Chào mừng bạn đến với Diễn Đàn Truyện !

Xin vui lòng Đăng ký hoặc Đăng nhập mới có thể sử dụng đầy đủ chức năng diễn đàn. Việc Đăng ký hoàn toàn miễn phí!

Đăng ký ngay!

Những Ghi Chép Chốn Hậu Cung - Bạch Mộng Quân

Những Ghi Chép Chốn Hậu Cung - Bạch Mộng Quân

admin

Thánh Ngự Hư Không
Đại Thần
Tham gia
11/6/23
Bài viết
915,577
VNĐ
900,499
[Diendantruyen.Com] Những Ghi Chép Chốn Hậu Cung - Bạch Mộng Quân

Những Ghi Chép Chốn Hậu Cung - Bạch Mộng Quân
Tác giả: Bạch Mộng Quân
Tình trạng: Đã hoàn thành




Bảy ngày trước khi nhập cung, Cô Tô có mưa, ta vào sơn cốc lắng nghe tiếng mưa cả một ngày. Những hạt mưa xuân nặng nề tưởng chừng như chậu ngọc rơi từ trên trời cao xuống, vang lên từng tiếng đinh đang thưa thớt, giờ lại như gió vờn cây cỏ, thanh thúy động lòng người.

Hôm qua khi ta trở về nhà thấy tỷ tỷ ở đứng bồi hồi dưới tàng cây, tỷ không nói gì chỉ che mặt khóc lóc nức nở. Vài vị quý nhân bước ra từ nội đường thấy ta trở về liền hỏi: Đây là nhị cô nương Bạch gia sao? Hiện giờ đã bao nhiêu tuổi? Mẫu thân đáp: Vừa mới qua lễ cập kê.

Năm ngày trước khi nhập cung, hôm qua ta không đợi được thuyền từ Tang Châu, chỉ có thuyền Lư Châu mà thôi. Đến trưa mẫu thân mới gọi ta dậy, dù mẫu thân mắng ta nhưng bà cũng mang cho ta chén cháo ngọt.

Ta cúi đầu ăn cháo, hoa Hợp Hoan đã nở rộ bên ngoài cửa sổ. Ta hỏi mẫu thân: Địa vị của các quý nhân hôm trước là gì? Mẫu thân đang gấp áo chợt khựng tay lại, bà nói: Lệnh trong cung truyền xuống, bảo gia đình chuẩn bị. Ta hỏi: Chuẩn bị gì?

“Vào cung hưởng phúc."

Bốn ngày trước khi nhập cung, mẫu thân lấy ba cuộn vải Thục may y phục mùa hè cho ta. Lúc ăn tối, mẫu thân giới hạn đồ ngọt của ta. Đêm đến, tỷ tỷ mang đến cho ta ly nước hạnh nhân, tỷ ấy dựa vào đầu giường, bỗng hỏi: Tiểu muội có còn nhớ Vương Sinh đã mua bánh hoa tô cho muội vào tiết Thượng Nguyên không?

Ta uống một ngụm nước ngọt: Nhớ, nhớ. Ăn no uống đủ, ta nằm gục trên giường hoa.
Sau cơn mưa xuân, chim én tranh nhau làm tổ, cỏ mọc hoa ngủ, ta vùi đầu vào gối mềm nhưng vẫn nghe được giọng nói gần như cầu xin của tỷ tỷ: Chàng là người trong lòng của tỷ.
 
Chương 1


Bảy ngày trước khi nhập cung, Cô Tô có mưa, ta vào sơn cốc lắng nghe tiếng mưa cả một ngày. Những hạt mưa xuân nặng nề tưởng chừng như chậu ngọc rơi từ trên trời cao xuống, vang lên từng tiếng đinh đang thưa thớt, giờ lại như gió vờn cây cỏ, thanh thúy động lòng người.

Hôm qua khi ta trở về nhà thấy tỷ tỷ ở đứng bồi hồi dưới tàng cây, tỷ không nói gì chỉ che mặt khóc lóc nức nở. Vài vị quý nhân bước ra từ nội đường thấy ta trở về liền hỏi: Đây là nhị cô nương Bạch gia sao? Hiện giờ đã bao nhiêu tuổi? Mẫu thân đáp: Vừa mới qua lễ cập kê.

Sáu ngày trước khi nhập cung, trời còn chưa sáng ta đã ra bến đò. Sương trắng chưa tan, ánh đèn chài lập lòe, nước trời một màu, mặt sông mênh mông. Tiếng chuông từ chùa Hàn Sơn văng vẳng truyền khắp bốn phía, tiếng hát chài lưới, tiếng rao của tiểu thương trong phiên chợ sớm cũng bắt đầu nhộn nhịp. Ông Trương đã bán bánh bao ở bến đò nhiều năm, ông gánh hàng đi về phía ta, cười cười trao cho ta một cái bánh bao. Ta nuốt một miếng bánh hỏi ông: Hôm nay có thuyền từ Tang Châu qua đây không?

Ông lấy ra một quyển ghi chép thuyền, ngón tay lật trang giấy đã ố vàng, miệng lẩm bẩm: Thuyền Tang Châu à, có đấy, hôm nay sẽ có thuyền từ Tang Châu.

Năm ngày trước khi nhập cung, hôm qua ta không đợi được thuyền từ Tang Châu, chỉ có thuyền Lư Châu mà thôi. Đến trưa mẫu thân mới gọi ta dậy, dù mẫu thân mắng ta nhưng bà cũng mang cho ta chén cháo ngọt.

Ta cúi đầu ăn cháo, hoa Hợp Hoan đã nở rộ bên ngoài cửa sổ. Ta hỏi mẫu thân: Địa vị của các quý nhân hôm trước là gì? Mẫu thân đang gấp áo chợt khựng tay lại, bà nói: Lệnh trong cung truyền xuống, bảo gia đình chuẩn bị. Ta hỏi: Chuẩn bị gì?

“Vào cung hưởng phúc."

Bốn ngày trước khi nhập cung, mẫu thân lấy ba cuộn vải Thục may y phục mùa hè cho ta. Lúc ăn tối, mẫu thân giới hạn đồ ngọt của ta. Đêm đến, tỷ tỷ mang đến cho ta ly nước hạnh nhân, tỷ ấy dựa vào đầu giường, bỗng hỏi: Tiểu muội có còn nhớ Vương Sinh đã mua bánh hoa tô cho muội vào tiết Thượng Nguyên không?

Ta uống một ngụm nước ngọt: Nhớ, nhớ. Ăn no uống đủ, ta nằm gục trên giường hoa.

Sau cơn mưa xuân, chim én tranh nhau làm tổ, cỏ mọc hoa ngủ, ta vùi đầu vào gối mềm nhưng vẫn nghe được giọng nói gần như cầu xin của tỷ tỷ: Chàng là người trong lòng của tỷ.

Ba ngày trước khi nhập cung, mẫu thân gọi ta và tỷ tỷ đến trước giường, bà hỏi: Hai tỷ muội các con, ai thích cây trâm hoa này? Tỷ tỷ không nói, ta liền đáp: Con thích.

Thế là mẫu thân nhẹ nhàng vuốt tay ta nói: "Con phải nhớ, sau khi vào cung không được tranh giành với người, vạn sự phải cẩn thận giữ gìn thể diện của tổ tiên, không cầu phú quý, an phận thủ thường cả đời là được." Nói xong mẫu thân khẽ khóc, trong thoáng chốc ta nhìn thấy mình trong gương trang điểm, thấp giọng nói: Vâng, con biết rồi.

Hai ngày trước khi nhập cung, sáng sớm ta đã lên núi, sau giờ ngọ thì hái hoa, tối lại tham ăn, bụng ta có chút khó chịu rồi. Thường ngày mẫu thân luôn ngăn ta ăn đồ ngọt, nay ta sắp đi rồi, bà lại không ngăn nữa. Lâu rồi phụ thân không về nhà, lần này ông về thẳng phòng ta, theo sau ông là hai vị huynh trưởng của ta. phụ thân mới từ phương Bắc trở về, trên người vẫn còn mang theo hơi lạnh biên cương, ông nhìn ta, nhìn thật lâu mới nói một câu: “Phụ mẫu ở đây sẽ luôn nhớ con."

Một ngày trước khi nhập cung, ta viết thư suốt đêm, chữ viết hơi nguệch ngoạc, nhưng vẫn bảo A Nô gửi đi. Viết cho ông Trương ở bến đò, các tỷ muội bán đào, tiểu công tử Vương phủ, lính gác núi cửa Bắc, Quan Quan* Tô Tần ở Dương Xuân Lâu.

*Quan quan (倌倌) là một cách gọi thân mật hoặc tôn kính, thường dành cho những người có địa vị hoặc kỹ năng đặc biệt trong lĩnh vực giải trí hoặc nghệ thuật.

A Nô đi gửi thư nửa ngày, ta đi lại trước cửa nửa ngày, cuối cùng vẫn là không bước ra được mấy bước đến bến đò. Ta lấy túi lụa đỏ từ trong hộp gấm, chôn dưới gốc cây Hợp Hoan, thầm thì: Về sau, ngươi đừng tìm ta.

Ngày vào cung, mẫu thân đặt cây trâm ngọc mạ vàng vào tay ta, bức tường hoàng cung xuyên suốt cuộc đời cũng bắt đầu từ cây trâm này.

Ngày nhập cung, bốn góc cung xa lắc lư theo nhịp trống, màn cửa nhỏ khẽ mở, hai bên đường là những hàng cây liễu san sát, dòng người thật đông đúc. mẫu thân che mặt không nỡ nhìn ta rời đi, phụ thân nhíu mày, tỷ tỷ cũng khóc, Bạch quản gia, phủ vệ A Quân, A Lực, bốn tỷ muội tiểu tỳ và người dân Cô Tô, họ đều đang nhìn ta, nhìn nữ tử phong quang vô hạn.

Qua bến đò, gió nổi Trường Bình*, ta quay đầu nhìn lại, một cái nhìn này là mười bốn năm.

*Gió thổi Trường Bình: Trận Trường Bình (长平之战), diễn ra vào năm 260 TCN giữa quân Tần và quân Triệu trong thời Chiến Quốc. Cụm từ này có thể gợi lên hình ảnh của trận Trường Bình, nơi mà một cuộc chiến lớn đã xảy ra, và “gió thổi” có thể tượng trưng cho sự thay đổi, thời gian trôi qua hoặc những biến cố đã qua. “Gió thổi Trường Bình” tạo nên một hình ảnh gợi lên cảm xúc và kỷ niệm. 
 
Chương 2


Ngày đầu tiên tuyển chọn, nhờ vào tổ tiên mà ta được phong làm Quý nhân. Lâm Tiệp dư vào cung cùng ta có nói, với dung mạo của ta, cả đời này chỉ là Quý nhân nhỏ bé. Không hẳn là nàng ấy cuồng vọng, nàng xinh đẹp rạng rỡ, gia thế cũng không kém, rồi cũng có ngày bay lên cành cao. Nàng lớn hơn ta hai tuổi, ta liền nắm tay nàng nói, tỷ tỷ chê cười ta.

Ba ngày sau khi nhập cung, lục cung yết kiến. Khi ta vào trung cung của Hoàng hậu, mười sáu tân phi yết kiến Đế Hậu. Đó là lần đầu tiên ta thấy Hoàng đế. Hoàng hậu ngồi bên cạnh ngài, Đế Hậu uy nghiêm túc mục*, ít khi nói cười.

*Túc mục: Nghiêm chỉnh, nghiêm túc, đàng hoàng (hàng ngũ túc mục). Nguồn từ điển Lê Văn Đức.

Phân vị của ta không cao, ngồi cách rất xa, ta cũng không thấy rõ mặt Thánh thượng. Vì vậy, ta đưa đầu ra, muốn xem thử phu quân đời này của ta ra sao. Không biết có phải động tác của ta gây chú ý, Quý phi ngồi dưới ghế Phượng lườm ta một cái. Ta sợ hãi lặng lẽ rụt đầu lại, hy vọng không bị Quý phi ghi nhớ.

Một tháng sau khi nhập cung, ta ăn rau cải nước trong cung Lệ phi hết một tháng. Thức ăn trong cung nhạt hơn so với Cô Tô, từ nhỏ ta đã thích ngọt, ăn uống khá kén chọn. Lệ phi có dáng người mảnh mai nhưng vẫn ngày ngày dạy ta, xưa kia Sở vương thích eo thon, nữ nhân có eo thon là tốt. Ta cúi đầu bóp bụng mỡ của mình, thầm thở dài một hơi.

Ba tháng sau khi nhập cung, ta hoàn toàn bị Thánh thượng quên lãng. Hoặc có thể nói, ngoài ba tiểu cung nữ trong cung của ta, cả hoàng cung đều quên ta. Lệ phi là người giỏi giang có chủ kiến, nhưng ta lại không thích son phấn nữ công, không thưởng thức ca vũ, nàng cùng các tỷ tỷ khác thưởng hoa nuôi chim, không mấy để ý đến ta. Ta chỉ đành trốn trong rừng hoa, uống rượu qua ngày.

Sáu tháng sau khi nhập cung, dời cung. Lệ phi thích náo nhiệt thấy ta nhàn rỗi thật bức bách, nàng tìm lý do chuyển ta sang cung của Tố phi. Tố phi bệnh tật đầy người, không thể ra ngoài từ lâu rồi. Trong cung chúng ta luôn có mùi thuốc thang ốm yếu. Mấy ngày nay, Lâm Uyển nghi ngày ngày gửi hương liệu tự chế, ý tốt ta nhận, nhưng hương này quá nồng. Tố phi khó khăn lắm mới ra ngoài tắm nắng lại bị mùi hương này làm nàng phải trở vào.

Một năm sau khi nhập cung, ta vẫn là Quý nhân nhỏ bé. Tố phi không qua được năm mới, nàng đi trong đêm giao thừa. Trong cung ít người khóc cho nàng, còn ta ngồi trước cửa cung khóc suốt một đêm, không biết khóc vì nàng hay khóc vì chính mình. Đêm ấy, tuyết rơi rất nhiều, đây là đêm giao thừa đầu tiên ta trải qua trong cung.

Ngày mùng một năm thứ hai trong cung, thi thể Tố phi được cung nhân mang đi. Ta mắt đỏ đi theo, gặp phải Lâm Uyển nghi được thăng chức. Kiệu của nàng đụng phải quan tài của Tố phi, nàng cảm thấy xui xẻo, miệng nói vài lời khó nghe. Thấy ta, nàng cười hỏi: Bạch quý nhân theo mấy kẻ nô tài này làm gì?

Chỉ mới một năm thôi, nàng đã là Phương Quý dung, là quý nhân có tước hiệu, địa vị cao hơn ta. Ta đáp: Tố phi nương nương qua đời vào hôm qua, ta tới tiễn nàng ấy. Nàng cười khẩy, khi kiệu rời đi, ta rõ ràng còn nghe thấy nàng nói: Nhìn kỹ nàng ta đi, nhớ kỹ hình dáng của nàng, nghĩ đến những ngày sau của ngươi.

Hai năm sau khi nhập cung, lời của Phương Quý dung khiến ta đau lòng suốt một thời gian dài, ta cảm thấy không xứng đáng cho Tố phi nương nương. Nương nương vốn ôn hòa, khi nàng còn sống, ta thường nằm trước cửa nghe nàng gảy đàn, tuy nàng không thích ồn ào nhưng rất vui lòng chia sẻ thức ăn với ta. Thế nhưng, nương nương tốt đẹp như vậy lại chết trong thâm cung cô tịch. Ta tự thương hại bản thân, ta tin vào tình yêu, nhưng trong chốn thâm cung này, đó chỉ là một giấc mộng không thể nhắc đến.

Cuối hạ năm thứ hai nhập cung, ta trồng một cây ngô đồng trong Ngự Hoa Viên..

Giữa thu năm thứ hai nhập cung, sau khi Tố phi nương nương qua đời, trong cung không có người mới, ta một mình giữ cái cung điện rộng lớn, đêm đêm sợ hãi. May mắn thay, cung ta gần Vân Đàm Cung, đêm đêm luôn có tiếng sáo từ Vân Đàm truyền đến, ta phải chờ đến khi tiếng sáo vang lên mới có thể ngủ được.

Giữa đông năm thứ hai vào cung, đây là thời gian bận rộn nhất trong cung, nội thị giám sát tính toán thu chi trong năm, phân phát lễ tết cho các cung. Dù ta địa vị thấp, nhưng dù sao cũng là từ tứ phẩm, chi phí ăn mặc không thiếu thốn.

Cuối đông năm thứ hai nhập cung, Phương Quý dung mất. Cung nhân nói là nàng tự tử bằng cách nhảy giếng. Ngày nàng ra đi, ta cũng như một năm trước, khóc suốt một đêm. Đường đi trong cung khó khăn, ta nghĩ làm Quý nhân nhỏ bé cũng tốt rồi. 
 
Chương 3


Mùa xuân năm thứ ba vào cung, Bắc Mai, cung nữ đã hầu hạ ta ba năm rời đi, trước khi đi, nàng đau lòng nói, chưa từng thấy chủ tử nào ngốc nghếch như ta, ba năm mà chưa được triệu một lần. Sau khi nàng đi, ta về phòng khóc, ta mới mười bảy tuổi, ta nhớ phụ mẫu, ta chán ghét cung đình như ngục tù này.

Tháng tư năm thứ ba vào cung, Bách Hoa Yến tổ chức ba năm một lần đã tới, Thái hậu triệu tập phi tần các cung đến thưởng hoa. Ta thường ngày không ra khỏi cửa, sau khi Phương Quý dung ra đi, càng không có ai quen biết ta. Trong những dịp giao tiếp người đông hơn hoa như thế này, ta trốn được thì trốn, trốn không được thì đứng ở góc.

Có vẻ Thái hậu bị hoa làm mờ mắt, đột nhiên ngài chỉ vào ta: Đó là ai? Trông thật lạ mặt. Ta lập tức đỏ mặt, xung quanh xì xào bàn tán, dường như đều đang bàn tán ta là ai. Ta sợ hãi đi đến hành lễ, nói: Thiếp thân là quý nhân Bạch thị.

“Bạch quý nhân sao?” Hoàng hậu quay sang hỏi các tỷ muội xung quanh, mọi người đều lắc đầu. Ta càng thêm xấu hổ, Thái hậu đặt bông mẫu đơn trắng lên tai ta, ngài nói: Điềm tĩnh như vậy sao.

Giữa tháng tư năm thứ ba vào cung, ta cuối cùng cũng được triệu hạnh. Từ lúc Đại thái giám truyền chỉ, trái tim ta không ngừng run rẩy. Đại ngự thị cởi sạch quần áo ta, bôi sữa trắng và tinh dầu thơm, không khác gì chuẩn bị con vịt quay. Đại ngự thị cười đùa, đừng sợ, đừng làm nũng, từ đêm nay ngài sẽ là chủ tử thực sự.

Tháng năm năm thứ ba vào cung, ta vẫn là Quý nhân vô danh tiểu tốt, không trở thành chủ tử thực sự như Đại ngự thị nói. Vì việc bị chặn trong đêm đó, các nữ nhân trong cung cười nhạo ta suốt một tháng. Tiểu cung nữ Tương Tư nói với ta, Lâm Nương tử, sủng phi mới của Hoàng thượng đã đoạt lấy ân sủng của ta.

Mùa hè năm thứ ba vào cung, trong cung nóng bức không tan, ta chỉ ra khỏi cửa cung vào đêm khuya để hóng mát, ban ngày gặp phải những phi tần không quen, họ luôn đến bên cạnh ta thì thầm về Lâm Nương tử.

Giữa mùa hè, vì quá nhàm chán không người bầu bạn, ta lặng lẽ mang hai lạng rượu ngọt đến ngồi dưới cây ngô đồng, cây ngô đồng năm ngoái trồng đã có thể che mát, còn có gió nhẹ thổi qua, một mình uống rượu ở đây cũng không thấy cô đơn.

Sao lại uống một mình? Bỗng nhiên, một giọng hỏi từ phía sau ta. Có lẽ ta đã say, ta vỗ nhẹ xuống thảm cỏ bên cạnh rồi nói: Uống cùng ta chứ, chia cho ngươi một hũ rượu hoa đào.

Từ nhỏ, phụ thân và huynh trưởng đều thích rượu, ta cũng vậy, nhưng khi ta còn ở nhà luôn bị mẫu thân ngăn cản không cho uống. Người đó ngồi xuống uống rượu, hắn hỏi ta: Có tên không?

Ta đáp: Bạch Kinh Ngọc.

Người đó uống thêm một ngụm rượu, cười lớn: Cái tên Kinh Ngọc thật hay. Sau đó ta hỏi lại, ngươi có thể cho ta biết tên ngươi không? Người đó không trả lời.

Cuối tháng năm năm thứ ba vào cung, ta từ trò cười của lục cung trở thành kỳ tích của lục cung. Ta, một Quý nhân chưa từng triệu hạnh được thăng làm Tần.

Từ ngày ta được Thái hậu nương nương thưởng hoa, ta thường xuyên đến cung của Thái hậu để lấy đồ ngon. Khi cung nhân đến truyền thánh chỉ, lúc ấy ta đang ăn nho ở cung của Thái hậu.

Đại giám đến truyền chỉ: Thăng Bạch Quý nhân làm Tần, phong hiệu là Đồng. Lúc đó ta bị nghẹn, nho rơi xuống bàn. Thái hậu nương nương cười nói với ta: Con gặp Hoàng thượng rồi à?

Ta lắc đầu, chống cằm suy nghĩ, chợt hiểu ra mọi chuyện.

Đồng Tần, Đồng Tần... Ta nhớ ra rồi, hóa ra hôm đó dưới cây ngô đồng, ta mời ngài uống một hũ rượu. Ta không biết ngài là Hoàng thượng, nhưng nghĩ kỹ lại, người có thể tùy ý đi lại trong hậu cung ngoài Hoàng thượng còn ai khác nữa sao?

Ta bật cười, nói với Thái hậu nương nương, Hoàng thượng thật hào phóng! Thái hậu nương nương hỏi: Sao lại nói vậy? Ta vui vẻ nói, một hũ rượu đổi lấy một Tần vị, chẳng phải hào phóng còn gì?

Tháng sáu năm thứ ba vào cung, ngày phong Tần, ta nghĩ có lẽ ngài ấy đã quên tiểu phi tử là ta rồi. Ta đến thỉnh an Hoàng hậu nương nương từ sớm tồi về cung. Khi đi qua rừng hoa, ngài ấy đứng trong cơn gió nhẹ, dáng vẻ như đường đình ngọc thụ*.

*Đường đình ngọc thụ (堂亭玉树) Thành ngữ này thường dùng để ca ngợi những người có vẻ ngoài thanh tú, trang nhã và phong thái quý phái, tựa như cây ngọc mọc giữa sảnh đường.

Ta nhẹ nhàng tiến đến, ngài bỗng quay đầu lại, ta giật mình giả vờ làm người lạ hỏi: Công tử đang đợi ai? Ngài cũng giả vờ đáp: Không đợi ai, đợi rượu. Ta xòe tay: Tiếc là không có rượu. Nhưng hôm nay ta vui, mời ngài đến chỗ ta uống say nhé? Ngài cười nói: Được.

Con đường phải đi qua để về cung là ngõ Vũ Hoa, các nữ nhân trong cung thích ngồi trong đình trước ngõ để trò chuyện. Ta và Hoàng thượng đi qua đình Vũ Hoa, hôm nay trong đình có Ngọc Quý phi và Kim Nguyệt nghi. Ngọc Quý phi thấy Hoàng thượng, nàng vui vẻ tiến lên nghênh đón, nhưng khi thấy ta, sắc mặt đột nhiên lại thay đổi, nàng hỏi: Hoàng thượng đi đâu?

Hoàng thượng lạnh lùng đáp một câu: Uống rượu.

Đầu tháng sáu năm thứ ba vào cung, lời của Hoàng thượng khiến ta suy nghĩ suốt mấy ngày. Ngày phong Tần ta hỏi ngài, bây giờ có thể cho ta biết tên không? Thực ra từ lâu ta đã biết tên của Hoàng đế triều ta, Tức Mặc, tự Yên Đường. Ta cố ý trêu ngài, ngài lại hỏi ngược ta: Có nhớ Đường không, nhớ Niệm Sơn không?

Ngày 30 tháng sáu năm thứ ba vào cung, Hoàng thượng và Hoàng hậu xuất cung cúng tế, Thái hậu đóng cửa tĩnh tu. Quyền quản lý lục cung tạm thời giao cho Ngọc Quý phi. 
 
Chương 4


Hôm nay trong rừng hoa ta gặp Ngọc Quý phi, nói qua lại vài ba lời không hợp lời nhau, sau đó ta bị phạt quỳ trong ngõ Vũ Hoa ba canh giờ. Ta biết là phân vị của ta khá hoang đường, mọi người coi ta như cái đinh trong mắt. Ngọc Quý phi mở đầu làm gương, tùy tiện tìm cái cớ trị tội ta, vì thế mỗi người đều tới trộn lẫn, phảng phất ta là cái người gây ra tội ác tày trời.

Mưa dầm đến, thời tiết đổi thay. Họ không còn niềm vui nào nữa, mỗi người quay về cung của mình. Mưa rơi ướt đẫm cả người ta, đầu đau đến mơ hồ, ta dựa vào tường cung, từng bước đi qua những viên gạch xanh và mái ngói đỏ.

Mỗi bước chân, ta lại nghĩ về Cô Tô, nghĩ về những con thuyền xa xăm của Cô Tô, những đèn đuốc suốt đêm của Cô Tô, ánh trăng mãi sáng của Cô Tô, người tỷ tỷ xinh đẹp và hiền lành của Cô Tô. ta nhớ phụ mẫu, nhớ bánh nướng của ông Trương, nhớ phu tử từng gõ đầu ta mà giảng giải những điều chi, hồ, giả, dã.

Thà rằng suốt đời ta được ở Cô Tô làm một thiếu nữ nhỏ, ta cũng không muốn ở trong thâm cung này tranh đoạt với những nữ nhân không phân biệt phải trái.

Năm thứ ba nhập cung, vào đêm rằm tháng tám, năm nay cung của Ngọc Quý phi đóng chặt, không tham dự tiệc Trung thu như mọi năm. Từ sau ngày xảy ra sóng gió ấy, nàng ít khi ra ngoài. Sau khi tiệc thường lệ trong cung kết thúc, ta dọn một chiếc ghế nằm ra ngoài sân để ngắm trăng. Tương Tư và vài tiểu thị đi đến Vân Đàm thả hoa đăng, các phi tần trong cung đều trang điểm tỉ mỉ, chờ đợi Thánh thượng ân sủng. Trong cung có truyền rằng đêm rằm tháng tám, nếu thiên tử tới, người đó có thể được Nguyệt Cung Nương Nương phù hộ suốt đời.

Đêm vào thu gió lạnh thổi qua, trăng vừa mới mọc, mây mù che phủ. Chắc rằng vạn người trông mong, Nguyệt Cung Nương Nương trở nên thẹn thùng. ta ngẩng đầu đến mỏi cổ. Cửa cung chưa đóng, ngoài bức tường cao ấytruyền đến tiếng bước chân chầm chậm, ta ngỡ là Tương Tư trở về, bèn nhắm mắt, chỉ vào cửa cung nói: Mau giúp ta xoa vai.

Mây đen chậm rãi không tan, ta chợp mắt một lát. Khi tỉnh dậy, ta thấy Tương Tư đứng trước mặt, gương mặt xinh đẹp đầy vẻ kinh ngạc, nhưng tay trên vai vẫn di chuyển lên xuống, ta lập tức rùng mình, chẳng lẽ là ma dưới ánh trăng.

Ta bật dậy khỏi ghế mềm, quay đầu lại, ta thấy khuôn mặt còn đáng sợ hơn ma dưới ánh trăng. Nếu thật sự gặp ma thì cũng dễ nói, nhưng đây là Thánh thượng đang xoa vai cho ta, không biết cửu tộc có chịu nổi không nhỉ!

Ngài đã cởi hoàng bào dự tiệc thường lệ chỉ mặc y phục giản dị, thật giống công tử tuấn tú bình thường. Ngài vẫy tay nói: Còn gì nữa?

Ngài tiến lại gần, hai tay lắc lư trước mặt ta, nhẹ giọng nói vào tai ta: Trẫm mỏi tay.

Lần đầu gặp cảnh này, ta ngước lên nhìn Tương Tư cầu cứu, từ trong ánh mắt nàng ta thấy bốn chữ lớn—Nương nương bảo trọng.

Ngài cười sảng khoái, đây là lần đầu tiên ta thấy ngài cười. Thái giám cúi người, vẫy tay, các thị tùng ra lần lượt ra khỏi cung. Ta thì cứ đứng yên ở đó, bỗng trên đầu được ánh sáng trăng chiếu vào, khi ngẩng đầu lên thấy trăng hiện ra. Ngài đang dựa vào ghế mềm, lúc đó ta cảm thấy ngài thật không giống thiên tử nghiêm nghị như đồn đại, ngài đưa tay về phía ta: Ngọc nhi.

Ta kinh ngạc, xưa kia cũng có người gọi ta như vậy, ta gục đầu lên đầu gối ngài, thổ lộ những nghi vấn bấy lâu trong lòng, ta hỏi: Hoàng thượng bao nhiêu tuổi? Ngài vuốt tóc ta, trầm ngâm đáp: Ngoài ba mươi.

Ta không nói gì, ngài lại hỏi: Sao vậy? Ta nói: Không giống. Ngài lại cười, đôi mắt nhìn ta mong mỏi, ta nói tiếp: Bệ hạ như vầng trăng trên trời, dù ngày thường thực sự lạnh lẽo, nhưng tươi sáng như thiếu niên.

Tháng chạp năm thứ ba nhập cung, ta và Hoàng thượng đã trở thành tri kỷ, ngài lớn hơn ta hơn mười tuổi, ta gọi ngài là Hoàng đế thúc thúc. Ngài luôn không thích ta gọi ngài như vậy, cũng lo sau này ta gặp Hoàng hậu sẽ gọi là thúc mẫu.

Ngài viết chữ trong phòng ta, ta nằm trên ghế uống thuốc, thuốc đắng lắm. Khổ thay chân ta chỉ cần gặp lạnh là đau không thể đi lại. Năm đó Ngọc Quý phi muốn chặt cây ngô đồng của ta, ta xúc phạm Quý phi nên bị phạt để lại căn bệnh này. Ngài đặt bút xuống, nói: Sao không chống lệnh? Ta cúi đầu, nghĩ mình là một tiểu tần phi làm sao dám chống lại lệnh Quý phi nương nương? Ngài lại nói: Vì một cái cây để lại bệnh suốt đời, đáng sao? Ta cắn chặt răng, đáng! Tất nhiên là đáng!

Năm thứ tư nhập cung, nhà ta được ân huệ đến cung thăm ta, mẫu thân nói, mọi việc trong nhà đều tốt, hai vị huynh trưởng được trọng dụng trong triều, bảo ta đừng lo lắng. mẫu thân nói vậy làm ta xấu hổ, ta nghĩ nhập cung đã bốn năm, ba năm đầu chưa gặp mặt Thánh thượng, càng không nói đến giúp đỡ gia tộc.

Lần này mẫu thân đến, dường như có gì đó muốn nói với ta, nhưng lại ngập ngừng. Ta bèn hỏi, mẫu thân nếu có gì muốn nói thì cứ nói thẳng, thế là mẫu thân nói: Đừng nói nhà thường dân, con cái vốn là chuyện quan trọng hàng đầu, Hoàng gia lại càng như vậy. Con nhập cung đã hơn bốn năm, sao chưa có động tĩnh gì? Ta phun hết ngụm trà ra ngoài, mẫu thân nói gì vậy, ta và Thánh thượng là quân tử chi giao!

Vào mùa hè năm thứ tư nhập cung, trong cung có thêm nhiều gương mặt mới, Hoàng thượng cũng ít đến phòng ta viết chữ đọc sách. May mắn là Ngự Thiện Phòng luôn nhớ gửi cho ta các món bánh trái theo mùa, cũng không phải quá buồn chán.

Vào mùa thu năm thứ tư nhập cung, sau cuộc tuyển chọn cung nữ, lục cung phân chia chỗ ở cho các tú nữ. Lần này là lần thứ hai ta dời cung, tuy đã thăng lên vị trí Tần phi, nhưng trong cung của ta luôn không có người mới. Hiện tại cũng vui vẻ hơn chút, có hai tiểu tỷ muội đến. Một người là Bội nghi, một người là Quý cơ, tiếc là đều lạnh lùng, không nói chuyện nhiều với ta.

Ngày mười lăm tháng tám năm thứ tư nhập cung, tiệc Trung thu ba năm trước ta chưa đủ phẩm vị để đi. Nhưng năm nay, thái hậu cho người đến nói bảo ta chuẩn bị sớm, ta cũng vui mừng, tiệc Trung thu của Hoàng gia rốt cuộc là cảnh sắc thế nào? Hoàng hậu đùa rằng ta đã là người già trong cung rồi, ta sững sờ đáp lại, thần thiếp năm nay mới mười tám. Làm cả sảnh đường cười rộ lên. 
 
Chương 5


Việc triều đình bận rộn, Hoàng thượng mãi chưa đến, các thân vương lần lượt vào chỗ, ca múa bắt đầu diễn ra. Khoảng nửa giờ sau, Hoàng thượng mới khoan thai đến. ta cứ nhìn ngài suốt, Thái hậu thấy ta thật buồn cười, bà hỏi: Tần phi sao lại nhìn Hoàng đế như vậy? Ta nói: Bệ hạ đói không? Cả sảnh đường đều cười ta. Ngài ngồi xuống chỉ vào ta: Đưa thức ăn.

Sau tiệc, các phi tần cùng ngài du ngoạn Tam Thu Các, tiếng đàn ca nổi lên, ta không muốn xem múa, chỉ chăm chú ăn nho trên bàn, chẳng bao lâu nho đã hết. ta quay đầu nhìn sang bàn bên, hỏi nhỏ: Quý tần tỷ tỷ, nho của tỷ còn ăn không? Mân Quý tần trừng mắt nhìn ta không đáp lại. May thay tiểu quận vương đối diện chia cho ta một đĩa nho, ta mỉm cười nhận lấy.

Đêm về cung, khi đi ngủ, bỗng ta nghe thấy tiếng động ngoài cửa sổ, ta mở cửa sổ thấy Hoàng thượng lạnh lùng đứng bên ngoài, ngài lấy ra một hộp gỗ đầy nho tím lấp lánh, làm ta thèm chảy nước miếng, ngài nói: Chỉ là quả nho thôi, cần gì ăn của người khác.

Tháng mười năm thứ tư nhập cung, ngày mùng một mùng hai ta cùng thái hậu nương nương viết kinh thư, ngày mùng ba ngủ suốt một ngày, ngày mùng bốn mùng năm mùng sáu hai tiểu tỷ muội trong cung đang chiến tranh lạnh.

Ngày mùng bảy tháng mười năm thứ tư nhập cung, đại thái giám đón ta đến Thượng thư phòng, người khác có lẽ nghĩ là chuyện trọng đại, nhưng thực ra là Hoàng thượng bận rộn nên tranh thủ thời gian, ta và ngài ở trong điện tìm hiểu nghệ thuật pha trà cổ truyền cả buổi. Trên đường về cung, nghe Tương Tư nói ta là người đầu tiên vào thư phòng của Hoàng thượng. Ta không cảm thấy vui mừng, ngược lại rất lo lắng. Quả nhiên ngày mười lăm khi tới cung Hoàng hậu thỉnh an, Ngọc Quý phi là người đầu tiên công kích ta. Về cung, ta ôm gối khóc rất lâu, ta nghĩ rằng mọi rắc rối đều do Hoàng thượng mà ra, lại không dám oán hận trong lòng.

Mùa đông năm thứ tư nhập cung, sinh nhật mười tám của ta. Ngài đến cung ta nói rất nhiều điều. Ngài là thiên tử, ta kính trọng ngài. Ngài là phu quân của ta, ta ngưỡng mộ ngài. Nhưng ngài cũng là phu quân của những nữ nhân khác trong hậu cung này, ta đành khóa lòng mình trong bốn bức tường này, không thể để nó phát triển.

Mùa xuân năm thứ năm nhập cung, Ngọc Quý phi bị cảm lạnh trong mùa đông không qua khỏi, chưa đến ngày hè, tuổi còn trẻ đã ra đi. Dù nàng thường ngày đối xử khắc nghiệt với ta, nhưng trong cung trời quang mây tạnh, thực sự rất buồn chán, có nàng chọc ghẹo ta, ngày tháng cũng trở nên sống động. Nhưng giờ đây, nàng cũng ra đi. Thế nên ta lại khóc suốt đêm, ngoài trời mưa rơi, mùa xuân lặng lẽ trôi qua.

Mùa hè năm thứ năm nhập cung, ta cho người dựng một chiếc xích đu bên cạnh Vân Đàm. Mùa hè đến, ta thường ra đó tránh nóng, ngắm nhìn Ngự Hoa Viên muôn tía nghìn hồng, ngắm nhìn người qua lại trong cung. ta nhìn họ, họ cũng nhìn ta. Ta ít khi đi lại, hôm nay ra ngoài chỉ mang theo một tiểu tỳ, ăn mặc cũng giản dị, chắc họ nghĩ ta là tân phi nhập cung, chỉ vào mũi ta bảo ta hành lễ với một tân Chiêu nghi. ta bỗng nghĩ, nếu Ngọc Quý phi còn sống, chắc chắn không dung thứ cho những phi tần kiêu này căng như vậy.

Ta im lặng, họ liền muốn động thủ với ta. Đột nhiên, đại thái giám từ rừng sau đi ra, hô lớn: Ai dám vô lễ với Đồng phi nương nương. Ngay lúc đó, những tân phi kiêu ngạo kia đều trố mắt, ta cũng vậy. Tiểu Chiêu nghi ngơ ngác một lúc, dù sao cũng là con nhà quyền quý từng trải nhiều chuyện, nàng nói: Trong cung đâu ra Đồng phi? Lúc này, Hoàng thượng chậm rãi bước tới ta, rồi quay lại nói: To gan, đây là Đồng Phi nương nương.

Ta kinh ngạc, chỉ nghĩ rằng, sao ta lại trở thành Đồng Phi.

Đầu thu năm thứ năm nhập cung, lễ phong phi kết thúc. Người trong lục cung đều nghĩ trăm lần cũng không ra, vị Đồng Phi nương nương này rốt cuộc là người thế nào? Ta được phong phi, mọi người đều không vui. Trong lòng ta cũng không vui, ta và Hoàng thượng chưa từng có quan hệ phu thê thật sự. Nếu ngài thật sự coi ta là tri kỷ, thì không cần phải ban cho ta danh phận cao quý này. Ta không dám nhận, cũng không dám gánh vác.

Tháng chạp năm thứ năm nhập cung, ta được ân điển phong phi, có được ân điển về thăm nhà. Đây là lần đầu tiên sau năm năm ta bước ra khỏi cửa cung. phụ thân huynh trưởng gặp ta rất vui mừng, hai cháu trai mới sinh chạy theo gọi ta là cô. Chỉ có mẫu thân không vui mừng như vậy. Trước khi đi, mẫu thân nói với ta, phong phi là chuyện lớn, nhưng con không có con cái, con đã nghĩ đến nguyên nhân chưa? Ta mỉm cười bước lên xe ngựa, vén rèm nhìn lại nhà lần cuối.

Đêm giao thừa năm thứ năm nhập cung, sau khi kết thúc tiệc, ta ngồi kiệu về cung, ta đã hơi say. Trong cung đốt lò sưởi, ta cởi áo choàng lạnh lẽo, nằm lên ghế mềm ngủ thiếp đi. Ngoài trời đã có tuyết rơi, bỗng nhiên có một đôi tay ôm ta vào giường. Tuyết rơi suốt đêm, lò sưởi trong phòng cháy quá mạnh, đêm đó, ta chỉ cảm thấy như rơi vào lò lửa, đặt mình vào chỗ chết.

Mùa xuân năm thứ sáu nhập cung, ta được Hoàng thượng sủng hạnh.

Ngày mùng tám tháng ba năm thứ sáu nhập cung, ta và Hoàng hậu nói chuyện suốt đêm.

Ngày mùng chín tháng ba năm thứ sáu nhập cung, ta và Hoàng thượng nói chuyện suốt đêm.

Ngày mùng năm tháng năm năm thứ sáu nhập cung, thánh chỉ tuyên bố: Phế bỏ vị trí Hoàng hậu của Tất Điêu thị, đưa ra khỏi cung.

Ngày mùng bảy tháng năm năm thứ sáu nhập cung, Hoàng hậu rời đi vào buổi sáng. Ta đứng trên tường thành nhìn nàng dần dần rời xa. Màn sương mỏng manh làm ta không nhìn rõ, nhưng ta biết, người rời đi trong gió ấy, nàng đang cười.

Nhiều năm trước ta từng hỏi Hoàng thượng, ngài là thiên tử, yêu dân hay yêu thê hơn. Hoàng thượng hỏi ta, thế nào là thê. ta đáp: Người trong lòng. Ánh mắt Hoàng thượng dịu dàng, ngài nói, thiên tử nhất định yêu dân, nhưng với ngài thì yêu thê hơn. ta ghen tỵ Hoàng hậu thật có phúc. Nhưng ngài lắc đầu, không nói thêm gì. 
 
Chương 6


Ngày ấy ta cùng Tất Điêu Sáp tâm sự bày tỏ lòng mình. Mỗi nữ nhân trong cung đều chịu đựng nỗi cô đơn vô tận. Hoàng hậu nương nương cũng như những nữ tử bình thường, chỉ mong một đời một kiếp một đôi người. Ta biết, Hoàng hậu cũng có một vị đại tướng quân mà nàng ngưỡng mộ, nhưng như bao người trong cung, mỗi bước đi trong hậu cung đều liên quan đến sự hưng vong của gia tộc.

Ta thương cảm cho Thánh thượng, cũng thương cảm cho Hoàng hậu.

Ngày mười lăm tháng sáu năm ta nhập cung, lời đồn nổi lên khắp nơi, quốc gia không thể một ngày vô Hậu. Tiền triều hậu cung đều dõi theo vị trí trống của Hoàng hậu. Ba phi đã đủ, vị trí Quý phi và Hoàng Quý phi vẫn còn trống. Ta càng không dám ra khỏi cửa, ta có gia thế bình thường, lại không con nối dõi, càng không dám phô trương, sợ rằng vừa ra khỏi cửa liền rơi vào miệng cọp hang sói. Nhưng dù ta không bước chân ra khỏi cửa cũng không thể ngăn được lời đồn lan truyền trong cung. Người ta nói, vị trí Hoàng hậu một nửa là của ta. Ta hoang mang, nhưng cung nữ của ta lại rất vui mừng, nàng luôn nghĩ rằng, ta là người có thủ đoạn.

Ngày mồng tám tháng bảy năm thứ sáu ta nhập cung, chiến sự căng thẳng, chuyện Hoàng hậu tạm gác lại. Gia tộc gửi tin nhắn cho ta, trong thư bảo ta đừng tranh giành với người khác, mọi sự trong nhà đều tốt. Đêm đó, Thánh thượng đến phòng ta đọc sách. Đã một tháng ta chưa gặp ngài, ta chống cằm nhìn ngài, nhìn ngài đọc sách, nhìn ngài nhíu mày, chỉ đơn giản là nhìn ngài. Ngài cầm quyển sách nói: Chuyện hoàng hậu, nàng nghĩ sao? Ta nói: Ta thích ăn nho. Thánh thượng không hiểu, ta lại nói: Ta thích ăn nho, liền luôn nhớ về nó. Ta chỉ thích nho, nên không nhớ đến quả khác.

Ngày mồng tám tháng bảy năm thứ sáu ta nhập cung, phong tước hai phi vị, một vị Quý phi, một vị Hoàng Quý phi. Quý phi là muội muội đồng tộc của tiền Hoàng hậu Tất Điêu Hoài Cẩn, Hoàng Quý phi là muội muội của đại tướng quân Chu Gia thị Chu Gia Ninh. Đêm phong tước hai phi, đại cung nữ thở dài suốt đêm trước cửa cung của ta.

Tháng chín năm thứ sáu ta nhập cung, Hoàng thượng tạm giao phượng ấn cho Hoàng Quý phi, quyền hành như phó Hậu, phượng ấn biểu thị quyền lực quản lý lục cung. Hoàng Quý phi trẻ trung, gia thế tốt, không nghiêm trang như tiền Hàng hậu, nhưng so với Ngọc Quý phi ngày xưa, có hơn chứ không kém. Lục cung trên dưới đều sợ vị chủ tử mới này. Hoài Cẩm quý phi tuy là người của Tất Điêu thị, nhưng là chi nhánh ngoại tộc, tính tình ôn hòa, chúng ta chung sống rất hợp.

Năm thứ sáu ta nhập cung, trong cung chỉ xảy ra hai việc lớn, Dung Quý tần phạm thượng bị Hoàng Quý phi dùng trượng hình, Tân Giả Khố bùng phát ôn dịch. Lần dịch bệnh này từ dân gian lan vào, vô cùng nghiêm trọng, suốt một năm, trong cung có biết bao nhiêu người vì vậy mà mất mạng.

Năm thứ tám ta nhập cung, ta như trở về lúc mới vào cung, không ai hỏi thăm, tên tuổi vô danh, ta cũng không biết Thánh thượng có còn nhớ ta không. Ta bẻ một nhánh hoa đào bên cửa sổ, đã tám năm rồi.

Mùa hè năm thứ tám ta nhập cung, Hoài Cẩn quý phi xin phép đi cùng Thái hậu đến chùa Linh Sơn cầu phúc, ta cũng đi theo. Chùa nằm trong núi sâu, thanh tĩnh và u tịch, ta rất thích bầu không khí trong lành này. Đêm đến tiếng ve kêu, ta trằn trọc khó ngủ. Trong đêm tối thấy bóng dáng Thái hậu trong phòng, ta liền gõ cửa bước vào. Thái hậu nói với ta, thuở trẻ bà và tiên đế định tình tại chùa Linh Sơn này. Ta ngưỡng mộ vô cùng, nói: Lưỡng tình tương duyệt là động lòng người nhất. Thái hậu cười, vuốt tóc ta: Còn con, có còn tình cảm với hoàng đế không? Ta nói: Thánh thượng có thiên hạ, người ngưỡng mộ ngài vô số kể, sao con có thể may mắn được hưởng trọn. Thái hậu vẫn cười, nói: Tính tình hắn lãnh đạm, bình thường bận rộn chính sự ít vào hậu cung, nhưng một khi vào hậu cung là đến chỗ con.

Cuối mùa hè năm thứ tám ta nhập cung, lời của Thái hậu khiến ta suy nghĩ cả nửa tháng. Khi mới trưởng thành, ta đã vào cung, không biết gì về tình yêu. Ta không biết tình là gì, yêu là gì. Ban đêm ta ngủ không yên giấc, vừa trở mình đã dựa vào một bờ ngực vững chãi. Không biết ngài đến khi nào, ôm ta trong lòng, hơi thở đều đặn. Lúc ấy ta không còn vướng bận chuyện tình cảm nữa, có ngài bên cạnh, lòng ta an yên. 
 
Chương 7


Ngày lễ Thất Tịch năm thứ tám ta nhập cung, bảy năm trước ta đều đón lễ trong cung. Cách đó khoảng một tháng, Hoàng thượng hỏi ta muốn đón Thất Tịch thế nào. Ta nghĩ một lúc rồi nói: Hồi nhỏ mẫu thân dẫn ta đi lễ hội đèn hoa rất náo nhiệt, bao năm nay ở trong cung khó mà thấy cảnh tượng đó nữa. Thế là Hoàng thượng ghé tai ta nói nhỏ: Năm nay chúng ta xuất cung, có được không? Ta gật đầu liên hồi, vui mừng đút cho ngài rất nhiều quả nho.

Ngày lễ Thất Tịch năm thứ tám ta nhập cung, lần đầu tiên ta đón lễ cùng phu quân, ta vốn tưởng Hoàng đế đi tuần phải rất uy phong, không ngờ chúng ta lại lén lút trốn khỏi yến tiệc trong cung, từ cửa sau ra ngoài hoàng thành. Lễ hội đèn ở kinh thành lớn hơn trong cung nhiều, pháo hoa rực rỡ, hương trà thoang thoảng, người qua lại tấp nập, đầy ắp tình người.

Kinh thành nổi danh với tứ đại thiên lâu, các mỹ nhân đều xuất thân từ những tòa lâu đó. Trước lầu có những chỗ ngồi sang trọng, tập trung những công tử quyền quý nhất kinh thành. Thiên Lâu mỗi năm đều có hoa khôi, người đoạt ngôi một đêm ngàn vàng. Ta nói với phu quân: Hồi nhỏ ta từng may mắn được chứng kiến phong thái của hoa khôi Thiên Lâu.

Nghe ta nói vậy, mắt ngài liền sáng lên, chờ ta nói tiếp. Ta nói: Hồi nhỏ, Thiên Tử Lâu có một vị danh kỹ, tiếng tăm lẫy lừng, từ thiên cung đến nhân gian, ai cũng biết đến nàng. Ngài hỏi: Là ai? “Hải Vân Cơ.”

Hồng nhan bạc mệnh, Hải Vân Cơ tuy đã qua đời nhiều năm, nhưng ta vừa nhắc đến tên nàng, vẫn có người liếc nhìn ta. Ta nói: Năm xưa Hải Vân thịnh yến, kinh động cả đế quốc, ai cũng khen ngợi thời thịnh thế không bằng. Ngài không có cảm xúc, ta ngạc nhiên: Ngài không biết Hải Vân Cơ? Ngài nhìn lên lầu cao, tựa như đang suy nghĩ: Không biết. Ta nghe vậy, liền hỏi: Vậy ngài đã từng nghe nói về Hải Vân Cơ chưa? Ngài mỉm cười, chạm vào mặt ta, nụ cười có chút mơ hồ, ghé tai ta nói nhỏ: Không chỉ là nghe nói.

Ngay lúc đó ta cảm thấy mình ngu ngốc như heo, nghĩ lại thời hoàng kim của Hải Vân chỉ trong mười năm, khi đó ngài cũng là thiếu niên, làm sao không ngưỡng mộ Hải Vân Cơ? Một cơn giận vô cớ bùng lên trong lòng, không biết lấy đâu ra dũng khí, ta đứng dậy đi ra ngoài, ngài cười nắm lấy tay ta, nói nhỏ bên tai: Phu nhân đây là muốn phạm thượng sao?

Ta nói: Chẳng lẽ phu quân còn muốn xử tội ta? Ngài nói: Phạt nàng tối nay hầu hạ phu quân. A, đồ háo sắc

Ta thèm kẹo hồ lô bên bờ sông, ta nhào vào lòng phu quân kêu ngài mua. Sau khi ngài đi, ta đứng trước cửa hàng phấn son chọn phấn.

Đột nhiên, có cảm giác như vai bị vỗ nhẹ bằng cây quạt xếp, ta quay đầu lại, là một thiếu niên tuấn tú sáng ngời. Chàng chào ta, nói: Ta là Tiết Thao, người Lâm An, xin hỏi quý danh tiểu nương tử, đã có chồng chưa? Ta ngớ người, từ từ nhớ lại lời mẫu thân từng nói: Lễ Thất Tịch không cần câu nệ lễ nghĩa, nếu gặp ý trung nhân, cứ mạnh dạn một chút.

Hai tay ta xoắn lấy khăn thêu, cũng cảm khái, nếu khi xưa ta không nhập cung, chắc hẳn cũng có thể nếm trải tình cảm phu thê bình thường. Thiếu niên thấy ta không nói, liền hỏi tiếp: Tiểu nương tử có nghe thấy không? Ta ngẩng đầu định nói lời từ chối, bất ngờ bị kéo vào một vòng tay quen thuộc, giọng nói của ngài vang lên trên đầu ta: Đừng quấy rầy thê tử ta.

Ngài kéo ta đi rất nhanh, vì chuyện vừa rồi, ngài giận suốt một lúc. Chúng ta ngồi trong rạp hát, ngài mặt lạnh, không nhìn ta, ánh mắt cũng không nhìn lên sân khấu. Ta ăn kẹo hồ lô, trong lòng tính toán cách chọc cười bình dấm chua. Trên sân khấu con hát đang diễn vở kịch phu thê, đến đoạn “ân ái hai bên khó vẹn toàn.” Ta giả vờ thất vọng, thở dài một hơi. Không ngoài dự đoán, ngài quay đầu nhìn ta hỏi: Sao vậy? Ta lắc đầu, giả vờ thất vọng.

Ngài liền ôm chặt lấy ta, ánh mắt tràn đầy tình cảm. Ta nói: Kịch nói nam nhân đa tình, tam thê tứ thiếp, nhưng ngài có ba ngàn phi tần trong hậu cung, không kể lớn nhỏ đều là của ngài, ta vừa ghen tị vừa buồn. Ngài cười, hỏi ta: Ghen tị cái gì, buồn cái gì? Ta tựa đầu vào ngực ngài, khẽ nói: Ghen tị vì phu quân có vườn hoa, buồn vì ta chỉ là một trong số đó.

Đêm khuya, ngài ôm ta lên Xuân Giang Hoa Nguyệt Lầu, ánh trăng trong trẻo như ngọc lan, ánh bạc phủ khắp Tây Lâu. Ngài ôm ta vào lòng, nhẹ nhàng nói: Minh nguyệt tế thiên nhai. Ta gật đầu, lại nói: Nguyệt thị cố hương minh. Ngài đặt cằm lên vai ta, hỏi: Muốn về Cô Tô không? Ta lắc đầu: Phu quân ở đâu, ta ở đó.

*Minh nguyệt tế thiên nhai (明月照天涯) có nghĩa là "Trăng sáng chiếu đến chân trời." Đây là một câu thơ thường được dùng để miêu tả cảnh tượng trăng sáng chiếu rọi khắp nơi, mang lại ánh sáng và sự tĩnh lặng cho cả bầu trời và mặt đất.

*Nguyệt thị cố hương minh (月是故乡明) có nghĩa là "Trăng ở quê nhà sáng hơn." Câu này diễn tả tình cảm sâu nặng với quê hương, thể hiện rằng dù đi đâu xa, ánh trăng ở quê nhà luôn là đẹp nhất, sáng nhất trong lòng người.

Thời khắc trước khi rời khỏi chốn thị phường, ta và ngài nắm tay nhìn lại kinh thành phồn hoa lần cuối rồi bước vào hoàng cung uy nghiêm. Khi bước chân vào hoàng cung, ta lẳng lặng buông tay ngài, từ đây, ngài là vua, ta là thần. 
 
Chương 8


Ngày mồng bảy tháng mười năm thứ tám nhập cung, hoàng thượng ban thưởng hai tấm gấm Tứ Xuyên thượng hạng. Không chỉ mình ta, Quý phi và Hoàng Quý phi cũng có phần.

Ngày mồng bảy tháng mười một năm thứ tám nhập cung, đại tướng quân bị thương nặng khi đánh giặc ngoại bang. Triều đình đồn rằng, huynh muội Chu Gia, ngoại hộ quốc, nội chưởng hậu cung, Hoàng Quý phi sắp lên ngôi Hoàng hậu.

Ngày mồng bảy tháng mười hai năm thứ tám nhập cung, gia tộc gửi thư: Triều đình rối ren, biên cương giặc dã ngo ngoe rục rịch, mưu phản sắp xảy ra, con phải tự giữ mình an toàn.

Ngày mồng tám tháng mười hai năm thứ tám nhập cung, ta được triệu vào Thượng Thư Phòng. Hoàng Quý phi cũng có mặt trong điện. Nàng trước giờ không ưa ta, nay bỗng nhiên tỏ ra tốt lành. Ta không hiểu gì, nhìn về phía Hoàng thượng đang đứng bên cửa sổ, ngài nhìn ra ngoài, không lên tiếng, cũng không nhìn ta. Hoàng Quý phi khoan thai nói: Giờ thiên hạ loạn lạc, hậu cung không thể giúp Hoàng thượng, trước đây tăng y chùa Hộ Quốc có báo, để định loạn cục trong thiên hạ chỉ có thể mời Đồng phi cầu phúc, ngày trở về chưa biết.

Ngày mười hai tháng mười hai năm thứ tám nhập cung, ta ngồi trên kiệu rời khỏi tường thành đã giam giữ ta suốt tám năm. Tường cao gạch lạnh, sương giá kiên cường. Ngày về chưa biết, đúng là ngày về chưa biết. Lúc ấy ta hiểu rằng, đối với Hoàng thượng, ta chỉ như Tố phi, hay Phương Quý dung mà thôi.

Ngày đầu tiên xuất cung năm đầu tiên, nội thị an bài cho ta ở một biệt viện trong chùa Hộ Quốc. Tuy ăn mặc không bằng trong cung, nhưng được cái thanh tịnh, bên cạnh có dòng suối lạnh từ núi chảy xuống, ta rất thích.

Ngày thứ hai xuất cung, trụ trì chùa Hộ Quốc gửi kinh văn. Khi ở trong cung, ta từng cùng Thái hậu tu luyện Phật pháp, giờ đọc lại không thấy chán.

Ngày thứ ba xuất cung, ăn ba ngày cơm chay, thân thể có phần nhẹ nhàng hơn.

Ngày thứ tư xuất cung, tiểu tỳ theo ta là Tương Tư nghịch ngợm, rơi vào suối lạnh, phải ủ ấm một lúc lâu mới thấy ấm lại.

Ngày thứ năm xuất cung, sáng dậy sớm dậy sớm tu tập, nhưng ta bị tiếng chim rừng thu hút, đi vào sâu trong rừng, tình cờ tìm thấy một rừng trúc, trong rừng có một cái đình rất tao nhã. Ta vốn yêu thích cảnh sống ẩn cư nên lưu luyến không muốn về. Đến hoàng hôn ta quay lại viện, ngài đã đợi từ lâu. Ta hỏi: Sao ngài lại đến? Ta đã ra cung, không còn sợ ngài, cũng không câu nệ lễ nghĩa. Ngài cười nhìn ta, đi tới nhặt lá trên tóc ta, nói: Đến thăm nàng.

Ngày thứ sáu xuất cung, ta bị tiếng chim đỗ quyên đánh thức, quay đầu lại, ngài vẫn đang ngủ say. Ngài ôm ta, ta khẽ cử động ngài liền mở mắt, tay vuốt lưng ta, kéo ta sát vào ngài rồi nói nhỏ: Sao dậy sớm vậy. Nghe hơi thở đều đặn của ngài, ta nghĩ, phu quân thích ngủ, ta sẽ chiều theo.

Đêm giao thừa năm đầu tiên xuất cung, ta tưởng sẽ đón giao thừa một mình. Không ngờ ngài như một thiếu niên không biết nặng nhẹ, trốn khỏi yến tiệc trong cung từ sớm rồi đến thẳng biệt viện của ta. Ta cười ngài không hiểu chuyện, ngài giận ta không biết ngọt ngào. 
 
Chương 9


Ngày rằm tháng giêng năm đầu tiên ra cung, trong cung báo tin, ngày hai tháng hai Long Đầu Tiết*, toàn cung sẽ triều bái, bảo ta sớm chuẩn bị.

* Ngày 2 tháng 2 âm lịch trong văn hóa Trung Quốc được gọi là "Long Đầu Tiết" (龙抬头节), có nghĩa là "Lễ hội Rồng ngẩng đầu". Đây là một ngày truyền thống quan trọng, đánh dấu sự bắt đầu của mùa xuân và mong muốn một năm mới với mùa màng bội thu. Vào ngày này, người ta thường tổ chức nhiều hoạt động để tôn vinh rồng, biểu tượng của sức mạnh và sự may mắn trong văn hóa Trung Hoa. Những hoạt động bao gồm các nghi lễ truyền thống, biểu diễn múa rồng và làm các món ăn đặc biệt.

Ngày mồng một tháng hai năm đầu tiên xuất cung, những ngày này ta tu kinh Phật, chuẩn bị hương hỏa, thật mệt mỏi. Mở cửa sổ, trăng treo cao, ngày mai họ sẽ đến.

Ngày mồng hai tháng hai năm đầu tiên xuất cung, chưa rạng sáng, Tương Tư đã gọi ta dậy, nói hoàng gia luôn coi trọng việc triều bái, không thể ngủ muộn. Mắt mờ mờ, ta đứng trước cửa đại điện chờ. Nhìn mặt trời từ từ lên cao, đến giữa trưa, xe ngựa hoàng gia đến, tựa rồng dài uốn lượn trong núi. Hôm nay ngài là Hoàng thượng, uy nghiêm túc mục, dẫn theo hậu cung, con dân của ngài, đến đây cầu phúc cho quốc gia. Ta đứng xa nhìn ngài, lòng có chút xao động.

Ta không biết triều bái kết thúc lúc nào. Khi mở mắt, ngài đã đứng trước mặt ta, phía dưới phi tần bàn tán, ta nghe họ nói, đây là kết cục của người không được sủng ái, không chỉ bị giáng chức còn làm trò cười. Ta cúi đầu, Hoàng thượng nhíu mày, lạnh lùng nói: "Phạt."

Ngày mười lăm tháng ba năm đầu tiên xuất cung, mưa ba bốn ngày, ta bị ho, ngài liền đặt bút đứng dậy pha trà cho ta. Ta uống trà ấm, cổ họng dễ chịu hơn, vươn vai, trêu ngài: Hoàng thượng, mệt không? Ngài thở dài: Không mệt. Ta cười: Còn phạt nữa không? Ngài có vẻ khổ sở, ta viết chữ "phạt" trên lòng bàn tay, rồi áp bàn tay vào bàn tay ngài. Ta cười: Thật là vinh dự, Hoàng thượng phạt ta chép năm trăm quyển kinh, cuối cùng lại là phu quân ngày ngày chép, ngài nói xem, đây là Hoàng thượng oan hay phu quân oan? Ngài giận ta, liền đến chọc ta. Ta cười nói: Nhanh chép đi, phương trượng sẽ kiểm tra, Hoàng thượng đã nói thiếu một quyển cũng không được.

Cuối xuân năm đầu tiên xuất cung, ta hái hoa đào trên núi, ủ thành rượu hoa đào.

Đầu hạ năm đầu tiên xuất cung, ta ngày càng thích cuộc sống ngoài cung. Mùa hè trên núi mát mẻ, nước suối lạnh trong ngọt, đêm hè đom đóm đầy rừng, tiếng ve cả ngày râm ran nhưng rất sinh động.

Giữa hạ năm đầu tiên xuất cung, Hoài Cẩn Quý phi đến thăm ta, ta hơi bất ngờ. Chuyện trò vài câu, nàng than phiền với ta về Hoàng thượng. Nàng nói Hoàng thượng sau khi chầu thường ra cung, ngày hôm sau mới về, chúng ta không dám nói gì, sợ rằng là mỹ nhân dân gian nào đó đã quyến rũ Hoàng thượng. Ta bị mắc hạt nho, uống nhiều nước trà mới thở phào.

Sau khi Quý phi Hoài Cẩm rời đi, ngài từ sau rèm bước ra, vươn tay nâng cằm ta lên cười nói: Mỹ nhân nào đây? Ta chớp mắt, nói: Gian phu nhà ai vậy?

Ngày mồng một tháng bảy năm đầu tiên xuất cung, trong cung gửi y phục mới.

Ngày mồng hai tháng bảy năm đầu tiên ra cung, phụ mẫu gửi thư, trong thư nói muốn ta giữ an toàn cho mình, nhưng không nói rõ ràng. Suốt nửa ngày, ta mãi suy nghĩ bức thư này ngầm mang ý gì.

Ngày mồng ba tháng bảy năm đầu tiên xuất cung, một đêm không ngủ, trời sáng ta mới chợp mắt. Tương Tư từ ngoài bước vào, nàng nói, Lệ phi đang chờ ở điện để cầu phúc, hiện đang ở điện đợi ta đến. Ta vừa mới tỉnh, tính tình rất khó chịu, nói: Muốn ta đến làm gì?

Ngày mồng bốn tháng bảy, những phi tần mà Lệ phi mang đến đều là những người xu nịnh, không thành được chuyện gì. Nghe họ giễu cợt một hồi, nói rằng Hoàng thượng mới nạp một sủng phi, ngày ngày gọi bên tới bên người, được sủng ái vô cùng. Nghe họ nói, ta mới nhớ ra ngài đã không đến biệt viện hơn một tháng. Ta biết mấy tỷ muội này chịu uất ức trong cung, đến đây để xả giận. Vì thế, ta tặng mỗi người một túi ngọc như ý, rồi tiễn họ đi. 
 
Chương 10


Ngày mồng năm tháng bảy, ta ngồi lặng bên suối lạnh cả ngày. Tối đến, mưa nhẹ rơi, trên cổ bỗng trượt xuống một giọt nước mắt.

Ngày mồng sáu tháng bảy, lòng ta không thoải mái, ăn chay cũng thấy đắng.

Ngày mồng bảy tháng bảy, ngài không đến.

Ngày mồng tám tháng bảy, ta trốn vào rừng sâu uống rượu, tiểu tỳ luôn nói ta ngày càng nghiện rượu, nhưng trong rừng không có ngày tháng. Lần đầu tiên ta say rượu trong rừng, cũng là lần đầu ta gặp vị hòa thượng có thân thế kỳ quái đó.

Vì say rượu, hoa lá trước mắt ta đảo lộn, trong rừng vạn vật như không có gì. Chim nhạn bay qua rừng trúc trên không, ta nhìn đàn nhạn bay về phương nam, uống xong một vò lại một vò rượu hoa đào.

Ta ném vỡ vò rượu vào thân cây, giật tung mái tóc, để nó xõa tung, ta cởi hết y phục, đắm mình vào dòng suối. Suối này là suối, trời này là trời, ta là ta. Nhưng khi quá đắm chìm vào bản thân, ta lại không nhìn thấy bóng dáng phía sau rừng.

Lá rừng rơi vào tóc, ta nhặt lên bẻ lá bứt hoa, bỗng thấy một bóng dáng trắng ẩn hiện trong màn đêm. Ta khoác áo quay người hướng về nơi đó mà hét lên: Ngươi thấy gì sao? Hắn từ trong rừng đi ra, giẫm lên cành lá khô, là một hòa thượng chắp tay nói: Phi lễ chớ nhìn. Ta chỉnh lại y phục, hỏi hắn: Ngươi là ai? Đến đây làm gì? Hắn nói: Ta là tăng quét chùa, đi lạc vào rừng, vô tình mạo phạm nữ khách. Ta cười: Ngươi không biết ta là ai sao? Hắn đáp: Không biết. Ta quay người rời khỏi dòng suối, lúc đi còn nói: Không biết là tốt, không biết là tốt nhất.

Ngày mười lăm tháng tám năm đầu tiên xuất cung, ta mang theo một bình rượu bên hông, nằm nghiêng trên thân cây dưới ánh trăng sáng. Tương Tư gọi ta từ dưới gốc cây, ta phất tay bảo nàng cứ về trước đừng lo lắng. Nàng đi rồi, ta đổ một ngụm rượu mạnh vào miệng.

Ta nằm dưới ánh trăng, suy nghĩ về bức thư của Hoài Cẩn Quý phi ngày hôm qua, nhắc đến những biến động trong cung, chuyện Chu Gia can thiệp vào chính sự. Đọc xong thư, ta đốt luôn, coi như không thấy câu "Hoàng thượng chỉ sủng ái mỹ nhân." Gần đây Tương Tư giấu rượu rất kỹ, khó khăn lắm ta mới tìm được bình rượu này, một mình uống dưới trăng, cô đơn một mình.

Nửa tỉnh nửa mơ, ta nghe thấy một tiếng sáo vọng lại từ bờ sông. Ta ngồi dậy, ánh trăng rọi khắp người. Ta nhìn ra xa, trên mặt sông lấp lánh, có một chiếc thuyền nhỏ trôi nổi, trên thuyền có một người đứng.

Ta mỉm cười, rồi lại nằm xuống. Trăng chiếu khắp núi sông, ta cũng trải lòng cùng trăng, nghe tiếng sáo, cảm nhận được sự đồng điệu với trăng. Một đêm không gió không mưa, chỉ có dòng sông chảy qua núi, nhạc công trên thuyền và ta say dưới trăng. 
 
Chương 11


Ngày mười sáu tháng tám năm đầu tiên xuất cung, nửa ngày tu hành, nửa ngày ngủ mê.

Ngày mười bảy tháng tám, là ngày người dân cầu phúc, hương khói trong chùa rất thịnh, ta cũng được rảnh rỗi một ngày.

Ngày mười tám tháng tám, ta dậy sớm lên núi hái hoa, càng lên cao, trời càng trong xanh. Ta tự trách mình quên mang theo rượu. Khi xuống núi, ánh chiều tà đã ngả bóng. Ta đi tới bờ vách núi, thấy một người ngồi dưới bóng hoàng hôn rực rỡ không cử động. Ta ngạc nhiên, không ngờ mình ở đây đã lâu mà không nhận ra hắn. Hắn quay đầu lại, ta và hắn đối mặt, ta ngạc nhiên nói: Là ngươi? Hắn đứng dậy, phủi bụi rồi chắp tay thi lễ: Mạo phạm.

Lần này ta nhìn rõ hắn hơn, dáng người thanh tú, dưới mắt có một nốt ruồi son. Ta hỏi hắn ở đây làm gì, hắn không trả lời. Ta rất ngạc nhiên, hòa thượng này không tu hành, không đốn củi, không lấy nước, sống nhàn nhã thật. Trên đỉnh núi đầy linh khí, phía xa xa là kinh đô. Người đi như kiến, nhà cửa san sát, đường phố dọc ngang, đất trời bao la, chỉ có một cổng màu tím. Hắn nói: Pháp danh Thanh Trần.

Giữa tháng chín năm đầu tiên xuất cung, không biết là hắn xông đến biệt viện của ta, hay ta đã đợi hắn từ lâu. Lần này hắn đến, ta đang mở mật lệnh từ trong cung. Thấy hắn đến, ta đặt mật lệnh xuống, bảo Tương Tư cất đi. Hắn vừa đến liền nói: Quốc vong, dân sao an yên.

Ta biết tiền triều đã xảy ra chuyện, trong cung và triều đình đều che giấu âm mưu gì đó. Nhưng ta không, Thanh Trần cũng để tâm đến chuyện này, thậm chí còn quá để tâm. Hắn nói: Lại gặp người bắt rồng. Ta hỏi thế gian có thật có rồng không? Hắn bi thương nói: Thiên tử chính là rồng. Ta hiểu thâm ý sâu xa đó nhưng Thanh Trần lại nói: Nhưng thợ săn có mắt không? Không, không có!

Thanh Trần ngồi xuống, nhắm mắt nói chậm rãi: Tiền triều phân chia phiên quận, Trung Nguyên chia năm xẻ bảy, Nam Hạ chia làm năm phần, Bắc Thượng chia làm ba phần, Đông Tây mỗi bên một phần. Thiên hạ thành ba cục, U Châu mười hai sử, Giang Hạ bất dạ thành, Tái Bắc tám mươi mốt tướng. Tiên hoàng đánh bại từng bên, thống nhất Trung Nguyên. Đăng đế mười năm rồi cưỡi hạc về trời, ngài để lại Thái tử tám tuổi cùng quốc gia bị lũ sói tranh giành. May thay Thái tổ Hoàng hậu buông rèm mười năm, bảo vệ thái tử còn nhỏ bình an lớn lên.

Mười năm sóng gió, giang sơn trong tay Thái Tổ Hoàng hậu tạm thời yên ổn. Từ khi Thái tổ Hoàng hậu qua đời, bè phái trong triều công kích, lấy gia tộc Trường Tôn dẫn đầu, ép Thái hậu đương triều giao Thái tử cho họ. Dân gian gọi việc này là: Cả sảnh đường toàn là người bắt rồng. Gia tộc Trưởng Tôn không ngờ, quốc tướng Chu gia lại mang thiên tử về, còn tiêu diệt toàn bộ gia tộc Trưởng Tôn. Từ đó, phân phiên náo động cũng chấm dứt.

Ta nói: Đương kim Hoàng thượng là Thiên tử được Chu gia đưa về?

Hắn nói: Đúng.

Ta nói: Cũng chính là Thái tử được Thái tổ Hoàng hậu bảo vệ năm đó?

Hắn mở mắt, lắc đầu: Là Thiên tử, không phải Thái tử.

Ta lại hỏi: Thái tử được Thái Tổ Hoàng hậu bảo vệ năm đó hiện đang ở đâu? 
 
Chương 12


Thanh Trần bước đến bên cửa sổ, trong sân mùi hương hoa quế vàng bay ngào ngạt, Tương Tư đang kiễng chân hái hoa quế, chuẩn bị ủ rượu hoa quế cho mùa thu này. Hắn nói: Trước đây ta cũng thích hoa quế vàng như ngươi, nhưng sau này có lẽ vì biết rằng hoa quế năm nào cũng nở, nên chẳng còn thấy quý nữa. Chiếc bình tử sa trong tay ta đột nhiên rơi xuống, tay run không kiểm soát được, trong lòng có vô số điều kinh ngạc muốn bật ra, cuối cùng, ta chỉ có thể hỏi: Thái tử ở đâu? Hắn quay người bước ra khỏi cửa, một lát sau, từ gió truyền đến một tiếng: Ở đây. Tương Tư chạy vào phòng, hỏi: Đó là ai? Ta nói: "Thái tử tiền triều."

Ngày mồng năm tháng mười năm đầu tiên xuất cung, Tương Tư ủ ba hũ rượu hoa quế, chôn rượu dưới gốc cây bên suối lạnh. Kỳ lạ thay, không biết từ khi nào trong suối lạnh có hai ba con cá chép bơi vào, cá bơi lượn trong suối, một mảnh hồ nhỏ cũng trở nên có sức sống. Khi không có việc gì làm, ta thường thích ngồi bên suối ngắm cá.

Ngày mồng bảy tháng mười năm đầu tiên xuất cung, ban đêm ta tham lam cảm nhận cái lạnh nên bị cảm, chỉ là chút bệnh nhẹ nhưng làm Tương Tư lo lắng khóc thút thít.

Trong giấc ngủ trưa, ta mơ thấy khi còn nhỏ phụ thân du ngoạn ở Tang Châu. Cha là một nhân sĩ nhàn hạ thích thanh tĩnh, lúc đó ông chưa làm quan lớn, ngày ngày dẫn ta, mẫu thân và huynh tỷ du sơn ngoạn thủy. Năm đó ta mười hai tuổi, trên thuyền, phụ thân dặn dò tỷ tỷ và mẫu thân phải giữ chặt ta, vì Tang Châu là nơi đầy rẫy người gian ác, thương nhân quý tộc tụ hội, là chốn ăn chơi của các quan lại đương triều. Mặc dù triều đình đã phái một vương gia đến trấn giữ, nhưng cũng không áp chế nổi những tên địa đầu xà. Nhưng chính điều này làm Tang Châu trở thành "chốn phong hoa tuyết nguyệt" nổi danh.

Gặp dịp Tết Nguyên Tiêu, ta mặc áo váy đỏ, vui vẻ đi hội đèn lồng. Trước đó ở Cô Tô, ta nghe Quan Quan Tô Tần kể về mỹ nữ nổi tiếng của Tang Châu – Hải Vân Cơ. Quan Quan Tô Tần, dù dung mạo như tiên, vẫn gọi nàng là "tuyệt sắc," nên ta cầu xin phụ thân dẫn ta đi ngắm dung nhan Hải Vân Cơ.

Tòa lâu cao nhất trong tứ đại thiên lâu – Cửu Tiêu Các, nằm giữa biển, muốn vào phải đi thuyền qua sông, đến ngàn lá đầm, chèo thuyền qua rừng cây trên nước, mới thấy được Cửu Tiêu Các ở giữa mặt nước.

Vào các cũng có sự phân biệt: người cầm lệnh bài Phong Nguyệt là thượng khách, đa phần là vương công quý tộc. Người bỏ tiền mua gh là khách thứ, thường là thương nhân danh sĩ. Dân thường cũng có thể vào, nhưng chỉ ngồi xa, không như những vị khách trước, có thể nhìn rõ dung nhan.

Ta và phụ thân giấu mẫu thân đi xem Hải Vân Thịnh Yến, hứa với nhau không ai nói cho mẫu thân biết. Khi chờ Hải Vân Cơ xuất hiện, phụ thân uống ba ly rượu nhỏ, trò chuyện vui vẻ với các thúc bá ngồi cạnh. Ta nghe không hiểu, đang chán chường bỗng nghe mọi người xì xào: Đó là Quận Vương gia mới đến của Tang Châu, sao người đó lại đến đây?

Ta nhìn lên đài cao, thấy sáu bảy người bảo vệ một công tử, công tử ấy mặc áo choàng đỏ thêu kim, dưới kim quan đeo mặt nạ nửa mặt, chỉ là một thiếu niên thanh tú mười tám mười chín tuổi vậy mà đã là Quận Vương gia trong lời đồn.

Một tiếng sấm từ biển vọng đến, ta nhìn ra phía trước, thấy một chiếc thuyền buồm lớn từ giữa biển chầm chậm tiến tới, xung quanh là mấy chiếc thuyền nhỏ, pháo hoa bắn lên từ thuyền, những chùm pháo hoa lớn bay vút lên bầu trời đêm. Tiếng trống dồn dập như mưa, buồm đón gió biển, một đóa hoa phù tang lớn rực rỡ trong đêm tối, trên buồm thêu một đóa phù tang, đó là biểu tượng của Hải Vân Cơ.

Thuyền lớn dừng giữa biển, đột nhiên, trống ngừng, pháo hoa tắt, tiếng hò reo của mọi người cũng lắng xuống, vạn vật im lặng, chờ đợi Hải Vân Cơ xuất hiện. Ta nín thở, nhìn chằm chằm vào thuyền lớn, không dám chớp mắt, sợ bỏ lỡ bất cứ điều gì.

Đột nhiên, tiếng sáo du dương từ biển vọng lại, một đài gỗ hình hoa sen lớn từ giữa thuyền từ từ nâng lên, trên đài gỗ thật giống một đóa sen trắng khổng lồ, bỗng nhiên, cánh sen động đậy, rồi như sóng biển xoay tròn, múa lượn, hàng chục vũ công trên đài nhỏ nhún nhảy mà linh hoạt. 
 
Chương 13


Đang lúc mọi người say mê dáng múa tuyệt mỹ của vũ công, lại một tiếng sấm nữa vang lên, mọi người nhìn, pháo hoa trên biển lại bừng sáng, một nữ tử áo đỏ bay tới dưới ánh trăng, rồi rơi vào "sen trắng," khi thì vung tay, khi thì vươn tay, tựa rồng bơi trên nét họa của bút vẽ, như chim hồng lướt qua ánh trăng khắc hoạ thần nữ, tay ngọc vờn gió, nhảy, xoay, hợp, vặn, tròn, như nước chảy mây trôi, như chim hồng bay lượn.

Khi bài múa kết thúc, Hải Vân Cơ thả màn lụa đỏ trên mặt xuống, mọi người vỗ tay kinh ngạc: "Quả là tiên nữ trên trời!"

Nhưng cảnh đẹp vừa bắt đầu, đằng sau bữa tiệc tráng lệ lại ẩn chứa một âm mưu. Năm đó ta chỉ mới mười một, mười hai tuổi, đối mặt với loạn lạc không thể giữ bình tĩnh. Đêm bị bọn cướp bắt cóc là cơn ác mộng suốt đời ta. Mọi người bận đắm chìm trong khung cảnh ấy, không ai chú ý đến những con dao găm sau lưng, những dã thú ẩn mình trong đám đông lộ ra nanh vuốt, sự tàn nhẫn của kẻ giết người thật đáng ghê tởm, bọn hắn không ngại ra tay với kẻ yếu.

Khi đó, ta rời phụ thân ra ngoài dạo chơi, không ngờ bị bọn xấu bắt nhầm. Ta bị giam trong một ngôi nhà cổ, trong ngôi nhà cổ yên tĩnh đáng sợ, ánh trăng xuyên qua mái nhà tàn tạ.

Ta thấy bên tường có một người khác, mặt nạ bằng vàng bạc khắc hoa che kín nửa khuôn mặt, Quận Vương gia. Về việc tại sao bọn cướp lại giam giữ một kẻ vô danh như ta, có lẽ là nhầm tưởng ta là người cùng dòng với ngài ấy.

Ta trốn trong góc tường hỏi: Ngài là Vương gia? Ngài ấy không trả lời, trên trán dính chút bụi, ta cầm khăn tay lau đi. Ngài ấy hỏi ta: Ngươi tên gì, nhà ở đâu? Ta nói: Ta chưa có tên, phụ mẫu gọi ta là Ngọc Nhi, nhà ở Bạch Thị, Cô Tô. Ngài dựa vào tường, ánh trăng yếu ớt chiếu vào mắt, ngài đáp lại: Ngọc Nhi, tên đẹp.

Đêm đó, ngài dẫn ta trốn khỏi ngôi nhà cổ, ta không nhớ chạy bao lâu, không nhớ bọn cướp đuổi bao lâu, không nhớ chạy vào rừng khi nào, cũng không nhớ sao trời thay thế ban ngày từ lúc nào. Ta còn nhỏ, chưa biết đời, ta hỏi: Ngài tên gì? Ngài ấy dựa vào thân cây, đôi mắt sáng dưới mặt nạ bạc, nhẹ giọng nói: Niệm Sơn. Ta giả bộ giống ngài, cố tỏ vẻ suy nghĩ: Tên đẹp.

Lang thang trong rừng cả nửa ngày không tìm được lối ra, mặt trời trong rừng trôi qua thật nhanh, hoàng hôn lại buông xuống, chim trong rừng bay đi hết, ta và hắn ngồi dựa vào nhau trong rừng, mơ màng sắp ngủ. Đột nhiên nghe thấy tiếng động trong rừng, tiếp đó là tiếng bước chân, làm ta và ngài tỉnh giấc. Cảm giác như tăm tối không lối thoát, bỗng thấy trong bụi cây phía trước lấp ló một cửa hang, sâu không thấy đáy. Đang lúc quân truy đuổi sát nút, mạng sống chỉ trong gang tấc, thật sự không thể lo gì khác.

Hang động sâu thẳm, tiếng nước nhỏ giọt vào mặt đất, bốn phía chỉ có tiếng bước chân đi tới. Không một chút ánh sáng, vào hang như bị bao trùm bởi bóng tối. Không thấy rõ phía trước, cũng không biết xung quanh là gì, không ngờ, dù trong tình cảnh này, bọn chúng vẫn đuổi theo.

Tiếng bước chân càng ngày càng gần, ta chỉ cảm thấy trong đầu căng thẳng như dây đàn. Không dám phát ra một âm thanh nào. Người bên ngoài bám sát, la hét, trong hang ngã rẽ dày đặc, ta chỉ biết nắm chặt tay Niệm Sơn. Trong hang không có ngày tháng, đi mãi, đi mãi, ta dần dần cảm thấy nếu đi hết con đường này, đời này cũng sẽ kết thúc. Cuối cùng không thể đi tiếp, đến một ngã ba trong hang, ngài dựa vào vách đá. Ngươi đi lối đó, ngài chỉ vào một con đường, giọng nói khiến ta sợ hãi. Ta nói: Cùng đi ra ngoài.

Quân truy đuổi vẫn bám sát, dường như ngài đang cười, ta không nhìn rõ, chỉ cảm thấy ngài cười mệt mỏi, cười mà không còn chút sức lực nào: Ta mệt rồi, ngươi không phải là người Cô Tô sao? Đợi ta ra ngoài, ta sẽ đến Cô Tô tìm ngươi được không?

Ta thật sự muốn khóc: Nói phải giữ lời. Ngài ấy thực sự không còn chút sức lực nào, hơi thở yếu ớt, chậm rãi nói: Quân tử nhất ngôn. Ngài tháo một túi vải làm tín vật. Ta nói: Nếu ngài không đến tìm ta, không tính là quân tử.

Ngài nói: Được, ta nhất định sẽ đến tìm ngươi.

Thực ra ta đã không nghe rõ lời ngài cho lắm, trong lòng chỉ vang vọng câu, nhất định sẽ đến tìm ngươi.

Ta vừa bước nhanh về phía trước, vừa khóc, vừa vấp ngã, cuối cùng cũng thoát khỏi bóng tối vô tận, phía trước lóe lên chút ánh sáng, phía trước là biển rộng, gió êm sóng lặng. Mỗi lần nhớ lại người này, trong lòng ta luôn vững tin, lúc đó Niệm Sơn vương gia chắc chắn là một đại hiệp. 
 
Chương 14


Ngủ mơ nửa ngày, ta tỉnh giấc, sờ lên mặt, đầy nước mắt. Đầu ta rất đau, cũng không biết tại sao lại mơ thấy người này. Không biết từ khi nào trong phòng có một bình rượu gạo, Tương Tư bước vào, nói: Vừa rồi Thánh thượng đến, ngài không muốn quấy rầy nương nương ngủ trưa, ngồi tĩnh tọa đến khi mặt trời lặn.

Ngày mười giữa tháng mười năm đầu tiên xuất cung, trong điện Phật tụng kinh, ta nhắm mắt, A Di Đà Phật không vào được lòng ta, kinh Phật niệm càng nhanh, trong lòng ta càng bất an. Bất chợt, tràng hạt đứt đoạn, hạt Phật rơi khắp nơi, Phật trong điện tĩnh lặng nhìn ta, ta đột nhiên cảm thấy vô lực, ngồi phịch xuống bồ đoàn, chắp tay, niệm Phật tổ đừng trách.

Cuối năm đầu tiên xuất cung, một năm sắp hết, sáng sớm chẻ củi, chiều tối cho ngựa ăn, khi rảnh uống rượu, khi say ngắm hoa. Tuyết lớn bao phủ mọi thứ tăm tối, thời gian như mực chảy vào mùa đông, ta bắt đầu mong chờ tia nắng đầu tiên của mùa xuân, mộng xuân không đến, hoa quỳnh không nở.

Ngày đông giá rét năm đầu tiên xuất cung, sinh nhật đầu tiên ngoài cung, tháng chạp lạnh lẽo, sương tuyết đè lên cành khô. Ta xuống núi vào buổi sáng, đứng ở đầu cầu nửa ngày, dù áo choàng phủ kín người vẫn lạnh buốt. Ta nhìn núi xanh thành núi tuyết, dãy núi xa xăm biến thành bạc đầu, trong lòng đầy cay đắng, mũi cay xè, hít thở nặng nề như tiếng khóc, ta đang tự cảm thương, không ngờ bị ngài nhìn thấy.

Ngài bước trên tuyết trắng, từ phía sau ôm lấy ta, hơi thở ấm áp lan tỏa bên tai, ta kinh ngạc quay đầu, nước mắt không ngừng rơi, đã quá lâu rồi ta không gặp ngài. Khoảnh khắc đó, ngài như thần tiên cưỡi tuyết đến, đôi mắt sâu như hồ nước, ngài có lẽ không biết cái ôm này ta đã chờ đợi quá lâu, lâu đến mức ta tưởng rằng về sau sẽ không bao giờ có nữa. Một làn hương lạnh gần kề, hoa mai cô độc trên vách đá, ngài nâng cằm ta, môi nở nụ cười, cúi đầu đặt môi lên môi ta rồi nhẹ nhàng nói: Ngọc Nhi đừng khóc, lòng ta như tuyết bay, nguyện phủ đầy trái tim nàng.

Mùa đông năm đầu tiên xuất cung, ta cầm bút viết: Mưa đêm như chôn cả vùng núi, sáng dậy đầy sương, ta ở trên núi này, lúc nhàn hạ câu cá, cho ngựa ăn, tụng kinh, lễ Phật. Lúc bận rộn đóng cửa, làm hương, đọc thư, chăm hoa, ngày tháng trôi theo dòng nước xuân, chậm rãi mà qua. Hương thơm từ đầu tường bay đến, hôm qua ta chết trong đầm sâu, hôm nay ta đối diện với mặt trời tái sinh. Ta là Bạch Kinh Ngọc, người Cô Tô, năm nay hai mươi hai tuổi, không cha không mẹ, không chồng không con, giữ lấy mạng sống trong loạn thế, tìm kiếm một nơi tự tại. 
 
Chương 15


Đêm giao thừa năm đầu tiên xuất cung, ta cầm đèn đi trong núi sâu, trong đêm tuyết chỉ có một ánh sáng trong tay ta, ta không biết hắn đang đợi ta ở đâu, may mà hắn không để ta tìm kiếm mù quáng, tiếng sáo trong rừng đã dẫn đường. Đi vào thung lũng, ta nghe thấy một câu: Khi nào ngươi đi? Ta rũ tuyết trên áo choàng, cầm đèn chiếu về phía trước. Thanh Trần đặt sáo gỗ xuống nhìn ta, ta suy nghĩ: Khi xuân đến. Thanh Trần nói: Lần này đi, đừng quá phiền muộn.

Ta đặt đèn lên đá, Thanh Trần nói: Chắc hắn đã dặn dò nàng rõ ràng rồi, ta không nói thêm, chỉ một điều, nếu không có mười phần chắc chắn, đừng dễ dàng lộ thân phận. Ta gật đầu, lâu sau, ta phủi bụi trên người, đứng dậy rời đi, đi vài bước, hắn đột nhiên nói ở sau lưng: "Đa tạ."

Ngày mùng một năm thứ hai xuất cung, ta chết, hoặc là Đồng Phi nương nương mất trong chùa Linh Sơn khi cầu phúc.

Mùa xuân năm thứ hai xuất cung, Tương Tư đã đi, không chờ được đến ngày xuân. Mưa đêm rửa sạch cái lạnh còn sót lại, ta mặc áo ngoài, bước ra đón bình minh, ôm lấy ánh sáng đầu tiên của mùa xuân, không phải ta mong chờ xuân, mà là xuân đang đến gấp. Hoa dại bên góc tường vươn cành vào vườn, ta xách hai ba túi hành lý, gió thổi qua bình nguyên, suối reo vang, chim yến tranh tổ, cỏ cây sinh trưởng.

Năm đầu tiên xuất thế*, đêm qua ta chết đuối trong đầm sâu, hôm nay đối mặt với mặt trời tái sinh, bước vào thế gian trong ánh sáng xuân, quay đầu nhìn lại, biệt ly ngôi chùa trên núi.

*Xuất thế: có thể được dùng để chỉ việc sống một cuộc đời không bị ràng buộc bởi những lo toan, tranh chấp, danh lợi của đời sống thường nhật. Nó ám chỉ một cách sống thanh cao, độc lập, không màng tới những chuyện thị phi, bon chen của thế tục.

Thành Lạc Dương nổi tiếng khắp thiên hạ có ba điều tuyệt: Lương Hề quận chúa cầm nghệ nhất tuyệt, Cư Nguyên Quân thơ văn nhất tuyệt. Lương Hề chỉ có thể thấy trên đài cao, từ trước đến nay không gặp khách. Cư Nguyên Quân có Ngũ Liễu Chi Nguyện, các đại quan hay quý nhân luôn muốn mời nhưng không ai chịu cúi đầu khom lưng vì tiền tài. Tương truyền hai người có sở thích tương đồng, quan hệ rất tốt, là đôi thần tiên quyến lữ.

Khi ta mới vào thành Lạc Dương, bên ngoài cửa Đông có mấy vệ sĩ Yên Môn canh giữ, phía đông có một trang viên rộng trăm mẫu không rõ của ai, đất đai rộng lớn như cung đình, dân gian đồn rằng gia chủ chắc chắn là bậc vương hầu phú quý, trang viên gọi là Thần Tiên Cư. Thần Tiên Cư chính là điều tuyệt thứ ba của Lạc Dương.

Mùa xuân năm đầu tiên xuất thế, mưa rơi như hạt châu dưới mái hiên, hồ xanh phía trước ngập đầy nước mưa, Tương Tư mang đến một bình trà xanh, ta cầm tách trà ngắm nhìn sắc mặt của hai vị khách dưới đường, một trận đấu ác liệt sắp nổ ra. Quả nhiên, cô nương ngồi bên phải ăn mặc lộng lẫy quý phái, nhăn đôi mày thanh tú, lên tiếng trước với công tử áo lam đối diện: Ngươi cứ nhìn ta làm gì! Công tử áo lam uống một ngụm trà, mỉm cười chế giễu.

Cô nương thanh tú lại nói: Ai bảo ngươi ngày ngày viết những bài thơ nhảm nhí, hại ta xấu hổ. Công tử áo lam vội nói: Không, không, ta viết thơ liên quan gì đến ngươi, sao lại làm ngươi xấu hổ? Cô nương thanh tú ném tách trà lên bàn, chỉ vào công tử áo lam: Ai thèm làm đôi thần tiên quyến lữ với ngươi, đồn thổi ba thứ yêu ma quỷ quái gì đó. Công tử áo lam không chịu thua: Ta không có phúc hưởng ân của công chúa, phu nhân thấy ta nói đúng không?

Tay ta cầm tách trà run lên, ta nói khẽ: Quận chúa Lương Hề và Cư Nguyên Quân vẫn nên đợi chủ quân trở về. Ta nhỏ giọng hỏi Tương Tư: Mưa ngừng rồi sao? Tương Tư nói: Mưa không ngừng, do tiếng cãi vã của hai vị khách lớn hơn tiếng mưa.

Hai tuyệt của Lạc Dương đang ở trong phủ ta, mà phủ ta là tuyệt thứ ba của Lạc Dương, Thần Tiên Cư. Lúc này, cửa lớn từ từ mở ra, ta vội vàng ra đón, ngài trở về với áo ướt sương, áo choàng đen hơi xám, đại thái giám hành lễ với ta, sau đó lên ngựa đi nhanh về cung, ngài đưa tay định ôm ta, ta nhỏ giọng nói: Khách đang đợi lâu rồi.

Ngài dắt ta vào trong, nghiêng người nói bên tai: Ở có quen không, đêm lạnh có ai kéo chăn không?

Lương Hề chậc lưỡi một tiếng, ta lập tức đỏ mặt, nàng nói: Huynh trưởng thật biết cách làm người ta phải đợi, vừa về đã nắm tay phu nhân hỏi han, không thèm nhìn đến muội, tiếc cho muội ngày ngày mong chờ huynh về thăm. Ta vội nói: Không có chuyện đó, ngài ấy thường nhắc đến quận chúa.

Chủ quân xoa trán, nói: Trước đây sao ta không thấy muội phiền phức như vậy. Lương Hề nói: Sao lại là muội phiền phức, rõ ràng phu nhân quá im lặng làm muội trông phiền phức.

Cư Nguyên Quân tiến lên chắp tay vái chào: Tham kiến Thánh thượng.

Đêm ấy, ta ngủ không sâu, khi ngài lên giường, ta lật người tiến vào lòng ngài. Chỉ cần ở bên ngài, ngài luôn thích ôm ta ngủ. Ta dựa vào ngực ngài, nhẹ giọng hỏi: Chưa từng nghe phu quân nhắc đến nơi này. Ngài nói: Trước đây ta chưa từng để ai biết. Ta cười, lại hỏi: Khách nhân nói gì với phu quân? Ngài giả bộ buồn bã thở dài: Họ nói nàng hồ mị hoặc chủ, nói ta hôn quân vô năng. Ta xấu hổ, nhỏ giọng nói: Thật sao? Ngài cọ vào đỉnh đầu ta: Thật. 
 
Chương 16


Tháng ba năm đầu tiên xuất thế, Thần Tiên Cư quả thật không phụ danh xưng, bên ngoài trông như nhà đại hộ bình thường, bên trong lại khác biệt hoàn toàn, bố cục dựa theo cung đình, mái ngói đỏ, ngựa đầu tường, tựa như hành cung của thiên tử, vườn hoa khắp nơi, đều có núi đá, hoa điểu, cầu chảy nước. Cư các có trăm gian, ta ở chính điện, tên gọi: Ngọc Sơn Cư.

Giữa tháng ba năm đầu tiên xuất thế, ta ở trong phủ loay hoay với hương phấn hết nửa tháng, trong cung truyền đến một mật lệnh, cung có biến, phải tra ra nguồn gốc.

Tháng tư năm đầu tiên xuất thế, ta mặc áo vải thô, ẩn mình trong chợ phiên, nơi này ngư long hỗn tạp, dễ dò la bí mật. Ban đêm ta trở về khách điếm, tiểu nhị hỏi: Cô nương hôm nay đi nhà nào hỏi hương? Ta quăng xuống một tập danh sách, uống một ngụm rượu, nói với hắn: Hồ hương của Tần Nguyệt Lâu là giả, Lưu Ly hương của Kính Môn pha tạp hương Tây Vực, mùi kỳ quái, Hồng Các dám báo giá ngàn vàng, hương bán ra không bằng một nửa phẩm giá hương trong tay ta, thật khó tìm.

Tiểu nhị ghé sát, thần bí nói: Cô nương không ngại cho ta ngửi thử, có khi ta chỉ được đường sáng. Thật sao? Hắn nói: Có gì phải ngại?

Ta lấy từ ống tay áo ra một ống hương đưa cho hắn, hắn ngửi một lúc, nhíu mày, rồi lại giãn ra, đặt ống hương xuống, nói: Giống hương thuốc nhưng lại ngọt ngào, dân thường không dùng hương này, không cần tìm trong chợ. Hương này có chút hương liệu Tây Vực là Huyễn Thảo, mà Huyễn Thảo là vật cấm ở Trung Nguyên, có thể thấy hương này chắc chắn không ở ngoài chợ. Chỉ có một nơi… Hắn bỗng dừng lại, ta vội hỏi: Nơi nào?

Hắn hơi nheo mắt lại, ngón tay chỉ chỉ trước bàn, tôi hiểu ra, đưa hắn một thỏi bạc, hắn nhận lấy, giả vờ thần bí: Ta dám nói, chỉ sợ cô nương không dám đi. Ta hỏi: Nơi nào? Hắn hạ giọng: Trên đường có một vị khách quý, tên gọi Phụng Nga phu nhân. Hương của bà ta khó kiếm, đáng giá ngàn vàng, đừng nói là dân thường, ngay cả các phi tần trong cung muốn có hương của bà ta cũng khó lòng cầu được. Ta hỏi: Vậy hương của bà ta có tác dụng kỳ diệu gì?

“Tiểu nhị, mang rượu lên.” Mấy đại hán ở bàn gọi rượu, tiểu nhị vội vàng đáp: "Lên ngay."

Ta ngồi suy nghĩ, Phụng Nga phu nhân.

Ngày mười tháng tư năm đầu tiên xuất thế, Nam Công phủ xảy ra vụ án diệt môn, ta thở dài, cuối cùng lại để bọn trộm cắp nhanh chân hơn một bước. Nam Công phủ chỉ là đòn hù dọa, sau này không biết còn bao nhiêu quan gia sẽ gặp họa. Trước quầy bán bánh, mấy đại hán bàn về vụ án Nam Công phủ, họ trước mắng quan phủ, sau nói vài chuyện không liên quan, cuối cùng đột nhiên nói ra câu "hôn quân". Mấy người bên cạnh thở dài, nhưng không ngăn cản, ai cũng nói, ai mà không biết, người trong cung kia, ngày ngày không thượng triều, đắm chìm hậu cung, vô năng, vô năng!

Chỉ có ta biết, hôn quân trong miệng họ ngày ngày xử lý những chuyện chính sự khó khăn thế nào, còn lo lắng cho vạn dân ra sao. Trong lòng không phục, ta nói với đại hán kia: Lời này không nên nói vậy, Thánh thượng có tính toán của Thánh thượng. Đại hán nhìn tôi khinh bỉ, tay nắm chặt mỡ lợn, cười nhạo: Ha, ngươi có biết người mà hắn sủng ái là ai không? Ta hỏi: Ai? Họ nhìn nhau, rồi cười lớn: Là nô tỳ từ nhà thổ mà ra. Ta kinh ngạc: Nhà thổ gì?

Hắn dường như rất thích biểu cảm kinh ngạc của ta, càng tiến lại gần: Ngươi có biết nhà thổ không? Còn kém hơn cả thanh lâu, từ nơi đó ra mà cũng có thể vào cung làm thị nữ, ngươi thử nghĩ xem, có phải là…

Ta sang tiệm thịt bên cạnh, lấy một bát thịt bò chín, mời họ ăn. Ta hỏi: Xin hỏi, nhà thổ của sủng phi ở đâu? Họ không khách sáo, khi họ nhai thịt, giữa hơi nóng, ta nghe thấy hai chữ “Anh Bà phố Lê.” 
 
Chương 17


Ngày mười một tháng tư năm đầu tiên xuất thế, ta dò hỏi hai ngày, dường như rất ít người biết tên Anh Bà, biết cũng không nói rõ được. Trăng lên đầu cành, ta ngồi trong một quán trà, bỗng vai bị ai đó vỗ nhẹ, ta quay đầu nhìn, hai người che mặt.

Ta đang định lên tiếng, một người kéo xuống khăn che, là Tương Tư. Ta nói khẽ: Ngươi đến làm gì? Tương Tư bỏ mũ, phủi bụi, cười nói với ta: Chủ quân lo lắng một mình người không ứng phó được. Nàng kéo người đứng sau ra trước mặt ta, nói: Đặc mệnh vị đại nhân này trợ giúp. Người đó mặc áo xanh, bỏ khăn che mặt, thần sắc nghiêm nghị, dưới mắt có vết sẹo. Hắn không cao nhưng rất mạnh mẽ. Hắn chắp tay vái: Thuộc hạ Yến Môn Vệ thống lĩnh Tiêu Túc.

Ngày mười một tháng tư năm đầu tiên xuất thế, tin tức về Lương Hề quận chúa xuất giá sang Nam Cương truyền khắp Lạc Dương. Hôm đó Lạc Dương có một trận mưa lớn. Sau mưa, bụi đất tan, vị cầm sư đẹp nhất thành Lạc Dương xuất giá, người tụ tập chật kín quan khẩu, nơi xe ngựa đi qua, người dân hát dân ca địa phương tặng nàng, nàng là nữ nhi Văn Chu, cũng là nữ nhi Lạc Dương. Sau khi mọi người tản đi, một mình ta đứng ở quan khẩu, gió cuối xuân thổi qua mặt, ta nghĩ nàng cười, nhưng từ Lạc Dương đến Nam Cương ba ngàn dặm, xa xôi dài đằng đẵng, khi nào nàng mới có thể ngoảnh lại nhìn một lần.

Ngày cuối cùng của tháng tư năm đầu tiên xuất thế, ta nghe nói, vụ án Nam Công phủ là do hương độc gây ra. Hương sư của Minh Lâu nói, hương này giống nguồn gốc dịch bệnh trong cung ba năm trước. Tính ra sủng phi trong cung hiện nay cũng nhập cung ba năm trước. Bây giờ nhất định phải tìm ra Anh Bà, tra rõ lai lịch người đứng sau sủng phi.

Ngày mồng ba tháng năm năm đầu tiên xuất thế, trà lâu ít người, thân tín của Tiêu Túc đột nhiên đến thăm, hắn nói, đã tìm ra nơi xuất thân của sủng phi.

Tháng sáu năm đầu tiên xuất thế, ta phụng mệnh nhập cung, đại thái giám dẫn đường. Ở trong cung nhiều năm, muốn ta giả vờ như lần đầu vào cung thật khó. Dù đeo khăn che mặt, ta vẫn phải cúi đầu. Khi đi qua ngõ Vũ Hoa, không biết các phi tần còn giữ thói quen trò chuyện trước đình không. Nghĩ đến đây, ta cúi đầu thấp hơn. Bỗng có tiếng gọi: Đứng lại. Đại thái giám chậm rãi quay người, ta cũng khẽ ngẩng đầu, là Lệ phi.

Nếu gặp tân phi thì dễ đối phó, nhưng gặp Lệ phi, với tính cách kiêu ngạo như chim công của nàng, sợ rằng khó lòng đối phó. Lệ phi nhìn quanh ta, hỏi ta là ai. Đại giám đáp: Đây là hương sư do Ngưng Tố mỹ nhân triệu kiến, được Thánh thượng đặc chuẩn. Lệ phi khẽ cười nhạo, có vẻ rất khinh thường Ngưng Tố. Đột nhiên có tiếng nói: Nếu là ý chỉ của Thánh thượng, còn không mau đi thực hiện. Người nói là Hoàng Quý phi, ta nhận ra giọng của nàng.

Đến chính điện, Ngưng Tố mỹ nhân trong truyền thuyết đang ngủ trên giường, khi ta chờ, bệ hạ từ tiền điện đi tới. Khi Ngưng Tố mỹ nhân tỉnh dậy, ta mới thấy dung mạo của nàng: tay trắng như ngọc, eo thon mảnh, mày đen mắt sáng, làn da mịn màng như tuyết, quả thực xứng danh mỹ nhân.

Mỹ nhân chống tay lên trán, tỏ ra nhức đầu, đại thái giám dẫn ta đến trước hai người, nói: Bẩm Thánh thượng, hương sư đã tới. Ta quỳ trước giường, mở túi hương và cây kim bạc, lạnh giọng hỏi: Dám hỏi nương nương tìm hương Tinh Dã này có phải là hương này không? Nàng đưa tay cầm túi hương đưa lên mũi ngửi, ánh mắt lóe lên tia khinh miệt, rồi nhẹ nhàng nói: Đúng, sư phụ của ngươi là ai? Ta đáp: Phụng Nga phu nhân. 
 
Chương 18


Tay nàng đang cầm hương rõ ràng cứng lại, sau đó vội vàng cáo lui. Khi Ngưng Tố rời đi, ta đứng dậy, bệ hạ cho lui hết người hầu. Trong điện chỉ còn ta và ngài, ngài tiến tới xoa chân cho ta, dịu dàng nói: Quỳ đau rồi. Đại thái giám mang nho lên, ngài cười nói: Ta đã chuẩn bị từ sớm.

Chính sự quan trọng, ta nói: Trong chợ đồn rằng Thánh thượng có sủng phi mới xuất thân từ Lư Châu, vì vậy Tiêu Túc đến Lư Châu điều tra. Người này xuất thân từ nhà thổ, từng làm đệ tử dưới trướng Phụng Nga phu nhân. Sau đó được đưa vào cung. Trong cung, người hầu cận luôn có xuất thân trong sạch, kẻ có thủ đoạn đưa nàng vào cung ắt cấu kết giữa quan lại và dân chúng.

Ta lại nói: Bệ hạ có nhớ ba năm trước trong cung từng có một trận dịch không? Ngài gật đầu, ta nói: Hương độc ở Nam Công phủ và hương gây dịch ba năm trước giống nhau. Năm đó thái y nói dịch bệnh truyền từ dân gian, có lẽ không thận trọng, sau không tra sâu, kẻ gian may mắn thoát. Lúc đó ta ở chùa, Hoài Cẩn Quý phi, Lệ phi và những người khác đều nói tân phi được sủng ái Ngưng Tố mỹ nhân đúng không?

Ánh mắt ngài sâu thẳm, nói: Đúng, ba năm trước khi xử lý dịch bệnh, Chu gia từng nhắc, dịch này đến rất kỳ lạ, gần như trong một đêm đã lan ra. Sau đó điều tra cung nhân, nhận thấy hành vi của người này kỳ lạ, đưa nàng vào làm tân phi. Ta nói: Xuất cung cầu phúc cũng không phải để cầu phúc. Ngài cười vuốt đầu ta: Lúc đó tình hình thật hỗn loạn, để ngươi rời đi cũng khiến ta an tâm hơn. Bên cửa, hoa rơi làm gián đoạn khoảnh khắc ấm áp, đại thái giám từ ngoài điện nói: Đêm đã khuya, hương sư hãy về nhà.

Ngày mồng ba tháng sáu năm đầu tiên xuất thế, trong trà lâu rộn ràng, Quế Tử dưới quyền đại thái giám ngồi đối diện nghe hát, ta nghiêng người nghe hắn nói: "Phu nhân đoán không sai, đúng là điện Hủ Tâm. Hôm đó khi rời cung, ta nhìn thấy trên không hoàng cung có một chiếc diều lửa, diều lửa cháy sáng giữa trời. Đại thái giám nói, đó là Ngưng Tố mỹ nhân chơi diều lửa. Ta nhìn qua rèm, tro tàn của diều lửa bay tán loạn, mãi vẫn không tan biến.

Xe ngựa lắc lư đưa ta trở lại ký ức vào cung năm thứ hai. Năm đó hè nóng nực, đêm ta không ngủ được, ta đi dọc theo tường cung. Không biết đi bao lâu, bị một bức tường hoa ngăn lại. Lúc đó hấp tấp, đẩy cửa cung vào, cung này giống như các cung khác, chỉ là không có người. Năm thứ ba vào cung, Tương Tư vô tình nói: Trong cung có một cung nữ của thái phi chết, xác bị mèo hoang ăn hết mặt, cung nhân ngửi thấy mùi thối mới phát hiện. Ta thấy kinh hãi, hỏi: Thái phi của cung nào? Tương Tư ghé sát tai ta: "Điện Hủ Tâm."

Cuối Tây Lục Cung có một cung điện tường đầy hoa đại, đó là điện Hủ Tâm. Đêm ta trằn trọc, đột nhiên mơ thấy một năm trước ta lạc vào khu vực đầy hoa đại, ta khẽ hỏi thăm, không ai đáp, đó chính là điện Hủ Tâm. Ta lập tức tỉnh giấc, từ đó điện Hủ Tâm trong ta là nỗi sợ hãi rùng rợn.

Khi trở về khách điếm, tiểu nhị thấy ta cau mày không vui, liền hỏi: Vì sao cô nương phiền muộn? Ta kể với hắn về chiếc diều lửa. Tiểu nhị cười: "Cô nương nói đến diều lửa là cách truyền tin thường thấy của bộ lạc thảo nguyên. Thời chiến, nơi nào tro tàn rơi xuống chính là nơi quân sói xâm lược. Ta cau mày nghe hắn nói, hắn khẽ ho một tiếng. Ta lấy ba thỏi bạc từ túi vải đặt lên bàn, hắn cười tươi cất bạc vào túi, rồi nói tiếp: Nhưng đó không gọi là diều lửa, người thảo nguyên gọi là “Thứ Nỗ Hà Đôn".

Ta suy nghĩ: Bộ lạc thảo nguyên chia thành ba tộc lớn, mười lăm tộc nhỏ, có biết tộc nào sáng tạo ra không? Tiểu nhị trầm mặt: Chuyện này cần thêm tiền. Ta giơ năm ngón tay, hắn lắc đầu: Năm thỏi bạc không đủ. Ta nói: Ta sẽ cho ngươi năm thỏi vàng. Hắn thu lại nụ cười, nói: Trung Nguyên và bộ lạc luôn xung đột, Phục U Đại Đế tiên triều từng dẫn tướng quốc Chu gia và Trường Tôn gia đã bị biếm truất để bình định ba phe. Sau phong Trường Tôn gia và Chu gia làm tả hữu Thân Quận công. Nhưng Trường Tôn gia dã tâm quá lớn, cuối cùng bị giáng làm thứ tộc. Cô nương có từng nghe về vụ án “Giảo Long” chưa?

Ta đáp: Cả sảnh đầy người bắt rồng sao? Hắn nói: Đúng vậy, năm đó Trường Tôn gia cấu kết với ngoại bang, công khai sứ thần, ngầm ép chủ cung giao Thái tử, may mắn Thái tổ Hoàng hậu bảo vệ Hoàng đế, nếu không Trung Nguyên đã đổi chủ. Năm đó ba phe bắt rồng, Trường Tôn gia giăng lưới trong hoàng thành, quân địch ngoại bang lảng vảng ở biên cương, phe thứ ba là cường đạo. Ba phe truyền tin không dám đốt lửa hiệu công khai, ngựa lại chậm, nên Thứ Nỗ Hà Đôn trở thành cách truyền tin tốt nhất. Nhưng Thứ Nỗ Hà Đôn lớn hơn diều lửa cô nương nói, nó như con đại bàng lửa bay trên trời. 
 
Chương 19


Trong ánh đèn mờ mờ của sảnh, ta thở dài, trước đây tưởng Thanh Trần nuôi trong nôi là người được chọn, không nhuốm bụi trần, nhưng không ngờ thời trẻ của hắn lại sống trong cảnh khốn cùng khói lửa. Tiểu nhị dừng lại một chút: Quân ngoại bang bắt rồng năm đó chính là Khương Đan hiện nay.

Ta nhớ Thái phi ở Điện Hủ Tâm không phải người Trung Nguyên.

Ngày mồng mười tháng sáu năm đầu tiên xuất thế, ngõ nhỏ bỗng đổ mưa phùn, hơi nước từ bát mì nóng làm mờ mắt ta. Hai đứa trẻ chơi cờ đá dưới chân tường, đứa nhỏ hơn vò đầu bứt tai, lẩm bẩm: "Đây là thế cờ chết."

Ngày mười lăm tháng sáu năm đầu tiên xuất thế, hôm nay là ngày trọng đại của dân chúng Lạc Dương, ở Bắc Sơn có ngôi đền Tiên Cô, nghe nói cầu con rất linh nghiệm. Trên phố tấp nập nữ nhân hướng về Bắc Sơn, ta nhìn dòng người nhộn nhịp ngoài cửa, tiểu nhị trêu: Nghe nói đền Ni Cầu ở Nam Sơn rất linh, cô nương không đi xin một quẻ sao? Ta vốn không tin, thà ở lại uống rượu. Tới khi trời sắp tối, ta hối hận, trong vòng một tháng, vụ án mạng thứ hai đã xảy ra.

Ngày mười sáu tháng sáu năm đầu tiên xuất thế, Tiêu Túc điều tra vụ án ở đền Bắc Sơn, trở về nói: Thăm hỏi những nữ nhân bị thương do độc, đều nói bỗng thấy đầu căng, sau đó bụng dạ cuộn lên, rồi không còn sức."

Ngày hai mươi tháng sáu năm đầu tiên xuất thế, Tiêu Túc từ đền Bắc Sơn mang về vài túi tro hương. Mấy hương sư của Minh Lâu luyện ra hương độc từ tro hương trong lư hương chính điện.

Cuối tháng sáu năm đầu tiên xuất thế, vụ án ở Bắc Sơn tạm gác lại, cửa thành phong tỏa, quân Lạc Dương nhận lệnh đến Mân Hồ, hóa ra không chỉ thành Lạc Dương bị tấn công bằng độc. Một tháng trước dịch bệnh lan tràn ở Mân Hồ, hại chết nửa thành.

Tháng bảy năm đầu tiên xuất thế, các hương sư của Minh Lâu đều bó tay, nhìn khắp Trung Nguyên, e chỉ có một người giải được loại hương này. Ta nói: Phụng Nga phu nhân.

Ngày mồng bảy tháng bảy năm đầu tiên xuất thế, bồ câu trong thành đều rơi xuống, tuần tra của nha dịch bị bồ câu trắng đánh trúng. Tiểu nhị đứng trước cửa nhìn nha dịch đầy vẻ suy tư, hỏi ta: Cô nương nghĩ dịch bệnh ở Mân Hồ có lan đến Lạc Dương không? Ngoài cửa sổ lại có một con bồ câu trắng rơi xuống mái ngói, ta cũng không biết nữa.

Giữa tháng bảy năm đầu tiên xuất thế, trên đường có vị huynh đệ chỉ đường cho ta sau khi nhận một túi vàng, Phụng Nga phu nhân ở Tầm Dương. Ta thu dọn hành lý lên đường, trước khi đi, ta từ biệt tiểu nhị, hắn cúi chào: Tên ta là Phó Các. Ta cười nói: Ngươi thật không giống một tiểu nhị. Hắn cũng cười: Cô nương cũng không giống tiểu thư vô công rồi nghề.

Tháng tám năm đầu tiên xuất thế, đi bảy tám ngày đường thủy, đến Phàn Thành, lão thuyền phu dặn ta đừng nhìn vào thành. Ta hỏi tại sao, lão thuyền phu chậm rãi nói: Hai mươi năm trước, Phàn Thành xảy ra chuyện lạ, sau một trận mưa lớn, hoa lá trong thành héo rũ, mùi hôi thối lan tràn, sau đó Phàn Thành trở thành thành trống. Người qua đường nói nghe tiếng binh khí giao chiến trong thành, e rằng quỷ dữ làm loạn.

Giữa tháng tám năm đầu tiên xuất thế, một mình ta đến Tầm Dương, hỏi thăm về Phụng Nga phu nhân, một người ăn mày ở phố Ngũ Giác chỉ đường đến Khảm Phủ Môn. Từ đây đi về phía đông, qua hai phố, giữa ba quán trà và hai nhà trọ có một con đường, đó là khu vực phồn hoa nhất của Khảm Phủ Môn.

Khách trong tửu quán nườm nượp, sau cửa hàng là khu dân cư, dây leo xanh tựa như rồng uốn lượn. Giữa phố chợ có một cửa hàng nhỏ không mấy nổi bật, sự nhộn nhịp của Khảm Phủ Môn dừng lại ở đây.

Trước cửa lầu không có chim yến, bước vào không có ánh sáng, đi một bước gỗ đàn kêu cọt kẹt, xuyên qua nhiều tầng rèm, phảng phất như có ánh sáng, trước mắt là tấm bảng Lưu Tiên Sơn Cư Các. Sau đó là lầu cao thông thiên gây ngỡ ngàng, cao đến mười tám tầng, mỗi xà ngang đều vẽ tranh Lưu Tiên, từ đỉnh trời buông xuống ba ngàn tơ lụa vắt ngang qua xà, toàn thân vàng tím, nghe thoáng qua có thể nghe được danh khúc Trường Lăng thất truyền, toàn bộ gác lầu thật là tinh xảo tuyệt mỹ, tựa như tiên cảnh, không hổ danh Lưu Tiên.

"Hiếm khi có khách nữ." 
 
CHÚ Ý !!!
Các đạo hữu nhớ thêm TÊN CHƯƠNG và THỨ TỰ CHƯƠNG ở ô phía trên phần trả lời nhanh. Như vậy hệ thống mới tạo được DANH SÁCH CHƯƠNG.
Cập nhật chức năng ĐĂNG TRUYỆN và THÊM CHƯƠNG MỚI trên web Diễn Đàn Truyện tại: https://hoinhieuchu.com
Back
Top