Chào mừng bạn đến với Diễn Đàn Truyện !

Xin vui lòng Đăng ký hoặc Đăng nhập mới có thể sử dụng đầy đủ chức năng diễn đàn. Việc Đăng ký hoàn toàn miễn phí!

Đăng ký ngay!

Dịch Vùng Đất Vô Hình

Dịch Vùng Đất Vô Hình
Chương 60: Chương 60: Phiền Muộn


Trong đại điện tiếng tụng kinh vẫn đều đều vẳng ra ngoài. Minh Khánh kiếm một chỗ cách xa đại điện, ngồi xếp bằng giữa trời nắng, miệng lẩm bẩm đọc Tịnh Tâm chú. Dường như hắn muốn mượn ánh mặt trời ấm áp để xua tan đi những ám ảnh trong lòng. Thế nhưng nỗi bất an càng lúc càng mạnh. Mồ hôi trên đầu Minh Khánh vã ra như tắm. Đặc biệt là khi các vị Phật tử trong chùa gõ chín tiếng chuông kết thúc buổi cầu nguyện ban trưa, Minh Khánh cảm thấy như sắp hôn mê.
Mãi cho tới khi có tiếng cười nói từ trước bậc thềm đại điện thì Minh Khánh mới mở mắt ra. Ngạc nhiên thay, hắn nhìn thấy hòa thượng Văn Minh và hòa thượng Chúc Phương đang vừa bước đi vừa trò chuyện vui vẻ với ba người Phật tử vừa làm lễ xong. Phía sau, đạo sĩ Vạn Thiện và đạo sĩ Dư Nhất đang lầm bẩm bàn luận một cái gì đấy. Bọn họ vui vẻ chào Minh Khánh làm hắn há hốc miệng. Bảy người đi qua trước mặt hắn. Minh Khánh phải nhéo đùi để biết mình không phải là mơ. Hắn đứng dậy, vội vã dụi mắt nhìn đám người đi xa. Minh Khánh cảm thấy có chút quỷ dị.
“Chẳng lẽ là mình sai?” Minh Khánh ngẫm nghĩ trong phút chốc rồi quyết định tiến vào đại điện. Hắn muốn tìm Cư Phiền đạo trưởng để hỏi cho rõ. Minh Khánh chậm chạp bước lên từng bậc thềm cao của đại điện. Hắn thật sự sợ hãi không gian có phần âm u, mờ ảo bên trong. Vừa bước vào cửa, hắn nhìn thấy Cư Phiền đạo trưởng. Ông đang tươi cười nhìn hắn. Minh Khánh cũng cười với ông. Cư Phiền đạo trưởng đưa cho hắn một vật gì đó đã được gói lại trong vải kín. Minh Khánh đỡ lấy nó. Qua lớp vải, hắn cảm thấy được sự mát lạnh và cứng rắn như kim loại. Minh Khánh hơi nghi ngờ. Hắn vén lớp vải lên thì thấy đó là viên mõ lớn nhất trong đại điện. Chẳng lẽ Cư Phiền đạo trưởng muốn ăn trộm đồ trong chùa?

Ý nghĩ buồn cười này lập tức biến mất sau vài giây. Cư Phiền đạo trưởng là một cao nhân đắc đạo, có lẽ nào lại ham một món đồ nho nhỏ của nhà chùa. Trừ khi, đây là tà vật mà vẫn hoành hành trong ngôi chùa bấy lâu. Minh Khánh chưa kịp hỏi thì Cư Phiên đạo trưởng đã ôm chầm lấy hắn. Minh Khánh hơi ngạc nhiên.
Cư Phiền đạo trưởng dùng tay móc trong người ra một lá bùa đưa cho hắn. Thấy bàn tay ông run run, Minh Khánh vội vàng nhận lấy. Trong giây lát hắn nhận ra đây là Hộ Hồn phù mà hắn đưa cho ông trước lúc đi vào. Lá bùa giờ đã đổi sang màu vàng sẫm, nhăn nhúm. Các nét vẽ đỏ tươi trên lá bùa giờ trở nên thâm xì cái màu nước bã trầu mà các bà ở quê hay nhổ ra. Lớp giấy trên lá bùa càng lúc càng mỏng và đen lại.
Minh Khánh chưa kịp sợ hãi thì phát hiện Hộ Hồn phù đã tan thành vô số mảnh nhỏ, rồi rơi lả tả hệt như một mảnh giấy tiền vàng bị người ta đốt vào những ngày rằm hàng tháng. Hắn ngẩn ngơ mất một lúc, lúc quay lại nhìn thì thấy bờ vai mình đã ướt đẫm máu. Minh Khánh vội vã đỡ Cư Phiền đạo trưởng nằm xuống. Máu tươi trào ra từ mắt, mũi, miệng và cả tai của ông. Cư Phiền đạo trưởng hé miệng cười, đưa bàn tay yếu ớt lên. Minh Khánh biết ý, cúi đầu xuống, ghé tai vào bên miệng của ông.
“Đừng bao giờ … để nó … lên tiếng nữa…”
Giọng ông ngắt quãng và nghẹn tắc trong cổ họng. Rồi ông nhắm mắt.
Minh Khánh cứ để ông nằm yên một lúc lâu. Khuôn mặt hắn đờ đẫn. Hắn cứ quỳ bên xác ông trong đại điện. Minh Khánh thấy thương cảm cho số phận của người tu đạo trứ danh đất Bắc. Vẫn biết ranh giới giữa sự sống và cái chết quá mong manh, chỉ như một sợi chỉ nằm vắt vẻo đâu đó trên con đường chúng ta đi, và lỡ bước qua một cái sẽ chẳng thể quay lại nữa. Thế nhưng hắn chẳng thể nào khiến trái tim trở nên khô cằn và lì lợm mỗi khi có ai đó mà hắn quen bước qua bên kia lằn ranh.

Hắn cố nén những cảm xúc đó xuống tận đáy lòng thì nó càng nóng và bộc phát dữ dội như dung nham tuôn chảy. Sư phụ nói đúng, hắn quá yếu đuổi, đa sầu đa cảm, không thích hợp cho nghề trừ tà.
Mãi đến xế chiều, Minh Khánh mới bế Cư Phiền đạo trưởng lên, đi ra phía cổng. Thân hình hắn liêu xiêu trong bóng chiều vàng úa. Lá khô không ai quét cứ bay vù vù trên sân, dính đầy quần áo hắn. Một hạt bụi rơi vào mắt khiến Minh Khánh dừng lại, hấp háy mắt. Trên trời, mây trôi sao mà cô độc thế. Bỗng nhiên trong buổi hoàng hôn sầu muộn, hắn cảm thấy nhớ nhà.
******************
Dường như nỗi đau chẳng bao giờ là có giới hạn cả. Khi Minh Khánh trở về nơi sân rộng phía trước của chùa. Bộ đầu Đinh Quý đã chết. Anh ta nằm ngửa ở giữa sân. Máu đã khô lại nơi cái cổ rách toạc của anh. Minh Khánh để Cư Phiền đạo trưởng xuống, bắt đầu đi vòng quanh tìm kiếm Đồng Minh sư thái. Hắn dễ dàng tìm thấy vết máu và cái xác của đạo sĩ Vạn Thiện. Cổ của ông bị một vật sắc cắt đứt. Tiếp tục lần theo vết máu, Minh Khánh tìm thấy xác của hòa thượng Văn Minh, rồi đạo sĩ Dư Nhất. Vết máu vẫn kéo dài. Trời bắt đầu tối. Bóng cây rậm rạp trong khu vườn bắt đầu rì rào che lấp đi những tia sang yếu ớt còn lại.

Những ngọn cỏ đã lâu không có người cắt cứ vươn dài và xào xạc than thở ột ngôi chùa hoang vắng. Minh Khánh bước chầm chậm trong bóng tối. Hắn đã thấy được hòa thượng Chúc Phương và Đồng Minh sư thái. Bọn họ nằm đè lên nhau. Lưỡi kiếm của sư thái vẫn đang đâm xuyên qua người của hòa thượng. Hàm răng của hòa thượng vẫn cắn chặt lên cổ của sư thái. Hai người tự giết lẫn nhau. Không! Đúng hơn phải nói là bóng ma của Chúc Phương hòa thượng giết chết Đồng Minh sư thái bởi vì lúc đó có lẽ ông đã chết rồi. Đến Cư Phiền đạo trưởng còn không chịu nổi thì làm sao Chúc Phương có thể đi ra khỏi chính điện mà vẫn bình an được.
Minh Khánh cúi người xuống, lẩm nhẩm đọc kinh cầu siêu. Bọn họ là người tu đạo, hẳn là đã cắt đứt hồng trần. Linh hồn của họ sẽ dễ dàng siêu thoát trần gian thôi.
Đêm hôm ấy, trên sân ngôi chùa chỉ còn lại Minh Khánh. Lúc hắn tìm đến đám Phật tử sau nhà, người thì chết người thì bỏ trốn cả rồi. Minh Khánh đành phải tự thu thập tất cả xác chết lại rồi hỏa thiêu. Sau khi thu tro cốt Cư Phiền đạo trưởng vào một chiếc lọ nhỏ, Minh Khánh khăn gói xuống núi. Hắn đi ngay trong đêm. Minh Khánh không sợ ma quỷ nhưng hắn sợ sự cô độc, sự tĩnh lặng đến buồn bã của ngôi chùa. Hắn bước mò mẫm qua những bậc thang đá, giờ đã hơi ẩm ướt bởi sương lạnh, chiếc gùi trên lưng lại nặng thêm những bí ẩn chưa được khám phá của một ngôi chùa bị quỷ ám
 
Chương 61: Chương 61: Làng Me Thuở Ấy


Trở về phủ lộ Bình An khiến Minh Khánh cực kỳ vui sướng. Với những người đa cảm như hắn, chỉ cần ngửi thấy mùi gió, mùi nắng của đất mẹ thôi cũng cảm thấy hạnh phúc rồi. Minh Khánh che mũ đứng chờ đò bên bãi sông vắng. Trời mùa hè như đổ lửa, thỉnh thoảng còn có những cơn hừng hực mang theo cả cát thổi rát mặt.Con sông mùa này cũng cạn nước, lộ ra bãi sông thoai thoải đầy cát mịn.
Ông lái đò sau khi chở một chuyến khách qua sông vẫn vui vẻ quay lại đón một mình Minh Khánh. Cái giọng đặc sệt của ông lái đò làm Minh Khánh thấy thân thuộc thế. Lên đò rồi, hắn vừa vui vẻ trò chuyện với ông lái vừa nhìn ngắm con sông. So với những mùa khác, nước sông đục hơn, thẫm màu hơn. Minh Khánh khẽ khoát tay. Nước sông vẫn lành lạnh. Làn nước cố gắng tràn qua các bãi cạn lộ rõ bên dưới, chầm chậm chảy về phía biển, cuốn trôi theo đám lá tre già khô úa. Con sông làm hắn nhớ tới chuyến đi bắt ma ở làng Me thưở nào.
*************************

Làng Me là một ngôi làng nằm bên sông Lục Bình. Gọi là thế vì mặt sông lúc nào cũng có đôi khóm lục bình, một loài bèo có hoa tím lớn trôi trên sông mà người ta hay vớt về băm nuôi lợn. Chả hiểu sao cái ngôi làng yên bình ấy lại gặp ma. Mà cũng không phải ma trong làng, mà là ma trên cái sông bên cạnh làng. Lạ nữa là con ma dưới nước đó không trừ bất cứ ai. Già trẻ lớn bé những ai qua sông vào ban đêm đều một đi không trở lại.
Sau khi chết hơn chục người, làng Me cũng cố đi khắp vùng để mời những thầy trừ ma cứng cựa nhất đến bắt. Thế nhưng đến khi ba bốn ông thầy cũng ra đi nốt, làng Me mới phát hoảng lên rằng con ma còn cao tay hơn rất nhiều “thầy”. Lúc này bọn họ mới bắt đầu tìm hiểu về nghề trừ tà và biết rằng trong tất cả những kẻ mang danh thầy trừ tà ấy, chỉ có ba phái là mang nghề trừ tà chính tông. Đó là phái Phổ Linh trên Hoàng Lĩnh Sơn, gia tộc họ Phạm ở đất Nam Lan và Quang Minh đạo tràng trên núi Bình Tử.
Quang Minh đạo tràng thì ở tận ngoài Bắc quá xa, nên các cụ trong làng Me chỉ đồng ý đi mời phái Phổ Linh hoặc gia tộc họ Phạm đến . Cuối cùng, sau những tranh luận nảy lửa xem bên nào hơn thì mấy nhà giàu sợ chết trong làng góp thêm tiền cho làng đi mời cả hai nơi. Có lẽ vì đất Nam Lan gần hơn mà người nhà họ Phạm đến trước. Khi đến làng Me ông ta một mình xuống sông điều tra suốt cả ngày. Rồi ngay trong đêm hôm sau, ông ta tổ chức bắt ma. Cả làng đèn đuốc sáng trưng theo dõi ông thầy leo lên con thuyền dán đầy bùa chú và đồ cúng, ung dung chèo ra giữa dòng. Mùa nóng nên nước sông cũng cạn, chỉ một lát con thuyền đã chui ra đến giữa giòng. Ông thầy lúc này bỏ chèo chui vào trong khoang. Kỳ lạ thay, chỉ trong chốc lát con thuyền bỗng xoay tròn trên sông. Rồi mọi người mới nhận ra dưới chân con thuyền đã hiện ra một xoáy nước khổng lồ tự bao giờ. Càng đáng kinh ngạc khi con thuyền vẫn chỉ xoay tròn bên trên xoáy nước to như cái ao đó mà không chìm. Rồi những bùa chú trên thuyền bắt đầu bóc ra và rơi lả tả. Có người làng Me còn khẳng định họ thậm chí nghe thấy tiếng hò hét và gươm đao chạm nhau trên thuyền.
Cứ thế suốt nửa canh giờ, cái xoáy nước bắt đầu bé lại, vòng xoáy cũng yếu dần, rồi biến mất. Con thuyền cũng dừng xoay. Mọi người thấy ông thầy họ Phạm chui ra khỏi khoang thuyền liền hoan hô. "Thầy cứu cả làng rồi" Nào ngờ, vừa hoan hô chưa được bao lâu thì cả con thuyền đột nhiên lật úp, hất luôn ông thầy xuống nước. Vì giữa đêm nên chả ai dám bơi ra cứu thầy. Mãi tới khi mặt trời lên vào sáng hôm sau, mọi người mới dám chèo thuyền ra sông đi mò. Đến gần chiều, có người tìm thấy xác thầy mắc vào một cái rễ cây bên sông cách làng khoảng hai dặm. Mang thầy về, ai cũng bịt mũi vì cái xác đã thối rữa như đã chết từ tháng trước.

Minh Khánh và sư phụ đến làng Me vào buổi trưa, lúc đấy dân làng đang tập trung ma chay cho thầy họ Phạm. Dẫu gì thì thầy cũng đã chiến đấu hết mình cho làng nên mọi người đều biết ơn. Minh Khánh và sư phụ được mọi người trong làng dẫn vào ăn cơm, nghỉ ngơi. Đến đầu giờ chiều thì một cụ già mới gặp hai người, bắt đầu kể đầu đuôi câu chuyện. Nghe xong, sư phụ Lê Văn Sơn bắt đầu suy nghĩ rồi xin cụ già gặp ông Tư Thồn, người đầu tiên và cũng là người duy nhất đã thấy con ma mà còn sống trong làng.
Ông cụ đồng ý, sai cháu dẫn hai người ra đầu làng. Nhà ông Tư Thồn nằm gần bến sông. Vừa bước tới cửa, Minh Khánh đã ngửi thấy mùi hương. Ấn tượng đầu tiên của hắn là nhà ông Tư Thồn cũng không giàu có gì nhưng thắp rất nhiều hương. Trong nhà ông phải có đến năm sáu lọ hương, lúc nào cũng khói nghi ngút. Lúc này mọi người đi làm đồng hoặc ra chỗ đám ma thầy họ Phạm hết, chỉ có mỗi ông Tư Thồn đang ngồi tụng kinh trên giường.
Gọi là đọc thì đúng hơn là tụng vì ông vừa nhìn sách vừa tụng, giọng còn ngắc ngứ chưa thuộc. Chắc ông vừa mới học đoạn kinh này không lâu. Thằng bé dẫn đường có vẻ vội, định lên gọi ông Tư Thồn báo có thầy đến nhưng bị sư phụ Lê Văn Sơn nắm tay kéo lại, ra hiệu không nên làm phiền. Ba người chờ đến lúc ông Tư Thồn đọc hết đoạn kinh thì mới tiến lên. Sư phụ Lê Văn Sơn chào ông: “Chào bác, bần đạo là thầy trừ tà trên chùa Phổ Linh. Hôm nay đến nghe chuyện làng, thấy mọi người bảo bác là người duy nhất gặp con ma, bần đạo mới xin gặp bác để hỏi chuyện.”
Ông Tư Thồn cúi lạy: “Dạ chào đạo trưởng, xin mời ngài ngồi để tôi đi rót nước.”

Sư phụ cười, nắm lấy tay ông, nói một cách rất thân thiết: “Không cần đâu, cơm nước bần đạo đã ăn uống no nê cả rồi. Giờ chỉ xin ông hãy thuật lại việc gặp ma đêm đó thật kỹ càng cho bần đạo có được không?”
Ông Tư Thồn đồng ý, bắt đầu ngồi nhớ lại. Giọng ông kể cứ như là từ một cõi xa xăm nào đó khiến Minh Khánh thấy rùng mình.
Đêm hôm ấy chiếc đồ ngang của ông lão Tư Thồn vẫn cố gắng chở khách qua sông. Ông đang gom tiền mua một mảnh ruộng, cho con có đất cắm dùi, không phải lận đận trên sông nước như ông. Tối nay, chỉ có bốn vị khách nhỡ đường, muốn đến làng Me trước giờ Hợi. Ông Tư Thồn năm nay đã gần năm mươi nhưng mắt mũi còn tinh lắm. Ông nhìn rõ khuôn mặt từng người khách dù chỉ bằng ánh đèn leo lét treo trên hông thuyền. Một bà đi chùa tuổi sồn sồn, bôi son trát phấn khá dày. Một cậu trai trẻ cắp tráp đi theo giống người hầu. Một người đàn ông có vẻ là sai dịch, mặc quần áo của nha môn, cái cằm lúc nào cũng hất lên, đầy vẻ khệnh khạng. Cuối cùng là một chàng thanh niên trẻ tuổi mặc đạo bào màu xám, lưng còn đeo kiếm gỗ. Cả bốn người đều có vẻ mệt mỏi, dựa lưng vào thuyền ngủ thiếp đi.
Lúc thuyền ra đến giữa sông thì ông Tư Thồn bỗng ngửi thấy một mùi ngai ngái hơi khó chịu, lại quen thuộc với ông. Ông Tư nghĩ mãi không ra đó là gì. Ông cố vươn cổ ra giữa trời hít một hơi, hi vọng không khí trong lành buổi đêm xua đi mùi khó chịu. Chỉ có điều khắp nơi tràn ngập cái mùi ngai ngái đó. Ông Tư nhìn vào trong khoang thuyền, nhìn xem có vị khách nào mang theo đồ vật thối rữa không?
Ông Tư bước vào khoang thuyền. Năm người vẫn ngủ say như chết. Cái mùi ngai ngái đó càng đậm đặc. Ông Tư định đánh thức bọn họ dậy để hỏi xem. Từ từ đã nào, từ lúc nào mà lại có thêm một người. Ông Tư nhớ lúc lên thuyền chỉ có bốn người khách thôi.

Ông Tư nhìn vào vị khách thứ năm. Không rõ y lên thuyền lúc nào. Người y ướt sũng như bị rơi vào nước, bụng phềnh như cái trống. Da thịt y bong tróc ra từng mảng lớn.
Y bỗng mở mắt nhìn ông Tư một cái, nhe một hàm răng chỉ còn răng và xương cười với ông. Ông Tư ớn lạnh trong người, sợ hãi kêu lên một tiếng. Y liền biến mất.
Tiếng kêu của ông Tư làm ba người khách tỉnh dậy, nhốn nháo hỏi ông chuyện gì. Ông Tư kể lại, bọn họ cũng đều sợ hãi mong ông mau chèo thuyền khỏi đây. Nhưng ông vừa cầm lấy mái chèo thì bà sồn sồn hét lên sợ hãi, ôm chầm lấy cậu trai trẻ. Ông Tư bước vào, thấy đạo sĩ mang kiếm đã chết tự bao giờ, cả người y ướt sũng nước như vừa ở dưới sông lên. Ông Tư sợ quá, vội vã chèo thuyền vào bến. Nhưng còn cách bến ba mươi thước thì cậu trai trẻ lại kêu lên. Ông Tư nhìn thấy cậu đẩy bà sồn sồn ra, bà ta cũng ướt sũng nước, có vẻ không còn thở nữa.
Cậu trai trẻ và gã sai dịch vừa bò ra khoang thuyền vừa hoảng hốt kêu cứu mạng. Ông Tư chèo càng nhanh, thuyền cập bến, hai người khách nhảy vội lên. Nhưng hai cánh tay trắng hếu từ dưới sông vươn ra, túm lấy chân bọn họ kéo ngược trở lại trong sông. Ông Tư mặc kệ tiếng kêu la của bọn họ, cắm đầu chạy thục mạng. Ngày hôm sau lúc ông trở ra thì con thuyền vẫn còn nguyên. Ông liền kéo thuyền về nhà, rồi đi thông báo với lý trưởng. Lúc đầu lý trưởng không tin ông, thậm chí biết ông không chèo đò nữa còn mua rẻ lại chiếc đò cũ. Bán chiếc đò rồi, ông Tư về nhà ốm một trận nặng tưởng chết. Thế nhưng mấy ngày hôm sau, khi tỉnh dậy ông nghe đồn lại có người bị ma bắt. Lần này đến người chèo đò là cháu họ xa nhà lý trưởng cũng không may mắn được như ông.
 
Chương 62: Chương 62: Đêm Bờ Sông


Hồi đó Minh Khánh còn bé lắm, mới học bắt ma được hơn một năm thôi. Nghe chuyện của ông Tư Thồn, Minh Khánh đâm ra sợ. Hắn nép hẳn vào bên người sư phụ. Bên cạnh Minh Khánh, mặt thằng bé dẫn đường đã xanh mét như tàu lá chuối, xem chừng sắp tè ra quần đến nơi. Thấy cu cậu sợ run lên, sư phụ Văn Sơn cho thằng bé một đồng tiền, bảo nó đi về. Rồi ông mở tay nải, lấy giấy bút ra. Minh Khánh liền xung phong mài mực.
Mực là một trong bốn bảo bối của văn phòng, gọi là “văn phòng tứ bảo” bao gồm mực giấy, bút, nghiên. Bốn thứ này khá đắt giá vì nó là công cụ để học tập, truyền đạt và thi cử của tầng lớp “có học”, từ những ông đồ đến quan tể tướng. Mực có hai loại, mực thỏi và mực nước. Thường thì ở nhà, sư phụ thường dùng mực nước sau đó mới mài một ít mực thỏi để tăng độ sánh thôi. Thế nhưng đi xa thì ông thường mang nguyên cả thỏi. Viên mực này hẳn là vị quan nào biếu ông, lúc Minh Khánh mài còn ngửi thấy hương thơm. Giống như các nhà Nho, bút mực giấy cũng là một phần không thể thiếu trong cuộc sống thầy trừ tà. Đơn giản bởi vì đó là một công cụ tiện lợi để luyện vẽ bùa. Không ai mới bắt đầu học vẽ bùa đã dùng kim sa và giấy vàng cả.

Như Minh Khánh , để vẽ được cái bùa đầu tiên đã phải học viết chữ, vẽ tranh ròng rã ba năm. Đó là khoảng thời gian khổ cực nhất trong cuộc đời đi bắt ma của hắn. Sau này sư phụ mới giải thích rằng đó là để rèn luyện tâm tính và khiếu thẩm mỹ cho thầy trừ tà trước khi vẽ bùa. So với những người tu đạo khác, việc vẽ bùa chưa bao giờ là chuyện đơn giản với thầy trừ tà. Đơn giản bởi lẽ đó là vũ khí của thầy trừ tà để chiến đấu và bảo vệ mạng sống. Với người khác, vẽ bùa có thể lỡ vẽ xiên xẹo một nét, uy lực giảm đi một hai thành vẫn không sao. Còn với thầy trừ tà, một hai thành uy lực thiếu đi đó có thể biến lá bùa đó thành lá bùa đòi mạng . Giống như binh sĩ lên chiến trường, gươm đao phải sắc bén, lá bùa của thầy trừ ta luôn phải phát huy đầy đủ một trăm phần công lực. Đó là do kinh nghiệm của xương và máu trong suốt cuộc chiến đấu dai dẳng hàng trăm năm trước truyền lại và hun đúc thành.
Thế nhưng hôm đó, Minh Khánh biết sư phụ Lê Văn Sơn chắc là không định vẽ bùa. Bởi vì hắn thấy ông dùng giấy Tuyên “thục chỉ”. Giấy Tuyên có hai loại. Loại “sinh chỉ” là giấy sống, chưa nhúng phèn, chuyên dùng trong thư pháp. Loại “thục chỉ” là giấy đã nhúng phèn, dùng trong hội họa. Sư phụ bắt đầu yêu cầu ông Tư Thồn nhớ lại con ma, cố gắng miêu tả hình dạng của nó để sư phụ vẽ lên giấy. Từ ánh mắt, đến cái miệng cười của nó, tất cả đều được sư phụ vẽ thật sống động. Sau hơn chục tờ giấy vứt đi vì ông Tư Thồn bảo không giống, cuối cùng sư phụ cũng vẽ được một bức mà được ông Tư gật đầu.
Trong khi sư vụ yên lặng ngắm bức tranh, Minh Khánh cũng giả đò nhìn theo, mặc dù hắn cũng không hiểu sư phụ làm thế có mục đích gì. Sau nửa canh giờ, hai thầy trò chào từ biệt ông Tư để đi bắt ma. Trước khi đi, sư phụ Lê Văn Sơn có nói với ông Tư rằng trong chuyến đò hôm ấy, ông Tư đã lây dính khí âm của con ma nên có thể mở ra Âm nhãn. Hiện tại nếu ông muốn làm thầy trừ tà thì có thể đi lên núi Hoàng Lĩnh hoặc sang đất Nam Lan để học cách bắt ma. Rồi sư phụ cho ông Tư Thồn một lá bùa để phòng thân vì những người có dính khí âm như ông hay bị ma làm hại. Ông Tư cảm ơn sư phụ rối rít, lễ phép tiễn thầy trò ra khỏi nhà.
Sau khi gặp ông Tư rồi, Minh Khánh tưởng sư phụ Lê Văn Sơn sẽ dẫn hắn ra bờ sông xem con ma, thế nhưng ông lại đi ngược vào trong làng. Minh Khánh thấy sư phụ hỏi nhà lý trưởng. Lý trưởng chắc mới ở đám tang thầy họ Phạm về, hơi thở vẫn còn mùi rượu nồng nặc. Sư phụ đưa bức vẽ con ma cho lý trưởng, nhờ hắn lên huyện xã xem trong vùng có ai mất tích mà mặt mũi giống thế này không. Lý trưởng thấy hình vẽ con ma thì sợ lắm, không dám cầm, chỉ sai một đứa cháu cầm rồi cùng đi lên huyện. Hai thầy trò ở nhà lý trưởng. Nhà y rộng và thoáng mát lắm. Từ nhà ra sân đều lát gạch đỏ sạch sẽ. Mới chiều tối, bà lý đã vội mổ gà làm cơm chiêu đãi hai thầy trò. Minh Khánh được nguyên cái đùi gà to thơm phưc phức. Thịt gà săn, càng nhai càng thấy thơm chấm với muối tiêu lá chanh thì ngon quên trời đất. Ngoài ra Minh Khánh còn nhớ món đậu xào lòng mề. Chắc là xào bằng mỡ gà hay sao mà thơm thế. Đậu đũa giòn giòn, mề gà sật sật, gan gà béo béo làm hắn say mê. Hôm đấy mình Minh Khánh chén hết bốn bát cơm, bằng hai bữa bình thường.

Ăn xong hai thầy trò ngồi uống nước trên cái chõng trong vườn. Gió từ vườn thổi mát quá, lại còn mùi hoa bưởi dịu dịu làm Minh Khánh ngủ thiếp đi. Đến gần đêm thì sư phụ Lê Văn Sơn đánh thức Minh Khánh dậy. Hóa ra là lý trưởng đã về. Lý trưởng cầm cái quạt mo quạt lấy quạt để vừa kể chuyện lên huyện. Mặc dù rất dong dài, nhưng Minh Khánh cũng hiểu được rằng huyện nha cho rằng không có ai phù hợp với hình ảnh mà sư phụ đã vẽ. Sư phụ Lê Văn Sơn cười, khách khách khí khí cảm tạ lý trưởng đã giúp đỡ. Lý trưởng có vẻ hài lòng, vui vẻ sai người dọn cơm ra rồi mời hai thầy trò cùng ngồi mâm. Thì ra từ chiều đến giờ y vẫn chưa ăn. Minh Khánh đến lúc này cũng hơi đoi đói rồi, lại muốn ngồi xuống nhưng sư phụ từ chối lời mời của lý trưởng. Ông bảo phải ra sông xem.
Thế là lý trưởng sai người cho hai thầy trò mỗi người một cái đuốc to, đủ cháy cả hai đêm rồi tiễn hai thầy trò. Minh Khánh và sư phụ đi dọc con đường làng ra sông. Đêm cuối tháng tối lắm. Mặc dù có đuốc nhưng Minh Khánh vấp liên tục. Gió cứ thổi liên tục làm cây đuốc của Minh Khánh cứ bập bùng bập bùng. Ra đến bên sông, Minh Khánh vừa đi vừa nhìn xung quanh, lúc đấy hắn vẫn chưa có âm nhãn nên cảm thấy con ma có thể ở bất kỳ đâu. Đột nhiên hắn húc đầu vào lưng sư phụ. Thì ra ông dừng lại mà hắn chẳng biết. Cơn đau ở sống mũi khiến hắn chực khóc. Sư phụ vội lấy tay xoa xoa cho Minh Khánh rồi đỡ hắn ngồi xuống bãi cỏ. Một mình ông bước xuống gần mép sông. Minh Khánh thấy ông bắt đầu mở ra âm nhãn. Trên mặt sông âm khí bắt đầu tụ lại nhưng con ma vẫn không hiện hình. Gió bắt đầu thổi ào ạt. Sương lạnh bắt đầu lan tràn làm Minh Khánh thấy lạnh. Hắn rùng mình nhìn xung quanh. Gió thổi cỏ lay đều khiến hắn giật mình thon thót.
Đột nhiên một cái gì đó chạy qua phía sau làm Minh Khánh ngoảnh lại. Đó là cả một khoảng không thênh thang cùng với con đường vào làng vừa tối vừa sâu hun hút. Nhìn kỹ một lúc Minh Khánh thở phào tiếp tục quan sát sư phụ. Hắn cảm thấy lúc này âm khí trên sông đã mở rộng ra, tạo thành một cái vòng xoáy ngay trên mặt sông. Lúc này trong lòng Minh Khánh chia làm hai nửa, một bên vừa hi vọng con ma hiện ra cho sư phụ bắt, một bên lại mong nó đừng chui ra.

Phía sau Minh Khánh lại có cái gì đó chạy qua làm hắn giật thót. Lần này Minh Khánh cảm thấy mình không nghe lầm. Hắn đứng dậy giơ cao cây đuốc lên, thò b àn tay nhỏ mũm mĩm móc một lá bùa mà sư phụ cho từ trong ngực ra, run run tiến về phía có tiếng động hồi nãy. Lúc này hắn vẫn chưa thuộc nổi Tịnh Tâm chú chả biết đọc gì, chỉ lẩm bẩm: “Đừng bắt ta, đừng bắt ta” cho đỡ sợ. Sương càng lúc càng dày đặc. Chỉ vài bước chân thôi mà sao Minh Khánh thấy vừa mệt mỏi vừa lạnh run đến thế.
Lại có tiếng sột soạt, lần này không phải ở chỗ cũ mà bên trái hắn tầm ba thước. Minh Khánh lập tức quay người về phía đó, giơ đuốc lên soi. Vẫn không có cái gì cả. Minh Khánh thở phào nhẹ nhõm. Hắn không muốn đối mặt với con ma bây giờ đâu. “Hẹn mày hôm nào tao học xong phép bắt mày đã nhé ma!” Hắn tự nhủ trong lòng như thế. Đột nhiên từ phía sau có một bàn tay nắm lấy vai hắn. Minh Khánh sợ quá thét lên “Á…Á …Á…”
 
Chương 63: Chương 63: Kinh Dạ Nơi Miền Ký Ức


Minh Khánh cố giẫy dụa, vùng vẫy bằng tất cả sức lực mà mình có. Hắn vung cả hai tay, cố nắm chặt lấy lấy bàn tay trên vai, rồi giằng ra thật mạnh. Bàn tay đó sao mà thô ráp, lại cứng cáp như rễ cây cổ thụ. Vì dùng lực quá mạnh, Minh Khánh ngã ngửa ra đất. Đột nhiên, ánh mặt trời chói chang hiện lên làm tất cả như tan biến. Minh Khánh vừa thở hồng hộc, vừa che đôi mắt khỏi bị ánh nắng rọi vào. Mồ hôi trên người hắn vã ra như tắm, từng giọt từng giọt từ trên trán chảy vào mắt cay xè, làm bóng người trước mặt cứ mờ mờ ảo ảo. Người đó xoa xoa tay trước mặt hắn làm hắn càng không thể nhận ra là ai.
Mãi đến khi người đó đỡ Minh Khánh vào dưới một gốc cây, Minh Khánh mới nhận ra là ông lái đò. Ông lái đò vừa lấy cái khăn vừa tẩm nước sông lên còn lành lạnh trùm lên trán cho Minh Khánh vừa than thở: “Tôi đã bảo rồi. Cậu đừng ngồi một chỗ dưới trời nắng như thế dễ bị cảm lắm. Thế mà cậu lại cứ ngồi ỳ ra, lại còn hò hét như đang mơ ngủ nữa.” Minh Khánh khẽ nhếch đôi môi khô nẻ, mỉm cười nhận lỗi với ông. Đầu hắn bắt đầu lên cơn sốt. Mắt hắn vẫn còn hoa, hơi thở cứ như được hơ qua lửa, nóng hừng hực. Ông lái đò bảo Minh Khánh ngồi nghỉ một lúc rồi chạy đi đâu đó.
Minh Khánh ngồi dưới gốc cây, nhắm mắt lại. Cơn đau đớn bắt đầu bùng lên hai bên thái dương khiến Minh Khánh biết hắn bị bệnh thật rồi. Theo kinh nghiệm từ ngày xưa, bình thường người tu đạo rất ít khi bị bệnh tật. Bởi vì người tu đạo, bất kể là thầy trừ tà, thầy phong thủy, hay luyện trường sinh … đều phải rèn luyện cơ thể. Tùy theo từng môn phái, từng hệ thống truyền thừa mà bọn họ có thể có cách tập luyện khác nhau, Sau một thời gian rèn đúc cơ thể, những thứ bệnh tật ốm đau thông thường rất khó xâm nhập. Ngoài ra, việc thường xuyên tiếp xúc với các lực lượng siêu nhiên khiến cơ thể người tu đạo trở nên có sức kháng cự rất mạnh với dị vật từ bên ngoài.
Người tu đạo chỉ bị bệnh khi bọn họ tiêu hao quá nhiều sinh mệnh, hoặc khi có một thứ gì đó “bẩn thỉu” xâm nhập khiến cơ thể bọn họ bị suy yếu khả năng tự bảo vệ. Minh Khánh nghĩ ngay đến khả năng hắn đã “bị” từ lúc ở trong chùa Khánh Lương. Vì thế trên đường trở về, hắn đã cảm thấy sự khó chịu nơi cơ thể và đến đây thì đổ bệnh. Minh Khánh cũng không hoảng hốt. Hắn cũng đã có khá nhiều kinh nghiệm với trường hợp như thế. Chỉ cần người bệnh an dưỡng một thời gian, không đánh đấm, không tiêu hao sinh mệnh thì sẽ tự khỏi. Minh Khánh duỗi người, dựa lưng vào cái cây.

Có tiếng bước chân vọng lại. Ông lái đò đã trở về, trên tay cầm một cái gáo dừa. Nhận lấy gáo nước mát từ tay người lái đò tốt bụng, Minh Khánh lễ phép cảm ơn ông, đưa gáo nước lên uống từng ngụm nhỏ. Hắn cảm thấy đỡ đỡ hơn nhiều.
Hắn gửi ông lái đò một khoản tiền nhưng ông cứ từ chối, chỉ nhận bằng đúng giá tiền chở khách hàng ngày. Minh Khánh đành cảm ơn người lái đò tốt bụng, rồi lảo đảo đi vào làng. Minh Khánh kiếm được một nhà cho ở trọ. Giá cũng rẻ. Trong nhà chỉ có hai ông bà lớn tuổi ở với vợ chồng đứa con trai út mới cưới. Ông bà đưa Minh Khánh vào một căn nhà đang xây dở phía sau hồi, dưới gốc cây mít. Chắc là xây cho đứa con ra ở riêng. Nơi này chỉ còn thiếu mỗi gian bếp, cửa chính cửa sổ đều đã lắp cẩn thận. Minh Khánh gửi tiền cọc cho chủ nhà xong liền nằm vật ra giường. Sự mệt mỏi và cơn sốt làm mắt hắn cứ ríu lại.
Mãi đến gần nửa đêm Minh Khánh mới tỉnh dậy. Bát cháo hành tía tô nhờ nhà chủ nấu giờ đã nguội ngắt. Hắn vẫn cố gắng với tay lấy bát, húp mấy miếng. Cổ họng hắn trở nên đau và sưng, khiến hắn cứ phải rướn cổ lên mỗi khi nuốt xuống. Húp hết bát cháo, uống ngụm nước trong ống tre mà chủ nhà treo bên vách tường, Minh Khánh lại nằm xuống, bắt đầu lịm đi. Bóng tối, tiếng lá xào xạc bên cửa sổ và những cơn gió nóng hừng hực lại đưa hắn về những ký ức năm nào.
********************* Bờ sông làng Me vẫn tối mịt. Minh Khánh lẽo đẽo theo sư phụ đi về. Lúc nãy, sư phụ nắm vào vai làm hắn sợ đến đứng tim. Con đường vào làng vẫn sâu hun hút. Thỉnh thoảng lại có tiếng chó nhà ai sủa gâu gâu khi Minh Khánh và sư phụ đi qua. Hai người quay trở lại nhà lý trưởng để ngủ đêm. Sáng hôm sau, sư phụ đánh thức Minh Khánh dậy sớm lắm. Hai người ăn tạm ít xôi rồi lên đường. Lần này, sư phụ dẫn hắn đi ngược con sông về phía thượng nguồn.

Hai người đầu tiên là đi xe ngựa, sau đó đổi sang đi thuyền, cuối cùng là đi bộ hai ngày, mới tới được đầu nguồn của con sông. Đó là một cái hồ nước rộng mênh mông tên là hồ Kinh Dạ. Mặt hồ phẳng lặng, nước trong veo. Thế nhưng lạ lùng nhất là quanh hồ không hề có lấy một cái làng nào. Sư phụ dường như cũng biết rõ vùng này, dẫn hắn đi ngược khỏi hồ về phía Tây mười dặm. Nơi đó có một cái thôn nho nhỏ.
Hai người vào ở tạm trong nhà một người thợ săn trẻ tuổi tên Miên. Chú Miên có vẻ quen với sư phụ. Đêm đó chú đãi hai người món thịt gà rừng nướng mà chú săn vừa được. Con gà được chú làm long rồi mổ cẩn thận. Chú moi hết bên trong ra rồi bắt đầu nhét một đống rau thơm vào. Sau đó chú trộn một ít bột hạt mắc khén, ớt nướng, củ sả băm nhỏ, hạt dổi nướng giã ra thành một đống, rồi bắt đầu bôi bôi trét trét lên con gà. Sau đó chú xiên con gà qua một khúc giang non còn tươi. Sau đó chú gác con gà trên bếp lửa, rồi xoay đều cho gà chín. Trong lúc chờ đồ ăn, sư phụ và chú Miên chuyện trò rất rôm rả. Minh Khánh chỉ chăm chăm vào con gà thơm phưc phức trên bếp lửa. Mỗi khi nhìn mỡ béo trong con gà xèo xèo, nước dãi lại trều ra bên mép.
Gà chín rồi, chú Miên bắt đầu trút ra lá chuối. Thấy Minh Khánh nhỏ cả nước dãi vì thèm, chú bật cười, cầm con dao chặt luôn một miếng đùi to. đưa cho hắn. Gà vừa mới trên bếp xuống nên còn nóng, Minh Khánh vừa cầm xuýt xoa, vừa đổi tay liên tục. Khi gà hơi nguội, hắn đưa lên miệng, cắn một miếng. Trời ơi, sao mà ngon thế. Da gà săn lại, nhai giòn giòn. Thịt gà vàng rộm ở bên ngoài và ngọt mềm ở bên trong, thơm ngậy mùi của hạt mắc khén, của sả. Thịt gà rất chắc, từng thớ thịt trắng phau, ăn đến đâu biết đến đấy.
Chú Miên và sư phụ không vội vàng ăn như Minh Khánh. Chú Miên thì lấy trong chiếc gùi đi rừng ra một lá ghém. Thứ lá này hơi chát, ăn vào lại có vị ngòn ngọt thơm thơm nơi cổ họng. Sư phụ thì lôi đâu ra một bầu rượu gạo. Hai người bắt đầu chén tạc chén thù đến tận khuya. Đêm trong thôn tĩnh lặng vô cùng. Minh Khánh chén đẫy bụng liền leo lên giường đánh một giấc tới tận sáng.

Sáng hôm sau, hai người lớn dậy rất sớm, bắt đầu chuẩn bị đồ đạc. Chú Miên không biết mượn đâu được một chiếc xe trâu to. Sau đó chú bắt đầu chất đồ lên xe, bao gồm một con thuyền cùng với đó là ít gạo rang, thịt gác bếp, một ít hương để đuổi muỗi. Sư phụ cũng mua đâu trong làng được một tấm chăn, một cái màn vải, và một số đồ cúng. Sau đó ba người đánh xe ra hồ.
Minh Khánh lại một lần nữa gặp lại làn nước mênh mang của hồ Kinh Dạ. Chú Miên và sư phụ bắt đầu vác thuyền xuống nước, chất đồ lên. Rồi không biết chú kiếm đâu được hai khúc tre dài, một cái chú cầm, một cái sư phụ cầm, hai người bắt đầu chèo ra giữa hồ. Trên đường đi, chú Miên giải thích cho Minh Khánh tại sao hồ này lại mang cái tên Kinh Dạ.
Đó là từ thời rất lâu rồi khi con người mới về đây làm ăn khai phá. Cuộc sống ban đầu khá vất vả nhưng vì trong hồ có nhiều cá, xung quanh lại có nhiều sản vật, đất đai cũng phì nhiêu nên chỉ vài chục năm, xung quanh hồ bắt đầu trở nên nhộn nhịp. Thời đỉnh cao ven hồ có không dưới mười làng, thậm chí còn có một bến tàu bằng đá. Cuộc sống sung túc trong vùng đưa tới không ít người từ phương xa, có thương nhân, có quan phủ, có người chạy nạn và cả người tu đạo. Cuộc sống trong vùng trở nên ồn ào náo nhiệt hơn. Đáng lẽ cuộc sống ở hồ Kinh Dạ sẽ tiếp tục giàu có và yên bình nếu như không có thêm một đám người xa lạ. Đó là một đám tù vượt ngục từ phủ Thanh Đô trốn vào.
Người cầm đầu là một tên cướp có biệt hiệu Thủy Quỷ. Y là một tên cướp cực kỳ tàn độc và gian ác. Y từng cùng đàn em tổ chức hơn một trăm vụ cướp, không vụ nào không có người chết. Sở thích của y là bỏ người sống vào trong lồng rồi dìm nước. Chờ người sống dở chết dở y lại lôi lên, rồi lại dìm. Nghe đồn khi còn bé y từng bị mẹ kế dìm nước sống đi chết lại, nhưng vì trên người không có một vết thương nên chả ai tin y bị hành hạ. Lớn lên y học được một thân võ nghệ quay về trả thù thì mẹ kế đã chết từ lúc nào rồi. Thế là y mang cái tâm trạng thù đời, thù người ấy đi trả cho thiên hạ.
Thủy Quỷ từng tung hoành khắp một vùng trấn Thanh Đô. Quan phủ từng nhiều lần lùng bắt y nhưng không thành bởi y bơi lội quá giỏi. Y thường chọn chỗ ngủ là ở trên thuyền hoặc nơi nào đó bên cạnh song hồ. Có động là y nhảy ngay xuống nước. Sự táo tợn và xảo quyệt của y chỉ kết thúc khi y vô tình nhúng nước “em gái” của một cao thủ luyện võ trên núi Tiều. Đau lòng trước cái chết của em gái, người này đã hợp tác với quan phủ truy lùng y và đồng bọn suốt một năm, thêm nữa không tiếc tiền thu mua tin tức của y trên giang hồ. Vì có chỉ điểm rõ ràng, có thêm cao thủ hợp tác, quan phủ lại huy động mấy ngàn lính thủy bộ vây quét, Thủy Quỷ và đồng bọn đành phải sa lưới. Riêng Thủy Quỷ mặc dù nấp dưới hồ mấy ngày trời, nhưng vừa bò lên bờ kiếm ăn đã bị một đám cao thủ vây lại. Bụng đói, lại mệt mỏi, y đành đầu hàng.

Thế nhưng có vẻ như được ông trời ưu ái, Thủy Quỷ và đồng bọn không bị bêu đầu ngay ở Thanh Đô do thượng thư bộ Hình muốn mang hắn về kinh thành xét xử. Trên đường ra kinh thành, đoàn áp giải Thủy Quỷ gặp phải lốc xoáy giữa đêm. Mười thuyền có đến bảy cái bị đắm trên sông. Nhờ khả năng của mình, y không những phá được cửa trốn thoát mà còn giải cứu không ít đàn em. Thế rồi y mang tám tên còn sống sót trốn đi. Trở về quê cũ, chán cuộc sống trộm cướp, y đào hết tiền của phi nghĩa chôn dưới đất rồi bỏ xứ mà đi. Lần này y rời trấn Thanh Đô tiến vào phủ lộ Bình An.
Vào đến nơi này, Thủy Quỷ và bọn đàn em dựa vào tiền bạc dư dả liền thay tên đổi họ, mua đất mua ruộng, cưới vợ sinh con. Vì không để ai phát hiện, bọn họ tạo thành một cái làng nho nhỏ ven hồ. Người dân trong vùng cũng nhiệt tình đối đãi những người mới tới trông có vẻ hung dữ, thực ra lại tốt bụng và hào phóng này. Thời gian cứ thế âm thầm trôi, cho đến một ngày Thủy Quỷ phát hiện ra hòn đảo nhỏ giữa hồ trong một lần đi đánh cá. Đó là một cái hòn đảo lạnh thấu xương, xung quanh mờ mịt sương mù.
Trở về từ hòn đảo đó, Thủy Quỷ như người mất hồn. Hôm sau khi hắn tỉnh lại thì hắn đã dìm chêt vợ và đứa con trai của hắn. Một phần vì không hiểu, một phần vì đau đớn và sợ hãi người phát hiện. Thủy Quỷ gói xác vợ con vào trong một cái túi lớn rồi mang lên đảo. Chôn vợ con rồi y khóc mãi tới tận trời tối mới trở về. Đêm hôm đó Thủy Quỷ lại như người mất hồn. Hôm sau khi hắn tỉnh dậy mới phát hiện mình đã ở trong nhà hàng xóm. Cả nhà đàn em hắn đều bị hắn lôi ra lu nước dìm chết. Thủy Quỷ sợ hãi vô cùng. Hắn vội trốn về nhà. Thế nhưng trong cái xóm nhỏ này, trừ khi làm việc gì mà giấu kín trong nhà, còn không làm sao có thể không bị phát hiện. Có người nhìn thấy hắn đi ra, có người phát hiện án mạng, thế là cả xóm vác dao tới nhà tìm hắn.
Trong cơn cùng quẫn, Thủy Quỷ lại nhảy xuống hồ bỏ trốn. Y cướp được một chiếc thuyền rồi bơi ra hòn đảo giữa hồ. Thế nhưng có người nhìn thấy y. Thế là cả xóm lại cùng bơi thuyền ra đảo tìm tên sát nhân. Một cuộc chiến đẫm máu xảy ra giữa những người từng là huynh đệ. Thủy Quỷ bị bắt được và bị đàn em phanh thây. Nhưng trước đó, y cũng kịp phá hết thuyền bè trên đảo. Đám đàn em của y đành ở lại trên đảo qua đêm. Nhưng sáng hôm sau, khi mọi người tìm tới nơi thì tất cả đều chết hết.
 
Chương 64: Chương 64: Câu Chuyện Bên Lề


Câu chuyện đáng sợ của chú Miên bị cắt đứt bởi một làn sương mù dày đặc. Sương ở đây không hề giống bất cứ một nơi nào khác mà Minh Khánh từng nhìn thấy. Nó cứ quánh lại, thậm chí cảm thấy có thể cầm nắm, vo viên và ném vào người khác như lũ trẻ vẫn thường chơi ném bùn. Ngoài ra, sương mù nơi đây còn lạnh lẽo một cách kỳ quái. Hơi lạnh như xông qua da qua thịt, thấm vào tận trong máu khiến chân tay tê dại đi. Minh Khánh hơi vẩy vẩy cánh tay cho nó bớt lạnh, rồi đưa lên miệng thổi phù phù. Đột nhiên thuyền bỗng ngừng lại như va phải một cái gì đó. Chú Miên hô:”Đến nơi rồi.” Lúc này Minh Khánh mới phát hiện ra con thuyền đã đi vào bên cạnh một bãi cát thoai thoải. Chú Miên nhảy xuống kéo thuyền vào. Sư phụ thì buộc dây neo thuyền vào một cái cọc trên bãi cát. Sau đó ba người bắt đầu dỡ đồ trên thuyền lên một bờ đá cao.
Dỡ xong hết hàng, chú Miên và sư phụ bắt đầu đi sâu vào trong đảo. Hòn đảo này cũng không phải quá rộng, chỉ tầm cỡ vài chục mẫu đất. Bên trong hòn đảo là một rừng cây rậm rạp. Sương mù và tán cây khiến cho Minh Khánh không thể thấy đường mặc dù lúc này đang là giữa trưa. Chú Miên đốt một cây đuốc lên, soi rõ xung quanh. Đất trong khu rừng cảm giác mềm nhũn như đi giữa vũng lầy mặc dù hoàn toàn khô ráo. Nền đất ghồ ghề nhiều đá khiến người ta rất khó đi. Cây cối ở đây có vẻ khẳng khiu lạ thường, với vô số rễ cây xấu xí đâm ngang đâm dọc lung tung. Đặc biệt bên trong rừng cực kỳ tĩnh lặng và kín gió. Ở nơi đây tiếng thở phì phò của Minh Khánh là tiếng động to lớn duy nhất.

Chú Miêu có vẻ thạo đường, băng qua rất nhiều tảng đá hay rễ cây mọc ngang một cách dễ dàng. Cuối cùng ba người có vẻ đã tìm đến nơi cần đến. Đó là một ngôi miếu nhỏ giữa một khoảng rừng trống trải, nằm quay lưng về hướng Bắc. Minh Khánh đi vòng ra phía trước ngôi miếu. Tường ngoài của nó được đắp bằng đát, mái lợp ngói. Bên trong ngôi miếu chỉ có một cái bàn thờ. Trên đó ngoài một cái lư hương lớn bằng đất sét thì Minh Khánh chẳng thấy tượng thần phật hay cái gì khác cả. Cái lư hương cũng mốc mốc cũ cũ như bị bỏ quên từ rất lâu rồi. Minh Khánh thấy sư phụ đốt một bó hương to, khấn vái rồi chia cho chú Miên và hắn một ít. Xong rồi, sư phụ thắp hương lên lư và đi vòng quanh cắm vào gốc mấy cái cây mọc xung quanh miếu thờ. Chờ chú Miêu khấn và thắp hương xong, Minh Khánh cũng tiến lại sát để thắp hương. Hắn giật mình đánh thót khi thấy bên trong căn miếu bé nhỏ là hàng ngàn lá phù các loại dán đầy trên tường. Mặc dù tối không thấy chữ nhưng Minh Khánh dựa vào kích cỡ và kiểu giấy vẫn đoán được trong ngôi miếu có trấn hồn phù, trấn tà phù, quang minh hộ thần phù và vô số những loại phù chú chuyên đuổi tà ma khác.
Ngôi miếu này tại sao lại có nhiều phù chú đến thế? Minh Khánh tự hỏi. Lúc này sư phụ và chú Miêu đang đứng dưới gốc một cái cây to. Hai người đang nói chuyện gì mà mặt rất căng thẳng. Thấy Minh Khánh tiến lại gần, sư phụ và chú Miên đã nói xong. Ba người bắt đầu trở về trên bãi đá nấu cơm. Cơm nước xong xuôi, chú Miên và sư phụ ngồi uống nước chè còn Minh Khánh lăn quay ra ngủ. Vì cũng mệt hắn ngủ một giấc đến lúc tối mịt. Khi tỉnh giấc, Minh Khánh thấy mình đang nằm trong chiếc lán nhỏ mà chú Miên và sư phụ đã dựng xong lán tự bao giờ. Xung quanh trời tối om om. Đống lửa cháy leo lắt khiến cho Minh Khánh cảm giác vẫn lạnh. Hắn cuộn tấm chăn trấn thủ xung quanh người, vừa đẩy củi vào trong đống lửa, vừa thổi phù phù. Ngọn lửa lập tức bùng lên, tàn lửa cháy tí tách đỏ rực.

Minh Khánh trút cái chăn quanh người xuống, bắt đầu nhìn quanh xem có thấy chú Miên và sư phụ không. Sương mù vẫn dày đặc như lúc sáng mới đến. Minh Khánh bước xuống khỏi tảng đá, lò dò ra bãi cát. Bãi cát phẳng và trắng bóc. Minh Khánh lò dò đến tận bên hồ, vốc một vốc nước rửa mặt. Nước hồ lạnh ngắt, lai có một mùi vị hơi tanh tanh như mùi cá chết. Minh Khánh nhăn mũi dùng hai ống tay áo thấm hết nước trên mặt rồi trở về lán. Bỗng nhiên, hắn nghe thấy tiếng bõm bõm như có ai đang lội nước. Một cơn rợn người bắt đầu chạy dọc sống lưng Minh Khánh. Câu chuyện chú Miên kể công thêm việc đi bắt ma khiến hắn có cảm giác chẳng lành. Bàn tay hắn sờ vào túi. Nơi đó có lá bùa mà sư phụ viết sẵn chuyên dùng để bảo vệ tính mạng.
Minh Khánh quay người bước tiếp về nơi có tiếng lội lõm bõm ấy, miệng hô lên: “Sư phụ à? Chú Miên à?” Hắn cứ hô lên mấy lần mà không có ai đáp lại cả. Đã đến gần mép nước. Từng cơn sóng cuộn lên chân Minh Khánh, mang theo hơi lạnh kỳ quái như trong nhà mồ của quan lại mà hắn từng đi qua. Sương mù vẫn đặc quánh lại như muốn che đi hết những bí ẩn trên mặt hồ. Đột nhiên, một bóng trắng lao thẳng vào mặt Minh Khánh khiến hắn giật nảy.
******************* Đêm đã khuya lắm. Ông cụ Trầm bước ra bên ngoài sân để đi giải. Gió thổi mát rười rượi. Gốc hoa lài ban đêm thơm thoang thoảng làm ông cụ thấy thoải mái. Đột nhiên ông cụ nghe thấy tiếng rên ú ớ trong căn nhà mới xây ở góc vườn. Ngôi nhà này cụ xây cho đứa con trai út mới lấy vợ để vợ chồng nó ở riêng. Thương con, ông cụ cũng cố lo cho ngôi nhà tường gạch mái ngói như nhà của mọi người khác trong làng. Nhưng đứa con út vừa cưới xong thì vợ thằng con trai cả sinh cháu, hàng quán không ai trông nom. Sợ mất khách, vợ chồng đứa con trai cả đành nhờ vợ chồng em vào trong thành giúp đỡ. Thế là ngôi nhà mới vẫn chưa có ai ở. Hôm nay có người khách lạ vào hỏi nhà trọ. ông bà phân vân một lúc rồi cũng đồng ý.

Người khách là một chàng thanh niên trẻ tuổi, thậm chí có khi còn ít tuổi hơn đứa con út nhà ông. Lúc vào nhà, ông cụ Trầm mới nhận ra người thanh niên đang bị ốm. Khuôn mặt đổ hồng hồng, hơi thở nỏng bỏng, đôi môi khô nứt nẻ. Thấy thương chàng trai,nghĩ cũng như con cháu mình cả, khi chàng trai nhờ nấu cháo và xin nước uống, ông cụ đồng ý ngay. Trong bát cháo tía tô ông cụ còn đập vào cả quả trứng gà mới đẻ và ít hành tăm xin được bên hàng xóm. Ngoài ra ông cụ cho nước đun sôi để nguội vào trong cái ống nứa mà ông cụ hay dùng để mang ra đồng rồi treo trên tường nhà, phong khi đêm hôm người bệnh khát nước. Lúc ông cụ treo nước xong thì người thanh niên đã mê man.
Ông cụ sờ trán, sờ mũi người thanh niên thì thấy hơi thở tuy nóng, nhưng vẫn đều đặn, yêm tâm về nhà ăn cơm. Bây giờ nghe tiếng rên của người thanh niên, ông cụ tự nhiên lại thấy lo. Thế là cụ Trầm lấy cái khăn nhúng nước giếng đi vào đắp lên đầu người thanh niên cho giảm sốt. Lúc này cơn buồn ngủ cũng vừa trôi đi đâu mất. Ông cụ Trầm vớ lấy cái ống điếu, định ra thềm rít một bi thì nghe thấy có tiếng thét rất to ở trong làng. Sau đó chó bắt đầu sủa râm ran. Rồi tiếng hò hét kêu khóc bắt đầu ầm ĩ khắp đầu đường cuối xóm. Cụ Trầm treo tạm cái ống điều lên tường, bắt đầu đi ra cổng. Lúc này hàng xóm trong làng cũng bắt đầu đổ ra.
Thì ra đứa con trai bị bệnh của bà Cung lại gây chuyện. Nữa đêm, nó đá tung chăn trong nhà rồi trèo lên ngọn cây cao đầu làng. Cả nhà bà Cung ra dỗ nó xuống mà không được. Ông cụ Trầm chép miệng. Mỗi cây mỗi hoa, mỗi nhà mỗi cảnh. Nhà ông mặc dù thằng con trai lớn chả coi bố mẹ ra gì, nhưng ít ra nó còn bình thường, biết làm ăn, lấy vợ sinh con, thỉnh thoảng còn đem tiền về. Chứ nó cũng như thằng con bà Cung thì chắc ông chết.

Thằng con bà Cung tên là Huỳnh, tuổi cũng bằng con trai đầu của ông cụ Trầm. Ngày xưa hai đứa thân nhau lắm. Nhưng rồi đùng một cái, thằng bé Huỳnh đổ bệnh, rồi trở nên ngớ ngẩn. Từ đó, thằng con trai lớn của ông cụ cũng xa lánh bạn dần. Mỗi lần thấy thằng bé Huỳnh đến là con trai ông liền đóng cửa cài then. Từ đấy ông cũng ít gặp thằng Huỳnh hơn. Nghe đồn vì gia đình bà Cung nghi thằng bé Huỳnh bị ma ám, bà Cung đã năm lần bảy lượt mời thầy trừ tà các nơi về làm phép cho cọ. Thế nhưng không hiểu do con ma quá mạnh hay thầy trừ tà không linh, bệnh tình của thằng bé càng ngày càng nặng. Dần dần, gia đình bà Cung cũng chấp nhận số phận. Đứa con lớn lên bị bố mẹ nuôi ở nhà, không cho đi đâu. Thế nhưng thi thoảng nó cũng làm cho ông bà Cung sợ hết hồn bởi những trò nghịch dại.
Ông cụ Trầm đứng sau lưng mấy nhà thân với nhà bà Cung. “Ôi trời ơi” Lúc này ông mới phát hiện ra thằng Huỳnh đang leo trên một ngọn tre cao chót vót. Cái thân tre không chịu được sức nặng của người lớn đang oằn ra, không biết lúc nào sẽ gãy và ném thằng Huỳnh xuống đất như một quả mít rụng. Thậm chí ông cũng chả biết thằng Huỳnh leo trèo thế nào mà lên được đến ngọn tre cao như thế. Đêm càng lúc càng về khuya. Bà Cung đã hô khản cả giọng nhưng thằng Huỳnh vẫn ngồi vắt vẻo trên ngọn cây, Chồng bà và mấy người hàng xóng đã đi lấy tấm lưới để căng đề phòng con trai rơi xuống. Mấy người hàng xóm cũng đã về hết , chỉ còn ông cụ Trầm đứng lặng im như một khúc gỗ. Cụ sợ quá. Dưới gốc tre mà thằng cu Huỳnh đang đứng có cái bóng trắng đứng đó tự bao giờ. Nó nheo mắt với cụ. Đôi mắt của nó như có phép thôi miên khiến chân cụ cứng như chì.
 
Chương 65: Chương 65: Câu Chuyện Bên Lề (Hai)


Cái bóng trắng đó đứng yên nhìn cụ một lúc rồi biến mất. Ông cụ Trầm lúc này mới nhấc chân lên được để về nhà. Bóng đêm âm u bao phủ con ngõ nhỏ nhà cụ. Hàng tre vẫn thổi rì rào như mọi ngày. Thế mà chả hiểu sao chỉ một đoạn ngắn trên cái ngõ quen thuộc mà ông cụ Trầm cảm thấy xa lạ và dài dằng dặc. Dường như đâu đấy trong cái đám tre kia có một con mắt xếch màu xanh vẫn đang nhìn cụ. Cụ cố bước vội để về đến nhà, vừa đi vừa ngoái đầu lại xem có cái gì sau lưng không. May quá, cuối cùng cụ cũng bước qua được cái cổng nhà mình. Cụ vội vàng khép nó lại cài then cẩn thận và thở phào nhẹ nhõm. Xuyên qua những cái then gỗ, cụ Trầm vẫn thấy được con ngõ sâu hun hút trong màn đêm. Lạ thay, cụ bỗng cảm thấy như có ai đó đang đứng sau lưng mình. Chân tay cụ lại cứng đờ. Trong đầu cụ lại đầy ắp những câu chuyện ma ngày xưa người trong làng kể. Cụ không dám quay người lại vì sợ đó là một cái bóng trắng có con mắt xếch màu xanh.
*******************
Cụ Trầm hoàn toàn không biết rằng bên ngoài cánh đồng làng, chỗ gần con sông, trong túp lều dưới gốc một cây cổ thụ lớn, có một đám ma quỷ đang chén tạc chén thù với nhau. Con ma lớn nhất ngồi trên một tảng đá, đang giơ bát rượu sứt lên cụng với đám đàn em. Nó ngửa mặt rót hết vào trong miệng khiến cái nón xanh trên đầu rơi xuống, lộ ra một cặp sừng khá dài. Chờ rượu trong chén đổ xuyên qua cơ thể trong suốt của mình, con ma mới thoải mái khà một tiếng rõ to, vẻ hí hửng lộ rõ trên khuôn mặt đẹp và tuấn tú hơn bất kỳ người đàn ông nào trên đời. Nó giơ cánh tay vỗ vai con ma bên cạnh, ngâm hai câu thơ: “Sống, vò không dốc say bầu cạn.
Chết, mộ ai còn tưới rượu đây.”
(Đối tửu , Nguyễn Du)
Ngâm xong thơ, con ma có sừng bắt đầu cố nói chuyện với con ma bên cạnh bằng cái giọng lè nhè: “Khanh có biết trước khi gặp khanh trẫm cô đơn biết chừng nào không?” Con ma bên cạnh sợ hãi thưa: “Bệ hạ, ngài say rồi.” Con ma có sừng vùng vằng: “Không trẫm làm sao lại say! Trẫm đang rất tỉnh.” Rồi nó nhìn đám ma ngồi quanh, nói như quát: “Cái bọn này thì biết cái đếch gì. Thằng này chết vì đói, thằng kia thì bị người chém, rồi cái thằng ngồi trong xó kia thì tưởng nhầm nấm độc thành nấm thường. Đâu có ai chết vì lụy tình như hai người chúng ta.”
Con ma ngồi cạnh lộ rõ khuôn mặt buồn khổ. “Nhưng thưa quỷ vương bệ hạ, thần không chết vì lụy tình.”

Con ma có sừng lúc này gật đầu thông cảm. “Trong trăm ngàn cái chết, có cái chết nào đáng buồn và đau đớn hơn cái chết vì tình. Đó đều là những vết thương tâm hồn không cách nào chữa khỏi. chỉ muốn giấu kín trong lòng.”
Con ma ngồi bên cạnh càng khổ sở hơn. “Nhưng mà thưa bệ hạ, thần quả thật không hề chết vì lụy tình, cũng không che giấu vết thương tâm hồn nào cả.”
Con ma có sừng vẫn tiếp tục gật đầu ra vẻ hiểu rõ. “Trẫm biết khanh rất đau đớn, nhưng mà trẫm thấy khanh nên chia sẻ với mọi người thì tốt hơn là cứ che giấu trong lòng như vậy.”
Con ma bên cạnh dường như sắp khóc. “Nhưng mà bệ hạ, ngài đã nghe cả chuyện của thần cả chục lần rồi.”
Con ma có sừng giả nheo mày suy nghĩ. “Thật vậy sao? Tai sao trẫm không nhớ gì cả.” Rồi nó quay sang hỏi đám đàn em bên dưới. “Chúng bây đã nghe chuyện của Cao tướng quân chưa?” Đám bộ hạ ngơ ngác, chả hiểu từ lúc gặp nhau lần đầu vào trưa ngày hôm qua cho đến bây giờ thì quỷ vương bệ hạ đã phong cho tên kia làm tướng quân lúc nào. Thế nhưng cả đám vẫn đồng thanh: “Bẩm bệ hạ, chưa ạ.” Con ma có sừng thấy đám đàn em hiểu ý, gật gật đầu vui vẻ lắm. Rồi nó nhìn sang con ma bên cạnh, lộ ra khuôn mặt háo hức.
Con ma bên cạnh lau lau nước mắt dàn dụa trên khuôn mặt, nó cũng không hiểu sao quỷ vương bệ hạ thích nghe chuyện cũ của nó đến thế. Nó bắt đầu vừa hồi ức, vừa kể lại bằng một cái giọng đều đều như ru ngủ.
“Thần sinh ra và lớn lên ở một ngôi làng trên núi. Thuở bé vì ham mê võ nghệ nên cũng theo thầy học võ được mấy năm. Lớn lên, thần trẻ khỏe , lại đẹp trai nhất vùng nên có nhiều cô gái thích. Vốn bản tính không sợ trời không sợ đất, thần từng vượt rào, leo tường, đánh bả chó để đêm đêm được làm bạn với các thiếu nữ xinh đẹp. Có vô số thiếu nữ đã ngã lòng, nguyện thề theo thần đến cùng trời cuối đất . Thế nhưng vì bệnh nhát gái, nên đến năm hai mươi tuổi, thần… thần vẫn chưa được biết mùi ân ái.”
“Bị bạn bè trêu ghẹo nhiều lần, đêm đó thần quyết tâm trở thành một người đàn ông thật sự. Đó là một ngày rằm, trăng tròn vành vạnh, gió thổi lồng lộng. Thần nốc hết ba hũ rượu một lúc rồi vượt tường leo vào nhà một nàng góa phụ xinh đẹp. Đó là một căn nhà nhỏ nằm bên sườn núi, trước sân có cây hoa hải đường rất đẹp. Thế nhưng hoa hải đường chẳng thế nào sánh được với người phụ nữ sống bên trong. Nàng có một đôi mắt phượng quyến rũ, với gò má cao và đôi môi đầy đặn. Mái tóc được búi gọn lộ ra cái cổ trắng muốt. Đặc biệt nàng thường mặc áo yếm mỏng…”

“Đêm đó, thần leo tường vào rất thuận lợi. Vì suốt mấy năm sau khi chồng chết, nàng vẫn thường mắt đi mày lại với thần, nên khi thần liều lĩnh ôm nàng, nàng cũng không hề chống cự. Thế rồi, tờ mờ sáng, khi tỉnh dậy, thần thấy nàng đang ngồi khóc rấm rức bên giường. Thần biết đêm qua mình có lỗi lớn với người ta, bèn an ủi: “Đêm qua ta say rượu nên làm nhơ tấm thân trong sạch của nàng , từ này trở đi …” Nàng gắt gỏng: “Chàng uống say rồi ngủ như một con lợn chết, có làm gì thiếp đâu….” Thần lúc đó mới ngớ người, hỏi: “Thế sao nàng lại khóc.” Nàng vừa nấc vừa trả lời: “Thiếp đang săn sóc cho chàng thì chàng hô: “Dâm tặc, xem Phi Long cước của ta đây” rồi đá thiếp xuống giường.”
“Thần đau lòng, ôm nàng dỗ dành hồi lâu thì nàng ấy một lúc lâu thì nàng mới ngừng khóc. Sau đó hai người nằm dựa vào nhau ngủ thiếp đi. Cũng không biết ngủ bao lâu thì có tiếng gõ cửa vàng lên. Nàng lúc này mới bật dậy hốt hoảng kêu lên. ”Chàng ơi, chồng thiếp về.” Thần cũng nửa tỉnh nửa mơ liền theo bài cũ phi thân qua cửa sổ chạy trốn. Ai ngờ được đi đêm lắm có ngày gặp ma, lưới trời lồng lộng tuy thưa mà khó lọt…, cửa sổ nhà nàng nằm sát bên vách núi…” Kể đến đây giọng con ma trở nên nghẹn ngào.
Con ma có sừng lúc này mới vỗ vai nó an ủi: “Khanh đừng buồn, làm người ai mà chả lụy tình. Oai phong bốn cõi như trẫm đây cũng từng có thời ngu xuẩn như thế..” Thế rồi nó hô hào: “Chúng bây đâu, mau rót rượu cho Cao thái phó của trẫm…” Lúc này bỗng có con ma không đầu đi vào bẩm báo : “Bẩm bệ hạ, thằng Mắt Xếch vừa từ trong làng trở ra nhưng mà nó không kiếm được đồ nhắm… ” Con ma có sừng quát: “Thằng này láo, dám không vâng lời trẫm. Chúng bây đâu mau kéo nó ra bên ngoài đánh bốn mươi roi cho chừa cái tội hỗn xược đó đi.” Con ma không đầu đáp: “Thần tuân chỉ” rồi hung hổ đi ra ngoài.
Bên ngoài túp lều, con ma mắt xếch đang nằm trên đất miệng mếu máo: “Nấm Thường đại ca, Quét Rác đại ca, xin các vị giơ cao đánh khẽ chứ đánh thật bốn mươi roi thì tôi chết mất.” Con ma tên Quét rác giơ cao cái phất trần có dán mấy lá bùa màu vàng thở dài: “Đại vương đã ra lệnh, chúng ta nào dám không tuân theo. Cũng tại mi không chừa cái tật ham mê dọa dẫm con người, làm việc chẳng có trách nhiệm gì cả, nói bao nhiêu lần rồi cũng không sửa được.” Con ma mắt xếch khóc rưng rức: “Tôi cũng biết mình là con nghiện nặng. Mỗi ngày, tôi đều tự răn mình hàng trăm lần rằng không được dọa dẫm con người. Đêm đêm tôi vẫn tránh xa làng xóm để không lên cơn thèm. Thế nhưng khi gặp người thì tôi quên hết sạch, cứ như dính phải bùa mê thuốc lú vậy…”
Con ma Nấm Thường cười mỉa: “Cũng do mi ăn ở mà thôi. Có nhớ hôm ở làng Mo không, bệ hạ đang núp bụi thì mi dám xông ra dọa hết đám người đó, vậy làm sao bệ hạ có thể chữa được bệnh sợ người? Bệ hạ không chữa khỏi bệnh thì mi cũng đừng có mơ chữa khỏi.” Rồi nó cười khanh khách ra vẻ đắc ý lắm. “Ta để ý thấy từ hôm đó đến nay bệ hạ toàn phái mi vào làng xóm làm việc… Kết thù với ai chứ kết thù với bệ hạ thì mi xong rồi. Trên đời này bệ hạ xưng thù dai đệ nhị thì chả có ai dám xưng đệ nhất cả…”
******************* Tiếng ho khẽ sau lưng làm cụ Trầm đỡ sợ. Cụ quay người lại. Thì ra là người thanh niên thuê nhà cụ lúc trưa. Cậu ta cất tiếng hỏi, giọng hơi khàn khàn: “Cụ đi đâu mà ra ngoài cả đêm thế này?” Cụ Trầm đáp, giọng vẫn run run: “À trong xóm có việc, tôi chạy ra coi xem thế nào.” Người thanh niên lại hỏi: “Có việc gì thế cụ? Cháu nghe tiếng khóc và gào thét.” Cụ Trầm chép miệng: “Khổ, đứa con nhà bà Cung lại phát bệnh. Gần ba mươi tuổi đầu rồi mà vẫn cứ làm cha mẹ phải lo lắng.” Người thanh niên ho khẽ rồi lại hỏi: “Huynh ấy bị bệnh gì thế?” Cụ Trầm bảo: “Cũng chả biết bệnh gì, đang khỏe mạnh bình thường thì tự nhiên đổ bệnh. Suốt ngày cứ như thằng trẻ con toàn chơi những trò nghịch dại thôi. Mười năm nay mời bao nhiêu đại phu rồi mà vẫn thế, chẳng khá lên nổi. Dạo gần đây toàn phát bệnh lúc nửa đêm làm ai cũng sợ. Mọi người cứ bảo nó bị ma ám. Hồi nãy nó leo lên ngọn tre cao chót vót làm bà Cung sợ khóc thét. Nhà có mỗi thằng con trai, đến là khổ.”
Nghe đến ma quỷ, người thanh niên hơi do dự một lúc rồi bảo ông cụ Trầm: “Cụ ơi, cụ dắt cháu ra xem huynh ấy được không?” Thấy ông cụ do dự, chàng thanh niên liền giải thích: “Cháu từ bé có học bắt ma ở trên núi. Biết đâu nếu huynh ấy bị ma làm hại thật thì cháu sẽ giúp được.” Cụ Trầm đành nói thật: “Không phải tôi không muốn giúp nhưng giờ đêm hôm rồi, tôi sợ lắm.” Chàng thanh niên lại năn nỉ: “Cụ chỉ cần chỉ chỗ cháu ra gần chỗ huynh ấy thôi rồi cháu tự đi cũng được.” Thấy ông cụ do dự, cậu bèn giơ trong áo ra một đống bùa chú các loại. “Đây, cụ xem. Toàn hàng chính tông cả. Ma mà đến cháu liền diệt nó cho cụ xem.” Ông cụ Trầm ngần ngừ mất một lúc rồi cũng gật đầu. Ông cụ bảo: “Cậu chờ tôi một lúc, tôi lấy cái đèn dầu.” Chàng thanh niên gật đầu đồng ý. Một lát sau hai người đã đi ra khỏi con ngõ tối. Ông cụ Trầm vừa dáo dác ngó quanh vừa hỏi: “Cậu tên là gì nhỉ?”

-“Thưa cụ, mọi người vẫn gọi cháu là Minh Khánh.”
-“Cậu bắt ma lâu chưa?”
-“Cũng được mấy năm rồi ạ.”
-“Nhà cậu ở đâu?”
-“Cháu ở chùa Phổ Minh trên núi Hoàng Lĩnh.”
-“Năm nay cậu bao nhiêu tuổi rồi?”
-“Cháu mười bảy ạ.”
-“Đi bắt ma có sợ không?”
-“Lúc đầu thì sợ lắm cụ ạ, sau dần dần cũng quen…”

Cứ thế hai người vừa đi vừa nói chuyện, một lúc là ra đến nơi. Lúc này người nhà bà Cung cuối cùng đã dỗ được cậu con trai nhảy xuống lưới cá. Mặc dù đau như anh ta vẫn cười khúc khích ra vẻ thích thú lắm. Bà Cung xót con, vừa sờ nắn khắp nơi vừa luôn miện hỏi có đau không. Thấy cụ Trầm đến, chồng bà Cung gật đầu chào cụ, rồi than thở: “Khổ quá cụ ơi” Ông nói như khóc. Cụ Trầm không biết nói gì chỉ nắm chặt lấy tay ông. Minh Khánh tiến đến gần người thanh niên. Quanh người anh ta cũng không có âm khí hay thứ gì không sạch sẽ cả. Minh Khánh tiến gần hơn để nhìn thì bị bà Cung ngăn lại: “Cậu là ai?” Giọng của bà có vẻ vừa đề phòng vừa dọa dẫm. Minh Khánh chưa kịp trả lời thì ông cụ Trầm đã trả lời hộ: “Cậu ấy là khách trọ nhà tôi. Thấy cậu ấy bảo làm nghề bắt ma, nên tôi mời cậu ấy tới xem có giúp được gì không.”
Bà Cung liếc xéo Minh Khánh, giọng bà cao vút: “Không phải tôi đã nói với mọi người rồi, bệnh của con trai tôi không liên quan gì ma quỷ hết. Từ bé nó ngoan ngoãn hiền lành, đến con sâu cái kiến còn chả dám đụng vào…” Vừa nói bà vừa lấy tay áo chấm nước mắt. “Mấy năm nay tôi đều mời thầy đến nhà xem. Toàn những vị cao tăng, đao trưởng đức cao vọng trọng cả, mà ai cũng bảo con tôi bị bệnh tật thông thường thôi, mời đại phu giỏi cứu chữa thì sẽ khỏi. Cậu làm được mấy năm mà dám đến xem cho con trai tôi? Tôi nói cho cậu biết, muốn lừa tiền của tôi thì cứ nằm mơ đi”.
Ông cụ Trầm thấy bà đanh đá như vậy đang muốn giải thích thì Minh Khánh đã trả lời: “Thưa bà, bần đạo trước giờ cứu người chưa bao giờ đòi tiền cả. Có cụ Trầm và mọi người ở đây chứng giám, nếu chữa xong mà bần đạo đến tìm bà đòi tiền thì trời đánh thánh vật, chết không yên lành.”Bà Cung thấy chàng thanh niên thề độc như vậy cũng không dám nói gì hơn. “Hơn nữa, để bần đạo xem bệnh một lần, bà cũng chả mất gì. Nếu bần đạo có năng lực chữa khỏi cho con trai ông bà thì từ nay ông bà cũng thoát cảnh khổ cực đêm hôm khuya khoắt phải chạy đôn chạy đáo như thế này.”
Nói đến đây, bà Cung đành nhường chỗ cho chàng thanh niên vào xem bệnh. Người con trai bà Cung vẫn nằm trong lưới, lăn qua lăn lại, vui đùa có vẻ sung sướng lắm. Khi chàng thanh niên nắm lấy tay trái của gã, con trai bà Cung liền cười khanh khách. Chỉ một lát, chàng thanh niên buông tay gã ra. Chồng bà Cung vội hỏi: “Thưa thầy, con trai tôi bị làm sao?” Chàng thanh niên cũng lắc đầu: “Con trai của ông bà chắc chắn không bị ma quỷ làm hại. Trên thân người huynh ấy rất sạch sẽ, không hề có âm khí quỷ khí gì cả...” Bà Cung liền chen vào: “Thấy chưa, tôi đã bảo mà. Thôi bây giờ xin phép đạo trưởng cho chúng tôi về.” Bà nhấn mạnh vào hai chữ đạo trưởng, nhưng khuôn mặt không thể hiện một chút tôn trọng nào cả.
Người thanh niên cũng không bực tức, chỉ nói: “Khoan đã, nếu bần đạo đã xem thì xem cho trót. Xin bà và mọi người lùi ra cho bần đạo làm phép một lúc.” Bà Cung đang định từ chối thì chồng bà đã kéo lại: “Bà nó à, để thầy xem một lúc có mất gì đâu. Vợ chồng mình cũng không làm ác bao giờ, biết đâu trời lại thương.” Bà Cung vừa ngáp vừa nói với chồng: “Thôi cũng được, vậy thì để thầy xem một lúc.” Thế là người nhà bà tránh xa khỏi tấm lưới.
Đứa con trai ông bà vẫn tiếp tục lăn lộn bên trong, hai tay sờ sờ lưới ra vẻ thích thú. Bà Cung thấy chồng có vẻ chăm chú thì nhắc nhở: “Ông nó đừng hi vọng quá. Thầy trẻ thế mới ra đời được mấy năm. Đừng có chữa lợn lành thành lợn què là tôi mừng lắm rồi.” Rồi dường như ngượng vì so sánh con trai với lợn, bà im bặt. Lúc này chàng thanh niên đã lẩm nhẩm đọc thần chú. Ngón tay trỏ và ngón giữa khép lại, tay phải để thẳng đứng từ trước ngực lên trán. Tay trái nắm chặt để ngang dưới tay phải. Thế rồi chàng thanh niên dùng hai ngón tay vuốt qua đôi mắt, vừa quát: “Thiên nhãn, khai mở!” Thế rồi đôi mắt người thanh niên sáng rực lên như chứa hai ngọn lửa trong đó. Ánh sáng chiếu rọi lên người con trai bà Cung làm gã phải lấy tay che mắt. Mọi người xung quanh cũng há hốc miệng. Có lẽ cảnh này trong đời bọn họ chỉ có thể thấy được một lần. Chàng thanh niên dùng đôi mắt lửa nhìn kỹ con trai bà Cung trong giây lát rồi nhắm lại. Mồ hôi rịn ra trên trán mặt dù gió mát vẫn thôi liên tục. Khuôn mặt chàng lộ rõ vẻ mệt mỏi.
Người phá vỡ không gian im lặng là chồng bà Cung. Dường như không nhịn được, ông vội vã hỏi thầy: “Thưa thầy, con trai tôi bị bệnh gì ạ?” Chàng thanh niên mở mắt ra, đôi mắt đã trở nên đen láy như bình thường, trả lời: “Con trai ông bà bị người ta nguyền rủa.” Vợ chồng ông bà Cung nghe vậy há hốc miệng, rồi cả hai cùng mếu máo năn nỉ: “Thầy ơi, mong thầy cứu cháu, bao tiền chúng tôi cũng xin chịu.” Thấy Minh Khánh trầm ngâm, hai vợ chồng càng lạy lục năn nỉ khóc lóc thảm thiết. “Kể cả bán nhà bán trâu thì vợ chồng chúng tôi cũng chấp nhận. Thầy thương vợ chồng già chúng tôi thì làm ơn làm phước cứu cháu, nhà mỗi mụn con trai, thầy ơi…”
Chàng thanh niên chỉ lắc đầu. “Không phải bần đạo không muốn cứu mà bần đạo chỉ có thể làm đến vậy. Bần đạo dùng thiên nhãn quan sát thấy trên người con trai ông bà có dính một lá bùa nguyền rủa. Nhưng đó chỉ là hình chiếu của lá bùa thật, còn về lá bùa thật thì thứ lỗi cho bần đạo cũng không biết nó ở đâu. Người có thể tìm thấy lá bùa và cứu con trai ông bà chỉ có thể là ông bà mà thôi.” Nói rồi, chàng thanh niên bắt đầu dùng một đoạn tre nhỏ vẽ hình một lá bùa ra đất. “Ông bà về nhà, nhớ lại rồi tìm xem những chỗ mà con ông bà từng ăn ngủ hoặc đọc sách… tóm lại là những chỗ con trai ông bà tiếp xúc nhiều rồi xem có một lá bùa màu vàng to cỡ như thế này không? Đặc biệt trên lá bùa có viết tên, ngày giờ sinh của con trai ông bà bằng máu. Sau đó gỡ lá bùa ra và đốt đi là con trai ông bà sẽ khỏi bệnh.” Dặn dò ông bà Cung xong, chàng thanh niên có vẻ mệt, liền bảo cụ Trầm đi về.
 
Chương 66: Chương 66: Viên Gạch Trong Sân


Lúc Minh Khánh trở về đến phòng trọ thì đã qua đến giữa giờ Sửu. Hắn lê tấm thân mỏi mệt lên giường rồi đổ vật xuống như một cây chuối. Việc mở Thiên nhãn khiến cho sinh lực của hắn như bị bào mòn đi nhiều. Căn bệnh hồi chiều trở nên dữ dội. Minh Khánh ho sù sụ. Hắn cố nín lại vì biết càng ho sẽ càng làm con người ta mệt mỏi và mất sức hơn. Để che đi cơn ngứa khủng khiếp trong cổ họng, hắn với tay lấy ống tre đựng nước trên tường nhấp một ngụm. Cổ họng hắn dường như đã sưng lên khiến cho lúc hắn nuốt nước rất đau. Treo lại ống tre lên tường, hắn lại nằm vật xuống giường. Đôi mắt hắn nhắm lại rồi lại mở ra nhìn vào nóc nhà đen kịt. Hắn cứ tự nhủ mình cơn đau rồi cũng sẽ qua thôi. Không hiểu sao Minh Khánh lại tiếp tục hồi ức về bóng tối nơi hồ Kinh Dạ. Phải chăng giấc mơ nhắc nhở hắn về điều gì phải nhớ trong quá khứ mà hắn đã vô tình chôn vùi trong miền ký ức?
*********************** Hồ Kinh Dạ trong đêm tối vẫn mênh mông và ám ảnh. Sóng vẫn dập dềnh. Minh Khánh bước dọc theo bãi cát, bỏ quên nỗi sợ lúc nãy. Nghĩ đến việc mình bị một con cá phóng lên trên người, rồi trong” cơn nguy cấp” dùng bùa hộ thân dán lên người con cá đó nữa, Minh Khánh lại cảm thấy bụng quặn lên vì tức cười. Đó là một cá trắm nặng gần hai cân mà hắn đang xách theo tay. Lâu lắm rồi hắn chưa được ăn cá. Chỉ nghĩ tới mùi cá nướng chấm muối ớt thôi cũng đủ cho hắn thèm nhỏ rãi rồi.
Đi hết một đoạn bờ hồ, Minh Khánh vòng về lán. Lúc này chú Miên và sư phụ đã trở về. Hai người không biết kiếm đâu được mấy mấy con cá không to lắm, đang cho vào nồi nấu cùng một ít rau dại có hình thù kỳ quái. Thấy Minh Khánh xách theo con cá to, hai người sửng sốt hồi lâu. Chú Miên cười trêu sư phụ: “Sóng Trường Giang lớp sau đè lớp trước. Đạo pháp thì tôi chả biết chứ tài bắt cá thì chắc chắn Minh Sơn huynh chẳng thể theo kịp đồ đệ của mình rồi. ”

Tối hôm đó ngoài món canh cá nấu rau dại thì còn có món cá nướng. Không hiểu chú Miên nướng kiểu gì mà con cá thơm phưng phức. Bên ngoài vàng ươm bên trong lại trắng phau và mềm. Minh Khánh bóc miếng cá, chấm vào bát nước chấm làm từ muối, ớt khô, mắc khén rồi bỏ vào miệng. Mùi cá, mùi mắc khén thơm lừng xộc vào trong cổ họng.Trong miệng, vị ngọt của cá, vị cay của ớt, vị tê tê của mắc khén hòa cùng độ mặn mà của muối khiến hắn như muốn nuốt chửng đầu lưỡi. Con cá to chẳng mấy chốc bốc hơi nhanh chóng, còn nồi cơm và canh rau dại thì hầu như chả ai để ý đến. Minh Khánh cho thêm củi vào trong đống lửa. Củi hồi chiều chú Miên và sư phụ mang về nhiều lắm. Hắn hơ hơ tay trên lửa ấm, dựa lưng vào tảng đá lớn bên cạnh, thiu thiu ngủ.
Đến nửa đêm thì sư phụ gọi Minh Khánh dậy. Ba người bắt đầu phải đi dò xét mấy chỗ gọi là Minh Hà Âm Dương Thất Thi Trấn Tà Mộ. Ba người đi thuyền quanh hòn đảo. Cứ đến điểm mà đánh dấu bằng lá cờ bằng vải trắng thì sư phụ lại lặn xuống nước. Trên thuyền chú Miên bắt đầu kể tiếp cho Minh Khánh nghe câu chuyện dang dở về hồ Kinh Dạ.
****************************

Bến tàu làng Diên Hạ hôm nay có vẻ tấp nập. Cũng phải thôi, hôm nay làng có chợ phiên. Làng Diên Hạ là ngôi làng lớn nhất ven hồ. Thương nhân vẫn thường đổ về đây để thu mua cá và các đặc sản trong vùng. Bởi vì vùng này chỉ mới đưa vào diện quản lý của quan phủ, nên cũng chưa có trấn sở gì, tất cả đều do mười hai cái làng trong vùng tự họp và đưa ra quy định với nhau. Việc đảm bảo an ninh quanh hồ do các làng cử người tạo thành một đội dân tráng chung. Hôm nay, vì có chợ phiên nên cả đội dân tráng đều bận rộn, cắt cử người canh gác bến tàu, khu chợ đề phòng trộm cướp. Chỉ có người đứng đầu đội dân tráng là anh Ba Kho ở nhà. Hôm nay anh phải tiếp một người khách đặc biệt. Đó là Du bộ đầu nổi tiếng về tài truy bắt tội phạm ở phủ lộ Bình An.
Anh Ba Kho với Du bộ đầu tính ra cũng là bà con. Chú bên họ mẹ của anh Ba Kho lấy chị gái của Du bộ đầu. Cách đây vài năm, lúc đi đón dâu, anh Ba Kho cũng đã gặp Du bộ đầu mấy lần. Mấy miếng võ mèo què của anh phân nửa là do Du bộ đầu dạy cho. Nhờ mấy miếng võ đó, anh được trở thành người đứng đầu của đội dân tráng nên anh Ba Kho rất biết ơn Du bộ đầu. Anh Ba Kho pha đến ấm trà thứ ba thì Du bộ đầu mới đến. Anh Ba Kho ôm chầm lấy người họ hàng xa một cách thân thiết rồi dẫn khách vào nhà. Mấy năm nay Du bộ đầu cũng không khác gì mấy, vẫn mái tóc cắt ngắn, khuôn mặt rắn rỏi với chiếc cằm bạnh và đôi mắt sắc lẻm. Bộ quần áo võ phục không che giấu nổi thân hình tráng kiện của người chuyên quanh năm đi bắt tội phạm.

Uống hết nước, nghỉ ngơi một lát, Du bộ đầu ngỏ lời muốn đi nhà chị gái. Anh Ba Kho muốn giữ sư phụ lại ăn cơm trưa nhưng bị từ chối, anh đành dẫn Du bộ đầu qua nhà chú. Trên đường đi, Du bộ đầu vừa nhìn xem xung quanh vừa hỏi anh Ba Kho về tình hình trị an trên này. Anh Ba Kho cũng thật thà kể lại. Dăm vụ bắt trộm trâu, mấy vụ cướp vải vóc, hai vụ chia gia sản đánh nhau, cũng chả có chuyện to tát gì để che giấu. Đột nhiên có một người từ trong ngõ lao ra kêu anh Ba Kho: “Chú Ba ơi, giết người rồi, giết người rồi.”
Nghe đến hai chữ giết người, đôi mắt sắc của Du bộ đầu theo phản xạ sáng lên khiến anh Ba Kho hơi sợ hãi. Người đến là thằng Mía, cháu cụ Mật ở trong làng. Thằng bé mới mười sáu tuổi, vừa vào đội dân tráng của anh hồi đầu năm. Anh Ba Kho nhớ hôm nay phân công nó cùng năm người nữa ra bến tàu trông coi. Thằng Mía lúc này đã chạy đến trước mặt anh Ba Kho. Nó cúi người chống hai tay xuống đầu gối. thở hồng hộc. Anh Ba Kho chờ cho nó thở một lát, mới hỏi: “Ai chết? Chết ở đâu?”
Thằng Mía lúc này vẫn chưa hồi lại, trả lời đứt quãng: “Ở làng Thanh. Đàn ông chết hết. Chỉ có mấy người phụ nữ đến báo án.” Anh Ba Kho nhìn Du bộ đầu. Người kia nói ngay: “Đi hiện trường xem. Tôi còn ở đây lâu, hôm nào rảnh thăm chị sau cũng được.” Anh Ba Kho gật đầu. Ba người ra bến tàu. Lúc này dân trong làng, dân ở nơi khác đến mua bán bắt đầu xúm đông xúm đỏ lại xem. Anh Ba Kho rẽ đám đông, dẫn hai người vào. Mọi người ở đây ai cũng biết anh nên tránh ra một lối nhỏ. Tới nơi anh Ba Kho liền thấy hai người phụ nữ đang khóc sướt mướt. Anh Ba Kho đang định hỏi chuyện thì Du bộ đầu ngăn lại rồi nói nhỏ vào tai anh. Vừa nghe anh Ba Kho vừa gât đầu liên tục. Anh liền ra lệnh cho đám dân tráng đang đứng đợi giải tán đám đông, rồi mang hai người phụ nữ vào một cái chòi trống bên bến tàu hỏi chuyện.
Câu chuyện của hai người phụ nữ còn khủng khiếp hơn rất nhiều lần mà anh Ba Kho đã tưởng tượng. Nghe xong, anh Ba Kho và Du bộ đầu lập tức huy động hơn mười người dân tráng đến làng Thanh để bắt thủ phạm. Ngồi trên đầu thuyền, anh Ba Kho hỏi Du bộ đầu: “Sư phụ, ngài nói xem vụ này mình nên bắt thủ phạm thế nào?” Du bộ đầu lắc đầu, trả lời: “Chúng ta mới chỉ nghe vụ án từ lời mấy người phụ nữ kể. Mặc dù ánh mắt và hơi thở của bọn họ cho thấy họ không nói dối, nhưng cũng không nên tin hoàn toàn. Điều đó rất dễ khiến người phá án đi lệch ra khỏi dòng suy nghĩ và hành động của hung thủ. Chốc nữa chúng ta đến hiện trường xem mới biết lời bọn họ chuẩn xác được mấy phần.” Anh Ba Kho gật đầu đồng ý. Anh tự nhủ tí nữa phải theo sát sư phụ để học thêm cách điều tra phá án. Dẫu gì anh cũng là trưởng đội dân tráng, chuyên quản trật tự an ninh trong vùng. Nói nhiều nói ít cũng phải chuẩn thì người ta mới phục.

Làng Thanh cũng nằm sát bên hồ như làng Diên Hạ. Làng khá bé chỉ có gần chục căn nhà. Nhà nào cũng mới, cũng lợp ngói đỏ. Vừa đến nơi, Du bộ đầu liền bắt tay ngay vào công việc. Đầu tiên ông triệu tập mọi người lại lấy lời khai. Anh Ba Kho và đám dân tráng lúc này đều trở thành chân chạy. Lấy mực lấy giấy, phân tách những người khả nghi, những người có tiếp xúc với nghi phạm. Mãi đến chiều tối, anh Ba Kho và Du bộ đầu mới bắt đầu nghi tay ăn cơm. Bữa ăn diễn ra trong ngôi làng u ám làm nồi cơm gạo mới cũng mất hẳn hương vị.
Đêm đó, Du bộ đầu và anh Ba Kho ngủ ngay trên thềm nhà hung thủ. Nghĩ đến kẻ sát nhân đã giết cả chục mạng người, anh Ba Kho cũng hơi rợn. Anh nằm trằn trọc mãi mà không ngủ được. Bên cạnh Du bộ đầu vẫn ngáy như sấm. Trời vẫn tối om om. Cánh cửa không chốt của ngôi nhà cứ theo gió dập ra dập vào làm anh Ba Kho khó chịu. Anh liền nhổm dậy chèn cục gạch cho nó nằm im. Thấy cánh cửa không động đậy được nữa, anh Ba Kho hài lòng nằm xuống nhắm mắt. Nằm được một lát, anh Ba Kho lại nghe thấy tiếng cửa dập. Anh bực mình nhỏm dậy. Cánh cửa lại theo gió đung đưa mạnh hơn, thậm chí còn nghe rõ tiếng kèn kẹt. Anh Ba Kho bò khỏi chiếu, dùng tay mò mò phía dưới cánh cửa xem viên gạch mình chèn lúc nãy ở đâu. Quái lạ, rõ ràng lúc nãy anh vừa để viên gạch ở đây mà sao giờ không thấy.
Chả lẽ gió thổi cánh cửa đẩy viên gạch đi mất. Nghĩ đến đây cơn buồn ngủ kéo tới. Anh Ba Kho cũng không suy nghĩ thêm nữa. Anh đi ra sân, lấy tạm một viên gạch to hơn hồi nãy , rồi chèn vào cửa. Thấy cửa không kêu nữa, anh mỉm cười hài lòng, nằm lên chiếu ngủ tiếp. Lần này anh Ba Kho ngủ rất thơm, cho đến khi một cơn gió mạnh cuốn lá khô rào rào và tiếng cửa kẹt kẹt đánh thức anh. Anh Ba Kho tức lắm, bật dậy chửi thề một câu, rồi lại mò mò dưới cánh cửa. Viên gạch như có phép thần thông lại biến mất lần nữa. Lần này anh Ba Kho hơi sợ, anh đốt đèn lên. Anh tìm xung quanh cánh cửa, cả trên thềm nữa cũng không thấy hai viên gạch đâu. Anh hốt hoảng bước ra sân. Kỳ lạ thay, hai viên gạch mà anh dùng chèn cửa đã trở lại vị trí cũ của bọn nó tự bao giờ.
 
Chương 67: Chương 67: Đêm Không Yên Bình (Một)


Anh Ba Kho nhéo vào tay mình. Đau quá. Anh buột miệng chửi thề một câu. Biết mình không nằm mơ, anh Ba Kho mới cúi xuống nhìn hai viên gạch. Vẫn chỉ là hai viên gạch bình thường như bao viên gạch khác. Anh Ba Kho dùng ngón tay chọc chọc vào. Viên gạch vẫn cứng và mát mẻ hệt như lần đầu anh cầm nó lên. Anh Ba Kho để cây đèn xuống đất, rồi nhấc hai cục gạch lên. Vẫn không có gì kì lạ xảy ra cả.
Xoay xoay ngắm ngắm chán chê, anh trở lại chỗ nằm với một viên gạch khác trong tay. Lần này để cho chắc, ngoài việc chèn cửa cận thận, anh còn lấy dây buộc viên gạch vào cái cột nhà. Thế rồi anh thoải mái nằm xuống. “Có giỏi thì bay nữa đi.” Cơn buồn ngủ kéo đến thật nhanh. Anh Ba Kho mệt mỏi ngáp một cái rồi nhắm mắt lại. Chả mấy chốc mà anh say giấc nồng. Trên hiên nhà, gió từ ngoài hồ thổi vào từng cơn mát rượi. Tiếng ngáy của Du bộ đầu vẫn đều đều.
Gió thổi càng lúc càng lạnh. Anh Ba Kho quơ tấm chăn chiên bên cạnh khoác lên người, miệng nhép nhép. Đột nhiên mũi anh Ba Kho cảm thấy ngứa ngứa. Anh co người đánh một cái hắt hơi. Trong lúc lấy tay xoa xoa, anh Ba Kho cảm thấy một mùi thối sực vào cổ họng. Anh bịt mũi, thầm nghĩ: “Mùi cá chết ở đâu ra vậy?” Một tiếng hét lớn như tiếng trống đồng làm anh Ba Kho ù tai. “Ai đó? Mau ra đây.”
Anh Ba Kho mở mắt nhỏm dậy. Lúc này Du bộ đầu đã đứng lên, đôi mắt ưng của ông chăm chú nhìn xung quanh. Anh Ba Kho cũng vội mò dưới chân lấy căn mác dài hơn một thước. Du bộ đầu bảo anh Ba Kho: “Đốt đèn lên.” Anh Ba Kho răm rắp làm theo lời ông. Du bộ đầu bắt đầu cẩn thận đi vòng ra sân, mắt ông chăm chú nhìn từng viên gạch, từng ngọn cỏ. Có lúc ông quỳ xuống sát đất, ngửi ngửi. Anh Ba Kho đi theo, cầm đèn rọi, hai mắt dáo dác nhìn xung quanh xem có ai đang nấp không. Từ trong sân, hai người ra vườn rồi vòng đến sau nhà. Du bộ đầu vẫn cẩn thận tìm tìm kiếm kiếm, nhưng không thu được kết quả gì. Mãi đến lúc gà gáy sáng, hai người mới trở về hiên nhà.

Anh Ba Kho mệt mỏi vớ lấy ống đựng nước, uống một hớp. Mồ hôi rịn ra như tắm trên trán anh. Nãy giờ, mặc dù không hoạt động gì nhiều, nhưng anh rất căng thẳng. Anh chỉ sợ kẻ thủ ác nấp đâu đấy quanh nhà, bất ngờ xồ ra lấy mạng hai người. Mãi đến khi quay lại trước nhà, anh mới hết sợ. Dù gì thì bên anh có những hai người, ai cũng biết võ, chả lẽ hai người lại không đánh được một người. Mà cho dù đánh không lại, chả lẽ lại không chạy được. Nghĩ thế, anh Ba Kho bắt đầu thả lỏng cơ thế. Du bộ đầu vẫn đang ngồi bệt trên bệ cửa miệng lẩm bẩm:”Chả lẽ mình nhầm? Không có lẽ nào…”
Anh Ba Kho lúc này mới hỏi Du bộ đầu:”Sư phụ, hồi nãy có chuyện gì thế?”
Du bộ đầu hơi trầm ngâm, rồi trả lời: “Anh đã từng nghe đến “lục giác” của người giang hồ chưa?”
Anh Ba kho đáp: “Có từng nghe. Lục giác là cách gọi của sáu loại giác quan bao gồm hính giác, vị giác, khứu giác, thị giác, xúc giác, trực giác. Có đúng không sư phụ? ”
Du bộ đầu gật đầu: “Đúng vậy, trong sáu loại giác quan, cái thứ sáu là loại huyền bí nhất. Trực giác chỉ là một cách gọi. Bình thường người ta hay bảo nó là linh tính hay cảm thấy. Đó là khi con người cảm nhận được sự thay đổi của bên ngoài, của không gian và thời gian mà không thông qua năm giác quan còn lại. Thậm chí với những người có giác quan thứ sáu bén nhạy, người ta có thể dùng để tiên đoán những gì sắp xảy ra trong tương lai.”

Anh Ba Kho hỏi: “Sư phụ muốn nói đến người tu đạo?”
Du bộ đầu lắc đầu: “Không chỉ người tu đạo, mà cả người luyện võ thậm chí người thường cũng có thể có giác quan thứ sáu rất mạnh mẽ. Như trạng Trình, mặc dầu chỉ là thư sinh tay trói gà không chặt, ông ấy có thể dự đoán được triều đại sẽ chết như thế nào, có bao nhiêu đời vua tất cả. Mấy trăm năm sau khi ông chết, ai cũng đều kinh ngạc rằng mọi thứ diễn ra theo đúng y như lời của ông.” Nói rồi Du bộ đầu than thở: “Giác quan thứ sáu đúng là một món quà đặc biệt mà ông trời ban tặng cho con người.”
Du bộ đầu dùng tay vuốt ve thanh đao trong tay: “Ta từ nhỏ là một trong những người được ông trời ưu ái. Giác quan thứ sáu của ta đặc biệt rất nhạy cảm với sự sống và cái chết. Vì thế nó đã cứu mạng ta vô số lần.” Rồi ông nhìn thẳng vào anh Ba Kho: “Đêm nay nó lại đánh thức ta.” Anh Ba Kho sợ hãi trước cái nhìn dữ tợn của Du bộ đầu. Anh nói: “Chẳng lẽ sư phụ cho là con muốn làm hại sư phụ?”
Du bộ đầu nghĩ nghĩ rồi lại lắc đầu: “Chúng ta không thù không oán, cũng không có bất kỳ lợi ích nào để tranh giành. Tại sao anh lại muốn giết ta?” Nhưng nói xong ông lại khẳng định: “Trực giác của ta chắc chắn không sai được. Đêm nay đã có người muốn giết ta.” Nghe lời nói đanh thép của ông, anh Ba Kho rùng mình hỏi:”Chả lẽ hung thủ trở về đây?” Du bộ đầu lắc lắc đầu: “Trừ phi khinh công của y đạt đến mức siêu phàm nhập thánh, nếu không chắc chắn sẽ bị ta nghe thấy. Hơn nữa bất kể khinh công cao đến đâu, chỉ cần chân chạm đất thì sẽ có dấu vết lưu lại. Anh không biết trước khi ngủ ta đã sắp đặt một ít cạm bẫy xung quanh.” Nói rồi ông giơ giơ một cái túi vải nhỏ. “Thứ bột này gọi là “Lưới trời”. Chỉ cần hung thủ đạp lên, nó sẽ gây ra một mùi vị kỳ dị. Bọn ta khi đi lùng bắt hung phạm thường dùng….”

Anh Ba Kho reo lên, ngắt lời ông: “Có phải nó có mùi thối như mùi cá chết. Hồi đêm con có ngửi thấy.”
Du bộ đầu cau mày: “Không phải rồi. Mùi của loại bột này rất thanh, chỉ những người quen thuộc mới có thể phát hiện ra.” Rồi ông nghi ngờ nhìn anh Ba Kho: “Có mùi cá chết sao? Tại sao hồi đêm ta không ngửi thấy.” Anh Ba Kho trả lời: “Có lẽ lúc đấy sư phụ ngủ say…” Du bộ đầu lắc đầu phủ nhận: “Không thể nào. Anh không biết đối với bọn người quanh năm đi bắt tội phạm như ta, khứu giác đều cực kỳ nhạy bén. Bất kỳ mùi lạ nào đều khiến bọn ta cực kỳ cẩn thận bới nó có thể trở thành mối nguy cơ chí mạng.” Anh Ba Kho cũng gật đầu:”Vậy thì lạ quá, rõ ràng đêm qua con ngửi thấy mùi cá chết mà. À còn nữa, còn chuyện viên gạch..” Anh Ba Kho nhìn về phía cửa. Bất chợt anh sửng sốt. Viên gạch chèn cửa mà anh đã buộc dây vào cột nhà đã không cánh mà bay. Chỉ còn lại đoạn dây ngắn nằm vắt vẻo trên thềm.
Anh Ba Kho sợ đến giật nảy mình. “Sư phụ, sư phụ gạch lại biến mất rồi…” Du bộ đầu quát:”Rốt cuộc có chuyện gì?” Anh Ba Kho liền kể chuyện chèn gạch vào cửa hồi đêm cho sư phụ nghe. Du bộ đầu không nói gì, lẳng lặng cầm sợi dây lên quan sát. Hai người cứ ngồi thế cho đến lúc gà gáy sáng. Lúc này mặt trời vẫn chưa lên. Không gian xung quanh vẫn còn tối tăm. Anh Ba Kho bỗng cảm thấy buồn tè. Anh đi ra sân, đến bên gốc chuối để xả cơn buồn. Trong tiếng nước chảy xè xè, anh Ba Kho chợt nghe tiếng cá quẫy trong hồ. Không biết con cá nào mới rạng sáng đã ló mặt ra kiếm ăn. Ngáp ngắn ngáp dài, anh Ba Kho quay trở lại trong nhà. Bỗng anh lại nghe thấy mùi cá chết. Anh vội gọi Du bộ đầu: “Sư phụ, sư phụ lại có mùi cá chết này.” Du bộ đầu nghe tiếng anh, liền đi vội ra sân. Ông khịt khịt mũi rồi khẳng định: “Đúng là mùi cá chết. Hướng gió phát ra từ phía hồ.” Nói xong ông vội vã đi ra sân, rồi xuyên qua khoảnh vườn nhỏ trồng đầy cây. Anh Ba Kho cũng bám sát theo ông. Đi khoảng bốn năm mươi bước, hồ nước liền hiện ra trước mặt. Làn nước tối om om như miệng một con cá khổng lồ mới chết, phun ra từng hơi thở thối đến không ngửi được.
 
Chương 68: Chương 68: Đêm Không Yên Bình (Hai)


Du bộ đầu và anh Ba Kho bắt đầu đi vòng dọc theo sát mép hồ để xem cái mùi thối phát ra từ đâu. Mãi đến khi tia nắng đầu tiên ló ra, mặt hồ trở nên sáng sủa, họ mới tìm được nguyên nhân của cái mùi thối đó. Đó là một cái xác chết trôi nổi trên mặt hồ, cách bờ khoảng hơn mười trượng. Cái xác nằm úp sấp, chỉ thấy mỗi phần lưng và tóc trên đầu nổi lên trên mặt nước. Du bộ đầu không ngần ngại liền cởi đồ ra rồi lao xuống. Một lát sau ông đã kéo được cái xác vào bờ. Đó là một người đàn ông còn trẻ tuổi, theo như Du bộ đầu nói chỉ khoảng hai lăm đến ba lăm tuổi. Anh ta bị dìm chết, quần áo trên người cũng bị lấy mất. Thời gian chết là khoảng hơn một tháng trước. Vì ngâm nước nhiều nên mặt cái xác đã biến dạng, rất khó để nhận ra. Thân thể nạn nhân cũng trương phồng lên và trắng hếu như lợn nái có chửa, trông thật tởm lợm.
“Thảo nào thối như vậy.” Anh Ba Kho nghĩ thầm rồi đưa cái còi lên miệng thổi một tiếng thật to. Đó là dấu hiệu yêu cầu tập trung nên chỉ một lát sau, đám dân tráng đã có mặt. Anh Ba Kho ra lệnh: “Mang mọi người trong làng đến đây xem có ai nhận ra được người này không!” Đám dân tráng vội vã đi vào trong làng. Anh Ba Kho chờ khoảng nửa canh giờ thì mọi người đã tập hợp đủ, không thiếu một ai. Thế nhưng kết quả giống như anh Ba và Du bộ đầu đã đoán. Chẳng có ai cung cấp được thêm manh mối mới nào. Anh Ba Kho hơi thất vọng, Thấy trời nắng lên, mọi người đứng cũng vất vả, liền giải tán ai về nhà nấy. Du bộ đầu vẫn loay hoay quanh cái xác nhưng anh Ba Kho không muốn lại gần. Gió thổi mạnh khiến cái xác càng lúc càng bốc mùi thối khủng khiếp. Anh dặn đám dân tráng nấu cơm sáng mặc dù chẳng muốn ăn tí nào. Bụng anh cồn cào như sẵn sàng phun ra bất kỳ thứ gì trong bụng.
Thấy anh khó chịu. Du bộ đầu đưa cho anh một cái lọ nhỏ, bên trong có một ít dầu thơm, bảo anh quẹt lên mũi. Anh Ba Kho làm theo. Bôi xong anh khịt khịt mũi. Cái mùi thối như biến mất hẳn. Trên mũi anh chỉ còn lại mùi hương thoang thoảng của hoa nhài. Anh nhìn cái lọ, thầm nghĩ. “Có lẽ hôm nào phải nhờ sư phụ đặt mua giùm một lọ mới được.” Như đoán được ý nghĩ của anh, Du bộ đầu giải thích: “Thứ này có tiền cũng chưa chắc đã mua nổi. Đây là hàng của người tu đạo. Ta có quen với đệ tử phái Mộc Quyết nên được biếu tặng một lọ.” Anh Ba Kho lè lưỡi, thầm nghĩ cái lọ nhỏ này trên thị trường chắc phải vài trăm lượng bạc là ít.

Đang đứng đợi chôn cất cái xác, một người dân tráng ra chỗ anh Ba, miệng ấp úng định nói gì đó mà không nói nên lời. Anh Ba Kho nhận ra đây là thằng Bò Ba Xị, cháu ông Ba chuyên nuôi bò cái ở xóm trên. Bò Ba Xị từ bé mồ côi cha mẹ, sống với ông. Nhà neo người mà cả hai ông cháu lại thích nhậu nên nó nấu ăn khá là ngon. Thế là anh Ba Kho nhận nó vào đội dân tráng để phục vụ cơm nước cho anh em. Thấy thằng Bò Ba Xị lúng túng, anh Ba hỏi: “Có chuyện gì đấy cu Bò?”
Mặt thằng Bò Ba Xị nhăn nhó như sắp khóc, lí nhí đáp: “Ông Bành ông ấy cầm bạc mua thức ăn mà trốn đâu mất. Đệ tìm ổng từ lúc mờ sáng đến giờ mà chả thấy đâu.” Anh Ba Kho nhăn mày. Ông Bành mà thằng Bò Ba Xị gọi là cháu của lí trưởng làng anh. Mặc dù đã hơn ba mươi nhưng vẫn chưa lấy nổi vợ. Tính tình thì lất ba lất bất nên trong đội dân tráng chả ai ưa. Chỉ có thằng Bò Ba Xị vốn thích nhậu nhẹt nên mới kết bạn nổi với gã. Anh Ba hỏi lại: “Đã tìm kỹ chưa?” Thằng Bò Ba Xị mếu máo:”Đệ tìm khắp làng rồi. Cũng chả ai thấy ổng cả. Hồi đêm ông đi tè xong biến mất tiêu luôn.”
Anh Ba Kho nhíu mày. Số bạc mất chỉ là tiền ăn của anh em dân tráng trong mấy ngày mà thôi. Cũng chả đáng để gã Bành làm như thế. Anh Ba Kho đang suy nghĩ thì Du bộ đầu đã trở lại. Ông hỏi anh có chuyện gì thế. Anh Ba Kho kể lại việc gã Bành cầm tiền trốn mất. Du bộ đầu trầm ngâm một lát rồi hỏi: “Trong đám dân tráng ai quen với hắn nhất?” Anh Ba liền chỉ thằng Bò. Du bộ đầu hỏi thằng Bò Ba Xị: “Hắn có đặc điểm gì dễ nhận biết không?” Thằng Bò Ba Xị nghĩ một lát rồi trả lời: “Sau dái tai của ổng có một cái nốt ruồi đen to như cái cúc áo.” Du bộ đầu suy nghĩ một lát rồi như lên cơn động kinh, chạy ào về phía đám dân tráng đang lấp đất, vừa chạy vừa quát: “Dừng lại, dừng lại!”

Đám dân tráng sợ hãi liền ngừng tay. Du bộ đầu chẳng nói chẳng rằng nhảy ngay xuống hố, dùng tay bới đất lên. Cho đến khi toàn bộ đầu cái xác lộ ra, Du bộ đầu mới dùng tay cầm lấy hai cái tai nạn nhân rồi quan sát kỹ càng. Anh Ba Kho và đám dân tráng cũng xúm lại. Dưới ánh mặt trời, anh Ba Kho nhìn thấy rõ ràng trên dái tai bên trái của cái xác có một nốt ruồi đen và to bằng cái cúc áo. Anh Ba Kho sợ quá. Chả lẽ cái xác là gã Bành cháu lý trưởng? Nếu vậy thì tại sao chỉ trong một đêm cái xác lại biến dạng nhiều đến thế?
Du bộ đầu xem một lúc rồi đứng dậy, nhảy lên khỏi hố đất. Ông ra hiệu cho đám dân tráng tiếp tục lấp đất. Anh Ba Kho hỏi: “Có khả năng là hắn không?” Du bộ đầu gật gật đầu. Anh Ba Kho hỏi: “Làm thế nào hắn mới chết đêm qua mà cái xác đã biến dạng nhiều như thế?” Du bộ đầu trả lời:”Có rất nhiều cách để làm cái xác phân hủy. Nhiệt độ hay một số chất độc đều dễ dàng làm được. Thậm chí có những loại khiến cái xác biến thành một vũng nước chỉ trong giây lát.” Anh Ba Kho lại hỏi: “Nhưng làm thế nào sư phụ biết được là hắn? Lỡ ai đó cũng có một cái nốt ruồi đen như thế thì sao?” Du bộ đầu suy nghĩ trong giây lát rồi trả lời: “Tỉ lệ trùng lặp như thế rất hiếm. Không phải vì thế mà những đặc điểm này được miêu tả trong “căn cước” để chứng minh một người nào đó. Thêm nữa, anh biết hồi nãy ta tìm được gì trong dạ dày nạn nhân không? Cháo đỗ xanh và thịt vịt.” Nói rồi ông bỏ đi, để mặc anh Ba Kho đứng thẫn thờ. Anh đang nhớ tới bữa tối ngày hôm qua, thằng Bò Ba Xị mua đâu được con vịt. Sau khi luộc xong, nó lấy nước ấy nấu cháo đỗ phục vụ mọi người. Anh Ba Kho ăn xong còn khen thằng Bò nấu ngon nên anh nhớ rõ lắm.

Lúc này một cơn gió lạnh thổi qua khiến anh Ba rùng mình. Trưa nắng nhưng sao ở cái làng này thấy lạnh lẽo thế? Anh dùng hai tay ôm lấy người, trông lên đám dân tráng đang hì hục đắp mộ. Bọn họ vẫn chưa biết đang chôn chiến hữu của mình. Anh Ba Kho lại nghĩ không biết nên nói chuyện với bọn họ như thế nào để anh em khỏi tụt sĩ khí. Trở lại trong làng, anh Ba và đám dân tráng mới thấy Du bộ đầu đang dẫn theo thằng Bò Ba Xị chuẩn bị thuyền. Ngoài nồi cơm và gạo, bọn họ còn mang theo không ít ngọn đuốc. Thì ra Du bộ đầu định đi ra hòn đảo nơi xảy ra vụ án. Anh Ba đành chọn lấy năm người, thêm anh và thằng Bò nữa để đi cùng Du bộ đầu ra đảo.
Tám người ngồi lên hai chiếc thuyền dài nên cũng khá rộng rãi. Mỗi thuyền có hai người chèo, thay phiên nhau nên bọn họ đi rất nhanh. Chả mấy chốc mà anh Ba Kho đã nhìn thấy đám sương mù bao quanh hòn đảo. Trời về trưa, mặt trời đã lên tới tận đỉnh đầu mà sương vẫn không tan hết, nổi trôi từng đám như mây bọc lấy hòn đảo. Hai chiếc thuyền đi sát trong sương, chỉ sợ lạc mất nhau. Cuối cùng thì cũng đặt chân lên đảo một cách bình an. Anh Ba Kho sai người cột thuyền cẩn thận, phái thằng Bò chặt củi nấu cơm xong bắt đầu cùng Du bộ đầu đi dọc theo bờ cát. Chả mấy chốc mà bọn họ tìm được hiện trường vụ án. Bảy cái xác chết nằm lung tung trong chiếc lán mới dựng lên. Không giống với cái xác tìm thấy hồi sáng, bảy người đều trông như mới chết ngày hôm qua. Du bộ đầu bắt đầu kiểm tra từng cái xác một cách tỉ mỉ và kiên nhẫn. Sau cùng ông kết luận cả bảy người đều bị dìm chết.
Một lúc sau, Du bộ đầu bảo anh Ba Kho chuyển cả bảy cái xác lên thuyền. Sau đó mọi người bỏ dở cả nồi cơm đang nấu lên thuyền trở về làng. Anh Ba Kho định hỏi lí do tại sao lại vội vàng như thế nhưng nhìn thấy khuôn mặt căng thẳng của Du bộ đầu, anh cũng biết điều ngậm miệng không hỏi. Về đến làng Du bộ đầu có vẻ như vừa trốn thoát một kiếp, bảo anh Ba:”Tí nữa mang theo mọi người trở về làng Diên Hạ.” Anh Ba Kho cảm thấy kỳ lạ. Anh cảm thấy Du bộ đầu trước và sau khi lên đảo trông như hai người. Nhưng vì tin tưởng sư phụ, anh cũng không nói nhiều, mang mọi người cùng đồ đạc lên thuyền. Lần này, trên thuyền còn có thêm bảy cái xác.

Đến chập chiều thuyền mới cập bến làng Diên Hạ. Vì tránh cho mọi người hoảng sợ, anh Ba Kho ra lệnh cho đám dân tráng bí mật mang bảy cái xác lên một nhà kho kín đáo nằm cạnh bờ nước, cách bến tàu khoảng hai trăm thước. Đó là một căn nhà kho cũ được dân làng dựng lên dùng để chứa những thứ hàng hóa không sạch sẽ. Du bộ đầu dặn anh Ba Kho: “Cho dù như thế nào thì cũng phải bảo vệ kỹ cho bảy cái xác.” Anh Ba Kho hỏi:”Sư phụ, có chuyện lớn rồi phải không ạ?” Du bộ đầu nhìn anh lúc lâu mới trả lời: “Hòn đảo đó rất nguy hiểm. Lúc lên đó, trực giác của ta mách bảo phải chạy trốn ngay, đừng quay đầu lại.” Anh Ba Kho cũng run bắn lên. Chẳng lẽ kẻ giết người nấp trên hòn đảo?
Dường như nhìn thấu suy nghĩ của anh, Du bộ đầu mới nói: “Anh cũng đừng suy nghĩ kẻ giết người nữa. Đó không phải là vấn đề mà chúng ta có thể giải quyết được.” Anh Ba Kho cảm thấy giọng nói của ông không trầm ổn như thường ngày nữa. “Anh biết không? Cả bảy nạn nhân đều bị dìm chết nhưng dường như không ai dám phản kháng. Không hề có lấy một vết tích của sự chống cự. Trong mắt bọn họ, ngoại trừ sợ hãi cũng chỉ còn có sợ hãi…” Du bộ đầu thở dài. “Nếu ta đoán không nhầm thì mấy người này đều từng là tù phạm, thậm chí là trọng phạm. Vậy thứ gì khiến cho cả đám người hung ác đều sợ hãi mà buông bỏ chống cự, thậm chí chết rồi mà ánh mắt vẫn còn không thể thoát khỏi nỗi sợ?.... Ta nghĩ ta phải trở về tổng bộ một chuyến. Nếu may mắn chúng ta có thể tìm được lời giải…” Anh Ba Kho nghe sự phụ muốn đi, vội vàng trở về nhà chuẩn bị. Anh cũng có một ít thổ sản để hiếu kính sư mẫu và các tiểu sư đệ. Anh không nhận ra đôi mắt dần mờ tối của Du bộ đầu.

 
Chương 69: Chương 69: Đêm Không Yên Bình (Ba)


Đưa Du bộ đầu đi rồi, anh Ba Kho trở về nhà đánh một giấc. Đêm qua anh không ngủ đủ giấc, cả ngày nay cũng mệt mỏi nên vừa đặt lưng xuống sàn là anh ngáy như sấm. Thấy anh Ba Kho ngủ say, nhà anh cũng không ai đánh thức anh dậy ăn cơm tối. Thế là anh ngủ thỏa thích, cho đến khi cơn đói cồn cào trong ruột quấy nhiễu.
Anh Ba Kho trở dậy. Trong nhà tối om om làm anh cũng chả biết lúc này là mấy giờ rồi, chỉ biết đêm đã khuya lắm. Anh vớ lấy cái đèn cầy bên giường, châm lửa lên. Bên cạnh anh, vợ anh vẫn còn đang say giấc nồng. Anh vén chăn, đắp lên cho vợ, rồi rón rén đi xuống giường. Mò mãi mới thấy đôi dép, anh xỏ vào rồi cầm cây đèn cầy đi ra phòng ngoài. Nhà anh cũng không rộng lắm, ngoài phòng khách và phòng ngủ của vợ chồng anh thì chỉ có thêm hai gian. Một gian làm kho đựng thóc còn một gian là phòng ngủ cho hai đứa con. Anh Ba Kho tháo then cửa, bước ra sân. Một mùi hương quen thuộc phả vào mũi khiến anh cảm thấy thoải mái. Đó là hỗn hợp của mùi rơm rạ, mùi hàng xoan đầu ngõ, mùi hương hoa bưởi trong vườn và vô số những hương vị mà anh chẳng nhớ nổi.
Anh Ba Kho vươn vai, duỗi người khiến từng khớp xương kêu lên răng rắc. Anh cảm thấy sự hôi thối, bẩn thỉu và mệt mỏi ngày hôm qua như biến đâu mất. Anh quay người hướng xướng bếp. Căn bếp nằm vuông góc với nhà chính, ngay bên sân. Căn bếp mặc dù không cao ráo như trên nhà, nhưng cũng khá sạch sẽ. Anh Ba Kho dễ dàng tìm thấy nồi cơm nguội, nồi cá tràu kho được úp lồng bàn cẩn thận. Vì sợ chuột vợ anh còn đè cả cái thớt gỗ lên. Anh Ba Kho đốt bếp lên rồi hâm lại nồi cá. Cơm nguội chan nước cá kho nóng hổi thì khỏi chê vào đâu được.
Trong lúc chờ nồi cá sôi lên, anh Ba Kho mở tủ chạn, lôi ra chai rượu nếp mà anh đã giấu kỹ trong góc. Anh mở nút lá chuối, hít hít hà hà, rồi rót ra một bát đầy. Bình thường chả bao giờ anh uống rượu một mình thế nhưng hôm nay là ngoại lệ. Cá sôi rồi anh nhấc nồi cái ra mâm. Cũng chẳng thèm bát đũa gì, anh ăn bằng cái thìa ngay trong nồi luôn. Cơm nguội ngắt được chan nước kho cá lên bắt đầu tỏa hương thơm. Hạt gạo bắt đầu mềm ra, vừa khô vừa dẻo, nhai trong miệng thật dính, thật bùi. Thêm vào đó vị nước cá kho mặn mặn ngọt ngọt khiến anh ăn đến đâu biết đến đấy.

Anh xúc lấy một khoanh cá tràu, đưa lên miệng cắn một miếng. Cá mềm, thịt dai như thịt gà, đượm vị tiêu và mắm. Anh nhấp một hớp rượu, khà một tiếng đầy thỏa mãn. Chả mấy chốc mà nồi cơm hết veo. Nồi cá kho cũng chỉ còn phân nửa. Anh Ba Kho ợ một tiếng, đậy nồi cá lại cẩn thận rồi vỗ vỗ bụng bước ra sân. Anh vác cái chõng tre ra trước sân, tháo cái điếu treo trên cửa sổ xuống, tiện tay vơ lấy ấm trà. Trời hôm nay lắm mây, chả có trăng sao gì khiến khoảng sân rộng cứ tối om om. Anh Ba Kho ngồi gác một chân lên chõng, dứt ít thuốc lào trong bao ra rồi ve lại. Xong anh nạp thuốc vào, châm đóm, rít một hơi thật sâu. Xong anh bắt đầu nhả khói, đôi mắt lờ đờ có vẻ sáng khoái lắm. Anh Ba Kho đang run run tay cầm cái chén trà lên thì một cơn gió lạnh làm anh rùng mình. Chén trà trong tay anh rơi độp xuống chõng, nước trà đổ ra dính cả vào quần. Anh Ba Kho tức giận chửi thề một câu rồi đứng lên đi vào nhà lấy giẻ lau. Nhưng vừa bước chân vào cửa thì anh bỗng ngửi thấy cái mùi ngai ngái khó chịu.
Vì trong mũi trong miệng con dư vị của thuốc lào nên anh Ba Kho không nhận nổi cái mùi hôi đó là mùi gì. Anh bước vào trong nhà, tìm mãi mới thấy cái dẻ lau. Trong nhà tối quá làm anh đá phải cái bô đựng rác, may mà nó không đổ ra. Anh Ba Kho gạt cái bô xuống dưới ghế, mò mẫm lấy đại cái áo của vợ treo trên tường để ra làm gối. Vừa ra cửa thì cái mùi thối lúc nãy lại xuất hiện. Anh Ba Kho khịt khịt mũi, ra sân lấy cái đèn cầy. Anh bắt đầu dò theo cái mùi đó. “Chắc lại có con chuột nào chết đây.” Anh Ba Kho nghĩ vậy. Anh Ba Kho đi một vòng quanh nhà mới phát hiện mùi thối đó bắt nguồn từ chính căn phòng ngủ của vợ chồng anh. Vào nhà rồi, sợ đánh thức vợ, anh đi rất nhẹ. Đến bên giường, cái mùi thồi đó nồng nặc khiến anh phải bịt mũi lại.
Quái thối thế mà vợ anh vẫn ngủ được. Anh Ba Kho nghĩ bụng rồi bắt đầu soi đèn xuồng dưới gầm giường. Gầm giường rất sạch, chả có mạng nhện hay bụi bặm gì. Cũng phải thôi, vợ anh vốn tính sạch sẽ nên quét dọn thường xuyên. Anh Ba Kho kéo chiếc rương gỗ đựng bát đũa ra. Chiếc rương này là của hồi môn của vợ. Bát đũa trong này ngoài dịp lễ tết thì chả bao giờ dùng đến. Anh Ba Kho mở chiếc rương ra. Bên trong bát đũa xếp một cách gọn ghẽ và cẩn thận, lại sạch sẽ không có lấy một hạt bụi. Quái, thế mùi thối từ đâu ra? Anh Ba Kho tò mò. Trên giường, vợ anh vẫn ngủ ngon. Nghĩ nghĩ một lúc, anh Ba Kho lay vợ. “Mẹ nó ơi, mẹ nó.” Vợ anh không trả lời. Anh Ba Kho lại lay lần nữa. Vợ anh vẫn không hè động đậy.
“Ngủ gì mà say thế không biết.” Anh Ba Kho hơi bực mình, kéo luôn cái chăn vợ anh đang trùm. Rồi anh ngã ngửa ra, trên khuôn mặt không còn một giọt máu. Vợ anh đã biến thành cái một xác từ lúc nào. Đặc biệt nhất là thân thể nàng như bị ngâm nước nhiều ngày, phình lên, trắng ởn, hôi thối khủng khiếp.

*******************
Hồ Kinh Dạ vẫn mênh mông sóng vỗ. Trên thuyền chú Miên đang hăng hái kể chuyện, Minh Khánh thì nghe một cách say sưa. Tám tuổi là cái tuổi đầy tò mò và khao khát tìm hiểu những điều mới lạ. Mặc dù câu chuyện của chú Miên hơi ghê rợn, nhưng với Minh Khánh, nó cũng chỉ như những câu chuyện cổ tích thôi, thậm chí có phần gay cấn và hấp dẫn hơn. Tiếng vẫy nước cắt đứt câu chuyện của chú Miên. Sư phụ Văn Sơn từ dưới mặt hồ nổi lên, khuôn mặt ông có vẻ vui. Ông vuốt vuốt nước trên mặt rồi cười với chú Miên: “Tìm thấy rồi. Trống mất một mộ.” Chú Miên kéo ông lên thuyền, đưa cho ông cái khăn lau, miệng nói: “Thảo nào dạo nầy thấy hồ nhiều âm khí hơn bình thường. Tôi lại cứ tưởng là do đến mùa.”
Sư phụ Văn Sơn lau kỹ đầu tóc, mìm cười nói: “Ngày mai làm lễ cúng mượn hòm thôi. Hi vọng cái xác vẫn nằm yên ở đoạn sông làng Me chứ không trôi đi đâu xa. Trôi nữa tìm mệt lắm.” Chú Miên chèo thuyền đưa ba người về lán. Ba người ngủ một giấc đến sáng rõ mới tỉnh dậy. Minh Khánh bắt đầu nấu cơm sáng. Sư phụ và chú Miên thì mang lễ ra chỗ hồi đêm để cúng và mượn hòm. Minh Khánh nấu xong cơm, chờ một lúc thì thấy hai người trở về, trên thuyền còn chở theo một chiếc hòm bằng gỗ to.

Ăn xong, ba người thu dọn đồ đạc bắt đầu trở về. Lần này thuyền phải đi làm hai chuyến, một chuyến chở hòm, một chuyến chở người và đồ đạc. Chuyến đầu tiên, Minh Khánh và chú Miên chở cái hòm về bến trước. Trên thuyền Minh Khánh tiếp tục háo hức nghe tiếp câu chuyện rùng rợn dang dở đêm qua.
*******************
Tiếng ú a ú ớ của chồng đánh thực chị Ba Kho. Chị chép miệng, vỗ vỗ lên má chống. “Thầy nó ơi, thầy nó.” Chị vừa gọi xong thì thấy anh Ba Kho bật dậy. Trong bóng tối chị không nhìn rõ khuôn mặt chồng nhưng vẫn thấy vẻ hoảng loạn trong đôi mắt anh. Chị Ba sờ sờ lên người chồng. Áo anh ướt đẫm mồ hồi. Chị xót chồng, hỏi nhỏ: “Thấy nó mơ gì mà sợ thế? Áo ướt hết mồ hồi rồi nãy. ” Rồi chị ngồi dậy. “Để tôi đi lấy áo khác cho thầy nó thay kẻo cảm lạnh thì khổ.” Chồng chị nghe thấy vội nắm lấy tay chị. “Đừng đi, đừng đi.” Bàn tay run run của anh Ba Kho nắm chặt lấy tay chị. Chị Ba sợ chồng có chuyện, an ủi anh. “Ừ thì không đi. Nhưng để tôi đốt đèn lên nhé.” Anh Ba Kho gật đầu.
Chị Ba châm đèn cầy lên. Căn buồng ngủ của hai vợ chồng không còn tối om om nữa. Lúc này chị mới thấy anh Ba Kho ngồi co ro tựa vào thành giường. Khuôn mặt ánh lúc trắng lúc xanh. Đôi mắt anh vô hồn. Từ khi lấy anh đến giờ, chưa bao giờ chị Ba thấy chồng mình sợ hãi đến thế. Anh Ba vốn nổi tiếng gan lỳ khắp làng, lại biết võ. Nhớ ngày trước, vì mai phục bắt trộm, chồng chị từng kéo mấy anh em dân tráng ngủ đêm ở bãi tha ma ba bốn ngày liền. Chị sợ lắm, thế nhưng nói với anh thì anh chỉ cười rồi làm lơ đi. Chị Ba kéo chăn đắp cho chồng, hỏi: “Thấy nó mơ cái gì mà sợ thế?” Anh Ba không đáp lời chị, chỉ nói một cách vô thức. “Nó đến rồi, nó đến rồi.”

Chj Ba nghe mà chả hiểu gì cả. Chị muốn đi ra ngoài thì chồng chị không cho đi nên chỉ ngồi yên. Cứ thế hai vợ chồng thức đến sáng. Lúc chị mở cửa cho ánh nắng ban mai rọi vào phòng, anh Ba Kho mới như tỉnh hồn lại. Anh cũng không ngăn vợ đi ra ngoài nữa nhưng vẫn ngồi ôm gối như một pho tượng. Mãi đến khi chị Ba nấu xong, bưng lên đút cho anh ăn hết một bát to cháo đỗ hành tăm thì anh mới đỡ đi đôi chút. Rồi anh nằm xuống ngủ, chắc đêm qua đã mệt lắm.
Anh Ba Kho chưa ngủ được bao lâu thì có hai người một cao một thấp chạy vào. Chị Ba biết hai người này cũng trong đội dân tráng với anh. Người to cao tên là Bảy Dậu, người thấp béo tên là Xồm Bánh Ú. Cả hai vừa cùng làng, lại vừa là họ hàng xa với anh Ba Kho nên trong đội dân tráng thuộc vào thân tín của anh. Chị Ba đưa tay lên xuỵt ra hiệu cho bọn họ yên lặng, rồi nói: “Hai chú vào uống nước. Anh Ba vừa mới ngủ. Hôm qua anh bị cảm trằn trọc cả đêm.”
Xồm Bánh Ú trả lời chị: “Chị Ba ơi, chuyện gấp lắm. Bọn đệ cũng khuông muốn làm phiền anh Ba lúc này nhưng mà…” Chị Ba thấy khuôn mặt Xồm Bánh Ú đầy lo lắng mà bảy Dậu cũng gật đầu lia lịa mới chép miệng. “Thôi thế để tôi vào kêu anh Ba…” Anh Ba Kho thấy vợ gọi, cũng không rời giường, chỉ bảo vợ mang hai người kia vào. Bảy Dậu và Xồm Bánh Ú thấy khuôn mặt tái xanh của anh Ba Kho liền lên tiếng thăm hỏi. Anh Ba Kho chỉ ậm ờ cho qua, rồi hỏi: “Có chuyện gì mới xảy ra sao?” Xồm Bánh Ú thưa: “Anh Ba ơi, xóm Thượng đêm qua chết mất mấy người…. Hồi sáng có người qua báo tín.” Anh Ba Kho cũng không hoảng hốt hỏi lại: “Sao mà chết?” Bảy Dậu đáp: “Thấy bảo là bị dìm chết.” Anh Ba Kho nói: “Hai người lấy thêm mấy anh em dân tráng, phong tỏa chỗ đó lại. Rồi gọi lão Tư ở nghĩa trang cùng với thầy lang đi coi, xem rõ ràng chết thế nào, chết bao giờ…” Xồm Bánh Ú lại hỏi: “Anh Ba không đi sao?” Anh Ba Kho lắc đầu chán nản: “Tôi ốm lắm. Mà có đi cũng chẳng giải quyết được gì” Nói rồi anh trùm chăn nằm ngủ tiếp khiến hai người đứng nhìn nhau.

 
Chương 70: Chương 70: Đêm Không Yên Bình (Bốn)


Anh Ba Kho nằm một mạch đến tận trưa thì Xồm Bánh Ú đến nhà. Gã còn xách theo con gà đưa cho chị Ba bảo để tẩm bổ cho anh. Chị chối mấy lần không được nên cũng đành phải nhận. Thế rồi gã vào trong nhà nói chuyện với anh Ba. Không biết hai người nói chuyện gì mà anh Ba Kho sợ đến xanh mặt. Cho đến khi gã Xồm Bánh Ú nói chuyện xong ra về một lúc lâu anh vẫn ngồi đờ ra như khúc gỗ. Trưa hôm ấy anh Ba Kho bỏ cơm, chị Ba hỏi gì cũng chỉ ậm à ậm ờ cho qua chuyện. Thế rồi anh dặn chi Ba xuống ngôi chùa thiêng nhất vùng ở làng dưới mời sư thầy về làm lễ. Chị Ba cũng chả hiểu gì nhưng vẫn làm theo lời chồng.
Hai ngôi làng cách nhau không xa, chỉ mất khoảng một canh giờ là tới. Sư thầy cũng biết tiếng anh Ba nên cũng không làm khó dễ gì, chờ chị cúng tiền hương đèn xong là theo chị về nhà. Thấy sư thầy anh Ba Kho mừng đến chảy nước mắt. Anh bắt đầu kể cho thầy và vợ nghe câu chuyện mấy hôm rồi. Vợ anh Ba cũng sợ lắm, hướng bốn phương khấn rối rít. Sư thầy thì yên lặng suy nghĩ. Một lúc sau, sư thầy yêu cầu vợ anh bar a chợ mua lễ cúng để sư thầy làm lễ giải hạn. Tối hôm đó, ăn cơm xong, sư thầy bắt đầu bày bàn thờ ra. Lễ cúng rất dài, vợ chồng anh Ba Kho cũng chả hiểu gì, chỉ biết bò lổm ngổm khấn theo thầy. Lễ cúng diễn ra từ lúc chập choạng tối đến tận nửa đêm. Cả sư thầy lẫn vợ chồng anh đều mệt phờ ra. Vợ anh biết ý liền lấy nồi cháo gà nấu sẵn lúc tối ra mời thầy.
Anh Ba Kho đã đỡ nhiều. Mặc dù anh không biết cúng giải hạn có được việc không nhưng nó khiến anh cảm thấy yên tâm hơn phần nào. Anh ăn ba bát cháo xong, đang đinh đi dọn giường cho sư thầy ngủ thì Bảy Dậu tới. Khuôn mặt gã có phần hốt hoảng: “Anh Ba ơi, bến tàu xảy ra chuyện rồi.” Anh Ba Kho rụng rời cả chân tay nhưng vẫn cố hỏi lại bằng một cái giọng trấn tĩnh: “Có chuyện gì thế?” Bảy Dậu trả lời: “Đệ không thấy mấy người chuyên canh gã ở cái kho kia đâu.”

Anh Ba Kho hỏi lại, giọng anh run run: “Cái kho nào?”
Bảy Dậu dường như không để ý tới khuôn mặt thất thần của anh Ba Kho, gã giải thích: “Là cái kho mà huynh bảo bọn đệ canh giữ bảy cái xác chết đó.” Anh Ba Kho ngồi phịch xuống ghế, lẩm bẩm hỏi lại: “Chuyện xảy ra lúc nào?” Bảy Dậu trả lời: “Hồi nãy đệ với Xồm Bánh Ú ra đưa cơm cho mấy người gác mà chẳng thấy một ai. Hai người bọn đệ tìm khắp xung quanh, gào khản cả cổ họng mà vẫn chẳng có ai đáp lời.”
Anh Ba Kho trong thâm tâm cảm thấy mấy người kia chỉ sợ lành ít dữ nhiều. Sau một hồi suy tính, anh cảm thấy không thể bỏ mặc bọn họ. Một phần do mấy người dân tráng đó cùng anh quen biết đã lâu, việc canh giữ nhà kho là anh ra lệnh cho họ, một phần nhân có sư thầy ở đây, anh cũng muốn biết thứ đó là cái gì? Thế là anh Ba Kho bảo Bảy Dậu đi tập hợp anh em lại, càng đông càng tốt, nửa canh giờ sau gặp nhau ở gốc đa chỗ miếu thờ giữa làng. Bảy Dậu nhận lệnh liền đi ngay. Anh Ba Kho liền nói chuyện với sư thầy. Sư thầy cũng không phản đối, chỉ bảo anh: “Đến lúc gặp thứ đó, thí chủ và mọi người phải nghe lệnh của bần tăng.” Anh Ba Kho gật đầu rối rít.
Nửa canh giờ sau, ở chỗ ngôi miếu giữa làng, hơn hai mươi người dân tráng tụ lại một chỗ. Anh Ba Kho phổ biến công việc xong thì đoàn người kéo nhau ra bến tàu. Bến tàu vào giữa đêm khuya vắng ngắt. Những kho hàng to lớn nằm hai bên đường khiến con đường dường như càng chật hẹp và âm u. Trời không có gió. Không gian yên lặng đến mức có thể nghe được nhịp thở của người bên cạnh. Cũng chẳng hiểu vì sao mà mọi người không ai nói với nhau một câu nào. Dường như việc ở xóm Thượng đã đến tai mọi người. Có lẽ ngoại trừ sư thầy thì mọi người trong đội dân tráng đều sợ hãi. Anh Ba Kho thấy mấy người đi bên cạnh anh lau mồ hôi liên tục. Con đường tưởng gần mà hóa ra thật xa. Mọi người đều đè bước chân thật chậm. Thế nhưng cuối cùng họ cũng bước lên đến bờ hồ. Chiếc cầu đá dài vẫn nằm chênh vênh trên mặt nước, hai bên neo đầy các loại thuyền lớn thuyền nhỏ. Mọi người đi dọc về phía nam hai trăm thước, ở đó có một cái nhà kho cũ nằm cách xa những nhà kho khác.
Mặt hồ đêm nay yên ắng lạ thường. Dường như lũ cá đã biến mất, thậm chí đến một tiếng búng nước anh Ba Kho cũng không nghe thấy. Anh Ba Kho liếc nhìn bầu trời. Mây mặc dù không dày lắm nhưng tụ lại thành những đám lớn mang hình thù kỳ dị. Anh Ba Kho cũng không nhìn nhiều, anh sợ những đám mây sẽ gợi lên cho mình những suy nghĩ về “thứ kia”. Nhà kho đã gần lắm rồi. Qua ánh đuốc anh Ba Kho thậm chí còn nhìn thấy cái mái xiên xiên vẹo vẹo của nó. Ngoài ra anh còn thấy hai cái cửa thông gió nằm trên cao gần sát mái. Lúc này hai cái lỗ tối đen như mực, trông hệt như hai con mắt đang theo dõi đoàn người.

******************** Một cơn ho sù sụ đưa Minh Khánh trở về với thực tại. Đây không biết là lần thứ mấy trong đêm mà hắn tỉnh giấc. Cơn nhức nhối trong lồng ngực cùng cảm giác ngứa ngáy nơi cổ họng vẫn làm phiền hắn. Minh Khánh đưa tay với lấy cái ống nứa đựng nước mà ông chủ nhà treo trên tường. Cái ống nứa nhẹ bẫng. Không biết hắn đã uống hết nước tự khi nào. Minh Khánh tung chăn ra, lọ mọ xuống giường. Trời hẳn là đã bắt đầu tờ mờ sáng. Bên ngoài từng cơn gió lùa vào mang theo vị ẩm của lá khô. Minh Khánh đẩy cửa, hai cánh của gỗ mở toang ra. Hơi lạnh đập thẳng vào mặt hắn, mang theo sự thoáng đãng của vùng đồng quê. Mưa vẫn đang rơi rả rích. Bầu trời cũng âm u mang theo cái màu sắc trắng bệch lạnh lẽo.
Minh Khánh đưa cái ống nứa ra hứng nước mưa. Hắn kiếm một chỗ sạch ngồi bệt xuống chờ đợi. Trước mắt hắn là một khoảng không mênh mông vô tận. trắng trắng, mờ ảo. Cơn đau như thấm vào lục phủ ngũ tạng, khiến hắn như muốn bóp nát trái tim của chính mình. Chỉ cần không cần thở nữa, không cần phải cảm nhận, không cần phải chịu đựng. Hắn ước gì mình có thể chết để thoát khỏi nỗi đau. Nhưng thực sự hắn vẫn ngồi đây, dựa lưng vào cây cột, không nhấc nổi mình dậy, và cơn đau vẫn tiếp tục tàn phá ý chí của hắn.
Minh Khánh mò mẫm trong ngực, từ trong áo lấy ra một vật màu xám. Đó là một chiếc răng nanh hổ cũ kĩ, rạn nứt, sứt mẻ tùm lum. Chiếc răng nanh này là món quà mà chú Miên tặng cho hắn trước lúc chia tay. Chú nói rằng con hổ là chúa sơn lâm, trong rừng dẫu vật âm hay dương đều phải sợ nó. Vì thế những biểu tượng sức mạnh của nó như răng hay móng đều có thể làm vật trừ tà. Chiếc răng nanh này đã theo Minh Khánh trong suốt chín năm, khiến hắn chả bao giờ bị ốm đau bệnh tật. Chỉ tiếc trong lúc Minh Khánh đánh nhau với Ngưu Khanh đại vương, nó đã vỡ và bị yêu khí làm bẩn. Có lẽ hắn nên trở lại hồ Kinh Dạ một lần. Ở nơi đó dường như có gì đó mà hắn từng quên lãng. Mải suy nghĩ Minh Khánh lại thiếp đi.

Trời vẫn mưa tầm tã. Thỉnh thoảng trên cái bầu trời xám xịt ấy, lại có những tia sét sáng loáng như dao, rạch ra từng lớp mây âm u, vẽ lên những đường ngoằn ngoèo, khẳng khiu. Chẳng có ai biết trên bậc thềm ngôi nhà nhỏ sau vườn nhà cụ Trầm , có một chàng trai tuổi mười tám đôi mươi đang dựa lưng vào cây cột nhà ngủ say sưa. Bất chấp hơi lạnh và tiếng sấm, đôi mi đen đen vẫn khép chặt. Đôi môi khô nứt nẻ thỉnh thoảng vẫn mở ra như đang nói mớ. Chàng trai không hề biết rằng cách chàng không xa, trong một bụi cây ngoài vườn, có một cái bóng trắng đang theo dõi chàng. Đôi mắt y lấp lánh nhìn vào chàng trai, hệt như một con mèo trông thấy một miếng mỡ thơm ngon béo ngậy.

 
Chương 71: Chương 71: Đêm Không Yên Bình (Năm)


Căn nhà kho mặc dù tối tăm nhưng lại yên bình hơn mọi người tưởng. Bảy cái xác vẫn nằm nguyên trong bảy cái hòm trên kệ, không thay đổi gì nhiều. Trong căn nhà kho cũng khá sạch sẽ, ít nhất sư thầy bảo thế. Anh Ba Kho ra lệnh cho mọi người đốt đuốc sáng trưng cả trong nhà kho lẫn bên ngoài, rồi chia nhóm thử đi vòng ra xung quanh xem mấy người kia có lang thang đâu đó hay không? Trong căn nhà kho sáng trưng, cuối cùng chỉ còn lại anh Ba Kho và sư thầy.
Tiếng gọi í ới của đám dân tráng bên ngoài càng lúc càng xa. Vẫn không hề có ai đáp lại. Anh Ba Kho nóng ruột, bắt đầu đứng lên đi đi lại lại. Thỉnh thoảng anh lại vén cái mành cửa nhìn ra bên ngoài xem.
Sư thầy thì vẫn ngồi yên trên một cái ghế vuông, đôi mắt hơi híp lại, miệng lẩm nhẩm tụng kinh. Chỉ có điều bài kinh của ông khiến anh Ba Kho không cảm thấy yên bình một chút nào, thay vào đó anh càng lúc càng sốt ruột. Anh đưa mắt nhìn sư thầy. Sư thầy cũng không còn trẻ nữa. Trên khóe mắt cũng đã có nếp nhăn. Bộ áo nâu sồng của người tu hành trong chùa che lấp cái thân hình gầy gò của ông, chỉ để lộ khuôn mặt và hai bàn tay. Bàn tay phải khẽ úp lên đùi, bàn tay trái đang nắm lấy chuỗi hạt. Ngón tay mảnh khảnh có vẻ hơi run run. Nhìn đến đấy, anh Ba Kho chợt cảm thấy việc đi cùng sư thầy ra đây cũng chưa chắc đã an toàn hơn bao nhiêu.

Trời càng lúc càng về khuya. Anh Ba Kho nhìn mấy ngọn đuốc đã cháy phân nửa, nhíu nhíu mày. Mấy người kia chắc chắn đã lành ít dữ nhiều. Nếu như người làm hại bọn họ là hung thủ từng gây án ở xóm Thượng, thậm chí sẽ không có một ai sống sót. Anh Ba Kho đưa mắt về phía hồ nước. Mặt hồ vẫn tăm tối và tĩnh lặng như trước. Chẳng lẽ cái hồ này ẩn chứa một con ác quỷ mà trước giờ không ai biết. Lúc này có người gõ cửa căn nhà kho. Ai Ba Kho mở cửa ra thì thấy Bảy Dậu. Khuôn mặt trứng chim của gã lấm tấm mồ hôi. Gã bảo với anh Ba Kho: “Anh Ba ơi, bọn đệ tìm thấy một chiếc giày.” Anh Ba Kho nghe có manh mối, hỏi lại: “Ở đâu, biết của ai chưa?” Bảy Dậu lại đáp: “Không biết của ai cả. Nhưng chắc chắn là loại giày đã phát cho đội dân tráng.”
Anh Ba Kho cũng không nhiều lời, nói: “Đi thôi.” Anh nhìn sư thầy. Ông cũng nghe được cuộc nói chuyện của hai người, đã đứng lên. Ba người đi vòng ra sau nhà kho, xuyên qua mấy lùm cây rậm rạp bên hồ. Ở một bãi cát thoai thoải cạnh hồ nước, anh Ba Kho nhìn thấy mấy người đã đứng chờ sẵn. Toàn là những khuôn mặt quen thuộc trong đội dân tráng của anh. Thấy anh Ba Kho, bọn họ tíu tít chào. Anh Ba gật đầu chào lại. Mấy người bọn họ đưa cho anh một chiếc giày. Đó là loại giày vải chuyên đặt làm riêng cho đội dân tráng. Chiếc giày cũng đã cũ mòn, đặc biệt phía gót chân đã thủng một lỗ be bé. Anh Ba Kho cảm thấy cái giày này rất quen, nhưng của ai thì anh không nhớ. Anh chỉ hỏi: “Tìm thấy thế nào?” Một người trả lời: “Lúc bọn đệ đi qua đây thì thấy nó nằm chỏng chơ trên bãi cát như vậy.” Gã bắt đầu đặt chiếc giày về lại chỗ cũ ban đầu.
Anh Ba Kho nhìn kỹ. Chiếc giày nằm nghiêng nghiêng trên bờ cát, mũi giày hướng ra mặt hồ. Anh cảm thấy nó có một ý nghĩa nhất định nào đó. Chẳng lẽ người nọ đánh rơi trong lúc chạy trốn? Nhưng y có chạy thì nên chạy về làng chứ chẳng có ai chạy ra hồ cả. Mà có chạy ra hồ thì dấu chân y để lại ở đâu? Nếu như vụ án mất tích này giống như những việc đã xảy ra trước đó, chắc hẳn hung thủ sẽ không để lại bất kỳ một dấu vết nào, tại sao nơi đây lại có một chiếc giày sót lại? Vô số câu hỏi hiện ra trong suy nghĩ khiến tâm trí anh Ba Kho như một đoàn đay rối. Một điều làm anh bực bội hơn là tất cả những câu hỏi đó lại không hề có đáp án. Thấy anh Ba Kho yên lặng, Bảy Dậu lại hỏi anh: “Anh Ba ơi, làm sao bây giờ?”

Anh Ba Kho nghĩ lại một lúc rồi nói: “Trở về nhà kho đã rồi nói.” Khi mấy người trở lại nhà kho, trởi bắt đầu nổi gió. Cơn gió mặc dù không có gì khác thường, nhưng nó khiến anh Ba cảm thấy càng thêm bất an. Có lẽ nên gọi mọi người trở lại. Anh Ba Kho dừng trước cửa căn nhà kho, hỏi sư thầy: “Thưa thầy, đến giờ vẫn không tìm thấy gì cả, có lẽ chúng ta nên về thôi.” Sư thầy gật gật đầu. Anh Ba Kho đưa còi lên miệng. Anh định thổi thì bỗng có tiếng người kêu rên: “Á.” Anh giật mình quay lại, hỏi bằng cái giọng bình tĩnh nhất mà anh có thể phát ra. “Có chuyện .. gì thế?”
Một người nói: “Không có gì đâu anh Ba. Tại cái cột bị mối ăn nên đệ bị dằm đâm vào tay.” Nhìn thấy tay gã chảy máu, anh Ba Kho chợt cảm thấy điềm không lành. Lúc này có người giơ đuốc lên, soi rõ cây cột đã bị mối ăn một khoảng lớn. Người đó còn than thở: “Tuần nữa mà không xử lý hết đám mối, chúng nó sẽ sạch cái cột này cho coi.” Anh Ba Kho cũng không lên tiếng, khả năng ăn uống của đám mối chết tiệt anh cũng thấy qua mấy lần rồi. Chờ đã nào, hình như anh bỏ sót thứ gì đó. “Mối, … môi, … mồi.” Anh Ba Kho lẩm nhẩm, mồ hôi lạnh toát ra như đang tắm. Nếu cái giày đó là mồi nhử, nếu hung thủ thực sự muốn bọn anh tìm ra cái giày đó, thì tất cả câu trả lời đều đã có. Vấn đề là tại sao hung thủ lại phải dụ dỗ anh ra chỗ đó? Với sức mạnh siêu nhiên của nó, làm thịt anh và sư thầy lúc chỉ có hai người trong nhà kho không phải tốt hơn sao?

Anh Ba Kho cảm thấy mình đi vào bế tắc. Nhưng anh biết chắc chắn một điều rằng hiện tại tình cảnh của mình rất nguy hiểm. Anh liền thổi ba hồi còi. Anh không muốn ở lại nơi này thêm một tí nào nữa. Anh chỉ muốn về nhà, nấp trong phòng và trùm kín chăn. Mặc kệ hung thủ là ai anh cũng không quan tâm nữa. Chức trưởng đội dân tráng ai muốn làm thì cho họ làm. Tiếng còi của anh Ba Kho vang lên một lúc lâu, lại không hề mang người nào trở lại. Tất cả những người khác dường như đều đã tan biến. Anh Ba Kho lúc này mới rụng rời chân tay. Anh nghĩ đến việc mồi nhử không phải chỉ có một chiếc giày.
Nhưng chưa hết hi vọng, anh Ba Kho lại đưa chiếc còi lên định thổi mấy tiếng nữa. Sư thầy ngăn anh lại, thở dài: “Đừng thổi nữa. Vô dụng thôi.” Anh Ba Kho nhìn sư thầy, khuôn mặt ông lúc này hiện lên vẻ buồn man mác. Ông đưa cho anh một lá bùa, dặn: “Tí nữa cho dù có chuyện gì, kể cả bần tăng gọi, cũng đừng ngoái đầu lại. Cứ nhìn rõ đường mà chạy.” Anh Ba Kho nắm chặt lá bùa cứu mạng, hỏi sư thầy: “Thầy cảm nhận được điều gì à?” Sư thầy đáp: “Bần tăng cảm thấy kiếp số của bần tăng đến rồi.” Nói rồi ông lại lắc lắc đầu, móc trong ngực ra mấy lá bùa khác, đi phát cho những người còn lại.
Thế nhưng ông chưa kịp phát thì có một người đã cướp mấy lá bùa trong tay ông. Sư thầy hơi sửng sốt, anh Ba Kho cũng giận, anh quát: “Bảy Dậu, đệ làm cái gì vậy?” Bảy Dậu lúc này đang cầm mấy cái lá bùa, chăm chú nhìn kỹ. Y không hề trả lời anh Ba Kho. Anh Ba Kho quát lớn: “Còn không mau trả lại cho sư thầy. Đó là bùa cứu mạng đấy.” Mấy người còn lại cũng chăm chăm nhìn vào y. Nếu như y không trả lá bùa cho mọi người, nhất định sẽ bị đánh. Bảy Dậu không sợ hãi, y ngẩng đầu lên nhìn sư thầy, vẩy vẩy nói: “Thứ này rất tầm thường, nhưng cũng khá hiệu dụng đấy.” Mọi người không hiểu y muốn làm gì, chỉ có sư thầy quát. “Còn đứng đấy làm gì? Tất cả chạy mau.” Lúc này đám bùa trong tay Bảy Dậu đã bắt đầu bốc cháy rừng rực. Không biết ai kêu một tiếng, thế rồi ngoại trừ anh Ba Kho và sư thầy, tất cả đều bỏ chạy. Khuôn mặt Bảy Dậu mà anh Ba Kho quen thuộc bắt đầu biến hình. Nó nứt ra, thành vô số mảnh máu thịt. Đám máu thịt ấy nhảy nhót tùm lum trên chiếc xương sọ rồi bắt đầu gắn liền lại, thành một khuôn mặt kỳ lạ mà anh Ba Kho chưa bao giờ gặp. Y nhìn anh Ba, cười một cách đầy dọa dẫm, hai hàm răng trắng ởn trông thật đáng sợ.

Anh Ba Kho lúc này còn chưa tỉnh hồn lại, thì bị sư thầy đẩy một cái. “Chạy đi, đừng ngoái nhìn lại.” Thế là anh cũng vắt chân lên cổ chạy. Đầu óc anh trống rỗng. Anh Ba Kho cũng không thể hiểu tại sao đàn em thân tín của mình lại trở thành hung thủ. Anh chỉ biết cắm đầu chạy. Thỉnh thoảng sau lưng anh lại có tiếng hét thảm thiết. Nhưng anh không quan tâm. Anh chỉ biết chạy, chạy để cứu lấy tính mạng của anh. Về đến đầu làng, anh còn nghe thấy tiếng sư thầy kêu khóc, nhưng anh Ba Kho biết anh không thể ngoảnh đầu lại. Đôi mắt anh ướt đẫm, răng anh nghiến chặt. Nếu như có thể, anh thề sẽ băm vằm nó thành tro bụi.
Gió thổi làm tấm áo ướt đẫm mồ hôi của anh Ba Kho lạnh buốt. Anh run lên cầm cập. Cái cổng quen thuộc nhà anh đây rồi. Anh bắt đầu đập cửa. Có tiếng vợ anh trả lời. Anh Ba Kho rũ người xuống, khuôn mặt cắt không còn giọt máu. Có một mùi thối như mùi cá chết bắt đầu theo gió tỏa ra khắp nơi. Đôi mắt anh Ba nặng trĩu lại. Sau đó anh không còn biết gì nữa.

 
Chương 72: Chương 72: Đêm Không Yên Bình (Cuối)


Lúc anh Ba Kho tỉnh lại thì đã là ba ngày sau. Vợ anh ôm cổ anh mừng đến phát khóc. Chị bảo cứ tưởng anh đi luôn rồi. Thì ra sau khi về đến nhà, anh Ba Kho bắt đầu sốt li bì. Suốt một ngày anh chỉ mê sảng, nói mớ và nôn mửa. Chị Ba nhờ người lên huyện mời thầy lang giỏi nhất về chữa cho anh. Thế nhưng lúc thầy lang bắt mạch xong thì cũng lắc đầu. Ngoài việc bị khí lạnh xâm nhập vào lục phủ ngũ tạng, trong lòng anh còn cất giấu một nỗi sợ hãi quá khủng khiếp. Nỗi đau về thể xác và cả về tinh thần trộn lẫn khiến thầy lang cũng bó tay. Ông chỉ khuyên gia đình nên chuẩn bị hậu sự sẵn cho anh. Chị Ba năn nỉ mãi thầy lang mới chịu dùng phương thuốc gia truyền để chữa cho anh. Đó là phương thuốc toàn độc dược, chuyên dùng cho những người bệnh thập tử nhất sinh. Đó là một phương thuốc lâu đời có nguồn gốc từ giới tu đạo. Nó rút ngắn tuổi thọ của người sống nhưng lại có thể mang họ về từ cõi chết.
Suốt một đêm sau khi uống thuôc sanh Ba chỉ ho ra máu. Thầy bảo nếu anh không qua được thì sẽ chết ngay trong đêm. May mắn thay đến lúc sáng, anh Ba Kho mặc dù đuối lắm rồi nhưng vẫn còn thở. Thầy lang bảo chị Ba nấu cháo sâm đút cho anh. Thế là anh sống, trốn thoát một cách ngoạn mục khỏi bàn tay của thần chết. Hôn mê thêm một ngày rồi anh cũng tỉnh lại. Anh Ba Kho muốn hỏi cái gì nhưng nhìn khuôn mặt lo lắng của vợ và hai đứa con nhỏ anh lại thôi. Việc của anh hiện nay là phải chữa khỏi bệnh và sống khỏe. Anh không muốn vợ anh trở thành góa phụ, con anh trở thành trẻ không cha. Anh ngoan ngoãn húp hết bát cháo mà vợ đưa. Mùi tía tô, mùi hành mùi trứng, thơm phức chả hiểu sao khi vào miệng lại đắng nghét. Thế nhưng anh cũng cố nuốt gần hết bát cháo. Anh Ba đang ăn cháo thì nghe thấy bên ngoài có tiếng kèn, tiếng trống, tiếng than khóc vang lên ầm ĩ. Anh Ba Kho nhìn vợ. Vợ anh chép miệng: “Hai mươi mấy người đi cùng lúc thầy nó ạ. Làng phải thu xếp chia thời gian để đám ma nào cũng có đủ người đưa tiễn.”
Hệt như vợ anh nói, đám ma kia vừa đi thì đám ma khác lại tới, cứ nối tiếp nhau, nối tiếp nhau tưởng chừng không dứt. Chị Ba sợ anh không nghỉ ngơi được, định khép cửa sổ lại thì anh Ba Kho không cho. Anh bảo: “Cứ để thế đi.” Anh ngước nhìn ra bên ngoài cửa sổ. Thấp thoáng sau hàng tre xanh là những ngọn phướn đen trắng cứ lầm lũi bước qua. Anh Ba Kho tưởng chừng như nhìn thấy những khuôn mặt quen thuộc sau hàng tre ấy. Bọn họ bước qua, chào anh để về với đất mẹ. Hai mươi mấy người thanh niên trai tráng, hai mươi mấy cái trụ cột gia đình, hai mươi mấy cái sinh mạng, cứ thế bị anh chôn vùi. Giá như anh mặc kệ bảy cái xác, giá như anh không phái người đi tìm giữa đêm, giá như anh phát hiện sự kỳ lại của Bảy Dậu sớm hơn, thì tất cả có lẽ đã khác. Chính sự vô tâm của anh mới chính là tội ác.
Anh Ba Kho lẩm nhẩm đếm số đám ma đi qua. Từ lúc tỉnh lại cho đến hoàng hôn, có trọn vẹn hai mươi bảy cái. Có lẽ nó còn nhiều hơn số người làng chết trong chục năm qua. Cứ nghĩ về bọn họ, anh Ba Kho lại tự trách mình.
-“Cha ơi, cha làm sao thế?” Một tiếng gọi đầy non nớt cắt đứt những suy nghĩ của anh Ba. Anh Ba Kho nhìn ra cửa. Đứa con gái lớn của anh đang nhìn anh bằng một ánh mắt lo lắng. Đôi mắt to tròn mở ra nhìn anh chăm chăm. Hai cánh tay bé xíu đang bưng một bát cháo nóng to. Khuôn mặt xinh xắn lem nhem đầy vết than. Khuôn mặt con bé lấm tấm mồ hôi. Anh Ba Kho vẫy tay. “Cha không sao. Vào đây con.” Con bé chậm rãi bưng bát cháo đặt xuống giường. “Cháo con mới nấu, cha ăn luôn cho nóng” Anh Ba Kho vuốt vuốt mấy vết than đen nhẻm trên khuôn mặt con gái, trong lòng đầy xót xa. Con gái anh mới bảy tuổi. Ở cái tuổi của nó anh còn cởi truồng tồng ngồng theo bạn chơi khắp làng. Mấy ngày qua, hẳn con bé lo cho anh lắm. Nó đâu có làm nên tội tình gì để sống trong cảnh sợ hãi như vậy. Anh Ba Kho quyết định anh sẽ rời xa ngôi làng này. Anh sẽ tìm một mảnh đất nào đó, mang theo gia đình để bắt đầu lại. Anh sợ hãi việc phải tiếp tục sống trên cái vùng đất bị nguyền rủa này. Thấy con gái vẫn đứng chờ, anh xoa đầu con bé hỏi: “Mẹ đâu?”

“Mẹ xuống nhà bà Mai lấy thêm trứng gà.”
Thấy con bé vẫn đứng nhìn, anh đành bưng bát cháo lên, húp mấy miếng. Lúc này con bé mới chịu đi nấu cơm. Ăn xong bát cháo, anh Ba Kho cảm thấy đỡ hơn nhiều. Anh đặt lưng xuống bắt đầu thiếp đi.
Anh Ba Kho ngủ không được bao lâu thì vợ anh về, bàn tay chị sợ lên đầu anh. Chị kê gối, đắp thêm chăn cho anh rồi mới ra ngoài. Chắc là ăn cơm với con. Anh Ba Kho mơ mơ màng màng ngủ tiếp. Mãi cho đến khi một tiếng khóc rấm rứt trong đêm đánh thức anh. Anh Ba Kho cảm thấy tiếng khóc sao mà quen thế. Anh ngồi dậy. Bên cạnh vợ anh đang ngủ ngon lành, chắc mấy ngày nay chị mệt mỏi lắm rồi. Anh Ba Kho vén màn lên. Trong bóng tối, có một bóng trắng đang ngồi trên cái ghế vuông gần cửa khóc rấm rứt. Trong bóng tối, anh Ba Kho cũng không nhìn rõ đấy là ai. Anh đành cất tiếng hỏi: “Ai đấy?” Cái bóng trắng ngừng khóc, ngẩng lên nhìn anh: “Cha ơi, con đây.”
“Cái Bống hả? Sao đang đêm đang hôm lại khóc hả con? Lai đây nào.” Nghe tiếng con gái, anh Ba Kho thở phào. Anh gọi con lại. Trong bóng tối, con bé dò dẫm đến gần bên giường. Khuôn mặt trắng hồng quen thuộc của nó lem nhem nước mắt. Anh Ba Kho vén màn lên, ra hiệu cho con bé ngồi xuống giường.

Cái Bống ngoan ngoãn ngồi xuống giường, nó quệt quệt nước mắt:”Cha ơi, con sợ lắm.” Anh Ba Kho định an ủi con thì bỗng sững người. Thế rồi anh vươn tay ra đánh cho con gái một cái tát, gằn giọng hỏi: “Mi là ai?” Con gái anh liền ngã từ trên giường xuống. Bất ngờ thay, nó cũng không khóc không kêu mà chỉ ngửa mặt nhìn anh chằm chằm, khóe miệng rớm máu nhếch lên cười trông khá dữ tợn. “Làm sao người biết là ta?”
Anh Ba Kho đáp: “Con gái ta thích sạch sẽ, nó sẽ không đi chân đất.” Con gái anh Ba Kho cúi đầu nhìn hai bàn chân trần trắng nõn, gật gật đầu: “Đây là do ta sơ ý. Ta chỉ lấy nguyên bộ dạng của nó lúc nãy trên giường.” Nói rồi con gái anh cười hơ hớ, lộ ra hàm răng trắng ởn: “Còn ta là ai, mi chắc cũng đoán được mà. Mấy đêm trước ta tìm mi một lần, hẳn có hình dạng như thế này.” Nói rồi, khuôn mặt của nó máu thịt bắt đầu bong ra trông thật khủng khiếp. Đám máu thịt ấy bắt đầu nhảy nhót, sau đó gắn lại tạo thành một khuôn mặt mới – khuôn mặt của Bảy Dậu.
Anh Ba Kho rít trong miệng như sợ những người trong gia đình thức giấc: “Mi còn muốn tìm ta làm gì? Chừng ấy cái mạng người chưa đủ hay sao? Mi còn muốn thế nào nữa đây?” Giọng anh giận dữ, đôi mắt anh tóe lửa tưởng chừng muốn bóp chết con quái vật trước mặt ngay tức khắc. Con quỷ nheo mắt cười với anh Ba Kho. “Ồ bây giờ tại sao mi lại không sợ ta nhỉ? Ta nhớ lần đầu báo mộng mi sợ muốn tè ra quần cơ mà.” Nói rồi con quỷ ung dung đứng dậy. Trong bóng tối anh Ba Kho chỉ nhìn thấy cái lưng cao to quen thuộc của Bảy Dậu. Con quỷ lấy cái ghế gỗ đặt vào trong giường, ngay trước mặt anh Ba Kho. Nó bắt đầu ngồi xuống.
-“Ta muốn làm một cuộc mua bán.”

Anh Ba Kho hỏi lại: “Mi muốn thế nào?”
Con quỷ cười to: “Mạng vợ chồng mi, thêm hai đứa con, mỗi người đổi mười mạng thế nào?”
Anh Ba Kho lạnh lùng nhìn nó: “Ta từ chối. Có chết ta cũng sẽ không bán linh hồn cho quỷ dữ?”
Con quỷ cười khà khà:”Mi không sợ chết, không có nghĩa là vợ mi không sợ chết. ” Nói rồi nó đưa tay lên sờ tóc vợ anh. Anh Ba Kho gạt tay nó ra. “Đừng chạm vào người của vợ ta.” Bàn tay nó lạnh buốt như nước hồ vào mùa đông. Con quỷ chỉ cười, nó lại sờ lên người vợ anh.
“Ta cứ chạm, mi làm gì được ta? Không chỉ vợ mà cả con mi nữa. Thế nào, đến đánh ta, cắn ta đi.” Nó đưa ngón tay trỏ lên mặt mình. Anh Ba Kho đột nhiên yên lặng. Anh thì thầm với con quỷ. “Ta không sợ mi đâu. Sức mạnh của mi phải đến cạnh hồ mới có thế giết người. Ở nhà ta, mi cái gì cũng không làm được.”

Con quỷ nghe anh Ba Kho nói vậy, bật cười. “Tại sao mi cho là ta phải đến cạnh hồ mới có thế giết người? Mi không thấy ta đang ở trong nhà mi mặc dù đã khóa cửa kỹ sao?”
Anh Ba Kho nhìn nó. “Nếu mi có sức mạnh để làm hai người khác ngay ở trong làng, ta tin rằng cái làng này đã trở thành làng chết. Mi chỉ có thể làm hại người khác nếu dụ bọn họ đến cạnh hồ. Chiếc giày mà mi để lại hẳn là ẩn giấu một loại phép thuật nào đó, để những người từng tiếp xúc không thể trốn thoát. Nếu không bọn ta chạy xa hồ nước rồi mi chỉ có thể đứng nhìn mà thôi. Sư thầy hẳn là đã thấy được kiếp nạn của ông ấy từ lúc tiếp xúc với cái giày đó.”
Con quỷ vỗ tay mấy cái rất to, than thở với anh Ba: “Thật không ngờ mi ốm đau mấy ngày qua mà còn rất sáng suốt.” Rồi nó lại nhe răng với anh Ba Kho.
“Mi không nghĩ rằng ta sẽ dụ dỗ vợ con ngươi ra hồ sao? Ta có rất nhiều cách để làm điều đó. Sau đó ta sẽ từ từ xé rách linh hồn bọn họ, nhai nuốt và thưởng thức chúng một cách chậm rãi…”
Anh Ba Kho cười nhạt: “Nhà ta đã khóa cửa. Mi muốn làm gì thì cứ làm đi.” Nói rồi anh kéo màn lại, nằm xuống trùm chăn. Bàn tay anh run run. Con quỷ nhếch mép. “Đừng lo, vợ con mi khi xuống dưới đó sẽ không cô độc đâu. Ta cam đoan…”
 
Chương 73: Chương 73: Cái Kết


Đêm đó có lẽ là đêm dài nhất trong cuộc đời anh Ba Kho. Anh không thể nào chợp mắt nổi. Cứ nhắm mắt là anh lại thấy cảnh vợ con bị kéo ra hồ, và biến thành một cái xác chết trôi. Anh biết con quỷ có nhiều quyền năng, nhưng anh chỉ đành đánh cuộc với số phận. Anh không muốn bản thân làm hại thêm bất kỳ ai khác. Hai mươi mấy người là quá đủ với anh rồi. Mãi đến khi gà gáy le te anh Ba Kho mới thở phào nhẹ nhõm. Anh nghĩ có lẽ nên chuyển nhà luôn vào ngày mai.
Việc chuyển nhà của anh Ba Kho gặp nhiều khó khăn. Thứ nhất anh còn ốm quá. Vợ anh không muốn cho anh ra đường chứ đừng nói đi xa. Thứ hai, trong làng xảy ra chuyện, nhà nhà có tang, nhà nhà sợ hãi, chẳng ai muốn giúp anh Ba chuyển nhà mà vợ chồng anh thì không thể tự làm nổi. Khó khăn không ngăn được quyết tâm mang cả nhà đi tránh nạn của anh Ba Kho. Anh bán nhà bán đất một cách vội vã.
Ngay trưa hôm ấy , hai vợ chồng khăn gói quả mướp mang hai đứa con lên một chiếc xe bò rồi đánh xe đi. Cũng không đi được đâu xa, đến tối mịt hai người mới vào được một ngôi làng, chính là ngôi làng của chú Miên đang ở bấy giờ. Đêm đó, anh Ba Kho ngủ rất yên bình trong một căn nhà nhỏ thuê của lý trưởng. Từ đó anh không về lại làng cũ nữa. Vợ chồng anh mua lại một mảnh đất nhỏ, thuê ruộng cày cấy. Thế nhưng nỗi sợ vẫn ám ảnh anh hàng đêm mỗi khi lại nghe được chuyện con ma làm hại người.

Cái tên Kinh Dạ bắt đầu được người dân trong vùng gọi từ ngày đó. Người ta cũng từ từ chuyển đi khỏi những ngôi làng ven hồ. Những bến tàu dần trở nên hiu quạnh. Cũng không ai dám ra hồ bắt cá nữa. Hồ Kinh Dạ đông vui tấp nập phảng phất chỉ trong một năm biến thành một cái hồ hoang vắng như bây giờ.
Mãi sau này, khi gặp lại Du bộ đầu, anh Ba Kho mới biết, sau khi anh rời khỏi hai ngày thì Du bộ đầu mang theo cao nhân của giới tu đạo trở lại. Nhưng họ cũng không thể khống chế nổi con ác quỷ đã trở nên vô cùng hùng mạnh đó. Có khá nhiều người tu đạo cũng bị con quỷ làm hại. Sau cùng người tu đạo đành phải phong ấn những vùng đất quanh hồ Kinh Dạ, và sơ tán dân chúng đi nơi mới. Du bộ đầu và Ba Kho cùng nhau uống rượu suốt một đêm. Sáng hôm sau trước khi rời đi, Du bộ đầu dặn anh nhớ truyền lại chuyện cũ cho con cháu, rồi sẽ có một ngày bọn họ tìm thấy người tiêu diệt con ác quỷ. Khi đó anh Ba Kho và con cháu anh sẽ trở thành người dẫn đường.
Anh Ba Kho làm đúng như lời Du bộ đầu dặn. Đến khi chết, anh vẫn không quên nhắc nhở con cháu về nỗi đau trong quá khứ. Hai mươi năm sau khi anh Ba Kho mất, con cháu của anh đã dẫn đường cho bảy môn phái trừ tà mạnh nhất thời bấy giờ bắt và phong ấn con ác quỷ. Từ đó con cháu anh Ba Kho trở thành người trông coi phong ấn hồ Kinh Dạ. Đến thời chú Miên đã truyền được bốn đời.
**************************
Đó là câu chuyện mà chú Miên kể cho Minh Khánh nghe trong lần đầu gặp gỡ. Hai người cũng không có cơ hội nói chuyện thêm bởi sư phụ hắn muốn mang chiếc hòm trở lại làng Me ngay hôm đó. Trên đường về, nói chuyện với sư phụ, Minh Khánh mới biết rằng con ma dưới khúc sông Lục Bình chỉ là một trong bảy cái xác được dùng để phong ấn ác quỷ hồ Kinh Dạ. Đó là bảy cái xác mà chú Miên đã kể - bảy nạn nhân đầu tiên của nó. Trải qua thời gian dài phong ấn, do tiếp xúc nhiều, cái xác đó bị con ác quỷ ăn mòn dần. Cuối cùng con ác quỷ gửi một phần linh hồn nó vào trong cái xác. Thế là cái xác tự tìm cách phá hoại phong ấn và thoát ra. Thế nhưng linh hồn trong cái xác không điều khiển nổi cơ thể, đành phải trôi theo dòng nước. Không hiểu bằng cách nào, cái xác trôi đến khúc sông làng Me và bắt đầu làm hại người sống.

Biết được nguồn cơn, lại có chiếc hòm chuyên dùng để phong ấn, việc bắt con ma dễ dàng đến không ngờ. Sư phụ chỉ việc lặn xuống sông, tóm cái xác bỏ vào hòm, đậy kín. Sau đó ông dán bùa lên mặt trên cái hòm. Hai thầy trò lại hì hục ngược dòng mang cái hòm về đúng chỗ của nó trên hòn đảo nhỏ giữa hồ Kinh Dạ. Thậm chí người làng Me còn không tin tưởng rằng con ma đã không còn trên khúc sông đó nữa. Chỉ có ông Tư Thồn là cảm nhận được. Ông lại đưa khách qua sông. Mấy lần qua sông an toàn, người làng Me mới hiểu con ma đáng sợ đó đã cách xa bọn họ. Khúc sông làng Me lại yên bình, chẳng ai sợ việc qua sông ban đêm nữa. Thế nhưng có một người không thể quên được cái ký ức đáng sợ đó. Đó là ông Tư Thồn người sống sót duy nhất dưới tay con ma. Một tháng sau khi con ma biến mất, ông Tư cũng biến mất theo. Hỏi vợ ông mới biết ông rời làng lên vùng đất Nam Lan tìm thầy học nghệ. Ông đến làng của dòng họ Phạm và được nhận làm đồ đệ. Mấy năm sau, Minh Khánh và sư phụ mới biết ông đã trở thành người trông coi nhà thờ cho dòng họ Phạm. Sư phụ Văn Sơn còn bảo đó là cái duyên số của ông với nghề bắt ma.
**************************
Trời vẫn mưa tầm tã, nước mưa tí tách rơi xuống trước thềm. Trên hiên nhà, Minh Khánh vẫn dựa vào cây cột ngủ ngon lành. Hắn không biết có một cái bóng trắng nhảy nhót xung quanh hắn, khi thì đứng, khi thì ngồi, lúc thì cười hì hì, lúc lại đăm chiêu suy nghĩ. Cuối cùng, cái bóng trắng dường như lấy hết can đảm, thò tay chạm vào chân của Minh Khánh. Ngón tay trắng trẻo, thon dài của y run run, có vẻ sợ hãi lắm. Thế nhưng khi ngón tay y cách bàn chân Minh Khánh chỉ nửa phân thôi thì sau lưng y vang lên một tiếng “méo” khá to. Cái bóng trắng dường như là ăn trộm bị bắt quả tang, nhảy dựng lên. Thế rồi không đợi Minh Khánh mở mắt ra, nó liền biến mất.
Một lát sau, cái bóng trắng đi vào một túp lều lớn dưới gốc cây cổ thụ cách làng Mía không xa. Trời âm u khiến cho túp lều tối om om. Cái bóng trắng chui vào trong lều, nhìn một đống ma quỷ nằm lăn lóc ngủ, đôi mắt của y trợn lên có vẻ tức giận lắm. Y tiện chân đá luôn một con ma đang ngáy khò khò bên cửa khiến con ma lăn mấy vòng. Sau đó y túm một con ma khác, vo tròn lại thành gối, rồi đặt lên cái chõng gãy làm chỗ tựa. Thế rồi y ngồi phịch xuống dựa lưng lên cái “gối”, miệng thì quát: “Cái đám vô dụng này suốt ngày chỉ biết ăn rồi ngủ”. Con ma bị đá lúc này đã tỉnh lại, hỏi thăm: “Bệ hạ, ai làm ngài tức giận vậy? Ngài cứ nói để thần đi chém chết nó cho ngài.”

Cái bóng trắng vò đầu bứt tai càu nhàu: “Tức chết đi được, tức chết đi được. Trẫm sắp thành công lại bị phá.” Rồi nó chỉ trỏ vào đám ma mới tỉnh lại, còn chưa hiểu đầu cua tai nheo ra làm sao. “Trẫm đã bảo bọn mày đi hộ giá cho trẫm, vậy mà chỉ biết ngủ với ngủ. Nghiệp lớn của trẫm quan trọng hơn hay việc ngủ của bọn mày quan trọng hơn, hả?”
Thấy cái bóng trắng tức giận, một con ma thưa: “Bệ hạ, ngài quên trời sáng rồi hay sao? Bọn thần không có pháp lực cao siêu như bệ hạ, ra ngoài ban ngày là hồn phi phách tán chứ chẳng chơi.” Mấy con ma còn lại cũng gật đầu lia lịa. Cái bóng trắng nghe vậy cũng không nói thêm gì. Một lát sau, đám đàn em mới nghe nó than thở: “Trẫm rất ghét mèo, nhất là mấy con mèo béo.”
 
Chương 74: Chương 74: Lá Bùa Oan Nghiệt (Phần 1)


Gặp lại bà Mun Minh Khánh rất vui mừng. Trưa hôm đó Minh Khánh đãi bà một bữa cơm cá nướng tươm tất. Bà Mun vừa nhồm nhoàm chén cơm, vừa kể cho Minh Khánh nghe về chuyến phiêu lưu của bà. Thì ra trên đường từ chùa Khánh Lương trở về, lúc qua trấn Thanh Đô, bà Mun tình cờ gặp được một người bạn cũ. Đó là một con cáo thành tinh tên là Rau Heo. Hiện giờ nó đang là sủng vật số một của Vân Thanh Nương Nương trên núi Sầm. Bà Mun thấy Minh Khánh lộ vẻ nghi hoặc bèn giải thích. Con cáo có cái tên như vậy bởi vì trước khi thành tinh, nó chỉ là một con cáo tầm thường. Thời bấy giờ ở vùng mà nó sống, việc trộm gà trộm vịt cực kỳ khó khăn và nguy hiểm. Người dân tìm mọi cách để săn lùng những vị khách không mời như nó. Kiếm ăn khó khăn buộc con cáo phải chén rau để sống qua ngày.
Trong một lần vào nhà người ta ăn trộm, bị truy sát gấp quá, con cáo phi thân vào cái máng lợn của nhà chủ. Cũng nhờ đó, nó phát hiện ra một món ngon thú vị là rau heo trộn cám. Thế là những khi đói kém, con cáo lại mò vào tranh ăn rau với đám heo. Sau này trong một lần đang sục mõm trong máng, con cáo vớ được một cây rau khoai lang thành tinh. Thế là con cáo cũng trở thành cáo tinh. Mấy chục năm sau, nó lại vớ được một cây rau muống thành tinh. Lần này con cáo bắt đầu học được phép thuật. Dần dần nó nổi danh trong đám yêu tinh và được đặt biệt danh “Rau Heo”. Con cáo cố gắng từ chối cái tên không lấy gì làm đẹp nhưng không may cho nó, chỉ ít lâu sau nó bị Vân Thanh Nương Nương bắt làm sủng vật. Nàng đưa con cáo về núi Sầm. Từ đó cái tên Rau Heo được gắn liền với con cáo.

Hai người bạn một mèo một cáo sau ba trăm năm mới gặp lại nhau, mừng mừng tủi tủi, nước mắt lã chã. Thế rồi một mèo một cáo cùng nhau thức suốt một đêm trên mái nhà để kể cho nhau nghe chuyện cũ. Tình bạn vượt qua biên giới của giống loài càng trở nên thắm thiết và hữu nghị hơn khi Rau Heo rủ bà Mun đi đánh chén. Như thường lệ bà Mun không bao giờ từ chối những bữa ăn, hơn nữa là những bữa ăn chùa thế này. Hậu quả là trong cơn chè chén quên trời đất, và bà Mun vô tình chậm mất chuyến xe trở về nhà. Thế là bà đi theo con cáo ăn ăn uống uống suốt mấy ngày cho đến khi con cáo cạn tiền phải về núi xin nương nương tiếp viện. Lúc này tứ cố vô thân, không xu dính túi, bà Mun đành lê tấm thân ục ịch nhảy xe ngựa chui để về phủ lộ Bình An tìm Minh Khánh.
Trên đường về, nhờ vào mùi Minh Khánh để lại trên gốc cây, bà Mun mới lần theo dấu vào làng tìm hắn. Ăn no rồi, bà nghiễm nhiên nhảy phốc lên vai Minh Khánh, nằm chiễm chệ. Một người một mèo lững thững trở về nhà ông cụ Trầm để thu dọn đồ đạc. Về đến cửa Minh Khánh đã nghe tiếng cười nói râm ran trong nhà. Bà Mun thì vểnh mũi, “Khịt khịt” mấy tiếng rồi phán: “Chắc chắn có heo quay.” Minh Khánh phì cười, cảm thấy bà càng ngày càng giống họ gâu. Bà Mun không thèm để ý cái nhìn chế giễu của hắn, tiếp tục vểnh râu liếm mép. Bước qua con ngõ nhỏ giữa hàng râm bụt, chưa đến sân thì Minh Khánh đã nghe tiếng cụ Trầm gọi. Hắn đành bước vào căn nhà chính.
Vợ chồng ông cụ Trầm đang tiếp đãi khách. Đó là đôi vợ chồng già có đứa con bị bệnh mà Minh Khánh đã gặp trong đêm. Minh Khánh thấy cụ Trầm gọi bà ta là bà Cung. Hai vợ chồng già thấy Minh Khánh có vẻ mừng rỡ, đều đứng lên, cúi lạy: “Lạy thầy ạ. Thầy đã đỡ bệnh chưa ạ?” Minh Khánh sửng sốt nhưng theo bản năng vẫn cúi thấp đầu đáp lễ lại. “Cảm ơn ông bà đã quan tâm, bần đạo đã đỡ nhiều rồi.” Ông cụ Trầm cười, nói hộ: “Hôm trước, hai ông bà được thầy dặn dò, về nhà làm theo. Hôm nay con trai ông bà đã khỏi bệnh, có thể đi học, đi cày được rồi. Hai ông bà liền sắm sửa lễ mọn đến tạ thầy.” Minh Khánh nhìn trên bàn, trong mâm ngoài nải chuối, còn có một con lợn quay vàng, và một đĩa xôi lớn. Bên cạnh còn có một bao màu đỏ chắc là đựng tiền.
Hai ông bà Cung cũng nói: “Nhờ ơn thầy, con trai chúng con cuối cùng cũng được bình an vô sự. Ơn thầy gia đình chúng con không biết cảm tạ thế nào cho hết. Hôm nay chúng con sắm sửa lễ mọn, của ít lòng thành đến tạ thầy ạ.” Minh Khánh xua tay: “Bần đạo cũng không làm gì to tát cả. Hai ông bà cứ quá lời. Lễ này xin ông bà mang về đi.” Bà Cung thưa: “Ấy chết, xin thầy đừng khách khí. Không có thầy thì đến khi xuống đất vợ chồng chúng con cũng chẳng nhắm mắt nổi vì không biết đời con đời cháu rồi sẽ ra sao. Với thầy chỉ là việc nhỏ, với gia đình chúng con đó là ơn mấy đời không hết.” Hai người cùng cụ Trầm nói mãi Minh Khánh cuối cùng mới chịu nhận lễ.Thế nhưng Hắn chỉ nhận lợn quay, xôi chuối, còn túi bạc, hắn nhất quyết bắt ông bà Cung cầm về.

Trong lúc chờ ông cụ Trầm dọn cơm, ông bà Cung vừa uống nước, vừa kể chuyện cho Minh Khánh nghe. Câu chuyện bắt đầu từ hai mươi năm trước, khi cha mẹ bà Cung mất cùng trong một năm, để lại cho bà Cung căn nhà cùng người em gái ít tuổi. Bà Cung sống cùng một người em gái trong căn nhà thừa kế của cha mẹ. Cuộc sống êm đềm cứ trôi đi cho đến lúc bà Cung lấy chồng. Đó là lúc tình cảm chị em bị rạn nứt. Căn nhà, ruộng vườn bố mẹ để lại trở thành thứ khiến chị em bà mẫu thuẫn với nhau. Có những lúc không giải quyết nổi, phải mời họ hàng, láng giềng đến để giải quyết.
Cuối cùng nhờ vào một số tiền lớn hối lộ cho lý trưởng, bà Cung thắng kiện và chiếm được căn nhà cha mẹ để lại. Cô em gái được bà bồi thường cho một số vàng, nhưng không có nhà phải bỏ làng mà đi. Bà Cung lúc đầu cũng có lo lắng cho em nhưng sau vì công việc đồng áng, buôn bán lại mang thai đứa con đầu long, bà cũng quên mất. Mãi cho đến lúc con trai ông bà được ba tuổi, thì bà mới gặp lại em gái.

Đó là một đêm mưa rả rich. Bà Cung đang ngủ thì có tiếng chó sủa. Bà dựng chồng dậy, nói với ông: “Mình ơi, hình như có ai đang đập cửa.” Chồng bà càu nhàu mấy tiếng rồi cũng đốt đèn, khoác áo đi ra ngoài sân. Bà Cung thì đứng nơi cửa. Gió lạnh từ ngoài thổi vào làm bà run run. Một lúc sau bà nghe chồng hô: “Mình ơi, có ai đang nằm ngoài cửa.” Bà nghe vậy cũng chạy ra ngoài. Chồng bà vội vàng mở cổng. Bà Cung rọi đèn lên. Đó là một người phụ nữ gầy gò với cái bụng to tròn như đang mang thai. Bộ quần áo nâu sồng rách không đủ để che hết da thịt khiến nhiều chỗ tím tái vì lạnh. Lúc này, tóc người phụ nữ xõa r ache hết khuôn mặt khiến bà Cung cũng không nhận ra là ai. Bà Cung giục chồng: “Mình ơi, mau đỡ người ta vào nhà. Lạnh thế này để người ta nằm đây thì chết mất.”
Chồng bà nghe lời đỡ người phụ nữ vào nhà. Bà Cung xuống bếp đun ít cháo nóng. Lúc bà bưng bát cháo lên thì nghe chồng gọi, giọng hoảng hốt “ Mình ơi, mình ơi..” Bà Cung chạy lên nhà thì thấy máu đang chảy ra từ giữa hai chân người phụ nữ. Bà Cung vội giục chồng đi tìm thầy lang. Trong lúc chồng đi tìm thầy, bà Cung định cho người phụ nữ ăn cháo nóng. Vén tóc người phụ nữ lên, bà Cung mới nhận ra đấy là khuôn mặt quen thuộc của em gái. Bát cháo tuột khỏi tay rơi cái choang, cháo nóng văng tung tóe. Bà Cung vừa cảm thấy sợ hãi, vừa cảm thấy đau long, cháo nóng rơi đầy trên chân nhưng bà không để ý, chỉ đưa tay lên vuốt ve khuôn mặt em gái một lúc lâu. Có vẻ như bị cháo nóng làm tỉnh giấc, người phụ nữ mở mắt ra, nhìn thấy bà: thốt lên hai chữ: “Chị ơi!” rồi lại ngất đi.
 
Chương 75: Chương 75: Lá Bùa Oan Nghiệt (Phần 2)


Đêm đó là một đêm dài với bà Cung. Hết chăm sóc cho em gái lại phục vụ điếu đóm, xôi chè cho thầy lang. Hì hục đến sáng thì thầy lang rửa tay, nhìn bà Cung lắc đầu. Bà Cung quá sợ hãi, mếu máo níu tay thầy: “Thầy ơi, mong thầy cứu lấy em gái tôi.” Thầy lang nhìn bà đầy thương hại nói: “Tôi đã cố hết sức rồi. Hoặc mẹ hoặc con bà phải chọn lấy một.” Bà Cung nghe vậy trong lòng liền có quyết định. Em gái bà còn trẻ, sau này còn có thể có con. Bà chẳng thể nào hi sinh đứa em gái ruột thịt để đổi lấy giòng giống của một người đàn ông xa lạ. Bà nắm lấy tay em gái. Bàn tay gầy gò, dường như chỉ còn da bộc xương, lạnh ngắt như khối đá mài bên giếng mùa đông.
Bất chợt, trong cơn hôn mê, dường như nghe được lời thầy lang, em gái bà bừng tỉnh, thều thào gọi: “Chị ơi, chị ơi…”
-“Chị đây, chị đây…”
Bà Cung vội vỗ về em, ghé sát tai vào để nghe em nói. Hơi thở mỏng manh yếu ớt của em gái thoảng qua tai làm bà suýt rơi lệ. Bà cố gắng nghe từng từ một trong tiếng thở đứt quãng của cô: “Chị ơi, hãy cứu lấy đứa bé. Em cầu xin chị….” Cô nói đến đây rồi lại ngất đi. Bà Cung không thể nhịn được nữa òa lên khóc nức nở. Nghĩ tới cuộc sống hạnh phúc bên chồng và con những năm qua, bà cảm thấy có lỗi với em gái biết nhường nào. Trong đầu bà thoáng qua những cảnh tượng về cuộc sống khốn khổ của em sau khi bỏ làng ra đi. Bà phải bồi thường cho em gái cuộc sống hạnh phúc mà bà đã nỡ cướp đi. Thế là bà gạt nước mắt nói với thầy lang: “Mong thầy cứu lấy em gái tôi.” Thầy lang gật đầu.
Ba ngày sau em gái bà Cung tỉnh lại. Câu đầu tiên mà cô hỏi là:”Con của tôi đâu?” Thấy bà Cung im lặng, dường như đã biết trước kết quả, cô òa khóc. Bà Cung định vỗ về thì bị cô đẩy ngã xuống giường. Bà Cung lại đứng dậy, vỗ về em gái. Cô lại xô ngã bà, rồi trùm kín chăn, vừa khóc vừa gào lên:”Cút đi! Chị mau cút đi!!!” Tiếng gào thảm thiết của cô khiến cả làng đều nghe thấy, còn bà Cung thì choáng váng sây sẩm mặt mày và nằm lăn ra đất. Mãi đến khi chồng bà đến đỡ bà dậy bà mới tỉnh táo đôi chút. Từ ngày hôm đó, em gái bà không chịu nói chuyện với bà, cũng không để bà chăm sóc. Mỗi lần vào phòng, bà Cung cũng đành rơi nước mắt đi ra.

Cứ thế suốt một tuần, dường như đã nguôi ngoai, em gái bà mới mở miệng, yêu cầu bà dẫn ra nơi mộ con. Bà Cung thấy em gái chịu nói chuyện, mừng lắm, liền ra chợ sắm lễ mang về cho em. Hai chị em dìu nhau ra nghĩa địa đầu làng. Đến nơi, không cần bà Cung phải chỉ, cô em gái liền sụp xuống ôm lấy nấm mồ bé nhỏ mà khóc:
-“Con ơi sao con nỡ bỏ mẹ con ơi. Cha con đi rồi, con cũng đi nốt giờ mẹ biết sống sao con ơi. Con ơi là con ơi.”
Hôm đó em gái bà Cung khóc ròng suốt một buổi sáng. Trong lúc an ủi, bà Cung cũng lờ mờ nghe được câu chuyện cũ. Em gái bà dường như đã được một môn phái tu đạo nào đó thu nhận. Đó là một môn phái mà tất cả đệ tử đều là nữ và ở đó tất cả mọi thứ liên quan đến đàn ông đều bị cấm. Thế rồi một ngày xuống núi mua sắm đồ đạc, em gái bà gặp phải người đàn ông của đời mình. Tình yêu chớm nở rồi đơm hoa kết trái nhanh chóng. Lúc mà hai người lên kế hoạch đi trốn thì cũng là lúc chưởng môn phát hiện. Bà ta liền phái người truy đuổi em gái bà Cung suốt một trăm dặm. Cho đến lúc sơn cùng thủy tận, em gái bà Cung mới phát hiện ra rằng trên người có dấu ấn của môn phái để lại. Và nếu không xóa đi dấu ấn đó, cho dù trốn đến chân trời góc bể thì cũng sẽ bị tìm thấy.
Để vợ con được sống, người đàn ông cầm theo mảnh da còn đẫm máu vừa cắt ra ấy, đâm đầu xuống dòng thác dữ. Những người trong môn phái của em gái bà Cung tiếp tục đuổi theo dọc theo dòng thác. Cô em gái đau đớn chết lặng chẳng biết đi đâu đánh trở về nhà mẹ đẻ. Đường xá xa xôi, cái bụng mỗi lúc một to khiến cô không thể đi bộ, chả mấy chốc cô hết sạch tiền. Cô liền bán trang sức, quần áo hay bất cứ thứ gì có thể bán được, cho đên lúc trên người chỉ còn lại một bộ quần áo nâu rách rưới. Oan nghiệt thay, lúc về được trước cửa nhà, mệt mỏi, đau đớn, kiệt sức quật ngã cô. Trong cơn mưa lạnh, đứa con, niềm an ủi duy nhất còn lại của cô cũng bị mất.

Chiều hôm đó, khó khăn lắm bà Cung mới đưa được em gái về nhà. Ăn hết chén cháo, em gái bà nói buồn ngủ. Thấy em gái nhắm mắt, bà Cung cũng tạm an lòng. Thế nhưng sáng hôm sau em gái bà Cung biến mất. Chiếc giường lạnh ngắt như chưa từng có ai nằm đó cả. Bà Cung hốt hoảng tìm kiếm nhưng không thấy.
Bà thậm chị còn chạy ngược chạy xuôi, nhờ cả xóm tìm giúp nhưng cũng chẳng ai thấy em gái bà đâu. Cho đến khi vợ chồng bà Cung ra ngôi mộ của đứa trẻ bất hạnh, mới phát hiện ra ngôi mộ đã bị ai đó đào mất. Sau đó, bà Cung thậm chí còn lên huyện bỏ tiền thuê người ta dán cáo thị tìm em gái. Nhưng cứ như hòn đá rơi xuống sông, cô em gái của bà biến mất mà chẳng hề có lấy một tin tức gì.
Vài năm sau, đứa con trai lớn duy nhất trong nhà bị bệnh. Bà Cung chạy chữa mãi chẳng khỏi cho đến lúc gặp Minh Khánh. Nghe lời “thầy” khuyên, bà Cung đi về, lật hết ba thước đất trong nhà lên. Cuối cùng, sau khi chui vào dưới gầm giường con trai, bà tìm thấy một lá bùa dán ở đó. Là bùa dính đầy tro bụi nhưng những đường nét đỏ tươicủa nó vẫn tươi mới như vừa mới được viết ngày hôm qua. Những nét chữ sắc như dao màu máu trên lá bùa cực kỳ quen thuộc. Bà Cung lập tức nhận ra đó là chữ của cô em gái. Câu chuyện đau lòng nhiều năm cuối cùng cũng hé mở.
Nhìn những giọt nước mắt lăn dài trên má bà Cung, Minh Khánh chợt cảm thấy thương cảm cho số phận hai người phụ nữ xấu số. Số phận đã biến họ thành những người xa lạ. Và đến khi họ tìm về với nhau, thì lại lập tức bị tách rời, và còn gieo cho nhau những nỗi đau không thể xóa đi nổi.

Câu chuyện của bà Cung khiến Minh Khánh nhớ tới câu chuyện nhiều năm trước. Một lần hắn theo sư phụ đi thăm bạn - một vị trụ trì trên núi Đại Quyết. Đó là một nhà sư tốt bụng, nhiệt tình giải đáp bất cứ điều gì mà Minh Khánh hỏi. Trước khi Minh Khánh rời đi, nhà sư có kể cho hắn nghe một câu chuyện, và mong hắn ghi nhớ. “Chuyện là một nhà buôn nọ có một con lừa và một con ngựa. Con ngựa vì không muốn chở nặng nên giả vờ đau, bắt con lừa chở hết đồ đạc. Rồi con lừa mệt quá, chết đi. Thế là con ngựa không những phải chở tất cả hàng hóa của con lừa, mà còn cả tấm da lừa nữa.” Lúc đó Minh Khánh còn bé lắm nên không hiểu. Nhưng càng trải qua nhiều sóng gió, hắn càng thêm thấm thía những gì ẩn sâu phía sau câu chuyện nhỏ đó. Với Minh Khánh, con ngựa mà vị trụ trì kể đại diện cho tâm hồn của hắn. Nếu như nó không ích kỷ, không độc ác, biết tha thứ và yêu thương kẻ khác, thì chẳng bao giờ phải nhận những đau đớn, những mệt mỏi, những gánh nặng mà mình đã gây ra.
Phật pháp dạy rằng:”Người khác đối xử với thí chủ như thế nào, đó là nghiệp của họ. Thí chủ đối xử với người khác như thế nào, đó là nghiệp của thí chủ” Bất kể là ai, vua chúa, quan tướng, công hầu, hay người tu đạo, anh đối xử với kẻ khác như thế nào thì người khác cũng sẽ đối xử với anh như vậy. Anh có thể có quyền uy, có sức mạnh bắt kẻ khác cúi đầu, nhưng đừng mong họ sẽ thân thiết và chân thành như những người tốt với họ. Nhưng nếu anh dùng cả trái tim để mà đối đãi người khác, thì chẳng ai lại căm ghét anh.
Có lẽ với bà Cung cũng vậy. Chỉ cần chạm vào lá bùa, Minh Khánh biết pháp lực và đạo tâm của em gái bà Cung đã đạt đến mức thượng thừa. Người phụ nữi ấy có thể dễ dàng giết chết gia đình bà Cung với một vài lá bùa đơn giản. Nhưng có lẽ vì nhìn thấy sự hối hận và tình yêu thương chân thành của bà Cung, cô gái chỉ để lại một lá bùa duy nhất, phức tạp hệt như những tâm tư trong lòng để trừng phạt bà Cung. Dường như cô em gái đã quên hết những lỗi lầm của bà Cung trong quá khứ. Cô chỉ câm hận việc bà Cung không hi sinh cô để giữ lấy đứa con.
****************************
Minh Khánh không biết ngay lúc đó, cách nhà cụ Trầm hai trăm dặm về phía tây Bắc, trên một ngọn núi mờ ảo, trong một căn phòng lớn, có một người phụ nữ đang ôm ngực đau đớn. Đó là một người phụ nữ xinh đẹp, với đôi mắt sắc sảo. Cô mặc một chiếc váy màu đen đẹp đẽ quý phái, ngồi trên một chiếc sập gụ khắc hình long phượng to lớn, uy nghi. Phía sau chiếc sập gụ là một tấm bình phong sơn thủy làm bằng vải lụa cực kỳ quý giá. Người phụ nữ trên sập gụ dường như rất đau đớn, đôi mày liễu nhíu lại, hai tay ôm chặt lấy ngực, mồ hôi toát ra như tắm.

Nếu như bà Cung có mặt ở đây, hẳn sẽ nhận ra ngay đó là người em gái mất tích mà bà vẫn hằng mong nhớ. Người phụ nữ bỗng ngước nhìn lên. Bên ngoài căn phòng có tiếng bước chân nhè nhe. Người phụ nữ hơi cau mày, có vẻ không vui, nhưng khi nhìn thấy người đến là một bóng dáng quen thuộc, thì đôi mắt liền trở nên hiền hòa. Từ ngoài cửa, một cô gái trẻ đi vào. Cô mặc một bộ váy trắng nhạt, xung quanh sương mờ cứ liên tục tỏa ra, che kín thân hình. Cô gái mặc váy trắng vừa đi vào, thấy người phụ nữ đang ôm ngực, liền hoảng hốt kêu lên: “Thiết Thụ tỷ, tỷ làm sao vậy? Tỷ đau ở đâu à?”
Người phụ nữ ngồi trên sập gụ liền vẫy tay ra hiệu cho cô gái lại gần: “Băng Sơn, lại đây, ta không sao.”Rồi dường như quên hết mọi đau đớn, người phụ nữ chỉ tay cho cô gái trẻ ngồi xuống bên sập gụ, vui vẻ cười nhạo: “Đường đường là Băng Sơn đại vương của quân đoàn Ám Dạ, lại hoảng hoảng hốt hốt, sau này bọn thủ hạ ai còn nghe lời.” Cô gái trẻ làm mặt quỷ với người phụ nữ, rồi sà vào lòng nàng: “Đứa nào không nghe thì vứt cho Thiết Thụ tỷ xử lý hết là xong.” Thiết Thụ mỉm cười, vuốt ve tóc của cô gái trẻ như mẹ âu yếm con gái. Đột nhiên nàng lại cau mày, ôm lấy ngực, ra vẻ đau đớn. Băng Sơn lập tức ngồi dậy, kêu: “Thiết Thụ tỷ lại đau à?” Thiết Thụ lắc đầu giải thích: “Chỉ là một cái tâm huyết lá bùa bị người ta phá mất.” Băng Sơn kêu lên: “Kẻ nào có thể phá Tâm Huyết chú của tỷ? ” Thiết Thụ không trả lời, chỉ nhìn về nơi xa xăm.
Một lúc lâu sau, nàng mới cất giọng, tựa như nói với Băng Sơn, tựa như thủ thỉ với chính mình: “Cũng đã mười mấy năm rồi. Thôi cứ để nó kết thúc đi. Hồng trần nhân quả, thực sự khiến người ta quá mệt mỏi.”
Chú thích: Thiết Thụ Địa Ngục: Phàm những người trên dương gian chia rẽ cốt nhục, li gián cha con, anh chị em và vợ chồng, sau khi chết sẽ bị đày xuống “Thiết Thụ Địa Ngục”. Trên thân cây đều là những lưỡi dao sắc, cắm vào người từ sau lưng rồi treo lên trên cây.
 
Chương 76: 76: Con Đường Không Bằng Phẳng


Ăn xong bữa cơm trưa cùng vợ chồng bà Cung và ông cụ Trầm, Minh Khánh lại tiếp tục tìm đường trở về huyện Tân Phúc.

May thay, hắn tìm được một chiếc xe ngựa trong làng.

Ông chủ chiếc xe cũng muốn chở đồ ra huyện Tân Phúc bán nên cho hắn và bà Mun thuê một chỗ.

Vì xe ngựa nhiều đồ nên tốc độ không nhanh lắm.

Minh Khánh ôm bà Mun ngồi lắc lư lắc lư rồi ngủ thiếp đi lúc nào không biết.

Gió mát thổi lồng lộng khiến ông chủ xe ngựa cũng gật gà gật gù liên tục.

Ông không nhận ra chiếc xe ngựa đã đi vào địa phần cầu Bùn từ lúc nào.

Bóng tối, tiếng chim cú mèo và những tiếng ộp oạp của lũ ếch đến rất nhanh.

*************
Cầu Bùn đây là một địa danh nổi tiếng, là giao điểm giữa huyện Diễn Châu và huyện Tân Phúc.

Ba trăm năm trước, nơi đây nổi tiếng là một cây cầu ma quái.

Có vô số người mất tích khi đi lại những vùng gần cây cầu này.

Mãi đến khi các môn phái trừ ma nổi tiếng giới tu đạo đến, người ta mới biết rằng cây cầu này nằm trên một vùng đất bị nguyền rủa.

Trong trận chiến của người tu đạo năm trăm năm về trước, nơi đây là cả một ngôi làng lớn với cả ngàn người sinh sống.

Nhưng rồi nó vô tình bị cuốn vào, và những lời nguyền tìm đến.

Những người trong làng không thể thoát đi đâu cả, họ ở trong ngôi làng và chìm sâu cùng bùn đất.

Qua nhiều năm sau nó biến thành một vùng bãi lấy lớn mà người ta phải làm cầu mới đi qua nổi.

Những lời nguyền rủa đã đi vào dĩ vàng theo ngôi làng, nhưng những oan hồn trong đó thì không bao giờ biến mất.

Hàng đêm chúng vẫn rít gào bằng những lời ca du dương thảm thiết để dẫn những kẻ lạc lối vào vùng đầm lầy, sau đó khiến bùn đất nuốt trọn những kẻ xấu số.

Các môn phái trừ tà đã đào núi, đắp đất để tạo nên năm ngọn đồi xung quanh, rồi dùng trận pháp phong ấn những hồn ma đó lại.

Từ đó không còn ai bị mất tích khi đi qua đây nữa.


Thế nhưng cái tên Bùn được gắn liền với cây cầu vì những ký ức đáng sợ trong quá khứ.

Lúc này cách cầu Ma không xa, trong bãi lầy, có vài bóng người đang đốt đuốc lội bì bõm.

Người đi trước là một gã thanh niên trẻ tuổi.

Y dong dỏng cao và có nước da ngăm ngăm đen.

Nếu như Minh Khánh ở đây, hẳn sẽ nhận ra y chính là thằng Ca, con của ông chủ quán ăn bên đường mà từng được hắn cứu ở làng Ma.

Đó là trận chiến kinh hoàng khiến Minh Khánh suýt mất mạng, nếu Thiên Nhãn không mở ra đúng lúc.

Thằng Ca lúc này không biết kiếm đâu được một bộ đồ đạo sĩ rộng thùng thình và đôi ủng da, dẫn đầu mấy gã thanh niên khác lùng sục trong các bụi cây rậm rạp.
Thế rồi dường như mệt mỏi, có một gã thanh niên kêu lên: “Ca huynh, chúng ta trở về thôi.

Đệ mệt quá rồi.” Thế rồi gã ngồi xổm xuống một bụi cỏ rậm, thở hổn hển.

Thằng Ca không nói gì, cũng không để ý đến đàn em, vẫn hăm hở tìm kiếm.

Dường như y biết được thứ mình muốn tìm đang ở đây.

Thi thoảng y lại tự lẩm nhẩm điều gì một mình.

Sự hưng phấn khiến cánh mũi y cứ phập phà phập phồng.

Đôi mắt hơi nheo lại vì mồ hôi.

Y vung tay gạt hết mồ hôi trên mặt, mặc cho bụi bẩn bám hết lên, thế rồi tiếp tục vung mạnh con dao quắm vào những bụi cây gần đó.

Bỗng nhiên, “A” gã thanh niên vừa ngồi nghỉ kêu lên.

Gã bỗng bật dậy, hai tay xoa xoa mông.

Cả đám nhìn lại thì thấy mông y đang chảy máu, ướt đẫm một vạt quần.

Cả bọn bắt đầu cười ầm lên, cười rũ cười rượi, có đứa còn lăn ra cỏ mà cười.

Chỉ có thằng Ca là không cười.

Mắt y sáng lên, nhìn chằm chằm vào chỗ gã thanh niên vừa ngồi.


Thằng Ca tiến lại, bắt đầu phủi đi đất và cỏ bên trên, lộ ra một cây kim nhỏ dính máu.

Không biết đã qua bao nhiêu năm nhưng cây kim vẫn sáng bóng loáng như vừa mới chôn hôm qua.

Thằng Ca bắt đầu bới đất xung quanh lên.

Đám đàn em thấy thế cũng biết ý hùa vào giúp, cuối cùng món đồ mà thằng Ca tìm kiếm mấy ngày nay cũng hiện ra trước mắt mọi người.

Đó là một con hình nhân bằng vải, lớn bằng hai con bò.

Con hình nhân rất đẹp, màu đỏ chót, được thêu hoa bằng những mũi kim tuyến thành những đường cong huyền ảo.

Phía trên mặt chỉ có cái miệng được khâu lại.

Xung quanh đó là ba mươi sáu điểm nút được khâu lại bằng ba mươi sáu mũi kim theo hình xoắn ốc.

Thằng Ca đào con hình nhân lên mừng lắm, nói với đám đàn em: “Ngon rồi, tối nay tao sẽ thết chúng mày một bữa thịt cầy nhớ đời.

Đi, đi về.” Cả đám đàn em reo hò.

Thế rồi cả lũ hăm hở đi về.

Con hình nhân to lớn nhưng nhẹ nhàng được hai gã đàn em xỏ đòn gánh khiêng lên.

Thằng Ca đi ngay bên cạnh, ánh mắt nóng bỏng không rời con hình nhân.

Cũng phải thôi, nó là món đồ khởi nghiệp của gã mà.

Nhớ cái ngày đi vào làng Ma suýt mất mạng, đúng như các cụ nói : “Tái ông thất mã, nhân họa đắc phúc”, thằng Ca gặp được một cơ duyên lớn.

Chuyện là gã thợ nuôi quỷ Lê Tấn sau khi bị con ác quỷ trong làng giết chết, ba hồn bảy vía không tan biến đi.

Ngược lại gã dùng âm khí được tích lũy cả trăm năm trong làng để tự cô đọng mình, sau đó biến thành một con bướm ma.

Đêm hôm đó trong lúc chạy khỏi ngôi làng, con bướm vô tình gặp được thằng Ca.

Thằng Ca lúc đấy cũng đang sợ chết khiếp làm con bướm dễ dàng tiếp cận được.


Đêm hôm đấy con bướm ma báo mộng cho thằng Ca, bắt đầu lừa gạt y đi lên con đường thợ nuôi quỷ.

Thằng Ca một phần vì thèm khát sức mạnh siêu nhiên, một phần không muốn nối nghiệp cha làm một gã chủ quán ăn bên đường, quyết tâm trở thành thợ nuôi quỷ.

Y trở lại ngôi làng Ma – lúc này đã không còn con ác quỷ nữa, và tìm được di hài của Lê Tấn.

Thực ra thì xác Lê Tấn đã bị đốt trụi bởi lửa địa ngục trong lúc ngôi nhà cháy, thế nhưng cái xương sọ tinh hoa nhiều năm tu luyện của gã vẫn còn lại một ít.

Thằng Ca lấy được mấy mảnh xương và chiếc chìa khóa đến căn hầm bí mật của Lê Tấn trong làng.

Bằng một loại bí pháp kì dị, thằng Ca đã nhét được con bướm ma vào trong mấy mảnh xương sọ và mở được căn hầm đã phong ấn kỹ.
Thế rồi y lấy được quyển “Nuôi quỷ bí truyền” và bắt đầu nuôi nấng quỷ.

Nhờ Lê Tấn, thằng Ca lúc này mới bắt đầu hiểu biết về lịch sử của nghề nuôi quỷ.

Nghề nuôi quỷ được bắt nguồn từ cả ngàn năm trước, vào thời hoàng kim của giới tu đạo.

Thời đó giới tu đạo được mô tả là trăm hoa đua nở, mỗi năm lại có không ít môn phái và bí kíp ra đời.

Cứ mỗi độ xuân về, lại có thêm hàng chục người được phong làm Chân nhân, hàng chục môn đạo pháp được phong thành Thần thông.

Thậm chí những người chuyên nghiên cứu lịch sử giới tu đạo còn gọi những thời kỳ sau đó là “Mạt pháp” khi so sánh với thời hoàng kim bấy giờ.

Và nhắc đến thời hoàng kim, có một người mà bất cứ chuyên gia lịch sử nào trong suốt hơn ngàn năm cũng không thể không nhắc tới.

Người đó là “Quỷ đạo nhân”.

Ông được biết đến như một kẻ điên, nhưng cũng là một trong những người uyên bác và lỗi lạc bậc nhất trong suốt chiều dài lịch sử.

Người ta nói đến ông là nói đến một kẻ say mê quỷ đạo, yêu thích những linh hồn đã chết, đam mê với lệ quỷ, ác quỷ, ngạ quỷ, thậm chí tự tay nuôi dưỡng không ít quỷ vương.

Ông cũng là người đặt nền móng cho Ngự Quỷ Phái, môn phái hùng mạnh nhất giới tu đạo.

Thậm chí thời đầu chiến tranh của người tu đạo, Ngự Quỷ Phái một mình chống lại tất cả những môn phái khác mà không hề thua kém bao nhiêu.
Và đã nhắc tới Quỷ đạo nhân, không thể không nhắc tới tất cả tinh hoa trí tuệ, mồ hôi xương máu mà ông để lại cho những đời sau – bí kíp “ Thiên Quỷ Bí Truyền” - một cuốn sách độc nhất vô nhị trong suốt chiều dài phát triển của giới tu đạo.

Người ta đánh giá rằng chưa từng có một quyển bí kíp nào có ảnh hưởng mạnh như nó.

Tám trăm năm sau ngày nó sinh ra, tất cả những môn phái, những phép thần thông, đạo pháp có liên quan đến quỷ và trừ tà đều được bắt nguồn hoặc lấy cảm hứng từ nó.

Thậm chí người được xem là ông tổ của nghề trừ tà sau chiến tranh tu đạo là Kim Thiền chân nhân cũng thừa nhận rằng ông có thể được như vậy là do thừa hưởng một số trang sách của cuốn “Thiên Quỷ Bí Truyền”.

Cuốn nuôi quỷ bí truyền trong tay thằng Ca chỉ là một phần rất nhỏ được ứng dụng từ cuốn sách trứ danh đó.

Sau chiến tranh, Ngự Quỷ Phái bị chia cắt thành nhiều phái nhỏ và sống dưới bóng tối của thời đại, trong đó chủ yếu chia làm hai dòng chính: “Dưỡng Quỷ Đạo” và “Nhập Quỷ Đạo”.


Lực lượng chủ yếu của Dưỡng Quỷ Đạo là thợ nuôi quỷ còn Nhập Quỷ Đạo là thợ săn quỷ.

Vì cả hai dòng đều bị người tu đạo đuổi giết chí tử nên số lượng của bọn họ cũng hao dần đi theo thời gian.

Nuôi quỷ bí truyền cũng dần ít được biết đến.

Đến thời của Lê Tấn, những kẻ đích truyền của dòng dưỡng quỷ đã chỉ có thể đếm được trên đầu ngón tay.
Từ ngày lấy được cuốn sách, thằng Ca bắt đầu mê mẩn trong sự huyền bí lớn lao của nó.

Y trở thành một thợ nuôi quỷ rất nhanh.

Thế nhưng những con quỷ trong vùng mà y đang sống quá yếu ớt để có thể giúp y thu thập được nhiều công đức hơn.

Y cần những con quỷ hùng mạnh.

Lúc này hồn ma Lê Tấn đang ngụ trong mấy mảnh xương bắt đầu chỉ dẫn cho thằng Ca đến cầu Bùn.

Lê Tấn biết nơi đó còn tồn tại một số lượng quỷ rất lớn đang bị phong ấn, thỏa sức cho thằng Ca nuôi dưỡng.

Thằng Ca bắt đầu dung đám quỷ lâu la đang nuôi đi lừa bịp tiền của đám người giàu trong những ngôi làng xung quanh.

Sau khi thu được một khoản kha khá, y liền khăn gói lên đường đi đến cầu Bùn.

Nhưng vùng đó quá rộng để một mình hắn có thể tìm kiếm.

Vì thế thằng Ca rủ them đám đàn em trong làng đi cùng.

Đến vùng cầu Bùn thằng Ca mua tạm một căn nhà hoang gần đấy cho đám đàn em tá túc, còn mình thì bắt đầu sắm sửa các loại nguyên liệu để thực hiện pháp thuật.

Dưới sự chỉ đạo của Lê Tấn, phép thuật quả nhiên thành công dễ dàng, nó chỉ dẫn cho thằng Ca tìm đến nơi có nhiều lệ khí nhất trong vùng đất chết.

Quả nhiên thằng Ca cuối cùng cũng tìm được con hình nhân khổng lồ.

Mặc dù đã bị phong ấn nhưng cả thằng Ca và Lê Tấn vẫn có thể cảm nhận được nguồn sức mạnh khủng khiếp bên trong con hình nhân bằng vải.

Thằng Ca cũng không biết mô tả như thế nào, nhưng từ khi tiếp xúc với con hình nhân, máu của y cứ như muốn đông lại.

Trái tim đập thùng thùng khiến y nghe rõ ràng từng nhịp một.

Thằng Ca nhận ra Lê Tấn cũng không hề muốn đến gần con hình nhân.

Có vẻ như y cũng đang sợ hãi nó.

Thậm chí từ vùng đất chết cho đến lúc về tới nhà, cả hai không hề nói chuyện với nhau một câu nào.

.

 
Chương 77: 77: Con Đường Không Bằng Phẳng Phần 2


Bóng đêm trên con đường vào làng thật heo hút.

Lúc này cũng không còn sớm nữa.

Ở quê vì để tiết kiệm dầu nên người ta thường đi ngủ sớm.

Trong làng chỉ có đôi nhà còn lại ánh đèn.

Thằng Ca không định quay lại nhà vì sợ người người trong làng phát hiện ra chuyện mình đang làm.

Gã quyết định kéo đám đệ về nhà thằng bé Đảm, cái đứa vừa bị đâm kim lúc nãy.

Nhà thằng Đảm ở trong xó làng, chỉ có một túp lều lụp xụp.

Cả nhà nó chết trong trận lũ năm kia, bỏ lại một mình thằng bé sống vất vưởng qua ngày.

Thằng Đảm cũng không phải loại lười nhác.

Hàng ngày nó đi làm công cho nhà giàu trong làng, thời gian rảnh đi theo đám thanh niên bắt chuột bắt cá bán lấy tiền.

Vì thế túp lều bé của nó khá sạch sẽ.

Thằng Ca quen nó vào dịp đến đây tìm mua nhà, chả mấy chốc mà thân thiết như anh em.
Lúc hai đứa đàn em thả con hình nhân vải xuống, thằng Ca như dỡ được gánh nặng.

Y gom củi lại rồi đốt lửa lên.

Căn nhà nhỏ bé bắt đầu sáng dần và ấm áp.

Cả sáu người quây quần bên bếp lửa để sưởi.

Từ cái vùng bùn đất trở về, đứa nào cũng lạnh run.

Thằng Đảm móc đâu ra một túi khoai giống, thứ duy nhất có thể ăn được trong nhà, lùi vào bếp nướng.

Cả lũ vừa ngồi chờ khoai chín vừa tán phét.

Có đứa nhắc đến bữa thịt cầy ngày mai, chảy hết nước dãi.

Đứa nào mà không biết anh Ca nấu ăn ngon lắm.


Thằng Ca thì ôm bụng tâm sự nằm xuống ngủ.

Việc đào được con hình nhân khiến y chả buồn ăn uống gì, cứ thế mặc cho lũ em lúi húi nướng khoai.

Thế rồi y ngủ thiếp lúc nào không hay.

Trong năm đứa đàn em của thằng Ca, thì thằng Củi mới là thằng bạo gan nhất Từ bé nó đã lì lợm rồi, trộm gà trộm chó không việc gì mà nó không làm.

Nhà người ta có tang, bốc mộ đều có tay nó đi giúp.

Lần đó vào làng Ma cũng là nó với thằng Ca thách đố lẫn nhau.

Thằng Ca vào làng xong đi ra mà không việc gì khiến thằng Củi phục lắm.

Từ đấy nó tự nhận là “đệ anh Ca”, suốt ngày làm cái đuôi hầu trà nước.

Thằng Củi vừa thổi phù phù, vừa ăn khoai nướng, vừa kể mấy câu chuyện rùng rợn cho bốn thằng còn lại nghe.

Đêm cũng khuya lắm rồi.

Thằng bé Đảm nghe thằng Củi kể chuyện có hơi sợ.

Cái kim đâm vào mông càng khiến nó nhức nhối.

Nó lấy cớ đi tè liền chuồn ra khỏi nhà, ra bụi cây kiếm ít lá thuốc đắp mông.

Lúc ra vườn, thanh củi cháy cầm trên tay bị gió thổi nên cháy lúc to lúc bé.

Ánh lửa leo lét chỉ đủ cho thằng bé Đảm soi dưới chân cho khỏi vấp ngã.

Đến góc vườn, thằng Đảm mò được mấy búp ổi non.

Nó cho vào miệng nhai nát rồi đắp vào mông cho đỡ xót.

Xong xuôi, nó tụt quần tè luôn một bãi vào gốc ổi.

Đang tè thì chợt thằng bé Đảm thấy là lạ.

Tự dưng gió bỗng ngừng thổi.


Cây cối trong vườn cũng hết xào xạc.

Tất cả bỗng im phăng phắc.

Càng kỳ lạ hơn là tiếng nước chảy cũng không có.

Thằng bé Đảm thấy lành lạnh.

Trong đầu nó bắt đầu tuôn ra vô số chuyện ma quái mà thằng Củi kể lúc nãy.

Nó mặc kệ chưa giải quyết xong, kéo vội quần chạy ù té vào nhà.

Bỗng chưa chạy được mấy bước thì nó đâm sầm vào cái gì mềm mềm.

Thằng bé Đảm ngã ngửa ra, thanh củi văng ra bên cạnh tắt ngúm.

Thằng bé Đảm ngước mặt lên.

Trong bóng tối mờ mờ, nó vẫn thấy được rõ ràng đó là một con ma với trùm đầu màu trắng.

Cái miệng nó đang nhồm ngoàm như đang nhai cái gì.

Lúc này nước tiểu từ trong quần thằng bé Đảm tiếp tục tuôn ra.

Cả người nó cứng đơ như khúc gỗ, muốn hét lên mà cái lưỡi cứ nhíu lại trong cổ họng.

Những giọt mồ hội chảy dài trên mặt khiến nó lạnh buốt.

Đôi môi run lập bập như người bị sốt rét.

Đột nhiên con ma hét lên : “A..

A..A” rồi ghé sát mặt vào thằng bé Đảm.

************************
Lúc này trong một túp lều nhỏ cách làng Mía không xa, quỷ vương và đám đàn em đang tụ tập đánh cờ tướng.


Gần đây quỷ vương bỗng ham mê trò này nên sai thằng Quét Rác vào làng trộm một bộ.

Lúc này quỷ vương đang hí hửng ngồi vắt chân nhìn đối thủ bị chiếu bí.

Gã rung đùi phất phất chiếc quạt nan, miệng ngâm nhẹ một câu chèo từ thời còn sống.

Đối thủ của gã là thằng đệ Kéo Xe – trong đám đàn em thì Quỷ Vương chỉ thắng được nó với thằng Quét Rác nên hai con quỷ khốn khổ là khách mời quen thuộc của Quỷ Vương.

Mặt thằng Kéo Xe nhăn nhó như bánh bao nhúng nước.

Thực ra thì nước chiếu này chưa có gì khó khăn lắm để hóa giải.

Đơn giản chỉ cần dùng xe đổi đi pháo ngòi thôi.

Thế nhưng mấy con quỷ xem xung quanh đều biết căn bệnh mãn tính không thể cứu chữa của thằng Kéo Xe là quý Xe như mạng.

Hai con xe trên bàn cờ luôn là trọng điểm bảo vệ của nó.

Thậm chí có nhiều lần nó thà hi sinh tướng chịu thua hơn là để mất xe.

Đôi khi đám quỷ nhắc nó thì nó vênh mặt lên: “Anh hùng hảo hán sống phải có xe, chết phải có xe, đánh cờ càng không thể thiếu xe.”
Ván này nếu thua thì đã là ván thứ một trăm liên tiếp thằng Kéo Xe thua.

Và hơn thế nữa theo như kèo cá độ với lũ quỷ thì nếu thua liên tục một trăm ván thì nó sẽ phải đãi đám quỷ một bữa tiệc linh hồn.

Thằng Kéo Xe không muốn như thế.

Nhưng hi sinh con xe thì lòng nó đau như cắt đến từng khúc ruột.

Xe là trời là đất là bản mệnh của nó.

Nước mắt của nó tràn ra từ đôi mắt nhăn dúm lại.

Hai tay run run giơ con xe trên bàn cờ lên rồi hạ xuống.

Con xe trên tay nó cứ như gánh nặng ngàn cân.

Lúc đặt con xe vào vị trí con pháo của Quỷ vương, thằng Kéo Xe như bị rút hết sức lực.

Người nó mềm ra như cọng bún, nước mắt dàn dụa.

Quỷ Vương thì khoái chí lắm, cầm con mã vỗ vào con xe của thằng Kéo Xe đánh bộp một cái như đánh ruồi muỗi.

“Này thì xe này!” Sau đó còn cầm con xe đưa lên ngắm nghía, ngửi ngửi như bánh trái thơm ngon.
Lũ quỷ xem cờ cười đùa vui vẻ lắm.


Thằng Kéo Xe có vẻ như mất hết tinh thần và gần thua đến nơi.

Đột nhiên Quỷ vương đưa tay lên miệng ra dấu cho chúng im lặng: “Xuỵt” Lũ quỷ hơi sửng sốt nhưng rồi cũng không đứa nào dám cười đùa nữa.

Quỷ Vương lúc này mới chăm chú nhìn về phương Nam.

Con mắt thứ ba trên trán mở ra, bắn ra những hình thù kì quái màu tím.

Một lúc lâu sau, Quỷ Vương mới thu hồi con mắt đó, thở hắt ra một tiếng.

Lũ quỹ nhao nhao hỏi: “Đại vương, có chuyện gì vậy?” Quỷ Vương mới đáp: “Có một con quỷ mạnh khủng khiếp vừa ra đời.” Đám đàn em nhao nhao: “Đại vương, chúng ta có thể chiêu mộ nó được không?” Quỷ Vương lắc đầu: “Lệ khí của nó rất nặng.

Nó sinh ra đã là loài quỷ chuyên sát lục, rất khó khống chế.

Chiêu mộ nó chỉ làm cái bia cho đám tu đạo và giới trừ tà.”
************************
Cùng lúc này, Minh Khánh đang gặp phải rắc rối lớn.

Ông lái xe ngủ gật khiến con ngựa đi lệch đường, cái xe rơi vào hố khiến con ngựa kéo bị trật chân, không thể đi tiếp được nữa.

Đêm đã khuya lắm rồi.

Thành Tân Phúc đã ở trước mặt vậy mà lại xảy ra chuyện.

Minh Khánh không thể dỡ hết hành lý đồ đạc xuống, nhét cho ông lái xe ít bạc rồi đi bộ.

Con đường phía trước mặt tối om om.

Bóng tối như nuốt hết tất cả mọi thứ ánh sáng xung quanh, chỉ để lại tiếng gió, tiếng ruộng lúa phất phơ hai bên dường.

Thi thoảng lại có con cào cào hay châu chấu bay vèo qua trước mặt, mang theo mùi lúa sắp chín.

Minh Khánh vươn vai hít một hơi tràn đầy vào phổi.Một sự khoan khoái dễ chịu từ trong ngực lan tỏa khắp toàn thân.

Đột nhiên Minh Khánh thấy bờ vai nhẹ bẫng, cùng với đó là một tiếng: “Méo” rất to.

Thì ra bà Mun trong lúc nằm ngủ gật vắt vẻo trên vai hắn bị hắn làm rơi xuống đất.

Bà Mun cũng chẳng đau đớn gì nhưng việc mất ngủ làm bà bội bực, liền phi thần lên ôm lấy đùi hắn.

Miệng bà cắn, chân bà đạp đạp như muốn làm rách quần hắn.

Minh Khánh bật cười, đưa tay bế bà lên.

.

 
Chương 78: 78: Nhếch Môi Cười Phần 1


Minh Khánh về đến nhà trọ thì cũng là lúc đã qua giờ Tí.

Kỳ lạ thay trong nhà đèn đuốc vẫn còn sáng.

Căn nhà trọ mà ba anh em thuê nằm giữa những dãy nhà lúp xúp của dân ngụ cư.

Người chủ nhà giàu có vốn đình xây làm cửa hàng bán gạo, nhưng vô tình phải tội quan lớn, nên không ai cấp phép cho ông ta buôn bán.

Vì thế ông ta đành cho người khác thuê.

Căn nhà khá khang trang, ngoài mặt tiền xây gạch đàng hoàng thì bên cạnh có một cái cửa nhỏ dẫn sâu vào bên trong.

Đi qua cái sân gạch là đến nhà sau, nơi mọi người sinh hoạt ở đấy.

Minh Khánh đẩy cái cửa gỗ, rồi bước vào.

Minh Long Minh Dũng vẫn còn thức.

Ngoài ra còn có một nhà sư và một đạo sĩ lạ mặt.

Nhà sư tuổi tầm hơn bốn mươi, râu tóc đã bạc trắng lại nhưng khuôn mặt không quá già nua.

Ông ta ngồi trên chiếc ghế gỗ, đầu cúi xuống, hai tay mân mê chuỗi hạt niệm kinh.

Khuôn mặt của nhà sư khá cân đối, chiếc mũi to, đôi mắt hơi bé và làn da ngăm ngăm nâu.

Những âm thanh của Như Lai đại bi chú từ miệng ông phát ra đều đều, trầm ấm, như muốn cuốn tất cả vào trong đó.

Người đạo sĩ thì bình thường hơn.

Có lẽ ngoại trừ chiếc phất trần bạc thì ông chả khác gì một người bình thường.

Mái tóc hoa râm, nước da ngăm đen, mái tóc dài búi gọn sau đầu cùng với bộ quần áo xanh màu trời đã bạc phếch tưởng chừng như sắp rách.

Có lẽ đó là những hình tượng đầu tiên của Minh Khánh đối với hai vị đứng đầu của giới trừ tà.

Người đạo sĩ chính là Phạm Đan, tộc trưởng đương nhiệm của họ Phạm còn nhà sư chính là Trần Thử Ca, vị trụ trì của Quang Minh đạo tràng ở miền Bắc.

Minh Long Minh Dũng thấy Minh Khánh trở về thì mừng lắm, liền giới thiệu cho Minh Khánh hai vị khách.

Minh Khánh lễ phép thăm hỏi bọn họ.

Hai vị này cũng không có gì kiêu ngạo, bình thản đáp lại.

Thì ra sau vụ ngôi mộ đá trắng, Minh Dũng đã viết thư mời các cao nhân của hai phái trừ tà chính tông còn lại là Phạm gia và Quang Minh đạo tràng đến giúp đỡ.

Nào ngờ nghe đến Tử thần, hai vị đứng đầu liền tới đây tụ họp.


Bốn người đang hí hoáy bàn bạc thì hai vị đứng đầu bất chợt phát hiện ra có một con quỷ mạnh khủng khiếp mới được sinh ra ở vùng nào đó phía Bắc huyện Tân Phúc.

Minh Khánh giật mình, trên đường trở về vì không mở ra Thiên nhãn, có vẻ như hắn đã bỏ lỡ một cái gì đó.
***************************
Quay trở lại khu làng mà thằng Ca và đám đàn em đang ở, trong khu vườn tối om, thằng bé Đản đã sợ lắm.

Nó không chỉ tè ra quần mà còn khóc ướt hết mặt.

Con ma dường như vẫn chưa chơi chán, không những không ăn thịt mà còn nhảy choi choi xung quanh người nó.

Thằng bé Đảm thu người co rúm lại, mặc cho con ma làm gì thì làm.

Đầu nó thu chặt vào giữa hai đầu gối, mặc kệ mùi khai bốc lên từ đũng quần.

Rồi đột nhiên thằng bé Đản thấy hơi ngứa ngứa sau cổ.

Nó hơi ngửa đầu lên, hé mắt liếc.

Nó lập tức nhìn thấy khuôn mặt trắng của con ma đang dí sát vào mình.

Con ngươi nó co lại.

Đằng sau lớp vải trắng, nó có thể nhìn thấy hình khuôn miệng, cái mũi của con ma.

Thằng bé Đảm lại thét lên rồi vùi đầu xuống.

Con ma vẫn ở bên cạnh nó, tiếng cười ằng ặc trong cổ họng như bị bị sặc nước.
Rồi đột nhiên một ánh lửa sáng lên trước mặt.

Thằng bé Đảm dụi dụi mắt.

Phía trước là một đôi chân trần rất mạnh khỏe.

Đó là người, nhất định là người.

Nó vội vã bò lại, hai tay nắm chặt lấy cái chân đó.

“Cứu tôi cứu tôi với.” Sau đó thằng bé Đảm nghe được giọng anh Ca của nó: “Nửa đêm rồi, không đi ngủ còn làm trò phá làng phá xóm.

Muốn mai người ta đến đây dỡ nhà sao?” Thằng Đảm lúc này mới có can đảm nhìn quanh.

Thì ra con ma là thằng Củi.

Lúc này nó đang cúi đầu nghe anh Ca mắng, trên tay vẫn còn tấm vải trắng mà nó đội lên đầu hồi nãy.

Mấy đứa kia cũng đang ở xung quanh.


“Thì ra tụi nó hợp mưu trêu mình.

“ Thằng bé Đảm nghĩ vậy.

Anh Ca mắng xong rồi liền xua tụi nó vào nhà đi ngủ, chỉ còn thằng bé Đảm.

Anh Ca thở dài xoa đầu nó, nói: “Làm nghề cũng huynh thì phải gan lớn, càng nhát càng xảy ra chuyện.

Đệ hiểu không?” Thằng bé Đảm gật đầu.

Sau đó anh Ca đỡ nó dậy, dắt nó vào phòng.

Lúc này trong phòng, mấy đứa kia đã nằm quanh bếp lửa.

Nghe tiếng thở của bọn nó, thằng bé Đảm biết bọn chúng chưa ngủ.

Chúng chỉ nhắm mắt để lừa anh Ca mà thôi.

Cái miệng của chúng vẫn nhăn nhúm lại, ngậm thật chặt để không phát ra tiếng cười.

Thằng bé Đảm nắm chặt tay lại.

Phải chi có dao ở đây, nó sẽ không ngại nhần cho mỗi đứa một nhát.

Lửa giận bốc hừng hực trên đầu làm thằng bé Đảm đứng một lúc lâu trên ngưỡng cửa.

Mãi tới khi anh Ca nhắc nó đi thay quần, nó mới lúi húi lấy chiếc quần mới ra sau nhà.

Sau đó thằng bé Đảm đi ngủ.

Nó cố ý chui vào trong góc để không nhìn thấy nụ cười của tụi kia.

Lúc này cơn giận dữ cũng đã nguội lạnh.

Nó là đứa bé nhất trong đám đệ của anh Ca, và hẳn là bọn kia chấp nó một tay nó cũng đánh không lại.

“Cùng lắm là cho tụi nó chế giễu vài ngày thôi”.

Nó cố nhồi nhét ý nghĩ đó vào đầu rồi ngủ thiếp đi lúc nào không hay .
*****************************
Trời bắt đầu chuyển về sáng.

Đống lửa đốt hồi đêm đã tàn đi nhiều khiến hơi lạnh bắt đầu xâm nhập vào căn nhà.


Thằng Củi cố thu chân tay lại, co ro như con tôm.

Đống rơm lót bên dưới người bắt đầu bị sương làm ướt, lạnh căm căm.

Đột nhiên có cái gì ngưa ngứa trên mũi.

Thằng Củi ve vẩy tay cố đuổi nó đi nhưng không được.

Rồi nó đánh bốp một cái vào mũi, vân vê.

Thì ra là một cọng rơm.

Bị phá giấc ngủ khiến thằng Củi trở nên hung tợn.

Nó bật dậy, muốn chửi đổng lên.

Nhưng một bàn tay kịp chụp vào miệng nó.

Trong sương mờ ảo ảo, thằng Củi mới phát hiện ra là thằng bé Đảm.

Thằng Củi giận lắm.

Cái thằng bé oắt con đêm qua bị nó dọa tè ra quần mà cũng dám chơi nó.

Nó trợn mắt lên, muốn gạt tay thằng bé Đảm ra.

Nhưng mà tay thằng bé Đảm lúc này cứng như thép nguội, khiến nó không thể lay chuyển được.
Trong lúc thằng Củi đang cố giãy thì thằng bé Đảm bỗng bỏ tay ra, giơ một ngón tay lên trước miệng ra hiệu cho nó im lặng.

Sau đó thằng bé Đảm đứng lên, ra hiệu cho nó đi theo.

Thằng Củi giận lắm, nó mò mò vớ lấy một khúc củi ngắn làm vũ khí, nhét vào sau quần rồi bò dậy, đi theo thằng bé Đảm.

“Rồi tao sẽ đánh cho mày đến ông bà nội ngoại cũng không nhận ra.” Thằng củi nghĩ.

Nó lao phăm phăm theo thằng bé Đảm trong sương mù.

Trời vẫn tối mịt nhưng gà đã bắt đầu gáy le te trong xóm.

Hai thằng đi như đuổi trong sương mù, chui qua hàng rào ra đồng.

Mãi đến tận cái mương nước thằng bé Đảm mới dừng lại.

Lúc này thằng Củi mới nhìn thấy thằng bé Đảm.

Khuôn mặt nó nhợt nhạt.

Sống mũi thì phập phà phập phồng.

Cái miệng hơi nhếch lên khinh miệt.
Thằng Củi lúc này đã điên tiết lắm rồi.

Nó lao tới, túm ngay cổ áo của thằng bé Đảm.


“Mày muốn gì?” Nói rồi nó rút thanh củi sau lưng ra: “Có tin hay không tao đánh chết mẹ mày?” Thằng bé Đảm cười, chỉ tay sang bên cạnh.

Thằng Củi liếc nhìn.

Nơi đó có một cái hố đất đã đào sẵn.

Nó đẩy thằng bé Đảm ngã xuống đám cỏ cạnh mương nước.

“Mày đào đất làm gì? Chôn mẹ mày à? “ Thằng bé Đảm vẫn cười.

“Hôm nay nhất định sẽ có một người nằm vào cái hố đó, không phải tao thì là mày.”
Thấy thằng bé Đảm khiêu khích, thằng Củi không thể át cơn giận được nữa.

Nó giơ luôn thanh củi đánh mạnh vào đầu thằng bé Đảm.

Thằng bé Đảm cũng không đón đỡ, cũng không né tránh, mà chỉ cười.

Thanh gỗ va vào đầu nó đánh bộp.

Đầu nó như một trái dưa, móp xuống, máu bắt đầu trào ra đỏ hết một nửa khuôn mặt.

Thằng Củi thấy thế sửng sốt.

Thế rồi thấy nụ cười trên môi thằng bé Đảm, nó lại dùng sức đánh tới tấp.

“Đánh chết mày, đánh chết mày.

Mày đã đào hố thì để tao chôn mày luôn.”
Thằng Củi đánh chừng một lúc lâu mới ngừng lại.

Nó mệt quá.

Người nó ướt đẫm mồ hôi.

Hơi thở không chỉ đi ra đường mũi miệng mà qua cả tai khiến nó ù ù.

Lúc này đầu thằng bé Đảm đã bị đập nát bét, chết không thể chết lại được.

Lần đầu tiên giết người khiến thằng Củi hơn rợn.

Nó cúi người nôn thốc nôn tháo xuống mương.

Lúc này trời bắt đầu hửng sáng.

Mặt trời mặc dù chưa lên nhưng cảnh vật đã bắt đầu rõ rang hơn.

Qua làn nước mương, thằng Củi bắt đầu nhìn thấy khuôn mặt mình.

Nó xanh xao nhợt nhạt, cánh mũi thì phập phồng, và kỳ lạ nhất là cái miệng hơi nhếch lên giống hệt thằng bé Đảm hồi nãy.

Thằng Củi sợ hãi lắm, ngã ngửa về phía sau, không dám nhìn xuống mương nước nữa.

Mồ hôi nó bắt đầu vã ra như tắm.

 
Chương 79: 79: Nhếch Môi Cười Phần 2


Nỗi sợ không làm thằng Củi hốt hoảng hơn, ngược lại càng lúc lại càng khiến nó lại càng thêm bình tĩnh.

Cùng lắm là mạng đền mạng mà thôi.

Trước giờ nó đâu có sợ.

Lau mồ hôi trán, thằng Củi bắt đầu nghĩ cách che giấu đi việc nó giết người.

Đầu tiên, nó gỡ đôi giày rách của thằng bé Đảm ra khỏi chân, sau đó kéo xác thằng bé Đảm xuống hố đất đã đào sẵn, bắt đầu lấp đất lên.

Tiếp đó, nó đi xung quanh vơ hết cỏ khô cỏ tươi lại lấp lên trên để không ai nhận ra.

Cuối cùng, nó xóa sạch dấu chân của cả hai đứa xung quanh đi rồi mới cầm đôi giày rách của thằng bé Đảm đi về.

Lúc này trời đã sáng, người ta bắt đầu đi làm đồng.

Thằng Củi đi theo mép con mương nước để tránh mọi người.

Đến bờ con sông nhỏ cuối làng, nó vứt đôi giày của thằng bé Đảm ra đấy.

Sau này khi không tìm thấy thằng bé Đảm, người ta có thể nghĩ là nó bị ngã xuống sông.

Xong việc, thằng Củi phủi phủi tay đi về.

Bởi vì cao hứng, nó còn vừa đi vừa hát một khúc hát mà người ta hay hát lúc bốc mộ.

Nó không thèm để ý thấy người dân đi qua nhìn nó một cách kỳ dị.

Nó chỉ nhếch miệng cười, nụ cười giống hệt của thằng bé Đảm hôm qua.
Trở về nhà, thằng Củi thấy anh Ca và đám kia đang lúi húi thổi cơm.

Trên sàn là túi gạo chắc vừa đi mua bên nhà hàng xóm về.

Thấy có cơm ăn, thằng Củi liền sà vào giúp đỡ.

Nhưng anh Ca không cho nó làm mà giao cho nó tiền, bảo nó ra chợ mua con cầy, riềng sả và muối ớt các loại.

Thằng Củi càng thêm hào hứng.

Nó liền chạy ngay, vừa đi vừa huýt sáo.


Nó không để ý thấy một bóng người quen thuộc nấp sau bụi cây đang nhìn vào nó.
*************************
Trong lúc thằng Ca đang loay hoay với con hình nhân thì ba đứa đàn em lúi húi vừa thổi cơm vừa kể cho nhau nghe chuyện lúc bé.

Trong ba đứa thì to con nhất là thằng Sửu.

Nghe bảo lúc mới sinh ra vì quá to lớn nên cha nó lấy cho nó cái tên đó.

Sau này mặc dù trong nhà đói kém, không có đủ gạo cơm cho nó ăn, nhưng thằng Sửu vẫn cao to hơn người.

Mỗi tội hơi ngốc nên không cưới nổi vợ.

Lần này nghe lời anh Ca, nó liền khoác tay nải đi với mong ước kiếm được một món tiền cưới vợ.

Sau vài lần nhìn anh Ca lừa dối bọn nhà giàu quanh vùng, kiếm một món tiền lớn, thằng Sửu phục lắm, quyết đi theo anh Ca học nghề kiếm miếng cơm manh áo.

Anh Ca đã hứa với nó sau khi khuất phục được con hình nhân xong, sẽ dạy cho nó ngón nghề kiếm cơm.

Thằng Sửu vốn ít nói, nên chủ yếu ngồi nghe hai đứa kia kể chuyển.

Đứa đang nói nước miếng tung bay là thằng Lý Hợi.

Cha nó ngày xưa làm ông Lý của làng.

Sau vì ham đánh bạc, không trả nổi nợ nên bị người xiên chết.

Nhà nó từ một nhà giàu thành nghèo nhất làng.

Mẹ nó bỏ đi để lại thằng Lý Hợi mới mười tuổi.

Thằng Lý Hợi là được anh Ca thu nhận cùng lúc với thằng Sửu, nhưng được anh Ca ưa thích hơn vì nó lanh lợi, biết ăn biết nói.

Hơn nữa bản chất của thằng Lý Hợi cũng không xấu.

Ngoài việc đôi khi bốc phét quá mức thì nó cũng biết ăn ở tốt với anh em.

Ngồi bên trái thằng Lý Hợi là thằng Lài.

Nó với thằng Củi là một bọn, chuyên làm mấy việc xấu.


Chỉ có điều nó nhát gan hơn thằng Củi nhiều.

Đôi mắt ti hí của nó lúc nào cũng như đang ngủ.

Ba đứa đang kể chuyện vui vẻ thì thằng Sửu thấy thằng bé Đảm đi vào.

Cái đầu của nó như bị ai đánh, đang chảy máu.

Thằng Sửu sửng sốt, hỏi: “Có chuyện gì thế?” Thằng bé Đảm giơ tay lên, phía dưới có một chùm ổi chín.

“Đi hái ổi nhưng bị người ta đuổi, ngã xuống đất.” Thằng Sửu chưa kịp nói gì thì thằng Lài đã đứng lên, giọng vui mừng: “Ổi ở đâu?” Thằng bé Đảm chỉ tay về phía góc vườn.

“Cách đây bốn nhà.

Cây to nên nhiều quả lắm.” Thằng Lài hí hửng: “Dẫn tao đi.

Tao trèo siêu lắm.” Thằng Lý Hợi cũng đứng lên.

“Tao canh chừng cho, phần tao ba bốn quả là được rồi.” Thằng Lài đồng ý.

Thế là hai thằng kéo theo thằng bé Đảm đi hái ổi.

Thằng Sửu cũng muốn đi lắm nhưng nó phải trống nồi cơm.

Một lúc sau thì thằng Củi đi mua cầy về.

Tay nó xách theo một con cầy và một cái làn rách không biết chôm của ai.

Nó hí hửng vừa bỏ các thứ trong làn ra vừa huýt sáo.

Thằng Sửu thấy ngoài giềng sả ra còn có ớt, bột tiêu, muối và mấy thứ rau thơm nữa.

Thằng Củi ra lệnh cho thằng Sửu: “Để cơm tao trông cho.

Mày mang các thứ ra đi rửa đi.

“ Thằng Sửu gật đầu.


Ngồi trông nồi cơm mãi cũng chán.

Nó vơ hết đống đồ vào cái rổ rồi đứng lên.

Đột nhiên thằng Củi hỏi: “Thằng Lài với thằng Lý Hơi đi đâu?” Thằng Sửu đáp; “Tụi nó đi với thằng bé Đảm đi ăn trộm ổi rồi.” Đột nhiên nó nghe thằng Củi gằn giọng, tiếng nó như một con thú hung dữ bị thương, từng chữ từng chữ một: “Tụi ..nó… đi ..

với..

ai?”
Thằng Sửu ngạc nhiên.

Thằng này hôm nay sao lại muốn kiếm chuyện với nó.

Mặc dù thằng Củi có nhiều kinh nghiệm đánh nhau nhưng không có nghĩa là thằng Sửu sợ.

Người nó như con trâu ấy, thằng Củi đánh nó mười đòn không bằng nó đánh thằng Củi một cú.

Thằng Sửu đáp lại lần nữa.

“Thằng bé Đảm!” Nó chợt nhìn thấy khuôn mặt của thằng Củi trắng bệch.

Thanh củi nó cầm trên tay buông lỏng, rơi xuống đất.

Miệng nó nhếch lên cười, tiếng nói thều thào phát ra từ trong họng: “Không thể nào, không thể nào..” Thằng Sửu thấy nó hơi kỳ lạ, liền hỏi: “Mày làm sao thế? Ốm à?”
Thằng Củi vẫn nhếch miệng cười, miệng lẩm bẩm: “Không thể nào.

Tao đã giết nó rồi mà.

Không thể nào.” Thằng Sửu cúi xuống, sờ lấy đầu nó.

Cũng không nóng không lạnh.

Thằng Củi ân cần hỏi: “Mày uống rượu à? Anh Ca biết thì chết.” Thằng Củi bỗng nắm lấy cổ áo nó một cách hung tợn: “Tao không uống rượu.

Tao…rất…tỉnh táo.

” Nói rồi thằng Củi bỗng xô thằng Sửu ra.

Miệng nó vãn nhếch lên cười, môi lẩm bẩm: “Tao đã giết nó rồi cơ mà.

Tao đã giết nó.” Thằng Sửu hơi kinh ngạc, hỏi lại: “Mày nói mày giết ai cơ?” Thằng Củi nhìn chằm chằm vào thằng Sửu.

“Thằng bé Đảm!”
Thằng Sửu hơi ngạc nhiên hỏi: “Sao mày lại giết nó? Mày giết nó bao giờ?” Thằng Củi lại nhếch miệng cười: “Vì nó ghẹo gan tao, được chưa? Lúc sáng tao đập nó đầu nó nát bét.” Thằng Sửu lại bảo: ‘Mày mơ ngủ đấy à?” Thằng Củi gào lên: “Tao không mơ ngủ.


Chính tay tao đã đập nó nát bét.

Tao còn chôn nó nữa cạnh con mương nữa.” Thấy thằng Sửu vẫn vẻ mặt không tin, thằng Củi điên tiết lắm.

Nó kéo thằng Sửu dậy, rồi chạy ra ngoài con mương.

Hai đứa chui qua mấy bụi hàng rào khiến thằng Sửu bị cào rách cả mặt.

Nó giật tay thằng Củi: “Từ từ thôi.

Nếu mày đập chết rồi chôn nó thì nó vẫn nằm đấy.

Đi đâu mà vội.” Thằng Củi thấy thằng Sửu vẫn vẻ mặt không tin, thì điên tiết lắm.

Thế nhưng nếu không có thằng Sửu thì chắc nó cũng không dám ra đây một mình.

Thế là nó đành phải đi từ từ.

Nhưng vì con mương cách nhà khá gần, nên chỉ một lát là đến.

Thằng Củi nhìn thấy “nấm mộ” mà mình chôn thằng bé Đảm hôm qua vẫn y nguyên, bèn thở phào một hơi.

Thằng Sửu hỏi: “Mày chôn nó ở đâu?”
Thằng Củi chỉ đám đất đã được nó ngụy trang bằng cỏ tươi cỏ khô hoàn chỉnh.

“Ở đây.

Chôn nó xong tao còn vơ cỏ lấp lên trên nữa.”
Thấy thằng Sửu hơi nghi ngờ, máu nóng thằng Củi lại bốc lên não.

Nó quát lên.

“Để tao đào cho mày xem.” Thế rồi nó vơ lấy cái gậy nhọn gần đấy bắt đầu hất cỏ ra.

Đất phía dưới vẫn xốp và tươi nguyên như lúc sáng.

Thằng Củi hăm hở đào đất mặc cho thằng Sửu đứng xem bằng con mắt nghi ngờ.

Nhưng kỳ lạ thay đào một lúc lâu cũng không thấy xác thằng bé Đản đâu.

Càng khiến nó ngạc nhiên hơn là một vết máu cũng không có.

Thằng Củi buông rơi cây gậy nhìn thằng Sửu.

Nó thều thào bằng một giọng rất đáng thương: “Tao đã chôn nó ở đây mà..”.

 
CHÚ Ý !!!
Các đạo hữu nhớ thêm TÊN CHƯƠNG và THỨ TỰ CHƯƠNG ở ô phía trên phần trả lời nhanh. Như vậy hệ thống mới tạo được DANH SÁCH CHƯƠNG.
Cập nhật chức năng ĐĂNG TRUYỆN và THÊM CHƯƠNG MỚI trên web Diễn Đàn Truyện tại: https://hoinhieuchu.com
Back
Top