Cập nhật mới

Dịch Full Giờ Này Anh Ở Đâu?

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,926
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
[Diendantruyen.Com] Giờ Này Anh Ở Đâu?

Giờ Này Anh Ở Đâu?
Tác giả: Mary Higgins Clark
Tình trạng: Đã hoàn thành




Tác giả: Mary Higgins Clark

Thể loại: Linh Dị, Ngôn Tình, Phương Tây, Trinh Thám

Giới thiệu:

Ngày của Mẹ. Điện thoại reo.
Mười năm trước, Mack MacKenzie biến mất. Anh hứa hằng năm sẽ gọi về nhà vào Ngày của Mẹ.
Mười năm sau, Leesey Andrews mất tích. Cô hứa hằng năm sẽ gọi về nhà vào Ngày của Mẹ.
Đó phải chăng chỉ là sự trùng hợp ngẫu nhiên? Và trong vòng mười năm ấy, đã có đến ba cô gái khác cũng bỗng dưng "bốc hơi".
Em gái của Mack, Carolyn MacKenzie, quyết tâm tìm cho ra anh trai. Cô không ngờ mong muốn đó lại đẩy mọi chuyện trở nên rối rắm.
Liệu cô có khám phá được sự thật khi muôn vàn khó khăn liên tục ập đến? Chưa kể, cảnh sát còn dồn hết mọi nghi ngờ trong tất cả các vụ mất tích của những cô gái vào Mack.
Hoang mang tột cùng, một câu hỏi cứ xoáy sâu trong đầu Carolyn: "Giờ này anh ở đâu?"
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,926
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 1


Lúc đó là đúng nửa đêm, nghĩa là Ngày của Mẹ chỉ vừa mới bắt đầu. Tôi thức qua đêm với mẹ trong căn hộ ở Sutton Place, nơi tôi lớn lên. Bà đang ở trong phòng mình, phía cuối hành lang, và chúng tôi cùng thức với nhau. Chúng tôi đã cùng thức hằng năm kể từ khi anh trai tôi, Charles MacKenzie Jr., "Mack", đi khỏi căn hộ anh sống cùng với hai sinh viên năm cuối của Đại học Columbia cách đây mười năm. Kể từ đó trở đi, chẳng có ai gặp lại anh cả. Nhưng mỗi năm vào một thời điểm nào đó trong Ngày của Mẹ, anh lại gọi điện thoại để đoan chắc với mẹ rằng anh vẫn khỏe. "Đừng lo lắng cho con". Anh bảo bà. "Một trong những ngày này con sẽ tra chìa khóa vào ổ và sẽ có mặt ở nhà". Thế rồi anh cúp máy.

Chúng tôi không hề biết trong hai mươi bốn tiếng đồng hồ đó lúc nào cuộc gọi này sẽ đến. Năm ngoái Mack gọi điện chỉ vài phút sau nửa đêm, và việc chúng tôi định thức với nhau đã chấm dứt ngay khi nó vừa mới bắt đầu. Cách đây hai năm anh lại đợi cho đến giây cuối cùng mới gọi. Và mẹ hoảng hốt sợ rằng mối liên lạc mong manh với anh đã chấm dứt.

Mack hẳn đã biết cha tôi bị chết trong thảm họa Tháp Đôi. Tôi chắc chắn dù đang làm gì đi nữa thì cái ngày khủng khϊếp đó lẽ ra phải kéo anh quay về nhà mới đúng. Nhưng điều đó đã không xảy ra. Thế rồi vào Ngày của Mẹ kế tiếp, trong cuộc gọi hằng năm của mình, anh bắt đầu kêu gào hổn hển: "Con rất lấy làm tiếc về cha. Con thực sự rất lấy làm tiếc". Rồi anh ngừng cuộc gọi.

Tôi là Carolyn. Tôi mười sáu tuổi khi Mack biến mất. Tiếp bước chân anh, tôi theo học ở Đại học Columbia, rồi sau đó tiếp tục đến học ở trường Luật Duke. Mack đã được chấp thuận cho nhập học ở đó trước khi anh biến mất. Sau khi tốt nghiệp ngành Luật năm ngoái, tôi làm phụ tá cho viên thẩm phán tòa án dân sự tại trụ sở tòa án trên phố Centre Street ở khu Manhattan hạ. Thẩm phán Paul Huot vừa mới về hưu, do vậy, vào lúc này tôi chưa có việc làm. Tôi dự định nộp đơn xin làm trợ lý cho Chưởng lý quận tại Manhattan, nhưng vẫn chưa làm điều đó.

Trước hết tôi cần phải tìm ra cách truy tìm anh trai tôi. Điều gì đã xảy ra cho anh? Tại sao anh lại biến mất? Không có dấu hiệu nào của trò đùa tai quái. Mọi thẻ tín dụng của Mack không bị sử dụng. Xe hơi vẫn nằm trong gara gần căn hộ của anh. Không có đặc điểm nào về nhân dạng của anh được tìm thấy trong nhà xác, mặc dù hồi đầu cha mẹ tôi thỉnh thoảng vẫn được mời đến nhìn thi thể của một thanh niên nào đó chết đuối khi câu cá trên sông, hoặc chết vì một tai nạn nào đó.

Khi chúng tôi cùng lớn lên, Mack là người bạn tốt nhất của tôi, người mà tôi có thể chia sẻ, thổ lộ tâm tình. Hết một nửa các bạn gái của tôi dều phải lòng anh. Anh là người con, người anh hoàn hảo, một sinh viên đẹp trai, tử tế, vui nhộn, tuyệt vời. Giờ đây tôi cảm thấy thế nào về anh nhỉ? Tôi không biết gì hết. Tôi nhớ mình đã yêu thương anh biết chừng nào, rằng lòng yêu thương đó giờ đây đã biến thành cơn tức giận và nỗi bất bình. Tôi ước gì mình thậm chí có thể ngờ vực là anh vẫn còn sống và có ai đó đang chơi một trò đùa độc ác, nhưng chẳng có nỗi ngờ vực nào như vậy trong tâm trí tôi. Cách đây nhiều năm chúng tôi đã ghi âm giọng nói từ một trong những cuộc điện thoại của anh, và đem so sánh với tiếng nói của anh trong các cuốn băng quay hình gia đình. Nó giống hệt nhau.

Tất cả những điều này cho thấy mẹ và tôi đang trong tình trạng lửng lơ, và trước khi cha chết trong cái lò luyện ngục cháy bỏng đó, đấy cũng là cách ông sống. Trong ngần ấy năm tháng, tôi chưa hề đi đến nhà hàng hay rạp hát nào mà không đảo mắt theo quán tính để quét tìm xem có thể may mắn ngẫu nhiên bắt gặp anh chăng. Một người nào đó có nhân dạng tương tự với mái tóc nâu màu cát sẽ buộc được tôi phải nhìn lại lần thứ hai, và đôi khi người này còn bị xem xét kỹ lưỡng thật gần. Tôi còn nhớ không dưới một lần đã gần như hất mọi người ra để có thể đến gần hơn một người nào đó, để rồi người này hóa ra hoàn toàn chỉ là một người xa lạ.

Tất cả những điều này lướt qua tâm trí tôi khi tôi cài đặt âm lượng của máy điện thoại ở chế độ kêu to nhất, rồi leo lên giường, cố dỗ giấc ngủ. Tôi cho rằng mình đã rơi vào cơn mơ ngủ một cách khó nhọc bởi tiếng chuông điện thoại ré lên khiến tôi bật dậy. Tôi nhìn mặt chiếc đồng hồ dạ quang và thấy lúc đó là ba giờ kém năm. Tôi dùng một tay với lên mở đèn ngủ, tay còn lại chộp lấy ống nghe. Mẹ đã nhấc máy rồi, và tôi nghe thấy tiếng bà, nín thở, đầy lo lắng. "Chào Mack".

"Chào mẹ. Chúc mẹ Ngày của Mẹ hạnh phúc. Con yêu mẹ".

Giọng anh vang vang, đầy vẻ tự tin. Nghe như anh chẳng có gì phải lo lắng trên cõi đời này, tôi cay đắng nghĩ thế.

Như thường lệ, âm thanh giọng nói của anh làm mẹ tôi choáng váng. Bà bắt đầu khóc. "Mack, mẹ yêu con. Mẹ cần được nhìn thấy con". Bà van xin. "Mẹ không cần biết con đang gặp rắc rối gì, con sẽ phải giải quyết vấn đề gì, mẹ sẽ giúp con. Mack, vì Chúa, đã mười năm rồi. Đừng làm điều này với mẹ lâu hơn nữa. Xin con... xin con..."

Anh chẳng bao giờ ở trên đường dây lâu hơn một phút. Tôi chắc rằng anh biết chúng tôi sẽ cố gắng truy tìm cuộc gọi, mà giờ đây công nghệ hiện đại sẵn có ở mọi nơi, anh luôn gọi từ một trong những máy điện thoại di động với thẻ trả trước.

Tôi đã hoạch định điều sẽ nói với anh và chạy ào đến để buộc anh phải lắng nghe trước khi cúp máy. "Mack, em sẽ tìm ra anh". Tôi nói. "Cảnh sát đã cố gắng và thất bại. Nhân viên điều tra riêng cũng thế. Nhưng em sẽ không thất bại. Em thề là mình sẽ không như thế". Giọng nói của tôi trầm tĩnh và cương quyết như tôi đã dự định, nhưng rồi âm thanh tiếng khóc của mẹ lại vọng đến. "Em sẽ tìm ra anh, anh thật khốn nạn". Tôi rít lên "Tốt hơn hết anh nên tìm ra một lý do thật sự chính đáng để tra tấn mẹ và em như thế này".

Tôi nghe thấy tiếng lách cách và biết rằng anh đã ngắt đường dây. Tôi chỉ muốn cắn lấy lưỡi mình để rút lại ngôn từ mà tôi đã gán cho anh, nhưng dĩ nhiên là mọi thứ đã quá muộn.

Biết rằng sẽ phải đương đầu với điều gì, rằng mẹ sẽ nổi cơn thịnh nộ vì cách tôi quát mắng Mack, tôi khoác chiếc áo choàng và đi xuôi hành lang đến căn phòng cha mẹ tôi đã từng sống chung.

Sutton Place là khu lân cận thượng lưu của Manhattan với những ngôi nhà và cao ốc căn hộ của thành phố nhìn ra sông East River. Cha tôi đã mua nơi này sau khi tự buộc mình phải làm việc ban đêm ở trường Luật Fordham, và làm việc theo cách của ông để trở thành đối tác của một hãng luật. Thời thơ ấu đầy đặc quyền của chúng tôi là kết quả của trí não và đạo đức chăm chỉ làm việc mà ông thừa hưởng từ người mẹ Tô Cách Lan lai Ái Nhĩ Lan góa bụa của ông. Ông chẳng bao giờ cho phép một đồng năm xu nào trong số tiền mẹ tôi được thừa kế tác động lên cuộc sống của chúng tôi.

Tôi gõ nhẹ và đẩy cửa. Mẹ đang đứng bên cửa sổ nhìn về hướng sông East River. Bà không quay lại dù biết tôi đang có mặt ở đó. Hôm ấy là một đêm trời quang mây tạnh và nhìn về phía tay trái tôi có thể thấy những ánh đèn trên cầu Queensboro. Thậm chí vào cái thời khắc trước bình minh này đã có một dòng xe cộ đều đặn qua lại trên cầu. Một ý tưởng kỳ lạ lướt qua tâm trí tôi rằng có thể Mack đang ở một trong những chiếc xe ấy khi gọi cuộc điện thoại hằng năm của anh, và giờ đây đang trên đường đi về điểm đích xa xăm nào đó.

Mack luôn yêu thích du lịch; và điều này đã thấm vào máu thịt của anh. Ông ngoại tôi, Liam O"Connell, chào đời ở Dublin, theo học tại Cao đẳng Trinity và khi đến Mỹ, tuy khôn ngoan, được giáo dục kỹ lưỡng, nhưng ông lại khánh kiệt. Chỉ trong vòng năm năm, ông đã mua được những cánh đồng khoai tây ở Long Island mà sau này trở thành Hamptons, khu bất động sản trong hạt Palm Beach, bất động sản trên đại lộ số Ba từ khi nó còn là một con phố dơ dáy, tối tăm nằm khuất bóng trong tuyến đường xe lửa cao lửng lơ bên trên nó. Đó là lúc ông ngỏ lời và lập gia đình với bà, người con gái Anh quốc ông gặp ở Trinity.

Mẹ tôi, Olivia là một người đẹp thực sự kiểu Anh, cao và vẫn thon thả như cây lau sậy ở lứa tuổi sáu mươi hai, với mái tóc ánh bạc, cặp mắt màu xanh xám, và những đường nét cổ điển, về ngoại hình, Mack thực sự là bản sao của bà.

Tôi thừa hưởng mái tóc nâu ngả đỏ, cặp mắt màu hạt dẻ và cái cằm bướng bỉnh của cha. Khi đi giày cao gót, mẹ tôi sẽ cao nhỉnh hơn cha tôi một chút; trong khi đó, giống như cha, tôi chỉ có chiều cao trung bình. Tôi thấy mình rất nhớ ông khi tôi băng qua căn phòng đến quàng tay quanh người mẹ.

Bà quay ngoắt người lại và tôi có thể cảm nhận được nỗi tức giận toát ra từ người bà. "Carolyn, làm sao con lại có thể nói chuyện như thế với Mack?" Bà vươn người tới, đôi tay khoanh chặt trước ngực. "Bộ con không thể hiểu được là có một vấn đề khủng khϊếp nào đó đã ngăn nó đến với chúng ta sao? Bộ con không thể hiểu được là nó cảm thấy sợ hãi, vô dụng và cuộc gọi này là tiếng kêu cầu sự thấu hiểu sao?"

Trước khi cha tôi mất, họ thường có những cuộc trao đổi nhiều cảm xúc như thế này. Mẹ luôn bảo vệ Mack, còn cha thì sẵn sàng phủi tay mọi chuyện và ngừng lo lắng. "Vì lòng kính Chúa, Liv". Ông gắt gỏng với mẹ. "Nó sẽ ổn thôi mà. Có thể nó đang dính dấp với một người phụ nữ nào đó nhưng lại không muốn đem cô ta về đây. Cũng có thể nó đang cố trở thành một nghệ sĩ. Nó đã từng muốn làm nghệ sĩ từ khi còn bé cơ mà. Có thể tôi đã quá khắt khe với nó, buộc nó phải làm việc mùa hè. Ai mà biết được?"

Họ luôn kết thúc bằng cách xin lỗi nhau. Mẹ khóc, còn cha thì khốn khổ và tức giận chính mình vì đã làm buồn lòng bà.

Tôi không phạm cái lỗi thứ nhì bằng cách cố biện minh cho mình. Thay vào đó, tôi nói: "Mẹ ơi, hãy nghe con nói đây. Vì cho đến nay chúng ta vẫn chưa tìm thấy Mack, anh ấy không lo lắng gì về lời đe dọa của con đâu. Mình hãy cứ nhìn sự việc theo cách này đi. Mẹ đã nghe tin về anh ấy. Mẹ biết anh ấy vẫn còn sống mà. Anh ấy thực sự còn có vẻ lạc quan nữa chứ. Con biết mẹ ghét thuốc ngủ, nhưng con cũng biết bác sĩ của mẹ đã cho mẹ một toa thuốc. Thế thì bây giờ mẹ hãy uống một viên và đi nghỉ một chút nhé".

Tôi không đợi bà trả lời. Tôi biết mình không thể làm điều gì tốt đẹp bằng cách ngồi lại lâu thêm với bà nữa vì bản thân tôi cũng cảm thấy tức giận. Tức giận vì bà đã la mắng tôi, tức giận Mack, tức giận thực tế rằng căn hộ kép mười phòng này quá lớn để mẹ sống một mình trong đó, nơi tràn ngập những ký ức. Bà sẽ không bán nó đi bởi bà không tin rằng cuộc gọi hằng năm của Mack sẽ được chuyển về địa điểm mới, và dĩ nhiên bà cũng nhắc nhở tôi rằng anh đã nói một ngày nào đó anh sẽ tra chiếc chìa khóa vào ổ và có mặt ở nhà... Mái ấm. Nơi đây.

Tôi quay về giường ngủ, nhưng giấc ngủ vẫn còn xa lắc phía trước. Tôi bắt đầu hoạch định mình sẽ tìm kiếm Mack như thế nào. Tôi nghĩ về việc đi gặp Lucas Reeves, một điều tra viên mà cha đã thuê, nhưng rồi lại đổi ý. Tôi sẽ xử lý việc Mack biến mất tăm như thể nó chỉ vừa mới xảy ra ngày hôm qua. Điều đầu tiên cha làm khi chúng tôi được báo về Mack là gọi ngay cho cảnh sát và tường trình lại việc anh ấy bị mất tích. Tôi sẽ bắt đầu như thế ở giai đoạn đầu này.

Tôi biết những nhân viên ở bên dưới trong trụ sở tòa án; đây cũng là nơi tọa lạc của văn phòng Chưởng lý quận. Tôi quyết định việc tìm kiếm của mình sẽ bắt đầu từ đó.

Sau cùng tôi trôi vào giấc ngủ và mơ về một hình dáng mờ nhạt đang băng ngang qua cây cầu. Dù đã cố hết sức để bắt kịp anh, nhưng anh vẫn quá nhanh so với tôi, và khi chúng tôi đi vào đất liền, tôi chẳng biết phải rẽ lối nào. Nhưng rồi tôi nghe thấy tiếng anh gọi tôi, giọng nói mới buồn thảm, bối rối làm sao. Carolyn, hãy dừng lại, hãy dừng lại.

"Em không thể, Mack". Tôi hét to và thức giấc. "Em không thể".
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,926
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 2


Mục sư Devon MacKenzie bình luận một cách rầu rĩ với những khách viếng thăm rằng ngôi nhà thờ đáng yêu St. Francis de Sales của ông tọa lạc quá gần với thánh đường Tân giáo St. John the Divine đến nỗi không nhìn thấy nó được.

Mười hai năm trước, Devon nghe nói rằng St. Francis sẽ bị đóng cửa, và thành thực mà nói thì ông đã không thể tranh đấu chống lại quyết định đó. Suy cho cùng nó được xây dựng vào thế kỷ thứ mười chín và cần đại tu. Thế rồi khi có nhiều tòa nhà chung cư mọc lên trong khu vực và những tòa nhà cũ kỹ không có thang máy được tân trang, ông cảm thấy hài lòng được nhìn thấy những khuôn mặt của các giáo dân mới vào những buổi lễ Misa mỗi Chủ nhật.

Giáo đoàn ngày càng tăng tiến có nghĩa là trong vòng năm năm vừa qua ông đã có thể thực hiện một số công việc sửa chữa. Những cửa sổ lợp kính màu được lau chùi; lớp đất tích tụ trong nhiều năm tháng được bóc khỏi những bức bích họa, dãy ghế gỗ có lưng dựa trong nhà thờ được đánh bóng bằng cát và làm hoàn chỉnh lại những băng ghế để quỳ cầu nguyện được bọc bằng vải bọc thảm mềm, mới.

Thế rồi khi Giáo hoàng Benedict ra sắc lệnh rằng mỗi cha xứ có thể quyết định tiến hành lễ Misa thuộc cộng đồng Trent, thì Devon, người thông thạo tiếng Latin tuyên bố rằng từ giờ trở đi buổi lễ Misa ngày Chủ nhật lúc mười một giờ sẽ được tiến hành bằng loại ngôn ngữ cổ xưa đó trong nhà thờ.

Sự hưởng ứng của giáo dân làm ông kinh ngạc. Buổi lễ Misa giờ đây tràn ngập người, không phải chỉ có những công dân cao tuổi, đáng kính, mà cả thiếu niên và thanh niên trưởng thành, những người tôn kính đáp lại "Deo gratias" thay vì "Tạ ơn nhân danh Chúa" và cầu nguyện "Pater Noster" thay vì "Cha chúng con".

Devon đã sáu mươi tám tuổi, trẻ hơn người anh bị mất trong sự kiện 11/9 hai tuổi, là chú và cha đỡ đầu của đứa cháu trai đã mất tích. Tại buổi lễ Misa khi ông mời giáo đoàn thầm lặng đưa ra những lời khấn cầu của họ, thì lời cầu nguyện đầu tiên của ông luôn dành cho Mack, rằng một ngày kia cậu ấy sẽ quay về nhà.

Vào Ngày của Mẹ, lời cầu nguyện ấy luôn đặc biệt nồng nhiệt, tha thiết. Hôm nay khi ông quay trở về nhà nghỉ dành cho mục sư, có lời nhắn dành cho ông trên máy trả lời tự động từ Carolyn. "Chú Dev, anh ấy đã gọi vào lúc ba giờ kém năm sáng nay. Nghe có vẻ khỏe mạnh. Cúp máy rất nhanh. Hẹn gặp chú tối nay".

Mục sư Devon có thể nghe thấy sự căng thẳng trong giọng nói của cháu gái ông. Sự nhẹ nhõm rằng đứa cháu trai đã gọi điện thoại hòa trộn với nỗi tức giận gay gắt. Mack thật tồi tệ, ông nghĩ. Chẳng lẽ cháu không biết gì về những điều cháu đang làm cho chúng ta sao? Trong lúc nới chiếc cổ cồn La Mã, ông với lấy cái máy điện thoại để gọi lại cho Carolyn. Trước khi ông có thể quay số thì chuông cửa reo lên.

Đó chính là người bạn thời thanh niên của ông, Frank Lennon, một nhân viên điều hành phần mềm đã về hưu, làm người dẫn chỗ chính cho giáo dân vào mỗi Chủ nhật, có nhiệm vụ đếm số, phân loại và ký gửi các món đồ quyên góp được trong Chủ nhật đó.

Từ lâu Devon đã học được cách đọc nét mặt của người khác và biết ngay nếu có vấn đề thực sự. Đó là điều ông đang đọc được trên khuôn mặt khắc khổ của Lennon. "Có chuyện gì thế Frank?" Ông hỏi.

"Mack đã có mặt ở đây lúc mười một giờ, Dev". Lennon nói tuột ra. "Cậu ta có để lại một lá thư ngắn cho anh trong cái rổ. Nó được gấp lại bên trong một tờ hai mươi đô-la".

Mục sư Devon MacKenzie chụp lấy mẩu giấy, đọc mười từ được viết trên đó, rồi như thể không tin được những gì đang trông thấy, ông đọc lại nó một lần nữa. "CHÚ DEVON, BẢO CAROLYN KHÔNG ĐƯỢC PHÉP TÌM KIẾM CHÁU".
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,926
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 3


Hằng năm, trong vòng chín năm qua, Aaron Klein luôn lái chuyến xe dài từ Manhattan đến nghĩa trang ở Bridgehampton để đặt một viên đá lên ngôi mộ mẹ mình, bà Esther Klein. Bà là một phụ nữ đã ly dị, năm mươi tư tuổi, tính tình vui vẻ, bị chết dưới bàn tay của một kẻ cướp của gϊếŧ người khi bà đang trên đường chạy bộ hằng ngày vào một buổi sáng sớm gần ngôi thánh đường St. John the Divine.

Aaron lúc đó hai mươi tám tuổi, vừa mới lập gia đình, đang cảm thấy bình yên một cách thật thoải mái trên bậc thang thẳng tiến ở ngân hàng đầu tư Wallace và Madison. Bây giờ anh đã là cha của hai đứa con trai, Eli và Gabriel, và một đứa con gái nhỏ, Danielle, có vẻ bề ngoài giống người bà quá cố đến não lòng. Aaron chưa bao giờ đến thăm nghĩa trang mà không trải qua cơn tức giận và nỗi tuyệt vọng trước thực tế rằng kẻ cướp của gϊếŧ người sát hại mẹ anh vẫn còn nhởn nhơ trên phố, một gã tự do.

Bà đã bị tấn công từ phía sau đầu bằng một vật nặng. Chiếc điện thoại di động của bà nằm trên mặt đất bên cạnh bà. Phải chăng bà cảm thấy nguy hiểm và lấy nó ra khỏi túi để cố gắng gọi 911? Khả năng này là điều duy nhất nghe có vẻ hợp lý.

Chắc là bà chỉ đang cố gọi. Hồ sơ mà cảnh sát thu thập được cho thấy vào thời điểm đó bà không gọi mà cũng chẳng nhận cuộc điện thoại nào cả.

Cảnh sát cho rằng đó là vụ cướp của gϊếŧ người ngẫu nhiên. Đồng hồ, món nữ trang duy nhất mà bà luôn đeo vào thời điểm đó trong ngày đã biến mất, chìa khóa nhà cũng vậy. "Tại sao lại lấy chìa khóa nhà nếu kẻ gϊếŧ bà không biết bà là ai và sống ở đâu?" Anh đã hỏi cảnh sát như thế. Nhưng cảnh sát chẳng có câu trả lời nào cho câu hỏi đó.

Căn hộ của bà có lối vào riêng ngoài mặt đường, gần góc đường nơi có cổng chính của tòa nhà với người gác cửa giám sát, nhưng theo các thám tử xem xét vụ việc này chỉ ra cho thấy thì không có gì bị mất khỏi căn hộ. Cái ví chứa vài trăm đô-la của bà vẫn nằm trong túi xách nhỏ. Hộp nữ trang để mở trên bàn phấn, chứa một vài món nữ trang quý giá mà anh biết bà sở hữu chúng.

Cơn mưa bắt đầu lác đác rơi khi Aaron quỳ xuống và chạm vào lớp cỏ trên ngôi mộ mẹ anh. Đầu gối anh chìm trong lớp đất bùn khi anh đặt viên đá xuống và thì thầm: "Mẹ ơi, con ước gì mẹ còn sống để trông thấy lũ trẻ. Mấy đứa con trai sắp xong lớp một và mẫu giáo. Danielle giờ đây đã là một nghệ sĩ tí hon rồi. Con có thể nhìn thấy nó chỉ sau mười hai năm nữa, đang thử giọng cho một trong những vở kịch mà mẹ đạo diễn tại Columbia".

Anh mỉm cười, nghĩ đến điều mẹ anh sẽ đáp lại. "Aaron, con thật là đứa mơ mộng. Hãy làm phép tính xem nào. Vào thời gian Danielle đi học cao đẳng thì mẹ đã bảy mươi lăm tuổi rồi".

"Mẹ sẽ vẫn còn đang dạy học và làm đạo diễn và mẹ sẽ vẫn tràn đầy nhiệt huyết cơ mà". Anh nói to lên.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,926
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 4


Sáng thứ Hai, cầm mẩu giấy Mack bỏ trong cái rổ đựng đồ quyên góp, tôi đi đến văn phòng Chưởng lý quận ở khu Manhattan hạ. Trời hôm đó đẹp tuyệt, có nắng và ấm áp với làn gió thoảng thơm ngát, loại thời tiết thích hợp cho Ngày của Mẹ, thay vì một ngày lạnh lẽo và ẩm ướt, làm tiêu tan mọi hy vọng tụ tập ngoài trời.

Mẹ, chú Dev và tôi đã đi ra ngoài dùng cơm tối vào đêm Chủ nhật. Hiển nhiên lá thư ngắn mà chú Dev trao cho chúng tôi khiến mẹ và tôi rơi vào tình trạng bấn loạn. Phản ứng đầu tiên của mẹ là hoảng sợ rằng Mack có thể ở rất gần. Bà đã luôn bị thuyết phục rằng anh ở đâu đó xa xôi tận Colorado hay California. Rồi bà lại lo lắng rằng lời tôi đe dọa tìm cho ra anh sẽ đặt anh vào tình trạng nguy khốn.

Thoạt tiên tôi chỉ đơn thuần không biết phải nghĩ gì về điều đó, nhưng giờ đây tôi ngày càng ngờ vực rằng Mack có thể đang gặp rắc rối và cố gắng đẩy chúng tôi ra khỏi điều đó.

Tiền sảnh ở số 1 Hogan Place đông đặc người và an ninh được thắt chặt nghiêm ngặt. Mặc dù tôi có đầy đủ những giấy tờ nhận dạng, nhưng vì không có cái hẹn cụ thể gặp ai, tôi không thể qua được người bảo vệ. Khi những người xếp hàng sau tôi bắt đầu bồn chồn, nôn nóng, tôi cố gắng giải thích rằng anh trai của tôi bị mất tích, và sau cùng chúng tôi có được một điều chỉ ra nơi chúng tôi có thể bắt đầu tìm kiếm anh ấy.

"Thưa cô, cô cần phải gọi điện thoại đến bộ phận Người mất tích và xin sắp một cuộc hẹn". Người bảo vệ khăng khăng nói. "Bây giờ thì xin mời cô, vì còn có những người khác cần lên lầu cho công việc của họ".

Tuyệt vọng, tôi đi ra khỏi tòa nhà, lấy điện thoại di động ra. Thẩm phán Huot đã từng ở tòa án dân sự, mà tôi thì chưa bao giờ có mối liên hệ với những trợ tá biện lý, nhưng tôi thực sự biết một người, Matt Wilson. Tôi gọi điện cho văn phòng Chưởng lý quận và được nối với máy điện thoại của ông ấy. Matt không có mặt ở bàn giấy của ông, và đã thu lại những hướng dẫn thông thường trong máy trả lời tự động: "Hãy để lại tên và số điện thoại cùng lời nhắn ngắn gọn của bạn. Tôi sẽ gọi lại sau cho bạn".

"Đây là Carolyn MacKenzie". Tôi bắt đầu. "Chúng ta đã gặp nhau vài lần. Tôi là luật sư phụ tá của thẩm phán Huot. Anh trai tôi đã bị mất tích mười năm. Anh ấy để lại cho tôi lá thư ngắn ngày hôm qua trong nhà thờ trên đại lộ Amsterdam. Tôi cần giúp đỡ để xem chúng ta có thể truy tìm ra anh ấy không trước khi anh ấy lại biến mất dạng". Tôi kết thúc bằng cách cung cấp số điện thoại di động của mình.

Tôi đang đứng trên những bậc tam cấp. Một người đàn ông đi ngang qua, người này có bờ vai ngang, trong tầm tuổi năm mươi với mái tóc xám cắt sát và sải bước đầy vẻ tự tin, quả quyết. Tôi có thể nói rằng ông ta đã nghe thấy tôi nói, vì, có điều gì đó do sự mất tinh thần của tôi khiến ông dừng bước và quay người lại. Trong phút chốc mắt chúng tôi giao nhau và ông đột ngột thốt lên: "Tôi là thám tử Barrott. Tôi sẽ đưa cô lên lầu".

Năm phút sau tôi ngồi trong một văn phòng nhỏ, tồi tàn có cái bàn giấy, vài chiếc ghế và những chồng hồ sơ. "Chúng ta có thể nói chuyện trong này". Ông nói. "Trong phòng ấy quá ồn ào".

Ông không hề rời mắt khỏi khuôn mặt tôi trong lúc tôi kể về Mack. Ông chỉ ngắt lời tôi để hỏi vài câu. "Những cuộc gọi chỉ vào Ngày của Mẹ à?"

"Đúng vậy".

"Chẳng bao giờ hỏi xin tiền à?"

"Không hề". Tôi đã đặt lá thư ngắn đó vào trong cái túi nhựa đựng bánh mì sandwich. "Tôi không biết là dấu vân tay của anh ấy có còn trên đó không". Tôi giải thích. "Dĩ nhiên trừ phi anh ấy nhờ ai đó bỏ vào cái rổ hộ mình. Có vẻ như thật điên khùng nếu anh ấy muốn tạo cơ hội cho chú Dev phát hiện ra anh ấy ngay tại bệ thờ".

"Cũng còn tùy. Cậu ấy có thể nhuộm tóc, có thể nặng thêm khoảng mười kilogram, đeo kính đen. Chẳng khó khăn gì để cải trang trong đám đông, đặc biệt khi người ta mặc áo mưa".

Ông nhìn vào mẩu giấy. Chữ viết thật dễ nhìn xuyên qua lớp nhựa. "Chúng tôi có dấu vân tay của anh cô trong hồ sơ không?"

"Tôi không chắc lắm. Vào thời điểm chúng tôi báo cáo về vụ mất tích của anh ấy, người quản gia của chúng tôi đã quét dọn và hút bụi căn phòng của anh ở nhà. Anh sống chung trong căn hộ sinh viên với hai người bạn, và giống như hầu hết các nơi chốn khác, có ít nhất hàng tá người khác ra vào mỗi ngày. Xe hơi của anh đã được chùi rửa sạch sẽ sau lần cuối cùng anh sử dụng nó".

Barrott trả nó lại cho tôi. "Chúng tôi có thể chạy tờ giấy này qua máy để in ra dấu vân tay, nhưng tôi có thể nói ngay bây giờ với cô là chúng ta sẽ chẳng lấy được cái gì cả. Cô và mẹ cô đã cầm nó rồi. Chú cô, vị mục sư cũng đã cầm. Người dẫn chỗ đem tờ giấy này đến cho chú cô cũng đã làm thế rồi. Tôi đoán rằng có thể còn một người dẫn chỗ khác đã chạm tay vào thu gom các món đồ quyên góp".

Cảm thấy cần đưa thêm thông tin, tôi nói: "Tôi là em gái duy nhất của Mack. Cha mẹ tôi và tôi đã đi đến trình bày sự việc ở phòng xét nghiệm DNA tìm người thân trong gia đình. Nhưng chúng tôi chẳng nghe thấy điều gì từ họ, vì thế tôi đoán là họ chẳng tìm ra bất kỳ ai có sự trùng khớp một phần nào cả".

"Cô MacKenzie, từ những điều cô kể cho tôi nghe, anh trai của cô đã tự ý biến mất mà tuyệt đối chẳng có lý do gì cả. Có lẽ cô đã từng xem vài chương trình tội phạm trên truyền hình và có lẽ cô cũng đã từng nghe nói rằng khi người ta biến mất, lý do thường thấy là sự tích tụ những rắc rối hoặc do tình yêu, hoặc do tiền bạc. Vị hôn phu bị phụ bạc, ông chồng hay bà vợ ghen tuông, người hôn phối gây phiền phức, cơn nghiện thuốc điên cuồng cần thỏa mãn. Cô cần phải xem xét lại những ý nghĩ mà cô đã định trước về anh trai mình. Cậu ấy hai mươi mốt tuổi lúc đó. Cô nói rằng cậu ấy rất được lòng các cô gái. Có cô gái nào đặc biệt không?"

"Bạn bè anh ấy không kể cho chúng tôi biết về ai cả. Chắc chắn không ai từng được dẫn ra mắt".

"Ở tuổi cậu ấy, có rất nhiều người mạo hiểm lắm. Ngày càng có nhiều người thử các loại thuốc kíƈɦ ŧɦíƈɦ và có thể trở nên nghiện ngập. Giả sử cậu ta mắc nợ thì sao? Cha mẹ cô sẽ phản ứng như thế nào về điều này?"

Tôi thấy mình ngập ngừng không muốn trả lời. Thế rồi tôi tự nhắc mình rằng đây là những câu hỏi mà cách đây mười năm cha mẹ tôi chắc chắn đã được hỏi. Tôi tự hỏi không biết họ có lẩn tránh, thoái thác không. "Cha tôi hẳn sẽ rất tức giận". Tôi thừa nhận. "Ông không chấp nhận những kẻ ném tiền qua cửa sổ. Mẹ tôi có khoản thu nhập riêng từ số tài sản thừa kế. Nếu Mack cần tiền, anh ấy có thể lấy từ bà, và bà sẽ chẳng nói gì với cha tôi".

"Thôi được rồi, cô MacKenzie. Tôi sẽ vô cùng thành thật với cô. Tôi không nghĩ chúng ta có một tội ác ở đây, do vậy chúng ta không cần xử trí trường hợp biến mất của anh cô như là một tội ác. Cô không thể tưởng tượng được mỗi ngày có bao nhiêu người đã bước ra khỏi cuộc sống của họ đâu. Họ bị khủng hoảng. Họ không thể đương đầu, hay thậm chí còn tồi tệ hơn, họ không còn muốn kháng cự nữa. Anh trai của cô vẫn gọi cho cô đều đặn..."

"Mỗi năm một lần". Tôi ngắt ngang.

"Vẫn là đều đặn. Cô đã bảo với cậu ấy rằng cô sẽ truy tìm cậu ta, và cậu ta đã đáp lại ngay lập tức. "Hãy để anh yên thân" là lời nhắn cậu ấy gửi cho cô. Tôi biết nghe thế có vẻ xẵng quá, nhưng lời khuyên của tôi sẽ làm cho cô ý thức được rằng Mack đang ở nơi cậu ấy muốn ở và mối liên lạc duy nhất cậu ấy muốn có với cô và mẹ cô là cuộc gọi điện thoại hằng năm vào Ngày của Mẹ. Hãy làm một ân huệ cho cả ba người. Hãy tôn trọng những ước muốn của cậu ấy".

Ông đứng lên. Rõ ràng cuộc phỏng vấn của chúng tôi đã kết thúc. Rõ ràng tôi không nên tốn phí thời gian với văn phòng cảnh sát lâu hơn. Tôi nhặt lá thư ngắn lên, và như đã từng làm, đọc lại lời nhắn. "CHÚ DEVON, BẢO CAROLYN KHÔNG ĐƯỢC PHÉP TÌM KIẾM CHÁU".

"Ông quả là rất... thành thực, thám tử Barrott". Tôi nói, thay thế từ "giúp ích" bằng từ "thành thực". Suy cho cùng tôi chẳng hề nghĩ rằng ông ấy giúp ích được. "Tôi hứa sẽ không làm phiền ông nữa".
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,926
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 5


Trong hai mươi năm, Gus và Lil Kramer, giờ đây đã ở ngưỡng tuổi bảy mươi, làm giám thị cho tòa nhà căn hộ bốn tầng trên đại lộ West End, nơi mà người chủ, Derek Olsen đã tân trang thành nhà trọ sinh viên. Như Olsen giải thích khi ông thuê họ: "Nghe này, những đứa trẻ học cao đẳng, dù thông minh hay đần độn, cơ bản đều là những kẻ nhếch nhác, bẩn thỉu. Chúng có những hộp pizza chất đống trong nhà bếp. Chúng tích tụ những lon bia trống rỗng đủ để làm nổi một chiến hạm. Chúng bỏ những áo quần dơ bẩn và khăn tắm ẩm ướt trên sàn nhà. Chúng ta chẳng bận tâm. Tất cả chúng nó rồi sẽ dọn ra khỏi đây khi đã tốt nghiệp".

"Quan điểm của tôi," ông tiếp tục, "là tôi có thể tăng tiền nhà nhiều bao nhiêu như tôi muốn, nhưng chỉ khi khu vực công cộng sử dụng chung trông đẹp đẽ. Tôi kỳ vọng hai người sẽ giữ cho tiền sảnh và khu vực hành lang trông như trên đại lộ Số Năm. Tôi muốn máy điều hòa nhiệt độ và lò sưởi luôn phải làm việc, bất kỳ trục trặc nào về đường ống nước phải được gấp rút sửa chữa, lối đi phải được quét dọn mỗi ngày. Tôi muốn phải nhanh chóng sơn phết lại khi có chỗ nào được dọn trống. Khi những người mới đi cùng cha mẹ đến để kiểm tra nơi ăn ở, tôi muốn họ đều có ấn tượng tốt".

Trong hai mươi năm, gia đình Kramer trung thành tuân theo những chỉ thị của Olsen, và tòa nhà nơi họ làm việc đã trở thành một khu nhà trọ sinh viên hạng sang. Tất cả sinh viên từng sống ở đây đều may mắn có những ông bố, bà mẹ túi đẫy tiền. Nhiều người trong các bậc cha mẹ này còn thu xếp riêng để gia đình Kramer lau chùi dọn dẹp nơi ăn ở cho con cái họ.

Gia đình Kramer đã kỷ niệm Ngày của Mẹ bằng bữa ăn sáng muộn tại nhà hàng Tavern on the Green với con gái, Winifred và chồng cô, Perry. Đáng tiếc là cuộc trò chuyện hầu như chỉ mang tính độc thoại từ Winifred. Cô thúc giục cha mẹ từ bỏ công việc và chuyển đến sống trong ngôi nhà nhỏ ở Pennsylvania. Đây là cuộc độc thoại mà họ đã từng nghe trước đó, cuộc độc thoại luôn kết thúc bằng điệp khúc: "Cha mẹ ơi, con ghét phải nghĩ đến việc hai người lau chùi, dọn dẹp, hút bụi cho lũ trẻ đó".

Từ lâu Lil Kramer đã biết cách nói: "Con nói đúng đấy cưng. Mẹ sẽ suy nghĩ về điều đó".

Nhấm nháp món kem trái cây cầu vồng, Gus Kramer chẳng vòng vo nửa lời. "Khi đã sẵn sàng bỏ việc, chúng ta sẽ bỏ, nhưng không phải lúc này. Nếu nghỉ việc, ta sẽ làm gì với chính mình cả ngày?"

Trưa thứ hai, trong khi đan cái áo len cho đứa con đầu lòng sắp chào đời của một trong những cựu sinh viên, Lil đã suy nghĩ về lời khuyên mang ý tốt nhưng lại gây ra phiền toái của Winifred. Tại sao Winifred không hiểu là ta yêu mến việc ở cùng những đứa trẻ này? Bà nổi đóa lên. Đối với chúng ta, việc đó gần giống như có cháu ngoại. Con bé chắc chắn chẳng bao giờ cho chúng ta bất kỳ đứa cháu nào.

Tiếng chuông điện thoại làm bà giật mình. Vì Gus dạo này bắt đầu hơi khó nghe, ông đã tăng âm lượng lên và nó trở nên quá ồn ào. Ông có thể đánh thức cả người chết sống dậy với lối làm ồn thật huyên náo này, Lil suy nghĩ trong khi vội vã trả lời cú điện thoại.

Khi nhấc ống nghe lên, bà hy vọng rằng đó không phải là Winifred đang theo đuổi bài diễn văn yêu cầu bà về hưu. Nhưng chỉ khoảnh khắc sau bà lại ước gì đó là Winifred.

"Xin chào, đây là Carolyn MacKenzie. Có phải bà Kramer đó không?"

"Phải rồi". Lil cảm thấy đôi môi bà khô lại.

"Anh trai của cháu, Mack, đang sống trong tòa nhà của bà thì biến mất cách đây mười năm".

"Đúng rồi, cậu ta đã sống ở đây".

"Bà Kramer, gia đình cháu nhận tin của Mack hôm kia. Anh ấy không kể cho gia đình biết mình đang ở đâu. Bà có hiểu việc này đang gây ra điều gì cho mẹ cháu và cháu không. Cháu sẽ cố gắng tìm cho ra anh ấy. Cháu có lý do để tin rằng anh ấy đang sống trong khu vực này. Cho phép cháu đến và nói chuyện với bà nhé?"

Không, Lil nghĩ. Không! Nhưng bà lại nghe thấy chính mình trả lời theo cách duy nhất có thể được... "Dĩ nhiên, cô có thể. Tôi... chúng tôi... đã rất yêu mến Mack. Khi nào cô muốn đến gặp chúng tôi?"

"Sáng ngày mai được chứ?"

Quá sớm, Lil nghĩ. Tôi cần thêm thời gian. "Ngày mai chúng tôi sẽ rất bận rộn".

"Thế thì sáng thứ Tư, khoảng mười một giờ nhé?"

"Vâng, tôi cho rằng lúc đó là được".

Gus bước vào khi bà vừa đặt ống nghe xuống. "Ai gọi thế?" Ông hỏi.

"Carolyn MacKenzie. Cô ta sẽ bắt đầu cuộc điều tra về việc người anh cô ta biến mất. Cô ấy sẽ đến đây nói chuyện với chúng ta vào sáng thứ Tư".

Lil nhìn vào khuôn mặt bè bè, đỏ lự của chồng và đằng sau cặp kính là đôi mắt bé hẹp. Chỉ với hai sải chân, thân hình ngắn ngủn, chắc nịch của ông đã ở trước mặt bà. "Lần trước bà đã để bọn cảnh sát thấy bà lo lắng, Lil. Đừng để điều đó xảy ra trước mặt em gái của Mack. Bà nghe tôi chứ? Đừng để điều đó xảy ra lần này!"
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,926
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 6


Vào trưa thứ Hai, ca làm việc của thám tử Roy Barrott kết thúc lúc bốn giờ. Hôm đó là một ngày trôi chậm, và vào lúc ba giờ ông nhận thấy chẳng có gì buộc mình phải chú ý ngay lập tức. Nhưng có điều gì đó đang làm phiền ông. Tình trạng cứ như thể lưỡi ông đang rà quanh miệng để tìm ra nguồn cội vết lở loét làm ông đau, tâm trí ông bắt đầu truy cứu lại cả ngày hôm ấy để tìm ra căn nguyên sự kém thoải mái này.

Khi nhớ đến cuộc phỏng vấn với Carolyn MacKenzie, ông biết mình đã tìm ra nó. Cái nhìn mất hết tinh thần và sự coi khinh mà ông thấy trong đôi mắt cô lúc chia tay khiến giờ đây ông vừa cảm thấy xấu hổ vừa cảm thấy bối rối. Cô lo lắng một cách tuyệt vọng về người anh trai và đã hy vọng rằng lá thư ngắn mà anh ta để trong cái rổ đựng đồ quyên góp ở nhà thờ ấy có thể là một bước tiếp theo giúp tìm ra anh mình. Mặc dù cô không đề cập về điều đó, hiển nhiên cô nghĩ rằng anh ta có thể đang gặp một loại rắc rối nào đó.

Ta đã phớt lờ cô ấy, Barrott nghĩ. Khi bỏ đi, cô đã bảo rằng sẽ không làm phiền ta nữa. Đó là lời nói cô dùng. "Làm phiền".

Giờ đây khi ngồi dựa vào cái ghế đằng sau bàn giấy trong căn phòng của tổ công tác đông đúc, Barrott gác hết mọi máy điện thoại vây quanh ông. Rồi ông nhún vai. Việc xem lại hồ sơ một chút đâu có gϊếŧ chết ta được. Nếu không có gì khác, thì ta thỏa mãn rằng đó là một gã không muốn bị tìm ra, một gã sẽ thay đổi ý kiến và sẽ xuất hiện trên chương trình Tiến Sĩ Phil 1 để đoàn tụ với mẹ và em gái của hắn trong khi mọi người khóc một mẻ ra trò.

Nhăn mặt vì cơn đau nhói do chứng viêm khớp ở đầu gối, ông đứng lên, đi xuống phòng hồ sơ, lục ra hồ sơ MacKenzie, đem nó trở lại bàn làm việc và mở nó ra. Cạnh chồng báo cáo chính thức cùng những phát biểu của gia đình và bạn bè Charles MacKenzie Jr., có một phong bì chứa hình ảnh có kích cỡ thường dùng trong ngành luật, Barrott lôi chúng ra và bày lên bàn.

Ánh mắt ông ngay lập tức chộp lấy một bức hình. Đó là tấm thiệp Giáng sinh với gia đình MacKenzie đang đứng trước cây Giáng sinh của họ. Nó gợi cho Barrott nhớ về tấm thiệp Giáng sinh mà ông và Beth đã gửi đi hồi tháng mười hai, hai người với những đứa con, Melissa và Rick, đang đứng trước cây Giáng sinh của họ. Ông vẫn còn giữ tấm thiệp ở đâu đó trong bàn giấy của mình.

Gia đình MacKenzie trong bức hình ăn mặc chỉnh tề hơn chúng ta, Barrott nghĩ. Ông bố và cậu con trai mặc hàng Tuxedo, bà mẹ và cô con gái mặc trang phục dạ hội. Nhưng nhìn chung tất cả đều có ấn tượng như nhau. Một gia đình hạnh phúc, đang mỉm cười, chúc mừng bạn bè họ những niềm vui Giáng sinh và những lời chào nhân dịp Năm mới. Hẳn đó là tấm thiệp cuối cùng họ gửi đi trước khi cậu con trai biến mất dạng.

Giờ đây Charles MacKenzie Jr. đã mất tích mười năm còn Charles MacKenzie Sr. đã chết trong biến cố 11/9.

Barrott lục soát hết các giấy tờ cá nhân trong bàn giây và lôi tấm thiệp của gia đình ông ra. Ông tì khuỷu tay lên bàn giấy và cầm hai tấm thiệp Giáng sinh lên, so sánh chúng. Ta thật may mắn, ông nghĩ. Rick vừa mới hoàn tất năm học thứ nhất tại Fordham, có tên trong danh sách học viên ưu tú. Melissa, một đứa con học giỏi toàn diện, đang hoàn tất bậc trung học cơ sở tại Cathedral High và sẽ đi dự dạ vũ tối nay. Beth và ta may mắn hơn. Chúng ta được ơn trên che chở.

Một ý nghĩ chợt lướt qua tâm trí ông, giả sử có điều gì đó xảy ra với ta và với công việc này, và Rick bước ra khỏi ký túc xá của nó rồi mất dạng. Điều gì sẽ diễn ra nếu ta không có mặt ở gần đó và tìm cho ra nó?

Rick sẽ không làm điều này với mẹ và em gái nó, sẽ không cho dù sau cả một trăm ngàn năm, ông bảo với chính mình.

Nhưng về mặt bản chất, đó là điều Carolyn MacKenzie muốn ta tin về người anh trai của cô.

Một cách chậm chạp, Barrott đóng hồ sơ của Charles MacKenzie Jr. lại và đẩy nó vào cái ngăn kéo trên cùng trong bàn giấy của ông. Ta sẽ xem lại nó vào buổi sáng, ông quyết định, và có thể sẽ ghé qua vài người trong số những người đã có phát biểu vào thời điểm đó. Chẳng hại gì khi đưa ra vài câu hỏi và xem thử trí nhớ của họ có minh mẫn được sau cả quãng thời gian dài như vậy không.

Lúc đó là bốn giờ. Đã đến lúc đi. Ông muốn quay về nhà kịp lúc để chụp hình Melissa trong bộ váy áo đi dự dạ vũ với bạn trai của nó, Jason Kelly. Một thằng bé khá dễ thương, Barrott hồi tưởng, nhưng gầy đến nỗi nếu như nó uống một ly nước cà chua, chất nước đó sẽ được nhìn thấy rõ trong người nó như thủy ngân trong ống cặp thủy. Ta cũng muốn chuyện trò một chút với gã tài xế limousine sẽ đón lũ trẻ. Chỉ để nhìn bằng lái xe của hắn và thậm chí còn cho hắn biết là tốt hơn hết hắn đừng bao giờ nghĩ đến việc chạy hơn một dặm một giờ so với tốc độ giới hạn. Ông đứng lên vào mặc áo khoác vào.

Bạn áp dụng mọi biện pháp phòng vệ mà bạn có thể làm để bảo vệ con cái, Barrott nghĩ thế khi ông quay người lại và nói to "Hẹn gặp lại các bạn" với mọi người trong tổ công tác và đi xuôi theo hành lang. Nhưng đôi khi cho dù bạn có làm gì chăng nữa, chỉ một điều sai chệch là con cái của bạn sẽ bị liên lụy, thậm chí trở thành nạn nhân của một hành động xấu xa nào đó.

Lạy Chúa, ông cầu nguyện và nhấn nút bấm trong thang máy, xin đừng bao giờ để điều đó xảy ra với chúng con.

- -- ------ ------ ------ ------ ------ -----

Chú thích

1.Tiến sĩ Phil: Chương trình trò chuyện trên truyền hình có chủ đề về tâm lý của nhà tâm lý học Phillip Calvin McGraw.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,926
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 7


Chú Dev đã kể với Elliott Wallace về lá thư ngắn mà Mack bỏ lại trong thùng đựng đồ quyên góp, và vào tối thứ hai, Elliott gặp chúng tôi để dùng cơm tối. Chỉ có cảm giác lo lắng thoáng qua vẻ bề ngoài điềm tĩnh đặc trưng của ông. Elliott là tổng giám đốc và chủ tịch của Wallace và Madison, hãng đầu tư trên phố Wall, giải quyết những vấn đề tài chính gia đình. Ông là một trong những người bạn tốt nhất của cha tôi; Mack và tôi luôn xem ông như một người chú. Elliott đã ly dị nhiều năm, tôi nghĩ ông hiện đang phải lòng mẹ tôi. Tôi cũng tin rằng cái chết của cha tôi, và kế đến là sự biến mất của Mack, khiến mẹ tôi không còn tâm trí đâu mà quan tâm đến Elliott.

Ngay khi đã ổn định chỗ ngồi tại cái bàn mà Elliott ưa thích ở Le Cirque, tôi trao cho ông lá thư ngắn của Mack, và bảo rằng nó đã khiến tôi càng quyết tâm hơn bao giờ hết phải tìm cho ra anh ấy.

Tôi thực sự hy vọng rằng Elliott sẽ ủng hộ tôi trong quyết định cố tìm ra Mack, nhưng ông đã làm tôi thất vọng. "Carolyn", ông nói, chậm rãi trong khi đọc đi, đọc lại lá thư ngắn đó. "Ta không nghĩ rằng cháu đang đủ công bằng với Mack. Hằng năm cậu ta đều gọi điện để mẹ con cháu biết cậu ta vẫn bình thường. Cháu vừa bảo với ta rằng chính cháu cũng cảm thấy cậu ta tự tín, thậm chí còn hạnh phúc nữa. Cậu ta đã phản ứng ngay lập tức với lời hứa - hay có thể nói là lời đe dọa - của cháu. Với phương tiện trực tiếp nhất trong khả năng có thể làm được của mình, cậu ấy đã ra lệnh cho cháu phải để cậu ấy được yên thân. Tại sao cháu không chiều theo ước muốn của cậu ấy chứ? Và điều quan trọng hơn nữa, tại sao cháu từ chối không cho phép Mack vẫn cứ còn nguyên vẹn trong sự tồn tại của cháu và mẹ cháu?"

Đó không phải là loại câu hỏi mà tôi kỳ vọng từ Elliott, và tôi có thể nhìn thấy nỗ lực của ông khi làm điều đó. Cặp mắt ông bối rối, trán ông cau lại, và ông xoay cái nhìn chằm chằm từ tôi sang mẹ tôi, người có sự biểu cảm không thể đọc được. Tôi vui mừng vì chúng tôi đã ngồi ở một cái bàn trong góc và không ai khác có thể quan sát thấy bà. Tôi e rằng bà sẽ nổi cáu với Elliott như bà đã từng làm với tôi sau cuộc gọi của Mack vào Ngày của Mẹ, hay tồi tệ hơn, sẽ trở thành cơn bão nước mắt.

Khi bà không trả lời, Elliott thúc giục: "Olivia, hãy cho Mack khoảng không gian cậu ấy muốn. Hãy hài lòng rằng cậu ấy vẫn còn sống, và thậm chí hãy cảm thấy thoải mái với thực tế rằng rõ ràng cậu ấy vẫn quanh quẩn đâu đây. Tôi có thể nói với bà ngay lập tức rằng nếu Charley có mặt ở đây, ông ấy sẽ nói với bà như vậy".

Mẹ luôn làm tôi ngạc nhiên. Bà cầm một cái nĩa lên và vạch ra một cái gì đó bằng những ngạnh nĩa lên trên lớp vải khăn trải bàn. Tôi sẵn sàng cá cược bất kỳ điều gì rằng đó là tên của Mack.

Ngay khi bà nói, tôi ý thức được ngay rằng tôi đã hoàn toàn sai trong việc đánh giá phản ứng của bà trước lá thư ngắn của Mack.

"Kể từ khi Dev đưa cho chúng tôi xem lời nhắn của Mack tối qua, tôi cứ mải suy nghĩ về điều gì đó trong máu thịt mình, Elliott ạ". Bà nói, nỗi đau thật rõ nét trong giọng nói của bà, nhưng chẳng có dấu hiệu gì của những giọt nước mắt ở đó. "Tôi đã mắng Carolyn như tát nước vào mặt nó chỉ vì nó nổi nóng với Mack. Điều đó thật không phải với con bé. Tôi biết Carolyn lúc nào cũng lo lắng cho tôi. Giờ đây Mack đã cho chúng tôi câu trả lời, không phải là câu trả lời mà tôi muốn có, nhưng đấy là cách của nó".

Đến đây thì mẹ cố gắng mỉm cười. "Tôi sẽ cố gắng xem nó như đứa con bỏ nhà đi hoang. Nó có thể đang sống trong khu vực này. Như ông nói, nó đã nhanh chóng phản ứng, và nếu nó không muốn gặp chúng tôi, Carolyn và tôi sẽ tôn trọng ước muốn của nó". Bà ngừng lại, và nói thêm một cách cứng rắn: "Và chỉ thế đó".

"Olivia, tôi hy vọng bà sẽ giữ quyết định đó". Elliott nồng nhiệt nói.

"Tôi chắc chắn sẽ cố. Bước đầu tiên, bạn bè tôi, gia đình Clarence sẽ có chuyến hải hành bằng du thuyền của họ, khởi hành ở quần đảo Hy Lạp vào thứ sáu này. Họ cứ thuyết phục tôi đi cùng với họ. Tôi sẽ làm điều đó". Bà đặt cái nĩa xuống như cử chỉ dứt khoát cuối cùng.

Tôi ngồi lại và trầm tư suy nghĩ về diễn biến sự kiện không được kỳ vọng này. Tôi đã định nói với Elliott về cái hẹn của tôi với những người giám thị tòa nhà của Mack vào thứ Tư. Nhưng hiển nhiên tôi sẽ không nói. Thật mỉa mai, sau cùng, mẹ đã chấp nhận tình trạng của Mack, như tôi đã cầu xin bà trong nhiều năm, và giờ đây tôi lại chẳng hoan nghênh điều đó. Mỗi giờ khắc trôi qua, tôi càng bị thuyết phục rằng Mack đang gặp rắc rối nghiêm trọng và phải đối đầu một mình. Tôi sắp sửa nêu khả năng đó ra, nhưng rồi lại mím chặt đôi môi. Khi mẹ đi rồi, tôi sẽ có thể tìm kiếm Mack mà không cần phải che giấu việc tôi đang làm, hay tồi tệ hơn, phải nói dối bà về điều đó.

"Cuộc du hành có lâu không hả mẹ?" Tôi hỏi.

"Ít nhất là ba tuần".

"Con nghĩ đó là ý kiến tuyệt vời". Tôi thành thực nói.

"Tôi cũng nghĩ thế". Elliott đồng ý. "Còn bây giờ về phần cháu thì sao, Carolyn? vẫn quan tâm đến việc trở thành trợ lý Chưởng lý quận chứ?"

"Tuyệt đối ạ". Tôi đáp. "Nhưng cháu sẽ chờ một tháng hay hơn mới nộp hồ sơ. Nếu may mắn được tuyển dụng, cháu sẽ không còn rỗi rãi một thời gian nào".

Buổi tối diễn ra thật thoải mái. Mẹ, trông đáng yêu trong chiếc sơ-mi lụa màu xanh da trời nhạt và chiếc quần tây tương xứng, trở nên linh hoạt và tươi tắn hơn nhiều so với những gì tôi đã thấy về bà trong nhiều năm. Cứ như thể đã đến lúc tình trạng của Mack sẽ tạo cho bà sự bình yên.

Tâm trạng Elliott thật tươi tỉnh khi ông ngắm nhìn bà. Lớn lên, tôi thường tự hỏi không biết Elliott có mặc sơ-mi và đeo cà vạt khi đi ngủ không nhỉ. Ông luôn cực kỳ trịnh trọng, nhưng khi mẹ có vẻ duyên dáng thì ông tan chảy ra thôi. Ông lớn hơn mẹ vài tuổi, điều này khiến tôi tự hỏi không biết cái đầu với mái tóc màu nâu than đá của ông có là tự nhiên không, nhưng tôi cho rằng có thể nó là tự nhiên. Ông có dáng vẻ thẳng đứng của một sĩ quan quân đội chuyên nghiệp. Nét mặt của ông luôn kín đáo, thậm chí hơi xa cách cho đến khi ông mỉm cười hay cười thành tiếng, và lúc đó toàn bộ dáng vẻ bên ngoài của ông trở nên rực rỡ, và thậm chí bạn còn bắt gặp một con người nhiều ngẫu hứng nhất ẩn giấu đằng sau vẻ trịnh trọng cố hữu của ông.

Ông đùa cợt về mình. "Cha tôi, Franklin Delano Wallace, được đặt tên theo người bà con xa của ông, Tổng thống Franklin Delano Roosevelt, người anh hùng của Chúa. Mọi người có biết tại sao tên tôi lại là Elliott không? Vì đó là tên Tổng thống chọn cho một trong những người con trai của ông. Và bất chấp mọi điều mà ông làm cho dân chúng, hãy nhớ rằng Roosevelt là nhà quý tộc số một và đứng hàng đầu. Tôi e rằng cha mình không chỉ là một quý tộc mà còn là loại trưởng giả học làm sang đích thực nữa. Vì thế khi tôi quá sức câu nệ, hãy trách cứ điều đó với con người câu nệ đã nuôi nấng tôi lớn lên nhé".

Khi chúng tôi dùng xong cà phê, tôi quyết định tuyệt đối không hé lộ cho Elliott biết rằng tôi sẽ tích cực tìm kiếm Mack. Tôi đề nghị sẽ ở lại trong căn hộ của mẹ khi bà đi vắng, một điều làm bà hài lòng. Bà chẳng hề có ấn tượng tốt với căn phòng mà tôi thuê tại làng Greenwich hồi tháng chín năm ngoái, khi tôi bắt đầu công việc trợ lý với vị thẩm phán. Bà chắc chắn không biết lý do tôi muốn ở lại Sutton Place là để sẵn sàng có mặt nếu Mack biết rằng tôi vẫn đang tìm kiếm anh ấy và cố gắng tiếp cận với anh ấy ở đó.

Ra khỏi nhà hàng tôi gọi một chiếc taxi. Elliott và mẹ tôi chọn cách đi bộ về Sutton Place. Lúc chiếc taxi chạy đi, tôi ngoái nhìn lại với những cảm xúc lẫn lộn khi Elliott nắm lấy tay mẹ, vai họ cà sát vào nhau và họ cùng đi xuôi xuống phố.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,926
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 8


Bác sĩ David Andrews, chuyên gia phẫu thuật về hưu sáu mươi bảy tuổi, chẳng biết tại sao ông không cảm thấy thoải mái sau khi đưa con gái ra ga xe lửa đi Manhattan, nơi cô sẽ hoàn tất năm học thứ ba tại Đại học New York.

Leesey và Gregg, anh trai của cô, đã đến Greenwich để ở với ông vào Ngày của Mẹ, một ngày thật khó nhọc đối với họ, vì chỉ mới là lần thứ hai không có Helen. Ba người đã đến thăm mộ bà tại nghĩa trang St. Mary, rồi ra ngoài ăn tối sớm ở câu lạc bộ.

Leesey dự định lái xe quay trở về thành phố với Gregg, nhưng đến phút cuối đã quyết định ngủ lại qua đêm và sẽ quay trở về vào buổi sáng. "Buổi học đầu tiên của con vào lúc mười một giờ". Cô giải thích. "Và con cảm thấy thích ở quanh quẩn bên cạnh cha, cha ạ".

Chiều tối Chủ nhật họ cùng xem qua một số cuốn album hình ảnh và nói chuyện về Helen. "Con nhớ mẹ nhiều lắm". Leesey thì thầm.

"Cha cũng thế, con yêu". Ông thú nhận.

Nhưng sáng thứ hai khi ông thả cô ngoài sân ga, Leesey lại có vẻ sôi sục, hăm hở thông thường, điều này khiến David Andrews không hiểu được cảm giác day dứt cứ gặm nhắm lấy ông khi chơi golf cả vào ngày thứ hai lẫn thứ ba.

Vào chiều tối thứ Ba, ông mở bản tin lúc 6 giờ 30 và đang ngủ gà gật trước màn hình thì chuông điện thoại reo. Đó là Kate Carlisle, người bạn tốt nhất của Leesey, cùng sống chung trong căn hộ ở làng Greenwich. Câu hỏi của cô và giọng nói lo lắng khi hỏi khiến ông nhảy dựng ra khỏi chiếc ghế bành.

"Bác Andrews ơi, Leesey có ở đó không?"

"Không, nó không có ở đây, Kate. Tại sao nó lại có mặt ở đây?" Ông hỏi.

Khi nói, ông liếc quanh căn phòng. Mặc dù ông đã bán căn nhà lớn sau cái chết của Helen, và bà chẳng bao giờ ở trong căn hộ nhà nước này, nhưng khi chuông điện thoại reo, theo bản năng ông quay tìm bà, bàn tay bà luôn nhanh chóng vươn ra nhận lấy ống nghe từ tay ông.

Khi không có câu trả lời, ông gay gắt hỏi: "Kate, tại sao cháu lại đi tìm Leesey?"

"Cháu không biết, cháu chỉ hy vọng..." giọng nói Kate vỡ vụn.

"Kate, hãy nói cho bác biết chuyện gì đã xảy ra?"

"Đêm hôm qua cô ấy đi ra ngoài chơi với vài người bạn của chúng cháu, đến Woodshed, một nơi chốn mới mà chúng cháu cứ nói sẽ đến thử xem sao".

"Nó ở đâu?"

"Nó nằm ở vùng ranh giới giữa khu Làng và SoHo. Leesey ở lại sau khi những người khác đã bỏ về. Có một ban nhạc thực sự chơi rất hay, và bác biết là cô ấy mê khiêu vũ như thế nào".

"Những người khác bỏ về lúc mấy giờ?"

"Khoảng hai giờ, thưa bác Andrews".

"Leesey có uống rượu lúc đó không?"

"Không nhiều ạ. Cô ấy vẫn khỏe khi họ bỏ về nhưng cô ấy không có ở đây khi cháu thức giấc sáng nay, và chẳng ai nhìn thấy cô ấy cả ngày hôm nay. Cháu đã cố gắng liên lạc với cô ấy qua điện thoại di động, nhưng cô ấy chẳng trả lời. Cháu đã gọi cho mọi người mà cháu nghĩ có thể gặp cô ấy. Nhưng chẳng có ai gặp cả".

"Cháu đã gọi đến chỗ nó có mặt tối qua chưa?"

"Cháu đã nói chuyện với người nhân viên pha chế rượu ở đó. Anh ấy nói rằng Leesey ở lại đó cho đến lúc họ đóng cửa vào ba giờ sáng rồi cô ấy bỏ đi một mình. Anh ta thề rằng cô ấy tuyệt đối không hề say sưa hay loanh quanh ở bất kỳ nơi nào gần đó. Cô ấy chỉ ở lại cho đến phút cuối thôi".

Andrews nhắm mắt lại, cố gắng một cách tuyệt vọng lọc tìm những biện pháp ông cần làm. Lạy Thượng đế, xin cho con bé được bình yên, ông cầu nguyện như thế. Leesey, đứa bé không được kỳ vọng, ra đời khi Helen đã bốn mươi lăm tuổi và đã lâu họ từ bỏ hy vọng có đứa con thứ nhì.

Mất kiên nhẫn, ông kéo đôi chân ra khỏi cái ghế gác chân, đẩy nó sang một bên, đứng lên, vuốt mái tóc trắng dày của ông từ phía trước trán ra sau, rồi làm động tác nuốt xuống để kíƈɦ ŧɦíƈɦ tuyến nước bọt vận hành trong cái miệng bỗng dưng khô khốc đi của ông.

Phương tiện đi lại đã ngừng rồi, ông nghĩ. Không thể mất hơn một tiếng để đi xuống làng Greenwich.

"Từ Greenwich, Connecticut xuống làng Greenwich" Leesey vui vẻ tuyên bố cách đây ba năm khi cô quyết định nộp giấy xin nhập học sớm ở Đại học New York.

"Kate, bác sẽ đi xuống đó ngay bây giờ". Andrews nói. "Bác sẽ gọi cho anh của Leesey. Chúng ta sẽ gặp cháu ở căn hộ. Từ quán rượu này đến chỗ cháu mất bao xa?"

"Khoảng một dặm ạ".

"Con bé hẳn đã gọi một chiếc taxi?"

"Hôm đó ngoài trời rất đẹp. Có lẽ cô ấy đã đi bộ ạ".

Một mình trên đường phố tối đen, thật muộn trong đêm, Andrews nghĩ ngợi, cố giữ cho giọng nói không vỡ vụn ra, ông thốt lên: "Bác sẽ có mặt ở đó trong vòng một tiếng nữa. Cứ tiếp tục gọi cho bất kỳ ai cháu nghĩ họ có thể biết nó đang ở đâu nhé".

o O o

Bác sĩ Gregg Andrews đang tắm vòi sen thì điện thoại reo. Anh quyết định để máy tự động trả lời nhận cuộc gọi đó. Anh đã xong ca trực và có cuộc hẹn với một người anh đã gặp tối hôm trước tại buổi tiệc nhẹ để bàn về việc tung ra cuốn tiểu thuyết của một người bạn. Bây giờ anh là bác sĩ tim mạch tại bệnh viện do tín đồ giáo hội Scotland ở New York cai quản, như công việc cha anh đã làm cho đến khi về hưu. Anh dùng khăn tắm lau khô người, đi vào phòng ngủ và thấy thực tế rằng buổi tối tháng năm trời đã bắt đầu trở lạnh. Từ trong tủ quần áo của mình, anh chọn lấy cái sơ-mi màu xanh da trời nhạt, tay dài, cổ mở, cái quần tây màu nâu vàng và cái áo khoác màu xanh nước biển.

Leesey nói với mình rằng mình luôn có vẻ bảo thủ, anh nhớ lại, suy nghĩ với nụ cười về đứa em gái nhỏ, thua anh đến mười hai tuổi. Con bé nói mình cần phải có thêm vài món đồ màu tươi rồi phối chúng lại với nhau.

"Gregg, anh thực sự rất lanh lợi, không đẹp trai, mà là lanh lợi". Cô nói điều ấy rất hiển nhiên với anh. "Em muốn nói phụ nữ thích những người đàn ông trông như thể có khối óc trong đầu. Và họ luôn phải lòng các vị bác sĩ. Đó là kiểu phức cảm "như quan hệ cha con", theo em nghĩ. Nhưng cũng chẳng tổn hại gì nếu tỏ vẻ láu lỉnh một tí".

Đèn để lại tin nhắn nhấp nháy trên điện thoại. Anh cân nhắc xem có nên bận tâm kiểm tra nó bây giờ không nhưng rồi vẫn ấn nút chạy máy.

"Gregg. Cha đây. Người bạn cùng phòng của Leesey vừa gọi cho cha. Leesey mất tích rồi. Nó rời quán rượu một mình tối qua, và chẳng ai trông thấy nó kể từ lúc đó. Cha đang trên đường đến căn hộ của nó. Hãy gặp cha ở đó nhé".

Cảm thấy ớn lạnh, Gregg Andrews ngừng máy, và nhấn số gọi đến chiếc xe của cha anh. "Cha ơi, con vừa nhận được lời nhắn của cha". Anh nói khi cha anh bắt máy. "Con sẽ gặp cha ở căn hộ của Leesey. Trên đường đi con sẽ gọi cho Larry Aheam. Đừng lái xe nhanh quá nhé".

Chụp lấy chiếc điện thoại di động, Gregg chạy ào ra khỏi căn hộ của mình, bắt kịp cái thang máy khi nó đang đi xuống từ một tầng cao hơn, chạy qua khu vực tiền sảnh, phớt lờ người gác cổng, chạy ào ra ngoài đường và ngoắc đại một chiếc taxi. Như thường lệ, giờ này chẳng còn chiếc xe nào trống chỗ. Hoảng loạn, anh nhìn ngược xuôi trên phố, hy vọng có một trong những chiếc limousine chở khách vẫn luôn có sẵn ở góc đại lộ Công Viên.

Anh thấy có một chiếc đang đậu ở phía cuối khu phố bèn chạy ào đến leo lên xe. Anh nói thật nhanh địa chỉ của Leesey với tài xế, rồi mở điện thoại di động để gọi cho người bạn cùng phòng thời học cao đẳng của anh ở Georgetown, người này bây giờ là đội trưởng đội thám tử tại văn phòng Chưởng lý quận Manhattan.

Sau hai hồi chuông, anh nghe thấy tiếng Larry Ahearn hướng dẫn người gọi để lại lời nhắn.

Lắc đầu tuyệt vọng, Gregg nói: "Larry, Gregg đây. Hãy gọi vào di động cho tôi. Leesey mất tích rồi".

Anh kiểm tra các cuộc gọi suốt thời gian đó. Gregg tự nhắc nhở mình trong khi chiếc xe len lỏi một cách chậm chạp đáng thương xuôi xuống phố. Khi họ băng qua đường số Năm Mươi Hai, anh chợt nhớ rằng trong vòng mười lăm phút nữa, người phụ nữ trẻ mà anh đã gặp tối qua sẽ chờ anh trong quán rượu Bốn Mùa.

Anh sắp sửa để lại lời nhắn cho cô thì Aheam gọi lại.

"Hãy kể cho tôi nghe về Leesey". Anh ta ra lệnh.

"Con bé có mặt ở một quán rượu, hay một câu lạc bộ hay một cái gì đại loại như vậy nếu anh muốn gọi những chốn đó là như thế, trong khu vực Làng và SoHo tối qua. Con bé bỏ đi một mình khi chỗ đó đóng cửa và chẳng hề thấy nó quay về nhà".

"Tên gọi quán rượu đó là gì?"

"Tôi không biết. Tôi không nghĩ ra để hỏi cha tôi. Ông ấy đang trên đường đi đến đấy".

"Ai có thể biết được?"

"Kate, bạn cùng phòng của Leesey. Cô ấy là người vừa gọi cho cha tôi xong. Tôi sẽ gặp ông ấy ở căn hộ mà cô bé này và Leesey ở chung".

"Hãy cho tôi số điện thoại của Kate. Tôi sẽ gọi lại cho anh sau".

Văn phòng riêng của Larry Aheam kế bên phòng tổ công tác. Anh rất mừng vì vào thời điểm này không có ai thấy được sự biểu cảm trên khuôn mặt anh. Leesey chỉ mới sáu tuổi khi anh đến thăm nhà Andrews ở Greenwich vào mùa thu năm học thứ nhất của anh ở Georgetown. Anh đã chứng kiến cô từ một đứa bé xinh xắn trở thành một thiếu nữ trẻ trung, quyến rũ, khiến người khác ngây ngất, đường nét xinh đẹp đến độ bất kỳ gã đàn ông nào, cho dù có là kẻ háo sắc hay không, cũng đều ham muốn.

Cô rời quán rượu một mình khi nó đóng cửa. Lạy Chúa, thật là một đứa trẻ khùng điên.

Họ chẳng hề biết.

Larry Aheam biết chỉ trong chốc lát nữa anh sẽ phải nói với Gregg và cha Leesey rằng trong vòng mười năm qua, ba người thiếu nữ đã biến mất trong cùng khu vực SoHo và Làng sau khi trải qua buổi tối ở một trong những quán rượu đó.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,926
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 9


Sáng thứ Tư, khi chuông đồng hồ gần điểm mười một giờ, Lil Kramer càng lúc càng trở nên kém thoải mái. Kể từ khi có cuộc gọi điện thoại từ Carolyn MacKenzie, Gus thường xuyên cảnh báo bà chỉ nói điều bà biết về việc Mack biến mất cách đây mười năm. "Không có gì cả". Ông không ngừng nhắc nhở bà. "Tuyệt đối chẳng có gì cả! Cứ như bình thường, nói về gã thanh niên dễ thương như hắn đã từng, chấm hết. Không có gì phải lo lắng liếc nhìn tôi để cầu cứu giúp bà vượt qua khó khăn nhé".

Căn hộ luôn sạch như lau như ly, nhưng hôm nay ánh mặt trời chiếu sáng trực diện, và giống như tấm kính phóng đại, nó phô bày những chỗ bị mòn cũ trên hai tay vịn của cái ghế trường kỷ và chỗ rạn nứt trên cái bàn cà phê bằng kính.

Ta chẳng bao giờ muốn có cái bàn kính đó, Lil nghĩ, vui mừng vì đã tìm ra một đối tượng để trút nỗi muộn phiền của mình. Nó quá lớn, không tương xứng với bộ đồ gỗ kiểu cũ này. Khi Winifred trang trí lại căn hộ của mình, nó cứ khăng khăng rằng ta phải lấy cái bàn đó, và quăng đi cái bàn xinh xắn bọc da trên bề mặt, món quà cưới của dì Jessie tặng ta. Cái vật bằng lánh này quá lớn, ta cứ luôn bị vấp đầu gối vào nó, và nó chẳng cân xứng với những cái bàn chặn cuối góc như những cái bàn khác, bà nghĩ.

Tâm trí bà lại nhảy sang một mối lo lắng khác. Ta chỉ hy vọng rằng Altman không có mặt ở đây khi cô gái nhà MacKenzie đến.

Howard Altman, môi giới bất động sản và là viên quản lý của chín tòa nhà chung cư nhỏ do ông Olsen làm chủ, đã đến cách đây một giờ để thực hiện một trong những chuyến đến thăm không định trước của mình. Gus gọi hắn ta là Gestapo của Olsen. Công việc của hắn ta là đảm bảo sao cho các giám thị phải bảo dưỡng, giữ gìn mọi thứ theo tiêu chuẩn hạng sang. Thậm chí hắn ta chẳng bao giờ có lời than phiền dù là nhẹ nhất về chúng ta, Lil nghĩ; điều làm ta sợ là bất kỳ khi nào hắn bước vào căn hộ này, hắn luôn nói rằng thật phí phạm tiền bạc khi để hai người sống trong khu vực năm căn phòng lớn ở góc tòa nhà như vậy.

Nếu hắn nghĩ ta sẽ chuyển đến cái nhà tù một phòng ngủ, thì hắn cần có sự suy nghĩ khác, bà căm phẫn tự nói với mình khi chỉnh lại những chiếc lá trên thân cây giả đặt trên bệ cửa sổ. Và bà co cứng người lại khi nghe thấy những giọng nói trong tiền sảnh và nhận ra rằng Gus đang đi vào cùng với Altman.

Mặc dù ngoài trời rất ấm áp, Howard Altman, như thông lệ, vẫn mặc chiếc áo sơ-mi, đeo cà vạt và mặc áo vét. Lil không thể nào nhìn thấy hắn ta mà không nghĩ về sự mô tả đầy khinh miệt của Winifred về hắn. "Hắn chỉ là một kẻ thích làm ra vẻ thôi, mẹ ạ. Hắn cứ nghĩ chỉ cần diện quần áo đẹp đẽ đến kiểm tra các cao ốc chung cư sẽ khiến người ta nghĩ rằng hắn là kẻ thuộc giới thượng lưu, bảnh bao. Hắn chỉ là một giám thị, y hệt như mẹ hay cha mà thôi cho đến khi hắn bắt đầu xu nịnh lão già Olsen. Đừng để hắn làm phiền cha mẹ".

Nhưng hắn thực sự đang làm phiền ta, Lil nghĩ. Hắn đang làm phiền ta bởi cách hắn nhìn khi bước qua cánh cửa. Ta biết một ngày kia hắn sẽ làm cho chúng ta phải chuyển đổi những căn hộ, để hắn có thể nói với ông Olsen rằng hắn đã nhìn ra cách thức mới làm được nhiều tiền hơn cho ông ấy. Hắn đang làm phiền ta bởi vì ông Olsen đang ngày càng già nua đi và thực tế là đang chuyển dần việc điều hành những tòa nhà cho hắn.

Cánh cửa mở ra, rồi Gus và Altman bước vào. "A, xin chào, Lil". Howard Altman nói một cách vui vẻ, khi hắn đi qua phòng khách bằng những bước sải dài và vươn cánh tay ra chào bà.

Hôm nay hắn đeo cặp kính mát rất mốt, hắn mặc cái áo vét màu vàng nâu nhạt và cái quần màu nâu, áo sơmi màu trắng, và đeo cà vạt màu vàng nâu có sọc xanh lục. Mái tóc màu cát của hắn quá ngắn theo Lil nghĩ, và cũng còn quá sớm để có màu da rám nắng như vậy. Winifred chắc chắn rằng hắn phải sử dụng ít nhất phân nửa thời gian nhàn rỗi của mình ở trong phòng nhuộm da. Nhưng xem xét hết mọi điều thì bà buộc phải thừa nhận một cách miễn cưỡng rằng hắn là gã đàn ông bảnh trai, thậm chí còn có những đường nét nổi bật, cặp mắt nâu sẫm, thân hình lực sĩ và nụ cười ấm áp. Nếu bạn không biết hắn có thể bần tiện đến đâu, thì hắn có thể biến bạn thành kẻ ngốc, bà nghĩ. Hắn ôm chặt cứng tay bà. Hắn tuyên bố hắn chưa đến bốn mươi. Ta lại cho rằng chí ít hắn phải bốn mươi lăm, Lil nghĩ và bà mỉm cười gượng gạo với hắn.

"Tôi không biết tại sao tôi phải bận tâm đến việc ghé ngang qua đây". Howard vui vẻ nói. "Nếu tôi có hai bạn cho tất cả các tòa nhà, thì chúng ta có thể tạo ra cả một gia tài".

"À, chúng tôi cố gắng giữ mọi thứ ở đây trông tốt đẹp". Gus nói bằng giọng xum xoe, nịnh nọt khiến Lil phát khùng.

"Ông làm nhiều hơn cố gắng. Ông đã thành công đấy".

"Ông thật tốt khi ghé ngang đây". Lil nói, liếc nhìn cái đồng hồ trên bệ lò sưởi. Lúc đó là mười một giờ kém năm.

"Không thể đi ngang qua mà không thò đầu vào chào một cái. Bây giờ tôi phải đi đây".

Tiếng máy điện thoại nội bộ vang lên trong phòng giải lao, và Lil chắc chắn rằng đó là Carolyn MacKenzie. Bà và Gus trao đổi nhau những cái liếc mắt, và ông bước đến cái điện thoại treo trên tường. "Vâng, dĩ nhiên, xúi mời vào ngay. Chúng tôi đang chờ cô..."

Đừng nói tên cô ấy ra. Lil cầu nguyện. Đừng nói tên cô ấy. Khi Howard nhìn thấy cô ấy trên đường hắn đi ra có lẽ hắn sẽ đơn thuần nghĩ rằng cô ấy muốn lấy thông tin về một căn hộ.

"... Cô MacKenzie," Gus kết thúc, "căn hộ 1B, ở bên phải, khi cô bước vào phòng giải lao".

Lil quan sát thấy nụ cười tạm biệt biến mất trên khuôn mặt Howard. "MacKenzie, đấy không phải là cái tên của gã biến mất dạng trước khi tôi đến làm việc cho ông Olsen chứ?"

Không có câu trả lời, ngoại trừ: "Đúng đấy Howard".

"Ông Olsen đã bảo cho tôi biết rằng việc lùm xùm đó gây phiền toái biết bao. Ông ấy cảm thấy thực sự điều đó đã làm chấm dứt hình ảnh tốt đẹp của tòa nhà. Tại sao cô ta lại đến đây để gặp hai người?"

Khi Gus đi ra cửa, ông nói thẳng thừng: "Cô ấy muốn nói chuyện về anh trai mình".

"Tôi muốn gặp cô ta". Howard nói, trầm tĩnh. "Nếu hai người không thấy phiền, tôi sẽ ở lại".
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,926
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 10


Tôi không thực sự chắc chắn về điều mình kỳ vọng khi bước chân vào tòa nhà đó trên đại lộ West End. Tôi nhớ Mack đã cho tôi xem căn hộ sau khi anh dọn ra khỏi ký túc xá ở Columbia. Lúc ấy anh đang bắt đầu năm học cuối cùng, còn tôi vừa bước sang tuổi mười lăm.

Bởi anh sống ngay trong thành phố, nên không cần cha mẹ và tôi đến thăm anh ở đó. Thay vì vậy, anh ghé qua nhà hay gặp gỡ chúng tôi thường xuyên ở một nhà hàng. Tôi biết sau khi anh mất dạng, cha mẹ tôi đã đi đến nói chuyện với những người bạn cùng phòng của anh và những người khác trong tòa nhà, nhưng họ chẳng bao giờ để tôi đi cùng với họ đến đó. Mùa hè thứ nhất, họ đã buộc tôi quay về trường trong khi tất cả những gì tôi muốn làm là giúp họ cùng tìm kiếm anh trai tôi.

Hóa ra tôi lại thấy mừng vì gia đình Kramer không thể gặp tôi cho đến tận bây giờ. Ngày hôm qua mẹ đã dẫn tôi đi ra ngoài cả ngày, mua sắm đôi chút vào phút cuối cho chuyến du hành của bà. Thế rồi bản tin lúc mười một giờ đêm qua kể câu chuyện về một sinh viên Đại học New York đã biến mất dạng sáng sớm ngày hôm qua sau khi rời khỏi một quán rượu ở SoHo. Có một bức ảnh người cha và anh của cô gái ấy đang rời khỏi tòa nhà căn hộ trong khu Làng và tôi choáng váng nhận ra rằng nó chỉ kế ngay bên tòa nhà của tôi thôi. Tôi cảm thấy đau đớn cho họ.

Không khoản tiền nào có thể thuyết phục mẹ rằng việc sống ở khu Làng thì cũng an toàn y như ở Sutton Place. Đối với bà, Sutton Place là nơi trú ẩn, một mái ấm mà bà và cha tôi đã vui sướng mua được khi bà đang mang thai tôi. Thoạt tiên đó là một căn hộ một tầng, có sáu phòng lớn, nhưng khi cha tôi ngày càng thành công hơn, ông đã mua lại căn hộ bên trên và biến nó thành căn hộ kép với kích cỡ tăng gấp đôi.

Giờ đây, đối với tôi, nó giống như một nhà tù, nơi cho đến tận bây giờ mẹ tôi cứ mong lắng nghe, luôn mong lắng nghe tiếng chìa khóa vặn vào trong cửa và Mack sẽ gọi to lên: "Con đã về nhà rồi". Đối với tôi, niềm tin rằng anh ấy sẽ quay về đã trở thành nỗi tuyệt vọng, một sự buồn thảm chẳng bao giờ rời bỏ chúng tôi. Tôi cảm thấy ích kỷ khủng khϊếp. Tôi yêu thương Mack, người anh lớn của tôi, người bạn thân thiết của tôi. Nhưng tôi không còn muốn cầm giữ chuyện này trong cuộc đời tôi lâu hơn nữa. Ngay cả cái quyết định chờ đợi trước khi nộp đơn xin việc tại văn phòng Chưởng lý quận cũng chỉ vì thực tế là nếu được tuyển, tôi sẽ không còn chút thời gian nào rảnh rỗi nữa. Tất cả cũng chỉ vì nỗ lực muốn tìm ra Mack, và nếu thất bại, tôi tự hứa rốt cuộc sẽ đi theo cuộc sống riêng của mình. Tôi đã trải qua gần hết ba tuần lễ này ở Sutton Place trong lúc mẹ tôi đi vắng, vậy mà vẫn chẳng thấy an toàn - cứ như thể Mack có cách nào đó biết được tôi đang bắt đầu nói chuyện với những ai từng gần gũi với anh và anh cố gắng gọi cho tôi.

Tòa nhà này, nơi Mack từng sống trong đó, thật cũ kỹ, mặt tiền cẩn đá xám thật phổ biến ở New York đầu thế kỷ hai mươi, nhưng lề đường đi bộ và các bậc tam cấp thì sạch sẽ, tay nắm cửa phòng ngoài được đánh bóng. Cái cửa ấy không khóa và dẫn vào một phòng giải lao hẹp, nơi người ta có thể quay số điện thoại một căn hộ và được đưa vào trong, hoặc sử dụng một cái chìa khóa mở cánh cửa dẫn vào tiền sảnh.

Tôi đã nói chuyện với bà Kramer và tôi thực sự không hiểu tại sao, nhưng dẫu thế nào tôi vẫn kỳ vọng được nghe giọng nói của bà ấy trên máy điện thoại nội bộ. Nhưng thay vì vậy, một người đàn ông đã trả lời và hướng dẫn tôi đi đến căn hộ ở tầng trệt của họ.

Khi tôi bước vào, cánh cửa căn hộ 1B đã mở rồi, và một người đàn ông đang chờ tôi trong đó, ông ta tự giới thiệu là Gus Kramer, người giám thị. Khi xem qua hồ sơ sáng nay, tôi nhớ cha tôi đã nói chuyện về ông ấy. "Gã này lo lắng rằng hắn sẽ bị đổ lỗi về việc Mack biến mất nhiều hơn là hắn lo lắng đến điều gì đó đã xảy ra cho Mack. Và vợ hắn còn tệ hơn. Bà ta trơ tráo nói rằng ông Olsen sẽ phiền lòng. Cứ như thể chúng ta cần phải quan tâm đến chủ nhân của khu bất động sản được tân trang đó vậy".

Thật buồn cười khi sửa soạn ăn mặc chỉnh tề để đến căn hộ này, tôi cứ thay đổi ý định về việc nên mặc cái gì. Thực sự tôi đã định mặc bộ quần áo đồng màu, cái bộ tôi vẫn mặc đến tòa án khi còn làm việc với vị thẩm phán ấy, nhưng dẫu sao nó trông quá sức trịnh trọng. Tôi muốn gia đình Kramer cảm thấy thoải mái với tôi. Tôi muốn họ nhìn tôi như đứa em gái nhỏ của Mack càng nhiều càng tốt, để họ sẽ thích tôi và sẽ muốn giúp đỡ tôi. Đó là lý do tại sao tôi quyết định mặc cái áo len cotton tay dài, quần jean và đi sandal. Như điềm báo cho sự thành công, tôi đã đeo sợi dây chuyền Mack tặng nhân sinh nhật thứ mười sáu của tôi. Có hai món đồ xinh xắn bằng vàng trên đó, một là cái ván trượt băng, còn cái kia là quả banh trong môn bóng đá, để tôn vinh hai môn thể thao mà tôi ưa thích.

Sau khi Gus Kramer tự giới thiệu rồi mời tôi vào, lúc đó giống như đang quay ngược về thời gian quá khứ vậy. Bất chấp sự thành công của cha, ông chẳng bao giờ có thể làm bà tôi nhúc nhích ra khỏi căn hộ ở Jackson Heights, Queens. Căn hộ này cũng có bộ đồ gỗ bọc nhung, tấm thảm Ba Tư được dệt bằng máy và những cái bàn bọc da bốn góc trên mặt như của bà tôi. Chỉ có vật duy nhất dường như không ở đúng chỗ đó là cái bàn cà phê bằng kính.

Ấn tương đầu tiên của tôi về Gus và Lil Kramer ở chỗ họ là loại người ngày càng trở nên giống nhau sau nhiều năm tháng sống chung. Mái tóc xám màu thép của bà giống y hệt như ánh màu tóc của ông ta. Họ là những người có chiều cao thấp hơn mức trung bình một chút, với cơ thể cứng cáp. Cặp mắt họ màu xanh da trời nhạt tương xứng, và không thể nào nhầm được sự cảnh giác trên cả hai khuôn mặt khi họ trao cho tôi nụ cười đầy vẻ bực dọc.

Thực ra còn có người thứ ba trong căn phòng, có vẻ như là chủ nhân. "Cô MacKenzie, tôi rất vui mừng được gặp cô. Tôi là Howard Altman, quản lý khu vực quận các bất động sản của ông Olsen. Tôi không có mặt ở thời điểm anh trai cô biến mất, nhưng tôi biết ông Olsen đã - và vẫn còn - quan tâm đến việc này như thế nào. Tại sao chúng ta không cùng ngồi xuống và để cô có thể nói với chúng tôi xem chúng tôi có thể giúp gì được cho cô?"

Tôi có thể cảm thấy được sự bất bình mà gia đình Kramer có đối với việc Altman can thiệp vào vấn đề này, nhưng đối với tôi, việc này lại khiến tôi dễ dàng hơn khi đưa ra bài diễn văn đã hoạch định. Tôi ngồi xuống mép ghế gần nhất và tự giới thiệu mình với hắn ta. "Hiển nhiên như ông biết, anh trai tôi, Mack đã biến mất cách đây mười năm. Hoàn toàn chẳng có vết tích gì về anh ấy kể từ đó. Nhưng thực sự anh ấy vẫn gọi điện thoại cho chúng tôi hằng năm vào Ngày của Mẹ như anh ấy đã làm cách đây vài ngày. Tôi có nghe điện thoại lúc anh ấy nói chuyện với mẹ tôi và thề là tôi sẽ tìm cho ra anh ấy. Sau đó, anh ấy đi đến St. Francis, nhà thờ trong khu vực lân cận này, nơi chú tôi là mục sư, và để lại một bức thư ngắn cho tôi, cảnh cáo tôi phải đứng sang một bên. Vì vậy tôi e sợ rằng Mack đang gặp rắc rối gì đó và xấu hổ không muốn xin trợ giúp".

"Một lá thư ngắn à!" Sự cảm thán của Lil Kramer khiến tôi ngưng lại. Tôi sửng sốt khi trông thấy đôi má bà trở nên đỏ bừng và cử chỉ vô thức của bà khi vươn tay ra, chụp lấy tay chồng. "Cô muốn nói là cậu ấy đã đến St. Francis và để lại một bức thư ngắn cho cô à?" Bà ấy hỏi.

"Vâng, tại buổi lễ Misa lúc mười một giờ. Tại sao điều đó lại làm bà ngạc nhiên hở bà Kramer? Cháu biết trong nhiều năm tháng đã có những bài viết về sự mất dạng của anh cháu và thực tế là anh ấy vẫn liên lạc với gia đình cháu cơ mà".

Gus Kramer trả lời thay cho vợ. "Cô MacKenzie, vợ tôi luôn cảm thấy kinh khủng về việc của anh trai cô. Cậu ấy là một trong những đứa trẻ lễ độ nhất, tử tế nhất mà chúng tôi từng có ở đây".

"Đó là điều ông Olsen nói". Howard Altman bảo với tôi. Rồi hắn ta mỉm cười. "Cô MacKenzie, hãy để tôi giải thích này. Ông Olsen ý thức được rằng những cạm bẫy xảy ra ngày nay vào thời đại này với những người trẻ tuổi, thậm chí những người trẻ được thiên phú thật thông minh, trí thức đấy. Ông ấy luôn quanh quẩn ở đây để đón chào các sinh viên mới. Bây giờ thì ông ấy đã ngừng có mặt ở đây, nhưng ông ấy kể cho tôi nghe rằng ông đã có ấn tượng ra sao với cha mẹ cô và anh trai cô. Và tôi có thể nói với cô rằng gia đình Kramer đã luôn để mắt, không cho phép có những vụ chè chén say sưa, hay tệ hơn nữa, sử dụng ma túy. Nếu anh trai cô vướng phải một loại rắc rối nào đó, thì nó đã không bắt đầu hay tiếp diễn dưới mái nhà này".

Điều này đến từ gã đàn ông không biết Mack, hắn chỉ nghe nói về Mack thôi. Thông điệp thật to tát và rõ ràng. Thưa quý cô, xin đừng đến đây dòm ngó gì về vấn đề rắc rối của anh cô.

"Tôi không định gợi ý rằng bất kỳ vấn đề gì liên quan đến việc Mack cư ngụ ở đây khơi mào cho việc anh ấy biến mất. Nhưng ông có thể hiểu rằng điều hợp lý đối với tôi là phải bắt đầu tìm kiếm anh ấy từ nơi chốn cuối cùng anh ấy được nhìn thấy. Người anh mà tôi biết chẳng bao giờ tự nguyện gây ra cho cha mẹ tôi và tôi nỗi thống khổ và lo lắng mà chúng tôi đang trải qua trong cuộc sống mười năm nay". Tôi cảm thấy những dòng lệ đang chực trào, long lanh đôi mắt khi tôi chỉnh lại lời nói của mình: "Tôi muốn nói là nỗi lo lắng mà mẹ tôi và tôi thường xuyên trải qua. Tôi nghĩ có lẽ ông đã biết rằng cha tôi là một nạn nhân của biến cố 11/9".

"Anh trai cô dường như chẳng bao giờ giống loại thanh niên chỉ cần biến mất dạng mà chẳng có lý do gì thực sự quan trọng". Gus Kramer đồng ý.

Giọng nói của ông ta rất chân thành, nhưng tôi chẳng bỏ sót ánh mắt ông liếc nhìn nhanh vợ mình hoặc thực tế là bà lo lắng đến nỗi cứ cắn lấy môi mình.

"Cô có bao giờ xem xét khả năng rằng anh cô có thể bị tình trạng xuất huyết não, hay bất kỳ điều kiện thể chất nào khác có thể khiến cậu ấy bị mắc chứng lãng quên hay một phần chứng lãng quên không?" Howard Altman hỏi.

"Tôi đang xem xét mọi điều". Tôi bảo hắn ta. Tôi với lấy cái túi đeo vai và lấy ra một cuốn sổ với cây bút. "Ông bà Kramer, cháu biết điều đó đã xảy ra cách đây mười năm, nhưng có thể nào cho phép cháu được yêu cầu ông bà kể lại những gì ông bà còn nhớ về bất kỳ điều gì Mack đã làm hoặc đã nói thể có chứa đựng điều gì đó quan trọng không? Cháu muốn nói rằng đôi khi chúng ta nghĩ về một điều chúng ta không nghĩ tới vào thời điểm đó. Có thể như ông Altman vừa gợi ý, Mack đã bị chứng bệnh mất trí tấn công. Phải chăng anh ấy đang gặp rắc rối hay lo lắng gì đó, hay ngay cả anh ấy cảm thấy không khỏe về mặt thể chất chẳng hạn?"

Khi tôi đưa ra những câu hỏi này, tôi nghĩ về cách, sau khi cảnh sát đã từ bỏ việc cố gắng tìm cho ra Mack, cha tôi đã thuê người điều tra tư Lucas Reeves tiếp tục cuộc tìm kiếm ra sao. Trong vài ngày vừa qua tôi đã xem xét lại từng từ trong những bộ hồ sơ của ông. Mọi điều gia đình Kramer nói với ông đều có trong những phần ghi chú của tôi.

Tôi lắng nghe bà Kramer ngập ngừng, rồi sau đó nồng nhiệt kể về việc Mack là kiểu thanh niên trẻ trung ra sao, người luôn mở cửa giúp bà, người bỏ quần áo giặt ủi vào trong cái hòm mây của mình, người luôn vượt qua các trở ngại. "Tôi chẳng bao giờ thấy cậu ta có vẻ gặp rắc rối". Bà nói. Lần cuối cùng bà trông thấy anh ấy là lúc dọn dẹp sạch sẽ căn hộ mà anh ở cùng với hai sinh viên năm cuối. "Cả hai cậu con trai kia đềụ đi ra ngoài. Cậu ấy đang làm việc với máy tính trong phòng ngủ của mình và bảo tôi rằng việc hút bụi chẳng làm phiền gì cậu cả. Cậu ta luôn như vậy. Dễ chịu. Tử tế. Lễ độ".

"Lúc đó là mấy giờ ạ?" Tôi hỏi bà.

Bà mím môi lại. "Lúc đó là khoảng mười giờ sáng, tôi nghĩ là như vậy".

"Điều đó đúng đấy". Gus Kramer nhanh chóng khẳng định.

"Và bà chẳng bao giờ trông thấy lại anh ấy nữa à?"

"Tôi nhìn thấy cậu ấy rời khỏi tòa nhà vào khoảng ba giờ. Tôi đang trên đường về nhà từ chỗ nha sĩ. Tôi đang đút chìa khóa vào ổ khóa căn hộ của chúng tôi. Gus nghe thấy tôi và ra mở cửa. Cả hai chúng tôi đều trông thấy Mack đi xuống cầu thang. Cậu ấy vẫy tay khi đi ngang qua khu vực tiền sảnh".

Tôi quan sát thấy bà liếc mắt sang ông chồng để chờ sự chấp thuận.

"Lúc đó Mack đang mặc gì thưa bà Kramer?"

"Những cái mà cậu ấy đã mặc buổi sáng. Một cái áo T-shirt, quần jean và đôi giày thể thao, và..."

"Lil, bà lại lẫn lộn rồi. Mack mặc một cái áo khoác, quần tây, sơ-mi thể thao cổ mở khi cậu ấy ra đi". Gus Kramer nhanh chóng ngắt lời.

"Đó là điều tôi định nói". Bà vội vã thốt lên. "Tôi cứ quen nhìn cậu ấy mặc T-shirt với quần jean bởi vì đó là khi tôi nói chuyện chút ít với cậu ấy sáng hôm đó". Khuôn mặt bà bị chấn động. "Gus và tôi chẳng liên quan gì với việc cậu ấy biến mất". Bà gào lên. "Tại sao cô lại tra tấn chúng tôi?"

Khi nhìn chằm chằm vào mặt bà, tôi nghĩ đến điều Lucas Reeves, chuyên viên điều tra tư đã viết trong hồ sơ của ông rằng gia đình Kramer lo lắng là họ sẽ bị mất việc bởi sự biến mất của Mack. Giờ đây sau gần mười năm, tôi không thể chấp nhận lý luận đó.

Họ lo lắng bởi họ đã che giấu điều gì đó. Giờ đây họ đang cố gắng giữ vững câu chuyện kể của họ. Cách đây mười năm bà Kramer đã bảo với Reeves rằng Mack vừa mới bước ra khỏi tòa nhà khi bà trông thấy anh ấy và lúc đó chồng bà đang ở trong khu vực tiền sảnh.

Vào thời điểm đó, tôi có thể lấy cả cuộc đời mình ra cá cược rằng chẳng một ai trong hai người đó trông thấy Mack rời khỏi tòa nhà. Hoặc anh ấy có thực sự rời khỏi tòa nhà chăng? Câu hỏi ấy chợt ùa vào tâm trí tôi, nhưng ngay lập tức bị bác bỏ.

"Điều đó đã xảy ra lâu biết bao". Tôi nói. "Tuy nhiên, không biết có thể nào nhìn thấy căn hộ nơi anh trai cháu đã từng sống trong đó không?"

Tôi có thể thấy là yêu cầu của tôi khiến họ giật mình. Lần này cả hai ông bà Kramer đều nhìn về phía Howard Altman để được hướng dẫn.

"Dĩ nhiên căn hộ đã được cho thuê rồi". Hắn nói. "Nhưng vì bây giờ là cuối học kỳ nên nhiều sinh viên đã bỏ đi. Tình hình ở 4D như thế nào hả Lil?"

"Hai người sống cùng trong căn phòng lớn hơn đã đi rồi. Walter Cannon ở căn phòng cũ của Mack, nhưng hôm nay cậu ta sẽ đi".

"Thế thì bà có thể gọi điện thoại hỏi xem cô MacKenzie có thể ghé qua một chút không?" Altman gợi ý.

Một lúc sau chúng tôi cùng leo cầu thang lên lầu bốn. "Các sinh viên chẳng phiền lòng việc leo cầu thang". Altman nói với tôi. "Tôi phải nói rằng tôi suиɠ sướиɠ khi không phải đi lên đi xuống chúng mỗi ngày".

Walter Cannon, một thanh niên hai mươi hai tuôi, cao khoảng một mét tám, gạt phăng đi những lời xin lôi của tôi vì sự chen ngang. "Tôi rất vui là cô đã không có mặt ở đây cách đây một tiếng". Cậu nói. "Tôi đã bày đồ đạc khắp nơi". Cậu giải thích rằng mình đang thu xếp về nhà ở New Hampshire để nghỉ hè và sẽ bắt đầu học trường luật vào mùa thu.

Cậu ta đang ở cùng thời điểm như Mack khi anh ấy biến mất, tôi buồn phiền nghĩ vậy.

Căn hộ trùng lắp với ký ức mờ nhạt của tôi về nó. Một phòng giải lao nhỏ bây giờ chất đầy hành lý Cannon sẽ đem đi, một cái bếp đối diện trực tiếp với cánh cửa dẫn ra ngoài, bên phải lối đi có phòng khách với phòng ngủ tách biệt, một phòng tắm ở cuối dãy. Về phía trái của phòng giải lao, một phòng tắm thứ hai, và sau nó là phòng ngủ nơi Mack đã từng sống ở đó. Không thèm lắng nghe những lời bình luận của Altman ve cach toa nhà được bảo dưỡng tốt ra sao, tôi đi ngay vào nơi đã từng là phòng ngủ của Mack.

Những bức tường và trần nhà đều sơn màu trắng ngà. Một tấm vải cotton có họa tiết hoa hòe sáng màu được trải trên giường. Rèm cửa che phủ hai cánh cửa sổ. Một cái bàn trang điểm, một cái bàn giấy, một cái ghế bành làm thành bộ đồ gỗ hoàn chỉnh. Một tấm thảm màu xanh xám phủ kín sàn nhà.

"Căn hộ này, cũng giống như những căn hộ khác, sau khi dọn trống, chúng sẽ được quét một lớp sơn mới ngay lập tức". Altman đang nói. "Thảm, tấm trải giường, và rèm che cửa sẽ được giặt giũ. Gus Kramer sẽ đảm bảo nhà bếp và nhà tắm không có tì vết. Chúng tôi rất tự hào về các phòng ốc của mình".

Mack đã sống ở đây hai năm, tôi nghĩ. Tôi hình dung anh ấy cảm nhận về nó như tôi cảm thấy về căn hộ của mình. Đó là nơi chốn của anh. Anh có thể thức dậy sớm hay muộn, đọc sách hay không, trả lời điện thoại hay không. Cánh cửa tủ đang mở, và dĩ nhiên lúc này nó trống rỗng.

Tôi nghĩ đến lời tuyên bố của gia đình Kramer rằng anh mặc áo khoác với sơ-mi cổ mở và quần tây khi ra đi vào trưa hôm đó.

Thời tiết hôm đó ra sao nhỉ? Tôi tự hỏi. Có phải đó là một trong những buổi trưa tháng năm lạnh lẽo như thứ Bảy vừa rồi? Hay nếu thời tiết rất nóng, và Mack thực sự đã rời nhà lúc ba giờ thì việc mặc áo khoác có điều gì đó quan trọng không? Một cuộc hẹn à? Một chuyến lái xe đến nhà người bạn gái ở Connecticut, hay ở Long Island?

Thật khôi hài, nhưng trong căn phòng đó mười năm sau, tôi lại cảm nhận được sự hiện diện của anh ấy. Anh ấy luôn rất thong thả. Cha rất quyết liệt, luôn nhạy cảm, và với sự chính xác, ông đánh giá và xét đoán tình hình nhanh như chớp. Tôi biết mình cũng giống như thế. Mack có phần giống mẹ hơn. Anh ấy luôn cho mọi người một cơ hội. Cũng giống như bà, nếu có bao giờ anh ấy ý thức được mình bị lợi dụng hoặc bị đối xử tồi tệ, anh ấy sẽ chẳng bao giờ đôì đầu, anh ấy sẽ chỉ đơn giản ra sức rút lui khỏi tình thế đó thôi. Và đó chính là điều tôi nghĩ mẹ đang làm bây giờ - bà xem lá thư ngắn Mack bỏ trong cái rổ đựng đồ quyên góp là một cái tát vào mặt.

Tôi đi ra cửa sổ, cố nhìn những gì anh đã nhìn thấy. Biết Mack từng yêu thích đứng tại cửa sổ của căn hộ ở Sutton Place ra sao, rồi nghiền ngẫm quang cảnh, sông East River với tàu bè và xà lan, những ngọn dèn trên cầu, giao thông trên không, đến và đi khỏi phi trường La Guardia, tôi chắc anh ấy thường đứng ngây ra ngó qua những cái cửa sổ này, nhìn ra đại lộ West End, những lối dành cho người đi bộ thường xuyên tràn ngập dòng người, dòng xe cộ nối đuôi nhau trên đường.

Giấc mơ mà tôi có về anh sau cuộc điện thoại trước bình minh vào Ngày của Mẹ lại tái hiện trong tâm trí tôi. Một lần nữa, tôi lại đang đi trên con đường tối tăm, tuyệt vọng tìm cho ra Mack.

Và một lần nữa, anh đang cảnh cáo tôi phải dừng lại.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,926
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 11


Bằng giọng mệt mỏi, bác sĩ David Andrews nói: "Thám tử Barrott, Leesey đã rời khỏi quán rượu đó vào lúc ba giờ sáng hôm qua. Bây giờ là một giờ trưa thứ Tư. Con bé đã mất tích ba mươi tư tiếng đồng hồ. Ông có thấy cần phải kiểm tra lại với bệnh viện không? Nếu có bất kỳ ai biết rằng những phòng cấp cứu bận rộn như thế nào, Chúa biết đó là tôi".

Cha của Leesey đang ngồi tại cái bàn nhỏ trong nhà bếp ở căn hộ ký túc xá trường cao đẳng của con gái, tay ông nắm lại, đầu ông cúi xuống. Trái tim đau đớn, không ngủ được và tuyệt vọng, ông từ chối lời cầu khẩn của con trai muốn ông quay về căn hộ của nó và chờ tin ở đó. Sau khi có mặt ở đây cả đêm, Gregg đã quay về nhà để tắm táp và thay quần áo trước khi ghé qua bệnh viện gặp các bệnh nhân sau phẫu thuật của anh.

Roy Barrott đang ngồi đối diện cha Leesey tại cái bàn đó. Cái đêm con gái ta đi dự dạ vũ, thì con gái ông ấy đi đến hắc điếm rồi biến mất. Roy nghĩ với cảm giác có tội bất chợt vì sự may mắn tốt đẹp của chính mình. "Bác sĩ Andrews," ông nói, "ông cần phải tiếp tục nghĩ đến khả năng rằng Leesey hoàn toàn bình an. Cô ấy là một người lớn, và có quyền được riêng tư".

Barrott thấy được khuôn mặt người bác sĩ rắn lại vì cơn tức giận và sự khinh miệt. Ta thấy mình nói giống như cô ấy là một loại người lang bạt, dễ tính, ông nghĩ thế và vội vã nói thêm: "Xin đừng nghĩ tôi tin rằng đây là trường hợp của Leesey. Chúng tôi xem việc cô ấy biến mất là một vấn đề nghiêm trọng". sếp của Barrott, đội trưởng Larry Ahearn rõ ràng đã đặt trường hợp này vào hạng mục khẩn cấp rồi.

"Thế thì ông đang làm gì để tìm ra con bé?" Nỗi tức giận toát ra trên khuôn mặt của David Andrews. Giọng nói của ông trầm xuống, ngắc ngứ.

Rõ ràng là ông ấy đang ở trong tình trạng bị sốc rồi, Barrott nghĩ thế. "Chúng tôi đã xem lại những máy camera an ninh ở Woodshed, và cô ấy thực sự đã ra về một mình. Những người duy nhất còn lại trong quán rượu là ban nhạc chơi ở đấy, người nhân viên pha chế rượu và người bảo vệ. Tất cả những người đó đều thề rằng không ai trong bọn họ rời khỏi nơi đó sau Leesey trong vòng ít nhất là hai mươi phút. Vì thế chúng tôi cho rằng chẳng có ai trong bọn họ đi theo cô ấy cả. Cho đến nay tất cả bọn họ đều được kiểm tra và xem như không có vấn đề gì. Ngay bây giờ, người của chúng tôi đang đi kiểm tra từng khung hình camera tại quán rượu đó vào đêm thứ Hai để xem chúng tôi có thể xác định được tung tích những kẻ nào có khả năng quấy rối không".

"Có lẽ có kẻ nào đó đã đến sớm hơn chờ con bé bên ngoài". David Andrews biết giọng nói của mình thật vô hồn, đơn điệu. Phải chăng viên thám tử này đang cố gắng trấn an ta? Ông tự hỏi mình. Rồi cùng một ý nghĩ chợt lướt qua tâm trí ông đến lần thứ một ngàn: Ta biết có điều gì đó thật khủng khϊếp đã xảy ra cho Leesey mất rồi!

Ông đẩy ghế ra khỏi cái bàn và đứng lên. "Tôi sẽ trao giải thưởng hai mươi lăm ngàn đô-la cho bất kỳ ai giúp chúng ta tìm ra con bé". Ông nói. "Tôi sẽ đưa hình của con bé và bản mô tả nó mặc gì lúc đó vào những tấm áp phích. Ông đã gặp Kate, người bạn cùng phòng của con gái tôi. Cô ấy sẽ bảo bạn bè Leesey dán chúng trên mọi ngả đường giữa quán rượu ấy và tòa nhà này. Hẳn là có ai đó đã trông thấy điều gì đó".

Với tư cách là một người cha, chính xác đó là điều ta sẽ làm nếu ở vào địa vị của ông ấy. Roy Barrott nghĩ thế khi ông đứng lên. "Bác sĩ Andrews, thật là một ý kiến rất hay. Hãy đưa chúng tôi tấm hình trong ví của ông, cùng chi tiết chiều cao, cân nặng và màu tóc của cô ấy. Chúng tôi sẽ lo thu xếp làm áp phích. Sẽ rất có ích nếu dán những tấm áp phích lên trước khi đám đông sẽ đến quán rượu đó vào tối nay. Tôi có thể hứa với ông rằng các nhân viên chìm của chúng tôi sẽ có mặt ở Woodshed và khắp các ngả đường quanh đây để nói chuyện với mọi người. May mắn chúng ta có thể tìm ra người trông thấy kẻ nào đó chú ý nhiều đến cô ấy. Nhưng thưa ông, tôi cũng đề nghị ông đi đến căn hộ của con trai ông và nghỉ ngơi đôi chút ở đó. Tôi sẽ cho một sĩ quan đưa ông đến đó nhé".

Ta chỉ mới đang trên đường đi thôi, David Andrews chán chường suy nghĩ. Nhưng ông ấy nói đúng - Ta thực sự cần phải ngủ. Chẳng nói năng gì, ông gật đầu.

Cánh cửa từ phòng ngủ được mở ra. Kate Carlisle đã trải qua một đêm không ngủ, và giờ đây, sau khi chợp mắt một chút, cô trông thấy họ ra đi, với bàn tay Barrott nắm chặt dưới cánh tay vị bác sĩ. "Bác Andrews, bác khỏe chứ?" Cô lo lắng hỏi.

"Bác sĩ Andrews sẽ đi đến căn hộ của con trai ông ấy". Barrott giải thích. "Tôi sẽ còn chạy tới chạy lui. Kate ơi, cô có ngẫu nhiên có được tấm hình chụp mới nhất của Leesey không? Cái tấm mà tôi thấy trong ví của bác sĩ Andrews đã cách đây hơn một năm rồi".

"Vâng, tôi có một tấm rõ lắm. Tôi chỉ mới chụp nó hồi tuần trước. Angelina Jolie và Brad Pitt đang đi dạo trên SoHo với con cái của họ và những tay săn ảnh có mặt quanh quẩn bên họ. Tôi bảo Leesey giả vờ như cô ấy là một ngôi sao điện ảnh. Và tôi đã chụp hai tấm hình của cô ấy bằng máy điện thoại di động của tôi. Một trong hai tấm đó Tất tuyệt vời. Cô ấy đang định đem đi lộng khung rồi gửi cho bác đấy, bác Andrews ạ". Giọng cô vỡ vụn ra. Bối rối, Kate chạy vào trong phòng ngủ, mở ngăn kéo cái bàn cạnh giường ngủ, lấy một tấm hình từ đó ra và vội vã quay trở lại với họ.

Trong tấm hình, Leesey đang tạo dáng người mẫu, khuôn mặt tươi cười của cô hướng về máy chụp hình, mái tóc dài tung bay trước cơn gió thoảng, thân hình thon mảnh hâu như đang uốn lượn, đôi tay ủ sâu trong hai túi của chiếc áo khoác vải bông.

Cặp mắt Barrott lướt từ cô gái đáng yêu ở vị trí trung tâm sang những người khách qua đường ở phía sau. Chẳng có khuôn mặt nào rõ ràng cả. Phải chăng một trong những kẻ đó đã chú ý đến Leesey? Ông tự hỏi. Một kẻ háo sắc đang rình mồi.

Ta sẽ cho phóng lớn tấm hình này, ông nghĩ, rồi nhận nó từ tay Kate. "Đây là một tấm hình rất rõ của Leesey". Ông nói. "Tôi cũng muốn cô cho tôi tấm hình kia mà cô đã chụp cô ấy. Từ những điều mà tôi biết thì cô ấy đã mặc áo khoác vải bông vào đêm cô ấy đi đến câu lạc bộ. Trong tấm hình này cô ấy cũng đang mặc chiếc áo khoác vải bông".

"Cô ấy mặc cùng một chiếc áo khoác". Kate nói.

"Con bé đã mua nó cách đây hai năm, chỉ trước ngày mẹ nó mất". David Andrews nói. "Nó có một cái váy để mặc cùng. Mẹ nó đã cười, trêu nó về cái váy có những sợi tua lủng lẳng trèn đó. Leesey bảo với bà ấy rằng đó là thời trang. Mẹ nó bảo nếu đấy được xem là thời trang thì đã đến lúc quay trở lại với loại váy phồng".

Ta có vẻ ủy mị quá. David Andrews tự nói với chính mình. Ta đang giữ tay thám tử này lại, không để hắn đi tìm Leesey. Ta phải tránh ra khỏi nơi đây thôi. "Kate, đây là một tấm hình đẹp của Leesey. Bất kỳ ai nhìn thấy con bé cũng có thể xác định ra nó từ tấm hình này. Cám ơn cháu rất nhiều".

Không chờ cô trả lời, ông bắt đầu đi ra cửa, biết ơn vì cánh tay mạnh mẽ đang kẹp dưới nách mình. Một cách thầm lặng, ông bước xuống ba đợt câu thang. Ông ý thức một cách mơ hồ ánh đèn camera lóe sáng và có ai đó la lên những câu hỏi với ông khi ông băng qua lối đi và được giúp đưa vào chiếc xe của tổ công tác. Ông nhớ đã hỏi thám tử Barrott về những điều sẽ làm để cố tìm cho ra Leesey. Barrott đóng cửa xe lại và dựa người vào đó.

"Bác sĩ Andrews, chúng tôi đã vận động tất cả những người trong tòa nhà này. Chúng tôi biết theo như máy camera an ninh ở đây thì Leesey đã không bước vào cánh cửa này, nhưng tất cả các ngôi nhà này đều giống hệt nhau. Cô ấy có thể bước lầm vào ngôi nhà khác. Chúng tôi đang bắt đầu từng nhà một, làm việc với toàn bộ khu vực lân cận này. Việc có hình của cô ấy sẽ giúp đỡ chúng tôi".

"Tại sao con bé lại bước lầm vào cánh cửa khác trên cõi đời này? Con bé đâu có uống rượu quá nhiều, chính ông đã bảo tôi thế mà. Người nhân viên pha chế rượu và tất cả những người khác ở Woodshed đều thề rằng con bé tỉnh táo khi nó rời chỗ đó mà". David Andrews nhắc nhở mình ngay lập tức.

Đấy chỉ là lời nói đầu môi chót lưỡi của Barrott để đáp lại, trừ phi có thể chứng minh khác đi, chín mươi chín phần trăm nhân viên pha chế rượu luôn thề thốt rằng người bị mất tích đều rời quán rượu trong trạng thái tỉnh táo. Thay vì thế ông nói "Bác sĩ ơi, không có vấn đề gì xảy ra đâu. Đó là lời hứa của tôi với ông".

Một phóng viên duy nhất có mặt tại hiện trường đã gí micro vào mặt Barrott khi ông quay trở lại xe tổ công tác. "Nghe này," Barrott mất kiên nhẫn nói. "Đội trưởng Aheam sẽ tổ chức họp báo vào lúc năm giờ. Ông ấy được ủy quyền phát biểu. Tôi thì không".

Ông quay trở lại khu vực tiền sảnh của tòa nhà, chờ cho đến lúc người phóng viên và thợ chụp hình bước vào chiếc xe van và lái đi, rồi mới quay trở ra và bước đến tòa nhà kế đó. Giống như hầu hết các cánh cửa trong khối nhà này, cánh cửa bên ngoài không khóa, và có thể đi vào bằng chiếc chìa khóa hay người thuê mướn có thể gọi điện thoại liên lạc.

Cặp mắt Barrott đảo lên xuống danh sách những người thuê mướn, rồi chúng mở to ra khi ông chộp lấy cái tên "Carolyn MacKenzie". Lý thuyết "Sáu chặng phân cách" 1 ư? Ông tự hỏi mình. Rất có thể.

Roy Barrott đứng sững lại, rồi sau đó dùng ngón trỏ rà quanh cái tên Carolyn MacKenzie.

Bản năng chưa hề sai sót khiến ông trở thành một thám tử tuyệt vời đã mách bảo với ông rằng dẫu sao, theo một cách nào đó, có sự liên kết giữa hai trường hợp này.

Chú thích

1.Sáu chặng phân cách: Lý thuyết về việc có thể kết nối hai người bất kỳ trên hành tinh này thông qua vài chặng người quen.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,926
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 12


Sau khi rời tòa nhà chung cư nơi Mack từng sống, tôi quay về Sutton Place. Trong vòng một ngày rưỡi kể từ khi mẹ quyết định sẽ tham gia cuộc hải hành, bà đã được tiếp thêm năng lượng, cứ như thể sau khi sống quá lâu trong tình trạng lấp lửng, bà đang cố gắng bù đắp lại thời gian đã mất. Bà bảo với tôi rằng bà sẽ lục soát hết các tủ quần áo và bỏ chúng đi hết, rồi chiều tối nay bà sẽ gặp Elliott và vài người bạn để dùng cơm tối.

Tôi tự hỏi tại sao bà lại bận tâm đến việc dọn dẹp sạch các tủ quần áo trước khi đi nghỉ, nhưng rồi điều đó trở nên thật hiển nhiên. Sau khi ăn thật nhanh bữa trưa, một miếng bánh sandwich và một tách trà trong phòng dùng điểm tâm, bà bảo tôi rằng bà sẽ đưa căn hộ vào danh sách của nhà môi giới, và ngay khi quay về bà sẽ tìm một căn hộ nào đó nhỏ hơn. "Con sẽ chẳng bao giờ dọn về nữa". Bà nói. "Mẹ biết mà. Mẹ sẽ cài dịch vụ chuyển cuộc gọi, trong trường hợp Mack quyết định gọi điện thoại vào Ngày của Mẹ sang năm, nhưng nói một cách khác, nếu mẹ hụt cuộc điện thoại của nó, thì hãy cứ để như thế. Mẹ không thể chỉ cứ quanh quẩn ở đây và chờ đợi cú điện thoại đó".

Tôi nhìn bà, sửng sốt. Khi bà nói sẽ dọn dẹp các tủ quần áo, tôi nghĩ bà định nói các tủ quần áo của bà. Nhưng bây giờ, không cần hỏi, tôi cũng chắc chắn rằng chính những tủ quần áo trong phòng của Mack sẽ bị dọn trống.

"Thế mẹ định làm gì với đồ đạc của Mack?" Tôi hỏi, cố gắng giữ giọng nói bình thường.

"Mẹ sẽ để Dev cho ai đó lấy chúng ra và đem chúng đi giao đến chỗ nào chúng có thể được sử dụng tốt". Mẹ nhìn tôi để có sự đồng ý, và khi thấy có điều gì đó đang che giấu trong nét mặt của tôi, bà nói nhanh: "Carolyn, con là người luôn nói mẹ phải tiến lên phía trước. Thực tế vẫn là, ngay cả nếu Mack có bước qua cánh cửa nhà mình hôm nay, và ngay cả nếu quần áo của nó vẫn còn vừa vặn với nó, thì chúng cũng đã lỗi thời rồi".

"Đừng hiểu lầm con". Tôi bảo bà. "Con nghĩ đó là ý kiến hay, nhưng con cứ tưởng rằng hai ngày trước khi đáp máy bay đi Hy Lạp đó là điều cuối cùng mẹ lo lắng chứ. Kìa mẹ, hãy làm một ân huệ cho chính mình. Hãy để con xem qua tất cả các quần áo của Mack và soạn chúng ra". Thậm chí khi tôi nói, điều nảy ra trong đầu tôi là rất có thể cách đây mười năm, chẳng có ai bận tâm xem xét kỹ lưỡng những túi quần, túi áo khác mà Mack đã để lại trong căn hộ này. Lucas Reeves đã nêu trong bản báo cáo vụ việc của ông rằng chẳng có gì quan trọng được tìm thấy trong mớ áo quần mà Mack đã để lại trong căn hộ sinh viên của anh ấy.

Chẳng ngần ngừ nhiều, thậm chí còn thấy thanh thản, mẹ đồng ý ngay. "Mẹ chẳng biết sẽ làm được gì nếu thiếu con, Carolyn ạ". Bà nói: "Con vừa là chỗ dựa vừa là niềm an ủi của mẹ trong suốt những việc này. Nhưng mẹ biết con. Con chỉ vừa mới ngừng làm việc hai tuần nay, và mẹ có thể nói rằng con chẳng hề nghỉ ngơi gì cả. Con sẽ làm gì khi mẹ đi vắng?"

Bà đã vô tình đưa cho tôi một câu trả lời ít ra là có phần chân thực. "Chúng ta biết một người nào đó sẽ háo hức sở hữu căn hộ này". Tôi nói: "Con chẳng hề có ý định ở lại trong căn phòng thuê đó mãi mãi. Con sẽ nhìn quanh quẩn để tìm một chỗ lớn hơn cho chính minh. Mẹ sẽ cho con lấy bất kỳ món đồ đạc nào mẹ không đem theo với mình, đúng không?"

"Dĩ nhiên rồi. Hãy báo cho Elliott biết. Căn hộ một phòng ngủ tử tê là khoản phí tổn chắc chắn ông ấy sẽ chấp thuận". Elliott là người được ủy thác quản lý số tiền ông tôi để lại cho tôi.

Mẹ uống nốt ngụm trà và đứng lên. "Mẹ phải đi ngay thôi. Helene sẽ khó chịu nếu mẹ trễ cuộc hẹn cắt tóc. Với số tiền mà bà ấy sẽ tính, bà ấy có thể bắt ta nhún nhường nhiều hơn một chút đấy". Bà hôn nhanh lên má tôi rồi nói thêm: "Nếu con tìm ra căn hộ con thích, hãy đảm bảo rằng nó có người gác cổng. Mẹ sẽ không cảm thấy thoải mái nếu con sống ở một nơi con phải tự mình mở cửa đi vào. Mẹ vẫn đang kiểm tra tin tức. Chẳng có dấu hiệu nào về người con gái bị mất tích sống ở căn hộ kế bên con. Chúa sẽ trợ giúp cho gia đình cô ấy".

Tôi vui mừng khi mẹ có cuộc hẹn ở tiệm làm tóc. Giờ đây tôi càng quyết tâm tìm cho ra Mack. Tôi có cảm giác là mình không được phép mất một phút nào trong cuộc truy tìm anh ấy. Xét về mặt địa lý, anh ở rất gần chúng tôi khi để lại lá thư ngắn ấy vào ngày Chủ nhật. Cuộc gặp gỡ gia đình Kramer đã khiến tôi càng bứt rứt kinh khủng. Ký ức thực sự đang phai nhạt. Nhưng khi tôi nói chuyện với họ, họ lại mâu thuẫn với chính mình về việc Mack mặc cái gì và chính xác là họ đã trông thấy anh lần cuối vào lúc nào. Hơn nữa, Lil Kramer hoàn toàn bị sốc khi tôi bảo với bà rằng anh đã có mặt ở buổi lễ Misa. Tại sao? Phải chăng Mack là nỗi đe dọa cho họ? Họ đã biết điều gì khiến họ phải sợ hãi nhiều đến thế?

Tôi đã lấy bản báo cáo của chuyên viên điều tra Reeves từ ngăn kéo đựng hồ sơ trong bàn giấy của cha. Giờ đây tôi muốn lấy địa chỉ người bạn cùng phòng trước kia của Mack, Bruce Galbraith và Nicholas DeMarco. Nick vẫn giữ liên lạc đều đặn với cha, ngay từ đầu. Thật tự nhiên, thời gian dần trôi, và càng ngày ông càng ít nhận được tin anh ấy. Lần cuối cùng tôi trông thấy anh ấy là khi anh tham dự buổi lễ cầu hồn tưởng nhớ cha, nhưng ngày đó bây giờ hoàn toàn mờ nhạt trong tôi.

Phòng làm việc của cha không lớn lắm, nhưng như ông vẫn thường nói, nó đủ lớn cho những gì ông cần. Cái bàn giấy lớn chiếm hết căn phòng có đóng ván ô. Mặc cho nỗi kinh khϊếp của mẹ tôi, tấm thảm có kích cỡ chín nhân mười hai đã phai màu từng có trong phòng khách mẹ ông, vẫn còn ở trên sàn. "Nó nhắc nhở anh rằng anh đã đến từ đâu, Liv à". Ông nói như thế sau một hai nỗ lực lặp đi, lặp lại của bà muốn từ bỏ tấm thảm đó. Cái ghế da đã mòn có ghế gác chân là điểm ông ưa thích vào buổi sáng. Ông luôn thức dậy rất sớm, tự pha cà phê cho mình, ngồi vào cái ghế ấy với những tờ báo buổi sáng trước khi tắm táp, mặc quần áo đi đến văn phòng.

Những kệ sách che kín bức tường đối diện cửa sổ. Rải rác trên đó là những tấm hình có lộng khung của bốn người chúng tôi từ những tháng ngày hạnh phúc khi chúng tôi vẫn còn bên nhau. Cha hiện diện ở khắp nơi, có khi ở cả những tấm hình chụp rất ngẫu nhiên: cái hàm cương quyết, được làm mềm mại hơn nhờ nụ cười tươi, sự thông minh sắc sảo trong đôi mắt ông. Ông đã làm đủ mọi việc có thể được để truy tìm Mack và sẽ còn cố gắng làm điều đó nếu ông vẫn còn sống. Tôi chắc chắn về việc này.

Tôi mở ngăn kéo trên cùng trong bàn giấy của ông và lấy ra cuốn sổ điện thoại. Tôi viết số điện thoại của Bruce Galbraith ra một tờ giấy. Tôi nhớ anh ấy đã đi theo con đường kinh doanh bất động sản của gia đình ở Manhattan. Tôi ghi lại cả số điện thoại nhà lẫn cơ quan của anh.

Nick DeMarco, có cha mẹ là những người nhập cư, họ làm chủ một nhà hàng nhỏ ở phía trước cửa hàng tại khu Queens. Anh là sinh viên được trao học bổng ở Columbia. Tôi còn nhớ sau khi nhận bằng MBA từ Harvard, anh ta đã đi vào ngành kinh doanh nhà hàng và tôi hiểu là anh rất thành công. Cả số điện thoại nhà, cơ quan và địa chỉ của anh đều ở Manhattan.

Tôi ngồi tại bàn giấy của cha và nhấc ống nghe lên. Tôi quyết định trước tiên gọi cho Bruce đã. Có lý do cho việc này. Khi tôi mười sáu, tôi đã phải lòng Nick thật mãnh liệt. Anh ấy và Mack là những người bạn thân thiết một cách đặc biệt, và Mack thường xuyên đưa anh về nhà dùng cơm tối. Tôi đã sống vì những bữa cơm tối đó. Nhưng rồi một buổi tối anh ấy và Mack đưa một người con gái về cùng. Barbara Hanover, sinh viên năm cuối của Columbia, sống cùng họ trong tòa nhà căn hộ sinh viên, và điều ngay lập tức thật rõ ràng đối với tôi là Nick đang say mê cô ấy.

Mặc dù tâm trí hoàn toàn bị đè bẹp, tôi cho rằng tôi đã cố trấn tĩnh buổi tối hôm đó, nhưng Mack có thể đọc được tâm trạng tôi như đọc một cuốn sách. Trước khi anh ấy, Nick và Barbara bỏ đi, anh kéo tôi ra một bên và nói: "Carolyn, anh biết em rất ngưỡng mộ Nick. Hãy quên điều đó đi. Mỗi tuần Nick có một bạn gái khác nhau. Hãy gắn bó với những chàng trai ở lứa tuổi của em đi".

Sự phủ nhận đầy tức giận của tôi chỉ khiến Mack mỉm cười. "Em sẽ vượt qua điều đó", là những lời chia tay của anh tối hôm ấy. Lúc đó là khoảng sáu tháng trước khi anh biến mất dạng và đó cũng là lần cuối cùng tôi ở lại nhà khi Nick đến. Tôi bị bối rối và không còn muốn có mặt ở đó nữa. Thực tế việc Mack thấy rõ tôi phải lòng Nick khiến cho tôi chắc chắn rằng điều đó được bộc lộ rất rõ ràng đối với bất kỳ ai khác. Tôi biết ơn vì cha mẹ tôi chẳng ai đề cập đến chuyện đó cả.

Tôi nối được điện thoại với thư ký của Bruce ở Công ty Bất động sản Galbraith và được báo cho biết rằng anh ấy đang đi công tác cho đến tận thứ Hai sau. Tôi có cần bận tâm để lại lời nhắn không nhỉ? Nói với cô thư ký tên và số điện thoại của mình, tôi ngần ngừ nói thêm: "Đó là về Mack. Chúng tôi vừa mới lại nghe tin về anh ấy".

Sau đó tôi gọi cho Nick. Văn phòng anh ấy ở 400 đại lộ Công Viên. Khoảng mười lăm phút đi bộ từ Sutton Place, tôi nghĩ thế lúc quay số. Khi tôi yêu cầu được nói chuyện với anh ấy, cô thư ký nhấc máy và nhanh chóng bảo tôi rằng nếu tôi gọi từ giới truyền thông thì bất cứ tuyên bố nào đều sẽ được luật sư của ông DeMarco đưa ra thôi.

"Tôi không gọi từ giới truyền thông". Tôi nói. "Nick là một trong những người bạn của anh trai tôi tại Columbia. Tôi xin lỗi. Tôi không biết anh ấy đang gặp những vấn đề rắc rối về pháp lý".

Có lẽ sự thương cảm trong giọng nói của tôi và cách tôi dùng tên tộc của anh ấy là lý do để cô thư ký của anh nói rất thành thực. "Ông DeMarco là chủ nhân của khu Woodshed, nơi một cô gái được trông thấy lần cuối trước khi biến mất dạng vào tối hôm nọ". Cô thư ký giải thích. "Nếu cho tôi số điện thoại của cô, tôi sẽ nói ông ấy gọi lại cho cô".
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,926
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 13


Aaron Klein đã làm việc cho Wallace và Madison được mười bốn năm. Anh bắt đầu công việc ngay ở nơi này sau khi nhận bằng MBA. Vào thời điểm ấy, Joshua Madison là giám đốc điều hành công ty quản lý tài sản tư nhân. Nhưng khi ông bất thình lình qua đời hai năm sau đó, đối tác của ông, Elliott đã đảm nhiệm chức vụ chủ tịch và tổng giám đốc.

Aaron rất yêu mến ông Josh Madison thô lỗ ấy, nhưng thoạt tiên anh đã hoảng sợ vì Wallace có kiểu cách trịnh trọng hoàn toàn dối lập với phong thái xem nhẹ mọi chuyện của chính mình. Nhưng rồi khi Aaron đều đặn thăng tiến trên nấc thang danh vọng, làm việc với những khách hàng có tiểu sử hoạt động ngày càng cao hơn, Elliott bắt đầu mời anh đi ăn trưa ở phòng ăn cho cấp điều hành tại văn phòng của họ trên phố Wall. Một dấu hiệu rõ ràng rằng anh ấy đang được chuẩn bị cho một chức vụ cấp cao.

Mười năm trước đây, mối quan hệ của họ đã có bước tiến khổng lồ khi Elliott bỏ lớp phòng vệ của ông và thú thật với Aaron về nỗi thống khổ, đau đớn mà ông đã trải qua vì việc Charles MacKenzie Jr. biến mất. Elliott đã quản lý tiền bạc của gia đình MacKenzie trong nhiều năm trời, và sau khi Charles Sr. chết vì biến cố 11/9, ông đã nói tới Olivia MacKenzie và con cái của bà theo kiểu cách bảo vệ mạnh mẽ nhất. Từ tất cả những điều Elliott từng nói về chàng thanh niên mất tích, Aaron hiểu ông xem Mack như là đứa con trai của mình. Thực tế việc mẹ của Aaron, bà Esther đã dạy Mack tại một trong những lớp kịch nghệ của bà ở Columbia chỉ càng tăng cường thêm nữa mối quan hệ giữa họ với nhau.

Thế rồi, sau đó một năm, khi mẹ Aaron bị gϊếŧ chết trong sự cố mà mọi người cho là một vụ gϊếŧ người cướp của ngẫu nhiên, mối quan hệ lại càng thắt chặt hơn nữa. Và nói chung giờ đây mọi người trong công ty đều chấp nhận rằng Aaron Klein đã được chọn là người kế tục Elliott Wallace.

Aaron luôn phải đến thăm khách hàng ở Chicago vào thứ Hai và thứ Ba. Sáng thứ Tư tuần trước, anh nhận được cuộc điện thoại của ông chủ. "Aaron này, anh đã có kế hoạch cho bữa cơm trưa?"

"Chẳng có gì mà tôi không thể thay đổi được". Aaron đáp ngay lập tức.

"Thế thì vui lòng đến gặp tôi lúc 12 giờ 30 tại phòng ăn nhé".

Điều gì đã xảy ra, Aaron tự hỏi khi cúp máy. Thường thì Elliott không có mặt ở phút cuối cho bữa cơm trưa. Vào lúc 12 giờ 15, anh đứng lên khỏi bàn giấy, đi vào phòng tắm riêng, chải mái tóc thưa của mình và chỉnh cà vạt thẳng lại. Gương thần ơi hỡi gương thần, anh mỉa mai nghĩ, ai sẽ là người hói đầu nhiều nhất trong tất cả chúng ta? Ba mươi bảy tuổi, ngoại hình ổn, vẻ ngoài không xấu, nhưng với mức độ hiện tại, vào thời điểm năm mươi tuổi, sẽ rất may mắn nếu lúc đó trên đầu mình còn sáu sợi tóc. Anh thở dài và quẳng cái lược đi chỗ khác.

Jenny bảo rằng đó là một phần lý do mình đã làm rất tốt, anh tự bảo mình. Cô ấy bảo mình trông già trước tuổi đến mười năm. Cám ơn cưng.

Với mối quan hệ thân thiết như họ đã có, Aaron luôn ý thức được rằng đối với ông Elliott Wallace thuộc dòng dõi quý phái, thực tế rằng anh, người kế tục được chọn lựa của ông, là cháu của những người nhập cư là điều đáng thất vọng. Ý nghĩ đó có trong tâm trí anh khi anh đi đến phòng ăn. Đứa trẻ từ đảo Staten tiếp cận với con cháu có đặc quyền của những người định cư đầu tiên ở New Amsterdam, anh nghĩ thế. Chẳng bận lòng đến việc đứa cháu trai của những người nhập cư đã tốt nghiệp Yale vào hạng "top ten" trong lớp học của anh ta và có bằng thạc sĩ của Wharton; điều đó vẫn không giống như việc có những bậc tổ tiên xuất sắc, ưu tú. Mình tự hỏi không biết có phải nghe lại câu chuyện về "người bà con Franklin" nữa không.

Aaron thừa nhận rằng anh vừa ghét, vừa chán cái giai thoại thường xuyên được nhắc đi nhắc lại của Elliott về việc Franklin Delano Roosevelt đã mời một phụ nữ Đảng Cộng hòa làm chủ tiệc một sự kiện ở Hyde Park khi vợ ông ấy, Eleanor đi vắng. Khi ông bị Chủ tịch Đảng Dân chủ quở trách, Roosevelt sửng sốt đáp lại: "Nhưng dĩ nhiên tôi phải yêu cầu bà ấy làm chủ tiệc cho tôi. Bà ấy là người phụ nữ duy nhất ở Hyde Park có cùng địa vị xã hội như tôi".

"Đó là câu chuyện thú vị nhất của cha tôi về người bà con Franklin". Elliott sẽ cười ùng ục như thế.

Khi anh tiến đến cái bàn và người phục vụ kéo ghế cho anh, ngay lập tức Aaron cảm nhận được rằng các giai thoại về những người bà con đáng tôn kính của ông ấy là điều cuối cùng có trong tâm trí Elliott ngày hôm nay. Trông ông có vẻ trầm tư, lo lắng - thậm chí lơ đãng nữa.

"Aaron, thật tốt khi gặp anh. Hãy gọi món nhanh đi. Tôi sẽ có hai cuộc họp. Tôi cho rằng anh cũng sẽ có những cuộc họp thường lệ chứ?"

"Món rau trộn Cobb 1, không nước sốt, và một trà đá chứ thưa ông Klein?" Người phục vụ mỉm cười hỏi.

"Đúng rồi". Aaron không bận tâm để cho sếp của anh nghĩ rằng bữa tiệc trưa với món rau trộn là dấu hiệu của sự kiềm chế ham muốn của mình. Thực tế rằng vợ anh, Jenny rất yêu thích nấu ăn, và thậm chí những bữa tối đơn giản nhất của cô ấy cũng vượt xa thực đơn nghèo nàn của phòng ăn dành cho cấp điều hành này.

Elliott gọi món ăn, và khi người phục vụ đi ra khỏi tầm nghe, ông đi thẳng ngay vào vấn đề: "Chúng tôi đã nhận được tin tức về Mack vào ngày Chủ nhật". Ông nói.

"Cuộc gọi thường lệ vào Ngày của Mẹ à?" Aaron hỏi. "Tôi đang tự hỏi không biết anh ấy có khăng khăng theo kiểu cách đó và gọi điện năm nay không".

"Cậu ta đã làm điều đó, mà còn làm nhiều hơn thế nữa".

Aaron không rời mắt khỏi khuôn mặt Elliott khi anh lắng nghe ông kể việc Mack để lại thông điệp trên giấy.

"Tôi đã khuyên Olivia phải tôn trọng những ước muốn của Mack". Elliott nói. "Nhưng cũng khá lạ lùng, bà ấy dường như đã tự mình có kết luận rồi. Bà ấy đã đề cập về Mack như là "vắng mặt không phép". Bà ấy sẽ tham gia cùng vài người bạn chung của chúng tôi trong một chuyến hải hành vòng quanh đảo Hy Lạp. Tôi đã được mời cùng đi với họ và có thể đi trong mười ngày cuối".

"Ông nên đi". Aaron nói ngay. "Ông chẳng hề cho mình lấy phân nửa thời gian nghỉ ngơi đầy đủ".

"Vào sinh nhật tới của tôi, tôi sẽ được sáu mươi lăm tuổi. Ớ nhiều công ty khác thì tôi hẳn đã bị tống ra ngoài ở tuổi này. Đó là quyền lợi mà tôi có được từ công ty này, vậy nên lúc này tôi sẽ không đi bất kỳ đâu trong một thời gian dài". Ông dừng lại, như thể tự chuẩn bị cho mình. "Nhưng tôi không mời anh ăn trưa cùng với tôi để thảo luận về những kế hoạch đi nghỉ".

Ngạc nhiên, Aaron Klein quan sát vì thấy cặp mắt của Elliott phủ đầy nỗi lo lắng.

"Aaron, anh đã trải nghiệm nỗi đau mất mẹ vì một vụ cướp. Nếu tình hình đảo ngược lại, nếu mẹ anh là người bị biến mất dạng rồi giữ mối liên lạc, anh sẽ tôn trọng các ước muốn của bà ấy hay anh sẽ cảm thấy rằng anh cần phải tiếp tục nỗ lực tìm cho ra bà? Tôi thấy minh hoàn toàn không chắc chắn và bối rối. Tôi đã cho Olivia lời khuyên đúng hay lẽ ra tôi nên bảo bà ấy làm lại và nỗ lực gấp đôi trong việc tìm cho ra Mack?"

Giả sử mẹ đã biến mất cách đây mười năm. Aaron tự hỏi. Giả sử bà ấy gọi điện thoại mỗi năm một lần, thế rồi khi mình bảo bà rằng mình phải tìm cho ra bà và sẽ truy tìm bà. Bà lại gửi cho mình một lá thư ngắn, bảo hãy để bà yên thân, mình sẽ làm gì chứ?

Câu trả lời thật khó có được. "Nếu mẹ tôi làm với tôi điều Mack đã làm với gia đình cậu ấy và với ông, tôi sẽ nói: "Nếu đó là cách mẹ muốn, thì mẹ ơi, cứ như thế đi. Con còn những chuyện khác cần làm hơn"."

Elliott Wallace mỉm cười. "Việc khác để làm à? Thật là cách kỳ lạ để đặt vấn đề. Nhưng cảm ơn anh, Aaron. Tôi cần được tái cam đoan là mình sẽ không thất bại với Mack hay Olivia..." Ông ngừng lại, rồi tự sửa chính mình. "Tôi định nói mẹ và em gái của cậu ấy, dĩ nhiên là như vậy".

"Ông sẽ không thất bại với họ". Aaron nói dứt khoát.

Tối hôm đó khi đang nhấm nháp ly vang trước bữa tối với vợ, Aaron nói: "Jenny, hôm nay anh ý thức được rằng ngay cả những kẻ ưa câu nệ, trịnh trọng quá mức cũng giống như các nam sinh khi họ đang yêu. Elliott không thể đề cập đến tên của Olivia MacKenzie mà mắt không sáng rỡ lên".

Chú thích

1.Món rau trộn nổi tiếng của nhà hàng huyền thoại Brown Derby ở Hollywood, Los Angeles, California. Hiện nay trên thế giới có rất nhiều biến thể của loại rau trộn này.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,926
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 14


Nicholas DeMarco, chủ nhân của câu lạc bộ thời thượng Woodshed và nhà hàng hạng sang ở Palm Beach, trong khi đang chơi golf ở nam Carolina thì được thông báo về việc Leesey Andrews, một nữ sinh viên Đại học New York biến mất dạng tối thứ Ba tuần trước.

Sáng thứ Tư anh bay về nhà, và khoảng ba giờ chiều thứ Tư anh đi theo cô thư ký đến hành lang dài hun hút trên lầu chín của số 1 Hogan Place dẫn đến khu vực nơi các thám tử làm việc cho Chưởng lý quận. Anh có một cuộc hẹn với đội trưởng Larry Aheam, sĩ quan chỉ huy tổ công tác.

Cao to, có hình thể rắn chắc của một vận động viên có kỷ luật, Nick đi với những bước sải dài, trán hằn nét lo lắng. Một cách lơ đãng, anh lướt bàn tay qua mái tóc ngắn mà bất chấp nỗ lực tối đa của anh nó cứ quăn tít lên ngay cả khi ẩm ướt.

Lẽ ra ta nên ghé qua nhà một lát để thay quần áo, anh tự trách mình. Anh đang mặc cái áo sơ-mi thể thao ca rô trắng xanh cổ mở, trông có vẻ quá xuề xòa, cho dù có cái áo vét màu xanh da trời nhạt và cái quần tây màu xanh da trời đậm.

"Đây là phòng tổ công tác của các thám tử". Cô thư ký giải thích khi họ bước vào căn phòng lớn có những dãy bàn giấy được xếp đặt một cách bừa bãi, lung tung. Chỉ có phân nửa số bàn giấy đó có đồ đạc, mặc dù những chồng giấy tờ và những chiếc điện thoại liên tục đổ chuông chứng tỏ rằng tất cả mọi người đều đang tích cực làm việc.

Năm người đàn ông và một phụ nữ đang có mặt ở đó ngước lên nhìn khi anh theo sau cô thư ký băng ngang qua căn phòng. Anh ý thức rõ ràng rằng mình là đối tượng đang bị xem xét kỹ lưỡng. Có thể cá mười ăn một rằng tất cả bọn họ đều biết ta là ai và tại sao ta lại có mặt ở đây, và họ đều bất bình với ta. Họ đã vạch mặt ta như là chủ nhân của một trong những quán rượu dâʍ dật đó, nơi những đứa trẻ vị thành niên đến chè chén say sưa, anh nghĩ.

Cô thư ký gõ cánh cửa của văn phòng riêng nằm ở phía tay trái của phòng tổ công tác, và không chờ trả lời, cô mở nó ra.

Đội trưởng Larry Aheam chỉ có một mình trong phòng. Anh dứng lên từ phía sau bàn giấy và đưa tay cho DeMarco. "Cám ơn anh vì đã đến ngay lập tức". Anh mạnh mẽ nói. "Xin mời ngồi". Anh quay sang người thư ký. "Hãy mời thám tử Gaylor cùng tham gia với chúng tôi".

DeMarco ngồi xuống cái ghế gần nhất với bàn giấy của Aheam. "Tôi xin lỗi vì không thể có mặt tối qua. Sáng sớm hôm qua tôi đã bay đi nam Carolina để gặp vài người bạn".

"Tôi nghe người thư ký của anh nói rằng anh đã bay bằng máy bay riêng từ phi trường Teterboro". Aheam nói.

"Điều đó đúng đây. Và tôi đã bay về sáng nay. Tôi không thể khởi hành sớm vì thời tiết ở đó xấu lắm. Có những cơn bão lớn ở Charleston".

"Khi nào nhân viên của anh thông báo cho anh biết rằng Leesey Andrews, cô gái rời câu lạc bộ của anh vào giờ đóng cửa sáng sớm thứ Ba, đã biến mất dạng?"

"Cuộc gọi đến được máy điện thoại di động của tôi vào lúc chín giờ tối qua. Tôi đi ra ngoài ăn tối với bạn bè và đã không đem nó theo. Nói một cách hoàn toàn thẳng thắn, với tư cách là chủ nhà hàng, tôi xem việc người ta gọi và nhận điện thoại trong nhà hàng là điều khó chịu đựng được. Khi quay về khách sạn khoảng mười một giờ, tôi kiểm tra các tin nhắn của mình. Có bất kỳ lời nào về cô Andrews không? Cô ấy có gọi cho gia đình cô ấy không?"

"Không". Ahearn nói ngắn gọn, rồi nhìn qua đầu DeMarco. "Vào đi Bob".

Nicholas DeMarco không nghe thấy tiếng cánh cửa mở ra. Anh đứng lên và quay người lại khi một người đàn ông gọn gàng có mái tóc đang ngả bạc, khoảng chừng gần sáu mươi tuổi băng qua căn phòng bằng những sải chân nhanh nhẹn. Anh khẽ mỉm cười khi ông ấy đưa tay ra cho anh.

"Thám tử Gaylor". Ông nói, rồi kéo một cái ghế và quay nó lại, đối diện Nick ở góc bên phải bàn giấy của viên đội trưởng.

"Anh DeMarco" Aheam bắt đầu. "Chúng tôi đang rất quan tâm việc Leesey Andrews có thể là nạn nhân của một hành động xấu xa. Các nhân viên của anh bảo với chúng tôi rằng anh đã có mặt ở Woodshed vào khoảng mười giờ tối thứ Hai và có nói chuyện với cô ấy".

"Đúng đấy". Nick trả lời ngay. "Bởi vì tôi sắp đi nam Carolina. Tôi làm việc muộn tại văn phòng ở số 400 đại lộ Công Viên. Sau đó tôi ghé qua căn hộ của mình, thay đổi thường phục, rồi đi xuống Woodshed".

"Anh có thường xuyên đến thăm câu lạc bộ của mình không?"

"Tôi nói là tôi thường ghé qua. Tôi không còn làm, mà cũng không muốn làm, công việc quản lý thực tiễn. Tom Ferrazzano điều hành Woodshed cho tôi với tư cách vừa là chủ vừa là viên quản lý. Và tôi có thể nói thêm rằng anh ấy làm công việc đó tuyệt hảo. Trong mười tháng điều hành, chúng tôi chưa hề có bất kỳ một sự cố nào về kẻ chè chén vị thành niên hay người trưởng thành được phục vụ quá mức cần thiết của họ. Chúng tôi kiểm tra kỹ lưỡng trước khi thuê mướn nhân viên, cách làm cũng như thế đối với các ban nhạc mà chúng tôi đặt hẹn trình diễn".

"Woodshed có tiếng tốt". Thám tử Gaylor đồng ý. "Nhưng các nhân viên của anh bảo với chúng tôi rằng anh sử dụng khá nhiều thời gian để trò chuyện với Leesey Andrews".

"Tôi nhìn cô ấy khiêu vũ". Nick nói ngay. "Cô ấy là một thiếu nữ xinh đẹp và là một nghệ sĩ múa thực sự tuyệt vời. Nhìn cô ấy anh sẽ nghĩ rằng cô là một chuyên gia. Nhưng cô trông cũng còn rất trẻ. Tôi biết chứng minh thư của cô đã được kiểm tra. Nhưng nếu cá cược về điều đó, tôi sẽ thề rằng cô ấy dưới tuổi vị thành niên. Đó là lý do tại sao tôi đã bảo một trong những người phục vụ mời cô đến bàn tôi để đích thân tôi kiểm tra nó. Cô chỉ vừa mới qua tuổi hai mươi mốt".

"Cô ấy đến ngồi cùng ở bàn của anh chứ?" Gaylor thẳng thắn hỏi. "Anh có mua cho cô ấy một ly rượu không?"

"Cô ấy đã dùng một ly pinot grigio với tôi, rồi quay lại với bạn bè của mình".

"Hai người đã nói chuyện gì với nhau trong khi cô ấy nhấm nháp ly rượu đó hả anh DeMarco?" Đội trưởng Ahearn hỏi.

"Kiểu chuyện trò xã giao thông thường. Cô ấy bảo với tôi rằng sang năm cô sẽ tốt nghiệp Đại học New York và vẫn còn đang quyết định xem mình muốn làm gì. Cô nói rằng cha và anh cô đều là bác sĩ, nhưng việc trở thành bác sĩ y khoa không hợp đối với cô. Cô nói rằng càng ngày cô càng suy nghĩ đến việc trở thành thạc sĩ trong ngành hoạt động xã hội, nhưng cô vẫn chưa chắc chắn. Cô sắp sửa có một năm nghỉ ngơi sau khi học xong cao đẳng, rồi mới hình dung đến bước kế tiếp".

"Dường như anh không thấy rằng như thế là quá nhiều thông tin cá nhân để chia sẻ với người lạ sao anh DeMarco?"

Nicholas DeMarco nhún vai. "Không thực sự như thế. Rồi cô ấy cám ơn tôi về ly rượu và quay trở lại với bạn bè của cô. Tôi cho rằng cô ấy có mặt ở bàn của tôi chưa đầy mười lăm phút".

"Thế rồi sau đó anh đã làm gì?" Aheam hỏi.

"Tôi dùng xong bữa tối và quay về nhà".

"Anh sống ở đâu?"

"Căn hộ của tôi nằm trên đại lộ Công Viên và đường số Bảy Mươi Tám. Tuy nhiên tôi vừa mới mua một tòa nhà ở TriBeCa và có một căn hộ tiện nghi lớn trên tầng cao nhất ở đó. Đấy là nơi tôi đã ở lại đêm thứ Hai".

Nick đã cân nhắc về việc cung cấp thông tín cho cảnh sát, và quyết định cách khôn ngoan nhất là ngay lập tức công khai hết mọi điều.

"Anh có một căn hộ lớn, đầy đủ tiện nghi trong TriBeCa à? Chẳng có người nhân viên nào của anh kể cho chúng tôi về điều này".

"Tôi không chia sẻ các khoản đầu tư cá nhân của mình với các nhân viên".

"Có người gác cửa trong tòa nhà của anh ở TriBeCa chứ?"

Anh lắc đầu. "Như tôi đã nói, căn hộ của tôi là loại căn hộ lớn và tiện nghi nằm trên tầng cao nhất. Tòa nhà đó cao năm tầng. Tôi sở hữu nó và đã mua hết hợp đồng thuê của những người thuê nhà. Các tầng khác hiện nay không có ai cả".

"Nó cách quán rượu của anh bao xa?"

"Khoảng bảy dãy phố". Nicholas DeMarco ngần ngừ, rồi nói thêm: "Tôi vô cùng chắc chắn rằng các anh hẳn phải có hầu hết các thông tin này rồi. Tôi đã rời khỏi Woodshed ngay trước mười một giờ. Tôi đi bộ đến chỗ TriBeCa rồi đi ngủ ngay. Đồng hồ báo thức của tôi reo lúc năm giờ sáng. Tôi đi tắm, thay quần áo và lái xe ra phi trường Teterboro. Tôi cất cánh lúc sáu giờ bốn mươi lăm và đáp xuống Charleston ở phi trường Charleston. Tôi bắt đầu phát bóng chơi golf tại câu lạc bộ lúc giữa trưa".

"Anh đã không mời cô Andrews ghé qua uống ly rượu trước khi đi ngủ à?"

"Không, tôi đã không mời". Nicholas DeMarco nhìn từ người thám tử này sang người thám tử kia. "Từ các bản tường thuật tin tức mà tôi nghe được trong khi lái xe từ phi trường về, tôi biết được rằng cha Leesey đã đưa ra giải thưởng hai mươi lăm ngàn đô-la cho bất kỳ thông tin nào cho biết cô ấy hiện đang ở đâu. Tôi dự định sẽ đưa ra mức tương xứng với số tiền đó. Hơn bất cứ điều gì, tôi muốn Leesey Andrews được tìm thấy còn sống và khỏe mạnh, trước tiên bởi vì sẽ thật khủng khϊếp nếu có bất kỳ điều gì xảy ra cho cô ấy..."

"Trước tiên à?" Aheam hỏi, sửng sốt một chút. "Còn lý do nào khác khiến anh muốn cô ấy phải được tìm ra?"

"Lý do thứ hai rất ích kỷ của tôi, đó là đã chi quá nhiều tiền để mua bất động sản mà Woodshed tọa lạc trên đó, tân trang lại cơ sở, trang bị đồ đạc và nhân sự điều hành nó. Tôi muốn tạo ra một nơi chốn vui vẻ cho những người trẻ tuổi và ngay cả những người không còn trẻ lắm vui chơi. Nếu việc Leesey biến mất dạng bị truy tìm như là cuộc đụng độ mà cô ấy phải trải qua trong câu lạc bộ của chúng tôi, giới truyền thông sẽ săn lùng chúng tôi, và chỉ trong vòng sáu tháng, cửa quán của chúng tôi sẽ phải đóng lại. Tôi muốn anh điều tra các nhân viên của tôi, khách hàng của tôi và cả bản thân tôi. Nhưng tôi hứa với anh rằng anh sẽ chỉ phí thời gian nếu cho rằng tôi đã làm điều gì đó liên quan đến việc cô ấy biến mất".

"Anh DeMarco, anh là một trong số nhiều người mà chúng tôi đang và sẽ thẩm vấn". Aheam điềm đạm nói. "Anh có hồ sơ về chuyến bay ở Teterboro chứ?"

"Dĩ nhiên. Nếu anh kiểm tra hồ sơ, giờ bay sáng hôm qua là tuyệt vời. Hôm nay vì những cơn bão sắp tới, nó có hơi chậm một chút".

"Câu hỏi cuối cùng, anh DeMarco. Anh đến rồi đi khỏi phi trường bằng cách nào?"

"Bằng xe của tôi. Tôi tự lái".

"Anh lái loại xe nào?"

"Tôi thường lái chiếc Mercedes có thể bỏ mui, trừ phi vì một lý do gì đó tôi phải mang theo nhiều hành lý. Thực ra các trang thiết bị đánh golf của tôi đều nằm trong chiếc SUV 1, đó là lý do tôi cứ chạy đi chạy về từ phi trường ngày hôm qua và hôm nay".

Nicholas DeMarco chẳng cần chộp lấy cái liếc mắt mà hai viên thám tử trao đổi cho nhau cũng biết rằng anh đã trở thành một người bị chú ý trong vụ mất tích của Leesey Andrews. Ta có thể hiểu lý do tại sao, anh nghĩ. Ta đã nói chuyện với cô ấy vài giờ trước khi cô biến mất. Chẳng ai có thể xác minh rằng cô ấy đã không gặp ta sau đó trong căn hộ. Ta lại khởi hành sớm vào sáng hôm sau trong một chiếc máy bay tư nhân. Ta không thể trách cứ họ đã ngờ vực - Đó là công việc của họ.

Thoáng mỉm cười, anh đưa tay ra cho cả hai người đàn ông và bảo họ rằng anh sẽ công bố ngay lập tức lời đề nghị tương xứng cho giải thưởng hai mươi lăm ngàn đô-la để có thông tin cho biết nơi Leesey đang ở.

"Và tôi có thể bảo đảm với anh rằng chúng tôi sẽ làm việc hai mươi bốn tiếng một ngày và bảy ngày một tuần để tìm cho ra cô ấy, hoặc nếu có điều gì đã xảy ra cho cô thì tìm cho bằng được kẻ đã gây ra điều đó". Aheam nói bằng một giọng có âm sắc khiến Nicholas DeMarco có thể diễn giải một cách chính xác như là lời cảnh báo.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,926
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 15


Khi rời căn hộ ở Sutton Place, chuông điện thoại di động của tôi vang lên. Người gọi xác định danh tánh là thám tử Barrott và mặc dù mạch đập nhanh, tôi vẫn cố tình giữ cho câu trả lời của mình trầm tĩnh với ông. Ông ấy đã phớt lờ tôi hôm thứ Hai, vậy thì vì lý do nào mà bây giờ ông lại gọi cho tôi?

"Cô MacKenzie, như cô có thể biết, một phụ nữ trẻ, Leesey Andrews vừa biến mất dạng tối qua sống ở kế bên nhà cô trên phố Thompson. Bây giờ tôi có mặt ở đó, và đang phỏng vấn những người hàng xóm trong khu phố. Tôi thấy tên cô được liệt kê trong danh bạ của tòa nhà cô ở. Tôi sẽ rất cảm kích nếu có được cơ hội nói chuyện lại với cô. Tôi có thể thu xếp một cuộc hẹn sớm với cô không?"

Giữ điện thoại ở một bên tai, tôi ra dấu cho người gác cổng vẫy giùm chiếc taxi hộ tôi. Có chiếc ở gần đó vừa mới thả một người khách xuống. Trong khi tôi chờ cho người phụ nữ đứng tuổi bước xuống xe, tôi bảo với Barrott rằng tôi đang trên đường quay về căn hộ cũ của tôi, và tùy thuộc vào tình trạng xe cộ, sẽ có mặt ở đó trong vòng khoảng hai mươi phút.

"Tôi sẽ chờ cô ở đó". Ông nói ngay, chẳng cho tôi cơ hội để nói với ông xem điều đó có thuận tiện cho tôi hay không.

Có những ngày một cuốc taxi từ Sutton Place đến phố Thompson chỉ mất mười lăm phút. Những ngày khác mật độ giao thông lại cứ như bò ra trên đường. Đây là một trong những ngày bò toài ra đó. Không phải vì tôi đang vội vã đi gặp thám tử Barrott - mà chỉ vì một khi đang trên đường đi đến bất kỳ nơi nào, tôi chẳng có kiên nhẫn chờ đến đó, một tính cách mà tôi thừa hưởng từ cha mình.

Và điều đó khiến tôi nghĩ tới nỗi lo lắng của cha tôi về việc Mack biến mất và nỗi lo lắng mà cha Leesey Andrews hẳn đang cảm thấy giờ này. Trong bản tin mười một giờ tối qua, ráng kìm nước mắt, bác sĩ Andrews đưa ra tấm hình con gái ông và van xin được giúp đỡ tìm ra cô ấy. Tôi cho rằng mình có thể hình dung ra những gì ông đang trải qua, rồi tự hỏi không biết điều đó có là thực không. Điều đó cũng tồi tệ như đối với chúng tôi. Rốt cuộc, Mack dường như đã bước ra khỏi cuộc đời anh ấy vào giữa trưa hôm đó. Leesey Andrews chắc chắn còn dễ tổn thương hơn nhiều, một mình trong đêm tối, và chắc chắn không hề cân sức với kẻ háo sắc mạnh mẽ.

Tất cả những điều đó quay cuồng trong tâm trí tôi khi chiếc taxi bò dần đến phố Thompson.

Barrott đang ngồi trên những bậc tam cấp làm bằng đá nâu, một dáng vẻ không thích hợp. Tôi nghĩ thế khi trả tiền cho người tài xế. Buổi trưa trời càng lúc càng nóng dần lên, và ông đã mở nút áo vét, nới cà vạt. Khi nhìn thấy tôi, trong phút chốc, ông nhanh chóng đứng lên, thắt lại cà vạt và cài lại áo vét.

Chúng tôi chào nhau với kiểu cách lịch sự, tôn trọng, và tôi mời ông vào bên trong. Khi vặn chìa khóa cửa ra vào, tôi trông thấy hai cái xe van có nhãn hiệu đài truyền hình đang đậu bên ngoài tòa nhà kế bên, tòa nhà nơi Leesey Andrews sống - hoặc đã từng sống.

Căn hộ một phòng của tôi nằm ở phía sau tòa nhà và là căn duy nhất nằm trên tầng của khu vực tiền sảnh. Tôi thuê nó với hợp đồng một năm hồi tháng chín năm ngoái khi tôi bắt đầu làm việc cho thẩm phán Huot. Trong chín tháng qua, đối với tôi, nó đã trở thành nơi nương náu bình yên ngoài Sutton Place, nơi mà cảm nhận của tôi về sự mất mát người cha và nỗi lo lắng về Mack lúc nào cũng hiển hiện.

Mẹ kinh hoảng vì diện tích nơi này. "Carolyn, với chín trăm bộ vuông con sẽ không thể nào xoay trở được". Bà than thở. Nhưng tôi thì lại thích thú với cái chỗ bé như hang con này. Nó là cái tổ kén vui vẻ và tôi nghĩ nó là nguyên nhân giúp tôi chuyển biến từ tình trạng muộn phiền và sự lo lắng nội tâm kinh niên sang sự khát khao trỗi vượt, thậm chí một nhu cầu, phải kết thúc tình trạng kia để còn tiếp tục cuộc sống. Nhờ vào khiếu thẩm mỹ tốt của mẹ, tôi đã lớn lên trong một ngôi nhà được trang hoàng tuyệt đẹp, nhưng tôi vẫn có niềm vui khi đi mua sắm hàng giảm giá trong những khu vực bán đồ nội thất.

Phòng ngủ thoáng đãng của tôi ở Sutton Place có một bộ bàn ghế riêng. Trên phố Thompson tôi có một cái ghế trường kỷ có thể kéo ra được, đặc biệt là một cái nệm rất thoải mái. Khi thám tử Barrott theo tôi vào căn hộ, tôi bắt gặp ngay cách ông quan sát căn phòng, với cái bàn đặt sát tường bằng men đen, cái đèn kiểu hiện đại màu đỏ tươi, cái bàn cà phê bằng men đen nhỏ, và hai cái ghế không tay dựa, bọc cùng loại vải màu trắng sáng như cái ghế trường kỷ. Ông để đôi mắt mình lướt qua những bức tường trắng và tấm thảm có họa tiết carô màu đen, trắng và đỏ.

Nhà bếp là nơi chốn chật hẹp tách biệt khỏi phòng khách. Một cái bàn nhỏ như ở tiệm kem và hai cái ghế sắt được chế tác có bọc nệm đặt dưới cửa sổ là tất cả những tiện nghi tối đa cho phòng ăn. Nhưng cửa sổ rất rộng, để cho thật nhiều ánh sáng tràn vào và cây cối cùng cây phong lữ trên bệ cửa sổ đem luồng không khí tươi mát ngoài trời vào nhà.

Barrott tiếp nhận hết mọi điều, lịch sự từ chối lời mời uống nước hay cà phê của tôi, và ngồi xuống đối diện tôi ở một trong những cái ghế bên cạnh. Ông làm tôi ngạc nhiên bằng cách bắt đầu với lời xin lỗi. "Cô MacKenzie," ông nói, "tôi khá chắc chắn việc cô nghĩ rằng tôi đã gạt bỏ những mối quan tâm của cô khi cô đến gặp tôi vào ngày thứ Hai".

Tôi để sự yên lặng của mình xác nhận rằng tôi đồng ý với ông ấy.

"Tôi bắt đầu xem xét hồ sơ của anh cô ngày hôm qua. Tôi phải thừa nhận rằng tôi đã không xem xét kỹ lưỡng. Cuộc gọi về Leesey Andrews đã đến, và dĩ nhiên nó có quyền ưu tiên, nhưng rồi tôi lại ý thức được rằng nó sẽ cho tôi một cơ hội khác để nói chuyện với cô. Như tôi đã nói với cô, chúng tôi đang sàng lọc khu vực quanh đây. Cô có biết Leesey Andrews không?"

Câu hỏi khiến tôi ngạc nhiên. Lẽ ra nó không nên được hỏi mới phải, nhưng tôi tự nhủ rằng khi ông ta gọi điện và yêu cầu gặp tôi, nếu tôi biết cô ấy, ngay cả sơ sơ thôi, hẳn là ngay lập tức tôi sẽ nói thế. "Không, tôi không biết cô ấy". Tôi đáp.

"Cô đã trông thấy hình cô ấy trên truyền hình chứ?"

"Có, tôi đã trông thấy, tối qua".

"Và cô không có cảm giác đã từng trông thấy cô ấy quanh đây à?"

Ông kiên trì như thể ông không chắc lắm việc tôi có đang né tránh không.

"Không. Nhưng dĩ nhiên, khi sống kế cận nhau, có thể tôi đã đi ngang qua cô ấy trên phố. Có nhiều nữ sinh trẻ trong tòa nhà đó". Tôi biết mình nói nghe có vẻ bực bội và thực sự tôi đang bực mình. Chắc chắn Barrott không đang gợi ý rằng vì anh trai tôi mất tích, tôi hẳn có mối liên kết nào đó với việc cô gái này biến mất dạng chứ?

Đôi môi Barrott mím lại. "Cô MacKenzie, tôi hy vọng cô nhận ra rằng tôi đang hỏi cô cùng câu hỏi mà tôi và các thám tử khác đang hỏi mọi người trong khu vực quanh đây. Bởi vì chúng ta đã biết nhau và bởi vì cô là một trong những người hiểu được nỗi thống khổ mà cha và anh cô ấy đang trải qua, tôi hy vọng bằng cách nào đó, cô có thể giúp đỡ chúng tôi. Cô là một phụ nữ trẻ trung, cực kỳ quyến rũ, và với tư cách là một luật sư, cô đã được đào tạo để tuân thủ chặt chẽ theo luật lệ". Ông hơi vươn người tới trước, đôi bàn tay xiết chặt lại với nhau. "Cô có từng bao giờ đi bách bộ quanh khu vực này vào buổi tối không, chẳng hạn như sau bữa cơm tối hay sau một cuốn phim, hoặc có bao giờ cô từng đi ra ngoài rất sớm vào buổi sáng không?"

"Có, có chứ". Tôi biết giọng mình đã dịu lại. "Hầu hết các buổi sáng tôi chạy bộ lúc sáu giờ, và nếu tôi gặp gỡ bạn bè trong khu vực này vào buổi tối thì tôi thường đi bộ về nhà một mình".

"Cô có từng bao giờ có cảm giác bị theo dõi, bởi một ai đó đi theo sau cô không?"

"Không, chưa hề. Hay nói một cách khác, tôi có thể nói là tôi hiếm khi đi ra ngoài trễ sau nửa đêm, và khu vực Làng thì khá nhộn nhịp vào giấc đó".

"Tôi hiểu. Và tôi sẽ cảm kích nếu cô để mắt cho chúng tôi. Những tên háo sắc, hay những kẻ cố ý gây ra hỏa hoạn vì thích thú được ngắm nhìn sự kích động do chúng gây ra. Một thứ gì đó khác. Có một cách khác cô có thể giúp chúng tôi. Người hàng xóm trên lầu hai của cô, bà Carter rất thích cô, đúng không?"

"Tôi rất mến bà ấy. Bà ấy bị chứng thấp khớp khủng khϊếp và rất sợ nếu phải đi ra ngoài khi thời tiết xấu".

Tôi giải thích. "Bà ấy có hai lần bị gục ngã thật hiểm nghèo. Tôi để ý giúp bà và mua những món vặt vãnh từ cửa hàng tạp phẩm nếu bà ấy cần chúng". Tôi dựa lưng vào cái ghế, tự hỏi không biết ông ta còn đi đến đâu với chuyện này.

Barrott gật đầu. "Bà ấy bảo tôi điều đó. Thực ra bà ấy ca ngợi cô rất nhiều. Nhưng cô biết điều đó có ý nghĩa ra sao đối với một số người già. Họ sợ chính mình sẽ gặp rắc rối nếu chuyện trò với cảnh sát. Người dì của tôi cũng giống như thế. Mặc dù trông thấy người hàng xóm làm móp xe của một người hàng xóm khác, bà đã không thừa nhận điều đó. "Đó không phải là việc của tôi" Bà ấy nói như thế đấy". Ông trầm tư dừng lại. "Tôi có thể nói rằng bà Carter rất lo lắng khi nói chuyện với tôi". Ông nói tiếp. "Nhưng bà ấy thực sự đã nói với tôi rằng bà ấy thích thú việc ngồi cạnh cửa sổ. Bà ấy nói rằng bà không nhận ra tấm hình của Leesey. Nhưng tôi có linh cảm rằng bà ấy đã nhận ra. Chỉ có thể là bà ấy đã từng nhìn thấy Leesey đi ngang qua, nhưng lại không muốn bị dính dấp vào vụ điều tra theo bất kỳ cách thức nào, nhưng nếu cô dùng một tách trà với bà ấy, thì có thể bà ta sẽ cởi mở với cô".

"Tôi sẽ làm điều đó". Tôi sốt sắng nói. Bà Carter có thể đã già, nhưng bà ấy chẳng để lọt qua mắt một trò gian trá nào, và bà ấy lại là người thích ngồi ở cửa sổ, tôi nghĩ thế. Chắc chắn bà ấy có tất cả những câu chuyện ngồi lê đôi mách của những người hàng xóm sống ở phía bên trên lầu bà, tại tầng ba. Tôi thấy điều mỉa mai là giờ đây tôi đang điều tra cho Barrott trong khi dự định của tôi là để ông điều tra cho tôi.

Barrott đứng lên. "Cám ơn cô vì đã để tôi ghé qua, cô MacKenzie. Như cô có thể hiểu, chúng tôi đang làm việc hai mươi bốn tiếng một ngày cho trường hợp này, nhưng khi nó được giải quyết xong, tôi sẽ quay trở lại xem xét hồ sơ của anh trai cô, và xem thử liệu chúng tôi có thể tìm ra vài phương cách nào mới để theo đuổi vụ việc này không".

Ông ấy đã đưa tôi danh thϊếp vào ngày thứ Hai, nhưng chắc ngờ rằng tôi đã xé bỏ nó, mà quả thực tôi đã xé bỏ. Khi tôi nhận cái danh thϊếp khác của ông, ông nói rằng sẽ giữ liên lạc với tôi. Tôi tiễn ông ra ngoài, khóa cửa lại sau lưng ông và nhận ra rằng bất chợt tôi cảm thấy mình thật thiếu dũng cảm. Có điều gì đó trong cách cư xử của ông khiến tôi ngờ rằng thám tử Barrott đã không thành thật. Đối với ông, không phải ngẫu nhiên tôi chỉ là hàng xóm của người phụ nữ trẻ bị mất tích. Ông đang cố tạo ra những lý do để liên lạc với tôi.

Nhưng tại sao chứ?

Tôi hoàn toàn chẳng biết tại sao.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,926
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 16


Lil Kramer đã lo lắng kể từ khoảnh khắc Carolyn MacKenzie gọi điện thoại hôm thứ Hai, yêu cầu có cuộc gặp gỡ, nhưng vào ngày thứ Tư, ngay sau khi Carolyn ra về, bà đi vào trong phòng ngủ, nằm xuống, nhắm mắt và bắt đầu lặng lẽ khóc, lệ tuôn chảy xuống đôi gò má.

Lil có thể nghe thấy Gus nói lời tạm biệt Howard, rồi ông ấy đi vào phòng ngủ, và ngồi xuống bên bà. Vì mệnh lệnh thật nóng nảy của ông chồng muốn biết bà đang gặp vấn đề gì, bà mở mắt ra. "Vấn đề của tôi à? Tôi đã bảo cho ông biết nó là gì rồi, Gus. Tôi đã có mặt tại nhà thờ St. Francis de Sales ở buổi lễ Misa bằng tiếng Latin hôm Chủ nhật tuần rồi. Tôi từng suy nghĩ về việc có nên đi đến đó khi họ bắt đầu nói bằng tiếng Latin từ năm ngoái không. Đừng quên cha tôi là người công giáo, và thỉnh thoảng thường dẫn tôi đến nhà thờ khi tất cả các buổi lễ Misa được tiến hành bằng tiếng Latin".

"Bà chẳng bao giờ bảo cho tôi biết bà đã đi đến đó ngày Chủ nhật". Gus ngắt lời bà.

"Nhưng tại sao tôi lại phải nói với ông chứ? Ông đâu có bận lòng với bất kỳ tôn giáo nào, và tôi đâu cần phải nghe ông huênh hoang rằng tất cả các linh mục đều là những kẻ lạm dụng lòng tin của người khác".

Vẻ mặt của Gus Kramer chợt thay đổi. "Được rồi, được rồi. Bà đã có mặt ở đó. Hy vọng bà đã có lời cầu nguyện cho tôi. Thế thì sao nào?"

"Lúc đó rất đông người. Ông không thể tin đâu. Người ta đứng hai bên lối đi. Ông đã nghe thấy Carolyn MacKenzie vừa bảo với chúng ta điều gì. Mack đã có mặt ở đó. Tôi biết ông không tin tôi, nhưng tại buổi lễ Misa tôi có cảm giác mình đã trông thấy một người nào đó quen thuộc, chỉ trong chốc lát. Nhưng như ông biết, tôi mù dở nếu không đeo mắt kính. Và tôi đã bỏ quên chúng ở nhà khi tôi đổi ví".

"Tôi lặp lại, thế thì sao chứ?"

"Gus, ông không hiểu tôi đang nói gì sao? Mack có mặt ở đó. Giả sử cậu ta thực sự quyết định quay trở lại! Ông biết đấy". Bà kết thúc bằng một tiếng thở dài. "Ông biết rồi mà".

Như bà dự đoán, ngay lập tức Gus nổi khùng lên. "Mẹ kiếp, Lil, gã đó hẳn phải có những lý do riêng của hắn để làm cái trò biến mất dạng ấy chứ. Tôi phát bệnh lên khi thấy bà cứ vò đầu bứt tai vì hắn ta. Dẹp điều đó đi. Ngừng lại đi. Bà kể với em gái hắn là đủ làm hài lòng cô ta rồi. Giờ đây hãy ngậm mồm bà lại. Nhìn tôi đây này". Một cách cục cằn, ông ta chồm lên giường, nâng cằm bà lên để bà không thể tránh đừng nhìn chằm chằm vào ông. "Bà mù dở khi không có cặp kính lão của bà. Bà đang nhảy dựng lên vì lá thư nhỏ được cho là của Mack đã bỏ vào chỗ đồ quyên góp. Bà không trông thấy hắn ở đó. Thế thì hãy quên hết mọi chuyện đi".

Lil không tin bà có đủ can đảm để hỏi chồng tại sao ông lại chắc như thế. "Làm sao ông lại có thể quả quyết rằng Mack không có mặt ở đó?" Bà chất vấn ông với tiếng thì thầm căng thẳng.

"Cứ tin tôi". Mặt Gus tối sầm lại vì cơn tức giận.

Đó là cơn thinh nộ giống như bà đã nhìn thấy cách đây mười năm, lúc bà bảo cho Gus biết bà đã tìm thấy cái gì trong phòng Mack khi dang lau chùi, dọn dẹp. Đó là cơn thịnh nộ khiến bà thất vọng tự hỏi rằng trong ngần ấy năm phải chăng Gus có thể phải chịu trách nhiệm về việc Mack biến mất.

Với một cử chỉ yêu thương vụng về, Gus chà bàn tay chai sạn của ông ta lên trán Lil, rồi với tiếng thở dài nặng nề, ông nói: "Bà biết đấy, Lil. Sau cùng tôi đang bắt đầu suy nghĩ việc chúng ta về hưu và đi đến Pennsylvania. Nếu cô em gái đó của Mack bắt đầu quanh quẩn ở đây, sớm muộn gì cô ta cũng làm cho bà bực mình. Bà sẽ nói quá nhiều".

Lil, người thích sống ở New York, người sợ hãi phải chuyển sang đời sống hưu trí vô công rồi nghề, rên ri: "Tôi muốn đi ngay bây giờ, Gus. Tôi sợ hãi cho chúng ta".
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,926
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 17


Bruce Galbraith luôn kiểm tra với người thư ký vào cuối ngày làm việc. Không giống như hầu hết những người mà anh biết, anh không đem theo chiếc BlackBerry và lại thường tắt điện thoại di động của mình. "Có quá nhiều điều làm phân tâm, theo kiểu làm việc của tôi" là lời anh giải thích về việc này. "Nó cũng giống như nhìn người nghệ sĩ tung hứng với quá nhiều quả banh trong không khí".

Ba mươi hai tuổi, chiều cao trung bình, có mái tóc màu cát và cặp kính không vành, anh thường đùa về chính mình rằng anh quá bình thường đến mức ngay cả một chiếc camera an ninh cũng sẽ chẳng chú ý đến anh. Trái lại, anh không quá sức khiêm tốn đến nỗi không biết đến giá trị của chính mình. Anh là một chuyên gia giao dịch tài chính tuyệt vời và thường được các đồng nghiệp xem là có khả năng gần như huyền bí nhìn thấy trước được các xu hướng của thị trường bất động sản.

Kết quả là Bruce Galbraith đã nhân nhiều lần giá trị hoạt động kinh doanh bất động sản gia đình đến mức người cha sáu mươi tuổi của anh đã trao quyền kiểm soát cho anh. Tại một bữa cơm tối trước khi về hưu, cha anh đã nói: "Bruce, ta xin ngả nón trước con. Con là đứa con ngoan và còn là một doanh nhân giỏi hơn cha nhiều, mà cha cững đã tốt rồi đấy chứ. Giờ đây con làm ra tiền cho chúng ta, và cha sẽ theo đuổi mục tiêu trở thành một golf thủ không chuyên".

Bruce đã ở Arizona vào thứ Tư khi anh gọi cuộc điện thoại hằng ngày với thư ký của mình. Cô bảo với anh Carolyn MacKenzie gọi điện và để lại lời nhắn rằng Mack đã liên lạc lại và yêu cầu Bruce gọi trả lời cô ấy.

Carolyn MacKenzie à? Cô em gái nhỏ của Mack ư? Đây không phải cái tên anh muốn nghe.

Bruce chỉ vừa mới quay lại căn hộ trong khách sạn mà anh làm chủ ở Scottsdale. Lắc đầu, anh đi ra phía minibar và lấy từ trong đó ra một chai bia lạnh. Lúc đó chỉ mới bốn giờ, nhưng anh đã đi ra ngoài trời nắng hầu như cả ngày, và xứng đáng hưởng nó, anh tự bảo mình.

Anh ngồi vào cái ghế bành to hướng về phía cửa sổ cao từ sàn đến trần nhà, nhìn ra sa mạc. Vào bất kỳ thời điểm nào khác, đó là tầm nhìn ưa thích của anh, nhưng lúc này anh chỉ trông thấy căn hộ mà anh ở chung với Mack MacKenzie và Nick DeMarco, và đang xem xét lại những gì đã xảy ra ở đó.

Ta không muốn gặp em gái Mack. Anh tự bảo mình. Tất cả đã xảy ra cách đây mười năm, và thậm chí sau đó cha mẹ của Mack biết là ta chưa bao giờ thân thiết với anh ta. Anh ta chưa bao giờ mời ta về nhà ở Sutton Place để dùng cơm tối, mặc dù anh ta luôn đưa Nick đi về với mình. Thậm chí chẳng hề có trong tâm trí Mack rằng ta cũng có thể thích đi chứ. Đối với anh ta, ta chỉ là một kẻ kín đáo, ngẫu nhiên sống với anh ta trong cùng một căn hộ thôi.

Nick, anh chàng nổi tiếng đào hoa; Mack, sự chọn lựa của mọi người, gã đàn ông tử tế nhất trên cõi đời này. Thật tử tế đến mức Mack xin lỗi vì đã đánh bật ta ra khỏi hàng ngũ những sinh viên tốt nghiệp "top ten" của lớp. Và Barbara, lạy Chúa, sự phải lòng mà ta có với cô ta trong những ngày ấy. Ta tôn thờ cô ta... Cô ta chẳng bao giờ thèm liếc nhìn về hướng ta, anh nghĩ.

Bruce nghiêng đầu và uống nốt chỗ bia. Ta sẽ phải gọi cho Carolyn thôi, anh quyết định. Nhưng ta sẽ bảo với cô ấy những gì ta đã nói với cha mẹ cô. Mack và tôi sống cùng nhau, nhưng chúng tôi chưa bao giờ lang thang, bù khú với nhau cả. Thậm chí tôi còn không gặp anh ta vào ngày anh biến mất dạng. Tôi đã đi ra ngoài trước khi anh ta và Nick thức dậy. Do vậy, xin hãy để tôi được yên thân, cô em gái bé bỏng ạ.

Anh đứng lên. Hãy quên nó đi, anh nóng nảy tự bảo mình. Chỉ việc quên phắt nó đi. Lời trích dẫn thường lướt qua đầu mỗi khi anh ngẫu nhiên nghĩ về Mack lại ùa về tâm trí anh. Anh biết những lời đó không hoàn toàn chính xác, nhưng nó lại được việc cho anh. "Nhưng đó có ờ một vùng đất khác, và hơn nữa, đức vua đã băng hà".

Anh quay trở lại máy điện thoại, nhấc nó lên, và quay số. Khi vợ anh trả lời, anh biết mặt mình sáng lên vì âm thanh giọng nói của cô ấy. "Chào Barb" anh nói. "Cưng có khỏe không? Mấy đứa nhóc ra sao rồi?"
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,926
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 18


Sau bữa tiệc trưa với Aaron Klein, Elliott Wallace quay về văn phòng và chợt nhận ra mình đang nghĩ về Charles MacKenzie Sr. và tình bạn mà họ đã có với nhau tại Việt Nam. Charley tham gia trong chương trình đào tạo nhân viên dự bị của quân đội và ở cấp bậc thiếu úy khi họ gặp nhau. Elliott đã kể cho Charley nghe rằng ông chào đời tại nước Anh, nhưng có cha mẹ là người Mỹ và trải qua hầu hết thời niên thiếu tại Luân Đôn. Ông đã dọn về New York với mẹ khi được mười chín tuổi. Sau đó ông đăng ký nhập ngũ, và bốn năm sau được phong cấp sĩ quan, sát cánh với Charley ở một số trận đánh khốc liệt nhất của cuộc chiến.

Ta và Charley ưa thích nhau ngay từ ngày đầu tiên, Elliott nghĩ. Charley là người có tính tranh đua nhiều nhất mà ta từng gặp, và có lẽ là người tham vọng nhất. Anh ấy đã hoạch định sẽ đi học trường luật ngay khi giải ngũ. Anh thề sẽ trở thành một luật sư tiếng tăm và sẽ là một triệu phú. Thực sự anh rất hài lòng vì đã trưởng thành trong một gia đình chẳng có nổi lấy hai đồng năm xu để cọ xát với nhau. Anh thường chọc ghẹo thân thế của ta. "Thế còn tên vị quản gia là gì, Eli?" anh thường hỏi. "Đó là Bertie, hay Chauncey hay Jeeves?"

Trong khi dựa lưng vào cái ghế da, Elliott mỉm cười hồi tưởng. Ta bảo Charley rằng người quản gia là William, và ông ấy đã ra đi khi ta lên mười ba. Ta bảo anh ấy rằng cha ta, cầu Chúa cho ông yên nghỉ đời đời, là người có học thức nhất, nhưng cũng là một doanh nhân tồi nhất trong lịch sử thế giới văn minh này. Đó là lý do tại sao mẹ đã từ bỏ tất cả và đem ta về nhà từ nước Anh.

Charley lúc đó chẳng tin, nhưng ta thề với anh rằng theo cách riêng, ta cũng đầy tham vọng chẳng kém anh. Anh muốn trở nên giàu có vì anh chẳng biết cái thế giới giàu có ấy. Ta là một trong những người đã từng có rồi không có và nay lại muốn có tất cả những điều đó. Khi Charley ở trường luật, ta đi học cao đẳng rồi lấy bằng MBA.

Cả hai chúng ta đều thành công về mặt tài chính, nhưng cuộc sống riêng lại khác biệt nhau. Charley gặp Olivia và họ đã có cuộc hôn nhân tuyệt vời. Lạy Chúa, ta cảm thấy mình mới giống như một kẻ đứng bên ngoài làm sao khi chứng kiến cách họ nhìn nhau! Họ đã có hai mươi ba năm sống tốt đẹp, hạnh phúc bên nhau, cho đến khi Mack biến mất, và sau đó họ chẳng có lấy một ngày sống mà không tràn ngập sự lo lắng về cậu ta. Rồi sau đó là biến cố 11/9 và Charley ra đi. Cuộc hôn nhân của ta với Norma chẳng bao giờ thuận lợi, công bằng cho cô ấy. Đó là điều Công nương Diana đã nói với người phỏng vấn - rằng dường như có ba người trong cuộc hôn nhân giữa bà với Thái tử xứ Wales? Vâng, cuộc hôn nhân giữa Norma và ta cũng theo kiểu cách đó, chỉ kém phần say đắm, quyến rũ thôi.

Nhăn mặt với ký ức, Elliott cầm cây bút và bắt đầu viết nguệch ngoạc lên xấp giấy. Dĩ nhiên Norma không biết điều đó, nhưng cái cách mà ta cảm thấy về Olivia luôn tồn tại giữa ta và cô ấy. Và vì cuộc hôn nhân của ta giờ đây là một ký ức đã xa, sau ngần ấy năm, có lẽ ta và Olivia có thể cùng nhau hoạch định cho tương lai. Cô ấy đã nhận ra rằng không thể cứ sống cuộc đời quanh Mack mãi nữa, và ta có thể nhìn thấy cảm xúc của cô ấy về ta đã thay đổi. Trong mắt cô ấy, ta có ý nghĩa nhiều hơn mức chỉ là người bạn tốt của Charley và cố vấn ủy thác của gia đình. Cô ấy đã từng tâm sự rằng Carolyn cần được thong thả và không phải lo lắng về mẹ nữa. Cô ấy cũng đang có kế hoạch bán căn hộ Sutton Place.

Elliott đứng lên, đi về phía cái kệ sách bằng gỗ gụ, bên dưới có cái tủ lạnh và mở cửa tủ ra. Khi với tay lấy chai nước, ông tự hỏi không biết có sớm quá không khi đề nghị với Olivia rằng căn hộ chung cư cao cấp loại penthouse trên đại lộ Số Năm, xuôi xuống phía dưới Bảo tàng Metropolitan, có lẽ là một nơi chốn tuyệt vời để sống trong đó.

Căn hộ cao cấp penthouse của ta, ông suy nghĩ với nụ cười. Thậm chí cách đây hai mươi lăm năm, lúc mua nó sau khi ly dị với Norma, ta đã mơ rằng sẽ mua nó cho Olivia.

Chuông điện thoại reo vang, rồi giọng nói kiểu Anh dứt khoát của cô thư ký riêng vang lên trong máy điện thoại nội bộ. "Bà MacKenzie đang gọi, thưa ông".

Elliott chạy nhanh về bàn giấy và nhấc ống nghe.

"Elliott, Liv đây. June Crabtree hẹn sẽ đến dùng cơm tối, nhưng vào phút cuối bà ấy không đến được. Tôi biết Carolyn sẽ đi gặp người bạn của nó, Jackie. Ông có muốn đưa một bà đi dùng cơm tối không?"

"Tôi sẽ rất hài lòng. Bà nghĩ thế nào về việc uống một chút ở chỗ tôi, rồi sau đó đi đến Le Cirque?"

"Tuyệt vời. Gặp ông sau nhé".

Khi gác ông nghe, Elliott nhận ra rằng có giọt mồ hôi nhỏ trên trán ông. Ta chẳng bao giờ muốn bất kỳ điều gì nhiều hơn thế trong đời ta, ông nghĩ. Chẳng có chuyện gì có thể làm hỏng mọi thứ mà ta lại quá sợ hãi có thể có một điều gì đó như vậy. Rồi ông thư giãn và cười phá lên khi nghĩ cha ông sẽ phản ứng ra sao đối với lối suy nghĩ tiêu cực như thế.

Như người bà con yêu quý Franklin đã nói, ông suy nghĩ, điều duy nhất chúng ta phải sợ là chính bản thân sự sợ hãi.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,926
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 19


Suốt buổi trưa thứ Tư và kéo dài đến cả đêm, các sinh viên Đại học New York tỏa ra khắp khu vực làng Greenwich và SoHo, họ đang dán những tấm áp phích phía trước cửa hiệu và trên những cột điện thoại cùng những thân cây với niềm hy vọng rằng ai đó có thể nhận ra Lisa "Leesey" Andrews và cung cấp thông tin để tìm ra được cô.

Tấm hình người bạn cùng phòng cô chụp cách đây vài ngày là một Leesey đang mỉm cười, các chi tiết về chiều cao và trọng lượng của cô, địa chỉ của Woodshed, thời gian cô rời nơi đó, địa chỉ nhà riêng, nơi người ta nghĩ cô định quay về, và giải thưởng năm mươi ngàn đô-la do cha cô và Nicholas DeMarco đưa ra là tất cả những thông tin có trong tờ áp phích.

"Nhiều thông tin hơn chúng tôi cung cấp, và chúng tôi sẽ huy động mọi lực lượng để làm chuyện này". Đội trưởng Larry Ahearn nói với anh trai cô lúc chín giờ tối thứ Tư. "Nhưng Gregg này, tôi phải nói thật với anh. Sự thật là nếu Leesey bị bắt cóc, mỗi giờ trôi qua càng làm giảm các cơ may của chúng ta trong việc tìm ra cô ấy còn sống sót và an toàn".

"Tôi biết điều đó". Gregg Andrews đã đi xuống trụ sở sau khi cho cha một liều thuốc ngủ mạnh và đưa ông vào giường trong phòng dành cho khách viếng thăm ở căn hộ của anh. "Larry, tôi cảm thấy vô dụng một cách kinh khủng. Tôi có thể làm được gì nhỉ?" Anh ngồi sụp xuống ghế.

Đội trưởng Ahearn vươn qua bàn giấy hướng về Gregg, khuôn mặt của anh thật nghiêm trang. "Anh là chỗ dựa cho cha và anh có thể chăm sóc bệnh nhân của anh trong bệnh viện. Hãy để phần còn lại cho chúng tôi, Gregg".

Gregg cố gắng hết sức để có vẻ vững vàng. "Tôi sẽ cố". Anh chậm chạp đứng lên, như thể mỗi cử động là một nỗ lực. Anh tiến ra chỗ cánh cửa văn phòng của Ahearn, rồi quay người lại. "Larry, anh nói rằng, "nếu Leesey bị bắt cóc". Xin đừng phí thời gian mà nghĩ là con bé cố tình đặt chúng tôi vào tình thế thống khổ này".

Gregg mở cửa ra và chạm mặt với Roy Barrott, người sắp sửa gõ cửa văn phòng sếp của ông. Barrott đã nghe được câu nói của Andrews và ý thức được sự vang vọng của câu Carolyn MacKenzie đã nói ngay trong văn phòng này cách đây hai ngày. Gác sự so sánh sang một bên, ông chào Andrews rồi bước vào văn phòng Ahearn.

"Các cuộn băng đã xong". Ông nói nhanh. "Larry, anh có muốn xem chúng bây giờ không?"

"Có, tôi muốn". Ahearn nói, nhìn bóng dáng Gregg đang khuất dần. "Anh có nghĩ là sẽ hữu ích chăng nếu để anh trai của cô ấy cùng xem với chúng ta?"

Barrott quay nhanh lại đi theo hướng Gregg. "Có lẽ là có. Để tôi bắt kịp anh ấy trước khi anh ấy xuống thang máy".

Barrott bắt kịp Gregg khi anh đang nhấn nút thang máy và hỏi xem anh có đi cùng họ xuống tiền sảnh để vào phòng kỹ thuật không. Barrott giải thích: "Bác sĩ Andrews, những cuộn băng do máy camera an ninh ghi hình tại Woodshed vào tối thứ Hai đã được phóng to thành từng khung hình một, để cố lọc ra bất kỳ ai có vẻ gần gũi đặc biệt với Leesey trên sàn nhảy hay nằm trong số những người cuối cùng rời câu lạc bộ".

Không nói năng gì, Gregg gật đầu, sau đó đi theo Barrott và Ahearn vào phòng kỹ thuật và kéo một cái ghế ngồi xuống. Khi cuộn băng chạy, Barrott, vì đã xem kỹ nó hai lần, thuyết minh cho anh và đội trưởng Ahearn nghe nội dung của nó.

"Ngoại trừ những người bạn mà cô ấy ngồi cùng suốt đêm, chúng tôi thấy dường như chẳng có điều gì cho thấy có bất kỳ yếu tố nào quan trọng cả. Tất cả những người bạn đều đồng ý rằng Leesey luôn có mặt với họ, trừ mười lăm phút cô ngồi với DeMarco tại bàn của anh ta hay khi cô ở trên sàn nhảy. Sau khi những người còn lại trong nhóm cô bỏ về lúc hai giờ sáng, chính là lúc cô ấy ngồi tại một cái bàn trong khi ban nhạc thu dọn đồ đạc. Chỗ này đã được kiểm tra kỹ lưỡng lúc đó, do vậy, chúng tôi có hai tấm hình chụp cô ấy khá rõ trước khi cô ấy bỏ ra về một mình".

"Ông có thể quay lại tấm hình chụp con bé tại bàn không?" Gregg yêu cầu. Việc nhìn kỹ em gái của mình trên cuộn băng ghi hình khiến một làn sóng buồn phiền xâm chiếm tầm hồn anh.

"Chắc chắn rồi". Barrott tua lại cuộn băng trong đầu máy chiếu. "Anh có thấy bất kỳ điều gì mà chúng tôi bỏ sót không, thưa bác sĩ?" Ông hỏi, cố giữ giọng nói vô thưởng vô phạt.

"Vẻ mặt của Leesey. Khi con bé khiêu vũ, nó mỉm cười. Bây giờ hãy nhìn nó này. Con bé trông thật trầm ngâm, buồn bã". Anh ngừng lại. "Mẹ chúng tôi đã mất cách đây hai năm và Leesey đã trải qua một thời gian khó nhọc để chống lại nỗi đau khổ ấy".

"Gregg, anh có nghĩ là trạng thái tâm trí của cô ấy khiến cô bị mắc chứng quên tạm thời hay có sự lo lắng, bồn chồn khiến cô ấy bỏ trốn không?" Câu hỏi của Ahearn tuôn ra và đòi hỏi có ngay câu trả lời. "Đó có phải là một khả năng không?"

Gregg Andrews đưa tay lên bóp thái dương như thể đang cố kíƈɦ ŧɦíƈɦ quá trình suy nghĩ của mình. Sau cùng anh nói "Tôi không biết". "Tôi thực sự không biết". Anh ngập ngừng rồi tiếp: "Nhưng nếu đem cá cược cả cuộc đời của tôi và của Leesey, tôi sẽ nói sự việc không thể xảy ra theo kiểu đó".

Barrott tua đầu máy chiếu nhanh về phía trước. "Được rồi, vào giờ cuối cùng, bất cứ khi nào máy camera quét về phía cô ấy, cô chẳng bao giờ có một ly rượu trong tay, điều này ủng hộ cho điều người phục vụ và người pha chế rượu bảo với chúng tôi rằng cô ấy chỉ uống có hai ly rượu vang suốt cả buổi tối và không hề say sưa khi ra về".

Gregg Andrews đứng lên. Với giọng căng thẳng, anh nói: "Bây giờ tôi sẽ đi về nhà. Tôi có ca mổ vào buổi sáng và tôi cần ngủ một chút".

Barrott chờ đến khi anh đã đi khuất khỏi tầm nghe, mới đứng lên và vươn vai nói: "Chính tôi cũng sẽ không phiền nếu được ngủ một chút, nhưng tôi phải đi đến Woodshed".

"Anh có nghĩ DeMarco sẽ xuất hiện ở đó tối nay không?" Ahearn hỏi.

"Dự đoán của tôi là anh ta sẽ xuất hiện. Anh ta biết người của chúng ta sẽ tràn ngập khắp nơi đó. Và anh ta cũng đủ khôn ngoan để biết rằng sẽ là một buổi tối ra trò đối với anh ta. Nhiều khách hàng muốn ra vào nơi đó vì tò mò và dĩ nhiên những kẻ được gọi là nổi tiếng sẽ tụ tập lại thành những nhóm nhỏ vì biết rằng giới truyền thông sẽ có mặt quanh quẩn nơi đó. Hãy tin tôi đi. Những kẻ ngông cuồng sẽ tụ tập lại thôi".

"Dĩ nhiên họ sẽ làm thế". Ahearn đứng lên. "Tôi không biết anh đã kiểm tra từ khi anh quay về chưa, nhưng sự truy tìm mà chúng ta có trên điện thoại di động của Leesey cho thấy có người nào đó đã di chuyển nó quanh khu vực Manhattan suốt cả ngày. DeMarco chỉ mới quay về từ nam Carolina trễ sáng nay, vì thế nếu anh ta làm thì anh ta phải có người nào đó ở New York làm việc này cho anh ta".

"Thật dễ chịu khi nghĩ rằng cô gái lặn mất dạng lại là người đang chạy loanh quanh Manhattan". Barrott bình luận khi ông với tay lấy cái áo khoác. "Nhưng tôi không nghĩ rằng sự việc sẽ như vậy. Tôi cho rằng có kẻ nào đã tóm lấy và vùi xác cô ở đâu đó rồi; kẻ đó còn đủ khôn ngoan để biết rằng khi chiếc điện thoại di động còn hoạt động, chúng ta có thể tập trung mục tiêu vào khu vực đó và sẽ bắt đầu tìm kiếm ở đó".

"Hắn cũng biết rằng bằng cách di chuyển chiếc điện thoại di động của cô ấy loanh quanh khu vực đó, hắn sẽ đánh lừa chúng ta rằng cô ấy còn sống". Ahearn trông có vẻ trầm ngâm. "Chúng ta đã kiểm tra DeMarco kỹ lưỡng đến mức biết rõ nhất cử nhất động của anh ta. Chẳng có gì về mặt nhân thân cho thấy anh ta phải cố gắng làm điều gì tương tự như thế".

"Người của chúng ta có tìm thấy gì trong chồng hồ sơ về ba cô gái khác bị mất tích không?"

"Chẳng có gì mà chúng ta chưa điều tra cật lực. Tôi đã kiểm tra những biên nhận thẻ tín dụng từ tối thứ Hai để xem chúng ta có thể khớp khách hàng quen thuộc nào của Woodshed với các tên tuổi mà chúng ta có từ những người đi đến các quán rượu ở các trường hợp kia".

"À, à, được rồi. Gặp lại anh sau nhé, Larry".

Ahearn nhìn kỹ gương mặt của Barrott. "Anh có một ai đó trong đầu ngoài DeMarco, phải không Roy?"

"Tôi không chắc. Hãy để tôi suy nghĩ về điều này đã". Barrott nói thật mơ hồ. Nhưng Ahearn có thể nhìn thấy rằng Barrott đang tập trung vào một điều gì đó.
 
CHÚ Ý !!!
Các đạo hữu nhớ thêm TÊN CHƯƠNG và THỨ TỰ CHƯƠNG ở ô phía trên phần trả lời nhanh. Như vậy hệ thống mới tạo được DANH SÁCH CHƯƠNG.
Cập nhật chức năng ĐĂNG TRUYỆN và THÊM CHƯƠNG MỚI trên web Diễn Đàn Truyện tại https://truyen.diendantruyen.com
Top Bottom