– A huynh ơi, thúc phụ đã lãnh binh tiến vào Cao Lương rồi ạ, còn mặc cho binh lính tàn sát dân trong để khánh công…

Mộ Dung Tây cũng là một nhân vật tàn nhẫn máu tanh, nhưng khác với người Tiên Bi khác chính là, ông ta từ lúc còn trẻ đã bị Hán hoá sâu sắc. Mỗi khi cùng tộc nhân đánh hạ một địa phương, khác với tộc nhân động chút là dốt giết cướp bóc, lần này đánh hạ Cao Lương, từ trong thâm tâm ông ta mà nói cũng không muốn làm như thế. Nhưng suy xét tình hình chiến đấu từ bấy đến nay rất gian nan, binh lính Bắc Yến vì đánh hạ toà thành trì này mà đã trả nhiều cái giá lớn, sau khi công phá thành công, trong quân đã thèm nhỏ dãi Cao Lương giàu có và đông đúc, đồng loạt yêu cầu dựa theo quy chế mà chia nhận lợi ích.

Vốn dĩ Mộ Dung Tây không muốn đáp ứng, nhưng thấy tộc nhân và tướng lĩnh đều đã giết đỏ cả mắt rồi, quần chúng đang rất kích động, suy xét còn phải đánh Lạc Dương nữa, chính quyền cũng chưa được củng cố, nếu không cho họ có chút lợi ích gì đó, chỉ sợ sẽ dẫn đến những bất mãn với mình, bất lợi cho sự cống hiến sau này cho quân đội, vì thế mà đáp ứng, cho phép binh lính ăn mừng ba ngày.

Gọi là “ăn mừng” chính là mặc kệ binh lính cước bóc hiếp giết trong thành, giết người Hán thành niên, bao gồm cả đàn ông dị tộc, c**ng hi3p phụ nữ, để sau này để thống trị người Tiên Bi mà rửa sạch huyết thống.

Đây là việc làm thường xuất hiện phổ biến của Hồ tộc sau khi chiếm lĩnh Trung Nguyên trước khi lập chính quyền đều sẽ làm từ sau khi Đại Ngu chuyển dời về phía Nam.

Cho nên, đây cũng không phải là trọng điểm mà Mộ Dung Triết muốn nói.

Trọng điểm là, ánh mắt nàng nhìn bãi thịt nát ở dưới đất kia.

– A huynh ơi, lẽ nào huynh đã quên trước đó thúc phụ đã đặc biệt dặn dò muốn huynh giữ lại tính mạng của Yết đế, bắt sống mang đi gặp thúc phụ ạ.

Nàng đang lo lắng huynh trưởng sẽ không nhịn được mà giết kẻ thù, cho nên mới vội vã đuổi tới đây. Không nghĩ rằng mình vẫn đến muộn một bước.

Trên mặt của nàng thoáng hiện lên sự lo lắng.

Mộ Dung Thế không biểu lộ cảm xúc, cắm thanh chuỷ thủ đã nhuộm đẫm máu vào trong bãi thịt nát kia, mới từ từ ngoảnh gương mặt dính đầy máu sang, ánh mát sáng rực, lạnh nhạt nói:

– Muội còn không rõ hay sao, ông ta biết rõ huynh với người này có thù không đội trời chung, thế mà vẫn cho phép huynh đuổi theo. Huynh giết hay không giết thì có gì khác nhau? Giết hắn, tất nhiên là huynh đã kháng mệnh, nếu không giết hắn, chứng tỏ huynh là một kẻ giỏi ẩn nhẫn, có tâm cơ. Muội là người thông mình, nếu muội là hắn, muội hy vọng ta giết hay không giết?

Mộ Dung Triết hơi suy tư, sau đó thì bừng tỉnh.

Nếu nàng là thúc phụ Mộ Dung Tây, tất nhiên tình nguyện nhìn một Mộ Dung Thế chỉ biết dựa vào cảm xúc hành sự bốc đồng, cũng không hề muốn giữ một người biết chịu nhịu lại ẩn nhẫn như thế bên cạnh mình.

Loại người nào nguy hiểm hơn, nhìn là biết ngay.

Mắt nàng sáng lên, thở phào nhẹ nhõm, vui vẻ nói:

– Muội hiểu rồi. A huynh làm rất đúng.

Nàng nhìn vào bãi thịt nát bị vó ngựa giẫm nát không còn ra hình người dưới đất kia, căm hận nhổ xuống một bãi nước bọt:

– Tiếc là muội tới chậm, bằng không đã có thể đâm cho hắn thêm mấy đao rồi.

Mộ Dung Thế khó khăn nhấc cánh tay trái lên, dùng ống tay áo thong thả lau vết máu trên mặt, động tác có vẻ cứng nhắc.

Từ sau khi cánh tay này bị phế đi, một vài việc hằng ngày thí dụ như động tác lau vết máu trên mặt như vừa rồi, vốn dĩ có thể dùng tay kia để làm dễ dàng, nhưng gã vẫn theo thói quen mà dùng cánh tay bị hỏng này.

Ban đầu Mộ Dung Triết không hiểu gì cả.

Nhưng đến giờ thì nàng đã bắt đầu đoán được một chút.

Có lẽ huynh trưởng muốn dùng phương thức này để từng giây từng phút nhắc nhở mình là ai đã phế đinh cánh tay của mình. Người đàn ông kia hiện đã trở thành Đại Tư Mã Nam Triều, dưới một người trên vạn người, lấy uy định công, quyền cao chức trọng.

Nàng theo bản năng quay đầu nhìn về phương Nam xa xôi, ánh mắt thoáng hiện lên tia phức tạp.

Mộ Dung Thế từ từ buông cánh tay kia xuống, lạnh nhạt nói:

– Muội trở về đi. Vị trưởng công chúa kia bị muội giấu lâu như thế, giờ cũng nên xuất hiện rồi, để thúc phụ gặp mặt bà ta đi.

Hết chương 135
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 136


Cao Lương tuy là thủ đô thứ hai nhưng dân cư cũng gần mười vạn, trong thành cũng xây dựng một toà cung điện hoa lệ to lớn.

Một đêm này, hoàng đế Tiên Bi là người thắng ban cho những binh lính cùng ông ta chiến đấu một đêm cuồng hoan cuối cùng. Vào lúc này, khi mà có rất nhiều người bởi vì đã bị bao vây thành mà không thể chạy thoát đã phải trải qua ba ngày trong địa ngục cùng với tuyệt vọng, sợ hãi và kêu khóc Thời điểm cho chờ mong bình minh đến thì mau chóng rút đi thì bên trong đại điện của cung điện Cao Lương tối nay lại đèn đuốc sáng trưng, vũ nữ ca hát nhảy múa.

Hoàng đế Bắc Yến Mộ Dung Tây mở tiệc rượu ở trong điện, cùng thần thuộc tướng lĩnh uống rượu chúc mừng. Sau vài bàn bên cạnh ông ta theo thứ tự có thần tử người Hán được ông ta trọng dụng là Trương Tập cùng với mấy quý tộc Tiên Bi có thế lực lớn nhất như Đồ Hà thị, Vệ thị, Nhược Cửu thị, còn lại là quan viên Yến quốc. Bầu không khí đang lúc sôi động thì có một vệ binh từ bên ngoài đi vào, nói Mộ Dung Thế đã lĩnh binh trở về, tự biết bản thân đã chống lại ý chỉ của hoàng đế đã gi3t chết Hạ đế, tội không thể tha, không còn mặt mũi nào gặp hoàng đế, hiện đang quỳ gối ở cửa thành chờ hoàng đế giáng tội.

Sự việc gã hành hạ Hạ đế cho đến chết mọi người đều đã biết. Nghe được tin gã trở về thỉnh tội thì đồng loạt ngừng uống rượu, ánh mắt không hẹn cùng đổ dồn vào hoàng đế Đại Yến Mộ Dung Tây đang ngồi ở giữa đại điện.

Mộ Dung Tây với danh tiếng Đệ nhất mãnh tướng phương Bắc có vóc dáng cường tráng, khoẻ mạnh kinh người, lúc vệ binh đi vào ông ta đang cười rất tươi, đang đẩy chiếc cốc không với Đồ Hà Công ngồi bên tay phải mình gần mình nhất, phía sau là hai mươi thân vệ. Thân vệ đều có võ công hơn người, ánh mắt cảnh giác thỉnh thoảng đảo qua từng gương mặt trong đại điện, ngay cả góc âm u nhất cũng không bỏ qua.

Đồ Hà Công là thủ lĩnh Đồ Hà thị Tiên Bi. Có lời đồn rằng trong tay Mộ Dung Tây có giấu tiền tài của tiền Yến quốc đã bị diệt.

Lúc đầu bọn họ nhân lúc Bắc Hạ suy vong chạy về phương Bắc, mọi chuyện tiến hành không thuận lợi, rất ít người hưởng ứng, chính bởi vì có được sự trợ lực của y cho nên mới có thể thuận lợi triệu tập cũ bộ, Đông Sơn tái khởi. Sau khi ông ta khôi phục lại Yến quốc chẳng những tôn phong các thành viên của gia tộc Đồ Hà thị với quan chức cao và tiền lương phong phú, mới trước đó thôi, còn đặ biệt cho phép một trong những đứa con trai của mình cưới con gái Đồ Hà thị làm vợ, hai họ kết làm thông gia. Chợt nghe vệ binh bẩm báo như thế, nụ cười trên mặt biến mất ngay lập tức, buông chén rượu, phất tay ra bảo vũ nữ trong điện dừng ca múa, ánh mắt đảo qua thần thuộc một vòng, nói:

– Lệnh Chi Vương kháng mệnh, theo ý chư vị nên xử lý nó thế nào?

Mộ Dung Thế là bị hoàng đệ của hoàng đế tiền Yến trước khi bị Bắc Hạ tiêu diệt đã phong làm Lệnh Chi Vương, hoàng đế dưới gối không có con gái, khi đó từng lập gã làm hoàng thái đệ. Tuy rằng chỉ được một thời gian thì Yến quốc bị diệt vong, gã cùng với tông thất liên can bị bắt, nhưng thân phận chính là thân phận, sẽ không thể thay đổi. Hiện tại Yến quốc đã được khôi phục lập lại, hoàng thúc Mộ Dung Tây xưng đế, địa vị của Mộ Dung Thế tức khắc trở nên hơi chút xấu hổ.

Trong điện, quan viên Yến quốc nhìn nhau, không một ai dám trả lời. Một lát sau, thừa tướng quan bái Trương Tập lên tiếng:

– Trước khi Lệnh Chi Vương xuất chinh, thiên vương đã từng hạ lệnh muốn hắn phải bắt sống Hạ đế để trợ giúp tấn công Lạc Dương. Nếu như trong loạn chiến thất thủ gi3t chết thì cũng thôi, nhưng hắn lại dùng thủ đoạn hành hạ cho đến chết, làm hỏng đại kế của thiên vương, trong mắt cũng không hề có thiên vương. Dựa theo luật lệ của Đại Yến ta, cần phải xử lý thật nghiêm nhằm răn đe cảnh cáo.

Trương Tập vừa dứt lời, Đồ Hà Công đã nói:

– Ta luôn kính phục thừa tướng, nhưng những lời thừa tướng nói lại hơi bất công. Thừa tướng không phải là tộc nhân bọn ta, làm sao có thể hiểu được mối thù khắc cốt của tộc ta với Hạ Yết? Huống chi Lệnh Chi Vương tuổi trẻ dễ bốc đồng, kẻ thù gặp nhau đỏ con mắt, nhất thời lỡ tay cũng là điều dễ hiểu. Ta đoán hắn cũng không phải cố tình mạo phạm thiên vương. Nhưng mà cãi lại mệnh lệnh của thiên vương đúng là có tội, nhưng hắn đã biết sai, đã chủ động nhận tội với thiên vương, theo ta thấy, phạt mấy chục trượng trách để hắn ghi nhớ bài học là được. Thiên vương thấy sao?

Tông thất hoặc là quý tộc Tiên Bi đang ngồi ở đây năm xưa lúc mà đất nước bị tiêu diệt hoặc ít hoặc nhiều đều đã bị người Yết làm nhục hành hạ. Trước kia vì mạng sống chỉ có thể khúm núm nịnh bợ, hiện giờ thời thế thay đổi, thù hận với Bắc Hạ đều khắc cốt ghi tâm, trước đó biết được Mộ Dung Thế dùng thủ đoạn kia để tra tấn kẻ thù cho đến chết, người nào cũng cảm thấy sảng khoái cả lòng. Chỉ là e ngại mệnh lệnh của Mộ Dung Tây mà không dám tỏ vẻ ra mà thôi. Lúc này nghe Đồ Hà Công dẫn đầu giải thích thay cho Mộ Dung Thế thì đồng loạt phụ hoạ theo, tiếng tán đồng trong đại điện hết đợt này đến đợt khác.

Mộ Dung Tây lại nhìn quanh một vòng lần nữa, thấy Trương Tập còn muốn mở miệng liền ngắt lời:

– Những lời đại tướng quân nói cũng có lý. Kêu nó tự lĩnh 40 quân côn, việc này coi như cho qua.

Sau đó nét mặt chuyển sang nghiêm trang:

– Nếu như còn có lần sau, bất kể là ai cũng đừng trách bản vương không nể tình.

Mọi người đều vâng dạ.

Mệnh lệnh của ông ta mau chóng được truyền xuống. Quan viên Yến quốc bắt đầu ca tụng công đức của Mộ Dung Tây. Mộ Dung Tây lộ vẻ đắc ý, ra lệnh cho ca múa tiếp tục. Đến tận khuya buổi yến tiệc mới kết thúc, Mộ Dung Tây say chuếnh choáng, dưới sự hộ tống của hai mươi vệ sĩ trung thành ngày đêm theo sát mình, bước chân chập choạng đi về phía tẩm điện chợt bị Trương Tập gọi lại.

Trương Tập bước đến nói:

– Thiên vương không chịu nghe lời khuyên của tôi, nhún nhường với họ, thay đổi ý kiến, lấy thành trì này khao quân thì cũng thôi đi. Nhưng Mộ Dung Thế này ngài không thể nương tay được. Người này rất có tâm cơ, không phải là kẻ an phận thủ thường. Nếu như thiên vương không nhân cơ hội này giết hắn, chỉ sợ sau này ngài sẽ bị hắn cắn ngược.

Trương Tập xuất thân thế gia phương Bắc, nổi danh về sự nhạy bén và tài cán, Mộ Dung Tây ngương mộ kỳ danh mà ba lần đến mời, cuối cùng cũng mời được y đến nước Yến làm quan. Hiện tại một loạt quan tước và luật chế của Yến quốc đều do người này chủ trì quyết định ra, bình thường Mộ Dung Tây khá kính trọng y. Nhưng mà tối nay thấy y không buông tha cho Mộ Dung Thế, khuyến khích mình giết Mộ Dung Thế, còn đuổi theo tới tận đây nữa, trong lòng có chút không vui, nói:

– Thừa tướng quá lo rồi. Ta rất hiểu đứa cháu trai này. Theo ta suy đoán, với tính cách của nó, lần này nhất định sẽ giết Hạ đế để trút mối hận trong lòng, đây cũng là nguyên do mà ta phái nó đi xuất binh chủ yếu là để thử nó. Nếu bởi vì mệnh lệnh của ta mà nó ẩn nhẫn không giết, ngược lại mới khả nghi đây. Ngươi yên tâm đi.

Trương Tập lắc đầu:

– Chỉ sợ không đơn giản như vậy. Có lẽ hắn đã nghiền ngẫm tâm ý của thiên vương rồi cho nên mới cố ý nghịch ý thiên vương hành hạ Hạ đế đến chết nhằm qua mặt thiên vương.

Mộ Dung Tây xua tay:

– Thừa tướng nghĩ nhiều rồi.

Thấy Trương Tập vẫn còn muốn lên tiếng, trong lòng ông ta hơi chút mất kiên nhẫn, nói tiếp.

– Ta đã đáp ứng lấy thành trì khao quân, cũng có suy xét của ta. Thừa tướng hãy yên tâm, đây là một lần cuối cùng. Chờ đánh hạ Lạc Dương rồi, tuyệt đối sẽ không có việc đó nữa. Ta mệt mỏi rồi muốn đi nghỉ ngơi, thừa tướng cũng nghỉ sớm chút đi.

Trương Tập không thể làm gì khác đành chán chường rời đi.

Mộ Dung Tây nhìn theo bóng dáng của y, xoay người lại được tả hữu đỡ lấy đi về tới tẩm cung, hai tay đặt lên vai hai mỹ nhân trái phải bước ra loạng choạng đi vào trong, hai mươi thân vệ phía sau có hai người trong đó đi theo, không rời một bước, những người còn lại thủ canh giữ bên ngoài điện.

Đúng lúc này, bên ngoài lại có tiếng bước chân, giọng nói của một cô gái cất lên:

– Xin thiên vương dừng bước ạ, cháu có việc cần bẩm báo.

Mộ Dung Tây quay đầu lại, thấy Mộ Dung Triết đứng ở dưới bậc thềm bên ngoài điện, liền ra lệnh cho mỹ nhân lui ra:

– Muộn thế này rồi tìm ta có chuyện gì?

Mộ Dung Triết bước nhanh đi đến trước mặt Mộ Dung Tây, hành lễ nói:

– Muộn thế này rồi cháu biết không làm phiền đến thúc phụ nghỉ ngơi, nhưng cháu có một vài lời thật sự là không thể chờ đến ngày mai được ạ. Lần này a huynh gây ra sai lầm lớn, làm trái lại mệnh lệnh của thúc phụ, vốn dĩ có bị trách phạt thế nào đều là trách nhiệm của a huynh, huynh ấy phải gánh chịu, cháu không dám có bất mãn gì. Nhưng mà cháu nghe nói tại cung yến có người dám công khai mắng chửi a huynh, nghi ngờ lòng trung thành của huynh ấy với thúc phụ, làm cháu uất nghẹn cả họng. Bởi thế dù cho có bị thúc phụ trách móc thì cháu cũng phải biện bạch cho huynh ấy với thúc phụ ạ.

Mộ Dung Tây đã đoán được cô ấy đến là vì việc này, trấn an:

– Trương Tập chỉ quá thẳng tính và có thành kiến thôi, cho nên mới nhiều chuyện một chút. Cháu yên tâm, ta sẽ không tin hắn. Tối nay xử phạt a huynh cháu cũng không phải cố tình, đó là luật pháp, không xử phạt thì không đủ để phục chúng.

Mộ Dung Triết cảm kích nói:

– Cháu cảm ơn thúc phụ. Còn một chuyện nữa mà cháu vẫn mãi không dám bẩm báo, chỉ sợ sẽ bị thúc phụ trách ạ. Tối nay huynh trưởng cháu bị oan đến mức này, dù là có mất mạng thì cháu cũng phải nói ra ạ.

– Là chuyện gì?

– Hẳn thúc phục cũng biết về tin tức trưởng công chúa Nam Triều vào lúc đất nước gặp loạn đã bất hạnh lâm nạn rồi đúng không ạ?

Mộ Dung Tây lúc còn trẻ từng yêu từ cái nhìn đầu tiên đối với Tiêu Vĩnh Gia, bao nhiêu năm nay tuy cuộc sống trải qua nhiều thăng trầm nhưng bởi vì muốn làm không được trong quá khứ mà Tiêu Vĩnh Gia đã trở thành một bóng hình xinh đẹp không thể xóa nhòa trong trái tim ông ta.

Nam Bắc là địch, giữa hai bên không thiếu mật thám phái đi qua lại. Tin tức năm ngoái Tiêu Vĩnh Gia gặp nạn tất nhiên cũng truyền tới chỗ ông ta. Lúc ấy ông ta còn thương cảm một thời gian, sai người thiết lập linh đường tế bái cho Tiêu Vĩnh Gia, đây cũng không phải là chuyện bí mật gì.

Mộ Dung Tây đột nhiên nghe cháu gái nhắc đến Tiêu Vĩnh Gia, có chút không hiểu gì cả, nghi hoặc nhìn cô ấy.

Mộ Dung Triết tiếp tục nói:

– Thúc phụ hẳn còn nhớ, Nam Triều bùng nổ loạn giáo và phản loạn Kinh Châu, sau khi cháu thay thúc phụ truyền tin cho Lý Mục xong có từng bí mật xuống phía Nam để thăm dò tình báo. Khi ấy chính là a huynh đã dặn dò cháu, nói trưởng công chúa là cố nhân của thúc phụ, không thể để xảy ra chuyện bất trắc được, kêu cháu thuận đường thì chú ý đến bà ấy một chút. Tuy rằng địa vị bà ấy cao quý, nhưng mà Nam Triều đang gặp nguy hiểm chồng chất, thậm chí hoàng đế còn mang theo bách quan trốn ra khỏi Kiến Khang, ai mà biết sẽ phát sinh chuyện gì.

– Cháu tới Kiến Khang đã âm thầm chú ý tới trưởng công chúa. Thời điểm sắp sinh nở, Cao Kiệu đã đưa bà ấy vào trong núi chờ sinh, cháu thấy tình cảnh của bà ấy rất yên ổn, đang lúc chuẩn bị muốn rời đi thì đúng là vô cùng trùng hợp lại để cháu gặp phải kẻ thù nhân loạn lạc mà muốn giết bà ấy. Trưởng công chúa đã sắp sinh rồi, tình huống rất nguy hiểm, Cao Kiệu lại bị chiến sự quấn lấy, thậm chí còn có khả năng bị thua trận, trưởng công chúa không có ai bảo vệ, chẳng phải rất nguy hiểm ạ? Cháu liền nghĩ đến lời dặn dò của a huynh và sự quan tâm của thúc phụ với trưởng công chúa, thế là đã cứu và tạm thời đưa bà ấy đi theo mình…

Mộ Dung Triết vừa nói vừa âm thầm chú ý quan sát biểu cảm của Mộ Dung Tây, thấy ông ta hai mắt dần dần trợn to, nét mặt đầy kích động, nói tiếp.

– Cháu trăm cay ngàn đắng vất vả đưa bà ấy về đến bên này, vốn dĩ có ý tốt, nào ngờ trưởng công chúa hiểu lầm cháu, còn hiểu là cháu do thúc phụ sai khiến. Hơn nữa về sau Nam Triều đã dẹp yên phản loạn, cháu với a huynh rơi vào thế khó xử. Nếu cứ thế mà đưa bà ấy trở về, chỉ sợ không những không tạo được mối quan hệ tốt với Nam Triều mà ngược lại còn gặp phải thị phi. Còn nếu giao bà ấy cho thúc phụ ngài, lại sợ gây nên phiền phức cho ngài, sợ ngài trách a huynh và cháu tự tiện quyết định…

– Hiện giờ nàng ấy thế nào? Nàng ấy đang ở đâu?

Mộ Dung Tây cắt ngang Mộ Dung Triết.

– Lập tức đưa nàng đến gặp ta…

– Không, không, tốt nhất là để ta đi gặp nàng ấy thì hơn. Nhanh lên.

Không đợi Mộ Dung Triết trả lời, Mộ Dung Tây đã vô cùng sốt ruột không thể chờ nổi nữa bước đi ra ngoài.

……

Trong đêm tối, một người đàn ông vội vàng đi qua một khoảng sân sâu hun hút, cuối cùng cũng đến một nơi ở.

Cửa ra vào và cửa sổ đều đóng chặt, bên trong có ánh sáng lờ mờ.

Mộ Dung Triết đứng lại, thấp giọng nói:

– Trưởng công chúa ở bên trong ạ.

Mộ Dung Tây bước nhanh lên bậc thang, nhẹ nhàng đẩy cửa ra, đi vào vài bước, liếc nhìn đã thấy một người phụ nữ đang ngồi trong phòng.

Người phụ nữ với lông mày điêu khắc và mắt phượng, mái tóc đen bóng mượt, ánh sáng phản chiếu lên khuôn mặt vô cùng xinh đẹp, tuy đôi má hơi bầu bĩnh có chút khác biệt với cô gái trong ký ức, nhưng Mộ Dung Tây vẫn nhìn một cái là nhận ra ngay.

Người phụ nữ trong phòng này thật sự là Nam Triều trưởng công chúa Tiêu Vĩnh Gia!

Mấy ngày trước, con trai nhỏ của Tiêu Vĩnh Gia bị cưỡng ép mang đi, bà cũng bị giam lỏng ở nơi này đã được hơn nửa năm rồi. Đang lúc lo lắng, vừa thấy Mộ Dung Tây lộ diện thì sửng sốt, ngay sau đó thì nhận ra, hai mắt mở to, đột nhiên nhảy dựng lên giận giữ nói:

– Mộ Dung Tây, quả nhiên là ngươi! Là ngươi kêu Mộ Dung Thế nhốt ta ở đây đúng không? Ngươi mang con trai ta đi đâu rồi? Ngươi muốn làm gì?

Lông mày bà nhíu chặt, vẻ mặt tức giận phẫn nộ, mở miệng là mắng to không kiêng nể, nhưng Mộ Dung Tây tựa hồ không để ý tới, ánh mắt trong chốc lát dán chặt vào trên người bà, đột nhiên hồi hồn lại. Ông ta cười gượng mấy tiếng, ra lệnh cho một thị nữ đứng ở trong góc tối căn phòng lui ra ngoài, lại quay đầu lại ra lệnh cho những thân vệ đi theo mình lui ra phía sau không được đi vào, mình thì đóng cửa lại, đi đến gần Tiêu Vĩnh Gia, cười:

– Trưởng công chúa, Mộ Dung Tây phải may mắn cỡ nào mà lúc sinh thời vẫn còn có thể gặp mặt trưởng công chúa ở chỗ này. Nàng yên tâm, ta tuyệt đối không làm hại nàng, càng không làm gì hại đến con nàng. Chắc nàng còn chưa biết, ta đã khôi phục lập lại Yến quốc, cũng làm hoàng đế Đại Yến. Chỉ cần nàng bằng lòng đi theo ta, ta sẽ coi con trai của nàng như con ruột của mình…

Tiêu Vĩnh Gia thấy ông ta sắc mặt đỏ bừng, hai mắt sáng rực, từng bước một đến gần mình thì kinh hãi lùi lại.

– Mộ Dung Tây ngươi bị điên rồi phải không? Thân phận ta thế nào mà ngươi dám đối đãi với ta như thế? Nam Triều dù vô dụng đến mấy thì trượng phu ta cũng sẽ không trơ mắt nhìn ta bị hạ nhục đâu. Còn có Lý Mục nữa, ngươi còn không biết nó là ai đúng không? Ngày hôm nay ngươi dám đụng đến ta, sau này ngươi nhất định chết không có chỗ chôn.

Mộ Dung Tây đứng lại nhìn Tiêu Vĩnh Gia rất lâu, vẻ đỏ ửng trên mặt vì kích động vừa rồi chậm rãi biến mất, ánh mắt cũng âm trầm xuống.

Ông ta hừ một tiếng:

– Mộ Dung Tây ta là người biết sợ hay sao? Cao Kiệu hiện giờ chỉ còn nửa cái mạng, là một phế nhân, con rể nàng Lý Mục sớm hay muộn ta với hắn cũng sẽ có một trận chiến. Đến lúc đó nàng xem xem, thiên hạ này rốt cuộc ai mới là anh hùng chân chính.

Sắc mặt Tiêu Vĩnh Gia trở nên trắng bệch, thân hình hơi đảo lên:

– Mộ Dung Tây, ngươi quyết tâm không cho ta quay về đúng không?

Mộ Dung Tây vội vàng xông lên trước đưa hai tay đỡ lấy vai bà, bị bà hất tay ra, chà xát lòng bàn tay, ánh mắt nhìn bà dần dần trở nên ôn hoà, nói:

– Nàng đã tới chỗ ta rồi thì cứ an tâm ở lại đi. Nàng yên tâm, ta sẽ không ép bức nàng. Ta thấy nàng còn rất yếu, nàng cứ ở đây điều dưỡng sức khoẻ, chờ khoẻ lên rồi ta sẽ mang con trai của nàng lại cho nàng.

Tiêu Vĩnh Gia đau khổ, hai tay nắm chặt thành quyền, cơ thể hơi run lên.

Mộ Dung Tây hướng ra bên ngoài gọi một tiếng, thị nữ kia mau chóng đi vào.

– Hầu hạ cho tốt. Nếu ngươi làm không tốt, ta sẽ hỏi tội ngươi.

Mộ Dung Tây nhìn Tiêu Vĩnh Gia, miệng phân phó thị nữ, ngữ khí nghiêm khắc.

Thị nữ có vẻ kinh hoảng, khom người cúi đầu vâng dạ, hai tay đút vào ống tay áo bước nhanh tới gần Tiêu Vĩnh Gia. Lúc đi qua Mộ Dung Tây đột nhiên ngẩng đầu lên, ánh nến phản chiếu một đôi đồng tử màu tím như cầu vồng đêm.

Mà lúc này ánh mắt của Mộ Dung Tây vẫn đang dán chặt vào Tiêu Vĩnh Gia, ông ta không nhìn thấy đôi mắt đột nhiên lộ ra của thị nữ này.

Mà thị nữ này lại quá gần ông ta.

Một bản năng đã trải qua nhiều năm trên chiến trường khiến ông ta đột nhiên có linh cảm rằng nguy hiểm dường như đang đến gần.

Ông ta quay phắt đầu sang.

Nhưng đã muộn rồi.

Khoảnh khắc thị nữ ngẩng đầu lên, bàn tay phải đang nhét trong tay áo của cô ta hơi xoay, một thanh chủy thủ có viền xanh lam xuất hiện trong lòng bàn tay.

Khi mà Mộ Dung Tây thấy rõ đôi mắt màu tím quen thuộc kia, bàn tay của thị nữ di chuyển nhanh như chớp, trong nháy mắt, chuôi thanh chủy thủ này vô thanh vô tức đâm thủng áo cắm thật sâu vào ngực ông ta, chớp mắt không thấy chuôi dao đâu.

Chủy thủ đã được tôi luyện bằng chất độc.

Mộ Dung Tây gầm lên một tiếng, cánh tay từng vung đao giết người vô số mới giơ lên tới giữa không trung liền cảm thấy ngực tê rần. Loại cảm giác tê liệt này nháy mắt lan tràn tới toàn thân, cả người ông ta đột nhiên mất đi sức lực, cơ thể đã từng cao lớn giống như ngọn núi không thể lay động ầm ầm ngửa ra sau ngã xuống đất.

Mộ Dung Tây cảm thấy máu trong cơ thể đang nhanh chóng nguội đi, từ từ đông đặc lại, ông ta mở to mắt tràn ngập sự phẫn nộ điên cuồng và sự không thể tin được nhìm chằm chằm vào đứa cháu trai Mộ Dung Thế giả thành thị nữ, gằn giọng nói:

– Ngươi cho rằng bọn họ sẽ ủng hộ ngươi thượng vị hay sao?

Mộ Dung Thế đứng trên cao nhìn xuống, dùng ánh mắt thương xót nhìn xuống thúc phụ của mình đang giãy giụa dưới đất, nói:

– Thúc phụ, ngài muốn lợi dụng trí tuệ người Hán để thống trị giang sơn này cho ngài, ý tưởng này là đúng. Nhưng ngài lại không biết, người Hán ngài dùng đến quá sớm. Căn cơ người Yến còn chưa vững chắc, điều ngài phải dựa vào bây giờ vẫn là nhóm man rợ chỉ biết giết chóc và cướp bóc. Bắt đầu từ ngày ngài trọng dụng người Hán kia thì những cấp dưới của ngài đã bắt đầu tách ra khỏi ngài. Huống chi, nếu bọn họ biết ngài chỉ muốn giữ cái đang có không muốn dẫn dắt họ đi cướp bóc của cải và mỹ nhân ở phía Nam con sông lớn kia, ngài cho rằng họ sẽ còn giống như trước đây nguyện trung thành với ngài hay sao?

– Dù cho ngài không có ý định đi về phía Nam giành lấy Nam Triều thì ít nhất ngài cũng nên cho đám ngu dốt này một cái bánh, để họ nghe lời ngài chứ.

Thân hình Mộ Dung Tây co giật vài cái, lẩm bẩm:

– Ngươi muốn Nam Triều, ngươi cho rằng ngươi sẽ thắng được Lý Mục…

Mộ Dung Thế nheo mắt lại, đôi môi mỏng vẽ lên một đường cong thanh tú tao nhã.

Gã cười nói:

– Tại sao ta lại phải đi gây chiến với một người biết là khó thắng nhỉ? Chờ ta lên làm hoàng đế Đại Yến rồi, ta chỉ cần giấu tài, chờ đợi thời cơ, hoặc là thích hợp mà thúc đẩy một chút, để cho người Nam Triều tự đi giải quyết chiến thần bách chiến bách thắng của họ, sau đó ta lại ra tay, chẳng phải dễ dàng hơn nhiều hay sao?

– Thúc phụ, ngài được tôn xưng là đệ nhất mãnh tướng phương Bắc, có biết vì sao lại thua trong tay ta không? Bởi vì ngài chưa bao giờ dùng đầu óc.

Gã dùng ánh mắt thông cảm nhìn Mộ Dung Tây đang dần dần dừng giãy giụa trên mặt đất, vươn tay ra, chậm rãi vuốt mắt lại cho ông ta, sau đó thong dong đứng dậy, nhìn Tiêu Vĩnh Giai sắc mặt đang tái nhợt, nói:

– Trưởng công chúa, làm phiền bà còn phải ở đây một thời gian nữa. Bà yên tâm, qua đêm nay, tôi sẽ trả lại con cho bà. Bà cứ an tâm ở lại đây đi.

Giọng của gã rất cung kính, nói xong hơi mỉm cười với bà, sau đó xoay người đi ra ngoài.

Hết chương 136
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 137


Mộ Dung Thế trong trang phục bạch y, tóc tai bù xù, đi qua đình viện đầy thi thể nằm ngang dọc đi đến bên ngoài cửa, đối mặt với Đồ Hà thị và các quý tộc Tiên Bi khác cùng đám binh lính phía sau đang quỳ gối nghênh đón mình, câu đầu tiên gã nói là g iết chết Trương Tập.

Gã vô thanh vô tức mà bước lên ban công của tòa thành cao ngất của thành Cao Lương kia.

Bóng đêm đen như mực áp xuống đỉnh đầu.

Ngọn lửa do binh lính cướp bóc giết hiếp và phóng hỏa tàn sát bữa bãi trong thành, nhìn từ xa, cả thành phố tràn ngập những mảnh lửa nhỏ.

Dưới cửa thành cách đó không xa, đột nhiên vang lên tiếng kêu cứu chói tai của phụ nữ, xen lẫn với đó là tiếng cười man rợ của binh lính.

Mộ Dung Thế từ trên cao nhìn xuống dưới một chốc lát, rồi đột nhiên ra lệnh cho Mộ Dung Triết đang đi theo phía sau mang cung năm thạch đến, dùng tay trái cứng ngắc khó khăn kéo căng cây cung, thong thả nhắm chuẩn vào bóng dáng binh lính đang làm điều tàn ác dưới tường thành kia, b ắn ra mũi tên.

Mũi tên không đi thẳng vào sau tim, lệch vài phân nhưng binh lính vẫn ngã xuống đất.

Người phụ nữ đột nhiên được cứu, từ dưới đất đứng dậy, ngẩng đầu nhìn trời, không thấy gì ngoài bức tường thành màu đen, trong chốc lát ngơ ngác, dọc theo bức tường thành mà loạng choạng bỏ chạy.

Mộ Dung Thế từ từ hạ cánh tay đang run rẩy vì gắng sức phát lực của mình xuống.

Mộ Dung Triết ngập ngừng:

– A huynh ơi, có cần hạ lệnh kêu binh lính ngừng việc đồ sát thành không ạ?

– Cách bình minh chỉ còn hai canh giờ nữa thôi.

Mộ Dung Thế lạnh nhạt nói, nét mặt hờ hững.

Mộ Dung Triết thoáng nghe được nơi xa có tiếng khóc gào của phụ nữ trẻ em truyền đến càng nhiều hơn, yên lặng không nói gì.

Nhưng rất nhanh, tất cả đều bị tiếng gió vù vù bên tai che giấu.

Mộ Dung Thế bước lên trên đỉnh thành lâu.

Gió từ đồng bằng phía Bắc ùa vào đỉnh thành, cuốn tung mái tóc dài và quần áo xõa tung của gã, gã đứng trên đó, thân hình như lung lay muốn sụp đổ, nhưng khuôn mặt lại vô cảm, xuyên qua ánh lửa phía dưới chân mà nhìn về hướng Lạc Dương.

Hạ đế đã chết, Lạc Dương hiện giờ chỉ còn tông thất Bắc Hạ canh giữ.

Mộ Dung Thế biết, rất nhanh thôi, tòa thành trì không ai bì nổi kia, đã từng giẫm đạp mình dưới bùn đất sẽ phủ phục dưới chân mình, run bần bật.

Gã từng vô số lần mà thề rằng, một ngày nào đó, nếu để cho gã giết về Lạc Dương, chuyện đầu tiên mà gã làm đó sẽ là tàn sát toàn bộ dân trong thành. Chỉ có máu tươi và lửa nóng mới có thể rửa sạch sự chế giễu và nhục nhã mà gã phải chịu ở đó, đồng thời mang lại cho gã kh0ái cảm trả thù.

Nhưng hiện giờ gã lại biết, đồ sát và hủy diệt Lạc Dương còn xa mới có thể mang đến cho gã kh0ái cảm mà gã muốn.

Gã nhìn chằm chằm vào bầu trời đêm, và từ từ chuyển ánh mắt về phương Nam xa hơn, và nhìn rất lâu.

Gã nhớ tới một đêm nào đó trước kia.

Cũng là một đêm khuya gió thổi hây hây như thế, trong vùng hoang dã, gã bị một cô gái dùng hòn đá đập ngã xuống đất và chết ngất đi.

Nàng là cô gái đẹp nhất ở Nam Triều và cũng là cô gái cao quý nhất.

Cả đời này của gã chưa bao giờ gần tử vong đến như thế.

Nếu khi đó nàng tiếp tục nâng hòn đá đánh vào đầu gã lần nữa, chỉ một đòn thôi, có lẽ gã đã biến thành xương trắng nơi hoang dã bị dã thú gặm nhấm không còn một mảnh chứ đừng nói đến sẽ có gã ở đây đứng trên thành lâu vào lúc này.

Nhưng mà nhân sinh lại huyền diệu như thế đó.

Khi đó, bởi vì nàng nhất thời mềm lòng, vì thế người có tên là Mộ Dung Thế chẳng những còn sống mà còn sống đến tận hôm nay, cách suy nghĩ của gã cũng càng ngày càng gần.

Từ lâu, trong đáy lòng, gã đều coi đoạn thời gian ở bên nàng và trải nghiệm của đêm đó cùng nàng như một loại điềm báo, giống như một lời tiên tri.

Thế nào là chính, thế nào là tà, gã cũng không quan tâm.

Gã chỉ biết đạo cao một thước, ma cao một trượng.

Gã biết dã tâm của nhà Hán Nam Triều kia.

Thực ra đó cũng là dã tâm của Mộ Dung Thế gã.

Ngay như tối nay, vào giờ phút này, gã đứng trên đỉnh thành lâu cao ngất, dường như đã nhìn thấy được đồ cuốn thiên hạ đang chậm rãi trải dưới chân gã.

Có câu nói thiên hạ như bàn cờ, người bên trong bàn cờ thường thường thân bất do kỷ, rơi vào loạn cục.

Mộ Dung Thế gã lại không muốn làm người ở bên trong ván cờ kia.

Gã cũng có đủ ẩn nhân và kiên nhẫn.

Điều gã phải làm là nhảy ra khỏi ván cờ, trở thành con mắt nhìn thấu lòng người quan sát bàn cờ và là bàn tay thao túng cục diện này.

Gã theo bản năng giơ cánh tay phải lên, vỗ lên cánh tay tàn phế vừa rồi đã dùng  hết sức lực nhưng vẫn không thể kéo căng hoàn toàn hết cây cung ngũ thạch, từ từ nhắm mắt lại, đứng bất động trong chốc lát, đối mặt với gió đêm, đột nhiên hú lên một tiếng dài.

Tiếng hú này cao vút phóng túng, giống như vang vọng cả núi sông, giống như mây xuyên qua đá nứt, cùng với ngọn lửa rực cháy của thành phố dưới chân và tiếng kêu đau đớn, nó xuyên qua bầu trời đêm và quấy rối giấc mơ của mọi người.

……

Lạc Thần đang trong giấc mộng chợt bừng tỉnh, phát hiện vẫn là đêm khuya.

Trong phòng rất an tĩnh, an tĩnh đến mức ngay cả nhịp tim đập của nàng cùng với hô hấp của A Cúc và thị nữ ngủ gian ngoài dường như đều có thể nghe được rõ ràng.

Nàng đổ mồ hôi lạnh ròng ròng, cả người cảm giác như bước ra khỏi mơ y như thật. Lấy lại bình tĩnh, nàng vén chăn lên đi giày vào, mượn ánh trăng mờ ảo bên ngoài cửa sổ chiếu qua khe cửa sổ mà đi ra rót cốc nước, uống mấy ngụm.

Nước mát lạnh từ cổ chảy vào cơ thể, làm cho nàng cuối cùng mới thấy dễ chịu hơn một chút.

Bên tai lại vang lên một âm thanh mơ hồ của thủy triều đêm.

Nàng không còn buồn ngủ chút nào, lau mồ hôi, khoác vội chiếc áo đẩy cửa đi ra ngoài, dưới ánh trăng sáng treo cao trên đầu Bạch Lộ Châu, sau khi đi xuyên qua hậu viện Lâu vũ tòa nhà nơi mình ở đi thêm một đoạn thì bờ sông hiện ra trong tầm mắt.

Với cơn gió sông vẫn còn se lạnh thổi vào mặt, nàng ngồi trong vọng lâu được xây dựng bên bờ sông, nhìn dòng sông đang dâng trào trong đêm, dần chìm đắm trong suy nghĩ.

Đây là một đêm khuya cuối xuân năm Long Nguyên thứ ba.

Chớp mắt phụ thân đã rời khỏi Kiến Khang được ba năm rồi, trước sau không có tung tích của mẫu thân, cũng không hề có tin tức của phụ thân gửi về.

Ban ngày hôm nay thời điểm vào cung, nàng lại gặp Vinh Khang thái thú Ba Đông. Lần này, y mang theo một khối điềm lành nghe nói trời giáng xuống lại một lần nữa vào Kiến Khang.

Thái hậu rất vui mừng, ra lệnh cho bách quan ra khỏi thành long trọng đón Vinh Khang và điềm lành kia đón vào hoàng cung, ở trong cung tổ chức thiết yến, chẳng những triệu đầy đủ văn võ bá quan tham dự cùng giám định điềm lành, sau đó còn đặc biệt trịnh trọng đặt điềm lành ở trong Ngự Hoa Viên, mời toàn bộ quý phụ nhân trong thành Kiến Khang vào cung cùng nhau thưởng thức.

Lạc Thần là Đại Tư Mã phu nhân, mệnh phụ nhất đẳng đương triều, nhất cử nhất động đều gây chú ý.

Trường hợp như hôm nay nàng tất nhiên cũng phải đi.

Điềm lành là một khối kỳ thạch từ trên trời rơi xuống, toàn thân được dát vàng, trên thân đá có nhiều lỗ nông, trông rất hiếm, kỳ lạ nhất là khi một số lỗ nối liền nhau, mơ hồ có thể nhận ra được thoáng như có một số ký tự chữ cổ triện được khắc trên đó “Mộc Hòa Hưng, Quốc Long Thái”.

Mọi người đều trịnh trọng quỳ lạy, nói đây là thụy sấm trời cao giáng xuống, dự báo Đại Ngu mưa thuận gió hoà, vận mệnh quốc gia phục hưng, quốc tộ chạy dài, vĩnh hưởng thọ xương. Không ít đại thần còn đặc biệt viết bài phú về khối điềm lành này, trên dưới cả triều đều vui mừng khôn xiết.

Quả thật, triều cục Đại Ngu hôm nay đích xác có thể gánh vác nổi khối điềm lành của trời này, đáng để ăn mừng.

Đại Ngu đã từng bấp bênh suýt nữa sụp đổ hiện giờ đã dần dần thoát ra khỏi xu hướng suy tàn, các mặt đều tốt lên.

Năm đầu tiên Lý Mục trở thành Đại Tư Mã, hắn tiêu diệt dư đảng Cánh Lăng Diêu Đam trước đây đi theo phản loạn Hứa Tiết, bình định Cánh Lăng.

Kế đó, vào năm sau, mùa xuân năm Long Nguyên thứ nhất, hắn tiêu diệt Phùng Hiển – một đồng đảng khác của Hứa Tiết đang chiếm cứ Giang Hạ, thượng du Trường Giang đã hoàn toàn khôi phục an bình.

Tới mùa thu năm Long Nguyên thứ nhất, hắn chỉ dùng thời gian hai tháng đã bình định tôn thất Trường Sa Vương lấy cớ phản đối hắn là Đại Tư Mã chấp chính mà công khai lập một nước trong quốc gia, giế t chết Trường Sa vương. Từ đây tông thất đều bị lặng im, cung kính nghe theo Lý Mục, không một ai dám buông lời bất mãn nữa.

Tới mùa xuân năm Long Nguyên thứ hai, Lưu Đoan người Hung Nô trước đây vẫn luôn chiếm cứ Ninh Châu xưng đế, thành lập Hán quốc tấn công Thục quân phụ thuộc vào Đại Ngu. Lý Mục tiến đánh bất ngờ, thao luyện thuỷ quân xuất binh, diệt Hán quốc, g iết chết hoàng đế Hán quốc Lưu Thụy.

Đồng thời, ảnh hưởng của triều đình ở Lũng Tây trong vài năm qua không ngừng mở rộng.

Mùa thu năm Long Nguyên thứ hai, Lý Mục tiêu diệt Tây Lương đang âm mưu tấn công Trường An, đồng thời gi ết chết hoàng đế Tây Lương, Hơn mười nước lớn nhỏ Tây Vực phái sứ giả đến Trường An, bái kiến Lý Mục, đi qua con đường phía Nam mà hắn mở ra năm đó và đi vào Kiến Khang quy phục Đại Ngu.

Trong thời gian ba năm ngắn ngủi, Lý Mục không chỉ thống nhất các châu trong biên giới Đại Ngu từ thượng nguồn Trường Giang cho đến hạ du nhập biển, hoàn toàn thống nhất Nam Triều, ngoài ra các nơi Tây Bắc phát tán ra ngoài bao gồm tây từ Tây Vực, đông từ Hàm Cốc quan phía đông lấy Trường An làm trung tâm tụ hợp lại quy toàn bộ về bản đồ của Đại Ngu.

Không chỉ như thế, hiện giờ ngay cả lưu vực Hoài THủy cũng sắp sửa một lần nữa đưa vào quyền cai trị của Đại Ngu.

Sau khi Hạ đế bị Mộ Dung Thế giế t chết, không bao lâu thì Lạc Dương bị phá, Mộ Dung Thế lên ngôi vị hoàng đế kế nhiệm Mộ Dung Tây bị chết đột ngột, làm hoàng đế Yến quốc. Mà lúc ấy tông thất Hạ đế trấn thủ Lạc Dương chạy trốn đến Nhữ Nam, chiếm cứ Hoài Trung, trùng kiến Hạ quốc.

Mùa đông năm ngoái, người Hạ vì tranh giành biên giới mà xâm phạm Đại Ngu, Lý Mục quyết định Bắc phạt.

Ngay trước đó không lâu, tin tức truyền đến, nói hắn đã đánh hạ Nhữ Nam, bắt sống Yết hoàng, hiện giờ đang trên đường khải hoàn về triều.

Bởi vì người phương Nam hận sự tàn ác của người Yết năm xưa gây ra, Lý Mục liền áp giải Hạ đế về kinh, dự tính về tới kinh sư sẽ chém đầu ở trước công chúng để ổn định lòng dân.

Thế lực và quốc lực của Nam Triều từ lúc vượt sang phía Nam đến nay chưa từng bành trướng như hiện giờ. Hiện tại lại có thêm bằng chứng là khối điềm lành này, văn võ cả triều làm sao mà không hân hoan ủng hộ ca tụng công đức chứ?

Cả một ban ngày, ở trong cung sau khi đã giám định và thưởng xong khối kỳ thạch kia, Lạc Thần xin cáo từ với Cao Ung Dung muốn ra cung, Vinh Khang lại tới cầu kiến, nói lần này mình vào Kiến Khang ngoại trừ dâng lên điềm lành thì cũng đặc biệt chuẩn bị món quà cho thái hậu Nam Triều tôn quý nhất và Đại Tư Mã phu nhân, hy vọng hai người có thể vui lòng nhận tấm lòng của y.

Lạc Thần lập tức từ chối, tuy nhiên Cao Ung Dung lại nói vì y có công hiến điềm lành nên sai người triệu vào.

Cứ thế, Lạc Thần lại một lần nữa được gặp Vinh Khang đến từ Ba Đông.

Thái độ của Vinh Khang rất cung kính, lễ vật hiến cho Lạc Thần cũng rất quý hiếm, là một bộ sưởng y được trang trí bằng những viên ngọc quý và được dệt từ bộ sưu tập các lông loài chim màu ngọc lục bảo, người ta nói rằng hàng chục thợ thêu đã phải mất nửa năm để hoàn thành chiếc váy có một không hai trên đời này.

Lạc Thần cảm thấy quá xa hoa lãng phí, không dám hưởng thụ mà uyển chuyển từ chối. Khi ấy Vinh Khang lộ rõ sự thất vọng, nhưng không dám cưỡng ép, cung kính thu lại lễ vật.

Không biết vì sao Lạc Thần luôn có cảm giác rất không thích vị phiên trấn địa phương đến từ Ba Đông này. Nàng không ở lại mà lấy lý do rồi mau chóng rời khỏi cung trở về Bạch Lộ Châu.

Mấy năm nay, Lý Mục chinh chiến Nam Bắc, việc ngựa chiến cấp bách, trong một năm này, gần như có hơn nửa năm là ở bên ngoài.

Mẹ chồng và A Đinh đã đi Nghĩa Thành. Một mình nàng ở lại Kiến Khang, mỗi khi Lý Mục không ở đây, trong những ngày dài chờ đợi đó, nàng thường đến sống ở Bạch Lộ Châu nơi mẹ từng sống.

Mới đêm nay, sau khi uống thuốc xong, từ từ chìm vào giấc ngủ, nàng lại mơ thấy giấc mơ trước đó.

Trong giấc mơ, nàng lại rơi vào vòng vây của dòng sông.

Giống như là trên dòng sông quen thuộc ở Bạch Lộ Châu này, dòng nước tràn ngập từ mọi hướng ùa về phía nàng, tràn vào miệng, mũi và lỗ tai nàng.

Điều kỳ lạ là trong giấc mơ nàng lại mơ thấy mình, lúc đó trong lòng nàng không hề có một chút sợ hãi nào.

Tất cả những gì nàng có thể cảm nhận được là sự hối tiếc vô tận và nỗi buồn sâu sắc.

Nàng lại bị cảnh tượng trong mơ này đánh thức, cho đến bây giờ, cả người dường như vẫn bị cảm giác trong giấc mơ cuốn lấy, bồn chồn không yên.

Nàng chợt có một cảm giác, như thể ngay tại nơi này, giữa cơn thủy triều cuồn cuộn và tiếng sóng vỗ, đã xảy ra chuyện gì đó với mình.

Nàng từ từ nhắm mắt lại, nhớ lại cảnh tượng trong giấc mơ, cố gắng hết sức để nắm bắt một số mảnh ký ức dường như lướt qua trong giấc mơ, đột nhiên, nàng nghe thấy tiếng bước chân phía sau mình.

Nàng mở choàng mắt ra, trông thấy A Cúc cầm áo choàng đang vội vã tìm mình.

A Cúc đi đến phía sau nàng, gắn áo choàng lên vai nàng, vừa cài dây cho nàng vừa trách:

– Tuy là cuối xuân đấy nhưng mà buổi tối vẫn lạnh huống chi là ở bờ sông gió lớn. Tiểu nương tử còn đang uống thuốc nữa, cẩn thận lại nôn ra bây giờ.

Ba năm đã trôi qua, nhưng mà vẫn không có tin tức của mẫu thân. A Cúc lúc ban đầu luôn nhớ mãi chuyện này không buông bỏ được, cho đến giờ thì bà không dám nhắc đến ba chữ trưởng công chúa ở trước mặc Lạc Thần nữa.

Lạc Thần biết, ở trong lòng bà ấy mẫu thân hẳn là đã không còn nữa. Có lẽ chính vì như thế mà tuy sức khỏe của bà đã không bằng trước nhưng vẫn cố chấp muốn tự mình hầu hạ Lạc Thần, chăm sóc nàng còn cẩn thận tỉ mỉ hơn trước rất nhiều.

Lạc Thần nghe bà nhắc đến chuyện uống thuốc đến nôn ra của mình thì cười ngượng. Nàng chỉ là muốn ước gì có thể sinh được một đứa con cho Lý Mục. Nhưng mà đã lâu như vậy rồi mà nàng vẫn chưa hề mang thai.

Giờ thì ngay cả A Cúc cũng bắt đầu thấy sốt ruột lo lắng.

Tuy Lý Lang quân trong một năm hầu hết thời gian đều ở bên ngoài, hai vợ chồng ở bên nhau thì ít mà xa nhau thì nhiều, nhưng bao nhiêu năm qua tiểu nương tử lại chẳng có động tĩnh gì, tóm lại là thật khiến người ta không yên tâm.

Từ mùa đông năm ngoái, sau khi Lý Mục rời Kiến Khang đi Bắc phạt, A Cúc đã mời thái y đến thăm khám và kê đơn điều dưỡng cho nàng.

Thuốc rất đắng, làm cho Lạc Thần mỗi lần uống vào đều muốn nôn, cả người cũng gầy đi, khoảng thời gian trước, đến A Cúc thấy cũng không đành lòng, xót hết cả ruột, bèn nói nếu như uống không được thì thôi, dù sao thì Lý lang quân cũng chưa bao giờ hỏi đến việc này.

Nhưng Lạc Thần không chịu dừng, nôn ra lại uống vào, không hề gián đoạn, từ lúc hắn đi rồi thì vẫn luôn kiên trì uống thuốc, đến nay đã được gần nửa năm rồi.

Một cơn gió sông thổi qua, Lạc Thần rùng mình một cái.

A Cúc tức thì giống như gà mái mẹ bảo vệ nàng trong lòng, thì thầm khuyên:

– Đi vào thôi, vào rồi ngủ đi. A ma biết cháu nhớ Lý lang quân, chẳng phải ngài ấy sắp về rồi à? Lần này trở về ngài ấy có thể sẽ ở lại Kiến Khang lâu đấy.

Trên mặt già của bà cười thật cười, trong lời nói đầy sự kiêu ngạo:

– Lý lang quân lại lập công lớn rồi. Mấy ngày qua bên ngoài đều đang bàn tán, đến lúc đó muốn xem khoảnh khắc đầu của hoàng đế người Yết đấy. Có thể coi như là trút hận thay chúng ta. Lần này trở về cũng không biết triều đình sẽ phong thưởng như thế nào nữa.

Lạc Thần hơi mỉm cười, đè cảm giác lo lắng âm thầm trong lòng xuống, nghe lời để A Cúc đỡ lấy mình đứng lên, đi vào trong nhà.

Chiến tranh, chiến tranh bất tận.

Trong ba năm, Lý Mục giết hai thái thú, một vương và một hoàng đế sắp bị giết.. Chỉ có Lạc Thần biết, hắn nam chinh bắc chiến, ngựa chiến liên tục, cũng không phải để nhận phong thưởng của triều đình.

Hết chương 137
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 138


Cuối xuân như rượu, Nghiêu Minh như giữa hè.

Vào tháng 5 năm nay, sau khi hoàng đế hậu Hạ cùng với tông thất quý tộc liên quan bị bắt đã được áp giải tới Kiến Khang đúng thời hạn. Lễ hiến tế tù binh mà người dân đã chờ đợi từ lâu đã được tổ chức trước Tuyên Dương Môn của phía Nam hoàng thành.

Ngày hôm nay là một ngày trời trong nắng ấm, thái hậu mang theo ấu đế ngồi ngay ngắn trên thành lầu Tuyên Dương Môn, văn võ bá quan lần lượt ngồi trái phải, dân chúng được phép đứng nhìn từ xa.

Thiên uy áp đảo, không ai dám không nghe theo. Khi mà thái hậu đương triều thay mặt ấu đế hô một tiếng “chém”, mấy chục đầu người Yết trong khoảnh khắc lăn xuống đất. Quần chúng vô cùng kích động, dân chúng phát ra tiếng hoan hô chấn động toàn thành.

Đây là một chiến thắng vĩ đại chưa từng có của người phương Nam đối với phương Bắc trong nhiều năm sau Đại Ngu vượt sông về phương Nam kể từ sau trận đại chiến Giang Bắc vào mấy năm trước. Cuộc Bắc phạt lần này chẳng những hoàn toàn tiêu diệt Yết Hạ, chém đầu quân địch ngay tại kinh sư mà hơn nữa, cũng đã mở rộng biên giới của Đại Ngu đến khu vực Hoài Nam, thống nhất mười tám châu. Nam Từ Châu, nam Dự Châu, nam Duyện Châu, những vùng đất bị mất rơi vào tay người phương Bắc cai trị từ lâu đã quay về Đại Ngu.

Đã mấy ngày trôi qua kể từ lễ tế tù, người dân trên đường phố Kiến Khang vẫn đang thảo luận về chủ đề này, cái tên mà họ nhắc đến nhiều nhất đương nhiên là Đại Tư Mã Lý Mục đương triều.

Lý Mục cũng không khải hoàn về triều giống như mọi người mong đợi.

Sau khi tiêu diệt Yết Hạ, phương Bắc hiện giờ ngoại trừ mấy vùng đất ở biên giới còn bị Hồ quốc chiếm cứ cùng với Đại Ngu tạo thế chân vạc tương đối ra thì chỉ còn lại có Yến quốc Tiên Bi.

Kể từ sau ba năm trước Yến quốc đánh hạ được Lạc Dương, hoàng đế Mộ Dung Thế vẫn chưa dời thủ đô đến Lạc Dương, vẫn lấy Yến quận làm thủ đô, lấy Lạc Dương làm thủ đô thứ hai mà thôi.

Mấy năm nay, mượn việc Yết Hạ chạy trốn tới Nhữ Nam làm lá chắn, Yến quốc đã chiếm giữ các quan ải gồm Ung, Tần, Vị cùng với bắc Từ Châu, bắc Dự Châu, bắc Duyện Châu vốn thuộc bụng Trung Nguyên nằm dưới sự cai quản của Yết Hạ, từ sau khi đẩy biên giới như tằm ăn rỗi từ phía Nam lên tới Hoài Bắc thì đình chỉ chiến sự, bắt đầu khuyến khích trồng trọt, xây dựng công trình thủy lợi và sinh sản mở rộng dân chúng, nghiễm nhiên một lòng lập quốc, không có bất cứ hoạt động quân sự ở phương Bắc nữa.

Thế nhưng ngay trước đó không lâu, khi Lý Mục tiêu diệt Yết Hạ trên đường khải hoàn trở về phương Nam thì lại nhận được một tin tức từ phương Bắc truyền đến.

Đại quân Bắc Yến tập kết tại biên cảnh, phát động tấn công đối với Đồng Quan.

Mộ Dung thị năm đó nhân lúc Nam Triều nội loạn đã đoạt lấy Lạc Dương, sau đó hai bên lấy Đồng Quan làm ranh giới, phía tây Hoa Châu thuộc sự cai quản của Lý Mục, phía Đông thì thuộc về Yến quốc, và vùng đất này tạm thời được coi là ranh giới.

Sau ba năm ngủ yên, Mộ Dung Thế vào lúc này lại đột nhiên có hành động, chĩa thẳng mũi thương vào Trường An.

Lý Mục từ sau khi lên làm Đại Tư Mã, mấy năm nay Trường An vẫn do Tôn Phóng Chi và Cao Hoàn canh giữ. Họ luôn duy trì cảnh giác đối với Yến quốc, và vùng Đồng Quan lúc nào cũng có trọng binh canh gác.

Thế nhưng hành động lần này của Mộ Dung Thế tới vô cung đột ngột, hơn nữa chuẩn bị tỉ mỉ, về mặt sức mạnh so với quân phòng thủ trên mặt binh lực gã chiếm ưu thế tuyệt đối. Ngay từ ban đầu thế tấn công đã vô cùng hung mãnh, nhanh chóng vượt qua biên giới, chiếm lĩnh mười mấy quận huyện phía tây Hoa Châu, lúc đánh tới Đồng Quan thì bị quân coi giữ dựa vào địa thế mà triển khai chống cự mạnh mẽ, bấy giờ mới dừng bước tiến lại, hai bên tạm thời lâm vào thế giằng co.

Quân tình khẩn cấp, Tôn Phóng Chi và Cao Hoàn một mặt tổ chức phòng ngự, một mặt nhanh chóng gửi tin tức cho Lý Mục.

Trước tình hình đó, Lý Mục vừa đánh hạ Hạ Yết đã tạm thời thay đổi kế hoạch, phái người áp giải tù binh về Kiến Khang đúng thời hạn, mình thì lập tức suất lĩnh đại quân quay đầu đi về hướng Trường An để ứng phó.

Đối với dân chúng Nam Triều bình thường mà nói, trong ba năm qua, không những ông trời có mắt, mưa thuận gió hoà mà bắt đầu từ năm ngoái, triều đình thi hành rất nhiều hành động cải tiến dân sinh, cũng làm cho cuộc sống gặp nhiều khó khăn của họ đã tốt lên rất nhiều.

Ở trong mắt dân chúng, tất cả những điều này là nhờ vào Lý Mục.

Bởi vì Nam Triều có một nhân vật như thế, nên máu vốn đã nguội lạnh vì thất vọng năm xưa lại nóng lên.

Họ háo hức chờ đợi, đồng thời cũng tin tưởng chắc chắn rằng Đại Tư Mã Lý Mục của họ nhất định có thể tiếp tục danh hiệu chiến thần bất bại của mình, sau khi hoàn toàn tiêu diệt Yết Hạ nhân cơ hội này lại tiêu diệt Yến quốc người Tiên Bi đang chiếm cứ bụng Trung Nguyên.

Nếu như thế, Đại Ngu sẽ hoàn toàn giành lại được toàn bộ bắc địa, lại một lần nữa ngự lâm Cửu Châu. Cuộc hành trình Bắc phạt kéo dài và khó khăn này do Cao Kiệu phát động cách đây hai mươi năm trước cũng sẽ đi đến một kết thúc viên mãn.

Cộng vũ chi phục, dĩ định vương quốc. Trung Nguyên chìm nổi mấy chục năm đưa về một mối, đây sẽ là một sự nghiệp vĩ đại kích động nhân tâm bực nào!

Khi dân chúng cả nước đang chìm đắm trong niềm hân hoan và mong chờ thì họ không biết rằng vào ngày này cuối tháng 5, một sứ giả đến từ Lạc Dương đi tới trong cung Kiến Khang, thay cho chủ nhân của mình là Mộ Dung Thế hoàng đế Yến quốc mang đến một phong thư.

Sứ giả này là một tông thất Yến quốc, tên là Mộ Dung Nguyên, Hán hoá rất sâu, là người có tài hùng biện, phong thái và cách ăn mặc không khác mấy so với người Nam Triều.

Ở trong quốc thư Mộ Dung Thế vẫn xưng thần, lời nói khiêm tốn cung kính và tôn trọng, nói Mộ Dung thị từ ban đầu chính là thần tử của Đại Ngu, về sau bởi vì gặp loạn thế mà xuôi theo dòng chảy. Bản thân mình từ nhỏ đã ngưỡng mộ Hán học, coi Đại Ngu là thượng quốc, trước tiên báo thù Hạ Yết thành công, sau khi may mắn lên làm hoàng đế Yến quốc thì một lòng muốn dừng chiến tranh, chỉ muốn tự bảo vệ mình. Mấy năm trước mình vẫn giữ nghiêm biên giới, không dám vượt qua ranh giới. Khoảng thời gian ngắn trước, quân đội Yến quốc sở dĩ phát sinh xung đột với quân coi giữ Đại Ngu tuyệt đối không phải mong muốn của mình, càng không phải cố tình làm việc đó, truy cứu nguyên nhân này chính là do quân coi giữ Quan Tây không tuân thủ giới hạn nhiều lần xâm phạm biên giới, bản thân mình với dân chúng Quan Đông bị áp lực bấy giờ mới hạ lệnh tập kết quân đội để tự vệ.

Gã nói, nhiều năm trước tới nay, Nam Bắc thù địch lẫn nhau, giữa các bang phương Bắc càng chinh phạt nhau không ngừng nghỉ, cuộc sống của dân chúng cực kỳ khó khăn. Gã biết nếu như mình hiện giờ lại khai chiến với Đại Ngu, chắc chắn hai bên đều sẽ lưỡng bại câu thương, cho nên mới một lòng cầu hoà. Yến quốc chẳng những lập tức ngăn binh, còn đồng thời nguyện lấy Nhữ Dương vừa mới đoạt được từ tay Yết Hạ trả lại cho Đại Ngu, nhằm bày tỏ thành ý cầu hoà. Không chỉ thế, gã còn bằng lòng phái sứ đoàn xuống phương Nam, lấy thân phận nước phụ thuộc tiến cống Đại Ngu, nhiều thế hệ xưng thần để sửa chữa và xây dựng hòa bình biên giới.

Phong quốc thư này đã gây nên sóng to gió lớn trên triều đình Đại Ngu.

Ngày hôm nay, Lạc Thần tuy ở Bạch Lộ Châu nhưng cũng mau chóng biết được tin tức, lập tức sai người gửi thư tay cho Phùng Vệ.

Vào ban đêm, Phùng Vệ vội vã đi lên đảo. Lạc Thần nghe tin ông ta tới thì đi ra tiền đường. Phùng Vệ sắc mặt nghiêm trọng, vẫn chưa ngồi mà đi đi lại lại trong sảnh, dáng vẻ tâm thần không yên, nhìn thấy Lạc Thần đi ra thì vội bước nhanh tới chào hỏi nàng.

– Đã nhiều ngày không gặp, phu nhân vẫn khoẻ chứ.

Bất kể từ bối phận hay tuổi tác, Phùng Vệ đều lớn hơn Lạc Thần. Nhưng bao nhiêu năm nay ở trước mặt nàng ông ta vẫn luôn kính cẩn tôn trọng. Hôm nay nàng vừa gửi thư tay cho ông ta, không ngờ ông ta lại lên đảo nhanh như thế.

Điều này tất nhiên là vì Lý Mục, trong lòng Lạc Thần biết rõ, mời ông ta ngồi xuống, nói:

– Phùng công tôn trưởng, vì bức thư của cháu mà ngài đích thân đến đây, cháu vô cùng cảm kích. Mời ngài ngồi ạ.

Đợi ông ta ngồi xuống rồi nàng mới hỏi chuyện ban ngày.

Phùng Vệ ngồi xuống, nói:

– Hôm nay sau khi Yến sứ đi dịch quán rồi, cả triều thần đều tranh luận về quốc thư kia. Khi triều tan mà cũng chưa có kết quả gì.

Ông ta dừng một chút.

– Thành thật mà nói, theo ý ta, Mộ Dung Thế xảo trá, không hề đáng tin. Gã nói lần này gã tập trung hoả lực vào Đồng Quan là vì quân coi giữ Đại Ngu ta vượt biên trước. Đây rõ ràng là ăn không nói có. Ta cũng hiểu, chỉ là…

Ông nhíu mày, lắc đầu.

– Đám Lưu Huệ cứ nhất quyết giặc cùng đường chớ đuổi. Nhưng mà Mộ Dung Thế binh hùng tướng mạnh, nếu đấu võ, chiến sự nhất định lề mề kéo dài, hao tổn công quỹ không nói, dân chúng oán thán không nói, ngộ nhỡ chiến sự thất bại, cục diện sẽ không thể cứu vãn được. Nam Triều khó khăn lắm mới đi đến cục diện tốt như hiện nay, chỉ sợ một đi không thể quay lại được. Nếu đối phương thật sự có ý cầu hoà, không bằng nhân cơ hội này thừa nhận thế chân vạc Nam Bắc, chia đất cai trị, nhằm ổn định và hoà bình lâu dài. Đây cũng là nguyện vọng của người dân.

Lưu Huệ trong miệng Phùng Vệ chính là vị Chinh Lỗ tướng quân từng thay thế chức quan của Lục Quang, khi Kiến Khang gặp loạn đã không muốn ở lại mà tuyên bố mình đi theo bảo vệ đế hậu đi Khúc A, hiện giờ đang giữ chức Hầu trung, là đại gia môn phiệt mới nổi ở tân triều trong mấy năm nay.

Lạc Thần nghe xong thì yên lặng.

Trong lòng nàng hiểu rõ, Lưu Huệ cầm đầu sĩ tộc môn phiệt những kia, mấy năm nay ngoài mặt thì cung kính nghe theo Lý Mục, nhưng trong lòng nhất định là hận hắn thấu xương. Nguyên nhân trực tiếp có lẽ là đầu năm ngoái Lý Mục đã thi hành một loạt chính sách mới.

Kể từ khi Đại Ngu vượt sông về phương Nam, trong nhiều năm, môn phiệt sĩ tộc và cường hào địa chủ các nơi đã chia cắt và chiếm hữu gần như toàn bộ núi sông, ao hồ làm của riêng, dân chúng bình thường ngoại trừ phải nộp thuế phú lên quan phủ ra thì bình thường còn phải đi săn bắt đốn củi, giăng lưới bắt cá và cũng phải nộp thêm vào thuế cho những sĩ tộc địa chủ chiếm đóng rừng và ruộng đất này. Dưới áp bức nặng nề, dù cho có gặp được năm được mùa, thì thu nhập cũng không đủ nuôi gia đình, cuộc sống vô cùng gian khổ, thế cho nên tình nguyện mất đi tự do mà đầu nhập vào trang viên cầu xin sự che chở. Mà trang viên lớn lớn bé bé các nơi phụ thuộc vào môn phiệt sĩ tộc đều che giấu một lượng lớn nhân khẩu dân thường như trang đinh vì lợi ích riêng của họ, điều này dẫn đến triều đình không có binh lính có thể chinh chiến, không có thuế để thu, không thể nào nuôi dưỡng chiến tranh. Loạn tượng lan tràn, ác tính tuần hoàn.

Cơ trọng thuế má, đinh khẩu xói mòn, hai thứ hỗ trợ lẫn nhau này lại ảnh hưởng trực tiếp đến mạch máu của Nam Triều, Cao Kiệu trước kia không phải là chưa từng sửa chữa, nhưng trong triều đình nơi quý tộc nắm quyền, sắc lệnh được ban hành ra thì là một tờ giấy chết, nhiều lần cấm nhưng không hề dừng mà còn càng ngày càng nghiêm trọng.

Đến nay Lạc Thần còn nhớ rõ, thời điểm đó Lý Mục vì thi hành tân chính, tình cảnh cực kỳ gian nan. Ngay cả Phùng Vệ dù ngoài mặt rất tán thành, cực kỳ phẫn nộ đối với bệnh trạng này của triều đình, nhưng khi thực thi nó thì ông ta lại kiếm cớ đùn đẩy không muốn giúp đỡ. Ngoại trừ ông ta không muốn đắc tội người khác, áp lực từ Phùng gia cũng là một nguyên nhân quan trọng.

Suy cho cùng, làm quan trong triều đình này đều là đại gia sĩ tộc, nhà ai mà không có một chút núi non, rừng hồ, ai chưa từng nhận lễ vật từ các trang viên phía dưới? Nếu như thật sự thi hành tân chính, lợi ích của Phùng thị nhất định cũng bị tổn hại.

Chính trong hoàn cảnh khó khăn như vậy, Lạc Thần đi tìm thúc phụ Cao Duẫn thời điểm đó đã mượn cớ bị bệnh mà thoái ẩn điền viên, trần thuật những lợi và hại cho ông ấy, khẩn cầu ông ấy đi đầu ra mặt giải phóng toàn bộ tài sản trang viên và trang đinh đã giấu đi thuộc sở hữu trên danh nghĩa của ông ấy.

Thúc phụ lúc đó rất khó chịu, nhưng cuối cùng vẫn bị Lạc Thần thuyết phục, miễn cưỡng báo cáo toàn bộ hơn 800 đinh khẩu đã ẩn náu trong trang viên suốt nhiều năm qua.

Sau khi Cao thị trở thành sĩ tộc đầu tiên hưởng ứng chính sách mới, Lý Mục không còn chút kiêng dè nào nữa, hạ lệnh giết Lưu Vọng quận thủ Hội Kê có ảnh hưởng rất lớn lúc ấy đã công nhiên đi đầu kháng mệnh với một trang viên có giấu hơn ba nghìn người. Một đao vừa chém xuống, cả triều im tiếng, không một ai dám đùn đẩy nữa, chính sách mới bấy giờ mới có thể thi hành, dân chúng hân hoan, mới qua hơn một năm thôi mà hiệu quả của nó đã thể hiện ra rõ rệt.

Mà Lưu Vọng bị lấy ra tế cờ ngày đó chính là thân tộc của Lưu Huệ.

– Không biết Đại Tư Mã hiện giờ lãnh binh tới đâu rồi, cũng không biết khi nào ngài ấy mới nhận được tin tức đây.

Lạc Thần đang trầm tư, nghe Phùng Vệ thở dài.

– Hôm nay nếu như có mặt Đại Tư Mã là đã có thể giải quyết dứt khoát rồi, chiến hoặc là hòa, triều thần cũng không đến mức tranh cãi tới mức độ này.

Lạc Thần ngước lên nhìn Phùng Vệ, nói:

– Phùng công, tuy rằng Đại Tư mã không ở Kiến Khang, nhưng Phùng công đã có thắc mắc, vậy thì cháu xin thay mặt huynh ấy trả lời ngài.

– Lòng người ổn định. Nếu như Mộ Dung Thế thật lòng lui binh, thế thì dù cho Đại Tư mã một lòng muốn khôi phục Lạc Dương thì cũng sẽ không tự ý hành động, làm ra chuyện mà thiên hạ không tán đồng mà chiến đấu không ngừng nghỉ. Nhưng Mộ Dung Thế hiện tại rõ ràng là lật ngược trái phải. Không có mệnh lệnh của Đại Tư mã, cháu không tin em trai cháu sẽ tự tiện vượt biên tấn công người Yến. Trong quốc thư của hắn nhất định có trá, vô cùng đáng nghi. Đám Lưu Huệ kia xưa nay đã có bất mãn với Đại Tư mã, bình thường chỉ muốn sống tạm bợ, Phùng công biết rõ điều này mà. Trước khi Đại Tư mã chưa hồi âm tin tức, cháu cầu xin Phùng công trong lúc triều đình tranh luận thì đừng bao giờ thoái nhượng ạ.

– Cháu xin cảm tạ Phùng công trước ạ!

Lạc Thần hành lễ thật sâu với ông ta.

– Ôi ôi, xin phu nhân đừng làm như vậy. Đây là quốc sự, không phải là việc nhỏ, dù không có lời nói của phu thân, trước khi chưa nhận được hồi đáp của Đại Tư mã, tôi cũng không dám coi việc này như trò đùa. Phu nhân cứ yên tâm, tôi sẽ cố gắng hết sức khuyên thái hậu đừng dễ tin người.

Lạc Thần tiễn người đi rồi, ngồi một mình hồi lâu, tâm tư không yên, đi dạo bộ dọc theo đình viện, lại đi đến bên bờ sông đứng ở đó ngắm nhìn con sông kia.

Tối nay không có thủy triều, nước sông bình thản phẳng lặng, dòng sông êm đềm chảy qua những tảng đá sông dưới chân nàng.

Nàng nhìn bầu trời đêm tối tăm đen như mực đối diện, đang trong trạng thái xuất thần, nàng đột nhiên nghe thấy tiếng nước nhỏ bắn tung tóe từ bờ sông cách đó không xa, như thể có người vừa mới ra khỏi nước.

– Là ai dám tự tiện xông vào cấm địa?

Bốn phía trên Bạch Lộ Châu cứ cách vài bước lại có một trạm gác, ngày đêm tuần tra không ngừng nghỉ. Thủ vệ phụ cận lập tức bị động tĩnh này chú ý, nhanh chóng hội tụ lại che chắn ở trước Lạc Thần, rút đao ra quát lớn.

Một người đàn ông nhô đầu ra khỏi nước sông, lau khuôn mặt ướt sũng nước.

Lạc Thần nhận ra ngay, đó là Đô vệ Lý Hiệp đã lâu không gặp, vội sai người lui đi hết.

– Là tôi đây!

Lý Hiệp lên bờ, sải bước nhanh đến trước mặt Lạc Thần, cung kính thấp giọng nói:

– Phu nhân, phụ cận bến đò có tai mắt, nên tôi lặn xuống nước mà tới đây. Tôi phụng lệnh của Đại Tư mã đến đây để mau chóng an bài cho phu nhân rời khỏi Kiến Khang.

Lạc Thần cũng đã dần dần cảm nhận ra được, trong nửa năm qua, kể từ khi Lý Mục rời khỏi Kiến Khang, mình bất kể là ở Bạch Lộ Châu hay là ở trong thành, bất luận là ở đâu thì phụ cận dường như đều có đôi mắt nhìn mình chằm chằm. Lòng nàng trùng xuống, còn chưa kịp đáp lời đột nhiên nghe thấy có tiếng bước chân ở phía sau, quay đầu lại, thấy là một vú già chạy tới, bẩm báo:

– Thái hậu tới, nói muốn gặp phu nhân ạ!

Hết chương 138
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 139


Lý Hiệp lập tức nghé vào tai Lạc Thần nói vài câu, dưới ánh mắt kinh ngạc và khiếp sợ của Lạc Thần, y đặt một vật vào tay nàng, sau đó nhanh chóng nhảy xuống sông biến mất.

Lạc Thần cúi đầu nhìn vật trong tay, tim đập loạn xạ gần như muốn nhảy ra khỏi cổ họng, nàng lấy lại bình tĩnh quay đầu nhìn lại.

Dọc con đường mòn từ đình viện ra bờ sông đã có một đoàn người đang đi tới.

Mặc dù vẫn còn cách khá xa, nhưng dưới ánh trăng nàng có thể thấy rõ người đang được cung vệ và cung nhân bao vây ở phía trước chính là đường tỷ của mình, thái hậu đương triều Cao Ung Dung.

Không kịp nghĩ nhiều, nàng cất thứ trong tay vào trong tay áo, khẽ dặn dò hộ vệ cài câu sau đó quay người lại đi đến chỗ Cao Ung Dung đang đi tới, đến gần rồi quỳ xuống hành lễ.

Cao Ung Dung bước nhanh hơn nâng nàng đứng lên, trách móc:

– A tỷ đã nói với muội bao nhiêu lần rồi là lúc gặp riêng thì không cần hành lễ tiết, sao muội không nghe vậy?

Lạc Thần mỉm cười nói:

– Tuy nói là không có người bên ngoài, nhưng phân vị khác biệt, nên có lễ tiết ạ. Hơn nữa, tình cảm đối đãi của a tỷ với muội thế là quá đủ rồi ạ.

Cao Ung Dung cười:

– Ai kêu ta chỉ có một muội muội là muội chứ, ta không thương muội thì thương ai?

– Muội biết a tỷ rất tốt với muội. Muộn thế này rồi, sao a tỷ không nghỉ ngời còn đến chỗ muội làm gì ạ?

Cao Ung Dung ra lệnh cho người hầu lui ra xa, lại nhìn quanh bốn phía.

Dòng sông rộng lớn soi bóng trăng cô độc, bên bờ sông có một chiếc thuyền nhỏ buộc vào tảng đá xanh đen, chiếc thuyền nhỏ lắc lư nhẹ nhàng trong gió đêm, khiến nó càng thêm trống trải và cô đơn.

Cao Ung Dung nhìn Lạc Thần, dẫn nàng đi vào tòa đình hóng gió kia, ngồi xuống:

– Muộn như này sao muội còn chưa ngủ mà lại đứng hóng gió ở đây vậy?

Lạc Thần mỉm cười:

– Muội không ngủ được nên ra đây hít thở không khí ạ.

Cao Ung Dung nói:

– Đang nhớ muội phu phải không?

Không đợi Lạc Thần trả lời, chị ta khẽ gật đầu:

– Muội không nói ta cũng biết. Mấy năm nay, khắp nơi không yên ổn, muội phu phải bôn ba khắp nơi, hai vợ chồng muội ở bên nhau thì ít mà xa nhau thì nhiều. Từ lần trước đệ ấy đi chớp mắt đã qua hơn nửa năm rồi. Vốn dĩ còn tưởng trong khoảng thời gian này là sẽ trở về, không ngờ phía Bắc lại xảy ra chuyện, lại hại hai vợ chồng muội vẫn chưa thể đoàn tụ được.

Chị ta thổn thức nói.

– A tỷ đã nhắc đến lang quân, vậy thì muội cũng không dám giấu, chuyện trên triều đình ngày hôm nay muội cũng nghe nói đến, bởi vì có can hệ trọng đại với lang quân, muội đã muốn hỏi tỷ rồi. Nhưng muội biết a tỷ luôn bận rộn, hôm nay còn tiếp đại sứ Yến quốc nên sợ làm phiền đến a tỷ nên đã hỏi Phùng công trước. Phùng công cũng vừa mới đi không lâu ạ.

Nàng nhìn thẳng vào Cao Ung Dung.

– Phùng công nói, triều thần có vẻ như thừa nhận những điều trong quốc thư của nước Bắc Yến. Nhưng muội không biết a tỷ nghĩ như thế nào ạ?

Trên mặt Cao Ung Dung không hề tỏ vẻ kinh ngạc, có điều vẻ thổn thức vừa rồi đã biến mất, ánh mắt dừng ở trên mặt Lạc Thần.

– A Di, muội phu lần này diệt Hạ Yết, đưa tù binh về kinh, cống hiến to lớn cho Nam Triều của ta. Muội có biết a tỷ tính toán phong thưởng cho đệ ấy như nào không?

Chị ta thong thả trả lời, nhưng mà lại là hỏi một đằng trả lời một nẻo, kế đó lại nói tiếp:

– Khi a tỷ biết tin đại thắng của muội phu thì đã nghĩ kỹ rồi, lần này sẽ phong muội phu làm vương, từ nay về sau kiếm lí thượng điện, nhập triều bất xu, tán bái bất danh. Muội thấy thế nào?

Lạc Thần nói:

–  Lang quân lãnh binh ngăn địch không phải là để được phong thưởng. Huống chi những gì được thưởng trước kia đã đủ rồi, không dám nhận hậu phong của triều đình nữa đâu ạ. Xin a tỷ lại thu lại.

– Với công lao của muội phu, có phong thưởng như nào tỷ cũng thấy không đủ. Muội đừng thoái thác nữa.

Chị ta vỗ lên tay Lạc Thần như là trấn an.

– Bây giờ cuối cùng cũng tốt rồi. Đợi ít ngày nữa muội phu về, thiên hạ cũng thái bình. Sau này hai vợ chồng muội được ở gần nhau không cần phải một bên đông một bên tây nữa. Là vợ chồng mà cả năm lại hiếm khi được ở bên nhau.

Lạc Thần nhìn chị ta, yên lặng một lát, nói:

– A tỷ, tỷ muốn nhận quốc thư của Mộ Dung Thế kia ạ?

Trên mặt Cao Ung Dung vẫn là nụ cười như cũ:

– Mấy năm nay tuy Đại Ngu mưa thuận gió hòa, quốc khố dư dả hơn so với năm ngoái, nhưng mà chiến sự vẫn mãi chưa ngừng, dân chúng oán than dậy đất, nhu cầu cấp bách nghỉ ngơi lấy lại sức. Bắc phạt tất nhiên là quan trọng, nhưng a tỷ cũng thận trọng suy xét, vừa mới đánh xong người Yết, thật sự không nên đánh người Yến nữa. Huống chi người Yến khác với người Yết. Người Yết đã bị tiêu diệt, mà Yến quốc thì lại đang mới bắt đầu nổi lên, nếu muốn thắng chỉ sợ cũng không dễ dàng như vậy. Nếu như đánh tiếp, với nước với dân cũng không hề có lợi. Hiện giờ hắn đã chủ động yếu thế, lại đặc biệt bày tỏ thái độ cầu hòa với Đại Ngu ta, nếu như Đại Ngu ta không chấp nhận thì có vẻ không ổn. Không bằng nhân cơ hội này đàm phán hòa bình, cũng là vì lợi ích của dân chúng.

– Tỷ đã gửi chiếu thư cho muội phu rồi. Nếu không có mệnh lệnh của triều đình,, đệ ấy không được chủ động gây chiến. – Chị ta nói.

– Điều này cũng là nhận thức chung của triều đình.

Chị ta bổ sung thêm một câu.

Lạc Thần đứng bật dậy, nhìn thẳng vào chị ta một lúc.

– Những suy nghĩ của a tỷ không phải là không có lý. Nhưng xin cho muội hỏi a tỷ, nếu đây là quỷ kế của Mộ Dung Thế, nếu Đại Ngu ta không cảnh giác, hắn xé bỏ minh ước, có mưu đồ khác, đến lúc đó phải làm thế nào đây?

– Giặc tới thì đánh, nước lên thì nâng nền. Nếu sau này hắn thật sự nuốt lời có mưu đồ khác, đến lúc đó Đại Ngu ta cũng sẵn sàng đánh trận, phát binh tiêu diệt, khôi phục lại đất mất là được. Nhưng hiện giờ vì sinh kế của người dân, nếu chúng ta có thể chấm dứt chiến tranh thì hòa bình là ưu tiên hàng đầu.

Cao Ung Dung rất thong thả nói.

Ánh trăng từ một góc mái đình chiếu vào, khiến khuôn mặt chị ta nửa sáng nửa tối.

Chị ta từ từ đứng lên, ôn hòa nói:

– A Di, tỷ nghe nói muội thường ở nơi này, rất cô đơn nhỉ. Tỷ thấy rất không yên cho muội. Hay là muội theo tỷ vào cung ở cùng tỷ đi. Nghĩ đến thì tỷ muội chúng ta từ nhỏ đã thân thiết, hiện giờ đã bao lâu không được trò chuyện tâm sự rồi? Muội vào cung, a tỷ có người bầu bạn. Chờ muội phu trở về, đệ ấy lại đón muội về là được.

Lạc Thần nói:

– A tỷ, muội muốn ở chỗ này chờ lang quân về ạ.

Cao Ung Dung nói:

– A tỷ vì muốn tốt cho muội thôi. Nơi này tứ phía là nước bao quanh, khá trống trải, tuy rằng có hộ vệ nhưng không thể an toàn bằng hoàng cung được.

– Nếu muội chỉ muốn ở lại nơi này thì sao ạ? – Lạc Thần hỏi lại.

Trên mặt Cao Ung Dung vẫn treo nụ cười:

– A Di, tỷ vẫn còn nhớ mãi dáng vẻ lúc nhỏ của muội, muội luôn nghe lời tỷ nhất. Muội vẫn nên đi theo tỷ vào cung đi, đừng để tỷ phải lo lắng cho muội.

Chị ta cầm lấy tay Lạc Thần, kiên nhẫn dỗ dành, như là lúc này Lạc Thần ở trước mặt chị ta thật sự là cô bé trước kia.

Lạc Thần lẳng lặng nhìn Cao Ung Dung, nhìn nụ cười vẫn treo mãi ở trên mặt chị ta, trong đầu chợt hiện lên từng đoạn hồi ức ngắn vụn vặt khi còn nhỏ.

Dù đã biết từ lâu rằng a tỷ hiện tại đã không còn là a tỷ ở trong ký ức của mình nữa, trong thâm tâm nàng cũng đã chuẩn bị sẵn sàng cho điều tồi tệ nhất. Nhưng mỗi lần nhìn thấy nụ cười và sự quan tâm của Cao Ung Dung đối với mình, điều đó sẽ luôn khiến trong lòng nàng dao động, âm thầm chờ đợi, chờ đợi tất cả chỉ là mình nghĩ nhiều mà thôi.

Có trời mới biết nàng luôn quý trọng tình chị em với người chị này đến nhường nào. A tỷ là người nhà của mình. Nếu có thể, nàng thật sự hy vọng tình cảm này sẽ được gìn giữ cả đời.

Thậm chí, ngay một lát trước đó thôi, khi nàng nghe Lý Hiệp nói với mình câu nói kia, cảm giác đầu tiên của nàng không phải là nhẹ nhõm mà là kinh hãi.

Kinh hãi cho Lý Mục, lang quân của nàng, phải tâm cơ thâm trầm tới mức nào mới khiến cho hắn đã phải chuẩn bị từ lâu và đưa ra an bài đến mức quyết tuyệt như thế.

Ngay trong khoảnh khắc này, trong lòng nàng cực kỳ khó chịu, nhưng rồi lại cảm thấy có một chút nhẹ nhõm. Đó là một cảm giác nhẹ nhõm cuối cùng khi thoát khỏi sự dày vò của sự do dự và dao động.

Chiếc mặt nạ dịu dàng có thể che đậy những cảm xúc nhất thời nhưng không thể che phủ trái tim người ta mãi mãi.

Người đàn ông mà nàng ngưỡng mộ và yêu sâu đậm như núi cao đồ sộ chót vót, sâu thẳm như nước sâu, từ lúc bắt đầu hắn đã không hòa hợp với toàn bộ triều đình khoác trên mình một bộ áo bào lộng lẫy nhưng bên dưới nó lại tỏa ra mùi vị hủ bại âm mốc.

Quyết tuyệt nên tới, ngày hôm nay cuối cùng vẫn đến.

Lạc Thần đứng ở đó, nhìn thẳng vào Cao Ung Dung, mỉm cười.

– A tỷ, tỷ muốn bắt muội làm tù nhân có đúng không?

Nàng hỏi.

– Nếu muội thành tù nhân, trong mắt các người, Lý Mục, người đã chiến đấu đẫm máu vì Đại Ngu, chinh phục đất đai trong Bắc phạt, thúc đẩy chính sách mới, là thân phận gì?

Cao Ung Dung ngẩn ra, từ từ buông cánh tay khoác lên tay của Lạc Thần, nụ cười trên mặt cũng biến mất.

– A Di, muội có biết những lời vừa rồi của muội có nghĩa là gì không?

Chị ta nhăn mày lại, giọng điệu trở nên khô cứng và lạnh nhạt.

– Dĩ nhiên là muội biết chứ. – Lạc Thần cười. – A tỷ, không ngại nói thẳng với tỷ, muội chẳng những không đi hoàng cung, mà ngay tối nay muội cũng muốn rời khỏi Kiến Khang. Lang quân sẽ đón muội đi.

Sắc mặt Cao Ung Dung căng cứng, nhanh chóng nhìn bốn phía.

Ba mặt đều là đình viện, ở đối diện bên trong bóng tối trên mặt sông không nhìn thấy gì kia cũng đã bày sẵn thiên la địa võng của chị ta rồi.

Chị ta thở phào một hơi, tự cười bản thân, cảm thấy mấy năm nay có lẽ đúng là bị người ta đè ép quá mức cho nên lúc này vừa nghe Lạc Thần nhắc đến một cái là suýt chút nữa đã tin rồi.

– A Di, muội đừng nói linh tinh. Đi thôi, đi theo tỷ vào cung ngay.

Chị ta sầm mặt xuống, giọng điệu không cho phép cãi lời, xoay người muốn gọi cung vệ đi theo mình đi cùng.

Lạc Thần đã giơ tay lên, để lộ thứ gì đó từ tay áo.

Đó là một quả hồ lô nhỏ được tạc từ ngọc xanh, miệng được treo bằng một sợi dây lụa đỏ, rơi xuống dưới ngón tay của Lạc Thần, khẽ rung lên, dưới ánh trăng tràn ngập ánh ngọc.

– A tỷ, tỷ nhìn xem đây là vật gì? – Lạc Thần hỏi.

Cao Ung Dung quay đầu lại, vừa nhìn thấy ngọc trụy trên tay nàng, sắc mặt tái đi nhào tới giật lấy cúi nhìn, lạnh lùng nói:

– Trang sức trên hầu bao của Đăng nhi tại sao ở chỗ muội?

Lạc Thần nhìn sắc mặt Cao Ung Dung trong nháy mắt chuyển sang hoảng sợ, nhớ tới câu nói vừa rồi của Lý Hiệp, Đại Tư Mã từ rất sớm đã sắp xếp người vào trong cung chính là vì đề phòng cho những biến hóa hôm nay.

Mũi tên rời cung đã không thể quay đầu lại.

Nàng đè nén cảm giác không biết là may mắn hay là khổ sở đang trào dâng trong lòng xuống, nói:

– A tỷ, muội nói rồi, lang quân sẽ đón muội. Tỷ không ngại về cung thử xem xem muội có lừa tỷ không.

Dưới ánh trăng, sắc mặt của Cao Ung Dung tái nhợt như tuyết, chị ta trợn to mắt nhìn chằm chằm Lạc Thần một lúc, trong đôi mắt đầy tức giận, sau đó đột nhiên quay người chạy đi.

Hết chương 139
 
CHÚ Ý !!!
Các đạo hữu nhớ thêm TÊN CHƯƠNG và THỨ TỰ CHƯƠNG ở ô phía trên phần trả lời nhanh. Như vậy hệ thống mới tạo được DANH SÁCH CHƯƠNG.
Cập nhật chức năng ĐĂNG TRUYỆN và THÊM CHƯƠNG MỚI trên web Diễn Đàn Truyện tại https://truyen.diendantruyen.com
Top Bottom