Cập nhật mới

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
[Diendantruyen.Com] Lời Nguyền Lâu Lan

Lời Nguyền Lâu Lan
Tác giả: Sái Tuấn
Tình trạng: Đã hoàn thành




[Tác giả Sái Tuấn -- Thể loại: Truyện trinh thám ]

Xuất hiện trong truyện Lời Nguyền Lâu Lan, Giang Hà - chàng thanh niên trẻ nghiên cứu khảo cổ, sau khi từ thành cổ Lâu Lan trở về, tính tình thay đổi bất ngờ, ba tuần sau thì đột qua đời. Manh mối duy nhất để lại cho cô vợ chưa cưới Bạch Bích chính là một chùm chìa khóa thần bí. Bạch Bích hy vọng nhờ vào chùm chìa khóa đó để tìm ra được đáp án sự thật, nhưng mọi việc diễn ra càng lúc càng ly kỳ khôn lường. Một tháng sau đó, trong Trung tâm nghiên cứu Khảo cổ đã xảy ra liên tiếp năm vụ án mạng hết sức lạ lùng.

Anh cảnh sát Diệp Tiêu tiếp nhận vụ án, triển khai điều tra, và vô tình vén được bí mật đã cất giấu hàng ngàn năm. Lời nguyền cổ xưa và vĩnh cửu vô hạn luân hồi không chỉ làm cho cả một thành phố bị tiêu vong, mà còn thay đổi vận mệnh của biết bao con người...

Sái Tuấn là một kỳ tài, dựa vào trí tưởng tượng phi thường và tư duy logic chặt chẽ nghiêm ngặt, đã nỗ lực sáng tạo nên thể loại “tiểu thuyết trinh thám kinh dị” của riêng đất nước Trung Quốc. Tiểu thuyết kinh dị của Sái Tuấn đã giải phẫu phân tích sâu sắc sự giao thoa giữa lịch sử và thực tế, giữa tình yêu và sự kinh dị, giữa huyền hoặc và suy diễn, mà vẫn thấm đậm chất nhân văn xuyên suốt Đông Tây, tìm tòi những mệnh đề sâu xa bên ngoài sự kinh hãi, thể hiện một năng lực tiềm tàng theo kịp những bậc thầy như Stephen King, Anfred Hitcoke. Mời bạn đón đọc truyện hot từ tác giả Sái Tuấn.
 
Sửa lần cuối:

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 1-1: Phần dẫn


Tháng 7 năm 1988.



Bên ngoài cửa sổ, màn đêm đen dày đặc, phía xa xa chỉ có vài tòa nhà cao tầng, cánh cửa sổ mở toang nhưng không có gió lùa vào. Lại là một đêm hè oi bức khó ngủ!



Trên bàn làm việc chất đầy sách và tư liệu, Bạch Chính Thu đang nằm bò ra bàn vừa lật giở tài liệu, vừa viết luận văn của mình trên giấy. Những năm tháng dài đằng đẵng của những người Tiên Ti[1] cưỡi ngựa đi chinh phục Trung Nguyên đang thấp thoáng hiện ra qua những câu chữ dưới ngòi bút của anh. Anh chỉ mặc một chiếc áo may ô trắng, năm 1988, trong gia đình bình thường thì không có điều hòa, có một chiếc quạt điện đang quay bên cạnh anh. Gió thổi vào sau lưng anh, chiếc áo may ô chuyển động giống như một làn sóng. Anh giơ tay ra gãi những vị trí để trần, lũ muỗi vẫn đang tiếp tục tấn công anh, vết mẩn đỏ trên người khiến anh vô cùng khó chịu.



Bạch Chính Thu nhìn đồng hồ, đã hơn 10 rưỡi tối, ở dưới lầu có nhiều người kê giường xếp ra ngoài nằm ở hiên trước cửa để trải qua được đêm hè oi ả. Anh không có thói quen này, buông sách và tư liệu xuống bàn, anh bước tới cửa sổ ngắm nhìn công viên ở phía bên kia đường. Trong công viên cũng tối đen mịt mùng, không thể nào phân biệt được đâu là mặt hồ phẳng lặng, đâu là cỏ cây xanh tươi vẫn nhìn thấy lúc ban ngày. Nhưng anh vẫn cứ nhìn về phía đó, thứ nhìn rõ duy nhất chính là bóng đen của bức tường bao quanh công viên dưới ánh đèn đường vàng vọt.



- Chính Thu, anh mau ngủ đi, anh đã quên rồi sao? Ngày mai chính là ngày sinh nhật lần thứ 40 của anh, ngày mai em sẽ tan làm sớm để mua thêm đồ ăn cho anh. - Vợ anh đang nói bên cạnh.



Ngày mai là sinh nhật? Bạch Chính Thu lúc này mới nhớ ra, nếu không có vợ nhắc, chắc anh đã quên luôn rồi. Ngày mai đã là sinh nhật lần thứ 40 rồi, anh gần như không hề cảm nhận được sự trôi chảy của thời gian, như thể hôm qua vẫn là một anh chàng vừa mới tốt nghiệp đại học, không ngờ ngày mai đã bước sang tuổi 40, cái tuổi không còn dễ dàng bị cám dỗ. Lúc này anh mới hiểu, mình đã không còn trẻ trung nữa rồi.



Đột nhiên, anh dường như lại nhớ ra được điều gì đó từ trong khối ký ức đã bị phủ lớp bụi thời gian từ nhiều năm trước. Lúc này đây, một chiếc chìa khóa đã mở két sắt ký ức, tất cả những thứ cất giữ bên trong đó đều bị anh nhìn khắp lượt. Thế nên, nỗi sợ hãi mơ hồ bỗng lướt qua trái tim anh, như thể một hòn đá vốn đã treo lơ lửng bao năm qua cuối cùng cũng rơi xuống một mặt hồ phẳng lặng, tạo thành những vòng tròn gợn sóng.



- 40 tuổi, 40 tuổi... - Miệng anh khẽ lẩm bẩm, thoáng run rẩy.



- Anh đang lẩm bẩm gì vậy? - Vợ anh không nghe rõ.



Anh chuyển ánh mắt từ màn đêm đen bên ngoài cửa sổ sang khuôn mặt vợ, nhìn cô chăm chú. Trên mặt anh thoáng hiện lên sự hối lỗi, vợ anh lập tức hiểu ra ngay, cô chau mày, có thể cũng có chút gì đó lo lắng, thế nhưng, cô vẫn cười, nói:



- Không, anh không nợ gì em cả, đừng có tự hù dọa bản thân, đừng suy nghĩ linh tinh nữa, mai là sinh nhật anh, anh nên vui mừng bước vào tuổi 40, gia đình ta sẽ bình an suốt cuộc đời.



Anh cũng mỉm cười, có thể là cảm kích, có thể là trả nợ, chính anh cũng không thể nào hiểu rõ được:



- Đi ngủ thôi!



Đèn tắt, quạt cũng tắt, trong phòng yên ắng đến lạ kỳ. Hơi thở đều đều của vợ vang lên bên cạnh, nhẹ nhàng nhưng rành rọt. Anh lấy làm ngạc nhiên tại sao vợ lại không sợ cái nóng ngột ngạt, có thể ngủ ngon giấc như vậy. Còn anh thì lại trằn trọc khó ngủ, chỉ nằm lặng yên trên giường, mắt nhắm lại. Trong lòng anh chợt trào dâng một bờ biển đại dương tối đen như mực, từng gợn sóng lăn tăn khẽ vỗ vào bờ. Nước biển đen như mực dập dềnh trong lòng Bạch Chính Thu hồi lâu, anh mới dần dần chìm sâu vào giữa lòng đại dương.



Con sóng cuồn cuộn.



Một đợt sóng cuồn cuộn như thể lưỡi kiếm vụt lướt qua mặt nước biển tĩnh lặng giữa đêm tối, gần như trong khoảnh khắc ngắn ngủi đã làm trái tim anh tan nát, khiến anh từ đáy đại dương nổi lên trên mặt nước. Anh khao khát có dưỡng khí, khao khát sinh tồn, đôi tay ra sức vẫy vùng giữa biển đại dương mênh mông, một số bong bóng nước đang chuyển động quanh anh. Cuối cùng, anh cũng thoát lên khỏi mặt nước, hít thở được bầu không khí trên mặt nước... anh thở phào.



Anh bừng tỉnh.



Nước biển tối đen như mực ư? Không hề có, nhưng người anh đã ướt đẫm, lại còn mằn mặn. Tiếng sóng khiến người ta hãi hùng đã biến mất. Nó đến từ biển đại dương sao? Không, đó là ảo ảnh ở giữa sa mạc!



Xoa xoa lồng ngực mình, tim đập loạn xạ, anh run rẩy làm cho vợ cũng tỉnh giấc, ngồi dậy, khẽ đẩy vào vai anh, hỏi:



- Anh sao vậy?



- Không, không có gì, ngủ thôi!




Đèn lại tắt, Bạch Chính Thu nằm xuống giường, nhưng vẫn không ngủ được, còn vợ lại khôi phục hơi thở đều đều, có lúc, anh thực sự rất ngưỡng mộ vợ.



Dần dần, anh đột nhiên cảm thấy phía lưng mình hơi rung, đó là sự chấn động rất khẽ khàng, cảm giác đó đến từ dưới gầm giường, dưới đất. Phía dưới đất là căn hộ tầng dưới, có thể còn phải hướng xuống dưới nữa. Từ tầng 6 cho đến tận tầng 1, rồi đến bùn đất, đến nơi rất sâu trong lòng đất.



Cả cơ thể anh liền run rẩy, anh giơ tay ra sờ xuống giường, đúng vậy, giường đang rung. Khi anh mở mắt, anh nhìn thấy một bóng người ở trong căn phòng tối đen.



Đó là bóng người, rất nhỏ bé, đang từ từ di chuyển về phía trước.



Anh mở to mắt, trong mắt phát ra chút ánh sáng, anh từ từ ngồi hẳn dậy. Cái bóng đó càng lúc càng lại gần, chiếu rọi lên mặt anh, hình ảnh bóng hình đó cũng rõ dần lên, thân hình bé nhỏ đó giống như một con thú chưa cai sữa lao vào người anh. Những sợi tóc dài quét vào mặt anh, anh ngửi thấy mùi vị quen thuộc của con tiểu dã thú đó.



- Con gái yêu, sao vậy? - Bạch Chính Thu ôm chặt cô con gái vừa lao vào lòng anh.



Con gái vùi mặt vào lồng ngực anh, ngón tay thon dài bấu mạnh vào lưng anh, anh lấy làm lạ là những ngón tay gầy guộc của cô con gái mới 10 tuổi sao lại có sức lực mạnh đến thế, đến nỗi móng tay con bé cắm vào thịt anh khiến anh cảm thấy hơi đau nhức.



Vợ cũng thức giấc, cô bật đèn, lại thở dài, chắc là đang than thở đêm nay không được ngủ yên giấc, sau đó cô xoa đầu con gái, ướt sượt, toàn mồ hôi, như thể vừa mới từ dưới nước lên, cũng nhiều mồ hôi như trên người chồng. Cô vốn là người ưa sạch sẽ, rất ghét thứ mùi mồ hôi hôi rình, và cô con gái vẫn luôn rất sạch sẽ, cho dù lúc thời tiết nóng nực nhất cũng chỉ ra ít mồ hôi. Cô lấy làm lạ, nâng đầu cô con gái lên, nhìn chằm chằm vào khuôn mặt nhỏ bé.



Cô con gái 10 tuổi đang nhắm nghiền mắt, hơi nhíu mày, hơi thở gấp gáp, răng cắn chặt môi, sắc mặt nhợt nhạt một cách đáng sợ. Con gái thừa hưởng vẻ ngoài của cô, xinh đẹp nhanh nhẹn, khuôn mặt trái xoan, cô luôn tưởng tượng xem con gái lớn lên trông sẽ như thế nào? Có lẽ thực sự là một người đẹp từ trong bào thai. Cô vén mái tóc của con gái, mùi vị bẩm sinh đặc biệt trong tóc con gái bay vào mũi cô.



Con gái im lặng không nói gì, cô cảm thấy hơi lo lắng, đột nhiên nghe thấy chồng kêu lên một tiếng, lúc này cô mới nhìn thấy ngón tay của con gái đã cào chảy máu lưng chồng. Cô vội vàng gỡ tay con gái, kéo con gái ra khỏi vòng tay chồng.



Con gái đang run lập cập.



- Con bé không phải bị ốm đấy chứ? - Bạch Chính Thu hỏi đầy lo lắng, vợ sờ trán con gái, không sốt, sau đó cô hỏi con gái:



- Con yêu, con nói gì đi chứ!



Con gái vẫn giữ im lặng, khoảng mười phút sau, con bé chợt mở to mắt, nhìn chăm chăm vào một điểm vô hình nào đó, trong con ngươi phân rõ lòng trắng đen lấp lánh ánh sáng đặc thù của trẻ thơ, nhưng ánh sáng này trông lại vô cùng kỳ lạ, tầm nhìn hướng vào một nơi rất xa.



Thấy ánh mắt và trạng thái kỳ lạ của con gái, Bạch Chính Thu chợt cảm thấy sợ hãi, anh chưa bao giờ thấy mắt con gái anh mở to đến nhường này, có thể nói là to một cách đáng sợ. Anh dõi theo ánh mắt con gái đang nhìn ra ngoài cửa sổ, trong màn đêm đen dày đặc, chẳng nhìn thấy gì cả, chỉ thấy một cơn gió đột nhiên thổi vào phòng.



Cuối cùng cũng đã có gió, cơn gió se lạnh vào đêm hè oi bức khiến Bạch Chính Thu và vợ đều cảm thấy dễ chịu, nhưng cô con gái lại lấy tay ôm chặt đôi vai mình, vẫn tiếp tục run rẩy.



Có lẽ con gái thực sự bị cảm lạnh rồi, vì con gái, chịu nóng cũng có sao. Bạch Chính Thu đi đến bên cửa sổ, gió thổi mạnh, thổi tung mái tóc anh, anh hít thở thật sâu cơn gió lạnh lần cuối, nuốt trọn luồng gió vừa ùa tới, lúc này anh mới cảm nhận được cái lạnh nơi cổ họng. Anh nhìn ra sắc trời tối đen bên ngoài, sau đó từ từ đóng cửa sổ lại.



Anh quay đầu nhìn con gái, trên mặt con gái dần dần cũng hơi hồng hào trở lại. Đột nhiên con gái há cái miệng nhỏ xinh vẫn mím chặt từ nãy giờ, khẽ nói một câu bằng chất giọng trẻ con ngọt ngào:



- Có một phụ nữ!



Giọng cô con gái nhỏ non nớt trong trẻo mặt dù nói rất khẽ, nhưng lại vang lên rành rọt trong căn phòng yên ắng. Bạch Chính Thu nghe thấy vậy liền rướn cao lông mày, đây là thói quen của anh, hễ gặp chuyện gì là đôi lông mày lại rướn lên.



- Con gái, con nói người phụ nữ nào? - Vợ cảm thấy rất khó hiểu.



Con gái chớp chớp mắt, nói tiếp:



- Con nhìn thấy một người phụ nữ, mặc một bộ váy màu đỏ, mặt của cô ấy rất trắng, mắt rất to, mái tóc đen bóng tết thành nhiều bím tóc nhỏ, cô ấy...



- Im miệng! - Bạch Chính Thu hơi thô bạo ngắt lời con gái, sau khi buột miệng nói ra, anh mới nhận ra mình đã lỡ lời. Anh dùng khóe mắt liếc nhìn vợ, ánh mắt vợ rõ ràng đang trách móc anh, anh lẩm bẩm một mình:



- Không thể nào, quyết không thể nào, con không thể nhìn thấy cô ấy được.



Sau đó, anh lại nói giọng dịu dàng:



- Bố xin lỗi con gái, con nhìn thấy ở đâu vậy?



- Chính Thu, anh sao thế? Lời của con trẻ mà anh cũng coi là thật sao? Con gái vừa rồi chẳng qua chỉ là nằm mơ thôi, trẻ con nằm mơ thì có gì mà phải kinh ngạc chứ. - Vợ kéo tay anh, anh nhìn vợ, nhận thấy trong đáy mắt vợ cũng thoáng lướt qua nỗi sợ hãi.



Bạch Chính Thu không tiếp lời vợ, mà đi ra khỏi phòng ngủ, đi đến phòng cô con gái ở bên cạnh. Phòng con gái rất nhỏ, một chiếc giường đơn đặt ở gần cửa sổ, cửa sổ đang mở, một cơn gió lạnh ùa vào. Mặc dù anh rất khao khát cơn gió lạnh, nhưng anh vẫn đóng cửa sổ lại. Anh nhìn bức tường trong phòng con gái, không có gì cả, vẫn như thường ngày, trên tường vẫn treo mấy bức tranh màu nước cô con gái tự vẽ. Một bức tranh vẽ bầu trời đêm màu tím thẫm, có vầng trăng màu vàng, bên dưới là cây cầu và dòng nước chảy, hai bức còn lại đều là tranh tĩnh vật vẽ lọ hoa và hoa quả.



Trở về phòng ngủ, Bạch Chính Thu nhìn thấy vợ đã ôm con ngủ say. Anh nhìn hai mẹ con đang ngủ yên giấc, tự cười chế nhạo mình, sau đó tắt đèn.



Lại là một đêm hè nóng bức không ngủ...



Bạch Chính Thu ngủ thiếp đi lúc gần sáng, mơ giấc mơ lộn xộn, đến khi anh tỉnh giấc, ánh nắng đã chiếu thẳng vào mặt. Anh sờ tay sang bên cạnh, chạm tay vào cơ thể mềm mại của con gái. Anh ngồi dậy, vợ không ở nhà nữa, chắc đã đi làm. Bạch Chính Thu nhìn khuôn mặt trắng ngần của con gái, gọi con bé dậy.



Bạch Chính Thu dẫn con gái đi đánh răng rửa mặt xong xuôi, rồi ăn bữa sáng vợ chuẩn bị sẵn cho hai bố con. Anh là một nhà khảo cổ học, làm việc trong một Viện Nghiên cứu khảo cổ, mấy hôm nay anh đang ở nhà vùi đầu viết bài luận văn về lịch sử dân tộc Ngụy Tấn tây thành. Một tháng trước, Viện vừa mới phân cho anh căn hộ này để làm phần thưởng cho thành quả học thuật của anh. Điều này khiến cho rất nhiều đồng nghiệp làm việc mấy chục năm vừa ngưỡng mộ vừa đố kỵ.



Con gái sau khi ăn sáng xong đã ngồi trên ghế sofa xem ti vi, Bạch Chính Thu bèn tắt luôn ti vi, anh nhìn con gái, hỏi:



- Con gái, đêm qua sao con lại chạy sang phòng bố mẹ? Không phải là đã nói rõ là sau khi chuyển vào nhà mới, con sẽ ngủ một mình một phòng sao? Sao lại nói lời mà không giữ lời thế?



Con gái chớp mắt nhìn anh, nói:



- Bố ơi, lưng bố còn đau không ạ?



Nếu con gái không hỏi đến, Bạch Chính Thu gần như đã quên mất việc đêm qua bị con gái cào chảy máu, anh cười nói:



- Con nghĩ đến bố là được rồi!



Con gái đi ra phía sau lưng anh, khẽ xoa xoa chỗ bị cào chảy máu.



- Bố ơi, bố còn đau không? - Con gái vừa xoa vừa hỏi.



- Không đau con gái ạ!



- Thực sự không đau ạ?




- Thực sự không đau! Con gái, đêm qua có phải con gặp ác mộng không? - Bạch Chính Thu hỏi con gái.



- Vâng! - Con gái gật đầu.



- Con mơ thấy gì? Con có còn nhớ không? - Anh hỏi con gái như vậy cũng có vẻ hơi hoang đường.



- Một người phụ nữ!



Bạch Chính Thu cúi đầu, trầm mặc giây lát, sau đó hỏi con gái:



- Còn gì nữa không?



Con gái nghĩ một lát, nói:



- Cô ấy mặc một bộ váy màu đỏ, da cô ấy rất trắng, mắt rất to, mái tóc đen dài tết rất nhiều bím tóc nhỏ, cô ấy còn nói chuyện với con.



- Nói những gì? - Anh hơi căng thẳng.



- Con nghe không hiểu, cô ấy chỉ nói mấy câu, hình như là tiếng nước ngoài, dù sao chắc chắn cũng không phải là tiếng Anh, con không hiểu được một từ nào cả!



Bạch Chính Thu gật đầu, nỗi lo lắng của anh càng tăng lên, anh lắc lắc đầu, nói:



- Sau đó thì sao?



- Sau đó người phụ nữ đó lấy một cây bút viết lên tường mấy chữ. - Con gái đang cố gắng hồi tưởng lại giấc mơ của mình.



- Viết chữ gì?



- Cô ấy viết không phải chữ Hán, cũng không phải chữ tiếng Anh, con không biết chữ nào cả, nhưng con đã cố ghi nhớ trong lòng, con có thể viết ra được!



Câu nói của con gái khiến Bạch Chính Thu giật mình kinh ngạc. Anh lập tức lấy giấy bút tới, đặt vào tay con gái, anh không biết mình có nên làm như vậy không, con gái chỉ là nằm mơ mà thôi, sao lại ép con gái hồi tưởng lại toàn bộ nội dung giấc mơ chứ. Có thể, điều này không hề tốt đối với con gái, nhưng Bạch Chính Thu mặc dù đã thầm chửi mắng mình, nhưng lại không thể nào khống chế được thứ cảm giác kỳ lạ đang trào dâng trong lòng.



Con gái ngẫm nghĩ giây lát, có thể con bé thực sự có trí nhớ và trí tuệ hơn hẳn người bình thường. Bàn tay trắng ngần nhưng lại rắn rỏi nắm chặt cây bút, từ từ viết ra trên giấy những đường nét đặc biệt, có đường thẳng, cũng có đường gấp khúc, những đường này tổ hợp lại, trông giống một loại chữ nào đó. Loại chữ phức tạp như vậy mà lại được một đứa bé con 10 tuổi không hề biết được ý nghĩa của từ đó viết ra trên giấy.



Những chữ đó đúng là không phải chữ Hán, Bạch Chính Thu gần như biết tất cả mọi chữ Hán, từ Giả cổ văn, Kim văn, cổ văn lục quốc đến chữ Triện, chữ Lệ và chữ Khải. Đó cũng không phải là tiếng Anh và tiếng phương Tây khác, bởi vì mấy chữ đó không hề có vết tích của chữ cái Latin hay chữ cái Slav, chữ cái Hy Lạp, càng không phải là chữ Ả-rập hay chữ Indy hoặc là chữ của những quốc gia khác. Nhưng có thể nhận ra đó là một loại chữ hình dây, là văn tự biểu âm, tuyệt đại đa số văn tự biểu âm trên thế giới đều bắt nguồn từ văn tự Phoenicia cổ đại, chúng đều có điểm chung về cách thức viết. Điều này hoàn toàn khác biệt với chữ viết tiếng Trung - văn tự biểu ý được cấu thành từ hình vuông, Bạch Chính Thu vừa nhìn là đã có thể phân biệt được ngay.



Thực tế là, Bạch Chính Thu biết rõ mấy chữ cô con gái vừa viết ra, nói một cách chính xác, đó là một từ đơn được tổ hợp thành từ bốn chữ cái. Loại văn tự cổ xưa này đã từng rất huy hoàng, nhưng nó đã bị chôn vùi hơn một nghìn năm cùng với sự sụp đổ của nền văn minh cổ xưa đó. Cho đến tận hơn một trăm năm trước, mới bị nhà thám hiểm phát hiện ra trong một đô thành cổ hoang phế, sau đó lại được các học giả nổi tiếng trên thế giới mất mấy chục năm nghiên cứu mới dần dần đọc hiểu được. Lúc này đây, thật không ngờ lại được một đứa trẻ 10 tuổi vừa mới bắt đầu học môn lịch sử viết ra một cách chuẩn xác, đúng là khó mà tin nổi!



Bạch Chính Thu lại rướn lông mày theo thói quen, anh có thể cảm nhận được cơ thể mình khẽ run rẩy. Mười mấy năm trước, anh đã được thầy giáo dạy thứ ngôn ngữ cổ đại đó, anh đọc lên từ đơn này:



- MU... YO...



Âm thanh hơi bị biến đổi, là cuống họng khẽ run một cách vô cớ, nhưng về cơ bản vẫn cứ đọc đúng hai âm tiết đó. Thực ra là một âm tiết, lẽ ra cần đọc là MUYO, anh hơi căng thẳng, vô tình đã kéo dài thành một âm tố.



Anh cảm thấy âm tiết này lập tức vang vọng khắp căn phòng, lan đến từng ngóc ngách trong phòng.



- Bố ơi, bố đang đọc gì vậy? - Cô con gái không hiểu âm tiết thoát ra từ miệng anh.



- Đừng hỏi nữa!



- Bố ơi, chắc chắn bố biết mấy chữ này, mấy chữ này có ý nghĩa gì vậy ạ? - Cô con gái cố truy hỏi.



Bạch Chính Thu trầm mặc hồi lâu, sau đó nói ra hai chữ tiếng Hán bằng âm thanh rất nhỏ.



- Lời nguyền!



Âm thanh này nhỏ đến độ chỉ có chính anh mới nghe thấy được.



- Bố ơi, con chưa nghe rõ, bố có thể nói lại lần nữa được không ạ?



- Câm miệng! Ngậm miệng lại ngay! - Bạch Chính Thu thực sự nổi nóng, tay anh run rẩy cầm tờ giấy đó lên, sau đó xé nát vụn tờ giấy cùng với mấy chữ văn tự cổ xưa đó, những mảnh giấy vụn bị anh tung lên giữa không trung, chúng lả tả rơi xuống đất trông như những bông hoa tuyết.



Con gái thấy vậy, nó cảm thấy bố không còn là nhân viên nghiên cứu dịu dàng nho nhã thường ngày nữa, mà biến thành một người đàn ông thô lỗ. Nó cuộn tròn người lại vào góc phòng, không dám lên tiếng.



- Bố xin lỗi con gái, con hãy quên giấc mơ này đi, cũng quên luôn cả mấy chữ đó đi, quên hẳn, mãi mãi không bao giờ nhớ lại nữa, sẽ không có ai quấy rầy con đâu.



Bạch Chính Thu ôm con gái vào lòng, trên người con gái tỏa ra mùi vị đặc biệt, còn cả mái tóc tơ mỏng manh của nó nữa, khiến anh lại một lần nữa nghĩ đến điều gì đó. Anh lắc lắc đầu, bỏ con gái ra, chỉ ngẩn người nhìn chăm chăm vào khuôn mặt cô con gái.



Con gái cúi đầu, như thể phải chịu nỗi oan ức, một lát sau, nó đột nhiên nói:



- Bố ơi, con muốn vẽ!



Con gái học vẽ tranh màu nước, từ khi nó còn rất nhỏ, Bạch Chính Thu đã phát hiện ra con bé có năng khiếu về hội họa, nên đã mời giáo viên dạy nó vẽ. Hiện nay, con bé vẽ những bức tranh màu nước đơn giản và vẽ phác họa đã khá thành thạo, Bạch Chính Thu quy định cho con gái mỗi ngày trong dịp nghỉ hè đều phải vẽ một bức tranh.



Lần này, con gái chắc là vẽ con đường rợp bóng cây, chép lại bức tranh màu nước ở trong sách Mỹ thuật. Con gái trước tiên dùng bút chì để phác họa những đường cơ bản, sau đó vẽ rõ nét hơn ở trong giới hạn khung hình, rồi dùng bút lông tô màu lên.



Con gái nhanh chóng vẽ xong phác họa bằng bút chì, nhưng Bạch Chính Thu phát hiện ra có điều gì đó không đúng, anh nhìn kỹ bức tranh trong sách, khác hẳn so với bức phác họa của con gái. Nhưng anh không lên tiếng, anh lặng lẽ nhìn con gái vẽ, tiếp đến, anh cảm thấy vô cùng kinh ngạc, đây vốn không phải là bức tranh vẽ con đường rợp bóng cây, mà là một đường chân trời.



Một đường chân trời rộng thênh thang, gần như là chỉ có đồng hoang và bầu trời. Đúng vậy, Bạch Chính Thu nhìn thấy rất rõ, phong cảnh con gái vẽ không phải là con đường nhỏ giống như trong sách Mỹ thuật.



Bạch Chính Thu đang định nhắc nhở sự nhầm lẫn của con gái, nhưng đây thực sự là nhầm lẫn sao? Con gái cố ý như vậy, anh nghĩ đến giấc mơ đêm qua của con gái. Anh không nói gì, lặng lẽ quan sát. Con gái đang trộn màu trên bảng màu, chủ yếu là màu đỏ đun cộng thêm chút màu nâu, biến thành màu đỏ thẫm gần với màu tím, giống như màu máu. Sau đó, con gái lại lấy đầu bút lông quyệt vào màu này, cẩn thận tô màu lên tờ giấy vẽ đã có hình phác họa bút chì. Con gái đã sử dụng bút lông vô cùng thành thạo, bức tranh nhanh chóng hoàn thành. Đúng vậy, đây là một đồng hoang, trong đó có một số viên đá vỡ và cát sỏi đá dăm, còn có vài gò đất lồi lõm.



Trong suốt quá trình con gái vẽ, Bạch Chính Thu không nói câu nào, chỉ lặng lẽ nhìn con gái vẽ cảnh đồng hoang.




Đồng hoang này rất quen thuộc đối với anh, lại một lần nữa khiến anh nhớ đến điều gì đó.



Con gái giơ bức tranh lên, cười nói:



- Bố ơi, con muốn dán bức tranh này lên tường.



Bạch Chính Thu vẫn không nói gì, chỉ làm theo lời con gái yêu cầu, dán bức tranh ở nơi trung tâm nhất trên bức tường trong phòng con gái. Nhìn bức tranh trên tường, anh chợt lùi lại mấy bước, trong đầu xuất hiện thứ cảm giác kỳ lạ, như thể bức tường dán bức tranh đó sắp đè lên người anh. Anh ngả người về phía sau theo bản năng, giơ tay về phía trước để chặn lại. Động tác này khiến cho chính anh cũng phải kinh ngạc, sao lại có thứ cảm giác này chứ? Có lẽ là do trời quá nóng, đó chẳng qua chỉ là một bức tranh mà thôi, anh lắc lắc đầu, bước ra khỏi phòng con gái.



Trong ngày hè nắng nóng dài đằng đẵng này, luận văn của Bạch Chính Thu chẳng viết được bao nhiêu. Những vết tích mà người Tiên Ti và Hung Nô cưỡi ngựa tung hoành khắp Trung Nguyên gần như đã bốc hơi hoàn toàn, cứ như thể họ vốn chưa hề tồn tại trên thế giới này.



Vợ tan làm về từ sớm, cô và Bạch Chính Thu cùng làm chung Viện Nghiên cứu khảo cổ. Thực ra là hồi học đại học, họ là bạn cùng trường, cùng một khoa, cùng chuyên ngành Khảo cổ, sau khi tốt nghiệp lại được điều về cùng một đơn vị, như thể số trời đã định sẵn là một đôi, điều này khiến cho bao người lúc đó vô cùng ngưỡng mộ.



Trở về nhà, cô vào bếp nấu rất nhiều món ăn chồng ưa thích, trong nhà bếp dần dần tỏa ra mùi hương thức ăn thơm ngào ngạt, nhưng Bạch Chính Thu lại vô cớ cảm thấy buồn bực và bất an.



Cuối cùng cũng đến lúc dọn đồ ăn lên, vợ lấy chiếc bánh gato chúc mừng sinh nhật cô mua ở cửa hàng bánh ngọt trên đường đi làm về. Cô tỉ mỉ cắm bốn mươi cây nến, sau đó lại châm từng cây một. Cô tắt đèn trong phòng, trong căn phòng tối đen, bốn mươi cây nến tỏa sáng lấp lánh, ánh nến chiếu rọi khiến khuôn mặt ba người đều ửng đỏ.



- Anh hãy ước một điều ước đi! - Vợ khẽ nói.



Ước điều gì đây? Bạch Chính Thu suy nghĩ thật kỹ, mặc dù trong lòng có chút bất an, nhưng cuối cùng anh vẫn cố trấn tĩnh lại, thầm cầu nguyện cho cô con gái có thể được bình yên suốt cuộc đời.



Sau đó, anh phùng má nín hơi, lúc đang định thổi tắt nến, con gái đột nhiên kêu lên:



- Bố ơi, con khó chịu quá! - Sau đó nó mở cửa phòng, lao vào nhà vệ sinh. Bạch Chính Thu vội chạy theo sau, anh nhìn thấy con gái nôn thốc nôn tháo, nôn hết những đồ ăn bữa trưa vào trong bệ xí.



- Con sao thế? Buổi trưa ăn phải đồ thiu à? Em đã nói với anh phải cất đồ ăn vào trong tủ lạnh mà anh toàn quên thôi. - Vợ lên tiếng trách móc Bạch Chính Thu.



Sắc mặt con gái rất khó coi, miệng kêu đau bụng. Bạch Chính Thu nói:



- Đưa con gái đến bệnh viện khám thôi.



- Thổi nến xong rồi hãy đi, hôm nay là sinh nhật anh. - Vợ muốn anh có được một sinh nhật hoàn chỉnh.



Anh lắc đầu, nói đầy kiên quyết:



- Không cần đâu, cứ đưa con gái đến bệnh viện đã.



Cả gia đình ba người bước ra khỏi phòng, nến vẫn đang cháy, cho đến khi đốt cháy vào lớp kem trên bánh gato, cùng từ từ tan chảy với kem.



Nửa tiếng sau, Bạch Chính Thu và vợ đưa con gái đến bệnh viện, đo nhiệt độ cơ thể, tiến hành một vài kiểm tra nho nhỏ, kết quả là cơ thể con gái hoàn toàn bình thường, cô bé rất khỏe mạnh, không có bệnh tật gì.



- Con gái yêu, rốt cuộc con thấy khó chịu ở đâu? - Trong bệnh viện đầy mùi thuốc sát trùng đặc trưng, Bạch Chính Thu băn khoăn hỏi con gái.



- Bố ơi, con không khó chịu chỗ nào mà! - Con gái vừa cười vừa nói.



Vợ lắc đầu nói:



- Chúng ta về nhà thôi!



Buổi tối, trên đường phố cũng có thể được coi là khá mát mẻ, có người còn ngủ cả đêm ngoài trời. Tối nay ánh trăng rất sáng, soi rõ bóng ba người nhà họ. Đường từ bệnh viện về nhà khá gần, đi một đoạn, chỉ cần qua đường là về được đến nhà.



Đèn xanh.



Họ đi lên vạch dành cho người đi bộ, con gái đi rất nhanh, nhún nha nhún nhảy đi qua đường, vợ thấy không yên tâm, nên rảo bước đi theo con gái, để Bạch Chính Thu đang bước chậm rãi lại phía sau.



Bạch Chính Thu vẫn bước chậm rãi trên vạch đường dành cho người đi bộ ở ngã tư, đột nhiên, anh nghe thấy thứ âm thanh nào đó vang lên bên tai. Anh nhìn thấy vợ đã bước hẳn lên vỉa hè, vợ đang ngẩn người quay đầu nhìn anh, môi mím chặt, còn con gái vẫn tung tăng đi về phía trước.



Âm thanh đó hình như phát ra từ chính trái tim anh, lại hình như được truyền từ một nơi xa xôi nào tới, nhưng anh lại nghe thấy rất rõ, như thể âm thanh này chỉ dành riêng cho anh. Âm thanh đó cứ lặp đi lặp lại một âm tiết đơn giản và cổ xưa - MUYO.



MUYO... MUYO... MUYO... Lại là từ đơn này, trong khoảnh khắc nó như muốn xé tung màng nhĩ và toàn bộ cơ thể anh, anh hiểu rất rõ ý nghĩa của từ đơn này, anh biết, lần này anh đã không thể tránh được kiếp nạn của mình, bao năm nay, cuối cùng cái ngày này cũng đã đến. Trong tai anh chỉ còn lại cái âm tiết này, như thể âm tiết này đã chiếm lĩnh cả thế giới, khiến cho anh không hề nghe thấy tiếng xe tải đang bấm còi inh ỏi vì kinh hồn thất sắc khi chợt nhìn thấy anh lúc chuẩn bị rẽ.



Không kịp nữa rồi, vợ phát hiện ra anh vẫn đứng yên ở ngã tư không hề nhúc nhích, cho đến tận khi đèn phía đường khác chuyển sang màu xanh, một chiếc xe tải chở mấy tấn bê tông đang rẽ sang hướng này. Vợ gần như có một thứ dự cảm chẳng lành, cô bắt đầu kêu gào thất thanh, nhưng, đã muộn mất rồi!



Khi Bạch Chính Thu cuối cùng cũng quay đầu sang nhìn, một luồng ánh sáng chói lòa đâm thẳng vào mắt khiến anh không thể mở mắt ra nổi. Mấy giây sau, khi anh nhìn rõ, anh phát hiện ra mình đã bay lên, đúng vậy, bay nhẹ nhàng như một con chim, bay thật cao. Anh đã nhìn rõ chiếc xe tải đó, người tài xế đang sững sờ ngồi trong buồng lái. Bạch Chính thu phát hiện ra khóe miệng mình đang chảy máu, xương sống của mình cũng đã bị gãy, anh lại cảm thấy mình bắt đầu rơi xuống. Con gái, anh tìm kiếm con gái giữa những cảnh vật xung quanh đang biến đổi không ngừng, cuối cùng, trong khoảnh khắc trước khi rơi xuống đất, anh đã nhìn thấy con gái, con gái đang đứng bên kia đường, đang mở to mắt nhìn anh, tạm biệt nhé, con gái, hãy sống thật tốt nhé con yêu, con sẽ trở thành một cô gái xinh đẹp, giống như... cô ấy.



Bạch Chính Thu rơi xuống đất, màu huyết não giống như màu sắc con gái đã hòa trộn nên trong bảng màu.



Vợ thét lên thất thanh, kêu gào như đứt từng khúc ruột, âm thanh ấy xuyên thấu đến tận trời xanh, làm nhức nhối trái tim cô con gái. Con gái chỉ có thể lặng lẽ thì thầm:



- Vĩnh biệt bố yêu!


 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 1-2


Lúc này là năm 2001.



Giang Hà bỗng nhiên thấy khát nước, trong cổ họng vô cớ bốc lên luồng khí nóng. Nó bắt đầu dâng lên từ trong dạ dày, rồi dần dần lan tỏa khắp toàn thân. Điều này khiến anh liên tưởng đến hơi nóng từ từ bốc lên từ sa mạc phía tây lúc mặt trời đứng bóng. Và cứ thế cả một vùng hoang mạc mênh mông vô tận hiện ra trước mắt anh. Hình ảnh ấy ngày càng rõ nét, nó bao phủ lên tất cả những gì đang hiển hiện trước mặt anh, trận cuồng phong của gió cát, hồ nước cạn khô, đồng muối nứt nẻ và cả những ốc đảo do mặt trời tạo ra từ hàng ngàn năm nay.



Anh nhìn đồng hồ, đã 10 giờ rưỡi tối. Căn phòng rất rộng. Trong phòng có mấy cái bàn và vài chiếc máy vi tính, trong đó có một cái đang bật, bên cạnh là những thiết bị khảo cổ hiện đại. Một bên tường kê một chiếc tủ kính. Bên trong tủ là mấy chiếc lọ đang trong quá trình phục chế lại. Phía trên cùng là những cái thuộc thời đại đồ đá mới[2], cho đến phía dưới cùng là những cái thuộc đời nhà Thanh, thời nào cũng có đủ. Chúng hoặc là đã vỡ chỉ còn lại mấy mảnh, hoặc là đã được phục chế lại trông mới tinh như vừa ra lò, cứ như một bộ sử ký Trung Quốc bằng hiện vật.



Ở góc tủ có một chiếc đầu lâu. Nó được chính tay Giang Hà đào ra từ một ngôi mộ thời nhà Đường ở cửa ải Thiểm Tây trong một lần thực tập khảo cổ trước lúc tốt nghiệp đại học. Lúc vừa đào được chiếc đầu lâu, hai cánh tay của cậu thực tập sinh Giang Hà run lẩy bẩy. Dường như chúng không còn là tay của anh nữa mà đã quay về một thời đại khác. Tuy biết rất rõ rằng những chiếc đầu lâu đã rữa nát hàng nghìn năm rồi, nhưng anh vẫn thấy sợ, biết đâu trong cái đầu lâu ấy bất ngờ rơi ra một con mắt của người chết. Sau đó, Giang Hà bắt đầu nôn khan. Thầy giáo hướng dẫn vỗ vai an ủi, còn đám thợ tham gia khai quật thì cười rộ lên với vẻ khoái chí. Cậu thực tập sinh lần đầu tiên tiếp xúc với thực tế được giao nhiệm vụ làm sạch chiếc đầu lâu. Anh lấy que tre gạt bỏ hết lớp đất quanh chiếc đầu lâu. Anh có cảm tưởng làm sạch một chiếc đầu lâu chẳng khác gì việc những thợ làm móng sửa móng chân cho khách. Sau khi gạt bỏ hết các bụi bẩn, anh dùng hoá chất chuyên dụng rửa sạch thêm lần nữa. Cuối cùng, một chiếc đầu lâu dữ tợn đã lộ diện. Sau này, thầy giáo hướng dẫn mới nói cho anh biết, chiếc đầu lâu này là của một Thái tử đời Đường bị chết yểu trong một cuộc chính biến cung đình.




Giang Hà đứng dậy, đi đến trước tủ kính, nhìn chằm chằm vào chiếc đầu lâu. Rồi anh khẽ lắc đầu, đưa mắt nhìn ra ngoài cửa sổ. Qua lớp cửa kính, anh nhìn thấy những hàng cây. Trong màn đêm, cành lá lay động trong gió, bóng chúng hắt vào phòng giống như vô số linh hồn đang nhảy múa. Đưa mắt nhìn qua đám lá có thể nhìn thấy trăng. Trăng đêm nay rất tròn. Mặc dù bị đám lá kia che khuất một phần nhỏ, nhưng ánh trăng vẫn xuyên qua lùm cây chiếu vào mắt anh.



Ngôi nhà này nằm ở đây nhiều năm rồi, thế mà những hàng cây còn tồn tại trước cả khi ngôi nhà được xây dựng. Ngôi nhà là trụ sở của Viện Nghiên cứu Khảo cổ, bốn phía bị bao bọc bởi những hàng cây. Điều này rất hiếm thấy ở thành phố này. Cổng Viện vắng ngắt, có một con đường nhỏ thông ra với thế giới bên ngoài, phải đi qua ba bốn chỗ rẽ mới có thể lại cảm nhận thấy sự ồn ào náo nhiệt của thành phố này. Giang Hà nhìn những hàng cây và bức tường bao bên ngoài cửa sổ, tự nhiên có một cảm giác kỳ lạ. Anh cảm thấy, đây như một nhà tù, còn anh đang bị giam ở bên trong, khó mà trốn thoát ra được.



Giang Hà bật thiết bị điện tử, sau đó đặt mấy lát cắt tế bào vào cổng quét của máy. Anh nhấp chuột vài lần. Cổng quét phát ra một tiếng nhỏ. Màn hình vi tính kết nối với thiết bị điện tử hiển thị một loạt các biểu đồ. Thiết bị này thường chỉ có anh phụ trách sử dụng, rất ít người có thể hiểu được ý nghĩa những biểu đồ này, nhất là mấy kỹ thuật viên lớn tuổi. Họ không quen sử dụng máy vi tính, chỉ đoán định dựa trên kinh nghiệm lâu năm. Biểu đồ thay đổi liên tục trên màn hình khiến anh cảm thấy hơi chóng mặt, mắt căng ra. Anh cố gắng giữ cho mình tỉnh táo, nhưng tất cả đều vô ích. Anh chỉ có thể đứng đó nhìn chằm chằm vào những biểu đồ kỳ quái đang hiển thị trên màn hình.



Bỗng nhiên, Giang Hà như phát hiện thấy điều gì đó rất đáng sợ từ biểu đồ đang hiển thị trên màn hình. Anh mở to mắt, vô cùng kinh ngạc. Anh thở mạnh, vội rời khỏi bàn máy, ngồi xuống một cái ghế, đưa mắt nhìn về chiếc đầu lâu bày trong tủ kính. Anh vô cùng sợ hãi.



Anh chợt nghĩ đến điều gì đó, vội loạng choạng chạy đến chiếc bàn ở bên cạnh. Bàn tay run run nhấc điện thoại lên, bấm số máy quen thuộc. Sau hồi chuông thứ hai, từ đầu dây bên kia một giọng nữ trẻ vang lên trong máy: - Alô?



Đó là một giọng nói mềm mại như lụa, đều đều, dịu dàng. Giang Hà thở nhè nhẹ, anh muốn kể hết cho cô nghe. Nhưng khi câu nói của anh từ cổ họng truyền đến miệng thì anh bỗng ngừng lại. Một tích tắc sau, câu nói đó đã bị anh nuốt chửng lại.




- Alô... - Cô vẫn đang đợi anh lên tiếng.



Tay anh cầm ống nghe khẽ run lên. Anh vẫn yên lặng.



Giọng cô trong điện thoại có vẻ lo lắng không yên:



- Alô, ai đấy, nói đi ạ, alô.



Lúc anh sắp gác máy, giọng cô vang lên trong điện thoại:



- Giang Hà à, có phải anh đấy không? Giang Hà, anh nói đi.



Giang Hà gác máy.




Căn phòng yên lặng như cõi âm, chỉ có những cành cây ngoài cửa sổ bị gió đêm lay động đập khe khẽ lên kính cửa tạo lên thứ âm thanh kỳ quái. Giang Hà đi đến trước máy vi tính, anh vừa định nhấp chuột tắt các chương trình đi thì phát hiện trên màn hình xuất hiện một thứ quan trọng. Biểu đồ chỉ đến một điểm mà anh không ngờ nhất.



Anh cảm thấy có gì đó không ổn. Sự việc đã vượt quá bất cứ sự tưởng tượng nào của anh. Anh không thể chờ đợi để tắt máy theo đúng trình tự, mà ấn ngay vào nút bật tắt của máy tính để tắt, sau đó anh rút luôn phích cắm của thiết bị điện tử ra. Đèn đỏ ở cửa sổ máy quét lập tức tắt lịm. Anh lấy mấy lát cắt tế bào ra.



Tiếng chuông điện thoại bất chợt vang lên.



Anh biết là cô đang gọi anh, nhưng anh không muốn nghe điện thoại lúc này. Anh mặc cho điện thoại cứ thế đổ chuông. Mỗi tiếng chuông reo như kim châm vào tim anh. Sau đó, chuông điện thoại di động của anh cũng vang lên. Anh nhìn vào màn hình, nhưng vẫn không nghe máy.



Giang Hà bất lực lắc đầu, vô cùng tuyệt vọng ngồi sụp xuống đất.



Tiếng chuông điện thoại vẫn vang lên trong phòng.


 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 2


Đường đến nhà tang lễ rất khó đi. Để đến cổng nhà tang lễ phải đi qua một con đường thường xuyên trong tình trạng tắc nghẽn. Nhiều khi, xe xếp thành hàng dài, nhìn không thấy đường ra. Có lẽ lẫn trong đám xe đó còn có vài chiếc xe tang chở thi thể. Ngộ nhỡ chiếc xe nào bị tắc ngay đằng sau chiếc xe tang thì thể nào mấy bác tài xế cũng lên tiếng chửi rủa con đường mà ai cũng sẽ phải đi qua này. Lúc này, Bạch Bích đang ngồi trên một chiếc taxi như thế. Chiếc xe tang phía trước ì ạch tiến từng bước chậm như rùa, giống như người sắp chết đang bò trên con đường dòng xe cuồn cuộn để đến nơi hoả táng, thiêu đốt chính mình.



Bạch Bích nhìn ra ngoài cửa xe, trời đã bắt đầu sẫm lại. Bây giờ là 3 giờ 45 phút. Cô ra khỏi nhà từ lúc 2 giờ rưỡi, tang lễ, thực ra phải gọi là lễ truy điệu, sẽ được tiến hành vào lúc 4 giờ chiều. Chỉ còn 15 phút nữa, nếu như đi bộ thì may ra còn kịp. Cô xuống xe ngay chính giữa dòng xe đang chen chúc, bước vội về phía vỉa hè. Những người đi trên vỉa hè phần lớn đều đeo băng tang trên cánh tay. Họ bước những bước đi vội vã nhưng không phải ai trông cũng đau buồn. Bạch Bích rảo bước nhanh hơn. Gót giày nhọn của cô gõ xuống nền xi măng phát ra những tiếng kêu nghe rợn người. Cô mặc một bộ quần áo đen, khuôn mặt tuy không trang điểm nhưng vẫn rất ưa nhìn. Nếu như cô cài thêm một bông hoa nhỏ màu trắng lên trên mái tóc dài màu đen được búi gọn kia thì trông cô giống hệt như những người đẹp thường được miêu tả trong các tiểu thuyết ngày trước. Bạch Bích biết rằng, trong những câu chuyện đó, những người con gái như vậy thường là các goá phụ trẻ, có chồng mới mất. Nhưng cô không giống họ, cô thậm chí còn chưa kết hôn. Ngày cưới của cô cũng không còn xa nữa, chỉ một tháng nữa thôi, cô sẽ là cô dâu. Thế mà, giờ đây tất cả đã không còn có thể xảy ra được nữa rồi. Bởi vì, lúc này, cô đang đi tới buổi tang lễ chính người chồng chưa cưới của mình.



Ba giờ 59 phút. Cô đã không đến muộn, vừa kịp bước được vào đại sảnh cử hành tang lễ. Đại sảnh đầy người, đông đúc, chen chúc và ầm ĩ. Mấy đứa trẻ con vẫn còn đang đùa nghịch. Cô cúi đầu, lặng lẽ ẩn mình vào một góc, cô không muốn bị người khác để ý tới. Cô nhìn thấy bố mẹ của Giang Hà. Họ là đôi vợ chồng già từ dưới quê lên. Nếu Giang Hà không chết, một tháng nữa thôi, họ sẽ là bố mẹ chồng của cô. Người tóc bạc tiễn kẻ tóc xanh, mất đi đứa con trai ở tuổi xế chiều khiến họ tiều tụy đi nhiều. Cô có đôi chút phân vân do dự. Cô không ghét bỏ gì họ cả mà chỉ vì cô vốn rất sợ những tiếng gào khóc kêu than.



Nhưng rồi, cô cũng bị người khác nhìn thấy. Mẹ Giang Hà chạy bổ về phía cô, nắm chặt lấy tay cô mà khóc. Nước mắt của bà rơi xuống mu bàn tay cô, nóng hôi hổi, rồi từ từ khô đi. Những giọt nước mắt này tạo cho cô một áp lực. Nó khiến cô cũng muốn trào nước mắt, nhưng lúc này một giọt nước mắt cô cũng không thể tuôn rơi. Cô tự nhủ, không biết liệu có phải cứ phải nhỏ nước mắt, phải khóc lóc kêu gào thảm thiết mới có thể chứng tỏ được nỗi đau đớn trong đáy lòng mình không. Thế nên cô cảm thấy có đôi chút sợ hãi. Đôi vợ chồng ông già nói với cô bằng giọng đặc âm địa phương. Bạch Bích gần như không hiểu một câu nào. Có điều, với biểu hiện của họ, cô biết rằng họ đã coi cô là người một nhà. Lúc này, cô bỗng cảm thấy trong người vô cùng khó chịu, khuôn mặt cô bắt đầu đỏ dần lên. Cô ý thức được rằng tất cả mọi con mắt có mặt ở đại sảnh này đang đổ dồn vào cô, như đang nhìn một goá phụ xinh đẹp, xem cô ta để tang chồng mình như thế nào.



Nghi lễ của buổi truy điệu bắt đầu. Bạch Bích bị người ta xếp cho đứng ở chính giữa hàng đầu tiên. Đó là một vị trí dễ gây sự chú ý nhất, đối diện ngay với di ảnh của Giang Hà. Bức ảnh Giang Hà với khuôn mặt rất đàn ông của anh đang nhìn cô mỉm cười. Cô cũng nhìn Giang Hà. Bỗng nhiên trong cô xuất hiện một ảo giác. Cô cảm thấy đó không phải là một bức ảnh, mà chính là Giang Hà bằng xương bằng thịt. Anh bước ra từ trong ảnh, nắm lấy tay cô, thì thầm vào tai cô vài câu. Nhưng trên thực tế, đó vẫn chỉ là một bức di ảnh được viền đen mà thôi.



Tiếp sau đó, bố Giang Hà bắt đầu đọc điếu văn. Lúc này, ông đã dùng tiếng phổ thông, tuy vẫn mang nặng âm địa phương nhưng mọi người vẫn có thể hiểu được. Đại ý của bài điếu văn là ông hồi tưởng lại những kí ức về quá trình người con trai mình từ một cậu bé sống ở vùng quê nghèo, phấn đấu học tập thi đỗ vào trường đại học ở thành phố, sau đó vào làm việc tại Viện Nghiên cứu Khảo cổ. Cuối cùng, ông còn nhắc đến việc, chỉ còn một tháng nữa thôi, con trai ông sẽ cưới vợ, được làm chú rể. Nhưng không ngờ lại xảy ra việc ngoài ý muốn này. Thế là kẻ đầu bạc tiễn người đầu xanh. Nói một hồi, ông có nhắc đến tên Bạch Bích, khiến các con mắt đều đổ dồn vào cô, hệt như đang ngắm nghía một món đồ nào đó. Điều này khiến toàn thân cô khẽ run lên. Đến bây giờ cô mới hiểu, trong con mắt những người tham dự lễ tang này, cô nghiễm nhiên được nhìn nhận như vợ của người đã chết. Chưa bao giờ cô nghĩ mình lại có ngày trở thành goá phụ. Cô mới 23 tuổi, rõ ràng là không thể quen được với điều này. Mặc dù, cô biết rằng về mặt pháp lý cô và họ chưa hề có quan hệ gì. Cô chỉ là một người con gái chưa chồng bình thường mà thôi. Vậy mà giờ đây, ít nhất cô còn phải ở nhà tang lễ hơn một giờ đồng hồ nữa để đóng vai người goá phụ trẻ. Trong mắt của rất nhiều người, cô nên làm tròn cái nghĩa vụ này. Nghĩ đến đây, cô bỗng cảm thấy tủi thân. Sự tủi thân này khiến cho nước mắt cô cứ tự nhiên muốn trào ra. Đôi mắt cô bắt đầu ướt đẫm nước. Thỉnh thoảng những dòng mắt khẽ trào ra bị cô nhẹ nhàng lau đi.



Tiếp đó, là đến lượt lãnh đạo đơn vị nơi Giang Hà làm việc, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Khảo cổ đọc điếu văn. Tên của Viện trưởng đương nhiệm là Văn Hiếu Cổ. Chỉ cần nghe đến tên là biết ngay người này sinh ra để làm cái nghề này. Văn Hiếu Cổ là đồng nghiệp của bố Bạch Bích lúc ông còn sống. Bạch Bích vẫn còn nhớ hồi nhỏ, Văn Hiếu Cổ thường đến nhà cô. Hễ đến là lại ngồi thảo luận cả buổi với bố cô về một chi tiết nào đó trong lịch sử vùng Tây Tạng. Bố Bạch Bích mất trong một tai nạn giao thông năm cô 10 tuổi. Từ đó về sau, Văn Hiếu Cổ càng thường xuyên đến và quan tâm đến mẹ con cô hơn. Bài điếu văn của Văn Hiếu Cổ có rất nhiều từ ngữ mỹ miều, nghe như một bản báo cáo khoa học. Sau đó, ông ca ngợi Giang Hà tuổi trẻ tài cao, có nhiều thành tựu trong các đề tài nghiên cứu khoa học, và rất có tinh thần học hỏi, tìm tòi... Nhưng Bạch Bích gần như chẳng nghe lọt tai lời nào cả. Cô chỉ nhìn vào đôi môi không ngừng cử động trên khuôn mặt lạnh tanh chẳng bao giờ bộc lộ chút cảm xúc nào của Văn Hiếu Cổ.




Sau khi các bài điếu văn được đọc xong, tiếng nhạc điếu bắt đầu vang lên. Trong giai điệu chậm rãi ru ngủ đó, mọi người lần lượt cúi mình ba lần trước di ảnh của Giang Hà. Tiếng nhạc điếu làm Bạch Bích nhớ đến lễ truy điệu của bố cô hơn mười năm trước. Năm ấy, Văn Hiếu Cổ 40 tuổi, đứng bên cạnh mẹ cô, tay giữ chặt áo mẹ cô, đề phòng người đàn bà goá bụa ngã gục xuống. Bạch Bích cũng cúi mình xuống theo mọi người, cô biết rằng, Giang Hà nếu đúng là đang nhìn cô, anh nhất định sẽ không để cho cô cúi lạy mình thế này. Thế nên, cô ngẩng đầu lên, nhìn tấm di ảnh của Giang Hà.



Sau đó, trong tiếng nhạc điếu, Bạch Bích bước theo mọi người đi cáo biệt di thể Giang Hà. Chiếc quan tài kính đặt sau tấm vải đen treo di ảnh. Giang Hà nằm yên lặng trong đó. Mẹ Giang Hà vừa nhìn thấy con trai liền gục lên quan tài mà gào khóc. Tiếng khóc như muốn gọi cho bằng được người nằm trong quan tài sống lại. Mặc dù rất thông cảm với họ, nhưng Bạch Bích vẫn thấy chóng mặt. Cô dừng lại ở một góc quan tài, lặng lẽ nhìn chăm chú vào người chồng chưa cưới. Lúc này, Giang Hà mặc một bộ comple nhập khẩu mới, đầu chải bóng, trang điểm cũng khá đẹp, chỉ có mặt là hơi trắng quá. Nhưng bình thường, anh vốn cũng đã là người có nước da trắng bệch, nên cô không cảm thấy sợ như khi nhìn người chết. Bạch Bích lại nhìn anh ở một góc nhìn khác. Cô cứ cảm thấy như anh bỗng mở mắt, mỉm cười với cô. Lại còn bộ comple của anh, nếu như anh còn sống thêm một tháng nữa, chắc anh cũng sẽ mặc bộ đồ như thế này để làm chú rể rồi. Và đến lúc đó, cô cũng sẽ được khoác lên mình chiếc váy cô dâu màu trắng tinh khiết. Cô biết dáng người mình rất hợp với váy cưới. Cô sẽ đứng trước cửa tiệc cưới, thu hút ánh mắt của tất cả những người qua đường, giống như lúc này đang thu hút ánh mắt của tất cả những người có mặt trong lễ tang. Trong lễ cưới, cô nghĩ, bố mẹ chồng cô sẽ rất vui sướng, cười hỉ hả, tuôn ra hàng tràng những lời chúc phúc bằng thứ tiếng nặng âm địa phương ấy. Rồi đến khi vào phòng tân hôn mà họ đã sớm chuẩn bị đẹp đẽ, Giang Hà sẽ cởi bỏ bộ comple, rồi áo sơ mi, rồi áo may ô. Sau đó, anh sẽ giúp cô trút bỏ bộ váy áo cô dâu bó chặt, vuốt ve thân thể cô, và sau đó...



Đã không còn có cái sau đó nữa, Bạch Bích tự nói với mình. Cô dừng những suy nghĩ lan man của mình lại, nhìn vào người chồng chưa cưới đang nằm trong quan tài. Lúc này cô không thể tưởng tượng ra Giang Hà khi anh cởi bỏ bộ comple, cởi bỏ tất cả quần áo có trên người thì sẽ trông như thế nào. Nói ra, ngay cả bản thân cô cũng không tin, cô chưa từng nhìn thấy cơ thể Giang Hà. Cô không biết các cơ bắp và làn da dưới lớp bộ quần áo của anh ra sao. Cô hy vọng anh có một bộ ngực nở nang với cơ bắp cường tráng, bởi vì anh thường xuyên được rèn luyện từ những lần đi khai quật bên ngoài. Nếu như anh không có được những bắp thịt rắn chắc thì cũng chẳng sao, chỉ cần anh cố gắng hết mình để hoàn thành nghĩa vụ là được rồi.



Sao lại nghĩ lung tung nữa rồi, cô lại một lần nữa cắt đứt dòng suy nghĩ của mình, chăm chú nhìn Giang Hà, đôi môi khẽ mấp máy nói:



- Anh chỉ là đang ngủ thôi, đúng không anh?



Cô đã từng có lúc nghĩ, nếu như người yêu cô chết, cô sẽ phủ phục xuống hôn nhẹ lên trán anh, nhưng cô không có chút cảm hứng nào với cái quan tài kính lạnh lẽo kia. Những câu chuyện lãng mạn trong các bộ phim truyền hình của Hồng Kông như thế chỉ lừa được nước mắt của những cô nữ sinh trẻ tuổi, còn với cô, chúng chẳng có ý nghĩa gì. Bạch Bích gật đầu với Giang Hà trong quan tài, sau đó có người đến đưa quan tài đi. Bố mẹ Giang Hà lại òa khóc. Tiếng khóc kinh thiên động địa nhưng chẳng thể ngăn cản được việc Giang Hà từ một người đàn ông cường tráng biến thành một đống tro tàn. Hơn nữa, trước khi biến thành đống tro tàn, thân thể anh đã bị rạch từ ngực xuống bụng trên bàn giải phẫu pháp y ở Sở Công an.



Vĩnh biệt, người chồng sắp cưới của em!



Bạch Bích đưa ánh mắt tiễn biệt Giang Hà vào trong lò thiêu, biến thành một làn khói nhẹ, biến thành một đống tro, một đống tro tinh khiết. Mặc dù cô là người rất bình tĩnh, nhưng cô vẫn thấy hơi buồn nôn. Cô lặng lẽ bỏ ra ngoài. Sau lưng cô, bố mẹ Giang Hà vẫn đang khóc. Những người khác thì đang bận hỏi thăm nhau xem cỗ đám ma tổ chức ở nhà hàng nào. Lúc đó, chẳng ai chú ý đến việc cô bỏ đi, ngoại trừ Hứa An Đa.



Khi Bạch Bích ra đến cổng nhà tang lễ, Hứa An Đa gọi tên cô. Bạch Bích quay đầu lại, nhìn thấy Hứa An Đa trong bộ quần áo thể thao màu đen, cô khẽ nói:



- Chào anh!



- Bạch Bích, em vẫn ổn đấy chứ?



Hứa An Đa cũng hạ thấp giọng. Nhưng Bạch Bích biết, thực ra bình thường anh ta chẳng bao giờ nói chuyện với giọng như vậy. Hứa An Đa là một người không an phận. Tuy cùng công tác ở Viện Nghiên cứu Khảo cổ, là đồng nghiệp của Giang Hà, nhưng anh ta và Giang Hà là hai người hoàn toàn khác hẳn nhau.



Bạch Bích lạnh nhạt trả lời:




- Thôi, anh đừng nói nữa!



Hứa An Đa nhìn cô bằng ánh mắt lạ lùng, giống như nhìn vào một di vật mới đào trong lúc khai quật. Anh khẽ nói:



- Việc xảy ra với Giang Hà, anh cũng rất đau lòng. Chúng ta chẳng ai ngờ được rằng anh ấy lại ra đi như thế. Chẳng được ăn cỗ cưới của các bạn rồi, thật tiếc quá!



Anh ta cố gắng làm cho giọng mình trở nên nghiêm túc. Có điều tất cả những điều đó đều khiến Bạch Bích cảm thấy có gì đó khác thường. Trước mắt cô lại hiện lên cảnh Hứa An Đa cưỡi chiếc mô tô phóng như bay trên đường phố, cô ngồi phía sau anh. Anh ta đội chiếc mũ lên đầu cô, còn mình thì để đầu trần cho gió mạnh thổi tung mái tóc quét qua mặt Bạch Bích.



Thực ra, trước khi quen với Giang Hà, cô đã quen Hứa An Đa rồi. Đó là một lần tình cờ, Hứa An Đa dùng mô tô đưa cô đến bệnh viện. Sau đó, hầu như ngày nào anh ta cũng tặng hoa cho cô. Nhưng Bạch Bích không có chút cảm giác gì với anh ta. Một lần, cô bị anh ta lôi đến dự một bữa tiệc sinh nhật. Trong bữa tiệc ấy, Bạch Bích đã quen với Giang Hà. Từ đó trở đi, Giang Hà bắt đầu bước vào cuộc sống của cô. Trong việc này, cho đến giờ, Hứa An Đa vẫn ân hận không hiểu tại sao lại đưa Bạch Bích cùng đến bữa tiệc sinh nhật ấy để cho cô và Giang Hà quen nhau.



- Tối hôm ấy, em nhận được một cuộc điện thoại, nhưng khi nhấc máy lên nghe thì phía bên kia không nói gì. Em biết chắc chắn cuộc điện thoại đó là của Giang Hà gọi đến. Em đoán là đã xảy ra việc gì, chứ không lẽ vô duyên, vô cớ sao lại gọi điện thoại cho em. Sau đó, em gọi điện về nhà anh ấy, không có ai nghe máy. Em lại gọi đến máy bàn của phòng nghiên cứu, cũng không có ai trả lời. Không ngờ rằng, đêm ấy anh ấy đã xảy ra chuyện, mà lại đúng ở chính phòng nghiên cứu...



Cô chợt ngừng lại, có lẽ do cô không muốn nói quá nhiều trước mặt Hứa An Đa.



Hứa An Đa gật đầu, nói:



- Em cũng đừng đau buồn quá. Có lẽ đó là cái số rồi.



Bạch Bích cảm thấy câu nói đó không giống với tính cách của anh ta, có lẽ anh ta còn che giấu điều gì. Cô hỏi:



- Anh mà cũng nói đến số mệnh à?



Trong ấn tượng của cô, Hứa An Đa là người chưa bao giờ tin vào số mệnh. Trên thực tế, anh ta là người chẳng sợ trời, chẳng sợ đất, dám ngồi canh mộ cổ một mình vào ban đêm.



Anh ta có vẻ chán nản, lắc đầu nói:



- Việc này em không hiểu đâu. Em không biết những việc xảy ra gần đây. Bọn anh đều thay đổi rất nhiều, anh cũng thay đổi rồi, đặc biệt là từ sau khi có chuyện xảy đến với Giang Hà.




Bạch Bích chú ý thấy ánh mắt anh ta có gì đó không bình thường.



- Đã xảy ra chuyện gì vậy anh, Giang Hà giấu em, anh cũng giấu em, nói cho em biết đi, mau nói cho em biết đi! - Bạch Bích truy hỏi.



- Không, em không cần biết những chuyện này làm gì.



- Vì sao?



Hứa An Đa cúi đầu, khẽ nói:



- Xin lỗi em, anh có chút việc bận, anh đi trước đây.



Nói xong, anh ta quay người đi ra phía cổng. Chiếc xe mô tô nội địa màu đỏ của anh ta dựng ngay trước cổng. Hứa An Đa ngồi lên mô tô, đội mũ bảo hiểm, khởi động máy, tiếng ống xả vang lên pằng, pằng, pằng...



Bạch Bích vẫn còn muốn nói thêm vài điều nữa. Cô nhìn thấy Hứa An Đa quay đầu lại, ánh mắt nhìn như muốn thể hiện một sự xin lỗi, nói to một câu tạm biệt, rồi phóng mô tô lên đường cái. Lúc này trời đã bắt đầu nhá nhem tối, đám ùn tắc trên đường cũng đã dãn dần. Chiếc mô tô đỏ như một tia chớp nhanh chóng biến mất trên đường.



Bạch Bích bỗng cảm thấy kiệt sức, cô không biết mình muốn đi đâu. Có lẽ bố mẹ Giang Hà đang chờ cô để cùng ngồi ăn cỗ đám ma, nhưng cô sẽ không đi. Cô biết rằng Giang Hà cũng không để ý đến những việc này. Cô ngẩng đầu lên nhìn đám mây đen trên bầu trời của nhà tang lễ, cô nghĩ, có lẽ giờ này Giang Hà đang ẩn mình trong đám mây đen đó nhìn cô.



Đi đâu bây giờ đây? Bạch Bích thầm hỏi mình.



Trời đã bắt đầu tối, trong bộ đồ đen, cô đi xuyên qua thành phố.


 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 3


Đi đâu bây giờ đây?



Hứa An Đa cũng đang tự hỏi mình câu hỏi này. Lúc này anh không muốn về nhà. Anh chưa bao giờ coi căn phòng không đầy 20m2 kia là nhà của mình. Lái mô tô tạt vào ven đường, anh đến một quán ăn nhỏ, ăn qua quýt chút thức ăn, coi như là bữa tối. Sau khi ăn xong, anh mua mấy lon bia Thanh Đảo. Anh cứ thế ngồi ở ven đường nốc bia. Bọt bia dính vào cằm chảy xuống làm ướt quần áo anh. Sau đó anh ợ một cái, miệng anh đầy mùi bia, mặt anh chắc chắn đã hơi đỏ. Nhưng anh mỉm cười, vận động chân tay như tự chế giễu mình. Lúc này anh mới thấy tâm trạng thoải mái hơn một chút. Rồi anh leo lên mô tô, lao ra đường. Chiếc mô tô màu đỏ này đã theo anh mấy năm nay, cùng anh đi qua rất nhiều nơi. Có một lần, thậm chí anh còn đi mô tô đến nơi khảo quật. Chiếc mô tô dựng ở cạnh một di chỉ cổ đại trong một sơn thôn hoang vắng, trông rất chướng mắt. Tóm lại, trong con mắt của mọi người, Hứa An Đa là kẻ ngoại đạo. Anh sinh ra không hợp với nghề này cho dù anh có đủ sự gan dạ và sự đam mê khám phá cần thiết cho công việc khảo cổ, nhưng anh lại thiếu đi sự kiên nhẫn. Điều đó đã hại anh. Vì thế, khi Giang Hà đã có thể đảm nhận công việc một cách độc lập thì anh vẫn chỉ là cấp dưới, giúp việc cho người khác. Đến ngay cả Bạch Bích, anh cũng để cho Giang Hà cướp mất. Thực lòng, đúng là anh cũng có đôi chút đố kỵ với Giang Hà. Thế nhưng, cho dù tính cách của họ có khác nhau thế nào đi chăng nữa, thì cũng chính sự khác nhau về tính cách đó đã khiến cho họ trở thành đôi bạn thân.




Giờ đây, người bạn thân nhất của anh đã chết rồi.



Tăng tốc. Rượu cuối cùng đã phát huy tác dụng. Đầu anh rất hưng phấn, mũ bảo hiểm của anh không che mặt. Anh há to miệng. Gió cứ thế liên tục thổi như rót vào anh khiến anh cảm thấy thật mát mẻ. Mỗi lần cần giải sầu, anh đều thế này. Có những lúc, anh cứ phóng đi như thế cho đến lúc bị cảm lạnh. Nhưng anh không màng, bây giờ tốc độ có lẽ đã vượt qua 80km/h, ở đoạn đường này chạy như thế là rất nguy hiểm. Có mấy chiếc ô tô chạy ngược chiều, lúc gần đâm vào nhau, anh mới đánh tay lái. Phía sau vọng lại tiếng chửi: “Muốn chết à!” thoảng qua tai anh trong tiếng gió thổi vù vù. Chất cồn trong người làm cho máu anh sôi sùng sục. Anh hầu như quên hết mọi nguy hiểm.



Trong đầu anh chợt hiện lên hình ảnh Bạch Bích, người goá phụ bé nhỏ ấy. Có lẽ không nên dùng từ này, vì cô ấy còn chưa lấy Giang Hà cơ mà. Khuôn mặt của cô cứ dao động trước mắt anh. Anh thích khuôn mặt ấy. Ngay từ lần đầu tiên nhìn thấy khuôn mặt ấy, anh cảm thấy có một sức hấp dẫn đặc biệt. Đó không đơn giản là sự thích thú giữa nam và nữ mà có điều gì đó sâu sắc hơn, đến mức anh không dám tấn công mạnh mẽ như thói quen mà anh vẫn thường làm khi theo đuổi những người con gái khác. Hôm ấy, Bạch Bích bị ngã trên đường vì bị một chiếc xe đâm phải. Thực ra cô ấy bị thương không nặng lắm, chỉ xây xát qua loa. Hứa An Đa đi mô tô qua, nhìn thấy cô. Thế là anh chủ động mời cô lên xe đưa đến bệnh viện. Anh vẫn nhớ cảm giác lúc Bạch Bích ngồi phía sau anh, lạnh lùng, không nói không rằng, người hơi run run, giống như một bức tượng Phật bằng sứ trắng. Đồ sứ thì không thể nặng tay được. Một người làm nghề khảo cổ như Hứa An Đa quá hiểu điều đó, nên anh trước sau không dám vội vàng. Anh chỉ cảm thấy Bạch Bích là một người con gái không giống những người con gái khác. Trên người cô toả ra một sức mạnh nào đó khiến người khác không dám lại gần. Về sau, anh mới biết bố của Bạch Bích tên là Bạch Chính Thu, là lão tiền bối ở Viện Nghiên cứu Khảo cổ, là bạn học của Viện trưởng Văn Hiếu Cổ. Mười mấy năm trước, ông đột ngột qua đời trong một vụ tai nạn giao thông. Nhưng rồi cuối cùng Bạch Bích đã bị Giang Hà cướp đi mất, Giang Hà còn chưa kịp đợi đến ngày chính thức có được cô. Không nghĩ đến cô ấy nữa, Hứa An Đa lắc đầu, rẽ vào một con đường nhỏ tối tăm.



Tiếng nổ của xe mô tô vang lên trên con đường nhỏ tĩnh mịch. Anh không biết bây giờ là mấy giờ, có lẽ đã khuya lắm rồi. Anh bỗng nhiên nhớ đến câu anh nói hồi chiều với Bạch Bích: “Có lẽ đó là cái số rồi.”



Số mệnh, anh xưa nay vốn không tin vào những điều này. Anh chỉ tin vào chính mình. Song, bây giờ anh không còn tin vào chính mình nữa. Anh biết rằng, anh đã không thể nắm giữ được số phận của chính mình. Anh chẳng qua chỉ như một con côn trùng nhỏ, một côn trùng sắp chết. Đó là một sức mạnh không thể kháng cự lại, bất cứ lúc nào cũng có thể lấy đi sinh mạng của anh. Anh vẫn còn nhớ rõ từng câu Giang Hà nói với anh trước khi xảy ra chuyện. Anh có thể cảm nhận được nỗi sợ hãi ẩn giấu trong ánh mắt của Giang Hà. Có lẽ cậu ấy đã sớm có linh cảm. Lúc này anh đã tin bạn mình. Đó thực sự là một sai lầm. Tất cả mọi người đều phạm phải sai lầm này, giờ là lúc phải trả giá.




Anh hiểu rằng, Giang Hà không phải là người chết đầu tiên và càng không phải là người cuối cùng.



Người tiếp theo sẽ là ai đây?



Một cơn gió lạnh thổi qua, Hứa An Đa bỗng nhiên thấy tỉnh táo lạ thường. Anh lắc mạnh đầu, nhìn xung quanh bốn bề chỉ toàn một màu đen. Anh không nhìn thấy rõ thứ gì cả. Anh chưa đi qua đây bao giờ, có lẽ anh đã bị lạc đường. Chất men làm cho bụng anh hơi khó chịu, anh cúi đầu, nôn oẹ một hồi, nhưng chẳng nôn ra được gì. Lúc này anh mới cảm thấy bất an, nỗi bất an này đến từ trong xương tủy anh.



Trong khoảng khắc, anh nhớ đến khuôn mặt của Giang Hà nằm trong quan tài kính. Bây giờ Giang Hà đã thành một đống tro tàn rồi. Tiếp đến, anh lại nhớ đến một điều khác. Điều này khiến tay anh run lên. Anh không còn nắm nổi tay ga được nữa. Đây mới thật sự là sự sợ hãi. Hứa An Đa, con người tự cho mình không biết sợ là gì, giờ đây bắt đầu thấy sợ hãi bao trùm.




Màn đêm mênh mông.



Anh giảm tốc độ, cho xe đi thật chậm. Chạy đến cuối con đường nhỏ, anh nhìn thấy một con đê xanh, thì ra là sông Tô Châu. Anh cho xe chạy đến bên bờ sông, nhưng anh không nhận ra mình đang ở đoạn nào. Con đường ven sông Tô Châu vắng vẻ, dường như chỉ có một mình anh. Bánh xe quay chầm chậm, đưa anh đi trong đêm tối mênh mông, đến nơi mà anh chưa hề biết.



Hứa An Đa nghe thấy một tiếng kêu khe khẽ... Cứu tôi với.



Đó là tiếng kêu cứu của chính anh.


 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 4


Đó là một khu chung cư bình dân ở bên bờ sông Tô Châu. Do địa thế đẹp nên dạo này giá phòng đều tăng lên nhưng vẫn có nhiều người chuyển đến ở. Trong đó có một toà nhà vừa mới xây xong chưa lâu, nên ban đêm cả toà nhà như chìm trong bóng tối, chỉ có duy nhất một ánh đèn hắt ra từ ô cửa sổ nhà trên cùng.



Đằng sau ô cửa sổ đó là một căn phòng vừa mới sửa sang xong. Trong phòng không có đồ đạc gì, chỉ có độc một chiếc máy tính kê gần cửa sổ. Chiếc máy tính gần như được bật suốt đêm. La Chu đang ngồi trước màn hình viết kịch bản. Anh liếc nhìn đồng hồ, đã gần 11 giờ rồi. Từ lúc ăn cơm tối xong đến giờ, anh giống như người đang cố nặn bóp tuýt đánh răng đã hết, chỉ gõ được chưa đầy 300 chữ. Những chữ này giống như những bọt thuốc đánh răng, dính trên màn hình, cứ được bôi lên, rồi lại lau đi.



Điều hoà trong phòng vẫn chưa lắp xong. La Chu mở toang cửa sổ cho gió sông thổi tung mái tóc dài của anh. Tóc anh rất dài, nhưng không phải loại tóc dài đến vai, lại thêm khuôn mặt đầy góc cạnh, khiến người khác khó mà có thể đoán được anh làm nghề gì. Mà đúng là thực sự anh chẳng làm nghề gì. Mấy năm trước, anh làm biên tập cho một tạp chí của nhà nước, về sau tạp chí này đã đóng cửa vì lượng phát hành được quá ít, chỉ có mấy trăm tờ. Từ đó anh thành ra thất nghiệp. Nhưng La Chu vốn là người thích tự do. Anh gửi bài cho các loại báo, các kiểu tạp chí. Lúc mới đầu, anh chẳng được đăng bài nào, chủ yếu là vì nội dung anh viết toàn theo trường phái của Borges[3] và Calvino[4]. Cho dù đến cuối cùng, anh có viết chúng thành những câu chuyện tình cảm sướt mướt thì người đọc vẫn không tài nào hiểu được hoặc cho là chỉ có anh mới có thể hiểu được những gì anh viết. Về sau, La Chu đã thực tế hơn, anh bắt tay vào viết một số câu chuyện tình cảm mang tính “ký sự”. Tuy gọi là “ký sự” nhưng chúng được anh hư cấu còn mùi mẫn hơn cả các tiểu thuyết của Quỳnh Dao. Nhưng điều ngay cả chính anh cũng thấy bất ngờ là những tác phẩm đó của anh lại được chọn đăng. Nhờ vậy mà anh đã nuôi sống được chính mình. Hiện nay, La Chu và mấy người bạn đang thành lập một đoàn kịch. Anh phụ trách phần kịch bản kiêm đạo diễn. Tháng sau, vở kịch đầu tiên của họ sẽ phải công diễn rồi, nhưng đến lúc này, kịch bản vẫn chưa được viết xong. Thế nhưng việc diễn xuất thì đã sắp đặt xong, căn cứ vào phần phân vai và vào những phần kịch bản đã hoàn thành, các diễn viên đã bắt đầu luyện tập. Ban ngày anh chỉ huy tập ở sân khấu, tối đến ngồi ở nhà viết kịch bản. Anh đang lo, nếu đến hôm công diễn mà kịch bản vẫn chưa viết xong thì không biết phải làm thế nào? Chắc là những bạn bè đầu tư vào đoàn kịch dám chặt đứt ngón tay anh mất. La Chu đã từng nói bốc lên rằng, ngón tay của anh chỉ trong một đêm có thể gõ ra vở “Chờ đợi Godot”[5]. Tin vào lời nói khoác lác đấy của anh, bạn bè đã chịu rót vốn đầu tư lập ra đoàn kịch này, còn giúp anh tìm địa điểm và thời gian biểu diễn. Một trận gió thổi qua, anh bỗng thấy rùng mình, nhìn vào kịch bản đang dở dang hiện lên trên màn hình, La Chu tiếp tục gõ trên bàn phím...



Cảnh thứ 3: Vương mộ




Bối cảnh là một vùng rừng núi lẫn với sa mạc hoang vu, trên sân khấu bày mấy cái mô hình xương sọ động vật và đầu lâu người. Thời gian là vào ban đêm, trên phông treo một vầng trăng lưỡi liềm. Loa phát ra tiếng gió to thổi vù vù.



(Hoàng tử ra)



Hoàng tử (nhìn xung quanh, đưa hai tay ra nói):



- Đây là đâu nhỉ? (Ngẩng mặt nhìn lên trời) - Đêm đã khuya, trăng đã lên. Ta đi theo đoàn tùy tùng hộ tống xe tang trên con đường dẫn đến Vương mộ. Bốn phía một vùng hoang vu, tịnh không một bóng người. Cuồng phong cuồn cuộn, bụi cát mù trời (dùng tay che mắt),(Bỗng nhiên một bàn chân giẫm lên một cái đầu lâu, hét lên một tiếng kinh hoàng).



- A! Đây là... Nhìn kìa, (vô cùng sợ hãi) xương người và xương ngựa chất thành đống ven đường. Có lẽ, tự cổ chí kim đã có vô số người chết trên con đường này (tâm trạng đau khổ). Không, không, Lan Na, Lan Na, họ đã đưa nàng đi đâu? Nếu nàng nghe thấy tiếng gọi của ta, nàng có đáp lại lời ta không?



Tiếp theo sẽ viết thế nào đây? La Chu lại thấy đau đầu. Có lẽ sẽ cho linh hồn La Na xuất hiện. Bên dưới sân khấu sẽ làm một cái công tắc, sau đó sẽ cho phun khói. Trong không khí mờ ảo như thế, sẽ cho Lan Na xuất hiện. Tiếp đó, linh hồn Lan Na sẽ dùng giọng giả thanh đưa ra lời khuyến cáo với Hoàng tử. Nàng kể việc mình bị người ta hãm hại vu cáo là phù thủy, còn bị chết oan hương tiêu ngọc nát, rồi thổ lộ tình yêu của mình với Hoàng tử. Nhưng nàng vẫn khuyên Hoàng tử đừng tiếp tục tiến lên kẻo có thể mất mạng. Tóm lại sẽ rất là thần bí, rùng rợn, như thế mới thu hút được sự chú ý của người xem, nếu không họ sẽ ngủ gật ở dưới mất. Nhưng viết vậy liệu có ai cho là anh đang nhái tác phẩm “Hamlet” của Shakespeare không nhỉ? Cũng là Hoàng tử, cũng là linh hồn oan khuất hiện lên vạch trần sự thật, chỉ có điều nhân vật Quốc vương sẽ được đổi thành một nữ nhi xinh đẹp yếu đuối. La Chu nghĩ đến đây lại thấy bế tắc, tiếp theo sẽ viết thế nào đây?



Cuối cùng anh đứng dậy, vận động một lúc hai bờ vai đang nhức mỏi. Sau đó anh ra đứng trước cửa sổ, nhìn trời đêm bên ngoài cửa sổ. Trong đêm tối, anh không nhìn rõ được dòng chảy của sông Tô Châu, chỉ có thể nhìn ra hàng liễu lờ mờ ẩn hiện hai bên bờ. Lại một cơn gió thổi từ sông vào làm anh thấy dễ chịu hơn đôi chút. Anh quyết định xuống nhà đi dạo. Năm phút sau, La Chu đã đến bên bờ sông. Cây cối và bờ đê làm anh thấy trong lòng nhẹ nhõm đi nhiều. Anh ngẩng đầu, đêm nay dường như chẳng có ngôi sao nào. Tối đến kinh sợ, chỉ có những ánh đèn trên các tòa cao ốc bốn phía xung quanh nhấp nháy. Từ hôm chuyển đến đây, đây đã là lần thứ bảy anh xuống nhà đi dạo vào lúc nửa đêm. Thực ra chỉ cần đi một vòng bên bờ sông, anh đã thấy có cảm hứng dạt dào, tiếp tục viết được thêm một chút kịch bản.



Ở đây rất yên tĩnh. Anh thường hay có thể nghĩ ra nhiều điều trong sự tĩnh mịch này. Và những điều này thường luôn xuất hiện trong các cuốn tiểu thuyết và kịch bản của anh. Nhưng những điều mà anh đã nhìn thấy đêm nay lại là cơn ác mộng của anh. Đầu tiên là tiếng mô tô phá vỡ đi sự yên tĩnh. Lúc đó, La Chu đang đứng giữa những hàng cây. Anh nhìn thấy một chiếc mô tô đang từ từ chạy trên con đường nhỏ dưới chân đê. Trong đêm tối, anh không nhìn rõ hình dáng của chiếc xe, chỉ thấy người lái xe có vẻ như có điều gì đó không bình thường. Còn cụ thể không bình thường như thế nào thì La Chu cũng không nói rõ được. Anh chỉ linh cảm có gì đó rất kỳ quái. Chiếc mô tô chạy chậm dần, cuối cùng cũng từ từ tắt máy. Nhưng người lái xe vẫn dùng hai chân rê trên đường cho bánh xe trôi về phía trước.



Hình như đã xảy ra chuyện gì đó. Người kia tháo chiếc mũ bảo hiểm ra ném xuống đất. Tiếng chiếc mũ cứng đập xuống đất phát ra tiếng kêu sắc nhọn khiến La Chu giật nảy mình. Sau đó, người kia ngửa đầu ra đằng sau, gần như là nằm ngửa trên yên xe. La Chu nghĩ, thằng cha này có lẽ say rượu rồi. Sự xuất hiện của người kia đã làm hỏng những suy nghĩ anh đang theo đuổi, khiến anh lại rơi vào tình trạng sốt ruột không yên. Anh tự nói với mình: “Đúng là xui xẻo!” rồi đi ra khỏi hàng cây, đi vào con đường lớn. Chiếc mô tô vẫn đứng yên trên đường. Lúc La Chu đi sang đường, ngang qua chiếc mô tô, anh rất tò mò muốn biết mặt người kia. Thế là anh tiến lại gần hơn. Anh đoán thằng cha kia chắc là đã ngủ ngay trên yên xe rồi.




Nhưng La Chu đã đoán sai. Người lái xe mô tô bỗng nhiên ngồi thẳng dậy, nhìn vào mặt anh. Khoảng cách của họ rất gần. Dưới ánh đèn đường lờ mờ, La Chu đã thoáng nhìn rõ khuôn mặt của người đó. Anh ta mặc một bộ quần áo thể thao màu đen, đầu tóc rối bời, tuổi tác chắc cũng trạc bằng La Chu, nhưng mặt đỏ lừ, mắt đục ngầu, từ trong lỗ mũi phun ra mùi bia rượu rất khó ngửi. Quả nhiên là đã say xỉn rồi. La Chu không muốn liên quan gì đến anh ta, cứ để anh ta ngủ một đêm trên yên xe như thế này cũng tốt, còn hơn là để anh ta lái xe chạy lung tung trong tình trạng say xỉn thế này. Nhưng hắn lại chộp ngay lấy tay La Chu, nhanh đến mức anh không kịp phản ứng. Trong phút chốc, anh còn nghĩ là đang mình bị cướp, hoặc chí ít cũng là gặp phải thằng lên cơn say rượu. Anh muốn giằng tay ra, nhưng không ngờ tay người kia quá khoẻ nên không tài nào giằng ra được. Người có đôi tay ấy chắc phải làm một công việc gì đó có liên quan đến chân tay. La Chu thấy hơi hoảng, định dùng tay còn lại đấm cho anh ta một quả, nhưng, người kia bỗng nhiên cất tiếng nói:



- Cứu, cứu tôi với!



Giọng anh ta rất nhỏ, rất khàn, nồng nặc mùi rượu nên La Chu nghe không rõ.



Người kia lại nói thêm một lần nữa:



- Cứu tôi với!



Lần này thì La Chu đã nghe rõ, có lẽ đây chỉ là những lời lung tung của kẻ say mà thôi. Cũng có thể đúng là anh ta thật sự cần giúp đỡ về việc gì đó, có thể là hỏng xe, hoặc là bị bệnh cấp tính. Nhưng giọng nói của người kia khiến La Chu thấy toàn thân ớn lạnh. Giọng nói đó như vọng lên từ địa ngục, mang nặng âm khí. Thêm vào đó, ánh mắt anh ta khi nói có vẻ rất tuyệt vọng, mắt mở to. La Chu cảm giác như mắt của anh ta sắp lồi cả ra ngoài.



Cứu tôi với... Lúc này, bên tai La Chu hầu như chỉ lùng bùng có ba tiếng đó.



Làm thế nào để cứu anh ta? La Chu bắt đầu thấy cuống. Một tay của anh còn bị anh ta nắm chặt, cổ tay đau rát. Anh rút điện thoại di động ra, quay số cấp cứu 120. Anh nghĩ rằng thằng cha này chắc uống quá nhiều rượu dẫn đến nhồi máu cơ tim.




Bỗng nhiên, người kia buông tay anh ra, nắm lấy tay lái xe mô tô. Anh ta khởi động xe, tiếng ống xả nổ vang một lần nữa lại phá tan bầu không khí yên lặng ven sông.



- Này, anh không được lái xe nữa! - La Chu muốn nhắc nhở anh ta.



Nhưng người kia không để ý đến, đến ngay cả mũ bảo hiểm anh ta cũng chẳng thèm đội, cứ thế phóng vụt đi, rồ ga, lại rồ ga. La Chu nhìn chiếc xe lao đi, trong lòng thầm nghĩ thằng cha này điên thật rồi.



Sông Tô Châu phía trước có một chỗ quẹo, phía trước là một hàng cây và bờ đê, cho nên trên con đường nhỏ đó có một khúc cua. La Chu nhìn thấy chiếc mô tô chạy như bay dọc theo con đường nhỏ ven đê. Sau khi chạy độ 100 mét với tốc độ phi thường như thế, chiếc mô tô đã không bám cua mà cứ thế đâm thẳng. Trời ơi, La Chu thở ra một hơi lạnh ngắt, anh hét lên:



- Coi chừng!



Nhưng chiếc mô tô chạy với tốc độ gần 100 km/giờ đã đâm thẳng vào bờ đê. Người lái xe nảy bật lên, cả thân người tung lên trời, sau đó lại từ từ rơi xuống, đúng ngay giữa đường. Thật không may, La Chu nhìn thấy đầu anh ta đập xuống đất trước.



Chiếc mô tô nằm quay ngang trên đường, bánh xe vẫn quay tít, nhưng mặt trên của bình xăng dính đầy óc. Cơ thể người đó vẫn đang co giật. La Chu thấy ghê người, bò ra ven đường nôn thốc nôn tháo.


 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 5


Bạch Bích không biết mình đã đi lang thang ở bên ngoài bao lâu. Cô thậm chí đã quên mất là mình đã ăn tối hay chưa, và không biết làm thế nào mà lại về được đến nhà. Sau khi dò dẫm trên những bậc cầu thang tối om, leo hết sáu tầng lầu, lục lọi rất lâu trong bóng tối để tìm chìa khoá, sau khi mở cửa nhà, cô phát hiện ra đã hơn 11 giờ đêm rồi.



Cô đóng cửa phòng, tay phải mò mẫm bật điện. Ánh đèn dìu dịu soi rõ khuôn mặt trắng bệch của cô. Cô bỏ giày, đi chân đất vào phòng, sau đó mệt nhọc cởi cúc, trút bỏ bộ áo vét màu đen trên người. Cô bật bình nước nóng, uống một ngụm nước lạnh to. Nước lạnh theo cổ tràn vào trong người, cô thấy bụng mình lành lạnh. Cô hít một hơi thật sâu, sau đó chăm chú quan sát căn phòng của mình. Đáng lẽ ra, đây sẽ là căn phòng tân hôn của cô và Giang Hà.



Tường nhà quét sơn màu vàng nhạt, thậm chí bây giờ Bạch Bích vẫn còn ngửi thấy mùi sơn thoang thoảng. Trần nhà màu trắng có trang trí hoa văn. Nền nhà phẳng phiu, nhẵn nhụi. Khung cửa là loại gỗ tốt và bóng lộn. Còn có bộ bàn ghế, giường, tủ và các đồ dùng điện tử khác. Giang Hà đã mua hết những thứ này nhân đợt khuyến mại vào dịp khai trương của một cửa hàng bán đồ gia dụng và điện tử. Hàng đẹp, giá lại phải chăng, quả là rất kinh tế. Trong bếp được ốp những viên gạch viền hoa văn kẻ sọc. Những đồ làm bếp đều là hàng ngoại nhập. Nhà vệ sinh cũng đã được sửa lại, đập bỏ một bức tường cho diện tích rộng hơn. Một bồn tắm lớn đặt nằm ngang ở phía trong cùng, khiến người ta dễ nảy sinh ra nhiều liên tưởng. Trong phòng ngủ, chiếc giường lớn được bao phủ bởi ánh sáng màu hồng như có gì đó rất cám dỗ. Nhưng bây giờ, cô đã không còn cần đến nữa rồi.



Những thứ này đã được hoàn tất từ ba tháng trước. Mọi việc đều do một tay Giang Hà lo liệu. Anh gần như đã dùng hết số tiền tích lũy được từ trước đến nay, hơn nữa còn vay mấy vạn tệ của bạn bè để chuẩn bị cho hôn lễ và tiệc cưới vào tháng tới. Bố mẹ Giang Hà ở vùng nông thôn hẻo lánh, gần như chẳng thể giúp đỡ được cho con trai điều gì. Còn bố Bạch Bích thì đã sớm qua đời, bản thân cô cũng dành dụm không được bao nhiêu. Điều này khiến cho họ không đủ tiền để mua nhà mới. Căn hộ này là của Viện Nghiên cứu Khảo cổ phân cho bố cô từ hơn 10 năm trước. Cho nên tuy gọi là phòng tân hôn nhưng thực ra vẫn là nhà cũ, chẳng qua là được cải tạo và trang trí lại mà thôi. Tuy Giang Hà rất kỵ với từ ở rể, nhưng trước khi có nhiều tiền, anh chỉ có thể tạm ở rể nhà của Bạch Bích. Vì anh cũng chẳng có nhà ở thành phố. Anh hiện đang ở trong ký túc xá của nghiên cứu sinh cạnh Viện Nghiên cứu Khảo cổ. Trong thời gian nâng cấp sửa chữa, Bạch Bích dọn đến ở nhà của Tiêu Sắt, người bạn thân nhất của cô. Trước đây một tháng, cô mới dọn về. Mong ngóng đến ngày thành hôn. Nhưng chú rể của cô đã không đợi được đến ngày ấy.




Bạch Bích uống thêm một ngụm nước lạnh nữa. Lúc này cô rất cần nước lạnh. Cô đi đến trước bàn trang điểm, ngắm mình trước gương. Đúng ra, sau một tháng nữa, cô sẽ ngồi trang điểm thành cô dâu trước tấm gương này. Mắt cô hơi đỏ, hốc mắt cũng vậy, khoé mắt hơi bẩn. Có thể là do không khí ở nhà tang lễ không sạch sẽ lắm. Hơn nữa cô cũng có khóc một chút. Mũi cô trông rất đẹp, lỗ chân lông hơi to một chút, phải giữ gìn không sẽ nổi mụn. Môi hơi tím, chắc là do cô vừa uống nước lạnh. Chiếc cằm nhỏ, gọn, rất xinh. Cô nghĩ có lẽ điều này đã lôi cuốn Giang Hà. Cô đưa tay lên vuốt ve làn da căng mịn, đó là biểu hiện của một làn da khoẻ mạnh. Chỉ có điều chắc do không khí hôm nay ở lễ tang nên da cô nhợt nhạt hơn bình thường. Đôi má ửng hồng hằng ngày cũng không thấy còn nữa. Cô lùi lại một bước, gỡ mái tóc cuộn sau đầu, mái tóc buông xuống. Gió từ chiếc cửa sổ đang mở lùa vào làm tóc cô khẽ bay trong gió.



Trên bàn trang điểm đặt một bức ảnh đôi của cô và Giang Hà. Có thể do cô vốn không thích chụp ảnh nên họ có rất ít ảnh chụp chung, chỉ có mỗi bức này. Phía sau hai người là cảnh đồng quê Giang Nam, đúng ra đây là một địa điểm khảo cổ mà Giang Hà và anh em ở Viện đi khai quật một di chỉ về bộ lạc cổ đại ở thời kì văn hóa Lương Chử. Anh đã đưa Bạch Bích đi cùng. Tất nhiên, với Bạch Bích, chuyến đi khai quật chỉ là một chuyến đi chơi xa mà thôi. Phong cảnh ở đó rất đẹp. Những cây cầu nhỏ ở Giang Nam bắc qua con sông nhỏ, khắp mặt đất là những bông hoa màu vàng rập rờn như sóng, nhưng dưới đất lại chôn đầy xương người chết và những vò, hũ của xã hội thị tộc. Trong ảnh Giang Hà đang mỉm cười. Anh cười quả thật trông rất điển trai. Đầu rẽ ngôi, trông sạch sẽ. Ăn mặc cũng rất đẹp, chẳng hề giống một người ở quê ra. Còn Bạch Bích đứng cạnh Giang Hà không có chút cảm xúc gì. Giờ nghĩ lại cô thấy có chút tiếc nuối. Có thể lúc đó cô đang mải nhìn những làn khói bay lên từ cánh đồng phía xa nên không để ý đến việc Hứa An Đa đã nhanh tay chụp cho hai người một pô. Nghĩ lại mới nhớ ra bức ảnh này chính là do Hứa An Đa chụp cho họ. Bạch Bích bỗng nhiên cảm thấy Hứa An Đa cũng không đến nỗi nào. Cô nhìn chăm chăm vào Giang Hà đang mỉm cười trong ảnh và lại bắt đầu suy nghĩ miên man.



Lần đầu cô tiên quen Giang Hà là ở bữa tiệc sinh nhật Hứa An Đa. Buổi tối hôm ấy, cô có cảm giác có một ánh mắt đang chăm chú nhìn mình nhưng cô không bắt gặp được ánh mắt ấy. Cho đến khi kết thúc bữa tiệc, sau khi cô từ chối lời yêu cầu của Hứa An Đa dùng xe mô tô đưa cô về mà tự đi bộ về, Giang Hà đã xuất hiện. Cô nhận lời đề nghị để Giang Hà đưa cô về nhà. Đường về nhà không xa. Họ đi bộ bên nhau, hầu như không nói gì, chỉ có ánh mắt của Giang Hà nhìn cô như muốn nói với cô điều gì.



Hôm sau Bạch Bích gọi cho Giang Hà, hẹn anh đi chơi. Cô cũng không hiểu vì sao lúc đó cô lại gọi điện thoại cho anh. Có thể đó là do trực giác, một thứ trực giác mà không ai có thể giải thích được. Từ giây phút Giang Hà nhấc điện thoại nói chuyện với cô, cô đã biết, thế là mối quan hệ giữa cô và Hứa An Đa chắc chắn sẽ kết thúc ở đây và bắt đầu với một Giang Hà trầm tư, ít nói. Cô lại nhớ đến ánh mắt của Giang Hà. Ánh mắt anh luôn lấp lánh, chuyển động không ngừng, như chứa chất một điều gì hoặc là đang ẩn giấu sự tự ti ở bên trong. Mà những người tự ti thường cũng có lòng tự trọng rất cao. Ngay từ lần đầu tiên nhìn thấy ánh mắt ấy, Bạch Bích đã biết anh là con người như vậy. Mặc dù chưa bao giờ nói ra, nhưng xưa nay Giang Hà không bao giờ chịu thua kém người khác mà anh luôn tìm được cách để vượt qua họ. Thành phố này vốn có thói quen kì thị người nông thôn. Điều này làm cho Giang Hà luôn phải sống trong sự nhẫn nhịn. Bạch Bích nhận thấy rất rõ sự nhẫn nhịn đó trong đôi mắt anh. Cô biết rằng đây là một sự bất bình đẳng vô lý, vì thế Giang Hà cần sự an ủi của cô.



Bạch Bích đi tắm, nước nóng xối lên người cô, phòng tắm mù mịt hơi nước. Trong màn hơi nước, cô như nhìn thấy đôi mắt của Giang Hà. Anh đang nhìn cơ thể mình chăng? Bạch Bích bắt đầu thấy hơi bối rối. Giang Hà chưa được nhìn thấy cơ thể cô, thậm chí chưa từng hôn cô, nhiều nhất chỉ vuốt ve bờ vai cô qua lớp áo bên ngoài. Điều này đối với một cặp sắp kết hôn quả là một việc không bình thường. Ngắm nhìn cơ thể mình trong bồn tắm, cô thấy hơi hối hận. Có lẽ nên cho anh nhìn, nhìn một lần thôi cũng được, thậm chí cho đụng chạm một tí cũng chẳng sao. Chứ như bây giờ, anh đã là một nắm xương rồi.



Cô tắm qua loa cho xong, rồi tắt đèn, lên giường nằm. Cô bắt đầu hồi tưởng lại thời gian hai tháng trước, vào cái ngày mà cô ra ga tàu hoả tiễn Giang Hà. Hôm ấy, bầu trời xám xịt như một chiếc chảo gang, nét mặt Giang Hà không bộc lộ chút cảm xúc nào. Anh xách hành lý đứng hẳn lên phía trước mọi người. Viện Khảo cổ kinh phí không nhiều nên mọi người khi đi công tác phần lớn đều đi tàu hoả. Bạch Bích chỉ biết rằng họ đi chuẩn bị tiến hành một cuộc khai quật khảo cổ. Điểm đến là hồ La Bố ở Tân Cương. Bạch Bích không nhớ hôm ấy Giang Hà đã nói những gì, chỉ nhớ trên sân ga tập trung rất đông người, âm thanh hỗn độn, còn có cả những lá cờ nhỏ màu đỏ của Viện Khảo cổ. Viện trưởng Văn cầm cờ, có cả Hứa An Đa ở đó. Giang Hà nhìn cô gật đầu, cô cũng nói với anh mấy câu. Đợi cho đoàn tàu chuẩn bị lăn bánh, Giang Hà mới lên tàu. Anh đưa tay lên vẫy cô, sau đó, đoàn tàu từ từ chuyển bánh, cô đưa mắt nhìn theo cho đến khi tàu khuất hẳn.




Bạch Bích chờ Giang Hà đúng tròn một tháng. Giang Hà không hề gọi điện thoại cho cô, một tháng trời bặt vô âm tín. Bạch Bích cũng gọi điện thoại đến Viện Nghiên cứu Khảo cổ nhưng họ đều trả lời là đoàn vẫn chưa về. Cho đến một buổi tối cách đây ba tuần, Giang Hà đột nhiên gõ cửa nhà cô. Việc Giang Hà xuất hiện bất ngờ khiến cô giật mình. Người anh đầy bụi bặm, khuôn mặt sạm đen vì nắng gió phía tây, da dẻ thô ráp, tóc tai rối bù, toàn thân toát ra thứ mùi rất kỳ quái, có lẽ là do lâu rồi chưa tắm. Anh cứ đừng đờ ra ở đó nhìn Bạch Bích trừng trừng đến mấy phút với ánh mắt rất lạ. Cho đến khi Bạch Bích ôm lấy vai anh, anh mới lùi lại mấy bước, không dám gần cô, cứ như thể anh sợ thứ gì đó trên người cô.



Giang Hà nói với Bạch Bích, anh vừa xuống tàu cùng với đoàn khảo cổ liền đến thẳng đây. Ngoài ra không nói gì nhiều, chỉ kêu khát nước. Bạch Bích rót nước cho anh. Giang Hà uống liền một lúc mấy cốc to, dáng vẻ như hổ đói vồ mồi đó của anh trông rất đáng sợ. Cứ như là anh vừa từ sa mạc về vậy. Nước từ trên miệng chảy xuống làm ướt quần áo anh. Quan trọng hơn là, Bạch Bích phát hiện ra tinh thần anh đang hoảng loạn, đang nghĩ về điều gì đó xa xăm. Anh hầu như không nhìn cô mà lại nhìn ra phía ngoài cửa sổ đằng sau cô. Bạch Bích lúc đó giật bắn người, nghĩ là phía sau mình có cái gì. Nhưng khi cô quay người lại nhìn ra cửa sổ thì bên ngoài chỉ có bóng đêm lờ mờ, thần bí.



- Anh nhìn gì đấy? - Bạch Bích hỏi.



Giang Hà lắc đầu, chuyển sang nhìn xuống đất, không trả lời. Bạch Bích có cảm giác anh có điều gì đó giấu cô. Cô nắm lấy đôi vai rộng của anh lay mạnh, nhưng cơ thể anh như một bức tượng điêu khắc, không hề động đậy. Bạch Bích thở dài, nói với anh:



- Chắc anh mệt lắm rồi, anh đi tắm đi rồi tối nay ở lại đây.



- Không, không được! - Giang Hà lắc đầu.



Bạch Bích dùng lời lẽ thân mật nói ám chỉ:




- Sớm muộn gì anh cũng dọn về ở căn phòng này, em chẳng thấy sao cả.



Sau đó cô ôm chặt lấy Giang Hà như sợ anh có thể biến đi mất ngay lập tức vậy. Hai tay cô như sợi dây mây quấn lấy cổ anh. Cô có thể cảm giác thấy cơ thể anh lành lạnh, mà lại rất thô ráp, như có thể chà rách làn da của cô. Thân thể cô đang nóng dần lên, nhưng cô càng nóng thì càng cảm thấy được cái lạnh toát ra từ người Giang Hà. Cô rất mong anh sẽ ở lại đêm nay. Cô muốn sưởi ấm cho anh, để cho anh không còn lạnh giá nữa. Nhưng Giang Hà vùng ra khỏi vòng tay cô, ngại ngùng nói:



- Xin lỗi em, anh phải về đây!



Nói xong, anh rời khỏi căn phòng cưới do chính anh chuẩn bị và không bao giờ quay lại nữa.



Lúc này, cuối cùng nước mắt cũng đang mặc sức chảy đầm đìa trên má Bạch Bích, nong nóng, làm ấm làn da của cô. Có lẽ những giọt nước mắt có tác dụng làm đẹp da. Cô cũng không biết cái kết luận ấy từ đâu ra. Nhưng có lẽ cứ nghĩ như thế cũng thấy dễ chịu đôi chút. Tâm trạng của cô nhờ đó mà cũng nguôi ngoai đi được phần nào.



Đêm nay, gối của Bạch Bích đã ướt đẫm nước mắt.


 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 6


Khi Diệp Tiêu trong bộ đồng phục cảnh sát đang cố nhấc đầu ra khỏi khuỷu tay, giương đôi mắt ngái ngủ lên nhìn thì phát hiện thấy mọi người trong phòng làm việc đang nhìn anh bằng ánh mắt kỳ lạ. Đôi mắt anh vẫn như đang muốn cụp xuống. Anh thấy hơi ngường ngượng. Lúc nãy anh lại vừa làm một giấc.




Cô bạn đồng nghiệp bàn bên cạnh nói nhỏ:



- Diệp Tiêu, đêm qua anh lại mất ngủ vì cái vụ án kỳ quặc kia chứ gì, về nhà nghỉ ngơi đi.



Đến lúc này Diệp Tiêu mới mơ hồ nghĩ đến một cái gì đó. Anh lắc chiếc đầu nặng nề. Chuông điện thoại vang, anh nhấc máy. Nghe xong, anh nhìn ra ngoài cửa sổ, ánh nắng chói chang bên ngoài chiếu thẳng vào mắt anh.




Sau đó anh vội vàng đứng dậy đi ra cửa.



Cô bạn đồng nghiệp ngạc nhiên hỏi:




- Anh đi đâu đấy?



- Phòng khám nghiệm tử thi! - Diệp Tiêu trả lời.


 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 7


Nửa tiếng sau, tiếng bước chân vội vã của Diệp Tiêu đã vang lên trong phòng khám nghiệm tai nạn của cảnh sát giao thông. Trong hành lang dài, một khoảng tối mờ. Trong nhà xác cạnh hành lang còn để rất nhiều xác người mặt mũi biến dạng vì bị tai nạn giao thông. Phần lớn trông đều rất thê thảm. Có nhiều người đầu một nơi chân tay một nẻo. Có lúc Diệp Tiêu cảm giác bốn bánh xe lao vun vút cũng nguy hiểm không kém một kẻ sát nhân tàn nhẫn.



Diệp Tiêu thay quần áo, bước vào phòng khám nghiệm, nhìn thấy xác một thanh niên đang nằm trên bàn phẫu thuật.



Hứa An Đa.



Hứa An Đa đã bị cởi bỏ hết quần áo, toàn thân ở trần. Anh ta lúc đó trắng như một cục tuyết, anh ta ca khoảng 1m70, trông rất cơ bắp, xem ra là người chịu khó luyện tập, hoặc do công việc thường phải đi dã ngoại. Gương mặt đã biến dạng hết, toàn máu và não.



- Nguyên nhân xảy ra tai nạn là thế nào? - Diệp Tiêu hỏi nhỏ người cảnh sát giao thông được giao thụ lý vụ tai nạn này.



- Có lẽ là do chạy xe sau khi uống rượu, vào lúc 11 giờ đêm, đầu không đội mũ bảo hiểm, đi một chiếc xe nội địa đời cũ, chạy như bay trên con đường nhỏ ven sông Tô Châu. Bởi vì chỗ này sông Tô Châu uốn khúc, anh ta không kịp xác định phương hướng, lao thẳng vào bờ đê phòng hộ, thân thể bị tung lên, đầu đập xuống mặt đường, chết ngay tại chỗ. - Người cảnh sát thuật lại quá trình xảy ra sự việc với giọng rất khách quan.




- Lúc đó bên cạnh không có xe cộ hay người đi đường nào à?



- Không có, con đường nhỏ cạnh sông Tô Châu bình thường vào ban đêm rất ít xe. Chỉ có một người báo án, anh ta nói rằng đang đi dạo ở bên ngoài thì phát hiện trước khi chết nạn nhân còn nằm trên xe mô tô dựng cạnh đường. Người báo án nói, nạn nhân khi ấy đột nhiên ngồi dậy, thái độ rất lạ, miệng đầy hơi rượu, mồm thì kêu: “Cứu tôi với!”



Khi đó người báo án cho rằng anh ta bị bệnh tim, thế là anh ấy gọi điện thoại cho cấp cứu 120. Đúng lúc đó, nạn nhân đột nhiên nổ máy phóng vụt đi. Sau khi chạy khoảng 100 mét tông thẳng vào đê phòng hộ.



- Cứu tôi với?



Diệp Tiêu bặm môi suy nghĩ rồi khẽ hỏi:



- Nạn nhân trước khi chết có tiền sử bệnh tim không?



- Tôi không biết. Cái này phải đợi kết quả khám nghiệm tử thi và điều tra xác minh bệnh án của anh ta.



- Thế quan điểm của anh thì sao?



Người cảnh sát giao thông tự tin trả lời:



- Đây chỉ đơn giản là một tai nạn giao thông, lái xe sau khi uống rượu say. Những lời kêu cứu của nạn nhân trước khi chết có thể là vì uống quá nhiều rượu dẫn đến sự khó chịu bên trong cơ thể. Đương nhiên còn bao gồm cả bệnh tim. Những chuyện về uống quá nhiều rượu dẫn đến những bệnh liên quan đến tim nhiều vô kể. Chờ một chút kiểm tra nồng độ cồn trong máu của anh ta là chúng ta sẽ biết ngay thôi. Những tai nạn kiểu này chúng tôi đã giải quyết rất nhiều. Anh cũng biết rồi đấy, có một số người không thể từ bỏ được sự mê hoặc của rượu, kết quả là tự mình hại chết mình. Cậu này còn là may mắn đấy, không hại chết người khác. Thế cũng là tích đức cho đời lắm rồi! Này anh bạn, anh có uống rượu không? - Anh ta bỗng nhiên vỗ vai Diệp Tiêu hỏi.



- Hả, anh hỏi tôi à? Tôi không uống rượu bao giờ. - Diệp Tiêu trả lời có chút bối rối.



- Thế thì tốt, rượu ấy mà, nó có thể giết chết người đấy. Mấy thằng cha không hiểu đạo lý này, cuối cùng cũng tự gánh lấy hậu quả. Này, liệu có cần thiết phải mổ khám nghiệm xác nạn nhân này không? - Anh ta nhìn Diệp Tiêu bằng ánh mắt hoài nghi.



Diệp Tiêu cảm thấy bây giờ không thể nhượng bộ được nữa rồi. Anh nói một cách quả quyết:




- Có chứ, nhất định phải mổ!



Người cảnh sát gật đầu, rồi thong thả nói:



- Thế thì bắt đầu thôi!



Trước hết là kiểm tra máu, kiểm tra nồng độ cồn trong máu. Kết quả cho thấy nồng độ cồn cao quá mức cho phép. Sau đó, người cán bộ pháp y cầm dao mổ. Tay anh thành thạo xẻ một đường ở cổ, rồi kéo một đường thẳng dần xuống đến phía dưới bụng. Diệp Tiêu nhìn thấy cơ thể Hứa An Đa trên bàn phẫu thuật bị rạch một đường dài ở giữa bụng giống như chiếc phéc-mơ-tuya của chiếc áo jacket trắng vừa được kéo xuống.



Sau đó, xương sườn của Hứa An Đa bị kéo chuyên dụng cắt đứt rồi gắp ra. Tiếp đó là đến phổi, được đặt vào một chiếc đĩa, giống như anh đầu bếp vừa múc thức ăn mới nấu xong vào đĩa để chuẩn bị mang lên cho thực khách. Nhưng phổi của anh ta màu rất thâm. Diệp Tiêu khi học ở trường Đại học Công an đã học qua môn phẫu thuật, không những thế, kết quả thi môn này của anh rất khá. Vì thế anh có thể phán đoán rằng Hứa An Đa khi còn sống là một người nghiện thuốc ham rượu. Tuy tuổi còn trẻ nhưng phổi đã bị lão hóa.



Sau đó là đến tim, bên trên phủ một lớp màng mỏng. Nhưng quả tim này lại hoàn toàn trái ngược với lá phổi. Nó rất khoẻ mạnh. Không thấy có biểu hiện gì của bệnh tim, cũng không có khả năng bị tắc động mạch. Nói tóm lại có thể khẳng định rằng, tim của anh ta không hề liên quan đến cái chết của anh ta. Tiếp đến là gan, lá lách, ruột, và thức ăn còn lưu trong dạ dày. Nhưng đều không phát hiện thấy có gì bất thường.



Mặc dù tất cả đều bình thường, nhưng nhịp tim của Diệp Tiêu lại đột nhiên tăng lên. Anh bỗng thấy chóng mặt. Trước đây khi học môn phẫu thuật, Diệp Tiêu cũng đã trực tiếp cầm dao phẫu thuật tử thi, nhưng anh chưa từng bị như thế này bao giờ. Ngoại trừ tuần trước, khi mổ khám nghiệm cho một nạn nhân ở Viện Nghiên cứu Khảo cổ có tên là Giang Hà, anh cũng bỗng nhiên có cảm giác kì lạ này. Anh điều chỉnh lại nhịp thở để giữ cho nhịp tim trở lại bình thường và gắng hết sức để giữ bình tĩnh, tránh không để cho người khác nhận thấy.



Mặc dù não Hứa An Đa đã nát bét nhưng theo thứ tự của ca phẫu thuật, cho dù thế nào đi chăng nữa phần não cũng vẫn phải mổ. Cán bộ pháp y hình như cũng chẳng hề ngại ngần gì. Con dao mổ trong tay anh ta vẫn rạch ngọt một đường vào cái đám lùng nhùng máu tươi và não đó. Bắt đầu từ đằng sau não, bóc bỏ những miếng da đầu còn dính lại, giữa đống não còn tươi lộ ra một lớp màu trắng.



Não đã bị đập hỏng hoàn toàn, dường như dịch não tủy đã bị chảy đến quá nửa. Cán bộ pháp y lấy ra phần não màu trắng còn sót lại, bên trên phủ vô số những nếp nhăn, nhưng có thể khẳng định, não đã bị biến dạng.



Diệp Tiểu hiểu rằng như vậy là không thể điều tra ra điều gì hết. Não đã bị biến thành thế này, cho dù có đầu mối quan trọng thì cũng không thể giữ lại được. Huống hồ não vốn là bộ phận phức tạp nhất trong cơ thể. Cho đến nay kết quả nghiên cứu não bộ vẫn còn rất hạn chế, nhiều vấn đề vẫn đang được nghiên cứu, có điều đó là việc của các nhà khoa học. Còn bây giờ, trong cái phòng khám nghiệm tai nạn giao thông này, anh đã không còn hy vọng có thể phát hiện ra manh mối gì, song trực giác như mách bảo Diệp Tiêu, nhất định vẫn còn một vấn đề nào đó ẩn giấu đang chờ anh khám phá. Có lẽ đó là một bí mật vô cùng quan trọng. Nhưng anh đã hoàn toàn bất lực.



Cán bộ pháp y cũng lắc đầu. Trên thực tế, một bộ não bị tàn phế thế này, nếu có gì khác thường cũng không thể xác định được. Anh ta chỉ có thể viết vào biên bản khám nghiệm dòng chữ “Kết quả khám nghiệm: bình thường.”



Công việc phẫu thuật tử thi đến đây kết thúc. Thân thể rách nát của Hứa An Đa được khâu kín lại như cũ, sau đó được đưa vào nhà lạnh. Có lẽ vài ngày nữa, anh ta sẽ biến thành một nắm tro. Những người khác thu dọn dụng cụ, dọn dẹp căn phòng hoặc ghi biên bản. Diệp Tiêu và người cảnh sát giao thông từ từ bước ra khỏi phòng, quay lại cái hành lanh tối om.




Bỗng nhiên một cánh tay vỗ mạnh vào vai Diệp Tiêu, anh gần như nhảy dựng lên. Nhịp tim mà anh vừa cố gắng lắm mới điều chỉnh được lại đập nhanh như lúc anh ở trong phòng mổ. Hoá ra là anh cảnh sát giao thông đi cùng. Anh ta nhìn Diệp Tiêu bằng một ánh mắt lạ lùng, nói:



- Vừa nãy lúc mổ tử thi, ánh mắt và sắc mặt của cậu có điều gì đó không bình thường. Cậu sợ à?



- Không, tôi có học qua phẫu thuật mà, có gì sợ đâu. - Diệp Tiêu cố phân bua, anh cần phải giữ được vẻ tự tin.



Người cảnh sát rõ ràng là không thỏa mãn với câu trả lời của Diệp Tiêu, nhưng anh ta chỉ cười xuề xòa rồi nói:



- Này, kết quả cho thấy ngoài việc lượng cồn trong máu quá cao ra thì mọi vấn đề khác đều bình thường. Anh thấy sao?



- Tôi không biết! - Diệp Tiêu trả lời.



- Tôi đoán chắc nạn nhân là một nghi vấn trong một vụ án giết người nào đó đúng không? Hoặc là một nhân chứng quan trọng chẳng hạn?



Diệp Tiêu lắc đầu:



- Không có gì đâu, tôi chỉ nghi ngờ anh ta có liên quan đến một vụ án mạng khác mà thôi.



Lúc này có một chiếc xe đẩy chở xác tiến đến. Hành lang lại vang lên những tiếng bước chân nặng nề. Diệp Tiêu vội vã rời khỏi đây.


 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 8


Bước qua cánh cổng lớn. Bên ngoài nắng chói chang nhưng nó khiến cho tâm trạng của Diệp Tiêu vợi hẳn đi. Anh thong thả hít thở mấy hơi, tưởng như vừa được trở về với dương gian. Anh lái một chiếc Satana màu trắng của Sở Công an chạy lên đường cao tốc.




Dòng xe cuồn cuộn, phía trước là một khúc cua ngoặt, đánh vô lăng một cái, đường lại thẳng trở lại. Diệp Tiêu bỗng nhớ lại khúc cua trên bờ sông Tô Châu tối hôm qua. Có lẽ, Hứa An Đa đã bị đâm trong một tình huống giống như thế này. Anh có thể hình dung ra hình ảnh Hứa An Đa đầu không đội mũ bảo hiểm lao như điên trên bờ sông Tô Châu trong đêm tối. Gió thổi tung mái tóc của anh ta. Trong đêm, mắt anh ta phát ra những tia kỳ lạ. Sau đó anh ta bật mạnh lên khỏi yên xe, rồi lại từ từ rơi xuống đất. Từ một lái xe đến một cái xác chỉ trong tích tắc. Bây giờ, Hứa An Đa đã nằm trong nhà lạnh rồi. Có thật là cần phải mổ xác anh ta không? Có lẽ chỉ là tai nạn do uống quá nhiều rượu. Những tai nạn kiểu này, ở thành phố này hầu như tuần nào chẳng xảy ra. Bỗng nhiên, trong đầu Diệp Tiêu lại hiện lên hình ảnh Giang Hà nằm trên bàn giải phẫu. Một tiếng rít chói tai vang lên, mồ hôi đổ ra lạnh toát sống lưng. Đó là tiếng phanh xe, suýt nữa thì anh đã đâm vào xe phía trước. Lái xe phía trước thò đầu ra đang định cáu với Diệp Tiêu, nhưng nhìn thấy xe của Sở Công an lại thụt đầu vào.



Diệp Tiêu lắc đầu, lái xe ra khỏi đường cao tốc, tấp xe vào ven một con đường nhỏ, tắt máy, đầu gục xuống vô lăng, từ từ nhắm mắt lại. Anh chẳng nhìn thấy gì nữa, chẳng nghe thấy gì nữa, chầm chậm chìm vào cơn sóng cuồn cuộn trong đêm tối.




Không biết là sau bao nhiêu lâu, có lẽ phải đến một thế kỷ. Trong bóng đêm, anh nhìn thấy một tia sáng, giống như một khe hở nhỏ trong hầm tối, tia sáng mảnh như một lưỡi dao, rạch đôi không gian hỗn độn. Trong không gian ấy, anh nhìn thấy cửa lớn của kho lạnh ở Sở Công an mở ra. Một bóng người xuất hiện ở hành lang trước cửa kho. Người đó đi về phía anh. Cuối cùng, khuôn mặt của anh ta xuất hiện trong tia sáng. Anh nhìn rõ khuôn mặt đó, đó là khuôn mặt của chính anh. Anh ta trông rất ung dung và bình tĩnh. Anh ta cười với anh, chìa tay ra, đặt lên vai anh. Sau đó anh ta lại chìa nốt tay kia ra, hình như muốn đưa vật gì cho anh. Diệp Tiêu sợ không dám đưa tay ra nhận, anh kêu lên một tiếng thật to, tiếp đó, anh nghe thấy tiếng còi xe ô tô vang lên.



Anh vội ngẩng đầu dậy, nhìn về phía trước, thấy mình đang ngồi trong xe ô tô, hoá ra vừa nãy đầu anh đè lên núm còi trên vô lăng. Một giấc mơ, chỉ là một giấc mơ mà thôi. Mà sao anh lại có thể ngủ quên trên vô lăng được nhỉ? Chắc có lẽ là do anh đã quá mệt. Anh thở gấp, nhìn ra bên ngoài. Trời đã tối, hôm nay anh phải mang xe về Sở.




Vừa nãy rõ ràng là mình đã hét lên. Vì sao lại mơ đến anh ta? Bây giờ anh ta đã là một đống tro tàn rồi. Có lẽ mấy ngày gần đây, những lời nói to trong mơ lúc anh ngủ gật ở phòng làm việc cũng có liên quan đến việc này. Diệp Tiêu không kịp nghĩ thêm nữa, anh khởi động xe đi về Sở Công an.


 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 9


Lúc anh về đến Sở Công an, mọi người đã về hết cả. Phòng làm việc trống không, im lặng đến lạ kỳ. Diệp Tiêu thấy khát, anh uống một cốc nước rồi ngồi vào bàn vi tính. Anh mở hồ sơ vụ án mạng của Giang Hà trong máy. Trên góc trái màn hình hiện lên tấm ảnh của Giang Hà. Nhìn khuôn mặt của Giang Hà, anh bỗng nhiên cảm thấy hình như khuôn mặt ấy sắp thò ra khỏi màn hình.



Diệp Tiêu nhắm mắt lại. Anh nhớ đến khung cảnh lần đầu tiên nhìn thấy khuôn mặt của Giang Hà. Đó là lúc vụ án mạng đầu tiên được chuyển từ Trung tâm tin tức đến phòng Trinh sát hình sự này. Hôm đó trời rất đẹp, ánh nắng chan hoà, còn trong cái hành lang dài ấy, lại đặc biệt tối và lạnh. Anh nhẹ nhàng đẩy cánh cửa phòng giải phẫu tử thi và nhìn thấy một nam thanh niên còn trẻ nằm trên bàn phẫu thuật. Cán bộ pháp y đang bắt đầu những đường mổ đầu tiên. Diệp Tiêu không dám làm kinh động người khác, lặng lẽ đi đến cạnh bàn giải phẫu, lúc ấy anh mới nhìn rõ khuôn mặt của Giang Hà.



Diệp Tiêu nhớ mãi cái khoảnh khắc ấy. Người thanh niên mà anh nhìn thấy trên bàn giải phẫu đó, chính là anh. Khi anh phát hiện mình đang trần truồng nằm trên bàn phẫu thuật, thân thể bị rạch một đường thẳng băng, lục phủ ngũ tạng của mình đều hiện ra trước mắt. Cái cảm giác ấy chưa ai từng trải qua - nhìn thấy xác mình bị mổ xẻ. Trong khoảnh khắc đó, toàn thân Diệp Tiêu lạnh toát, giống hệt như người chết đang nằm trên bàn giải phẫu kia. Anh đứng bất động nhìn mình nằm trên bàn giải phẫu, nhìn tim mình đang bị cán bộ pháp y lấy ra đặt trên khay nhôm trắng. Vào giây phút đó, anh cảm thấy trái tim mình bỗng đau nhói. Diệp Tiêu tự nói với mình: “Họ đang mưu sát, họ đang giết mình, không, mình đã bị họ giết chết, mình đã chết rồi!” Thế là anh hét lên với cán bộ pháp y:



- Dừng tay!



Cả căn phòng vang vọng tiếng kêu của anh, rồi sau đó lại trở lại với sự im lặng chết chóc vốn có.



Người cán bộ pháp y đứng ngây ra, ngẩng đầu nhìn Diệp Tiêu, ánh mắt lộ vẻ khinh miệt. Rồi anh ta lại nhìn vào bộ mặt của người thanh niên đang nằm trên bàn giải phẫu. Người cán bộ pháp y hơi ngớ ra, rồi lại ngẩng đầu lên nhìn Diệp Tiêu. Cuối cùng, một nụ cười thoáng qua trên môi anh ta. Anh ta gật đầu nói với Diệp Tiêu:



- Ồ, giống thật. Tôi nói là anh rất giống với người đã chết.




Nói xong, anh ta cúi người xuống, tiếp tục công việc của mình.



Diệp Tiêu cuối cùng cũng thở phào, hoá ra người chết nằm trên bàn giải phẫu kia không phải là anh, chỉ là người rất giống anh mà thôi. Anh lại nhìn vào khuôn mặt của người kia, những đường nét của cằm, gò má, rồi bả vai, sống mũi... tất tật đều rất giống. Nhưng, họ chưa đến mức giống nhau như hai anh em sinh đôi. Thoáng nhìn thì thấy hơi nghi hoặc, nhưng nhìn kỹ thì sẽ thấy không giống nhau đến thế. Tóm lại là vẫn có thể dễ dàng phân biệt được hai người với nhau. Hơn nữa, còn có một thứ anh chưa nhìn thấy. Đó là đôi mắt của người chết.



Mấy phút sau đó, Diệp Tiêu cứ cảm thấy mình hình như bị ngâm trong dung dịch phoóc môn, thành một tiêu bản cơ thể người sau khi mổ, cho đến khi thi thể của người thanh niên trên bàn giải phẫu được khâu lại, rồi đẩy vào nhà lạnh mới thôi. Sau khi bước ra khỏi nhà xác, Diệp Tiêu mới hỏi kỹ tên của người chết. Từ đó anh vĩnh viễn ghi nhớ cái tên đó - Giang Hà.



Diệp Tiêu cuối cùng đã trở về lại với thực tại, xem kĩ lại hết toàn bộ những tài liệu về người chết đang hiện trên màn hình.



Bỗng cửa bật mở, Diệp Tiêu giật nảy mình, quay đầu lại nhìn, mới phát hiện hoá ra là Phương Tân, một cán bộ pháp y trẻ mới được điều về Sở Công an làm việc. Phương Tân tuổi tác cũng trạc tuổi Diệp Tiêu, mắt đeo kính, trông rất thư sinh, mình khoác một chiếc áo choàng màu trắng.



Diệp Tiêu thở hắt ra, nói:



- Phương Tân, là cậu à, làm tớ giật cả mình!



- Thế cậu nghĩ là ai? Mấy ngày nay tinh thần cậu có vẻ không ổn định thế nào ấy? Tôi vừa đi qua dưới nhà, nhìn thấy phòng làm việc của các cậu vẫn sáng đèn, tôi đoán chắc cậu vẫn đang ngồi điên cuồng làm việc ở đây.



Diệp Tiêu cuối cùng cũng đã có thể cười.



- Thế còn cậu, sao vẫn chưa về? - Anh hỏi



- Chả phải vì cái nhiệm vụ mà cậu giao cho tớ đó sao.



- Đã tìm ra nguyên nhân cái chết thật sự của Giang Hà chưa?




Phương Tân nhìn qua báo cáo nói:



- Trong báo cáo khám nghiệm viết rõ nguyên nhân cái chết là do tim bị tê liệt, nói một cách rõ hơn: Là vì động mạch chủ bị tắc nghẽn dẫn đến tim bị ngừng đập đột ngột. Đây là nguyên nhân tử vong trực tiếp, nhưng Giang Hà và họ hàng anh ta đều không có tiền sử bệnh tim. Hôm qua, tớ đã đi xác minh lịch sử bệnh án của họ cũng không phát hiện thấy có bệnh gì liên quan đến tim. Bản thân sức khoẻ anh ta từ trước đến giờ đều rất tốt. Kết quả khám nghiệm đã chứng minh điều đó.



- Tất cả những điều đó, tớ đều hiểu. Vấn đề quan trọng bây giờ là Giang Hà vì sao vô cớ bị liệt tim mà chết?



Phương Tân dừng lại một lúc rồi mới nói:



- Diệp Tiêu, có lẽ khi giải phẫu Giang Hà chúng ta đã bỏ qua một cái gì đó.



- Bỏ qua cái gì?



- Hệ thống thần kinh của anh ta, tớ nghi ngờ có khả năng nguyên nhân từ hệ thống thần kinh dẫn đến liệt tim.



- Anh ta có bệnh về thần kinh sao?



Phương Tân lắc đầu:



- Không, ý tớ là hệ thống thần kinh có thể nhiễm một loại vi rút nào đó.



- Thế sao lúc xét nghiệm máu không phát hiện ra?



- Vi rút là một loại sinh vật kỳ lạ, nó tồn tại dưới dạng bán sinh vật và bán phi sinh vật. Bản thân nó không có khả năng tự sinh sôi, nảy nở nhưng khi xâm nhập vào tế bào của sinh vật khác, nó sẽ lợi dụng tế bào của sinh vật đó để phát triển. Sự tồn tại của vi rút đầu tiên là dựa vào vật chủ, nếu như vật chủ chết đi thì vi rút cũng hết chỗ dựa dẫm. Có loại vi rút có thể tồn tại lâu dài trên xác của người chết. Nhưng có loại vi rút sau khi vật chủ chết đi nó cũng mất luôn, không lưu lại một vết tích gì. Nếu sau khi chết mới khám nghiệm thì rất khó xác định.



Diệp Tiêu cau mày suy nghĩ một lúc:




- Thế rốt cuộc là có hay không có vi rút trong hệ thống thần kinh làm tê liệt tim của Giang Hà?



- Lúc này tớ chỉ là đang phán đoán, trước khi có những chứng cứ cụ thể tớ sẽ không đưa ra kết luận gì. Nhưng tớ sẽ không chịu buông xuôi đâu. Tớ còn lưu được mẫu máu và những lát cắt tế bào của Giang Hà. Tớ sẽ đi gặp thầy hướng dẫn. Thầy chắc sẽ giúp được điều gì đó.



Diệp Tiêu gật đầu.



- Thôi tớ về trước đây!



Phương Tân đi về phía cửa, bỗng anh quay đầu lại nói:



- Diệp Tiêu, nghỉ sớm đi. Tớ biết vì khuôn mặt của người chết giống cậu, cho nên cậu phải chịu một áp lực tâm lý rất lớn, đúng không? Đừng lo, tớ sẽ cố gắng làm rõ nguyên nhân cái chết của Giang Hà.



Diệp Tiêu cuối cùng cũng nhoẻn miệng cười, nói:



- Cảm ơn cậu!



Trong phòng chỉ còn lại một mình Diệp Tiêu, anh đứng lên, nhìn ra trời đêm ngoài cửa sổ. Một khuôn mặt hiện trên mặt kính cửa sổ. Đó là một khuôn mặt trắng bệch và đáng sợ.



Khuôn mặt đó là ai? Là Diệp Tiêu hay Giang Hà?


 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 10


Trên tường treo một bức tranh, cảnh trong bức tranh là một hoang mạc, rải đầy đá dăm và cát sỏi, đất cằn cỗi và một mặt trời lạnh lẽo.



Bạch Bích nhìn chằm chằm vào bức tranh. Đây là bức tranh cô vẽ và đã được treo ở trên bức tường này đã khá lâu.



Tiếng chuông cửa bỗng vang lên khiến cô giật mình. Cô lắc mạnh người, xoa xoa ngực, thở một hơi dài rồi mới từ từ đi ra mở cửa.



Thì ra là Tiêu Sắt. Cô ấy mặc váy ngắn bó sát người, tay cầm một bó hoa trắng to, bước nhanh vào nhà.



- Bạch Bích, cậu vẫn ổn chứ?



Giọng Tiêu Sắt rất hay, cứ như giọng của ca sĩ.



Bạch Bích gật đầu, đón lấy bó hoa trắng từ tay Tiêu Sắt, nhẹ nhàng nói:



- Cảm ơn cậu!



Cô rót cho Tiêu Sắt một cốc nước. Tiêu Sắt đã quá quen với nơi này. Cô cầm lấy cốc nước, mỉm cười nói:




- Bạch Bích, đừng khách sáo thế chứ. Hôm qua thật có lỗi quá, tớ đã không đến dự lễ tang của Giang Hà được.



- Thôi mà, không sao đâu, tớ không thích buổi tang lễ hôm qua.



Giọng Bạch Bích có vẻ mệt mỏi, ngoài Giang Hà ra, chỉ khi nói chuyện với Tiêu Sắt, cô mới không cảm thấy căng thẳng và áp lực, mới tự nhiên bộc lộ suy nghĩ thật của mình.



- Sự việc của Giang Hà, tóm lại là đã xảy ra như thế nào? Đột ngột quá, tớ thật không thể ngờ lại xảy ra sự việc này.



Khi nói, mắt của Tiêu Sắt sáng nhấp nhánh. Cô luôn trang điểm mắt để làm nổi bật chúng. Nhưng từ ánh mắt đó để lộ ra một điều gì đó làm cho Bạch Bích cảm thấy có chút kỳ lạ.



- Tớ cũng chẳng biết. Nguyên nhân chết không rõ ràng, có lẽ là do tai nạn. Có thể trong người anh ấy có cái gì đó bất ngờ phát tác. Anh ấy làm việc ở Viện Nghiên cứu đến đêm khuya, hình như có gọi cho tớ một cuộc điện thoại, nhưng không nói gì. Tớ gọi lại cho anh ấy nhưng không thấy nghe máy, có thể sự việc xảy ra vào lúc ấy. Sáng hôm sau, đã phát hiện xác anh ấy ở Viện Nghiên cứu, tớ chỉ biết có vậy thôi.



Tiêu Sắt gật đầu nghe hết lời của Bạch Bích, cô thở dài nói:



- Thật là kỳ lạ, có lẽ có thể viết thành một cuốn tiểu thuyết rồi ấy chứ, à không, viết thành một kịch bản, để tớ phân vai cho cậu nhá.



- Thôi đừng có đùa nữa mà!



Tiêu Sắt nghiêm mặt lắc đầu:



- Tớ nói thật đấy. Mấy hôm nay tớ cứ nghĩ, Giang Hà, con người này tuy có quê mùa một chút, nhưng thực ra anh ấy là người rất có sức hấp dẫn, cậu biết không? Có lúc, tớ cũng hơi thích anh ấy, bởi vì, anh ấy rất đàn ông. Tớ thích những người đàn ông như vậy. Đàn ông bây giờ chả mấy ai được thế. Những người mà cố dán vào mình chút lông mao trên ngực để cho mình có tí chất đàn ông thực ra là những kẻ ngu ngốc nhất.



Bạch Bích nghe Tiêu Sắt nói, như dần hiểu ra điều gì đó, rồi cô mỉm cười gật đầu nói:



- Bây giờ, tất cả đều kết thúc rồi, đừng nhắc đến những chuyện đó nữa.



- Được rồi, cậu sẽ sớm quên đi tất cả thôi.



Tiêu Sắt nắn bả vai Bạch Bích. Cô cảm thấy như thế là đủ rồi, bả vai Bạch Bích mềm mại, cả người cô cứ như đang mềm oặt ra, và khẽ run lên.



Phải khó khăn lắm Bạch Bích mới ngẩng được đầu lên, cười hỏi:



- Thôi nói chuyện khác đi, lần trước cậu nói đã tham gia một đoàn kịch, đang chuẩn bị tập vở mới à?



- Ừ, cậu đã nghe nói đến một nhà văn trẻ tên là La Chu bao giờ chưa? - Tiêu Sắt hỏi.




Bạch Bích lắc đầu.



- Ôi, anh ấy bây giờ chưa có tiếng tăm mấy, có lẽ là bởi vì những thứ anh ấy viết mọi người xem không hiểu, những người xem hiểu lại nói anh ấy là tầm thường. Hiện nay anh ấy đảm nhận viết kịch bản kiêm đạo diễn cho đoàn kịch của tớ. Chúng tớ đang tập một vở mới có tên là “Đoạn hồn Lâu Lan”.



- Đoạn hồn Lâu Lan? - Bạch Bích có vẻ không thích cái tên này.



- Sao thế?



- Không có gì, tớ cũng chẳng biết vì sao nghe thấy cái tên này lại thấy hơi khó chịu.



Tiêu Sắt an ủi:



- Có khi cậu lại bị căng thẳng thần kinh rồi. Từ nhỏ thần kinh cậu đã yếu, nói thật, có lúc cậu làm người ta lo lắng lắm. Tớ rất sợ không cẩn thận cậu có thể bị đưa vào bệnh viện tâm thần, thế thì tớ sẽ không được gặp cậu nữa mất.



Nói xong Tiêu Sắt cười vang.



Bạch Bích cũng muốn cười chính mình, nhưng cô cuối cùng vẫn không cười nổi, chỉ là cố gắng nhếch mép lên một chút. Cô thật sự khâm phục Tiêu Sắt, ở bất cứ đâu, vào bất cứ lúc nào cô ấy cũng có thể cười rất vui vẻ, cho dù cũng có lúc không phù hợp cho lắm. Nhưng bỗng nhiên, cô nghĩ đến mẹ. Cô khẽ nói:



- Tiêu Sắt, cậu nói đi, liệu tớ có giống như mẹ tớ không?



- Bạch Bích, cái cậu này lại nghĩ lung tung rồi. Thôi, cho tớ xin lỗi, vừa nãy tớ chỉ là nói đùa thôi. Đừng để ý đến làm gì. Cậu sẽ chẳng làm sao đâu. Mẹ cậu cũng sẽ sớm được về thôi.



Tiêu Sắt đưa tay ra vuốt lên mái tóc của Bạch Bích, rồi từ từ thả cho những ngón tay tuột khỏi mái tóc.



- Không sao đâu, tớ biết tớ là người không may mắn.



- Đừng nói như vậy mà.



- Năm tớ 10 tuổi, bố tớ bị tai nạn vào đúng ngày sinh nhật lần thứ 40, ông chỉ vì muốn đưa tớ đi khám bệnh nên còn chưa kịp thổi nến sinh nhật đã đi rồi. Nếu như không phải vì tớ, chắc chắn ông đã chẳng xảy ra chuyện. Rồi sau đó, mẹ tớ thần kinh không bình thường, toàn nói những lời đáng sợ, cuối cùng cũng phải vào bệnh viện tâm thần, mấy năm rồi còn gì. Còn tớ, trước khi kết hôn một tháng, đã mãi mãi mất đi người chồng chưa cưới, hơn nữa nguyên nhân chết còn không rõ ràng. Nói một cách ngắn gọn là, tớ sống mới chỉ có hơn 20 năm ngắn ngủi thế mà có lẽ ngoài cậu ra, những người thân thiết nhất gần như đều bỏ tớ mà đi. Có lẽ tớ bị nhiễm phải vận xấu rồi. Lại còn...



Bạch Bích thấy sống mũi cay cay, rồi tắc lại, không thể nói tiếp.



Tiêu Sắt thở dài nói:




- Những điều đó tớ đều biết, nhưng cậu đừng sợ, chí ít thì cũng còn có tớ đây.



Bạch Bích bỗng nhìn Tiêu Sắt bằng ánh mắt kỳ lạ, nói:



- Hãy hứa với tớ, cậu phải sống thật tốt. Tớ muốn cậu sống vui vẻ đến trăm tuổi.



Tiêu Sắt nhìn đôi mắt đã đỏ hoe đang mở to của Bạch Bích với vẻ không tự nhiên lắm. Cô cười trả lời:



- Không vấn đề gì, cho dù cậu không cho tớ sống, tớ cũng sẽ cố để sống bằng được. Một trăm tuổi ít quá, phải một trăm lẻ một tuổi ý chứ.



Bạch Bích cuối cùng cũng nhoẻn miệng cười.



Tiêu Sắt đứng lên nhìn ra màn đêm ngoài cửa sổ, nói:



- Bạch Bích, tớ nghĩ là buổi tối cậu nên kéo rèm cửa xuống, không nhỡ có người nhìn trộm.



- Nhìn trộm cái gì cơ? Tớ chẳng có gì để mà nhìn cả. Tớ chỉ thích ngắm trời đêm, phía xa trong màn đêm có những ngọn đèn như những ánh sao, giống như đang nói chuyện với một thế giới khác.



Bạch Bích cũng hướng ánh mắt ra bên ngoài.



- Lại thế rồi, thật chịu không nổi cậu. Thôi, tớ về đây, mau cắm hoa vào lọ đi. Mấy ngày nữa đến đoàn kịch xem chúng tớ tập nhé.



Sau đó, cô ghi lại địa chỉ của đoàn kịch đưa cho Bạch Bích, rồi ra về.



Tiêu Sắt là bạn gái thân nhất của Bạch Bích. Họ là bạn học với nhau từ nhỏ. Hình như họ có duyên với nhau. Cho dù tính cách của hai người khác hẳn nhau. Bạch Bích lúc nhỏ tuy xinh đẹp, nhưng sắc mặt trắng bệch, khi nhìn ai thì cứ nhìn chằm chằm vào mắt người ta, kiểu nhìn như thế khiến người khác e ngại. Cô ít nói, có lúc cả ngày chẳng nói câu nào, có lúc lại nói những câu rất sợ, tóm lại dáng vẻ rất thần bí. Do hoàn cảnh đặc biệt, mất bố từ khi còn nhỏ, nhiều người cho rằng cô rất đen đủi, cao số, rất nhiều đứa trẻ không dám lại gần cô. Chỉ có Tiêu Sắt là không để ý đến những điều đó. Cô tìm cách tiếp cận với Bạch Bích cô độc. Bạch Bích nói câu nào cô đều tự nguyện kiên nhẫn lắng nghe, chứ không bỏ chạy như những đứa trẻ khác. Thế là, cô trở thành bạn thân của Bạch Bích và cũng là người bạn cùng tuổi duy nhất chiếm được lòng tin của cô. Sau này Bạch Bích học Mỹ thuật, Tiêu Sắt thì đến Học viện Sân khấu học khoa Biểu diễn. Tiêu Sắt luôn muốn trở thành một diễn viên, nhưng cô không có các mối quan hệ, lại không tự nguyện làm kiểu bán mình, kết quả là chỉ được đóng mấy bộ phim truyền hình vớ vẩn sống qua ngày. Hiện nay Tiêu Sắt chỉ có thể trở về đúng nghề của mình với việc diễn kịch. Vở kịch bây giờ đang tập là vở kịch đầu tiên của cô. Tuy vậy, mối quan hệ giữa cô và Bạch Bích vẫn tốt như xưa. Khi Bạch Bích và Giang Hà chuẩn bị kết hôn, Tiêu Sắt cũng thường xuyên ở bên cạnh họ để đưa ra các kế hoạch. Khi sửa chữa căn hộ này, Bạch Bích thậm chí còn chuyển sang ở với cô.



Sau khi Tiêu Sắt đi rồi, căn phòng lập tức trở nên lạnh lẽo. Chỉ có sự có mặt của Tiêu Sắt mới mang đến cho căn phòng chút sinh khí. Bây giờ nó lại trở về với sự trầm lặng chết chóc vốn có. Bạch Bích lại có cảm giác trống rỗng. Cô thấy có gì đó hụt hẫng ở trong tim. Cô nhìn những bông hoa trắng trong bình. Loại hoa này rất hợp để dùng trong tang lễ. Cô rất hối hận vì sao trong lễ truy điệu hôm qua cô đã không dâng tặng Giang Hà một bó hoa trắng như thế này. Cô luôn thích màu trắng, đặc biệt là hoa trắng, có lẽ cũng bởi vì đó là tượng trưng cho tên của cô.



Bạch Bích lại hướng ánh mắt ra trời đêm ngoài cửa sổ.


 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 11


Thời tiết bắt đầu trở nên mát mẻ, ánh nắng đã nhạt dần. Một trận gió thổi qua làm váy của Bạch Bích nhẹ bay. Cô rẽ vào một con đường nhỏ, đường phố vắng bóng người, xe cộ đi lại cũng rất thưa thớt, thi thoảng có mấy em học sinh nhỏ băng qua đường.



Cô không nhớ rõ đã bao lâu rồi cô chưa trở lại đây, mười năm hay mười hai năm? Sau khi bố cô mất, cô không còn đến đây nữa, kể cả thời kỳ cô và Giang Hà yêu nhau. Lúc bố cô còn sống, cô thường xuyên đến đây, nhiều đến nỗi không đếm xuể. Thường thì cô cứ ngồi trên chiếc giá để sách báo trên xe đạp của bố cô, đi khoảng 15 phút là hai bố con đến Viện Nghiên cứu khảo cổ. Cũng có lúc mẹ cô đưa cô đến đây bằng xe bus. Thời gian đó bố cô thường xuyên phải đi khảo cổ ở bên ngoài, còn mẹ cô thường phải trực vào chủ nhật nên họ không yên tâm để cô ở nhà một mình. Bạch Bích có thể nhớ rõ từng chi tiết trên con đường này. Cô có một trí nhớ rất tốt, hơn nữa, những ký ức tuổi thơ cũng thường làm người ta khó quên.



Cô đã đứng trước cổng Viện Nghiên cứu Khảo cổ. So với ngày cô còn nhỏ, nó hầu như không mấy thay đổi, tấm biển trước cửa, khung cửa giản đơn... Tất cả đều giống như những cổ vật chôn ở dưới lòng đất. Thời gian mười năm qua đi chỉ như vừa trải qua một đêm. Sau khi đi qua cổng, hai bên đường đều là những hàng cây xanh, ở giữa có một con đường nhỏ. Cô có thể nghe thấy tiếng mấy chú chim đang hót ríu rít trên cành.



Cô nhẹ nhàng đẩy cửa bước vào tòa nhà nhỏ đó. Cô dựa theo trí nhớ hồi nhỏ, đi qua một hành lang ngắn, bước vào phòng làm việc đầu tiên. Mọi ánh mắt trong căn phòng lập tức hướng về phía cô. Họ biết cô. Có người gặp cô lần đầu tiên trong vai thiếu phụ ở tang lễ của Giang Hà. Có những người khoảng 30, 40 tuổi thì từ hơn mười năm trước, khi Bạch Chính Thu còn sống, đã biết đến cô bé con Bạch Bích rồi. Trong phòng rất yên lặng, yên lặng đến mức cô có thể nghe thấy cả tiếng thở của chính mình. Bạch Bích có cảm giác ánh mắt mọi người nhìn cô đều có gì đó không bình thường. Cô không biết trong những ánh mắt đó đang ẩn chứa điều gì, có lẽ là kinh ngạc, hoặc cũng có thể là sợ hãi.



- Bạch Bích, chú biết là thế nào cháu cũng sẽ đến.



Bạch Bích bị giật mình bởi tiếng nói từ phía sau. Cô quay đầu lại nhìn, thì ra là Viện trưởng Văn Hiếu Cổ. Ánh mắt của Văn Hiếu Cổ rất điềm tĩnh, ông nhìn cô khẽ gật đầu.



Đứng trước mặt ông, Bạch Bích cảm thấy có gì đó không được thoải mái cho lắm. Cô thấy mình như đang đứng trước bố mình. Nhưng lần này cô không gọi Văn Hiếu Cổ một cách thân mật nữa mà nói:



- Viện trưởng Văn, chào chú! Rất vui được gặp chú!



- Mấy ngày nay mọi việc vẫn tốt cả chứ cháu? Đi, sang phòng chú ngồi một lúc. Mọi người ở đây đều đang bận việc cả.



Văn Hiếu Cổ và Bạch Bích đi ra khỏi căn phòng đó.



Văn Hiếu Cổ dẫn Bạch Bích về phòng làm việc của mình.



Phòng làm việc của Viện trưởng rất rộng, chỉ hơi thiếu ánh sáng, cành cây sà xuống bên ngoài cửa sổ, làm cho căn phòng hơi tối tăm, ẩm ướt. Ánh sáng ở đây khiến Bạch Bích có cảm giác lạ lẫm, bất an, cô lúng túng đứng ở một góc.



- Ngồi xuống đi cháu!



Văn Hiếu Cổ rót cho cô một chén nước chè.



Bạch Bích ngoan ngoãn ngồi xuống.



Văn Hiếu Cổ nói tiếp:



- Bạch Bích, cháu phải lâu lắm rồi mới lại đến Viện đấy nhỉ. Lần gần đây nhất cháu đến đây là hồi cháu mới 10 tuổi, miệng còn ngậm một que kem, tưởng chẳng bao giờ lớn. Chú vẫn nhớ rất rõ cháu lúc đó, còn bây giờ, cháu đã lớn quá rồi, đã trưởng thành rồi.



Ông nhìn Bạch Bích và thở dài nói:



- Còn các chú thì đã già hết cả rồi!



Văn Hiếu Cổ đã 50 tuổi nhưng vẫn chưa lập gia đình. Trong ấn tượng của Bạch Bích, ông như không phải người của cõi trần, cả đời ông chỉ làm bạn với những ngôi mộ cổ.



Bạch Bích có phần e thẹn, cô im lặng hồi lâu rồi mới lên tiếng:



- Viện trưởng Văn, sao chú biết là cháu sẽ đến Viện?




- Vào hôm Giang Hà xảy ra sự cố, cậu ấy có nói, nếu cậu ấy chết ở đây thì cháu nhất định sẽ đến. - Văn Hiếu Cổ điềm tĩnh nói.



- Giang Hà nói thế ạ? - Hai vai Bạch Bích run lên, cổ họng cô thấy có gì đó nghèn nghẹn: - Hoá ra Giang Hà đã sớm dự cảm thấy có việc xảy ra với anh ấy, có lẽ cái chết của anh ấy không phải là một tai nạn.



- Tai nạn?



Văn Hiếu Cổ hỏi ngược lại. Ông nhìn Bạch Bích bằng một ánh mắt kỳ lạ. Ánh mắt mà Bạch Bích không thể hiểu nổi. Rất lâu sau, ông mới thốt ra được những lời nối tiếp với câu nói trước:



- Đương nhiên đó là một tai nạn... đương... nhiên là như vậy.



Giọng nói của ông rất kỳ cục. Bạch Bích nhìn vào khuôn mặt vô cảm của Văn Hiếu Cổ, hình như cô có thể cảm nhận được một điều gì đó. Cô định hỏi nhưng rồi lại ngừng lại. Trong mắt của Văn Hiếu Cổ đang giấu giếm điều gì đó mà không ai có thể nhìn thấu được.



- Hy vọng đấy đúng là một tai nạn. - Bạch Bích khẽ nói.



- Thôi không nói đến chuyện này nữa. Chú cũng rất đau lòng về việc của Giang Hà. Nó là đứa học trò giỏi nhất của chú. Chú luôn chú tâm bồi dưỡng cho nó. Nó có khả năng trở thành một nhà khảo cổ học vô cùng xuất sắc như Bùi Văn Trung, Giả Lan. Nó có thể tạo ra nhiều kỳ tích trong ngành Khảo cổ và đạt được đến đỉnh cao nhất của vinh quang. Ôi, chú xin lỗi, chú không nói nữa. Cháu thế nào? Cháu nên quên việc đáng sợ này đi, đừng để nó ở trong lòng, cháu vẫn còn trẻ, lại rất xinh đẹp, cháu còn nhiều cơ hội.



Lúc này Văn Hiếu Cổ mới hơi khẽ nhoẻn miệng cười.



- Cháu cảm ơn! - Bạch Bích nói.



- Thế mẹ cháu dạo này sao rồi? Vẫn khỏe chứ?



Ánh mắt của Văn Hiếu Cổ như sáng lên.



Bạch Bích lạnh lùng đáp:



- Mẹ cháu vẫn như thế, vẫn ở trong bệnh viện Tâm thần, chẳng có dấu hiệu biến chuyển gì.



- Chú cũng lâu lắm rồi không đến thăm mẹ cháu. Mấy hôm nữa chú sẽ tranh thủ lúc rỗi đến thăm bà một chuyến. Nhưng người mà chú lo lắng bây giờ là cháu, chú sợ cháu sẽ không chịu nổi những tác động của sự việc này.



- Cháu sẽ không sao đâu, chú yên tâm đi ạ. Viện trưởng Văn, sao hôm nay cháu không nhìn thấy Hứa An Đa?



Văn Hiếu Cổ thoáng chút đau buồn, nói:



- Hứa An Đa? Cháu chắc là chưa biết, nó cũng qua đời rồi, vào đúng buổi tối hôm lễ truy điệu của Giang Hà. Nó bị tai nạn giao thông ở bên bờ sông, lái xe mô tô đâm vào bờ đê, chết ngay tại chỗ, thảm lắm cháu ạ.



Hai vai của Bạch Bích lại bắt đầu run lên. Cô mở to mắt như không thể hiểu nổi tất cả những việc đang xảy ra. Cô nhớ lại hôm ấy sau khi kết thúc lễ truy điệu, Hứa An Đa đã muốn nói với cô điều gì nhưng lại thôi, rồi hình ảnh của anh ta trong bộ đồ thể thao màu đen, phi chiếc xe mô tô lao vút đi trước cửa nhà tang lễ.



Bạch Bích cúi gục đầu.



- Bạch Bích, cháu sao thế? Chú biết nếu cháu nghe thấy tin này nhất định sẽ rất kinh ngạc, nhưng dù sao việc cũng đã xảy ra rồi, chẳng ai có thể thay đổi được, mấy hôm nay cả Viện chỗ chú đều chìm trong bầu không khí u ám này.



Bạch Bích gật đầu:



- Vâng, việc này quả thật quá bất ngờ! Cháu không thể nghĩ rằng người như Hứa An Đa cũng xảy ra một tai nạn như thế.



- Cuộc đời mà cháu. Đâu biết được chữ ngờ!



Văn Hiếu Cổ đưa mắt nhìn ra ngoài cửa sổ.



- Viện trưởng Văn, cháu có thể đến xem nơi Giang Hà xảy ra chuyện được không?



Bạch Bích cuối cùng cũng đã mạnh dạn hỏi ông.



Văn Hiếu Cổ gật đầu:



- Tất nhiên là được rồi.



Văn Hiếu Cổ dẫn Bạch Bích đi qua hành lang đến cửa một căn phòng khác.



Ông rút chìa khóa ra, vừa mở cửa phòng vừa nói:



- Từ sau khi Giang Hà xảy ra chuyện, căn phòng này bị khoá lại vì chẳng ai còn dám làm việc ở đây nữa.



Cửa phòng đã được mở, không khí ở đây rất bí làm cho Bạch Bích thấy khó thở. Cô chú ý đến cánh cửa sổ đang đóng, trên mặt đất phủ một lớp bụi dày. Trong phòng kê mấy cái bàn, trên bàn có máy vi tính và những thiết bị dùng trong ngành Khảo cổ. Dọc theo bức tường có kê một hàng tủ, bên trong bày các đồ vật sành sứ các loại, trong đó nổi bật nhất là một cái đầu lâu. Bạch Bích nhìn cái đầu lâu gớm ghiếc kia nhưng không hề cảm thấy sợ. Cô có thể cảm nhận được đó là những đồ vật của Giang Hà nên chả có gì đáng sợ cả.



Văn Hiếu Cổ dẫn Bạch Bích tiến sâu vào trong phòng. Ông chỉ vào cái đầu lâu và nói:



- Cháu biết không? Đây là xương sọ của một Thái tử đời Đường do Giang Hà tự tay đào lên đấy.



- Có lẽ, nó là nhân chứng duy nhất! - Bạch Bích nói.



Văn Hiếu Cổ nói với hàm ý sâu xa:



- Đúng rồi, nếu người chết có thể nói được thì tốt quá.



- Tất cả đồ ở đây đều chưa ai đụng đến, vẫn nguyên xi như hôm Giang Hà xảy ra chuyện. Sở Công an đến xem xét rất kỹ nhưng không phát hiện thấy gì bất thường, ngoài việc máy tính bị cậu ấy tắt đột ngột và thiết bị khảo cổ bị cậu ấy trực tiếp rút ổ cắm để tắt nguồn. Điều đó có thể khẳng định trước khi chết, cậu ấy đang làm việc với cái máy tính và thiết bị khảo cổ này. Có lẽ có việc gì đặc biệt làm gián đoạn công việc, khiến cậu ấy phải rút nguồn điện ra ngay lập tức. Cháu lại đây, chúng đều ở đây.



Văn Hiếu Cổ chỉ vào thiết bị khảo cổ và bộ vi tính trên cái bàn trước mặt.



Bạch Bích tới gần nhìn những đồ vật ấy, cô cảm thấy có một luồng khí đặc biệt xộc đến, trán cô bắt đầu lấm tấm mồ hôi.



Sau đó, Văn Hiếu Cổ lại chỉ xuống đất, sắc mặt căng thẳng nói:




- Sáng sớm hôm ấy, thi thể Giang Hà được phát hiện ở chỗ này.



Ông ngẩng đầu lên, thở dài một cái rồi nói tiếp:



- Mặt cậu ấy úp sấp xuống đất, đầu hướng về phía cửa, môi dính xuống đất, hai tay nắm chặt, nghe nói, sau khi chết họ không tài nào gỡ các ngón tay của cậu ấy ra được, cuối cùng phải dùng đến kìm để gỡ ra.



- Trong tay anh ấy đang cầm cái gì ạ?



Văn Hiếu Cổ nhìn vào gương mặt Bạch Bích từ từ nói:



- Trong tay cậu ấy chẳng có gì cả.



Bạch Bích im lặng, cô không cần phải nói gì lúc này, chỉ nhìn chằm chằm xuống đất, tưởng tượng ra khung cảnh hôm ấy. Cô như nhìn thấy Giang Hà ngã dưới chân mình, giơ ra một bàn tay đang nắm chặt.



Một lúc sau Bạch Bích mới ngẩng đầu lên. Cô bình tĩnh nói với Văn Hiếu Cổ:



- Viện trưởng Văn, trong máy vi tính có những gì ạ?



- Cái máy này chỉ mình Giang Hà sử dụng, chú cũng không rõ, sau khi xảy ra sự việc Sở Công an đã copy lại toàn bộ nội dung trong máy và mang đi, hình như đều là những số liệu nghiên cứu.



- Thế còn cái máy này thì sao ạ?



Bạch Bích đưa tay ra sờ nhẹ lên mặt thiết bị khảo cổ, một lớp bụi bám vào đầu ngón tay cô.



- Cái máy nhập khẩu này chú cũng không biết cách sử dụng. Nói thực, ở Viện các chú chỉ có mình Giang Hà biết sử dụng cái máy này. Cậu ấy quả thực là một đứa có tài, cái gì cậu ấy cũng tinh thông. Cái máy này có một cửa quét, có thể nhìn rõ và quét tất cả các cổ vật, đồng thời căn cứ vào lệnh của người sử dụng tự động tiến hành xử lí và tính toán các số liệu, cho ra các đồ thị và con số. Còn việc tối hôm ấy Giang Hà dùng cái máy này để kiểm tra cái gì, lấy được số liệu gì, e rằng chỉ có mình cậu ấy mới biết được.



Bạch Bích gật đầu, cô chỉ vào cái bàn trước mặt hỏi:



- Đây là cái bàn Giang Hà thường dùng ạ?



- Đúng rồi!



- Cháu có thể xem ngăn kéo của anh ấy được không ạ? - Cô thử hỏi.



- Đương nhiên là được rồi, Sở Công an cũng đã kiểm tra. Họ nói trong ấy toàn là đồ dùng cá nhân của Giang Hà, để lại cho người nhà nạn nhân đến giải quyết. Nhưng từ hôm ấy bố mẹ Giang Hà chưa tới lấy, cháu là vợ chưa cưới của nó, tất nhiên có thể mang đi được.



Bạch Bích đưa tay ra, do dự một lúc, cuối cùng cô cũng kéo ngăn kéo ra. Sau khi dừng lại một lúc, cô ngẩng đầu lên nói với Văn Hiếu Cổ:



- Xin lỗi Viện trưởng Văn, cháu có thể ở lại đây một mình một lúc được không?



- Ồ, không sao, chú có thể hiểu được tâm trạng của cháu, được, chú đi giải quyết một số việc ở Viện, chốc nữa lúc đi ra cháu đừng quên khoá cửa nhé.



Nói xong, Văn Hiếu Cổ nhẹ nhàng rời khỏi căn phòng, thuận tay đóng luôn cửa lại.



Trong phòng chỉ còn lại một mình Bạch Bích, trống trải, cửa đóng, im lặng không một tiếng động. Có lẽ cái đêm Giang Hà chết cũng giống như thế này. Cô ngẩng đầu lên nhìn xung quanh, trong lòng càng lúc càng cảm thấy bế tắc, giống như bị rơi xuống đầm lầy, giãy giụa mãi không thoát ra được và ngày càng bị chìm nghỉm vào trong cái vòng quay của số mệnh.



Bạch Bích lại cúi đầu xuống, đồ đạc trong ngăn kéo không nhiều, có mấy tờ báo số tháng trước được xếp gọn gàng, mấy quyển sách lịch sử và mấy quyển sách chuyên ngành Khảo cổ, quyển dày nhất là quyển “Nghiên cứu lịch sử”. Còn có một đôi găng tay, một cái kính lúp, mấy cái kẹp nhỏ và mấy cái thẻ tre. Đây đều là những vật thường dùng của Giang Hà khi đi khảo cổ. Phía trong cùng của ngăn kéo có một chùm chìa khoá. Cô cầm chùm chìa khoá lên, cô chưa bao giờ nhìn thấy Giang Hà có chùm chìa khoá này, có thể là chìa khoá dự phòng. Không còn vật gì khác, tất cả chỉ có vậy. Bạch Bích thở dài, cô như đang chờ đợi, chờ đợi phát hiện ra cái gì, nhưng, nếu như thật sự có một vật gì đó quan trọng thì chắc là cảnh sát đã mang đi điều tra rồi. Bạch Bích lắc đầu, cầm quyển “Nghiên cứu lịch sử” lên, thuận tay lật mấy trang, bỗng nhiên từ trong quyển sách rơi ra một cuốn sổ tay nhỏ.



Bạch Bích cẩn thận xem xét cuốn sổ tay này, mỏng, bìa màu trắng, cô nhẹ nhàng mở nó ra thì thấy ngay những dòng chữ được viết bằng bút mực đen ngay trên trang đầu tiên:



Đất hoang[6]



Tôi đã tận mắt nhìn thấy Xibila ở Cumai ngồi trong chai. Khi bọn trẻ hỏi: “Bà muốn gì, Xibila?” Xibila trả lời: “Muốn chết!



(Tặng Ezra Pound - người bậc thầy cao hơn tôi)



I. Lễ mai táng người chết



Tháng tư là tháng khắc nghiệt, gây ra



Màu tím tử đinh hương của đất, rồi hòa



Ký ức với ước mong, và gây xúc động



Nguồn cội mơ màng bằng mưa xuân trút xuống.



...



Hoá ra là “Đất hoang” của Eliot. Trước kia Bạch Bích đã đọc qua, tuy không dám nói là rất thích, nhưng trong đó có mấy câu có ấn tượng rất sâu sắc với cô. Nhưng cô có thể nhận ra, nét bút này không phải của Giang Hà. Chữ của Giang Hà hơi thô, còn chữ trong cuốn sổ thì rất mảnh và đẹp, chắc phải là chữ của một người con gái. Cô lại giở tiếp mấy trang nữa, đúng rồi, chính là trường ca đó, được chép đầy mấy trang giấy cho đến hai dòng cuối cùng: “Bình yên, bình yên, bình yên.”



Cuối cùng là tên tác giả bài thơ, tất nhiên là Eliot.



Nhưng dưới cùng còn có một dòng chữ khiến Bạch Bích cảm thấy lo lắng, dưới dòng tên Eliot có viết: “Nhiếp Tiểu Thanh tặng Giang Hà “.



Nhiếp Tiểu Thanh? Bạch Bích xưa nay chưa từng nghe đến cái tên này. Cô ta là ai? Thoạt nhìn cái tên này, cô lập tức liên tưởng đến câu chuyện “Nhiếp Tiểu Thanh” trong “Liêu trai chí dị” của Bồ Tùng Linh và một bộ phim dựa trên câu chuyện đó có tên: “Âm hồn thanh nữ”. Đó là tên của một nữ quỷ, đã có một câu chuyện lay động lòng người với một thư sinh. Tất nhiên, Nhiếp Tiểu Thanh ở đây không phải là nhân vật dưới ngòi bút của Bồ Tùng Linh, có lẽ bố của Nhiếp Tiểu Thanh thích chuyện “Liêu trai chí dị” cho nên mới chọn một cái tên như thế đặt cho con gái.



Không nghi ngờ gì nữa, bài thơ “Đất hoang” của Eliot này là do một người con gái có tên là Nhiếp Tiểu Thanh chép lại. Cô ta đã mang cuốn sổ này tặng cho Giang Hà. Cuốn sổ đã nằm yên trong ngăn kéo của Giang Hà cho đến khi Bạch Bích tìm thấy nó.



Hoá ra sự việc không đơn giản như Bạch Bích tưởng tượng, cô lại thấy trong người bức bối trở lại. Cô cầm cuốn sổ tay lên tiếp tục giở, mười mấy trang phía sau đều là giấy trắng, không có gì. Cô nhẹ nhàng đặt cuốn sổ xuống mặt bàn, lúc đó, cô thấy ở cuối bìa sau của cuốn sổ viết hai chữ:



“Lời nguyền”.



Bạch Bích có thể khẳng định, hai chữ này là nét bút của Giang Hà. Lời nguyền? Lời nguyền về cái gì? Bạch Bích khe khẽ đọc:



- Lời... nguyền.




Hai chữ này có ý nghĩa gì? Vai Bạch Bích như bị ai đó dùng sức lắc mạnh, cô cúi đầu, toàn thân lạnh toát. Cô không muốn lưu lại căn phòng này nữa, cô phải ra khỏi đây, phải rời bỏ những thứ đang bám riết lấy cô. Cô tiện tay cầm luôn quyển sổ tay và chùm chìa khoá trong ngăn kéo. Cô cho chúng vào trong túi xách, sau đó vội vàng bước ra khỏi phòng và khoá cửa lại.



Cô không muốn gặp lại Văn Hiếu Cổ, chỉ muốn nhanh chóng rời khỏi Viện Nghiên cứu Khảo cổ. Cô không thể chịu đựng nổi không khí ở đây nữa, cho dù đây đã từng là nơi rất quen thuộc của cô. Cô đi qua dãy hành lang tối, vừa bước đến cổng chính thì từ phía đối diện có một người đàn ông dáng cao to đi tới.



Ông ta cười cười với Bạch Bích nói:



- Cháu là Bạch Bích đúng không? Lớn quá rồi, có nhớ ai không?



Bạch Bích nhìn người đàn ông đang đứng trước mặt, ông ta khoảng 35, 36 tuổi. Cô cố gắng lục trong trí nhớ để tìm lại khuôn mặt này, cuối cùng cũng hiện ra những hình ảnh mờ nhạt. Cô nói ngắt quãng:



- Hồi ấy, bố cháu hình như bảo cháu gọi chú là chú Lâm, đúng không ạ?



- Trí nhớ của cháu thật tốt, chú vẫn còn nhớ lúc nhỏ cháu vẫn hay ngồi vẽ ở phòng làm việc của bố cháu, có lần còn vẽ cả lê và táo lên trên bản đồ di chỉ khảo cổ. Chú là Lâm Tử Tố, là người phụ trách quản lý các di vật khai quật được.



Bạch Bích gật đầu. Cuối cùng cô đã nhớ ra người đàn ông đang đứng trước mặt. Hồi đó, Lâm Tử Tố còn là một thanh niên khoảng hơn 20 tuổi, vừa vào Viện Nghiên cứu. Cô còn nhớ lúc đó Lâm Tử Tố thường ăn mặc rất mốt.



Cô nói:



- Chào chú, hôm nay cháu chỉ đến xem lại nơi Giang Hà xảy ra chuyện thôi.



- Cháu hãy quên tất cả đi, đừng đến đây nữa làm gì. Việc ấy không liên quan gì đến cháu! - Giọng Lâm Tử Tố bỗng nhiên trở nên rất nghiêm túc.



Sao cách nói này lại giống hệt với của Hứa An Đa hôm nọ thế nhỉ? Trong lòng Bạch Bích cảm thấy đầy nghi hoặc. Cô hỏi ngược lại:



- Rốt cuộc là đã xảy ra chuyện gì hả chú? Chú nhất định phải nói cho cháu rõ, cháu xin chú đấy!



- Bạch Bích, cháu vẫn còn trẻ, tương lai còn dài. Cháu đừng nên vì những việc này mà chuốc lấy nguy hiểm, không đáng đâu!



- Nguy hiểm gì cơ? Chú nói cho cháu biết đi!



- Cháu xem, Giang Hà đã chết không rõ ràng, cháu chắc cũng đã biết, Hứa An Đa cũng chết rồi. Cả hai người cháu đều quen, có thể còn nhiều người nữa. - Lâm Tử Tố lạnh lùng trả lời.



- Còn nhiều người nữa, ý chú đây không phải là một việc đơn lẻ sao? Còn có những uẩn khúc khác sao? Có thật là đáng sợ thế không ạ? - Bạch Bích không muốn bỏ qua cơ hội này.



Lâm Tử Tố lắc đầu:



- Xin lỗi cháu, chú đã nói quá nhiều rồi. Chú không thể nói tiếp được nữa. Chào cháu!



Nói rồi Lâm Tử Tố quay người bỏ đi.



Bạch Bích bỗng nhớ ra điều gì đó nên gọi với theo:



- Cháu muốn hỏi một câu cuối cùng. Nhiếp Tiểu Thanh là ai ạ?



Lâm Tử Tố từ từ quay người lại, nhìn cô bằng ánh mắt lạ lùng, rồi từ từ nói:



- Cháu hỏi việc đó để làm gì?



- Xin lỗi chú, cháu chỉ là muốn biết một chút thôi! - Bạch Bích quyết hỏi đến cùng.



- Cô ta chỉ là một nghiên cứu sinh đến thực tập ở Viện, được giáo sư Lý ở Viện Nghiên cứu Cổ sinh vật giới thiệu đến. Cô ta chỉ thực tập ở Viện có ba tuần. Có vấn đề gì sao cháu?



- Cám ơn chú, không có gì ạ, cháu chỉ tiện thể hỏi chú chút thôi!



Lâm Tử Tố cau mày, nhẹ nhàng nói:



- Cháu đừng có để ý đến những việc như thế này nữa. Ác mộng mới chỉ bắt đầu thôi. Hãy tin chú đi!



Nói xong, Lâm Tử Tố quay đầu bỏ đi. Bóng ông ta khuất nhanh sau dãy hành lang tối om.



Xung quanh không một bóng người, không gian lại trở lại yên tĩnh như vốn có. Bạch Bích ôm lấy vai, cô cảm thấy hơi lạnh. Cô vội vàng rời khỏi dãy nhà, đi men theo con đường nhỏ, xuyên qua các hàng cây, bước ra khỏi cổng chính của Viện Nghiên cứu Khảo cổ.



Ra khỏi cổng chính, lúc này chỉ còn vương lại chút nắng nhạt. Ánh mặt trời làm cho làn da trắng của cô có chút sắc hồng. Con đường phía trước vẫn vắng tanh. Vừa rời khỏi cổng viện, cô đã phát hiện phía trước có một đôi mắt đang hướng về phía cô. Bạch Bích nhìn sang phía bên kia đường, cô thấy có một thanh niên đang đứng đó nhìn cô.



- Giang Hà - Cô khẽ thốt ra cái tên ấy.



Trong phút chốc, vai cô bỗng run lên bần bật. Trong nỗi lo sợ tột cùng, vẫn xen lẫn nỗi xúc động, hưng phấn khiến cô như muốn lao sang bên kia đường, nhưng một chiếc ô tô phóng vụt qua đã ngăn cản bước chân cô. Cô tiếp tục đứng chôn chân ở cổng Viện Nghiên cứu Khảo cổ. Không, người này không thể là Giang Hà, mặc dù trông rất giống nhưng tuyệt đối không phải là cùng một người. Bạch Bích thở dài nhè nhẹ, sau đó cô tự nói vài câu giễu cợt chính mình. Nhưng cô không thể không ngẩng đầu lên nhìn người thanh niên đứng bên kia đường. Anh ta dáng người khỏe mạnh, khuôn mặt giống Giang Hà, đường nét đơn giản và rắn chắc, thể hiện nét hơi u buồn, nhưng đôi mắt rất lanh lợi, tưởng như có thể nhìn xuyên được cô. Ánh mắt ấy khiến cô cảm thấy lúng túng. Cô không muốn nhìn anh ta nữa, vội vàng rời khỏi nơi đó.



Người thanh niên bên kia đường lặng lẽ đứng nhìn Bạch Bích bỏ đi, sau đó tiếp tục đứng đó quan sát cổng chính của Viện Nghiên cứu Khảo cổ.



Anh chính là Diệp Tiêu.


 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 12


Bạch Bích ngồi dưới ánh đèn dìu dịu, mở cuốn sổ mang từ ngăn kéo Giang Hà về. Cô khẽ đọc những dòng thơ trong “Đất hoang” của Eliot do Nhiếp Tiểu Thanh chép.



Giọng cô rất dịu dàng. Giang Hà đã từng nhận xét, anh luôn bị mê hoặc bởi chất giọng của cô, được nghe cô nói là một sự hưởng thụ kỳ diệu. Lúc này, âm thanh đó đang vang vọng trong căn phòng của Bạch Bích, trong từng góc phòng, trên cửa sổ, dưới nền nhà đều phát ra tiếng vọng lại khe khẽ. Nét chữ trên giấy quả thực rất đẹp, màu mực đen của bút sắt, từng nét, từng nét đều thể hiện một khí chất đặc biệt. Nét chữ có thể biểu hiện khí chất của con người, cô luôn tin điều này. Bạch Bích như có thể thông qua nét chữ này mà hình dung ra hình dáng của Nhiếp Tiểu Thanh, mắt, mũi, gò má của cô ta, đặc biệt là bàn tay cầm bút. Nghĩ đến đây, trong lòng Bạch Bích cảm thấy rối bời. Cô không muốn nghĩ đến người con gái có tên Nhiếp Tiểu Thanh này nữa, chẳng qua cô ta cũng chỉ là một người thích chép thơ mà thôi. Bạch Bích trước kia cũng đã từng chép rất nhiều những vần thơ cô thích, điều đó thật quá bình thường. Lúc này cô có thể tưởng tượng ra, chỉ có Eliot, một nhà thơ sinh ra ở Mỹ, rồi trở thành công dân Anh quốc, có một cuộc sống gia đình bất hạnh, vợ ông - Vivian sống ở bệnh viện Tâm thần mười một năm, có lẽ chỉ có người như vậy mới có thể viết nên được kiệt tác “Đất hoang”.



Khi đọc đến đoạn này, bỗng nhiên hai vai cô khẽ run lên...



Và em sẽ chỉ cho anh một cái gì đó



Không như cái bóng người buổi sáng ở sau lưng




Hay cái bóng buổi chiều ở trước mặt anh



Em sẽ chỉ ra trong một nắm tro tàn sợ hãi.



Bạch Bích như đọc được từ giữa những hàng chữ một điều gì đó... “cái bóng người buổi sáng ở sau lưng”, rồi... “trong một nắm tro tàn sợ hãi.”



Câu này có ý nghĩa gì nhỉ? Có lẽ chỉ là một sự mô tả của tinh thần và bầu không khí nhưng nó khiến cho Bạch Bích thấy sởn tóc gáy. Có phải là lời trong thơ của Eliot không? Có lẽ mỗi người chúng ta đều không có cách nào chạy trốn khỏi cái bóng của chính, cũng như không có cách nào chạy trốn khỏi nỗi sợ hãi, bởi vì chúng ta rồi sẽ đều trở về với cát bụi. Và trong đám cát bụi đó chôn vùi nỗi sợ hãi vĩnh hằng. Nhưng bây giờ, dù không có nắm tro tàn, Bạch Bích vẫn có thể cảm thấy như mình đang chạm vào nỗi sợ hãi đó.



Cô đọc tiếp:



Gió thổi về quê hương.



Em nơi mô chờ đợi



Hở cô bé Ai-len?



Không biết Bạch Bích đã đọc trong bao nhiêu lâu mới đọc hết được toàn bộ trường ca này. Đọc xong cổ họng cô lập tức cảm thấy khát khô. Cô uống hết một cốc nước, cảm thấy trên trán lấm tấm mồ hôi. Cô xem lại câu cuối cùng: “Nhiếp Tiểu Thanh tặng Giang Hà”, hơn nữa việc này xảy ra trước khi Giang Hà chết không lâu. Có lẽ cô không nên nghĩ ngợi lung tung, nhưng trong đầu Bạch Bích vẫn hiện lên hình ảnh Giang Hà lúc nhận cuốn sổ. Giang Hà nhất định cũng đã đọc hết “Đất hoang” trong cuốn sổ này. Khi đọc lại “Đất hoang”, anh ấy đã nghĩ gì nhỉ? Sợ hãi hay là một cảm giác gì khác? Cô tự nói với mình, bây giờ tất cả đã kết thúc rồi. Bạch Bích bỗng tự hỏi mình, có thật là tất cả đã kết thúc thật không? Nhưng cô không tìm thấy câu trả lời.



Gấp cuốn sổ lại, cô lại nhìn thấy hai chữ “Lời nguyền” ở bìa sau. Giang Hà viết hai chữ này làm gì nhỉ? Tại sao anh lại viết ở bìa sau cuốn sổ tay này? Lẽ nào chỉ là trùng hợp, hay cuốn sổ này đúng là tượng trưng cho một điều gì đó? Cô lại nhớ đến những lời Lâm Tử Tố nói hôm nay ở Viện Nghiên cứu khảo cổ, có lẽ tiếp theo còn có người sẽ phải chết, đây chẳng phải là lời nguyền sao? Lời nguyền này của ai và nguyền rủa những ai? Đầu Bạch Bích trống rỗng.




Bạch Bích nhớ lại cái đêm trước khi xảy ra sự việc một tháng, lúc Giang Hà từ Tân Cương về, có lẽ mầm mống của cái chết đã được gieo từ lúc đó. Chứ trước khi đi Tân Cương, Giang Hà đâu có biểu hiện như thế. Đôi mắt của Giang Hà lại hiện lên trong đầu Bạch Bích, trong cặp mắt ấy có vùng đất hoang ở Tây Bắc, có hoang mạc mịt mù. Cô biết rằng, nơi họ đến là hồ La Bố. Ở vùng hồ La Bố đó có một di chỉ văn minh cổ đại rất lớn. Đó là Thành cổ Lâu Lan.



Cô nhớ lại một buổi tối cách đây hơn 10 năm, khi ấy cô chưa đến 10 tuổi, Văn Hiếu Cổ đến nhà cô tranh luận kịch liệt với bố cô về nhiều vấn đề thuộc về nền văn minh Thành cổ Lâu Lan. Mẹ cô như muốn tránh né chủ đề này, còn cô bé Bạch Bích ngồi bên cạnh, nhưng không hiểu họ đang nói gì. Cô chỉ nhớ rằng bố cô kiên quyết phản đối việc quay lại tiến hành các hoạt động khảo cổ ở Thành cổ Lâu Lan. Ánh mắt của Bạch Chính Thu lúc nói bộc lộ một sự sợ hãi. Sự sợ hãi khủng khiếp trong đêm đó đã lưu lại ấn tượng rất sâu trong ký ức của Bạch Bích. Đúng rồi, cuối cùng cô đã nhớ ra. Bố cô đã từng nói, ông đã đi đến di chỉ Thành cổ Lâu Lan cả thảy hai lần. Lần thứ nhất là lúc Bạch Bích chưa ra đời, lần thứ hai là sau khi cô ra đời không lâu và lần thứ hai thì mẹ cô cũng đi cùng.



Bố cô nhất định còn để lại cái gì đó. Cô nhớ bố cô có một chồng lớn tài liệu vẫn để trong nhà. Tất cả đều là do ông ghi chép lại. Trong ký ức của cô, hầu như đêm nào bố cô cũng đem những tài liệu ấy ra xem rất tỉ mỉ, rồi lại cẩn thận cất đi. Bạch Bích đứng lên, đi sang căn phòng bên cạnh. Ở đó cất giữ những đồ cũ, trong đó có một tủ sách lớn, cửa tủ đóng, phủ đầy bụi. Bạch Bích từ trước đến nay chưa từng mở ra, có lẽ cô không muốn nhớ đến nỗi đau mất bố. Nhưng hôm nay cô quyết tâm mở tủ sách này.



Vừa mở cửa tủ, mùi ẩm mốc khiến cô phải quay mặt đi, phải một lúc lâu sau, mùi đó mới từ từ tan đi. Bạch Bích cẩn thận đưa tay ra lấy những thứ ở bên trong, toàn là những tập tài liệu dày cộp, có loại chép tay, có loại in ấn, phải mất rất lâu cô mới đưa được hết chúng ra bàn.



Đống tài liệu quả thực rất nhiều, cô giở lướt qua, những tài liệu này có đầy đủ từ thời đại đồ đá cũ đến Dân quốc, trong đó có bản ghi chép về nghiên cứu lịch sử và văn hiến cổ đại, còn có cả những bản phô-tô các bản báo cáo khai quật khảo cổ và những sơ đồ tư liệu di vật, có cả một số ghi chép và luận văn của bố cô. Nếu muốn xem hết có lẽ phải đọc liên tục trong mấy tuần lễ.



Rất may, bố cô đã căn cứ sắp xếp chúng theo từng khu vực nên Bạch Bích nhanh chóng tìm ra tài liệu ở vùng Tân Cương. Cô nhận thấy tài liệu ở khu vực này tương đối nhiều, có lẽ bố cô nghiên cứu khá nhiều về Tây vực. Trong những tài liệu ông lưu giữ về các nền văn minh cổ đại ở Tân Cương thì tài liệu nhiều nhất là về Thành cổ Lâu Lan. Bạch Bích đặt riêng những tài liệu dày cộp đó ra một chỗ. Cô tiện tay rút một tập ra xem, thế là, hồ La Bố và Thành cổ Lâu Lan dần dần hiện ra trước mắt cô giống như bức tranh đang treo trên tường.



Hồ La Bố nằm ở biên giới giữa vùng Đông Bắc và huyện Nhược Khương. Hồ nằm ở độ cao trên mực nước biển 780m, diện tích còn sót lại khoảng 2400 đến 3000 km2, hiện nay hoàn toàn khô cạn. Hồ La Bố nguyên là đầm chứa nước của sông Khổng Tước. Trên thượng lưu sông Khổng Tước, hồ dương và hồng liễu mọc thành rừng, lau sậy khắp nơi, tập trung vô số thú dữ và chim muông. Ba bốn nghìn năm trước, vào thời đại đồ đá mới đã có sự cư trú của con người ở vùng đất này. Dưới hạ lưu của sông Khổng Tước và ven bờ của hồ La Bố đã phát hiện rất nhiều dấu ấn văn hoá thuộc thời đồ đá mới.



Nước Lâu Lan trong thời kỳ phồn thịnh của thời Hán, Tấn, đồng xanh ngàn dặm, lương thực dư thừa, hàng hoá di chuyển không ngớt trên lưng những đội lạc đà, các trạm dịch và lữ khách đông đúc; chuông trống đền miếu du dương, Phật giáo phát triển. Triều đình phái binh lính đi đóng quân khai khẩn đất hoang, cai quản tất cả các vùng đất xa gần. Nhưng thời kỳ huy hoàng của cổ quốc Lâu Lan trong lịch sử kéo dài không lâu, chỉ đến thế kỷ 4, 5 sau công nguyên, Lâu Lan dần dần không xuất hiện trong sử sách nữa. Khi Huyền Trang trên đường đi Tây Thiên thỉnh kinh qua đây thì đây đã là một sa mạc không một bóng người. Trong dòng chảy của lịch sử, Lâu Lan đã bị lãng quên đi như thế trong ký ức của nhân loại.



Cho đến năm 1900, tức là hơn 1000 năm sau, vào ngày 28 tháng 3, trong chuyến thăm dò phía tây hồ La Bố của nhà thám hiểm người Thụy Điển Sven Ahders Hedin, người dẫn đường của ông tên là A Nhĩ Địch Khắc, người dân tộc Duy Ngô Nhĩ, trong lúc quay lại nơi cắm trại khảo sát để tìm cái cuốc bỏ quên, gặp phải cơn gió lớn lạc mất phương hướng. Nhưng A Nhĩ Địch Khắc đã dũng cảm dựa vào ánh trăng mờ nhạt chẳng những đã trở lại được nơi cắm trại cũ tìm được cái cuốc bị mất mà còn phát hiện ra một ngôi Phật tháp và một đống đổ nát. Ở đó có những đồ gỗ được chạm khắc tinh xảo chôn vùi trong cát, còn có cả tiền đồng thời cổ đại. Di chỉ mà A Nhĩ Địch Khắc tìm thấy trong đêm tối mênh mang đó chính là Thành cổ Lâu Lan. Sven Ahders Hedin trong nhật ký của mình đã viết: “Việc A Nhĩ Địch Khắc để quên cái cuốc đã trở thành một may mắn vô cùng, nếu không, tôi sẽ không thể nào trở về thành cổ này. Điều này đã mang đến cho lịch sử vùng Trung Á cổ đại một ánh sáng phát hiện quan trọng, cho đến nay, có lẽ vẫn chưa thể hoàn thành.”



Từ mùng 4 đến mùng 10 tháng 3 năm 1901, Sven Ahders Hedin đã quay lại nơi đây, thuê nhân công đào bới quanh khu vực Thành cổ Lâu Lan, thu được số lượng lớn tiền sắt đời Hán, những đồ tơ tằm tinh xảo thời Hán Tấn, những vật bằng thủy tinh, binh khí, công cụ bằng đồng sắt, gương đồng, đồ trang sức, lại còn cả các tượng khắc gỗ theo nghệ thuật Gandhara[7]. Ngoài ra, còn có thẻ bài bằng gỗ đời Hán Tấn mang giá trị lịch sử rất cao, những văn thư bằng giấy có đến hơn 270 tập. Tiếp theo sau Sven Ahders Hedin, Marc Aurel Stein[8] cũng đã khai quật được số lượng lớn di vật ở Thành cổ Lâu Lan, chỉ riêng văn thư chữ Hán đã có 349 tập, và một số lượng không nhỏ văn thư chữ Kharosthi. Phần lớn các di vật, đặc biệt là những văn thư bằng giấy đều được bảo tồn một cách khá nguyên vẹn. Điều này có liên quan trực tiếp đến khí hậu khô hanh ở vùng này, cũng giống như Ai Cập cổ đại đã được bảo tồn hoàn chỉnh trong sa mạc bốn, năm nghìn năm về trước.



Bạch Bích còn tìm thấy một tập bản photocopy các bài viết của các học giả nổi tiếng mà bố cô tập hợp lại. Những bài viết này đều đề cập đến nguyên nhân biến mất thần bí của nền văn minh Lâu Lan. Bạch Bích đọc lướt qua. Cô phát hiện thấy phần lớn các lý giải đều khác xa nhau, có người cho rằng do dòng nước từ thượng nguồn đổ về bị cắt đứt nên dân chúng đã bỏ thành mà đi. Cũng có người cho rằng tự thân môi trường của Lâu Lan đã bị hủy hoại. Và kết cục này là sự trừng phạt của thiên nhiên với con người. Cũng có người cho rằng do có giặc ngoại xâm đã dùng vũ lực hủy diệt nền văn minh Lâu Lan. Nhưng sau rất nhiều những truyền thuyết và suy đoán đó, mọi thứ dường như vẫn là một câu đố cổ xưa chưa có lời giải đáp.




Nhưng ở phía sau đoạn tài liệu cuối cùng về nguyên nhân tiêu vong của Lâu Lan, Bạch Bích đọc được một dòng chữ do bố cô ghi lại: “Bọn họ đều đã nghĩ sai hết cả, sự tiêu vong của Lâu Lan không nằm trong bất cứ nguyên nhân nào trên đây.”



Bố cô luôn thích viết những cảm nghĩ và nhận xét của mình ở mọi nơi nhưng một luận điểm to gan như thế này quả thực là hiếm thấy, bởi vì những bài luận văn đó đều là của những học giả nổi tiếng trong và ngoài nước. Họ đều là những người có uy tín, còn bố cô sinh thời chẳng qua là một kẻ vô danh tiểu tốt chẳng có tiếng tăm gì.



Trong một chồng tài liệu, Bạch Bích nhìn thấy có mấy trang photocopy. Chữ trong bản phô tô là một loại chữ đặc biệt. Tổng cộng có mười mấy trang, mỗi trang có mấy chục dòng, trong đó có mấy dòng chữ bị thiếu. Những chữ này có hình dây, xếp thành hàng ngang ngay ngắn, xem ra là một loại chữ cổ nào đó. Bạch Bích có cảm giác cô rất quen thuộc với kiểu chữ này. Lưng cô lập tức ướt đẫm mồ hôi, mặc dù cô chẳng hiểu một chữ nào trên đó. Điều này càng làm cô cảm thấy bất an. Cô cố gắng hồi tưởng trong đầu hình bóng loại chữ trước mắt. Chúng như đang chuyển mình động đậy, nhảy múa trước mặt cô. Tai cô văng vẳng tiếng nhạc cổ, ánh đèn dao động, một chiếc eo thon và một cặp mắt to. Cuối cùng cô đã nhớ ra. Đó là một giấc mơ, giấc mơ năm cô 10 tuổi. Một người phụ nữ đã đến trong giấc mơ của cô, viết lên tường mấy chữ. Đúng, chính là loại chữ này. Tuy cô không hiểu, nhưng bút pháp và đường nét thì không nghi ngờ gì nữa, chính là loại chữ này. Chính ngày hôm sau sau giấc mơ ấy, bố cô đã bị tai nạn giao thông và vĩnh viễn rời xa cô. Vì thế, cô mãi mãi ghi nhớ giấc mơ đó.



Đằng sau tập tài liệu phô tô đó còn có một bài viết của bố cô. Bài viết không dài nhưng tiêu đề thì dài một cách đáng sợ. Bài viết có tên: “Lý giải về những nội dung tôn giáo có liên quan trong văn thư chữ Kharosthi tìm được tại di chỉ Lâu Lan”. Nội dung bài viết rất sâu sắc, không phải là người trong nghề đọc sẽ rất khó hiểu, Bạch Bích đọc qua mới biết những chữ cổ trong tập phô tô vừa nãy được gọi là “chữ Kharosthi”. Chữ Kharosthi là một loại chữ kí âm rất cổ. Nếu lật ngược dòng lịch sử thì chữ Kharosthi là một dạng biến thể của chữ Elamite[9], được sử dụng như loại chữ chính thức trong triều đình từ thời Vương triều Achaemenid[10], thuộc Ba Tư cổ. Loại chữ này về sau trở thành một trong những loại chữ chính thức của đế quốc Kushan[11], lưu hành khắp vùng Trung Á rộng lớn. Lúc ban đầu, chữ Kharosthi dùng để ghi chép các câu tục ngữ trong tiếng địa phương của tiếng Arya[12], nằm trong lưu vực sông Ấn Độ cổ, lưu hành ở khắp vùng Peshawar[13], nơi đã sản sinh ra nền văn minh Gandhara nổi tiếng, kết quả của sự giao lưu giữa hai nền văn hoá Đông Tây. Vào khoảng cuối thế kỷ 2 sau Công nguyên, nền văn minh Gandhara và chữ Kharosthi bắt đầu truyền bá về phía Đông đến Pamir[14] và cũng là chữ viết chính thức của nhiều quốc gia khác trong lòng chảo Tarim[15], như Sơ Lặc, Vu Điền, Lâu Lan và Qui Từ[16]. Các nước Vu Điền, Sơ Lặc và Qui Từ chỉ dùng loại chữ viết này trong một khoảng thời gian ngắn, chỉ có người Lâu Lan tiếp tục sử dụng chữ Kharosthi đến tận cuối thế kỷ 4 sau Công nguyên.



Phía sau những tư liệu ấy Bạch Bích phát hiện thấy có mấy bức ảnh đen trắng. Cô chắc chắn những bức ảnh này là do bố cô chụp. Cô biết trong nhà có một chiếc máy ảnh đen trắng cũ. Bố cô thường hay thích chụp ảnh bằng chiếc máy ảnh này. Những bức ảnh trước mặt cô lúc này chụp cảnh đồng hoang mênh mông, toàn những đá dăm và cát bụi, hai mảng đen trắng hợp thành, vô cùng đơn điệu. Cô nghĩ đến bức tranh treo trên tường của mình. Cô bắt đầu hiểu ra tại sao vào đúng hôm bố cô qua đời, ông lại hồn bay phách lạc đến thế khi nhìn thấy bức tranh này. Những thứ cô gặp trong mơ đều là những thứ bố cô đã nhìn thấy, thậm chí còn chụp ảnh lại. Còn có mấy bức ảnh về di chỉ thành cổ Lâu Lan, toà Phật tháp cao và những ngôi mộ trong hoang mạc. Trong đó có bức ảnh sợ nhất là chụp về một loạt các di hài người chết, toàn là xác khô, mặc dù trông đã hoá đen cả, mặt mũi dữ tợn, nhưng phải nói là chúng đã được bảo quản rất hoàn hảo. Những xác người Lâu Lan cổ trông như những xác ướp này cứ xếp hàng dài dưới ánh nắng mặt trời trên đồng hoang như thế suốt thời cổ đại. Có lẽ bố cô đã chụp lại chúng ngay khi vừa mới đào lên.



Nhưng bức ảnh cuối cùng mới khiến Bạch Bích phải giật mình. Đó không phải là bức ảnh chụp di chỉ, cũng không phải là ảnh về một loại người cổ gì mà là ảnh của một người con gái. Một tấm ảnh của một người cô gái trẻ vẫn còn sống. Cô ta mặc một chiếc váy không biết là của dân tộc nào, da rất trắng, mắt đặc biệt to, sống mũi thẳng, mái tóc đen nhánh được kết thành nhiều bím nhỏ. Cô gái chắc trạc độ 20 tuổi, đang đứng dưới ánh nắng mặt trời, khung cảnh phía sau hình như có cây cối và một mái nhà. Vẻ mặt cô đang biểu hiện một điều gì đó rất khó diễn tả bằng lời, đôi môi mỏng, mép hơi nhếch lên, chiếc cằm trông rất xinh. Đặc biệt là đôi mắt đang lấp lánh dưới ánh mặt trời. Đó tuyệt đối không phải là đôi mắt của người Hán. Đôi mắt đó chỉ thuộc về Tây Vực cổ xa xôi, huyền bí và khó hiểu. Đôi mắt đó như chứa đựng rất nhiều những bí mật cổ. Để đến nhiều năm sau, khi xem bức ảnh này, Bạch Bích vẫn nhìn hướng về người con gái ấy như nhìn về phía một nữ thần.



Bạch Bích hơi run, cô lặng lẽ nhìn cô gái trong bức ảnh. Trong khoảnh khắc, cô như cảm thấy người trong ảnh đang nói chuyện với cô.



Cô đưa tai ra lắng nghe, nhưng cô không thấy gì ngoài tiếng gió đang thổi bên ngoài cửa sổ.


 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 13


Ánh nắng cuối cùng cũng chiếu vào trong phòng, Bạch Bích mở to mắt ngắm tia sáng mênh mang ngoài cửa sổ. Cô biết rằng suốt đêm mình ngủ không ngon, sắc mặt sau khi tỉnh dậy càng trắng bệch hơn, Bạch Bích đưa tay lên vuốt vuốt mái tóc, những sợi tóc trơn tuột giữa các ngón tay.



Cô ngồi trước cửa sổ, mở giá vẽ và bảng màu ra. Bạch Bích giờ chỉ vẽ thuê cho các phòng tranh, cô không còn hứng thú trở thành họa sĩ nữa, cho dù lúc còn nhỏ bố cô rất hy vọng vào điều này. Cô chỉ muốn trở thành một thợ vẽ giỏi. Thợ vẽ thực ra là một người thợ. Cô cho là làm một thợ vẽ có ý nghĩa hơn nhiều so với trở thành một họa sĩ. Thợ vẽ lúc nào cũng âm thầm lặng lẽ. Tác phẩm của người thợ vẽ được mọi người ngắm nghía. Thợ vẽ chỉ biết vui vẻ làm việc, không có gánh nặng gì nhiều. Cô thích cái cảm giác của người thợ vẽ. Những bức tranh bày trên những phòng tranh ven phố, có lẽ chẳng đáng giá bao nhiêu tiền, đương nhiên thỉnh thoảng cũng có những bức tranh được kẻ đang phất ném ra cả ngàn tệ mua về. Bạch Bích không có cảm giác đặc biệt với những trường hợp như thế. Cô chỉ cần phòng tranh trả tiền công đúng hẹn cho cô, còn cô thì cứ đúng hẹn giao tranh là được, những vấn đề khác, cô không quan tâm.



Hôm nay vẽ gì đây?



Cô muốn vẽ hồ La Bố. Cô bắt đầu dùng bút chì vẽ phác qua. Chỉ vừa mới phác được nét đầu tiên, tiếng chuông cửa bỗng vang lên. Bạch Bích đặt bút xuống, đi ra phía cửa. Cô cứ ngỡ là Tiêu Sắt đến, nhưng sau khi mở cửa, cô phát hiện thấy đứng trước cửa nhà lúc này là một người đàn ông vừa quen vừa lạ.



Cô quen khuôn mặt này, nhưng không quen con người này, bởi vì từ cái nhìn đầu tiên cô đã biết rằng người đàn ông này không phải là Giang Hà của cô. Giang Hà của cô đã hoá thành tro bụi chôn sâu trong lòng đất, mãi mãi không không thể nào xuất hiện trước mặt cô nữa. Mặc dù, cô cảm thấy khuôn mặt đứng trước cô rất quen, nhưng ánh mắt của anh ta lại rất xa lạ. Bạch Bích lập tức nhớ ra, chiều qua ở cổng Viện Nghiên cứu Khảo cổ, chính người đàn ông này đã đứng ở bên kia đường nhìn cô.



Đúng rồi, cô nhớ đôi mắt của người đàn ông này, hơn nữa cô còn nhớ đến một câu nói: “Khuôn mặt quen thuộc là cạm bẫy lớn nhất”, nên cô lập tức có phản ứng tự vệ, cô chỉ mở hé cửa, thận trọng hỏi:



- Anh là ai?



Người thanh niên móc trong túi ra một tấm thẻ đưa ra trước mắt Bạch Bích. Tên trên tấm thẻ là Diệp Tiêu, đơn vị công tác là Sở Công an thành phố. Bạch Bích gật đầu, mở cửa để cho anh ta bước vào và tỏ ý xin lỗi:



- Xin lỗi, tôi không biết anh là cảnh sát!



Diệp Tiêu vẫn nhìn cô bằng ánh mắt ấy, nói:



- Không sao, tôi vẫn mặc thường phục khi làm việc. Cô là Bạch Bích?



- Vâng!



Bạch Bích né tránh ánh mắt của anh ta, nói đúng ra là cô không muốn nhìn khuôn mặt quen thuộc này.




- Tôi là Diệp Tiêu. Tôi phụ trách điều tra vụ án của Giang Hà.



Sau khi bước vào trong được vài bước, anh nhìn thấy trong phòng xếp đầy giấy vẽ và bột màu, liền hỏi:



- Cô là họa sĩ à?



Bạch Bích lạnh lùng đáp:



- Không, tôi chỉ là người vẽ tranh cho các phòng tranh mà thôi, sao dám nhận là họa sĩ được.



- Ồ, cô đang vẽ gì vậy?



- Không, không có gì!



Bạch Bích bắt tay vào thu dọn giấy vẽ và bột màu, Diệp Tiêu đứng cạnh nhìn cô khiến cô hơi căng thẳng, đến nỗi dây cả một ít màu vẽ vào tay.



- Xin lỗi anh, tôi phải đi rửa tay!



Bạch Bích vội vàng đi vào phòng vệ sinh. Diệp Tiêu vẫn đứng trong phòng ngắm nhìn sự bày biện và trang trí. Anh có thể nghe rõ tiếng nước đang chảy từ vòi nước trong phòng vệ sinh. Anh chú ý đến bức tranh treo trên tường, nhìn kỹ anh thấy có gì đó rất khác thường. Diệp Tiêu vốn cũng học qua mỹ thuật. Trước khi thi vào trường Cảnh sát, anh đã từng mơ ước thi vào trường Mỹ thuật, nhưng sau này anh đã thất bại. Tiếng nước trong phòng vệ sinh đã ngưng. Bạch Bích bước ra. Diệp Tiêu phát hiện thấy cô có vẻ lúng túng bất an. Đương nhiên điều này cũng rất bình thường, rất nhiều người khi bị cảnh sát đến thẩm vấn đều như vậy.



Diệp Tiêu cuối cùng đi vào vấn đề chính:



- Tôi nghe nói cô và Giang Hà đã dự định tháng sau làm đám cưới phải không?



- Vâng!



Diệp Tiêu cảm thấy ánh mắt mình hình như đang khiến cho Bạch Bích sợ sệt. Anh cố làm cho ánh mắt và giọng nói hiền hoà hơn. Anh nói:



- Trong hồ sơ vụ án viết, cô đã từng khai với phía cảnh sát rằng, vào đêm Giang Hà xảy ra sự việc, cô có nhận được một cuộc điện thoại. Chúng tôi đã xác minh được đó đúng là cuộc gọi từ phòng làm việc của Giang Hà.



- Tôi sớm đã đoán vậy!



- Ừm, nói như vậy mối quan hệ giữa cô và Giang Hà phải rất tốt. Nhưng cũng đúng thôi, hai người cũng sắp kết hôn, tâm linh chắc cũng có một sự kết nối nào đó. Cô có thể kể cho tôi nghe về Giang Hà được không?



Bạch Bích tỏ ra lạnh nhạt:



- Chẳng có gì để kể cả, anh ấy là người như vậy. Các anh nên sớm điều tra cho rõ vụ việc.



- Bạch Bích, cô đừng sợ, tôi chỉ đến để hỏi rõ thêm về vụ việc. Cô chỉ cần nói cho tôi nghe những gì cô biết là được rồi. - Diệp Tiêu cố gắng nói nhẹ nhàng.



- Anh ấy chưa bao giờ kết thù oán với ai, cũng không có quan hệ với những phần tử nguy hiểm của xã hội. Anh ấy không có những ham thích xấu, sức khoẻ rất tốt. Có lẽ chỉ có trời mới biết vì sao anh ấy lại xảy ra chuyện như thế.



- Trời mới biết? - Diệp Tiêu nhắc lại câu nói với vẻ ngạc nhiên.



- Hãy nói cho tôi biết, rốt cuộc là tại sao anh ấy lại chết?



- Nếu tôi biết thì giờ đã không đến đây tìm cô. Còn cụ thể thế nào thì bây giờ tôi không thể nói với cô được.



Diệp Tiêu ngừng giây lát rồi nhìn vào mắt Bạch Bích, cơ hồ như không nén nổi tình cảm, anh thầm tự trách mình, anh biết như thế có thể làm đối phương hiểu lầm, nhất là khi Bạch Bích lại là một phụ nữ trẻ đẹp như thế. Nhưng anh phải thừa nhận, đôi mắt của Bạch Bích rất có sức hấp dẫn. Anh điều chỉnh lại cảm xúc của mình rồi hỏi với giọng nghiêm túc:



- Xin lỗi, cô có thể nói cho tôi biết, trước khi Giang Hà chết, lần gặp gần đây nhất của hai người là khi nào?




- Là hôm anh ấy từ Tân Cương trở về. Tối hôm ấy, Giang Hà đã đến đây, anh ấy nói vừa xuống tàu cùng đội khảo cổ. Trông anh ấy vô cùng mệt mỏi, kiệt sức, nói năng cũng rất khó khăn. Đặc biệt là ánh mắt của anh ấy rất kỳ lạ, như đang giấu giếm tôi điều gì. Anh ấy chỉ ở lại đây một lúc rồi vội vàng về nhà, không nói điều gì đặc biệt cả. Sau đó mấy ngày, tôi có gọi cho anh ấy mấy cuộc điện thoại hẹn anh ấy nhưng anh ấy từ chối trên điện thoại, nói rằng công việc dạo này rất bận, không có chút thời gian rảnh nào cả, đợi anh ấy hết bận sẽ tính sau. Cứ như thế cho đến tận cái đêm anh ấy chết, tôi không gặp lại anh ấy nữa.



Nói xong Bạch Bích thấy đầu mình bắt đầu đau âm ỉ.



- Anh ấy nói công việc của anh ấy gần đây rất bận, thế cô có biết dạo gần đây anh ấy bận việc gì không?



- Tôi không biết! Xưa nay tôi không hỏi những chuyện có liên quan đến công việc của anh ấy. Tôi chỉ biết rằng các anh ấy đi Tân Cương để tiến hành khảo cổ ở hồ La Bố. Thời gian vừa tròn một tháng. Quãng thời gian đó, tôi không có chút tin tức gì.



Nói xong, Bạch Bích nhìn thấy Diệp Tiêu lấy bút ghi chép tất cả vào một cuốn sổ tay.



Diệp Tiêu chau mày hỏi:



- Xin lỗi, tôi vẫn còn một câu hỏi nữa muốn hỏi cô. Cô có biết Hứa An Đa, đồng nghiệp của Giang Hà không?



- Anh ấy chết rồi!



- Hoá ra cô cũng đã biết. Anh ấy bị tai nạn xe mô tô.



Diệp Tiêu đã xác nhận được việc Bạch Bích và Hứa An Đa rất quen biết nhau.



- Không. Tôi không tin cái chết của Giang Hà và Hứa An Đa chỉ là do tai nạn thường tình.



Tim Diệp Tiêu bỗng giật thót. Lời nhận xét của cô gái trước mặt anh vô tình lại rất trùng hợp với suy nghĩ của anh, nhưng anh không dễ dàng để lộ quan điểm của mình, anh tiếp tục truy hỏi:



- Tại sao cô lại nghĩ thế?



- Buổi tối mà Hứa An Đa xảy ra việc đúng là buổi tối sau khi kết thúc tang lễ của Giang Hà. Sau khi tang lễ kết thúc, anh ấy có gặp tôi nói chuyện riêng. Anh ấy bảo dạo gần đây có rất nhiều sự việc rất khó hiểu xảy ra. Tôi có hỏi anh ấy đã xảy ra chuyện gì nhưng anh ấy kiên quyết không nói. Sau đó anh ấy đi về, không ngờ, đêm đó anh ấy chết. Nhất định phải có việc gì đó chúng ta vẫn chưa biết, anh cảnh sát, anh có cho là thế không?



Diệp Tiêu gật đầu, nói:



- Cảm ơn những tin tức cô đã cung cấp. Điều này sẽ giúp ích cho chúng tôi rất nhiều, nhưng đừng gọi tôi là cảnh sát. Tôi nghe thấy không thoải mái lắm, cô cứ gọi tôi là Diệp Tiêu. Sau này chúng ta còn gặp nhau nhiều mà, cô nên chuẩn bị sẵn tư tưởng.



- Vâng, anh Diệp Tiêu.



Diệp Tiêu bỗng nhớ ra một điều gì đó:



- Ồ, xin lỗi, vừa nãy suýt nữa thì tôi quên, tôi có xem qua hồ sơ về cô. Bố cô trước đây cũng làm việc ở Viện Nghiên cứu khảo cổ nơi Giang Hà làm việc phải không? Trong tài liệu nói ông đã mất trong một vụ tai nạn giao thông năm 1988. Cô có thể nói về việc này cho tôi nghe được không? Trực giác mách bảo tôi, việc này có thể liên quan đến nhau. Tôi biết nói về chuyện này thì không hay lắm đối với cô, nếu cô cảm thấy không vui, vậy thì cô có thể không nói.



Bạch Bích ngẩng đầu, nhìn thẳng vào anh, bây giờ cô đã dám nhìn thẳng vào anh, đúng vậy, khuôn mặt quả thực rất giống Giang Hà, đặc biệt là cái cằm và viền môi, gần như tạo cho cô ảo giác là đang nói chuyện với Giang Hà. Thế nhưng vài chi tiết trên mặt vẫn có sự khác biệt, những điểm khác biệt đó hình như đang nói với cô - anh ấy không phải, không phải là người yêu của cô.



Cô gật đầu với chính mình, sau đó lạnh lùng nói:



- Không sao, vụ tai nạn năm đó có điểm rất khó hiểu, năm đó tôi mới 10 tuổi, nhưng lại nhớ rất rõ từng việc xảy ra. Hôm đó đúng vào sinh nhật lần thứ 40 của bố tôi, sau khi ông đưa tôi đến bệnh viện, trên đường trở về nhà thì xảy ra chuyện. Lúc đó, tôi và mẹ đã đi hẳn sang đường bên kia, còn bố tôi thì đột nhiên đứng yên bất động, mẹ tôi hét gọi ông thật to, nhưng ông hình như không nghe thấy gì cả, cứ đứng yên ở trên vạch dành cho người đi bộ sang đường như thể đã biến thành một bức tượng điêu khắc vậy. Đèn đỏ phía đường khác đã chuyển sang màu xanh, một chiếc xe tải quành sang, nhưng bố tôi không hề có chút phản ứng nào, và thế là đã xảy ra tai nạn.



- Thực khó mà có thể tin được, cứ như là phim điện ảnh kinh dị vậy! - Diệp Tiêu nói.



Bây giờ, Bạch Bích hình như không còn tâm lý đề phòng anh như lúc ban đầu nữa, cô bắt đầu tin tưởng người sỹ quan cảnh sát đang đứng trước mặt cô, bởi vì trong lòng cô, giờ đây đã hoàn toàn phân biệt rạch ròi giữa anh và Giang Hà rồi:



- Đến giờ tôi vẫn cảm thấy sợ hãi.



- Bởi vì hai người thân thiết nhất đều đã đột ngột rời xa?




Cô gật đầu.



- Thế còn mẹ cô?



- Bà đang sống trong bệnh viện Tâm thần, từ sau khi bố tôi mất, thần kinh của bà bắt đầu không bình thường.



- Ôi, tôi xin lỗi. Thôi được, xin cảm ơn sự phối hợp của cô, tôi nghĩ, những tin tức cô cung cấp là những manh mối rất có giá trị với chúng tôi. Xin lỗi vì đã làm phiền cô. Đây là danh thiếp của tôi. Nếu có việc gì, cô hãy gọi điện thoại cho tôi, xin cô cứ yên tâm, tôi không có ngày nghỉ đâu, bất kể ngày đêm, lúc nào tôi cũng có thể có mặt.



Nói xong, Diệp Tiêu đưa danh thiếp của mình cho Bạch Bích.



Bạch Bích nhận lấy tấm danh thiếp. Cô nghĩ lại những lời nói của Diệp Tiêu, đặc biệt là câu: “Nếu có việc gì, cô hãy gọi điện thoại cho tôi, xin cô cứ yên tâm, tôi không có ngày nghỉ đâu, bất kể ngày đêm, lúc nào tôi cũng có thể có mặt.”



Những từ ẩn ý đó như đang ngầm báo mình có thể sẽ gặp nguy hiểm, lẽ nào sau việc xảy đến với Giang Hà và Hứa An Đa, sẽ đến lượt mình chăng? Cô ngẩng đầu lên nhìn Diệp Tiêu, ánh mắt đầy lo lắng.



- Hãy tin tôi, cô sẽ không sao đâu. Tôi về đây!



Diệp Tiêu có cảm giác mình đã nắm được cục diện. Anh gật đầu chào Bạch Bích, sau đó bước ra cửa. Vừa định nói tạm biệt, anh lại quay người nói với Bạch Bích:



- À, còn việc này nữa, hôm qua lúc ở cổng Viện Nghiên cứu khảo cổ tôi có nhìn thấy cô. Tôi thấy sắc mặt cô lúc đó không được tốt lắm.



- Vâng! - Bạch Bích hơi xấu hổ.



- Cô không nên đến nơi đó nữa, hãy tin tôi, cái Viện Nghiên cứu Khảo cổ ấy có vấn đề. Cô đừng mạo hiểm đến đó!



- Anh cho rằng sẽ có người tiếp theo xảy ra chuyện sao?



- Có lẽ thế, hiện nay chẳng ai nói rõ được điều gì. Nếu như nói được rõ thì tốt quá rồi. - Diệp Tiêu tỏ ra có chút bất lực.



Anh ta cũng không nói rõ được, có lẽ sẽ còn có người phải chết, trong lòng Bạch Bích bỗng dấy lên một nỗi sợ hãi. Cô buột miệng thốt ra hai chữ:



- Lời nguyền.



- Cô vừa nói gì? Lời nguyền?



- Xin lỗi anh, tôi chỉ là suy nghĩ lung tung rồi nói bừa ấy mà. - Bạch Bích vội vã phân bua.



Diệp Tiêu lại cau mày, đưa mắt liếc nhìn ánh mắt Bạch Bích. Anh biết rằng dứt khoát lời nói của cô ấy không chỉ đơn giản như thế. Nhưng bây giờ không phải là lúc truy tìm căn nguyên của nó, anh chào Bạch Bích rồi đi ra khỏi căn nhà.



Diệp Tiêu bước nhanh xuống cầu thang, sau khi ra đến đường lớn, anh nhìn về phía ngã tư trước mặt. Trước đây mười năm, bố của Bạch Bích, ông Bạch Chính Thu không hiểu tại sao đã bị tai nạn ở chỗ này. Anh cố gắng tưởng tượng ra hiện trường lúc nãy Bạch Bích miêu tả, vừa đi anh vừa lẩm bẩm hai chữ Bạch Bích vừa thốt ra: Lời nguyền.



Bạch Bích đang đứng bên cạnh cửa sổ, lặng lẽ nhìn Diệp đang đứng trên con đường lớn dưới nhà. Cô vẫn không thể phân biệt được đó là bóng dáng của ai?


 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 14


Bạch Bích chưa bao giờ đến đây. Hàng loạt ngã tư như những mê cung từng cái từng cái một nối nhau, cô theo địa chỉ Tiêu Sắt đưa cho, đi xuyên qua hàng cây ngô đồng, cuối cùng cũng tìm ra cái rạp hát ấy.



Cửa rạp hát không có ai ra vào, chỉ treo một tờ áp phích quảng cáo rất bình thường. Bạch Bích cũng đã vẽ những áp phích tương tự, nói thực lòng, cô thấy tờ áp phích trước mặt vẽ thật chẳng ra làm sao. Mấy em sinh viên ở trường Mỹ thuật vẽ còn đẹp hơn tấm này. Khung cảnh trong tờ áp phích là một hoang mạc màu vàng đất, bầu trời màu xám chì, phủ đầy mây đen và sấm chớp. Ở chính giữa bức tranh vẽ một cô gái giống như người Tân Cương, đầu đội rất nhiều đồ trang sức châu báu, mặc một bộ quần áo rất sang trọng nhưng khuôn mặt cô gái lại được vẽ theo những nhân vật chính trong truyện tranh Nhật Bản. Mắt to quá mức, vẻ mặt trông rất đáng sợ. Bạch Bích nghĩ, tấm áp phích này chỉ có thể hấp dẫn những em học sinh trung học. Ở bên phải tờ áp phích, có mấy chữ được viết từ trên xuống dưới: Đoạn hồn Lâu Lan.



Lâu Lan.



Lại là Lâu Lan. Nhìn thấy hai chữ này, Bạch Bích lại cảm thấy hơi khó chịu. Bên dưới tờ quảng cáo có in thời gian biểu diễn, khoảng mười ngày nữa. Bạch Bích thong thả bước vào rạp hát, ngoài cửa không có người trông, đoạn đường nối vào bên trong rạp tối om, cho đến khi đẩy cửa rạp hát bước vào bên trong mới nhìn thấy ánh đèn rọi xuống từ trên sân khấu phía trước.



Rạp hát không to như cô tưởng tượng, có phần nhỏ hẹp, chật chội. Trên những hàng ghế trống, có mấy người ngồi tản mạn; không biết họ là nhân viên của đoàn kịch hay là những người như cô chỉ đến xem diễn tập. Cô chọn một chỗ trong góc tối nhất để ngồi. Cô nhìn mọi người đang tập trên sân khấu. Ánh đèn hơi tối, không có âm nhạc, ngay cả bối cảnh sân khấu xem ra cũng mới hoàn thành được một nửa, nhưng diễn viên thì đều đang mặc phục trang. Mấy người đứng trên sân khấu, ăn mặc Tây không ra Tây, Tàu không ra Tàu. Phía chính giữa có đặt một chiếc ghế có thể nói là khá đẹp. Một người đội vương miện, mặc áo bào đang ngồi trên chiếc ghế đó. Người đó dán rất nhiều râu trên mặt, tạo đúng thành hình tượng người Tân Cương râu rậm. Xem chừng vai diễn đó có vẻ là Quốc vương.



Bỗng nhiên, một người ngồi trên hàng ghế đầu hét lên một tiếng:



- Màn này diễn chán quá! Xuống hết cả đi. Bây giờ bắt đầu chuẩn bị tập màn 3!



Sân khấu phía trước vụt tắt, không có hạ màn, chỉ thấy những bóng đen trên sân khấu đi đi lại lại, thỉnh thoảng có tiếng nam giới quát lên trong bóng tối. Bạch Bích chỉ nhìn thấy có vậy, trong lúc chờ đợi trong bóng tối mênh mông, trong đầu cô hiện lên những tấm ảnh về Lâu Lan cô đã xem tối hôm đó. Cuối cùng, trên sân khấu bừng lên một quầng sáng, một người con gái ngồi lặng lẽ chính giữa sân khấu, mặc dù hoá trang rất đậm nhưng Bạch Bích vừa nhìn đã nhận ra đó là Tiêu Sắt. Tiêu Sắt mặc một bộ quần áo đỏ, rất bắt mắt. Đôi mắt to tròn của cô trợn lên nhìn xuống phía dưới sân khấu. Sau đó ánh mắt lại dịu dàng trở lại. Tiếp đó, cô bắt đầu độc thoại:



- Đêm tối mông lung, mọi vật đã chìm vào giấc ngủ, cả thành Lâu Lan đang say sưa trong giấc mộng, chỉ có hoa hồng trong vườn là đang khe khẽ toả hương. Hôm nay Hoàng tử nước Vu Điền đã đến đây, cho người đưa thư hẹn ta gặp mặt chốn này. Lòng ta bỗng nhiên hồi hộp quá, bỗng nhiên xúc động quá, hoàng tử nước Vu Điền là một dũng sĩ thần kỳ nhất sa mạc, chàng đã thống lĩnh đội quân đánh bại quân xâm lược của người Hung Nô hùng mạnh. Chàng còn là thi sĩ nổi tiếng nhất vùng Tây Vực, tinh thông lịch sử và địa lý. Chàng còn có thể quan sát được thiên văn và khí tượng. Chàng là ước mơ của các thiếu nữ ở sa mạc này, nhưng ta không được để chàng nhìn thấy mặt ta. Ta phải bịt mặt vì con gái Lâu Lan không thể dễ dàng cho người lạ biết mặt. Hoàng tử à, ta phải làm thế nào mới thể hiện được nỗi lòng ta với chàng đây?



Nói xong, cô ta lấy một tấm mạng đen che lên mặt. Bạch Bích có cảm giác bộ dạng Tiêu Sắt trên sân khấu lúc này rất giống một người con gái Ả Rập.



Tiếp đó, trên sân khấu vang lên tiếng bước chân, Tiêu Sắt hào hứng nói:



- Hoàng tử đến rồi!



Nhưng người ra sân khấu không phải là Hoàng tử mà là hai võ sĩ mặc áo giáp.



Tiêu Sắt lo lắng hoảng sợ, lớn tiếng kêu lên:



- Các ngươi là ai?



Hai võ sĩ không thèm trả lời, họ nắm lấy cánh tay cô. Tiêu Sắt kêu to:




- Ta là Công chúa nước Lâu Lan, nếu các ngươi dám vô lễ với ta, phụ vương ta nhất định sẽ khiến các ngươi chết không có chỗ chôn.



Hai võ sĩ đồng thanh nói:



- Công chúa, chúng tôi xin lỗi, chúng tôi nghe lệnh Quốc vương đến đưa người về cung!



Tiêu Sắt nói:



- Lẽ nào chỉ vì phụ vương đã nhận sính lễ của Nhu Nhiên Khả Hãn nên kiên quyết gả ta sang nước Nhu Nhiên[17] sao?



Hai võ sĩ không trả lời, tiếp tục cầm tay cô kéo ra sau phông. Tiêu Sắt kêu to:



- Phụ vương, phụ vương, vì sao người lại nỡ đối xử với nhi thần như thế?



Tiêu Sắt và hai võ sĩ biến mất trên sân khấu. Bạch Bích không ngờ là Tiêu Sắt lại chỉ diễn có chút xíu thế đã rời sân khấu. Sau đó, cô thấy sân khấu lại bừng lên một quầng sáng, “Hoàng tử nước Vu Điền” xuất hiện. Hoàng tử ăn mặc trông rất phong trần, dáng vẻ lo lắng nhìn ra bốn phía xung quanh, vừa nhìn vừa nói:



- Ta đã hẹn Công chúa nước Lâu Lan gặp nhau ở đây, nhưng sao không có một bóng người, lẽ nào Công chúa không muốn gặp ta chăng?



Khi đó, trên sân khấu bừng lên quầng sáng thứ hai, lại một bóng người nữa xuất hiện. Đó là một người con gái khác. Cô mặc một chiếc váy lụa rất mỏng, bó sát người, lộ ra một vóc dáng vô cùng hoàn mỹ. Bạch Bích nhìn cô gái trên sân khấu, trong lòng bỗng trào dâng một cảm giác kỳ lạ, không hiểu vì sao tim cô đột nhiên đập nhanh hơn. Cô gái trên sân khấu cũng mang mạng che nên không thể nhìn rõ khuôn mặt, chỉ để lộ ra một đôi mắt rất đẹp. Đôi mắt đó đã gợi cho Bạch Bích nghĩ đến một điều gì đó. Tóc cô gái để xoã, không giống như Tiêu Sắt khi nãy, trên đầu Tiêu Sắt đeo đầy đồ trang sức, còn trên đầu cô gái này không đeo gì, nhìn cô giống như một thiếu nữ dân gian. Cô gái từ từ ra sân khấu, bước đi thong thả nhẹ nhàng mà hiếm người trần nào có được. Tóm lại, cảm giác trên sân khấu mang đến cho cô lúc này hoàn toàn không giống với cảm giác khi nãy. Và cảm giác kỳ lạ này là do sự xuất hiện của người con gái kia mang đến.



Hoàng tử nhìn thấy cô gái thì lập tức lao đến, gần như quỳ khuỵu một chân xuống. Chàng nói với cô gái:



- Công chúa thân yêu, cuối cùng nàng cũng đã đến!



Cô gái nhìn anh ta rồi quay đầu đi chỗ khác, có vẻ hơi hốt hoảng.



Hoàng tử cười tỏ ý xin lỗi:



- Công chúa, xin hãy tha thứ cho sự vô lễ của ta, được nhìn thấy viên trân châu rực rỡ nhất Tây Vực, công chúa của nước Lâu Lan, người con gái đẹp nhất thiên hạ, là niềm may mắn của đời ta.



Cô gái vẫn không nói gì, chỉ lắc đầu.



Hoàng tử nói tiếp:



- Ta xin lỗi, ta biết công chúa nước Lâu Lan tôn quý sẽ không dễ dàng gì mà nói chuyện với ta. Công chúa, nàng không cần nói gì, nàng chỉ cần nghe ta thổ lộ hết mối tâm tình là được. Mục đích ta đến Lâu Lan lần này là muốn cưới nàng. Về đến Vu Điền, ta sẽ để nàng ở trong một cung điện đẹp nhất thế giới, có tỳ nữ hầu hạ bên cạnh, có ngọc thạch Vu Điền đeo trước ngực, có những vần thơ Ba Tư tuyệt đẹp ngân nga bên tai nàng, có đồ trang sức tinh xảo, lụa là gấm vóc của Trung Nguyên trên người nàng. Hãy tin ta, ta dám lấy cả cuộc đời ra để đảm bảo, ta sẽ mang đến cho nàng một cuộc đời hạnh phúc.



Cô gái nhìn anh ta. Ánh mắt không rõ là đang sung sướng hay sợ hãi, cô chỉ lắc đầu, rồi quay lưng lại phía Hoàng tử.



Hoàng tử cũng lắc đầu nói:



- Công chúa, có lẽ nàng đã đến lúc phải về nghỉ ngơi, thế thì ta đi đây, nhưng tối mai, vào giờ này, khi mà hoa hồng đang lặng lẽ toả hương, ta sẽ lại đến đây. Công chúa, nếu như nàng bằng lòng, tối mai lại đến trò chuyện cùng ta. Còn nếu như nàng không bằng lòng thì hãy mãi mãi quên ta đi. Ta đi đây, chúc nàng hạnh phúc, Công chúa của ta!



Hoàng tử cúi gập người chào công chúa, sau đó từ từ rời khỏi sân khấu.



Lúc này trên sân khấu chỉ còn lại một mình cô gái, tất cả ánh sáng đều tập trung vào cô, xung quanh tối đen. Cô ngẩng đầu nhìn thẳng về phía trước, từ từ bỏ mạng che mặt ra.



Ánh sáng quá mạnh khiến khuôn mặt của cô gái trở thành một vầng trắng sáng. Người điều khiển ánh sáng phát hiện ra sai lầm vội điều chỉnh cho dịu đi. Khi đó khuôn mặt của cô gái mới từ từ hiện rõ các đường nét.



Bạch Bích ẩn trong chỗ ngồi ở góc tối, lặng lẽ quan sát khuôn mặt ấy. Cô ấy thật đẹp, Bạch Bích tự nhủ trong lòng.



Đôi mắt u buồn của cô gái trên sân khấu rất kỳ lạ. Ánh mắt đó như không phải nhìn thẳng về phía trước mà là nhìn về một phương trời xa xôi nào đó, môi cô khẽ động đậy, rồi từ từ thốt ra một lời thoại:



- Người mà Hoàng tử yêu là Công chúa, không phải ta!



Lời nói của cô như có một loại ma lực khiến cho tất cả những người xem đều bị hút vào. Câu thoại đơn giản như vậy được thốt ra từ miệng cô lại phảng phất như một câu thơ tình của xứ Ba Tư.



Tiếp đó cô quay đầu sang một bên, cái cổ thon dài của cô ánh lên như men sứ dưới ánh sáng trắng. Khi ánh sáng đó vụt qua ánh mắt Bạch Bích thì tất cả đèn trên sân khấu bỗng vụt tắt. Sân khấu tối om, một lúc sau ánh sáng lại sáng trở lại, trên sân khấu đã không còn một bóng người.



La Chu lại đứng lên, anh vỗ tay cổ vũ, sau đó cao giọng nói:



- Đoạn này diễn khá lắm, thôi, hôm nay hãy tập đến đây đã!



Ánh đèn màu vàng trong rạp hát lại sáng lên. Bạch Bích nhìn quanh bốn phía và nhanh chóng nhìn thấy Tiêu Sắt vừa mới tháo bỏ đống đồ trang sức và tẩy trang xong.



- Bạch Bích, cuối cùng cậu cũng đã đến!



Tiêu Sắt lên tiếng gọi rồi đến ngồi xuống bên cạnh cô, hỏi:




- Bạch Bích, mau nói xem, cậu thấy tớ diễn thế nào?



- Tớ không hiểu lắm, nhưng có vẻ hơi ngắn.



Tiêu Sắt có phần thất vọng nói:



- Đúng rồi, mấy màn đầu hơi mất hứng nhưng đến mấy màn sau khá hơn đấy, hãy tin tớ đi, vai của tớ mới đích thực là vai chính!



- Tiêu Sắt, cô nữ diễn viên lúc nãy chỉ nói có một câu thoại thì sao? - Bạch Bích cuối cùng đã không kiềm chế được sự tò mò.



- Cô ta á, chẳng biết cô ta từ đâu tới. Tớ cũng không rõ, hình như đạo diễn lúc đi đăng tuyển diễn viên tìm được về thì phải!



Giọng nói của Tiêu Sắt đầy vị chua chát. Bạch Bích đoán được thái độ của Tiêu Sắt nhưng cô không thể hiểu được, có lẽ sự đố kỵ là bản chất của phụ nữ. Nhưng cô không thề không thừa nhận rằng diễn xuất của cô gái trên sân khấu vừa nãy tốt hơn nhiều so với của Tiêu Sắc.



Bạch Bích lẩm bẩm một mình:



- Nhưng cô ấy diễn hay đấy chứ, đặc biệt là đôi mắt như biết nói của cô ấy.



Nhưng khi cô quay đầu lại nhìn, thấy sắc mặt của Tiêu Sắt thật khó coi, cô hiểu rằng câu nói của mình đã chạm đến lòng tự ái của Tiêu Sắt. Cô vội vàng nói tỏ vẻ biết lỗi:



- Xin lỗi cậu, Tiêu Sắt, tớ không cố ý!



Tiêu Sắt lạnh nhạt nói:



- Thôi được rồi, tớ biết nó diễn hay hơn tớ, đạo diễn cũng thích nó, ngay cả cậu cũng thích nó. Ai cũng thế, không nói nữa, tớ chẳng để ý đâu.



- Vì chúng mình là bạn thân mà. - Bạch Bích an ủi cô. - Tối nay chúng mình cùng đi ăn cơm nhé?



Tiêu Sắt lắc đầu nói:



- Không được rồi, hôm nay tớ đã có hẹn với đạo diễn của chúng tớ.



Nói xong, cô đưa mắt nhìn La Chu đang nói chuyện với mọi người ở đằng trước.



Bạch Bích cũng nhìn về phía trước, ở hàng ghế trên cùng có hai người đàn ông đang đứng, trông có vẻ còn trẻ. Bởi vì họ đang đứng quay lưng lại phía cô nên cô không nhìn rõ khuôn mặt của họ, chỉ thấy một trong hai cái lưng trông rất quen, quen đến mức tim cô đập nhanh hơn. Trong đầu cô lập tức có cái gì đó lướt qua, nhưng lại nhanh chóng bị cô gạt đi, không thể nào, không thể nào thế được. Cô lại quay đầu lại, nhìn thấy ánh mắt của Tiêu Sắt đang hướng về phía trước, cô đã hiểu được tâm sự của Tiêu Sắt.



Bạch Bích tạm biệt Tiêu Sắt rồi một mình đi vào con đường tối om. Con đường dài không một bóng người, cô chỉ nghe thấy tiếng bước chân của chính mình vọng lên đều đều. Khi sắp bước ra đến bên ngoài, cô nghe thấy tiếng một bước chân nữa. Tiếng bước chân ấy hoà trộn với tiếng bước chân cô, thật khó phân biệt, điều đó làm cô có phần hơi sợ. Cô ngoảnh đầu lại, trong bóng tối chỉ nhìn thấy một bóng dáng mềm mại đang tiến lại.



Nhờ vào ánh đèn lấp loáng trong đêm tối, Bạch Bích dần dần nhìn rõ đó là một người con gái, vóc dáng cũng tựa như cô, mặc một bộ quần áo trắng. Trong khung cảnh bốn bề tối om, trông lại càng nổi bật. Chính là cô ấy, chính là cô gái trẻ vừa biểu diễn trên sân khấu. Bạch Bích nhìn cô ta với ánh mắt thiện cảm. Cô gái đi đến từ phía đối diện dừng lại trước mặt Bạch Bích. Bạch Bích nhìn vào mắt cô ta, tuy hai người đứng rất gần nhau nhưng vẫn có một cảm giác gì đó rất khó tiếp cận. Bạch Bích cảm thấy đôi mắt này có vẻ quen quen, hình như cô đã gặp ở đâu. Cô nhoẻn miệng cười trong vô thức. Cô gái kia cũng thể hiện rất lịch sự nhìn cô gật gật đầu. Điều đó khích lệ Bạch Bích mạnh dạn lên tiếng bắt chuyện:



- Vừa nãy chị diễn rất hay!



Cô gái khẽ cười. Bạch Bích thầm nghĩ nụ cười này của cô ta có thể hấp dẫn được nhiều người đàn ông. Cô gái khẽ nói:



- Cảm ơn chị, tôi chẳng qua cũng chỉ có một câu thoại thôi mà!



- Tôi cảm thấy câu thoại ấy của chị rất hay, hay hơn hẳn tất cả các lời thoại khác. Nhà biên kịch chắc phải tốn nhiều tâm huyết cho nó hơn những lời thoại khác.



- Câu thoại ấy là do tôi tự nghĩ ra đấy!



Bạch Bích không ngờ được rằng cô diễn viên đang đứng trước mặt mình lại có thể tự mình viết được lời thoại, thật là đáng nể. Cô nói với giọng ngưỡng mộ:



- Chị thật có tài! Tôi là Bạch Bích, bạn của Tiêu Sắt.



- Ồ, chị là bạn của chị Tiêu Sắt à! Chị ấy là một diễn viên giỏi. Tôi là Lam Nguyệt, lam trong màu xanh lam ấy, còn nguyệttrong chữ nhật nguyệt. - Cô gái điềm tĩnh nói.



- Lam Nguyệt? Ánh trăng xanh. Tên chị đẹp quá!



Họ đã đi đến cổng rạp hát. Ánh sáng tự nhiên rọi vào mặt Lam Nguyệt làm cho cô càng sáng bừng lên. Lam Nguyệt quay đầu lại nhìn tờ áp phích, cô cười với vẻ khinh miệt nói:



- Tờ áp phích này vẽ xấu quá!



- Đúng thế, mấy hôm nữa tôi sẽ vẽ cho đoàn kịch một tờ áp phích. - Bạch Bích buột miệng nói.



- Chị là họa sĩ à?



- Không, tôi không dám nhận là họa sĩ. Tôi chỉ vẽ tranh để kiếm sống thôi.



Lam Nguyệt cười với Bạch Bích, rồi nói:




- Rất vui được biết chị. Tôi có việc phải đi trước đây. Chào chị nhé!



Cô ta rẽ sang một con đường khác chẳng mấy chốc đã khuất sau những bóng cây.



Bạch Bích vẫn đứng ở cổng rạp, cô nhìn đồng hồ, còn lâu mới đến tối. Cô chẳng có việc gì cần làm cả nên cũng không muốn về nhà sớm. Cô cứ đứng ngây ra nhìn về phía Lam Nguyệt vừa đi.



- Bạch Bích!



Có người gọi cô, mà là giọng một người đàn ông. Cô quay đầu lại nhìn, là Diệp Tiêu.



Lại là anh ta, nhìn thấy mặt anh, cô lại nhớ đến Giang Hà. Điều này làm cho Bạch Bích hơi lúng túng, cô không kịp nghĩ nhiều, chỉ lạnh lùng hỏi:



- Cảnh sát Diệp, sao anh lại ở đây?



- Tôi đã nói rồi, đừng gọi tôi là cảnh sát Diệp, gọi tôi là Diệp Tiêu là được rồi!



Bạch Bích nhìn anh bằng cặp mắt đầy nghi ngờ, một lúc sau, cô mới nói một câu tự đáy lòng:



- Xin lỗi, cảnh sát Diệp, có một câu tôi không biết là có nên hỏi anh không?



- Cô hỏi đi!



- Có phải anh đang nghi ngờ tôi? - Cô đến gần Diệp Tiêu nói khẽ.



- Cô nói gì cơ?



- Vì sao tôi đến đâu anh cũng đến đấy, từ Viện Nghiên cứu Khảo cổ đến rạp hát này, ở đâu tôi cũng nhìn thấy anh. Tôi nghĩ đây chắc không phải là sự trùng hợp nhỉ? Chẳng lẽ anh cũng đến xem họ diễn tập? Anh đi theo tôi, đúng không? Anh cho rằng tôi có liên quan đến cái chết của Giang Hà à? Hay nói cách khác là, trong mắt anh, tôi mới chính là nghi phạm chính đúng không?



Cô có phần hơi kích động không khống chế nổi cảm xúc của bản thân nữa. Đó là một cảm giác tủi thân và chịu nhiều uất ức. Cảm giác này đã bắt đầu xuất hiện từ hôm tang lễ Giang Hà và cứ tích tụ lại cho đến tận ngày hôm nay. Cuối cùng cô đã không thể tiếp tục nén nhịn được thêm nữa. Mọi thứ cần phải được bộc phát ra. Đó là sự lựa chọn duy nhất.



Diệp Tiêu đứng đần người ra. Anh không ngờ là Bạch Bích lại nói như vậy. Anh than nhẹ một câu, nói:



- Tôi có một người bạn, một người bạn rất thân. Tên anh ấy là La Chu, anh ấy hiện là biên kịch kiêm đạo diễn một đoàn kịch nói. Anh ấy đang tập một vở kịch lịch sử trong rạp hát này. Chính là vở “Đoạn hồn Lâu Lan” dán trên tờ áp phích này. Hôm nay là ngày nghỉ của tôi, tôi đến để xem bạn tôi diễn tập. Đây quả thật là việc cá nhân của tôi. Nếu cô không tin, tôi có thể dẫn cô vào hỏi anh ấy để xem lời tôi nói có đúng không.



Bạch Bích thấy hơi ngượng. Cô nhớ lại vừa nãy trong rạp hát cô nhìn thấy hai người đàn ông ngồi ở hàng ghế trên cùng, trong đó có bóng dáng một người khiến cô nhớ đến Giang Hà, hoá ra đó là Diệp Tiêu. Có lẽ do mấy ngày nay cô đã gặp phải có quá nhiều việc khó hiểu nên cô luôn luôn ở trong trạng thái ngờ vực. Cô khẽ nói:



- Xin lỗi anh, Diệp Tiêu!



- Không sao, thế còn cô, cô đến đây làm gì?



- Thật đúng là trùng hợp, cũng như anh, tôi có người bạn rất thân đóng một vai trong vở kịch này.



- Khéo thật, bạn cô diễn vai nào?



- Vai công chúa.



- Ồ, cô ấy à. La Chu hình như không hài lòng về cô ấy lắm. Ôi, tôi xin lỗi!



- Không sao!



Bạch Bích không muốn đứng mãi trước mặt Diệp Tiêu, nhìn thấy mặt anh, khiến cô không chịu nổi. Cô nhìn trên đường thấy một chiếc taxi trống chạy qua, cô đưa tay ra vẫy rồi vội vàng tạm biệt Diệp Tiêu bước vào trong xe.



Diệp Tiêu nhìn thấy Bạch Bích lên taxi, trong lòng bỗng có cảm giác hụt hẫng. Khi anh quay đầu lại thì thấy La Chu và Tiêu Sắt đang bước ra khỏi rạp hát, họ cũng lên một chiếc taxi đi về phía trung tâm thành phố.



Cửa rạp chỉ còn lại mình anh, một cơn gió thu đầu mùa thổi qua, cảm giác lành lạnh lùa qua lưng anh.


 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 15


Không khí buổi sớm ven sông Tô Châu rất trong lành. Con sông bẩn thỉu hỗn độn trước kia giờ đây đã bị những hàng cây và những cao ốc chọc trời vây bọc lại.



Diệp Tiêu một mình đi bộ ven sông. Anh dừng lại trước một chỗ ngoặt, ở chỗ này con sông Tô Châu lượn một vòng làm cho con đường ven sông cũng tự nhiên uốn vòng theo thành một khúc cua nhưng độ cua không lớn. Anh quan sát đèn hai bên đường, đèn đường rất tốt, buổi tối chắc chắn rất sáng và bên đường còn có biển chỉ dẫn đường cua, không thể không nhìn thấy. Đương nhiên nếu như người tài xế lái xe trong trạng thái loạng choạng sau khi uống rượu thì lại là chuyện khác. Diệp Tiêu cẩn thận xem xét hàng cây ven bờ đê. Hứa An Đa đâm xe chính ở chỗ này, vẫn còn lưu lại vết tay nắm xe cày vào xi măng. Anh quan sát lớp nhựa trên mặt đường, chú ý đến một mảng đường có một đám ruồi đang bay qua bay lại. Bọn ruồi này bất chấp xe pháo đang chạy qua, chỉ thích bu vào chỗ này. Anh đoán đây nhất định là nơi đầu Hứa An Đa đập xuống, não chảy ra. Tuy nó đã được dọn sạch nhưng mùi máu tanh của óc người vẫn còn lưu lại. Mặc dù đã lâu ngày, nhưng khứu giác của lũ ruồi nhặng vẫn phân biệt được cho nên chúng tập trung hết ở mảnh đất có của ngon vật lạ này. Vào lúc sáng sớm mà nghĩ đến những vấn đề này dễ khiến cho bụng dạ khó chịu. Diệp Tiêu vội vàng rời khỏi nơi đây, đi đến một tòa chung cư ven sông.



Chung cư cao tầng này tuy nhỏ nhưng cũng có thang máy, Diệp Tiêu vào thang máy lên tầng trên cùng, ấn chuông phòng La Chu. Đợi một lúc lâu cửa mới được mở ra, La Chu với khuôn mặt mệt mỏi xuất hiện trước mắt anh.



- Tớ đến có sớm quá không?



- Không, cậu vào đi!



La Chu mời anh vào nhà sau đó hỏi anh muốn uống gì. Diệp Tiêu không muốn uống gì cứ nhìn chằm chằm La Chu.



La Chu thấy lạ liền hỏi anh:



- Sao cậu cứ nhìn tớ vậy?



- Sắc mặt cậu kém quá! Vừa dậy hả, đã ăn sáng chưa?




La Chu gật đầu:



- Ăn rồi. Đêm qua tớ lại thức khuya quá. Mấy ngày nay tớ không ngủ được đủ giấc, toàn thức cả đêm.



- Hôm qua tớ thấy cậu với cô gái đóng vai công chúa đi chơi. Chắc về cũng muộn hả?



- Cô ấy à? - La Chu cười nhăn nhó lắc đầu. - Tớ bị cô ấy bám dai như đỉa, sống chết đòi đóng vai nữ chính. Cậu quá hiểu tớ rồi, tớ vốn là người rất cả nể nên chỉ còn cách đồng ý với cô ta. Tối qua cô ấy lại bắt đi hát karaoke mãi đến tận nửa đêm mới được về, như muốn hại chết tớ vậy.



Diệp Tiêu mỉm cười nói:



- Thế còn cái cô hôm qua có mỗi câu thoại thì sao? Cô ta diễn có vẻ được đấy chứ.



- Thực ra cô ấy mới là vai nữ chính. Nhưng dù sao kịch bản tớ viết cũng chưa xong, đến lúc đó sẽ tăng thêm lời thoại cho cô ta vậy.



- Cô ta cũng tốt nghiệp trường Sân khấu ra à?



- Không phải, Tiêu Sắt mới là dân chuyên nghiệp, nhưng tớ không coi trọng cái đó, cái tớ coi trọng là khí chất. Khí chất của cô này rất tốt, dù là trên sân khấu hay dưới sân khấu đều hấp dẫn ánh mắt của người khác, dù nam hay nữ cũng đều thích khí chất của cô ấy. Điều này chứng tỏ cái cô ta dựa vào không phải là sắc đẹp. Sắc đẹp của phụ nữ có thể lôi cuốn đàn ông nhưng chưa chắc đã lôi cuốn phụ nữ, chỉ có khí chất mới lôi cuốn được tất cả mọi người. Điều này không phân biệt giới tính. Cô ấy mới về đoàn kịch chưa lâu, là do tớ tuyển về trong lúc đi tuyển diễn viên. Bây giờ tuyển diễn viên tuy có rất nhiều ứng viên nhưng khả năng diễn xuất rất tồi. Có người khuôn mặt rất ưa nhìn nhưng khí chất rất kém, lời nói thốt ra từ miệng khiến người ta thấy khó chịu. Chỉ có cô ấy là người duy nhất tớ thấy bằng lòng. Ngay từ lúc chưa gặp, cô ấy đã để lại cho tớ ấn tượng rất sâu sắc.



- Ngay từ lúc chưa gặp cô ấy?



- Ừ, ngay từ khi tớ đọc thấy tên cô ấy trên bảng danh sách, tớ đã cảm thấy cô ấy có gì đó khác với mọi người. Tên cô ấy là Lam Nguyệt, ánh trăng xanh, tớ thích cái tên này. Về sau gặp, tớ mới phát hiện ra cô ấy có khí chất hơn người. Với tài năng của mình, cô ấy có thể trở thành một diễn viên rất xuất sắc. Diễn ở cái sân khấu này của tớ thật là thiệt thòi cho cô ấy. Thôi, không nói về việc này nữa. Buổi chiều phải đến sân khấu diễn tập, buổi tối phải hoàn thành nốt kịch bản. Tớ thực sự vô cùng mệt mỏi. Cậu biết không, mấy ngày nay tớ đã trải qua một sự việc ghê sợ nhất nhất trần đời.



- Việc ghê sợ nhất ? - Từng dây thần kinh trong đầu Diệp Tiêu lập tức lại căng lên.



La Chu uống một ngụm nước, giọng rất sợ sệt nói:



- Vào buổi tối cách đây mấy hôm, tớ ngồi trong phòng viết kịch bản cho vở kịch này. Lúc đó đã rất muộn, có lẽ phải đến hơn 11 giờ. Tớ không thể viết được tiếp nên quyết định xuống nhà, ra bờ sông vừa hít thở chút không khí, vừa có thể lấy thêm chút cảm hứng, thứ mà người ta gọi là lấy cảm hứng từ trời đất ấy, nhưng khoan nói đến việc ấy. Nói chung là khi tớ mới đi được mấy vòng thì phát hiện thấy có một anh chàng đi xe mô tô qua, sau đó dừng lại ven đường, anh ta bỏ mũ bảo hiểm ra, nằm trên yên xe. Số tớ thật là đen đủi, định đến xem anh ta có việc gì không nhưng vừa đi đến trước mặt anh ta bỗng ngồi dậy nắm lấy tay tớ, rồi không hiểu sao cứ la lên “Cứu tôi với”, mà miệng anh ta thì sặc sụa mùi rượu. Thế rồi đùng một cái anh ta bỗng nổ máy xe lao vụt về phía trước...



- Đến đoạn cua ven sông Tô Châu thì đâm vào bờ đê, chết ngay tại chỗ. - Diệp Tiêu cắt ngang lời La Chu, bổ sung vào phần kết của câu chuyện.



La Chu giật mình:



- Sao cậu biết?



- Tớ biết vụ án này. Hơn nữa còn chứng kiến việc khám nghiệm tử thi nữa cơ. Tớ chỉ không ngờ, người nhìn thấy sự việc và đến báo công an lại là cậu. Thật là khéo, Hứa An Đa tại sao lại chọn cậu làm người làm chứng cơ chứ?




- Hứa An Đa là ai?



- Là tên người bị chết. Thật đúng là... nếu tớ biết cậu là người đến báo án thì tớ đã sớm đến tìm cậu rồi. - Diệp Tiêu nhăn nhó cười, tự trách mình.



- Đừng đến tìm tớ, tớ đã ù cả đầu vì phải trả lời các câu hỏi ở bên cảnh sát các cậu rồi. Diệp Tiêu, cậu vừa nói người chết chọn tớ là người làm chứng à? Thế nghĩa là sao? - La Chu thấy hơi sợ.



- Đừng sợ, có thể là vì cậu biết viết tiểu thuyết và kịch bản, người chết hy vọng cậu sẽ đem sự việc này viết thành một cuốn tiểu thuyết kinh dị.



Diệp Tiêu cười nói:



- Đùa tí thôi, đừng tưởng thật nhé!



- Thôi xin cậu, anh em với nhau, cậu đừng doạ tớ nữa, được không! Nếu cậu đã xem khám nghiệm tử thi thằng cha đó, còn gọi là giải phẫu nữa, nghe phát ghê. Thế kết quả khám nghiệm là tai nạn do uống rượu rồi lái xe phải không?



Mặt Diệp Tiêu trầm xuống:



- Hình như họ đang chuẩn bị viết báo cáo như thế nhưng tớ vẫn thắc mắc, uống rượu rồi lái xe thì chắc chắn rồi, nhưng ngoài cái đó ra có thể còn có nguyên nhân nào khác.



- Nguyên nhân nào nữa? Cậu đừng có mà dọa tớ!



Thực ra La Chu có phần mê tín, anh tin vào số mệnh, đối với anh, tận mắt trông thấy sự việc chết người là một việc rất xúi quẩy.



- Tớ cũng chẳng biết, tốt nhất là không bàn đến chuyện này nữa. - Diệp Tiêu trả lời.



La Chu thở dài:



- Tốt nhất là không nên biết gì thì hơn!



Diệp Tiêu như không nghe thấy La Chu nói gì nữa, anh đưa mắt ra ngoài cửa sổ, từ đây có thể nhìn thấy con sông Tô Châu đang chầm chậm chảy.



- Cậu đang nhìn gì đấy? - La Chu hỏi anh.



- Ồ, nhìn gì đâu, La Chu, tớ hỏi cậu, vở kịch hiện nay cậu đang tập vì sao lại lấy Lâu Lan làm bối cảnh? - Diệp Tiêu bỗng nhiên nhớ đến tên vở kịch của La Chu: “Đoạn hồn Lâu Lan.”




- Cậu hỏi cái đó để làm gì?



- Tớ hiện đang thụ lý một vụ án. Vụ án này có khả năng liên quan đến việc khảo cổ hồ La Bố. Nạn nhân bị chết cậu nhìn thấy hôm nọ là Hứa An Đa. Anh ta là nhân viên của một Viện Nghiên cứu Khảo cổ, tháng 9 vừa qua cũng đi khảo cổ ở hồ La Bố.



La Chu lắc đầu, nói:



- Tớ xin cậu đừng nói nữa, cứ nghĩ đến những việc ấy là tớ chịu không nổi! Ý cậu là, cái chết của anh ta có liên quan đến thành cổ Lâu Lan? Sợ quá đi, vở kịch mà tớ đang tập chính là nói về thành cổ Lâu Lan. Nói đi nói lại, cuối cùng cậu lại lôi tớ trở lại chủ đề này.



- Tớ xin lỗi, việc này không liên quan gì đến cậu, coi như tớ chưa nói gì!



- Thôi được, tớ nói cho cậu rõ nguyên nhân. Bởi vì tớ thích tiểu thuyết của Yasushi Inoue[18]. Tớ thích tất các các tác phẩm của lão nhà văn hàng đầu Nhật Bản này, như “Đôn Hoàng”, “Sói xanh”. Hơn nữa, ông còn là một chuyên gia trong lĩnh vực nghiên cứu nền văn minh Tây Vực. Ông nghiên cứu rất nhiều về lịch sử và văn hoá Tân Cương. Năm hơn 70 tuổi, ông còn đích thân đến Tân Cương để khảo sát về nền văn minh cổ đại và các di chỉ. Ông ấy viết rất nhiều tiểu thuyết lấy Tây Vực, Trung Quốc làm đề tài, trong đó có một cuốn có tên là “Lâu Lan”, viết về Lâu Lan cổ đại. Tớ nhớ trong đó nói về một người đàn bà tự vẫn, cũng chính là hoàng hậu của nước Lâu Lan. Bà ta không muốn rời bỏ Lâu Lan nên đã tự vẫn, nhưng tớ vẫn nghi có khả năng bà ta đã tự vẫn vì tình. Vì lí do rất sùng bái các tiểu thuyết của Yasushi Inoue, cho nên tớ muốn lấy một câu chuyện về Tây Vực làm đề tài cho vở kịch đầu tiên của mình. Mà Lâu Lan là sự lựa chọn hay nhất, ít nhất nó cũng giúp tớ đặt được cái tên cho vở kịch “Đoạn hồn Lâu Lan”, nó sẽ thu hút được sự chú ý của mọi người. Còn với nội dung của vở kịch thì đương nhiên tớ không mấy tự tin lắm.



Diệp Tiêu gật đầu, hoá ra là niềm đam mê với tác phẩm của Yasushi Inoue, Diệp Tiêu chưa đọc cuốn “Lâu Lan” nhưng tiểu thuyết “Đôn Hoàng” và cả phim nữa, anh đều đã xem, nó để lại trong anh những ấn tượng rất sâu sắc. Anh nghĩ đã đến lúc mình nên về. Chú ý thấy mắt của La Chu đã sắp thâm quầng, anh vỗ vào vai La Chu nói:



- Cậu nên tranh thủ lúc rỗi buổi sáng nay ngủ đi một chút. Tớ về đây, đừng mải viết quá, hãy chú ý đến sức khoẻ.



La Chu gật đầu, tiễn Diệp Tiêu ra cửa. Bỗng nhiên La Chu mặt mũi nhăn nhó lại, nhìn chằm chằm Diệp Tiêu, và lắp bắp nói:



- Diệp Tiêu, tớ thật sự cảm thấy sợ!



- Đừng lo, còn có tớ mà. - Diệp Tiêu gật đầu với anh ta.



- Cậu đúng là bạn tốt nhất của tớ, người anh em ạ! - La Chu bỗng nhiên cảm thấy hơi xúc động.



- Vào ngủ đi!



Diệp Tiêu tạm biệt La Chu rồi bước ra thang máy. Trong thang máy chỉ có mình anh. Thang máy đi xuống một mạch không ngừng lại, anh lặng lẽ đứng nhìn đèn báo tầng lần lượt lướt qua. Bỗng nhiên anh nhớ lại mình và La Chu lúc nhỏ. Anh và La Chu là bạn rất thân của nhau, chơi với nhau từ hồi 5, 6 tuổi đến khi lớn. Hồi nhỏ La Chu mơ làm sĩ quan hải quân, chỉ huy tàu ngầm Trung Quốc lặn sâu dưới đáy Thái Bình Dương, còn Diệp Tiêu thì muốn trở thành một lữ hành gia. Anh rất sùng bái nhà thám hiểm Dư Thuần Thuận, thậm chí anh đã từng đi nghe các buổi nói chuyện của ông, đã từng viết thư cho ông. Anh hi vọng có một ngày sẽ đi theo dấu chân của Dư Thuần Thuận bước trên mảnh đất ở phía Tây Trung Quốc. Có lẽ niềm mong ước này có mối quan hệ với việc anh được sinh ra ở trong Binh đoàn sản xuất kiến thiết Tân Cương mặc dù anh lớn lên ở Thượng Hải, nhưng do bố mẹ anh đều vẫn làm việc ở một đoàn nông sư ở Tân Cương. Tuy nhiên tháng 6 năm 1996, Dư Thuần Thuận gặp nạn trong một lần đi xuyên qua hồ La Bố. Cái chết của ông đã tác động mạnh mẽ đến Diệp Tiêu, anh đau khổ mất mấy ngày mới từ bỏ được ước mơ của mình. Bây giờ Diệp Tiêu đã là một cảnh sát, còn La Chu thì ngay cả hải quân trên bờ cũng chẳng vào, chỉ mưu sinh bằng nghề viết lách, giờ lại làm đạo diễn và biên kịch. Cả hai đều đã từ bỏ ước mơ của mình và tiếp tục vòng quay của cuộc đời trong cái thành phố hiện thực đến tàn nhẫn này. Đó chính là số mệnh, trong thang máy Diệp Tiêu đã tự nói với mình như vậy.



Cửa thang máy đã mở, đã đến tầng cuối cùng, Diệp Tiêu thong thả ra khỏi toà nhà, đã là tháng 11 rồi, cơn gió thu lướt qua trán. Diệp Tiêu thấy ớn lạnh, anh dùng hai tay ôm lấy bả vai đi sang bãi cỏ ven sông, ngắm dòng Tô Châu đang lững lờ trôi.


 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 16


Bóng cây hắt lên cửa sổ tạo thành những bóng đen không ngừng lay động trong gió. Ánh trăng ngoài cửa sổ lúc ẩn lúc hiện. Trương Khai đi đi lại lại không yên trong căn phòng chật hẹp. Bóng anh cũng lắc lư hệt như những cành cây ngoài cửa sổ. Anh không thể chịu nổi hơn được nữa. Anh châm một điếu thuốc. Đầu thuốc lập loè trong phòng toả ra một vầng sáng yếu ớt.



- Tắt thuốc đi! - Văn Hiếu Cổ đứng bên nói với giọng khó chịu.



Điếu thuốc trong tay Trương Khai run rẩy:



- Viện trưởng, em căng thẳng lắm!



- Tắt thuốc đi!



Giọng Văn Hiếu Cổ gần như ra lệnh, Trương Khai thấy hơi sợ, vội dập tắt điếu thuốc.



Sắc mặt Trương Khai ngày càng hoảng hốt. Anh ta lắp ba lắp bắp nói:




- Viện trưởng, sắp đến lúc rồi.



- Đừng sợ, ngồi xuống đi, cậu không chết được đâu! - Văn Hiếu Cổ bình tĩnh nói. Ông đang ngồi trên chiếc ghế Giang Hà vẫn hay ngồi, trước mặt là chiếc máy vi tính Giang Hà thường dùng. Tay cầm một tách trà, nhàn nhã ngồi trên ghế, vừa uống vừa đọc báo.



Trương Khai im lặng không nói gì. Anh ta ngồi ngay cạnh Văn Hiếu Cổ, đầu ngẩng lên, chốc nhìn trần nhà, chốc nhìn ra ngoài cửa sổ, và cuối cùng nhìn chằm chằm xuống sàn nhà. Tim anh ta đập càng ngày càng nhanh, khuôn mặt trắng bệch, miệng rì rầm:



- Đây là một lời nguyền!



- Cậu nói gì đấy?



- Viện trưởng, anh hãy tin em, em tin rồi, bây giờ em đã rất tin. Đây đúng là một lời nguyền. Mấy ngày nay em cứ cảm thấy cơ thể em có điều gì đó không bình thường.



Văn Hiếu Cổ lạnh lùng hỏi:



- Cậu sợ quá đâm bệnh à?



- Em nghĩ chắc em bị mắc bệnh gì đấy rồi. Mấy hôm trước em đã đến bệnh viện kiểm tra sức khoẻ toàn diện, nhưng chẳng phát hiện ra bệnh gì. Nhưng em thật sự cảm thấy có gì đó, có lẽ, có lẽ sẽ là hôm nay, trong căn phòng này.



Trương Khai vụt đứng bật dậy, toàn thân run lẩy bẩy, sau đó lại ngồi xuống ghế, giấu đầu vào hai đầu gối, miệng không biết đang lẩm bẩm những gì. Văn Hiếu Cổ xưa nay chưa từng thấy anh ta sợ đến thế. Ông đưa tay xoa đầu anh ta, nhẹ nhàng nói:



- Sao cậu lại có thể sợ đến thế, có còn là một thằng đàn ông nữa không hả?



- Thế là em xong rồi! Đây đúng là một lời nguyền, em sắp chết rồi!




Trương Khai gần như phát khóc lên:



- Em còn có vợ và con. Họ sẽ ra sao đây? Viện trưởng, sau khi em chết, Viện hãy chăm lo chu đáo cho họ. Em đã viết sẵn di chúc rồi. À, còn nữa, nếu như em sống được qua đêm nay, ngày mai em sẽ đến công ty bảo hiểm mua loại bảo hiểm nhân thọ có giá trị cao nhất để nếu như em có chết, gia đình em sẽ được một khoản bồi thường. Nhưng không biết liệu em có sống qua được đêm nay không?



- Đừng có suy nghĩ vớ vẩn! Tất cả chỉ là do cậu tưởng tượng ra mà thôi! Cậu sẽ không sao hết!



Văn Hiếu Cổ nói một lèo rồi thở một hơi dài và uống một ngụm trà lớn.



Trương Khai lặng im nghe Văn Hiếu Cổ nói như nghe kể một câu chuyện, sau đó thì im lặng trở lại, anh ta cúi đầu lặng đi một lúc rồi nói:



- Viện trưởng Văn, nhưng đêm nay, liệu em có chịu nổi qua đêm nay không?



Văn Hiếu Cổ mỉm cười:



- Cậu hãy nhìn đồng hồ đi!



Trương Khai giơ tay lên:



- Đã quá 12 giờ rồi.



- Sở Công an nói, Giang Hà chết khoảng 11 giờ rưỡi. Bây giờ đã qua giờ ấy rồi, cậu chẳng đang sống sờ sờ ra đấy sao?



- Đúng rồi, mình vẫn sống!



Trương Khai thở phào một tiếng, như trút được gánh nặng. Anh lấy khăn mùi soa lau mồ hôi trên đầu và nước trong khóe mắt.




Văn Hiếu Cổ an ủi nói:



- Xong, không sao rồi! Giờ cũng đã muộn rồi, cậu ngủ lại đây đi, ở Viện có sẵn túi ngủ và giường xếp đấy!



- Ngủ đêm ở đây ư? Phòng này đã có người chết. Không được, không được, tuyệt đối không được, ngủ qua đêm ở đây em sẽ sợ đến chết mất, mà vợ em còn đang thức đợi em ở nhà. Đêm nay em nhất định phải về, hơn nữa nhà em cũng không xa, mai lại là ngày nghỉ. - Anh ta nói rồi đứng lên.



Văn Hiếu Cổ lắc đầu, lạnh lùng nói:



- Được thôi, cậu muốn về thì về đi nhưng cậu đi xe máy đúng không, cẩn thận đấy nhá!



Trương Khai gật đầu:



- Cảm ơn sự quan tâm của Viện trưởng, em sẽ đi cẩn thận! Nhưng còn Viện trưởng thì sao?



- Tôi chẳng có vợ con, ở đâu cũng thế, tôi sẽ ngủ lại căn phòng này, không sao đâu! - Văn Hiếu Cổ nói xong lại cầm cuốn tạp chí lên.



- Viện trưởng, em rất khâm phục sự gan dạ của anh, em mà có được một phần mười của anh thôi đã tốt lắm rồi. Thôi, em về đây, chào anh!



- Chào cậu, đi đường cẩn thận đấy! - Văn Hiếu Cổ vẫn quan tâm dặn dò thêm một câu.


 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 17


Trương Khai một mình đi trong dãy hành lang tối om. Nghe tiếng bước chân mình vang lên, anh thấy hơi chột dạ, đặc biệt là lúc đi qua cửa nhà kho, anh đi như chạy. Anh sợ vào lúc đó, lời nguyền bỗng xuất hiện, nửa đêm đặt anh nằm vào một xó tối nào trong Viện Nghiên cứu, sáng ra đồng nghiệp kinh ngạc phát hiện ra xác của anh. Chỉ mới nghĩ đến đây, anh đã hầu như không bước đi được nữa, anh nhìn ra bốn bề tối om, cảm thấy tim mình như bị treo lên cao bằng một sợi dây mảnh, bất cứ lúc nào cũng có thể đứt.



Trong khi đang thận trọng đi trong bóng đêm bằng cảm giác, lúc sắp đến cửa ra vào của dãy nhà, anh bỗng cảm thấy phía trước có một luồng khí nóng, tiếp đó anh va phải một cái gì đó ngay trước mặt. Trong bóng tối anh không nhìn thấy gì hết. Trương Khai mở to mắt, tim như muốn nhảy ra khỏi lồng ngực. Anh muốn kêu lên thật to nhưng anh không thể kêu lên được, có lẽ cổ họng anh căng thẳng đến mức không còn nghe lời nữa. Anh chỉ có thể dùng giọng run rẩy, khàn khàn tít sâu trong cổ họng nói:



- Ai đấy?



- Tôi đây, Lâm Tử Tố đây! - Có tiếng người vang lên trong bóng tối.



Trương Khai lúc đó mới thở ra một tiếng, hổn hển nói nhỏ:



- Cậu làm tôi suýt nữa sợ chết đứng người. Tôi cứ tưởng mình va phải xác chết sống lại chứ!




- Xin lỗi cậu!



Trong bóng tối Lâm Tử Tố vội nắm lấy tay Trương Khai, sau đó kéo anh ta lên phía trước mấy bước, rồi lại rẽ sang bên, cuối cùng đã đến cửa ra vào. Ở đó có một chút ánh sáng hiếm hoi chiếu lên hai khuôn mặt mờ mờ ảo ảo của Lâm Tử Tố và Trương Khai.



Trương Khai vẫn chưa hết sợ, lấy tay xoa lên ngực, nhìn vào mặt Lâm Tử Tố nói:



- Nửa đêm gà gáy thế này sao cậu còn ở đây?



- Ừ, tôi về đến nhà mới phát hiện chìa khóa không ở trong người. Hóa ra là quên ở phòng làm việc cho nên phải quay lại Viện lấy nếu không đêm nay không biết ngủ ở đâu. - Lâm Tử Tố hạ giọng nói.



- Sao anh không trở lại từ sớm ấy? Bây giờ đã hơn 12 giờ rồi! - Trương Khai hơi nghi ngờ.



- À lúc tan làm, tôi không về nhà ngay mà còn ra ngoài làm mấy ly, uống đến tận tối muộn, về đến nhà lại không mở được cửa. Xin lỗi anh nhé, muộn thế này rồi còn làm cho anh giật mình!



- Ừm. - Trương Khai gật đầu, nhìn cái dáng cao cao của Lâm Tử Tố. Trong tay anh ta đang cầm một cái túi da to, màu đen, có trời biết trong đó đựng cái gì. Dưới ánh sáng thưa thớt, cái dáng đó hiện lên nhợt nhạt ngoài cửa sổ, nhìn anh ta như người ở thế giới khác. Nhìn một hồi anh lại thấy hơi sờ sợ.



Lâm Tử Tố bỗng dưng cất tiếng hỏi:



- Trương Khai, sao anh giờ này cũng hãy còn ở đây?




- Ôi chuyện dài lắm không kể hết bây giờ được. Viện trưởng Văn bây giờ vẫn đang ngồi ở cái phòng Giang Hà bị chết ấy, ông ấy còn chuẩn bị ngủ qua đêm ở đó.



- Viện trưởng Văn cũng đang ở căn phòng đó? - Lâm Tử Tố thấy hơi sợ.



- Ừ, chúng tôi đang làm một thử nghiệm! - Trương Khai nói nhỏ.



- Thử nghiệm gì?



Trương Khai nói vẻ thần bí:



- Thử nghiệm về cái chết!



- Thử nghiệm về cái chết? Trương Khai, anh mà gan thế sao? - Giọng Lâm Tử Tố có vẻ khinh miệt.



Trương Khai không hề để ý đến thái độ đó, có lẽ anh đã quá quen rồi, anh nói nhỏ:



- Tôi muốn thử xem, trong thời gian từ 11 giờ đến 12 giờ, trong căn phòng Giang Hà đã bị chết liệu có xảy ra việc chết người lần nữa không.



- Dùng chính mạng của anh để thử nghiệm á?



- Chả còn cách nào, Viện trưởng Văn cứ lôi tôi vào, chứ một mình tôi thì dù một phút tôi cũng không dám ở lại căn phòng đó. Bây giờ đã qua 12 giờ rồi, chắc sẽ không có việc gì đâu. Nhưng không biết vì sao mà tôi cứ thấy có điềm chẳng lành. Lâm Tử Tố, anh có tin vào lời nguyền không?




Lâm Tử Tố đã đi đến bên ngoài hàng cây, ánh trăng chiếu lên khuôn mặt anh ta:



- Tôi chỉ tin vào chính mình.



- Tôi mà tự tin được như anh thì tốt quá. Anh đã lấy được chìa khóa chưa?



Lâm Tử Tố lấy ra một chùm chìa khóa giơ ra trước mặt Trương Khai nói:



- Mình về thôi!



Trương Khai bước ra khỏi dãy nhà nhỏ, đi theo sau Lâm Tử Tố, anh xoa xoa ngực, mừng vì mình vẫn còn sống. Trên con đường nhỏ dưới tán cây, Trương Khai dễ dàng nhìn thấy ánh trăng. Ánh trăng sao mà lạnh lẽo. Họ đi qua cổng lớn của Viện Nghiên cứu, sau đó đóng cổng lại. Trương Khai trèo lên chiếc xe máy của mình, nói với Lâm Tử Tố bằng giọng khàn khàn:



- Tôi về đây, chào anh!



Anh khởi động xe rồi vội vàng phóng đi. Trên con đường nhỏ vắng lặng như chết, tiếng nổ của chiếc xe máy vang lên chậm chạp. Lâm Tử Tố nhìn theo bóng anh ta, nhếch miệng vẻ khinh bỉ, sau đó anh quay đầu lại nhìn về phía dãy nhà bên trong cổng lớn của Viện Nghiên cứu khảo cổ. Ánh mắt phát ra vẻ lanh lợi của con thú ăn đêm.



Gió thu ập đến, Lâm Tử Tố xách cái túi da màu đen thong thả đi ra khỏi Viện.


 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 18


Đã quá nửa đêm rồi, Văn Hiếu Cổ tỉnh dậy sau một cơn ngủ gật. Ông hiểu rằng cái thời thanh niên của 20 năm trước khi ông có thể tác nghiệp khảo cổ trong mộ cổ suốt đêm đã qua rồi. Ông thở dài, nhìn ra bóng đêm ngoài cửa sổ. Trà trong cốc đã nguội. Ông rót thêm nước ở phích vào. Ông thong thả nhấp một ngụm, nước trà đặc quánh chảy qua cổ họng ngấm vào trong người. Giấc mơ vừa nãy lại chợt hiện lên trước mắt ông. Ông mơ thấy Trương Khai.



Trán Văn Hiếu Cổ ướt đẫm mồ hôi. Đây chỉ là một giấc mơ. Mà ông vốn không tin vào những giấc mơ, thậm chí không tin cả vào cuốn “Giải thích giấc mơ”của Freud[19], nhưng lúc này ông thấy rất căng thẳng. Trà đặc làm ông tỉnh táo, ông lại cầm cuốn tạp chí học thuật lên, đã đọc đến những trang cuối, trong bản tin khảo cổ học, ông đọc được một bài viết như thế này, tiêu đề của nó là: “Khóc không ra nước mắt ở hồ La Bố: Di tích Thành cổ Lâu Lan cổ bị đào trộm!”




Đề mục ấy khiến cho Văn Hiếu Cổ xúc động, ông khẽ đọc một đoạn ngắn: “Các chuyên gia đến Thành cổ Lâu Lan đã giật mình khi thấy một cái hố to bị đào sâu bốn góc khoảng 1 mét, đường kính trên dưới 2 mét, ở nơi giáp gianh giữa “Nhà ba gian” và “Khu dân cư”, trong đó có một chiếc hầm to đào trực tiếp vào chính giữa một gian nhà. Nhà ba gian có quy mô kiến trúc cao to nhất trong thành, các chuyên gia khảo cổ cho rằng đây là nha môn lúc bấy giờ. Từ sau khi Sven Ahders Hedin phát hiện ra Thành cổ Lâu Lan và đào được rất nhiều những văn tự cổ Kharosthi quý ở chân tường nhà ba gian, các nhà khảo cổ Nhật Bản Quất Thụy Siêu, Anh quốc Marc Aurel Stein... đều đã tiến hành đào bới với quy mô lớn ở đây và chuyển về nước nhiều di vật. Những di vật này sau bị chôn vùi trong các viện bảo tàng, trên thế giới nổi lên cao trào “Thành cổ Lâu Lan học.”



Bộ phận quản lý di vật tin tưởng rằng, với khí hậu khắc nghiệt của vùng hồ La Bố và con đường gian nan của hoang mạc đủ đảm nhận trách nhiệm: “Cấm xâm nhập”, cho nên từ trước đến nay, ở đây chưa bao giờ có được sự phòng bị chủ động hữu hiệu. Theo giới thiệu của những cán bộ có liên quan: Nếu thực sự có yêu cầu đến bái yết Thành cổ Lâu Lan, người đi khảo sát tự giác tuân theo các quy định đến “Vùng cấm”, làm đơn gửi bộ phận liên quan, đương nhiên không thể thiếu số tiền lót tay rất cao thì sẽ được phê chuẩn. Nhưng trên thực tế thì chỉ cần một chiếc xe jeep, mang đủ nước, lương ăn và xăng dầu rồi đi theo những vết bánh xe hằn rõ, sâu chừng nửa mét là có thể đi đến bất cứ vùng nào trong Thành cổ Lâu Lan.



“Di chỉ Mễ Lan là một vùng có diện tích rộng lớn. Di chỉ chủ yếu bao gồm thành quách Mễ Lan, hai ngôi chùa thờ Phật và các ngôi mộ. Dọc chân tường thành và các bức tường chính của ngôi chùa đâu đâu cũng có thể nhìn thấy những chiếc hố. Mễ Lan thuộc đất đai của quốc gia cổ Lâu Lan, thời Hán đã từng canh tác ở đây. Có ý kiến tranh luận cho rằng đây là kinh đô của nước Lâu Lan sau khi dời đô. Ở đây đã từng phát hiện ra bức bích họa tuyệt tác mang tên: “Thiên thần có cánh” và những thẻ gỗ viết chữ Thổ Phồn vào khoảng thế kỷ 8, 9 sau Công nguyên. Đây là di tích lịch sử quan trọng trong việc khám phá sự hưng vong bí ẩn của cổ quốc này. Nó còn là một trong những minh chứng hiếm hoi về sự giao lưu giữa nước Thổ Phồn và Tây Vực trong quá khứ.



“Thành cổ Doanh Bàn, những tháp Phật, mộ cổ của di chỉ Doanh Bàn nằm trên phần đường thuộc về nước Lâu Lan trên con đường tơ lụa trước đây. Nó có một vị trí hết sức quan trọng trên con đường tơ lụa. Ở đây đã phát hiện ra lụa, lụa hoa, gấm, gương sắt từ thời Hán, trong đó có cả mặt nạ thô ráp mang phong cách nghệ thuật Trung Á, đồ thủy tinh của Ba Tư và các loại sản phẩm dệt mang phong cách nghệ thuật Hy Lạp. Do việc tu sửa đường quốc lộ, di chỉ Doanh Bàn đã gặp phải sự phá hoại mang tính hủy diệt. Những bộ xương bị đào trộm từ trong mộ nằm rải rác khắp nơi, quan tài bị đập phá làm nhiều mảnh, những chiếc đầu lâu thậm chí phơi ngay ở bên đường. Những kẻ đào trộm mộ thường đi thành từng đoàn bằng xe Jeep. Chúng nói mà không hề kiêng kị rằng, chúng muốn đào bới các quan tài vì có những nhà sưu tập nước ngoài chỉ đích danh cần những quan tài sặc sỡ ở đây. Phạm vi di chỉ mộ địa ở Doanh Bàn tương đối rộng, trong mấy con rạch ở dãy núi Kuruktag, nghe nói bọn đào trộm mộ đã đào gần hết những ngôi mộ ở địa thế thấp, ăn trộm hết những ngôi mộ tương đối dễ đào. Chúng cho rằng những ngôi mộ cao cấp được chôn ở địa thế tương đối cao sẽ là “Mục tiêu trọng điểm” sau này.”




“Những mộ thái dương” thuộc rạch mộ cổ đã không còn nhìn thấy dáng dấp mộ táng “Thái dương” nữa... và những mộ huyệt ở trung tâm bị đào bới không chỉ một lần. Trong những ngôi mộ cạnh sông Thiết Bản có những ngôi mộ bị đào sâu tới 3 mét và bị đào thông giữa các mộ; hoặc là đào thẳng từ đỉnh mộ xuống để lấy những đồ tùy táng. Ở hoang mạc La Bố có rất nhiều những di vật cổ quý báu được chôn giấu, có nhiều thứ đến nay chưa ai biết đến. Sau khi thành lập nhà nước Trung Hoa mới[20], chúng ta chỉ mới tiến hành công tác thu dọn trong khoảng thời gian một tháng ngắn ngủi ở khu vực “Cổ mộ câu” và “Thành cổ Lâu Lan”. Vậy mà những phát hiện ở đây đã đủ để làm chấn động thế giới. Ở khu vực Cổ mộ câu Thái dương, chúng ta đã tìm được xác ướp của “Mỹ nhân Lâu Lan” thuộc chủng người Ấn Âu có niên đại 3800 năm; ở Thành cổ Lâu Lan, chúng ta đã tìm thấy số lượng lớn các văn thư chữ Hán. Những điều này đã cung cấp những chứng cứ khảo cổ không thể thiếu được trong việc tìm hiểu các vấn đề cư dân, vấn đề nhân chủng của vùng hồ La Bố cổ và những vấn đề kinh tế của Triều đình đối với vùng Tây Vực.



“Việc “Mỹ nam Doanh Bàn” thời Hán Tấn được tìm thấy ở “di chỉ Doanh Bàn” trong quá trình khai quật để bảo tồn các ngôi mộ đã bị phá hoại nghiêm trọng. Mặc dù việc khai quật này về cơ bản chỉ tiến hành với những mộ huyệt bị phá hoại. Bộ xương khô của trẻ sơ sinh thuộc chủng người Âu Ấn cách hiện tại khoảng 4000 năm tìm thấy ở “Thành cổ Lâu Lan” và quan tài sặc sỡ từ thời nhà Hán trên thực tế không phải được phát hiện qua khảo cổ mà là do bên công an khi phá vụ án mua bán đồ cổ ở khu vực này thu hồi được.



“Trước đây, gió cát và khí hậu vùng hồ La Bố là sức mạnh chủ yếu tàn phá đi những di chỉ này. Nhưng ngày nay, sự tàn phá của con người còn mạnh hơn cả thiên nhiên.”



Văn Hiếu Cổ chưa đọc hết bài viết này đã gấp cuốn tập san lại, ngẩng đầu lên, khoé mắt ông như ngân ngấn nước. Thực ra phần lớn nội dung của bài viết ông đều đã rõ. Mười mấy năm nay, ông luôn theo dõi những hiện tượng đào trộm di vật trên toàn quốc, đặc biệt là ở Tân Cương. Hầu như mỗi lần ở vùng Tân Cương phát hiện ra vụ đào trộm di vật nào, ông cũng đều thông qua các cách đặc biệt để có được tin tức nội bộ một cách sớm nhất. Mỗi lần nhận được những thông tin này, tim ông đều nhói đau. Ông vừa thở dài vừa nói lại câu vừa đọc trong cuốn tập san: “sự tàn phá của con người còn mạnh hơn cả thiên nhiên”.



Văn Hiếu Cổ hiểu rõ, xét từ một góc độ nào đó, ai cũng đều là nghi phạm của việc đào trộm mộ cổ. Những hành động, việc làm của những người đi tiên phong trong việc khảo cổ thành cổ Lâu Lan như Sven Ahders Hedin hay Stain chẳng phải cũng là một kiểu đào trộm mộ cổ đó sao? Ngày 28 tháng 3 năm 1900, khi nhà khảo cổ Thụy Điển Sven Ahders Hedin phát hiện ra thành cổ Lâu Lan trên hoang mạc La Bố Nao Nhĩ, từ lần khai quật đầu tiên đến nay đã tròn 100 năm. Trước và sau thời điểm đó, rất nhiều các nhà khảo cổ người Nga như Nikolai Mikhaylovich Przhevalsky, Torbern Olof Bergman người Thụy điển, Huntington· Samuel·P người Mỹ, Marc Aurel Stein người Anh, Quất Thụy Siêu người Nhật đã đến đây. Năm đó phương Tây và Nhật Bản đều có người đến hồ La Bố hoặc là vào sâu trong Thành cổ Lâu Lan để khai quật những vùng xung quanh cổ mộ. Lâu Lan đương nhiên không thể tránh khỏi bị khai quật, thu gom và vận chuyển các di vật đi chỗ khác hết lần này đến lần khác. Những năm đó, những học giả Trung Quốc may mắn được đến khảo sát ở Lâu Lan chỉ có hai người là Hoàng Văn Bật và Trần Tôn Khí. Việc này là kết quả của cuộc tranh luận của giới học thuật Trung Quốc kiên quyết thành lập “Đoàn khảo sát khoa học Tây Bắc Trung Quốc - Thụy Điển “. Họ là thành viên đại diện từ phía Trung Quốc nên mới có được cơ hội này. Là một nhà khảo cổ và nhà thám hiểm, việc khai quật của của Sven Ahders Hedin và Stain quả thực là đáng được kính trọng, nhưng trong khi ghi danh tên mình vào sử sách, họ đồng thời cũng đã tiến hành một cuộc phá hoại và cướp bóc to lớn đối với mộ cổ. Nếu không có sự phát hiện của họ, những di chỉ ở Lâu Lan và các vùng phụ cận e rằng vẫn được bảo tồn ở đó một cách hoàn hảo như cũ, sẽ không có người phá hoại những di chỉ đó, bởi những tài sản to lớn đó không thuộc về bất cứ ai ngày hôm nay. Chúng là của tổ tiên chúng ta.




Trên bìa sau của cuốn tập san học thuật, Văn Hiếu Cổ nhìn thấy một bức vẽ vô cùng quen thuộc - một bức bích hoạ màu, vẽ bảy thiên sứ nhỏ mang trên mình đôi cánh. Bảy thiên sứ nhỏ theo kiểu cổ điển châu Âu đều giương to đôi mắt nhìn về phía trước một cách lanh lợi, đôi môi nhỏ xinh hơi mím lại, dường như không có gì có thể đẹp hơn thế. Năm 1907, ở di chỉ Mễ Lan tại Tân Cương, bức bích hoạ này đã khiến cho nhà thám hiểm danh tiếng Stain phải ngây ra. Ông ta lập tức liên tưởng đến bức hoạ thiếu nữ thời Hy Lạp cổ. Hình tượng thiên sứ đến từ thế giới phương Tây đã được mời vào nhà thờ Phật giáo ở miền Nam hoang mạc với sứ mệnh là người canh giữ và truyền giáo Phật pháp.



Văn Hiếu Cổ lặng lẽ ngắm nhìn bức bích họa. Nhiều năm trước khi ông được tận mắt nhìn thấy bức bích hoạ này cũng đã hết sức kinh hãi. Còn bây giờ, ông đang nghĩ đến đôi mắt, những đôi mắt to và sáng trong bức tranh đang chăm chú nhìn ông.



Trời đã sắp sáng.


 
CHÚ Ý !!!
Các đạo hữu nhớ thêm TÊN CHƯƠNG và THỨ TỰ CHƯƠNG ở ô phía trên phần trả lời nhanh. Như vậy hệ thống mới tạo được DANH SÁCH CHƯƠNG.
Cập nhật chức năng ĐĂNG TRUYỆN và THÊM CHƯƠNG MỚI trên web Diễn Đàn Truyện tại https://truyen.diendantruyen.com
Top Bottom