Cập nhật mới

Dịch Thiên Chính Đạo Nhân

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
[Diendantruyen.Com] Thiên Chính Đạo Nhân

Thiên Chính Đạo Nhân
Tác giả: Hạ Nguyên
Tình trạng: Đang cập nhật

--- oOo ---


Đằng sau ngọn núi thần bí vạn năm là bí mật gì? Tất cả sẽ dần dần được vén màn bằng một cuộc hành trình khám phá đầy nguy hiểm và gian nan!

Và lần lượt những bí ẩn như thôn làng bỏ hoang, giếng cổ sâu không đáy, thái dương luân thần bí... sẽ khiến người đọc như bị khiêu chiếc cực hạn!

Tác giả Hạ Nguyên qua tác phẩm này được Nam Phái Tam Thúc với Đạo Mộ Bút Ký, Tri Thù với Thập Tông Tội, Diêm Chí Dương với Trùng Sư,... Tất cả đều là các nhà văn linh dị nổi tiếng đồng thời đề cử!

Chín năm trước, vùng núi Chiết Tây có một thôn nhỏ là Hồng Thôn diễn ra lễ đầy tháng của một cô bé, một lão đạo sĩ đã đưa ra lời tiên đoán: "Đứa bé này tuy mới sinh, nhưng cuộc đời sau này lại phải chịu kiếp số."

Mọi người bèn đuổi lão ra khỏi cửa, chẳng thèm quan tâm. Chín năm sau, bé gái không ăn không uống, sinh mạng nguy kịch, mọi người mới nhớ tới lời của lão đạo chín năm trước...

Tra Nghiêm Vân — người vì nhiều nguyên do mà giữ tổ ấn Mao Sơn, truyền nhân cuối cùng của Thiên Chính Đạo. Hắn vì cứu người giữa vòng âm dương mà dẫn tới nghiệp hoả quấn thân, chịu thiên phạt âm khiển. Nhưng vẫn kiên trì, dựa vào tấm lòng can đảm cùng và một thân đạo thuật, cứu người giữa vòng xoáy âm dương, độ âm hồn không phải chịu kiếp cô hồn dã quỷ!

Cùng đọc truyện nhé!!!!
 
Sửa lần cuối:

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 1: Lời tiên đoán chín năm


Dịch: Tuyệt Hàn

***

Văn hóa Đạo gia của Trung Quốc có nguồn gốc từ xa xưa, tới nay đã có lịch sử hơn ngàn năm, cao nhân nhiều vô số kể. Nhưng dù vậy trong dòng sông thời gian, có rất nhiều câu chuyện đã bị chôn vùi trong bụi bặm của lịch sử hoặc lưu lạc trong dân gian, Đạo gia đã từng rất huy hoàng giờ chỉ còn lại là những danh lam thắng cảnh...

Có một đạo sĩ, là một truyền kỳ khi còn sống, cuộc đời của ông rất nhiều điểm khúc chiết, càng nhiều hơn chính là bất đắc dĩ. Ông đã cứu rất nhiều mạng người, trong đó bao gồm cả tôi, cả cô của tôi nữa.

Giải thích về người đạo sĩ này: Một người xuất hiện từ một cố sự nhỏ - Tra Nghiêm Vân.

Tra là một họ không phổ biến, trong 《Bách Gia Thị》có ghi lại: Tra là một trong những họ của người Trung Quốc, xếp thứ 397. Họ Tra được tách ra từ một nhánh của họ Khương, là hậu duệ của Viêm Đế. Con trai của Tề Khoảnh Công được phong vương là "Tra - 楂", con cháu đời sau của ông lấy phong hiệu làm họ, sau đó lại bỏ đi chữ "Mộc – 木" ở bên cạnh, trở thành họ "Tra - 查". Xuất xứ thứ hai của họ “Tra” chính là từ họ “Mễ”. Gia tộc của Sở Quốc Công thời Xuân Thu được ban tước tại vùng Tra, đời sau cũng lấy địa danh làm họ.

Trong vùng núi Chiết Tây có một thôn nhỏ là Hồng Thôn, trong thôn có một hộ gia đình họ Từ, gia chủ là một người thợ mộc có tay nghề rất giỏi, người ta gọi ông là Từ Lỗ Ban. Tổ tiên của ông truyền lại nghề làm quan tài cho người khác. Đến đời ông kế thừa gia sản, nối nghiệp gia truyền.

Mặc dù có tay nghề tốt, nhưng ngại vì ông làm công việc liên quan tới người chết nên con gái của mấy nhà trong thôn cũng không để ý tới ông. Qua mấy lần trắc trở, nhờ người mai mối ông mới cưới được một người ở thôn bên cạnh. Thời đó chưa có chính sách mỗi nhà một con, nên chỉ trong mười năm họ đã có ba nữ hai nam. Miệng ăn trong nhà ngày càng nhiều, chi tiêu cũng do đó mà tăng lên, vợ chồng hai người đành thương lượng để người vợ triệt sản.

Từ Lỗ Ban là ai? Chính là ông ngoại tôi.

Lại qua mười năm, không nghĩ tới bà ngoại lại lần nữa mang thai, ông ngoại tôi cũng không biết là vui hay buồn. Vợ mình rõ ràng đã triệt sản, vì sao còn có thể có bầu? Bụng bà ngoại tôi ngày một lớn, chỉ sau mười tháng mang thai đã sinh thêm một người con nữa. Ông ngoại cũng không ngờ mình đã ngoài 40 tuổi vẫn có thêm một cô con gái, ông đặt tên cho cô là "Tú", cô cũng chính là cô của tôi, năm đó là năm 1977.

Ông ngoại tôi sinh thêm được một người con gái, tự nhiên cũng rất vui mừng. Tới ngày đầy tháng của cô “Tú” bèn làm mấy bàn tiệc rượu chúc mừng, hàng xóm trong thôn cũng đều tới chúc. Ngay khi đang tiệc rượu, trước cửa nhà chợt xuất hiện một vị đạo sĩ mặc đạo bào rách nát, đeo một cái túi thêu bát quái cũng đã vá vài chỗ. Mọi người thấy vậy, nghĩ tới chủ nhà mới sinh được một thiên kim, bèn mời đạo sĩ vào, tính thử một quẻ, đoán thử mệnh số. Vị đạo sĩ đó cũng sảng khoái đáp ứng, nhìn đứa bé một chút, sau đó bấm đốt ngón tay tính toán. Đột nhiên kinh hãi, liền gọi ông ngoại tôi vào trong phòng, nhỏ giọng nói: "Chủ nhà, hôm nay là ngày đầy tháng của thiên kim, vốn là chuyện đáng mừng, nhưng tiểu đạo có lời, không biết hôm nay có nên nói hay không?"

Ông ngoại tuy là một người thợ mộc, nhưng cũng thấu tình đạt lý, cười nói: "Đa tạ đạo sĩ, dù tốt hay không thì tôi cũng đã mở tiệc, chút nữa kính đạo sĩ một ly!"

Vị đạo sĩ kia nhìn ông ngoại tôi, nói: "Cô con gái nhỏ của ông tuy rất khả ái, nhưng sợ rằng sau này khó nuôi."

Ông ngoại tôi vừa nghe thấy vậy bèn nổi xung. Người ta vừa mới sinh được một người con gái, không hiểu ở đâu chui ra một tên đạo sĩ mắt mù, nói ra mấy lời xúi quẩy như vậy, vì vậy bèn đẩy vị đạo sĩ kia một cái, lớn tiếng quát: "Cái tên đạo sĩ không biết điều kia, làm sao có thể nói bậy bạ như thế?"

Vị đạo sĩ kia vốn quần áo đã rách rưới, bị ông ngoại tôi đẩy một cái như vậy, quần áo lại rách thêm vài chỗ, từ trong ngực rơi ra mấy thứ đồ, vương vãi dưới đất.

Tiếng quát trong phòng khiến bà ngoại tôi đang tiếp khách bên ngoài thấy vậy bèn nhanh chân đi tới, chỉ thấy chồng mình đang đẩy một đạo sĩ. Bà bèn đi tới khuyên can, tôi cũng nghe mẹ kể lại bà cũng là người có hiểu biết, bà cũng không hỏi nguyên do chỉ mắng ông ngoại vô lễ với đạo sĩ, sau đó xin lỗi người kia. Cũng lấy kim chỉ vá lại mấy chỗ rách trên quần áo vị đạo sĩ, còn mời ông ở lại ăn cơm. Vị đạo sĩ kia không thể từ chối thịnh tình, bèn cùng mọi người ngồi vào bàn, chỉ sau vài ly đã đỏ mặt, bắt đầu nói mình là trưởng môn Mao Sơn, đạo thuật thông thiên...Nhưng mọi người đều không tin, cười ầm hết cả lên.

Không biết đạo sĩ kia uống nhiều bao nhiêu, tới lúc mọi người hỏi về mệnh số của đứa bé, hắn lại tiếp tục: "Đứa nhỏ này số đoản mệnh, rất khó nuôi, chỉ sợ tương lai gặp nạn."

Mọi người nghe vậy, trong lòng đều nghĩ tên đạo sĩ này hết sức ngông cuồng, chỉ biết nói mấy lời xúi quẩy?

Đặc biệt là ông ngoại tôi, vừa được bà ngoại can ngăn chưa hết lửa giận, lập tức chạy vào trong nhà xách ra một cái búa, đòi đánh vị đạo sĩ kia. Cũng may được mọi người ngăn lại, nhưng ông vẫn mở miệng mắng to.

Bà ngoại tôi lúc này mới biết rõ tại sao chồng mình đẩy vị đạo sĩ kia, cũng tỏ vẻ không vui, nói với vị đạo sĩ kia: "Tên đạo sĩ dởm kia, ta tốt bụng chiêu đãi ngươi, tại sao lại nguyền rủa con gái của ta? Nhanh cút ra ngoài!"

Không nghĩ tới vị đạo sĩ kia bị nhục mạ như vậy nhưng lại không giận, đưa tay vào ngực, lại nhìn trời một chút, sau đó nhìn lướt qua tất cả mọi người, nói: "Chủ nhà không nên tức giận, tiểu đạo cũng nói thật. Đứa con này của hai người chỉ sợ không thể sống qua chín tuổi. Nếu đến lúc đó gặp nạn, có thể tới phố An Huyền cách đây năm dặm tìm ta."

Sau khi nói xong, ông bèn chắp tay cáo từ mọi người, quay đầu rời đi... Chỉ để lại một đám tân khách nhìn nhau và ông ngoại tôi đang tức giận. Mặc dù mọi người cũng đều không tin đó là thật, nhưng vẫn để lại trong lòng bà ngoại tôi, một người có chút mê tín một cái bóng mờ.

Chỉ trong nháy mắt, chín năm đã qua đi. Cô của tôi sức khỏe đều ổn định như những đứa trẻ cùng lứa, hơn nữa còn rất thông minh, đáng yêu. Nhất là cô lại có một đôi mắt to long lanh, khiến mọi người trong nhà đều vui mừng. Dần dần bà ngoại tôi cũng quên mất lời tiên đoán của vị đạo sĩ năm nào.

Nông thôn thường có tập tục làm tang sự lớn cho những người cao tuổi, mọi người thường gọi là hỷ tang, người trong thôn đều phải tới dự. Mọi người đều tập trung lại, người lớn uống rượu, trẻ con ăn thịt, vô cùng náo nhiệt. Nhưng mỗi nhà đều phải nhận được một phần món ăn, đó là một đĩa đậu hũ trắng, cho nên mỗi khi có hỷ tang người ta cũng gọi là đi ăn cơm đậu hũ.

Mùa hè năm 1986, cũng chính là ngày tôi ra đời, trong Hồng thôn có một ông lão mất đi. Thời đó mọi thứ đều thiếu thốn nên mỗi khi có hỷ tang mọi người đều có được ăn no một chút nên ông ngoại và bà ngoại tôi mang theo cô đi cùng.

Sau khi tan tiệc, gia đình ba người thừa dịp trăng sáng dắt tay nhau đi về. Tang gia kia cũng không cách nhà ông bà tôi không xa, chỉ khoảng hơn hai dặm, trên đường qua nhà có một con đập dài chừng ba trăm thước. Con đập đó khi còn nhỏ tôi thường trốn ba mẹ ra đó bơi, mỗi lần trốn đi đều bị bà ngoại bắt về, đánh cho một trận. Nhưng bà cũng không bao giờ nói cho tôi biết nguyên do...

Hai dặm đường đi nhanh thì không tới mười phút, cả đoạn đường đó không có nhà ở, nhưng ông bà tôi đi lại đã quen. Không hiểu sao đêm đó trăng rất sáng, ánh sáng nhè nhẹ chiếu xuống con đường mòn ảm đạm, chẳng cần soi đèn pin.

Mùa hè ở vùng nông thôn có một thứ luôn hấp dẫn đám trẻ, đó chính là lũ đom đóm. Cô tôi đuổi theo một con đom đóm, cười khúc khích. Con đom đóm cứ thế sáng tối, bay dần về phía trước, cô tôi đuổi theo phía sau. Ông bà ngoại tôi cũng không hề lo lắng, chỉ đứng cách cô một khoảng, chỉ cười nhìn đứa trẻ ngây ngô.

Ông ngoại tôi rút tẩu thuốc nói với bà ngoại: "Ai nói con Tú khó nuôi? Đứa nhỏ này từ khi sinh ra ngay cả bệnh nhẹ cũng hiếm khi bị. Tôi thấy tên đạo sĩ kia chính là một tên lừa đảo!"

Bà ngoại tôi chỉ cười không đáp, dặn cô tôi chạy chậm lại một chút. Trong chốc lát cả ba người đã về tới nhà.

Cô tôi là con út, thường ngủ chung với ông bà, lớn hơn một chút thì được ông bà chuyển sang ngủ cùng cô Năm. Ông ngoại tôi sinh được tất cả bốn gái một trai, bác gái cả, bác Ba và mẹ tôi đều đã lập gia đình, ở nhà chỉ còn lại cô Năm, cậu Sáu và cô Tú.

Trước khi ngủ cô Tú khoe với cô Năm hôm nay được ăn rất nhiều thứ ngon, trêu cô Năm không được ăn.

Sau khi sinh được cô Tú, ông tôi trở nên dễ tính, mọi thứ đều muốn dành cho cô Tú, hơn nữa cô Năm cũng rất thương em út. Nếu có hai bắp ngô nướng, cô Tú chắc chắn sẽ được bắp ngô lớn hơn, cô Năm chắc chắn sẽ lấy bắp nhỏ.

Sau khi cô Năm rửa chân cho cô Tú, hai người ôm nhau ngủ, rất nhanh đã say giấc. Nhưng tới nửa đêm, một tiếng hét sợ hãi đã phá vỡ cuộc sống êm đềm trong chín năm của gia đình ông ngoại tôi.

Người phát ra tiếng thét kia, không ai khác chính là cô Năm.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 2: Căn bệnh kỳ lạ


Dịch: Tuyệt Hàn

***

Trước khi cô Năm chìm vào giấc ngủ, hết thảy đều rất bình thường. Sau khoảng nửa đêm, cô Năm mơ mơ màng màng nghe thấy tiếng bước chân khe khẽ, cô Năm nghĩ rằng cô Tú thức dậy đi tiểu. Mọi ngày Tú đâu có thói quen nửa đêm dậy đi tiểu? Nghĩ vậy cô Năm thức dậy, nhờ ánh trăng chiếu vào qua cửa sổ, cô Năm thấy cô Tú đang leo xuống giường, nghĩ rằng cô Tú đi tiểu thật, vì vậy cô xoay người tiếp tục ngủ.

Nhưng chỉ một chốc sau, cô Năm bỗng giật mình tỉnh dậy, vì cô không thấy em gái mình kéo chăn trèo lên giường như mọi hôm, vì vậy cô Năm quay đầu muốn nhìn một chút.

Không quay đầu thì không sao, cô Năm thấy một cảnh tượng khiến cả đời cô khó quên. Cô Tú lúc này đang quỳ trước cửa sổ, cổ nghểnh lên nhìn ánh trăng. Nhìn em như vậy, cô Năm vội nhấc chăn, nhổm người nhìn cô Tú. Cô Năm lúc này cố ý lấy can đảm ho khan một tiếng nhưng cô Tú không hề có phản ứng.

Cô Năm tiếp tục nhẹ nhàng hô một tiếng: "Tú." Nhưng cô Tú vẫn không có phản ứng chút nào. Cô Năm lớn tiếng kêu thêm một tiếng: "Tú, em làm sao vậy?" Cô Tú vẫn ngây ra như phỗng.

Cô Năm vội vàng xuống giường, tới cả giầy cũng không xỏ, tới gần nhìn xem em gái mình xảy ra chuyện gì. Cô Năm bước mấy bước tới gần em gái, một tay cô Năm đặt lên vai cô Tú, muốn xoay người cô Tú lại xem em gái mình xảy ra chuyện gì. Nhưng cô Năm phát hiện em gái mình thường ngày nhỏ bé, không ngờ hôm nay lay thế nào cũng không chuyển động được một chút.

Cô Năm đi vòng qua trước mặt cô Tú, nhờ ánh trăng lờ mờ cô chỉ thấy em gái mình đang quỳ, miệng nhai ngấu nghiến một cây nến trắng, hai mắt đục ngầu nhìn trăng qua cửa sổ...

Thời điểm đó nông thôn thường xuyên không có điện, cho nên mọi người trong nhà lúc nào cũng có nến hoặc đèn dầu, hơn nữa còn chứa rất nhiều.

Ngay khi nhìn thấy cô Tú đang nhai nến, ánh mắt đờ đẫn mà vô thần, không nhúc nhích nhìn trăng sáng. Cô Năm mặt không chút máu, lập tức gào thét: "A a a..."

Tiếng thét của cô Năm lập tức đánh thức ông ngoại bà ngoại và cậu Sáu, cũng là bắt đầu cho kiếp nạn của cô Tú, theo đúng tiên đoán của vị đạo sĩ năm nào.

Khi ông ngoại khoác áo khoác chạy đến phòng của hai cô, Cô Năm đã không nói nên lời, ngồi bệt dưới đất. Ông nội tôi vội mở đèn pin chiếu vào cô Tú, lập tức cô Tú ngã ngửa ra phía sau, trên đất vương vãi đầy những mẩu nến trắng.

Khi ông ngoại tôi bế cô Tú lên, nhìn sắc mặt cô đã trắng bệch, miệng vẫn còn vương vài mẩu nến ông cũng thấy hoảng hồn. Lúc này cả nhà mới đưa mắt nhìn về phía cô Năm.

Bà ngoại tôi bèn kéo cô Năm dậy, hỏi: "Có chuyện gì xảy ra vậy? Con bé Tú sao thành ra thế này?"

Cô Năm lúc ấy sợ đến điếng người, nói không ra lời, cô không ngừng run rẩy, chỉ trỏ ra hiệu mình nhìn thấy rất kinh khủng.

Ông ngoại ôm lấy cô Tú đã hôn mê, đặt lên giường, bà ngoại tôi phải ôm lấy cô Năm đang run cầm cập. Mà con chó mực thường ngày hay chơi cùng cậu Sáu bắt đầu chạy vào phòng sủa điên cuồng, nó sủa liên tục không ngừng. Bà ngoại tôi không nhịn được, đành sai cậu Sáu dắt con chó ra khỏi phòng. Nhưng lạ là sau khi con chó ra khỏi vẫn hướng về phía cửa phòng sủa khe khẽ, không dám đi vào, nhưng nghe cậu tôi kể lại lúc đó ánh mắt của con chó lạ lắm, giống như nó nhìn thấy kẻ thù vậy.

Có thể bà ngoại cũng thấy con chó sủa nhặng lên như vậy, nhìn nó quát một tiếng: "Kêu nữa đi, còn sủa nữa tao làm thịt mày!"

Không ngờ chỉ một tiếng quát của bà ngoại tôi khiến con chó sợ tới mức tiểu ngay tại chỗ, nó lập tức cụp đuôi, chạy về ổ nằm.

Một lát sau, cô Năm đã dần dần bình tĩnh lại kể lại hết tất cả mọi chuyện cho ông bà ngoại tôi. Sau khi nghe xong ông bà đều dựng hết cả tóc gáy. Cô Năm nói xong, không nhịn được lại bắt đầu khóc, nhưng bà ngoại đã đưa tay lên miệng cô nói: "Đừng có khóc!"

Cô Năm chỉ có thể cố nén sợ hãi, thở hổn hển từng đợt. Trong chốc lát sau, cô Tú dần dần nhúc nhích, sau đó liền bắt đầu ói, ói như điên, những thứ cô ói ra đều rất tanh hôi. Cô nôn ra cả nến, cả cơm tối vừa ăn, khiến mọi người nhìn vậy đều cảm thấy khó chịu.

Trời đã khuya nên không có cách nào khác, cũng may bà ngoại tôi cũng có biết một số bài thuốc đơn giản, đành đốt một ít lá chè Đắng cho cô Tú uống. Cây chè Đắng hồi bé tôi cũng từng được bà ngoại cho uống, trị chứng đau bụng ở trẻ con rất hữu hiệu. Cụ thể là đem màng mề gà phơi khô, nướng chung với chè Đắng bằng than, sau khi nướng hơi cháy hòa tan với nước. Có thể trị chứng khó tiêu, giúp tiêu tiêu hóa tốt.

Bà ngoại sau khi làm xong bèn vội vàng cho cô Tú uống chè Đắng, nhưng cô Tú lại cắn chặt răng, chỉ uống được một chút nhưng lại nôn ra hết.

Cuối cùng không còn cách nào khác, bà ngoại bèn bảo ông ngoại bóp miệng cô Tú, để cậu Sáu giữ chặt hai chân, không cho cô Tú đá lung tung mới có thể để cô Tú uống hết bát chè Đắng.

Sau khi uống hết, cô Tú mới ngừng nôn, an tĩnh được một chút. Nhưng cô Năm vẫn sợ không dám đi ngủ, vì vậy ông ngoại và bà ngoại đành ngủ cùng cô Tú, còn cô Năm và cậu Sáu sang phòng bên cạnh ngủ.

Lúc này cô Tú đã khỏe lại một chút, cũng dần tỉnh lại trong chốc lát. Cô không nôn nhưng lại chuyển sang đau bụng, quằn quại như vậy tới sáng thì được ông bà ngoại tôi đưa tới bệnh viện trong trấn.

Người ở bệnh viện nói là ăn phải đồ hỏng, dạ dày cô Tú qua hai ngày cũng chẳng còn gì nên bác sĩ cho truyền một chút. Nhưng khi y tá vừa mới đâm kim truyền vào tay đã lập tức bị cô Tú giằng ra, qua mấy lần vật lộn nhưng cô Tú vẫn không chịu để bác sĩ truyền. Cuối cùng mọi người đành phải cắm kim truyền vào mông, còn bắt ông ngoại tôi giữ chặt, không để cho cô Tú cựa quậy chút nào. Qua cả nửa ngày như vậy nhưng tình trạng của cô Tú không hề chuyển biến, các bác sĩ trong bệnh viện đành đề nghị bà ngoại đưa cô Tú lên bệnh viện huyện.

Trưa hôm đó, ông bà ngoại tôi mang cậu Sáu và cùng cô Tú bắt xe lên bệnh viện huyện. Vì say xe cho nên bà ngoại tôi ôm cô Tú chọn một chỗ gần cửa. Lúc đó mọi người chen chúc nhau rất đông, ông ngoại tôi và cậu Sáu cũng vậy, nhường chỗ cho bà ngoại và cô Tú.

Bà ngoại tôi vừa kéo cửa kính ra hít thở một chút thì cô Tú đã định nhoài người chui ra khỏi xe, cũng may là lúc đó ông ngoại tôi nhìn thấy, nhanh tay kéo cô trở lại. Cô Tú vừa khóc vừa kêu: "Mẹ, đừng đưa con tới bệnh viện, bệnh của con chưa không khỏi đâu. Con chết mất, bố mẹ mau đưa con về nhà..."

Mặc cho ông bà ngoại tôi dỗ thế nào thì cô Tú vẫn không ngừng khóc, sống chết không chịu xuống xe vào viện. Năm đó cô Tú mới lên 9, cậu Sáu 12 tuổi, những lời cô Tú nói ra đều được cậu Sáu kể lại cho tôi. Nhưng cô Tú lại nói với tôi chẳng thể nhớ nổi gì cả, cô chỉ nhớ mang máng khi còn bé cô bị bệnh nặng, cái khác thì không rõ lắm.

Lại nói tiếp, ông ngoại sau khi kéo lại, bà ngoại lúc này cũng giữ chặt cô Tú, mặc kệ cô kêu khóc, bốn người trên xe nhanh chóng tới bệnh viện huyện.

Sau khi đến nơi, cô Tú lập tức được chuyển vào khoa cấp cứu. Sau khi bác sĩ kiểm tra đã đưa ra phác đồ điều trị. Nhưng chỉ tới ngày hôm sau, chờ lúc mọi người không chú ý là cô Tú đã chạy ra khỏi bệnh viện, ông bà ngoại tôi phải hết sức vất vả mới tìm được cô. Đến cuối cùng không còn cách nào khác nên bà ngoại tôi phải dùng dây vải trói chặt cô Tú trên giường bệnh, ba người thay phiên nhau trông chừng cô. Đến cả việc đi vệ sinh cũng phải có hai người trông chừng, không để cô trốn mắt.

Đó là năm 1986, bệnh viện không có phòng ăn, nên bà ngoại tôi phải nhờ người mang cơm vào viện. Nhưng mặc kệ bà ngoại tôi bón thế nào cô cũng giãy ra hoặc gạt đổ, không ăn lấy chỉ là một chút. Bà ngoại tôi nói lúc đó may mà còn có dịch truyền duy trì, không thì cô Tú đã mất rồi.

Tới ngày thứ năm bà ngoại tôi nhờ người mang cơm tới, nhưng đó là cơm sống, mọi người không ai muốn ăn. Nhưng kỳ quái là khi nhìn thấy bát cơm sống, cô Tú lại chảy nước miếng, lần đầu tiên cô mở miệng nói mình muốn ăn cơm.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 3: Đạo sĩ


Dịch: Tuyệt Hàn

***

Bà ngoại tôi kinh ngạc cởi dây cho cô Tú ăn cơm, không biết do đói hay do gì mà cô Tú chỉ và vài cái đã hết bát cơm sống, hơn nữa la hét đòi ăn tiếp. Kết quả mấy bát cơm sống cô đều ăn hết, nhưng cô vẫn đòi ăn tiếp, ăn tới mức bụng căng tròn như cái trống, khiến cả nhà càng thấy sợ hãi.

Bà ngoại tôi vội vàng đi gọi bác sĩ, bác sĩ cũng ngạc nhiên, không hiểu tại sao một đứa bé có thể ăn nhiều tới vậy. Sau đó bác sĩ đành rút truyền dịch, cho cô Tú uống thêm một viên thuốc tiêu hóa rồi đi ra ngoài.

Tới tối, cơm bình thường thì cô Tú lại bắt đầu không muốn ăn, mọi người tưởng rằng do buổi trưa cô ăn nhiều. Nhưng tới ngày thứ hai, ngày thứ ba, bất kể là thức ăn ngon tới đâu để bên cạnh, cô Tú đều không hề động tới, tình trạng cứ kéo dài như vậy tới buổi tối ngày thứ tư.

Đêm hôm đó cô Tú còn chưa ăn cơm, nhìn con mình ngày càng gầy gò, bà ngoại tôi ngậm nước mắt, đau lòng dỗ dành cô Tú ăn cơm nhưng vô ích. Bất đắc dĩ nên bà ngoại tôi phải ra ngoài, bỏ tiền mua một phần cơm sống cho cô Tú thử một chút.

Quả nhiên không ngoài dự liệu, cô Tú lại ăn hết sạch, ăn tới mức bụng phồng căng mới thôi. Chuyện lạ như vậy, bác sĩ cũng không giải thích được, chỉ đành dặn dò không được cho cô Tú ăn nhiều cơm sống như vậy nữa, trẻ con dạ dày chưa phát triển hoàn toàn, ăn nhiều cơm sống càng gây hại cho đường tiêu hóa.

Sau hai ngày, người nhà tôi không dám cho cô Tú ăn thêm cơm sống nữa, bác sĩ cũng không còn cách nào khác, cứ như vậy kéo dài tới ngày thứ bảy. Cô Tú đột nhiên lại bất tỉnh, hơn nữa bắt đầu co giật, miệng sùi bọt trắng, nhịp tim và huyết áp đều bắt đầu hạ. Bác sĩ dù đã cố gắng hết sức nhưng sau một hồi đành bảo gia đình chúng tôi về chuẩn bị hậu sự, đứa nhỏ này sợ là không giữ được, cũng không biết là bệnh gì.

Thời điểm đó bà ngoại rất kiên cường, bà cũng không hề khóc, chỉ nói một câu: "Chết thì cũng không thể chết ở bệnh viện, bất kể thế nào cũng phải về nhà!"

Nói xong bà bèn bảo ông nội đưa cả nhà về. Trên đường trở về bà ngoại tôi nhớ tới lời vị đạo sĩ năm đó, bà bèn bảo ông ngoại đi tìm. Có thể đó chỉ là một vị đạo sĩ chín năm trước vô tình đi ngang qua, khi đó vừa không có điện thoại, vừa không có danh thiếp, biển người mênh mông, đi đâu tìm được?

Bà ngoại nhớ lại lời vị đạo sĩ kia trước lúc đi đã dặn — Phố An Huyền cách đó năm dặm, liền vội vàng bảo ông ngoại đạp xe đi trước. Ông ngoại tôi vội vàng vừa đi vừa hỏi, rốt cuộc mới tìm được con phố đó.

Khi tìm được phố An Huyền thì trời đã tối, gặp ai ông cũng hỏi về vị đạo sĩ kia, ai cũng lắc đầu, đạp xe vài lượt qua cả con phố ông ngoại tôi mới được một ông già nhắc ở phía tây cách phố An Huyền năm dặm có một thôn nhỏ, rất hẻo lánh, phải đi qua một mảnh rừng, phía dưới là nghĩa địa, qua nghĩa địa lại phải đi thêm năm dặm đường. Nghe nói nơi đó trước kia có một vị đạo sĩ, về họ tên thì không ai biết cả.

Ông ngoại cám ơn ông già, vội vàng đạp xe cả đêm, khi đi ngang qua cánh rừng chỉ thấy toàn là đom đóm, lập lòe như ma trơi. Ông nội tôi sợ lắm, guồng chân liều mạng đạp xe, không cẩn thận bị ngã lộn nhào, ông vẫn tiếp tục bò dậy, cắn răng nhịn đau chạy xe thẳng về phía trước. Lúc đi tới thôn ông ngoại tôi đau đến mức đầu đầy mồ hôi, ngồi ở cửa thôn kiểm tra một chút, chỉ thấy chân rách toạc, nhìn thấy cả xương trắng. Ông ngoại tôi rất thương cô Tú, cảm thấy bất lực, bèn đứng ở ven đường khóc lớn.

Lúc ông ngoại tôi đang khóc, ở đầu thôn có một người đàn ông chạy tới hỏi ông tôi gặp chuyện gì mà khóc ở đây, người này mắt to mày rậm, sống mũi cao, mặc một bộ trường bào màu trắng, nhìn dáng vẻ tiên phong đạo cốt.

Ông ngoại lúc này hết sức bất lực, đành nói con mình sắp chết, không còn cách nào khác nên đành khóc.

Nghe ông ngoại tôi giải thích xong, người tuổi trẻ kia liền nói: "Đại ca đừng có gấp, cứ từ từ theo tôi vào nhà rồi nói, để tôi băng bó vết thương cho anh trước đã." Vừa nói liền dẫn ông ngoại vào phòng. Sau khi đi vào, ông ngoại thấy đó chỉ là một căn nhà lá tầm thường, trên vách nhà có treo bức tranh Tam Thanh: Ngọc thanh Nguyên Thủy Thiên Tôn, Thượng Thanh Linh Bảo Thiên Tôn, Thái Thanh Đạo Đức Thiên Tôn.

Người nọ rót cho ông ngoại tôi một ly trà, bảo ông ngồi xuống. Lúc này vị kia mới thấy vết thương trên chân ông ngoại tôi, máu thấm ướt cả nửa quần, vết rách dài cả ngón tay. Sau đó ông lại vào nhà tìm thảo dược cầm máu, đắp lên chân cho ông ngoại tôi, lại dùng vải trắng băng bó lại, nhưng như vậy cũng làm ông tôi đau đến mức tái cả mặt.

Băng bó xong, người nọ lại rót thêm cho ông tôi một ly trà, dù nhìn trà cũng là loại phổ thông nhưng không hiểu sao ông ngoại tôi sau khi uống một hớp lại cảm thấy dần bình tĩnh lại, vết thương cũng từ từ không còn đau. Ông ngoại lúc này mới bắt đầu kể lại rõ ràng đầu đuôi, nói chuyện rõ ràng, hỏi người đàn ông này có biết gần đây có lão đạo sĩ nào không.

Không nghĩ tới người đàn ông kia lại nói: "Nếu như tôi đoán không sai, hẳn là anh muốn tìm sư phụ của tôi, đáng tiếc lão nhân gia đã cưỡi tiên hạc về trời ba năm nay. Nếu sư phụ khi còn sống có giao phó anh đến tìm, đại ca tin tưởng tôi, để tôi tới xem bệnh cho cô bé, được không?"

Ông ngoại tôi vừa nghe người mình muốn tìm đã chết rồi, cũng chẳng nghĩ ngợi gì nhiều, lúc này gật đầu liên tục, sợ chẳng còn biện pháp gì cứu con gái mình.

Người kia hỏi bát tự của cô Tú, rồi bấm đốt ngón tay tính toán, sau đó nói với ông ngoại tôi: "Quả nhiên không ngoài dự liệu, chỉ sợ con bé không qua khỏi ngày 15 tháng này. Gia sư chín năm trước đã từng cảnh cáo, không nghĩ tới mọi người chẳng những không có tin tưởng, ngược lại còn... Ai!"

Ông ngoại vừa nghe thấy vậy liền lập tức quỳ sụp xuống trước mặt người kia, khóc rống lên: "Năm đó chúng tôi chẳng ai nghĩ tới đạo sĩ điên đó. A không, lời đạo trưởng đó nói là sự thật. Vậy cậu bảo giờ phải làm sao?"

Người kia đỡ ông ngoại tôi dậy, lẩm bẩm: "Thôi thôi, anh đành chờ một chút vậy."

Chỉ chốc lát sau, người đàn ông kia đi ra từ sương phòng (phòng ngủ ngay cạnh gian khách). Lúc này ông mặc một bộ đạo bào, đầu đội mũ bát quái, chân đi giày màu trắng có thêu bát quái, còn đeo một cái túi bát quái trên lưng, nói với ông ngoại tôi: "Anh mau dẫn tôi về nhà, càng nhanh càng tốt. Nếu bây giờ anh có thể đi, lập tức lên đường."

Ông ngoại nhìn người đàn ông này mặc trang phục đạo sĩ, biết mình đã cầu đúng người, vội vàng đứng dậy, hai người đi suốt đêm trở về nhà. Nào ngờ, ông ngoại tôi chỉ vì chuyến đi đó mà vết thương ở chân chuyển biến xấu, từ đó ông tôi thường phải đi tập tễnh.

Phải nói ông ngoại tôi cũng là người khỏe mạnh trong thôn, nhưng giờ lại bị thương, đi đứng khó khăn. Vị đạo sĩ kia nói việc rất gấp, ông chỉ có thể cắn răng chịu đựng. Vị đạo sĩ này về sau có mối quan hệ rất thân thiết với cả nhà tôi, ông tên là Tra Nghiêm Vân.

Năm đó Tra Nghiêm Vân sinh đôi được một trai một gái, cuộc sống vùng nông thôn cũng khó khăn, chỉ có thể ngày ngày cố gắng mà thôi.

Khi tới nhà, ông ngoại tôi nói với bà ngoại lai lịch của vị đạo sĩ kia, sau đó lập tức đưa ông tới phòng của cô Tú. Kỳ quái chính là con chó mực của cậu Sáu khi thấy ông lại vẫy đuôi mừng, còn giơ hai chân trước ôm lấy giầy của Tra Nghiêm Vân. Phải biết rằng con chó này bình thường với người ngoài rất dữ, nghe nói ngay cả ba tôi khi tới tán mẹ tôi cũng suýt bị nó cắn.

Vị đạo sĩ xoa đầu con chó mực, cười cười tiến vào, hơn nữa bảo những người khác ở bên ngoài. Sau một nén nhang ông đi ra, sắc mặt có chút nặng nề. Bà ngoại tôi khẩn trương hỏi: "Đạo trưởng, tình huống như thế nào?"

Ông cũng không nói gì, chỉ bảo bà ngoại trải chiếu, chuẩn bị một cái bàn để ở ngoài cửa, một bát cơm cúng (cơm cúng phải được đắp thật đầy, sau đó úp ngược lại vào một cái bát khác. Cơm có hình như cái bát úp ngược, hơn nữa nhất định phải là cơm nửa sống nửa chín).

Bà ngoại tôi vội vàng trải chiếu, chuyển cái bàn ở bếp lên, sắp một bát cơm cúng như lời vị đạo sĩ dặn.

Sau khi xong xuôi, đạo sĩ Tra Nghiêm Vân bày bát cơm cúng ở giữa bàn, ông lấy từ trong túi càn khôn ra ba nén hương, một xấp phù, một hộp chu sa, một cây bút lông. Lại bảo ông ngoại tôi chuyển giường cô Tú đang nằm đối diện với cửa, hơn nữa còn đưa cho ông ngoại tôi một cuộn chỉ đỏ, bảo ông tôi trói cô Tú lại.

Nói tới cô Tú, từ khi đạo sĩ Tra Nghiêm Vân tới, cô quậy phá không ngừng. Ngay cả ông ngoại tôi cũng gần như không thể giữ chặt được cô. Nghe lời đạo sĩ, ông ngoại tôi dùng chỉ đỏ trói cô Tú lại. Về sau đó tôi mới biết sợi chỉ đỏ đó không phải chỉ để tránh cô Tú vùng vẫy, còn có tác dụng trói hồn, cũng chính là trói hồn phách của cô Tú, không để hồn phách của cô xuất khiếu.

Sau khi trói vòng vài vòng quanh người cô Tú, sợi chỉ tuy mỏng manh như cô Tú dường như không thể cựa quậy. Vị đạo sĩ lại cầm một hòn đá đen kịt nhét vào miệng cô, ông nói để ngừa cô cắn phải lưỡi. Xong xuôi mọi việc, ông cung kính đốt ba nén hương. Nén hương đó nhìn dài hơn hương của chúng ta hay dùng, cũng to hơn một chút, màu vàng ngà, có thể đó chính là cống hương (hương vua chúa dâng lên thánh thần). Nhắc tới cũng kỳ, trong phòng không hề có gió, nhưng sau khi hương được đốt lên, khói từ ba nén hương chụm lại, sau đó từ từ bay vào trong phòng cô Tú.

Tiếp, vị đạo sĩ lấy ra một cái nghiên mực. Ông ngoại tôi cũng là một người yêu thích thư pháp, vừa thấy liền biết ngay đó không phải là nghiên mực thông thường. Cái nghiên đó làm bằng đồng sáng bóng, trong mặt nghiên có khắc hình bát quái, chẳng qua ở giữa nghiên mực này lại có màu đỏ, mà không giống như nghiên mực phổ thông vốn có màu đen.

Vị đạo sĩ nhìn cậu Sáu, sờ đầu cậu một cái, nói với cậu: "Tiểu oa oa, đi tiểu vào một cái bát, mang vào đây cho ta."

Bà ngoại vội vàng cầm một cái bát, dẫn cậu Sáu tôi đi ra ngoài. Chỉ chốc lát sau, bà mang bát nước tiểu đi vào, vị đạo sĩ bèn đổ một chút vào nghiên mực, sau đó hòa thêm chút chu sa. Sau khi khuấy đều, ông cầm bút lông bắt đầu họa phù, khi họa phù toàn bộ chỉ dùng một nét nối liền, bút không hề nhấc lên, Ông vẽ tổng cộng tám cái phù, sau đó dán vào tám hướng xung quanh phòng cô Tú.

Nhắc tới cũng kỳ quái, sau khi dán xong lá phù cuối cùng. Cô Tú nằm trên giường lại hoảng sợ gầm to, nhưng miệng cô đã bị bịt chặt, cũng không nghe rõ được cô gào thét cái gì. Cô lúc này trừng mắt thật lớn, liên tục lắc đầu, giống như là rất sợ hãi, hoặc như là rất tức giận!

Tra Nghiêm Vân không hề nhìn cô Tú một cái, ngược lại càng đi tới gần, chân ông bước theo Thất Tinh Bộ. Mỗi một bước ông vẽ một lá phù, sau đó kẹp chặt vào ngón tay. Cũng không biết tại sao mà lá phù đó liền bốc cháy, miệng ông lầm rầm niệm chú. Cô Tú nằm trên giường bắt đầu quằn quại theo tiếng niệm chú của ông, cô ra sức giãy giụa như muốn thoát khỏi sợi chỉ đỏ, cả cái giường cũng rung lắc dữ dội. Sắc mặt cô từ trắng chuyển thành xanh, miệng không ngừng phát ra âm thanh: "Hô... Hô..."

Cũng không nghe rõ là cái gì.

Sau khi đốt tổng cộng bốn mươi chín lá phù, cô Tú dường như mệt hẳn, chỉ có thể thở dốc. Mọi người trong nhà cũng sợ, không nhúc nhích. Nhưng sắc mặt của đạo sĩ lại càng dần ngưng trọng, ông bắt đầu toát mồ hôi, đốt xong lá bùa cuối cùng, đạo bào sau lưng ông đã đẫm mồ hôi.

Vị đạo sĩ lập tức ngồi sụp xuống chiếu, uống một ly trà bà ngoại tôi đưa tới, nhìn qua hết sức mệt mỏi. Ông ngồi ước chừng ba phút mới đứng lên, dáng vẻ yếu ớt, hướng về phía ông ngoại tôi ngoắc ngoắc tay, nhỏ giọng nói: "Mọi người đi ra đi, tôi có vài lời muốn nói."
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 4: Đuổi tiểu quỷ


Dịch: Tuyệt Hàn

***

Sau khi tất cả đi ra ngoài, mọi người trong nhà nhìn Nghiêm Vân mệt mỏi, cũng không ai dám lên tiếng.

Nghiêm Vân nhìn cả một gia đình đang nhìn mình với ánh mắt mong chờ, lắc đầu một cái nói: "Hôm nay sợ là có phiền toái."

Lời người dịch: Để cho tiện thì từ sau sẽ gọi thẳng là Nghiêm Vân hoặc Tra Nghiêm Vân.

Bà ngoại tôi nghe ông ấy nói như vậy, lập tức quỳ sụp xuống trước mặt vị đạo sĩ. Tiếp theo cô Năm và cậu Sáu cũng quỳ xuống, bà ngoại tôi khóc lớn: "Đạo trưởng cứu giúp, năm đó chúng tôi có mắt không thấy núi Thái Sơn, đuổi sư phụ của đạo trưởng đi, mong đạo trưởng ngàn vạn lần đừng trách tội chúng tôi. Tôi xin đạo trưởng cứu lấy con gái của tôi, bác sĩ cũng đã bảo nhà tôi nên chuẩn bị hậu sự cho cháu nó, chúng tôi cũng chẳng còn cách nào khác, chỉ có thể cầu xin ngài, cứu lấy con bé. Cả nhà họ Từ chúng tôi làm quan tài, chưa từng ăn bớt của ai, cũng không bán quan tài giá đắt, nhiều khi gặp người nghèo không mua nổi quan tài gia đình tôi còn giúp họ chuẩn bị một cái quan tài mỏng. Dù gì cũng coi là tích tụ được không ít âm đức, sao lại khổ như vậy cơ chứ!"

Nghiêm Vân vội vàng kéo bà ngoại tôi dậy, nói: "Chị đừng lo, sư phụ tôi lúc còn sống thường hành sự kỳ quái. Đừng nói mọi người, tới nhiều khi tôi cũng không hiểu nổi ông ấy, không thể trách được. Chẳng qua là con gái chị sinh ra có bát tự là âm dương điên đảo, trong năm nay chắc chắn sẽ gặp phải tai kiếp. Cộng thêm thời điểm hôm trước khi đi qua con đập, con bé có mệnh ngũ hành khuyết thủy, vừa vặn lại gặp phải tiểu quỷ. Nếu đúng như tôi suy tính, hẳn là con bé không qua nổi mười lăm tháng này, hôm nay đã là mười bốn rồi. Bây giờ tiểu quỷ kia vẫn còn trong người con bé, chẳng qua là tôi đã dùng phép Khốn Tiên Thằng trói chặt hồn phách, lại dùng phù phong bế nhà cửa. Tôi đoán chừng tiểu quỷ kia chỉ chờ thời cơ là cướp đi hồn phách của con gái anh chị."

Bà ngoại tôi vừa nghe thấy vậy lập tức sợ hãi, chuyện quỷ cướp mất hồn phách người sống trước kia bà cũng được nghe nói qua từ mấy người già trong thôn. Nhưng hôm nay chuyện như vậy lại phát sinh trên người con mình, bà lấy hết can đảm hỏi đạo sĩ Nghiêm Vân: "Có mấy tiểu quỷ?"

Nghiêm Vân giơ lên hai ngón tay: "Hai, một nam một nữ, là hai đứa bé biến thành."

Nghe xong, ông ngoại tôi mới nhớ ra vài năm trước có hai đứa trẻ chết đuối trong cái đập đó. Sau đó người lớn trong thôn không cho trẻ con chơi gần cái đập đó nữa.

Nghiêm Vân nói tiếp: "Hai đứa bé đó bị chết oan, cho nên luôn muốn kéo đứa bé khác đi cùng, nói không chừng vào ngày 30 tháng này, trong thôn chỉ sợ sẽ xảy ra chuyện, hơn nữa còn là một đứa bé trai."

Bà ngoại tôi liền hỏi biện pháp.

Nghiêm Vân nói: "Biện pháp thì có, nhưng mà..."

Bà ngoại tôi cho rằng ông ta đang vòi tiền, liền lập tức lấy ra mấy tờ "đại đoàn kết dân tộc”, đưa cho Nghiêm Vân.

Nhưng Nghiêm Vân đạo sĩ khoát khoát tay: "Chị đừng làm vậy, giờ phải đi chuẩn bị hai tờ giấy màu xanh đỏ, sau đó làm một chút thức ăn cho tôi."

Cô Năm bình thường hay thích cắt giấy nên giấy màu thì nhà bà ngoại tôi cũng có nhiều. Chỉ chốc lát sau, một xấp giấy xanh đỏ đã được đặt trên bàn.

Nghiêm Vân quay qua nói với cô Năm: "Cháu cầm lấy kéo, cắt lấy hai bộ quần áo, mỗi loại màu một bộ. Hình dáng thì tùy cháu, chỉ cần giống như quần áo cho trẻ con mặc thường ngày là được."

Cô Năm tôi tuy nhát gan nhưng lại có đôi bàn tay rất khéo, chỉ chốc lát sau thì hai bộ quần áo nhỏ đã được đưa tới cho vị đạo sĩ. Đạo sĩ Nghiêm Vân cầm lấy quần áo giấy, sau đó đặt lên một mảnh trúc trên bàn. Lại dặn dò bà ngoại làm sáu đĩa thức ăn, ba chay ba mặn, cộng thêm hai ly rượu, hai cái chén không, trên chén bày hai đôi đũa, toàn bộ được đặt trên mảnh trúc.

Khoảng nửa tiếng sau mọi thứ được chuẩn bị xong, Nghiêm Vân đem những thứ này đặt ở trước cửa chính nhà bà ngoại tôi, sau đó đốt ba nén nhang và hai cây nến.

Chờ tới khi đốt xong hai nén hương, đột nhiên từ trong chuồng gà vang lên tiếng gà gáy, đạo sĩ Nghiêm Vân lập tức hô lên một tiếng không tốt. Nhanh chóng chạy vào phòng của cô Tú, cắn ngón giữa, trực tiếp đặt lên mi tâm cô Tú. Sau đó bảo ông ngoại tôi mang con gà trống vừa gáy tới.

Ông ngoại cũng không dám thờ ơ, vội vàng chạy đi bắt con gà trống kia. Đạo sĩ Nghiêm Vân cầm lấy con gà trống, dùng dao cắt tiết nó, vẩy một vòng xung quanh giường cô Tú. Sau đó ông lại lùi ra khỏi phòng, đi tới cái bàn đặt cơm cúng lúc trước, nhắm mắt, hét lớn một tiếng: "Thái!"

Tiếp theo ông lại lấy từ túi càn khôn ra một thanh bảo kiếm, một cái pháp ấn cổ. Thân kiếm màu ngọc bích, khí tức có chút u hàn, nhìn bên ngoài có phong cách tao nhã, cổ phác, thân kiếm và chuôi kiếm được đúc liền mạch, trên kiếm cách (phần ngăn cách giữa chuôi kiếm và thân kiếm) có một cái bát quái đồ. Còn về phần cái ấn thì được đúc bằng đồng xanh, kích cỡ ước chừng bằng bàn tay người lớn, phía trên có khắc chữ: Đạo Kinh Sư Bảo.

Đạo sĩ Nghiêm Vân tay phải cầm kiếm, tay trái cầm ấn, bắt đầu miệng niệm chú ngữ, giống như Thái Thượng Lão Quân hạ phàm vậy. Ông niệm chú liên tục, đột nhiên tay cầm kiếm ông rung lên, dùng mũi kiếm nhấc một tấm phù lên, chỉ thẳng về phía giường cô Tú. Một tiếng "Tách" vang lên, lá bùa lập tức bốc cháy, tiếp theo là đạo phù thứ hai. Hai lá phù cháy hết, Nghiêm Vân lấy ra một tờ giấy thấm mực đen, gắng sức vẽ ra một đạo phù, sau đó ông dùng pháp ấn đè lên tờ giấy, dán vào trong phòng cô tú. Lần này ông cũng dán tám lá phù, sát với những lá phù dán lúc trước, sau đó đóng cửa phòng đi ra.

Nghiêm Vân bảo ông bà ngoại tôi mang theo cả cậu Sáu và cô Năm, nhanh chóng đi tới bên cạnh con đập, đem theo hai bộ quần áo giấy và cả đồ cúng, dắt theo cả con chó mực của cậu Sáu, đến khi trời sáng thì trở lại. Từ lúc đi cho tới khi quay lại không được nói một câu, còn phải quay lưng về phía phòng cô Tú nữa.

Bà ngoại cùng ông ngoại tôi mang theo cô Năm và cậu Sáu, bưng mảnh trúc đặt đồ cúng theo. Thời đó đường đất nên đi lại khó khăn, ông ngoại tôi bưng mảnh trúc đi phía trước, bà ngoại tôi dắt cô Năm và cậu Sáu theo sau, lưng quay về phía phòng cô Tú. Dựa theo phân phó của đạo sĩ Nghiêm Vân cứ như vậy đi tới gần con đập, đốt nhang đèn, bày chén đũa, chờ ở con đập từ tối tới khi trời sáng.

Sau khi trời sáng, cả nhà bà ngoại tôi nhanh chóng quay về, lúc đến nhà thì cửa chính mở toang. Bà ngoại tôi thấy vậy, sải bước nhanh vào nhà, chỉ thấy đạo sĩ Nghiêm Vân nằm hôn mê trước cửa phòng cô Tú, ông ngoại tôi thì chạy vào phòng xem cô Tú.

Cô Tú lúc này đang ngủ say trên giường, không có bất kỳ khác thường. Ông bà tôi nhìn nhau, vội dìu đạo sĩ Nghiêm Vân vào phòng nghỉ ngơi. Chỉ một chốc sau ông đã tỉnh lại, nhưng rất yếu ớt, nói với bà ngoại tôi: "Không sao nữa rồi, để con bé nghỉ ngơi cho khỏe."

Hai người ngủ li bì tới ngày thứ hai thì đồng thời tỉnh lại. Cô Tú sau khi tỉnh lại lập tức kêu đói, bà ngoại tôi đi làm cho cô một bát mỳ trứng gà, lần này cô ăn hết sạch, không bỏ ăn như mấy hôm trước.

Nghiêm Vân cũng thức dậy ăn cơm. Lúc ăn cơm trưa, bà ngoại tôi hỏi đêm qua đã xảy ra chuyện gì. Nghiêm Vân nói: "Hai con tiểu quỷ nghe thấy tiếng gà gáy, chúng đoán là trời đã sáng, chuẩn bị động thủ đoạt hồn con gái anh chị."

Ông vừa nói vừa nhìn đại ấn và bảo kiếm, cười khổ một tiếng: "Nếu không phải có hai thứ này, sợ rằng bọn nó đã thành công đoạt hồn con bé rồi, nhưng cũng may tôi đã đuổi được chúng đi rồi."

Nghiêm Vân nghỉ lại một đêm tại nhà chúng tôi, để phòng ngừa bất trắc. Bà ngoại tôi sau khi hiểu rõ mọi chuyện rất cung kính với vị đạo sĩ này, lúc ngồi uống trà, bà lấy ra một tờ tiền, dúi vào tay đạo sĩ Nghiêm Vân. Thời đó ở nông thôn, mỗi khi muốn mời người ta cúng bái, làm phép gì gì đó, sau khi làm xong đều phải chuẩn bị một túi tiền lì xì. Huống chi lần này đạo sĩ Nghiêm Vân lại cứu cô Tú một mạng, cho nên đưa một chút tiền lì xì cũng là phải lẽ.

Tra Nghiêm Vân cười, khoát tay một cái: "Chị dâu, tôi làm việc thiện cứu người không phải vì tiền tài, tiền của chị tôi không thể nhận. Người tu đạo vốn nên cứu nguy phò nan, đây chính là bổn phận của tôi. Hơn nữa gia sư và đứa nhỏ này cũng coi như là hữu duyên, chuyện tiền tài tôi không thể nhận, nếu là tổ sư gia biết, cũng sẽ trách tội."

Bà ngoại tôi cảm thấy khó xử, ơn cứu con gái mà không thể đáp tạ, không biết sao cho phải.

Tra Nghiêm Vân hớp một ngụm trà, lại tiếp tục nói: "Con gái anh chị đã không sao rồi, chỉ sợ buổi tối tôi sẽ gặp chuyện, không thể về nhà an toàn. Hai đứa bé kia vốn chết oan, lại bị tôi đánh cho bị thương. Tối nay là đêm trăng tròn, oán khí của chúng rất nặng, chắc chắn tối nay sẽ tìm tôi trả thù. Nếu như sư phụ của tôi còn tại thế, diệt hai con tiểu quỷ này chẳng phải là chuyện gì lớn, nhưng giờ tôi đạo hạnh có hạn, đến lúc đó còn phải mời đại ca giúp tôi một chuyện."
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 5: Núi Mã Đầu


Dịch: Tuyệt Hàn

***

Ông ngoại tôi vội vàng đứng lên, đáp: "Ân nhân có chuyện xin cứ việc phân phó, ta nhất định làm được."

Tra Nghiêm Vân vỗ vỗ lên đầu con chó mực ngồi cạnh, nói: "Tôi đoán hai con tiểu quỷ muốn đoạt hồn tôi trên đường đi về, đại ca tìm giúp tôi ba người đồ tể, nhớ phải bảo họ cầm theo cả dao bầu thường ngày hay dùng. Dặn họ đưa tôi về nhà, chỉ cần tôi về được đến nhà, hai con tiểu quỷ chẳng thể làm gì tôi nữa."

Đồ tể hằng ngày đều sát sinh nên sát khí rất nặng, tiểu quỷ khó có thể làm hại họ. Hơn nữa lại còn cầm theo cả dao bầu, chuyên dùng để giết heo. Tra Nghiêm Vân cần ba người đồ tể đi cùng về nhà, có thể thấy hai con tiểu quỷ này không hề đơn giản.

Những năm đó, mỗi thôn đều có một người đồ tể chuyên giết heo, cho nên tìm được ba người cũng không phải chuyện gì khó. Ông ngoại tôi đi ra ngoài, chỉ chốc lát sau đã quay lại, mỗi người cũng đều cầm theo dao.

Ông ngoại tôi kể lại đơn giản mọi chuyện cho bọn họ hiểu. Ba người đều có dáng vẻ hung thần ác sát, lưng hùm vai gấu, ngũ quan thô kệch. Họ nhận từ ông ngoại tôi chút tiền, vài bao thuốc. Ông ngoại tôi cũng nhiệt tình, bảo bà ngoại tôi làm cơm, mời họ uống mấy cốc rượu. Đến khi mười hai giờ khuya, họ bắt đầu lên đường, đưa Tra Nghiêm Vân về nhà.

Mấy người đồ tể này khi tôi lớn lên cũng đều biết họ, hai người vẫn còn sống, tuy rằng đã cao tuổi. Sau này họ kể lại, hôm đó mặc dù là mùa hè nhưng cảm giác đi trên đường giống như những ngày tháng 10 vậy, gió lạnh thổi không ngừng, đi trên đường luôn cảm giác phía sau có người đi theo. Nhưng Tra Nghiêm Vân không cho phép bọn họ quay đầu, cũng không được nói chuyện, bảo bọn họ vây chặt lấy ông, tay phải nắm chặt dao bầu, cứ thế mà đi.

Cũng may ba người này đều tuân theo lời của Nghiêm Vân, đưa ông về nhà an toàn. Về đến nhà, ông phát cho mỗi người một gói thuốc lá, một chai rượu cùng một tấm phù, rồi bảo họ quay về. Sau đó ông đóng chặt cửa, thẳng một mạch cho tới tận bảy ngày sau.

Sáng ngày hôm sau, ông ngoại và bà ngoại tôi thấy cô Tú đã bình phục, bèn dẫn cô đi gặp đạo sĩ Nghiêm Vân, nhưng ông đóng cửa không tiếp khách.

Lúc Tra Nghiêm Vân bế quan, bà ngoại tôi dẫn cô Tú đi kiểm tra, kết quả hết thảy đều bình thường. Ngay cả vị bác sĩ khuyên bà ngoại tôi lo hậu sự cho cô Tú cũng cảm thấy hết sức khó tin.

Liên tiếp bảy ngày, bà ngoại tôi đều tới nhà Tra Nghiêm Vân. Sáng ngày thứ tám thì ông mở cửa. Ông bà ngoại tôi được mời vào, sau đó ông ngoại bảo cô Tú dập đầu ba cái, coi như cảm tạ ân cứu mạng. Tra Nghiêm Vân cũng là một người sảng khoái, nhận ba cái dập đầu của cô Tú, bà ngoại tôi lần nữa đưa tiền, gắng hết sức bắt ông phải nhận. Tra Nghiêm Vân không biết làm thế nào đành nói: "Chị dâu, nếu chị thật sự muốn cảm tạ tôi, vậy có thể đưa con chó mực nhà chị cho tôi nuôi được không?"

Đừng nói là một con chó, kể cả có là một con heo mập, chỉ cần ông không ngại nhận. Bà ngoại tôi cũng sẽ không chút do dự đưa tới, ông bà liền lập tức gật đầu đáp ứng, sau đó ông ngoại tôi nhanh chóng về nhà, dắt con chó mực tới.

Tra Nghiêm Vân nói: "Không phải tôi là kẻ ham tài, muốn lấy đồ nhà anh chị. Chẳng qua là con chó này đã mở được âm dương nhãn, lại là chó mực, có thể nhận ra quỷ quái. Nếu để nhà anh chị nuôi, sớm muộn gì cũng sẽ gây ra chuyện. Để tôi nuôi còn có chút hữu dụng, chị dâu không trách tôi chứ?"

Sau đó tôi nghe bà ngoại kể lại, khi đó cậu Sáu vì không muốn ông ngoại dắt con chó mực đi còn quậy phá lung tung, khóc tới nước mắt nước mũi tùm lum. Nhưng ông tôi vẫn một mực dắt nó đi cho vị đạo sĩ, dĩ nhiên sau đó nó còn xuất hiện trong một câu chuyện khác của tôi.

Mấy ngày sau Tra Nghiêm Vân đều tới nhà bà ngoại tôi, hỏi thăm tình huống hằng ngày của cô Tú. Ông cũng tìm được nhà hai đứa trẻ chết đuối kia, hỏi thăm chỗ hai đứa trẻ được chôn, sau đó cùng cha mẹ chúng đi tế bái.

Khi đó trẻ con khi mất còn ít tuổi thường chỉ được quấn một cái chiếu, đào một cái hố nhỏ ở ven đồi, cũng không có bia mộ đàng hoàng như bây giờ.

Đi trên đường, Tra Nghiêm Vân liền hỏi người nhà hai đứa bé, sau khi an táng chúng có thường xuyên đi thăm mộ không? Cha hai đứa bé sợ vợ mình đi thăm mộ thương tâm, nên cũng không đi thăm mộ. Kể cả lúc chôn cũng là nhờ người khác chôn, bọn họ chỉ biết hai đứa bé được chôn ở một ngọn núi, những thứ khác cũng không biết. Tra Nghiêm Vân cầm la bàn, vừa đi vừa nhìn, dẫn theo đoàn người tới núi Mã Đầu.

Nói tới núi Mã Đầu, tôi cũng biết qua một chút. Nó nằm ngay đối diện với cửa nhà bà ngoại tôi, bởi vì hình dáng giống như một con ngựa nên được gọi là núi Mã Đầu. Hơn nữa quê tôi là cả một vùng bằng phẳng, núi Mã Đầu lại to lớn dị thường, hình thù cũng không giống như những ngọn núi khác, cảm giác có điểm quái dị.

Tới mặt trời đứng bóng mọi người lên tới đỉnh núi Mã Đầu, rốt cuộc cũng tìm được mộ chôn hai đứa trẻ kia. Hai nấm mồ cỏ dại mọc um tùm, nếu không phải màu đất có hơi khác biệt, thật khó nhận ra đó lại là hai ngôi mộ.

Hai gia đình khi thấy hai ngôi mộ cảm thấy thương tâm, lập tức quỳ trước mộ khóc lớn. Tra Nghiêm Vân cũng không để ý tới bọn họ, chỉ đi xung quanh đo đạc. Khoảng chừng 20 phút sau, Nghiêm Vân cảm thấy đã hiểu rõ, liền kêu người của hai nhà đứng chung một chỗ, nói phải đào hai ngôi mộ lên.

Cả hai bên đương nhiên đều không đồng ý, cha một đứa bé còn đánh ông, lúc đánh người này buột miệng mắng: "Ngươi từ đâu tới giả làm đạo sĩ, còn dám bảo chúng ta đào mộ con mình lên ư?"

Tra Nghiêm Vân cũng không giận, hỏi bọn họ: "Mấy người biết đây là núi gì không?"

Mọi người dĩ nhiên đều biết đây là núi Mã Đầu!

"Núi Mã Đầu? Ngưu Đầu Mã Diện (Đầu Trâu, Mặt Ngựa – Hai sứ giả của Âm Phủ)! Đúng, ngọn núi này chính là một trạm dừng chân của Ngưu Đầu Mã Diện, hai đứa trẻ nhà các người lại được chộn trên lưng núi, chính là cưỡi trên lưng ngựa. Vì thế chúng trở thành một cặp tiểu quỷ chuyên câu hồn đoạt phách người khác, trọn đời không được siêu sinh! Đào lên đi, tôi sẽ làm lễ, dời mộ phần của con hai nhà các người đi nơi khác. Các người cũng không muốn con mình đã mất rồi còn tạo thêm nghiệt chứ?"

Người trong thôn cũng đều biết chuyện của cô Tú mấy ngày trước, lại nghe thấy như vậy. Người của hai nhà cũng có chút sợ hãi, trong lòng nghĩ nếu quả thực như vậy thì tội nghiệt nặng lắm, sau khi chết cũng không được an bình, phải làm tay sai cho kẻ khác. Họ bèn quay qua thương lượng với nhau chốc lát, sau đó hai người cha đều đáp ứng, bắt đầu đào mộ.

Hai đứa trẻ lúc chôn cũng không sâu, không mất bao lâu sau đã đào tới góc chiếu. Khi mở hai cái chiếu ra, trong nháy mắt tất cả mọi người đều ngây dại. Hai đứa trẻ mất đã nhiều năm, xác chúng không hề phân hủy một chút nào, ngược lại nhìn rất sống động, giống như đang ngủ vậy. Người nhà hai đứa trẻ sợ tới mức không dám nhúc nhích, phải biết rằng thời điểm đào mộ là giữa tháng sáu nóng bức, xác hai đứa trẻ không hề thay đổi, tới cả một chút mùi cũng không có!

(Hình dạng cơ bản của núi Mã Đầu giống như thế này: có phần nhô ra giống như đầu ngựa, dốc thoai thoải như lưng ngựa. Trong phong thủy thế núi này không tốt, tránh làm nhà ở phía đối diện)
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 6: Miếu Tướng Quân


Dịch: Tuyệt Hàn

***

Tra Nghiêm Vân chỉ thở dài "Ai " một tiếng, sau đó nói tiếp: "Không nghĩ tới lại thành ra như vậy. Bây giờ lại càng không thể mang hai đứa bé này vào thôn mai táng được nữa, nếu không sớm muộn vùng này cũng sẽ xảy ra ôn dịch. Hôm nay chỉ có thể hỏa táng, thu lấy tro cốt rồi an táng thôi."

Ai cũng biết xác người sau khi chết sẽ bị phân hủy, nhưng hai đứa con nít lại vẫn còn nguyên hình dạng trước khi chết... Chẳng phải là đã biến thành quỷ rồi sao. Lúc này người nhà hai đứa bé đành phó mặc cho Nghiêm Vân đạo sĩ, không dám nói nửa câu.

Tra Nghiêm Vân phân phó mọi người gom củi khô trên núi, dựng một cái giá để hỏa thiêu. Tới khi dựng xong, Tra Nghiêm Vân bảo mọi người đưa xác hai đứa bé lên, lại cắm ba nén hương trước cái giá, miệng lẩm nhẩm khấn vái. Sau đó đốt lửa, niệm lớn Vãng Sinh Chú, báo tên hai đứa trẻ, giống như là báo danh chúng trước Âm ty.

Sau khi đốt xong, thu lại tro cốt hai đứa trẻ, mọi người xuống núi. Đạo sĩ Nghiêm Vân lại dặn chôn tro cốt của hai đứa trẻ ở gần con đập, dựng bia mộ cho chúng. Khi xong xuôi thì trời đã tối, Tra Nghiêm Vân được ông ngoại tôi mời về nhà ăn cơm, sau đó ông liền cáo từ về nhà.

Cô Tú đêm đó liền nằm mơ, cô mơ thấy hai đứa trẻ tới chào mình, chúng còn chắp tay, bảo cô gửi lời cám ơn vị đạo sĩ đã giúp chúng. Ngày hôm sau nữa, bà ngoại tôi qua nhà hỏi ông thêm một lần nữa về mọi chuyện, Tra Nghiêm Vân gật đầu nói hai đứa bé kia hẳn đã đi đầu thai rồi, hơn nữa bảo bà ngoại dặn mọi người trong thông không được chôn người chết trên núi Mã Đầu nữa.

Mặc dù cô Tú đã khỏi hẳn, nhưng trải qua biến cố như vậy, sức khỏe cô cũng không tốt lắm, dễ bị cảm mạo. Mãi tới khi cô trưởng thành mới có chuyển biến tốt.

Trải qua chuyện ly kỳ như vậy, Tra Nghiêm Vân dần dần có chút tên tuổi. Cũng có không ít người khi làm tang sự mời ông tới siêu độ, nhưng cho tới bây giờ ông không hề nhận của ai một đồng. Nhiều khi trẻ con trong thôn gặp bệnh lạ, khóc không ngừng, ông chỉ đốt một lá phù cho uống là khỏi. Dĩ nhiên ông cũng hiểu về Đông y, nhiều khi không phải trúng tà, mà là bị bệnh, ông cũng sẽ kê một bài thuốc cho uống, nếu nghiêm trọng cũng bảo đưa đi bệnh viện.

Khi đó, cũng không ít người muốn tới bái sư học nghệ, nhưng Tra Nghiêm Vân đều không thu nhận. Ông vẫn sinh hoạt bình thường, khi thì thăm ruộng cấy cày, khi thì lên núi đốn củi. Nếu không xảy ra chuyện của cô Tú, mọi người thậm chí còn không biết ông là một người đạo sĩ.

Khi tôi biết tới ông, là chuyện của rất nhiều năm sau đó.

- -----------------

Lúc tôi sáu tuổi, trong thôn xảy ra một chuyện.

Thôn chúng tôi ở vùng núi, trong thôn có một ngôi miếu rất lớn, xây bằng gạch xám. Tôi nghe ba nói, ngôi miếu kia có từ rất lâu rồi, không ai biết rõ nó có từ bao giờ. Từ thời cụ cố nội tôi tới đây khai hoang thì đã có ngôi miếu kia rồi, nhưng khi đó chẳng có ai trông nom, qua trăm năm rêu phong thì lại càng trở nên cũ nát.

Những năm 60 thế kỷ trước, một số chùa miếu đều bị đốt phá. Ngôi miếu này cũng vậy, nhiều nơi tường gạch còn bị đốt tới đỏ bừng, duy chỉ còn có đại điện chưa bị thiêu hủy. Dần dần mọi người muốn xây nhà đều tới đó chọn vài viên gạch, nhưng cũng không biết tại sao khi dùng gạch của ngôi miếu đó xây nhà, người trong nhà thường bị ngã. Có nhà còn chết tới mấy người, sau đó mọi người liền lấy gạch ở đó đi xây chuồng heo. (Dg: Dân thôn này quả là trâu bò)

Nhà tôi cũng có vài khối gạch như vậy, hồi bé tôi cũng đã cầm ném chơi. Khối gạch đó rất nặng, một mặt chạm trổ hình kỳ lân, một mặt được trạm trổ phong cảnh rất đẹp. Dựa theo giải thích bây giờ thì nó hẳn là một khối gạch mang giá trị lịch sử cao. Câu chuyện tiếp theo tôi kể, có liên quan rất lớn tới ngôi miếu này...

Nghe mấy người cao tuổi trong thôn gọi đó là miếu Tướng Quân. Tôi thật sự vẫn không biết được một vùng quê nghèo trong núi như vậy lấy đâu ra một vị tướng quân cơ chứ?

Trong thôn chúng tôi có chừng trăm hộ gia đình, nhưng cơ bản đều là người di cư từ vùng khác tới, nghe nói người dân bản địa ở vùng này từ thời Thái Bình Thiên Quốc (giữa TK XIX) đã bị giết hết rồi, cho nên lai lịch của miếu Tướng Quân không có ai biết rõ. Cũng may nó nằm ở vị trí không có gì quan trọng, cũng không cản đường, lâu dần mọi người cũng quen với sự tồn tại của nó.

Trẻ con ở vùng nông thôn, khi bé trừ leo cây móc tổ chim chính là xuống nước bắt tôm tép, hoặc là chơi vài trò như nhắm mắt trốn tìm... Tôi cũng tự nhận là một đứa gan to, từ bé đã không biết sợ hãi là gì. Tôi cũng có một người bạn, sinh cách nhau đúng một ngày, lại ở gần nhà. Cậu ta tên là Lý Dịch, vì khi còn bé dáng người cậu ta mảnh khảnh, lại leo trèo giỏi nên chúng tôi gọi là "Hầu Tử".

Tôi cùng Hầu Tử có một lần tới miếu Tướng Quân chơi, tôi luôn cảm thấy một cảm giác khó tả với cái miếu đó. Nói thế nào nhỉ? Nó tạo cho người ta cảm giác như đứng trong một khoảng khá rộng nhưng lại đầy mùi ẩm mốc, nếu như nhà ai có nhà thờ tổ, đặc biệt là có nghĩa trang cũng sẽ cảm thấy tương tự. Nhưng tôi lại cảm thấy hết sức tò mò với cái cảm giác đó, chỉ muốn tìm ra nó ở nơi nào mà thôi.

Ngày hôm đó, tôi cùng Hầu Tử và một đứa nhỏ hơn là Tiểu Hồng Hà cùng tới chỗ đó chơi. Thật ra thì hai đứa chúng tôi đều là tiểu bại hoại (kiểu trẻ con luôn làm mấy chuyện mất dạy), ba đứa rủ nhau chơi trò thầy thuốc bệnh nhân.

Tại sao chơi trò thầy thuốc bệnh nhân lại là tiểu bại hoại? Chính là như thế này:

Tôi cùng Hầu Tử sẽ giả làm thầy thuốc, còn Tiểu Hồng Hà làm bệnh nhân, kiểm tra thân thể cho con bé. Khi đó chúng tôi đều không hiểu chuyện nam nữ, chỉ biết là con trai và con gái đi tiểu không giống nhau. Vì vậy trò chơi thầy thuốc bệnh nhân liên xuất hiện, chúng tôi muốn kiểm tra thân thể Tiểu Hồng Hà. Chơi vui là thứ nhất, thứ hai là giúp chúng tôi thỏa mãn cái tò mò sao lại có tư thế đi tiểu khác nhau giữa con trai và con gái.

Loại trò chơi này mặc dù chúng tôi còn rất nhỏ, nhưng cũng biết không thể để người khác nhìn thấy. Vậy là hai thằng lừa gạt Tiểu Hồng Hà đến phía sau miếu Tướng Quân, sau đó còn dùng một viên bi đưa cho Tiểu Hồng Hà để nó im miệng. Con bé làm bệnh nhân, tôi làm thầy thuốc, Hầu Tử ở bên cạnh canh chừng. Lúc tôi đang định cởi quần Tiểu Hồng Hà kiểm tra, bên ngoài truyền đến tiếng mẹ Tiểu Hồng Hà: "Mấy đứa tiểu quỷ dắt nhau đi đâu rồi? Chớ để ta tìm ra được, không là mỗi đứa một roi vào mông đó!"

Tôi còn chưa kịp che miệng Tiểu Hồng Hà, con bé liền gọi: "Mẹ, hai anh ấy cởi quần con, bảo là chơi trò thầy thuốc bệnh nhân, vui lắm!"

Thấy con bé nói vậy, tôi cùng Hầu Tử ba hồn bảy vía lên mây, liền xoay người tìm chỗ trốn. Xung quanh toàn là vách tường trơ trụi, lấy đâu ra chỗ trốn? Cái này chỉ có thể nói là vận đen tới mà thôi, muốn tránh cũng không tránh khỏi. Ngay lúc tiếng bước chân của mẹ Tiểu Hồng Hà càng ngày càng gần, Hầu Tử nói nhỏ với tôi: "Mau, ở kia có một cái hang, chui vào đi!"

Tôi xoay người nhìn lại, ở gần phía tường miếu Tướng Quân có một cái hang, vừa vặn một đứa trẻ sáu tuổi có thể chui lọt. Tôi cùng Hầu Tử không hề đắn đo, lập tức chui vào.

Tới khi chúng tôi chui vào trong cái hang nhỏ, mẹ Tiểu Hồng Hà đã đằng đằng sát khí chạy tới, vừa mắng chúng tôi là hai đứa lưu manh, vừa dắt Tiểu Hồng Hà đi về. Con bé bị mẹ mắng cũng khóc toáng lên, làm tôi và Hầu Tử trốn trong hang cũng không dám thở mạnh. Chỉ trong chốc lát, chúng tôi đều không dám đi ra ngoài, bởi vì hai đứa muốn về nhà, nhất định sẽ phải đi qua cửa nhà Tiểu Hồng Hà. Hầu Tử đề nghị đến khi trời tối mới về, tránh gặp mẹ Tiểu Hồng Hà. Lúc đó là khoảng 4-5h chiều, mẹ Tiểu Hồng Hà gọi con bé về ăn cơm tối, thời đó ở nông thôn ăn cơm tối tương đối sớm.

Đến khi hai mẹ con Tiểu Hồng Hà đi khỏi, hai đứa chúng tôi mới phát hiện cái hang thông vào trong miếu. Ban đầu chui vào chỉ chú ý bên ngoài, bây giờ ngẩng đầu nhìn, trên vách miếu có không ít dấu vết của khói lửa. Chúng tôi chui vào miếu, gian phòng đó có thể là đại điện. Trên trần điện được chạm khắc rất tinh xảo, có hình thái cực bát quái, hồ lô, tiên hạc các loại. Cửa đại điện đóng kín mít, chỉ có chút ánh sáng le lói buồi ban chiều chiếu vào mà thôi.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 7: Bích hoạ trong miếu


Dịch: Tuyệt Hàn

***

Bên ngoài cửa miếu có một cái khóa đồng rất to, tôi cũng không biết niên đại của nó nữa. Tóm lại tôi chưa từng thấy cái miếu này mở ra bao giờ, cho nên cũng không biết rõ trong miếu như thế nào, chỉ có lần này vô tình vào được.

Vách tường bốn phía cũng có vẽ bích họa, trong đó có hai mặt bích họa đều không biết là vẽ người nào. Chỉ có một bức còn có thể phân biệt ra được đại khái dáng vẻ, đó là một ông già tóc bạc, tay cầm phất trần, chắc là Thái Thượng Lão Quân.

Trong miếu Tướng Quân lại có bích họa của nhân vật Đạo giáo, và cả cách thức bài trí đều nói lên trước đây nó là một tòa đạo quan (nơi ở, tu hành của đạo sĩ).

Điều khiến chúng tôi cảm thấy kinh khủng là trong miếu hoàn toàn trống không, ở giữa chỉ có một cái quan tài màu nâu cực lớn, phía trên phủ một lớp bụi rất dày. Mùi ẩm mốc trong miếu cũng rất nặng, cũng may trên nóc có một tấm ngói bị vỡ, ánh sáng bên ngoài còn lọt được vào, giúp chúng tôi phân biệt được vài thứ. Nhưng ở trong hoàn cảnh này, hai đứa tôi kể cả to gan tới mấy cũng đều cảm thấy bủn rủn tay chân. Hầu Tử lập tức xoay người chạy, từ cái đó lỗ nhỏ lại chui ra ngoài.

Lúc sắp đi tôi chợt nhìn thấy phía trên vách tường đen kịt có thứ gì đó, nó giống như là đường vân, hay một chữ viết, ký hiệu gì đó rất kỳ lạ. Tôi cảm thấy hết sức tò mò, nhịn không được nhìn thêm mấy lần. Khi đó tôi mới có 6 tuổi, lại chưa hề đi học nên không biết chữ, thêm nữa lại bị cái ký hiệu đó hấp dẫn, trong đầu chỉ cảm thấy trống rỗng.

Hầu Tử thấy tôi mãi chưa ra, gọi với vào, tiếng nó kéo tôi về với thực tại. Tôi lại quay đầu nhìn cái quan tài kia thêm một lần, lập tức rùng mình sợ hãi, lập tức chui ra ngoài. Hầu Tử hỏi tôi sao lâu vậy mà vẫn chưa ra, tưởng tôi bị quỷ bắt mất rồi.

Tôi hỏi: “Tớ vào đấy lâu vậy sao?”

Hầu Tử bảo trời đã tối lắm rồi. Lúc này tôi mới nhận ra mình đã ở trong cái miếu đó một mình tới hơn 30 phút, nhưng một chút cảm giác về thời gian cũng không có.

Khi chúng tôi đi ngang qua nhà Tiểu Hồng Hà, không thể tránh khỏi bị mẹ con bé mắng. Nào là mới có tý tuổi đầu đã không biết xấu hổ, định cởi quần con nhà người ta…Nhưng tôi lại không hề để ý, trong đầu lúc đó chỉ còn lại quang cảnh trong miếu Tướng Quân lúc chiều. Những ký tự, bức bích họa kia, còn có cả cái quan tài kia nữa.

Lúc chúng tôi còn rất nhỏ, mọi người đều dặn không được tới cái miếu đó chơi. Chúng tôi cũng đã từng hỏi qua, người lớn đều nói không nên hỏi, chỉ cần chớ tới đó là được.

Tôi lại cảm thấy hết sức kỳ quái, đó rõ ràng là một đạo quan, tại sao lại gọi là miếu Tướng Quân cơ chứ? Tôi cùng Hầu Tử lúc đi về đã bàn với nhau không được nói là tới miếu Tướng Quân chơi, nếu không sẽ bị ăn đòn. Hầu Tử lè lưỡi nói sẽ không nói, hai đứa còn ngoắc tay thề rồi mới trở về nhà.

Sau khi về nhà tôi cũng không cảm thấy khác thường, mẹ cũng nghĩ là tôi chỉ chơi loanh quanh trong thôn nên cũng không để ý. Cho đến khoảng 8h tối, mẹ Tiểu Hồng Hà đích thân tới nhà tôi. Lần này tôi biết xong đời rồi. Quả nhiên mẹ con bé liền kể hết mọi chuyện cho mẹ tôi biết, tôi cùng Hầu Tử như thế nào…v.v…

Bà ấy bảo mẹ tôi phải dạy dỗ tôi thật nghiêm. Thật ra thì ngày hôm đó tôi còn chưa nhìn thấy gì cả, quần còn chưa cởi xuống, mẹ con bé đã tới rồi. Nhưng mà mẹ con bé có lợi hại đến đâu cũng không nghĩ ra khoảng chục năm sau Hầu Tử vẫn là người cởi quần Tiểu Hồng Hà.

Mẹ tôi vừa phải xin lỗi người ta, vừa vặn tai tôi. Tôi gan to bằng trời nhưng rất sợ mẹ, mẹ tôi có ba chiêu đối phó với tôi: Nhéo tai, cầm thanh trúc mỏng đánh tôi nát mông, ba là phạt quỳ. Nhìn trận địa hôm nay tôi đã biết tôi thua hoàn toàn rồi, ba cực hình chắc chắn có trốn cũng không thoát.

Quả nhiên sau khi mẹ của Tiểu Hồng Hà đi khỏi, tôi bị véo tai nhấc thẳng lên, tiếp theo chính là quỳ xuống. Tôi phài quỳ thật đàng hoàng, bởi vì lúc đó nếu có phản kháng thì chắc chắn đại cực hình nát mông sẽ giáng xuống. Sau đó mẹ tôi cũng cho qua, nhưng không cho tôi đi chơi với đám Hầu Tử và Tiểu Hồng Hà tới miếu Tướng Quân nữa, cuối cùng ông nội tôi xin cho tôi mới được tha.

Ông nội tôi rất thương tôi, thời đó mọi thứ đều thiếu thốn, ông vẫn thường mua quà vặt cho tôi ăn, hay là nấu vài món ngon dành riêng cho tôi. Lúc đó tôi ngồi vào lòng ông nội, để ông xoa đầu gối, tôi hỏi ông tại sao không được tới miếu Tướng Quân?

Ông nội nói xung quanh đó có ma quỷ, năm đó có người phóng hỏa đốt cái miếu đi rồi. Nhưng không hiểu sao xung quanh cháy hết, ngôi miếu chỉ còn lại đại điện như bây giờ. Không lâu sau đó người ta cũng phát hiện người phóng hỏa đốt miếu đã treo cổ tự vẫn trong chính gian đại điện đó, hơn nữa hình dạng lúc chết rất đáng sợ, mắt trợn trừng, hai hốc mắt chảy đầy máu. Từ đó về sau, trong thôn liền khóa cánh cửa miếu lại, sợ có người gây họa.

Tôi lại hỏi ông nội về cái quan tài trong miếu, nhưng ông nội nghe thấy tôi nói tới chuyện quan tài liền tỏ ra kiêng kỵ, làm sao cũng không chịu nói.

Qua mấy ngày sau, trên người tôi liền nổi đầy mụn đỏ, sau đó bắt đầu sốt cao, còn bị cả tiêu chảy nữa. Ba mẹ bèn đưa tôi tới bệnh viện khám, bác sĩ khám qua rồi nói tôi bị sốt phát ban, sau đó cho uống thuốc. Nhưng bệnh chẳng những không tốt ngược lại còn ngày càng nặng hơn. Lúc đó tôi tương đối gầy, bị bệnh không ăn uống được gì, tiêu chảy mất nước nên cả người chỉ còn da bọc xương. Hơn nữa lúc nào cũng thấy ngứa ngáy khắp người, gãi cái là máu rươm rướm rồi.

Ông nội thấy tình hình của tôi không ổn, liền bảo mẹ tôi đi tìm "Thần Nhân" tới xem một chút, thật ra thì mẹ tôi vốn là người vô thần, bà không chịu đi, cuối cùng vẫn phải nhờ ông nội tôi đi tìm một thầy pháp tới.

Không biết tên thầy pháp đó có bản lĩnh thật không, tóm lại chỉ biết tên này lúc bình thường thì bán bánh bao, thỉnh thoảng cũng xem chút phong thủy cho người ta. Lừa bịp mấy người già cả ở nông thôn chắc cũng đủ.

Tên thầy pháp kia sau khi đến, nhìn qua bệnh trạng của tôi một chút, sau đó phán nhà tôi thiếu đồ phong thủy trấn áp sát khí trong nhà, cho nên tôi bị tiểu quỷ quầy rầy.

Những năm đó ở nông thôn thường thịnh hành một kiểu nhà, gian giữa thường lớn nhất gọi là chính phòng, cũng chính là phòng khách. Mỗi nhà bình thường đều treo giữa nhà một bức tranh, có nhà treo ảnh Mao Trạch Đông, có nhà treo tranh vẽ thần tiên, cũng có nhà treo tranh sơn thủy. Ở hai bên đều treo thêm một đôi liễn (câu đối đi với nhau thành cặp, gọi là liễn), nơi treo cả 2 thứ đó thường được gọi là trung đường.

Treo tranh và liễn ở trung đường có tác dụng thứ nhất là làm đẹp, tiếp đó là muốn nói cho những cô hồn dã quỷ là ở đây có người sinh sống, không nên tới. Mà khi đó nhà chúng tôi vừa quét vôi xong, cũng không treo tranh và liễn ở trung đường.

Tên thầy pháp này ăn nói có bài có bản, mẹ tôi nghe cũng có chút xao động, liền hỏi nên làm gì. Hắn bèn thu của nhà tôi hai mươi đồng, sau đó lấy ra một lá phù, đốt thành tro rồi hòa nước cho tôi uống.

Sau đó tôi mới biết lá bùa đó là thật, có tên là Thiên Sư Phù. Nhưng tên kia khi hòa nước cho tôi uống thì phù chỉ được họa không, không được đóng dấu pháp ấn, cho nên không có chút tác dụng nào cả. Tôi uống chén nước đó thì bụng bắt đầu đau, tới mức co quắp cả người lại, nửa đêm phải đưa cấp cứu mới toàn mạng.

Sau đó tên thầy pháp kia sợ quá, qua mấy ngày cũng không dám mở cửa bán bánh bao, sợ mẹ tôi tìm hắn liều mạng. Hắn nhờ người khác trả lại tiền cho nhà tôi, cũng không dám ra ngoài phô trương nữa. Vì chuyện này mẹ tôi thiếu chút nữa cãi nhau gay gắt với ông nội, trong nhà hết sức u ám.

Nhưng trong bệnh viện thì tình huống của tôi vẫn không tốt hơn, dần dần còn bắt đầu mê sản, giống như cô Tú ngày xưa vậy. Bác sĩ đã kiểm tra rất kỹ, nhưng vẫn không phát hiện được đó là bệnh gì. Tôi được chuyển qua nhiều viện nhưng các bác sĩ đều chuẩn đoán giống nhau.

Bà ngoại sau khi biết tôi bị như vậy, bèn bảo mẹ tôi đi tìm Tra Nghiêm Vân, mẹ tôi ban đầu còn sống chết không chịu, cuối cùng thấy bệnh tình tôi mãi không thuyên chuyển đành bảo ba tôi đi tìm Tra Nghiêm Vân tới thử một chút. Chuyện về cô Tú mẹ tôi cũng biết, nhưng năm đó mẹ tôi đi học đại học xa, lại là người vô thần nên bà chỉ tin bệnh của tôi là bệnh lạ mà thôi, tuyệt đối không nghĩ đó là mấy chuyện về tâm linh gì gì đó.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 8: Mao Sơn Tam Phái


Dịch: Tuyệt Hàn

***

Lúc Tra Nghiêm Vân tới, tôi đã được đưa về nhà. Ông lập tức hỏi tình huống của tôi ra sao, sau đó hỏi tôi gần đây có đi chơi đâu linh tinh không? Không biết tại sao lúc đó trong đầu tôi lập tức nghĩ tới cái miếu Tướng Quân kia, nhưng sợ bị người trong nhà mắng nên tôi không dám nói. Chỉ tới khi vị đạo sĩ này hỏi, tôi cảm thấy có thể tin tưởng được, nên kể lại chuyện ngày đó cho ông ấy nghe. Nghe tôi kể lại đã bò vào trong miếu, ông nội tôi thiếu chút ngã từ trên ghế xuống, lại gần tôi hô lớn: "Tiểu tổ tông ơi, muốn sống đừng làm mấy chuyện dại dột như thế".

Nghiêm Vân nói chuyện này vô cùng cổ quái, ông nói tình trạng của tôi không giống trúng tà, cũng không phải bệnh, nên khó có thể xác định. Cho nên hôm nay cũng không có biện pháp, phải chờ sau khi ông vào miếu kia xem mới rõ. Khi ông nghe người nhà tôi hỏi tại sao tên thầy pháp kia đốt bùa hòa với nước cho tôi uống lại không khỏi, ông nói đó chỉ là kẻ lừa đảo. Phù không được đóng dấu pháp ấn sẽ không linh nghiệm, khiến "những thứ đó" cảm thấy khó chịu, cho nên bệnh của tôi sẽ càng nặng thêm. Nghe đạo sĩ giải thích xong, mẹ tôi nghiến răng nghiến lợi, thiếu chút nữa thì muốn chỉ thẳng mặt cái tên bán bánh bao lừa đảo kia.

Buổi tối hôm đó Nghiêm Vân ngủ lại ở nhà chúng tôi. Nhắc tới cũng kỳ quái, đêm đó là đêm tôi cảm thấy yên bình nhất kể từ sau khi bị bệnh.

Mọi chuyện về sau, đều là mẹ tôi kể lại cho tôi:

Sáng sớm ngày thứ hai, Nghiêm Vân liền bảo ba tôi đưa tới miếu Tướng Quân. Khi Nghiêm Vân nhìn thấy miếu, bèn lui lại mấy bước rồi nói: "Xem ra đúng là có chút vấn đề, không nghĩ tới lại thấy nó ở đây!"

Cha tôi liền hỏi thế nào. Nghiêm Vân cũng không trả lời, hỏi tiếp ba tôi về lai lịch của ngôi miếu này, ba tôi lắc đầu nói không biết.

Nghiêm Vân nhìn vách tường loang lổ, thở dài nói: "Nơi này có thể chẳng phải là miếu tướng quân gì cả! Đây là một đạo quan, nhưng không phải là chính đạo, mà là tà đạo!"

Nói xong, ông bảo ba tôi đi về nhà, tìm trưởng thôn xin mở cửa miếu. Còn ông thì đi về chuẩn bị một số thứ.

Tới khi về nhà tôi, Nghiêm Vân bắt đầu cùng ba tôi và trưởng thôn bắt đầu tìm hiểu về ngôi miếu Tướng Quân này.

Như vậy Tra Nghiêm Vân là người thế nào? Cái này phải nói tới một số lịch sử của Đạo gia:

Hiện nay Đạo gia lưu truyền chủ yếu được chia làm ba môn phái chính, theo thứ tự là Chính Nhất Đạo, Toàn Chân Đạo, Diệu Chân Đạo.

Trong đó chúng ta thường xuyên thấy một môn phái xuất hiện trong tiểu thuyết cũng như phim ảnh, đó chính là Mao Sơn, bọn họ cũng được gọi là Mao Sơn đạo sĩ.

Trong lịch sử, Mao Sơn phái là một trong những giáo phái Đạo Giáo thời kỳ đầu. Từ thời Nam triều (Tống, Tề, Lương, Trần), Mao Sơn trở nên hưng thịnh nhờ tổ sư Đào Hoằng Cảnh thời Lương. Vì Mao Sơn thờ Tam Mao Chân Quân là tổ sư, cho nên xưng là Mao Sơn phái. Phái này chủ tu Thượng Thanh Đại Động Chân Kinh, Linh Bảo và Tam Hoàng Kinh. Thờ Nguyên Thủy Thiên Vương, Thái Thượng Đại Đạo Quân, Thái Vi Thiên Đế Quân, Hậu Thánh Kim Khuyết Đế Quân, Thái Thượng Lão Quân là nhất đẳng cao thần. Phái này hướng thần, tụng kinh, tu công đức, kiêm tu các phép ích cốc (nhịn ăn), đạo dẫn (khí công của Đạo gia) cùng trai tiếu (kiêng rượu, thịt, đồ cay trước khi dâng rượu tế lễ).

Thời Bắc Tống Mao Sơn, Long Hổ Sơn, Hợp Tạo Sơn được xung tụng là Đạo Giáo tam đại phù lục phái, được gọi là Tam Sơn Phù Lục. Tới thời nhà Nguyên thì được gộp chung lại là Chính Nhất Phái, cũng chính là Chính Nhất Đạo ngày nay!

Đào Hoằng Cảnh truyền lại chức chưởng môn Mao Sơn Phái cho Tàng Quan Pháp Sư, mà Tàng Quan Pháp Sư sau đó có thu một đệ tử tục gia tên là Lăng Chính Dương, truyền thụ cho Chính Dương không ít pháp môn của Đạo gia. Sau đó không biết vì duyên cớ gì mà Lăng Chính Dương bị đuổi xuống núi. Lăng Chính Dương cả đời dốc lòng tu đạo, rồi sáng lập ra một nhánh khác của Mao Sơn là Thiên Chính Đạo. Nhưng phái này mỗi đời chỉ đơn truyền nên rất ít người biết, Tra Nghiêm Vân chính là truyền nhân đời thứ hai mươi bảy của Thiên Chính Đạo. Nhưng bởi vì một số nguyên nhân lịch sử, cho nên có không ít thứ cũng không được truyền lại. Tra Nghiêm Vân cũng chỉ được vị sư phụ kia truyền lại một số đạo thuật, chưởng môn đại ấn và một thanh Thất Tinh Kiếm, sau đó ông buông tay cưỡi hạc về trời.

Nếu nói rõ ràng thì Tra Nghiêm Vân được truyền thừa đạo pháp chính thống của Mao Sơn. Nghe nói Thất Tinh Kiếm và đại ấn cũng được chính Tàng Quan Pháp Sư sau khi luyện thành tặng cho Lăng Chính Dương, sau đó truyền thừa qua các đời của Thiên Chính Đạo, trở thành tín vật chưởng môn như ngày nay.

Thời kỳ mới có chính sách phá bốn cũ, sư phụ của Nghiêm Vân cũng bị quy là phần tử mê tín dị đoan, bị giam lại, bỏ đói tới gần chết. Khi đó cha của Nghiêm Vân là một người nông dân, thấy vị đạo sĩ đáng thương bèn lén mang chút khoai lang cùng bánh bao cho ông lót dạ. Cha của Nghiêm Vân lại vô tình bị người trong đội sản xuất phát hiện, sau đó bị gán cho tội danh giúp đỡ phần tử mê tín gây bất an cho dân chúng, bị bắt đi đấu tố. Nghe nói cha của Nghiêm Vân sống chết không chịu nhận tội, bị đánh tới chết. Vợ ông không chịu nổi đàm tiếu cũng bỏ nhà ra đi, bỏ lại Tra Nghiêm Vân còn nhỏ.

Lão đạo sĩ sau đó xuất hiện, đưa Tra Nghiêm Vân lên núi, thu hắn làm đồ đệ. Nghiêm Vân tư chất rất cao, không qua mấy năm đã có chút bản lĩnh, không ngờ sư phụ lại chết sớm, nhiều thứ vẫn chưa kịp truyền thụ. Chỉ để lại một số bản chép tay, đại ấn và bảo kiếm. Nghiêm Vân cũng chỉ dám lén lút nghiên cứu, không dám trực tiếp sử dụng hay có cơ hội trau dồi qua các bậc cao nhân, cho nên có rất nhiều phương diện chỉ hiểu lơ mơ.

Thậm chí Mao Sơn phái chính thống trong thời kỳ này cũng xảy ra rất nhiều biến cố lớn, rất nhiều văn vật, đạo pháp cũng vì thế mà thất truyền….

Dân gian cũng coi Mao Sơn là đệ nhất động thiên phúc địa của Đạo giáo. Đạo sĩ, thuật sĩ coi Mao Sơn là thánh địa. Nó cũng thường được gọi là "Mão Sơn" hoặc là "Mao Sơn", bọn họ thờ phụng Tam Thanh. Mà họ tôn Lão Tử là "Mao Sơn Pháp Chủ ", hay là "Bách Tử Lão Quân". Nếu là người hiều biết một chút về truyền thuyết dân gian thì chắc chắn sẽ biết tới nhân vật có tiếng tăm lừng lẫy trong Đạo giáo là "Triệu Hầu Thánh Chủ" hay "Triệu Hầu Tướng Quân". Vị Triệu Hầu này trong truyền thuyết chính là con rể của "Mao Sơn Pháp Chủ"!

(DG: Thật sự tác giả viết theo mấy truyền thuyết không chính xác, nên có một số chỗ đọc hơi khó hiểu một chút)

Nên đạo pháp truyền lại cho đệ tử đi theo đường chánh quy, tỷ như cầm máu, trị lở loét, họa phù, dùng Lộ Tư Thủy (trị hóc xương, khó tiêu, trúng gió lạnh), thối sát (loại bỏ sát khí trên người, vật, phong thủy), đa số đều tương tự với các môn phái Đạo gia khác. Nhưng một số pháp môn lại bị coi là "Tà thuật", ví dụ như "Ngọc Nữ Hỷ Thần" - một loại pháp thuật xuất hồn. Có thuật hết sức độc ác như "Đoạn Tử Tuyệt Tôn", "Mỹ Nữ Thoát Y". Trong tiểu thuyết thường hay nhắc tới pháp thuật "Di Hồn Hoán Ảnh" cũng nằm trong những tà thuật này. Ngoài ra còn có hấp dẫn dã thú, rắn rết trong núi tới cắn người, cũng là tà thuật được bí mật truyền lưu từ Mao Sơn.

Còn phải đặc biệt nói tới "Nuôi tiểu quỷ". Trong phim ảnh của Hongkong thường hay nhắc tới thuật Luyện Thi và nuôi tiểu quỷ, quả thật Mao Sơn có đạo thuật tương tự. Nhưng hoàn toàn khác biệt với phim ảnh và tiểu thuyết.

Tiếp theo cũng có một phái khác cũng được gọi là “Mao Sơn Phái", hiện nay đang lưu truyền ở vùng Quảng Đông, Quảng Tây, Giang Tây, Chiết Giang còn có Phúc Kiến, Hongkong. Trên thực tế, phái này hoàn toàn không có nguồn gốc từ Đạo gia, mà là từ Bạch Liên Giáo của thời Thanh diễn hóa ra thành nhiều phái nhỏ.

Nhắc tới Bạch Liên Giáo, mọi người có lẽ sẽ đều nghĩ tới yêu thuật và tạo phản. Nhưng dưới thời Thanh, Bạch Liên Giáo đã chuyển sang hoạt động ngầm, rất ít xảy ra các hoạt động đấu tranh chính trị, đa phần đã chuyển hóa thành một dạng tín ngưỡng phổ thông.

Trong đó "Thanh Liên Giáo" là một trong những chi phái nổi tiếng nhất, đa phần chưởng môn của phái đều được đồn thổi biết "Kỳ Môn Độn Giáp", am hiểu pháp thuật biến hóa. Triều đình cũng đã nhiều lần mời họ tới để lập đàn cầu mưa, chữa bệnh cho dân, thối sát… Cho nên phái này có tiếng tăm khá lớn. Thanh Liên Giáo am hiểu nhất chính là công phu Hàng Thần Phụ Thể (cho thần ma nhập vào người), dĩ nhiên trong lời của bọn họ thì chuyển thành "Thần Quyền". Họ chỉ cần có một bát nước, đốt hương sau đó vẽ bùa niệm chú rồi uống vào, lập tức có Thần nhập thể, đao thương bất nhập. Được đặt tên là "Thiếu Lâm Thần Đả", trai gái đều có thể học tập. Cho nên, bây giờ Mao Sơn phái mới có loại công phu "Thần Đả" hay được chiếu trên TV là như vậy.

Bây giờ ở phía Nam Trung Quốc có pháp đàn ghi là: "Thiếu Lâm Tổ Sư" hoặc là "Thiếu Lâm Thanh Giáo Chủ", chính là tổ sư của phái này, mà không phải là hòa thượng của Thiếu Lâm Tung Sơn! Vì giấu giếm nền đời sau chỉ dám ghi là "Thiếu Lâm Chân Giáo Chủ", hết sức tương đồng với cách gọi giáo chủ của Bạch Liên Giáo là "Bạch Liên Chân Giáo Chủ".

Nhưng bởi vì hoạt động của giáo phái này đa phần đều mang tính phản đối triều đại, nên bị truy bắt rất gắt gao. Sau đó tại sao phái này dứt khoát đổi tên thành "Mao Sơn”? Bởi vì người sáng lập ra Bạch Liên Giáo trong lịch sử có tên là "Mao Tử Nguyên". Nói tới đây chắc mọi người hẳn đã hiểu.

Còn có một phái "Mao Sơn" khác, tổ sư tương truyền là Đạn Tử hòa thượng. Nói ra cũng kỳ quái, một phái dùng bùa chú tại sao lại có tổ sư là một vị hòa thượng?

Bởi vì trong truyền thuyết vị hòa thượng này chính là một người từ khi sinh ra đã có thần lực hết sức đặc dị. Sự ra đời của Đạn Tử hòa thượng không chỉ lạ lùng, số mạng của người này cũng hết sức ly kỳ. Nghe nói vị hòa thượng này khi lên Vân Mộng Sơn, nằm mơ thấy "Viên Công" dạy cho mình pháp thuật trong《Như Ý Sách》, Viên Công thật ra là một con bạch viên, chính là con bạch viên trong câu truyện "Bạch viên trộm đào". Có truyền thuyết nói con bạch viên này được thiên đình giao cho trông coi《Như Ý Sách》, sách này dạy cho người ta phương pháp biến hóa hết sức thần dị, hơn nữa pháp thuật viết trong đó cũng hết sức đơn giản.

Viên Công đem nội dung trong sách truyền cho Đạn Tử hòa thượng, ngay sau đó liền biến mất. Vì vậy Đạn Tử hòa thượng sau khi học xong bèn xuống núi khai tông lập phái. Cho nên nếu có nói thần dị biến hóa, bay lên trời, chui xuống đất các loại pháp thuật đa số đều xuất phát từ phái "Mao Sơn" này. Nhưng tại sao phái này lại lấy tên là "Mao Sơn " thì không ai biết, cũng không có cách nào kiểm chứng. Nhưng các pháp môn này cùng hệ thống đạo pháp của Vân Mộng Sơn nhất định có liên hệ mật thiết.

Đó là tất cả các hệ phái Mao Sơn và sự hình thành của chúng.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 9: Nhang tắt


Dịch: Tuyệt Hàn

***

Để nghiêm khắc mà nói thì chính thống Mao Sơn phái chỉ có Mao Sơn thuộc Chính Nhất Phái, nằm ở tỉnh Giang Tô. Nhưng chi phái Thiên Chính Đạo của Tra Nghiêm Vân có thể coi như con riêng, vẫn có rất nhiều liên hệ với bổn phái Mao Sơn. Rồi sau đó tới bởi vì chiến tranh và cách mạng, Đạo gia ở Trung Quốc cũng dần dần chìm trong lịch sử. Những bậc cao nhân hiểu Đạo thực sự chẳng còn lại mấy, kẻ hiểu chút da lông cũng dám tự xưng cao nhân, giúp người ta xem phong thủy, làm lễ cúng. Bây giờ đạo sĩ cùng đạo quan hoàn toàn biến thành một nghề hay cũng chỉ là nơi du lịch tầm thường, kẻ dốc lòng tu đạo cơ hồ không thể nhìn thấy.

Trở lại chuyện chính. Xế chiều hôm đó cha tôi sau khi được sự cho phép của trưởng thôn, ông mang theo công cụ, đi cùng Tra Nghiêm Vân tới miếu Tướng Quân. Sau khi đập nát mấy cái khóa đồng, cánh cửa miếu sau bao nhiêu năm cuối cùng cũng được mở ra trước thế nhân. Mùi ẩm mốc lâu ngày lập tức ập vào khiến hai người phải bịt mũi, nhìn quanh một vòng, trừ cái quan tài đen to lớn bắt mắt ở giữa đại điện thì không có những thứ khác. Cho dù là ban ngày, nhưng cảnh tượng như vậy cũng khiến người ta cảm thấy có chút lạnh gáy.

Cha tôi biết chuyện xảy ra với tôi nên không dám đi vào, chỉ có một mình Tra Nghiêm Vân bước vào trong miếu. Khi ông nhìn bức bích họa trên tường, rõ ràng có chút kinh ngạc, ngừng lại một chút rồi nhìn sang phía vách tường còn lại. Cái vách đó chính là nơi tôi thấy những ký tự kỳ lạ, nhưng khác với tôi, ông nhìn cái vách đó cả một buổi chiều, cả người ngơ ngẩn, giống như nhập định vậy. Cha tôi ở bên cạnh thấy ông ấy như vậy cũng không dám nói lời nào, chỉ có thể đứng ở bên ngoài, nhìn vào cửa miếu. Thẳng cho đến khi mặt trời xuống núi, Tra Nghiêm Vân mới quay đầu nói với cha tôi: "Đi thôi!"

Cha tôi cũng không dám hỏi nhiều, khi đi về Tra Nghiêm Vân dặn dò cha tôi khóa kỹ. Còn bảo ông phải về quê một chuyến, còn cho cha tôi một lá phù, dặn cha tôi dán vào cửa, phải coi chừng tôi thật kỹ, không được để tôi chạy loạn, chỉ qua độ vài ngày thì ông quay lại. Tra Nghiêm Vân cứ như vậy tạm thời biến mất ba ngày, mấy ngày đó quả thật tình hình của tôi có chuyển biến tốt, cũng ăn thêm được một chút. Mẹ tôi tựa như nhìn thấy hy vọng, cả ngày khẩn cầu Bồ Tát phù hộ. Ba ngày sau, Tra Nghiêm Vân lại tới nhà tôi. Đầu tiên ông hỏi thăm tình hình của tôi, sau đó bảo cha tôi cùng ông đi ra ngoài.

Tra Nghiêm Vân nói cho cha tôi, căn cứ theo suy đoán của ông thì miếu Tướng Quân có thể có hai lai lịch:

Thứ nhất chính là ông tìm được trong một quyển sách cổ, có một đoạn như thế này: “Miếu Tướng Quân, trong miếu có tượng Tam Thanh tổ sư, bích họa thụy thú; miếu này do người làm tướng sát tính quá hung nên chuyển thành sát nghiệp, tính tình hiếu sát, giết hại thiện nhân. Vì sát sinh quá nhiều, vong hồn dưới đao nhiều vô số kể, lại thêm ba phần sát tính của bản thân. Lâu dần tự thân sát khí cũng như tu luyện, thấm vào huyết mạch, dung hợp cả người, thường mê muội, thiên hạ khó có kẻ nào tới gần.

Thiên tử dùng long khí trấn áp không thành, sau đó phải ra lệnh chém giết. Tướng này sau khi chết oán khí và sát khí rất nặng, sau khi bị giết thường được bí mật hỏa táng. Sau đó phải mời người có bản lĩnh, đem tro cốt đưa vào rừng sâu núi thẳm. Lại mời đạo sĩ hóa giải sát khí, dẫn oán khí. Nên lập miếu, dùng chính khí của Tam Thanh trấn áp, vách tường phải khắc thụy thú tránh tai họa cho dân chúng trong vùng.”

Nói cách khác ngôi miếu này có thể được lập để trấn áp một viên tướng khi sống là sát thần, khi chết thành ma. Bởi vì thời Thái Bình Thiên Quốc vùng chúng tôi cơ hồ bị tàn sát sạch sẽ, cho nên lúc đó cũng không tìm được danh tính vị tướng này là ai, người đời sau cũng không có khảo chứng.

Cũng có cách giải thích thứ hai: Ngôi miếu này căn bản là một cái đạo quan, hơn nữa rất có thể chính là do vị Đạn Tử hòa thượng trong truyền thuyết xây nên. Nơi này khẳng định đã từng là một đạo quan được rất nhiều người qua lại. Mà theo Tra Nghiêm Vân quan sát, phong thủy nơi này chính là nơi chạm đầu của thủy long và thanh long, cách cục cực tốt, không thể có hối khí ngất trời như thế này.

Tra Nghiêm Vân nói tiếp: Đạn Tử hòa thượng sau khi về Tây Thiên, môn phái này được truyền lại cho đời sau. Nhưng không biết tại sao khoảng sau thời Thái Bình Thiên Quốc, môn phái này gần như tuyệt tích. Nên ngôi miếu này được một phái khác tiếp nhận, phái này chắc hẳn chính là Thanh Liên Giáo, vì phòng ngừa lúc đó triều Thanh cho quân tiêu diệt, cho nên đổi tên thành miếu Tướng Quân, tiếp tục che giấu, ẩn mình làm chút thủ đoạn. Vì Tra Nghiêm Vân ở vách tường bị đốt rụi có hình vẽ đặc thù của Thanh Liên Giáo — Đó là một đóa Bạch Liên Hoa.

Mà khiến Nghiêm Vân có băn khoăn lớn nhất chính là bức họa đồ nhiều ký tự kỳ lạ kia. Theo ông suy đoán, đó là một loại chữ viết đặc thù của Đạo gia đã thất truyền, người bình thường không cách nào xem hiểu. Nếu là người hữu duyên với Đạo gia thì sẽ bị hấp dẫn, đó rất có thể chính là bí tịch trong truyền thuyết《Như Ý Sách》, chẳng qua là lấy đạo hạnh của ông lúc này còn không cách nào hiểu thấu ý nghĩa trong đó. Nhưng dù vậy, cũng khiến cảnh giới trong tu hành của ông tăng mạnh.

Cha tôi sau khi nghe xong, cũng không hiểu rõ, nhưng cha tôi quan tâm nhất chính là bênh của tôi có chấm dứt được không?

Tra Nghiêm Vân trả lời rằng: tôi cũng không có dấu hiệu bị quỷ đói bám lấy, mở thiên nhãn quan sát thì chỉ thấy trên đầu tôi có một đóa sen và một đám mây đen, hai thứ đó quấn lấy nhau không ngừng. Tình huống bây giờ ông cũng không có cách hóa giải, có thể cần đi sâu vào điều tra mới có thể biết được.

Có câu nói "Không vào hang cọp, làm sao bắt được cọp con". Tra Nghiêm Vân quyết định đến giờ Tý, thời điểm âm khí nặng nhất, tiếp tục tới miếu Tướng Quân điều tra kết quả. Lần này ông đã chuẩn bị đầy đủ, còn đặc biệt dặn dò bảo cha tôi tìm hai người đồ tể cầm theo dao bầu nữa. Khi đó nông thôn còn chưa cấm dùng súng, cha tôi cũng vác theo súng săn treo trong nhà đi cùng.

Lúc Nghiêm Vân tới gần cửa miếu liền rút Thất Tinh Kiếm và đại ấn, đi về phía trước. Hai người đồ tể được ông phân công đứng ở trước cửa miếu, để ngừa phát sinh bất trắc. Cha tôi thì đứng ở bên cạnh ông. Lần này Nghiêm Vân không tiếp tục nhìn hai vách tường như lúc trước, mà trực tiếp hướng về phía cái quan tài đen xì kia, trong lòng ông có cảm giác chính cái quan tài đó nhất định có chút vấn đề.

Trước khi khai quan, Tra Nghiêm Vân đốt một nén nhang khấn vái. Nếu nén nhang có thể thuận lợi cháy hết, thì chứng minh cái quan tài này không có phiền phức gì cả. Nếu nhang chỉ cháy tới một nửa thì tắt, vậy chứng tỏ kẻ nằm trong quan tài không muốn ngươi ở lại, nên mau chóng rời khỏi.

Hương điểm xong, Nghiêm Vân lại cung kính chắp tay trước quan tài một lần nữa. Tới khi nhang cháy quá một nửa mà vẫn không có chút nào khác thường, chẳng qua đêm đó mây đen kéo tới che kín cả bầu trời, trăng cũng không sáng. Khung cảnh trong miếu lúc này hết sức âm u, chỉ có ánh sáng phát ra từ ba cái đèn mỏ (đèn của thợ mỏ đeo trên đầu). Mặc dù không gian trong miếu không lớn, nhưng luôn có cảm giác không thể chiếu hết, phảng phất trong lòng mọi người là một chút sợ hãi.

Tra Nghiêm Vân lại dâng một nén nhang trước bước bích họa của Thái Thượng Lão Quân, sau đó liền động thủ khai quan. Tra Nghiêm Vân là đạo sĩ, việc tang lễ đã làm qua không ít, quan tài trong mắt ông với cái tủ cũng chẳng có gì khác nhau nhiều lắm. Khi ông dùng xà beng định mở nắp quan tài thì phát hiện nó rất nặng, dù dùng sức thế nào vẫn không nhúc nhích, liền kêu thêm một người đồ tể tới hỗ trợ. Hai người một người ở đầu, một người ở cuối quan tài, lúc đang định phát lực nạy nắp quan tài lên, Tra Nghiêm Vân đột nhiên phát hiện nén nhang thắp trước bích họa Thái Thượng Lão Quân chỉ cháy được một nửa đã tắt.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 10: Cái kén hình người


Dịch: Tuyệt Hàn

***

Tra Nghiêm Vân thầm kêu không tốt, bảo người đồ tể kia buông xà beng khỏi quan tài. Nhìn nén nhang đốt trước quan tài, nén nhang đó không bị tắt, nhưng lại cháy hết sức chậm chạp.

Chuyện này hết sức kỳ quái, theo lý mà nói thì dù sao ông cũng là người trong Đạo gia. Nén nhang thắp cho tổ sư gia chỉ là phép tắc cơ bản, người chết không có ý kiến gì, thì tại sao tổ sư lại có ý kiến chứ?

Tra Nghiêm Vân hết sức nghi hoặc, liền đi tới trước bức bích họa.

Ngay khi ông chỉ còn cách bức bích họa vài bước chân, đột nhiên một tiếng súng phá vỡ không gian tĩnh lặng lúc nửa đêm. Trong đại điện tối thui, một tiếng súng vang lên như vậy mang tới sự rung động khó có thể tưởng tượng được. Tất cả mọi người đều xoay người nhìn cha tôi, ánh mắt của ông hết sức kiên nghị, vẫn tiếp tục nhìn thẳng về phía sau lưng của Nghiêm Vân. Vị trí họng súng chỉ tới chính là bức bích họa trên tường đã găm vài vết đạn súng săn.

Tra Nghiêm Vân hỏi cha tôi chuyện gì xảy ra, cha tôi nói ở đó có một lão đầu râu bạc đang muốn đưa tay sờ đầu Tra Nghiêm Vân, cha tôi lúc đó cảm thấy không đúng, liền trực tiếp nổ súng.

Tra Nghiêm Vân lập tức lùi trở lại, hai người đồ tể nghe tiếng súng cũng cùng nhau đi tới bên cạnh Tra Nghiêm Vân. Tra Nghiêm Vân lấy từ trong túi một cái la bàn, đặt trước bức bích họa, chỉ thấy kim la bàn không ngừng quay tròn. Điều này nói rõ xung quanh quả thật đang có thứ gì đó tác động, mà kỳ lạ là vị đạo sĩ này cũng không hề phát hiện ra lão đầu kia.

Ngay khi ông còn đang suy nghĩ, một thanh âm vang lên: "Mau nhìn!"

Người hô lên đó chính là Trần Diệu – một trong hai người đồ tể của thôn tôi. Mọi người nhìn theo phương hướng hắn chỉ, lập tức thấy được cảnh tượng hết sức kinh khủng. Bức tường lúc trước chỉ có vài vết đạn găm lên, nhìn hết sức bình thường, nhưng bây giờ từ đó lại chảy ra những vệt máu. Chúng cứ như vậy tí tách, chảy xuống sàn miếu. Khung cảnh này, đừng nói là đồ tể hay cha tôi, ngay cả Tra Nghiêm Vân cũng là sợ hãi, lông tóc dựng đứng. Huống chi nơi này là một cái miếu Tướng Quân không hề có lai lịch rõ ràng. Bốn người chỉ đứng như chôn chân trong miếu, không dám nhúc nhích. Sau khi khói thuốc súng tan hết, trong miếu lúc này ngoài mùi thuốc súng, còn có một mùi máu tanh vô tận. Hai người đồ tể thường ngày dù đã ngửi mùi máu thành quen, nhưng giờ phút này đều đồng thời bịt mũi. Có một người vài phút sau không chịu nổi mùi máu tanh ngất trời, đã bắt đầu nôn mửa.

Nghiêm Vân cau mày, cầm lấy chiếc đèn thợ mỏ chiếu vào trên vách tường, ánh sáng từ đèn chiếu vào hòa lẫn với ánh đỏ của máu từ trong tường chảy ra, khiến mọi người đều cảm thấy rùng mình. Cha tôi vội vàng lên đạn, đạn này bình thường dùng để săn heo rừng, dù có là con heo rừng nặng tới 150kg, trong khoảng cách 50 thước trúng đạn chắc chắn phải chết. Cha tôi bình thường cũng là người gan dạ, lúc đó ông kể lại rằng chân mình cũng có chút run run.

Tra Nghiêm Vân đi tới bên cạnh vách tường, trực tiếp niệm Tịnh Thiên Địa chú của Đạo gia: Thiên địa tự nhiên, uế khí phân tán, động trung huyền hư, hoảng lãng thái nguyên. Bát phương uy thần sử ngã tự nhiên, Linh Bảo phù mệnh, phổ cáo cửu thiên. Càn la đáp na động cương thái huyền, trảm yêu phược tà, độ nhân vạn thiên. Trung sơn thần chú, Nguyên Thủy ngọc văn trì tụng nhất biến, khư bệnh duyên niên, án hành ngũ nhạc, bát hải tri văn, ma vương thúc thủ, thị vệ ngã hiên. Hung uế tiêu tán, đạo khí trường tồn, cấp cấp như luật lệnh!

Sau ba lần niệm chú, mùi máu trong miếu đã bớt đi không ít. Nghiêm Vân lại gọi hai người đồ tể tới, cầm xà beng cắm vào tường qua vết đạn. Khi Trần Diệu dùng sức cạy một cái, quả nhiên một lớp vữa tróc ra, tình cảnh lúc đó làm mọi người biến sắc. Cha tôi và Trần Diệu lập tức nôn thốc nôn tháo.

Chỉ thấy trong vách tường loang lổ máu chính là một cái kén hình người, máu vẫn đang không ngừng chảy ra từ vết đạn. Xung quanh chằng chịt những sợi tơ giống như mạch máu, giăng đầy cả vách tường. Tại sao trong miếu cổ lại có một cái kén hình người?

Chuyện đến bước này, chỉ sợ cũng đã vượt quá sự tưởng tượng của mọi người, chẳng lẽ trong cái kén kia chính là một người còn sống?

Ngay lúc này, đột nhiên tiếng ván gỗ bị xê dịch “Ca ca” vang lên, mọi người còn chưa lấy lại tinh thần, cái kén hình người kia đã "Ba " một tiếng, đổ sập xuống trước mặt Tra Nghiêm Vân. Tra Nghiêm Vân quát to một tiếng: "Không tốt!"

Ông vội vàng quay đầu nhìn lại, cái quan tài đen kia không biết từ bao giờ đã hé ra một góc. Tra Nghiêm Vân lập tức xoay người, vọt đến bên cạnh, đậy lại nắp quan tài. Sau đó ông dặn dò hai người đồ tể giữ chặt nắp quan tài lại, hơn nữa còn bảo bọn họ cắm dao lên trên nắp quan tài nữa. Sau đó Nghiêm Vân móc ra đấu mực, dùng tốc độ nhanh nhất bắn khắp quan tài một tấm lưới bằng chu sa.

Truyền thuyết đấu mực chính là do Lỗ Ban phát minh, nghe nói vết mực bằng chu sa từ đấu mực có thể ngừa cương thi chui ra khỏi quan tài, giống như trong phim vậy.

Làm xong hết thảy các thứ, Tra Nghiêm Vân đi qua kiểm tra cái kén kia. Lúc này mọi người mới phát hiện vỏ kén được phủ một lớp sáp nến rất dày, nhưng vẫn loáng thoáng có thể phân biệt ra được bên trong có một người. Tra Nghiêm Vân đưa tay ra hiệu, mọi người lập tức ra khỏi miếu. Trước khi rời đi ông khóa cửa cẩn thận, sau đó quay lại nhà của tôi.

Để tới nhà tôi phải đi qua một con cầu. Trước khi qua cầu, Tra Nghiêm Vân lấy ra ba lá phù, phát cho mỗi người một tấm, dặn ba người về đốt rồi hòa với nước uống vào. Khi về đến nhà tôi, mọi người bàn bạc nên tới nhà thôn trưởng báo án…
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 11: Thất Tinh Chiêu Hồn Trận


Dịch: Trúc Tử

***

Sáng sớm hôm sau, sở trưởng đồn công an liền mang theo người vào thôn điều tra. Khi mở ra cửa miếu, sở trưởng để cho nhân viên khám nghiệm hiện trường loại bỏ lớp sáp nến bên ngoài cái kén. Quả thật trong đó là thi thể của một lão giả, hình dáng giống hết như cha tôi miêu tả. Người này mặc trường bào Đạo gia, may bằng kim ty ngân tuyến. Lúc khám nghiệm thì cả cái trường bào màu tím do thấm đẫm máu đã chuyển sang màu đen, lại qua cả một đêm trong miếu cổ nên thi thể của lão giả này cũng đã có màu tím ngắt. Sau đó sở công an lập tức đưa ra thông báo cỗ thi thể này sẽ được giao cho đội khảo cổ của tỉnh tiếp nhận. Chỉ không lâu sau, quả thật đội khảo cổ của tỉnh đã tới thôn tôi khảo sát.

Mà cùng khoảng thời gian đó, bệnh tình của tôi lúc tốt lúc xấu. Đạo sĩ Tra Nghiêm Vân nói chờ tới khi công việc khảo cổ kết thúc sẽ có câu trả lời, bởi vì ông nghi ngờ mọi bí ẩn nằm trong cái quan tài kia. Mà cái quan tài kia bây giờ được coi là văn vật, càng được bảo vệ kỹ càng, người ngoài không thể đi vào trong miếu Tướng Quân mà kiểm tra được nữa.

Trong thời gian đội khảo cổ trú lại thôn chúng tôi, rất nhiều người hiếu kỳ đều tới hỏi thăm. Thôn này vốn là nơi hẻo lánh, nên khi có người lạ tới thì náo nhiệt hẳn, Nhiều người trong thôn cũng được hỏi về lai lịch ngôi miếu này, trong đó có không ít người đã từng chứng kiến ngôi miếu này bị đốt, họ vừa thổi phồng sự tích về ngôi miếu, vừa đồn thổi mấy lời không hay về nó, khiến không ít người trong đội khảo cổ cảm thấy bất an.

Không quá một tháng sau, trong đội khảo cổ liền lục tục có người bị bệnh, bệnh tình có triệu chứng giống hệt của tôi. Đội trưởng của đội khảo cổ chính là một người trung niên họ Vương, mọi người thường kêu là Lão Vương, ông đã tiếp xúc với không ít văn vật cổ đại, nhìn một cái liền biết đã xảy ra chuyện. Lão Vương liền bắt đầu hỏi thăm người trong thôn có chuyện tương tự đã từng xảy ra trước đây chưa, mọi người liền chỉ dẫn tới nhà tôi.

Lão Vương là một người thẳng thắn, sau khi nghe cha tôi kể lại mọi chuyện, liền lập tức đòi phải đi gặp Tra Nghiêm Vân. Cuối cùng buổi tối hôm đó ông ta và cha tôi mang mấy chai rượu ngon đi tới nhà của Tra Nghiêm Vân.

Lão Vương này quả thật là người có chuyên môn, chuyện lạ cũng là gặp qua không ít, bình sinh cũng thường nghiên cứu qua chút bàng môn tả đạo. Cho nên nghe nói Tra Nghiêm Vân là chưởng môn của Thiên Chính Đạo, tự nhiên cũng sinh ra chút kính sợ.

Thời điểm đội khảo cổ tới, Tra Nghiêm Vân đang nghiên cứu những ký tự được lưu lại trên vách tường, Nguyên lai ông đã dựa vào trí nhớ của mình, đem những ký tự kia ghi chép lại hết. Sau khi nghe lão Vương nói rõ ý đồ, Tra Nghiêm Vân cũng không tị hiềm, trực tiếp hỏi lão Vương có biết dịch lại những ký tự cổ này không?

Lão Vương nói những ký tự này chưa từng thấy qua, bằng vào kinh nghiệm khảo cổ mấy chục năm của mình, những ký tự này nhất định chính là một loại chữ viết đã thất truyền. Thực sự nó có phải chính là《Như Ý Sách》trong truyền thuyết hay không, hắn cũng không dám bảo đảm. Nhưng tại viện bảo tàng của tỉnh có một chuyên gia nghiên cứu về chữ Hán cổ, có thể mang những ký tự này tới đó nhờ giải đáp.

Tra Nghiêm Vân nói trong miếu kia chắc chắn có điều cổ quái, nhưng với đạo hạnh của ông hiện giờ, cũng không có cách phát hiện ra vấn đề nằm ở đâu. Nhưng đồng thời cũng có một thứ lực lượng khác bảo vệ, cho nên tính mạng mọi người vẫn được đảm bảo. Có thể câu trả lời xác đáng nằm trong cỗ quan tài và những ký tự bí ẩn kia, chỉ cần giải đáp được chúng là mọi chuyện sẽ xong xuôi.

Lão Vương nói, quan tài đã được đưa về tỉnh, còn phải chờ chuyên gia tới khai quan. Hắn từ hình dáng quan tài phán đoán nó chắc chắn đã có lịch sử hơn ngàn năm, hơn nữa còn được bảo tồn nguyên vẹn, cho nên tỉnh rất coi trọng. Rất nhiều chuyên gia đưa ra giả thuyết trong miếu còn tồn tại một địa cung bí mật. Chẳng qua nhiều người trong đội khảo cổ đột nhiên bị bệnh như thế này, chắc chắn sẽ khiến mọi người sợ hãi, cũng không dám tiếp tục công việc. Hiện giờ chỉ có thể tạm ngừng việc khảo cổ, hắn cũng không có biện pháp khác nên đành nhờ Tra Nghiêm Vân hỗ trợ.

Lão Vương muốn mời Tra Nghiêm Vân lập đàn làm pháp sự, Tra Nghiêm Vân lắc đầu, ông nói nếu có thể thì đã làm từ lâu rồi. Ông cũng đã dùng thiên nhãn quan sát những người bị bệnh, đều không có gì cả. Chỉ có tình trạng của tôi thì tương đối kỳ quái, đóa hoa sen và đám mây đen kia đều chớp tắt không ngừng. Ông đã thử dùng Thiên Cương Phục Ma chú, nhưng một chút tác dụng đều không có. Hết thảy phải chờ tới khi khai quan mới nói được, hiện giờ cũng không có đầu mối gì, ông cũng đang suy nghĩ biện pháp.

Lão Vương thấy tình hình như vậy, tới cả chưởng môn của Thiên Chính Đạo cũng không có cách hóa giải, chỉ có thể cáo từ đứng dậy. Tới hôm sau lão Vương chỉ phân phó hai người lại bảo vệ hiện trường, những người khác toàn bộ trở về trong tỉnh, người bị bệnh cũng đều được đưa vào bệnh viện. Tất cả đều chờ đợi tin tức về việc khai quan...

Một tuần sau, lão Vương tất tả chạy đến nhà tôi, không nói một câu đã kéo cha tôi tới nhà Tra Nghiêm Vân. Đến nhà, lão Vương lập tức đưa cho Tra Nghiêm Vân một phong thư, là do đích thân giáo sư Hà của viện bảo tàng tỉnh viết.

Trong thư giáo sư Hà nói đó là một loại chữ viết cổ, rất giống chữ của vùng Ba Thục cổ, giáo sư cũng chỉ có thể suy đoán một chút về nội dung của những ký tự này. Đại khái chắc chắn những ký tự trên bức bích họa có ghi lại tung tích của một cuốn kỳ thư, cụ thể thì còn phải nghiên cứu thêm.

Lão Vương hỏi Tra Nghiêm Vân trong thư giáo sư Hà viết gì, Tra Nghiêm Vân cho lão Vương đọc là thư. Lão Vương nói chuyện này giao cho giáo sư Hà nghiên cứu, mặc dù trước mắt không có quá nhiều đầu mối, nhưng với tình trạng của những người trong đội khảo cổ, càng kéo dài sẽ càng thêm bất lợi, dù sao cũng phải thử một lần.

Thời đó bài trừ mê tín dị đoan, sợ rằng nếu mọi người biết chuyện lão Vương nhờ vả Tra Nghiêm Vân thì tới cả chén cơm của y cũng hỏng mất. Cho nên Tra Nghiêm Vân có ý tới khi trời tối sẽ tới miếu Tướng Quân thử thêm một lần nữa, nếu quan tài đã bị mang đi mà mọi người vẫn không có chuyển biến tốt hơn, vậy chắc chắn vấn đề không chỉ nằm trong quan tài.

Mọi người cũng chỉ có thể buông tay đánh cuộc một lần, Tra Nghiêm Vân lại đưa thêm một danh sách những vật dụng cần dùng cho lão Vương, để hắn đi mua một số thứ: Gạo nếp, đậu tương, một con gà trống và một ít nhang đèn, tiền giấy. Cũng bảo cha tôi dẫn theo hai người đồ tể hôm trước, mang theo cả cuốc và xà beng.

Sau khi chuẩn bị thỏa đáng, cộng thêm vài người trong đội khảo cổ, có tổng cộng là mười một người tập trung tại nhà tôi. Rồi Tra Nghiêm Vân lại dặn dò mẹ tôi phải trông chừng tôi thật kỹ, bất đắc dĩ lắc đầu rời đi. Lần này Tra Nghiêm Vân quyết tâm, mặc dù không có chút nào nắm chắc, nhưng dù là âm tào địa phủ ông cũng phải thử một lần.

Đêm đó, cộng thêm cả Tra Nghiêm Vân và mười một người kia có thêm một con chó mực, nó chính là con chó của cậu Sáu tôi mà ông bà ngoại tôi nhượng lại. Nhân viên trong đội khảo cổ có ba người, cha tôi, đám thợ săn và đồ tể trong thôn tổng cộng có tám người, Tra Nghiêm Vân dẫn đầu, đưa mọi người tới trước miếu.

Sau khi tới miếu Tướng Quân, Tra Nghiêm Vân chọn ra bảy người ngồi trong miếu theo hình Thất Tinh, đứng gác cửa là hai người thợ săn. Còn hai người đồ tể thì đi theo bên cạnh ông.

Tra Nghiêm Vân lại đưa cho mỗi người một lá Thiên Sư Phù, dặn mọi người nếu như cảm thấy nguy hiểm thì phải lập tức đốt lá phù. Lá Thiên Sư Phù này có tác dụng bảo vệ tính mạng, người bình thường cả đời chỉ có thể dùng một lần, dùng để mời thiên binh thiên tướng ngăn cản tà ma xâm phạm.

Sau khi sắp xếp xong xuôi, Tra Nghiêm Vân bảo hai người đồ tể đặt 7 chén máu gà trống trước mặt 7 người, đưa cho mỗi người một nén hương.

Trận pháp này có tác dụng gì?
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 12: Ác đấu (1)


Dịch: Trúc Tử

***

Tra Nghiêm Vân cũng phân tích cho mọi người hiểu: Trong miếu Tướng Quân lúc này đang có một thứ lực lượng thuộc về Đạo gia đang trấn áp tà ma, hai thứ này không phân cao thấp. Nhưng có một số thời điểm, có thể lực lượng một bên sẽ mạnh hơn, cho nên ông chọn đêm ngày 15 trăng tròn, vào giờ Tý âm khí nặng nhất bày ra Chiêu Hồn trận. Thử dùng trận này gọi ra tà ma trong miếu, lại dùng Thất Tinh trận vây khốn nó, hai người đứng gác ở cửa chính là Môn Thần (thần giữ cửa - ở đền chùa thường có hai vị hộ pháp, tục gọi là ông Thiện và ông Ác), đứng cùng ông chính là hai người hộ vệ đề phòng bất trắc.

Tra Nghiêm Vân đã nghĩ trong đầu, dù trong miếu có là yêu quái thành tinh tới vạn năm, dùng trận pháp mạnh như vậy, tối nay chắc chắn sẽ có vài phần kết quả.

Tới khi bày xong tất cả mọi thứ, Tra Nghiêm Vân lại thắp bốn cây nến, xếp chúng vào bốn góc trong gian đại điện, ở giữa thì bày một bát cơm cúng, thắp lên đó ba nén nhang.

Tay Tra Nghiêm Vân nhắm mắt, tay cầm chuông Tị Tà, vừa rung chuông vừa niệm Thiên Cương Phục Ma chú. Ông bắt đầu đi vòng quanh gian đại điện của miếu Tướng Quân, mỗi khi đi hết ba vòng, Tra Nghiêm Vân liền ném một tờ giấy vàng, rồi lại tiếp tục đi.

Thời điểm bắt đầu mọi người có chút khẩn trương, dẫu sao tất cả cũng đang ở trong bầu không khí quỷ dị, có người còn hơi run rẩy. Nhưng sau nửa giờ không phát sinh động tĩnh gì khác, mọi người cũng dần cảm thấy bình tĩnh lại.

Tiến hành vừa đi vừa niệm chú tới vòng thứ bốn mươi chín, Tra Nghiêm Vân đột nhiên mở mắt ra, ném một lá phù về hướng đông nam. Lập tức cây nến trong góc phòng đó tắt vụt đi. Tra Nghiêm Vân hô to một tiếng: "Thái!"

Sau đó rút Thất Tinh Kiếm chém về góc đó, còn không chờ mọi người lấy lại tinh thần thì một con mèo mun từ trong góc đó nhảy ra, chạy thẳng về phía cửa. Lúc này con chó mực của Tra Nghiêm Vân lập tức nhào tới cắn.

Hai người thợ săn đứng canh cửa cũng nhanh tay nhanh mắt, không đợi Tra Nghiêm Vân phải mở miệng thì hai người đã bắn được ba phát súng. Hai người này trong thôn tôi cũng đều được mọi người khen là thiện xạ, nhưng sau ba phát súng kia mà con mèo mun vẫn tránh được hết. Nó tiếp tục nhảy về hướng tây bắc, trèo tót lên cái xà nhà. Con chó mực lúc này nhìn con mèo, sủa liên tục không ngừng. Còn con mèo kia sau khi trèo lên xà nhà thì kêu lên một tiếng “meooooo”, không giống tiếng mèo mà giống như tiếng trẻ con nỉ non vậy, nghe tiếng con mèo ai nấy cũng đều cảm thấy sợ hãi.

Chỉ có Tra Nghiêm Vân vẫn nhìn chằm chằm về phía nó, trong đầu nghĩ: hôm nay nếu ta không thu phục được ngươi, ngày sau sợ rằng còn có thêm nhiều người vô tội gặp tai họa ở đây mất.

Ông lập tức bảo mọi người chiếu đèn mỏ thẳng lên trần nhà, soi rõ tất cả mọi thứ. Hai người thợ săn giơ súng muốn bắn thêm vài cái, nhưng lại bị Tra Nghiêm Vân cản lại. Ông chỉ ắc đầu một cái, ý là vô dụng.

Nếu “nó” đã xuất hiện thì bằng cách nào cũng không thể để cho nó trở về. Tra Nghiêm Vân giao phó cho bảy người ngồi trên đất, bảo họ đem máu gà vẩy xung quanh chỗ ngồi tạo thành một vòng, cố gắng không được di chuyển. Sau đó sử dụng đại ấn, nhanh chóng vẽ xuống đất một lá phù, dùng Thất Tinh Kiếm khều một cái. Chỉ trong nháy mắt lá bùa bốc cháy, ông lại dùng kiếm có lá bùa đang cháy đâm thẳng về vị trí trung tâm trận pháp.

Theo như logic bình thường thì kiếm kia có sắc tới đâu nhưng đâm vào nền đất thì làm gì có tác dụng, nhưng lập tức ngay sau cú đâm, con mèo kia tựa như bị thương vậy. Nó lại càng kêu lên thảm thiết, rồi trốn về góc tây bắc. Mọi người nhanh chóng quay đèn chiếu về góc đó, nhưng cái gì cũng không nhìn thấy.

Ngay tại lúc này, mọi người lại cảm thấy rùng mình một cái. Sau đó chỉ cảm thấy hai mắt díu cả lại, giống như uồng phải thuốc ngủ vậy. Mỗi một người đều cảm thấy mất thăng bằng, không thể giữ nguyên vị trí như lúc trước được nữa. Hai người thợ săn cùng đồ tể vẫn còn khá ổn, nhưng đám lão Vương không qua hai phút đã lung lay sắp ngã.

Tra Nghiêm Vân thầm kêu một tiếng không tốt, hô to Điểm Hoàn Tự Thân chú,. Tiếng của ông lúc này vang vọng trong đại điện, giống như tiếng chuông đồng, lập tức khiến mọi người cảm thấy thư thái. Tra Nghiêm Vân sau khi hô xong, lập tức đốt mười hai lá phù. Mười hai lá phù cháy hết, đột nhiên truyền tới tiếng sấm ầm ầm, tiếp theo một tia chớp bổ thẳng xuống, dường như muốn đánh nát cả cái miếu Tướng Quân vậy.

Tra Nghiêm Vân lảo đảo một cái, miệng phun ra một búng máu. Dù gì ông cũng dùng hết sức đốt đồng loại mười hai lá Trương Thiên Sư phù, lực lượng đó quá mạnh khiến ông không thể chịu nổi. Sau khi ngừng lại một chút để ổn định, Tra Nghiêm Vân vung ra một vốc đậu tương, rồi móc trong túi sau lưng một lá cờ nhỏ, chỉ thẳng về hướng bắc, lập tức cây nến còn lại cũng tắt lịm.

Thuật này gọi là "Vãi đậu thành binh", một trong những thuật pháp mà đạo sĩ Mao Sơn thường sử dụng. Giờ phút này những người khác tựa như đều đã nhập định vậy. Tới khi kết thúc mọi chuyện, họ kể lại: sau khi Nghiêm Vân đốt mười hai lá Thiên Sư Phù, họ thấy thân thể của mình mất đi khống chế, ý thức dần dần mơ hồ, mãi cho tới ngày hôm sau mới tỉnh lại.

Nói về Tra Nghiêm Vân lúc đó. Ông lại dùng Thất Tinh Kiếm đốt thêm một lá bùa, chỉ thẳng về góc tây bắc. Một tiếng mèo kêu vang lên, tiếp đó con mèo mun đi ra từ góc tây bắc, nhe răng nhìn chằm chằm về phía Tra Nghiêm Vân. Con chó mực ở bên cạnh ông đã khom người, nó đang chờ có cơ hội là nhào tới. Nếu không phải bị Tra Nghiêm Vân lấy tay ấn xuống đầu thì giờ phút này sợ rằng nó đã xông tới.

"Nghiệt súc! Ngươi có thể biết đại ấn này là gì không?"

Nói xong, Tra Nghiêm Vân liền giơ lên đại ấn chưởng môn của Thiên Chính Đạo.

Con mèo kia sau khi thấy đại ấn không những không lùi về phía sau, ngược lại còn bước thêm một bước. Nó càng nhe răng dữ tợn, xù lông, tựa như có thù oán rất lớn với đại ấn kia vậy. Con mèo khom người một cái, trực tiếp bổ nhào về hướng của Tra Nghiêm Vân. Con chó mực không cam lòng yếu thế, đã sớm không kiềm chế được cũng vọt tới. Hai con, một chó một mèo giống như hai mũi tên đâm thẳng vào nhau, nhất thời đánh thành một đoàn. Con mèo mun kia thấy mình ở dưới đất không có lợi thế, liền phát huy sự linh hoạt của bản thân. Chỉ "vèo" một cái nó đã nhảy lên một cây cột, sau đó biến mất trong bóng tối. Chỉ để lại con chó mực chạy vòng quanh cây cột, sủa liên tục không ngừng.

Tra Nghiêm Vân cũng không dám thờ ơ, lúc này kẻ địch ở trong tối, ta ở ngoài sáng. Chắc chắn con mèo mun xảo quyệt kia đang chờ cơ hội mà tấn công, Nghiêm Vân muốn phá hang ổ của nó cũng vì muốn tạo ra một cơ hội, một người một mèo đều là thứ tinh ranh. Nhưng lúc này Tra Nghiêm Vân lại đảo mắt qua mấy người ngồi dưới đất, giống như muốn đi tới kiểm tra tình trang của bọn họ, vì vậy vẫy vẫy con chó: "Hắc Tử, tới."

Con chó mực không cam lòng, vẫy đuôi đi tới, quả nhiên con mèo mun kia mắc bẫy. Một tiếng “meo” vang lên, con mèo mun từ trên trần nhà phóng tới, bổ thẳng theo hướng đầu của Tra Nghiêm Vân.

Tra Nghiêm Vân đã đề phòng sẵn, lúc trước chỉ là giả vờ để đánh lạc hướng con mèo. Ông khẽ lắc mình một cái, tránh khỏi móng vuốt của nó, nhưng vẫn dính một vết cào, trên mặt rướm máu. Con mèo kia quay đầu, sau đó đứng ở trước mặt Tra Nghiêm Vân ra vẻ khiêu khích, cái đuôi dựng thẳng lên. Con Hắc Tử muốn xông lên, nhưng đã bị Tra Nghiêm Vân quát: "Đi giữ cửa."

Con chó mực lúc này giống như bỏ qua sự khiêu khích của con mèo, lập tức cong mông, phe phẩy cái đuôi, chạy thẳng tới cửa. Nó ngồi trước cửa giống như Lý Quỳ vậy, uy phong lẫm lẫm chiếm lấy lối ra vào. Con Hắc Tử mở miệng thở, thè cái lưỡi đỏ au như chậu máu, nhìn chằm chằm con mèo mun trước mắt.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 13: Ác đấu (2)


Dịch: Trúc Tử

***

Tra Nghiêm Vân giơ đại ấn, miệng niệm pháp chú, chỉ chốc lát sau những hạt đậu tương được rải khi trước vang lên tiếng rào rạo giống như tiếng tim đập. Con mèo mun cũng cảm thấy bất an, co đầu rụt cổ. Dần dần những hạt đậu như được tiếp thêm sinh khi, nhảy xung quanh con mèo giống như tự có ý thức. Chỉ chốc lát sau những hạt đậu đã vây chặt lấy con mèo, khiến nó không còn đường lui, con mèo cũng tựa như sợ hãi cái gì đó, không dám chạy trốn như lúc trước.

Nhưng nó vẫn tiếp tục nhìn về phía Tra Nghiêm Vân, gắng sức gào thét. Con Hắc Tử ở trước cửa thấy con mèo mun đã bị vây lại, nó đắc ý phe phẩy đuôi, còn quay hẳn cái mông lại, giống như tiểu nhân đắc trí vậy.

Tra Nghiêm Vân cũng không quan tâm tới màn tấu hài của con chó, lấy ra một lá phù màu đen, đặt xuống dưới đất, dùng bút chu sa họa ra một lá phù phức tạp. Rồi nhanh chóng đóng pháp ấn xuống lá phù, dùng mũi kiếm gẩy một cái, một ánh lửa xanh lóe lên làm lá phù bốc cháy, miệng Tra Nghiêm Vân niệm: "Dĩ ngã chi danh, tứ ngã chân lôi. Thái Thượng Lão Quân, cấp cấp như luật lệnh!"

Con mèo mun khi nghe thấy Nghiêm Vân niệm chú, lập tức nổi điên xông ra ngoài. Nó cũng không quan tâm tới những hạt đậu đang vây lấy bản thân, qua mấy lần cố gắng vọt qua, trận hình của đống đậu đã có chút rối loạn. Con mèo cũng gần như sắp thoát ra được thì Tra Nghiêm Vân đã dùng tay ấn thẳng lá bùa đang cháy dở vào giữa đầu con mèo.

Chỉ thấy một luồng sét sáng rực từ trên trời giáng xuống, giống như thần linh nổi giận vậy. Luồng sét vạch thẳng qua bầu trời, trực tiếp chọc thủng cái miếu Tướng Quân đã tồn tại qua bao nhiêu năm tháng thăng trầm, đồng thời cũng đánh lên người con mèo mun quái dị kia.

Trong lúc nhất thời, tàn lửa văng ra khắp nơi, Tra Nghiêm Vân cũng bị sét chấn văng trên mặt đất, đầu tóc bù xù. Tia sét này quả thật là kinh thiên động địa, đây là lần đầu tiên Tra Nghiêm Vân sử dụng lôi thuật mà khiến ông có cảm giác gần như không chống đỡ nổi. Ông lại ói ra mấy búng máu, tới lúc gần như hôn mê thì con mèo mun lại từ từ đứng dậy, tập tễnh đi về phía Tra Nghiêm Vân. Lúc này Tra Nghiêm Vân cũng chẳng còn sức lực, ngay cả hai cái nến ở góc tường cũng đã đổ gập xuống. Ông nhắm mắt thầm nghĩ phen này phải gặp tổ sư gia rồi, cũng chẳng thể cứu được những người bị bệnh ở bên ngoài nữa.

Ngay khi con mèo đã bước từng bước tới gần Tra Nghiêm Vân, ông nhìn quanh thì chợt phát hiện bức bức họa Thái Thượng Lão Quân vẫn còn đó. Tra Nghiêm Vân gắng hết sức bình sinh, cố gắng lết tới trước bức bính họa, phun một búng máu lên đó.

Nhắc tới cũng lạ, sau khi búng máu này được phun lên bức họa thì nến trong Thất Tinh Chiêu Hồn trận lập tức bùng cháy, một luồng hạo nhiên chính khí bỗng nhiên tràn đầy toàn bộ đại điện.

Con Hắc Tử nhìn thấy Tra Nghiêm Vân gặp nguy hiểm cũng nhanh chóng xông tới, điên cuồng cắn xé, nó đem hết lửa giận phát tiết trên người con mèo. Tra Nghiêm Vân gục xuống, trong đại điện chỉ còn lại tiếng mèo kêu gào và tiếng cắn xe của con chó mực...

Tới sáng hôm sau, mọi người tỉnh lại thì chỉ thấy thi thể con mèo đã bị cắn nát. Tra Nghiêm Vân thì hôn mê sâu, lão Vương thử xem xét thì vẫn thấy ông thở nhẹ, tất cả vội vàng đưa ông tới bệnh viện.

Ba ngày sau Tra Nghiêm Vân tỉnh lại, bác sĩ nói lục phủ ngũ tạng bị thương nghiêm trọng, ông cần phải điều dưỡng thật tốt. Tra Nghiêm Vân dẫu sao cũng là con người phàm tục, không chịu nổi đau đớn quá mức. Nên ông đành phải dặn dò lão Vương phải thiêu hủy con mèo mun kia đi, tro cốt phải đem trôn dưới gốc cây đào trên chục năm tuổi.

Lão Vương trở về làm theo y hệt như những gì Nghiêm Vân dặn dò.

Một tháng sau, Tra Nghiêm Vân được xuất viện, viện bảo tàng cũng truyền tin tới. Cái quan tài thuộc về thời Đường, được chế tạo từ Kim Ty Nam Mộc (tên khoa học Phoebe zhennan, là gỗ cực quý, thường được giai cấp quý tộc sử dụng). Mà trong quan tài lại là một thi thể từ thời Thanh, thi thể này mặc đạo bào, trên đạo bào có vẽ một đóa hoa sen màu xanh, tình trạng thi thể vẫn chưa thối rữa.

Dựa vào các đặc điểm và bằng chứng khảo cổ, nhiều nhà khảo cổ học trong tỉnh cho rằng đó chính là một nhân vật nào đó có địa vị rất lớn trong Thanh Liên Giáo. Cũng có một điểm kỳ quái khác là trong quan tài còn có xác một con mèo mun, đồng thời cũng không có dấu hiệu bị phân hủy chút nào.

Tra Nghiêm Vân sau khi biết tin tức này, trong lòng càng khẳng định suy luận của mình là đúng. Ông lập tức đề nghị lão Vương dẫn theo đội khảo cổ tới kiểm tra miếu Tướng Quân một lần nữa, ông nói chắc chắn ở đó sẽ có một địa cung, đồng thời bảo lão Vương tìm thêm nhiều manh mối về sự kiện này. Từ sau khi chứng kiến thủ pháp của Tra Nghiêm Vân, lão Vương thiếu chút nữa đã xin làm đồ đệ rồi. Lão không dám thờ ơ, lập tức trở về an bài mọi người bắt tay vào thăm dò địa cung.

Thường những bảo tháp và miếu thời xưa thường sẽ có một địa cung được giấu rất kỹ, dùng để chôn giấu một số điển tịch, tín vật. Còn nếu trong chùa lớn thì thường có chôn xá lợi của các vị cao tăng hay hoạt Phật. Cái miếu Tướng Quân này tuy chỉ là một cái miếu nhỏ, nhưng bây giờ mọi người càng có thể khẳng định nó được xây dựng bởi một chi phái thuộc về Đạo gia. Trong thôn trước đây cũng có tin đồn dưới miếu Tướng Quân có một tòa địa cung, có bảo bối được chôn trong miếu.

Mấy năm trước cũng có mấy tên du côn cắc ké nuôi mộng phát tài đã từng đào mấy cái hầm, nhưng tất cả đều chỉ đào được toàn là sỏi đá vô dụng. Dù sau đó chúng cũng không bỏ đi ý định, còn dùng thêm cả thuốc nổ. Chẳng biết lúc nổ thế nào mà một tên trong đó còn bị nổ nát mất một cánh tay, một tên thì mất mạng. Từ đó mọi người trong thôn cũng không còn chủ ý với cái miếu đó nữa, cũng càng khẳng định trong miếu có điều kỳ quái nên cấm trẻ con chúng tôi bén mảng tới gần.

Lão Vương nghe theo lời Tra Nghiêm Vân, dẫn theo thành viên của đội khảo cổ, tất cả đều là người kinh nghiệm đầy mình, nói có khả năng phát hiện ra một tòa địa cung hoặc một ngôi mộ cổ. Mọi người trong đội đều cảm thấy phấn chấn, vì dù có là một ngôi mộ cổ của quan cửu phẩm, sợ rằng khi mở ra cũng toàn là những thứ có giá trị.

Trải qua nguy hiểm lần trước, lão Vương cũng thông minh hơn, chỉ làm việc vào ban ngày, buổi tối kiên quyết không ở lại xung quanh miếu. Bởi vì miếu Tướng Quân này đã từng bị hỏa hoạn, cho nên muốn tìm được lối vào thì phải bắt đầu từ những di tích còn sót lại. Mà nơi này có không ít chỗ chưa được khảo sát kỹ, cho nên để thăm dò lại cả tòa miếu mất thêm hai tuần nữa.

Trong khoảng thời gian này, Tra Nghiêm Vân làm một lễ siêu độ cho con mèo mun khi trước. Ba ngày sau ông lại đào xác con mèo dưới gốc cây đào lên, cắm thêm bảy cây cọc bằng gỗ đào dựa theo hình thất tinh bắc đẩu xung quanh gốc cây.

Ông nói chỉ sợ oán khí con mèo vẫn còn, sau này lại hại người thì hỏng, nên ông dứt khoát “nhốt” chặt nó ở đây. Tới hôm nay thì chỗ cây đào kia đã trở thành một vườn đào, mọi người cũng chỉ thấy cây đào kia nở hoa, không kết quả. Chẳng ai giải thích được nguyên nhân do đâu.

Lại qua thêm một tuần, lão Vương cũng không phát hiện được thêm chút manh mối gì về địa cung, đành phải đi tìm Tra Nghiêm Vân. Tra Nghiêm Vân cũng không muốn tham gia vào hoạt động khảo cổ; thứ nhất đó là trách nhiệm của quan chức địa phương. Thứ hai trong nhà ông cũng có việc bận, lại còn có hai đứa con nhỏ cần chăm sóc. Nhưng ông cũng không tránh khỏi sự khẩn cầu của lão Vương, đành đi thử một chút.

Mọi người đều biết thời cổ đại nhà nhà đều tin vào phong thủy, mọi việc cũng đều có thể giải thích theo phong thủy. Phong thủy cũng thoát thai từ Kinh Dịch, vì vậy có liên hệ sâu xa với Đạo gia. Một nơi có thế đất tốt, chắc chắn sẽ có cao nhân nhìn thấy và sử dụng. Giống như người đã nhận ra cách cục của miếu Tướng Quân này là nơi hai long mạch gặp nhau mà xây nên đạo quan vậy.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 14: Sáng tỏ


Dịch: Trúc Tử

***

Nhớ khi tôi còn bé, những năm đại hạn người ta sẽ tổ chức lễ cầu mưa. Vậy thì cầu mưa như thế nào?

Tôi cũng đã nghe những người trong đội cầu mưa, tận mắt nhìn thấy toàn bộ quá trình kể lại như sau: Mọi người xách theo chiêng, trống, và cả tiền giấy, hương, cúng phẩm. Sau đó cùng nhau đi tới một cái hồ lớn nhất trong vùng, giết một con gà trống trắng, bày ra ra đồ cúng. Tiếp theo đặt một cái hồ lô rỗng gần bờ hồ, lúc làm lễ không ngừng niệm chú. Nước trong hồ sẽ tràn vào cái hồ lô kia, mãi tới khi đầy mới ngưng lại.

Rồi lại cử một nam thanh niên dưới 18 cường tráng nhất trong thôn, cõng cái hồ lô kia về, lúc đi không được dừng lại hay ngoái đầu nhìn. Nghe nói cái hồ lô kia sẽ ngày càng nặng dần, lúc về tới nhà cũng chẳng còn sức làm gì, ba ngày sau mới khỏe lại. Tới khi về nhà phải đặt cái hồ lô trong từ đường của thôn, chỉ độ vài hôm sau là có mưa.

Lễ cầu mưa này tôi đã từng tham gia mấy lần, nghe ông tôi nói: Cái hồ lô chứa nước nặng như núi vậy, nhưng đặt xuống nước không hề chìm. Nơi dân trong thôn tôi làm lễ cầu mưa cũng sát gần miếu Tướng Quân, cho nên có thể nói phong thủy ở khu vực đó cực tốt. Nơi có long mạch, ắt hẳn là chốn phong thủy bảo địa…

Tra Nghiêm Vân cũng đã nghe lão Vương tường thuật lại mọi chuyện, nhưng vẫn chưa rõ tại sao lại không tìm được địa cung. Nên ông thử bói một quẻ, quẻ này chỉ rõ miếu Tướng Quân có địa cung, nhưng với thế đất bằng phẳng không thể phát hiện được, đây cũng chính là nguyên do. (Trong phong thủy khi quan sát cách cục người ta phải đứng ở nơi cao để nhìn được toàn bộ khu đất. Nếu thầy phong thủy bạn mời về chỉ đo bằng la bàn và ở nơi đất bằng quan sát thì quá nửa chính là lừa đảo)

Vì vậy Tra Nghiêm Vân cùng lão Vương trèo lên ngọn núi đối diện miếu Tướng Quân, đứng ở đỉnh núi nhìn ra xa. Không nhìn không sao, vừa nhìn thấy toàn bộ cách cục của khu miếu, lão Vương lập tức trợn tròn hai mắt.

Cách cục xung quanh miếu như thế này: Ngay gần miếu có một con sông từ phía tây chảy qua, tạo thành một cái hồ nhỏ, theo phong thủy nói thì đây chính là nơi thanh long hút nước. Phía đông miếu có một dãy núi trùng điệp, nhưng tới đây thì đột nhiên thế núi thấp dần, rồi trải dài về phía hồ nước, tựa như một con rồng lớn đang cúi đầu uống nước vậy!

Nơi này có hai con rồng cùng nhau hút nước, một thổ một thủy, có thể tưởng tượng phong thủy ở nơi này tốt như thế nào. Hơn nữa khi lão Vương dùng phấn đánh dấu lên bản đồ phạm vi của miếu tướng quân thì tạo thành hình dáng một con rùa to lớn. Mà đầu của con rùa đen này cũng chỉ thẳng về phía cái hồ kia.

Đừng nói lão Vương thất thố, ngay cả Tra Nghiêm Vân khi nhìn kỹ phong thủy ở đây cũng cảm thấy rung động. Cách cục nơi này quả thực quá tốt, con rùa trèo lên đầu hai con rồng, đồng thời hấp thu chân long khí, cộng thêm đạo quan lại là nơi hấp thụ nhật nguyệt tinh hoa. Phong thủy nơi này hoàn toàn thích hợp mai táng một vị đế vương, chớ nói một con mèo thành tinh, chỉ sợ kể cả một con chuột sống lâu ở đây cũng biến thành vua ấy chứ!

"Ba đầu đều hướng về cùng một chỗ, hẳn chính là chỗ đó."

Tra Nghiêm Vân bấm ngón tay, cúi đầu nói nhỏ: "Lão Vương, nhìn thấy cái bia nhỏ đối diện miếu Tướng Quân không? Nếu tôi đoán không lầm, địa cung hẳn là ở gần vị trí cây cầu đá qua hồ, chúng ta đi xuống xem một chút."

Khi Tra Nghiêm Vân cùng lão Vương xuống núi đã là buổi chiều tà, hai người chẳng quản trời tối, đi thẳng tới cái bia ven cầu. Bằng vào phân tích khi trước, Tra Nghiêm Vân cẩn thận tìm tòi dấu vết.

"Lão Vương, mau nhìn. Tảng đá này có phải được phủ vữa gạo nếp hay không?"

Bởi vì thời xưa không có vật liệu xây dựng hiện đại như bây giờ, cho nên nhiều kẻ quyền quý đều trộn cơm nếp nấu chín, giã nhuyễn với một số vôi nung nóng tạo thành vữa. So với xi măng thời nay thì vữa bằng gạo nếp còn có độ bền chắc cao hơn gấp nhiều lần. Trong thôn tôi cũng đã từng phát hiện có một ngôi mộ cổ được xây bằng vữa gạo nếp, phải dùng thuốc nổ đế phá, đủ để thấy độ cứng cáp của thứ vật liệu này.

Manh mối này cũng không làm khó được năng lực khảo cổ của lão Vương, sau khi xác định chắc chắn là địa cung nằm ở nơi này. Tra Nghiêm Vân cùng lão Vương liền quay trở về nhà của tôi bàn bạc.

Từ sau chuyện con mèo mun, cha tôi nhiệt tình mời đội khảo cổ trú lại trong nhà, mọi người có gì cũng thuận lợi nhờ cậy.

Sáng sớm ngày thứ hai, lão Vương cử người đi mua vài thùng dấm chua, toàn bộ đều là thùng lớn. Rồi kéo đến vị trí cái bia nhỏ ven cầu, dùng gáo đổ dấm vào theo kẽ đá. Dần dần đá phía dưới tấm bia cũng giãn ra, chưa tới buổi trưa thì mọi người đã đào ra được một cái miệng hố lớn. Quả nhiên bên dưới là một kiến trúc cổ.

Lão Vương lại bảo thành viên trong đội mang tới một cái máy hút khí, đưa ống vào hút sạch không khí bên trong, để đề phòng có khí độc. Sau một giờ hút khí, lại buộc một con vịt vào một đầu dây, thả nó vào trong hố. Qua khoảng 20 phút thì kéo con vịt ra ngoài, nó không có gì khác thường. Lúc này tất cả mọi người mới an tâm đi vào, đi đầu dĩ nhiên chính là Tra Nghiêm Vân và lão Vương.

Được đèn của đội khảo cổ mang theo chiếu rọi, toàn cảnh nơi này dần hiện ra trong tầm mắt. Đây chính là một cái địa cung, cả khoảng không gian giống như một cái sân bóng nhỏ trong lòng đất, tất cả đều trống rỗng. Tới khi đèn chiếu lia qua vách tường, mọi người dường như đồng thời ngừng thở.

Một bức bức bích họa xuất hiện theo ánh đèn, giống như chiếm lấy toàn bộ không gian nơi này vậy. Lão Vương thấy vậy hết sức xúc động, đây quả thực chính là quốc bảo. Mọi người đều dè dặt nhấc chân lên, từng bước một tiến về phía trước. Quỷ mới biết, ở cái nơi cổ quái này có cạm bẫy gì hay không.

Cũng may là trong địa cung cũng không bố trí cạm bẫy gì khác, mọi người cũng yên tâm mà nhìn ngắm khung cảnh trên bức bích họa kia. Bức bích họa chia làm nhiều phần, phần đầu tiên có vẽ một con vượn ở trong một động khẩu, bức thứ hai là cảnh một người thanh niên gặp con vượn trong động, bức thứ ba vẽ cảnh người kia dập đầu trước con vượn. Cứ như vậy nối tiếp nhau tới tận bức tranh thứ hai đếm ngược là cảnh một lão già râu bạc cưỡi hạc bay về hướng tây, bức cuối cùng chỉ vẽ một cái quan tài.

Tra Nghiêm Vân nhìn một cái liền hiểu, sau đó hành lễ đệ tử trước bức bích họa, đây chính Đạn Tử hòa thượng trong truyền thuyết! Nguyên lai đó không phải là hư cấu, mà là thật. Ông cũng không kiềm chế được tâm tình kích động, run rẩy đi về phía sau bức bích họa.

Ở mặt còn lại đều vẽ hình ảnh một vị đạo sĩ hàng yêu trừ ma, mặc dù có chút khoa trương, nhưng là cũng khiến Tra Nghiêm Vân hiểu rõ tất cả đa phần đều đã diễn ra trong lịch sử.

Lão Vương lại chiếu đèn, đi tới gian phòng chính điện. Trong đó toàn bộ các mặt tường đều có vẽ Tam Thanh của Đạo gia. Ngoài ra trong phòng còn có một cái bàn đá thờ thần, trên bàn chỉ có một cái hộp gỗ, phủ đầy tro bụi.

Ánh mắt tất cả mọi người đều tập trung về cái hộp kia. Cả một địa cung rộng lớn như vậy, ngoại trừ bức bích họa kìa chỉ có một cái hộp nhỏ như vậy, trong đó là cái gì?

Sợ rằng giá trị của nó đều vượt qua tưởng tượng của mọi người.

Tra Nghiêm Vân cùng lão Vương gần như đồng thời đi tới, lão Vương đeo bao tay, đặt lên chiếc hộp. Tất cả mọi người đều vây quanh, kích động chờ thời khắc cái hộp được mở ra.

Ngay khi lão Vương định thần, Tra Nghiêm Vân lại đưa ra đề nghị dập đầu trước Tam Thanh.

Mọi người cũng thấy gần đây đã phát sinh nhiều sự kiện không giải thích được, cũng không dám thờ ơ, cung kính tế bái.

Từ bên ngoài thì có thể nhận ra cái hộp được làm bằng gỗ tử đàn, không có bất kỳ khóa hay móc gì, bên trên có chạm trổ bát quái, thái cực.

Tra Nghiêm Vân luôn cảm thấy có gì không ổn, nhưng cũng không biết nói thế nào, đành nhắm mắt suy tính.

Khoảng mười phút sau, lão Vương hết sức nóng ruột, cũng không nghe theo lời Tra Nghiêm Vân là phải cẩn thận, lập tức mở cái hộp ra.

Lập tức một đốm lửa bùng lên trong tay y, lão Vương theo bản năng buông cái hộp ra. Cái hộp liền rơi xuống đất, trong nháy mắt đã cháy sạch, chỉ còn lại là một đống tro tàn.

Thật ra thì cái này địa cung xây rất vững chắc, trong hộp chắc chắn có chứa lưu huỳnh và diêm tiêu, cho dù đã qua ngàn năm tính chất vẫn rất ổn định. Khi lão Vương mở hộp ra đồng thời kích phát cơ quan, dẫn tới nổ mạnh.

Tới giờ trong cái hộp này rốt cuộc là cái gì, sợ rằng chỉ có người vẽ bức bích họa kia biết được mà thôi.

Sau vài phút thất thần, lão Vương nhìn Tra Nghiêm Vân ủ rũ, cũng không dám nói lời nào. Dẫu sao đây cũng chính là di vật của bậc tiền nhân tu Đạo, là kẻ hậu bối sao lại không thấy tiếc nuối?

Mọi người sau đó cùng nhau khảo sát lại cả địa cung, rồi phân tích. Chỉ vài ngày sau thì tất cả đều sáng tỏ, giống với suy đoán của Tra Nghiêm Vân tám chín phần. Nơi này vốn là một đạo quan do Đạn Tử hòa thượng xây dựng, sau khi Đạn Tử hòa thượng quy tiên thì không hỏa táng, mà được chôn trong địa cung. Về sau Thanh Liên Giáo chiếm được nơi này, mở ra địa cung, lấy đi vật trong hộp, lại bỏ thuốc nổ vào đó.

Còn cái quan tài làm bằng Kim Ti Nam Mộc kia, người được mai táng trong đó tới ngàn năm cũng vẫn nguyên vẹn. Đây chính là thứ mà tới cả hoàng đế muốn tìm cũng không thấy, giáo chủ Thanh Liên Giáo sau khi phát hiện lập tức kéo thi thể của Đạn Tử hòa thượng ra. Cũng không biết có mục đích gì mà lại đưa thi thể của Đạn Tử hòa thượng giấu trong vách tường, còn mình sau khi chết thì để giáo chúng đưa vào quan tài, nằm lại trong đại điện.

Vì vậy trong thư gửi cho Nghiêm Vân, giáo sư Hà nói rằng thi thể nằm trong quan tài là từ thời Thanh. Mà cũng nhờ oán khí con mèo chôn cùng, giáo chủ Thanh Liên giáo lại có thể từ từ hấp thu long khí, hóa mình thành yêu, một lần nữa tồn tại trên thế gian.

Còn về vật trong hộp, mọi người nghe Tra Nghiêm Vân kể lại truyền thuyết, đều phỏng đoán đó chính là 《 Như Ý Sách 》 Còn về tung tích của nó, sợ rằng còn phải phá giải một số đoạn chữ viết trên tường mới biết được.

Dựa theo phân tích này, hai luồng lực lượng trong miếu chính là của Đạn Tử hòa thượng và Thanh Liên giáo chủ. Sau đêm đại chiến với con mèo, Tra Nghiêm Vân đã phá đi tà khí trong miếu, hẳn giờ trong miếu cũng chỉ còn sót lại một phần lực lượng thuộc về Đạo gia.

Tra Nghiêm Vân lập tức quyết định, đêm đó đưa tất cả mọi người bị bệnh, cũng bao gồm cả tôi, đưa vào trong miếu. Ông bày pháp đàn, thỉnh cầu tổ sư hóa giải tà khí trên người chúng tôi. Nhắc tới cũng quái, sau khi chúng tôi dập đầu với bức tường có cái kén hình người kia thì đều cảm thấy khoan khoái dễ chịu, tới ngày hôm sau thì khỏi hẳn.

Những bức bích họa trong địa cung thì được tỉnh ra chỉ thị đưa về viện bảo tàng, địa cung cũng được giữ nguyên vẹn, giao cho địa phương quản lý, còn miếu Tướng Quân cũng bị khóa lại. Sau đó người trong vùng đều biết truyện, thường xuyên tới miếu thắp hương. Tỉnh cũng cho đội khảo cổ khảo sát, trùng tu lại miếu. Tới nay đã trở thành một điểm thu hút du khách, thường xuyên có người tới thắp nhang, cầu bình an.

Tra Nghiêm Vân vẫn còn rất nhiều nghi ngờ trong lòng, ông mang theo chúng trở về quê. Chuyện về miếu Tướng Quân tạm thời coi như chấm dứt.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 15: Vượt Tiên Kiều


Dịch: Trúc Tử

***

Đến khi tôi khoảng 11, có một người thân thích trong nhà qua đời, bà chính là chị của ông ngoại tôi. Mấy đứa cùng tuổi trong nhà đều gọi bà là bà cả.

Bà cả đang ngủ trưa thì mất, không kịp đưa tới cả bệnh viện. Bác tôi lúc đi làm đồng về thì chỉ thấy bà đã ngừng thở, kêu khóc vang trời, lập tức người cả thôn đều biết chuyện.

Thời đó nông thôn vẫn chưa thịnh hành hỏa táng như bây giờ, cho nên phàm là những người lớn tuổi khi sồng đều làm hai việc quan trọng: Một là chọn một cỗ quan tài thật tốt, cũng gọi là làm thọ tài. Một chuyện khác chính là chọn được một nơi chôn cất hợp phong thủy. Bà cả trước khi chết đã làm xong cả hai chuyện, cho nên sau khi chết không bao lâu đã được con cháu đưa vào nhập quan. Chẳng qua là quan tài chưa được đậy nắp, chờ mọi người tới chia buồn.

Bởi vì bà cả là trưởng bối, tôi tự nhiên cũng phải đi. Trong nhà bà cả tôi có một người anh họ, ba người chị họ, một người đã lấy chồng. Ngang ngang tuổi tôi là người anh họ và một người chị họ, mấy đứa nhỏ như chúng tôi khi có tang lễ cũng chỉ cần dập đầu dâng hương, sau đó cùng anh họ, chị họ đi chơi trong phòng.

Tối hôm đó anh họ kêu tôi ngủ sớm một chút, dành sức để buổi tối ngày hôm sau có đạo sĩ tới diễn kịch. Nào phải là kịch gì? Chẳng qua là thực hiện nghi thức trong các tang lễ thường làm thôi, chẳng qua có phần hấp dẫn nhất chính là "Vượt Tiên Kiều ".

Nói về tang sự vùng nông thôn một chút, thật ra thì tương đối rườm rà, đặc biệt là vào thời điểm đó. Người có tiền đều quan niệm mọi thứ phải dày, cái gì gọi là dày chứ? Chính là quan tài phải dày, quần áo mặc cho người chết phải dày, người chết đắp chăn phải dày.

Trong tiểu thuyết thường nói người nghèo khi hạ táng chỉ có một cỗ quan tài mỏng, hoặc là được quấn một cái chiếu rơm mỏng. Không thể nào thể hiện được khí thế khi còn sống. Bà cả tôi lúc trước cũng được gả vào nhà có của ăn của để, quan tài bà chọn đương nhiên cũng tương đối tốt.

Quan tài được làm từ sam mộc, hình thức cũng cực kỳ được chú trọng: Đáy, nắp, hai bên ba lớp gỗ, trước sau cũng ba lớp gỗ. Tổng cộng hết tới 20 khối gỗ, cũng chỉ có thể có tiền mới làm nổi.

Áo khâm thì có tới 5 cái, đều được làm bằng tơ lụa, quần chỉ có ba cái nhưng cũng được làm bằng tơ lụa. Chăn thì phải là loại thật dày, làm bằng bông trắng. Mấy ngày trước đó tôi cũng được đưa tới một cái tang lễ, cũng thấy một cái chăn, trên đó ghi: Cả nước thống nhất, tám mươi tám đồng...

Áo liệm thì phải có kiểu dáng thời nhà Minh, cổ tròn, khăn vuông, đế giày phải dày. Mặc như vậy ý chỉ "Khi sống có thể hàng (vẫn mặc quần áo đương thời) chết không hàng (khi chết mặc quần áo thời Minh, triều đại cuối cùng người Hán trị nước là thời Minh)"

DG: Dân ta thì chia ra như vậy. Khâm, liệm, tức là đại liệm và tiểu liệm (gói người chết 2 lần). Ngày nay chỉ nên gói người chết bằng tấm vải hoặc chăn mỏng trước khi đặt thi thể vào quan tài. Sau khi kèn trống nổi một hồi dài, thì tiến hành khâm, liệm. Tập quán của người Việt là khâm ở trên giường (để vải dọc), liệm phải hạ xuống đất (để vải ngang). Sở dĩ quy định chặt chẽ như vậy là để gói người chết cho thật kín. Khi liệm, thi thể người chết được đặt trên chiếc chiếu dưới nền nhà, khăn phủ mặt và đũa ngáng miệng được bỏ ra.

~~~~~~~

Người chết thường thường sẽ được đắp lên mặt một tờ giấy vàng, còn người có tiền sẽ được đắp mặt bằng một tấm khăn lụa mỏng.

Người chết tay hơi nắm lại, một tay cầm bảy cái bánh, tay còn lại cầm một cây gậy, cũng gọi là gậy đánh chó. Người ta thường nói người chết trên đường xuống âm phủ sẽ gặp chó bảy lần, mỗi khi gặp chó thì ném một cái bánh cho nó. Trong miệng thì ngậm một đồng tiền, trong hai tay cũng đều được nhét thêm một đồng tiền.

Quan tài phải đề cạnh giường, trước giường phải đốt nhang thắp đèn dầu, để một bát cơm cúng, hai quả trứng gà luộc. Cả nhà người chết phải quỳ trước linh cữu, nếu như trong nhà người chết có con gái, như vậy con gái phải luân phiên đốt chín cân bốn lạng tiền âm phủ, từng tờ từng tờ một (cân TQ bằng 0.5 kg, nhưng vẫn quá nhiều).

Sau đó cử người đi báo họ hàng xa gần. Khi đó người báo tang đều phải đi bộ, lại cần mua một đôi giày mới cho người báo tang, để người báo tang đi báo tin cho người thân thích trong vùng.

Trước khi đưa vào quan tài phải cho người chết mặc quần áo, cái này gọi là tiểu liệm. Khi tắm rửa cho người chết phải múc nước sông, đun sôi rồi đề nguội dần, sau đó lau rửa trước sau ba lần. Còn phải chải đầu nữa, cũng là ba lần.

Lúc thay quần áo liệm phải có một cái đấu đổ đầy dầu mè, bên trong có bảy sợi bấc để thắp. Bên trên đấu có một thanh trúc nhỏ, dùng để treo áo liệm. Áo liệm phải để hiếu tử khoác qua một lần, cũng chính là con trai cả, sau đó mới có thể thay áo liệm. Rồi lại phải cắt phần cổ áo sơ mi của người con trai, bỏ vào ống tay áo người mất. Găng tay hay tất đều phải làm bằng bông.

Làm xong mọi chuyện vẫn phải đợi đạo sĩ hoặc người làm tang sự tới.

Nhà bà cả cũng có mời một vị đạo sĩ trong thôn tới, người này bình thường cũng đều coi số mạng cho người trong vùng, hay làm lễ trăm ngày…

Người trong nhà tôi khi mời vị đạo sĩ này phải đưa một bao lì xì, một bao thuốc lá, hai bình rượu trắng, hai cân đường, một con heo sống, còn cả một số vải vóc mà vị đạo sĩ kia mới chịu tới. Quả là cái giá quá lớn.

Lúc tôi tới thì vị đạo sĩ kia cũng đã có mặt, một tay cầm chuông, tay kia cầm một con dao nhỏ. Vị đạo sĩ này đặt dao lên trên một cái chén nước, sau đó bắt đầu niệm chú – chú này có tên là "Phá Sát". Niệm chú xong thì rải nước trong chén vòng quanh quan tài, hô to một tiếng: Lên!

Mọi người sau đó đưa bà cả vào trong quan tài, có người thì lập tức chạy đi lấy rơm rạ và quần áo bà cả khi sống còn mặc, đặt ở ngoài cửa rồi đốt. Theo tục thì được gọi là "Đốt Giường Cỏ".

Sau đó vị đạo sĩ liền lập tức đem dao và chén nước kia để dưới quan tài, tới đây người chết nhập quan xong thì được gọi là đại liệm. Làm xong đại liệm người trong nhà mới được đốt Trường Minh Đăng (2 đèn lồng trắng báo tang trước cửa, trong nhà đèn dầu không được để tắt), con bắt đầu khóc, những đứa còn bé như chúng tôi thì phải đi dập đầu.

Buổi tối sau khi ăn cơm xong, anh họ và tôi đều trốn ở một góc, vì chiếm vị trí này có thể ở gần mà xem "Vượt Tiên Kiều". Tìm được chỗ nầy thật sự không dễ dàng, vì khi làm lễ cấm trẻ con xuất hiện, cho nên chúng tôi cũng chỉ dám núp ở góc cầu thang, không dám lên tiếng.

Đạo sĩ kia thay một cái áo kép võ (áo thường mặc khi diễn hý kịch, kinh kịch), đằng sau có cắm vài lá cờ, trên đầu thì đội mũ nhung sặc sỡ, bên ngoài thì khoác một cái áo lông đen, mặt trang điểm giống như hý kịch bình thường.

Sau đó lại dùng sáu cái bàn lớn ghép lại thành một hàng dài, phía trên thì dùng trúc mà dựng thàng một cây cầu. Tới giờ tý, đạo sĩ niệm chú đi trước, con trai cả bưng bài vị đi sau. Bầu không khí trong nhà lúc này âm u đến lạ.

Con cả của bà cũng chính là bác của tôi, bưng linh vị đi ở phía trước, bác thứ hai bưng một đôi hài, còn chị họ tôi thì bưng một bọc quần áo màu xanh đi cuối. Vị đạo sĩ đi trước dẫn đường, vừa đi vừa nhắm mắt lắc chuông. Đạo sĩ bước một bước thì bác cả cũng nối gót theo sau. Lúc mọi người chờ bác thứ hai đi qua cầu thì bác ấy lại ngã lộn nhào, cũng có thể là do cây trúc trơn trượt nên mới ngã. Vị đạo sĩ kia nhìn thấy, chỉ có thể nói cái gì là bà lưu luyến mọi người, còn chưa muốn đi. Bảo bác thứ hai đi lại lần nữa.

Mọi người mang theo tâm tính chờ mong, bác thứ hai lại đi tới một lần nữa. Lần này vẫn ngã ở vị trí đó. Lúc này vị đạo sĩ kia đã tỏ vẻ khó chịu, bèn bảo hai người chị họ tôi đi lại một lần nữa. Tới lần thứ ba, đúng như dự đoán mọi người lại ngã cùng một vị trí.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 16: Còn sống


Dịch: Trúc Tử

***

Nếu không đi qua được tiên kiều, thì đồng nghĩa rằng hồn phách người chết không thể tiến vào luân hồi, đây cũng là việc khiến mọi người lo lắng. Hai đứa chúng tôi còn nhỏ nên vẫn tiếp tục xem, nhưng đã có một số người lớn lục tục rời khỏi, vừa đi vừa lắc đầu. Chuyện này xảy ra như vậy chắc chắn là có vấn đề gì đó.

Hiện tượng này vị đạo sĩ kia cũng lần đầu tiên gặp phải, nên lo sợ cuống cuồng, liền tìm một sợi dây, trực tiếp buộc vào người bác thứ hai, bảo bác đi tiếp. Lúc này không thể đổi được nữa, nếu đổi người chứng tỏ không có ai trong nhà là hiếu tử, sẽ trở nên vô cùng lúng túng.

Lần thứ tư đi qua tiên kiều, cũng vẫn là ở cùng một vị trí đó, nhưng lần này cả cái cầu đổ sập xuống. Bao gồm cả vị đạo sĩ đi trước, mọi người trên cầu cũng đều ngã xuống đất, cái cầu thì chia năm xẻ bảy.

Mọi người ở lại đều vội vàng tới đỡ bọn họ, ngoại trừ cây cầu bị hỏng kia thì mọi người trong nhà đều không sao. Vị đạo sĩ kia thì bị ngã đập đầu vào một góc bàn, đầu bị u lên một cục. Mọi người vội vàng hỏi thăm lão đạo sĩ, lúc này lão đạo sĩ kia mặt tái mét, miệng liên tục kêu: "Không làm không làm, nơi này có quỷ!"

Lão vừa nói vừa khóc lớn, sau đó ôm đầu chạy, ngay cả đồ mang tới cũng không quan tâm, trực tiếp chạy ra khỏi nhà bà cả.

Nghe thấy lão đạo sĩ nói trong nhà có quỷ, những người còn lại lập tức liền tháo chạy, chẳng còn người nào dám lưu lại. Ngoại trừ anh em thân thích trong nhà với bà cả, những người khác, trong đó có cả tôi, toàn bộ lập tức chạy ra ngoài.

Đêm hôm đó tôi được mẹ đưa qua nhà bà ngoại. Trời còn chưa sáng thì có người gõ cửa nhà bà ngoại tôi, nghe tiếng gõ cửa dồn dập, có vẻ rất vội vàng. Ông ngoại tôi nghe vậy nhanh chóng ra mở cửa, chỉ thấy người đứng ngoài chính là bác nhà bà cả mới mất. Bác sau khi vào cửa hai chân đều run rẩy, nắm lấy hai vai ông ngoại tôi mà lắc, vừa lắc vừa kêu: "Cậu, cậu qua nhà giúp cháu với, mọi người trong thôn đều sợ không dám tới giúp. Nếu không sáng mai lập tức phải đưa đi chôn, chuyện ma chay không cần phải làm nữa."

Ông ngoại tôi tối qua cũng nhìn thấy mọi chuyện, tuy nói sáng mai phải đưa bà cả đi chôn là một chuyện không hay. Nhưng không hợp lẽ thường cũng phải làm, thứ hai là tới cả đạo sĩ cũng nói là có quỷ, người trong nhà cũng cảm thấy bất an. Ông nội tôi cũng nhớ tới Tra Nghiêm Vân, bảo bác tôi cứ yên tâm mà về. Sau đó ông đi gọi liễu cha tôi tới, dặn cha tôi tới nhà Tra Nghiêm Vân nhờ giúp đỡ.

Mấy năm đó, gia đình chúng tôi cũng không liên lạc nhiều với Tra Nghiêm Vân, ông cũng chỉ tới nhà tôi có vài lần, mỗi lần đều là tới miếu Tướng Quân dò xét, sau đó lại đi. Nghe nói là thời gian ông ở nhà cũng không nhiều, cũng không ai biết ông đang làm gì.

Cha tôi đi suốt đêm mới tới được nhà Tra Nghiêm Vân, vào nhà thì chỉ thấy người con trai của ông là Tra Lương. Cha tôi hỏi cha hắn đâu, Tra Lương nói cha mình mới từ vùng khác về nhà, đang ngủ. Ông cũng chỉ mới đi ngủ không lâu, cha tôi vội vàng mời Tra Nghiêm Vân thức dậy. Cha tôi đối với vị đạo sĩ này cũng tương đối cung kính, nếu như không phải là chuyện khẩn cấp, chỉ sợ cũng không dám quấy rầy.

Chỉ chốc lát sau, Tra Nghiêm Vân đi ra, khoác đạo bào hỏi cha tôi có chuyện gì. Mấy năm không thấy, nhìn Tra Nghiêm Vân càng đạo mạo nghiêm trang hơn, cha tôi kể lại mọi chuyện một lần. Tra Nghiêm Vân không chần chờ, vội vàng lấy túi càn khôn dặn dò con trai trông nhà cẩn thận, sau đó cùng cha tôi đi tới nhà bà ngoại.

Đến nhà bà ngoại tôi thì trời đã sáng, Tra Nghiêm Vân lại tiếp tục đi tới nhà bà cả xem xét. Sau một hồi kiểm tra mọi thứ, Tra Nghiêm Vân trực tiếp tới nhà lão đạo sĩ làm tang sự lúc trước, hỏi rõ mọi chuyện xảy ra hôm trước, sau đó lại quay về nhà bà tôi.

Về đến nhà bà tôi, Tra Nghiêm Vân bảo mình muốn ngủ một giấc, có chuyện gì cũng không cần lo lắng, chờ tới khi trời tối thì gọi ông dậy. Ngoài ra ông còn bảo ông ngoại tôi nói lại với gia đình nhà bà cả, mọi việc cứ để nguyên như cũ, không được đậy nắp quan tài lại, tới tối thì đích thân ông sẽ tới.

Mọi chuyện Tra Nghiêm Vân làm từ trước tới giờ mọi người đều rất khó giải thích, tất cả không thể làm gì khác hơn là ngồi chờ tới khi trời tối. Nhà bà cả bây giờ cũng sợ hãi, người trong thôn cũng không dám tới. Mấy đứa bé chúng tôi cũng được dặn dò kỹ càng, không thể vui đùa như thường ngày được.

Tới khi trời tối, bà ngoại dè dặt đi gọi Tra Nghiêm Vân dậy. Sau khi ăn cơm tối xong, cha tôi không nhịn được bèn hỏi ông lý do phải đợi tới tối. Tra Nghiêm Vân cười cười nói: “Vị đạo sĩ kia chắc sau này cũng không làm đạo sĩ nữa đâu, chỉ là một kẻ đi theo người khám nghiệm tử thi được mấy năm cũng dám tự xưng là đạo sĩ, há chẳng phải là loạn sao?

Thật giả đạo sĩ khác nhau không phải ở lời nói, hay mấy thứ võ mèo cào. Mà là ở sự hiểu đạo.

Buổi tối hôm đó, mọi người nghe nói có vị đạo sĩ đã giúp cả đội khảo cổ chữa khỏi bệnh lạ sau sự kiện miếu Tướng Quân thì đều hiếu kỳ chạy tới xem. Tối ngày hôm qua còn sợ quỷ ám, tới hôm nay lại chỉ vì hiếu kỳ mà tới. Nhưng Tra Nghiêm Vân cũng chẳng quan tâm người tới là ai, mà ông cũng chẳng khiến họ phải thất vọng.

Mọi vật trong nhà đều đã được thu dọn, bày biện đúng như ngày hôm qua, bà cả vẫn nằm trong quan tài, hương vẫn còn cháy, đèn dầu cũng chưa tắt. Mà mọi người tới xem náo nhiệt cũng chờ tới mỏi cả cổ.

Tới khoảng 8h tối Tra Nghiêm Vân mới xuất hiện tại nhà bà cả, câu đầu tiên sau khi ông đi vào nhà khiến mọi người giật mình: “Bỏ tờ giấy che trên mặt bà ấy xuống, chớ để bà chết ngạt”.

Bác tôi thấy bà cả mạch không còn đập, cũng không còn thở, người như vậy mà Tra Nghiêm Vân còn bảo là chết ngạt... Vị đạo sĩ này điên rồi sao?

Tra Nghiêm Vân thấy bác tôi vẫn bất động, lắc đầu một cái, tiến tới lấy tờ giấy vàng xuống, lần nữa lên tiếng: "Đàn ông lưu lại, đàn bà toàn bộ ai về nhà nấy. Đóng chặt cửa lại."

Ban đầu đám thôn dân muốn xem náo nhiệt còn không muốn đi, chẳng qua câu nói tiếp theo của Tra Nghiêm Vân lại vang lên: "Muốn làm người chết có thể lưu lại." Nói xong, ông vung kiếm chỉ thẳng vào tờ giấy vàng trên mặt đất, chỉ vài giây sau tờ giấy kia lập tức bốc cháy.

Đám đàn bà con gái trong thôn thấy bản lãnh của Tra Nghiêm Vân, cũng không muốn trở thành người chết. Không biết trong đám có ai hô lên, sau đó tất cả vừa hét vừa chạy, giống như đàn vịt bị lùa về chuồng vậy.

Sau khi đám đàn bà đi sạch, mấy đứa trẻ con chúng tôi cũng bị đuổi ra ngoài, được mẹ, được chị dắt về nhà. Những người ở lại đều là đàn ông, Tra Nghiêm Vân lại lên tiếng: “Hôm nay ai đã đụng chạm vào vợ thì mau về nhà”

Mấy người đàn ông ngượng ngùng gãi đầu một cái, trong tiếng cười đầy vẻ ám muội của những người còn lại, cũng rời đi nốt.

Sau khi đóng cửa lại, Tra Nghiêm Vân mặt đầy nghiêm nghị hướng về phía những người còn lại, dặn dò bọn họ khoanh chân ngồi xếp bằng dưới chiều chờ, vô luận có phát sinh chuyện gì cũng không được phát ra âm thanh. Sau đó, Tra Nghiêm Vân đưa xác của bà cả ra khỏi quan tài, đặt ở bên cạnh cửa, lại để cho bác tôi thay áo liệm cho bà, mặc lại quần áo thường dùng hằng ngày, hơn nữa bảo mấy người đàn ông khiên quan tài đi ra khỏi nhà.

Bác tôi không biết tìm đâu ra quần áo để mặc cho bà, vì tất cả đều đã bị đốt hết cả rồi. Bác vội vàng tìm được mấy cái quần áo mới của chị họ tôi, sau khi mặc quần áo cho bà xong lại để bên cạnh cửa.

Tra Nghiêm Vân bảo mọi người tắt đèn, chút nữa có xảy ra chuyện gì cũng không được hoảng sợ mà kêu lên. Tiếp đó ông bày một đạo tràng, chẳng qua là lần này chỉ có một cái linh vị và đèn, hương, không hề có thêm thứ khác.

Tra Nghiêm Vân ngồi tĩnh tọa trên chiếu, hai tay khoanh lại, chẳng qua bao lâu đã nhập định. Đoạn này tôi cũng không biết rõ ràng, chỉ có thể từ góc độ của Tra Nghiêm Vân mà tự thuật lại, bởi vì mọi người tại đó cũng chỉ biết được kết quả, cũng không biết hung hiểm trong đó.

Thật ra thì chiêu này của Tra Nghiêm Vân chính là xuất hồn, về phần tại sao muốn chỉ có đàn ông cường tráng ở lại là để mượn dương khí của bọn họ, tránh nhiễm âm khí quá nặng mà ảnh hưởng.

Nếu không phải nhìn ra mọi chuyện thì ông cũng không muốn nhận chuyện này, bởi vì âm tào địa phủ cũng không phải là nơi mà đạo sĩ muốn tới thì tới, muốn đi thì đi.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 17: Bên Kia Cầu Nại Hà


Dịch: Trúc Tử

***

Chuyện này phải giải thích từ khi "Vượt tiên kiều", cổ nhân quan niệm vượt tiên kiều chính là việc tiễn người thân tới âm phủ. Từ đây chính là âm dương cách biệt, người quỷ như thù, tiên kiều chính là đoạn đường cuối cùng làm người.

Việc vượt tiên kiều của bà cả ba bốn lần đều không thành công, nguyên nhân không phải là vì bà cả không muốn đi, mà căn bản là bà không đi được.

Cây cầu kia chính là đường thông tới âm phủ, đây cũng là đường người bình thường khi hết tuổi thọ phải đi qua. Dù ngươi không muốn đi chăng nữa, quỷ sai cũng sẽ áp giải ngươi đi. Đừng nói là một bà lão già, kể cả là sát thần khi sống, tới lúc chết cũng phải ngoan ngoãn đi trên cầu.

Ban đầu tên đạo sĩ rởm kia chỉ làm lễ cúng, mọi thứ cũng chỉ theo hình thức, tuy cũng có vài phần giống với nghi lễ đạo sĩ thực hiện. Nhưng còn việc giao tiếp với quỷ sai để đưa người chết tới âm phủ, đừng nói là hắn, ngay cả Tra Nghiêm Vân cũng là không nắm chắc được mấy phần. Người cùng quỷ thương lượng, không phải nói có thể đàm luận hay không, mà tìm cũng không tìm được quỷ, làm sao thương lượng?

Thật ra bà cả có bát tự hợp với một người bị chết oan, sau khi chết hóa thành quỷ. Quỷ này không tiến vào được luân hồi, cứ thế vất vưởng ở cõi trần. Tới khi tìm được người khác thay thế mới có thể đầu thai, cũng chính là “thế mạng” mà người ta hay nói tới.

Cũng vì bát tự của bà cả giống với một người chết oan, nên khi ngủ bị đoạt mất hồn phách, làm kẻ thế mạng cho quỷ kia. Bà cả tuổi thọ chưa hết, thân xác lại bị con cháu khâm liệm nên không thể hoàn dương, hồn phách không thể tiến vào luân hồi. Bà cả không phải là người được định là phải chết, làm sao con cháu có thể vượt tiên kiều, đưa bà tới âm phủ. Nên ba lần bảy lượt phá không cho lễ “Vượt tiên kiều” thành công.

Tra Nghiêm Vân nhập định, chính là đi tìm quỷ. Bởi vì thật ra tuổi thọ của bà cả vẫn chưa tận, mà là hồn bị đoạt mất. Nhưng cũng phải nhanh chóng tìm được quỷ sai mà thương lượng, kẻo chúng không tìm được con quỷ kia mà bắt mất hồn phách của bà cả đưa tới âm phủ thì lúc đó bà cả chết thật rồi.

Tra Nghiêm Vân cũng biết như vậy, quyết định thử một lần. Cũng may thân xác của bà cả còn hoàn hảo, nếu có thể tìm được hồn phách của bà, lại bắt được con quỷ kia giao cho đám quỷ sai, bà cả vẫn có cơ hội hoàn hồn. Nhưng đám quỷ sai lại không cần biết có đúng hồn hay không, cũng chẳng cần biết khi sống ngươi là ai, chỉ cần có thể tìm được cô hồn giã quỷ đúng bát tự về giao nộp, dù sao khi chết đều có đãi ngộ giống nhau cả.

Sau khi nhập định, Tra Nghiêm Vân linh hồn tạm thời rời khỏi nhân gian, tới quỷ giới, cũng chính là âm phủ. Với bản lãnh Tra Nghiêm Vân khi này, tới âm giống như mua vé máy bay tới Vũ Hán vậy. Ông cần phải có đầy đủ dương khí hỗ trợ, nếu không một khi đi, thân thể này không có người trông giữ, bị những vật khác chiếm đoạt hoặc bất trắc gì xảy ra. Lập tức sẽ giống như bà cả, vĩnh viễn không bao giờ tỉnh lại.

Thời gian còn lại rất ngắn, bởi vì ông không có bản lãnh thông thiên, có thể tới lui âm phủ tự nhiên. Nếu mượn dùng dương khí bảo vệ bản thể, cũng chỉ có thể mượn trong vòng một nén nhang. Trước khi nhập định ông đã đột một nén nhang để báo hiệu, vô luận thành công hay không thành công. Bắt buộc trước khi nén nhang kia cháy hết, hồn phách của ông phải quay lại thân xác, nếu không chỉ có cách đi gặp Diêm Vương mà đàm đạo.

Người đều có ba hồn bảy phách, Tra Nghiêm Vân thấy trên người bà cả chỉ còn lại một phách. Mặc dù chỉ có một phần, cũng liều mình thử một chút.

Nói về việc sau khi Tra Nghiêm Vân tiến vào quỷ giới, đầu tiên là lần theo dấu vết từ một phách còn lại của bà cả. Vì ba hồn bảy phách là một thể, chỉ cần một phách còn lại ở thân thể, chứng tỏ ba hồn sáu phách còn lại cũng không xa, hoặc là nói vẫn đang giãy giụa. Tra Nghiêm Vân bèn thi triển một thuật — Đại Nhật Định Tam Hồn, trấn giữ một phách của bà cả lại thân xác. Sau đó ông tranh thủ thời gian, trực tiếp chạy trên âm dương lộ.

Ngay tại đầu cầu Nại Hà, Tra Nghiêm Vân thấy hai quỷ sai đang áp giải một người khác, chuẩn bị đi qua cầu. Người kia gắng sức giãy dụa, vậy đó là ai chứ? Chính là hồn phách của bà cả bị quỷ sai bắt đi thế mạng, Tra Nghiêm Vân liền lập tức cản hai quỷ sai lại.

Sau khi nói rõ nguyên nhân, hai quỷ sai cũng không đồng ý. Bởi vì họ đã được giao nhiệm vụ áp giải quỷ hồn tới âm ty, làm sao có thể từ bỏ?

Tra Nghiêm Vân nói bà cả vẫn còn tới hai mươi mốt năm tuổi thọ, chỉ là một người bị đưa ra thế mạng mà thôi. Đám quỷ sai lại nói bọn họ chỉ quan tâm tới việc đưa hồn tới âm ty, bất kể tuổi thọ, vừa nói vừa tiếp tục bước tới.

Tra Nghiêm Vân lần nữa cản hai tên quỷ sai lại, hai bên lập tức động thủ. Dù là người tu đạo, dám đến âm phủ cướp hồn phách, đơn giản là đến tìm chết. Dù quỷ sai cũng phân ra đẳng cấp cao thấp khác nhau, hai tên quỷ sai này cũng chỉ là loại tép riu, chuyên phụ trách áp giải cô hồn dã quỷ. Nhưng kể cả là như vậy, Tra Nghiêm Vân cũng không thể thắng nổi.

Qua một hồi giằng co, Tra Nghiêm Vân ngầm kiểm tra thời gian, nén nhang kia cũng sắp cháy hết, nếu không trở về thì sợ rằng ông cũng phải ở lại đây. Ông cũng thấy hai quỷ sai kia vẫn bước tới, ở đầu cầu bên kia Mạnh Bà cũng đang cầm bát canh chờ đợi, liền hô to một tiếng: "Hai vị quỷ sai chớ vội, lưu lại người này!"

Hai tên quỷ sai nào quan tâm tới một đạo sĩ nhỏ nhoi, đạo hạnh thấp kém, chỉ lo bước tới. Bất đắc dĩ, Tra Nghiêm Vân đành cầm đại ấn tổ sư Thiên Chính Đạo truyền lại, hỏi: "Hai vị quỷ sai có nhận ra vật này?"

Quỷ giới tự nhiên đều biết pháp ấn, hai quỷ sai sau khi nhìn đại ấn một chút, rồi lại nhìn vị đạo sĩ đứng trước mặt. Một hồi sau, một quỷ sai lên tiếng: "Vật này tại sao lại ở trong tay ngươi?! Ngươi là người phương nào?"

"Hai vị nhận ra vật này?"

Tra Nghiêm Vân vốn chỉ muốn đưa pháp ấn ra dọa hai tên quỷ sai, không nghĩ tới rằng đối phương lại hỏi ngược lại mình như vậy. Ông bèn dứt khoát lấy ra bảo kiếm.

Hai tên quỷ sai thấy ông lấy ra bảo kiếm, trực tiếp lùi lại phía sau mấy bước, rồi quay mặt nhìn nhau. Một tên trong đó lại hỏi: "Thất tinh kiếm? Tiên đạo không nên nói nữa, không phải là chúng ta muốn làm khó tiên đạo. Nếu tiên đạo là Mao Sơn chưởng môn, dĩ nhiên biết quy củ của âm phủ. Người này một khi đã tới đây, mà không nhập hồn phách vào âm ty, thì dù tiên đạo có Tam Thanh che chở, cũng khó lòng ra khỏi minh giới!"

Tra Nghiêm Vân nghe vậy lập tức choáng váng, đại ấn của Thiên Chính Đạo chính là đại ấn chưởng giáo của Mao Sơn, chẳng phải chính là năm đó Tàng Quan pháp sư truyền lại chức chưởng môn cho Lăng Chính Dương sao? Vậy... Sư tổ vì sao vẫn còn bị đuổi xuống núi?

Tra Nghiêm Vân biết được lai lịch hai thứ bảo vật, trong lòng cũng có thêm chút can đảm, tiến tới nói: "Nếu ta vẫn muốn đưa hồn phách này đi?"

Nói xong ông giơ đại ấn làm động tác đập xuống, hai tên quỷ sai lập tức ôm đầu, giống như rất sợ hãi. Tra Nghiêm Vân thấy có vẻ hữu hiệu, trong lòng lại càng thêm chắc chắn. Ông thu hồi đại ấn, nhìn hai quỷ sai.

Hai tên quỷ sai sợ hãi, vẫn là tên khi trước lên tiếng: "Tiên đạo nếu nhất định phải mang hồn phách này đi, chỉ có thể đưa một hồn phách tới thay thế. Nếu chúng ta trở về tay không, phán quan biết được, sợ rằng tiên đạo cũng khó thoát tai kiếp!"

Tra Nghiêm Vân gật đầu đáp ứng: "Ngày mai, hai vị quan sai lại tới Hồng Thôn, ta nhất định sẽ cho hai vị một câu trả lời."

Tra Nghiêm Vân dứt lời, lại tiến tới, dúi vào tay hai tên quỷ sai một chút tiền minh giới: "Hai vị cầm lấy mua chút rượu. Tiểu đạo sau khi trở về, nhất định sẽ hậu lễ hai vị thật lớn!"

"Tiểu nhân không dám, đồ của chưởng môn Mao Sơn sao hai kẻ hèn mọn dám nhận."

Sau khi ra vẻ từ chối một hồi, hai tên tiểu quỷ vẫn nhận tiền thả người, ước định cùng Tra Nghiêm Vân quay lại bắt quỷ hồn thế mạng, tới ngày mai cùng đi Hồng Thôn. Dứt lời liền đi cùng Tra Nghiêm Vân quay trở về, chỉ không lâu sau đã tìm được quỷ hồn đoạt mệnh bà cả. Tên này vừa nghe thấy hai quỷ sai nói là chưởng môn Mao Sơn, rất sợ Tra Nghiêm Vân khiến mình trọn đời không được siêu sinh. Hắn lập tức mồm năm miệng mười, báo rằng mình là người hái thuốc, không may trượt chân ngã dưới chân núi Mã Đầu mà chết. Quả nhiên mọi chuyện kỳ quái đều phát sinh từ nơi này, Tra Nghiêm Vân cũng đã tìm lại được hồn phách bà cả, lần nữa bái tạ hai quỷ sai, trở về dương giới.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 18: Người Ta Nói - Nhất Bần, Nhị Yểu, Tam Vô Tự


Dịch: Trúc Tử

***

Nén nhang gần tắt, Tra Nghiêm Vân tỉnh lại, bảo mọi người đốt đèn đuốc, chạy thẳng về phía chân núi Mã Đầu. Tất cả đều dò xét cẩn thận, rốt cuộc ở một khu đất đầy đá vụn phát hiện ra một xác chết, vài chỗ đã bị phân hủy thấy cả xương trắng. Có một người nhìn vào quần áo thi thể, nhận ra đây chính là người hái thuốc ở thôn bên cạnh. Người này nói nạn nhân đã mất tích rất lâu rồi mà không hề có tung tích, nói rồi vội vàng cùng vài người khác đi gọi người thân của nạn nhân tới kiểm chứng một lần nữa.

Khi người nhà nạn nhân tới, kiểm tra kỹ càng thì nhận ra đúng là người thân, họ lập tức khóc lớn. Tra Nghiêm Vân tiến tới an ủi họ vài câu, cũng không nói lại chuyện xảy ra với bà cả. Chỉ dặn họ đem xác nạn nhân về mai táng, đốt nhiều tiền âm phủ một chút để quỷ sai tiếp nhận quỷ hồn. Sau đó ông cùng đám đàn ông còn lại đi về nhà bà cả.

Tra Nghiêm Vân yêu cầu đem bà cả lên giường, tất cả mọi người dọn dẹp, bày biện lại mọi thứ trong nhà như chưa hề xảy ra chuyện gì. Mọi người cũng không biết ông muốn làm cái gì, nhưng sau khi thấy ông nhập định đã phát hiện ra xác chết thì cũng sợ hãi, chỉ biết làm theo. Thật ra thì Tra Nghiêm Vân sợ bà cả tỉnh lại thấy mình bị coi là người chết, có khi lại sợ hãi quá thì hỏng. Rồi tất cả mọi người lại đi ra khỏi nhà, nhưng lần không ai được phép bước vào nhà, toàn bộ phải đứng ở ngoài cửa.

Sau khi tiếng gà trống đầu tiên trong thôn vang lên, trời đã có chút hửng sáng, Tra Nghiêm Vân ra hiệu đã tới lúc, bước vào nhà đầu tiên là bác tôi, con cả của bà. Bác đi vào nhìn một cái, bà cả vẫn còn nằm trên giường, Tra Nghiêm Vân tỏ ý bảo bác thử gọi một tiếng xem.

Bác tôi nhẹ nhàng gọi "Mẹ" một tiếng, bà cả lập tức cựa mình, sau đó mở mắt, quay ra hỏi bác tôi: "Làm sao?"

Thấy vậy cả người trong thôn nháo nhào, người chết sống lại... Chẳng phải là quỷ nhập tràng sao? Mọi người chuẩn bị chạy đi thì Tra Nghiêm Vân đứng ra trấn an, ông nói chẳng qua bà cả căn bản không chết, chẳng qua mắc bệnh lạ mà thôi, nếu không tin thì cứ tới sờ bà còn ấm không là biết ngay.

Có một người trong đám gan tới, tới sờ thử tay bà cả thấy ấm thật. Chỉ có bà cả là nhìn cả đám, không hiểu trong nhà xảy ra chuyện gì...

Như vậy coi như hồn phách của bà cả đã được Tra Nghiêm Vân kéo trở về, nhưng chuyện vẫn chưa kết thúc ở đây...

Qua mấy ngày sau trong thôn có một ông già bị bệnh mà mất, thật ra thì tuổi thọ của ông lão này vẫn chưa hết. Tra Nghiêm Vân tính qua, có thể ông lão này là người chịu nạn giúp cho những người giúp ông mượn dương khí trong thôn. Cho nên ông liền viết bát tự của ông lão kia ở trước cửa thôn, coi như là giúp hồn phách của ông lão kia sớm đi đầu thai.

Sau khi làm xong, Tra Nghiêm Vân lại phá lệ tới nhà ông lão làm pháp sự, coi như báo đáp chút nhân tình. Nhưng cũng chính vì chuyện này mà sau này ông rất dằn vặt bản thân, vì nhiều lần can thiệp vào chuyện của âm phủ, chắc chắn sẽ bị trời phạt. Đồng thời cũng vì chuyện này mà rất nhiều rắc rối cho ông được tạo thành.

Qua mấy ngày sau, có một tên quỷ sai lúc trước tới báo mộng cho Tra Nghiêm Vân, nói với ông phán quan báo lại muốn đổi hồn phách quỷ sai đã áp giải thì phải chịu một cái giá rất lớn. Tra Nghiêm Vân chỉ nghĩ là quỷ sai tham chút tiền mà thôi, liền đốt cho chúng rất nhiều tiền.

Chẳng qua cái giá phải trả ông không nghĩ nó sẽ tới rất nhanh, hơn nữa còn rất lớn, rất trầm trọng!

Tra Nghiêm Vân sinh được một trai một gái, người con gái nhỏ hơn hết sức thông minh lanh lợi. Bởi vì vợ mất sớm, ông rất yêu quý đứa con út, cưng chiều hết mực. Nếu không có chuyện gì to tát, ảnh hưởng tới nhân mạng thì Tra Nghiêm Vân đều tận lực không ra khỏi thôn, ngày ngày chỉ chăm lo làm nông nuôi hai con nhỏ. Ông vừa làm cha vừa làm mẹ, cứ thế nhìn hai đứa con dần lớn lên.

Cũng vì ông lúc nhỏ không nhận được tình cảm đầy đủ của cha mẹ, người nuôi lớn chỉ là lão đạo sĩ kia nên tất cả tình cảm ông đều ký thác lên người con gái nhỏ. Cũng không phụ lòng ông, đứa trẻ mặc dù tuổi còn nhỏ nhưng rất hiểu chuyện lại khéo léo. Mọi việc trong nhà như nấu cơm giặt giũ đều giúp đỡ cha tươm tất, Tra Nghiêm Vân nhiều khi về nhà muộn đều thấy một mâm cơm để phần cho mình, tất cả đều vẫn còn nóng. Nên nhiều khi trong lòng ông cũng có chút áy náy với cô con gái cưng.

Năm ấy vào khoảng trưa ngày ba mươi tết, cô con gái nhỏ của Nghiêm Vân ra sông rửa rau. Không hiểu nguyên do mà bị trượt chân, ngã xuống sông mà mất. Khi phát hiện ra thì chỉ thấy xác cô bé ôm chân, lọt thỏm trong một cái hố cao tới đầu gối mà thôi.

Đến khi có người thông báo cho Tra Nghiêm Vân tới bờ sông thì cô bé đã ngừng thở. Tra Nghiêm Vân không nói hai lời, ôm thi thể con gái về nhà, đóng chặt cửa, chạy thẳng xuống âm phủ tìm người.

Trên Hoàng Tuyền Lộ, Tra Nghiêm Vân chạy không nghỉ. Chưa tới cầu Nại Hà ông lại gặp hai quỷ sai, ông không nói không rằng, lập tức lấy ra đại ấn và Thất Tinh Kiếm xông tới. Hai quỷ sai liên tục cầu xin tha thứ, nói với Tra Nghiêm Vân chuyện này không phải do bọn họ làm. Tra Nghiêm Vân nào chịu tin, ông mất đi con gái, cũng trở nên mù quáng. Hôm nay ông dù có chết cũng phải đưa được con gái trở về, bởi vì con gái của ông tuổi thọ vẫn chưa hết kia mà.

Hai quỷ sai thấy cầu xin không có hiệu quả, đành nói thật: Chuyện này chỉ trách Tra Nghiêm Vân đã nhiều lần vượt giới, chọc giận trời cao, mới bị trừng phạt. Đây là thiên kiếp, không phải chuyện có thể thương lượng như lúc trước. Nếu ông vẫn muốn con trai còn sống tốt, nhất định phải tự dàn xếp cho ổn thỏa. Tra Nghiêm Vân ngay cả có bản lãnh lớn thêm nữa nhất định cũng không thể nghịch thiên mà đi, nếu còn xuống âm phủ đoạt hồn quỷ sai một lần nữa, kẻ mất mạng chính là con trai ông – Tra Lương!

Thấy hai quỷ sai nói vậy, ông nản lòng thoái chí, thất thểu quay về dương thế. Tới khi tỉnh lại thì chỉ thấy con trai ông đang ôm em gái khóc lớn. Tra Nghiêm Vân cũng cắn chặt răng, ôm chặt lấy con trai, cả hai cha con cùng khóc.

Trong lòng ông ngổn ngang, tự trách: “Tra Nghiêm Vân ơi là Tra Nghiêm Vân, ngươi anh hùng một đời, cũng lỗ mãng một đời. Muốn đấu với trời, nghịch thiên mà làm, ngươi có bản lĩnh vậy sao? Mình là cái gì? Chẳng phải chỉ là một tiểu đạo sĩ ở nhân gian thôi sao?”

Tra Nghiêm Vân ngay trong ngày ba mươi tết, chôn cất con gái ở ngay bên cạnh mộ phần của vợ. Làm đạo sĩ, rốt cuộc có cái gì tốt? Cha mẹ chết sớm, vợ chết sớm, bây giờ ngay cả con gái đều bỏ ông mà đi. Ông nhìn người con trai bên cạnh, Tra Nghiêm Vân thề phải bảo vệ nó thật tốt!

Mọi người đều nói Diêm Vương muốn ngươi canh ba chết, tuyệt không để ngươi sống tới canh năm. Sau chuyện của con gái, Tra Nghiêm Vân được con gái báo mộng, nói với ông rằng mình chết là để trả nợ thay cha. Tra Nghiêm Vân cướp hồn phách giữa đường, tất bị trời phạt, cái giá chính là con gái chết yểu đúng ngày ba mươi tết!

Đây cũng chính là lời cảnh cáo của Diêm Vương: ở nhân gian ngươi được khen ngợi, nhưng ở âm phủ ta là đại vương! Mọi việc đều có nhân quả báo ứng, có được tất có mất.

Chuyện này đả kích Tra Nghiêm Vân rất lớn, ông cũng tự giam mình ở nhà thật lâu. Ông cũng bắt đầu suy tư hàm nghĩa về "Đạo", cũng tạo thành một vị đạo nhân nổi danh sau này.

Năm ấy con gái chết chìm, Tra Nghiêm Vân tự giam mình trong nhà ba tháng. Mọi người ở trong thôn cũng tới thăm, ông vẫn luôn đóng cửa không tiếp khách. Ba tháng sau, Tra Nghiêm Vân mở cửa đi thẳng lên tỉnh. Cũng từ đây, câu chuyện này phải thay đổi ngôi kể. Người kể không còn là “tôi” nữa, nhân vật chính đã hoàn toàn biến thành “hắn” — Thiên Chính Đạo Nhân: Tra Nghiêm Vân!

Tra Nghiêm Vân biết mình khiến trời phạt, nhưng trong lòng ông vẫn luôn không phục. Dựa vào cái gì trời có thể định đoạt số mạng con người, tại sao thiên định thắng nhân?

Trong ba tháng kia hắn đã suy nghĩ kỹ, cách duy nhất chỉ có thể dựa vào 《Như Ý Sách》. Sách kia ở nơi nào, rốt cuộc có hay không? Hết thảy hắn đều không biết, nhưng bức bích họa trong địa cung kia tồn tại là sự thật, nó cho hắn một chút hy vọng. Đồng thời những chữ viết trên vách tường của miếu Tướng Quân cũng chính là chỉ dẫn, hắn đành lên tỉnh tìm lão Vương, hỏi thăm về đầu mối này.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 19: Tung Tích Như Ý Sách


Dịch: Trúc Tử

***

Hắn đành đưa con trai cho bà ngoại trông nom, bà dĩ nhiên là đáp ứng. Hắn đưa cho bà chút tiền nhưng bà nhất quyết không chịu nhận, không còn cách nào khác hắn đành bảo là tiền cho con trai đi học và mua quần áo, lúc này bà mới miễn cưỡng nhận.

Tra Nghiêm Vân không quản đường xa khó nhọc, nhất quyết lên tỉnh. Trước khi đi cũng đã nhờ người báo tin cho lão Vương trước. Lão Vương từ sớm đã chờ ở trạm xe, cung kính hết mực với Tra Nghiêm Vân. Theo lý thì lão Vương là một chuyên gia khảo cổ, vốn phải không tin quỷ thần. Nhưng sau rất nhiều chuyện mà khoa học không giải thích được, lão Vương thành ra có chút mê tín.

Sau khi đón Tra Nghiêm Vân, đầu tiên là an bài hắn tới phòng khảo cổ, gặp mặt mọi người khi trước. Tra Nghiêm Vân sau khi tới, cũng không đoái hoài nói chuyện, chỉ giục lão Vương đi gặp giáo sư Hà, hắn hy vọng mau chóng có đầu mối. Lão Vương cũng là người hiếu khách, sau khi liên lạc với giáo sư Hà, ba người ước định buổi tối gặp mặt ở Lâu Ngoại Lâu nói chuyện.

Mặt trời dần khuất bóng, in xuống bờ hồ Tây Tử ráng chiều một vẻ tịch mịch. Trong một căn phòng Lâu Ngoại Lâu của Hàng Châu, một vị lão giả tinh thần phấn chấn đang mời một người trung niên áo trắng, bên cạnh còn có một người đàn ông phốp pháp đeo kính, đầu có chút hói.

Lão giả đó chính là giáo sư Hà, người trung niên mặc áo trắng chính là Tra Nghiêm Vân, người còn lại chính là lão Vương.

"Tôi đã sớm nghe lão Vương kể lại về thần thông, lão hủ luôn muốn thấy phong thái của chân nhân. Hôm nay được diện kiến, quả thật tiên phong đạo cốt, không hổ là thần nhân, ta kính chân nhân một ly."

Dứt lời, giáo sư Hà uống một hơi cạn sạch rượu trong ly, cười khà khà nhìn Tra Nghiêm Vân ở phía đối diện, tỏ ý đã uống xong.

Tra Nghiêm Vân chắp tay, lại hướng lão Vương cười cười: "Giáo sư Hà quá khen, tiểu đạo nhập môn còn thấp, không dám ở trước mặt tiền bối phô trương, ly này phải là ta kính tiền bối."

Hắn cũng uống một hớp uống sạch rượu trong ly, sau đó lau miệng một cái, hô một tiếng: "Rượu ngon a!"

Giáo sư Hà mỉm cười ngồi xuống, mời mọi người dùng bữa. Lão Vương gắp một chút thức ăn vào bát Tra Nghiêm Vân, cười híp mắt nhìn chằm chằm ly rượu, nói: "Nghiêm Vân a, hôm nay có anh ở đây mà tôi được hưởng sái, anh có biết lai lịch của rượu này không?"

Tra Nghiêm Vân mỉm cười nhìn hai người, lắc đầu một cái, chỉ nói: "Rượu này chẳng lẽ không phải vật phàm?"

Lão Vương cười lớn, để đũa xuống, cùng Tra Nghiêm Vân kể lại một hoạt động khảo cổ năm trước: Năm đó ở biên giới Quý Châu có một ngôi mộ lớn thời Tây Hán bị trộm mà lộ ra, giáo sư Hà dẫn đội tiến hành khai quật. Bên trong mọi thứ đã loạn cào cào, mọi người trong phòng bên cạnh phát hiện rất nhiều bình gốm, miệng vò đã được dán kín bằng đất bùn, bọn họ khi kiểm kê thì phát hiện có một trăm vò.

Vốn số bình gốm này phải mang về phòng văn vật để kiểm tra lại, trong quá trình vận chuyển không may có người làm vỡ một vò, mùi rượu lan ra bốn phía, nhiều người không uống được rượu lập tức lăn ra bất tỉnh. Giáo sư Hà dùng ngón tay nếm thử một chút thì phát hiện trong đó là rượu, mà còn là loại rất nặng. Đêm đó trở lại viện bảo tàng, mọi người trong đội dè dặt mở thử một vò rượu, ngửi một cái cũng khiến người ta lâng lâng, đây chính là rượu hai ngàn năm trước.

Thông qua kỹ thuật giám định, trong những bình gốm này chỉ còn lại khoảng 3 phần chất lỏng, cũng chính là rượu nguyên chất còn đọng lại, còn hơn cả quỳnh tương ngọc dịch trong truyền thuyết.

Sau đó những vò rượu này được sở văn vật quốc gia thu lại, cũng chỉ có một số nhân vật có máu mặt mới được uống thử một chút. Giáo sư Hà cũng là một người yêu rượu, nên trộm giấu lấy một vò. Thời điểm kiểm kê, sở văn vật phát hiện thiếu mất một vò, liền tổ trức điều tra. Kiểm tra không ra, sở văn vật bèn quy tội làm mất cổ vật cho người chịu trách nhiệm chính là giáo sư Hà, chuyển công tác giáo sư tới tỉnh Chiết Giang, làm một nhân viên quản lý của bảo tàng tỉnh.

Là rượu từ hai ngàn năm trước, giáo sư Hà chỉ giấu được một vò, cũng sợ cấp trên phát hiện nên chưa bao giờ dám mang ra uống. Hôm nay Tra Nghiêm Vân tới, không quan tâm tới mọi chuyện, mang quốc bảo ra chiêu đãi Tra Nghiêm Vân, có thể thấy thịnh tình đối với vị đạo sĩ này.

Tra Nghiêm Vân sau khi nghe xong, kinh ngạc nhìn cái ly trong tay. Giáo sư Hà lại rót thêm cho hắn một lần, Tra Nghiêm Vân không từ chối được, chỉ còn cách uống cạn.

Ba người dù gì cũng là người tửu lượng cao, nhưng chỉ không quá ba chén đã lập tức say gục xuống bàn. Qua một lúc sau phục vụ quán cơm mới phát hiện ba người ngủ say, có thể thấy rượu này mạnh tới mức nào.

Tới tận xế trưa ngày hôm sau, ba người mới lục tục tỉnh lại trong quán. Sau khi trả tiền trở về nhà giáo sư Hà, vừa đi đoàn người vừa than thở về độ mạnh của rượu.

Giáo sư Hà không chỉ là một nhà khảo cổ học, cũng là một người nghiên cứu huyền môn. Lúc đến nhà giáo sư Hà, Tra Nghiêm Vân liền phát hiện trong phòng được bày biện đúng theo phong thủy, trong lòng không khỏi thêm vài phần nể trọng đối với vị giáo sư này.

Đề tài nói chuyện của ba người quay về những chữ viết trên bức bích họa trong miếu Tướng Quân, Giáo sư Hà lấy ra tờ giấy ghi lại hết những chữ kia, chỉ những chữ viết trên đó. Ông nói đó chính là một chữ cổ của vùng Miêu Cương - Ba Thục (đều thuộc tỉnh Tứ Xuyên ngày nay), trong đó có nói tới một cuốn kỳ thư, còn cuốn kỳ thư này nằm ở đâu cũng không được ghi chép lại.

Tra Nghiêm Vân hỏi giáo sư Hà cùng lão Vương gần đây có phát hiện ra di tích Đạo gia nào đặc thù nào có liên quan tới loại chữ viết này không. Giáo sư Hà lắc đầu, ông nói với loại chữ viết đặc biệt này, người không nghiên cứu sâu xem không hiểu. Cho dù có được phát hiện, cũng rất có thể bị coi là văn vật phổ thông có tính lịch sử mà thôi.

Hơn nữa tôn giáo tại Trung Quốc tương đối phức tạp, thứ hai trong thời kỳ cải cách, rất nhiều thứ bị mai một. Hơn nữa nhiều người được truyền lại tri thức thì bị coi là thành phần mê tín dị đoan, đem đi đấu tố. Nếu muốn đi tìm quyển sách này, sợ rằng phải dựa vào duyên phận.

Lão Vương bèn đề nghị kiểm tra lại một số hồ sơ trong viện bảo tàng, xem có văn vật nào có chữ viết tương tự không, giáo sư Hà cũng đồng ý với phương án này.

Trong mấy ngày đó, Tra Nghiêm Vân ở lại nhà giáo sư Hà, đúng như mong đợi của giáo sư. Trong nhà giáo sư chỉ có hai vợ chồng già, vì con cái ông đã trưởng thành, đều ra ngoài ở riêng. Cho nên Tra Nghiêm Vân tới, căn nhà cũng náo nhiệt thêm một chút. Giáo sư mỗi đêm đều cũng Tra Nghiêm Vân nghiên cứu lịch sử Đạo gia, lão Vương thì chiều nào cũng tới nhà dùng cơm. Vợ giáo sư Hà lại chuẩn bị cho họ chút đồ nhắm, ba người trò chuyện hết sức thoải mái, say sưa cả ngày.

Cuộc sống ung dung nhàn nhã như vậy kéo dài chỉ được một tuần.

Vợ giáo sư Hà họ Vương, cũng là một người đảm đang, mọi việc trong nhà đều tươm tất. Trong nhà Vương phu nhân có bảy anh chị em, bà là người con thứ năm, năm nay cũng đã 65 tuổi. Ngày thường bà cũng rất mạnh khỏe, không có tật bệnh gì quá mức. Sau khi Tra Nghiêm Vân tới được một tuần, có tin báo rằng cha Vương phu nhất mất.

Cha Vương phu nhân cũng đã hơn chín mươi tuổi, theo lý thì tới tuổi này có chết cũng chỉ là việc bình thường, dẫu sao tuổi cao, thân thể lão hóa, khó chịu nổi thời tiết thất thường.

Vì vậy giáo sư Hà liền mang theo Vương phu nhân về quê chịu tang, Tra Nghiêm Vân ở nhà người ta ở một tuần lễ, được tiếp đón nồng hậu nên cũng cảm thấy không tiện. Hắn cũng muốn đi theo xem có thể giúp đỡ được gì lúc tang gia, hơn nữa cũng muốn làm một lễ siêu độ nho nhỏ, coi như là báo đáp thịnh tình của giáo sư Hà.

Lão Vương là bạn giáo sư Hà dĩ nhiên cùng đi theo, bốn người cùng ngày lên đường, đi tới vùng Chiết Tây.

Quê của Vương phu nhân cũng là một vùng núi lớn, trong vùng cũng chỉ có khoảng trăm hộ dân. Khi đến nhà, Vương phu nhân vừa ôm thi thể cha vừa khóc lớn. Thời đó vẫn còn quan niệm khóc càng to thì càng chứng tỏ được lòng hiếu thuận, cộng thêm hàng xóm xung quanh đều là người chất phác, nên cũng càng có nhiều người đồng cảm khóc theo.
 
CHÚ Ý !!!
Các đạo hữu nhớ thêm TÊN CHƯƠNG và THỨ TỰ CHƯƠNG ở ô phía trên phần trả lời nhanh. Như vậy hệ thống mới tạo được DANH SÁCH CHƯƠNG.
Cập nhật chức năng ĐĂNG TRUYỆN và THÊM CHƯƠNG MỚI trên web Diễn Đàn Truyện tại https://truyen.diendantruyen.com
Top Bottom