Cập nhật mới

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
[Diendantruyen.Com] Thánh Tuyền Tầm Tung

Thánh Tuyền Tầm Tung
Tác giả: Thiên Hạ Bá Xướng
Tình trạng: Đang cập nhật

--- oOo ---


Thể loại: Phiêu lưu giả tưởng

Từ xưa đến nay có quan là phải có trộm. Trộm chia làm Hồng đạo, Hắc đạo, Bạch đạo. Hồng đạo là những trẻ trộm châu báu vàng bạc, từ quan lại đến dân đen đều là đối tượng của họ. Hắc đạo là những kẻ chuyên nhắm vào tiền của phi nghĩa. Bạch đạo chính là những kẻ trộm món đồ dưới đất, gia sản của người chết hay còn gọi là trộm mộ.
Thiên hạ nổi tiếng nhất về trộm mộ gồm có Phát Khâu, Mô Kim, Ban Sơn, Xả Lĩnh. Họ có những bí thuật được truyền từ tổ tiên để hành nghề.

Tôi nhận được tàn cuốn "Thập lục tự phong thủy bí thuật" nên trở thành Mô Kim Hiệu Uý. Quyển "Thập lục tự phong thủy" gồm hai quyển, quyển thượng là "Âm Dương", quyển hạ là "Phong Thủy". Vì liên quan quá nhiều đến những điều huyền ảo nên để tránh cho thiên hạ đảo loạn Trương Tam Liên Tử đã hủy đi quyển "Âm Dương" đồng thời chặt đứt một nhánh Kim Mô. Nhưng cuối cùng vận mệnh an bài, bùa Kim Mô kia lại về tay tôi.

Mấy năm trước tôi định rửa tay gác kiếm, thoái ẩn giang hồ sống cuộc sống như người bình thường. Tôi chuẩn bị xuôi nam một chuyến rồi sang bên Mỹ trả nợ ân tình nhiều năm. Nhưng rốt cuộc người tính không bằng trời tính, gặp bão tuyết làm trở ngại hành trình, tôi bị ép trở lại con đường cũ. Lúc đó, tôi mới thực sự phát hiện ra bí mật thật sự của quyển thượng "Âm Dương".
 
Sửa lần cuối:

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 1: Phượng hoàng vươn mình


Dịch giả: Sky is mine
Biên: gaygioxuong

Mùa xuân năm 1985, lúc này muôn việc cần xử lý, vạn vật hồi phục. Một người quê mùa mặc áo vải lam ôm một cái túi vải vào tiệm của tôi. Dường như người nọ mới lần đầu tiên vào nội thành, mắt ngơ ngác nhìn khắp nơi. Y đi tới trước quầy, không nói chẳng rằng mở phắt cái túi vải hoa ra. Tôi bảo với y, mấy ngày nay căn tiệm nhỏ này tạm thời tu sửa, không thu mua bất cứ thứ gì. Người nọ lại không chịu từ bỏ, bắt tôi phải xem đồ cho y. Đúng vào lúc tôi đang khó xử thì một bóng người hấp tấp lao vào cửa chính, túm lấy tay người trung niên áo lam, mỉm cười làm lộ ra cái răng vàng chóe, nói: "Ái chà chà, bảo bối của bác, căn tiệm nhỏ này không mua nổi".

Vừa thấy trùm lừa đảo Răng Vàng, tôi đẩy phắt đống phiền toái này sang cho hắn xử lý. Tôi bảo với người trung niên: "Bác nhìn cho kỹ nhé, vị này chính là đại chưởng quỹ của 'Nhất Nguyên Trai' chúng tôi. Bác có gì cần mua bán thì cứ tìm hắn."

Người trung niên lập tức đặt vật mình đang cầm lên bàn, mời Răng Vàng xem qua. Hắn chỉ nhìn thoáng qua rồi hai tay xòe tay, thể hiện ra ra vẻ mặt yêu nước thương dân của đám cán bộ thôn: "Tôi nói này đồng chí 'ông chủ lớn', tục ngữ nói rất hay, gặp nhau không phải do duyên cũng do phận. Bảo bối này của bác đúng là tốt thật. Nhưng 'Nhất Nguyên Trai' hiệu nhỏ vốn ít, chỉ làm ăn nhỏ kiếm miếng cơm manh áo. Bảo bối này của bác đúng là vật quý báu hiếm thấy trên đời này. Dù chúng tôi thực sự muốn mua, nhưng không đủ tiền. Hay là như thế này đi, bác đi sang phố Cống Viên ở bên cạnh thử xem sao, bên đó có nhiều cửa hàng lớn mà."

Nói xong, hắn quay đầu sang chỉ vào tôi, thì thầm nói với người nọ: "Không dám dối bác, tháng này tiền lương vẫn còn chưa có. Bác cứ nhìn người làm thuê cho tôi mà xem, mặt mày xanh xám, đói ra mặt rồi đây này."

Vừa nghe tới lý do thoái thác của hắn, tôi âm thầm bật cười. Mấy cái trò vặt này của Răng Vàng chỉ có thể lừa được tầng lớp nhân dân lao động trung thực chân chất. Có lẽ tên cáo già kia lại nghĩ ra chiêu trò gì đó, nhằm mua đồ của người ta với giá rẻ cũng không biết chừng.

Vị 'ông chủ lớn' thắt dây lưng đến tận ngang ngực tỏ vẻ hoài nghi, ôm chặt cái túi vải rách vào lồng ngực, nhìn tôi với ánh mắt thăm dò. Răng Vàng kín đáo nháy mắt ra hiệu với tôi. Tôi không thể vạch mặt hắn, đành phải gắng gượng nói hùa theo hắn: "Đúng rồi chưởng quầy, bao giờ phát tiền công thế? Chuột trong nhà tôi sắp chết đói cả ổ rồi, sắp tới biết sống thế nào cho qua ngày đây?"

Răng Vàng thở dài nói với người nọ: "Tiệm nhỏ này được bác để mắt, trèo đèo lội suối đến đây, vậy mà tới hớp trà cũng chưa được uống. Hay là như thế này, chúng ta giải quyết theo phương pháp điều hoà đôi bên. Bác để đồ vật lại gửi bán, sau khi bán được mới thanh toán tiền cho bác. Về phần tiền hoa hồng, bác muốn cho bao nhiêu thì tuỳ, dĩ nhiên là càng nhiều càng tốt, nhưng ít cũng không sao cả. Ý bác thế nào?"

Người nọ lập tức ôm chặt lấy túi vải, lắc đầu như đánh trống bỏi như thể sợ Răng Vàng lao tới cướp mất bảo bối của mình vậy. Sau khi nói cảm ơn, y lập tức chạy nhanh như gió sang phố Cống Viên. Tôi quay sang trêu chọc hắn đôi câu: "Mới mấy năm không gặp, ngay cả lưỡi cũng biến thành vàng rồi, nói ngọt cứ như mía lùi, không hổ là mồm mép đệ nhất kinh thành."

Răng Vàng phớt lờ, ngồi xuống trước mặt tôi đòi trả công: "Đại chưởng quỹ, lần này ông phải ghi nhận lấy công lao của tôi đấy nhé."

Nhận thấy trong cách nói của hắn có vấn đề gì đó, nên tôi hỏi trong túi vải vừa rồi có cái gì, vì sao không thu mua. Răng Vàng cười hăng hắc, nhặt một hạt dưa lên cắn rồi nói: "Hồ gia, lúc trước ông anh tới tìm tôi mời phụ trách giám định trong tiệm, quả thực là đã tìm đúng người rồi đấy. May mà tôi tới kịp lúc. Vật trong túi vải lúc nãy, đừng nói là khắp các ngóc ngách ngõ hẻm chín mươi chín gian rưỡi tiệm* trong khu vực miếu Phu Tử của ông anh không có ai nhận ra, cho dù có vác đến Phan Gia Viên ở Bắc Kinh thì đám nhà buôn nơi đó cũng chịu chết không biết là cái thứ gì."

*Còn gọi là khu nhà cổ Cam Hi hoặc Cam gia đại viện, là khu nhà dân lớn nhất Nam Kinh

Răng Vàng bảo, trong túi vải đó có một bức thiếp cổ thời Đường, tên khoa học là "Phượng Hoàng vươn mình", nói theo cách khác phổ thông chính là văn vật nguỵ tạo. Trên thực tế, văn vật nguỵ tạo được chia làm ba bảy loại. "Phượng Hoàng vươn mình" có thể coi là loại văn vật nguỵ tạo cao cấp nhất trong dòng trung phẩm, khó có thể phân biệt được thật giả. Ví như tấm cổ thiếp vừa rồi vậy, công nghệ chế tác ra nó tương đối cầu kỳ, đầu tiên dùng sa buộc thẻ trúc cũ làm giấy, rồi lấy vụn thuốc lá khử mùi, sau đó dùng lửa làm giấy trở nên giòn, cuối cùng trộn tàn hương trong các miếu lớn để làm giả mùi ẩm mốc của thiếp cổ. Chỉ riêng những công nghệ đó thôi đã là những kỹ xảo tỉ mỉ tốn chất xám khiến người khác phải giật mình, chứ chưa cần nói đến đến nét bút tung hoành không câu thúc, không giống bắt chước chút nào. Thế nên, phần lớn người trong nghề đều tin là thật, bị cái món "Phương Hoàng vươn mình" này đánh lừa.

Nghe xong toàn bộ lai lịch của "Phượng Hoàng vươn mình", tôi tự nhiên sinh ra vài phần hứng thú với nó. Vừa rồi, nếu không phải Răng Vàng tới kịp, một mình chưởng quầy tôi đây có lẽ đã hố to. Sau này, nếu có cơ hội nhất định phải thu mua vài món về nghiên cứu một chút, nâng cao trình độ nghiệp vụ của mình. Dẫu gì 'Nhất Nguyên Trai' cũng được người khác nhờ tiếp quản hộ, không may sập tiệm, e là Tang lão gia tử nóng tính như lửa kia sẽ đội mồ sống dậy bóp chết tôi cũng không biết chừng.

Răng Vàng tự rót cho mình một chén trà. "Vừa nhận được điện báo, tôi vứt cả sạp hàng lại, vội vàng sấp ngửa chạy sang bên này. Hồ gia, ông anh tuyệt đối phải nhớ, tới ngày phát tài đừng có quên thằng em đấy nhé. Tên cửa hiệu 'Nhất Nguyên Trai' cũng đã được ông anh gây dựng lên tiếng vang rồi. Lúc trước thằng em quả thật đã không nhìn nhầm, ông anh có cốt khí giàu sang, phú quý định sẵn. Tuy nhiên tôi vẫn phải nói, dù cho cố đô sáu triều** có tốt đến mấy, nhưng nó vẫn thuộc về triều trước, không thể nào nổi tiếng bằng Tứ cửu thành***. Làm sao anh phát triển ở đây được? Không phải nghe nói anh định sang Mỹ kiếm sống hay sao?"

**Sáu triều Ngô, Đông Tấn, Tống,Tề, Lương, Trần đều đóng đô ở Kiến Khang, tức Nam Kinh ngày nay

***Tứ cửu thành: tên gọi khác của thành Bắc Kinh

Tôi vội vàng chặn lời hắn, từ tốn giải thích.

Từ sau khi xuống Quan Sơn cất bùa Mô Kim, Shirley Dương thỉnh thoảng lại đánh điện tín mời tôi và tên béo sang nước Mỹ phát triển. Chuyện này hai anh em chúng tôi đã cân nhắc kỹ lưỡng rất lâu nhưng vẫn cảm thấy không thích hợp. Thứ nhất, tổ quốc vĩ đại vẫn còn chưa được kiến thiết xong, nhân dân vẫn cần tầng lớp cốt cán như chúng tôi để phát triển toàn diện theo định hướng khoa học chủ nghĩa xã hội. Thứ hai, bản thân không có cơ sở kinh tế tốt, sang Mỹ nhờ vả hết vào phụ nữ. Thật sự hai người chúng tôi không chịu đựng nổi cái việc mất sạch cả thể diện như thế. Thêm nữa, có một số việc mà chỉ có tôi và Shirley Dương mới hiểu được.

Ngày tiễn Shirley Dương lên máy bay, tên béo có nói: "Mao chủ tịch đã dạy chúng ta có cơ hội phải tiến lên, không có cơ hội cũng phải sáng tạo ra mà tiến lên. Đồng chí Hồ, tôi phải nghiêm túc phê bình đồng chí, đã đến thời điểm mấu chốt thế này rồi, sao đồng chí vẫn có thể lãng phí cơ hội đã tới tận tay một cách vô ích như thế được? Đây là tội lớn tày trời đấy!"

Tôi đáp: "Bản thân tôi vẫn còn chưa suy nghĩ thấu đáo. Bình thường ra, đồng sinh cộng tử đã lâu như vậy, đáng lẽ ra chuyện giữa tôi và cô ấy không thể đắn đo một phút nào nữa. Nhưng mỗi lần nhìn vào mắt người ta lại là một lần cảm thấy không được tự nhiên, tự ép mình phải kìm nén lại. Hồ Bát Nhất ta vào Nam ra Bắc chưa bao giờ từng nhút nhát như vậy qua."

Tên béo nghe xong lý do của ta, lập tức trợn mắt trắng dã, phá ra cười, mắng xối xả: "Bố mày dí mông vào mặt cho mày chết ngạt. Người ta thường nói, lòng dạ phụ nữ như kim dưới đáy bể. Thế mẹ nào mà lão Hồ nhà anh còn õng à õng ẹo hơn cả mấy mụ nạ dòng nữa vậy!"

Trái ngược lại, Shirley Dương lại cởi mở hơn tôi rất nhiều. Cô tháo kính râm ra, dùng giọng điệu giống như bà đầm thép Thatcher**** để hạ tối hậu thư: "Lão Hồ, giờ anh bị quy vào tội kéo dài thời gian chấp hành. Tôi chờ ở bên Mỹ, hi vọng anh có thể sớm ngày ra đầu thú". Người ta là đại cô nương mà còn dám nói trắng như thế, tôi mà còn vòng vo đưa đẩy thì trở thành kẻ vô tình mất rồi. Tôi đứng nghiêm cúi chào với vị chỉ đạo viên vĩ đại Shirley Dương: "Thủ trưởng, ngài an tâm, tôi là cảnh vệ viên trung thành của ngài. Chờ tiểu nhân sửa sang lại kế hoạch trường kỳ tác chiến của chúng ta xong xuôi, sẽ lập tức lao tới tiền tuyến hội họp với ngài." Shirley Dương mỉm cười, lên thẳng máy bay không hề ngoái đầu lại, xem ra khá là tín nhiệm viên cảnh vệ tôi.

****Margaret Thatcher: Cố thủ tướng Anh, được mệnh danh là Bà đầm thép

Vì không muốn phụ sự tín nhiệm của thủ trưởng, tôi và tên béo chia nhau ra làm ăn, định hùn vốn buôn bán với Minh thúc và Răng Vàng. Đợi tới lúc kiếm đủ vốn cưới vợ, tranh thủ lúc nào đó luyện tiếng Anh cho thông thạo rồi gặp lại cô ấy cũng không muộn. Không ngờ mấy tháng sau, tên béo vỗ mông một cái rồi tút sang tận Nhật, nhắn lại là qua bên đó lấy lại công đạo cho những đồng bào bị hãm hiếp ức hiếp, trên phương diện kinh tế sẽ tiến hành chế tài tàn khốc với lũ quỷ lùn, tiến hành cướp sạch cả tiền mua gạo mua dầu muối của bọn chúng, lúc về sẽ xây cầu dựng nhà cho tổ quốc nhân dân. Tôi không ngờ tên béo lại có giác ngộ như vậy. Trước khi lưu luyến chia tay, tôi dặn đi dặn lại hắn không được để nữ gián điệp bên đảo quốc dụ dỗ, phản bội làm Hán gian. Tới lúc đó, đừng trách anh em trở mặt.

Bạn nhiều năm cùng chung hoạn nạn, nói tan là tan, trong lòng khó mà tránh khỏi nao nao cảm giác mất mát. Đang thời kỳ cải cách phát triển, rất nhiều người hùa nhau xuôi Nam buôn bán. Tôi cũng thuận theo lời kêu gọi của thời đại, bước lên xe lửa xuôi Nam. Không ngờ tới trạm đổi xe ở Nam Kinh thì đột ngột xảy ra biến cố, rốt cục không thể đi tiếp được nữa.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 2: Long Tàng Phố


Dịch giả: Sky is mine
Biên: gaygioxuong

Đó là mùa đông năm 1984, do bão tuyết, sau khi đến trạm Nam Kinh tôi xếp hàng tới tận nửa đêm, cũng không có cách nào kiếm được vé xe lửa khởi hành trong ngày, chuyến sớm nhất cũng phải là ba ngày sau. Lúc đó, có bảy tám người cũng bị kẹt lại như tôi, trong số đó có một vị quanh năm buôn bán ở Triêu Thiên cung. Người này họ Triệu, thưở bé không được cha mẹ chăm sóc chu đáo, bị mụn cóc gặm loét một mảng trên đầu. Hiện giờ đã hết mụn nhưng vết loét vẫn còn, cho nên được đặt cho cái biệt hiệu đầy hình tượng: Triệu cóc.

Tôi ngồi chung khoang xe lửa với hắn, hàn huyên giết thời gian đôi ba câu mới phát hiện ra có thể là nửa đồng hành với nhau. Trong quá trình tán dóc trời Nam bể Bắc, hai bên đã dần trở nên tương đối thân thiết. Tên Triệu cóc này là điển hình của hai lúa Nam Kinh, đơn giản dễ hiểu. Hắn vừa thấy tôi không mua được vé là mời tôi ở lại Nam Kinh lòng vòng vài ngày luôn. Vốn dĩ tôi cũng chẳng có đích đến cụ thể nào, nếu đã không mua được vé thì lòng vòng ở lại thành Kim Lăng vài ngày cũng là ý kiến hay. Thế là tôi lập tức vác bao lên lưng, tới khu chợ đồ cổ Triêu Thiên cung cùng với hắn.

Hồi đó, Triên Thiên cung hoàn toàn không phải là nơi chuyên buôn bán đồ cổ như bây giờ. Khi ấy Bạch Hạ* vẫn còn là khu nông thông thuộc quyền quản lý của quân đội, khu chợ Triêu Thiên cung thực sự chẳng khác gì một hội chợ phiên ở làng, ngoài những quán đồ cổ còn có một vài tiểu thương bán quần áo giày mũ, gà vịt, hoa quả, rồng rắn lẫn lộn. Cửa hàng của Triệu cóc nằm sát ngoài rìa của khu chợ, là gian nhà được thuê lại của một hộ dân.

*Tên gọi khác của Nam Kinh

Cửa hàng của hắn tầm mười mét vuông, bên trong phần lớn là đồ phương Tây, nào thì đèn Lưu Ly, tẩu thuốc, thảm Ba Tư, tượng cẩm thạch. Tôi hỏi: "Ông bán đồ cổ hay là bán trang sức thế?" Triệu cóc cười hì hì, cái mặt tròn vo còn hơn cả chậu tráng men.

"Ông không biết đấy thôi, hiện giờ mọi người rất thích đồ nước ngoài, mua đại lấy hai món để bày biện ở trong nhà thôi là đã thấy oai lắm rồi." Triệu cóc bỏ hành lý xuống, chỉ ra khu chợ bên ngoài nói: "Đừng tưởng Triêu Thiên cung ở trước mặt đã náo nhiệt, người anh em đây phát hiện ra một nơi còn tuyệt hơn. Tới tối sẽ dẫn ông tới đó, đảm bảo sẽ trầm trồ khen ngợi."

Nơi hắn nói tới chính là miếu Phu Tử. Thời chiến tranh Xâm Hoa***, miếu bị đốt chỉ còn trơ lại cái khung. Hè năm 1983, chính phủ quyết định xây dựng lại miếu Phu Tử, mất nửa năm mới coi như hoàn thành, không ít cửa hàng đã lần lượt mọc lên như nấm. Triệu cóc vuốt cái đầu chốc bảo, tương lai buôn bán của nơi đây là vô hạn. Hắn đi cửa sau nhờ người thân cấp trước cho một gian cửa hàng nhỏ, định bụng chiếm địa lợi trước, đợi đến khi miếu Phu Tử thịnh vượng lên, khách sẽ tự động kéo nhau tới, không phải lo việc mua bán vắng khách.

**Còn gọi là Chiến tranh nha phiến, do Anh phát động tấn công Trung Quốc vào năm 1840. Đến năm 1842, Anh buộc nhà Thanh phải ký "Điều nước Trung Anh Nam Kinh".

Về phần tại sao lại phải đi vào buổi tối thì dĩ nhiên là vì cảnh đêm 'mười dặm Tần Hoài' động lòng người. Nói đến sông Tần Hoài, trong phong thuỷ học nó được coi là một chuyện cười ra nước mắt được nhiều người biết đến. Sông Tần Hoài xưa kia là một nhánh của sông Trường Giang, sông Hoài thời xưa, tên cổ là "Long Tàng Phố". Nhưng ngài nên nhớ, thời xưa, dính dáng tới chữ Long thì chỉ có một người là hoàng thượng. Tương truyền, vào lúc Tần Thuỷ Hoàng đông tuần, khi tới Kim Lăng thì trên trời có mây tía bốc lên, trong lòng cảm thấy rất khó chịu. Ông ta cho rằng thiên hạ là của mình, Bá Vương khí cũng là của mình, lại nghe ở nơi này có con sông tên là 'Long Tàng Phố'. Lúc ấy, râu ria ông ta dựng ngược hết cả lên: Kim Lăng ngươi, một không phải kinh đô trung tâm, hai không phải là chốn long mạch, dựa vào cái gì mà gọi là "Long Tàng Phố'! Thế chẳng phải là muốn tạo phản hay sao? Gặp ngay phải nhân vật ngang ngược 'đốt sách chôn người tài', dám đấu với cả trời đất non song, thế là chẳng hiểu ông ta gọi tới một đội quân xây dựng từ đâu đến, ồ ạt phá hoại khắp xung quanh thành Kim Lăng, xây dựng các công trình lộn xộn bừa bãi, xẻ núi phá đồi quanh thành Kim Lăng ngăn thành đập nước, chặn đứt đầu nguồn. Rồi lại lấy vàng bạc chôn xuống, với ý đồ phong kín Vương khí Kim Lăng. Người đời sau ngộ nhận con sông này được đào vào thời Tần, nên mới gọi là 'sông Tần Hoài'.

Nhưng lịch sử đã chứng minh 'tất cả phản động chỉ là hổ giấy’. Việc làm đó của Tần Thuỷ Hoàng chỉ là hành động lừa mình dối người. Đến đời thứ hai, nhà Tần đã bị khỏi nghĩa nông dân lật đổ. Sau này, thành Kim Lăng lại trở thành cố đô của sáu triều. Dù có muốn cũng không thể chặn nổi phong thuỷ của vùng đất linh thiêng này.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 3: Ngũ tông đại cung


Dịch giả: Sky is mine
Biên: gaygioxuong

Miếu Phu tử được xây sửa lại chắc chắn sẽ mang lại cơ hội kinh doanh cực kỳ thuận lợi cho cư dân địa phương, rất nhiều kẻ làm ăn có mắt nhìn xa như Triệu cóc đều chuyển dời địa bàn làm ăn của mình về vùng Tần Hoài. Hắn định mời tôi tới nhà hàng đánh chén một bữa, coi như đón gió tẩy trần. Có điều, tôi nóng lòng muốn xem phong cảnh trên sông Tần Hoài Giang Nam, không muốn tới khách sạn rườm rà mất thời gian nên hai người tạt vào quán mỳ vằn thắn bên đường ăn qua loa, rồi thuê một xe kéo tới miếu Phu Tử.

Khi vừa tới miếu Phu Tử, tôi bị cái bóng dài vài trăm thước của một bức tường đồ sộ làm cho chấn động tinh thần. Bên trên bức tường đỏ rực là hình hai con cự long ngũ trảo bay múa, trên đỉnh tường lợp ngói lưu ly vàng óng, uy nghiêm không gì sánh được. Tương truyền, vách tường này được xây vào năm Vạn Lịch thời nhà Minh, ứng theo thế 'tiền chiếu, hậu kháo' trong phong thủy.

Tôi còn chưa kịp nhìn rõ đã bị Triệu cóc giật tay, chỉ vào quảng trường lớn phía trước, bảo: "Lão Hồ, mau nhìn, chúng ta tới vừa kịp lúc."

Hắn còn chưa dứt lời chợt một tiếng nổ rung trời vang lên, tôi thầm nhủ, tình hình quốc tế gần đây không có biến động gì lớn, sao giữa thời bình lại bắn pháo? Nhìn theo hướng phát ra tiếng nổ thì phát hiện ra một cái phướn vẽ rồng bảy màu đang uốn lượn giữa đám người trên quảng trường, trên dưới trăm người gõ trống theo dịp vang dội, hấp dẫn toàn bộ chúng ven đường đổ xô tới. Tôi bấm tay tính toán một lúc lâu rồi mới quay sang hỏi Triệu cóc: "Hôm nay là ngày gì mà lại huyên náo như vậy?"

Triệu cóc nhìn con rồng bảy màu bay lượn, đáp bằng giọng hâm mộ: "Ngũ tông đại cung, lại có cửa hàng lớn khai trương."

Ngũ tông đại cung là đồ tế thần tài của các hiệu buôn lớn vùng Bắc Kinh. Đồ tế gồm lợn, dê, gà, vịt, và cá chép đỏ.

Mấy loại đầu còn dễ kiếm, chỉ riêng cá chép đỏ là ngoại lệ. Cá nhất định phải là 'cá chép rồng'. 'Cá chép rồng' chính là cá chép có sừng trên đầu. Loại cá chép này, toàn thân đỏ thẫm như máu, chỉ riêng hai cái mụt nhô lên trên đỉnh đầu là màu trắng, giống như sừng rồng mới nhú. Giống cá này mười năm mới đẻ trứng một lần, hiếm có như vậy nên dù có tiền cũng chưa chắc mua nổi, huống chi là còn hấp nó lên để tế thần. Cho nên, các hiệu buôn bình thường đành phải dùng vôi nung dán thành hai cái sừng trên đầu cá cho đúng với thông tục, không thể coi là đồ lễ Ngũ Tông Đại Cung chính thức.

Tôi từng được nghe những người già kể cho nghe, ngày xưa, trong Tứ cửu thành chỉ mỗi cửa hiệu đã nổi danh cả trăm năm là 'Ngũ Hạc Triêu Thiên' mới dùng cá chép đỏ để tế thần bái tổ liên tục trong vòng mười năm. Nhưng tới năm thứ mười một thì họ cũng phải bỏ vì không thể tìm đâu ra cá chép rồng, qua đó có thể thấy được phần nào sự quý hiếm của loại cá này.

Tôi và Triệu cóc đều chưa từng thấy cá chép rồng trong truyền thuyết. Sau phút đắn đo, cả hai cùng hoà vào dòng người đổ tới trước cửa chính cửa tiệm đó để xem xem, rốt cuộc là thần thánh phương nào mà lại phô trương rầm rĩ như vậy.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 4: Thiên hạ đệ nhất điếm


Dịch giả: Sky is mine
Biên: gaygioxuong

Cửa hàng mới khai trương dựng cổng chào theo kiểu Linh Tinh môn, tôi nhìn vị trí đắc địa của nó là đã biết ngay cửa hàng này không hề tầm thường. Linh Tinh môn thuộc chính cung môn trong tam môn lục trụ, còn được là Cửu ngũ chí tôn môn. "Cửu" là số dương lớn nhất, "Ngũ" là số dương ở giữa, "Cửu ngũ" nghĩa là chính giữa tối cao. Thời xưa, chỉ có hoàng đế mới có thể đi thẳng vào qua cửa chính, đám văn thần võ tướng thì chỉ có thể đi vào từ cửa bên.

Có thể đặt cửa hàng ở trong này, chủ của nó tất nhiên phải là người quen nhiều biết rộng, quan hệ với chính quyền bản địa không cạn chút nào.

Quả nhiên, còn cách cửa hàng nửa con phố đã thấy đầu người đen kịt ngoài cửa hàng. Người xem không ít chút nào, nhưng lạ là không ai dám chen lên đầu. Tôi chen lên sát cửa hàng để xem thì thấy có bốn chiếc xe con hiệu Hồng kỳ bóng loáng đỗ ở hai bên cửa. Đây là thời đại nào chứ, ngay cả tiệc cưới của một đại cô nương mà thấy một chiếc xe đạp Phượng Hoàng, thì đến lúc ngủ cô dâu vẫn còn mỉm cười nữa là, huống chi là ô tô. Dân chúng bình thường còn chẳng đến lượt được phân phối xe đẹp, chẳng trách người xem xung quanh không có ai dám sán lại gần coi náo nhiệt.

Cửa hàng này được đặt trong một ngôi nhà cổ 'tam tiến tam'(1), trên cửa đề ba chữ lớn 'Nhất Nguyên Trai' với nét bút cứng cáp mạnh mẽ, còn có một nét khắc mờ mờ điểm xuyết ở giữa, có lẽ là con dấu của người viết. Nhìn cửa chính thì đây chắc hẳn là một cửa hàng đồ cổ, tôi cũng định vào tham quan một chút. Quay đầu lại định gọi Triệu cóc, tôi mới phát hiện ra thằng ôn này đã lặn mất tăm từ bao giờ. Tôi đoán là hắn nhìn thấy có xe ô tô, sợ gặp phải người trong chính quyền nên mới trốn đi. Phần tử đầu cơ buôn đi bán lại như hắn, sợ hãi là chuyện thường tình. Nhưng sau này tôi mới biết, thằng ôn chết dẫm đó thấy được sự huyền bí ẩn dấu bên trong con dấu nên mới bỏ chạy một mình.

(1) Kiểu nhà có ba ngôi viện, mỗi ngôi viện lại có ba gian: nhà chính, nhà ngang và trái nhà

Tôi vừa mới bước vào sảnh đường thì đã có một gã thư ký gầy tong teo như cây sào tiếp cận. Hắn ta nhìn tôi một cái, đôi mắt không biểu lộ bất cứ tình cảm gì, đưa ra một tờ giấy Tuyên Thành hơi mỏng, nói: "Tiên sinh, mời ghi tên."

Tôi cảm thấy tương đối khó hiểu vì chưa từng nghe thấy cửa hàng nào bắt phải ghi tên lại cả, nhưng nếu đây là quy tắc của người ta, mình đã là khách không mời mà tới thì cũng không tiện thắc mắc làm gì, đành phải cầm bút ghi tên lại. Cây Sào ngắm nghía chữ tôi hồi lâu, sau đó đi ra cửa, nói với đám người bên ngoài: "Hôm nay khách tới đã đủ, ai có hứng thú ngày mai nhớ đến sớm." Nói xong hắn ta đóng cửa gỗ lại, cài then rồi quay gương mặt vô cảm lại nói với tôi: "Hồ tiên sinh, mời vào nội đường."

Cây Sào dẫn tôi quẹo trái rẽ phải, không hề có tiếng bước chân nào. Nhiều lần tôi thầm nghĩ, chẳng lẽ hắn ta đang là là lướt trên mặt đất. Lúc vào đến nội đường thì bên trong đã có mười mấy người trung niên, có một vài vị, chỉ cần nhìn cách thổ nạp là đã đủ là dân lành nghề thường xuyên lăn lộn ngoài xã hội. Còn chưa bước hẳn vào trong, tôi đã thấy ánh mắt mọi người đồng loạt chiếu vào mình. Tôi vừa đi vào vừa mỉm cười với mọi người. Bọn họ thấy chỉ là một thằng ranh chưa ráo máu đầu nên chẳng thèm bận tậm, lập tức quay đầu hết trở lại.

Thấy không ai có ý bắt chuyện, tôi bèn tới một góc khuất nẻo không ai chú ý tới rồi ngồi xuống. Cây Sào quả thực xứng với chức danh thư ký, hắn ta rót nước cho từng người một, xong rồi chậm rì rì lấy một cái hộp gõ mang phong cách cổ xưa ở sau tấm bình phong ra, nói: "Các vị, mời xem!"

Nói thì chậm nhưng xảy ra thì nhanh. Ngay khi hắn ta mới mở hộp gỗ ra, toàn bộ đèn trong phòng đều tắt ngấm. Tôi còn chưa thích nghi với bóng tối thì đã có mấy người đứng bật dậy. Chỉ thấy trong hộp có một viên hổ phách to cỡ mắt trâu, tỏa sáng chói lọi trong bóng tối. Tôi thầm nghĩ, thật phí công, diễn hoành tráng cả nửa ngày trời mà chỉ lấy ra có một viên đá mắt mèo lừa mọi người. Xem ra, chủ cửa hàng chỉ là tên giang hồ bịp bợm hữu danh vô thực.

Khách trong nội đường cũng có cảm giác giống tôi, đôi mắt người nào cũng ít nhiều tỏ ra khinh thường. Trong số đó có bao gồm cả người râu xồm ngồi ngay cạnh tôi. Gương mặt chữ điền sa sầm xuống, ông ta đập tay xuống bàn: "Lão già họ Tang chết tiệt kia, ông có ý gì mà dám lấy loại thứ phẩm này ra trêu đùa ông đây."

Tôi ngồi gần gã nhất, lại cùng một bàn nên hảo tâm khuyên gã: "Ông chú bớt giận. Buôn bán là thuận mua vừa bán, không đáng vì chút chuyện nhỏ mà tổn thương hoà khí." Tôi có lòng hảo tâm khuyên ông ta, không ngờ ông ta tuy nhỏ thó nhưng cái tôi lại chẳng nhỏ chút nào, chỉ tay vào tôi quát lên: "Thằng nhóc con mày là con cháu nhà ai mà dám khiêu khích ông đây?"

Tôi thấy một kẻ cường hào ác bá ngạo mạn kiểu Nam Bá Thiên(2) như ông ta, không đánh cho dập đầu ngay từ đầu thể nào cũng được đằng chân lân đằng đầu. Ông còn định cố giả bộ ba hòn núi lớn(3) để áp bức cậu mày đây chắc. Tôi lập tức xắn tay áo lên, thể hiện lập trường của mình: "Chúng ta kiên trì phản đối chiến tranh. Nhưng nếu chủ nghĩa đế quốc nhất định phát động chiến tranh, chúng ta cũng sẽ chẳng sợ hãi. Thái độ của chúng ta với vấn đề này giống như với 'chống phá', thứ nhất phản đối, thứ hai không sợ."

(2) Tương tự như nhân vật Bá Kiến

(3) Ba hòn núi lớn: chỉ ba kẻ thù lớn nhất của cách mạng Trung Quốc: đế quốc, phong kiến và tư bản quan liêu (Lạc Việt)

Còn chưa nói dứt lời, Râu Xồm đã vung thiết chưởng quét về phía tôi. Ỷ vào sức trẻ, tôi chuẩn bị nghênh đón một chưởng đó để làm giảm nhuệ khí của ông ta. Không ngờ trong chưởng của người này còn có ám khí.

Thấy đám kim châm tạt thẳng vào mặt, tôi thật sự không dám đón đỡ, eo uốn một cái, muốn tiện đà đụng Râu Xồm ngã chỏng vó lên trời. Không ngờ, động tác của ông ta còn nhanh hơn tôi, tay trái đặt bên hông lại phát ra một loạt kim châm. Tôi không kịp phanh người lại, mắt thấy sắp tự chui đầu vào lưới, toàn bộ gương mặt sẽ bị châm rỗ như tổ ong bầu. Có ngờ đâu, Hồ Bát Nhất ta anh minh thần võ cả đời, hôm nay lại bại dưới tay một tên phản cách mạng tới cả "Mao tuyển"(4) còn chưa từng đọc. Nếu biết trước thế này, thà rằng lúc trước quyết định theo Shirley Dương sang Mỹ cho rồi. Không phải Mao chủ tịch từng nói, những người Hoa chúng ta thành công phần lớn đều là người có gan mạo hiểm, chần chừ lưỡng lự, chỉ chọn cái dễ mà làm thì đến bao giờ mới khá lên được? Mao chủ tịch đã dạy bảo rồi, sao tôi lại không chịu nghe theo sớm.

**Viết tắt của Mao Trạch Đông tuyển tập

Đang lúc thề kiếp sau sẽ ngoan ngoãn làm cảnh vệ cho Shirley Dương thì tôi đột nhiên cảm thấy choáng váng hết cả đầu óc, sau lưng như thể bị người khác dùng que cời lò đập cho một cái. Tới lúc tôi lấy lại được tinh thần thì đã thấy Râu Xồm nằm bất tỉnh ở bên cạnh.

Tôi còn chưa kịp hiểu chuyện gì xảy ra thì Cây Sào đã đi đến bên cạnh bức bình phong, trên trán lấm tấm mồ hôi, cúi người cực kỳ cung kính nói: "Đã kinh động lão nhân gia rồi!"

Ánh mắt mọi người lập tức tập trung vào tấm bình phong kia.

Một ông lão tóc bạc trắng, hết sức đạo mạo được Cây Sào nâng đỡ, thong thả bước ra khỏi tấm bình phong, mặt nghếch lên trời, không thèm liếc đám đông lấy một cái.

"Thằng nhãi Ngũ Mao này dám láo xược ở 'Nhất Nguyên Trai', lãnh phải hậu quả như thế hoàn toàn là do hắn tự gieo gió gặt bão, lão phu chỉ lấy một tay một chân của hắn để trừng phạt. Các ngươi có ý kiến gì không?"

Ông cụ là ân nhân cứu mạng của tôi, không ngờ vừa ra tay là đánh Râu Xồm thành tàn phế. Tôi lầm bầm vài câu, không ngờ ông cụ bỗng trừng mắt, quát lớn: "Thằng nhóc con, dám nghi ngờ lão đây!"

Bị ông cụ nói toạc ra ý nghĩ trong lòng, nhưng tôi không hề sợ hãi, đốp chát lại: "Đúng là cháu không phục. Tuy rằng cụ cứu mạng cháu, nhưng ra tay thực sự quá ác. Cùng lắm là đánh dằn mặt ông ta là được rồi. Cụ có nghĩ đến, sau này già trẻ nhà ông ta sẽ sống như thế nào không?" Thấy mặt ông cụ dần sa sầm xuống, tôi sợ ông cụ tức giận nên vội nói tiếp: "Nhưng dĩ nhiên cụ có công lao trước, sau mới tới sai lầm. Đây là sự thật không phải bàn cãi. Tôi nghĩ các vị ngồi đây cũng nghĩ như vậy đúng không?"

Một câu bổ cứu cực kỳ đúng lúc, gần như thành cây cỏ cứu mạng. Người xung quanh không một ai ngờ tới sẽ bị đá quả bóng đầy gai này sang sân mình. Không kịp nghĩ ngợi gì, ai nấy gật đầu lia lịa, thiếu chút nữa là ví ông cụ sánh với Ngọc Hoàng đại đế.

Trên thực tế, người cao tuổi chẳng khác gì con nít. Ông cụ vừa mới trợn mắt nhíu mày tức giận như bị ma ám, chỉ chớp mắt sau mặt mũi đã hớn hở tươi roi rói, lại còn dùng tác phong thủ trưởng vẫy tay với mọi người đã ngồi sẵn cả rồi: "Ngồi xuống, ngồi xuống cả đi!"

Cảnh này làm tôi vừa bực mình vừa buồn cười, nhưng không dám tiếp tục trêu trọc lão ngoan đồng này nữa, ngộ nhỡ ông cụ lăn đùng ra khóc rống lên, nếu truyền ra ngoài thì tôi còn mặt mũi nào mà lăn lộn ngoài xã hội nữa?

Sau khi quậy phá để tỏ uy phong xong, ông cụ thoả mãn ngồi xuống, nhìn chằm chằm vào cái hộp gỗ trên bàn nói: "Quy tắc cũ vẫn không thay đổi, ai đoán ra được trong hộp này có vật gì thì có thể lấy bảo vật đi mà không phải trả một đồng."

Lại một người béo trục béo tròn không nhịn được giơ tay, gương mặt nghiêm nghị cứ như chủ xí nghiệp dưới hương trấn đọc báo cáo khai mạc đại hội nào đó vậy: "Ông cụ Tang, 'Nhất Nguyên Trai' của cụ lớn như vậy, chỉ bỏ ra có một viên Dạ Minh Châu có phải là không ổn cho lắm hay không?"

Lão béo ú ấp úng mãi mới nói xong. Trong lòng vẫn canh cánh nỗi nghi hoặc giống như ông ta, nên tôi lập tức vểnh tai lên nghe câu trả lời. Không ngờ ông cụ lại thay đổi sắc mặt, lần này là đỏ như thận heo vừa lấy ra khỏi ổ bụng. Cây Sào lập tức đưa trà cho ông cụ. Ông cụ nhấp một hớp mới đè nén được cơn giận.

"Vớ vẩn, Tang Ngọc Cát ta là ai chứ! Lão phu bảo nó là bảo vật thì nó chính là bảo vật. Cái đám ngu như lừa có mắt như mù các ngươi! Người đâu, vứt hắn ra ngoài. Đừng để làm ô uế 'Nhất Nguyên Trai'!"

Ông cụ vừa nói xong, Cây Sào lập tức nhanh chân giành việc, một tay túm lấy lão béo ú một tay ôm Râu Xồm đang nằm trên mặt đất lên rồi ném ra ngoài cửa. Hai người này chí ít ra cũng phải nặng ba bốn trăm cân, thế mà ông cụ bảo ném là ném luôn, qua đó có thể thấy được phần nào công phu của đám thủ hạ. Trong đám khách còn lại, có mấy người trẻ hơn một chút so với số còn lại đột nhiên đứng phắt dậy. Tôi cho rằng bọn họ định liên hợp lại đứng lên phản đối cung cách hành xử độc tài tự cho mình là đúng của ông cụ. 'Công ước Geneva' đã được ký kết rồi, ông cụ không thể sử dụng bạo lực bừa bãi như thế được. Không ngờ, mấy thằng ranh không có tiền đồ này lại chỉ chắp tay chào rồi bỏ ra về luôn.

Trong lúc nhất thời, bao gồm cả tôi, trong nội đường chỉ còn lại bốn năm người, thành ra tương đối vắng lặng. Không hiểu vì sao, tôi đột nhiên cảm giác như có một luồng âm khí luồn vào trong cổ, như thể có vô số con sâu nhỏ đang bò loạn xạ trên lưng.

"Tang lão đại, nếu cụ nói đó là bảo bối thì bọn tôi không dám thắc mắc gì nữa. Nếu đã vậy thì cụ để tôi cầm viên trân châu lên xem xét kỹ hơn một chút." Một lão đội mũ lông chồn từ từ đứng dậy. Không đợi chủ tiệm đồng ý, lão đi thẳng tới chỗ cái hộp gỗ, mở nắp ra rồi cầm viên trân châu lên.

Chỗ ngồi của tôi cũng không được tốt cho lắm, tầm nhìn bị một cây cột trong sảnh chắn mất quá nửa, không thấy rõ lão lông chồn dùng biện pháp gì để đánh giá viên bảo châu kia; Chỉ biết ông cụ Tang đang rung đùi đắc ý trên ghế thái sư cứ như gặp được tri âm vậy. Nội đường hoàn toàn yên tĩnh, ngoại trừ lão lông chồn không ngừng phát ra tiếng khen nức khen nở, những người còn lại thì đến cả rắm cũng không dám đánh. Tôi nhấc mông khỏi ghế, tiến lại gần, định quan sát kỹ viên trân châu kia một lượt. Không ngờ vừa nhấc mông lên thì lão lông chồn đã giống như người lên cơn động kinh, chỉ kịp gào lên một tiếng "A!" rồi đổ gục xuống. Tôi cứ tưởng động tác của mình đã làm kinh động lão thành ra cảm thấy ái ngại. Không ngờ lão lông chồn liên tục gào lên thảm thiết: "Đừng qua đây, đừng qua đây!"

Khách xung quanh chẳng hiểu lão đó bị làm sao, đồng loạt lùi lại. Mặt lão lông chồn trở nên tím ngắt, con ngươi vằn đỏ. Lão vớ lấy chiếc ghế ở gần, giống như người điên đập phá loạn xạ. Đồ cổ bày khắp trong phòng bị lão đập nát vụn hết cả. Viên bảo châu to cỡ mắt trâu kia bị lão ném xuống đất. Dưới ánh lạnh lẽo xanh biếc mà nó tỏa ra, gương mặt mọi người biến thành xanh lét, cực kỳ khủng bố.

Ông cụ Tang bình chân như vại cứ như xem đóng kịch. Tận đến khi lão lông chồn nằm vật xuống đất thở như hấp hối, ông cụ mới bảo: 'Tán đi'.

Ông cụ vừa dứt lời, hào quang tỏa ra từ viên trân châu lập tức lụi tàn, không khí ma quái trong phòng theo đó tan biến. Tôi thở phào một hơi như trút được gánh nặng, lúc này mới phát hiện ra toàn thân đã ướt sũng mồ hôi.

Vì sao lão lông chồn bỗng dưng phát điên, tôi không thể nào tìm ra được nguyên cớ, nhưng lờ mờ đoán ra viên trân châu to như mắt trâu kia không hề đơn giản như mình đã nghĩ. Giá kể có Shirley Dương ở đây, với tính cách tỉnh táo và sự hiểu biết rộng của mình, không chừng cô ấy có thể phán đoán ra ít nhiều. Hiện giờ, chỉ dựa vào một mình tôi, e là không thể nào hiểu được sự huyền bí trong đó.

Đã có tấm gương của lão lông chồn, những người khác không dám nói nhiều, nguyên cả đám nhìn viên bảo châu với vẻ mặt giống như gặp quỷ. Lúc này, ông cụ Tang hết sức đắc chí, vân vê chòm râu trắng như cước, tỏ vẻ tiếc hận ra mặt: "Lão phu về nước mấy ngày mà chỉ gặp được đám giá áo túi cơm kiến thức nửa vời các ngươi. Không ngờ người tài trong nước hiếm tới như vậy. Tìm người tài trong nghề cứ như lên trời ngắm trăng vậy. Thật sự làm lòng ta nguội lạnh, mấy người các ngươi về hết cả đi!"

Tôi thật sự cảm thấy tò mò về viên trân châu. Khi thấy lão lông chồn đang co giật trên mặt đất, tự nhiên tôi lại nhớ tới những gì diễn ra khi gặp Ma Dụ ở thành cổ Tinh Tuyệt. Chẳng lẽ viên trân châu kia cũng có năng lực gây ra ảo giác như Ma Dụ?

Đang lúc đắn đo không biết có nên xông lên thử vận may một lần hay không, bỗng nhiên viên bảo châu trên mặt đất lay động, phát ra tiếng vo ve bé xíu rồi từ từ lăn về phía tôi.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 5: Ba hổ đồng hành


Dịch giả: Sky is mine
Biên: gaygioxuong

Viên trân châu vừa mới mê hoặc tâm trí của lão lông chồn bỗng nhiên chuyển động rồi phát ra tiếng vo ve, không nhanh không chậm lăn về phía bên này. Tôi vội vàng dịch sang bên trái một bước, không ngờ nó cứ như có mắt vậy, cũng ngoặt trái theo tôi. Tôi thử sải chân bước sang bên phải hai bước, nó vẫn tiếp tục bám theo không rời. Tôi khẩn trương tới mức đầu ướt sũng mồ hôi. Vị Châu gia này, chẳng phải chúng ta vừa mới gặp mặt hay sao? Ngươi có thể e lệ một chút được không, đừng có bám rịt sau đít ta nữa!

Mắt nhìn thấy nó đã tới trước mặt, những người khác nghển cổ nhìn sang phía tôi ra xem kịch vui. Trái tim tôi thắt lại. Tiên sư bà nó chứ, không phải chỉ là một viên trân châu nát sao, chẳng lẽ nuốt tươi được ông đây chắc? Tôi hơi cúi người xuống, tóm lấy viên trân châu vào tay.

Vừa mới cầm đến tay, tôi chợt cảm thấy nóng hầm hập, giống như đang nắm một vốc hạt dẻ vừa được vùi trong đống lửa vậy. Về sau mới phát hiện ra, bởi vì viên trân châu quá lạnh nên cơ thể mới sản sinh ra cảm giác trái ngược như vậy.

Tôi nắm chặt viên trân châu, nhìn ngó khắp nơi, chỉ sợ có vật gì ô uế đột ngột lao ra từ ngõ ngách nào đó. Mô Kim Hiệu Uý ta có rất nhiều biện pháp giải quyết bánh tông, nhưng đối phó với yêu ma quỷ quái giữa ban ngày ban mặt thì lại chưa từng làm bao giờ. Đáng tiếc là bản phong thủy ‘Thập Lục Tự Phong Thuỷ Bí Thuật’ của ta không đầy đủ, chỉ có nửa bản sau nên không hiểu thấu đáo sự huyền bí trong nửa bản trước 'Âm Dương'. Nếu không, chẳng cần biết ngươi là cái giống đầu trâu mặt ngựa gì ta cũng đánh gục, cần đếch gì phải sợ.

Để tăng thêm can đảm, tôi hít sâu một hơi rồi vào nội đường ngồi xuống. Ông cụ Tang có vẻ khá là hài lòng với hành động của tôi, gương mặt già nhăn nheo như lớp vỏ cây dần dần hiện lên nét cười. Mới đầu, tôi chẳng thấy có gì đáng lưu ý, nhưng càng về sau ông cụ cười càng to, tới mức cả lộ hết cả lợi ra, mồm ngoác tới tận mang tai. Tới cuối cùng, tiếng cười của ông cụ như hổ gầm vượn hú như xé rách cả màng nhĩ.

Tôi vội giơ tay lên bịt hai lỗ tai lại, quên bẵng viên trân châu khiến nó rơi đánh 'bộp' xuống đất. Vừa rơi xuống đất, viên trân châu lập tức tỏa ra hào quang xanh biếc. Tôi đang cân nhắc xem có nên cầm nó lên hay không thì bỗng thấy cái miệng móm mém toàn lợi của ông cụ Tang nhanh chóng mọc lên những cái răng sắc bén như dao cau. Tôi vội dụi mắt xem có phải nằm mơ hay không thì chợt thấy tay của ông cụ Tang gập ngược về phía trước, phần da thịt nằm ngoài lớp quần áo mọc lên một lớp lông mao, trông ông cụ giống như một con vượn già đang ngồi ghế nhìn chằm chằm vào tôi với thái độ thù địch.

Tôi nào dám chậm trễ, vội quơ lấy chiếc ghế băng để làm vũ khí phòng thân. Nhưng đến khi cầm ghế vào tay thì tôi chợt phát biện có vấn đề. Tại sao những người còn lại trong phòng lại biến mất? Trong nội đường trống rỗng, ngoại trừ ông cụ Tang lông lá phủ toàn thân, mấy vị khách và Cây Sào lẫn lão lông chồn ngất xỉu trên sàn đều biến mất tiêu. Tôi quay sang nhìn vào viên trân châu lăn lóc trên mặt đất, trong đầu bỗng hiện lên một ý nghĩ táo bạo.

Để tránh kinh động con vượn già, tôi cúi thấp người xuống, cố gắng thu nhỏ thân hình mình để không tạo thành sức uy hiếp với nó. Nhưng tôi vừa hành động thì con vượn già đã ngoạc cái mồm to như chậu máu rồi lao tới. Tôi không kịp nghĩ ngợi gì, lập tức lăn một vòng về phía viên trân châu để chộp lấy nó. Con vượn già có vẻ cực kỳ e sợ tôi lấy lại được viên trân châu, nó khua khoắng hai tay, phát ra một loạt tiếng gầm rú như quỷ khóc sói gào, lao vọt về phía tôi. Ngón giữa tay phải của tôi còn chưa kịp chạm vào viên trân châu thì con vượn già đã giáng từ trên trời xuống chặn đứng tôi. Một cú tợp khiến hàm răng sắc bén như đao cắm ngập vào tận xương vai phải của tôi. Cuối cùng, tôi chợt nghe thấy một tiếng gãy xương đánh rộp, trước mắt tối sầm, đau đớn lan khắp toàn thân rồi bất tỉnh.

Trong lúc mơ mơ màng màng, tôi liên tục nghe thấy tiếng bồm bộp giống như có ai đang đập vào người mình. Vừa mở bừng mắt ra thì phát hiện mình đang nằm trên mặt đất, khách trong nội đường vây quanh tôi giơ ngón cái lên. Tôi vừa cúi đầu xuống nhìn, thấy viên trân châu vẫn nằm trong tay, còn ông cụ Tang có biến thành quái vật bao giờ đâu, vẫn đang nhàn nhã uống trà. Thấy tôi tỉnh lại, ông cụ thì thầm vài câu Cây Sào, gã gật đầu lia lịa. Tôi như vừa mới trải qua một cơn ác mộng, không biết cái gì là thật cái gì là giả, vội vã sờ tay lên vai phải, cảm thấy đau buốt nhưng không có vết thương. Xem ra, ông cụ Tang hoá thành vượn tinh chỉ là ảo giác, tất cả chỉ là do viên trân châu kia tác quái. Chẳng thể hiểu nổi, rốt cục viên trân châu này có nguồn gốc từ đâu.

Cây Sào theo lệnh ông cụ Tang, tiễn khách ra ngoài cửa, sau đó quay lại, lấy một cánh tay khô quắt trong ngực áo ra, rồi dùng cánh tay đó cẩn thận gắp viên trân châu bỏ vào hộp. Mới đầu, tôi cảm thấy cánh tay đó cực kỳ ghê tởm, cứ nghĩ rằng cánh tay đó thuộc về một bánh tông lâu đời. Nhưng sau khi nghĩ lại thì chợt nhớ ra, hồi theo Răng Vàng học tập ở Phan Gia Viên, tôi đã từng nghe nhắc tới điển cố này, hoá ra cánh tay giống như tay người khô quắt kia chính xác là vật làm bằng ngọc cổ ngàn năm.

Đồ ngọc là thứ được các bậc đế vương lẫn giới quyền quý yêu thích. Rất nhiều văn nhân nhã khách thường ví mình với bạch ngọc, coi nó là biểu trưng của sự thanh bạch, liêm khiết. Trong mộ cổ, vật bồi táng phải có 'thập đào cửu ngọc'(1). Hơn nữa, phán đoán niên đại của đồ ngọc cũng là một học vấn đặc biệt. Nhập thổ năm trăm năm, ngọc biến thành xốp có thể hút ẩm, nhập thổ ngàn năm thì tính chất biến đổi giống như thạch cao, nhập thổ hai ngàn năm thì giống như xương khô, nhập thổ ba ngàn năm thì vụn như vôi. Về phần đồ ngọc nhập thổ sáu ngàn năm, những vật đó đều là thần khí thời thượng cổ, không dễ có được. Cánh tay mà Cây Sào dùng để gắp viên bảo châu là một đồ ngọc cổ có niên đại hai ngàn năm, tính chất dễ vỡ nhưng chất ngọc vẫn còn, không thể sử dụng mạnh tay vì chỉ cần va chạm mạnh một chút là sẽ vỡ nát ra thành từng mảnh.

(1) Mười đồ sứ chín đồ ngọc

Trải qua va vấp vừa rồi, tôi đã hiểu ra, ông chủ Tang kia hiển nhiên không phải người tầm thường. Chưa cần nói tới đám hung thần ác sát vừa rồi đến nhà giám định bảo vật, chỉ riêng cánh tay bằng ngọc cổ kia đã là cổ vật tầm cỡ quốc gia vô giá rồi.

"Cháu biết lai lịch của viên bảo châu này chứ?" Đây là lần đầu tiên ông cụ Tang nhìn thẳng vào tôi. Tôi thực sự không dám đáp bừa trước mặt người có thâm niên trong nghề, trả lời theo đúng chuẩn mực: "Theo cháu thấy, viên long châu mà Tang lão tiên sinh cất giấu hiển nhiên có lai lịch rất lớn, không thể đánh đồng với mấy viên thủy tinh tốt mã giẻ cùi trên thị trường. Bản chất vật này là cực hàn, lại tỏa hào quang màu xanh. Cháu cả gan đoán, nếu không phải đan hộ thể của rùa già dưới biển sâu thì cũng là vật do mắt phong thuỷ giữa chốn rừng thiêng nước độc kết thành."

Trên thực tế, những lời tôi vừa nói chỉ là một mớ lý luận suông. Nghe thì lọt tai nhưng chẳng có tí thực tế nào, có muốn bắt lỗi cũng chẳng được. Nhưng nếu ông cụ bảo rằng hạt châu kia được lấy từ lò luyện đan của Thái Thượng Lão Quân thì tôi cũng phải chịu, đành phó mặc số phận vào tay ông cụ.

Có lẽ đã sớm dự trước là tôi sẽ nói quàng nói xiên cho xong chuyện, ông cụ Tang rất lấy làm kiêu ngạo cầm hộp gỗ lên, nói: "Lão đây thấy cháu thực sự cũng tương đối có tài, đúng là một thằng nhóc có thể dạy dỗ, không giống mấy kẻ tầm nhìn hạn hẹp vừa rồi. Nếu đã có duyên thì ta cũng không ngại nói cho cháu biết lai lịch của vật này, miễn cho cháu phải âm thầm nghi ngờ thủ đoạn của lão đây."

Tôi vội vàng mỉm cười với ông cụ, tỏ vẻ khiêm tốn sẵn sáng học hỏi. Sau khi tôi nghe xong, trong lòng không khỏi lấy làm lạ, hoá ra vật ấy có nguồn gốc phức tạp, không phải đơn giản như tôi đã nghĩ.

Ông cụ Tang vừa thưởng trà, vừa nhớ lại chuyện cũ. Đó là câu chuyện không rõ nguồn gốc được trích từ một đoạn trong 'Tây Dương Tạp Ký'. Nghe nói, Kinh Châu có một ngôi chùa cổ, tên là Trắc Kỷ Tự. Trong chùa có một vị cao tăng, pháp danh là Na Chiếu. Sư phụ Na Chiếu có năng lực nhìn thấy linh quang trên người bách thú trong bóng đêm, vừa nhìn là phân biệt được ngay. Ánh sáng dao dộng là hươu, dán trên mặt đất, lúc mờ lúc tỏ là thỏ, thấp mà bất động là hổ,Vv... Đại sư Na Chiếu đánh ký hiệu cho động vật của cả ngọn núi, giống như hiện giờ chúng ta cấp thẻ CMTND cho từng người một vậy. Ông ta vừa nhìn ánh sáng là biết ngay con vật gì đang lẻn vào trong chùa trộm lương thực ngay.

Có một hôm, sư phụ Na Chiếu mất ngủ, đại khái là vì gần đây thu hoạch không được tốt, bữa tối chỉ có ít cháo cầm hơi, tối đến bị mấy con giun trong bụng biểu tình. Lúc đi qua nơi các đệ tử nghỉ ngơi, ông ta phát hiện ra đám lừa trọc con này cũng chẳng ngủ nổi vì đói, nhưng lại không dám để sư phụ biết, chỉ trùm chăn thì thầm nói chuyện với nhau. Trong lòng xót xa, Na Chiếu cảm thấy mình không đảm đương tốt vai trò trụ trì. Sau một lúc suy ngẫm, ông ta ra sau núi tìm mấy quả dại cho già trẻ trong chùa ăn cho đỡ đói. Lúc ấy không có súng, có pháo, có cả bom nguyên tử như bây giờ, muốn tranh giành thức ăn trong miệng bách thú mà không có bản lĩnh thì đúng là tự tìm đường chết. Tuy nhiên, sư phụ Na Chiếu có tuyệt kỹ riêng, lại giỏi về bắn cung nên chẳng hề bận tâm đến nguy hiểm.

Mới đầu, Na Chiếu làm mọi thứ đều rất thuận lợi, hái được một giỏ hoa quả, tiện đường còn nhặt được nửa sọt củi, đang định 'a di đà Phật' để cảm tạ Phật tổ thì không ngờ trong rừng có ba tia sáng xanh trôi nổi tiến lại gần. Nhìn kỹ ký hiệu, sư phụ Na Chiếu giật mình. Nếu ông không nhầm thì bản thân sắp gặp phải chúa sơn lâm - hổ. Hổ săn đêm mà đi ba con thì chắc chắn con ở giữa là thủ lĩnh, hai con hai bên là hộ vệ, như thế mới có thể biểu hiện được oai phong của loài này. Không kịp suy nghĩ nhiều, sư phụ Na Chiếu giương cung, bắn một phát chết ngay con hổ thủ lĩnh. Việc hành vi này mà diễn ra vào thời bây giờ thì chắc hẳn đại sư đã bị bắt vào tù vì tội săn bắn động vật hoang dã trái pháp luật, nhưng diễn ra thời đó lại là trừ hại tạo phúc cho dân chúng. Việc này đến tai dân chúng dưới chân núi, kể từ đó Trắc Kỷ Tự hương khói thịnh vượng, đám tiểu hoà thượng cũng được ăn no. Phương trượng Na Chiếu cảm thấy rất vui vẻ nhưng đâu có ngờ tới, mũi tên của ông ta thiếu chút nữa đã hại chết toàn bộ người trong thôn.

Sau khi mất đi chúa tể ngọn núi, xung quanh núi Trắc Kỷ không ngừng diễn ra việc dã thú đả thương người một cách khác thường. Không riêng gì hổ báo hoành hành, ngay cả những giống như hươu, nai, thỏ hoang với bản tính hiền lành ôn hòa cũng đổi tính, liên tục rời núi xuống thôn cắn phá gia cầm gia súc, thậm chí cả chó trông cửa trong nha môn cũng bị chim tước trên núi mổ chết tươi. Na Chiếu dốc lòng niệm Phật hi vọng có thể được Bồ Tát điểm hóa. Mười ngày liên tiếp trời u ám không mưa, dã thú trên núi càng ngày càng quấy phá hung dữ, chúng bắt đầu kéo bầy kết đàn gây rối quanh thôn xóm. Thấy tình hình như vậy, Na Chiếu đành phải dùng tới biện pháp cuối cùng: lấy mạng đền mạng.

Đêm ngày hôm đó, Na Chiếu không cho các đệ tử biết, âm thầm lên núi Trắc Kỷ, ngồi thiền dưới gốc cây cổ thụ nơi con hổ đã bị mình giết để đền mạng. Ông ta thấy, nếu có thể giữ được tính mạng dân chúng thì cái chết của mình cũng đáng giá. Chẳng phải nguồn cơn hoàn toàn là do lúc trước mình chính tay bắn chết sơn thần sao?

Quá nửa đêm, gió chuyển lạnh. Na Chiếu thấy linh quang bồng bềnh phủ kín quả núi, biết rằng bách thú đang tới báo thù cho đại vương của chúng nên lập tức cởi áo cà sa ra rồi gấp lại gọn ghẽ, đặt ở bên cạnh, chỉ cầu mong máu ô trọc của mình không làm ô uế bảo y của Phật tổ. Quả nhiên, chỉ một lúc sau, một con mãnh hổ nhảy từ trong rừng ra, lượn vòng quanh Na Chiếu, không ngừng gầm rú. Vị hoà thượng già sợ điếng người, nhanh chóng lấy trang hạt ra, lớn tiếng niệm kinh Phật. Nhưng chẳng hiểu sao con hổ kia lại không lấy tính mạng của ông ta, chỉ không ngừng gầm rú, cứ chạy vòng quanh không chịu bỏ đi. Cứ như vậy hết đêm, tới lúc trời tảng sáng con hổ chẳng những không lấy tính mạng của ông ta mà còn biến mất không còn thấy đâu nữa. Vị hoà thượng già cực kỳ cố chấp, cho rằng ông trời đang thử thách mình, con hổ còn chưa chịu cắn thì mình vẫn cứ phải kiên trì. Qua đêm ngày hôm sau, con hổ đúng hạn lại tới nhưng vẫn không hề làm thương tổn tới ông ta chút nào. Vị hoà thượng già cảm thấy hết sức phiền muộn, mình đã xả thân đền mạng mà con hổ lại không chịu cắn. Tình trạng đó kéo dài ba ngày, cuối cùng Na Chiếu phát hiện ra một điều quái lạ.

Sau khi quan sát kỹ càng, Na Chiếu phát hiện ra, dù cho con hổ này hung hãn nhưng không hề tấn công người, hơn nữa hàng đêm đúng giờ tới đúng giờ đi, phạm vi hoạt động cũng chỉ ở xung quanh cái áo cà sa chừng nửa bước, không hề tiến sâu vào bên trong một bước nào. Nhưng nhìn vẻ mặt nóng nảy của nó, sao không vung vuốt hổ mà chụp, chẳng lẽ con mãnh hổ này không phải tới lấy mạng mà bên trong ẩn giấu điều gì đó khác thường hay sao?

Na Chiếu lấy can đảm đứng lên. Ông ta vừa động thì con hổ cũng đồng thời khiếp vía, nó không ngừng nhảy chồm chồm như muốn ngăn ông ta tiến tới. Ông ta càng tiến tới, con hổ càng gầm rú đe dọa. Na Chiếu biết nó làm vậy là muốn ra oai, nhằm doạ mình lùi. Con hổ càng hung hãn càng chứng tỏ nó đang sợ cái gì đó. Na Chiếu nhấc áo cà sa lên, cúi người thăm dò quanh chỗ đó thì thấy một luồng khí mát lạnh ập vào mặt, dường như dưới đất có cái gì đó. Ông ta lập tức đào đất lên. Sau khi đào sâu hai thước, ông ta tìm thấy một viên hổ phách lưu ly to cỡ mắt trâu phát sáng rực rỡ trong đêm tối.

Hoá ra, con mãnh hổ bị Na Chiếu bắn chết ngày hôm đó là ác quỷ hóa thành chúa tể sơn lâm. Khi nó chết, đầu cắm xuống đất, chữ 'Vương' trên trán nhập thổ, oai phong của hổ hoàn toàn biến mất. Nhưng do chết uất ức nên nó hoá thành ác quỷ hiện về hàng đêm. Khi thấy oai hổ của mình bị đào lên, nó không còn gì lưu luyến phàm trần, gầm lên một tiếng dài rồi biến mất không bao giờ xuất hiện lại nữa. Viên trân châu hổ phách do đại sư Na Chiếu đào lên được gọi là 'Hổ Uy', là báu vật có thể trừ bách tà cực kỳ hiếm thấy.

Sau khi bình định bách thú, viên 'Hổ Uy' trở thành bảo vật trấn miếu của Trắc Kỷ Tự. Về sau người Mãn nhập quan, thiên hạ trở thành vùng trời của tóc đuôi sam. Tên quan tới thay chân cai trị địa phương hay biết có bảo bối như vậy, lập tức cướp lấy rồi biến thành cống phẩm hiến vào trong cung. Viên Hổ Uy này trải qua hưng suy cùng hoàng thất triều Thanh, cuối cùng thành vật bồi táng của Từ Hi thái hậu trong Định Đông Lăng ở Phổ Đà cốc.

Khi nói tới đoạn này, ông cụ Tang dường như chợt nhớ ra điều gì. Ông cụ buông chén trà đã nguội đang cầm trên tay xuống, bảo Cây Sào đã không còn sớm mau chuẩn bị trà bánh để đãi khách. Nhìn đồng hồ, tôi nhận ra đã đến nửa đêm, là thời điểm mèo mù đi ăn đêm nên đứng dậy muốn về nhưng ông cụ Tang lại không đồng ý. Ông cụ bảo chuyện còn chưa kể xong, khi nào kể xong mới cho về.

Tôi thầm nghĩ, hành lý của mình còn ở chỗ Triệu cóc nên nói với ông cụ Tang: "Thành thật xin lỗi. Cụ thấy đấy, cháu chẳng phải người địa phương, lần này chỉ đi ngang qua Nam Kinh, sáng mai là phải lên tàu hỏa đi ngay rồi. Hành lý của cháu vẫn còn gửi lại ở nhà bạn, nếu không về lấy sợ rằng không kịp. Hay là thế này, đợi tới lần sau cháu tới Nam Kinh sẽ tới nhà thăm hỏi..."

"Ha ha, thằng nhóc cứng đầu nhà ngươi còn muốn chạy sao..." Ông cụ Tang gõ tay lên bàn vài cái, cười gian xảo nói: "Chỉ e là không có dễ dàng thế đâu!"
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 6: Sinh Tử Bộ*


Dịch giả: Sky is mine
Biên: gaygioxuong

*Quyển sổ ghi chép ngày sinh, ngày chết

Nghe giọng điệu ông cụ không giống như đang lừa mình, nhưng chân vẫn còn gắn trên người, muốn đi hay ở hoàn toàn là do bản thân tôi quyết định. Không lẽ ông cụ có biện pháp cưỡng chế giữ tôi lại hay sao? Cụ chủ nhà thấy tôi không tin bèn bảo Cây Sào cầm một cuốn sổ nhỏ đóng buộc chỉ ra(1). Tôi đang muốn xem ông cụ định giở trò bịp bợm gì, bèn cầm lấy lật ngẫu nhiên mấy tờ ra để xem.

(1)Đóng buộc chỉ:một cách đóng sách truyền thống của Trung Quốc, sợi chỉ lộ rõ ra ngoài bìa (từ điển Lạc Việt)

Trong quyển sách xinh xắn đó viết tên của không ít người. Tôi lật sách xem lướt qua hết một lượt, thấy chẳng có có cái tên nào nổi tiếng cả, đang định trả lại thì chợt bị chữ viết trên một trang giấy thu hút.

Trên trang giấy ố vàng viết ba chữ 'Hồ Bát Nhất', mà ba chữ đó không thể phủ nhận là do chính tay tôi viết, không thể nào do người khác bắt chước viết ra được. Tôi ngẫm nghĩ một lúc lâu, nhưng không tài nào nhớ ra mình đã từng viết tên lên quyển sổ nhỏ này bao giờ cả. Kỳ quái nhất là ở góc bên còn ghi chính xác ngày sinh tháng đẻ của tôi. Tôi vội vàng lật vài tờ trước ra xem, phát hiện có vài cái tên có vẻ quen quen giống như đã từng quen biết ở đâu đó, hình như là người cùng nghề đào mộ. Dù gì cũng là dân cùng nghề, nên dù chưa gặp mặt nhưng cũng đã từng nghe qua tên.

Chẳng lẽ ông cụ Tang mở cửa tiệm chỉ để che mắt, còn thật chất là làm việc cho chính phủ, đặc biệt phụ trách điều tra hoạt động đào mộ phi pháp trong dân gian, bản thân là một vị cán bộ kỳ cựu đã nghỉ hưu ăn lương công môn phụng theo hoàng mệnh làm việc? Nếu đúng thật là như vậy thì lần này quả thật tôi xui tận mạng rồi. Tôi vội vàng lật quyển sách từ đầu tới cuối một lượt, đến khi xác định Tuyền béo và Shirley Dương không hề được 'Kim Bảng Đề Danh' cùng với mình, nỗi lo quặn thắt trong lòng mới được giải tỏa.

"Thế nào, cháu đã hiểu chưa?"

"Cháu biết tội rồi, cháu xin khai toàn bộ. Cháu thẹn với công giáo dục bao năm của tổ quốc, thẹn với công sức bồi dưỡng của cán bộ lãnh đạo. Cháu chỉ có một câu muốn nói, tất cả hoàn toàn do ý của cháu, những người khác vô tội, họ chỉ bị cháu uy hiếp, bị cháu lợi dụng. Cháu mới là kẻ đầu sỏ, cháu mới là độc tài phát xít."

Đoạn hội thoại này đã được tôi bí mật tập đi luyện lại không biết bao nhiêu lần. Ngay từ khi mới bước vào con đường này, tôi và Tuyền béo đã chuẩn bị sẵn cho mỗi người một đoạn khẩu cung, dù đã trải qua nhiều năm như vậy nhưng vẫn chưa bao giờ từng quên, thường thường lúc không có việc gì sẽ tìm một nơi vắng vẻ không có người khác ngồi tập luyện đi tập luyện lại. Nếu không đến lúc cần thiết thì biết nói thế nào? Một phút thượng đài cần mười năm đằng đẵng miệt mài luyện tập. Hôm nay, cuối cùng cũng phải lên võ đài. Cũng tốt, ngày sau đỡ phải suốt ngày lo lắng đề phòng. Lát nữa, cho dù lão chủ nhà có tra tấn bức cung, tôi sẽ khăng khăng nói không biết gì cả. Có bản lĩnh ném tôi vào trại tập trung Auschwitz(2) để xem xương cốt ai cứng rắn hơn.

(2) Trại tập trung người Do Thái khét tiếng ở Áo của Đức Quốc Xã trong thế chiến lần thứ 2

Lúc đầu ông cụ cứ tưởng mình nghe nhầm, sau khi bảo tôi lặp lại một lần nữa thì lập tức phá ra cười: "Thằng nhãi cứng đầu nhà ngươi, không tệ, không tệ, có vài phần giống ta hồi còn trẻ, ha ha ha..." Ông cụ cười đến mức gần như không ngồi thẳng lưng lại được. Cây Sào đứng bên cạnh với gương mặt luôn vô cảm, cũng không nhịn được phải che miệng cố nín cười mấy lần. Nhìn biểu hiện của một già một trẻ, tôi biết mình đã đoán sai, lập tức cảm thấy xấu hổ, đành phải nhờ ông cụ chỉ bảo.

Cây Sào dường như chỉ đợi tôi hỏi, lập tức đặt tờ giấy Tuyên Thành mà lúc vào cửa tôi đã viết tên lúc vào cửa lên bàn, sau đó lùi lại đứng sau ông cụ Tang, không nói năng bất cứ câu gì.

"Loại giấy này tên là Song Phi Dực." Ông cụ Tang chỉ vào chữ ký trên hai tờ giấy, nói: "Nghề làm giấy này đã thất truyền từ lâu." Nói xong ông cụ cầm bút lông lên, viết lên tờ giấy Tuyên Thành trắng tinh mấy chữ. Tôi lập tức mở sách buộc chỉ ghi danh sách tên người đang cầm trên tay ra, quả nhiên nhìn thấy hàng chữ 'Thiên Hạ Vi Công' hiện ra, giống dòng chữ ông cụ Tang đã viết trên tờ giấy Tuyên Thành như lột.

Dù 'Song Phi Dực' quá đỗi thần kỳ, nhưng Hồ Bát Nhất tôi đâu phải đồ thiểu năng. Cụ cho rằng làm thế là có thể giữ tôi lại được sao? Cứ như đọc được suy nghĩ của người khác, ông cụ lật sang một trang khác, chỉ vào một cái tên được đóng khung màu đen, bảo: "Cháu cứ thoải mái nhìn cho kỹ, xem người này và những người khác có gì khác nhau".

Tôi thầm nghĩ, không phải chỉ là một cái tên thôi sao? Cho dù là tên nước ngoài thì cũng có gì mà lạ đâu, chẳng lẽ họ Vương tên Bát Đản chắc?

Ông cụ Tang yêu cầu thêm lần nữa khiến tôi không tiện thoái thác, đành phải xem lại kỹ càng, từ đó nhận ra một đôi chút khác lạ. Người này tên là 'Lâm Tụ Thuỷ', tên bị đóng khung màu đen. Trong sách, ngoài ngày sinh còn có cả ngày mất. Người này chết đang lúc trai tráng, nhỏ hơn tôi mấy tuổi. Nhưng quan trọng nhất là ở chỗ, con dấu khác hoàn toàn với con dấu ở những trang khác, là loại nạm vàng rỗng đáy. Hoa văn con dấu có vẻ kỳ quặc, nhưng trong một chốc một lát chỉ có cảm giác dường đã từng nhìn thấy ở đâu đó, nhưng lại không thể nhớ ra đã thấy ở đâu.

Nhìn kỹ hơn, tôi lại phát hiện thêm mấy người bị đánh dấu là đã chết, dù tuổi tác không đồng đều, nhưng đều được đóng dấu mạ vàng ở bên dưới. Mặc dù tôi không đoán ra con dấu đó ẩu chứa ý nghĩa gì, nhưng thứ được đóng dưới tên người chết chắc chắn không phải là vật tốt lành gì.

Ông cụ Tang chỉ nhăm nhăm thừa nước đục thả câu, liên tục bí hiểm quăng ra những cái tên liên tiếp, nhưng lại chẳng chịu lộ ra đầu dây mối nhợ liên quan giữa những người đó. Kể từ lúc vào 'Nhất Nguyên Trai', tôi luôn bị ông cụ dắt mũi, đến tận giờ cũng chưa sờ lần ra đầu mối mong manh nào, nếu cứ tiếp tục thế này thì nói nữa cũng chỉ phí lời. Tôi đặt quyển sổ xuống trước mặt ông cụ, định lùi lại.

Ông cụ Tang vuốt ve quyển sổ nhỏ, nói rành rọt từng chữ một: "Cũng giống như cháu, những người này ai cũng là kẻ tài giỏi có thể nhận được đồ từ 'Nhất Nguyên Trai' của ta. Đáng tiếc thay, sau này phần lớn họ đều chết oan."

Vừa nghe xong tôi đã nổi nóng, 'Tam đại kỷ luật bát đại chú ý' đã nói rõ không được lấy dù chỉ cây kim sợi chỉ của nhân dân. Tôi đã ngồi cả nửa ngày, đến nước còn không được uống lấy một hớp, giờ còn định chụp cái mũ quá khổ này cho tôi nữa sao?

"Cụ à, cụ nói đùa gì vậy? Hồ Bát Nhất cháu đến tay không về cũng tay không, bảo bối trong tiệm thì chưa từng sờ vào món nào cả. Đây là vấn đề danh dự, cụ không tin có thể lục soát thân thể cháu, không thể vu oan bừa bãi cho người khác được." Tôi vừa nói vừa cởi áo khoác ra. Ông cụ Tang chặn tôi lại, nói: "Cháu còn chưa biết, quy tắc trong cửa hàng của ta là 'hàng chọn người'. Đêm qua trong nội đường, 'Hổ Uy' đã chủ động chọn cháu ngay trước mặt mọi người, đó là vận mệnh của cháu. Hạt châu này đã là vật của cháu, còn cháu có muốn lấy hay không là chuyện của cháu. Có điều, sau ngày hôm nay, dưới tên của cháu sẽ được đóng dấu 'Phách Vương Ấn'. Vật ấy không thể chuyển nhượng hay truyền lại cho con cháu, chỉ đến ngày cháu xuôi tay lìa khỏi nhân gian, nó mới có chủ mới. Trên thế giới, 'Nhất Nguyên Trai' chúng ta có tổng cộng hai mươi bốn chi nhánh, sau này cháu tới bất cứ nơi nào cũng sẽ là khách của chúng ta."

Tôi vừa nghe nói xong nhà này có chính sách ép mua ép bán ngang ngược, trong lòng lập tức bốc lên một ngọn lửa tức giận vô cớ, chẳng thèm nể nang kiêng kỵ gì nữa, trở mặt quát tướng lên: "Tang lão tiên sinh, nói ra cụ sẽ chối tai, hạt châu này có quý đến mấy cháu cũng không bao giờ nhận, bên ngoài có bao nhiêu người cháu cũng không sợ. Hồ Bát Nhất cháu muốn đi, ngoại trừ Mao chủ tịch ra, không ai cản lại được!"

Tôi trở mặt với ông cụ Tang đơn giản chỉ vì muốn ông cụ nổi giận đuổi mình đi. Nào ngờ, ông cụ lại chẳng có vẻ gì là tức giận, chỉ khe khẽ thở dài một hơi, nói: "Nếu gặp thằng nhóc nhà ngươi sớm vài năm, lão đây có lẽ đã thu làm đệ tử truyền y bát. Đáng tiếc, tuổi tác ta đã cao, có lòng mà không có sức. Nếu cháu muốn đi, ta sẽ không cưỡng ép giữ lại. Đây là vận mệnh của cháu, sớm muộn gì cháu cũng sẽ phải quay lại."

Tôi âm thầm xì mũi coi thường lời tiên đoán vô căn cứ của ông cụ, chắp tay chào rồi quay người bước thẳng ra khỏi cửa chính 'Nhất Nguyên Trai'.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 7: Tội phạm bị truy nã


Dịch giả: Sky is mine
Biên: gaygioxuong

Ra khỏi cửa chính "Nhất Nguyên Trai", tôi mới phát hiện ra trời đã sáng hẳn, bèn quyết định trước tiên kiếm món gì đó để lót dạ rồi mới đi Triêu Thiên cung tìm Triệu cóc. Dạo cả một vòng bên ngoài Miếu Phu Tử, vất vả lắm mới tìm được một quán ăn nhỏ còn chưa đóng cửa. Tôi vào trong chiếc lều bằng vải mưa, hỏi chủ quán có món gì ngon. Anh ta bảo, giờ đã hết món ăn sáng, canh mì hoành thánh đã bị những người đi làm ca một mua hết rồi, giờ chỉ còn miến tiết vịt. Nhưng, miến trong quán anh ta cũng chẳng còn lại mấy sợi, hay là làm cho tôi bát vịt thập cẩm để ăn tạm. Tôi đáp vậy cũng được, anh cho một bát lớn, thêm nhiều ớt hơn một chút. Chủ quán lấy từ trong tủ đựng chén ra một lọ gia vị đỏ rực, nói: "Người Nam Kinh chỉ có ớt xào. Có ăn không?"

Tôi đáp: "Anh thích thêm cái gì thì thêm, tôi đã đói bụng cả đêm, nếu không ăn chút gì đó thì chỉ lát nữa là sẽ đói tới mức chóng mặt, anh sẽ phải cõng tôi đến bệnh viện, phiền toái khỏi nói."

Món vịt thập cẩm vừa đặt lên bàn, con sâu thèm ăn trong bụng tôi đã bắt đầu ngọ nguậy. Còn chưa kịp động đũa, nước miếng đã chảy ra rồi. Thấy tôi đã thật sự đói lắm rồi, chủ quán kẹp một cái bánh quẩy đưa cho tôi: "Buổi sáng bận quá, chưa kịp ăn gì. Chỉ lát nừa là tôi dọn quán về nhà, vợ đã nấu xong cơm trưa chờ tôi về ăn rồi. Cái bánh quẩy này, anh cứ dùng đi."

Tôi vội vàng nhận lấy rồi cắn một miếng to. Dù cái bánh quẩy này vẫn luôn được chủ quán đặt trên bếp lò để giữ nóng, nhưng đã nhũn ra rồi, tuy nhiên mùi vị vẫn còn tạm được. Tôi khen món miến vịt kèm bánh quẩy để lấy lòng lão bản: "Nước dùng chỗ các anh hầm rất ngọt, chẳng trách lại đắt hàng như vậy."

Chủ quán mì lắc đầu: "Bình thường, quán bán quà vặt cạnh Miếu Phu Tử không dưới con số hai mươi, đâu đến phiên tôi buôn may với chả bán đắt. Chủ yếu là trong đêm ngày hôm qua, quảng trường miếu thờ xảy ra sự cố, nên đến sáng mọi người không dám mở quán."

"Hả, người của cục Công Thương đến kiểm tra sao?"

"Váng đầu hả? Anh có bao giờ nghe nói người trong cơ quan nhà nước nào bên đi làm vào lúc đêm hôm không?" Chủ quán liếm môi, đến bên cạnh bàn tôi thì thào nói, "Dân giang hồ đâm chém nhau, chết rất nhiều người. Trời còn chưa sáng, xe tải đỏ rực của đội phòng cháy mất hơn nửa canh giờ mới rửa ráy sạch sẽ mặt đường đấy."

Y sợ tôi không tin, lại nói thêm: "Tôi không hề lừa anh! Nhà tôi ở ngay sau Miếu Phu Tử. Vào lúc hơn hai giờ đêm ngày hôm qua, không biết một đám dân giang hồ bạt mạng ở đâu kéo tới, chém nhau loạn xà ngầu suốt từ chỗ cửa miếu Phu Tử cho đến tận quảng trường lớn. Không riêng gì dao thái dưa, bọn chúng còn có cái này..." Chủ quán mì luồn tay xuống gầm bàn làm động tác bóp cò.

Nghe thấy nói những người kia có súng ngắn, tôi buột miệng hỏi: "Anh không nhìn lầm chứ? Thật sự là món đồ này? Đám côn đồ đánh nhau hình như không dùng tới món đồ này thì phải?"

Chủ quán ngẫm nghĩ một lát, cuối cùng khẳng định là có súng, bởi vì lúc ban đầu anh ta bị tiếng súng đánh thức. Đầu tiên, anh ta cứ tưởng rằng có ai đó đang đốt pháo."Tôi thấy bọn chúng không phải là dân giang hồ bình thường, trong số chúng có một lão già đội mũ lông chồn đánh chém cực kỳ hung ác. Chẳng biết chừng bọn chúng là gián điệp cũng nên." Chủ quán mì càng kể càng hưng phấn, nắm chặt tay tôi, kích động nói: "Ái chà chà, sao tôi lại không đoán ra được sớm nhỉ! Tôi thấy bọn chúng thực sự là gián điệp. Đám tay sai của đế quốc Mỹ hiển nhiên muốn đánh cắp tin tình báo quân đội Nam Kinh của chúng ta. Đêm qua chỉ là một lần diễn tập quy mô nhỏ. Ái chà chà, đồng chí này, tôi có nên tới Cư Ủy Hội* báo cáo qua tình hình hay không?"

*Cư Ủy Hội: viết tắt của cư dân ủy ban, tương đương với ủy ban nhân dân cấp xã của ta

Tôi lờ mờ cảm thấy việc này không tránh khỏi liên quan tới "Nhất Nguyên Trai". Đang định hỏi thêm anh ta một vài điểm mấu chốt, chợt trông thấy hai người đội mũ cảnh sát đang đi về phía bên này. Chủ quán mì lập tức vỗ vai tôi, ý bảo tôi đừng có lắm lời. Tôi thầm nghĩ, việc này thực chất chẳng có một chút gì dính dáng tới mình, dù hai người đó có hỏi, tôi cũng chẳng biết chuyện gì mà nói. Đang định cúi đầu ăn miến, không ngờ Mũ Cảnh Sát có thân hình như quả bóng da lại ngồi ngay xuống trước mặt tôi, không quanh co hỏi thẳng: "Xin hỏi, có phải đồng chí Hồ Bát Nhất không?"

Tôi thầm nhủ hỏng rồi. Vừa mới đi ra khỏi hắc điếm, còn chưa kịp ngồi nóng chỗ, chính phủ đã đã tìm tới tận cửa. Tuy nhiên, tôi vẫn cứ ôm tâm lý may mắn, cảm thấy có lẽ họ tìm mình vì chuyện gì đó khác, không nhất định phải dính dáng đến chủ đề "Nhất Nguyên Trai". Vì vậy cứ tiếp tục ăn, đến khi toàn bộ bát miến vịt thập cẩm đã chui vào trong bụng, tôi mới ngẩng đầu lên hỏi anh ta có chuyện gì. Thái độ vị cảnh sát nhân dân này cực kỳ thân thiết, cười tủm tỉm hỏi: "Xin hỏi anh có biết một đồng chí có tên là Triệu Đại Bảo, một người đàn ông trung niên hơn ba mươi tuổi, thân hình hơi mập, trên đầu có sẹo."

Nghe thấy hỏi đến Triệu cóc, tôi bèn trả lời: "Đúng là có một người như thế, anh ta là bạn của tôi. Ngày hôm qua đã đi dạo Miếu Phu Tử cùng với nhau, nhưng sau đó đã tách ra."

Mũ Cảnh Sát gật đầu: "Tình hình là như thế này, sau khi chia tay anh, đồng chí Triệu Đại Bảo vô cùng sốt ruột, đã đến đồn công an chúng tôi trình báo mất tích. Hiện giờ nếu có rảnh, anh theo chúng tôi một chuyến để hủy báo án đi?"

Nghe xong câu này đã thấy có vấn đề. Triệu cóc rõ ràng đã nhìn thấy tôi đi vào "Nhất Nguyên Trai", nếu hắn muốn tìm tôi thì cứ cắm chốt ở ngoài cửa vào được, cần gì phải khua chiêng gõ chống chạy đến tận đồn công an? Hơn nữa, Miếu Phu Tử rộng lớn như vậy, trên trán tôi lại không khắc tên tuổi, vừa bước chân ra khỏi "Nhất Nguyên Trai" thì đã lập tức đụng mặt với các ngươi, quá không hợp lý. Tôi hoài nghi hai người này hoàn toàn không phải là cảnh sát, thậm chí mơ hồ lo lắng Triệu cóc đã đen đủi dính độc thủ của bọn chúng. Nhưng trước mắt, một không bằng hai không cớ, cũng không tiện làm căng với bọn chúng, tôi đành phải bịa bừa ra một lý do, bảo rằng đang có chuyện gấp, đợi đến trưa sẽ tới đồn công an của bọn chúng.

Thái độ hai người lập tức thay đổi. Một trong hai tên còn nhếch miệng lên cười uy hiếp, nói: "Đồng chí Bát Nhất tốt nhất là theo chúng tôi đi một chuyến, tránh cho người anh em kia của anh lo lắng không đâu." Nói xong, gã lôi phắt một vật trang sức nhỏ bằng đồng thau từ trong túi tiền ra. Vừa nhìn thấy là tôi biết ngay Triệu cóc đã xảy ra chuyện. Nguồn cơn của cái Hộ Thân Phù này, lúc trên xe lửa hắn đã kể rõ ngọn ngành với tôi. Năm xưa, khi còn nhỏ, hắn đã nghịch dại lội xuống dòng sông chết ở đầu thôn, thiếu chút nữa không lên bờ được nữa. Sau khi được người trong thôn cứu lên, hắn sốt cao mê man, đầu nóng như lửa. Cuối cùng phải nhờ mẹ hắn ba quỳ chín khấu đi miếu Quan Âm cầu cho một cái bùa bằng đồng, mới ép được hết nước bẩn trong bụng ra ngoài. Cái bùa Quan Âm này luôn được hắn mang theo trên người. Lúc gặp trên xe lửa, tôi muốn mượn nhìn một cái mà hắn khăng khăng không chịu, nhưng hiện giờ lại rơi vào tay của hai kẻ xa lạ. Xem ra, cảnh ngộ hiện giờ của Triệu cóc vô cùng không ổn.

Đối phương dùng Triệu cóc tính mạng bắt ép, có câu rồng mạnh không áp chế được rắn địa phương, tôi không còn cách nào đành theo chân bọn chúng đi một chuyến. Hai người đưa tôi tới một con hẻm vắng vẻ, huýt sáo làm hiệu với bên trong ngõ. Chỉ một lát sau, một chiếc xe con hiệu Hồng Kỳ từ từ lăn bánh từ trong ngõ ra. Hai người bọn chúng một trái một phải kẹp tôi ở giữa, ý bảo tôi lên xe. Tôi chẳng muốn nói nhiều với bọn chúng, đặt mông ngồi lên ghế lái phụ. Tôi còn chưa kịp ngồi vững, tên lái xe đội mũ lưỡi trai đột nhiên nhấn ga xông thẳng ra ngoài, tông hai tên Mũ Cảnh Sát đang chuẩn bị lên xe văng ra rất xa. Cửa xe còn chưa kịp đóng lại, thiếu chút nữa là tôi bị văng xuống đường. Đến khi nhìn sang tên tài xế lái xe, thiếu chút nữa là tôi cười ra tiếng.

"Thằng ôn kia, làm sao lại chiếm được cái xe này thế?"

"Mẹ! Ông còn dám hỏi, nếu không phải do thằng ranh nhà mi, ông đây làm sao bị kẻ khác tóm sống vào giữa nửa đêm rồi cho ăn một chầu đòn hiểm!" Tên mũ lưỡi trai lột mũ ra, chỉ vào hốc mắt đen sì sì, nói: "Mẹ nó, đám khốn kiếp kia, mắt Triệu gia chỉ cần kém đi một chút sẽ đánh bọn chúng tàn phế ngay lập tức."

Tôi thấy Triệu cóc bị kẻ khác đánh tím bầm cả hai mắt, trong lòng rất áy náy. Thừa hiểu từ đầu đến cuối hoàn toàn do mình gây họa cho hắn, tôi vội vàng móc cái bùa bằng đồng ra để xoa dịu. Thấy Hộ Thân Phù bảo bối của mình, Triệu cóc chỉ chực ném phắt cái vô lăng đi để dùng hai tay giật lại. Tôi vội vàng đeo lên cổ cho hắn, bảo hắn chú ý an toàn giao thông.

"Người anh em, lần này ông có lẽ đã chơi quá đà rồi. Đã nói trước với ông rồi, cửa tiệm kia không chui vào được. Nước quá sâu, chúng ta chơi không nổi." Triệu cóc nhanh chóng lái xe vào một con đường không một bóng người, bảo với tôi, "Nói thực nhé, lúc đầu tôi không hề có ý định cứu ông, sợ mình cũng bị cuốn vào, hoàn toàn chỉ vì nghĩ đến sợi dây xích mà mẹ tôi để lại này cho nên mới xông vào đó. Về sau, thành Kim Lăng này chỉ sợ là không ló mặt ra ngoài mà lăn lộn được nữa rồi. Vất vả phấn đấu vài chục năm, chỉ trong một ngày lại trở lại thời kỳ trước giải phóng, thật sự là xui tận mạng."

Thì ra hôm đó nhận ra ấn Bá Vương trên biển hiệu, Triệu cóc đã biết ngay chủ quán là Tang Bá Thiên nổi danh trong giới đồ cổ, hắn không dám nấn ná một giây phút nào, lập tức bỏ chạy. Trên đường bỏ chạy, lại cảm thấy ném người anh em kết nghĩa của mình vào hố lửa là việc không trượng nghĩa, hắn lộn trở lại định lượn lờ ở ngoài cửa ra vào chờ tôi đi ra. Không ngờ, hắn vừa tới cửa đã bị một tên Mũ Cảnh Sát tóm sống. Lúc mới đầu hắn cứ tưởng đó là công an lâm kiểm. Nhưng có ngờ đâu, hắn bị bọn chúng đưa đi càng lúc càng xa, cho tới tận một kho hàng bỏ hoang ở vùng ngoại thành.

Triệu cóc biết ngay vấn đề đã trở nên nghiêm trọng. Hắn chẳng dám phản kháng, bọn họ hỏi gì đáp nấy, ngay cả tôi đi toa lét mấy lần trên tàu hỏa cũng khai tuốt. Thấy hắn đối đáp trôi chảy, những kẻ đó thành ra sinh nghi hắn cố tình lừa dối, bèn kết tội hắn không thành thật, cho nên lần lượt đánh cho hắn một chầu nhừ tử. Tôi bảo ông bị như thế là đáng đời, ai bảo ông hèn nhát phản bội cách mạng. Ông ngàn vạn lần phải ghi nhớ bài học xương máu này, về sau không thể nào dễ dàng bán đứng chiến hữu cách mạng.

Triệu cóc vừa lái xe vừa tiếp tục kể lại những gì mình đã gặp phải: "Về sau, tôi giả vờ bất tỉnh, lừa lúc trời sắp sáng tìm cơ hội trốn thoát. Tôi đoán, có lẽ bọn chúng chắc vẫn còn đón lõng ông ở Miếu Phu Tử, cho nên cứ tới đấy cầu may. Sự thật đúng như tôi đã dự đoán! Lúc ấy, nhân lúc thằng ôn lái xe chỉ có một mình trong ngõ hẻm canh gác, tôi bèn lẻn tới tặng nó một cục gạch. Ông đoán xem thế nào? Thằng ôn đó rõ ràng không hề bị ngất, mà còn quay đầu lại hỏi tôi vì sao đánh hắn. Con mẹ nó, tôi lập tức lại đập cho nó thêm một cú nữa, đến lúc đó mới xong việc."

Tôi thừa hiểu, sau khi đập viên gạch đó xuống hai lần, hắn đã hoàn toàn đắc tội với đám người kia, sợ rằng rất khó còn có thể lăn lộn ở Nam Kinh được nữa, trong lòng hết sức áy náy, trong lúc nhất thời không biết nên nói cái gì.

Triệu cóc thở dài một hơi, bảo: "Giờ chúng ta cứ mặc kệ sau này ra sao thì ra. Tóm lại, hai ngày tới chúng ta phải trốn đi, tránh đầu sóng ngọn gió mới là thượng sách."

"Vậy ông có chỗ nào trốn không vậy?"

"Chỗ trốn thì có, nhưng mà..."Hắn nhìn giao lộ trước mặt, thì thào nói, "chỉ sợ ông không dám ở."
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 8: Căn nhà cũ ở Cổ Bình Cương


Dịch giả: Sky is mine
Biên: gaygioxuong

Chẳng biết bằng cách nào, Triệu cóc đã lái xe đưa tôi đến một con đường ven đô vắng lặng, còn bảo rằng chỗ chúng tôi sắp tới hết sức nguy hiểm, sợ tôi không dám trốn vào đó cùng với hắn. Tôi chỉ cười trừ, người sống sợ nhất một chữ 'chết'. Công việc của Mạc Kim Giáo Úy chính là liên hệ với người chết, nếu đã có gan bước vào con đường không có đường về này, việc sống chết từ lâu đã không còn nằm trong suy nghĩ nữa. Anh có dẫn tôi tới một nơi khủng bố đến mấy, chắc tôi cũng chẳng thể nào trở thành một bánh tông yên giấc cả ngàn năm được chứ?

"Ông mới lần đầu tiên tới Nam Kinh, vẫn chưa biết đến sự khủng bố của Cổ Bình Cương." Triệu cóc châm một điếu thuốc, "Mảnh đất dưới chân chúng ta hiện giờ, người Nam Kinh xưa gọi nó là Cốt Bình Cương, cốt trong xương cốt. Qua đó đã nói lên, vào thời cổ nơi đây là nơi xác chôn thành gò. Sau chiến tranh, đã dùng xương cốt người chết lấp cao dần lên. Ban đầu, ta cứ đinh ninh đó là câu chuyện sặc mùi mê tín của các ông bà lão, mãi cho đến ngày bản thân tận mắt chứng kiến. Đầu những năm 80, chính phủ nâng cấp thành thị, định xây dựng thêm một con đường cái ở vùng ngoại ô. Khi ấy, rất nhiều cư dân ở vùng quanh đó đồng loạt phản đối thi công, kéo nhau đến công trường ăn nằm gây mất trật tự. Tôi có một bà cô họ hàng xa cũng ở trên khu đồi, dù đã hơn 70 tuổi cũng gia nhập đội quân mù quáng phản đối. Sau khi mẹ tôi biết được, lập tức bảo tôi tới chỗ đó tìm bà cụ rồi đưa về nhà của chúng tôi ở, tránh cho bà ở ngoài đó gặp chuyện gì không may." Hắn chỉ vào cái biển nhỏ bên đường, nói, "Tôi lượn khắp công trường thi công tầm vài vòng, cuối cùng cũng tìm được bà cô già trong biển người. Có mấy hộ gia đình dâng trào ý chí chiến đấu, giơ loa công suất lớn cãi chày cãi cối với đám nhân viên thi công, bảo rằng dưới lòng đất Cổ Bình Cương chôn gia tiên, không thể tùy tiện quấy rối sự yên nghỉ của họ. Đội xây cất đâu chịu nghe những ông bà cụ đó, viên tổng chỉ huy ra lệnh một tiếng, mũi khoan máy cạch cạch vang lên. Chưa được vài lần đã khoan ra được một cái hố." Triệu cóc nói xong, lái xe ngoặt lên sườn núi, "Nếu không phải lúc ấy tận mắt nhìn thấy, đánh chết tôi cũng không tin. Khi mũi khoan chui sâu vào cái hố đó được một nửa, máy móc cuối cùng không thể khoan sâu thêm được một phân nào nữa. Tôi đứng đằng xa thấy rõ ràng mũi khoan đã bắt đầu bốc lên khói trắng rồi, nhưng vẫn không thể nào khoan sâu hơn được nữa. Đám quần chúng bu lại xem, đột nhiên im ắng không phát ra một tiếng động nào cả, giống như bị ma quỷ mê hoặc tâm trí vậy, từng người một lũ lượt quỳ xuống dập đầu. Tôi kéo bà cô định bỏ đi. Kết quả, bà cụ bám chặt lấy cây cột điện trên vỉa hè, ánh mắt khi bà quay đầu lại trợn trừng nhìn tôi khỏi cần phải nói dọa người đến mức độ nào. Viên tổng chỉ huy vừa khom người xuống thăm dò tình hình, cửa động đột nhiên phát ra một loạt tiếng nổ điếc tai. Lúc ấy tôi sợ tới mức choáng váng, chỉ nhìn thấy một luồng khói đặc như một con rồng đen nhe nanh múa vuốt, phá đất lao vọt ra khỏi miệng hố. Chu choa, cảnh tượng lúc ấy cứ như dưới âm ty địa ngục, khắp nơi đâu đâu cũng vang lên tiếng gào khóc cực kỳ thảm thiết. Tôi sợ đến mức bỏ mặc bà cụ lại mà chạy trối chết. Về sau loáng thoáng nghe thấy thông tin, khu vực Cổ Bình Cương trước kia là cái hố chôn cả vạn người, dưới mặt đất là xương trắng chồng chất, toàn là những thứ không thể phơi ra ngoài ánh sáng mặt trời. Có người nói, khi được tìm thấy, xác viên tổng chỉ huy công trình giống như bị cái kích đè nát vụn không ra hình dạng con người, có mấy chiến sĩ thu dọn hiện trường còn nôn ra ngay tại chỗ..."

Xe chạy ngày càng chậm, cuối cùng đỗ lại ở cửa vào một tòa nhà ba tầng kiểu Âu đứng độc lập một mình. Trên trán Triệu cóc đã rịn mồ hôi."Ma quái nhất thì phải kể tới bà cô già của tôi. Đêm hôm đó, sau khi về nhà tôi đã bị mẹ chửi mắng thậm tệ một trận, bảo rằng bằng bất cứ giá nào cũng phải tìm người về ngay trong đêm, không thể để chịu tội chịu nợ ở một nơi ô uế như thế. Tôi bảo bà cô khỏe mạnh lắm, còn dám đối kháng với cả chiến sĩ giải phóng quân nữa kìa, mẹ đừng bận tâm thái quá. Kết quả, tôi bị mẹ đánh. Tôi thấy thế bèn nghiến răng lộn trở lại Cổ Bình Cương. Trước kia, bà cô già đã từng giúp việc cho một cặp vợ chồng người nước ngoài, căn nhà nhỏ kiểu Âu này được chính hai người đó tặng lại. Chính phủ mấy lần muốn mua lại từ tay bà cô già, nhưng lần nào cũng bị bà dùng chổi đuổi đi. Sau khi đến nơi, tôi đã gõ cửa tầng một rất lâu mà không có ai trả lời. Sợ bà cô già đã bất tỉnh vì chịu kích thích quá mạnh vào lúc ban ngày, tôi lập tức leo lên lan can tầng hai phá cửa vào nhà. Trong nhà tối đen như mực, ngay cả một cây nến cũng không tìm thấy, thế là tôi sinh ra bức bối. Ông thử nói xem, bà ấy làm sao có thể sống một mình nhiều năm như vậy. Có ngờ đâu, vừa mới đến cửa phòng bà ấy, tôi chợt nghe thấy bên trong vang lên tiếng oe oe, giống như tiếng em bé còn đang quấn tã gào khóc đòi sữa. Tôi dán sát tai vào cửa một lúc lâu, đồng thời gọi rách cả cuống họng 'bà cô ơi' vài lần, nhưng vẫn không có ai trả lời. Trái lại, tiếng khóc càng lúc càng nhỏ dần, cuối cùng cả căn nhà chỉ còn lại tiếng thở dốc của một mình tôi. Tôi đành lấy hết can đảm đẩy cửa ra. Còn chưa kịp mó tay vào tay cầm, cánh cửa gỗ lim đã tự động mở ra rồi. Một đám to đùng đen sì sì không nhìn rõ hình thù chạy vụt qua chân tôi lao ra ngoài, tôi sợ tới chết khiếp xông thẳng vào trong phòng rồi khóa trái cửa lại. Đến khi hoàn hồn lại, tôi mới phát hiện ra bà cụ hóa ra không hề có mặt trong phòng ngủ. Tôi đã lật tung căn phòng từ sàn đến nóc mấy lần, nhưng đừng nói đến người, ngay cả quỷ cũng không phát hiện ra một cái bóng. Đến khi đêm xuống, chúng tôi đã đi báo án. Nhưng cho đến giờ phút này, ngay cả tóc cũng không tìm thấy được một cọng."

Tôi nhìn gò núi nhỏ trụi lủi, biết ngay nơi mà Triệu cóc nói đến chính là căn nhà nhỏ kiểu Âu bỏ hoang nhiều năm ở trước mặt. Tôi an ủi hắn: "Chúng ta đã bị đám xác sống đuổi đến đến bước đường cùng, vậy mượn nơi người chết ở để trốn cũng là việc hợp lý thôi. Hơn nữa, nhỡ đâu bà cô già của ông chỉ bất chợt nổi hứng đáp tàu hỏa đi Bắc Kinh thăm Mao Chủ Tịch lão nhân gia cũng có thể xảy ra lắm chứ."

Hắn biết tôi đang an ủi mình, bèn miễn cưỡng nặn ra một nụ cười: "Kể từ ngày hôm đó trở đi, lúc nào tôi cũng vòng qua Cổ Bình Cương để tránh, không ngờ vẫn có ngày phải quẩn trở lại. Lão Hồ, ông đi vào trước chờ, tôi sẽ lái xe ra ngoài, vứt ở nơi xa một chút, tránh bị lộ."

Tôi bảo: "Giờ mà ông lại lái xe quay ra ngoài thì càng dễ lộ hơn, chi bằng tìm một nơi gần đây để xử lý. Nếu như không tìm được chỗ nào ở gần đây thì giữ xe lại cũng tốt. Đối phương được trang bị tốt, chúng ta giữ xe lại để tiện cho việc chạy trốn, cũng có thể coi là một kế sách hay."

Chúng tôi đi bộ một vòng quanh đó, sau đó quyết định nhấn chìm chiếc xe đó xuống dưới cái hồ nhân tạo ở phía sau Cổ Bình Cương. Rất may là ở quanh khu vực đó vắng bóng người qua lại, không mất quá nhiều trắc trở đã xử lý xong mọi việc. Cuối cùng, hai chúng tôi mỗi người cầm theo một túi hạt ngô chuẩn bị trốn vào trong căn nhà cổ xây dựng trên Cốt Bình Cương vùi xương vạn người trong truyền thuyết.

Kể từ khi bà cô trong nhà thần bí mất tích, Triệu cóc không bao giờ bước chân vào Cổ Bình Cương một bước nào nữa, luôn ám ảnh sợ hãi đối với ngôi nhà nhỏ kiểu Âu nằm đơn độc trên sườn núi. Nhưng hiện giờ, chúng tôi không có lựa chọn nào tốt hơn, đành phải trốn vào đó lẩn tránh tai mắt người khác.

Ngôi nhà ba tầng kiểu Âu này được xây kiểu gạch xanh ngói đỏ cửa đồng cột đá, là kiểu kiến trúc hiện đại điển hình của nhà dân. Tôi đi quanh ngôi nhà một vòng xem xét, tiện đó quan sát sơ qua địa hình xung quanh, phát hiện vị trí xây dựng căn nhà này vô cùng xấu. Trong Ai tinh phong thủy, âm dương trạch đều giống nhau, lấy sơn thủy giao hòa làm lành, lấy sinh khí làm chủ, âm trạch coi trọng hướng nước, dương trạch coi trọng hướng cửa. Căn nhà này nằm trên đỉnh núi, cổng chính quay mặt vào núi quay lưng lại nước, lại có một con đường đâm thẳng vào cổng chính, phạm vào thế 'Tà thương sát' trong phong thủy. Những người ở chỗ này, tám chín phần mười sẽ gặp tai họa đổ máu. Nếu như khu vực Cổ Bình Cương đúng như thế hệ trước đã nói, là một hố chôn vạn người thì căn nhà này chính là bia mộ độc nhất bên trên nấm mồ của cả vạn người, là nơi tích tụ âm khí chí hung.

"Lão Hồ, ông lại suy nghĩ linh tinh cái gì thế? Mau qua đây giúp tôi một tay, chìa khóa không mở được." Triệu cóc đeo túi, loay hoay tìm cách mở khóa. Tôi thử hai lần, quả nhiên khóa không hề lay chuyển. Tôi cúi đầu xuống nhìn lỗ khóa, phát hiện ra bên trong đã hoen rỉ từ bao giờ. Tôi rút chìa khóa ra xem, ngoài bề mặt dính đầy một lớp vụn kim loại, có lẽ cứ tiếp tục chọc ngoáy như vậy, cư dân ở chung quanh sẽ coi chúng ta là tội phạm chạy trốn rồi bắt đến đồn công an mất.

"Đừng mất thời gian nữa, tốt nhất là làm theo phương pháp đơn giản của anh năm ấy, lẻn vào từ trên lan can tầng trên."

Triệu cóc gật đầu. Chúng tôi trèo lên cây hòe lớn ngoài sân để lên tầng hai, thấy cửa sổ đã đóng chặt, lại còn được chắn bằng một bức màn vân vàng màu đỏ rực, bên trong tối om không nhìn thấy cái gì. Không còn cách nào khác, chúng tôi đành phải đập vỡ một ô cửa kính, thò tay vào mở then cài, đến lúc đó mới vào được trong phòng.

Khu nhà cũ đã lâu không thông gió, vừa bước vào tôi đã bị hôi thối mốc meo trong phòng làm cho ngạt thở khiến đầu óc choáng váng, vội vàng quay ra theo đường cũ.

Tôi tì người vào ban công ho khan một lúc lâu mới điều hòa lại được nhịp thở. Triệu cóc không tin, cho rằng tôi đang bày trò đùa cợt mình, "Lão Hồ, ông thực sự nên vào đoàn kịch mà công tác. Chưa bao giờ nghe nói có ai bị sặc chết vì tro bụi trong nhà bỏ hoang cả, có cần nghiêm trọng như ông đã thể hiện không."

"Không, bên trong không chỉ có tro bụi nấm mốc, mà còn có mùi thi thể." Mùi vị này tôi đã quá quen thuộc, cho dù có trộn lẫn vào mùi hôi thối nấm mốc cũng sẽ không bao giờ lầm lẫn, bên trong khu nhà hoang có thi thể!

"Ông... ông đừng làm tôi sợ, khơi khơi phòng ở lấy đâu ra mùi thi thể!" Triệu cóc gãi đám chốc trên đầu, cố tỏ ra bình thản nói, "Tôi thấy ông nhất định là đã bị ngộp tới choáng váng. Chúng ta mở hết cửa sổ cho phòng thoáng khí rồi nói sau."

"Không, trước hết ông đi mua một lọ dấm, cả khẩu trang nữa, khẩu trang càng dày càng tốt, tốt nhất là bên trong có than đá. Cho dù đã thông thoáng, loại khí bên trong vẫn gây độc hại đối với cơ thể con người, không thể coi thường. Chúng ta không mang theo trang bị, chỉ có thể tùy cơ ứng biến."

Thấy tôi không có vẻ gì là trêu đùa hắn, Triệu cóc lập tức nghiêm trọng hẳn lên: "Đm, không phải là vật đó đấy chứ? Tôi bảo này lão Hồ, hay là đổi sang chỗ khác được không, không cần thiết phải tranh địa bàn với người chết mà? Có câu 'cây chuyển thì chết, người chuyển thì sống'. Người chết không thể di chuyển, nhưng chúng ta thì có thể di chuyển đúng không?"

Tôi vẫn cứ thấy khúc mắc mãi về phong thủy của căn nhà hoang trên Cổ Bình Cương. Thời buổi này mà trong một khu dương trạch chẳng hiểu tại sao lại xuất hiện mùi thi thể, bên trong tất nhiên ẩn dấu nguyên nhân sâu xa. Nếu cứ bỏ đi như vậy, tôi thật sự có phần luyến tiếc. Nhưng nếu như cứ xâm nhập bừa vào trong, không may có hành động sơ suất nào thì không thể nào giải thích với Triệu cóc được. Trong lúc tiến thoái lưỡng nan, Triệu cóc đột nhiên dùng tay đè đầu tôi xuống, thì thào bảo: "Có người!"

Tôi đang nhập tâm suy nghĩ tại sao trong khu nhà bỏ hoang lại xuất hiện mùi thi thể, hoàn toàn không để ý tới 'người' trong câu nói của Triệu cóc xuất hiện ở chỗ nào. Bị hắn đè đầu xuống như vậy, tôi mới phát hiện ra vừa rồi mình đã chủ quan. Tôi hỏi hắn người đó đang ở đâu, chợt thấy môi Triệu cóc trở nên trắng nhợt, mặt mũi xanh lè, bàn tay đang đặt trên cổ tôi run rẩy không ngừng. Tôi gọi đến vài lần, hắn mới ngẩng đầu lên, trình ra một gương mặt như vừa nhìn thấy quỷ đáp lại tôi: "Không... Không hay rồi, tôi... tôi vừa trông thấy bà cô. Bà ấy vừa lướt vèo qua cửa sổ, cánh còn chưa mở người đã không còn thấy tăm hơi. Bà ấy xuyên tường chạy mất rồi!"

Tôi nghe xong, lập tức toàn thân nổi da gà, vội vàng hỏi hắn: "Anh khẳng định? Trong phòng bên cạnh không hề có đèn sáng, anh khẳng định là bà ấy?"

"Lừa anh làm gì, "Triệu cóc bám vào thân cây định tụt xuống, "Ối mẹ ơi, xác chết vùng dậy, xảy ra chuyện ma quái rồi. Tôi đã bảo từ đầu Cổ Bình Cương không phải là nơi yên lành mà. Lão Hồ, chúng ta mau bỏ chạy thôi! Lỡ khi tối trời gặp lại quỷ xuyên tường, khi đó muốn nói cái gì cũng chậm hết mất rồi."

Tôi bẻ một cành cây, gạt bức màn đỏ vừa dày vừa nặng tách ra một khe hở. Trời chạng vạng, không đủ sáng để nhìn rõ được nữa, chỉ loáng thoáng có thể nhìn thấy đại khái. Gian phòng mà chúng tôi đã cạy cửa sổ là một phòng ngủ chính trên tầng hai, bởi vì trong một thời gian dài không có ai dọn dẹp, nền đã bị phủ một lớp tro bụi dày. Toàn bộ đồ dùng sinh hoạt trong phòng đều được phủ vải trắng, sàn nhà được lát bằng gỗ sơn đỏ. Trên tường hình như treo mấy bức tranh, do cách quá xa nhìn không rõ tranh vẽ gì, tôi đoán chắc là một nhân vật nào đó ví như vợ bé của một lão gia quân phiệt nào đó chẳng hạn, hoặc có thể là chủ nhân của ngôi nhà kiểu Âu này, nghĩa là bức họa chân dung của cặp vợ chồng ngoại quốc kia.

Triệu cóc thấy tôi muốn đi vào, chết sống không chịu, cứ ôm chặt cây hòe già không chịu buông tay. Tôi đành phải dùng chân dận gãy cái cành to thông lên lan can, cắt đứt đường lui của hắn. Triệu cóc thấy không còn đường xuống, thiếu chút nữa là liều mạng với tôi. Tố chất tâm lý của thằng cha này thật sự quá kém, tôi đành phải sử dụng một vài kinh nghiệm của bản thân, dùng thực tế nói cho hắn biết: Không điều tra thì không có quyền phát ngôn.

"Ông có chứng cớ gì chứng minh người đó là bà cô họ của mình không, lỡ đâu ông hoa mắt thì sao? Lỡ đâu con mèo con chó nào đó tha miếng vải thêu hoa chạy qua thì sao? Một người chưa từng đứng giữa nắng tiếp nhận kiểm nghiệm của quần chúng nhân dân, ông dựa vào cái gì nói đó chính bà cô đã thất lạc nhiều năm của mình? Đồng chí Triệu Đại Bảo, anh có dám thề với Mao Chủ Tịch, mình vừa nhìn thấy đồng chí Triệu Thúy Hoa - bà cô của mình không?"

Bị tôi hỏi dồn dập như vậy, Triệu cóc choáng váng hết cả đầu óc. Thế là hắn dậm chân, cãi lại tôi: "Cho dù chúng ta muốn vào đi nữa, chẳng phải đã nói là có khí độc hay sao? Cành cây đã bị ông đạp gãy mất rồi, biết theo đường nào mà đi mua dấm với khẩu trang?"

Tôi bèn giải thích, nói thời gian thoáng khí vừa rồi đã đủ lâu, khí có hại cho cơ thể hầu như đã bị xua tan, chúng ta dùng quần áo quấn lên đầu, sau đó mở hết cửa sổ tầng trên tầng dưới ra, trong vòng một hai giờ là có thể thay đổi không khí mới, không còn nguy hiểm một chút nào. Triệu cóc bán tín bán nghi bảo: "Tại sao đến giờ tôi mới phát hiện ra, lão Hồ ông thật ra là người rất không đáng tin cậy vậy."

"Đồng chí Triệu, mọi việc đều phải xem xét tính hai mặt của nó, Mao Chủ Tịch cũng có lúc phạm sai lầm. Nào, vì để chứng minh cho ông thấy Hồ tôi là một người ưu tú trong thế hệ con em bộ đội ra sao, trận này tôi sẽ xung phong đi đầu, ông chỉ cần gánh trách nhiệm trông giữ an toàn phía sau." Nói xong, tôi xốc bức màn đỏ tươi như máu lên, nhảy vào bên trong một lần nữa. Lần này, không khí trong phòng rõ ràng đã trong lành hơn rất nhiều. Tôi bảo với Triệu cóc bên trong không còn nguy hiểm, gỡ quần áo quấn trên đầu xuống trước để chứng minh. Sàn nhà bằng gỗ kiểu cổ bị chúng ta giẫm lên phát ra tiếng cọt kẹt. Triệu cóc sờ soạng trên tường một chốc, "Tạch" một tiếng, chùm đèn trần lập tức sáng trưng, chiếu sáng bừng cả gian phòng âm u khủng bố.

Đến lúc này tôi mới nhận ra, đây là một gian phòng ngủ rất rộng, diện tích không dưới bốn năm mươi mét vuông. Khi ở ngoài cửa sổ nhìn vào, tôi chỉ thấy được một phần nhỏ của nó. "Chùm đèn trần còn rất sáng, phần tử trong gia đình nhà họ Triệu ông rất khả nghi đấy." Tôi cố tình nói vậy để trêu chọc hắn, không ngờ Triệu cóc lại run rẩy xua tay với tôi, bảo: "Lão Hồ, cái đèn này không phải do tôi bật."

Trong phòng ngoài tôi và Triệu cóc thì không còn bóng dáng của người thứ ba. Tôi vừa mới nghe hắn nói như vậy, lông tóc toàn thân dựng đứng hết cả lên. Cánh tay Triệu cóc vẫn giữ nguyên tư thế vươn ra giữa không trung. Hắn khẳng định như đinh đóng cột bảo tôi: "Ông xem, tôi còn chưa đụng vào nó nữa đây này." Tôi nhìn lại, chỗ Triệu cóc đứng còn cách công tắc non nửa mét, chẳng lẽ đèn điên của người nước ngoài đã hiện đại đến mức độ cảm ứng tự bật từ một khoảng cách nhất định? Tôi đi qua, định thử xem phải chăng công tắc đã biến chất. Vừa nhấc chân, toàn bộ phòng bỗng nhiên tối om. Triệu cóc thét lên "A" một tiếng, tôi hỏi hắn có chuyện gì thế. Hắn thở hổn hển đáp: "Không... Cực kỳ khủng khiếp! Lão Hồ, vừa rồi có thứ gì đó lạnh buốt đã thổi một hơi vào gáy tôi."

"Đừng hoảng hốt, vừa rồi ông có chạm vào công tắc không?"

"Mới sắp thôi, chưa chạm vào. Quá căng thẳng."

"Vậy ông cứ đứng im tại chỗ đừng nhúc nhích, tôi qua chỗ ông." Tôi cẩn thận từng li từng tí đi tới bên cạnh Triệu cóc. Ván gỗ dưới chân liên tục kêu cọt kẹt, khẽ rung lên, dù đặt chân xuống nhẹ đến mấy cũng không có tác dụng, khiến người nghe vừa bức bối vừa hoảng loạn. Lúc này, mặt trời đã sắp lặn hẳn về tây, trong phòng bị bức màn dày bịch che tối om. Lúc trước Triệu cóc đã chạy tới cửa phòng ngủ để bật đèn, còn tôi vẫn ở bên cạnh cửa sổ, định nhìn cho rõ ràng mấy bức tranh kia vẽ cái gì. Tôi nhẩm tính sơ qua khoảng cách giữa hai người, tối đa chắc chỉ tầm bảy tám mét. Tuy nhiên khi tôi bước đi được vài bước trong bóng tối, không ngờ ngay cả tiếng hít thở của hắn cũng không nghe thấy đâu, trong cả gian phòng dường như chỉ còn lại mỗi một mình tôi.

Tôi hít sâu vài hơi, tự bảo mình lúc này nhất định phải bình tĩnh. Sau này nếu như lỡ như Tuyền béo biết được tôi bị người sống sờ sờ trong dương trạch dọa sợ chết khiếp, vậy thì đó đúng là việc hoang đường mà có chết biến thành quỷ cũng không hết xấu hổ. Vừa nghĩ như vậy, quả nhiên tôi đã bình tĩnh lại, dựa vào trí nhớ lại tiếp tục bước thêm vài bước, cuối cùng tóm được Triệu cóc ở cạnh cửa. Thằng ôn này đã bị kinh sợ quá mức. Trong bóng tối tôi không nhìn thấy mặt hắn, nhưng cơ thể hắn co rúm lại dựa vào tường, hiển nhiên là hắn đã sợ hết hồn. Tôi vừa lần mò bật công tắc vừa bảo với hắn: "Mau bình tĩnh lại, tôi đoán có lẽ là do đường dây đã hỏng, không có chuyện gì đâu." Nào ngờ, tiếng Triệu cóc đột ngột vang lên ở phía sau lưng tôi, hắn hỏi tôi: "Lão Hồ, ông đang nói chuyện với ai thế?"

Câu hỏi đó giống như tiếng sét, thiếu chút nữa làm tôi hoảng sợ nhảy dựng lên. Tôi vội vàng bật công tắc lên, toàn bộ gian phòng sáng trưng. Triệu cóc đang đứng sau lưng tôi, run lẩy bẩy hoảng sợ bảo: "Vừa rồi sao tôi lại thấy ông nói chuyện với góc tường thế. Lão Hồ, ông đừng có làm tôi sợ."

Tôi nhìn lại, mình đâu có đứng ở cửa phòng ngủ, mà đang đứng cạnh một cái giường gỗ rộng. Đối diện tôi chỉ là một bức tường trống không trắng loá, lấy đâu bóng dáng ai vừa nãy còn cuộn tròn rúc người vào trong góc tường. Tôi lúc lắc đầu, khẳng định trăm phần trăm mình không bị ảo giác. Nhưng nếu như bóng người vừa rồi không phải là Triệu cóc, vậy sẽ là ai? Chẳng lẽ ngoài hai chúng tôi ra, còn có những người khác đang ẩn nấp bên trong căn nhà hoang? Người này là ai, xuất phát từ mục đích gì mà lại trốn vào một căn nhà cũ đã bị người ta bỏ hoang từ lâu? Quan trọng nhất là, kẻ này làm cách nào mà có thể biến mất không còn tăm hơi ngay trong tầm mắt tôi chỉ trong nháy mắt?

Tôi hỏi Triệu cóc: "Trong căn phòng này có cơ quan nào không, hoặc đường bí mật thông sang chỗ khác?"

"Đương nhiên là không có, ông đang tiến hành chiến tranh địa đạo hay sao? Nhà cửa cũ nát như vậy, nếu bên dưới còn có thêm mấy lỗ hổng nữa thì đã sập từ đời tám hoánh nào rồi."

Tôi không cam lòng lại kiên trì lục tìm trong phòng ngủ một lượt. Nhưng ngoài dòng chữ "Vợ chồng Grimm" ghi trên bức tranh ra thì không thu hoạch được gì cả.

"Lão Hồ, ông đừng có lục lọi nữa. Căn phòng này bảo rộng không đúng, bảo nhỏ cũng sai. Tầng trên tầng dưới có hơn mấy chục gian phòng, đấy là còn chưa tính đến tầng hầm. Chờ đến khi ông lục soát xong thì trời đã sáng bảnh ra rồi." Triệu cóc bị những vật dụng kiểu Âu bày biện trong phòng làm mê mẩn thần hồn, quên phắt đi sự việc ma quái lúc trước. Hắn vớ lấy một cái hộp gỗ nhỏ được chạm khắc đặt trên lò sưởi, hưng phấn nói: "Nhìn này, một cái hộp cổ." Tôi vừa nhìn vào thiếu chút nữa đã phì cười: "Uổng cho ông buôn bán đồ cổ nhiều năm như vậy. Ông có từng thấy cái hộp cổ của triều đại nào mà lại thiết kế khóa bằng mật mã chữ số la tinh không." Triệu cóc cúi đầu quan sát, nhăn trán nhíu mày: "Hóa ra là đồ giả! Bảo sao người ta lại bày ở chỗ kẻ khác dễ chú ý đến như vậy." Hắn lắc cái hộp đó, hỏi: "Bên trong có thể có vật gì đáng giá không?" Tôi cầm lấy nó rồi đánh giá: "Chẳng có hy vọng gì đâu, nhiều khả năng chỉ là một hộp giấy gói kẹo." Hắn không tin, cố gắng cạy cái khóa ra cho bằng được, mở ra xem, tất cả đều là ảnh cũ. Tổng cộng tầm mười cái, phần lớn là ảnh vợ chồng Grimm chụp ở quê nhà nước Mỹ. Trong ảnh, hai vợ chồng họ ôm một em bé còn đang thời kỳ bú sữa, cười hết sức đáng yêu. Còn có mấy tấm hình chụp một chiếc mặt nạ bằng kim loại cắm đầy lông vũ, trên trán mặt nạ khắc ba vòng tròn sáng chói lọi. Triệu cóc kích động hỏi tôi mặt nạ này có phải đồ cổ của ngoại quốc không? Có thể đổi được bao nhiêu tiền? Tôi đáp, vật dụng của người nước ngoài tôi chưa được nhìn thấy nhiều lắm, xét theo hình dạng thì hình như là vật dụng của người Anh điêng nước Mỹ. Triệu cóc hỏi, nếu đúng như vậy vì sao lại gọi họ là người Mỹ, đúng ra phải gọi là người Anh-điêng. Bản thân tôi cũng không hiểu rõ lắm, bèn bịa bừa ra: "Người Anh-điêng chính là người Mỹ, là một nhánh dân tộc thiểu số của nước Mỹ." Triệu cóc gật đầu: "Vậy đây chính là mặt nạ kinh kịch của người Mỹ. Không, thứ này có lẽ phải gọi là mặt nạ kịch Mỹ. Tôi đi tìm xem, cố gắng kiếm được mấy cái còn hoàn hảo."

Nói xong, hắn chạy đi phòng khác kiếm bảo vật, làm sàn gỗ lại phát ra tiếng cọt kẹt. Tôi quay lại chỗ cạnh cửa sổ định xem lại bức tranh vẽ vợ chồng Grimm. Đúng lúc này, một luồng sáng chói mắt rọi thẳng từ bên ngoài vào qua cửa sổ. Tôi thầm nhủ không hay, lập tức lao về phía cửa phòng định tắt đèn trần đi. Không ngờ Triệu cóc đột nhiên gào lên như phát cuồng: "Lão Hồ, chúng ta phát tài rồi, đầy cả một phòng mặt nạ kịch Mỹ!"

Tôi thầm than hỏng rồi, xem ra chúng tôi đã bị lộ.

Tôi không dám tắt đèn, sải bước lao sang phòng bên cạnh. Gương mặt toe toét, Triệu cóc đang ôm một đống mặt nạ với đủ các loại kích cỡ, hình dạng. Tôi không kịp giải thích cho hắn, vội vàng tắt đèn trong phòng.

"Ông làm gì thế..."Hắn vừa há miệng, một luồng sáng chói mắt quét từ bên ngoài vào trong phòng, khiến hắn sợ tới mức ngã quỵ, giống như là con cóc rơi vào nước sôi nháo nhào lao tới nấp bên cạnh tôi: "Sao... sao thế? Ánh sáng ở đâu ra?"

Tôi đáp hỏi vậy chằng bằng thừa hay sao, người ta đã tìm tới tận cửa rồi kìa. Tôi cứ tưởng rằng ít nhất có thể yên lành qua buổi tối ngày hôm nay, chúng tôi sẽ có cơ hội lấy lại hơi sức, không ngờ đám người này đuổi sát không rời, ngay cả thời gian ăn một chầu cơm tối cũng không cho.

Mấy luồng sáng bên ngoài quét qua quét lại bên ngoài mấy cái cửa sổ, tôi bảo với Triệu cóc: "Giờ bọn chúng còn chưa xác định được vị trí của chúng ta, ông đi xuống tầng trước kiếm chỗ trốn đi, tôi sẽ ở lại chỗ này hấp dẫn sự chú ý của bọn chúng. Đến khi bọn chúng xông lên đây, ông tranh thủ chạy trốn."

Triệu cóc thủ thế ra hiệu bảo trọng, lom khom đi ra khỏi gian phòng. Tôi cuộn người lăn một vòng, vọt tới chỗ bệ cửa sổ, nhấc màn lên quan sát bên dưới, định tìm hiểu rõ số lượng kẻ địch. Không nhìn không sao, vừa nhìn tôi chỉ muốn đập mình chết tươi. Tôi vội vàng khom người đi xuống tầng dưới. ĐM cái đám con hoang này, bên ngoài có ba bốn chiếc xe trống trơn đậu thành một dãy, chỉ để lại một người tại chiếu đèn pha, những kẻ còn lại đã lẩn vào trong nhà từ bao giờ. Triệu cóc đơn thương độc mã mò xuống tầng, có lẽ trong lòng vẫn còn đang âm thầm đắc chí, cho rằng có thể giáng cho kẻ địch một đòn bất ngờ, dù có thế nào cũng tài nào ngờ tới, đại bộ phận kẻ địch đã phục sẵn dưới tầng, chỉ chờ chúng tôi chui đầu vào lưới. Trong lòng tôi lạnh buốt, chẳng lẽ rời khỏi bộ đội quá lâu, thật sự đã lão hóa mất rồi? Tôi vội vàng xua tan suy nghĩ vớ vẩn của mình. Sống chết trước mắt còn đi cảm thán cuộc đời, chẳng bằng quay về thực tế dùng thời gian đó để tìm cách cứu Triệu cóc.

Vừa mới ra tới hành lang tầng hai, tôi chợt nghe thấy tầng dưới vang lên tiếng đoàng đoàng. Tôi cúi người, dán sát mé bậc thang nhìn xuống, phát hiện bảy tám bóng người đang hỗn loạn trong phòng khách tầng một sáng trưng. Lão già cầm đầu giơ một khẩu súng ngắn kiểu cũ, hổn hển chửi: "Tiên sư bà nhà nó chứ, rõ ràng thấy hắn chạy xuống, sao lại không thấy bóng dáng đâu nữa rồi. Đám toi cơm các ngươi, tìm kiếm cho tao. Nếu không tìm thấy người sống, phải lôi bằng được thi thể ra cho tao!"

Xem ra Triệu cóc vẫn chưa hề rơi vào tay bọn chúng, tôi thở phào một hơi, bắt đầu suy nghĩ làm cách nào để thoát ra khỏi tình thế nguy hiểm dưới sự bao vây kín mít của đàn sói. Trong tay đối phương có súng ống đạn được, về mặt nhân số cũng chiếm ưu thế tuyệt đối, bên phía chúng tôi tay không tấc sắt không nói làm gì, ngay cả Triệu cóc cũng không biết đã trốn ở chỗ nào. Tôi quyết định lẻn qua bên đó, giáng cho bọn chúng một đòn tấn công bất ngờ, cướp lấy khẩu súng của lão già cầm đầu, bắt lão làm con tin, đến lúc đó không lo không ra khỏi được căn nhà hoang này được. Tôi vừa cố gắng đi lại nhẹ nhàng hết mức có thể, vừa quan sát tình hình tầng dưới. Những kẻ đó đã hất tung hầu hết đồ đạc của tầng một lật ngửa lên trời. Lão già cầm đầu đã trở nên rất nóng nảy, muốn dẫn người xông lên tầng trên. Tôi trốn ở chiếu nghỉ cầu thang giữa tầng một và tầng hai, chỉ chờ lão vừa bước chân lên là lập tức khống chế ngay.

Tôi ngồi xổm trong bóng tối, nín thở tập trung tinh thần, không ngừng căn thời gian để ra tay. Chợt nghe thấy bậc thang bị chân người giẫm lên phát ra tiếng rầm rầm, những kẻ đó càng lúc càng tiến lại gần tôi. Tôi hít sâu một hơi, chuẩn bị cho bọn hắn ăn một cú mãnh hổ vồ mồi thì dưới chân chợt mát lạnh. Một cái đầu trọc lóc vừa bóng lại vừa tròn ủng ló ra khỏi khe cầu thang để dò xét tình hình. Tôi trợn trừng mắt nhìn, có nghĩ nát óc cũng không tài nào nghĩ ra Triệu cóc lại trốn ở một chỗ như thế này. Hắn vươn tay ra lôi phắt tôi xuống dưới. Cái cầu thang này hiển nhiên dấu cơ quan lật ngược lại, tôi chợt cảm thấy đầu đuôi lộn ngược, cả người lập tức rơi vào bóng tối trong tiếng động rầm rầm.

Nói thì chậm mà xảy ra thì nhanh, ngay khi tôi vừa chạm đất, bậc thang trên đỉnh đầu đã vang lên tiếng bước chân rầm rập như sấm rền. Xem ra, đám người kia đã xông lên tầng hai. Trong bóng tối, tôi chỉ nghe thấy tiếng Triệu cóc thở hổn hển. Chỉ một lát sau, ánh sáng leo lét của một chiếc đèn dầu hỏa làm cho một gương mặt bánh đúc hiện ra ở trước mặt tôi. Trên trán Triệu cóc, mồ hôi đã chảy ròng ròng, bàn tay cầm chiếc đèn của hắn cũng không quá ổn định. Tôi cũng kinh hãi chưa hoàn hồn lại. Cái đầu to tướng đột ngột xuất hiện dưới chân mới vừa rồi, còn khiến tôi chắc mẩm mình đã gặp quỷ đầu to nữa cơ đấy!

"Hoàn toàn là do bà cô tôi trên trời linh thiêng phù hộ," Triệu cóc ngồi phệt mông xuống nền xi-măng, "Ở tầng dưới thiếu chút nữa tôi đã bị bọn chúng bắt được. Lúc ấy định quay trở lại theo đường cũ, có ngờ đâu lại nhìn thấy bà cô tôi mặc quần áo trắng toát đứng ở chiếu nghỉ cầu thang ngoắc tay với tôi, khiến tôi sợ muốn chết. Chân cẳng mềm nhũn, đổ gục xuống. Ban đầu tôi cứ tưởng là mình đã chết, đến chỗ âm ty địa ngục rồi. Về sau nghĩ lại, Địa phủ cũng phải có ánh sáng, nếu không Diêm vương gia làm việc kiểu gì? Sờ lần cả buổi mới phát hiện nơi đây là một căn phòng bí mật nằm dưới cầu thang, có cả cơ quan lật ngược lại. Mong ngóng cả buổi coi như đã chờ được ông đến rồi." Triệu cóc vừa lẩm bẩm bà cô là người thân yêu nhất của mình trên thế giới này, vừa hỏi ta: "Lão Hồ, ông kiếm ở đâu ra mấy mấy kẻ đầu trâu mặt ngựa thế. Tôi chưa từng nhìn thấy đám nào bám dai như đỉa thế bao giờ."

Tôi đáp có lẽ là mớ phiền toái của "Nhất Nguyên Trai", lão họ Tang kia đã cấp cho tôi điều khản bảo hiểm nhân thọ cả đời gì gì đó, những người này chỉ muốn tiền tài. Triệu cóc bảo người ta đòi tiền, vậy ông đưa luôn cho người ta. Sống không tiêu đến, chết chẳng mang theo, sau này kiếm lại sau có vướng bận gì đâu? Thứ có mạng cầm không có mạng tiêu, có gì đáng để ông phải tiếc rẻ. Ta nói, muốn trách thì phải trách điều khoản ngang ngược, bắt mua ép bán kia kìa. Tôi có nỗi khổ mà không thể nói với ai, lần này chỉ cần còn sống thoát ra khỏi đây, trước hết quay trở lại "Nhất Nguyên Trai" một chuyến, nhổ sạch râu ria của lão già họ Tang thì mới có thể hả giận.

"Ông nói thử xem, trong nhà này sao lại phải có phòng bí mật?" Triệu cóc cầm dầu hoả đèn săm soi khắp nơi. Tôi nhìn quanh một lượt, bên trong căn phòng này đặt rất nhiều bình thủy tinh bịt kín miệng với đủ các kiểu dáng, mỗi cái cao ngang thắt lưng, bên ngoài bị mạng nhện chăng kín mít, không nhìn thấy được bên trong thực chất là cái gì. Trong góc có một cái làm việc rất dài, trên mặt bàn có một ít dung dịch hóa học, tôi chỉ đọc được nhãn của một trong số những chiếc bình đó viết là cồn y tế, những bình còn lại viết bằng tiếng nước ngoài thì hoàn toàn không hiểu. Toàn bộ tầng ngầm có vẻ giống như là một căn phòng bí mật tiến hành thực nghiệm nào đó. Triệu cóc liên tục hỏi chỗ này có phải trụ sở bí mật của gián điệp địch hay không. Tôi chẳng có hứng thú nghiên cứu những những sự việc đã trôi qua lâu rồi như thế, mà chỉ quan tâm có đường ngầm nào có thể chạy trốn thẳng ra bên ngoài hay không mà thôi.

Hai người chúng tôi lục lọi lần lượt các hốc tường một lượt, cuối cùng tôi cũng phát hiện ra một đường ngầm được xây bằng đá bên dưới cái bàn làm việc. Tôi quay lại gọi Triệu cóc chạy, không ngờ thằng ôn này đang đứng trên mặt bàn thí nghiệm, định lấy bình thủy tinh ở trên đó xuống. Tôi nói: "Ông có biết bên trong là thứ gì không mà dám lấy. Lỡ như ngâm bên trong đó chỉ toàn là những thứ buồn nôn như chuột bọ, ông sẽ mang ra ngoài để ăn tối chăng?" Hắn vừa cười ngơ ngáo vừa nói: "Ông nói vậy là thiếu hiểu biết, đây gọi là thành quả thắng lợi, là đồ tết. Chẳng cần biết là cái gì, đến khi trở về đặt ở trong tiệm..." Hắn càng nói càng hưng phấn, đột nhiên cái bình tuột khỏi tay, khiến hắn ngã ngửa ra đằng sau. Tôi giật mình vội đỡ hắn đứng dậy. Chợt nghe xoảng một cái, cái bình bịt kín miệng cao ngang thắt lưng đã rơi vỡ thành mảnh vụn. Một mùi vô cùng tanh tưởi hôi thối xộc thẳng vào trong lỗ mũi, không biết một thứ gì đó lăn từ trong bình ra, nhớp nhúa dinh dính chạm vào chân tôi. Tôi giơ cái đèn dầu hoả lên để soi, phát hiện ra đó là một cái xác được ngâm trong hóa chất, thân hình cuộn tròn lại, nhìn giống như một con khỉ con bị lột sạch da, nhưng lại không nhìn thấy cái đuôi đâu cả. Triệu cóc bụm lấy cổ họng, nôn thốc nôn tháo, la làng: "Thai nhi, đó là một thai nhi. Tôi đã từng xem ảnh ở viện bảo tàng khoa học kỹ thuật, những bào thai trong bụng mẹ đều có hình dạng như thế này."

Trong lòng tôi chấn động, chẳng lẽ các bình thủy tinh đều chứa bào thai còn trong bụng mẹ? Không ngờ vợ chồng người nước ngoài lại có tiến hành thu gom độc ác đến thế, chẳng trách lại phải xây nhà bên trên một ngôi mả âm thịnh dương suy của cả vạn người, nguyên nhân chính là vì muốn lợi dụng âm khí tích tụ cả trăm năm của nơi này để phong lại oán khí của thai nhi, là biện pháp mượn lực phá lực ác độc, cực kỳ tổn hại âm đức. Xem ra, sau này bọn chúng tặng nhà cho người khác, tuyệt đối không xuất phát từ ý tốt lành gì.

Triệu cóc đứng bên cạnh, chỉ vào cái xác dưới chân tôi bảo: "Vừa nãy, dường như tôi đã nhìn thấy nó nhúc nhích."

Tôi cúi đầu xuống nhìn, thấy rõ thi thể nhão như bùn phồng lên xẹp xuống theo quy luật, giống như đang hô hấp vậy. Chưa từng nghe nói bánh tông nào lại thở giống người a! Huống chi nó bị ngâm trong hóa chất lâu như vậy, gân cốt đã bị hòa tan từ lâu. Nhưng cho dù thế nào đi chăng nữa, chung quy lại nó vẫn là vật tà ma đáng sợ, tốt nhất vẫn cứ rời khỏi đây sớm một chút, tránh cho đêm dài lắm mộng.

Tôi lại nhường Triệu cóc đi trước, còn mình bọc hậu phía sau, định đậy kín phiến đá lại từ bên dưới. Nhưng ngay khi tôi quay đầu lại, thi thể ngâm hóa chất trên mặt đất đã biến mất. Tôi thầm than không tốt, vội vàng đậy phiến đá xuống hòng bịt kín miệng đường hầm, đúng lúc đó chợt bị một bàn tay ướt nhoẹt tóm lấy. Lúc ấy, tôi đã chui nửa người xuống dưới đường hầm xây bằng đá, bị nó đột ngột tóm lấy, thiếu chút nữa là ngã lộn cổ xuống dưới. Vật thể bé xíu đó tì vào cái bàn làm việc, nước từ thân mình nó chảy xuống đất thành vũng, hai mắt vẫn nhắm tịt, miệng hơi mấp máy, giống như là đang gọi mẹ mẹ. Lúc đó tôi chỉ muốn khóc, điên cuồng vùng vẫy nhằm hất văng nó ra. Đâu có ngờ vật thể bé xíu này lại khỏe đến thế, chỉ chực lôi tuột tôi ra khỏi đường hầm. Trong quá trình vật lộn giãy dụa, rất nhiều cái bình bịt kín miệng khác bị chúng tôi làm đổ. Chỉ trong khoảnh khắc, hơn mười thai nhi chưa thành hình người đồng loạt háo hức bò về phía tôi.

"Lão Hồ, ông làm gì thế! Sao còn không xuống?" Tiếng Triệu cóc vang lên phía sau tôi. Tôi hét lớn: "Mau giúp tôi một tay, con của ông muốn kéo tôi chôn cùng." Triệu cóc thấy tình hình không ổn, vội tóm lấy dây lưng quần tôi rồi dốc hết sức bình sinh kéo xuống dưới. Một chân tôi kẹt cứng ở cửa đường hầm, một chân lơ lửng giữa không trung, dưới sự giằng xé của hai lực kéo, trong đầu tôi chỉ có một ý nghĩ, nếu cứ tiếp tục bị như vậy, mình bị xé làm đôi cũng chẳng biết chừng. Đúng lúc này, trên đỉnh đầu chúng tôi vang lên vài tiếng động rầm rầm, một lượng lớn gỗ vụn lẫn tro bụi đổ xuống khiến miệng tôi lạo xạo đầy đất cát. Ngẩng đầu nhìn lên, hóa ra vách ngăn cầu thang đã bị người ta phá tung ra một lỗ thủng. Lão già cầm súng nhe răng cười, hét lên với tôi: "Thằng nhóc thối tha, cuối cùng cũng tìm được mày rồi!"
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 9: Kẻ phản bội nhục nhã


Dịch giả: gaygioxuong

Tôi nhận ra người đó là ông già đội mũ da chồn đã gặp ở "Nhất Nguyên Trai" ngày hôm qua, trong lòng thầm mừng rỡ, gom hết toàn bộ sức lực, quẳng thai nhi đang đeo bám ở trên tay mình lên trên, bảo với nó: "Anh bạn nhỏ, đó mới là ông nội của cậu." Trên tầng lập tức liên tục vang lên tiếng thét kinh sợ, ngay sau đó là tiếng súng vang lên. Nhân cơ hội đó, tôi chui tọt vào trong đường hầm, đậy phiến đá chặt lại. Tôi và Triệu cóc không dám ngơi nghỉ một giây phút nào, liên tục chạy bạt mạng dọc theo đường hầm bằng đá, cho đến khi phía trước xuất hiện ánh sáng thì mới âm thầm thở phào một hơi.

Triệu cóc nhảy vọt tới, vội vàng leo lên cửa đường hầm để chui ra bên ngoài. Vừa ra được bên ngoài, hắn đã hét lớn: "Lão Hồ, mau ra đây mà hít thở không khí trong lành. Mùi vị tự do quá tuyệt diệu!" Tôi ló ra ngoài cửa đường hầm, thấy bên ngoài ấm áp ánh mặt trời, rộn tiếng chim hót, ngập tràn hương hoa. Tôi hít sâu một hơi, cảm giác có gì đó không đúng, vì sao trong không khí lại có mùi vị gì là lạ? Leo hẳn lên để xem, tôi lập tức đá cho Triệu cóc một cú: "Tiên sư nhà mi dám gạt ta, chỗ này con mẹ nó là cửa vào nhà vệ sinh công cộng mà!"

Hắn phấn khích thở hổn hển, khiến cho mấy nữ đồng chí đi từ trong nhà vệ sinh ra đồng loạt nhìn chúng tôi bằng ánh mắt sợ hãi, liệt hai thằng chúng tôi vào hạng phần tử biến thái về mặt tâm lý.

Theo ý Triệu cóc, nếu như đã chạy thoát chết, thì đó chính là cơ hội ông trời ban thưởng cho chúng ta, không thể nào trở về tự tìm đường chết. Hắn cho rằng nên bỏ qua chỗ căn tiệm nhỏ, chúng tôi nên đi thẳng tới nhà ga, còn vé đi nơi nào là đi nơi đó luôn, trước tiên cứ chạy ra khỏi cái bể khổ thành Kim Lăng này đã rồi tính sau.

Tôi không đồng ý, oan có đầu nợ có chủ. Có một số việc tôi phải tìm ông cụ Tang để đối chất, hỏi han cho rõ ngọn ngành mới được. Hai người chúng tôi chia tay nhau ở cửa nhà vệ sinh công cộng, ước hẹn sau này tìm được bến đỗ mới, nhất định phải thông báo cho nhau một tiếng.

Sau khi chia tay Triệu cóc, một mình tôi tới Miếu Phu Tử, định tìm ông cụ Tang nói cho ra lẽ. Có ngờ đâu, khi đến nơi thì tôi thấy cửa "Nhất Nguyên Trai" đã bị khóa chặt bằng một cái khóa Song Đầu Bệ Ngạn màu đỏ tía. Thời phong kiến, đây là loại khóa đặc biệt chuyên môn dùng để khóa các văn kiện của triều đình trong nha môn, Huyện thái gia phải bày ngũ cốc cắm ba nén hương, hàng ngày phải dùng hoa quả tươi để cúng, dù vợ con bị đói cũng không thể bạc đãi nó. Giờ lại bị ông cụ Tang tận dụng làm ổ khóa để khóa cửa giữ nhà. Tôi thầm kêu lên một tiếng bất bình thay cho nó, quyết định lát nữa quay ra phải tìm cơ hội giải cứu nó.

Vượt tường leo rào đối với tôi có thể nói là hành động thuộc phạm vi tập luyện hàng ngày. Tôi tìm một chỗ tường vắng lặng không một bóng người, không tốn mấy công sức đã leo được vào bên trong. Không biết tại sao, bên ngoài rõ ràng là giữa ban ngày ban mặt, nhưng khi vào bên trong "Nhất Nguyên Trai", khắp mọi nơi đều tỏa ra hơi lạnh thấu xương; Nói chung là có cảm giác không giống như lần đầu tiên tôi đi vào. Ngay cả cỏ cây, hòn đá trong căn viện cũng trở nên dữ dằn đáng sợ, hơi thở sự sống hoàn toàn biến mất. Người ta thường nói, sống lâu thành tinh, chẳng lẽ là do trong cửa hàng của lão già họ Tang kia cất chứa quá nhiều đồ cổ, cho nên hồn của chúng mới hoành hành, làm rối loạn phong thuỷ nơi này?

Nhưng tôi tới đây chỉ vì muốn thực thi quả đấm thép của nhân dân đối với lão già họ Tang, áp dụng chế tài chính nghĩa. Về phần lão ta là chuột thành tinh hay là thần tiên, tôi chẳng thèm quan tâm, việc cấp bách là phải tìm thấy lão cho bằng được. Không có Cây Sào dẫn đường, tôi loanh quanh cả buổi cũng không thể tìm thấy cửa chính Nội đường. Đương lúc tôi phân vân có nên tiện tay thó lấy hai món đồ cổ rồi hôm khác sẽ quay lại không, đột nhiên, một loạt tiếng đồ sứ va đập vào nhau rồi vỡ loảng xoảng vang lên từ một nơi gần đó. Nghe thấy tiếng động, tôi xắn tay áo lên xông thẳng vào bên trong, trong lòng thầm nghĩ: Lão ngoan đồng kia trốn đi đâu, hôm nay nếu không nhổ sạch lông tóc biến lão thành một tên hòa thượng trọc lóc, thì lão vẫn còn tưởng ông đây hiền như bụt!

Tôi chạy theo ngách nhỏ, nhanh chóng tìm thấy một gian phòng nhỏ xây bằng gạch xanh khuất trong góc. Trong phòng vang lên tiếng đánh nhau kịch liệt lẫn tiếng chửi thề. Tôi thầm nhủ khéo làm sao, trước nay lão già nhà ông có lỗi với quá nhiều người, chưa đến lượt ta ra tay thì đã có người thay trời hành đạo mang vận xui đến cho lão rồi. Dù bảo rằng nghe lén người khác không phải là việc nam tử hán đại trượng phu nên làm, nhưng đâu có phải tôi cố ý muốn nghe, ai bảo tôi đứng ngay bên dưới cửa sổ chứ!

"Đồ phản bội nhà ngươi, không ngờ lại thông đồng với người ngoài âm mưu hại lão đây. Khục khục khục, dù ta có chết ngươi cũng không có trái ngọt để mà ăn!"

Nghe ra rõ ràng có người có thể dồn lão già họ Tang vào đường cùng, tôi lập tức trèo lên bệ cửa sổ, muốn xem tận mắt. Trong phòng đã hoàn toàn trở nên hỗn loạn, ông cụ Tang nằm ngửa trong một đám ngói vỡ, mặt mày xanh lét, ngực áo bị máu nhuộm đỏ tươi.

Cây Sào đứng trước mặt ông cụ, vẫn ăn nói hờ hững như thường lệ, nhưng thái độ phản bội lại thể hiện ra rõ ràng: "Tổng quản lý, có một số người không đợi được lâu như vậy, tôi chỉ làm việc thay ông chủ, hi vọng ngài có thể hiểu được."

Ông cụ Tang bị gã làm cho tức giận đến mức ho ra máu tươi mấy lần, mắng gã xối xả là đồ súc sinh vong ân phụ nghĩa. Cây Sào bước lại gần ông cụ, thì thầm vài câu. Ông cụ trợn trừng hai mắt, lảm nhảm tự nói một mình với giọng điệu hầu như đã tuyệt vọng hẳn: "Hắn vẫn chưa chết? Không thể nào, không thể nào xảy ra. Nhiều năm như vậy, hắn sớm phải..." Nói xong, ông cụ lại phun ra một búng máu. Xem ra, cho dù Cây Sào không độc ác xuống tay, ông cụ cũng không thể chống đỡ được bao lâu nữa. Tôi thật sự không thể nhẫn nhịn đứng nhìn được nữa, hai tay ôm lấy đầu, húc tung cánh cửa vọt thẳng vào trong phòng. Dù có thế nào Cây Sào cũng không bao giờ ngờ tới, giờ này lại có người phá vỡ âm mưu của mình. Mặt gã tối sầm lại, gằn giọng thốt lên: "Là mày!" Trước mặt toàn đom đóm vì bị cánh cửa gỗ làm cho choáng váng, trong khoảnh khắc tôi không thể phân biệt được đâu với đâu, đành phải cố gắng tỏ ra thản nhiên: "Chính là ông mày đây!"

Ông cụ Tang thực sự rất kích động, kéo tay áo tôi muốn nói gì đó. Tôi bèn bảo cụ cứ tránh qua một bên nghỉ ngơi đi, đợi lát nữa tôi sẽ tính sổ với cụ sau. Không ngờ ông cụ vẫn cứ cố gắng ngồi dậy cho bằng được, cười méo xẹo bảo tôi: "Thằng ranh ngu ngốc... Cửa không khóa... Khục khục khục khục..." Vừa nghe xong, tôi hối hận chỉ muốn chết luôn cho rồi, tự trách mình quá lỗ mãng không thử kiểm tra xem cửa chính có khóa hay không. Mẹ kiếp, còn chưa ra tay đã mất sạch thể diện trước mặt kẻ địch. Tôi cố gắng che đậy cơn xấu hổ, lúc này Cây Sào đang suy đoán năng lực của tôi nên không dám vội vàng ra tay. Trên thực tế, đến tận lúc này trước mắt tôi vẫn là đom đóm bay đầy trời, bản thân chẳng thể nhìn thấy cái gì. Nếu gã lao tới tấn công, tôi hoàn toàn không thể chống đỡ được. Có trách thì phải trách thằng ôn này lòng dạ quá thâm độc, không tìm hiểu rõ tường tận đối phương thì không chịu ra tay. Cũng giống như đối với ông cụ Tang vậy, theo tôi thấy, gã nhất định đã ẩn núp nhiều năm mới bắt được cơ hội trời cho như ngày hôm nay. Đối phó với những thằng ôn như vậy, phải lừa cho chúng không biết đường nào mà lần, nếu không đến khi thua thì kết quả chỉ là một chữ 'chết'. Tôi căng mắt quan sát phản ứng của gã, hòng tìm cơ hội ra đòn phủ đầu. Trong lúc hai bên đang giằng co, một loạt tiếng bước vội vã vang lên phía ngoài cửa, ba người chúng tôi không hẹn mà cùng nhìn ra bên ngoài. Chợt thấy một ông lão đội mũ da, được hai hàng người tháp tùng đằng sau, dương dương tự đắc bước vào cửa. Tôi thầm than quá xui xẻo, hận không thể lái xe tăng nghiền toàn bộ cái đám vương bát đản trong phòng này nát ra như tương.

"Ông chủ Tang, từ lúc chia tay đến giờ vẫn mạnh giỏi đấy chứ!" Lão lông chồn giả vờ giả vịt vái chào ông cụ, sau đó khẽ gật đầu với Cây Sào, cuối cùng quay sang nhìn tôi, nói: "Việc nhà hai vị, họ Dương tôi không có hứng xen vào. Nhưng cái đầu của thằng nhóc này, tôi nhất định phải có, hi vọng chủ nhà có thể thông cảm nhường lại, châm chước một chút."

Tôi ghét nhất người khác đối đáp theo kiểu quan chức nhà nước như thế này, vậy là quơ lấy cái bình Thanh Hoa ở gần đó nện tới. Lão lông chồn không ngờ tôi lại bất thình lình đánh lén, sợ tới mức rụt cổ lại, gào lên hộ giá. Tôi mắng bây giờ đã là thời đại nào rồi mà lão già nhà ông còn kêu hộ giá, hộ cái đầu ông ấy.

Cả đám thủ hạ của lão lông chồn đều phát hoảng, nắm lấy dao thái dưa định xông lên chém tôi. Ông cụ Tang gầm lên giận dữ: "Làm càn, không nhìn ra đây là nơi nào sao! Dương Nhị Bì, quy tắc hành xử của các vị là thế này sao?"

Lão lông chồn không ngờ ông cụ Tang lại có lòng muốn bảo vệ một người xa lạ như tôi, tròng mắt đảo vài vòng, sau đó bảo bọn chúng hạ vũ khí xuống rồi vui vẻ nói: "Người làm ăn chúng ta coi trọng nhất là chữ tín. Nếu ông chủ Tang chịu nhường, chúng tôi đương nhiên sẽ không làm khó anh bạn nhỏ này."

Ông cụ Tang hỏi lão: "Vật mà ông muốn hẳn là viên bảo châu Hổ Uy?"

Tôi thấy lão lông chồn chỉ cười mà không đáp, trong lòng thực sự cảm thấy không còn lo lắng gì nữa. Người làm ăn coi trọng nhất là chữ "Lợi". Nếu lão đã có mưu cầu, vậy chúng ta cứ dựa vào đó mà kiềm chế lão.

Quả nhiên lão lông chồn xoa xoa hai bàn tay, nói với ông cụ Tang với vẻ mặt ôn hoà: "Chúng ta ruổi ngựa dong thuyền chuyển hàng, sợ nhất là trong quá trình vận chuyển hàng hóa sẽ xảy ra sơ suất nào đó. Nhân họa dễ chống, thiên tai khó phòng. Tôi nghe nói, viên bảo châu Hổ Uy do ông chủ Tang nắm giữ, có thể trừ bách tà trên đời. Lần này tôi đến Nam Kinh chính là vì viên châu này. Quy tắc của Nhất Nguyên Trai quá rắc rối, chúng ta tốt nhất là làm theo quy tắc trong nghề đi. Nếu như giờ ông chủ Tang muốn bảo vệ thằng nhóc kia, có lẽ nên bỏ ra thứ gì đó để thể hiện thành ý mới đúng chứ?"

Tôi thầm nghĩ, nói dông nói dài cuối cùng chẳng qua mục đích chỉ là chiếm lấy hạt châu. Rõ ràng bản chất gian thương đã ăn vào máu vậy mà còn lên mặt đạo đức giả ra vẻ thương lượng công bằng, thật sự khiến người ta buồn nôn.

Ông cụ Tang đáp giống như đã dự tính từ trước: "Lão đây có thể cân nhắc phá một lần lệ. Tuy nhiên, vẫn phải làm phiền chú em Dương, lát nữa khi ra về thuận đường xử lý sạch rác rưởi trong cái cửa hàng này giùm."

Lão lông chồn tỏ vẻ đã hiểu, lập tức bảo rằng không có gì phiền phức cả.

Cây Sào đứng bàng quan quan sát diễn biến tình hình, thấy hai con hồ ly già dần dần đạt thành hiệp nghị, thình lình nói: "Ông chủ Dương đi một chuyến từ nơi rất xa đến, nếu chỉ mang một hạt châu nhỏ trở về thì dường như có vẻ không hợp lý lắm thì phải."

Gã vừa nói xong, mắt lão lông chồn hơi nheo lại thành nét cười gian xảo. Lão hỏi lại Cây Sào: "Anh bạn Tư Mã đây muốn nói gì?"

Cây Sào liếc nhìn chúng tôi rồi nói với lão lông chồn: "Hiện giờ chủ tiệm chúng tôi bị người ngoài cưỡng ép, khó mà tránh khỏi hiềm nghi nghĩ một đằng nói một nẻo. Nếu ông chủ Dương chịu giúp tôi giúp một tay, sau này hai nhà chúng ta còn thiếu cơ hội hợp tác hay sao?"

Cái thằng ranh chết tiệt này, phất lá cờ dân chủ để cổ vũ tinh thần cách mạng cho chính mình, xông lên với ý đồ chiếm lĩnh cao điểm đạo đức. Xem ra, đánh giá của tôi về gã là hoàn toàn chính xác, đây chính là một kẻ tàn nhẫn, hung ác, vong ân bội nghĩa, sẵn sàng ăn tươi nuốt sống người khác.

Quyền lựa chọn bỗng chốc thuộc về tay lão lông chồn. Trước tiên, lão im lặng lần lượt quan sát ba người chúng tôi một lượt, giống như là đang âm thầm đánh giá xem miếng thịt nào béo hơn. Cuối cùng lão cười hì hì, bước chân về phía Cây Sào, vươn hai tay ra muốn bắt tay giảng hòa với gã. Trái tim tôi chìm xuống, lão già gian thương quả nhiên là một con buôn trọng lợi khinh thường lễ nghĩa. Nếu tình thế trước mắt đã không thể nào xoay chuyển, vậy thì giờ chỉ có mỗi một cách là cá chết lưới rách với lão. Thế nhưng, khi tôi nhìn lại mình từ đầu đến chân, dường như ngay cả một chút vốn liếng để thực hiện vụ 'làm ăn đó' mình cũng không có, trong lòng tự nhiên cảm thấy căm hận. Quay lại nhìn ông chủ Tang, ông cụ đã nhắm mắt lại, giống như đã hoàn toàn tuyệt vọng đang đợi chết vậy. Tôi cúi xuống bảo với ông cụ: "Đồng chí kính mến, ta vẫn chưa tới đường cùng đâu, mấy tên bảo vệ chỉ biết múa may mấy động tác võ thuật cho đẹp mắt mà thôi. Thế này nhé, cháu đếm đến ba, chúng ta cùng nhau xông ra, có thể thoát được người nào hay người đó, nói chung vẫn tốt hơn là ngồi im chờ chết." Thực ra, bản thân tôi tự hiểu, xác suất sống sót trước cả một đám dân liều mạng thế này là nhỏ không đáng kể. Nhưng khi tôi nhìn vẻ mặt uất hận của kẻ anh hùng lâm vào đường cùng của ông cụ Tang, trong lòng thực sự cảm thấy khó chịu. Đối với một người già sắp chết, không gì tốt hơn một vài lời an ủi. Không ngờ, nghe tôi nói xong, ông cụ chỉ thở dài một hơi rồi nói với ý vị sâu xa: "Nhóc con, cháu vẫn còn quá non!"

Ông cụ vừa dứt lời, bên phía lão lông chồn đã hành động. Gần như chỉ trong nháy mắt, một vệt sáng lạnh băng lóe lên, cổ Cây Sào bị người khác vẽ ra một đường chỉ máu. Gã lắc người vài cái, đụng thẳng vào cái kệ bày cổ vật, làm đồ sứ rơi xuống vỡ vụn khắp mặt đất. Lão lông chồn lớn tiếng khen 'thân pháp rất hay', cây dao găm kẹp trong lòng bàn tay lóe lên, lại là một chiêu Tiễn Bộ Khai Cung, nhằm thẳng vào đầu Cây Sào bổ xuống. Thằng ôn kia có thể coi là kẻ rắn mặt, gã vung cánh tay bằng xương bằng thịt ngăn cản cây dao găm, vung chân đá về phía phần bụng lão lông chồn. Căn đúng lúc lão lông chồn né tránh tạo thành khe hở, gã ném cái giá gỗ nhỏ ở sau lưng vào cửa sổ, phá ra một lỗ thủng rồi nhảy vọt qua lỗ hổng đó thoát ra bên ngoài.

"Đuổi! Tìm không thấy người sống thì phải lôi bằng được thi thể ra ngoài cho ta!"Lão lông chồn vung tay lên, bảy tám tên đực rựa canh giữ ở cửa chính lập tức theo chân lão truy đuổi.

Toàn bộ quá trình từ sống đến chết chỉ diễn ra trong giây lát, mãi đến khi người đi nhà trống tôi mới ý thức được rằng mình lại vừa mới dạo qua một vòng quanh Quỷ Môn quan. Ông cụ Tang dựa người vào tường, vẫy tôi lại gần. Ông cụ gằn giọng nói: "Thằng tay sai Tư Mã, chung quy vẫn thua một nước cờ. Buôn bán coi trọng một điều - thứ tự trước sau. Nếu như Dương Bạch Thái đã đồng ý với ta thì làm sao có thể đồng lõa với hắn được. Khục khục khục, chúng ta đi lại trên giang hồ hận nhất chính là hạng người phản bội ăn cây táo, rào cây sung... Khục khục khục..."

Tôi không ngờ lão lông chồn tuy hám lợi, nhưng vẫn có nguyên tắc làm người của riêng mình. Bất ngờ hơn cả là ông cụ Tang rõ ràng đã đoán được trước là lão sẽ đứng về phía chúng tôi. Trong những năm làm Mô Kim Giáo Úy vừa qua, tôi cho rằng mình đã nhìn thấu ấm lạnh lòng người, giang hồ hiểm ác. Nhưng giờ tôi mới chợt nhận ra, đường đời của mình vừa mới mở ra một ngã rẽ.

Tôi đã ông cụ Tang dậy rồi nói: "Giờ cụ không nên vội tìm cách báo thù, chúng ta đi bệnh viện trước đã."

Ông cụ lắc đầu bảo: "Không kịp nữa rồi, nội thương. Mạng lão đây không còn kéo dài bao lâu. Không thể tưởng tượng được, lúc đến cuối đường đời, người cuối cùng ở lại bên cạnh ta lại chỉ là một thằng nhóc chưa ráo máu đầu chỉ có duyên gặp mặt một lần."

Tôi nói: "Cụ đừng có than thở cuộc đời nữa. Giờ cụ phải tin tưởng vào tay nghề cao siêu của đội ngũ làm công tác chữa bệnh. Vết thương nhỏ này của cụ, đối với bọn họ có thể nói là dễ như trở bàn tay. Nào, cụ mau nằm lên lưng cháu, cháu cõng cụ đi."

Ông cụ khăng khăng không chịu, bảo: "Hồ Bát Nhất, cái thằng ranh vô lại kia. Nếu không phải bên cạnh lão đây không có ai, thì dù có thế nào cũng sẽ không tới phiên cháu... Mà thôi, chắc là ý trời. Cháu nghe đây, từ hôm nay trở đi, cháu chính là tổng phụ trách của 24 cửa hiệu Nhất Nguyên Trai, trên dưới một trăm huynh đệ về sau sẽ hoàn toàn trông cậy vào cháu để kiếm cơm, khục khục. Chiếc nhẫn băng ngọc Phỉ Thúy trên tay ta là chìa khóa để mở nhà kho trong nội đường, tư liệu bên trong cháu mặc sức mà đọc. Trụ sở chúng ta đặt tại phố Tàu ở bên Mỹ, lão già ta đây cảm thấy sống ở địa bàn của người phương tây không được tự nhiên, nào ngờ vừa trở về chưa được vài ngày... Ai, đây cũng là số mệnh. Sau khi ta chết, thi thể ta không vội tiến hành nhập thổ, cháu đến trụ sở tìm ông bạn già Tiết Nhất Côn của ta, ông ta sẽ giao cho cháu một vật, đến khi đó cháu hãy hạ táng vật đó cùng với ta."

Tôi định nói với ông cụ, giờ quốc gia ban hành mệnh lệnh nghiêm cấm mọi hủ tục của chế độ cũ, cho dù ông có ngọc tỷ truyền quốc thì vẫn cứ phải hoả táng. Nhưng khi nhìn lại dáng vẻ chờ mong của ông cụ, tôi đành phải gật đầu đồng ý tiếp nhận mớ phiền toái khôn lường này.

Ông cụ Tang lại túm lấy tay tôi, gấp gáp nói: "Còn, còn có một người, muôn vàn lần phải coi chừng... Hắn, hắn vẫn còn chưa chết, hắn..." Đến từ 'hắn' thì ông cụ đã không còn hơi sức nói cho trọn câu, đi gặp Mao Chủ Tịch luôn mất rồi.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 10: Hành trình đến nước Mỹ


Dịch giả: gaygioxuong

Trong lúc rảnh rỗi, tôi kể lại toàn bộ quá trình làm sao lại tiếp nhận "Nhất Nguyên Trai" cho Răng Vàng nghe. Hắn nghe say sưa đến mức hai mắt mở thao láo, không ngừng tấm tắc khen kỳ lạ. Những đồ cổ, bí quyết hay truyền thuyết kỳ lạ, thậm chí cả những mối quan hệ chằng chéo rây mơ dễ má giữa các thế lực, hắn hầu như đều có thể giải thích tường tận từng cái một bằng những điển cố. Thế nhưng, căn cứ vào những gì tôi biết về hắn, có thể nói đại đa phần đều là do hắn bịa ra ngay tại trận, chỉ vì muốn khoe khoang học vấn trước mặt tôi.

"Nếu đúng như thế, ông anh Hồ định ở lại trong nước phát triển, không ra nước ngoài?" Răng Vàng nuốt nước bọt, ngắm đi nghía lại đống đồ cổ trong cửa hàng của tôi, sau đó mặt trơ trán bóng nói: "Nhưng ông anh cứ yên tâm, thằng em này đã đến đây rồi thì dù có thế nào cũng không thể bỏ mặc ông anh cho được. Sau này hai anh em ta sẽ dồn hết tâm trí vào cửa hàng của ông anh. Ông anh có gì cần sai phái, không cần biết là núi đao hay biển lửa, chỉ cần quản lý anh nói một tiếng, thằng em sẽ nhắm mắt nhảy vào đó luôn, ngay cả rắm cũng sẽ không đánh một cái."

Tôi bảo hắn đừng có vội thề thốt, rồi phân tích tình hình cách mạng đang nguy cấp cho hắn nghe một lần: "Cây Sào là một kẻ khác người, sẽ là một mối uy hiếp nghiêm trọng đối với chúng ta. Mặc dù không biết hắn toan tính điều gì, nhưng kẻ này lòng dạ thâm sâu, sẽ không dễ dàng từ bỏ ý đồ. Chúng ta phải quán triệt chỉ thị của Mao Chủ Tịch: không cần để ý tới chiến lược, chỉ cần coi trọng chiến thuật của kẻ địch. Không thể để cho hắn có cơ hội để xoay chuyển. Còn có một việc, thật ra hai ngày nữa tôi sẽ đi Mỹ một chuyến, thủ tục đã làm xong từ trước rồi, chỉ còn chờ ông đến tiếp nhận việc làm ăn trong cửa hàng."

Răng Vàng nghe thấy tôi muốn giao việc kinh doanh của cửa hàng cho mình gánh vác một khoảng thời gian, cười tít mắt thành hai đường chỉ, hận không thể ôm lấy tôi hôn vài cái: "Ối chao ơi, ông anh thân thiết của tôi ơi! Mối thâm tình này sâu biết bao, thế, thế, thế này,... Ối chao ơi, thằng em đây khóc một lúc, ông anh đừng cản, đừng có cản thằng em." Nói xong, hắn gục luôn xuống bàn, khóc thút thít. Tôi thừa biết hành động này của hắn ít nhiều có phần đóng kịch trong đó, nhưng đã đợi ở Nam Kinh lâu như vậy, đến hôm nay mới lần đầu tiên gặp được người quen, thực sự không có lòng nào vạch trần cái trò mèo này của hắn.

Tôi còn định nói cho Răng Vàng biết, chủ định ban đầu là gọi Tuyền béo về quản lý cửa hàng. Tuy nhiên, đồng chí Vương Khải Tuyền vừa mới nghe tôi nói muốn đi sang Mỹ tìm Shirley Dương, lập tức giãy nảy lên đòi đi cùng. Cậu ta nói, dù thế nào đi chăng nữa, việc gì cũng không thể nào quan trọng bằng việc uống rượu mừng của tôi. Tôi bảo với Tuyền béo, việc này ngay cả bát tự còn không chưa có phết nét nào lên giấy*, cái mồm thối của cậu đừng có nói gở. Tuyền béo vặc lại, bảo rằng cùng lắm thì ép hôn, vừa khéo được xem hôn lễ người Mỹ được tổ chức như thế nào, có phải là cũng phải nháo động phòng hay không. Tôi thấy nếu cứ tiếp tục thảo luận cái đề tài này thì sẽ dần phát triển theo chiều hướng dung tục mất, vì vậy vội chấm dứt đề tài, hẹn cậu ta một tuần sau gặp nhau ở sân bay Washington.

*Xem Bát Tự là viết tên tuổi ra rồi bói giống như bói ngày sinh tháng đẻ, mạng,... của người Việt ta để xem có hợp nhau hay không

Vào thời kỳ đó, để mua được vé máy bay đi nước ngoài là việc vô cùng khó khăn, chỉ có tiền không được, còn phải có văn bản đồng ý của bên trên. Shirley Dương làm chuyên viên tại bảo tàng quốc gia Mỹ, nghe nói tôi muốn qua đó thì nhiệt liệt hoan nghênh. Cô gửi từ bên Mỹ về cho tôi một văn bản chứng nhận, trong đó xác nhận tôi là chuyên gia khảo cổ dân gian, lần này xuất ngoại là để giảng dạy cho viện bảo tàng, xúc tiến trao đổi văn hóa Trung Mỹ. Nhờ có văn bản này, tôi thuận lợi lấy được hộ chiếu ngắn hạn, tiến hành khúc dạo nhạc của hành trình sang nước Mỹ.

Trước khi xuất ngoại, tôi ra bưu điện gọi điện thoại sang chi nhánh "Nhất Nguyên Trai" ở bên Mỹ. Người phụ trách bên đó tên là Tiết Nhất Côn, là anh em kết nghĩa của ông cụ Tang. Vừa nghe tôi nói sắp qua bên đó, thiếu chút nữa là ông đã khóc rống lên trong điện thoại, dặn tôi trước khi qua bên này muôn vàn lần phải nhớ mang theo cả bình đựng tro cốt của ông cụ sang, để cho từ già đến trẻ bên phố Tàu có di vật để hương khói. Tôi trả lời rằng, ông cụ Tang tương đối bảo thủ, sau khi chết không chịu nhập thổ, giờ đành phải dùng viên bảo châu "Hổ Uy" để ướp xác cho ông cụ, thi thể tạm thời cất giữ trong kho chứa tiền của Nhất Nguyên Trai, không tiện chuyển ra nước ngoài, sợ hải quan sẽ buộc tội vận chuyển xác ướp rồi bắt giữ lại. Nghe thấy vậy, ông chú Tiết lại bắt đầu khóc rống lên, bảo rằng vậy thì chỉ cần cầm sang một hai cái quần áo mà ông cụ thường mặc, để cho bên họ chôn quần áo và di vật làm thành mộ giả cũng được. Tôi lập tức đồng ý. Trước khi chuẩn bị đi, tôi lại vào kho lạy ông cụ Tang vài cái, lấy một chiếc áo lót của ông cụ nhét vào ba lô.

Răng Vàng nằng nặc đi tận tới sân bay Thượng Hải để tiễn chân tôi. Tôi bảo ông còn phải phụ trách việc kinh doanh trong cửa hàng nữa cơ mà? Hắn nói nghỉ hai ngày không sao. Lần này tôi đi, ít thì hai ba tháng, nhiều thì một năm nửa năm. Lỡ như sau này ở lại bên đó lấy vợ sinh con trở thành Hoa kiều, đến khi đó anh em ta muốn thấy mặt nhau một lần thì lại phải làm đủ mọi thủ tục cấp nhà nước rầy rà. Chi bằng, đã làm thì làm cho chót, hắn sẽ đồng hành với tôi tới Thượng Hải một chuyến.

Tôi thầm nhủ, anh không để cho đồ đạc trong cửa hàng bị cuốn sạch thì tôi đã cám ơn lắm rồi. Hai người tán dóc trên trời dưới biển cho tới tận Thượng Hải. Theo đúng hành trình, tôi sẽ lên chuyến bay đêm bay thẳng tới Hồng Kông, sau đó sẽ transit ở bên đó. Không ngờ đột nhiên xảy ra sương mù dày đặc làm chuyến bay bị hoãn lại. Tôi và Răng Vàng mặc áo ba đờ xuy dày cộp của quân đội, ngồi trong phòng chờ máy bay để chờ tin tức. Hắn ôm phích nước nóng, cười tủm tỉm nói: "Thế nào, quản lý? Lần này chắc ta tốn công vô ích rồi. Ông xem, sương mù đặc quánh lại, không thể đoán trước được là sẽ hoãn lại bao lâu. Hai anh em chúng ta nói chuyện phiếm một chút, coi như để giết thời gian."

Tôi rút kinh nghiệm từ bài học chờ xe ở Nam Kinh lần trước, có các vàng cũng không dám đi lại lung tung nữa, vừa uống nước nóng vừa chờ tin tức của công ty hàng không. Sau nửa đêm, nào ngờ sương mù càng lúc càng dày đặc, rất nhiều hành khách đều đồng loạt yêu cầu trả lại vé. Cái loa to tổ bố không ngừng ông ổng "Đề nghị các vị hành khách giữ yên lặng, đề nghị các vị hành khách giữ yên lặng", không khí trong phòng chờ máy bay bắt đầu trở nên hơi căng thẳng.

Răng Vàng muốn chen lên đằng trước xem cho rõ, tôi bảo mình hơi mệt, muốn ngủ một giấc. Đầu gối lên ba lô chưa được năm phút đồng hồ, tôi đã bị Răng Vàng lay tỉnh.

"Lão Hồ, ông mau ngó cái này xem, có phải là nhìn rất quen mắt hay không?" Răng Vàng hưng phấn, tay phất đi phất lại vật gì đó. Sau đó, giống như sợ bị người nhìn thấy, hắn nhanh chóng nhét nó vào trong áo bông quân đội của mình.

Tôi bảo giấu cứ như mèo giấu cứt, ông giấu kín như thế tôi ngó cái rắm ấy! Hắn vội vàng xin lỗi, nói mình quá hưng phấn, quá kích động mất rồi. Thấy hắn nói năng không ăn nhập vào đâu, tôi đoán thằng ranh này có lẽ đã nhặt được đôla. Không ngờ vật mà hắn lôi từ trong túi ngực áo ra lại là một bản vẽ. Vừa mới lộ ra một góc nhỏ, tôi đã nhận ra đó là cái gì. Thứ mà Răng Vàng giấu trong túi ngực hóa ra là một bản vẽ thiết kế xẻng Lạc Dương.

Tục ngữ nói rất chính xác, không có mũi khoan thép tinh ai dám sống bằng nghề sành sứ. Một dụng cụ thuận tay chẳng khác gì ông bạn già đã hợp tác nhiều năm, giữa nghệ nhân và dụng cụ thuận tay có sự ăn ý khó tả bằng lời. Tôn Ngộ Không múa Kim Cô Bổng, Quan Nhị Gia sử Yển Nguyệt Đao, giải phóng quân cầm Nhị Bát Cống, trộm mộ vác xẻng Lạc Dương. Ăn cơm gì dùng chén đó, không thể sai lệch một chút nào. Trước đây, tôi và Tuyền béo vẫn luôn muốn mua hai chiếc xẻng Lạc Dương chính cống để sử dụng, còn cất công tìm đến tận xưởng chế tạo để hỏi mua, đáng tiếc người bán xẻng không thèm nể nang gì hai cái lệnh bài rách nát của chúng tôi. Ông lão gàn dở bán xẻng bảo rằng, tổ tiên có quy định, bảo bối của nhà chỉ cung cấp cho chính chủ. Đối với tầng lớp thường dân giống chúng tôi, cho dù có trả cả một núi vàng ông ta cũng không bán. Lúc ấy, Tuyền béo chỉ chực phá sập xưởng của người ta, mắng họ là chó giữ nhà của lũ tư bản. Tôi khuyên can, giữ được phương thức chế tạo xẻng Lạc Dương, khắp cả thiên hạ chỉ còn mỗi nhà này. Nếu cậu đánh chết ông ta, sau này xẻng Lạc Dương sẽ giống như gấu trúc vậy, bị liệt vào hàng ngũ hoá thạch sống, là báu vật của quốc gia, chỉ có thể chiêm ngưỡng chúng ở trong các viện bảo tàng. Sau khi nghe nói vậy, Tuyền béo cảm thấy hết sức có lý, cuối cùng buông tha cho việc trừng phạt bằng hình thức quân sự đối với cái xưởng nhỏ đó. Tuy nhiên, trước khi ra về, cậu ta cuỗm của người ta hai con gà mái, bảo rằng trừng phạt về mặt kinh tế thì vẫn phải tiến hành.

Bản vẽ trước mặt tôi, có thể nói là không thiếu sót một chi tiết nào. Không chỉ chính xác về phương diện lắp ráp tất cả các bộ phận của xẻng Lạc Dương, ngay cả tỉ lệ phối hợp kim loại, nhiệt độ của nước, yêu cầu về chất nước lúc chế tạo đều được ghi lại tỉ mỉ. Có được bản vẽ này, chúng tôi hoàn toàn có thể mở một cửa hàng bán xẻng Lạc Dương, truyền bá nhãn hiệu mặt hàng dân tộc này ra quốc tế.

Tôi hỏi hắn: "Ông kiếm được thứ này từ đâu ra?" Răng Vàng cười không ngậm được miệng, kín đáo chỉ vào đám người đông như thủy triều trước quầy vé, đáp: "Nhặt được. Hắc hắc hắc hắc, ông đừng có nghi ngờ lung tung, nhặt được đấy."

Vô duyên vô cớ nhặt được bản vẽ chế tạo xẻng Lạc Dương, xác xuất xảy ra việc này còn thấp hơn cả việc nhặt được đôla giữa ban ngày ban mặt. Tôi bảo, ông đừng có gạt tôi, kiếm ở đâu ra. Răng Vàng kéo tôi ngồi sát vào trong góc: "Quản lý nói nhỏ giọng một chút, đừng để người khác nghe thấy. Tôi đoán, chắc mấy kẻ kia đang lùng sục khắp cả thế giới tìm bản vẽ này. Vừa rồi chẳng phải tôi chen lên đằng trước xem náo nhiệt hay sao? Có mấy thanh niên mặc đồ đen chen lấn bằng được lên chỗ bàn giao dịch. Kẻ dẫn đầu bảo rằng bọn chúng phải bắt kịp chuyến bay này, nếu lỡ sẽ làm chậm trễ chuyện lớn. Tiếp viên trả lời không bắt bẻ vào đâu được, mấy cô gái đó bảo rằng: Việc có gấp gáp đến mấy, cũng chẳng thể quan trọng bằng mạng người! Trên trời sương mù dày đặc như vậy, các anh không muốn sống thì thôi, nhân viên đội bay chúng tôi đâu có muốn chết cùng các anh? Hố hố, ông thấy câu nói này nghe có tuyệt không. Có một kẻ không kìm được giận, ra tay đánh người, bị bảo vệ khống chế. Trong lúc hai nhóm người xô xô đẩy đẩy, có một cô gái mặc đồ đen bị ngã lăn ra xuống đất. Bản vẽ này đã rơi ở trong cặp công văn của cô ta ra. Rất may là mắt tôi sắc bén, vừa nhìn đã nhận ra là của hiếm. Cô nàng còn chưa phát hiện ra, tôi đã lượm bản vẽ đi mất rồi. Ông nhìn mà xem, đây là bản vẽ chi tiết, là duy nhất trên đời này đấy!"

Công nghệ chế tạo xẻng Lạc Dương luôn là bí mật gia truyền của một nhà độc nhất. Ông lão gàn dở đã nói nhà ông ta kế nghiệp cha từ đời này sang đời khác, chỉ truyền dạy bằng miệng, truyền nam không truyền nữ. Nhưng trước mặt tôi lại là một bản vẽ chi tiết các công đoạn chế tạo, chẳng lẽ ông lão gàn dở kia đã không giữ được khí tiết tuổi già, đã bán cả tổ tiên nhà mình đi?

"Theo tôi thấy, mấy kẻ mặc đồ đen đó tuyệt đối không phải hạng lương thiện. Chúng mang theo một bản vẽ như vậy, còn muốn xuất ngoại, đảm bảo là muốn ra nước ngoài tiến hành một vụ làm ăn lớn. Quản lý, chúng ta có nên trả lại món đồ này, sau đó thương lượng với bọn chúng một phen để gia nhập một chân hay không?"

Tôi đáp: "Ông nằm mơ giữa ban ngày hả! Nếu đúng thật như ông đã nói, sau khi bản vẽ về lại đến tay, việc đầu tiên mà bọn chúng làm chính là thủ tiêu ông..." Đang nói, mấy tên đàn ông trung niên mặc đồ đen hùng hổ chạy tới, vây tôi và Răng Vàng vào giữa.

"Hả, không biết các vị muốn gì?" Răng Vàng kín đáo đưa bản vẽ cho tôi, sau đó chắp tay nói với tên đàn ông trung niên cầm đầu, "Vị này tướng mạo rất tốt đây, ông xem này..." Đối phương chẳng thèm liếc nhìn hắn lấy một cái, cộc cằn hỏi tôi: "Mất món vật, không biết chú em có nhìn thấy đâu không?"

Tôi thấy thái độ của y không giống như đang thăm dò, có lẽ chỉ thử vận may tìm tới hai người chúng tôi, bèn trả lời y: "Đáng tiếc, vừa rồi tôi ngủ gà ngủ gật suốt, e rằng không giúp đỡ được gì." Tôi ngáp một cái, bảo Răng Vàng khi nào người ta gọi lên máy bay thì nhớ đánh thức tôi, sau đó quấn chiếc áo ba đờ xuy lại rồi nằm xuống ghế băng dài ngủ luôn. Chưa đến vài phút, tiếng bước chân đã dần đi xa, tôi tiếp tục nhắm mắt lại giả vờ ngủ. Răng Vàng ghé sát vào đầu tôi, thì thầm nói: "Hồ gia, ông anh quá tuyệt! Mấy thằng cháu trai không nhảm nhí nói thêm bất cứ câu gì đã bỏ đi ngay rồi." Tôi hé mắt nhìn thoáng qua, phát hiện bọn chúng đang chặn một người trong góc tường để hỏi thăm, bèn bảo với Răng Vàng: "Vật đó dù sao cũng không phải của chúng ta, giữ nó chỉ tổ phỏng tay, lát nữa tìm cơ hội vứt nó đi. Chúng ta coi như không biết gì về chuyện này." Răng Vàng nói: "Không nên, món đồ quý hiếm như vậy mà ném đi thì rất đáng tiếc, bên ngoài có rất nhiều người muốn thu mua. Quản lý, nếu ông anh cảm thấy phiền toái, việc này cứ giao cả cho thằng em."

Tôi bảo: Thứ nhất, tôi đã đáp ứng Shirley Dương sẽ không bao giờ làm Mô Kim Giáo Úy nữa, có xẻng Lạc Dương cũng chẳng có tác dụng gì; Thứ hai, nếu ông bán bản vẽ đó ra ngoài, rất khó nói sau này người ta có tìm tới tận cửa không. Chúng ta thêm một chuyện không bằng bớt một chuyện, thẳng tay ném nó đi là xong chuyện. Răng Vàng nghe tôi phân tích như vậy, tuy tiếc đứt ruột vì miếng ăn đã dâng tận miệng, nhưng thực sự không dám mang đầu mình ra đánh bạc. Tranh thủ lúc đi toa-lét, tôi ném bản vẽ vào thùng rác, khi quay trở lại thì cũng vừa đúng lúc bắt đầu soát vé. Răng Vàng chấm nước mắt lưu luyến chia tay tôi, nhắc tôi khi qua đến bên đó nhất định phải cho gọi điện thoại báo cho hắn biết.

Thời niên thiếu, tôi cháy bỏng ước muốn trở thành một chiến sỹ không quân quang vinh, có ngờ đâu, lần đầu đi lên máy bay lại thuộc về hàng không dân dụng, cảm giác hẫng hụt xác thực là tương đối sâu sắc. Nhưng khi trời xanh mây trắng tổ quốc tốt non sông thu hết vào mắt, cũng vẫn có thể coi là một loại hưởng thụ, chẳng bao lâu sau tôi đã quên phắt nỗi muộn phiền nho nhỏ trong lòng đó. Lúc này, bỗng nhiên phía sau tôi có người cộc cằn gọi tiếp viên phục vụ trà. Tôi ngoái lại nhìn, quả nhiên là mấy kẻ mặc đồ đen đã gặp ở phòng chờ. Nhóm sáu người bọn chúng chiếm ba hàng ghế. Con nhóc đã làm mất bản vẽ, lúc này mặt mũi sưng lên, cực kỳ cau có. Tôi thầm nhủ, thêm một chuyện không bằng bớt một chuyện, đừng để bọn chúng nhận ra, nếu không lại phí nước bọt giải thích, vậy là lấy báo phủ che kín mặt luôn, nằm ngáy o o.

Bức bối cả một đêm, đến buổi chiều ngày hôm sau, cuối cùng tôi cũng thuận lợi đặt chân lên nước Mỹ. Vừa xuống máy bay, tôi đã thấy trong phòng làm thủ tục nhập cảnh huyên náo tiếng người, bạn bè quốc tế với các màu da khác nhau qua lại như con thoi. Tôi nhủ thầm, giờ đến địa bàn của người ta, mình thành ra là người nước ngoài theo đúng nghĩa của nó. Tôi lục lọi lấy ra quyển 'Người Trung Quốc đi du lịch nước ngoài cần biết', định tìm số điện thoại hỏi đường, chợt trông thấy bên rìa đại sảnh có một tấm biểu ngữ to tướng, bên trên viết mấy chữ lấp lánh to tổ chảng bằng tiếng Trung 'Nhiệt liệt hoan nghênh đồng chí Hồ Bát Nhất đến Mỹ thị sát công việc'. Bên dưới biểu ngữ có khoảng mười người đang nghển cổ nhìn đi nhìn lại khắp bốn phía, còn có hai cô bạn nhỏ mặc váy hoa ôm hoa tươi đứng cùng với vẻ mặt mong ngóng. Hành khách đi ngang qua, không ai là không dừng lại nhìn ngó một lúc. Tôi lập tức cảm thấy hết sức xấu hổ, hận không thể đào một cái lỗ để chui vào cho rảnh nợ. Đương lúc tôi nghĩ ngợi xem ai lại làm ra cái trò nhàm chán như vậy, có một người nói oang oang: "Chính là anh ta, Hồ Bát Nhất, anh ta đến rồi!" Tôi đang cảm thấy giọng nói này sao lại có vẻ quen tai đến thế, chợt thấy một người béo ục ịch mặc áo khoác da dẫn theo cả một đoàn người đông đảo túm tụm đi về phía tôi. Tôi biết ngay mà, dưới gầm trời này, ngoài Tuyền béo ra còn có ai dám lôi tôi ra làm trò tiêu khiển như vậy. Tôi đấm vào lưng cậu ta: "Tên béo chết bầm, thằng ranh nhà cậu sao lại tới trước thế?"

Tuyền béo cười hì hì, cũng đấm trả lại tôi một cú vào bả vai: "Lão Hồ, lần này tốc độ cậu quá chậm. Tớ đã ngồi vểnh râu ở đây chờ vài ngày rồi."

Hóa ra ngày hôm đó, sau khi cúp điện thoại, cậu ta đã bắt đầu tiến hành làm thủ tục để tới nước Mỹ. Vừa đến nước Mỹ, cậu ta chạy thẳng tới phố Tàu tìm cửa hiệu treo biển "Nhất Nguyên Trai", thiếu chút nữa đã bị nhân viên trong cửa hiệu tưởng nhầm là tôi. Sau khi giải thích đầu đuôi, ông chú Tiết đâm ra lo lắng tôi không tìm được đến nơi; Sau khi bàn tính với Tuyền béo, quyết định chăng biểu ngữ ở sân bay để chào đón tôi. Trong đoàn đón tiếp, ngoài Tuyền béo ra thì số còn lại toàn bộ là nhân viên trong "Nhất Nguyên Trai", tất cả đều là hậu duệ người Hoa sinh ra ở Mỹ. Trong số đó có một người đàn ông đeo kính có vẻ ngoài nho nhã. Anh ta tự giới thiệu mình là luật sư của ông cụ Tang, sẽ phụ trách toàn bộ hành trình công tác ở nước Mỹ của tôi. Tôi đã dự tính sẵn là trước tiên tới viện bảo tàng tìm Shirley Dương để tạo cho cô ấy một niềm vui bất ngờ. Nhưng anh chàng luật sư lại bảo, di chúc của ông cụ Tang đang nằm trong tay mình, phải chạy tới phố Tàu ký mấy bản thỏa thuận thì mới có thể có hiệu lực. Tôi không tiện bắt toàn bộ già trẻ trong cửa tiệm chờ đợi, đành phải đi theo họ tới phố Tàu một chuyến luôn.

Trên đường đi, tôi và Tuyền béo nhiệt tình ôn lại chuyện cũ. Hai thằng kích động giống như quay trở lại những năm tháng thanh xuân cùng nhau tham gia quân ngũ. Khi tới phố Tàu, tôi không cảm thấy xa lạ một chút nào, khắp nơi đều là người Trung Quốc da vàng mắt đen. Luật sư Tần đứng ra giới thiệu, bảo rằng muốn tìm hiểu lịch sử hình thành phố Tàu thì phải quay ngược về thế kỷ trước, tất cả là do tổ tiên của chúng ta dùng mồ hôi, nước mắt và máu tạo dựng lên. Không chỉ riêng ở nước Mỹ, tất cả thành phố lớn trên thế giới, chỉ cần nơi nào có người Hoa là sẽ có phố Tàu. Tôi bị bài diễn thuyết của anh ta làm cho máu nóng sôi trào. Nhìn các cửa hàng lẫn cư dân ở quanh đó, trong lòng dâng trào niềm tự hào dân tộc khó có thể kìm chế.

"Nhất Nguyên Trai" nằm sâu trong một ngõ nhỏ của phố Tàu, thấp thoáng mang phong cách của một danh gia vọng tộc tiềm ẩn trong thành phố. Bước qua cửa chính, tôi như lạc vào một thế giới khác, không hổ là tiệm đồ cổ đệ nhất thiên hạ do một tay ông cụ Tang sáng lập nên. Đồ cổ trưng bày trong tiệm, không có thứ nào không phải là thứ quý hiếm đã được chọn lựa kỹ càng, đứng đầu trong số đó phải kể tới một bộ từ điển đã bị cháy mất một nửa.

"Ha ha ha ha, giỏi lắm anh bạn trẻ, ánh mắt không tầm thường, xem ra ông anh Tang lần này thực sự không nhìn lầm!" Một ông lão tóc bạc, mặt mũi hồng hào đi vào phòng khác từ cửa hậu. Nhân viên đón tiếp tôi vừa thấy ông lão, vội vàng chào "Tiết Nhị gia". Tôi biết ngay ông lão tiên phong đạo cốt trước mặt chính là người anh em kết nghĩa của ông cụ Tang, vị quân sư đáng kính Tiết Nhất Côn của "Nhất Nguyên Trai". Ta không làm mất thời giờ, lấy ra chiếc áo lót mà lúc trước đã cởi từ trên người ông cụ Tang xuống cho ông lão. Thấy áo lót, ông chú Tiết kích động trào nước mắt, giơ hai tay nhận lấy, lớn tiếng nói "Ông bạn già, hãy yên nghỉ!". Sau đó bảo nhân viên mang áo lót vào trong am thờ đặt lên bàn thờ đã chuẩn bị sẵn từ trước, toàn bộ già trẻ trong tiệm cùng nhau vào thắp hương bái lạy. Tôi và Tuyền béo không tiện quấy rầy người ta, đi theo anh chàng luật sư vào thư phòng ông cụ Tang dùng lúc còn sống.

Luật sư Tần lấy ra mấy văn bản trong két sắt đưa cho tôi, nói: "Anh Hồ Bát Nhất, đây là di chúc của ông cụ Tang, về cơ bản chúng tôi đã thống nhất các điều khoản. Nhưng điều khoản cuối cùng tương đối đặc biêth, hi vọng anh có thể cân nhắc kỹ lưỡng trước khi quyết định."

Tôi cầm lấy rồi xem lướt qua, không biết nên khóc hay nên cười. Tôi quay lại bảo với Tuyền béo: "Cậu cầm lấy mà xem này, trong đây còn nhắc tới cả cậu nữa đấy, ông cụ quả thực có tài tiên tri."

Tuyền béo rất ngạc nhiên, cầm lấy nhìn lướt qua, sau đó giận dữ làm ầm lên: "Đm, cái loại hiệp ước không bình đẳng thế này, chết cũng không thể ký. Lão Hồ, tớ phải nói cho cậu biết, chúng ta có tình nghĩa cách mạng hơn hai mươi năm, cậu không thể nào vì vài cái món đồ cổ rách nát mà quên mất gốc đấy."

Trong di chúc của ông cụ Tang, điều khoản cuối cùng quy định rõ ràng: Người nào kế thừa y bát của Tang Ngọc Cát tôi, phải đoạn tuyệt qua lại với toàn bộ bạn bè thân thích mang họ Vương. Nếu cố tình vi phạm, tước quyền thừa kế vĩnh viễn.

Luật sư rất xấu hổ, bảo rằng đây là ý muốn của người ủy thác. Vào thời điểm lập di chúc, anh ta cũng đã từng đặt ra nghi vấn, nhưng ông cụ Tang hết sức cố chấp, kiên quyết không chịu nhượng bộ một chút nào. Tôi nói: "Đây là quyền của ông cụ, chúng ta nên tôn trọng."

"Vậy ý của anh Hồ là?"

"Ai thích ký thì ký, kể từ hôm nay trở đi chuyện này không còn quan hệ gì tới tôi."

Thực ra, từ trước khi đến nước Mỹ, tôi vẫn luôn đau đầu tìm cách thoát thân khỏi "Nhất Nguyên Trai". Giờ có một cơ hội trời cho như vậy, tôi đương nhiên phải nắm thật chặt. Dù không hiểu ông cụ Tang định giở trò ma mãnh gì, nhưng chỉ cần tôi ỷ vào điều khoản này để bắt bẻ, họ sẽ không dám ép buộc tôi ký tên, bởi dù sao quyền quyết định cũng nằm trong tay tôi. Chọn bạn bè hay là chọn giang sơn, mấy người không liên can các vị không có quyền xen vào.

Tuyền béo giơ ngón tay với tôi: "Lão Hồ, vậy mới được chứ! Cậu không bị mê hoặc bởi viên đạn bọc đường của lũ tư bản, không hổ là chiến sĩ ưu tú của Mao Chủ Tịch."

Tôi và Tuyền béo đứng phắt dậy bỏ đi luôn, Tần luật sư đuổi sát theo sau theo chúng tôi không rời. Khi đến phòng khách đã làm kinh động đến ông chú Tiết. Nghe kể lại ông cụ Tang lập một bản di chúc như vậy, ông gượng cười nói: "Dù đã nhiều năm trôi qua, ông ấy vẫn không thể xóa nhòa niềm căm hận trong lòng. Anh bạn trẻ, việc này chẳng thể trách cậu được. Tuy nhiên, ông ấy thực sự có nỗi khổ tâm. Nếu không phiền, cậu ngồi xuống, nghe tôi kể lại từ đầu. Chờ đến khi rõ ràng nguyên nhân trong đó rồi hãy đưa ra quyết định."

Vừa mới nghe nói phải nghe kể lại chuyện cũ, tôi vội vàng phân trần: "Không dối gạt ông, lần này cháu đến nước Mỹ chủ yếu là để cưới vợ. Thầy bói nói, nếu cháu không tiến hành cưới, làm trễ giờ lành, tương lai sẽ phải chịu cô độc cả đời. Câu chuyện của ông, ông cứ giữ lại. Nếu có dịp thuận tiện, cháu sẽ đưa vợ quay lại nghe kể sau."

Nói xong, tôi và Tuyền béo chạy thục mạng ra khỏi cửa chính. Tuyền béo vừa chạy vừa hỏi có cái quái gì mà tôi sợ thế. Tôi bảo, mấy ông lão rất thích kể lại chuyện xưa. Lần trước đã kể mất cả một đêm, hôm nay lại ngồi nghe ông ấy kể lại từ đầu, vậy thì chẳng biết phải ngồi chết dí đến năm nào tháng nào nữa hả trời?

Tuyền béo nói: "Vậy chúng ta làm sao bây giờ, cậu có địa chỉ của Shirley Dương không?" Tôi bảo chỉ biết là viện bảo tàng quốc gia, vị trí cụ thể ra sao thì không rõ lắm. Cậu ta bảo vậy thì dễ thôi, có lẽ viện bảo tàng quốc gia của người ta cũng tương đương với Cố Cung ở Bắc Kinh chúng ta, đều là danh thắng lịch sử, chỉ cần hỏi thăm là tìm ra ngay.

Tôi lục tìm quyển sách nhỏ bằng tiếng Anh, học vẹt ngay tại chỗ lấy đôi ba câu hỏi đường bằng tiếng Anh. Cùng với Tuyền béo, hai thằng lượn như cá cảnh nghe ngóng, cuối cùng cũng tìm tới được chỗ Viện bảo tàng Smithsonian, chính là viện bảo tàng quốc gia Mỹ mà mọi người thường gọi. Lúc ấy đã hơn sáu giờ chiều, mặt trời đã sắp lặn hẳn về tây. Công trình trước mặt cao lớn hùng vĩ, được xây hoàn toàn theo lối kiến trúc hiện đại. Trong ánh chiều tà, tòa nhà trở nên đậm chất nhân văn. Tôi đứng giữa quảng trường lớn than thở một lúc lâu, bảo Tuyền béo hôm nào xách một cái máy ảnh đến đây chụp vài tấm hình, mang về nước làm kỷ niệm. Tuyền béo chỉ vào quầy bán vé bên cạnh cửa vào viện bảo tàng, nói: "Vạn lý trường chinh* chỉ còn một bước cuối cùng. Lão Hồ, mau mua vé nào."

* Vạn lý Trường chinh (wanli changzheng), tên đầy đủ là Nhị vạn ngũ thiên lý trường chinh, là một cuộc rút lui quân sự của Hồng Quân Công Nông Trung Hoa, với hành trình dài 25 ngàn dặm (12.000 km), bắt đầu từ Giang Tây, tiến về phía tây tới Tây Tạng rồi đi ngược lên phía bắc, tới tận Diên An của tỉnh Thiểm Tây. Trong cuộc Vạn lý Trường chinh, kéo dài 370 ngày, từ 16 tháng 10 năm 1934 đến ngày 19 tháng 10 năm 1935, Hồng quân luôn luôn bị quân của Tưởng Giới Thạch truy kích và phải đương đầu với núi cao, sông rộng, đói khát, bệnh tật và tuyết lạnh. Khi khởi đầu cuộc rút lui, Hồng quân có hơn 86 ngàn người, nhưng khi kết thúc cuộc Vạn lý Trường chinh, số Hồng quân sống sót chỉ còn không tới 7 ngàn (Wiki).
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 11: Kinh hoàng trong viện bảo tàng


Dịch giả: gaygioxuong

Tôi móc đôla đã đổi sẵn từ trước, đi tới chỗ bán vé. Cô gái da trắng đóng cửa sổ đánh xoạch một tiếng, rồi treo lên một tấm bảng nhỏ. Tôi lấy quyển sách nhỏ ra tìm một lúc lâu, sau đó bảo với Tuyền béo: "Cô nàng bán vé này đã tan tầm rồi, giờ phải chạy về nhà cho con bú, e rằng không thể chiêu đãi hai vị du khách đến từ Trung Quốc chúng ta rồi."

Nghe thấy nói lần này đi một chuyến không công, Tuyền béo không ngừng phàn nàn chỉ tại trình độ Anh văn của tôi không ra gì, mới làm cho chúng tôi lâm vào cảnh quẫn bách thế này. Tôi vặc lại, một kẻ ngay cả tiếng Trung còn chưa đọc thông viết thạo cậu thì đừng có ở đó mà lên mặt dạy đời. Giờ việc chúng ta cần làm là phải tìm được Shirley Dương, cứ tiếp tục cãi cọ thế này, chúng ta sẽ phải ngủ ở đầu đường xó chợ, làm xấu mặt tổ tiên ở nước ngoài mất thôi. Tuyền béo gợi ý, chi bằng tìm phòng tới chỗ bảo vệ trực ban nghe ngóng một chút. Tôi cảm thấy biện pháp này có thể dùng được, bèn cầm theo cuốn sách nhỏ tìm được một bảo vệ đang tuần tra trên quảng trường để hỏi thăm tin tức của Shirley Dương.

Trình độ tiếng Trung của anh bạn người nước ngoài có hạn, còn cách phát âm tiếng Anh của tôi thì chữ tác ra chữ tộ. Trao đổi một lúc lâu mà không tài nào hiểu nối đối phương muốn nói cái gì. Anh ta quẫn bách đến mức chỉ chực rút súng tự bắn chính mình. Tôi vội xoa dịu anh ta 'OK,OK,I'm OK'. Tuyền béo nói, tố chất tâm lý binh lính Mỹ có vẻ thực sự quá kém đi, chẳng trách trước kia lại bại trong tay quân giải phóng nhân dân của chúng ta. Tôi bảo cậu nói vậy sai rồi, anh chàng kia chỉ là một bảo vệ, tối đa chỉ thuộc vào hàng ngũ dân quân, không phải quân chính quy của quân đội, chúng ta không nên yêu cầu quá cao đối với người ta, có thể hiểu được hai từ "Chào bạn" đã là tốt lắm rồi, cũng giống như đám thiếu niên Khăn quàng đỏ bên nước ta giờ đứa nào cũng biết chào "Hello" vậy.

Trời dần tối, trên quảng trường đã bật đèn pha, tiếp tục lượn lờ bên ngoài viện bảo tàng thực sự không phải là kế sách lâu dài. Tôi bảo với Tuyền béo: "Tóm lại, chờ đợi không phải là biện pháp hay, ai mà biết được Shirley Dương sẽ đi ra từ cửa nào. Chúng ta không thể ngồi chờ chết, phải chủ động xuất kích mới đúng sách."

Tuyền béo đáp: "Tớ cũng nghĩ như vậy. Hay là chúng ta vẫn làm theo như quy tắc cũ, lẻn vào bên trong."

Tôi quan sát địa hình xung quanh rồi nói: "Không được, tường viện bảo tàng rất cao, hình dạng lại chẳng theo quy tắc nào, phải làm theo cách khác. Theo đường trên mặt đất không thể thực hiện được, vậy thì chúng ta sẽ đi vào từ dưới đất." Tuyền béo mừng rỡ, nói: "Lão Hồ, không hổ là đồng đội cùng chung chiến hào ở, chúng ta sao mà lại nghĩ giống nhau đến thế. Không gạt cậu, chuyến đi này, tớ mang theo một vật." Nói xong cậu ta mở khóa ba lô, làm lộ ra một đoạn cán xẻng. Tôi vội đóng ba lô lại, hỏi: "Cậu mang theo vật đó sang tận nước Mỹ xa tít mù khơi này để làm gì, chẳng phải đã đồng ý sau này không theo nghiệp đổ đấu nữa hay sao? Đồng chí Vương Khải Tuyền, giờ tôi bắt đầu hoài nghi thực ra anh đi Nhật Bản tiến hành hoạt động thương mại gì, thật thà nghiêm túc, nhanh chóng khai báo."

Tuyền béo đáp: "Một nơi rách nát như Nhật Bản, cho dù có đồ cổ gì giá trị thì đó cũng là lễ vật ngoại giao các cụ thời nhà Đường ban tặng, tớ thích chúng mới là lạ. Xẻng công binh là thứ chuẩn bị cho lễ kết hôn của cậu và Shirley Dương." Cậu ta vỗ vai tôi rồi nói tiếp: "Cậu thử nghĩ xem, ông tổ Shirley Dương là Bàn Sơn Đạo Nhân, lão Hồ cậu lại là Mô Kim Giáo Úy, hai người các cậu lại vì đổ đấu nên mới nảy sinh cảm tình cách mạng sâu đậm. Chờ đến lúc hôn lễ của cậu tiến hành, không có một cái xẻng công binh làm chứng thì còn ra cái thể thống gì? Anh em với nhau, cái gì cũng thay cậu chuẩn bị hết cả rồi."

Loại ý tưởng thiếu đạo đức thế này chắc chỉ có Tuyền béo nghĩ ra được, chẳng những nghĩ ra mà còn dám biến nó thành hiện thực, mang cái thứ đồ đó ra tận nước ngoài. Tôi khóc dở mếu dở, đành phải vờ vĩnh khen ngợi cậu ta phòng ngừa chu đáo, có phong phạm của Khổng Minh - bậc danh tướng một thời. Hai người chúng tôi đi vòng quanh bên ngoài nhà bảo tàng mấy lần, cuối cùng tập trung chú ý vào công viên có đài phun nước bên cạnh quảng trường. Cuối công viên được chặn bằng lưới sắt, chỉ cách vườn hoa của viện bảo tàng có một bức tường.

Hai người chúng tôi hội ý chớp nhoáng, đoán vườn hoa và rặng cây trong công viên chắc chắn thông nhau. Vì vậy hai người chạy đi mua một cái lều vải, đóng giả làm du khách cắm trại dã ngoại ở công viên. Chúng tôi chọn một chỗ cành lá rậm rạp để hạ trại, sau đó tính toán khoảng cách từ rặng cây đến vườn hoa bên trong viện bảo tàng, áng chừng hành động tối đa mất nửa giờ. Hai người luân chuyển đào đường ngầm phi tang đất, lại có lều vải che chắn, thật sự tốt hơn nhiều so với lượn lờ chờ đợi hú họa bên ngoài cửa vào viện bảo tàng. Giống như Mao Chủ Tịch đã nói: Hạnh phúc cuộc đời phải dựa vào hai bàn tay mình xây đắp lên.

Về sau Shirley Dương nói cho tôi biết, từ "Thế chiến thứ hai" nước Mỹ đã xây dựng hoàn thiện hệ thống đường ngầm thoát nước, biện pháp đào đường ngầm để vào bên trong của hai chúng tôi, trên thực tế chỉ là hành động vẽ rắn thêm chân. Nhưng đó là chuyện sau này, còn lúc ấy tôi và Tuyền béo đào một con đường ngầm thông từ rặng cây, xuyên qua vườn hoa vào tận bên trong viện bảo tàng. Hai thằng hết sức kích động, cảm thấy sau khi về nước có thể coi đây là một kinh nghiệm quý báu để truyền dạy cho các ban ngành có liên quan, báo lên trên như một thí điểm điển hình của việc đánh cắp tin tức quân đội Mỹ thành công. Đến lúc đó, có khi có khi người ta còn trả lương cao mời chúng tôi đảm nhiệm chức vụ tham mưu cho Bộ quốc phòng cũng chưa biết chừng.

Trên đầu đầy cỏ rác, Tuyền béo vừa phủi bụi đất vừa hỏi: "Lão... Hồ..., có phải chúng ta đã vào được bên trong?"

Tôi quan sát xung quanh một lượt, phát hiện ra viên bảo vệ lúc trước nói chuyện với chúng tôi đang đứng bên ngoài lưới sắt hút thuốc, vì vậy khẳng định như đinh đóng cột với Tuyền béo: "Chúng ta đã thành công xâm nhập vào trong lòng kẻ địch rồi, công tác tiếp theo chính là tìm ra được đồng chí Shirley Dương, người phụ trách nằm vùng."

Tuyền béo gật đầu: "Vậy bà chị Dương đang ở đâu, cậu có biết không?"

Tôi bảo, trong điện thoại cô ấy đã nói mình đang làm công tác ở phòng nghiên cứu. Theo tôi thấy, cô ấy sẽ không ở quanh khu vực triển lãm, mà có khả năng đang ở trong một trong số những khu nhà phía sau viện bảo tàng. Tuyền béo nói, vậy thì còn chần chừ gì nữa, chúng ta đẩy nhanh hành động, sau khi tìm thấy Dương tham mưu là có thể đánh chén bữa tiệc linh đình của nước Mỹ.

Sau khi đi vào, tôi mới phát hiện ra viện bảo tàng cực kỳ rộng lớn. Tôi và Tuyền béo lần mò mãi mà không thể tìm ra cái phòng nghiên cứu mà Shirley Dương đã nói nằm ở chỗ nào. Tuyền béo nóng nảy: "Chúng ta cứ tiếp tục lượn lờ bên ngoài khu vực địch chiếm đóng như vậy thực sự không phải là biện pháp, chi bằng ẩn núp trước đã rồi tính sau." Tôi bảo: "Thằng ranh nhà cậu đang tìm cách thó đồ gì đó trong viện bảo tàng của người ta có phải không? Giờ không phải lúc đang tiến hành đổ đấu đâu đấy, nếu cậu dám hành động bừa bãi, tranh chấp trên phương diện quốc tế sẽ nảy sinh không thể tránh khỏi. Quan hệ Trung Mỹ lại một lần nữa lâm vào tình trạng dầu sôi lửa bỏng cho mà xem." Tuyền béo nói, cậu đừng có mà ăn ốc nói mò, tại sao mỗi lần phạm vào sai lầm cũng chỉ là tớ. Chúng tôi chọn một khu nhà có vẻ lớn nhất, hoành tráng nhất để lẻn vào trong rồi tính tiếp. Tôi thử đẩy cửa kính, không ngờ lại không khóa. Tuyền béo nói: "Người Mỹ quá khinh địch đi, khu vực quan trọng như thế mà lại không hề được khóa kỹ lại." Tôi bảo, chẳng phải du khách nào cũng biết sử dụng phương pháp đặc thù để lẻn vào bên trong như chúng ta. Việc họ lơ là cảnh giác là có thể hiểu được, không đến mức cấu thành tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng.

Bởi vì đang là thời gian đóng cửa, bên trong khu triển lãm không bật đèn, chỉ có ánh trăng xuyên qua cửa kính trên trần chiếu xuống, toàn bộ viện bảo tàng có vẻ âm u khủng bố, đặc biệt là những bức tượng mặc giáp trụ thời cổ, còn đáng sợ hơn cả lúc ở trong mộ. Tuyền béo chẳng biết đường nào mà lần, hỏi tôi rốt cục phòng nghiên cứu ở chỗ nào. Tôi ghé sát vào tường, nhìn bảng hướng dẫn du khách một lúc, cuối cùng đáp với giọng chắc nịch: "Cậu xem, chỗ này viết chữ 'NO', có nghĩa là 'Không'. Theo tớ đoán, nơi đó chính là khu vực làm việc, cho nên du khách mới không được phép đi vào." Tuyền béo gật đầu, nói tôi phân tích hết sức hợp lý. Hai thằng căn cứ vào tuyến đường định ra theo bảng hướng dẫn để đi vào trong, không bao lâu sau đã mò đến trước một cánh cửa viết chữ "NO" ở bên ngoài. Tuyền béo dán tai vào cửa nghe ngóng một lát, sau đó vui mừng nói: "Chính là ở đây, bên trong có tiếng người. Không thể tưởng được người Mỹ cũng có chế độ ba ca."

Xuất phát từ lễ tiết, trước khi vào chúng ta còn gõ cửa. Nào ngờ, sau khi đi vào, hóa ra đó lại là một kho hàng lớn tối như hũ nút, bên trong là những giá trưng bày dựng san sát nhau, bên trên bày biện la liệt đồ cổ, nhưng tuyệt không thấy bóng dáng một người nào. Tôi hỏi Tuyền béo: "Vừa rồi có đúng cậu nghe thấy tiếng người nói chuyện?"

Tuyền béo gật đầu: "Tiếng mẹ đẻ muôn năm! Nghe thấy hai năm rõ mười, là giọng một người đàn ông, hơi ồm ồm, đại loại bảo rằng đã tìm được cái gì đó."

Tôi nhìn lướt qua những đồ vật được trưng bày trong kho hàng, phát hiện ra chúng chỉ là một vài hiện vật khảo cổ được đặt lẫn lộn chưa đánh ký hiệu, lập tức suy đoán có lẽ là nhân viên làm việc còn đang tiến hành công tác phân loại. Tuyền béo ôm lấy một chiếc bình sứ, kích động nói: "Lão Hồ, đây là đồ cổ ba màu thời nhà Đường." Tôi bảo, dù đó có là đồ lót của Tần Thủy Hoàng đi nữa, cậu cũng không có quyền lấy, mau trả lại chỗ cũ cho người ta, không may cậu bị bắt thì lúc ấy tình ngay lý gian. Tuyền béo oán trách vài câu, rồi đi qua một cái giá trưng bày khác để xem hiện vật bày bên trên. Càng đi sâu vào trong tôi càng cảm thấy không đúng, vội gọi Tuyền béo bảo có lẽ đã tìm lộn chỗ, đây chỉ là một kho chứa hàng bình thường.

Đang chuẩn bị quay lại theo đường cũ, Tuyền béo bỗng nhiên kích động nói: "Nhìn kìa, bên kia có người." Tôi nhìn theo hướng cậu ta chỉ, quả nhiên có một người mặc bộ quần áo bảo vệ màu xanh da trời đang cúi gục đầu ngồi trong góc. Tuyền béo đi đến trước mặt người này, hớn hở nói: "Ha ha, đang giờ làm mà lại lười biếng, xui cho cậu bị ông béo đây bắt được ngay tại trận. Tuy nhiên, cậu không cần phải sợ, chỉ cần cậu chỉ đường đến phòng nghiên cứu, chúng ta sẽ xử lý khoan hồng, xí xóa hết tội cũ. Anh bạn trẻ, vừa mới bắt đầu công tác, khó tránh khỏi sẽ phạm phải một vài sai lầm." Nói xong cậu ta vỗ lên vai người đó một cái. Trong ánh trăng, chợt thấy thân thể người đó lắc lư vài cái, sau đó cái đầu rớt đánh bịch xuống đất.

Tôi và Tuyền béo đều bị cái đầu người đột ngột rơi làm sợ hết hồn. Tuyền béo nhìn tôi với vẻ vô tội, nói: "Quả thực không liên quan gì đến tớ. Tớ... tớ vỗ một cái không mạnh đến như vậy." Tôi bảo vớ vẩn, cậu có vỗ mạnh đến mấy cũng không thể nào cách không chặt đứt đầu người ta ra được. Khuỵu gối ngồi xuống xem xét, đó là một người đàn ông Mỹ tóc vàng, cổ bị kẻ khác dùng vũ khí sắc bén cắt một nhát ngọt xớt, lập tức mất mạng không kịp la lên một tiếng nào.

"Chúng ta mau quay lại thôi, chỗ này không nên ở lâu!" Tôi còn chưa dứt câu, trước mặt đột nhiên hiện lên vệt sáng lạnh lẽo chết người, không biết một thứ gì đó đang nhắm thẳng vào cổ tôi bay vụt tới. Tôi lập tức ngả người ra phía sau, tránh được đòn tấn công trong đường tơ kẽ tóc. Nào ngờ, vật kia bỗng chuyển hướng, quất ngược lại về phía tôi. Tôi đã uốn lưng hết cỡ, mắt thấy vật kia đã đến sát chóp mũi, hóa ra là một sợi dây màu trắng vừa mảnh lại vừa dài. Tuyền béo đứng ngay sau lưng tôi, dù không biết đã xảy ra chuyện gì, nhưng thấy ánh mắt tôi cậu ta vẫn thừa hiểu đã xảy ra việc nghiêm trọng, vội bước lên trước tóm lấy tôi, kéo mạnh về phía sau, nhờ đó đã cứu được tôi về từ Quỷ Môn Quan. Còn chưa kịp lấy hơi, mấy bóng đen nhanh như tên bắn nhảy vọt ra từ phía sau giá trưng bày ra. Tôi đẩy Tuyền béo ra: "Mau đập vỡ vật gì đó!" Mới ban đầu Tuyền béo không hiểu tôi muốn nói cái gì. Sau khi thấy tôi giơ cái bình ba màu thời Đường lên, tư thế giống như sắp đập thẳng nó xuống đất, cậu ta cũng vớ bừa lấy hiện vật ở gần mình rồi thẳng tay giơ lên cao: "Lão Hồ, cậu nhất thiết phải biết rõ một điều, chúng ta có cày mấy đời cũng không đủ tiền bồi thường cho những vật này đâu."

Mấy bóng đen thấy chúng tôi muốn đập vỡ hiện vật, đồng loạt sững lại. Không biết từ chỗ nào vang lên một tiếng huýt sáo, mấy người bọn chúng tông cửa lao ra ngoài, bỏ lại tôi và Tuyền béo đứng trong bóng đêm, đầu tóc ướt sũng mồ hôi.

"Bọn chúng là dân đột vòm," Tôi đặt hiện vật đang cầm trong tay xuống, "Sợ chúng ta đập vỡ đồ tạo ra tiếng động ầm ĩ, kéo bảo vệ tới."

"Đm, đã gây ra cả án mạng rồi mà còn sợ bảo vệ." Tuyền béo vuốt mồ hôi lạnh ngắt chảy dọc trên gáy, "Chúng ta mau chạy thôi. Con mẹ nó, giờ mà bị người ta bắt được thì đúng là oan Thị Kính."

Chúng tôi chạy ngược ra theo lối vừa đi vào. Vừa quẹo qua một chỗ rẽ, một bóng người chợt tấn công thẳng về phía tôi. Tôi đan chéo tay chặn thế công, dồn lực đẩy đối phương ngã ngược ra đằng sau. Tuyền béo cũng lọt vào phục kích, tuy nhiên vào giờ phút nguy hiểm cậu ta bùng nổ ra uy lực thần sầu, đè nghiến kẻ đánh lén mình dưới mông. Vừa mới định nhìn cho rõ kẻ nào đã đánh lén hai thằng, tôi đã bị một vật lạnh như băng đã dí sát vào đầu, một ai đó dùng tiếng mẹ đẻ thân quen bảo tôi: "Giơ tay lên!"

Đột ngột bị người khác cầm súng chĩa vào đầu, xuất phát từ phản xạ tôi luyện trong thời gian tham gia quân ngũ, tôi không chịu khoanh tay chịu trói, lập tức lắc đầu sang bên cạnh để né họng súng đang chĩa vào thái dương, đồng thời vươn tay giật súng khỏi tay đối phương. Kẻ đó không tài ngờ tới, tôi không những ngoan cố chống cự mà còn cướp được vũ khí của mình, bàn tay lập tức biến chưởng thành đao chém thẳng xuống. Tôi thấy mặc dù động tác của kẻ đó nhanh, nhưng đáng tiếc không đủ lực, lập tức vặn ngược cổ tay người này lại. Cú chém còn chưa kịp đến đích, kẻ đó đã thét lên đau đớn. Tôi định thừa thắng xông lên, có ngờ đâu đối phương hết sức quỷ quyệt, lừa lúc tôi bị tiếng thét đánh lạc hướng, dùng gối thúc thẳng vào bụng dưới của tôi. Dính cú đánh đột ngột đó, tôi đau rủn người tướp mồ hôi, thiếu chút nữa đã để vuột mất đối phương. Lúc này, trong viện bảo tàng, còi báo động kêu lên inh ỏi, đèn sáng như ban ngày. Tôi còn chưa kịp thấy rõ kẻ đã đánh lén mình là ai, chợt nghe thấy Tuyền béo rống lên như heo bị chọc tiết: "Bố giải phóng quân ơi là bố, là người một nhà, hiểu lầm!"

Nhìn lại, hóa ra người đấu với tôi từ nãy đến giờ không phải ai khác, mà chính là Shirley Dương đang mặc một chiếc áo blouse trắng. Sau khi nhận ra đối phương là tôi, gương mặt đằng đằng sát khi của cô chuyển thành tươi cười, rồi bất thình lình tiếp tục chém tay xuống, đánh tôi tối tăm mặt mũi mà không dám phản kháng.

Lúc này, bên ngoài vang lên tiếng bước chân dồn dập, vừa nghe thấy là biết ngay, cảnh sát Mỹ đã chạy đến. Shirley Dương chỉ vào người mặc áo blouse trắng đang bị Tuyền béo đè chết ngất: "Ông ấy là thầy hướng dẫn của tôi. Lát nữa hai người đừng có nói cái gì, để tôi ra mặt trả lời." Tuyền béo nghe thấy nói mình cũng đánh nhầm, vội vàng đứng dậy.

Lần này, đám bảo vệ được trang bị gần như đến tận răng, đội mũ sắt, mặc áo chống đạn, vừa vào đến nơi đã gào rách cả cuống họng bằng thứ ngôn ngữ chết tiệt mà chúng tôi không hiểu. Người đội mũ sắt đen trong đám người đó đi thẳng tới trước mặt chúng tôi, gân cổ xì xà xì xồ loạn cả lên với tôi. Thấy tôi đực mặt ra, người này chuyển sang hỏi bằng thứ tiếng Trung lơ lớ: "Nghe hiểu không?" Shirley Dương nói xen vào: "Hai vị này là chuyên gia văn hóa cổ Trung Quốc do viện bảo tàng chúng tôi mời tới. Vừa rồi, chính hai người họ đã đuổi trộm giúp viện bảo tàng, bảo vệ giáo sư Owen." Nói xong, cô lại dùng tiếng Anh nói lại một lần. Đối phương nhìn lướt qua tấm thẻ đeo trước ngực cô, vẫy tay ra hiệu với đội cảnh sát đang giương súng ở phía sau, cởi mũ sắt ra, nói: "Chào cô Shirley, nghe tiếng Trung hiểu được SOME."

Tôi và Tuyền béo đều thừa hiểu, sở dĩ Shirley Dương nói tiếng Trung là để cảnh tỉnh trước hai thằng một câu, lát nữa đừng có lỡ miệng lúc bị lấy khẩu cung. Chúng tôi liếc nhìn nhau, mỉm cười ngầm hiểu. Viên cảnh sát nước ngoài không hiểu tại sao chúng tôi lại cười, tôi bảo với anh ta đây là một lễ tiết của người Trung Quốc, hễ gặp người lạ là thì phải cười như thế, cười càng to càng chứng tỏ sự thân thiện của bản thân. Sau khi nghe nói vậy, anh ta cũng cười hùa theo chúng tôi.

Sau khi vị giáo sư Owen tỉnh lại, ông ta không ngừng nhắc đi nhắc lại, bảo rằng mình biết võ thuật Trung Quốc, thậm chí còn đấu tay đôi với một tên trộm. Nhưng do mắt kính bị vỡ trong lúc quần thảo, ông ta không nhìn thấy rõ mặt mũi đối phương đối phương ra sao, nhưng có thể chắc chắn một điều là hình thể đối phương rất to béo. Đến khi nghe nói tôi và Tuyền béo kịp thời chạy tới cứu sống mình, ông ta hết sức kích động bắt tay chúng tôi, nói trơn tru bằng tiếng Trung: "Cảm ơn các vị đại hiệp! Shirley thường nhắc tới các vị khi nói chuyện với tôi. Cô ấy bảo hai vị là Robin Hood của Trung Quốc. Hôm nay may mắn được gặp hai vị, quả thật là danh bất hư truyền!"

Tranh thủ lúc cảnh sát và giáo sư Owen đi kiểm tra tổn thất của viện bảo tàng, Shirley Dương dẫn hai chúng tôi tới chỗ làm việc của cô. Hóa ra phòng nghiên cứu của cô không nằm trong tòa nhà này, mà nằm trong một khu nhà nhỏ bên cạnh vườn hoa trung tâm. Tuyền béo cằn nhằn trách tôi, chưa cần nói đến việc ngớ ngẩn đi vòng vèo lung tung, thậm chí thiếu chút nữa còn vì thế mà toi mạng. Trên đường đi, Shirley Dương không nói năng câu gì, gương mặt cũng không biểu hiện ra bất cứ cảm xúc nào. Nhưng cô càng như vậy, trong lòng tôi lại càng bất an.

"Nói đi, hai người lẻn vào bằng cách nào, tại sao lại đụng độ với đám ăn trộm." Shirley Dương ngồi trên ghế chủ tọa, tôi và Tuyền béo ngồi trên ghế băng. Tôi thừa hiểu, lúc này phải xoa dịu cơn thịnh nộ của cô. Nếu không, với tính cách của mình, khó mà nói trước cô có quân pháp bất vị thân lôi hai thằng tới cục cảnh sát giao nộp hay không. Hai thằng không dám giấu diếm điều gì, khai báo từ đầu đến cuối toàn bộ sự việc, đào đường ngầm vào viện bảo tàng như thế nào, đụng độ với mấy kẻ đột vòm ra sao. Đầu tiên cô trách chúng tôi không thông báo sớm cho mình về việc hai người sẽ tới nước Mỹ, sau đó lại trách hai thằng không nên tự tiện xông vào viện bảo tàng, cuối cùng phê bình tôi cả gan làm loạn, đuổi theo những kẻ bán mạng kia làm cái gì. Tôi định giải thích, nói cho cô biết là lúc ấy chúng tôi chỉ đang bỏ chạy mà thôi. Nhưng cô bận tâm lo lắng cho chúng tôi nói chung vẫn tốt hơn là phớt lờ hai thằng đi, vì vậy tôi chẳng muốn kéo dài chủ đề này làm gì cho tốn nước bọt.

Shirley Dương nói: "Xế chiều hôm nay có một loạt hiện vật mới được đưa tới nhà kho, tôi và giáo sư tranh thủ phân loại chúng, cho nên mới làm việc muộn như vậy. Những đồ vật đặt trong cái kho hàng mà hai người tưởng lầm là phòng nghiên cứu, chính là những hiện vật khảo cổ chưa được xác minh lẫn đánh dấu hiệu phân loại. Nghe hai người miêu tả, tôi cảm thấy những kẻ đó đã có âm mưu từ trước, bởi mục tiêu không sai lệch một chút nào."

Tôi nói: "Dương tham mưu trưởng suy tính chu toàn, nói không sai chút nào. Theo tôi thấy, những kẻ này chẳng những có âm mưu từ trước, mà có khả năng còn có đồng bọn nằm vùng trong viện bảo tàng. Nếu không, bọn chúng làm sao lại quen thuộc vị trí cất giữ hiện vật lẫn đường đi lối lại như thế."

Đúng lúc này, điện thoại trên bàn đổ chuông. Sau khi nhận xong cuộc điện thoại, Shirley Dương nói với chúng tôi: "Thứ bị trộm mất chính là nhóm hiện vật khảo cổ vừa mới được đưa tới chiều nay, giáo sư Owen đã thẩm tra đối chiếu qua danh mục hàng nhập kho. Cảnh sát muốn dẫn chúng ta về đồn ghi khẩu cung. Hai người các anh thông minh cơ trí một chút, đừng có giở thói trẻ con ra bỡn cợt."

Khi đến cục cảnh sát phải tách ra để ghi khẩu cung. Nhưng trong một chốc một lát, họ không thể tìm đâu ra phiên dịch tiếng Trung, đành để Shirley Dương tham dự vào quá trình ghi chép khẩu cung. Vừa ngồi chưa tới vài phút, anh bạn đội mũ sắt đen đã đi vào. Anh ta đưa cho Shirley Dương xem một văn bản. Chẳng hiểu anh nói cái gì mà thái độ Shirley Dương lập tức trở nên nghiêm trọng. Cô bảo với tôi và Tuyền béo: "Anh ta nói trong danh mục khách thăm viện bảo tàng không có tên các anh, có một số tình huống cảnh sát muốn tìm hiểu kỹ hơn một chút. Có lẽ các anh nên gọi luật sư riêng tới, nếu như không có, chính quyền sẽ chỉ định luật sư cho hai người."

Nghe vậy là tôi biết ngay, nếu việc này xử lý không khéo sẽ xảy ra sai lầm lớn. Đang suy nghĩ moi ở đâu ra luật sư bây giờ, Tuyền béo lôi từ túi áo ngực ra một tấm danh thiếp rồi đưa cho Mũ Sắt Đen. Mũ Sắt Đen nhìn lướt qua danh thiếp rồi nói: "OK.", sau đó đi ra ngoài. Tôi hỏi Tuyền béo cái gì thế, cậu ta vênh mặt lên đáp: "Số điện thoại của anh bạn Tần nhà cậu."

Tôi thắc mắc hỏi cậu ta, anh bạn Tần nào, Tuyền béo nói: "Anh chàng đeo kính ở Nhất Nguyên Trai, luật sư của ông cụ Tang ấy."

Sau khi Shirley Dương nghe thấy ba từ "Nhất Nguyên Trai", vẻ mặt thay đổi trông thấy. Tôi hỏi cô có chuyện gì xảy ra, cô sa sầm mặt mũi như mây dông, hỏi lại tôi: "Lão Hồ, anh cấu kết với tổ chức buôn lậu di vật văn hóa từ khi nào thế?"

Cô hỏi một câu không đầu không đuôi như vậy, lúc ấy tôi không hiểu đầu cua tai nheo ra sao, bèn giải thích: "Nhất Nguyên Trai chỉ là một tiệm đồ cổ, đâu có nghiêm trọng như cô nói."

Shirley Dương lắc đầu: "Anh vừa tới nước Mỹ cho nên không biết, Nhất Nguyên Trai là tập đoàn buôn lậu di vật văn hóa lớn nhất ở nơi đây. Họ nắm giữ 60% thị phần chợ đen đồ cổ trong nước, một phần hiện vật trưng bày trong viện bảo tàng của chúng tôi được thu mua từ chính tay bọn họ."

Tôi nghe mà muốn té xỉu. Thì ra ông cụ Tang lập nghiệp bằng việc làm ăn bất hợp pháp. Lúc sắp chết, ông lão này còn muốn kéo tôi xuống vũng bùn. Rất may là lúc trước tôi không chịu ký vào bản hợp đồng kia, nếu không thì hậu quả thiết tưởng không thể gánh nổi.

Shirley Dương tiếp tục truy hỏi về quan hệ giữa tôi và "Nhất Nguyên Trai", tôi thật sự không biết bắt đầu kể từ đâu, đành phải kể lại sơ lược từ lúc mình quen biết với ông cụ Tang như thế nào, cho đến khi đặt chân lên nước Mỹ ra sao, cho cô nghe một lượt. Kể xong, tôi liên tục tỏ thái độ phân rõ giới hạn với phần tử ngoài vòng pháp luật. Ngay lúc Shirley Dương bán tín bán nghi định nói gì đó, một đám người xộc vào trong phòng. Người dẫn đầu chính là anh chàng đeo kính mắt, mặc âu phục. Vừa nhìn thấy tôi, anh ta đã nói luôn: "Quản lý, lại khiến anh phải chịu khổ rồi. Các anh em đến giải cứu cho anh đây!" Trong phút chốc, tôi không có đường nào mà chối cãi, chỉ hận không thể bóp chết cái đồ cáo già họ Tần này ngay tại chỗ.

Tần Bốn Mắt dẫn theo nhân viên trong xông vào cục cảnh sát, đây là sự việc mà tôi có nằm mơ cũng không dám nghĩ đến. Tuyền béo cũng phải giật bắn người trước những gì đang diễn ra. Nếu xảy ra vào đời nhà Thanh, hành động này sẽ bị khép vào tội cướp thiên lao, xử tử cả nhà.

Tôi nói: "Đồng chí Tần, bình thường trông anh rõ ràng thuộc về phần tử trí thức, tại sao vào lúc dầu sôi lửa bỏng thế này lại gây chuyện, làm thế chẳng phải là muốn kéo tôi xuống vũng bùn hay sao?"

Tần Bốn Mắt cười áy náy: "Những câu đó hoàn toàn do Tiết Nhị gia bảo phải nói. Tình huống cụ thể thế nào, chúng ta quay về tiệm rồi giải thích sau. Chắc hẳn vị này chính là phu nhân của quản lý. Hân hạnh hân hạnh, tôi họ Tần, cô có thể gọi tôi là William."

Shirley Dương không đáp lại lời anh ta, quay sang phía tôi nói: "Nếu đã có người giúp anh xử lý vấn đề nơi đây, tôi quay về viện bảo tàng luôn đây. Lão Hồ, có một số việc, khi nào nghĩ thông suốt rồi anh hãy tới tìm tôi." Tôi nhận thấy mọi việc đã vượt qua tầm khống chế, giờ càng giải thích thì càng rối tinh lên, bèn nói với cô: "Cô yên tâm, tôi xử lý xong mọi việc sẽ đến chỗ cô ngay. Lần này cam đoan không xảy ra bất cứ vấn đề gì." Cô vừa ra khỏi cửa, Mũ Sắt Đen đã vác cái mặt sưng sỉa chạy đến. Tần Bốn Mắt đứng ra đối chất với anh ta. Chẳng bao lâu sau, Mũ Sắt Đen đã ném phắt văn bản đang cầm trên tay xuống bàn, tông cửa xồng xộc đi ra ngoài, làm cái cửa kính rung lên bần bật.

"Quản lý, đi thôi!" Tần Bốn Mắt thu dọn văn bản tài liệu trên bàn rồi nói với hai chúng tôi, "Anh ta không nắm được chứng cớ gì, chỉ dựa vào mấy tờ giấy ghi tên người ra vào thì chẳng chứng tỏ được cái gì, không thể giữ chúng ta lại được."

Tuyền béo khen, vẫn là người đọc sách các vị có bản lĩnh, chỉ đôi ba câu đã hạ gục người nước ngoài. Tần Bốn Mắt vội nói quá khen. Đám nhân viên đứng chờ ngoài cửa, thấy chúng tôi đi ra, đồng loạt tránh sang hai bên nhường đường. Sau khi lên xe, tôi hỏi Tần Bốn Mắt: "Rốt cục là có chuyện gì xảy ra. Ân tình lớn như vậy, tôi không thể nào gánh trả nổi."

Anh ta vừa lái xe, vừa gượng cười: "Không gì qua được mắt anh Hồ! Không dám gạt anh, Nhất Nguyên Trai đích xác đã xảy ra một vài vấn đề nhỏ; Hơn nữa, những vấn đề này e rằng chỉ có mỗi anh mới có thể giải quyết được."
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 12: Thiên Vương Lão Tử


Dịch giả: gaygioxuong

Tần Bốn Mắt rào trước đón sau, tôi đồng ý cũng dở mà phản đối cũng không xong. Tuyền béo tỏ rõ quan điểm việc gì ra việc đó, nếu có khả năng giúp đỡ thì hai chúng tôi sẽ không bao giờ thoái thác, bởi vì đã nợ ân tình của các vị. Nhưng, nếu như vì thế mà phải bán người anh em kết nghĩa cho các vị làm quản lý, bản thân tôi là người đầu tiên không đáp ứng. Tần Bốn Mắt không ngừng cam đoan với chúng tôi không phải vấn đề về di chúc, nhưng lại không chịu hé lộ thêm một chút thông tin nào. Chúng tôi bị anh ta úp úp mở mở làm cho không biết đâu mà lần suốt cả quãng đường, cuối cùng cũng về đến "Nhất Nguyên Trai" ở khu phố Tàu.

Còn chưa vào cửa đã cảm giác có chuyện khác thường. Ngoài cửa tiệm có mấy nhân viên đang phun nước dập lửa, cửa chính đã bị đốt cháy đen từ bao giờ. Sau khi vào trong, chúng tôi phát hiện ra bên trong còn thảm hại hơn, đồ đạc bị đập nát vương vãi khắp mặt đất, không ít người bị thương chảy máu, Tiết Nhị gia thì đang ở bên cạnh sân vườn tổ chức một phân đội cứu thương nhỏ, đang xử lý và băng bó vết thương cho mọi người. Theo tôi thấy, chắc chắn đã có người đến đập phá, vội hỏi: "Tiết Nhị gia, ông không bị thương đấy chứ?"

Trên trán buộc một sợi dây năm màu, ông lão vừa nhìn thấy tôi đến, ôm lấy cổ tôi khóc rống lên: "Cậu chủ, lần này cậu đi không đúng lúc chút nào. Người cha đáng kính của cậu đang ở trên trời chờ mong lắm đấy!" Tôi thầm nhủ, lần này lại xướng ra cái trò khỉ gì nữa đây? Người cha đáng kính của tôi ngày nào mà chẳng ở nhà hát Sa gia bang(1), khỏe như vâm, làm sao ông lại khóc lóc bảo rằng đã lên thiên đàng rồi. Ông Tiết thì thầm vào tai tôi: "Bên trong có người, cứ phối hợp theo ta." Nói xong, ông tiếp tục gào khóc.

(1) Sa gia bang là vở kinh kịch được sáng tác vào thời kỳ cách mạng văn hóa Trung Quốc, được coi là vở kinh kịch mang màu sắc cách mạng nhất.

"Tiết lão nhị, ông đừng có diễn kịch nữa. Thằng nhóc này nhìn đi nhìn lại cũng chẳng thấy có nét nào giống lão yêu quái kia cả. Người đâu, tháo bảng hiệu."

Một ông lão mặc áo chẽn xanh vừa hút tẩu vừa đi từ trong phòng khách ra, hai mắt sáng quắc, mang khí thế của người quen ra lệnh, được bốn tên đàn ông cường tráng hộ tống ở phía sau. Nhìn thấy lão đi ra, một số nhân viên chỉ chực xông lên đánh.

Ông Tiết kín đáo nháy mắt với tôi, sau đó quay sang nói với lão ta: "Ông chủ Vương, cậu chủ chúng tôi đã về rồi. Có gì cần, ông cứ trao đổi với cậu ấy." Tôi bị ông Tiết đột ngột đẩy lên đằng trước, thiếu chút nữa đã húc đầu vào ngực ông chủ kia. Lão áo chẽn nhả ra một hơi khói, nhướng mày hỏi: "Cậu thật sự là đồ đệ của lão yêu quái?"

Tôi ghét nhất là khi người khác tỏ vẻ kiêu ngạo tự cao như thế này, thế là ưỡn thẳng lưng, lườm lườm nhìn lão, bắt chước giọng điệu của ông cụ Tang hỏi ngược lại: "Làm càn, Nhất Nguyên Trai là các chỗ các người giương oai sao? Các người cho rằng mình là ai!"

Ông lão hừ một tiếng, trầm giọng nói: "Thế nào, lão yêu quái không có với ngươi, khi gặp Thiên Vương Lão Tử phải cúi người chào một tiếng 'sư bá' hay sao?"

Tôi thầm nghĩ, chẳng hiểu cái lão quái vật này từ đâu chui ra, vừa đến đã oang oang đòi gỡ bảng hiệu "Nhất Nguyên Trai". Theo như Shirley Dương đã nói, "Nhất Nguyên Trai" dù sao cũng có thể coi là bá chủ một vùng, tại sao lại bị một lão già lọm khọm đàn áp đến nông nỗi này. Chẳng lẽ trước khi chết, ông cụ Tang đã thiếu người ta một món nợ bán cả nhà không đủ trả hay sao, còn vị này chính là Diêm Vương đến đòi nợ? Còn đang nghĩ ngợi, ông Tiết đã chạy tới bên cạnh tôi, bảo với vị Thiên Vương Lão Tử đang vênh váo không coi ai ra gì kia: "Ông chủ Vương, quản lý mới của chúng tôi vừa mới chạy từ nội địa sang, sự việc đời trước cậu ta vẫn còn chưa rõ lắm. Chúng ta thong thả vào trong từ từ nói chuyện."

"Hừ, ta thấy lão ấy già nên lú lẫn mất rồi, sắp chết còn nhận một kẻ đồ đệ để đối nghịch với ta."

"Ông chủ Vương, ngài nói như vậy có lẽ quá xa cách rồi! Nào nào, mời vào trong, chúng ta vừa uống trà vừa trò chuyện. Lần này cậu chủ chúng tôi đã cất công mang từ Đại Lục sang loại trà Phổ Nhị tốt nhất." Ông lão vừa nói vừa đẩy tôi lùi lại. Tần Bốn Mắt lập tức kéo tôi về phía hậu viện: "À, quản lý, anh nói xem anh đã để trà ở chỗ nào, sao tôi tìm mãi mà không thấy. Anh mau đi cùng với tôi xem sao. Tiết Nhị gia, lúc nào ngài gọi, chúng tôi sẽ đến ngay."

Tần Bốn Mắt lôi kéo tôi và Tuyền béo vào trong một căn phòng nhỏ ở hậu viện, đóng cửa lại rồi thở phào một hơi: "Nhị gia ứng đối rất khéo, may mà nói năng ăn khớp với cậu, nếu không thì đã bị bại lộ từ sớm."

Tuyền béo đã nhịn sắp phát khùng, thấy nơi này không còn ai khác lập tức hỏi: "Đm, thế này là thế nào. Lão Hồ trở thành đồ đệ của lão yêu quái đã chết kia từ bao giờ vậy, lão già ma cô kia là ai? Cứ như là mố được nhị ngũ bát vạn(2) vậy, nếu không phải anh tìm mọi cách ngăn cản, cậu đây đã xông lên đập cho một trận cho tỉnh người ra. Mẹ nó, từ khi đi ra từ bụng mẹ đến giờ, cậu béo đây vẫn chưa bao giờ nhìn thấy kẻ nào kiêu ngạo đến như vậy."

(2) Trong Mạt chược, nhị, ngũ và bát vạn là 'tướng', lấy được con nào cũng có thể hồ; Cho nên khi người chơi sờ (mố) được ba con bài này, trong lòng sẽ cảm thấy phấn khích

Tần Bốn Mắt rót cho Tuyền béo một chén nước: "Anh béo bớt giận, chuyện này có chỗ khó nói." Nói xong, anh ta ngồi đối diện tôi, nghiêm túc nói: "Thiên Vương Lão Tử - Vương Phổ Nguyên, Hội trưởng thương hội Hoa kiều, cũng chính là Đại Long Đầu theo cách gọi trên giang hồ. Anh Hồ, ý nghĩa ra sao chắc có lẽ anh đã hiểu?"

Tôi bảo có gì mà không hiểu, chẳng phải chỉ là một lão già xã hội đen hay sao? Chúng ta trốn trong này làm gì, cứ làm theo những gì Tuyền béo nói, xông ra ngoài quật chết lão thì mới đúng đắn. Tần Bốn Mắt lắc đầu: "Xã hội đen thì chưa đến mức. Nhưng ông chủ Vương là sư huynh của ông cụ Tang, trong khi đó giữa hai ông cụ này có thể coi là có một món nợ từ năm mươi năm trước, mong anh Hồ châm chước cho một chút."

Hóa ra vào thời thanh niên, hai ông cụ Tang và Vương cùng gia nhập vào sư môn cùng giờ cùng ngày cùng tháng cùng năm, đúng ra phải là sư huynh đệ chiếu cố giúp đỡ lẫn nhau. Nhưng người ta thường nói, một núi không thể chứa hai hổ, hai người vừa mới gặp mặt nhau lần đầu tiên đã lập tức thấy đối phương không vừa mắt, đấu với nhau cả đời chỉ vì tranh ba tiếng "Đại sư huynh". Về sau ông cụ Vương bị nhà gọi quay lại Mỹ tiếp quản việc kinh doanh của gia đình, còn ông cụ Tang vẫn tiếp tục ở lại trong nước làm mưa làm gió, thậm chí còn đã từng làm tham mưu trưởng chi Tôn Khôi Nguyên. Vừa nghe nói đến cái tên đó tôi đã nhớ ra, Tôn Khôi Nguyên thì người nào cũng biết, đó chính là tên cướp Tôn Điện Anh ở Đông Lăng, cầm đầu vụ trộm mộ Từ Hi. Chẳng trách sau này ông cụ Tang phải tha hương trốn tránh đến tận nước Mỹ, nguyên nhân trong đó khó tránh khỏi là để chạy trốn sự truy nã của nhà cầm quyền. Tần Bốn Mắt tiếp tục nói: "Lúc ông cụ Tang mới đặt chân lên nước Mỹ, hoàn toàn nhờ vào ông chủ Vương bỏ qua hiềm khích lúc trước, âm thầm dẫn dắt mới có thể thuận lợi cắm rễ dừng chân. Có thể nói, "Nhất Nguyên Trai" có được tên tuổi như ngày hôm nay, không thể phủ nhận được công lao của ông cụ Vương."

Tôi bảo như thế chẳng phải là rất tốt hay sao, hai ông lão biến chiến tranh thành tơ lụa, không có việc gì thì ngồi hút tẩu uống trà, bồi dưỡng tình nghĩa sư huynh đệ. Tại sao ông cụ Tang vừa mới chết chưa được vài ngày, ông lão kia đã đến phá tiệm, đừng có nói là bởi quá thương tiếc người bạn lâu năm, đầu óc đã trở nên lú lẫn rồi đấy nhé.

Tần Bốn Mắt lắc đầu: "Muốn trách thì phải trách tính tình hai ông cụ đều quá ngoan cố. Đến cuối đời vẫn không thôi không tranh giành ba tiếng "Đại sư huynh". Anh không biết đó thôi, năm xưa khu phố Tàu bị hai ông cụ quậy tung cả lên, mãi đến khi cao tầng đặc khu ra mặt trấn áp thì sự việc mới tạm thời lắng xuống. Kể từ lúc đó, ông cụ Tang đã nảy sinh ý định về nước. Những năm gần đây, ông cụ thấy đối thủ con cháu đầy nhà, trong khi bản thân thui thủi một mình nên cảm thấy vô cùng cô đơn. Tôi nghĩ, lần này ông cụ về nước, ngoài giải sầu ra, thì quá nửa là ráo riết tìm kiếm một người có khả năng để giao cho gánh vác công việc kinh doanh. Nếu không, làm sao lại giao "Nhất Nguyên Trai" vào tay anh vào những giây phút cuối đời."

Tôi nhận thấy anh ta đang ép tôi lên sân khấu diễn vai chính, vội vàng nói: "Đây hoàn toàn là việc nhà của "Nhất Nguyên Trai" các anh. Một người xa lạ như tôi tự dưng xía vào thì không thích hợp chút nào. Hay là thế này đi, tôi ra ngoài giúp các anh đánh cho lão một trận, hai chúng ta không nợ nần gì nhau nữa."

"Anh nghe tôi nói hết đã. Ngày trước, hai ông cụ đã dùng "Nhất Nguyên Trai" làm tiền đặt cược, chi tiết cụ thể ra sao thì tôi không quá rõ, nhưng lại có quan hệ đến kế sinh nhai của trên dưới một trăm người trong tiệm chúng ta. Nếu như tháo bảng hiệu, chẳng những nhân viên ở đây phải giải tán, các chi nhánh e rằng cũng nhiều khả năng sẽ bị liên lụy. Giờ ông cụ Tang đã mất, nếu như anh vẫn không chịu tiếp nhận, chỉ sợ cửa tiệm sẽ không chống đỡ được nữa."

Tôi đã biết một ông cụ Tang được gọi là Tang Bá Thiên, không ngờ ở đây còn có một Thiên Vương Lão Tử(3). Ân tình thì phải trả, nhưng có nên lấy mạng của mình ra để đánh bạc hay không, tôi lập tức bị vấn đề này làm cho đầu phình to gấp đôi, không biết nên thoái thác như thế nào. Tuyền béo lắm mưu ma chước quỷ, bày cho tôi: "Lão Hồ, hay là trước tiên cậu cứ thử nghe ngóng xem thực ra đánh cược như thế nào. Nếu giữ lại được cửa tiệm thì đương nhiên là không còn gì tốt hơn; Không may không giữ được thì cũng đành chịu, chí ít ra cậu đã cố gắng hết sức rồi, họ sẽ không thể trách móc gì cậu được."

(3) bá thiên có nghĩa là hùng bá thiên hạ, còn thiên vương lão tử có nghĩa là vua cả thiên hạ. Nghĩa của hai biệt hiệu tương tự nhau.

Tôi nói: "Cách làm của cậu là hành vi thiếu trách nhiệm với mọi người. Tôi làm việc, hoặc là không làm, nếu đã làm thì phải làm cho chót." Tần Bốn Mắt liên tục nói đúng đúng. Tôi bảo anh kích động cái gì, tôi đã đồng ý đâu, anh để cho tôi suy nghĩ kỹ càng một lúc đã.

Đúng lúc này, ngoài sân bỗng nhiên vang lên tiếng đánh nhau, chúng ta mở cửa ra thì lập tức nhìn thấy mấy nhân viên trong tiệm đã bị người đánh ngã lăn trên mặt đất, bị thương không nhẹ. Một thanh niên phì phèo xì gà từ đi từ bên ngoài vào, sau lưng là một đám tay chân đi theo tháp tùng. Y liếc xéo chúng tôi, dùng thái độ côn đồ mà chỉ người ông ma cô của y mới có, hỏi: "Ông nội của tao đâu?"

Tần Bốn Mắt nhướng mày, chỉnh lại cà vạt, bước lên phía trước: "Cậu cả Vương, nơi này là "Nhất Nguyên Trai", mời về cho!"

Thằng ma cô trẻ mắc cái tật chẳng khác gì người ông của y, không bao giờ coi người khác ra gì. Y phà ra một hơi khói thuốc, chỉ vào Tần Bốn Mắt, nói: "Người đâu, trừng trị!"

Tôi và Tuyền béo nhận thấy tình hình sắp đánh nhau đến nơi. Phát khùng vì đã phải nhẫn nhịn cả buổi, cuối cùng đã kiếm được kẻ để phát tiết, hai thằng hét lên một tiếng, không đợi đám cháu chắt kia kịp hiểu chuyện gì xảy ra, quơ lấy chổi và ghế đẩu trong sân lập tức xông lên đánh. Phải nói đám bảo kê này thường ngày chỉ biết bắt nạt người hiền sợ kẻ ác, có lẽ đã lâu lắm rồi không đụng độ với người nào đánh nhau liều mạng như tôi với Tuyền béo. Đánh một lúc, trên người chúng tôi đã dính không ít vết thương bầm tím, nhưng bên phía bọn chúng thảm hại hơn, một trong số chúng bị vỡ đầu chảy máu, đã ngất lịm. Tôi cứ tưởng rằng Tần Bốn Mắt sẽ phải chịu thiệt, có ngờ đâu anh bạn trí thức này lại rất kiên cường, quần thảo với gã ma cô từ chỗ cái giếng đến tận phòng khách, cả hai đã cuốn chặt lấy nhau lăn lộn trên mặt đất.

Người ta thường nói, người thiện bị người lấn ngựa thiện bị người cưỡi. Đối phó với loại cặn bã như vậy, phải cầm vũ khí đánh dập đầu bọn chúng. Đám nhân viên trong tiệm lây nhiễm nhiệt huyết của chúng tôi, đồng loạt vớ bừa lấy bất cứ thứ gì, đánh nhau với đám bảo kê chỉ được cái bề ngoài hung hãn kia.

"Các ngươi làm cái trò gì thế này, tất cả dừng tay lại cho ta!"

Lão ma cô chợt rống lên một tiếng sư tử hống, màng nhĩ chúng ta thiếu chút nữa bị xé rách. Tuyền béo bịt lỗ tai, chửi ầm lên: "Con mẹ nó, lão già này đúng là cầm tinh con lừa, tiếng hét lớn quá thể."

Tôi ngoác miệng gào lên với cậu ta: "Đây là công phu nội gia, xem ra lão ma cô kia là một người luyện võ."

Ma cô trẻ đang bị Tần Bốn Mắt đè xuống đất đánh cho tối tăm mặt mũi, thấy ông nội mình xuất hiện, vội vàng kêu cứu. Tần Bốn Mắt liếc nhìn lão già họ Vương, cười gằn một tiếng rồi lồm cồm đứng dậy, thắt lại cà vạt ngay ngắn.

Ma cô già nhìn thấy đám quân phản động của mình bị toàn thể quần chúng nhân dân đánh cho không ngóc đầu lên được, tức giận đến mức mặt mũi xanh lè. Tôi và Tuyền béo âm thầm giơ ngón tay cái, cùng cảm thấy trận vừa rồi đánh không chê vào đâu được.

Ma cô già giận quá hóa cười, bước đến trước mặt tôi, nói: "Tốt tốt tốt, không hổ là đồ đệ tốt mà lão yêu quái chọn lựa. Hừ, lão già ta đây thực sự muốn nhìn xem, ngươi sẽ tìm ra ấn Bá Vương bằng cách nào." Nói xong lão xách lỗ tai thằng cháu ma cô của mình lôi ra ngoài cửa.

Tôi hỏi ông Tiết ấn Bá Vương là cái gì. Ông không trả lời mà chỉ nói quả nhiên anh hùng xuất thiếu niên, khen tôi có phong phạm giống hệt như ông cụ Tang thời còn thanh niên. Tần Bốn Mắt nhặt kính dưới đất lên, vui vẻ nói: "Hai vị thật bản lãnh, họ Vương kia e rằng cả đời này cũng chưa bao giờ bị người nào đánh thẳng vào mặt như vậy."

Tôi lau máu trên mặt, nói thế chẳng đáng là cái gì, vào thời điểm tôi và Tuyền béo tham gia trận đánh tiễu phỉ ở vùng cao mới thực sự được gọi là ác liệt. So với đám thổ phỉ lẩn trốn trên núi, cái đám quân tư gia này chỉ là trẻ con còn đang bú bình.

Náo loạn cả một đêm, ngay cả cơm chúng tôi cũng còn chưa kịp ăn. Tuyền béo gào lên chết đói đến nơi, bụng tôi cũng không chịu thua kém sôi lên ùng ục. Ông Tiết vỗ đầu, không ngừng nói xin lỗi, lập tức bảo phòng bếp sắp một bàn tiệc.

Trước khi khai tiệc, ông Tiết thắp cho ông cụ Tang một nén nhang. Người lớn tuổi hay đa sầu đa cảm, mới nói được hai câu đã lại rơm rớm nước mắt. Tôi nhìn thấy đầy một bàn gà vịt thịt cá, con giun trong bụng không ngừng biểu tình, vội vàng đỡ ông Tiết đứng dậy.

"Nhị gia, người là sắt cơm là thép, bỏ ăn bữa nào sẽ đói nhũn người bữa đó. Nào, trước tiên ông ăn hết cái chân gà này để bổ sung một chút năng lượng, lát nữa còn có sức để mà tiếp tục khóc." Tôi tiện tay cũng xé một cái đùi gà rồi gặm. Nhìn thấy chúng tôi ăn như sắp chết đói, mặt mũi dính đầy mỡ, ông Tiết lau nước mắt, nhận lấy cái đùi gà, nói: "Cũng được. Chúng ta ăn cơm trước, chờ khi ăn xong, ta sẽ kể lại cho các cháu nghe câu chuyện ngày trước. Đến lúc đó, các cháu sẽ hiểu được ngọn ngành những gì đã xảy ra."

Tôi thầm than hỏng rồi, lại gặp một người thích kể chuyện dông dài. Những người cao tuổi như ông, hễ cứ rảnh rỗi là lại tìm người người nào đó để kể lại những câu chuyện xưa. Thà đau một lần rồi thôi, tốt nhất giờ cứ nghe ông kể cho xong chuyện, sau đó ngủ một giấc, buổi sáng ngày mai mới tới chỗ Shirley Dương giải thích rõ ràng mọi chuyện sau.

Tần Bốn Mắt đoán được tâm sự của tôi, rót cho ông Tiết một chén rượu: "Tiết Nhị gia, dù cháu đã theo ông cụ Tang một thời gian rất dài, nhưng có một số việc cũng chỉ biết sơ sài. Hôm nay người nhà họ Vương đã đưa ra tối hậu thư, nếu ông không ngại thì cứ nói hết những gì mình biết ra, để cho chúng cháu có cơ hội chuẩn bị tâm lý trước."

Rượu vừa vào bụng, ông Tiết lập tức trở nên lắm lời. Ông vỗ vai tôi, nói: "Cháu Nhất, lần này đã liên lụy đến cháu rồi. Thời ấy, anh cả Tang và ông chủ Vương trẻ tuổi nóng máu, vì tranh đoạt chức chưởng môn đã từng gây ra một trận gió tanh mưa máu. Để hóa giải ân oán giữa hai người, sư phụ của họ đã dấu tín vật chưởng môn là ấn Bá Vương đi, với hi vọng họ có thể đồng tâm hiệp lực, cùng mưu đồ nghiệp lớn. Có ngờ đâu, việc đó lại càng đào sâu mâu thuẫn giữa hai người. Cũng còn may là về sau ông chủ Vương quay lại nước Mỹ thừa kế cơ ngơi và việc kinh doanh buôn bán của gia đình. Về phần anh cả Tang, ông ấy chưa bao giờ từ bỏ việc tìm kiếm ấn Bá Vương. Ông ấy đi khắp nơi thu thập đồ cổ văn vật trong một thời gian dài như vậy, chính là vì muốn tìm ra manh mối về tín vật chưởng môn."

Tôi hỏi ông chẳng lẽ cái ấn đóng dưới bảng hiệu "Nhất Nguyên Trai" không phải là ấn Bá Vương hay sao? Ông Tiết cười méo xẹo bảo rằng đó là do ông cụ Tang không chịu thua kém, đã thuê người phỏng chế lại theo trí nhớ của mình. Bên phía ông chủ Vương cũng có một cái, nhưng đó cũng chỉ là đồ giả. Ngày trước, sư phụ hai người chỉ để lại có một cái nhẫn, một tấm bản đồ, bảo họ cùng nhau đi tìm tín vật. Nhưng hai người này đã đấu với nhau quá nửa đời người, dù thế nào cũng không chịu hợp tác lấy một lần. Vào năm ngoái, ông cụ Tang nói phải về nước một lần xem sao, còn đánh cược với ông chủ Vương, bảo rằng nếu lần này không tìm thấy ấn Bá Vương, bản thân sẽ phá bảng hiệu "Nhất Nguyên Trai" để cho nhà họ Vương làm củi đốt bếp. Có ngờ đâu, chẳng những không tìm thấy vật muốn tìm, ngay cả tính mạng cũng chẳng giữ được. Nói đến đây, Tiết Nhị gia quay sang mắng xối xả Cây Sào ăn cây táo, rào cây sung một trận, bảo rằng nếu sau này mà gặp thì sẽ bằm xác y ra thành mảnh vụn.

Tôi nói, nếu như hai tín vật phải hợp nhất thì mới có thể tìm được Bá Vương ấn, vậy cần gì phải canh chừng không cho lão ma cô kia phá tiệm, cùng lắm chúng ta phá hủy cái nhẫn đó đi, chỉ dựa vào mỗi cái bản đồ, ông ta tha hồ mà hao tâm tổn trí, bao công sức đổ sông đổ bể hết. Ông Tiết đã ngà ngà say, mơ mơ màng màng nói: "Phá hủy chiếc nhẫn là hành vi cùng bất đắc dĩ. Anh cả Tang cả đời ngược xuôi, chẳng qua là vì muốn thắng họ Vương kia một lần. Ta là anh em, vậy mà thực tế lại chẳng thể giúp gì được cho ông ấy. Ta hổ thẹn, ta thật hổ thẹn!" Nói xong lại ôm bàn thờ khóc rống lên, nước mắt chảy đầm đìa. Ba kẻ con cháu chúng tôi cũng bị ông lây nhiễm khiến sống mũi cay cay, không biết nên an ủi như thế nào.

Ngày hôm sau, tôi và Tuyền béo dậy từ sáng sớm để tới viện bảo tàng gặp Shirley Dương. Nhờ kinh nghiệm hỏi đường lần trước, lần này có thể nói là quen tay hay làm, chúng tôi nhanh chóng đến nơi. Chuyến đi lần trước quá vội vàng, không kịp quan sát kỹ càng viện bảo tàng. Hôm nay trời trong xanh, hơn nữa lại là thời kỳ cuối thu, thời tiết trong lành. Tôi hít vài không khí trong lành, tâm trạng bỗng chốc thư thái hơn rất nhiều, quyết định lát nữa khi đi vào sẽ thong thả dạo một vòng, bởi dù sao đây cũng là viện bảo tàng có khuôn viên lớn nhất nước Mỹ, thậm chí là cả thế giới. Bên trong cất giữ hiện vật từ cổ chí kim, từ đông sang tây, có giá trị khảo cổ rất lớn.

Sau khi vào trong viện bảo tàng, trước tiên phải đi dọc theo một bồn hoa trồng kín loại hoa Tulip màu vàng đầy sang trọng quý phái. Đây chính là chỗ cửa vào đường hầm mà tôi và Tuyền béo đã đào ngày hôm qua, chẳng biết cái đường hầm ăn trộm đó có bị phát hiện ra nữa hay chưa. Tuyền béo nói, giờ chúng ta có cần tìm cách lấp nó đi để xóa hết dấu vết hay không. Tôi bảo, lúc này mà chui vào trong đó, chắc chắn sẽ bị người ta quy kết vào tội ăn trộm hoa. Tốt nhất là cứ mặc kệ, nếu không may sau này việc này bị người ta hỏi tới, chúng ta đánh chết cũng không thừa nhận, cứ đổ vấy cho mấy kẻ đột vòm kia là xong.

Bởi vì đang là ban ngày, viện bảo tàng đang tiếp đón rất nhiều du khách với đủ loại sắc tộc màu da. Vô số Cameras trên tay người nước ngoài không ngừng lóe sáng, hết sức náo nhiệt, không còn sót lại một chút không khí u ám nào của đêm hôm qua. Tuyền béo bị hiện vật trưng bày trong viện bảo tàng làm cho thèm khát đến mức sắp nhỏ cả dãi. Vì để tránh cho thằng ranh này phạm sai lầm, tôi lôi tuột cậu ta đi một mạch qua khu triển lãm, đến thẳng phòng nghiêm cứu của Shirley Dương.

Vào ban ngày, nơi này có vẻ giống hệt như một phòng khám bệnh. Sau khi vào trong, cô nàng người Mỹ ở bàn đón tiếp ngăn chúng tôi lại. Tôi bảo muốn tìm Shirley Dương, cô nàng gật đầu rồi đi vào bên gọi một cuộc điện thoại. Chẳng bao lâu sau, cô nàng quay ra mỉm cười mời chúng tôi vào. Tuyền béo khen trình độ ngoại ngữ của tôi tiến bộ thần tốc. Tôi không dám nói cho cậu ta biết, thật ra mình chỉ biết có mỗi vài câu vừa rồi, nếu cô nàng kia tiếp tục hỏi thì chắc chắn sẽ lòi đuôi chuột ra.

Cô nàng người Mỹ dẫn chúng tôi vào một phòng tiếp khách với những cửa sổ được thiết kế tiếp đất. Tôi thấy nơi này rất rộng rãi, chẳng những có ghế sô pha bọc da, trong góc phòng còn đặt một cây chuối tây xanh mơn mởn để làm cảnh, bèn bảo với Tuyền béo: "Chủ nghĩa xã hội tư bản sa đọa, ngay cả phòng họp cũng đẹp hơn văn phòng chính phủ quê nhà chúng ta rồi." Tuyền béo tỏ thái độ hoàn toàn nhất trí, móc cây bút máy ra định viết lên tường phòng một câu khẩu hiệu để công khai phê phán tội lỗi. Trong lúc chúng tôi đang thảo luận xem dùng câu nào cho chuẩn xác nhất, cửa kính phòng tiếp khách chợt bị người khác đẩy từ bên ngoài vào. Quay lại nhìn, người đến chẳng phải Shirley Dương, mà chính là viên cảnh sát ngày hôm trước thiếu chút tức đã bị Tần Bốn Mắt làm cho tức chết ở cục cảnh sát - Mũ Sắt Đen.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 13: Công chúa Inca


Dịch giả: gaygioxuong

Mũ Sắt Đen vừa thấy hai đứa tôi, nét vui vẻ trên mặt lập tức biến mất không còn tăm hơi. Tuyền béo thấy anh ta thì xì mũi coi thường, ngồi phịch xuống ghế hát váng lên bài ca kháng Mỹ viện Triều cứu quốc. Tôi hỏi cô gái người Mỹ, sao Shirley Dương vẫn còn chưa ra. Cô gái bảo, cô Shirley và giáo sư Owen đang tiến hành nghiên cứu quan trọng, có lẽ phải muộn một chút mới có thể ra gặp chúng tôi. Mũ Sắt Đen cầm một tập tài liệu dày cộp, ngồi tách riêng ra một chỗ để xem, cứ như tôi và Tuyền béo hoàn toàn hề không tồn tại vậy. Tôi đoán tập tài liệu anh ta đang cầm trên tay chính là báo cáo về vụ trộm cắp vừa rồi, mấy lần định bắt chuyện nhưng lần nào cũng bị anh ta dùng tập tư liệu để lấy cớ từ chối. Tôi thầm đánh giá anh bạn người nước ngoài thật sự quá hẹp hòi, dứt khoát từ bỏ ý định bắt chuyện làm quen, chạy đến chỗ góc nhà đếm lá cây chuối tây.

Trong quá trình chờ đợi, sau khi tôi đã đếm toàn bộ số lá trên cây chuối tây vài lần, Shirley Dương cùng với vị thánh lải nhải - giáo sư Owen mới sải bước đi vào trong phòng họp.

"Lão Hồ, anh tới thật đúng lúc. Chúng tôi có phát hiện quan trọng, các anh mau qua đây xem xem." Shirley Dương bước về phía chúng tôi với vẻ mặt hưng phấn, sau đó mở một tập tài liệu ra cho chúng ta xem. "Những phần quan trọng, tôi đã ghi chú bằng tiếng Trung rồi. Hình ảnh trong tài liệu tương đối cũ kỹ, toàn là những tấm ảnh lâu năm được lấy ra từ trong cục lưu trữ hồ sơ."

Mũ Sắt Đen không ngờ mình đợi suốt cả buổi, cuối cùng lại thành người vô hình, vung bàn tay to bè lên tỏ thái độ kháng nghị: "Họ không phải là nhân viên làm việc trong viện bảo tàng, cũng chẳng phải là nhân viên cảnh sát, không có tư cách tham gia hoạt động điều tra này. Giáo sư Owen, tôi chính thức đưa ra lời kháng nghị với ngài, yêu cầu đuổi hai người Trung Quốc này ra khỏi nơi đây."

Giống như để thị uy, anh ta còn cố ý dùng tiếng Trung nói lại một lần. Không đợi anh ta nói xong, Shirley Dương đã bày tỏ thái độ rồi: "Sĩ quan Robert, tôi nghĩ là anh đã hiểu lầm. Hai vị chuyên gia khảo cổ học này là khách quý được viện bảo tàng chúng tôi mời tới. Hai người họ có hiểu biết rất sâu và cách nhìn độc đáo về nền văn minh Inca cổ đại, sự tham gia của họ sẽ có tác dụng nổi bật đối với hoạt động điều tra lần này của chúng ta. Mạo muội nói một câu, nếu như buộc phải lựa chọn giữa cảnh sát và hai người này, tôi có khuynh hướng nghiêng hẳn về họ."

Tôi thừa hiểu "Chuyên gia", "Khách quý" gì đó, hoàn toàn là những mỹ danh Shirley Dương dùng để nâng địa vị của hai thằng tôi lên, chủ yếu là muốn làm cho tên Mũ Sắt Đen kia biết khó mà lui, với ý định ngăn chặn anh ta can thiệp quá sâu vào hành động của chúng tôi. Mũ Sắt Đen dùng đôi con ngươi xanh thẳm đánh giá tôi từ đầu đến chân, hiển nhiên không tin chúng tôi là chuyên gia khảo cổ học như Shirley Dương đã nói. Để đối phó với anh ta, tôi cố thể hiện phong thái của một học giả học vấn uyên thâm, cười khẽ vài tiếng, rồi cầm lấy một tấm ảnh cũ, định bịa ra vài câu ngay tại chỗ để hù dọa anh chàng cảnh sát Tây này.

Đó là một tấm ảnh chụp được cắt ra từ một tờ báo cũ, viền tấm ảnh đã rách như xơ mướp, được người nào đó dán lên một miếng bìa carton. Trong tấm ảnh là một thiếu nữ thổ dân đầy quyến rũ. Cô ta thắt hai bím tóc rất dài, mặc một chiếc áo choàng hình như được dệt bằng lông dê, trên đầu cắm lông vũ năm màu, bắt mắt nhất phải kể đến một mớ thòng lọng treo ở bên hông. Bởi vì tấm ảnh đã được chụp từ lâu lắm rồi, nên không thể nhìn rõ trong tay cô ta đang cầm cái gì. Dựa theo cảm nhận của tôi, có lẽ là một vật dụng để hóa trang tương tự như mặt nạ. Chẳng biết tại sao, tôi cứ cảm giác dường như mình đã nhìn thấy cô gái thổ dân trong tấm ảnh ở đâu đó, nhưng lại không thể nhớ ra chính xác đã gặp ở nơi nào.

Thấy tôi mãi không nói năng gì, Mũ Sắt Đen hừ một tiếng đầy khinh miệt. Tôi phớt lờ anh ta, tiếp tục cầm lấy những tấm ảnh còn lại chăm chú xem. Không nhìn thì không nói làm gì, vừa mới nhìn tới thì một cái tên đã lập tức xuất hiện trong trong đầu tôi: "Bà Grimm!"

Chẳng trách tôi cứ cảm thấy thiếu nữ thổ dân cầm mặt nạ trong tấm ảnh kia lại quen mắt đến như vậy, hóa ra chính là bà Grimm trong bức họa ở căn nhà hoang trên Cổ Bình Cương. Mặc dù hình trong bức họa, bà Grimm tầm ba mươi tuổi, lớn tuổi hơn khá nhiều so với thiếu nữ trong tấm ảnh; Thế nhưng, nếu chỉ xét theo đặc điểm gương mặt và hình dáng bên ngoài, cho dù đó không phải là bản thân bà Grimm thì chắc chắn cũng là một người có quan hệ họ hàng với bà ta. Quan trọng nhất là cái mặt nạ vàng ba mắt trang trí hình cánh chim trong một trong số những bức ảnh đó, gần như giống y như đúc cái mặt nạ của người Anh Điêng mà tôi đã nhìn thấy ở Cổ Bình Cương. Nếu như tấm ảnh cầm trên tay không phải đã quá cũ nát, bị ố vàng mất rồi thì tôi cứ tưởng mình đã quay trở về căn nhà hoang ma quái đó.

Giáo sư Owen đang thì thầm trao đổi với Shirley Dương ở bên cạnh, vừa nghe thấy hai từ "Grimm", ông ta gần như nhảy dựng lên, kích động kéo tay tôi, dùng tiếng phổ thông lưu loát hỏi tôi: "Anh, anh nói cái gì? Anh biết bà ấy, anh biết công chúa Lilia? Oh my God, người Trung Quốc thật sự thần bí khôn lường!"

Thấy giáo sư Owen kích động như thế, Mũ Sắt Đen vội vàng hỏi chuyện gì xảy ra. Trên thực tế, đây cũng là câu mà tôi muốn hỏi. Nhưng để giữ phong độ "Học giả" trước mặt đám người nước ngoài có mặt ở đây, tôi chỉ vỗ nhẹ vào lưng giáo sư Owen, bảo với Mũ Sắt Đen với thái độ thản nhiên: "Người Trung Quốc chúng tôi có rất nhiều năng lực thần kỳ, sau này dần dần anh sẽ biết."

Tuyền béo cầm lấy tấm ảnh, tò mò hỏi: "Lão Hồ, sao cậu lại cặp bồ với người nước ngoài thế? Tấm ảnh này được chụp từ lâu lắm rồi, thằng ranh nhà cậu phạm sai lầm chính trị từ bao giờ thế, dám liều lĩnh lừa gạt tổ chức. Tớ thất vọng về cậu quá rồi."

Tôi bảo thằng ranh cậu đừng có ở đó mà châm ngòi ly gián lung tung, tôi luôn trung thành tuyệt đối với cách mạng, không tin cậu cứ hỏi Dương tham mưu. Shirley Dương thở dài một hơi: "Anh vẫn suốt ngày nói hươu nói vượn chẳng thay đổi gì cả. Lần này hiện vật mà viện bảo tàng chúng tôi bị trộm mất chính là chiếc mặt nạ cổ Inca trong tấm ảnh. Ngoài ra, còn có bảng văn tự giáp cốt hoàn chỉnh của thời nhà Ân, Thương."

Giáo sư Owen nhận lấy tấm ảnh từ tay tôi, giới thiệu với giọng điệu hoài niệm: "Người con gái trong tấm ảnh là người Anh Điêng, là bà vợ Lilia của thầy tôi - nhà sử học nổi danh Grimm Stevenson, hậu duệ hoàng thất Inca..."

Vào thời điểm tấm ảnh này được chụp, giáo sư Owen mới chỉ là một chàng trai mới lớn. Lúc ấy đang là thời kỳ "Thế chiến lần thứ hai", chàng thanh niên theo thầy mình là ông Grimm đi vào nơi khởi nguồn của nền văn minh Anh Điêng - hồ Titicaca, để tìm kiếm di tích văn minh cổ đại. Đội tàu gặp bão gió, đội khảo cổ rơi vào cảnh ngộ nguy hiểm, rất may là người trong tộc của công chúa Lilia phát hiện ra họ, đồng thời trợ giúp không một chút vụ lợi. Về sau, đội khảo cổ phát hiện ra di chỉ Tiwanaku, đã khai quật được rất nhiều di vật văn hóa quý báu. Ông thầy Grimm và công chúa Lilia nảy sinh tình yêu đôi lứa, kết thành vợ chồng. Tiệc vui chóng tàn, bộ lạc trên đảo phát sinh nội loạn, cuối cùng vợ chồng ông thầy Grimm cũng dẫn được chàng thanh niên Owen thoát khỏi cảnh ngộ phải chết mười mươi. Sau khi quay về Mỹ, giáo sư Owen đã mất liên lạc với vợ chồng ông bà Grimm, dù đã nhiều năm trôi qua nhưng ông vẫn không từ bỏ nghe ngóng tin tức của hai người. Hai tháng trước, một nhóm vận động viên leo núi đã phát hiện ra một cặp xác chết ôm chặt lấy nhau ở gần một ngọn núi tuyết phủ quanh năm trên dãy Andes. Sau khi xác nhận nhân thân, cặp đôi bị đóng băng hơn hai mươi năm trên ngọn núi tuyết kia chính là vợ chồng nhà Grimm đã mất tích nhiều năm về trước. Về phần cái mặt nạ trên tấm ảnh, nó chính là vật phẩm tùy thân duy nhất mà năm xưa công chúa Lilia đã mang ra khỏi hòn đảo đó. Giáo sư Owen bùi ngùi nói: "Việc đã xảy ra cách đây năm mươi năm. Không ngờ, tấm mặt nạ vừa được đưa vào viện bảo tàng, tôi còn chưa kịp tới để nhìn thấy thêm một nữa thì nó đã bị kẻ khác đánh cắp mất rồi."

Tôi vừa nghe giáo sư Owen hồi tưởng lại chuyện cũ, vừa tính toán so sánh thời gian xảy ra sự việc, phát hiện ra thời điểm vợ chồng Grimm mất tích mà giáo sư đã nói trùng khớp với thời điểm họ xuất hiện ở Trung Quốc. Theo những gì Triệu cóc còn nhớ, sau khi hai người nước ngoài tặng lại căn nhà cho bà cô nhà hắn, họ đã biến mất một cách thần bí. Vậy vấn đề là, khi đó họ tới Trung Quốc để làm gì, tại sao xác họ lại được tìm thấy trên dãy Andes cách Nam Kinh cả mấy chục nghìn km? Quan trọng nhất là, đứa bé trong tấm ảnh đã đi đâu? Vào thời điểm rời khỏi Trung Quốc, chẳng lẽ vợ chồng Grimm lại không dẫn theo đứa con do mình dứt ruột đẻ ra? Nghĩ tới đây, tôi chợt rùng mình, những bào thai ngâm trong bình thủy tinh dưới tầng hầm của căn nhà bỏ hoang lại một lần nữa hiển hiện trước mắt tôi. Trực giác bảo với tôi, hai vấn đề này tất yếu có liên quan mật thiết đến nhau. Thế nhưng, vợ chồng Grimm đã chết, đã không thể nào giải đáp nghi vấn của tôi. Đến giờ này, có lẽ chỉ những kẻ trộm cái mặt nạ kia nắm giữ một vài sự thật mà chúng tôi chưa hiểu rõ cũng chưa biêt chừng.

Shirley Dương nói tiếp: "Ở Nam Mỹ, nền văn minh Inca có thành tựu rực rỡ hơn cả nền văn minh của người Anh-điêng. Nền văn minh này xuất hiện sớm nhất, cũng là một trong ba nền văn minh phát triển nhất trong toàn khu vực đó. Viện bảo tàng chưa bao giờ ngừng tiến hành khai quật lẫn thực thi công tác bảo vệ đối với nền văn minh Inca. Cá nhân tôi cho rằng, vụ mất trộm lần này đã được tính toán từ trước. Xét theo thủ đoạn trộm cắp, chúng không phải là dân trộm cướp chuyên nghiệp, mà nhiều khả năng là bộ đội đặc chủng được huấn luyện nghiêm ngặt."

Mũ Sắt Đen đặt tập tài liệu đang cầm lên bàn, nói với Shirley Dương: "Trong báo cáo khám nghiệm tử thi đã nói rõ, đầu viên an ninh kia bị một loại vũ khí chế tạo bằng thép đặc biệt chặt đứt. Loại thép này chưa bao giờ được biết tới, có thể là thành quả khoa học kỹ thuật mới nhất của một nhóm nghiên cứu nào đó. Xét theo dấu vết để lại trên hiện trường vụ trộm, thủ phạm tổng cộng có ba người, hai nam một nữ, là người châu Á."

Khi nói đến đây, anh ta liếc nhìn mấy người chúng ta đầy ẩn ý, rồi nói tiếp: "Chẳng lẽ cô không thấy thời gian hai vị chuyên gia này xuất hiện quá trùng hợp hay sao?"

Mũ Sắt Đen vẫn ôm mối hoài nghi tôi và Tuyền béo có liên can đến vụ mất trộm vừa rồi của viện bảo tàng, hoàn toàn không tin những gì Shirley Dương đã nói, lại một lần nữa đặt ra nghi vấn về thân thế của hai chúng tôi ngay trước mặt mọi người.

Shirley Dương đang định lên tiếng giải thích thì bị tôi ngăn lại. Đối phó loại người luôn tự cho là thông minh như anh bạn này, bạn thanh minh sẽ chỉ làm cho hắn càng ảo tưởng hơn. Tôi quẳng tấm ảnh xuống, nhíu mày bảo với Mũ Sắt Đen: "Nếu như cảnh sát có chứng cớ, giờ lấy ra luôn đi. Nếu như không có, tôi mong anh lập tức rời khỏi đây, không nên làm ảnh hưởng đến công tác nghiên cứu của chúng tôi."

Mũ Sắt Đen không ngờ tới thái độ của tôi sẽ cứng rắn như thế, lập tức nghẹn họng tức tối không phản bác được câu gì. Shirley Dương vội vàng đứng ra hoà giải: "Anh Robert, giờ điều chúng ta cần làm chính là đoàn kết lại để truy tìm và thu hồi bảo vật đã mất trộm. Nếu như cảnh sát không chịu tin tưởng nhân viên cộng tác của viện bảo tàng chúng tôi, vậy thì việc hợp tác sẽ rất khó tiếp tục triển khai. Mong anh hiểu cho chúng tôi, cũng hiểu cho hai vị khách vượt cả một quãng đường xa xôi để tới đây."

Nghe xong, Mũ Sắt Đen trầm ngâm một lát, cuối cùng ngồi xuống, nói: "Tôi tôn trọng ý kiến của bên phía viện bảo tàng, nhưng vẫn hi vọng các vị hết sức phối hợp với cảnh sát, cung cấp cho chúng tôi tư liệu chi tiết về hiện vật đã bị mất trộm, cùng với danh sách những người hiềm nghi có động cơ phạm tội."

Giáo sư Owen liên tục cam đoan sẽ quay về sắp xếp lại tài liệu rồi lập tức chuyển đến cục cảnh sát. Shirley Dương cũng tỏ thái độ, nếu như cảnh sát có gì cần phối hợp thì tất cả nhân viên, kể cả hai vị "chuyên gia nước ngoài" chúng tôi, cũng sẽ đều ủng hộ hết mình. Mũ Sắt Đen thấy có bậc để xuống thang, lập tức đứng lên, nói: "Nếu đã như vậy, tôi về trước đây, mọi người hãy giữ liên lạc. Giáo sư Owen, tôi chờ số liệu báo cáo của ông."

Tuyền béo đã tức tức giận đến mức sắp xì khói: "Lão Hồ, cậu ngăn tớ lại làm gì? Một tên trùm quân phiệt chủ nghĩa đế quốc như vậy, phải nện vào đầu hắn một gậy, để cho hắn biết sự lợi hại của giải phóng quân nhân dân chúng ta."

Shirley Dương hơi nhếch mép mỉm cười, nói với hai chúng tôi: "Hai người các anh đã một đống tuổi cả rồi, sao còn hành xử như trẻ con thế. Đặc biệt là lão Hồ anh, càng ngày càng không đứng đắn."

Thấy chúng tôi muốn ôn lại chuyện cũ, giáo sư Owen lập tức bảo với Shirley Dương: "Sau khi soạn lại xong tài liệu thì chuyển đến phòng làm việc của tôi. Ngày mai chúng ta lại tới cục cảnh sát một chuyến. Còn nữa, anh bạn trẻ Nhất, khi nào rảnh cậu kể cho tôi nghe kỹ hơn về căn nhà cũ của ông bà Grimm một chút. Tôi cảm thấy, trong chuyến hành trình tới Trung Quốc của họ nhiều khả năng ẩn giấu một bí mật rất quan trọng."

Sau khi tiễn giáo sư Owen ra về, Shirley Dương thở phào một hơi, quay lại nghiêm nghị nói với tôi và Tuyền béo: "Vụ mất trộm vừa rồi tuyệt đối không bình thường. Trước hết các anh đi với tôi để xem một thứ rồi nói sau."

Dựa vào sự hiểu biết đến chân tơ kẽ tóc về Shirley Dương của tôi, nếu như không hoàn toàn nắm chắc, cô tuyệt đối sẽ không bao giờ dễ dàng đưa ra kết luận. Xem ra, nhất định cô đã phát hiện ra manh mối bất thường nào đó. Hai chúng tôi đi theo cô xuyên qua hành lang phía trước viện bảo tàng. Cô vừa dẫn đường vừa phổ cập cho hai thằng chúng tôi những thông tin cơ bản nhất về văn minh Inca một lượt.

Văn minh Inca, văn minh Maya và văn minh Aztec được gọi là ba nền văn minh phát triển nhất của châu Nam Mỹ. Đế quốc Inca kéo dài bốn thế kỷ, bao gồm 14 vị Quốc vương. Vào thời kỳ Đế quốc Inca cường thịnh nhất, lãnh thổ trải rộng, nhận khẩu đạt tới con số mười hai triệu. Thậm chí, người Inca còn xây dựng nên con đường bàn cờ nổi tiếng trên dãy núi Andes ở độ cao hơn bốn ngàn mét so với mặt nước biển. Một nền văn minh hiếm thấy trong lịch sử loài người như thế, đáng tiếc lại bị hủy diệt dưới gót sắt của thực dân Tây Ban Nha vào thế kỷ 16.

Trong số những truyền thuyết nổi tiếng nhất của Đế quốc Inca, phải kể tới "Gian nhà vàng" và "Dòng suối thanh xuân". Về phần truyền thuyết thứ nhất, đã được minh chứng bởi những tài liệu lịch sử có liên quan được ghi chép lại bởi các nhà sử học. Tháng 1 năm 1531, quân kỵ binh của thực dân Tây Ban Nha, dưới sự chỉ huy của Francesco Pizarro(1), được trang bị súng kíp và pháo đại bác, đã phục kích quốc vương Inca thời đó là Atahualpa. Để chuộc lấy tính mạng, Quốc vương Inca cam đoan với Pizarro, nếu như được phóng thích, ông ta sẽ dùng vàng chất đầy căn phòng đang giam giữ mình. Căn cứ vào nghiên cứu sau này của các nhà khảo cổ học cho thấy, căn phòng giam giữ Atahualpa cao ba mét, rộng sáu mét, dài bảy mét. Để chuộc mạng cho Quốc Vương của mình, người Inca đã mất ba tháng để thu gom xấp xỉ 13.265 pound vàng trong cả đế quốc lại để chất đầy gian phòng đó. Đáng tiếc về sau lũ thực dân lật lọng, giết chết Atahualpa. Lúc sắp chết, vị quốc vương Inca đó đã nhân danh Thần Mặt Trời đưa ra lời nguyền rủa độc địa, toàn bộ những kẻ thực dân từng chạm đến số tiền chuộc sẽ không được chết yên lành. Đáng tiếc, Thần linh dường như không nghe thấy lời cầu nguyện của ông ta. Tháng 11 năm 1533, đội quân xâm lược rời khỏi thành cổ Cusco, thủ đô của đế quốc Inca. Một nền văn minh cổ của loài người đã bị hủy diệt bởi phương thức dã man nhất vô tình nhất, từ đó về sau biến mất trong dòng chảy cuồn cuộn của lịch sử. Còn về phần truyền thuyết "Dòng suối thanh xuân" thì hết sức thần bí khó hiểu.

(1) Francisco Pizarro González, (sinh 1475-mất 26 tháng 6, 1541) là một nhà thám hiểm và chinh phục, đã giúp thực dân Tây Ban Nha xâm chiếm Trung và Nam Mỹ. Ông là người đã chinh phục đế chế Inca và sáng lập ra thành phố Lima, mệnh danh là La Ciudad de los Reyes (thành phố của vua). Lima sau trở thành thủ đô của Peru. Vì sự nghiệp đó mà ông được liệt vào hàng conquistador, tức chinh phục tướng công của Tây Ban Nha. (Wiki)

Như trên đã nói, người Inca sùng bái Thần Mặt Trời. Theo lẽ tất yếu, dưới sự áp đặt của giai cấp thống trị, Quốc vương Inca đương nhiên là "Con trai của Thần Mặt Trời", làm vua theo mệnh trời. Nhưng như thế chưa có gì đáng nói, mà điểm chết người nhất là người đầu tiên đảm nhiệm chức Quốc vương Inca được ghi lại trong sử thi, Manco Capac. Anh bạn này chẳng những là con trai của Thần, còn được người cha là Thần Mặt Trời ban cho một cây trượng bằng vàng. Theo truyền thuyết, lúc ấy Inca vẫn còn là một cõi hoang sơ, Thần Mặt Trời định phái con trai Capac và con gái Oqllo Vaco của mình xuống thế gian để khai sáng cho nhân loại. Về phần tại sao hai anh em ruột lại không cùng họ, đây là vấn đề của riêng Thần Mặt Trời, người ngoài không có quyền can thiệp. Trước khi Capac xuống nhân gian, người cha báo cho anh ta biết trước: "Con này, sau khi con dẫn em gái xuống nhân gian thì không phải sợ gì hết, cha đã xây dựng xong mạng lưới quan hệ cho các con rồi. Tất cả mọi người sẽ đồng lòng theo các con làm cách mạng. Đến lúc đó, con chỉ cần dùng cây trượng vàng cắm thử xuống đất, nơi nào có thể cắm xuống được sẽ chính là vùng đất phong thủy, long mạch linh thiêng. Con lập thủ đô ở nơi đó là có thể giúp cho con cháu đời sau trọn đời an khang."

Thần Mặt Trời đã phát ngôn, Capac muốn cãi cũng không có đường mà cãi. Anh bạn đó và người em gái được đưa đến nơi tia nắng mặt trời xuất hiện đầu tiên trong ngày - hồ Titicaca. Hai anh em bắt đầu xuất phát từ Thánh Hồ, lên đường tìm kiếm nơi có thể định đô an bang. Dù đã thử rất nhiều nơi nhưng lần nào cũng tốn công vô ích. Đến cuối cùng, họ cũng cắm được cây trượng vàng xuống đất ở Cusco, khởi đầu cho hành trinh phồn vinh kéo dài qua vài thế kỷ của đế quốc Inca.

Tuyền béo hỏi Shirley Dương: "Ôi, nhiều vàng như vậy, giấu được vào đâu cho hết? Có tài liệu nào có liên quan để tham khảo một chút hay không?"

Tôi bảo: "Giấc mộng đào vàng tìm bảo vật, cậu cứ chờ vài năm nữa rồi hãy tiếp tục mơ. Trước hết hãy nghe cho xong câu chuyện về "Dòng suối thanh xuân" gì đó rồi nói sau."

Shirley Dương nói tiếp: "Từ trước khi thực dân Tây Ban Nha đặt chân lên châu Mỹ, những truyền thuyết có liên quan đến "Dòng suối thanh xuân" đã có nhiều vô kể. Nổi danh nhất phải kể tới Nhật ký hàng hải của nhà thám hiểm Hoàng gia Tây Ban Nha, Ponce De León(2). Trong nhật ký, ông đã ghi chép chi tiết quá trình họ đã tìm được dòng Suối Thánh trong bộ lạc của người Inca ra sao. Căn cứ vào miêu tả của ông, dòng Suối Thánh bắt nguồn ngay từ chỗ cây trượng vàng của Thần Mặt Trời cắm xuống đất. Dòng suối có thể khiến cho cây cối đã khô héo nẩy mầm, chim thú đã chết sống lại. Người già đã mất đi thanh xuân, chỉ cần ngâm mình trong dòng suối là có thể khôi phục lại thanh xuân. Về sau, họa sĩ cung đình nước Đức còn căn cứ vào truyền thuyết này để vẽ bức họa "Nữ thần sông suối" nổi tiếng, hiện đang được lưu giữ tại viện bảo tàng Leipzig. Bộ lạc của công chúa Lilia sinh sống ngay bên cạnh hồ Titicaca - nơi khởi nguồn của dòng Suối Thánh. Họ là một nhánh con cháu của người Inca cổ. Sự hiện hữu của bà ta giống như một hoá thạch sống, có sự trợ giúp rất lớn đối với việc nghiên cứu văn hóa Inca của chúng ta. Theo trí nhớ của giáo sư Owen, vào thời điểm chạy ra khỏi rừng nhiệt đới năm ấy, công chúa dù có mất mạng cũng phải tìm ra cái mặt nạ đó trong đống đổ nát cho bằng được. Qua đó có thể thấy được tầm quan trọng của nó. Đáng tiếc là không biết trong tín ngưỡng của người Inca, mặt nạ ba mắt trang trí hình cánh chim chính xác đại biểu cho cái gì, mà lại có thể khiến cho họ tình nguyện đánh đổi bằng cả tính mạng."

(2) Juan Ponce de León (1474 - tháng 7 năm 1521) là một nhà thám hiểm người Tây Ban Nha. Ông đã trở thành Thống đốc đầu tiên của Puerto Rico dưới sự chỉ định của hoàng gia Tây Ban Nha. Ông đã dẫn đầu cuộc thám hiểm châu Âu đầu tiên đến Florida, mà ông đặt tên. Ông được gắn liền với truyền thuyết Suối nguồn thanh xuân, rất nổi tiếng ở Florida. (Wiki)

Tôi đắm chìm vào câu chuyện kể về đế quốc cổ xưa của Shirley Dương, trước mắt dường như đang tái hiện lại quá trình tàn lụi đó, thành trì bị kẻ địch tấn công đốt cháy. Dân tộc Trung Hoa chúng ta may mà không phải trải qua niềm đau thương đó. Tôi còn đang nghĩ ngợi, Shirley Dương đã dừng lại bên cạnh một khóm cây xanh tốt rậm rạp. Bởi vì khóm cây này nằm sát nhà kho đã bị trộm, cho nên đã bị cảnh sát khoanh vùng cấm vào bằng cách giăng ngang một sợi dây nhựa màu vàng đặc thù của mình, nhìn hết sức bắt mắt.

Tôi hỏi Shirley Dương chỗ này có gì khác lạ. Cô khom người chui qua đường dây khoanh vùng cấm vào của cảnh sát, dời những bồn hoa được chất đống ở chân tường qua một bên, một cửa đường ngầm hiện ra trước mặt chúng tôi. Tuyền béo vừa nhìn thấy đã ngồi xổm xuống nói: "Ái chà, quái lạ, ngoài hai anh em ta ra thế quái nào còn có người khác đào đường ngầm để vào thế này. Lão Hồ, cậu xem hình dạng cửa đường ngầm xem có phải do xẻng Lạc Dương tạo ra hay không?"

Cửa vào vuông hình sắc cạnh, đường hầm ăn thẳng vào sâu trong tường. Xét theo bề bề ngoài, đích thật là tác phẩm được tạo ra bằng xẻng Lạc Dương. Nhưng, một chiếc xẻng sắt bé tẹo thì làm sao có thể phá thủng được một bức tường bằng xi măng cốt thép, vấn đề này khiến tôi nghĩ nát óc mà không sao giải thích nổi.

"Dụng cụ có hình dạng tương tự, nhưng là công nghệ chế tạo lại khác hoàn toàn." Shirley Dương chỉ vào cửa đường ngầm cháy xém như bị lửa đốt, "Ông nội tôi đã từng đề cập tới một phương pháp cắt đá độc đáo, được ghi trong bí tịch độc môn không truyền ra ngoài của Bàn Sơn Đạo Nhân, được truyền lại từ một vị nội thần họ Lý thời Vạn Lịch nhà Minh. Nghe nói, khi ấy Quảng Đông có rất nhiều loại nguyên liệu làm nghiên mực, trong số đó có một loại màu tím hiếm thấy trên đời, chỉ tồn tại trong những vách đá dựng đứng bên bờ biển. Người khai thác đá phải dùng búa đục bằng sắt để đục, mỗi ngày chỉ có thể đục sâu vào vách đá dựng đứng tầm nửa tấc, năm ngày qua ngày năm qua năm, phải mất vài năm trời mới có thể thu được một khối đá nhỏ xíu. Sau khi vị họ Lý đó đến nhận chức, đã phái người dùng gan loài thỏ trên núi Côn Ngô làm chất xúc tác để chế tạo dụng cụ phá núi. Trước mỗi lần tiến hành cắt đá, người ta dùng tuyết tháng chạp đã được chuẩn bị sẵn để rửa sạch vách núi đá. Tất cả công nhân khai thác đá đều phải tán thưởng, sau khi sử dụng phương pháp độc đáo của Lý đại nhân, đá núi trở nên mềm như bún, đục sắt lại trở nên sắc bén cứ như có thần linh trợ giúp. Đêm qua, sau khi cảnh sát ra về, tôi đã kiểm tra kỹ lưỡng thêm một lần nữa, phát hiện ra có một vài cái tủ chứa đồ đã bị người khác dịch chuyển khỏi vị trí ban đầu. Tôi cảm thấy có điều gì đó kỳ lạ, bèn men theo chân tường tìm kiếm, quả nhiên đã phát hiện ra cái cửa hầm ngầm này. Lúc ấy, trên mặt tường vẫn còn vệt nước, sờ vào lạnh thấu đến tận xương. Cho nên tôi suy đoán, xuất thân của những kẻ ăn trộm này tuyệt không đơn giản."

Tôi và Tuyền béo chưa bao giờ từng nghe nói trên đời này lại có phương pháp phá núi thần kỳ như thế. Sau khi tấm tắc khen trí tuệ của bậc tiền nhân, Tuyền béo nói: "Nếu đúng như cô đã nói, bất cứ một bức tường nào, chỉ cần dội lên một thùng nước lạnh có thể đào xuyên qua. Vậy thì dân chúng còn vật lộn kiếm sống làm cái mẹ gì, đổ xô đi ăn trộm là khỏe rồi."

Shirley Dương đáp lại cậu ta: "Tuyết tháng chạp dễ có, thỏ chuyên ăn đồng và sắt lại khó mà tìm được. Tôi hỏi anh, đã bao giờ anh nhìn thấy loài thỏ nào không ăn cỏ cây, chỉ chuyên gặm đồng và sắt hay chưa?"

Tuyền béo thất vọng thở dài một hơi, đau lòng vì mất đi một cách làm giàu nhanh chóng không thôi. Nhìn cửa đường ngầm trên tường, tôi chợt nhớ tới đám người mặc đồ đen đã gặp lần trước ở sân bay, chẳng phải bọn chúng đang nắm công nghệ chế tạo xẻng Lạc Dương trong tay hay sao?
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 14: Mưa gió lại nổi lên


Dịch giả: gaygioxuong

Trong chớp mắt, tôi chợt nhớ tới đám người mặc đồ đen đã gặp tại sân bay Thượng Hải, bọn chúng hành động thần bí lại còn mang theo bản thiết kế xẻng Lạc Dương. Nghe Răng Vàng nói, lúc ấy bọn chúng gấp rút giục máy bay cất cánh, bảo rằng có chuyện quan trọng phải làm, không thể chậm trễ. Tôi vội vàng hỏi Shirley Dương: "Nhà bảo tàng xử lý những hiện vật mới được chuyển tới như thế nào?"

Dù không hiểu tại sao tôi lại đưa ra một câu hỏi chẳng có liên quan gì vào lúc này, nhưng cô vẫn từ tốn giải thích: "Từ trước tới nay, chúng luôn được cất giữ trong nhà kho tạm thời, chính là gian phòng trước mặt chúng ta đây. Sau đó sẽ được chuyên gia phụ trách thẩm định phân loại đưa vào hồ sơ, rồi chuyển đến các phòng nghiên cứu tương quan để tiến hành phân tích chú giải. Sau khi quy trình công tác nghiên cứu đã được hoàn thiện, viện bảo tàng sẽ đưa ra quyết định chuyển chúng sang khu vực triển lãm hay cất giữ trong kho an toàn để bảo quản."

Tôi gật đầu, lại hỏi cô: "Nếu như vật phẩm đã được cất vào nhà kho, có phải người ngoài sẽ rất khó tiếp cận hay không?"

"Điều này là đương nhiên, nhà kho nằm sâu dưới mặt đất hơn 100m, được cài đặt hệ thống bảo vệ hiện đại. Hơn nữa, máy báo động trong nhà kho còn nối thẳng với Cục an ninh quốc gia. Có thể nói, viện bảo tàng của chúng tôi là thành lũy kiên cố nhất trên toàn cầu."

Shirley Dương đang nói, đột nhiên ngừng lại, nhìn chằm chằm vào tôi hỏi: "Lão Hồ, có phải anh có phát hiện gì đó hay không?"

Tôi kể lại toàn bộ những gì mình đã trải qua ở sân bay cho hai người nghe. Shirley Dương nhíu mày nói: "Manh mối này rất quan trọng, tôi cảm thấy buộc phải liên hệ với cảnh sát một lần. Lão Hồ, anh có dự định gì không?"

Trời còn chưa sáng, tôi và Tuyền béo đã lẻn ra khỏi tiệm chạy đến đây. Có lẽ giờ ông Tiết đang lùng sục khắp nơi tìm hai thẳng chúng tôi rồi, nếu như không quay về giải thích một câu thì thật sự hơi quá đáng. Vì vậy, chúng tôi quyết định trước tiên quay về tiệm lấy hành lý rồi sẽ trở lại tìm cô sau. Ra khỏi cửa viện bảo tàng, Tuyền béo vẫn còn luyến tiếc mãi bí thuật xuyên tường, bảo rằng lần tới có cơ hội nhất định phải đi núi Côn Ngô tìm bắt loài thỏ ăn sắt mà sống, thử một lần xem có linh nghiệm hay không. Tôi nhìn thấy bên kia đường có một chiếc thùng lớn màu đen đang đỗ, bên vỉa hè lại có mấy kẻ với gương mặt mang nét của người châu Á đang canh chừng nhìn về phía chúng tôi, bèn kéo lại Tuyền béo đang chuẩn bị sang đường lại: "Này, những kẻ kia sao lại nhìn có vẻ quen mắt thế?"

Chúng tôi giả vờ như người đang rỗi việc, tản bộ dọc theo con phố. Mấy kẻ kia lập tức băng qua đường, tiến lại gần chúng tôi. Chiếc xe thùng lớn màu đen ở bên kia đường cũng bắt đầu từ từ lăn bánh, bám riết sau lưng chúng tôi.

Chúng tôi mới tới nước Mỹ được có mấy ngày, số người đã từng tiếp xúc có thể đếm được trên đầu ngón tay. Những kẻ này có tác phong hành động không giống cảnh sát, trong "Nhất Nguyên Trai" cũng chưa từng nhìn thấy anh em nào giống như vậy. Chỉ còn lại vị Hội trưởng Thương hội Hoa kiều, người tự phong là Thiên Vương Lão Tử, Vương Phổ Nguyên kia nữa mà thôi. Chẳng lẽ Ma Cô Già lại nghĩ ra cái trò quỷ gì để hành hạ hai anh em chúng tôi?

Những người đó càng lúc càng rút ngắn khoảng cách, tôi và Tuyền béo len lỏi trong đám đông, sải bước vội vàng gần như là chạy.

"Con mẹ nó, cái đám này ma cô này bám đít quá chặt." Tuyền béo lâu lắm rồi không vận động nhiều như vậy, đầu tóc ướt sũng mồ hôi. Tôi thấy cứ thế này thì không thể nào cắt đuôi được, bèn bảo với Tuyền béo: "Tìm chỗ nào đó giải quyết vấn đề để thoát khỏi mớ phiền phức này."

Sau khi chúng tôi thống nhất với nhau, hai thằng lập tức dốc hết sức lực, guồng chân chạy như điên. Mấy kẻ kia lập tức đuổi theo. Người đi đường xung quanh bị chúng ta làm cho kinh sợ, dạt cả sang hai bên. Tôi có cảm tưởng như hai chân đang đạp mây lướt gió, lâu lắm rồi không hoạt động thân thể xương cốt mạnh như vậy.

"Tuyền béo! Bên này." Tôi chọn trúng con hẻm phía sau một quán ăn nhỏ, lôi Tuyền béo chạy vào một khu vực tối đen như hũ nút. Mấy kẻ theo dõi lập tức lao vọt vào trong. Ngõ hẻm cực kỳ nhỏ hẹp, tối đa có thể cho phép hai người đi sóng vai. Tuy có bảy tám người, nhưng đối phương buộc phải xé lẻ ra để hành động. Tôi và Tuyền béo khoái nhất là cái trò đánh lộn như thế này, hai thằng nhặt vỏ chai bia lăn lóc trên mặt đất lên, cứ trông thấy người là đập. Hai thằng ranh tóc vàng bị chúng tôi đánh bay ngược trở lại. Mấy kẻ theo dõi không ngờ chúng tôi lại ra tay độc ác như vậy, mấy tên ở sau cùng vội vàng bỏ chạy. Số còn lại dựa vào nơi hiểm yếu hòng chống lại, bị chúng tôi đánh cho một trận tơi bời.

"Nói, nhóc con, ai phái mày tới?" Tuyền béo tóm cổ một kẻ xách lên, hung dữ hỏi, "Không cho các ngươi thấy một chút bản lãnh, ngươi còn không biết cậu đây là người không dễ trêu. Dám ra tay với cậu béo đây, ta khinh!"

Thằng nhóc tóc vàng bị Tuyền béo làm cho kinh sợ tới mức không dám kêu thành tiếng, lau nước mắt, nói ngọng nghịu bằng tiếng Trung: "Tiết Nhị gia ở khu phố Tàu phái chúng tôi đến, ông ấy bảo có việc tìm anh Hồ..."

Nghe vậy, Tuyền béo ảo não nói: "Hỏng rồi, lão Hồ, quân ta đánh quân mình." Tôi vẫn đang cảm thấy quái lạ vì đám tay chân của Vương Phổ Nguyên cũng chẳng phải hạng người như thế này. Có ngờ đâu, mấy gã tóc vàng này chỉ là đám côn đồ ở khu phố Tàu do ông Tiết phái tới chuyển lời. Đúng lúc này, một chiếc xe thùng màu đen từ từ dừng lại, chặn ngang ở đầu con hẻm. Tôi và Tuyền béo thoáng liếc nhìn nhau, cả hai đều cảm thấy tình hình không ổn. Cửa xe vừa mở ra, bốn tên đàn ông vạm vỡ đã nối đuôi nhau nhảy xuống, chính là bốn tên bảo vệ đã đi theo sau Vương Phổ Nguyên ngày hôm trước. Ngực áo bọn chúng phồng lên một cục, tôi thừa hiểu đó là súng ngắn, lập tức nhấc thằng nhóc tóc vàng ném vào đống rác. Tuyền béo cùng với tôi đi thẳng tới chỗ bốn kẻ vạm vỡ như bò mộng. Đối phương thấy chúng ta lại gần, không hề nói năng câu gì, một tay làm ra tư thế mời, một tay thọc vào trong lồng ngực. Tôi rặn ra một nụ cười gượng gạo, bảo Tuyền béo: "Đến nước Mỹ lâu như vậy, còn chưa lần nào được ngồi xe cao cấp thế này. Hôm nay người anh em này chiêu đãi cậu, lên đi!"

Tuyền béo cười hì hì, đập tôi một cái. Hai người không nói thêm câu gì, chui tọt vào bên trong chiếc xe đen thui đó.

Chiếc xe liên tục lao đi vun vút, bốn tên vạm vỡ ngồi thẳng đơ ở ghế trước và ghế sau, kẹp tôi và Tuyền béo vào giữa. Bốn gã giống như tượng thần canh cửa, mắt không nháy lấy một cái, nhìn chằm chằm quan sát phản ứng của hai thằng không rời một giây phút nào. Tôi định nói vài câu cho không khí bớt tẻ nhạt, nhưng bị đôi mắt vô cảm của bọn chúng nhìn chằm chằm, thành ra cụt hứng chẳng muốn nói câu gì. Trong lòng tôi nôn nao thấp thỏm không yên, chẳng hiểu nổi chúng đang đưa hai thằng đến chỗ nào, lỡ như Ma Cô Già nổi điên bí mật dìm chúng tôi xuống Thái Bình Dương, vậy thì chẳng có ai biết đường mà vớt xác cho.

Tôi ngó nhìn cảnh vật bên ngoài cửa xe, nhà cửa hai bên đường đang dần biến mất, điều này đã chứng tỏ chúng tôi đang ngày càng rời xa thành phố. Chẳng bao lâu sau, một vùng biển khơi đã xuất hiện trong tầm nhìn. Tôi bảo Tuyền béo, lần này có lẽ đã làm liên lụy đến cậu rồi, đi một chuyến xa tít mù khơi còn chưa kịp ăn một cho ra tấm ra miếng thì đã phải đi gặp Mark báo cáo lỗi lầm đã phạm phải trong những năm vừa qua mất rồi. Tuyền béo cũng rất u sầu. Cậu ta bảo, lão Hồ cậu chỉ giỏi lừa đảo, lúc trước khăng khăng là sẽ được uống rượu mừng, thế quái nào mà bánh cưới còn chưa được ăn, rượu Hoàng Tuyền lại đã được bưng lên tận miệng. Sắp tới khi gặp Mark, tớ phải tố cáo cho bằng được, cái cậu đồng chí này cực kỳ không đáng tin cậy.

Chiếc xe thùng liên tục lao nhanh như tia chớp, khoảng nửa giờ sau đã chạy đến một khu nông trại ở vùng ngoại ô. Bốn xung quanh là ruộng ngô mênh mông bát ngát. Có mấy chiếc máy kéo đang cày bừa trên vài thửa ruộng. Chúng tôi không hiểu Ma Cô Già đang làm cái trò quỷ gì, đành phải đi vào khu ruộng ngô dưới sự áp tải của bốn tên vạm vỡ.

"Lão Hồ, liệu bọn chúng có định xuống tay ở chỗ này, dùng xác chúng ta làm phân bón không?" Tuyền béo vừa đi vừa hỏi, "Hay là ta chạy trốn đi. Ruộng đồng lớn thế này, có lẽ bọn chúng chưa chắc đã bắt được chúng ta."

"Nơi này quá hoang vu, quanh đây không thấy bóng một căn nhà nào. Chúng ta tránh được mùng một không tránh được ngày rằm. Hơn nữa, nếu quả thật muốn giết chúng ta, chúng đã xuống tay trên đường rồi, cần gì phải hao công tốn sức đưa chúng ta đến tận đây. Tớ đã để ý nhìn rồi, toàn bộ chìa khóa xe đang nằm trong tay Đầu Trọc, nếu thật sự muốn chạy vậy phải bắt đầu ta tay từ lão."

Chúng tôi tiến sâu vào trong khu ruộng ngô, thỉnh thoảng có một hai âm thanh vang lên văng vẳng đâu đây. Tên bảo vệ trọc đầu quay lại bảo tôi: "Lát nữa gặp Long Đầu, nhớ thông minh một chút. Tâm trạng của ông ấy không được tốt lắm."

Ngoài miệng tôi nói: "Tâm trạng Ma Cô Già không tốt có liên quan chó gì đến tôi, cậu đây không phải là vú em của lão." Nhưng trong lòng lại âm thầm tự nhắc nhở chính mình, lần này muôn vàn lần không thể hành động theo cảm tính.

Sau khi đi sâu vào trong thêm một lúc, chúng tôi đã tới một khoảng đất đất trống bị đốt trụi. Đập vào mắt là hai tên mặc đồ đen đã bị hành hạ đến mức hấp hối, đang quắp người lại trên mặt đất, toàn thân be bét máu thịt, không có chỗ nào còn lành lặn. Vương Phổ Nguyên thì đang cầm chén trà, ngồi dưới một cái lọng phật vàng, đứng đằng sau là hai kẻ bảo vệ. Còn thằng cháu Ma Cô Trẻ, lúc này đang đứng ở bên cạnh. Nhìn thấy chúng tôi tới, gã không dám mở miệng nói câu gì, chỉ giơ ngón tay thối về phía hai thằng.

Cảnh này rõ ràng là người nhà họ Vương đang thi hành gia pháp, chẳng hiểu nổi hai kẻ mặc đồ đen kia đã vi phạm điều cấm nào mà lại bị trừng phạt nặng như thế. Khó hiểu nhất là Vương Phổ Nguyên bắt chúng tôi tới đây để làm gì.

"Hồ Bát Nhất," Vương Phổ Nguyên nhấp một hớp trà, sau đó gằn giọng nói ra tên tôi từng chữ một, "Cậu có quen biết hai người kia không?"

Tôi lắc đầu, trong lòng thầm nhủ đùa chắc. Hai tên này bị các vị đánh sưng vù cả mặt như Trư Bát Giới. Đừng có nói là tôi, ngay cả mẹ ruột chúng đến, có lẽ cũng thể không nhận ra được nữa là.

Vương Phổ Nguyên đặt tách trà xuống, hỏi tiếp: "Có biết vì sao lại đưa các cậu đến đây không?"

Tôi đáp: "Cụ đưa chúng tôi đến đây, khẳng định không phải là để uống trà. Hai vị đang nằm trên mặt đất kia, chúng tôi chẳng hề quen biết. Nếu có gì muốn nói, cụ tốt nhất cứ nói thẳng tuột ra."

Vương Phổ Nguyên đứng lên, đi đến bên cạnh hai kẻ mặc đồ đen, nói với bọn chúng: "Hai người kia, các ngươi đã từng gặp chưa?"

Hai kẻ nằm trên mặt đất, đầu tiên há miệng hít vào mấy hơi rồi mới nói: "Vương lão anh hùng, việc này không có liên quan đến người khác, ông tốt hơn hết là cho chúng tôi được giải thoát. Tránh cho sau này có người bảo rằng người của nhà họ Vương cụ không hiểu đạo nghĩa giang hồ."

Hắn vừa nói xong, Ma Cô Trẻ lập tức nhảy ra đá cho hắn một cú: "Đã trộm đồ của nhà họ Vương chúng ta, mày còn dám mở miệng nói đạo nghĩa."

Cú đá đó rất mạnh, người đó bị đá bay đi cả nửa mét, vừa rơi xuống đất đã ộc ra máu mấy lần liền. Ma Cô Trẻ đang định tiếp tục đánh nữa, Vương Phổ Nguyên đã quát lên "Thanh Chính", gã lập tức rụt chân lại, giải thích: "Ông nội, do hắn đã..."

Vương Phổ Nguyên phất tay, Ma Cô Trẻ không dám nói thêm câu gì, ngoan ngoãn lùi lại đứng bên cạnh cái lọng phật. Qua cuộc đối thoại ngắn vừa rồi của hai người, tôi thấy hiển nhiên là nhà họ Vương đã bị kẻ khác đánh cắp mất một món đồ quan trọng nào đó, còn hai kẻ này là nghi phạm đã bắt được. Tuy nhiên, xét theo những gì vừa diễn ra, có lẽ vật bị mất trộm vẫn còn chưa lấy lại được, mà đã bị đồng lõa của chúng mang đi mất. Vương Phổ Nguyên bắt chúng tôi đến đây, đơn giản chỉ là vì hoài nghi chúng tôi, cho rằng chúng tôi có liên quan đến việc này.

Vương Phổ Nguyên bước tới trước mặt tôi, hỏi: "Hồ Bát Nhất, cậu có biết ta và lão yêu quái đã từng đánh cược với nhau hay không?"

Tôi thành thật trả lời lão: "Tiết Nhị gia đã nói sơ qua."

"Vậy cậu có biết làm thế nào để tìm được ấn Bá Vương không?"

"Biết đại khái một chút, nghe nói là phải hợp nhất hai món tín vật truyền thừa của sư môn lại."

"Đúng vậy, xem ra cái gì cậu cũng biết." Vương Phổ Nguyên dùng đôi mắt sắc bén như chim ưng nhìn chằm chằm vào tôi, sau đó tiếp tục nói, "Nhưng vào ngày hôm qua, tấm bản đồ trong tay ta đã bị kẻ khác đánh cắp. Cho nên, ta muốn tìm cậu tới đây để hỏi một câu, chiếc nhẫn bằng Ngọc Phỉ Thúy có còn nguyên vẹn không?"

Hai kẻ nằm trên mặt đất đã mềm nhũn như một đống bùn, sau khi nghe nói chiếc nhẫn đang nằm trong tay tôi, tên bị đánh cố gắng lấy hơi, ngẩng đầu lên nhìn tôi. Hắn lướt nhìn qua một lượt cả Tuyền béo lẫn tôi. Nhưng đến khi nhìn thấy tôi, hắn đột ngột thốt lên: "Là chú mày!"

Tiếng hô của hắn lập tức làm cho ánh mắt mọi người đều đổ dồn vào tôi. Trong lòng hết sức bực bội, tôi bèn hỏi hắn chúng ta đã gặp nhau ở đâu. Tên kia kích động đến mức gần như đứng bật dậy. Tuy nhiên, xương đùi đã bị người ta đập gãy, hắn đành phải nhổm người lên nói: "Chúng ta đã gặp nhau ở sân bay Thượng Hải, chú mày không nhớ sao?"

Tôi ngồi xổm xuống quan sát, nhưng kẻ này không phải là gã mặc đồ đen vặn hỏi tôi và Răng Vàng về bản thiết kế ở phi trường ngày hôm đó. Trong khoảnh khắc, vô số câu hỏi rối rắm hiện lên trong đầu, tôi thực sự không biết nên hỏi hắn câu nào trước mới tốt. Thấy tôi rối rắm lưỡng lự, Ma Cô Trẻ nói với ông nội mình: "Cháu đã bảo là bọn chúng cấu kết với nhau rồi mà, hãy để cháu xử lý thằng ranh này."

"Xử lý cậu ta, cháu là đối thủ của người ta sao?" Vương Phổ Nguyên không thèm nể nang gì thằng cháu trai vô dụng. Lão đặt chén trà xuống, ngồi xổm bên cạnh tôi cười gằn một tiếng, "Hay cho một câu "Tha hương ngộ cố tri". Hồ Bát Nhất cậu có dám khẳng định chắc chắn là mình không có liên gì tới vụ trộm đồ không, không có liên quan gì với "Nhất Nguyên Trai" không! Hử?"

Tôi đáp, cụ à, việc này thực sự chẳng có liên quan gì tới chúng tôi cả. Ngay cả chúng tôi cũng bị kẻ khác thó mất đồ, giờ còn đang chạy đôn chạy đáo khắp nơi truy tìm hung thủ đây này!

Vừa nghe thấy nói hai kẻ mặc đồ đen này thuộc về đám người có bản vẽ mà tôi đã gặp ở Thượng Hải, Tuyền béo lập tức nổi hứng bừng bừng. Cậu ta ngồi xổm xuống, hỏi gã đó: "Người anh em, cái mặt nạ của viện bảo tàng cũng là do các vị thó đúng không?"

Gã đồ đen vừa mới nghe thấy Tuyền béo hỏi như vậy, giọng nói đột nhiên trở nên ngắc ngứ, hết sức bối rối nói: "Tôi không hiểu các vị đang nói cái gì. Tôi chỉ biết là đã gặp anh bạn này cùng với một người bịt răng vàng ở sân bay."

Gã nói như vậy, tôi càng khẳng định đám người mặc đồ đen mình đã gặp lúc trước có liên quan đến vụ mất trộm. Tôi đứng lên, nói với Vương Phổ Nguyên: "Không dối gạt cụ, chúng tôi cũng bị mất đồ. Hơn nữa, có nhiều khả năng là do cùng một nhóm thực hiện. Tuy không biết mục đích của bọn chúng là gì, nhưng hai kẻ này hết sức quan trọng, hi vọng cụ cho bọn chúng một con đường sống, giao cho cảnh sát xử trí."

Vương Phổ Nguyên đương nhiên không dễ dàng tin tưởng lời nói của chúng tôi như vậy, lại tiếp tục to tiếng dồn ép. Tôi thật sự không còn cách nào, đành phải kể lại từ đầu đến cuối vụ mất trộm của viện bảo tàng, lẫn lần chạm mặt với đám người đó ở sân bay Thượng Hải cho lão nghe."Ông cụ Vương, tất cả đều là sự thật. Nếu cụ vẫn còn không tin, chúng ta chỉ còn mỗi cách là đến cục cảnh sát đối chất nữa mà thôi."

Tuyền béo đã không nhẫn nhịn nổi được nữa, nói với Vương Phổ Nguyên: "Đồng chí Vương kính mến, tất cả chúng ta đều là người bị hại, hiện giờ theo đuổi cùng một mục tiêu. Cụ đừng có nghi ngờ nữa, nếu chúng tôi thật sự là đám kẻ trộm, chắc chắn đã cầm cái ấn vứt đi đó cao bay xa chạy, hơi sức đâu mà ở đây tán hươu tán vượn với cụ."

Vương Phổ Nguyên liếc mắt ra hiệu cho đám thủ hạ. Bọn họ lập tức lôi hai kẻ mặc đồ đen ra phía bên ngoài ruộng ngô. Tôi sợ hai kẻ đó bị thủ tiêu, vội nói với Vương Phổ Nguyên: "Giờ đồ vẫn còn trong tay bọn họ, cụ hành xử tốt nhất nên chừa lại một con đường lui."

Lão hừ một tiếng đầy nặng nề: "Thế nào, ta cần cậu dạy mình phải làm thế nào hay sao? Cái đám thanh niên tự cho mình là thông minh các cậu, thật sự là không biết trời cao đất rộng. Lão yêu quái họ Tang kia có truyền nhân như cậu, coi như lão không may." Nói xong, lão sai đám tay chân dẫn tôi và Tuyền béo lên biệt viện ở trên núi chờ mình.

Biệt viện của Vương Phổ Nguyên nằm trên ngọn núi ngay đằng sau khu nông trường. Chúng tôi bị bốn tên lực lưỡng áp giải, leo núi hơn một giờ đồng hồ mới tới được cổng chính một công trình mang đậm nét kiến trúc cổ của Trung Quốc. Tôi hỏi lão già trọc đầu lên trên đó bằng cách nào. Lão ta chỉ lên trời, đáp: "Cáp treo, lên thẳng." Tôi ngẩng đầu lên nhìn, quả thật có một sợi cáp điện ở giữa không trung. Tuyền béo hỏi tôi: "Lão già mắc bệnh gì mà lại xây nhà trên núi, chẳng lẽ nơi này là một khu vực có phong thuỷ tốt?"

Cậu ta vừa hỏi câu này đã lập tức gợi ý tưởng cho tôi. Hoàn cảnh địa lý của nước Mỹ và Trung Quốc có rất nhiều điểm khác nhau. Xét tổng thể, địa hình Trung Quốc tây cao đông thấp, vạn núi giống nhau như cùng một mẹ, đều bắt đầu từ Côn Luân. Trong Phong thuỷ học, nơi khởi nguồn của núi và nước được gọi là 'tổ', 'tổ' lại được chia thành 'viễn tổ', 'thái tổ', 'thiếu tổ', 'tổ sơn'. Thời cổ đại, các nhà phong thuỷ cho rằng núi Côn Luân là cây trụ chống trời, là liên kết giữa trời và đất, toàn bộ núi non sông ngòi trên mặt đất đều khởi nguồn từ Côn Luân, cho nên gọi Côn Luân là 'thái tổ'. Tiếp đó, dãy Côn Luân phân nhánh ra 'Đại can long' tức là 'thái tổ', 'thái tổ' phân nhánh ra 'Trung can long' tức là 'thiếu tổ', 'thiếu tổ' phân nhánh ra 'Tiểu can long' tức là 'Sơn tổ', mả kết thì được gọi là 'Phụ sơn'. Ví dụ như Tung Sơn, Hằng Sơn, Hoa Sơn, Hành Sơn và Thái Sơn trong Ngũ Nhạc, đều là nhánh Đại can của dãy Côn Luân, là 'tổ' của muôn vàn núi non sông ngòi nhỏ, do đó được gọi là 'Đại tông'.

Đến giờ chúng tôi đã biết, Côn Luân không phải là dãy núi cao nhất thế giới. Xét theo vị trí địa lý trên toàn thế giới, nó chỉ có thể được coi là thái tổ long mạch của dân tộc Trung Hoa chúng ta. Lúc mới tới nước Mỹ, tôi đã tìm được một vài tài liệu có liên quan, phát hiện ra hoàn cảnh địa lý tuy có ngàn vạn loại khác nhau, nhưng phương pháp coi phong thuỷ thì vẫn là cùng một dạng, đều coi trọng nhất là xu thế cát (tường), con người hòa hợp với tự nhiên.

Tôi quan sát kỹ càng thế núi bên cạnh biệt viện của nhà họ Vương một lượt. Thế này thuộc về 'Long thuận thế nguy', sườn núi xanh tươi, bốn phía thông thoáng, hai bên uốn vồng lên tạo thành thế như đang bay lên, thuộc về đẳng cấp 'Tam Dương thổ châu' cao nhất. Khi xây dương trạch ở chỗ này, mục đích chính là nhằm tạo phúc quan cao chức trọng trong vòng ba trăm năm cho con cháu đời sau. Xem ra, dã tâm của lão già họ Vương rất lớn, chẳng những muốn tung hoành trong giới kinh doanh, mà còn nuôi ý định chen chân vào chính trường. Tuy nhiên, tôi thấy đứa cháu kia của lão, tính tình thì ngang ngược hống hách, lại chẳng có tài cán nào, e rằng nỗi khổ tâm này của lão già họ Vương cuối cùng rồi sẽ cũng trở thành công cốc.

Khi vào bên trong biệt viện quan sát, tôi thấy không sai lệch lắm so với đã dự đoán, cũng chỉ là tầng trên tầng dưới đèn điện điện thoại, những vật dụng bày biện trên sàn lẫn trang hoàng trên bốn vách tường đều đậm chất xa xỉ đáng ghê tởm của chủ nghĩa tư bản. Tuyền béo hỏi tôi đối sách tiếp theo là gì. Tôi thầm tính toán, hai người kia vẫn còn trong tay lão già kia, hiện giờ chúng tôi không nên trở mặt thẳng thừng với lão ta, bèn nói: "Mao Chủ Tịch đã có chỉ thị, chúng ta phải coi trọng đoàn kết với những đồng chí bất đồng ý kiến với mình để cùng nhau công tác. Cho dù là ở địa phương hay là trong quân đội, chúng ta đều phải tuân thủ theo chỉ thị này. Đối với những người ngoài Đảng cũng giống như vậy. Chúng ta là đội ngũ tập hợp lại từ năm châu bốn biển, cho nên không riêng gì phải đoàn kết chặt chẽ với những đồng chí có cùng ý kiến với mình, mà còn phải đoàn kết chặt chẽ cả với những đồng chí bất đồng ý kiến để cùng nhau công tác."

Tôi còn chưa nói xong, Ma Cô Trẻ đi từ trên tầng xuống, nói với tôi: "Ông nọi gọi anh lên tầng, gặp ở phòng sách."

Tôi và Tuyền béo vừa định đi lên tầng, gã lại nói: "Chỉ một mình anh lên thôi, cái tên béo mập kia không được phép đi lên."

Tôi nói: "Hai chúng tôi đi cùng nhau, nếu phải lên trên đương nhiên là sẽ cùng tiến lên. Nếu như ông nội của cậu có ý kiến, bảo ông ấy xuống đây gặp chúng tôi cũng được." Nói xong, tôi và Tuyền béo lách qua hai bên người gã để đi lên tầng. Ma Cô Trẻ tức giận đến mức mắt long lên sòng sọc, hùng hùng hổ hổ theo sát chúng tôi vào trong phòng sách. Vừa vào đến bên trong, gã lập tức mở miệng ton hót với ông nội mình: "Ông nội, họ tự tiện xông vào, cháu không ngăn được."

Vương Phổ Nguyên dường như đã đoán trước chúng tôi sẽ không làm theo ý của mình, cho nên chẳng hề tức giận, vẫy tay ra hiệu cho mấy người chúng tôi ngồi xuống nói chuyện, thái độ tốt hơn so với lúc trước không biết bao nhiêu lần. Tôi âm thầm cảm thấy quái lạ, chẳng lẽ lão đã đổi tính?

"Giờ chỉ có mấy người chúng ta, có gì cứ nói thẳng không phải ngại ngần gì cả." Vương Phổ Nguyên cầm tấm ảnh được đóng khung trên bàn sách lên, nói bằng giọng đầy hoài niệm, "Ta và lão yêu quái cùng bái đạo trưởng Thái Nhất ở núi Long Hổ làm sư phụ. Vị đạo trưởng này đã từng du lịch Âu Mỹ, tinh thông thiên văn dược lý, ngôn ngữ các nước, có thể nói là có kiến thức uyên bác về cả Trung Quốc lẫn Phương Tây. Vào thời dạy học ở nước Mỹ, ông ấy đã kết bạn với cha ta. Cha ta khâm phục sát đất học vấn của đạo trưởng, bởi vậy mới có chuyện sau này ta về nước bái sư như đã nói. Lúc mới về Trung Quốc, ta không bao giờ chịu ngồi yên một chỗ, tính cách còn bộp chộp hơn cậu Nhất đây vài phần, " Nói đến đây, Vương Phổ Nguyên mỉm cười, chỉ vào người trong tấm ảnh, nói: "Đây là ảnh lão yêu quái khi sang nước Mỹ, là tấm ảnh duy nhất mà chúng ta chụp chung. Khi ấy, nếu không phải ta và lão ấy nóng máu tranh nhau ba tiếng "Đại sư huynh" thì sau này đã chẳng gây ra lắm chuyện hoang đường đến thế, khiến cho những người có liên quan phải chết oan chết uổng, thật sự là oan nghiệt!"

Tôi đã có lần nghe ông Tiết kể lại "Sự tích quang vinh" của hai người khi ấy, cho nên an ủi lão người chết không thể sống lại, mong cụ nén bi thương. Chỉ cần không lạm sát kẻ vô tội, đạo trưởng Thái Nhất và ông cụ Tang sẽ tha thứ cho cụ.

"Láo xược! Ta làm người đâu đến lượt họ Tang kia tha thứ," Lão Vương quẳng tấm ảnh xuống, bảo với tôi, "Ta là người đã bước một chân vào quan tài, có chuyện nói thẳng. Hôm nay tìm cậu đến, một là để đối chất vụ trộm cắp bản đồ kho báu; hai là muốn hỏi một câu, cậu có hứng thú hợp tác với chúng ta hay không."

Tôi nghiền ngẫm lại tính cách của Vương Phổ Nguyên, cuối cùng cũng vỡ ra được đôi điều. Lão điều động đội ngũ, phô trương rầm rộ để "mời" chúng tôi tới, hoàn toàn không phải vì mục đích hưng sư vấn tội. Lão ma cô này chỉ tung hỏa mù đánh lừa thiên hạ, thực chất chỉ nhằm vào mỗi cái ấn Bá Vương đã bị thất lạc từ lâu. Mặc dù tôi không biết cái ấn đó quý hiếm ở chỗ nào, cũng chẳng hiểu tại sao lại có nhiều người muốn chiếm đoạt nó như vậy, nhưng việc này có liên quan vụ án mất trộm của viện bảo tàng. Tôi phải chơi trò ú tim với lão một chút thì mới có thể thu được nhiều thông tin có ích hơn.

Tôi giả vờ như không hiểu, hỏi lại lão: "Ông chủ Vương, ngài chuyên thực hiện những vụ làm ăn lớn, dường như chúng tôi không giúp đỡ được cái gì. Nếu đã xác định vụ trộm không có liên quan gì đến mình, phải chăng chúng tôi có thể đi?"

"Ha ha ha ha, nếu cậu không có hứng thú, vậy chúng ta đã không còn gì để nói. Nếu như cậu muốn đi, xin cứ tự nhiên!"

Vương Phổ Nguyên dường như đã nắm chắc mọi việc trong tay, không thèm nói lấy một câu để giữ chân tôi lại, thản nhiên gọi luôn thằng cháu trai của mình tiễn chúng tôi xuống dưới nhà. Tôi không ngờ lão lại hành động dứt khoát như thế, không chừa lại bất cứ đường lui nào. Theo lý thuyết, lão đã mất bản đồ, trong khi lại không có chiếc nhẫn, muốn tìm ấn quý có lẽ còn khó hơn cả lên trời, tại sao lại có vẻ như chắc chắn sẽ lấy được vật đó, không hề tỏ ra lo lắng một chút nào? Nếu như không phải lão đóng kịch quá giỏi, vậy thì có chắc chắn là có vấn đề. Nhưng người ta đã ra lệnh tiễn khách, tôi thực sự không thể nào mặt dày mày dạn bảo rằng muốn ở lại ăn cơm tối, đành phải trưng ra gương mặt tươi cười nói bye bye với lão.

Trước khi đi, viên bảo vệ đầu trọc đưa cho hai chúng tôi một tấm danh thiếp, bảo rằng sau khi về nhà suy nghĩ kỹ thì có thể liên hệ với lão ta, ông chủ Vương bản tính nhân hậu sẽ không chấp nhặt với hàng con cháu. Tôi nhận tấm danh thiếp, nhìn lướt qua rồi nhét vào trong túi áo, thầm nhủ trừ phi trời sập xuống, nếu không tuyệt đối sẽ không bao giờ còn dây dưa với người nhà họ Vương nữa.

Có ngờ đâu, chúng tôi vừa trở lại "Nhất Nguyên Trai", trời đã thực sự sập xuống.

Sau khi xuống chân núi, tôi và Tuyền béo đứng chờ cả một đêm bên vệ đường mới bắt được một chiếc xe tải nhỏ chở ngô vào nội thành bán. Ông bác nông dân Mỹ hết sức nhiệt tình, trên đường đi liên tục mời mọc chúng tôi ăn ngô nhà trồng được. Tuyền béo vừa gặm bắp ngô vừa nói: "Trên đời này, nông dân ở đâu cũng vậy cả, không cần biết là ở Trung Quốc chúng ta hay là nước Mỹ, cũng đều có tính cách chân chất như thế. Ông bác, bắp ngô của bác bán bao nhiêu tiền một cân? Khi nào về nước, tôi xách theo hai túi để làm bằng chứng cho tình hữu nghị nhân dân hai nước Trung, Mỹ."

Đáng tiếc ông bác người Mỹ không hiểu tiếng thổ ngữ Bắc Kinh của cậu ta, trên đường đi hai người căn bản nói chuyện theo kiểu ông nói gà bà nói vịt. Sau khi vào đến nội thành, chúng tôi vội vàng chạy về khu phố Tàu. Vừa mới đến cửa trụ sở chính, chúng tôi đã bị một đám thanh niên tóc vàng chặn lại. Bọn họ vừa đẩy chúng tôi vừa nói: "Chạy mau, cảnh sát đang chờ hai người ở bên trong." Tôi nhận ra kẻ cầm đầu chính là Tóc Vàng chạy đến nhắn tin bị chúng tôi đánh nhầm ở ngõ hẻm sau quán bar ngày hôm qua, bèn tóm lấy gã lôi qua một bên, hỏi: "Chuyện gì xảy ra? Cảnh sát tới để làm gì?"

Gã vừa đẩy hai đứa tôi vừa nói: "Tiết Nhị gia bảo tôi chờ các anh ở chỗ này, người của cục cảnh sát đã vây kín tiệm rồi. Ông ấy nhắn các anh trốn đi mau."

Tuyền béo eo éo hỏi tôi: "Lão Hồ, có phải cậu đã ăn vụng bắp ngô sau lưng tớ cho nên mới bị gặp quả báo hay không?"

Tôi nói, cậu đừng có mà đổ vạ, vừa rồi cả xe ngô của người ta thiếu chút nữa là bị một mình cậu chén sạch, cậu còn ở đó mà oán tôi. Tôi hỏi Tóc Vàng, Tiết Nhị gia còn nhắn nhủ gì nữa không.

Tóc Vàng thấy chúng tôi vẫn còn chưa chịu đi, nôn nóng dậm chân: "Cảnh sát nói hai người phóng hỏa giết người, là phần tử nguy hiểm, đã phát lệnh truy nã rồi. Các anh đi mau, nếu không đi sẽ bị họ bắt bây giờ!"

Tôi và Tuyền béo nhìn nhau, cả hai không thể tin được lời gã nói là nói thật. Giết người? Đùa quá lố rồi! Hai thằng chúng tôi thiếu chút là chôn thây nơi hoang dã, thế quái nào mà giờ lại biến thành tội phạm bị truy nã? Tôi bảo, giờ không thể chạy được, bỏ chạy chẳng khác nào có tật giật mình, sợ tội bỏ chạy. Chúng ta phải tới "Nhất Nguyên Trai" hỏi cho rõ ngọn ngành, để xem chính xác đã xảy ra chuyện gì. Tuyền béo cũng đồng ý với tôi, chúng ta cây ngay không sợ chết đứng. Chúng ta, một không giết người sát, hai không phóng hỏa, tay cảnh sát Mỹ có dài đến mấy cũng chẳng thể với được qua Thái Bình Dương.

Chúng tôi không chịu nghe theo lời khuyên can của đám Tóc Vàng, khăng khăng đòi đi vào hỏi cho ra lẽ. Còn chưa tới cửa tiệm, chúng tôi đã nhìn thấy hai người Mỹ mặc đồng phục cảnh sát đang đứng dưới tấm biển với vẻ mặt cảnh giác. Tôi kéo Tuyền béo trốn vào trong một tiệm tạp hóa gần đó, bàn bạc tìm cách trà trộn vào trong tiệm. Phía sau đột nhiên vang lên tiếng hét của phụ nữ, Tuyền béo hỏi tôi cô ta đang nói cái gì, sao mà thấy chúng ta lại còn kích động hơn cả thấy Mao Chủ Tịch nữa vậy. Hai người cảnh sát kia rút phắt súng ra, lao vọt về phía chúng tôi. Tôi vội vàng kéo Tuyền béo: "Người ta hô cứu mạng. Chạy mau, tớ nghe nói cảnh sát Mỹ không cần giải thích nhiều, nhìn thấy nghi phạm là nổ súng."

Tuyền béo bảo: "Làm gì đến mức đó, làm thế thì có còn luật pháp gì nữa." Cậu ta vừa nói xong, "Đoàng đoàng" hai tiếng súng vang lên. Cảnh sát Mỹ giơ súng, gào lên rách cả cuống họng phía sau chúng tôi, đại khái bảo chúng tôi giơ tay đầu hàng sẽ được khoan hồng,... Chúng tôi trốn sau một chiếc ô tô đỗ cạnh đường, rất nhiều người đi đường gần đó đồng loạt ôm đầu nằm rạp trên mặt đất, không dám nhúc nhích.

Tuyền béo nói: "Đm, đám binh lính du côn này! Nếu cậu đây có đồ chơi, bắn phát nào đảm bảo đầu chúng sẽ nở hoa phát đó."

Tiếng súng làm kinh động đến rất nhiều cư dân ở quanh đó. Rất nhiều người đổ xô ra khỏi "Nhất Nguyên Trai", trông thấy cảnh sát đang nổ súng về phía chúng ta, họ hùa nhau xông lên ngăn cản. Tần Bốn Mắt cũng có mặt trong đám người đó. Anh ta ra hiệu bằng tay với chúng tôi, sau đó chạy theo hướng ngược lại. Tuyền béo hỏi tôi Tần Bốn Mắt muốn nói gì thế, tôi bảo không hiểu. Tóm lại, giờ chúng ta phải tranh thủ lúc hỗn loạn bỏ chạy, mấy tên cảnh sát không có vẻ gì là muốn bắt sống chúng ta cả, có khả năng cấp trên đã đưa ra mệnh lệnh, đối phó với phần tử khủng bố có thể tiền trảm hậu tấu.

Thấy quần chúng làm loạn cản trở, hai viên cảnh sát đành phải lấy bộ đàm gọi viện trợ. Tôi đoán có lẽ họ đã mai phục một số lượng lớn cảnh sát ở quanh đây. Không dám ở lại chỗ này lâu, hai thằng liều mạng chạy như điên. Vừa chạy ra đầu ngõ, một chiếc taxi màu vàng cua gấp một theo đường vòng cung, quay ngược lại rồi phanh đánh két trước mặt chúng tôi. Tần Bốn Mắt nóng nảy nhấn còi hai lần, tôi và Tuyền béo giống như chết đuối vớ được cọc, vội vàng lên xe.

Vừa lên xe, ngay phía sau đã vang lên tiếng còi cảnh sát, Tần Bốn Mắt văng tục CMN rồi dí chặt chân ga, liên tiếp húc đổ rất nhiều quán nhỏ ven đường mới thoát được ra khỏi khu phố Tàu. Tôi quay đầu lại quan sát tình hình, phát hiện ra ba chiếc xe cảnh sát đang bám sát sau đuôi xe chúng tôi, chỉ còn cách tầm hơn mười mét. Lúc này, nếu như họ nổ súng, chúng tôi sẽ đối mặt với hiểm nguy xe có thể bị lật bất cứ lúc nào.

"Hồ Bát Nhất, các anh đã bị bao vây, hãy may chóng đầu hàng!"

Vừa nghe thấy giọng nói ngọng nghịu bằng tiếng Trung quen thuộc, tôi đã biết ngay người đang kêu gọi đầu hàng là Mũ Sắt Đen. Tôi nhô đầu lên khỏi ghế sau để xem xét, quả nhiên là anh chàng tóc vàng người nước ngoài đó. Anh ta thò nửa người ra ngoài cửa kính xe, giơ loa công suất lớn kêu gọi chúng tôi đầu hàng. Tuyền béo bảo cái thằng cháu nội này còn chưa chịu câm miệng, chúng ta không thể dừng lại. Tần Bốn Mắt nhìn lướt qua kính chiếu hậu, nói: "Hai anh bám chắc vào, giờ chúng ta phải đánh cược một phen." Nói xong, anh ta nhấn lút chân ga, chiếc xe hơi thiếu chút nữa là bắn tung lên trời.

Xe cảnh sát đuổi theo chúng ta chạy lòng vòng quanh những khu phố buôn bán rộng rãi. Mất hơn 10 phút mà vẫn không thể cắt đuôi được. Tần Bốn Mắt phân trần, thường ngày mình chỉ đi làm quanh khu vực này, chạy ra khỏi nơi đây là mù tịt đường đi lối lại.

Tôi bảo với anh ta: "Giờ cứ tiếp tục chạy thế này sẽ rất bất lợi đối với chúng ta, hết dầu thì cứ chuẩn bị mà chờ chết, phải tìm một nơi mà cảnh sát không thể nhúng tay vào được."

Tần Bốn Mắt trầm ngâm một lát: "Có hai nơi có thể trốn, một là đại sứ quán, hai là Thương hội Hoa kiều. Những cảnh sát này có lớn gan đến mấy cũng không dám xông bừa vào hai nơi đó."

Vào lúc này, chiếc xe của Mũ Sắt Đen đột nhiên tăng ga đuổi gấp, thiếu chút nữa là húc xe của chúng tôi văng lên vỉa hè. Tôi nói không còn nhiều thời gian để lựa chọn nữa, gấp lắm rồi, nơi nào gần hơn chúng ta sẽ đến nơi đó.

Tần Bốn Mắt hơi đẩy kính mắt lên, nói với hai đứa tôi: "Bám chặt vào!" Sau đó, anh ta đột ngột đánh cua gấp, lái xe lao thẳng về phía xe cảnh sát. Tôi nói anh làm gì thế này, anh ta bất đắc dĩ nói: "Không còn cách nào khác, vừa mới chạy qua mất rồi." Vừa dứt lời, xe của chúng tôi đã đâm rầm rầm hai cú liền, hất văng chiếc xe cảnh sát chặn trước mặt, chạy vào một quảng trường được quây xung quanh bằng lưới sắt. Cú đâm đột ngột của anh ta khiến ngũ tạng lục phủ của tôi xóc lên tận cổ họng, đến khi nhìn tới Tuyền béo thì đã thấy cậu ta ngã sấp mặt xuống ghế ngồi, bắt đầu văng tục. Tôi hỏi đây là chỗ nào, Tần Bốn Mắt nới lỏng cà- vạt, thở phào một hơi dài: "Địa bàn của lão ma cô."

Chúng tôi vừa tắt máy, đã có mười người mặc quần áo rằn ri huỳnh huỵch chạy ra khỏi khu nhà ở phía bên kia quảng trường. Đúng lúc này, xe cảnh sát cũng vừa chạy đến nơi. Mũ Sắt Đen không hề lỗ mãng xông thẳng vào địa bàn người khác giống như chúng tôi, mà ngừng xe lại ngay trước lưới sắt. Mười mấy cảnh sát xếp thành hàng nấp sau xe cảnh sát, rút súng chĩa vào chúng tôi. Mũ Sắt Đen đứng đầu hàng, vừa bắn chỉ thiên vừa hô hào: "Hồ Bát Nhất, các anh đã bị bao vây, không nên chống cự vô vị."

Tôi trả lời ngay tức thì: "Phải nói là chống cự vô ích! Cái tên người nước ngoài nhà ngươi, con mẹ nó đừng có cố tỏ ra là người có học vấn trước mặt ông đây."

Mũ Sắt Đen tức xì khói. Nhưng đối mặt với đám lính đánh thuê của thương hội Hoa kiều, anh ta không dám nổ súng bừa bãi, chỉ còn mỗi cách chui vào trong xe lấy bộ đàm gọi cho cấp trên yêu cầu trợ giúp. Lúc này, đám lính mặc đồ rằn ri đã chạy đến nơi, bao vây quanh xe của chúng tôi. Kẻ cầm đầu gõ cửa kính xe, tôi nhìn lên, hóa ra là Ma Cô Trẻ. Gã mặc đồ rằn ri, cầm súng ngắn, cười hết sức rạng rỡ: "Úi cha, chẳng phải anh Hồ đây sao, sao lại có thời gian rảnh tới uống trà thế này?"

Tuyền béo đẩy mạnh cửa xe ra, thiếu chút nữa là đập vào người Ma Cô Trẻ. Cậu ta vừa xuống xe vừa nói: "Mấy anh em tôi đến tìm ông nội nhóc nói chuyện, phận làm cháu thì tránh qua một bên cho đỡ vướng chân."

Tần Bốn Mắt thì chẳng thèm ngó ngàng gì đến Ma Cô Trẻ. Sau khi xuống xe, anh ta không hề nói năng câu gì, đi thẳng vào trụ sở thương hội, coi Ma Cô Trẻ giống như là không khí. Mũ Sắt Đen đứng bên ngoài gấp rút đến mức vò đầu bứt tai, nâng súng hét lớn: "Đứng lại hết cho tôi, nếu không sẽ nổ súng!"

Ma Cô Trẻ nhướng mày, cười ầm lên nói: "Cậu đây chỉ chờ ngươi nói câu này. Người đâu, khiêng súng máy ra đây, để cho đám lính Mỹ này có cơ hội chiêm ngưỡng đồ chơi của chúng ta." Vừa dứt lời, quả thực đã có hai kẻ lực lưỡng khiêng một khẩu súng máy từ phía sau lên. Tôi hỏi tàng trữ cái thứ này không bị coi là phạm pháp ở Mỹ hay sao? Gã vỗ vào họng súng, vênh mặt dương dương tự đắc nói: "Khẩu Maxim từ thời thế chiến lần thứ nhất, được xếp vào hàng đồ cổ. Bọn họ lấy cớ gì mà bắt tôi!"

Tuyền béo xen vào: "Không ngờ năng lực giác ngộ tư tưởng của thằng ranh cậu lại tốt đến thế, chơi mấy cái trò khôn vặt này đúng là chẳng kém cạnh ai. Sau khi gặp ông nội cậu, chúng tôi nhất định sẽ nói tốt cho cậu vài câu. Lão Hồ, tiền tuyến sẽ nhường lại cho đồng chí trẻ tuổi này, còn chúng ta về hậu phương để nghiên cứu kế hoạch tác chiến nào."

Tần Bốn Mắt đang đứng chờ chúng tôi ở cửa Thương hội nãy giờ, đứng bên cạnh anh ta là bảo vệ của lão ma cô, Đầu Trọc. Đầu Trọc đưa cho Tần Bốn Mắt một tấm danh thiếp, sau đó nói với tôi: "Cậu Hồ, lại gặp nhau. Xem ra lần này cậu đã nghĩ thông suốt."

Tôi cười hì hì thay cho lời chào, hỏi lão ta ông chủ Vương có ở đây không. Lão ta chỉ vào thang máy nói ông cụ đang ở bên trên chờ từ nãy. Tần Bốn Mắt giới thiệu, Thương hội Hoa kiều có bốn phân hội ở khu vực này. Chỗ chúng ta đang đi vào là hang ổ của Vương Phổ Nguyên, là nơi lão tiếp đón các chính khách cao cấp của Mỹ, cho nên đám cảnh sát kia mới không dám tự tiện xông vào. Anh ta giới thiệu xong, tôi tự nhiên lại nhớ tới đám người mặc đồ đen ăn trộm bản đồ, ngay cả một nơi mà cảnh sát cũng phải kiêng kỵ đôi ba phần vậy mà bọn chúng lại dám động thủ trên đầu thái tuế, thích trộm là trộm. Chẳng hiểu hai kẻ bị bắt sống lúc trước, giờ thế nào rồi.

Tần Bốn Mắt nói: "Kể từ sau khi hai người các anh bỏ đi không lời từ giã buổi sáng hôm kia, Tiết Nhị gia đã phái rất nhiều người đi tìm kiếm khắp nơi. Mãi về sau mới phát hiện ra hành tung của các anh ở chỗ viện bảo tàng, Tóc Vàng quay về báo các anh đã bị kẻ khác bắt đi. Chúng tôi cứ tưởng đó là việc hay ho mà Vương Phổ Nguyên đã làm ra. Lúc ấy đã tập trung những anh em rảnh tay định đi nông trường cứu các anh rồi, không ngờ cảnh sát đột nhiên xông vào tận nhà, bảo rằng muốn bắt tội phạm truy nã." Nói đến đây, Tần Bốn Mắt ngừng lại một giây, rồi mới nói tiếp với giọng nặng nề: "Tôi nghĩ có lẽ các anh vẫn còn chưa biết, giáo sư Owen của viện bảo tàng quốc gia đã bị chết. Cảnh sát nói các anh chẳng những giết người, mà còn thiêu hủy phòng làm việc của ông ấy. Một trợ thủ người châu Á của ông ấy cũng bị mất tích."

Tin tức của Tần Bốn Mắt giống như sét đánh giữa trời quang. Trong khoảnh khắc, lỗ chân lông toàn thân tôi đều nở ra, toàn bộ máu trong người chạy qua gáy xộc thẳng lên đỉnh đầu. Chẳng cần quan tâm mọi người vẫn còn trong thang máy, tôi túm lấy Tần Bốn Mắt, hỏi lại anh ta: "Ai chết? Anh lập lại một lần nữa, là ai mất tích?"

Anh ta bị tôi xô đẩy thiếu chút nữa là đã ngã ngửa ra, vội tóm lấy tôi để giữ thăng bằng, đáp: "Quản lý, anh tỉnh táo lại một chút! Viện bảo tàng xảy ra hoả hoạn, người chết là vị giáo sư, còn vị trợ thủ người châu Á thì chỉ bị mất tích. Cảnh sát nói, hiện giờ chưa có dấu hiệu gì chứng tỏ cô ấy bị sát hại. Theo phán đoán chủ quan, có lẽ khi phát sinh hoả hoạn cô ấy không có mặt tại hiện trường."

Tuyền béo nói: "Dương tham mưu trí dũng song toàn, đã bao nhiêu lần tham gia đổ đấu nguy hiểm dưới mộ cổ mà vẫn lành lặn trở về. Chỉ một trận cháy nhỏ, chắc chắn không thể gây thương tích cho cô ấy được. Lão Hồ, câu đừng có thần hồn nát thần tính, nếu không sau này Dương tham mưu biết được sẽ chế nhạo cậu cho mà coi."

Tôi vỗ vỗ lên đầu, buộc chính mình phải tỉnh táo lại. Trọc Đầu an ủi tôi: "Về vụ hỏa hoạn ở viện bảo tàng, trong tay chúng tôi thực ra có một vài manh mối. Cậu Hồ, lát nữa gặp ông cụ, tự cậu sẽ hiểu, có một số việc không cần thiết phải lo lắng."

Tôi buông bàn tay nãy giờ vẫn tóm chặt vai Tần Bốn Mắt ra, xin lỗi anh ta, chẳng có lòng dạ nào mà đi tìm hiểu ẩn ý trong câu nói của Đầu Trọc. Khoảnh khắc đó, tôi thậm chí sinh ra cảm giác bất lực chưa bao giờ từng có. Khi vào văn phòng của Vương Phổ Nguyên, bên trong đã có một gã đàn ông băng bó đang ngồi ở đó. Khi thấy tôi đi vào, gã mỉm cười thân thiện với tôi. Tôi thật sự không nhận ra đó là ai, cho nên hỏi thẳng Vương Phổ Nguyên rốt cục là có chuyện gì xảy ra.

Lão đứng cạnh khung cửa sổ tiếp đất, nhìn đám người đang giằng co trên quảng trường, đáp lại tôi: "Cậu chịu tới tìm ta, coi như đã gặp may. Ta chỉ vừa mới biết một vài chuyện thông qua anh bạn kia."

Gã xác ướp thấy tôi nhìn sang mình, lại mỉm cười thân thiện: "Anh bạn trẻ, không nhớ ra tôi sao? Tính cả lần này, chúng ta có thể coi là đã gặp nhau ba lần rồi."

Tôi còn đang ngẫm nghĩ, Tuyền béo lại là người kịp phản ứng trước: "Đm, thằng ranh nhà ngươi bị đánh như vậy mà còn chưa chết, sống dai thật."

Nghe Tuyền béo nói, tôi mới chợt nhớ ra, cái tên đầu quấn băng kín mít này không phải ai khác, mà chính là một trong hai gã mặc đồ đen đã gặp trong ruộng ngô lần trước. Tôi nghĩ bụng, lúc trước cứ tưởng rằng ngươi là một kẻ cứng đầu, tại sao chỉ trong nháy mắt đã bị mua chuộc rồi. Xem ra, nhất định lão già kia đã cho gã không ít lợi ích. Quả thật là đao kiếm dễ ngăn, đạn bọc đường khó phòng. Tuy nhiên, lúc này tôi chẳng thèm quan tâm nguyên nhân tại sao gã lại gia nhập vào dưới trướng lão già họ Vương. Tôi chỉ muốn biết một điều - đêm qua viện bảo tàng chính xác đã xảy ra chuyện gì, Shirley Dương giờ đang ở đâu.

Lão già họ Vương thấy tôi nôn nóng ra mặt, vì vậy đi thẳng vào vấn đề ngay. Lão vừa mở toang cửa sổ vừa nói rành rọt: "Bọn chúng có sáu người tất cả, nhận tiền của người khác đến nước Mỹ tìm một vật. Vụ trộm ở viện bảo tàng do bọn chúng gây ra, bản đồ của nhà họ Vương ta cũng do bọn chúng trộm. Về phần vụ phóng hỏa ngày hôm qua, tám chín phần mười cũng là do bọn chúng gây ra."

Xác Ướp không đợi lão già họ Vương nói xong, đã lập tức phân bua: "Vụ cháy ngày hôm qua không có một chút can hệ gì đến tôi, hoàn toàn là do bọn chúng làm."

Tôi mặc kệ gã có tham dự hay không, tóm lấy cổ áo gã, hỏi: "Vì sao các ngươi phải trộm cái mặt nạ trong viện bảo tàng? Còn nữ nghiên cứu sinh kia thì sao?"

Vừa bị tôi tóm chặt, gã đã đau đến mức kêu ú ớ không thành tiếng, có lẽ là vết thương đã vỡ ra. Gã vội vàng ôm lấy mặt, nói: "Anh bạn trẻ, đừng kích động đừng kích động! Việc này phải từ từ nói, không gấp được."

Xác Ướp tên Tưởng Bình, nhà làm nghề mộc gia truyền. Đến đời mình, gã không chịu làm việc gì tử tế, chỉ thực hiện những phi vụ trộm gà trộm chó lặt vặt để kiếm ăn. Nửa tháng trước, có một thanh niên cao lêu nghêu, đeo khăn quàng cổ tìm tới chỗ bọn gã, muốn thực hiện một phi vụ làm ăn với gã.

"Hắn cho tôi một khoản tiền, nói một thời gian ngắn nữa sẽ có người liên hệ với tôi. Đến lúc đó, tôi cứ đi theo người đó là được, chỉ có lợi mà không có hại." Xác Ướp tiếp tục hồi tưởng lại, "Sau khi hắn ra về khoảng tầm một tuần lễ, thì có ba nam một nữ tìm tới nhà, bảo rằng ông chủ giới thiệu đến, muốn dẫn tôi sang Mỹ làm ăn lớn. Ban đầu tôi không đồng ý, cảm thấy việc này không bình thường, chưa bao giờ từng nghe nói người nào vừa mới bắt đầu làm ăn đã có thể vươn sang được tận nước Mỹ. Sau đó, gã vạm vỡ nói năng cục cằn trong số ba người đó bảo rằng, chúng ta xuất ngoại là để lấy vài món đồ. Sau khi thành công, ông chủ sẽ tiếp tục thưởng thêm rất nhiều, sẽ chia đều cho tất cả chúng ta. Huống chi, tôi đã biết việc này, nếu như không chịu nhảy vào lửa, vậy thì chỉ có thể giết người bịt miệng. Các vị, tôi quả thật là bị ép buộc, quả thật là bị bọn chúng bức bách cho nên mới bước chân lên con đường không có đường về này." Nói đến đây, gã dừng lại một chút, "Hành trình của chúng tôi rất gấp gáp, toàn bộ đều do tên Trâu Mộng quyết định. Về phần mấy người còn lại, tôi đã từng thử dò hỏi qua, nhưng kẻ nào cũng ngậm miệng như hến. Chỉ biết người nữ trong nhóm hình như là người chuyên vẽ bản đồ cho một Viện khoa học nào đó, có quan hệ thân thiết với tên Trâu Mộng. Vừa đến nước Mỹ, Trâu Mộng lập tức đưa cho tôi một bản vẽ thiết kế, hỏi tôi có cách nào để lẻn vào bên trong mà không để lại bất cứ dấu vết gì không. Tôi bảo rằng việc này dễ ợt, tổ tiên nhà họ Tưởng chưa bao giờ thiếu những thủ đoạn kỳ diệu. Thế nhưng, không biết chính xác là chúng ta muốn thó bảo vật gì. Trâu Mộng bảo rằng điều này không quan hệ gì đến tôi, tôi chỉ cần phụ trách mở khóa đào đường ngầm, những việc còn lại sẽ có người khác phụ trách. Lúc ấy, tôi cho rằng ai làm việc người ấy thì không còn gì tốt hơn. Nhưng sau khi đục thủng tường viện bảo tàng, tôi mới phát hiện ra tình hình phát triển theo chiều hướng xấu, bọn chúng không những trộm đồ mà còn giết người. Lúc ấy, tôi chỉ muốn cao bay xa chạy, nhưng Trâu Mộng bảo rằng còn một vật nữa còn chưa tới tay, phải mau chóng làm việc. Chuyện sau này ra sao, các vị đều đã biết cả rồi. Chúng tôi thất bại tại nhà Vương lão anh hùng, bị bắt sống. Tuy nhiên, tôi không hề ân hận một chút nào. Nếu không nhờ Vương lão anh hùng, tôi làm sao có thể thay da đổi thịt để một lần nữa làm người. Trận đòn của cụ không phải là đòn tra tấn mà là giáo dục. Cụ chính là cha mẹ tái sinh của tôi, Vương lão anh hùng!"

Tôi hỏi Tưởng Bình kẻ bị bắt cùng với gã ngày đó là ai. Tưởng Bình liếc nhìn lão già họ Vương, đến khi thấy lão gật đầu mới chịu nói: "Tên kia chuyên phụ trách vào trong lấy đồ, Trâu Mộng thường gọi hắn là Lý Cẳng Dài." Nhìn vẻ mặt của Tưởng Bình, cái tên Lý Cẳng Dài bị đã gãy chân khi ấy, chỉ sợ đã không còn có mặt trên đời này nữa rồi. Lão già họ Vương làm việc theo phong cách tàn nhẫn, không bao giờ chừa lại đường sống cho những người không có giá trị lợi dụng. Theo tôi thấy, Tưởng Bình phản bội vì bị mua chuộc chỉ là thứ yếu, chủ yếu là bị lão cưỡng bức, không thể không bán đứng người khác để tự bảo vệ chính mình.

Tần Bốn Mắt hỏi gã: "Các anh đã thực hiện trót lọt vụ trộm ở viện bảo tàng, tại sao ngày hôm qua lại còn phải phóng hỏa giết người?"

Đây cũng chính là vấn đề mà mình quan tâm nhất, nên tôi vội vàng vểnh tai lắng nghe cấu trả lời của Tưởng Bình. Gã lắc đầu, nói: "Các vị, đêm qua tôi vẫn còn bị Vương lão anh hùng nhốt trong khu nông trại cơ mà. Việc phóng hỏa thực sự không có liên quan gì tới tôi. Tuy nhiên, tôi đã từng nghe thấy Trâu Mộng nói, ông già người nước ngoài kia đang nghiên cứu một thứ gây bất lợi rất nhiều cho hành động tiếp theo của ông chủ, phải diệt trừ. Cho nên tôi dám khẳng định, có tới tám chín phần mười là vụ việc ngày hôm qua có liên quan tới bọn chúng."

Tuyền béo vỗ đùi, nhảy dựng lên nói: "Thế này là ổn rồi, chúng ta đã ở nông trường cả đêm hôm qua, đến lúc sắp sáng mới xuống núi. Chúng ta có nhân chứng, không cần phải sợ đám cảnh sát kia."

Tần Bốn Mắt gật đầu: "Đúng vậy, các anh có đầy đủ chứng cứ chứng minh mình không có mặt tại hiện trường, cho dù vụ việc này có bị chuyển sang toà án cũng không cần phải lo lắng."

Thực ra, tôi chẳng bận tâm một chút nào tới việc bị truy nã. Điều tôi quan tâm hơn cả là mục đích chân chính của đám người mặc đồ đen này. Mặt nạ của công chúa Inca và tấm bản đồ kho báu của nhà họ Vương gia chẳng liên quan gì đến nhau; Huống chi, khi xưa đạo trưởng Thái Nhất đã nói, bản đồ phải phối hợp với chiếc nhẫn thì mới có thể xác định được vị trí chính xác. Đám người mặc đồ đen kia chỉ lấy mỗi tấm bản đồ thì chẳng có tác dụng gì. Hơn nữa, ông chủ đứng đằng sau bọn chúng thực ra là thần thánh nơi nào, tại sao phải trăm phương ngàn kế triệu tập một đám kỳ nhân dị sĩ để trộm cắp hiện vật được cất giữ trong viện bảo tàng.

Đúng lúc này, Vương Phổ Nguyên đột nhiên nói một câu rất quan trọng, làm tôi lập tức thấu suốt. Lão hỏi tôi: "Có còn nhớ lão yêu quái đã chết như thế nào không?"

Ban đầu tôi thực sự không quá để ý liên hệ hai việc này với nhau, nhưng câu hỏi của Vương Phổ Nguyên dường như đã khơi thông trí não, giúp tôi thông suốt được mạch suy nghĩ. Tôi vội vàng hỏi Tưởng Bình: "Người thanh niên mà anh nhắc đến, cái vị ông chủ đã tìm đến anh mà anh vừa nói lúc nãy ấy, ngoại hình của hắn ta ra sao?"

Tưởng Bình sợ lại bị tôi túm chặt, vội vàng trả lời: "Cao lêu nghêu, trông chẳng giống ai, nhưng giọng nói của hắn lại khá trầm, luôn đeo khăn quàng cổ." Gã vừa dứt lời, Vương Phổ Nguyên đã mỉm cười hỏi tôi: "Giờ cậu đã hiểu rồi chứ?"

Người Tưởng Bình nhắc đến chính là kẻ đầu sỏ trong vụ âm mưu sát hại ông cụ Tang ngày trước, Cây Sào. Trong khoảnh khắc, tất cả manh mối đã ráp lại với nhau. Tôi gấp rút hỏi Vương Phổ Nguyên: "Nếu đúng thật là hắn, vậy tại sao hắn lại không bao giờ có ý định lấy chiếc nhẫn tôi mà đang cầm?"

Vương Phổ Nguyên không trả lời câu hỏi của tôi, mà chỉ lấy một tờ bản sao từ trong ngăn kéo bàn ra, rồi nói: "Trước tiên cậu cứ xem qua thứ này, sau đó tự mình suy ngẫm xem tại sao."

Tôi cầm lấy tờ bản sao, xem đi xem lại mấy lần. Chỉ thấy được đó là một bản vẽ hình núi non sông ngòi, còn có một vài ký hiệu kỳ lạ, nhìn có vẻ giống như một tấm bản đồ. Tưởng Bình sán lại để xem, vừa nhìn vào đã ngã xụi lơ xuống đất: "Cái gì, sao tấm bản đồ này vẫn còn ở chỗ cụ thế này?"

Vương Phổ Nguyên gằn giọng nói: "Bản các ngươi đã trộm mất đương nhiên là bản gốc. Nhưng chẳng lẽ các ngươi chưa từng nghĩ tới, nó nằm trong tay ta hơn bốn mươi năm, lẽ nào ta không sao chép ra vài bản để phòng ngừa hay sao?"

Tôi nhìn tấm bản đồ sao chép, lập tức hiểu ra. Nếu Vương Phổ Nguyên có bản đồ sao chép, vậy thì một kẻ lòng dạ thâm sâu như Cây Sào, đi theo ông cụ Tang nhiều năm như vậy, lẽ nào lại không làm ra một chiếc nhẫn rập khuôn theo mô hình của chiếc nhẫn bằng Ngọc Phỉ Thúy? Hắn đã thiết lập sẵn đường lui cho mình, chẳng trách vào thời điểm ở Nam Kinh khi ấy, hắn lại rút lui nhanh chóng đến thế, hóa ra là đã chuẩn bị từ trước. Ngay từ ban đầu, mục đích của thằng ôn này chính là cái ấn Bá Vương do đạo trưởng Thái Nhất để lại. Hắn định chờ cho đến khi ông cụ mất, thuận lợi tiếp quản "Nhất Nguyên Trai", thu nhẫn vào tay. Nhưng biến cố bất ngờ xảy ra, khiến hắn không thể không lộ ra bộ mặt thật, không còn đường nào khác đành phải tiến hành trộm bản đồ, ký thác toàn bộ hi vọng vào bản sao chiếc nhẫn. Sở dĩ lúc đầu hắn im hơi lặng tiếng ẩn nhẫn, có lẽ chỉ vì bản tính đa nghi, không làm việc gì không chắc chắn, lo ngại chỉ dựa vào mỗi bản sao thì không thể thể khám phá được bí mật trong tấm bản đồ. Về sau, do đã bị bại lộ hắn mới bí quá hoá liều, nghĩ ra kế hoạch giết người đoạt bảo vật, thuê mướn kẻ ác trộm đồ để thay thế.

Chỉ trong vài giây, tôi hầu như đã xâu chuỗi lại chính xác trình tự mọi việc, đang định xác nhận với Vương Phổ Nguyên thì cửa phòng đột nhiên bị ai đó mở tung. Ma Cô Trẻ cầm súng đi vào, phấn khích đỏ bừng cả mặt, nói: "Ông nội, cháu đã bắt được tên chỉ huy cảnh sát làm tù binh!"
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 15: Bản báo cáo nghiên cứu của giáo sư Owen


Dịch giả: gaygioxuong

Mấy người chúng tôi đang tìm cách giải một câu đố hóc búa trong phòng làm việc, Vương gia thiếu gia đột nhiên cầm súng áp giải Mũ Sắt Đen vào. Y diễu võ dương oai nói: "Tên Quỷ tây dương này quả thật là xảo quyệt! Hắn ra lệnh cho đám thuộc hạ rút quân, còn bản thân định tìm cơ hội lẻn vào từ cửa sau. Rất may là đã bị cháu bắt được." Vương Phổ Nguyên vớ lấy chén trà đập vỡ tan: "Đồ toi cơm, giờ hắn đã đạt mục đích vào được đây, ngươi bắt hay không bắt có gì là khác nhau!"

Dù có thế nào cậu cả Vương cũng không tài nào ngờ được, mình thông minh quá hóa đần, bị ông nội chửi ầm lên, bao nhiêu uy phong lúc trước đều mất sạch, ngồi riêng một góc gặm nhấm nỗi bực bội.

Mặc dù chưa hiểu biết quá nhiều về Mũ Sắt Đen, nhưng tôi cảm thấy anh ta sẽ không dại dột tự chui đầu vào lưới. Có thể nói, anh ta cố ý làm như vậy là để bị bắt, mục đích là vào trong này gặp mặt chúng tôi mà thôi.

Tôi nói với anh ta: "Thời điểm xảy ra vụ hoả hoạn đêm qua, chúng tôi đang làm khách ở nông trường của ông chủ Vương, có không dưới hai mươi người có thể làm chứng. Mãi sáng hôm nay chúng tôi mới quay về nội thành. Tôi thực sự muốn biết, cảnh sát có quyền bắt người bừa bãi như thế sao."

Mũ Sắt Đen xua tay với tôi, nói: "Thực sự xin lỗi anh Hồ, là thuộc hạ của tôi không làm tròn trách nhiệm, trong tình huống chưa xác định rõ ràng đã tự ý nổ súng. Chúng tôi chỉ muốn đối chứng với các anh, thực sự không có ý định làm hại hai người."

Tôi nghĩ bụng, ngươi nói dối cứ như cuội. Chẳng lẽ đám ông lớn các ngươi ăn no rỗi việc, kéo cả một đám đông mang theo súng thật đạn thật, cắm chốt ở cửa "Nhất Nguyên Trai" vào giữa nửa đêm chỉ là nhằm mục đích kiếm hai anh em chúng ta tâm sự việc nhà?

Tần Bốn Mắt hắng giọng, nói với anh ta: "Thời điểm các anh xông vào tiệm khi ấy, cung cách hành động có như anh nói đâu, rõ ràng là lục soát cửa tiệm đòi bắt người, hết sức hống hách."

Mũ Sắt Đen tự biết mình đuối lý, đành phải thành thật khai báo: "Lúc trước chúng tôi đã quá mức võ đoán. Băng ghi hình lúc viện bảo tàng xảy ra hỏa hoạn đêm qua đã được xem xét, các anh không hề xuất hiện ở đó vào khoảng thời gian này. Tôi nghĩ tất cả chỉ là hiểu lầm."

Tuyền béo rống lên: "Hiểu lầm? Cậu đây bị các ngươi truy đuổi chạy như vịt khắp cả nước Mỹ, nghĩ cả một buổi ngươi chỉ nhổ ra có một câu "hiểu lầm". Nghĩ mới hay làm sao, hôm nay thằng cháu nhà ngươi không giải thích cho rõ ràng mọi việc, cậu béo đây đảm bảo ngươi sẽ lành lặn đi vào què quặt đi ra!"

Nhìn thấy cảnh sát Mỹ, Tưởng Bình run lên cầm cập, sợ chúng tôi sẽ khai gã ra. Không phải là tôi không có ý định giao nộp gã cho Mũ Sắt Đen ngay tại chỗ, mà chỉ vì nơi đây là địa bàn của lão ma cô, hơn nữa Tưởng Bình đã bị lão mua chuộc. Đến lúc đó, chẳng may lão ma cô muốn bảo vệ gã, đám người có liên can chúng tôi đương nhiên sẽ biến thành đối tượng phải diệt khẩu, đặc biệt là Mũ Sắt Đen - người ngay từ đầu đã đứng ở phía đối lập. Tôi đoán có lẽ chẳng tới lượt Tuyền béo ra tay, anh ta đã bị lão già kia âm thầm xử lý sạch sẽ.

Mũ Sắt Đen quả thực không hề để ý tới trên hiện trường có một xác ướp Ai Cập. Anh ta kéo khóa áo xuống, móc từ trong ngực áo ra một gói tài liệu được bọc kín bằng ni lông, nói: "Những tài liệu này đã được tìm thấy ở hiện trường vụ hoả hoạn. Chúng tôi có lý do để khẳng định, giáo sư Owen bị sát hại trong lúc đang tiến hành làm báo cáo về vụ mất trộm, Trong báo cáo khám nghiệm tử thi đã nói rõ, ông ta bị sát hại trước khi vụ hoả hoạn xảy ra, nguyên nhân chết giống hệt như nhân viên bảo vệ ở nhà kho ngày hôm trước, bị kẻ sát nhân dùng vũ khí sắc bén cắt đứt yết hầu. Thời điểm xảy ra hỏa hoạn có lẽ là tầm hai giờ sáng. Căn cứ vào sổ ghi chép tên người ra vào ngày hôm ấy, ngoài giáo sư Owen, đêm hôm đó cô Shirley cũng làm việc muộn trong phòng nghiên cứu. Chúng tôi đã phát hiện dấu hiệu xảy ra đánh nhau tại hiện trường, nhưng không hề tìm thấy thi thể của cô, cơ bản có thể loại trừ khả năng đã bị giết hại. Thế nhưng, đến giờ vẫn chưa có bất cứ tin tức nào về cô Shirley, chúng tôi đành phải tạm thời kết luận, cô ấy không may đã bị hung thủ bắt cóc."

Mũ Sắt Đen không hiểu rõ về Shirley Dương, cho nên anh ta mới phán đoán sai lầm tình huống khi ấy, cho rằng một người con gái yếu ớt trói gà không chặt như cô nhất định đã bị kẻ thủ ác khống chế làm con tin, bắt mang đi. Nhưng tôi và Tuyền béo đều biết rõ, bản lĩnh của Shirley Dương tuyệt đối không thể miêu tả bằng đôi ba câu. Cho dù là tố chất thân thể hay là năng lực ứng biến khi đột ngột gặp phải sự cố, cả hai phương diện này đều hơn xa người bình thường. Bắt sống hơn nữa lại còn im hơi lặng tiếng đưa cô ra khỏi viện bảo tàng, gần như là việc không thể làm được.

Căn cứ vào hiểu biết tường tận về Shirley Dương của tôi, khi xảy ra vụ án, cô nhất định đã tìm mọi cách bảo vệ giáo sư Owen, sau đó bám riết theo hung thủ, hiện giờ hoàn toàn không có thời gian liên hệ với bất cứ một ai. Nếu không, chí ít ra cô cũng sẽ phải tìm cách nào đó để báo bình an cho tôi mới đúng.

Mũ Sắt Đen thuật lại xong, Tần Bốn Mắt tỏ vẻ lo lắng, nói: "Không có tin tức trong thời gian dài như vậy, liệu cô Shirley có bị..."

Tôi lập tức cắt ngang: "Cô ấy không sao đâu. Giờ việc chúng ta cần làm là truy đuổi hung thủ, chứ không phải ngồi chết dí ở đây suy đoán lung tung. Anh Robert, chỗ tư liệu đó anh có thể cho phép chúng tôi mở ra xem một lượt hay không?"

Mũ Sắt Đen còn đang tỏ vẻ lưỡng lự, Ma Cô Trẻ đã búng đầu lọc thuốc lá, giật lấy cái gói, lột phắt lớp nhựa nilon bọc ở bên ngoài ra. Mũ Sắt Đen vừa định đoạt lại thì bị Đầu Trọc đấm một cú vào giữa bụng, sụm xuống sàn, đau đến mức quằn quại. Tôi thật sự không thể đứng bàng quan, bèn đỡ Mũ Sắt Đen dậy, nói: "Ông chủ Vương, tốt xấu gì anh ta cũng là người ăn lương nhà nước, cách giải quyết thế này của các vị thật sự là khinh người quá đáng."

Ma Cô Trẻ vừa đưa tài liệu cho ông nội mình xem vừa nói: "Hồ Bát Nhất, cách làm người của anh bạn thật sự chẳng ra sao, gió chiều nào nghiêng chiều ấy. Lúc nãy ở bên dưới, nếu không phải chúng ta ra tay, anh và người anh em của mình đã bị vị ăn lương nhà nước này bắn thủng như tổ ong vò vẽ từ lâu rồi. Giờ định ra vẻ làm người tốt, có phải là đã chậm hay không. Chính xác là anh đứng về bên nào?"

Tôi đáp lại: "Tôi chỉ đứng về đội ngũ nhân dân, hành động theo lương tâm, làm người theo đạo nghĩa." Mũ Sắt Đen không hiểu hết được mấy câu tiếng Trung này, chỉ biết là tôi đang giúp mình, bèn nén cơn đau nói: "Hồ, trước giờ tôi hiểu lầm anh mất rồi. Tôi không sao, nghỉ ngơi một lát là tốt thôi."

Tôi nghĩ bụng, nói vớ vẩn, nếu ngay cả một đấm mà anh cũng không chịu được thì còn làm cảnh sát làm cái mẹ gì, về nhà thay tã cho con cho rảnh nợ. Ông đây đứng ra nói giúp ngươi là vì sợ bọn họ lợi dụng cơ hội độc ác xuống tay đánh ngươi tàn phế ngay lập tức. Ông đây làm vậy là để tỏ thái độ cho bọn họ biết, ở chỗ này ngươi không phải tứ cố vô thân. Thằng ngốc đội mũ cảnh sát này không hiểu đạo lý đối nhân xử thế giữa người Châu Á với nhau một chút nào, tôi chẳng muốn lên tiếng giải thích cho mất thì giờ, chỉ mỉm cười thân thiện với anh ta.

Vương Phổ Nguyên ngồi trên ghế lãnh đạo, thong thả nghiên cứu tập báo cáo đã bị cháy nham nhở. Tưởng Bình đứng ngồi không yên, kéo tôi ra một chỗ, hỏi: "Anh Hồ, giờ thằng em là người lương thiện. Chuyện trước kia, chúng ta có thể nể mặt ông chủ Vương bỏ qua, đừng có khai thằng em này ra không. Viên cảnh sát Mỹ kia cứ nhìn chằm chằm, thằng em đã dựng đứng hết lông tóc cả lên rồi đây này."

Tôi bảo: "Anh bị tâm lý thôi! Anh thử nhìn lại hình dạng bên ngoài của mình mà xem, quấn kít mít như bénh tét, đừng nói một người chưa từng gặp anh bao giờ như anh ta, cho dù ngay cả cha ruột anh đến có lẽ cũng không nhận ra anh được. Đừng có ở đó mà thần hồn nát thần tính. Tôi hỏi anh, vào thời điểm ăn trộm mặt nạ lúc trước, ông chủ các anh có hé lộ manh mối nào khác hay không?"

Tưởng Bình ngẫm nghĩ một lát rồi đáp bằng giọng khẳng định: "Không phải là thằng em không muốn nói, mà mấy người bọn tôi chỉ là đội ngũ được chắp vá lại trong thời gian ngắn, ngay cả việc mình phải trộm cái gì thằng em cũng còn không biết. Nếu phải nói người nào có quan hệ mật thiết với ông chủ, thằng em chỉ thấy có hai tên Trâu Mộng và "Lý cẳng dài" mà thôi. Sau khi bị bắt, thằng em và "Lý cẳng dài" đã trao đổi với nhau vài câu. Hắn nói, thà rằng bị đánh chết cũng không thể bán đứng ông chủ. Hiện giờ "Lý cẳng dài" đã không còn sống trên đời, người biết rõ mọi chuyện chỉ còn có mỗi tên Trâu Mộng kia mà thôi. Đáng tiếc là lúc trước bọn tôi không ước định bất cứ phương thức liên hệ nào với nhau, nếu không... Hắc hắc."

"Nếu không thì anh đã sắp đặt bẫy, giúp lão già họ Vương bắt bọn họ từ lâu rồi có phải không?" Tôi khinh bỉ lườm Tưởng Bình, "Gặp phải tên phản bội như anh, coi như bọn chúng không may."

Tưởng Bình phản bác: "Người ta thường nói, kẻ thức thời mới là trang tuấn kiệt. Huống chi, thằng em hợp nhóm với bọn họ cũng chỉ là bèo nước gặp nhau, mọi người góp gạo thổi cơm chung, lúc cần tan sẽ phải tan. Ông chủ Vương đối xử với thằng em rất tốt, lại đồng ý giữ thằng em ở lại nước Mỹ làm việc cho ông ấy, cớ gì mà không làm. Thằng em thấy, nếu đổi lại là anh, anh cũng sẽ động tâm."

Tôi nói, vớ vẩn, con mẹ nó đừng có đánh đồng ông đây với loại phản bội như nhà ngươi. Nếu không phải vì bắt cái tên Trâu Mộng trong đám các ngươi, dù có rảnh rỗi đến phát khùng ông đây cũng sẽ không bao giờ hợp tác với cái lão ma cô kia.

Thấy tôi nổi giận, Tưởng Bình biết mình tự chuốc nhục vào thân, vì vậy lại quay về chỗ ghế salon ngồi, cầm tờ báo lên xem. Tuy nhiên, tiếng nước ngoài một chữ bẻ đôi hắn cũng không biết, cầm ngược tờ báo mà còn không hay.

Vương Phổ Nguyên tháo kính lão ra, thả tập tài liệu cháy xém xuống, ngẩng đầu lên, nói với tôi: "Hồ Bát Nhất, cậu qua đây xem, vật này có phải rất quen mắt hay không."

Tôi cầm lấy một tờ giấy đã bị thiêu cháy mất một nửa, đó là một bản sao chép văn tự giáp cốt. Tôi nghĩ bụng, sao tự dưng lão già này lại mang thứ đồ cổ này để thử tài học của mình. Đừng nói là văn tự giáp cốt, ngay cả bảng chữ cái tiếng Anh tôi cũng còn chưa biết hết nữa là. Trong lúc cố kiên trì xem cho hết đoạn văn tự giáp cốt đó, tôi đột nhiên bị một con dấu nhỏ ở góc trên tờ giấy thu hút sự chú ý. Dấu hình tròn, đường kính tầm một centimet. Mặc dù đường nét không theo một quy tắc nào, nhưng chỉ cần liếc mắt là có thể nhận ra, con dấu này giống hệt với con dấu Bá Vương trên bảng hiệu của "Nhất Nguyên Trai", chỉ khác nhau về mặt kích thước.

"Vật bị trộm không chỉ có mỗi mặt nạ của công chúa, mà còn có cái mai rùa ghi văn tự giáp cốt này." Vương Phổ Nguyên chỉ vào tờ giấy cháy xém, nói, "Theo ta thấy, đây mới là mục đích thực sự của bọn chúng, những hành động mờ ám khác chẳng qua chỉ là tung hỏa mù che giấu mà thôi."

Tôi thực sự không hiểu lắm, bèn hỏi lão: "Ý của cụ là, bọn chúng thực chất chỉ muốn lấy cái mai rùa, còn việc ăn trộm mặt nạ của công chúa Inca chỉ là hành động đánh lạc hướng chúng ta?"

"Không, không phải đánh lạc hướng chúng ta, mà là lừa trong lừa." Vương Phổ Nguyên tràn đầy tự tin mỉm cười, "Cậu có biết cái mai rùa này khai quật được ở chỗ nào hay không?"

Tôi đáp, nếu là văn tự giáp cốt, đương nhiên phải là nơi nằm trong lãnh thổ Trung Quốc, chỉ quanh quẩn quanh vùng Ân Hư. Nụ cười của lão càng tươi hơn: "Sai, theo phán đoán trong bản báo cáo của giáo sư Owen, cái mai rùa này được khai quật lên từ di tích vào thời kỳ cuối của đế quốc Inca."

Đột nhiên nghe Vương Phổ Nguyên nói văn tự giáp cốt được tìm thấy trong di tích của người Inca, tôi cứ ngỡ lão già rồi nên lú lẫn, không ngờ Tần Bốn Mắt lại tỏ ra tán đồng với lão, hỏi!": "Lẽ nào ông chủ Vương muốn nói tới "Neo đá" được phát hiện ra ở ven biển California cách đây không lâu?"

Vương Phổ Nguyên nửa cười nửa không, nói: "Đây chính là lợi ích của việc đọc sách, nói một biết mười. Không giống vài tên nghé con xuất thân từ đám binh lính, ha ha, làm Mô Kim Giáo Úy vài năm mà đã ảo tưởng mình là chuyên gia khảo cổ rồi. Ha ha ha, đâu có biết rằng một vài tri thức chuyên môn vụn vặt của mình thực ra chỉ làm trò cười cho người trong nghề."

Tôi như lạc vào sương mù trước đoạn đối đáp của hai người, đành phải hỏi Tần Bốn Mắt "Neo đá" là cái gì, có quan hệ gì với cái mai rùa mà chúng ta đang đề cập tới. Anh ta đẩy kính mắt: "Anh ở trong nước, thông tin thiếu thốn là điều dễ hiểu. Vào đầu những năm tám mươi, ở khu vực ven biển California người ta đã vớt được một cái "neo đá". Dựa trên kỹ thuật chế tạo, họ cho rằng nó là mỏ neo hàng hải chuyên dụng vào thời Trung Quốc cổ đại. Sau khi định tuổi bằng các bon 14, cái mỏ neo đó đã có niên đại khoảng hơn hai nghìn năm. Điều này đã chứng tỏ, trước khi Columbus phát hiện ra Châu Mỹ, người Châu Á đã đặt chân lên mảnh đất này."

"Đâu chỉ hơn một nghìn năm trước," Vương Phổ Nguyên thao thao bất tuyệt khoe kiến thức, "Trong "Lương Thư: chư di truyện" đã nhắc tới nước Phù Tang. Đầu những năm bốn mươi, giáo sư Chu Khiêm Chi đã từng viết một bài "Khảo chứng về nước Phù Tang". Xét trên phương diện hệ thống canh tác nông nghiệp, đã đủ bằng chứng xác định Phù Tang quốc được nói tới trong "Lương Thư" thực ra là Mexico hiện nay. Người Châu Á đã đặt chân lên châu Mỹ từ thế kỷ 5 đến 15."

Vừa nghe thấy hai từ "Phù Tang", Tuyền béo lập tức nổi hứng, vội vàng phản bác lại lão: "Ông cụ Vương, vào thời cổ đại, "Phù Tang" chẳng phải là tên của Nhật Bản bây giờ hay sao? Tại sao lại biến thành Mexico, chắc là cụ đang đùa chúng tôi cho vui phải không?"

Vương Phổ Nguyên tỏ vẻ coi thường ra mặt, giải thích cho hai chúng tôi: ""Bảo sao hay vậy" tóm lại là điểm yếu của thế hệ các cậu. Ai, từ xưa đến nay, Trung Quốc chưa bao giờ dùng hai từ Phù Tang để gọi Nhật Bản cả. Vào thời cổ đại, Nhật Bản được gọi là "Uy" quốc, là một trong Lục đại di quốc được ghi rõ rành rành trong "Lương Thư". Sắp xếp theo vị trí địa lý, lần lượt là Cao Ly, Bách Tể, Tân La, Uy, Văn Thân Quốc, Phù Tang Quốc. Phù Tang có nghĩa là nơi "Mặt trời bắt đầu mọc", các cậu chủ quan cho rằng nước Nhật nằm ở phía đông nước mình cho nên được gọi là Phù Tang, nhưng đâu có biết, quốc gia nằm ở gần kinh tuyến gốc mới thật sự là Phù Tang Quốc. Giả thuyết người Châu Á phát hiện ra Châu Mỹ chưa từng được công nhận. Tuy có rất nhiều chứng cứ về mặt khảo cổ, nhưng không thiếu chuyên gia học giả vẫn còn nghi ngờ, trong thời gian ngắn không thể phân rõ phải trái. Mặc dù vậy, việc phát hiện ra mai rùa ghi văn tự giáp cốt này lại hết sức có ý nghĩa. Các cậu đã từng đọc truyện "Thành Vương đông chinh" chưa?"

Tôi gật đầu. "Phong Thần Bảng", cuốn sách mang đầy tư tưởng cách mạng này luôn là sách gối đầu giường mang tính giáo dục và kim chỉ nam của tôi, ở đâu có áp bức thì ở đó có phản kháng. Để tìm hiểu nội dung của nó, tôi đã mất rất nhiều thời gian tìm hiểu giai đoạn lịch sử đó. Vào sáng sớm ngày Giáp tháng giêng năm thứ 11 thời Chu Vũ Vương, Chu Vũ Vương đã phát động "Cuộc chiến Mục Dã" nổi tiếng trong lịch sử, lật đổ sự thống trị của nhà Ân Thương, thành lập nên Đại Chu. Em trai của ông ta là Quản Thúc, Thái Thúc và Hoắc Thúc giữ chức "Tam giám", tương đương với chức tư lệnh quân đội ngày nay. Hai năm sau, Chu Vũ Vương bị bệnh băng hà, con trai ông ta lên kế vị, sử sách gọi là Chu Thành Vương. Bởi vì Chu Thành Vương còn nhỏ, cho nên em trai của Vũ Vương là Chu Sáng phải gánh trọng trách phụ chính. Chính điều này đã gây ra sự bất mãn của hàng ngũ đại quý tộc như Quản Thúc, Hoắc Thúc, dẫn đến tranh đấu nội bộ. Mọi người đừng quên, lúc ấy còn có một người đang từng giờ từng phút tìm cơ hội trả thù phục quốc, đó chính là con trai của Thương Trụ - Vũ Di. Ông ta không hề bị chết dưới bàn tay độc ác của bà mẹ kế Hồ Tiên như trong tiểu thuyết đã miêu tả. Ông ta vẫn còn sống, hơn nữa ngày nào cũng sống trong day dứt tự trách bản thân. Tại sao lại như vậy? Bởi vì vào cái ngày nổ ra "Cuộc chiến Mục Dã", ông ta dù nắm trong tay hai mươi lăm vạn binh hùng tướng mạnh nhưng lại không thể nào cứu vãn kết cục bại trận. Không phải ông ta không ra tay cứu vãn, mà bởi lúc ấy bản thân đang bị kìm chân ở tiền tuyến cuộc chiến chinh phạt ở vùng duyên hải phía đông, dẹp cuộc nổi loạn của các bộ lạc Bồ Cô, Từ, Hoài Di. Mặc dù các bộ lạc Đông Di nhỏ yếu đương nhiên không phải đối thủ của tinh binh Đại Thương, nhưng vì sa lầy vào cuộc đông chinh dẹp loạn không kịp quay trở về đó đã khiến kinh đô nhà Thương bị trống ở phía sau, giúp cho nhà Chu có cơ hội đánh lén, hơn nữa còn là một trận toàn thắng.

Sau khi nghe tin mất nước, vị vương tử tổng chỉ huy hai mươi lăm vạn tinh binh chinh phạt Vũ Di hận không thể bóp chết chính mình ngay tại chỗ. Đáng tiếc lúc ấy khoa học kỹ thuật rất lạc hậu, không có máy bay, lại càng không có hàng không mẫu hạm, nếu không thì hai mươi lăm vạn quân Thương được trang bị vũ khí tối tân nhất, đối phó với quân đoàn vẻn vẹn 300 chiến xa, 3.000 kỵ binh nặng, 4.500 bộ binh của Chu Vũ Vương, vậy thì có khác gì dùng liềm gặt lúa, vung tay lần nào cắt gọn cả một bó lần đó. Cho nên đồng chí Vũ Di ngày nào cũng sống trong đau khổ. Ông ta kêu gào, ông ta toan tính, ông ta chờ mong phục quốc. Chờ đằng đẵng hai năm, cuối cùng cơ hội cũng tới, ông ta lôi kéo Quản Thúc, Hoắc Thúc, hơn nữa còn triệu tập các bộ lạc trước kia bị tiễu trừ là Bồ Cô, Từ,.. mở hội nghị, nói ngắn gọn: Ông đây muốn đánh chiếm lại đất nước!

Ngay tức khắc, nền thống trị của nhà Chu tràn đầy nguy cơ. Rất may là Chu Sáng đã đề phòng từ trước. Ông triệu tập đội quân hùng hậu, trước tiên tiêu diệt kẻ khởi xướng Vũ Di, sau đó giết chết quân phản bội Quản Thúc, đày người có lập trường chính trị không kiên định là Hoắc Thúc đi lưu vong, tiêu diệt thế lực trung tâm của quân phản loạn. Cuối cùng, tiến hành tiễu trừ phía Đông, nhờ vậy mới có Đại Chu trăm năm hưng thịnh về sau. Lần giao chiến này có quy mô lớn hơn, tính chất tàn khốc hơn rất nhiều so với "Cuộc chiến Mục Dã", thậm chí thời gian cũng dài hơn. Đến tận lúc đó mới chính thức hoàn thành mưu đồ bá nghiệp Chu diệt Thương.

Sau khi mọi người nghe tôi kể lại giai thoại lịch sử đó, ai ai cũng tỏ vẻ tán thưởng. Vương Phổ Nguyên khẽ gật đầu nói, thằng ranh nhà cậu cuối cùng cũng không phải là hạng người không có kiến thức. Tôi hỏi lão, chẳng lẽ "Thành Vương đông chinh" có liên quan đến cái mai rùa ghi văn tự giáp cốt này?

Vương Phổ Nguyên đáp: "Các nhà lịch sử học đã phỏng đoán, sau khi Vũ Di bị giết, tàn quân của ông ta, trong tình trạng mất người lãnh đạo, đã liên tiếp bại lui cho đến tận bờ biển Đông (TQ). Đám quý tộc mất nước nhà Thương rơi vào đường cùng, trước có truy binh sau có biển sâu. Như chúng ta đã biết, tổ tiên nhà Thương là bộ lạc sinh sống tại vùng duyên hải, nắm giữ kỹ thuật hàng hải tiên tiến. Họ có đủ năng lực vượt qua biển Đông, đi tới hải ngoại tìm kiếm một vùng trời mới để sinh tồn. Cùng thời kỳ ấy, ngay tại vùng đất Mexico tươi đẹp ở trung Mỹ, nền văn minh Olmec mang đậm sắc thái Trung Quốc, không hề có dấu hiệu của sự khởi điểm lẫn quá trình phát triển, đột ngột xuất hiện. Tác phẩm điêu khắc, đồ ngọc, vật tổ thờ cúng, kể cả những văn tự giáp cốt đã được phát hiện ra này của họ, đều có quan hệ mật thiết, thậm chí có thể nói là trực tiếp với những người dân di cư thời nhà Thương. Bản báo cáo của giáo sư Owen đi sâu vào nghiên cứu cái mai rùa viết văn tự giáp cốt được phát hiện trong rừng rậm của Peru. Ông ấy cho rằng, tổ tiên của người Anh Điêng Châu Mỹ có nhiều khả năng là người châu Á, mà cái mai rùa ghi văn tự giáp cốt này chính là bằng chứng hùng hồn nhất."

Chợt nhớ tới những gì Shirley Dương đã kể về đế quốc Inca, tôi khó hiểu hỏi: "Theo lý thuyết, thủ đô của đế quốc Inca là Cuzco, nằm giữa một thung lũng trên cao nguyên. Vậy thì cái mai rùa viết văn tự giáp cốt được tìm thấy trong rừng Amazon này làm sao lại biến thành di vật của đế quốc Inca?"

"Bởi vậy mới nói cậu học không đến đầu đến đũa." Vương Phổ Nguyên chỉ vào tài liệu, nói: "Lãnh thổ đế quốc Inca trải dài từ Peru đến Bolivia, có cả vùng khí hậu núi cao, có cả vùng rừng nhiệt đới. Khi quốc vương Inca bị người Tây Ban Nha sát hại, em trai ông ta là Huáscar* kế thừa vương vị, tiếp tục chống lại lũ xâm lược. Về sau không địch lại, ông này lập tức mang theo một lượng lớn vàng bạc của đế quốc cùng với con dân lui vào vùng rừng nhiệt đới để cố thủ, từ bỏ thủ đô Cusco. Đây chính là nguyên nhân tại sao lại phát hiện ra di tích của người Inca trong rừng rậm của Peru. Về phần con dấu trên mai rùa ghi văn tự giáp cốt này, tin chắc ta và cậu đều không xa lạ gì. Mối liên hệ xuyên suốt trong đó, cậu đã suy đoán ra được phần nào hay chưa?"

*Ở đây tác giả đã nhầm lẫn, đúng ra người này phải là Manco Inca Yupanqui.

Tôi gật đầu. Trước kia, tôi chưa bao giờ có ý nghĩ văn tự giáp cốt và di tích Inca có mối liên hệ gì với nhau. Đến giờ, thông qua bản báo cáo nghiên cứu bị cháy xém của giáo sư Owen, tôi đột nhiên nhận ra: Con dấu trên mai rùa ghi văn tự giáp cốt này chính là dấu của cái ấn Bá Vương mà Đạo trưởng Thái Nhất đã nhắc tới. Xưa kia, cùng với việc vượt đại dương sang châu Mỹ của con cháu đời sau nhà Ân, nó đã được người Inca liệt vào di vật linh thiêng của tổ tiên để lại. Cái ấn Bá Vương có nhiều khả năng là do Đạo trưởng Thái Nhất tình cờ tìm được trong quá trình đi du lịch. Ông lão học vấn uyên bác này đương nhiên biết rõ lai lịch của nó cho nên đã cất giữ rất cẩn thận. Nhằm giúp cho hai đệ tử hòa hợp với nhau, ông lão đã cử người chuyển cái ấn vàng về chỗ cũ, rồi giao bản đồ và chiếc nhẫn - chìa khóa để đọc bản đồ cho hai người, mỗi người một vật, với hi vọng họ có thể hợp tác với nhau giải mã bí mật để lấy lại chiếc ấn. Về phần cái ấn vàng này thực chất có đặc điểm nào đặc biệt, đó là điều thực sự khó có thể khám phá ra được.

Tôi nói đầu đuôi phân tích của mình ra cho Vương Phổ Nguyên nghe. Lão tương đối kích động, ho khan vài lần, đặc biệt là lúc tôi nói tới nỗi khổ tâm của Đạo trưởng Thái Nhất. Vương Phổ Nguyên bùi ngùi nói: "Ngụ ý của sư phụ rõ rành rành, bản tự đồng căn sinh tương tiên hà thái cấp(2); đã tính trước được là ta, một kẻ mang dòng giống Trung Hoa lưu lạc nơi đất khách cách xa quê nhà cả vạn dặm, khi nhìn thấy vật sẽ nhớ nhà mà trở nên đoàn kết một lòng. Ta và sư huynh Ngọc Cát là đồng môn, nhưng lại nhiều lần vì lợi ích cá nhân ích kỷ mà đấu đá với nhau. Kẻ đáng hận nhất phải nói là ta, sống đến cái tuổi này rồi mới hiểu thấu được nỗi khổ tâm của sư phụ..."

(2) Đây là hai câu cuối trong Bài thơ bảy bước của Tào Thực. Ý muốn nói anh em không nên tương tàn nhau, giống như câu ca dao "Lỗi lầm anh vẫn là anh, nồi da xáo thịt sao đành hỡi em" của người Việt ta.

七步詩

...

煮豆持作羹,

漉豉以為汁,

萁在釜下然。

豆在釜中泣,

本自同根生,

相煎何太急。

Thất bộ thi

...

Chử đậu trì tác canh,

Lộc thị dĩ vi trấp,

Cơ tại phủ há nhiên.

Đậu tại phủ trung khấp,

Bản tự đồng căn sinh,

Tương tiên hà thái cấp.

Bài thơ bảy bước

...

Đun đậu nấu làm canh,

Lọc đậu để lấy nước.

Cành đậu đốt ở dưới nồi,

Hạt đậu ở trong nồi khóc.

Vốn từ một gốc sinh ra,

Sao lại đốt nhau khốc liệt như vậy?

(Tham khảo thêm tại https://vi.wikipedia.org/wiki/Tào_Thực)

Nói xong, lão không cầm được lòng khóc nghẹn ngào. Bởi đã từng mất đi rất nhiều đồng đội cùng chung chiến hào, cho nên tôi có thể hiểu được phần nào tâm trạng lúc này của lão, bèn an ủi: "Cụ đã hiểu được nỗi niềm của đại sư, điều đó đã chứng tỏ mong muốn của người đã thành hiện thực, nỗi khổ tâm của Đạo trưởng Thái Nhất cuối cùng đã không uổng phí. Cụ cũng không cần phải quá mức tự trách bản thân. Con người ấy à, tóm lại là không tránh khỏi phạm sai lầm, phạm sai lầm không sao, quan trọng nhất là biết mình sai ở đâu, hơn nữa còn phải dũng cảm sửa sai. Đồng chí Vương kính mến, cụ vẫn là một đồng chí tốt."

Vương Phổ Nguyên nhếch mép, tạo thành một nụ cười mang theo niềm bi thương khôn tả; Trong nháy mắt, dường như đã trở nên già nua hơn rất nhiều. Lão sai Đầu Trọc mở máy chiếu, chiếu hình ảnh tấm bản đồ lên tường, sau đó vung cây trượng, hăng hái nói: "Giờ chúng ta nhằm thẳng vào khu rừng nhiệt đới này tiến lên."
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 16: Thành cổ Cuzco


Dịch giả: gaygioxuong

Hình chiếu tấm bản đồ trên tường được đánh dấu tọa độ bằng giấy nhựa plastic, hơn nữa còn có địa hình tương đối chính xác. Vương Phổ Nguyên cùng với những học giả dưới trướng của mình đã nghiên cứu hơn bốn mươi năm, cuối cùng cũng xác định được vị trí của ấn Bá Vương chính xác nằm ở chỗ một đền thờ thần Mặt trời của người Inca được xây dựng vào cuối thế kỷ 16. Ngôi đền thờ này đã bị con người quên lãng trong rừng nhiệt đới bạt ngàn đã vài thế kỷ nay. Mặc dù lão đã từng nhiều lần cử đội quân thám hiểm, ngay cả bản thân cũng đã từng có ý đồ tham gia kiếm tìm, nhưng chỉ vì thiếu kinh vĩ độ và bản chỉ đường chính xác, cho nên chẳng những nhiều lần ra về tay không, mà còn phải mất không một lượng kinh phí tương đối khổng lồ.

Vương Phổ Nguyên chỉ vào một chỗ được đánh dấu bằng hình ảnh thần Mặt trời trên tấm bản đồ, nói với tôi: "Hồ Bát Nhất, nếu như ông chủ sau lưng những kẻ mặc đồ đen đó đúng thật là kẻ phản bội Tư Mã Hiền, vậy thì đến giờ, nhóm người này đã bước lên hành trình tìm kiếm ấn Bá Vương rồi. Cô người yêu Dương tiến sĩ của cậu, nếu như chưa chết, tất yếu sẽ truy đuổi theo chân bọn chúng không rời. Vương Phổ Nguyên ta tuyệt đối sẽ không trơ mắt nhìn bảo vật của sư môn dễ dàng rơi vào tay người khác. Về phần cậu có định gia nhập không, điều đó hoàn toàn dựa vào ý muốn của cá nhân, lão đây tuyệt đối sẽ không cưỡng ép. Riêng về phần cái nhẫn của Tang sư đệ, ta vẫn hi vọng cậu có thể tặng cho ta một món ân tình, ngoan ngoãn giao ra đây, đừng làm lỡ thời cơ."

Vương Phổ Nguyên đã ngả bài với chúng tôi, bản thân tôi chẳng nên giả ngây giả ngô làm gì nữa, lập tức nói đại ý rằng, chiếc nhẫn bằng ngọc phỉ thúy là tín vật của tổng quản lý "Nhất Nguyên Trai" của chúng tôi, tuyệt đối không thể cho người khác mượn được. Huống chi, tâm nguyện của ông cụ Tang chưa hoàn thành, đứng trên lập trường tìm kiếm ấn Bá Vương, có thể nói chúng ta là "kẻ địch" đứng trên cùng một chiến tuyến. Nếu như muốn đi, vậy thì cùng nhau đi, còn cuối cùng hươu chết về tay ai, vậy thì phải dựa vận may của riêng mình.

Vương Phổ Nguyên khẽ gật đầu, nói: "Bản lãnh của các cậu, ta đã từng nghe nói tường tận. Nếu cậu chịu gia nhập không còn gì tốt hơn. Ta lập tức phái người đi chuẩn bị, nếu các cậu có yêu cầu gì thì cứ việc nói thẳng ra."

Thật ra, tôi lựa chọn hợp tác với Vương Phổ Nguyên hoàn toàn là việc chẳng đừng. Cả cái nước Mỹ này, chúng tôi một không có nguồn tiền, hai không có nguồn nhân lực, có thể nói là đi một bước cũng khó. Chưa cần nói đến đích đến của chuyến đi này là Peru ở tận mãi tít Châu Mỹ La Tinh xa xôi, một quốc gia mà tôi mới chỉ được nghe nói tới trên đài phát thanh. Chỉ có gia nhập đội ngũ do Vương Phổ Nguyên tổ chức, chúng tôi mới có thể có cơ hội xâm nhập truy tìm. Rất may là chúng tôi vẫn có đủ vốn liếng để đánh bạc. Không có chiếc nhẫn bằng ngọc Phỉ Thúy, lão chủ họ Vương chỉ dựa vào mỗi một tấm bản đồ không có tọa độ chính xác thì không thể nào tìm được tới chỗ cái đền thờ đó.

Thử nghĩ mà coi, làm cách nào mà tìm một công trình kiến trúc cách đây cả nghìn năm trong một khu vực rộng hơn 7 triệu km vuông. Nếu như không có bản đồ với tọa độ chính xác, cho dù Thiên Vương Lão Tử lão ta thực sự có bản lãnh trùm đời đi chăng nữa, chỉ sợ cả đời này cũng tuyệt đối không có lấy một tia hi vọng. Huống chi, hiện giờ đội ngũ của Cây Sào đã tập hợp đủ tín vật trước chúng tôi một bước, chắc chắn bọn chúng đang bước chân trên hành trình đi tìm rồi. Nếu đám người chúng tôi không đánh cược một lần, chỉ sợ không những làm mất cái ấn báu, mà ngay cả tính mạng Shirley Dương cũng sẽ khó mà bảo toàn.

Vương Phổ Nguyên đương nhiên sẽ không thể để mặc cái ấn báu của sư môn rơi vào tay kẻ phản bội. Lão và ông cụ Tang đã là kẻ thù một mất một còn, đồng thời cũng là kỳ phùng địch thủ về mặt trí tuệ cả một đời. Hai ông lão đã đấu với nhau cả đời, không thể nào để cho một kẻ phản bội đắc lợi được. Lão lập tức sai đám tay chân đi chuẩn bị những vật tư cần thiết cho chuyến hành trình đến Peru, sau đó lại gọi vài cuộc điện thoại đến các cơ quan ban ngành có liên quan, cứng rắn yêu cầu tạo điều kiện.

Chỉ trong vòng một buổi, toàn bộ đã được lão sắp xếp thỏa đáng. Tôi, Tuyền béo, Ma Cô Trẻ, Đầu Trọc cùng với Tần bốn mắt được xếp vào danh sách đội viên. Tôi nói: "Có lẽ cậu cả nhà cụ không nên tham gia vào vụ mạo hiểm này mới phải, lỡ chẳng may xảy ra sơ xuất gì, nhà họ Vương của cụ có lẽ sẽ không còn người nối dõi nữa."

Ma Cô Trẻ trợn trừng mắt, khiêu chiến tôi: "Đồ nhà quê chết tiệt, trước khi mở mồm phải động não một chút. Cậu đây dù gì cũng là sinh viên đại học tốt nghiệp hệ khảo cổ của Harvard. Đám người nhà quê các anh, ngay cả lịch sử Châu Mỹ cũng còn chưa được học nữa là. Thiếu tôi thì làm thế nào mà lăn lộn được ở Peru."

Tuyền béo là người ngang như cua, lên tiếng giễu cợt y: "Thám hiểm tìm bảo là việc tốn thể lực, đừng nói những quyển sách mà Ma Cô Trẻ nhà cậu đọc có tác dụng cái mẹ gì, cho dù có thực sự có tác dụng đi chăng nữa, sau khi tiến vào đó, ngay cả Đông Tây Nam Bắc còn không phân biệt chính xác nữa là. Hơn nữa, hãy thử ngẫm lại cho kỹ xem, cậu đã từng thấy bò cạp to bằng cái giầy chưa? Đã bao giờ thấy chưa?"

Ma Cô Trẻ nổi nóng vì bị khiêu khích, bắt đầu tranh cãi với Tuyền béo, bảo rằng trong rừng nhiệt đới hoàn toàn không có bò cạp. Tôi chẳng hơi đâu mà khuyên can, cảm thấy hai con người này cứ chạm mặt nhau là lại cãi lộn không cho ai yên, thật chẳng hiểu nổi đời trước ai đã mắc nợ ai nữa. Tôi quay sang bảo Tần bốn mắt, chuyến đi lần này quá mạo hiểm. Mức độ nguy hiểm của rừng nhiệt đới Amazon, mặc dù tôi chưa từng tận mắt nhìn thấy, nhưng nếu so với vùng rừng thiêng nước độc ở Vân Nam thì chỉ sợ không kém mà chỉ có hơn. Đó là một khu vực bị loài người quên lãng, đồng thời cũng là nơi bài xích người ngoài, anh không cần phải mạo hiểm đi cùng với chúng tôi.

Tần bốn mắt nói: "Ông cụ Tang có ơn tri ngộ với tôi, huống chi nhà họ Vương người đông thế mạnh, thêm người thì bên phía anh sẽ có lợi thế hơn một chút. Nếu anh Bát Nhất không gai mắt với họ Tần tôi, không chê tôi vướng víu, vậy thì chuyến đi này chúng ta tất sẽ cùng tiến cùng lui."

Tôi không còn cách nào đối phó với anh chàng luật sư cứng đầu này, đành phải đồng ý cho anh ta cùng đi. Tuy nhiên đưa ra ước định trước, sau khi vào rừng, tất cả sẽ do tôi quyết định. Nếu như nảy sinh vấn đề, chỉ cần tôi hô ngừng, anh ta nhất định phải đứng im. Phiền phức nhất là Mũ Sắt Đen, anh ta loáng thoáng hiểu được chúng tôi đang nói cái gì, vậy là lập tức gào ầm lên bảo rằng đây là hoạt động phi pháp, phải giao việc này cho cảnh sát để bọn họ tổ chức đội dò tìm thám hiểm. Tôi bảo anh ta, anh bạn à, việc này anh đừng có mơ chen chân vào làm gì, trước hết tìm cách sống sót chạy ra khỏi địa bàn nhà họ Vương mới là việc thiết thực. Cũng may Mũ Sắt Đen là một người biết cách biến báo, không giống mấy kẻ nước ngoài đầu óc như khúc gỗ, không đến nỗi tự đẩy bản thân vào đường cùng. Vương Phổ Nguyên vẫn luôn chẳng thèm để viên cảnh sát trưởng bé xíu này vào mắt. Thấy anh ta yên phận ngồi im trong góc, lão chẳng hề hé răng nhắc tới câu gì liên quan đến việc giết người diệt khẩu.

Bên phía Vương Phổ Nguyên, ngoài đứa cháu lão tự xưng là cử nhân hệ khảo Vương Thanh Chính ra, người còn lại chính là lão già tâm phúc Lưu Đầu Trọc. Nghe đâu, tổ tiên Lưu Đầu Trọc là người Mông Cổ. Lão chẳng những dũng mãnh thiện chiến, hơn nữa còn hành xử kín kẽ, biết khi nào cần tiến thoái. Bản thân Vương Phổ Nguyên tuy có lòng xuất chiến, tiếc rằng thời gian vô tình, gió sương tàn phá, sức khoẻ thân thể có hạn, lão không thể nào đi cùng với chúng tôi vào lưu vực sông Amazon. Trước khi đi, lão nhắn nhủ tôi: "Đứa cháu này của ta được nuông chiều từ bé, chẳng làm nên công cán gì, cũng chưa từng trải qua bất cứ khó khăn nguy hiểm nào, đoạn đường sắp tới vẫn phải phiền cậu để mắt đến nó nhiều hơn."

Tôi nghĩ bụng, cái loại cậu ấm đó dù có kênh kiệu đến mấy, sau khi vào rừng chẳng phải mặc cậu đây trừng trị. Những việc khác không nói tới, chỉ cần điều kiện khí hậu mưa rừng nhiệt đới là đã đủ cho y phải chịu khổ một phen, hết đường ba hoa khoác lác. Tuy nhiên vẫn phải nể mặt y đôi phần, ai bảo lão già kia không những xuất tiền lại còn cung cấp trang bị, ngay cả phiên dịch đi theo cũng được bố trí trước cả rồi. Tôi vỗ ngực cam đoan với Vương Phổ Nguyên: "Ông chủ Vương, ngài yên tâm. Lần này còn tôi thì còn cậu ta, khi quay về sẽ trả lại cho ngài một cậu cả Vương hiểu biết lão luyện."

Tuyền béo chỉ chăm chăm nghĩ đến kho báu của đế quốc Inca, đeo ba lô lên, hưng phấn nói: "Lão Hồ, không ngờ quanh đi quẩn lại, chúng ta lại quay trở về nghề cũ. Xem ra, tớ mang theo xẻng công binh quả đúng là hành động sáng suốt."

Tôi bảo, chúng ta vào rừng nhiệt đới để tìm đền thờ của người Inca, có phải đi đào đất tìm vàng đâu. Cái xẻng đó của cậu dùng để đập rắn rết muỗi độc còn được, chứ đừng có mà mơ tưởng chuyến đi này có thể đào được cái mồ chôn vàng nào đó của người Inca. Tuyền béo đáp: "Biết đâu đấy! Tớ nghe thấy lão già kia nói loáng thoáng về việc em trai vị Quốc vương Inca mang theo cả đống vàng lui về phòng thủ tuyến hai. Mặc dù trên thực tế, nhiệm vụ chủ yếu lần này của chúng ta là tìm cách cứu viện Dương tham mưu trưởng, nhưng đào vàng đóng vai trò là công việc phụ kèm theo, không thể nào bỏ qua cho được."

Hiệu suất của đội hậu cần của Vương Phổ Nguyên cao tới mức khiến người khác phải há hốc mồm, thậm chí tầng lớp cao cấp của thương hội còn chuẩn bị cho chúng tôi một chiếc S-51. Tuyền béo kích động chỉ vào chiếc máy bay trực thăng đó, nói: "Cha tớ đã từng kể cho tớ nghe, vào thời kháng Mỹ viện Triều, cái loại máy bay trực thăng bay này rợp trời như chuồn chuồn. Sau đó, ngày nào tớ cũng nằm mơ, mơ thấy mình nhặt lấy một viên đá nhỏ, ném đánh vèo một cái, vậy là nó rụng xuống. Đám máy bay bay rợp trời đó đều bị tớ dùng sỏi bắn rụng sạch. Ôi giấc mộng hồn nhiên thuở ấu thơ của tớ!"

Tôi vội vàng túm Tuyền béo lại, sợ cậu ta nhặt bừa lấy một hòn đá ném thẳng vào chiếc máy bay trực thăng của lão già họ Vương kia mất.

Tần bốn mắt chợt nói: "Chúng ta quá nhiều người, máy bay trực thăng không thể nào đủ chỗ cho tất cả. Tuy nhiên, nhờ có sự yểm trợ của nó, chúng ta xông pha trong rừng sẽ thuận tiện hơn rất nhiều."

Tuyền béo vẫn không chịu từ bỏ mong ước từ thuở ấu thơ, cậu ta bảo: "Chúng ta có năm người, thực ra vẫn có thể chen lọt mà."

Ma Cô Trẻ nói: "Anh nói nhảm nhí gì thế, ngoài người điều khiển ra thì tổng cộng chỉ chở được bốn hành khách nữa. Chen lọt? Tên mập mạp chết bầm nhà anh to bằng cả hai cái lu, làm thế nào mà chen vào được, cho anh đeo dây lơ lửng ở bên dưới có được hay không?"

Vương Phổ Nguyên đứng ra hoà giải, bảo rằng máy bay trực thăng có thể đóng vai trò chiến lược hậu bị cho chúng tôi, phụ trách thả dù vật tư, đảm bảo đường lui cho cả đoàn. Tôi hoàn toàn đồng ý với cách nghĩ này, bèn bảo với Tuyền béo: "Dám ước mơ là tốt, dũng cảm thực hiện giấc mơ đó thì càng tốt hơn. Nhưng hiện giờ chúng ta là một đoàn đội. Nếu như cậu đưa ra yêu cầu đặc thù, các đồng chí khác sẽ có ý kiến. Làm như vậy chẳng những phá hủy sự đoàn kết giữa chúng ta, mà còn phá hoại hình tượng của cậu trong suy nghĩ của mọi người. Hay là thế này, đến khi chúng ta quay về, sẽ do cậu leo lên máy bay trực thăng dẫn mọi người xông ra khỏi Amazon. Đến lúc đó, chúng ta sẽ bảo phi công cho cậu bay vòng quanh tượng Nữ thần Tự Do ba vòng, nhìn ngắm toàn bộ vùng đất rộng lớn bị tư bản chủ nghĩa chiếm giữ này."

Nghe xong kế hoạch của tôi, Tuyền béo hết sức động tâm, đáp lại tôi với thái độ nghiêm trang: "Tôi kiên quyết phục tùng quyết định của tổ chức. Tổ chức cử tôi đi đâu, tôi sẽ đi đến đó, kể cả có phải đứng làm một chiếc đinh ốc sáng bóng trên ngọn đuốc của tượng Nữ thần Tự Do đi chăng nữa."

Cả đoàn người chúng tôi trang bị tối giản khởi hành, chuyển sang ngồi xe lửa, trước tiên đi đến biên cảnh nước Mỹ, kế đó được đại biểu thương hội người Hoa địa phương đón nhập cảnh. Trên đường đi, mặc dù xóc nảy nhưng vẫn được chiêm ngưỡng phong thổ nhân tình cuốn hút đa sắc màu của Châu Mỹ La Tinh. Toàn bộ vùng đất nằm ở nam bán cầu này có vô vàn cảnh sắc hùng vĩ bao la, có vô vàn những động thực vật mà chúng tôi chưa hề từng nhìn thấy. Nơi này có nền văn minh lâu đời sánh ngang với dân tộc Trung Hoa, hơn nữa còn là một châu lục vẫn giữ được cảnh sắc nhiên nhiên hoang sơ từ thời nguyên thủy.

Sau khi đến Peru, cuối cùng tôi mới hiểu được tại sao Peru lại được gọi là đất nước của cây ngô. Ở nơi đây, đâu đâu cũng chỉ là những ruộng ngô. Vị đại biểu người Hoa, Tom Trần giới thiệu, từ xưa tới nay, cây ngô là cây công nghiệp chủ chốt của Peru. Đại bộ phận thương nhân trong thương hội Hoa Kiều của anh ta tiến hành buôn bán các sản phẩm được làm từ ngô. Tôi nhớ tới nông trường tư nhân của Vương Phổ Nguyên, sản lượng ngô ở đó so với ở nơi này quả thật là không đáng là cái gì. Tôi ngồi trên xe, trong tầm mắt chỉ là bạt ngàn cây ngô.

Đích đến đầu tiên của chúng tôi chính là thành Mặt trời Cuzco. Thung lũng nơi ngôi thành cổ ngàn năm trùng sinh sau khói lửa chiến tranh của kẻ xâm lược trong dãy Andes được các ngọn núi trùng điệp vây quanh, thêm vào đó là những triền núi cây rừng xanh tốt khiến khí hậu trong toàn bộ khu vực làm say lòng người, không vương lấy một chút giá rét trời đông nào. Tần bốn mắt nói, trong ngôn ngữ của người bản địa, "Cuzco" có nghĩa là "Trung tâm thế giới". Theo truyền thuyết, người đầu tiên đảm nhiệm Quốc vương của Inca, Manco Capac đã dùng cây trượng vàng do thần Mặt trời ban cho để định đô tại Cuzco. Bởi là nền tảng lập quốc của Inca nên được gọi là "cái rốn của mặt đất", mang ý nghĩa là trung tâm của bốn phương. Qua đó có thể thấy nơi được gọi là trung tâm của thế giới - Cuzco có địa vị thần thánh đến cỡ nào trong lòng của người dân khi ấy.

Vào trong thành Cuzco, tôi và Tuyền béo hoàn toàn biến thành mắt mù tai điếc. Đối với cái cố đô mang nặng phong thổ nhân tình của một nơi xa lạ, chúng tôi mới là người nước ngoài. Đường xá nơi đây vừa hẹp vừa bụi mù, khắp mọi nơi là những con đường thô sơ lát đá. Những công trình kiến trúc được xây dựng theo địa hình tự nhiên, trong đó không thiếu những công trình do thực dân Tây Ban Nha xây dựng. Hai bên đường xá nhỏ hẹp chi chít những quầy hàng của tiểu thương buôn bán sản phẩm thổ sản. Ăn mày ngồi lê lết dưới tường thành. Người đi lại trên đường phần lớn là người Anh-điêng có làn da màu đỏ. Họ khoác áo choàng dệt bằng lông lạc đà, đội mũ chóp nhọn đặc trưng của thổ dân. Khi nhóm người da vàng chúng tôi đi ngang qua, tất cả họ đều tò mò dõi mắt nhìn theo. Bời vì ngay cả một câu đơn giản bằng tiếng Tây Ban Nha cũng không biết, cho nên mỗi khi được chào hỏi tôi thực sự chẳng biết đáp lại thế nào, đành phải liên tục nở nụ cười thân thiện với những người đi ngang qua. Do cười quá lâu, cơ mặt đã cứng hết cả lại.

Khi còn ở trên xe lửa, chúng tôi đã xác định trước kế hoạch hành động, đầu tiên sẽ tới Cuzco. Người dẫn đường mà Vương Phổ Nguyên đã bố trí trước cho chúng tôi sống ở nơi này, là nghiên cứu viên của viện bảo tàng Cuzco. Theo lời Đầu Trọc, vị nghiên cứu viên này là con lai giữa người Anh-điêng và người Tây Ban Nha, quanh năm chỉ vùi đầu vào nghiên cứu văn hóa Inca, có kinh nghiệm khảo cổ trong rừng nhiệt đới, biết nói tiếng Quechua(1) của người Inca, có sự trợ giúp đắc lực đối với chuyến đi này của chúng ta. Trước kia, mỗi lần Vương Phổ Nguyên tổ chức đội thám hiểm đều mời vị nghiên cứu viên đáng kính này làm cố vấn. Có ông ta, chúng ta đương nhiên sẽ như hổ thêm cánh. Tuy nhiên, tôi cũng nói trước với Đầu Trọc và Ma Cô Trẻ, hành động lần này có mức độ nguy hiểm rất lớn. Ngoài người dẫn đường vừa mới nói đến, các vị ở đây chẳng có ai có kinh nghiệm sinh tồn trong rừng nhiệt đới Amazon cả. Sau khi vào rừng, tất cả buộc phải nghe sự chỉ huy của tôi, không thể tự tiện hành động.

(1) Nhóm ngôn ngữ Quechua, còn được gọi là runa simi ("ngôn ngữ con người"), là một nhóm ngôn ngữ bản địa châu Mỹ, gồm những ngôn ngữ có quan hệ gần gũi với nhau, được nói bởi người Quechua tại dãy Andes ở Nam Mỹ. Các ngôn ngữ Quechua xuất phát từ một ngôn ngữ tổ tiên chung. Với tổng cộng 8-10 triệu người nói, Quechua là nhóm ngôn ngữ bản địa phổ biến nhất châu Mỹ. Đây cũng từng là ngôn ngữ chính của Đế quốc Inca.

Bởi vì chênh lệch múi giờ, chúng tôi đến Cuzco chẳng hề đúng lúc một chút nào, nhà bảo tàng đã đóng cửa. Trước đó, Đầu Trọc đã liên hệ với người dẫn đường mấy lần mà không được. Tom Trần luôn canh cánh việc buôn bán của mình trong lòng. Tôi thấy anh ta hoàn toàn không có tâm trí nào để ý đến chuyện của mấy người chúng tôi, chủ yếu là bị Vương Phổ Nguyên ép nên không thể không tiếp đãi chúng tôi, vậy là đuổi thẳng cổ anh ta về. Đầu Trọc dẫn mấy người chúng tôi tới một quán rượu nhỏ ở gần nhà bảo tàng để nghỉ chân, còn bản thân sẽ đi tới nhà người dẫn đường xem tình hình thế nào, mong rằng ông lão chưa đến mức tuổi cao sức yếu đã về chầu trời mất rồi. Chúng tôi kéo cả nhóm tới nhà tìm người ta, hiển nhiên không quá thích hợp.

Quán rượu nhỏ này mang đậm phong cách miền tây, có thể đoán ra là tòa nhà do thực dân Tây Ban Nha xây dựng. Người trầm lặng nhất trong nhóm mấy người chúng tôi là Đầu Trọc vừa đi khỏi, không khí lập tức trở nên thoải mái hơn rất nhiều. Tần bốn mắt và Ma Cô Trẻ không biết tại sao lại bắt đầu gây hấn với nhau, còn Tuyền béo và tôi thống nhất trước tiên cứ thưởng thức đôi ba chén rượu đặc sản địa phương đã. Tôi giơ tay đẩy cánh cửa quạt nhỏ của quán để đi vào. Trong quán rượu mù mịt ngột ngạt, vào ban ngày mà đã có rất nhiều người đang ngồi vây quanh bàn rượu, uống rượu hút thuốc. Hai thằng chúng tôi loay hoay ở quầy bar một lúc lâu, nhưng dù nhìn đi nhìn lại vẫn không thể nào hiểu được cái nhãn bên ngoài vỏ chai ghi loại rượu gì. Tuyền béo nói: "Hay là cứ chọn bừa lấy một loại, kệ bu nó là nước đái ngựa hay là trâu, cứ uống trước rồi tính sau."

Tôi bảo: "Cậu nói có lý! Không thể để đám da đỏ man di này coi thường chúng ta được." Thế rồi tôi gõ ngón tay lên bàn rồi chỉ vào cái kệ đằng sau đám ma men, định bảo chủ quán lấy cho chúng tôi một chai bất kỳ rồi tính sau. Không ngờ, một cái cốc thủy tinh to đùng sáng lấp lánh đột nhiên bay thẳng vào đầu tôi đánh cốp một cái rồi vỡ tan. Tôi lập tức cảm thấy choáng váng, thiếu chút nữa là đứng không vững. Tôi vừa vừa bịt tay lên cái trán đang đổ máu, vừa thầm rủa trong bụng, chẳng hiểu ngôi sao xui xẻo từ đâu bay đến. Cậu đây có làm cái gì đâu, sao lại vô duyên vô cớ ăn đập vào đầu như thế này. Con mẹ nó, chẳng lẽ đây là phương thức chào hỏi của người Peru hay sao?

Tôi còn chưa kịp hiểu ra tại sao, lại có thêm rất nhiều chai lọ cốc chén đua nhau bay tới. Người trong quán rượu đột nhiên giống như đã phát điên, vớ lấy ghế đẩu tròn, bàn rượu rồi đập thẳng tay, hoàn toàn không cần biết đối phương là ai. Tần bốn mắt đứng ở cửa ra vào, hét to: "Hai người mau chạy ra, người ở bên trong đang kéo bè kéo lũ đánh nhau "

Thấy tôi bị thương, Tuyền béo không nói năng câu gì, túm cổ áo lôi tuột tôi ra bên ngoài. Tôi vừa định nói, "các vị anh em tôi có làm gì đâu, tôi chỉ định chọn một chai rượu trong góc thôi mà", có ngờ đâu, trước mắt chợt tối sầm. Không hiểu một người có hình thể cao to từ đây lao tới, đè tôi ngã bẹp dí xuống đất. Cú đè đó rất nặng, tôi chợt cảm thấy không khí trong phổi mình bị người ta ép hết ra ngoài, khỏi cần phải nói khó chịu đến mức độ nào. Tuyền béo đứng bên cạnh cố dấu nụ cười tí tởn, hoàn toàn bọc lộ bản chất bạn xấu. Tôi vung tay lên, định nện cho kẻ đang đè trên người mình một cú. Nhưng vừa nhìn lại, người đó hóa ra lại là phụ nữ, đã ngất lịm từ bao giờ.

Chúng tôi vừa mới vào quán rượu, không may dính vào trận ẩu đả của đám ma men địa phương. Tôi chẳng những là người vô tội bị liên quan, vỡ đầu chảy máu, mà thiếu chút nữa còn bị một thiếu nữ Anh Điêng có hình thể cao lớn đè chết. Thật đúng là ra quân chưa thắng thân đà thác, mãi khiến anh hùng lệ xót xa (2)! Chẳng trách Tuyền béo lại khoanh tay đứng bên cạnh cười trên nỗi đau khổ của người khác, mà chẳng thèm ra tay viện trợ cho tôi. Hơn nữa còn thừa biết tôi không bao giờ đánh phụ nữ, cho nên mới chờ để xem tôi biến thành thẳng hề. Tôi đẩy cô thiếu nữ đã ngất lịm ra, bảo Tuyền béo: "Trước kia cậu đâu có như thế. Chàng béo trượng nghĩa trước kia đã đi đâu mất rồi. Chẳng lẽ sinh sống ở một nước tư bản chủ nghĩa lâu rồi, ngay cả vị chiến hữu thân thiết nhất của tôi, đồng chí Vương Khải Tuyền cũng bị biến chất rồi hay sao?"

(2) Đây là hai câu cuối trong bài thơ "Thừa tướng nước Thục" do Đỗ Phủ viết khi ông đến viếng đền thờ Gia Cát Lượng.

七言律詩

杜甫

蜀相

丞相祠堂何處尋? 錦官城外柏森森,

映階碧草自春色, 隔葉黃鸝空好音。

三顧頻煩天下計, 兩朝開濟老臣心。

出師未捷身先死, 長使英雄淚滿襟。

Hán Việt:

Thục Tướng

Thục tướng từ đường hà xứ tầm

Cẩm Quan thành ngoại bách sâm sâm

Ánh giai bích thảo tự xuân sắc

Cách diệp hoàng ly không hảo âm

Tam cố tần phiền thiên hạ kế

Lưỡng triều khai tế lão thần tâm

Xuất sư vi tiệp thân tiên tử

Trường sử anh hùng lệ mãn khâm

Dịch Nghĩa

Tìm ở nơi nào thấy đền thờ của thừa tướng?

Chính là ở ngoài thành Cẩm Quan,

nơi có hàng cây bách um tùm

Soi sáng thềm, cỏ xanh vẫn có màu vẻ xuân;

Bên kia lá cây, chim oanh vàng vẫn cất tiếng hót hay

Lưu Huyền Ðức ba lần đến thăm làm cho ngài phải bận tâm với kế sách bình định thiên hạ Ngài đã có công mở nước và giúp rập hai triều, hết lòng bậc lão thần.

Ngài đem quân đi đánh Ngụy chưa thắng trận mà thân đã thác;

Việc này mãi mãi khiến cho các bậc anh hùng lệ rơi đầy vạc áo

--Bản dịch của Trần Trọng San--

Thừa tướng nước Thục

Biết đâu tìm đến đền Thục tướng

Phía ngoài thành Cẩm bách rườm rà

Soi thềm cỏ biếc luôn tươi thắm

Bên lá oanh vàng vẫn hát ca

Ba lượt ân cần ơn chúa nặng

Hai triều giúp rập bụng tôi già

Ra quân chưa thắng thân đà thác

Mãi khiến anh hùng lệ xót xa.

Tuy nhiên, Tuyền béo đâu có kịp đấu võ mồm với tôi. Chẳng hiểu tại sao, đám ma men trong quán rượu nhìn thấy Tuyền béo cứ như bò tót nhìn thấy quần đùi đỏ, nổi điên lao thẳng tới cậu ta. Đám đàn ông da đỏ đeo giày mũi nhọn giày đồng loạt gào lên gì đó mà chúng tôi không hiểu, nhảy nhót loi choi như đám khỉ, không ngừng ném chai, cốc đựng rượu về phía chúng tôi. Bởi vì không hiểu bọn chúng đang hò hét cái gì, lại bị mấy cái chai rượu đập trúng bờ mông, đến lúc này Tuyền béo đã hoàn toàn phát khùng. Cậu ta vớ lấy cái bàn tròn gần đó, nện thẳng cánh tới bọn người đang dần quây kín chúng tôi. Tôi sợ cô thiếu nữ Anh Điêng bị ngộ thương, vừa thầm nghĩ bụng, một cô thiếu nữ không có việc gì làm hay sao mà lại xuất đầu lộ diện ở một nơi như thế này, vừa đỡ cô dậy.

Lúc này Tần bốn mắt đã vọt vào trong đám đông, vẫy tay rối rít, gọi tôi: "Lão Hồ, chạy mau. Người bọn chúng muốn bắt chính là cô gái này!"

Nghe xong, Tuyền béo kích động còn hơn cả tôi lúc nãy, thiếu chút nữa là nhảy dựng lên: "ĐM, cái đám khỉ da đỏ này có còn biết xấu hổ hay không? Một đám đàn ông bắt nạt một cô gái nhỏ. Có chuyện mẹ gì đang xảy ra thế này. Lão Hồ, cậu đỡ cô ta một chút, cái đám loi choi này cứ giao cho tớ xử lý."

Tôi đá văng một tên đội nón lá xông về phía mình, giao cô thiếu nữ vào tay Tần bốn mắt, giục anh ta và Ma Cô Trẻ mang người chạy trước, sau đó quay lại bảo với Tuyền béo: "Đừng có khùng nữa! Toan tính nhỏ nhặt của cậu, tớ còn lạ gì nữa. Thực ra là do mông bị đập trúng vài cú, trong lòng không nhịn nổi, muốn trả đũa một chút. Tớ hiểu mà, không có việc gì. Nào, hai anh em chúng ta cùng xông lên." Nói xong, tôi và Tuyền béo rống lên một tiếng hào hùng vang vọng cả đất trời. Đám người Anh-điêng có mặt ở đó đều bị tiếng hét của chúng tôi làm chấn động đờ người ra, lập tức không dám hành động thiếu suy nghĩ. Tôi thấy vừa đúng lúc, hét to một tiếng:

"Chạy!"

Tôi hét xong, hai thằng vung chân đá văng, gạt ngã một loạt ma men, cướp đường mà chạy.

Tục ngữ nói rất chính xác, cường long khó áp địa đầu xà, huống chi bọn chúng lại còn là rắn chuột một ổ, chúng tôi sính anh hùng ở lại có khác gì tự tìm đường chết. Làm anh hùng, thỉnh thoảng thực hiện thì còn được, nhưng biến hành động đó thành thường xuyên thì không khôn ngoan một chút nào. Chúng tôi vừa ra khỏi quán rượu, lập tức bị nắng chiều làm cho lóa mắt mất một thoáng. Ngay sau đó, phía sau chợt vang lên vài tiếng súng đinh tai. Tôi nhận thấy tình hình bất ổn, đám người kia làm lớn chuyện thật rồi, không dám chần chừ lấy một giây, hận không thể dùng cả bốn tay chân mà chạy thoát thân. Đường xá trong thành cổ hết sức gập ghềnh và hẹp, phần vì phải cắm đầu chạy xuyên qua cả một biển người, phần vì chưa quen thuộc đường đi lối lại, chúng tôi bị đám người kia truy đuổi, nhô lên hụp xuống để tránh né chẳng khác gì chuột bị lùa trong hang cả.

Khi vừa chạy tới chỗ chân một bậc thang đá, một người đột nhiên nhô đầu ra từ một căn nhà bé xíu thấp lè tè ở bên đường. Tôi nhìn qua bên đó, một cái đầu trọc to đùng bóng lưỡng, chẳng phải là Đầu Trọc đi tìm người dẫn đường lúc trước thì còn ai vào đây nữa.

Toàn thân Đầu Trọc bê bết máu, hai mắt đỏ sọng. Chúng tôi chẳng hiểu chuyện gì xảy ra, lão cũng chẳng có thời gian mà giải thích. Vừa nhìn thấy đám người truy đuổi phía sau chúng tôi, lão cầm theo "chó lửa" nhảy vọt ra khỏi cửa sổ, "đoàng đoàng" bắn xuống đất hai phát. Nhìn thấy dáng vẻ hung thần ác sát của lão, đám người kia đồng loạt dừng lại. Đúng lúc này, phía sau vang lên tiếng huýt sáo, chúng tôi quay đầu lại nhìn. Ma Cô Trẻ chẳng hiểu kiếm được ở đâu một chiếc xe Jeep, đang rồ máy ở chân cầu thang chờ chúng tôi.

Đầu Trọc móc từ trong ngực áo ra một khẩu súng rồi ném cho tôi. Tôi bắt lấy xem xét, thầm than của hiếm, khẩu súng ngắn Walter do Đức sản xuất, bán tự động 9 li. Đây chính là của báu mà ở trong nước tuyệt đối không có khả năng kiếm ra được.

"Lão Hồ, đừng ngây ra đó, mau yểm hộ bọn tớ rút lui!" Tuyền béo vừa đánh nhau với tên Anh-điêng cầm đầu, vừa gọi tôi cứu giúp. Tôi và Đầu Trọc, một trái một phải yểm trợ Tuyền béo, vừa lùi vừa nổ súng về phía đám truy binh. Ma Cô Trẻ ngồi trên xe chờ đã không còn kiên nhẫn được nữa. Lúc nãy, trong quán rượu, y mải cãi nhau với Tần bốn mắt, không có cơ hội để thể hiện bản lĩnh. Đến giờ, thấy chúng tôi lùi lại với tốc độ quá chậm, y nhấn lút chân ga, lái xe lao vụt về phía chúng tôi. Chiếc Jeep bị y lái húc thẳng vào bậc thang đá, thiếu chút nữa là vỡ ra thành từng mảnh, rất may là chúng tôi đã kịp thời nhảy vọt lên. Ba chúng tôi chẳng kịp dùng tay mà trèo lên, ưỡn người nhảy luôn lên băng ghế sau của chiếc xe Jeep. Đầu Trọc lộn người nhảy vào, đầu đập thẳng vào thành xe, đau đến mức chảy cả nước mắt. Nhưng vì sĩ diện, lão nhất quyết không chịu kêu lấy một tiếng. Ma Cô Trẻ xoay mạnh vô lăng một cái, chúng tôi lập tức phi vọt từ bậc thang xuống, chạy vào một con đường lớn. Đám truy binh phía sau hiển nhiên không chịu buông tha, vừa bám riết phía sau chúng ta vừa nổ súng. Tuy nhiên, đùi người vĩnh viễn không thể đua được với bốn bánh, chúng nhanh chóng bị chúng tôi cắt đuôi.

"Tiếp tục chạy đi, Kuester không thể ở lâu. Giờ chúng ta đi thẳng tới thôn Titamar luôn, đến chỗ đó tìm thổ dân dẫn đường vào rừng." Đầu Trọc vuốt máu trên mặt, sau đó bảo với chúng tôi: "Ông Alla Bula bị sát hại rồi, chúng ta đã đến chậm một bước. Còn đây chính là con gái của ông ấy, tên Dollier."

Đến lúc này tôi mới nhận ra, trên hàng ghế sau của xe Jeep có một người cuộn tròn lại, đang run rẩy toàn thân, chính là cô gái Anh Điêng hậu đậu vừa rồi thiếu chút nữa đã đè chết tôi trong quán rượu. Đầu Trọc thở phì một hơi ra đằng mũi, siết chặt tay thành nắm đấm, nói: "Chúng ta đã lạc đường ở khu vực thành cổ, thành ra trễ mất một ít thời gian. Con mẹ nó, chỉ chậm có một bước! Khi tôi tới nơi, Alla Bula đã bị kẻ khác cắt đứt cổ rồi, có mấy người dân bản xứ đang định nhẫn tâm xuống tay với Dollier. Tôi nổ súng bắn chết một kẻ, rồi bảo Dollier chạy tới quán rượu cầu cứu, không ngờ lại bị một tên người châu Á đột ngột tấn công từ phía sau". Đầu Trọc chỉ vào vết thương be bét máu ở trên đầu mình, nói: "Tên kia vừa đen vừa vạm vỡ, tôi đoán hắn chính là tên Trâu Mộng mà Tưởng Bình đã nói, là kẻ phụ tá đắc lực cho Cây Sào trong chuyến đi này."

Tôi cứ tưởng đội ngũ của Cây Sào đã tiến vào rừng Amazon trước chúng tôi một bước, nhưng xem ra bọn chúng vẫn chưa thể tìm được người dẫn đường thích hợp. Do đe dọa lẫn dụ dỗ không thành công nên chúng thẳng tay giết người diệt khẩu, định sát hại toàn bộ người nhà Alla Bula. Về phần thiếu nữ người Anh Điêng tên Dollier kia, mặc dù có vẻ cao lớn, nhưng nhìn kỹ lại thì chỉ mới tầm mười tám mười chín tuổi. Một cô thiếu nữ còn ít tuổi như vậy, trong tình huống phải đối mặt với một đám côn đồ xông vào nhà mình mà vẫn còn có thể bình tĩnh chạy đi cầu cứu, thật sự là đáng quý. Mặc dù vậy, cô đột ngột phải hứng chịu nỗi đau mất đi người thân, giờ phút này đã trở nên ngây dại, co rúm người lại một góc, không chịu nói chuyện với bất cứ người nào trong số chúng tôi. Chúng tôi rặt một đám đám đực rựa, chẳng biết phải an ủi cô như thế nào. Cuối cùng vẫn là Tần bốn mắt tính toán chu toàn. Anh ta nói, tới thôn trấn kế tiếp thì đi tìm bệnh viện để đưa cô Dollier tới đó. Một là, để xem cô có bị thương hay không; Hai là, nếu nhân viên y tế nhìn thấy cô bê bết máu khắp người tất nhiên sẽ đi báo cảnh sát; Ba là, bệnh viện dù sao cũng là nơi mang đặc tính công cộng, nếu đám truy binh có đuổi kịp thì cũng không dám xông bừa vào trong đó để hành hung. Huống chi, hành tung của chúng tôi đã bị lộ, bọn chúng tất yếu sẽ truy đuổi ráo riết. Một thiếu nữ vẫn còn ngây dại chưa hoàn hồn như cô, nếu đi theo chúng tôi thì sẽ rất nguy hiểm.

Ma Cô Trẻ lái xe, lắc đầu nói chen vào: "Lần này chúng ta đã gây ra họa lớn rồi, không chỉ đám Cây Sào, ngay cả cảnh sát địa phương cũng sẽ tìm chúng ta gây phiền phức."

Tôi bảo, ẩu đả trong quán rượu không được coi là tội quá nặng. Đến khi chúng ta vào trong rừng rồi, cảnh sát chắc gì đã dám xông vào đó truy đuổi. Tần bốn mắt cười gượng gạo, chỉ vào Ma Cô Trẻ, nói: "Cậu cả này đã tấn công cảnh sát tuần tra, chiếc xe chúng ta đang ngồi được cướp từ tay của họ."

Nghe nói vậy, tôi vội vàng cúi đầu xuống nhìn thân xe, quả nhiên trên đó vẽ quốc huy ba màu của Peru. Tôi lập hối hận muốn chết quách cho rồi. Xuất ngoại một chuyến, Shirley Dương thì chẳng gặp mấy lần, lại còn bị cảnh sát Mỹ truy nã, đến giờ còn cướp cả xe cảnh sát Peru. Sau này còn mặt mũi nào để về gặp mặt hương thân phụ lão chốn quê nhà. Nếu ông cụ nhà tôi có hỏi: Bát Nhất, con mang được những món đặc sản địa phương gì về tặng cho hàng xóm láng giềng thế? Chắc tôi phải trả lời thế này mất, Ha ha... Bố, đặc sản không có, nhưng lệnh truy nã thì có một đám; Hơn nữa, văn tự của nước nào cũng có. Con mẹ nó chứ, thà rằng tự mình cắt cổ chết ngay tại đây cho rảnh nợ.

Tôi và Tuyền béo đua nhau mắng Ma Cô Trẻ xối xả một chặp. Chiếc xe Jeep lao vun vút suốt cả ngày lẫn đêm. Cuối cùng, trước khi hết sạch xăng, chúng tôi đã tới được một trấn nhỏ ở gần thôn Titamar. Chúng ta đưa cô thiếu nữ Dollier vẫn chưa hoàn hồn lại tới bệnh viện địa phương, may mắn là vừa khéo có có mấy vị nữ tu sĩ đang truyền giáo tại bệnh viện. Chúng tôi giao cô Dollier cho họ nhờ chăm sóc, để lại một ít tiền hương hoa, rồi mới rời khỏi cái thị trấn nhỏ có được nét hiện đại văn minh cuối cùng ở nơi đây, cuốc bộ về phía thôn Titamar, một thôn xóm của thổ dân chỉ cách rừng Amazon có 1,5 km.

Càng đến gần thôn Titamar, thảm thực vật biến đổi càng rõ nét. Chúng tôi đã đi vào vùng khí hậu mưa rừng nhiệt đới ở cận đông Peru. Nơi đây thuộc về thượng lưu sông Amazon, là khu vực đồi núi trung du xen lẫn đồng bằng phù sa, quanh năm nhiệt độ cao mưa nhiều, rừng rậm ngút ngàn, hoang vắng. Thôn Titamar mà Đầu Trọc đã nói, chính là trạm tiếp tế cuối cùng có dấu vết hoạt động của con người trước khi chúng tôi đi vào rừng Amazon.

Trước khi vào thôn, Đầu Trọc còn cho chúng tôi một cú phủ đầu choáng váng. Lão bảo, thổ dân nơi này rất hiếm khi gặp người lạ. Lúc trước, lão cũng chỉ mới bắt chuyện với họ có vài lần khi cùng với đội thám hiểm do ông chủ mình tổ chức đi ngang qua đây. Bởi vậy, chúng ta phải kìm chế mà làm việc, không thể quấy nhiễu cuộc sống của dân bản xứ. Nếu có thể tìm được thổ dân đồng ý dẫn chúng ta vào trong rừng nhiệt đới thì là tốt nhất; Nếu như không thể, vậy thì đành phải dựa vào bản lĩnh của chính mình mà lần mò trong rừng. Trình độ nói tiếng Quechua của Đầu Trọc so với trình độ nói tiếng Anh của tôi chẳng hơn kém nhau là bao. Lần này không có ông lão Alla Bula kia đi theo làm phiên dịch, sợ rằng tiến độ chuyến đi của chúng tôi sẽ sụt giảm rất nhiều. Dựa theo kế hoạch ban đầu, máy bay thả dù vật tư của nhà họ Vương mãi sáng ngày thứ hai mới có thể đến nơi, cho nên chúng tôi buộc phải qua đêm ở trong thôn. Nếu như không thể thiết lập quan hệ thân thiện với thổ dân, chúng tôi sẽ buộc phải ngủ ngay trên mặt đất đầy rắn rết bên cạnh khu rừng nhiệt đới. Để tránh cho tình huống xấu này phát sinh, chúng tôi đồng loạt trưng ra nụ cười thân thiện nhất rồi bước chân vào bộ lực nguyên thủy trong truyền thuyết này.

Khi vào trong thôn Titamar, tôi mới hiểu tại sao Đầu Trọc lại gọi họ là thổ dân nguyên thủy. Quần áo những người ở đây mặc giống hệt như của người tiền sử mà chúng ta nhìn thấy trong viện bảo tàng. Chẳng cần biết là nam nữ hay già trẻ, trên người nào cũng chỉ mặc độc một chiếc khố nhỏ được bện bằng rễ cây. Da họ màu đỏ, toàn thân kín mít hình xăm. Nhìn thấy chúng tôi đi vào thôn, toàn bộ đều tỏ vẻ sợ hãi, nháo nhác chạy trốn về phía chiếc lều lớn nhất nằm ở trung tâm của thôn. Để khoe khoang kiến thức đã học được trong sách khi còn ngồi ghế đại học, Ma Cô Trẻ hết sức vênh váo chỉ vào chếc lều được dựng bằng gỗ và cỏ khô đó, nói: "Các vị nhìn đi, trên đỉnh lều treo cờ bện bằng lông lạc đà. Đó là tiêu chí của Tộc trưởng thổ dân."

Tuyền béo bảo cậu nói nhảm nhí vừa thôi, nếu đó không phải là lều của ông chủ lớn của mình, họ chạy đến chỗ đó làm cái chết mẹ gì! Nếu tinh ý thì chỉ cần liếc mắt nhìn là có thể nhận ra được, cậu ở đó mà ồn ào ra vẻ ta đây làm cái gì. Tôi sợ hai người họ lại gây lộn, làm đám thổ dân xung quanh hoảng sợ, bèn hỏi bừa Đầu Trọc vài câu về phong tục, tục lệ của bộ lạc này để chuyển hướng chủ đề. Mấy người còn lại mới là lần đầu tiên được tiếp xúc với thổ dân Amazon với khoảng cách gần như vậy, cho nên lập tức không gây ồn ào nữa. Chúng tôi vừa đi về phía chiếc lều lớn, vừa chăm chú nghe Đầu Trọc giảng giải.

Đầu Trọc là người trầm tĩnh nhất, kín kẽ nhất trong số mấy người chúng tôi, có lẽ là bởi có liên quan đến việc lão quanh năm làm công việc hộ vệ. Mặc dù bề ngoài cực kỳ cao to, thô kệch, nhưng cung cách hành xử lại đặc biệt thận trọng. Lão thấy mấy người chúng tôi đều đang đợi mình kể chuyện, gương mặt thoáng đỏ bừng lên trông thấy. Lão sờ lên lớp băng trên đầu, nói: "Thực ra tôi cũng không biết rõ lắm. Chỉ biết là lần trước khi cùng với ông chủ Vương đến đây, tôi đã được nhìn thấy tên độc của họ. Loại tên thổi bằng ống này hết sức kinh khủng, tôi đã tận mắt nhìn thấy dũng sĩ của họ dùng một mũi tên giết chết báo rừng."

Tôi lập tức vỗ tay, khen Đầu Trọc chẳng những thân thủ nhanh nhẹn, học thức cũng hết sức uyên bác, không hổ là nhân vật cứng cựa được tôi luyện trong thực chiến. Đầu Trọc tỏ vẻ xấu hổ, khiêm tốn bảo rằng những điều đó không đáng là cái gì. Đang đi, Ma Cô Trẻ dẫn đầu đoàn đột nhiên đứng khựng lại. Tuyền béo đập cho y một cái, nói thằng nhóc nhà cậu lại phạm phải tật xấu gì nữa đây. Không ngờ, lần này là lần đầu tiên Ma Cô Trẻ không hề tranh cãi với cậu ta, hơn nữa còn giơ hai tay lên quá đầu. Chúng tôi vượt lên trước xem sao thì thấy ngay một đám đàn ông vẽ kín hoa văn màu đen trên cơ thể, đang đứng đầy xung quanh chiếc lều lớn. Trên đầu họ cắm những chiếc lông vũ nhiều màu sắc, tay mỗi người đều cầm một chiếc ống nho nhỏ tương tự như ống đựng bút của học sinh, toàn bộ miệng ống đều chĩa thẳng về phía chúng tôi.

Chúng tôi không dám chần chừ lấy một giây, mấy người lập tức học theo Ma Cô Trẻ ngoan ngoãn giơ hai tay lên.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 17: Bộ lạc ăn thịt người


Dịch giả: gaygioxuong

Vừa bước vào khu vực của bộ lạc thổ dân Amazon, mấy người chúng tôi đã bị thổ dân bản địa có vũ trang bao vây chật như nêm cối. Đầu Trọc bảo rằng, tên độc của thổ dân vô cùng nguy hiểm, có thể nói chỉ cần xước da chảy máu là chết ngay, ngay cả động vật hung dữ nhất trong rừng là Báo châu Mỹ cũng không thể sống sót được dưới loại độc tố được thổ dân nơi đây chiết xuất ra từ thực vật đó.

Bởi vì thức thời mới là trang tuấn kiệt, chúng tôi nhận thấy hoàn toàn không thể nào chạy thoát khỏi vòng vây của những thổ dân này, cho nên lập tức giơ hai tay lên, biểu thị mình hoàn toàn không có ý định tấn công, mà chỉ mang theo thái độ thân thiện đến đây xin tá túc. Ma Cô Trẻ và Tần bốn mắt thay phiên nhau dùng tiếng Tây Ban Nha để bắt chuyện với họ. Kết quả, toàn bộ những thổ dân đó vẫn tỏ vẻ dửng dưng như không. Tuyền Béo định bước lên giải thích, bị một mũi tên độc bay sát qua người, vậy là không dám ho he gì nữa. Tôi hối thúc Đầu Trọc: "Ông anh Lưu, chẳng phải anh đã nói là biết thổ ngữ của họ hay sao? Mau mau bắt chuyện với bọn họ một chút, cứ giơ tay thế này chẳng giải quyết được cái gì đâu."

Ai ngờ Đầu Trọc cuống hết cả lên, ngay cả vài câu bằng tiếng Quechua cũng quên sạch sẽ. Chúng tôi bị thổ dân dùng dây thừng bện bằng lông lạc đà cừu trói chặt cứng lại thành một hàng, sau đó bị áp giải vào bên trong cái lều lót thảm lông lạc đà đã ngả màu của tù trưởng.

Tuyền Béo chợt nhớ tới một vài lời đồn bóng gió, nhích lại gần chỗ tôi, khẽ hỏi: "Lão Hồ, theo cậu thấy, họ có ăn thịt người không?"

Tôi vừa nghe thấy cậu ta hỏi như vậy, trong lòng chợt giật đánh thót. Nghe nói, có một vài bộ lạc Nguyên Thủy, do năng lực sản xuất lạc hậu, nên sẽ dùng thịt người già yếu và trẻ em chết yểu trong bộ lạc để làm lương thực dự trữ. Một đám thanh niên béo mập, thân thể cường tráng chúng tôi, rơi vào tay họ, không may trở thành món ăn trên yến tiệc thịt người trong truyền thuyết, như thế chẳng phải là thê thảm lắm hay sao. Biết thế lúc trước liều chết đánh cược chống cự lại rồi chết dưới tên độc dù sao vẫn tốt hơn là biến thành món ăn trong mâm, thịt trong bát của kẻ khác.

Ma Cô Trẻ nghe thấy cuộc đối thoại của hai thằng, hoảng sợ tới mức run lẩy bẩy. Thấy y sợ hãi, Tuyền Béo tiếp tục đầu độc đầu óc y: "Cậu cả này thường xuyên ăn sơn hào hải vị, da thịt tương đối non mềm, hết sức ngon miệng. Lát nữa cứ để cho đám thổ dân da đỏ kia bắt cậu khai đao trước tiên, nhờ vậy chúng ta sẽ được ngửi lây một chút mùi vị thịt người."

Ma Cô Trẻ bị cậu ta dọa, nước mắt chỉ trực trào ra, oai phong thường ngày bay biến đi đâu sạch sẽ. Tần bốn mắt không nhịn được, dùng bả vai hích Tuyền Béo một cái: "Sao không thử nhìn xem ở đây ai nhiều thịt nhất. Tôi nghe nói, có một vài bộ lạc thích dùng loại thịt lắm mỡ nhất để cúng tế Thần linh. Lát nữa họ sẽ ném lão Vương cậu vào trong hồ để tẩy rửa sạch sẽ, bôi dầu cọ rồi buộc vào cọc gỗ cho lên quay sống mới đúng."

Tuyền Béo lập tức phản bác, bảo rằng mình chỉ là béo bệu, không như lão Hồ, thân thể cường tráng, toàn thân đều là thịt thăn, tương đối dai giòn. Tôi nói, tại sao vào thời điểm mấu chốt cậu lại phản bội, thẳng tay bán đứng chiến hữu của mình như vậy. Đã vậy, nếu họ có muốn nướng cậu, tớ sẽ mặc kệ không cứu.

Đầu Trọc dở khóc dở cười trước phán đoán càng lúc càng chẳng giống ai của chúng tôi. Lão không nhịn được nữa, nói xen vào: "Bộ lạc này tự mình cày ruộng, ngoài ra còn dựa vào săn bắn để kiếm sống. Cứ đến thời hạn cố định, họ lại cử người mang động vật săn bắt được lên thị trấn để đổi lấy nhu yếu phẩm thường ngày. Họ vẫn có giao tiếp nhất định với xã hội hiện đại, không ăn thịt người, mà cũng chẳng dùng người sống để cúng tế. Hơn nữa, tôi còn đã từng gặp vị tù trưởng già của họ một lần. Thế này đi, tôi sẽ giải thích đầu đuôi với ông ấy, sau đó lại tặng cho họ một ít thuốc chữa bệnh và lông lạc đà cừu(1) là ổn. Mấy người các cậu muôn ngàn lần đừng có làm loạn nữa."

(1) Lạc đà Alpaca hay lạc đà cừu là một loài động vật được thuần hóa thuộc họ Lạc đà Nam Mỹ. Alpaca có vẻ bề ngoài gần giống một con llama nhỏ. Có hai giống loài alpaca: alpaca Suri và alpaca Huacaya. (Wikipedia)

Tôi nghĩ bụng, con mẹ nó ngươi nói thản nhiên cứ như không có chuyện gì vậy. Tại sao lúc ở cửa vào, ngươi không bàn bạc trước với người khác một chút. Đến giờ khi tất cả mọi người đã bị trói, ngươi lại quay ra nói này nói nọ, thật sự là tri nhân tri diện bất tri tâm, đám người kia càng ngày càng không đáng tin cậy. Xem ra, trong hành trình sau này, tôi phải tập trung tinh thần tối đa thì mới có thể dẫn đám quân không chính hiệu này sống sót chạy ra khỏi Amazon được.

Bên trong chiếc lều của Tù trưởng hết sức rộng rãi, xấp xỉ với đại trướng của người Mông Cổ mà tôi đã từng được nhìn thấy khi tham gia đội sản xuất nông thôn ở Nội Mông. Trong lều trang trí vô cùng sơ sài, khắp nơi treo đầy đầu các loại dã thú lẫn những nút buộc năm màu rực rỡ bằng lông lạc đà. Loại nút buộc này nhang nhác giống như những dây kết được treo vào dịp tết ở vùng phía bắc Trung Quốc chúng tôi. Tôi đã từng nghe Shirley Dương nói cho biết, người Inca không có văn tự của riêng mình, mọi thông tin của họ đều được ghi chép thông qua một loại sợi buộc gọi là "Quipu". "Quipu" được làm bằng lông lạc đà hoặc lông lạc đà cừu. Đầu tiên, những sợi dây có màu sắc khác nhau được buộc chụm lại. Tiếp đó, trên những sợi dây chính này lại có chi chít những sợi dây phụ buộc vào. Mỗi một màu sắc mang ý nghĩa khác nhau, ví dụ như màu đỏ biểu hiện cho quân đội, màu vàng biểu hiện cho vàng, màu trắng biểu hiện cho bạc, còn màu xanh lá biểu hiện cho lương thực. Đồng thời, số nút buộc biểu hiện cho một con số, một nút đơn là 10, hai nút là 20, một nút kép là 100. Trong Viện bảo tàng quốc gia của Mỹ có cất giữ một Quipu cực lớn của quốc gia cổ Inca, có tới mấy ngàn nút buộc. Sau khi phá giải, các chuyên gia đã phát hiện ra đó là một bản báo cáo sản lượng nông nghiệp của đế quốc Inca thời xưa. Nghe nói, vào thời điểm thực dân Tây Ban Nha đánh chiếm Cuzco khi ấy, thứ mà cư dân địa phương cất giữ, bảo vệ đầu tiên không phải là vàng rơi vương vãi khắp nơi trên mặt đất mà chính là Quipu đeo bên hông mình. Những dây buộc bằng lông lạc đà cừu này mới là của cải cá nhân quan trọng nhất trong tâm trí của người Inca.

Tù trưởng Bộ lạc là một ông lão gầy quắt queo như que củi. Đầu đội một chiếc mũ kết bằng lông vũ màu đỏ, cổ đeo một chuỗi vòng đá cũ kỹ, bên hông buộc Quipu năm màu rực rỡ, ông lão ngồi xếp bằng ở chính giữa chiếc lều, lặng lẽ bất động dùng đôi con ngươi màu nâu trong cặp mắt sâu hoắm nhìn chằm chằm vào mấy người chúng tôi. Đám dũng sĩ thổ dân đẩy toàn bộ chúng tôi vào trong lều, sau đó quây lại thành vòng tròn, vây ông lão và mấy người chúng tôi vào giữa. Thảm dưới chân chúng tôi được làm bằng da báo và lông lạc đà cừu, đã thể hiện rõ địa vị tối cao của vị tù trưởng quắt queo trước mặt này trong bộ lạc.

Đầu Trọc chỉ vào Quipu bên hông tù trưởng, nói: "Vị tù trưởng này được gọi là Quipu Chamana, trong tiếng Quechua có nghĩa là người bảo vệ nút buộc. Vào thời đại của đế quốc Inca, không phải ai cũng có cơ hội được gặp mặt con cháu của thần Mặt trời, mà đó là đặc quyền của người đeo Quipu đặc trưng của riêng hoàng thất. Một Quipu Chamana xứng chức, phải có khả năng giống như người mù, chỉ dựa vào cảm nhận của ngón tay là có thể đọc được nội dung Quipu. Trong suy nghĩ của dân chúng bình thường, họ có địa vị tối cao. Theo truyền thuyết dân gian, Quipu của hoàng thất được chính tay thần Mặt trời bện ra, bên trên ghi chép những sự kiện quan trọng phát sinh trong đế quốc Inca. Cho nên, Quipu Chamana hoàng thất còn được gọi là Người hầu của thần. Ông lão trước mặt chúng ta chính là hậu nhân của Quipu Chamana hoàng thất."

Nói xong, Đầu Trọc tiếp tục dùng thứ ngôn ngữ nghe rất chối tai, giống như tiếng người bị đứt lưỡi, quàng quạc nói nhăng nói cuội với tù trưởng Chamana một lúc. Lúc ban đầu, vị tù trưởng quắt queo không có phản ứng gì. Nhưng càng về sau, nét mặt của ông lão càng giãn ra. Đến cuối cùng, gương mặt trở nên tươi tắn gần giống như một đóa hoa cúc trong mưa. Ông lão vừa nói chuyện với Đầu Trọc vừa vỗ đùi mình đen đét. Đám dũng sĩ thổ dân vây tròn quanh chúng tôi, đột nhiên giống như lên cơn động kinh tập thể, vừa vỗ đùi vừa nhảy múa vòng quanh chúng tôi.

Tuyền Béo nói, hỏng rồi, họ đang khởi động trước khi nấu cơm, giãn gân giãn cốt chân tay để tóm lấy chúng ta nhắm rượu.

Tôi lùi lại một bước, kéo mấy người chúng tôi xích lại gần nhau, nói: "Thống nhất thế này nhé, nếu tình hình xấu đi, chúng ta lập tức nhào tới đè nghiến vị tù trưởng Tóc Đỏ kia xuống rồi cướp lấy sợi dây buộc của ông ta. Nếu đám thổ dân dám hành động thiếu suy nghĩ, chúng ta sẽ phá hủy cái Quipu quý giá nhất của bọn họ."

Ma Cô Trẻ núp sau lưng Tần bốn mắt, ló đầu ra hỏi: "Chúng ta bị trói chặt cả đám, đè ngửa ông lão kia thì dễ dàng, nhưng làm thế nào để cắt đứt được dây trói?"

Tôi cũng chẳng biết cách nào, nhưng tình hình nguy cấp chẳng có thời gian mà suy nghĩ quá nhiều, bèn nói với mấy người còn lại: "Cùng lắm thì dùng răng cắn đứt nó thôi."

Tần bốn mắt nhìn lướt qua sợi dây buộc to bằng ngón tay, cười méo xẹo, nói: "Lão Hồ, chúng ta đâu có phải chuột đồng chuyên đào hang. Nếu làm vậy, dây thừng còn chưa kịp cắn đứt, anh đã bị bọn họ bắn thủng lỗ chỗ như tổ ong vò vẽ."

Tuyền Béo nhay nhay hàm răng, động viên anh ta: "Liều thì ăn nhiều. Chỉ cần dám làm thì tất cả đều có khả năng xảy ra. Nào, há mồm để cho anh đây nhìn xem răng lợi thế nào."

Chúng tôi đang bàn bạc tìm cách đối phó, tù trưởng Tóc Đỏ đột nhiên ngừng vỗ đùi. Ông lão gọi một dũng sĩ đứng gần đó lại rồi giơ tay phải lên chỉ vào chúng tôi, sau đó vung tay lên ra hiệu chém. Lập tức, dũng sĩ thổ dân móc cây dao ngắn bằng đá được mài bóng loáng bên hông ra, lao vọt về phía chúng tôi. Tôi nghĩ bụng, giết người chỉ cần chặt đầu là xong, ngươi cầm một cục đá nham nhở chém nhóm người chúng ta thì phải chặt đến ngày tháng năm nào mới có thể đứt cổ chảy máu, thật sự tra tấn người ta quá dã man rồi. Tuy nhiên, đám thổ dân này chỉ có sức khỏe mà thiếu hụt kỹ xảo chiến đấu, tôi vẫn có niềm tin nhất định đối với năng lực của mình. Tôi khom người lại, chuẩn bị tấn công thẳng vào hạ bàn của tên này ngay khi y sáp lại gần, đá văng y đi. Đúng vào lúc tôi chuẩn bị sắp ra chân, Đầu Trọc đột nhiên quay đầu về phía tôi, quát: "Không được đánh!"

Chỉ trong chớp mắt đó, cây dao của người thổ dân đã vẽ ra một vệt sáng ngay trước mặt tôi, Tuyền Béo thét lên "lão Hồ". Tôi lảo đảo vài bước, quay đầu lại nói với cậu ta: "Biệt ly từ đây chiến hữu của tôi. Kinh phí hoạt động tháng này, khi nào quay về cậu phải nhớ đóng thay cho tớ đấy."

Tần bốn mắt đứng giữa đám người. Nhìn thấy vẻ đau thương trong đôi mắt tôi, anh ta nói: "Hồ Bát Nhất, anh đừng có ở đó mà giả chết!"

Anh ta vừa nói xong, tôi mới chợt nhận ta mình đâu có bị cây dao đó chém trúng. Người thổ dân da đỏ nhặt dây thừng dưới đất lên, vừa múa may ra hiệu với tôi vừa cười ngây ngô. Đầu Trọc vuốt mồ hôi, lên tiếng giải thích: "Nghe nói chúng ta mang thuốc chữa bệnh và lông lạc đà cừu đến nên họ hết sức phấn khích, vũ điệu vừa rồi là để hoan nghênh chúng ta. Hồ Bát Nhất, một người từng trải như cậu, tại sao vào thời điểm mấu chốt lại giống như xe bị tuột xích thế. Thiếu chút nữa tôi đã bị cậu làm cho sợ chết đứng. Nếu đòn chân kia của cậu đánh ra, ngày hôm nay chúng ta ai cũng đừng mong sống sót ra khỏi đây. Người Titamar đồng lòng như một khi đối phó với kẻ địch, nếu làm tộc nhân của họ bị thương, vậy thì đồng nghĩa với đối nghịch với toàn bộ bộ lạc."

Nghe Đầu Trọc nói xong, tôi lập tức ứa mồ hôi lạnh toát toàn thân. Cũng may vừa rồi đòn chân của tôi chưa đánh ra, nếu không hậu quả thiết tưởng không thể gánh vác nổi. Người thổ dân dùng cây dao đá lần lượt cắt đứt dây thừng cho chúng tôi. Tuân theo lời hứa hẹn lúc trước, Đầu Trọc cung kính móc từ trong ngực áo ra một cái túi da trâu nhỏ, rồi đưa cho tù trưởng tóc đỏ bằng cả hai tay. Đôi mắt chợt sáng bừng lên, vị tù trưởng già lập tức giật lấy cái túi da trâu rồi vội vàng mở ra.

Tuyền Béo hỏi Đầu Trọc: "Cái gì thế? Quý báu lắm hay sao? Anh nhìn xem, ông lão kia phấn khích quá thể." Đầu Trọc cười không nói, ra cái vẻ các cậu tuyệt đối không đoán được đâu.

Mấy người chúng tôi đều rất ngạc nhiên, cả đám nhìn chằm chằm vào cái túi trên tay tù trưởng Tóc Đỏ. Ông lão nhanh chóng lôi từ trong túi ra một vật hình chữ nhật, chẳng thèm nhìn xem đó là cái gì, đeo nó luôn lên mặt. Đến khi ông lão thả hai tay xuống, chúng tôi mới nhìn thấy rõ ràng, vật ông lão đeo trên mặt không phải là cái gì khác, mà chính là một cặp kính lão, gọng mạ vàng.

Sau khi tù trưởng Tóc Đỏ đeo kính lão vào, lập tức trông tươi trẻ hẳn lên. Ông lão chống hay tay xuống đất rồi đứng lên, cầm lấy cái ống thổi tên bên cạnh rồi đi luôn ra bên ngoài. Chỉ một chốc sau, bên ngoài vang lên tiếng kêu "Ya ya". Đầu Trọc nói, đó là tiếng kêu phát ra mỗi khi họ vui mừng, chắc là vị tù trưởng già đã bắn trúng con mồi, giờ đang được đám con cháu chúc mừng đây mà.

Chúng tôi ra ngoài căn lều, trời đã sắp tối hẳn. Thổ dân đốt một đống lửa lên, vây quanh tù trưởng Tóc Đỏ nhảy múa vũ điệu hân hoan của người Anh Điêng, một tay cầm giáo dài giơ lên cao một tay vỗ đùi, đồng thanh hò hét theo nhịp điệu, reo mừng vì vị tù trưởng già đã lấy lại được sự dũng mãnh phi thường của ngày trước.

"Lần trước, khi chúng tôi đi ngang qua đây, do vấn đề về thị lực mà tù trưởng Chamana vẫn luôn sầu não không vui. Trước chuyến đi lần này, ông chủ Vương đã đặc biệt căn dặn tôi, phải nhớ mang cho tù trưởng Chamana một cặp kính lão."

Nhờ vào cặp kính lão, chúng tôi trở thành khách quý của thôn Titamar, được thổ dân bản xứ nhiệt tình tiếp đãi, Đầu Trọc còn đặc biệt được mời vào trong lều lớn để ăn tối với tù trưởng. Bốn người còn lại chúng tôi dự tiệc cùng với các thổ dân khác, ngồi vây quanh đống lửa ở bên ngoài. Trong số đồ ăn được bưng lên, ngoài rất nhiều thịt chim két nướng, còn có cả cơm. Tần bốn mắt nói, hàng năm lưu vực sông Amazon đều có lũ định kỳ rất lớn. Xét tổng thể, trình độ nông nghiệp ở nơi này vẫn đang ở trong giai đoạn đốt rẫy gieo hạt, diện tích gieo trồng lúa ngũ cốc hết sức hạn chế. Đồ ăn chính của cư dân bản địa vẫn chỉ là "Cơm độn", chính là ngô luộc, hiện giờ dùng cơm chiêu đãi chúng ta hiển nhiên là đặc biệt ưu đãi, sợ đám khách xứ lạ chúng tôi không quen với đồ ăn của họ.

Tôi ngồi bên cạnh đống lửa, vừa thưởng thức điệu múa chân chất tự nhiên của thổ dân, vừa than thở thời gian vô tình như nước chảy. Tù trưởng Chamana có quyền uy tối cao, có địa vị như thần thánh trong bộ lạc, thế nhưng vẫn không thể chống lại được tuổi già đi sức yếu dần theo từng năm tháng, một cặp kính lão đã đủ khiến cho ông lão vui như mở cờ trong bụng. Xem ra các cụ nói cấm có sai, điều đáng sợ nhất trong cuộc đời là khi anh hùng mạt lộ, mỹ nhân tuổi xế chiều. Cho dù lúc còn trẻ, một người có huy hoàng đến thế nào đi nữa, đến cuối đời chẳng phải vẫn cứ phải cúi đầu làm người hay sao. Chẳng trách vào thời cổ đại, những vị hoàng đế, vương tướng lại muốn được trường sinh bất lão, ngay cả vị hoàng đế vĩ đại nghìn đời là Tần Thủy Hoàng cũng khó tránh khỏi dục vọng tìm kiếm Tiên Đan. Nhưng lại thật tình không biết, trong cuộc đời, sinh lão bệnh tử là quy luật khách quan của tự nhiên. Ngay cả sao trên trời rồi cũng có lúc rơi rụng, huống chi là con người. Nhìn xuyên suốt lịch sử, tìm đâu ra người có thể chính thức sống mãi cùng trời đất. Về phần những kẻ bịp bợm tự xưng là có thể tu tiên đắc đạo, tuyệt đối là những tên mang nặng bản chất chủ nghĩa duy tâm, là đám đầu trâu mặt ngựa phá hoại khoa học xã hội chủ nghĩa của chúng ta.

Thấy tôi trầm ngâm ngồi yên một chỗ, Tần bốn mắt hỏi tôi đang nghĩ gì thế. Vừa đúng lúc ăn uống no nê đang không có việc gì làm, tôi rảnh rỗi hàn huyên với anh ta. Anh ta vừa khều đống lửa vừa im lặng lắng nghe tôi nói. Đến khi tôi xong nói lời tổng kết về cuộc đời vừa rồi, anh ta đẩy kính mắt rồi bổ sung: "Chính vì kết thúc cuộc đời chỉ còn lại một nắm đất vàng, cho nên từ xưa đến nay, câu chuyện tìm tiên vấn đạo diễn ra nhiều vô kể, đâu chỉ riêng Trung Quốc mới có. Chỉ cần có văn minh nhân loại, bất cứ một quốc gia nào, bất cứ một dân tộc nào mà chẳng có truyền thuyết liên quan đến trường sinh bất lão. Ngay như Đế quốc Inca - đích đến trong hành trình này của chúng ta chẳng hạn, từ thế kỷ 15 sau công nguyên, truyền thuyết về Dòng suối thanh xuân đã hấp dẫn rất nhiều nhà thám hiểm tìm đến, ngay cả Nữ hoàng Anh cũng bí mật bỏ tiền tài trợ cho đội thám hiểm. Giữ mãi tuổi thanh xuân vĩnh viễn luôn có sức hấp dẫn chí mạng đối với con người."

Đây là lần thứ hai được nghe nói đến câu chuyện Dòng suối thanh xuân, tôi tự nhiên liên tưởng đến trải nghiệm ở Tân Cương ngày trước. Vào lúc ấy, khi tôi tới Kanas thì trời đã bắt đầu vào thu. Sau khi đến khu du lịch ven hồ, tôi lập tức quyết định dừng chân lại nơi đó thêm vài ngày. Ở gần khu ven hồ có nhà khách của lực lượng cảnh sát, nhưng nơi đó không mở cửa đón người ngoài ngành. Tôi chỉ ôm tâm lý cầu may hỏi bừa, nhưng rất may là lúc ấy đang thời điểm vắng người, cho nên vẫn vào ở trọ được. Ban đêm ở khu ven hồ rất lạnh và yên tĩnh. Lúc ngủ, phải che chắn kỹ mùng màn, còn phải dùng áo ba đờ xuy để đắp chân. Tuy nhiên, vào ban ngày, ánh sáng mặt trời lại rất chói chang, ấm áp hơn rất nhiều. Người dân địa phương thường xuyên mang tặng cho những nhân viên cảnh sát rất nhiều loại quả vỏ cứng ít nước. Nhân viên nhà khách sẽ mang loại quả đó ra phơi nắng ở trong sân nhà khách, thỉnh thoảng đi qua lại nhặt vài quả ăn, đương nhiên họ cũng sẽ chủ động mời khách trọ nhấm nháp. Tôi thích tán gẫu với người dân địa phương. Qua đó, không chỉ được nghe nói tới rất nhiều phong tục, tục lệ, mà vô tình trong lúc tán gẫu còn thu được những thông tin tương đối hữu ích.

Một hộ dân ở cạnh nhà khách, tam đại đồng đường, ông cụ chủ nhà vô cùng nhiệt tình hiếu khách. Chúng tôi ngồi tán gẫu với ông cụ. Mặc dù chỉ là bèo nước gặp nhau, nhưng ông cụ lấy ra rất nhiều độ ăn tự làm để chiêu đãi chúng tôi. Ông cụ thường xuyên kể về Kanas vào thời mình còn nhỏ, quan trọng nhất là ông cụ có nhắc đến dòng "Suối thần". Lời kể của ông cụ đã làm tôi hết sức hiếu kỳ. Việc tìm kiếm dòng Suối thần đã biến thành chuyến đi mạo hiểm đáng nói nhất khi ấy của tôi. Đến giờ nghĩ lại, có lẽ vì lúc ấy tôi còn quá trẻ, đối với bất cứ điều gì bí hiểm cũng sẽ muốn khám phá, tìm hiểu cho bằng được. Sau khi nghe kể về dòng Suối thần đó, tôi lập tức cho nó vào nhật trình của mình.

Suối thần là một con suối được người dân địa phương thành tâm thờ cúng, thường xuyên có người đi bộ đến đó để cúng bái, cầu nguyện. Để tiết kiệm thời gian, ông cụ cho tôi mượn con ngựa nhà nhà mình, lại còn sai cả đứa cháu của mình dẫn đường cho tôi. Cậu bé đó tên là Arken, bởi vì tóc cậu bé xoăn tít nên tôi đặt biệt hiệu cho nó luôn là Nhóc tóc quăn.

Đa phần trẻ con chăn nuôi du mục lớn lên trên lưng ngựa. Mặc dù lúc ấy Nhóc tóc quăn mới 9 tuổi, nhưng kỹ thuật cưỡi ngựa đã tương đối thuần thục. Chúng tôi vung roi giục ngựa chạy như bay không ngừng nghỉ, trèo đèo lội suối, băng qua một vùng địa hình nhấp nhô. Khi đi qua đầm lầy, con ngựa lúc thì trồi lên lúc thì sụt xuống, quả thực đã khiến cho tôi rùng mình đổ mồ hôi lạnh ngắt toàn thân. Khi còn cách Suối thần một đoạn ngắn, ngựa không thể tiến thêm một bước nào nữa, phía trước chằng chịt cành lá của một loại cây kỳ lạ. Kể ra cũng quái lạ, sau khi đi xuyên qua rừng cây kỳ lạ đó, tầm mắt chợt thoáng đãng hẳn ra, chính giữa xuất hiện một con đường quang đãng rộng rãi, nhưng không phải do bàn tay con người tạo ra.

Chúng tôi thả ngựa cho chúng tự do ăn cỏ, sau đó tiếp tục bộ thêm hai giờ nữa mới đến nơi. Suối thần là một con suối rộng tầm nửa mét, nước suối trong vắt. Điều thú vị nhất là mỗi khi ai đó phát ra âm thanh, nước suối sẽ sủi bọt lấp la lấp lánh. Nếu nhịp điệu âm thanh tăng hoặc giảm, biên độ bọt nước cũng sẽ theo đó thay đổi tương ứng, hết sức thần kỳ. Người dân địa phương tin rằng con suối đó thuộc về thần thánh, trên những thân cây quanh con suối treo kín mít những tấm gỗ nhỏ viết lời cầu nguyện.

Mặc dù Suối thần là nơi thần thánh đến mấy trong suy nghĩ của người dân địa phương đi nữa, nhưng chưa bao giờ từng nghe nói xuất hiện một trường hợp phản lão hoàn đồng nào, nếu không thì người ông của Arken đã nhảy xuống con suối đó để tắm nước lạnh từ lâu rồi. Tôi kể lại câu chuyện xảy ra ở Kanas trước kia cho mọi người nghe để giải trí sau bữa ăn. Tuyền Béo bảo với tôi: "Không tài nào ngờ được, lúc lão Hồ cậu còn trẻ lại thực sự mơ tưởng hão huyền đến thế." Vừa mới định phản pháo lại cậu ta, tôi chợt nhìn thấy Đầu Trọc, người từ nãy đến giờ vẫn nói chuyện phiếm với vị tù trưởng già trong lều lớn, đột nhiên đi ra với gương mặt đầy lo lắng. Tôi rất hiếm khi thấy lão bọc lộ tình cảm ra mặt như vậy, nghĩ bụng có lẽ đã xảy ra chuyện động trời nào rồi. Đầu Trọc đi tới bên cạnh đống lửa, ngồi xếp bằng ngồi xuống rồi nói với chúng tôi: "Đám người Tư Mã Hiền có nhiều khả năng đã vượt lên trước chúng ta rồi."

Lão vừa dứt lời, tâm trạng mấy người chúng tôi lập tức trở nên nóng nảy. Ma Cô Trẻ là người lên tiếng hỏi đầu tiên: "Lúc ở Cuzco, chẳng phải chúng ta đã đụng độ với đám tay chân của hắn hay sao? Dù có thế nào hắn cũng không thể nhanh hơn chúng ta được. Anh nghe ai nói vậy?"

"Không sai được! Vừa rồi tôi đã hỏi mượn tù trưởng một thổ dân biết nói tiếng Tây Ban Nha để dẫn đường. Ông lão bảo với tôi, người duy nhất trong thôn biết nói ngoại ngữ là một thợ săn tên là Adong. Adong phụ trách việc buôn bán với bên ngoài của thôn, hàng tháng sẽ mang các con vật mà thôn dân đánh bắt được lên thị trấn để đổi lấy nhu yếu phẩm sinh hoạt. Nếu gặp dịp tổ chức lễ hội lớn, anh ta sẽ cưỡi lừa đi tới những thị trấn lớn ở xa hơn, bán những đồ thủ công mỹ nghệ do đám phụ nữ làm ra cho du khách. Vì vậy, Adong biết nói vài câu tiếng Tây Ban Nha và tiếng Anh. Nhưng vào ba ngày trước, có một phụ nữ người châu Á dẫn theo mấy người da trắng vào thôn Titamar, ra giá cao thuê người dẫn đường. Cô ta nói rằng mình là phóng viên báo chí, muốn vào trong rừng quay phim chụp ảnh một vài tư liệu sống. Adong đã xin tù trưởng cho nghỉ để tranh thủ kiếm thêm một khoản thu nhập. Không ngờ, anh ta đi một lèo ba ngày, đến giờ vẫn còn chưa trở về, vợ con anh ta đã đã lo lắng sắp phát điên lên cả rồi."

Ngay khi tôi vừa nghe thấy bốn từ "phụ nữ châu Á", trái tim tôi chợt thót lại. Nhưng khi nghĩ lại, Shirley Dương chạy đi cực kỳ gấp gáp, không thể nào có nhân viên khác đi cùng. Huống chi, nếu như có thời gian tìm người dẫn đường, tại sao cô ấy lại không để lại đầu mối nào cho chúng tôi. Người phụ nữ châu Á tự xưng là phóng viên đó, có nhiều khả năng là người chuyên vẽ bản đồ cho viện khoa học nào đó mà Tưởng Bình đã nói, nữ thành viên duy nhất trong cả đoàn của Cây Sào. Nếu người đó thật sự là cô ta, vậy thì đám người của Cây Sào hiển nhiên đã chia làm ra hai đội. Một đội hình do Trâu Mộng cầm đầu, phụ trách nhiệm vụ ngăn chặn ở Cuzco, đội hình còn lại do nhân viên vẽ bản đồ kia cầm đầu, xâm nhập vào rừng Amazon trước chúng tôi một bước.

Tôi cảm thấy manh mối này không thể coi thường được, đáng bỏ sức đi sâu vào điều tra, vậy là đi cùng với Đầu Trọc vào trong lều để chứng thực lại một lần nữa với tù trưởng Tóc Đỏ.

Khi chúng tôi bước vào bên trong, vị tù trưởng già đang mân mê dây buộc bên hông, không hiểu đang lẩm bẩm điều gì đó. Bên cạnh ông lão có một thiếu niên Anh Điêng tầm 15, 16 tuổi đang quỳ với vẻ mặt đầy nôn nóng. Đầu Trọc lôi tôi qua một góc, khẽ nói: "Quipu Chamana đang dùng nút buộc để xem bói cho cậu thiếu niên này, việc của chúng ta tốt nhất để sau hãy nói."

Bởi vì trời đã tối hẳn, thổ dân cắm đuốc lên những cây cột ở xung quanh căn lều. Tù trưởng Chamana ngồi trên một chiếc nệm may bằng da Báo châu Mỹ, vừa sờ lần nút buộc vừa dùng thứ ngôn ngữ mà tôi chẳng hiểu gì cả để phán điều gì đó cho một cậu thiếu niên Anh Điêng nghe. Tôi hỏi Đầu Trọc về nội dung lời xem bói, lão bảo mình chẳng hiểu được nhiều lắm, đại khái là người nhà thiếu niên kia sẽ gặp nạn,... Quả nhiên, trên gương mặt cậu thiếu niên dần dần hiện lên vẻ lo lắng lẫn thất lạc. Tôi nghĩ bụng, mười quẻ bói có chín là lừa gạt, nếu việc gì cũng có thể đoán trước được, vậy thì sống trên cõi đời này còn ý nghĩa gì nữa. Đầu Trọc bảo với tôi: "Người Inca tin tưởng đến mù quáng vào thuật bói toán. Nghe nói, trước khi người Tây Ban Nha xâm chiếm Inca, Thầy phù thủy đã từng nhìn thấy mặt trời bị ba cái vòng ma quái vây quanh. Khi ấy, toàn bộ đế quốc lâm vào khủng hoảng. Đến nỗi, sau này khi thực dân Tây Ban Nha xâm lược Inca, trong một khoảng thời gian rất dài được họ sùng bái như thần linh đến giải cứu hiểm họa mất nước."

Tôi tặc lưỡi than thở: "Đó chính là hệ quả tiêu cực của sự mê tín mù quáng thời phong kiến. Người dân Inca chân chất nhất định không ngờ những thần linh người nước ngoài có vẻ ngoài hiền từ thực ra chỉ là những kẻ xâm lược được trang bị một số vũ khí hiện đại. Bọn chúng đến đây hoàn toàn không phải vì muốn giải cứu mối nguy của người Inca, mà là để cướp đoạt vàng bạc và đất đai của họ."

Không biết tù trưởng Tóc Đỏ nói những gì mà cậu thiếu niên Anh Điêng đột nhiên quay ra tranh cãi nảy lửa với ông lão. Hai người họ nói rất nhanh, Đầu Trọc hoàn toàn không kịp hiểu, nói gì đến chuyện phiên dịch lại cho tôi nghe. Chỉ thấy cậu thiếu niên Anh Điêng bắt đầu vung chân vung tay, không ngừng chỉ tay ra bên ngoài, không hiểu đang nói cái gì. Vị tù trưởng già vẫn bình tĩnh ôn hòa giải thích với cậu ta. Không ngờ, cậu thiếu niên càng nói càng cáu kỉnh, cuối cùng dậm chân một cái rồi chạy ra khỏi căn lều lớn.

Tôi nghĩ bụng, thằng ranh con này mới có tí tuổi đầu mà đã không coi ai ra gì, dám hoành hành hỗn láo trước mặt khách khứa và tù trưởng bộ lạc, lát nữa chắc chắn sẽ không tránh khỏi bị ăn đòn. Chỉ có điều, không biết người Anh-điêng đã có luật bảo vệ trẻ vị thành niên hay chưa, lát nữa đừng có đánh trẻ con ngu người đi đấy.

Tù trưởng Chamana không hề có ý định truy cứu trách nhiệm cậu thiếu niên. Ông lão nhìn sang chúng tôi, thản nhiên cứ như không hề có bất cứ việc gì xảy ra vậy. Đầu Trọc và tôi hành lễ với vị tù trưởng, sau đó đi thẳng luôn vào vấn đề, hỏi thăm về người dẫn đường tên Adong và nữ phóng viên người châu Á kia.

Qua lời kể của tù trưởng Tóc Đỏ, chúng tôi đã biết được đôi nét về ngoại hình của người phụ nữ châu Á đó. Cô ta cao tầm một mét bảy mươi, mái tóc đen ngắn ngang tai, cắt theo kiểu đầu demi garcon. Với những nét đặc trưng như vậy, người đó hiển nhiên không phải là Shirley Dương, cũng chẳng phải là cô gái nhỏ nhắn xinh xắn chuyên vẽ bản đồ mà tôi đã gặp ở sân bay Thượng Hải. Đội ngũ của cô ta tổng cộng có sáu người, ngoài cô ta ra còn có ba người đàn ông da trắng và hai người dân bản xứ Peru. Họ mang theo thiết bị chiếu sáng cỡ lớn, còn có cả một chiếc xe việt dã lội nước. Vị tù trường vừa mới nói dứt lời, Đầu Trọc thở dài một hơi: "Xem ra, họ không phải là đám người Tư Mã Hiền. Vừa rồi tôi đã lo nghĩ thái quá."

Tôi bảo: "Lo nghĩ trước chẳng có gì là xấu, tránh cho sau này bị kẻ khác đánh cho trở tay không kịp. Trước khi tiến vào rừng nhiệt đới, chúng ta chỉ có thể tìm mọi cách để vạch ra tuyến đường chính xác trên bản đồ. Giờ vừa khéo có cơ hội, tốt hơn hết là chúng ta hỏi vị tù trưởng này luôn." Đầu Trọc truyền đạt lại ý muốn của tôi với tù trưởng, ông cụ cười tủm tỉm nói với tôi OK.

Tôi lấy tấm bản đồ đã được chỉnh lý lại lần trước ra, nhờ tù trưởng Chamana chỉ đường. Ông lão đeo kính vào, vừa mới nhìn lướt qua đã xua tay với chúng tôi. Đầu Trọc vội vàng hỏi ông lão có chuyện gì. Hai người trao đổi một lúc, Đầu Trọc nhăn mặt phiên dịch lại cho tôi nghe: "Ông lão bảo rằng, nơi mà chúng ta muốn tới nằm ở bờ bên kia của Cây cầu ma, chỉ có thổ dân bản xứ sinh sống trong khu vực bình nguyên Amazon mới biết đường. Phạm vi hoạt động của người thôn Titamar chỉ giới hạn ở khu vực ven sông, bên trong khu rừng ra sao thì họ hoàn toàn không biết gì, không thể nào chỉ cho chúng ta đường đi chính xác được. Ông lão còn nói, phía bên kia Cây cầu ma chính là vùng đất của ác ma, nơi đó đầy rẫy nguy hiểm, nghe nói còn có cả bộ tộc ăn thịt người hoạt động. Tù trưởng hi vọng chúng ta nên quý trọng tính mạng, đừng mạo hiểm qua đó." Thấy trời đã về khuya, chúng tôi thực sự không thể tiếp tục quấy rầy không cho vị tù trưởng già nghỉ ngơi, đành phải cáo từ ra về.

Hai chúng tôi bị từ chối từ ngoài cửa ở chỗ tù trưởng Chamana, trong lòng vô cùng thất lạc. Không ngờ, chúng tôi vừa mới xốc màn cửa lều lên, một bàn tay nhỏ bé đen xì xì đột nhiên thò ra từ bên cạnh. Nhìn lại, chủ nhân của bàn tay đó chính là cậu thiếu niên vừa mới cãi vã với vị tù trưởng già trong lều. Thì ra vừa rồi cậu ta chẳng chạy đi đâu xa, mà trốn ở đống củi ngay bên cạnh lều để nghe trộm cuộc nói chuyện giữa chúng tôi và tù trưởng. Cậu ta kéo chúng tôi tới đến một chỗ vắng, rồi liên thanh quàng quạc nói với Đầu Trọc, vẻ mặt hết sức nôn nóng. Tôi hỏi Đầu Trọc, thằng nhóc này nói cái gì thế. Gương mặt không dấu được niềm hưng phấn, lão đáp lại tôi: "Cậu bé này biết đường tới chỗ Cây cầu ma, nó nói đồng ý dẫn đường cho chúng ta."

Nghe vậy, tôi cảm thấy rất quái lạ. Vị tù trưởng già rõ ràng bảo rằng trong thôn không có ai từng qua phía bên kia Cây cầu ma. Còn cậu thiếu niên trước mặt, nhìn bề ngoài chắc chỉ tầm mười lăm mười sáu tuổi, chẳng lẽ lại còn hiểu sâu biết rộng hơn cả tù trưởng Chamana đã sống đến từng ấy tuổi hay sao? Hơn nữa, nếu như cu cậu da đỏ này không nói ngoa, vậy thì tại sao vị tù trưởng già lại muốn lừa dối chúng tôi, nguyên nhân ông lão nói trong thôn không có ai biết đường tới chỗ Cây cầu ma là gì? Bên trong chẳng lẽ có bí ẩn rất đáng sợ nào đó? Tôi nhận thấy trong một chốc một lát chẳng thể nào tìm hiểu rõ ràng được, bèn dẫn nhóc da đỏ tới căn lều cỏ mà mấy người chúng ta đang trú ngụ, để cậu bé bình tĩnh từ từ nói chuyện. Không ngờ, cuộc nói chuyện đó lại khơi ra rất nhiều bí mật đã bị tù trưởng Chamana cố gắng che dấu.

Ba người Tuyền Béo đang ngồi trong lều cỏ tán dóc. Tuyền Béo giơ cao chiếc xẻng công binh, vênh mặt nói: "Đợi đến khi tìm thấy cái miếu hòa thượng của người Inca, tôi sẽ chia vàng bạc ở đó ra thành từng phần, dùng máy kéo vận chuyển ra ngoài. Toàn bộ chỗ vàng đó là thành quả lao động của quần chúng nhân dân, không thể để mặc chúng dưới lòng đất bồi táng cho kẻ thống trị tàn ác muôn phần được. Đến lúc đó, nhân dân Peru một phần, nhân dân Trung quốc một phần, công dân Mỹ các cậu thì không tính làm gì, đâu có thiếu một chút tiền hoa hồng nho nhỏ như thế."

Ma Cô Trẻ không đồng ý, y nói: "Dựa vào đâu mà không cho người Mỹ tiền xài. Tôi là Hoa Kiều, lại có cả hộ chiếu Mỹ, vì vậy tôi cho rằng mình phải được chia hai phần."

Tuyền Béo nói: "Thằng ranh này, cậu đã bị chủ nghĩa tư bản mục nát làm hỏng đầu óc mất rồi. Tôi nói cho cậu biết, chia thế là công bằng rồi." Tuyền Béo vừa dứt lời thì nhìn thấy tôi đi vào, vội vàng gọi tôi đến trợ giúp, "Này, lão Hồ, cậu mau qua đây nói cho thằng ranh con này nghe một chút về kinh tế học chủ nghĩa Mác. Đến giờ mà cậu ta vẫn còn ngây thơ cho rằng mình có quyền cướp đoạt thành quả lao động từ tay nhân dân Inca. Hả, cái thằng nhóc da đỏ này là ai? Lão Hồ, không phải đấy chứ, cậu vừa phọt rắm đánh bủm một cái, một em bé đã chào đời, tốc độ nhanh thật đấy, nhanh hơn cả kế hoạch đại nhảy vọt rồi."

Tôi nói: "Tiên sư nhà cậu đừng có nói hươu nói vượn nữa, đây là con trai của người thổ dân dẫn đường, tên nó là Cadillon, có một vài tin tình báo quan trọng muốn nói cho chúng ta biết. Tên béo nhà cậu mau mau nhấc cái mông lên, ra chắn kín cửa lại cho tôi nhờ."

Người trong chế độ công hữu luôn tìm mọi cách tránh tiếp xúc thân mật với người lạ. Hành vi này dễ khiến cho đồng tộc nghi ngờ, có đôi khi thậm chí còn dẫn tới xung đột đổ máu. Nhóc Cadillon vừa bước vào trong lều cỏ của chúng tôi đã lập tức kéo kín tấm vải che cửa, sợ bị thổ dân bên ngoài nhìn thấy. Để cậu bé bớt căng thẳng, tôi không vội hỏi han gì hết, mà chỉ mở ra ba lô lấy ra cho nó một ít chocolate. Nhóc Cadillon ngồi xổm dưới mặt đất, dùng đôi mắt nâu to tướng cảnh giác nhìn đi nhìn lại mấy người chúng tôi vài lượt, cuối cùng mới móc từ bên hông ra một cái thẻ nhỏ rồi chìa ra.

Tôi cầm lấy xem xét. Đó là một chiếc thẻ quân hiệu mà quân nhân Mỹ thường đeo, bên trên khắc tên và biệt hiệu bằng tiếng Anh. Tuy nhiên chữ khắc quá xấu, giống y như gà bới. Tần bốn mắt cầm lấy, xem xong nói: "Tom, một cái tên rất bình thường, biệt hiệu là Rắn Điên, nhưng không hề có số hiệu lẫn phiên hiệu cụ thể."

Đầu Trọc trao đổi một chốc với nhóc Cadillon. Nhưng vốn từ của lão có hạn, hai người vừa nói chuyện vừa ra hiệu bằng tay, vất vả một lúc lâu cuối cùng cũng hiểu được đối phương muốn nói gì. Đầu Trọc cầm chiếc thẻ, phiên dịch lại cho chúng tôi nghe: "Cái thẻ tên hiệu này, nó nhặt được ở nơi cắm trại của đám người kia. Lúc ấy, bố của nó, thợ săn Adong đang nói chuyện phiếm với với người phụ nữ châu Á, nội dung cuộc nói chuyện có liên quan đến Cây cầu ma nằm sâu trong rừng. Cô ta hứa hẹn, sau khi mọi việc xong xuôi sẽ tặng cho thôn dụng cụ lọc nước, hơn nữa còn định kỳ cung cấp thuốc men chữa bệnh miễn phí cho người dân trong thôn. Mặc dù tù trưởng lại tiếp tục công khai ban mệnh lệnh cấm mọi người đi qua phía bên kia Cây cầu ma, nhưng điều kiện mà cô ta đưa ra thật sự quá cám dỗ, đặc biệt là thuốc chữa bệnh. Đối với một bộ lạc bán nguyên thủy có tuổi thọ bình quân không đến bốn mươi tuổi, bất cứ lúc nào có thể chết vì cảm mạo, điều kiện này quả thực là phước trời ban. Bởi vậy Adong bày tỏ sẵn sàng mạo hiểm dẫn đường cho họ, nhưng sẽ chỉ đưa họ đến bên phía bên kia Cây cầu ma, sang đến đó là hết trách nhiệm. Hai bên đã thống nhất như vậy. Adong còn trợ giúp bọn chúng lừa dối vị tù trưởng, chỉ nói là người phóng viên đó muốn đi vào ven khu rừng để quay phim chụp ảnh một vài tư liệu sống. Trước khi khởi hành, Adong dặn đi dặn lại con trai mình không được nói cho bất cứ người nào trong thôn biết chuyện này. Đi từ thôn đến Cây cầu ma, tối đa chỉ mất khoảng hai ngày, thế nhưng Adong đi một mạch năm ngày mà không hề có bất cứ tin tức gì. Sợ cha mình gặp phải bất trắc gì, cậu bé khẩn khoản cầu xin tù trưởng Chamana xem bói giúp, nhưng chẳng bói toán ra gì nhiều. Cậu làm ầm lên muốn đi tìm cha, không ngờ lại bị tù trưởng thản nhiên từ chối. Về sau, khi nghe lỏm được nơi chúng tôi muốn tới cũng nằm ở gần chỗ Cây cầu ma, thế là cậu bé quyết định sẽ dẫn đường cho chúng tôi, nhân đó vào sâu trong rừng để tìm kiếm người cha mất tích đã lâu."

Chúng tôi đột nhiên sinh ra nghi ngờ về xuất thân của đám phóng viên đó. Tần bốn mắt săm soi chiếc thẻ tên hiệu trên tay, nói: "Lần này chúng ta có khả năng không chỉ vướng phải phiền phức từ một phía. Hành tung của đám người Mỹ này bí hiểm, mục đích rõ ràng, e rằng xuất thân của họ không đơn giản."

"Cho dù đối phương là kẻ nào, chúng ta cũng phải chú ý cẩn thận. Ngày mai, khi trang bị đến nơi, chúng ta lập tức xuất phát." Tôi ngẫm nghĩ một lúc, lấy bản đồ ra, nói với Đầu Trọc, "Cậu bé này quá nhỏ, nếu đi theo chúng ta, một là không an toàn, hai là ảnh hưởng đến tốc độ hành quân. Ạnh bảo cậu bé cố gắng ghi chú rõ ràng địa hình lẫn những nơi đặc biệt cần lưu ý trên tuyến đường. Bảo với nó, chúng ta nhất định sẽ đưa cha nó bình an trở về."

Ai ngờ nhóc Cadillon cực kỳ cố chấp. Cậu bé nói, cho dù chúng tôi không dẫn theo mình đi cùng, bản thân nó cũng sẽ lén lút chạy đi tìm cha. Cậu bé còn hết sức kiêu ngạo móc ra một cây dao nhỏ, huơ đi huơ lại giữa không khí, như muốn nói cho chúng tôi biết, mình là một cậu bé dũng sĩ can đảm. Tôi khuyên can hết lời, cậu bé kiên quyết không chịu từ bỏ dễ dàng như vậy. Ma Cô Trẻ hô "Cắt" một tiếng, tóm lấy Cadillon, phát mạnh mấy cái vào mông, sau đó bảo với Đầu Trọc: "Lưu Mãnh, anh nói với nó, nếu dám chạy trốn chúng ta sẽ lập tức báo lại với tù trưởng toàn bộ sự việc người cha ma quỷ của nó cấu kết với kẻ thù bên ngoài. Đến lúc đó, sẽ xét xử vụ việc theo pháp luật nước Mỹ của chúng ta, cả hai cha con nó sẽ bị rút gân lột da, ném xuống sông cho cá sấu ăn."

Cậu bé nghe xong, sợ tới mức khóc òa lên, quỳ trên mặt đất liên tục cầu xin Ma Cô Trẻ tha thứ. Tôi nói, cái con người cậu sao lại đầy một bụng suy nghĩ độc ác thế, ngay cả một đứa nhỏ như vậy mà cũng dọa nạt. Y tỏ vẻ đắc ý, xua tay, nói bằng giọng đầy vênh váo: "Khi còn bé, cứ khi nào cậu đây không chịu ăn cơm, ông nội lại lôi câu này ra hăm dọa, lần nào cũng linh nghiệm. Nhìn thấy chưa, giáo dục đúng phương pháp thì ở đâu cũng sẽ thành công. Trẻ ranh bây giờ không có đứa nào dễ bảo cả. Lưu Mãnh, nói lại với nó, chúng ta hứa chắc chắn sẽ tìm cha nó trở về. Bảo nó đánh dấu xong bản đồ thì mau chóng về nhà tắm rửa đi rồi ngủ ngay."

Dưới sự hăm dọa của Vương Thanh Chính, Cadillon vừa khóc vừa đánh dấu bản đồ cho chúng tôi. Tuyền Béo cảm thấy không đành lòng, nói: "Lão Hồ, có vẻ như chúng ta đã phạm vào tội ngược đãi trẻ em vị thành niên Anh Điêng thì phải, sao lòng tớ lại cảm thấy bất nhẫn thế này."

Tôi đáp: "Đây là điều bất khả kháng. Đứa bé này, bản chất không xấu, nhưng tính cách quá kích động, lại không chịu nghe người khác khuyên bảo. Vào thời kỳ nổi loạn, đứa trẻ nào mà chẳng tôn sùng chủ nghĩa anh hùng cá nhân, chúng ta làm vậy chỉ vì muốn tốt cho nó. Cậu thử nghĩ mà xem, nếu nó thật sự bất chấp hậu quả, tự mình xông vào trong rừng nhiệt đới, sau này chúng ta biết ăn nói thế nào với người dân trong thôn. Chúng ta là người trưởng thành, làm việc phải đúng mực, không thể chiều theo đám trẻ con nóng đầu làm việc bất chấp hậu quả được."

Vẽ xong bản đồ, nhóc Cadillon bị Đầu Trọc bí mật đưa về nhà. Mấy người lớn chúng tôi bị nó quấy rối một chặp, trong lòng thực sự trở nên bất an. Tôi bảo với những người khác: "Giờ có muốn làm gì cũng đã muộn, mỗi người sao lại tấm bản đồ một bản, định ra một địa điểm tập hợp để sau này còn biết đường hội họp với người khác sau khi chia nhau ra hành động. Chuyến đi này, chúng ta không chỉ phải đối mặt với điều kiện khắc nghiệt của thiên nhiên, mà còn các loại nhân tố không xác định đang rục rịch hoạt động ở một nơi bí mật nào đó."

Mặc dù tôi tỏ thái độ cầm chắc chiến thắng trong tay, nhưng thật ra trong lòng không dám chắc một chút nào, đặc biệt là đến giờ vẫn không có lấy một chút tin tức gì về Shirley Dương. Trái tim giống như đang bị lửa thiêu đốt hừng hực, nhưng càng đối mặt với tình huống như thế này, tôi càng phải tỉnh táo. Trong số năm người ở đây, ngoài tôi và Tuyền Béo ra, những người còn lại đều không có kinh nghiệm sinh tồn nơi hoang dã, nói chi đến việc phải xâm nhập vào sâu trong rừng nhiệt đới đầy khắc nghiệt để tìm kiếm ngôi đền thần từ vài thế kỷ trước.

Trước khi ngủ, tôi chợt mong sao mặt trời mọc sớm hơn, để cho chúng tôi có thể mau chóng tiến vào khu rừng rậm Amazon thần bí trước mặt.

Tôi bị tiếng máy móc rầm rĩ đánh thức, mở mắt ra nhìn ra ngoài lều cỏ, trời đã sáng trưng. Ngày hôm qua gặp quá nhiều chuyện căng thẳng, tôi mệt mỏi đến cùng cực, cho nên đã ngủ một giấc say như chết, không mộng mị gì cho đến tận sáng. Đầu Trọc mặc áo ngoài, hô hào chúng tôi: "Mau lên nào, trang bị của chúng ta đã đến!" Đến lúc này tôi mới chợt nghĩ ra, tiếng máy móc rầm rầm bên ngoài không phải là tiếng gì khác, mà chính là tiếng máy bay trực thăng của Vương Phổ Nguyên vận chuyển vật tư đến cho chúng tôi. Tôi vớ bừa lấy một bộ quần áo mặc vào, xốc ba lô lên, nhanh chóng xông luôn ra ngoài.

Thổ dân địa phương dậy rất sớm, có rất nhiều người đang ôm đầu tập trung trên bãi đất trống, nhìn lên con chim khổng lồ bằng sắt thép bay trên trời, tỏ vẻ sợ hãi ra mặt. Tôi vừa lấy tay che mắt vừa bắn đạn tín hiệu. Trên trời, chiếc S-51 màu vàng bay lộn lại. Mấy người Đầu Trọc cũng đã đi ra, đang chạy đôn chạy đáo sơ tán thổ dân. Máy bay trực thăng dần dần dừng hẳn lại trên không trung, Tuyền Béo và tôi gồng mình chống lại gió thổi như bão lốc, tiến lại gần, cởi hai chiếc hòm gỗ buộc lủng lẳng dưới thân máy bay xuống. Người điều khiển giơ ngón tay cái ra hiệu với hai thằng. Chiếc trực thăng lượn vài vòng rồi nhanh chóng biến mất khỏi tầm mắt của chúng tôi.

Vương Thanh Chính nôn nóng mở hòm gỗ ra. Một trong hai chiếc hòm chứa trang bị cá nhân, cái còn lại chứa vũ khí đạn dược. Vương Phổ Nguyên gửi cho chúng tôi trang bị bộ binh chuyên dụng của quân đội Mỹ thời chiến tranh Việt Nam, bao gồm cả quần áo và giày dã chiến vùng nhiệt đới, mặt nạ phòng độc M17A1, dụng cụ cá nhân,... Tuy nhiên, lão ta đã đổi trang bị hành quân M1956 thành trang bị cá nhân nhẹ đa dụng, gọi tắt là LC1. Bộ trang bị này được gói gọn trong ba lô, bao gồm đèn pin hình chữ L bằng nhựa, dụng cụ đào đất, ấm nước, lưỡi lê M9 và túi đạn dược giành cho vũ khí hạng nhẹ. Bộ LC1 này gọn nhẹ hơn nhiều so với bộ M1956 thời kỳ chiến tranh Việt Nam, giảm bớt trọng lượng phải mang theo cho chúng tôi. Xem ra, lần này lão ta đã bỏ hết cả vốn liếng, nhằm mục đích giúp chúng tôi vượt xa đối thủ trên phương diện trang bị. Tôi và Tuyền Béo đã cởi bỏ quân trang bị nhiều năm, không ngờ lại được quay trở lại như ngày xưa, nhưng đồ mặc trên người lại là của binh lính Mỹ. Tuy nhiên, điều đó cũng chẳng có vấn đề gì, quan trọng nhất là đến khi chúng tôi mặc xong quần áo thì mới phát hiện ra, phù hiệu trên tay áo của tất cả đều thêu một chữ "Vương" bắt mắt. Cái lão già Vương Phổ Nguyên kia, đến nước này rồi mà vẫn không quên nhắc nhở chúng tôi ai mới là người bỏ tiền cho hành động lần này. Bản chất gian thương, dù có muốn thay đổi cũng không tài nào thay đổi được.

Sau khi đổi mới toàn bộ trang bị, chúng tôi chào tạm biệt thổ dân Anh Điêng thôn Titamar, khởi hành đi sâu vào rừng rậm Amazon bao la. Nhóc Cadillon đứng vượt lên trước tất cả đám đông, liên tục vẫy tay với chúng tôi. Tất cả chúng tôi đều thừa hiểu, đứa bé này đã ký thác toàn bộ hi vọng lên mấy người mình, đám người lạ đến từ bên ngoài. Trong khoảnh khắc đó, tôi chợt cảm giác trọng trách trên vai mình đột nhiên nặng hơn rất nhiều.

Sau khi tiến vào vùng rừng nhiệt đới này, tôi mới chính thức cảm nhận được sự rộng lớn và thần bí của nó. Tần bốn mắt giảng giải: "Sông Amazon, cùng với dãy Andes được người Châu Mỹ La Tinh ví như mâu và thuẫn của họ, là con sông dài nhất thế giới đáng kiêu ngạo của dân bản xứ. Bởi vì nó nằm ở gần xích đạo, cho nên cực kỳ thích hợp cho thực vật nhiệt đới sinh trưởng. Tính tới giờ, thực vật nơi đây có tới hơn 50.000 loại, nhưng con người ta chỉ nhận biết được không quá 3.000 loại. Chủng loại động vật nơi đây cũng rất phong phú, có không ít chim quý thú hiếm. Trong số đó, loài có tính công kích tương đối mạnh phải nói tới Báo Châu Mỹ. Báo Châu Mỹ được người Inca gọi là Mắt lục bảo thạch. Theo truyền thuyết, thần Inca đã từng chịu ân huệ của Báo Châu Mỹ, vì vậy ban cho nó ngôi vị chúa tể rừng nhiệt đới, có thể ăn thịt toàn bộ động vật trong rừng. Nếu muốn săn bắt Báo Châu Mỹ để lấy da của chúng, người ta nhất định phải đặt hai viên lục bảo thạch vào hốc mắt xác của con báo. Nếu không, họ sẽ phải hứng chịu sự trừng phạt của Thần linh. Rất nhiều dân bản xứ, dù rất thèm muốn bộ da tuyệt đẹp của Báo Châu Mỹ, nhưng khốn nỗi không tìm đâu ra đá lục bảo thạch còn quý hiếm hơn nhiều, cuối cùng đành phải từ bỏ ham muốn săn bắt chúng. Trên thực tế, truyền thuyết này đã vô tình tạo ra tác dụng bảo vệ đối với Báo Châu Mỹ. Thế nhưng, vào thời cận đại, người đi săn phương Tây hoàn toàn chẳng thèm để ý gì tới truyền thuyết lâu đời đó, trắng trợn săn bắt ở lưu vực sông Amazon. Có rất nhiều loại động thực vật, số lượng đang giảm mạnh với tốc độ nằm ngoài sức tưởng tượng của chúng ta."

Tục ngữ nói rất hay, lòng tham không đáy rắn nuốt voi. Tôi nhớ lúc mình còn làm Mô Kim Giáo Úy, bản thân đã gặp không ít trộm mộ vô cùng hung ác. Có thể nói, bọn chúng không phải bị tham lam làm mờ mắt như đám săn trộm, mà hành động theo phương châm không chừa lại bất cứ thứ gì, chỉ chăm chăm vơ vét sạch sẽ đồ vật quý giá trong mộ, nếu không mang đi được thì thà rằng phá hủy cũng không muốn để lại miếng ngon cho đời sau hưởng. Cứ kéo dài như thế, mộ táng trên đời này có nhiều đến mấy cũng không còn lại cái nào dưới sự phá hoại của bọn chúng. Đến khi không còn ngôi mộ nào nữa để mà đào, không hiểu bọn chúng sẽ làm cái gì? Xét cho cùng, bọn chúng chẳng phải là cũng ngu xuẩn như bọn săn bắt trộm mù mắt chỉ vì lợi ích trước mắt?

Dựa vào địa đồ và la bàn, chúng tôi từ từ tiến bước trong rừng rậm. Khí hậu nơi đây nóng bức, côn trùng cỡ lớn lẫn những loài thực vật hình thù kỳ lạ với màu sắc rực rỡ ở khắp mọi nơi. Khi đi ngang qua một khúc sông, chúng tôi thậm chí còn nhìn thấy một đàn muỗi to bằng nắm đấm đang lượn vòng trên mặt sông. Tuyền Béo rùng mình một cái, hỏi: "Muỗi lớn như thế, bị nó đốt cho một cái, chắc sẽ mất máu quá nhiều mà hôn mê luôn mất." Hồ Bát Nhất tôi không sợ trời không sợ đất, ngán ngại nhất chính là cái loại muỗi vằn to đùng ve ve bay loạn xạ này. Trước kia hoặc là đốt nhang muỗi, hoặc là đập chết, nhưng lũ muỗi trước mặt còn to hơn cả chim sẻ, cái vòi đầy lông lá lẫn đôi cánh to đùng, ai nhìn thấy mà chả sợ mất mật. Tôi thà rằng đấu tay đôi với Báo Châu Mỹ cũng không muốn bị loại quái vật này nhăm nhe đốt cho một cái. Để tránh đám muỗi khổng lồ đốt, chúng tôi đi trệch ra khỏi bờ sông, chọn những con đường mòn ở sâu trong rừng. Những con đường này do lũ dã thú trong rừng đi qua tạo ra. Mặc dù rắn rết đầy rẫy, chuồn chuồn châu chấu quấy rối, nhưng nói chung vẫn đỡ mệt so với chúng tôi tự mình mở đường hơn rất nhiều.

So ra, nhiệt độ ở trong rừng cao hơn bên ngoài khá nhiều. Đi suốt cả một ngày, mồ hôi mọi người đầm đìa khắp toàn thân, chảy ào ào như là thác đổ. Toàn thân như ngâm trong vại nước nóng, không có đủ không khí mà thở. Tôi, Tuyền Béo cộng thêm Đầu Trọc, tất cả đều đã từng là bộ đội, có thể chất tốt nên còn khá hơn một chút. Hai người Ma Cô Trẻ và Tần bốn mắt đã mệt rã rời, thở hồng hộc như trâu, dùng súng thay cho gậy chống, lê bước ở đằng sau. Tôi nhìn trời rồi nói với Đầu Trọc: "Hôm nay tốt nhất nên tìm một chỗ, dựng lều trại nghỉ ngơi sớm một chút. Rừng nhiệt đới không giống những nơi khác, tìm một nơi an toàn để hạ trại là điều không hề dễ dàng."

Thảm thực vật trong rừng nhiệt đới um tùm, cho dù là dã thú hay rắn kiến cũng đều rất dễ dàng tìm được nơi ấn náu cho chúng. Nếu chúng tôi muốn qua đêm ở đây, lựa chọn nơi hạ trại là công việc quan trọng hàng đầu. Đầu tiên không thể chọn vùng hạ du, tiếp đó là không thể quá gần bờ sông. Sông Amazon đang vào thời kỳ lũ định kỳ, bất cứ lúc nào cũng có thể gặp nguy hiểm do nước lũ dâng cao, chẳng may gặp lũ lụt, muốn chạy cũng không kịp. Cuối cùng, nơi cắm trại không được nằm sát sườn đồi, nguyên do là để phòng tránh bị đất lở chôn sống. Tuy nhiên, chúng tôi đang ở khu vực bình nguyên, không phải lo nguy hiểm sạt lở đất đá, mà thực ra cần phải cẩn thận với cát lún trong rừng nhiệt đới. Tôi nói sơ qua tiêu chuẩn chọn nơi hạ trại cho hai kẻ gà mờ kia nghe một lần. Chúng ta sẽ lấy cái cây lá to ở chỗ này làm làm mốc, chia nhau ra tìm kiếm nơi hạ trại, hẹn nửa giờ nữa sẽ quay về tập hợp. Nhằm mục đích an toàn, tôi xếp Vương Thanh Chính và Tuyền Béo vào một tổ, cử Đầu Trọc chiếu cố Tần bốn mắt, còn một mình mình một tổ. Tôi phân tổ như vậy, đầu tiên là có thể chiếu cố đến hai kẻ tay mơ, thứ hai là người của nhà họ Vương và người của chúng tôi có thể giám sát lẫn nhau, tránh trường hợp có người gây họa cho toàn bộ đoàn thể.

Sau khi tách khỏi bốn người còn lại, tôi ngược dòng đi thẳng về hướng đông, định tìm một chỗ tương đối cao để dễ bề quan quan sát xung quanh rồi tính tiếp. Trong đám cây cối dưới chân đầy rẫy các loài côn trùng nhỏ, rất may là chúng tôi đeo loại giày chuyên dụng để hành quân trong vùng nhiệt đới. Nếu không, chẳng may bị những con vật nhỏ bé này leo lên theo ống quần, đốt cho một cái, vậy thì sẽ phải nếm mùi đau khổ khỏi cần phải bàn. Khi đi ngang qua một bãi cỏ lúp xúp, tôi phát hiện ra trên mặt đất có dấu vết đốt lửa, bèn tiến lại gần quan sát. Khu vực đồi rừng này rõ ràng có dấu vết hoạt động của con người. Đống lửa đã tắt, những cái hố đóng cọc căng lều còn lại trên mặt đất, đều là chứng cứ không thể xóa sạch đi được. Tôi mở chốt an toàn khẩu súng trường, đề phòng có kẻ địch mai phục quanh đây. Sau khi nằm phục xuống ngay tại chỗ quan sát trong chốc lát, tôi không hề phát hiện ra dấu hiệu khả nghi nào. Quanh đây, ngoài tiếng chim thú liên tục kêu vang vọng thì chẳng hề thấy bóng dáng một người nào. Thế là tôi đứng dậy, nhặt một cành cây gẩy đám tro than trong đống lửa đã tắt từ lâu ra. Thế nhưng, ngoài mấy cái xương động vật đã bị đốt vỡ vụn ra, tôi không tìm được bất cứ manh mối nào cả.

Tuy vậy, nơi trú quân này tồn tại đã chứng tỏ ngoài chúng tôi ra, trong vùng rừng nhiệt đới còn có những người lạ khác. Căn cứ vào tốc độ hành quân, bọn chúng có nhiều khả năng là đội ngũ của Cây Sào, tôi cảm thấy tình hình đã trở nên hết sức nguy cấp. Để phòng tránh khả năng mọi người phải chiến đấu bằng hỏa lực với kẻ địch trong tình trạng thụ động, tôi quyết định lập tức lộn trở lại chỗ hẹn ở rừng lá to để chờ những người khác quay về hội họp. Vừa đi ra khỏi nơi trú quân đó chưa được vài bước, tôi chợt nghe thấy ở bờ sông cách đây không xa vang lên tiếng súng nổ, khiến chim chóc khắp nơi bị kinh động nháo nhác bay lên. Tiếp đó lại là một loạt tiếng súng bắn loạn xạ. Tôi nghĩ bụng hỏng rồi, xem ra bọn chúng đã ra tay trước. Tôi lập tức cúi xuống thắt chặt lại dây giày, nhấc súng trường lên rồi lao vọt về phía đang diễn ra bắn nhau.

Tôi chạy một mạch bảy tám trăm mét, cành lá ven đường liên tục quất vào người, khỏi cần phải nói đau rát đến mức độ nào. Khi sắp đến bờ sông, tôi chạy chậm lại, tính cách giáng cho kẻ địch một đòn tấn công bất ngờ. Nào ngờ, tôi vừa mới tìm được một nơi phục kích thuận lợi, phía sau lưng chợt vang lên tiếng cành lá cọ lạt xạt. Tôi còn chưa kịp quay đầu lại, lưng đột ngột bị kẻ khác nện cho một gậy như trời giáng, cả người bổ nhào về phía trước. Tôi nghĩ bụng, ăn trộm gà không thành còn mất nắm gạo, lần này coi như cậu đây không còn một tí sĩ diện nào. Vừa ngã nhào xuống đất, tôi cấp tốc lăn sang bên cạnh, tránh đòn đánh tiếp theo vào đầu. Bất chấp cái lưng đang đau như đã gãy đôi, tôi vội vàng đứng dậy. Đến lúc này, tôi mới nhìn thấy được kẻ đã đánh lén mình, đó là một người nguyên thủy Amazon cao gần 2m. Hắn cầm một cây búa đá to tổ bố, đầu búa còn lớn hơn cả đầu tôi, cán búa bằng gỗ được bôi màu đỏ chói. Mớ tóc dài trên đầu rối tung, hắn quấn da thú và lá cây quanh người để che thân, vẻ mặt hung ác, hai con mắt trợn trừng như mắt trâu. Thấy tôi đứng dậy, hắn lập tức vung cây búa khổng lồ bổ thẳng tới. Không để hắn kịp áp sát, tôi lập tức lăn một vòng, nhặt lấy khẩu súng mình đã làm rơi dưới đất. Lúc này, tình thế thật sự vô cùng nguy hiểm, ngay cả thời gian ngắm bắn cũng không có, tôi nhắm mắt bắn bừa liền hai phát. Tên thổ dân cầm búa đá hung hãn lập tức hoảng sợ nhảy dựng lên. Đen đủi trúng một phát đạn, hắn phát ra một tiếng gào thảm thiết, ném thẳng cây búa đá về phía tôi. Tôi đâu có ngờ ý chí chiến đấu của hắn lại mãnh liệt đến thế, ăn một phát súng ở khoảng cách gần như vậy mà vẫn còn có thể phản kích. Tôi vội vàng nghiêng đầu né. Thứ này ít nhất cũng phải nặng tầm 55 cân, nếu bị ném trúng mặt, chắc chắn tôi sẽ phải lập tức đi gặp Mao Chủ Tịch.

Tôi cứ tưởng hắn sẽ tranh thủ lúc tôi phải né tránh để lập tức chạy trốn, đâu có ngờ tên người nguyên thủy khổng lồ này hết sức hung hãn, ruột gan lòi hết cả ra ngoài mà vẫn cứ lao vọt về phía tôi. Thấy cây búa đá của hắn bay mất, tôi tưởng đã là xong chuyện, đâu ngờ tới lại có kẻ không muốn sống như vậy. Còn chưa kịp quay đầu lại, tôi đã bị hai cánh tay lực lưỡng đầy sức mạnh của hắn ghì chặt cổ. Tên người nguyên thủy này cực khỏe, do cổ bị hắn ghì chặt vào nách, tôi chỉ có thể dựa vào lực hai cánh tay để cố gắng ngăn không cho hắn siết chặt hơn, nhờ đó tạo cơ hội chớp nhoáng cho mình kịp lấy hơi. Tôi bị hắn ghì chặt đến mức không thể hít thở nổi, chỉ hận sao mình không mọc thêm vài cái tay, lập tức xử bắn thằng ôn này.

Hắn dựa vào sức lực cơ bắp chiếm thế thượng phong. Tôi dần dần choáng váng hết đầu óc, sắp không chịu đựng được nữa. Tôi thừa hiểu, nếu như vào thời điểm này, mình chỉ cần thoáng buông lỏng, nhất định sẽ bị hắn lập tức vặn gãy cổ. Thế nhưng, không khí trong phổi lại đang liên tục giảm bớt từng chút một. Đúng vào lúc tôi gần như ngất xỉu, hai tiếng súng rung trời vang lên ở phía sau tên người nguyên thủy. Hắn không kịp kêu lấy một tiếng, hai tay tức khắc buông lỏng, ngã đánh rầm xuống đất. Tôi bị xác hắn đè lên người, lập tức cảm thấy mình đã biến thành Tôn Ngộ Không nằm dưới Ngũ Chỉ sơn. Tôi vừa đẩy cánh tay to đùng của tên người nguyên thủy ra, vừa ho sặc sụa. Đến khi tôi nhìn thấy người đã bắn hai phát súng vừa rồi, lập tức hét rầm lên: "Nhị sư đệ, đệ muốn hại chết vi huynh sao?"

Tuyền béo đội mũ ngụy trang đan bằng lá cây, cầm súng bằng hai tay, hùng dũng sải bước tiến lại gần tôi. Đầu Trọc, cậu ấm họ Vương, cả Tần bốn mắt nữa, cũng nối đuôi nhau chui ra khỏi đám cây rừng. Phát súng cứu mạng bắn vào lưng tên người nguyên thủy vừa rồi, đúng là do Tuyền béo bắn ra. Tôi khó nhọc đẩy xác tên người nguyên thủy ra, ho sặc sụa một lúc lâu mới điều hòa lại được nhịp thở. Mặt Tần bốn mắt đang chảy máu, không biết bị thứ gì đó sượt qua tạo thành một vết thương vừa dài vừa sắc lẹm.

Tuyền béo đạp mấy cái vào xác tên người nguyên thủy: "Tiên sư bà nhà nó chứ, quái vật gì thế này, vừa rồi đột ngột xông ra từ trong rừng, thiếu chút nữa làm cậu béo đây sợ tè ra quần. Quá con mẹ nó giật mình mà."

Ma Cô Trẻ vung vẩy súng, nói: "Không chỉ có mỗi tên này, bên phía kia, tôi và Lưu Mãnh cũng đụng phải hai tên người rừng khác giương nanh múa vuốt tấn công. Chúng tôi bắn bừa mấy phát, chẳng biết có trúng hay không, nhưng ít ra cũng làm bọn chúng kinh sợ bỏ chạy."

Tần bốn mắt bịt vết thương, ngồi xổm xuống quan sát một lượt, nói: "Những người này có lẽ chính là dân bản địa Amazon mà tù trưởng Chamana đã nói. Xét theo cách ăn mặc và vũ khí, có thể nói trình độ phát triển của bộ lạc bọn chúng rất lạc hậu. Vừa rồi có mấy kẻ không bị bắn chết, chúng ta phải mau chóng rời khỏi khu vực này, tránh cho đêm dài lắm mộng. Dù cho có nhiều súng ống đạn được hơn nữa, chúng ta vẫn không thể chống lại sự bao vây tấn công cùng lúc của vài trăm tên người nguyên thủy được."

Để tránh phải đối chiến với dân bản địa một lần nữa, chúng tôi quyết định không dừng chân cắm trại nghỉ ngơi nữa, mà sẽ hành quân suốt đêm, tranh thủ trước lúc mặt trời mọc có thể chạy tới được phía bên kia Cây cầu ma. Đáng tiếc, người tính không bằng trời tính. Ngay trong đêm hôm đó, một biến cố đột ngột phát sinh, hoàn toàn làm rối loạn kế hoạch của chúng tôi.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 18: Lễ tang của người nguyên thủy


Dịch giả: gaygioxuong

Nhằm tránh phải chiến đấu với người nguyên thủy Amazon, đội thám hiểm năm người chúng tôi quyết định đi suốt đêm, chiếu theo đường chỉ dẫn trên bản đồ, nhắm thẳng tới tọa độ đầu tiên ở ngay gần Cây cầu ma. Tôi vừa gặm lương khô vừa hỏi Tần bốn mắt, tại sao khi ấy người Inca lại đặt cho cây cầu của mình một cái tên xui rủi như vậy. Anh ta phán đoán: "Có lẽ là vì lúc ấy năng lực xây dựng thấp kém, công nghệ làm cầu tương đối lạc hậu, thường xuyên phát sinh sự cố giao thông. Người cổ đại không hiểu nguyên nhân, cho rằng do ma quỷ quấy phá, cho nên mới nghĩ ra một cái tên như thế."

Vương Thanh Chính đi sau lưng tôi. Vừa nghe xong lời giải thích của Tần bốn mắt, y cười sằng sặc, vỗ bồm bộp vào vai anh ta, nói: "Cái đồ buôn nước bọt nhà anh đúng là một tấc lên đến giời, cái gì cũng có thể bịa ra được."

Tần bốn mắt gạt bàn tay thối tha của y ra, hỏi lại bằng giọng coi thường: "Thế nào, cậu cả họ Vương có ý tưởng cao siêu gì chăng?"

Suốt chặng đường vừa qua, cậu ấm nhà họ Vương đã không ít lần bị Tần bốn mắt xa lánh. Đến lúc này, quyền nói chuyện khó khăn lắm mới đến tay, toàn thân bay bổng, y vỗ ngực một cái, nói: "Lúc cậu đây học đại học, đám nhà quê các anh, ngay cả đế quốc Inca nằm ở chỗ nào cũng còn không biết ấy chứ! Cây cầu ma có điển tích trong truyện thần thoại của người Inca hẳn hoi, không hề chỉ mang tính chất phong kiến mê tín đơn giản như anh nói đâu."

Chúng tôi đi suốt đêm, đương nhiên sẽ bị mệt mỏi về thể xác lẫn tinh thần. Thấy câu chuyện có vẻ thú vị, tôi bèn cố tình kích động cậu ấm họ Vương: "Điển tích cái gì mà điển tích, không phải là những lời tuyên ngôn phản động do thằng ranh cậu bịa ra để lừa gạt quần chúng nhân dân đấy chứ?"

"Anh biết gì mà nói, cậu đây xác thực đã từng đọc câu truyện đó trong tài liệu lịch sử. Loại chữ Tây Ban Nha cổ ấy, nếu không có tôi, đám nhà quê các anh cả đời này cũng đừng mong mà đọc được."

Tuyền béo phát cáu với y, hỏi xen ngang vào: "Cuối cùng thì thằng ranh nhà cậu có kể hay không, không kể thì đứng sang một bên cho đỡ vướng, đồng chí Hồ thân mến biết rất nhiều những mẩu truyện thú vị."

Vương Thanh Chính sợ không ai để ý đến mình, vội xốc lại ba lô, bắt đầu kể cho chúng tôi nghe về một câu chuyện thần thoại xa xưa của người Inca trong bóng đêm giữa rừng Amazon bạt ngàn.

Truyền thuyết kể rằng, xưa thật là xưa, có một vị anh chàng Inca, tên Karka, tên thường gọi là Kaka. Kaka hết lòng thành kính Đấng sáng tạo Viracocha, dùng toàn bộ thức ăn, nước uống, hoa quả đổi được từ công sức lao động để cúng tế cho Ngài. Sau đó, anh chàng đã yêu cô con gái nhà địa chủ tên Chaska. Cũng như bao câu chuyện tình yêu lãng mạn khác trong truyền thuyết, cô thiếu nữ Chaska không những xinh đẹp, hào phóng mà còn hiền lành tốt bụng. Quan trọng nhất là nàng không hề có chút thái độ khinh bần trọng phú nào. Cũng như Kaka, nàng bị tiếng sét ái tình ngay từ cái nhìn ban đầu.

Kaka cưỡi con lừa nhỏ, tài sản duy nhất trong nhà để tới nhà địa chủ cầu hôn. Lão địa chủ đương nhiên không đời nào chịu gả con gái cho một thằng ranh khố rách áo ôm. Lão nói với Kaka bằng giọng điệu thấm thía: "Nếu chỉ có tình yêu thì có tác dụng cái mẹ gì, cậu còn chẳng mua nổi món ngon nào đó cỡ thịt kho tàu để nuôi con gái ta. Ta khuyên cậu một câu, chàng trai, hãy ra ngoài phấn đấu đi, đến khi nào đủ tiền xây nhà dựng cửa thì mới trở về cưới vợ."

Vì người con gái yêu dấu, Kaka lập tức lập lời thề, nếu như trong vòng một năm không thể thoát khó làm giàu, trở thành một anh nông dân ưu tú giàu có, anh chàng sẽ rời bỏ Chaska xinh đẹp, sau này sẽ không bao giờ xuất hiện nữa.

Kaka đi rồi, Chaska chung thủy ngày ngày mong chờ người trong lòng trở về. Lão địa chủ cũng giữ đúng lời hứa của mình, từ chối không biết bao nhiêu thanh niên tài giỏi đến cầu hôn con gái. Cho đến một ngày, khi vị Quốc Vương khi ấy là Pachacútec xuất hiện trong đội ngũ cầu hôn, lão địa chủ đã kích động đến mức không nói ra được câu gì, thiếu chút nữa là chảy máu não đi chầu ông bà ông vải. Nếu như vụ hôn nhân này mà thành công thì kể từ đó trở đi, bản thân có lẽ sẽ được thăng lên làm thần tiên rồi, ngay cả Quốc Vương còn phải gọi mình hai tiếng "Cha vợ" cơ đấy. Một cơ hội như thế, không phải ai cũng có phúc được hưởng. Tuy nhiên, dẫu sao lão địa chủ cũng là người đọc sách, biết thế nào là đạo làm người của bậc quân tử. Lão vừa kìm nén cơn kích động đang sục sôi trong lòng, vừa trả lời Quốc vương Pachacútec: "Hoàng Thượng, việc này thật sự không thể oán kẻ hèn này, mà do ngài đã tới chậm. Con gái kẻ hèn đã đồng ý chờ đợi cậu trai nghèo tên Kaka một năm rồi. Hay là thế này, ngài hãy hạ cố tới tán gẫu với con gái kẻ hèn một chút, để có thể dần nuôi dưỡng được cảm tình giữa hai bên."

Quốc vương Pachacútec là người thế nào chứ, vua của một nước, bậc thánh hiền nghìn đời của người Inca, làm sao có thể thực hiện hình vi bỉ ổi nhân lúc cháy nhà mà đi hôi của như thế? Khi biết được lời thề của Chaska, ông ta lập tức biết khó mà lui, không hề làm người khác phải khó xử. Mặc dù vậy, Pachacútec cũng là một người cực kỳ đa tình. Sau khi rời khỏi nhà lão địa chủ, ông ta sai quân sĩ lập tức đào một con sông nối thẳng từ vùng đó tới kinh đô. Ông ta đặt tên cho con sông đó là "Achilannes", với ý nghĩa là dòng nước vì cô gái xinh đẹp mà chảy.

Quốc Vương vừa mới ra lệnh đào sông, đội ngũ cầu hôn lập tức càng thêm hùng hậu. Trong số đó có một thanh niên, con trai của một vị quý tộc địa phương. Anh ta là người chính trực, có địa vị rất cao trong họ tộc, một lòng theo đuổi Chaska, tấn công cũng lắm mà thất bại cũng nhiều, không ngờ còn si tình hơn cả Quốc Vương Pachacútec. Thời gian thấm thoắt trôi qua, thời hạn một năm đã sắp đến, nhưng Kaka vẫn bặt vô âm tín kể từ lúc rời nhà đến bấy giờ. Lão địa chủ cảm thấy giờ là lúc nên chuẩn bị trước cho lễ cưới của con gái rồi, vì vậy mời vị quý tộc nọ đến nhà uống trà. Hai người cha vừa cắn hạt dưa vừa bàn bạc việc hôn nhân của con cái: "Thưa Quý ngài, ngài biết đấy, tính tình con gái tôi bướng như lừa vậy, kỳ hạn một năm còn chưa tới, nó khăng khăng thà chết cũng không chịu gả cho người khác. Tuy nhiên, theo tôi thấy, cậu thanh niên Kaka kia dù có tài năng đến mấy thì cũng không thể nào trở thành một ông chủ giàu có trong thời gian ngắn như thế. Ngài xem thế này có được không, chúng ta cứ dần tiến hành chuẩn bị cho hôn lễ đi là vừa, còn bảy ngày nữa là tròn một năm rồi. Đến lúc đó, cứ đưa thẳng kiệu hoa tới nhà. Chúng ta cứ quyết định như vậy thay cho bọn trẻ."

Lão quý tộc cảm thấy ý kiến này không tồi. Ông ta bảo với lão địa chủ: "Thằng con trai nhà tôi thực sự phải lòng cô con gái rượu của ông. Ai cũng bảo cô gái một lòng chờ đợi Kaka, vậy mà thằng con trai khờ dại nhà tôi lại vẫn cứ chết mê chết mệt. Bảy ngày thì bảy ngày, nó chờ đã lâu như vậy rồi, chờ thêm một vài ngày nữa chắc cũng chẳng có vấn đề gì."

Hai vị phụ huynh gian xảo kẻ xướng người họa, cứ như vậy định ngày kết hôn của hai đứa con vào bảy ngày sau. Thế còn anh bạn may mắn đến nỗi ngay cả Hoàng đế cũng phải ghen tị, Kaka đang cật lực kiếm tiền ở nơi quái quỷ nào vậy?

Đáp án đương nhiên là ở khu ruộng muối vùng duyên hải. Từ xưa đến nay, ở bất cứ quốc gia nào, muối luôn nằm dưới sự quản chế của chính phủ. Ông chủ khu ruộng muối đó là thân vương Capac Yupanqui, em trai ruột của Quốc vương đương nhiệm. Kaka có biểu hiện xuất sắc ở khu ruộng muối, hành xử khiêm nhường, kiên định tôn giáo tín ngưỡng đến mức thành kính. Người phụ trách đánh giá Kaka rất cao, vậy là tiến cử anh chàng cho Thân vương. Bởi vì Thân vương Capac Yupanqui thất bại trước người anh trai trong cuộc tranh cử làm người lãnh đạo quốc gia, do đó ông ta nổi giận chạy đến vùng duyên hải thành vua một cõi. Ông ta xem lý lịch Kaka, thấy anh chàng là tình địch của anh trai mình, tức khắc mừng rỡ đến mức dập đầu tạ ơn thần linh như bổ củi, cảm thấy thời điểm mình vả cho ông anh trai một bạt tai đã đến. Bởi vậy, Thân vương Capac Yupanqui ban cho Kaka thân phận quý tộc cùng với lượng tài sản tương ứng, để anh chàng có thể thành hôn với người trong lòng, hoàn thành lời hẹn thề lúc trước.

Đáng ra tất cả có lẽ đã kết thúc mỹ mãn, thế nhưng anh bạn Kaka lại là kẻ lắm trò. Anh chàng tính toán, thời gian chạy từ khu ruộng muối chạy về quê chỉ mất khoảng năm ngày. Vì vậy, đến khi còn cách kỳ hạn một năm có bảy ngày, anh chàng mới xin Thân vương cho nghỉ để về nhà, định tạo niềm vui bất ngờ cho hương thân phụ lão chốn quê nhà.

Đáng tiếc, người tính không bằng trời tính, một trận bão tố dữ dội hiếm thấy đột nhiên đổ ập tới, cuốn bay sạch sự phấn khích của Kaka, còn đột ngột mang tới cho anh chàng một niềm kinh sợ nhất trong cuộc đời.

Gió bão làm trở ngại hành trình của Kaka. Đúng ra chỉ cần đi năm ngày là về đến nơi, nhưng lại kéo dài đến tận bảy ngày. Chỉ cần vượt qua cây cầu là về đến quê nhà, nhưng anh ta lại bị kẹt ở bờ bên kia. Do mưa dữ dội tàn phá, cây cầu đã bị hỏng từ mấy ngày hôm trước. Kaka đứng ở bên này cầu, thậm chí có thể nhìn thấy đội ngũ đón dâu đỏ rực ở bờ bên kia. Lúc này chỉ còn cách hừng đông có một giờ, Kaka và Chaska đứng hai bên bờ sông nhìn nhau, trong lòng nóng như lửa đốt. Trong mưa gió bão bùng, họ đã tuyệt vọng đến mức định nhảy sông, ngờ đâu tiếng của ác ma Malik chợt vang lên: "Anh bạn trẻ, ta đánh giá cao lòng dũng cảm của ngươi. Thế nhưng Đấng sáng tạo Viracocha của các ngươi đã vứt bỏ ngươi, chỉ có ta mới có thể giúp ngươi. Ta có thể dựng một cây cầu giúp ngươi qua bên kia sông. Tuy nhiên, sau khi chết, ngươi phải giao linh hồn cho ta để làm thù lao, thế nào?"

Giống như người chết đuối vớ được cọc, Kaka ngay tắp lự đồng ý điều kiện của tên ác ma. Đôi bên giao ước, chỉ cần Malik có thể dựng lên một cây cầu giúp Kaka đi sang bờ bên kia là hắn sẽ thu được linh hồn của anh chàng. Malik sử dụng bản lĩnh thần kỳ của mình. Toàn bộ đá núi đều nghe theo sự kêu gọi của hắn, bay vọt tới bờ sông. Không bao lâu sau, một cây cầu đá đã sắp hoàn thành. Trong lòng Malik cực kỳ phấn khích, bởi vì chẳng mấy chốc nữa là hắn có thể cướp được linh hồn tín đồ thành kính của đối thủ cạnh tranh Viracocha ngay từ tay đối phương. Hắn đâu có ngờ, cùng lúc ấy Viracocha đang ẩn núp trong bóng tối, chuẩn bị cho tên ác ma cần cù thân mến này một niềm vui bất ngờ.

Lại nói tiếp, thời gian đã sắp đến hạn, cả cây cầu sẽ hoàn thành chỉ trong chốc lát nữa. Malik chọn một viên đá nhỏ cuối cùng để trám vào khe hở cầu. Nhưng chẳng hiểu tại sao, viên đá bé xíu đó lại chẳng chịu nghe theo mệnh lệnh của hắn. Malik cực kỳ tức giận, thế nhưng viên đá vẫn cứ trơ trơ ra, bởi vì Đấng sáng thế Viracocha vĩ đại đang bám ở mặt dưới của nó. Cho dù Malik có bản lĩnh hái sao trên trời cũng không thể nào lay động được viên đã bị Đấng sáng thế bám vào. Tên ác ma tứ chi phát triển, cứ thế ngu si vật lộn với viên đá bé xíu đó, không biết đường chuyển sang viên đá khác xem sao.

Lúc này, tiếng gà gáy bắt đầu vang lên ở đằng xa, ước hẹn một giờ đã hết. Nhờ cục đá đó, Kaka viện cớ thắng cược tên ác ma. Chỉ vì một hòn đá nhỏ râu ria, Malik mất mất linh hồn đã sắp đến tay. Hắn thẹn quá hoá giận, từ đó về sau lấy cây cầu đá đó làm giới hạn, cả đời không qua lại với con người. Bờ sông bên kia đương nhiên thuộc về địa bàn của Malik, không còn có người nào dám bước chân vào vùng đất ma quỷ đó nữa.

Tôi nghe say sưa, trong lòng tràn ngập tò mò về Cây cầu ma sắp xuất hiện. Nhờ vào câu chuyện, toàn bộ chuyến đi nặng nề đã có được niềm vui thú khác. Chúng tôi mải thảo luận với nhau, đoán xem thế giới ở bờ bên kia Cây cầu ma rốt cục sẽ có điều gì thần kỳ gì, kéo dài đến nửa đêm lúc nào mà không hay. Đang đi dẫn đầu đội ngũ, Đầu Trọc đột nhiên ngồi thụp xuống, tay phải nắm thành nắm đấm giơ lên trời. Nhận ra tín hiệu báo phía trước phát sinh tình huống khẩn cấp, tôi lập tức giang rộng hai tay ra, chặn mấy người phía sau lại.

Mấy người Tuyền béo mải tán dóc ở phía sau, đột ngột bị tôi cản lại, đồng loạt nín lặng, nhướng mắt nhìn tôi. Tôi khom người xuống, ra hiệu cho ba người nằm dán xuống đất, sau đó tất cả nhẹ nhàng bò tới gần chỗ Đầu Trọc.

Khi còn cách lão ta khoảng 200 mét, tôi nhìn thấy ánh lửa lác đác qua tán lá rậm rạp của cây rừng. Một lát sau, tiếng ồn ào văng vẳng đâu đây vọng về. Đầu Trọc trốn trong bụi cỏ phía trước mặt tôi không hề nhúc nhích. Tôi vừa bò tới gần lão ta vừa âm thầm tự mắng mình quá sơ suất, chỉ mải nghĩ đến câu chuyện ma quái đầy mới lạ kia, vậy mà quên bẵng không để ý gì đến chung quanh.

Thấy tôi tới gần, Đầu Trọc nhẹ nhàng nhích sang bên cạnh, sau đó chỉ vào rừng cây đối diện, nói: "Lần này coi như chúng ta nhảy bổ vào giữa họng súng, cả một ổ người nguyên thủy Amazon."

Tôi gạt nhánh cây chắn trước mặt ra, lập tức không thốt nổi lên lời, nguyên nhân là vì nhìn thấy người nguyên thủy đang mở hội. Trên khu đất trống trải bên bờ sông có khoảng ba bốn mươi người nguyên thủy Amazon với thân hình cao lớn, tóc tai bù xù đang tụ hội, trong số đó nữ có nam có, ngay cả trẻ con cũng không thiếu phần. Đám người đó, quần áo tả tơi, trên mặt không biết bôi thứ gì đó ánh lên màu lam ma quái trong trời đêm tối đen như mực. Trên con đê cách đó không xa có một bãi đá lộn xộn, có bốn năm cái xác người nguyên thủy được đặt nằm ngay ngắn dưới đất. Tôi nhận ra cái xác có hình thể cao lớn nhất chính là của tên người nguyên thủy cầm búa đá đã bị Tuyền béo bắn chết, bèn bảo với Đầu Trọc: "Có lẽ bọn chúng tụ tập ở chỗ này để cử hành táng lễ cho đồng bọn, nhưng sao lại chết quá nhiều người như thế. Tôi nhớ lúc ấy bên mình chỉ bắn chết có một người thôi mà." Đầu Trọc gật đầu, đáp lại: "Lúc ấy tôi và cậu cả bị ba bốn người nguyên thủy bao vây, cho nên không dám ham chiến, chỉ bắn mấy phát để hù dọa bọn chúng. Mấy người nguyên thủy còn lại không thể nào chết dưới tay chúng ta được."

Bên bờ sông, đám người nguyên thủy tuần tự giơ đuốc lên cao, hét lên những tiếng kêu quái dị, vây thành vòng tròn, sau đó bắt đầu đi vòng quanh đống lửa nhảy múa loạn xạ. Thân hình bọn chúng lay động trong bóng đêm, giống hệt như một đám cô hồn dã quỷ vừa mới bò từ quan tài dưới mộ lên, cực kỳ đáng sợ. Lúc này, Tuyền béo cuối cùng cũng luồn tới được bên cạnh tôi. Vừa mới nhìn thấy cảnh tượng trước mặt, cậu ta đã lập tức buột miệng nói: "Người nguyên thủy đang mở đại hội đại biểu đây sao, ở đâu chui ra lắm thổ dân như vậy. Mẹ ơi, kẻ nằm trên mặt đất kia chẳng phải là Búa Lớn bị chúng ta bắn chết vào buổi chiều hay sao? Tại sao lại đột nhiên chết nhiều người như vậy?"

Tôi nói: "Giờ quan trọng nhất là chuồn ra khỏi nơi đây an toàn, không được để cho bọn chúng phát hiện ra. Tuyền béo, cậu phụ trách dẫn Bốn mắt và cậu ấm nhà họ Vương rút lui trước, tớ và Đầu Trọc sẽ ở lại canh chừng, các cậu lần lượt rút từng người một thôi, không được bắn súng."

Tuyền béo không đồng ý để tôi ở lại với Đầu Trọc: "Việc yểm trợ giao cho anh ta phụ trách thế này, tớ không an tâm. Hãy để tớ ở lại."

Tôi bảo: "Chỉ vì không yên tâm nên tớ mới bắt anh ta ở lại. Lỡ như sau khi rút lui an toàn, người nhà họ Vương quay lại nã một phát súng, hai thằng chúng ta chẳng phải sẽ hết đường chạy trốn hay sao."

Tuyền béo giơ ngón tay cái về phía tôi, vỗ vai Đầu Trọc, sau đó dẫn Tần bốn mắt và cậu ấm nhà họ Vương nhẹ nhàng rút lui ra khỏi rừng cây. Lá cây bị chân người dẫm lên phát ra tiếng lạt xạt. Tôi căng thẳng quan sát đám người nguyên thủy trên bờ đê, sợ bọn chúng phát hiện ra có người lạ xâm nhập vào lãnh địa của mình. Từ chỗ chúng tôi nằm phục ở chỗ rừng cây đến con đê, khoảng cách chỉ tầm 300 đến 400m. Tôi trốn ở trong bụi cây mà gần như vẫn có thể loáng thoáng cảm nhận được sức nóng của đống lửa. Tôi quay đầu lại nhìn lướt qua, cả cậm ấm nhà họ Vương và Tần bốn mắt nối đuôi nhau biến mất khỏi tầm mắt của tôi. Tuyền béo vẫy tay với tôi, ra hiệu mình cũng rút đây. Tôi gật đầu để hối thúc cậu ta đi mau. Đúng lúc này, trên con đê đột nhiên vang lên tiếng hoan hô như sấm động, tôi nuốt nước bọt khan, vội vàng nâng súng trường lên, nhắm về phía đối diện. Qua ống ngắm, tôi bất ngờ nhìn thấy một phụ nữ người châu Á mặc trang phục chuyên dùng để tác nghiệp trong rừng nhiệt đới, bị mấy tên người nguyên thủy hung hãn kéo từ phía sau bãi đá lộn xộn ra. Cô ta bị chúng túm chặt cổ áo, liên tục giãy dụa, hai tay bị trói quặt sau lưng, không ngừng ngồi bệt xuống đất, cố chống cự không cho mấy người nguyên thủy kéo đi. Cô gái này quả thực rất khỏe, mấy tên người nguyên thủy xúm lại khiêng lên mới đưa được cô ta tới bên cạnh đống lửa. Vừa nhìn thấy cô ta, đám người nguyên thủy xung quanh đồng loạt trở nên phẫn nộ ra mặt. Mấy đứa trẻ con nhe răng hung dữ với cô ta, thỉnh thoáng còn nhặt đá ném. Tuy rằng cô gái đó kiên cường, nhưng liên tục bị mấy viên đá cuội ném trúng, trên đầu đã bắt đầu tóe máu.

Tuyền béo đã định rút đi hẳn, nghe thấy ồn ào lại lộn trở lại. Cậu ta cũng nhìn thấy cảnh tượng đáng sợ này, lập tức mở chốt an toàn định nổ súng. Đầu Trọc ghìm cò súng của cậu ta lại: "Việc này không có liên quan gì đến chúng ta. Giờ mà cậu nổ súng,chẳng những chẳng cứu được cô ta mà còn khiến chúng ta bị liên lụy vào cả đám."

Tuyền béo đẩy Đầu Trọc ra, bắt đầu ngắm bắn: "Mẹ nhà ông, là đàn ông thì hãy theo cậu đây đánh một trận. Mẹ kiếp, hãy xem cậu đây xử lý đám cháu chắt này."

Đầu Trọc giục tôi mau khuyên nhủ Tuyền béo, muôn ngàn lần không thể hành động theo cảm tính. Tôi đáp lại, xin lỗi nhé ông anh Lưu. Trong việc này, tôi kiên quyết đứng về phía người anh em của mình. Thấy chết mà không cứu, tôi không thể làm được. Tôi bảo với Tuyền béo: "Nhắm thẳng vào tên thủ lĩnh của chúng mà bắn. Cậu vừa bóp cò, tớ sẽ lập tức xông lên. Đến lúc đó, cần phải dùng hỏa lực yểm hộ tớ đấy."

Tuyền béo nói: "OK, lần này bạn đây sẽ không tranh đoạt công đầu với cậu. Cậu đi sớm về sớm, con gái nhà người ta đang bị hành tội kia kìa!"

Đầu Trọc đấm mạnh một cú xuống đất rồi nói với tôi: "Cậu không thể xông lên một mình được, bọn chúng quá đông người. Tôi sẽ xông lên cùng với cậu."

Tôi vừa mới định khen ngợi lão ta vài câu, Tuyền béo đã bắn cái "Đoàng" một phát tóe lửa. Đáng tiếc độ chuẩn xác quá kém, không bắn trúng tên thủ lĩnh đám người nguyên thủy. Đám người nguyên thủy bên bờ sông bị tiếng súng làm cho hoảng sợ tới mức hồn vía lên mây. Lũ đàn ông bắt đầu thét lên chói tai, vung vũ khí bằng đá lên chém loạn xạ vào không khí, đám đàn bà thì kéo trẻ con chạy loạn lên tìm chỗ ẩn núp. Thấy thời cơ đã đến, tôi và Đầu Trọc lập tức đứng phắt dậy, một tay cầm khẩu Walter bán tự động, một tay cầm ngược dao găm quân dụng, cấp tốc lao vọt xuống bãi sông bên dưới.

Đám người nguyên thủy đang bị tiếng súng nổ đột ngột làm kinh sợ tới mức hồn vía lên mây, lúc này nhìn thấy trong rừng cây có người ẩn nấp, cảm thấy thật sự không cần phải kinh sợ như vậy. Khi đã xác định được kẻ thù cũng là con người, mà không phải là thần thánh cao siêu, không thể chống lại được, bọn chúng lập tức khôi phục lại ý chí chiến đấu. Mười mấy tên người nguyên thủy lực lưỡng nhặt lao dài, búa đá lên, lao tới chặn đánh chúng tôi. Chúng tôi đang trong trạng thái chạy từ trên dốc cao xuống, muốn bắn chuẩn xác là việc cực kỳ khó khăn. Ngay cả việc mình bắn mấy phát, tôi cũng chẳng còn nhớ được chính xác. Đến khi sắp chính diện chạm trán với đám người nguyên thủy, tôi giắt khẩu Walter vào thắt lưng, đổi dao găm sang tay thuận.

Tên thủ lĩnh mất sạch cả mặt mũi vì phát súng vừa rồi, lúc này thẹn quá hoá giận, giương cao cây búa đá to đùng nhằm thẳng vào tôi mà chém xuống. Lần trước tôi đã bị nếm trái đắng với thứ binh khí hạng nặng này, lần này không dám liều lĩnh, vội nghiêng người giơ dao găm ra đỡ, trốn tránh không đánh chính diện. Đầu Trọc đã bảo vệ cho lãnh đạo cao nhất của thương hội hơn nửa đời người, kinh nghiệm đối địch lão luyện, phản xạ đương nhiên lưu loát hơn tôi rất nhiều. Một tay cầm súng một tay cầm dao găm, lão ta tung hoành giữa đám đông người nguyên thủy, động tác gọn gàng linh hoạt, chỉ trong nháy mắt đã đánh chém đến gần chỗ đống lửa.

Để tạo cơ hội thuận lợi cho lão ta cứu người, tôi phải gánh lấy trách nhiệm lôi kéo sự chú ý của đối phương. Tôi vừa quần nhau với tên thủ lĩnh người nguyên thủy, vừa bắt chước theo bọn chúng hú hét lung tung, với mong muốn tập trung toàn bộ sự chú ý của chúng vào một mình tôi. Không ngờ, chiêu này lại thật sự có hiệu quả. Đám người nguyên thủy nãy giờ vẫn vây quanh đống lửa, sau khi nghe thấy tiếng hú hét của tôi, chúng đua nhau lao vọt về phía tôi. Nhằm kéo dài thời gian cho Đầu Trọc, tôi vừa bắn súng vừa guồng chân chạy lòng vòng quanh bãi sông. Người nguyên thủy nhìn thấy tôi cứ như nhìn thấy một con mồi mới lạ, đuổi riết không ngừng phía sau. Tôi vừa cố gắng chạy vòng quanh, vừa thầm cầu khẩn, mong sao động tác của Đầu Trọc nhanh hơn một chút. Nếu không, lão ta còn chưa cứu được người thì cái mạng của tôi đã ô hô ai tai mất rồi.

Trong lúc tôi đang chạy như ngựa phi, chân đột nhiên bị níu chặt, không hiểu do vật gì quấn vào, cơ thể mất thăng bằng, ngã đánh uỵch xuống đất. Lớp đá lởm chởm bên bờ sông lập tức cứa lên cơ thể làm tôi rách thịt chảy máu be bét, cây súng văng luôn ra khỏi tay. Tôi cúi đầu xuống nhìn, hóa ra là một sợi dây quăng tự chế của người nguyên thủy. Loại dây quăng này được chế tạo bằng cách buộc hai viên đá tròn lại với nhau bằng một sợi dây ngắn, tôi đã từng được nhìn thấy một cái tương tự trong viện bảo tàng. Shirley Dương đã giải thích cho tôi, đó là vũ khí hữu ích của người Anh-điêng dùng để bắt con mồi lúc đi săn, trói chân không cho chúng chạy mất. Vào thời cổ đại, Trung Quốc đã từng có loại dây quăng tương tự. Loại vũ khí này cực kỳ thích hợp khi được sử dụng ở vùng bình nguyên bằng phẳng, khi phối hợp với kỵ binh chạy với tốc độ cao sẽ có uy lực cực kỳ đáng sợ. Không ngờ, tôi cầm trên tay vũ khí nóng hiện đại của thời văn minh, lúc này vậy mà lại thất bại dưới thứ vũ khí lạnh từ cả ngàn năm trước. Hai chân tôi bị trói chặt, đừng nói là chạy, ngay cả bò cũng không thể bò đi được. Tôi buộc phải vừa lết mông di chuyển, vừa dùng dao găm cắt dây. Chẳng hiểu sợi dây của loại vũ khí này được làm bằng thứ gì, đã to lại còn dai, ngay cả dao găm quân dụng được chế tạo bằng thép tinh cũng không thể cắt đứt được.

Đám người nguyên thủy đuổi theo phía sau, nhìn thấy tôi đã bị mình bắt được, khoái chí cười hô hố, giơ cây giáo dài lên cao bằng cả hai tay, không ngừng hú hét. Tên thủ lĩnh người nguyên thủy chạy ở vị trí đầu tiên của đội ngũ, quay lại hét lên vài câu với đám thuộc hạ, sau đó sải bước lao như tên bắn tới chỗ tôi.

Tôi thấy khoảng cách giữa hai bên chỉ còn lại có tầm mười bước chân, cuống quít gào ầm lên: "Tuyền béo, mau nổ súng, bạn đây gặp phải tai họa đến nơi rồi."

Trong bụi cây vang lên tiếng loạch xoạch, sau đó chợt nghe thấy Tuyền béo chửi ầm lên: "CMN lão Ma cô già, cung cấp cho cậu đây toàn thứ hàng second hand, kẹt mẹ nó rồi lão Hồ. Bạn đây liều cái thân già cứu cậu!"

Cậu ta vừa dứt lời, một thân hình béo tròn trăng trắng bổ nhào từ trong rừng cây ra. Tên thủ lĩnh người nguyên thủy bị cậu ta đâm sầm vào, thiếu chút nữa là toàn bộ ngũ tạng lục phủ bị ép nát như tương. Tôi vội vàng lăn sang một bên, cuống quít tìm cách cởi sợi dây ra. Tôi nói: Tuyền béo, tớ cứ thắc mắc sao cậu trốn trong rừng mà không bắn yểm trợ cho bọn tớ, hóa ra là súng bị kẹt. Hèn gì cậu ta im lìm không có động tác gì. Có lẽ là quá ức chế, cậu ta mới ném phắt súng đi, tay không lao vọt ra.

Tình hình bên phía Đầu Trọc không quá lạc quan. Còn chưa kịp tiếp cận cô gái đang nằm trên mặt đất, lão ta đã bị đám người nguyên thủy đang vây xung quanh người mấy xác chết phát hiện ra, lúc này đang phải lấy một địch mười, có thể nói là bị tấn công từ mọi phía. Cố gái bị đá nện ngất lịm lúc trước, đến giờ chợt mở bừng mắt ra, nhìn thấy thế lập tức hét lên bằng Trung: "Súng!"

Tôi đang cố cởi sợi dây trói chân, nghe thấy cô gái này hô lên súng, cứ ngỡ rằng cô ta hoảng loạn hét lên lung tung. Tôi thầm nghĩ bụng, nữ đồng chí này, tay vẫn còn đang bị trói, đòi súng để làm cái quái gì! Không ngờ, cô gái đó hét xong, lập tức thực hiện một hành động khiến cho tất cả mọi người phải kinh ngạc. Cô ta đứng dậy, sau đó tới bên cạnh đống lửa, ngửa người mượn ngọn lửa đang cháy rừng rực đốt đứt dây trói dễ như bỡn. Tiếp đó, cô ta lao vọt đi như tên bắn, cúi xuống nhặt khẩu Walter mà tôi đã đánh rơi, "đoàng" "đoàng" bắn liền mấy phát.

"Bố khỉ, bà cô này đã sợ đến mức choáng váng rồi!" Tuyền béo chỉ vào cô ta, thốt lên, "Cô ta bắn xác chết để làm gì?"

Tôi không tài nào ngờ tới, cô ta không tiếc làm bỏng chính mình, cuối cùng chỉ là vì muốn bắn thêm vào cái xác đang đặt nằm trên bãi đá mấy phát. Chẳng lẽ thực sự cô ta bị kích thích quá năng lực thừa nhận, đã biến thành kẻ đần?

"Nhìn cái gì vậy, các anh mới là kẻ đần! Đầu Trọc, mau bắn vào những cái xác kia!" Cô gái vừa chĩa súng vào xác chết dưới đất, vừa bảo Đầu Trọc đang tiến lại gần. Nói ra kể cũng lạ, đám người nguyên thủy đang làm chủ tình thế, vừa thấy cô ta chĩa súng vào cái xác, tất cả đều sợ hãi ra mặt, có mấy kẻ thậm chí còn ném cả lao dài đi, quỳ hướng mặt về phía chúng tôi.

Chẳng lẽ trong quan niệm của những người nguyên thủy Amazon này, người chết còn quan trọng hơn cả người còn sống? Xác của họ không thể bị hủy đi hay sao? Giống như để xác nhận suy đoán của tôi, tên thủ lĩnh người nguyên thủy không hề do dự ném cây búa đang cầm trên tay xuống. Những người nguyên thủy còn lại nhìn thấy thủ lĩnh đầu hàng, không ai dám tấn công tiếp nữa, ngoan ngoãn vứt bỏ vũ khí.

Đầu Trọc dùng súng chỉ vào xác chết, hỏi tôi: "Chúng ta ra khỏi đây bằng cách nào bây giờ, cứ dây dưa thế này không phải là cách hay, cậu cả nhà tôi vẫn đang chờ chúng ta ở ngoài kia."

Tuyền béo nhặt một cây giáo dài dưới đất, gác lên vai rồi nói: "Náo động như vậy mà cậu ấm nhà anh cũng không quay trở lại chém giết, có lẽ đã chạy xa lắm rồi, không cần lo lắng làm gì. Theo tôi thấy, tốt nhất chúng ta cõng theo những cái xác người nguyên thủy này, đợi đến chỗ nào an toàn thì thả chúng xuống."

Dùng xác chết làm con tin, đây là chuyện lạ mới được nghe thấy lần đầu tiên. Tôi bảo với Tuyền béo: "Nếu những cái xác này quan trọng đối với bọn chúng đến thế, chúng đương nhiên sẽ không dễ dàng buông tha, tất yếu sẽ truy đuổi chúng ta không buông tha. Chúng ta không thể nào cứ mãi vác theo những cái xác này để làm lá chắn được."

Trong một chốc một lát, chúng tôi tiến thoái lưỡng nan, thật sự không thể nghĩ ra biện pháp nào để có thể an toàn thoát ra khỏi vòng vây của rất nhiều người nguyên thủy. Chỉ cần chúng tôi rời khỏi đám xác chết này, lũ người nguyên thủy tất nhiên sẽ lập tức ồ ạt lao tới, xé nát bốn người chúng tôi thành mảnh nhỏ.

Lúc này, cô gái kia liếc nhìn sang phía chúng tôi, hỏi: "Có một chỗ, tôi cam đoan bọn chúng không dám bám theo. Mấy người các anh có dám theo tôi đến đó không."

Việc chúng tôi cứu cô ta lúc trước hoàn toàn xuất phát từ lòng nhân đạo. Về phần thực chất cô ta là ai, vì sao lại có mặt ở trong rừng sâu vào thời điểm này, hay là vì sao bị người nguyên thủy bắt làm tù binh, những vấn đề này có thể nói là chúng tôi không biết một chút gì. Giờ cô ta đột nhiên đưa ra lời đề nghị chúng tôi cùng đi, thậm chí còn nhắc lại một lần nữa: "Có dám hay không", không thể không khiến cho người khác phải sinh lòng nghi ngờ. Đầu Trọc liếc nhìn tôi đầy oán trách. Tôi thừa hiểu, lão ta đang trách lúc trước hai chúng tôi không sáng suốt, tự quăng mình vào cái vũng bùn này làm gì. Nhưng tôi tự hỏi lòng, cho dù có quay ngược thời gian trở lại, tôi vẫn cứ chọn cứu người.

Tôi phớt lờ cái nhìn ẩn ý của Đầu Trọc, khẽ gật đầu với cô gái: "Cô dẫn đường, chúng tôi theo."

Cô ta cười cười, chỉ tay vào ngọn núi cách đó không xa, nói: "Chỉ cần chúng ta có thể lên trên đó, những người Cranemore này sẽ không dám bám theo chúng ta nữa."

Tôi thật sự chẳng biết ngọn núi mà cô ta nói có điểm gì đặc biết. Nhưng để tránh phát sinh xung đột với qui mô lớn hơn với người nguyên thủy bản địa, chúng tôi đành phải từ bỏ tuyến đường đã định sẵn từ trước, leo lên trên ngọn núi đó để lánh nạn.

Để cản trở không cho người nguyên thủy đuổi theo sớm, tôi và Tuyền béo dùng dây quăng trói chặt mấy kẻ cầm đầu lại. Sau đó, chúng tôi còn ném tất cả giáo dài và búa đá của họ vào trong đống lửa. Đầu Trọc đưa ra đề xuất, giết chết luôn thủ lĩnh của họ. Bởi thể chế bộ lạc lấy tù trưởng làm trung tâm, nếu mất đi người lãnh đạo, toàn bộ bộ lạc sẽ hoàn toàn lâm vào trạng thái tê liệt. Trước khi chọn ra được tù trưởng kế nhiệm, họ sẽ không có lòng dạ nào mà truy đuổi chúng ta. Đề nghị của lão ta bị hai đứa tôi nhất trí bác bỏ, bởi dù sao những người nguyên thủy này mới là chủ nhân của khu rừng nhiệt đới. Sự có mặt đột ngột của chúng tôi thực chất là một hành động xâm lấn đối với họ. Nếu như tàn sát bừa bãi tộc đàn của họ, vậy thì chúng tôi đâu có gì khác với đám thực dân Tây Ban Nha đã từng cướp sạch Đế quốc Inca khi xưa.

Vì lo lắng bên phía Tần bốn mắt và Vương thiếu, chúng tôi quyết định trước hết quay về chỗ rừng lá to đã hẹn trước, chờ hai người họ ở chỗ cái cây cổ thụ. Cô gái tên Lâm Phương, là một nhà thực vật học. Một tuần trước, cô ta dẫn theo nhóm nghiên cứu nhỏ của mình vào rừng nhiệt đới để thu thập tiêu bản thực vật. Không ngờ, tối hôm qua họ đã bị một nhóm người nguyên thủy tấn công, tổ công tác bị thương vong nghiêm trọng. Cô ta đã bị tách ra khỏi những người còn lại, không may bị bắt.

Tôi lấy cái thẻ quân hiệu nhặt được ở thôn Titamar ra, hỏi cô ta có biết một người dẫn đường tên là Adong không. Cô ta cực kỳ kích động, giật phắt lấy cái thẻ: "Cảm ơn Thượng đế, tôi cứ tưởng mình đánh rơi nó ở trong rừng. Cái thẻ quân hiệu này là di vật của cha tôi, có ý nghĩa rất lớn đối với tôi. Cám ơn anh, cảm ơn anh rất nhiều!" Về phần Adong đang ở nơi đâu, cô ta trả lời bằng giọng hơi hối tiếc: "Đúng là chúng tôi đã nhờ một người tên là Adong dẫn đường, anh ta còn giúp chúng tôi qua mặt vị tù trưởng của thôn. Lúc ấy, chúng tôi đã thống nhất tuyến đường đi tới bờ bên kia của Cây cầu ma trong truyền thuyết. Thầy tôi đã từng đi qua nơi đó, hơn nữa còn mang về một loại trái cây màu đỏ hết sức kỳ lạ. Nhưng kể từ đêm hôm qua trở đi, tôi chẳng có tin tức gì của Adong cả. Nếu như không gặp phải bất trắc, có lẽ hiện giờ anh ta đang ở cùng chỗ với những người còn lại."

Tôi hỏi cô ta có cách nào để có thể liên lạc với tổ nghiên cứu của mình không. Cô ta lắc đầu: "Chúng tôi đã thực hiện công tác chuẩn bị chu đáo từ trước, cho nên cứ nhằm thẳng tới đích đến là Cây cầu ma mà tiến, nhưng có ngờ đâu lại xảy ra tình huống bất trắc như thế này."

Ngay từ ban đầu, Đầu Trọc đã không có hảo cảm gì với Lâm Phương. Lão ta bảo rằng, đó là bệnh nghề nghiệp. Những người trong nghề lão ta có lòng tin tuyệt đối vào trực giác, vừa mới gặp cô gái này đã cảm thấy toàn thân khó chịu. Cho dù có làm thế nào đi chăng nữa, lão ta vẫn cứ không thể nào nảy sinh cảm giác tín nhiệm đối với cô ta. Tuyền béo khịt mũi coi thường luận điệu đó: "Nếu ai cũng giống như anh, lúc nào cũng nghi với ngờ, người này cũng không tin, người kia cũng đáng ngờ, vậy thì đến lúc nào mục tiêu giải phóng toàn bộ nhân loại vĩ đại mới có thể thực hiện được? Đường đường một người đàn ông thân bảy thước cao, suốt ngày làm mình làm mẩy với phụ nữ, anh thử nói coi bản thân mình có thấy thú vị gì không? Cá nhân tôi cảm thấy, đồng chí Lâm Phương là một cô gái tốt. Ít nhất, vào thời điểm đối mặt với kẻ địch, phản ứng của cô ấy cực kỳ bình tĩnh, hơn nữa còn rất dũng cảm, không giống như mấy cậu ấm, vừa thấy đánh nhau là đã cụp đuôi bỏ chạy."

Đầu Trọc ghét nhất là có người nói xấu người nhà ông chủ mình, thế là lập tức phản bác lại: "Rút lui đâu phải là quyết định của mình cậu cả nhà tôi, thằng ranh họ Tần nhà các anh chẳng phải cũng bỏ chạy hay sao?"

Tôi hỏi Lâm Phương: "Vì sao lên núi sẽ không còn phải sợ bị người nguyên thủy truy đuổi nữa. Lẽ nào trên núi có thứ gì đó mà họ đặc biệt kiêng sợ hay không?"

Lâm Phương nhìn dãy núi xa xa, trả lời bằng giọng đáng tin cậy: "Những người nguyên thủy ở cạnh bờ sông Amazon này là người Cramer, là một nhánh của người Anh-điêng. Ngọn núi mà chúng ta sắp tới được coi là sào huyệt của Malik, trong ngôn ngữ Cramer có nghĩa là vùng đất chết. Trên núi không có lấy một ngọn cỏ, không có bất cứ sinh vật sống nào. Theo tục lệ của người Cramer, khi nào Thầy mo trong bộ lạc cảm thấy thời gian của mình không còn nhiều lắm, họ sẽ chạy đến sào huyệt của Malik để chờ chết. Nguyên nhân là bởi theo quan niệm của người Cramer, Thầy mo là người liên lạc giữa trời và con người. Sau khi chết, họ sẽ quay về trời. Nếu giữ xác của Thầy mo lại bộ lạc, mai táng theo nghi thức của người bình thường, điều đó sẽ mang tai họa tới cho bộ lạc. Về phần những người còn lại trong bộ lạc, kể cả là thủ lĩnh cũng không được phép, thậm chí cũng chẳng có gan bước chân vào vùng đất bị cái chết chiếm giữ đó."

Tôi đã từng được nghe kể, trong nhà dưỡng lão, đến khi sắp chết những ông cụ bà người Miêu sẽ bỏ nhà trốn đi để tránh cho những người khác phải thương tâm, họ sẽ trốn ra bên ngoài chờ chết. Điều khó hiểu là tại sao trong cộng đồng người Cramer lại lưu truyền một tục lệ kỳ lạ như thế.

Thấy chúng tôi tràn đầy hứng thú đối với văn hóa lưu vực sông Amazon, Lâm Phương tiếp tục nói: "Cái xác mà các anh nhìn thấy bên bờ sông lúc nãy là xác của Thầy mo bọn chúng. Lão chính là người cầm đầu cuộc tập kích nơi trú quân của chúng tôi. Chẳng hiểu lão đã gặp phải quả báo nào, đến buổi tối khi được đồng bọn khiêng trở về thì đã chết rồi, không kịp chạy tới sào huyệt của Malik. Cho nên, họ đã tổ chức gọi hồn cho lão ngay ở bên bờ sông, dùng người sống để hiến tế, với mục đích trao đổi lấy lại hồn phách của Thầy mo. Lúc ấy, nếu không nhờ các anh xuất hiện kịp thời, đến giờ chỉ sợ tôi đã bị họ dùng đá đập chết rồi."

Tuyền béo nói, hèn gì bọn chúng lại cuống cuồng lên khi nhìn thấy cô nổ súng vào xác chết đó, có lẽ là vì sợ đến khi hồn phách quay lại, tên Thầy mo kia lại phát hiện mình đã bị người ta bắn thành tổ ong vò vẽ.

Lâm Phương hào hứng nói: "Phạm vi hoạt động của người Cramer nói chung chỉ gói gọn quanh khu vực lòng chảo ở ven sông. Chúng ta chỉ cần vượt qua sào huyệt của Malik là có thể quay trở về tuyến đường đi đến chỗ Cây cầu ma lúc trước. Nếu như may mắn, chúng ta còn có thể vượt qua đội ngũ của tôi."

Sau đó, chúng tôi đi theo một đường vòng cung rất rộng, cuối cùng quay trở về điểm hẹn ở chỗ rừng lá to. Khi chúng tôi tới nơi, hai người Vương Thanh Chính và Tần bốn mắt đang cãi nhau, đại khái là tranh luận xem có nên quay trở lại tiếp viện chúng tôi hay không. Hai người thấy có thêm một cô gái, lập tức xông tới hỏi rối rít cả lên. Ma Cô Trẻ chỉ vào Lâm Phương, hỏi: "Đây có phải là cô vợ sắp cưới đã mất tích của anh không đấy?"

Tuyền béo đáp: "Cậu ta muốn thế lắm, đáng tiếc là nhà khoa học cao giá người ta không đồng ý. Ôi lão Hồ, cậu nói xem, lần này đến nước Mỹ, liệu có thể giải quyết vấn đề cá nhân của hai anh em chúng ta cùng một lượt không?"

Tranh thủ lúc Lâm Phương quay đi chỗ khác, tôi bảo với Tuyền béo: "Cậu cố gắng lấy một lần đi, học tiếng Anh cho tốt, tìm cách ở lại nước Mỹ, tăng cường lôi kéo làm quen với nhà khoa học tên tuổi đó, có lẽ lòng dạ người ta sẽ mền nhũn ra, nhắm mắt lấy thân báo đáp cũng chưa biết chừng."

Không ngờ Lâm Phương lại nghe thấy được. Cô ta hứ một cái rồi không thèm nói năng gì với hai thằng nữa, chạy tới chỗ Tần bốn mắt hăng say nói chuyện với anh ta. Tôi nói, Tuyền béo cậu đừng có mơ mộng nữa, bà cô này vừa ý anh chàng luật sư tài giỏi của chúng ta mất rồi. Tuyền béo phiền muộn nhìn lướt qua bầu trời đêm, đáp lại tôi: "Không sợ! Lenin có một câu rất hay, phụ nữ rồi sẽ có, tiền bạc rồi cũng sẽ có. Anh đây chịu đựng được cô đơn."

Đầu Trọc kể lại sơ qua toàn bộ sự việc vừa xảy ra cho hai người kia nghe. Cuối cùng, lão ta chốt lại: "Những người nguyên thủy kia có nhiều khả năng đã triệu tập hầu hết lực lượng của mình để truy sát, cho nên chúng không thể chần chừ bất cứ một giây phút nào nữa, phải lập tức tiến vào sào huyệt của Malik ngay."
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 19: Sừng quỷ (1)


Dịch giả: gaygioxuong

Cánh rừng nhiệt đới này quanh năm nóng ẩm mưa nhiều, nhờ vào sông Amazon mà căng tràn nhựa sống. Trong rừng có vô số động thực vật hiếm thấy sinh trưởng. Hơn thế nữa, con sông Amazon còn được gọi là "Lá phổi của trái đất". Nếu không phải tận mắt nhìn thấy, dù có nói thế nào tôi cũng không tin trong rừng Amazon xanh um tươi tốt lại có một ngọn đồi chết không có lấy một ngọn cỏ - sào huyệt của Malik.

So với mệt mỏi và đói khát, sự bám đuổi phía sau của đám người nguyên thủy Cramer thật sự phiền toái hơn rất nhiều. Mặc dù năng lực trí tuệc của đám người nguyên thủy này rất thấp, vũ khí lạc hậu, nhưng năng lực đánh du kích lại có bài có bản hẳn hoi. Cứ lúc nào chúng tôi dừng chân nghỉ ngơi, bọn chúng lại xông ra đánh lén, khi chúng tôi định phản kích thì chúng lại biến mất không còn tăm tích. Cả đêm chúng tôi không được nghỉ ngơi, phải liên tục tập trung tình thần đề phòng bọn chúng. Đến lúc rạng sáng, ai nấy đều buồn ngủ đến mức díp cả mắt. Vương Thanh Chính dựa vào một cái cây, bảo rằng nghỉ ngơi một chút, vậy mà chỉ nháy mắt sau đã ngủ vùi. Đầu Trọc phải cõng y bám theo sau chúng tôi, hết sức vất vả. Rất may là tới lúc hừng đông, chúng ta cuối cùng cũng leo lên tới sào huyệt của Malik. Vùng núi cằn cỗi đáng sợ này lập tức tạo ra sự rung động không gì sánh kịp về mặt thị giác đối với chúng tôi.

Khắp xung quanh là màu xanh ngăn ngắt, chỉ riêng nó là trọc lóc từ chân lên đỉnh, giống như một bộ xương đã bị róc hết da thịt, rút hết gân mạch, đứng trơ trọi giữa rừng nhiệt đới bạt ngàn. Đất đai dưới chân chúng tôi khác hẳn với khu vực dưới dưới chân núi, những viên đá vôi nhỏ nằm rải rác ở khắp mọi nơi. Lâm Phương chỉ lên đỉnh núi, nói: "Trên đỉnh có lẽ chính là nơi các đời thầy mo Cramer an nghỉ. Nếu các anh có hứng thú thì có thể lên trên đó thăm thú một chuyến, nhân tiện nghỉ ngơi một lát, kế tiếp chúng ta còn phải tiếp tục trèo núi. Đến khi nào xuống đến thung lũng bên dưới, chúng ta mới coi như hoàn toàn ra khỏi được lãnh địa của người Cramer."

Chúng tôi đã đi đường cả một đêm, giờ đến được sào huyệt của Malik, cuối cùng coi như đã tạm thời an toàn, không cần phải tiếp tục lo sợ đám người nguyên thủy Cramer truy sát nữa, cả đám đều thả lỏng tinh thần, ngồi phệt xuống ngay tại chỗ.

Trên mặt đất đá lổn nhổn, ngả lưng xuống tự nhiên có cảm giác gai gai người. Nhưng mấy người chúng tôi đã đi liên tục cả một ngày một đêm, đến lúc này đã sức cùng lực kiệt, làm gì còn hơi sức đâu mà bận tâm, mỗi người tìm đại lấy một chỗ bằng phẳng để nghỉ ngơi. Trái lại, Lâm Phương có vẻ tỉnh táo linh hoạt hơn so với mấy người chúng tôi một chút, có lẽ là do tính đặc thù của công việc phải thường xuyên sinh hoạt trong rừng, cho nên đã quen với khí hậu oi bức ở nơi đây. Cô ta ngồi dưới bóng râm của một tảng đá, uống nước nghỉ ngơi, giữ một khoảng cách không gần cũng chẳng xa với chúng tôi. Thực ra, trong lòng tôi vẫn luôn cảm thấy nghi ngờ cô ta. Một nhà thực vật học còn trẻ, tại sao lại có thể một mình dẫn quân xâm nhập vào rừng nhiệt đới. Hơn nữa, căn cứ vào những gì nhóc Cadillon đã kể lại, cô ta mang theo thiết bị đắt tiền, nhưng giờ chẳng nhìn thấy một món nào. Về phần những nhân viên cùng tổ công tác mà cô ta đã nói, lại sống không thấy người chết không thấy xác. Quan trọng nhất là khi đối mặt với tình huống hiểm nguy đột ngột phát sinh, sự quyết đoán lẫn năng lực giữ bình tĩnh của cô ta, đừng nói là người bình thường, cho dù là binh lính lão luyện trong quân ngũ cũng phải cảm thấy xấu hổ. Đáng tiếc, trước mắt chúng tôi chẳng có chứng cứ gì, ngoài tin tưởng vào lời nói của cô ta thì chỉ có thể đến đâu hay đến đó.

Suy nghĩ miên man, tôi thật sự không cưỡng lại được cơn buồn ngủ, vừa nhắm mắt đã chìm vào giấc ngủ. Tôi ngủ một giấc say sưa, chẳng có mộng mị gì, đến khi mở mắt thức dậy thì mặt trời đã sắp lặn xuống núi. Tôi vươn người nhổm người dậy khỏi đám đá vụn, trông thấy mấy người khác đang đốt đèn cồn ở một chỗ kín gió bên sườn núi. Thấy tôi đã tỉnh, Tuyền béo đủng đỉnh đi tới, miệng vương đầy bột bánh quy: "Lão Hồ, chúng ta tốt hơn hết là xuống núi kiếm vài món dân dã về ăn. Khẩu phần lương thực mà Vương Phổ Nguyên đã chuẩn bị cho chúng ta quả thực chẳng ra thể thống gì, chỉ có một ít bánh quy nén với rau xanh nghiền đóng túi. Nhìn mấy thứ này là tớ đã hiểu, tại sao trước kia người Mỹ đánh Việt Nam lâu như vậy mà không thắng. Với cái loại thức ăn thế này, không gục xuống vì kiệt sức đã là may lắm rồi."

Tôi nói: "Không tồi tệ đến mức như cậu nói đấy chứ. Cậu xem, mấy người kia chẳng phải đang ăn rất ngon lành hay sao."

Tuyền béo đáp: "Cái đám người này đã ăn đồ ăn rác rưởi của tây thành quen, không biết tinh túy ẩm thực của Trung Hoa chúng ta. Không tin cậu ăn thử mà xem, cái thứ này con mẹ nó là để cho người ăn sao!"

Tôi bán tín bán nghi mở một túi bánh quy nén ra. Loại bánh quy này hình khối lập phương, nặng trĩu tay, chỉ một cục không quá to nhưng áng chừng đã nặng cỡ viên gạch, nhìn mấy lát cắt vàng vàng là có thể đoán ra mùi vị chẳng được ngon lành cho lắm. Tôi thử cắn một cái, ê cả răng. Sợ bị Tuyền béo chế giễu, tôi nghiến răng cắn mạnh, cuối cùng cũng gặm ra được một mẩu. Tôi nhai nhóp nhép vài cái, không có mùi vị gì, hơi ba bã. Nếu mô tả cho chính xác, đây chính là một miếng lương khô dùng để ăn tạm cho đỡ đói. Thật ra, bánh quy nén chẳng đến mức quá tệ hại như Tuyền béo đã nói. Ngày trước, trên chiến trường, thiếu thuốc men thiếu lương thực. Vào thời kỳ không kịp tiếp tế quân lương, ngay cả lương khô cứng như đá thế này cũng chẳng có mà ăn. Tuy nhiên, trước khi vào rừng, Tuyền béo đã hơn một lần đề cập tới việc muốn nếm thử món ăn dân dã châu Mỹ một lần. Ở nơi đây, sản vật phong phú, hơn nữa còn là thiên đường của động thực vật. Trên đường đi, chúng tôi đã không ít lần nhìn thấy các con vật như gà rừng, mèo rừng. Đối với kẻ không có thịt không nuốt nổi cơm như Tuyền béo, nếu chỉ dựa vào mấy gói bánh quy nén để giải quyết nhu cầu của dạ dày thì quả là hơi tàn nhẫn. Tuy nhiên, lần này chúng tôi đâu có phải đi dạo chơi thưởng thức cảnh đẹp, cũng chẳng phải là đi cắm trại dã ngoại, ăn đồ nướng. Dưới chân núi có rất nhiều người nguyên thủy Cramer đang rình mò chỉ chực tập kích chúng tôi, trong khi đó đội ngũ của kình địch Cây Sào thì chẳng biết đã đi được đến nơi nào, đã vượt lên trước chúng tôi hay chưa. Giờ phút này xuống núi đi săn chỉ tổ chuốc thêm phiền toái.

Tôi bảo với Tuyền béo: "Tình hình trước mắt của chúng ta tương đối phức tạp, thêm một chuyện không bằng bớt một chuyện. Chờ đến khi tới chỗ Cây cầu ma, cậu muốn ăn món gì tớ sẽ cho cậu ăn món đó, rượu ngon thịt mỡ cái gì cũng có."

Tuyền béo thừa hiểu hiện giờ không thể đòi hỏi quá nhiều. Cậu ta móc ra bánh quy ra, nghiến răng cắn một miếng to: "Tớ chỉ nói vậy thôi, món này chẳng đến mức khó ăn như tớ đã nghĩ, ăn đi ăn lại rồi sẽ quen thôi. Thời kì đặc biệt, khẩu phần đặc biệt. Nhưng lão Hồ này, cậu nói xem, chúng ta có nên tìm cơ hội lên đỉnh núi ngắm nghía một chút không. Đêm qua tớ vừa xem sao, phát hiện ra phong thuỷ nơi đây rất đặc biệt, rất đáng phải nghiên cứu."

Tôi và cậu ta quen biết nhau đã sắp hơn nửa đời người rồi, nhưng cho tới bây giờ chưa bao giờ từng nghe nói cậu ta còn biết xem phong thuỷ cơ đấy, vậy là phì cười nói: "Vừa rồi thằng ranh nhà cậu rống ầm lên oán trách, hóa ra là do con sâu thèm ăn trong bụng tác quái, rõ ràng là thèm khát đồ bồi táng theo thầy mo Cramer của người ta."

Nét mặt trở nên nghiêm trang, Tuyền béo ra vẻ cao thâm nói: "Lúc trước đã nói cất bùa, treo ấn, rửa tay chậu vàng rồi. Cái bùa Mô Kim kia, tớ đã ném xuống biển Nhật Bản từ lâu, làm sao còn có thể thèm muốn bảo vật nào của người nước ngoài được nữa. Lúc trước, chẳng qua tớ thấy tính chất đất đai ở nơi này khác thường, không phù hợp với môi trường xung quanh, cho nên mới định nhân cơ hội này học tập Hồ tư lệnh thêm một chút kiến thức về phong thuỷ, hưởng ứng lời hiệu triệu "không ngừng học tập không ngừng tiến bộ" của Mao Chủ Tịch thôi mà. Cậu hiểu lầm như vậy, khiến cho tớ rất, rất đau lòng. Hồ Bát Nhất, nếu như hôm nay tớ mất mạng vì nỗi đau này, thì cậu chính là tên đao phủ theo đúng nghĩa."

Thấy Tuyền béo bắt đầu cằn nhằn, tôi vội vàng cắt ngang lời cậu ta: "Đã là anh em với nhau, cậu muốn thế nào thì cứ làm như thế đó." Tôi liếc nhìn qua phía mấy người Đầu Trọc đang ngồi vây quanh bếp lửa cồn rồi quay lại nói với Tuyền béo: "Lát nữa ăn cơm xong, chúng ta sẽ rủ nhau đi tản bộ, sau đó kín đáo leo lên từ phía sau. Tuy nhiên, tớ phải nói trước, sau khi đi vào đó chỉ được nhìn, không được lấy dù chỉ là một cây kim sợi chỉ của nhân dân."

Tuyền béo thoáng nở một cười mờ ám, sau đó đứng dậy, vỗ bụng, lớn tiếng nói: "Lão Hồ, bữa tiệc này quá ngon miệng đi, tớ hơi căng bụng rồi đây này. Cậu thì sao?"

Tôi phối hợp với lời cậu ta, đáp lại: "Đúng vậy, lão Vương. Tớ cũng thấy hơi căng bụng. Làm gì bây giờ thì mới tốt?"

"Vậy chúng ta tìm chỗ nào đi dạo một chuyến, sau khi ăn xong đi tản bộ có ích cho tiêu hóa."

"Ý kiến này rất hay, vậy chúng ta lên trên núi một chuyến!"

Chúng tôi vừa tự biên tự diễn vừa đi lên trên đỉnh núi. Tần bốn mắt đứng dậy, vẫy tay lia lịa với chúng tôi: "Quản lý, tôi cũng hơi căng bụng, các anh chờ tôi với!"

Tôi và Tuyền béo giả vờ như không thấy, rảo chân bước nhanh hơn. Không ngờ cái tên luật sư đầu óc thiếu phát triển kia lại vẫn cứ đuổi theo. Tuyền béo bị anh ta làm cho tức giận đến mức nghiến răng nghiến lợi, nhưng không tiện xả cơn giận trước mặt mọi người, thì thào bảo với tôi: "Hay là chúng ta kiếm chỗ nào đánh thằng ôn này bất tỉnh. Đến lúc đó, nếu có ai hỏi, chúng ta sẽ nói là hắn bị đá núi rơi trúng đầu."

Tôi đáp: "Anh ta chẳng có thù hận nào đáng kể với chúng ta cả, hành vi thiếu đạo đức như thế tốt nhất đừng có làm. Nếu anh ta muốn thì cứ để anh ta đi theo. Lát nữa, trên đường đi chúng ta sẽ kể vài câu chuyện về bánh tông ăn gỏi người, hù dọa anh ta một chút."

"Nhưng nếu anh ta không sợ, nhất quyết đi theo chúng ta xem mộ thầy mo thì sao?"

"Vậy thì không thể trách hai anh em ta xuống tay dạ độc ác rồi, nện một cú cho anh ta bất tỉnh luôn."

"Cậu nhìn lại mình xem, sớm muộn gì cũng phải xuống tay đánh anh ta ngất, còn vắt óc bịa chuyện làm gì cho tốn chất xám!"

"Như thế gọi là tiên lễ hậu binh, chúng ta buộc làm việc phải làm, thì hành vi đó mới không thẹn với lương tâm."

"Hồ tư lệnh, không ngờ trình độ tư tưởng của anh lại đột phá tới một độ cao lịch sử nhanh như vậy."

Tần bốn mắt không biết hai chúng tôi đang tìm cách ám hại mình, hưng phấn bừng bừng chạy tới. Anh ta nói: "Thật sự không thể nào ở cùng một chỗ với người nhà họ Vương, không thể chịu đựng được. Các anh đang đi đâu thế? Tôi nghe Lâm Phương nói, trên đỉnh núi có một khu mộ an táng thầy mo Cramer. Tôi vẫn chưa từng nhìn thấy cách bài trí trong mộ cổ như thế nào cả, các anh có hứng thú cùng nhau lên đó xem một chuyến hay không."

Có một điều quan trọng là tôi tương đối mù mờ về văn hóa của người Anh-điêng, thậm chí có thể nói là hoàn toàn không biết gì cả. Có anh chàng Tần bốn mắt đi theo, lúc cần thiết chẳng biết chừng anh ta còn có thể biến thành một hướng dẫn viên nghiệp dư cho chúng tôi.

Sau khi đã quyết định, tôi bèn nói với Tần bốn mắt: "Nếu anh bạn Bốn mắt cảm thấy hứng thú với mộ thầy mo, vậy thì chúng tôi đành liều mình bồi quân tử, lấy hết can đảm theo anh lên trên đó một chuyến để có lần được xem huyệt của người phương tây."

Tần bốn mắt đâu có biết gì về nghề cũ của tôi và Tuyền béo. Anh ta đẩy nhẹ kính mắt lên, nói: "Không có vấn đề gì, các anh cứ đi theo tôi. Nếu như có việc gì khác thường xảy ra, các anh không cần phải sợ. Nghe nói, có một số người, sau khi chết rồi, thi thể sẽ biến thành cương thi tấn công con người. Nếu gặp trường hợp đó, tất cả nghe theo chỉ huy của tôi. Về phương diện này, tôi có kinh nghiệm hơn các anh."

Cả Tuyền béo và tôi đều rất ngạc nhiên, kinh nghiệm mà Tần bốn mắt nói là cái quái gì vậy, bèn hỏi anh ta: "Cái gì, anh đã từng gặp bánh tông lớn?"

Tần bốn mắt vừa leo trèo vừa đáp lại bằng giọng ngại ngùng: "Không đáng được coi là bánh tông lớn. Trong thời gian thực tập làm kiểm tra viên, tôi đã từng thụ lý từ đầu đến cuối một vụ án cương thi tấn công người. Nạn nhân bị cắn khăng khăng bảo rằng kẻ tấn công mình là một thi thể. Lúc ấy không có ai chịu tin lời khai của anh ta cả. Nạn nhân còn yêu cầu chính quyền địa phương bồi thường chi phí chữa trị cho mình. Khi được giao phụ trách vụ án đó, tôi đã được tận mắt nhìn thấy cương thi mà nạn nhân đã miêu tả ngay tại phòng chứa thi thể của cục cảnh sát. Theo lời khai của nạn nhân, thi thể đó do anh ta đào được trong lúc khai khẩn đồng ruộng. Lúc vừa đào lên, toàn bộ thi thể vẫn còn nguyên vẹn không mất một sợi tóc nào. Anh ta cứ tưởng rằng đó là nạn nhân của một vụ giết người rồi chôn xác dưới ruộng để phi tang. Thế nhưng, quần áo của thi thể lại khác hẳn với thời bấy giờ. Nạn nhân chợt nhận ra, cái xác mình đào được chính là một thi thể lâu năm. Do vậy anh ta định gọi điện thoại báo cảnh sát. Nhưng đúng vào lúc anh ta vừa mới đứng lên thì thi thể đó đột ngột dựng đứng dậy, cắn luôn vào vai của anh ta. Rất may là nạn nhân đang cầm xẻng trong tay, vì vậy anh dùng nó chặt đứt cổ của cương thi đã cắn mình, sau đó ba chân bốn cẳng chạy đi báo án. Đến khi cảnh sát chạy đến nơi, thi thể đó đã biến thành một bộ xương."

Tôi vẫn luôn tưởng rằng, những vụ biến thành cương thi như thế này chỉ xảy ra ở đất nước của mình, không ngờ tại nước Mỹ ở tít tận bờ bên kia của Thái Bình Dương cũng phát sinh chuyện tương tự, thế là vội vàng hỏi anh ta: "Về sau thì sao? Cương thi mà anh nhìn thấy có hình dạng như thế nào? Có vồ người không?"

Tần bốn mắt lắc đầu: "Đã biến thành bộ xương rời ra từng cái, làm sao còn tấn công người được nữa. Tôi đã thẩm tra đối chiếu dấu răng trên người nạn nhân, thấy hoàn toàn trùng khớp với hàm răng của cái xác chết cổ đó. Nhưng cảnh sát vin vào lý do thời gian không hợp lý, bẻ gãy lập luận của tôi. Vụ án đó cuối cùng không được thành lập. Chỉ có điều, nghe nói vài tuần sau, nạn nhân trong vụ án đó đột ngột phát cuồng, cắn chết hết toàn bộ động vật trong nông trại. Hàng xóm của anh ta báo cảnh sát. Do tấn công cảnh sát nên anh ta bị bắn chết ngay tại chỗ. Nghe nói, sau khi bị bắn, anh ta vẫn có thể nhảy tưng tưng, máu chảy ra là lập tức đông lại. Cuối cùng cảnh sát buộc phải nã súng liên tục, mãi đến khi bắn nổ tung đầu của anh ta thì cảnh tượng đáng sợ đó mới kết thúc."

Thấy tôi mãi không nói câu gì, anh ta cho rằng tôi đã bị cương thi mà mình kể làm cho sợ choáng váng, vậy là đổi sang giọng nhẹ nhàng an ủi tôi: "Thực ra, câu chuyện về sau hoàn toàn chỉ là tin đồn, không được chứng thực. Dù sao đi nữa, chúng ta cũng sắp lên đến đỉnh núi rồi, cương thi có tồn tại hay không, lát nữa sẽ được tận mắt chứng thực một lần."

Tôi nghĩ bụng, số bánh tông lớn mà anh đây đã gặp còn nhiều hơn số bánh chưng tết mà chú mày ăn. Địa hình của sào huyệt Malik rất đặc biệt, không khí ẩm ướt. Thi thể chôn ở chỗ này sẽ nhanh chóng bị phân hủy, hoàn toàn không kịp biến thành cương thi. Nếu không phải đi lên đây để Tuyền béo giải tỏa cơn nghiện, tìm lại cảm xúc thời thanh xuân đã qua của hai thằng, tôi còn lâu mới thèm bò lên nhìn ngó những cái xác phân hủy buồn nôn đó.

Thực ra, độ cao so với mực nước biển của sào huyệt Malik thấp hơn nhiều so với mọi người đã lầm tưởng. Nó chỉ là một ngọn đồi nhỏ trên vùng đồng bằng được bồi đắp bằng phù sa, có cao đến mấy cũng không thể gọi là chọc trời được. Sau khi đến đỉnh núi, chẳng tốn mấy thời gian công sức, chúng tôi đã tìm thấy mộ của thầy mo Cramer. Không thể nói là chúng tôi quá may mắn, mà theo tôi thấy, nguyên nhân là bởi quan niệm của người nguyên thủy hoàn toàn chẳng có dính dáng gì tới phong thuỷ như người ta đã nói cả. Khi sắp tới đỉnh núi, xương cốt người chết nằm vương vãi khắp nơi, có nhiều nơi không còn chỗ trống để mà đặt chân. Chúng tôi đành phải vừa hô lên "Nhường chút" vừa dẫm lên đám xương cốt để đi qua. Tiếng rắc rắc liên tục vang lên dưới chân khiến tôi sởn hết cả tóc gáy: Nơi đây thực ra là mộ thầy mo hay là bãi tha ma, tại sao xương người lại vất bừa vãi khắp nơi như thế này?

Tần bốn mắt luôn dẫn đầu đoàn. Theo những gì anh ta nói, mình đã làm luật sư lâu như vậy, có loại xác chết nào mà chưa từng nhìn thấy. So ra, đám xương cốt trước mặt này có vẻ dễ nhìn hơn rất nhiều. Sau khi lên đến đỉnh núi, một hang đá ăn sâu xuống lòng núi đột ngột hiện ra trước mặt ba người chúng tôi. Căn cứ vào những gì Lâm Phương đã nói, bên trong hang đá có lẽ chính là nơi an nghỉ của các đời thầy mo Cramer sau khi họ qua đời. Tôi nhìn xuống dưới xem sao, chỉ thấy được cửa động được xây ẩu tả bằng đá, sâu hơn nữa thì hoàn toàn đen thui không nhìn thấy gì. Tôi nhặt một hòn đá ném xuống dưới, chỉ lát sau đã có tiếng động vọng lại. Điều này đã chứng tỏ hang động này không sâu, bên dưới có lẽ không có gì quá nguy hiểm.

Tuyền béo đã chuẩn bị trước cho chuyến đi này. Cậu ta rút dây thừng dấu trong áo lót ra, rồi tìm một tảng đá chắc chắn buộc vào, sau đó móc đèn pin ra, cài vào túi quần. Tần bốn mắt thấy động tác của cậu ta hết sức thành thạo, tò mò hỏi tôi: "Trước kia anh Tuyền béo làm công việc gì thế?"

Để giảm bớt xấu hổ, tôi vừa cột dây thừng vào thắt lưng, vừa phân bua với Tần bốn mắt: "Trước kia chúng tôi làm việc tại một mỏ than ở Sơn Tây Trung Quốc, anh có biết nơi đó không? Ở đấy có rất nhiều mỏ than nhỏ, chẳng khác gì mấy so với hang động này."

Tần bốn mắt gật đầu, học theo chúng tôi, tự cột dây vào người. Trước khi xuống hang, tôi dặn dò Tần bốn mắt: "Lát nữa, nếu có việc gì không hay xảy ra, anh lập tức cắt đứt dây thừng, bỏ chạy ngay không cần quan tâm đến chúng tôi, muôn ngàn lần đừng có quay lại. Hai người chúng tôi có nhiều kinh nghiệm chạy trốn dưới hang động, nếu anh ở lại, sẽ chỉ làm vướng tay vướng chân chúng tôi mà thôi. Đến lúc đó, mọi người sẽ phải cùng chết tức tưởi dưới hang sâu, vậy thì chẳng hay ho chút nào."

Tuyền béo đã nôn nóng không còn kiên nhẫn được nữa, thấy chúng tôi đã chuẩn bị sẵn sàng, hô lên một tiếng, là người đầu tiên tụt xuống bên dưới. Tôi và Tần bốn mắt theo sau cậu ta, dò dẫm chui xuống cái hang chôn xác thầy mo trong truyền thuyết.

Đúng như tôi đã dự đoán, cái hang đá này không phải do con người tạo ra, mà do tự nhiên hình thành. Thầy mo Cramer chọn nơi đây làm phần mộ chôn cất bản thân, nguyên nhân có lẽ là bởi sào huyệt Malik là ngọn đồi duy nhất ở quanh đây, là nơi họ thấy có vẻ gần với bầu trời nhất, cho rằng đó là nơi có thể liên lạc được với thần linh ở trên trời. Shirley Dương đã từng giảng giải cho tôi nghe, trong quan niệm về sống và chết của người Anh-điêng, chết là sự khởi đầu của một vòng đời khác, cho nên họ chưa bao giờ sợ hãi cái chết cả. Họ có quan niệm riêng về thế giới bên kia, cho rằng sau khi linh hồn thoát ly thân thể, tính mạng mới trở thành vĩnh hằng. Tôi hỏi lại, nếu đúng như vậy, tại sao Đế quốc Inca vẫn lưu truyền mãi truyền thuyết về dòng suối thanh xuân, trong khi bản thân phản lão hoàn đồng chính là một loại kháng cự lại cái chết. Shirley Dương đã nhún vai nói, nếu nó tồn tại đã chứng tỏ nó có lý do để tồn tại. Cho dù có suy đoán theo chiều hướng nào đi nữa, chúng ta cũng không thể biết được, sau khi chết con người ta sẽ thế nào. Nhưng chính bởi vì có tấm màn bí ẩn đó, tầm quan trọng của khảo cổ học mới được chính thức thể hiện ra.

Đường vào hầm mộ thầy mo rất hẹp, gần như gập thành một góc vuông 90 độ. Trên vách tường nham nhở không hề có dấu vết đẽo gọt của con người. Rất may là đường hầm không quá sâu, chúng tôi bò lê bằng hai bàn tay và đầu gối xuống dưới. Nửa giờ sau, cuối cùng cũng tới được đáy hang động. Phần cuối hang động là một không gian hình bầu dục kín mít, diện tích tầm 100 mét vuông. Bởi vì thông gió, chất lượng không khí có thể coi là tạm được. Tuyền béo vừa xuống đến dưới đáy, lập tức móc một vật từ trong túi quần ra rồi đeo luôn lên cổ. Sau khi nhìn rõ đó là cái gì, tôi thiếu chút nữa là phì cười, vặn hỏi cậu ta: "Chẳng phải cậu bảo là đã ném cái thứ này xuống biển Nhật Bản rồi hay sao, tại sao giờ lại vẫn còn đeo trên cổ thế này?"

Tuyền béo nắm lấy bùa Mô Kim, giải thích: "Vừa mới xong ném tớ đã hối hận ngay, thế là nhảy luôn xuống biển mò mẫm rất lâu mới tìm lại được. Giờ nó chỉ là một món đồ trang sức, một cái phù bình an, chẳng khác gì phật châu trên cổ hòa thượng hay thánh giá trên cổ cha cố cả, không mang bất cứ thuộc tính nghề nghiệp nào hết."

Tần bốn mắt luôn theo sát sau chúng tôi. Mặc dù vị luật sư tài giỏi này tuyên bố mình đã từng nhìn thấy thi thể ma quái hiếm lạ, nhưng dù gì đây cũng là lần đầu tiên đích thân hạ cố xuống hiện trường. Anh ta bám dây thừng tụt xuống từng bước một. Mấy lần kính đeo mắt suýt chút nữa bị rơi, khiến anh ta luống cuống tay chân, hết sức chật vật. Độ cao từ cửa vào xuống đến đáy mặc dù không quá lớn, nhưng lỡ như anh ta trượt chân rơi xuống, vậy thì chẳng phải là chuyện đùa, nếu gãy tay đau chân thì cuối cùng người chịu khổ vẫn là tôi và Tuyền béo. Tôi cởi dây thừng cột ngang lưng ra, đứng ở cửa động, một tay nâng chân, một tay túm chặt eo anh ta, kéo sợi dây thừng lại từng chút một. Sau khi xuống đến nơi, Tần bốn mắt ngồi phịch xuống đất thở hổn hển một lúc, sau đó cởi dây thừng ra, nói: "Đi xuống mới biết quả thật đó là việc không dễ dàng gì, nhìn hai người các anh hành động nhẹ nhàng như vậy, chắc là ngày trước đã làm việc trong mỏ than được một thời gian tương đối dài rồi nhỉ?"

Tôi xấu hổ cười. Lúc này Tuyền béo đã đi tới cuối hang. Cậu ta giơ đèn pin lên, giống như muốn giúp cho tôi nhìn thấy rõ ràng hơn, rồi réo ầm lên: "Lão Hồ, mau qua bên đây xem này, bánh tông có mặt ở khắp hang động."
 
CHÚ Ý !!!
Các đạo hữu nhớ thêm TÊN CHƯƠNG và THỨ TỰ CHƯƠNG ở ô phía trên phần trả lời nhanh. Như vậy hệ thống mới tạo được DANH SÁCH CHƯƠNG.
Cập nhật chức năng ĐĂNG TRUYỆN và THÊM CHƯƠNG MỚI trên web Diễn Đàn Truyện tại https://truyen.diendantruyen.com
Top Bottom