Cập nhật mới

Dịch Full Vị Bắc Xuân Thiên Thụ

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
610,854
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 20: 20: Tết Nguyên Tiêu


*Chương này có nội dung ảnh, nếu bạn không thấy nội dung chương, vui lòng bật chế độ hiện hình ảnh của trình duyệt để đọc.




Ngày tết Nguyên Tiêu, đèn hoa rực rỡ rọi sáng bầu trời đêm.

Ngày ấy thành Trường An rộn ràng tiếng trống, bó đuốc cháy bừng chiếu khắp mặt đất.

Nhiều con phố dựng nhà rạp cao cao, dưới rạp đào kép xướng ca, những màn xiếc nhào lộn bắt mắt, ẩm thực đa dạng chỗ nào cũng có.

Bất luận là trai gái giàu hay nghèo, đều khoác lên mình bộ xiêm y lóa mắt, son phấn trang sức, xe đẹp bảo mã, kéo bạn kéo bè ra ngắm pháo hoa.
Đoàn Cẩn Kha bồng cô em gái nhỏ Yên Thù mới bốn tuổi, đi bên cạnh xe của mẹ và bà nội, cùng dạo chơi hội đèn lồng.

Đi tới chỗ rạp lớn, du khách đông nghịt, xe ngựa tắc nghẽn, chỉ đành dẫn theo gia đinh xuống dưới cuốc bộ.

Yên Thù hiếm khi nào chứng kiến cảnh tượng náo nhiệt đến vậy, cô bé hào hứng mua nào thỏ nào chim, mứt quả rồi cây liễu tuyết và cả thịt viên*, nhét đầy ứ vào hai tay gia đinh phía sau mình.

"Anh Hai." Chiếc áo lông nhung đỏ thẫm bọc lấy người Yên Thù, cô bé cất giọng non nớt, "Anh Hai, đằng trước có bán kẹo sư tử*, em muốn ăn kẹo sư tử."
"Hôm trước em chẳng than răng đau còn gì, nay lại đòi ăn kẹo nữa à." Con nít đứa nào không ham đồ ngọt, nhưng cũng nên hạn chế ăn, sợ hỏng răng rồi thì không xinh nữa, "Không sợ mẹ Hai mắng hử?"
"Kẹo anh Hai mua mà, mẹ không mắng em Thù đâu." Yên Thù cười tít mắt, nhỏ giọng thì thầm vào tai Đoàn Cẩn Kha, "Mẹ và mẹ Cả đi đằng trước ngắm đèn, làm sao thấy em ăn kẹo được chứ."
Yên Thù xách chiếc đèn da dê ngũ sắc, ôm cổ Đoàn Cẩn Kha lắc lắc làm nũng: "Anh Hai, kẹo sư tử nha."
Nhất thời Đoàn Cẩn Kha bồng cô bé không vững, vai ngả nghiêng.

Chiếc đèn lồng năm màu của Yên Thù lướt qua đầu một nhóm sĩ nữ gấm vóc lụa hoa, tua rua móc phải cành liễu tuyết xe sợi vàng gài trên đầu một cô gái dáng mảnh mai lả lướt, cô ấy còn trùm tấm vải lụa vân.

Bấy giờ, cả liễu tuyết lẫn lụa đều trượt xuống đầu vai, để lộ mái tóc nhạt màu, Đoàn Cẩn Kha chỉ nghe thấy cô gái kia nắm lấy búi tóc mình, nhẹ nhàng "a" một tiếng.

Hai người mặt đối mặt, Đoàn Cẩn Kha nhìn đôi mắt như làn nước động lòng người ấy mà không khỏi sững sờ: "Là cô."
Khuôn mặt hoàn mỹ tựa ngọc, ngọn đèn hai bên rạp lớn soi vào mặt cô ấy như trong suốt, mắt sâu mũi cao, đồng tử xanh biếc.

Hóa ra chính là nàng hồ cơ Áp Đát không rõ danh tính kia.

Thoạt đầu khi trông thấy Đoàn Cẩn Kha, hồ cơ cũng giật mình, rồi sau đó kéo tấm lụa lên, vội vàng đuổi theo chúng bạn.

"Cô nương, cô nương hồ cơ." Đoàn Cẩn Kha nhặt cây liễu tuyết rơi dưới đất của cô ấy lên, ôm Yên Thù đuổi theo.

Từ biệt nhau ở thành Cam Châu, ngay cả tên của hồ cơ y cũng không biết, nào đoán được thiên hạ bao la rộng lớn, vậy mà lại cho y gặp lại cô ấy ở Trường An.

"Anh Hai, chị gái kia trông lạ quá...!Anh Hai..."
Sĩ nữ du khách đi chật kín con đường, đâu đâu cũng là oanh oanh yến yến.

Đoàn Cẩn Kha len lỏi trong dòng người đuổi một đoạn, chỗ rẽ du khách thưa thớt dần, nhưng bóng dáng hồ cơ đã chẳng còn thấy đâu.

Người biến mất tăm, Đoàn Cẩn Kha cầm món trang sức người ấy bỏ quên, bế Yên Thù lững thững bước trên đường.


"Anh Hai, anh quen chị đó ạ?"
"Không quen."
"Vậy hay là anh thấy chị ấy lạ quá, nên mới đuổi theo người ta hả anh?"
Đoàn Cẩn Kha cười bảo: "Không phải chị ấy lạ, chị gái đó là người dân tộc khác, nên vẻ ngoài mới có phần khác biệt với chúng ta."
"Chị ấy không phải người Hán à, thế chị ấy là người ở đâu, nhà ở đâu thế anh?"
Đoàn Cẩn Kha cười lắc đầu.

Đoàn phu nhân chớp mắt đã không thấy con trai con gái đâu, bèn sai gia đinh đi tìm.

Ngụy Lâm thấy hai vị chủ tử nhà mình thì lao tới nhanh như chớp: "Trời ơi, ông trẻ bà trẻ của tôi, hai người chạy đi chơi chỗ nào mà chả nói với tiểu nhân một tiếng gì cả."
"Đi ngay gần đây mà." Đoàn Cẩn Kha nói, "Về thôi."
Đoàn người di chuyển đến dưới lầu Phong Lạc, lầu Phong Lạc là tửu lầu lớn nhất Trường An, hôm nay cũng giăng đèn kết hoa, trang trí mới lạ.

Một người trung niên mặt trắng không cọng râu, người khoác bào xanh chân xỏ ủng mềm, đi lại gần Đoàn Cẩn Kha chào hỏi: "Khéo quá, Đoàn công tử, gia nhà ta mời cậu lên trên ngồi một lát."
Mắt Đoàn Cẩn Kha sáng ngời, y biết người này, chính là Đường Tam Tỉnh theo hầu bên cạnh Tĩnh vương, tức khắc y mỉm cười gật đầu: "Hóa ra là Đường huynh."
Y xoay người giao Yên Thù cho gia đinh, dặn dò vài câu, rồi theo Đường Tam Tỉnh lên lầu.

Trong gian phòng riêng Bồng Lai Các trên lầu, Tĩnh vương đang uống rượu nói cười.

Có vị công tử trẻ tuổi tựa vào cửa sổ ngắm cảnh đèn ngập đầy phố xá, mắt đẹp mày sáng, phong thái thanh liêm cao quý, nụ cười khiến người ta có cảm giác được gột rửa trong gió xuân, toát lên sự uy nghi khiến kẻ khác run rẩy không dám ngẩng mặt.

Đoàn Cẩn Kha sửng sốt, tiến nhanh tới hành đại lễ: "Đệ tử Đoàn Cẩn Kha bái kiến Tĩnh vương đại nhân và...!thái tử thiên tuế..." Đoàn Cẩn Kha không có chức trong triều, chỉ là dân thường, nhưng mấy năm gần đây Đoàn gia có qua lại với Tĩnh vương, Tĩnh vương cũng quen thuộc với đám con cháu Đoàn gia.

"Đứng lên đứng lên, gặp riêng một bữa thôi, cần gì phải hành đại lễ chứ." Tĩnh vương chống gối ngồi dậy, dáng vẻ cởi mở thoải mái, "Đúng lúc trông thấy cậu đi dưới lầu, nên mới mời cậu lên đây uống một chén."
Con người Tĩnh vương, thực sự vô cùng hiền hòa thân thiết.

Thái tử Dương Chinh mỉm cười, thong thả bước qua: "Ta chưa gặp ngươi bao giờ, tại sao ngươi lại nhận ra được ta?"
"Tháng giêng điện hạ có dẫn bách quan đến cổng Minh Đức tế trời, đệ tử đứng dưới thành trông thấy phong nghi của điện hạ ở phía xa xa." Đoàn Cẩn Kha chắp tay nói, "Một cái liếc mắt của điện hạ đường bệ trang nghiêm, người bình thường không thể sánh bằng."
"Có vẻ giống huynh trưởng ngươi đấy." Thái tử cười cười, hàng mày giãn ra, "Nghe Tĩnh vương nói công tử đây từ Lũng Hữu về, chuyện trải qua trên đường hết sức thú vị.

Tuy rằng ta kiêm vị trí đại tổng quản Hà Tây, hướng tới phong thổ nhân tình nơi biên tái, ấy nhưng mà chưa từng bước chân ra khỏi thành Trường An, lòng dâng tò mò, muốn nghe thử xem những điều ngươi mắt thấy tai nghe."
Tĩnh vương tự tay rót rượu cho thái tử, gắp mấy miếng đồ nhắm, lại sai ca cơ ngoài mành đánh đàn: "Thế thì chọn ngay một ít phong thổ nhân tình cho thái tử điện hạ đã ghiền."
Đoàn Cẩn Kha gật gật đầu, bắt đầu kể về hành trình từ Trường An đến thành Toái Diệp, có vài chuyện trong đó đã từng kể với Tĩnh vương.

Tĩnh vương gật gù, ngồi bên cạnh chêm thêm vài câu.

Thái tử chăm chú lắng nghe, hỏi cũng rất kỹ, nào là danh mục thuế giao dịch vật phẩm, đặt phiếu thuế chỗ nào, trạm đốt lửa báo động ven đường, số lượng thương nhân đi lại, độ lớn nhỏ của bao hàng, toàn là những vấn đề lặt vặt, nhiều khi Đoàn Cẩn Kha cũng không biết hết.

Về phấn những biến động nhỏ, thái tử có tin tức cả, không phải hỏi Đoàn Cẩn Kha.


Cuối cùng đề cập tới chuyện ở Hồng Nhai Câu, mấy hôm trước Đoàn Cẩn Kha lại nhận được hồi âm từ Hà Tây, thư do Lý Vị viết, nói đại khái về lời kể của Xuân Thiên, đám dân du mục nói tiếng Hồ mang theo trường đao, thương nhân giọng vùng Quan Trung và lá trà có mùi đậm nồng*.

Thế là y thuật lại sự việc cụ thể tỉ mỉ từ đầu đến cuối cho thái tử, sắc mặt thái tử hơi lúng túng, Tĩnh vương nói: "Chưa bàn chuyện khác, hàng bị chặn, mấy tháng liền không có người nào trong thương đội báo quan, sớm đã cho tra xét châu nha bên đường, không hề giữ lại biên bản vượt qua kiểm tra của thương đội, thực là kỳ lạ."
(*Cho ai đã quên thì chi tiết này được Xuân Thiên kể ở chương 10)
"E rằng có người trong thương đội chột dạ, không dám tiếp xúc với quan phủ." Thái tử cười bảo, "Dấu gót sắt của mã phỉ rất lạ, không phải thợ thủ công Trung Nguyên làm ra, mà lại giống như do người Thiết Lặc rèn."
Người Thiết Lặc là một nhánh của mười bộ tộc Đột Quyết.

Người Đột Quyết là thợ rèn của người Nhu Nhiên, am hiểu nhất là rèn sắt, tay nghề rèn sắt tốt nhất trong số đó phải gọi tên người Thiết Lặc.

Người Thiết Lặc chế tạo binh khí, khôi giáp, phụ kiện ngựa, rồi bán cho bộ tộc khác trên thảo nguyên để đổi lấy bò dê đồng cỏ, vậy nên họ luôn chiếm được một chỗ đứng nhất định trên thảo nguyên.

Thái tử lấy từ tay áo ra một tờ giấy với phép vẽ bạch miêu, đưa cho Đoàn Cẩn Kha, "Đoàn công tử, có phải dấu móng chân như này không?"
Đoàn Cẩn Kha nhận lấy xem, nghiêm mặt đáp: "Đúng vậy."
Thái tử lại nói, "Ta nghe bảo ở Lương Châu có mấy hộ nhà kiếm sống bằng nghề trồng đại hoàng, năm nay báo cáo lên quan phủ tổng sản xuất là năm nghìn gánh đại hoàng, quan phủ thu một nghìn gánh, phần còn lại phân phát cho các đại lý và cửa hàng thuốc ở Trung Nguyên.

Nhưng cứ sau mỗi đợt bán là lại có hơn năm trăm gánh đại hoàng chẳng biết tung tích.

Không chỉ có một, ngay cả đại hoàng của Hà Châu, Tứ Xuyên cũng gặp tình trạng tương tự, số đại hoàng ấy rốt cuộc đã bán đi đâu?"
"Ý điện hạ là...!có thương đội đại hoàng xuất quan, bán cho...!người Hồ."
Khi con đường kinh doanh hàng hóa đang vào thời điểm đông đúc, đội lạc đà chỉ đi ra từ Ngọc Môn Quan, mỗi một nghìn bao hàng thì gần như chiếm một phần ba đã là đại hoàng Trung Nguyên.

Ở phương Tây, đây là loại dược liệu Trung Quốc quý hơn cả lá trà.

Các ngoại tộc Tây Vực, Chiêu Vũ chín Hồ*, thậm chí là Ba Tư, Đại Thực, Bắc Địch, Thổ Hỏa La, hay nơi cực Tây xa tít mù khơi, đều cần đại hoàng.

*Chỗ này mình không rõ là tác giả viết nhầm hay có ý nào khác, tra trên mạng thì mình chỉ tìm thấy Chiêu Vũ chín họ (phiên âm của Hồ là Hu, còn họ là Xing, khác nhau hoàn toàn nên mình mới băn khoăn).

Đại khái thì Chiêu Vũ chín họ là tộc người Nguyệt Thị, bị người Hung Nô truy đuổi phải di cư về phía Tây, sau đó dần phân thành chín nước, quân vương chín nước đều thêm "Chiêu Vũ" trước họ của mình để dòng họ không bị mất gốc (tham khảo bút ký Con đường tơ lụa - Nguyễn Phố dịch)
Vì gió ở đất Hồ hanh khô, dân bản xứ suốt ngày ăn thịt dê bò, khiến nóng ruột và dạ dày, phải dùng đại hoàng làm thuốc nhuận tràng bổ tì.

Thời kỳ dịch bệnh hoành hành, đại hoàng cũng có thể trị bệnh dịch.

Ngoài ra, loại dược liệu này cần được bảo quản khô ráo, nếu vận chuyển bằng thuyền biển, phần lớn sẽ mục thối giữa đường.

Nên tất cả đại hoàng vận chuyển tới đất Hồ đều ra ngoài qua con đường Ngọc Môn quan, Đôn Hoàng.

Mấy năm trước tuy triều đình đại chiến với Đột Quyết, thu về đường Y Ngô, nhưng suy cho cùng vẫn chưa tổn hại gì gốc rễ của Đột Quyết, cùng lắm là dọa cho sợ tí thôi.


Một hai năm nay vùng Hà Tây Bắc Đình liên tiếp báo rằng Đột Quyết phá rối thôn trang thương đội, nói vậy, đại chiến lần nữa là điều không thể tránh khỏi.

Triều đình thiếu tiền, binh lực Hà Tây Bắc Đình không đủ chống đỡ, trong cơn nóng giận, thánh nhân đã thắt chặt quản lý việc vận chuyển đại hoàng ra ngoài, mượn đó để tiệt nguồn cung ứng đại hoàng cho Đột Quyết.

Nếu song phương phải chiến với nhau, nếu chiến sự này kéo dài lâu một chút, xét về thế, Trung Nguyên cũng có cơ hội chiến thắng cao hơn.

Hễ là đại hoàng vận chuyển qua Ngọc Môn và Dương quan, bán đến thành nào, đều phải ghi chép vào hồ sơ.

Đường đi có quân sĩ kiểm tra, lại bị áp thuế nặng, bởi vậy thứ nhất là nhóm thương nhân không muốn bán nhiều, người Hồ oán hờn dậy đất; thứ hai lãi nặng tất có dũng phu, người lén bán đại hoàng cấm không hết.

"Nếu như là...!có một nhánh người Đột Quyết dịch dung cải trang ẩn náu ở Hà Tây...!đang theo dõi một thương đội buôn lậu đại hoàng."
"Thật sự là người Đột Quyết ư? Hay là người của dân tộc Thổ Phiên, dân tộc Hồi Hột?" Tĩnh vương nhìn về phía ngoài cửa sổ, nơi từng chùm pháo hoa lộng lẫy bay vọt lên không trung, "Cho dù là ai, thì cũng là rắc rối cả..."
Hai năm nay quốc khố cạn kiệt trầm trọng, chi phí nuôi quân của Hà Tây và Bắc Đình hơn nửa là từ tiền riêng trong quan.

Nếu lại phải khai chiến, trong khoảng thời gian ngắn xoay sở đâu ra nhiều quân nhu và lương bổng như vậy.

Phủ Cam Châu cách xa mấy nghìn dặm có lẽ không có nhiều vấn đề lôi thôi đến thế.

Ngoài thành quỷ hạn hán của núi Yên Chi còn đang say ngủ dưới lớp băng tuyết, trong thành vạn nhà nghìn hẻm thắp đèn sáng như ban ngày, tiếng cười tràn ngập.

Ở Hà Tây người Hồ - Hán cộng cư, phong tục dân gian phóng khoáng hơn, rạp lớn bên đường diễn kịch Hồ, múa điệu múa người Hồ, cùng với rất nhiều trò chơi bắn tên đánh bạc linh tinh khác.

Đám con nít thích xem những màn xiếc như đập vỡ tảng đá trên ngực, hay nuốt kiếm phun lửa.

Phụ nữ thì mỏi mắt ngưỡng mộ những hồ cơ duyên dáng thướt tha múa điệu Hồ tuyền*.

Nhóm đại gia tụ tập lại thành vòng tròn, uống rượu mua vui, đặt tiền cá cược.

(*Hồ tuyền là một điệu ca múa điêu luyện của người Hồ ở phương Bắc Trung Quốc - theo thivien)
Tinh thần Lục Minh Nguyệt uể oải, ở nhà nằm trên giường mấy ngày, hôm nay thật sự bị Gia Ngôn làm ầm ĩ mà chỉ biết bó tay, đành phải đưa cậu ra ngoài ngắm đèn.

Gia Ngôn sợ người đông không ngắm được cảnh tưng bừng, lại nghĩ dạo này mẹ không la rầy, thế là cậu nhóc nhào vào Hách Liên Quảng, nhảy lên lưng chú mình.

"Chú Quảng, đằng trước có biểu diễn, mình đi xem đi."
"Bám cho chắc đấy." Một tay Hách Liên Quảng nâng mông cậu, một tay cầm băng đăng, trên khuôn mặt lạnh lùng hiện lên nét dịu dàng hiếm thấy.

Gia Ngôn thích ồn ào, chốc lại reo hò hoan hô trò trên sân khấu, chốc lại chu môi huýt sáo, chốc thì nhảy xuống bắn cung, chốc thì chạy tới chạy lui trong đám người.

Trước kia Lục Minh Nguyệt sao có thể buông thả cho cậu như thế được, chẳng qua là do bản thân cả ngày lẩn thẩn, chả hiểu lý do gì, ngay cả Đông Tây Nam Bắc, ăn uống mặc đồ cũng quên tất.

Hách Liên Quảng dẫn Gia Ngôn đi phía trước, thỉnh thoảng lại ngoảnh đầu nhìn chị.

Đôi mắt hắn lúc nào cũng phản chiếu hình ảnh của chị, ngang là chị, dọc cũng là chị, ánh sáng là chị, bóng cũng là chị.

Đôi con ngươi nhạt màu, khuôn mặt thuộc về dị tộc kia, bất chợt cứ thế ùa vào đáy lòng, chẳng biết là hận, là ghét, là oán, hay là khổ.

Nhưng đêm sâu, chị sẽ phải đối mặt với một hắn chỉ có dũng mãnh và hung ác.


Thể xác và linh hồn chị bị vò nát, nếm trải cơn đau đớn vô cùng vô tận trong mùi tanh của máu.

Mà nỗi đau đó lại thoát ra khỏi nguyên hình, trở thành một loại khoái cảm sung sướng tưởng chết.

Chị không hề nhớ gì về cơn đau ấy, chuyện cũ khắc cốt khi xưa, giống như kẽ hở nhỏ hẹp bị đẩy ra, để lộ tia sáng chói lòa giúp chị được hít thở.

Gia Ngôn nô đùa hồi lâu, cuối cùng thiếp đi trên tấm lưng dày rộng của Hách Liên Quảng.

Hắn xách cả đống đồ chơi của đứa nhỏ, cùng chị một trước một sau đi về nhà.

Cách nhau quãng xa, hắn sẽ dừng lại chờ chị.

Thái độ chị vẫn lạnh lùng, không muốn đứng quá gần, lúc đó hắn sẽ im lặng đứng chờ.

Đèn lồng tuyết trên tay hãy còn cháy, quầng sáng ở bàn tay hắn tỏa chiếu, cái bóng mơ hồ của hai người hắt xuống đất, bị gió lạnh thổi, hòa quyện vào làm một.

Chị mất sạch kiên nhẫn, không giằng co nữa, vội vàng rời khỏi ánh nhìn trầm mặc của hắn, hắn lại bước từng bước thong thả bắt kịp chị.

"Nàng muốn ta chết." Giọng hắn rất nhẹ rất nhẹ, sợ đánh thức đứa nhỏ, "Nhưng ta không thể chết...!ta muốn ở cùng nàng."

Vì hôm đó Lý nương tử nổi hứng muốn ra ngoài, nên Lý Vị đã đặc biệt thuê xe ngựa, đặt bếp than trong thùng xe, lót gối mềm lên chỗ ngồi, đưa Lý nương tử và Trường Lưu ra ngoài ngắm pháo hoa.

Hôm đó Trường Lưu cực kỳ vui, cha và mẹ cùng cậu cưỡi con ngựa lùn, thu về tay được một nghiên mực, một chiếc đèn kéo quân.

Cuối cùng người một nhà dưới một gian hàng bày đầy băng đăng, cùng nhau ăn chén bánh trôi hoa quế.

Lý nương tử cũng thấm mệt, ôm Trường Lưu đã ngủ say ngồi dựa vào thành xe.

Lý Vị ngồi ngoài xe, tiếng vó ngựa đập xuống gạch đá kêu lộc cộc, âm thanh vô cùng êm ái.

Xuân Thiên và Triệu đại nương, Tiên Tiên ngắm hoa đăng xong thì về nhà, thấy xe ngựa Lý Vị thuê đỗ trong sân, còn Lý Vị bế Trường Lưu vào phòng ngủ rồi.

"Nương tử đã mệt mỏi cả buổi tối, đi nghỉ sớm đi." Triệu đại nương đỡ cô ấy ngồi xuống ghế, "Tôi đi múc nước cho nương tử rửa mặt."
Không ai để ý rằng sắc mặt Lý nương tử đã hơi xấu đi, mồ hôi đầu chảy ròng ròng, gió rét lùa qua, vừa nóng vừa lạnh.

Lý nương tử túm lấy tay Triệu đại nương, vừa định mở miệng nói thì lại nôn hết số bánh trôi buổi tối mới ăn ra, lẫn trong đó còn thấy có cả máu đỏ đậm.

Bấy giờ, cô ấy không cảm thấy khó chịu ở đâu, rồi sau đó ngực nhói lên, một ngụm máu tuôn ra từ cổ họng.

"Nương tử!"
Lý Vị vội vã chạy tới, thấy máu dưới đất, lòng như lửa đốt, luôn miệng kêu: "Mời thầy thuốc, mau đi mời thầy thuốc."
(còn tiếp)
*Chú thích:
[Diendantruyen.Com] Vị Bắc Xuân Thiên Thụ
.

 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
610,854
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 21: 21: Phương Hồn Thệ





(*Phương hồn - 芳魂 là linh hồn của những người đáng quý cao thượng, thệ là từ trần)
Trường Lưu bị động tĩnh trong nhà đánh thức, cậu mặc trung y phong phanh đứng ở đầu giường Lý nương tử, mặt hoảng hốt nhìn mẹ mình.

Người mẹ vừa tối nay thôi còn dịu dàng nói chuyện cười đùa với mình, giờ phút này lại nhắm nghiền hai mắt, mặt hệt tờ giấy vàng, tiều tụy như phiến lá úa tàn, gió lạnh thổi cái là hóa thành bột mịn theo gió bay đi.

Thầy Hồ bước từ trong phòng ra, vẫy tay với Lý Vị: "Tạm thời sắc chén thuốc cho Lý nương tử uống rồi ngủ một giấc, sáng mai kiểm tra tiếp."
Hai người đi vào góc tối, thầy Hồ nói nhỏ: "Lý huynh, không phải anh không biết chứng khí huyết tắc nghẽn của phu nhân.

Lúc trước sinh nở lại suy nhược nhiều, đến ngày hôm nay, máu tụ trong ngũ tạng, tâm dương hư, gan phổi bị tổn hại...!Y thuật của lão hủ có hạn, sợ là vô năng vô lực." Ông ấy lắc đầu, "Nói gì mà y sư cứu người, diệu thủ hồi xuân, giờ tôi chỉ biết làm hết sức mình, còn mọi việc phải nghe theo ý trời thôi."
Sắc mặt Lý Vị nghiêm trọng, sau khi cảm ơn thầy thuốc, hắn lặng lẽ đứng trong sân một lúc, ngửa đầu thấy trời rét đen như mực, không trung mênh mang, tinh tú như đóng băng lại.

Xa xa có ánh sáng nhạt mịt mù, chỉ cảm thấy bản thân mình như bụi trần hạt cát, nhỏ bé yếu ớt.

Từ đêm đó Lý nương tử ốm không dậy nổi, đến nước cũng khó uống.

Mấy ngày liền Lý Vị mời rất nhiều thầy thuốc, Hán y Hồ y có cả, có điều người nào tới nhà thăm khám cho bệnh nhân cũng đều lắc đầu, ý kiến về cơ bản chẳng khác là bao so với thầy Hồ.

Lý nương tử uống bao nhiêu dược liệu trân quý, nhưng hao nhiều hơn bổ, đến lúc này đã không còn thuốc nào chữa khỏi.

Trường Lưu xưa nay ngoan ngoãn hiểu chuyện, từ sau khi Lý nương tử ngã bệnh, cậu nhóc không đi ra khỏi nhà nửa bước, làm tất tần tật những việc mình có thể làm, bưng trà rót nước, trông mẹ cậu uống thuốc rồi ngủ, sợ Lý nương tử xảy ra chuyện gì dù chỉ là một chút xíu.

Bệnh của mẹ cậu, tuy Lý Vị chưa bao giờ kể với cậu, nhưng từ nhỏ thấy mẹ như thế, cậu cũng tỏ tường.

Có đôi lúc Lý nương tử tỉnh lại giữa cơn mê man, thấy Trường Lưu bên cạnh trông mình, sợ hãi gọi một tiếng "mẹ", lòng dạ đau xót cùng cực.

Lục Minh Nguyệt nghe chuyện đêm tết Nguyên Tiêu của Lý nương tử, vội vàng chạy sang, vào cửa Lý gia, thấy mặt mũi người nào người nấy cũng đều khó coi.

Triệu đại nương thấy Lục Minh Nguyệt, lén đưa ống nhổ trong tay cho Lục Minh Nguyệt xem, chị nhìn máu đỏ tươi trong ống nhổ, giật mình cả kinh, thực không ngờ bệnh tình lúc này của Lý nương tử nặng như thế.

Vào nhà thấy Lý nương tử nằm giữa giường, dáng vẻ vô cùng suy yếu, chị buồn bã khôn xiết, hốc mắt ươn ướt: "Mới có mấy ngày mà sao lại ốm cỡ này rồi."
Lý nương tử vươn bàn tay run run, gượng nở nụ cười, giọng khàn khàn: "Bao nhiêu năm qua, em chưa từng thấy chị rơi giọt nước mắt nào.

Giờ...!ngay cả chị cũng khóc nữa..."

Lục Minh Nguyệt lau khóe mắt, cười khúc khích: "Chị khóc hồi nào chứ.

Chỉ là nghe bảo cô bị ốm, sốt ruột chạy qua đây, không để ý nên đụng vào khung cửa nhà cô, bị gió thổi bụi vào mắt thôi."
Chị nắm tay Lý nương tử: "Có phải do ăn Tết rồi cô làm việc nhiều quá đâm kiệt sức không.

Lần nào chị cũng khuyên mà cô đâu chịu nghe, việc trong việc ngoài nhà mình khắc có người giải quyết, cô còn đâm đầu vào lo nghĩ.

Tuy nói là làm chủ mẫu, nhưng dầu gì cũng phải cho mình thư thái một chút, cứ thích làm gì cũng phải chỉn chu, kết quả là chuốc mệt vào người chứ được ích lợi gì."
"Nào lại thế chứ chị."
Hai người nói qua nói lại một lúc, Lục Minh Nguyệt nom thần sắc của Lý nương tử đã tái hẳn, chị dặn đi dặn lại, cuối cùng bước ra khỏi phòng.

Phía ngoài, Gia Ngôn ôm cả vai Trường Lưu, hai đứa nhỏ nghiêng đầu tựa cửa đứng thẳng, chị bước tới kéo Trường Lưu vào lòng, an ủi thằng bé.

Hàng xóm láng giềng lẫn họ hàng xa gần hay tin Lý nương tử đổ bệnh thì lục tục tới thăm.

Đều là người giản dị chân chất, không tặng được mấy thứ quà đắt đỏ thuốc thang quý báu, nhưng hễ trong nhà có món gì bổ cho người bệnh, phương thuốc cổ truyền, pháp khí khai quang, xua đuổi tà ma cũng đem tặng.

Trong nhà không nuôi gà vịt, mà bấy giờ gà vịt chật chuồng, thực phẩm bổ huyết bổ khí chất đầy bàn, thậm chí còn có cả một con dê nái do dân chăn nuôi dưới quê dắt lên, Triệu đại nương dở khóc dở cười ra khuyên dắt về.

Vết thương của Xuân Thiên đã lành, ban đầu nàng định chờ qua tết Nguyên Tiêu sẽ cáo từ Lý gia, khăn gói đi đến Ngọc Môn quan tới Y Ngô.

Ai ngờ bệnh Lý nương tử đột ngột trở nặng, nàng biết ân tình của Lý gia sâu nặng khó báo, lại kính mến cách đối nhân xử thế của Lý nương tử, nghĩ sẽ ở lại san sẻ chút sức non yếu của mình trong lúc Lý nương tử ốm đau, nên đã cố ý dời hành trình lại, cực nhọc ngày đêm chăm sóc Lý nương tử.

Triệu đại nương tay chân nhanh nhẹn, chính vì thế mà làm việc hơi ẩu, Tiên Tiên và Trường Lưu đều là con nít, nếu bàn về săn sóc cẩn thận, biết đoán ý qua lời nói sắc mặt, có lẽ không ai bằng được nàng.

Hết Tết, xuân về với đất trời, gió Hà Tây vẫn lạnh thấu xương, nước đóng thành băng, ông trời lại đổ một trận tuyết lớn.

Lý nương tử vừa uống hết thuốc, nặng nề chìm vào giấc ngủ.

Xuân Thiên và Trường Lưu canh cái lò than đất đun thuốc, Trường Lưu nhìn tuyết rào rào ngoài cửa sổ, lẩm bẩm: "Khi nào cha mới về?"
Xuân Thiên dịu dàng xoa đầu cậu; "Trước khi đi chẳng phải đại gia đã nói ba bốn ngày nữa sẽ về à, cố chờ đi."
Lý Vị ra ngoài mấy ngày chưa về, cách Cam Châu một trăm chín mươi dặm về phía Đông Bắc có hồ Cư Diên, phía ngoài hồ Cư Diên có một hồ muối trắng xóa.

Giữa hồ và hồ muối mọc một loại thảo dược gọi là Bác Địa Cân, loại thảo dược này sinh trưởng dưới lòng đất, mọc rễ chứ không có lá.


Thân rễ màu trắng dài mảnh, có công dụng cầm máu hộ tâm thần kì.

Một năm nó chỉ xuất hiện vào đầu mùa xuân, khi tầng đất đông cứng của bãi muối chưa tan và lớp băng của hồ Cư Diên đã hơi tan.

Đợi đến lúc thời tiết ấm lên, băng tuyết tan chảy, khắp bãi bùn sẽ biến thành mảnh đất kiềm không một ngọn cỏ, bởi vậy loại thảo dược này cực kỳ kiếm.

Lý Vị đang tìm nó.

Đêm khuya, người đã nghỉ, Xuân Thiên thức trông Lý nương tử.

Trong phòng mùi thuốc nồng nặc, Lý nương tử luôn cảm giác được vị đắng nghét ngập đầy cổ họng và bụng mình.

Xuân Thiên ra hiệu thuốc Bắc mua vài đồng băng phiến, cùng với phèn chua, cỏ bấc đèn, hoàng bách, thanh mộc, cho vào với nhau nghiền nát thành bột, đổ nước vào trộn, nặn hình tròn, kê lên bếp lò hơ.

Mùi thơm tự nhiên, có tác dụng an thần trấn hồn, hương thơm lành lạnh của băng phiến thoảng nhẹ, làm loãng đi mùi thuốc trong phòng rõ rệt.

Nàng đang ngồi dưới đèn mài thuốc, nghe thấy con Vàng sủa, tiếng cánh cửa kẽo kẹt lẫn với tiếng ngựa của Lý Vị hí truyền vào, thốt nhiên nàng nhớ tới câu thơ: Ngoài cửa sài chó sủa, đêm người về tuyết theo*.

(*Hai câu thơ trong bài "Phùng tuyết túc Phù Dung sơn chủ nhân" của Lưu Trường Khanh)
Có lẽ khó có đôi vợ chồng bình thường nào được như Lý Vị và Lý nương tử, quen nhau từ thuở dại, cả đời dìu đỡ, hắn có thể cùng cô ấy trải qua những tháng ngày bình đạm, cũng có thể vì cô ấy xuôi ngược bôn ba.

Xuân Thiên rất kính trọng Lý Vị, ngoài cha của mình, trong số những người đàn ông nàng từng gặp suốt mười sáu năm qua, nếu bỏ đi thân phận địa vị, tài hoa phú quý, thái độ làm người, với gia đình với thê tử, họa chăng là đều không bằng hắn.

Dù có tìm kiếm danh y kỳ dược khắp thế gian, chung quy vẫn chẳng thắng nổi mệnh trời.

Lý nương tử lúc khỏe lúc yếu, ngày nào cũng ngủ mê man, thỉnh thoảng lấy lại ý thức, thấy trượng phu và con trai ngồi bên cạnh, một nhà ba người hiếm khi có không gian yên tĩnh bên nhau.

Nỗi vướng bận về Trường Lưu trong lòng cô ấy càng thêm nhiều, tranh thủ lúc đầu óc minh mẫn, mỗi một chuyện đều phải căn dặn ổn thỏa.

"Trời rét nhớ mặc nhiều quần áo vào, thấy nóng cũng đừng cởi ra vội, dễ nhiễm gió lạnh đấy...!Nhớ phải ăn nhiều cơm, không được biếng ăn...!Đi học phải nghe lời thầy giáo dạy, ở nhà phải noi theo cha con mà làm việc..." Lý nương tử dặn tỉ mỉ việc nhỏ việc to, người ngoài chưa kịp nghĩ thì cô ấy đã lo liệu chu toàn.


Tình hình nhà cửa mười mấy năm về sau, hễ là cảnh tượng cô ấy có thể nghĩ đến, đều đem ra dặn dò Trường Lưu thật kỹ, chỉ sợ cậu đi sai bước nhầm, lầm đường lạc lối.

Xót thương thay tấm lòng từ mẫu trong thiên hạ, người làm mẹ có ai không suy nghĩ cho con của mình, có ai không yêu con, tình yêu như lòng biển sâu thẳm cùng đại dương bao la.

Có lúc Xuân Thiên nghe Lý nương tử dặn dò Trường Lưu mà lòng buồn bã.

Nhìn vật nhớ tình, nàng cũng hay nhớ về Tiết phu nhân - mẹ mình - yếu đuối, lương thiện, đa sầu đa cảm.

Nghe Trường Lưu nước mắt lã chã khóc rấm rứt trong lòng Lý nương tử, miệng gọi mẹ mãi không thôi, nàng cũng cầm lòng chẳng đặng thấy cay cay viền mắt.

Đã rất nhiều năm nàng không gọi Tiết phu nhân một tiếng "mẹ".

Vì tránh hiềm nghi, mỗi lần gặp Tiết phu nhân, mợ sẽ đưa mấy chị em khác theo cùng, lúc nô đùa ầm ĩ, ngay cả một câu cũng chả nói được với nhau.

Chỉ có bàn tay Tiết phu nhân đưa ra vào giây phút ly biệt, bàn tay ấy sẽ nắm lấy tay nàng rồi lén lút cho nàng vài món đồ, lúc thì là chiếc thoa cài đầu xinh xắn, lúc thì là vòng như ý do chính tay bà dệt, điều đó nhắc nhở bản thân nàng rằng nàng không giống những người chị em khác, đây là mẹ ruột của nàng.

Tính ra, đã có hơn một năm nàng không gặp Tiết phu nhân, thậm chí khi rời khỏi Trường An cũng chẳng hề cáo biệt.

Mười lăm tháng hai, người người đốt pháo hoa đón sấm ngày xuân.

Ngày này cũng là hội trăm hoa, phía Nam xuân ấm, hoa đã bắt đầu trổ bông, phương Bắc trời giá buốt, sông băng ngoài thành chưa tan, cây táo tàu già trong sân vẫn chưa có dấu hiệu thức giấc.

Lý nương tử ngủ li bì mấy ngày bị tiếng pháo đánh thức, mơ mơ màng màng hỏi những người trông trước giường: "Hôm nay là bao nhiêu tháng giêng rồi?"
"Nương tử, hôm nay đã là mười lăm tháng hai rồi."
Lý nương tử gật gật đầu, ho khan vài tiếng, nói: "Phải vào miếu dâng hương cho Phật tổ, khóa trường mệnh của Trường Lưu cũng nên đổi cái mới rồi."
Trường Lưu nắm tay cô ấy, đau lòng gọi tiếng "mẹ".

Cô ấy không nghe thấy, lại nhắm mắt thiếp đi mất.

Cuối tháng hai, trời hơi ấm, cột băng dưới mái hiên nhỏ nước tong tỏng.

Nằm trên giường hơn tháng, Lý nương tử mấy ngày liền chưa uống giọt nước nào hôm đó bỗng nhiên tỉnh táo tinh thần, vật lộn trên giường để ngồi dậy.

Người cô ấy gầy trơ cả xương, sức khỏe yếu cực kỳ, nước da vàng vọt mất đi vẻ tươi tắn, héo úa đến độ khác xa một người phụ nữ ba mươi tuổi.

Chỉ có đôi mắt vẫn đong đầy dịu dàng, trẻ trung, tràn đầy sức sống.

"Nhếch nhác quá, khiến đại gia chê cười rồi." Cô ấy tự mình xuống giường, "Đại gia mang hộ cái gương qua đây cho ta với, ta muốn rửa mặt chải đầu."
Lý Vị nhìn cô ấy chăm chú, mỉm cười bảo: "Minh Nguyệt khéo tay nhất, ta gọi cô ấy sang chải đầu cho nàng."

Lý Vị nhờ Xuân Thiên mời Lục Minh Nguyệt đến, vẻ mặt hắn như thường, giọng lại đầy kìm nén và mỏi mệt: "Đi mời Lục nương tử qua đây, gặp Vân tỷ...!sợ là lần gặp cuối cùng..."
Lục Minh Nguyệt hay tin, người ngả sang một bên, may có Hách Liên Quảng đỡ lấy.

Chị biết ngày tồi tệ sớm muộn gì cũng tìm tới Lý nương tử, nhưng mỗi một ngày trôi qua, đã qua bao nhiêu năm, cứ tưởng rằng Lý nương tử sẽ gắng gượng được qua mùa xuân này, sống qua một năm này, thậm chí là hai ba năm nữa.

Lý nương tử ngồi tựa trên giường lò ôm Trường Lưu tỉ tê, tuy mắc bệnh kinh niên nhưng gương mặt cô ấy lại chuyển đỏ.

Lý nương tử thấy Lục Minh Nguyệt đi vào, cô ấy còn có thể đứng dậy đón tiếp.

Hôm đó Lý nương tử uống mấy chén trà nhỏ, ăn mấy cái bánh đường, nói chuyện với mọi người một phen, đêm xuống mới về phòng nằm.

"Trời ấm, than trong lò đốt to quá, đi dập đi." Cô ấy nói như thế, "Tôi mệt rồi, phải nghỉ thôi."
Đêm nay, lòng người sợ hãi, không ai dám đặt đầu ngủ.

Thời khắc đêm sâu nhất, Lý nương tử lâm vào cơn mê, thì thào nói sảng, không nghe rõ là cô ấy đang nói cái gì, nhịp thở chợt dài chợt ngắn, sắc mặt hồng ửng khác lạ.

Trường Lưu không biết hồi quang phản chiếu*, ban sáng thấy mẹ mình khỏi bệnh rồi, mà sao tình trạng hiện giờ bỗng dưng xấu đi.

Lý Vị bưng chén thuốc qua, rót vào miệng Lý nương tử, Trường Lưu nắm chặt tay cô ấy: "Mẹ, mẹ, mẹ ơi, mẹ dậy đi..."
(*Hồi quang phản chiếu: Một người bệnh nặng, hoạt động sống cơ thể suy yếu bỗng bất ngờ trở nên hồi tỉnh, minh mẫn, cười nói hoạt bát, ăn uống khỏe mạnh một cách kỳ lạ trước khi qua đời - theo Wikipedia)
Cô ấy giãy giụa hồi lâu, thình lình mở choàng mắt, trông thấy Trường Lưu, cúi đầu thở dài một hơi: "Mẹ sợ là mẹ không thể nhìn con trưởng thành rồi." Lại tìm Lý Vị, kéo tay hắn mà rơi lệ: "Vị Nhi, chàng bảo trọng..."
"Thay ta chăm sóc Trường Lưu..." Giọng cô ấy càng lúc càng yếu, dần dần tắt ngúm, bờ môi và mi mắt run run, không thốt ra được lời nào.

Lý Vị từng chứng kiến vô số sinh tử, hắn hiểu ngày này trước sau gì cũng đến, ngữ khí hết sức bình tĩnh: "Được."
Cổ Lý nương tử phát ra mấy tiếng khàn khàn mơ hồ, Triệu đại nương hoảng loạn đẩy Trường Lưu ra ngoài cửa, luôn miệng gọi Lục Minh Nguyệt.

Trường Lưu sụp vai đứng bên cạnh, người lớn trong phòng qua lại như chong chóng, bưng nước rót thuốc, tìm tấm khăn sạch sẽ để lau đi vết máu.

Trường Lưu nghe, môi run bần bật, sự mờ mịt lấp dần đầy trong đôi mắt thằng bé, tựa con chim non với đôi cánh nhỏ bé rơi xuống từ trên cây.

Xuân Thiên đứng kề vai với cậu, nắm chặt lấy bàn tay không ngừng run của cậu.

Một lúc rất lâu, có lẽ là không lâu lắm, có lẽ chỉ trong vòng nửa hay một nén nhang, tiếng khóc kéo dài của Triệu đại nương chợt vang lên trong màn đêm.

Tiếng nấc nghẹn ngào của Trường Lưu cũng bật ra khỏi cổ họng.

(còn tiếp).

 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
610,854
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 22: 22: Một Năm Xuân





Tiếng mõ báo tang đã vang lên trong hẻm Người Mù, mọi người đến rất nhanh, những ngọn nến trắng như tuyết cháy le lói ảm đạm.
Tiếng khóc của phụ nữ trong phòng cứ nối liền nhau.

Ngoài ra, chẳng cần ai chỉ huy, các bà các chú tới lui tất bật, thu dọn quần áo, người nào làm việc người nấy, chuẩn bị đầy đủ toàn bộ những thứ cần thiết cho tang lễ.

Sinh lão bệnh tử, chung quy cũng đâu khác gì những chuyện bình thường khác đâu.

Đứng ở góc phía Tây Bắc của viện, Lý Vị cầm bộ xiêm y Lý nương tử hay mặc nhất lúc còn sống, ngửa đầu hô thật lớn tên của Lý nương tử.

Hắn hô rất lớn, âm cuối thậm chí có hơi khàn khàn, đây là chiêu hồn, mục đích rằng hy vọng linh hồn người chết nghe thấy tiếng gọi để trở về.

Xuân Thiên chăm chú nhìn tấm lưng người đàn ông, hắn mặc bộ quần áo đen đã cũ lắm rồi, luồng sáng trắng não nùng đổ xuống từ mái đầu, phảng phất cảm giác thê lương lạnh lẽo.

Nghe hắn hô mà lòng nàng chua xót tê dại, nàng hy vọng biết bao ngay bây giờ Lý nương tử có thể tỉnh lại, nghi thức thế kia sẽ kết thúc tại đây, trong nhân sinh của nàng sẽ không ai rời khỏi, không ai chết đi, không còn nỗi đau đớn nào cứa vào nội tâm yếu ớt và mẫn cảm của nàng nữa.

Lý nương tử vẫn nằm im lìm, tiếng khóc như sóng cuộn trào, khiến người ta sốt ruột, càng về lâu thì cả thể xác lẫn tinh thần đều bị cơn mỏi mệt nhấn chìm.

Linh đường nhanh chóng được sắp xếp, các cô các thím ba chân bốn cẳng kéo Trường Lưu, Xuân Thiên và Tiên Tiên qua, mặc lên người chiếc áo tang dệt bằng sợi gai dầu.

Trong phòng, Lục Minh Nguyệt cùng Triệu đại nương đang khâm liệm cho Lý nương tử, ngoài phòng Trường Lưu khóc đến độ không tài nào dằn nén nổi, chẳng ai ngăn cản cậu, lau nước mắt cho cậu, dịu dàng an ủi cậu, cậu đang gào khóc vì người yêu thương cậu nhất trên cõi đời này.

Người phúng viếng lục tục tới, khoảng sân không rộng lắm giờ đây chật ních người, nghi thực rườm rà trang trọng, Lý Vị và Trường Lưu lần lượt quỳ lạy đáp tạ, đón tiễn như lễ.

Trường Lưu khóc một thôi một hồi, quỳ dưới linh đường không biết mỏi, ban đêm cậu lên cơn sốt cao, hai má đỏ phừng phừng, cặp mắt đẫm lệ sưng phù hệt quả hạch đào.

Cậu kiên quyết ở lại linh đường, người khác khuyên lơn cỡ mấy cũng chẳng chịu nghe, Gia Ngôn cuống cuồng, chợt quỳ phịch hai gối xuống đất: "Mẹ cậu là mẹ tôi, mẹ tôi cũng là mẹ cậu.

Tôi cũng là con của cô Lý, đêm nay tôi trông ở đây, cũng là con trai trông mẹ mình, giống y như cậu thôi."

Lục Minh Nguyệt và đau lòng vừa vui mừng, chị luôn cho rằng Gia Ngôn bướng bỉnh, chưa bao giờ nghĩ cậu nhóc sẽ nói ra được những lời tri kỷ như vậy.

Chị vội ôm lấy Trường Lưu, mắt rưng rưng, vừa dỗ vừa khuyên thằng bé, cuối cùng Lý Vị mời thầy Hồ qua, bắt cậu phải về phòng nghỉ ngơi.

Trường Lưu sốt cao không giảm, đêm mơ mơ màng màng gọi mẹ, Xuân Thiên thay nước đút thuốc cho cậu, cũng thức trắng nguyên đêm.

Trường Lưu nói mớ, vươn đôi bàn tay nhỏ bé bất lực quờ quạng trong không khí, như thể đang nắm góc áo của Lý nương tử, gọi to: "Mẹ, mẹ ơi, mẹ đừng đi."
Cậu nhắm nghiền mắt khóc nức nở, nước mắt thấm đẫm gối đầu, Xuân Thiên hết cách, chỉ đành nắm hai tay cậu ủ vào lòng mình, nhẹ nhàng vỗ về đứa nhỏ.

"Trường Lưu, chị ở đây, đừng khóc, đừng khóc...!chị ở đây." Sau đó nàng thấp giọng ngân nga một giai điệu nhỏ, mơ mơ hồ hồ, không nghe rõ ca từ, chỉ cảm giác ngữ điệu đầy du dương mềm mại, cậu được tiếng hát ấy xoa dịu, dần yên ổn trở lại.

Khi trời hẵng chưa tỏ, mọi người gác đêm đã sức cùng lực kiệt, nhạc tang tiếng khóc đã dừng, nàng bưng chậu vào bếp thay nước, bắt gặp Lý Vị vẫn quỳ gối trong linh đường, ngọn lửa màu vỏ quýt thiêu đốt đống tiền giấy.

Nàng đứng bên ngoài một chốc, không biết nên an ủi thế nào, sau cùng lặng lẽ rời đi.

Trưởng Lưu dậy, thấy Xuân Thiên cau chặt hàng mày dài, lim dim tựa vào giường, tay hãy còn nắm tay cậu, cậu không dám lên tiếng quấy rầy, chỉ lẳng lặng nằm trên giường nhìn đỉnh màn.

Nàng cũng mơ, rồi bỗng dưng giật mình choàng tỉnh, đập vào mắt là hai con ngươi hằn đỏ của Trường Lưu trông sang.

Bức màn trắng thuần và cách bày biện xa lạ, bấy giờ nàng mới ý thức rằng mình đang ở Lý gia, nhạc tang ngoài cửa vẫn thổi cho Lý nương tử, cũng chả phải là linh đường của cha nàng.

"Dậy rồi à?" Xuân Thiên duỗi tay xoa trán Trường Lưu: "Còn nóng này, có khó chịu không?"
Trường Lưu khịt mũi, lắc đầu, giọng có hơi khàn: "Không ạ."
Cậu muốn xuống giường, nhưng lại được Xuân Thiên vòng tay qua hông ôm xuống, "Để chị mặc đồ cho em."
Trường Lưu ngửi mùi thơm trên người Xuân Thiên, sắc mặt thoắt đỏ.

Con trai mười hai tuổi, chiều cao vẫn chưa phát triển, áng chừng thấp hơn Xuân Thiên một cái đầu.

Tình tình cậu trầm tĩnh hướng nội, ít trò chuyện với những bạn gái cùng tuổi, hẳn là vì không hiểu cái gì gọi là tình yêu nam nữ.


Nhưng dù cậu hay ngượng ngùng khi đối diện với con gái, nhưng cậu vẫn mến Xuân Thiên.

Người chị lớn hơn cậu vài tuổi này, có hiểu biết có lòng gan dạ, xinh xắn điềm đạm, âu sầu đáng thương, lúc cậu nhìn vào mắt Xuân Thiên, sẽ cầm lòng không đặng mà sinh ra xúc động muốn bảo vệ nàng.

Ngày chôn cất Lý nương tử, bầu trời âm u, giữa chừng thì mưa rơi tí tách.

Ngày xuân của Hà Tây khoan thai đến muộn, cơn mưa lúc này đẩy lùi khí lạnh, làn gió cũng trở nên mềm mại, sông băng tan, những mầm non mới nhú khắp mặt đất ngoài thành, tuyết như gột rửa quả núi, đẹp đẽ gợi cảm.

Vãn lang* đi cuối hàng ngũ, khản giọng xướng ca, bài ca phúng điếu: "Sương trên hẹ, dễ mà tan..." Nghe nước mắt rơi, người thân đau đớn.

Lục Minh Nguyệt bước đi giữa đoàn người đưa ma, thấy Lý Vị nắm tay Trường Lưu ở đằng trước, lòng muôn vàn cảm khái.

Một vốc hoàng thổ, một chén rượu, mộ phần mới đắp tựa trăng tròn, người nhắm mắt xuôi tay là xong hết mọi chuyện, người còn sống tiếp tục giày vò, đợi Thanh minh hằng năm lại đến thắp hương đưa rượu, cúng mộ vong linh.

(*Vãn lang: chỉ người thiếu niên dẫn quan tài hát bi ca trong tang lễ, phổ biến từ thời Ngụy Tấn đến thời Đường)
Thần sắc Hách Liên Quảng bình tĩnh, nhờ có ống tay áo che khuất, hắn nắm tay chị, mặc cho chị giãy hoài chẳng ra.

Hắn nghĩ, chị là góa phụ của anh cả hắn, năm ấy phải chăng cũng như thế, khoác tấm áo tang, kèn thổi nẫu ruột, nắm tay Gia Ngôn bước trong mưa sầu gió tủi.

Nghĩ một phần, mà lòng hắn đã quặn thắt mười phần.

Xuân Thiên đã tính toán rất nhiều ngày, hôm nay một mình nàng ra cổng phường, đến lầu Khai Nguyên thành Cam Châu.

Lầu Khai Nguyên không quá sôi nổi, tuy nhiên kinh doanh rất phát đạt, lại cũng là chi nhánh Đoàn gia mở ở Hà Tây, chủ quản là Tào Đắc Ninh.

Ông ta đã về từ Trường An, hôm nay có một lượng lớn trà thơm Giang Hoài sắp vận chuyển tới, đã hẹn với người Hồ của thành Điển Hợp đến xem hàng, bán sang phía Tây.


Đồ Nhi ở sân trước chạy ba bốn chuyến, nói là có tiểu cô nương muốn gặp ông ta.

Tào Đắc Ninh nhủ bụng, thừa dịp rỗi rãi ra ngoài xem thử, thấy là một cô nương lạ mặt, ông ta nhìn kỹ lại lần nữa thì nhận ra đây chính là thiếu nữ Lý Vị cứu ở Hồng Nhai Câu lần trước.

Tào Đắc Ninh có phần ngờ vực, bước lên chắp tay chào, tủm tỉm bảo: "Tiểu nương tử, vết thương của cô lành cả rồi chứ?"
Xuân Thiên gật đầu, hành lễ cảm ơn ông ta: "Đa tạ ơn cứu mạng ngày đó của lão bá." Nàng hơi dừng, mím môi hỏi: "Xin hỏi, Đoàn công tử về Cam Châu chưa ạ?"
Tào Đắc Ninh tưởng nàng tìm tới Đoàn Cẩn Kha là để nói cảm ơn, nhưng rồi lại thấy không giống lắm, lắc đầu: "Nửa năm này e là Nhị công tử nhà ta không tới, nữ làng tìm Nhị công tử...!có chuyện gì sao?"
Xuân Thiên đắn đo mãi, không biết nên mở miệng thế nào, trong sự phân vân, nàng hỏi: "Có phải Đoàn công tử quen với đương kim Tĩnh vương không ạ?"
Tào Đắc Ninh chẳng ngờ nàng sẽ nói như vậy, chợt như có đá đập loạn xạ trong bụng: "Tĩnh vương mà tiểu nương tử nói...!là Tĩnh vương nào?"
Xuân Thiên sững sờ, tiếp lời: "Cả thiên hạ chỉ có một Tĩnh vương gia, phủ đệ ở phường Vĩnh Yên thành Trường An, từng chưởng quản quân Thượng Nguyên, hiện giờ là Tĩnh vương gia nắm quyền quản lý mọi việc công bộ...!Lúc Đoàn công tử cứu tôi, tôi nhớ loáng thoáng, Đoàn công tử có nhắc với người khác về lão vương phi của Tĩnh vương phủ."
Nàng nhớ rõ, khi đó có người người, lão vương phi của Tĩnh vương phủ sắp làm lễ mừng thọ, Tĩnh vương phủ đang chờ mẻ vải Hải Tây để cắt tạo kiểu mẫu.

Trong lúc nửa tỉnh nửa mê, lời ấy lọt vào tai nàng, nhất thời nàng nóng ruột, muốn quay về Trường An, mới phun ra một búng máu.

Vài năm gần đây quan hệ giữa Đoàn gia và Tĩnh vương phủ khá khăng khít, vị cô nương này trông có vẻ kỳ lạ, Tào Đắc Ninh thầm nghĩ.

Cậu Kha từng dặn ông ta hỏi Lý Vị xem tình hình cô nương được cứu lên kia thế nào rồi, Lý Vị chỉ trả lời là con của gia đình bình thường, không hề đề cập tới điều khác.

Nghi hoặc trong Tào Đắc Ninh mỗi lúc một lớn, ngữ khi ông ta dịu đi: "Xin hỏi tiểu nương tử là..."
"Tôi và Tĩnh vương...!có chút quan hệ sâu xa..." Xuân Thiên rũ mi, giọng khe khẽ: "Tôi có thân nhân là người của Tĩnh vương phủ, có điều ở xa nên lâu rồi chưa liên lạc.

Tôi nghĩ...!nếu Đoàn công tử có quen biết với Tĩnh vương phủ, có thể nào chuyển lời giúp tôi..."
Nàng cắn nhẹ môi, cúi đầu nói: "Tôi biết như vậy là hết sức mạo muội, yêu cầu quá đáng, xin chớ trách móc."
"Xin hỏi...!tiểu nương tử họ gì?" Tào Đắc Ninh cười nói, "Họ xưng thế nào?"
"Tôi họ Tiết." Xuân Thiên đáp, "Là cô của tôi...!một vị phu nhân của Tĩnh vương, người trong phủ gọi cô ấy là Tiết phu nhân...!Cô có người anh cả, là viên ngoại lang Hộ bộ ti môn."
"Là vị Tiết phu nhân đó ư?" Tào Đắc Ninh vuốt chòm râu dài.

Thành Trường An có ai không biết, Tĩnh vương mừng có quý tử, hồi cuối tháng giếng vừa làm đầy tháng cho con trai cả, tiệc rình rang khách khứa đông vui, ngay cả hoàng thượng cũng ban thưởng tiền cho em bé.

Nghe nói vị Tiết phu nhân này tài mạo song toàn, Tĩnh vương yêu như châu báu, "Chính là Tiết nương tử của nhà thị lang Hộ bộ Tiết Quảng Hiếu, năm ngoái sinh con trai cho vương phủ?"
Sắc mặt Xuân Thiên thoắt biến đổi, hồi lâu mới thốt lên lời: "Đúng vậy..."
Tào Đắc Ninh cười nói: "Hóa ra là thế." Tào Đắc Ninh gọi người pha trà bưng kẹo lên, "Vẫn chưa biết tục danh của tiểu nương tử, mời ngồi, ta sẽ đi viết thư cho Nhị công tử nhà ta."
Tâm trí Xuân Thiên bấy giờ chỉ xoay quanh ba chữ "sinh con trai", nàng hỏi: "Cô của tôi...!sinh con trai cho vương phủ ư...!Sao tôi không biết gì cả..."

"Cuối năm ngoái Tiết nương tử đã hạ sinh trưởng tử cho Tĩnh vương, đứa bé chào đời ngay đúng vào đêm ba mươi."
Xuân Thiên chỉ thấy đầu óc mình trống rỗng, đờ đẫn cả nửa buổi trời, mặt mũi tái nhợt: "Vậy à...!tôi lại không biết gì hết..."
Nàng gắng cười cười, đứng dậy quay gót đi thẳng.

Tào Đắc Ninh đuổi theo nói gì đó với nàng, mà hai tai nàng như bị ù đi chẳng nghe thấy, phất tay áo bước ra ngoài, Tào Đắc Ninh gọi với theo: "Tiểu nương tử, tiểu nương tử, cô chậm đã, cô muốn chuyển lời gì..."
Nàng đi gấp gáp, lại không biết phải đi hướng nào, lồng ngực như có tảng đá đè nặng, chẳng thể hít thở.

Ba năm trước hoàng thượng hạ chỉ kê biên tài sản Vi gia, Vi Thiếu Thông tự sát, nàng xin cậu đưa mẹ về nhà.

Khi ấy cậu lo ngay ngáy, không dám có tí dính dáng gì tới Vi gia, nên đã bỏ ngoài tai lời thỉnh cầu của nàng.

Một năm sau, mẹ trở thành Tiết phu nhân sang đẹp cao quý, Tĩnh vương phủ tặng rất nhiều đồ tốt, sau đó đường làm quan của cậu được suôn sẻ hơn.

Có điều, mẹ nàng lại biến thành cô của nàng, nàng thành con gái của cậu, gọi cậu mợ là cha mẹ.

Nàng hiểu nỗi khó xử của người lớn, nơi này là Tĩnh vương phủ, mẹ nàng được thương yêu vô cùng, thế nên xét về gia thế xuất thân, càng phải trong sạch.

Thời gian đầu ở Tĩnh vương phủ, cô luôn buồn rầu sầu muộn, thường lúc nào trông thấy nàng bà mới để lộ nét cười.

Dần dà về sau, số lần cô nhắc tới Tĩnh vương càng ngày càng nhiều, cô bắt đầu làm xiêm y giày vớ cho Tĩnh vương, số lần cô gặp nàng càng ngày càng ít.

Nàng nghĩ, có lẽ cô đã quên cha từ lâu rồi.

Đầu năm ngoái, nàng quyết tâm đi về phía Tây, bao nhiêu lần ngỏ lời với mợ rằng nàng muốn đến vương phủ thăm cô, là bấy nhiêu lần bị từ chối thẳng thừng.

Mợ nói phu nhân yếu người, không tiện gặp khách.

Chính từ lúc đó, cô đã mang thai.

Cuối cùng, cô thực sự là cô nàng, biến thành thê tử của người khác, mẹ của đứa trẻ khác.

(còn tiếp).

 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
610,854
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 23: 23: Tỏ Nỗi Lòng





Xuân Thiên đứng một lúc trên con đường nhộn nhịp rộn ràng.

Bên tai, trước mắt là phố xá, tiếng nói và dáng điệu xa lạ của những con người đất khách.

Lướt nhẹ qua mặt là hơi thở mùa xuân trong trẻo se se lạnh, chứ không phải cơn mưa xuân ở ngôi lầu nhỏ cùng những rặng hoa hạnh trong ngõ hẻm sâu hút mà nàng quen.

Nàng biết mình là người tùy hứng và bướng bỉnh.

Có điều, chứng kiến nỗi khổ tâm của Lý nương tử, nàng cũng sẽ nhớ lại sự dịu dàng của mẹ dành cho mình.

Liệu mẹ nàng có lo lắng cho đứa con gái không biết tung tích hay không, liệu có ngóng trông nàng về nhà...!Nhưng có lẽ, nàng đã trở thành một sự tồn tại có cũng được, không có cũng chẳng sao rồi...!
Xuân Thiên bất đắc dĩ cười cười.

Ngày hôm đó đúng buổi chợ phiên, cách đó ít xa là thông thương, tiểu thương Hồ Hán tới lui tấp nập.

Trời ngày một ấm lên, chính là thời điểm thuận lợi để buôn bán vải lụa gấm vóc.

Ven đường có cửa tiệm Hồ bán châu báu trang sức, tiểu nhị đứng ngoài cửa tiếp khách là người Hồ mắt nâu mũi rộng, cười híp mắt vẫy tay chào Xuân Thiên sau đó xổ một tràng tiếng Hán lưu loát: "Cô nương, ngọc Vu Điền, mã não Lạt Ma của dân tộc Thổ Phiên, thạch anh thủy tinh, ngọc tê giác, dạ minh châu, toàn là hàng hảo hạng, mời cô vào xem thử."
Xuân Thiên do dự một lát rồi quyết định bước vào, nàng lấy từ trong tay áo ra một tấm khăn trắng, nói với chủ tiệm: "Chủ tiệm, tôi muốn bán ngọc."
Chủ tiệm là người Ba Tư râu bạc mắt xanh, ông ta nhìn quần áo nàng sạch sẽ mộc mạc, không đeo vòng gài trâm, thì nở nụ cười bảo: "Cô nương, chỗ chúng tôi không phải hiệu cầm đồ, cô đi dọc đến cuối con đường này, sẽ thấy một hiệu cầm đồ Trường An lâu đời."
Đôi khuyên tai bằng ngọc xanh trong của nàng đã tháo xuống từ lâu, nàng giở tấm khăn ra cho chủ tiệm xem, "Chủ tiệm, ông xem cái này tầm bao nhiêu tiền?"
Chủ tiệm liếc nhìn khuyên tai trong tay nàng, khẽ hít vào một hơi, nhận lấy ngắm nghía cẩn thận.

Mặt khuyên to khoảng bàn tay trẻ con, màu như nước mùa xuân, trông hình dáng tựa bông tuyết, là loại ngọc bích Vu Điền cực phẩm, kích cỡ thế này, đúng là khá hiếm gặp.

Chủ tiệm quan sát nét mặt nàng, lật lên lật xuống chiếc khuyên, hồi lâu sau mới chậm chạp giơ ngón tay ra dấu: "Mười phiếu trà."
Xuân Thiên nhíu mày, giả vờ bỏ đi, chủ tiệm vội vàng kéo lại: "Cô nương, cô nương, có gì từ từ nói, tôi thêm mười phiếu, tổng cộng là hai mươi phiếu trà, vậy đã được chưa?"
"Hai trăm phiếu."
Chủ tiệm trợn mắt há hốc, loạng choạng kêu lên: "Bà trẻ của tôi ơi, hai trăm phiếu, quan trung còn đánh thuế đấy, cô thế này là làm khó cái thân già tôi rồi.

Cô nương, chất lượng ngọc của cô không cao lắm, nom cũng là đồ cũ, đem đi bán cũng chả được giá ổn, lấy đâu ra tận hai trăm phiếu." Chủ tiệm Ba Tư vểnh râu, cái bụng phệ nệ vì tức giận mà phình ra như cái trống, "Năm mươi phiếu."
Nàng không rành về ngọc, nhưng vẫn biết ngọc này của Tĩnh vương phủ, nghiễm nhiên là đồ tốt.

Tiết phu nhân sai người đưa ngọc đến nhà, nói là quà sinh nhật Tĩnh vương tặng nàng, dò thăm ý nàng.

Nàng nhớ khi đó chị cả Bích Ngọc thích nó cực kỳ, bị mợ la rầy một phen mới vội cầm vào phòng nàng.

Chủ tiệm có ý với món đồ, Xuân Thiên sầm mặt không chịu, rốt cuộc đôi bên đi tới thống nhất mặc cả bằng hai trăm phiếu trà.

Tiếc thay cho miếng ngọc trị giá nghìn lượng bạc, sau cùng lại rơi vào tay chủ khác với số tiền bọt bèo.

Tào Đắc Ninh thấy rất kỳ, từ sau khi Xuân Thiên về, càng nghĩ ông ta càng có cảm giác lạ lùng.


Bản thân ông ta tất nhiên chưa bao giờ gặp mặt Tiết nương tử của Tĩnh vương phủ.

Năm ngoái lão vương phi nhà Tĩnh vương mở tiệc chúc thọ, ông ta theo cậu Kha đi đưa danh sách quà biếu cho vương phủ, Tĩnh vương nhìn trúng chiếc lông vũ dệt kim ngũ sắc của Cao Xương quốc, đặc biệt chọn ra đưa qua hậu viện.

Nghe ý của quản gia vương phủ, trong phủ có vị Tiết phu nhân sắp lâm bồn, vương gia đau lòng hết sức, ngày ngày chọn lựa bao đồ tốt tặng cho Tiết phu nhân.

Nhưng tiểu nữ lang hôm ấy gặp ở Hồng Nhai Châu tại sao lại có dây mơ rễ má với Tiết phu nhân.

Trời cao đất rộng, thực sự có chuyện trùng hợp vậy ư.

Nói là cháu gái và cô, đây là mối quan hệ họ hàng thế nào, chưa từng nghe ai bảo Tiết đại nhân có anh em gì cả, chỉ e nữ lang này đang giở trò bịp bợm cũng không chừng.

Tào Đắc Ninh nghĩ trước nghĩ sau, mài mực đặt bút viết, rồi gọi bồ câu truyền thư đến Đoàn gia Trường An.

Xuân Thiên nhận phiếu trà, lang thang ở chợ nửa ngày trời nên về hơi muộn.

Sắc đen nhá nhem dần thay thế khoảng trời chiều, nàng đi tới đi lui trong ngõ, chợt tình cờ gặp Lý Vị ở đằng trước.

Thất đầu của Lý nương tử đã qua, Lý Vị cởi bỏ áo tang, quấn sợi gai trắng quanh eo, nhìn nàng từ trên xuống dưới, hỏi: "Cô đi đâu thế?"
"Ra ngoài đi vòng vòng thôi ạ." Nàng thấp giọng đáp, hỏi lại, "Đại gia đi đâu giờ này?"
Lý Vị không trả lời, dẫn nàng đi bước dài bước ngắn trong hẻm Người Mù.

Xuân sang lá cây đâm chồi nảy lộc, màu xanh mới lặng lẽ lan ra đầu tường.

Vì Lý gia có tang, đèn lồng trắng treo xuôi con đường hẻm, cành lá mỏng manh hư ảo nhẹ nhàng đong đưa trong làn gió đêm.

Gió xuân tháng tư mềm mại thổi qua người nàng, bỗng dưng nàng thấy đầu óc tỉnh táo hẳn lên.

Lý Vị ở phía trước, nàng ở phía sau, hai người bước đi chẳng ai nói câu gì.

Xuân Thiên vuốt men bờ tường, nhìn bóng lưng hắn, bỗng nàng cất tiếng: "Đại gia, hôm nay tôi đến lầu Khai Nguyên, vốn định tìm Đoàn công tử, nhờ ngài ấy chuyển lời giúp tôi."
"Đoàn công tử không có ở đây." Giọng hắn vững vàng, "Nếu cô có việc thì tìm Tào đại gia cũng được, như nhau cả."
Nàng khẽ đáp: "Tôi biết."
Tự dưng nàng thấy tẻ ngắt, cúi đầu lê bước theo sau Lý Vị.

Lý Vị ngoảnh lại, thấy nàng buồn buồn buông mắt, hắn nghĩ ngợi, cuối cùng vẫn dừng chân, hỏi nàng: "Cô tìm Đoàn công tử muốn nói chuyện gì?"
Nàng hít hơi thật sâu, lắc đầu.

"Không muốn nói à?" Lý Vị xoay người, cặp mắt đen nhánh chứa ý cười nhìn nàng.

Đã không còn dáng vẻ yếu ớt với hàm răng sắc nhọn cắn vào tay hắn hồi đầu năm khi mới gặp, gió đêm chờn vờn lùa qua ống tay áo nàng, đúng là đậm nét thanh xuân tươi trẻ tốt đẹp.


Xuân Thiên nhỏ giọng trả lời: "Tôi không biết nói từ đâu cả."
Hắn nói: "Cô nên về Trường An đi.

Vài ngày nữa có thương đội quay về Trường An, ta sẽ nhờ người quen chiếu cố cô, cô cứ đi theo họ về nhà."
Rốt cuộc hắn bảo: "Cô một thân một mình, lại chưa trải qua nhiều chuyện, Bắc Đình không phải nơi cô nên đi.

Có một số chuyện không phải việc của cô."
Nàng không chịu: "Nếu tôi đã tới đây...!trừ phi chết, bằng không sẽ không có chuyện trở về."
Lý Vị lắc đầu: "E là Bắc Đình sắp bùng nổ chiến tranh, thậm chí Hà Tây cũng đã nổi sóng rồi.

Nơi cô muốn đi lại là đất Hồ, chuyện phát sinh dọc đường đi cô không tưởng tượng nổi đâu."
Nàng đọc qua rất nhiều bút ký của tiền nhân và quan trung về vùng Bắc Đình Tây Bắc, nơi mà tuyết đổ cả đông lẫn hè, gió độc và nắng như thiêu đốt, cát sỏi bay tứ tung, hài cốt vương vãi khắp dưới đất.

Khoảnh khắc lên đường, lòng nàng cũng từng dao động, thiếu nữ vô tri đi từ cẩm tú khuê các ra làm cách nào để đối mặt với thế giới rộng lớn hoang vắng kia.

Thế nhưng đi đến bước đường này, nàng sớm đã không còn sợ hãi điều ấy nữa.

Nàng im lặng hồi lâu.

Hắn nhẹ nhàng thở dài, cũng trầm mặc bấy lâu, nhưng cuối cùng vẫn nói ra lời trong lòng: "Đô úy Tiểu Xuân dưới suối vàng biết cô muốn đi, chỉ sợ không yên tâm nổi."
Thình lình nàng ngẩng phắt đầu, cơ thể run rẩy, nhìn hắn chằm chằm, lại thấy được mỗi gương mặt hắn khuất trong bóng tối lờ mờ, đường nét như dao gọt hiện lên mơ hồ.

Nàng chạm tay vào bức tường gạch nung, sự thô ráp khiến đầu ngón tay đau nhói, nàng cắn môi dưới: "Đại gia biết tôi? Biết cha tôi?"
Hắn đáp: "Ta và đô úy Tiểu Xuân có duyên gặp nhau một lần, may mắn được nghe kể về câu chuyện của ông ấy..."
Giọng Lý Vị trầm trầm, có phần mệt mỏi: "Khi ấy đô úy Tiểu Xuân nhậm chức kiêu kỵ úy của quân Y Ngô, đóng quân ở Y Ngô Cam Lộ Xuyên.

Đó là vào mùa đông năm Cảnh Nguyên thứ sáu, thời tiết rét căm căm, rất nhiều dê bò của dân du mục bị cóng chết.

Đột Quyết kéo quân tiến xuống phía Nam quấy rối, đô úy Tiểu Xuân dẫn một nhánh kỵ binh tinh giáp gồm hai trăm người, không nhận quân lệnh, tự tiện tấn công doanh trại của địch.

Dù tiêu diệt được kha khá kỵ binh Đột Quyết, nhưng kỵ binh của Cam Lộ Xuyên cũng tổn thất nặng nề.

Kể từ đó, quân Y Ngô liên hợp với quân Mặc Ly đóng giữ ở Qua Châu tiến hành đánh gọng kìm quân Đột Quyết, khiến quân Đột Quyết buộc phải lui về tuyến Nha Hải.

Hai trăm kỵ binh kia tuy có lập công, nhưng vì chống đối quân lệnh, nên trong quân không trợ cấp và cũng không truy tước phong hiệu."
Nàng dán mắt nhìn bờ môi đóng mở của hắn, nghe hắn thuật lại từng câu từng chữ về những gì xảy ra trong quá khứ, lòng dạ quặn đau, nuốt lệ nói: "Cha tôi bị oan, ông nghe lệnh hành sự.

Ông làm quân tiên phong, sau có quân cứu viện, nhưng lúc đánh vào doanh trại địch, quân cứu viện vốn đã sắp xếp đâu vào đấy lại chậm chạp không tới.

Cha tôi và hai trăm kỵ binh cố gắng chờ đợi, cuối cùng tắm máu chết trận, thế mà quân đội lại nói ông là độc đoán tự tiện, gây thiệt hại tinh nhuệ, thậm chí hài cốt của ông cũng chẳng thèm nhặt về."
Năm Cảnh Nguyên thứ sáu, quân Mặc Ly của Lý Vị cũng tham gia chiến dịch lần này.


Khi đó Lý Vị vẫn chỉ là một sĩ binh nho nhỏ.

Lúc hắn đi, đô úy Tiểu Xuân đã chết trận sa trường, sau nương theo tình thế của quân đội, đuổi quân Đột Quyết về tuyến Nha Hải.

Giây phút nghe tung tích liên quan đến Trần Trung Tín của một người bạn cũ trong quân, Lý Vị đã chắc chắn thân phận của Xuân Thiên.

Thanh chủy thủ kia là đồ trong quân, thân dao đen sì nặng trịch, chém sắt như chém bùn, được rèn bằng sắt.

Sắt này có vẻ không phải sản xuất ở Trung Nguyên mà là từ lãnh thổ của bộ tộc Hiệp Giáp Tư vùng cực Bắc, là đồ Hiệp Giáp Tư cung cấp cho Đột Quyết.

Nhưng Lý Vị biết Hiệp Giáp Tư cũng âm thầm cung cấp cho quân bộ Bắc Đình rèn binh khí để đối kháng Đột Quyết.

Hắn đã từng thấy loại chủy thủ này ở Y Ngô Cam Lộ Xuyên.

Lý Vị về nhà, lúc Xuân Thiên báo tên họ, nàng nói nàng họ Xuân, tên là Xuân Thiên.

Người mang họ Xuân cực kỳ ít ỏi, chẳng hiểu thế nào, bỗng nhiên hắn nhớ tới đô úy Tiểu Xuân năm xưa.

Tuy có duyên gặp một lần, nhưng hắn nghe nói đô úy Tiểu Xuân có một đứa con gái, nếu tính theo tuổi thì giờ cũng đã độ thiếu nữ tuổi xuân rồi.

Trần Trung Tín có đồng hương cùng trường, bạn thân trong quân, vừa khéo lại là đô úy Tiểu Xuân.

Cho nên, con gái đô úy Tiểu Xuân mang theo đồ của vong phụ, một mình lẻ loi, muốn đi đến Bắc Đình ở ngàn dặm xa xôi.

Là muốn đi tế cha nàng, hay muốn đi lấy hài cốt của ông về, bất luận thế nào, hắn cũng phải ngăn nàng lại.

Lý Vị không đành lòng cho nàng biết, năm đó đô úy Tiểu Xuân truy kích bộ Sa Bát La tới tận sông Duệ Hí thuộc lãnh thổ Đột Quyết, cuối cùng toàn quân diệt vong ở nơi này.

Hiện giờ tới chiến trường tìm, sợ là khôi giáp vùi trong đất, bạch cốt quấn cây cỏ, còn đâu mà phân biệt được thi cốt của ai.

Huống hồ nơi biên thùy, mỗi một biến động nhỏ đều như lâm đại địch, nàng sao có thể vượt một đường khói lửa không chút trở ngại.

Hắn nhìn đôi vai gầy đang run lên của nàng, chỉ cho nàng một lối đi: "Nếu có người đồng ý trao đổi dàn xếp với quân đội, mời thứ sử Y Ngô phái sứ giả tới Đột Quyết đưa hài cốt về thì là chuyện nhỏ rồi, nhất định sẽ được như nguyện."
Hắn đang ám chỉ nhà cậu nàng và Tĩnh vương phủ, chỉ cần nhẹ nhàng buông một lời giao phó cho quân đội thôi, còn nàng cũng không cần phải liều mình lặn lội cả chặng đường dài tít tắp.

Nàng lắc đầu: "Không ai sẵn lòng làm vậy đâu.

Tôi không có anh em chú bác, trên đời này ngoại trừ tôi, có lẽ đã không có ai thương nhớ cha tôi, tôi muốn đưa ông về nhà."
Lý Vị nhìn chằm chằm lồng đèn trắng treo ở góc mái hiên: "Ta sẽ nghĩ cách giúp cô.

Cô không thể đi tới phía Tây nữa...!rất nguy hiểm."
"Cảm ơn đại gia..." Xuân Thiên cắn môi, đợi cảm giác chua xót trong ngực chậm rãi tan đi, nàng dụi dụi mắt, che đầu bước về phía trước.

Trường Lưu chưa dứt cơn ho, qua vài ngày như thế, gương mặt gầy xọp lại nhọn hoắt, làm nổi lên cặp mắt vừa to vừa ngập đầy nỗi bơ vơ, thấy Xuân Thiên về, cậu hỏi: "Chị Xuân Thiên, chị đi đâu thế, cả ngày chẳng thấy bóng."
Trường Lưu yếu ớt, mấy ngày liền được Xuân Thiên chăm sóc, dần dà có phần ỷ lại vào nàng, ngồi xuống cạnh nàng nói, "Chị đói không? Trong bếp có dành cơm tối cho chị đấy."
Bàn tay nàng rờ trán Trường Lưu, đã không còn nóng nữa, giọng nàng khàn khàn: "Chị không đói, em uống thuốc chưa?" Cả ngày nay nàng chưa được hạt cơm giọt nước nào vào bụng, nhưng lại chả thấy đói, bèn bưng chén thuốc đến cho Trường Lưu.

Cách nhật, Lý Vị dẫn Trường Lưu tới trấn Nhược Thủy báo tang.


Trấn Nhược Thủy thôn Tây Sơn là nhà nội của Lý nương tử, dầu rằng thân thích cùng chi đã qua đời, tuy nhiên họ hàng xa đồng tông đồng mạch thì vẫn còn sống.

Lý Vị là cô nhi Lý phụ nhặt được, không thân không thích, nhưng vâng theo ý Lý phụ, sau khi người của Lý gia qua đời hết, sẽ cho Trường Lưu nhập gia phả như huyết mạch của Lý gia.

Lý Vị dặn dò Xuân Thiên: "Buổi tối chúng tôi sẽ về, cô cứ ở trong nhà nghỉ ngơi cho khỏe."
Thảm cỏ Nhược Thủy kéo dài hơn mười dặm, cũng là trại nuôi ngựa nổi tiếng của Cam Châu.

Mùa xuân ngựa con mới sinh, chiều cao của nó chỉ bằng nửa người bình thường, tiếng hí vang trong, khỏe như vâm, quấn lấy ngựa mẹ chạy băng băng trên đồng nội.

Trường Lưu ngồi trước Lý Vị, nhìn đàn ngựa cách đó ít xa, hai mắt tỏa sáng rực rỡ.

"Chú Hách Liên cũng mua cho Gia Ngôn một con ngựa đen nhỏ."
"Con thích con nào thì chọn đi." Lý Vị sờ đầu Trường Lưu nói.

Trước giờ Lý nương tử lo Trường Lưu chạy nhảy rồi va chạm cái này cái kia, chỉ muốn cậu ngoan ngoãn hành xử theo khuôn phép, ít khi nào cho phép Trường Lưu cưỡi ngựa chơi.

Hiện giờ Lý nương tử đã đi, Lý Vị sợ Trường Lưu ngồi nhiều nghĩ nhiều tổn hại tinh thần, nên muốn đưa thằng bé đi vận động nhiều hơn.

Trường Lưu vô cùng vui sướng, chọn trái chọn phải, nhìn trúng một chú ngựa nhỏ bốn vó đen thùi, toàn thân trắng tuyết đi theo đàn ngựa.

Người chăn ngựa đuổi ngựa con ra khỏi chuồng, đang định đeo dây cương cho ngựa, thì bỗng đằng sau có con ngựa lông đỏ sẫm mắt to mi dài chạy đi, đuôi ngựa tung lên, kề sát bên hàng rào cọ cọ cổ ngựa con, cực kỳ thân mật, xua không đi, lấy roi ngựa đuổi cũng chả xi nhê gì.

"Con ngựa đỏ đẹp quá." Trường Lưu vươn tay sờ hai con ngựa, cất giọng đầy ao ước, "Cha ơi, hay là mình mua cho chị Xuân Thiên một con đi."
Người chăn ngựa bên cạnh cười khà khà: "Một con sáu trăm đồng, hai con ngựa cũng mới chỉ một quan tiền.

Đại gia, chi bằng mua hai con về nhà cho hai đứa nhỏ chơi cùng nhau luôn."
Lý Vị gật đầu, trả một quan tiền, dẫn hai con ngựa con về thành.

Đến hẻm Người Mù trời đã tối đen, trong nhà vẫn đốt đèn chong cho Lý nương tử.

Nghe tiếng ngựa hí, Triệu đại nương và Tiên Tiên chạy ra đón người.

Lý Vị mơ hồ cảm thấy có điều bất thường, Triệu đại nương ra đón, câu đầu tiên nói lại là: "Đại gia, Xuân Thiên cô nương đi rồi."
"Đi rồi?" Hai hàng lông mày hắn nhíu chặt, "Đi khi nào thế?"
"Ngay sáng sớm nay, khi đó tôi đưa Tiên Tiên ra ngoài mua thức ăn, không có ở nhà..." Triệu đại nương thở dài, "Tôi vừa đi cái là Xuân Thiên cô nương đã lên đường.

Trước khi đi còn chào thím Hoàng ở đầu hẻm, tặng một hộp điểm tâm, nói là phải đi tìm người thân, còn bảo là trước đó có thương lượng việc này với đại gia rồi.

Tôi mua thức ăn xong về nhà thì thấy chái Tây đã thu dọn sạch sẽ, Xuân Thiên cô nương để lại mấy thứ đồ trên bàn..."
Lý Vị đau đầu, thở hắt ra một hơi.

Trường Lưu quay đầu nhìn cha mình, sốt ruột hỏi: "Có lẽ nào chị ấy có việc gì không cha?"
Triệu đại nương cầm đồ Xuân Thiên để lại qua.

Nàng làm bộ quần áo cùng giày vớ cho Trường Lưu, mua thoa cài tóc cho Tiên Tiên và Triệu đại nương, viết một tờ giấy cho Lý Vị, chỉ ít ỏi một dòng chữ xinh xắn: Nếu may mắn trở về, sẽ báo đáp ơn người.

(còn tiếp).

 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
610,854
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 24: 24: Thành Túc Châu





Xuân Thiên đã ra hiệu buôn mua thảm lông và thức ăn từ sớm, rồi lại thuê xe la và phu xe đi Túc Châu.

Phần lớn đàn bà con gái Hà Tây ra ngoài đều mặc Hồ phục, họ cực kỳ yêu thích phục sức của dân tộc Hồi Hột.

Vậy nên Xuân Thiên cũng thay bộ quần áo của người Hồ, búi tóc kiểu nam giới, chỉnh trang lại mặt mũi một phen, sau đó bảo xe la chở ra Cam Châu.
Xuân sang mọi việc bộn bề, cổng thành tấp nập người ra vào, có rất nhiều thương đội dẫn đàn lạc đà chở thồ hàng đi tới đi lui.

Xuân Thiên hòa vào dòng người đông đúc ra khỏi thành, đi về hướng Túc Châu.

Phu xe là một ông già câm, mặt đầy nếp nhăn rúm ró, hai bàn tay thô ráp như vỏ cây vung roi, ú ớ dùng tay ra dấu hỏi nàng đi đường nào.

Nàng không dám lặp lại chuyện như ở Hồng Nhai Câu lần trước, bèn chọn con đường lớn nhiều người đi đường nhất, giấu thanh chủy thủ dưới tay áo, theo phu xe khởi hành.

Cam Châu cách Túc Châu ước chừng bốn trăm dặm, bình thường ngựa lừa phải đi sáu bảy ngày mới tới nơi, thương khách hành nhân men theo chân núi Kỳ Liên quanh co khúc khuỷu.

Bấy giờ chính vào lúc xuân đương độ căng tràn, thời tiết Hà Tây ấm lên, trời xanh thăm thẳm, đỉnh núi tuyết đọng trong vắt.

Có thể trông thấy cả mảng xanh tươi tốt phía trong núi, hoa hạnh hoa lê và hoa liễu dần hé nụ, ong mật béo tròn giương cánh vo ve đuổi theo hương thơm nồng nàn.

Đồng cỏ dưới chân núi hệt tấm thảm khổng lồ, trong bụi cỏ thi thoảng có tiếng chin chít, có con chim trĩ hay thỏ hoang lao ra.

Vó ngựa làm bụi đất trên đường bay tán loạn, muỗi vằn ruồi trâu vờn bay chung quanh, la ngựa lạc đà bực hết cả mình, hất chiếc đuôi lông dài quét một phát.

Lộ trình khi nào cũng dài và nhàm chán, phu xe câm tạt qua quán trọ nhỏ cho khách đi đường nghỉ chân tạm thời, gọi ít rượu trắng, mặt mũi lấm tấm cát vàng.

Một văn tiền một hũ, phu xe ê a chỉ vào bầu rượu khoa tay múa chân với Xuân Thiên, Xuân Thiên gật gật đầu, lâu lâu ông ấy lại lôi ra uống một hớp, rồi sau đó nhắm mắt đánh giấc ngủ ngắn.

Ngựa già thuộc đường, không cần người đuổi, gục đầu kéo xe đi không nhanh không chậm, đói bụng thì tự dừng lại gặm cỏ mọc ven đường, trời tối thì tự giác chui vào quán trọ.

Cứ lững thững đi như thế, mắt thấy tuấn mã cao lớn bên cạnh đã khuất xa, cuộc hành trình bị chậm hơn người khác hơn nửa.


Trên đường có vị hòa thượng gầy còm đi dép rơm khoác áo tơi, vui vẻ cưỡi con lừa vằn nhỏ.

Lâu lâu con lừa lại chạy nước kiệu, lâu lâu lê từng bước rề rà theo sau hành nhân, đi hay dừng thì phải xem tâm trạng của nó thế nào, hòa thượng híp mắt mặc kệ chẳng buồn lên tiếng.

Mỗi ngày Xuân Thiên sẽ gặp được ông ấy một hai lần, hòa thượng cười tủm tỉm, mặt mũi hiền lành.

Tuy trông áo quần rách rưới, nhưng Xuân Thiên lại thấy ông ấy ăn thịt với mấy món mặn, gần đây có khi còn niệm A Di Đà Phật với phu xe câm, xin miếng rượu uống.

Xuân Thiên chắp tay chào hòa thượng: "Xin hỏi đức hiệu của sư phụ là gì? Chủ trì ở chùa nào?"
Hòa thường cười phớ lớ: "Lão tăng tên Viết Ngã, hiệu Ngã Ngã Tăng, pháp tự tu thiền, nhân gian tu Phật."
Xuân Thiên khó hiểu, hỏi lại: "Đại sư đến từ nơi nào, muốn đi về đâu?"
"Từ cõi thực đến, đang muốn đi đến chốn hư vô."
Nàng không hiểu là ý gì, hòa thượng cười ha hả chỉ vào đường lớn: "Từ con đường phía sau kia đến, muốn đi tới trước."
Có lẽ là một lão hòa thượng điên điên khùng khùng, chẳng đợi Xuân Thiên lên tiếng thì đã vung roi đuổi lừa rồi cười bỏ đi xa.

Xe la thô sơ, bốn vách thủng lỗ chỗ, không thể chắn gió tránh mưa, một ngày chỉ tốn một trăm văn tiền.

Dọc đường có bốn con ngựa kéo theo chiếc xe lộng lẫy khí thế ngang qua, cũng có những người dân làng chân đất vượt gió sương bước đi trong đội thồ hàng.

Xuân Thiên thấy có người phụ nữ trẻ tuổi gài trâm gỗ, mặc bộ quần áo mộc mạc dắt một đứa bé trai đang tập tễnh đi theo sau xe la, nàng vươn tay vẫy gọi, dẫn hai người lên xe la.

Xuân Thiên đội mũ trùm đầu, chỉ để lộ hai con mắt ra ngoài.

Người phụ nữ nhìn cách ăn mặc của Xuân Thiên, tưởng nàng là con trai, nét mặt hiện lên đôi phần câu nệ ngượng ngùng.

Cho đến khi nghe Xuân Thiên mở miệng nói chuyện, mới biết là nữ làng, thần sắc cũng buông lỏng hẳn.

"Ôi, cảm ơn cảm ơn." Người phụ nữ nhận túi nước từ tay Xuân Thiên, "Hóa ra là nữ lang."
"Vâng." Xuân Thiên cởi mũ trùm đầu cầm trong tay, mỉm cười nói: "Thế này ra ngoài tiện hơn."
"Chí phải." Người phụ nữ nom Xuân Thiên chỉ nhỏ hơn mình vài tuổi, khuôn mặt lại đẹp như tranh, tướng ngồi đoan trang nho nhã, hơi xấu hổ sờ bùi tóc rối tung trên đầu mình, "Trên đường này người nhiều mắt nhiều...!một mình ra ngoài đúng khá phiền phức..."

Đứa nhỏ trong lòng người phụ nữ có khuôn mặt nhỏ nhắn bụ bẫm, bàn tay bé xíu mập mạp cầm túi nước uống nước ừng ực.

Nó ngửa đầu tò mò nhìn Xuân Thiên chằm chằm, Xuân Thiên lấy từ trong bao quần áo ra mấy viên kẹo, cúi người đưa cho bé con: "Cho em này."
"Kẹo." Bé con nói vẫn chưa sõi lắm, hai nắm tay béo mầm nhào vào lòng Xuân Thiên, xúc cảm mềm mại làm Xuân Thiên thoải mái bật cười, "Kẹo kẹo."
"Bao Tử." Người phụ nữ ôm đứa nhỏ lại, lấy đi viên kẹo nó đang nắm chặt trong tay, đỏ mặt nói với Xuân Thiên: "Ôi trời, ông nhõi ham ăn nhà tôi này, để cô nương chê cười rồi..."
Xuân Thiên cười tít mắt: "Thằng bé đáng yêu quá, chị may mắn lắm đấy ạ."
Thế rồi hai bên trở nên thân thiết hơn hẳn.

Người phụ nữ tên Lan Chi, là người trấn Cao Đài ở Túc Châu, nghe bảo là do mẫu thân trong nhà bị bệnh, đàn ông lại đi vắng, trong thôn cũng chẳng có con la con lừa để mướn, vậy nên cô ấy quyết định bế con mình về nhà mẹ đẻ.

Khi biết một mình Xuân Thiên muốn đến quận Túc Châu, cô ấy dặn dò mãi không ngơi nghỉ: "Đường sá ở huyện Tửu Tuyền toàn là binh sĩ nghỉ tuần* đến uống rượu, em gặp thì phải tránh xa một chút." Cô ấy hạ giọng, "Đặc biệt là đám binh ngoại biên kia, cả đám ấy là người Hồ ban đầu quy thuận, dã man lắm, đụng chạm người ta là lại đòi người ta lấy bạc ra đền, ngay cả nha môn cũng chả dám chọc nữa là."
(*Tuần ở đây tính là mười ngày)
Cô ấy nói tiếp: "Còn có người Hồ mở hàng buôn bán ở Tây thành, hơn nửa là hắc điếm, chuyện xấu xa gì cũng làm.

Em muốn mướn trọ nghỉ chân thì đi về phía Đông thành, tôi có người anh em mở quán trọ kiếm sống ở đó..."
Xuân Thiên khắc ghi từng lời trong lòng, gật đầu liên tục, đang muốn hỏi gì đó thì bỗng có tiếng vó ngựa lộc cộc của mấy con ngựa cao to từ xa truyền đến, lao vun vút như chớp điện, chẳng mấy chốc đã chạy tới trước mặt.

Vó ngựa tung lên cao làm bụi khô bay hết vào mũi, người qua đường không kịp tránh bị người trên ngựa vung roi quất vào lề đường, ngã lăn quay xuống đất kêu gào oai oái.

Có xe ngựa của thương nhân kia bị giật mình, chúi đầu đâm thẳng vào đàn la, nhất thời súc vật la ó, hiện trường hỗn loạn không thể tả.

Con la bị tiếng động làm hoảng sợ, cất vó chạy như phóng lao, thùng xe cũng theo đó mà rung lắc dữ dội.

Bao Tử đang bi bô gọi kẹo, thằng bé ngả nghiêng sắp đụng vào cạnh xe, Xuân Thiên nhanh tay nhanh mắt nhào về trước giữ lấy thằng bé.

Hai mắt nàng tối sầm, trán va một cú vào cửa.

Đến khi mọi người phục hồi tinh thần thì đám người ngựa kia đã đi khuất dạng.


Người phụ nữ vừa dỗ con vừa đỡ Xuân Thiên dậy, thấy thái dương nàng u cục lên, đỏ ửng một mảng lớn, cô ấy lo lắng vô cùng, áy náy hỏi: "Tiểu nương tử, đau không em, đau không em?"
"Không sao đâu ạ." Nàng trấn định sờ vào chỗ bị va, chỉ hơi sưng lên mà thôi.

Người đi đường bị xô ngã ra đất phủi phủi bụi cát trên đầu gối, cất tiếng than khổ: "Người ở đâu mà chạy loạn hết cả lên vậy, cho dù là người giao văn thư cho triều đình cũng đâu phi ngựa ngang ngược như thế."
"Hình như là kỵ mã trong quân..." Có người nói, "Hồi này rất hay có kỵ mã lui tới, sợ là trong quân có chuyện gì rồi..."
"Chả phải nghe nói trong quân sắp tước binh à?" Có người thầm thì nói nhỏ, "Mấy năm nay thiên hạ thái bình, còn hơn mười vạn binh mã đóng ở Hà Tây, nghe bảo chi phí lương thảo bổng lộc quá lớn, triều đình có ý thu lại..."
"Thế những tướng lĩnh trong quân chịu ư?"
"Tước binh, sao có thể tước binh, nghe nói lần này phủ Lương Châu huấn luyện tinh binh, ti mục* của Cam Châu đang theo dõi chinh mã trong dân..."
(*Ti mục: một chức quan)
"Sao lại thế chứ, lẽ nào lại muốn chiến tranh à...!Mấy năm gần đây đường phố yên bình lắm..."
"Dạo này khâu kiểm tra của Ngọc Môn quan cũng nghiêm ngặt hơn hẳn, giấy thông hành phải kiểm tra thật kỹ lưỡng, nếu người, hàng hóa, gia súc có một tí bất ổn thôi là cũng sẽ bị đưa đến quân thẩm vấn..."
Xuân Thiên bất chấp cơn đau, ngồi xuống nghe người bên ngoài nói chuyện, lẽ nào đúng y như lời Lý Vị nói, Bắc Đình sắp đánh chiến?
Phía Đông quận Túc Châu giáp với tuyến phòng thủ Kỳ Liên, phía Tây thì có Qua Châu.

Trong quận có quân Tửu Tuyền đóng giữ, phủ quận tọa lạc tại huyện Phúc Lộc.

Đi vào quận dần dần sẽ hiện ra làng mạc và những ngôi nhà, những người phụ nữ mang quần áo ra sông giặt, đàn cừu thong dong ăn cỏ.

Đứa con nít lanh lợi bện tóc hai chỏm ôm cái giỏ trúc chào hàng với những người lái buôn qua đường, cười tươi rói cầm bảo bối trong giỏ, nhiều là thảo dược và trái cây.

Đàn chim không biết tên, nước sông trong núi trút xuống hòn đá ngọc xinh đẹp.

Thậm chí còn có bán cả hoa yên chi đỏ, giã hoa nhuyễn ra rồi trát lên lọ gốm sứ, sắc đỏ chói ấy có thể làm sơn móng tay, cũng có thể son môi.

Lan Chi bế Bao Tử, được nửa đường thì xuống xe la, vẫy tay nói với Xuân Thiên: "Em gái, nhớ rõ lời tôi đấy, đi đường cẩn thận."
Xuân Thiên gật gật đầu.

Túc Châu là một trong bốn quận của Hà Tây, nhưng mặt quân sự và chính trị không bằng Lương Châu, không giàu có và đông đúc bằng Cam Châu, nền văn hóa không hưng thịnh như Sa Châu, nơi này vốn là đất cũ của Ô Tôn, Nguyệt Thị, dân tộc Hung Nô.

Vào thời nhà Hán, Hoắc Khứ Bệnh đã đánh bại Hung Nô tại đây, cuối cùng đưa Kỳ Liên vào bản đồ Trung Nguyên.

Cũng chính tại đây, dũng tướng thích chí phong nhã hào hoa được phong hầu, đổ rượu ngon Hán Vũ đế ban vào nước suối, cùng quân sĩ đánh chén.

Có lẽ trong lòng mỗi một binh lính hay tướng lĩnh đều có một tòa thành như vậy, tư thế hào hùng, chiến trường điểm binh, giải quyết xong việc quân vương, rồi sau đó rượu nho sóng sánh chén dạ quang, ngàn dặm tìm đường phong hầu.

Xuân Thiên nhớ năm đó lúc cha đi chính là như thế, ông nói với mẹ, chờ ta công thành danh toại, áo gấm về làng, thành Trường An sẽ có một vị tướng quân tên Xuân Việt, nàng sẽ nở mày nở mặt trở thành phu nhân tướng quân.


Thực ra áo gấm về làng đã ít lại càng ít, mà nhiều hơn cả là xương trắng vùi chôn bên bờ Vô Định, chôn ở ngoài Ngọc Môn quan nơi gió xuân chẳng thổi tới, không người biết, không người nhớ.

Thành Túc Châu nằm dưới chân Kỳ Liên Sơn, sắc xanh um bên đường thưa dần, sức sống không căng tràn bằng Cam Châu.

Núi đá Thanh Hắc đè nặng trịch đáy mắt, đá sỏi đầy đất lăn long lóc theo gió, một bụi gai lạc đà và cỏ lác khép lại với nhau thành vòng tròn, Đông một bụi Tây một bụi.

Lạc đà từ xa xa ngẩng đầu nhìn người qua đường, rồi lại cần cù chăm chỉ cúi đầu nhai cỏ khô.

Đi tiếp về phía Tây của Túc Châu, dần dần ngập tràn trong mắt đều là sa mạc sỏi và sa mạc hoang liêu, cát vàng trải dài vô tận, vắng vẻ tiêu điều, đi nửa ngày trời mới có ốc đảo suối trong.

Bên ngoài Ngọc Môn quan màu xanh ảm đạm, lưỡi dao sáng như tuyết.

Thành Túc Châu không lớn, cũng không uy nghiêm và phồn vinh tráng lệ, đường phố nhà cửa bụi bặm hơi cũ nát, khắp nơi toát ra hơi thở thô kệch và khô khan.

Liếc mắt là thấy ngay mấy con đường ngang dọc trong thành, thức ăn chủ yếu là bánh canh thịt dê, nấu rất xoàng xĩnh.

Trong thành có rất nhiều cửa hàng bán rượu, nhà nào cũng bán một loại rượu trắng là Hán Vũ Ngự, thơm, tinh khiết, và tương đối nhẹ, nghe nói đó là loại ngự tửu mà Hán Vũ đã ban cho tướng quân Hoắc Khứ Bệnh.

Ngoài ra trái cây rất ngọt, rượu nho lành lạnh có hương vị tuyệt vời.

Có nhiều binh sĩ mặc khôi mang giáp lui tới kéo theo cả thùng to đến mua rượu, cũng có gã đàn ông say khướt nằm vật ra vệ đường ngủ ngon lành.

Khắp thiên hạ này có lẽ chẳng có nơi nào mà việc uống rượu lại trở nên "đúng lý hợp tình" như ở Tửu Tuyền.

Xuân Thiên ngẫm nghĩ, bảo phu xe câm ghé vào quán trọ ở phía Tây thành.

Nhà cửa ở Tây thành tạp nham, mặt đất lênh láng nước thải, là nơi cư trú của dân nghèo người Hồ và người bán hàng rong, có chợ hàng chuyên bán những món dùng cho chuyến xuất hành như la ngựa lạc đà, giá đỡ hàng, lương thảo,...!Nàng từng lật xem một cuốn tàng thư vốn thuộc về ông ngoại trong thư các của cậu, đó là ghi chép của một vị thương nhân hành Tây từ vài chục năm trước.

Viết rằng trong chợ hàng Túc Châu có một loại chợ gọi là chợ ma, người thiện vượt qua sa mạc sẽ thu lại quần áo vũ khí của người chết trong sa mạc, tiền bạc bội sức tùy thân, hoặc là hàng hóa súc vật vô chủ.

Cũng có mua bán kiểu làm giấy tờ đi đường, ví dụ như phạm nhân bị quan nha truy nã, hay thương nhân không giấy thông hành xuất quan, thì sẽ được người dẫn đường lén đưa ra khỏi trạm gác bên cạnh.

(còn tiếp).

 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
610,854
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 25: 25: Lại Ngọc Môn





Nàng tìm được một quán trọ của người Hồ, phu xe câm kéo nàng lại, gương mặt hiện lên vẻ bất bình thường, ú a ú ớ chỉ về phía Đông thành.

Xuân Thiên trả kha khá tiền cho phu xe, gật đầu trấn an ông ấy, nói: "Cháu biết ạ, cháu sẽ cẩn thận."
Chủ trọ là người Nguyệt Thị mũi cao tóc bện, chỉ có vợ chồng hai người ở trong quán, phòng trọ vừa bé vừa thủng chỗ này nứt chỗ kia, rất hiếm khi có khách lại thuê.

Trông thấy Xuân Thiên đứng ngoài cửa, chủ trọ đã nhanh chóng phủi lớp bụi bặm trên bàn từ trước, rảo bước ra đón với nụ cười trên môi: "Vị tiểu lang quân này, mời vào trong."
Nàng dùng tay ra hiệu với phu xe, rồi sau đó theo chủ trọ bước chậm rãi vào bên trong.

Đến khoảng trưa trưa, bà chủ cắt một tảng thịt dê luộc to đặt vào chậu đưa tới, cùng một đĩa muối thô nhỏ, ăn kèm với bát canh thịt dê.

Xuân Thiên từng ăn thịt dê thế này rồi.

Lúc ở Cam Châu, Lý Vị đưa nàng với Trường Lưu và Tiên Tiên ra ngoài sắm sửa đồ Tết, trong quán ăn của người Hồ nọ, Lý Vị dùng tay xé thịt, rắc lên trên lớp muối thô, lấy thêm cho nàng củ kiệu, rau mùi.

Khi đó nàng còn đang ngẩn ngơ, nhận lấy miếng thịt dê từ ngón tay mỡ bóng nhoáng của hắn, cau mày đưa tới miệng cắn một miếng, len lén nhìn hàng mi đen che khuất mắt hắn, khóe miệng nàng thầm nhếch lên, để lộ nụ cười không thể nhận ra, bỗng chốc tự thấy xấu hổ vô cùng.

Hiện giờ một thân một mình, lại phải thể hiện ra "hào khí hiên ngang", rồi thì phải cởi mở can trường, nên khó tránh khỏi sinh ra cảm giác hơi hơi bức bối.

Nàng cố ăn cho xong bữa, tính thuê gian phòng trọ hướng ra đường cái, đã chuẩn bị tinh thần sẵn sàng rằng sẽ bị chủ trọ đòi giá cao, tính ra chỉ đắt hơn mấy nhà trọ khác năm mươi văn tiền mà thôi.

Nàng cầm lòng không đặng buông tiếng thở dài ngao ngán.

Ở cái đất biên thùy đây, năm mươi văn tiền cũng đủ cho một người một ngày ăn uống ấm no.

Hơn năm mươi văn tiền là biến thành hắc điếm.

Ở Trường An, thưởng năm mươi văn tiền cho hầu gái chạy vặt là lại đổi được một cái liếc bằng nửa con mắt.

Trên đời này, tất cả mọi chuyện, muốn người ta lịch sự hòa nhã với mình, thì lúc nào cũng cần đến đồng tiền.

Chủ quán trọ thu tiền, trông vui vẻ ra mắt, đích thân đưa nước trà và điểm tâm lên lầu.

Xuân Thiên hỏi các loại đồ dùng cho chuyến hành Tây nên tới hàng nào chọn mua, chủ trọ nhìn nàng từ trên xuống dưới, nói: "Tiểu lang quân...!muốn đi đâu thế?"

"Tôi muốn đến Bắc Đình."
Sau khi đường Y Ngô được khai thông, rất nhiều người lui tới Tây Châu Bắc Đình.

Nhưng trường hợp đi một mình, mà lại còn là nữ tử trẻ tuổi thì không nhiều lắm.

"Ông chủ chớ nghi, tôi muốn đến Bắc Đình tìm người họ hàng..." Nàng thản nhiên trả lời, "Cải trang thế này, chính là để tiện đi đường thôi, không có lý do khác."
"Đồ dùng thiết yếu thì có lương khô, nước suối, ngựa, bánh chấm đường, ra chợ hàng là mua được hết." Chủ trọ chỉ từng món một, mùa này thì nên chuẩn bị đồ dùng gì, nên chuẩn bị bao nhiêu, tất tần tật mọi thứ đều nói rất cặn kẽ.

Nàng quyết định đi theo chủ trọ ra chợ hàng cùng xem.

Những gì nàng nghe được trên đường không hề giả, ngựa tốt ở Hà Tây rất hút hàng, giá ngựa trong chợ hàng cũng tăng kha khá.

Ban đầu một quan tiền là có thể mua được con la hay con ngựa bình thường, còn giờ thì đã đôn lên tận hai quan, một con ngựa khỏe vùng thảo nguyên phải bán từ hơn mười quan tiền trở lên.

Lại nghe nói trạm kiểm soát Ngọc Môn vô cùng nghiêm ngặt, có đôi lần thương khách oán than rằng một số lương thực và hành khách của đội thồ hàng lớn bị từ chối cho xuất quan, mắc kẹt trong Ngọc Môn quan.

Lòng Xuân Thiên lo lắng, song cũng chỉ đành chịu.

Tuy nhiên nàng ở quán trọ sáu bảy ngày mà vẫn chưa gặp chợ ma gì đó, tất nhiên cũng chưa tìm được người dẫn đường gì đó nốt.

Nàng hao hết sức lực để qua kiểm tra, kết quả giấy thông hành và hành lý đều đã thất lạc ở Hồng Nhai Câu.

Nếu vì vậy mà không có cách ra khỏi Ngọc Môn...!có lẽ, nàng sẽ mãi mãi ở lại đây chờ đợi...!

Tục mai táng ở miền Bắc đơn giản, ngoài gia đình phú hào hương thân, thì chẳng đâu có lập đàn cầu khấn trăm ngày trong bầu không khí rầm rộ nữa.

Mấy ngày sau khi Xuân Thiên đi, linh đường Lý nương tử được dọn dẹp, nhà chỉ thắp ngọn đèn chong, cửa sổ của căn phòng chính sáng lóa.

Lý Vị và Triệu đại nương đang soát lại rương hòm trong nhà, phần lớn là quần áo trang sức, đồ dùng hằng ngày của Lý nương tử, còn cả đồ lót áo khoác hồi bé của Trường Lưu.

Trường Lưu ngả vào người Lý Vị, theo dõi Triệu đại nương mang xiêm y cũ của mẹ mình ra thiêu cháy, khắp mọi ngóc ngách trong lòng trào lên nỗi khó chịu, Lý Vị kéo tay cậu, bảo: "Con muốn giữ lại đồ gì, tự đi lấy đi."
Hai mắt Trường Lưu đẫm lệ: "Giữ hết lại cho mẹ đi cha."
"Con phải nhớ mẹ con, nhưng không thể nhớ ngày ngày đêm đêm được." Hắn nói, "Người phải sống vì người sống, đừng sống vì người đã mất."
Hai ngày sau, Lý Vị xoa tóc Trường Lưu: "Cha đi tìm chị Xuân Thiên của con về." Hắn đưa Trường Lưu sang nhà Lục Minh Nguyệt ở tạm, chỉ nói ngắn gọn: "Chờ tôi về đón thằng bé."

Có lẽ, chính hắn cũng không ngờ rằng mình sẽ đi lâu như vậy, lâu đến mức đã làm thay đổi cuộc tao ngộ cả đời của hắn.

Lục Minh Nguyệt nắm tay hai đứa trẻ: "Chú đừng lo, tôi coi Trường Lưu như con trai mình sinh ra, nhất định sẽ không bạc đãi thằng bé đâu."
Trường Lưu ngước cắp mắt tròn xoe nhìn cha cậu lên ngựa: "Cha, cha về sớm nhé."
"Được." Hắn vỗ vào đầu con ngựa của mình, "Đợi về cha sẽ đưa con đến thư viện bái sư."
Hách Liên Quảng đứng ở ngoài cửa, quăng bọc hành lý da màu xanh cho hắn, Lý Vị đi qua đó, vỗ vỗ vai Hách Liên Quảng, cười nói: "Cả nhà này giao cho anh hết đấy."
"Anh yên tâm." Đôi con ngươi Hách Liên Quảng đen nhạt, bên má có vết xước do móng tay cào, lầm lầm lừ lừ đáp, "Cả nhà toàn ông bà trẻ, tôi sẽ hầu hạ đến nơi đến chốn."
"Đừng có bắt nạt người quá đáng đấy." Lý Vị bật cười sang sảng, "Là của anh, trước sau gì rồi chẳng về trong tay anh."

Từ cửa hàng đồ may, Xuân Thiên thay một bộ trang phục nam giới của dân tộc Hồi Hột bước ra ngoài.

Trong quán trọ, hồ cơ đeo ngọc bội kêu lách cách leng keng để lộ vòng eo tuyết trắng nhìn nàng cười khúc khích, đầu ngón tay với kiểu móng đỏ chót nhẹ nhàng chọc một cái xuống khuôn ngực mềm mại của nàng, một chiếc khăn trắng muốt phất vào khuôn mặt với hai lúm đồng tiền đo đỏ trên má nàng: "Không bó ngực à, vẫn nhìn ra được là con gái."
Xuân Thiên ở Lý gia mấy tháng, chỉ cảm giác vóc người mình hơi cao lên thôi, bị hồ cơ chọc thế cũng có phần hậu tri hậu giác, ngượng ngùng đưa tay che ngực lại.

Dân tộc Hồi Hột ưa trang phục đậm màu, vui thì mặc hồng xanh, màu sắc diễm lệ, vạt áo cân đối, tay áo hẹp, quần dài giày cao, tiện bề cưỡi ngựa.

Hồ cơ giúp Xuân Thiên cải trang thành chàng thiếu niên, nhìn trên nhìn dưới một lượt, rất ra dáng thiếu niên tuấn tú khôi ngô, tư thế oai hùng hừng hực, hồ cơ cười nói: "Này trông mới đẹp này, đi đường cũng tiện hơn.

Ban ngày sa mạc oi nóng, mang theo mũ trùm đầu che nắng, ban đêm gió lớn rét lạnh, bọc người bằng áo nỉ lông là được."
Xuân Thiên liên tục nói cảm ơn, mua sắm thêm mấy món đồ dùng và quần áo ấm áp.

Ngoài quán trọ bấy giờ ồn ào hẳn lên, hóa ra là chỗ cửa thành có hai người dân thường bị đánh chết, có người nói hung thủ là phạm nhân bỏ trốn, cũng có người bảo là người Đột Quyệt giả dạng làm dân chúng.

Nhất thời cả thành nhận lệnh giới nghiêm, mọi người đều gặp rủi ro.

Cho tới ngày thứ mười Xuân Thiên ở quán trọ, thấy nàng đã chuẩn bị đầy đủ yên ngựa lương thực nhưng lại chưa có ý định khởi hành, vào chuồng cho ngựa ăn cỏ khô xong, vườn sau thanh tịnh không người, chủ trọ bèn bước tới trước mặt nàng, cười hỏi: "Có phải tiểu lang quân phải ra khỏi Ngọc Môn quan không?"
"Vâng."
"Vậy...!muốn đi đường bộ hay qua sông?"
Hai mắt nàng tức thì bừng sáng, hỏi: "Đi đường bộ kiểu gì? Qua sông kiểu gì?"
"Khà khà, cái này ấy hả..." Chủ trọ đè thấp giọng, giơ tay ra dấu, "Đường bộ thì tự đi, còn qua sông...!đương nhiên là có người giúp bắc cầu..."
Xuân Thiên hiểu rõ, nói chậm rãi: "Ông chủ...!có thể giúp tôi qua sông không?"
"Không không không...!Bổn phận của tiểu nhân là người làm ăn, suốt ngày chỉ biết trông quán đón khách..." Ông ta vờ đứng lên định quay đi, Xuân Thiên lấy từ trong ngực ra một quan tiền, nhét vào tay ông ta: "Mong ông chủ chỉ cho tôi một lối đi."

Đó là một người đàn ông trung niên mặt vàng nom xốc vác và gầy loắt choắt, ăn mặc theo kiểu thương nhân.

Chủ trọ chỉ chỉ Xuân Thiên ngồi ở vườn sau, người nọ gật đầu, rồi lại lắc đầu tính bỏ đi, chợt bị chủ trọ níu chặt.

Hai người nói một thôi một hồi, người đàn ông trung niên đi đến, nói một câu đặc khẩu âm Quan Trung: "Muốn xuất quan?"
Xuân Thiên gật đầu.

"Một trăm lượng, ta chỉ chịu trách nhiệm đưa cô lên đường, có thuận lợi xuất quan được hay không, vậy phải coi vận may của cô đấy."
Toàn bộ trên người nàng cũng chỉ dư bao nhiêu đó tiền.

Xuân Thiên hít sâu một hơi, chưa kịp mở miệng nhận lời, chủ trọ sợ nàng ngại đắt, vội hỏi: "Ngọc Môn quan hiện tại không còn lỏng lẻo như trước kia nữa rồi, kiểm tra gắt gao lắm.

Làm nghề này chả khác nào trò phiêu lưu mạo hiểm đầu rơi máu chảy, giá một trăm lượng là phải chăng quá rồi ấy chứ."
Xuân Thiên đồng ý, thanh toán tiền đặt cọc, lại thanh toán công giới thiệu cho chủ trọ.

Cách nhật, chủ trọ dẫn Xuân Thiên ra khỏi cổng thành, người đàn ông trung niên đã chờ sẵn ngoài thành, có cô gái bước xuống xe, dáng dấp trộm vía na ná Xuân Thiên, cô ấy ăn mặc như tỳ nữ, cởi quần áo của mình đổi với Xuân Thiên.

Người đàn ông trung niên hóa ra là người Quan Trung bán đồ sơn mài rong, một mình dẫn theo mấy con lạc đà, một tên đầy tớ cùng hai tỳ nữ đi đến Bắc Đình.

Xuân Thiên ngồi trên xe ngựa thay bộ quần áo cũ của tỳ nữ, hành lý giấu tất trong xe.

Ngồi chung là cô tỳ nữ trông nhỉnh tuổi hơn Xuân Thiên, sắc mặt cô ấy lạnh như băng, nói với nàng: "Dọc đường đi có gặp quan binh kiểm tra, phải giữ im lặng, thả lỏng sắc mặt, đừng quá căng thẳng." Nàng gật đầu đáp "vâng", tỳ nữ thấy da nàng trắng quá thể đáng, bèn lấy son phấn trát lên cho vàng vàng, cố gắng sao cho càng không thu hút sự chú ý càng tốt.

Ngựa kéo đi một đường về hướng Tây, cảnh vật ven đường càng lúc càng hoang vắng.

Đập vào mắt là khoảng không mênh mang, xa xa chẳng nhìn thấy chút ít xanh biếc, đám cỏ lác và cỏ sa ánh lên một màu xám xịt, rặng núi cao cao cô đơn đứng lặng.

Gió quét ào ào qua mặt đất, gào thét lên những thanh âm bén nhọn cứa tai.

Ngang qua thành Phương Bàn tạm nghỉ chân một đêm, tỳ nữ chung xe có lẽ là thị thiếp của người chủ, không ngủ cùng Xuân Thiên.

Phòng ở trong quán trọ đều được xây bằng đất nện, cửa sổ nửa đêm bị gió thổi kêu kẽo cà kẽo kẹt.

Nàng nghe gió lùa suốt đêm, ngày kế lên xe, bất an trong lòng cứ bành trướng dần, chỉ mong mau chóng ra khỏi Ngọc Môn, sớm ngày đến Y Ngô.

Đi được hơn nửa ngày, từ đằng xa đã trông thấy có tòa thành dựng từ đất nện vươn cao sừng sững giữa khoảng đồng hoang dã bát ngát thênh thang, những ngôi lầu nối liền nhau ngăn cách chỗ này với chỗ kia.

Chỗ này là xuân hạ thu đông, bên kia là đao kiếm gió tuyết.


Số lượng xe ngựa lạc đà tăng dần, người cũng đông hơn hẳn.

Những khuôn mặt và tiếng nói đủ các kiểu lẫn lộn vào với nhau, khung cảnh huyên náo, bốn phía là kỵ mã mang theo cây giáo, binh sĩ lớn tiếng quát tháo.

Trạm kiểm soát kiểm tra cực kỳ chậm, đội ngũ phía trước di chuyển từng tí một, tỳ nữ bên cạnh vẫn thấp giọng nói chuyện với nàng, chỉ nàng cái gì nên làm cái gì không nên làm.

Nàng ngồi trong xe, tưởng như có đôi cánh mọc ra từ trong lòng, theo luồng gió thổi chui ra khỏi cánh cổng quan nho nhỏ sáng ngời kia.

Đợi rất lâu rất lâu, xe ngựa dừng rồi lại đi, đi rồi lại dừng, từ Trường An đi đi dừng dừng, tính ra nàng đã đi ba nghìn dặm đường rồi đấy.

Lúc đi tới chỗ cổng quan, tâm nguyện bao năm cuối cùng cũng có thể vươn tay chạm đến được rồi.

Xuân Thiên hơi cúi đầu, nhìn thẳng vào ván giậm cũ nát trên xe ngựa, con ngựa quất đuôi đuổi con muỗi đậu trên người đi.

Binh sĩ trông thành thong thả đặt câu hỏi, đi mấy người, tới từ nơi nào, muốn đi đâu, có bao nhiêu hàng.

Mọi cái đều được thông qua, binh sĩ phất tay cho đội hàng ra cổng quan.

Xe ngựa tiếp tục lắc lư chạy về trước, gió ải Bắc tràn vào từ cổng quan, khoang mũi ngập tràn mùi vị của gió và bụi.

Nàng thở phào nhẹ nhõm, đầu ngẩng lên, chỉ thấy trời chiều như máu, vô biên vô tận, Mạc Bắc chạy dài tựa bức họa cuộn tròn, như thể đang trải ra ngay trước mắt nàng.

Vừa lên đường chưa bao lâu, nỗi hoảng hốt bao trùm nàng như chim sợ cành cong.

Vậy mà có đâu ngờ, cứ cắn răng nuốt lệ đi như thế, lại khiến nàng bị cuốn vào trận cửu tử nhất sinh trong hành trình tới Hà Tây, nàng chưa từng nghĩ mình sẽ đi xa đến vậy.

Sau xe ngựa có tiếng bước chân, người đàn ông bước nhanh lại, bất thình lình có bàn tay to chụp lấy bả vai nàng, thuận thế kéo cả người nàng từ trên xe ngựa xuống dưới đất.

Xuân Thiên đang đắm chìm trong giả tưởng vô bờ, bất ngờ bị kéo giật một cái như thế, nàng hét lên một tiếng, hai mắt hoa hoa đứng trên mặt đất bằng phẳng.

Tim nàng như muốn vọt ra khỏi lồng ngực, cay đắng ngọt bùi trong lòng bị người đàn ông cắt đứt, nhất thời không rõ là cảm xúc gì.

Khi đứng vững lại thì thấy, người đàn ông kéo nàng mặc bộ áo xám, tà dương rực đỏ chiếu vào sườn mặt hắn, làm nổi lên nét mày như mực, đồng tử như sao.

Nàng biết người này.

(còn tiếp).

 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
610,854
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 26: 26: Thành Phương Bàn





Khoảnh khắc nhìn thấy người đàn ông, Xuân Thiên hơi sững sờ.

Bọn họ đứng quá gần nhau.

Lần đầu tiên nàng thấy rõ Lý Vị có cặp mắt vừa sâu vừa tĩnh lặng, nàng có thể thấy rõ hình ảnh chính bản thân mình in lên đôi đồng tử của hắn, với vẻ mặt lẫn lộn giữa ngạc nhiên, vui mừng, sợ hãi, và còn cả khó hiểu.

"Ta đã chờ cô ở đây mấy ngày rồi." Lý Vị buông cánh tay nàng ra, thần sắc rốt cuộc cũng thả lỏng.

Hắn đứng khoanh tay, trong giọng nói có đôi phần tức giận kìm nén: "Nếu cô không đến, ta sẽ cho là cô lại xảy ra chuyện giữa đường đấy."
Hắn đi chậm hơn năm sáu ngày, nào có rảnh để tìm kiếm khắp nơi.

Bấm ngón tay tính toán thời gian, đã đoán trước được là Xuân Thiên không quen đường quen lối, nên chắc sẽ không thể ra khỏi Ngọc Môn nhanh như vậy.

Hẳn quyết định giục ngựa chạy thẳng, chạy cả ngày lẫn đêm tới Ngọc Môn quan, muốn ngăn nàng lại trước khi nàng xuất quan.

Ai ngờ mấy ngày liền chẳng thấy bóng dáng nàng đâu, định tìm dọc theo con đường, lại sợ lỡ trên đường nàng đi lướt qua.

Chính vào lúc không kiềm chế được nữa, thì hắn trông thấy nàng.

"Đại gia." Nàng ngửa đầu, tâm trạng hỗn độn phức tạp, "Đại gia, sao ngài tới đây..."
Chỗ cổng thành có binh tướng dáng người gầy khô, nét mặt nhuốm màu bể dâu đi đến, hô một tiếng: "Là cô nương ấy hả?"
Lý Vị xoay người, gật đầu với anh ta, chỉ vào đội lạc đà bị binh sĩ vây quanh, nói: "Bên kia...!đừng làm to chuyện."
"Tôi hiểu, chờ kiểm tra xong thì phạt tí là được." Đây là hỏa trường Nghiêm Tụng canh giữ quan ải Ngọc Môn, anh ta híp hai con mắt hẹp dài nhìn Xuân Thiên từ trên xuống dưới: "Đây là khuê nữ của đô úy Tiểu Xuân?"
"Phải." Lý Vị cười khổ.

"Khà...!để chú phải tìm một phen ngược xuôi rồi." Nghiêm Tụng lắc đầu, nói với nàng, "Cháu gái, sao cháu phải khổ thế chứ, đô úy Tiểu Xuân đã mất bảy tám năm, chú cũng sắp quên mặt mũi ông ấy rồi đây..."
Người này...!người này quen biết cha nàng.

"Đại gia, chú biết cha cháu sao ạ?" Nàng mở to mắt nhìn anh ta.

Cổng thành có người gọi, Nghiêm Tụng nhìn lại, nuốt lời định nói ngược xuống bụng, vỗ vỗ vai Lý Vị: "Tạm thời chú đưa con bé về thành Phương Bàn, chị dâu chú ở nhà chờ đấy, sáng mai tôi sẽ về."
Lý Vị gật đầu, khẽ nói với Xuân Thiên đang sợ hãi thảng thốt: "Về thôi."
Thương nhân của đội lạc đà cùng cả hàng hóa mang theo bị binh sĩ áp giải đi.

Bỗng chốc Xuân Thiên chán nản vô cùng, nàng chỉ có một tâm nguyên nho nhỏ là mang hài cốt của cha về nhà thôi, rõ ràng đã sắp ra khỏi được rồi, đứng trên miền đất tái ngoại này đây, cuối cùng lại vẫn phải quay về, về đâu bây giờ?

Nàng không chịu đi, chân đóng đinh tại chỗ, giọng nói vừa sốt sắng vừa nghẹn ngào, đứng sau lưng Lý Vị la: "Đại gia...!tôi không muốn về mà!"
Lý Vị dọa nàng: "Nếu không đi, tới khi trấn tướng trông thành ra đây tuần tra bắt cô hỏi chuyện, không có giấy thông hành mà một mình xuất quan, không chỉ có cô phải rơi đầu, thương nhân đưa cô ra cũng sẽ bị chém đầu, Nghiêm đại ca và ta đều bị trị tội.

Cô có muốn về không đây?"
Nàng cắn môi, gắng sức nhấc chân đi theo phía sau hắn.

Dưới tường thành có cửa hông nhỏ, binh sĩ giữ cửa mở ra, Lý Vị dẫn nàng vào, đi qua một lối đi mờ mờ tối tối.

Truy Lôi thấy chủ nhân xuất hiện, giậm móng lộc cộc chạy tới.

Xuân Thiên cưỡi lên Truy Lôi, Lý Vị nắm cương ngựa đi đằng trước, mặt trời đã lặn được nửa, sắc trời xanh xám, diều hâu sải rộng cánh chao liệng giữa không trung.

Hắn ngoái đầu nhìn nàng một cái, mặt Xuân Thiên vô cảm, ngồi uể oải lắc lư trên lưng ngựa.

Hắn nói chầm chậm: "Có lẽ cha cô chết trận ở lân cận sông Duệ Hí, vùng đó hiện giờ là chỗ du mục của người Đột Quyết, cách Cam Lộ Xuyên khoảng tám trăm dặm, cô muốn qua đó kiểu gì? Thêm nữa, tình thế ở biên thùy đang tiến triển, bước vào giai đoạn hai bên xung đột liên tục, sớm muộn gì rồi triều đình cũng chiến tranh với Đột Quyết.

Cô ra ngoài thế này chính là đi chịu chết, có biết không?"
Nàng mỏi mệt: "Biết, cảm ơn đại gia chỉ điểm."
Suốt đường đi hai người chẳng nói năng gì.

Lý Vị dắt ngựa đến thành Phương Bàn, nắng chiều đã bị mặt đất thôn tính, tà dương mỏng manh, gió lạnh bắt đầu nổi, tiếng hót của chim diều trên trời hòa cùng tiếng vó ngựa.

Lý Vị lại nhìn nàng, dưới ánh hoàng hôn le lói, Xuân Thiên len lén cầm ống tay áo lau nước mắt, nàng mặc bộ thanh y bó ống tay, chải kiểu tóc hai bên thường thấy của tỳ nữ, cứ thế lặng lẽ khóc, hệt như cô nương xinh xắn nhà ai tủi thân đang âm thầm nén giận.

Nước mắt tuôn dài tạo thành những vệt trong suốt trên đôi má ướt đầm của nàng, tẩy đi lớp phấn vàng vàng bôi trét trước đó.

Bấy giờ, hắn mới giật mình nhận ra nàng trắng tới vậy.

Khuôn mặt rạng ngời bóng láng như dương chi bạch ngọc hiện ra trong một buổi chạng vạng — đây là kiều nữ thuộc về xuân khuê cẩm tú, được bao bọc ở nơi sâu nhất sau bức màn trướng, vậy mà sao lại xuất hiện ở nơi biên tái cát vàng cuồng phong, hoang mạc khắp chốn thế này.

Đàn ông thấy phụ nữ rơi lệ, tám chín phần là mềm lòng.

Hắn đắn đo nghĩ cách để nàng ngừng khóc, song kiểu gì cũng thấy không hợp với thân phận.

Chợt có con thỏ hoang nhảy ra từ bụi hắc mai biển đằng trước, hắn trầm tư một lát rồi cất tiếng; "Mùa này thỏ con mới sinh, vô cùng đáng yêu, cô có thích thỏ không, ta bắt một con cho cô chơi?"

Giữa đàn ông trưởng thành hai tám hai chín tuổi và thiếu nữ mới mười lăm tuổi, cách quá xa, chênh lệch quá lớn, có lẽ cũng chẳng có nhiều chủ đề để nói chuyện.

Xuân Thiên thôi khóc, lúc lâu sau mới rầu rĩ trả lời: "Đại gia cố ý ra ngoài tìm tôi sao?"
"Phải."
"Đại gia là người tốt, sợ tôi lại gặp chuyện bất trắc..." Nàng hấp háy cái mũi, "Lần này tôi không nhận ân tình của đại gia nữa đâu, đại gia không nên tới."
Lý Vị cười khổ — hắn cố tình đến đây.

Tại sao lại muốn đến, họa chăng là do lần đầu tiên nhìn thấy nàng, hắn đã cực kỳ kinh ngạc, sợ nàng lần nữa chết trên đường.

Thành thực mà nói, hắn chưa từng gặp cô gái nhỏ nào đang trong tình trạng sống dở chết dở, mà còn có sức lực để cắn người đã cứu nàng một phát.

Gần tới thành Phương Bàn, Xuân Thiên mới ngừng nước mắt.

Cả nhà Nghiêm Tụng hiện đang sống trong thành Phương Bàn, Nghiêm nương tử là người hết sức cởi mở, con gái trong nhà đã lấy chồng từ lâu, còn lại đứa con trai mười bảy mười tám tuổi đang làm việc tại huyện Đôn Hoàng.

Trong phòng đốt đèn sáng trưng, Nghiêm nương tử nghe có tiếng ngựa thì xách đèn lồng rảo bước ra ngoài.

Thấy Lý Vị dẫn theo một thiếu nữ trở về, biết đó là con gái của đô úy Tiểu Xuân mà mấy ông đàn ông nhắc, Nghiêm nương tử nở nụ cười dịu dàng tiến lên đỡ Xuân Thiên xuống ngựa: "Tìm được người rồi đấy." Lại nắm tay Xuân Thiên vào nhà, "Gái ngoan của tôi, lòng hiếu thảo của con đúng là khiến người ta bội phục, nhưng sao có thể một mình chạy đến chỗ kia chứ hả.

Lại còn không có giấy thông hành, không họ hàng người thân, con có biết trong đó nguy hiểm cỡ nào không..."
Xuân Thiên giơ ống tay áo lau khuôn mặt cứng đờ vì gió thổi, giọng khàn khàn hành lễ với Nghiêm nương tử.

Nghiêm nương tử thu dọn đầu giường lò gọn ghẽ, kéo Xuân Thiên lên ngồi, còn mình vội vội vàng vàng vào bếp xào vài món, sau đó lấy một vò rượu trong hầm ra đưa cho Lý Vị: "Lẽ ra tang của em dâu uống rượu thì kì cục quá.

Nhưng chú tới, chị đâu thể tiếp đón không chu đáo.

Hôm nay uống một chén rồi thôi, còn lại chờ mai đại ca của cậu về, hai người cùng uống một bữa."
Lý Vị đồng ý, ba người ngồi ăn cơm với nhau, Lý Vị giới thiệu Nghiêm Tụng và Nghiêm nương tử với Xuân Thiên.

Nghiêm Tụng ở Qua Châu Hợp Hà trấn thủ biên giới nhiều năm, trước kia Lý Vị gia nhập quân Mặc Ly cũng từng trấn ở Hợp Hà nửa năm, lúc đó đang ở trong doanh đội của Nghiêm Tụng.

Hai người có duyên gặp mặt, kết tình nghĩa nồng hậu.

Sáng hôm sau, Nghiêm Tụng từ binh doanh về, còn mang theo ngựa và bọc hành lý của Xuân Thiên, tính thêm cả số phiếu trà đổi từ một trăm lượng bạc, đem trả lại hết cho Xuân Thiên.


"Kẻ đưa cháu xuất quan là tên tội phạm thường nhận mấy vụ dẫn lén thế này, đánh một trận sau đó đuổi về quê rồi." Nghiêm Tụng nói với Xuân Thiên, "May mắn người mà cháu gặp kia tâm địa không hẳn là xấu, nếu đụng phải kẻ khác, có khi vừa ra khỏi Ngọc Môn quan đã cướp hết tiền của đồ đạc của cháu, đưa thẳng cháu ra ngoài sa mạc để cháu tự sinh tự diệt.

Đến khi ấy kêu trời trời không biết, gọi đất đất chẳng hay."
Anh ta kể với Xuân Thiên đầu đuôi sự việc của đô úy Tiểu Xuân: "Chú trấn thủ biên giới ở Hợp Hà hơn mười năm.

Ban đầu không có quan hệ gì tới quân Y Ngô, đô úy Tiểu Xuân mới đến Bắc Đình, trước là đi qua huyện Y Ngô, sau đấy mới chuyển sang Cam Lộ Xuyên.

Đúng lúc đó chú đưa đô úy đại nhân của Chiết Trùng Phủ đến Y Ngô làm việc, không cẩn thận phát sinh xung đột với một vị Quả Nghị tướng quân đương thời.

Vị tướng Quả Nghị này là thân thích của Vi gia, ỷ vào danh hào Vi đại đô đốc lúc bấy giờ, kiêu căng hống hách không ai bì nổi, bắt chú lại còn muốn chém đầu chú." Anh ta lắc đầu, thở dài, "Khi đó đô úy Tiểu Xuân đang đứng ở một chức vị nhỏ nhoi không đáng để mắt, mọi người cả công đường câm như hến, vậy mà ông ấy lại đứng ra giải thích cho chú, cứu chú một mạng."
"Sau đó, hễ là có cơ hội, chú sẽ mời đô úy Tiểu Xuân uống vài chén." Nghiêm Tụng tính toán, "Mấy năm kia tổng cộng chú gặp ông ấy ba lần, mời ông ấy uống hai bữa rượu.

Da đô úy Tiểu Xuân phải gọi là trắng muốt, càng uống mặt càng trắng, chả nhận ra là có say hay không, nói chuyện cũng văn nhã lịch sự ra phết.

Khà, ông ấy kể phu nhân trong nhà duyên dáng hiền lành, còn có cô con gái thiên kim bảo bối.

Bọn chú giỡn giỡn, bảo không gặp em dâu thì sao biết có đẹp hay không.

Đô úy Tiểu Xuân thề son sắt, lần nghỉ tuần đợt tới sẽ đưa hai mẹ con lại đây.

Uống đến cuối, rồi Dưsay khướt ngã lăn rầm ra đấy." Anh ta nhìn Xuân Thiên, thở dài, "Có ngờ đâu, con gái của đô úy Tiểu Xuân đã lớn từng này rồi."
"Sau đó nữa, Cảnh Nguyên năm thứ sáu, Cam Lộ Xuyên nghênh chiến Đột Quyết, đô úy Tiểu Xuân cứ thế ra đi, thi cốt chôn vùi dưới đất Hồ không đưa về, ngay cả truy phong trợ cấp trong quân cũng chả có." Anh ta tiếp tục thở dài, "Những người bọn chú đi theo triều đình ra sống vào chết, thế thì có tác dụng gì chứ.

Tóm lại là người thấp cổ bé họng, cho dù căm giận thay vì đô úy Tiểu Xuân bị đối xử bất công, nhưng cũng có giúp được gì đâu."
Sắc mặt Xuân Thiên nặng nề, ngực phập phồng, không biết buồn hay vui.

Nghiêm Tụng nhấp một ngụm rượu, nói tiếp: "Đầu năm nay Lý Vị gửi thư cho chú, hỏi thăm chuyện của chú cùng đô úy Tiểu Xuân.

Chú ngạc nhiên lắm, trước giờ chưa có ai hỏi mấy cái đó cả."
Anh ta nom Xuân Thiên, tiểu nữ lang mới mười bốn mười lăm tuổi: "Cháu gái nhỏ, chú có một câu, người chết là chết, người sống vẫn phải sống.

Tuổi cháu còn nhỏ, có được tấm lòng như vậy đã quý báu lắm rồi, đô úy Tiểu Xuân trên giời có linh thiêng nhìn cháu thế này, cũng sẽ thấy thanh thản yên vui.

Tấm lòng đến Ngọc Môn quan của cháu đã đạt được, thôi thì cháu theo Lý Vị về đi."
Nghiêm nương tử ngồi bên nghe hết chuyện từ đầu chí cuối, bèn ôm Xuân Thiên vào lòng an ủi: "Con gái đáng thương của tôi, con rời nhà bao lâu rồi, người trong nhà chắc cũng sốt ruột.

Mẹ con chỉ có mỗi đứa con gái là con, hơn nửa năm không gặp, chả biết đã khóc đứt ruột đứt gan thế nào đâu."
Xuân Thiên gượng cười nói: "Vâng ạ."
Lý Vị ở bên uống rượu chay, nhìn thần sắc nàng càng lúc càng kém, tia sáng trong mắt càng lúc càng ảm đạm, không thấy ánh lệ nào, lại đầy nét bướng bỉnh và kiên cường.


Bóng đêm ngày hôm đó như thể là chiêm bao, mặt trăng to tròn vành vạnh, tinh tú giăng đầy sáng tỏ.

Xuân Thiên không chợp mắt, đêm kiểu này, thật sự khó có thể vào giấc.

Trong đêm dài người lặng, Lý Vị đẩy cánh cửa phòng nàng ở ra, ánh trắng và ánh sao tràn vào như làn nước bạc, hắn đứng ngay trong đó, những vì sao rơi xuống đầu vai hắn, ánh trăng in hằn trong mắt hắn.

Hắn mang theo hào quang tràn đầy, hệt như vầng nguyệt đi vào căn phòng ngủ bé nhỏ này, cầm lấy bọc đồ của nàng đặt trên giường, nói với nàng: "Ban đêm trời lạnh, thay bộ quần áo khác hẵng đi."
Nàng hỏi: "Đi đâu ạ?"
Lý Vị nói: "Ta đưa cô đi nơi cô muốn đến."
Nàng vội vã thay xiêm y rồi lao ra, Lý Vị dắt ngựa của hai người chờ ở ngoài, bảo nàng đừng lên tiếng.

Hai người lặng lẽ ra khỏi Nghiêm gia, đi dọc theo con đường mòn hoang vắng hướng tới phía Bắc.

Xuân Thiên có hơi hoảng: "Chúng ta đi đâu thế?"
"Đi hướng Bắc.

Có con sông Hồ Lô, chúng ta phải qua sông trước hừng đông, lén qua Ngọc Môn quan."
"Ngài đi rồi, Nghiêm đại gia và Nghiêm nương tử làm sao đây? Còn cả Trường Lưu nữa?"
Hắn xoay người lên ngựa: "Ta đã để lại thư cho Nghiêm gia, nhờ họ chuyển cho Lục Minh Nguyệt, để Trường Lưu ở nhà cô ấy một khoảng thời gian.

Đi nhanh thì hai ba tháng là có thể trở về..." Hắn hơi dừng, thấp giọng nói, "Sau khi đưa cô đi chuyến này, về sau ta sẽ không cưỡi ngựa nữa, yên tâm ở nhà với Trường Lưu."
Nàng là chuyến lạc đà cuối cùng mà hắn hộ tống, chỉ có một người một ngựa, nhưng đã không còn giống so với ngày trước.

Xuân Thiên lục lọi cả bao đồ của mình, cuối cùng lấy ra tất cả tiền bạc của nàng, đưa cho hắn: "Đại gia, đây là toàn bộ tiền tôi có."
Lý Vị ngửa đầu cười ha ha.

Hai người ngồi trên lưng ngựa, ánh trắng khiến kẻ khác say mê.

Nàng chưa từng chứng kiến buổi đêm nào như vậy, trời đất heo hút, gió lạnh thổi vù vù, màn trời trông tựa một mảnh lưu ly, xám xám xanh xanh.

Trăng to như cái đĩa.

Trong cung điện của Hằng Nga, cây Quế của Ngô Cương thấy được rõ mồn một.

Sao sáng lạ thường, từ một ông sao ghép thành những khoảng trời rợp sao, vươn tay là có thể hái.

Từ nay về sau trong giấc mộng của nàng sẽ có đêm, ngày, tháng, năm xán lạn như vậy, thậm chí cả cuộc đời, vĩnh viễn không dập tắt.

(còn tiếp).

 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
610,854
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 27: 27: Tiết Phu Nhân


*Chương này có nội dung ảnh, nếu bạn không thấy nội dung chương, vui lòng bật chế độ hiện hình ảnh của trình duyệt để đọc.




Chân trước Lý Vị vừa rời Cam Châu chưa tới hai ngày, chân sau Tào Đắc Ninh đã đến hẻm Người Mù gõ cửa, vì nhận được thư Đoàn Cẩn Kha gửi nhờ ông ta đi thăm hỏi tin tức Xuân Thiên.

Ông ta dẫn người hầu chạy tới Lý gia, chỉ thấy cửa đóng then cài, có mỗi mình Triệu đại nương ra mở cửa, hỏi thì mới biết mấy ngày trước Xuân Thiên đã rời Cam Châu, Lý Vị cũng đi theo.
Ông ta vỗ đùi, thở ngắn than dài: "Thế thì nguy rồi."

Trường An, Tĩnh vương phủ.

Tuế Quan đã được hơn bốn tháng, trộm vía bụ bẫm trắng trẻo, cặp mắt cực kỳ linh động, người đi đến đâu là lại xoay tròn theo đến đó, cái miệng cứ bi ba bi bô suốt, gặp ai là lại giơ nắm tay núng nính thịt ra bắt chuyện.

Lão vương phi chỉ có mỗi đứa cháu đích tôn, thương yêu không để đâu cho hết, cả ngày ngậm kẹo đùa cháu, hưởng niềm vui thú tuổi già, thậm chí chẳng thèm đoái hoài gì Tĩnh vương.

Từ lúc sinh tới nay, Tuế Quan luôn ở Thiên Thủy các của lão vương phi, ba bốn bà vú bảy tám ma ma vây chung quanh.

Thái hậu trong cung cũng thích đứa cháu ngoại này, chuyện ăn ngủ nghỉ của Tuế Quan tuyệt đối không hề kém cạnh với trong cung.

Trong quá trình bầu bí sinh nở, Tiết phu nhân đã phải chịu rất nhiều khổ cực, mấy tháng nay điều dưỡng mới dần dần tốt lên, sắc mặt chậm rãi khôi phục lại như trước kia.

Sang năm mới, Tĩnh vương tìm mọi cách xin cho bà phong hào trắc phi, nhưng bà không chịu, toàn bộ chi phí ăn mặc đều làm theo quy tắc trước đây, cũng không chuyển phòng ở mà ở lại Lệ Gia các.

Sau khi xuống giường đi lại được, theo lệ thường thì mỗi ngày đều ngoan ngoãn đi thỉnh an lão vương phi, hoặc là theo các ma ma nhũ mẫu đi thăm Tuế Quan.

Ngoài ra, bà từ chối nhúng tay vào những việc không can hệ gì tới mình, thỉnh thoảng bị người ngoài ngáng chân cũng bấm bụng nuốt giận không kêu than.

Lão vương phi lặng lẽ quan sát Tiết phu nhân, tuy rằng xuất thân nhà nghèo cửa nhỏ, có khuyết thiếu về phụ đức phẩm hạnh, nhưng ít nhất là không có ý xấu, cũng biết an phận thủ thường, không làm ra mấy chuyện mờ ám trong phủ khiến người khác phiền chán.

Thế nên dần dà, lão vương phi như ngầm đồng ý với cái danh "trắc phi", để Tiết phu nhân làm tròn bổn phận mẹ đẻ của trưởng tử vương phủ.


Lệ Gia các được xây phía trên nhà thủy tạ.

Ban đầu nó là mấy gian tịnh thất như thư phòng của Tĩnh vương, mặc dù thanh tịnh nhưng lại chỉ có ba gian các nhỏ, hiển nhiên là vô cùng chật chội, thậm chí còn chả có phòng trực cho người hầu gác đêm.

Vậy nhưng Tiết phu nhân không chịu chuyển phòng, Tĩnh vương ngẫm nghĩ rồi đành thôi, nơi này chỉ cách thư phòng của mình có vài bước chân, việc đến đi hằng ngày cũng tiện hơn.

Tấm màn lụa màu hải đường đỏ rực quả là hợp cảnh, hơi thở nhẹ bay, hoa vờn như mưa, chơi vơi lửng lơ, kiều diễm không gì sánh bằng.

Thu Quỳ ngồi ở gian ngoài trông nước ấm khăn lau mà gật gà gật gù.

Phòng của Lệ Gia các nhỏ, lại là nhà thủy tạ, âm thanh có nhỏ mấy cũng chẳng giấu được.

Tiếng khóc của Tiết phu nhân trong căn phòng đóng kín vừa run vừa yếu, như làn hương dịu dàng của một mối tình thầm kín lượn lờ từ chiếc hương nghê*, không thể dừng lại.

Tĩnh vương yêu đến điên cuồng đôi chân ngọc này của bà, khi đó vừa mới cứu lên đã giấu bà vào một căn nhà ngoài vương phủ.

Sau đó có người biết tâm biết ý, đã tới hầu hạ Tiết phu nhân mặc đồ trang điểm.

Bà mặc chiếc váy xanh thẫm dệt bằng sợi mây thơm, hai đùi dưới váy không đeo tiết khố, để lấp ló đường nét mềm mại.

Đôi bàn chân tuyết trắng không bó đứng trên tấm gỗ đỏ, khiến ông say mê ngay từ cái nhìn đầu tiên, đến lần gặp thứ hai thì bị hớp cả hồn, bất chấp uy nghi mây mưa một phen ở ban công, đánh mất cả lối sống thanh bạch trước giờ của Tĩnh vương.

"Miểu Miểu...!để ta thương yêu nàng..."
Đối với phụ nữ, Tĩnh vương chuộng kiểu mảnh mai yểu điệu, nhu mì đáng yêu, nước xuân dập dờn, như con chim nhỏ nép vào người ông.


Tiết phu nhân chính là một điển hình, bà quá thướt tha, quá khờ dại, thướt tha đến nỗi khiến trái tim sinh ra khát khao chiếm hữu, khờ dại đến nỗi khiến người khác ham muốn che chở.

Một hai người đàn ông như thế, Tĩnh vương cũng không ngoại lệ.

Chiếc móc vàng nhẹ nhàng đung đưa theo nhịp phất phơ của tấm màn, phát ra tiếng vang vừa nhỏ vừa trong trẻo.

Thu Quỳ hãy còn trông nước nóng trên bếp lò, vừa mệt vừa buồn ngủ, che miệng ngáp một cái.

Tĩnh vương đang ngẩn người nhìn đăm đăm dấu hôn đỏ ửng đêm qua lưu lại trên ngực bà, bấy giờ lưu luyến hồi phục tinh thần: "Ngoài kia có việc phải xử lý, nàng về ngủ thêm một giấc, hôm nay khỏi cần thỉnh an mẫu thân đi."
Tĩnh vương đứng ở ngoài phòng, thở hắt ra một hai, đi đến thư phòng.

Trên bàn trong thư phòng có sách, trong sách kẹp một lá thư đã mở, hôm qua ông đã đọc qua, nay đọc kỹ lần nữa, Đây là thư hôm qua Đoàn Cẩn Kha đến nhà đưa, nói là thư mà đầy tớ ở phủ Cam Châu Hà Tây gửi, y còn thuật lại kỹ càng những biến chuyển từ đầu tới cuối của người được nhắc đến trong thư.

Đoàn Cẩn Kha cũng nghe phong thanh về Tiết phu nhân được Tĩnh vương sủng ái, người đó được Tiết gia đưa từ Vi gia về, là em gái của Tiết đại nhân.

Nhưng thiếu nữ hôm ấy gặp ở Hồng Nhai Câu tại sao lại là cháu gái của Tiết phu nhân, đây cũng là chuyện kỳ lạ.

Tĩnh vương nghe Đoàn Cẩn Kha miêu tả ngoại hình Xuân Thiên, nhẩm tính thời gian, lòng đã sáng tỏ mấy phần.

Có điều quả thực là kinh ngạc, có ai ngờ được một thiếu nữ khuê phòng mười lăm tuổi, rốt cuộc là bị điều gì kích động thúc đẩy, mà dám chạy ba nghìn dặm đến Hà Tây, còn định ra Ngọc Môn tới Bắc Đình.

Suốt chặng đường này, con bé đến đó kiểu gì? Tiết gia đã dạy con gái kiểu gì thế?
Đứa con gái Miểu Miểu để lại Tiết gia này, vì thể diện vương phủ, nên đã công bố với bên ngoài là ấu nữ của Tiết Quảng Hiếu, cháu gái của Tiết phu nhân.

Nhưng lần nào cũng như lần nào, hoặc là được chủ mẫu Tào thị của Tiết gia dẫn đến, hoặc là Tiết phu nhân sai người đi đón vào vương phủ coi như bữa đoàn tụ nhỏ — cô bé này, phần lớn Tĩnh vương sẽ tránh chạm mặt.


Chiếm lấy mẹ của một cô bé, Tĩnh vương ông luôn cảm thấy mặt mũi mình không được vẻ vang gì cho lắm.

Tĩnh vương đã gặp cô bé kia được một hai lần, tuổi khá lớn, không nói quá nhiều, cách cư xử cũng câu nệ, thần sắc ảm đạm buồn tẻ.

Dung mạo mặc dù có đôi nét tương tự Miểu Miểu, tuy nhiên chẳng hề có chút mềm mỏng ngây thơ nào như mẹ mình.

Cuối năm kia, Tiết phu nhân từng có thai một lần, chưa kịp thông báo thì đã đẻ non.

Tĩnh vương phủ nhiều năm không có ai sinh nở, lòng ông lúc nào cũng thấy âu sầu, lại thương Miểu Miểu, nên sắp xếp bà vào vườn tĩnh dưỡng.

Dạo nọ, có một thuật sĩ đến phủ bói một quẻ, bảo trong vòng những năm trở lại đây ông chắc chắn sẽ có con, quả nhiên tháng ba năm ngoái, Tiết phu nhân lại có thai.

Nhất thời ông mừng rỡ khôn xiết, dàn xếp từng li từng tí từ trên xuống dưới, bên này Miểu Miểu còn nằm dưỡng thai, bên kia tháng tư Tiết Quảng Hiếu đã tới cửa lắp bắp báo người mất tích rồi.

Vốn hôm ấy Tào thị dẫn con gái trong nhà vào miếu thắp hương, đi nửa đường Xuân Thiên thấy người không thoải mái, Tào thị bèn kêu lão bộc đưa về phủ nghỉ ngơi.

Đến khi cả nhà trở về, người đã biến mất tiêu, nha hoàn bà bà tưởng cô nương theo chủ mẫu ra ngoài thắp hương rồi, người ngoài lại tưởng nàng đã về tới nhà.

Tìm mấy ngày vẫn chẳng có kết quả, bấy giờ mới lật đật đến Tĩnh vương phủ hỏi.

Ban đầu Tĩnh vương gạt Tiết phu nhân, thầm phái người tìm kiếm cả trong lẫn ngoài thành Trường An.

Thành Trường An lớn như vậy, tìm rất lâu cũng không được tin tức.

Sau đó chả biết là ai để lộ tin cho Tiết phu nhân, Tiết phu nhân vừa nghe con gái mất tích, ngất ngay tại chỗ.

Sau đó nữa, tra ra được trang sức mà Tĩnh vương phủ tặng cho Tiết phủ lưu lạc đến hiệu cầm đồ, mới biết nàng lén đổi ngân phiếu, mua thêm ngựa rồi bọc hành lý, còn mua một lão bộc.

Nhưng không có giấy thông hành, nàng ra ngoài bằng cách nào đây.


Sau đó tìm được lão bộc từng được Xuân Thiên mua, lão bộc già nua nghễnh ngãng nên về quê rồi, chỉ nói ở thành Trường An đi theo Xuân Thiên, có giấy thông hành nhưng đường đi không thuận lợi.

Cho đến Tần Châu, một ngày kia ra ngoài múc nước, lúc về đã không thấy bóng dáng chủ nhân đâu, tìm hai ngày mà chẳng thu hoạch được gì, lười đi báo quan, dứt khoát trốn về quê hương.

Phía trước Tần Châu chính là Lũng Sơn nối liền nhau và Hoàng Hà chảy xiết, tiếp tục phái người đi tìm, có chút ít tin tức, nhưng lại như thật như giả, tra tới tra lui, cuối cùng vẫn chẳng tra ra ngọn nguồn căn nguyên.

Tuy nhiên có một điểm có thể kết luận, đứa nhỏ này là tự mình ra ngoài, chứ không phải bị người khác uy hiếp.

Tiết phu nhân biết chuyện, mấy ngày liền luôn ở trong trạng thái thất thần, hồn bay phách lạc nói với ông: "Thiếp biết, thiếp biết Nữu Nữu chê thiếp, chê thiếp bỏ mặc nó, chê thiếp quên cha nó, chê thiếp sống chỉ biết dựa vào người khác..." Thế rồi bả chẳng ngó ngàng tới điều gì nữa, luôn luôn mang cái chết ra đe dọa, đứa nhỏ trong bụng suýt chút nữa lại chết yểu.

Đó là con của ông! Tĩnh vương giận sôi máu, bụng dạ bức bối mà không biết trút với ai, lập tức giơ chân đá người truyền tin mấy cú.

Tiết phu nhân là người có thai, sao chịu đựng được cơn hành hạ như thế, đứa con gái này của bà, đào ba tấc đất cũng phải tìm ra con bé cho bằng được, phải đưa nó yên ổn đến trước mặt bà.

Ai biết liệu đi giữa đường nó có gặp tai bay vạ gió gì hay không, hay đã xảy ra chuyện gì không may rồi, bằng không thì sao chẳng nghe được một chút tin tức? Cho dù chết, tại sao ngay cả thi thể cũng không tìm thấy?
Vậy mà có ai ngờ đâu, Trường An ba nghìn dặm, làm cách nào con bé vượt qua được? Việc này, ai có thể làm ra?
Suy nghĩ của Tĩnh vương xoay vòng, nhớ tới một chuyện nhỏ năm đó, cảm thấy hơi tức cười, tiểu cô nương này, liệu có phải đã đến Bắc Đình nhặt xác cho cha con bé rồi chăng?
Ông có biết trượng phu trước kia của Miểu Miểu, hai gia đình là chỗ quen biết cũ.

Cha Miểu Miểu là hủ nho rất có học thức, tiếc rằng người không biết biến báo, cả đời ở huyện Trường An sao chép công văn.

Nhà trai là đồng hương của Tiết phủ, đảm nhiệm chức vụ quan văn nho nhỏ trong huyện nha Trường An, sau đó vào quân ngũ, tính ra đã qua đời bảy tám năm, chỉ e lòng Miểu Miểu còn nhớ thương.

Vất vả lắm tâm tư của Miểu Miểu mới đặt ở chỗ ông, cũng đã có đứa nhỏ cả rồi, nếu việc ấy lại khiến Miểu Miểu khơi dậy chút tình cảm ngày xưa, ầm ĩ muốn làm gì đó, thế thì khó coi rồi đấy.

Tin tức này, phải nói với Miểu Miểu thế nào đây?
(còn tiếp)
*Chú thích:
[Diendantruyen.Com] Vị Bắc Xuân Thiên Thụ
.

 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
610,854
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 28: 28: Núi Thường Lạc


*Chương này có nội dung ảnh, nếu bạn không thấy nội dung chương, vui lòng bật chế độ hiện hình ảnh của trình duyệt để đọc.




Cách thành Thạch Bàn mười dặm về phía Tây Bắc có sông Hồ Lô, nước sông tạo nên từ băng tuyết tan trong Kỳ Liên Sơn.

Tháng tư xuân ấm mà nước sông lại lạnh cắt da cắt thịt.

Cây hồ dương* hai bên bờ cành là đan chen vào nhau tạo thành những vùng bóng râm, đám lau sậy thân xanh bông trắng mọc rậm rạp thành rừng.

Đứng dưới ánh trăng nhìn từ xa xa, trông hệt như một lớp sương tuyết mỏng nhẹ, lay động phất phơ theo chiều gió.

Lý Vị đưa Xuân Thiên đạp ngựa đi qua đó, cỏ lau cao thẳng thắp, cả người lẫn ngựa bị che kín bên trong.

Mùi cỏ cây nhàn nhạt thơm dịu quyện với mùi vừa buốt vừa ẩm ướt của nước sông xộc thẳng lên mặt.

Con gà gô đang say giấc bị vó ngựa quấy nhiễu, nó giơ cánh vỗ phành phạch, lướt qua mặt sông thâm thấp, lủi sâu vào trong bụi sậy.

"Bờ sông ở đây rất hẹp, lại lắm cỏ lau, có thể thúc ngựa qua sông, cũng không dễ bị người khác phát hiện.

Sau khi qua sông, đi năm mươi dặm về Tây Bắc qua núi Thường Lạc, phía sau rặng núi chính là huyện Thường Lạc." Lý Vị quay đầu ngựa, đối mặt với nàng nói giọng nghiêm túc, "Huyện Thường Lạc có quân phòng thủ, chúng ta không vào thành được, chỉ có thể qua đêm ở thôn dã, đi tiếp trăm dặm về phía Bắc, đường đất kiềm và nhiều cát, sau đó ta sẽ thấy được quan đạo để đi tới Y Ngô.

Đi dọc theo quan đạo tới Y Ngô, rồi tiếp tục nghĩ cách vào Cam Lộ Xuyên."
"Không có giấy thông hành, bất cứ lúc nào cũng có khả năng bị quân đội đồn trú bên đường đuổi bắt hoặc dùng gậy đánh chết.

Ngoài ra trên đường còn có đạo tặc, cát lún, gió khô nóng, dịch bệnh.

Chúng ta phải băng qua sa mạc lớn, sông khô cạn, cánh đồng hoang, núi phủ tuyết.

Con đường phía trước khó lường, gian khổ vô cùng, không phải điều mà cô tưởng tượng ra được.

Cô...!đã nghĩ kỹ rồi chứ?"
Nàng không cảm thấy đáng sợ bao nhiêu, ánh trăng chiếu xuống khuôn mặt trầm tĩnh của nàng, câu trả lời chắc nịch: "Nghĩ kỹ rồi."
"Vậy...!đi thôi." Lý Vị đưa roi ngựa của mình cho nàng, "Nước sông chảy xiết, cô nắm cho chắc."
Trăng rọi sáng ngời, dòng chảy như ươm tơ bạc, nước phi ầm ầm, con ngựa dưới thân nơm nớp lo sợ.

Hắn dắt nàng, nàng nắm chặt cây roi đi theo hắn, từng bước từng bước một tiến tới bờ bên kia.

Mùa này ban đêm có côn trùng kêu rả rích, khi ngắn khi dài, cỏ lau lung lay theo gió, gợn sóng liên hồi.

Bọn họ phải đi mau, phải tránh lửa báo hiệu trước lúc bình minh ló dạng, náu mình vào núi Thường Lạc ngàn nhận* vạn vách.

(*Nhận: Đơn vị đo lường thời xưa, một nhận bằng 8 hoặc 7 thước)
Ngựa phi vun vút, thoạt đầu còn có cỏ lau bạt ngàn, hồ dương cao ngất, liễu đỏ thướt tha chắn tầm mắt.

Càng đi về sau, sắc xuân càng suy tàn, đồng bằng bao la, rất có cảm giác "ruộng đồng mênh mông sao sà thấp, gương nga loang loáng sóng cuộn trào"*.

Có điều, nước sông giờ đây đã được thay bằng cây lùn cỏ dại trải dài vô tận dưới chân.


(*Hai câu thơ trong "Lữ dạ thư hoài" của Đỗ Phủ)
Kỹ thuật cưỡi ngựa của Xuân Thiên hiển nhiên là không điêu luyện như Lý Vị, sớm đã đầm đìa mồ hôi, tóc nàng dính vào trán, gặp gió lạnh thổi cát đến, hai bên thái dương toàn bụi là bụi.

Cả đêm Lý Vị đưa nàng đi rồi lại dừng, cuối cùng cũng chui được vào trong núi trước rạng đông.

Núi Thường Lạc trăm dặm nối liền, chẳng thấy bóng dáng một ngọn cỏ, thế núi dốc đứng, trên không có chim bay, dưới không có suối nước.

Toàn bộ trong núi đều là đá vỡ phong hóa, vừa đặt chân lên dốc, những hòn đá dưới chân phút chốc đã bể vụn lăn xuống long lóc.

Lý Vị tìm chỗ khe núi khuất nẻo, chọn một nơi rãnh nghiêng có thể tránh gió để buộc ngựa, nói với Xuân Thiên: "Tạm thời nghỉ chân ở đây đi."
Xuân Thiên biết mấy ngày nay chưa ngủ được giấc nào tròn, bôn ba cả đêm đã sớm hết hơi hết sức, tinh thần cạn kiệt.

Nàng đâu bao giờ cưỡi ngựa tốc hành xuyên đêm thế này, hai bên chân đã sưng tấy lên, tê rần, vừa động đậy cái là đau như bị kim châm.

Nhưng nàng vẫn chịu đựng không rên tiếng nào.

Lúc đi theo Lý Vị thì cứ cậy mạnh, giờ có kiểu gì cũng không xuống ngựa nổi.

Lý Vị thấy nàng nhăn nhó, ấn đường thoáng hiện nét đau đớn, lần lữa không chịu xuống dưới.

Lòng hắn tỏ được mấy phần, người của triều đại này cư ngụ ở đồng bằng đã lâu, không thể rong ruổi trên lưng ngựa trong một thời gian dài như những tộc khác.

Tuy nhiên, nếu nàng đã hạ quyết tâm muốn đi, vậy thì khổ cực ấy sớm muộn gì cũng phải nếm trải.

Hắn vươn tay ra đỡ nàng: "Xuống dưới thôi."
Xuân Thiên mím môi, nhíu mày ra sức lắc đầu.

Ánh mắt Lý Vị như đã hiểu rõ, vươn tay cố chấp nói: "Có đau nữa cũng phải xuống, ngồi càng lâu, về sau càng đau."
Nàng cắn môi, run run rẩy rẩy nắm cương ngựa chuẩn bị nhảy xuống, khuôn mặt đỏ ửng nhăn rúm ró, roi ngựa trong tay Lý Vị vung lên quấn lấy lưng nàng, chỉ kéo nhẹ một cái là nàng đã ngã xuống bả vai hắn.

Xuân Thiên khẽ rên lên vì cơn đau lan khắp người, nàng bị hắn khiêng lên vai bước đi một cách nhẹ nhàng.

Lý Vị sải bước rộng ném nàng vào tấm thảm nỉ, hai tay quấn thảm bọc nàng lại thật chặt.

Nàng bị bọc trong tấm thảm ngọ nguậy một phen quay cuồng, liên tục hít không khí, để lộ khuôn mặt nhỏ nhắn lấm lem bụi đất, sắc môi xanh trắng khô nẻ.

Còn hắn tất nhiên vẫn giữ thần sắc bình tĩnh, ngữ khí ôn hòa: "Cô nghỉ ngơi đi, ta đi làm chút gì đó ăn."
Xuân Thiên nằm trong thảm nỉ ấm áp, còn tâm trạng nào quan tâm tới việc khác nữa.

Mí mắt nàng dính rịt vào nhau, ngoảnh đi ngoảnh lại đã thiêm thiếp ngủ.

Khi Lý Vị quay về, thấy tấm thảm nỉ quấn trọn cả người nàng không chừa tí khe hở nào, chỗ vai nhấp nhô, đang ngủ say sưa tít mù, hắn không khỏi lắc đầu cười cười, rồi tự đi làm việc của mình.


Không biết nàng đã ngủ bao lâu, vừa đặt đầu là đánh một giấc sâu, lúc mở mắt ra thì mặt trời đã lên cao.

Ánh nắng chói lọi chiếu xuống những bức tường đá màu vàng đất và đỏ sậm.

Trời quang rộng lớn, làn khói xanh bên cạnh lúc ẩn lúc hiện, cái thố đồng* be bé đen sì bắc trên một ngọn lửa nhỏ, trong nồi có canh nóng bốc khói nghi ngút, có mấy cọng lá chìm nổi chả biết là cái gì.

"Là một loại cam thảo, cho vào nước sẽ có vị ngọt thanh, có tác dụng bồi bổ tăng cường sức khỏe, chắc sẽ có lợi cho cô đấy." Lý Vị đang tựa vào tảng đá vót cành cây, hắn ném cho nàng cái bánh vừng: "Xé rồi nhúng vào canh cho mềm hẵng ăn."
Tuy bánh vừng bị sém, không có đồ ăn kèm, nhai khô cũng khó nuốt trôi, nhưng Xuân Thiên vẫn gật gật đầu, chia bánh làm đôi đưa cho Lý Vị một nửa: "Đại gia đã ăn chưa?"
Lý Vị gật đầu, Xuân Thiên ngồi thẳng lưng, chìa tay nhận đồ ăn với một tư thế nhẹ nhàng, cầm lấy thả ra một cách có kỷ luật, nhai kỹ nuốt khẽ không gây ra tiếng động, rõ ràng là được dạy dỗ từ nền giáo dưỡng tốt đẹp.

Trước kia Lý Vị chưa từng chú ý, hôm nay nhìn nàng ăn cơm, cũng cảm thấy vui tai vui mắt.

Khi ngọn lửa tắt, Lý Vị gạt đống tro bụi sang một bên, lục lọi từ trong đất ra ba quả trứng nhỏ lốm đốm tro, đẩy đến trước mặt Xuân Thiên: "Tìm được cái ổ trong bụi cỏ, tiếc là gà gô chạy hết rồi, còn mỗi mấy quả trứng này thôi."
"Trứng chim nhỏ quá."
Nàng vuốt quả trứng cong mắt cười, trứng vẫn còn nóng lắm, vô tình đầu ngón tay chạm vào bị phỏng, nàng la lên một tiếng rồi nhảy bật ra khỏi tấm thảm nỉ, chân giậm một cái xuống đất, nào còn dáng điệu quy củ đoan trang vừa rồi.

Lý Vị bất giác nở nụ cười, bấy giờ Xuân Thiên mới phát hiện bản thân thất thố, hai tay nàng giấu ra sau lưng, mặt mày ủ rũ.

Ăn lương khô xong, Lý Vị xử lý đống tro, hai người bước vào núi thẳm.

Truy Lôi vốn dĩ là một con ngựa đầu đàn trong Kỳ Liên Sơn, rất hiểu tính con người, khỏi cần ai dắt, tự giác dẫn ngựa của Xuân Thiên đi theo sau chủ nhân.

Cả hai càng đi sâu vào trong núi, đường càng gập ghềnh, gió chả biết tràn vào từ khe nào, lùa qua vách đá tạo nên tiếng ma sát rin rít, đá vụn lăn khắp mặt đất, mấy bụi hắc mai biển co đầu rụt cổ chui dưới chân.

Lý Vị đưa nàng đi qua bao nhiêu là khúc rẽ quanh co, vượt một vách núi, trước mắt bỗng nhiên hiện ra một con đèo nhỏ âm u dài và hẹp nằm ẩn khuất, gió thổi cực mạnh đuổi rắn chuồn vào trong.

"Đây là con đèo gió Bắc thổi ra, xuyên qua đường núi này là đến huyện Thường Lạc rồi." Lý Vị chắn trước người nàng, "Cẩn thận đá rơi đấy."
Hai người ngược gió đi trong rãnh khô nửa ngày trời, con đường phía trước dần dần mở rộng.

Xuân Thiên cúi đầu đi sau lưng Lý Vị, dưới dẫn dắt của hắn, nàng giương mi, hóa ra là đã ra khỏi chân núi Nam của núi Thường Lạc với đỉnh cao dốc đứng, đồi núi trước mặt cao thấp trùng điệp, cỏ cây mọc thành cụm, huyện Thường Lạc ở ngay sau đồi.

Phía Nam chân núi Thường Lạc cực kỳ khô hạn, chân núi phía Bắc lại có một ốc đảo được hình thành bởi một con sông chảy theo mùa, nước sông là băng tuyết của Kỳ Liên Sơn tan chảy xuôi xuống.

Xuân vừa đúng độ phơi phới, cỏ dại đầy đất rậm tốt như tấm thảm khổng lồ, đóa hoa nhỏ xíu nấp dưới những cành lá.

Gió phất qua khuôn mặt vầng trán, không trung mênh mông, mới đầu chỉ cảm thấy dễ chịu thích mắt, đi cả buổi, lúc bấy giờ mới thấu được nỗi thống khổ trong đó.

Trời không một đám mây, đất chẳng một bóng râm, nắng chói chang như nướng cả người, đến độ miệng khô lưỡi khô, mồ hôi nhễ nhại.

Bị gió mạnh thổi suốt đường đi, mặt mũi phơi lồ lộ giữa ánh mặt trời gay gắt, mu bàn tay nóng rát nhức nhối.


Xuân Thiên quệt trán, tức thì tay dính một lớp bụi lẫn mồ hôi nhớp nháp, sau lưng như có côn trùng cắn, đứng ngồi chả yên, mồm miệng đắng nghét, nước trong túi da vẫn còn hơn nửa, mà đến cả hơi sức động đầu ngón tay dốc nước vào họng cũng đã cạn sạch.

Lý Vị đưa nàng hành tẩu một ngày, vậy nhưng chưa hề lên tiếng chỉ cho nàng nên xoay sở như thế nào.

Chẳng qua chỉ là tí gian lao nhỏ nhặt, không phải ghê gớm gì, tiếp sau đây lại càng vất vả nữa — hắn cố ý để nàng chịu chút khổ cực, biết khó mà lui.

Mà cho đến tận khi hoàng hôn buông xuống được nửa, nàng cũng không than thở tiếng nào, chăm chú theo sát phía sau hắn.

Mắt thấy mặt trời lặn tới lưng chừng, Lý Vị không cưỡng ép gấp rút lên đường nữa, hắn xoay người xuống ngựa tìm chỗ ăn ngủ.

Xuân Thiên mệt mỏi cùng cực, chân cẳng mềm nhũn, khụy xuống đất thở không ra hơi, nàng nhìn quanh quất bốn bề, ngày vừa tàn, gió đêm lành lạnh, thậm chí hít thở cũng khó khăn.

Nàng cất giọng hỏi: "Đại gia, tối nay chúng ta phải ở đây sao?"
Lý Vị nhìn nàng tiều tụy phờ phạc, nhẹ nhàng nói: "Từ giờ trở đi, chắc có lẽ sẽ rất nhiều đêm phải tá túc trong núi hoang vắng lạnh, trong núi thường xuất hiện thú dữ, có kiến độc, cô có sợ không? Nếu cô thấy sợ, chúng ta vào huyện Thường Lạc tìm nơi ngủ trọ."
Nàng nhăn mặt cau mũi, lấy từ ống tay áo ra thanh chủy thủ: "Tôi có dao của cha, cũng từng qua đêm ở nơi hoang dã, tất nhiên là không sợ." Nàng giơ chủy thủ, "Tôi từng dùng con dao này chém chết một con rắn độc đấy."
Lý Vị nhìn cổ tay gầy yếu mảnh khảnh nâng thanh chủy thủ đen kịt của nàng, nhoẻn miệng cười: "Vậy tối nay, đành nhờ bảo đao của cô nương trấn giữ, bảo vệ an toàn của cô và ta."
Trong núi cực kỳ nhiều chim thú, cỏ linh lăng mọc tràn khắp, nở những nụ hoa tím hoa trắng, ngựa thích nhất là ăn loại cỏ này.

Hai con ngựa hí lên vài tiếng rồi tự đi tìm một bãi cỏ mềm rậm rạp làm bữa ăn.

Lý Vị chọn chỗ dốc đã khuất gió để dừng chân, cởi bỏ tay nải, hỏi Xuân Thiên: "Buổi tối muốn ăn gì?"
Ngữ khí của hắn thoải mái, nét mặt tự nhiên, xắn ống tay áo, dáng vẻ như sắp chuẩn bị nấu ăn.

Xuân Thiên thừ người nhìn mấy cái bánh vừng trong bao đồ căng phồng, vươn ngón tay đỏ hồng ra chọc chọc, Lý Vị nhe răng cười: "Không ăn bánh nữa." Hắn lấy chiếc túi da trâu nhỏ màu đen từ trong quần áo ra, bên trong túi là mười đầu mũi tên loe lóe được mài sắc bén, gắn vào nhánh cây đã vót sẵn ban sáng, ngón tay hắn kéo sợi dây gân trâu linh hoạt quấn một vòng, rất nhanh chóng một cây cung nhỏ đã nằm trong tay.

Xuân Thiên ngây ngẩn nhìn động tác của hắn, hỏi: "Đại gia muốn làm gì?"
"Săn thú." Lý Vị dặn dò nàng một phen rồi đi vào trong rừng, mới bước được nửa bước thì lại quay gót về, hắn lôi một cọng dây thừng ra, buộc một cái còi đồng nhỏ vàng rực vào đầu dây, cái còi vẫn còn mang theo nhiệt độ cơ thể hắn.

Hắn theo Lý phụ cưỡi ngựa từ năm mười ba tuổi, có cái còi đồng này là khi gia nhập đội lạc đà, nó đã treo bên người hắn hơn mười năm.

Lý Vị tháo còi đồng xuống, nhét vào tay nàng: "Đừng đi xa, có việc thì thổi còi, ta ở gần đây, có thể nghe thấy."
Xuân Thiên nắm còi đồng, vội gật đầu như giã tỏi.

Trời nhá nhem tối, rắn trườn trong rừng, gió quét lạnh run, nàng cũng không dám đi xa.

May mà đất rừng ở đây khô ráo nhiều củi, nàng lập tức đi gom chúng lại thành một đống, mở ngòi lấy lửa đốt củi lên, sau đó duỗi dài cổ chờ Lý Vị quay về.

Lý Vị về rất nhanh, trên tay xách con thỏ hoang béo mầm cùng mấy con chim mới sinh.

Trong núi không có nước để rửa sạch, thỏ hoang mổ bụng moi lòng, lấy máu lột da, sau đó dùng nhánh cây xâu vào, đặt trên lửa lớn quay.

Chim thì lấy thẳng lá cây gói lại rồi vùi dưới lửa nướng.

Xuân Thiên nhìn hắn làm hết sức nhanh nhẹn, tay không dính lấy một tí máu, nàng sinh lòng khâm phục, chợt nhớ tới cảnh mổ thịt lợn rừng ở Tôn gia ngày hôm đó, bèn nghiêng đầu nói: "Đại gia cái gì cũng biết, có vẻ cũng rất giỏi nấu nướng."
Lý Vị ngẩng đầu liếc nàng một cái, cười bảo: "Ta từng làm hỏa đầu quân một năm, chính là kiểu chuyên nấu cơm cho đại quân."
"Hỏa đầu quân?" Bỗng dưng nàng nổi hứng, lại gần đống lửa đưa củi cho Lý Vị, "Lúc chú Trần đưa cha tôi đến Bắc Đình, cha tôi làm công việc văn thư trong quân.

Quân đội có nhiều binh chủng như vậy, tại sao đại gia lại làm hỏa đầu quân?"
Có lẽ nàng vẫn chưa ý thức được các quy tắc của thế gian này, rằng dòng dõi và thân phận là thứ khó có thể vượt qua.

Ở trong quân, trước đến giờ chưa từng có câu chuyện nào bắt đầu từ không chút tiếng tăm cho tới đánh một trận chiến danh vang khắp thiên hạ.


Thiếu niên tướng lĩnh tiêu sái phong hầu bái tướng, thì đó phần lớn cũng là con đường tắt lót rất nhiều bậc thang trong tối ngoài sáng mới đạt đến được.

Công huân mười hai bậc*, phải có bao nhiêu vận may và đầu cơ mới có thể giúp một binh lính tầm thường từng bước từng bước đi tới vị trí binh tào, hiệu úy, đô úy, thậm chí tướng quân.

Nghiêm Tụng ở trong quân hai mươi năm cũng chỉ là một hỏa trường nhỏ bé canh giữ Ngọc Môn quan, cha Xuân Thiên xuất thân là tiểu lại trong quan, đương nhiên là phải bắt đầu từ vị trí văn thư.

Đoàn gia Lương Châu phú quý giàu sang chi tiêu vô số, mấy thế hệ kinh doanh cũng mới chỉ bước vào triều đình, vẫn chưa đứng vững gót chân đâu.

(*Công huân mười hai bậc: Công huân nghĩa là công lao lớn.

Mười hai bậc ở đây được trích từ hai câu "Sách huân thập nhị chuyển, thưởng tứ bách thiên cường" trong Mộc Lan từ.

Ý đại khái của câu "Công huân mười hai bậc" là người lập công lao cực lớn, vượt qua mười hai bậc, được thăng lên bậc cao nhất là Thượng trụ quốc)
Quân Mặc Ly trước nay nổi tiếng là hung hãn quả cảm, một nửa binh lính trong quân là người Hồ dũng mãnh đã quy thuận triều đình, hầu hết các tướng lĩnh đều là hậu duệ trung dũng vững chắc của dòng tộc.

Mỗi lần quân đội đánh thắng một trận chiến, tiền thưởng của binh sĩ là hai quan tiền, hỏa đầu được thưởng tám trăm văn tiền, ai ai cũng muốn ra trận giết địch, mưu cầu phú quý.

Nhưng người bình thường khi mới bắt đầu, đều phải đi từ chức vụ cấp thấp như hỏa đầu trong quân, rồi sau đó mới nắm lấy cơ hội bước từng bước lên trên.

Lý Vị mỉm cười: "Đồ ăn trong quân chỉ tàm tạm, hỏa đầu lại làm qua quýt, có người biết ta biết nấu ăn nên cố ý tiến cử ta làm hỏa đầu."
"Tiến cử?" Xuân Thiên lẩm bẩm, hỏa đầu là kế sinh nhai của các binh sĩ tuổi già sức yếu trong quân, tại sao còn cần phải tiến cử?
Lý Vị kiên nhẫn lật thịt thỏ, mùi thịt cháy sém cùng với dầu nhỏ giọt xuống đống lửa.

Hắn hái được một nắm lá cỏ non, còn mang theo bên mình một túi muối thôi nhỏ, cẩn thận xát nước cỏ và muối thô lên thịt thỏ.

Lý Vị cắt ra một miếng, lấy chủy thủ xiên vào rồi đưa cho Xuân Thiên: "Nếm thử xem."
Thực sự là thơm nức mũi, nàng chưa từng ăn món thịt nào như này, vị mặn và vị ngọt theo mỡ tan trong miệng, càng cảm nhận rõ được cái mọng nước của thịt, vừa mềm lại vừa thơm.

Nàng bị nóng, thổi phù phù liên tục, Lý Vị lấy túi nước cho nàng, nhẹ nhàng nói: "Coi chừng phỏng."
Lý Vị khéo léo lóc xương thỏ ra khỏi thịt, chia làm hai nửa, một nửa đưa cho Xuân Thiên, Xuân Thiên được ăn ngon, lập tức cúi người thật thấp tỏ lời cảm ơn, cười nói: "Đại gia đúng là lợi hại."
Hai người ăn uống xong, Lý Vị đào hố chôn xương xẩu và chỗ đất dính máu đi.

Ngoài ánh lửa có tiếng kêu của côn trùng lẫn chim, bầu trời trăng sáng sao dày đặc, gió đêm buốt lạnh.

Hai người ngồi trước đống lửa, Xuân Thiên thẫn thờ hồi lâu, hỏi: "Quân đội là như thế nào ạ?"
Lý Vị không trả lời nàng, chỉ nói một câu: "Trễ rồi, đi ngủ sớm đi, ngày mai phải lên đường sớm đấy."
Nàng gật đầu, người ta nói căng da bụng trùng da mắt, nàng xấp nước cái khăn lau sạch hai má, nằm trong thảm nỉ lim da lim dim.

Củi lại được ném vào lửa, phát ra tiếng củi gỗ nứt đôm đốp.

Nàng ngẩng đầu lên nhìn Lý Vị, hắn ngồi khoanh chân bên cạnh nàng, bóng hình bao phủ lấy nàng, một chân thoải mái chống lên, cầm túi rượu trong tay uống một hớp.

Hắn chăm chú nhìn đống lửa bập bùng, ánh lửa nhảy nhót trên khuôn mặt hắn, chợt sáng chợt tối.

Thế rồi nàng nhắm mắt ngủ, chỉ cần hắn ở đây, là nàng thấy yên tâm.

(còn tiếp)
*Chú thích
[Diendantruyen.Com] Vị Bắc Xuân Thiên Thụ
.

 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
610,854
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 29: 29: Hổ Hướng Nam





Hôm sau thức dậy, Xuân Thiên mơ mơ màng màng nằm trong thảm nỉ uể oải duỗi cái lưng, chỉ cảm thấy toàn thân đau nhức, chân tay bủn rủn.

Mở mắt nhìn lên, mặt trời đã treo cao, hiển nhiên đã không còn là cảnh của một buổi sáng tinh mơ.

Lý Vị đang ngồi mài mũi tên bên cạnh đống tro tàn còn sót lại, nghe tiếng động trông sang thì thấy nàng chật vật chui ra khỏi tấm thảm nỉ, nét mặt ngượng ngập bối rối gọi hắn một tiếng "đại gia", lúng túng cất tiếng: "Tôi...!tôi dậy muộn rồi..." Lý Vị biết nàng thật sự mệt, hắn nhướng mày, chỉ cái thố đồng nhỏ trên đống lửa: "Canh sắp nguội rồi."
Nàng vội gật đầu, quay lưng sửa sang lại quần áo tóc tai, rửa mặt súc miệng, xong xuôi nhìn vào trong thố đồng thì thấy đang đun canh cỏ linh lăng.

Lý Vị lôi con chim đêm qua chôn trong đống lửa để nướng ra ngoài, nướng suốt cả đêm thịt đã chín đều, xé ra từng miếng, mùi thơm hớp hồn, so với thịt thỏ hôm qua chỉ có hơn chứ không kém, quả nhiên khiến người khác thèm dãi nhỏ tong tỏng.

Bụng sôi lên ùng ục, hai bờ vai nàng sụp xuống, nói giọng có phần mất tinh thần: "Đại gia..." Lý Vị cụp mắt "ừ" một tiếng, nàng bảo: "Tôi đúng là gánh nặng phải không ạ? Cái gì cũng không biết, có phải rất vướng chân đại gia không?"
Lý Vị nhìn nàng, môi nở nụ cười, hỏi: "Một mình cô đi từ Trường An đến Hà Tây?"
Nàng gật đầu, rồi lại lắc đầu.

Lý Vị hỏi: "Đường sá xa xôi như vậy, cô tới đây kiểu gì?"
Xuân Thiên chớp chớp mắt, nghiêm túc nói: "Tôi đã đi rất lâu, ban đầu là lên đường theo quaan viên thân thích, khi đó đúng dịp quan viên địa phương được thăng chức và chuyển công tác.

Trên đường có rất nhiều họ hàng đi cùng, hành lý người hầu cũng không ít, theo xe ngựa ra vào châu thành vô cùng an toàn." Nàng mím môi, "Lúc sau đi qua Quan Trung, thành quách trên đường ít dần, tôi bèn tự đi một mình, trọ trong một am ni cô ở Lan Châu một tháng.

TTiếp đó theo chân thương đội đi dọc đường vượt qua Hoàng Hà, vào Hà Tây, đi thẳng đến Túc Châu...!Sau đó nữa, gặp được đại gia..." Đủ loại chuyện kỳ dị mắt thấy tai nghe trong quá trình ấy, thực sự là khiến lòng người chấn động, kể mãi chẳng hết.

"Nếu một mình cô có thể đi ba ngàn dặm, vậy thì sao có thể là gánh nặng được chứ." Lý Vị cười nói, "Thông minh và may mắn đến thế, không phải ai cũng có đâu."
Hai người ăn cơm sáng xong, thu dọn tay nải lần nữa xuất hành.

Ở Thường Lạc này quanh năm nhiều nắng ít mưa, gió lớn, mặt trời gay gắt, thường được nhận xét là một năm có một đợt gió, một đợt gió thổi cả năm.

Chưa quá một ngày, hai gò má phơi giữa trời nắng của Xuân Thiên đã xuất hiện tia máu, chạm vào là đau rát.

Nàng đương nhiên không biết dáng vẻ hiện tại của mình, Lý Vị trông thấy, bèn lấy mạng che mặt ra cho nàng đội.

Sau khi đội mạng che, toàn thân Xuân Thiên từ trên xuống dưới chỉ để lộ hai con mắt.


Bấy giờ hắn mới biết Xuân Thiên có một đôi mắt đẹp như vậy, ánh nhìn tỏa sáng, như tấm gương chiếu người, lại tựa vầng trăng rọi dòng Thanh Giang.

Nàng cuộn tròn tay thành nắm đấm tự tiếp thêm tinh thần cho mình, xoay người lên ngựa, cách tấm mạng che mắt cười với Lý Vị: "Đại gia, đi thôi." Cặp mắt kia cong thành hình trăng non, đồng tử như vì sao lấp lánh.

Hai người vẫn một trước một sau như cũ, lảo đảo đi giữa nơi núi hoang không người, điêu tàn vắng vẻ.

Hôm đó rốt cuộc cũng nghe thấy tiếng nước ào lên, bắt gặp nước sông trong vắt uốn khúc chảy xuống, đôi bờ cỏ xanh biêng biếc, hồng hoa như lửa, đất đai ẩm ướt, xóa nhòa màu xám xịt ảm đạm bao trùm suốt chặng đường.

Mặt Xuân Thiên hiện rõ vẻ mệt nhọc, nàng ngồi trên lưng ngựa oải cả người, bỗng nghe tiếng nước chảy thì há miệng reo hò, tung tăng nhảy xuống ngựa, chạy đi vốc nước rửa sạch tay.

Nước tuyết mát rười rượi thấm vào tận xương, nàng như thể đã được sống lại.

Chỗ hạ lưu còn có một ngôi làng nhỏ tên là làng Thạch Tào, thuộc huyện Thường Lạc.

Vì nằm ở biên cương nên đời sống dân cư khốn khổ suy vi, trong thôn cũng chỉ có hai mươi hộ gia đình, sinh sống bằng nghề chăn thả dê.

Hai người nghỉ ngơi một đêm ở đây rồi lại tiếp tục cuộc hành trình, trong phạm vi bán kính một trăm dặm về phía trước là bãi đất kiềm đầy cát, đi qua chỗ đất đó, chính là quan đạo dẫn đến Y Ngô.

Chủ nhà trọ họ Hổ, Trung Nguyên không có họ đó, chắc có lẽ là người dị tộc.

Lý Vị vào hỏi thăm, ông cụ run lẩy bẩy gõ tẩu thuốc, nhếch miệng cười nói: "Cả nhà tôi là người dân tộc Tiên Ti, tổ tiên là một nhánh của họ Mộ Dung thị ở Bắc Yên, đầu thời nhà Đường còn từng làm đại tướng trong triều đình.

Sau đó quan huân bị tước, lưu đày tới chốn biên cương lạnh lẽo này."
Khuôn mặt cụ ông hằn những nếp nhăn, không nhìn ra được sự khác biệt về tướng mạo.

Đến khi đứa con trai mười tám tuổi về nhà, bấy giờ mới thấy rõ ngoại hình của người dị tộc, da trắng, tóc màu vàng nhạt, mắt lõm mũi thẳng, vai rộng eo hẹp, cánh tay trần trụi, quần áo quấn bên hông, mồ hôi nhễ nhại, cưỡi ngựa hiên ngang oai hùng trở về.

Xuân Thiên dời mắt, vội vàng trốn ra sau lưng Lý Vị, một tay Lý Vị chắn cho nàng, cười nói với chủ nhà: "Lệnh lang quả nhiên là một đấng nhân tài, uy vũ phi phàm, rất có di phong của ông cha."
Chàng thiếu niên tên Hổ Hướng Nam, với nụ cười rạng rỡ và hàm răng trắng loáng tỏa sáng dưới ánh mặt trời, cậu ta nhìn Lý Vị và Xuân Thiên: "Cha, nhà có khách ạ?"

Hai bên giới thiệu tên họ, Xuân Thiên giấu nửa người mình đằng sau Lý Vị, chỉnh đốn phục trang rồi hành lễ.

Hổ Hướng Nam quan sát nàng một phen, nhoẻn miệng cười bảo: "Hóa ra là con gái nhà người ta, em gái của Lý huynh sao?" Lý Vị ậm ờ nói phải.

Hổ Hướng Nam thấy đầu nàng hơi cúi, đôi má như ráng mây bay, bèn bước vào trong buồng lấy cái khăn thấm mồ hôi lau qua loa mồ hôi trên người, mặc quần áo vào, lúc này mới đi ra nói chuyện với hai người.

Xuân Thiên ngẩng đầu, một chàng thiếu niên mày kiếm mắt sáng, cao lớn khôi ngô, nụ cười như nắng mùa đông dạt dào ấm áp, đứng sóng vai cùng Lý Vị, tuyệt không hề có chút nào là ngây ngô thô lỗ.

Ông cụ Hổ nghe nói Lý Vị từng ở trong quân, mỉm cười chỉ vào đứa con trai của mình: "Thằng nhóc này suốt ngày đòi đi bộ đội, cái nghề ấy lúc nào cũng giết địch đổ máu chẳng màng mạng sống, có cản kiểu gì nó cũng không chịu nghe."
"Trong sách đã ghi nam nhi chí tại bốn phương, có lý nào lại ru rú ở nhà chăn dê." Hổ Hướng Nam nhướng hàng lông mày rậm, mở to mắt, "Ông nội đặt tên Hướng Nam cho con, chẳng phải là muốn chúng ta quay về miền Nam ư."
"Trong sách ghi...!nói cứ như anh biết đọc chữ ấy." Ông cụ Hổ gõ gõ tẩu thuốc, phun ra một làn khói trắng, "Ra ngoài kia kiểu gì cũng bị người ta lừa sạch bách cho mà xem."
Lý Vị nhìn Hổ Hướng Nam, cười nói: "Vào quân học hỏi kinh nghiệm cũng tốt, tổ tiên vốn được sinh ra từ công trạng, hậu bối đương nhiên cũng có khí cốt kiến công lập nghiệp.

Lệnh lang...!thực sự là một viên ngọc sáng giá trong quân đấy."
Rất ít khi dân làng gặp người ngoài, mà gặp được một người vừa giỏi võ, vừa biết bắn cung như Lý Vị thì lại càng hiếm hoi.

Chàng thiếu niên trẻ tuổi đã sớm lấy cung tên dao bào đến trước mặt Lý Vị, bật cười sang sảng: "Tôi bắn cung không giỏi, muốn mời Lý đại ca chỉ điểm một vài."
"Luận bàn có thể, chỉ điểm thì không dám nhận." Lý Vị cười đáp.

Hổ Hướng Nam chọn một cây nỏ cực đại, thể lực của cậu ta hơn người, cây cự nhỏ nằm trong tay cậu ta trông nhẹ hều như cành liễu, Lý Vị cầm cây cung gỗ máy hôm trước làm tạm để săn thú.

Hai người chia ra đứng song song trái phải, nhắm ngay một cây liễu đỏ cách mười trượng ngoài sân, gió nhẹ phất qua, hai mũi tên như chớp điện, đồng thời thoát khỏi dây cung bắn vào cây.

Ở Cam Châu, Xuân thiên nghe người ta nói tài bắn cung của Lý Vị vô cùng xuất sắc, lại chẳng biết là tốt đến mức độ nào.

Nhà Hán có Lý Quảng được mệnh danh là thần xạ thủ, với khả năng bách phát bách trúng, mũi tên găm thẳng vào đá.

Lý Vị từng vào quân đội, tài bắn cung chắc chắn không thể kém Hổ Hướng Nam.


Hổ Hướng Nam đi lên kiểm tra cánh mũi tên, cả hai mũi tên đã bắn vào thân cây.

Mũi tên của cậu ta gần như ngập trong thân cây, chỉ chừa lại ít đuôi cánh bên ngoài.

Mũi tên của Lý Vị còn ở ngoài hơn một tấc, dùng sức rút ra thì chỉ thấy mỗi phần thân, phần mũi đã gãy bị kẹt trong cây, chỉ còn mỗi đầu cây têntên nhọn hoắt trơ trọi.

Tức thì cậu ta mừng rỡ như điên, chạy vào trong sân khom lưng nói với Lý Vị: "Xin đại ca chỉ giáo."
Đại nương trong nhà đi ruộng về, hái thêm mấy quả dưa ngọt cùng một ít rau dại, vào bếp chuẩn bị bữa cơm đãi khách tới, Xuân Thiên tự giác đi theo phụ giúp một tay.

Màn đêm buông xuống, cả bàn ăn toàn là những món ăn dân dã hết sức phong phú, hòa với tiếng nói cười rôm rả rộn ràng.

Khó khăn lắm mới được một chỗ tá túc tử tế, mấy ngày nay Xuân Thiên chỉ lau chùi người bằng khăn ướt, đêm nay bất luận thế nào cũng phải tắm rửa chải đầu cho sạch sẽ.

Hổ gia không có phòng tắm riêng, sau bếp có xây một gian phòng tối nhỏ hẹp, có cái chậu nhỏ để xả nước với cái gáo múc nước tắm.

Ở đất Bắc người ta cực kỳ trân trọng giọt nước, nước tắm giữ trong chậu giặt, khi nào giặt giũ xong thì đem đi tưới tiêu.

Xuân Thiên ở trong lăn qua lộn lại một lúc lâu, xong xuôi mới ôm quần áo bẩn của mình đi ra.

Đại nương thấy nàng đã tắm xong, niềm nở muốn giặt quần áo cho nàng, Xuân Thiên từ chối.

Hổ Hướng Nam bước từ ngoài sân vào liền thấy mẹ mình đang lôi kéo trung y trắng muốt trong tay thiếu nữ.

Tóc Xuân Thiên ướt sũng, nước nhỏ xuống đầu vai, hai má đo đỏ tựa đóa hoa sen mới nở.

Cậu ta chưa từng đọc sách, cũng chưa thấy hoa sen nở bao giờ, nhưng bỗng dưng lại nhớ tới truyền kỳ về vua Đường và Dương quý phi được nghe qua một người kể chuyện trong thành, "...!Dương quý phi bước ra từ trong ôn tuyền, quả là duyên dáng hệt nụ sen vừa hé..." Lại nhìn Xuân Thiên môi đỏ da trắng, trái tim chợt đập ầm ầm, không biết có thứ gì đang chạy loạn xạ bên trong.

"Mẹ...!Xuân Thiên cô nương..." Cậu ta gãi đầu, mặt mũi đỏ bừng, lắp ba lắp bắp, "Một bộ đồ thôi mà...!để tôi đi múc nước."
Lý Vị cưỡi ngựa về, đúng lúc thấy Hổ Hướng Nam ngồi ở bậc cửa, ánh mắt do dự, thỉnh thoảng liếc sang bên cạnh.

Hắn đưa mắt nhìn theo, Xuân Thiên và nương tử Hổ gia đang cùng nhau ngồi trên cái ghế con giặt quần áo.

Giai nhân dưới vầng trăng, bàn tay trắng nõn, tấm áo đơn bạc, quả là thuần khiết.

Tóc Lý Vị cũng ướt, đàn ông thì tất nhiên là tùy tiện hơn, đi thẳng ra sông tắm nước lạnh, "Về rồi đây." Xuân Thiên ngửa đầu, khuôn mặt bị hơi nước nóng hun ửng hồng nhìn về phía hắn.


Mặt Hổ Hướng Nam hiện lên vẻ ngưỡng mộ, hai người họ thoạt trông không giống anh em lắm, cả hai có phần lạnh nhạt, nhưng lại như là rất quen, cứ mơ mơ hồ hồ không thể nói rõ là quan hệ gì.

Cậu ta gãi đầu tiếp, nếu nàng nhìn sang cậu ta thì tốt biết bao.

Ra làng Thạch Tào, tiếp tục đi theo hướng Bắc là ra khỏi ranh giới Thường Lạc.

Huyện Thường Lạc tiếp giáp Y Ngô, giữa hai vùng là mảnh đất cát nhiễm mặn, đất này còn gọi là đất phèn sa, đất đai bạc màu, bề mặt đất cằn cỗi, nhiều năm không có mưa, thường có gió độc thổi, rất ít người qua lại.

Lý Vị ở làng Thạch Tào bổ sung lương thực, muối, nước, mua cả một chiếc áo lông cừu nhẹ ấm, thanh toán tiền cơm trọ cho Hổ gia.

Ông cụ Hổ kiên quyết không nhận, thật sự không chối từ được, đành tặng Lý Vị một túi thịt khô nhà làm.

Cứ thế, Lý Vị đưa Xuân Thiên tiếp bước trên lộ trình.

Hổ Hướng Nam tiễn mấy chục dặm đường, đưa hai người ra khỏi ranh giới Thường Lạc.

Nhiều lần Lý Vị khuyên cậu ta về mà cậu ta không chịu: "Đường này rất khó đi, tôi đi cùng đại ca một đoạn đường nữa."
Đi hết đoạn đường này đến đoạn đường khác, Lý Vị dứt khoát ghìm cương ngựa quay đầu lại, làm động tác chào: "Tiễn người đi ngàn dặm, chung quy phải từ biệt." Hổ Hướng Nam gãi đầu, bấy giờ mới hỏi: "Nếu đại ca và...!em Xuân Thiên trở về thì đi đường nào? Tôi mời hai người uống rượu..."
Lý Vị mỉm cười: "Có lẽ sẽ đi đường Đôn Hoàng về."
"Vậy à..." Chàng thiếu niên chau đôi mày dày, vò đầu quay sang Xuân Thiên, lắp bắp nói: "Taa...!ta thấy roi ngựa của em làm hơi mỏng, nên cầm một cây roi trong nhà ra đây...!Là ta tự tay làm đấy, em Xuân Thiên đừng ghét bỏ nhé..."
Xuân Thiên ngẩn người, nhận lấy roi ngựa, hai mắt cong cong, nhe răng cười đáp: "Cảm ơn anh Hướng Nam."
Cậu ta nhìn dáng vẻ của Xuân Thiên, cứ như là bị cà lăm, chẳng thể thốt ra được lời nào khác, sắc mặt trông đã chuyển hồng.

Lý Vị thầm cười lắc lắc đầu, báo lại tên và địa chỉ của hẻm Người Mù cho cậu ta: "Nếu có cơ hội đến Cam Châu, mời cậu tới nhà ngồi chơi, nhà tôi cũng có rượu nhạt gạo thô chiêu đãi đấy."
Hổ Hướng Nam vội gật đầu không ngừng: "Nhất định, nhất định."
Lý Vị nhìn thiếu niên tinh thần hào hứng phấn chấn, trầm ngâm một lúc: "Nếu cậu thực sự nuôi nguyện vọng nhập ngũ, tôi quen một người có thể giúp đỡ cậu..." Hắn thúc ngựa tiến lên, tỉ mỉ nói cho Hổ Hướng Nam, "Cậu đến Túc Châu tìm một vị tướng quân tên Trần Anh, nếu gặp được ông ấy, cứ nói là Lý Vị giới thiệu."
"Đa tạ đại ca."
Sau khi Hổ Hướng Nam đi, hai người sánh bước đi hồi lâu, Lý Vị mới chậm rãi cất tiếng: "Ngoại hình của dân tộc Tiên Ti quả nhiên là xuất chúng nhất trong số các dân tộc."
Xuân Thiên cũng gật gật đầu: "Hồi Hổ nương tử còn trẻ, chắc chắn cũng là một mỹ nhân." Nàng thấy Lý Vị liếc mắt nhìn mình, từ từ hỏi, "Vậy cô cảm thấy tướng mạo của cậu thiếu niên này thế nào?"
"Tuấn tú sáng sủa, tràn đầy sức sống, nhất cử nhất động đều thu hút sự chú ý của người khác." Nàng nghiêng đầu hồi tưởng, "Hẳn là rất được các cô nương yêu thích."
"Vậy sao?" Lý Vị cười khẽ, "Lần tới nếu có gặp lại, cậu ấy nghe cô nói thế nhất định sẽ vui lắm đấy."
(còn tiếp).

 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
610,854
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 30: 30: Hách Liên Quảng





Sau khi Lý Vị và Xuân Thiên rời thành Thạch Bàn, Lục Minh Nguyệt nhận được một lá thư gửi cho chị, một lá gửi cho Trường Lưu, thế mới biết hai người kia đã đi tới Y Ngô.

Trường Lưu cẩn thận gấp lá thư lại thành hình vuông ngay ngắn, chắp tay nói với Lục Minh Nguyệt: "Về sau xin nhờ cô Lục chiếu cố ạ."
Lục Minh Nguyệt nắm lấy tay cậu, hết sức dịu dàng: "Con ngoan, cứ coi nơi này là nhà của mình, cô Lục và Gia Ngôn đều là người thân của con."
Gia Ngôn ở bên cạnh cúi đầu làm cây ná, nói mà chẳng buồn ngước lên: "Còn cả chú Quảng nữa, cũng là chú ruột của Trường Lưu."
Lục Minh Nguyệt mím môi không nói gì.

Một ngày sau khi Lục Minh Nguyệt nhận thư của Lý Vị, Tào Đắc Ninh dẫn theo một người đàn ông trung niên da trắng râu đẹp, mặc trường sam bằng lụa xanh, đến gõ cửa hỏi thăm.

Người đàn ông tự xưng là Vương Bồi, một lái buôn trà ở Cam Châu.

Sau khi hàn huyên, đầu tiên là ông ta hỏi tin tức của Lý Vị, tiếp sau đó thì hỏi tới cô nương dưỡng thương ở Lý gia vào mùa đông năm ngoái.

Dễ nhận thấy người này đã từng đến hẻm Người Mù.

Thấy cửa Lý gia đóng chặt bèn hỏi han hàng xóm láng giềng, bấy giờ mới hay Lý Vị đã đuổi theo Xuân Thiên, Trường Lưu được đón qua nhà Lục Minh Nguyệt, Triệu đại nương và Tiên Tiên khăn gói về quê.

"Vị cô nương ấy là con gái một người bạn cũ của tại hạ, có điều nhiều năm không liên lạc, bặt vô âm tín.

Lần này biết được tin tức mừng quá, mới tới Lý gia tìm lại người thân, ngờ đâu người đi hết cả rồi, vườn không nhà trống, chẳng rõ tung tích."
Lục Minh Nguyệt nói: "Không khéo rồi, hai người họ đã ra khỏi Ngọc Môn quan, Lý Vị đuổi theo Xuân Thiên cô nương đến Y Ngô tìm người, nhắn là hai ba tháng sẽ trở về."
Vương Bồi được tin chính xác, đập tay thở dài, sau khi truyền thư báo cáo với Tĩnh vương thì lần theo dấu của hai người tới Ngọc Môn.

Đợi đến khi khách rời đi, Trường Lưu từ trong phòng bước ra, hỏi: "Bác ấy tìm chị Xuân Thiên sao ạ?"
Lục Minh Nguyệt gật đầu: "Chắc có lẽ là chú bác gì đó của chị Xuân Thiên con đấy."
Chị nghĩ thân thế của Xuân Thiên không hề đơn giản.

Người tên Vương Bồi vừa tới này, quần áo tuy trông bình thường, nhưng chất vải đều thuộc loại hảo hạng, chân xỏ một đôi ủng mềm, kiểu dáng bên ngoài khó tìm, giống như là đồ trong hoàng cung.

Buổi trưa, Lục Minh Nguyệt vào bếp nhào mì làm bánh canh.

Người miền Nam ưa ăn gạo, chị nấu các món Nam rất ngon, nhưng cả Gia Ngôn và Trường Lưu đều thích ăn mì, vậy nên mãi sau này khi đến Hà Tây chị mới học làm bánh canh.

Sau khi Lý nương tử đi, chị hết mực thương yêu Trường Lưu, lần này là vì muốn giúp Trường Lưu bớt suy nghĩ ưu sầu, nên đã đổi cách khác dỗ dành thằng bé vui vẻ, để thằng bé ăn được nhiều cơm canh hơn.

Hôm trước Hách Liên Quảng ra ngoài bắt được mấy con thỏ hoang, sáng sớm đã dậy xử lý sạch sẽ, Lục Minh Nguyệt đun nước ném thỏ vào nồi nấu chín, sau đó vớt ra thái miếng xào với dầu mè.


Lửa cháy âm ỉ, khói bốc nghi ngút, mặt chị bị hun rực hồng.

Bỗng đằng sau lưng vang lên tiếng lu nước lục đục, một bóng đen chợt lóe lên bên cạnh, phút chốc Hách Liên Quảng đã ngồi xuống dưới chỗ bếp lò, lặng lẽ xếp đống củi trong lò.

Trong một khoảnh khắc, tay chị hơi khựng lại.

Mấy ngày gần đây hắn đi sớm về muộn, rất ít khi ở nhà.

Lục Minh Nguyệt cố ý tránh né, mặc dù chung sống dưới một mái hiên nhưng số lần hai người gặp nhau thì chẳng có bao nhiêu.

Bấy giờ, mùi thơm trong nồi đã phả vào mặt, Lục Minh Nguyệt không có thời gian nghĩ ngợi nhiều, liền nêm vào đó ít muối và hành lá, nước dùng sôi sùng sục, kế đó cho sợi bánh canh vào, sôi thì múc khỏi nồi.

Cách làm này học từ Hà Tây Kỳ Liên, nơi thành thị người Hồ và người Hán cộng cư, người dân thích những món thôn quê dân dã, không chuộng tôm cá tươi.

Gia Ngôn và Trường Lưu cũng thích lắm, mỗi đứa ăn được cả hai bát to.

Hách Liên Quảng đứng dậy đi lấy bát đưa cho chị.

Chị chỉ cao tới đầu vai hắn, cúi đầu lặng im.

Chị biết hắn đang đứng kề sát mình, có thể ngửi thấy mùi hương mạnh mẽ và lỗ mãng của người đàn ông trên người hắn lẫn trong mùi khói cơm, khiến bụng dạ chị nóng ran run rẩy, muốn trốn đi, nhưng lại chả có chỗ nào trốn được.

Hai người đã có tư tình, rồi lại vẫn cách nhau một lớp băng thật dày, không chọc vỡ được, cũng không mở ra được.

Lục Minh Nguyệt có phiền chán cỡ nào cũng chẳng tránh hắn nổi, cái nhà này vẫn phải dựa vào sự che chở của hắn.

Thói ở đời, đàn bà góa chồng nuôi con không họ hàng thân thích, thực sự quá khó khăn.

Đã gần hai mươi năm trôi qua kể từ cái tuổi cẩm tú khuê phòng ấy, chị từ một thiếu nữ khuê các Giang Nam trở thành một người đàn bà lôi thôi lếch thếch, ấy nhưng lạ ở chỗ là, bất luận có đắng cay hèn mọn cỡ nào, chị vẫn luôn nghĩ phải tiếp tục sống.

"Mấy ngày nữa ta sẽ đi Ưng Oa Câu, có thể phải vắng nhà mười ngày nửa tháng, nàng với hai đứa nhỏ ở nhà, ta có phần không yên tâm." Hắn nói, "Nàng có muốn đi cùng ta không...!vào núi sống mấy ngày.

Trong núi ta có lều, hồi còn nhỏ từng ở đó, mặc dù hơi đơn sơ nhưng dọn dẹp lại là vẫn có thể ở được."
Chị thoáng sửng sốt, rồi lắc đầu ngay tức thì, bất giác cất giọng lạnh nhạt: "Không đi.".


ngôn tình hay
Hách Liên Quảng bưng đĩa thịt thỏ và bánh canh lên bàn ăn, biết thể nào chị cũng sẽ nói như vậy, hắn chậm rãi bảo: "Ta và Lý Vị đã bàn bạc rồi, tạm thời dừng công việc hành Tây lại, dự định là đến Ưng Oa Câu mở một trang trại ngựa.

Lần trước đã có đơn phê duyệt của mục giám ti*, tương lai phải chọn mua ngựa khỏe ngựa tốt, khai phá đồi núi để làm trang trại, mọi thứ sẽ lu bù hết cả lên, số ngày ở nhà cũng ít đi."
(*Mục giám ti: Tên bộ phận cơ quan triều đình về chăn nuôi)
"Nếu nàng bài xích truyền thống của người Khương chúng ta, vậy ta sẽ theo tập tục của người Hán các nàng, nạp thái* bỏ trầu, cưới hỏi đàng hoàng đón nàng vào cửa.

Minh Nguyệt, nàng có bằng lòng lấy ta không?"
(*Nạp thái: nghi thức đầu tiên trong lục lễ cưới hỏi Việt Nam xưa, nhà trai sẽ mang sính lễ đến để thưa chuyện với nhà gái)
Hắn muốn nắm lấy tay chị, nhưng còn chưa chạm đến được thì hai tay Lục Minh Nguyệt đã như bị phỏng, rụt ngay vào trong tay áo.

Ngoài sân truyền đến tiếng nô đùa của bọn nhỏ, chị vội vã chạy ra ngoài, bối rối hô: "Gia Ngôn, Trường Lưu, ăn cơm!"
Sáng tinh mơ ngày hôm sau, Lục Minh Nguyệt trằn trọc khó ngủ, muốn ngồi dậy khoác quần áo, bất thình lình nghe thấy có tiếng vó ngựa vang cực khẽ trong viện.

Chị đứng một lúc rất lâu, trong viện đã không có một bóng người, nắng sớm mờ mờ, làn gió mềm mại lùa nhè nhẹ.

Rất nhiều năm về trước, chị nghe trượng phu Hách Liên Bá kể, hắn có một người em trai sống nương tựa lẫn nhau.

Anh em hai người bị bán qua tay rất nhiều người, sau đó bị gã buôn vải lụa người Hán mua lại.

Chủ nhân mới lấy việc ngược đãi nô lệ làm thú vui, chỉ vì chút sai phạm nhỏ mà thường xuyên treo hai anh em lên xà nhà quất vun vút.

Anh em hai người nổi lòng giết chết chủ nhân, anh trai Hách Liên Bá vào Khẩn Hoang doanh, em trai Hách Liên Quảng đào tẩu mấy đêm liền, từ đó cả hai mất liên lạc.

Lúc Hách Liên Quảng kể về em trai mình, nét mặt đầy tự hào, khen Hách Liên Quảng thông minh tài giỏi chẳng ngớt, cưỡi ngựa săn bắn đều xuất sắc vô cùng.


Gia Ngôn thức dậy, nghe nói Hách Liên Quảng lại ra ngoài, thằng bé nhăn nhó không vui, đứng trước cửa than phiền: "Lần nào chú Quảng cũng vậy hết, cứ lặng lẽ đi mà chả dẫn con theo gì cả."
"Bài tập hôm qua làm xong chưa? Sao con suốt ngày chỉ biết ra ngoài chơi thế nhỉ, không thể tập trung vào bài vở một chút được à?" Lục Minh Nguyệt cong ngón tay gõ gõ xuống cái đầu quả dưa của cậu, "Đi học bài với Trường Lưu đi."
Lần này Hách Liên Quảng đi tương đối lâu, Chu Hoài Viễn và mấy thanh niên trai tráng trong đội lạc đà đến tặng củi gạo mấy lần, bị một bà mợ già hay tới nhà lấy đồ thêu bắt gặp, bà ta hỏi: "Lục nương tử, sao lâu rồi không thấy chú nhà cô đâu nhỉ, lại ra ngoài đi buôn đấy phỏng?"
Lục Minh Nguyệt rót chén trà hoa cúc, lấy hết đồ thêu mấy ngày qua ra, trả lời: "Mời mợ uống trà." Hồi sau lại đáp: "Chú ấy ra ngoài rồi."
Bà mợ Tưởng quen biết nhiều, tin tức rộng rãi, đi khắp các hang cùng ngõ hẻm để gom đồ thêu kiếm sống, kiêm thêm cả việc làm người trung gian giới thiệu, kiếm chút tiền từ việc làm mối.

Bấy giờ thấy người đã đi vắng, nhịn không được bảo: "Chú này nhà nương tử trông khôi ngô oai hùng ra phết, tôi thấy tuổi tác cũng không còn nhỏ nữa, đã vừa ý cô nương nào chưa?"
"Cái đấy tôi không biết, nếu mợ Tưởng có quen nữ lang nào tốt thì cũng có thể tác hợp cho hai người."

Bà Tưởng cười ha hả: "Dễ thôi, dễ thôi." Vùng Hà Tây người Hồ người Hán chung sống lẫn lộn, tuy là Hán tôi Hồ ti, nhưng người Hồ mà Hán hóa không hề ít, một số Hồ thương túi đủng đỉnh bạc triệu cũng thích kết thân với người Hán.

Chẳng qua người giúp người Hồ mai mối thì lại không có nhiều lắm.

Bà mợ giở tấm khăn Lục Minh Nguyệt thêu ra ngắm nghía kỹ, miệng tấm tắc khen ngợi: "Mấy tấm khăn thấm mồ hôi lần trước cô thêu đấy, chủ nhà xem xong khen lia lịa, còn bảo muốn làm mấy cái áo choàng.

Bụng tôi nghĩ đây cũng chả phải chuyện khó khăn gì, bèn lấy kích cỡ người ngay luôn.

Ai ngờ đâu là lại làm áo choàng cho khách quý, cần gấp lắm, theo ý của chủ nhà thì phải mời thợ thêu đến tận nhà đo người cho thật kỹ, coi làm sao cho nó vừa vặn." Bà mợ cười tiếp lời, "Tiền nước trà với tiền kiệu mềm chủ nhà tính cả vào tiền thường, cô xem..."
Lục Minh Nguyệt ngừng đường kim đang đi, liếc mắt nhìn bà mợ Tưởng, cười bảo: "Mợ Tưởng quen tôi bao nhiêu lâu, mợ biết mà, từ trước tới nay tôi không ra ngoài, cũng không gặp đàn ông ngoài.

Chuyện này bà mợ quên mất rồi sao?"
Bà mợ Tưởng có phần ngượng ngập: "Mối làm ăn ngon lành như thế, quả tình bà già này không khước từ nổi."
"Trong nhà công việc bộn bề, tôi lại còn phải trông nom hai đứa nhóc, thực sự không ra ngoài được đâu.

Nếu bên kia hợp ý đồ thêu của tôi thật, thì xin nhờ mợ nói đỡ cho, viết rõ kích thước kiểu dáng muốn làm ra, tôi nhìn rồi làm theo cũng được."
Bà mợ Tưởng thấy chị từ chối, chỉ đành ngăn lại tâm tư ấy: "Vậy để tôi đi hỏi ý chủ nhà xem như nào, mà...!chủ nhà này vung tay hào phóng, thật sự là mối hiếm có đấyđấy."
Lục Minh Nguyệt mỉm cười, không nói năng gì.

Cách nhật bà mợ Tưởng lại đến nhà, chung quy là vẫn chưa từ bỏ ý định, bà ta mang mấy xấp sa tanh và số đo người tới, kích thước là của một người đàn ông cao gầy, tiền đặt cọc khá hậu hĩnh.

Tuy Lục Minh Nguyệt hơi bất đắc dĩ, nhưng loại chuyện thế này cũng thường diễn ra.

Chuyện trước cửa của đàn bà góa chồng luôn nhiều hơn người bình thường, không tránh đi đâu được, còn mỗi cách là ứng phó thật cẩn thận.

Bảy tám ngày liền chị làm việc không ngơi nghỉ, làm quần áo xong xuôi thì gọi bà mợ Tưởng đến lấy hàng đi.

Bà mợ Tưởng ngồi xuống uống một chén trà nhỏ, trước khi rời đi vẫn bám riết Lục Minh Nguyệt hỏi hết lần này đến lần khác: "Lục nương tử...!người tốt thế kia, cô không định cân nhắc à? Thật...!thật sự là người khó gặp đấy, cô đi thăm dò nghe ngóng nhân phẩm tướng mạo của người ta mà xem, là kiểu người không phải ở đâu cũng gặp được đâu..."
"Không dối gạt gì mợ Tưởng, tôi không phải là người sinh ra lớn lên ở Hà Tây, gần đây có dự định trở về quê nhà ở miền Nam.

E là ngày tháng ở lại thành Cam Châu chẳng còn bao.

Không phải tôi không biết tốt xấu phải trái mà phớt lờ ý tốt của mợ, quả thực là không đúng dịp, không có duyên phận này..."
Ngày Hách Liên Quảng về nhà, vô tình đụng phải bà mợ Tưởng tới thanh toán tiền công.

Lục Minh Nguyệt đang tiễn người ra cửa, Hách Liên Quảng khoác tay nải trên lưng đi từ đầu hẻm vào, thình lình hai người chạm mặt, Lục Minh Nguyệt bỗng như mất tiếng nói, hai má hồng hào tức thì biến sắc, lui về phòng trong.

Bà mợ Tưởng nomnom quần áo Hách Liên Quảng xộc xệch, râu rậm rạp kín má, trông thật là đáng sợ, giả vờ ho khan rồi nghiêng người tránh sang.

Trường Lưu và Gia Ngôn thấy chú Quảng về thì vui mừng khôn xiết.

Gia Ngôn tháo tay nải ra, bên trong chất đầy là quả dại tím tím và thịt sống, lập tức la lớn: "Chú Quảng, chú vào núi chơi mà chẳng dẫn con theo."

Hách Liên Quảng kéo Gia Ngôn ra khỏi chân mình: "Dẫn con vào núi, con còn quay về được không? Hay là sểnh ra cái đã dắt ngựa hoang chạy mất dạng rồi."
Một lớn hai nhỏ cười đùa sôi nổi bước tới chuồng ngựa, Hách Liên Quảng giương mắt nhìn Lục Minh Nguyệt ở trong nhĩ phòng thu dọn bộ đồ trà, dưới song cửa sổ vung vãi ít bã trà hoa cúc, hắn thấp giọng hỏi hai đứa trẻ: "Bà mợ Tưởng kia không có chuyện gì mà lại đến nhà tán dóc à?"
"Hình như là đưa tiền mẹ làm quần áo đến đấy ạ.

Bà ấy tới từ sáng sớm, ngồi nói cả buổi trời." Gia Ngôn bĩu môi không để ý lắm.

"Họ nói gì thế?" Hách Liên Quảng nhíu mày hỏi.

"Thì toàn là làm quần áo, thêu hoa, chất liệu vải gì gì đó, con nghe mà lỗ tai mọc cả kén luôn rồi."
"Tưởng bà bà mai mối cho cô Lục, bị cô từ chối rồi ạ." Trường Lưu khoát tay, có gì nói nấy.

"Gì cơ?!" Gia Ngôn hoảng hồn, hét muốn toác họng.

Cặp mắt Hách Liên Quảng ngập tràn u ám.

Trường Lưu nhìn hai chú cháu một lớn một nhỏ trước mắt mình, không biết có nên kể chuyện ấy ra hay không.

Thấy ánh nhìn của cả hai như sắp sửa ăn thịt người đến nơi, cậu bèn thuật lại cuộc đối thoại của hai người phụ nữ: "Phía Bắc thành có thương nhân nọ mở cửa hàng buôn bán, mấy năm trước thê tử của ông ấy qua đời, định bước thêm bước nữa, lấy một cô dâu hiền lành để quán xuyến chuyện gia đình.

Vì nhìn trúng đồ thêu của cô Lục, nên đã nhờ Tưởng bà bà làm mai.

Tưởng bà bà nói nhiều lắm, cô Lục từ chối bảo phải về miền Nam, từ chối Tưởng bà bà.

Tưởng bà bà không còn cách nào khác, đành bỏ đi luôn."
"Trở về..."
Hách Liên Quảng cuộn chặt tay, sắc mặt đông cứng.

Gia Ngôn thốt lên một tiếng "chao ôi": "Làm tôi sợ muốn chết, cứ tưởng mẹ tôi sắp lấy chồng chứ."
Ban đêm, Lục Minh Nguyệt bước ra khỏi phòng tắm, vừa mở cửa phòng đã thấy Hách Liên Quảng khoanh tay đứng một bên, thần sắc hết sứcsức lạnh lùng.

Bước chân của chị khựng lại, sau đó chui ngay vào trong phòng vội vàng đóng cửa, nhưng cánh cửa lại bị Hách Liên Quảng đẩy thẳng ra.

Động tác của hắn cực nhanh, nháy mắt hai người đã bị nhốt trong căn phòng tắm.

Hơi nước của phòng tắm bốc lên dày đặc, cơ thể chị run bần bật, hạ giọng, ép mình phải trấn định: "Hách Liên Quảng, chú điên rồi."
Ánh mắt hắn nóng bỏng và cực kỳ sắc bén, ngữ khí nhàn nhạt: "Bọn nhỏ ngủ hết rồi, không ai nghe thấy cả."
Đêm nay bốn bề vắng lặng, trăng khuyết như lưỡi câu, tinh tú ảm đạm.

Trong thùng nước có tiếng bì bõm, hơi nước mù mịt, có tiếng người phụ nữ đứt quãng không theo trật tự, bị tiếng của gã đàn ông ở đằng trên áp đảo: "Lần sau bà mợ Tưởng kia còn dám đến nhà, ta sẽ khiến bà ta chết mà không biết tại sao mình lại chết..."
Rồi nói tiếp: "Hừm...!từ khi nào nàng nung nấu trong đầu ý định trở về Cô Tô hả...!trốn ta sao?"
(còn tiếp).

 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
610,854
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 31: 31: Đường Y Ngô





Lý Vị và Xuân Thiên tiến từng bước về con đường phía trước, ngay cả những loài thực vật quen thuộc thường thấy ở chốn đầy cát như hắc mai biển hay hồ dương cũng chẳng thấy bóng dáng.

Dần dần đi vào một mảnh đất cằn sỏi đá mênh mông, không một ngọn cỏ, đá lăn tứ lung tung, lộ rõ màu đất.

Dân bản xứ gọi chỗ đất phèn sa này là hồ Bạch.

Trăm năm trước nơi đây là một ốc đảo cỏ cây um tùm, sau đó nguồn nước khô kiệt, chậm rãi cạn thành đất nhiễm mặn.

Mười năm trước Lý Vị từng đi ngang qua một lần, cảnh vật như cũ, thời gian dường như đứng yên tại đây.

Nham thạch xám trắng trên mặt đất vẫn nằm nguyên ở vị trí đó, dẫu thế sự ngoài kia có biến ảo thế nào cũng không khiến chúng xê dịch nửa phân.

Mũi Truy Lôi phát ra tiếng phì phì, Lý Vị dừng chân trấn an nó một lát, nói với Xuân Thiên, "Đi thôi, gió cát ở đây toàn là độc, không phải nơi nên nán lại lâu."
Hạt muối tích tụ trong đất đá từ năm này qua tháng nọ, đều có chứa khí độc.

Xuân hè gió thổi lớn, ánh nắng gay gắt, đất cát bị nung nếu tạt lên mặt sẽ cực kỳ dễ gây nổi mẩn ngứa, nếu xâm nhập vào miệng vết thương, chẳng bao lâu phần da tổn thương sẽ đỏ lên rồi bắt đầu ngứa ngáy, thịt sẽ lở loét thối rữa.

Hai con ngựa đeo móng gỗ giẫm lên những viên đá cuội, âm thanh vừa trong trẻo vừa ngân vang.

Hai người đều trùm mạng che mặt, không nhìn ra được vẻ mặt của nhau, tiếng nói chuyện cũng mỏng manh.

Lý Vị vốn ít nói kiệm lời, dọc đường đi thỉnh thoảng sẽ nói đôi ba câu, còn phần lớn thời gian là cả hai bước đi trong trầm mặc.

Càng đi tới hồ Bạch, gió càng lúc càng ác liệt, bờ môi dưới tấm mạng che mặt nứt nẻ hằn lên nếp nhăn trắng bợt.

Xuân Thiên liếm liếm môi, chỉ cảm nhận được mùi vị đắng chát.

Đến đúng giữa giờ ngọ, lại bỗng nghe thấy tiếng huýt sáo trầm thấp hòa cùng luồng gió thổi qua bên tai, hệt như có người đang khẽ thút thít, hoặc như đang vật vã.

Đứt quãng, chợt dài chợt ngắn.

Nàng nghe mà tóc gáy dựng thẳng đứng cả lên, nhỏ giọng bảo: "Đằng trước hình như có người khóc..."
"Chỉ là tiếng gió mà thôi." Lý Vị an ủi nàng, "Đằng trước có một rừng cây khô, đây là tiếng gió thổi qua ngọn cây."
Ngựa nhảy lên dốc cát, trước mắt chính là một khu rừng hồ dương đã chết héo, màu trắng xám chết chóc kéo dài tít tắt chẳng nhìn thấy điểm cuối đâu.

Cây cối trong rừng bị phong hóa, hoặc đứng hoặc sụp xuống với những tư thế kỳ dị.

Những cành cây xoắn cong queo và dài loằng ngoằng trơ trọi giữa không trung, tưởng chừng như một cuộc vật lộn đầy đau đớn và lặng im.

Đi vào chỉ cảm giác có làn khí lành lạnh, tiếng rít kia là là tiếng gió ma sát giữa các cành cây.


Xuân Thiên lặng lẽ đi theo Lý Vị hồi lâu, nhịn không được hỏi: "Chúng chết bao lâu rồi?"
"Có lẽ đã một trăm năm, cho dù là dân du mục cao tuổi nhất cũng không biết chúng sinh ra khi nào, chết đi khi nào." Lý Vị chỉ vào lớp cát đóng lại thành vỏ cứng dưới chân, "Mấy trăm năm trước, có lẽ nơi này có một hồ nước hình thành từ dòng suối ngầm sâu rộng, bên hồ cỏ cây rậm rạp, hồ dương tươi tốt mọc thành rừng.

Về sau suối ngầm cạn khô, rồi mạch nước ở khoảng đất đó bốc hơi hết.

Từ ngày này qua tháng khác chúng không được nước nuôi nấng, đang sống sừng sững mà cuối cùng chỉ có thể chết khát."
Lần đầu tiên nàng bắt gặp cảnh chết chóc như vậy, lòng bàng hoàng chấn động.

Giang Nam nước xuân liên miên, thành Trường An rộng lớn mỹ miều, Quah Trung phì nhiêu màu mỡ, tất cả cảnh tượng đều hóa phai màu ảm đạm so với cánh rừng Hồ Dương này.

Tạo hóa trời cao, rốt cuộc là bút pháp xuân thu* thế nào đây?
(*Bút pháp xuân thu: tức văn chương viết theo lối ngắn gọn, hàm súc, khéo léo thể hiện khen che bằng chữ nghĩa với một nhân vật hoặc sự kiện nào đó)
"Khi chết đi, chắc hẳn những cái cây ấy vô cùng đau đớn." Nàng nói chậm rãi.

Trong rừng, có cây nằm rạp xuống đất, có cây như đang nổi cơn thịnh nộ gầm thét với bầu trời, một đoạn cành cây gió quét qua đều đang kêu gào, nước, nước, nước.

"Mười năm trước lúc đại gia đến, chúng cũng là như vậy sao?"
Lý Vị nhớ lại mùa đông mười năm về trước, họ truy đuổi một đội kỵ binh Đột Quyết chạy qua nơi này, mảnh đất phèn sa đây đổ một trận tuyết, bông tuyết khô ráo bay tán loạn trong gió, khắp nơi rợp màu trắng xóa, chẳng phân biệt được đâu là trời, đâu là đất.

Tiếng gió lùa qua rừng hồ dương nghe não nề bi ai, người đồng hành bảo đây là tiếng khóc của hồn ma chết thảm bị nhốt trong thân cây.

Khi đó, chỗ rừng hồ dương này quả thực có rất nhiều người chết.

Hiện giờ xương trắng đao kiếm đã không còn, biết đâu là chôn vùi trong cát hay là bị sói lang diều hâu tha đi rỉa mất rồi.

Chỉ còn lại rừng hồ dương đơn độc, đứng lặng trong gió mặc thời gian trôi.

"Rừng chết kiểu này ở sa mạc lớn có nhiều lắm." Hắn ngăn lại bước chân tiến về phía trước của nàng, "Trong rừng sợ là có côn trùng độc, đừng đi vào đó."
Nàng thấy rõ ràng có một nửa phiến đồng sáng nhạt vùi dưới miếng đất trước mặt, nên muốn đi vào rừng nhặt, nhưng lại bị roi ngựa của Lý Vị quấn lấy cổ tay: "Đừng đi."
Nàng thấy có hơi là lạ: "Đằng trước có thứ gì đó."
"Trong rừng vận xui nặng, e là đồ chẳng lành đấy." Hẳn chỉ lo nàng nhỏ tuổi, nhìn thấy thứ gì khủng khiếp rồi đâm sợ hãi, "Đi thôi."
Hai người lên ngựa, Lý Vị đưa nàng đi, suốt cả quãng đường liên tục ra roi giục ngựa không ngơi nghỉ.

Băng qua rừng hồ dương lại là bãi đất đá dăm mênh mông vô biên, gió thổi càng mạnh hơn, sỏi dưới đất bị gió cuốn lăn tạo ra tiếng lách cách.

Trên người con ngựa dính một tầng cát trắng nhầy nhầy, mồ hôi nhễ nhại toàn thân.

Truy Lôi vẫn khỏe chán, còn con ngựa của Xuân Thiên đã chịu hết thấu, phả ra hơi nóng liên tục.


Đi được nửa đường thì dừng lại nghỉ ngơi, nàng ngồi trên cát, cả hai chân run lẩy bẩy.

Nước suối và lương khô Lý Vị đưa cho nàng, nàng uống rồi cắn mấy miếng sau đó lại nhét vào tay nải, ngắn ngủi có mấy ngày mà người nàng đã gầy xọp đi trông thấy.

Đi đến tận khi trời bắt đầu tối, sắc trời xanh xám dần lùi về phía chân trời, tấm màn đen thuận đà buông xuống, mặt trăng và các vì sao lần lướt lên đài.

Đất phèn trắng mịt mùng dần chuyển sang màu vàng và khô lại, mấy cụm cỏ lau trắng yếu ớt đổ xuống mặt đất run rẩy.

Dần dần có sườn dốc thấp và gò đất hoang vu hiện ra, vị đắng trong gió cũng biến mất — đây xem như là đã ra khỏi hồ Bạch.

Người Xuân Thiên mướt mồ hôi, lúc thì khô lúc thì nhớp nháp.

tháo mạng che mặt xuống, tóc trên trán đã ướt đẫm như nhúng nước lên, hai gò má bị hun đỏ bừng, gió đêm thổi qua có hơi buốt.

Lý Vị đưa áo lông cừu cho nàng: "Buổi tối gió rét, coi chừng cảm lạnh." Nàng đã sớm mệt đến độ không ưỡn thẳng được thắt lưng, ngoan ngoãn bọc áo lông cừu quanh người, bộ dạng suy sút nửa sống nửa chết.

Nàng thở hồng hộc, Lý Vị thấy xương bả vai nàng gồ cả lên, bèn dắt con ngựa của nàng: "Còn mười mấy dặm đường nữa, nếu cô mệt thì nhắm mắt lại nghỉ ngơi một lát, ta đưa cô đi."
Nàng lắc đầu: "Tôi không mệt."
Đêm đó không dừng lại ngủ ngoài trời, người nàng bọc trong áo lông cừu cũng không lạnh, chỉ cảm thấy hai tay hai chân cứng ngắc vô lực.

Lý Vị tiếp lời nàng câu được câu chăng, nói về tình hình dọc đường đi.

Nàng biết từ Ngọc Môn đến Y Ngô tổng cộng là có tám trăm dặm, có thể phải đi nửa tháng, ngoại trừ mười dịch trạm có nước được xây ở ốc đảo trên đường, thì còn lại chỉ có sa mạc cát vàng.

Mỗi dịch trạm đều bố trí ống báo động khói, thương đội trên đường gần như là đều hành tẩu dọc theo mười dịch trạm này.

Thứ nhất là để bổ sung lương thực, nước, cỏ thức ăn cho gia súc.

Thứ hai là được báo động khói của quân đồn trú bảo vệ, tránh bị phần tử xấu quấy rầy.

Trời cao xa, ông sao lại sà thấp, nàng nghe mơ mơ hồ hồ, ghi tạc trong đầu, thành lũy bao cao, hồ nước ở đâu, phải tránh những gặng hỏi của người nào.

Giọng nói trầm thấp thuần hậu của người đàn ông xuôi theo làn gió truyền vào tai nàng.

Nàng từ từ nằm bò ra lưng ngựa, nét mặt êm dịu và bình thản.

Trước khi chìm vào giấc ngủ, nàng có lim dim mở mắt một lần, thấy bóng lưng Lý Vị cũng hơi hơi thả lỏng.


Búi tóc trên đầu đã rối, vài sợi tóc đen bị gió lùa bay tán loạn hai bên thái dương, sườn mặt kiên nghị lộ vẻ cương quyết và tịch mịch cực kỳ hiếm khi gặp, có đôi chút hương vị của lữ khách giang hồ ở nơi chân trời xứ lạ.

Giang hồ, giang hồ tức là bốn biển, nàng cũng đã ở trong chốn giang hồ rồi đây.

Lý Vị thả dây cương cho con ngựa đi chậm, chờ thiếu nữ trên lưng ngựa ngủ mấy giấc.

Trong gió đêm hắn lặng lẽ trông cho nàng, đêm còn đằng đẵng, đường cũng rất dài, hắn có đủ thời gian để đợi nàng.

Bởi vì ánh trăng quá sáng nên so với Trung Nguyên, ban đêm ở ải Bắc nhạt hơn một chút.

Vùng hoang vu bát ngát xa xôi như đang dội lại đây những tiếng đinh đang đứt quãng.

Nàng vểnh tai, đứng trên ngựa phóng mắt nhìn ra xa, chẳng thấy được gì sất.

Lý Vị nhấp một ngụm rượu mạnh, vung roi nói: "Đi thôi, phía trước chính là đường Y Ngô."
Trước đây đường Y Ngô bị Đột Quyết chiếm giữ, vì vậy thương đội phải đi vòng từ Đôn Hoàng, chỉ khoảng ba bốn năm trở lại đây đường mới được khai thông.

Nhưng cũng trong thời gian ba bốn năm này, thuế má biên quan của triều đình thu nhiều hơn hai mươi phần trăm.

Lương thực tích trữ của Bắc Đình cung cấp cho quân đội biên cương, triều đình xuất khẩu ít đi mười vạn tạ bắp ngô, đường Hà Tây được xây thêm tường thành che chắn để ngăn chặn sự xâm lược của giặc ngoại xâm, đây được cho là một chuyện tốt hả hê lòng người.

Đi đến khi phía chân trời bắt đầu chuyển sang màu trắng, cuối cùng nàng nhìn thấy một đội ngũ xuất hiện ở đằng xa đang di chuyển từ từ.

Có ánh lửa, có lạc đà, có con la, có xe bò, còn có người mặc những trang phục màu da khác biệt, chậm chạp bước đi trên đường.

Người nối thành hàng dài uốn lượn miên man, bước đi rung chuyển.

Rốt cuộc Xuân Thiên nhẹ nhàng thở ra.

Đội ngũ này rất dài, nếu phân tán ra sợ là cũng phải hơn trăm người.

Dẫn đầu là một cỗ xe ngựa màu đỏ rộng rãi, nan hoa bền chắc, với những nét họa tiết chạm trổ gấm hoa đặc sắc.

Đi theo sau là gần một trăm con la con lừa, đằng sau nữa là cả đoàn lữ nhân đi lộn xộn chẳng vào hàng lối.

Cũng có hơn mười nữ quyến và trẻ con, đều ngồi trong xe cao phía sau.

Lý Vị nhảy xuống ngựa, tiến lên bắt chuyện.

Bên cạnh cỗ xe ngựa đỏ có một người đàn ông Hồ tay áo hẹp, cầm con dao, quay đầu ngựa đi ra.

lý Vị chắp tay: "Vị huynh đài này, hai anh em tôi muốn đến Y Ngô, may mắn gặp quý nhân ở đây, liệu có tiện cho chúng tôi cùng đi theo một đoạn đường không?"
Người đàn ông tráng niên mày rậm mũi khoằm, hai mắt lõm sâu, quan sát Lý Vị từ trên xuống dưới.

Kế đó ánh nhìn dừng lại ở con dao và cung tên giắt bên hông Lý Vị, không khỏi nhíu mày.


Lại nhìn thiếu nữ trẻ tuổi đứng sau lưng, nói bằng tiếng Hán: "Huynh đài chờ lát." Rồi quay xe ngựa thấp giọng nói một câu vào trong thùng xe, sau khi kề tai lắng nghe, mới đi tới chỗ Lý Vị trả lời: "Tát bảo* đồng ý, đằng sau có xe cao, huynh đài cứ tự nhiên."
(*Tát bảo: Theo cách nói cũ của Pelliot và Deveria thì Tát bảo có nguồn gốc là Saba trong tiếng Syriac, nghĩa là trưởng lão.

Trong "Biên soạn Y Lan Trung Quốc" của Berthold Laufer, Tát bảo là đối âm của Xsathra—pavan trong tiếng Ba Tư cổ, ý chỉ chủ soái hoặc thủ lĩnh.

Toyohachi Fujita cho rằng Tát bảo là đối âm của Sarthavaho trong tiếng Phạn, tức thương chủ.

Ông Dương Hiến Ích lại cho rằng Tát bảo là đối âm của Sarva hoặc Zrwde trong tiếng Khang Cư, nghĩa là tên thần của Phạm Thiên - theo baike baidu)
Tát bảo là người Túc Đặc, thủ lĩnh của thương đội.

Hóa ra chủ nhân của đội lạc đà này là một thương gia lớn người Hồ ở nước Khang, đến từ Lương Châu, mang theo sáu mươi thồ hàng gồm có tơ lụa và trà thơm, đi cùng có hơn hai mươi tôi tớ tay sai hướng đến Tây Châu.

Những người còn lại cũng là thương nhân của nước Khang, xuất hành phụ thuộc vào Tát bảo.

Cũng có thương nhân người Hồ hoặc Hán đi nửa đường gặp đội vệ chu toàn thế này, thấy người ngựa đông đúc, bèn xin vào cùng đi.

Người ra đón Lý Vị chính là thủ vệ gia binh của lão Tát bảo, bầu bạn cạnh chủ nhân quanh năm hành tẩu Tây Vực, tên là Di Thi Niên.

"Đa tạ Tát bảo lão gia." Lý Vị dẫn Xuân Thiên ra đằng sau chỗ xe cao có chỗ ngồi, nhét áo lông cừu và túi nước vào ngực nàng: "Ngủ một giấc đi, con đường sau đây sẽ không mệt như vậy nữa đâu."
Xuân Thiên đáp vâng, gật đầu, dụi dụi mắt, thấy hắn quay ngựa đi về phía trước, bèn gọi hắn lại: "Đại gia, ngài đi đâu thế?"
"Ta không đi xa." Hắn ngoảnh đầu nói, "Ngay trước đây thôi, nếu có chuyện gì cô cứ gọi ta."
Xuân Thiên ló đầu nhìn bóng lưng hắn sóng vai đi cùng đội lạc đà.

Có lẽ là hành tẩu bên ngoài quen rồi, nên hắn mới sinh ra ý thức bảo hộ cho đội lạc đà một cách tự nhiên đến vậy.

Bên cạnh có người đàn bà trung niên mặc y phục người Hán bị đánh thức, đẩy tấm thảm nỉ ra, dụi mắt nói với Xuân Thiên: "Tiểu nương tử, trời còn chưa sáng, mau ngủ thôi."
"Làm phiền nương tử ạ." Xuân Thiên dịch người vào giữa, lúc này lại hơi không ngủ được, người đàn bà bên cạnh cũng dứt khoát ngồi dậy, chuyện trò với nàng về chuyện nhà: "Tiểu nương tử, đó là phu quân nhà cô hả? Coi chú ấy săn sóc cẩn thận thế kia cơ mà, thật đúng là làm người khác trông mà ao ước đấy.

Tiểu nương tử quả tốt phúc."
Xuân Thiên nghe hai tiếng "phu quân" mà như bị lửa đốt, sắc mặt nháy mắt đỏ bừng, lắc đầu xua tay, bối rối nói: "Nương tử nhầm rồi, chúng tôi không phải...!Đó là anh họ của tôi."
Người đàn bà thốt lên tiếng cảm thán như vỡ lẽ, lại phát hiện Xuân Thiên vẫn là thiếu nữ chưa se mặt*, xấu hổ cất giọng: "Coi mắt mũi tôi kém chưa này, nói bậy nói bạ, thật sự xin lỗi." Bà ấy có lòng muốn tâm sự với Xuân Thiên cho đỡ buồn chán, cười bảo: "Hai anh em cô định đi đâu thế?"
(*Se mặt: phong tục xưa, các cô gái trước khi về nhà chồng thì phải thay đổi kiểu chải đầu, búi tóc, cạo sạch phần lông tơ ở cổ và ở mặt)
"Chúng tôi tới Y Ngô." Xuân Thiên cuộn tròn trong áo lông cừu, "Nương tử thì sao?"
"Cả nhà chúng tôi đến Tây Châu, cha đứa nhỏ có mở cửa hàng ở đó..." Người đàn bà nói liên miên một thôi một hồi, Xuân Thiên ngồi nghe cũng dần không gượng được nữa, hai mí díp lại, nhắm mắt ngủ.

Di Thi Niên thấy Lý Vị lặng lẽ trông giữ phía sau xe cao và đàn la ngựa, bèn cưỡi ngựa tới gần.

Hai bên chào hỏi hàn huyên, bấy giờ mới biết Lý Vị cũng là hộ vệ băng qua sa mạc lớn hộ tống thương đội, vỗ vai Lý Vị bật cười sang sảng: "Hóa ra là cùng nghiệp, thất lễ rồi."
"Đường đi này còn cần huynh đài chiếu cố ít nhiều." Lý Vị tán gẫu với Di Thi Niên, hắn biết tiếng Hồ, hiểu lễ nghĩa, hai người nói đủ mọi chuyện ly kỳ tai nghe mắt thấy, rồi các phong tục tập quán, hết sức vui vẻ.

Di Thi Niên thích chí, kéo Lý Vị vào nhóm gia binh ở đằng trước uống rượu.

Lý Vị đáp một tiếng, quay về xem xét, thấy thiếu nữ cuộn người ngủ say sưa, gió đêm lùa qua sợi tóc tán loạn trên trán, không khỏi mỉm cười.

(còn tiếp).

 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
610,854
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 32: 32: Đội Lạc Đà





Đội lạc đà này xuất phát từ trạm Song Tỉnh, đang định đi đến trạm Lãnh Tuyền để bổ sung nước và lương thực.
Có mười dịch trạm được dựng suốt dọc đường Y Ngô, mỗi trạm cách nhau ngắn thì ba bốn chục dặm, dài thì cách trăm dặm.

Trạm Song Tỉnh là dịch trạm đầu tiên bên ngoài Ngọc Môn quan, từ trạm Song Tỉnh đến trạm Lãnh Tuyền nhanh thì một ngày, chậm thì hai ngày là sẽ tới nơi.

Trạm Lãnh Tuyền là trạm có quy mô lớn nhất trong số mười dịch trạm, phía dưới thành có hồ Mạc Tử được hình thành từ suối ngầm.

Ven hồ lau sậy rậm rạp, cây nhót mọc thành rừng.

Trong thành có bố trí dịch trạm, cửa hàng lương thực, hiệu rượu, cùng với các loại tiệm hỗn tạp khác nhau.

Trạm này cũng là chỗ mà muốn vận chuyển hàng hóa nhất định phải đi qua.

Nước Khang là nước đứng đầu trong chín họ Chiêu Vũ, là tông chủ của tám nước khác.

Cư dân trong thành có sở trường làm thương nhân, đàn ông một khi đến tuổi trưởng thành là sẽ được tiễn khỏi quốc thổ đi kinh doanh buôn bán.

Tát bảo của đội lạc đà đây tên là Khang Đa Lộc, thường được tôi tớ gọi bằng danh xưng Ngân Sa lão gia.

Ông ấy dẫn theo một tiểu nô mười bốn tuổi là Đa Ca để điều khiển xe ngựa, và một tỳ nữ nhỏ mười hai tuổi tên Bà Điện La hầu hạ việc sinh hoạt thường ngày.

Nhóm phụ nữ ngồi trên xe cao bấy giờ đều đã dậy, đang dỗ mấy đứa nhỏ còn ngái ngủ chơi đùa.

Đề tài tán dóc nơi đàn bà con gái tụ tập luôn luôn bất biến.

Chỉ xoay quanh việc năm nay có kiểu xiêm y hay hoa cài tóc nào đang thịnh hành, làng quê xóm giềng có những đồn thổi gì, trượng phu trong nhà săn sóc ra sao hay lại là người tục tằn thô bỉ, mẹ chồng em chồng ngáng chân làm khó dễ thế nào, trong nhà ngoài ngõ phải bày mưu tính kế gì.

Xuân Thiên được mợ là Tào thị chăm sóc nhiều năm, thời điểm Tiết phu nhân không nơi nương tựa, sắc mặt của mợ với nàng lúc nào cũng là vẻ mất kiên nhẫn.

Nhưng khi Tiết phu nhân được thương yêu sủng ái, thái độ của mợ đối với nàng lại biến thành "bảo sao làm vậy", quả thực cứ như nàng là con gái ruột.

Nàng bài xích kiểu sống này...!phụ nữ mãi chỉ có quần quanh sau nhà, chị em dâu chị em họ so bì tị nạnh nhau từng li từng tí, nhà quan lại phú quý là như thế, bách tính bình dân cũng chả khác bao.

Cứ như thể chiến thắng đối phương trong mấy chuyện lông gà vỏ tỏi vụn vặt, cũng là đã đạt được thành công và niềm vui sướng to lớn của cuộc đời.

Nàng quấn áo lông cừu ngồi trong góc, ngắm nhìn cảnh vật đằng xa xa.

Mặt trời chậm chạp nhô cao sau cồn cát, sắc cam lan tỏa, ban mai như dải tơ màu, cồn cát mềm mại rạng ngời, như hơi thở vừa nhẹ nhàng lại vừa yên ả của đất trời.


Lý Vị nghe tiếng phụ nữ cười đùa ồn ào phía sau, hắn rời khỏi một đội gia binh đến coi Xuân Thiên.

Phụ nữ trên xe cao thấy vóc người hắn cao lớn, tướng mạo uy vũ, nhịn không được mỉm cười nhìn từ trên xuống dưới một lượt.

Lý Vị hơi khom lưng chào hỏi mọi người, tới đứng bên cạnh Xuân Thiên: "Có đói bụng không?"
Nàng gác sườn mặt mình lên đầu gối, hãy còn đắm chìm trong cảnh mặt trời mọc như mộng như ảo.

Cho đến tận khi vầng thái dương màu cam hoàn toàn ló dạng sau cồn cát, tia sáng chói lọi chiếu rọi mặt đất, nàng mới nhẹ thở hắt ra một hơi, nghiêng mặt nhìn hắn: "Đại gia nói gì ạ?"
Lý Vị ngẩn người, đưa túi nước qua cho nàng: "Uống chút nước đi."
Nàng lắc đầu: "Tôi muốn xuống dưới đi dạo."
Lý Vị đang định đỡ nàng xuống xe, nàng lại lắc đầu, nom có vẻ không chịu.

Nàng tự vịn vào rào chắn nhảy phóc xuống dưới, chân hơi loạng choạng, cánh tay được Lý Vị túm lấy, đứng vững vàng trên mặt đất bằng phẳng.

Hai người cứ thế đứng sau xe cao, nhóm phụ nữ trên xe thì thầm khe khẽ: "Tiểu nương tử này ngồi xe mà không rên một tiếng, xem ra là vẫn còn trẻ con, ấy mà lại lấy được một vị phu quân tốt, dịu dàng ân cần thế kia."
"Phu quân đâu mà phu quân." Người phụ nữ từng nói chuyện với Xuân Thiên lên tiếng giải thích, "Trên trán tiểu nương tử còn tóc tơ kia kìa, rõ ràng là cô nương khuê các chưa se mặt.

Cô ấy bảo đó là huynh trưởng của cô ấy, không phải vợ chồng gì cả..."
Đội lạc đà kéo dài mấy dặm, liếc mắt nhìn chẳng thấy đầu cuối.

Xuân Thiên dắt ngựa của mình đi sau đội lạc đà, bất chấp mặt đường nông sâu ra sao, nàng vẫn mải miết giẫm nát những tảng đất đóng cục lổn nhổn, đôi ủng Hồ bám đầy bụi bẩn.

Lý Vị thấy nàng tự dưng để lộ đôi chút...!có lẽ là sự bực dọc của một đứa trẻ, lòng hắn dâng khó hiểu, muốn hỏi lại chả biết hỏi gì.

Hắn bôn ba bên ngoài quanh năm suốt tháng, thời gian ở nhà với Trường Lưu cũng không quá nhiều, làm sao biết được trong đầu một đứa trẻ có những suy nghĩ gì.

Nguyên nhân Xuân Thiên hờn dỗi chẳng qua là vì hai tiếng "vợ chồng" của người phụ nữ nằm cạnh nàng buổi tối.

Lý Vị và Lý nương tử trước nay cầm sắt hòa hợp, đại tang của Lý nương tử vừa mới qua, tuy nàng trong sáng vô tư, nhưng nghe người khác hiểu lầm rằng hai người là vợ chồng, nàng chỉ cảm thấy hết sức khó chịu.

Phải biết rằng vì chuyện của Tiết phu nhân, không biết nàng đã phải chịu bao nhiêu lời ra tiếng vào và những soi mói châm chọc, thế nên trong chuyện nam nữ nàng sao có thể để người ta hiểu lầm mình nửa phần.

Rốt cuộc Lý Vị vẫn không đoán ra được, Xuân Thiên giương mắt liếc hắn một cái, đôi mày thanh tú hơi chau: "Cũng không biết Trường Lưu ở nhà Lục nương tử có quen không, lúc đi tôi chẳng nói năng gì, thấy rất có lỗi với thằng bé."
"Thằng bé mua một con ngựa đỏ nhỏ, nói là muốn tặng cho chị Xuân Thiên của nó, khi về tới mới hay tin cô đi rồi." Lý Vị nói, "Đợi đến lúc về nhà e là con ngựa cũng đã lớn."
"Tôi đi gấp quá, đáng nhẽ nên nói tạm biệt thằng bé." Nàng bảo, "Chờ tôi tìm được chú Trần, đại gia sẽ có thể quay về Cam Châu."
Giữa hai hàng lông mày nàng toát lên nét cô tịch, khóe miệng mím lại đầy bướng bỉnh quật cường.

Đàn ông trực tính sao biết được sự suy sụp của nàng từ đâu mà đến, cứ cho rằng vì đường sá xa xôi, ngồi xe ngựa vất vả mệt nhọc.

Nghĩ ngợi một chốc, Lý Vị bèn thò tay vào trong bao quần áo lục lọi hồi lâu, rồi sau đó lấy ra một viên kẹo kem đường được gói bằng giấy dầu ra, là loại mà Tiên Tiên hay ăn lúc Tết, vị ngọt ngào như giọt mật tinh khiết.


Lý Vị bẻ miếng kẹo be bé đưa cho nàng: "Này."
Nàng sửng sốt giây lát, thấy kẹo mà tưởng như là thấy ma, lắp ba lắp bắp: "Đại gia, sao ngài lại có kẹo?"
Lý Vị gói giấy dầu lại như ban đầu, cất vào trong tay nải, nhướng mi nói: "À, mỗi khi tâm trạng không vui thì có thể ăn một ít."
Xuân Thiên ngậm miếng kẹo, cho nó tan ra trên đầu lưỡi, mạch nha ngon miệng, vị ngọt đậm đọng nơi đầu môi, mãi rất lâu sau mới có cảm giác nhạt dần.

Chẳng biết vì sao, nàng bỗng bật cười khúc khích, mi mắt cong cong.

Mặt trời càng lúc càng lên cao, trời quang không một gợn mây, ánh nắng chói chang như thiêu đốt.

Thời tiết dần nóng, Bà Điện La quỳ gối ở một góc trong thùng xe phe phẩy cây quạt, thấy chủ nhân nằm trong đống áo lông mềm mại híp mắt dợm đứng dậy thì bèn dấp nước cái khăn, dịch đầu gối lên trước lau tay cho chủ nhân.

Khang Đa Lộc năm nay vào độ tứ tuần, râu ria để rậm rạp, mắt sâu mũi cao, nhưng lại đội mũ và mặc trang phục của người Hán, ngoại trừ việc tin vào Hỏa giáo thì nghiễm nhiên là một Hán hóa hoàn toàn.

Người ngoài gọi ông ấy là Ngân Sa lão gia, bởi lẽ bạc nhà ông ấy ngập đầy như biển cát.

Đầu năm nay ông ấy mang mấy túi dạ minh châu đi Lương Châu, đổi mấy chục thồ lá trà và tơ lụa về, định là trở về thành Khang, bán sang cho các nước Tây Vực.

"Đa Ca, Đa Ca, lão gia muốn dùng cơm, dừng xe đi." Bà Điện La vén rèm lên, dùng tiếng Hồ nói với người thiếu niên mắt xanh đang đuổi ngựa.

"Rồi." Đa Ca vung vẩy roi ngựa, hô lên với nhóm gia binh, "Di Thi Niên, lão gia bảo nghỉ thôi."
Mọi người đi đến giờ phút này, đám con ngựa con la đã thở hồng hộc không ra hơi, người nào người nấy ướt sũng mồ hôi.

Đội lạc đà cứ thế dừng chân nghỉ tạm, mọi người hầu hết không có nước suối thì cũng có bánh Hồ*, khá hơn một chút thì có thịt khô hay dưa ngâm nước tương làm ấm dạ.

Đa Ca nhảy xuống ngựa, nhóm lửa ngay tại chỗ, rồi bắc một cái vò nhỏ lên luộc thịt dê.

Thay vì dùng nước thì lại đong một hũ rượu vang để luộc thịt.

Phút chốc, mùi thịt lẫn mùi rượu đã xộc lên cuồn cuộn hòa cùng luồng gió nóng hừng hực, quyến rũ lạ thường.

Luộc chín thịt dê, Bà Điện La vớt thịt đặt vào đĩa vàng bưng lên xe ngựa hầu chủ nhân.

Phần thịt rượu còn thừa thì đưa sang cho nhóm gia binh thưởng thức.

Có cậu nhóc bảy tám tuổi ngồi cách đó không xa, ngửi thấy mùi thịt thơm lừng thì hít sâu một hơi, nắm lấy tay áo người phụ nữ: "Mẹ, con muốn ăn thịt."
"Đại Năng ngoan, chúng ta ăn bánh bột."
"Không ăn bánh bột đâu, ăn thịt cơ." Cậu nhóc mếu máo nói, "Ăn bánh bột bao nhiêu ngày rồi, con không thích ăn bánh bột."

Cha đứa nhỏ dựng thẳng mày, kéo đứa nhỏ ngồi xuống, hung dữ trách mắng: "Ăn ăn ăn, chỉ biết mỗi ăn, có bánh ăn còn lèo nhèo, kén cá chọn canh à, không để nhà mi đói chết đã may lắm rồi đấy."
Đứa nhỏ bị răn dạy, nước mắt lưng tròng rưng rức mấy tiếng, mà cha quát cái là nín ngay, lủi thủi đi theo mẹ ngồi lên chỗ cồn cát nhai miếng bánh Hồ một cách khó nhọc, trông đáng thương vô cùng.

Bà Điện La nhảy xuống xe ngựa với cái chén bạc trên tay, mỉm cười bước tới trước mặt cậu nhóc, cất tiếng nói bằng thứ tiếng Hán trúc trắc: "Lão gia bảo...!bánh bột cứng khó ăn...!ăn thịt dê..."
Trong chén bạc có vài miếng thịt dê, cha mẹ cậu nhóc không dám nhận, đứng dậy từ chối liên tục.

Cặp mắt xanh của Bà Điện La đong đầy ý cười, đưa cái chén bạc cho cậu nhóc rồi xoay người chạy về xe ngựa nhanh như chớp.

"Cảm ơn chị..." Cậu nhóc vui vẻ ra mặt, bưng lấy chén bạc ăn ngốn nga ngốn nghiến.

Mọi người không nhìn thịt dê mà chỉ để ý đến nét hoa văn rườm rà của chén bạc, vừa nhìn đã biết là đồ có giá trị.

Mẹ đứa nhỏ chính là người phụ nữ bắt chuyện với Xuân Thiên trên xe cao, thấy con mình bưng chén, có hơi xấu hổ, quay sang nói với nhóm phụ nữ con nít chung quanh: "Thằng bé này...!thật khiến mọi người chê cười...!Ngân Sa lão gia sống xa hoa không nói, mà ngờ đâu còn là người có tấm lòng vàng như vậy."
"Thậm chí ăn cơm thôi cũng dùng cả chén bạc đĩa vàng, giàu có cỡ đấy, thảo nào phải mời cả tá hộ vệ đi theo cùng." Có người phụ nữ tỏ vẻ ước ao, "Mang theo cơ man là thồ hàng, bán đi rồi thu về lắm tiền lắm bạc, tiêu xài cả đời chẳng cần băn khoăn."
"Nghe nói một viên minh châu của ông ấy bán được cả năm vạn quan tiền, nhà cửa thì nằm rải rác khắp Trường An, Lương Châu, Cam Châu..."
Xuân Thiên nhai bánh Hồ, nghe tiếng bàn tán xì xào của mọi người.

Nàng phóng tầm nhìn ra chỗ xe ngựa, cửa sổ xe được Bà Điện La chống lên, để lộ bàn tay đang gác phía trên của một vị thương nhân trung niên người Hồ, ngón tay đeo ba bốn chiếc nhẫn ngọc, quần áo lụa hảo hạng.

Hồ thương thanh thế lớn nhường ấy, hẳn là đã liên lạc với các thành các trấn, trạm dịch và thủ tróc* ven đường thu xếp ổn thỏa rồi, quan văn kiểm tra rất lỏng lẻo, thường sẽ coi mặt mũi rồi cho qua luôn.

Nàng nhìn bóng lưng Lý Vị, hắn đang nói chuyện với Di Thi Niên, đẩy đưa túi rượu, khí khái lan tỏa, có lẽ hắn cũng có ý định nương nhờ vào thương đội này, đưa nàng cùng đi đến Y Ngô.

(*Thủ tróc: nơi đóng quân ở khu vực biên giới thời Đường)
Trong đội lạc đà còn có cả thương nhân nhàn nhã đàm luận thời cuộc, kể về chuyện hồi đầu tháng rằng vua Cao Xương sai sứ giả đến Trường An.

Sứ giả của Cao Xương đang dừng chân tại trạm Lãnh Tuyền, nghe bảo lần đó phô trương lãng phí lắm.

Trong số cống phẩm dâng tặng có kha khá những món tuyệt diệu hết sức, như là gối Minh Diêm*, vải chống cháy, ngà voi, thảm len, chở ước chừng phải mười mấy rương hòm đến Trường An.

Nếu đội lạc đà đi mau thì khả năng còn được vào dịch trạm mục sở thị đống báu vật trên đời hiếm gặp ấy.

(*Gối Minh Diêm: kiểu gối nhồi bằng muối)
Phải biết rằng, Cao Xương nhiều năm có qua lại khăng khít với Đột Quyết, có một độ từng phối hợp cùng Đột Quyết quấy rối Tây Vực.

Mấy năm trước sau khi triều đình đại phá Đột Quyết, Cao Xương đổi ngược chiều gió và tỏ ra thân thiết với Trường An, gần đây lại còn cử sứ giả tới Trường An.

Tình cảm song phương gắn bó, Cao Xương hiến trân bảo, Trường An tặng thợ thủ công lành nghề, quan hệ hai nước nhất thời không hề tầm thường.

"Sắp đến sinh nhật Thánh nhân, lần này Cao Xương đang vội đi Trường An mừng thọ." Có người nói, "Sứ giả mang theo mười chiếc gối Minh Diêm, có công dụng sáng mắt thông tâm, trị chứng đau nửa đầu.

Đây là lần đầu tiên tiến cống, nghe nói mấy năm nay chứng đau đầu của Thánh nhân càng lúc càng nghiêm trọng, tặng cái gối kia quả là khéo chọn thời."
"Cao Xương và Đột Quyết thân thiết vài chục năm, Đột Quyết vừa bị đánh tan tác, vua Cao Xương đã đi nhờ vả triều đình, thật đúng là..."
"Lại nghe nói dưới núi Thiệt La Mạn có kỵ binh Đột Quyết dọc đường xuống phía Nam quấy rối thôn làng của dân du mục, đầu xuân trâu ngựa đang hứng trí, chúng biến chỗ kia thành nơi mù mịt chướng khí."
"Chẳng phải người Đột Quyết đã trốn về Tây Bắc, đến chỗ của dân tộc Hồi Hột vùng Kim Sơn ư? Xuống phía Nam tới núi Thiệt La Mạn khi nào thế?"
"E là lính mất chỉ huy, tro tàn lại nhen nhóm.


Có điều binh lực có hùng hậu cỡ nào cũng không sợ."
"Năm đó vua Đột Quyết vừa chết, các bộ Đột Quyết xảy ra nội chiến kịch liệt, rời khỏi Bắc Đình từ ấy.

Tôi thấy chờ sau khi các bộ thống nhất, sẽ lại là một hồi chiến tranh ác liệt cho xem." Có người lắc đầu, "Đám mọi rợ đều lớn lên trên lưng ngựa, tinh thần nổi loạn chống đối ghê gớm lắm, gặm không được mà nuốt cũng chả xong.

Tương lai đây, có trò hay coi rồi."
Mọi người nghỉ ngơi đã đủ, cho đàn gia súc chở hàng ăn no rồi tiếp tục hướng về phía Tây.

Trong bầu không khí oi ả của mùa xuân, dần dần ngửi được một làn hương mật ong thoang thoảng, mới đầu lững lờ lãng đãng trôi theo chiều gió, càng đi lên trước mùi càng thơm nồng.

Cuối cùng mùi hương xâm nhập vào lục phủ ngũ tạng, khiến đầu người ta phình to ra.

Xuân Thiên chưa từng ngửi thứ mùi nào ngào ngạt như vậy: "Đây là mùi gì thế?"
Lý Vị trả lời: "Là mùi hoa cây nhót, đằng trước có một rừng nhót, hiện giờ là mùa hoa nở."
Đã vào cuối tháng tư, nếu ở miền Nam thì hoa lựu cũng đã nở rộ tưng bừng.

Đúng lúc sắp vào hè, cây nhót trong sa mạc mới vừa trổ bông.

Đi mấy dặm, xa xa phía sau cồn cát là một mảnh rừng nhót rợp màu xanh xám, mấy bụi gai lạc đà mọc lác đác hai bên trái phải.

Cây nhót của rừng này không cao, vẻ ngoài trông cũng xấu xị quái dị, vỏ cây nứt nẻ, ngả màu xám xịt nhìn chỉ có cảm giác ảm đạm mất hứng.

Có mấy cái lá cây quăn queo lay lắt trên cành cây khô quắt sống dở chết dở.

Lá cây khô rang, những bông hoa màu vàng kim nhỏ li ti ẩn mình dưới những cành lá.

Xuân Thiên hít một hơi thật sâu, mùi hương vừa mạnh vừa đậm đặc, bị khí nóng trong sa mạc làm bốc hơi, tưởng như khắp đất trời đều ngập tràn hương thơm ngọt ngào ấy.

"Tiếp tục tiến về trước năm sáu chục dặm là đến trạm Lãnh Tuyền.

Nơi đó cũng có rừng cây nhót, hoa nở nhiều hơn chỗ này."
Đội lạc đà chậm rãi băng qua mảnh rừng cây nhót, toàn thân bị nhiễm cả mùi hoa nhót, cùng nhau đi về phía xa.

Đi tiếp hai mươi dặm, bấy giờ thái dương đã khuất nửa trên nền trời đằng Tây, không trung xuất hiện mây tích, sắc trời thoáng chuyển màu tối, thời tiết cũng chẳng còn nóng bức như đúng giữa giờ ngọ.

Gió mát thổi hiu hiu, Xuân Thiên cởi áo choàng ngoài, chỉ mặc chiếc áo đơn ngồi trên lưng ngựa.

Có người trong đội lạc đà đang thổi sáo, tiếng sáo réo rắt như liễu mới, như suối trong, bay bổng dập dềnh đệm cho tiếng lục lạc, trôi về phía chân trời.

Lý Vị bỗng nhiên mở bừng hai mắt, "xuỵt" một tiếng ghìm Truy Lôi lại, dỏng tai về hướng Bắc lắng nghe.

Xuân Thiên nhìn sang theo tầm mắt hắn, chỉ là một cồn cát mênh mông và đơn điệu, nàng hỏi: "Sao thế ạ?"
(còn tiếp).

 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
610,854
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 33: 33: Người Đột Quyết





Cồn cát nhấp nhô kéo dài như khuôn ngực người phụ nữ thở những nhịp êm ả trong từng luồng gió mặn, gai lạc đà xám xanh in những cái cái bóng dài ngoằng xuống mặt đất.

Lý Vị dõi mắt trông về phía xa, Xuân Thiên thấy sắc mặt hắn trầm tĩnh như nước, hai đầu khẽ mày chau lại với nhau một cách khó nhận thấy, nàng chẳng rõ có chuyện gì, bèn hỏi lại: "Đại gia?"
Nơi xa nhất mà mắt có thể nhìn thấy của trời xanh cát vàng, đằng sau cụm mây xám trắng, đột nhiên hiện rõ một chấm đen như mực, rồi lại bất thình lình biến mất sau tầng mây.
Lý Vị ngoảnh đầu lia mắt cực nhanh tới chỗ đội lạc đà, hàng ngựa thồ dịu ngoan chạy dài mấy dặm, ong ruồi bay vo ve tứ lung tung.

Nhóm thương nhân gom góp chút ít sinh lực giữa cái gió không ngừng thổi khí nóng đến, tụ tập tốp năm tốp ba tại một chỗ tán gẫu.
Hắn quay trở lại bên cạnh nàng, giọng như căng ra: "Con đường phía trước e là sẽ có biến."
Xuân Thiên thấy tay hắn nắm túi mũi tên trên hông, lòng nàng dâng nỗi bất an, câu hỏi chưa thốt khỏi miệng thì chợt một tiếng kêu sắc bén xa xăm của chim cắt đã xé toạc mây dội đến.
Giương mắt nhìn ra xa, chỉ thấy giữa nền trời xanh có một chấm đen lao cực nhanh từ sau tầng mây xuống, khoảng cách càng ngày càng gần, tốc độ mỗi lúc một xiết.

Trên không trung bất ngờ xuất hiện hai cái cánh, hóa ra là một con chim ưng đang vỗ cánh bay tới chỗ đội lạc đà.

Mọi người trông theo, lòng thầm sợ hãi.

Đợi tới khi nhìn rõ dáng vẻ của con chim ưng, hai cánh nó vỗ phành phạch, rồi lại đổi hướng bay vút lên cao.
Lý Vị nhíu mày: "Chúng ta phải đi nhanh, về phía Tây ba mươi dặm chính là trạm Lãnh Tuyền, phải mau chóng vào thành thôi."
Bấy giờ đoàn người xôn xao hết cả lên.
Đằng trước có tên gia binh má đỏ mũ trắng của tộc A Nhiệt thúc ngựa chạy ra, giơ cánh tay hô to mấy tiếng.

Thần sắc của nhóm lữ nhân chuyển từ thoải mái sang hãi hùng, người nào người đấy bắt đầu vung roi đuổi la ngựa.

Phụ nữ con nít đang ngồi trên xe cao tán dóc ngờ vực dừng cuộc trò chuyện lại, hỏi xảy ra chuyện gì, song chẳng có ai vui lòng trả lời.
Bánh xe lăn đều, có điều mới đi được một lát, một mũi tên bay theo đường nghiêng đột ngột phóng ra từ chân trời, phía sau cồn cát bên tay phải truyền đến hàng loạt tiếng vó ngựa dồn dập, cát cuồn cuộn tạo thành sương mù.

Sau cồn cát hiện lên một con ngựa cao lớn, cưỡi trên lưng ngựa là một gã đàn ông lùn nhưng tướng tá lại to bự.

Bấy giờ chẳng thấy rõ được đâu là địch, đâu là ta, một nhóm gia binh đần đó đang kêu la, có mũi tên sáng loáng gắn lông vũ vụt thẳng tới, mọi âm thanh như bị bịt kín, chớp mắt người đã bị đóng đinh xuống mặt đất.
Mọi người xung quanh chứng kiến cảnh tượng gia binh ngã nhào khỏi lưng ngựa, cuống cuồng tản ra: "Mã phỉ, mã phỉ đến rồi."
"Chạy mau! Chạy mau!"
Xuân Thiên nghe thấy Di Thi Niên ở đằng trước phóng ngựa chạy như điên, cao giọng hét lên với nhóm thương khách: "Đi mau, đi mau, bỏ quần áo lương thực cưỡi ngựa chạy đi."
Ngựa thồ chạy, cát bụi mịt mùng, đàn lạc đà đằng trước lao băng băng dưới những nhát quất của cây roi dài.

Nhóm gia binh giục ngựa chạy hai bên đường, thần sắc nghiêm trọng, giơ đao rút tên, hô hào mọi người tăng tốc nhanh chóng.
Đa Ca ruổi ngựa vội vã chạy về trước, thùng xe lắc lư chòng chành, bát rượu nho bằng vàng trên bàn rơi xuống tấm thảm mềm, phát ra những tiếng leng ka leng keng.

Khang Đa Lộc vốn đang nhắm mắt đánh giấc ngủ ngắn, bỗng dưng bị tiếng động ồn ào ngoài xe đánh thức: "Di Thi Niên, xảy ra chuyện gì thế?"

"Tát bảo, có mã phỉ đột kích." Gia binh bảo vệ ngoài xe đáp ngay tắp lự, "Di Thi Niên lệnh cho tôi chạy đến trạm Lãnh Tuyền lánh nạn."
Khang Đa Lộc đứng bật dậy, gài chặt cửa sổ xe, vẻ mặt nặng nề đưa mắt ra ngoài quan sát.

Trên cồn cát phía xa xa, chẳng mấy chốc mà đã có một đám mã phỉ đứng đông nghìn nghịt, tất cả xếp thành một hàng thẳng cúi nhìn đội lạc đà.

Mã phỉ cầm đầu cao giọng quát tháo vài tiếng, mã phỉ vung đao phóng ngựa, sát khí đằng đằng, bổ thẳng đến đội lạc đà.
Ông ấy đi lại ở Tây Vực mấy chục năm, thấy nhiều biết rộng, cũng trải qua vô vàn khoảnh khắc sống chết mất còn.

Trong khi cơn xóc nảy chưa chịu ngừng, vẫn giữ được bình tĩnh lên tiếng chỉ huy: "Đa Ca, đừng hoảng sợ, điều khiển xe cho vững."
Bà Điện La khẽ nhấc tấm mành lén nhìn ra thì bất ngờ trông thấy vô số mũi tên bay từ trên đồi cao xuống.

Có kẻ trong đám người hét lên thảm thiết rồi ngã phịch xuống đất, không rõ chết sống ra sao, sợ hãi đến độ mặt mũi tái mét, vội rụt vào trong xe ngựa: "Lão gia...!tặc...!tặc..."
Roi ngựa của Lý Vị quất vào lưng con ngựa Xuân Thiên đang cưỡi.

Ngựa bị đau, cắm đầu chạy về trước, Xuân Thiên nắm chặt dây cương, tim như muốn vọt ra khỏi cổ họng, nàng còn nhớ như in bọn mã phỉ như hung thần ác sát ở Hồng Nhai Câu kia.

Kinh hồn nhìn sang Lý Vị, hắn theo ngay bên cạnh che chắn cho nàng, phát hiện ánh nhìn hoảng sợ của nàng, hắn trầm giọng nói: "Đừng sợ, nắm chắc dây cương, chạy đến dịch trạm."
Nhóm gia binh bảo vệ thương đội và đàn con la chạy rầm rầm về con đường phía trước.

Đàn lạc đà hỗn loạn, mọi người rối rít bỏ trốn.
"Ha!" Thoáng chốc, mã phỉ đã bám sát đàn lạc đà, trông vẻ ngoài của tên mã phỉ cầm đầu giống như là người dị tộc, bím tóc dài, đeo vòng vàng, hai con mắt long sòng sọc hằn lên vẻ hung ác, hắn ta vung cao thanh đao lớn, lưỡi đao loang loáng như tuyết, nhắm thẳng vào nhóm thương lữ.
Một gã Hồ thương đứng mũi chịu sào bị dọa tím tái mặt mày, người ngợm mềm oặt sắp sửa lăn đùng ra đất thì được gia binh gần đó vung roi ngựa đuổi đi.

Gia binh giơ cao thanh kiếm, "vút" một tiếng rút kiếm ra khỏi bao.
"Là người Đột Quyết!" Chẳng biết ai trong đám người hô to, "Người Đột Quyết đến rồi!"
Mà ở đằng sau, cát vàng hầm hập, trong đàn lạc đà vang lên những tiếng kêu gào chói tai, tiếng than khóc như nổ tung, Xuân Thiên siết lấy dây cương, được Lý Vị dẫn dắt phi băng băng về phía trước.

Giữa lúc hoàn cảnh rối ren, nàng thoáng thấy trước mắt có một tên mã phỉ với gò má cao và cặp mắt hạnh vung vẩy trường đao chém chết một thương lữ.

Đôi mắt Xuân Thiên phản chiếu hình ảnh búng máu văng tung tóe, đầu óc nàng nóng bừng và trống rỗng, nhìn cái đầu người lăn lông lốc dưới đất mà bụng dạ sôi trào.
Đám người Đột Quyết có lẽ có tới trăm người, chẳng những cướp đoạt la ngựa cùng lương thực quần áo mà còn chém giết thương lữ.

Họa chăng là bọn chúng cho rằng hành động này cốt chỉ để mua vui, giết người vô tội vạ, thấy đám người trốn chạy tán loạn trước mắt chỉ biết rút đao tàn sát.

Khắp nơi đẫm máu, thế lại càng trợ hứng cho chúng, nhất thời sát tâm nổi dậy, ngay cả phụ nữ và con nít cũng không buông tha.
Địch mạnh ta yếu, nhóm gia binh không dám ứng chiến, đưa Khang Đa Lộc và một tốp thương nhân nhanh chóng rời đi.

Di Thi Niên xử lý vài tên người Đột Quyết, bảo vệ mấy Hồ thương quất ngựa đi, nhưng lúc này lại chẳng biết làm thế nào với nhóm phụ nữ con nít tay không tấc sắt trên xe cao.

Một tên Đột Quyết to lùn nở nụ cười nanh ác hướng mục tiêu lên xe cao.

Dưới lưỡi đao sáng loáng, những người phụ nữ yếu đuối ôm con ngồi co ro trong góc, có người phụ nữ dáng vóc cường tráng sợ hãi tột cùng, thét lên thảm thiết, ôm đầu nhảy xuống xe chạy trốn.

Tên người Đột Quyết ở phía sau cao giọng quát lớn, bỗng giơ trường đao lên bổ về trước.

"Đinh—" Cùng với âm thanh sắc bén, trường đạo bị một mũi tên gắn lông vũ thình lình xuất hiện công kích.

Bên cạnh xe cao, người đàn ông áo xám với đôi đồng tử trong veo nhón mũi chân, nhảy vọt từ lưng ngựa sang xe cao, rút thanh đao ở hông ra, bật người chém tới đám người Đột Quyết.
"Di Thi Niên, huynh đưa em gái tôi đi, tôi sẽ chặn phía sau."
"Đại gia!"
"Đi." Di Thi Niên vung roi, thấy Xuân Thiên liên tục ngoái đầu nhìn Lý Vị, quát lớn: "Chúng tôi đi trước."
Nàng khẽ cắn môi, đánh ngựa lùi ra xa, đi theo Di Thi Niên cùng nhóm thương lữ tản mác chung quanh chạy về của trạm Lãnh Tuyền.
Trạm Lãnh Tuyền là cứ điểm lớn nhất trong số mười dịch trạm, gồm một đội trú binh và thủ úy, mấy ngày nay còn có thêm cả đoàn sứ giả do Cao Xương cử đi tiến cống.

Hộ quân không ít, người Đột Quyết chắc chắn không dám vào thành, nhanh một chút thì vẫn có thể báo tin cho trú binh đến chi viện.
Bên cạnh toàn là tiếng la hét khóc lóc đinh tai cùng những tiếng cười gằn ác độc đang tới gần, tim Xuân Thiên đập thình thịch, nhắm mắt giục ngựa lao như bay.
Phía trước là bầu trời nhuộm màu nắng chiều, mặt trời lặn hệt như cái đĩa vàng khổng lồ đứng lặng hồi lâu trên mặt đất, tà dương rực đỏ màu máu chiếu rọi vùng đất hoang dại, quang cảnh hết sức tiêu điều.
Thấy tình hình không ổn, Khang Đa Lộc và rất nhiều thương nhân chỉ biết vơ vội những châu báu quý giá, chạy về phía trước dưới sự hộ tống của gia binh, la ngựa trốn chạy tứ phía.
Sương mù giăng dày đặc, giữa đường chẳng biết con nhà ai ngã khỏi lưng con la, đứa nhỏ rơi vào đống bụi đất, người run bần bật, căng giọng gào khóc với người rời đi: "Cha, cha, mẹ..."
Nó đứng vùng dậy, cắm đầu đuổi theo đám người đang trốn chết: "Đừng bỏ con, đừng bỏ con...!cha...!mẹ..."
Mọi người ốc chẳng mang nổi mình óc, nào ai còn thời gian đáp lại tiếng gào thét của nó.
Đứa nhỏ quệt dòng nước mắt, sợ hãi quay đầu nhìn đội lạc đà sa vào lưỡi đao của người Đột Quyết.

Thấy Di Thi Niên dẫn theo một đoàn người chạy băng băng tới, hai mắt nó bỗng sáng ngời, lao hùng hục đến chỗ ngựa của Xuân Thiên, vươn dài cánh tay lớn tiếng gọi: "Chị ơi, chị ơi, cho em theo với."
Xuân Thiên ngồi trên ngựa chấn động, không kịp trở tay, chỉ biết cúi thấp người xuống, một tay nắm dây cương, một tay còn lại kéo thằng bé.

Con ngựa nhảy vọt lên cao, chỉ chạm được nửa góc áo của đứa nhỏ.

Hai lần để vụt mất, con ngựa nàng cưỡi đã lao đi xa vài trượng.
Xuân Thiên gắng gượng ngoái đầu nhìn đứa nhỏ kia, nó lại ngã xuống đất khóc lóc bi thống: "Cha...!mẹ...!cứu con!"
Gió đêm ào ào, nàng giục ngựa đuổi theo Di Thi Niên và đám người bôn tẩu, không biết vì sao, nàng cắn nhẹ môi, quay đầu ngựa lại, giơ roi thúc ngựa trở về.
Di Thi Niên thấy nàng tự dưng đổi hướng, cuộn dây cương trong tay định ngăn cản nàng, cực kỳ kinh hoảng: "Nữ lang! Đừng quay về!"
"Mau, mau." Nhóm thương nhân nháo nhào, "Di Thi Niên, người Đột Quyết đuổi tới rồi kìa!"
Xuân Thiên chạy đến chỗ đứa nhỏ, thò người duỗi tay, cao giọng quát: "Mau! Nắm tay chị cho chắc."
Ánh mắt đứa nhỏ mới bảy tám tuổi chợt tỏa ra nguồn sáng, lảo đảo bò dậy từ dưới đất, như con cá ngậm chặt mồi câu, ra sức siết lấy bàn tay của Xuân Thiên.


Xuân Thiên dồn hết sức uống sữa của mình túm đứa nhỏ lên ngựa, ôm nó ngồi trước người mình, lòng nhẹ hẳn đi, thở hắt ra một hơi.
Đúng lúc chuẩn bị chạy tiếp thì một tên người Đột Quyết đã đuổi lại.

Ban đầu vốn chỉ là chém giết lung tung, nhưng vừa thấy Xuân Thiên đằng trước mắt, mắt hắn ta lóe lên tia sáng lạnh lẽo, mặt đầy tàn ác, nói gì đó với Xuân Thiên rồi tăng tốc vung đao chém về phía nàng.
Xuân Thiên hãi hùng, thậm chí nàng có thể thấy rõ ánh sáng chói lọi chớp lên trên thân đao như làn nước, cùng với sự sợ hãi đã ngập trong đôi mắt nàng.
Không kịp quay đầu ngựa nữa rồi!
Xuân Thiên dốc toàn bộ khí lực từ lúc cha sinh mẹ đẻ, vung mạnh cây roi, nàng nhắm thẳng vào thanh đao của người Đột Quyết mà chạy điên cuồng, lợi dụng phần nhọn đính ở mũi giày, nghiến răng bất chấp đá bụng ngựa một phát.

Con ngựa đi đau, hí lên một tràng rồi lao đi nhanh như chớp giật.

Hai người cách thanh đao càng lúc càng gần, khoảnh khắc ở dưới lưỡi đao của người Đột Quyết, Xuân Thiên cúi rạp người áp sát lưng ngựa, thành công thoát khỏi cái chết trong gang tấc.
Tên người Đột Quyết chẳng ngờ tới chiêu đó của nàng, sững sờ chớp mắt, ấy thế mà lại để một nữ tử trẻ tuổi vụt qua lưỡi đao như thế! Có lẽ là hứng thú nổi lên, tên người Đột Quyết chĩa đầu đao vào nàng, miệng bật ra một câu ngắn ngủi, rồi lại ruổi ngựa đuổi theo.
Tim Xuân Thiên đập như sấm, đưa đứa nhỏ chạy không ngừng nghỉ.

Giờ khắc này, thời gian tựa hồ kéo dài vô tận, gió sắc như dao tạt qua mặt, đất cát mịt mùng, thổi mạng che mặt của nàng bay phần phật.

Nàng tưởng như mình mọc thêm hai cái cánh, bay vèo vèo trên lưng ngựa.
"Tên, tên, tên..." Đứa nhỏ bấm mạnh vào vai nàng, "Chị ơi! Hắn đang bắn tên!"
Mũi tên xé gió lao tới!
Đứa nhỏ hét toáng lên, mồ hôi lạnh của Xuân Thiên sớm đã thấm ướt xiêm y, nghe tiếng gió rít gào, khóe mắt nhác thấy một mũi tên sắt phóng xẹt qua tai.
Hai người như con cừu non mặc người mổ xẻ, thợ săn nhàn nhã theo sau lưng để nàng thỏa sức chạy trốn.

Mũi tên vút qua người, không biết đã chạy bao lâu, con ngựa nhảy vọt qua một gò đất cao, Xuân Thiên thoáng nhìn khung cảnh trước mắt, từng rãnh sâu nằm ngang nằm dọc, đá sỏi lăn lóc với những hình thù quái đản, cây cỏ khô héo tạp nham.

Nàng nhắm mắt, hai tay ôm chặt đứa nhỏ, khom người ngã khỏi lưng ngựa, lăn vào trong rãnh.
Rãnh sâu này vốn là một thung lũng, mấy chục năm trước nước sống đã cạn kiệt, chỉ còn sót lại chút ít cỏ lau mọc bừa bãi ở rãnh.

May mắn là đất đá mềm nên khi ngã xuống chỉ bị xước xát nhẹ ngoài da.

Đầu Xuân Thiên đập xuống đá vụn, ong ong choáng váng, nàng không dám dừng lại giây phút nào, nhanh chóng lủi vào bụi cỏ khô, tìm một góc khuất ẩn núp.
Hai tên lính Đột Quyết nhìn thấy hai người té ngựa, dưới là lòng suối ngang dọc, cây đá ngổn ngang, khe vũng nhấp nhô khó lùng dấu vết, bọn chúng bất mãn chửi rủa, tụt hết hứng thú, đánh ngựa bỏ đi.
Xuân Thiên ôm ghì đứa nhỏ không dám động đậy, bốn bề im phăng phắc, ngay cả tiếng gió cơ hồ cũng tiêu tan.

Chẳng biết qua bao lâu, chỉ thấy phía trước tăm tối mờ mịt không có ánh mặt trời, đứa nhỏ trong lòng run giọng nói: "Chị, không có ai."
Hai người cẩn thận từng li từng tí vạch đám cỏ khô ra, mới biết trời đã đen như mực, run run rẩy rẩy nhổm dậy, trăng khuyết treo thấp, phóng mắt nhìn đất đổi uốn lượn lên xuống, yên tĩnh không tiếng động.
Mặt Xuân Thiên đờ đẫn, ngựa chả biết đã đi đâu, bên cạnh là Triệu Đại Năng - đứa nhỏ vừa trưa nay thôi còn mè nheo đòi ăn thịt...
Nàng muốn đứng lên, lại phát hiện chân mình đã mềm đến độ đứng không vững nổi.

Đứa nhỏ kia đứng dậy, mặt buồn rười rượi, hỏi: "Chị ơi, làm sao bây giờ?"
Trời đã tối, xung quanh chẳng một bóng người, giờ đây làm sao biết được trạm Lãnh Tuyền nằm ở hướng nào.

Gò đất trước mắt trông gò nào cũng như gò nấy rập một khuôn, ngay cả đường đi cũng không còn nhớ.


Ban đêm gió rét, gió quét khắp mọi nơi.

Những thanh âm hỗn loạn, tiếng thút thít tiếng gào như sóng vồ, như pha trộn cả tiếng gầm gừ của dã thú.

Xuân Thiên rùng mình một cái, nhìn ánh trăng lờ mờ, bò lên chỗ gò đất cao mình ngã xuống vừa nãy, ngó quanh quất tứ phía, phủi lớp đất cát trên tay: "Chúng ta đi theo hướng Tây, đến trạm Lãnh Tuyền."
"Chị ơi, hướng Tây là hướng nào ạ?" Đứa nhỏ nghẹn ngào hỏi: "Chúng ta tới từ hướng nào, thương đội ở đâu ạ?"
Nàng ngẩng đầu nhìn vì sao trên bầu trời, lòng cũng không dám chắc phán đoán của mình có chính xác hay không, đoạn nắm lấy tay đứa nhỏ: "Trên trời có sao Bắc Đẩu chỉ hướng Bắc, chúng ta..." Ngón tay nàng vẽ lên không trung, chỉ một hướng, "Ta đi về hướng Tây."
Hai người bước đi trên những gò đất nhấp nhô, trăng khuyết dần lên cao, cuối cùng treo lơ lửng ngay khoảng không phía trên đầu.

Nhưng mảnh đất hoang này cứ như thể mãi mãi không đi được đến điểm cuối cùng, đứa nhỏ vừa đi vừa nấc nghẹn, vừa nấc vừa lau nước mắt.

Nó muốn òa khóc thật lớn, lại được Xuân Thiên dỗ dành: "Đừng khóc nữa, trong hoang mạc có sói, coi chừng dẫn sói tới đây."
Đứa nhỏ run bắn người, bám rịt vào tay Xuân Thiên, quệt quệt nước mắt: "Chị ơi, nếu chị không cứu em thì sẽ không bị kẻ xấu truy đuổi, hu hu.

Bây giờ nhất định chị đã tới dịch trạm rồi...!hu hu, tại em cả...!Em nhớ cha mẹ em..."
"Chị ơi, cha em bảo sói ăn thịt con la, khi đói sẽ ăn thịt người, em sợ bị sói ăn tươi..."
Đứa nhỏ ồn ào này.
Đầu Xuân Thiên râm ran đau, gió đêm lành lạnh, tóc và bụi bết vào trán khiến người ta ngứa ngáy.

Nàng tự an ủi mình, cũng an ủi đứa nhỏ: "Đừng sợ, chúng ta tới trạm Lãnh Tuyền xem xem, có lẽ cha mẹ em đang ở trong dịch trạm chờ em về đấy, hoặc có lẽ đang trên đường đi tìm em.

Ta phải nhanh lên, tí là tới rồi."
Nơi hoang vắng không có đường đi, gió lạnh thổi rào rào, nàng ăn mặc đơn bạc, cái buốt giá thấm vào xương cốt rét run.

Xuân Thiên nghi ngờ mình đi nhầm phương hướng, phải bỏ mạng tại nơi đồng không mông quạnh này.

Hết lần này đến lần khác dựa vào sao Bắc Đẩu và cỏ cây dưới đất để phân biệt hướng đi, nàng lo lắng đến mức dừng lại liên tiếp quan sát xung quanh, muốn tìm một điểm gì đó chứng minh mình đi đúng hay sai.
Chỉ là trong lúc bối rối, Đại Năng đột chỉ tay về trước: "Chị Xuân Thiên, dưới đất có gì kìa."
Hai người chạy qua đó, trên cát có mấy miếng vải rơi, đi tiếp lên trước, còn có cả dấu móng chân la ngựa và mấy tấm gỗ, hẳn là vật phẩm của thương lữ chạy trốn hôm nay đánh rơi.

Một lớn một nhỏ nhìn nhau, trên gương mặt khi này mới hiện ý cười: "Phía trước có người đi qua, chúng ta không đi sai đường."
Hai người lần theo dấu móng la ngựa, đi áng chừng một canh giờ, thoạt đầu bọn họ có thể nhìn thấy ánh sáng nhạt ló ra phía chân trời, cứ ngỡ là ông sao.

Tiếp tục bước đi, lại có linh cảm đó là ánh lửa, nhảy nhót bập bùng.

Càng đi càng gần, luồng sáng càng lúc càng lớn, Xuân Thiên đoán ánh sáng đằng trước có vẻ chính là trạm Lãnh Tuyền, bèn bước nhanh hơn.
Đại Năng trèo lên gò đất cao nhất, gãi gãi đầu, quay lại kêu: "Chị ơi..."
Bức tường cao ngất hiện ra trong bóng đêm, ánh lửa hừng hực nối liền thành một đường, lặng lẽ thiêu đốt màn đêm, thinh không bốc hỏa tỏa chiếu một màu tím kỳ dị.
Dưới nền trời trống trải, ngọn lửa âm thầm bùng cháy.

Hai người trợn mắt há hốc mồm, không biết đi đường nào.
Trạm Lãnh Tuyền, lửa nổi rồi.
(còn tiếp).

 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
610,854
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 34: 34: Trạm Lãnh Tuyền





"Chị ơi, làm sao bây giờ đây?" Đại Năng khóc nức nở, hoảng hốt bất lực nhìn nàng: "Dịch trạm cháy, chúng ta phải làm sao bây giờ đây..."
Lửa lớn như thế, là hỏa hoạn ư? Hay là có người đang đốt lửa? Hay xảy ra chuyện gì rồi?
Xuân Thiên nhìn ánh lửa đằng xa xa, mím bờ môi khô khốc: "Chị cũng...!không biết."
"Cha ơi, mẹ ơi." Đại Năng ôm vai nàng khóc rống, "Chị ơi...!em muốn cha mẹ."
Nàng vuốt ve đỉnh đầu đứa nhỏ, nhất thời tâm tư rối loạn như mớ bòng bong.

Hai người chạy đến nơi này vốn đã sức cùng lực kiệt, ngồi tựa vào nhau trên gò núi nhìn ánh lửa trước mắt.

Xuân Thiên không dám dẫn đứa nhỏ đi về hướng đó, sợ trạm Lãnh Tuyền phát sinh biến cố.

Đại Năng cùng lắm cũng chỉ là đứa nhỏ bảy tám tuổi, dù sợ hãi nhưng vẫn gắng gượng đi cùng Xuân Thiên giữa đêm hôm u tối, người vừa mệt vừa đói, chỉ khóc hai tiếng đã nằm xuống chân Xuân Thiên ngủ say sưa, khóe mắt còn vương lại mấy giọt nước mắt chưa khô.

Xuân Thiên ôm nó ngồi trong gió lạnh, cặp mắt mở trừng trừng chẳng khi nào rời khỏi tia lửa vàng rực ở rất xa.

Đêm khuya nơi điêu tàn hoang vu, ánh lửa nhảy nhót, khói mù bốc lên không trung tạo thành làn sương, mùi khét thoang thoảng trong gió, trộn lẫn cùng mùi hương nhàn nhạt của hoa cây nhót, cuốn theo cả vụn tro cháy đen.

Đợi cho tới khi ánh lửa dần tắt, sắc trời chưa sáng hẳn, sao trăng mờ mờ, sự ảm đạm bao trùm lên đất trời mênh mông, Xuân Thiên lay Đại Năng dậy: "Đại năng, tranh thủ trời còn tối, chúng ta đi xem thử xem."
Hai người nắm tay nhau, lặng lẽ bước từng bước thận trọng đến trạm Lãnh Tuyền, cố gắng hết sức để không gây ra tiếng động nào.

Đi được nửa đường, nương theo quầng sáng lờ mờ chiếu xuống từ bầu trời, họ trông thấy toàn là những dấu móng ngựa lộn xộn in trên mảnh đất hoang, có cả quần áo vải vóc và lác đác mấy món như giày dép bị đánh rơi.

Sắc mặt Xuân Thiên nặng nề, Đại Năng nhìn theo tầm mắt nàng, chỉ thấy vài mảnh gỗ nằm rải rác cùng một đống dấu chân.

"Chị ơi..."
Xuân Thiên cọ mũi chân mình xuống đất, chậm rãi nói: "Dấu móng này đi ra phía ngoài..."
Là vì trạm Lãnh Tuyền xảy ra chuyện nên người trong dịch quán bỏ chạy ra ngoài sao...!Hay là, những thương lữ đó đã đến trạm Lãnh Tuyền, nhưng rồi lại gấp rút rời đi?
Chỗ xa xa đột nhiên vang lên tiếng vó ngựa dồn dập, Xuân Thiên và Đại Năng liếc nhìn nhau, cuống quýt chui vào sau gò đất.

Tiếng vó ngựa tới gần, bấy giờ mới nhìn rõ đó là bốn năm hành thương đeo túi hai đầu chạy lại từ hướng trạm Lãnh Tuyền.

Phát hiện người tới cũng là lữ nhân, cả hai mừng rỡ khôn xiết.

Đại Năng chạy ra khỏi cồn cát, liên tục vẫy tay với mấy vị thương nhân thần sắc vội vã đang lao tới: "Đại gia, đại gia..."
Mấy người nghe tiếng gọi thì giật mình, định thần nhìn sang thì bắt gặp một cậu bé tầm bảy tám tuổi, theo sau là một thiếu nữ mười bốn mười lăm tuổi.

"Mấy vị đại gia đến từ chỗ trạm Lãnh Tuyền phải không ạ?" Xuân Thiên lập tức chắp tay chào, "Hôm qua chúng tôi gặp phải đạo tặc trên đường, đang muốn đến dịch trạm tránh họa, nửa đường lại thấy dịch trạm cháy, không biết có sự gì xảy ra."

"Hai người cũng trốn ra đây từ thương đội của Ngân Sa lão gia?" Một người Thanh Y mặt tròn râu ngắn trong đó cất tiếng hỏi.

Hóa ra đoàn người này cũng là thương nhân trốn chạy dưới lưỡi đao của người Đột Quyết ngày hôm qua.

Bọn họ cấp tốc chạy tới trạm Lãnh Tuyền, cũng gặp được doanh trại đồn biên phòng, ẩn náu bên ngoài nửa đêm.

Vất vả lắm mới chờ đến khi lửa tắt để đi thăm dò những vùng gần đây.

Dưới thành là thi thể của quân trấn giữ biên cương, cổng đồn rộng mở, có vài tên người Đột Quyết canh cổng, chúng ngồi uống rượu ăn thịt cạnh đống xác chết, chơi đố nhau rồi cười sằng sặc.

Mấy người không dám dừng lại, lẳng lặng trốn khỏi trạm Lãnh Tuyền, kinh hồn bạt vía chạy nhanh ra ngoài.

Xuân Thiên và Đại Năng nghe xong, đưa mắt nhìn nhau, Đại Năng không nhịn được nữa òa khóc: "Vậy cha mẹ cháu...!cha mẹ cháu đi đâu rồi?"
Thương đội bị cướp, dịch quán lại gặp nạn, vậy Lý Vị thì sao?
Mấy người dắt một con la ra cho Xuân Thiên và Đại Năng cùng cưỡi: "Chúng ta đi tìm chỗ trốn trước đã, ta biết mấy dặm gần đây có một bãi đá, có thể dừng chân ở đó."
Đại Năng vẫn là con nít, thằng bé vùi mặt vào lòng Xuân Thiên nghẹn ngào.

Xuân Thiên thấy nó như thế, lòng dạ cũng xót xa muôn phần: "Đại Năng đừng khóc, chờ đám người Đột Quyết kia đi rồi, chị sẽ giúp em tìm cha mẹ...!Đừng khóc, họ nhất định không sao đâu, đừng khóc nữa..."
Năm dặm phía ngoài trạm Lãnh Tuyền có bãi đá, những tảng đá dựng đứng và những gò đất bị gió chia cắt thành những chỗ lõm, là chỗ ẩn nấp khá lý tưởng.

Nhóm người đi qua đó, lúc này ánh mặt trời đã rọi sáng, thế mà chẳng ngờ đi nửa đường lại gặp Di Thi Niên.

Di Thi Niên dẫn đoàn người Khang Đa Lộc, chạy vội tới trạm Lãnh Tuyền trong đêm, báo với quan trông giữ dịch trạm chuyện bị người Đột Quyết chặn giết.

Ngồi chưa hết nửa chén trà nhỏ, quan trông giữ chưa kịp gọi binh trợ giúp, thì trong đồn bất ngờ có tiếng ồn ào, dịch quán bên cạnh bỗng dưng nổi lửa lớn, mọi người vội vã mở cửa chạy ra hồ Mạc Tử dẫn nước cứu hỏa.

Ai ngờ chỉ chốc lát người Đột Quyết đã đánh tới cổng thành, ùa vào bên trong đốt phá cướp giết.

Người trong thành nhốn nháo chạy trối chết ra ngoài.

Đám người Đột Quyết này đều không phải dân du mục bình thường, chúng có đao tên tinh xảo, e là quân đội, lại có hơn trăm người, có khi cố ý tới trạm Lãnh Tuyền tác loạn.

Chỉ là không khéo,thương đội gặp phải chúng trên đường chả khác nào một con dê béo đúng lúc dâng tới miệng sói.

Đốt giết một đêm ở trạm Lãnh Tuyền không đủ, chúng còn nấn ná lại trên đống thi thể nhậu nhẹt mua vui.


Một đêm này, lắm nạn lắm họa, nhóm thương lữ lâm cảnh cùng đường bí lối không thể trốn tránh.

Đoàn người Khang Đa Lộc dừng chân ở bãi đá, Di Thi Niên dàn xếp Tát bảo và mọi người xong xuôi, tiếp tục đi ra thám thính tin tức.

Thốt nhiên trông thấy Xuân Thiên và Đại Năng, Di Thi Niên thở phào nhẹ nhõm: "Tiểu nương tử, cảm tạ trời đất, cô còn sống."
Anh ta sờ sờ bụi đất trên trán: "Ta đã bố trí ổn thỏa cho Tát bảo, vốn định trở về tìm cô, ai ngờ lại gặp anh trai cô đuổi theo.

Anh trai cô biết cô bị thất lạc, mặt mũi tái mét, chẳng nói một câu đã quay về tìm cô.

Ta đi theo cùng nhưng không thấy bóng dáng cô đâu, đành lại đây thăm dò tin tức trước."
Di Thi Niên cảm thấy khá có lỗi với Lý Vị, cũng thấp thỏm suốt một đêm, "Cô ở đây chờ huynh ấy đi, đừng đi lại lung tung."
Lý Vị, Lý Vị cũng ở đây!
Suýt nữa thì nước mắt nàng tuôn trào.

Có không ít thương lữ tụ tập ở bãi đá, có người chạy trốn cùng thương đội, cũng có người bôn tẩu từ dịch quán đến, ai nấy đều cạn kiệt sức lực, bồn chồn lo âu.

"Ngoài trạm báo hiệu người Đột Quyết cướp giết thương đội, trong Dịch Thành lại bị người Đột Quyết cướp giật, còn thiêu sống cả một đám sứ giả của Cao Xương.

Làm gì có chuyện nào đúng thời điểm như vậy, e rằng không phải người Đột Quyết chỉ vì trả thù vua Cao Xương, hận Cao Xương ngày xưa uống máu ăn thề, ngày nay lựa gió bỏ buồm, mà đến đây đâu."
"Đường Y Ngô được mở lại chưa bao lâu, chẳng phải nói là triều đình đang hòa đàm với Đột Quyết ạ, sao thế, lại chuẩn bị chiến tranh nữa ư?"
"Người Đột Quyết lòng muông dạ thú, mùa đông năm ngoái có rất nhiều la ngựa bị cóng chết, thể nào chúng cũng phải xuống Nam quấy nhiễu cướp bóc."
"Toàn bộ gia tài của tôi đều đã đem đi đổi thành vải lụa, vậy mà bị người Đột Quyết cướp hết, về sau phải sống kiểu gì đây."
Đại Năng luồn tới luồn lui trong nhóm người tìm kiếm cha mẹ mình, nhưng mãi vẫn chả thấy tung tích cha mẹ đâu.

Thằng bé nước mắt vòng quanh, bép miệng mếu máo, đứng giữa đám đông gào khóc tức tưởi: "Cha ơi...!mẹ ơi..."
Xuân Thiên thấy lòng xót xa, ôm thằng bé liên tục dỗ dành.

Trong đám người có người phụ nữ biết Đại Năng, thấy nó khóc lóc thảm thương bèn đưa một miếng bánh bột nhỏ sang: "Đừng khóc nữa, con trai à, chắc cha mẹ con đang trên đường tới, chờ chút đi."
Không bao lâu sau, trời đã sáng tỏ, Xuân Thiên nghe thấy tiếng ngựa hí đằng xa.

Tiếng ngựa hí kia có phần quen tai, Xuân Thiên đứng phắt dậy, lại có thêm một đoàn người nữa chạy tới, tầm khoảng mười hai mươi người.

Nàng mừng rỡ, vội vàng chạy lên.


Trong đoàn người đó có một người quất ngựa chạy về phía nàng.

Nàng vừa thấy tấm áo xám kia, chẳng biết vì sao, hốc mắt bỗng nóng lên, vừa cay vừa căng ra, khiến nàng không thể nhìn rõ người tới.

Nàng bước lên trước hai bước, ngửa mặt nghẹn ngào gọi hắn: "Lý Vị."
Rốt cuộc Lý Vị cũng trông thấy nàng, tảng đá trong lòng rơi xuống.

Hắn thở hắt ra một hơi khó nhọc, xoay người xuống ngựa sải bước nhanh đến, nhìn nàng từ trên xuống dưới một lượt, nhẹ nhàng hỏi: "Vẫn ổn chứ?"
Mạng che mặt của nàng bị bay mất, tóc đen rối tung để lộ khuôn mặt lấm tấm bụi, vành mắt có tia sáng chợt lóe lên.

Nàng gật gật đầu, giọng khàn khàn "ừ" một tiếng.

Đêm này nguy hiểm trùng trùng, đến cả tưởng tượng thôi nàng cũng chẳng dám, chỉ sợ bị chính hình ảnh trong đầu mình dọa ngược.

Bấy giờ gặp được hắn mới có cảm giác sức lực cạn sạch, gần như ngã quỵ.

Lý Vị thở phào, vốn định nói gì đó, bên cạnh Xuân Thiên đột nhiên xuất hiện một đứa nhỏ, nó nhìn ra sau lưng Lý Vị hô to: "Cha! Mẹ!"
Đôi vợ chồng trung niên lạc con bật khóc vì hạnh phúc, chạy thật nhanh đến chỗ Đại Năng: "Đại Năng, con của tôi."
Người một nhà nức nở đoàn tụ, tiếng khóc của người sống sót sau tai nạn nghe hết sức khổ sở.

Mặc dù tiền bạc của cải đều mất sạch, nhưng suy cho cùng cũng chỉ là vật ngoài thân, mất thì mất thôi, mạng sống mới là quan trọng nhất.

Hai vợ chồng nghe con mình kể là được Xuân Thiên cứu giúp thì quỳ gối dập đầu cảm tạ nàng rối rít.

Đi sau Truy Lôi là con ngựa của Xuân Thiên.

Sau khi Lý Vị cứu nhóm phụ nữ con nít trên xe cao, hắn đuổi theo Xuân Thiên, nào ngờ đến trạm Lãnh Tuyền vẫn không thấy bóng dáng thiếu nữ đâu, lại thấy doanh trại đồn biên phòng có cháy, một toán dân chúng trong thành hỗn loạn bỏ chạy ra ngoài.

Hắn gặp Di Thi Niên, nghe tin nàng quay lại để cứu một đứa bé bị ngã ngựa, hắn hoảng hồn, vội chạy đi tìm nàng.

Thế nhưng kết quả chỉ tìm được mỗi ngựa của nàng giữa đường, tìm kiếm suốt đêm ở những vùng gần đó cũng chẳng thấy, nên hắn nghĩ trở về rồi xem sao.
May mắn, nàng đang ở đây.

Hắn chợt nhận ra mình đã căng thẳng cả đêm, đầu óc rối bời, đến lúc này mới thả lỏng lại.

Xuân Thiên thấy ngựa của mình cũng thở một hơi nhẹ nhõm, tay nải trên lưng ngựa bị cung tên bắn thủng, rơi mất một xâu bánh Hồ, may mà túi nước và quần áo đều còn.

Một đêm nháo nhào, chưa có giọt nước nào vào bụng, nàng bèn lấy túi nước ra uống, tìm góc yên tĩnh, đổ nước rửa cát bụi trên mặt.

Lý Vị đưa một gói thịt khô qua, nàng cứ thế bỏ tuột vào miệng vẫn còn ngậm nước lạnh, nghe hắn cất giọng nói: "Duỗi tay ra, ta bôi thuốc cho cô."
Xuân Thiên nghi hoặc, thấy mắt hắn nhìn tay mình, bấy giờ mới tìm được vị trí chính xác của cơn đau nhoi nhói trên người.


Hai móng tay của nàng đều bị gãy tận vào trong thịt, máu chảy ra, khô lại dính ở đầu ngón tay.

Có lẽ lúc cứu người dùng sức quá lớn nên đã làm gãy cả móng tay.

Khi đó chỉ mải miết chạy trốn, vậy nên chẳng cảm thấy đau đớn chút nào.

Một tay nàng cầm thịt khô, một tay duỗi ra cho hắn.

Hắn cầm lấy tay nàng đặt lên đầu gối.

Lý Vị dốc ngược túi nước rửa vết máu cho nàng.

Thấy nàng khẽ chau mày, bèn tìm một cây bút lông thay cho bàn chải nhỏ, nhúng vào nước, phần lông mềm mại từ từ lau sạch bùn đất nơi đầu ngón tay nàng.

Hắn lại lấy từ tay nải ra một hộp thuốc nhỏ màu đen, quệt thuốc mỡ cẩn thận thoa lên vết thương của nàng.

Nàng cảm nhận được trong cơn đau tê tê là một sự mát lạnh dễ chịu.

Cảm giác ấy bắt đầu từ chỗ đầu ngón tay, lan dần lên trên rồi lan thẳng vào trong lòng.

Lý Vị xé tấm vải mềm thành mảnh be bé, quấn vòng quanh miệng thương của nàng.

Nàng không rên một tiếng nào, ánh mắt kiên nhẫn dõi theo ngón tay được băng bó.

Ngay sau đó hắn cất giọng vừa từ tốn vừa kiên định: "Cô yên tâm, từ nay về sau ta sẽ không để tình trạng này diễn ra lần nữa, nhất định sẽ luôn theo sát bảo vệ cô chu toàn."
Xuân Thiên nghe thấy lời đó, sống mũi cay cay, thấp giọng lẩm bẩm: "Có tên người Đột Quyết kia đuổi theo tôi, còn bắn tên về phía tôi nữa."
Hắn cảm giác những chữ ấy chất chứa vô vàn tủi thân.

Ngẩng đầu liếc nhìn qua nàng, thấy hàng mi dài của nàng khẽ run, như con bươm bướm vỗ cánh dưới ngọn đèn.

"Còi đồng của ta." Hắn đưa cho nàng cái còi đồng mà nàng từng trả lại cho hắn ở núi Thường Lạc, "Cô cứ cầm đi, nếu ta đi xa, tiếng còi sẽ gọi ta trở về."
Lúc bấy giờ, Khang Đa Lộc cũng hết sức chật vật, bỏ lại xe ngựa ở trạm Lãnh Tuyền, dưới sự hộ tống của gia binh cưỡi ngựa tới bãi đá tránh nạn, Bà Điện La mang túi nước đến: "Lão gia...uống nước."
Rượu nho và cốc vàng đều đã đánh mất, Khang Đa Lộc chỉ kịp vơ một ít đồ châu báu trong xe ngựa, nhóm gia binh bảo vệ được một hai con con la trong số mười con.

Thương đội tổn thất nặng nề, rất nhiều thương nhất giậm chân khóc than, không biết làm như thế nào cho phải.

Mặc dù vậy, sắc mặt Khang Đa Lộc vẫn bình tĩnh như cũ, dặn dò kẻ dưới: "Đa Ca, đi coi Di Thi Niên về chưa."
"Tát bảo, Tát bảo lão gia, làm sao bây giờ đây." Có thương nhân mặt ủ mày ê lẽo đẽo theo kể khổ với Khang Đa Lộc, "Tát bảo lão gia, ôi, kiểu này thì làm sao bây giờ, toàn bộ gia sản của tôi, chỉ một ngày đã bị hủy sạch sành sanh!"
"Có thể nhặt được cái mạng về đã là chuyện tốt nhất rồi." Tay Khang Đa Lộc dâng bức tượng Áo Thần* với vách đá, quỳ xuống hướng mặt về phía tượng thần, lạy, "Hiến vàng bạc châu báu của chúng con cho Áo Thần, xin Áo Thần phù hộ cho chúng con, bình an vô sự, về Tây thuận lợi."
(*Tượng Áo Thần là tượng thần trong Hỏa giáo)
(còn tiếp).

 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
610,854
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 35: 35: Kiểm Tra Giấy Thông Hành





Trời đã sáng bừng, trời xanh thẳm lồng lộng, mặt trời rực đỏ treo cao.
Bãi đá hầm hập bốc hơi nóng như thiêu.

Cỏ dại xám xám ẩn nấp giữa những khe đá, một chút sắc xanh ló đầu ló đuôi bị lạc đà đến tránh nạn biến thành bữa ăn lót dạ.
Thương nhân hoảng sợ trốn chạy không mang nước và lương thực theo.

Bôn tẩu suốt đêm, đến tận giờ phút này là đã đói khát đan xen.

Ngồi đợi chờ dưới cái nắng chang chang, thần sắc người nào người nấy cũng có đôi phần đờ đẫn.
Khang Đa Lộc sai Bà Điện La lấy bánh Hồ đi phân phát cho mọi người ăn.

Nhóm thương nhân có thức ăn trong tay, vẻ mặt vẫn đầy sốt ruột đau khổ.

So với thức ăn, hiện tại thứ quan trọng hơn cả là nước suối.
Nước suối của Khang Đa Lộc có hạn, đem chia một nửa cho thương lữ, mỗi người chỉ được một ngụm nhỏ, tạm thời hớp ngụm cho trơn môi.
Nguồn nước gần nhất là hồ Mạc Tử dưới thành của trạm Lãnh Tuyền, việc trọng yếu bây giờ chính là quay về trạm Lãnh Tuyền.
Tới gần trưa, Di Thi Niên trở lại với dáng vẻ hơi nhếch nhác thảm hại.
Người Đột Quyết ở trạm Lãnh Tuyền đang rút khỏi Dịch Thành.

Chúng vơ vét bằng sạch toàn bộ rượu, nước, lương thực trong dịch quán lẫn quán ăn, cho đến bao hàng của nhóm thương lữ, những báu vật hiếm có mà sứ giả của Cao Xương đem theo tiến cống cũng bị càn quét chẳng còn một món.

Xong xuôi, chúng chuẩn bị trở lại lãnh thổ Đột Quyết.
"Thế này là sắp rút à?" Mọi người xôn xao, ai ai cũng thở phào nhẹ nhõm, dường như đã thấy được chút hy vọng le lói, "Chịu đi là tốt rồi, chỉ cần đám người Đột Quyết đó không chiếm cứ doanh trại đồn biên phòng, chúng ta sẽ bình an vô sự thôi."
"Nếu không đi, viện quân của trạm Song Tỉnh cũng phải tới đây, đám người Đột Quyết đó đâu muốn đối mặt trực tiếp với quân phòng thủ.

Giờ chỉ chờ viện quân đến là chúng ta có thể quay về trạm Lãnh Tuyền."
Xuân Thiên một đêm không ngủ, người ngợm đã mệt lừ.

Buổi sáng sau khi gặp lại Lý Vị, Lý Vị đưa nàng đi tách khỏi đoàn người, tìm một chỗ có bóng râm cho nàng nghỉ ngơi.

Xuân Thiên cũng chẳng gắng gượng được bao nhiêu, đêm qua thực sự đã khiến nàng táng đởm kinh hồn, vừa quấn tấm thảm nỉ là ngả đầu ngủ ngay, cho tới trưa mới bị tiếng ồn ào của mọi người đánh thức.
Sau khi dậy, nàng dụi mắt, thấy Lý Vị không có bên cạnh, nhìn đoàn người chung quanh thì thấy hắn đang khoanh tay nói chuyện với Di Thi Niên, thỉnh thoảng còn chú ý ngoảnh đầu thoáng nhìn nàng.

Tầm mắt hai người chạm nhau, Xuân Thiên trông vẻ mặt hắn có phần nghiêm túc, song tuyệt nhiên chẳng có vẻ gì là nhẹ nhõm khi gặp may.
Lòng dạ nàng hơi thấp thỏm, trạm đầu tiên của dịch quán này xảy ra tai nạn ngoài ý muốn, lộ trình tiếp theo đây sẽ thuận lợi được ư?
Không lâu sau, Lý Vị cất bước đi tới chỗ nàng, trên khuôn mặt bắt đầu hiện nét ôn hòa: "Có đói bụng không, ăn chút gì đi."
Nàng lắc đầu, Lý Vị đưa túi nước qua, báo với nàng một tin tức tốt, "Người Đột Quyết sắp rút khỏi doanh trại đồn biên phòng, trước mắt an toàn rồi, đợi lát nữa chúng ta đến trạm Lãnh Tuyền xem tình hình ra sao."

"Có điều trạm Lãnh Tuyền bị thiêu cháy cướp phá sạch bách, sợ là không thể đưa cô vào dịch quán ăn một bữa đàng hoàng được.

Trong dịch quán có món cá nướng rất ngon, vất vả đi nhiều ngày như vậy, vốn định sẽ cho cô bồi bổ tử tế..."
Đâu lường trước được sự việc sẽ thành ra thế này.
Ngắn ngủi có mấy ngày mà hai má nàng đã hóp cả vào, mặt gầy hẳn đi trông thấy, thậm chí chẳng to bằng bàn tay của hắn.
Xuân Thiên biết hắn có lòng đùa cho nàng vui, cũng tạm buông bỏ nỗi sầu tư, chớp chớp mắt: "Dịch quán kế tiếp là trạm Khổ Tỉnh, có được ăn cá nướng nữa không ạ?"
Lý Vị sờ chóp mũi, lời nói chứa ý cười: "Hồ Mạc Tử dưới thành của trạm Lãnh Tuyền mới có cá, trạm Khổ Tỉnh chỉ có vài cái giếng nước, hơn nữa tay nghề đầu bếp không được tốt lắm.

Nhưng dưa hấu do nhóm phong tử* tự tay trồng ngon lắm, hiện giờ đi có lẽ sẽ được ăn vụ dưa hấu hảo hạng."
(*Phong tử: người làm việc trong Phong hỏa đài - công trình quan trọng trong hệ thống phòng thủ, dùng khói lửa để truyền báo thông tin tình hình quân chđịch - có nhiệm vụ theo dõi tình hình của địch)
Xuân Thiên nghe vậy, chống má cười nói: "Thế thì hay quá, dưa hấu hiếm hơn nhiều so với cá nướng.

Ở Trường An chỉ có quan lớn người sang mới có mà ăn, không tính là lỗ."
Biết người Đột Quyết sắp rút lui khỏi trạm Lãnh Tuyền, một số thương nhân gan dạ đã đi dọc con đường để tìm tay nải và con la của mình, cũng có một số người thì than khóc đi nhặt lại thi thể của thân thích bạn bè.

Chẳng qua lâu ngày, bỗng có thương nhân bắt gặp một đội binh sĩ áo giáp cưỡi ngựa phi nước đại giữa gò đất hoang vắng, bụi mù cuồn cuộn, bèn vội vã chạy về trạm Lãnh Tuyền.
"Là viện binh của trạm Song Tỉnh à?" Mọi người ở bãi đá hay tin, ai nấy đều phấn khích, "Đi đi đi, đến trạm Lãnh Tuyền xem xem, nếu viện binh đã đến, thế thì chúng ta an toàn rồi."
Những thương lữ ẩn náu ở bãi than lần lượt xuất hiện và đi tới trạm Lãnh Tuyền theo tốp năm tốp ba.

Từ xa đã trông thấy đội binh sĩ mặc giáp, quả nhiên là quân cứu viện của trạm Song Tỉnh đến sau khi nghe tin.
Quan trông giữ của trạm Song Tỉnh là Vương Chiêu chứng kiến ngọn lửa cháy bừng bừng ở trạm Lãnh Tuyền qua ống nhòm mà hết sức chấn động, đích thân gọi binh đến xem xét tình hình, rồi lại gấp rút truyền tin tới quân phòng thủ Ngọc Môn quan.
Lao vùn vụt suốt cả con đường, kết quả thấy bức tường doanh trại đồn biên phòng được đắp bằng đất nện của trạm Lãnh Tuyền bị đốt cháy đen như than.

Một nửa bên tường bị sập, cổng thành mở toang hoác, mấy thi thể nằm trơ trọi dưới thành, trông mà mồ hôi lạnh túa ra liên tục.
Vừa vào thành đã thấy trong thành trống không, mọi thứ đã bị cướp sạch chẳng chừa món gì, xác người đầy đất, khắp nơi là vò rượu bể tan tành.

Vệt lửa tàn dư vẫn đang liếm qua mái hiên của các ngôi nhà, dịch quán của sứ giả Cao Xương cháy nát rụi.

Xác chết được xếp gọn gàng vào trong sân, sau khi bị thiêu đã thay đổi hoàn toàn, từ số xiêm y hàng dệt còn sót lại có thể nhận ra, xác chết đây chính là sứ giả của Cao Xương, họ đã đi qua con đường này.
Thấy có binh sĩ tới, người sống sót lánh nạn ở các nơi trong thành run lập cập chui ra ngoài, người nào người nấy cũng thấp thỏm lo âu như chim sợ cành cong.

Mọi người chào hỏi viện tướng rồi thuật lại tình cảnh ngày hôm ấy với một giọng mơ mơ hồ hồ.
"Ban đầu là dịch quán bỗng dưng hỏa hoạn, tiếng ầm ĩ hoảng loạn trong quán truyền đến...!Tôi thấy thế lửa lớn quá, bèn vội ra hồ Mặc Tử lấy nước cứu hỏa.

Ai ngờ lúc đó đột nhiên có một toán người Đột Quyết cưỡi ngựa phóng tới doanh trại đồn biên phòng...!bắn tên loạn xạ.

Chúng tôi cuống cuồng không còn đường lui, chỉ đành tìm được chỗ nào thì vào chỗ đấy tránh.


Còn những người không kịp trốn kia đã trở thành vong hồn dưới lưỡi đao lưỡi kiếm..."
Vương Chiêu không thấy quan trông giữ trạm Lãnh tuyền đâu, ngay cả thi thể cũng thế nốt, vậy nên buộc lòng phải lệnh cho người của mình đi kiểm kê thương vong, ghi chép lại lời khai rồi phái phong tử lên doanh trại đồn biên phòng nhóm lửa, trấn thủ cửa thành.
Thương lữ trốn ở gần đó gặp được viện quân, lửa báo hiệu trên doanh trại đồn biên phòng đã được đốt lên lần nữa, tất cả nháo nhào ùa tới vào trạm Lãnh Tuyền.
Quan trông giữ của trạm Lãnh Tuyền bị trúng một mũi tên ở đầu vai, đêm qua đụng độ kẻ địch hung hăng, sớm đã sợ mất mật, vội vội vàng vàng dẫn theo mấy tên tùy tùng bỏ đi khỏi đồn.

Bấy giờ đây trông thấy lửa báo hiệu nên bèn quay trở lại doanh trại đồn biên phòng, gặp được bạn thâm giao là Vương Chiêu tọa trấn, bên trong doanh trại đồn đầy hỗn độn mất trật tự, nhiều người thương vong, cảnh tượng khiến người ta chảy mồ hôi ròng ròng.
Trạm Lãnh Tuyền có mười sĩ binh thì đã thiệt hại đến bảy tám người, quan trọng nhất là sứ giả bỏ mạng, vật phẩm cống nạp mất hết, đây chính là đại tội, phải chị chém đầu.
"Huynh...!huynh...!mang bổn phận làm quan trông giữ, sao huynh có thể vứt bỏ doanh trại đồn mà đào tẩu thế kia hử.

Binh tướng trốn tránh trách nhiệm, đó chính là...!đó chính là tội chết...!Dẫu có nhiễu loạn bao nhiêu, tai họa ập xuống đầu lớn cỡ nào, huynh cũng phải cố sống cố chết mà giữ lấy chỗ này chứ!" Hai vị quan trông giữ trạm đã quen biết nhiều năm, Vương Chiêu thấy bạn chạy từ ngoài về, tương đối đau đầu, luôn miệng oán trách.
Quan trông giữ trạm Lãnh Tuyền mặt xám ngoét như tro tàn, ngã phịch xuống ghế, lẩm bẩm thì thào: "Tôi...!cũng chỉ là hoảng sợ nhất thời thôi, Vương huynh...!Vương huynh...!huynh giúp tôi với...!làm sao bây giờ..."
"Ôi." Vương Chiêu cau mày, "Huynh kể lại kỹ càng đầu đuôi sự việc hôm qua lẫn hôm nay tôi nghe xem."
Dưới doanh trại đồn của trạm Lãnh Tuyền có mấy trăm thương nhân tụ tập, có thương nhân mấy ngày qua nghỉ ở trạm Lãnh Tuyền, cũng có người hôm qua đi theo thương đội Khang Đa Lộc tới.

Ngẩng đầu thấy bức tường doanh trại đồn cháy đen kịt, mặt đất bừa bãi ngổn ngang, vết máu loang lổ, do tâm lý chưa ổn định, thế là lại bị cảnh tượng thê thảm trước mặt khơi thêm nỗi sợ hãi.
Nhiều sĩ binh canh giữ trước cổng với gương mặt đóng băng, tất cả đều bày binh khí ra, không cho dân chúng may mắn còn sống sót trong Dịch Thành ra ngoài, cũng không cho thương lữ tị nạn dưới thành đi vào.

Ngay cả hồ Mạc Tử dưới thành cũng bị sĩ binh bao vây, không cho phép người nào lại gần nửa bước.
Mọi người bị giày vò cả một ngày, cứ tưởng rằng người Đột Quyết rời khỏi là đã không sao nữa, nhưng khi tới trạm Lãnh Tuyền nghỉ ngơi, ngờ đâu lúc này toàn bộ đều bị chặn ngoài cửa, mặc cho mọi người có la ó cỡ mấy, sĩ binh cũng chẳng chịu thả cho nửa con ruồi bay vào bên trong.

Cộng thêm mặt trời cao chiếu, thời tiết dần dần nóng lên, nhóm lữ nhân vừa đói vừa khát vừa nóng, chen chúc ầm ĩ trước trạm, yêu cầu sĩ binh canh cổng tránh đường.
Binh tướng gác cổng rút thanh trường đao "xoét" một tiếng, quát lên với đám người làm loạn: "Chở ở đây đi, đừng có ồn ào."
"Binh gia, có thể nào giúp chúng tôi với không, cho chúng tôi vào hồ lấy ít nước uống.

Chúng tôi trốn Đông trốn Tây suốt đêm, vừa khát vừa đói, xin ngài thương xót..."
Binh tướng thấy mọi người ai nấy cũng đều phong trần mệt mỏi, mặt mày não nề, bèn quay lại thì thầm với sĩ binh đằng sau.

Sĩ binh vào thành thông báo, không bao lâu sau đã có hai sĩ binh khiêng một thùng nước trong đến cho mọi người uống.

Chút nước này mỗi người cũng chỉ được một ngụm, làm dịu đi cơn khát hành hạ.
Trạm Lãnh Tuyền không mở, mọi người chỉ đành qua đêm dưới thành.

Nhóm gia binh nhặt nhạnh mảnh gỗ cỏ khô, đốt lửa dưới thành, tạm nghỉ một đêm.
Nữ quyến và bọn trẻ ngồi vây chung quanh một chỗ.

Đại Năng sinh lòng thân thiết với Xuân Thiên, cực kỳ thích người chị đã cứu mình trở về đây, thằng bé ngồi bên Xuân Thiên liến thoắng không ngừng.

Mẹ đứa nhỏ cũng biết ơn Xuân Thiên nhiều lắm, nên luôn ân cần chiếu cố, thậm chí còn chia sẻ phần đồ ăn ít ỏi của mình cho Xuân Thiên.
Lý Vị đứng cách đó ít xa, mắt chứa ý cười, thấy cảnh Xuân Thiên nhìn đứa nhỏ tung tăng nhảy lên nhảy xuống mà cười gập cả lưng.

Bấy giờ hắn mới biết, hóa ra nụ cười của nàng rạng rỡ như vậy, hàng mi cong cong, khóe môi nhếch cao, so với thiếu nữ bị thương khi nào cũng âu sầu ở thành Cam Châu kia, cứ như là hai con người đối lập.
Di Thi Niên tới tìm Lý Vị nói chuyện, nhìn theo ánh mắt hắn, anh ta vuốt chòm râu dưới cằm, cưới bảo: "Lý Vị, cô em gái này của huynh vừa xinh xắn vừa lương thiện, một tiểu nương tử yếu đuối cứu mạng một đứa bé, vậy mà vẫn có khả năng trốn thoát dưới lưỡi đao của người Đột Quyết.

Thực quả là nữ lang lợi hại, rất không tầm thường đâu."
Lý Vị thu mắt lại, thở dài: "Cô ấy giống cha."
Di Thi Niên bắt gặp vẻ tiếc thương trên khuôn mặt hắn, nhíu mày, cười hỏi: "Đó không phải em gái huynh nhỉ? Tôi thấy cũng không giống lắm."
Lý Vị lắc đầu cười mỉa: "Anh em chẳng qua là ngụy trang cho tiện đi đường, tôi chỉ hộ tống cô ấy đi thôi...!Đi, đi uống rượu."
Đợi đến giữa trưa ngày kế, mọi thứ trong trạm Lãnh Tuyền đã kiểm kê rõ ràng, Vương Chiêu đi lên doanh trại đồn, thấy thương nhân dưới tường tụ thành đoàn người đông nghịt, ông ta cất cao giọng nói: "Các vị lữ khách dưới thành, trạm Lãnh Tuyền bị người Đột Quyết quấy nhiễu, thiệt mạng vô cùng nhiều.

Vì đề phòng giặc tiếp tục cải trang vào thành đốt cướp, mọi người muốn vào thành thì cần phải kiểm tra lại văn thư giấy thông hành, nếu như có điều khoản nào sai lệch, không được vào thành."
Giấy thông hành do ti môn* các châu các huyện ký phát, trong có ghi chép về ngoại hình tuổi tác của mỗi người, địa chỉ đến đi, la ngựa vật phẩm mang theo, tôi tớ cùng người bảo lãnh dẫn đi cùng, khó có thể làm giả.

Thương đội đã bị người Đột Quyết cướp đi hơn nửa số la ngựa, nếu kiểm tra khắt khe thì sẽ có hơn nửa giấy thông hành không khớp, thậm chí có người còn mất luôn giấy thông hành rồi.
(*Ti môn: có trách nhiệm kiểm tra việc xuất nhập của các quan lại)
Nhóm thương nhân đứng dưới thành hô: "Thưa đại nhân, nếu phải kiểm tra đối chiếu lại giấy thông hành thì làm khó chúng tôi quá.

Hôm qua lúc chúng tôi gặp nạn, cả người thân gia đình cũng mất chứ nói gì đến giấy thông hành.

Dù cho có người còn mang theo giấy thông hành, nhưng gia súc hoặc thất lạc hoặc bị cướp, đâu còn khớp với ghi chép trên giấy thông hành nữa chứ.

Ngài làm vậy là đuổi chúng tôi ra ngoài rồi.

Nơi cát vàng hoang dã này, không nước không lương thực, chúng tôi biết phải đi đâu về đâu.

Lẽ nào muốn chúng tôi chết trên đường sao?"
Vương Chiêu sớm đã có đối sách: "Nếu giấy thông hành mất hoặc số liệu không khớp, ta sẽ phái binh hộ tống mọi người về Ngọc Môn quan.

Ngọc Môn quan có công văn ghi lại cả người lẫn vật xuất nhập mỗi ngày, mọi người chỉ rõ cho quan trông giữ của Ngọc Môn quan ngày nào người nào, mất đi đồ gì, tất cả được ghi chép trong hồ sơ hết.

Nếu phù hợp với hồ sơ xuất quan ban đầu, là tự khắc chứng minh thân phận, được phép bổ sung lại vào giấy thông hành từ Ngọc Môn quan, sau đó có thể suôn sẻ đi tiếp."
Sau khi cân nhắc, mọi người mới gật đầu: "Thế rất được, rất được.

Chẳng qua là nhiều thêm mấy ngày thôi, vậy cũng khá ổn rồi."
Xuân Thiên nghe xong những lời ấy, trộm liếc mắt nhìn Lý Vị, đúng lúc Lý Vị cũng quay đầu sang.

Hai người đều lén qua Ngọc Môn quan trái phép, làm gì có giấy thông hành đâu.

Nếu lại trở về Ngọc Môn quan cũng chẳng bổ sung được vào chỗ nào trong giấy.
Đôi mày thanh tú của nàng nhăn lại, cắn cắn môi, hỏi Lý Vị: "Làm sao bây giờ?"
Lý Vị khoanh tay ôm ngực trầm ngâm chốc lát, thấp giọng nói: "Chúng ta cứ chờ xem sao."
Mà phía Vương Chiêu thì đang hỏi mọi người chuyện thương đội gặp cướp hôm qua.

"Đám cướp giết mọi người hôm qua có phải người Đột Quyết không, quần áo trang sức rồi giọng nói điệu bộ của chúng ra sao?"
Mọi người mồm năm miệng mười, vài gia binh của Khang Đa Lộc có chém giết mấy tên Đột Quyết lên tiếng trả lời: "Đám người này chắc có lẽ có trăm người, tướng tá to khỏe, đầu búi tóc, mặt rộng gò má cao, vành tai bấm lỗ, hông giắt trường đao và răng thú, nói tiếng Đột Quyết.

Nhìn mặt mũi và cách ăn mặc, xác thực là người Đột Quyết không thể nghi ngờ.

Qua đao kiếm của chúng, đó hẳn là quân Đột Quyết, không phải dân du mục Đột Quyết bình thường."
Vương Chiêu hỏi một lượt, mọi người đều đáp y như nhau.

Ông ta giữ lại một số lời khai rồi sai người mở cổng doanh trại đồn, cẩn thận kiểm tra giấy thông hành của thương lữ, sao đó cho mới cho người vào thành.
Số lượng la chở hàng trên giấy thông hành của Khang Đa Lộc rất nhiều, hiện giờ bị cướp phân nửa, hầu hết là không khớp, tới dịch quán cũng bị chặn đứng ngoài cửa.
Khang Đa Lộc và Vương Chiêu có quen biết, Vương Chiêu là người thận trọng, rốt cuộc vẫn không chịu cho ông ấy vào thành, song cũng không dám đắc tội, bèn kêu người đưa vào lều nỉ uống miếng nước ấm, chuẩn bị thức ăn rượu ngon, cố ý để Khang Đa Lộc ở dưới thành thêm mấy ngày.
Di Thi Niên vốn muốn giúp Lý Vị, ai ngờ đến cả Tát bảo cũng chẳng được đặt chân vào trạm Lãnh Tuyền, anh ta liên tục cười khổ với Lý Vị: "Vương thủ quan này ngày xưa điềm đạm hiền lành, dễ nói chuyện, hôm nay đúng là lạ, sao nghiêm khắc thế chứ."
Lý Vị đành bảo: "Huynh coi dưới thành bao nhiêu binh lính vây quanh hồ Mạc Tử, không có phép người đi đường lại gần lấy nước, giấy thông hành của ai không khớp đều bị đưa tới Ngọc Môn quan kiểm tra.

Sợ là có mật thám gì trà trộn vào thương đội của huynh, mượn thời cơ mọi người tị nạn vào thành rồi giúp người Đột Quyết đốt lửa phóng hỏa, nội ứng ngoại hợp với người Đột Quyết.

Tôi nghĩ có khi gian tế còn lẫn trong đoàn người, Vương thủ quan chặn nguồn nước, chính chờ gian tế kia để lộ dấu vết."
Di Thi Niên hít sâu một hơi: "Nếu vậy thì ấy chẳng phải là đại họa sao? Huynh tính làm sao đây? Hay là lén lách qua trạm Lãnh Tuyền, tạm thời đến trạm Khổ Tỉnh?"
Lý Vị nói chậm chạp: "Trạm Lãnh Tuyền hỗn loạn, các trạm khác còn ổn được chắc? Mấy ngày nay đường Y Ngô chắc chắn không được yên, ngày xưa chúng bị mười phương dồn ép gắt gao, nên mới tranh thủ thời điểm này để tác loạn..."
Trên con đường hành Tây, hàng vận chuyển đều những món quý giá như tơ lụa, hương liệu, lá trà, đại hoàng, châu báu.

Suốt đường đi không biết có bao nhiêu mã phỉ đạo tắc ẩn náu, chúng chả khác nào ruồi muỗi vo ve quanh con la, đuổi mãi không hết.

Thậm chí có một số thương nhân trên đường ngấp nghé tài sản người khác, cũng sẽ nổi lòng tham giết người cướp của, nuốt chửng đồng tiền bẩn thỉu.
Đường Y Ngô thái bình được vài năm, vì có phong tử trông coi nên mấy năm gần đây an ổn rất nhiều.

Nhưng việc trạm Lãnh Tuyền bị thiêu, khó bảo đảm được đám mã phỉ đạo tặc nấp xung quanh, hay dân du mục, hoặc thương nhân bất chính, sẽ lại mượn đủ mọi loại danh để gây sóng gió.
Đúng như lời Lý Vị nói, hôm sau trời vừa sáng, lại có một đội thương lữ cạn kiệt sức lực chạy đến trạm Lãnh Tuyền, có khoảng hơn ba chục người, đều là Hán thương, mặt mũi bê bết máu và đất, sợ hãi hoảng hốt, ngã gục dưới trạm Lãnh Tuyền kêu gào cứu mạng.
Vương Chiêu sai người đưa đội thương lữ này tiến lên, chắc nhóm Hán thương đã chạy trốn cả đêm, trên người có vết thương, tự xưng là kết giao từ Bắc Đình, sau thì chạy về Hà Tây, theo thương đội ra khỏi trạm Khổ Tuyền, cũng chẳng ngờ rằng nửa đêm lại gặp nạn.
"Là mấy tên người Đột Quyết...!bọn chúng cướp hàng của chúng tôi, còn giết không ít người trong thương đội, chúng tôi vất vả lắm mới trốn thoát..."
Thương lữ ở trạm Lãnh Tuyền lại bị dọa một phen kinh hồn bạt vía: "Đám người Đột Quyết kia lại đến trạm Khổ Tuyền cướp giết ư? Lẽ nào sắp khai chiến với triều đình?"
Vương Chiêu gọi người tới hỏi chuyện: "Mọi người nói đi, người Đột Quyết tập kích mọi người trông thế nào? Có bao nhiêu người?"
"Chúng có khoảng hơn mười tên, lúc ấy trời tối mịt, đoàn người chúng tôi định bụng tranh thủ vào đêm nhanh chóng lên đường, ai ngờ sau cồn cát đột nhiên có một đội người lao xuống.

Khi đó không nhìn rõ ngoại hình, chỉ thấy chúng cưỡi ngựa cao to, tóc búi, mặc áo giáp, vung đại đao, nói tiếng Hồ.

Áo sắt của chúng chính là chiến giáp của người Đột Quyết!"
Đám người Đột Quyết này và người Đột Quyết cướp bóc ở trạm Lãnh Tuyền hoàn toàn khác nhau.
Vương Chiêu dựa theo tiền lệ, dẫn những thương nhân có giấy thông hành hoàn chỉnh vào trong thành, số người còn lại lùa xuống thành, cung cấp nước suối, chờ đưa mọi người tới Ngọc Môn quan.

Quân phòng thủ đứng trên thành âm thầm quan sát thương nhân phía dưới có gây chuyện hoặc trộm nước hay không, có người nào lén lút chạy trốn hay không.
(còn tiếp).

 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
610,854
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 36: 36: Sa Mạc Ma Quỷ





Tối đến Di Thi Niên ngồi tụ tập cùng uống rượu với nhóm gia binh, thấy Lý Vị cầm túi rượu mà hồn treo ngược cành cây, anh ta vỗ vỗ vai hắn, ngồi xuống bên cạnh: "Ngay mai Tát bảo sẽ quay về Ngọc Môn quan.

Mẹ kiếp, đám Đột Quyết dã man kia, đi khắp nơi quấy rối gà bay chó sủa, mấy người anh em của chúng ta vô duyên vô cớ bị bọn chúng hại uổng cái mạng."
Di Thi Niên thở dài, ngửa đầu hớp ngụm rượu, nhìn bầu trời đêm tự nhiên cũng sinh ra đôi chút âu sầu.

Nhóm gia binh này do Di Thi Niên dẫn đầu, đi theo Khang Đa Lộc ra vào Tây Vực nhiều năm, sống một cuộc đời dựa vào mũi đao vấy máu.

Mặc dù đã quá quen với chuyện sinh tử, nhưng lần này xảy ra tai nạn trên đường, lòng dạ anh ta không thể nào thoải mái thổi.
"Thi thể đưa về hết sao?" Lý Vị hỏi, "Đưa về an táng tử tế thôi."
"Thiêu rồi." Di Thi Niên nhún vai, ngữ khí nhẹ bẫng thờ ơ như làn gió thoáng, "Bụng trống hoác, bị sói moi khoét sạch, chẳng đành lòng nhìn thêm, dứt khoát thiêu thành tro, vậy còn dễ chịu hơn được phần nào."
Lý Vị hiểu: "Cho nhà người ta thêm chút tiền, cũng coi như là tận tâm."
Hết một tuần rượu, Lý Vị đang định cáo từ, Di Thi Niên gọi hắn lại, lấy từ một góc bí mật ra hai túi nước dúi vào trong tay hắn, nháy mắt ra hiệu: "Đi đường cẩn thận."
Lý Vị mỉm cười: "Sau này sẽ còn gặp, bảo trọng."
"Có duyên tái kiến."
Nhóm thương lữ đều đã ngủ say, bóng đêm mờ mịt, vì sao ảm đạm, bấy giờ cũng là lúc Lý Vị nổi ý, hắn đánh thức Xuân Thiên dậy: "Chúng ta đi thôi."
"Đi đâu ạ?" Nàng trở mình đứng lên khỏi tấm thảm nỉ.
Truy Lôi đã dẫn theo ngựa của Xuân Thiên đi gặm cỏ cả con đường từ sớm, chẳng biết giờ đã lang thang ở đâu.

Lý Vị ra dấu cho nàng đừng lên tiếng, rồi lặng lẽ đưa nàng vòng qua nhóm phong tử đứng phía trên thành, đi vào vùng đất hoang tàn mênh mông u ám.
"Chúng ta không thể tiếp tục đi dọc theo trạm báo hiệu được nữa.

Hiện giờ an ninh đường Y Ngô bất ổn, trước khi Ngọc Môn quan phái binh đến, bọn giặc cướp đường sẽ lợi dụng vụ náo loạn ở trạm Lãnh Tuyền lần này, nhắm vào mục tiêu là thương lữ để cướp bóc, khâu kiểm tra của trạm kiểm soát cũng sẽ càng ngày càng gắt gao."
Xuân Thiên nhíu mày, nhìn Lý Vị đăm đăm: "Chắc chắn đại gia có cách, đúng không ạ?"
"Cứ dây dưa lần lữa cũng không biết phải đợi tới khi nào, nhanh lên thôi." Lý Vị hạ quyết tâm, "Chúng ta đi ngang sa mạc Mạc Hạ Diên, qua tám chốt báo hiệu còn lại, thẳng đến Y Ngô."
"Sa mạc Mạc Hạ Diên? Có phải chính là Mạc Hạ Diên "trên không chim bay, dưới không thú chạy, không cỏ không nước, biển cát ma quỷ" từng được nhắc trong sách không? Vùng sa mạc này rộng tám trăm dặm, toàn là cát chảy, ban đêm còn xuất hiện cả ma trơi." Xuân Thiên giật mình hỏi.
"Thế mà cô cũng biết à." Hắn nở nụ cười, ngoảnh đầu hỏi nàng, "Cô, có dám đi không?"
Nàng giật giật môi.
Hắn nhìn khung cảnh hoang vu trống trải: "Mạc Hạ Diên hay còn được gọi bằng cái tên sa mạc Quỷ.

Có năm con quỷ là nóng, gió, cát, oán, chết hống hách lộng hành, đáng sợ hơn nhiều so với chuyện xảy ra những ngày gần đây, bất cứ lúc nào ta cũng có khả năng bỏ mạng ở nơi đó."
Đôi mắt nàng bừng lên tia sáng, thậm chí là đôi phần hưng phấn: "Đương nhiên là tôi dám.

Hơn nữa, có đại gia ở đây, chẳng có gì phải sợ hết."
Lý Vị bất lực cười cười, đây cũng có thể coi là một tiểu nha đầu không biết trời cao đất rộng.
Truy Lôi dẫn ngựa của Xuân Thiên đứng chờ cách đó không xa, thấy chủ nhân tiến lại, nó hí một tràng rồi lộc cộc bước tới.
Nàng cảm thấy tim mình đang đập thình thịch: "Đại gia, ta đi hướng nào?"
"Có một con đường nằm ẩn trong sa mạc Mạc Hạ Diên, là đường nhanh nhất dẫn từ Ngọc Môn đến Y Ngô, chúng ta gọi là đường Đại Hải.

Thương lữ bình thường không đi đường đó, cũng hiếm người biết, nhưng thường được dùng để truyền lệnh trong quân đội." Hắn ngồi trên lưng ngựa đón lấy nàng, "Cô đi cùng ta."
Xuân Thiên xoay người lên ngựa, Lý Vị đưa cho nàng một túi nước: "Hạn hán ở Mạc Hạ Diên rất khủng khiếp, ta sẽ phải đi sáu bảy ngày mới có nguồn nước tiếp tế.

Hiện giờ khí trời dần chuyển nóng, mặt trời đổ lửa nướng cả đất cát, một cuộc hành hạ ghê gớm.

Cố gắng buổi tối lên đường, ban ngày nghỉ ngơi.

Ở sa mạc, uống nước phải nhấp từng miếng một, không thể dốc một hơi uống sạch, tìm cách làm sao giữ nước trong miệng một lúc lâu, căn giờ, định lượng.

Những thức ăn khác đừng ăn quá no, chắc dạ ba phần là được rồi.

Hiểu chưa?"
"Vâng." Xuân Thiên gật đầu thật mạnh.

Bầu trời khoác lên một màu trắng bạc.

Xuân Thiên quay đầu, bấy giờ mới phát giác họ đã đi xa cách trạm Lãnh Tuyền mấy chục dặm.
Nàng không biết mình đang ở đâu, chỉ thấy những gò đất hoang nối liền nhau, đất đá nhuộm vàng gập ghềnh.

Phóng mắt dõi ra xa, cảnh vật trông giống như con đường lúc đi qua Hoàng Hà.

Khi đó là mùa lũ của Hoàng Hà, đại mạc cuồn cuộn, những cơn sóng đục vàng kéo dài không dứt.

Cỏ lác trơ lì mọc trên sườn dốc chính là loài thủy sinh bập bềnh trên dòng nước vàng sẫm.
Băng qua một bãi đá nát vụn, trèo lên ngọn đồi cao bồi đắp trên hoàng thổ, trước mắt lại là những gò đất vắng thênh thang vô bờ.

Vài cọng cỏ xanh xám run run rẩy rẩy một cách cứng đờ, nhưng đặt trong khung cảnh này thì nó lại trở thành một nét điểm xuyết.

Khắp nơi là xương cốt của la ngựa lạc đà, phơi dưới cái nắng dữ dội suốt khoảng thời gian dài, nay đã trắng bợt ngả xám.

Đầy hoang liêu, đầy sự im lặng chết chóc.
Vó ngựa giẫm lên bạch cốt phát ra tiếng răng rắc.

Mấy con bọ cạp đen còi cọc hốt hoảng chui ra từ dưới đống xương bể, nó bò tạo thành một đường dấu đuôi, giây lát đã chả biết lủi đi đâu mất rồi.

Gió cơ hồ sắp đứng lại, Lý Vị giơ roi ngựa: "Những thứ này đều là những người những vật ngày xưa chết ở nơi đây, chúng ta cứ đi lần theo thi cốt."
Xuân Thiên chậm rãi thở ra một hơi, nhìn gương mặt bình tĩnh của hắn, gật gật đầu.

Nàng cẩn thận hết mức điều khiển ngựa tránh đi chỗ có xương bể, theo Lý Vị tiến về phía trước.
Trong thư có một lần cha kể rằng ông từng cùng những người bạn quân sự của mình đi qua sa mạc Mạc Hạ Diên và gặp ảo ảnh, thành quách đứng vững, dân làng tới lui, cực kỳ náo nhiệt.
Khi đó nàng nổi cơn tò mò, còn nhờ cậu phổ cập cho mình thế nào là ảo ảnh.

Sau khi đọc lại đống thư, nàng mới nhận ra sức nặng của ba chữ Mạc Hạ Diên.

Đại mạc tám trăm dặm, cát chảy nuốt chửng con người, ma quỷ ghé ngang, là nơi đáng sợ nhất.

Nàng chẳng qua cũng chỉ là tìm hiểu vì lòng hiếu kỳ, nào có bao giờ nghĩ rằng mình sẽ thực sự đặt chân vào trong đó, như ngay lúc này đây.
Hiện giờ đi theo dấu chân cha, lòng nàng cũng sinh ra đôi chút xúc động.
Cha, con lại gần cha thêm một bước nữa.
Hai người mới chỉ đi được nửa canh giờ, chợt thấy cách đó ít xa có mấy chấm đen đang từ từ di chuyển, có tiếng lục lạc leng keng truyền đến.
Một ông lão người Hồ râu trắng mắt xanh, mặt đầy nếp nhăn làm người dẫn đường, theo sau là bảy tám người Hồ cùng mấy chục con la và lạc đà.

Những người này có ngoại hình khác nhau, người cao người thấp người béo người gầy, không phải người chung một bộ tộc.

Lạc đà chở trên lưng chiếc bao mềm màu trắng lớn và cỏ khô.

Trong luồng gió thổi, có thể ngửi thấy rõ ràng mùi tỏa ra từ bao hàng ấy, là hương ngan ngát của trà thơm.
Đội thương lữ kia thấy đằng trước có hai người đứng lặng thì không khỏi kinh ngạc.

Lại gần xem xét, hóa ra là một người đàn ông trẻ tuổi cùng một thiếu niên, cả hai tóc đen mắt đen, mang tướng mạo của người Hán.

Dù lòng lo sợ bất an, nhưng cũng chỉ đành nở nụ cười nghênh đón.
Chào hỏi hàn huyên một lúc, mới biết hai bên đều chung lộ trình, đi qua mười chốt báo hiệu, qua đường Đại Hải rồi hướng tới Y Ngô.
Vài vị Hồ thương tươi cười cất tiếng: "Vừa khéo, mấy người chúng tôi mới từ Ngọc Môn quan ra đây, vì trong nhà có việc gấp, bất đắc dĩ mới phải đi qua mười chốt báo hiệu, mạo hiểm bước vào lối tắt, nghe nói đường Đại Hải này hung hiểm lắm.

Dẫu lo lắng nhưng lại chẳng biết nên làm sao, giờ gặp được người đồng hành, tốt quá rồi."

Lý Vị cũng nói thật: "Ban đầu chúng tôi ở trạm Lãnh Tuyền, không ngờ bị người Đột Quyết quấy rầy, làm mất giấy thông hành, đang định đi đường này để đến Y Ngô."
"Vậy chi bằng kết bạn, đi với nhau, như thế cũng chiếu cố lẫn nhau được phần nào."
Tuy ngữ khí hai bên thân thiện, nhưng nụ cười của mỗi Hồ thương trong nhóm đều có hơi cứng ngắc.

Song, thấy ánh mắt Lý Vị ôn hòa, giọng điệu uyển chuyển, họ không hỏi nhiều về lai lịch của hai người, trái tim lơ lửng cũng dần buông lỏng.
Phía sau người Hồ dẫn đường có một thiếu niên mắt xanh da trắng trạc mười lăm mười sáu, mặt mũi cực kỳ tuấn tú, không phân biệt được là nam hay nữ.

Chỉ khi để lộ ra hai chiếc răng nanh nhọn nhỏ nhỏ mới hiện ra phong thái khôi ngô oai hùng của chàng thiếu niên.

Bấy giờ cậu ta đang cười hì hì quan sát người bên cạnh Lý Vị.
Xuân Thiên cưỡi ngựa, mặc trang phục nam giới của dân tộc Hồi Hột, đội mũ trùm đầu, lộ nửa bên mặt với lúm đồng tiền.

Bộ xiêm y xanh có họa tiết hoa tròn, màu sắc hơi trầm làm bật lên khuôn mặt nhỏ nhắn trắng như tuyết của nàng, phần eo bóp sát và tay áo bó, quần dài ủng da, thít chặt vào dáng người yểu điệu.

Người tinh mắt nhìn thoáng cái là nhận ra ngay đây là thiếu nữ đương độ xuân thì.
Xuân Thiên phát hiện thiếu niên dị tộc đang nhìn mình chằm chằm, cố ý nghiêng đầu tránh tầm nhìn của cậu ta.

Lý Vị thấy cậu thiếu niên vẫn chưa có ý định rời mắt khỏi Xuân Thiên, nhịn không được thầm buông tiếng thở dài trong lòng, chắn người Xuân Thiên ra sau, nhướng mày nhìn lại thiếu niên kia.
"Úi cha." Thiếu niên mắt xanh thình lình bị cây tẩu hút thuốc phiện của ông nội gõ bộp vào đầu, cậu ta nhảy cẫng lên: "Ông nội, sao ông gõ đầu cháu."
"Cái đồ không biết xấu hổ, có ai nhìn người khác đắm đuối như mi không? Còn không mau đi xin lỗi tiểu nữ lang đi."
"Đúng là tiểu nương tử nhỉ." Vẻ mặt cậu thiếu niên trông thật gian xảo, bĩu môi: "Cháu cứ tưởng là huynh đệ mình, đang tính làm quen cơ đấy."
"Tiểu Khấu Diên, tật xấu này của cậu phải nhanh sửa đi thôi, mấy hôm trước ở Ngọc Môn quan còn nhận huynh đệ mình thành nữ lang, hôm nay thì lại nhận nữ lang thành huynh đệ, ha ha ha." Có mấy người cười nhạo thiếu niên mắt xanh, "Trông cậu đẹp thế kia, cơ mà mắt nhìn người lại không được ổn lắm nhỉ."
Thiếu niên ngượng ngùng cười khà khà, bước lên cúi đầu với Xuân Thiên, giọng nói trong trẻo như nước suối: "Tiểu nương tử, xin lỗi, vừa rồi tôi hành xử mạo phạm, nhưng không phải cố ý đâu, mong bỏ qua cho."
Cậu ta tiếp lời: "Tại hạ Khấu Diên Anh, xin hỏi phương danh tiểu nương tử?"
Hai má Xuân Thiên ửng đỏ, biết văn hóa phong tục ở biên tái mở mang và phát triển hơn, bản thân mình cải trang trông cũng có chút khác thường nên nàng không để bụng, lập tức trả lời tên họ.
Hai bên đều đã biết tính danh của nhau, điều đó làm giảm bớt phần nào sự xa cách.

Thế rồi mọi người cùng nhau hành tẩu về phía trước.
Người Hồ dẫn đường tên Khấu Diên Thiên Phú, là một tay dẫn đường cực kỳ lão luyện, bôn ba nơi sa mạc rộng lớn gần năm chục năm.

Lần này được thương đội thuê để dẫn đường, tiện thể cho đứa cháu Khấu Diên Anh của mình có cơ hội rèn luyện trải nghiệm.
"Là...!Khấu Diên gia ở Hu Di quốc ư?" Lý Vị nghe xong, cung kính hỏi người dẫn đường, "Lên trời xuống đất, hỏi đường Khấu Diên gia."
Lão Khấu Diên cười tủm tỉm gật đầu: "Đúng vậy, lão hủ là con cháu Khấu Diên đời Thiên Tự."
Thành Hu Di có một họ là họ Khấu Diên, đặc điểm mắt xanh da trắng, đàn ông trong nhà thông thiên văn tường địa lý, có sở trường "bơi" trong cát vượt sa mạc, là bản đồ sống của vùng Tây Vực, thường được thương đội thuê làm người dẫn đường qua nơi Tây Vực cát chảy, hoặc thăm dò khám phá dấu tích của một thành cổ hoang vắng.
Lý Vị chắp tay chào, hắn xuống ngựa, thể hiện thái độ kính trọng cùng với sự ngưỡng mộ: "Không ngờ có thể gặp được gia tộc của ân công.

Hồi còn bé tôi từng được ông Hải Châu cứu mạng.

Vài năm trước tôi đi ngang Hu Di quốc đến chào ông ấy, nhưng ông ấy đã dẫn thương đội đến mật địa Lâu Lan, không gặp mặt được.

Chẳng hay hiện giờ sức khỏe ân công ra sao, vẫn tốt chứ?"
Khấu Diên Thiên Phú nào nghĩ lại có duyên gặp người ở đây, vuốt râu bảo: "Hóa ra là tiểu hữu của ông chú Hải Châu.

Sau khi chú ấy trở về từ mật địa Lâu Lan thì chỉ chuyên tâm an dưỡng tuổi già.

Qua đời năm ngoái, hưởng thọ tám mươi tuổi, lúc đi thanh thản."
Lý Vị hay tin ấy, khó tránh khỏi giật mình, lòng chùng chùng, hắn kể lại quan hệ sâu xa của mình với Khấu Diên gia qua vài lời ít ỏi.
Hồi hắn khoảng tám chín tuổi có cùng Lý phụ đi qua Đôn Hoàng đến Thả Mạt, vô tình lạc đường ở Mã Mê Thố Than của Đôn Hoàng.


Mã Mê Thố Than còn có tên là thành Quỷ, trong thành đá dựng cao chót vót, đường đi quanh co phức tạp như mê cung, là chỗ ẩn náu của mã tặc và sơn phỉ.

Cậu bé Lý Vị bấy giờ luẩn quẩn ở đó bảy tám ngày, ngay khi kiệt sức, thở những hơi thoi thóp thì may mắn được Khấu Diên Hải Châu đưa ra khỏi thành Quỷ, trả lại cho Lý phụ.
Từ đấy về sau, mỗi lần đi ngang thành Hu Di, hắn đều phải đến phủ Khấu Diên thăm hỏi ân nhân.

Đáng tiếc Khấu Diên Hải Châu quanh năm bôn ba bên ngoài, tận hai mươi năm mới được tái ngộ.
Khấu Diên Thiên Phú nghe đoạn chuyện cũ, cảm khái liên tục: "Con cháu Khấu Diên phiêu bạt ở ngoài suốt tháng quanh năm, chưa nói tới hàng xóm bạn bè, cho dù có là người nhà hay bà vợ già của mình cũng chả nhớ.

Con cháu xa lạ là chuyện bình thường."
Xuân Thiên chẳng nói câu nào, lẳng lặng nghe hai người nói chuyện.

Khấu Diên Anh không muốn nghe ông nội nhà mình kể chuyện ngày xửa ngày xưa, bèn phóng ngựa chạy đến cạnh nàng, nhe cặp răng nanh, cong mắt cười cười: "Xuân Thiên em gái, roi ngựa của em vừa đẹp vừa có khí phách, cho tôi mượn ngắm tí được không?"
Roi ngựa này là quà Hổ Hướng Nam tặng.

Mới có mấy ngày ngắn ngủi, trải qua trận tàn sát khốc liệt ở trạm Lãnh Tuyền, sinh ly tử biệt, làng Thạch Tào thế ngoại đào nguyên chớp mắt cái mà cứ như thể là một giấc mơ.
Xuân Thiên đưa roi ngựa cho cậu ta.

Khấu Diên Anh đón lấy, vung cây roi vút lên trời cao: "Đuôi roi mềm thật, quấn rất chắc, tay nghề khá đấy.

Em gái, mua ở đâu thế?"
"Đây là của một người anh họ Hổ ở ngôi làng trong núi Thường Lạc tặng cho tôi."
"Ồ." Khấu Diên Anh ngắm nghía trái phải, "Tôi còn định mua cây roi giống cái của em cơ, mà này thì không được rồi, hóa ra là người khác tự tay làm tặng em."
Hai bên chỉ vừa đi được nửa dặm đường.

Lúc bấy giờ, mặt trời chói chang vẫn chưa lên cao, vậy nhưng sa mạc đã nóng rực không chịu nổi.

Mọi người đang tính tìm một nơi nghỉ tạm, ngờ đâu đằng sau lưng bỗng vang lên tiếng vó ngựa mất trật tự, có hai người đàn ông Hán đuổi theo, một béo một gầy.

Người béo nom hiền hòa dễ gần, người gầy nhã nhặn tuấn tú.

Hai người nhễ nhại mồ hôi, áo quần xộc xệch, ngửa đầu gọi với theo đoàn người Lý Vị: "Chư vị, chư vị đợi chút."
Hóa ra hai người này cũng là thương lữ bị Đột Quyết cướp bóc ở trạm Lãnh tuyền.

Người béo tên Hoàng Tam Đinh, người gầy tên Quách Phan.

Cả hai đều là thương khách tới từ Tấn Trung, trốn chạy dưới lưỡi đao của người Đột Quyết, đã làm mất giấy thông hành.

Vì không muốn về Ngọc Môn quan, lại nghe nói ở Mạc Hạ Diên có đường Đại Hải, nên bọn họ thử đi tiếp, kết quả may mắn gặp đoàn người của Lý Vị và Hồ thương.

Hai người mừng vui khôn xiết, cuống cuồng vái chào xin được đồng hành cùng thương đội.
Quy tắc đi đường, nếu có tương phùng, há có lý nào lại nhắm mắt làm ngơ.

Nhưng mọi người thấy hai người này đi vội vội vàng vàng, ngay cả lương thảo hay túi nước cũng chẳng mang.

Con đường phải đi qua lại là nơi khô hạn và đầy rẫy nguy hiểm, người nào người nấy trong thương đội đều đăm chiêu lưỡng lự không lên tiếng đáp.
Chính lúc mọi người do dự, Hoàng Tam Đinh lấy từ trong áo ra một viên mã não Lạt Ma, cười khổ đưa cho nhóm Hồ thương: "Hai huynh đệ tôi vốn định sẽ bổ sung nước và lương thực dọc dịch trạm, ai ngờ rơi vào tình cảnh này.

Chỉ là, nam nhi tráng khí, không thể nào quay về lối cũ.

Nghe nói Mạc Hạ Diên này phải đi qua mười chốt, hai chúng tôi túng thiếu lương thực, những mong chư vị huynh đài chiếu cố đôi phần."
Nhóm Hồ thương thấy viên châu kia to bằng ngón tay cái, đặt vào lòng bàn tay, viên châu ánh lên một màu ngọc bích óng ánh bóng mượt, giá trị không hề nhỏ.

Mấy Hồ thương phân vân chốc lát, quay sang thấp giọng bàn bạc với lão Khấu Diên bằng tiếng Hồ một phen.
Nhóm Hồ thương thương lượng xong xuôi, lấy túi nước và vài cái bánh Hồ ra, cùng với hai tấm thảm nỉ, chỉ nói: "Không phải
chúng tôi bủn xỉn, chẳng qua là do trong sa mạc quỷ quái này, nước còn quý trọng hơn tiền vàng.

Chúng tôi đông người, lại mang ngựa thồ, thực sự chẳng biết đào đâu ra nước suối.

Nước trong túi đây có thể bổ sung nước trong một hai ngày cho quý huynh.


Đi đến ngày thứ sáu, tới suối Dã Mã là sẽ có nước cấp bù."
Cả hai luôn miệng nói cảm ơn, mấy người cứ thế kết bạn đồng hành.

Hai người kia biết được Lý Vị và Xuân Thiên cũng đi từ trạm Lãnh Tuyền ra, cảm thấy đồng bệnh tương lân, giở giọng than phiền với Lý Vị không dứt: "Mười con la của hai chúng tôi chết hết trong tay người Đột Quyết, coi như là tán gia bại sản luôn rồi.

Định bụng đến Bắc Đình một chuyến, cố gắng tìm kế làm giàu."
Từ nãy đến giờ Lý Vị luôn nhìn thẳng chẳng hề liếc mắt, lên tiếng nói: "Huynh đài dũng cảm mưu trí, trời cao không phụ, nhất định sẽ được như ý nguyện.

Có điều cũng cần cẩn thận, Bắc Đình nhiều thành nhiều quốc, các tộc đấu đá, tặc phỉ nấp trong bóng đêm hoành hành, hai vị phải thận trọng."
Nơi sa mạc hẻo lánh ít dấu chân người này nay lại liên tục đón lữ khách tới.
Trời cao vời vợi, sa mạc tít tắp, tiếng lục lạc trầm bổng êm ái.

Lúc này đã vào hè, vòm trời như cái lồng hấp thiêu đốt vùng hoang dã, bôi vẽ lên mọi ngóc ngách một màu sem sém.

Gió nóng táp ngang dọc, mỗi chỗ đi qua đều dấy lên một sự bức bối đến ngộp thở.
Thoạt đầu còn có những cây muối* thấp lùn và cỏ lác xám xám, cũng có thể gặp một vài cây ma hoàng và thanh hao hoa vàng.

Côn trùng bọ cạp bò lang thang trên cát.

Thậm chí còn trông thấy được một con sói đất đứng ở phía xa xa lăm le dè dặt nhìn người đi đường.
*Cây muối, tên khoa học là Haloxylon ammodendron
Càng đi sâu vào Mạc Hạ Diên, bầu trời hiện ra cao rộng khoáng đạt và trong leo lẻo không một gợn vẩn, áng mây tuyết trắng trơ trọi, một màu xám nhạt bao trùm lên vùng hoang vu.

Chỉ còn hoàng thổ vô cùng vô tận, đá sỏi, những cành cây khô queo mục nát nằm bừa bãi và cả đống xương trắng.

Trời nắng độc, gió thổi khí oi quấn lấy thân mình.

Mọi người ai ai cũng đội mũ trùm đầu, mạng che mặt, chỉ chừa đôi mắt ra ngoài, vẫn trong tình trạng đầm đìa mồ hôi, khổ không kể xiết.
Ban ngày phải tìm một rãnh đá có bóng râm để nghỉ chân.

Dẫu vậy, gió nóng vẫn cứ bám riết, mồ hôi túa ra nhớp nháp.

Xuân Thiên đã bị hơi nóng hun lên hệt một con tôm luộc, mặt mũi đỏ gay, nàng cảm thấy người ngợm chua chua, như có con kiến đang cắn xé toàn thân.

Lúc thật sự nóng không chịu nổi nữa, nàng nhịn chẳng được, muốn đổ cạn nước trong túi vào họng.

Nhưng Lý Vị nhìn nàng rất nghiêm, không cho phép nàng uống kiểu vậy, thậm chí tịch thu luôn túi nước của nàng.
Ban đêm mọi người gấp rút lên đường, cát vàng yên ả, ánh trăng như nước, ngân hà bao la, những dải sóng sáng lấp lánh tràn khắp mặt đất.

Biển cát mênh mang, tưởng như thân mình bị vùi lấp dưới biển khơi cuồn cuộn, chợt không phân biệt được trời cao và hoàng thổi.

Gió lạnh rít gào, đất cát chuyển động phát ra những tiếng lạo xạo, khi như tiếng của dàn nhạc giao hưởng, khi thì chấn động như tiếng núi gầm vang, khi lại như sấm sét giật liên hồi.

Côn trùng rắn rết di chuyển giữa cồn cát, lăn qua lộn lại trong cát bụi, chẳng chút sợ hãi con người.

Chúng nó lần theo móng ngựa thồ leo lên trên, thậm chí men theo hai chân người chui vào bên trong quần áo, đứng trên đầu vai người.
Mới đầu Xuân Thiên còn hoang mang lo sợ, hai ngày sau thì đã có thể phủi con nhền nhện lề mề bò trên quần áo đi mà mặt không biết sắc.
Vết cắt chia đôi giữa ngày và đêm chính là ánh bình minh và tà dương khi mặt trời lặn.
Bấy giờ mây mù cuộn trào, từng cụm từng cụm trùng trùng điệp điệp, như tuyết tụ, như sóng vồ, cơ hồ vươn tay là hái xuống được.

Chúng xuất hiện với những hình thù hoặc duyên dáng hoặc hùng vĩ, thiên hình vạn trạng.

Sáng sớm, ban mai phía chân trời bừng lên chói lọi, trời quang mây tạnh.

Đến tối, vầng sáng vàng kim tỏa chiếu muôn trượng, xuyên rách tầng mây.

Trăng sáng và tinh tú cô đơn bầu bạn bên mặt trời dịu dàng cùng trông giữ chân trời, tăng thêm nét mềm mại cho chốn xác xơ tiêu điều này.
(còn tiếp).

 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
610,854
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 37: 37: Mưa Sao Băng





Đã là ngày thứ ba kể từ lúc đến sa mạc Mạc Hạ Diên.

Tất cả móng của các con la đều được quấn một lớp lông thú dày phòng ngừa cát chảy.

Mặc dù vậy, vẫn có vài con la bị bỏng do nhiệt độ của cát chảy quá cao.

Có một con la già bị gai lạc đà cắt vào móng trước.

Cát độc của đất nhiễm mặn thâm nhập vào miệng vết thương, cho đến khi chủ nhân phát hiện thì móng trước đã mưng mủ thối rữa.

Không có thuốc trị thương, đi đường mấy ngày liền không được nghỉ ngơi, lại thiếu đồng cỏ và nguồn nước, những ngày này con la già hiển nhiên không chịu nổi con đau giày xéo, móng trước bước từng bước khập khiễng, liên tục kêu rên ầm ĩ.

Chủ nhân của nó biết con la già của mình không thể ra khỏi Mạc Hạ Diên, nên đã thôi cho nó ăn uống, có ý định bỏ lại con la ở sa mạc đây.

Móng trước của nó cứ rỉ mủ lẫn lộn cùng máu, đi đến đâu là vệt máu in xuống cát đến đấy, dẫn dụ một đám ruồi muỗi tới bu xung quanh.

Nhưng con la già như thể thấu hiểu nhân tính, nó vừa bước tập tễnh vừa thống khổ hí than, chân trước có đau cỡ nào cũng theo sát thương đội không rời nửa bước.

Mọi người hành tẩu trong sa mạc đã mệt mỏi rã rời, cứ tiếp tục nghe con la già gào thét ngày đêm thì quả thật chẳng ai chịu đựng nổi.

Chủ nhân dứt khoát rút con dao nhọn ra, hai mắt đỏ quạch đi đến gần nó, vuốt ve con la già: "La già ơi la già, đừng trách tao nhẫn tâm, thực sự là ốc còn chẳng mang nổi mình ốc.

Chỉ đành có lỗi với mày, tiễn mày lên đường thôi."
La già dường như nghe hiểu được tiếng người, nó hí lên những tiếng não nề rồi dụi dụi vào lòng bàn tay chủ nhân, quỳ xuống đất hướng mặt về phía chủ nhân gục đầu cầu xin sự thương xót.

Một ngày thời tiết khắc nghiệt thế này, cộng thêm mấy ngày chưa uống một giọt nước nào, thì sao con la có thể có nước mắt.

Vậy mà, trong đôi mắt của nó bỗng dưng trào ra vài giọt huyết lệ, tí tách rơi xuống nền cát.

Chủ nhân chứng kiến tình cảnh ấy, mặc dù lòng đầy xót xa nhưng vẫn biết không cứu được con la.

Người chủ buông tiếng thờ dài, tha cho nó một con đường sống, tháo dây cương xuống cho nó, mặc nó tự sinh tự diệt.

La già thấy mọi người sắp đi, nó chật vật đứng dậy khỏi mặt đất, cuối cùng vẫn nhắm mắt bất chấp theo đuôi thương đội.

Khi màn đêm buông, rốt cuộc con la không bước nổi nữa, móng trước gập lại, người tê liệt ngã phịch xuống cát.

Nó không ngừng gào thét như muốn gọi thương đội quay về, từng tiếng từng tiếng vừa gấp gáp vừa đau đớn.

Thanh âm buốt nhói như tiếng trẻ con khóc, bi thương đứt gan đứt ruột.

Tiếng tru tréo kia xé rách màng nhĩ của mọi người, sau đó càng ngày càng xa, càng lúc càng nhỏ, dần dần tan ra rồi trôi vào bầu trời đêm rực rỡ chói lòa.

Người lớn tuổi từ lâu đã quá quen thuộc với muôn vàn hình thái dáng vẻ của thế gian, cùng lắm thì cũng chỉ sụt sùi vài tiếng.

Con người trẻ lại thấy tim đau nhức nhối, căm ghét bản thân mình trơ lì và máu lạnh.

Xuân Thiên bịt chặt tai, hai mắt cay xè, tấm mạng che mặt ươn ướt dính rịt vào má nàng.

Nàng cũng vừa trải qua một trận tàn khốc dưới lưỡi đao của người Đột Quyết kia thôi, máu tươi văng tứ phía, xác chết nằm khắp nơi dưới đất.

Lúc đó nàng bất lực hoàn toàn, chỉ biết trơ mắt nhìn số kiếp những người đồng hành với mình bị tàn sát.

Nhưng hiện giờ có mỗi việc cho con la một ngụm nước suối, một chút lương thực, mà nàng cũng chẳng làm được.

Vì bất luận thế nào, Lý Vị cũng không cho.

Lý Vị sóng vai đi cùng nàng, trầm mặc một hồi lâu sau hắn mới cất tiếng: "Xương trắng bên dưới đều là của người và động vật chết khát.

Cô cứu nó một ngày, nhưng không cứu được hai ngày, sau cùng có khi còn rước thêm tai vạ vào mình."
"Vâng." Xuân Thiên quay đầu không nhìn hắn.

Nàng biết những gì Lý Vị nói là đúng.

Nhưng sự giày vò và nóng ruột từ ngày này qua ngày khác trong sa mạc này, tiếng gào của con la già như hóa thành cồn cát làm trĩu nặng lòng nàng, đè ép khiến nàng không tài nào thở nổi.

Nghiến răng nghiến lợi nhịn mấy ngày, gần như đã chạm đến cực hạn có thể chịu đựng của nàng.


Lý Vị thấy thần sắc nàng suy nhược, không khỏi lắc đầu cười khổ.

Lúc bắt gặp hành động lợi dụng khi mọi người không chú ý để cho con la già uống nước suối của nàng, hắn thấy được nét hoảng sợ chợt lóe lên rồi biến mất ngay tắp lự trong mắt nàng.

Không phải nàng không biết trong sa mạc, nước và lương thực vô cùng quý giá.

Nàng cũng biết, không một người nào sẽ đồng ý cho nàng làm vậy.

Nhưng đây là bản tính bẩm sinh của trẻ con, vừa mềm lòng, vừa yếu ớt, cực kỳ giàu sự đồng cảm, hơn nữa còn bất kể hậu quả.

Ngựa thồ đi đường vất vả hơn người nhiều.

Sa mạc khô cằn, ngoại trừ lạc đà, la và ngựa đều phải mang cỏ khô của mình.

Thức ăn cho gia súc là bánh cám được trộn từ hạt đậu, cỏ linh lăng, bắp ngô, quý vô cùng.

Con đường phía trước dài như thế, vận mệnh của con là gia đã được định trước.

Lý Vị không giải thích nhiều, lẳng lặng giữ lấy tất cả đồ ăn và túi nước của nàng.

Thương đội dừng lại nghỉ ngơi.

Khấu Diên Anh nhảy khỏi lưng ngựa, hai tay dang thành chữ "đại" (大), nằm trên cồn cát mềm mại ngắm sao giăng dày đặc.

Họ đã tiến vào nội địa sa mạc Mạc Hạ Diên, dưới chân không còn là cát sỏi đá mịn độc một màu xám chì nữa mà đã xuất hiện màu da cam.

Cồn cát cao thấp uốn lượn như những gợn sóng.

Họ leo dọc theo đỉnh cồn cát mỏng như lưỡi dao, đi một bước là chân lún một bước, hết sức hao phí thể lực.

Xuân Thiên ngồi bên cạnh cậu ta, cởi mạng che mặt mũ trùm đầu, mặt vô cảm hứng lấy luồng gió lạnh thổi qua hai má.

Bất luận có cực nhọc bao nhiêu, nội tâm sụp đổ cỡ nào, thì khoảnh khắc nhìn thấy sao trời lấp lánh, linh hồn vẫn sẽ bị nghiền nát.

Trên đời này, có gì có thể so sánh được với độ sâu của bầu trời, rộng lớn của thổ địa, sự vô tình của năm tháng chứ.

Năm đó ở Trường An trăm hoa ngàn lá, nhưng đứng trước biển sỏi cát bao la vô bờ bến này, ngàn lá trăm hoa kia cũng trở nên nhỏ bé và thật dễ tổn thương.

"Xuân Thiên, em đi Y Ngô làm gì?" Khấu Diên Anh lười biếng duỗi eo, nheo cặp mắt xanh trong vắt: "Đi đường chẳng có mấy tiểu nữ làng giống em."
"Đi tìm một người chú của tôi." Xuân Thiên nhẹ nhàng trả lời, thấy khuôn mặt cậu ta được ánh sáng chiếu rọi, đôi mắt sáng ngời, đối diện với vẻ đẹp hiếm có ấy, nhất thời nàng đánh mất tập trung, "Sau này anh cũng như ông Khấu Diên, dẫn thương đội vượt qua đại mạc sao?"
"Ừ." Hai tay cậu ta gối sau đầu, "Gia tộc Khấu Diên của chúng tôi là bản đồ sống của Tây Vực, ông nội tôi già rồi, ông phải truyền lại nghề cho con cháu đời sau.

Trên tôi có mấy người anh trai đều đã cưới vợ, không muốn làm chuyện khổ sai đó nên bỏ chạy hết cả rồi, chỉ còn mỗi mình tôi."
Người có dung mạo thế này, quanh năm suốt tháng lăn lộn trong đại mạc, chẳng phải là quá đáng tiếc à.

Xuân Thiên nghĩ thầm, hỏi cậu ta: "Anh có muốn không?"
"Muốn chứ.

Không làm nghề này thì sẽ lại đi cày ruộng bán rong.

Cày ruộng phải lo thuế má, phải coi tâm trạng lão trời già, dù mệt đến chết cũng chỉ có thể ăn lửng dạ.

Bán rong thì phải chạy ngược chạy xuôi, lại còn vừa phải lo thiên tai nhân họa.

Nghĩ tới nghĩ lui, vẫn là làm nghề dẫn đường nhẹ nhàng hơn một chút, chỉ cần dẫn người ta đi Đông đi Tây, không cần lao động nặng nhọc, bạc kiếm được cũng rủng rỉnh." Khấu Diên Anh hé môi cười cười, "Hằng ngày ra ngoài làm việc, miễn cưới vợ sinh con, tốt quá còn gì bằng."
Nàng chống má, hỏi cậu ta: "Thuê các anh một chuyến có đắt không? Từ Ngọc Môn quan đến Y Ngô, phải trả cho các anh bao nhiêu bạc?"
Cậu ta lặng lẽ nghiêng người qua: "Em nói chuyến này à? Năm trăm phiếu trà...!Nếu muốn đi làm mấy chuyện tổn hại âm đức như tìm bảo vật hay đào mộ gì đó thì gấp đôi."
Xuân Thiên khẽ thở hắt một hơi, ánh mắt quét một vòng quanh đám người, lẩm bẩm: "Tôi không có nhiều bạc cho ngài ấy đến thế..."
"Cho ai?" Khấu Diên Anh tò mò, chăm chú nhìn Lý Vị cách đó không xa, nở nụ cười khác thường, "Lý đại ca thật sự là anh họ của em à? Tôi đâu nghe em gọi anh ấy là anh cả.

Lý đại ca còn mang theo túi mũi tên với cả đao, có phải cũng là người dẫn đường em thuê không, hay là gia binh?"
"Ngài ấy..." Xuân Thiên nghẹn lời, không biết hình dung quan hệ giữa mình với Lý Vị kiểu gì, đành bảo: "Ngài ấy là người tốt lắm, từng cứu mạng tôi, có ơn với tôi..."
"Anh ấy đối xử với em rất tốt, luôn chăm sóc em." Khấu Diên Anh nắm cằm, mi mắt cong cong, "Hơn nữa, trông anh ấy cũng rất đẹp trai."
"Vậy sao?" Xuân Thiên quay đầu, nhìn Lý Vị theo ánh mắt của cậu ta.

Hắn đang ngồi một chỗ nói chuyện cùng Hoàng Tam Đinh và Quách Phan, thần sắc có phần thản nhiên.


Khấu Diên Anh hứng khởi, lăn lông lốc rồi nhổm người ngồi dậy, cặp mắt dạt dào niềm hăng hái, "Giống như thịt trong nồi vậy, ngửi thấy thơm, ăn vào hẳn là càng thơm.

Lý đại ca thành thân chưa?"
"Ngài ấy thành thân từ rất sớm, có vợ có con."
"Tiếc nhỉ." Khấu Diên Anh bỗng chốc cụt hết hứng, nằm lại xuống cát, "Đã có gia đình rồi đấy..."
Xuân Thiên ngẩn người, hơi sợ sệt nhìn Khấu Diên Anh.

Trong mắt cậu thiếu niên này lóe lên thứ ánh sáng kỳ dị, vô cùng lạ lùng.

Ngân hà như được luyện từ ngọc, tinh vân tựa cô thiếu nữ choàng tấm lụa nơi vai.

Nhóm thương lữ ngồi phía trên cồn cát, lang bạt chốn đất khách quê người, ai nấy cũng mang một vẻ sa sút chán nản, bộ dạng nhếch nhác.

Tinh tú dày đặc dệt lên đầu vai người một dải ánh sao kéo dài.

Phía chân trời, sao băng lần lượt lao vút một đường.

Phóng mắt nhìn ra, những cụm sao kia cứ nối liền nào, rơi xuống như mưa đổ.

"Sao đổi ngôi kìa." Hoàng Tam Đinh bò dậy từ mặt đất, chỉ về hướng sao băng rơi, "Thiên hạ sắp nổi bão rồi."
Nhóm Hồ thương hành tẩu nơi đại mạc quanh năm, nên đối với họ, cảnh tượng trước mắt hết sức bình thường: "Đại mạc này hay có sao băng, may mắn thì có thể nhặt được vẫn thạch* trên đường, đem lên chợ bán, đổi mấy đồng tiền."
(*Vẫn thạch: phần còn lại của đến từ vùng không gian bên ngoài vào, bị cháy mất một phần và rơi xuống bề mặt hay bề mặt các thiên thể khác)
"Thật vậy ư?" Hoàng Tam Đinh hỏi, "Kiến thức mỗ hạn hẹp quá."
"Thật thế.

Vẫn thạch màu đen như sắt, nhưng nặng hơn sắt một chút, to cỡ khoảng nắm tay đã nhấc chẳng nổi.

Có người trong nghề kinh doanh châu báu chuyên tìm kiếm loại vẫn thạch này, biến nó thành của hiếm dâng cho quan phủ đại nhân, có khi còn được ban chút thưởng."
"Quả là một món hàng lắm lời." Hoàng Tam Đinh cười nói, "Nghề này hay, hợp với người lười như mỗ đây."
"Đại mạc rộng ngàn dặm, muốn nhặt được một viên thì cần phải có cái duyên nữa, không phải ai cũng có cơ duyên như thế đâu.

Đừng nói là nhặt vẫn thạch, phú quý trong thiên hạ, phận số của nam nữ, cũng phải có cơ duyên." Nhóm Hồ thương nói chậm rãi, "Các người có từng nghe nói chưa.

Ở Tây Châu có một nhà làm nông kia nghèo kiết xác, dưới cửa nhà có một viên đá đen như mực.

Viên đá này là "đá vào cửa" do cha ông đặt vào lúc xây nhà, vốn dĩ chỉ là viên đá nhặt ở ngoài chỗ hoang chả ai thèm, bị người ta giẫm đạp từ năm này qua tháng nọ, khiến nó có mấy vết lốm đốm.

Một ngày nọ, có người bán rong đến nhà ấy xin nước uống, đứng dưới mái hiên một hồi, nhìn trùng viên "đá vào cửa", người bán rong bèn bỏ vài đồng tiền ra xin viên đá đi."
"Ối giời, một năm sau, thành Tây Châu đột nhiên xuất hiện một vị đại phú.

Lại vừa khéo, nhà làm nông dạo đó phạm vào sự gì ấy, tự dưng đem bán con trai con gái đi.

Người môi giới bán mấy đứa nhỏ vào nhà giàu kia, các người đoán xem tiếp theo sẽ thế nào?"
Hồ thương duỗi chân, lấp lấp lửng lửng.

Quách Phan bên cạnh Hoàng Tam Đinh nãy đến giờ ít nói kiệm lời, lúc này thong thả lên tiếng: "Tôi đoán, người giàu có này chính là người bán hàng rong xin nước uống năm đó và nhận ra mấy đứa nhỏ.

Nhà làm nông cuối cùng cũng nhận ra người bán hàng rong, viên "đá vào cửa" kia chắc chắn không tầm thường, e là một món bảo bối khó lường."
Hồ thương giơ ngón tay cái, gật gật đầu: "Huynh đài nói phải.

Viên "đá vào cửa" vốn dĩ là hòn ngọc bích, được người bán hàng rong có mắt phân biệt hàng tốt xấu nhìn trúng, vào tay bán được mấy vạn quan tiền, lấy tiền đó mua nhà mua ruộng mở cửa hàng, chuyển mình trở thành nhà giàu một phương.

Nhà làm nông biết tin người bán hàng rong phát tài, mới vỡ lẽ viên đá xấu xí chướng mắt trước cửa nhà mình lại là vật quý báu.

Nhà làm nông hối hận cùng cực, yêu cầu người bán hàng rong trả lại tài vật.

Người bán hàng rong không chịu, nhà làm nông căm phẫn hết sức, lên nha môn xin công bằng đạo lý từ quan huyện.

Nhưng do ban đầu khi bán viên đá là hai bên tình nguyện, quan huyện phán quyết, xoa dịu nhà làm nông với chỉ vài chục quan tiền.

Ngày hôm sau, cả nhà làm nông từ trên xuống dưới treo cổ dưới mái hiên."
"Tội nghiệp." Cũng không biết ai thốt một câu, "Viên đá đặt trước cửa nhà, đã giẫm lên nó mấy mươi năm, thế mà ngoảnh đi ngoảnh lại đã thành hòn ngọc đẹp không tì vết.

Chỉ hận bản thân có mắt không tròng."

Quách Phan nói chậm rì: "Đáng giận nhất chả nhẽ không phải người bán hàng rong kia sao.

Giả sử hòn ngọc bị vương công quý tộc gì đó cầm đi rồi thưởng mấy chục lượng bạc, thì cũng đủ cho cả nhà tiêu xài mấy năm, nhà làm nông cũng coi như được hài lòng thỏa dạ.

Sai là sai ở chỗ, vốn dĩ đều mang số người nghèo, dựa vào đâu mà người bán hàng rong bỗng chốc phất lên làm phú quý, còn người nhà làm nông vẫn mãi lăn lộn trong vũng bùn."
Xuân Thiên và Khấu Diên Anh vừa nghe mọi người nói chuyện, vừa ngắm nhìn sao băng.

Khấu Diên Anh bị gió lạnh thổi người run cầm cập, lắc đầu: "Chỗ quỷ quái này, sao lại có tinh không đẹp đẽ thế kia?"
Mọi người nghỉ ngơi một chốc rồi lại tiếp tục hành trình.

Lúc mặt trời sắp mọc, họ tìm được một bãi than có thể nghỉ chân tránh nắng.

Dưới hai mắt Xuân Thiên đã có quầng thầm xanh mờ mờ, ban đêm đi được vội vã, vô cùng tốn thể lực.

Đêm ở sa mạc Mạc Hạ Diên gió rét lùa thấu xương, phải quấn thêm thảm nỉ chống lạnh.

Nhưng khi mặt trời vừa ló rạng thì lại nóng hổi như lồng hấp, khiến người ta cứ trằn trọc bức bối, khó lòng nghỉ ngơi.

Lý Vị thường thầm thán phục nghị lực lẫn thể lực của nàng.

Cho dù Xuân Thiên ngồi trên ngựa nghiêng ngả chực ngã, song nàng chưa hề than đau than mệt nửa câu.

Hắn cũng hay hoài nghi, ở Ngọc Môn quan, sao hắn có thể đồng ý với nàng sẽ đưa nàng ra ngoài cứ như là bị ma quỷ ám vậy.

Khoảnh khắc ban mai nhuộm đẫm không trung, mọi người rốt cuộc cũng trông thấy một vùng sa mạc toàn đá sỏi lăn lóc.

Thúc ngựa chạy vào, dưới mặt đất còn có những bụi cây cỏ tạp nham.

Mọi người thở phào nhẹ nhõm, tạm thời thả la ngựa lạc đà ra cho chúng gặm cỏ.

Sa mạc lúc bấy giờ có cảm giác man mát, là thời điểm lý tưởng để ngủ bù.

Nhóm Hồ thương chọn chỗ, vừa ngả đầu đã ngủ ngay.

Xuân Thiên cũng tìm một nơi râm mát trong góc khuất, trải thảm nỉ, chợt bắt gặp con bọ cạp bò chậm chạp dưới đống đá, bước chân nàng hơi khựng lại.

Côn trùng trong sa mạc đều sinh trưởng một cách dị thường...!khổng lồ và hung hăng.

Đương nhiên nàng chẳng sợ mấy loại kiến đen nhền nhện ấy.

Tuy nhiên đối mặt với đôi kìm bọ cạp kia, dù đã gặp nhiều, bình tĩnh có thừa, song nàng vẫn cảm thấy da đầu mình run lên.

Lý Vị trông nàng đứng bất động, quay sang nhìn thì thấy một con bọ cạp đen lắc lắc đuôi trốn vào bên trong hốc đá.

Nàng cụp mắt, chẳng ừ chẳng hử.
Hắn đặt túi mũi tên xuống đất: "Đây là bọ cạp sa mạc, không có độc.

Vả lại chúng nó sinh hoạt theo chế độ ngày nghỉ đêm hoạt động, đa số ban ngày chúng sẽ nghỉ ngơi, không bò lung tung đâu."
Hắn ngồi tựa vào đá, vỗ vỗ tấm thảm nỉ: "Ta trông cho cô, mau ngủ thôi, lát nữa trời lại nóng đấy."
"Vâng." Xuân Thiên gật gật đầu, đi đường cả đêm, hai mắt đã nhức nhối không thể tả.

Nàng lấy đại mũ trùm đầu lót phía dưới rồi nhắm mắt ngủ.

Không biết đã ngủ được bao lâu, khi thức dậy Xuân Thiên chỉ có cảm giác toàn thân nặng nề, cổ họng khô khốc, bụng vừa đói vừa khát.

Mặt trời rừng rực treo tít trên cao, làn gió thổi mấy đám mây trắng trôi dạt về phía Đông.

Vặn vặn đầu, nàng thấy Lý Vị dựa vào vách đá chợp mắt, gương mặt yên tĩnh, có mấy sợi tóc bay loạn xạ rũ xuống bên má, dưới quai hàm là một màu xanh nhàn nhạt, xiêm y chẳng còn được phẳng phiu, tổng thể toát lên một vẻ phong trần mỏi mệt.

Hắn cũng vất vả lắm.

Nếu không vì nàng, giờ phút này đáng ra hắn phải ở thành Cam Châu với Trường Lưu, tận hưởng thân tình cha con.

Đi lại ở sa mạc Mạc Hạ Diên thực sự rất khó khăn, nhưng nếu có thể sớm ngày đến Y Ngô, cũng là xứng đáng.

Nàng dời mắt, thấy bốn bề lặng im, nhóm Hồ thương hẵng chưa dậy, đàn ngựa thồ nằm dưới bóng râm cách đó ít xa, Xuân Thiên nhẹ nhàng thở ra một hơi.

Suốt cả chặng đường, vì để tiện cho việc hành tẩu nên nàng toàn mặc quần áo nam giới, tóc cuốn lên búi trên đỉnh đầu, không trâm cài không khuyên vòng, chỉ dùng cọng dây thừng buộc tóc lại.

Bấy giờ thấy mọi người say giấc, Xuân Thiên ngồi quỳ ở tấm thảm nỉ, xoay lưng về Lý Vị, giơ tay gỡ búi tóc trên đầu xuống, lấy một cái lược bé chậm rãi chải một nửa mái tóc dài của mình.

Sau khi ra Ngọc Môn, việc rửa mặt chải đầu trở nên bất tiện, suối tóc đen của nàng hiển nhiên vừa bẩn vừa rối, khô héo xác xơ.

Xuân Thiên rút từ trong ống tay áo thanh chủy thủ cha để lại ra, nàng vuốt ve nó một lúc, tiếp theo đặt tóc vào tay ước lượng, kế nữa nàng cắt đi mấy tấc tóc, chỉ chừa cho dài độ ngang vang.

Cắt thế vẫn búi kiểu thấp được.

Tư thế của nàng mềm mại, sống lưng thẳng thớm, hệt như đang soi gương tô son điểm phấn.


Sau khi sửa sang tóc tai xong xuôi, nàng vơ hết mớ tóc đen vương vãi dưới thảm nỉ vào trong tay, buộc lại thành một nắm, đào cái hố nhỏ trên mặt cát rồi vùi tóc xuống đất.

Làm xong tất cả, Xuân Thiên quay lại tìm mạng che mặt và mũ trùm đầu, thoáng nhìn sang thì thấy Lý Vị đã dậy, chân dài của hắn chống lên một bên, cầm túi rượu trong tay gác lên đầu gối, dáng vẻ trông nhàn tản thảnh thơi.

Đôi đồng tử như sơn mài sáng trong của hắn đang nhìn nàng.

Cũng chỉ có một cái liếc mắt, mà phút chốc như có ánh chớp xẹt ngang, hai người đồng thời ngoảnh đi chỗ khác.

Hai má Xuân Thiên nong nóng, nàng mấp máy môi, giọng như muỗi vo ve: "Đại gia."
Hắn đưa túi nước và thịt khô qua: "Ăn chút gì đi, hai ngày nay cô ăn ít quá, vẫn nên ăn nhiều thêm mấy miếng vào mới tiết kiệm được chút sức lực, bằng không sẽ mệt lắm đấy."
Nàng đưa tay nhận lấy đồ ăn, đặt lên đùi, cúi đầu không nói năng gì.

Mấy ngày nay hai người đã trở nên xa lạ rất nhiều.

Lý Vị đứng dậy, phủi đất cát trên quần áo xuống, chỉnh lại cái bao cổ tay, khoác túi mũi tên lên lưng, chuẩn bị đi cho ngựa ăn.

Hắn quét mắt qua nhìn Xuân Thiên, nàng vẫn cúi gằm, cứ lật qua lật lại rồi vò vò góc áo của mình.

Hắn khựng người, dịch chuyển mũi chân, ngồi xổm xuống đối mặt với nàng, hỏi: "Sao thế?"
Xuân Thiên giương mắt khẽ liếc hắn một cái, muốn nói lại thôi, lắc lắc đầu.

Lý Vị suy tư chốc lát, hỏi tiếp: "Khó chịu chỗ nào à?"
Xuân Thiên vẫn lắc đầu, hàm răng cắn bờ môi mềm mại: "Không có."
Hắn cảm giác hình như nàng có vẻ ngượng ngùng khó hiểu: "Muốn đi vệ sinh?"
Bỗng nhiên gò má nàng đỏ bừng, vành tai ửng hồng, dẩu môi, trả lời hắn bằng một giọng hơi phẫn uất: "Không muốn!"
"Vậy rốt cuộc là làm sao?" Lần này, giọng điệu hắn hệt như đang dỗ dành một đứa bé.

Nàng nhăn mặt nhíu mày, môi mím lại thành một đường, chỗ khóe miệng xuất hiện vòng xoáy nho nhỏ, mồ hôi bên thái dương tuôn ra, nàng cất giọng ngập ngừng: "Lý Vị...!xin lỗi..."
Hắn nhướng mày, nhìn lên nhìn xuống, môi thấp thoáng ý cười: "Không biết lớn nhỏ, trước kia gọi ta thế nào hả."
Xuân Thiên cứ thấy lòng dạ bực dọc, nàng nói lí nhí: "Lý Vị...!ngài đừng giận."
Lý Vị đã vạch sẵn kế hoạch, thức ăn và nước uống hoàn toàn đủ cho hai người họ ra khỏi sa mạc Mạc Hạ Diên.

Nhưng sau khi Xuân Thiên chia đồ ăn của mình cho con la già, nàng đã tự giảm định mức phần ăn của mình xuống.

Lý Vị không cho phép, ngược lại còn bắt nàng ăn nhiều hơn bình thường.

Hắn không nổi đóa tí nào, mà chỉ dùng ánh mắt trầm tĩnh gây sức ép cho nàng.

Cặp mắt bình thản đen như mực kia, dường như ẩn chứa sự kiên quyết khiếp người.

Xuân Thiên cảm thấy, dưới cái nhìn ấy, nàng chẳng còn chỗ nào để che thân.

"Là ta làm khó dễ cô." Hắn nhìn gương mặt gầy rộc hệt một con cá bị mất nước của nàng, khe khẽ thở dài: "Ta không tức giận.

Ta biết nhiều ngày qua rất khổ cực, Mạc Hạ Diên càng đi lâu thì sẽ càng khiến lòng người sinh tuyệt vọng.

Ngay cả đàn ông cũng còn không chịu đựng nổi, huống chi là cô."
Nàng ôm hai đầu gối, biết rõ đoạn đường này phải đi mất bao lâu, song vẫn nhịn chẳng được hỏi hắn: "Khi nào ta mới ra ngoài được ạ?"
"Vẫn còn hai ba ngày nữa mới đến suối Dã Mã.

Suối Dã Mã có suối trong và ốc đảo, cảnh sắc tuyệt đẹp, chúng ta có thể nghỉ ngơi ở đó trọn hai ngày.

Sau đó đi tiếp ba ngày là tới sa mạc, sau đó nữa sẽ gặp được bãi cỏ của dân du mục.

Ấy chính là ranh giới Y Ngô, có dân cư ở."
Xuân Thiên giật giật môi, nhẹ nhàng thở ra, gật đầu.

Lý Vị ngồi xuống bên cạnh nàng, đưa túi rượu cho nàng: "Đường sa mạc gian nan, có muốn uống ngụm rượu không?"
Túi rượu của Lý Vị không lớn, mang màu lam sẫm cổ xưa, xem ra là đồ cũ nhiều năm.

Sau khi ra Ngọc Môn quan, Xuân Thiên thường hay bắt gặp hắn nhấp một hai ngụm.

Ở nhà nàng cũng từng uống rượu trái cây hai lần, rượu loãng có vị chua chua ngọt ngọt.

Do dự một chốc, cuối cùng nàng nhận lấy túi rượu của Lý Vị, tay khum vào, đổ vài giọt lắt nhắt vào lòng bàn tay, đưa đến bên miệng.

Mùi rượu nồng nàn xộc thẳng lên mũi, hơi hơi đục.

Xuân Thiên nhíu mày ngửi thử, đầu lưỡi hồng hào run run thè ra, dè dặt nếm thứ rượu trong lòng bàn tay, miệng chép chép vài cái, cảm giác có chút cay.

Nàng hút phần rượu thừa còn lại vào miệng, nhất thời một luồng cay xè như lửa nóng chạy dọc theo đầu lưỡi, thiêu đốt xuống tận cổ họng.

Hơi rượu bốc lên khiến nàng ho sặc sụa, hai mắt ươn ướt, nhìn Lý Vị.

Mắt hắn tối sầm không chút tia sáng, lấy lại túi rượu, nhấp một ngụm, yết hầu lên xuống, nói giọng nhàn nhạt: "Là lỗi của ta, ta quên mất rằng rượu này rất mạnh, không hợp cho cô uống."
(còn tiếp).

 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
610,854
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 38: 38: Bão Cát Đen





Mưa phùn gió nhẹ làm mấy cánh hoa xoan rơi rụng.

Thị nữ của Lệ Gia các đẩy cửa sổ ra, tiếng trẻ con cười khanh khách từ phía mặt nước truyền đến.
Đêm qua Tĩnh vương nghỉ ở chỗ vương phi, sáng sớm dậy đã sang thư phòng.

Giữa đường bỗng nghe có tiếng cười đùa của Tuế Quan trong Lệ Gia Các, lòng ông dâng niềm vui sướng, bước vào phòng thì thấy bọn thị nữ trải một tấm thảm nỉ xuống dưới đất, cổ tay bụ bẫm của Tuế Quan đeo chiếc vòng tay vàng, trên người mặc cái yếm đỏ thẫm, trộm vía rất ngây ngô khả ái, hệt như Quan Âm đồng tử trên tranh Tết.

Giờ phút này, thằng bé đang ngồi trên thảm nỉ nghịch quả su su, thấy Tĩnh vương đến, nó ê a quơ quơ hai tay.
Búi tóc của Tiết phu nhân hơi rối, lệch sang bên, bà chỉ choàng một chiếc áo nhẹ nhàng, biếng nhác ngả người tựa vào giường nhỏ trông Tuế Quan nô đùa ầm ĩ.

Vẻ mê man xuất thần in trong đôi mắt bà, bắt gặp Tĩnh vương, sóng mắt bà xao động, tràn đầy mong đợi liếc nhìn Tĩnh vương.
"Cha đến rồi đây." Tĩnh vương bồng Tuế Quan lên, âu yếm vuốt ve khuôn mặt đứa nhỏ, nhìn sắc mặt chất chứa ưu sầu của Tiết phu nhân, "Tuế Quan ngoan quá, mới sáng sớm đã dậy rồi, có phải đêm qua quấy mẹ không hả?"
Có một lá thư nhét trong ống tay áo Tĩnh vương, là thư khẩn cấp mấy hôm trước Vương Phù gửi tới từ Cam Châu.

Thư viết Lý Vị đã đuổi theo Xuân Thiên ra Ngọc Môn qua, đi đến Y Ngô.
Sau khi đọc xong, Tĩnh vương buông một tiếng thở dài.

Tin tức ấy vẫn giấu Tiết phu nhân, tới nay đã bắt đầu có chiều hướng giấy chẳng gói được lửa.

Tĩnh vương tránh né Tiết phu nhân vài ngày, nhủ bụng rằng có thế nào thì cũng chả trốn được nửa.
Nghĩ vậy, Tĩnh vương giao đứa nhỏ cho nhũ mẫu, dặn đưa thằng bé ra ngoài chơi, còn mình thì vào phòng trong, kéo tay áo Tiết phu nhân: "Nào, ta chải đầu cho Miểu Miểu."
Tiết phu nhân mấp máy bờ môi đỏ mọng: "Không dám phiền hà vương gia, vẫn nên để thiếp hầu vương gia."
Bà đứng dậy, dáng người thướt tha, tấm áo choàng mỏng manh buông lơi nơi khuỷu tay, để lộ một đoạn cánh tay ngọc nõn nà, mười ngón nhỏ và dài, cùng suối tóc đen khó khăn lắm mới búi được một kiểu lỏng lẻo.

Bà kéo Tĩnh vương lên giường nhỏ, lấy cái dựa lưng*, mang hai cái gối thêu hạt đôi ra, nước trà rót ly sen, hương nghê tỏa mùi mới.

Bà cầm một chiếc trâm ngà voi ngọc, ngồi quỳ bên cạnh Tĩnh vương, chầm chậm đấm vai cho Tĩnh vương.
*Cái dựa lưng: Cái này có thể đặt đằng sau dựa lưng, hoặc đặt đằng trước để kê tay.
Hương trà dễ chịu từ từ thấm vào tim gan.

Phòng riêng chỉ có hai người, sau một phen quấn quýt thân mật, Tĩnh vương ngắm gương mặt buồn rầu của Tiết phu nhân, chậm giọng bảo: "Năm ngoái Nhị lang của Đoàn Gia ra Tây Vực.

Trên đường về gặp được một thiếu nữ khoảng mười bốn mười lăm tuổi ở phủ Túc Châu Hà Tây.

Thiếu nữ kia tới từ Trường An, còn tự giới thiệu là có quan hệ với ta và nàng.

Ta cho người đi điều tra, quả thực...!không nghi ngờ gì nữa, đó chính là Xuân Thiên."
Tiết phu nhân nghe Tĩnh vương lên tiếng, một niềm sung sướng bỗng chốc vỡ òa, bà đứng bật dậy, hai mắt rưng rưng, cả người run rẩy túm lấy áo bào của Tĩnh vương: "Vương gia, ý của ngài là...!Nữu Nữu, tìm được Nữu Nữu rồi sao?"
Tĩnh vương trông thần sắc bà, thầm thở dài, lấy lá thư từ trong tay áo ra đưa cho Tiết phu nhân: "Nàng tự đọc đi."
Tiết phu nhân ngạc nhiên mừng rỡ, vội vàng nhận lá thư của Vương Phù đọc hết một lượt.

Tức thì, vẻ hạnh phúc trên mặt chợt cứng đờ.
Ngón tay mềm mại của bà siết chặt tờ giấy dó vàng hơi mỏng, ánh mắt Tiết phu nhân dừng thật lâu ở nét mực cuối lá thư, rồi lại dần dần dịch chuyển lên phần mở đầu, đọc kỹ nội dung không bỏ sót bất cứ một con chữ nào.
Số chữ trên thư không quá nhiều, mà Tiết phu nhân lại đọc cực kỳ lâu, lâu đến độ tưởng như ánh mắt có thể xuyên thủng tờ giấy mỏng.

Bà ngẩng đầu, hỏi: "Con bé, dưỡng thương mấy tháng ở Cam Châu, mấy ngày trước đã ra Ngọc Môn quan, tới Y Ngô tìm người?"
Tĩnh vương gật đầu, nhìn Tiết phu nhân đăm đăm.
"Tại sao con bé muốn đến Y Ngô?" Bà hỏi ông, cũng tự hỏi chính bản thân mình, nửa là nghi hoặc, nửa là bi thương, nửa đã sáng đỏ, nửa là suy sụp, cánh môi đỏ run run, "Tại sao lại phải bỏ nhà đi ngàn dặm, đến Y Ngô? Đi tìm ai cơ chứ?"

Cả người Tiết phu nhân run bần bật, lòng lạ đảo lộn như sóng cuộn biển gầm, chẳng biết là buồn hay là vui: "Con bé chẳng nói tiếng nào, gạt tất cả mọi người, đổi tiền mua ngựa mua đầy tớ, đi về nhà cũ rồi băng qua Hoàng Hà, tới Hà Tây.

Đường xa xôi như thế, hóa ra là muốn đi Y Ngô, Đứa nhỏ này...!điên rồi sao?"
"Điều đó không có khả năng."
Tĩnh vương thấy bà thì thào lẩm bẩm một mình, khuôn mặt trắng ngần trong suốt của bà càng lúc càng thảm đạm, đôi mi dài run lên, dòng lệ như hạt châu tuôn rơi lã chã, thấm vào áo.
Ánh mắt bà lại vội vã trở về lá thứ, đọc hết lần này tới lần khác, rồi sau đó quay sang nhìn chằm chằm Tĩnh vương, nét mặt đầy thê lương hiu quạnh, như thể đang khóc ra máu, đau đớn nói: "Y Ngô có cha con bé!"
Quá khứ của Tiết phu nhân, là khoảng cách mà bất luận thế nào bà cũng không bước qua được.

Tuy rằng năm ấy Tĩnh vương dễ dàng đưa bà ra khỏi Vi gia, nhưng sau đó dù có bỏ ra bao nhiêu tâm tư, lao lực cỡ nào, chung quy ông vẫn chẳng thể tranh giành được với người chồng đã khuất trước kia.
Một đô úy bé nhỏ trong quân không đáng để vào mắt, sao có thể so bì với hậu duệ thiên hoàng như ông? Nhưng trong tim Tiết phu nhân, sức nặng của vị vong phu này thậm chí còn cao hơn cả ông.
Tiết phu nhân hốt hoảng, đôi mắt sưng húp vì khóc trọn một ngày, sau đó gần như khóc không thành tiếng nữa.

Tĩnh vương có khuyên nhủ kiểu gì bà cũng chả buồn đoái hoài.
"Ta đã lệnh Vương Phù lần theo dấu chân hai người đến Ngọc Môn quan chặn đường, mấy ngày nữa thôi chắc chắn sẽ đưa con gái nàng trở về.

Nàng nghỉ ngơi một chút đi, đừng khóc tổn hại sức khỏe."
Tiết phu nhân nắm chặt tấm khăn thêu, nói: "Ngài bảo Nhị công tử Đoàn gia có gặp Nữu Nữu, còn từng chăm sóc con bé trên đường đi, ngài gọi cậu ta tới đây đi...!Thiếp muốn đích thân hỏi vài câu, con bé chỉ có một mình, sao có thể...!sao có thể đi mấy ngàn dặm đường, đi tới nơi xa như vậy chứ."
Đường Tam Tỉnh gấp rút đến Đoàn gia mời Đoàn Cẩn Kha vào phủ.

Đoàn Cẩn Kha thấy thân tín bên cạnh Tĩnh vương tới mời, y kinh ngạc, nghĩ bụng có việc hệ trọng, ngay cả áo quần cũng chẳng thay mà đã đi theo Đường Tam Tĩnh nhanh chóng tới Tĩnh vương phủ.
Đường Tam Tỉnh dẫn y đi qua những khoảng viện trùng trùng.

Bước vào vườn đằng sau vương phủ, Đoàn Cẩn Kha ngờ vực, thở dài với Tam Tỉnh: "Tam Tỉnh công công, vương gia không triệu ta vào thư phòng bên ngoài ư? Sao lại phải tới hậu viện?"
"Công tử cứ đi là biết ngay thôi, chắc là vương gia muốn hỏi gì đó, không phải chuyện lớn đâu."
Đường Tam Tỉnh đưa Đoàn Cẩn Kha tới chỗ nhà thủy tạ gần hồ nước.

Cửa sổ của Lệ Gia các khép chặt, rèm che buông xuống.

Đoàn Cẩn Kha trông thấy Tĩnh vương đang đi qua đi lại trong nhà chính, hàng mày rậm chau lại, thấy Đoàn Cẩn Kha đã đến, liền gọi Đường Tam Tỉnh bưng trà lên.
Đoàn Cẩn Kha thoáng nhìn ba chữ "Lệ Gia các", khẽ khàng thở ra, biết đây chính là các mà Tiết phu nhân ở, người được Tĩnh vương yêu chiều sủng ái hết mực.
Cạnh nhà chính có một gian buồng bên, ngoài cửa có treo bức rèm châu sen chín cánh, phía sau bức rèm thấp thoáng bóng dáng người phụ nữ.

Lòng y chợt sáng tỏ.
"Cẩn Kha, cậu kể lại kỹ càng chuyện năm ngoái cậu cứu người ở Hồng Nhai Câu đi."
Y biết Tĩnh vương muốn hỏi điều gì, từ lâu y đã thám thính rõ ràng mối quan hệ giữa Tiết phu nhân và thiếu nữ ở Hồng Nhai Câu ngày đó.
Đoàn Cẩn Kha sớm đã chuẩn bị sẵn sàng, lập tức thuật tường tận tình cảnh hôm ấy, nói tới việc Xuân Thiên bị thương, miêu tả vẻ ngoài và cách ăn mặc, thanh chủy thủ giấu trong ủng.

Chỉ nghe có tiếng khóc thút tha thút thít như chim hoàng anh của người phụ nữ sau bức rèm truyền đến: "Nhị công tử, cậu nói trong ủng của con bé có giấu chủy thủ, đen nặng như sắt, vậy có thể vẽ lại cho thiếp thân xem thử trông như thế nào không."
Tức thì Đường Tam Tỉnh đưa bút mực tới, Đoàn Cẩn Kha vẽ lại chủy thủ kia lên giấy.

Y cầm theo thanh chủy thủ này đến Trường An, sau đó lại giao cho Lý Vị đem về Cam Châu, từng nhìn đôi lần nên biết rõ kiểu dáng.
Đường Tam Tỉnh mang bức vẽ chủy thủ cho Tiết phủ nhân ở sau rèm che.

Tiết phu nhân vừa thấy, xác thực là di vật của vong phu, cặp mắt xinh đẹp của bà trợn tròn, tim gan vỡ nát, nói không nên lời.
Đoàn Cẩn Kha nghe thấy tiếng khóc nức nở một hồi lâu sau bức rèm, thanh âm như châu ngọc, nhất thời y không biết có nên kể sự tình sau đó hay không.

Tĩnh vương ngồi trước án, bất đắc dĩ, cau mày nói với Đoàn Cẩn Kha: "Cậu nói tiếp đi."
Đoàn Cẩn Kha bèn kể một mạch tới chuyện Lý Vị cứu người ở Cam Châu, cùng chuyện năm mới Xuân Thiên vừa lành bệnh đã đi tìm Tào Đắc Ninh hỏi thăm về Tiết phu nhân, cũng như những tháng ngày Xuân Thiên ở thành Cam Châu.


Thậm chí đến cả cuộc sống của Xuân Thiên trong hẻm Người Mù bên các gia đình trong đội ngựa thồ cũng kể hết.
Tiết phu nhân thẫn thờ khi nghe tin thương thế của Xuân Thiên đã lành, chung sống hòa hợp với mọi người, được mọi người chăm sóc hết lòng.

Nhờ đó mà bà cảm thấy an ủi phần nào.

Lại nghe sau khi Lý nương tử qua đời, Xuân Thiên chẳng nói năng gì đã rời khỏi nhà Lý Vị, một mình đi về phía Tây, lòng bà như có con dao đục khoét.
Bà biết con của mình muốn đi làm gì, tin tức này hệt như sấm sét giữa trời quang, đánh thức những năm tháng xưa cũ của bà.
Nói hết tần tật, cả căn phòng bấy giờ chỉ còn tiếng khóc của phụ nữ sau bức rèm.

Đoàn Cẩn Kha cáo từ Tĩnh vương, Tĩnh vương đang rối bời vô cùng, cũng không giữ y lại.

Lúc Đoàn Cẩn Kha bước tới cửa, thoáng trông thấy một người phụ nữ duyên dáng vén rèm đi ra với khuôn mặt đầm đìa nước mắt.

Người phụ nữ ấy thành thục diễm lệ, phong tư trác tuyệt, mặt mũi rất giống Xuân Thiên.
Chỉ biết than rằng thiên hạ vậy mà lại có chuyện trùng hợp đến thế, nếu lúc trước y biết thiếu nữ bị thương ở Hồng Nhai Câu có thân phận như vậy, bất kể thế nào cũng phải đưa người trở về Trường An.

Sa mạc Mạc Hạ Diên vào ngày này quả là rất kỳ diệu, luồng gió nóng những ngày qua đã tan biến.

Hôm ấy chẳng mảy may chút động tĩnh nào, một cơn gió nhẹ thôi cũng không, như thể một bồn nước nóng đã sôi, mất hết sức sống, chỉ còn những làn hơi trắng hôi hổi nghi ngút bốc lên.

Có mấy đám mây đen lơ lửng, trông dày đặc trĩu nặng chân trời, kết hợp với mảnh đất xám tro đằng xa xa, thực sự khiến lòng người bức bối, di chuyển càng thêm khó khăn.
Cuối cùng thì cũng tới xế chiều, mọi người tiếp tục lên đường.
Đi thêm hai ngày là đến suối Dã Mã.

Lão Khấu Diên chậm chạp miêu tả cảnh vật của suối Dã Mã.

Suối Dã Mã là ốc đảo duy nhất của Mạc Hạ Diên, suối tựa trăng rằm, cỏ cây bên suối um tùm, liễu đỏ mọc thành rừng, suối trong mát mẻ, nhiều chim thú, hết sức tuyệt vời.
Mọi người bị những lời ấy kích thích, thêm cả nước trong túi đã gần thấy đáy, đã đến lúc phải bổ sung nguồn nước ngay lập tức, thế nên cả đoàn bèn cưỡi ngựa suốt đêm không dừng lại nghỉ phút nào.
Tảng sáng, trăng sao mờ mờ, ánh ban mai dần hé, gió rít gào và cát bay vù vù, hoang mạc trước mắt nối liền nhau, phải tranh thủ tìm một chỗ râm mát nghỉ chân trước khi mặt trời treo cao.
Nắng đổ lửa, mây trắng như lụa, cát vàng mênh mông chẳng có điểm đầu cuối.

Sa mạc này dường như không biết mệt mỏi là gì, mặc kệ thời gian trôi đi.
Tiết trời nóng dần, lúc sắp không chịu nổi gió nóng hầm hập và mặt trời rực đỏ nữa, chợt thấy ở đằng xa bất ngờ xuất hiện một bãi đá rộng lớn, những hòn đá vụn nằm la liệt khắp nơi, những gò đất liền lấy nhau.

Mọi người vội vội vàng vàng băng qua đó, cuối cùng tìm được một chỗ râm phía sau tảng đá lởm chởm cao chót vót.
Xuân Thiên cưỡi ngựa cả đêm ròng, hai chân đã mềm oặt, suýt thì không xuống ngựa nổi.

Vất vả lắm mới đặt mông được ở một tảng đá, nàng thở hồng hộc, ôm túi nước như thể nó là vật để kéo dài mạng sống, Lý Vị nhắc nàng: "Còn hai ngày nữa là đến suối Dã Mã, chỉ cho phép cô uống thêm hai ngụm nước, không được uống cạn đâu đấy."
Xuân Thiên ngoan ngoãn gật đầu.

Lý Vị lấy bánh cám đi cho hai con ngựa ăn.
Mọi người lười thu dọn, nên ai nấy cũng chọn một bóng râm đánh một giấc trước.

Vừa mới ngả lưng, gió nóng thổi ào ào bỗng dưng ngưng bặt.
Rồi sau đó là một khoảng yên lặng trong chốc lát, không khí đông đặc lại như keo hồ.


Nháy mắt lại có cơn gió thổi từ phương Bắc đến, tiếng gió thổi từ thấp lên cao, đè thấp như dã thú gầm nhẹ, vút cao như cái tiếng nĩa sắt đâm vào gương đồng rồi ma sát mạnh mẽ.

Tiếp đó, người nào người nấy cũng ngửi thấy một mùi đất nồng nặc xộc thẳng vào khoang mũi, xâm nhập xuống cổ họng.
"Ông nội, ông đi đâu thế ạ?" Khấu Diên Anh thấy ông nội mình lăn một vòng dưới đất rồi bò dậy, sải bước chạy ra bãi đá xem xét tình hình, tẩu hút thuốc phiện ngậm trong miệng cũng đánh rơi cả xuống chỗ bụi đất.
"Mọi người đứng cả lên đi." Lão Khấu Diên quay đầu hô, ngữ khí bình thản và trấn định, "Bão cát đen đến rồi."
"Bão cát đen?"
Mọi người bèn ra bãi đá ngó nghiêng.

Lúc vừa vào bãi đá, trời xanh xanh tối tối, thái dương đo đỏ, thiên địa vẫn còn phân cách rõ ràng.

Lúc này, cuối trời có màn bụi đen cuồn cuộn, thoạt trông hệt ảo ảnh, như một giấc chiêm bao mù mịt.
Bão cát đến rồi.
Lão Khấu Diên nhíu mi, thần sắc bình tĩnh, chỉ huy mọi người: "Mau, cột lạc đà la ngựa vào một chỗ, cởi hết đồ dùng bao hàng xuống.

Tìm chỗ tránh đi, cẩn thận đá vỡ, nhỡ bị gió thổi đập vào người, toi mạng như chơi."
Nhóm Hồ thương ba chân bốn cẳng lui về bãi đá, cột lạc đà la ngựa chung với nhau, sau đó dỡ tay nải, lại còn phải giữ túi nước đồ ăn của mình và lương thực cho ngựa.

Đám người càng chạy càng hỗn loạn, càng hỗn loạn càng cấp bách.
Khấu Diên Anh bấy giờ vẫn đang chống nạnh, hai mắt sáng bừng nhìn phía xa xa.

Đây là lần đầu tiên cậu ta chứng kiến bão cát trong sa mạc lớn, tâm trạng hưng phấn làm một cú bật tôm* trên mảnh đất trống: "Hừ! Ha! Bão cát đến rồi!" Kết quả bị lão Khấu Diên gõ phát vào đâu: "Thằng nhóc lì lợm kia, mau đi giúp một tay đi!"
(*Bật tôm: Bật người đứng dậy từ tư thế nằm)
Hai người Hoàng Tam Đinh và Quách Phan không có hành lý gì, sau khi cột ngựa xong cũng tới giúp đỡ nhóm Hồ thương kéo lạc đà, bê vác bọc đồ.
Lý Vị nhìn khối hỗn độn dày đặc trên bầu trời, trước cảnh tượng quái dị ấy, hắn chẳng hề kinh sợ, ngữ khí điềm tĩnh ra lệnh cho Xuân Thiên: "Đội mũ trùm đầu và mạng che mặt vào."
Hắn bước đến chỗ con ngựa, dỡ nước cùng lương thực xuống đặt vào lòng nàng, đưa nàng tới chân một bức tường đá khổng lồ, choàng thảm nỉ lên người nàng: "Quỳ xuống đất, đừng ngẩng đầu."
Lòng Xuân Thiên vừa hoang mang vừa thấy mới lạ, nàng nghe lời hắn nằm bò trên cát, lại cầm lòng không đặng đảo mắt nhìn ngang nhìn dọc.

Nàng thấy Lý Vị cột ngựa và đàn la chở hàng của thương đội lại chung, bầy gia súc dịu ngoan chen sát nhau, nằm rạp xuống đất, gục đầu thật thấp.
Chẳng qua bao lâu, bầu trời xanh thẳm rộng lớn bỗng trở nên đục vàng, bụi mịt mùng, gió càng lúc càng lớn, càng lúc càng điên cuồng.

Cát bay đá chạy, bao trùm muôn vật.

Gió như con dao cắt vật thể cùn, tàn phá bừa bãi và thô bạo, muốn khắc dấu vết lên trời đất vạn vật.

Từng hòn đá hạt cát nhảy múa giữa không trung một vũ điệu cứng nhắc.

Mặt trời thoáng cái đã biến mất tăm như một quầng ảnh mỏng manh.

Bãi đá cuộn trào mãnh liệt tạo thành lớp sương mù mỗi lúc một dày.
Nhóm Hồ thương gian nan chất toàn bộ bao mềm xuống dưới tảng đá lớn, bọc kín bằng thảm nỉ.

Những cái túi trên lưng la ngựa rung chuyển trong trận gió thét gào, thậm chí tay nải cũng bị cuồng phong cuốn đi.
"Mau, mau, mau, bánh cám!" Nhóm Hồ thương hô to, "Mau lấy xuống."
Lý Vị giúp Hồ thương hạ mấy cái túi cuối cùng trên lưng la ngựa xuống.

Bão cát đã bắt đầu giương nanh múa vuốt ngay ở trước mặt.
Trời tối hẳn, bụi vàng bao trùm, gần trong gang tấc.

Đó là biển cát dữ dội, che trời chắn nắng.

Bụi vàng ngập tràn trong đôi mắt, trận gió hung hăng càn quét, cuốn phăng mọi vật và cát bụi đi mất.
Bãi đá rung động ầm ầm, phát ra tiếng kêu gào nặng nề từ dưới nền đất.

Những hòn đá hình thù quái đản rung lên và suýt nữa đã bay đi.

Cát bụi bị cuồng phong thổi tung, trông như đang nhảy điệu múa điên dại.
Bụi bay tứ lung tung, Xuân Thiên bọc người trong thảm nỉ, nép mình dưới đất, nàng nhắm tịt mắt, có thể nghe thấy rõ tiếng gió táp rin rít.


Gió Bắc như muốn quét nàng đi, quét sạch cả những viên đá bé nhỏ.

Đằng sau lưng đá bay va đập đồm độp, gió gầm như tiếng sấm nổ tung bên tai.
Nàng không tài nào giữ vững cơ thể mình, cảm tưởng như chính mình cũng bị trận gió này thổi mất.

Ôm chặt nước và lương thực trong tay, đang định mở miệng hô hoán thì tấm thảm nỉ đột nhiên bị gió xốc lên, cát vàng ập thẳng tới, chẳng mấy chốc đã chui vào miệng mũi, bị hút xuống ngực.

Nàng chỉ cảm thấy lồng ngực đau đớn nóng rát.
Xuân Thiên ho sặc sụa.
Nháy mắt, như có cơ thể ai đó đè xuống, qua chiếc áo lông cừu, nàng cảm nhận được sức nặng của cơ thể ấy.

Một bàn tay to nắm chặt thảm nỉ gập lại vào bên trong, bọc nàng kín mít từ đầu đến chân, nhưng vẫn còn nhớ chừa lại một kẽ hở nhỏ để nàng hít thở.
Nàng được bao bọc dưới người Lý Vị, không thấy ánh sáng, chỉ nghe thấy tiếng gió càng ngày càng hung hãn, càng ngày càng mạnh, mơ hồ có thể nghe tiếng rên la thảm thiết của lạc đà và con la, còn có tiếng gọi ầm ĩ của nhóm Hồ thương.
Tiếng rầm rầm như sóng đánh vào bờ, cào xé màng nhĩ.

Lý Vị nhận ra người trong thảm nỉ đang run rẩy.

Cách tấm thảm nỉ, hắn bắt lấy tay nàng siết chặt trong tay mình.
Xuân Thiên nằm trong thảm nỉ không nhúc nhích, chỉ cảm thấy trận gió lốc này kéo dài đằng đẵng.

Chẳng biết đã qua bao lâu, bên tai vẫn là tiếng gió đầy phẫn nộ, sóng cát vỗ, mùi đất đậm đặc xuyên qua thảm nỉ lấp kín ngực.
Trời cao ơi, xin ông, xin ông hãy bố thí, xin ông phù hộ cho phận con sâu cái kiến bé nhỏ trong trời đất này, xin ông đừng biến chúng tôi thành một đám vong hồn, một khúc xương trắng, trơ trọi trên đường.
Lúc gió ác liệt nhất, nàng cảm giác gió quét từ dưới đất lên, muốn quét nàng bay ngược lên trời.

Nhưng bàn tay cầm tay của nàng kia như mọc rễ dưới đất, khóa chặt nàng xuống mặt cát, vì thế cách tấm thảm nỉ, nàng cũng nắm chặt tay hắn.
Lại một hồi lâu nữa trôi qua, tiếng gió sắc nhọn dần dần tắt, thay vào đó là một loại gió khác, lao xao kéo dài, khi thì chói tai, khi thì mạnh mẽ, khi lại dịu dàng.
Lý Vị khó khăn đứng dậy, thấy trong thảm nỉ chẳng có động tĩnh gì, lo Xuân Thiên bị ngộp thở ngất xỉu, hắn vội vã mở thảm ra.
Thình lình chạm vào một cặp mắt hạnh không chút bụi trần như nước mùa thu, tròn xoe như mắt mèo, ngây thơ xinh xắn, đen như hắc diệu thạch, trắng như thủy ngân, trong veo và hơi gợn sóng, tựa băng tựa ngọc, hệt một viên bảo thạch nhìn hắn chăm chăm.
Đôi đồng tử của nàng còn phản chiếu hình ảnh của hắn.
Ngón tay hắn khựng lại.
Hai người cách quá gần, bỗng dưng Lý Vị phục hồi tinh thần, ý thức bản thân mình thất thố, hắn chợt buông Xuân Thiên ra, uốn gối nửa chống xuống đất, vươn tay tháo mạng che mặt, nhổ đống cát trong miệng ra ngoài.
Xuân Thiên chui khỏi chiếc áo lông cừu, hai mắt tối sầm, nàng chớp chớp mấy cái mới cảm thấy mắt đau rát.

Trận gió đã qua, cơn mưa cát màu vàng bay trong không trung, rơi ào ào xuống người, sàn sạt, như con tằm gặm nhấm lá cây dâu.

Trong mũi toàn mùi bùn đất khai khai, lồng ngực nặng trình trịch.
Nàng đội mũ trùm đầu, vẫn đeo mạng che mặt, vẫn cảm giác miệng mũi mình bị lấp kín, bèn đưa tay phủi một cái, mặt mũi bám đầy bụi đất, khóe miệng còn dính cát bùn.
Lý Vị chắn bão cát giúp Xuân Thiên lại càng thảm hại.

Cát đá bao trùm cả tấm lưng hắn, trên mặt phủ một lớp bụi, thậm chí lông mày lẫn lông mi hắn cũng bị tầng bụi dày che phủ, hoàn toàn không nhìn rõ mặt.

Chỉ có một đôi mắt, hai con ngươi đen kịt, có vẻ sáng lóa và trong suốt đặc biệt.
Lý Vị nhíu mày, lau đi cát bùn trên mặt, bấy giờ mặt mũi mới lộ ra chút ít.

Nàng biết Lý Vị anh tuấn đĩnh đạc, mắt hẹp dài, đuôi mắt hơi nhếch lên trên, là đường bút cuối cùng toát lên vẻ tùy ý của một bức tranh hài hòa vẽ theo họa pháp "công bút"*, mũi túi mật treo, môi hơi thẫm màu, thịt môi đầy đặn, có nét dịu dàng trời sinh.

Lại thấy hắn thở hắt ra rồi đứng dậy, đứng bên cạnh tháo ủng cởi đồ, giũ đi lớp đất dày trên áo ngoài.
(*Công bút: là thuật ngữ chỉ một phương pháp vẽ trong Trung Quốc họa)
Ở trong hắn mặc một chiếc áo bó màu xám nhạt, thắt lưng quấn chặt, càng làm nổi bật bờ vai rộng và đôi chân dài, thắt lưng và hông hẹp, tay áo xắn tới khuỷu tay, để lộ đoạn cánh tay nâu săn chắc, bắp thịt cứng rắn, mạch máu gồ lên.
Xuân Thiên chăm chú nhìn vào một tảng đá bị ma sát đến độ ánh lên tia sáng, mưa cát rơi trên đá, tạo ra âm thanh nhẹ nhàng khe khẽ.

Mặt đá phủ một tầng cát mỏng, nháy mắt đã bị gió thổi đi, lộ các đường vân vàng đất.
Nàng nhìn mà sốt ruột, bất ngờ nhảy dựng lên, đi kiểm tra ngựa của mình và Lý Vị.
(còn tiếp).

 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
610,854
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 39: 39: Lòng Từ Mẫu





Trời đất ảm đạm xám xịt một vùng, chỉ thấy mơ hồ tình cảnh trước mắt, mưa cát thổi đông phất tây, chẳng hề có phương hướng nhất định.

Con lạc đà quật cường ngóc đầu lên từ mặt cát, nó kêu vài tiếng giữa bão cát hoành hành.

Nhóm Hồ thương nấp mình bên cạnh lạc đà, dồn ép bao hàng thành một đống.

Tuy là như thế, song một ít chi phí hằng ngày cũng bị thiệt hại rất nhiều, một số bao mềm trắng bị bão cát phá rách bươm, để lộ giấy dầu được bọc bên trong.

Nhóm Hồ thương lần lượt bò lên, bất chấp bụi đất tạt đầy người, vội vội vàng vàng đi thu nhặt tay nải ở dưới đất.

Khấu Diên Anh đã đứng dậy từ lâu, cậu ta lăn lộn đến độ trông như "người bụi", cười hì hì vẫy tay với Xuân Thiên: "Bão cát này ghê gớm thật, tôi sắp bị gió thổi bay rồi."
Hoàng Tam Đinh quỳ rạp người quan sát một lúc, thấy nhóm Hồ thương mạo hiểm đi trong gió cát sốt ruột nhặt mấy cái bao mềm trắng bị thổi tung, anh ta khom người, ân cần tiến lên hỗ trợ, nhóm Hồ thương liên tục xua tay ngăn anh ta lại: "Bão cát lớn quá, huynh đài mau tránh đi, ở đây không dám phiền huynh đài giúp đỡ."
Hoàng Tam Đinh đứng bên cạnh cười ha ha, xoa xoa cát bùn trên mặt, hỏi: "Lá trà này của mọi người trước giờ chưa được bán, trà có vị trong vắt, ngửi vào rất thơm."
Nhóm Hồ thương cười cười: "Đây là nham trà* mới ra của Phúc Kiến, hương trà như hương mật, sản lượng cực nhỏ, từ đó tới nay không lưu chuyển ra ngoài, người biết đến cũng ít ỏi.

Chúng tôi khó khăn lắm mới thu được mấy thồ, nghĩ bụng ra tái ngoại khả năng sẽ bán được với giá tốt."
(*Nham trà: là tên một nhóm gồm nhiều loại trà Ô Long đến từ Vũ Di, một vùng trà Ô Long nổi tiếng của tỉnh Phúc Kiến.

Từ nham có nghĩa là vách núi đá hay những nơi hiểm yếu, cũng chính là để ám chỉ điều kiện sinh trưởng của những cây trà ở Vũ Di)
"Ha ha, kiến thức mỗ nông cạn, nham trà này thực sự là mới nghe lần đầu.

Đợi đến lúc ra khỏi sa mạc đây, nhất định phải thưởng thức trà thơm đàng hoàng, không biết là vị thấm vào ruột gan ra sao."
"Được thôi, được thôi." Nhóm Hồ thương gật đầu lia lịa.

Vương Phù dẫn theo thuộc hạ đi từ Cam Châu thẳng đến Ngọc Môn, gặp được Nghiêm Tụng, mới hay Lý Vị đã đưa Xuân Thiên vượt núi Thường Lạc, lén qua Ngọc Môn quan trái phép.

Ông ta biết Lý Vị hành tẩu nơi sa mạc này gần hai chục năm, làm việc lại đáng tin cậy, đưa Xuân Thiên lén qua Ngọc Môn quan không phải là chuyện khó nhằn gì.

Chắc chắn họ sẽ đi dọc theo mười chốt báo hiệu, đi theo hướng Tây tới Y Ngô, chỉ cần ông ta nhanh một chút, đuổi kịp hai người, nhiệm vụ oái oăm này coi như hoàn thành rồi.

Trên danh nghĩa Vương Phù là nhà buôn trà ở Cam Châu, thực tế thì đã được Tĩnh vương mua lại ở Hà Tây.

Ông ta và hai bên quan lại cùng quân đội Hà Tây đều có chút ít liên lạc.


Trước đây Tĩnh vương chuyển thư lệnh ông ta tìm người, qua nhiều bận dò la nghe ngóng, ông ta mới biết thiếu nữ phải tìm này có quan hệ sâu xa với Tiết phu nhân mà Tĩnh vương thương yêu sủng ái.

Mặc dù ông ta ở xa Hà Tây nhưng đều đã chuẩn bị thỏa đáng mọi mặt, cũng có nghe loáng thoáng chút chuyện lớn nhỏ trong vương phủ, biết việc này nhất định phải làm tốt, không thể phạm chút xíu sai sót nào.

Đang định sắp xếp hành lý ra Ngọc Môn quan tìm người, ngờ đâu lại nghe thấy có tiếng ồn ào huyên náo trước Ngọc Môn quan, dưới doanh trại đồn xuất hiện cả trăm thương nhân bị sĩ binh dẫn đi, sắc mặt ai nấy cũng u ám, đi tới phía dưới cổng thành.

Chính xác là đoàn người Khang Đa Lộc bị quân Đột Quyết tấn công ở trạm Lãnh Tuyền, trở về Ngọc Môn quan bổ sung thông tin vào giấy thông hành.

Vương Phù nghe tin người Đột Quyết cướp sạch trạm Lãnh Tuyền, sát hại rất nhiều thương nhân, ông ta bấm ngón tay tính toán lộ trình hai người rời đi.

Những ngày này Vương Phù loanh quanh tìm tới tìm lui trong đám người, thế nhưng vẫn chẳng nhìn thấy thiếu nữ nào có tuổi tác tướng mạo trùng khớp, tình hình ấy khiến ông ta không khỏi toát mồ hôi lạnh.

Mọi người của thương đội bổ sung giấy thông hành đầy đủ, Vương Phù đi hỏi từng người trong đội có gặp một nam một nữ đi cùng nhau, kèm theo ngoại hình và độ tuổi áng chừng của Lý Vị và Xuân Thiên.

Mọi người của thương đội lắc đầu bảo không biết, song cũng có vài người có ấn tượng với Lý Vị và Xuân Thiên.

Vẻ ngoài của hai người xuất chúng, người đàn ông cứng cỏi oai hùng, người con gái trẻ trung yểu điệu, thoạt trông đúng là cảnh đẹp ý vui.

Họ nói từng gặp hai người, nhưng nhiều ngày qua đụng chuyện gà bay chó chạy, mơ mơ hồ hồ, cũng không biết chính xác người Vương Phù muốn tìm là ai, nên lại rơi vào bế tắc.

Đại Năng bên cạnh nghe Vương Phù nói chuyện, nhảy cẫng lên hỏi: "Là chị Xuân Thiên ạ?"
Vương Phù nghe thấy họ tên Xuân Thiên, tức thì mừng rỡ, thấy đó là một đứa nhỏ lanh lợi khoảng bảy tám tuổi, ông ta nói: "Cháu từng gặp Xuân Thiên? Có biết cô ấy đang ở đâu không?"
Đại Năng lắc đầu: "Chị Xuân Thiên đã cứu cháu, chúng cháu còn chơi cùng nhau, nhưng sau đó cháu vừa thức dậy, chị ấy đã biến mất không tăm hơi."
"Biến mất lúc nào? Hai người họ cùng biến mất luôn sao? Có ai thấy không?" Vương Phù hỏi liên tục, "Lý Vị thì sao? Anh bạn nhỏ, cháu có gặp Lý Vị chưa?"
Cặp mắt Đại Năng đảo tít, nhìn Vương Phủ: "Đại gia, cháu không biết...!đại gia tìm chị Xuân Thiên làm gì thế?"
Thi Di Niên* nghe nói Vương Phù đang tìm người, theo miêu tả của Vương Phù, quả thực là hai người Lý Vị.

Anh ta thấy Vương Phù tiếp cận nhóm binh tướng, sợ Vương Phù gây bất lợi cho Lý Vị, muốn đi bắt hai người, bèn tiến lên tiếp lời Vương Phù: "Vị quý huynh này, hai người mà huynh nói, mỗ đã từng gặp, có phải một người đàn ông tên Lý Vị và một thiếu nữ mười lăm mười sáu tuổi không?"
(*Tên của nhân vật này khá lẫn lộn, lúc thì tác giả ghi họ Di, lúc thì viết họ Thi.

Chương này tác giả không ghi họ Di nên có lẽ họ Thi mới là họ đúng cuối cùng, sau này mình sẽ để là họ Thi hết nhé, vì nghe Thi hay hơn Di một tí =)) Những chương trước khi nào có thời gian mình sẽ sửa lại sau)
"Đúng rồi, đúng rồi..." Vương Phù đập tay, "Huynh đài biết hai người họ?"
"Có chạm mặt vài lần." Thi Di Niên chậm rãi kể lại sự việc phát sinh trên đường, cuối cùng hỏi: "Tôi thấy hai người này che đậy dấu vết, phải chăng đã phạm phải chuyện gì rồi.

Nếu thế thì đáng tiếc thật, khiến hai người họ không biết trốn đi đâu về đâu."

"Không phải, không phải." Vương Phù giải thích, "Tôi là thân bằng của hai người họ, trưởng bối trong nhà lo hai người đi một mình nhỡ gặp sự chẳng may, muốn gọi hai người về Hà Tây.

Xin hỏi huynh đài có thấy hai người họ đi về đâu không?"
Thi Di Niên trông nét mặt Vương Phù không giống như đang giở trò, gật gật đầu: "Hai ngày trước, tôi thoáng thấy bọn họ đi qua trạm Lãnh Tuyền về phía Tây Bắc, chỉ là không biết đi con đường nào."
Vương Phù trầm ngâm chốc lát, cảm ơn Thi Di Niên rồi đi thẳng đến trạm Lãnh Tuyền.

Hiện ra trước mắt là dịch trạm tan hoang tiêu điều, lại nghe đằng trước dịch trạm có biến động, đường xá gặp trở ngại.

Ông ta đắn đo suy tính, đoán rằng có khả năng Lý Vị đã đưa Xuân Thiên tới sa mạc Mạc Hạ Diên, nên bèn tìm một người lính già quen thuộc địa hình địa phương làm người dẫn đường, tức tốc đuổi theo hai người kia.

Ai ngờ vừa vào sa mạc một ngày, ngay lúc chật vật không thể tả, bỗng phía trước cát vàng ngợp trời, trời đất mù mịt, cát bay đá chạy, người lính già hoảng sợ tột độ: "Là bão cát đen...!Chúng ta không thể di chuyển, bão cát này sẽ ăn thịt người đấy."
Thế là phải cuống cuồng rút lui về trạm Lãnh Tuyền.

Vương Phù hết cách, đành ở lại trạm Lãnh Tuyền, bẩm báo những chuyện bao ngày qua cho Tĩnh vương, chờ Tĩnh vương ra chỉ thị.

Tĩnh vương đọc thư, biết hai người kia lén qua Ngọc Môn quan trái phép, bị đám người Đột Quyết tập kích ở trạm Lãnh Tuyền, kế đó lại vào sa mạc Mạc Hạ Diên gặp phải bão cát, cũng không biết là sống hay đã chết.

Ông thở dài một hơi, đầu đau gấp bội.

Bên thì ông sai Vương Phù đi tới Y Ngô lần tìm tung tích hai người, bên khác lại viết thư cho thân tín ở Y Ngô và Cam Lộ Xuyên, nếu có manh mối gì về hành tung của hai người, lập tức báo cáo.

Suốt mấy ngày Tiết phu nhân lấy nước mắt rửa mặt, chẳng nói chẳng rằng, chẳng ăn chẳng ngủ, chỉ mải ngóng tin tức của Vương Phù.

Bồ câu đưa thư tới, bà giật phắt ngay tắp lự, mới đọc có qua quýt vài dòng mà trán đã co rút đau đớn, đôi mắt khẽ đảo, ngất xỉu tại chỗ.

Tĩnh vương luôn miệng gọi người mang trà sâm lên, cậy môi Tiết phu nhân rót vào trong miệng.

Sau khi Tiết phu nhân bình ổn lại nhịp thở, mặt bà xám ngoét như tro tàn, giọt lệ trong suốt lăn dài, nằm bất động trên giường nhỏ, mặc người bên ngoài có nói gì cũng nhắm mắt nín thinh, không buồn đáp.

Tĩnh vương khuyên lơn cả ngày trời: "Miểu Miểu, nàng dậy ăn chút gì đi, tiếp tục thế này, nàng sẽ gục mất thôi."
Thấy bà không trả lời, ông nói tiếp: "Tuế Quan khóc quấy đòi mẹ, vừa được nhũ mẫu bế đi xem hoa rồi, nàng đi dỗ nó đi."
Tiết phu nhân nhìn chằm chằm tấm màn thêu họa tiết như ý rồng cuộn trên đỉnh đầu, mặt mũi tái mét, thì thà thì thào: "Nữu Nữu, con không muốn sống nữa sao, nơi xa xôi đến thế, trăm ngàn nguy hiểm, cho dù chết cũng nhất quyết phải đi ư?"
"Con cứ ra đi không từ biệt, nghĩa là cực kỳ thất vọng về mẹ đúng chứ, mẹ xin lỗi con..."
"Cả hai người đều rời xa ta, ta còn sống để làm gì nữa, không bằng cùng chết đi cho xong..."

Bà ngồi dậy như du hồn, đôi chân trần ngọc ngà bước ra ngoài cửa sổ, gian thư phòng này thực chất là nhà thủy tạ, mở cửa ra là có thể bắt gặp những đóa sen thanh khiết trùng điệp và đài sen nhỏ bé.

Ngày xưa ở đây hai người tay nắm tay thưởng sắc hoa, âu yếm suồng sã.

Giờ phút này trong mắt Tiết phu nhân chỉ còn là một vùng tĩnh lặng, bàn tay trắng nõn đẩy cửa sổ, định quăng mình xuống nước.

Tĩnh vương tình lình nhào tới ghìm lấy vai của bà, quát lớn một tiếng: "Miểu Miểu, nàng muốn làm gì!"
Tiết phu nhân quay đầu liếc thoáng qua ông, đôi mắt đẹp lạnh run, cố hết sức gỡ tay ông ra, nghiến răng thoát khỏi không cùm xiềng xích, vùng vẫy chực nhảy ra ngoài cửa sổ.

Tĩnh vương nổi nóng, ôm bà từ trên ghế kê chân xuống dưới, đẩy bà ngã ngồi xuống giường: "Miểu Miểu, nàng bình tĩnh lại đi!"
Tiết phu nhân đã hạ quyết tâm tìm cái chết, bà nằm trên giường một chốc, nghe thấy Tĩnh vương ở ngoài dặn dò nhóm tỳ nữ vào hầu hạ.

Chẳng đợi người đến, bà lại bất ngờ lao xuống giường đâm đầu vào cây cột trong nhà.

Tĩnh vương nhanh tay lẹ mắt kịp thời kéo eo bà lại, mồ hôi lạnh chảy đầy tấm lưng: "Nàng điên rồi hay sao, đang êm đang đẹp tự dưng lại muốn chết."
"Thiếp không nên sống, đáng lẽ thiếp phải sớm chết đi..." Tiết phu nhân kiệt sức nằm nhoài dưới đất, trán tiếp xúc với nền gạch xám lạnh như băng.

Cây trâm vàng lay động đong đưa, suối tóc đen dài mượt đổ xuống bờ vai gầy gò của bà, nhẹ nhàng run rẩy, hệt như một đóa hoa rơi xuống đất, toát lên một vẻ rực rỡ yêu kiều.

Bà lẩm bẩm, "Thiếp không nên sống."
"Nàng chết rồi, con gái con trai nàng cũng không cần luôn đúng không? Con gái nàng ở xa ngàn dặm, hiện tại chả biết sống chết ra sao.

Bây giờ Tuế Quan mới có mấy tháng tuổi, thậm chí còn chưa biết đi, nàng đang tâm bỏ mặc bọn nhỏ ư?" Tĩnh vương thấy bà lại bày ra bộ dạng muốn đi chết của vài năm trước, ông cất giọng căm hận: "Mấy năm nay, nàng chết bao nhiêu lần rồi còn chưa đủ à, tình nghĩa của ta với nàng, tới cùng nàng nói vứt là vứt, như vứt cái giày rách nát đấy sao?"
Ngực ông phập phồng dữ dội, chứa đựng một nỗi bực tức không thể nói rõ.

Nhìn người phụ nữ mềm mại ngã xụi lơ dưới đất, tấm tơ mỏng không che giấu được dáng dấp nuột nà mà thoát tục.

Dẫu nét mặt ngập tràn kinh hoàng lo sợ, nhưng đâu đó lại có một vẻ phong lưu quyến rũ khiến người khác hồn xiêu phách lạc.

Lòng dạ chung quy vẫn chẳng nỡ, ông bèn vươn tay: "Đứng lên trước đi, chúng ta nói chuyện tử tế.

Số chữ ít ỏi trên thư của Vương Phù, nàng đọc vào, khó tránh khỏi nghĩ quàng nghĩ xiên.

Đường xá ở Tây Bắc khá gian nan, nhưng cũng đâu phải hết đường sống..."
Tiết phu nhân nhìn thẳng vào bờ môi khép mở của ông, ánh mắt trống rỗng.

Thốt nhiên, bà mím cánh môi đỏ mọng, khẽ giọng bật cười, khuôn mặt tuyết trắng hiện lên đôi phần điên cuồng: "Đều tại các người, từng người các người..."
Cơ thể bà run bần bật, vừa khóc vừa cười: "Tôi vốn là, ta vốn là một người phụ nữ trong sạch của một gia đình đàng hoàng...!Cớ sao lại suy bại đến nông nỗi này...!Mang sắc đẹp ra lấy lòng đàn ông, trở thành món đồ chơi của quyền quý, danh dự một đời bị hủy hoại bằng sạch..."
"Tôi là phụ nữ có chồng, các người coi thường lễ pháp, gặp sắc nảy lòng tham, dùng quyền thế cướp đoạt, tùy ý đùa bỡn tôi.


Các người lấy Nữu Nữu ra để áp chế tôi, hứa hẹn sẽ cho mẹ con tôi đoàn viên, ép tôi phải nhẫn nhịn đủ điều, ép tôi an phận nịnh chủ, ép tôi sống tạm cho qua ngày.

Nhưng cuối cùng thì sao, con gái tôi lại phải mang cho người khác nuôi, nó bỏ tôi mà đi, chịu hết mọi khổ cực, chẳng rõ tăm tích.

Đây là sự trừng phạt của ông trời dành cho tôi, trừng phạt tôi không tuân thủ chuẩn mực đạo đức của một người đàn bà, trừng phạt tôi không thủ tiết vì vong phu, sống vật vờ tới tận bây giờ."
Tĩnh vương nghe bà nói như thế, lòng quặn thắt đau đớn, buốt lạnh như băng: "Phải, ta thấy sắc nảy lòng tham, giam nàng cưỡng ép nàng.

Vậy thì nàng đặt tay lên ngực tự hỏi xem, mấy năm qua, ta đối với nàng, đối với con gái nàng, đối với Tiết gia của nàng, đã từng bạc đã khi nào chưa? Ta giết Vi Thiếu Tông, nâng đỡ anh cả nàng, cho nhà nàng hưởng tiếng thơm làm rạng rỡ tổ tiên, ân thưởng cho con gái nàng chưa bao giờ thiếu, cho nàng đứa con và danh phận.

Ta thật lòng thật dạ với nàng thì sai trái ở đâu.

Ngày xưa ân ái bất di, chẳng nhẽ đều là giả dối? Nàng có dám nói, nàng không có chút tình cảm nào với ta không?"
"Nữu Nữu là con nàng, lẽ nào Tuế Quan không phải con nàng? Nó cũng do nàng mang nặng mười tháng, chui ra từ trong bụng nàng, nửa năm qua nàng ôm nó được bao lần? Cười với nó được bao lần? Lúc nó muốn mẹ thì nàng ở đâu? Hai đứa đều là máu mủ ruột thịt của nàng, nàng hà tất phải nhất bên trọng nhất bên khinh, bạc tình đến nước này? Chẳng lẽ đường đường là Tĩnh vương lại không bằng trượng phu Xuân Việt xưa kia của nàng? Mệnh con của ta cứ rẻ rúng thế đấy, để mẹ của nó xa lánh chả đoái hoài!"
"Ngài so được với Trọng Phủ chắc?" Cơ thể bà run không ngừng, nhếch môi cười khẩy, "Chàng ấy quang minh lỗi lạc, hào hiệp bất khuất, là anh hùng đội trời đạp đất trong lòng tôi.

Ngài thì sao, để khiến tôi khuất phục, ngài tù túng tôi, giam hãm tôi, vì ép tôi đi vào khuôn khổ, ngài có thể dùng bất cứ thủ đoạn tồi tệ nào, đây là việc mà một vị đường đường Tĩnh vương làm ư?"
Ông cũng cười lạnh lùng: "Trọng Phủ của nàng có tốt đẹp đến mấy cũng phải gánh tiếng xấu trong quân, đã chết bảy tám năm, hiện giờ thi cốt chả biết ở nơi nào.

Dẫu ta có tệ hại cỡ nào, nàng cũng phải sinh con dưỡng cái cho ta, nằm dưới thân ta uyển chuyển hầu hạ."
Hô hấp của Tiết phu nhân tắc nghẽn.

Tĩnh vương thấy bờ vai run rẩy của bà, đầu đau muốn nứt ra.

Nhắm mắt một hồi lâu, ông lặng lẽ nói: "Một ngày vợ chồng, suốt đời ân nghĩa, tấm lòng của ta nàng vẫn không hiểu ư.

Trước kia đúng là ta có lỗi với nàng, nhưng từ sau khi có nàng, trong mắt ta đâu còn người đàn bà nào khác nữa.

Ta thương nàng, nuông chiều nàng, luôn nghĩ cách bù đắp cho nàng."
"Ta biết nàng nóng ruột, lo lắng cho an nguy đứa nhỏ.

Tuy trong thư Vương Phù nói có nguy hiểm, nhưng tên hộ vệ đi cùng Xuân Thiên vào Mạc Hạ Diên là một tay có kinh nghiệm đi đường, chắc chắn sẽ không xảy ra chuyện." Ông thở dài, nhìn nước mắt đầm đìa khuôn mặt bà, "Miểu Miểu, nói một câu khó nghe...!Nàng ngoan ngoãn, ta sẽ dốc hết khả năng đưa con gái nàng trở về, cho mẹ con nàng đoàn tụ.

Còn nếu nàng không nghe lời, thiên hạ này sẽ không ai quan tâm sống chết của con gái nàng đâu."
Con gái của bà, đứa con gái ở xa ngàn dặm của bà.

Tiết phu nhân thống khổ thở không ra hơi, mắt nhắm nghiền, sau cùng trở nên mềm yếu, lê gối tới quỳ trước người TĨnh vương, ngửa đầu nhìn ông, đôi mắt sáng rực: "Xin ngài, cứu lấy con của thiếp, xin ngài, đưa thiếp đi tìm con bé."
"Một phụ nữ yếu ớt như nàng, không đi được đường xa như vậy."
Bà nuốt xuống vị đắng chát trong cổ họng, bàn tay không xương cởi thắt lưng của ông, tạo thành tiếng sột soạt, khôi phục vẻ nhu mì dịu dàng ngày xưa: "Nếu...!thiếp hầu hạ vương gia."
(còn tiếp).

 
CHÚ Ý !!!
Các đạo hữu nhớ thêm TÊN CHƯƠNG và THỨ TỰ CHƯƠNG ở ô phía trên phần trả lời nhanh. Như vậy hệ thống mới tạo được DANH SÁCH CHƯƠNG.
Cập nhật chức năng ĐĂNG TRUYỆN và THÊM CHƯƠNG MỚI trên web Diễn Đàn Truyện tại https://truyen.diendantruyen.com

Có thể bạn cũng thích?

Top Bottom