Cập nhật mới

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,359
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 21


NGÀY THỨ HAI MƯƠI MỐT
Buổi sáng, lúc tôi tỉnh lại, mặt trời đã soi thẳng vào trán. Tôi mơ màng bò dậy, chỉnh lại mái tóc rối bù, xuống dưới nhà tìm Tiểu Sảnh.
Nhưng cô ấy không ở trong phòng, tôi ra hành lang gọi vang tìm cô ấy nhưng chẳng có bất cứ hồi âm nào. Quay đầu lại tôi mới phát hiện ra trên tủ có một tờ giấy, cô ấy nói cô ấy đi làm rồi, trong lò vi sóng có bữa sáng chuẩn bị cho tôi.
Mở lò vi sóng ra, vẫn giống hệt như bữa điểm tâm hôm qua. Ăn sáng xong, tôi ngồi đọc sách trong phòng một lúc, bỗng nhiên điện thoại đổ chuông.
Không ngờ đấy lại là điện thoại của Tôn Tử Sở, anh ấy nói đang đứng trước cửa nhà tôi, đến để trả những đồ ngọc nhưng tôi không có nhà. Tôi đành phải nói với anh ấy, mấy hôm nay tôi sống ở ngoài, địa chỉ là số 13 đường An Tức.
Hai mươi phút sau, chuông cửa dưới nhà vang lên, quả nhiên là Tôn Tử Sở đứng ngoài cửa, xách trên tay chiếc cặp trả tôi. Tôi vội vàng chạy ra ngoài dẫn anh ấy lên phòng.
Tôn Tử Sở cẩn trọng nhìn căn phòng, miệng không ngừng than vãn: “Cậu tìm chỗ giỏi quá đấy, kiểu nhà này chắc chắn là môi trường tốt nhất để viết truyện kinh dị nhỉ.”
Tôi thực sự không có tâm trí nào mà đùa với anh ấy, dẫn anh ta lên phòng trên tầng hai. May mà tôi đã chuẩn bị sẵn, tất cả những thứ liên quan tới Tiểu Sảnh đều đã bị tôi giấu trong tủ rồi.
Anh ấy lại đảo mắt một lượt khắp phòng, nói với giọng ngưỡng mộ: “Sau này tôi cũng được ở chỗ nào như thế này viết luận văn tốt quá.”
Sau đó, Tôn Tử Sở mở chiếc cặp, vẫn là những bọc báo cũ cuộn lại, anh ấy còn thêm cả rất nhiều bọt xốp, cẩn thận rón rén lấy năm thứ ngọc khí ra nói: “Cậu cẩn thận xem lại, xem có vấn đề gì thì báo.”
Năm vật bằng ngọc đến từ lòng đất Hoang thôn giờ đang chỉnh tề bày trước mặt tôi, tôi cầm chúng lên tỉ mỉ xem xét, không phát hiện bất cứ vết sứt mẻ hay rạn nứt nào. Tôi gật đầu: “Không vấn đề gì cả, cảm ơn. Vậy kế quả giám định thì thế nào?”
“Tôi nói rồi, tôi sẽ mời chuyên gia giám định đồ ngọc giỏi nhất, kết quả giám định của họ về năm vật bằng ngọc này là… đồ siêu thật.”
Tim tôi bỗng chốc rung động: “Chúng đúng thật là ngọc cổ Lương Chử?”
“Không sai, họ xác nhận chúng đích thực là đồ ngọc Lương Chử năm nghìn năm trước, bất luận là chất liệu hay là hình dạng, hoa văn và kĩ nghệ điêu khắc ra sao đều phù hợp với đặc trưng của đồ ngọc Lương Chử đã được khai quật. Những thứ đều đã qua giám định của chuyên gia thì cậu cứ yên tâm đi.”
“Có thể nói cụ thể hơn không?”
“Được thôi, từ góc độ khoáng vật học nhìn nhận, ngọc có thể phân thành hai loại, ngọc cứng và ngọc mềm. Ngọc cứng chính là phỉ thúy thường nói, chủ yếu ở Miến Điện, còn ngọc mềm là một chuỗi cấu trúc của nước với can xi và magiê silicat, nó là một khoáng vật đặc biệt được tạo thành bởi khoáng vật tạo đá chủ đạo thuộc nhóm Amphibole, Tremolite và Actinolite.”
Tôn Tử Sở nói một tràng toàn những thuật ngữ chuyên ngành, xem ra anh ấy đã học được rất nhiều từ những chuyên gia đồ ngọc. Tôi không muốn lãng phí thời gian, thẳng thừng nói: “Vậy thì văn minh Lương Chử dùng ngọc gì?”

“Văn minh Lương Chử là cội nguồn của văn minh đồ ngọc Trung Quốc, đồ ngọc Trung Quốc truyền thống chủ yếu dùng ngọc mềm, nổi tiếng nhất là ngọc Hòa Điền của Tân Cương, ngọc Na Âm Dương và ngọc Lam Điền của Trung Nguyên. Số lượng đồ ngọc văn minh Lương Chử khai quật không nhiều, tạo hình đẹp tinh xảo hiếm thấy trên thế giới, thu hút được sự quan tâm của rất nhiều học giả khắp nơi trên thế giới, thậm chí có người còn đề ra quan điểm thời đại đồ ngọc.”
“Tôi chỉ biết có thời đại đồ đồng và thời đại đồ sắt, lấy đâu ra thời đại đồ ngọc?”
“Trong văn hóa cổ xưa của Trung Quốc thần bí, sau khi thời đại đồ đá kết thúc, trước khi mở ra văn hóa đồ đồng còn tồn tại một ‘thời đại đồ ngọc,’ nhân loại trong thời đại đó cho rằng đồ ngọc có sức mạnh thần bí, ai thâu tóm được đồ ngọc thì người đó thâu tóm được văn minh. Còn về văn minh Lương Chử, do số lượng chất liệu ngọc được sử dụng quá lớn nên khẳng định là phải có rất nhiều mỏ ngọc dưới lòng đất để cung ứng.”
“Mỏ ngọc?” Tôi đột nhiên nhớ tới kho báu dưới lòng đất.
“Vấn đề nằm ở chỗ đó. Trong khai quật khảo cổ phạm vi văn hóa Lương Chử, từ trước tới nay chưa từng phát hiện ra di chỉ mỏ ngọc cổ đại. Cũng có người cho rằng chất liệu ngọc là từ Liêu Ninh hoặc Tân Cương chuyển tới, nhưng giao thông thời đó vô cùng bất tiện, khả năng vận chuyển một số lượng ngọc lớn như vậy từ nơi xa xôi nghìn dặm gần như bằng không.”
“Nhưng ngọc không thể từ trên trời rơi xuống.”
“Không sai, bởi vậy tôi cho rằng trong khu vực văn hóa Lương Chử hoặc là trong những dãy núi lân cận, nhất định tồn tại một mỏ ngọc cổ đại nào đó bị lãng quên. Văn minh cổ xưa có thể tiêu vong một cách thần bí, nhưng kho báu dưới lòng đất thì vĩnh viễn tồn tại.”
Tôi liên tiếp gật đầu: “Hàng vạn sự bí hiểm cổ xưa của văn minh Lương Chử… chính là kho báu dưới lòng đất?”
“Không, những bí ẩn mà văn minh Lương Chử để lại cho chúng ta vô cùng nhiều, bí ẩn về kho ngọc chỉ là một trong vô số những điều bí ẩn đó.”
“Ý của anh là: bản thân văn hóa Lương Chử chính là một điều bí ẩn?”
“Sự nổi lên của văn minh Lương Chử tương đối thần bí, khi nó vừa sản sinh ra, trình độ văn minh của những vùng lân cận vốn không cao, văn minh Tam Tinh Đôi nóng hổi gần đây muộn hơn nó một nghìn năm. Trước đây năm nghìn năm, tại Phương Đông, văn minh Lương Chử đã đạt đỉnh cao, đủ để sánh vai với văn minh Ai Cập cùng thời đại và văn minh Lưỡng Hà cổ đại.”
“Cái này nhất định phải có nguyên nhân đặc biệt nào đó.”
Tôn Tử Sở gật đầu: “Đúng vậy, trên ngọc cẩm thạch Lương Chử khai quật lên thường thấy xuất hiện một hình vẽ kì lạ được gọi là ‘tượng thần vi,’ phần trên có khắc một mặt thần hình bậc thang, hai con mắt tròn, răng lộ ra ngoài, trên đầu đội vương miện cắm đầy lông, đôi tay tóm lấy đầu quái thú phía dưới. Trong văn minh Maya và Inca cổ đại cũng có hình vẽ vương miện lông vũ tương tự. Chúng đều giống với văn minh Lương Chử, lưu lại rất nhiều phong cách kì dị của đồ ngọc và di tích, nhanh chóng nổi lên và cũng nhanh chóng suy tàn.”
“Anh cho rằng văn minh Lương Chử và văn minh Maya liên quan với nhau?”
“Đây chỉ là quan điểm của cá nhân tôi.”
“Vậy thì văn minh Lương Chử rốt cuộc đến trình độ nào?”
"Một nền văn minh có cả cung điện, lăng mộ vua chúa và kim tự tháp, cậu nói xem nó đến trình độ nào? Di chỉ Mạc Giác Sơn của Dư Hàng đủ để bất cứ ai cũng đều phải thốt lên kinh ngạc. Nó là trung tâm chính trị, kinh tế và tôn giáo của văn hóa Lương Chử, phát hiện ‘quảng trường cung điện’ có quy mô rộng lớn, nền kiến trúc hơn một vạn mét vuông được mệnh danh là Tử Cấm Thành của năm nghìn năm trước. Lại còn có cả số lượng lớn mồ mả cao cấp, trong những quan tài lớn có những đồ ngọc tinh xảo. Ai Cập bảo tồn hơn một trăm ngôi kim tự tháp, còn văn minh Lương Chử cũng có hơn một trăm ngôi cao đài được giới khảo cổ mệnh danh là kim tự tháp bằng đất.”
Tôi hít một hơi thật sâu: “Dù đã đạt tới trình độ huy hoàng như vậy, sao lại đột nhiên suy vong chứ?”
“Đây lại là một điều bí ẩn.” Tôn Tử Sở tỏ ý thở dài: “Cách giải thích nhiều nhất chính là hiểm họa tự nhiên: hơn bốn nghìn năm trước, bề mặt nước biển dâng cao trên toàn trái đất, đa số đất đai Giang Nam bị nhấn chìm, văn minh Lương Chử gặp phải ‘họa trong đỉnh diệt vong.’ Nhưng vẫn còn một cách nói khác, văn minh Lương Chử vô cùng si mê đồ ngọc, họ đem hết thời gian và tinh thần đổ vào việc khai thác và chế tác đồ ngọc. Ở bất cứ thời đại nào đồ ngọc đều vật xa xỉ, bởi vậy văn hóa Lương Chử rơi vào xu thế xa xỉ đó.”
“Vong quốc xa xỉ?”
“Không sai, nhưng bất luận là ‘họa trong đỉnh diệt vong’ hay là ‘vong quốc xa xỉ’ đều không có chứng cứ khẳng định. Có lẽ, văn minh Lương Chử thực sự giống với người Maya, vô hình và đi mất tích.”
Cứ như vậy hai tiếng đồng hồ qua đi, Tôn Tử Sở giống như người dẫn chương trình của kênh Discovery, thao thao bất tuyệt tường thuật lại sự thần bí của cổ quốc Lương Chử.
Nghe hết bài diễn văn của anh ấy, trong lòng tôi bất giác nảy sinh một cảm giác kì lạ, nền văn minh thần bí của vùng đất năm nghìn năm trước này rốt cuộc có liên quan gì tới Hoang thôn đây? Nhưng tôi thực sự không hiểu nổi, Hoang thôn nằm ở vùng ven biển phía đông Chiết Giang, vốn không nằm ở trung tâm văn minh Lương Chử thuộc lưu vực Thái Hồ, hơn nữa văn minh Lương Chử cách ngày nay thực sự quá xa, những đồ ngọc phát hiện ở Hoang thôn có lẽ nào là văn vật khai quật được ở chỗ khác?
Tôi chỉ biết lắc đầu, trong đầu rối tung thành một khối. Nhìn thấy năm vật bằng ngọc này, trong lòng lại như bị vật gì đó đâm chích. Tôn Tử Sở giúp tôi cất những vật này đi, anh ấy dặn dò tôi nhất định phải rất thận trọng, phải để ở một nơi an toàn, những vật này đều là báu vật cấp quốc gia.
“Nhưng nơi quỷ quái này cũng chẳng có ai tới cả, phải chăng tôi cũng chỉ ở đây vài ngày thôi.”
Buổi chiều, tôi cùng Tôn Tử Sở ra ngoài ăn cơm tối, hôm nay đương nhiên là tôi mời tồi. Trong quán cơm tôi chẳng nói gì mấy, có một số chuyện tôi không dám nói với anh ấy, do tính cách của anh ấy, cộng thêm thói quen nghề nghiệp nhất định sẽ dò hỏi đến tận cùng. Như vậy sẽ lại thêm một người lằng nhằng với việc này, như thế thà để một mình mình làm còn hơn.
Tôn Tử Sở uống rất nhiều rượu, còn tôi không dính đến một giọt. Trong bữa ăn anh ấy đã ngà ngà say, nói năng lung tung, cuối cùng tôi dìu anh ấy ra khỏi quán cơm, nhét anh ấy vào trong tắc xi đưa về nhà.
Sau khi trở lại quán trọ Hoang thôn, tôi lập tức lên tầng hai, xách chiếc cặp đựng đồ ngọc cất trong căn phòng cuối cùng trên tầng ba. Ở đó vừa vặn đặt một chiếc thang thông lên gác xép trên trần nhà. Tôi cẩn thận rón rén leo lên cầu thang, cất chiếc cặp trong góc gác xép, như thế này chắc là an toàn rồi.
Đêm xuống, tôi ăn bữa tối từ sớm, giờ thì không dám tắt đèn nữa rồi. Theo như kinh nghiệm hai hôm trước, chỉ cần là trong bóng tối mắt tôi sẽ nhìn thấy những cảnh tượng kì lạ, người phụ nữ Nhược Vân của hơn năm mươi năm trước, những người đã từng sống trong ngôi nhà này. Sau đó, chỉ cần bật đèn, họ sẽ lập tức biến mất trước mắt tôi.
Đi khắp một lượt từ trên gác xuống dưới nhà trong quán trọ Hoang thôn, chỉ cần bóng điện không bóng, đèn trong tất cả các phòng đều được tôi bật lên. Tuy ánh sáng phát ra từ những chiếc đèn cũ này chẳng khác gì ánh nến mù mịt, nhưng tôi nghĩ, nếu từ bên ngoài nhìn vào quán trọ Hoang thôn nhất định sẽ có cảm giác rất kì lạ, dường như mỗi ô cửa sổ đều lộ ra vài tia ánh sáng u ám, cả ngôi nhà giống như đang trở về những năm ba mươi, hệt như tên của một bộ phim tình cảm: “Thời gian quay trở lại năm bảy mươi.”
Nhưng nếu như những công nhân tháo dỡ bên ngoài bỗng nhiên nhìn thấy ngôi nhà cổ đóng cửa để không bao năm nay bỗng nhiên sáng lên rất nhiều ánh đèn, chắc là sẽ sợ chết khiếp cũng nên? Có lẽ người ta sẽ cho rằng ma quỷ mấy chục năm trước đều chạy hết cả ra để mở một dạ hội ma chỉ có ở quán trọ Hoang thôn.
Đáng tiếc, hôm nay không phải là ngày lễ Halloween.
Nghĩ tới đây, tôi bất giác bật cười, bản thân tôi cũng cảm thấy kì quái, đã tới nước này mà vẫn còn cười được.
Mười giờ tối, Tiểu Sảnh trở về, mái tóc đen nhánh phản chiếu ánh sáng lấp lánh, xem ra cô ấy đã tắm gội ở ngoài rồi. Mắt của phụ nữ vốn luôn nhạy bén, cô ấy lập tức phát hiện thấy gì đó trên mặt tôi: “Hôm nay xảy ra chuyện gì thế?”

“Chẳng chuyện gì cả. Hôm nay tôi nằm cả ngày trên tầng ba.”
Nhưng cô ấy mở tủ ra xem rồi nói: “Sao ai lại giấu hết đồ của tôi vào đây? Có phải hôm nay có người lên phòng không?”
Ái chà, lại bị cô ta phát hiện rồi, tôi bối rối cười vu vơ, đành phải thật thà kể lại cho cô ấy nghe chuyện Tôn Tử Sở tới đây. Nhân tiện đó tôi giới thiệu qua cho cô ấy về văn minh Lương Chử thần bí của năm nghìn năm trước.
Sau khi nghe xong tất cả những gì tôi kể, Tiểu Sảnh lạnh lùng nói: “Ý anh là những đồ ngọc thần bí đó có liên quan tới văn minh Lương Chử và Hoang thôn?”
“Đúng, hoặc đây chính là cánh cửa mở ra đường vào bí mật Hoang thôn?”
Ánh mắt sắc bén của Tiểu Sảnh nhìn thẳng vào tay trái của tôi: “Thế thứ trên tay anh thì sao? Nó cũng là đồ ngọc thần bí năm nghìn năm?”
Tim tôi lại “thình thịch,” nhìn chiếc nhẫn ngọc trên tay, nó giống như một kí sinh trùng “mọc” trên ngón tay tôi, dường như đã hòa cùng với tôi làm một. Tôi lấy tay phải che chiếc nhẫn ngọc lại, rầu rĩ nói: “Tôi thì đã làm sao? Giống một thằng ngốc co rúm lại, nhìn bốn người lần lượt chết mà không làm gì được, bây giờ trên tay lại bị đeo lên cái thứ như bị phép thuật nguyền rủa này, mắt thì chỉ nhìn thấy toàn mặt ma mặt quỷ. Tôi rốt cuộc sao đây?”
“Đây không phải là lỗi của anh.” Tiểu Sảnh bỗng nhiên lại gần tôi, cô ấy đổi giọng hết sức nhẹ nhàng: “Đừng lo lắng, có tôi bên cạnh anh, anh sẽ không có chuyện gì đâu.”
Cuối cùng tôi đã không kìm chế nổi bản thân, đem tất cả những bực bội của mấy ngày hôm nay phát tiết ra hết: “Có cô bên cạnh tôi? Cô nghĩ cô là ai? Nhiếp Tiểu Sảnh trong Liêu trai hay là thầy mo Lương Chử của năm nghìn năm trước?”
Cô ấy im lặng nghe tôi nói hết, biểu hiện vô cùng bình tĩnh, không nói lấy một câu và cứ nhìn vào mắt tôi như thế.
Lúc này tôi mới ý thước được sự thất lễ của mình nên cúi đầu xin lỗi: “Xin lỗi, tôi không nên cáu giận với cô, cô biết rồi đấy, từ trước tới nay tôi có bao giờ tức giận đâu, nhưng tình cảnh hiện nay khiến tôi quá tuyệt vọng rồi.”
Tiểu Sảnh vẫn nhìn chằm chằm vào mắt tôi, nhẹ nhàng nói: “Không sao cả.”
“Thật không sao chứ? Vừa nãy không phải tôi làm cô sợ sao?”
“Không, anh không bao giờ có thể làm tôi sợ được.”
Đột nhiên, cô ấy lấy tay vuốt nhẹ lên má tôi, mỉm cười nói: “Nghỉ sớm đi nhé, ngủ rồi sẽ không hoảng sợ nữa.”
Tôi gật gật đầu, nhưng bước đến cửa lại quay đầu lại nói: ”Nhưng ngủ vẫn mơ thấy ác mộng thì sao?”
Tiểu Sảnh vẫn mỉm cười nói: “Ngủ ngon.”
Tắm gội trong phòng vệ sinh xong, tôi liền về lại căn phòng trên tầng ba. Đêm nay tất cả bóng đèn đều sáng trưng, thực ra tôi vốn rất không quen ngủ trong phòng bật đèn, nhưng cũng đành phải cắn răng, nhắm mắt ngủ trên chiếu.
Ánh đèn mờ ảo cứ chọc vào mí mắt tôi, tôi quay ngang quay dọc mãi mới thiếp đi được… Không biết mấy tiếng sau, bỗng nhiên có âm thanh đập vào màng nhĩ khiến tôi từ từ tỉnh dậy.
Tim tôi lại nhảy nhót, âm thanh đó có một giai điệu đặc biệt, thôi thúc tôi mở to mắt. Ánh đèn trên tầng ba vẫn sáng, âm thanh đó hình như vọng lên từ tầng trệt. Tôi hấp ta hấp tấp chạy ra ngoài, rốt cuộc cũng nghe ra là tiếng đàn dương cầm.
Trong quán trọ Hoang thôn sao lại có tiếng đàn dương cầm? Tôi dỏng tai nghe một lúc, cảm giác giai điệu này hơi quen thuộc. Đúng, là bản dương cầm “Cho tới tận mãi mãi” của Franz Liszt, đây cũng là bản nhạc mà tôi vô cùng thích.
Lần theo giai điệu của nhà soạn nhạc Hungary, tôi lập cà lập cập bước xuống cầu thang xoắn ốc. Phòng khách tầng trệt tối om, kì lạ thật, tôi nhớ đèn ở đây sáng cơ mà. Nhưng tiếng dương cầm như suối chảy và quyến rũ như thiếu nữ vô cùng hấp dẫn khiến tôi phút chốc quên đi sự khủng hoảng.
Lúc này, trong bóng tối của quán trọ Hoang thôn, tiếng dương cầm vang lên giai điệu của Liszt, tôi cảm giác mình đang ở giữa thế kỉ mười chín, trong rừng rậm tối đen của Hungary, lắng nghe tiếng đàn dương cầm cùng giọng ca của thiếu nữ trong tòa lâu đài. Tôi không thể hình dung bằng lời nhiều hơn nữa.
Tiếng dương cầm kì diệu đó, cộng thêm cả giai điệu của Liszt, giống như một đôi tình nhân trời sinh đang ở bên nhau, thì thầm to nhỏ, tình cảm dịu dàng như nước, thật giống với tên giai điệu “Cho tới tận mãi mãi” này.
Tiếng dương cầm tuôn chảy trong ngôi nhà cổ, dẫn dắt tôi phát hiện ra tia ánh sáng, đó là căn phòng cạnh phòng khách, tiếng dương cầm từ đó bay ra. Đó là căn phòng mà gia tộc Âu Dương đã chụp ảnh cả gia đình, sát cạnh tường có chiếc đàn dương cầm nổi tiếng và quý hiếm, nhưng phía trong nó đã hỏng từ lâu rồi mà, không thể phát ra âm thanh như thế.
Tôi lặng lẽ bước tới cửa phòng, một vùng ánh sáng êm dịu kì lạ khiến mắt tôi lóe sáng, tôi nhìn thấy rồi.
Trong căn phòng rộng rãi này, chiếc đàn dương cầm mới tinh rực rỡ đang mở nắp, mười ngón tay như những búp ngà đang nhảy múa trên những phím đàn, tiếng nhạc tuôn chảy theo từng ngón tay của cô ta vang vọng khắp quán trọ Hoang thôn.
Ánh mắt tôi đưa theo đôi bàn tay trắng nõn đó, từ từ di chuyển lên cánh tay và cổ cô ta, không biết ánh sáng âm u từ đâu tới như nước tỏa hắt lên làn da, phản chiếu thành những đốm sáng, bắn thẳng vào con ngươi của tôi.
Không sai, vẫn là cô ấy… Nhược Vân.
Tôi giống như đang nằm mơ, nhìn người phụ nữ xinh đẹp của hơn năm mươi năm trước. Cô ta mặc một chiếc váy dài, chân váy trắng phủ kín đôi chân, tóc đen nhánh xõa sau lưng. Cô ta tập trung hết tâm trí vào những phím đàn, đôi mắt giống như khép hờ, mười đầu ngón tay chỉ cần chạm nhẹ vào phím đàn là đã vang lên nốt nhạc, cô ta ngây ngất đắm say như vậy, dường như đang lĩnh hội linh hồn của giai điệu này, một tình yêu đau buồn vĩnh hằng.
Đúng lúc tôi gần như không thể kìm chế được nữa, tiếng dương cầm đột ngột ngắt quãng, đôi tay của Nhược Vân khựng lại trên không trung, những ngón tay run run. Sau đó, cô ấy từ từ quay đầu lại, ánh mắt nhìn thẳng về phía sau lưng.
Lúc này tôi mới phát hiện ra còn có một người đang đứng trong phòng, một thanh niên trẻ tuổi phong độ, mặc trang phục màu đen, đứng thẳng cạnh cửa sổ, ánh sáng soi rọi lên khuôn mặt anh ta trắng bệch ra.
Anh ta chính là chồng của Nhược Vân, người kế thừa của gia đình Âu Dương.

Trong phòng lặng ngắt như tờ, ánh sáng đung đưa trên gương mặt người đàn ông, anh ta từ từ đến bên cạnh Nhược Vân, đặt tay lên vai cô ấy…
Tim tôi bất giác treo ngược lên, không biết mình nên làm gì? Lúc này tôi mới cảm thấy ngón tay mình đau âm ỉ, hóa ra sự đau đớn này duy trì từ lâu rồi, tôi run rẩy nhìn tay trái, ánh sáng êm dịu chiếu lên chiếc nhẫn ngọc, vệt đỏ đun dường như càng lúc càng rực rỡ.
“Không!”
Tôi hét lên trong sự khủng hoảng lên tới đỉnh điểm, vùng ánh sáng trắng tức khắc biến mất, căn phòng lại chìm vào bóng tối, không còn nhìn thấy những gì trước mắt, tôi hoảng loạn tìm công tắc đèn trên tường, nhưng mãi mà vẫn chưa sờ thấy đâu.
Đột nhiên, một bàn tay đặt trên vai, tôi run rẩy quay đầu lại, liền ngửi thấy ngay một mùi hương dịu mát, vài sợi tóc chọc vào mặt tôi.
Đèn trong phòng sáng lên, một khuôn mặt quen thuộc hiện ra trước mắt tôi, hóa ra là Tiểu Sảnh. Cô ấy đang tròn xoe mắt đứng trước mặt tôi, chỉ cách tôi có vài cen ti mét, tôi thậm chí còn có thể cảm nhận hơi thở của cô ấy phả lên mặt mình.
Chúng tôi cứ như vậy bốn mắt nhìn nhau, mấy giây sau Tiểu Sảnh liền lùi lại mấy bước, hai má đỏ ửng nói: “Sao anh lại ở đây?”
“Tôi cũng đang muốn hỏi cô như thế đấy.”
Tiểu Sảnh mặc một bộ quần áo ngủ mỏng tang, hai tay cô ấy ôm lấy bờ vai nói: “Ban nãy tôi nằm mơ.”
“Ác mộng?” Tôi liên tục lắc đầu, “ác mộng” đã trở thành từ xuất hiện với tần suất nhiều nhất trong câu chuyện này.
“Không phải ác mộng.” Cô ấy thấp thỏm bất an bước tới trước cây đàn dương cầm nói: “Tôi mơ thấy tiếng đàn dương cầm, bản dương cầm đó rất tuyệt, hình như là…”
“Giai điệu ‘Cho tới tận mãi mãi’ của nhà đại soạn nhạc dương cầm Hungary – Liszt.”
Tiểu Sảnh cúi đầu nói: “Khúc dương cầm trong đó khiến tôi nảy sinh một cảm giác kì lạ. Vậy là tôi bước ra khỏi phòng, lúc tới cửa cầu thang thì bỗng nghe thấy tiếng hét của anh, tôi lập tức đi tới đây thì nhìn thấy một bóng đen đứng ngoài cửa.”
“Sau đó cô đã bật đèn?”
Vừa nói tôi cũng vừa bước tới cạnh chiếc đàn dương cầm, nhìn chiếc đàn rách nát thảm hại, thật không thể tưởng tượng nổi nó lại có thể cất lên những âm thanh tuyệt vời như vậy. Tôi mở nắp đàn lên, thò tay ấn lên những phím đàn, vẫn chẳng có âm thanh nào phát ra.
Vậy thì tiếng đàn ban nãy tôi nghe thấy phát ra kiểu gì đây? Lẽ nào đấy cũng là tiếng đàn dương cầm của hơn năm mươi năm trước? Nhưng tại sao tiếng đàn này lại bay vào cả trong giấc mơ của Tiểu Sảnh?”
Tiểu Sảnh lấy tay chọc chọc tôi nói: “Anh đang thẫn thờ gì đó?”
Tôi cười đau khổ: “Tôi đang nghĩ tới những gì ban nãy nghe thấy và cả nhìn thấy nữa.”
“Anh rốt cuộc nghe thấy gì? Nhìn thấy gì? Thôi được rồi, tôi bây giờ đã tin lời anh nói.”
Nhìn đôi mắt cuốn hút của cô ấy, tôi bất giác gật gật đầu, kể lại hết tất cả những cảnh tượng li kì vừa nhìn thấy ban nãy cho Tiểu Sảnh nghe.
Nhưng sau khi nghe xong, cô ấy vẫn bán tín bán nghi hỏi: “Anh thực sự nhìn thấy người của hơn năm mươi năm trước?”
“Đúng vậy, tôi đã nhìn thấy Nhược Vân.” Tôi thì thào thốt ra cái tên đó, đồng thời ngẩng đầu nhìn lên trần nhà, giống như đang nói ột u hồn nào đó nghe, sau đó nói như đọc thơ: “Tận mắt nhìn thấy, tận tai nghe thấy, tuyệt phi mộng cảnh.”
Tôi đảo mắt khắp phòng một lượt, lắc lắc đầu nói: “Nửa đêm không nên đứng ở đây, chúng ta lên lầu đi.”
Tiểu Sảnh hình như đã tin lời tôi nói, cô ấy vội vàng chạy ra khỏi phòng.
Trở lại tầng hai, tôi cảm thấy toàn thân vô cùng mệt mỏi, khẽ nói với Tiểu Sảnh: “Ngủ ngon nhé.”
Sau đó tôi chạy lên tầng ba, ngả người ra chiếu. Lúc này tôi mới phát hiện ngón tay mình không còn đau nữa, chiếc nhẫn ngọc cũng không còn cảm giác dị thương, nhìn vào vệt đỏ đun, tôi bỗng nhiên cảm thấy điều gì đó…
Lẽ nào là do chiếc nhẫn ngọc này? Không, tôi vội vàng nhắm mắt lại.
Bên ngoài cửa sổ, đêm dài đang chầm chậm trôi…

 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,359
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 22


NGÀY THỨ HAI MƯƠI HAI
Sớm tinh mơ, gió lạnh thổi vào từ cửa sổ tầng ba, mùi Chi trinh đằng cũng bớt nồng. Tôi nằm trên chiếc chiếu cói lạnh cóng, từ từ mở mắt, một bóng trắng lay động trên đầu tôi, suối tóc đen đổ xuống tấm áo trắng, tôi biết chính là cô ấy.
Mắt tôi từ từ nhìn rõ, Tiểu Sảnh mặc một chiếc váy ngủ màu trắng, tóc xõa trước ngực, cúi đầu nhìn tôi. Ánh mắt cô ấy thật kì lạ, tôi giống như bị điện giật lăn qua khắp người khiến toàn thân khó chịu làm sao. Tôi nhìn ra cửa sổ, ánh nắng vẫn chưa chiếu vào phòng, chắc mới chỉ tầm sáu giờ sáng. Tôi mơ mơ màng màng bò dậy hỏi: “Sao lại đến đây? Bây giờ vẫn còn sớm mà.”
Sắc mặt Tiểu Sảnh trắng bệch, trên trán vẫn còn lấm tấm mồ hôi, vài sợi tóc dính trên khuôn mặt. Lại là dáng vẻ đáng thương, cô ấy rầu rĩ đáp: “Vừa nãy, tôi nằm mơ thấy ác mộng.”
“Lại là ác mộng?” Giọng cô ấy nặng nề khiến tôi hoảng sợ, từ trước tới nay chưa từng nghe thấy giọng cô ấy khàn đặc thế này, nhớ lại cảnh tượng đêm qua, tôi lắc đầu hỏi: “Cô mơ thấy tiếng đàn dương cầm à?”
“Không, tôi mơ thấy một đôi nam nữ.”
“Đôi nam nữ nào? Ý cô là Nhược Vân và chồng cô ta?”
“Đúng vậy, cuối cùng tôi đã biết rồi…”
Nhưng cô ấy đột nhiên dừng lại, quay đầu sang bên cạnh, tôi vội vàng hỏi: “Biết gì?”
Tiểu Sảnh vẫn quay lưng lại phía tôi, giọng run rẩy: “Người đàn ông đó chính là con trai của vợ thế.”
“Con trai của vợ thế?”
Phút chốc, trước mắt tôi lại hiện lên sân sau của Tiến Sĩ Đệ, miệng giếng cổ cô độc cạnh cây hoa mai, nơi thẳm sâu, u tối đã mai táng thể xác và linh hồn của vợ thế.
Tôi tới bên cửa sổ hít một hơi thật sâu, gật đầu nói: “Không sai, nếu như câu chuyện về vợ thế là thật, thì người con trai mà bà ta sinh cho nhà Âu Dương đến năm 1948 cũng đã trưởng thành rồi, đã đến tuổi lấy vợ sinh con. Tính toán về mặt thời gian thì hoàn toàn phù hợp, hơn nữa lão gia Âu Dương cũng chỉ có mỗi người con trai này, đương nhiên là con của vợ thế sinh ra.”
Tiểu Sảnh bước tới cạnh tôi, tựa lưng vào bức tường mọc đầy Chi trinh đằng, không nói thêm một câu nào. Tôi nhìn vào mắt cô ấy truy hỏi: “Sao cô lại biết? Trong mơ có người nói với cô sao?”
“Không, anh đừng hỏi nữa.” Cô ấy cúi đầu, không muốn trả lời câu hỏi của tôi.
“Được thôi, tôi không hỏi nữa.”
Tôi thở dài rồi đi ra khỏi phòng. Tiểu Sảnh bám theo sau hỏi: “Anh đi đâu?”
“Đi đánh răng rửa mặt. Sáng sớm ngày ra cô đã đánh thức tôi dậy, tôi làm sao mà ngủ tiếp được?”
Sau khi xuống nhà đánh răng rửa mặt xong, Tiểu Sảnh kéo tôi vào căn phòng ở tầng hai. Hóa ra, tối qua cô ấy mang rất nhiều thứ về, bây giờ trở thành bữa sáng để cùng tôi thưởng thức.
Ăn xong bữa điểm tâm thịnh soạn này, tinh thần cô ấy xem ra khá hơn rất nhiều, rốt cuộc cũng đã hé cười. Cô ấy kéo tôi ngồi xuống nói: “Anh biết không, ban nãy lúc anh bước ra khỏi phòng, trong lòng tôi vô cùng sợ hãi.”
“Sợ cái gì?”
Tiểu Sảnh đắn đo hồi lâu, rốt cuộc rầu rĩ nói: “Tôi sợ anh đột nhiên bỏ đi, để lại tôi ở đây một mình.”
“Cô nghĩ linh tinh gì thế?”

“Không, xin anh hãy hứa với tôi, đừng để tôi một mình ở trong ngôi nhà này, bởi vì bây giờ tôi không còn chỗ nào để đi cả, được không?”
“Không chỗ nào để đi? Nghe cứ như là tội phạm bị truy nã.” Tôi sững sờ nhìn vào mắt cô ấy, đôi mắt chỉ có trong truyện Liêu trai đó hình như đang đọng lại những tình thế lòng ươn ướt khiến tim tôi rúm ró. “Hôm nay cô sao thế? Từ trước tới nay tôi chưa từng thấy cô thế này?”
Nhưng cô ấy vẫn cố chấp truy hỏi: “Hứa với tôi đi, nhanh hứa với tôi đi.”
“Được, tôi hứa với cô, không để cô một mình ở đây? Trừ phi…”
Thấy tôi dừng lại, cô ấy lại có chút lo lắng: “Trừ phi gì?”
“Trừ phi… ngôi nhà này không còn tồn tại nữa.”
Nhưng Tiểu Sảnh lắc đầu, lạnh lùng nói: “Không, trừ phi tôi chết.”
“Đừng nói thế…”
Nhưng tôi cũng không nói tiếp được nữa, chỉ biết lặng lẽ nhìn cô ấy. Còn cô ấy cũng giữ sự im lặng, hình như đang nói chuyện với tôi bằng ánh mắt.
Sau khoảng mấy chục giây miễn cưỡng, tôi rốt cuộc lên tiếng: “Tiểu Sảnh, chúng ta nói chuyện khác đi.”
“Được thôi, nói gì?”
“Tại sao cô nhất định phải ở đây? Có phải vì tôi không?” Rốt cuộc tôi cũng cả gan thốt ra những gì cất giấu trong lòng bấy lâu nay.
Tai Tiểu Sảnh đỏ lựng lên, cô ấy quay đầu đi nói nhỏ: “Anh đang nói gì thế? Tôi nghe không hiểu.”
“Tại sao cứ phải đi theo tôi làm gì? Tôi tới đâu, cô cũng tới đó, tôi làm gì cô cũng giúp tôi làm đó, cô giống như cái bóng của tôi vậy…”
Nói tới đây, tôi cũng có chút bối rối nên dừng lại.
“Anh ghét tôi rồi?”
“Không, tuyệt đối không phải ý đấy. Tuy nhiên, hồi đầu tôi thấy cô quấy rối tôi, nhưng kể từ sau lần đầu tiên gặp cô, cảm giác đó hoàn toàn thay đổi rồi. Mấy ngày gần đây, trong tiềm thức của tôi luôn mong cô xuất hiện trước mặt tôi, giống như lúc này, rất gần, rất gần tôi…”
Rốt cuộc Tiểu Sảnh cũng mỉm cười, ánh mắt lóe lên điều gì đó khiến tim tôi lại loạn nhịp, cô ấy buồn bã nói: “Nhưng tôi là Nhiếp Tiểu Sảnh, anh không sợ sao?”
“Không, tôi thấy Nhiếp Tiểu Sảnh rất đáng yêu, vô cùng đáng yêu.” Không biết dũng khí từ đâu ra, tôi đột nhiên nói rất to: “Tôi tình nguyện mình Ninh Thái Thần, tôi thấy anh ta là người đàn ông hạnh phúc nhất trên thế gian này.”
Môi cô ấy hơi cong lên: “Vậy thì Nhiếp Tiểu Sảnh cũng là người đàn bà hạnh phúc nhất thế gian này.”
Lúc này, tôi không biết nên nói gì tiếp, chỉ ngây ra nhìn cô ấy, nhìn đôi mắt mê hồn chỉ có trong Liêu trai. Tôi nhẹ nhàng đưa tay ra, vuốt mái tóc cô ấy, mái tóc mềm mượt dưới nắng mai tỏa ra ánh sáng phản quang như suối núi, tay tôi lướt qua làn nước đó, thật mát mẻ và trong vắt. Tôi bất giác hít một hơi thật sâu nói: “Cảm ơn em, Tiểu Sảnh. Anh rốt cuộc đã cảm nhận được hạnh phúc của người đàn ông nhân vật chính trong truyện Liêu trai.”
Cô ấy bỗng lặng lẽ không nói một lời, mí mắt đồ xuống dưới, một mùi hương dịu mát âm thầm thấm vào gan ruột tôi. Nhưng không ngờ bỗng nhiên cô ấy đứng phắt dậy, cúi đầu nói: “Tôi chút nữa quên mất, hôm nay phải đến cửa hàng kem sớm.”
Phút chốc, tôi bỗng tỉnh táo trở lại, lặng lẽ ra khỏi phòng. Xuống dưới phòng khách ở tầng trệt, tôi giơ tay trái của mình lên ngắm chiếc nhẫn ngọc trên ngón trỏ, cảm giác trong lòng thật khó nói thành lời.
Một lúc sau, Tiểu Sảnh thay quần áo đi xuống dưới nhà, trước khi ra khỏi cửa còn có ý quan tâm dặn tôi buổi chiều đừng ra ngoài.
Sau khi Tiểu Sảnh đi, tôi một mình đi đi lại lại trong phòng khách, bất giác đi sang phòng bên cạnh. Ánh nắng đã chiếu rọi lên chiếc đàn dương cầm cũ kĩ, tôi nhẹ nhàng mở nắp đàn lên, lấy tay chạm vào những phím đàn đen trắng, đây là những phím đàn mà hơn năm mươi năm trước Nhược Vân đã từng đánh, những ngón tay của cô ấy thoăn thoắt nhẹ nhàng nhấn lên đây, trong cơ thể chiếc đàn cộng hưởng giai điệu của Liszt, nhẹ nhàng lan tỏa khắp quán trọ Hoang thôn.
Nhưng, lúc này tôi không nhìn thấy cô ấy. Tôi lắc lắc đầu, bước nhanh rời khỏi căn phòng này.
Cả ngày, tôi nghe theo lời dặn dò của Tiểu Sảnh, ngồi trong phòng đọc sách, bữa trưa cũng giải quyết trong phòng. Tôi giống như lão nông ôm cây đợi thỏ, trốn trong ngôi nhà cổ chờ đợi điều bí mật hay kì tích nào đó xuất hiện.
Điều làm tôi bất ngờ chính là hôm nay Tiểu Sảnh về sớm hơn. Hoàng hôn mới lấp ló ngoài cửa sổ, cô ấy đã xách một túi đồ to bước vào phòng, tất cả đều là thức ăn dành cho bữa tối mà cô ấy mua ở siêu thị, còn có cả vài cân gạo.
Tiểu Sảnh tận tay vo gạo, lấy nồi cơm điện thổi cơm, làm nóng lại đồ ăn sẵn bằng lò vi sóng. Kể từ ngày bước chân vào ngôi nhà này tới nay, tôi chưa từng được ăn một bữa tối đúng nghĩa.
Ăn cơm Tiểu Sảnh nấu ình, trong lòng đương nhiên phải khác rồi, đến cả mùi vị của hạt cơm cũng đặc biệt hơn hẳn. Tuy không phải là thức ăn được xào nấu bằng dầu mỡ, nhưng ở nơi quái quỷ như trong quán trọ Hoang thôn này, được ăn nhiều thức ăn thế này cũng là quá đủ rồi. Chẳng bao lâu sau, tôi đã ăn hết vèo hai bát cơm, hầu hết thức ăn cũng chui vào bụng tôi hết.
Còn Tiểu Sảnh hầu như không đụng đũa. Tuy con gái bây giờ đa số đều chú ý ăn uống để giữ gìn vóc dáng, nhưng vóc dáng của Tiểu Sảnh vốn dĩ đã rất đẹp rồi, đâu cần phải tự làm khổ mình như vậy. Tôi thử thăm dò nói ra nghi ngờ của mình, nhưng cô ấy mỉm cười nói: “Anh không đọc Liêu trai sao? Nhiếp Tiểu Sảnh vốn khác với người thường mà.”
“Khác với người thường? Thế thì không phải là thần tiên thì cũng là yêu quái.”
Cô ấy nhẹ nhàng đáp: “Thế thì anh cứ coi em là nữ yêu quái đi.” Rốt cuộc cô ấy thân mật với tôi hơn.
“Đúng thế, Nhiếp Tiểu Sảnh vốn dĩ không phải là người mà.” Tôi đáp trả cô ấy kèm lời trêu chọc. Nhưng phong thái tỏa ra từ khắp cơ thể cô ấy, thực sự có mùi và khác với người thường, bất cứ ai nhìn thấy cũng đều sẽ tưởng tượng xa xôi.
Bỗng nhiên, tiếng sấm nặng nề vang lên trong không trung khiến Tiểu Sảnh sợ hãi co rúm lại, tim tôi suýt chút nữa cũng nhảy khỏi lồng ngực. Tôi lập tức chạy ra cửa sổ nhìn, dường như vô số mây đen đang cuồn cuộn trong không trung tối đen, tiếng sấm đang lăn chuyển hành nghìn bước chân trên trời cao, chớp mắt cái là mưa to tới nơi. Gió mang theo hơi nước ẩm ướt ngập tràn căn phòng, bên tai chỉ nghe thấy tiếng mưa rào rào, những dây chi trinh đằng trước cửa sổ chẳng mấy chốc bị mưa tưới ướt.
Tôi quay đầu lại nhìn Tiểu Sảnh, hình như cô ấy rất sợ sấm sét, nhắm nghiền mắt lại. Tôi vội vàng đóng cửa sổ, ngồi cạnh cô ấy hỏi: “Cả người em run bắn lên, sao thế?”
“Từ nhỏ em đã rất sợ sấm sét.”
“Trong truyện Liêu trai, chỉ có hồ li xinh đẹp mới sợ sấm sét.” Không hiểu tại sao, tôi bỗng nhớ tới Liêu trai, nhưng tôi an ủi ngay: “Đừng sợ, có anh ở bên em rồi, em sẽ không sợ gì nữa.”
Đang lúc tôi nhìn vào mắt cô ấy, thấy tâm trạng cô ấy đang bình tĩnh trở lại thì đèn đột nhiên tắt ngóm, cả căn phòng chìm trong bóng tối.
Trong bóng tối của căn phòng, tôi không nhìn thấy khuôn mặt của Tiểu Sảnh, chỉ cảm nhận thấy cơ thể cô ấy đang run rẩy, miệng cô ấy lập cập lẩm bẩm gì đó nhưng một từ tôi cũng không tài nào nghe rõ. Giây phút này căn phòng giống như một ngôi mộ, chỉ có sấm sét bên ngoài cửa sổ vẫn đang tiếp tục tung hoành.
Tôi vội vàng chạy ra khỏi phòng, nhưng đèn ngoài hành lang cũng không bật được, cả quán trọ Hoang thôn chìm trong bóng tối. Tôi lập tức quay lại với Tiểu Sảnh, cô ấy nắm lấy tay tôi hỏi: “Xảy ra chuyện gì thế?”
“Tất cả đèn đều không bật được, chắc là mất điện rồi.”
“Sao lại mất điện được chứ?”
"Quán trọ Hoang thôn mấy hôm nữa là đập đi rồi, chắc chắn là những công nhân tháo dỡ đã cắt điện của chúng ta.” Tôi chán nản lắc đầu nói: “Chắc họ không biết chúng ta ở đây. Nhưng mà biết cũng chẳng để làm gì, phải chăng chúng ta cũng không phải là cư dân ở đây.”
Nói xong, tôi dò dẫm trong bóng tối mở tủ, mò mãi trong chiếc túi mình mang tới cũng ra được vài cây nến trắng. Khó khăn lắm mới thắp sáng được nến, ánh nến âm u chập chờn nhảy nhót, tờ mờ soi sáng mặt tôi và Tiểu Sảnh.
Dưới ánh nến trắng không ngừng lắc lư, khuôn mặt Tiểu Sảnh càng trở nên trắng bệch, cô ấy thấp thỏm nhìn ra ngoài cửa sổ, nước mưa đang dày đặc đập vào cửa kính, phát ra âm thanh giống như tiếng thủy triều bên bờ biển. Tôi nhìn chăm chú căn phòng dưới ánh nến, lắng nghe tiếng gió mưa bên ngoài, bỗng nhiên có cảm giác như trở lại Hoang thôn. Đúng vậy, trên căn gác nhỏ của ngôi nhà cổ Tiến Sĩ Đệ, tôi cũng đã sống trong khủng hoảng như thế này mấy đêm trời dưới ánh đèn dầu.

Bỗng nhiên, Tiểu Sảnh lí nhí nói: “Nhìn ánh nến này cảm giác dường như đang trở về thời cổ đại.”
“Đúng thế, chắc là cổ nhân cũng tay trái châm nến, tay phải dắt người đẹp qua đêm tối thế này.” Tôi không kìm chế được pha trò, nhưng trông cô ấy chẳng mấy phản ứng lại nên liền liên tưởng xa xôi. “Trong Liêu trai chí dị thường có thư sinh đi trong đêm, tới trú mưa trong miếu cổ hoang thôn rồi gặp được giai nhân xinh đẹp, bèn đốt nến đọc sách, ngâm thơ cho người đẹp nghe nhưng không ngờ rằng giai nhân đó hóa ra là hồn ma hoặc hồ li tinh.”
“Nhưng bất luận là người hay là ma, có thể gặp gỡ nhau thì cũng là duyên phận của họ, đúng không?”
“Đúng, duyên phận.” Tôi gật gật đầu, câu nói vừa nãy của cô ấy thực sự rất có lí. Nhìn ánh nến trước mặt, nghe tiếng mưa rơi ngoài cửa sổ, tôi bất giác ngâm lên một câu thơ: “Bao giờ chung bóng song tây, còn bao nhiêu chuyện núi này mưa đêm.”
“Anh cũng thích thơ của Lí Thương Ân sao?”
“Vô cùng thích, đặc biệt là mấy bài Vô đề.”
Cô ấy khẽ gật đầu: “Em cũng giống anh.”
Vậy là chúng tôi cùng im lặng, không ai muốn phá vỡ bầu không khí này. Cứ như vậy, chúng tôi lặng lẽ ngồi bên nhau, nhìn ánh nến soi sáng khuôn mặt nhau, nghe tiếng mưa rơi xuống khung cửa lạnh giá.
Mười phút qua đi, ánh nến âm u trước mắt bỗng nhiên nhảy nhót, phút chốc khiến tôi nhớ tới điều gì đó, tim tôi lại đập loạn xạ.
Tôi cả gan nói: “Tiểu Sảnh, em tin không? Chỉ cần chúng ta dập tắt hết ánh sáng, trong đêm đen tối om, những cảnh tượng của hơn năm mươi năm trước sẽ hiện lên trước mắt anh.”
“Làm gì có chuyện đó? Giống như lần trước dưới phòng khách? Nhưng sao em không nhìn thấy?”
Tôi chầm chậm đưa tay trái ra nói: “Có lẽ, bởi vì cái này…”
“Nhẫn ngọc?”
“Đúng, mãi tới tận đêm qua anh mới cảm nhận thấy, lúc anh nhìn thấy Nhược Vân của hơn năm mươi năm trước, chiếc nhẫn ngọc này càng lúc càng chặt, bó chặt làm đau ngón tay anh. Nhưng chỉ cần cảnh tượng đó biến mất, ngón tay sẽ không cảm thấy đau nữa.”
Tiểu Sảnh cầm lấy ngón tay tôi, tỉ mẩn ngắm nghía chiếc nhẫn ngọc nói: “Em hiểu rồi, tại sao mắt anh có thể nhìn thấy những ảo ảnh đó còn em thì chẳng nhìn thấy gì cả, bởi vì chỉ có anh mới đeo chiếc nhẫn ngọc trên ngón tay.”
“Có lẽ, đây chính là ma lực của chiếc nhẫn ngọc này, chỉ cần ai đeo nó lên là sẽ nhìn thấy những cảnh tượng mà người khác không thể nhìn thấy được.”
Bỗng nhiên, Tiểu Sảnh reo lên khe khẽ: “Chiếc nhẫn ngọc khiến anh có thể nhìn xuyên thấu thời gian?”
“Bởi vậy, không phải anh nhìn thấy ma, mà là anh nhìn thấy quá khứ. Thời gian quay ngược lại hơn năm mươi năm trước ngay trước mắt anh, khiến anh nhìn thấy những người từng sống trong ngôi nhà này năm đó.”
“Giống như bật cho anh xem một bộ phim cũ?”
Lúc này, sấm sét ngoài cửa sổ lại vang lên, ánh nến khiến căn phòng này càng trở nên kì dị, tôi nhìn vào mắt cô ấy nói: “Không sai, lúc đó anh cảm thấy hình ảnh trước mắt giống như một bộ phim câm của thập niên hai mươi, những gì anh nhìn thấy không phải là căn phòng thật mà chỉ là một màn ảnh mà thôi, những tia sáng không biết từ đâu tới chính là ánh sáng phát ra từ chiếc máy chiếu trong rạp chiếu phim.”
“Có lẽ còn có một khả năng khác, khi anh đeo chiếc nhẫn ngọc này lên, lúc đối diện với căn phòng tối tăm, thời gian trong không trung được chỉ định đặc biệt này bị bẻ cong, phản xạ lại vào trong mắt anh ở hiện tại.”
“Thời gian bị bẻ cong?” Tôi sờ lên chiếc nhẫn ngọc trên tay nói, “Cũng có thể như vậy. Hoặc đây chính là nguyên tố thần bí ẩn chứa trong chiếc nhẫn ngọc này.”
“Vậy thì nếu như em tiếp xúc với chiếc nhẫn ngọc này, không biết có thể nhìn thấy những cảnh tượng của quá khứ không nhỉ?”
Câu hỏi của Tiểu Sảnh khiến tôi hơi run, tôi không tự chủ được đưa tay lên trước mặt cô ấy, đắn đo một lúc nói: “Anh không biết, chắc là có thể thử xem sao.”
Tiểu Sảnh lập tức tóm lấy tay trái của tôi, nắm chặt ngón tay tôi trong lòng bàn tay cô ấy. Cảm giác này thật sự rất kì lạ, chiếc nhẫn ngọc thắt chặt vào ngón tay tôi, còn tay của Tiểu Sảnh thắt chặt vào chiếc nhẫn ngọc, ngón tay cái của tôi bị kẹp tận trong cùng.
“Nhẫn ngọc này lạnh thật đấy.” Tiểu Sảnh thì thầm, tiếp tục nắm chặt lấy ngón tay tôi. “Lúc này em có thể cảm nhận được sự phản kháng của nó, nó dính chặt vào lòng bàn tay em, giống như có sự sống vậy, ngón tay anh đau không?”
“Không, tạm thời vẫn chưa đau.”
“Vậy chúng ta tắt nến đi nhé, thử xem trong căn phòng tối om này có thể nhìn thấy cảnh tượng của hơn năm mươi năm trước không?”
Tôi bỗng chốc ngớ người ra, không ngờ cô ấy lại to gan như vậy: “Em thật sự muốn thử sao?”
“Đúng vậy, em cũng muốn tận mắt nhìn thấy màn kịch sống động của hơn năm mươi năm trước.”
“Được thôi, bây giờ đành phải thử xem, chưa hẳn là hiệu nghiệm, hơn nữa cho dù anh nhìn thấy, chưa chắc là em đã nhìn thấy được.”
Cô ấy lại nắm chặt chiếc nhẫn nói: “Nhanh lên, em tin vào phán đoán của mình.”
Sau giây phút đắn đo, tôi thổi tắt nến, ánh nến lay động dữ dội rồi tắt ngóm.
Lúc này, cả quán trọ Hoang thôn đều đang ngủ say trong bóng tối, chỉ còn lại mưa như trút nước cùng sấm chớp bên ngoài cửa sổ. Trong căn phòng đặc quánh bóng đêm, chúng tôi dựa sát vào nhau, ngón tay tôi bị cô ấy nắm đau âm ỉ, đành phải nhẫn nhịn để không phát ra tiếng kêu. Tôi có thể cảm nhận người cô ấy đang run rẩy, tuy không nhìn thấy gì trước mặt nhưng chúng tôi vẫn nhìn chằm chằm về bóng tối phía trước, giống như thợ săn đang rình dã thú trong rừng sâu.
Không, tôi cảm thấy chiếc nhẫn ngọc bắt đầu thắt chặt lại, cảm giác đau buốt bắt đầu từ ngón tay lan tỏa ra khắp cơ thể tôi.
Bỗng nhiên, một đường ánh sáng mờ ảo lướt qua bóng tối trong hành lang.
Tiểu Sảnh càng nắm chặt tay tôi, tôi thậm chí còn cảm nhận được cả nhịp tim của cô ấy. Chúng tôi nhìn chằm chằm vào ánh sáng êm dịu ngoài cửa, giống như một tấm phim gốc bị lộ sáng nhấp nháy.
Sau vài giây, một bóng người nhỏ dài xuất hiện trước cửa phòng. Tia sáng vừa vặn chiếu rọi lên khuôn mặt người đó, tôi gần như hét lên thất thanh: Nhược Vân.
Đúng, chính là cô ấy. Ánh sáng êm dịu theo gót cô ấy bước vào phòng hình như là của chiếc đèn chùm trên sàn nhảy, nhưng chỉ chiếu sáng một khoảnh nhỏ bên cạnh cô ấy, còn tôi và Tiểu Sảnh vẫn ở trong bóng tối. Tôi quay đầu nhìn Tiểu Sảnh, cô ấy gật đầu với tôi, đúng vậy, Tiểu Sảnh cũng nhìn thấy Nhược Vân rồi.
Ánh sáng trước mặt hơi dao động, giống như chuyển cảnh trong phim ảnh, nhưng biểu cảm của Nhược Vân đã biến đổi, ánh mắt cô ấy chứa đựng sự khủng hoảng, hình như còn ầng ậc nước.
Tiểu Sảnh liền nắm chặt lấy tay tôi, tôi gần như bị cô ấy kẹp đứt cả ngón tay.
Chớp mắt, vệt sáng mờ ảo đó lại nhảy lên, hình ảnh bị “cắt” sang một cảnh khác.
Không biết từ lúc nào, tay của Nhược Vân có thêm một con dao găm lạnh toát sáng choang, vẻ mặt lại trở lại bình tĩnh dị thường, con dao trên tay đang nhắm thẳng vào tôi.
Chính trong thời khắc ngàn cân treo sợi tóc này, “ống kính” bỗng bị mờ đi giống như bị đậy lên một lớp kính lọc. Bỗng nhiên, một vũng máu đỏ tươi xuất hiện trên “ống kính,” từ từ loang ra…
Tiểu Sảnh hét toáng lên, tôi vội vàng lấy tay phải bịt mồm cô ấy lại. Lúc này trên không trung bỗng vang lên tiếng sấm, lóe lên một vệt sét trắng, chiếu vào căn phòng giống như đêm trắng vậy.

Tức khác, “ống kính” và “hình ảnh” trước mắt vụt biến mất, giống như bị tiếng sét nuốt chửng.
Tiếng sét qua đi, bóng đêm lại trở lại căn phòng, ngoài cửa sổ vẫn mưa như trút nước. Tôi cảm giác chiếc nhẫn ngọc cũng không còn thắt chặt nữa, sự đau đớn trên ngón tay cũng dần tiêu tan.
Tiểu Sảnh run rẩy nói: “Sao chẳng còn nhìn thấy gì cả?”
Ngồi trong bóng tối, tôi rốt cuộc thở dài: “Họ vốn dĩ không tồn tại, chỉ là ảo ảnh của năm tháng mà thôi.”
“Ánh sáng lóe lên ngoài cửa sổ phân tán bớt bóng tối trong phòng, giống như mở cửa phòng tối trong rạp chiếu phim.”
“So sánh của em rất hay,” nhưng tôi nắm tay cô ấy nói: “Tiểu Sảnh, bây giờ em buông tay anh ra được rồi chứ?”
“Vâng,” Tiểu Sảnh lập tức buông tay tôi ra, tuy trong bóng tối không nhìn rõ mặt, nhưng tôi vẫn có thể cảm nhận được sự bối rối của cô ấy.
Tôi xoa ngón tay mình nói: “Ngón tay của anh suýt nữa bị em cấu đứt rồi.”
“Xin lỗi.”
Sau đó, tôi mò tìm bật lửa, châm nến ban nãy bị thổi tắt.
Ánh nến mờ ảo lại soi rọi căn phòng, đồng thời soi lên mặt tôi và Tiểu Sảnh, tôi phát hiện trên má cô ấy lấm tấm mồ hôi bèn lấy khăn tay lau mồ hôi cho Tiểu Sảnh.
Tiểu Sảnh vẫn còn sợ hãi nói: “Thật không thể tin được, ban nãy trong căn phòng này, em tận mắt nhìn thấy người và việc xảy ra của hơn năm mươi năm trước.”
Tôi bước mấy bước trong phòng, ánh nến khiến bóng tối chiếu lên tường, cái bóng đen đen dài dài xem ra thật đáng sợ. Đáng tiếc, ngôi nhà này mấy hôm nữa là tháo dỡ rồi, nếu không thì bao nhiêu năm nữa, khi mọi người bước vào ngôi nhà này thám hiểm có lẽ cũng sẽ phát hiện ra dáng dấp khuôn mặt của tôi và Tiểu Sảnh trên tường cũng nên?
“Xem ra nhẫn ngọc trên tay anh thực sự có một công dụng thần kì nào đó.” Tiểu Sảnh cũng bước tới cạnh, thì thầm bên tai tôi.
“Đúng, chiếc nhẫn ngọc này đến từ tầng hầm ở Hoang thôn. Bởi vậy, tất cả những gì chúng ta nhìn thấy đêm nay chắc hẳn đền liên quan tới bí mật của Hoang thôn.”
Lúc này, tâm trạng của Tiểu Sảnh đã bình tĩnh hơn rất nhiều, cô ấy gật đầu nói: “Vậy thì cảnh tượng chúng ta nhìn thấy ban nãy rốt cuộc là gì chứ?”
“Anh nghĩ, chùng ta đã phát hiện ra cảnh đẫm máu nhất trong quán trọ Hoang thôn hơn năm mươi năm trước.”
“Ý anh là con dao găm đó, còn cả máu nữa…” Nói tới đây, Tiểu Sảnh đột nhiên khựng lại, hình như chữ “máu” khiến cô ấy vô cùng sợ hãi.
Tôi khẽ gật đầu, lại nghĩ tới những sự việc mà Diệp Tiêu đã kể với mình, tôi bất giác lẩm bẩm: “Thảo nào họ nói quán trọ Hoang thôn là một hung trạch.”
“Hung trạch?”
“Không… không có gì.”
Tôi lắc lắc tay, cố rặn ra vài nụ cười, thực ra tôi không muốn để cô ấy quá căng thẳng. Tôi lại tới bên cửa sổ, nhìn mưa gió sấm chớp liên miên bên ngoài, những cao ốc phía xa vẫn đang lộng lẫy sắc cầu vòng. Thượng Hải lại một đêm không ngủ.
Tiểu Sảnh đứng sau lưng tôi nói: “Bây giờ tới điện cũng chẳng có, qua đêm nay thế nào đây?”
“Không phải sợ, ngôi nhà này vốn không có ma, đừng thần hồn nát thần tính. Nhược Vân và chồng cô ấy mà chúng ta nhìn thấy chỉ là ảo ảnh của hơn năm mươi năm trước mà thôi, ảo ảnh không thể hại người được.” Sau đó, tôi lôi trong tủ ra một chiếc đèn pin, bật lên rồi đặt trước đầu giường: “Em nắm lấy nó mà đi ngủ, ánh đèn pin sẽ theo em vào giấc ngủ ngon.”
Cô ấy bán tính bán nghi cầm lấy chiếc đèn, lại chỉ vào nến hỏi: “Còn nó thì sao?”
“Đốt nến khi ngủ rất nguy hiểm, rất dễ gây nên hỏa hoạn.”
Nói xong, tôi cúi đầu thổi tắt nến.
Trong phòng chỉ còn lại chiếc đèn pin trên tay Tiểu Sảnh, tôi nhìn cô ấy trong ánh đèn pin tù mù, thì thào: “Xin lỗi, Tiểu Sảnh, anh biết hôm nay em rất sợ hãi, nhưng anh bắt buộc phải lên tầng trên.”
“Không, anh đừng đi.” Cô ấy lập tức níu chặt lấy cổ tay tôi. “Xin anh đừng để em một mình ở đây.”
“Nhưng… chúng ta…” Giây phút này, tôi cũng không nghĩ ra nổi lí do gì để rời xa cô ấy.
Nước mắt cô ấy từ từ rơi xuống, miệng lẩm bẩm nói: “Ở lại đi, em sợ ở một mình.”
Không, tôi không thể nhẫn tâm từ chối cô ấy nữa, đành phải ngồi cạnh cô ấy. Mí mắt Tiểu Sảnh đầu khép xuống, từ từ ngả ra giường, xem ra cô ấy đã bị những ảo ảnh ban nãy làm cho quá hoảng sợ, toàn thân mệt mỏi rã rời.
Tôi lặng lẽ nhìn Tiểu Sảnh, tay cô vẫn nắm khư khư chiếc đèn pin, ánh sáng mờ ảo soi rọi lên mặt cô ấy. Tiếng mưa to ngoài cửa sổ vẫn rì rào, hơn nữa căn phòng bị bóng tối bao phủ, đến cả tôi cũng ngồi trong góc tối.
Mười mấy phút trôi qua, tôi nghĩ Tiểu Sảnh chắc là ngủ say rồi. Tôi đắp cho cô ấy chiếc khăn dạ, kiểm tra lại cửa sổ xem đã đóng chặt chưa. Sau đó, tôi lấy chiếc đèn pin thứ hai trong tủ ra, rón rén ra khỏi phòng.
Rốt cuộc ra được ngoài rồi, tôi thở một hơi dài, nhớ lại dáng vẻ của Tiểu Sảnh lúc níu kéo mình, giây phút đó tôi thực sự có chút không kìm chế được bản thân. Đúng vậy, tôi thật lòng thích cô ấy từ lâu rồi,và chắc trong lòng cô ấy cũng tỏ tường. Vừa nghĩ tới đây, tôi bỗng mỉm cười khi đang đi trong dãy hành lang tối.
Đúng, bất luận xảy ra chuyện khủng khiếp gì đi chăng nữa, đều không thể ngăn cản tôi và Tiểu Sảnh. Tôi cảm thấy toàn thân thư thái, sự khủng hoảng ban nãy đã sớm tan thành mây khói. Vậy là tôi bật đèn pin, bước nhanh trên cầu thang tối om.
Trở lại căn phòng trên tầng ba, tôi ôm đèn pin ngả người ra chiếu, bỗng nhiên cảm thấy bản thân mình vẫn được coi là hạnh phúc.
Ngoài cửa sổ, mưa đang to như trút nước.

 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,359
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 23-1


NGÀY THỨ HAI MƯƠI BA
Buổi sáng tỉnh dậy đã khá muộn, cơn mưa to đêm qua đã tạnh từ lâu, nhưng những nhánh Chi trinh đằng leo ngoài cửa sổ vẫn còn đọng những hạt nước. Sau một đêm được nước mưa tưới tắn, chúng càng trở nên dồi dào sức sống. Đáng tiếc, những nhánh Chi trinh đằng không biết được rằng, qua mấy hôm nữa, sinh mệnh của chúng sẽ kết thúc cùng với ngôi nhà cổ này.
Xuống dưới tầng hai tôi mới phát hiện ra Tiểu Sảnh đã đi làm rồi, nhưng cô ấy vẫn để cho tôi một phần điểm tâm. Ăn xong bữa sáng, tôi lượn một vòng từ tầng trên xuống tầng dưới, tuy điện đã cắt rồi nhưng nước vẫn chưa bị cắt, mấy ngày cuối chắc là vẫn có thể gắng trụ được.
Do không có điện, bữa trưa của tôi đành phải ra ngoài ăn. Nhưng so với bữa cơm tối qua Tiểu Sảnh nấu, bữa trưa này quả thực còn khó ăn hơn thức ăn của heo.
Buổi chiều không có việc gì làm, tôi đọc sách trong phòng một lúc, nhưng chỉ cần nhớ tới những cảnh tượng xảy ra trong căn phòng này tối qua, tôi thực sự chẳng có tâm trí đâu mà đọc nữa. Mãi tới sẩm tối, trong lúc tôi đang chuẩn bị ra ngoài ăn tối thì Tiểu Sảnh lại về sớm.
Tiểu Sảnh mặc một chiếc váy ngắn, tóc hơi ươn ướt, trên người tỏa ra mùi nước gội đầu thơm mát. Nhưng càng hấp dẫn tôi hơn chính là đồ ăn nhanh Kentucky, cô ấy xách trên tay. Cho dù từ trước tới nay tôi vốn rất ghét ăn đồ ăn nhanh kiểu tây, nhưng trong thời khắc đặc biệt này, được ăn Kentucky quả là khá ổn.
Khi trời đã tối hẳn, chúng tôi thắp nến, tôi bất giác tự chọc ghẹo: “Cùng nhau ăn cơm dưới ánh nến, cái này chỉ được phục vụ trong nhà hàng cao cấp thôi đấy.”
Khi tôi coi như bên cạnh chẳng có ai ăn hết sạch phần đùi gà của mình, thì Tiểu Sảnh hầu như không động gì đến. Tôi quệt dầu trên miệng nói: “Tiểu Sảnh, em có thể ăn chút không, Bồ Tùng Linh tiên sinh đâu có viết về chuyện Nhiếp Tiểu Sảnh nhịn ăn giảm béo đâu.”
Nhưng cô ấy lạnh nhạt đáp: “Bởi vì Nhiếp Tiểu Sảnh vốn dĩ không giống người thường mà.”
Sau khi thu dọn bữa tối sạch sẽ, Tiểu Sảnh bỗng hỏi nhỏ tôi: “Đêm qua… tại sao anh không ở lại?”
“Cái này à…” Tôi cười bối rối nói: “Anh thấy em đã ngủ say rồi, tất nhiên không cần người bên cạnh nữa.”
Tiểu Sảnh không nói gì, chỉ hít một hơi thật sâu, ánh mắt cô ấy dường như còn giấu điều gì đó nhưng lại lảng tránh ánh mắt tôi.
Trầm ngâm dưới ánh nến hồi lâu, cô ấy đột nhiên lại nói chuyện: “Lần trước anh từng nói, anh lấy từ chỗ mấy sinh viên tới Hoang thôn kia rất nhiều đồ ngọc cổ đại.”
“Hỏi cái này làm gì?” Tôi có chút thấp thỏm bất an trả lời. “Những đồ ngọc đó lấy từ lòng đất Hoang thôn lên, giống như chiếc nhẫn đang trên tay anh.”

“Chúng thật sự có năm nghìn năm lịch sử sao?”
“Chuyên gia đều giám định qua rồi, chắc là vậy.”
“Có thể cho em xem không?” Cô ấy bước tới trước mặt tôi, nhìn vào mắt tôi nói: “Chỉ là xem thôi mà, không động gì đến đồ của anh đâu.”
Không, tôi làm sao có thể từ chối yêu cầu nhỏ nhoi đó của cô ấy chứ? Tôi gật đầu: “Được, chỉ cần lúc xem cẩn thận chút, nhất định không được làm hỏng những bảo bối này, càng không được để lộ tin tức về chúng ra ngoài.”
“Cái này em đương nhiên biết rồi. Hơn nữa, trừ anh ra, em cũng không có bạn nào khác.”
Tôi gật đầu, cầm lấy hai chiếc đèn pin, tôi và Tiểu Sảnh mỗi người một chiếc rồi đi lên tầng ba.
Bước lên cầu thang xoắn ốc tối om, Tiểu Sảnh theo sau bám chặt lấy tôi, ánh đèn pin của tôi mở đường, chúng tôi tới căn phòng cuối cùng trong hành lang trên tầng ba.
Tôi đã để lại đây một chiếc cầu thang, vừa vặn gác vào lỗ hổng trên trần nhà. Tôi dùng đèn pin soi lên trên nói: “Phải từ đây leo lên, em có sợ không?”
Gan cô ấy to hơn tối qua nhiều: “Không sợ.”
Tôi gật đầu, một tay nắm lấy đèn pin, một tay vịn cầu thang, khó khăn lắm mới chui được vào căn gác xép. Sau đó, Tiểu Sảnh cũng theo sau leo lên trên đó, tôi nắm chặt tay cô ấy, tiện thể kéo luôn cô ấy lên.
Căn gác tối tăm ngập tràn không khí đáng sợ, cửa sổ đã bị Chi trinh đằng che kín, một ánh trăng cũng không lọt được vào. Tôi chỉ còn cách dùng đèn pin quét một vòng, mãi lâu sau mới tìm thấy chiếc cặp đựng đồ ngọc, cảm giác thật khó hiểu, giống như đang đào trộm mộ vậy.
Trong phạm vi ánh đèn thu hẹp lại, tôi vất vả mở chiếc cặp ra, cẩn thận rón rén lấy ra từng đồ ngọc trong đó: ngọc hổ phách, ngọc bích, búa ngọc, rùa ngọc và dao găm ngọc. Ánh đèn pin rọi vào những bảo bối này, bề mặt đồ ngọc tỏa ra ánh sáng phản quang kì dị, Tiểu Sảnh vuốt nhẹ lên ngọc hổ phách, tay cô ấy bắt đầu run rẩy.
Tôi nhìn lại xung quanh đang tối đen như trong địa cung, bỗng nhiên nhớ tới bốn sinh viên hoặc là đã chết, hoặc là mất tích, hoặc là thần kinh. Khi họ vào địa cung thần bí trong lòng đất tại Hoang thôn, lúc đối diện với những đồ ngọc này, chắc là cũng có cảm giác tương tự.
Tiểu Sảnh bỗng thở dài nói: “Bây giờ em tin rồi, chúng thực sự là đồ ngọc của năm nghìn năm trước.”
“Tại sao?”
“Bởi vì cảm giác trên tay em.” Cô ấy chuyển đồ ngọc sang tay bên kia, lùi lại một bước nói, “Đúng, khi tay em chạm vào những đồ ngọc này, em thực sự cảm nhận được tuổi của chúng.”
“Đây chính là giác quan thứ sáu của phụ nữ?”
"Có lẽ vậy, anh nhanh cất chúng đi, bảo bối năm nghìn năm trước, em không dám chạm vào nữa đâu.”
Tôi gật đầu, lại lấy báo cũ và bọt xốp bọc chúng lại, cất những đồ ngọc này vào trong cặp.
Sau đó, tôi kéo tay Tiểu Sảnh nói: “Đợi đã, anh còn cho em xem mấy thứ nữa.”
Dưới ánh sáng đèn pin, tôi tìm thấy chiếc bàn trang điểm, thì thầm nói: “Đây là bàn trang điểm trước đây của Nhược Vân.”
“Sao không có gương?,” cô ấy không nhìn rõ khung gương trong bóng tối.
“Bị vỡ lâu rồi.”
Bỗng nhiên, Tiểu Sảnh hiểu ý nói: “Giống như đêm qua, cô ấy và chồng.”
“Đúng, một tấm gương bị vỡ, sao có thể liền lại được?”
Nói xong, tôi mở hai ngăn kéo phía dưới, lấy ra những bức ảnh cũ của Nhược Vân và gia đình Âu Dương cùng với hai quyển sách của Trương Ái Linh. Dưới ánh đèn pin mù mờ, Tiểu Sảnh từ từ lật những tấm ảnh và trang sách, nhìn khuôn mặt của Nhược Vân trong ảnh, cô ấy buồn bã nói: “Cám ơn anh, cám ơn anh đã cho em thấy những thứ này, dường như em có thể hít thở hương trên người cô ấy rồi.”
“Đúng thế, anh cũng có cảm giác như vậy.”

“Không, cảm giác của anh và của em không giống nhau. Bởi vì em là phụ nữ, chỉ có phụ nữ mới cảm nhận được nỗi đau của Nhược Vân… Trước khi cô ấy gả cho nhà Âu Dương, nhất định là một cô gái có rất nhiều hoài bão, cô ấy vì tình yêu sâu đậm với chàng trai Âu Dương khôi ngô tuấn tú mới hi sinh bản thân gả vào chiếc cũi nhốt tù này.”
“Em bảo quán trọ Hoang thôn là cũi nhốt tù?”
“Lẽ nào không phải sao? Gia đình Âu Dương bảo thủ và khép kín nhường vậy, cho dù là họ dọn tới Thượng Hải đi chăng nữa cũng không dọn theo cả ngôi nhà cổ Tiến Sĩ Đệ ở Hoang thôn. Đúng, ngôi nhà này đã biến thành Tiến Sĩ Đệ, bởi vậy mới lấy tên là quán trọ Hoang thôn, chẳng qua là dựng lại một Hoang thôn thu nhỏ trên đất Thượng Hải mà thôi.”
Cô ấy thực sự nói rất có lí, tôi cũng gật đầu nói: “Gả vào nhà Âu Dương cũng đồng nghĩa với việc mất đi tự do, bị giam cầm trong Hoang thôn thu nhỏ?”
“Đúng, sau khi Nhược Vân gả vào quán trọ Hoang thôn, nhất định đã trải qua rất nhiều đau khổ, nhưng cô ấy không muốn biểu hiện ra ngoài, đành phải thông qua ánh mắt hướng ra ngoài cửa sổ, thông qua những trang sách của Trương Ái Linh.”
Tiểu Sảnh lại thở dài, sau đó đem tất cả số ảnh cũ này cùng sách để lại vào ngăn kéo.
“Được rồi, chúng ta đi thôi.” Tôi nhẹ nhàng kéo cô ấy đi tới đầu bên kia của căn gác, bỗng nhiên ánh đèn soi vào một bóng đen cao to.
“Đó là cái gì?” Tiểu Sảnh lập tức vồ lấy tay tôi.
Tôi cẩn thận nhìn xem mới thốt lên được nói: “Không có gì, là cái tủ quần áo.”
“Tủ quần áo? Bên trong có quần áo của Nhược Vân?”
Có lẽ, do phụ nữ bẩm sinh đã trung thành với tủ quần áo, cô ấy lập tức chạy tới bên chiếc tủ. Dưới ánh sáng đèn pin, cô ấy từ từ mở cánh tủ ra, mùi ẩm mốc khiến chúng tôi đều quay đầu đi.
Một lúc sau, ánh đèn soi vào bên trong tủ, Tiểu Sảnh đột nhiên hét lên thất thanh: “Có người chết!”
Tôi lập tức nắm chặt lấy tay cô ấy nói: “Không, bên trong treo quần áo.”
“Cái gì?” Tiểu Sảnh rốt cuộc cũng đã định thần lại, cẩn thận nhìn vào trong tủ, dưới ánh đèn pin mờ ảo, vài chiếc áo khoác đen trông thật giống người chết treo.
Tiểu Sảnh cẩn thận rón rén thò tay vào trong, sờ vào một chiếc sườn xám bắt mắt, lụa tơ tằm đều đã giòn tan rơi rụng, cô ấy đành phải bỏ xuống. Cô ấy lại sờ chiếc áo bên cạnh, là một chiếc áo khoác len màu đen kiểu dáng nữ. Xem ra chất liệu và đường kim mũi chỉ đều rất tốt, vào thời đó chắc hẳn là một thứ xa xỉ.
Bỗng nhiên, Tiểu Sảnh hình như sờ thấy gì đó trên áo, tay cô ấy dừng lại trước túi áo, bên trong hình như có cất giấu vật gì. Cô ấy lập tức thò tay vào trong túi, chiếc túi xem ra rất to, hình như nuốt chửng nửa cánh tay của cô ấy.
Cô ấy lôi một cuốn sổ tay trong túi áo ra.
Ánh đèn pin soi lên cuốn sổ, Tiểu Sảnh cẩn thận rón rén bưng nó lên, rõ ràng rất phấn khích, cô ấy hào hứng nói: “Anh xem, đây là cái gì?”
“Cuốn sổ tay giấu trong túi áo?”
Đây là một cuốn sổ bìa da cứng màu đen, chắc là sản phẩm của hơn năm mươi năm trước. Tôi nhẹ nhàng mở cuốn sổ ra, trên chương đầu tiên xuất hiện chữ viết bằng tay duyên dáng.
Nhật kí quán trọ Hoang thôn.
Dưới dòng chữ này còn có cả chữ kí: Nhược Vân.
“Trời ơi! Đây chính là nhật kí của Nhược Vân năm đó để lại.” Tiểu Sảnh thất thanh kêu lên, cô ấy thò tay ra vuốt ve trang sách, chạm vào chữ viết bằng bút mực đen của Nhược Vân ghi lại, “Hóa ra cô ấy giấu nhật kí trong tủ quần áo, thật là khó tin.”
“Có thể vốn dĩ không phải do cô ấy giấu.” Lúc này tôi gập cuốn sổ lại, tôi bắt đầu hơi lo lắng nói: “Ở trên gác thực sự bất tiện, chúng ta xuống phòng dưới tầng hai từ từ xem nhé.”
Tiểu Sảnh cũng gật đầu, vậy là chúng tôi đem theo cuốn sổ nhật kí leo xuống cầu thang rời khỏi căn gác xép.
Chúng tôi vội vàng trở lại căn phòng dưới tầng hai, dùng đèn pin thực sự rất khó chịu, tôi thắp một ngọn nến mới. Khi ánh nến soi sáng lại căn phòng, tôi và Tiểu Sảnh đều thở một hơi dài, dường như vừa được quay lại nhân gian.
Sau đó, chúng tôi cùng nhau mở cuốn “Nhật kí quán trọ Hoang thôn” này của Nhược Vân ra thì phát hiện bên trong thiếu sót và bị hư tổn rất nhiều, có lẽ nhiều trang đã bị xé đi cả cụm, bởi vậy đã làm cho cuốn nhật kí bị tàn phế không còn nguyên vẹn. Tôi đếm số lượng trang có chữ còn sót lại, tổng cộng có hai mươi mấy trang.
Nhưng trang đầu tiên của cuốn nhật kí lại được bảo lưu hoàn toàn nguyên vẹn, trên đầu trang viết ngày tháng: ngày 20 tháng 10 năm Dân quốc 35. Nhật kí viết chiều thẳng dọc từ phải sang trái theo thói quen thời đó, từng chữ Hán đẹp đẽ hiện lên trước mắt tôi.

Trong đêm tối của quán trọ Hoang thôn này, ánh nến lắc lư chiếu đỏ những trang giấy vàng ố, tôi và Tiểu Sảnh đều nín thở, dường như thực sự đang nghe thấy Nhược Vân nói chuyện rồi chúng tôi cùng nhau đọc thầm ngày đầu tiên của “Nhật kí quán trọ Hoang thôn.”
Nắng, ngày 20 tháng 10 năm Dân quốc 35.
Hôm nay, đây là ngày đầu tiên của cuốn nhật kí này, cũng là ngày thứ hai mình gả vào quán trọ Hoang thôn.
Đúng, hôm qua là ngày kết hôn của mình.
Mình nghĩ mãi vẫn không hiểu nổi, tại sao người ta luôn nói rằng phụ nữ đẹp nhất trong ngày cưới, hôm qua lúc mình khoác chiếc váy cưới trắng tinh khôi lên người, nhìn mình trong gương, mình thấy hình như đó là một người xa lạ. Đúng vậy, cô ấy trong gương trẻ trung nhường vậy, thuần khiết nhường vậy, váy cưới như tuyết trắng phủ lên người cô ấy, vậy mà cô ấy lại là mình sao? Mình lắc lắc đầu, cô ấy trong gương cũng lắc lắc đầu, mình khẽ nói, cô ấy trong gương cũng mấp máy môi. Mình không dám tưởng tượng kể từ ngày hôm nay mình đã biến thành cô ấy rồi, một người đàn bà hoàn toàn xa lạ.
Xe hơi của gia đình Âu Dương đợi mình dưới nhà, mẹ đưa mình xuống nhà, mấy cô gái giúp mình đỡ váy cưới, đưa mình vào trong xe hơi. Xe hơi tới quán trọ Hoang thôn, chỉ nghe thấy tiếng pháo nổ không dứt, rất nhiều người vây lấy mình bước vào quán trọ Hoang thôn, mình cúi gằm mặt xuống, thậm chí còn không nhìn rõ ngôi nhà này ra làm sao. Trong phòng khách tất cả đã bố trí xong xuôi, Thanh Viễn mặc một bộ ple thẳng tắp, đang mỉm cười chờ mình. Anh ấy xem ra dáng vẻ tuấn tú ngời ngời, ánh mắt mỉm cười toát lên vẻ tự tin, bởi vì kể từ ngày hôm nay anh ấy sẽ trở thành chồng mình.
Cha mẹ Thanh Viễn đang ngồi uy nghiêm chính giữa, tuy họ đã thẩm tra qua người con dâu này từ trước, nhưng vẫn cẩn thận chăm chú nhìn mình. Mình giống như một thứ đồ chơi xinh đẹp, làm theo tất cả những bước dặn dò từ trước, hoàn thành tất cả nghi thức hôn lễ. Rất nhiều người ở bàn rượu tiến đến, tiếng cười nói ồn áo khiến mình không nghe rõ gì cả, giống như mơ thấy một giấc mơ. Cứ như vậy ầm ĩ cho tới tận khuya, Thanh Viễn mới kéo mình lên căn phòng trên tầng ba, cả ngày mệt mỏi rã rời, mình ngả người ra giường cái là ngủ ngay.
Đó chính là hôn lễ của mình. Ngày thứ hai, Thanh Viên kéo mình đi thỉnh an bố mẹ chồng, sau đó ở bên mình cả ngày. Lúc này, nhân lúc anh ấy xuống nhà, mình trốn trong phòng viết trang nhật kí này.
Kể từ ngày hôm nay, mình sẽ ghi lại mỗi ngày của mình trong quán trọ Hoang thôn vào cuốn nhật kí này. Nó là người bạn giấu kín trong lòng mình, trừ bản thân mình ra, bất cứ ai cũng không được nhìn thấy nó.
Âm u, ngày 29 tháng 10 năm Dân quốc 35.
Hôm nay, là ngày thứ mười mình được gả vào quán trọ Hoang thôn.
Cha mẹ của Thanh Viễn sống ở tầng hai, mỗi buổi sáng Thanh Viễn đều đưa mình tới thỉnh an họ, anh ấy nói rằng đây là phép tắc của nhà Âu Dương từ trước tới nay. Cha mẹ chồng đều đã rất lớn tuổi rồi, còn Thanh Viễn lại là con trai duy nhất của họ, và cũng là người thừa kế duy nhất của gia tộc Âu Dương. Mình nghĩ rằng bố mẹ chồng đều rất cao tuổi mới có con, nhất định rất yêu con trai của mình, bởi vậy họ cũng nhất định sẽ rất yêu mình.
Kể từ hôm nay Thanh Viễn sẽ trở lại công ty làm việc, nhà Âu Dương mở một công ty mậu dịch tại Thượng Hải, chuyên nhập khẩu thương phẩm đắt giá từ Mĩ về. Bố mẹ chống đều lớn tuổi rồi, việc làm ăn buôn bán của công ty hoàn toàn một mình Thanh Viễn quản lí, vì thế anh luôn bận tối mắt tối mũi. Bây giờ đã là chín giờ tối, anh ấy vẫn chưa về nhà, mình ngồi một mình trong phòng đọc sách, thẫn thờ viết nhật kí. Thanh Viễn đã từng hứa với mình, sau khi kết hôn mình vẫn có thể đến ngân hàng làm việc, nhưng bây giờ bố mẹ chồng đều không đồng ý, họ nói con dâu nhà Âu Dương bắt buộc phải ở nhà, Thanh Viễn không thể làm trái lời cha mẹ, cuối cùng đã làm tiêu tan ý định đi làm của mình.
Tuy mới chỉ qua mười ngày, nhưng cảm giấc giống như mấy năm trôi qua vậy. Đây chính là mùi vị của tân hôn sao? Cả đời cũng không hồi tưởng hết? Có phải là do ngôi nhà này không nhỉ? Có lúc bước lên cầu thang của quán trọ Hoang thôn, trong lòng liền nảy sinh cảm giác rất kì lạ, hình như có thể nghe thấy âm thanh gì đó, dừng lại dỏng tai nghe ngóng thì lại không nghe thấy gì cả. Ôi, có phải là các cô dâu mới đều đa nghi nhiều như vậy không nhỉ?
Đúng thế, nói thực lòng mình có chút sợ bố chồng, quần áo ông mặc và giọng nói chuyện đều khiến mình âm thầm sợ hãi. Thanh Viễn toàn là an ủi mình nói rằng nhà Âu Dương tới từ một nơi hẻo lánh, đương nhiên có những phong tục cổ hủ. Thôi vậy, chỉ lúc nào đối diện với Thanh Viễn mình mới cảm thấy yên tâm, nhưng đêm nay lúc nào thì anh ấy mới về chứ?
Âm u, ngày 24 tháng 12 năm Dân quốc 35.
Đêm nay là đêm bình an.
Buổi sáng, hiếm hoi lắm mình mới được ra khỏi cửa, những ngôi nhà tây bên đường An Tức hầu hết đều đã chăng đèn màu, hóa ra ngày mai là lễ Giáng sinh. Đương nhiên, những nhà treo đèn đều là người nước ngoài, nhà Âu Dương tuyệt đối không bao giờ tổ chức ngày lễ của người tây. Nhưng Thanh Viễn đã hứa với mình rồi, tối nay anh ấy sẽ về nhà sớm cùng mình ăn bữa tối.
Nhưng Thanh Viễn lại một lần nữa thất hứa rồi, mình cùng ăn tối với bố mẹ chồng, lúc họ ăn cơm không nói lấy một câu, mình gần như chẳng ăn gì cả, liền chạy sang phòng cạnh phòng khách đàn dương cầm. Đúng rồi, chiếc đàn dương cầm này có thể coi là của hồi môn của mình, mỗi khi mình buồn chán là sẽ ngồi trước cây đàn chơi những bản nhạc của Liszt. Đàn dương cầm ngân lên ngân lên, nước mắt mình lặng lẽ rơi xuống, mình đành phải dừng lại lau nước mắt. Không, anh ấy không thể quên ngày hôm nay, bởi vì hôm nay là tròn một năm ngày chúng mình gặp nhau.
Đúng thế, đúng tròn một năm trước, mình vẫn đang làm thư kí văn phòng của ngân hàng Trung Quốc. Đêm bình an năm ngoái, những đồng nghiệp nữ đều lần lượt về nhà sớm, chỉ còn mình là vẫn đánh nốt một phần văn bản. Bỗng nhiên, mình phát hiện ra có một đôi mắt đang nhìn mình chằm chằm, từ từ ngẩng đầu lên thì thấy một gương mặt khôi ngôi tuấn tú. Anh ấy chính là Thanh Viễn của mình. Hóa ra anh ấy đã nhìn mình như thế từ lâu rồi, mình hỏi anh ấy có việc gì, anh ấy lại gãi đầu hỏi phòng giám đốc ở đâu. Từ đó trở đi, chiều nào anh ấy cũng tới văn phòng ngân hàng, chắc là những việc của tài vụ đều do anh ấy tự làm, bởi vì chỉ có như vậy anh ấy mới có cơ hội nói chuyện với mình. Mỗi lần anh ấy nói chuyện với mình đều lái sang rất nhiều chuyện khác, cứ nói chuyện trong văn phòng là nói nửa ngày giời, còn mình thì cũng ngại đuổi anh ấy đi. Sau đó, anh ấy mời mình ra ngoài nói chuyện, trước tiên là ở quán cà phê, quán cơm, sau đó là rạp chiếu phim, công viên. Mọi người chẳng mấy chốc đã phát hiện ra bí mật này: công tử nhà Âu Dương đang theo đuổi mình, những đồng nghiệp nữ nhìn mình bằng ánh mắt ngưỡng mộ. Còn lòng mình thì thấp thỏm bất an, không biết làm thế nào để đối diện với Thanh Viễn, người đàn ông này xuất sắc nhường vậy, phong độ đĩnh đạc, điềm đạm nho nhã, càng quan trọng hơn là gia đình anh ấy rất giàu có, sở hữu một ngôi nhà tây ba tầng trên đường An Tức. Mình biết có rất nhiều cô gái âm thầm đấu tranh tranh giành anh ấy, nhưng anh ấy lại chẳng ưng một ai, chỉ yêu mỗi mình mình. Cho đến lúc này mình cũng không thể hiểu được, tại sao anh ấy lại chung thủy với mỗi mình mình, có lẽ là do đôi mắt của mình, anh ấy từng nói trong đôi mắt mình có vẻ đẹp xuyên thấu thời gian.
Cuối cùng, mình bị Thanh Viễn chinh phục rồi. Trước tình yêu nồng cháy của anh ấy, mình nghĩ anh ấy chính là nửa còn lại của cuộc đời mình. Mọi người trong gia đình đều mừng ình, những đồng nghiệp nữ trong ngân hàng đều âm thầm đố kị với mình. Vậy là, vào một đêm mát mẻ tháng bảy, trong sự ngạc nhiên tròn xoe mắt của tất cả mọi người có mặt trong quán ăn La Tống, mình đã nhận lời cầu hôn của anh ấy.
Đây chính là quá trình gặp gỡ yêu đương của chúng mình, sau đó là hôn nhân của hai đứa. Trong tròn một năm đó, mình từ một cô gái biến thành một người đàn bà, nhưng mình cũng không rõ rốt cuộc bản thân mình đã biến đổi điều gì, có lẽ giống như một con chim, chỉ là từ một chiếc lồng này đổi sang một chiếc lồng khác.

 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,359
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 23-2


Đánh đàn xong, mình trở về căn phòng trên gác, thẫn thờ đọc “Truyền kì” của Trương Ái Linh. Cuốn sách này mình đã đọc hai mươi lần rồi, có lẽ còn cần phải đọc thêm hai mươi lần nữa.
Ban nãy, mình nghe cuộc điện thoại của Thanh Viễn gọi về, anh ấy nói tối nay có tiệc mời quan trọng, ngày mai mới trở về nhà. Mình không đáp một câu, nhẹ nhàng gác máy, tiếp tục viết nhật kí của mình.
Giáng sinh vui vẻ, các bạn thân yêu của mình.
Mưa nhỏ, ngày 1 tháng 4 năm Dân quốc 36.
Còn nhớ lúc làm việc tại ngân hàng trước đây, trong văn phòng có một viên chức người nước ngoài, vào ngày 1 tháng 4 hàng năm đều bày ra rất nhiều trò đùa ác, không bảo là đồng nghiệp nào đó hôm nay trúng độc đắc thì sẽ lại nói chiến tranh thế giới lần thứ ba nổ ra vào tối qua rồi, hóa ra ngày 1 tháng 4 là ngày nói dối của người nước ngoài.
Hôm nay chính là ngày 1 tháng 4.
Bác sĩ chiều nay tới, bố mẹ chồng đều rất lo lắng, Thanh Viễn cũng về nhà sớm hiếm thấy. Sau khi khám xét cẩn thận, bác sĩ vô cùng trịnh trọng nói với mình, mình đã có thai rồi.
Nghe thấy tin này, mình bỗng chốc ngây cả người ra, nửa ngày vẫn chưa phản ứng lại. Đột nhiên, mình hỏi nhỏ: “Đúng rồi, hôm nay là mùng 1 tháng 4, ông đang đùa tôi ngày lễ nói dối đúng không?”
Bác sĩ ngốc nghếch đáp: “Xin lỗi, thưa bà, ngày nói dối là cái gì?”
Mình bối rối cười cười rồi không nói thêm gì nữa. Nhưng tại sao lại nói với mình vào hôm nay, lẽ nào tất cả những thứ này đều là số phận đùa cợt mình?
Không, mình biết thế nào là có thai, và cũng biết mình sắp làm mẹ rồi, nhưng… mình không nói rõ được, chỉ là trong giây phút đó, tim vô cớ đập quá nhanh.
Thanh Viễn không hề để ý tới biểu hiện của mình, còn cha mẹ chồng cũng đều vô cùng vui mừng, bà nội rốt cuộc cũng đã lộ ra nét mặt tươi cười, nắm lấy tay mình nói mãi không thôi. Khuôn mặt kín những nếp nhăn của bà giống như ngôi mộ cổ của hơn một nghìn năm trước, miệng bà lẩm bẩm phương ngữ vùng miền đông Chiết Giang, đến một từ mình nghe cũng không hiểu, cảm giác giống như đang niệm thần chú với mình vậy.

Họ dày vò mình cả một ngày, ãi tới tận nửa đêm mình mới được thảnh thơi ngồi trong phòng sách viết nhật kí. Mình nghĩ bây giờ có một hạt giống nho nhỏ ẩn trong bụng mình đang đâm chồi nảy lộc, nó sẽ dần dần lớn lên, sau đó tách khỏi cơ thể mẹ, nó sẽ giống ai nhỉ? Giống mình hay giống Thanh Viễn?
Mình nhẹ nhàng xoa bụng, thôi dừng bút tại đây vậy.
Nắng, ngày 3 tháng 4 năm Dân quốc 36
Hôm nay, lần đầu tiên quán trọ Hoang thôn tổ chức vũ hội.
Sau hai hôm biết tin mình có thai, Thanh Viễn quyết định phải ăn mừng linh đình, anh ấy mời tất cả những bạn bè trong giới làm ăn, tổ chức một vũ hội trong quán trọ Hoang thôn.
Đêm xuống, mọi khách quý đều đã tới, tất cả người giúp việc trong quán trọ Hoang thôn đều trở nên bận rộn, trang trí phòng khách cao sang diễm lệ. Thanh Viễn kéo mình tới trung tâm phòng khách, tuyên bố với mọi người tin vui mình sắp làm cha, trong tiếng vỗ tay hoặc là ngưỡng mộ hoặc là đố kị của mọi người, máy phát nhạc vang lên, vũ hội bắt đầu rồi.
Thanh Viễn từ trước tới nay vốn là cao thủ trên sàn nhảy, nghe nói là dáng nhảy của anh ấy đã làm say lòng không biết bao nhiêu thiếu nữ. Mình vốn không biết nhảy lắm, sau khi quen Thanh Viễn, anh ấy thường xuyên đưa mình tới Bách Lạc Môn, Thất Trùng Thiên, dưới sự dẫn dắt tỉ mỉ của anh ấy, kĩ năng nhảy của mình cũng khá lên nhanh chóng. Nhưng sau khi gả vào nhà Âu Dương, mình cũng không còn cơ hội khiêu vũ nữa, thậm chí Thanh Viễn bên ngoài có khiêu vũ cùng người phụ nữ khác hay không, mình cũng chẳng biết được.
Theo giai điệu “Biết bao năm tháng” vang lên, Thanh Viễn ôm lấy mình nhẹ nhàng khiêu vũ, âm nhạc dặt dìu dẫn bước, nhặt lại những tiết tấu đã lãng quên từ thuở nào. Trời ơi, mình lâu lắm rồi không có cảm giác thế này, chúng mình dính chặt vào nhau, cánh tay khỏe mạnh của anh ấy ôm lấy eo mình, mình nhẹ nhàng áp đầu lên vai anh ấy, cảm giác giống một chiếc thuyền nhỏ cập vào cảng.
Những người khiêu vũ xung quanh đều nhìn chúng mình không chớp mắt, chúng mình đã trở thành trung tâm của vũ hội. Tuy vậy, nhưng mình chẳng muốn làm hoàng hậu vũ hội gì đó, mình chỉ muốn là người đàn bà duy nhất mà Thanh Viễn yêu thương, mình lại ngẩng đầu lên nhìn vào mắt anh ấy, trong ánh mắt dịu dàng của anh ấy rõ ràng là có sự áy náy và báo đền. Đúng vậy, nửa năm nay mình đối với anh ấy đầy oán hận, đêm anh ấy không về, anh ấy không một lời hỏi thăm, trên người anh ấy có vết son phấn bên ngoài, bây giờ đều đã tan thành mây khói. Thanh Viễn, anh chắc chắn đã từng nghe những lời tâm sự của em, bất luận anh đã từng làm gì, em đều đã tha thứ cho anh rồi.
Đúng thế, chúng mình sẽ trở thành một đôi vợ chồng hạnh phúc, chúng mình sẽ sinh rất nhiều đứa con, quán trọ Hoang thôn cũng không còn cô đơn thanh vắng nữa, mà sẽ trở nên sống động tươi vui.
Âm u, ngày 25 tháng 5 năm Dân quốc 36.
Mấy ngày trước mình đã từng nói trong nhật kí, cha mẹ chồng về quê một chuyến, đó là một nơi gọi là Hoang thôn, nghe nói là ở đó còn có một ngôi nhà cổ tên là Tiến Sĩ Đệ. Hôm qua lúc sẩm tối, cha mẹ chồng rốt cuộc đã tức tốc về, hình như đem thứ gì đó quan trọng từ quê lên, để trong một chiếc cặp da to. Biểu hiện của họ nhìn mình rất kì quái, mình không biết xảy ra chuyện gì, chỉ biết xoa xoa bụng theo phản xạ. Vóc dáng mình bắt đầu sưng phù lên, nhưng trong lòng mình vẫn rất vui, bởi vì con mình càng ngày càng lớn rồi.
Cha mẹ chồng và Thanh Viễn cứ thầm thì to nhỏ, giống như đang giấu mình thương lượng việc gì đó quan trọng, mình âm thầm có chút dự cảm đáng sợ. Cả ngày đều trốn trong phòng không ra ngoài, gần mười hai giờ đêm mình vẫn chưa dám ngủ. Lúc này, Thanh Viễn lại lôi mình ra, đưa mình tới một căn phòng trống. Cha mẹ chồng cũng đợi mình ở đây, họ đóng chặt cửa lại, bảo mình nằm lên bàn ở giữa phòng. Mình rất sợ không khí này, thực sự không dám nằm ra đấy, mẹ chồng liền tới trách mắng răn dạy mình vài câu. Cuối cùng, dưới sự khẩn cầu của Thanh Viễn, mình đành phải nằm ngửa lên bàn, giống như thai phụ sắp sinh đẻ.
Bố chồng mở chiếc cặp da đem từ dưới quê lên, lấy ra một chiếc rương hình như được làm bằng ngọc. Sau đó, Thanh Viễn cẩn thận rón rén mở chiếc rương, thò tay bưng ra một vật hình tròn. Thanh Viễn toàn thân run rẩy nói: “Đây là nhẫn ngọc sao?”
Mẹ chồng gật đầu nói: “Nhanh tiến hành đi, dù sao thì cũng phải tới bước này.”
Thanh Viễn từ từ đến bên cạnh mình, cầm lấy tay trái mình, chiếc nhẫn ngọc hiện ra trước mắt mình rõ mồn một, nó bằng ngọc màu xanh non, bên cạnh có một vệt đỏ đun bắt mắt, phát ra một thứ ánh sáng phản quang kì dị dưới ánh đèn. Mình lập tức giãy giụa ra, nhưng bị Thanh Viễn giữ chặt lại, hình như anh ấy nước mắt lưng tròng, anh nói nhỏ: “Nhược Vân, yên tâm đi, em không có chuyện gì đâu, giống như đeo một chiếc nhẫn vậy.”
Mắt mình nhìn vào ngón trỏ trên tay mình đang bị Thanh Viễn tóm chặt lấy không sao cử động nổi. Sau đó, anh ấy từ từ đeo chiếc nhẫn lên ngón tay mình. Chiếc nhẫn ngọc lạnh toát, lập tức giống như một chiếc đai thắt chặt ngón trỏ của mình, một cảm giác kì lạ lập tức lan tỏa khắp người mình. Phút chốc, mình cảm nhận được thai nhi trong bụng kêu lên một tiếng, vậy là mình cũng khóc lóc hét lên. Nhưng Thanh Viễn vẫn sống chết giữ mình lại, cảm giác trên ngón tay khiến mình toàn thân kiệt quệ, không thể nào phản kháng lại được nữa.
Dưới ánh đèn mờ ảo, mình chỉ nhìn thấy bố chồng hài lòng gật đầu, khuôn mặt già nua giống như xác ướp của ông lắc lư trước mắt mình. Sau đó, mình nghe thấy những câu nói kì lạ phát ra từ mồm ông, đó rõ ràng không phải là tiếng nói của loài người, giống như đang niệm câu thần chú gì đó, liên tục không dứt vào tai mình. Âm thanh này có tiết tấu rất đặc biệt, giống như một loại ca dao cổ xưa, mình lập tức nhớ tới một quyển sách từng nói về một số vu ca tại nơi nào đó khi thi hành phép thuật. Không, âm thanh đáng sợ cổ xưa này rõ ràng muốn cướp đi giãy giụa, nhưng trong người không còn chút sức lực nào cả, mình chỉ biết khóc hu hu, nước mắt giàn giụa.
Trong ánh sáng lắc lư, mình nhìn thấy rõ Thanh Viễn và mẹ chồng vây quanh mình, họ vòng hết vòng này tới vòng khác, miệng lầm rầm niệm chú. Mọi vật trước mắt đều trở nên mờ ảo mông lung, mình dần dần không nhìn thấy rõ gì cả, không nghe thấy gì cả… Mình cảm giác bản thân giống như bị bắt tới một bộ lạc nào đó, bị trói chặt đem cống lễ trên bàn, những dã nhân này vây quanh mình hát hò nhảy múa, còn mình và con trở thành tế phẩm đáng thương.
Mình mất đi tri giác, sau đó xảy ra những gì, mình không biết được nữa.
Đợi tới khi mình tỉnh lại, đã là sáng hôm sau rồi, mình phát giác bản thân đang nằm trong phòng ngủ, Thanh Viễn lo lắng nhìn mình. Mình dụi mắt hỏi: “Tối hôm qua, em nằm mơ thấy mọi người đặt em lên bàn, vây quanh em hát hò nhảy múa…”
Thanh Viễn đành phải bối rối nói: “Vậy sao? Vì chỉ là một giấc mơ nên không cần lo lắng quá.”
Nhưng mình lập tức cảm thấy có vật gì đó trên ngón tay, mình giơ tay trái lên xem, chiếc nhẫn ngọc đó nghiễm nhiên đeo trên ngón trỏ của mình. Mình hét lên thất thanh: “Đây là cái gì? Tại sao nhẫn ngọc trong mơ lại đeo trên ngón tay em?”

Lúc này Thanh Viễn đã không còn gì để nói nữa rồi. Mình muốn rút chiếc nhẫn ra, nhưng bất luận mình dùng bao nhiêu sức, nhẫn ngọc vẫn kiên quyết dính chặt vào ngón tay mình, thậm chí còn càng lúc càng chặt, khiến ngón tay mình đau đớn khôn cùng. Cả một ngày, mình tìm đủ mọi cách để tháo chiếc nhẫn ngọc ra, nhưng nó giống như có sức sống vậy, không tài nào rút ra được.
Mình đau khổ truy vấn Thanh Viễn, còn anh ấy cười đau khổ không muốn trả lời. Mình lại cả gan đi hỏi cha mẹ chồng, họ mỉm cười, không ngừng an ủi mình, nói tối qua chỉ là tập tục của nhà Âu Dương mà thôi, là để cầu chúc bình an ẹ tròn con vuông. Còn về chiếc nhẫn ngọc thần kì, họ lại không nói nguyên nhân ình.
Lúc này, mình trốn trong phòng viết nhật kí này, chiếc nhẫn ngọc những chuyện xảy ra đêm hôm qua đều là thật, mình không hề nằm mơ thấy ác mộng. Không, nó còn đáng sợ hơn cả ác mộng, họ vây quanh mình hát hò nhảy múa vu ca (1) cổ xưa, còn ình đeo một chiếc nhẫn ngọc, và khi đeo nó lên thì sẽ không thể tháo nó ra được. Trời ơi, chồng mình và bố mẹ chồng rốt cuộc đang làm gì? Nhà Âu Dương rốt cuộc là người thế nào? Đến tận bây giờ, khi mình vuốt ve đứa con trong bụng bỗng cảm thấy đây là một sai lầm, kể từ ngày mình gả vào nhà Âu Dương trở đi đã là một sai lầm to lớn.
(1)   Vu ca: là điệu dân ca của Trung Quốc được hát bởi các thầy mo trong các lễ tang hoặc lễ cúng người chết.
Không, mình phải làm sao bây giờ?
Nhiều mây, ngày 18 tháng 6 năm Dân quốc 36.
Mình nhìn thấy ma.
Hôm qua, Thanh Viễn tối lại không về, bố mẹ chồng cũng về quê, một mình mình ngủ trên tầng ba. Đến nửa đêm bỗng cảm thấy ngón tay đau nhức, hóa ra chiếc nhẫn ngọc thắt vào trong da thịt mình. Mình vuốt chặt ngón tay trỏ thì phát hiện ngoài hành lang sáng đèn. Mình nhịn đau bước ra khỏi phòng thì thấy không phải là ánh đèn, mà là một thứ ánh sáng trắng kì quái đang chiếu sáng một bóng đen tại cửa cầu thang.
Mình khẽ kêu lên một tiếng: “Thanh Viễn.”
Nhưng cái bóng đó không hề có chút phản ứng, mình lo lắng chạy lại, nhưng cái bóng đó đi xuống cầu thang. Kì lạ ở chỗ, ánh sáng trắng bước sau đều soi vào cái bóng đó, còn xung quanh đều là một vùng tối đen. Mình chầm chậm đi theo bóng đen xuống tầng hai thì mới nhìn rõ đó là một người đàn ông cao to, hình như không phải là Thanh Viễn. Người đàn ông đó lộ ra một bàn tay trắng toát đẩy cửa phòng. Mình cũng đi theo đến cửa thì nhìn thấy trong phòng có vài người treo cổ chết!
Mình sợ đến nỗi suýt nữa hét toáng lên, nhưng miệng lại không thốt ra được câu nào, hoảng sợ khiến mình gần như quên mất sự đau đớn trên ngón tay. Lúc này, mình rốt cuộc đã nhìn rõ hơn người đàn ông đó, hóa ra là một ông tây, da dẻ trắng bợt, tóc màu hạt dẻ, mắt màu nâu, xem ra khoảng ngoài bốn mươi tuổi. Càng khiến mình sợ hãi ở chỗ, người chết treo cổ trong phòng cũng là người nước ngoài, một người đàn bà và ba đứa trẻ nhỏ, thân hình mềm oặt của họ treo trên không trung lắc lư qua lại, tóc dài xõa xượi xuống che lấp nửa khuôn mặt, bàn chân trần duỗi thẳng ra, xem ra họ đều đã ngừng thở rồi.
Ông tây nhìn cảnh tượng trước mắt cũng tuyệt vọng hét lên, nhưng kì lạ ở chỗ mình không nghe thấy bất cứ âm thanh nào, chỉ nhìn thấy chiếc miệng ngoác ra còn không biết đang kêu lên cái gì. Có lẽ, những người treo cổ chết chính là vợ con ông ấy? Mình nghĩ bất cứ ai đến bước đường này cũng sẽ đều phát điên, mình không biết bản thân nên làm gì, chỉ còn cách hét to lên, nhưng người đàn ông đó không có bất cứ phản ứng gì. Mình trợn mắt nhìn ông ta đứng lên chiếc ghế, sau đó thòng một sợi dây đang treo trên không vào cổ.
Lập tức, ánh sáng trắng rọi sáng khuôn mặt ông ấy, vả biểu cảm đó thật kì lạ, miệng thậm chí còn mỉm cười, dường như là một sự giải thoát của số phận. Sau đó, ông ấy đạp chiếc ghế xuống, chiếc dây treo thắt chặt vào cổ ông ấy, cả thân hình đều treo trên không trung. Đột nhiên, đôi chân ông ấy giãy đạp loạn xạ, dáng vẻ vô cùng đau khổ, đôi tay lắc lư yếu ớt, lẽ nào ông ấy đang hối hận vì đã treo cổ?
Đúng lúc này, một vùng ánh sáng chói mắt bắt đầu lóe lên trên đỉnh đầu lập tức khiến mình nhắm nghiền mắt lại. Đợi tới lúc mình mở mắt ra, mọi thứ trước mắt đều đã biến đổi rồi. Mấy người tây treo cổ chết đều biến mất, căn phòng thu dọn rất gọn gàng sạch sẽ, mấy nữ giúp việc chạy tới, họ đang hoảng loạn vây lấy mình.
Mình không dám tin vào mắt mình nhưng trong phòng thực sự không có người nước ngoài nào cả, mấy sợi dây treo cổ cũng không tồn tại nữa, chỉ có một chiếc xà nhà vắt xuyên qua. Những nữ giúp việc nói ban nãy họ nghe thấy tiếng kêu thảm thiết của mình nên liền chạy lên bật đèn, phát hiện mình đang vô cùng hoảng sợ đứng ở đây.
Nhưng mình vẫn không thể tin được, kể cho họ nghe về cảnh tượng khủng khiếp vừa nhìn thấy ban nãy, những nữ giúp việc đều lắc đầu, nhìn từ biểu hiện của họ cho thấy, chắc là nghĩ mình bị điên rồi?
Lúc này, một chị giúp việc lớn tuổi nhớ ra, chị ấy từng nghe kể mấy năm trước, có một gia đình người Pháp sống trong ngôi nhà này. Sau khi quân đội Nhật chiếm lĩnh khu phố tây của Thượng Hải, muốn đưa hết người Châu Âu vào trại tập trung, vài quân Nhật xông vào căn nhà đã làm nhục vợ của chủ hộ người Pháp. Vậy là gia đình này đã không chịu nổi sự ô nhục đó nên đã cùng nhau treo cổ tự tử trên căn phòng tầng hai.
Trời ơi, mình đã nhìn thấy ma?
Đúng, ban nãy mình đã nhìn thấy gia đình người Pháp này, nhìn thấy cảnh tượng họ treo cổ tự tử, nhưng tại sao chỉ có mỗi mình mình nhìn thấy? Bỗng nhiên mình nghĩ tới chiếc nhẫn ngọc, nghĩ tới nghi thức đáng sợ đó, nghĩ tới khuôn mặt như xác ướp của cha mẹ chồng…
Không, mình không dám nghĩ tiếp nữa, có lẽ quán trọ Hoang thôn vốn dĩ là một ngôi nhà ma?
Nhật kí hôm nay viết tới đây thôi.
Mưa to, ngày 19 tháng 6 năm Dân quốc 36.
Đang mưa to như trút nước ngoài cửa sổ.

Hôm nay mình không thể chịu đựng được nữa, mình hạ quyết tâm nhất định phải hỏi rõ nguyên nhân, nếu không thì mình sẽ phát điên mất. Tạ ơn trời đất, hôm nay rốt cuộc Thanh Viễn đã về nhà sớm, nhân cơ hội bố mẹ chồng không ở nhà, mình kéo anh ấy vào trong phòng ngủ. Mưa to ngoài cửa sổ khiến Thanh Viễn cảm thấy sốt ruột, anh ấy đi đi lại lại giống như một phạm nhân đang bị thẩm vấn.
Mình run rẩy hỏi: “Anh có còn yêu em không?”
“Hỏi cái này làm gì?” Anh ấy quay người lại, nhìn ra phía cửa sổ đang ướt mưa.
“Tại sao đeo nhẫn ngọc lên tay em, tại sao lại hát vu ca với em, tại sao em lại nhìn thấy ma?”
“Bởi vì em là con dâu nhà Âu Dương.” Thanh Viễn quay đầu lại, biểu hiện của anh ấy thật kì lạ, giống như đang đứng giữa sự phải trái. Mình suy nghĩ sâu xa vài phút, anh ấy rốt cuộc cũng thốt ra một câu: “Thực ra, việc này sớm muộn gì anh cũng phải nói với em, chỉ lo em cảm thấy sợ hãi nên mới không dám nói ra.”
“Rốt cuộc là việc gì? Chúng ta là vợ chồng, còn có gì không thể nói sao?”
Thanh Viễn ngập ngừng hồi lâu, chậm rãi nói: “Bí mật của Hoang thôn.”
“Bí mật? Hoang thôn có bí mật gì?”
“Em có biết lịch sử của gia tộc Âu Dương chúng ta không?” Thanh Viễn hít một hơi thật sâu, ánh mắt cũng trở nên dị dạng. “Lịch sử toàn là bỡn cợt con người, nhà sử học luôn nói rằng Trung Quốc có năm nghìn năm lịch sử, khởi nguồn từ mặt đất trung nguyên cổ xưa. Nhưng nhà sử học vốn không biết, ở vùng quê hương sông nước Giang Nam cách đây năm nghìn năm, vẫn còn tồn tại một vương quốc cổ kính.”
“Anh không phải là nhà sử học, làm sao anh biết được?”
Thanh Viễn lạnh lùng cười: “Anh đương nhiên biết, em nghe anh nói trước đã. Giang Nam hơn năm nghìn năm trước, vốn là vùng ao hồ thuộc thời nguyên thủy mộng mị. Chính trong thời kì hoang dã trước bình minh này, bỗng nhiên xuất hiện những thiên thần trong truyền thuyết, họ đến từ đại dương mênh mông, điều khiển những chiếc thuyền độc mộc to lớn, đổ bộ lên bờ biển tại một vùng hoang dã, nơi đó chính là Hoang thôn ngày nay.”
“Em hiểu rồi, Hoang thôn chính là nơi các thiên thần đổ bộ lên bờ biển?”
“Đúng, nhưng đây không phải là thần thoại, mà là sự thật lịch sử. Những thiên thần đến từ một nơi vô cùng xa xôi, nơi xa xôi đó vô cùng thần bí đến nỗi từ trước tới nay chưa từng có người nào đặt chân tới. Nhưng những thiên thần và nhân loại giống nhau về hình dạng, họ nhanh chóng phát hiện ra mảnh đất này rất phù hợp với mình nên định cư lại trên bờ biển hoang sơ này.” Thanh Viễn lại im lặng hồi lâu, có chút đau khổ nói: “Nhưng điều quan trọng hơn, họ đã phát hiện ra một thứ vô cùng quan trọng tại gần bờ biển hoang sơ này.”
“Thứ gì vô cùng quan trọng?”
“Cái này anh cũng không rõ, bởi vì bí mật này quá quan trọng, chỉ có một mình cha anh biết. Cha đã từng nói, chỉ khi nào ông hấp hối thì mới nói cho anh biết bí mật này.”
Mình bỗng nhiên cảm thấy lành lạnh, ôm lấy vai nói: “Thế thì nói về những thiên thần đó vậy.”
“Được, các thiên thần sống ở vùng đất hoang sơ bên bờ biển một thời gian thì vượt qua những dãy núi trùng điệp khởi hành về hướng bắc, họ phát hiện ra một vùng đất màu mỡ, đây chính là đồng bằng Giang Nam cổ xưa. Vậy là, các thiên thần đã chinh phục các cư dân địa phương, kiến lập lên một vương quốc hùng mạnh và thịnh vượng, vương quốc này tên là Cổ Ngọc Quốc.”
“Cổ Ngọc Quốc?”
“Đúng, bởi vì họ rất thích dùng đồ ngọc, bất luận là trong cuộc sống thường nhật hay là trong tôn giáo thờ cúng, đồ ngọc đều là thứ không thể thiếu. Nhưng vương tộc của Cổ Ngọc Quốc, cũng chính là hậu duệ của những thiên thần, không những nắm bắt được kĩ thuật chế tác đồ ngọc, mà còn có thể tận dụng sức mạnh thần bí của ngọc để sáng tạo những kì tích mà trong thời đó không thể có.”

 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,359
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 23-3


“Sức mạnh thần bí của ngọc? Em không hiểu.”
“Nhìn xem chiếc nhẫn ngọc trên ngón tay em là sẽ hiểu.”
Mình cúi đầu nhìn chiếc nhẫn ngọc, lập tức hiểu ra thế nào là “sức mạnh thần bí,” đúng vậy, nó giống như sinh mệnh của mình vậy, có thể bám chặt cứng vào ngón tay mình, có lẽ nó vẫn còn có nhiều sức mạnh hơn nữa.
Thanh Viễn tiếp tục nói: “Bởi vì vương tộc của Cổ Ngọc Quốc có thể nắm vững và tận dụng sức mạnh của đồ ngọc, khiến đất nước của họ nhanh chóng phát triển hùng mạnh và thịnh vượng, sáng tạo ra văn minh cổ đại huy hoàng xung quanh khu vực Thái hồ. Họ thậm chí còn xây dựng lên một thành phố, có cung điện khí chất hùng vĩ, tế đàn và điện thần khổng lồ, còn có cả lăng mộ vua chúa sâu trong lòng đất. Thứ quan trọng nhất trong Cổ Ngọc Quốc chính là ngọc, một lượng lớn đồ bằng ngọc được chế tác tinh xảo, còn hậu duệ của những thiên thần – vương tộc lại nắm vững những bí mật cao nhất của ngọc.”
“Bí mật cao nhất của ngọc là gì?”
"Cái này anh cũng không biết rõ, nhưng bí mật cao nhất đó thực sự tồn tại. Được rồi, bây giờ nói tiếp về vương tộc đó. Cổ Ngọc Quốc là vương quốc được thống trị bởi một nữ vương. Rất kì lạ đúng không? Càng kì lạ hơn nữa, nữ vương vốn không phải là do cha truyền con nối mà là một thiếu nữ được chọn ra trong vương tộc để kế tục ngôi báu nữ vương. Nữ vương này chiếm giữ quyền tôn giáo, cũng chính là đại tế lễ của Cổ Ngọc Quốc.”
“Người phụ nữ như thế thật sự khiến người ta ngưỡng mộ.”
Nhưng Thanh Viễn lắc đầu nói: “Không, nữ vương vốn không có quyền lực thực sự, các vương tộc mới là khống chế toàn bộ, còn nữ vương bắt buộc phải giữ gìn trinh tiết cả đời, nếu không thì sẽ phải tự sát tạ tội.”
“Nữ vương bắt buộc cả đời là trinh nữ? Quy định này hoang đường làm sao?”
"Đúng là có chút hoang đường, nhưng đối với Cổ Ngọc Quốc thời đó mà nói, sứ mệnh đầu tiên của nữ vương là tế tự, bởi vậy bắt buộc phải là một người con gái thuần khiết, nếu không thì sẽ xúc phạm tới thiên thần tổ tiên.”
“Cô ấy thật đáng thương.”
“Sự phồn vinh của Cổ Ngọc Quốc kéo dài khoảng một nghìn năm. Nhưng sức mạnh thần kì nào đi chăng nữa cũng không thể ngăn chặn sự suy vong của nó, bởi vì đây là một quy luật tự nhiên, bất cứ nền văn minh nào đột nhiên phát triển cũng đều đột nhiên tiêu vong. Cổ Ngọc Quốc cũng không ngoại lệ, nó bị quấy rối bởi thù trong giặc ngoài, thù trong là lũ lụt kéo dài hàng trăm năm, nước Thái hồ dâng trào thành tiên tai, nhấn chìm ruộng đất và thành thị. Giặc ngoài lại là sự xạm lược của những bộ lạc lân cận, họ tuy lạc hậu nhưng dũng cảm và thiện chiến, vương tộc của Cổ Ngọc Quốc đã bị cuộc sống xa hoa làm cho thối nát từ lâu, tuy có sức mạnh thần bí của ngọc khí nhưng cũng không thể kháng cự được giặc ngoài.”

Mình gật đầu, cướp lời hỏi: “Cổ Ngọc Quốc đã diệt vong như vậy sao?”
"Không, Cổ Ngọc Quốc diệt vong do một người đàn bà. Vào khoảng bốn nghìn năm trước, Cổ Ngọc Quốc có một nữ vương tuyệt sắc giai nhân, tuy cô ấy biết rõ mình phải giữ gìn trinh tiết suốt đời nhưng vẫn yêu một nô lệ trẻ.”
“Tình yêu của nữ vương và nô lệ?”
“Bây giờ xem ra rất lãng mạn đúng không? Nhưng với Cổ Ngọc Quốc thời đó lại là một hành động đại nghịch bất hiếu xâm phạm tổ tiên. Nhưng nữ vương kiên quyết giữ lấy tình yêu của mình và đã phát sinh quan hệ với người đàn ông mình yêu. Sau đó, quan hệ của họ bị vương tộc phát hiện, căn cứ vào quy tắc của tổ tiên, nữ vương bắt buộc phải tự sát để gột rửa tội ác.”
Mình chỉ cảm thấy trong lòng đau nhói: “Cô ấy có chết không?”
“Đúng, nữ vương xinh đẹp đã tự tử vì tình, dùng một con dao găm cắt cổ họng. Lời tiên đoán của cô ấy trước khi chết: Cổ Ngọc Quốc sẽ diệt vong một năm sau đó. Lúc cô ấy chết, trên tay có đeo một chiếc nhẫn ngọc, máu đỏ tươi đã nhuộm lên mặt nhẫn, lau thế nào cũng không sạch. Các vương tộc đều bị cái chết của nữ vương làm cho chấn động, họ cảm thấy án náy và cắn rứt nên đã đem chiếc nhẫn ngọc có dính máu tươi của nữ vương thành dị vật cao nhất dâng tế lên vương tộc. Bởi vậy, nỗi ai oán về cái chết của nữ vương đã được gửi gắm trong chiếc nhẫn ngọc, chứa đựng một sức mạnh thần kì.”
Nghe tới đây, mình lập tức giơ tay trái lên, chiếc nhẫn ngọc đó đang phát ra ánh sáng quái dị. Đúng vậy, vệt đỏ đun trên chiếc nhẫn không phải là máu tươi của nữ vương bi thảm sao?
Thanh Viễn nắm lấy tay mình, tiếp tục nói: “Quả nhiên, một năm sau khi nữ vương tự sát, Cổ Ngọc Quốc đã bị nước khác lớn mạnh hơn chiếm lĩnh, giết sạch hầu hết cư dân, phóng hỏa hủy diệt thành thị và cung điện, văn minh Cổ Ngọc Quốc bị hủy diệt triệt để, thậm chí còn không để lại bất cứ vết tích nào trong sử sách. Nhưng có một số vương tộc sống sót lại, họ mang chiếc nhẫn ngọc của nữ vương tháo chạy tới bờ biển hoang vu mà trước đây tổ tiên đổ bộ lên bờ.”
“Cũng chính là Hoang thôn ngày nay?”
"Đúng, những người này chạy tới Hoang thôn ngày nay, trên lãnh thổ mà tổ tiên trước đây đổ bộ lên, sống cuộc sống ẩn dật. Họ tiếp tục duy trì phương thức sống cổ xưa, hết đời này qua đời khác sống bên bờ biển hoang vu phong kín đó. Sau triều Nam Bắc, họ liền lấy họ là Âu Dương, trở thành đại tộc của vùng đất đó, nhưng vẫn không giao tiếp với thế giới bên ngoài. Mãi tới tận đời Minh mới có một vị đỗ tiến sĩ, sau đó được ngự giá phong tặng tấm bia tiết hạnh.” Cuối cùng, Thanh Viễn thở phào như trút hết được gánh nặng trong người, buồn bã nói: “Bây giờ em chắc là đã hiểu lịch sử của gia tộc Âu Dương chúng ta rồi chứ?”
Lúc này, mưa ngoài cửa sổ đã ngớt dần, mình nhìn vào mắt Thanh Viễn, run rẩy hỏi: “Anh nói là… gia tộc Âu Dương là hậu duệ của vương tộc cổ đại?”
“Không sai, gia tộc của anh là hậu duệ của vương tộc Cổ Ngọc Quốc năm nghìn năm trước. Những người trong gia tộc anh từ khi sinh ra đã không giống với người khác, những việc này không được để cho người ngoài biết, nếu ai tiết lộ bí mật của gia tộc thì nhất định sẽ phải chịu sự trừng phạt nghiêm khắc nhất.”
“Đây chính là bí mật của Hoang thôn? Vậy còn chiếc nhẫn ngọc thì sao? Tại sao phải đeo nó lên tay em?”
“Bởi vì đây là quy tắc của gia tộc nhà anh, mấy nghìn năm nay đều như vậy. Chiếc nhẫn ngọc này đã nhuốm máu của nữ vương cuối cùng, máu cũng đại diện cho sinh mệnh của nữ vương, bởi vậy chiếc nhẫn ngọc chứa đựng sức mạnh thần bí, nó có thể cho em nhìn thấy những thứ mà người khác không thể nhìn thấy được, và cũng có thể phù hộ bình yên cho em. Vì thế, khi con dâu nhà Âu Dương có thai thì sẽ bắt buộc phải đeo chiếc nhẫn ngọc này lên, đây là thánh vật của gia tộc, ẩn giấu bí mật của nguyên cổ, và sẽ khiến đứa trẻ trong bụng em khác với những người thường. Khi đeo chiếc nhẫn ngọc này lên, đồng thời những thành viên trong tộc còn phải cử hành những nghi lễ đặc biệt cho thai phụ, hát những bài vu ca từ thời xa xưa lưu truyền lại, đó cũng là để phù hộ bình an ẹ con em.”
“Nhưng, chiếc nhẫn ngọc đeo lên tay là không thể tháo ra được nữa.”
Thanh Viễn mỉm cười nói: “Không việc gì đâu, đợi em sinh con ra, chiếc nhẫn ngọc sẽ tự động tháo ra. Sau đó, gia đình anh sẽ mang nhẫn ngọc về Hoang thôn, cất giấu tại một nơi bí mật trong ngôi nhà cổ của gia đình anh. Nhược Vân, xin em nhất định phải ghi nhớ, chiếc nhẫn ngọc này là thánh vật quan trọng nhất của gia tộc anh, tuyệt đối không được làm mất, không được nói cho người khác biết bí mật này.”
“Vì thế anh mới không dám nói những chuyện này cho em biết, đúng không?”
“Đúng, nhưng làm con dâu của nhà Âu Dương, em cũng nên biết những bí mật này. Bây giờ, anh đã kể hết rồi, cũng coi như là hoàn thành tâm nguyện của mình.” Thanh Viễn đột nhiên xoa bụng mình nói. “Nhược Vân, em gả vào nhà Âu Dương, cũng là một thành viên của gia tộc anh. Bất luận thế nào, em bắt buộc phải tuân thủ quy tắc của gia tộc, nếu không thì sẽ xảy ra bi kịch.”
Tim mình lập tức đập thình thịch: “Bi kịch?”
Thanh Viễn hình như nói tới điều gì đó cấm kị, biểu hiện rất bối rối nói: “Đừng sợ, bây giờ có chiếc nhẫn ngọc phù hộ cho em, nó sẽ giúp em sinh con ra bình an, anh tin rằng mọi việc sẽ đều rất viên mãn.”
Tiếp đó, anh ấy nói rất nhiều câu an ủi mình, nhưng lòng mình rối như tơ vò, không thốt nên được lời nào.
Đợi sau khi Thanh Viễn ngủ rồi, mình lặng lẽ vào phòng khách, mở nhật kí của mình ra. Mưa rơi ngoài cửa sổ khiến mình cảm thấy tâm trạng rối bời, giờ đây mình cũng là thành viên của gia tộc cổ xưa này? Nhưng đây là sự lựa chọn của bản thân mình sao? Sinh ra là đàn bà thì nhất định sẽ như vậy sao?
Có lẽ không có ai tin nổi những gì mình và Thanh Viễn nói ban nãy, mình đều nhớ rõ từng từ một, lúc này mình đã ghi chúng lại không sai lấy một từ, chắc đây cũng là trang nhật kí dài nhất của mình.
Âm u, ngày 2 tháng 12 năm Dân quốc 36.

Trải qua hơn chín tháng sau, mai là ngày dự định sinh con của mình. Thanh Viễn mời bác sĩ giỏi nhất Thượng Hải ình, sáng mai sẽ tới nhà để trông mình, bố chồng nói chỉ cần có chiếc nhẫn ngọc ở đây, đứa bé sẽ sinh hạ thuận lợi.
Lúc này, mình nằm một mình trong phòng ngủ, Thanh Viễn ngủ phòng bên cạnh, anh ấy nói hễ có động tĩnh là sẽ chạy sang ngó mình. Nhân lúc rãnh rỗi này, mình lấy ngay cuốn nhật kí ra, vác bụng bầu viết nhật kí thật là chẳng dễ dàng chút nào. Nhưng mình vẫn phải viết ra đây, bởi vì ngày mai con của mình ra đời rồi, mình sẽ trở thành một người mẹ đúng nghĩa. Thế nên, mình muốn ghi lại tâm trạng bản thân trong thời khắc này.
Nhưng, cảm giác trong lòng mình lúc này thực sự rất kì lạ, không hề có bất cứ niềm vui nào của người sắp làm mẹ. Tuy mình cũng đã từng nghe nói, phụ nữ đẻ con so trước khi sinh đều căng thẳng, nhưng mình không cảm thấy vậy. Mình từ trước tới nay đều không lo lắng quá trình sinh con, mình chỉ lo lắng cho tương lai của mình và con. Nhớ lại bí mật của nhà Âu Dương, còn cả cha mẹ chồng, tim mình bất giác đập nhanh một cách vô cớ, mình không biết cảm giác này sẽ còn duy trì bao lâu nữa, biết đâu sẽ là cả đời.
Đêm qua, mình nằm mơ thấy ác mộng, mơ thấy mình sinh ra không phải là đứa trẻ mà là một viên ngọc đá màu xanh được tạc thành hình dạng thai nhi. Khi tỉnh dậy trong cơn ác mộng, mình cảm thấy toàn thân mướt mồ hôi, mình biết điều đó sẽ không thể trở thành hiện thực, nhưng đây đã là cơn ác mộng thứ chín trong nửa tháng nay của mình.
Viết tới đây, mình giơ tay trái lên, vệt đỏ đun trên nhẫn ngọc đang phát ra ánh sáng mờ ảo, đó là máu của nữ vương hơn bốn nghìn năm trước, cô ấy cũng đang nhìn mình sao?
Nắng, ngày 10 tháng 12 năm Dân quốc 36.
Bảy ngày trước, con trai mình chào đời.
Thật khó mà hình dung được sự đau đớn lúc trở dạ, phải chăng mình đã sinh được một bé trai khỏe mạnh, thằng bé rất giống Thanh Viễn, xem ra nó thừa hưởng rất nhiều gien di truyền của gia tộc Âu Dương. Thanh Viễn đặt tên cho con trai là Gia Minh, hi vọng nó có thể phát huy truyền thống của nhà Âu Dương.
Lúc mình ôm Gia Minh, nhìn khuôn mặt xinh xắn của nó, nước mắt mình đã rơi xuống. Nhìn xem, nó chẳng mấy chốc là biết ăn sữa, mình nhẹ nhàng hôn con, mong rằng nó sẽ trưởng thành thuận lợi, hạnh phúc viên mãn như những đứa trẻ khác, đây đều là mong muốn chung của tất cả những bà mẹ.
Ngày thứ hai sau khi sinh Gia Minh thì phát hiện ra chiếc nhẫn ngọc đã tuột khỏi tay mình, xem ra Thanh Viễn nói không sai, nó đã hoàn thành xong sứ mệnh của mình. Thanh Viễn lấy đi chiếc nhẫn ngọc, nói là giao lại cho bố mẹ chồng, họ sẽ đem nhẫn ngọc trở lại nhà ở Hoang thôn.
Mình đã bảy ngày không viết nhật kí rồi, nhân cơ hội này trong phòng không có ai, mình lặng lẽ lấy cuốn nhật kí ra, nằm trên giường ghi lại cảm giác của mình sau khi làm mẹ.
Mưa nhỏ, ngày 5 tháng 4 năm Dân quốc 37.
“Thanh minh lất phất mưa phùn. Khách đi đường thấm nỗi buồn xót xa.”
Lúc này, ngoài cửa sổ đang mưa nhỏ làm mình nhớ lại bài thơ này.
Hôm nay là tiết Thanh minh, vốn là phải về quê tảo mộ, nhưng do Gia Minh mới sinh được vài tháng, thế nên trong nhà không tiến hành nghi thức tế lễ. Thanh Viễn nhân cơ hội bố mẹ có nhà, mời nhiếp ảnh gia tới chụp một bức ảnh cả gia đình.
Địa điểm chụp ảnh chọn dưới tầng trệt, trong căn phòng đặt chiếc đàn dương cầm, sau khi bố trí xong đèn, mình và Thanh Viễn, cha mẹ chồng đều sắp xếp xong xuôi vị trí. Gia Minh được ôm trong lòng mình. Nhiếp ảnh gia muốn khuôn mặt chúng mình tươi cười, nhưng chúng mình đều không tài nào làm ông ấy hài lòng được, cuối cùng, ông ấy đành phải chụp một bức ảnh gia đình toàn vẻ mặt nghiêm nghị.
Lúc đối diện với ống kính máy ảnh, mình chỉ cảm thấy khủng hoảng và sợ hãi, con trai trong lòng cũng bật khóc, giống như bị lấy mất linh hồn vậy. Mình biết đây là ảo giác của bản thân, nhưng gần đây ảo giác của mình càng lúc càng mãnh liệt, mình thường thấy những cảnh tượng đáng sợ trong giấc mơ, mình mơ thấy con của mình biến thành dơi hút máu, treo lộn ngược trên xà nhà: mình mơ thấy chồng mình, miệng mọc ra răng nanh nhỏ máu, bò lên hút máu trên cổ mình; mình mơ thấy bố chồng biến thành một xác ướp đời nhà Thanh, giơ đôi tay ra nhảy nhảy từng bước; mình mơ thấy mẹ chồng lộ ra bộ xương trắng toát, bò ra từ trong quan tài.
Đúng, những cơn ác mộng mấy tháng nay không ngừng đeo bám mình, khiến mình không còn bất cứ niềm vui mới làm mẹ nào, chỉ có duy nhất sự hoảng sợ và tuyệt vọng.
Âm u, ngày 6 tháng 4 năm Dân quốc 37.
Sáng sớm hôm nay, cha mẹ chồng về quê rồi. Thanh Viễn cũng đến công ty, mãi tới tận tối vẫn chưa về nhà. Đợi sau khi Gia Minh ngủ, một mình mình xuống tầng trệt, mở chiếc đàn dương cầm của mình ra.
Lâu lắm rồi không đánh đàn dương cầm, lúc mình chạm vào những phím đàn đã không kìm được nước mắt. Vẫn là giai điệu “Cho tới tận mãi mãi” của Liszt, bây giờ giai điệu này đối với mình càng quan trọng hơn nữa, mình chỉ có thể nói là đàn dương cầm chính là thứ duy nhất để mình trút bầu tâm sự. Đúng vậy, chỉ trước cây đàn, trong giai điệu của Liszt, mình mới cảm thấy vui vẻ, mới cảm thấy chính mình, mình là một người đàn bà tên là Nhược Vân, chứ không phải chỉ là con dâu của nhà Âu Dương.
Đúng lúc mình đang chìm đắm trong tiếng dương cầm thì bỗng phát hiện ra Thanh Viễn đã đứng sau lưng mình từ lâu. Sắc mặt anh ấy xem ra rất không ổn, hình như có uống chút rượu, anh ấy bảo mình đừng đánh đàn nữa, vĩnh viễn không được đánh, bởi vì anh ấy ghét dáng vẻ của mình khi đánh đàn. Cuối cùng, mình đã không thể nào chịu đựng được nữa, mình nói trừ khi mình chết đi nếu không thì mình sẽ không bao giờ từ bỏ đàn dương cầm. Nhưng mình không ngờ rằng, anh ấy lại tát mình một bạt tai.
Mình sờ lên má vừa bị Thanh Viễn tát, nước mắt không kìm nén được lã chã rơi. Kết hôn với anh ấy hơn một năm, tuy anh ấy lạnh nhạt với mình, nhưng từ trước tới nay chưa từng đánh mình, cảm giác nhục nhã lúc này khiến mình nghĩ tới cái chết. Thanh Viễn hình như cũng đã tỉnh táo lại, anh ấy sợ hãi ôm lấy mình, nhỏ nhẹ xin lỗi mình, nhưng mình chỉ đáp lại anh ấy bằng sự im lặng.
Sau đó, Thanh Viễn cũng bắt đầu thút thít khóc, anh ấy hình như đang chìm đắm trong thế giới của chính mình, tự mình lẩm bẩm nói: “Em đừng khóc nữa, thực sự lòng anh còn đau đớn hơn em. Em không biết, anh là con trai của vợ thế.”

Mình rốt cuộc đã lên tiếng: “Vợ thế là gì?”
Vậy là Thanh Viễn đã kể hết lại ình, hóa ra “vợ thế” là một phong tục của miền đông Chiết Giang, những nhà khá giả không có con trai, bỏ tiền “thuê” vợ nhà người nghèo để sinh con. Năm đó, cha của Thanh Viễn tới trung niên mà vẫn chưa có con nên đã bỏ tiền mời một vợ thế đến nhà, sau đó sinh hạ được Thanh Viễn. Vợ thế luôn nhớ nhung người chồng và người con của mình, trong một lần bỏ trốn khỏi Hoang thôn đã bị bắt giữ lại rồi bị trừng phạt bằng cách dìm xuống giếng, tức là bị quẳng xuống giếng chết ngạt. Thực ra, hồi đó gia đình Âu Dương giết chết mẹ của anh ấy là do lo sợ bà sau khi trốn thoát khỏi Hoang thôn sẽ tiết lộ bí mật của gia tộc Âu Dương ra ngoài, thế nên mới dìm bà xuống giếng, thực tế là giết người diệt khẩu.
Thực ra trong lòng Thanh Viễn rất hận cha anh ấy, bởi vì cha đã giết mẹ đẻ của anh. Nhưng tất cả những điều này đều vì bí mật của gia tộc Âu Dương, ai cũng không được phép vi phạm quy tắc của tổ tiên, bất luận đau khổ đến nhường nào cũng bắt buộc phải chịu đựng.
Hóa ra Thanh Viễn vốn không phải là con đẻ của mẹ chồng, trong lòng mình cũng cảm thấy vô cùng kinh ngạc. Trở lại phòng sách trên gác, mình vội vã viết nhật kí ngày hôm nay. Nhà Âu Dương chỉ vì giữ bí mật mà có thể giết chết mẹ của Thanh Viễn, vậy thì không biết có giết chết mình không nữa?
Nhiều mây, ngày 10 tháng 4 năm Dân quốc 37.
Hôm nay, tinh thần của mình xấu tới đỉnh điểm bởi vì đàn dương cầm của mình không thể đánh được nữa rồi. Mình mở chiếc đàn ra kiểm tra mới phát hiện ra có bộ phận trong đó đã bị đập nát, nhìn bộ phận đập nát thảm hại này, lòng mình đau đớn vô cùng. Chiếc đàn này là quà tặng mà mẹ mua tặng mình, là của hồi môn của nhà mẹ đẻ ình, nó thậm chí còn quan trọng hơn cả sinh mệnh.
Buổi tối, mình ép Thanh Viễn vào căn phòng trên tầng hai, anh ấy thừa nhận là anh ấy đập vỡ đàn dương cầm để mình không còn vương vấn gì tới nhà mẹ đẻ. Nhưng mình vẫn không sao tin nổi, người chồng mà mình đã từng yêu sâu đậm đã đập vỡ món quà quan trọng nhất của cuộc đời mình, tim mình bị anh ấy đập vỡ vụn rồi. Từ ngày vào quán trọ Hoang thôn tới nay, mình đã nhẫn nại quá lâu nhưng mình không thể tha thứ cho Thanh Viễn khi anh ấy đã ra tay với chiếc đàn của mình. Vậy là mình phát tiết ra tất cả những đau khổ trong lòng, nước mắt giàn giụa, tim như bị dao đâm.
Nhưng Thanh Viễn lại tỏ ra vô cùng bình tĩnh, anh ấy lạnh lùng nói: “Nhược Vân, gả vào nhà Âu Dương chúng ta thì phải sống một cuộc sống khác, hãy quên hết thế giới bên ngoài đi.”
“Tại sao những việc người khác có thể làm, các người lại không làm được? Lẽ nào các người không phải con người sao?”
Thanh Viễn từ từ gật đầu: “Không sai, bọn anh không phải là con người.”
Lời của anh ấy khiến mình kinh ngạc, biểu hiện nghiêm túc của anh ấy cho thấy, tuyệt đối không thể là đang đùa cợt, mình run rẩy hỏi: “Không phải người? Thì là gì chứ?”
“Nghe anh nói, gia tộc Âu Dương của bọn anh không giống với con người bình thường. Anh đã kể tổ tiên của anh năm nghìn năm trước là vương tộc thống trị Cổ Ngọc Quốc Giang Nam, họ vốn không phải là cư dân của đại lục này mà đến từ một nơi vô cùng xa xôi và thần bí. Tóm lại là, gia tộc của bọn anh là một chủng loại khác, trong huyết mạch của bọn anh, vẫn đang chảy dòng máu của tổ tiên Cổ Quốc Ngọc năm nghìn năm trước, mục đích sinh tồn của bọn anh là để gìn giữ bí mật của gia tộc.”
Mình lại ngạc nhiên tới mức sững sờ, lẽ nào chồng mình cũng không phải là người sao? Không, mình nghĩ Thanh Viễn phát điên rồi, mình không thể sống với người điên này. Rốt cuộc, mình cả gan nói: “Thanh Viễn, chúng ta li hôn đi.”
“Em nói gì?” Thanh Viễn giống như đang nghe lầm vậy.
“Em nói em muốn li hôn với anh.” Mình nước mắt lưng tròng nói. “Thanh Viễn, em đã từng nói yêu anh nhưng em không thể tiếp tục sống cùng anh được nữa. Em không thể trở thành vật hi sinh cho gia tộc anh, ngôi nhà này vốn dĩ là một cái lồng, là một địa ngục nuốt chửng linh hồn con người. Hơn nữa, em phải mang theo con trai em đi, bất kể trong huyết mạch của nó đang mang dòng máu của ai, nhưng nó phải được sở hữu nhân sinh và hạnh phúc giống như những đứa trẻ khác. Em yêu con trai Gia Minh của em, em tuyệt đối không thể để nó sống trong bóng tối của gia tộc, nó có quyền được hạnh phúc.”
Thanh Viễn lắc đầu, dữ dằn nói: “Em điên rồi sao? Từ trước tới nay, chỉ cần gả vào nhà Âu Dương Hoang thôn là tuyệt đối không được bỏ đi, nếu như con dâu muốn tự mình trốn chạy bỏ đi thì sẽ phải chịu sự trừng phạt nghiêm khắc.”
“Cái gì gọi là sự trừng phạt nghiêm khắc?”
Anh ấy chầm chậm nhả ra một chữ: “Chết.”
Nhưng mình đã không còn sợ hãi nữa rồi, lạnh lùng đáp: “Vì tự do, em tình nguyện chết.”
Nhật kí của Nhược Vân tới đây là hết, đằng sau toàn là những trang giấy trắng.

 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,359
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 24-1


NGÀY THỨ HAI MƯƠI TƯ
Lúc này đã là hơn hai giờ sáng, tôi và Tiểu Sảnh cuối cùng đã xem xong cuốn nhật kí của hơn năm mươi năm trước.
Bỗng nhiên ánh nến lay động làm chúng tôi phát hiện ra nến sắp cháy hết rồi, tôi vội vàng thay một cây nến mới. Tiểu Sảnh khép cuốn nhật kí của Nhược Vân lại, hít một hơi thật sâu nói: “Trời ơi, đây chính là bí mật của Hoang thôn sao?”
Đọc liền một mạch mấy tiếng đồng hồ, tôi chỉ cảm thấy mắt và vai đều đã có chút mỏi mệt, tôi vung tay vung chân một lúc nói: “Cuốn nhật kí này quả là không thể tưởng tượng nổi, nhưng đáng tiếc rất nhiều trang đã bị xé đi, những gì chúng ta đọc được chỉ là một phần nhỏ mà thôi.”
Tiểu Sảnh vuốt nhẹ tấm bìa cuốn nhật kí hỏi: “Số phận của Nhược Vân bi thảm quá, nhưng cô ấy là một phụ nữ hiện đại sống trong thế kỉ hai mươi, cô ấy khát vọng tình yêu và tự do tận trong đáy lòng, cô ấy tuyệt đối không can tâm làm con chim bị nhốt trong lồng. Bởi vậy, cô ấy muốn đem con trai rời bỏ nhà Âu Dương, theo đuổi một cuộc sống hoàn toàn mới. Ồ, nhưng không biết cô ấy có thành công không?”
Nhưng lúc này, tôi chẳng còn tâm trí đâu để nghĩ tới số phận của Nhược Vân nữa, cái tôi quan tâm hơn chính là bản thân mình. Tôi từ từ giơ tay trái lên, nhìn chiếc nhẫn ngọc trên ngón trỏ, cảm giác vệt đỏ đun càng lúc càng chói mắt, bởi vì tôi đã biết nó là máu của ai.
Tôi nhìn chiếc nhẫn ngọc nói: “Cổ Ngọc Quốc năm nghìn năm trước mà trong nhật kí nói hiển nhiên là văn minh Lương Chử ngày nay thường nói. Bất luận là thời gian hay niên đại của nền văn minh, còn cả phạm vi khu vực mà nó tồn tại, thậm chí đặc trưng lớn nhất của nó: ngọc khí, đều hoàn toàn phù hợp với văn hóa Lương Chử trong khai quật khảo cổ ngày nay. Trong nhật kí nói Cổ Ngọc Quốc xây dựng thành thị, có cung điện và tế đàn hùng vĩ, những thứ này cũng giống hệt với những gì phát hiện được ở di chỉ Mạc Giác Sơn.”

“Nói như vậy thì cuốn nhật kí này đã mở ra cho anh bí mật của tổ quốc Lương Chử?”
“Lúc này vẫn chưa thể nói là mở ra, chỉ có thể nói là cung cấp cho anh một chiếc chìa khóa có thể mở cánh cổng của văn minh Lương Chử. Đúng vậy, bí mật của gia tộc Âu Dương Hoang thôn thực ra là bí mật của văn minh Lương Chử cổ xưa, họ chính là hậu duệ của vương tộc Lương Chử nguyên cổ, sau khi cổ quốc bị diệt vong đã định cư mãi ở Hoang thôn. Bởi vì Hoang thôn là nơi tổ tiên họ đổ bộ lên đại lục Đông Á, thế nên nó có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với họ.”
“Nhưng, trong nhật kí nói tổ tiên của gia tộc Âu Dương là thiên thần, anh tin không?”
“Anh không biết, rất nhiều dân tộc đều có những thần thoại tương tự, nói rằng tổ tiên của mình đến từ thế giới thần bí trên trời. Và trong nhật kí thực sự cũng nhắc tới tổ tiên của nhà Âu Dương đến từ một nơi vô cùng xa xôi và thần bí, họ vượt qua đại dương mênh mông mới đến được Hoang thôn. Vậy thì nơi vô cùng xa xôi và thần bí đó ở đâu?”
Bỗng nhiên, Tiểu Sảnh nhớ lại điều gì đó: “Nơi vô cùng xa xôi và thần bí? Có thể là người ngoài trái đất không nhỉ?”
"Người ngoài trái đất? Không, đây không phải là ‘Vệ Tư Lí hệ liệt’ của Nghê Khuông, chỉ khi nào trong tiểu thuyết không thể tự biện minh, lập luận mới đem người ngoài hành tinh ra để lấp đầy.”
“Vậy thiên thần nghĩa là gì? Tổ tiên của nhà Âu Dương có lẽ từ biển lên, cũng có khả năng từ trên trời xuống. Cổ nhân vốn không biết thế nào là người ngoài hành tinh, trong mắt người xưa vốn lạc hậu và mê tín, người từ trên trời rơi xuống đương nhiên là thiên thần rồi.”
Tôi chỉ biết gật đầu nói: “Trên lí thuyết thực sự tồn tại khả năng này. Giống như di chỉ Stonehenge của vương quốc Anh, những đường vẽ kì lạ trên hoang mạc Nazca ở Peru, đảo Phục sinh ở Nam Thái Bình Dương, vân vân, những hiện tượng và di tích thần bí này đều không giống do nhân loại trái đất sáng tạo nên.”
“Đúng vậy, chồng Nhược Vân trong nhật kí không phải đã nói đấy sao, gia tộc Âu Dương không phải là con người thực thụ, họ là một chủng loại khác.”
“Không, những lời trong nhật kí không thể hoàn toàn tin tưởng, nhưng…” Tôi lại dồn ánh mắt về phía chiếc nhẫn ngọc. “Nhưng anh tin giả thuyết về chiếc nhẫn ngọc.” Tiểu Sảnh cũng nhìn chằm chằm vào chiếc nhẫn ngọc, ưu tư nói: “Nó đã từng đeo trên ngón tay của nữ vương cuối cùng Cổ Ngọc Quốc, khi nữ vương vì tình yêu mà chết, máu đã chảy lên chiếc nhẫn ngọc, vĩnh viễn không bao giờ lau được.”
Tôi run rẩy sờ lên chiếc nhẫn, vệt đỏ đun, đây chính là máu tươi của nữ vương Lương Chử, đã hơn bốn nghìn năm rồi vậy mà vẫn tươi rói chói mắt. Nó đã ngưng đọng nỗi ai oán và đau khổ của nữ vương, sở hữu một sức mạnh thần bí, ít nhất cũng khiến mắt tôi nhìn xuyên thấu thời gian, nhìn thấy cảnh tượng của mấy chục năm về trước. Hơn năm mươi năm trước khi Nhược Vân mang thai cũng đã từng đeo chiếc nhẫn này, khi cô ấy sinh đứa bé ra thì chiếc nhẫn tự động rơi ra, vậy còn tôi thì sao? Sự việc tới ngày hôm nay, tôi gần như đã tuyệt vọng rồi.
“Chiếc nhẫn ngọc này là thánh vật của gia tộc Âu Dương Hoang thôn, nhất định là của thần thánh không thể xâm phạm, giống như xác ướp Pharaông của Ai Cập cổ đại. Em đã từng nghe nói về ‘lời nguyền của Pharaông’ chưa? Vào đầu thế kỉ hai mươi, khi các nhà khảo cổ học khai quật lăng mộ Tatankhamun của Ai Cập cổ đại, sau khi họ tiến vào mộ đạo của Pharaông thì nhìn thấy những văn tự cảnh báo họ, tất cả những ai vào trong lăng mộ đều sẽ phải chịu lời nguyền mà chết. Nhưng những nhà khảo cổ vẫn tiến hành khai quật xác ướp Pharaông, không ai ngờ được rằng chỉ trong vòng vài năm sau đó, tất cả những người tiến hành khai quật hoặc là từng nghiên cứu xác ướp Pharaông Tatankhamun đều đã chết một cách bí hiểm.”
Tiểu Sảnh tròn xoe mắt nói: “Ý của anh là, bốn sinh viên tiến vào Hoang thôn lấy trộm đồ ngọc lên, hành vi của họ đã xúc phạm tới những điều cấm kị cổ xưa, thế nên họ đều đã cùng chung số phận khi gặp phải ‘lời nguyền của Pharaông’?”
“Đúng, hai người trong đó không phải đã chết vì ác mộng sao? Lấy một ví dụ nhé, ác mộng giống như một loại chương trình vi rút máy tính, một khi đã xâm nhập vào địa cung lấy trộm thánh vật rồi, thì sẽ bị lây nhiễm loại vi rút này, mấy hôm sau chương trình vi rút khởi động thì sẽ trở thành ác mộng giết người.”

“Thật sự giống tiểu thuyết của anh sao?”
Tôi chán nản lắc đầu, sắc mặt tôi dưới ánh nến nhất định là rất đáng sợ: “Nếu như những nội dung trong nhật kí đều là thật, vậy thì Âu Dương tiên sinh và con gái Tiểu Chi của ông ấy cũng chắc chắn đều là hậu duệ của vương tộc Lương Chử cổ xưa. Nhưng hiện giờ họ đều đã chết rồi, gia tộc Âu Dương sẽ không còn hậu duệ nữa, gia tộc cổ xưa kế tục năm nghìn năm này tới đây là kết thúc, không biết đối với chúng ta, đây là họa hay là phúc?”
Vậy mà, hình như những lời của tôi đã chạm phải điều gì đó của Tiểu Sảnh, thần sắc của cô ấy biến đổi vô cùng dị thường, dưới ánh nến mờ ảo, dường như có gì đó lướt qua ánh mắt khiến lòng tôi sợ hãi. Nhưng cô ấy lảng tránh ánh mắt tôi, cuối cùng dứt khoát nhắm mắt lại, tôi cảm thấy người cô ấy càng lúc càng mềm nhũn ra, từ từ ngả ra chiếc giường gấp.
Đã là ba giờ sáng rồi, tôi từ trước tới nay không có thói quen thức thâu đêm, lúc này cũng không thể trụ được nữa. Tôi muốn bỏ đi lên lầu, nhưng Tiểu Sảnh lại nắm chặt lấy tay tôi, tôi sợ đứng lên sẽ làm cô ấy tỉnh dậy nên đã nhẹ nhàng thổi nến. Tôi bật một chiếc đèn pin, nhắm mắt lại, muốn ngồi bên Tiểu Sảnh nghỉ ngơi một lúc…
Nhưng không ngờ tôi ngồi thế này mà cũng ngủ say luôn, mãi tới tận khi ánh nắng buổi sáng rọi vào mí mắt, tôi mới từ từ tỉnh dậy. Đôi mắt mơ màng mở ra thì phát hiện Tiểu Sảnh vẫn đang ngủ say, hóa ra tôi đã ngủ một đêm mà không thay quần áo thế này. Tôi cảm thấy lòng bồn chồn, nếu như để cô ấy nhìn thấy thì sẽ khó ăn nói đây. Tôi nhẹ nhàng đứng dậy, vừa ra tới cửa thì nghe thấy giọng Tiểu Sảnh: “Anh đi đâu?”
Tôi bối rối quay đầu lại: “Anh vừa mới vào.”
“Không, anh vừa nãy còn nằm cạnh em.” Cô ấy nhìn xoáy vào mắt tôi, khiến tôi không sao giải thích nổi, cô ấy đứng dậy nắm lấy tay tôi hỏi: “Đêm qua anh không rời xa em, em rất cảm ơn anh.”
“Xin lỗi, đêm qua anh thực sự quá mệt.”
“Em cũng vậy.” Tiểu Sảnh lại nắm tay tôi ngồi xuống hỏi: “Nói cho em biết, anh rất hoảng sợ đúng không?”
Tôi cụp mắt xuống, nhìn chiếc nhẫn ngọc trên tay mình nói: “Đúng, bốn sinh viên kia chính vì chiếc nhẫn ngọc này mà xảy ra chuyện, bây giờ nó đang đeo trên tay anh. Nhưng anh không biết vận xui của Hoang thôn rốt cuộc có đổ xuống đầu mình không nữa?”
“Không, sự hoảng sợ của anh là do nỗi cô đơn của anh, và em cũng giống anh. Chỉ có ở bên nhau, chúng ta mới có thể chiến thắng sự sợ hãi. Vì thế, anh không thể rời xa em.”
Đúng, chỉ có những người cô đơn mới cảm thấy hoảng sợ, tôi đột nhiên cảm thấy có chút hi vọng nào đó, tôi nắm lấy tay cô ấy nói: “Tiểu Sảnh, anh mãi mãi sẽ không rời xa em.”
Nước mắt cô ấy từ từ rơi xuống.

Nửa tiếng sau, Tiểu Sảnh cùng tôi ra ngoài ăn sáng, sau đó cô ấy tới cửa hàng kem làm việc, còn tôi bắt buộc phải đi tìm một người, Diệp Tiêu.
Lúc này, chỉ có anh ấy mới có khả năng giúp tôi.
Tôi tới thẳng sở công an, tìm thấy anh họ cảnh sát Diệp Tiêu của mình. Anh ấy tỏ ra rất ngạc nhiên trước sự đột ngột ghé thăm của tôi, anh lôi tôi vào một góc khuất. Tôi không vòng vo, nói thẳng mục đích chuyến viếng thăm của mình: “Diệp Tiêu, em muốn tra hồ sơ vụ án của sở cảnh sát Thượng Hải cũ, xem xem có hồ sơ vụ án năm 1948 nào liên quan tới đường An Tức.”
Diệp Tiêu nghĩ ngợi một lúc lâu, nói: “Được, anh có thể giúp em, hi vọng em sớm thoát thân khỏi đó.”
Chúng tôi cùng ăn bữa trưa, sau đó anh ấy đưa tôi tới tòa nhà lưu trữ hồ sơ vụ án, ở đây cất giữ những hồ sơ vụ án hình sự của Thượng Hải cũ. Diệp Tiêu đưa tôi tới phòng đọc hồ sơ, chỉ có kiểm tra mục lục không thôi là đã mất tới hai tiếng đồng hồ. Trải qua bao khó khăn vất vả, cuối cùng cũng đã tìm thấy tất cả hồ sơ vụ án liên quan tới đường An Tức. Chúng tôi lấy từ trong đó ra hồ sơ của năm 1948, năm đó những vụ án xảy ra tại đường An Tức không nhiều, rốt cuộc cũng đã tìm ra hồ sơ của nhà số 13 đường An Tức.
Năm đó quả nhiên xảy ra vụ án nghiêm trọng, với thói quen nghề nghiệp của cảnh sát, Diệp Tiêu cũng lập tức lấy lại tinh thần. Những hồ sơ này đều viết dày đặc kín mít, dùng mẫu công văn thời đó viết thành, tôi khó mà nhìn cái đã hiểu ngay. Xét duyệt hồ sơ từ trước tới nay vốn là sở trường của Diệp Tiêu, anh ấy thuần thục lật mở hồ sơ, xem từng trang ghi chép hiện trường, bút lục của sở cảnh sát và cả báo cáo vụ án. Tôi dứt khoát không xem hồ sơ nữa, chỉ nhìn sắc mặt Diệp Tiêu, phát hiện thần sắc anh ấy đang dần dần đanh lại.
Mấy chục phút sau, Diệp Tiêu đột nhiên đóng hồ sơ lại, lạnh lùng nói: “Có lẽ là sai sót của anh, lúc đầu đáng ra phải kiểm tra hồ sơ vụ án này từ sớm.”
Tôi sốt ruột hỏi: “Rốt cuộc xảy ra chuyện gì?”
“Ngày 1 tháng 10 năm Dân quốc 37, cũng tức là ngày 11 tháng 4 năm 1948, có người báo án với công an, tại nhà số 13 đường An Tức xảy ra một vụ án mạng, An Nhược Vân, con dâu nhà Âu Dương bị giết chết.”
"Nhược Vân chết rồi?” Tôi ngạc nhiên tới nỗi suýt chút nữa nhảy khỏi ghế.
Diệp Tiêu chậm rãi nói: “Đừng kích động, tối hôm đó cảnh sát đã tới ngay hiện trường xảy ra vụ án, trong căn phòng trên tầng hai số nhà 13 đường An Tức, phát hiện thi thể của An Nhược Vân, cô ấy bị đâm một nhát dao vào ngực, thủng tim chết ngay tại đó. Đứng cạnh xác nạn nhân là chồng của cô ấy, Âu Dương Thanh Viễn, khắp người anh ta đều là máu, trên tay đang ôm một đứa trẻ sơ sinh. Hung khí là một con dao găm sắc nhọn được tìm thấy trên sàn nhà. Lúc đó, bố mẹ chồng của nạn nhân đều đã về quê, những người giúp việc nghe thấy tiếng ồn ào trên gác vọng xuống mới chạy lên thì nhìn thấy vợ của thiếu gia gục trong vũng máu.”

 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,359
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 24-2


“Nhất định Âu Dương Thanh Viễn đã giết chết Nhược Vân.”
"Tối đó, cảnh sát đưa Âu Dương Thanh Viễn về sở cảnh sát để hỏi cung, theo như những lời khai anh ta cung cấp cùng với kết quả điều tra tại hiện trường, về cơ bản có thể xác định tình hình lúc xảy ra vụ án. Lúc 9 giờ tối ngày 11 tháng 4, An Nhược Vân chuẩn bị li hôn với Âu Dương Thanh Viễn, cô ấy muốn bế con trai còn đang bọc trong tã rời khỏi nhà Âu Dương. Nhưng Âu Dương Thanh Viễn cản cô ấy lại, định nhốt cô ấy trong căn phòng trên tầng hai. Nhưng Nhược Vân đã hạ quyết tâm, cô ấy lấy một con dao găm ra, yêu cầu Âu Dương Thanh Viễn để mẹ con cô ấy bỏ đi. Âu Dương Thanh Viễn không chịu nhượng bộ, anh ấy xông lên tước dao của An Nhược Vân, trong lúc hai người dằng co, An Nhược Vân đã bị dao dâm vào tim, chết ngay tại hiện trường.”
Nghe xong tường thuật của Diệp Tiêu, tôi ngồi im giống con gà gỗ. Trong cái đêm cắt điện đó, tôi đã cùng Tiểu Sảnh nhìn thấy cảnh tượng này rồi, máu tươi bắn lên đó tôi mãi mãi sẽ không bao giờ có thể quên được.
Diệp Tiêu tiếp tục nói: “Không lâu sau, Âu Dương Thanh Viễn với tội danh ngộ sát đã bị tuyên án mười năm tù giam, nhưng sau vài tháng bị nhốt trong tù thì anh ta đã bạo bệnh mà chết.”
"Bạo bệnh mà chết? Cũng có thể coi đó là một kiểu báo ứng?”
"Hồ sơ ghi chép tới đây, sau đó do Quốc Dân đảng sắp bị lật đổ, rất nhiều hồ sơ vụ án bị thất lạc rồi.”
Tôi cúi đầu ngẫm nghĩ nói: “Nhược Vân thật là đáng thương, cô ấy muốn giành lấy tự do, rốt cuộc lại chết trong chính tay chồng mình. Nhưng càng đáng thương hơn chính là con trai cô ấy, từ nhỏ đã mất mẹ. Em nghĩ đứa bé đó sau này chắc chắn được ông bà nội đón đi, quán trọ Hoang thôn xảy ra sự việc đáng sợ như thế, nên gia đình Âu Dương cũng không thể sống tiếp ở đó nữa. Họ nhất định rời khỏi Thượng Hải, đưa đứa trẻ về ngôi nhà cổ ở Hoang thôn.”
Nghĩ tới đây, lòng tôi bất giác run bắn lên. Nếu như theo những dự đoán đó, con trai Gia Minh của Nhược Vân và Thanh Viễn không phải là Âu Dương tiên sinh mà tôi đã gặp ở Hoang thôn sao? Đúng vậy, Gia Minh sinh tháng 12 năm 1947, tới bây giờ vừa bằng với tuổi tác của Âu Dương tiên sinh. Và sau khi Thanh Viễn chết, Gia Minh chính là người kế tục duy nhất của gia tộc Âu Dương, bởi vậy không thể nào thêm một Âu Dương tiên sinh thứ hai.

Lúc rời khỏi nơi lưu trữ hồ sơ, trời đã sẩm tối, Diệp Tiêu lại kéo tôi đi ăn tối. Anh ấy còn nói với tôi, Xuân Vũ vẫn bị nhốt trong bệnh viện tâm thần, bác sĩ bảo cô ấy bị thần kinh phân liệt rất nặng, khả năng phải nhốt trong ấy cả đời. Còn về sinh viên mất tích Tô Thiên Bình, đến bây giờ vẫn không có bất cứ tin tức gì, sống chết không rõ, dường như đã biến mất trong không trung của Hoang thôn.
Diệp Tiêu khuyên tôi không nên tới quán trọ Hoang thôn lần nữa, thực ra tôi cũng chịu hết nổi rồi, nhưng tôi đã hứa với Tiểu Sảnh, mãi mãi không rời xa cô ấy.
Tám giờ tối, tôi vội vàng quay lại đường An Tức. Dưới lầu quán trọ Hoang thôn, tôi nhìn những tia sáng đang leo lắt trong căn phòng trên tầng hai. Tiểu Sảnh đã về rồi, tôi chạy nhanh lên lầu, ánh lửa soi hồng khuôn mặt trắng bệch của cô ấy. Ánh mắt thật kì quái của cô ấy khiến tôi sững sờ: “Em sao vậy?”
Nhưng cô ấy không hề trả lời, mà giơ một vật trên tay lên.
Bỗng chốc, một cái bóng dị dạng lướt qua trước mắt, tôi lập tức cảm thấy tim mình đập loạn xạ. Đúng, tôi rốt cuộc đã nhìn rõ rồi, tay cô ấy đang cầm một chiếc sáo.
Ánh nến nhỏ mù mờ lấp lánh, soi sáng chiếc sáo trúc kiểu Trung Quốc. Nó dài khoảng bốn mươi centimét, ống sáo sơn màu nâu vàng, trên miệng sáo có gắn những sợi dây màu tím đỏ, màng lỗ còn dán một lớp màng sáo mỏng như cánh ve.
Tôi biết nó từ đâu tới.
Tiểu Sảnh mím môi nói: “Ban nãy, lúc em dọn dẹp đồ đạc trong tủ thì phát hiện ra chiếc hộp anh giấu dưới đáy tủ, em tò mò mở chiếc hộp ra xem thì phát hiện ra bên trong là cây sáo này.”
Sau đó, cô ấy nhẹ nhàng vuốt ve thanh sáo, đưa nó lên chạm vào má, giống như một người bạn cũ lâu ngày gặp lại. Tôi run rẩy hỏi: “Em biết chiếc sáo này?”
Nhưng Tiểu Sảnh không trả lời, cô ấy đặt chiếc sáo vào tay tôi.
Thanh sáo lạnh toát nhường vậy, một cảm giác lạnh lẽo thấm sâu vào da tôi, dường như tôi lại đang cảm nhận được sự lạnh lẽo của đêm đông Hoang thôn. Tôi nhìn chằm chằm vào ngọn nến, trong ánh nến đang nhảy nhót đó hình như tôi nhìn thấy ánh sáng của ngọn đèn dầu trong Tiến Sĩ Đệ, nhìn thấy khuôn mặt gầy gò trắng bệch của Âu Dương tiên sinh. Vậy là, chỉ trong vòng vài giây đồng hồ ngắn ngủi, tôi đã hồi tưởng lại tất cả những thứ đó. Đúng, đây là một đoạn kí ức bỏ sót, là kỉ niệm cuối cùng mà Hoang thôn để lại cho tôi.
Được rồi, bây giờ đã là lúc nói ra rồi. Tôi hít một hơi thật sâu nói: “Tiểu Sảnh, chiếc sáo này đến từ Hoang thôn, là đích thân Âu Dương tiên sinh trao lại cho anh.”
“Tại sao, tại sao ông ấy lại trao chiếc sáo này cho anh?”
“Đó là chuyện đã vài tháng trước, khi anh quyết định phải rời khỏi Hoang thôn, lúc từ biệt Âu Dương tiên sinh tại Tiến Sĩ Đệ. Lúc đó, ông ấy bỗng chốc trở nên rất thương cảm, ông nói ông rất nhớ con gái Tiểu Chi của mình, lúc nào cũng hi vọng con gái trở về bên mình, ông có thể hi sinh mọi thứ vì điều đó. Đột nhiên, Âu Dương tiên sinh lấy từ trong ngăn kéo ra một chiếc sáo, đặt nó vào trong tay anh. Ông ấy nhờ anh mang chiếc sáo này quay về Thượng Hải tìm con gái Tiểu Chi của ông. Tiểu Chi chỉ cần nhìn thấy chiếc sáo này là sẽ nhớ tới cha của mình, và sẽ trở về cố hương Hoang thôn.”
Nói xong những câu này, tôi thở một hơi thật dài, giống như đã nhả ra tảng đá cuối cùng ẩn giấu trong lòng. Vậy mà, ánh mắt Tiểu Sảnh dưới chính giữa ngọn nến lại hiện ra càng thêm dị dạng: “Anh tìm thấy Tiểu Chi không?”

“Hình như anh đã nói với em rồi, anh đã tìm thấy trường đại học của Tiểu Chi, họ nói với anh Tiểu Chi đã chết hơn một năm trước do một tai nạn đường sắt. Anh cảm thấy rất đau lòng nên đã cất giữ lại chiếc sáo này, luôn để nó dưới đáy thùng, không hiểu tại sao lại đem nó tới đây.”
Tức khắc, ánh mắt Tiểu Sảnh lóe lên tia sáng lạnh lẽo khiến tôi cảm thấy lạnh rúm, cô ấy lạnh lùng hỏi: “Anh có biết thổi sáo không?”
Sau khi chững lại một lúc, tôi hít một hơi thật sâu, ngẫm nghĩ trước trong lòng vài giây rồi đưa chiếc sáo lên môi. Phút chốc, thanh sáo đã cất lên giai điệu: “Ở nơi xa xăm đó,” những nốt nhạc chậm rãi bay bổng bay lượn trong căn phòng nhỏ hẹp, chẳng mấy chốc lan tỏa ngập tràn cả quán trọ Hoang thôn.
Tiếng sáo trong đêm tối đã kích động Tiểu Sảnh, đôi mắt mở to của cô ấy không còn lộ ra sự kinh ngạc, mà lại ngập tràn ánh mắt bi thương, hình như tiếng sáo đang thổ lộ hết cho cô ấy nghe về câu chuyện đau lòng nào đó. Tôi nghĩ tiếng sáo này nhất định đang bay lên không trung trong màn đêm, bay qua bãi hoang phế xung quanh đây, vang vọng tới một nơi xa xăm nào đó, không biết Hoang thôn cách đây mấy trăm cây số có thể nghe thấy không nữa?
Khi giai điệu kết thúc, tôi đã mệt mỏi rã rời, cả thân xác và linh hồn đều đã chìm trong tiếng sáo, mãi lâu sau mới lấy lại tinh thần. Còn Tiểu Sảnh cũng nhắm mắt lại, hình như tiếng sáo đã chạm vào sợi dây đàn bí ẩn nhất trong lòng cô ấy.
Tôi buông chiếc sáo xuống, nhẹ nhàng vịn lên vai cô ấy nói: “Em sao vậy? Mở mắt ra nào?”
Đôi môi Tiểu Sảnh run rẩy, hình như linh hồn đã theo tiếng sao bay khỏi thân xác. Rốt cuộc, cô ấy từ từ mở mắt, ánh mắt u sầu nhìn thẳng tôi, dáng vẻ này khiến tim tôi lại loạn nhịp.
“Em biết Tiểu Chi.”
Cô ấy thốt ra câu này bằng giọng nói từ đáy cổ họng.
Phút chốc, tôi giống như bị câu nói này đánh trúng vậy, lập tức lắc đầu nói: “Không thể, em không thể quen Tiểu Chi được, không phải cô ấy đã chết từ lâu rồi sao?”
“Không, Tiểu Chi không chết.” Ánh mắt Tiểu Sảnh trở nên vô cùng kinh ngạc, nhưng ngữ khí lại bình tĩnh tới nỗi khiến người ta sợ hãi. “Cô ấy vẫn đang sống, sống trong ga tàu điện ngầm.”
"Tiểu Chi sống trong ga tàu điện ngầm? Không, cô ấy chết trong ga tàu điện ngầm.”
Ánh nến lại lay động một hồi, sắc mặt Tiểu Sảnh càng trở nên trắng bệch, cộng thêm đôi mắt với ánh nhìn kì lạ rõ ràng là đã biến thành một con người khác. Cô ấy nhìn thẳng vào mắt tôi, buồn rầu nói: “Anh vẫn không hiểu sao? Tiểu Chi không thể chết được, cô ấy vẫn sống trong toa tàu điện ngầm, cô ấy mặc một chiếc váy dài màu trắng, để mái tóc xõa ngang vai, những sợi tóc tỏa ra hương thơm dịu mát. Cô ấy có lúc kéo tay vịn, đứng ở chỗ cạnh cửa sổ, khi tàu điện xuyên qua những đường hầm tối đen, ánh sáng êm dịu trong toa tàu vương trên mặt cô ấy, khuôn mặt trắng nõn sẽ in lên cửa sổ toa tàu. Lúc đó, chỉ trừ bản thân Tiểu Chi ra, không có ai chú ý tới sự tồn tại của khuôn mặt đó. Cô ấy chằm chằm nhìn vào khuôn mặt mình, lúc ẩn lúc hiện trên cửa sổ, đôi mắt đó, đôi môi đó đều thật quyến rũ, giống như nhân vật chính trong truyện Liêu Trai bước ra vậy.”
Tôi run rẩy nghe những lời nói của Tiểu Sảnh, từng cảnh tượng mà cô ấy miêu tả dường như đang hiện lên trước mắt tôi. Tôi bỗng chốc cảm thấy tất cả những thứ này đều giống nhau đến nhường vậy, hình như tôi cũng đã từng trải qua cái trải nghiệm kì lạ đó. Đúng, lúc tôi đứng trong toa tàu điện ngầm. Tiểu Chi đã đứng sau lưng tôi, cô ấy lặng lẽ nhìn khuôn mặt in trên cửa sổ tàu, lúc thì khuôn mặt tôi, lúc lại là khuôn mặt cô ấy, giống như một giấc mộng…
“Đừng nói nữa…” Tôi tức khắc ngắt lời cô ấy.

“Không, để em nói tiếp.” Tiểu Sảnh dường như mất đi thần trí, hoàn toàn chìm đắm trong trạng thái bị thôi miên, dường như hồi ức đã trở thành ham muốn duy nhất của cô ấy. “Tiểu Chi vẫn luôn ở trong toa tàu điện, đứng thẳng, đi lại, chờ đợi… Cô ấy đang chờ đợi ai? Đúng, có lúc cô ấy phát hiện ra sự tồn tại của người đó, người thanh niên trẻ tuổi đang đứng trước cô ấy, cụp mí mắt nhìn vào bóng mình trên cửa sổ. Anh ấy xem ra có chút mỏi mệt, hoặc là do đêm qua vẫn chưa hoàn thành xong tiểu thuyết khiến anh ấy ưu phiền. Có lúc ánh mắt anh ấy chạm vào ánh mắt Tiểu Chi, nhưng anh ấy không nhìn thấy Tiểu Chi, họ thậm chí mặt đối mặt trong toa tàu rồi, mắt chỉ cách nhau vài milimét. Đáng tiếc, anh ấy vẫn không nhìn thấy Tiểu Chi, nhưng Tiểu Chi đã yêu anh ấy từ ánh mắt đó.”
"Người đó là ai?” Tôi đã mơ hồ đoán ra rồi nhưng không dám để mình tin vào điều đó.
Nhưng Tiểu Sảnh đã không nghe thấy tiếng tôi nữa rồi, cô ấy tự mình lẩm bẩm tiếp tục nói: “Dưới ga tàu điện ngầm tối tăm không có ban ngày, Tiểu Chi luôn luôn đi theo người thanh niên đó, anh ta ngồi tới trạm nào, cô ấy cũng tới trạm đó. Có lúc cô ấy cũng theo anh ta bước ra ngoài toa tàu, đi đi lại lại trên sân ga vắng tanh. Anh ta thích tới một hiệu sách trong nhà ga, và cô ấy cũng bước theo anh ấy vào hiệu sách. Trong hiệu sách có bày những cuốn sách của người thanh niên này viết, anh ta thường tới xem sách của mình bán thế nào. Còn cô ấy cũng sẽ đi dạo giữa những giá sách, trong lúc chung quanh không có ai, âm thầm lật dở sách của anh ấy. Khi đêm tối, sau khi nhà ga ngừng vận hành, hiệu sách đóng cửa, cô ấy sẽ một mình ở lại trước giá sách, thâu đêm đọc tiểu thuyết của anh ấy viết. Bao nhiêu đêm như vậy qua đi, Tiểu Chi đã cảm động vì những câu chữ của anh ấy, có lúc còn âm thầm rơi nước mắt, lưu lại giọt nước mắt đỏ loang trên bìa sách.”
Vào đêm mùa hè thê lương này, trong căn phòng run rẩy ánh nến phập phồng, Tiểu Sảnh uyển chuyển thuật lại câu chuyện đau buồn, cô ấy dường như bị linh hồn nào đó chiếm hữu một nửa.
Nước mắt lặng lẽ rơi xuống gò má Tiểu Sảnh, dưới ánh nến lấp lánh, cô ấy ngậm những giọt lệ nói: “Cho mãi tới tận một hôm, trong hiệu sách gần ga tàu điện ngầm, cô ấy nhìn thấy truyện ngắn của anh ấy đăng trên tạp chí ‘Chồi non,’ đó là truyện ngắn về Hoang thôn, nam nhân vật chính yêu say đắm u hồn Tiểu Chi. Tuy đó chỉ là một câu chuyện hư cấu nhưng tận đáy lòng Tiểu Chi vẫn cảm thấy đau buồn, dường như cô ấy ngày ngày đều có thể nhìn thấy anh ấy, còn anh thì lại chỉ có thể tìm thấy ảo ảnh của đối phương trong truyện. Không, Tiểu Chi nhất định phải để anh ấy nhìn thấy mình, khiến tình cảm của anh ấy trong câu chuyện hư cấu trở thành tình yêu trong hiện thực.”
Giây phút này, Tiểu Sảnh đã khiến tôi cảm động sâu sắc, tôi đã không kìm nén được hỏi: “Anh ta có gặp được Tiểu Chi không?”
Tiểu Sảnh bỗng nhiên tròn xoe mắt, cô ấy nhìn tôi nói: “Đương nhìn, anh ấy đương nhiên gặp Tiểu Chi rồi, thậm chí họ còn yêu nhau nữa.”
Trầm mặc, tôi chìm đắm trong suy tư dưới ánh nến hồi lâu.
Không, tôi không dám tin những gì cô ấy vừa nói, đó rốt cuộc là hoang tưởng của Tiểu Sảnh hay thực sự là linh hồn đang kể lại? Tôi từ từ đưa tay ra lau nước mắt trên mặt cô ấy, nước mắt cô ấy ấm nóng nhường vậy, nếu như rớt vào miệng chắc chắn sẽ mặn chát.
Tiểu Sảnh rốt cuộc nhắm mắt lại, toàn thân giống như co rúm lại đổ ra giường, miệng lẩm bẩm nói: “Xin lỗi… xin lỗi…”
Tôi cũng không gắng gượng được nữa ngả ra giường, bên tai vẫn văng vẳng những lời của Tiểu Sảnh. Sau đó, tôi thổi tắt nến, lên tầng ba đi ngủ.
Đêm nay, tôi rốt cuộc đã mơ thấy Tiểu Chi.

 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,359
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 25


NGÀY THỨ HAI MƯƠI LĂM
Buổi sáng, tôi dậy rất muộn, phát hiện Tiểu Sảnh đã rời khỏi quán trọ Hoang thôn, chắc là tới cửa hàng kem làm việc rồi.
Ăn sáng xong, tôi ngồi một mình một lúc, những lời Tiểu Sảnh nói với tôi đêm qua rốt cuộc là gì? Cô ấy nói cô ấy quen Tiểu Chi, có khi nào cô ấy quen Tiểu Chi trước khi Tiểu Chi chết? Hoặc là, Tiểu Sảnh có một khả năng đặc biệt nào đó có thể nhìn thấy sự vật của quá khứ? Không đúng, nếu vậy thì không phải là giống chiếc nhẫn ngọc sao? Tôi còn nhớ lúc mới quen Tiểu Sảnh, cô ấy toàn xuất hiện trong ga tàu điện ngầm, bởi vậy mới cảm nhận được mọi chuyện trong nhà ga để mà miêu tả tường tận vậy cũng nên.
Tôi tưởng tượng ra vô số những khả năng nhưng rồi lại tự mình gạt đi. Cuối cùng, tôi quyết định đi điều tra một chút về tình hình của Tiểu Chi.
Mấy tháng trước, tôi mới từ Hoang thôn trở lại Thượng Hải đã từng tới trường đại học của Tiểu Chi để tìm cô ấy. Nhưng kết quả là Tiểu Chi đã chết trong một tai nạn đường sắt hơn một năm trước. Nghe nói là lúc tàu điện vào trạm, cô ấy bị rơi xuống thềm ga, không may thiệt mạng. Lần đó do thời gian gấp rút, tôi chỉ hỏi chỗ phòng giáo vụ của nhà trường, còn bây giờ tôi phải đi tìm những bạn học của Tiểu Chi.
Buổi chiều, tôi tới trường đại học của Tiểu Chi. Sau vài lần hỏi thăm, tôi đã tìm thấy khu kí túc nữ sinh mà Tiểu Chi ở trước đây. Nhưng bà lão trông cửa phía dưới không để tôi lên, may mà tôi có quen một giáo viên trong trường, dưới sự giúp đỡ của anh ấy, tôi đã tìm thấy phòng kí túc trước đây Tiểu Chi ở.
Trong phòng có ba cô gái, một cô tóc dài, một cô tóc ngắn, còn một cô nhuộm tóc vàng. Trước tiên tôi tự giới thiệu với họ, họ lập tức reo lên, hóa ra họ cũng đã từng đọc "Hoang thôn" đăng vào tháng tư năm nay. Cô gái tóc vàng kêu lên: “Anh thật sự nhìn thấy hồn ma của Tiểu Chi sao?”
Tôi ngán ngẩm lắc đầu nói: “Đấy chỉ là tiểu thuyết mà thôi, các bạn đừng coi đó là thật.”
Tiếp đó, họ lại hỏi rất nhiều câu hỏi về truyện ngắn "Hoang thôn,” tôi đành phải giải thích tất cả đều là hư cấu. Cuối cùng, tôi thực sự không đợi được nữa nên liền ngắt lời họ: “Thôi được rồi, hôm nay tôi tới là muốn hỏi thăm về việc của Tiểu Chi.”
Cô gái tóc ngắn hỏi: “Anh thật sự không quen Tiểu Chi sao?”
"Tôi đã nói rồi, tôi chỉ biết tên của Tiểu Chi, thậm chí cô ấy trông thế nào tôi cũng không biết.”
“Được rồi, Tiểu Chi là bạn học, cũng là bạn cùng phòng của chúng tôi, về cái chết của cô ấy chúng tôi đều rất buồn,” cô gái tóc vàng lên tiếng, cô ấy cúi đầu hồi tưởng lại: “Còn nhớ ba năm trước, năm thứ nhất chúng tôi khai giảng, khi mới tới trường báo danh thì phát hiện có một cô gái rất xinh. Tuy tới từ vùng quê hẻo lánh, nhưng trên người cô ấy không hề có bất cứ vẻ quê mùa nào. Cô ấy nói tên mình là Âu Dương Tiểu Chi, thật là một cái tên khiến người ta phải ngưỡng mộ.”
“Có thể nói cụ thể chút không, cô ấy là người thế nào?”

Cô gái tóc dài tiếp tục nói: “Có lẽ là do khí chất bẩm sinh của Tiểu Chi khác với mọi người, cô ấy tạo cho người ta cảm giác có thể nhìn nhưng không thể chạm vào được. Rất nhiều nam sinh đều âm thầm thích cô ấy, nói thực lòng điều này khiến chúng tôi đều rất ghen tị, nhưng hình như chưa từng có nam sinh nào được cô ấy để mắt tới. Khi đối diện với nam sinh, cô ấy luôn lạnh lùng, còn nhường cơ hội tốt cho chúng tôi, điều này không phải cô gái nào cũng làm được.”
“Vậy thì, bình thường cô ấy giao tiếp với các bạn thế nào?”
“Tiểu Chi là một cô gái rất tốt, sự biết đối nhân xử thế của cô ấy khiến tôi cảm thấy hổ thẹn. Chỉ là cô ấy luôn ngẫm nghĩ vấn đề gì đó, nên xem ra rất hướng nội. Thực ra, trong phòng cô ấy cũng cố gắng nói chuyện như chúng tôi, có lúc không thấy cô ấy có gì khác lạ cả, chỉ là ánh mắt của cô ấy thực sự có gì đó khác với người trần tục.”
"Khác với người trần tục? Không phải thành Liêu Trai sao?” Tôi bỗng nhiên nhớ tới Tiểu Sảnh.
Cô gái tóc ngắn lên tiếng: “Đúng vậy, ánh mắt cô ấy luôn khác người, bất luận cô ấy gần gũi chúng tôi thế nào đi chăng nữa đều không thể gạt đi khí chất trên người cô ấy. Hơn nữa cô ấy rất thích đọc truyện cổ, ví dụ như ‘Liêu Trai’ này, ‘Duyệt vi thảo đường bút kí’ này, ‘Lạc phù thi tập’ này, ‘Sưu thần kí’ này, ‘Hồng lâu mộng’ này, miệng chốc chốc lại thốt ra vài câu thơ trong ‘Hồng lâu mộng,’ chúng tôi đều nói cô ấy là sinh viên khoa Trung văn bẩm sinh.”
Vừa dứt câu, cô gái tóc vàng cướp lời nói: “Nhưng kì lạ hơn ở chỗ, Tiểu Chi thường nói cô ấy luôn mơ thấy những thứ quái dị. Có một lần, phía sau tòa kí túc của chúng tôi thi công cải tạo nhà, cô ấy nói mình mơ thấy một giấc mơ, trong mơ có một đôi nam nữ tự tử vì tình. Quả nhiên, mấy hôm sau dưới đất đào lên được hài cốt của một đôi nam nữ, nghe nói là đã chôn cất hơn bảy mươi năm nay rồi. Còn nữa, cô ấy luôn nói mình thường mơ thấy một cô gái trốn trong nhà vệ sinh nữ khóc thút thít, làm chúng tôi sợ tới mức buổi đêm không dám đi vệ sinh. Sau này chúng tôi mới biết, mấy năm trước có một cô gái tự tử trong nhà vệ sinh nữ.”
“Có nghĩa là cô ấy có thể mơ thấy hồn ma? Vậy các bạn có sợ không?”
“Đương nhiên sợ rồi, nghĩ xem nằm bên cạnh anh là một thầy mo có thể nhìn thấy ma, anh có sợ không? Vì thế, sau này chúng tôi đều lảng tránh cô ấy, mỗi lần đi vệ sinh cô ấy chỉ đi một mình bởi người khác đều không dám đi cạnh cô ấy. Chúng tôi có lúc thậm chí còn không dám về phòng ngủ, đến cả đồ cô ấy dùng cũng rất kiêng kị. Có lần cô ấy giở cuốn sách của tôi ra, sau đó tôi không dám đọc cuốn sách đó nữa nên liền âm thầm đốt đi. Tiểu Chi sau khi biết việc này đã rất đau lòng, lặng lẽ khóc mấy lần cơ. Ôi, bây giờ nghĩ lại tôi thấy thật có lỗi với cô ấy, nhưng có ân hận cũng chẳng để làm gì cả.”
Tôi cũng thở dài, đau buồn thay Tiểu Chi: “Đúng vậy, các bạn tẩy chay cô ấy như vậy, coi cô ấy thành thầy mo quái vật, nhất định sẽ khiến cô ấy rất đau lòng.”
Cô gái tóc dài chêm lời: “Chính mấy hôm trước khi cô ấy xảy ra chuyện, cô ấy nói đêm nào cũng mơ thấy đường sắt, mơ thấy cô ấy xuyên suốt qua toa tàu điện ngầm, lao theo đoàn tàu. Thật không ngờ chỉ vài hôm sau, cô ấy thực sự đã xảy ra chuyện ở đó…”
Nói tới đây, cô ấy bỗng nghẹn lời. Cô gái tóc ngắn ôm lấy vai cô ấy nói: “Đúng, chúng tôi chưa từng nghĩ rằng rốt cuộc cô ấy lại chết, nghĩ tới hồi còn sống cô ấy phải chịu thiệt thòi, chúng tôi lúc đấy đều rất sợ hãi và cũng cảm thấy vô cùng hối hận. Mấy tháng đầu sau khi cô ấy mất, chúng tôi tối nào cũng bật đèn ngủ, lo sợ u hồn của cô ấy quay lại tìm chúng tôi trả thù. Dĩ nhiên, không thể có u hồn gì cả, hơn nữa Tiểu Chi cũng không thể là loại người đó. Cô ấy là người lương thiện và ôn hòa, từ trước tới nay không biết hại ai bao giờ… Chỉ trừ bản thân cô ấy?”
Thấy dáng vẻ đau buồn của các cô ấy, tôi chỉ còn cách an ủi họ nói: “Các bạn đừng tự trách mình nữa, Tiểu Chi cũng không muốn nhìn thấy những người bạn cùng phòng của mình đau buồn. Có lẽ, tất cả những điều này đều đã được định sẵn, Tiểu Chi không hợp với thế giới này, gốc rễ bi kịch đã sớm được gieo xuống. Đúng rồi, các bạn có ảnh của Tiểu Chi không?”
“Tôi vẫn còn vài tấm.”
Cô gái nhuộm tóc lấy từ trong túi ra một xấp ảnh, khó khăn lắm mới tìm ra được vài bức. Tôi đón những bức ảnh của Tiểu Chi xem xem, tức khắc ngỡ như bị người ta giáng ột nắm đấm thật mạnh.
Cô ấy rõ ràng là Tiểu Sảnh mà.
Tôi lập tức dụi dụi mắt. Không, tôi tuyệt đối không nhìn nhầm, ảnh rất rõ ràng, Tiểu Chi (Tiểu Sảnh) mặc một chiếc váy dài màu trắng, thân hình mảnh dẻ, mái tóc đen láy xõa ra, còn cả đôi mắt u buồn lấp lánh nhìn ưu tư đều không khác bất cứ thứ gì so với Tiểu Sảnh, họ căn bản chính là một người mà!
Rốt cuộc là chuyện gì đây? Lẽ nào Tiểu Chi có chị em sinh đôi? Không, chị em sinh đôi cũng không thể giống nhau nhường vậy. Tôi nhẹ nhàng vuốt lên bức ảnh của Tiểu Chi (Tiểu Sảnh), đôi tay cũng đang run rẩy, thậm chí chiếc nhẫn ngọc cũng âm ỉ thắt chặt lại. Ba nữ sinh đều nhìn ra có gì đó không bình thường, họ hỏi tôi: “Sao thế?”
Tôi đành phải cười gượng gạo nói: “Không sao cả. Tôi có thể đem bức ảnh này về không?”
Cô gái nhuộm tóc nhún nhún vai nói: “Được thôi, không vấn đề gì.”
“Cám ơn.”
Tôi lập tức nhét bức ảnh vào trong cặp, sau khi cảm ơn các cô ấy liền vội vàng chạy ra ngoài, rời khỏi ngôi trường này.
Khi tôi về tới quán trọ Hoang thôn thì bầu trời đã đầy sao. Tôi đi như chạy lên tầng hai, đẩy cửa thật mạnh thì phát hiện Tiểu Sảnh đang đợi tôi rồi.
Căn phòng vẫn sáng lên ánh nến âm u, cô ấy quay đầu lại lạnh lùng nhìn tôi, không nói lấy một câu.
Và cứ như vậy tôi và cô ấy đối mắt nhìn nhau hồi lâu, sau đó tôi lôi bức ảnh của Tiểu Chi từ trong cặp ra. Tôi đưa bức ảnh vào tay Tiểu Sảnh nói: “Người này là ai?”
Cô ấy cúi đầu nhìn bức ảnh, mặt vô cảm đáp: “Người này chính là em.”
“Để anh nói với em… Tên cô ấy là Tiểu Chi, đã chết hơn một năm trước do tai nạn đường sắt.” Sau đó, tôi bước lên phía trước một bước, nhìn thẳng vào mắt cô ấy nói: “Vậy em là ai?”

Ánh mắt cô ấy rốt cuộc cũng dịu lại, nhẹ nhàng nói: “Tên em là Âu Dương Tiểu Chi.”
Âu Dương Tiểu Chi? Cho dù đã có chút chuẩn bị tâm lí từ trước, nhưng tôi bất giác vẫn ngây cả người ra, tôi không dám tin khả năng này lại thực sự trở thành hiện thực, tôi cũng không dám tin rằng người con gái trước mắt mình đã ngọc nát xương tan từ lâu.
“Không, không nên nói như thế, đây chỉ là hoang tưởng của em mà thôi, tên em là Nhiếp Tiểu Sảnh, em bước ra từ trong Liêu Trai của Bồ Tùng Linh tiên sinh.”
Nhưng, cô ấy đau khổ lắc lắc đầu, lộ ra vẻ mặt ăn năn sám hối: “Xin lỗi, ngay từ đầu em đã lừa dối anh, hoặc là nói em lừa dối chính bản thân em. Tên em là Âu Dương Tiểu Chi, nhưng em luôn cố gắng quên đi cái tên của mình, quên đi quá khứ của mình, quên đi cố hương Hoang thôn của em. Em muốn có một cuộc sống hoàn toàn mới, bởi vậy phải có một cái tên hoàn toàn mới, cái tên này chính là Nhiếp Tiểu Sảnh. Em hi vọng mình trở thành Nhiếp Tiểu Sảnh, bởi vì cô ấy đã từng là cô gái bi thảm nhất thế gian này, nhưng kể từ sau khi cô ấy quen Ninh Thái Thần thì đã trở thành một cô gái hạnh phúc, và anh chính là Ninh Thái Thần của em.”
“Trở thành Nhiếp Tiểu Sảnh, nếu như anh nhớ không nhầm, Nhiếp Tiểu Sảnh vốn là một cô gái đã chết, sau này nhờ tình yêu nên đã có được cơ hội phục sinh.”
Cô ấy cuối cùng đã mỉm cười gật đầu: “Đúng vậy, đây chính là ước mộng của em.”
“Không, đó chỉ là tiểu thuyết mà thôi, không thể thành hiện thực được.”
“Đúng, mãi tới đêm qua em mới hiểu ra, Tiểu Chi chính là Tiểu Chi, Tiểu Chi vĩnh viễn không thể biến thành Tiểu Sảnh.” Nói đến đây, cô ấy lại nghẹn ngào.
Bỗng nhiên, môi tôi run rẩy hỏi: “Em… thực sự là Tiểu Chi?”
"Đúng, em chính là Âu Dương Tiểu Chi, cha mẹ là Âu Dương Gia Minh, em sinh ra ở một nơi gọi là Hoang thôn. Gia đình em có một ngôi nhà cổ rất to, có rất nhiều quy tắc và truyền thống kì quái. Lúc em còn rất nhỏ thì mẹ em đã qua đời rồi. Cha một mình nuôi em khôn lớn, em biết ông rất yêu em, luôn coi em là niềm tự hào của ông. Nhưng, tự đáy lòng em vốn không thích quê hương của mình, Hoang thôn xa cách với thế giới bên ngoài nhường vậy, phong tục thì cổ hủ nhường vậy, sinh sống ở nơi đó không thể có tương lai. Nguyên nhân khiến em từ nhỏ đã lao vào học hành cũng chính là để một ngày nào đó có thể rời bỏ Hoang thôn. Cuối cùng, em thi đỗ vào trường đại học ở Thượng Hải, em quyết tâm sau khi đã đến Thượng Hải thì sẽ không trở lại Hoang thôn nữa, em phải vĩnh viễn thoát khỏi bóng tối của Hoang thôn, tự do bay nhảy trong thành phố, tìm kiếm vùng trời của riêng mình.”
“Đúng, em hoàn toàn có thể làm được.”
Cô ấy hít một hơi thật sâu: “Em đã từng cho rằng tiền đồ của em êm đềm, cho rằng mình có thể trở thành bạn tốt của những bạn học, có thể hoàn toàn hòa nhập với xã hội này. Nhưng chẳng mấy chốc em đã phát hiện ra mình sai rồi, em khác họ từ tận xương tủy, em khác với mọi người như thế, bất luận em cố gắng thay đổi mình thế nào đi chăng nữa, nhưng đều không hòa hợp được với cái thế giới này. Vậy là, em càng ngày càng buồn bã, thường mơ thấy những việc kì quái và những việc kì quái này lại đều biến thành hiện thực. Các bạn học của em đều nói em có thể nhìn thấy ma, nói em là một thầy mo mê hoặc người khác, họ đều không dám nói chuyện với em, lúc nào cũng lảng tránh em, thường để em ngủ qua đêm một mình trong phòng. Bất luận em biểu hiện thân thiện thế nào, bất luận thành tích học tập của em tốt thế nào, đều không thể cải thiện được ấn tượng của họ đối với em.”
“Anh có thể hiểu được, em nhất định rất đau khổ?”
“Đương nhiên đau khổ, nhưng em làm được gì chứ? Nhưng em không hận các bạn của em, từ trước tới nay em chưa từng hận bất cứ ai, em chỉ hận chính bản thân mình, tại sao lại sinh ra ở Hoang thôn, tại sao lại sinh ra trong gia đình Âu Dương. Vậy là, em đã đổ hết oán hận lên người cha, cha thường viết thư cho em, nhưng từ trước tới nay em chưa từng trả lời thư. Bất luận cha khẩn cầu thế nào, mỗi năm nghỉ đông nghỉ hè em đều không về Hoang thôn, lòng dạ em sắt đá như vậy, một lòng một dạ muốn quên đi Hoang thôn. Cha mấy lần viết thư nhắc tới bí mật Hoang thôn, ông muốn em tới kì nghỉ hè về nhà một lần rồi sẽ kể lại hết cho em nghe toàn bộ bí mật đó.”
Tôi lập tức vội vàng hỏi: “Ông ấy không nói trong thư với em sao?”
“Không, cha nhất định phải đích thân nói với em, nhưng em đã hạ quyết tâm không trở về Hoang thôn nữa, vì thế mãi mà em vẫn không biết bí mật của gia tộc là gì.” Cô ấy đau khổ lắc đầu, đôi mắt sáng lên. “Sau đó, em dần dần phát giác chỉ có trong toa tàu điện ngầm em mới cảm thấy tự do, khi tàu điện lao qua đường hầm tăm tối, em cảm giác tim mình cũng bay theo. Chỉ duy nhất lúc đó em mới tự do thoải mái, không còn những ánh mắt chỉ trỏ, không còn bóng tối của cố hương thê lương, giữa trời đất này chỉ còn lại mình em bay lượn.”
“Sau đó xảy ra tai nạn trong ga tàu điện ngầm?”
“Em không biết rốt cuộc coi đó là gì, chỉ cảm thấy mình không hề đau đớn, mà đã bay lên thật cao, sau đó thì tới một thế giới hoàn toàn tối đen.” Trong ánh nến lấp lánh, cô ấy bình tĩnh tường thuật lại, giống như đang kể một câu chuyện đời thường. “Đó chỉ là cảm giác trong tức khắc mà thôi. Sau đó không biết bao lâu sau, em bỗng tỉnh dậy, phát hiện mình đang nằm dưới đường ray tối om. Vậy là em từ từ đứng dậy, cảm giác mình vẫn như trước đây, em đi đi lại lại trong sân ga nhưng không có ai nhìn thấy em. Khi tàu điện vào ga, em theo dòng người bước vào đó, đứng trong toa tàu chật cứng, vẫn không có ai nhìn thấy em. Từ đó về sau, em cứ xuyên suốt qua đường ray, những toa tàu điện mỗi ngày đều mang em đi, đưa qua xuyên qua thế giới trong lòng đất của thành phố này.”
“Em đã đi ngao du dưới lòng đất hơn một năm nay rồi?”
“Đúng vậy, sau đó em quen anh, rồi thích truyện của anh. Em vốn dĩ sắp quên mất mình là ai, nhưng sau khi đọc ‘Hoang thôn’ của anh, em dần dần hồi tưởng lại một số thứ. Vậy là, em tìm mọi cách để tìm thấy anh, hơn nữa còn muốn anh nhìn thấy hình dáng em.”
“Nhưng làm sao em làm được, tại sao trước đây anh không nhìn thấy em chứ?”
“Bởi vì, chỉ cần đáy lòng anh nhớ em, thì anh sẽ nhìn thấy em.”
“Anh hiểu rồi, thế nên em mới gửi email cho anh trước, sau đó lại gọi điện quấy rối anh.” Tôi đồng thời cũng hiểu ra, lúc đó tại sao mình lại có cảm giác bị theo dõi trong ga tàu điện ngầm, tại sao vừa nhìn thấy cô ấy liền liên tưởng tới Liêu Trai, bởi vì cô ấy đã khiến tôi tận đáy lòng nhớ “Nhiếp Tiểu Sảnh” rồi. “Đúng, em đã làm được rồi, lúc em vẫn tên là Nhiếp Tiểu Sảnh.”
"Lúc này, em chỉ có thể nói cảm ơn anh. Cảm ơn anh những ngày qua đã ở bên em, cảm ơn anh đã khiến em cảm nhận thấy những thứ rất đặc biệt.”
Tôi bỗng ngốc nghếch hỏi: “Đó là thứ gì?”
"Anh vẫn không hiểu sao?”

Thực ra, tôi đã hiểu rồi, đó là… tình yêu.
"Tiểu Chi…”
Tôi rốt cuộc thốt ra cái tên này, hai tiếng này tôi đã đắn đo trong cổ họng từ lâu rồi.
“Cảm ơn, cảm ơn anh.” Tiểu Chi cũng khẽ gật đầu, nước mắt đã đong đầy mắt cô ấy. “Xin lỗi, bây giờ em đã hồi tưởng lại mọi chuyện, em đã không còn là Nhiếp Tiểu Sảnh của anh nữa, mà là Tiểu Chi, người kế thừa cuối cùng của gia tộc Âu Dương cổ xưa.”
“Không, bất luận em là Nhiếp Tiểu Sảnh hay là Âu Dương Tiểu Chi, anh vẫn luôn yêu em. Không phải anh đã từng hứa với em sao? Anh mãi mãi không bao giờ rời xa em, mãi mãi không bao giờ để em thấy cô đơn.”
Nước mắt từ từ trào khỏi mi mắt Tiểu Chi: “Đó là lời hứa của Nhiếp Tiểu Sảnh với anh, nhưng Nhiếp Tiểu Sảnh đã không còn tồn tại nữa rồi. Tiểu Chi không cần lời hứa của anh, Tiểu Chi bây giờ đã hiểu ra rồi, em và anh thuộc về hai thế giới khác nhau, anh có không gian sống và tương lai của mình, em cũng có không gian sống và tương lai của em, chúng ta giống hai đường thẳng song song vĩnh viễn không bao giờ gặp nhau tại một điểm trong một ngày nào đó.”
“Tiểu Chi, lúc này không phải em đang nói chuyện với anh sao?” Tôi nắm lấy tay cô ấy đang run rẩy. “Em xem đi, không phải em đang thực sự ở đây sao? Em không phải là người của một thế giới khác, chúng ta có thể ở bên nhau.”
“Đó chỉ là cảm giác của anh, tất cả những điều này đều không phải là hiện thực, đối với anh đều chỉ là một giấc mơ. Nhiếp Tiểu Sảnh là một giấc mơ, Âu Dương Tiểu Chi cũng chỉ là một giấc mơ, tất cả Hoang thôn cũng đều chỉ là một giấc mơ.”
Tức khắc tôi ngây người ra: “Mơ?”
“Đúng vậy, hãy coi đó là một giấc mơ về sự khủng khiếp và tình yêu.” Cô ấy từ từ sát đến bên tôi, đặt môi lên tai tôi nói: “Xin lỗi, rất xin lỗi. Em bây giờ đã hiểu rồi, Âu Dương Tiểu Chi không thuộc về nhân gian này, cô ấy thuộc về thế giới Hoang thôn, và người cha yêu thương Tiểu Chi vô bờ bến đang đợi cô ấy trong ngôi nhà cổ Tiến Sĩ Đệ.”
“Đừng, em đừng đi…”
Bất giác mắt tôi bỗng ươn ướt.
Nhưng giọng điệu cô ấy kiên quyết nhường vậy: “Tiểu Chi phải trở về cố hương rồi, Tiểu Chi phải về đoàn viên với cha mẹ, Tiểu Chi sẽ mãi mãi nhớ tới anh.”
Tôi chỉ cảm thấy trời đất xoay chuyển, rồi cô ấy ôm chặt lấy tôi nói một câu: “Vĩnh biệt.”
Sau vài giây, cô ấy đột nhiên buông tôi ra, tức tốc quay người hướng ra cửa.
Không, tôi vội vàng đi theo sau cô ấy, nhưng trong hành lang tối om không nhìn thấy gì cả, tôi chỉ có thể lớn tiếng gọi cô ấy.
Nhưng Tiểu Chi của tôi đã mất tăm bóng dáng.
Tôi vội vàng chạy về phòng, lôi đèn pin ra tìm Tiểu Chi. Tôi lao xuống tầng trệt trước tiên xem sao, rồi lại lao ra cửa sau của quán trọ Hoang thôn. Trên công trường hoang phế trống trải bên ngoài, không có lấy một bóng người, chỉ còn mỗi ánh trăng mới nhú như chiếc đinh trên bầu trời.
Trên đống hoang tàn tôi gào thét gọi cô ấy, mãi tới tận khi cổ họng khản đặc. Tôi đi một vòng xung quanh, cuối cùng chạy tới đường An Tức, vẫn chẳng nhìn thấy ai. Dằn vặt khoảng mười phút đồng hồ, tôi rốt cuộc thẫn thờ đứng bên đường, tuyệt vọng ngẩng đầu lên trời.
Không hiểu tại sao, tôi bỗng nhớ tới “Tỳ bà hành” của Lí Thương Ân: “Tình này như khúc niệm buồn. Duy còn lại nỗi đâu thương vĩnh hằng.”
Tiểu Chi, anh còn có thể gặp lại em không?

 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,359
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 26-27


NGÀY THỨ HAI MƯƠI SÁU
Sau khi Tiểu Chi bỏ đi, tôi vẫn cứ ngồi cạnh đống đổ nát ãi tới tận nửa đêm mới quay lại tầng hai quán trọ Hoang thôn ngủ.
Buổi sáng, tôi từ từ tỉnh lại, vẫn theo thói quen gọi “Tiểu Sảnh,” mãi tới khi cả ngôi nhà đều vang vọng tiếng của mình, tôi mới nhớ lại tất cả những gì xảy ra đêm qua.
Cô ấy thực sự đi rồi sao?
Tôi lập tức mở tủ ra, nhưng bên trong đã không còn thấy bất cứ đồ đạc gì của cô ấy, đến cả một vết tích cũng đều không lưu lại. Lúc này, tôi mới phát hiện chiếc sáo mang về từ Hoang thôn cũng không thấy đâu, tôi tìm khắp cả tòa nhà đều không thấy, rõ ràng đã bị cô ấy đem đi rồi.
Đúng, chính là chiếc sáo đó, khi tôi thổi lên tiếng sáo, cô ấy bỗng chốc nhớ lại mọi chuyện. Có lẽ, đây cũng chính là nguyên nhân mà Âu Dương tiên sinh ngày đêm thương nhớ con gái đã nhờ tôi chuyển chiếc sáo này cho Tiểu Chi. Bởi vì chiếc sáo này đã ẩn chứa tình cảm của Hoang thôn cổ xưa, chỉ có nó mới có thể khiến Tiểu Chi từ trong mộng tỉnh dậy… Hồn về cố hương.
Đây chính là thiên mệnh giao cho tôi.
Nhưng bi đát ở chỗ, khi tôi đã hoàn thành sứ mệnh của mình, cũng là lúc tôi mãi mãi mất đi Tiểu Chi. Là tôi tìm thấy Tiểu Chi giữa biển người hoặc có thể nói là Tiểu Chi giữa biển người đã tìm thấy tôi. Lại là tôi khiến cô ấy từ trong suy nghĩ chủ quan tìm lại kí ức, từ đó sinh li tử biệt với mình.
Điều này thật quá mâu thuẫn, cũng thật quá đáng tiếc.

Nhưng, ngay từ đầu đã định sẵn rồi, Tiểu Chi vốn không thuộc về nhân gian chúng ta, chúng tôi thuộc về hai thế giới khác nhau, tuyệt đối không thể bên nhau được. Vì vậy chúng tôi chỉ có thể phân li, không thể có kết cục khác, đây chính là khoảng cách giữa người và ma, bi thương vạn cổ không thể đổi thay.
Cả một buổi chiều, tôi chìm đắm mãi trong đau khổ, nhưng không còn bất cứ cách nào có thể cứu vãn được. Bỗng nhiên, tôi giơ tay trái của mình lên thì phát hiện chiếc nhẫn ngọc vẫn đeo trên ngón tay mình. Tôi lập tức duỗi tay tháo nó ra, nhưng rút mãi mà vẫn không được, tôi lại đau khổ ngồi xuống.
Đột nhiên, tôi nhớ ra mình vẫn còn một thiên mệnh thứ hai, đó chính là đem chiếc nhẫn này trả lại Hoang thôn. Nó là thánh vật truyền đời của gia tộc Âu Dương, ai xâm phạm tới nó đều phải chịu sự nguyền rủa. Thế nên, việc duy nhất tôi có thể làm lúc này là đem trả lại nó, vật về nguyên chủ, trở lại mái nhà xưa.
Bất luận chiếc nhẫn ngọc có rơi khỏi tay tôi hay không, nhưng tôi nên thử xem, ít nhất là tâm tôi chân thành. Hơn nữa, những đồ ngọc từ Hoang thôn đem về vẫn đang ở trong chiếc cặp trên lầu ba, chúng nên trở về với lòng đất Hoang thôn.
Biết đâu… Tôi vẫn có thể gặp lại Tiểu Chi?
Đúng lúc tôi đang trầm tư thì đột nhiên nghe thấy tiếng bước chân rầm rập dưới lầu vọng lên, tôi vội vàng chạy xuống. Trong phòng khách, tôi nhìn thấy hai công nhân đang đội mũ bảo hộ lao động, hóa ra họ là công nhân thi công tháo dỡ, họ nói ngôi nhà này ngày mai đập đi rồi nên bảo tôi nhanh chóng dọn khỏi đây.
Đợi những người công nhân bỏ đi, trong lòng tôi càng trở nên trĩu nặng, tôi ngẩng đầu nhìn lên trần nhà, hình như nghe thấy tiếng thở sâu nào đó. Đúng rồi, kiến trúc của ngôi nhà này được xây dựng từ những năm ba mươi, ngày mai nó bị san bằng rồi, những người đã từng sống trong ngôi nhà này, linh hồn của họ dưới đất sâu sẽ không được an nghỉ.
Tôi chán nản lắc lắc đầu, chạy lên lầu hai sắp xếp đồ đạc. Sau đó lại lên lầu ba trèo lên gác xép trên trần nhà, lấy chiếc cặp da đựng đồ ngọc xuống, còn cả ảnh và sách mà Nhược Vân năm đó để lại, chúng không đáng bị hủy diệt.
Bận rộn mãi tới ba giờ chiều, tôi rốt cuộc cũng đóng gói xong tất cả đồ đạc. Tôi lấy điện thoại gọi một chiếc xe tắc xi chở hàng, đem tất cả những đồ này về nhà mình.
Lúc tôi rời khỏi quán trọ Hoang thôn, trời bỗng lất phất mưa. Tôi chăm chú nhìn ngôi nhà màu xanh lục này, nó giống như một ông lão sắp vào với quan tài, cô độc giãy giụa trong mưa gió thê lương. Lá Chi trinh đằng run rẩy trên tường, không biết chúng có biết số phận ngày mai của mình không nữa?
Vĩnh biệt nhé, quán trọ Hoang thôn.
NGÀY THỨ HAI MƯƠI BẢY
Hôm qua, tôi trở về nhà mình, chiếc nhẫn ngọc vẫn thắt chặt trên ngón tay, tâm trí tôi vẫn chưa đi khỏi quán trọ Hoang thôn, thậm chí vẫn giữ thói quen bật đèn buổi tối.
Sáng sớm tỉnh dậy, tôi đã không bao giờ còn ngửi thấy mùi Chi trinh đằng nữa rồi. Tôi bỗng có chút hoài niệm cái mùi nồng nặc trong không khí đó, có lẽ chúng đã hóa thành cát bụi.
Buổi chiều, tôi tới ga tàu điện ngầm, từ từ xuyên qua những đám người bận rộn, đảo mắt trên vô số những khuôn mặt xa lạ, hi vọng có thể xuất hiện kì tích. Đúng vậy, trên từng góc sân ga và toa tàu điện ngầm đều đã từng lưu lại dấu chân của cô ấy, từng giá sách trong hiệu sách dưới hầm cũng đều đã từng lưu lại bóng dáng cô ấy. Vậy mà, lang thang hai tiếng đồng hồ tôi cũng chẳng phát hiện được gì, ngược lại còn thu hút sự chú ý và cảnh giác của bảo vệ nhà ga.
Tôi đành phải rời khỏi ga tàu điện ngầm, đi bộ trên đường Thiển Tây Nam thì chợt nhìn thấy cửa hàng kem đó. Đúng, tôi đã từng đứng ở chỗ này, cách một con đường xe chạy như nước chảy nhìn cô ấy chăm chú trong cửa hàng kem. Tôi lập tức chạy qua đường, lao tới trước hàng kem thì thấy một cô gái cao ráo trong quầy.
May mà lúc này trước quầy kem không có người, tôi vội vàng nói: “Xin lỗi, ở đây có phải có một cô gái tên là Nhiếp Tiểu Sảnh không?”
Cô ấy ngây ra một lúc nói: “Tôi chưa từng nghe thấy người này.”

“Có lẽ cô không biết tên cô ấy.” Sau đó, tôi miêu tả tường tận lại cho cô ấy nghe về diện mạo và đặc điểm của Tiểu Chi (Tiểu Sảnh).
Cô gái cao ráo vẫn lắc đầu: “Chúng tôi ở đây không có ai như thế.”
Lúc này, trong tiệm kem lại đi ra một cô gái tóc nhuộm đỏ, tôi lại hỏi cô ấy câu hỏi giống như vậy.
Cô gái tóc đỏ nhún nhún vai trả lời: “Cửa hàng chúng tôi mới khai trương được một tháng, chỉ có hai chúng tôi bán thuê ở đây, không có người thứ ba nào cả đâu.”
Sao lại như vậy được? Lẽ nào tôi đã nhận sai cửa hàng rồi, tôi lùi lại mấy bước xem tên cửa hàng, rồi lại nhìn những cửa hàng xung quanh. Không sai, nhất định là cửa hàng này, tôi còn nhớ tôi đã từng mua kem trước quầy này, lúc đó chính Tiểu Chi (Tiểu Sảnh) đứng ở đây mà.
Tôi lại tiếp tục nói ra thắc mắc của mình, nhưng cả hai cô gái trong quầy kem đều liên tục lắc đầu, họ nói tuyệt đối không có người thứ ba bán thuê ở đây, còn Tiểu Chi (Tiểu Sảnh) mà tôi nói họ cũng chưa từng nhìn thấy. Cuối cùng, họ nói tôi đã làm ảnh hưởng tới việc kinh doanh của cửa hàng, nếu như không chịu đi thì họ sẽ gọi 110.
Chán nản, tuyệt vọng, tôi chỉ còn cách rời khỏi cửa hàng kem. Cô độc đi giữa dòng người như đang giăng mắc trên đường, lòng dạ rối bời, hai cô gái ban nãy, thực sự không giống như đang nói dối. Nhưng Tiểu Chi (Tiểu Sảnh) bán hàng trong quầy kem, cảnh tượng này là chính mắt tôi nhìn thấy… Lẽ nào, những gì tôi nhìn thấy không phải là thật, mà đó chỉ là hình ảnh hư ảo giống trên phim?
Không, tôi nhất định phải làm cho rõ ràng, ít nhất còn có một người từng nhìn thấy Tiểu Chi (Tiểu Sảnh), anh ấy chính là anh họ Diệp Tiêu của tôi.
Buổi tối, tôi vội vàng tìm tới nhà Diệp Tiêu. Tôi toàn đột ngột ghé thăm, còn anh ấy cũng ngại thái độ với tôi nên đành phải quan tâm nói: “Em dọn khỏi cái chỗ quái quỷ đó rồi à?”
“Vâng, bởi ngôi nhà đó hôm nay tháo dỡ rồi, có lẽ bây giờ đã thành đống hoang phế rồi cũng nên.”
Diệp Tiêu rốt cuộc đã mỉm cười: “Tốt nhất nên đập sớm đi, sao rồi? Cảm giác ổn hơn rồi chứ?”
“Không, em thấy còn tồi tệ hơn.”
“Lại xảy ra chuyện gì nữa?”
Tôi nghĩ đã đến lúc nói ra rồi: “Tiểu Sảnh rời xa em rồi.”
“Tiểu Sảnh?” Diệp Tiêu chau mày, hình như đang cố gắng nhớ lại. “Em hình như có nói qua, có một người tự xưng là Nhiếp Tiểu Sảnh thường quấy rối em, nhưng anh từ trước tới nay chưa từng gặp cô ấy.”
“Anh quên rồi sao? Anh đã từng gặp cô ấy, lần trước trong ga tàu điện ngầm, em nhờ anh giúp em tóm cái người đã đeo bám em.”
Diệp Tiêu trầm ngâm hồi lâu: “Đương nhiên anh không quên, lần đó cậu nói có người theo dõi cậu trong ga tàu điện ngầm, bởi vậy anh giúp cậu đi tóm người đó. Hôm đó anh thực sự đến ga tàu điện ngầm, canh chừng hơn một tiếng đồng hồ nhưng chẳng phát hiện ra bất cứ đối tượng khả nghi nào. Lúc đó anh vẫn còn chút việc cơ quan nên chào cậu ra về trước và không phát hiện ra bất cứ kẻ đeo bám nào.”

“Cái gì?” Ngôn từ của tôi cũng có chút biến dạng rồi, miệng há hốc, lưỡi cứng đơ. “Không thể, tuyệt đối không thể. Lúc đó, không phải anh rất nhanh đã phát hiện ra có một cô gái trẻ nhìn em chằm chằm sao? Khi cô ấy đi theo em lên sảnh ga, anh liền xong tới tóm chặt cô ấy, còn cô ấy thì ra sức chạy về phía trước, kết quả là bị em tóm lại.”
“Em điên rồi sao? Anh đâu có nhớ là đã xảy ra những chuyện này.” Diệp Tiêu cũng rất ngạc nhiên, anh ấy vỗ vỗ vào vai tôi nói. “Có phải mấy hôm nay căng thẳng quá không, đến nỗi xuất hiện trí nhớ ảo?”
“Trí nhớ ảo?”
Tôi bỗng nhiên bụm miệng lại, không dám nghĩ tiếp nữa.
“Trí nhớ ảo là cho rằng mình nhìn thấy người đặc biệt nào đó, hoặc là trải qua việc đặc biệt nào đó, nhưng trên thực tế những người và những việc này đều không tồn tại, chỉ là suy nghĩ chủ quan của mình mà thôi.”
Tôi đột nhiên giơ tay trái của mình lên, lẽ nào là do chiếc nhẫn ngọc? Không thể thế được, bởi vì lúc đó tôi vẫn chưa đeo nó lên mà. Lẽ nào trí nhớ của tôi có vấn đề, hay là Tiểu Chi vốn chỉ là một ảo ảnh?
Tức khắc, bên tai tôi dường như vang lên lời của Tiểu Chi.
"Chỉ cần lòng anh nhớ em, thì anh sẽ có thể nhìn thấy em.”
Đúng vậy, trước khi tôi tận mắt nhìn thấy Tiểu Chi, tôi đã giao lưu với cô ấy qua email và điện thoại, khiến cái người “Nhiếp Tiểu Sảnh” này khắc sâu vào trí não mình. Bởi vậy, khi cô ấy xuất hiện với thân phận “Nhiếp Tiểu Sảnh” thì tôi sẽ có thể nhìn thấy cô ấy do trong lòng tôi nhớ cô ấy. Đồng thời, cũng chỉ có mình tôi nhìn thấy cô ấy, còn với những người khác thì cô ấy chỉ là một làn sương khói không hề tồn tại.
Bây giờ, tôi đã hiểu ra mọi chuyện rồi: “Tiểu Chi, chỉ cần lòng anh nhớ em là anh sẽ có thể nhìn thấy em.”
Diệp Tiêu không hiểu ý của tôi: “Em đang nói gì vậy?”
Tôi cảm thấy mình giống như bủn rủn chạm tay, lắc lắc đầu nói: “Không có gì, cảm ơn anh, Diệp Tiêu.”
Sau khi cáo từ Diệp Tiêu, tôi tức tốc trở về nhà, thu dọn chỉnh đốn hành lí.
Tức khắc, tôi sờ lên chiếc nhẫn ngọc lạnh toát, hạ quyết tâm… sáng sớm ngày mai sẽ khởi hành đến Hoang thôn, bất luận có gì đó nguy hiểm nhưng cũng phải hoàn thành sứ mệnh của mình.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,359
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 28-29


NGÀY THỨ HAI MƯƠI TÁM
Lần thứ hai tôi bước lên chặng đường tiến về Hoang thôn.
Sáng sớm, tôi mang một chiếc va li đựng những đồ quan trọng bước lên chuyến xe khách đường dài hướng về thành phố K. Nhìn những thửa ruộng Giang Nam ngày hạ ngoài cửa sổ ô tô, hình như mọi thứ lại trở về điểm xuất phát ban đầu, chỉ là đổi sang mùa khác mà thôi. Nhớ lần đầu tiên tới Hoang thôn, trong lòng thấp thỏm bất an, sự hưng phấn và hiếu kì chiếm phần lớn. Nhưng lúc này, sau khi đã trải qua bao nhiêu việc, tâm trạng của tôi cũng trở nên trấn tĩnh dị thường, bởi vì chuyến đi lần này là để làm cái việc mà tôi bắt buộc phải làm.
Sau vài tiếng đồng hồ phóng như bay, buổi chiều tôi tới bến xe khách thành phố K. Sau đó, tôi không nghỉ chân mà ngồi ngay lên chiếc xe buýt nhỏ tới thị trấn Tây Lãnh, hai tiếng sau thì tới nơi. Đã hoàng hôn rồi, tôi ăn qua quýt bữa tối tại thị trấn Tây Lãnh, sau đó đi bộ ngay trong đêm để tới thị trấn Hoang thôn.
Đường lần trước đi vẫn nhớ rất rõ, hơn nữa tôi cũng đã xác định sẵn tư tưởng, bởi vậy khi đi cũng không quá mệt mỏi. Trên những dãy núi hoang vắng trong đêm mùa hạ này, bốn bề đều lộng gió biển mặn chát. Tôi đi liên tục mấy tiếng đồng hồ, rốt cuộc cũng vượt qua ngọn núi cuối cùng. Vùng biển đen trong đêm tối hiện ra trước mắt tôi, dưới dốc núi tọa lạc một ngôi làng tăm tối, tấm bia tiết hạnh trước cổng thôn vẫn nổi bật dưới ánh trăng như thuở nào.
Hoang thôn, tôi lại đến đây.
Bỗng nhớ lại hơn hai mươi ngày trước, khi bốn sinh viên tới đây, tâm trạng của họ thế nào? Ít nhất cũng không thể ngờ tới vận hạn đen đủi đang đợi họ.
Để lòng mình bình tĩnh lại cái đã, sau đó tôi sờ lên chiếc nhẫn ngọc, thì thầm: “Mày về nhà rồi.”
Đi qua chiếc bia tiết hạnh, tôi dò dẫm trong bóng tối tiến vào Hoang thôn.
Tuy đã là mùa hạ, nhưng không khí trong những con đường nhỏ ở Hoang thôn vẫn sát khí nhường vậy, xung quanh không có lấy một hơi người, tôi dựa theo trí nhớ để mò tới trước cổng Tiến Sĩ Đệ. Dưới ánh trăng lạnh lẽo, ngôi nhà từng oai nghiêm một thời đang lặng lẽ đứng sừng sững, toát ra hơi thở như sắp chết tới nơi. Đúng vậy, từ nay trở về sau, ngôi nhà cổ này sẽ chẳng bao giờ có người sống nào ở đây nữa, nó sẽ trở thành một ngôi nhà chết.
Nín thở, tôi nhẹ nhàng đẩy cổng, quả nhiên chỉ là đóng lấy lệ, chắc là bình thường các thôn dân cũng không dám vào đây. Tôi lập cà lập cập bước vào sân đầu tiên trong Tiến Sĩ Đệ, sau đó bật đèn pin.
Ánh sáng đèn pin đưa tôi tiến vào phòng khách, soi sáng ba chữ “Nhân Ái Đường” trước tấm biển, bên dưới vẫn là bức chân dung cổ nhân bằng giấy ống quyển. Ở đây vẫn giống như lần trước tôi nhìn thấy, cảm giác khiến người ta nghẹt thở.
Tôi tiến vào sân thứ hai trong Tiến Sĩ Đệ, ánh trăng vương vãi trên mảnh sân nhỏ cô đơn, giống như đang trở về một niên đại nào đó. Tôi nhẹ nhàng bước lên ngôi nhà gỗ cạnh đó, mở cửa một căn phòng. Chụm ánh đèn quét qua quét lại giữa những lớp bụi dày đặc, bỗng nhiên quét thấy một chiếc máy vi tính, bên cạnh còn có một chiếc ti vi, nhưng chúng đều tích đầy bụi, xem ra lâu lắm rồi không dùng đến. Cách bài trí của căn phòng này gần giống như ở thành phố, xem ra hình như là quế phòng mà Tiểu Chi từng ở.
Tim tôi bỗng nhiên trào dâng một cảm giác đau buồn man mác, tôi khẽ gọi hai tiếng: “Tiểu Chi.”
Lặng lẽ đợi vài phút, xung quanh vẫn chẳng có động tĩnh gì, dù biết rằng làm thế chỉ tổ uổng công nhưng trong lòng tôi vẫn hi vọng kì tích sẽ xuất hiện.

Không, kì tích không thể có được nữa.
Tôi lặng lẽ đi xuống căn gác nhỏ, rồi tới ngôi nhà phía sau đó. Mùa đông mấy tháng trước, tôi đã từng ở trong căn phòng trên ngôi nhà này. Đẩy tấm cửa quen thuộc ra, bên trong thấy rõ có chút xáo trộn, tôi biết bốn sinh viên đó cũng đã từng ở đây. Dưới ánh đèn pin mù mờ, bốn tấm bình phong sơn mài hiện rõ mồn một, nhìn những bức tranh sống động như thật này, tôi không tránh được tiếng thở dài.
Rời khỏi dãy nhà này, tôi lại tới sân sau của ngôi nhà cổ Tiến Sĩ Đệ. Trong vườn hoa cổ hoang dại này, cây hoa mai nổi bật nhất dưới ánh trăng, những nhành cây vươn ra trong đêm tối. Tôi chầm chậm tiến lại miệng giếng, nhìn một lần xuống giếng nhưng chẳng nhìn thấy gì trong bóng tối, chỉ cảm giác một luồng khí lạnh toát đang xộc lên mặt… dưới đáy chính là nơi chôn thân của “vợ thế.”
Cô lẽ, đây là một ngôi nhà tội ác.
Trở lại sân thứ hai trong Tiến Sĩ Đệ, tôi giơ cao tay trái của mình lên, chiếc nhẫn ngọc phát ra ánh sáng kì dị dưới ánh trăng, tôi nghĩ đã đến lúc rồi.
Tôi chỉnh đốn một chút túi hành lí, lấy từ trong đó ra một số công cụ cần thiết, ngoài ra còn có chiếc va li kia. Sau đó, tôi mang tất cả những thứ này, mở cửa căn phòng dưới tầng trệt, ánh đèn pin soi sáng một chiếc giường to, đây chắc là phòng của Âu Dương tiên sinh rồi. Tôi vòng tới cuối căn phòng, quả nhiên phát hiện trên tường có một chiếc cửa bí ẩn, xem ra hội Hoắc Cường khi bỏ đi đã chưa kịp lấy gạch bịt lại.
Tôi cẩn thận rón rén bước vào mật thất, rồi lại lấy đèn pin soi xuống phía dưới, những bậc cầu thang lập tức hiện ra. Chính là đây rồi, tôi hít một hơi thật sâu, từng bước từng bước đi xuống địa đạo.
Có lẽ, do chiếc cửa bí ẩn đã từng được mở ra, đường đi dưới lòng đất cũng ẩm ướt thấy rõ, từ góc độ bảo tồn văn vật cho thấy, đây vốn không phải là một việc tốt. Đi xuống khoảng chục mét, quả nhiên xuất hiện một chiếc cổng đá lớn, nhưng khóa cửa đã bị kẹp đứt rồi. Tôi tìm thấy chiếc khóa trên mặt đất, đó là loại khóa mà tôi thường thấy khi còn nhỏ, tôi nghĩ Âu Dương tiên sinh đã từng ra vào chiếc cổng này, vì thế mới sử dụng chiếc khóa này.
Bước vào cánh cổng đá, bên trong là một địa đạo dài, do đã chuẩn bị sẵn tâm lí nên tôi đi rất nhanh, mấy phút sau đã tới phòng khách dưới lòng đất – địa cung Hoang thôn thần bí.
Đột nhiên, tôi cảm thấy tay trái của mình nóng rực lên, chắc đó là tác dụng của chiếc nhẫn ngọc. Nhưng tôi gồng sức chịu đựng, dùng đèn pin soi một vòng quanh địa cung trước đã, hình như nhìn một lần cũng không thể thấy tận đáy.
Trên mặt đất phía sát tường, tôi phát hiện mười mấy vật bằng ngọc. Đúng, chắc chúng đều là đồ ngọc thời Lương Chử, tôi lập tức mở chiếc va li ra, cẩn thận lấy từ trong đó ra năm vật bằng ngọc.
Lúc này, những thứ ngọc hổ phách, ngọc bích và búa ngọc cuối cùng đã cùng nhau đoàn viên, giống như đã trở về cổ quốc Lương Chử năm nghìn năm trước. Chúng có lẽ sẽ vĩnh viễn ở lại trong đất.
Ánh sáng đèn pin lại rọi lên chiếc cửa nhỏ trên tường, đây chắc là cửa của mật thất địa cung? Tôi sờ tay lên đó, quả nhiên là được làm bằng chất liệu ngọc. Tôi nhẹ nhàng đẩy cánh cửa ngọc, khom lưng tiến vào gian mật thất này.
Mật thất rộng khoảng mười mét vuông, độ cao khiến tôi chỉ có thể cúi đầu, tôi dùng đèn pin quét một vòng, phát hiện trên mặt đất có một chiếc hộp. Tôi lập tức ngồi xổm xuống, dùng đèn pin soi cẩn thận, chiếc hộp này cũng được tạc bằng ngọc, chắc đây chính là chiếc rương ngọc.
Trên nắp rương ngọc vốn dĩ có miếng đất niêm phong, nhưng đáng tiếc là đã bị Hoắc Cường đập vỡ. Tôi nghĩ mỗi khi gia tộc Âu Dương mở chiếc rương ngọc này ra, rồi để đồ vào trong đó chắc đều sẽ lưu lại miếng đất niêm phong mới, đánh dấu do người nào đó niêm phong trong tháng trong năm nào đó.
Và chiếc nhẫn ngọc trên tay tôi, vốn dĩ phải cất giữ trong chiếc rương ngọc này.
Trầm ngâm hồi lâu, tôi cẩn thận tỉ mỉ mở chiếc rương ngọc ra, bên trong nghiễm nhiên là trống huơ trống hoắc.
Đối diện với chiếc rương trống trơn, tôi cảm thấy có chút hoảng sợ, đầu óc trống rỗng, không biết bản thân mình còn có thể làm được gì hay là thừa nhận thực tế không thể làm được gì?
Đột nhiên, tôi cảm thấy ngón tay trỏ của mình càng lúc càng nóng rẫy, dưới ánh sáng đèn pin soi rọi, chiếc nhẫn ngọc hơi có chút biến đổi, vệt đỏ đun rực rỡ hẳn lên, đây chính là máu của người con gái khát vọng tình yêu hơn bốn nghìn năm trước.
Tôi dường như không kiểm soát được mình nữa, bàn tay trái vô thức thò vào trong chiếc rương ngọc. Sau mấy giây, tôi kinh ngạc phát hiện chiếc nhẫn ngọc bắt đầu tuột ra.
Trời ơi, nó có thể cử động rồi.
Chỉ trong chớp mắt, chiếc nhẫn ngọc tuột khỏi ngón tay tôi, nhẹ nhàng rơi vào trong rương ngọc.
Tay phải của tôi vẫn nắm lấy đèn pin, sững sờ chứng kiến cảnh tượng này. Chiếc nhẫn ngọc hơn bốn nghìn năm tuổi này đã đeo trên ngón tay tôi mười ngày hôm nay, tôi đã từng tìm đủ mọi cách để tháo nó ra, lúc này thì lại có thể tháo ra nhẹ nhàng đến vậy. Còn tên ngón trỏ tay trái tôi, mọi cảm giác kì lạ đều tiêu tan rồi, ngón tay trơn tru lại trở về trạng thái ban đầu.
Nhìn chiếc nhẫn ngọc nằm im trong rương, dưới ánh sáng mờ ảo soi rọi của đèn pin trên tay, tôi bỗng nhiên hiểu ra rồi… đây chính là nhà của nhẫn ngọc. Đúng vậy, chiếc nhẫn ngọc đã từng khiến tôi nảy sinh ảo giác, đau khổ và tuyệt vọng. Nhưng tất cả những gì nó làm trên người tôi, đều chỉ vì giây phút trở về này.
Đúng vậy, chiếc nhẫn ngọc về nhà rồi.
Tôi bỗng thấy lòng mình nhẹ nhõm, dường như tất cả những khủng hoảng của mười ngày qua đều tiêu tan theo sự trôi tuột của chiếc nhẫn ngọc. Sau đó, tôi cẩn thận đóng nắp rương ngọc, đặt nó trở lại vào trong góc mật thất.
Tạm biệt nhé, nhẫn ngọc.
Tôi cúi đầu lùi khỏi gian mật thất, đóng chiếc cổng ngọc lại. Rốt cuộc, tôi thở một hơi dài, tôi biết rằng mình đã hoàn thành sứ mệnh, tất cả những thứ bị lấy đi giờ đây đều đã quay về với nguyên chủ, trở lại mái nhà xưa.
Hãy coi như mọi thứ đều chưa từng xảy ra.
Trước khi ra khỏi địa cung, tôi lại lấy đèn pin soi rọi, chỉ còn một đám khói đen âm u lạnh lẽo hay lơ lửng. Tôi thử bước vài bước về phía thâm cung, phát hiện không gian dưới lòng đất này thực sự rất rộng, giống như một khu khai thác đá dưới lòng đất vậy.

Bỗng nhiên, ánh đèn pin trên tay hiện lên một vùng ánh sáng lạnh lẽo màu xanh, tôi vội vàng bước lên phía trước vài bước. Đó là một khối ngọc thạch khổng lồ, bề mặt lồi lõm mấp mô, có rất nhiều vết tích khai thác của những người thợ, ánh sáng xanh kì dị đó được phản xạ từ đây.
Tôi cẩn thận giơ đèn pin, nhằm chuẩn vào mảng màu xanh trên ngọc thạch, rồi lại lấy tay tỉ mẩn sờ lên đó, một cảm giác lạnh toát thẩm thấu vào cơ thể. Phút chốc, tôi kinh ngạc tới nỗi không thốt nên lời, tôi đã phát hiện ra thứ gì?
Ngọc.
Đúng vậy, tôi đã phát hiện ra mỏ ngọc dưới lòng đất, khối thạch bích khổng lồ chính là khoáng thể ngọc thạch, tôi tính toán sơ qua một chút, ít nhất cũng phải dài tới hơn năm mươi mét, trên khoáng thể vẫn còn lại rất nhiều những vết tích bị khai thác. Có lẽ cả cái địa cung rộng lớn này đều đã từng là một phần của mỏ ngọc, do sau bao năm tháng khai thác tích lũy lại mới hình thành nên không gian rộng lớn này.
Tuyệt đối không thể nhìn lầm được, bao ngày nay tôi sống ngày sống đêm cùng đồ ngọc nên đã trở thành bán chuyên gia ngọc thạch rồi, mỏ ngọc dưới lòng đất này thật sự khiến người ta trầm trồ kinh ngạc.
Bỗng nhiên, tôi nhớ tới vấn đề Tôn Tử Sở nói, cũng chính là những chất liệu bằng ngọc mà văn minh Lương Chử năm nghìn năm trước sử dụng rốt cuộc từ đâu tới? Đây chính là vấn đề làm đau đầu giới sử học một thời gian dài. Bây giờ, tôi nghĩ rằng tôi đã tìm thấy đáp án rồi, chính là trước mắt tôi.
Ngay lập tức tôi đã hiểu ra. Vào năm nghìn năm trước, những nhà sáng lập ra cổ quốc Lương Chử đã đổ bộ lên Hoang thôn ngày nay định cư. Không lâu sau, họ đã phát hiện ra khoáng thể ngọc thạch khổng lồ ngay nơi dưới chân mình. Vậy là, họ đã khai thác một lượng ngọc thạch ở đây, sau đó lợi dụng sức mạnh thần bí của đồ ngọc, tiến vào lưu vực Thái hồ xây dựng nên Cổ Ngọc Quốc, cũng chính là văn minh Lương Chử mà ngày nay thường nhắc tới. Hôm nay, tất cả những đồ ngọc Lương Chử thần bí mà tôi nhìn thấy, vật liệu của chúng đều từ đây khai thác mà ra, tổ tiên của nhà Âu Dương đã lợi dụng nguồn tài nguyên ngọc thạch quý báu này sáng tạo ra thời đại văn minh đồ ngọc phát triển cao độ.
Bốn nghìn năm trước, văn minh Lương Chử do nhiều nguyên nhân mà bị hủy diệt, may mà Cổ Ngọc Quốc của họ vẫn sinh tồn, bởi vậy mới tháo chạy tới vùng đất Hoang thôn này vì là do ở đây có chôn giấu kho báu quan trọng nhất của họ - mỏ ngọc.
Đúng, đây cũng là nguyên nhân mà gia tộc Âu Dương định cư mãi ở Hoang thôn hàng ngàn năm này, bí mật mà họ muốn cất giữ trên thực tế chính là mỏ ngọc dưới lòng đất này. Chúng được coi là kho báu giàu có mà gia tộc để lại, là vùng đất thánh mà bất cứ ai cũng không được xâm phạm.
Đây chính là bí mật cuối cùng của Hoang thôn.
Thực sự không thể ngờ tới tôi đã dùng cách đặc biệt này để hóa giải một bí ẩn lịch sử trọng đại. Đã từng có không biết bao nhà sử học, nghiên cứu cả đời đều không thể làm sáng tỏ vấn đề này, hóa ra lại được tôi phát hiện ra. Nhưng sự trả giá cho điều bí mật này cũng quá lớn.
Đối diện với kho báu mỏ ngọc của cổ nhân đã khai thác năm nghìn năm trước, tôi thành tâm khom mình bày tỏ lòng thành kính, bởi vì mỏ ngọc cổ xưa này chính là bước đầu tiên mà nhân loại chinh phục tự nhiên bước vào nền văn minh.
Tôi lại nhớ tới những truyền thuyết của văn minh Lương Chử, và cả lai lịch thần bí của tổ tiên gia tộc Âu Dương, biết đâu họ thực sự không phải là loài người? Biết đâu tất cả những điều này đều liên quan tới ngọc thạch dưới lòng đất? Cũng giống như chiếc nhẫn ngọc có thể giúp tôi nhìn thấy quá khứ.
Lẽ nào mỏ ngọc ở đây có chôn giấu nguyên tố tự nhiên thần bí nào đó?
Nghĩ tới đây, tôi liền nhặt ngay vài mảnh ngọc thạch vụn trên đất, có thể đem chúng về Thượng Hải làm xét nghiệm khoa học, biết đâu lại là phát hiện trọng đại làm chấn động thế giới?
Nhưng sau vài chục giây do dự, tôi lại để những mảnh ngọc vỡ trở về chỗ cũ. Không, tôi không có quyền gì đem chúng đi, hãy để chúng được bí mật chôn vùi dưới lòng đất, vĩnh viễn không được quấy nhiễu chúng.
Tôi không cầm đi bất cứ thứ gì và vội vã rời khỏi nơi đây. Theo ánh đèn pin dẫn đường, tôi bước ra khỏi địa cung to lớn, trở lại đường đi dưới lòng đất. Khi đi qua cánh cổng đá, tôi đã đóng cửa lại, cố gắng hết sức không để không khí lọt vào bên trong.
Bước lên những bậc cầu thang đá dựng đứng, tôi rốt cuộc đã trở lại mặt đất. Sau khi bước ra khỏi mật thất trong phòng, tôi nhặt những viên gạch dưới đất lên, bít lại cửa mật thất. Sau đó, tôi kê lại chiếc giường vào trước cánh cửa bí mật, hoàn toàn che nó lại, và mong rằng sẽ không còn ai phát hiện ra sự tồn tại của nó nữa.
Trở lại sân, tôi hít lấy hít để không khí bên ngoài, ánh trăng vương vãi trên người tôi, hãy để ngôi mộ này vĩnh viễn đóng lại nhé.
Lúc này đã là mười hai giờ đêm, xem ra tối nay không về được nữa. Tôi đi tới căn gác nhỏ phía sau, trở lại căn phòng trước đây mình đã từng ở. Đêm cuối cùng ở trong Hoang thôn, tôi đã vội vàng lau chiếc giường gỗ rồi trải chiếc thảm lên trên. Trong căn phòng tối tăm cổ kính này, mãi mà tôi vẫn chưa ngủ được, hi vọng rằng lúc nào đó trong đêm, Tiểu Chi sẽ xuất hiện trước mắt tôi.
Tiểu Chi, em có đến không?
NGÀY THỨ HAI MƯƠI CHÍN
Tiểu Chi đã không xuất hiện.
Tôi thức trắng cả đêm, lặng lẽ chờ đợi kì tích xuất hiện. Tôi đã từng sợ hãi ảo ảnh và ác mộng nhường vậy, nhưng thời khắc này sao lại khát vọng chúng đến nhường vậy, chỉ để gặp được Tiểu Chi một lần. Vậy mà, cả Tiến Sĩ Đệ chết lặng giống như ngôi mộ, khi bên ngoài văng vẳng tiếng gà gáy, tôi hiểu rằng cô ấy sẽ không tới nữa rồi.
Sớm tinh mơ, tôi sắp xếp lại hành lí, quyết tâm không lấy đi bất cứ thứ gì ở đây. Sau đó, tôi lặng lẽ từ biệt Tiến Sĩ Đệ, khi tôi bước ra khỏi ngôi nhà cổ, trong lòng âm thầm thốt lên hai tiếng tạm biệt.
Gia tộc lâu đời kéo dài mấy nghìn năm này tới đây đã triệt để đoạn tuyệt rồi, mọi yêu, hận và tội ác đều đã khép lại trong ngôi nhà cổ này, không còn xâm nhập vào cuộc sống của người khác nữa.
Tôi khoác hành lí rời khỏi Hoang thôn, hình như không có ai phát hiện ra tôi, khi đi qua tấm bia tiết hạnh, những cơn sóng hung tợn phía xa xô bờ, lòng bỗng nảy sinh cảm giác kì lạ.
Bờ biển sớm tinh mơ mịt mờ sương khói, giống như khói mây đang lan tỏa trong những bức tranh Trung Quốc, mùa đông đến nơi đây, thật chưa từng thấy qua cảnh sắc này. Vậy là, tôi vô thức tiến tới bờ biển, leo lên những phiến đá lởm chởm, phát hiện dưới gốc núi là những ngôi mộ la liệt. Vô số những ngôi mộ dựng đứng dưới chân tôi, lặng lẽ nghe tiếng sóng biển.
Khi tôi ngước nhìn xung quanh, bỗng nhiên phát hiện trên vách núi cách đó vài trăm mét, hình như có bóng dáng một cô gái áo trắng. Dưới vách núi cheo leo là biển lớn, cô ấy đứng một mình cô độc hướng về phía biển, gió biển thổi tung sắc váy trắng cùng mái tóc dài đen tuyền của cô ấy, trông thật giống một bức tranh thủy mặc. Tuy khoảng cách khá xa, qua làn sương khói bên bờ biển chỉ có thể nhìn thấy chiếc bóng mờ ảo nhưng thân hình mảnh dẻ và mái tóc đen xõa ra đó lập tức khiến tôi nghĩ tới một người.
“Tiểu Chi?”

Giống như đang lê bước trên sa mạc xa xăm, đột nhiên phát hiện thấy một giếng nước ngọt, tôi không thể kìm nén được sự kích động, lập tức lao chạy về phía vách núi. Nhưng vách núi do thực sự quá cao, cả đường đi khúc khuỷu dựng đứng, tôi đành phải dùng cả tay để leo lên đó.
Mấy phút sau, tôi rốt cuộc cũng đã bò lên được vách núi một cách khó khăn, nhưng lại chẳng thấy gì trước mắt. Tôi lo lắng nhìn một vòng xung quanh, trên vách núi to nhường vậy, ngoài tôi ra chẳng có lấy một bóng dáng ai khác.
Tôi tuyệt vọng xông lên đỉnh dốc núi, tiến thêm một bước nữa đã là vực thẳm rồi. Độ cao từ vách núi tới mặt biển ít nhất cũng phải năm mươi mét, chỉ nhìn thấy bọt tung lên trời trắng xóa dưới chân phát ra những âm thanh đinh tai nhức óc. Một vùng khói ẩm ướt bao trùm lấy tôi, giống như bước ra từ trong mây.
“Tiểu Chi…”
Tôi hướng về phía mặt biển gọi to, tôi biết cô ấy có thể nghe thấy tiếng gọi của mình, tôi biết cô ấy luôn ở bên cạnh tôi.
Tiểu Chi đã từng nói với tôi một câu, đến tận bây giờ tôi vẫn khắc sâu trong lòng…
“Chỉ cần lòng anh nhớ em, anh sẽ nhìn thấy em.”
Tôi tin câu nói này là thật. Lúc này lòng anh nhớ đến em, nhưng tại sao anh không nhìn thấy em chứ?
Có lẽ, chắc là do em không nhẫn tâm để anh nhìn thấy em phải không?
Trên vách núi cheo leo dựng đứng này, tôi chờ đợi rất lâu, mãi cho tới tận khi ánh nắng đuổi sương khói đi, mặt trời chói chang trên mặt tôi. Nhưng kì lạ ở chỗ, gió trên mặt biển cũng dần lặng lại, đại dương vốn đang cuộn trào giây phút này đây lại giống như một mặt gương tĩnh lặng. Nhiệt độ cũng bắt đầu nóng lên dưới mặt trời chói chang, tôi cảm thấy toàn thân mình đổ mồ hôi, giống như đang từ bờ biển chuyển tới sa mạc vậy.
Bỗng nhiên, tôi nhìn thấy phía chân trời giao thoa với biển, dần dần hiện lên một khuôn mặt phụ nữ, giống như đang xem phim ngoài trời vậy, tôi lập tức nín thở, đó chắc chắn không phải là do ảo giác của tôi, đại dương dường như cong thành một màn hình, mặt trời biến thành máy chiếu phim, ánh nắng chiếu lên màn hình khổng lồ này khiến tôi từ từ nhìn rõ khuôn mặt đó – Tiểu Chi.
Đúng vậy, ở phía chân trời cô ấy đang mỉm cười, khuôn mặt bao trùm trong ánh sáng lung linh, giống như hình bóng Nhiếp Tiểu Sảnh dưới ánh nến. Mắt của cô ấy, lông mày và chiếc mũi đều dường như đang trùm lên một lớp voan mỏng, lại giống như bóng dáng được in lên mặt nước xanh biếc.
Tiểu Chi đang xa tận chân trời nhưng lại gần ngay trước mắt, dường như tôi giơ tay ra là có thể chạm vào cô ấy. Đột nhiên, khuôn mặt Tiểu Chi bỗng từ từ nhạt nhòa dần, tan biến trên không trung giống như nước chảy.
Tôi dụi dụi lại mắt, nhưng nhìn thấy biển trời đã trở lại như trước, vẫn là bầu trời xanh đó, biển đen đó, chỉ còn đường giao thoa giữa biển nơi cuối tầm mắt.
Mãi tới giờ phút này tôi mới hiểu ra, cảnh tượng kì dị vừa nhìn thấy ban nãy chẳng qua là “sự khúc xạ ánh sáng.”
“Khúc xạ ánh sáng” là một hiện tượng quang học, có thể truyền những cảnh tượng không cùng một thời điểm tới mắt người, thường xảy ra trên sa mạc hoặc trên biển.
Nhưng tại sao Tiểu Chi lại có thể xuất hiện trong “khúc xạ ánh sáng” chứ? Tôi không thể giải thích nổi hiện tượng này, có lẽ đây chỉ là sự thương cảm của ông trời dành cho tôi chăng.
Tôi nhớ mình đã từng xem qua một bộ phim, nam diễn viên chính đi qua sa mạc nhìn thấy khuôn mặt xinh đẹp của một cô gái hiện lên trong “khúc xạ ánh sáng” và đã yêu cô gái chưa từng gặp mặt ấy.
Nhưng tôi và Tiểu Chi hoàn toàn trái ngược.
Vậy là, tôi hít thật sâu không khí trên vách núi, rời khỏi nơi kì lạ này.
Đường xuống núi vẫn khó khăn nhường vậy, vất vả lắm mới tìm thấy đường tới Hoang thôn. Sau đó, tôi đi nhanh về phía thị trấn Tây Lãnh, trong lòng lại lẩm bẩm: “Vĩnh biệt nhé, Hoang thôn.”
Buổi trưa, tôi mệt mỏi rã rời về tới thị trấn Tây Lãnh, vội vàng ăn bữa trưa, sau đó ngồi xe buýt để kịp tới bên xa khách đường trường hướng về phía thành phố K, rốt cuộc cũng kịp chuyến xe cuối cùng trở về Thượng Hải.
Khi xe khách về tới Thượng Hải, bầu trời đã đầy sao. Tôi đeo hành lí bước ra khỏi bến xe, nhớ lại ngày đầu tiên của câu chuyện này lúc bốn sinh viên tìm đến nhà tôi hỏi thăm, trong lòng bỗng trào lên cảm giác buồn bã vô cùng.
Vậy là, tôi ngửa đầu nhìn lên bầu trời đầy sao bí ẩn, nhẹ nhàng thở dài: “Để mọi việc kết thúc đi nhé.”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,359
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 30


NGÀY THỨ BA MƯƠI
Hôm nay la ngày thứ ba mươi của câu chuyện này, cũng là ngày cuối cùng.
Không biết có nên viết ngày cuối cùng vào trong cuốn truyện này không nữa, trong vòng đúng ba mươi ngày, tôi đã trải qua những chuyện mà cả cuộc đời của rất nhiều người cũng không sao có thể trải nghiệm được. Đúng vậy, ba mươi ngày đêm khủng khiếp này, xuyên suốt cả truyền thuyết năm nghìn năm, còn cả tình yêu và thù hận khắc cốt ghi tâm đều đã được tôi thành thật ghi chép lại, viết thành cuốn tiểu thuyết tặng cho người bạn thân yêu của mình – bạn đang đọc cuốn truyện này.
Ba giờ chiều, chuông cửa bỗng vang lên, giống như tiếng chuông cửa ngày đầu tiên trong câu chuyện, lòng tôi bắt đầu hoài nghi. Đắn đo mở cửa nhà thì bỗng nhìn thấy ngoài cửa là một gương mặt trẻ.
Phút chốc tôi sững người ra, đây là một người mà tôi hoàn toàn không ngờ tới – Tô Thiên Bình.
Đúng vậy, vẫn gương mặt đó, chẳng qua là gầy gò trắng bệch hơn, tóc tai dài thườn thượt rối bù, bộ dạng giống như vừa ngủ dậy.
Đôi mắt sâu thẳm của cậu ấy nhìn xoáy vào tôi, chậm rãi nói: “Xin lỗi, tôi có thể vào trong không?”
Sau vài giây, tôi mới kịp phản ứng lại, vội vàng để Tô Thiên Bình bước vào rồi rót cho cậu ấy một cốc nước nóng. Cậu ấy bưng cốc ngẩng đầu lên, lộ ra nụ cười kì dị: “Anh cho rằng tôi chết từ lâu rồi phải không?”

Câu hỏi của cậu ấy khiến tôi chẳng biết trả lời làm sao, bởi vì tôi thực sự cho rằng cậu ấy đã chết từ lâu rồi, giống như Hoắc Cường và Hàn Tiểu Phong chết vì ác mộng, hoặc là trở thành bệnh nhân tâm thần giống như Xuân Vũ.
Không đợi tôi trả lời, Tô Thiên Bình tự hỏi tự trả lời: “Thực ra, ngay đến bản thân tôi cũng cho rằng mình chết từ lâu rồi.”
Tôi rốt cuộc cũng tự mình trấn tĩnh lại: “Những ngày đó cậu đi đâu vậy? Nhà trường tìm cậu khắp mọi nơi đấy.”
“Còn nhớ hôm đó không? Trong quán cà phê trước cổng trường, tôi đã hẹn anh nói chuyện cả một buổi chiều.”
“Dĩ nhiên nhớ rồi, kể từ đó anh đã bặt vô âm tín.”
“Chính trong tối hôm đó, tôi đã vào quán net lên mạng thâu đêm, do tôi thực sự không dám ngủ, sợ mình cũng giống như Hoắc Cường và Hàn Tiểu Phong, bị ác mộng Hoang thôn dọa cho tới chết. Tôi đã cưỡng ép mình ở trong quán net như vậy, chơi điện tử thâu đêm suốt sáng, chat với bạn bè ở khắp nơi, tất cả chỉ để trốn chạy giấc ngủ.”
“Cậu đã chịu đựng được bao lâu?”
Vẻ mặt của Tô Thiên Bình trở nên đau khổ: “Không nhớ rõ nữa, có lẽ hơn ba mươi tiếng đồng hồ cũng nên, tôi cứ ngâm mình trong quán net như thế. Bây giờ tôi mới hiểu ra, thức đêm còn đau khổ hơn cả cái chết, tôi gắng gượng hết sức trước màn hình máy tính, mãi tới khi đầu óc phình ra, hai mắt thâm đen, ngón tay không thể cử động được thì đột nhiên mất hết tri giác.”
“Coi như không bị ác mộng dọa chết, cậu cũng bị đột tử do lên mạng quá lâu.”
“Tôi mất đi tất cả tri giác, những việc sau đó tôi đều không rõ nữa. Đợi tới khi tôi tỉnh dậy từ cơn hôn mê, thì đã thấy mình đang nằm trên giường bệnh, thời gian là vào lúc sáu giờ sáng hôm qua.”
“Sáng sớm hôm qua?” Tôi lập tức nhẩm tính trong lòng. “Cậu đã hôn mê tới gần nửa tháng.”
“Đúng vậy, tôi vừa tỉnh lại đã hỏi ngay bác sĩ. Họ nói nửa tháng trước, do tôi bị kiệt sức nên ngất trong quán net và lập tức được đưa tới bệnh viện cấp cứu. Lúc đó, tình hình của tôi vô cùng nguy hiểm, bác sĩ cấp cứu cho tôi cả đêm mới cướp tôi trở lại khỏi miệng tử thần. Nhưng tôi vẫn trong cơn hôn mê, bất luận chữa trị thế nào cũng không thể tỉnh lại, bác sĩ nói tôi lúc đó có khả năng trở thành người thực vật.”
“Bệnh viện không thông báo cho trường cậu sao?”
Tô Thiên Bình vẫn lắc đầu: “Lúc đó trên người tôi không có bất cứ giấy tờ gì cả, không ai biết tôi là ai, bác sĩ gần như từ bỏ luôn việc chữa trị.”
“Thế cậu tự mình tỉnh lại?”
"Đúng thế, bác sĩ cũng không biết tại sao, họ cho rằng sự thức tỉnh của tôi có khả năng là một kì tích của sinh mệnh.” Tô Thiên Bình tự cười nhạo báng. “Bác sĩ lập tức tiến hành kiểm tra toàn bộ cơ thể tôi, phát hiện tôi đã cơ bản hồi phục mà không hề để lại bất cứ di chứng nào. Chẳng qua là hôn mê tới nửa tháng cơ thể tôi hơi có chút suy nhược mà thôi.”

“Những người hôn mê sâu sẽ không thể nằm mơ, có lẽ cậu nhờ vậy mà thoát được mất mạng.”
“Tôi không biết, nhưng tôi đã lượn một vòng trên môi tử thần rồi, bây giờ bất luận là ác mộng tới mức nào cũng không thể dọa được tôi nữa rồi. Tôi đã không còn sợ hãi bất cứ điều gì cả.” Ánh mắt Tô Thiên Bình dần dần sáng lên và có thần sắc trở lại, ngữ khí cũng tràn đầy tự tin. “Buổi sáng, tôi thông báo cho gia đình và nhà trường, họ nhanh chóng chi trả tiền viện phí cho tôi. Tôi cũng hỏi nhà trường về tình hình Xuân Vũ thì mới biết cô ấy đã bị đưa tới bệnh viện tâm thần từ lâu rồi. Tuy bác sĩ vẫn muốn tôi ở lại viện vài ngày để theo dõi, nhưng tôi vẫn tự mình ra ngoài, bởi vì người tôi thấp thỏm nhớ mong chính là Xuân Vũ.”
“Cậu đã tới bệnh viện tâm thần tìm cô ấy rồi?”
"Sáng nay, tôi đã gặp Xuân Vũ trong bệnh viện tâm thần, cô ấy vừa nhìn cái đã nhận ngay ra tôi, ôm chầm lấy tôi khóc. Thần kinh của cô ấy rất tỉnh táo, tư duy và ý thức rất bình thường, không hề có vẻ gì là bị tâm thần. Hôm qua, bác sĩ làm giám định bệnh tâm thần cho cô ấy, kết quả chứng minh cô ấy đã hoàn toàn bình thường. Xuân Vũ còn nói, sớm hôm qua cô ấy mơ thấy một giấc mơ rất kì lạ, mơ thấy cánh cổng của địa cung Hoang thôn đóng lại rồi.”
“Cổng địa cung đóng lại rồi?”
Tôi lập tức nhớ lại tất cả những gì mình đã làm dưới địa cung ở Hoang thôn thần bí nửa đêm hôm trước. Đúng vậy, tôi đã làm đúng.
“Đúng, sau khi mơ thấy giấc mơ đó, Xuân Vũ đã tỉnh lại, cô ấy nói cảm giác đầu óc mình vô cùng tỉnh táo, toàn thân đều hồi phục lại trạng thái như trước khi tới Hoang thôn. Đúng vậy, sáng hôm qua khi tỉnh dậy, tôi cũng có cảm giác như cô ấy, giống như được sống lại lần nữa.”
“Sống lại lần nữa? Đúng, trải qua những khảo nghiệm giữa sự sống và cái chết ở Hoang thôn, có thể may mắn tồn tại chính là sống lại lần nữa.”
Tô Thiên Bình bỗng lại gần tôi, nhìn vào mắt tôi hỏi: “Nói cho tôi biết, tất cả đều đã kết thúc rồi chứ?”
Nhưng tôi im lặng hồi lâu, trong đầu không ngừng lóe lên những kí ức về từng cảnh tượng đã chứng kiến trong những ngày qua. Đúng, giống như kết cục cuối cùng trong “Hồ thiên nga,” tất cả những lời nguyền đều đã được hóa giải, mọi thứ đã trở lại yên bình như lúc ban đầu.
“Đúng vậy, tất cả đã kết thúc rồi.”
Tôi gật gật đầu, chầm chậm trả lời.
Nước mắt Tô Thiên Bình bỗng rơi xuống, cậu ta nghẹn ngào nói: “Hôm nay tôi tới tìm anh, điều kì vọng chính là câu hỏi này, nhưng nguyện cầu cho Hoắc Cường và Hàn Tiểu Phong cũng có thể nghe thấy.”
Nói xong, cậu ấy cúi đầu quệt nước mắt nói: “Xin lỗi, ba mươi ngày trước đây, chúng tôi không nên đến làm phiền anh, hãy để mọi thứ yên ắng trở lại.”
Tô Thiên Bình rốt cuộc cáo từ tôi ra về. Nhìn cậu ấy vội vàng bước đi, tôi không biết nên nói gì, trải qua những đêm ngày hồn xiêu phách lạc đó, cậu ấy và Xuân Vũ có thể đi cùng nhau không?
Vậy là, tôi lặng lẽ nhủ thầm một câu: “Chỉ nguyện người trường cứu, ngàn dặm dưới trăng thâu.”

Hoàng hôn buông xuống, tôi trở lại đường An Tức lần nữa.
Dưới ánh hoàng hôn rực rỡ bao trùm, tôi tới công trường xây dựng bên đường An Tức. Nơi quán trọ Hoang thôn từng đứng sừng sững, giờ đây đã biến thành một đống gạch vỡ, chỉ còn lại vài đoạn tường đổ nát vẫn đang ngoan cường tồn tại giữa bãi hoang phế. Trong đống hoang phế vẫn còn rất nhiều những nhành lá xanh, đó chính là thi thể của những nhành Chi trinh đằng, chẳng mấy chốc chúng sẽ phân hủy trong mùa mưa gió này.
Đây có thể coi là tưởng niệm di tích không? Ít nhất, tôi cũng đã từng sống mười ngày trong ngôi nhà cổ kính đó.
Những oan hồn trong ngôi nhà số 13 đường An Tức đều đã yên nghỉ cùng con đường này, họ cũng sẽ không bao giờ có cơ hội để bị ai phát hiện ra nữa.
Màn đêm đã buông xuống, tôi rời khỏi đường An Tức, ngồi tàu điện ngầm về nhà.
Trên sân ga lạnh lẽo, biết bao người bận rộn đang chờ đợi, tôi đứng cô đơn giữa biển người. Khi tàu điện vang lên hồi còi tiến vào ga, mọi người đều nhanh như gió chui vào trong. Tôi bị họ đẩy vào giữa, vất vả lắm mới tìm thấy một vị trí đối diện cửa sổ, hít thở có chút khó khăn.
Đoàn tàu xuyên qua đường hầm tối tăm, trong toa tàu lắc lư, chen chúc, tôi ngửi thấy rất nhiều mùi kì lạ, lúc này luôn khiến người ta mơ màng buồn ngủ. Bỗng nhiên, tôi ngước mắt nhìn lên cửa sổ trước mặt, khuôn mặt tôi lờ mờ hiện lên. Trong bóng tối của đường hầm, khuôn mặt tôi lúc ẩn lúc hiện chính giữa cửa kính, giống như đang soi vào một tấm gương trong đêm tối. Sau khi trải qua sinh li tử biệt, tôi phát hiện ra mình tiều tụy thế này đây, mặc cho đoàn tàu đưa tôi lao đi.
Bỗng nhiên, hình như trên chính giữa cửa sổ đã hiện lên một khuôn mặt khác. Giữa ánh đèn trắng trong toa tàu và bóng tối của đường hầm, khuôn mặt đó từ từ hiện lên, mái tóc dài đen mượt của cô ấy vẫn xõa sau vai, đôi mắt ánh lên vẻ u buồn man mác, ánh mắt đó chỉ duy nhất “Nhiếp Tiểu Sảnh” mới có được.
Đoàn tàu tiếp tục lao đi trong đường hầm, dường như hầu hết mọi người trong toa đều đã ngủ thiếp đi, chỉ có duy nhất tôi có thể nhìn thấy khuôn mặt cô ấy trên chính giữa cửa sổ. Vậy là, tôi không thể quay đầu đi, chỉ có thể nhìn vào cửa kính trước mặt, tôi biết cô ấy đang đứng sau lưng mình, giống như hai người đang cùng soi vào một tấm gương. Trong toa tàu chật chội dưới lòng đất, chúng tôi cùng nhìn vào mắt nhau, đây là bí mật chỉ thuộc về hai chúng tôi mà thôi.
Chỉ cần lòng anh nhớ em, anh nhất định sẽ nhìn thấy em.
Phút chốc, tôi cảm nhận cả thành phố này đang trở nên yên tĩnh, chỉ trong sâu thẳm dưới lòng đất này, vẫn còn có hai ánh mắt yêu thương sâu nặng, cùng nhau xuyên qua không gian u buồn, gặp lại nhau trên cùng một tấm kính đang vút bay.
Sái Tuấn
20 tháng 6 năm 2004

 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,359
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 31: Chương ngoài phần 1


(TRUYỆN NGOÀI) – HOANG THÔN
- 1 -
Mấy tuần trước, tôi có một chuyến du lịch ngắn ngày tới vùng ven biển Chiết Giang và đã trải qua một việc hết sức kì lạ. Những độc giả tò mò cứ truy hỏi tôi đã đi đâu, bây giờ, tôi sẽ nói với các bạn – đó là một nơi tên là Hoang thôn.
Mọi thứ đều bắt đầu từ cuốn “Quán trọ u hồn” của tôi gần đây mà ra, giống cái tên của nó, câu chuyện trong cuốn tiểu thuyết kinh dị này xảy ra tại một nơi gọi là quán trọ u hồn, quán trọ u hồn chính là tại Hoang thôn – một sơn thôn nhỏ của Chiết Giang, tọa lạc giữa biển và nghĩa trang, do một mặt hướng về phía biển hoang sơ, nên nó có tên gọi là Hoang thôn. Trên thực tế, tôi chưa từng tới Hoang thôn, bởi vì địa danh này đơn thuần chỉ là do tôi hư cấu nên để tạo nên một địa danh độc đáo cung cấp cho tiểu thuyết. Tôi nghĩ nếu như không phải do lần kí tên bán sách đó, thì có lẽ Hoang thôn vĩnh viễn chỉ có thể tồn tại trong trí tưởng tượng của tôi mà thôi.
Kí tên bán sách “Quán trọ u hồn” được tiến hành trong một hiệu sách tại ga tàu điện ngầm. Không hiểu vì lí do gì, họ lại bố trí thời gian kí tên bán sách sau bảy giờ tối. Tối đó tôi ngồi sau chiếc bàn đặt gần cửa ra vào hiệu sách, hoạt động kí tên bán sách tiến hành trong khoảng hai tiếng đồng hồ, kết quả rất khả quan.
Đúng chín giờ là hiệu sách đóng cửa, người qua lại trong tiền sảnh nhà ga cũng dần thưa thớt, tôi ngồi một mình bên bàn kí sách, cúi đầu sắp xếp đồ đạc chuẩn bị ra về.
Bỗng nhiên, bên tai truyền lại tiếng bước chân nhẹ nhàng, tôi lập tức ngẩng đầu lên thì nhìn thấy một cô gái trẻ đang đứng trước mặt mình. Cô ấy mặc một chiếc áo len rộng thùng thình, không hề vừa vặn với cơ thể, vạt áo gần như chạm tới cả đầu gối, sau lưng khoác chiếc cặp giả da giá rẻ, mái tóc đen dài được chải đuôi ngựa, xem dáng vẻ giống một nữ sinh đại học.
Cô ấy cụp mi xuống, hai tay cầm cuốn “Quán trọ u hồn” của tôi, không nói lấy một lời đặt cuốn sách lên bàn kí tên. Lúc đó tôi có chút ngỡ ngàng, đêm đông rét mướt cắt da cắt thịt của Thượng Hải, điều hòa nhiệt độ cùa hiệu sách bị hỏng đang khiến tôi rét run cầm cập. Cô ấy chính là độc giả cuối cùng kí tên trong buổi tối hôm đó nhưng sắc mặt lại vô cảm, không nói lấy một lời, giống như đang quẳng sách cho nhân viên thu ngân vậy. Tôi ngừng lại hồi lâu, ngẩng đầu tỉ mỉ nhìn cô ấy, đó là một khuôn mặt thanh tú, khiến thu hút người đối diện, thậm chí còn khiến người ta nảy sinh cảm giác thương cảm. Tôi lật trang đầu tiên của cuốn sách, nhìn vào mắt cô ấy hỏi: “Xin hỏi tên của cô?”
Cô ấy hơi ngỡ ngàng, mí mắt lại cụp xuống, trả lời bằng giọng nhỏ nhẹ: “Tiểu Chi.”
“Tiểu Chi?” Thật kì lạ, tôi lập tức nghĩ tới tên của một chiếc sáo. “Là Tiểu Chi trong từ tiểu đại, Chi trong từ chi cảnh ư?”
Cô ấy không nói gì, chỉ gật gật đầu.
Tôi chau mày, viết lên trang đầu dòng chữ “Tiểu Chi gìn giữ,” sau đó kí tên. Tôi trao sách vào tay cô ấy nói: “Cảm ơn cô, muộn thế này rồi mà còn tới mua sách của tôi.”
Cô ấy rốt cuộc mở to mắt nhìn tôi, hình như muốn nói điều gì đó, môi mấp máy nhưng không thốt nên lời. Tôi nhướn nhướn lông mày, ám thị để cô ấy trấn tĩnh lại. Cuối cùng, cô ấy hít một hơi thật sâu nói: “Tôi đến từ Hoang thôn.”
Ban đầu, tôi vẫn chưa hiểu ra nhưng cô ấy cứ nhìn tôi chằm chằm như vậy cho tới khi sắc mặt tôi có chút biến đổi – Hoang thôn? Trong đầu tôi rốt cuộc đã lướt qua cái địa danh trong chính tiểu thuyết của mình. Tôi kì quái nhìn cô gái tên là Tiểu Chi đang đứng trước mặt mình, lẽ nào cô ấy từ trong tiểu thuyết của tôi bước ra?
Đối diện với ánh mắt sắc nhọn của tôi, cô ấy lại cúi đầu, miệng lẩm bẩm thốt ra vài từ gì đó nghe không rõ, hình như là nói “Xin lỗi.” Cô ấy cầm quyển sách bước tới trước quầy thu ngân trả tiền rồi vội vàng đi khỏi hiệu sách.
Hoang thôn? Tim tôi dường như bị cái gì đó tóm lấy, lập tức xoáy chân lao ra khỏi hiệu sách, trước khi tiến vào cửa soát vé một giây, rốt cuộc cũng gọi được cô ấy dừng lại. Cô ấy hơi giật mình, bối rối quay đầu lại: “Xin lỗi, có việc gì không?”
Thực ra tôi còn bối rối hơn cô ấy, căng thẳng xoa tay nói: “Tôi có thể… có thể mời cô uống cốc trà không?”

Cô ấy đắn đo một lúc: “Được thôi, tôi cho anh mười phút.”
Ba phút sau, tôi đưa cô ấy vào một quán trà phía trên ga tàu điện ngầm. Cô ấy ngồi đối diện với tôi, vẫn không nói lấy một lời, chỉ cúi đầu nhâm nhi trà. Tôi nhìn nhìn đồng hồ, thời gian cô ấy dành cho tôi không còn nhiều nữa rồi, tôi ho một tiếng nói: “Xin lỗi, cô nói… cô đến từ Hoang thôn?”
Tiểu Chi rốt cuộc đã ngẩng đầu lên, nhìn vào mắt tôi, cầm gật nhẹ.
“Hoang thôn ở đâu”
“Tại thị trấn Tây Lãnh của thành phố K tỉnh Chiết Giang. Giống như trong tiểu thuyết của anh viết vậy, Hoang thôn tọa lạc giữa biển và nghĩa trang.”
Nhìn đôi mắt đen láy như ngọc thạch của cô ấy, tôi tin cô ấy không nói dối: “Cô nói là Hoang thôn thực sự tồn tại sao?”
“Đương nhiên, Hoang thôn đã tồn tại mấy trăm năm nay rồi. Tôi sinh ra ở Hoang thôn, lớn lên ở Hoang thôn, tôi chính là một người dân Hoang thôn.” Cô ấy lảng tránh ánh mắt tôi, nhẹ nhàng nói: “Tôi nghĩ anh nhất định chưa từng tới thị trấn Tây Lãnh, càng không thể tới Hoang thôn?”
Tôi bỗng nhiên có chút bối rối: “Đúng, tôi chỉ nhìn thấy thị trấn Tây Lãnh trên bản đồ, còn về Hoang thôn thì hoàn toàn là do tôi tưởng tượng ra, tôi thấy cái tên này rất phù hợp với không khí mà tiểu thuyết cần. Tôi không ngờ rằng Hoang thôn thực sự tồn tại, lại còn có cả một người Hoang thôn đến xin chữ kí, cảm ơn cô nói với tôi những điều này.”
“Thực ra, hôm nay tôi chỉ tình cờ đi qua đây, chuẩn bị ngồi tàu điện ngầm về trường thì nhìn thấy quảng cáo trước cửa hiệu sách. Mấy hôm trước tôi có xem qua cuốn truyện này của anh, nó đã để lại cho tôi ấn tượng sâu sắc, thế nên tôi vào mua một quyển xin chữ kí của anh.”
“Nói như vậy thì trùng hợp rồi. Tôi cũng rất trùng hợp khi viết về Hoang thôn tồn tại trong hiện thực vào tiểu thuyết, còn cô là một người dân Hoang thôn lại rất trùng hợp gặp tôi trong hiệu sách dưới ga tàu điện ngầm.”
Tiểu Chi khẽ gật đầu.
Tôi tiếp tục hỏi: “Ban nãy cô vừa nói muốn ngồi tàu điện ngầm về trường? Cô học đại học ở Thượng Hải sao?”
"Đúng, năm nay năm thứ hai.”
Bỗng nhiên, tôi giơ cổ tay nhìn đồng hồ nói: “Thời gian cô cho tôi hết rồi.”
“Ngại quá, ngày mai tôi còn phải thi nên phải về trường sớm.”
Cô ấy vội vàng đứng dậy, vẫn cứ cúi đầu bước ra ngoài. Đúng lúc này, lòng tôi đã ra một quyết định quan trọng, tôi lập tức chạy lên gọi cô ấy lại: “Tiểu Chi, cô thi xong thì trường cũng nghỉ đông đúng không?”
“Đúng, đợi tới khi nghỉ đông tôi sẽ về nhà.”
“Về Hoang thôn?”
Tiểu Chi hình như có chút sợ hãi: “Đương nhiên.”
“Tôi cũng muốn đến Hoang thôn.”
“Cái gì?” Cô ấy hiển nhiên chưa chuẩn bị trước tâm lí, chỉ hoang mang lắc đầu nói: “Không thể được… cái này không thể được… xin đừng đùa cợt như thế.”
“Tôi không đùa cợt, đã quyết định rồi. Tôi chỉ muốn đến xem cái nơi đã xuất hiện trong tiểu thuyết của tôi, chắc là rất có ý nghĩa. Cô nói Hoang thôn giống hệt như trong tiểu thuyết viết, nằm giữa biển và nghĩa trang. Đã trùng hợp vậy rồi, thì số tôi nhất định có duyên với Hoang thôn. Tiểu Chi, cô chỉ cần dẫn đường cho tôi là được rồi.”
Cô ấy nhìn vào mắt tôi, nhíu mày lùi lại một bước, tôi chỉ cảm thấy trên người cô ấy toát lên chút sợ hãi. Cô ấy bắt đầu thở dốc: “Không, tôi không biết…”
Tôi cười bối rối nói: “Dĩ nhiên, chúng ta chẳng qua là hai người không quen biết gặp nhau, cô đương nhiên có thể nói không với tôi. Như thế này vậy, tôi đưa danh thiếp cho cô, nếu như cô đồng ý đưa tôi tới Hoang thôn thì gọi điện cho tôi.”
Nói xong, tôi tự mình nhét danh thiếp vào tay Tiểu Chi, cô ấy tay chân cuống quýt, quay đầu đi giống như con thú nhỏ trốn chạy người thợ săn, vội vàng chạy khỏi quán trà. Tôi chậm rãi theo sau, nhìn cô ấy mất hút nơi góc phố Thượng Hải lạnh giá.
Cô ấy đến từ Hoang thôn.
- 2 -
Hai tuần qua đi, Tiểu Chi vẫn không liên lạc với tôi, tôi nghĩ cô ấy có thể là đã về Hoang thôn rồi, có thể Hoang thôn vốn không tồn tại, chẳng qua là cô ấy đùa cợt mình mà thôi? Tôi gần như đã quên mất việc này, quên cả cô gái tên là Tiểu Chi.
Nhưng vào một buổi sáng sớm, chuông điện thoại đột ngột vang lên, tôi mắt mũi nhập nhèm nghe điện thoại, nghe thấy giọng con gái nhỏ nhẹ… Sau vài giây bất ngờ, mắt tôi bỗng nhiên mở to, là cô ấy?
Là cô ấy. Sáng sớm, Tiểu Chi bỗng nhiên gọi điện thoại cho tôi, vẫn là ngữ khí và giọng nói đó: cô ấy đồng ý đề nghị của tôi, có thể đưa tôi tới Hoang thôn, sáng mai gặp nhau tại bến xe khách liên tỉnh.
Sáng sớm hôm sau, tôi tới bến xe khách đúng giờ. Đang là thời kì cao điểm, tôi chen chúc trong đám người hồi lâu mãi mới phát hiện ra Tiểu Chi. Tôi vẫy vẫy tay về phía cô ấy, biểu hiện của cô ấy có chút ngạc nhiên, miễn cưỡng gật đầu.
Nửa tiếng sau, tôi và Tiểu Chi bước lên một chiếc xe khách liên tỉnh, trạm cuối cùng là thị trấn Tây Lãnh thành phố K. Cô ấy ngồi ở ghế cạnh cửa sổ, trên người mặc một chiếc áo khoác dày cộm, cổ quấn khăn che cả cằm và hai má. Xe buýt ra khỏi thành phố, những máng ruộng vườn vàng đậm hai bên đường cao tốc Lô Hàng, cảnh sắc dần dần trở nên đơn điệu, chuyến đi ủ ê đó còn phài kéo dài bảy tiếng đồng hồ. Tôi càng lúc càng cảm thấy bối rối, Tiểu Chi từ lúc lên xe không nói lấy một câu, dường như nhìn mà coi như không thấy sự tồn tại của tôi. Hình như bên cạnh cô ấy, có một lan can tạo thành từ không khí, giam cầm nhốt chặt cô ấy bên trong, nếu như bước qua thì sẽ là vực sâu thẳm.
Xe khách sau khi tiến vào địa phận Chiết Giang, tôi rốt cuộc không nhịn được nữa bèn nói: “Tại sao không nói chuyện?”
Tiểu Chi rốt cuộc né người sang một bên: “Anh muốn tôi nói gì?”

“Tùy ý cô. Lẽ nào cô sợ đưa tôi tới Hoang thôn? Tự nhiên thấy hối hận?” Tôi nhìn thẳng vào mắt cô ấy, cúi đầu nói: “Nếu như cô bảo hối hận, tôi sẽ xuống ngay ở trạm tới và quay lại Thượng Hải.”
Cô ấy kéo khăn quàng cổ xuống, rầu rĩ nói: “Không, tôi không hối hận, chẳng qua là chẳng biết nên nói gì cả.”
“Nói về Hoang thôn đi.”
“Chỉ là một thôn nhỏ bình thường, một bên là biển, một bên là nghĩa trang.”
“Ngoài ra thì sao?” Tôi nhìn vào mắt Tiểu Chi hỏi. Nhưng cô ấy luôn lảng tránh ánh mắt của tôi, tôi có thể phát giác ra trong ánh mắt cô ấy đang ẩn chứa thứ gì đó khiến người ta khủng hoảng và cô ấy đang cố gắng hết sức không để tôi phát hiện ra điều đó. Còn nhiệm vụ của tôi chính là phải moi móc những thứ này ra từ ánh mắt cô ấy, giống như một hoạt động khảo cổ thần bí. “Hình như cô từng nói, Hoang thôn đã tồn tại mấy trăm năm rồi?”
“Theo như cha tôi nói, tổ tiên của người Hoang thôn đến từ trung nguyên, sau biến cố Tĩnh Khang triều Tống, họ đã theo Tống Cao Tông – Tống Triệu Cấu chạy tới Chiết Giang. Bởi vậy những nạn dân từ nơi khác xa xôi tới, chỉ có thể định cư trên bờ biển hoang sơ này.”
“Thế tính ra cũng được mấy trăm năm rồi.”
Lúc này, Tiểu Chi lặng lẽ quay đầu lại, ánh nắng ngày đông xuyên thấu qua cửa sổ soi đèn lên khuôn mặt cô ấy, giống như một lớp mạ vàng lên gương mặt. Cảnh sắc đơn điệu bên ngoài tôn lên khiến khuôn mặt Tiểu Chi càng trở nên sống động…
Ba giờ chiều, đã tới thị trấn Tây Lãnh. Xung quanh thị trấn là những dãy núi miên man, giống hệt như những thị trấn nhỏ ven biển khác ở Chiết Giang, chỗ nào cũng có những người buôn bán nhỏ. Hình như Tiểu Chi không thích thị trấn Tây Lãnh, chiếc khăn quàng cổ của cô ấy che gần kín cả khuôn mặt. Chúng tôi xuyên qua bến xe, đáp lên một chiếc xe buýt nhỏ cũ nát, nó sẽ đưa chúng tôi tới Hoang thôn.
Xe buýt đi trên công lộ giữa làng quê, hai bên đường là những thửa ruộng và rừng cây mùa đông, tất cả đều toát lên vẻ sát khí. Theo đường núi lên dốc, cảnh sắc xung quanh càng lúc càng tiêu điều, ngoài những phiến đá lộ thiên, là những bụi cây thấp lè tè đang không ngừng run rẩy trong gió rét. Tôi không rời mắt khỏi phía cửa sổ, so với sự phồn hoa của thị trấn Tây Lãnh, ở đây giống như một thế giới khác vậy.
Khi chiếc xe buýt khó khăn leo lên dốc núi cao, tôi bỗng khẽ reo lên: “Biển!”
Tôi đã nhìn thấy biển ở phía xa rồi – biển đen. Tôi đã rất nhiều lần nhìn thấy biển, nhưng ở nơi hoang vắng này, biển cho người ta một cảm giác hoàn toàn khác lạ. Khó mà có thể hình dung bằng lời, dưới bóng mây đen trong ánh hoàng hôn, đường mặt biển phía xa xăm mờ ảo giống một bức tranh sơn dầu u uất.
“Tiểu Chi, cô đã đọc cuốn ‘Quán trọ Jamaica’ chưa? Thật kì lạ, tôi mới chỉ đi qua một ngọn núi mà lại giống như từ Chiết Giang của Trung Quốc đến bờ biển Tây Nam hoang vắng của nước Anh.”
“Lúc học cấp ba tôi có đọc qua, thế nên mới thích tiểu thuyết do anh viết.”
Nghe xong câu này của cô ấy, trong bụng tôi không khỏi thầm đắc ý.
Sau hơn chục phút lắc lư nghiêng ngả, trước mắt tôi bỗng chốc rộng mở thênh thang, một bia đá khổng lồ xuất hiện – Hoang thôn tới rồi.
Tôi giúp Tiểu Chi xách hành lí xuống xe, ngửa mặt chiêm ngưỡng tấm bia đá khiến người ta nhìn là đã thấy sợ hãi. Tấm bia đá ít nhất cũng ười mấy mét, khắc rất nhiều những hình thù phức tạp, ở chính giữa tấm bia có bốn chữ to thế chữ Khải – “Trinh Liệt Âm Dương.”
Không biết bốn chữ này có nghĩa gì, nhưng đặt lên tấm bia đá to lớn này lại làm người ta sợ hãi rúm ró. Trời đã sẩm tối, bóng của tấm bia đá đổ lên người khiến tôi sững sờ.
Tiểu Chi thò tay chọc chọc vào người tôi: “Anh sao thế?”
“Không thể tin được tôi lại có thể nhìn thấy tấm bia đá to nhường này ở Hoang thôn!”
“Đây là tấm bia tiết hạnh được hoàng đế ngự giá ban tặng. Mấy trăm năm trước, vào những năm Gia Tĩnh triều Minh, Hoang thôn có một vị tiến sĩ làm quan lớn ở triều đình, để biểu dương mẹ của ông ấy. Hoàng đế đã ngự giá ban tặng tấm bia tiết hạnh này.” Một cơn gió biển ào tới, Tiểu Chi lại cuốn khăn chặt thêm. “Đừng xem nữa, nhanh vào trong thôn thôi.”
Tôi nhận biết phương hướng trước đã, phía đông là một bãi đá và vách núi, có thể nhìn thấy biển đen hung dữ, trên bề mặt biển ngưng đọng một tầng mây khói dày cộm. Còn phía bên kia lại miên man những dãy núi hoang vu. Và đằng sau tấm bia tiết hạnh, chính là Hoang thôn mà tôi kiếm tìm trong giấc mơ.
Xuyên qua tấm bia đá cao to đó, chỉ nhìn thấy những ngôi nhà ngói cổ kính và lác đác những ngôi nhà kiểu Tây mái tre điểm xuyết, sắc biển trời u ám soi rọi lên những mái ngói làm cả thôn xóm tăng thêm phần lạnh lẽo. Tôi thở dài một tiếng: “Bây giờ tôi đã hiểu tại sao lại gọi là Hoang thôn rồi.”
Tiểu Chi đưa tôi tới một con ngõ nhỏ hẹp trong thôn, hai bên đều là những ngôi nhà cổ, hầu như không thấy bóng dáng người nào cả. Cô ấy cúi đầu bước đi, dường như đem cả sự xa lạ bước vào trong thôn. Tôi bắt đầu thấp thỏm không yên, khẽ hỏi: “Hoang thôn không có khách sạn sao?”
Cô ấy kéo khăn xuống: “Anh cho rằng ở đây có khách sạn sao? Hoang thôn từ trước tới nay đều rất khép kín, đã mấy năm nay không có người từ nơi khác tới rồi.”
Tôi ngớ người ra một lúc: “Thế tôi ở đâu?”
“Thì ở đây.”
Tiểu Chi thản nhiên nói, chỉ vào cánh cổng to bên cạnh.
Đây là một ngôi nhà cổ, hai bên cổng là bức tường vây cao sừng sững, cánh cổng to loang lổ đóng kín mít, trên hai tấm gỗ có một chiếc vòng đồng to. Tôi lùi lại nửa bước, mượn ánh sáng hoàng hôn để nhìn lên ba chữ khắc trên đố cửa cao to: “Tiến Sĩ Đệ.”
Khi tôi vẫn chưa kịp phản ứng lại, Tiểu Chi đã đẩy cánh cổng màu đen. Ngưỡng cửa cao tới mấy chục mét, cô ấy bước một bước rộng tiến vào, quay đầu lại nói: “Vào đi.”
Đối diện với cánh cổng cao to của “Tiến Sĩ Đệ,” tôi lập cà lập cập đứng trước ngưỡng cửa nói: “Đây là đâu?”
“Nhà tôi.”
Tôi ngớ người ra, sau đó cẩn thận bước vào trong ngưỡng cửa, nói nhỏ: “Tổ tiên nhà cô là Tiến Sĩ? Vậy thế thì tấm bia trước cổng thôn là hoàng đế ngự giá ban tặng cho tổ tông gia đình cô ư?”
“Ừm.” Cô ấy thản nhiên trả lời.

Tôi dụi dụi mắt nhìn lên giếng trời của ngôi nhà cổ “Tiến Sĩ Đệ” này, hai bên là những căn phòng xiêu vẹo đang chực đổ ập xuống, đối diện với cửa chính là một gian sảnh đường cấu trúc mái vòm. Ánh sáng mờ ảo từ mái hiên nhà rớt xuống khiến ngôi nhà cổ này càng trở nên âm u.
Tiểu Chi không vào sảnh đường mà đi vào cánh cửa bên cạnh, tôi bám theo sau, đi vào sân thứ hai trong Tiến Sĩ Đệ. Giếng trời ở đây còn nhỏ hơn, ba mặt đông, tây, bắc đều là dãy cầu hai tầng vây quanh, những lầu gỗ ba mặt đều là mái vòm, có lầu trạm hoa trên cửa sổ và xà nhà làm tôi liên tưởng tới “Nhà ngõ chìm sâu, sâu quá đỗi” của Phùng Diên Tị.
Bỗng nhiên, sau lưng tôi vang lên giọng nói ồm ồm: “Cậu là ai?”
Giọng nói này làm tôi giật bắn mình, tôi lắc lắc lư lư quay đầu lại, chỉ nhìn thấy một bóng người vừa gầy vừa cao đứng trong cửa sổ gỗ đang mở ra.
Tiểu Chi vội vàng nói với người đó: “Cha, thầy ấy là thầy giáo đại học của chúng con, đến khảo sát lịch sử và phong tục tập quán của Hoang thôn chúng ta.”
Hóa ra là cha của Tiểu Chi, tôi nhẹ cả người. Nhưng cô ấy cũng biết cách nói dối thật đấy, nói ngay tôi là thầy giáo đại học của mình, nhưng tôi cũng chỉ lớn hơn cô ấy vài tuổi thôi mà.
“Hoan nghênh cậu tới Hoang thôn.”
Cha của Tiểu Chi đi từ cửa khác ra, tôi lúc này mới nhìn kĩ khuôn mặt ông. Đó là một người đàn ông trung niên cao gầy, khuôn mặt gầy gò tiều tụy, hố mắt trũng sâu xuống. Nhưng da dẻ của ông ấy lại rất trắng, không giống như một người nông dân thông thường, ông ấy hồi trẻ chắc là rất tuấn tú. Ông tới trước mặt tôi mỉm cười nói: “Xin chào. Tôi là giáo viên tiểu học của Hoang thôn, cậu gọi tôi là Âu Dương tiên sinh được rồi. Nếu như không chê thì mời cậu ở lại nhà chúng tôi vài hôm, ngôi nhà này chỉ có hai cha con tôi, vẫn còn rất nhiều phòng trống.”
Tôi quay lại nhìn Tiểu Chi một cái, lúc này tôi mới biết họ tên của cô ấy: Âu Dương Tiểu Chi.
Màn đêm lạnh giá đã dần dần bao trùm lên Hoang thôn, Âu Dương tiên sinh dẫn chúng tôi tới sảnh trước, bật đèn trên xà nhà, ánh đèn chiếu rọi lên tấm biển trước sảnh đường, trên tấm biển viết ba chữ hàng ngang: “Nhân Ái Đường.” Dưới tấm biển là một bức chân dung bằng giấy ống quyển, người đó mặc quan phục triều Minh, chắc là vị tiến sĩ vào năm Gia Tĩnh.
Trong phòng trống huơ trống hoắc, chỉ có trên chính giữa chiếc bàn hình bầu dục là bày biện bữa tối thịnh soạn. Âu Dương tiên sinh lộ ra nụ cười hiền hậu của một người cha, ông nói biết hôm nay Tiểu Chi về nên cố ý chuẩn bị một bữa ăn thịnh soạn. Hoang thôn ở cạnh biển, đương nhiên là nhiều hải sản, rất hợp với khẩu vị của tôi. Âu Dương tiên sinh vốn kiệm lời, lặng lẽ xới cơm. Tôi phát hiện ông ăn rất ít, gần như chẳng mấy động đũa, sắc mặt ông trắng bệch dưới ánh đèn sáng vàng vọt, quả là hình ảnh thầy giáo thanh bần ở thôn quê.
Sau bữa tối, Tiểu Chi dẫn tôi lên căn gác hướng bắc phía sau. Tôi lập cập theo sau cô ấy leo lên những bậc cầu thang gỗ dốc ngược, giống người mù dò dẫm lên tới căn phòng trên gác hai. Tiểu Chi mò mẫm mãi vẫn chưa bật được đèn điện, cô ấy xin lỗi nói: “Căn phòng này lâu lắm không sử dụng rồi, chắc là đường điện lão hóa rồi, anh đợi tôi một lúc.”
Tiểu Chi xuống lầu. Tôi giơ tay ra phía trước khua khoắng thì sờ thấy một dãy cửa sổ bằng gỗ, đến kính cửa sổ cũng không có, chỉ có một lớp giấy bảo vệ mỏng dán trên khung cửa. Tôi một mình đứng trong bóng tối, thông qua khung cửa sổ gỗ có thể nhìn thấy vài ngôi sao – tim tôi càng lúc càng đập nhanh, bất giác giơ tay ra mở cửa sổ.
Cửa sổ vừa được mở ra, tôi liền nhìn ngay thấy một đốm sáng âm u, giống như ma trơi nhấp nháy liên hồi.
“Đừng sợ! Là tôi.”
Là tiếng của Tiểu Chi, cô ấy đi theo đốm ánh đó trong phòng, trên tay cầm chiếc đèn dầu. Tôi thở phào một cái: “Cô đừng có dọa tôi chứ.”
Cô ấy khẽ cười: “Không phải anh đã từng xuất bản rất nhiều tiểu thuyết kinh dị sao? Sao lại vẫn biết sợ nhỉ?”
“Khủng hoảng khởi nguồn từ vô thức.” Mắt tôi đã dần thích nghi với ánh đèn dầu, dưới đốm sáng bập bùng đó, khuôn mặt Tiểu Chi ánh lên màu sắc kì dị. Cô ấy còn ôm theo một cuộn chăn dày, sau đó đặt chiếc đèn dầu lên bàn gỗ, khiến tôi gần như có thể nhìn rõ căn phòng này. Căn phòng thực chất rất to, ở giữa còn có một tấm bình phong, phía sau có một chiếc giường ngủ.
Kì lạ ở chỗ, trong phòng vốn không có quá nhiều bụi bẩn, xem ra rất sạch sẽ, không giống như lâu rồi không có người ở. Tiểu Chi nói: “Cha tôi thích sạch sẽ, thế nên ông đã quét dọn một lượt mười mấy phòng trống này.”
“Mười mấy căn phòng trống? Quả nhiên là “Tiến Sĩ Đệ.” Nhưng ngôi nhà to thế này chỉ có hai bố con cô ở không cảm thấy sợ sao?”
Tiểu Chi lặng lẽ đóng cửa sổ lại nói: “Bởi vì gia đình tôi không có thêm bất cứ người họ hàng nào cả.”
“Vậy sao cô phải bảo tôi là thầy giáo dạy đại học của cô?”
Cô ấy chau mày, đưa chăn vào tay tôi nói: “Anh đã nhìn thấy tấm bia tiết hạnh ngoài cổng thôn rồi chứ? Phong tục của người dân Hoang thôn từ cổ xưa đều rất bảo thủ, nếu như tôi nói thật sẽ dẫn đến điều tiếng. Thế nên, tôi chỉ có thể nói anh là thầy giáo đại học của tôi đến đây để khảo sát lịch sử và phong tục tập quán của Hoang thôn, như vậy cha tôi sẽ không hiểu lầm mối quan hệ của chúng ta.”
“À, vậy thì hãy để tôi làm thầy giáo của cô vài hôm nhé. Nhưng tôi chỉ hơn cô vài tuổi, cô phải chuyên tâm giúp đỡ tôi đấy.”
“Được rồi, tôi ở trên gác phía tây, nếu có việc gì, kêu tôi một tiếng là tôi có thể nghe thấy.”
“Tiểu Chi,” tôi nhìn vào mắt cô ấy, nhưng ấp a ấp úng mãi không nên lời. “Không có gì, chỉ là rất cảm ơn cô.”
“Tôi cũng phải cảm ơn anh, cảm ơn anh cả đường đi đã giúp tôi xách hành lí.”
Tôi không nhịn được bật cười: “Hành lí của cô nặng thật, làm tôi mệt gần chết. Không phải cô muốn tìm một cửu vạn miễn phí nên mới đồng ý dẫn tôi tới Hoang thôn chứ?”

 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,359
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 32: Chương ngoài phần 2


Bỗng nhiên, ánh mắt tôi chạm vào tấm bình phong dưới ánh đèn dầu tù mù, có thể nhìn lơ mơ vài họa tiết tinh xảo. Tôi vội vàng bưng đèn dầu tiến sát lại tấm bình phong.
Đây là một bức bình phong bốn cánh bằng sơn dầu, cao khoảng hai mét, rộng bốn mét. Khung bình phong được làm bằng gỗ, ở giữa sơn đỏ, tuy năm tháng trôi qua đã khiến nó bị phai màu, nhưng dưới ánh nến vẫn còn tàn lưu chút sắc màu rực rỡ. Bình phong có thể gấp thành bốn cánh, trên mỗi cánh đều vẽ tranh màu, chắc là sản phẩm của đời Thanh trước đây.
“Trời ơi, đây chính là một thứ đồ cổ đấy!” Tôi không kìm nén được thốt lên.
Tôi thật sự không ngờ rằng thứ đồ cổ quý như vậy lại được đặt trong căn phòng trống, còn để người lạ như tôi ở trong đó, quả thật không biết trong “Tiến Sĩ Đệ” này còn cất giấu bao nhiêu báu vật nữa? Tiểu Chi không trả lời, ánh mắt cô ấy có chút kì lạ. Tôi không buồn để ý mà tỉ mỉ nhìn tranh trên bình phong, phong cách hơi giống tranh minh họa trong sách cổ, chỉ là niên đại quá xa mà thôi, màu sắc xem ra hơi nhạt. Nhưng khiến người ta kinh ngạc hơn chính là nội dung những bức vẽ trên tấm bình phong này.
Cánh thứ nhất bên trái bình phong là một đôi nam nữ, người phụ nữ đẹp mê hồn, ngồi tựa vào cửa mái nhà tranh, còn người đàn ông khoác hành lí dáng vẻ như sắp phải đi xa, hai người nhìn nhau đầy lưu luyến, xem ra là cảnh đôi vợ chồng lưu luyến li biệt, có chút mùi vị “Rừng phong ai nhuộm đỏ tươi, phải chăng nước mắt của người biệt li.”
Chính giữa cánh bình phong thứ hai vẫn là người phụ nữ đó, hình như đang đau buồn khóc lóc, trước mặt cô ấy là một tăng nhân diện mạo kì dị. Trên tay tăng nhân có cầm một chiếc sáo trúc đang đưa nó đến trước mặt cô gái. Tôi lắc lắc đầu, nhìn không hiểu bức tranh này.
Trên cánh bình phong thứ ba vẽ cảnh trong phòng, người phụ nữ đang ngồi một mình trên chiếu trúc, tay cầm chiếc sao đưa lên môi, hình như là đang thổi sáo. Và trên xà nhà trong tranh treo một dải lụa trắng dài ba thước, lẽ nào cô ấy muốn treo cổ tự vẫn? Cả bức tranh bao trùm sự thê lương và sát khí khiến người ta nổi da gà.
Cánh bình phong thứ tư vẫn vẽ cảnh trong phòng, giữa phòng là một người đàn ông, bên cạnh anh ta có đặt một chiếc quan tài sơn đỏ! Đáng sợ hơn ở chỗ, nắp quan tài được mở ra. Tay người đàn ông vẫn cầm chiếc sáo vẻ mặt kì dị quá đỗi. Nhìn bức tranh này, tay tôi đang cầm đèn pin không khỏi run rẩy, ánh lửa không ngừng phập phồng, vài bóng đen kì dị trên bình phong lay động, dường như người đàn ông trong tranh đang thực sự bước từ trong tấm bình phong ra, tôi lập tức sởn cả tóc gáy, tay chân cuống quýt làm đổ cả chiếc đèn dầu.
Tôi há hốc mồm kinh ngạc: “Tiểu Chi, tấm bình phong này thực sự rất kì quái, bốn bức tranh này nghĩa là gì?”
Cô ấy chau mày, do dự hồi lâu mới rầu rĩ nói: “Tấm bình phong này là câu chuyện của Yên Chi.”
“Yên Chi là ai?”
Ánh đèn dầu leo lét lại ánh đỏ lên khuôn mặt Tiểu Chi, cô ấy rủ rỉ rù rì kể: “Vào những năm Gia Tĩnh triều Minh, Hoang thôn có một đôi vợ chồng trẻ, người vợ tên là Yên Chi. Hai vợ chồng sống cuộc sống thanh bình sớm tối có nhau, điều đáng tiếc duy nhất là họ không có con. Sự thanh bình chẳng mấy chốc đã bị chiến tranh tàn phá, lúc đó vùng ven biển Chiết Giang chiến tranh liên miên, cướp biển Nhật Bản thường xuyên ẩn hiện, giai đoạn lịch sử này chắc anh cũng biết rồi phải không?”
“Đương nhiên, những năm Gia Tĩnh triều Minh là lúc cướp biển hoành hành nghiêm trọng nhất, và Chiết Giang cũng là trọng điểm mà cướp biển công kích.”
“Năm đó, quan triều đình đã đến Hoang thôn để chiêu binh, cưỡng chế chồng Yên Chi nhập ngũ để đi đánh trận ở tỉnh ngoài. Tuy hai vợ chồng Yên Chi vô cùng yêu thương nhau, nhưng trước chiến tranh thì chẳng còn cách nào cả. Người chồng trước khi lên đường đã hẹn ước với Yên Chi: Tết trùng dương ba năm sau, anh ấy nhất định quay trở về cùng cô tương ngộ, nếu như đến lúc đó mà vẫn không gặp được nhau, hai người sẽ cùng nhau tự tử vì tình vào đúng đêm tết trùng dương. Trong những ngày chồng đi xa, Yên Chi luôn thấp thỏm bất an, kìm nén sự cô đơn trong Hoang thôn, một mình với căn phòng trống vắng, khốn khổ chờ chồng quay về. Thời gian dần trôi qua, thoáng cái ba năm đã qua đi, tết trùng dương đã cận kề, còn người chồng phương xa vẫn bặt vô âm tín. Yên Chi ngày ngày đều ra cổng Hoang thôn ngóng chờ nhưng vẫn không thấy chồng trở lại. Vào trước đêm tết trùng dương, cô ấy đã gặp một tăng nhân đi khất thực ở cổng thôn. Tăng nhân vừa nhìn là đã hiểu thấu tâm can của cô ấy và liền đưa cho cô một chiếc sáo.”
“Sáo?” Tôi phát hiện lúc cô ấy kể câu chuyện này, đôi mắt ẩn chứa bóng tối dường như đang ánh lên những tia sáng dị thường.

“Đúng vậy, tăng nhân đã trao cho cô ấy một chiếc sáo rồi dặn dò hãy thổi chiếc sáo này vào đúng đêm tết trùng dương thì chồng cô sẽ trở về. Đêm tết trùng dương, Yên Chi chờ đợi trong nhà, cô đã chuẩn bị sẵn một dải lụa dài ba thước, ngộ nhỡ người chồng không trở về thì sẽ tự tử vì tình theo lời nguyện ước. Nửa đêm, người chồng vẫn chưa trở về, cô ấy đành làm theo lời dặn của tăng nhân, thổi chiếc sáo đó lên. Cô ấy đem mọi nỗi tương tư và đau khổ gửi gắm cả vào trong tiếng sáo. Tiếng sáo đêm trùng dương như tiếng khóc thút thít, u sầu bay bổng khắp núi non và bờ biển Hoang thôn. Sau khi tiếng sáo kết thúc, Yên Chi đã chuẩn bị thắt dải lụa trắng ba thước trên xà nhà. Bỗng nhiên, cô ấy nghe thấy tiếng gõ cửa nặng trĩu.”
Tim tôi giống như bị cô ấy tóm lấy, lập tức thở hắt ra: “Chồng của Yên Chi trở về rồi?”
“Đúng. Dưới ánh trăng lạnh lẽo, Yên Chi nhìn thấy người chồng mà mình ngày đêm mong nhớ đang đứng ngoài cửa. Người chồng dáng vẻ phong trần mệt mỏi, thậm chí trên người vẫn còn bộ giáp trụ chưa trút xuống. Cô ấy mừng vui khôn xiết chạy ra cửa đón chồng, giúp anh tháo bỏ bộ quần áo giáp sắt đánh trận, bưng trà nóng cho anh, cô ấy đã gột rửa bụi trần cho chồng bằng sự ấm áp dồn nén ba năm qua. Có lẽ là do vất vả trở về từ nơi xa xôi ngàn dặm, khuôn mặt người chồng trở nên trắng bệch, cơ thể suy nhược, không nói lấy một câu. Yên Chi chỉ có thể dịu dàng hầu hạ chồng ngả lưng. Mấy hôm sau, người chồng nhất mực trốn trong nhà không dám ra ngoài, có lẽ anh ta đã đào tẩu về nhà. Tuy Yên Chi luôn cảm thấy chồng mình có biểu hiện rất lạ, nhưng họ vẫn cùng nhau trải qua vài đêm hạnh phúc.”
“Đại đoàn viên rồi?” Tôi bỗng có chút thất vọng.
“Không… vài hôm sau khi người chồng trở về, vào một đêm Yên Chi lại thổi sáo, có lẽ là muốn thổi để cho chồng nghe. Nhưng người chồng vừa nghe thấy tiếng sáo đã lao bắn ra ngoài cửa. Yên Chi đuổi theo sau, nhưng chỉ nhìn thấy một vùng tối đen bên ngoài Hoang thôn, sương khói bao trùm khắp nơi, người chồng đã mất tích trong một rừng cây bị sương khói phủ kín. Yên Chi lúc đó vô cùng ân hận, cô ấy tìm kiếm khắp nơi ba ngày ba đêm nhưng mãi vẫn không thấy tung tích của chồng đâu, anh ta giống như một ảo ảnh bị tiếng sáo trong bóng đêm nuốt chửng vậy. Lại qua mấy hôm sau, vài người trong thôn cũng bị ép gia nhập quân đội cùng chồng Yên Chi trước đây đã trở về rồi, họ nói với cô ấy, chồng cô đã chết trận vào đúng đêm trùng dương mười mấy ngày trước. Yên Chi không tin, nhưng rất nhiều người đã đều tận mắt chứng kiến chồng cô chết. Còn có cả những người biết chuyện kể lại, đêm tết trùng dương đó, chồng cô ngoài sa trường xa xôi ngàn dặm, biết mình không thể thực hiện lời hẹn ước trở về với vợ nên đã cố ý xông lên tuyến đầu trong chiến sự ác liệt. Kết quả là bị loạn tên của cướp biển bắn chết. Anh ấy với danh nghĩa chết trận nhưng thực tế là tự tử vì tình, lấy cái chết để thực hiện lời nguyện ước với vợ.”
“Vậy thì người đàn ông trở về nhà vào cái đêm trùng dương đó là ai?”
“Hồn ma.” Tiểu Chi chậm rãi thốt ra hai từ đó. “Là hồn ma của chồng Yên Chi, trở về vào đúng đêm tết trùng dương.”
“Tôi hiểu rồi, chồng của Yên Chi đã chết trận trong tết trùng dương để hồn mình có thể bay qua vạn núi ngàn sông trở về cố hương, trở về bên người vợ thân yêu của mình. Và khi Yên Chi thổi chiếc sáo của tăng nhân du hành trao cho cô ấy, tiếng sao thần bí đã lan tỏa khắp trời đêm, có thể giúp linh hồn cô quả của người chồng tìm thấy đường về nhà.”
Tôi run rẩy trong lạnh giá nói hết câu này, bỗng nhiên cảm thấy câu chuyện này lãng mạn tột đỉnh nhưng cũng khủng khiếp tới tột đỉnh.
“Anh sao thế?” Tiểu Chi khẽ hỏi bên tai tôi.
Lúc này tôi mới ý thức được sự thất thần của mình: “Xin lỗi, làm cô sợ hãi. Thế Yên Chi sau đó ra sao?”
Tiểu Chi đang chuẩn bị nói tiếp thì một âm thanh kì lạ bỗng từ bên ngoài vọng vào, là tiếng sáo! Nó mang theo giai điệu kì dị nào đó, giống như lưỡi dao sắc nhọn rạch nát màn đêm tối đen của Hoang thôn.
Sắc mặt cô ấy cũng lập tức biến đổi, cô tự bụm miệng mình lại rồi ra mở cửa sổ, nhưng trong màn đêm chẳng thấy rõ gì cả. Tôi cũng bị tiếng sáo làm dựng cả tóc gáy, lúc nhỏ có học qua thổi sáo, đến nay vẫn biết thổi vài giai điệu, nhưng tiếng sáo đáng sợ thế này thì từ trước đến nay chưa từng nghe thấy.
Tiểu Chi bất giác sát lại gần tôi, tôi thuận tay khoác vai cô ấy. Tiếng sáo hình như đến từ ngọn núi bên ngoài Hoang thôn, chúng tôi không nhận biết được phương hướng, bỗng chốc không biết phải làm thế nào. Yên Chi thì thào: “Không, tôi không thể nói tiếp được nữa, anh nghỉ sớm đi nhé.”
Tôi vẫn muốn nói điều gì đó, nhưng thấy khuôn mặt hoảng sợ của Tiểu Chi nên đành không nói thêm gì cả. Tiểu Chi chạy ra khỏi phòng, căn gác sập sệ sắp đổ phát ra chuỗi âm thanh hòa quyện cùng tiếng sáo khiến tim tôi đập thình thịch.
Vài phút sau, tiếng sáo đột nhiên biến mất, ngôi nhà cổ lại phục hồi trạng thái im ắng tĩnh mịch. Lúc này, cả căn gác gỗ chỉ còn lại mỗi mình tôi, câu chuyện kì dị trong những bức tranh trên tấm bình phong cổ đang hiện lên trước mặt tôi, không biết người trong bình phong có chạy ra ngoài lúc đêm tối không nữa? Phải chăng thực ra tôi cũng đã từng được nghe kể về kiểu truyện kì dị này.
Tôi lấy chăn bông trải lên giường, tức tối chui vào đó. Đây là đêm đầu tiên tôi ở Hoang thôn, thần kinh và cơ thể của tôi đều mệt mỏi cực độ, chẳng mấy chốc đã ngủ thiếp đi…
Sau nửa đêm tôi lại tỉnh dậy, phát hiện toàn thân mình đang run rẩy, mồ hôi hột lấm tấm trên trán. Dự cảm kì lạ xâm chiếm đầu óc và tâm trí tôi, nhịp tim thình thịch dường như khiến tôi nức nở. Sao lại thế này? Tôi bò dậy trên chiếc giường gỗ, trong phòng tối om, tĩnh lặng như đã chết.
Tôi mặc quần áo lên, cẩn thận rón rén bước ra khỏi phòng. Ngoài cửa phòng là dãy hành lang được làm từ gỗ, đêm đông lạnh giá mông lung, tôi chỉ có thể lờ mờ thấy viền bao quanh của “Tiến Sĩ Đệ” giống như một ngôi mộ cổ đại.
Bỗng nhiên, tôi cảm thấy một luồng hơi thở kì dị, tôi run rẩy quay đầu lại, dồn mắt về phía căn phòng bên cạnh.
Ánh nến xuyên qua cửa sổ.
Trời ơi, tôi suýt nữa hét lên, đó là căn phòng đóng cửa để không, sao nửa đêm lại sáng ánh nến như vậy? Tôi vẫn không kìm chế được mình, trước tiên là mút ướt ngón tay, khẽ khàng chọc thủng một lỗ nhỏ trên cửa sổ giấy.
Khuôn mặt tôi từ từ áp sát cửa sổ, dán mắt lên chiếc lỗ nhỏ đó. Kích cỡ chiếc lỗ vừa vặn để tôi có thể nhìn thấy cảnh tượng trong phòng. Trước bàn trang điểm kiểu dáng tao nhã có thắp một ngọn nến, ánh nến mịt mờ phập phòng soi sáng một bóng dáng trước bàn trang điểm.
Là một phụ nữ mặc áo trắng, cô ấy đang quay lưng lại phía tôi, tuy trước bàn trang điểm có tấm gương nhưng đã bị đầu cô ấy che mất, bởi vậy tôi không có cách nào để nhìn thấy mặt cô ấy. Từ hình thể sau lưng có thể thấy đó là một cô gái trẻ.
Tay cô ấy cầm một chiếc lược gỗ màu nâu, đang từ từ chải tóc. Tóc cô ấy vừa dài vừa đen, lấp lánh dưới ánh nến. Cô ấy hơi nghiên người, tay phải cầm lược, tay trái đỡ tóc giống như thác nước đang đổ lên sườn. Cô ấy cứ ngồi như vậy trước bàn trang điểm, hình như tất cả tâm trí đều tập trung vào chải và chải…
Trong đêm đông lạnh giá của ngôi nhà cổ “Tiến Sĩ Đệ” này, qua lỗ nhỏ trên cửa sổ giấy tôi đã nhìn thấy cảnh tượng khiến người ta không thể hiểu nổi, giống như đang nhìn thấy cảnh tượng của một thời đại khác.
Tôi thật sự rất sợ hãi nhưng nín nhịn để không hét lên. Tôi khẽ khàng lui lại một bước thì mới phát hiện chân mình đã mềm nhũn ra. Tôi lập tức về phòng mình, quệt mồ hôi trên tán, nhưng vẫn không dám thót lên, bởi vì cô gái đó ở ngay sát vách phòng tôi.
Nghĩ tới đây tôi lại không dám ngủ nữa, tôi khẽ khàng cuộn tròn trên giường, tuy mắt nhắm nghiền nhưng đầu óc vẫn không ngừng hiện lên cảnh tượng đó.
Cô ấy là ai?
- 3 -

Sáng hôm sau, trong tiền sảnh ngôi nhà cổ, Tiểu Chi đang đợi tôi ăn sáng.
Tôi khẽ nói: “Hoang thôn đúng là một nơi độc nhất vô nhị, vừa khiến người ta tò mò, vừa khiến người ta sợ hãi.”
“Đây là cũng là nguyên nhân mà tôi thích tiểu thuyết của anh.”
“Tiểu Chi, tiếng sáo đêm qua rốt cuộc là thế nào? Sao lại đáng sợ như vậy? Lẽ nào lo sợ tiếng sáo sẽ dẫn hồn ma quỷ về sao?”
Nhưng tôi vẫn chưa dám kể cho Tiểu Chi nghe về người con gái chải đầu sau nửa đêm mà tôi nhìn thấy.
“Suỵt, nói nhỏ chút!” Nhìn điệu bộ của Tiểu Chi như đang sắp bịt miệng tôi lại, cô ấy ngẩng đầu nhìn lên bức chân dung treo chính giữa phòng khách, người đàn ông mặc quân phục triều Minh đang lạnh lùng nhìn chúng tôi.
“Cô sợ những gì chúng ta nói bị ông ấy nghe thấy?”
Tiểu Chi không trả lời thẳng, cô ấy hình như rất khiếp sợ người trong bức tranh: “Tôi đương nhiên không tin ma quỷ trong truyền thuyết. Nhưng ở đây là Hoang thôn, khác với những nơi khác.”
“Hoang thôn có ma sao?”
“Tôi không phải ý đấy. Nhưng Hoang thôn có tập tục riêng của mình, anh không cần quan tâm nhiều, nhanh chóng ăn sáng đi.”
Buổi sáng, tôi muốn đi lòng vòng gặp gỡ những thôn dân nhưng bị cô ấy dứt khoát ngăn lại. Cô ấy dẫn tôi ra khỏi thôn bằng một con đường nhỏ, không ai phát hiện ra chúng tôi. Cả một buổi sáng, chúng tôi đều đi dạo trên những ngọn núi hoang vu không một bóng người gần đó.
Sau bữa tối, tôi nghe thấy Tiểu Chi và cha cô ấy nói chuyện trong phòng, họ hình như không vui vẻ lắm. Âu Dương tiên sinh từ phòng Tiểu Chi đi ra, dáng ông bước đi trong đêm tối thật giống một xác chết.
Tôi lặng lẽ lên cầu thang của Tiểu Chi, đẩy cửa phòng cô ấy.
“Ngại quá, ban nãy tôi vừa nghe được mấy câu.” Tôi lúc đó có chút bối rối. Phòng cô ấy rất sạch sẽ, trên tường còn quét vôi, còn có cả ti vi và máy vi tính, chỉ có vài cánh cửa sổ khiến người ta nhớ tới đây là một ngôi nhà cổ. “Xảy ra chuyện gì? Có phải cha cô cảm thấy tôi đã quấy nhiễu cuộc sống yên bình của hai cha con cô không?”
“Không, không phải.” Tiểu Chi hình như có chút căng thẳng, bất giác lùi về phía bàn học.
Lúc này tôi mới chú ý tới trên bàn có đặt một khung ảnh, bên trong có tấm ảnh đen trắng của Tiểu Chi, cô ấy trong ảnh thật hấp dẫn, chỉ có ánh mắt là phảng phất buồn. Nhưng trong bức ảnh này lại có một cảm giác rất khó nói thành lời, tôi không kìm chế được hỏi: “Tiểu Chi, bức ảnh này của cô chụp lúc nào thế?”
Cô ấy không lập tức trả lời, ngập ngừng một lúc mới rầu rĩ nói: “Người trong bức ảnh này chết từ lâu rồi.”
“Cái gì? Cô đừng có dọa tôi chứ.” Sống lưng tôi lạnh toát.
“Đây là ảnh của mẹ tôi.”
Căn phòng trĩu nặng hồi lâu, tôi thực sự không ngờ rằng hai mẹ con cô ấy lại giống nhau đến vậy.
“Lúc tôi còn rất nhỏ, mẹ tôi đã lâm bệnh rồi qua đời, bà đã mất trong căn gác mà anh đang ở. Một mình cha nuôi tôi khôn lớn, tôi chỉ có thể nhìn thấy bóng dáng mẹ qua ảnh.” Tiểu Chi buồn bã trả lời, ánh mắt u sầu của cô ấy giống như đúc người trong ảnh.
“Xin lỗi.” Tôi có chút áy náy nhìn cô ấy, hít một hơi thật sâu nói. “Cha cô chắc rất yêu cô.”
Tiểu Chi không trả lời, không khí trong phòng càng lúc càng bối rối, tôi đành vội vã rời khỏi đây.
Trở về phòng mình, tôi không dám ngủ, chỉ có thể thắp ngọn đèn dầu, khoác áo khoác cuộn tròn trên giường. Dưới ngọn đèn dầu cô độc, tôi hoảng hốt thức trắng đêm nay.
Bỗng nhiên, tiếng sáo từ nơi xa xăm truyền đến tai tôi. Tôi nhảy thót lên như bị kim châm, lắc đầu lia lịa, hi vọng rằng tiếng sáo này là ảo giác.
Tiếng sáo vẫn đang tiếp tục. Tôi không thể kìm nén được sự kích động của mình bèn xách đèn dầu lặng lẽ ra khỏi “Tiến Sĩ Đệ.”
Hoang thôn nửa đêm mang một bầu không khí chết chóc, chỉ có tiếng sáo trên núi đang du dương bay bổng. Tôi ra khỏi cổng thôn, đứng dưới tấm bia tiết hạnh nhìn ngó xung quanh, những dãy núi liên miên trong bóng đêm giống như một tòa lâu đài nghiêm ngặt. Tôi nhằm thẳng vào đỉnh núi cao nhất, xách đèn dầu chạy về hướng đó. Quả nhiên, tiếng sáo kì dị càng lúc càng rõ, xem ra tôi đã tìm đúng hướng rồi.
Trăng lên, ánh trăng lạnh lẽo đang đâm thủng mây đen trong bóng đêm, rắc lên núi hoang trơ trọi.
Bỗng nhiên, tôi cảm thấy hình như tiếng sáo vang lên từ phía sau lưng, tôi vội vàng nhìn lên khe núi đằng sau, chỉ thấy dưới ánh trăng bàng bạc có một bóng đen đang đứng, còn tiếng sáo thê lương thì đột ngột im bặt.
Tôi xách đèn dầu chạy về phía bóng đen đó. Bóng đen không hề chuyển động, đứng im tại chỗ như một cái cây. Tôi giơ đèn dầu lên soi, dưới ánh đèn mờ ảo, khuôn mặt tiều tụy hốc hác hiện ra.

“Âu Dương tiên sinh?”
Tôi kêu lên kinh ngạc, bóng đen này hóa ra là cha Tiểu Chi! Trên tay ông ấy đang cầm một chiếc sáo.
Âu Dương tiên sinh theo phản xạ lấy tay che mặt, miệng lầm rầm nói: “Sao cậu lại tới đây?”
“Đây… đây là thế nào?” Trên đỉnh núi cao cao trong bóng đêm, ánh trăng âm u cùng ánh đèn dầu leo lét rọi vào mắt Âu Dương tiên sinh, tôi hoảng hốt nói: “Tiếng sáo ban nãy là do bác thổi sao?”
“Đúng vậy, tôi là thầy giáo nhà quê, sức khỏe từ trước tới nay không tốt lắm, mấy hôm nay tôi toàn mất ngủ.” Âu Dương tiên sinh thở dài một tiếng, biểu hiện của ông đã dần bình tĩnh lại, “Do không ngủ được, nên tôi mới lên núi thổi sáo, như vậy có thể khiến mình thư thái hơn.”
“Cháu hiểu rồi. Nhưng cháu cảm thấy chiếc sáo này của bác rất đặc biệt.”
Âu Dương tiên sinh đưa chiếc sáo vào tay tôi. Đầu ngón tay tôi lập tức cảm thấy lạnh buốt, run bắn lên một cách khó hiểu. Mượn ánh sáng đèn dầu, tôi nhìn rõ chiếc sáo này. Đây là một chiếc sáo kiểu dáng truyền thống, dài khoảng bốn mươi phân, thanh sáo được quét sơn nâu, giữa lỗ sáo có treo dây màu hồng tím, trên màng lỗ dán một lớp màng mỏng như cánh ve.
“Có lẽ cậu không tin rằng, chiếc sáo này đã có mấy trăm năm lịch sử rồi.”
“Mấy trăm năm?”
“Tiểu Chi đã kể cho cậu nghe về truyền thuyết Yên Chi rồi chứ.”
Tôi gật gật đầu, xem ra Tiểu Chi và cha cô ấy đều không vui, đại khái chắc là vì chuyện này rồi.
“Trong truyền thuyết Yên Chi, có một tăng nhân hành khất tặng cô ấy một chiếc sáo.” Âu Dương tiên sinh chỉ vào chiếc sáo trên tay tôi nói: “Chính là cái này.”
Tay phải tôi đang cầm sáo lập tức lạnh ngắt.
“Cậu nhất định chưa được biết kết cục của truyền thuyết Yên Chi đúng không?” Âu Dương tiên sinh lắc lắc đầu nói. “Yên Chi trong đêm tết trùng dương đã thổi chiếc sáo này, tương ngộ với linh hồn chồng, cùng nhau trải qua mấy đêm, cũng chính là chồng ma mà người già chúng tôi thường gọi. Sau khi Yên Chi biết được sự thật chồng mình đã chết, cô ấy đau khổ vô cùng, mấy lần định tự sát nhưng đều sống lại một cách kì lạ. Mãi tới ba tháng sau, cô ấy phát hiện mình đã có thai.”
“Chồng cô ấy không phải đã chết rồi sao? Lẽ nào Yên Chi mang thai của ma?”
Âu Dương tiên sinh thần sắc nghiêm nghị gật đầu: “Không sai, đây là một kì tích, đứa trẻ mà cô ấy mang trong mình thực ra là hạt giống mà linh hồn chồng cô ấy chết ngoài sa trường trở về gieo hạt, đây là do ông trời có mắt nên không để cậu ấy bị tuyệt tự. Khi bụng Yên Chi to dần lên mỗi ngày, người dân trong thôn bắt đầu nghi ngờ cô ấy vụng trộm vượt rào, họ dùng những lời lẽ ác độc sỉ nhục Yên Chi, cho rằng Yên Chi mang thai tạp chủng, thậm chí còn có cả những tên lang thang tới bắt nạt cô ấy. Nhưng Yên Chi kiên quyết bảo vệ sự minh bạch của mình, nhất mực giữ gìn tiết hạnh với chồng. Để bảo vệ đứa con trong bụng, Yên Chi đã chịu đựng biết bao khổ hạnh, mang thai mười tháng, rốt cuộc cũng sinh ra một đứa bé trai.”
“Trời ơi, câu chuyện này thật là giống tiểu thuyết ‘Hồng tự’ của Hoắc Tang.”
Trong đêm đông lạnh giá, nghe câu chuyện thê lương này, tôi bất giác nhớ tới Hải Ti Đặc trong “Hồng tự,” còn cả chữ A màu đỏ trước ngực cô ấy. Hải Ti Đặc thà chết cũng không chịu nói ra tên người đàn ông đó, cô ấy coi con gái như thiên sứ mà thiên chúa ban tặng ình, bởi vậy cô ấy chấp nhận chịu đựng mọi đau khổ. Vậy thì Yên Chi của Hoang thôn mấy trăm năm trước thì sao? Cô ấy chính là “Hồng tự” phiên bản Trung Quốc? Hay là cô ấy thực sự đã mang thai ma mà chồng để lại?
“Kể từ đó, hai mẹ con Yên Chi đã phải chịu đựng biết bao sự kì thị và sỉ nhục, cô ấy một mình nuôi con khôn lớn, đưa con trai đến nhà thầy giáo học. Mười mấy năm sau, Yên Chi rốt cuộc lao lực mà chết, nhưng con trai cô ấy đã thi đỗ khoa cử, từ tú tài tới cử nhân sau đó là tiến sĩ, trở thành môn sinh thiên tử bảng vàng đề danh. Sau này, sự tích bà mẹ Yên Chi của ông truyền tới tai hoàng đế, hoàng đế rất cảm động trước câu chuyện này nên liền ngự giá ban tặng tấm bia tiết hạnh này, để biểu dương đức hạnh của Yên Chi.”
Thật không ngờ câu chuyện Yên Chi lại có kết cục như vậy. Tôi cúi đầu nhìn Hoang thôn dưới núi: “Hóa ra là vậy, vậy thì tấm bia tiết hạnh ở cổng thôn bây giờ là dành tặng Yên Chi? ‘Tiến Sĩ Đệ’ cũng là do con trai cô ấy xây dựng nên? Bác và Tiểu Chi nữa đều là hậu duệ của Yên Chi?”
“Không sai. Chiếc sáo này chính là tổ tiên nhà chúng tôi truyền lại.”
Tôi nhìn chiếc sáo trên tay, từ nay trở đi không dám chạm vào nó nữa, lập tức đưa lại vào tay Âu Dương tiên sinh. Tôi hỏi thăm dò: “Vậy sự tích Yên Chi rốt cuộc là truyền thuyết hay là thực?”
“Không ai rõ, nhưng mấy trăm năm nay người dân Hoang thôn đều tin đó là thật, ít nhất là chiếc sáo này là thật.”
Tôi thẫn thờ nhìn mặt Âu Dương tiên sinh, nếu như câu chuyện của Yên Chi là thật, vậy thì Âu Dương tiên sinh và cả Tiểu Chi trước mặt tôi nữa không phải là hậu duệ của chồng ma sao? Lẽ nào gia tộc Âu Dương sống trong Tiến Sĩ Đệ là một gia đình ma? Tôi bất giác lùi lại hai bước, trong đầu hiện lên truyền thuyết gia tộc ma hút máu người ở Châu Âu.
Mặt trăng chầm chậm lặn xuống, một cơn gió biển mang theo hơi lạnh thổi tới, tôi đứng trên đỉnh dốc bắt đầu run cầm cập. Tôi xách đèn dầu xuống dốc núi, khi đi qua chân tấm bia đá tiết hạnh, tim bỗng run rẩy lạ thường.

 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,359
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 33: Chương ngoài phần 3


Trở về Tiến Sĩ Đệ, tôi chỉ cảm thấy không khí của ngôi nhà này càng thêm u ám, càng ngày càng giống lâu đài của bá tước Dracula.
Bỗng nhiên, trong sân tối đen, một bóng trắng lướt qua. Cái bóng đó chuyển động giống hệt ma quỷ khiến tôi rùng mình. Trải qua sự thử thách ban nãy, gan tôi cũng bắt đầu to lên, tuy tất cả mọi thứ trong ngôi nhà cổ đều thần bí như vậy, khủng khiếp như vậy, nhưng càng như thế lại càng kích thích trí tò mò của tôi. Tôi lập tức chạy về phía cái bóng trắng, giương đèn dầu soi về phía trước.
Hình như là một chiếc áo ngủ màu trắng, phía trên xõa mái tóc đen dài, đó là một cô gái trẻ. Ánh sáng đèn lờ mờ chiếu lên người cô ấy, chính là cô ta, cô gái chải tóc ở cạnh phòng tôi nửa đêm hôm qua. Cô ấy hình như đang rất sợ hãi, chạy lên cầu thang căn gác bên cạnh.
Tim tôi càng lúc càng đập nhanh, bám chặt theo sau cô ấy, rốt cuộc đã tóm được tay cô ta trên hành lang gác hai. Nhưng tay tôi lập tức buông ra giống như bị điện giật, bởi vì cánh tay cô ấy lạnh toát, khiến tôi nổi cả da gà. Nhưng cô ấy vẫn không dừng lại, một cơn gió lạnh đột ngột thổi tới, mái tóc dài đen láy tuyệt đẹp bay bay trong gió.
“Cô là ai?”
Tôi lập cà lập cập khẽ hỏi. Cô ấy từ từ quay đầu lại, khuôn mặt trắng bệch hiện lên dưới ánh đèn dầu – Tiểu Chi!
Trời ơi, tôi không ngờ tới hóa ra lại là Tiểu Chi. Mặt cô ấy trắng bệch, môi hơi tím tái, rõ ràng là bị gió lạnh phương bắc làm cho lạnh toát, hóa ra trên người cô ấy chỉ khoác một chiếc áo ngủ mà thôi. Tôi lập tức cởi áo khoác trên người ra, khoác lên người cô ấy. Tôi ôm chặt lấy vai cô ấy nói: “Cô sao thế? Nửa đêm mặc áo ngủ chạy ra đây, trời lạnh thế này cẩn thận bị cảm lạnh.”
Đôi mắt vô thần của cô ấy nhìn tôi, hoang mang lắc đầu. Tôi vuốt tóc cô ấy, có chút xót xa nói: “Cô thử sờ người cô xem, toàn thân lạnh toát cả rồi, hà cớ gì chứ?”
Nhưng Tiểu Chi vẫn không nói, biểu hiện càng có chút kì dị và căng thẳng, cô ấy đột nhiên giơ tay sờ lên trán và mũi của tôi, bàn tay lạnh buốt đó khiến tôi cảm thấy run sợ.
Tôi lắc lắc vai cô ấy nói: “Rốt cuộc xảy ra chuyện gì? Tôi không muốn cô bị xâm hại.”
Tiểu Chi lập tức sợ hãi trở lại, giãy khỏi lòng tôi, giống như một con thú hoang lao xuống cầu thang. Tôi bám sát theo cô ấy, trong lúc chạy xuống cầu thang tôi bị hụt chân ngã sóng soài.
Lúc tôi đang lồm cồm bò dậy thì Tiểu Chi đã mất hút rồi, chỉ còn lại áo khoác của tôi rớt trên mặt đất. Tôi nhìn lên phòng cô ấy, đèn đã tắt rồi.
Trở về phòng mình, tôi mặc nguyên quần áo cuộn tròn trên giường, mắt nhắm mắt mở nhìn tấm bình phong, trong đầu nhớ tới biểu hiện kì quái của Tiểu Chi ban nãy. Vậy xem ra, cô gái chải đầu sát vách phòng tôi đêm qua chính là cô ấy, nhưng tại sao cô ấy lại chạy ra ngoài lúc nửa đêm?
Trước mắt tôi lại hiện lên đôi mắt vô thần của Tiểu Chi, thần trí của cô ấy ban nãy hình như không được minh mẫn, bộ dạng giống như đang mơ mơ màng màng vẫn chưa tỉnh ngủ vậy. Tôi bỗng nhớ tới nội dung trong một bộ tiểu thuyết của mình, lẽ nào Tiểu Chi đang mộng du?

Đúng, chỉ có khả năng này. Trên mặt Tiểu Chi đầy vẻ hoang mang, cho dù mắt cô ấy mở to nhưng bộ não vẫn đang trong trạng thái mơ ngủ. Tất cả những điều này đều phù hợp với đặc trưng của mộng du. Bản thân cô ấy vốn không có nhận thức, chỉ là cô ấy mơ thấy một giấc mơ, còn cơ thể cô ấy giống như đang nằm mơ bước ra ngoài.
Tôi thở một hơi dài, không ngờ Tiểu Chi lại có tật mộng du, có lẽ bản thân cô ấy cũng không biết. Hoang thôn đúng là một nơi khiến người ta phát điên, tôi thực sự rất mệt mỏi, từ từ nhắm mắt lại…
- 4 -
Bảy giờ sáng, tôi mở mắt ra. Ánh sáng xuyên qua cửa sổ giấy rọi lên bức bình phong khiến ngôi nhà cổ này có chút sinh khí.
Tôi không thể chịu đựng được nữa, vốn cho rằng chuyến du hành tới Hoang thôn sẽ lãng mạn và thú vị, nhưng lúc này lại khiến tôi hoảng sợ tới đỉnh điểm, tôi quyết định phải rời khỏi Hoang thôn ngay tức khắc.
Tiểu Chi đang ở trong tiền sảnh ngôi nhà cổ, sắc mặt cô ấy khá ổn, nhìn không ra dáng vẻ mộng du nửa đêm hôm qua, tôi nghĩ hay là không nói toạc ra vẫn tốt hơn. Tôi ngẩng đầu lên nhìn bức chân dung dưới tấm biển “Nhân Ái Đường,” người đàn ông triều Minh trong bức tranh cũng đang nhìn tôi, ông ấy chắc là con trai của Yên Chi, vậy thì cha của ông ấy có thực là một hồn ma đã chết trận không? Tôi không dám nghĩ tiếp, tức tốc ăn hết bữa sáng.
“Anh muốn về rồi à?” Tiểu Chi đã nhận ra khi nhìn thấy hành lí của tôi.
“Xin lỗi, tôi không nên tới Hoang thôn, càng không nên quấy nhiễu cuộc sống yên bình của gia đình cô.”
“Tôi biết anh không ở được lâu.” Tiểu Chi mím môi nói: “Anh có còn tới Hoang thôn nữa không?”
“Không biết.” Tôi nhìn vào đôi mắt ngây thơ của cô ấy, trong lòng bỗng nhớ tới ánh trăng trên dốc núi đêm qua. “Vậy cô thì sao? Đợi sau khi cô tốt nghiệp đại học ở Thượng Hải rồi, có còn về Hoang thôn nữa không?”
Ánh mắt cô ấy hình như rất rối loạn, lí nhí trả lời: “Tôi nhất định sẽ trở lại, kể cả có chết bên ngoài tôi cũng phải về nhà.”
Tôi bỗng run rẩy, câu nói của cô ấy khiến tôi cảm thấy có chút kì dị. Lúc này tôi ngửi thấy mùi thối rữa của hoa lan tỏa ra từ người của Tiểu Chi, mùi vị xộc lên mũi là lan vào phổi khiến tim tôi cũng trở nên chát đắng.
Tôi chầm chậm tiến tới cổng “Tiến Sĩ Đệ,” đứng cạnh ngưỡng cửa nhìn vào mắt Tiểu Chi nói: “Có lẽ, chúng ta sẽ không gặp lại nhau nữa, bảo trọng nhé.”
Ánh mắt Tiểu Chi vẫn u buồn nhường vậy, cô ấy hình như còn muốn nói thêm điều gì đó, nhưng tôi đã bước qua ngưỡng cửa ngôi nhà cổ. Tôi không dám quay đầu lại nhìn, chỉ biết cúi đầu bước về phía trước, muốn tiêu hủy tất cả mọi chướng ngại trong lòng. Tôi đến chân tấm bia tiết hạnh, ngẩng đầu nhìn bốn chữ trên tấm bia – “Trinh Liệt Âm Dương” mà lòng cảm thấy có chút giễu cợt và bi ai.
Tôi đáp chuyến xe trở về thị trấn Tây Lãnh. Nhưng chuyến xe khách về Thượng Hải đã khởi hành từ lâu rồi, chuyến tiếp theo phải đợi tới bốn giờ chiều.
Buổi chiều, nhân vài tiếng đồng hồ rỗi rãi, tôi đã tới bảo tàng văn hóa của thị trấn Tây Lãnh, đánh liều gặp viện trưởng viện bảo tàng. Tôi dựa vào thân phận mà Tiểu Chi bịa ra cho tôi, tự xưng là tới đây để khảo sát lịch sử và phong tục tập quán. Viện trưởng rõ ràng đã bị tôi nói phét, tôi nói ra hết những nghi ngờ về tấm bia tiết hạnh ở Hoang thôn cho ông nghe.
Viện trưởng là một người đàn ông trung niên ngoài năm mươi tuổi, ông ấy trầm ngâm hồi lâu, lấy từ trong kho ra một tấm in thác bản. In thác bản chính là văn thể được sao chép lại từ văn bia hoặc bản khắc bằng giấy và mực, tương đương với bản photo cổ đại. Tôi nhìn sơ qua tấm in thác bản, chằng chịt văn tự rất dài, được in lại từ bản khắc trên bia đá, nghiễm nhiên không có bất cứ dấu câu nào, khi đọc rất nhức mắt. Tôi chau mày nín thở, giống như đang suy luận để phá án, nghiên cứu từng câu từng chữ, mất có một buổi chiều mới có thể hiểu được tấm in thác bản này.
Dưới đây, tôi sẽ dùng ngôn ngữ hiện đại để thuật lại tóm tắt nội dung ghi chép trên tấm in thác bản:
“Những năm Gia Tĩnh triều Minh, nạn cướp biển hoành hành nghiêm trọng phía đông nam, Âu Dương An người Hoang thôn được triệu tập nhập ngũ. Trước lúc lên đường, anh đã hẹn ước cùng người vợ mới cưới chưa được bao lâu, tết trùng dương ba năm sau sẽ trở về quê đoàn viên, nếu như không gặp được nhau, hai người sẽ cùng nhau tự tử để minh chứng. Sau đó, tết trùng dương ba năm sau đã tới, Âu Dương An vẫn đánh trận tại Quảng Đông xa xôi ngàn dặm, anh biết rằng mình chắc chắn đã không còn cách nào khác để thực hiện lời nguyện ước nên quyết tâm tự tử vì tình nơi chiến trường. Đêm tết trùng dương, quan quân và cướp biển đánh nhau ác liệt, Âu Dương An xông lên hàng đầu chiến tuyến, kết quả bị vô số tên bắn trúng người, ngã gục ngay tại trận địa. Nhưng Âu Dương An vốn không chết trận, chỉ là bị thương nặng hôn mê đi mà thôi, sau đó anh được ngư dân cứu mạng. Khi Âu Dương An thương tích đầy mình trở về nhà, quan quân và cướp biển lại chiến đấu quyết liệt, một tên thủ lĩnh cướp biển bị thất lạc đội ngũ đang tháo chạy, đúng lúc đó chạm mặt Âu Dương An trên đường. Âu Dương An một đao chặt rời đầu thủ lĩnh cướp biển, không ngờ nhờ đó mà lập nên công lớn, được triều đình ban thưởng ột chức quan. Không lâu sau, nạn cướp biển đã được san bằng. Âu Dương An áo gấm về quê, khi anh về tới cố hương Hoang thôn thì phát hiện ra vợ mình đã làm theo lời nguyện ước, treo cổ tự tử chết trong đêm trùng dương. Âu Dương An vô cùng đau khổ, đứt từng khúc ruột, không còn cách nào để sống một mình trên cõi đời này. Nhưng anh vẫn muốn nhìn thấy vợ lần cuối nên đã âm thầm đào mộ vợ lên. Mở quan tài ra xem thì bỗng phát hiện thi thể của vợ mình hoàn toàn chưa bị phân hủy, bên cạnh còn có một chiếc sáo trúc. Vậy là Âu Dương An đã cho xây dựng nhà cao cửa rộng, khiêng quan tài của vợ về nhà. Những năm sau đó, Âu Dương An nhất mực sống ẩn dật, cất giấu quan tài của vợ trong nhà, trước và sau tết trùng dương hàng năm, tới lúc nửa đêm anh đều thổi sáo lấy ra từ trong quan tài của vợ. Cứ như vậy nhiều năm trôi qua, vào đêm 23 tháng Chạp tuyết giăng kín trời, Âu Dương An lại thổi sáo lần nữa, kì tích cuối cùng đã xuất hiện, những âm thanh kì lạ bỗng phát ra từ trong quan tài của vợ, anh mở nắp quan tài ra xem, người vợ bỗng nhiên từ từ tỉnh dậy. Âu Dương An mừng vui khôn xiết, bế vợ lên giường, ngày ngày bón cháo cho cô, người vợ rốt cuộc cũng đã hồi phục sức khỏe. Người vợ sau khi sống lại vẫn trẻ trung xinh đẹp, hai người họ tận hưởng cuộc sống yên bình, thậm chí còn sinh hạ một người con trai. Sau này, con trai họ thi đỗ tiến sĩ, đứng đầu danh sách bảng vàng chốn kinh thành. Sau khi hoàng đế nghe xong câu chuyện này đã vô cùng cảm động và quyết định ngự giá ban tặng Hoang thôn một tấm bia tiết hạnh, bốn chữ “Trinh Liệt Âm Dương” trên tấm bia chính là do hoàng đế Gia Tĩnh đích thân viết tặng, chẳng bao lâu sau khi tấm bia được dựng lên, Âu Dương An và vợ gần như cùng lúc qua đời.”
Đọc xong tấm in thác bản, tôi hoàn toàn kinh ngạc, trước mắt cứ hiện lên những tấm văn bia mờ ảo. Tôi dụi dụi mắt: “Tấm in thác bản này ở đâu ra?”
“Đây là một tấm bia mộ.”
“Bia mộ?” Tôi lập tức liên tưởng tới những ngôi mộ gần Hoang thôn. “Là bia mộ của Âu Dương An?”
Viện trưởng gật đầu nói: “Hai mươi năm trước, gần Hoang thôn có một ngôi mộ cổ triều Minh bị bọn đào trộm mộ xâm phạm. Thầy giáo tiểu học của Hoang thôn Âu Dương tiên sinh đã báo án, đội khảo cổ lập tức đến tiến hành khai quật khẩn cấp, Âu Dương tiên sinh là hậu duệ của chủ ngôi mộ, cũng là người báo án, thế nên ông đã cùng đội khảo cổ khai quật mộ cổ, lúc đó tôi cũng có mặt tại hiện trường. Khai quật khảo cổ phát hiện, trong mộ mai táng hài cốt của một đôi nam nữ, còn có cả một bia mộ chí được đưa tới viện bảo tàng thành phố cất giữ, lúc đó tôi đã in một thác bản này để bảo tồn trong viện bảo tàng thị trấn, chính là cái mà anh đang xem đây.”
Hài cốt của một đôi nam nữ? Vậy đó chính là Âu Dương An và Yên Chi rồi? Hóa ra là họ thực sự tồn tại, đến cả xương cốt cũng phát hiện thấy rồi, nghĩ tới đây mà tôi nổi da gà: “Trong mộ còn có thêm phát hiện gì không?”
“Đa số những lễ vật mai táng đền đã bị đạo tặc lấy đi. Nhưng tại hiện trường khai quật còn phát hiện thêm một chiếc sáo trúc được đặt cạnh bộ xương của chủ mộ, bảo tồn khá hoàn hảo.” Viện trưởng bất giác thở dài: “Đáng tiếc là, hiện trường khai quật lúc đó rất hỗn loạn, chúng tôi không khống chế tốt cục diện, chiếc sáo đó sau khi được khai quật không lâu đã mất tích một cách thần bí, đó là đáng tiếc lớn nhất trong lần khai quật đó.”
Chiếc sáo của mấy trăm năm trước? Sống lưng tôi đã lạnh toát: “Viện trưởng, Âu Dương tiên sinh đã xem qua bia mộ đó chưa?”
"Ông ấy đương nhiên là có xem rồi, ông ấy là hậu duệ của chủ mộ và đã cùng tham gia trong cả quá trình khai quật, lúc làm bản photo tấm in thác bản này ông ấy cũng ở lại giúp đỡ. Tôi nhớ ông ấy lúc đó vô cùng kinh ngạc, bởi vì nội dung chép trên tấm bia mộ này đều hoàn toàn không có trong truyền thuyết của tấm bia tiết hạnh Hoang thôn.”
“Cũng tức là truyền thuyết về Yên Chi?”

"Đúng vậy, Hoang thôn cùng với rất nhiều vùng lân cận đều lưu truyền câu chuyện về Yên Chi, truyền thuyết này có mười mấy phiên bản, hầu hết đều mang màu sắc thần bí kì dị, mọi người tin rằng hồn ma của Yên Chi vẫn nghiễm nhiên tồn tại. Nhưng tấm bia mộ của Âu Dương An được khai quật lên khiến tất cả những truyền thuyết khác đều trở nên mờ nhạt. Có lẽ, chỉ có thể phát hiện chân tướng từ trong mộ.”
“Ông có tin những ghi chép trên tấm bia mộ là thật không?”
“Không biết, nhưng từ góc độ nghiên cứu lịch sử cho thấy độ tin cậy của bia mộ cao hơn rất nhiều so với tài liệu văn hiến, càng cao hơn rất nhiều các truyền thuyết dân gian. Bởi vì người chết và mộ phần không biết nói dối.”
Người chết và mộ phần không biết nói dối? Đúng vậy, trên thế giới này chỉ có người sống mới biết nói dối. Bỗng nhiên, tôi thấy mình như rơi xuống đáy vực sâu thẳm “La sinh môn” của Akira Kurosawa.
Khi quay đầu lại, tôi mới phát hiện ra đã là năm rưỡi chiều, đã lỡ mất chuyến xe cuối cùng trở về Thượng Hải.
Vội vã rời khỏi viện bảo tàng, sắc đêm đã bao trùm thị trấn Tây Lãnh. Một làn gió lạnh thổi qua, tôi ngửi thấy rất nhiều mùi khói đốt, trước cửa mỗi hộ gia đình đều đang đốt tiền vàng mã, thậm chí còn có thể nhìn thấy một số bài vị của tổ tông nhà họ.
Trời ơi, tôi ở Hoang thôn tới mức mộng mị rồi, hôm nay là ngày 23 tháng Chạp, dương lịch là ngày 29 tháng 12, ngày mai chính là đêm trừ tịch. Trong phong tục truyền thống của người Trung Quốc, ngày 23 tháng Chạp là ngày lễ bái tổ tông, nhà nhà đều phải đốt tiền giấy, dập đầu bái lạy tổ tông.
Tôi lập tức nhớ tới tấm bia mộ đó, năm đó Âu Dương An đã thổi chiếc sáo thần bí trong đêm 23 tháng Chạp và đã làm cho Yên Chi sống lại. Và hôm nay chính là ngày 23 tháng Chạp, chiếc sáo thần bí đó giờ đây đang ở trong tay cha của Tiểu Chi, mẹ cô ấy cũng mất từ lâu rồi. Âu Dương tiên sinh là hậu duệ của Âu Dương An và Yên Chi, có phải ông ấy muốn lập lại kì tích của tổ tiên để tiếng sáo đêm 23 tháng Chạp thức tỉnh âm hồn của người vợ?
Phút chốc, tôi ra một quyết định – lập tức trở lại Hoang thôn, tôi nhất định phải vén mở bức màn bí mật này.
Bến xe thị trấn Tây Lãnh đã không còn một bóng người từ lúc nào rồi, tôi đành phải móc đèn pin ra, lần theo con đường hướng về Hoang thôn bộ hành trên những ngọn núi hoang vu.
Sau hai tiếng đồng hồ, lúc tôi đã đặt chân tới Hoang thôn bỗng nghe thấy tiếng sáo kì dị, giống như thủy triều trong đêm đen đang dâng lên, chầm chậm ập vào tai tôi. Trong tiếng sáo đáng sợ đó, tôi thở dốc chạy về phía Hoang thôn, lờ mờ nhìn thấy một tấm bia đá khổng lồ, giống như một tòa lâu đài sừng sững trong bóng đêm – tới Hoang thôn rồi.
Tức khắc, tiếng sáo trên núi lại dần dần mất đi, tôi chạy thẳng một mạch tới trước cổng “Tiến Sĩ Đệ.”
Cổng chính không khóa, tôi lập tức xông vào. Đèn pin soi vào bóng tối đặc quánh của ngôi nhà cổ, hình như có một tầng khói sương đang bay lượn, tim tôi càng đập càng nhanh, trong tiền sảnh tối om hình như không có người, tôi chuyển tới sân sau, cả ngôi nhà cổ “Tiến Sĩ Đệ” tĩnh mịch như đã chết.
Tôi xông vào phòng Tiểu Chi tối đen, đèn điện không tài nào bật sáng được, đành phải lấy đèn pin soi, đến cả một bóng ma cũng không có. Sau khi bước ra tôi mới nhìn thấy, trên căn gác tôi từng ở sáng ánh đèn leo lắt.
Tôi lập tức bước lên căn gác đó, khẽ đẩy cửa căn phòng tôi đã từng ở, lại là ngọn đèn dầu đó, ánh lửa lập lòe chiếu sáng căn phòng tăm tối, bên kia tấm bình phong sơn mài, tôi nhìn thấy một bóng thiếu nữ.
“Tiểu Chi!”
Tôi lập tức lao tới phía sau bình phong, quả nhiên là cô ấy, cô ấy mặc một chiếc áo ngủ màu trắng, xõa mái tóc dài đen bóng, thẫn thờ nhìn những bức vẽ trên bức bình phong. Tôi vịn vào bờ vai lạnh ngắt của cô ấy, cô ấy từ từ quay đầu lại, khuôn mặt xinh đẹp dưới ánh nến âm u trông thật đáng thương. Nhưng đôi mắt của cô ấy vẫn cô hồn, thẫn thờ nhìn tôi, rõ ràng là lại mộng du rồi.
Tôi lắc lắc vai cô ấy nói: “Cô tỉnh lại đi.”
Tiểu Chi không trả lời, chỉ chớp chớp mắt giống như viên đá quý màu đen tỏa ra ánh sáng lấp lánh.
Tôi nhìn bức tranh cuối cùng trên bình phong nói: “Có lẽ cha cô chưa từng nói với cô về câu chuyện của Yên Chi thực ra vẫn còn một phiên bản được đào từ dưới mộ lên.”
Cô ấy sững ra một lúc, từ từ quay đầu lại nói: “Hồn ma trở về?”
Tôi bỗng chốc ngớ người ra, hình như tiếng của cô ấy không được phát ra từ miệng mà là trực tiếp chui vào trong não tôi, không… giọng nói của cô ấy không giống Tiểu Chi! Hình như đến cả đôi mắt cũng có chút không giống.
Ánh đèn dầu mù mờ rọi lên mắt và tóc cô ấy, lên cả áo ngủ trắng toát trên người cô giống như cố nhân bước ra từ tấm bình phong.
Lúc này tôi mới phát hiện ra, cô ấy vốn dĩ không phải là Tiểu Chi.
Bờ vai cô ấy lạnh toát nhường vậy, ánh mắt kì dị nhường vậy, tôi cảm thấy sợ hãi thấu tận xương tủy, lùi lại một bước thật rộng: “Cô rốt cuộc là ai?”
“Cô ấy là mẹ của Tiểu Chi.”
Một giọng nói khàn khàn bỗng cất lên sau lưng khiến tôi dựng cả tóc gáy, dưới ánh đèn dầu âm u, khuôn mặt trắng bệch hốc hác của Âu Dương tiên sinh đột ngột hiện lên.
Ông bước tới cạnh người phụ nữ, trên tay còn cầm cả chiếc sáo thần bí, lạnh lùng nói: “Cậu đã nhìn thấy cảnh tượng không nên nhìn thấy.”

Tôi run rẩy lắc đầu nói: “Thế là thế nào? Mẹ của Tiểu Chi không phải đã chết từ lâu rồi sao?”
Âu Dương tiên sinh rầu rĩ nói: “Hai mươi năm trước, khi Tiểu Chi mới ra đời chưa được bao lâu, tôi đi công tác xa một thời gian dài, khi tôi trở về thì mẹ của Tiểu Chi đã lâm bệnh qua đời rồi. Nhưng tôi không tài nào chấp nhận được việc cô ấy đã chết, cuộc đời tôi không thể mất cô ấy, tôi đau khổ khôn cùng, không muốn một mình sống trên cõi đời này nữa. Không lâu sau, ngôi mộ cổ của tổ tiên chúng tôi bị đào trộm, tôi cùng đội khảo cổ đã đào được chiếc sáo thần bí này, tôi âm thầm cất giấu nó đi rồi nghiên cứu tấm bia mộ đó. Câu chuyện của tổ tiên đã cho tôi một gợi ý lớn, tôi tin rằng chỉ cần làm theo cách được ghi chép lại trên bia mộ thì vợ tôi sẽ nhất định trở về bên tôi.”
“Thế nên bác mới thường xuyên lên núi thổi sáo lúc nửa đêm?”
“Đúng thế, cậu có biết phép thuật của chiếc sáo này không? Nó có thể đem người mà cậu yêu thương trở về bên cậu. Đúng vậy, cô ấy đã trở về rồi.” Ánh mắt và khẩu khí của ông càng lúc càng dồn dập, nhẹ nhàng vuốt tóc người vợ đang ở bên. “Mỗi khi tôi thổi sáo lúc nửa đêm, cô ấy sẽ âm thầm lặng lẽ đến “Tiến Sĩ Đệ.” Tuy tôi đã dần dần già đi, nhưng cô ấy mãi luôn trẻ đẹp. Tiếng sáo thê lương lúc nửa đêm dẫn cô ấy về nhà, cô ấy chải tóc trong phòng, đi dạo trong sân, đây chính là hồn ma trở về.”
Tôi lại nhớ tới bức ảnh lúc mẹ Tiểu Chi còn sống trong căn phòng của cô ấy, rõ ràng là giống hệt cô ấy, thảo nào khiến tôi tưởng lầm đó là Tiểu Chi. Lúc này, tôi nhìn đôi vợ chồng người ma trước mặt, người vợ trẻ trung xinh đẹp ngẩng đầu lên nhìn người chồng đã già cả héo hon, ánh mắt đó khiến tim ta vỡ vụn. Ông ấy yêu cô ấy sâu đậm, bất luận là cô ấy còn sống hay đã chết, dù là người ma âm dương ngăn cách nhưng ông vẫn khát khao người mà mình yêu thương trở về nhà.
Âu Dương tiên sinh chậm rãi nói: “Nước của biển mới thực sự là nước. Mây vu sơn mới thực sự là mây.”
Lòng tôi cũng xót xa, đây là câu thơ trong bài thơ “Xa nhớ” của Nguyên Chấn sáng tác để tưởng nhớ người vợ, nhưng tôi lại nhớ tới Tiểu Chi: “Tiểu Chi thì sao? Cô ấy đâu rồi?”
Âu Dương tiên sinh không trả lời, mắt ông đột ngột trợn tròn lên, giơ tay về phía sau lưng tôi.
Trong giây phút tôi đang chuẩn bị quay đầu lại, cơn mộng mị lập tức ào tới, trước mắt chỉ có tấm bình phong cổ đang phản chiếu ánh đèn dầu âm u. Người phụ nữ triều Minh đang thổi chiếc sáo trên tay.
Trong tiếng sáo du dương cổ xưa đó, một vùng nước biển tối đen bao trùm lấy tôi cho tới khi mất hết mọi nhận thức…
- 5 -
Sáng sớm tỉnh dậy, toàn thân tôi đau nhức, đầu kêu ong ong, sau cơn mộng mị, tôi nhớ lại tất cả những gì đã xảy ra tối hôm qua, lập tức bật dậy trên sàn gỗ ngôi nhà cổ kính.
“Tiểu Chi! Tiểu Chi!” Tôi gọi to rồi lao xuống gác, nhưng ngôi nhà cổ “Tiến Sĩ Đệ” thênh thang không một bóng người, tìm khắp tất cả các phòng đều chỉ thấy một lớp bụi mỏng, giống như rất lâu rồi không có người ở. Còn trong phòng của Tiểu Chi không còn lưu lại bất cứ thứ gì chỉ trừ bức ảnh của mẹ cô ấy.
Thế này là thế nào? Họ đều đã đi đâu hết rồi? Tiểu Chi và cha của cô ấy đâu? Tôi vẫn lớn tiếng gọi cô ấy, nhưng ngôi nhà cổ tĩnh mịch giống như một ngôi mộ cổ. Tôi nhớ lại tất cả những gì xảy ra tối qua, mẹ của Tiểu Chi đã chết từ lâu, Âu Dương tiên sinh thổi sáo gọi hồn – đây là một cơn ác mộng hay là một ảo giác đáng sợ?
Không, tôi không dám nghĩ tiếp nữa.
Tôi lao ra khỏi cổng “Tiến Sĩ Đệ,” phát hiện ra Hoang thôn rốt cuộc cũng có chút hơi người, có người đang dán những câu đối tết lên cửa nhà. Đúng, hôm nay đã là ba mươi tết rồi, là ngày trở về nhà ăn bữa cơm tất niên.
Tôi tới thẳng ủy ban thôn và gặp trưởng thôn, không buồn để ý tới những điều cấm kị nữa, hỏi thăm họ về tình hình của Tiểu Chi và Âu Dương tiên sinh.
Câu trả lời của trưởng thôn khiến tôi hồn xiêu phách lạc, ông bảo Âu Dương tiên sinh đã chết từ lâu rồi, ba năm trước mất vì bệnh ung thư và mất trong “Tiến Sĩ Đệ.” Đích thân trưởng thôn tự tay khiêng xác Âu Dương tiên sinh ra ngoài mai táng. Còn vợ của Âu Dương tiên sinh hai mươi năm trước trong lúc ông đi công tác xa đã lâm bệnh qua đời tại nhà.
Còn về Tiểu Chi, trưởng thôn thở dài: “Đứa con gái đó rất thông minh, thi đỗ đại học ở Thượng Hải. Tiếc là một năm trước đã bị tai nạn đường sắt tại Thượng Hải, vậy là ngọc hoa tan nát.”
Nghe tới đây tim tôi bỗng lạnh toát, tôi bụm miệng không dám hét lên, tôi sợ mình sẽ phát điên tại đây. Cả nhà ba người trong “Tiến Sĩ Đệ” đều đã chết hết cả rồi. Sao lại có thể như vậy chứ? Vậy thì Tiểu Chi và Âu Dương tiên sinh mà tôi gặp là ai đây?
Nhưng tôi lại không dám nói hết những chuyện này ra, tôi sợ người dân Hoang thôn tưởng tôi là bệnh nhân tâm thần mà nhốt lại. Tôi không thể ở lại Hoang thôn nữa rồi, có lẽ ở đây chỉ thuộc về một thời đại cổ xưa nào đó, thuộc về những truyền thuyết trong sách cổ.
Tiểu Chi – Trong lòng tôi gọi thầm tên cô ấy, còn người thì vội vã rời khỏi Hoang thôn. Tấm bia tiết hạnh vẫn dựng đứng sừng sững trước cổng thôn giống như một bia mộ khổng lồ.
Vĩnh biệt nhé, Hoang thôn.

 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,359
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 34: Lời kết


LỜI KẾT
Sau khi trở về Thượng Hải, tôi đã hỏi một người bạn làm việc trong công ty đường sắt Thượng Hải. Cậu ấy kể cho tôi nghe mùa đông năm ngoái, chính trong ga tàu điện ngầm mà tôi kí tên bán sách đã xảy ra một vụ tai nạn nghiêm trọng: khi tàu điện ngầm chuẩn bị vào ga, một nữ sinh viên hai mươi tuổi sảy chân rơi xuống đường ray, bị tàu điện cán chết tại chỗ, tên của nữ sinh đó là – Âu Dương Tiểu Chi.
Cậu bạn không hề để ý thấy, nước mắt tôi đang lặng lẽ chảy xuống. Cho tới tận lúc này tôi mới nhận ra mình đã yêu Tiểu Chi tự lúc nào, yêu một cô gái xinh đẹp đã chết một năm trước.

Đây là một câu chuyện thật thê lương và đẹp đẽ, tôi quyết định viết lại câu chuyện này và sẽ để nó trở thành một cuốn tiểu thuyết xuất sắc. Tôi nghĩ, nếu Tiểu Chi không tới trước mặt tôi vào một buổi tối kí tên bán sách đó, nếu như cô ấy không dẫn tôi tới Hoang thôn, tôi sẽ vĩnh viễn không biết được câu chuyện này. Và trong cái thành phố biển người đông đúc này, cô ấy lại cùng tôi tương ngộ, đó chính là ân tứ mà cô ấy dành cho tôi. Cô ấy nói cô ấy thích tiểu thuyết của tôi, bởi vậy cô ấy mới ân tứ dành cho tôi một câu chuyện và linh cảm tuyệt diệu.
Tôi còn có thể gặp lại cô ấy không?
Mấy hôm sau, trên đường về nhà, rất ngẫu nhiên đi qua một sạp hàng rong, trong lòng bỗng giống như bị nhói đâm một cái, một chiếc sáo đập vào mắt tôi. Tôi lập tức cúi người xuống cẩn thận cầm chiếc sáo lên: dài khoảng ba bốn chục phân, trên thân sáo sơn màu nâu đậm, giữa lỗ sáo có treo những sợi dây màu hồng tím, màng sáo mỏng như cánh ve che lấp trên miệng sáo.
Thật là không thể tưởng tượng nổi, nó thực sự rất giống.
Gió lạnh hoàng hôn thổi tung tóc tôi, tôi run rẩy cầm chiếc sáo, nhẹ nhàng vuốt nó giống như đang chạm vào làn da thiếu nữ. Thanh trúc lạnh toát nhường vậy, một hơi lạnh thấm sâu vào ngón tay và huyết quản khiến mắt tôi bỗng trở nên mờ ảo, khuôn mặt dẫn hồn tôi vào những giấc mơ từ từ hiện lên.

Tôi lập tức móc tiền ra mua chiếc sáo này, rón rén cẩn thận ôm nó vào lòng giống như có sức sống vậy. Màn đêm đã dần buông xuống, tôi vội vã trở về nhà nhưng không bước vào cửa mà đi thẳng lên sân thượng của tòa nhà.
Sân thượng ban đêm rất lạnh, gió lạnh cắt da cắt thịt xuyên vào lóng khiến tôi có chút chao đảo. Đứng trên sân thượng nhìn về tứ phía, trước mắt là Thượng Hải về đêm tối lôi cuốn con người, vô số những tòa nhà chăng đèn nhấp nháy cao sừng sững, giống như một thế giới ảo ảnh trong mơ.
Tiểu Chi, em ở đâu?
Tôi lấy chiếc sáo trong lòng ra, ngẩng đầu nhìn lên bầu trời, chỉ thấy một vầng trăng lưỡi liềm đang treo lơ lửng trên bầu trời bí ẩn. Trên sân thượng cao cao này, ánh trăng như gột rửa chảy vào đồng tử, tôi bất giác nâng chiếc sáo lên, đặt chiếc sáo lên môi. Hít một hơi thật sâu để không khí lạnh buốt đổ vào yết hầu, tràn vào lòng ngực, mở ra cánh cửa phong trần từ đáy tim.

Nín thở một lúc, tôi thở ra một hơi dài giống như được sống dậy, hơi thở ấm nóng chầm chậm tràn vào trong sáo, xoay chuyển trong chiếc sáo thon dài, va đập ngân nga, phát ra âm thanh cộng hưởng bi ai, rồi chuyển thành sóng âm du dương bay ra khỏi lỗ sáo bay bổng trên bầu trời đêm xa xăm và bí ẩn.
Chìm đắm trong tiếng sáo cổ xưa du dương này, nhận thức của tôi dần dần mờ nhạt – lại ngửi thấy mùi hương u uất đó, dường như có một ngón tay thon dài đang nhẹ nhàng đặt lên vai tôi.
Sái Tuấn
Ngày 8 tháng 11 năm 2004

 
CHÚ Ý !!!
Các đạo hữu nhớ thêm TÊN CHƯƠNG và THỨ TỰ CHƯƠNG ở ô phía trên phần trả lời nhanh. Như vậy hệ thống mới tạo được DANH SÁCH CHƯƠNG.
Cập nhật chức năng ĐĂNG TRUYỆN và THÊM CHƯƠNG MỚI trên web Diễn Đàn Truyện tại https://truyen.diendantruyen.com
Top Bottom